<經 id="n2109">LUẬN PHÁ TÀ (QUYỂN THƯỢNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LUẬN PHÁ TÀ Thời tiền Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm ở chùa Tế Pháp soạn thuật. <詞>LỜI TỰA VỀ NHỮNG TRƯỚC TÁC CỦA PHÁP SƯ PHÁP LÂM Ở TƯƠNG DƯƠNG Dẫn theo “Bí thư” thời tiền Đường. Thần diệu vô phương, chẳng phải trù tính có thể lường biết. Chí lý ngưng lắng, đâu phải chỗ biết của chuẩn mực. Thật là đạo thường không lời, bờ mé ấy dứt tuyệt, sao có thể cậy ở trời rộng lớn nhìn sâu thẩm ấy ư? Đến như nguồn gốc của Ngũ môn, Lục độ; giáo điển của bán tự nhất thừa, mục đích của Cửu lưu bách dân, văn từ của tam động tứ kiểm. Giả sử có thể dùng kinh vẽ để xiển dương đồ hình đó, có thể dùng tâm lực đến cảnh giới đó. Anh tài mưu trí thật đời nào cũng có người như vậy. Pháp sư Pháp Lâm, vốn dòng họ Trần, người xứ Dónh Xuyên, là con cháu của Tư Không Quần ở thời nhà Tấn. Từ thời nhà Lương nhà Trần, gia đình đời đời đều nối tiếp quan vị. Pháp sư tập học Tam luận, tiếng tăm vang vọng từ khắp chốn triều đình cho đến thôn dã. Lúc trưởng thành lại gồm thông các giáo điển, tiếng tăm chấn động khác tục, oai nghi chỉnh túc, hòa nhã, phần tiết ngầm thông, lưu luyến bút mực lắng trong, phát khởi trích nhón nhỏ nhiệm ẩn mật. Khắp đất vừa tỏa sắc xuân, ẩn tàng dùng để bày lượng đức nhân, như ngu như dốt, công phu bên ngoài mờ tối, bên trong tỏ sáng, nên hay biết khắp lường biển, đạo gần kề Di Thiên. Đâu chỉ tiết tháo tợ loại thần núi biển, xếp bằng Sưu Lượng mà thôi. Vì văn ấy tình là điển mà chẳng dã, lệ mà có sắc, như tám âm đều cùng tấu, ngang bằng năm sắc cùng tuyên. Đạo hạnh thì nhận nạp chánh kiến ở Tam không, cứu giúp quần mê ở tám khổ. Đã học rộng thông mà tâm nhún nhường, cũng giữ thấp kém để điều phục cao. Thật là rường cột của dòng họ Thích, bởi vũ nghi của nhân luân ấy vậy. Thêm vì giúp thiếu kém cứu nguy ách trước người sau mình, trọng phong quang tỏa chiếu ở cửa rừng, mến núi sông đeo dãi ráng mây. Nguyện lực thì dung thông, dấu tích trọn đời không lừa dối. Khoảng cuối niên hiệu Khai Hoàng (6 0 1) thời nhà Tùy, Sư vào ẩn trong động Quỷ cốc ở núi Thanh khê, xây dựng hang sườn thì rách tệ lén nhìn được nhật nguyệt, trống không thoảng bay, cửa nẻo thì nhã nhặn gió mây. Thời gian ấy pháp sư tham tầm ngũ phương mà nép ngưỡng, rão du bát thiền mà ngủ nghỉ, ăn bột tùng truật nơi khe hang, vận mặc rơm cỏ ở núi rừng. Mọi người đều chấp tay quy y, xoa đầu hỏi đạo, kinh hành điềm tỉnh có hơn mười năm, nhưng nơi lớp lớp núi chướng cao nguy, tùng cao hang lớn, chốn người già miền, quê hương náu cuộn quanh, chỗ các bậc cổ hiền giẫm vết, không ai chẳng đích thân đến trông xem, men hang chỉ về. Pháp sư mới soạn thuật “Thanh Khê Ký” một quyển, thấy lưu truyền ở đời. Thái sư lệnh khó dịch học nghiệp dong ngu cạn cợt, nhận biết nghó ngợi chẳng dài xa, mới đục khoét chương ngắn, cậy nhờ lấn lướt chánh giá, sắp sợ chấn động đó trải bày cổ xúy, trộm sánh với cửa sấm. Những người trung dung rất thành trở ngại lầm hoặc. Pháp sư vì xót thương côn trùng ấy, lại soạn thuật “Luận Phá Tà” hai quyển. Tuy biết ngộ vệ đồng tấu biểu văn, khác là chín thành, ruồi ngựa đều rong ruỗi, thấy kỳ lạ cả ngàn dặm. Cuối cùng, đỏ tía phải riêng sắc màu, đục trong phân dòng, quở trách vì hứng phàm lường Thánh, chê bai vì lỗi tục sánh chân. Nêu dẫn văn chứng lý, chẳng phải Đạo giáo thì Nho giáo, điển pháp đặt để tình sau chỉ ước khắp kín, không gì chẳng vết loạn, biểu bày chẳng những ngói vỡ băng tan. Vào thất có tiết tháo đồ mâu, khuyết góc không dung đất đầu. Từ đó biên ghi chẳng cùng lưu truyền nơi đời, như vạch mây mà thấy mặt nhật, cùng trong chốn mê mà đắc đạo vậy. Tánh chất của Pháp sư trước thuật, nhanh chóng mà lại sắc lý. Phàm sau khắc thành có lắm chỗ sai sót. Nay rái rác gom nhặt được các thứ thơ, phú, di, chí, tán, tụng, châm, giới, ký, truyện, khải, luận và Tam giáo hệ phả, Thích Lão Tông Nguyên v.v… hợp thành ba mươi quyển. Pháp sư với tôi tình thuần nước dạt mà nghóa ngang bằng vàng lan, tuy phục chế khác nghi mà phong kỳ thuần dốc. Nay tôi tạm dùng dây leo nói liền châu ngọc ấy, biên thành theo thứ tự, văn từ như sau. <詞>KHẢI VĂN TẤU TRÌNH ĐIỆN HẠ VỀ “LUẬN PHÁ TÀ” Sa-môn Pháp Lâm khải tấu: tầm mở đầu của Tam nguyên Ngũ vận, dấy khởi của Thiên Hoàng Nhân Đế, văn từ của Quy đồ Điểu Triện, pháp điển của Kim Bảng Ngọc Tứ, pháp độ của Lục Hành Cửu Quang, sách vỡ của Bách Gia Vạn Quyển, không gì chẳng dẫn dắt mỹ phong của Nhân Luân Tín Nghóa, thuật khuyên giáo điển của Chu Khổng ở Trung Hoa. Gồm tất cả cốt yếu ấy chưa thấu đạt tận nguồn sinh tử, trình bày nghóa lý ấy, chẳng vượt khỏi khu vức hữu vô. Đâu như Ngũ phần Pháp thân, Tam minh chủng trí, Trạm nhiêu thường lạc nào có biến đổi. Xa thay! Chân như chẳng diệt chẳng sinh, mà hay dẫn giúp muôn loài. Đức từ tỏa trùm sinh linh, mở bến giải thoát tới bên kia, mở phủ cứu cánh vô vi, vớt đở quần sinh ở ngoài biển kiến, cứu dắt các con ở trong nhà lửa. Chỉ hóa cách Thông hà có hơn ngàn năm, giáo điển lưu truyền đến đất Hán (Trung Hoa) đã sáu trăm năm. Khám tháp dựng lập có thể chẳng cùng trông thấy nhau, thần nhân nối tiếp gót. Do đó, Sa-môn Đạo An lên kiệu của Tần Đế, Sa-môn Khương Tăng Hội lên xe của Ngô Chúa, Pháp sư Cao Tòa hay trình bày Bát chánh, Hòa thượng Phù Đồ khéo giảng nói Ngũ thừa. Hóa hợp chín châu, phước đượm ba đời. Đó đáng xứng gọi là làm lợi vật ư? Vào thời nhà Tùy bị bột vận, chó ngựa sinh ngoài giao dã, tai ương nổi khắp mọi nơi, hung độc lưu tỏa muôn dân, đuốc tuệ đã ẩn, mưa pháp dần tan. Nhờ có thời Đại Đường chúng ta, trên ứng với tâm trời, dưới hợp với mong mỏi của dân thứ. Bù đắp trời để sáng lệ tam tượng, quấn ràng đất để an ngũ nhạc. Sinh dân đội nhờ ân tái tạo, Thích Môn (Phật giáo) được an bang trùng hưng. Nhờ đó mới hớn hở sáu ngũ thường đây, bốn tam hoàng kia, trở lại phong tục thuần phác, ở ty đã chẳng thi hành. Phó Dịch mới công khai tự nhiên lưu bố khắp xa gần, khắp các quán rượu trong nhân gian đua nhau cười đùa đàm phán, có phiền lụy đến Thanh phong, dơ uế hoa tục, nuôi lớn vật tà kiến, tổn hại ruộng phước nước nhà. Với lý không thể như vậy! Cúi nghó, chỉ có Điện hạ xưa trước đã nhờ Tam quy, lâu ngày hành giúp thập thiện, đến với sự hoài mong của muôn dân, ứng kỳ vận đại bảo, đạo hợp lớn mạnh thái bình, đức tỏa sáng kế tiếp hậu, phát lại âm vang sấm sét thì nhà sau đều mở, tỏa ánh sáng minh ly thì đường tối đều soi. Rực rỡ thay! Thỏa đáng thay! Khó thể xưng gọi được vậy. Hẳn vì ánh sáng nhà Hán tỏa chiếu lại nơi đời, Chu bốc trọn năm, lại hay giáng ý cửa khước, xoay tình cảnh thắng bến bờ tại ý niệm, tường vách làm tâm. Cúi mong bẻ gãy cây phướng tà kiến, đốt đuốc chánh pháp, tượng hóa thưa nhờ ân sâu đây vậy. Nay chẳng nhậm ý chí buồn bả, kính cẩn dâng trình “Luận Phá Tà” hai quyển, vết trần nhuốm dính oai nghiêm, càng thêm lo sợ. Kính cẩn khải tấu! Ngày hai mươi bảy tháng giêng năm Võ Đức thứ năm (6 2 2) thời tiền Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm ở chùa Tế Pháp kính dâng. --------------------------- LUẬN PHÁ TÀ Thời tiền Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG Thái sư lệnh triều tán Đại phu thần Phó Dịch dâng tấu việc giảm bớt chùa tháp, phế dẹp tăng ni, có cả thảy mười một điều. Thần Phó Dịch nói: Thần nghe Hy nông Hiên viên trị hợp phong hóa của Lý Lão (Xin Đàn-hặc rằng: Trong sách Thi nói, trên dùng phong hóa xuống, dưới dùng phong châm lên. Ở thời nhà Chu, Lão Tử làm thủ thư tạng sử, như Quan Bí thư hiện nay, vốn chẳng phải Thiên tử. Vậy thì có phong hóa gì khiến Hy nông Thượng đế cùng đó hợp trị?). Các đời Ngu, Hạ, Thương có chính sách phù với giáo điển Chu Khổng (xin Đàn-hặc rằng: Chu Công, Lão Tử đều là quốc thần dâng thuật giáo điển của Ngu Hạ xuống cảm hóa dân chúng kiểu bạt, cũng chẳng phải Nhân Vương, chẳng được tự làm giáo chủ, đâu khiến Ngu Hạ bốn Quân vương phù hợp với giáo điển của Chu Khổng ư?). Tuy có thể Thánh có trước sau, đạo đức chẳng riêng biệt, Quân vương có men theo thay đổi nhưng trị thuật vẫn còn đồng. Trộm nghe, như Lão Tử đánh đất màu mỡ mà ca hát, mười lăm trẻ nhỏ vỗ bụng mà vui tươi an lạc, canh cày hay nhường, giữa đường chẳng lượm vật rơi, hiếu tử kế thừa gia nghiệp, trung thần đầy nước, nhưng Quốc vương có nạn thì quên cả thân mạng mà báo đáp (xin Đàn-hặc rằng: Đã khắp nước đều là trung thần, sao được có nạn? Nói thường học trò của sáu khanh chẳng nên nỗi nghịch,) Cha mẹ mắc bệnh thì trọn đời ở bên ca- ïnh chăm hầu, đâu chẳng phải tăng sâm bạn của Mẫn Tử. Trường học thành rừng, Mặc Địch đồng bạn với cảnh cung, cùng lại phụ giúp (xin Đàn-hặc rằng: Ba mươi chín đời chỉ có một Tăng Sâm. Từ thời Hán Cao Tổ trở về trước, riêng suy lời nói Mẫn Tử thành rừng là không thật, tấu của phụ giúp, vốn việc hư dối quá lắm vậy). Mới có giữ đạo ngậm đức, không tham muốn, không mong cầu (xin Đàn-hặc rằng: Châu An Thúc Đoạn không thể giữ đạo, Hạ Kiệt, Ân Trụ chỉ chuyên việc tham cầu vậy). Sủng nhục như kinh hãi, chức tham hàng chầu (xin Đàn-hặc rằng: Phan Sùng Nghệ mất chưa chịu như kinh hãi dòng họ Lý, Dương Hóa cũng ở xếp hàng chầu vậy). Kinh Sơn trên đảnh vin gá Thăng Long, dòng họ Hầu bên Đàn cùng theo cưỡi hạc. Sứ của Diêu Trì Vương mẫu đầy đủ lễ đến chầu, thần của Bích Hải vô di, đi khắp bái yết vua. Sở dó như vậy là bởi lúc ấy cùng tuân theo giáo điển của Lý Khổng (xin Đàn-hặc rằng: Hoàng đế Thăng Long là ở đời của Tam Hoàng, Diêu Trì Vương mẫu lại ở thời Chu Mục Vương. Tính ra lúc ấy Lý Lão chưa ra đời, Khổng Khâu cũng không có, không nên trái lại tuân theo Lão giáo tức hành tập Khổng thư), và không có Hồ Phật nên vậy (xin Đàn-hặc rằng: Ông đã xưng không có Phật thì cũng không được có Đạo vậy). Từ thời Hậu Hán, vua Hiếu Minh Đế (Lưu Trang 5 8- 76) ban đêm ngủ mộng thấy người vàng. Phó Nghị ứng đối sắc chiếu, biện giải nói là Hồ Thần (xin Đàn-hặc rằng: Nếu trong thời nhà Chu chẳng đến, thì Phó Nghị đâu biết có Phật! Lường đã đến trước, sớm có dòng họ Phó được biết Tiên Tổ nói Phật. Sao ông ngược lại xưng không có năm thứ nghịch trọng, ương lụy tự đầu thai trọn kiếp.) Trong khoảng niên hiệu Trung Nguyên ( 5 6- 58) thời Hậu Hán, chưa có tin đó (xin Đàn-hặc rằng: hơi từ quá lắm). Đến trong thời nhà Tấn nhà Ngụy, Di Lỗ tin được một phần (Đàn-hặc rằng: Lễ nhạc áo mão đến nhà thời Tấn mới đầy đủ. Ông đã phỉ báng trong Di Lỗ, Hạ là ai?) Phù dung gá Phật trai mà nỗi nghịch, chạy trốn trên Giang đông; Lã quang mượn cớ đánh hồ mà phản lại Quân vương riêng lập ở Tây Thổ (Đàn-hặc rằng: Người thời bấy giờ ganh ghét Phù dung phỉ báng cho là kết nhóm Lã Quang đi đánh trở về, Phù chúa nước phá bên ở Hà Hữu xưng bá tại Lương Châu, cũng chẳng phải do chư tăng trái phản ở Tây thổ). Hàng đó về sau, yêu Hồ dần đông nhiều, hơn một nửa xen tạp Trung Hoa (Châm nói: Từ bi huân đúc ra ở mạt kiếp đời ác, có duyên được độ, chánh tại thời này). Các quan trong cửa vụt nhiên nhận thọ tà giới của kẻ đoái hầu, các Nho só trúng học nói ngược, ngôn ngữ mông lung của yêu Hồ (Châm nói: Các quan tuân phục nhẫn nhục, Nho só quý đàm của kim khẩu). Ca hát khúc loại, nghe đó mất gốc, hôi thối đồng như chợ cá, quá mất mùi hương (Đàn-hặc rằng: Phát tiếng ông oái, tung mùi cá nơi ông, hẳn biết là mất gốc, quá ấy sao chẳng mất mùi hương? Ngữa mặt nhổ nước bọt lên trời, tự nhận nhục ấy. Lời nói đó thật đáng tin cậy). Kiêm lại rộng tạo dựng già lam tráng lệ chẳng phải chỉ một (Châm nói: Tạo nghiệp sinh lên cõi trời, gieo nhân thoát khỏi khổ), nhọc công thợ làm riêng ngồi nê hồ (Châm nói: Tranh vận thân tay, nghi tượng Thánh Tôn), khua hồng chung của Hoa Hạ, nhóm Ngụy chúng của Phiên tăng (Châm nói: Gióng chuông thần của trăm luyện, mời Thánh chúng khắp ba ngàn) kích động tai mắt của dân thuần, vin đòi của cải của Doanh tư (châm nói: cảm tai mắt của người có tín tâm, phế bỏ của cải của tham si). Nữ công dệt lụa, cắt làm phan phướng của dâm tế, thợ khóa đúc vàng bạc, tán khác mã xá lợi (châm nói: nữ công dệt lụa tạo phan tục mạng, thợ khép đúc vàng bạc xây dựng tháp toái thân). Lúa thóc bún gạo, giăng bày hội của tăng ni, hương dầu đèn sáp, treo chiếu nhà Hồ thần (châm nói: lúa thóc bún gạo tranh bày hội phước điền, hướng dầu đèn sáp cầu chiếu nhà từ bi). Bóc lột của cải dân chúng, cắt xén kho đụn nước nhà, quý thần triều đình chẳng từng tỏ rõ. Thật đáng đau xót thay! (Đàn-hặc rằng: triều đình nghiêm xét xưa trước xả bỏ thế tục, quy hướng chân chánh sùng dòng họ Thích, chẳng đồng tà kiến). Cúi nghó, chỉ Bệ hạ trấn định mở rộng cửa trời, thay ngôi báu mới, thông hành khó khăn của vạn vật chăng? Lại nuôi dưỡng muôn dân, trải ban mỹ phong vô vi của Lý Lão mà nhân dân tự cảm hóa, cầm nắm lễ ái kính của Khổng Khâu, mà khắp thiên hạ hiếu từ. Vả lại, kinh giáo của Phật, vọng nói tội phước (châm nói: nguyên do của giáo pháp chỉ bày người dứt cửa xấu ác, mở đường người làm lành). Quân dân trốn dịch, cắt tóc ở ẩn trong, chẳng phụng sự song thân, chuyên làm mười điều xấu ác (châm nói: xả bỏ ái ân của song thân, tu nhân phong của mười thiện, nhẫn chịu trái nghịch nhỏ ấy để thành thuận lớn). Năm tháng chẳng trừ, gian nguy càng lắm. Thần (Phó Dịch) đọc xem thứ khế, dẫn từ Bào Hy cho đến Hán Cao, cả thảy có hai mươi chín đời, hơn bốn trăm quân vương, chỉ nghe cúng tế Thượng đế ở ngoài giao (Đàn-hặc rằng: Viên binh Nam giao chẳng khỏi tội quá giết hại muôn sinh, đâu như Phật giới lấy chẳng giết hại đứng đầu. So sánh phải quấy, đoán có thể biết được vậy). Quan trị dân xét chưa thấy chùa nhà tượng đồng, xây dựng xã tắc an ổn bang quốc. Xin để cho tà giáo Hồ Phật trở về lại Thiên Trúc (châm nói: duyên cảm thì dấy động, việc rồi bèn dứt, qua lại ứng vật, ẩn hiểu theo thời). Phàm là Sa-môn thả trở về quê cũ, khiến đồng đảng trốn khóa, đều vui thích thâu thuế, các người trốn lánh làm việc, hằng vui thích dốc sức, chớ độ trẻ ngốc kính bái nước nhà (Đàn-hặc rằng: xưa trước Nghiêm Tử Lăng chẳng lễ bái Thiên tử, Triệu Nguyên Thúc vái dài Tư Không, sách vở ngợi ca vẻ đẹp ấy vậy. Huống gì Sa-môn là ruộng phước xuất thế, dòng họ Thích là Cao só ngoài vật, muốn khiến bái yết, trái nghịch tổn hại rất lắm, theo lý không thể được vậy). Tự đủ trung thần túc vệ tông miếu, thì thời Đại Đường chúng ta mở mang trấn định, làm chủ của tạo hóa, trăm họ vô sự làm dân của Hy Hoàng (Đàn-hặc rằng: Đời của tạo hóa, người không thâu thuế, dân của Hy Hoàng vạch bụng mà nằm. Thánh minh ở trên đâu tin ngôn từ của Thôi Hạo Khương Bân ấy ư?). Thần Phó Dịch rất mực kinh sợ (Đàn-hặc rằng: phụng sự Quân vương dốc biết tâm trung, mở lời nói năng mà có tin nghe. Tấu trình chẳng thật, tội lỗi có chỗ kết quy; vu khống nước nhà, trọn phải chịu đao kiếm. Đâu phải chỉ kinh sợ mà có thể xong ư?). Kính cẩn dâng trình, ích nước lợi dân, gồm có mười một điều như trên, kính cẩn tỏ bày (Đàn-hặc rằng: như điều ông tấu là tổn nước hại dân, việc không thể được). Ngày hai mươi tháng tư năm Võ Đức thứ tư (6 2 1) thời tiền Đường, Triều Hán Đại phu Hành thái sử lệnh thần Phó Dịch dâng tấu. <詞>KHẢI VĂN DÂNG TẤU TẦN VƯƠNG Sa-môn Thích Pháp Lâm v.v… khải tấu: Pháp Lâm tôi nghe, tình tha thiết thì tiếng người ấy hẳn xót xa; Lý chân chánh thì lời nói người ấy hẳn ngay thẳng. Do đó, cùng Tử nghó muốn thấu đạt lời nói ấy, nhọc người muốn