<經 id="n2104">TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH (QUYỂN 1  4) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH Soạn giả: Đời Đường, họ Thích, chùa Tây minh. <卷>QUYỂN 1 Hán Minh Đế nằm mộng thấy người vàng, Sa-môn Ma-đằng, Trúc Pháp Lan đến Lạc dương, các đạo só xin tỉ thí. Ngô chủ Thời Ngụy kính tin Phật giáo, lập chùa tháp, thưa hỏi về sự hơn kém của ba giáo. Trần Tư Vương Tào Thực đời Ngụy bàn về đạo. Ngụy Thái Tổ hạ lệnh tin học hai giáo dẫn đến sự hưng phế. Tống Thái Tông Văn Hoàng đế triệu tập các quan bàn về lý Phật đối với việc triều chính. Ngụy Minh Đế lên ngôi cho mời đạo só, tăng só vào cung hùng biện. Lương Cao Tổ trước thờ Hoàng Lão, sau quy y Phật, hạ chiếu phế bỏ đạo Lão. Bắc Tề Cao Tổ Văn Tuyên Hoàng Đế hạ lệnh phế bỏ Đạo giáo. Việc thứ nhất: Theo Hán Pháp Bổn Nội Truyện: Niên hiệu Vónh Bình năm thứ mười, Hán Minh Đế nằm mộng thấy người vàng, thân cao trượng sáu, ở cổ có vầng sáng tròn. Bay đến trước điện, vua rất vui mừng. Hôm sau, vua hỏi các quan: Đó là vị thần nào? Phó Nghị thưa: Thần nghe ở Thiên Trúc có người đắc đạo, được gọi là Phật, đi trong hư không, thân có ánh sáng, có lẽ là vị thần đó. Nghe vậy vua liền sai Lang trung Thái Âm, Lang tướng Tần Cảnh, học trò tiến só Vương Tuân… mười tám người đến nước Thiên Trúc, thỉnh kinh Phật như kinh bốn mươi hai chương… để ở gian mười bốn trong thạch thất Lan đài. Xây chùa Phật ở ngoài Ung môn phía Tây thành Lạc dương. Vẽ ngàn xe muôn ngựa nhiễu quanh tháp trên vách. Vẽ tượng Đức Thích-ca trên cửa thành Khai dương và đài Thanh lương ở Nam cung. Vẽ tượng Phật trên lăng Hiển tiết. Lúc ấy hai Pháp sư Ma-đằng và Trúc Pháp Lan nguyện du hóa khắp nơi để độ sinh được các sứ giả thỉnh về Lạc dương. Vua hỏi: Pháp vương giáng trần sao giáo pháp không được truyền đến đây? Pháp sư Ma-đằng đáp: Ca-tỳ-la-vệ là trung tâm của tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức mặt trăng mặt trời. Chư Phật ba đời đều giáng thần ở đó. Kể cả trời rồng quỷ thần cũng nguyện sinh về đó để được thọ học pháp Phật, được ngộ đạo. Chúng sinh nơi khác không có duyên với Phật nên Phật không đến. Tuy Phật không đến nhưng nơi nào có ánh sáng chiếu đến thì hoặc năm trăm năm hoặc một ngàn năm hoặc hơn ngàn năm sẽ có bậc Thánh truyền pháp. Ngày một tháng một niên hiệu Vónh Bình năm thứ mười bốn, các đạo só ở Ngũ nhạc (thuộc tầng lớp được tôn kính sau triều chính) bàn với nhau: Thiên tử bỏ đạo của chúng ta, xa cầu giáo pháp của Rợ Hồ, nay chúng ta nên dâng sớ. Sớ rằng: Đệ tử Thái thượng tam động Chử Thiện Tín và các đạo só ở mười tám sơn quán thuộc Ngũ nhạc dám chịu tội chết tâu lên: Thần nghe Thái thượng không hình không tên, vô cực vô thượng, hư vô tự nhiên, đại đạo hiện trước tạo hóa, thượng cổ đều vâng, trăm vua không đổi. Nay bệ hạ đạo hơn Hy Hoàng, đức vượt Ng- hiêu–Thuấn. Trộm nghó bệ hạ bỏ gốc theo ngọn, cầu giáo Tây Vực, thờ thần rợ Hồ, nói lời khác Hoa hạ. Xin bệ hạ tha tội cho chúng thần, cho phép chúng thần được tỉ thí. Đạo só chúng thần đều thông tuệ, thấy xa nhìn rộng, tinh thông chú thuật kinh điển của Thái Thượng, Thái Hư, hoặc sai khiến quỉ thần, hoặc nuốt tuyết uống khí, nhảy vào lửa không bị cháy, xuống nước không bị chìm, bay lên hư không, ẩn thân trong đất, còn thông thạo cả đan dược. Xin cho chúng thần tỉ thí để bệ hạ an tâm, bày rõ chân ngụy, đại đạo có nơi trở về, không loạn phong tục Hoa Hạ. Nếu thần không thắng thì tùy bệ hạ quyết định, nếu thắng thì xin bệ hạ trừ dẹp hư tà. Vua sai Thượng thư lệnh Tống Tường đưa họ vào cung Trường lạc, rồi hạ chiếu ngày mười lăm tháng này tập hợp ở chùa Bạch mã. Các đạo só liền lập ba đàn, mỗi đàn có hai mươi bốn cửa. Đạo só Nam Nhạc Chử Thiện Tín, đạo só Hoa Nhạc Lưu Chánh Niệm, đạo só Hằng Nhạc Hoàn Văn Độ, đạo só Đại nhạc Tiêu Đắc Tâm, đạo só Tung nhạc Lữ Tuệ Tông, đạo só ở mười tám núi Thiên mục, Ngũ đào, Bạch lộc… tổng cộng có sáu trăm chín mươi đều đem chân văn, kinh bảo, ngọc quyết Thái thượng, phù lạc tam nguyên… năm trăm chín mươi quyển để ở đàn phía Tây, sách của Mao Thành Tử, Hứa Thành Tử, Hoàng Tử, Lão Tử… hai mươi bảy nhà gần một trăm ba mươi lăm quyển để đàn giữa, thức cúng để ở đàn phía Đông. Vua đến cửa phía Nam chùa, đặt kinh Phật, xá-lợi ở phía Tây. Ngày mười lăm các đạo só chất củi, chiên-đàn, trầm hương đốt kinh. Tất cả đều khẩn thiết cầu nguyện: Chúng thần thỉnh Thái cực đại đạo, nguyên thỉ Thiên tôn, chư Thiên, thần linh, nay Rợ Hồ làm loạn Hoa Hạ, thiên tử tin tà giáo, chánh giáo bị chìm mất. Chúng thần xin đốt kinh để hiển đạo, mở bày lòng người, phân biệt chân ngụy. Họ liền nổi lửa đốt, kinh điển cháy rụi. Các đạo só nhìn nhau kinh ngạc. Người muốn bay lên trời, ẩn thân, hô quỷ nhập thần đều không linh ứng. Đạo só Nam nhạc Phái Thúc Tài hổ thẹn mà chết. Thái phó Trương Diễn nói với Chữ Tín: Việc của các vị không có kinh nghiệm quả là luống dối, pháp của Tây Vực là pháp chân thật. Chữ Tín nói: Mao Thành Tử dạy: Thái Thượng là Linh bảo Thiên Tôn, người làm ra tạo hóa, há là luống dối hay sao? Trương Diễn nói: Thái Tố được danh cao quý nhưng không có ngôn giáo, khanh nói có ngôn giáo tức là luống dối Tín im lặng. Lúc ấy xá-lợi Phật phát ra ánh sáng năm màu, bay lên hư không, tạo thành hình chiếc lọng che trùm cả đại chúng. Pháp sư Ma-đằng bay lên hư không, ngồi nằm trong hư không, hiện thần biến rộng khắp. Trời tuôn hoa báu cúng Phật và Tăng, nhạc trời vang lên, tất cả đều khen ngợi, thỉnh Pháp sư nói pháp. Pháp sư Pháp Lan cắt tiếng Phạm thiên, khen ngợi công đức của Phật, khiến đại chúng tôn kính Tam bảo. Pháp sư dạy: Thiện ác đều có quả báo, ba thừa sáu đường các tướng khác nhau. Công đức xuất gia là hơn hết. Lúc ấy quan tư Phòng Lưu Tuấn và ngàn người xin xuất gia, sáu trăm hai mươi tám đạo só của bốn núi cũng xin xuất gia. Phu nhân Vương Tiệp Hảo và các cung nữ gồm hai trăm ba mươi người xin xuất gia. Vua cho thiết lễ cúng dường đến cuối tháng, lại cúng dường y bát cho người xuất gia, xây mười ngôi chùa, bảy ngôi cho tăng ở ngoài thành, ba ngôi cho ni ở trong thành. Từ đó Phật pháp được hưng thịnh. Việc thứ hai: Trong sách Ngô có chép: Niên hiệu Xích Ô năm thứ tư thời Ngô Tôn Quyền, Sa-môn Khang Tăng hội (con lớn của thừa tướng nước Khang Cư) du hóa độ sinh. Thời ba nước lập thế chân vạc, Phật pháp chỉ lưu hành ở phương Bắc, không lưu truyền đến phương Nam. Sa-môn liền đến Giang Đông. Đến Kiến Nghiệp, lập ra thảo am, thờ Phật, hành đạo. Thấy lạ người nước Ngô cho là yêu nghiệt, rồi tâu lên vua. Tôn Quyền cho mời Sa-môn vào cung hỏi: Phật có linh ứng gì? Sa-môn đáp: Linh tính ẩn hơn ngàn năm, chỉ có xá-lợi Phật thì còn hiện ứng. Vua bảo: Nếu được xá-lợi sẽ xây tháp thờ, hai mươi mốt ngày sau Sa-môn cầu được xá-lợi năm màu chiếu sáng, không bị vỡ, không bị cháy, lại còn hiện hoa sen, chiếu sáng cả cung điện. Tôn Quyền kính tin, lập chùa, xây tháp, độ tăng, đặt làng ấy là làng Phật đà, giáo pháp bắt đầu được truyền bá nên đặt tên chùa là Kiến sơ. Vua hỏi thượng thư lệnh Hám Trạch: Từ Hán Minh đế đến nay đã bao năm rồi, vì sao pháp Phật đến giờ mới truyền tới Giang đông. Hám Trạch thưa: Từ niên hiệu Vónh Bình năm thứ mười đến nay đã là một trăm bảy mươi năm, niên hiệu Vónh Bình năm thứ hai mươi bốn, các đạo só ở Ngũ nhạc tỉ thí cùng hai Pháp sư (Ma-đằng, Trúc Pháp Lan), bị thua, đạo só Chử Thiện Tín, phí Thúc Tài ở Nam nhạc chết trước hội, các đệ tử lo đưa họ về mai táng, không được nghe pháp xuất gia. Sau đó, binh biến loạn lạc không ngừng đến nay mới truyền đến. Hỏi: Khổng Khâu Lão Tử có sánh được với Phật hay không? Thưa: Thần nghe họ Khổng là bậc thánh đức anh tài, đời tôn là Tố vương, biên soạn kinh điển, chỉ dạy học trò, Nho giáo được thấm nhuần xưa nay. Còn có các học thuyết của Lão Tử, Trang Tử, Hứa Thành Tử… đều là tự sửa mình, nhàn hạ rừng núi, sống đời đạm bạc, trái với nhân luân, không phải là pháp độ sinh. Đến thời Hán Cảnh đế, Hoàng Tử, Lão Tử lập kinh điển, hình thành Đạo giáo. Vua cho mọi nơi học tụng. Hai giáo Khổng Lão so với pháp Phật thì một trời một vực. Vì sao? Vì hai giáo ấy vâng mạng trời, không dám trái lại ý trời. Giáo pháp của chư Phật thì chư Thiên lại phụng hành. Như vậy làm sao so sánh được. Vua vui mừng, phong thêm chức thái phó. Sách thần tiên, lời Đạo gia được coi là truyền thuyết. Cho rằng sao thần vó túc tuế giáng ở Đông phương sóc, Hoài Nam Vương chết ở Hoài Nam, được xem là người khinh đạo. Câu Dặc chết ở Vân Dương, cho rằng xác mất, hòm không, thật là luống dối. Về các luận thuyết, tác phẩm của Hoàn Quân Sơn được xem là hay. Lưu Tử Tuấn có hỏi: Nếu người bị bịt mắt che tai thì có bị say kiệt hay không? Quân Sơn chỉ vào cây du dưới sân nói: cây này vô tình, không bị che mắt bịt tai thế mà vẫn bị khô héo. Việc này không đúng. Xưa tôi làm quan coi về nhạc cho Vương Mãn, trong Nhạc ký có ghi:Văn Đế bắt được người đánh đàn của Ngụy Văn Hầu, người này một trăm tám mươi tuổi, bị mù mắt. Vua hỏi: Sao bị mù như vậy? Đáp: Năm mười ba tuổi thần bị mù, cha mẹ sợ không làm được gì, nên dạy thần đánh đàn, thần không thể hướng dẫn, không biết sao lại thọ lâu như vậy? Quân Sơn luận rằng: vì được tâm chuyên nhứt và được sự trợ giúp bên ngoài. Nếu bên trong không có ích thì làm sao biết bên ngoài. Tôi chưa thấy. Quân Sơn nói: Xưa Đổng Trọng bị giam trong ngục, giả chết mấy hôm, mắt lõm, trùng bò ra chết lại sống, sau đó thì chết luôn. Có sinh thì có chết, quân tử đều hiểu, cần gì phải nói. Thần không quá trời đất, không thể làm cho con chí rận chết vào mùa hè, giông tố nổi lên vào mùa đông. Khi dời sự ứng nên Đổng Trọng mới nối hơi, tự chết, không có gì là lạ? Các phương só ở đời đều được vua mời vào cung như Cam Thỉ ở Cam lăng, Tả Từ ở Lô giang, Hy Kiểm ở Dương thành. Thử vận khí, Từ thông pháp thuật, cho nên tập trung ở nước Ngụy vì sợ làm việc gian trá mê hoặc mọi người, nên phải tập trung lại rồi mới cấm đoán. Cam Thỉ tuổi già nhưng có thân hình một đứa trẻ, các thuật só đều theo về, nhưng lời nhiều ít thật, còn pha chút gian trá. Nếu gặp Tần Thỉ Hoàng hoặc Hán Vũ Đế thì lại là kẻ làm phước ít gây họa nhiều, Kiệt, Trụ khác đời nhưng đều là ác, kẻ gian khác đời đều là ngụy. Đời lại còn có học thuyết tiên nhân. Tiên nhân thuộc vượn khỉ, người đời đạt tạo hóa thành tiên hay sao? Phàm chim tró xuống biển là con hàu, con én xuống biển là sò hến, chúng đương bồi hồi trước ao lạ, ban đầu còn tự biết, sau lại gieo mình vào, thần hóa thể biến, nào khác rùa hến, đâu còn biết bay liệng vui chơi. Tin lời hư huyễn mê hoặc, thiết lễ cầu cúng luống dối, bỏ cả chức vị để tôn vinh, nhàn hạ nơi thanh vắng, suốt bao năm tháng nào có ích gì, hoặc chết ở gò cát, hoặc chết ở rừng cây. Vừa diệt thân diệt tộc, vừa bị thế gian chê cười. Tuổi thọ dài ngắn, thân thể mạnh yếu đều do ở mỗi người. Người khéo thì sống lâu, người khổ thì chết sớm. Trần Tư Vương Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ tư của Ngụy Vũ Đế, ban đầu được phong Đông A quận vương, khi chết được phong tên thụy là Trần Tư Vương. Lúc mới sinh trong miệng có ngậm ngọc, mười tuổi đã rành kinh sách, hạ bút thành văn, thông cả kỹ thuật ở thế gian, người đời cho là con của trời. Khi đọc kinh Phật, Tào Thực thường khen ngợi, cho là chí đạo nên tạo chất nhạc để dễ đọc tụng. Một hôm, Tào Thực lên núi, chợt nghe trong hư không có tiếng hay như tiếng nhạc, Tào Thực thâm ngộ lý Phật nên chế ra âm nhạc làm gương cho đời sau (có trong Thích Tăng Hựu Pháp Uyển tập soạn vào đời Lương). Việc thứ ba: Ngụy Thái Tổ Đạo Vũ Hoàng đế hạ chiếu vào niên hiệu Thiên Hưng thứ nhất, chiếu rằng: “Phật pháp hưng thịnh đã lâu, việc cứu độ đã rõ, vẫn còn những thành tích hiển linh. Kinh thành thôn ấp đều có chùa Phật. Vua cho xây tháp năm tầng và điện Tu-di, còn có giảng đường, thiền thất, chỗ ở của Sa-môn.” Ngụy Thế Tổ lên ngôi cũng nối nghiệp tiên tổ, tuy lúc đó có đạo Lão nhưng không tin kính, thường thỉnh các Sa-môn tài đức vào cung đàm đạo. Ngày một tháng bốn khi rước tượng Phật nhiễu quanh phố vua lên lầu cao rải hoa kính lạy. Xưa lý thuật lập đạo tràng ở Bình thành, quan tư đồ Thôi Hạo có học tả đạo, ghen ghét họ Thích, không tin có Phật, cho là luống dối, thấy kinh Phật thì ném bỏ xuống giếng. Hạo có tài nên được vua tin theo. Người trong nước cho rằng vua tôn thờ đạo só Khấu Khiêm Chi mà hiềm khích với Tôn Hạo, vua sắc phong Khiêm là Thiền sư. Khi ấy có Sa-môn Cao Huyền, là bậc thần tăng được mọi tầng lớp tôn kính, vua cho thỉnh về Bình Thành. Thái tử Hoãng tôn Sa- môn làm thầy, hết lòng kính trọng. Lúc ấy, thái tử bị vua nghi ngờ nên thưa với Sa-môn, Sa-môn bảo lập đàn sám hối bảy ngày. Vua mộng thấy tiên tử giáng xuống trách móc. Vua lâm triều kể cho các quan nghe, ai cũng nói là thái tử không có tội. Vua không nghi thái tử nữa. Vua hạ chiếu: Tông tổ hưng thịnh, tiếp nối muôn đời, võ công tuy hưng thịnh nhưng văn giáo chưa thịnh, nước nhà chưa thái bình. Nay trong thành an ổn, dân chúng giàu có, trẫm muốn lập pháp để muôn đời thực hành theo. Âm dương có qua lại, bốn mùa đổi thay, ngôi được truyền lại cho thái tử, chọn bậc hiền tài giúp đỡ, nên thường được an ổn, xưa nay là vậy. Ta giao mọi việc cho thái tử lo liệu, các vị hiền tài nên ủng hộ, truất phế những kẻ xấu, thần dân đều vâng lệnh thái tử. Nghe vậy Khấu Khiêm Chi lo sợ thái tử nắm quyền mình sẽ mất uy nên tâu với vua: Thái tử thật có âm mưu, nên vì Sa-môn làm phép thuật nên tiên tổ mới báo mộng như thế. Nếu không sớm trừ sẽ gây họa lớn. Vua liền bắt Sa-môn giam rồi chém, ở Bình thành, thái tử cũng bị giết, không ai biết được. Đêm ấy trên hư không có ánh sáng, lại có tiếng nói: Ta đã chết, các đệ tử đến chỗ xác chết, xem thông cáo. Nói xong Sa-môn mở mắt, ra mồ hôi, ngồi dậy nói: Đại pháp ứng hóa tùy duyên thịnh suy. Thịnh suy vốn là lẽ thường nhưng không bao lâu ngươi cũng sẽ như ta. Khi các ngươi chết, pháp sẽ hưng thịnh, hãy khéo tu học, đừng để hối hận. Nói xong Sa-môn nằm xuống, đi luôn. Từ đó Thôi Hạo càng lộng hành, hay sàm tấu với vua, cho rằng Phật pháp không có ích cho chính trị, còn tổn hại dân tình, nên trừ bỏ đi. Một hôm vua đến chùa ở Trường an thấy có cung tên, vua cả giận hạ chiếu giết tất cả tăng chúng, đốt kinh hủy tượng. Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi tranh nhau. Lúc đó, có Sa-môn Tuệ Thỉ, là người rất kỳ lạ, xưa Hách Liên phá Trường An Sa-môn bị đâm mà không chết, đi dưới đất chân không lấm bùn nên người đời gọi là Hòa thượng chân trắng. Nghe tin vua diệt pháp Sa-môn chống tích trượng vào cung, vua cho người giết, Sa-môn vẫn thản nhiên đi vào, vua cho cọp ăn thịt thì cọp quỳ trước Sa-môn, nhưng lại gầm rống trước Thiên sư. Thấy vậy vua cho rằng Phật pháp hiển linh, liền sám hối tội lỗi. Sa-môn nói pháp nhân quả cho vua nghe. Vua rất hổ thẹn. Sau đó vua bị bệnh lạ, cả người đau nhứt, các quan cho rằng Thôi Hạo xúi vua hủy diệt Phật pháp nên bị như thế. Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi cũng bị bệnh lạ. Niên hiệu Thái Bình năm thứ mười vua cho nhốt Thôi Hạo vào xe, cho các quan tiểu tiện trên xe, rồi bắt Thôi Hạo há miệng nuốt nước tiểu. Đây là hình phạt nhục nhã nhất xưa nay. Vua hạ lệnh mở mang Phật pháp. Năm đó vua băng, Tôn Tuấn lên ngôi, lo truyền bá Phật pháp (xem trong Ngụy thư và Cao tăng truyện, Thập lục quốc Xuân Thu). Việc thứ tư: Văn Đế là con thứ ba của Tống Vũ Đế, là người tài đức hơn người, làm vua suốt ba mươi năm. Những lúc rảnh vua hay cùng các quan bàn luận chính sự. Một hôm, vua hỏi thị tung Hà Thượng Chi và lại bộ Dương Huyền Bảo: Xưa nay trẫm đọc kinh tuy không nhiều nhưng không lúc nào bỏ bê, chưa thông nhân quả ba đời nhưng không dám lập dị; các khanh đều kính tin. Phàm Thái, Tạ Linh Vận thường nói: Sáu kinh mục đích là cứu đời, người làm chánh trị phải học, tánh linh sâu huyền đều nói lý Phật. Gần đây Nhan Diên viết Đạt tánh luận, Tôn Bình có Bạch hắc luận, hiển linh pháp Phật, rất hợp lòng người. Nếu tất cả các quan đều học theo trẫm thì sẽ ngồi hưởng thái bình, còn lo việc gì. Thượng Chi thưa: Pháp sư Tuệ Viễn thường nói: Giáo pháp của Phật ứng hiện khắp nơi, đạo vốn để cứu đời. Trộm xét học thuyết này rất sâu xa, nếu nhà nhà đều học theo thì tội không còn, hình phạt cũng chẳng có, bệ hạ an hưởng thái bình, thật như thánh chỉ. Dương Huyền Bảo thưa: Học thuyết này bao gồm cả trời người. Trộm nghó, Tần Sở hùng mạnh, Tôn Ngô thôn tính các nơi đều không nhờ đó. Vua nói: Đây không phải là công cụ của thời chiến quốc. Thượng Chi nói: Thích ẩn dật thì chiến só lười, quý nhân đức thì binh khí suy. Tôn Ngô thôn tính các nước cũng không tôn sùng đạo của Nghiêu Thuấn, đâu chỉ có giáo pháp của Phật? Vua nói: Dòng Thích có Khanh, còn có Khổng giáo, lời trái thì khó nghe. Từ đó vua rất tôn kính kinh Phật, thường mời chư tăng vào cung đàm đạo. Lúc ấy vua rất kính Pháp sư Đạo Sinh nên thường trình bày những gì mình chứng ngộ. Sa-môn Tăng Bật… cũng thường được mời. Vua nói: đã diệt thì sẽ hưng, đâu do vua làm ra. Lúc ấy, Nhan Diên soạn luận Duy thức, vua mời Pháp sư Nghiệm xem chỗ giống khác. Vua cười nói: Các khanh chớ lo, hãy đàm luận. Việc thứ năm: Nhà Ngụy có mười bảy đời vua, kéo dài một trăm bảy mươi chín năm, các vua đều tôn kính Phật giáo, chỉ có Thái Vũ hủy pháp năm, sáu năm. Hiến văn lên ngôi, vào niên hiệu Hưng Hoàng năm thứ nhất, vua cho đúc năm pho tượng, mỗi tượng cao trượng sáu, dùng hết hai mươi lăm vạn cân vàng. Niên hiệu Chánh Quang năm thứ nhất, vua gia tăng triều phục, đại xá thiên hạ, thiết trai cúng dường tăng ni, đạo só. Thọ trai xong, thị trung Lưu Thắng tuyên chiếu: Mời Pháp sư và đạo só hùng biện để dứt nghi cho đệ tử. Đạo só Khương Bân và Pháp sư Đàm Mô thi tài trước. Vua hỏi: Phật và Lão tử có sinh cùng thời hay không? Khương Bân tâu: lúc Lão Tử qua Tây Vực giáo hóa rợ Hồ, Phật làm thị giả. Pháp sư hỏi: sao biết? Trong kinh Lão Tử Khai Thiên có chép. Pháp sư hỏi: Lão Tử sinh vào năm nào, sang Tây Vực năm nào? Lão Tử sinh giờ Tý ngày mười bốn tháng chín năm Ất Mão, thời Chu Định vương năm thứ ba, ở làng Khúc nhân, thôn Lệ, huyện Khổ, quận Trần nước Sở. Năm Đinh sửu, là đời Chu Giản vương thứ tư làm quan giữ kho. Đời Giản vương năm thứ mười ba làm thái sử. Đời Kính vương thứ nhất, thấy đức nhà Chu suy, Lão Tử đến Tây Vực độ người Hồ (năm ấy Lão Tử năm mươi lăm tuổi). Pháp sư nói: Phật giáng sinh ngày tám tháng tư đời Chu Chiêu Vương năm thứ hai mươi bốn, diệt độ ngày mười lăm tháng hai đời vua Mục vương năm thứ năm mươi ba. Ba trăm bốn mươi lăm năm sau mới đến đời vua Định Vương năm thứ ba, đến đời vua Kính Vương thứ nhất là Phật đã diệt độ bốn trăm hai mươi lăm năm rồi, sao lại làm thị giả cho Lão Tử? Sách nào nói Phật sinh vào thời Chu Chiêu Vương? Chu thư dị kí, Hán pháp bổn nội truyện đều có ghi. Bân nói: Khổng Tử là bậc Thánh san định kinh sách sao không hề nói đến? Pháp sư nói: Học thức của ông như cái ống, không biết được điều cao xa. Trong kinh Tam Bị Bốc của Khổng Tử có ghi về Phật. Ông hãy tự đọc. Hỏi: Khổng Tử là bậc Thánh không nói cũng biết, cần gì phải bói? Chỉ Phật là bậc đứng đầu trong các Thánh, thầy của bốn loài, hiểu rõ mọi việc trước sau của chúng sinh nên không cần bói. Các vị Thánh khác đều nhờ mai rùa bói quẻ. Thị trung lại tuyên chỉ: Đạo só Khương Bân nói không có tông chỉ nên xuống dưới. Lại hỏi: Kinh Khai Thiên hiện ở đâu? Là của ai? Liền sai trung thư thị lang Ngụy Thâu và thượng thư lang Tổ Doanh đến đạo quán lấy kinh. Vua sai một trăm bảy mươi người như thái úy Đan Dương Vương Túc tổng, thái phó Lý Thật, vệ úy Hứa Bá Đào… lên đọc, rồi tâu: Lão Tử chỉ viết năm thiên. Chúng thần xin thưa Khương Bân mang tội mê hoặc mọi người, vua hạ lệnh gia hình. Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi khuyên can mãi, vua đồng ý tha chết, đày đến ấp mã. Việc thứ sáu: Lương Cao Tổ Vũ Hoàng đế lên ngôi lúc ba mươi bảy tuổi, ở ngôi bốn mươi chín năm. Tuy mãi lo việc triều chính nhưng vua luôn miệt mài với kinh sách. Vua sống rất thanh đạm không lụa là gấm vóc, không giường cao nệm đẹp, không ăn thịt cá, ngày ăn một bữa, thật ít có vị vua chúa nào như vậy. Trước kia vua tôn thờ Lão Tử và Phật nhưng khi biết đạo Lão luống dối, vua hạ chiếu bỏ Đạo giáo. Chiếu rằng: “Ngày tám tháng tư niên hiệu Thiên Giám năm thứ ba, hoàng đế nước Lương là Lan Lăng Túc Diễn cúi đầu kính lạy chư Phật mười phương, tôn pháp hiền thánh tăng. Con nghe kinh dạy: Phát tâm Bồ đề là tâm Phật, các tâm lành khác không thể sánh. Tâm này đưa chúng sinh thoát khổ ba cõi, vào đường vô vi. Trí lậu tận vô ngại của Như Lai tỏ cơ trọn đức, chiếu mê khai ngộ, thần tích tấu trời, linh thiêng bày khắp, đưa chúng sinh khỏi biển dục, dẫn hàm thức lên niết bàn, lên núi cao an vui, thoát vực sâu sông ái, không câu nệ văn từ, hiển bày linh tính ở cung vua, là bậc tôn kính của ba cõi, soi chiếu khắp đại thiên. Vì tâm cạn cợt, thích sinh tử, gây ra tội lỗi nếu không được gặp Phật, thì ai cứu thoát được. Tuy ẩn thân nhưng đạo luôn hiện. Đệ tử mê mờ tôn thờ Lão Tử, ngày tháng trôi qua đắm nhiễm pháp tà. Giờ bỏ đường mê, nương về chánh giác, xin nguyện đời sau được xuất gia học Phật lúc thiếu thời, hóa độ chúng sinh cùng thành Phật, thà ở trong chánh pháp mà chịu tội cõi ác, chứ không phụng thờ Lão Tử dù được sinh lên cõi trời, tu tâm Đại thừa bỏ niệm Nhị thừa. Kính mong chư Phật chứng minh, Bồ-tát thâu nạp đệ tử Túc Diễn kính lạy.” Lúc ấy, vua cùng hai vạn tăng tục lên gác Trùng các phát tâm Bồ đề. Đến ngày mười một tháng tư vua hạ chiếu: “Thiên hạ có chín mươi sáu đạo, đạo Phật là chánh đạo, chín mươi lăm loại kia là tà đạo. Trẫm bỏ tà đạo, thờ phụng chánh đạo. Nếu các quan muốn thệ với trẫm hãy phát tâm Bồ-đề. Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử tuy là đệ tử Như Lai nhưng hóa tích tà vạy, chỉ tốt trong thế gian, không thể chuyển phàm thành thánh. Các quan nên bỏ ngụy về chân. Luận Thành Thật nói: Nếu thích thờ ngoại đạo, khinh Phật pháp thì thuộc tà kiến. Nếu thờ cả hai như nhau thì thuộc tánh vô ký. Thờ phụng Phật, ít tôn Lão Tử thì đó là lòng tin thanh tịnh. Thanh là trong ngoài đều tịnh, không còn nhơ bẩn, tín là chánh tín. Tin thanh tịnh là đệ tử Phật, tin không thanh tịnh là tà kiến, các quan nên thi hành.” Ngày mười bảy tháng tư các quan tâu: Thần nghe: Như Lai có tướng tốt, thân vi diệu, cao hiển không cùng, pháp phật thì bỏ đao giết mổ chứng quả Niết-bàn, vượt biển khổ sinh tử, đến bờ Niết-bàn an vui, nên tuôn mưa từ bi, tưới nước cam lộ, bảy nơi tám hội giáo hóa không cùng, bốn đế năm thời lợi ích khắp nơi, sưởi ấm trong băng tuyết, làm mát lạnh trong lửa nóng, vào đời độ tục, xuất thế hiển chân như, khiến mọi loài tôn pháp, kẻ ngu mê biết quay về, cây đạo hiện ở Ca-duy, âm đức hưng thạnh ở Kinh lạc. Không thấy hằng tinh, cứu xét điềm thần, trăng tròn Hán Đế cảm mộng lành, năm pháp truyền trao, vạn đức trọn vẹn. Hoa tục dần hiển, nhờ bảy pháp giác, thoát khổ đêm dài. Bồ-tát Hoàng đế ứng theo mệnh trời độ vật, soi rọi khắp nơi, cứu dân độ chúng, nhờ nguyện lực độ sinh nên quyền hiển nhân lành, sùng đạo Nhất thừa, bước lên thềm mười Địa, các nước đều nương về, u linh đều nhờ, người phát nguyện thành Phật, vật khởi tâm Bồ-đề, tất cả đều vui vẻ trở về đường giác, tu từ bi nhẫn nhục, che chở cứu độ, phá tà hiển chánh, xây chùa truyền pháp. Xưa thần mê mờ thờ tà đạo, muốn quả ngọt mà gieo giống đắng, khát nước lại uống nước mặn, nay tỉnh ngộ quay về, thọ giới Bồ-tát, bỏ đạo giáo, vào chánh giáo. Xin bệ hạ cho phép. Ngày mười tám tháng tư vua hạ lệnh: Bỏ mê theo chánh là trồng nhân lành tinh tấn. Việc thứ bảy: Xưa các đạo só ở Kim lăng lợi dụng đạo chế ra nhiều nghi thức phiền toái để vua tôn phụng. Khi Lương tổ hạ chiếu bỏ đạo, các đạo só tức giận, liền cùng môn hạ trốn sang Bắc Tề, dùng vàng ngọc tặng nhà giàu để nhờ họ mà hưng phát đạo. Tháng chín niên hiệu Thiên Bảo năm thứ sáu vua cho mời Sa-môn và đạo só vào điện tỉ thí. Lúc đó đạo só trì chú khiến y phục của Sa-môn bay liệng, làm cho trụ gỗ nằm ngang nằm dọc. Sa-môn không học chú thuật nên im lặng. Do đó tất cả đều thấy lạ, cho là đạo só hơn. Các đạo só liền khoe khoang, cao ngạo: Rằng mình thần thông rộng lớn, Sa-môn hiện một ta hiện hai, nay Sa-môn đã thua. Vua liền hạ lệnh cho Pháp sư Thượng Thống tỉ thí với đạo só Tónh Giác. Pháp sư nói: Những xảo thuật ấy kẻ Nho só còn hổ thẹn huống gì là người xuất gia, nhưng bệ hạ đã ra lệnh thì chẳng thể không nói, xin để cho vị tăng thấp nhất đấu. Pháp sư liền chọn Sa-môn Đàm Hiển, một người rất kỳ lạ, đang uống rượu say. Quan hữu ty thấy vậy không dám gọi. Nhưng với oai đức của Pháp sư Thượng Thống mọi người đều nghe theo, liền đưa Sa-môn lên tòa cao. Sa-môn nói: Ta uống rượu say nhưng nghe có người nói Sa-môn hiện một ta hiện hai, chẳng biết có đúng không? Đạo só bảo đúng, Sa-môn liền đứng kiểng chân và bảo đạo só hiện hai đi. Các đạo só im lặng, Sa-môn nói: Vừa rồi các vị bảo là thổi bay y phục, đó là do ta mở cửa thổi gió, bây giờ y phục đây các vị hãy thổi đi. Các đạo só cũng trì chú nhưng y phục không hề động đậy. Các đạo só hổ thẹn, lại gượng nói: Nhà Phật tự cho mình là nội, nội thì nhỏ; gọi chúng ta là ngoại, ngoại thì lớn. Sa-môn nói: Nếu thế thì thiên tử ở trong phải nhỏ hơn các quan. Các đạo só im lặng. Vua liền hạ lệnh: Pháp môn không hai, chân tông ở một. Thanh đạm là gốc của đạo chính, rượu thịt là hư giả của thế gian. Kẻ tục không ngộ nên tôn sùng, đây hẳn là cách xa với đạo từ bi, từ nay cấm cúng tế bằng động vật. Vua cho các đạo só xuất gia theo Pháp sư, chưa phát tâm thì trừ đi, hôm ấy giết rất nhiều. Cấm tuyệt việc thờ phụng thần tiên, từ đó trong nước Tề chỉ tin một đạo. Đến đầu đời Tùy mới có các đạo. Vua húy kî là Tường tức con thứ hai của thừa tướng Vương Hoan. Người con cả bị hại, nên Tường lên kế vị, lúc bị tướng quốc nhà Ngụy vây khốn, Tường lập đàn ở Nam Giao, bói quẻ đại hoành đại cát nên cho đúc tượng vàng. Ngụy đế chấp nhận trao vị, vua lập thành nước Đại Tề. Vua cho xây chùa Phật, tăng chúng rất đông. Một hôm, có vị Thiền sư nói với vua: Thí chủ, có La-sát đi theo, đến bờ sông sẽ thấy. Vua nhìn thấy la sát ở sau mình, từ đó không ăn thịt, cấm bắt giết. Vua thường ngồi thiền suốt ngày, lễ Phật tụng kinh. Một hôm vua sai sứ giả cỡi lừa đến chùa lấy kinh. Sứ giả không biết nơi nào, vua bảo cứ để con lừa dẫn đi. Lừa dẫn sứ giả đến chùa, nhìn thấy con lừa các Sa-di bảo: Con lừa của Cao Tường đã về. Liền đưa sứ giả vào gặp vị trụ trì. Sa-môn hỏi: Cao Tường làm vua ra sao? Là bậc thánh minh. Hỏi: Sứ giả đến làm gì? Lấy hòm kinh. Sa- môn trao cho sứ giả. Sứ giả về nói lại. Hôm đó vua đến chùa thỉnh Phật, có một người lạ nói: Ta đi trước ông đến sau nhé. Sau vua băng ở Tấn dương. Vương Thiệu nói: Pháp Phật cao xa, không thể nói bừa. Xưa, Thái Tể hỏi Khổng Tử về bậc Thánh, nói: Hoàng đế mộng thấy đến nước Hoa Tế Thị, đó là nơi thần Phật đến mà thôi. Pháp Phật trình bày thiện ác nhân quả, không phải là bậc Chánh giác thì không thể chứng biết. Mọi loài đều nương về. Người thông ngộ thì thận trọng giữ mình, tu định tuệ, giải thoát bình đẳng, rốt ráo Bồ-đề. Kẻ ngu muội thì cho là không tỏ lý, mãi chạy theo các tà pháp. (Ghi chép theo sách nhà Tề).  TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH <卷>QUYỂN 2 Việc thứ nhất: Chu Cao Tổ Vũ Hoàng đế định phá diệt Phật pháp, Pháp sư ta dâng thư. Chu Vũ ban đầu tin Phật, sau đọc thấy câu sấm: Hắc y sẽ thịnh, thì tôn trọng Đạo giáo, muốn diệt Thích giáo nhưng còn ngại. Đạo só Trương Tân dâng sớ bài trừ họ Thích, vua nhận lời, mời chư Tăng vào hành đạo bảy ngày. Vì biết trước nên chư Tăng thành tâm cầu nguyện. Thấy vậy vua không cấm được. Ngày mười lăm tháng ba niên hiệu Thiên Hòa năm thứ tư, vua cho với Tăng chúng, đạo só, các quan lên điện, cho bàn về sự hơn kém của ba giáo. Nhưng cuối cùng không phân định được nên giải tán. Sau vua hạ lệnh cho tư lệ đại phu Chân Loan phân định. Loan dâng ba quyển Tiếu Đạo luận cười chê Đạo giáo. Pháp sư ta là người được mọi tầng lớp tôn trọng liền dâng Nhị giáo luận mười hai thiên. Lược nêu: Muôn hóa không sinh, ba tài không có điểm đầu. Nhưng tánh không sinh, không bắt đầu là ở trong con người có hóa có sinh. Tụ một thể nhưng có thân, tâm. Lúc thân mất, tâm vẫn còn. Nên giáo cứu thân là bên ngoài, giáo cứu tâm là bên trong. Vì thế Trí luận có hai kinh trong ngoài, Nhân vương có hai luận. Phương Đẳng có hai luật, Bách Luận có hai đạo. Trong ngoài về cái chung thì cùng cả Hoa Hạ và rợ dân, hạn hẹp thì có Nho, Thích. Thích giáo là trong, Nho giáo là ngoài. Đạo không phải là một giáo, nên chỉ có hai giáo. Xưa Huyền Tố chưa truyền phong giáo đã mất. Nhân tố tóm thâu bảy điểm chín dòng, làm mẫu cho nước nhà, là thuật tu thân. Nếu riêng thì có chín giáo, nhưng chung lại thì thuộc Nho giáo. Về quan thì chỉ là một chức, về sách thì chỉ có sách hoàng gia. Vì sao từ một phân thành chín để đến nỗi phải tranh đấu nhau, làm tổn thương trên dưới. Phật giáo là giáo pháp trọn lý cùng tánh, ra thế nhập chân, về văn thì có mười hai bộ, về thể thì có bốn Tất-đàn, lý vi diệu nên không thể dùng ngôn ngữ để bàn, vượt sinh tử, chứng Niết-bàn, chia năm thừa là để tùy căn cơ sâu cạn, nêu rõ sự lên xuống của thiện ác sáu đường. Về sự thì không thiếu việc gì. Kẻ phàm phu không thể biết được. Đạo lão chưa hề nói về tâm sắc sinh diệt. Sắc tâm có vô số tướng, Thanh văn, Duyên giác còn không biệt huống gì người ngu. Kinh dạy: Đom đóm không thể sánh với ánh sáng mặt trời. Chúng tôi nghe nói khéo trị thiên hạ là không trị mà trị, cần gì phải dời núi lập bể. Trên từ thiên tử dưới đến dân đen, chẳng ai không có từ sắc tâm, không thể lẫn lộn ngu trí bằng sự bình đẳng của sắc tâm. Âm dương tuy như nhau nhưng vẫn có sang hèn. Sử ký nêu: Lý lão đến phương Tây, hóa độ người Hồ, không đủ để nghiên cứu cùng tận. Cuối đời Hán, tam trương mê hoặc dân tình. Trương Lăng bị bệnh, tìm được sách chú thuật, liền học theo, sau bị rắn cắn chết. Các đệ tử dối xưng là thăng thiên, còn có Hoành, Lỗ cũng học pháp đó, tự xưng là Tam sư, Lăng là thiên sư, Hoành là hệ sư, Lỗ là Tự sư, dùng giải thuật để mê hoặc mọi người. Hậu Hán thư chép: Trương–Lỗ ban đầu làm đốc nghóa tư mã, sau giết thái thú Tô Cố, giết cả sứ giả, ở lại trên đất Hán Trung suốt ba mươi năm, mặc khăn vàng, làm sách phù chú mê hoặc lòng người. Người học theo đạo khăn vàng thì đóng năm đấu thóc, nên người đời gọi là giặc cướp thóc. Người mới vào đạo được gọi là quỷ tốt, sau gọi là tế tửu. Triều đình không dẹp được nên tôn Lỗ làm Trấn di trung lang tướng. Đến đời vua Hiến Đế năm thứ hai mươi Tào Tháo đánh dẹp. Sau lại có sấm hoàng y sẽ hưng thịnh nên Trương Giác, Trương Lỗ mặc y vàng, họ Tào thay màu vàng bằng màu đỏ, nên lấy hiệu là Hoàng Sổ. Thời Nguyên Ngụy, Đạo giáo dần được hưng thịnh, phong hóa dần dần đổi theo xưa. Thánh hiền dạy bằng lời ôn hòa, quỷ thần trừng trị nghiêm khắc. Chân ngụy đã rõ, xin lược nêu vài ý. Ban đầu nói cấm kinh chỉ giá, luận Huyền Quang chép: Các kinh của đạo gia chế tạp ý phàm, giáo tích tà hiển nên không phải kinh. Người giàu làm ra thì gọi là kinh, người nghèo viết lại thì không bao giờ được truyền, tham tài lợi, không từ bi. Về phương thuật thì nhơ uế, nghiến răng cho là trống trời, nuốt nước bọt cho là cam lộ, phân ngựa cho là củi linh, chuột mà xem là thuốc thần. Vọng xưng chân giáo. Thục ký ghi: Trương Lăng vào núi Hạc Minh, tự xưng là thiên sứ. Cuối niên hiệu Gia Bình nhà Hán bị rắn cắn, Tử Hoành cho là linh hỏa. Đầu niện hiệu Quang Hòa, lại cho người truyền rằng ngày bảy tháng giêng Thiên sư thăng thiên. Đó là mê hoặc lòng người, vọng tạo kinh sách để làm loạn tâm người. Đạo quỷ khăn vàng làm loạn nhà Hán, Tôn Ân cầu tiên gây họa hoàng thất, phá nước, loạn phong tục, mê hoặc thiên hạ, năm thiên đạo đức không hề có… Tất cả là giải pháp của Tam tương, không phải hoài bão của Lão Tử. Đọc tập luận của Pháp sư, vua hỏi các quan, không ai dám bác bỏ điều gì. Lúc đó không còn cảnh phế lập, sáu năm sau, đến ngày mười bảy tháng năm niên hiệu Kiến Đức năm thứ ba thì diệt cả Phật, Đạo, chỉ tôn thông Đạo quán, người học thu được gọi là học só thông đạo quán. Pháp sư Tăng Mãnh chùa Nguyện quả ở Tân châu đất Thục dâng lên vua một bức thư trong đó có mười tám điều. Xin lược nêu: Người ta nói Lão Tử, Doãn Hỉ đến phương Tây, Lão Tử thuyết giới kinh, Doãn Hỉ viết Phật giáo hóa người Hồ, lại nói tiên sinh Quỷ Cốc soạn Nam Sơn Tứ hạo chú. Những ai chưa tìm kỹ thì tin là thật. Lạ thay truyện này! Quân tử còn không thể lừa huống chi là bậc Thánh. Nay trình việc này không phải là để chỉ sự sai lầm của thế gian hay hủy nhục Lão Tử. Người trí không nêu những lời ấy, chỉ kẻ ngu mờ mới tranh biện với Phật giáo, mượn tên tứ hạo của Quỷ Cốc để sau truyện Doãn Hỉ để mê hoặc lòng người. Trộm nghe truyện mà không tập thì Phu tử không cho làm càn, là điều mà Lão quân cấm kî. Thật là tai họa lớn, thêm lớn ba đường ác, cần phải thay đổi. Giáo có trong ngoài, áp dụng thì khác, người có hiền thánh, lại mê hoặc bổn tích. Vì thế Ban Cố Hán thư chia con người ra làm chín: Môn đồ họ Khổng là bậc thượng thượng, là thánh. Lão chưa bằng thánh cho nên là trung thượng, là hiền. Như vậy Hiền thánh đã rõ. Niên hiệu Hoàng Sơ năm thứ ba vua hạ lệnh cho thứ sử Dự Châu hỏi về việc xây miếu thờ Khổng Tử: Hán Hoàng Đế không tôn pháp thánh, lại thờ Lão tử, cầu phước. Trẫm đến xem thì thấy miếu hoang phế nên hạ lệnh sửa chữa. Nếu không làm thì e có kẻ lợi dụng làm càn, nên thông báo cho quan dân đều biết. Vua không tiếp nhận lời bàn của Pháp sư Mãnh. Pháp sư Ái biết tin thì than: Năm chúng lưu li, bốn loài mê hoặc, ăn cơm uống nước nhà Chu nhưng không đền ân đức, lại là đệ tử Phật há ngồi nhìn Phật pháp suy diệt. Pháp sư liền vào cung, tâu rằng: thần đến đây với hai ý: Báo ân Tam bảo, đền ân đức Đàn-việt. Pháp sư viện dẫn kinh điển, hùng biện thông suốt từ sáng đến trưa, vua tuy nghe nhưng chưa quyết. Pháp sư nói: Thích – lí tà chánh đã rõ, bệ hạ không phải khổ tìm. Vua liền hạ lệnh cho lưu. Sa-môn Đạo Tích ở Nghi châu cũng đến khuyên can nhưng vua không nghe. Sa-môn liền cùng bảy người tuyệt thực, lễ sám trước tượng Di Lặc suốt bảy ngày thì tịch. Sa-môn Ái vào núi Nam, tự cắt phần thịt phơi trên đá, lấy ruột treo trên cây. Sau người ta tìm đến thấy bài kệ: Nguyện xả thân này Pháp thân tự tại Tùy nơi tạo phước Các nghiệp đều diệt Ba cõi vô thường Tự giết, bị giết Người trí không thích Được thân tự tại Đi khắp mọi nơi Hộ pháp độ sinh Là pháp hữu vi Ngày giờ tên bắn Đều là như thế Hôm nay nghiệp hết. Việc thứ hai: Chu Vũ bình Tề nhóm họp tăng chúng bàn việc hưng phế, Pháp sư Tuệ Viễn kháng chỉ. Mùa xuân niên hiệu Thừa Quang năm thứ hai, Chu Vũ Đế nhóm họp tăng ni, bàn việc phế lập, nói: Trẫm thọ mệnh trời, cai trị đất nước, hiện có ba tôn giáo, phong giáo cách xa, nay xem xét phải phế. Sáu kinh Nho giáo hưng việc triều chính, lễ nghóa trung hiếu hợp với lòng người cho nên để lại. Về Phật giáo, là Phật thật thì không cần hình tượng, chỉ cần thành tâm là được. Kinh Phật thường khen ngợi việc xây chùa lập tháp tạo phước, đó là vật vô tình nào có ân huệ gì? Kẻ ngu tin càn dốc hết của tiền ra làm, cần phải trừ diệt. Vì thế kinh tượng thì đem đốt, tăng ni thì cho hoàn tục để làm tròn đạo trung hiếu. Ý trẫm là thế, các đại đức thấy thế nào? Chư Tăng đều im lặng. Pháp sư Tuệ Viễn thấy vậy liền tâu: Bệ hạ là đấng chí tôn cai trị đất nước, tùy tục hiển ba tôn giáo. Bệ hạ chiếu rằng: Chân Phật không tượng, thật như vậy. Nhưng tai mắt sinh linh nhờ nghe kinh thấy tượng mà hiển bày chân thân. Nếu phế bỏ thì không làm sao thờ cúng. Vua nói: Chư Phật trong hư không đã tự biết, cần gì nhờ kinh tượng. Pháp sư nói: Trước thời Hán Minh đế, chưa có kinh tượng, sao chúng sinh ở đây không biết có chân Phật ở hư không? Lại nói: Nếu không cần kinh giáo mà tự biết pháp thì trước thời Tam Hoàng không có văn tự, con người có tự biết ba luân năm thường hay không? Người lúc đó vì sao chỉ biết mẹ, không biết cha, như loài cầm thú? Nếu cho rằng hình tượng vô tình, tôn thờ không phước, cần phế thì các tượng trong bảy miếu của nước nhà há có tình, sao lại thờ cúng? Vua nói: Kinh Phật là pháp của nước khác, nước này không cần dùng phải phế, bảy miếu là của đời trước làm, trẫm cho là trái nên sẽ phế cả. Pháp sư nói: Nếu cho rằng kinh của nước khác không cần dùng thì vì sao kinh của Trọng Ni là thuộc nước Lỗ, nước Tần, nước Tấn phải phế mới đúng chứ! Nếu cho là cần phế bảy miếu thì không tôn tiên tổ. Tiên tổ không tôn thì Chiêu Mục mất gốc, Chiêu Mục mất gốc thì sáu kinh không dùng. Vậy mà tôn dùng đạo Nho hay sao? Nếu thế thì phế cả ba giáo, trị nước bằng gì? Vua nói: Phong tục đất đai mỗi nước một khác, nhưng đều là chịu sự cai trị của vua, nên không cần kinh Phật, không dùng bảy miếu. Pháp sư nói: Nếu cho rằng đất nước khác nhau cùng thờ một tôn giáo thì Thiên Trúc và Trung Hoa tuy khác, sao không cùng thờ kinh Phật? Vua cho rằng tăng hoàn tục về nuôi nấng cha mẹ, Khổng kinh có dạy: Lập thân hành đạo để làm hiển danh cha mẹ, đó là hạnh hiếu, cần gì phải về nhà. Vua nói: Ân cha mẹ sâu nặng, cần nuôi dưỡng, bỏ thân hướng sơ không phải là chí hiếu. Pháp sư nói: Nếu vậy thì những người hầu của vua đều có cha mẹ sao không để họ về mà để cho họ sáu, bảy năm không gặp cha mẹ. Vua nói: Trẫm cũng cho họ luân phiên về phụng dưỡng cha mẹ. Pháp sư nói: Phật cũng cho chư Tăng mùa xuân, mùa thu về phụng dưỡng cha mẹ. Vì thế Tôn giả Mục-liên xin cơm dâng mẹ, đức Như Lai thì lo tang lễ cho vua cha. Lý này là một, không thể bỏ phế. Bệ hạ cậy oai quyền, phá diệt Tam bảo, là người tà kiến. Địa ngục A-tỳ không phân sang hèn, sao bệ hạ không sợ? Vua cả giận, nói: Chỉ cần trăm họ được vui, trẫm không sợ khổ địa ngục. - Bệ hạ chỉ dạy bằng pháp tà thì đem khổ cho dân, họ sẽ cùng bệ hạ xuống địa ngục, làm gì có vui. Vua đuối lý nhưng vẫn nói: Đuổi tăng hoàn tục, trong vòng ba năm Phật pháp bị diệt, tất cả các chùa đều bị biến thành nhà của quan, chư Tăng bị bắt làm dân binh, kinh tượng đều bị đốt, tài vật của chùa đều bị sung công. Một năm sau vua bị bệnh truyền nhiễm, trốn ở cung Vân dương, bảy ngày thì chết. Theo Đường Lâm Minh Báo Ký của Lại bộ thượng thư nhà Đường: Thì Tạ Tề Công bị chết, sống lại kể rằng: Lúc mới chết thấy Chu Vũ Đế, Đế nói: Hãy chuyển lời ta đến thiên tử nhà Tùy, vì ông là bạn của ta rằng đem tài vật mà ta đã chứa để xưa nay làm phước cứu ta, ta diệt pháp phải chịu tội khổ. Vua nhà Tùy liền cho làm theo. Việc thứ ba: Chu Cao Tổ tuần du đất Nghiệp, phá diệt Phật pháp, thầy Đạo Lâm dâng sớ xin khai pháp. Ngày bốn tháng mười một niên hiệu Kiến Đức năm thứ sáu nhà Chu, ở điện cung Tân nội sử Vũ Văn Áng, thượng só Lý Đức Lâm nhận sớ tấu của thầy Đạo Lâm. Thấy tấu sớ có ý, thượng só đưa thầy Đạo Lâm vào gặp vua, vua