ca việc ấy. Cớ sao? Trộm thấy khoảng cuối niên hiệu Đại Nghiệp (6 1 7) thời nhà Tùy, thiên hạ tán loạn, đất trời đen nhàm, bốn biển nhảy vọt, sóng động bụi bay, gò đồi thiêu đốt, đất bằng cháy lan, năm ngựa tuyệt đường nổi sông, bảy trẻ con có ca bình luật, lúc đốt lửa ra hiệu, vũ hịch rong bay, ải bít lắm lo toan, đánh chém chẳng dứt, đạo tiêu đức loạn, vận hết số cùng, chuyển thâu lắm nhiều, đầu gom sọt liệm, thây chất như rạ, máu chảy thành sông, con người không nơi nương nhờ để sống, mọi vật cũng nhọc dừng, không nơi khống cáo, ném hài cốt chẳng theo. Trăm họ khổ nỗi treo ngược ấy, muôn nước khốn nỗi không chủ đó, há là đồ hiện pháp luân tuyệt hưởng, chánh giáo bị lấn lướt? Thánh thượng dấy tâm thương xót trần tục, thuận mạng trời cao, bèn cất cờ nghóa bình trị một khu vũ. Bấy giờ các hàng đạo tục đều được đội nhờ, khắp chốn Hoa Di thảy vui thích. Từ đó hợp đất trời mà thông tám phong, lường âm dương mà điều bốn mùa, hòa nước nhà xếp đặt nhân luân. Công trùm phụ trời, thần sánh lập cực, giáng mây mưa mà sinh dưỡng, mở nhật nguyệt mà chiếu soi. Dùng thanh minh mà khơi phát đó, lấy văn vật mà biên ghi đó. Ân đượm hành vi, thí hợp trùng cá. Mới muốn thuật lại cửu trù, bày trải ngũ giác, phát động học thạch cừ, trải mỹ phong trường lớp. Xa sánh với Hiên Hy, gần đồng như văn cảnh. Công nghiệp trọn lớn mạnh, chẳng biết múa của tay, đạp của chân người nào ấy vậy? Trộm thấy, việc Phó Dịch dâng tấu, mở xem chưa khắp, trong năm phân nát, tầm đọc mới khắp sáu tình phá rách. Than ôi! Lời tà mê hoặc chánh; biện giải ép bức chân, còn chẳng đủ để nghe ở hàng hạ ngu, huống hồ muốn trên liền can đến trời nghe! Chỉ bởi Phó Dịch có chứa phận ở đương thời cầu muốn chỗ vật trông thấy biết, nào dung chẳng gần tình người, không tội gây ác. Nhưng văn ngôn ấy cạn cợt quê kệch, sự lý chẳng rõ ràng, làm nhục điển mô của Tiên vương, tổn thương khuôn phép thuần phong của nhân luân. Vì sao? Phàm, người không nói, nói hẳn có trúng. Phu Tử nói: “Một lời nói hợp lý thì thiên hạ thảy quy kính. Một sự việc trái lẽ thường thì vợ con phản lại”. Quán xét việc Phó Dịch tấu dâng, bao quát đại khái cùng tận đuôi đầu, là không mạo quyết đình xử có nhiều, quỷ nhục Thánh nhân rất lắm. Như ý ấy của Phó Dịch, vốn muốn nhân đó mà tự mưu toan, giả sử mong cầu tiến đạt, thật chưa thể ích nước lợi dân. Trong ý là muốn mê hoặc náo lộng từ triều đình đến thôn dã. Nhưng Bệ hạ, ứng trời thuận thời làm chủ cả thiên hạ, đến với tâm của muôn nước, đáng niềm vui của một người, sức giúp nguy cứu đời, công hung rợ lắng loạn, hẳn dùng oai trùm cả vương xưa, tiếng cao hơn đế trước, dẫn lại còn tâm đối với Tam bảo, lưu ý nơi ruộng phước. Dự phần là người xuất gia, không ai chẳng cảm đội ân trời, chỉ do trong chư tăng có phần nào không thể tuân phụng giới hạnh, báo đáp ân nước nhà, những người không biết chẳng trái tạo tội. Đến nỗi, khiến Phó Dịch trình bày lời xấu ấy, lếu láo nhảy nhót đau lòng, không nơi vất bỏ hài cốt. Nhưng các Tăng Ni có tội thì cam nhận cực hình, mà hận Phó Dịch khinh nhục Thánh nhân ngôn từ rất hại. Rất sợ kẻ tà kiến nhân đây mà làm điều quấy. Căn cứ sách Xuân Thu nói: Lúc Lỗ Trang Công vừa bảy tuổi, vào đêm tháng tư, sao thường chẳng hiện, mà ban đêm sáng như ban ngày, tức là điềm ứng lúc Phật ra đời vậy. Nhưng Phật có chân thân và ứng thân, có quyền trí và thật trí, có ba minh, tám giải, năm mắt, sáu thông. Sức thần chẳng thể nghó bàn, pháp gọi là tâm hành diệt mất. Đạo ấy chuyển vận các Thánh đến Niết-bàn, sức ấy dẫn dắt hạ phàm vượt biển khổ. Từ năm Vónh Bình thứ ba (6 0) thời Hậu Hán, vua Hiếu Minh Đế (Lưu Trang 5 8- 76) mộng thấy người vàng trở lại, tượng giáo lưu truyền phương Đông, điềm linh chẳng phải chỉ có một, đầy đủ ở các sử của Hán Ngụy. Các sách của Diêu Thạch v.v… đến như Sa-môn Đạo An, Đạo Dục, Phật Đồ Trừng, La Thập đều có hạnh cao hiểu sâu, là Danh tăng ở đương thời, khắp các Quân vương đều nhận biết, các hàng thắng quý thảy sùng trọng. Từ hơn năm trăm năm trở lại nay, chùa tháp dựng xây khắp cả chín châu, Tăng Ni có cùng ba phủ, đều do các Quân vương trong thời kỳ kính tin, từ triều đình đến thôn dã thảy quy tâm, tượng giáo hưng thạnh lưu hành mãi đến nay chẳng dứt. Thật là nhờ sức của Nhân Vương. Ở thế gian, vua tôi cha con còn gọi là ân trạch khó đáp, trời cao chẳng thể báo. Huống gì Phật là cha lành của chúng sinh xuất thế, lại là vị thầy thuốc tốt giỏi của Thánh phàm, sao lại muốn ép mà chèn đó, bắt tội mà làm nhục đó? Với lý chẳng thể được vậy. Ngưỡng tầm trí của Như Lai vượt khỏi hữu vô, đâu phải Tam Hoàng có thể lường biết; sức bao trùm tạo hóa, chẳng thể đất trời có thể tính. Liệt Tử nói: “Xưa trước, Thương Thái Tể Hy hỏi Khổng Tử: “Phu tử có phải là Thánh nhân chăng?”. Lại hỏi: “Tam vương có phải là Thánh nhân chăng?”. Khổng Tử đáp: “Tam vương khéo dụng trí dũng, có phải là Thánh nhân hay không thì chẳng phải chỗ Khâu tôi biết được”. Lại hỏi: “Ngũ Đế có phải là Thánh nhân chăng?” Khổng Tử đáp: “Ngũ Đế khéo dùng nhân tín, có phải Thánh nhân hay chăng cũng chẳng phải chỗ Khâu tôi biết được”. Lại hỏi: “Tam hoàng có phải Tnhân chăng?” Khổng Tử đáp: “Tam Hoàng khéo dùng thời chánh, có phải là Thánh nhân chăng cũng chẳng phải chỗ Khâu tôi biết được”. Thái Tể rất kinh ngạc, tiếp hỏi: “Vậy thì ai là Thánh nhân ư?”. Phu Tử đổi sắc mặt trong chốc lát mới bảo: “Ở phương Tây có người là Thánh giả vậy. Không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, chẳng cảm hóa mà tự thực hành, mênh mông thay! Dân chẳng thể gọi tên vậy”. Như Tam Hoàng, Ngũ Đế hẳn là Đại thánh, Khổng Khâu đâu dung ẩn mà chẳng nói bèn có tội khiên khuất lấp Thánh, lấy đó mà so sánh, suy tôn Phật là Đại Thánh. Trong Lão Tử Tây Thăng Dinh nói: “Thầy của ta du hóa ở Thiên Trúc, khéo vào Niết-bàn”. Phù Tử nói: “Thầy của Lão Thị tên là Thích- ca Văn”. Căn cứ ngay kinh sách của Khổng Lão, những chỗ nói về kính Phật, văn chứng chẳng thiếu, đâu phải một mình Phó Dịch mà có thể phỉ báng nỗi ư? Xưa, Công Tôn Long trước thuật Kiên Bạch Luận, bắt tội Tam hoàng, nói quấy Ngũ Đế. Đến nay đọc xem đó mọi người còn thấy giận lắm. Xem trước ấy thật đáng buồn thay! Chúa thượng là bậc chí Thánh khiêm minh, mới muốn thả ngựa nghỉ trâu, tự ca cổng bít mộ, dấy mỹ phong của hoàng vương, mở pháp hóa của Thích Lão. Với những thuyết cuồng giản, rất đáng nên thiêu đốt. Nếu nói Đế vương không Phật thì bình trị lâu năm, có Phật thì nghịch chính vận ngắn. Căn cứ như Nghiêu Thuấn riêng bình trị không đến đời con cháu Hạ, Ân, Chu, Tần Vương Chính từng cải đổi, Tiêu Tường bên trong nổi, nghịch loạn cùng theo nhau. Bấy giờ không có thật, bởi nhân gì mà vận ngắn ngủi? Chỉ pháp Lâm tôi dự ở đời Nghiêu, thường ngày sử dụng không biết, ở ngoài thấy không yên ổn bèn phụng sự, sợ các Phiên quốc xa nghe, cho là Hoa Hạ không hay biết. Phu Tử nói: “Lời tiếng đầy khắp thiên hạ, không qua lỗ miệng; hành vi đầy khắp thiên hạ không oán xấu ác. Người nói đó muốn khiến không tội, người nghe đó, đủ để tự răn. Phó Dịch mở lời chẳng từ tốn, người nghe hẳn kinh ngạc, có dơ uế mỹ phong của nước nhà, đặc biệt tổn hại Hoa tục. Kính cẩn ghi lục thành thực, dám mạo phạm tấu trình. Cúi nghó, chỉ Đại vương Điện hạ bẩm chất anh linh tự nhiên nổi trội, phong thần dónh ngộ trội vượt, khí cục bao hàm rộng, hay khéo làm an lạc xa đến tận Đông bình kia, ôn dịch là hân hoan lại mới ở Tây Sở. Thêm vì A-hành trăm lường đo, thể thức thứ lớp sáu điều. Đức đã rụt lụa, nhân gồm rách lưới, mở đệ của Khương Trang, ngồi khác tuân khanh, khởi tạo vườn râu tre, yến đãi khách văn nhã, không ai chẳng thơ cực, duyên tình mà ban cho, cùng thể vật tin có thể dự bình, khắp triều đình thôn dã đẹp xinh tập quán anh hào xưa trước. Chỉ Pháp Lâm v.v… chúng tôi bên trong nhìn lại khuyết như vuông tròn ít dùng, nghó Phó Dịch là kẻ hạ ngu rất lắm, thẹn chê trách phàm tăng hói đầu. Xấu ác đó cùng cực, tội chẳng gì lớn bằng. Từ tên Lô Hách Tư trở lại, sau khi đất trời mở rộng chưa có ai cuồng dối bội nghịch như Phó Dịch. Chẳng mặc tình đến cùng, xẻ cốt đau tim, kính cẩn ghi lục việc Phó Dịch làm hại, tạm thuật ngôn từ thô bỉ, xếp đặt trả đáp như trên. Mảy bụi nhuốm bẩn, oai nghiêm càng thêm mất tuyệt. Kính cẩn khải tấu. Ngày mười hai tháng giêng năm Võ Đức thứ năm (6 2 2) thời tiền Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm ở chùa Tế Pháp khải tấu. Phó Dịch nói: “Cần Vương thì hiếm thiếu, Thích rộng thì lắm nhiều, là bởi bên ngoài phụng sự Hồ Phật, bên trong khởi sinh tà kiến, cắt bỏ râu tóc, da dẻ đổi thay y phục. Vượt ra cửa thần tử (bề tôi và con) vào nhà của Tăng ni. Đứng bái yết ngọc đình, ngồi nhìn xem dưới gối, bất trung bất hiếu, nhóm kết liền phòng. Vả lại, Phật ở Tây Vức, lời yêu đường xa, bỏ thân thích đuổi theo tài của, sợ tráng niên, khinh mạn tuổi già. Trọng giàu sang mạnh khỏe, mà khinh nghèo hèn yếu đuối. Mến tuổi trẻ đẹp xinh mà khinh tiện tuổi già, lấy huyễn hoặc mà làm kỷ năng tài nghệ, lấy huống dối làm tông chỉ. Nhưng Phật là nhà của một dòng họ, đó là quỷ. Làm quỷ không thể gần các dòng tộc khác. Đâu có thể thúc giục người Hán sống cung cấp cho kẻ Hồ chết, sao mong lớn lắm vậy? Có thể gọi là xem thường minh châu đây mà quý trọng mắt cá kia, sai trái xa lìa cha mình mà cung kính người khác. Sao có quỳ mười cái nê hồ mà làm khanh tướng, đặt một bồn cơm thừa được làm Đế vương? Căn cứ tà thuyết của Phật, chẳng gần tình người. Vả lại, Phật khôi hài lớn lời chẳng kịp chiên mạnh, xa xỉ tạo tác tội sâu hơn Kiệt Trụ. Vào nhà thì phá nhà, vào nước thì phá nước”. Xin đáp rằng: “Phàm là người xuất gia, trong thì giả từ thân ái, ngoài xả bỏ quang vinh, chỉ mong cầu Vô thượng Bồ-đề, nguyện ra khỏi biển khổ sinh tử. Do đó, bỏ nghi phục của Triều Tông, đắp mặc áo ruộng phước; hành đạo để báo đáp bốn ân, lập đức để cứu giúp ba cõi. Đó là đại ý chính vậy. Nếu nói Phật là Hổ quỷ, chư tăng trở lại, sử sách trong ngoài, lược nêu nơi Khổng Lão bắt chước kính Phật, văn chương như đã nói trên để đáp người tà, mong đó chịu tội. Trong Đạo só Pháp Luân Kinh nói: “Nếu thấy Sa-môn nghó nhớ vô lượng, mong sớm xuất thân để tập học vượt chân”. Lại nói: “Nếu thấy đồ tượng Phật, nghó nhớ vô lượng, nên mong tất cả đều vào pháp môn”. Trong Thái thượng thanh tịnh tiêu ma bảo chân an chí, trí tuệ bản nguyện bản giới thượng phẩm kinh, nguyện thứ bốn mươi chín nói: “Nếu thấy Sa-môn, phải mong hết thảy thấu rõ pháp độ, được đạo như Phật”. Lão Tử Thăng Huyền kinh nói: “Thiên Tôn bảo Đạo Lăng, sai sang phương Đông đến nơi chỗ Phật, thọ học giáo pháp”. Đạo só Trương Lăng Biệt truyện nói: “Trương Lăng ở trong núi Hộc Minh, cúng dường tôn tượng vàng ròng, tụng đọc kinh Phật”. Thăng Huyền Kinh nói: “Ở phương Đông, Như Lai sai bảo Đại só Thiện Thắng đến nơi Thái thượng mà bảo “Như Lai nghe con vì Trương Lăng mà giảng nói pháp, nên sai ta lại thăm con”. Lại nói với Trương Lăng rằng: “Ngươi theo ta đến nơi chỗ Phật, sẽ khiến con được thấy điều chưa từng thấy, nghe điều chưa từng nghó”. Trương Lăng liền đảnh lễ Đại só và theo đến nơi chỗ Phật”. Lão Tử Tây Thăng kinh nói: “Thầy ta du hóa ở Thiên Trúc, khéo vào Niết-bàn”. Trí tuệ Quán thân Đại Giới Kinh nói: “Đạo học phải nghó nhớ vân du Đại phạm lưu ảnh nơi cung lễ Phật”. Thăng Huyền Kinh nói: “Nếu thấy Sa-môn muốn lại nghe kinh quán trai, chủ cúng không được tính hao phí ăn uống mà cắt đứt không chấp thuận, phải suy đặt lên tòa, Đạo só Kinh sư cũng tại phía dưới đó”. Thăng Huyền Kinh lại nói: “Đạo só thiết trai cúng dường, nếu có Tỳ-kheo đến, có thể mời lên trên tòa, khéo thiết bày mọi thứ cúng dường, Đạo só kinh sư tự tại dưới đó. Nếu Sa-môn Ni đến nghe pháp, phải ổn định an đặt mới vì lên tòa, người cúng phải đúng như pháp mà cúng dường, không được ngăn cản”. Hóa Hồ Kinh nói: “Mong hái hoa Ưu đàm, nguyện đốt hương chiên đàn cúng dường thân ngàn Phật, cúi đầu đảnh lễ Định quanh”. Lại nói: “Phật sinh sao muộn quá, lại nhập Niết-bàn sớm. Chẳng thấy được Thích-ca Văn, trong tâm thường áo não. Theo các bản cũ đều nói ta sinh sao quá muộn, Phật sao diệt độ sớm”. Linh Bảo Pháp Luân kinh nói: “Cát Tiên Công vừa sinh mới vài ngày, có vị Sa-môn người ngoại quốc thấy Tiên Công hai tay nắm giữ, nên bảo cùng cha mẹ của Tiên Công rằng: “Đứa trẻ này là Bồ-tát Thiện Tư ở Tây phương, nay đến đất Hán giáo hóa chúng sinh, sẽ vân du Tiên đạo, giữa ban ngày bay lên trời”. Tiên Công tự nói với đệ tử mình: “Thầy ta vốn dòng họ Ba Duyệt Tông, tên là Duy-na-ha, người nước Tây Vức”. Tiên nhân thỉnh vấn chúng Thánh nạn kinh nói: “Cát Tiên Công bảo đệ tử rằng: “Xưa trước ta cùng Thích Đạo Trưng, Trúc Pháp Khai, Trương Thái, Trịnh Tư Viễn v.v… bốn người đồng thời phát nguyện. Thích Đạo Trưng, Trúc Pháp Khai hai người nguyện làm Sa- môn; Trương Thái, Trịnh Tư Viễn nguyện làm Đạo só”. Tiên Công khởi cư chú nói: “Bấy giờ sinh tại nhà Các Thượng thư. Thượng thư tuổi đã ngoài tám mươi mới có một người con ấy. Khi ấy có vị Sa-môn tự xưng là Tăng ở Thiên Trúc đến nơi chợ lớn mua hương. Người trong chợ lấy làm quái lạ hỏi nguyên nhân, vị Sa-môn ấy đáp: “Đêm qua ta mộng thấy Bồ-tát Thiện Tư hạ sinh nơi nhà Cát Thượng thư, ta đem hương này đến để tắm gội”. Đến lúc sinh, vị Sa-môn ấy tới đốt hương, đi nhiễu quanh theo phía hữu bảy vòng rồi tắm gội mà thôi”. Tiên Công thỉnh vấn thượng phẩm kinh nói: “Cùng Sa-môn Đạo só nói thì chí ở nơi đạo”. Trong phẩm Hiệu Lượng Công Đức của Thượng phẩm Đại Giới Kinh nói: “Cúng thí tháp miếu Phật được phước bảo gấp bội ngàn lần. Bố thí cúng dường Sa-môn được phước báo gấp bội trăm lần”. Thăng Huyền nội giáo kinh nói: “Hoặc lại có người lúc bình thường chẳng chịu làm phước, thấy gặp Đạo só Sa-môn giảng pháp khuyên thiện trọn không theo ý”. Trí bản nguyện đại giới thượng phẩm kinh nói: “Cúng thí Phật chư tăng thọ trai trong bữa trưa hay chùa tháp bằng một tiền trở lên, đều được phước báo gấp bội hai vạn bốn ngàn lần, công đức nhiều phước báo nhiều, đời đời được hiền minh, an vui chẳng dứt tuyệt, bảy đời tổ tiên đều được sinh vào cõi nước vô lượng chư Phật”. Tiên Công thỉnh vấn kinh nói: “Lại có người phàm thực hành công đức ấy, nguyện làm Sa-môn Đạo só thái bác, đến đời sau bèn được làm Sa-môn, tập học kinh Phật, vì đại chúng mà làm Pháp sư. Lại có một người thấy Sa-môn Đạo só trai giới nghiêm tịnh, đọc tụng Kinh giáo, mà cười bảo đó là: “Người kia ngữa mặt giữa khoảng không ngâm nga lời kinh muốn mong cầu gì ư? Bụng trống giữa ngày ăn một bữa, đó là tội nhân vậy”. Đạo só mới trải tâm từ vì dẫn dụ đó, nhưng người ấy vẫn cố chấp, trong ý chẳng tan mất, khi chết đọa vào địa ngục, khảo độc năm thứ khổ sở”. Tiên công thỉnh vấn kinh nói: “Cao thượng Lão Tử nói: “Ở thời Thượng cổ, nhân dân thuần phác, mỗi tự nghó nhớ đạo đức, lòng rỗng huyền tịch, vô dục vô sự. Thuần phong ấy đã tan mất, trăm thứ đua nhau ùn nổi, muôn dòng phân chiết, gian xảo đổi cải, ngu trí lấn bước nhau, quỷ thần giữ oai, các Thánh đều ra chế định vì giáo hóa, chỉ khiến dân tu thiện tự giữ, do đó có năm kinh, nghiệp của Nho tục, đạo Phật mỗi mỗi đều tán thán giáo ấy lớn kết quy hành thiện vậy”. Thái Thượng Linh bảo động Huyền Chân Nhất khuyến giới pháp luân diệu kinh nói: “Ta trải qua quán sát các trời, từ vô số kiếp đến nay, thấy các Đạo só trăm họ, người nam kẻ nữ đã chứng đắc đạo Vô thượng Chánh chân. Cao tiên chân nhân tự nhiên, mười phương chư Phật đều nhận thọ sự cần khổ đời trước, cầu đạo không thể tính kể”. Pháp Luân Diệu Kinh nói: “Đạo nói phàm luân chuyển chẳng biết, được sinh trở lại trong loài người, có đại trí tuệ minh đạt, từ vô số kiếp học đủ thành chân nhân. Cao tiên tự nhiên, mười phương chư Phật, không ai chẳng từ hạnh nghiệp tạo nê, tiết chế tự thân, định chế tọa thiền, tư duy tinh tế”. Trên đây là ghi lục về văn của Đạo kinh bắt chước kính Phật. Xét Chu Thư Dị Ký nói: “Thời nhà Chu, vua Chiêu Vương (Cơ Hạ 1 0 0 0-976 trước Tây lịch) lên ngôi năm thứ hai mươi tư, ngày mồng tám tháng tư năm Giáp Dần, sông ngòi ao hồ bỗng nhiên nước dâng tràn, giếng nước đều tràn, cung điện vào nhà, núi sông đất liền thảy đều chấn động. Đêm đó có hơi khí ánh sáng năm sắc soi chiếu suốt qua Thái Vi, tận mặt nhìn về phương Tây đều là sắc màu xanh hồng. Vua Chiêu Vương hỏi Thái sử Tô Do rằng: “Đó là điềm lành gì vậy?”. Tô Do đáp: “Có bậc Đại Thánh nhân ra đời ở phương Tây, nên hiện điềm lành ấy”. Vua Chiêu Vương hỏi: “Đối với thiên hạ thì như thế nào?” Tô Do đáp: “Ngay lúc này thì không gì cả, nhưng ngoài ngàn năm sau, Thánh giáo ấy sẽ lưu truyền khắp xứ này”. Vua Chiêu Vương liền sai bảo người khắc bia đá ghi lại điều ấy, chôn tại trước đền thờ trời ở Nam Giao. Lúc ấy là Đức Phật mới đản sinh nơi cung vua vậy. Đến thời vua Mục Vương ( 9 7 6-921 trước Tây lịch) lên ngôi, đến năm thứ ba mươi hai, thấy ở phương Tây có vài luồng ánh sáng hơi khí, trước kia nghe điều dự ghi của Tô Do, biết tại phương Tây có Thánh nhân đang ở nơi đời. Vua Mục Vương chẳng thấu đạt lý ấy, sợ chẳng phải chỗ thích nghi của Chu Đạo, bèn cùng tướng quốc Lã Hầu đi đến phương Tây, thấy gặp chư hầu ở giữa đường núi khấn đảo ánh sáng biến đổi. Lúc ấy Đức Phật đã ở nơi đời lâu rồi vậy. Đến năm thứ năm mươi hai thời vua Mục Vương, vào lúc sáng sớm ngày mười lăm tháng hai năm Nhâm thân, bỗng nhiên gió bão tung nổi, làm hư hại nhà người, đổ gãy cây cối, núi sông đất liền thảy đều chấn động. Đến sau giờ ngọ đất trời tối tăm mây mù đen nghịt, ở phương Tây có mười hai vầng cầu vồng thông qua hai phía Nam Bắc suốt liền đêm chẳng dứt. Vua Mục Vương hỏi Thái sử Hổ Đa rằng: “Đó là điềm ứng gì?” Hổ Đa đáp: “Ở phương Tây có Thánh nhân vừa diệt độ, tướng suy hiện nên vậy”. Vua Mục Vương rất vui mừng bảo: “Trẫm thường lo sợ ở đó, nay đã diệt độ, thì Trẫm khỏi phải buồn lo vậy”. Ngay lúc ấy là Đức Phật nhập Niết- bàn”. Theo Sử Lục nói: “Thương Thái Tể Hy hỏi Khổng Tử rằng: “Ai là bậc Thánh nhân ư?”. Khổng Tử đáp: “Người ở phương Tây có Thánh giả. Không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không cảm hóa mà tự thực hành, mênh mông thay, dân không thể gọi đến vậy!”. Trên đây là ghi lục về văn trong Khổng Thư tán thán Đức Phật vậy. Tin chắc mà đáp rằng, trong sách nói: “Thấy thiện như chẳng kịp, thấy ác tợ tham lạnh”. Nhưng Thái thượng quý đức, tiếp theo mới lập ngôn. Đức muốn người quy hướng, lời nói muốn khiến người kính tin, mà ông không đức che chở thân, mở lời tổn hại phong hóa, khinh thường Đại Thánh, đâu phải là người ư”. Như Khổng Lão là Thánh nhân, còn tự tán thán Tam bảo, khiến các Đạo só v.v… kính nhường Tăng Ni. Ông đã bẩm nhận tiếp thừa Khổng Lão làm thầy, sao lại trái phản thầy dạy, phỉ báng phá hủy Thánh Tôn? Phù Tử nói: “Thầy của Lão Thị tên là Thích-ca Văn”. Trong Tử Thư, Mâu Tử, gồm hai quyển, cũng rộng bàn luận về Phật pháp. Nội điển Thiên địa kinh nói: “Phật sai ba Thánh giả đến giáo hóa Đông độ kia, Bồ-tát Ca Diếp kia xưng là Lão Tử”. Thanh tịnh pháp hạnh kinh nói: “Phật sai ba đệ tử đến nước Chấn Đán giáo hóa, Bồ-tát Nhu Đồng kia xưng là Khổng Khâu. Bồ-tát Quang Tịnh kia xưng là Nhan Hồi, Ma-ha Ca-diếp kia xưng là Lão Tử”. Căn cứ ở thời Tiền Hán, trong khoảng niên hiệu Nguyên Thú ( 1 2 2-116 trước Tây Lịch) ở đời vua Võ Đế (Lưu Triệt 1 4 0-86 trước Tây Lịch), Hoắc Khử Bệnh đánh Hung nô, đến Cao Lan qua ở Diên sơn, gặp được vua Côn-da-hưu-xà v.v… dẫn theo đồ chúng có cả năm vạn người đến hàng, và có được người vàng cao lớn hơn một trượng, tôn trí tại cung Cam Tuyền. Vua Võ Đế cho đó là đại thần, bèn đốt hương lễ bái. Đến lúc đánh mở Tây Vức, sai Trương Khiên đi sứ. Đại hạ, lúc trở về nói là “có nước Thân Độc”. Nước Thân Độc còn có một tên khác là Thiên Trúc, đó là lúc đầu nghe được giáo pháp của Phù Đồ. Ngụy Thư nói: “Vua Võ Đế (Lưu Triệt) thời Tây Hán có được người vàng, không cúng tế, chỉ đốt hương lễ bái mà thôi”. Đó tức là Phật giáo đã dần lưu thông vậy. Năm Nguyên Thọ thứ nhất (02 trước Tây Lịch) dưới đời vua Ai Đế (Lưu Hân 0 6-01 trước Tây Lịch) thời Tây Hán, sai Cảnh Hiến đến nước Đại Nguyệt Chi, nhân đọc tụng kinh Phù Đồ (Phật Đà) rồi trở về đất Hán, bấy giờ đã hơi thực hành trai giới của Phù Đồ. Đến thời vua Chương Đế (Lưu Đát 7 6- 89) thời Đông Hán, Sở Vương Anh thích làm trai giới của Phù Đồ, phụng cúng lụa nhũng sắc vàng, lụa nỏn sắc trắng ba mươi xấp để chuộc lỗi quá, ban chiếu báo cùng Sở Vương kính chuộng đức nhân của Phù Đồ, cúng tế trai tịnh thanh khiết ba tháng cùng thần làm thề tin vậy. Đến đời vua Hoàn Đế (Lưu Chí 1 4 7- 168) thời Đông Hán, bấy giờ Tương Khải nói: “Lấy Phật Đà Hoàng Lão để can gián chúa thượng, muốn khiến ưa thích sống, chán ghét giết hại, ít ham muốn, kính chuộng vô vi”. Hậu Hán Thư nói: “Năm Vónh Bình thứ ba (6 0) thời Đông Hán, vua Minh Đế (Lưu Trang 5 6- 76) mộng thấy người vàng, cổ đeo ánh sáng nhật nguyệt, bay đi trước điện. Vua mới hỏi quần thần. Thông sự xá nhân Phó Nghị đáp: “Thần nghe ở Tây Vức có thần, tên hiệu là Phật, chỗ thấy của Bệ hạ há không phải vậy ư?”. Vua liền sai Lang trung Thái Hâm, Trung lang tướng Tần Cảnh, Bác só Vương Tuân v.v… đi sứ đến Thiên Trúc đồ họa hình tượng Phật. Thái Hâm bèn cùng Sa-môn Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan về phương Đông đến ở Lạc Dương. Tại Trung Quốc có Sa-môn bắt đầu từ đó”. Hậu Hán giao tế ký nói: “Phật, tiếng Hán dịch nghóa là giác, vì giác ngộ cho quần sinh vậy. Bao gồm tất cả giáo pháp ấy để tu thiện, lấy từ tâm làm chủ, chẳng giết hại các loại quần sinh, chuyên tinh thanh tịnh. Người tu hành tinh tấn thì gọi là Sa-môn, tiếng Hán dịch nghóa là Tức Tâm, cạo bỏ râu tóc, xa lìa gia đình thế tục, tuyệt đình tẩy dục mà quy hướng đến vô vi vậy. Lại vì tinh thần của người chết chẳng diệt mất, theo sau lại nhận thọ thân hình, tùy những việc làm thiện ác, đời sau đều có báo ứng. Chỗ quý là hành thiện tu đạo để luyện tinh thần ấy, luyện mà chẳng thôi để đạt đến vô sinh được làm Phật vậy. Thân hình cao lớn trượng sáu, sắc màu vàng ròng, trong cổ đeo mang ánh sáng nhật nguyệt, biến hóa chẳng thường, do đó mà chẳng vào nên hay hóa thông muôn vật mà rộng cứu giúp quần sinh. Kinh sách có vài ngàn quyển, lấy hư vô làm tông, bao gồm cả tinh thô, không gì chẳng gom tất cả. Khéo làm rộng thoáng, ngôn từ ưu thắng lớn lao, chỗ mong cầu tại trong một thể, chỗ rõ ràng vượt ngoài thấy nghe. Quy hết về ở huyền vi, sâu xa, khó mà lường được, không gì bằng cứ nhiên tự mất vậy”. Ngụy Thư nói: “Thái Hâm có thỉnh được kinh Bốn Mươi Hai chương của Phật và tôn tượng Phật Thích-ca đứng. Vua Minh Đế (Lưu Trang 5 8- 76) thời Đông Hán bảo thợ họa vẽ đắp họa hình tượng Phật tôn trí tại đài Thanh Lương và gò Hiển tiết, kinh văn tôn trí ở Lan Đài thạch thất. Lúc Thái Hâm trở về, dùng ngựa bạch để chở kinh tượng đến đất Hán, nhân đó mà lập chùa Bạch mã tại phía Tây Ung Môn thành Lạc Dương. Yếu chỉ kinh ấy đại khái nói các loại quần sinh đều nhân hạnh nghiệp mà khởi, có ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, thứ lớp tu đạo, đẳng cấp tâm hành v.v… chẳng chỉ có một, đều duyên từ cạn để đạt đến sâu, gá nhỏ nhiệm để hiện bày to lớn, dẫn hiện tại ở tích chứa đức nhân, thuận bỏ tất cả tham dục, hành lập hư tỉnh mà thành thông chiếu. Người mới đầu tu tâm thì nương tựa Phật pháp tăng thọ pháp tam quy. Pháp Tam quy như Tam úy của quân tử. Lại có ngũ giới, đoạn dứt giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, đại ý tương đồng như nhân, nghóa, lễ, trí, tín. Người vâng phụng kính trì đó thì sinh đến cõi ưu thắng của trời người, xa lìa các khổ ngạ quỷ. Nói nơi chốn của thiện ác, gồm có sáu đạo. Tại nơi ngăn ngừa tâm, nghiêm chánh thân, miệng dứt bỏ vọng ngữ, gồm tất cả, gọi đó là mười thiện đạo. Nếu hay đầy đủ như vậy tức gần thì được phước báo cõi trời, xa thì chứng đắc Bồ-đề. Vào đêm mồng tám tháng tư, Đức Phật từ hông phía hữu của Thánh mẫu mà sinh. Lúc ấy tương đương với đời Chiêu Vương Lỗ Trang ở Trung Hoa. Hình dung khác hẳn người thường, có ba mươi hai tướng quý của Đại nhân. Trời giáng điềm lành để ứng đó cũng có ba mươi hai thứ. Đến sau khi Đức Phật đã thị tịch, các đệ tử v.v… dùng gỗ hương thơm để thiêu thân, linh cốt vỡ vụn lớn nhỏ như hạt thóc, sắc màu hồng trắng, đánh đập không nát, thiêu đốt không cháy, từng có ánh sáng thần nghiệm. Đến sau khi Phật đã thị tịch một trăm mười sáu năm, có vua A-dục dùng sức thần phân chia xá lợi của Phật, sai sử các chúng quỷ thần dựng tạo tám vạn bốn ngàn tháp báu. Nay ở các nơi Lạc Dương, Bành thành, Phù phong, Thục quận, Cô tàng, Lâm truy v.v… đều có tháp ấy, đều có thần dị”. Trong Hán pháp bản nội truyện nói: “Vua Minh Đế sai Lang trung Thái Hâm, Trung lang tướng Tần Cảnh, Bác só Vương Tuân v.v… cả thảy mười tám người đến nước Thiên Trúc, cùng Ca-diếp Ma-đằng v.v… thỉnh đem tôn tượng Đức Phật Thích-ca đứng, là do vị thầy thứ tư của vua Ưu Điền tạo nên, về đất Hán. Vua Minh Đế hỏi Ca-diếp Ma-đằng rằng: “Đấng Pháp Vương xuất hiện ở đời vì sao giáo hóa chẳng đến xứ này?”. Ca-diếp Ma-đằng đáp: “Nước Ca-tỳ-la-vệ là trung tâm của ba ngàn đại thiên thế giới và của cả trăm ức nhật nguyệt, ba đời chư Phật đều từ xứ đó mà đản sinh. Chẳng kể là trời rồng quỷ thần, những ai có sức hạnh nguyện đều sinh ở xứ ấy, nhận thọ sự giáo hóa của Phật và đều được ngộ đạo. Còn chúng sinh ở các xứ khác không duyên cảm Phật, nên Phật chẳng đến. Tuy Phật không đến, nhưng quanh minh tỏa khắp, hoặc năm trăm năm sau, hoặc một ngàn năm sau, hay ngoài ngàn năm sau đều có Thánh nhân, hoằng truyền Thánh giáo của Phật mà giáo hóa nơi đó”. Ngày mồng một tháng giêng năm Vónh Bình thứ mười bốn (7 1) thời Hậu Hán, Chư Sơn Đạo só thứ lớp triều chính ở Ngũ Nhạc đều cùng bảo nhau rằng: “Đức chí tôn bỏ lìa chúng ta, đạo pháp xa cầu Hồ giáo. Nay chúng ta nhân vào triều, thứ tự mỗi người nên đem kinh sách do Thái thượng Thiên tôn chế thuật, dốc hết khả năng của mình, cùng dâng một biểu văn”. Biểu văn nói: “Đệ tử Đạo só Trử Thiện Tín v.v… ở mười tám sơn quán Thái Sơn Tam động tại Ngũ Nhạc cả thảy sáu trăm chín chục người đáng tội chết chúng tôi kính xin tỏ bày: Chúng tôi nghe Thái thượng vô hình, vô danh, vô cực, vô thượng, hư vô tự nhiên, đại đạo nguyên thủ, tự theo tạo hóa đạo đức cùng sống vô thượng, tông chủ vô vi, cha lành của tự nhiên, từ thượng cổ đều tuân vâng, trăm đời vua không thay đổi. Mà nay Bệ hạ đạo xa quá Hy Hoàng, đức vượt hẳn Nghiêu Thuấn, tỏa sáng đượm nhuần bốn biển, khắp mọi nơi đều quy hướng đức nhân. Các thần chúng tôi trộm nhân Bệ hạ bỏ gốc theo ngọn, mong cầu giáo pháp ở Tây Vức. Các thần chúng tôi quán sát chỗ kính thờ của Tây Vức đã là Hồ thần, những điều giảng nói không liên quan đến Hoa Hạ. Lại thỉnh cầu người Hồ khiến phiên dịch lời đó nương gá đồng tương tợ của xứ Hán. Các thần chúng tôi thổn thức nghó ngợi. Bệ hạ tuy phiên dịch được lời đó, nhưng sợ chẳng phải là đại đạo. Nếu chẳng y cứ thuận tin, mong Bệ hạ thứ tội cho các thần chúng tôi, chấp thuận cho thử nghiệm. Các thần chúng tôi có Đạo só chư sơn ở Ngũ Nhạc, phần nhiều có thông minh trí tuệ, thông suốt kinh điển. Từ Nguyên Hoàng trở lại, Thái thượng kinh hành thảy đều rõ hiểu, Thái hư phù chú thảy đều thấu suốt. Hoặc có vị nuốt phù ăn hơi khí, hoặc có vị sai sử quỷ thần, hoặc có vị vào lửa không bị thiêu đốt, vào nước không bị ngập chìm, hoặc có vị giữa ban ngày bay lên trời, hoặc có vị ẩn hình nơi đất, đến như các pháp thuật phương thuốc, không gì chẳng thể làm được. Mong Bệ hạ cho các thần chúng tôi so sánh. Một là Thánh thượng được an ý, hai là được biện rành chân ngụy, ba là đại đạo có chỗ quy hướng, bốn là chẳng loạn Hoa tục. Các thần chúng tôi sánh tài nếu chẳng bằng thì mặc tình Bệ hạ phán quyết, còn nếu sánh tài hơn được, thì xin trừ bỏ hư ngụy”. Vua Minh Đế ban sắc Thượng thư lệnh Tống Tường dẫn đưa vào cung Trường lạc. Đến ngày mười lăm tháng giêng, nhóm tập tất cả đến ngoài cửa phía Nam chùa Bạch Mã. Các Đạo só v.v… cùng thiết đặt ba đàn. Mỗi đàn riêng mở hai mươi bốn cửa. Đạo só Trử Thiện Tín v.v… cả thảy có bảy mươi người ở Nam Nhạc đem Linh Bảo chân văn, Thái thượng ngọc quyết, Không đồng linh chương, Thăng huyền bộ thư, Thái thượng tả tiên nhân thỉnh vấn tự nhiên, Ngũ chủng chư thiên, Nội âm v.v… Các kinh cả thảy một trăm lẻ ba quyển. Đạo só Lưu Chánh Niệm v.v… ở Hoa nhạc cả thảy có bảy mươi người đem các kinh Trí tuệ định chí, Trí tuệ thượng phẩm giới, Tiên nhân thỉnh vấn, Bản hạnh nhân duyên, Minh châu khoa v.v… gồm sáu mươi hai quyển. Đạo só Hoàn Văn Độ v.v… cả thảy bảy mươi người ở Hằng nhạc đem Bản nguyện thượng phẩm Pháp khoa, Tội phước minh chân khoa, Trai nghi, Thái thượng động huyền chân văn, gồm tám mươi quyển. Đạo só Tiêu Đắc Tâm v.v… cả thảy có bảy mươi người ở Đại nhạc đem Chư Thiên linh thư, Độ mạng cửu thiên thần chương, Thái thượng thuyết cực, Thái hư tự nhiên, Diệt độ ngũ luyện sinh thi độ tự nhiên quyển nghi, gồm tám mươi lăm quyển. Đạo só Lã Tuệ Thông ở Tung nhạc v.v… cả thảy có một trăm bốn mươi người, đem Thái thượng an chí thượng phẩm, Tam nguyên phẩm giới, Thái cực tả tiên công, Thần tiên bản khởi, Nội truyện, Phục ngự, Ngũ nha lập thành, Triều tịch triều lễ, gồm chín mươi lăm quyển. Chư sơn quán Đạo só Kỳ Văn Tín v.v… cả thảy hai trăm bảy mươi người ở Hoắc Sơn, Thiên mục sơn, Ngũ đài sơn, Bạch lộc sơn cả thảy mười tám nơi, đem Thái cực chân nhân, Phu linh bảo văn, Thái thượng động huyền, Linh bảo thiên văn, Ngũ phù kinh, Bộ hư văn, Thần tiên dược pháp thi giải phẩm, Thượng thiên phù lục sắc cấm, gồm tám mươi tư quyển. Tổng cộng có cả thảy năm trăm sáu mươi chín quyển, đặt ở đài phía Tây. Mâu Thành Tử, Hứa Thành Tử, Liệt Tử, Hoàng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Huệ Tử gồm tất cả kinh sách của hai mươi bảy nhà Chư Tử, có cả thảy hai trăm bốn mươi lăm quyển, đặt ở đài giữa, thiết bày thức ăn cúng tế trăm thần đặt ở đài phía Đông. Vua Minh Đế thiết lập hành điện bằng bảy báu tại phía Tây; đường ngoài cửa phía Nam chùa Bạch Mã, tôn trí xá lợi của Phật và kinh tượng. Trong ngày mười lăm tháng giêng, sau khi thọ trai xong, các Đạo só v.v… dùng Tử địch hòa với hương chiên đàn, trầm thủy chấp quanh Kinh giáo ở đài phía Tây, rồi gào khóc khải cáo rằng: “Các thần chúng tôi kính xin tỏ bày: Thái thượng vô cực, đại đạo nguyên thủy, các thần trăm linh, nay Hồ thần nhiễu loạn người Hoa Hạ, chúa tin theo tà, chánh giáo mất vết, Huyền phong rơi lạc giềng mối. Các thần chúng tôi kính cẩn y cứ theo pháp Tam ngũ bộ cương, dám đặt kinh trên đàn, dùng lửa thiêu đốt để xét nghiệm, muốn mở hiểu điều chưa nghe, để biện rành chân ngụy”. Bèn châm lửa thiêu đốt kinh, kinh