bảo: Khanh dâng sớ không phò triều chánh, trẫm rất vui, hãy trình bày rõ. Thầy Đạo Lâm thưa: Lâm tôi vốn mở mang đạo pháp, trước bàn việc triều chính dường như giúp các bậc minh quân, sự thật không có tâm hộ pháp. Từ khi họ Thích truyền pháp đến đây, quyền ứng khắp nơi, trí lực cao diệu, mở mang chánh pháp, cứu giúp chúng sinh ở cõi năm trược, trời người sáu đường không ai quy về để được khai ngộ. Từ đời Hán đến nay đã hơn năm trăm năm, vương công, khanh só đều tôn thờ. Nhà vua diệt pháp. Bệ hạ thống trị thiên hạ, thừa kế tổ tiên, sao lại không kính Phật pháp. Nếu không tốt thì tiên tổ đã diệt, nếu có ích thì bệ hạ cũng phải thực hành, thần không hiểu vì sao lại phế bỏ? Vua bảo: Phật ở Tây Vực, truyền pháp đến đây, phong giáo đã khác với Trung Quốc nên tuy có ở đời Hán, Ngụy, Tấn nhưng như không, năm xứ Hồ sẽ loạn, phong hóa mới thạnh. Trẫm không phải là Ngũ hồ nên không kính, đã không phải là chánh giáo thì phải phế diệt. Thưa: Phật giáo truyền đến đây đã bảy đời vua, Lưu Uyên đoạt ngôi nhà Tấn không phải trung hạ, không phải chánh gốc, xưng là Ngũ hồ. Thời Hán, Ngụy, Tấn, Phật pháp đã được hưng thịnh, Tống Triệu đều tôn phụng, bệ hạ sợ mình tu Phật như Ngũ hồ, xin thực hành pháp như Hán Ngụy. Vua nói: Kinh Phật tuy nhiều trẫm cũng có xem, nhưng phần lớn là những lời luống dối. Khi gặp tội thì bảo là của quá khứ, không có phước thì chỉ thuộc vị lai. Về sự thì phần lớn là mê hoặc. Về việc khuyên làm lành bỏ ác nào khác tổ tiên. Trước đây đã từng bị phế tức là không có ích, nên nay phải phế trừ. Thưa: Lý sâu lời cao, thường tình không thể hiểu, nghó xa sự vi diệu, kẻ hèn không thể lường. Lý Phật cùng tột pháp giới, thể giáo không trong ngoài, hạnh thì mình người đều tốt, quả thì vô vi an vui, trao đức thì ân bằng trời đất, trao đạo thì lợi ích không cùng, thần thông tự tại, giáo hóa mọi nơi, cứu độ oán thân, từ bi không tổn hại, giới trừ ác, định trừ loạn, tuệ soi xưa nay, mọi nhà đều học thì dân yên, mọi nước đều làm thì không binh biến. Nay không thực hành làm sao có ích? Thần nghe, hiếu là đạo cao tột của trời, thuận là đức nuôi của đất, hiếu là gốc của muôn hạnh. Xưa đại đạo hoại, nhà Ngụy diệt, Thái tổ sáng lập nghiệp vương, nhờ thế mà bệ hạ được lên ngôi hoàng đế. Vua cần ban đức cho thiên hạ sao lại tự cố chấp cậy quyền lực để tàn hại những gì tổ tiên đã xây dựng, tôn thờ. Giường ghế của cha mẹ còn không dám làm hư huống gì sự nghiệp của tổ tiên sao lại phá hoại. Đất nước còn mất nào có liên quan gì đến Phật, chính trị hưng suy nào do chánh pháp. Bệ hạ tin vào sự suy xét của một lúc mà để thiên hạ cười chê đến muôn đời. Vua bảo: Nghóa mà đạo hiếu không phải là chí cực? Nếu cố chấp thì chỉ lợi một thân. Bậc đại trí ngược với thường nhưng hợp với đạo. Thang Vũ diệt Chủ nhưng là nhân trí, Vó Sinh Thủ Tín họa đến thân diệt. Nếu có ích thì làm, không ích thì diệt, không thể bảo hộ một người để gây họa bốn biển. Sa-môn hoàn tục để phụng dưỡng cha mẹ, thành người có hiếu, tự nuôi sống mình, không phiền đến kẻ khác, để kẻ có tài ra giúp nước là hợp với đạo hiếu. Thưa: Nếu nói hoại Phật hủy tăng ni là có ích thì Thái tổ đã diệt nào phải để đến giờ, kẻ diệt đạo nào có ích gì? Vua bảo: Pháp hưng diệt còn có lúc, đạo nếu có còn thì phải diệt huống chi là Phật pháp không có ích, không thể để lại. Từ lúc diệt pháp đến nay dân ít phải lao dịch, tăng binh được nhiều, Đông tây diệt loạn, nước an dân vui, há không có ích hay sao? Trẫm diệt pháp nếu trái đạo thì thân hoại. Thưa: Nước lập quý nhất là đạo, nuôi dân phải tôn đức. Chỉ thấy đạo diệt nước tan, không thấy binh cường nước mạnh. Kiệt Trụ bạo ngược mất nghiệp đế, Chu Vũ tu đức phước nhóm hoàng thất. Khương Kiều đánh mà hại thân, Câu Tiễn dùng đạo biến nguy thành an. Như thế có liên quan gì đến việc hoại Phật hủy tăng, mới bình định thiên hạ. Nếu thật thì Thang đánh nhà Hạ, Văn Vương diệt Tống, Vũ Vương diệt Trụ, Xích Hán diệt Hạng, các vị vua này nhờ hoại Phật mà thắng hay sao? Kế là nói về nhân pháp, Phật tánh, sắc tâm… Sa-môn đều biện phải rõ ràng. Vua nói: Ngôn hạnh không trái thì sẽ vào thánh vị, đạo có ở mọi nơi, phàm thánh đều đủ, giáo không chia Khổng, Phật, hình chung đạo tục, như vậy đế vương là Như Lai, vương công là Bồ-tát, người già là thượng tọa không cần Tân đầu; nhân tuệ thật là Đàn-việt đâu cần bỏ nước; hòa bình là tăng cần gì phải Bồ-tát; trinh thuận là Mộc-xoa, cần gì thọ giới; cần kiệm là ít ham muốn, không cần khổ hạnh; rau trái chay tịnh cần gì phải dứt sát sinh; tất cả đều vô ngã, cần gì hiểu không; là Đại thừa, cần gì cầu Bát-nhã; Văn Vũ là hai trí, chẳng quán có không; quyền mưu là phương tiện cần gì biến hóa; thăng quan là thọ ký, chứng quả làm gì; tước lộc là cõi trời cần gì phải lên trời; chém giết đã là địa ngục; dân là con tức đại từ, bốn biển là nhà tức cùng pháp giới; dùng lý để thống trị nào khác cứu vật, an vui trăm họ nào khác cứu khổ, chém giết là hàng ma, vua ở trong đời là đạt đạo, hưng thịnh nào khác tịnh độ, cứu giúp cần gì nhờ Thích-ca. Khinh vọng chấp, ngay trong mọi việc là đạo. Thưa rằng: Lời của bệ hạ hay thì có hay nhưng thần vẫn nghi ngờ. Nếu đạo chỉ có một thì không thể dung hai. Nếu lý ở ngoài thì bên trong thường khác. Nếu một mà chẳng phải một thì nửa đúng nửa sai; hai mà không hai thì vừa đạo vừa tục, tăng tục lẫn lộn, trong ngoài trên dưới lẫn lộn. Âm dương đều là khí nhưng sinh diệt có khác, trời đất đều là vật nhưng cao thấp khác nhau, không thể cho là vật là khiến đất động trời tịnh, hoặc cùng là khí mà khiến âm sinh dương diệt, thì không thể có việc này. Tuy giống mà không giống, một nhưng không phải một, đạo tục tuy cùng lý nhưng hoàn toàn khác nhau. Nho thường đã có từ xưa, không thể lập một bỏ một. Vua bảo: Khanh nói: Đạo tục khác nhau thì Nho hưng mặc Nho, Thích diệt mặc Thích sao lại so sánh. Nếu đạo chỉ là đạo thì đạo có lợi gì. Phật chỉ là Phật thì Phật độ có ích chi. Đạo tục nương nhau Nho Thích hiển hiện. Khanh đừng cho là trẫm sai, nếu quốc pháp không thực hành thì pháp vua diệt, phế hưng là việc thường. Như lời bệ hạ nói, đạo không tự là đạo, không có tục thì không có hiển đạo, Phật không tự là Phật mà nhờ vua hưng thịnh, vì thế năm trăm năm qua pháp Phật hưng phế đều do quyền lực của vua. Như vậy đạo nhờ người phát, thần do vật cảm. Sự hưng suy của pháp là lẽ thường. Pháp của đế vương phải lấy bỏ rõ rệt. Trẫm có suy xét về giáo pháp Phật, so sánh xưa nay, xét từ việc làm đến sự được mất, không phải thường nên không cần nào phải yêu ghét. Thưa: Hoằng pháp chủ yếu là hiểu người, thông hóa quan trọng là chánh pháp. Đừng thấy ác với mình mà xa lánh, thấy thiện với mình mà gần gũi, vì đó là tà kiến. Lại khiến càng xa thì gần, càng gần thì xa, hại chân hoại đức. Vua lại hỏi: Trẫm nghe quân tử động tónh đều hợp lẽ, bậc minh triết nghó làm đều hợp cơ. Khanh không ăn thịt uống rượu thì rượu là thuốc hòa thần, thịt là chất dưỡng thân, xưa nay đều như vậy, sao khanh lại khác. Được ăn mà không ăn há không có lỗi hay sao? Tham tài sắc là kẻ hèn, ham rượu thịt là kẻ xấu, học đạo bỏ vọng tiên hiền đều khen, tiết dục tôn đức thánh triết ngợi ca. Thịt do giết ma- ïng, rượu làm loạn thần trí, không ăn là hợp, làm sao có lỗi? Thịt do giết nên cấm, rượu nào tổn hại sao lại cấm? Nếu không tổn hại mà có tội, không lỗi mà sai thì ăn chay uống nước là đều có tội. Thật ra không phải như thế, sao lại dứt rượu? Thưa: Kiết giới tùy sự, đắc tội do tâm, rượu không tổn hại nhưng làm loạn tinh thần, gây ra các lỗi khác, nên phải cấm. Vua nói: Nếu uống mà không say thì đâu làm loạn tinh thần, như vậy thì đâu có tội. Thưa: Ngăn lỗi phòng tội là tốt, thân miệng không trái là tốt. Người uống không say, không phá giới khác thì không có tội nhưng vì thường là uống có tội nên không uống. Vua nói: Đạo só đạt đạo là do liễu ngộ, không chấp tướng, tâm hợp pháp tánh, ý như hư không, muôn vật đều tốt, thiện ác đều là đạo. Như vậy ăn thịt uống rượu, cưới vợ có con nào có tội lỗi gì. Vì thế thái tử cưới vợ đạt đạo, Chu Đà bỏ vợ đắm chìm, Tịnh Danh ở trong tục mà đạt đạo, Thân Tử xuất gia mà chấp chặt. Như vậy thiện chưa phải là thiện, ác chưa hẳn là ác, cấm rượu thịt thật trái đạo. Thưa: Rồng cọp nhờ nanh vẩy, chim chóc nhờ đôi cánh, quân tử nhờ hiểu hành, hiền triết thành đức nhờ chân thật nên trong ngoài hợp nhau. Nếu hiểu mà không hành thì là dối không thật. Vì thế người thợ cần dùng mực để đo, người cai trị thiên hạ phải nhờ pháp. Do đó, một việc sai là đau thấu xương tủy, một lời đúng quý tựa ngàn vàng. Nếu ác là tốt, ngu là trí thì kẻ dốt ngu lên làm vua, người tài trí xuống làm dân, vua dân lẫn lộn, điều đó chẳng thể có, có khác gì miệng thì nói trung hiếu mà làm việc trái nghịch, miệng thì nói từ bi, xả bỏ mà lại giết hại trộm cướp. Nếu cho đó là đạo thì thật khó tin. Vua nói: Vọng chấp thì không thể bàn đạo, kẻ tiểu trí thì không thể nói về chân, con cá dưới giếng đâu biết việc của biển đông, chim sẻ trong tổ nào biết việc của chim đại bàng. Đó là chấp nhỏ mà không thông lớn, chấp văn không tỏ ý. Nếu nói ngã ở trong vật, vật ở trong ngã, ngã vật đều quên, mình người là một, với người rỗng tâm, mọi vật như nhau, với người tài thì mọi việc đều làm được. Thưa: Danh nghóa sâu rộng, cội nguồn mênh mông, thật là có lý, sự như nhòm trời, ai cho là rộng, cùng đo biển nào mà biết biển sâu, nếu nói nhỏ nhỏ hơn lớn, không lớn thì không nhỏ, lớn là lớn hơn nhỏ, không nhỏ thì không lớn. Nếu lớn không gì không lớn thì sợi dây không phải nhỏ, nhỏ không gì không nhỏ thì núi Thái không phải lớn nên kh- iến lớn lớn không là lớn nhỏ, nhỏ nhỏ không phải nhỏ lớn, nhỏ lớn khác mà giống, lớn nhỏ giống mà khác, không có sự giống khác của lớn nhỏ, mới biết chẳng phải khác có thể khác giống, không phải giống có thể giống khác. Vua im lặng, các quan cũng mặc nhiên. Lúc lâu vua lại nói: Vì sao khanh chọn sự tónh lặng, muốn phá có đưa về không, chớ nghó là không nói được thì thôi. Thưa: Người xưa suy xét trước khi nói nên xưa có người không nói, có người quên công. Im lặng là thể hiện chẳng phải không hợp. Vua nói: Người xưa không làm nhưng chẳng gì không làm, người biết không nói chẳng phải không nói, chim két nói nhưng vô dụng, Phượng Hoàng không nói nhưng lại có ích. Gỗ không dùng nên còn, nhạn không kêu thì chết, nhưng lấy bỏ tự hợp. Kẻ só có lời mà biết, người có thấy đạo mới còn, lại có thấy sắc xét tình, nghe lời bàn đức. Trẫm và khanh nói đã nhiều, khanh hãy ghi lại để người đời hiểu ý trẫm, như thế là trung thành với trẫm. Sa-môn sợ pháp diệt mà trình tâu, vua không vừa ý nên bàn, biện luận tuy rõ, cuối cùng không phải ý chính. Sau khi Trường an phế giáo, lập ra thông đạo quán, những người học theo chỉ thuộc Lão, Trang, Thích nói suông. Vua lại bảo vào thông đạo quán học tập thì rất bổ ích. Hãy nhập quan, đến ngày một tháng năm đến cung Diên thọ gặp. Ngày hai mươi bốn vua đến cung Vân dương, đến ngày một tháng sáu thì mất. Sau vua kế vị lại cho phép mở mang truyền bá pháp Phật. Việc thứ tư: Tùy Văn Đế hạ chiếu đốt kinh tượng Lão giáo ở Hàng châu. Đức Diệu Giác từ bi, coi chúng sinh như con một. Huyền môn gieo độc, tự xưng là mẹ của muôn vật, đại giáo hóa độ ở phương Tây, đạo vô vi bao trùm nước thần. Cõi tịnh há không dung người chân thật? Ở Đông nam (có tên là hang ô) có một nơi thờ chung cả Phật đạo, mất hết sử ký, không biết tìm đâu, ngày tháng càng dài, không biết được xây đạo bao lâu. Chợt có kẻ lạm dụng che đậy nhưng khi đất lở thì Lão tử biến mất, Phật linh vẫn hiển hiện. Hoàng Hạc đã bay cao, bò xanh liền đi xa, không biết sao lại có thuốc kim đan. Tập luận nêu: Chánh tà lẫn lộn, người trí như ngu; u minh dứt mắt, hiển hiện hình này. Từ lúc Đức Diệu Giác chiếu soi đến cõi không hữu này, điềm lành cảm ứng khắp tâm phàm thánh, tất cả đều nương về nên diệt sáu vị giáo chủ ngoại đạo ở Xá-vệ, hàng phục trời ma, làm sao có thể đem ra so sánh với Lão tử, Hoàng Cân. Từ nhà Chu đến nhà Đường đều tôn xưng Phật pháp, nhưng đạo Lão thì thường bị khinh hủy. Gần đây ta có tìm đến thánh tích, đến nơi được gọi là lâu quán, trong đó có Tôn thánh quán, phía Nam có miếu của Doãn tiên sinh. Các đạo só nói đó là nơi chính của Lão tử. Doãn Hỉ học đạo nên lập miếu riêng. Quán ấy ở sát núi Nam, gần đó có một cái đài bằng đất, cây cối um tùm, là mộ của Lão tử. Hỏi ra thì người nhà của họ Doãn cho rằng đó là ngôi nhà cũ của họ Doãn. Tiên quân muốn nhìn xa nhưng đất rộng cây rậm không thấy được, bèn làm cái gác để nhìn và đặt tên là lâu quán. Vốn không phải là nhà của lão quân. Lại nói phía Đông nam có có đài cổ của tiên quân, trước đó tiên quân và Lão tử có lên đài này, tổ tông thừa kế phần mộ bị lạc, không nghe việc tiên quân và Lý lão đi qua đây. Lại nói: Xưa nghe Lý lão sinh ở huyện Khổ quận Trần, khi đến đất Tần thì chết ở làng Hoè. Chúng tôi hỏi ra thì ở phía Bắc sông Vị còn làng Hoè, ở đó có một ngôi mộ nhưng không biết của ai. Trong