bén theo lửa cháy thành tro bụi. Các Đạo só v.v… thấy lửa đốt cháy kinh, trong tâm rất kinh sợ. Những vị trước đó hay bay lên trời lại chẳng thể bay. Những vị trước kia hay ẩn hình lại không thể ẩn, những vị trước kia hay vào trong lửa chẳng thể vào. Những vị trước kia khéo giỏi cấm chủ, nay hô sai chẳng ứng. Những vị trước kia có các thứ công năng, nay đều không một ứng nghiệm gì. Các Đạo só v.v… rất hổ thẹn. Bấy giờ Thái phó Trương Diễn bảo cùng Trử tín rằng: “Nay điều ông muốn thử, không có ứng nghiệm, tức là hư vọng. Nên theo đến chân giáo của Tây vức”. Trử Tín không trả lời. Đạo só Phỉ Thúc Tài ở Nam Nhạc tại giữa chúng đông tự uất hận mà chết. Khi ấy, xá lợi của Phật tỏa phong ánh sáng năm sắc thẳng lên giữa hư không xoay quanh như lọng, che trùm cả đại chúng lóa khuất vầng nhật luân. Pháp sư Ca-diếp Ma-đằng trước đó đã chứng Thánh quả A-la- hán, vận dụng sức từ thiện vọt thân bay cao, đi đứng nằm ngồi giữa hư không, thần hóa tự tại, trở lại nơi bổn tòa tự nhiên mà đứng. Lúc đó, trời mưa hoa báu ở nơi điện Phật và trên chúng tăng. Lại nghe giữa hư không có các thứ âm nhạc, cảm động tình người. Đại chúng quán sát vui thích, ngợi khen là điều chưa từng có. Pháp sư Trúc Pháp Lan ở giữa đại chúng liền nói bài kệ tụng rằng: “Chồn chẳng phải sư tử Đèn không như nhật nguyệt Ao không nuốt biển lớn Gò chẳng phải núi cao Mây pháp trùm thế giới Giống thiện được nẩy mầm Hiển bày pháp hiếm có Nơi nơi độ quần sinh”. Khi ấy, đại chúng vây nhiễu quanh Pháp sư Trúc Pháp Lan có vài trăm lớp. Pháp sư lại tỏa phát Phạm âm tán thán công đức của Phật, cũng khiến đại chúng xưng dương Tam bảo, tán thuật thiện pháp, hoặc nói nhân duyên của trời người địa ngục, hoặc nói A-tỳ-đàm của Tiểu thừa, hoặc nói Ma-ha diễn của Đại thừa, hoặc nói sám hối diệt tội, hoặc nói công đức xuất gia. Bấy giờ, Tư Không Dương Thành Hầu, Lưu Thiện Lăng, quan nhân thứ dân và cả phụ nữ v.v… phát tâm xuất gia; chư sơn Đạo só Lã Huệ Thông v.v… cả thảy sáu trăm hai mươi người ở bốn núi cầu xin xuất gia. Các quan từ ngũ phẩm trở lên có chín trăm mười ba người xin xuất gia. Các quan từ cửu phẩm trở lên, tướng quân trấn xa, Khương Câu Nhi v.v… có một trăm bảy mươi lăm người xin xuất gia. Trị dân ở Kinh đô, Trương Tử Thượng v.v… có hai trăm bảy mươi người xin xuất gia. Phụ nữ A-phiên v.v… ở Kinh đô có một trăm hai mươi mốt người xin xuất gia. Qua ngày mười sáu tháng giêng, vua cùng các quan đại thần văn võ v.v… vài trăm người cùng xuất gia xuống tóc, thường ngày thiết cúng, ban đêm đốt đèn, thiết bày các thứ kỷ nhạc. Cho đến ngày ba mươi tháng giêng, Pháp y bình bát thảy đều cúng thí xong, liền xây dựng mười ngôi chùa. Bảy ngôi ở phía ngoài thành, ba ngôi ở trong thành; bảy ngôi an đặt chư tăng sinh hoạt, ba ngôi an đặt chư ni sinh hoạt. Phật pháp ở thời Hậu Hán, từ đó mà hưng thạnh”. Hán pháp bản nội truyện gồm có năm quyển. Quyển một (nói về vua Minh Đế được mộng và mong cầu giáo pháp); Quyển hai (nói về công đức thỉnh cầu Pháp sư và tạo lập chùa); Quyển ba (nói về cùng các Đạo só sánh tài mà độ thoát); Quyển bốn (nói về vua Minh Đế cùng các đại thần tán thán); Quyển năm (nói về lưu truyền rộng khắp). Căn cứ theo Huyền Thông ký nói: “Năm Kỷ sửu (1 4 9), tức năm Kiến Hòa thứ ba trong đời vua Hoàn Đế (Lưu Chí 1 4 7- 168) thời Hậu Hán, có Sa-môn An Tónh vốn là Thái tử vua nước An Tức, bỏ cơ nghiệp nước nhà mà xuất gia, giữ chí du phương giáo hóa, đến Lạc Dương, phiên dịch các kinh”. Theo Ngụy Thư nói: “Năm Nhâm dần (2 2 2), tức năm Hoàng Sơ thứ ba trong đời vua Văn Đế (Tào Thi 2 2 0- 227) thời Tiền Ngụy, có Sa-môn Đàm-ma-ca-la đến Hứa đô phiên dịch giới luật”. Theo Dị Ký của Thị trung Phó Nghị ở thời Hậu Hán nói: “Năm Đinh Tî tức năm thứ hai mươi bảy của đời vua Chiêu Vương (Cơ Hạ 1 0 0 0-976 trước Tây Lịch) thời Tây Chu, là Đức Phật đản sinh”. Theo Ngô Thư nói: “Năm Tân Dậu (2 4 1) tức năm Xích Ô thứ bốn đời Ngô chúa Tôn Quyền (Đại Đế 2 2 0- 252) thời Đông Ngô, có Sa- môn Khương Tăng Hội vốn là con trai trưởng của Đại thừa tướng nước Khương Cư mới đầu đến đất Ngô dựng lập am tranh, thiết tôn tượng hành đạo. Người đất Ngô mới đầu trông thấy vậy lấy làm quái lạ cho là yêu dị. Hữu Ty tấu trình, Tôn Quyền hỏi: “Phật có thần nghiệm gì?” Khương Tăng Hội đáp: “Phật ẩn linh tích đã hơn ngàn năm, còn có xá lợi ứng hiện vô phương”. Tôn Quyền bảo: “Nếu có được xá lợi thì sẽ dựng tháp tôn thờ”. Khương Tăng Hội trải qua hai mươi mốt ngày khẩn cầu bèn có được xá lợi năm sắc chiếu sáng giữa trời, bổ đó càng cứng chắc, thiêu đốt đó không cháy. Ánh sáng tỏa phóng lửa làm thành hoa sen lớn chiếu sáng cả cung điện. Tôn Quyền tán thán khác lạ, phát khởi tín tâm, nhân đó tạo chùa Kiến Sơ, độ người xuất gia. Tôn Quyền hỏi Thượng thư lệnh Đô Khanh Hầu Hám Trạch: “Từ đời vua Minh Đế (Lưu Trang 5 8- 76) thời Hậu Hán đến nay đã bao nhiêu năm?”. Hám Trạch đáp: “Từ năm Vónh Bình thứ mười (6 7), thời Hậu Hán đến nay là năm Xích Ô thứ tư (2 4 1) thì đã một trăm bảy mươi lăm năm”. Tôn Quyền hỏi: “Phật giáo lưu truyền vào đất Hán đã lâu, bởi duyên gì nay mới truyền đến Giang đông?” Hám Trạch đáp: “Năm Vónh Bình thứ mười bốn (7 1) thời Hậu Hán, các Đạo só ở Ngũ Nhạc lúc cùng sánh sức với Sa-môn Ca-diếp Ma-đằng, các Đạo só không thắng nổi, nên Đạo só Trử Thiện Tín, Phỉ Thúc Tài v.v… ở Nam Nhạc tại giữa chúng hội tự uất hận mà chết, môn đồ đệ tử đưa về an táng tại Nam Nhạc. Chẳng dự xuất gia nên không có người lưu bố. Về sau, gặp phải thời Hậu Hán chinh chiến lấn lướt, binh đao chẳng ngừng dứt, mãi đến nay đã nhiều năm mới được hưng thạnh hành hóa lại”. Tôn Quyền lại hỏi: “Khổng Khâu, Lão Tử có thể sánh đồng như Phật chăng?”. Hám Trạch đáp: “Thầm tìm xem Khổng Khâu ở nước Lỗ thật là bậc anh tài tuấn tú, Thánh đức vượt hẳn mọi người. Ở đời tôn xưng là Đế vương, chế tác kinh điển, dẫn dạy Chu Đạo, giáo hóa người sau. Mỹ phong Sư Nho đượm nhuần xưa nay cũng có vượt hơn người như Hứa Thành Tử, Lã Thành Tử, Nguyên Dương Tử, Trang Tử, Lão Tử, v.v… Sách của bách gia tử đều là để tu thân tự an vui, phóng nhàn núi cốc, thong dong tâm chí, điều học quy về đạm bạc, sự trái nhân luân tiết tháo của già trẻ, cũng chẳng phải thuần phong trị thế an dân. Đến đời vua Cảnh Đế (Lưu Khải 1 5 6-140 trước Tây lịch) thời Tây Hán sử dụng lễ nghi của Hoàng tử Lão Tử rất sâu nặng, cải đổi tử làm kinh, bắt đầu lập thành Đạo học, ban sắc từ triều đình đến thôn dã thảy đều đọc tụng. Nếu đem Khổng Khâu và Lão Tử xa sánh với Phật pháp, xa thì rất xa vậy. sở dó như vậy, bởi vì Khổng Lão thiết giáo, pháp điển trời chế, dùng chẳng dám chống trái trời. Chư Phật thiết giáo, tức là pháp trời vậy. Kính phụng hành, không dám trái ý Phật. Lấy đó mà nói thì không thể sánh đối rõ ràng vậy”. Tôn Quyền rất vui mừng, dùng Hám Trạch làm Thái tử Thái phó. Trong thời tiền Ngụy, vua Minh Đế (Tào Nhuệ 2 2 7- 240) từng muốn phá hủy ngôi Phù đồ ở phía Tây cung điện. Có vị Sa-môn người ngoại quốc đem mâm vàng đựng đầy nước đặt ở trước điện, đem xá lợi đặt vào trong mâm nước mới có ánh sáng năm sắc phóng lên. Vua bèn ngợi khen khác lạ, mới tạo dựng cổng bao quanh phía Đông đường đi dài cả trăm gian để làm tinh xá. Đến năm Thiên Hưng thứ nhất (3 9 8) thời Bắc Ngụy, vua Thái Tổ (Thác Bạt Quế 3 8 6- 409) ban sắc chiếu nói: “Phật pháp hưng pháp từ xưa đến nay đã lâu xa, công năng cứu giúp lợi ích ngầm ở còn mất. Vết thần để lại mẫu mực, tin đáng nương tựa vậy”. Và có ban sắc ở kinh ấp xây dựng trang nghiêm dung nghi quỷ phạm, tu sửa cung điện vườn nhà, khiến những người kính tin quy hướng có nơi dừng ở. Năm đó mới tạo dựng ngôi Phật đồ cao năm cấp, điện núi Kỳ-xà-quật và núi Tu di. Lại thêm nghiêm sức gấm lụa, riêng tạo dựng giảng đường, thiền thất và nơi Sa-môn tỉnh tọa, thảy đều đầy đủ. Các vị kiểm xét sách sử, thông rành Nho giáo đều ngợi ca Phật pháp là rất mực tốt lành! Tà kiến duyên gì mà tự chuốc tội nghịch. Đến thời Thế Tổ (Minh Nguyên Đế - Thác Bạt Tư 4 0 9- 424) thời Bắc Tống lên ngôi, cũng tuân theo Thái Tổ Thái Tông thường dẫn mời các Sa-môn cao đức chung cùng đàm luận. Cứ đến ngày mồng tám tháng tư, khiêng kiệu tôn tượng chư Phật đi ngoài đường lớn, vua đích thân đến trên cửa lầu rải hoa lễ kính. Sa-môn Tuệ Thủy rất có thần dị, Hách Liên xướng phá Trường an nói: “Tuệ Thủy thân bị mũi nhọn đâm chém, mà hình thể không tổn thương, suốt hơn năm mươi năm chưa từng ngủ nằm, đi chân trần mà bùn đất chẳng dính bẩn, sắc màu càng sáng sạch, người đời tôn xưng là “Bạch cước A-luyện-nhã”, chúa thời bấy giờ rất kính trọng nên hưng thạnh hoằng truyền Phật pháp. Đến lúc thị tịch sau hơn mười năm, vẫn nghiễm nhiên không biến hoại”. Đến đời vua Thái Võ Đế (Thác Bạt Đào 4 2 4- 452) thời Bắc Ngụy, Thôi Hạo làm Tư Đồ, rất không kính tin Phật pháp, từng cùng vua đàm luận muốn phỉ báng phá hủy. Nhân Cái Ngô làm loạn ở Quan Trung, Thôi Hạo tiến tới luận nói, bèn phá hủy Phật pháp. Đạo só thiên sư Khấu Khiêm Chi khổ cùng Thôi Hạo tranh luận, nhưng Thôi Hạo chẳng chịu theo, Khấu Khiêm Chi mới bảo: “Từ năm nay ông nhận chịu phá diệt Phật pháp vậy”. Sau đó, vua Thái Võ Đế khắp thân hình phát sinh mụt nhụt lỡ loét, đau khổ khó nhẫn nỗi. Quần thần cùng nhau bàn nghị: “Thôi Hạo tà vạy xiểm nịnh, phá hủy Phật pháp. Bệ hạ mắc phải tai hoạn, hẳn do từ đó”. Về sau, Thôi Hạo quả nhiên bị giết chết chịu đủ năm thứ cực hình. Đâu chẳng phải tích chứa điều xấu ác phải nhận chịu ương họa, thật đáng xót thương rất lắm! Xét thấy trong thời Nguyên Ngụy cả thảy có mười bảy đời vua, trải suốt thời gian một trăm bảy chín năm ( 3 8 6- 556), chỉ có trong khoảng bảy tám năm, Phật pháp bị phế hủy, ngoài ra rạng ngời, chẳng thể trình bày hết cả. Năm Hưng Quang thứ nhất (4 5 4) thời Bắc Ngụy, ở nơi chùa lớn năm cấp, và Từ Thái Tổ trở xuống cả thảy năm đời vua chú đúc năm tôn tượng, mỗi tôn trượng cao lớn một trượng sáu thước, dùng bằng hai mươi lăm vạn cân vàng. Năm Thái Hòa thứ nhất (4 7 7) thời Bắc Ngụy, ở nơi Phương Sơn do Thái Tổ doanh lũy, xây dựng chùa Tư Viễn. Tháng bảy năm Canh tý (5 2 0), tức năm Chánh Quang thứ nhất thời Bắc Tống, vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hư 5 6- 528) ban chế triều phục, xá tội cho thiên hạ. Ngày hai mươi ba tháng bảy, thỉnh mời các Tăng Ni Đạo só nữ quan đến trước điện, thiết trai cúng dường. Sau khi trai hội xong, vua sai Thị Trung Lưu Đằng tuyên cáo sắc ban mời các Pháp sư v.v… cùng Đạo só luận nghị để cởi mở lưới nghi cho đệ tử. Bấy giờ, Đạo só Khương Bân ở Thanh thông quán cùng Pháp sư Đàm Mô ở chùa Dung Giác đối luận với nhau. Vua Hiếu Minh Đế hỏi: “Phật và Lão Tử có đồng thời chăng?” Khương Bân đáp: “ Lão Tử đến Tây Vức hóa người Hồ, khi ấy Phật được sung làm thị giả, nên rõ ràng là đồng thời vậy”. Pháp sư Đàm Mô hỏi: “Lấy gì để biết được?” Khương Bân đáp: “Căn cứ Lão Tử khai thiên kinh, lấy đó mà được biết”. Pháp sư Đàm Mô hỏi: “Lão Tử sinh năm nào, ở đời vua nào trong thời nhà Chu? Và đến năm nào, ở đời vua nào thì vào Tây Vức Hóa Hồ?” Khương Bân đáp: “Ngay đời vua Định Vương (Cơ Du 6 0 6-585 trước Tây Lịch) năm thứ ba, thời Đông Chu, tức năm Ất Mão, Lão Tử ra đời lúc giờ tý đêm mười bốn tháng chín tại Lý Khúc Nhân làng Lệ huyện Khổ quận Trần nước Sở. Đến đời vua Giản Vương (Cơ Dị 5 8 5-571 trước Tây Lịch) năm thứ tư thời Đông Chu, tức năm Đinh Sửu, phụng sự nhà Chu, làm Thư tạng lại. Đến năm thứ mười ba đời vua Giản Vương thì chuyển đổi làm Thái sử. Đến đời vua Kính Vương (có cải 5 1 9-476 trước Tây Lịch) năm thứ nhất thời Đông Chu, ngày mười lăm tháng tám năm Canh thìn, thấy nhà Chu đạo đức giảm suy, Lão Tử bèn cùng Tán quan lệnh Y Hỷ theo hướng Tây vào Hóa Hồ. Như thế đủ rõ vậy”. Pháp sư Đàm Mô bắt ngay đó, bảo: “Phật đản sinh ngày mồng tám tháng tư năm thứ hai mươi tư của đời vua Chiêu Vương (Cơ Hạ 1 0 0 0-976 trước Tây lịch) thời Tây Chu, Phật diệt độ ngày Rằm tháng hai năm thứ năm mươi hai của đời vua Mục Vương (có mãn 9 7 6-921 trước Tây Lịch) thời Tây Chu. Tính từ khi Đức Phật nhập Niết-bàn đến năm thứ ba của đời vua Định Vương thời Đông Chu là trải qua ba trăm bốn mươi lăm năm, Lão Tử mới ra đời, tức Phật sinh đã tám mươi lăm năm. Đến năm thứ nhất của đời vua Kính Vương thời Đông Chu, là đã trải qua bốn trăm hai mươi lăm năm, Lão Tử mới cùng Y Hỷ trốn đến Tây Vức. Đó thì năm tháng khác nhau, điều nói chẳng đồng, há chẳng sai nhầm ư?”. Khương Bân hỏi: “Nếu nói Phật ra đời ở thời vua Chiêu Vương, thì lấy từ văn ký nào?”. Pháp sư Đàm Mô đáp: “Lấy từ Chu Thư Dị Ký và Hán Pháp bản nội truyện, đều có văn từ rõ ràng”. Khương Bân nói: “Lão Tử đã là chế pháp Thánh nhân. Ngay thời của Phật đã không văn ký”. Pháp sư Đàm Mô bảo: “Sự nhận biết của nhân giả đồng như chỗ thấy qua lỗ nhỏ, lén nhìn chẳng xa rộng. Căn cứ Lão Tử có ba bị mười kinh, nghóa là thiên, địa, nhân (trời, đất và người). Văn ngôn của Phật xuất phát từ trung bị. Nhân giả khéo tự mở xem, đủ được rõ hiểu”. Khương Bân nói:”Lão Tử là Thánh nhân, không nói mà biết, nào mượn bói đoán ư?”. Pháp sư Đàm Mô đáp: “Chỉ có Phật là vua của các Thánh, đứng đầu của bốn loài, thấu đạt ngằn mé trước sau của tất cả chúng sinh, tốt xấu đuôi đầu, chẳng mượn bói xem. Ngoài ra, các Thánh nhân khác tuy hiểu nhưng lý chưa như vậy, hẳn mượn nhờ rùa già để thông quẻ linh vậy”. Vua Hiếu Minh Đế liền sai Thị trung thượng thư Lệnh Nguyên lại tuyên sắc cáo nói cùng các Đạo só là: “Khương Bân luận nghị không tông chỉ”. Và hỏi Khương Bân rằng: “Khai thiên kinh có được từ xứ nào? Và do ai nói ra?”. Đồng thời liền sai Trung thư thị lang Ngụy Thâu, thượng thư Lang Tổ Oánh v.v… đến Đạo Quán lấy kinh. Và vua sai bảo các quan nhân bàn nghị đó. Khi ấy, Thái úy Đan Dương Vương Tiêu Tông, Thái phó Lý Thật, Vệ úy khanh Hứa Bá Đào, Lại bộ thượng thư Hình Loan, Tán kî thường thị Ôn Tử Thăng v.v… cả thảy một trăm bảy mươi người đọc xong, tấu rằng: “Lão Tử chỉ trước thuật năm ngàn văn từ, ngoài ra không còn nói gì khác. Với sự bàn nghị của các thần chúng tôi, thì Khương Bân tội đáng mê hoặc quần chúng”. Khi ấy, vua Hiếu Minh Đế hành phạt Khương Bân tội cực hình, may có Tam Tạng Pháp sư Bồ-đề Lưu Chi can gián xin tha tội chết, mới được thôi. Phối đồ mã ấp từ sau niên hiệu Hưng Quang ( 4 5 4- 455) thời Bắc Ngụy, từ trong Kinh Đô đến ngoài bốn phương, các chùa mới và cũ có cả thảy sáu ngàn bốn trăm bảy mươi tám ngôi. Tăng Ni có bảy vạn bảy ngàn hai trăm năm mươi tám vị, vì Ứng Sư Tào làm chùa Báo Đức. Xét từ đầu thời nhà Ngụy có được thiên hạ cho đến thiền luận Phật kinh lưu thông đại tập tại Trung Hoa có cả thảy bốn trăm mười lăm bộ, gồm một ngàn chín trăm mười chín quyển, lược tính Tăng Ni có hai trăm vạn vị, chùa viện có hơn ba vạn ngôi. Bấy giờ trong đời hưng thạnh thái bình, dân chúng an vui phong phú, Tăng Ni đông nhiều chẳng từng trái nghịch người. Kịp đến lúc Vónh Gia theo hướng Nam chuyển dời, mãi đến thời nhà Trần, có cả ba trăm năm, tượng giáo hưng phát lưu truyền đến phương Đông, chánh pháp rất mực thạnh hành, các bậc danh đức thường xuất hiện, lợi ích gấp bội lắm nhiều, rạng ngời Quân vương đương thời, không có hung đảng.  Thời Tiền Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm ở chùa Tế Pháp soạn. <卷>QUYỂN HẠ Phó Dịch nói: “Tăng ni từ sáu mươi tuổi trở xuống, chọn lựa khiến về làm dân thì binh lính hùng mạnh, dân chúng đông nhiều”. Phó Dịch nói: “Chùa nhiều, Tăng chúng đông, tổn phí rất lắm. Chỉ giữ lại chùa nhà, xin cấp cho người cô quạnh, kẻ nghèo khó già nua, người dân không vườn nhà. Nghóa só có ba vạn hộ, mỗi châu chỉ đặt một chùa nhà tranh tháp đất để an đặt kinh tượng. Sai hai Hồ Tăng truyền bày Hồ pháp”. Phó Dịch nói: “Người Hồ ở Tây Vức chán ghét bùn đất mà sống, bèn phụng sự ngói bùn, nay vẫn còn lông tanh hôi, mặt người mà tâm thú, đất kiêu nói người, lừa luy bốn sắc, giống ác tham nghịch. Phật sinh ở phương Tây chẳng phải chánh tộc tại Trung Hoa, bởi tà khí yêu mî nên vậy”. Phó Dịch nói: “Từ Bao Hy trở xuống cả thảy hai mươi chín đời, cha con vua tôi, lập trung hiếu, giữ đạo giữ đức, sinh trưởng tại Thần Châu, được chánh khí Hoa Hạ, mọi người đều thuần phác, vì đời không có Phật nên vậy”. Phó Dịch nói: “Đế vương không tôn thờ Phật thì bình trị lâu năm, có Phật thì chính sách hung ngược vận ngắn. Từ Bao Hy trở xuống, cả thảy hai mươi chín đời mà không Phật pháp, Quân vương minh triết, bề tôi trung nghóa, vận nước lâu dài”. Phó Dịch nói: “Từ khi chưa có Phật pháp trở về trước, nhân dân thuần hòa, ở đời không có hung nghịch”. Phó Dịch nói: “Phật đến đất Hán, thì có tổn hại, không ích lợi gì”. Phó Dịch nói: “Ở thời Triệu Kiến Võ (niên hiệu Kiến Võ 3 1 7-3 1- thời Đông Tấn?) có đạo nhân Trương Quang Phản. Ở thời Lương Võ (Võ Đế - Tiêu Diễn 5 0 2-550 thời Nam Lương?) có Tăng tên là Quang Phản, huống gì nay Tăng Ni có hai mươi vạn vị, sớm phải nên xét lọc phế bỏ”. Giải đáp về việc xét lọc phế bỏ tăng ni. Xin đáp: Phàm hình tích dễ xét, mà chân ngụy khó rõ. Nếu chẳng phải ở lâu thì chưa thể biết vậy. Xưa kia, Pháp sư Tuệ Viễn trả lời Thư Hoàn Sơ, nói rằng: “Chỗ Kinh giáo thuật phàm có ba khoa: một là Thiền sư vào nhỏ nhiệm. Hai là đọc tụng đượm vị di điểu, ba là tu tạo phước nghiệp”. Nhưng có người tu tạo phước nghiệp mà chẳng vẹn toàn giới cấm, vết tích chẳng phải A-luyện-nhã. Hoặc có người đọc tụng nhiều kinh văn, ngâm vịnh không ngưng nghỉ mà chẳng thể thỏa sướng nói nghóa lý. Hoặc có người tuổi tác lớn lao, tuy ba khoa không có thể ghi nhận mà thể tánh trinh chánh chẳng phạm đại tội. Lấy đó mà xét lường thì lấy hay bỏ khó biện rành vậy. Căn cứ kinh Công đức xuất gia nói: “Độ người xuất gia, công đức ưu thắng hơn xây dựng tháp báu cao đến trời Phạm Thiên”. Tại sao? Vì người có khả năng hoằng truyền đạo pháp tự lợi lợi người, nghiêm khiết chính mình lập thân, trú trì Tam bảo, làm bến bờ cho bảy đời tiên tổ, giúp ích nước nhà. Những người có tội, y như pháp buộc trị. Những người không lỗi quá, vì nước nhà mà hành đạo. Giải đáp về hủy phá chùa chiền để cấp cho dân, an trí tôn trượng nói nhà tranh cỏ. Xin đáp: Phật pháp lưu truyền đến đất Hán đã hơn năm trăm năm, chùa chiền Tăng Ni nhiều đời đến nay có, khám tháp điện trường đều do đời trước tạo dựng, phòng vũ hiên cửa đều bởi những người có tín tâm làm nên. Hoặc là song thân hiện còn hay đã quá vãng, và cả bảy đời đã qua, mong cầu quả báo ưu thắng trong tương lai, gieo trồng ruộng phước ở hiện tại, đều xuất phát từ tâm tốt kia chẳng phải do Phật tăng dạy tạo. Trong sách nói: “Công thành không phá hủy”. Cho nên Trịnh Tử Sản không phá hủy miếu Ba-di. Phu Tử cho đó là người có đức nhân. Huống gì Phật là ruộng tốt của ba đời, là cha mẹ của bốn loài chúng sinh. Chỉ khá nên cúng dường chứ không thể phá hủy trừ bỏ. Phật tuy đã thị tịch không còn ở đời, nhưng giao phó cho Nhân Vương. Cúi nghó, Bệ hạ tạo lại muôn dân, trùng hưng Phật đạo, tức là Đại Đàn-việt thí chủ của Đức Như Lai. Xin tuân theo mỹ phong của trong niên hiệu Vónh Bình ( 5 8- 76) ở đời vua Minh Đế (Lưu Trang) thời Hậu Hán, gần đây thì đồng như trong khoảng niên hiệu Khai Hoàng ( 5 8 1- 601) đời vua Văn Đế (Dương Kiên) thời nhà Tùy. Giải đáp về người Hồ ở Tây Vức, mặt người tâm thú, tham nghịch hung ác, Phật sinh ở Tây Vức, yêu mî tà khí. Xin đáp: Căn cứ theo sử Ký lịch Đế Vương Kiệm và niên kỷ của Đào Ẩn Cư v.v… nói: “Dòng họ Bao Hy thân rắn đầu người, dòng họ Đại Đình thân người đầu trâu, dòng họ Nữ Oa cũng thân rắn đầu người, Tần Trọng Diễn thân chim mặt người. Hạ Võ sinh từ Đông Di; Văn Vương sinh từ Tây phương. Giản Địch nuốt trứng chim yến mà sinh, Khế Bá Võ mổ lưng mẹ mà sinh, Y Duẫn gả thác từ không tang, Ngụy chúa dòng họ Nguyên cũng sinh từ Di Tịch. Nhưng thảy đều ứng trời rõ mạng ra chấn, động nhân thời vận, hoặc xoay mặt phương Nam tôn xưng riêng lẻ, hoặc là Quân vương đến với muôn nước nhà. Tuy có thể nơi sinh thì hẹp hòi xấu xí, dung mạo quê kệch, mà mỗi mỗi đều có uy vũ của trời, đều nghó nhớ được của Thánh. Lão Tử cũng gá từ Mục mẫu mà sinh. Từ hạ phàm sao được vì chỗ xuất sinh dong ngu hèn tiện mà không Thánh ấy ư? Khổng Tử nói: “Quân tử ở đây thì nơi đó làm gì có bỉ lậu”. Đáng tin thay lời nói ấy vậy! Lại nói thêm: “Có đạo thì tôn quý, đâu kén chọn ở cao thấp”. Nên biết, Thánh ứng vô phương tùy cơ mà thấy. Tìm xét tổ tông của Đức Phật Thích-ca vốn là con cháu của ngàn đời làm Chuyển luân vương, là Thái tử của vua thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi, mong điềm ấy đến, vật cảm hiện hình. Ra đời ở nơi trung tâm của ba ngàn thế giới. Nước lớn ở cõi Nam diêm-phù-đề, giảng trao giáo pháp thiết bày phương thức, chỉ lấy lợi ích chúng sinh làm gốc. Nếu nói sinh tại Khương Hồ, phát xuất ở Nhung Lỗ bèn là xấu ác, vậy thì Thái Hạo, Văn Mạng đều chẳng phải Thánh nhân; Lão Tử, Văn Vương chẳng đủ đáng bậc Sư kính. Căn cứ Địa Lý Vhí và Tây Vức truyện nói: “Tây Hồ chỉ là từ thông lãnh trở về phía Đông có ba mươi sáu nước, chẳng liên quan đến đất Phật sinh ở Thiên Trúc”. Nếu biết mà có vọng nói thì có tội gì sâu nặng bằng. Còn nếu không biết mà nói hoảng thì khi chết sẽ mắc ương trái dư thừa. Giải đáp về Từ Bao Hy trở xuống hai mươi chín đời. Cha con vua tôi lập trung lập hiếu, giữ đạo giữ đức, bẩm nhận chánh khí Hoa Hạ. Xin đáp: Sử ký, các sách Hoài Nam v.v… nói: “Ở thời Hoàng Đế, Si Vưu đầu đồng trán sắt làm loạn thiên hạ, cùng Hoàng Đế đánh nhau tại Phản tuyền để lên ngôi vua. Si Vưu nghịch mạng lại đánh ở đồng trống Trác lộc trải qua năm mươi hai năm. Ở thời Chuyên Húc lại giết Tam Miêu ở Động đình. Lại nữa, Trưng Trúc Thư của Bành lễ cấp nói: “Thuấn bắt từ Nghiêu ở Bình dương, lấy đó mà lên ngôi vua”. Nay hiện có thành từ Nghiêu. Thuấn lại cùng Hữu Miêu đánh ở bãi Đan thủy. Nghiêu lên bắn chín mặt nhật rơi lông quạ ấy. Sở Tử nói: “Mười ngày thay ra dòng vàng đá vụn, trả lại gió ở Thanh khâu, ném rắn đó ở Động đình, giết bít lộn ở Đại trạch, giết cửu Anh ở Hung thủy”. Thượng thư nói: “Hồng thủy ngập trời, Hoài sơn tương lăng, dân chúng trở ngại đói khát, trăm họ tối tăm rách nát”. Ở thời nhà Võ, trăm họ mỗi tự giữ tâm mình, mà Bá Cốc Tử trở lui canh cày ở đồng quê. Tam Miêu chẳng tu đức chính. Võ đích thân đánh diệt đó. Quân vương của Hạ Kiệt, bên tả là Hà Tế, bên hữu là Thái Hoa, Cung Khuyết ấy tại phía Nam đó, ruột dê lưng ở phía Bắc, đốt Hoàng Đồ, giết Long Phùng, bắt tù Thành Thang, phóng túng Mạt Hỷ, tu chính bất nhân. Thang phóng diệt đó. Thang có chín lần chinh chiến trải suốt hai mươi bảy trận, đại hạn bảy năm, sông hồ khô cạn, vàng tiêu đá cháy. Cao Tông đánh quỷ mới ba năm. Ân Trụ thương xót mê hoặc Đác Kỷ, phóng túng hại của mười ác, buông tuồng tội hình năm ngược, phanh tim người hiền, mổ bụng phụ nữ mang thai, bắt tù Văn Vương, cấu Cơ Tử. Chu Võ Vương đánh Trụ ở Mục dã, máu chảy nổi chày vồ; giết đó ở Lộc đài. Vương Thân bắn trụ, thân treo đầu cờ Thái bạch, mà Di Tề chẳng phải đó, chẳng ăn thóc gạo ấy. Khổng Tử nói: “Võ rất mực đẹp vậy, nhưng chưa thật sự khéo hay”. Ở đời Võ Vương có ba lần giám sất làm loạn. Đến đời Thành Vương, Tam Thúc lưu lại tiếng Tuyên Vương sáu tháng ra chinh chiến. Thi nói: “Mênh mông đánh Hiểm Duẩn, phía Tây có hoạn còn Di, Thể Ba lại nói Tuyên Vương chinh chiến phương Nam”. Như vậy xin đáp rằng, điều nói trên đây đều là từ Tam Hoàng trở xuống đến thời Tam Vương, hẳn hay giữ đạo giữ đức nghó trung kính hiếu. Bấy giờ không có Phật, đủ có thể thanh bình, cớ sao đời đời dấy động binh đao không dứt, đến nỗi để lại độc hại trăm họ ương lụy đến những kẻ không tội? Mới là đời của Diêu Thạch Mộ Dung vónh gia đâu có thể gọi là thời thênh thang vô vi ư? Thấy mất một lời nói sao sai nhầm vậy! Giải đáp từ Tần Trọng trở xuống ba mươi lăm đời có hơn sáu trăm năm. Xin đáp rằng: Theo Sử ký nói, từ thời nhà Ân trở xuống, chư hầu không thể được mà niên phổ, phần nhiều vì mất thứ tự v.v… niên đại khó biết. Nên Thương thư chỉ lấy Giáp tý làm thứ tự mà không có năm tháng, do vì sử khuyết không ghi nhớ vậy. Tà kiến mới nói từ Tần Trọng trở xuống đến hai đời có hơn sáu trăm năm. Một thoáng qua đi tợ như lâu dài, nhưng lấy đâu làm minh chứng? Xét từ thời Xuân Thu, Tần tuy dần xưng bá nhưng chỉ là một ấp nhỏ của Chu. Ở đời Hiếu Vương, bảo Phi Tử phóng ngựa ở khoảng Thiên vị, chẳng vâng thừa thiên mạng chưa có ngày mồng một tháng giêng. Tằng tôn của Tần Trọng là Tuyên Vương mới nhận xe ngựa làm bề tôi thị ngự. Cháu của Trọng là Tương Công dùng tiển đưa Bình dương chuyển dời đến phương Đông tấn tước làm bá. Từ Văn Công trở xuống mới thấy sử ký, từ đó đã diệt mất chẳng quá hơn hai trăm năm. Sử Ký trúc thư và niên kỷ của Đào Công v.v… đều nói Tần không có lịch số, làm bồi thần của thời nhà Chu, nên ẩn cư xếp đặt tại dưới chư hầu, nhân gì đặt có một trăm lẻ một năm trọn ở hai đời. Giả sử như có niên đại đều phụ ở Xuân Thu, không có tự ghi riêng. Đến cuối đời Noãn Vương, thì Chiêu Tương Vương của Tần, nhân nhà Chu dần suy yếu mới đánh diệt nước Chu, tiến hiệu xưng vương. Các sử ghi lại thì nhà Tần chỉ được năm đời, cả thảy có bốn mươi chín năm. Theo sử mục của Bí thư Dương Bân thời nhà Tề nói, nhà Tần từ Thủy Phong đến lúc diệt mất có ba mươi lăm đời, cả thảy hơn sáu trăm năm. Bởi lấy Thủy Phong làm hiệu của Tần trải qua hơn sáu trăm năm, chẳng phải bá thống Trung Quốc trải qua nhiều năm vậy. Tà kiến mới kéo dài vận ngắn nhà Tần mạo phạm dài năm trên. Cớ sao hư vọng vậy? Giải đáp về Đế vương không tin Phật thì bình trị lâu dài, có Phật thì chính sách hung ngược, vận ngắn. Từ Bao Hy trở xuống cho đến Hán Cao, cả thảy hai mươi chín đời, Quân vương minh triết, bề tôi đều trung nghóa. Xin đáp rằng: Cớ sao Bao Hy riêng bình trị chẳng đến đời con cháu? Nghiêu Thuấn hai vua ở ngôi chỉ năm đời. Nghiêu thì giúp Thiện truyền Thánh, Thuấn thì đức nhân lớn Thánh minh. Như điển luận của Thượng thư thì cảm hóa nhân dân trị đạo ấy công nghiệp rất cao. Dân không thể gọi tên thì đó là minh quân của trời. Nghiêu lại phế diệt anh mà tự lập đứa con, tức Đan Chu lại là bất hiếu. Thuấn thì cha ngu mẹ dối, đều chỉ một thân mình chẳng thể kịp nối dõi. Bấy giờ không có Phật, sao chẳng đời đời tương truyền, sớm vội tuyệt mất? Theo niên kỷ của Ẩn Cư nói: Hạ Võ bình trị năm năm, Nghệ Toản mười lăm năm, Trác Toản mười hai năm, Hạ Cao mười một năm, Hạ Quý năm mươi hai năm. Lại xin đáp rằng, sách nói: Thuấn Võ có được thiên hạ, cao vợi thay ấy có được thành công, sáng rỡ thay ấy có được văn chương! Đại Võ Mô nói rằng: Võ hay ở cung thấp hèn ăn rau phỉ, quấn mặc khăn đen đai mũ mà dốc sức tạo ngòi rảnh, vì dân mà cấp nước, đối với dân rất có công. Nếu Hoàng Thiên phụ đức cớ sau vận trời chẳng lâu dài, trị vì chỉ chín năm? Khám niên kỷ nói: Hạ hậu tướng và đời của Thiếu Khương, bề tôi ấy có cùng Nghệ, Toản, Trác và Phong Di, Hoài Di, Hoàng Di, Châm Tầm v.v… các nước đều cùng lần lượt làm loạn. Cả thảy hai mươi sáu năm Toản Hạ tự lập, bấy giờ không có Phật, Toản phản nghịch do ai? Ân Thang trị vì (mười ba năm), Ngoại Đinh trị vì (ba năm), Trọng Nhâm trị vì (bốn năm), Thái Giáp trị vì (mười năm), Yêu Đinh trị vì (mười ba năm), Thái Mậu trị vì (mười năm), Ngoại Nhâm trị vì (ba năm), Yêu Giáp trị vì (bốn năm), Tổ Canh trị vì (bảy năm), Tổ Ất trị vì (mười năm). Lại xin đáp rằng: vua Thang Đức Nhân không giết hại, mở lưới ba mặt, phóng thả Hạ Kiệt ở Minh Điều, rất có nhân đức. Bấy giờ không có Phật cớ sao lịch trời chẳng dài? Ngoại Đinh, Ngoại Nhâm năm vận chuyển ngắn? Thượng Thư nói: Thang hành chín đời, Thái Giáp năm chinh chiến, Y Duẫn lập thang, thứ tử là Thắng lại lập. Em của Thắng là Trọng Nhâm lại phóng thả Thái Giáp tiến lướt xuất thân giết Y Duẫn mà dùng con ấy. Đã xưng là đời Trung Phác, bấy giờ không có Phật, cớ sao chồng chất nổi tiêu tường, vua tôi vô đạo? Chu Võ Vương trị vì (mười một năm), Ý Vương trị vì (ba năm tuyệt tự), Hy Vương trị vì (năm năm tuyệt tự), Khoảnh Vương trị vì (sáu năm), Nguyên Vương trị vì (tám năm), Điệu Vương trị vì (một trăm lẽ một ngày), Ai Vương trị vì (ba tháng), Tư Vương trị vì (năm tháng). Lại xin đáp rằng: Võ Vương đánh quân Trụ, vượt qua Mạnh Tân, cá trắng vào thuyền ứng mạng trời vui. Thụy Pháp nói: khắc định họa hoạn gọi là Võ, dân nhờ sống lại tựa cổng bít mộ, thôi trâu thả ngựa bình trị cuối cùng thái bình. Ông nói người Phật thì bình trị năm tháng lâu dài, cớ sao vận ngắn? Võ Vương trị vì chỉ được mười một năm, Ý Vương, Hy Vương lại là tuyệt tự không ai nối dõi? Giải đáp về trước khi Phật chưa đản sinh ở đời không có sám nghịch. Xin đáp rằng: Cớ sao em của Chu Liệt Vương là Hiển Vương soán vị bốn mươi tám năm? Điệu Vương ở ngôi chỉ được một trăm lẻ một ngày, bị con của em kế làm hại. Em của Kính Vương là Ai Vương trị vì chỉ được ba tháng, Tư Vương giết Ai Vương trị vì được năm tháng, em út là Khảo Vương lại giết Tư Vương. Cả ba vua cùng ở ngôi trị vì chỉ được một năm. Rút từ sử mục của Dương Bàn, Niên kỷ của Đào Công, thì nhà Tần có được năm đời sáu vua, cả thảy bốn mươi chín năm. Chiêu Vương trị vì năm năm (sau khi diệt nhà Chu mới xưng Vương, ở ngôi năm năm), Hiếu Văn Vương - Thức (một năm), Tương Vương - Sở (ba năm), Thủy Hoàng - Chính (ba mươi bảy năm), Hồ Lợi (ba năm), Sương Vương - Tử Anh (bốn mươi sáu ngày). Lại xin đáp rằng: Chu Hiển Vương năm năm, Tần Mục Công mới xưng bá ba mươi bốn năm, Tần cầm quyền Chu Chính, Tần là cướp vua, chẳng y cứ Đức Chính, thứ lớp chẳng ở hạn ngũ vận, phóng túa năm lâu dài trọn chẳng phải Đế vương, lấy ngắn làm dài, chỉ hư làm thật. Thời nhà Tần phía Bắc xây dựng trường thành hoàn bị, người Hồ Ngụy giết nâng đỡ sống nắn lập hai đời, Trần Thăng Nghị nhóm tụ làm loạn tại phía đông ải. Thời nhà Hán, Hung Nô vào ranh giới, đốt lửa chiếu sáng cung Cam tuyền, Nam Việt không khách mới tập thủy chiến. Thời nhà Hán vua Cao Tổ ở ngôi được mười hai năm, vua Huệ Đế bảy năm. Vua Huệ Đế là con thứ tư của Cao Tổ (chẳng phải dòng đích), vua Võ Đế vốn là con thứ sáu của Giao Đông Vương Cảnh Đế (chẳng phải dòng đích). Ở thời Hiếu Cảnh Đế, Ngộ, Việt, v.v… bảy nước đều phản, vua Chiêu Đế băng hà lập con của anh là Xương Ấp Vương lên ngôi được hai mươi bảy ngày mà có đủ một ngàn một trăm hai mươi bảy tội, Hoắc Xoang phế diệt đó, sau lập vua Tuyên Đế. Bấy giờ không có Phật, cớ sao lại như vậy? Thời Hậu Hán có được mười hai đời vua với thời gian một trăm chín mươi lăm năm. Vua Quang Võ (ba mươi ba năm), vua Hiếu Minh (mười tám năm), vua Chương Đế (mười ba năm), vua Hòa Đế (mười bảy năm), vua An Đế (mười bảy năm), vua Thuận Đế (mười chín năm), vua Hoàn Đế (hai mươi mốt năm), vua Linh Đế (ba mươi mốt năm), vua Kiến Đế (ba mươi năm). Ẩn Cư