địa đồ chỉ ghi là ngôi thành cổ mà không ghi niên đại. Lưu Sa là đất Đôn Hoàng Minh Sa. Ở đó có đất Lưu Sa nhưng không có phong giáo. Xét trong kinh Hóa hồ Tây Thăng thì xưa Lão tử có đến giáo hóa nhưng người Hồ không theo, Doãn Hỉ liền biến thành Phật, người Hồ mới theo. Các sách ghi chép đều không đáng tin. Tùy thượng thư sai Sở quốc công Dương Tố đến lâu quán, thấy bức họa Doãn Hỉ giáo hóa người Hồ, Dương Tố nói với các đạo só: Nghe nói Lão quân giáo hóa người Hồ, người Hồ không theo, mới bảo Doãn Hỉ biến thành Phật, người Hồ mới theo. Như vậy là Phật giáo hóa người Hồ, người Hồ chỉ phụng Phật, sao lại nói Lão tử hóa độ người Hồ? Sau thái sử lịnh phó Dịch, vốn thuộc quân Hoàng Cân, rất ghét đạo Phật nên dâng sớ sàm tấu, trong đó có một điều: kinh Phật dối trá, tổn nước hại nhà, xin đuổi Hồ giáo về Thiên Trúc, cho Sa-môn về nhà cày cấy, để nước nhà hưng thịnh, giáo pháp của Lý – Khổng được truyền bá. Vua quan nghe theo lời xấu, vua hạ chiếu: bỏ râu tóc của cha mẹ, bỏ y phục của vua quan, nào có lợi ích gì. Sa-môn Thích Pháp Lâm liền dâng sớ tâu: Lâm nghe đạo lớn không ngôn ngữ, hàng cửu lưu không thể biết; pháp thân không hình tượng, hàng Thập lực không thể bàn. Bốn loài ngu ngơ chìm trong biển dục, ba cõi mơ hồ vào núi tà, kẻ ngu mê mờ không thoát bậc đại thánh vào đời, mở cửa giải thoát, hiển bày đường chánh. Vua quan Thiên Trúc xuất gia vì lòng từ, quý tộc Hoa Hạ xuất gia vì chán bã vinh hoa, nguyện thoát sinh tử, cầu Niết-bàn vi diệu, hành thiện để đáp bốn ân, lập đức để giúp ba cõi, hủy thân để thành chí, bỏ tục để hợp đạo, tuy bên ngoài khác nhưng vẫn giữ chữ hiếu bên trong, lễ trái nhưng luôn nghó đền ân, từ bi với kẻ oán người thân, phúc đức thấm khắp mọi nơi. Người trí nương lời Phật mà có ích, kẻ ngu hủy thánh giáo cho nên tổn. Tuy vậy các Sa-môn, vua quan vẫn chưa quyết, Pháp sư liền soạn luận phá tà. Trang Chu nói: Trong sáu hợp bậc Thánh không bàn, ngoài sáu hợp bậc Thánh không nói. Lão tử nói: Trong nước có bốn cái lớn, đạo là một, một vạn ba ngàn hai trăm sáu mươi chín quyển sách đều ghi công; tôn phụng vua cha, không nghó đến con đường cao xa khác, do đó nhân quả ba đời bị vùi lấp, sáu đường mù mờ không biết lối ra. Đức Như Lai vào cung vua, thần vàng, tướng quý, đi thì có hoa sen đỡ chân, ngồi trên pháp tòa, ra vào đều có Phạm vương, Đế Thích hầu hạ, còn có chúng Thanh văn, Bồ-tát túc trực nghe học, tám vạn bộ thần đều bảo hộ. Phật giảng kinh Niết-bàn thì mặt đất chấn động sáu cách, giảng Bát-nhã thì trời tuôn bốn thứ hoa, trăm tướng trang nghiêm soi chiếu mọi loài, ánh sáng lấp cả mặt trời, sư tử mà gầm thì muôn thú quy phục, trống pháp vang thì trời ma đều cúi lạy, nên Phật được tôn là vua pháp. Lý, Khổng làm sao sánh được. Từ đó vua quan đều tỏ lòng, pháp Phật được hưng thịnh. Sa-môn họ Trần, thuộc dòng Thái Khâu Dónh Xuyên, Viễn tổ dời về Tương Dương nên gọi là Huyện nhân. Lúc nhỏ Sa-môn xuất gia tại chùa Ngọc tuyền ở núi Thanh khê, Kinh châu. Sa-môn là người thông minh, học hiểu các kinh sách trong ngoài. Về sau Sa-môn có xem xét việc Lão tử hóa Hồ như trên đã kể. Việc thứ năm: Vua nhà Tùy tôn trọng Phật pháp, thọ giới quy y. Theo Tùy Tổ khởi Cư Chú: Vua sinh ngày mười ba tháng sáu niên hiệu Đại Thống năm thứ bảy, tại chùa Bát-nhã, ở Đồng châu, lúc sinh có ánh sáng lạ mắt xuất hiện, người mẹ thì nóng bức, một vị thần ni tên Trí Tiên, họ Lưu, người Hà đông, chuyên tu thiền định nói: Đứa bé được Phật trời che chở, đừng lo lắng. Thần ni đặt tên cho bé là Na-la-diên, vì muốn bé như kim cang không thể hư hoại. Lại nói đứa bé không được ở nhà thế tục uế tạp, rồi đưa về chùa nuôi dạy. Người mẹ bằng lòng, không dám hỏi. Sau có người lạ đến bế đứa bé, biến thành rồng. Thần ni nói: Sau sẽ làm vua. Năm đứa bé lên bảy, thần ni bảo: Sau này sẽ hưng khởi từ phương Đông, Phật pháp nhờ con mà thịnh. Năm mười ba tuổi đứa bé được cho về nhà. Nhà Chu diệt pháp, thần ni ẩn cư. Sau đó đứa bé được làm vua, làm hưng thịnh Phật pháp, đúng như lời thần ni nói. Vua nói: “Ta thành vua là nhờ Phật.” Vua thích ăn chay, thích nghe tiếng chuông, sai sử quan chép lại chuyện của thần ni, cho xây chùa ở khắp mọi nơi. Vào niên hiệu Nhân Thọ, vua và hoàng cung thấy xá- lợi phóng hào quang nên xây tháp cúng dường. Nhà Chu diệt Phật vì nghe theo lời sấm là hắc y sẽ vượng, không biết rằng Tùy tổ được nuôi ở trong chùa. Vua rất tôn kính Phật pháp, ngày ngày thường thỉnh chư tăng vào cung hỏi pháp, vua còn xin thọ giới Bồ-tát tại gia. Phật pháp quả thật rất thịnh hành ở thời này. <篇> TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH <卷>QUYỂN 3 Việc thứ nhất: Vua Cao Tổ đời Đại Đường hỏi về lợi ích của tăng phục, Pháp sư trả lời. Nhà Đường lập các giáo đều hưng thịnh, nhưng vua Đường tôn kính pháp Phật hơn. Vua sửa phủ đệ xưa thành chùa Hưng Thánh trong kinh đô, ngoài ra còn trang nghiêm các chùa Hội Xương, Thắng Ng- hiệp, Từ Bi, Chứng Quả, Tập tiên. Còn Đạo quán thì ít được lưu truyền. Chư Tăng thịnh, đạo só suy, thường đề ra những bài, pháp tôn kính Phật pháp. Lúc đầu phó lệnh Trần Biểu Trọng bác bỏ, Pháp sư Lâm theo lời đối đáp. Nhà vua rất hài lòng khi xem, lại khen: Thượng đế không hỏi nhưng thần che chở, tuổi sáu mươi chín đã viết hơn ba mươi quyển, văn cú rõ ràng khiến đời sau tin theo. Lúc sống thì là phàm phu, lúc chết thì nhiều người thương tiếc. Việc thứ hai: Cao Tổ chọn ba giáo để hùng biện. Niên hiệu Vũ Đức năm thứ tám vua cho thiết lập đạo tràng ở quốc học tập hợp tu só của ba giáo về để hùng biện. Vua hạ chiếu: Lão giáo, Khổng giáo vốn là đạo của Trung Hoa, đạo Phật đến từ nước khác nên tôn trọng chủ, trước là Lão giáo, kế đến là Khổng giáo, sau cùng là Phật giáo. Vua nhìn khắp đạo tràng không ai phản ứng. Vua nhìn Pháp sư Tuệ Thừa chùa Thắng Quang – người được đại chúng tin kính nhất. Sau vua hạ lệnh: Trên trời dưới thế người là tôn quý nhất, thánh vương đều tôn Phật thánh, trước khi hùng biện nên tôn lễ nghi, tất cả hãy chấp tay quì gối thành kính đảnh lễ. Tất cả đều làm theo. Pháp sư thưa: Bệ hạ, vòi vọi thánh đức, như mặt trăng giữa các vì sao, không cần nói nhiều. Kế đến vặn hỏi. Trước vặn hỏi các đạo só: Tiên sinh phải rõ về kinh Đạo Đức, kinh ấy nửa đầu trình bày về đạo, nửa sau trình bày về đức, không biết có gì lớn hơn Đạo không? Đáp: Trên trời dưới thế đạo là tôn quý nhất, không có gì lớn hơn. Như vậy đạo cũng có thể được xem là pháp tôn quý nhất. Lão Kính nêu: Người pháp đất, đất pháp trời, trời pháp đạo, đạo pháp tự nhiên, sao lại trái với bổn tông mà cho rằng không có pháp nào hơn đạo? Và như vậy sao lại cho là đạo pháp lớn nhất, không có gì hơn đạo. Đáp: Đạo chỉ là tự nhiên, tự nhiên là đạo, nên không có pháp nào làm phép tắc cho đạo. Hỏi: Như thế tự nhiên có là phép tắc của đạo hay không? Đạo là phép tắc của tự nhiên, tự nhiên không phải là phép tắc của đạo. Như vậy tự nhiên không tức là đạo? Tự nhiên tức là đạo, như vậy trời tức là đất. Nhưng đất tức là trời, trời không là đất. Tự nhiên không là đạo. Nếu tự nhiên là đạo thì trời là đất, thế là quan hạ lệnh đạo só thua cuộc, vua vui mừng, các quan đều thêm tôn kính Phật pháp, đạo só thì im lặng không nói nên lời. Vua lại hạ lệnh cho đạo só vặn hỏi Pháp sư. Đạo só Phan Đản thưa: Thái tử Tất-đạt không thể thành Phật, phải sáu năm cầu đạo mới thành Phật, như vậy đạo sinh ra Phật. Phật có từ đạo. Đạo là thầy của Phật, Phật là đệ tử của đạo. Kinh Phật nêu: Cầu đạo Vô thượng chánh chân, phải thoát đại đạo, phát tâm vô thượng. Tiếng Ấn Độ là A-nậu-bồ-đề, tiếng Hán dịch là Vô thượng đại đạo. Như vậy, đạo lớn Phật nhỏ. Pháp sư đáp: Trung Hoa và Thiên Trúc là những nước láng giềng. Nhó sinh ở cuối Chu, Phật thị hiện ở đầu đời Chu, cách nhau gần hai mươi triều vua, hơn ba trăm năm, há có Đức Phật thời Chiêu vương cầu đạo ở thời Kính vương? Việc này hư thật đã rõ. Quan chủ tọa lại nói: Thái thượng đại đạo có trước trời đất, thật luống dối. Trước thời Ngũ đế nào có đạo gì, cuối thời Tam vương mới nghe tên Nhó, từ Hán Cảnh đế đến nay mới có đạo giáo. Xét xưa nay đạo là gì? Là âm dương. Từ âm dương hiện việc trời đất. Không thể nói có đạo sinh trước trời đất. Đạo đã không biết từ đâu làm sao sinh Phật? Xa Dận nói: Ở thân là đức, đối vật là đạo. Vương Sung, Ân Trọng nói: Đức là đạt, đạo là nguyên nhân, nói hiếu là có từ tâm. Vương Sung nói: Lập thân là đức, thành danh là đạo. Đạo đức là thế. Ông cho rằng đạo là cái gì khác sao? Nếu khác thì không cần bàn. Hay có ông thiên tôn đầu đội mũ vàng, thân mặc hoàng bào, râu dài đến tay, tóc bối, đang ở trên Đại la là đạo? Kinh sách không hề chép. Lúc đó mọi người đều nhìn Pháp sư với lòng kính trọng, do vậy đạo do người mà được mở mang truyền bá. Pháp sư họ Lưu, người ở Bành thành, ngay từ thời Trần đã là người giảng kinh luận nổi tiếng. Sau nhà Tùy chiếm ngôi, vua Dụng Đế lập bốn đạo tràng ở Hoài hải, Sa-môn cũng được mời về đó, là người đứng đầu trong số các Sa-môn được mời về. Từ đó về sau vua đến đâu đều thỉnh Sa-môn đi cùng, Phật pháp nhờ đó được hưng thịnh khắp nơi, chùa nhiều, tăng đông. Pháp sư thọ tám mươi tuổi, tịch tại chùa Thắng quang. Việc thứ ba: Đạo só Lý Trọng Khanh soạn luận hủy báng Phật, Pháp sư Lâm dâng sớ. Niên hiệu Vũ Đức năm thứ chín, đạo só Lý Trọng Khanh ở Thanh Hư quán, đạo só Lưu Tấn Hỉ vì ghen ghét Phật giáo nên dâng sớ sàm tấu. Lý Trọng Khanh nhờ Phó Dịch dâng lên vua luận Thập Dị Cửu Mê. Đầu mùa xuân, vua hạ chiếu chỉ cho một ngàn vị Tăng trụ ba chùa ở kinh đô, số còn lại bị đuổi về cày cấy. Lệnh ban ra không ai dám chống lại, tăng chúng phân tán, tiếng than dậy trời. Thái Tông xem xét luận Phá Tà của Pháp sư Lâm liền mở mang Phật pháp, tăng chúng lại được trở về chùa. Sau Pháp sư lại soạn luận Biện chánh gồm tám mươi chín quyển. Trần Tử Lương chú giải luận này. Việc thứ tư: Thái Tông hạ lệnh đạo trước Phật sau, tăng chúng khuyên can. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười một vua đến ấp Lạc, nghe Hoàng Cân và tăng só tranh luận, vua hạ chiếu: Lão quân mẫu mực, nghóa ở Thanh hư, Thích-ca di huấn, lý chứa đựng nhân quả, về giáo thì khác nhưng về tông thì giống. Nhưng đại đạo có từ xưa, phát nguyên vô danh, sự vượt hữu tình, lưỡng nghi vận hành, nuôi dưỡng muôn vật nên nước vui dân an. Phật giáo vốn từ Tây Vực truyền đến Trung Quốc từ thời Hán Minh đế, thần biến báo ứng khá nhiều. Do vậy kẻ ngu thì mười, người hiếu kỳ thì tìm, do đó mà tranh chấp. Nay nước thịnh nhờ đức trên, dân định nhờ công vô vi, nên xếp đạo trước Phật sau. Các Sa-môn dâng sớ khuyên can nhưng vua không nghe. Sa-môn Trí Thật, người thông minh, hiểu rõ trong ngoài, dâng sớ: Thần sinh vào thời thái bình, được gặp bậc minh quân, thầm nghó làm cha thì có các con tranh làm vua thì có các quan, chúng dân tuy là người xuất gia nhưng đều thuộc thần tử, có tội thì bị trị. Nghe chiếu của bệ hạ, đâu dám kháng lệnh. Xét Lão tử không lập đạo quán, không độ người, ẩn thân dưỡng tánh, người trí thấy vậy gọi là trí, kẻ ngu thấy vậy cho là ngu, ngoài giáo ông ra không ai biết được. Nay các đạo só không vâng theo pháp ấy, y phục của họ đều thuộc nhóm Hoàng Cân, chẳng phải thuộc dòng Lão Tử, họ thực hành những thuật pháp ô uế của Tam Trương, bỏ pháp hay trong năm thiên. Từ Hán Ngụy đến nay, họ thường dùng đạo ma quỷ mê hoặc lòng dân, giả xưng là đệ tử Lão quân, sự thật là thuộc dòng tả đạo, nếu họ ở trước tăng ni e chân ngụy cùng dòng, tổn hại nền văn hóa nước nhà. Nếu không trình thưa làm sao hiển bày lòng thần tử, mong bệ hạ soi xét. Trung thư thị lang liền hạ lệnh vua: việc của tăng đã xong, ai không phục thì phạt đánh bằng gậy. Nhưng các đại đức tuổi cao sức yếu khó kham được, Sa-môn Trí Thật liền nói: thần không phục, mọi hình phạt để thần chịu. Đánh xong, vua thả Sa-môn về. Sa-môn xuất gia từ nhỏ trụ chùa Tổng trì ở kinh đô. Lúc còn là sa di đã là chú tiểu có dũng khí, tài hùng biện. Khi thọ giới Cụ túc, Sa-môn nghiêm trì giới luật, hùng biện thông suốt những câu vặn hỏi. Đầu thời Vũ Đức, Sa-môn lập một đội tăng só hơn ngàn người. Khi bị bắt hoàn tục Sa-môn đã khóc than tha thiết. Sau Sa-môn lại được xuất gia về chùa cũ. Gặp chiếu vua cho đạo trước Phật sau, Sa-môn và mười người dâng sớ nhưng không được vua chấp thuận. Sau Sa-môn bị bệnh nặng, có người khuyên ăn mặn, Sa-môn không chịu, thà chết không phá giới. Sa-môn tịch ở tuổi ngoài ba mươi. Việc thứ năm: Hoàng thái tử triệu tập học giả ba tôn giáo để hùng biện. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười hai, Hoàng thái tử tập hợp các học giả ba tôn giáo về điện Hoằng Văn để hùng biện. Pháp sư Tuệ Tịnh được mời thăng tòa giảng kinh Pháp Hoa, đạo só Thái Hoãng cũng được mời nêu câu hỏi. Đạo só hỏi: Trong kinh gọi phẩm tựa là phẩm thứ nhất, nghóa là sao? Đáp: Như Lai nhập định, hiện điềm lành, trời đất rung chuyển, tuôn mưa, mượn gần nêu xa, phá hai đưa về một nên gọi là tựa. Đệ là vị thứ, nhất là trước tiên. Đạo só nói: đệ là em, không phải là một, là một thì không có đệ. Hai chữ mâu thuẫn, làm sao dung hợp? Đáp: Đã nói rồi, đệ là vị thứ, nhất là trước tiên, tiên sinh đã không lónh ngộ mà hỏi càn, đó là tự làm khó mình, nào phải làm khó người. Đạo só nói: Xin giải thích lại. Sa-môn nói: Xưa có hai người, một tên Xà-nô, hai tên Thân Tử. Xà-nô thì nói đâu quên đó, Thân Tử thì nghe một biết mười. Như vậy khi truyền giảng pháp, kẻ ngu không hiểu là do mình, không phải do người giảng. Đạo só nói: Pháp sư không nói ra lời, sao lónh ngộ? Sa-môn nói: Bồ-tát nói pháp tiếng vang mười phương, đạo só ngồi đây như mê như say, như kẻ đui điếc. Đạo só nói: Dã can nói pháp làm sao nghe được. Đáp: Cung điện nghiêm ngặt làm sao có dấu thú, đạo só mê mờ, gọi người là thú. Khổng Dónh Đạt nói: Tôi nghe nhà Phật không tranh, sao Pháp sư lại hùng hổ? Đáp: xưa đã có việc này, Phật pháp ngoại đạo, ngoại đạo không thông, lại nói Phật: Ông thường rao nói bình đẳng, nay ông vặn hỏi phá tôi vậy là không bình đẳng. Phật nói: dùng cái bất bình của ta pháp cái bất bình của ông, nếu ông bình, ta sẽ bình. Hôm nay cũng vậy. Hoàng Trữ nói: Quân tử không kết bè đảng, ông vốn thân với đạo só. Nghe vậy thái tử hạ lệnh: Pháp sư Tuệ Tịnh tài đức không ai bằng, mở mang chánh pháp, mời về làm trụ trì chùa Phổ Quang. Sa-môn họ Phòng thuộc quận Triệu, sinh ra trong gia đình Nho giáo, vốn tinh thông Nho học, sau xuất gia học hiểu ba tạng giáo điển, thường chăm lo việc mở mang chánh pháp, được nguời tăng kẻ tục tôn trọng. Ngoài ra Sa-môn còn chú sớ các kinh luận như Câu-xá, Tỳ-đàm, Đại thừa trang nghiêm. Sa-môn thọ hơn bảy mươi tuổi. Việc được ghi rõ trong Cao Tăng Truyện. Việc thứ sáu: Thái tử Trung Xá Tân Tế soạn luận Tế Vật. Hai Pháp sư Tịnh và Lâm hùng biện. Thái tử tánh tình cao ngạo, ưa thích đạo giáo, khinh Phật giáo. Pháp sư Tuệ Tịnh liền soạn luận đối đáp. Luận chép: Một âm giảng nói mọi loài đều hiểu, tất cả chúng sinh đều có tánh Phật. Phật-đà và Đại Giác là một, trí tuệ và Bát-nhã nào khác. Hay thay ý này, xin lược nêu, nếu hỏi giống đáp khác thì xin xem trong sách họ Khổng, tên một nghóa khác, lý rõ trong kinh Phật. Nếu tên giống nghóa không được khác thì hỏi một đáp không được khác, đây lên kia xuống. Vì trụ vô sở trụ nên tu học muôn pháp lành, vi vô bất vi, một nên ứng khắp, đâu chỉ bỏ thánh trí để tranh hơn thua, chỉ tốt riêng mình, không cứu được ai. Xem thường hơn kém đâu thể so sánh, hai tông đã nêu mọi thứ đều đạt. Luận rằng: danh ngôn kia đây có thể phân biệt, một nên đều hiểu e chỉ là lời suông. Đáp: Dù là lời Như Lai cũng phải phân biệt. Chim bằng và chim cú không thể cùng bay trên trời cao, đom đóm sao sánh được mặt trời mặt trăng, nước tưới sao sánh với trận mưa rào, hễ quân tử nói ra thì không thể nuốt lời. Luận rằng: các hành vô thường tùy loại duyên khởi, tâm đợi khí cầu. Như vậy thì tu tịnh là nhờ huân tu, tuệ định thành là nhờ khéo khắc phục. Đáp: Vô thường nên ta đi, duyên khởi nên ta đến. Đã đi thì sao là thường, đã đến làm sao là đoạn. Cũ mới nối nhau nhờ huân tu nên tịnh, tốt xấu thay nhau, không khéo khắc phục thì khó thành. Như vậy sinh diệt phá do đoạn thường, nhân quả hiển bày nhờ trung quán. Đó là sự gặp nhau giữa học thuyết Đông tây. Nếu bỏ đây lấy kia thì không sai hay sao? Luận rằng: Nối le cắt hạc há là chân như, cỏ khô ong bay há là chìm mất? Đáp: Tự nhiên là phần báo, huân tu là lý nghiệp, phần báo đã định, hai con chim không so dài ngắn lý nghiệp trợ duyên, hai con trùng đâu đợi bay, muôn vật dễ nghi, đắm chìm khó hiển, mất thân là quên mình, ngay cả La-hán còn mê y bát, Thập địa còn không biết La-sát, Thánh hiền còn là thế, huống chi phàm phu. Nếu không là bậc ba minh bảy biện làm sao tỏ lý u huyền. Nghe vậy thái tử tỏ ngộ. Nhân có người hỏi, thái tử nhờ Pháp sư Pháp Lâm giải thích lại. Pháp sư nói họ bàn về tánh Phật bình đẳng và một lời Phật nói ra, chúng sinh tùy khả năng của mình mà hiểu. Triệt ngộ hoàng triều là tiên giác, pháp vương ứng vật là Phật, trí tuệ là xảo thuật nhỏ, Bát-nhã là tông lớn. Phân biệt duyên khởi giả xưng là tâm giác, tánh tịnh là Phật. Phân biệt thì ở bên ngoài, tịnh tịnh thì ở bên trong. Phân biệt không quên là bên ngoài, khéo léo dẫn dụ là bên trong. Trang Sinh nói: Ta quên phải quấy không quên kia đây, vì sao? Vì Trí nhỏ không thể sánh với trí lớn, trẻ không thể so với già. Những gì Bành Tổ thấy nghe, kẻ tiểu nhân không thể hiểu. Huống gì lý ba đời pháp Nhị đế. Vì thế Phật nêu ra nhân quả để nói phàm phu cũng sẽ đến được quả thánh. Nhờ nhân mới có quả, có huân tu mới thấy biết. Bốn trí hiển hiện, chân như tự thành. Lại nghó nếu đã biết tùy nghiệp thọ báo, hai con chim đâu so dài ngắn. Xưa Hám Trạch có nói: Khổng Lão thờ trời, trời thờ Phật. Mọi khuôn mẫu được chế theo phép trời, mười pháp lành lại thờ phụng đức từ bi của Phật. Nếu so sánh Khổng Lão với Phật thì như nói Tử Cống giỏi hơn Trọng Ni. Sao cứ nhắm mắt làm càn, thật là sai lầm. Bảy mươi vị hiền đều học theo Khổng Tử. Về tánh linh độ sinh không hơn gì pháp Phật. Tống Văn Đế và Hà Thượng Chi đã nói về việc này rằng: nếu trong nước tất cả đều tôn Phật thì trẫm an hưởng thái bình. Thượng Chi nói: mười pháp lành được thực hành thì trời người hưng thịnh, năm giới được thực hành thì quỷ ma diệt, nhờ thế mà mọi người đều hiểu rõ. Việc thứ bảy: Thái Tông Văn Hoàng Đế hỏi Sa-môn Pháp Lâm về sự báo ứng. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bốn, các đạo só thuộc đảng khăn vàng sàm tấu, vua liền hạ lệnh sa thải tăng ni. Vua hạ chiếu: nhà Chu khi lập thệ ước, người khác họ thì ở sau, tiên tổ tôn trọng người thân là điều xưa đã có sao lại nói là lỗi. Đầu đuôi khác nhau sao dám hủy báng. Tội không thể tha. Pháp sư Lâm đáp: Văn Vương là bậc đại thánh, Chu Công là bậc đại thần, suy xét xa gần, hiếu để rất nhẹ. Hoàng thân không thiên vị, người xưa kết bạn vì lý không vì thân, không cho là trước sau, dù là người thân hễ có tội thì trừng, dù là kẻ sơ nhưng có công thì thưởng. Lão Tử chỉ dạy bằng đạo đức, dung thứ muôn loài, tự thân, nhân phong lưu truyền khắp nơi. Về thầy tôi (Đức Phật) là bậc rõ biết tất cả, tuy nhập Niết-bàn nhưng thường tồn tại. Nay họ Lưu hủy báng Phật tổ nên xin trình bày luận Biện Thánh tám quyển. Vua nói: Khanh cho là có báo ứng, rằng niệm Bồ-tát Quán Âm không bị giết. Ta cho khanh bảy ngày niệm Quán Âm, sau sẽ bị đem ra chém, xem linh nghiệm thế nào. Bảy ngày sau vua hỏi có niệm Quán Âm không? Sa-môn đáp: Thần không niệm Bồ-tát mà chỉ nghó đến vua. Vì sao? Vì thân tử anh minh là hóa thân của Bồ-tát. Nếu bệ hạ thuận theo trung chánh thì Lâm này không bị mất một sợi lông, nếu bệ hạ bạo ngược thì Lâm sẽ bị đau đớn khổ sở. Nghe thế vua liền hạ lệnh tha tội, phục hưng chùa tăng. Ngự sử Vi Tông dâng sớ tâu: Ngầm thấy đại đạo hưng thịnh, huyền phong truyền bá, giáo vô vi lưu truyền, không vì tham vọng. Đạo só Tần Anh giả học chú thuật, thân thích giết nhau, vợ con gian dâm, tình trái chánh giáo, tâm tựa sói lang, xin bệ hạ trừng trị những kẻ đội lớp người. Vua liền hạ lệnh trừng phạt. Việc thứ tám: Văn Đế đến chùa Hoằng phước, lập nguyện mở mang Phật giáo. Ngày mười bốn tháng năm niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười lăm, vua Thái Tông đến chùa Hoằng phước, Tăng chúng đều trốn lánh. Vua cho mời năm vị đại đức đến, trình bày nguyên nhân xây chùa, nói: Hoàng hậu ra đi trẫm thương khóc, đã viết lời nguyện: hoàng đế Bồ-tát giới cúi đầu kính lạy chư Phật, Bồ-tát, Thánh tăng, tám bộ trời, rồng mười phương. Đạo không ngôn ngữ, đức đại từ phương tiện tùy cổ nhiếp hóa đưa thuyền trí cứu độ nơi biển khổ, soi ánh sáng tuệ vào chỗ tối tăm, khai ngộ độ thoát không thể nghó bàn. Đệ tử túc chướng ngu muội nghiêng lệch, nghó đến ân dưỡng dục mà đau lòng vô cùng, kêu trời gào đất nào có tiếc thân, ngày tháng ở trên băng lửa cũng không quản ngại, giờ hối hận thấy tội lỗi của mình, dù có trăm thân cũng không chuộc được, chỉ biết thành tâm quy y tam bảo, xin thiết lễ cúng dường tại chùa Hoằng phước, cúng thí tài vật, nguyện hồi hướng công đức để ngộ lý vô sinh, đến nơi an vui, nhờ chánh pháp sớm chứng Bồ-đề, sáu nẽo bốn loài đều nhờ ơn đức. Vua lại nói: xưa nay tổ tông tôn Lão quân trước Thích-ca, sao các sư không nghe. Thầy Đạo Ý thưa: bệ hạ tôn trọng tổ tông để thiên hạ noi theo, chúng thần an tâm hành đạo, nào dám không nghe. Vua nói: Trẫm để tiên tông ở trước tức lớn hơn Phật. Từ khi dựng nước đến nay, không lập đạo quán, mọi công đức đều thuộc về nhà Phật, tất cả đều hướng về Phật. Khi thiên hạ thái bình, mọi nơi chiến trường, phủ đệ đều được lập chùa. Trẫm thành kính quy y. Các vị nên biết lòng trẫm. Đạo só chỉ là theo tổ tông nên đặt ở trước. Họ Lý trị quốc thì được đặt trước, nếu họ Thích an dân cũng sẽ được đặt trước, há là đất bình hay sao? Chư tăng cảm tạ. Vua nói: Ý trẫm là thế, không nói thì không biết, trời nóng phòng chật, ta cho xây thêm tăng phòng để chư tăng hành đạo. Việc thứ chín: Thái Tông hạ lệnh đốt kinh Tam Hoàng của đạo só. Tháng mười niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi hai, các châu dâng sớ: Người phụng thờ thiên tôn phải hành pháp tam hoàng. Lại vì thiên tử, hoàng hậu mà đọc kinh. Theo pháp chia ruộng thì đạo só thông kinh Tam hoàng được cấp ba mươi mẫu. Vua cho hỏi đạo só Trương Tuệ Nguyên, đạo só thưa là không, chẳng biết ở đâu có. Nhưng có một chữ nếu đọc bằng thanh bình thì có nhưng nếu đọc bằng thanh khứ thì không. Thần cho rằng lời của Tuệ Nguyên là đúng. Xin bỏ những gì không đúng, giữ những gì đúng. Lại bộ Dương Soán bàn: kinh Tam Hoàng khác với kinh Đạo Đức của Lão Tử, không thể giữ, vì mê hoặc người sau. Vua liền cho tịch thu và đốt bỏ kinh Tam Hoàng. Đạo só thông kinh Đạo Đức được cấp ba mươi mẫu. Các châu đem kinh Tam Hoàng đốt. Xưa thời Tống, Bao Tónh viết Tam Hoàng bị tru di, nay đổi Tam Hoàng thành Tam Động, giả lập để mê hoặc lòng dân. Kẻ ngu không biết, nay Thánh đế Đại Đường biết rõ chân ngụy nên trừ. Gần đây thì cuối niên hiệu Đại Nghiệp, đạo só Phụ Tuệ trường ba năm không nói, đổi kinh Niết-bàn thành kinh Trường An, vào núi ẩn mình, may áo vàng. Khi xét biết được sự thật thượng thư Vệ Văn Thăng đã dâng sớ, đạo só bị đem chém ở cửa Kim Quang. Đó chỉ là những kẻ ngu dẫn bừa kinh Phật, chẳng có ích gì. Việc thứ mười: Thái Tông hạ chiếu cho Pháp sư Huyền Trang dịch kinh Đạo Đức ra tiếng Phạm. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi mốt sứ giả Tây Vực xin Đại Đường dịch kinh Đạo Đức ra tiếng Phạm. Vua hạ lệnh cho Pháp sư Huyền Trang và ba mươi đạo só cùng lo phiên dịch. Pháp sư phân tích phải dịch từng câu, rất hợp thánh lý. Các đạo só đòi dẫn kinh Phật để làm rõ kinh đạo đức, Pháp sư nói: Phật và Đạo rất cách xa nhau, làm sao dùng lý Phật để bàn nghóa đạo. Các đạo só dùng bốn đế bốn quả để so với vô đắc vô đãi… Pháp sư nói: vì sao các tiên sinh làm mà không tra cứu. Bốn đế, bốn quả làm sao đem ra để nói về kinh Đạo Đức được, bốn đế mỗi môn đều có nhiều nghóa, lý sâu xa khó nghó bàn, không thể đem ra để so sánh. Các vị hỏi về bốn đế, tôi chỉ mới nói tên bốn đế, còn nghóa của bốn đế thì quá rộng. Đạo trong kinh Đạo Đức chỉ có một nghóa, không dùng luận Thích, không thể dùng lý Phật để giảng nghóa đạo trong kinh Đạo Đức. Đạo só nói: Từ xưa tiên tổ nương lời Phật, nên Duy-ma Tam luận tôi đã học. Vã lại nghóa đạo huyền nhiệm, mục đích là thanh tịnh vọng niệm, về văn thì khác nhưng ý là một, nên dẫn kinh Phật để giải thích có gì sai? Pháp sư nói: Phật pháp mầu nhiệm, Lão kinh hư giả, hai pháp cách xa không thể dẫn dụ. Kinh Đạo Đức chỉ có năm thiên, không có luận giải, về sau các đạo só dẫn bừa kinh Phật để chú giải thật là bỏ gốc mà dựa vào pháp Phật. Các đạo só lạimuốn dịch chữ “đạo” thành chữ Bồ-đề. Pháp sư dịch chữ đạo là mạt giả. Bồ-đề là giác, mạt giả là đạo, không thể dịch khác. Đạo só Thành An nói: Phật- đà là Giác, Bồ-đề là đạo, xưa nay đã vậy. Xưa là sai lầm, Phật-đà là tiếng Phạm, đời Đường dịch là Giác giả, Bồ-đề được dịch là Giác, mạt giả là đạo, người Ấn hiểu như thế. Nếu không tin thì hãy hỏi người Tây Vực. Thành An lại nói: Kinh Đạo Đức u huyền cần phải có lời tựa. Pháp sư không cho đề tựa, các đạo só liền tâu lên quan. Quan hỏi người Tây Vực rằng Thiên Trúc có đạo của Lão Trang không. Người kia đáp, Tây Vực có chín mươi sáu đạo, phần lớn là tu khổ hạnh để cầu giải thoát, hoàn toàn không cò đạo Lão Trang, những gì Pháp sư Huyền Trang nói là thật, sao không tin theo? Pháp sư họ Trần, người ở Dónh xuyên, là người rất thông minh, đầu niên hiệu Trinh Quán, Pháp sư đến chùa Trang nghiêm học chữ Phạm, rồi xin đến Tây Trúc tu học. Ba năm sau mới được vua cho đi. Hơn mười năm tu học, Pháp sư trở về, chuyên lo dịch kinh sách. Vua quan, thần dân đều tôn kính. <篇> TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH <卷>QUYỂN 4 Việc thứ nhất: Vua nhóm họp tăng só và đạo só hùng biện. Tháng tư niên hiệu