nói, từ năm Hoàng Sơ thứ nhất (2 2 0) thời Tiền Ngụy đến cuối đời Tiêu Tề, có cả thảy hai trăm rám mươi hai năm. Trong thời Nguyên Ngụy, dòng họ Thác Bạt có mười bảy đời vua với thời gian một trăm bảy mươi chín năm ( 3 8 6- 556). Lúc ấy có Phật giáo hoằng truyền đến, cớ sao lâu dài như vậy? Xin đáp rằng: Theo Hậu Hán thư nói: Quang Võ đánh loạn phản chánh, vua Minh Đế trị vì thăng bình. Dân không âu lo trăm dặm, quan lại không ra làm việc ngoài cửa. Kỳ Lân vào trong vương, chim phụng thần đậu cây ngô đồng, chim sẽ sắc đỏ, văn rùa, quạ biển, nai trắng, điềm vui mừng đến đủ, muôn dân thỏa thích, duỗi ban ân dầy đặc trơn nhẵn, trái đượm thấm đầy nối khắp trời. Mọi nơi thấm đượm mỹ hóa, muôn nước khâm trọng thuần phong. Các sách luận hành v.v… đều nói: Hậu Hán ứng hiện điềm lành chẳng hổ thẹn thời Chu Hạ. Ông nói: có Phật vận ngắn, cớ sao đây năm tháng lâu dài vậy? Phó Dịch nói: Người Hồ Tây Vức, binh lính nước Đan Mạt có ba trăm hai mươi người, binh lính nước Tiểu Uyển có ba trăm người, binh lính nước Nhung Lô có ba trăm người, binh lính nước Cự Lặc có ba trăm người, binh lính nước Y Nại có ba trăm năm mươi người, binh lính nước Cô Hồ có bốn mươi lăm người. Cả thảy binh lính Hồ của tám nước có một ngàn tám trăm chín mươi mốt người đều được tiếp nối vương ng- hiệp của họ và chiếm cứ thổ địa ấy, tự cùng chinh chiến đánh giết nước người. Huống hồ nay tại Đại Đường chúng ta, Tăng ni có cả hai mươi vạn chúng cùng kết pháp Hồ, đủ được tâm người, sao có thể chẳng dự bị đó ư? Xin đáp rằng: Xét Hán Thư và Tây Vức truyện nói: Các nước Đán Mạt, Tiểu Uyển v.v… cả tám nước đều thuộc từ Thông lãnh trở về phía Đông. Ranh giới nước Hán nước Hồ tính cách Trường an chẳng quá muôn dặm, vốn chẳng phải nơi chốn Thiên Trúc Phật sinh. Lại người có Tăng ni ở trong đó mưu phản, giả sử kia có tạo ác thì đâu có liên quan gì chư tăng ở đây? Chỉ bởi Phó Dịch quỷ cuồng nhập tâm, ngoài dấy tà thuyết, dối dẫn việc xưa, mượn để phỉ báng bậc hiền ngày nay. Người thấu đạt biết đó là nơi hoảng, kẻ ngu hẳn sinh dị kiến, dối hoặc gây loạn triều đình đến thôn dã, thật đau xót thay! Giải đáp về Phật pháp lưu truyền đến đất Hán, chỉ có tổn hại, không ích lợi gì, vào nhà phá nhà, vào nước phá nước. Ở đời vua Minh Đế (Lưu Trang 5 8- 76) thời Hậu Hán, Phật pháp mới lưu truyền đến, Đại Đường Thánh triều, chánh tín quân tử. Luận rằng: Chư Phật là Bậc Đại nhân cao só xuất tục, vân du nơi diệu uyển Niết-bàn, trú ở chân không Bát-nhã, không thể dùng ngôn từ hình tượng mà tìm cầu, không thể dùng tình ý suy tính lường đạt, hình tướng đồng với pháp tánh, thọ ma- ïng ngang bằng Thái Hư, chỉ ứng vật hiện thân, chư tăng trong nước. Do đó, Đại sư Cù Đàm hiện dung mạo ba thước, các A-la-hán trông thấy là hình dáng cao trượng sáu, lớn dày hư không, nhỏ vào tơ tóc, tùy duyên ứng hiện hình chất, biến hóa dung nghi thẳng thường. Tìm về mới đầu của Đức Phật Thích-ca, thì y cứ Hậu Hán giao ký, các sách của Tấn Ngụy, cho đến Sử lục của Vương Kiệm, Tam Bảo Lục của Phí Trường Phòng, kiểm xét các kinh Phổ Diệu Bản Hạnh v.v… đều nói: Đức Phật Thích-ca vào ngày mồng tám tháng tư năm Quý tî tức đời vua Trang Vương năm thứ chín là chủ thứ mười bốn thời nhà Chu. Dưới lầu các chiên đàn hiện hình bạch tượng từ cung trời Đâu Suất giáng xuống bào thai Thánh mẫu Ma-da phu nhân thứ nhất của Đại vương Tịnh Phạn, thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi ở thành Ca-tỳ-la nước Trung Thiên Trúc. Đến đêm mồng tám tháng tư năm Giáp ngọ, tức năm thứ mười của đời vua Trang Vương vừa lúc quỷ túc hợp thời, ở dưới cây Ba-la trong vườn Lâm-tỳ-ni, từ hông phía hữu của phu nhân Ma-da mà đản sinh, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn thế giới. Theo kinh Ứng Thụy nói: “Lúc sao Phất xuất hiện thì Thái tử sinh”. Kinh Bản Hạnh lại nói: “Giữa hư không chẳng có mây tự nhiên đổ mưa”. Tả truyện nói: “Sao rơi như mưa đổ”. Đổ thị chú giải là bởi vì lúc ấy không mây, nhưng cùng kinh Phật phù hợp. Các bậc thông Nho cho đó là lúc Phật đản sinh vậy. Năm mười chín tuổi xuất gia, năm ba mươi tuổi thành đạo, suốt bốn mươi chín năm ở đời giảng nói giáo Phật, làm lợi ích trời người, độ thoát các loài quần sinh. Đến cuối đêm Rằm tháng hai năm Nhâm tý, tức năm thứ mười bốn của đời vua Khuông Vương thời nhà Chu, ở tại thành Câu-thi, Đức Phật nhập Niết-bàn. Từ khi Đức Phật nhập Niết-bàn đến nay là năm Nhâm ngọ (6 2 2), tức năm Võ Đức thứ năm thời Đại Đường, tính ra là đã một ngàn hai trăm hai mươi mốt năm vậy. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn một trăm mười sáu năm, tại nước Đông Thiên Trúc có vua A- dục gom thâu xá lợi của Phật rồi sai sử quỷ binh ban trải xây dựng tám vạn bốn ngàn tháp báu khắp cõi Diêm-phù-đề, trong chín châu ở đất Hán chúng ta đều có tháp báu. Lúc xây dựng tháp báu tức năm Đinh mùi, tương đương với năm thứ hai mươi sáu của đời vua Kính Vương (Cơ Cái 5 1 9-476 trước Tây Lịch) thời Đông Chu. Qua sau mười hai đời vua, đến năm thứ ba mươi tư của đời Tần Thủy Hoàng (Doanh Chính 2 4 6-209 trước Tây lịch) thiêu hủy sách vở, các tháp của vua A-dục tạo dựng nhân đó mà ẩn mất, kinh truyện nhà Phật chẳng biết ở đâu. Như kinh lục của Sa-môn Thích Đạo An, Chu Só Hành v.v… nói: “Ở thời Thủy Hoàng, có Sa-môn Thích Lợi Phòng v.v… cả thảy mười tám hiền giả người ngoại quốc mang kinh Phật đến cảm hóa Thủy Hoàng, Thủy Hoàng chẳng nghe theo, bèn bắt giam cấm Sa-môn Thích Lợi Phòng v.v… Vào đêm tối có Thần Kim Cang cao lớn trượng sáu đến phá ngục dẫn đưa ra. Thủy Hoàng kinh sợ cúi đầu xin tạ tội vậy. Thử hỏi, tuy có thuyết ấy nhưng niên kỷ không biết, vậy lấy gì làm chứng? Xin trình bày giải quyết việc ấy vậy? Xin đáp: Theo truyện của Đô thủy sứ giả quang lục đại phu Lưu Hướng ở đời vua Thành Đế (Lưu Ngao 3 2-06 trước Tây Lịch) thời Tây Hán, nói: Lưu Hướng rộng xem sách sử, đọc các kinh sách, thường tự xưng rằng: “Tôi tìm khắp các điển sách, thường luôn thấy có kinh Phật”. Đến lúc trước thuật Liệt Tiên truyện, lại nói: “Tôi tìm kiểm tạng thư, xa tầm Thái sử mới đầu soạn thuật Liệt Tiên Đồ, từ thời Hoàng Đế trở xuống sáu đời mãi đến nay, chứng đắc Tiên Đạo có hơn bảy trăm người”. Lưu Hướng kiểm xét lại thử là hư hay thật thì đoán định được một trăm bốn mươi sáu người. Lại nói: “Trong đó có bảy mươi bốn người đã thấy kinh Phật vậy?” Suy luận Lưu Hướng nói Tạng thư tức là Tạng thư của nhân gian ở thời Thủy Hoàng vậy. Hoặc có thuyết nói là sách cất chứa trong nhà Phu Tử vậy. Căn cứ đó mà luận, há chẳng phải từ thời nhà Tần nhà Hán trở về trước sớm đã có Phật pháp lưu truyền đến Chấn Đán ư? Tìm xem Thích Đạo An biên ghi về bảy mươi hai hiền giả, cũng tại số bảy mươi hai, nay Liệt Tiên Truyện thấy có bảy mươi hai người vậy. Căn cứ theo kinh Văn-thù-sư-lợi Bát Niết-bàn nói: “Sau khi Đức Phật diệt độ bốn trăm năm mươi năm, Bồ-tát Văn-thù đến trong núi Tuyết vì năm trăm Tiên nhân giảng nói mười hai bộ loại kinh giáo xong thì trở về lại bản xứ mà nhập Niết-bàn”. Điềm ứng Hằng tinh tức thời ấy vậy. Kiểm địa lý chí Tây Vức truyện nói: Núi Tuyết tức là thông lãnh vậy, phía dưới đó có ba mươi sáu nước trước kia đến phụng cống nhà Hán. Vì tự Thông lãnh có nhiều tuyết nên gọi là núi Tuyết. Bồ-tát Văn-thù đến đó giáo hóa Tiên nhân tức là xứ ấy vậy. Rõ ràng mà nghiệm đó thì điều luận bàn của Lưu Hướng có thể làm chứng nghiệm ấy. Tuy gặp ở thời nhà Tần thiêu đốt phá trừ, đến thời nhà Hán phục hưng trở lại, do đó có những nơi như Kinh Dương, Ngô, Thục, Phù Phong, Lạc Dương, nơi có tháp báu đều phát điềm ứng thần dị có nói đủ trong các sách, chẳng phải tự ức đoán mà nói vậy. Nên biết, ở thời nhà Chu, Phật pháp lưu truyền đến đã lâu, sinh dưỡng con người vậy. Vậy mà nói có Phật thì thời vận ngắn ngủi, thì thật đáng thương thay! Y cứ theo kinh luật nói chánh pháp có cả vạn năm. Trong khoảng năm ngàn năm trở lại, bốn chúng tu học đắc Tam đạt trí, chướng Từ Thánh quả; đến thời Mạt pháp trở đi, còn có đắp mặc pháp ca-sa. Khám xét Chu Thư Dị Ký nói: Vua Mạc Vương nghe phương Tây có Phật, bèn cưỡi ngựa hoa lưu tám vó đi đến phương Tây tìm cầu Phật, nhân đó mà cầu đảo. Căn cứ đó mà suy luận, đồng như Pháp sư Thượng Thống ở thời nhà Tề trả lời với sứ Cao Ly rằng: Phật sinh năm Giáp dần, tức năm thứ hai mươi tư đời vua Chiêu Vương (Cơ hạ 1 0 0 0-976 trước Tây lịch), là Chúa thứ năm thời nhà Chu. Đến nay năm Võ Đức thứ năm (6 2 2) thời Tiền Đường, tức đã một ngàn năm trăm bảy mươi bảy năm. Tin chắc ở đời vua Mục Vương, giáo pháp đã lưu truyền đến phương Đông. Lời Lưu Hướng nói càng được rõ ràng hơn. Lại nữa, Hán Võ đến giám sát Hồ Côn Minh, có được than đen, bèn hỏi Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc đáp: “Điều đó chẳng phải chỗ biết của thần, có thể nên hỏi người Hồ ở Tây Vức”. Về sau Sa-môn Trúc Pháp Lan người ngoại quốc đến, nhân đem việc ấy hỏi, Sa-môn Trúc Pháp Lan đáp: “Đó là than thừa lại của kiếp thiêu vậy”. Đông Phương Sóc đã là bậc bác thức thông huyền, vừa mới sinh đã hiểu biết, tài tuấn khác lạ, không điều gì hỏi mà chẳng đối. Bởi là Đông Phương Sóc từ lâu đã biết Phật pháp hưng hành, Thánh nhân hẳn ứng giáng, nên mới đáp lời như thế vậy. Sau khi Đức Phật đã nhập Niết-bàn, Tôn giả A-nan là bậc Tổng trì một chữ không để sót mất. Tôn giả Đại Ca-diếp kết tập pháp tụng, ngàn vị La-hán đều ghi ở giấy da, đồng đề ở lá cây, đến nỗi khiến muôn dân trong năm trăm nước mỗi mỗi đều cùng phụng trì, mười sáu vị Đại vương đồng thời xây dựng tháp. Mãi đến thời nhà Hán lưu truyền đến phương Đông, ở hai Kinh đô trải qua mười sáu đời Đế vương, phiên dịch Phạm Bản của người Hồ thành ngôn ngữ chánh của nước Hán, tương tiếp thừa truyền đến nay đã qua sáu trăm năm vậy. Do đó, Phật nhật lại tỏa sáng, phát khởi từ đầu niên hiệu Vónh Bình ( 5 8- 76) thời Đông Hán. Kinh tượng được trùng hưng bắt đầu từ trong niên hiệu Khai Hoàng ( 5 8 1- 601) thời nhà Tùy. Chu Só Hành, Sa-môn Vệ Đạo An v.v… người thời nhà Ngụy đều làm ký lục, gồm tất cả các hàng đạo tục vừa Hoa vừa Nhung có một trăm tám mươi hai vị. Phiên dịch các thứ kinh luật giới luận, tam tạng Đại Tiểu thừa, tạp ký v.v…, có cả thảy hai ngàn một trăm bảy mươi mốt thứ, tổng cộng có tám ngàn bốn trăm bốn mươi sáu quyển. Không gì chẳng rưới Cam lồ nơi cảnh của tám ma, lưu tỏa tuệ nhật trong ba cõi. Dẫn dắt tương lai, mãi truyền thắng nghiệp, dạy người bỏ ác làm lành, Phật pháp là trước tiên, ích nước lợi người không ai có thể kịp. Nay ông nói Phật giáo phá nhà, vậy phá nhà ai? Phá nước thì phá nước nào? Tà kiến cứng chắc nơi ông, loài súc sinh không sừng, xưa trước kết tâm lang soái, từng ôm hoài trùng độc, không một mảy may hiền thiện, mang tội chồng chất tợ núi, nuôi lớn việc ác không chừa đổi mà càng dốc sức, mới lấy lo toan của sinh manh, thổn thức lường gạt Thánh Tôn, đâu khác gì Xích yến cười Đại bàn, ếch ngồi đáy giếng đâu biết bể cả mênh mông? Có thể gọi là Xiển đề nghịch gieo tội nhân địa ngục! Nay vì tổn thương mà xót xa đó, nên mới luận bàn vậy! Xa tìm về bảy mươi hai quân vương, Tam hoàng Ngũ đế, Khổng Khâu, Lý Lão là các bậc Thánh hiền của đất Hán, không ai chẳng vùi cốt nơi ba suối, vung thây ở chín cõi, chưa ai có được như xá lợi của Phật hiện điềm lành tỏa phóng ánh sáng, lửa đốt không cháy, dùi đánh không vỡ. Đến nay hiện còn lập thử, đó đáng rõ ràng vậy. Tạm y cứ một điều ấy đủ để biết sức thần đức của Phật pháp. Các bậc Thánh ở Chấn đán ai cùng đồng vậy, mới muốn phá hủy diệt trừ đó? Sự việc khó thể dung thứ nhẫn nhịn. Tổn thương Di phong, bại hoại mỹ tục, hư khuyết ruộng phước, cuồng hoặc dân chúng, vấy dơ triều đình, thật đáng than vậy! Sa-môn An Thế Cao phiên dịch (176 bộ), Sa-môn Cưu-ma-la-thập phiên dịch ( 9- bộ), Sa-môn Vệ Đạo An phiên dịch (mười bốn bộ), Sa- môn Nghiệp Phật Điều phiên dịch (bảy bộ), Sa-môn Bảo Xương phiên dịch (Chúng kinh mục lục bốn quyển, phiên dịch một ngàn bốn trăm ba mươi ba bộ), Chi Khiêm người thời nhà Ngô phiên dịch (một trăm hai mươi chín bộ), Nhiếp Thừa Viễn người thời nhà Tấn phiên dịch (ba bộ), Nhiếp Đạo Chân người thời nhà Tấn phiên dịch (năm mươi bốn bộ), Tạ Linh Vận người thời nhà Tống phiên dịch (kinh Niết-bàn ba mươi sáu quyển), Trở Cừ Kinh Thanh người ở Dương Hầu; Lương An phiên dịch (ba mươi lăm bộ), Kỳ Thành quận thú Dương Diễn người thời Nguyên Ngụy phiên dịch (một bộ), Lý Khuyếch người thời Nguyên Ngụy soạn (Chúng kinh mục lục bốn trăm bảy chục bộ), Vạn Thiên Ý người thời nhà Ngụy phiên dịch (một bộ), Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Tiêu Tử Lương phiên dịch (mười bảy bộ), Thường thị Sưu Hiệt người thời nhà Tề phiên dịch (một bộ), Mộc Đạo Hiền người thời nhà Lương phiên dịch (một bộ), vua Võ Đế (Tiêu Diễn 5 0 2- 550) thời Nam Lương chú giải (kinh Đại Phẩm năm mươi quyển); Viên Đàm Duẩn người thời nhà Lương soạn thuật (Luận sao một bộ), vua Giản Văn Đế (Tiêu Cương 5 5 0- 551) thời Nam Lương soạn thuật (Pháp Tập ký một bộ, hai trăm quyển), Lương Ký Thất Ngô Hiếu Kính Nội yếu (một bộ), Dương Xuyên quận thú Đàm Pháp Trí người thời nhà Tùy phiên dịch (một bộ). Đó là những vị từ xưa đến nay phiên dịch Kinh giáo. Lâm Xuyên Khương Vương Nghóa Khánh, người thời nhà Tống soạn thuật (Tuyên Nghiệm Ký một bộ, lại soạn U Minh Lục một bộ), Vương Diễm ở Thái Nguyên soạn thuật (Minh Tường Ký một bộ), Lang Da Vương Cân soạn thuật (Tăng Sử), Tề Cánh Lăng văn Tuyên Vương (soạn Tam bảo Ký truyện một bộ), Thứ Tác Bùi Tử Dã người thời nhà Tề soạn thuật (Cao Tăng truyện), Lưu Tuấn ở Hoài Nam soạn thuật (Ích Bộ tự ký), Trung thư lệnh Khích Cảnh Hưng thời nhà Tấn soạn thuật (Đông Sơn tăng truyện), Trung thư lệnh Lục Minh Hà soạn thuật (Sa- môn truyện), Trị trung Hình Hiếu Tú soạn thuật (Lô Sơn tăng truyện), Vương Diên Tú ở Thái Nguyên soạn thuật (Cảm Ứng truyện), Thù Quân Đài ở Ngô Hưng soạn thuật (Trưng Ứng truyện), Trung thư thị lang Can Bảo thời nhà Tấn soạn thuật (Sưu Thần Lục); Bành Trạch, Lệnh Đào Nguyên Lượng soạn thuật (Sưu Thần Lục), Đạo só Đào Ẩn Cư soạn thuật (Phát Bồ-đề tâm lễ Phật văn), Đạo só Lục Tu Tỉnh soạn thuật (Đối Sa-môn ký), Quang Lục Nhan Diên Chi soạn thuật (Đình Cật văn), Ẩn só Chu Ngung ở thời nhà Tề soạn thuật (Tam Tông Nhị đế luận), Nghi Đồng Chân Loan người thời nhà Tùy soạn thuật (Tam Bảo Lục). Trên đây là những bậc Quân tử bác thông, Vương Công Thức lượng từ xưa đến nay tôn kính Tam bảo soạn thuật Sa-môn Ký Truyện đó. Vậy xin đáp rằng: Những bậc tiên hiền ấy thảy đều phiên dịch kinh Phật, soạn thuật mục lục ký truyện, đều tầm học rốt cùng, cứu xét tinh tường nội ngoại giáo điển. Thật đáng là bậc lông mày trắng trong kẻ tăng người tục, đứng đầu trong các hàng anh tài, đều tuân kính Tam bảo, nghiên tầm đượm vị nhất thừa, xả bỏ tục lụy, xa lìa vinh hoa, khâm trọng tiếp thừa khuôn vết ưu thắng. Bằng đảng tà kiến một miệng không luận, một người không nói, rất quá khổ khắc, phá hủy phỉ báng ngôn ngữ kế độc tàn khốc, tự giữ ánh lửa đom đóm, muốn trải cánh ruồi muỗi, nào khác gì biết đầu cuối tháng của Triêu Khuẩn, mờ tối Xuân Thu của loài ve sấu, tin nó trông nhìn qua lỗ hổng mà khinh thường đại đạo. Quân tử thông bác kiểm xét nội ngoại điển tịch, làm sáng tỏ tội của người tà kiến sai lầm dối vọng. Nếu nói Phật pháp lưu truyền đến đất Hán không ích lợi cho đời, thì xin đáp rằng: Xét Khổng Tử sống ở đời vua Linh Vương (Cơ Tiết Tâm 5 7 1-544 trước Tây lịch) thời Đông Chu, mất trong đời vua Kính Vương (Cơ Cái 5 1 9- 476) trước Tây lịch) thời Đông Chu, tính ra sống được hơn bảy mươi năm. Đã là Thánh nhân hẳn hay hỗ giúp Vương chủ ở đương thời, cớ sao trong mười bốn năm rảo bước khắp bảy mươi nước? Đến đất Tống chặt cây, đến đất Vệ dứt dấu vết, ở Trần hết lương thực, trốn lánh giết hại của Hoàn Đồi, xấu hổ kêu gọi chôn chó? Tuy ứng sính chư hầu, nhưng chẳng ai dùng. Ngay đời Xuân Thu, đạo văn võ suy bại, vua mờ tối tối gian xảo, lễ nhạc băng hoại. Bấy giờ không có Phật, cớ sao nghịch loạn quá lắm thế? Cướp giết do ai? Khổng Tử là tùy mị thuận thời, rụt rè lánh hoạn nạn, tuy gìn giữ vợ con muốn sống thọ trăm năm cũng không lấy vậy. Hoặc phát lời nói của Sưa Bầu, hoặc qua sông mà từ chối đối với dòng họ Lý, thương chim phụng chẳng đến sông, chẳng ra đồ, kịp đến phía Tây săn được kỳ lân. Bèn rủ áo lau mặt, xưng đạo ta rốt cùng, tuy môn đồ có ba ngàn vị, san định kinh Thi, kinh Lễ, cũng chóng mất ở đời mà danh chẳng xưng vì sao tôi thấy ở đời sau vậy? Gặp giặc cướp làm nhục, bị kẻ trượng phu cười chê, so sánh đó mà luận đủ có thể biết vậy. Nếu cho là không ích lợi cho đời thì Khổng Tử, Lão Tử hai vị Thánh ấy cũng bệnh đó. Sao vụng về gỗ đá mà chẳng trình bày Đàn-hặc vậy? Giải đáp về chùa chiền nhiều Tăng chúng, yêu nghiệt ắt vấy tạo. Như ở thời Hậu Triệu có Sa-môn Trương Quang, Sa-môn Pháp Trường ở thời Hậu Yên, Sa-môn Đạo Mật ở Nam Kinh, Sa-môn Pháp Tú ở đời vua Hiếu Văn Đế thời nhà Ngụy, Sa-môn Tuệ Ngưỡng ở trong khoảng niên hiệu Thái Hòa v.v… đều là phản loạn. Xin đáp rằng: “Kiểm xét mười sáu nước thời Xuân Thu của Thôi Hồng đều không có sắc nhân ấy. Điều đó rút từ sử sách nào? Cẩu thả phát sinh vu khống, dối hoặc Quân vương, xin khám xét Quốc sử biết đó là vọng tấu. Xét ở Tiền Hán Thư và Hậu Hán Thư, tức là Côn dương, Thường sơn, Thanh nê, Lục lâm, Hắc sơn, Bạch mã, Hoàng cân, Xích my v.v… vài mươi đàn giặc, đều là người thế tục chẳng liên quan đến Thích tử, cớ sao chẳng luận? Hậu Hán Thư nói: Mẹ Đạo só Trương Lỗ người đất Bái có nhan sắc gồm cặp quỷ đạo, qua lại nhà của Lưu Yên. Về sau Lưu Yên làm Thứ sử Ích Châu, nhận Trương Lỗ làm Đốc nghóa Tư mã. Trương Lỗ cùng Biệt bộ Tư mã Trương Tu đem binh lính ép giết Hán Trung Thái thú, Tô Cố đoạn tuyệt, Gia Cốc giết Hán sứ giả. Trương Lỗ đã được Hán Trung, lại giết Trương Tu mà bình lắng chúng đó. Bấy giờ gá mượn lời thần nói Hoàng Cân sẽ làm chủ. Trương Lỗ cùng Trương Giác v.v… tương ứng tập hợp bộ chúng đều đội khăn vàng, mặc y phục của Đạo só có vài mươi vạn người, làm giặc hại Thiên hạ, tự chiếm cứ tại Hán Trung suốt ba mươi năm. Về sau bị Tào Công đánh phá, Hoàng y mới diệt. Bấy giờ không có một Sa-môn, riêng lắm nhiều Đạo só, điểm nào không luận? Nhưng thời nhà Hán nhà Ngụy, những bậc danh tăng đức hạnh lắm nhiều cớ sao chẳng nói? Chỉ hay vấy trung xấu ác, chuyên luận sở đoản của người. Đâu là quân tử ư? Nguy Tất nói: Trương Lỗ tự là Công Kỳ, ông nội là Trương Lăng đi khách đến đất Thục, học đạo trong núi Hộc Minh, tạo tác Đạo Thư để dối hoặc trăm họ. Người theo học đạo xuất năm hộc gạo, ở đời gọi là “giặc gạo” (mễ tặc). Trương Lăng chết, con là Trương Hành truyền nghiệp. Trương Hành chết Trương Lỗ lại hoằng truyền đó. Nên Trương Lăng là Thiên sư, Trương Hành là Tự Sư, Trương Lỗ là Hộ Sư, tự xưng gọi là Tam Sư vậy. Trương Lỗ vốn cùng Lưu Yên kết bạn lành, Lưu Yên chết con là Lưu Chương lên thay, vì Trương Lỗ không thuận nên giết mẹ và người nhà Trương Lỗ. Trương Lỗ bèn chiếm cứ tại Hán Trung, lấy quỷ đạo cảm hóa dân chúng, lấy Phù thư chương cầm làm gốc. Người đến học mới đầu gọi là quỷ tốt (lính quỷ), thọ học dùng vật vàng lụa, gọi là tế bửu. Mỗi người tự lãnh suất bộ chúng, bộ chúng đông nhiều, gọi là Thị Đầu. Người có bệnh mang đầu qua Đại đô cùng Trương Giác tương tợ. Hậu Hán Hoàng Phủ Tung truyện nói: Trương Giác ở Cư Lộc tự xưng là Đại hiền lang sư, phụng sự Hoàng Lão, thực hành thuật của Trương Lăng. Dùng chu thuyết phù thủy để trị bệnh, sai tám người đệ tử đến bốn phương để hoằng truyền giáo hóa, lần lượt cùng nhau dối hoặc hơn mười năm, đồ chúng có vài mươi vạn. Từ tám châu Thanh, Trừ, U, Ký, Hình, Dương, Duyện, Dự v.v… không đâu chẳng ứng. Bèn đặt ba mươi sáu phương; phương như hiệu của tướng quân. Phương lớn có hơn vạn người, phương nhỏ có sáu trăm người, dối nói: trời xanh chết, trời vàng sẽ lên ngôi, đến năm Giáp tý, thiên hạ đại cát. Dùng đất trắng viết vào cửa chùa khắp kinh ấp, đều đề chữ “Giáp tý”. Ngày mồng năm tháng ba năm Trung Bình thứ nhất (1 8 4) thời Hậu Hán, trong ngoài đều nổi dậy, đồng mặc đội khăn vàng áo Hạc vàng của Đạo só, hoặc giết người để tế trời. Bấy giờ giặc theo có vài mươi vạn chúng. Mới đầu nổi dậy từ Dónh Xuyên làm loạn, thiên hạ đều bị Hoàng Phủ Tung đánh giết. Nam Trịnh phản Hán mà Thục mất (sự việc nói trong Ngụy Thư), Tôn Ân tập tiên pháp mà bại Tấn (sự việc nói ở Tấn Thư), Đạo Dục Tiêu tế nhân mà họa Tống (sự việc nói ở Tống thư), Đinh Cát thực hành cấm mất mà nguy ách Ngô (sự việc nói ở Ngô thư), Công Kỳ học tiên mà giết người nhà (sự việc nói ở Tấn Dương thư), Ngụy Hoa phản chồng (sự việc nói ở Linh Bảo kinh tựa), Trương Lăng bỏ vợ (sự việc nói ở Lăng truyện), Tử Đăng phản cha, VệThúc bỏ anh (rút từ thần tiên truyện). Trên đây là những Đạo só từ xưa đến nay làm nghịch loạn. Như vậy, xin đáp rằng: Từ Trương Lăng ba đời chuyên thực hành quỷ đạo tiếu xuất phát từ Đạo gia, Cẩm yêm yêu nghiệt, vọng nói tốt xấu, gian dối do đó nổi dậy. Nhưng từ thời nhà Ngô nhà Ngụy trở xuống, thời nhà Tấn nhà Tống đến nay, đạo tục làm yêu tà số ấy chẳng ít, sao ông chỉ riêng nêu dẫn chúng tăng, mà chẳng luận đến Nho giáo và Đạo giáo? Đến như cuối niên hiệu Đại Nghiệp (6 1 7) thời nhà Tùy, Vương Thế Sung, Lý Mật, Hậu Kiến Đức, Lưu Võ Chu, Lương Sư Đô, Lô Minh Nguyệt, Lý Quỷ, Chu Sán, Đường Bật, Tiết Cử v. v… cũng là người thế tục, không có ai là dòng họ Thích ở trong đó. Cớ sao chẳng nói? Sự thiên lệch, lý quanh co, đồng đảng xấu ác ganh ghét người hiền, làm kẻ bề tôi bất trung, đã rõ ràng vậy. Phó dịch nói: Từ khai tịch trở lại, đến nay năm Tân tî (6 2 1) tức năm Võ Đức thứ tư thời Tiền Đường, đã có hai trăm bảy mươi sáu vạn một ngàn một trăm lẻ tám năm, cha con vua tôi lập trung lập hiếu. Xin đáp rằng: Ông nói dòng họ Bao Hy có ba mươi đời, trị vì hai vạn hai trăm chín mươi bảy năm. Từ thời Thiếu Hạo đến Hán Cao có ba ngàn hai trăm lẻ một năm; từ Bao Hy đến Hán Cao có hai mươi chín đời, tính thời gian đó không quá hai vạn ba ngàn bốn trăm chín mươi tám năm. Nhân gì nêu dẫn từ khi khai tịch mãi đến năm Võ Đức thứ tư (6 2 1) thời Tiền Đường đây mà chóng có hơn hai mươi bảy vạn sáu ngàn năm ư? Xét Đế Hệ Phả nói: Trời đất mới nổi, tướng trạng tợ gà con, Bàng Cổ sinh trong đó trải qua chín vạn năm, tiếp đến Tam Hoàng và dòng họ Toại Nhân trị vì hai vạn ba trăm chín mươi bảy năm. Mật thư của An Tề, Sử mục của Dương Bân nói: Năm thứ nhất của Phục Hy tức năm Giáp dần, đến năm Tân sửu (5 8 1) tức năm Khai Hoàng thứ nhất thời nhà Tùy, có sáu vạn một ngàn sáu trăm lẻ tám năm. Gồm tất cả mà nói đó, thì có thời gian mười bảy vạn một ngàn chín trăm lẻ năm năm. So sánh đó mà luận, rất là khác vậy. Xin khám xét niên kỷ chỉnh định ngắn dài ấy vậy. Theo sự biên ghi của Kiểm Chánh sử thì dòng họ Phục Hy mới họa vẽ bát quái, trình bày giáp tý, tạo thứ khế, mới có niên thế. Từ Bao Hy trở về trước vốn không ghi tịch, tiến lùi y cứ ở đâu? Phó Dịch nói: Xin mời tà giáo Hồ Phật trở về lại Tây Vức, phàm là Tăng ni thảy đều khiến hoàn tục. Xin đáp rằng: Trang Chu nói: “Thánh nhân trong lục hợp luận mà không bàn nghị. Thánh nhân ngoài lục hợp còn chẳng luận”. Lão Tử nói: “Trong Hoàn Vức có bốn đại mà đạo ở đầu tiên”. Xét về chính sách của Thi, Thư, Lễ, Nhạc, chỉ muốn thâu thứ lớp luân thường, rõ bày trung liệt hiếu từ đến trước ý ở tại kính. Phụng sự quân vương, thân phụ, tung xưng là chí đức, chỉ là an đời trị dân. Giả sử khiến đạo yếu, chẳng vượt ngoài dời thuần phong đổi mỹ tục. Từ Vệ phản Lỗ, đâu thuật ngôn từ giải thoát, sáu phủ, chín trù chưa tuyên yếu chỉ cứu cánh và đàm nói dưỡng sinh tế vật. Lý thuyết long đồ phụng kỷ, cũng có thể nghó nhớ đức nhân, ôm giữ đức tín, tuân theo chí ý của Lệ hương, san định kinh, tán thán tượng, bày văn khuyết lý. Tiếp đến là chín phái triết học, cuối cùng là bảy lược. Căn cứ điều biên ghi các sách của Nghệ văn ở thời Tiền Hán, có một vạn ba ngàn hai trăm sáu mươi chín quyển, không gì chẳng phải công ở lợi ích gần, chỉ chưa thỏa sướng đường xa, đều tự hạn cuộc ở trong một đời, chẳng phải phóng nổi trội ngoài ba đời ấy vậy. Bèn khiến đang hiện nhân quả lý giao thiệp sớm mà còn mờ tối, nghiệp báo tốt xấu, nghóa kinh hợp mà chưa hiểu. Nên biết, một bộ Tiêu Diêu còn mê tình hữu hữu, hai thiên Đạo Đức chưa vào cảnh không không. Đó là hoàn khối của lục hợp, tục mưu của ngũ thường, há khỏi bốn dòng lớn tan? Làm trường của phiền não, lục thú huyên hoa, tạo nghiệp trần lao, vốn là mờ mịt thật tướng, tuân theo đạo của yếu đạo, pháp thân ngưng tuyệt, ra huyền đó lại huyền. Chỉ có Đại sư của chúng ta thể chứng diệu giác ấy, hai bên chóng xua bỏ, muôn đức thảy viên dung, chẳng ồn náo không tỉnh lắng. Sao có thể dùng cảnh trí tìm cầu chẳng phải sai trái chẳng phải mê mờ, rõ ràng có thể dùng hình danh lấy làm nhỏ thì nhỏ mà không trong, ở lớn thì lớn mà không vậy. Không ngần mé nên hay lường pháp giới mà dấy tâm bi, đo hư không mà lập thệ nguyện. Do đó, hiện sinh ở cõi uế, đản Thánh tại cung vua, bày thân sắc màu vàng ròng, nhã tướng ngọc hào, trải mây lành ở non Thứu thì nhà lửa tắt, thổi gió tuệ ở đảnh kê thì đường tối mây tan. Đi thì sen vàng nâng gót, ngồi thì lọng báu che mình, ra thì Đế Thích dẫn trước, vào thì Phạm Vương theo sau. Tả giúp Mật thuật để diệt ác làm công, hữu đỡ Kim cang dùng lớn thiện làm chuyên. Thanh văn, Bồ-tát nghiễm nhiên như tôi hầu, tám bộ muôn linh liệng quanh hộ vệ. Diễn kinh Niết-bàn thì đất hiện sáu thứ chấn động, giảng Bát-nhã thì trời mưa bốn thứ hoa. Trăm phước trang nghiêm, tướng trạng như trăng tròn đến trên biển cả, ngàn ánh sáng tỏa chiếu tợ ánh ngời núi của vầng nhật. Rống một tiếng Sư tử thì ngoại đạo nhụt bén nhọn, trống pháp tạm gióng thì Thiên ma cúi đầu. Cho nên tôn xưng Phật là Pháp Vương. Đâu thể cùng như thời nhà Chu suy yếu Ca-diếp sánh đức tranh hành, đời mạt Nho đồng tạm cùng liên loại ấy vậy. Chính vì trên trời dưới trời riêng xưng tôn Điều Ngự, ba ngàn Đại thiên đều ngưỡng đượm từ bi, nhưng mà lý vượt sâu xa, mượn lưới nơm mà tỏ ngộ sâu, giáo môn thiện xảo, nhờ thấy bạn mới thông. Gồm tất cả giáo pháp ấy có đến tám vạn bốn ngàn tạng. Xét về đạo ấy thì có Nhị Đế, Thập địa được giảng ở Kỳ viên Lộc uyển; diệu chỉ ở Hải điện Long cung, chữ của Ngọc điệp Kim thư, lời của bảy xứ tám hội, không gì chẳng duỗi ban chí đạo đến trăm vua, quạt thổi gió huyền từ muôn xưa. Như ngữ thật ngữ không thể nghó bàn vậy. Gồm thì an nước lợi dân, xa thì vượt phàm chứng Thánh, nên hay hình biến khắp sáu đường, giáo khắp mười phương, thật là thế giới ruộng phước. Bởi vì đó là nơi quy hướng của muôn sinh, đến lúc đồng bạn kính tin tợ thất diệu xoay quanh Bắc đẩu. Đồ chúng thọ nhận cảm hóa tợ muôn sông chảy vào biển lớn. Xét về công nghiệp thần biến ấy, lợi ích trời người, nên không được mà xưng gọi tên vậy. Đã đầy đủ nhân của Hằng sa nên được quả thường lạc. Tốt lành thay! Chẳng thể lường vậy! Chỉ vì thời vận chưa dung thông, bèn khiến Hồ Hán khác cảm. Do đó ở phương Tây trước kính phụng âm thanh hình tướng, ở phương Đông tạm được lợi ích của thấy nghe. Kịp đến lúc mây từ cuộn đượm nhuần, Tuệ Nhật gom thâu ánh sáng mới có ứng mộng người vàng ở trong niên hiệu Vónh Bình ( 5 8- 76) thời Hậu Hán, trông thấy xá lợi ở trong niên hiệu Xích Ô ( 2 3 8- 251) thời Đông Ngô. Từ đó chính sách các thời nhà Hán nhà Ngụy nhà Tề nhà Lương, tượng giáo mạnh mẽ hưng thịnh. Các xứ Yên, Tần, Tấn, Tống danh Tăng xuất hiện. Hoặc đắp họa hình tướng mãn nguyệt ở bên cạnh Lương đài, hoặc dựng bày tướng luân ở ngoài Ung môn. Kịp đến lúc ở Hà bắc phiên dịch ngôn từ, ở Hán nam biên trước ghi lục, đạo phát khởi ba phủ, tin hợp đượm chín châu. Vượt Giang tả mà càng rộng, qua Kim lăng mà càng thạnh. Vị thủy đủ đầy vườn Tiêu dao, Lô Nhạc gồm cả Đài Bát-nhã. Văn từ sâu sắc yếu chỉ nhiệm mầu, phát vượt lai nghi. Cao Tăng thạc học bỏ liên lụy từ xa đến. Đến đời vua Võ Đế (Tiêu Diễn 5 0 2- 550) thời Nam lương, Tam giáo liên hành. Đến đầu đời vua Văn Đế ( 5 0 2- 605) thời nhà Tùy, Tam thừa đều giá, tuy ở Tử cực mà tình hợp Phần dương, lắng rượu thịt mà khơi động người ăn chim, xông ướp hương giới mà đượm vị pháp hỷ, sợ bốn lưu nạn nhổ thân, dùng tài năng bảy biện mà gìn giữ, mới khinh thường nghiêm sức áo mão mà ngự mặc nhiễm y, bỏ kiệu khắc chạm mà trải tòa cỏ. Từ đó rộng mở nghiệp của Tuệ Đài, lớn tạo xây nền móng tháp (Lương Ký nói: Đông Đài Tây phủ tiếp liền nhau hơn tám mươi năm, tại Đô ấp chùa lớn có hơn bảy trăm ngôi, chư tăng giảng chúng thường có cả vạn người, thảo luận nội điển cùng tuân theo Thánh ng- hiệp, lâu dài không mỏi mệt, mỗi mỗi đều nhàm chán vinh hoa thế tục vậy). Bèn khiến các hàng hào tộc ở khắp năm đô nhàm chán mũ mão mà chí thành, danh gia khắp bốn biển bỏ vinh hoa mà vào đạo. Từ nơi chốn của Hoàng vương ở, đến cảnh vức Thanh giáo đượm nhuần, không ai chẳng đảnh lễ xoay hướng đến, năm vóc gieo sát đất tựa nương. Sâu xa của lợi vật đến đã lâu vậy. Khổng Tử duỗi ban cảm hóa sao có thể sánh cùng? Căn cứ truyện ký của các bậc Cao tăng Danh tăng Mâu Tử v.v… của ba mươi sáu nước thời Xuân Thu, mới đầu từ năm Vónh Bình thứ mười (6 7) ở đời vua Minh Đế (Lưu Trang 5 8- 76) thời Hậu Hán trở lại, Phật pháp lưu truyền đến phương Đông, chính sách trải qua mười đời gần sáu trăm năm, mà các bậc Danh tăng đại đức chỗ người đời tôn kính có hai trăm năm mươi bảy vị. Bên cạnh đó lưu xuất gồm kề thấy đến Công vương ở Yên Triệu, khanh tướng ở Tề Lương v.v… có hai trăm năm mươi vị, gồm cả thảy có năm trăm lẻ tám vị. Trình bày về hạnh nghiệp của những vị ấy mở lớn thành mười khoa: Một là phiên dịch kinh điển, hai là giải nghóa, ba là thần dị, bốn là hành tập thiền pháp, năm là thông rành giới luật, sáu là thí xả thân mạng, bảy là tụng kinh, tám là tu đạo phước nghiệp, chín là kinh sư, mười là xướng đạo. Những bậc Cao tăng ấy v.v… đều là đức sánh bốn y, công đủ ba nghiệp. Giáo pháp hoằng truyền ở Chấn Đán thật nhờ đó vậy. Tà kiến ẩn mà chẳng luận, chỉ nói ba, năm điều xấu ác. Phàm trong núi Tuyết vốn có nhiều cam lồ mà cũng có cỏ độc, giữa biển lớn tuy có đủ châu báu mà cũng lắm nhiều quỷ La-sát, dụ như Côn sơn khuyết ở phiến thạch, sánh ở Trịnh Lâm tổn mất một cành vậy. Đâu có gì lấy làm quái lạ mà khiến phế trừ đó? Một là Sa-môn phiên dịch kinh điển (có năm mươi hai vị); Hai là Sa-môn giải nghóa (có chín mươi chín vị); Ba là Sa-môn thần dị (có hai mươi vị); Bốn là Sa-môn hành tập thiền pháp (có hai mươi ba vị); Năm là Sa-môn thông rành giới luật (có mười ba vị); Sáu là Sa-môn thí xả thân mạng (có mười một vị); Bảy là Sa-môn tụng kinh (có hai mươi hai vị); Tám là Sa-môn tu tạo phước nghiệp (có mười bốn vị); Chín là Sa-môn kinh sư (có mười một vị); Mười là Sa-môn xướng đạo (có mười vị). Với những vị Sa-môn ấy v.v… hoặc giẫm vượt lưu sa hiểm trở, hoặc nổi chìm giữa sóng cả, đều có thể mặc tình tánh mạng, quên mất thân mình vì đạo. Hoặc dùng sức thần cứu đời, hoặc dùng vết lạ để khơi phát lòng người, hoặc tuệ giải mở áo, hoặc thông cảm thích hóa. An thiền tỉnh lắng thì công đức như rừng, cấm giới thanh cao thì băng sương càng nghiêm khiết, tạo tu phước thiện thì thầm hộ vệ có thể mong cầu, phúng tụng kinh pháp thì u hiển đượm nhuần mừng vui. Từ đó Tam tạng bốn bộ A-hàm công dụng càng sâu rộng; Phương đẳng, Bát-nhã giữ tin lắm nhiều, chỉ bởi thần hóa gồm cả, không nơi xa nào không đến. Thông hà như chỉ khoảng nửa bước chân, Thanh quang có hạng của thấy nghe, há chẳng phải thời diệu vậy? Đến lúc duyên vận gần cảm, tượng giáo xa thông, hoặc xưng gọi đó là đại thần ở Tây Vức, hoặc tôn xưng đó là chủ của Diêm phù. Do đó, Tôn giả Ca-diếp Ma-đằng cặp sách mà ứng đến, Tôn giả Trúc Pháp Lan mến mộ đạo mà giáng đức. Pháp sư Cưu-ma- la-thập là bậc thạc học móc sâu, thần xét xa vời, đến lúc vân du khắp Trung Hoa Ấn Độ, học đủ các thứ phương ngôn. Đồ chúng thọ học có đến ba ngàn, người vào thất có tám vị tuấn kiệt. Đó là các Sa-môn Đạo Sinh, Đạo Dung, Đàm Ảnh, Tăng Duệ, Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, Đàm Hằng, Tăng Triệu, đều lãnh ngộ trước lời nói, ngôn từ thoảng tỏa mùi lan quế, nắm bút vâng thừa yếu chỉ, nhận được người ấy. Ở thời nhà Tấn, có Sa-môn Thích Đạo An vang danh ở đương thời, học trò là Phật Đồ Trừng, truyền nghiệp đến Sa-môn Tuệ Viễn, môn nhân ngày một đông nhiều, ở đời không thiếu hiền giả. Đủ khiến cho Tuần quận Tạ An suy tôn đó là Thần Tuấn, Tập Úc ở Tương dương khuất ngã trước Di thiên. Từ đời vua Huệ Đế (Tư Mã Trung 2 9 0- 307) thời Tây Tấn, bụi trần mờ mịt, tiếp đến đời vua Hoài Đế (Tư Mã Sí 3 0 7- 313), vua Mẫn Đế (Tư Mã Nghiệp 3 1 3- 317) thời Tây Tấn, đổi Bá Yết Hồ, trúng độc giặc cướp lan tràn khắp trung châu. Lưu Diệu cướp nghịch ở trước, Tha- ïch Lặc tiếm hung ở sau, Hoa Hạ phân chia nát đổ, nhân dân thán oán. Thánh sư Phật Đồ Trừng xót thương giết hại ấy, mới đầu lo lắng hại đến chưa ương, bèn thiết bày thần hóa ở Cát phá, hiện chỉ Huyền ký ở Tương nghiệp, mượn bí chú để cứu giúp mạng tận, phỏng hương khỉ mà đỡ vớt lâm nguy, xem linh ánh tay, an định tốt xấu, cuối cùng khiến Thạch Lặc Thạch Hổ phát tâm, muôn dân thoát khỏi hại (trong truyện Phật Đồ Trừng nói: Phật Đồ Trừng ở tại đất Hán hai mươi lăm năm, các huyện nơi trải qua đều xây dựng chùa Phật có tám trăm chín mươi ba ngôi, sống thọ một trăm mười bảy tuổi mới thị tịch. Bấy giờ dòng họ Thạch hung bạo mạnh dữ ngược hại vô đạo, nếu chẳng đồng thời với Phật Đồ Trừng thì ai có thể nói ư? Trăm họ nguy ách chết mất mà được còn tánh mạng, thật không thể xưng ghi). Kịp đến lúc để chân trần lên mũi nhọn chẳng tổn thương. Di pháp vì đó lại bắt đầu lên chí phân thân nơi vườn nhà. Các Đế vương vì đó càng thêm kính tin, đầy đủ ở các sử sách có thể rõ ràng vậy. Không gì chẳng công trùm tương lai, truyền đăng trọn kiếp! Người bàn nghị xin nói thêm là: Chư tăng tiếp nối làm lớn ma- ïnh dòng Thánh, Phật thì thầm hỗ giúp nước nhà, phước chở che cơ đồ Hoàng nghiệp, hẳn không lý lùi phế ấy vậy. Ứng lúc Đại Đường chúng ta có được thiên hạ, đáng hợp với hai mươi tám vị sao, an vận cửu ngũ. Đức giúp nguy cứu đời vượt hẳn vua Thang Võ mà riêng cao, công dẹp hung đánh loạn, vượt hẳn thời Hán Ngụy mà riêng bày. Mênh mông thay! Cao vợi thay! Khó thể tán thán hết vậy. Thêm vì lưu tình đối với Phật pháp, giáng ý nơi Huyền môn, tạo tượng kiết kinh độ tăng lập chùa, các thứ công đức, Đàn-việt mọi nơi. Lợi ích Hoa Nhung, dẫn dắt dân chúng, mới muốn dấy khởi chính sách của Thượng hoàng, mở mang đạo Chánh giác. Xem thường Ngũ đế đông, từ trước đến đây chỗ thuật lời uế của tà kiến, đều là chỗ chẳng dung của đất trời, chỗ nhân luận đều bỏ. Sợ mảy trần phiền nhọc Thánh xét, chẳng đáng đủ khả quan. Cúi nghó, chỉ Bệ hạ trải ân ngậm lớn, rũ huệ dưỡng nuôi, xin xét sự nghịch thuận ấy, bàn nghị lấy thật hư! Kinh Niết-bàn nói: “Sau khi Phật diệt độ, giáo pháp hẳn giao phó cho Quốc vương”. Bệ hạ giờ đã lâm chánh, đúng hợp lời phó chúc. Cúi mong dứt tuyệt tà thuyết ấy, khiến tượng giáo hưng thạnh lưu hành, quân tử thông bác cao nhã, đạo nhân chánh kiến nghe đó, mới cùng giữ chẹt cổ tay, đè ép nắm tay liết hàng mà làm luận như vậy! Mạnh Tử có nói: “Tôi đâu ưa thích biện bày ư? Tôi chỉ chẳng đặng đừng vậy”. Phàm, hư vọng hiển bày nơi chân, thật lục loạn nơi ngụy. Người đời không tỏ rõ phải quấy, chẳng phân định đỏ tía, xen tạp sỏi ngọc, lẫn lộn thóc trấu, lấy tình mà nói đó, đây phải chỗ tâm tôi hay nhẫn vậy! Khổng Tử lại nói: “Thi nhân bệnh đó chẳng thể điểm, binh lính bệnh đó chẳng thể phục”. Lấy đó mà luận, phàm, ngọc lẫn lộn nơi đá, người không thể biện biệt. Phải trở lại làm quấy, hư chuyển nên làm thật, sao có thể chẳng nói ư? Xét khảo, Vương giả giáng linh, hoặc sao đổ xuyên trăng, hoặc trướng cầu vồng nhiễu chớp, hoặc Xích Tước ngậm thư, hoặc Tố Linh khóc đêm, đeo hơi khí của rồng mây, ngậm ảnh tượng kỳ lạ, đều có mạng trời, chẳng phải do người vậy. Hoặc có người hỏi: Cớ sao Chu thông lịch ấy, Tần chẳng kịp kỳ? Xin đáp rằng: Phàm, minh lý khó biết, tình người dễ lầm hoặc. Kiểm xét chỗ kết quy ấy, lược rõ ràng đó vậy. Cớ sao? Xưa kia, Tống Cảnh tu đức giữ tâm bèn thối lùi, Đinh Lan dốc hiếu, Mộc Mẫu buông nhan, chỉ khiến tinh chuyên vui mừng tốt lành có thể thấu đạt, hẳn có thể nghiêm khiết ở chính mình thì tai họa tự mất. Đáng tin thay lời nói ấy vậy! Quán sát ở thời Văn, Võ, Thành, Khương trị đạo hưng thạnh thanh bình, bởi vốn tích thiện gieo phước cho đời sau, do đó thông lịch vậy. Còn Tần Thủy Hoàng lúc ở ngôi đốt sách chôn học trò, ác độc thiên hạ, đợi đến hai đời, đánh giết càng rất lắm, muôn dân lạnh lòng, tay chân không chỉ chỏ trên trời giáng họa, nên chẳng kịp kỳ vậy. Địch nói: “Nhà tạo điều bất thiện, ương họa hẳn có thừa”, tức là nghóa ấy vậy. Nên biết, Lý hưng thịnh hay hủy diệt chẳng liên quan tài năng sức lực, mà đều bẩm từ nhân trước, vả lại do hành nghiệp, tin đó làm minh chứng vậy. Gần đây, như vua Võ Đế (Võ Văn Ung 5 6 1- 579) thời Bắc Chu, nhận biết sai nhầm phá chùa dẹp Tăng. Qua thời gian không bao lâu, sau nối dõi bèn diệt mất. Trộm thấy: Vua Văn Đế (Dương Kiên 5 8 1- 605) thời nhà Tùy lúc vừa mới sinh liền có Thần Ni vỗ về nuôi dưỡng. Về sau, Thiền sư Vi Thật xét xem nói là sẽ làm Bá vương. Đến lúc lên ngôi, rộng phát huy Phật giáo, độ Tăng Ni xuất gia, bốn bộ đông đúc, tam học lắm nhiều, an tâm hành đạo để báo ân nước nhà, lên tức tạm dứt chiến tranh, mỗi ngày dần đến sung túc an lạc, tốt lành linh ứng, sử chẳng tuyệt ghi. Bốn biển không sóng, lục hợp đồng vui mừng, sau phong Thiền đại nhạc, đời thấu đạt thái bình. Đến đời vua Dương Đế (Dương Quảng 6 0 5- 617) thời nhà Tùy, dẹp phá chùa tháp, xua đuổi Tăng Ni, tạo tác xa hoa, vạn điều quá độ. Trời rũ hải ngoại, tự thân chinh hành họa lây kẻ vô tội, ương bộc thân thế, việc trước mắt ấy có thể ứng nghiệm sao phải đợi tương lai? Luận Hành nói: Tục Nho khéo sở trường xưa mà sở đoản nay. Lời tốt lành thì đượm thấm trước mà mỏng dạt sau, chẳng phải dối đẹp xưa trước mà thật luận trách nay. Tin ngụy từ lâu xa, chợt việc thật ở gần nay, chẳng biết chỉ cốt yếu của ngựa, mà vua tranh đàm nói của Nho Mặc, bệnh cao mạnh nên khó trị vậy. Lớn lao thay! Giáo pháp dòng họ Thích bao trùm ba đời xuyên suốt bốn dòng, mới liệt bày Thái hư của muôn tượng, thí như tám sông xuôi đổ về biển lớn. Đến như rộng tìm tử sử đọc xem kinh cáo. Điển pháp của sáu tông bảy miếu, nghi thức của năm nhạc bốn vọng, văn từ của khuông son bảng vàng, ghi ký của danh sơn thạch thất, vở sách của Ngọc kiểm chi nê, thư khế của vân đài lâu các. Từ phân chia đục trong trở lại, sau điểu mô trùng tích, rộng thoáng rực rỡ đất tư lật, trước Thiên hoàng nhân đế, chỗ chỉ huy của Đẩu tiêu, nơi tỏa chiếu của vầng nhật, kiệu đắt xoay rộng, góc trời xa dài. Bổ giúp ngao linh của chiết trụ, khác lạ của khắc núi rạch biển, đạo của lập công lập đức, ngôn từ của một âm một dương, chỗ nền tảng của lúa nếp dược thạch, chỗ mới đầu của áo xiêm cung thất, điển pháp của Tham Huyền kỷ hoàng, chế định của năm lễ sáu nhạc, phép tắc của khuyên bái hoa nhượng, oai phong của vua Thang chinh chiến, vua Võ đánh dẹp. Ông của dây vàng mưa lẽ, giả của khóc lân thương phụng, không gì chẳng là sự trong hoàn cực, Lý giữa vức cùng ấy vậy. Đâu biết cõi trên trình bày hoạn của nhị tử (hai thứ chết), phương dưới bao gồm buồn lo của ba đường. Biển khổ nỗi chìm, sông ái dài xa. Do đó, đấng Đại từ xuất hiện nơi đời dẫn dắt các loài quần sinh ấy, mở cửa ải tám chánh đạo, chỉ bày đường lối năm thừa, tuyến yếu chỉ y phục nhẫn nhục châu báu giới luật, mở khuôn phép Ưu-ba-mộc-xoa. Bèn khiến thể thí cho chim bay, thân xả cho thú chạy. Khắp nước thành đô mới cởi giày đó, kiều nga mạn kiểm tợ bỏ mảy trần. Chánh muốn bỏ bốn rằn này dứt tám khổ ấy, trọn dứt sinh lão bịnh tử, không trở lại oán gặp thương xa, một bãi nhận thọ hình xa dài từ khí độc. Huống gì điện báu ngàn hoa, gần gọi cung trời, lầu quý sáu hợp; xa xưng nước tịnh, cây ngọc tám hàng. Lầu vàng bốn trụ, thức ăn ngon lành trăm vị, y phục nhẹ ba thù, rực rỡ nhẹ nâng không phiền gió liệt tử, êm hòa cười ca nào nhân thổi của tiêu sử. Nên biết, buộc kiệu xe ngọc hổ ngời sáng nơi Tử phủ, Huyền sương giáng tuyết thẹn hình thể ở Ngọc kinh Phàm, Thích-ca, Trung Hoa phiên dịch nghóa là Năng Nhân, tức là đức đầy đạo đủ kham cứu giúp muôn vật. Nhưng pháp thân có hai nghóa: Một là chân thật, hai là quyền ứng. Chân thân nghóa là thể của chí cực, diệu tuyệt buộc lụy, không được lấy phương xứ mà mong cầu, không thể dùng hình lượng mà hạn định, có cảm thì ứng, thể thường trạm nhiên. Ứng thân là nhiều kiếp tu hành nhân, muôn đời mong cầu quả, lần cùng sáu đường, đồng chung muôn loại, sinh diệt tùy theo thời, ngắn dài vì vật, hình do cảm sinh, thể chẳng thật có. Hình phương tiện tuy tàn tạ nhưng pháp thể chẳng đổi thay. Chỉ vì thời không diệu cảm nên chẳng được thường thấy. Ở đời nói rằng: Người nước Lỗ còn chẳng quý nhà Khâu ở phương Đông, tà kiến đâu tin có Phật ở phương Tây? Rễ sâu khó nhổ, thật đáng buồn thương thay! Hoặc có người hỏi: Há lại như vậy ư? Xin thí dụ ý chỉ đó! Kẻ luận bàn tôi đây xin đáp: Ông chẳng nghe ư? Phàm, người mù, không thể đem văn chương để cho xem. Kẻ điếc, không thể dùng âm thanh chuông trống để cho nghe. Bởi biết sóng cả mười ác dễ rối động nguồn tâm, cánh nhánh muôn thiện khó suy tìm câu ý. Bởi vì phàm phu điên đảo, khát ái thiêu đốt, vọng tưởng men duyên, thân tâm phóng túng, khởi dậy sóng ngũ dục, trôi dạt sống nhị tử, thường ở bờ đen tối, dưới đáy sóng vô minh, đêm dài mê ngủ ở trong nhà mộng, chẳng tỉnh giấc say xoay về ban ngày, đâu biết sắc màu của mê loạn? Mờ tối trọn kiếp, làm kẻ trộm sống, mới lại đuổi theo thầy tà, thân gần bạc ác, voi điên gầm hét, phóng túng tâm khỉ. Khởi dậy sáu mươi hai thứ tà kiến như núi; nổi trôi chín mươi tám thứ kiết sử như biển, say đắm hành xí, mến mộ vẽ bình, quạt gió tám ma, thổi lửa ba độc, phóng giặc sáu nhập, trộm thành năm ấm, chẳng lo nguy ách của hai chuột, thường dấy cuồng nôï của bốn rắn, tin mắt của trâu dê ấy, phát hung của kiêu kích đó. Từ đó dựng cờ ngã mạn, tiếng từ trống lớn vụt lấp miệng hủy hoại xưng dương, khoe khoan đàm luận của Nho Mặc, trái ngoài làm trong, lộn xiêm làm áo, hư bại phong tục, thương tổn chánh chân. Bạn bè đấu loạn, lăng nhục Tam bảo, khinh thường song thân. Xem nhẹ minh kỳ, quở trách mưa gió. Cùng với quỷ thần làm kẻ thù oán, đối với cốt nhục làm nên ganh ghét, tự kiêu tự cao, bất nhân bất hiếu, cậy chỗ thấy qua lỗ hổng, ngu dốt cho đó là chỉ nam. Nào khác gì cam mang thối rửa của loài ruồi giòi, gặm ăn thịt chuột thối nát của loài cú quạ. Lấy độc làm tốt đẹp, rất đáng sợ thay! Chẳng phải lo nghó khổ tội của tương lai, chẳng sầu buồn quả báo ở địa ngục. Than ôi! Tai họa của phóng túng một đời, chuốc lấy ương khổ muôn kiếp. Đến nỗi khiến đắm chìm trong đường tối, giẫm trải qua dường ác, vào lước của chó đồng rắn đồng, ở thành tám lạnh tám nóng, cửa xẻ cọ mài, lò đốt vạc nướng, ăn than ăn lửa, nuốt tuyết nuốt băng, nơi nơi thiêu đốt, tâm tâm khổ sở, trăm loài khoét chín lỗ quấn loạn dao nhọn, năm tạng bốn chi phân rạch kiếm sắc. Sở dó như vậy đều do bài bác không nhân quả, phỉ báng xuất thế gian, phá hòa hợp tăng, không tin chánh pháp, bởi chỗ rễ sâu tà kiến khiến nên như vậy. Huống gì bỏ thân thọ thân, thường buộc trong ba cõi, từ địa ngục đến địa ngục chẳng lìa ba đường khổ. Đức Đại Thánh quán sát vậy rồi dấy khởi tâm thương, bậc Chí Nhân vì đó mà xót xa. Nên biết, lý của thiện ác như âm vang theo tiếng, ứng nghiệm của quả báo thì tợ bóng theo hình, có thể chẳng cẩn trọng ư? Chiếu Văn nói: Vất râu tóc của cha mẹ, bỏ chương phục của vua tôi, lợi ở trong môn nào? Ích tại ngoài tình nào? Về hai thứ tổn hại và ích lợi ấy, xin giải thích rõ? Xin đáp rằng: Pháp Lâm tôi nghe: Chí đạo dứt tuyệt ngữ ngôn, đâu phải chín phái triết học có thể biện giải. Pháp thân không ảnh tượng, chẳng phải chỗ thuyên bày của mười dực. Chỉ vì bốn thú mênh mông nổi chìm trong biển dục, ba cõi xuẩn động, lộn rơi núi tà. Các ông mê vì tự thiêu đốt, phàm phu đắm chìm mà chẳng ra. Đức Đại Thánh vì vậy xuất hiện nơi đời, bậc Chí Nhân vì đó mà giáng điềm linh, bèn mở cửa giải thoát, chỉ đường lối an ổn. Khi ấy, từ dòng vua chúa, chủng tộc Sát-đế-lợi, từ giả ái ân mà xuất gia, dòng họ cao quý ở Thiên Trúc, nhàm chán vinh hoa màvào đạo. Vì vậy, Thái tử Tất-đạt-đa vất bỏ áo cổn long mà mặc y phục ruộng phước, thề nguyện ra khỏi hai thứ sinh tử, chí ý mong cầu một diệu Niết-bàn, hoằng truyền đạo pháp để báo đáp bốn ân, nuôi dưỡng phước đức để giúp ba cõi. Với lợi ích như vậy, trong phẩm xuống tóc xuất gia ở kinh Phật Bản Hạnh có bài kệ tụng rằng: “Giả sử ân ái chung sống lâu Đến lúc mạng hết phải xa lìa Thấy là vô thường trong khoảnh khắc Cho nên ta nay cầu giải thoát”. Sau đó, người mến mộ đức ấy mà bỏ ác để lập thân, kẻ khâm trọng mỹ phong ấy nghiêm khiết chính mình mà tu thiện. Hủy bỏ hình hài để thành chí nguyện đó, nên cạo bỏ râu tóc dung nghi đẹp xinh; biến đổi thế tục để hợp đạo đó, nên bỏ hoa báo vua tôi. Tuy thân mình thiếu khuyết phụng sự thân thích mà trong lòng ôm hoài đạo hiếu ấy, lễ trái với tôn thờ chúa mà tâm mãi nghó nhớ ân ấy. Đượm nhuần khắp kẻ oán người thân để thành đạt thuận lớn. Phước đượm cả thuyết hiển đâu hạn cục trái nhỏ. Người thượng trí y theo lời Phật nên làm lợi ích, kẻ hạ phàm trái với Thánh giáo nên làm tổn hại tội khiên. Xấu ác thì kẻ lạm tự mới, tinh tấn hiền thiền thì người thông cảm hóa. Cúi nghó, chỉ Bệ hạ là bậc chí đức trùm rộng, tâm nhân dưỡng nuôi, bèn lại giáng tình đến với chánh pháp, lưu ý đối với người xuất gia, trải rộng mây từ, trùng hưng Phật nhật, đạo của lợi ích khó được mà xứng. Đó tức là đế nghiệp Đại Đường thương khắp muôn linh, Hồng cơ Thánh chủng ban dài ngàn năm. Nay tôi chẳng dám khinh lấy ý ngu, nhẹ lường tâm trời, kính cẩn bày tỏ lời kẻ dong ngu lược nói điều thấy biết nhỏ hẹp, mảy trần nhuốm dơ ngực giám, càng thêm lo sợ. Kính cẩn đối luận!