Hiển Khánh năm thứ ba, vua hạ lệnh cho tăng só và đạo só vào cung hùng biện. Pháp sư Hội Ẩn nói về nghóa năm uẩn, Pháp sư Thần Thái nêu nghóa chín đoạn. Các đạo só Hoàng Trách, Lý Vinh; Hoàng Thọ cùng đưa ra nhiều câu nhưng văn nghóa mơ hồ. Vua cho Pháp sư vặn hỏi. Pháp sư hỏi tiên sinh nói đạo sinh muôn vật, chẳng hay đạo đó là hữu tri hay vô tri? Đáp: Kinh đạo nêu: Người pháp đất, đất pháp trời, trời pháp đạo. Đã là phép tắc của trời đất há là vô tri? Lúc trước bảo đạo là mẹ của muôn vật, giờ bảo muôn vật không do đạo sinh. Vì sao? Vì nếu đạo là hữu tri thì chỉ sinh cái tốt, sao sinh cả cái xấu. Ở đây đủ cả tốt xấu tức là đạo vô tri. Còn như các bậc quân vương sao lúc đầu không sinh những bậc thánh minh như Nghiêu–Thuấn mà lại sinh ra những vị hôn quân như Kiệt, Trụ. Về loài chim sao không chỉ tạo ra những chim phượng, chim hoàng mà lại sinh ra những con cú, con ưng. Về thú sao không chỉ sinh những con ngựa, con lân mà còn sinh ra con cọp, con beo. Muôn vật hiện nay đủ cả tốt xấu, đạo không thể là hữu tri. Đức Phật dạy muôn vật do nghiệp lực của chúng sinh chiêu cảm thành. Nghiệp lành nhiều thì ở cõi tốt đẹp, nghiệp ác nhiều thì ở chốn xấu xa. Nghe thế, đạo só im lặng xuống tòa. Đạo só Hoàng Thọ lại lên tòa nói về danh nghóa của Lão Tử. Pháp sư Hội Ẩn liền nói: Hoàng Thọ thân đội mũ vàng, không biết kî húy, tất cả mọi vật đều là của quốc gia, mọi loài đều nương đức của bệ hạ, há lại có kẻ dám so sánh với bệ hạ. Không thể là hậu bối mà nói tên nghóa của bậc Thánh tiền bối. Tội này đáng chết. Vua bảo hãy nói về nghóa khác. Hoàng Thọ tuy cũng nói nhưng không mạch lạc, người thì sợ đến đẫm mồ hôi. Thấy vậy vua nói: Đạo và Tăng hai nhà tranh luận chưa rõ. Như Pháp sư nêu nghóa năm uẩn, đạo só lại dùng nghóa âm để vặn hỏi. Âm là che đậy, uẩn là chứa nhóm. Như sắc có mười một, thức có tám, gọi chung là uẩn. Nếu dùng chữ âm để hỏi thì nghóa lý trái ngược. Về nghóa đoạn thì đạo só lại không biết. Thật là muốn về phương Nam lại đi sang hướng Bắc. Phật pháp đưa ra pháp nhân duyên, chẳng có một pháp nào không do duyên sinh. Như mắt thấy tụ phải có năm duyên: Tâm thức không loạn, nhãn căn không hai, ánh sáng, cảnh, không chướng ngại. Nếu thiếu một duyên thì không thể hình thành. Như hạt giống phải có đất nước ánh sáng mới mọc mầm. Con người cũng vậy, ngoài nghiệp nhân còn phải có duyên cha mẹ, duyên cha mẹ không thành thì không có con người. Hiểu pháp duyên sinh là dứt hết tà kiến. Trí tuệ của Phật hiểu rõ thật tướng của các pháp nên Phật được tôn là bậc Vô đẳng giác, là thầy trời người. Ngoại đạo không như thế, hoặc chấp các pháp do trời sinh, hoặc chấp tự nhiên sinh, đều không biết gốc pháp, không hiểu duyên sinh, tin tưởng sai lầm. Lại nêu ba tánh: biến kế, y tha khởi, và viên thành thật. Vua khen ngợi, từ đó sự hơn kém giữa tăng, đạo đã được phân định. biện. Việc thứ hai: Chùa Tây Minh hiện điềm lành, vua nhóm họp tăng và đạo hùng Ngày mười hai tháng sáu niên hiệu Hiển Khánh năm thứ hai, chùa Tây minh trang nghiêm cờ phướn đàn hoa rực rỡ. Vua và các quan đến xem. Vua hạ chiếu cho tập hợp bảy tăng, bảy đạo só vào cung để hùng biện. Vua nói: Phật và Đạo đều hướng về pháp lành, làm mà không làm, tạo đức ở chỗ không có đức, các vị đều là những người học rộng hiểu sâu, hãy cùng nhau bàn luận. Sư Tuệ Lập thưa: Bệ hạ tài đức như Ngu Hạ, Doanh Lưu nên trời đất xa gần đều an vui. Bệ hạ chiếu cố để tăng, đạo thường vào cung diện, nhưng chỉ e tài hèn học kém làm bệ hạ không vui. Vua khen ngợi đề nghị sư lên trước. Đạo só Trương Tuệ Nguyên liền tâu: Nhà Chu lập thệ, họ khác ở sau, bệ hạ tôn thừa tiên tổ, nên để đạo só lên trước. Di–Hạ khác nhau, chủ khách sai biệt, xin để đạo só lên trước. Vua im lặng, sư Tuệ Lập nói: Chư Phật Như Lai là thầy của thánh phàm, trời người trong tam thiên đại thiên thế giới, nước này thuộc cõi Ta-bà, tức thuộc phạm vi giáo hóa của Đức Thích-ca, sao Tuệ Nguyên dám nói chủ khách, Di hạ. Bệ hạ nương lời Phật dạy, đèn đuốc tuệ vào nhà tối, bơi thuyền từ trên biển khổ. Sách dạy: Hoàng thiên không thân, chỉ tôn đức, Tuệ Nguyên nói bậy, không đáng tin. Vua khen, cho Pháp sư lên trước. Các đạo só cật vấn. Sau đó sư Tuệ Lập hỏi về nghóa sáu động. Động tức thông đạt muôn vật. Lão Tử có nói: Họa lớn nhất trong thiên hạ là thân, nếu ta không có thân thì còn lo gì. Như vậy là Lão Tử còn bị trở ngại về thân, làm sao thông đạt muôn vật. Lý Vinh nói: Xưa cùng xuất gia, sao giờ lại hủy báng nhau như thế? Sư Tuệ Lập đáp: Tiên sinh nói thật lạ. Tiên sinh để râu tóc, mặc đồ thường, tay cầm phù chú, eo quấn đai đỏ, tuần tra cửa ngỏ, sai khiến ma quỷ chẳng khác kẻ tà dâm, làm sao giống với ta được. Lý Vinh tức giận, nói: Nếu cho rằng cạo bỏ râu tóc là tốt sao không cạo hết lông mày. Vì sao? Vì đều là lông. Nếu đều là lông sao chỉ để tóc trái đào mà không để râu trái đào? Lý Vinh im lặng, vua cho giải tán mọi người. Sư Tuệ Lập họ Triệu, con thứ ba của Tư Lệ, lúc nhỏ được Pháp sư Thúc Chiếu nuôi dưỡng, cho xuất gia vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba, tại chùa Chiếu nhân, ở U châu. Nhờ nghe Pháp sư chỉ dạy, sư ra sức nghiên tầm kinh sử nên trở thành người tài giỏi nhất. Sư thường được vua mời vào cung để hùng biện, sau vua ban chức Duy-na chùa Tây minh nhưng sư từ chối. Việc thứ ba: Vua thiết lễ cúng dường, nhóm họp tăng, đạo hùng biện. Tháng mười một niên hiệu Hiển Khánh năm thứ ba, vua lo lắng trời bị hạn nên lập trai đàn cầu phước. Vua còn cho vời Sa-môn Nghóa Bảo chùa Đại từ ân và đạo só Trương Tuệ Nguyên… ở Đông Minh quán vào cung cùng bàn lý Phật đạo. Đầu tiên, đạo só Lý Vinh và Sa-môn Nghóa Bảo lên tòa hùng biện. Sa-môn hỏi: Về bổn tế thì đạo gốc ở tế hay tế ở đạo? Đáp: Dung thông. Hỏi: Đạo gốc ở tế, tế là gốc đạo, hoặc tế gốc ở đạo, đạo là cội rễ của tế? Đáp: Có gì không thông? Đáp: Đạo pháp là tự nhiên, tự nhiên không pháp đạo. Nếu thế thì đạo gốc ở bổn tế, bổn tế không gốc đạo. Đạo só im lặng, lại sợ vặn hỏi nên nói: Pháp sư gọi tôi là tiên sinh, vậy Pháp sư là đệ tử của tôi. Pháp sư liền nói: Chúng ta hùng biện, phân biệt tà chánh để an lòng vua, sao lại nói càn. Tôi là đệ tử Phật. Phật là thầy tôi. Nếu ông tự xưng mình là tiên sinh tức sinh ra trước đạo, là tổ đạo. Đạo só im lặng, xuống tòa. Vua bảo Pháp sư ngồi lại, Pháp sư từ tạ, khen ngợi công đức của vua, hoàng hậu, thái tử, nói về Bát-nhã ba-la-mật. Đạo só Tuệ Nguyên liền hỏi: âm Hồ, chữ Đường, phiên dịch chữ Hồ ra chữ Đường phỏng có ích gì? Chữ Đường âm Phạm, dịch tiếng Phạm ra chữ Đường cả hai đều có ích. Âm Hồ làm sao lợi ích cho người? Phật giáng trần ở Thiên Trúc, tiếng Phạm là chánh giáo, truyền sang Trung Hoa lợi ích đã nhiều. Sa-môn nói: Đạo só đã già, đối đáp không thông, không tự lượng sức. Đạo só nói: Tôi nào có nói càn? Tâm ông không càn, lời ông cuồng điên. Đạo só khác nói: Bát-nhã không phải ngu trí, sao dịch là trí? Vì muốn dứt ngu si nên khen là trí. Ngu si là gì mà phá bằng trí? Ngu si là đạo só, sao ta lại ngu si? Bát-nhã không ngu trí, vì phá ngu nên khen là trí, nếu đạo só hết ngu thì trí tôi cũng mất. Đạo só Lý Vinh lại nói: Bát-nhã không kia đây sao nói đến bờ kia? Bát-nhã không kia đây nhưng khen công dụng hay cho nên là đến bờ kia. Đạo só nói: vậy cũng có thể nói đến bờ này. Tuy không chấp kia đây nhưng khen kia để để rời đây. Đạo só nói: khen kia không khen đây, thì chẳng phải đây chẳng phải kia. Đạo só cười nói: đầu của tăng só như viên đạn, hiểu nghóa cũng tròn vo. Sa-môn nói: mỗi viên đạn đủ bắn chết chim ngạc. Trương Nguyên tiếp sức cho Lý Vinh, Sa-môn nói: Lý Vinh không tránh được đạn, Trương Nguyên lại giúp sức, Diêu lại ngu không biết. Hai người giúp một người, ba ngu thành một trí. Xưa nghe nay mới thấy. Các đạo só thua cuộc. Các Pháp sư khuyên giải để họ tự biết mình. Việc thứ tư: Vua đến Đông Đô, cho vời tăng só và đạo só vào cung hùng biện. Niên hiệu Hiển Khánh năm thứ năm, vua đến Đông Đô. Thấy nhiều người quy y Phật, cần có sự hùng biện để họ hiểu nghóa lý, vua liền hạ chiếu cho vời sư Nghóa Bảo chùa Đại từ ân, sư Tuệ Lập chùa Tây minh đến ấp lạc để truyền giảng kinh luận. Vua đến chùa Tịnh độ, sư Nghóa Bảo đến đó giảng Đại Phẩm, Tam Luận. Sư họ Tiết, người ở Tấn lăng, Thường châu, thuộc dòng Mạnh Thường Quân nước Tề và Tổng Oánh nước Ngô. Sư xuất gia từ nhỏ, theo học với Pháp sư Minh ở Tô châu, sau đến học với Pháp sư Khoáng ở Dụ châu. Từ đó thầy du hóa truyền giảng kinh pháp. Sau được vua mời đến chùa Từ ân, giảng nói kinh luận, thính chúng rất đông. Lại còn dự những buổi hùng biện với các đạo só. Sau sư mất tại ấp Lạc. Vua ban lễ vật, cho làm lễ tang rất long trọng. Việc thứ năm: Sư Tónh Thái và các đạo só hùng biện ở ấp Lạc, Đông Đô theo chiếu vua. Ngày mười tám tháng tám niên hiệu Hiển Khánh năm thứ năm, vua cho mời sư Tónh Thái và đạo só Lý Vinh đến Lạc cung. Vua hỏi Sa- môn: Kinh Lão Tử Hóa Hồ kể việc Lão Tử đến đất Hồ, việc đó ra sao? Việc này có nhiều thuyết khác nhau. Hai thiên của Lão Tử, Trang sinh nội ngoại hoặc tôn hư vô, tự nhiên nên khác với Phật giáo. Còn những việc Linh Bảo, Thái Thượng là do những kẻ sau vọng chế ra, đời Đường (từ niên hiệu Trinh Quán) đã cho đốt kinh này. Theo Tấn Đại Tạp Lục và Cao Tăng Truyện của Bùi Tử Dã thì Đạo só Vương Phù đối đáp với Sa-môn Bạch Tổ, Vương Phù y cứ Tây Vực Truyện Hán thư, soạn kinh Hóa Hồ. Trong Thần ký U Minh Lục cũng cho đó là Vương Phù ngụy tạo. Đạo só Lý Vinh nói: Tónh Thái không biết sao lại dẫn càn. Theo kinh Hóa Hồ thì Lão Tử giáo hóa người Hồ thành Phật. Phần tựa của Lão Tử nêu: Phía Tây đến Lưu Sa, đó là việc hóa Hồ. Sa-môn đáp: Đó là giả, tôi đã nói ở trước, trong kinh Quy Phật Đại Sư hóa Hồ chép: Lão Tử nói: Thầy ta là Đức Thích-ca, đã nhập Niết-bàn. Ở phần tựa của kinh Lão Tử nêu: Doãn Hỉ nói với Lão Tử: sắp ẩn. Trang Tử nói: Lão Nhó chết ở Tần. Tây Kinh Tạp Ký ghi: Lão Tử chết ở làng Hòe. Vả lại kinh của Đạo giáo chỉ có Lão Trang là thật, ngoài ra là các đạo só mượn kinh Phật, thay ngôn từ, giả làm của mình. Lý Vinh nói: Phật giáo chỉ có kinh Tứ Thập Nhị Chương mà Pháp sư Ma-đằng dịch tại chùa Bạch mã, gần đây Huyền Trang cũng dịch kinh. Sa-môn nói: Thật ông không biết sử sách. Vì theo sử sách ngoài Sa-môn Ma-đằng, Trúc Pháp Lan dịch kinh còn có Chi-ca-đề, Khang Tăng Hội, Đàm-ma-đề, Cưu-ma-la-thập. Còn Pháp sư Huyền Trang, người tinh thông văn Phạm, đã từng du học ở Ấn Độ hơn mười năm, là người dịch kinh nổi tiếng sao lại cho là hư ngụy. Tội của Lý Vinh thật đáng chết. Lý Vinh nói: Hai tôn giáo Lão, Thích đều là lời của bậc Thánh, chúng ta làm sao bàn được. Sa-môn nói: Ông không thể còn tôi có thể. Lý Vinh nói: Tôi y cứ kinh Đạo Tiếp có câu: Đạo hơn Phật, Phật thua đạo, việc hóa Hồ là thật. Sa-môn nói: Đạo só tự xưng là đàn việt tức trộm lời kinh, dẫn kiếp số là trộm văn Phạm, đã là hướng về phong giáo của Phật sao không mặc pháp y, không tỏ lời pháp. Kiếp là tiếng Phạm, nào phải tiếng của đạo gia. Lý Vinh nói: Đạo lớn không có gì là Phật là đạo? Lý Vinh chẳng có vật mà gọi là không. Lý Vinh nói: Há không có phân giải hay sao? Ở đây là hùng biện, là nói những lời nho nhã, nào phải nơi để nói những lời thô tục. Lý Vinh nói: Ngã Trang Tử… Sa-môn nói: Sao ông dám nói là ngã… Lý Vinh nói: Trong kinh, A-nan cũng tự xưng là “Tôi nghe như vầy”. Sa-môn nói: Đó là lời kết tập kinh điển. Tôn giả A-nan không chấp ngã mà nói câu ấy. Thế là Lý Vinh nói sang chuyện khác. Vua hạ lệnh cho bác bỏ nhau bằng lời thô. Thế là hai bên lại tranh biện, bác bỏ lẫn nhau. Họ lại bàn việc Phật giáo là giáo của rợ Hồ, của nước khác, hoặc nói Lão Tử là người nước Sở… cuối cùng Lý Vinh đuồi lý. Sa-môn Tónh Thái là người ở Lạc dương, học rộng tài cao, giỏi đối đáp, vua định mời Sa-môn hoàn tục, phong cho chức quan nhưng Sa-môn từ chối. Vua cho trụ lại chùa Kính ái ở Đông Đô và cho chọn người cần dùng tùy thích. Việc thứ sáu: Sa-môn Linh Biện chùa Từ ân hùng biện với đạo só. Ngày tám tháng mười hai niên hiệu Long Sóc năm thứ hai, ở điện Bích vũ, cung Bồng lai, Sa-môn Linh Biện nói về kinh Tịnh Danh. Hỏi: Đạo khó bàn chỉ phàm phu không biết hay cả bậc Thánh cũng không biết? Phàm thánh đều không thể nghó bàn. Phàm phu ngu muội thì không biết, bậc Thánh có trí vi diệu sao lại không biết? Tánh pháp vắng lặng dung thông, mọi vật bình đẳng có gì để bàn? Ngọn núi và hạt cải không thể dung nạp. Phàm thánh cũng vậy. Đạo không thể nghó bàn hiện khắp mọi nơi cần gì núi phải dung chứa hạt cải, phàm thánh nào có tư hay không tư. Phàm thánh không phân hai, không chia tư, không tư. Phàm thánh có khác, tức có nghó bàn không nghó bàn? Chính đâu có khác, nhưng tư và nghị là một. Đó là sự khác nhau của các Thánh, không phải phàm phu? Tất cả chúng sinh là tướng Niết-bàn. Đạo không thể nghó bàn nào chia ra phàm thánh? Thế sao phàm thánh có khác? Không hai nói hai, nào đâu có hai. Tư và không tư cũng như vậy. Không suy nghó là không tư chứ không phải có cái không tư. Kinh Hoa Nghiêm chép: Không thể nghó bàn, không thể đi sâu vào sự vắng lặng mầu nhiệm. Đạo só nêu ra kinh Lão Tử, Sa-môn hỏi: Đạo đức thuộc Lão giáo hay thuộc cả Khổng giáo? Sa-môn nói: Chỉ thuộc Lão giáo, Lão kinh chép: Chí đức yếu đạo. Kinh Dịch nêu: một âm một dương là đạo. Như vậy là thuộc Nho giáo, nào chỉ thuộc Lão giáo. Đạo tự nhiên là chính, đạo khác là phụ. Hỏi: đạo tự nhiên không thuộc âm dương thì có thể nói Lão tử là gốc, âm dương gồm nhiếp tự nhiên, chẳng lẽ kinh Dịch là ngọn, nguyên khí thành đạo là gốc? Muôn vật do đạo sinh. Đạo là tổ tiên của muôn vật. Hỏi: Đạo là tổ tiên của muôn vật nào có khác gì Lão, Dịch là một. Đạo só liền nói lãng sang: Liệt Tử gặp Quý Hàm thì say, hoàng quan gặp nâu sòng thì mê. Vua cười. Sa-môn hỏi: Đạo sinh muôn vật, cái gì là thể của đạo? Đáp: Đạo không có hình, có hình thì là có, không hình thì không, vậy đạo không có? Tuy không hình nhưng có đạo. Không hình mà có pháp thì vẫn nói là có hình? Muôn pháp là đạo, sao lại không đạo? Đạo sinh muôn vật, ngoài muôn vật không có đạo, vậy cái gì sinh? Đạo tuy không hình nhưng sinh ra muôn vật. Nhìn mẹ thấy con nên mẹ sinh con. Nhìn muôn vật không thấy đạo, đạo nào sinh muôn vật. Câu đạo là tổ của các pháp thì trái với kinh Lão Tử nói: Vô danh là bắt đầu của trời đất, hữu danh là mẹ của muôn vật. Mẹ hay tổ chỉ là một nghóa. Đạo đã là vô danh làm sao là tổ của muôn vật. Đạo là tổ của vật,vật cũng là tổ của vật? Chỉ đạo là tổ của vật, vật không thể là tổ của vật. Hỏi: Đạo không là tổ, đạo vốn không tên, chỉ giả đặt tên, đạo không có tổ, chỉ giả lập tổ. Ngoài muôn vật không có đạo, lúc muôn vật chưa sinh, thì đạo đã sinh. Như vậy ngoài mắt không có mắt, lúc chưa có mắt đã có cái thấy? Mắt và đạo khác nhau không thể so sánh. Hỏi: Muôn vật có chất ngại, đạo là hư vô, có không là một? Đạo só im lặng, vua cười. Sau đó vua bảo Sa-môn Linh Biện đối đáp với đạo só Lý Vinh. Vua nói với đạo só: Linh Biện đa tài, có thích đối đáp không? Lý Vinh nói: Khổng Tử còn sợ hậu sinh, huống gì là Vinh? Sa- môn nói: Linh Biện là hậu sinh, Lý Vinh là tiền bối. Lý Vinh nêu nghóa huyền rằng đạo huyền không thể nói. Hỏi: Đã không thể nói sao còn nêu? Không thể nói nhưng lại nói, nói mà không nói. Đã nói được thì nói, không nói được thì không, sao lúc đầu cho là không thể nói, giờ lại cho là có thể nói. Muốn bắt cá, thỏ phải có dụng cụ, muốn hiểu nghóa mầu phải nhờ lời nói, đã không tỏ ngôn ngữ thì càng mê mờ vô lý. Đáp: Trong đạo cùng cực ấy mà không nói mà chẳng không nói. Sa-môn nói đó là bài kệ của Bồ-tát Long Thọ. Kệ rằng: Chư Phật hoặc nói ngã Hoặc nói không có ngã Đối thật tướng các pháp Không ngã chẳng không ngã. Sao ông lại trộm lời Thánh hiền? Đạo só nói: Phật đạo có gì khác? Tây Vực gọi là Niết-bàn, ở đây gọi là chết. Sa-môn nói: Đom đóm không thể sánh với mặt trời. Niết-bàn được dịch là diệt, tức là tịch diệt, không phải là chết. Đạo só nói: Niết-bàn là diệt sinh tử, chết cũng là diệt có gì khác? Ô thước cũng có tiếng, chim phượng hoàng cũng có tiếng, nhưng hai loại tiếng khác nhau. Tịch diệt không diệt. Không thể so Niết-bàn với sự sống chết bình thường. Lại nói: Thể của lý mầu nhiệm không thể nói, vì sao lại nói? Tỏ ngộ vật, tình, giả mượn lời nói. Sa-môn nói: Thể huyền không thể nói, mượn lời để nói lý huyền nên lý huyền có thể nói. Cây gai trong hư không chẳng thể nhổ, phải giả mượn tay nhổ nên nói là nhổ. Hư không có phải là huyền hay không? Không thể so hư không với lý vi huyền. Lý huyền không thể nói, không phải cái để nói thì không thể nói. Đạo só im lặng. Sa-môn hỏi vì sao không nói? Vì ngộ đạo. Sa-môn nói: Mắt cá không thể sánh với minh châu. Không biết nói chứ không phải là im lặng. Lại nói: lý huyền sâu xa, đạo só ngu muội làm sao biết được? Lý huyền sâu xa, người giỏi thì hiểu sâu, phàm phu thì hiểu cạn. Đạo só biết được cạn vậy đạo só học pháp tiên, tiên bay cao, đạo só bay thấp. Nhưng ở đây đạo só không hề bay được thấp cao. Sa-môn lại nói: Lão Tử hai quyển không thông, Trang Sinh bảy thiên không tỏ, thật đáng hổ thẹn. Nghe nói ông đến từ đất Thục, đường Thục rất khó đi, sao không cỡi con le đến làng vua mà để bị gông cùm đến Trường An? Đạo só nói: Than không nhớ gỗ, ta quên đi quên ngồi, gông cùm nào nhớ. Sa-môn nói: Như thế là suốt đời bị gông cùm. Đạo só nói: Thiên tử biết Lý Vinh, nên cho trói, còn những kẻ như ngươi, chúa thượng nào biết đến. Sa-môn nói: Thiên tử năm nay biết Lý Vinh, sang năm cũng biết, năm nay trói, sang năm cũng trói, thánh ân chưa hết thì bị trói suốt đời. Lý Vinh bị trói bậc Thánh không hay, nếu nhờ trói mà biết thì chỉ có quỷ biết. Lý Vinh tức giận nói: Lý Vinh ta là bậc anh minh của quận Thục mà Sa-môn dám khinh thường. Sa-môn nói: Vì sao lại giận dữ như thế. Rồi nói vài lời trêu chọc nhau, trước khi ra về Sa-môn còn nói: Hồng Hạc đã bay xa, bầy én còn huyên náo. Đàm đạo với tiến só họ Phạm. Xưa, Trưởng giả Tì Thành đến thôn du thuyết, nay tiên sinh Hoàng Ấn đến cửa Bồi, thật xưa nay có gì khác! Phạm tiên sinh tinh thông Nho, Đạo, Thích. Xưa tiểu tăng đến Giang tả đã thấy phong lưu rồi, nay đến cửa ải, thật đáng khâm phục đạo đức, giờ được gặp nhau thật là thỏa nguyện, xin cùng bàn đạo u huyền. Họ Phạm nói: Chưa từng xem qua sách Trang Tử nhưng xin đáp rõ lý thú, bảy thiên quá rộng không biết hỏi từ đâu, xin nêu rõ chương môn. Lý tế vật xưa nay thường được đem ra bàn, Pháp sư hãy hỏi về nghóa đó. Hỏi: Sợi lông, núi Thái, Nho mặc dầu nói là nhỏ, lớn. Trang Sinh không cho là như vậy, há không là bàn suông hay sao? Đáp: Tục chấp phải trái, Trang Sinh bỏ lớn nhỏ. Nếu thế thì ngọn núi và sợi lông không thể cùng chết? Đáp: Mục đích là quên tình. Sợi lông không to, Thái sơn không nhỏ, làm sao quân bình? Đáp: quân bình là đều có tự tánh. Tuy cùng tự tánh nhưng thể có lớn nhỏ. Như hư không không hình chất nhưng muôn vật khác nhau, ngọn núi và sợi lông không thể quân bình? Mục đích yếu của lý này là quên tình, nếu so sánh về hình thể thì chẳng khác nào vẽ chân cho rắn. Hỏi: Trước nói bình quân, tình quên không làm cho người ngộ, giờ nên vẽ chân hơn người là tự để người thấy lỗi. Núi lớn, sợi lông nhỏ mà Trang Sinh quân bình, vậy trời cao đất thấp, Chu Dịch nên lẫn lộn tôn ti, vì sao Trang Sinh cho rằng lớn nhỏ là một? Đáp: đó là sự khác nhau của hai giáo. Dịch vốn khác, không thể giống núi, lông không cùng, cho nên khác. Vật khác nên là khác, vật giống nên là giống vì sao nói khác. Linh Biện họ An, người ở Tương Dương. Tổ tiên vốn là một dân tộc ở Tây Vực, sau dời đến Trường An vào đời Tấn. Đến cuối niên hiệu Vónh Gia lại dời về Tương Dương. Sa-môn là người có phước duyên thừa hưởng tất cả tư chất tài giỏi, thông minh, anh dũng. Mười lăm tuổi xuất gia, tham học ba tạng, nghiên tầm các kinh Đại thừa, hùng biện rất giỏi, luôn kh- iêm nhường, được mọi người tôn kính. Trước sau cùng đạo só Lý vinh,… hỏi đáp qua lại, thần khí cao xa, tinh thần khoáng đạt, không có người nào hơn. Thỉnh thoảng mới cười nói, thường hiểu ý vua, tánh tình cẩn thận, khi không có ai hỏi đạo thì không thể biết. Bạn bè trang lứa với Sư trăm người không còn một. Xưa Thứ Khanh giảng luận chỉ nghe danh tiếng, Sung Tông tài biện luận nhỏ bé không bằng một góc. Còn nghó liên hoàn trầm ngâm ngàn xưa, lược đề đại khái ghi như sau: Chỉ tiếc là lời nói ứng theo vật lý mà chẳng đến riêng, vẫn có công đức khác. <詞>PHẦN PHỤ THÊM - QUYỂN 4 Soạn thuật tại chùa Tây minh ở kinh đô, vào niên hiệu Lân Đức đầu đời Đường. Vào tháng ba, mùa xuân niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường, Đạo só ở Tây hoa quán là Triều tán đại phu Quách Hành Chân kính tạo. Kính vì Phật đạo gọi là Thánh đều thực hành giáo hóa hòm kinh, bảo thừa linh báu, đều mở bến cho hữu thức. Cho nên thừa dụ dạy rằng: Khuôn phép nằm trong các chương, Phật bủa lưới pháp, như người thuyền trưởng có thân hình, tự chẳng phải bao gồm kinh luận, ai dám khinh nêu? Cẩn thận hết lòng, kính truyền kinh tượng, để giúp cảnh đức thông kỳ vô biên. Mở ra gốc tin sâu, dụ cho nghiệp chân chánh, có thể không như thế hay sao? Đạo só Triều Tán Đại phu Quách hành Chân ở Tây hoa quán, Kinh đô vào niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường kính mong Đức Thích Tôn hoằng hóa Từ bi khắp các trời, người. Lý lão để lại phép tắc, mở ra ở huyện Xích, nên khiến cho thân ở tại quốc gia mà không khỏi dòng sinh tử, lìa phiền não lìa đắm trước, vượt ra phạm vi không hữu, cho nên hồi tâm quy hướng, kính trọng không sót. Đúc tượng viết kinh, sớm tối lễ bái, xin nguyện khéo ở tại thường, dốc chí đối với chân thừa, đạo đều thông suốt, cho nên không dính mắc ở phàm thức, thống nhiếp những người đến học, may mắn chiếu cố lời này. Năm pho tượng Phật bằng đồng mạ vàng, hai pho tượng Quán Âm mười một mặt và các kinh Đại thừa. Niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường, Đạo só Triều tán đại phu là Quách Hành Chân trụ Tây hoa quán ở kinh đô có tuyên cáo với các bậc Tiên giác Vô cực Đại thánh, Năng Nhân hóa chủ Từ thị Pháp Vương ở mười phương: Hành Chân vốn là người tầm thường nằm trong hàng ngũ này, thân tuy tầm thường mà tâm tạo dưới cột Di-lặc, chung quanh là sứ thần, đạo không hưng thịnh ở sau đời Minh. Phật là thầy trời người, kính đức hóa chung vô biên, đâu có chương thờ trời hay người thù đối, đàn hát không giải thích, rượu thịt không sót, Vũ bước chống lại phong giáng. Vỗ răng mà chẳng bày chỗ khuyết, thành thật không lấy, nay thay đổi lòng tin, kính ngưỡng Phật tông, kính tạo tượng kinh, âm bày thì tâm dùng. Kính nguyện khai mở đêm dài khoáng đạt rộng lớn, xé rách chướng ràng buộc đã lâu, cởi bỏ dòng ràng buộc từ vô thỉ. Đời đời mở rộng nghiệp sẵn có, kiếp kiếp ra khỏi bến giải thoát. Có chuẩn bị cùng dòng cảnh ngưỡng ở đây. Niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường, Quách Hành Chân tạo tượng Phật, Bồ-tát, cúi mong chư Phật Đại thánh thần thông trùm khắp mười phương, dưới cột gió nhân quạt ánh sáng đến năm ngọn núi. Từ đời Lương, Ngụy về trước chưa nghe đạo có hình nghi, từ đời Chu Tề về sau mở rộng trong dân tục. Cho nên nghó Phật giáo hóa, rốt cuộc bị nhầm bởi mê mờ, được thấy thông suốt, rốt ráo hiểu rõ noi gương theo thức sáng, cho nên nghe theo nghóa mà chuyển sang làm điều lành, kính đạo linh nghi và các kinh sách, sẽ khiến cho trên mở dưới thí, mở ra dòng suối mờ xưa, đầu là phước mà cuối là tội, hiển bày hậu chướng của cùng sinh, cúi mong ân từ hưng thạnh rộng thí, không ngăn cách bởi rừng tà, phương tiện khéo léo, không dính mắc bởi đen tối, đồng thời giúp cho hiểu rõ bảy giác tuệ, phát ba minh, nhổ ngọn cờ kiến chấp, xô ngã núi nghi ngờ, xé rách lưới ái mà bày ra xe báu, rộng lớn thay, các bạn đồng lữ có thể không cố gắng hay sao? Niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường, Quách Hành Chân tạo ra, kết cấu theo kiểu âm dương, phàm tục đều nương tựa, không hữu đều dứt, chỉ có bậc Thánh ở đó, lìa ba cõi, nghe kinh trong năm tạng, được một mà giữ gìn, thấy việc làm của hai thiên, cho nên tôn trời kính đất, không xem thường hữu vi, cởi mở buộc ràng, thật bỏ tánh hoặc, do đây mà so sánh đức, sự bằng với mây bùm, dám mong khuynh thành, tôn kính hành thí, viết kinh đúc tượng không hề bỏ phế, dùng nhân phước này giúp cho loài hữu thức, đều vượt ra lưới kiến chấp, sớm ra khỏi rừng mê. Niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường, Quách Hành Chân tự sinh trong hàng ngũ, chợt sinh chút coi thường, mở rộng hậu lễ, ở đây đặt ra câu hỏi, thật có lý do. Chân tuy so ở mũ vàng, tâm còn ở huyễn hóa, bàn nói lời tà, Phật là cha của đạo, người học sau mê sinh, vọng còn cạnh tranh, nghó đến nhân luân, cho nên khó bằng. Phật là Pháp Vương, đạo gọi là cột trụ . Phật để lại tướng màu vàng, ba mươi hai tướng kỳ lạ. Đạo thấy chót mũi trắng, thành ra hai cột trụ khác nhau. Âm thanh, ánh sáng không nghe ở thường tục, đại la bèn có lời nói, thần thông chưa hóa vật tình, ngọc kinh vốn mất lời nói, đó là kinh tượng dùng để quy tâm đến giáo, để lại tình tránh hư hoại, dòng xa chưa ngộ, sẽ khiến cho Nhất thừa nhất đạo, thường giáo hóa đại đồng, chín trời chín hữu, cùng bến ở Cực giáo. Niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường, Quách Hành Chân tìm hai thiên Đạo đức, không còn hủy Phật, ba tạng kinh muôn xưa còn y cứ, dựng lên khuôn phép cho trăm vua, muốn cho Nhất thừa hưng thịnh, gom lại tất cả tà chánh, chín trời kính ghi, bao gồm u minh mà giáo hóa. Quách Hành Chân mong cho một nước quy về, một người gọi là Thánh. Một cõi được giáo hóa, một Phật gọi là Giác, nên khiến cho Đường, Ngu, Ân, Hạ, năm vận đổi dời, ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai xoay vần trở lại, đời đời đều có bậc dị tài, đâu chỉ có một lão già, kiếp kiếp mở giúp, đó gọi là nhiều Phật, không hiểu biết mà tự xưng, đã làm trò cười cho những kẻ tầm thường mà còn bị mọi người bàn tán. Sớm thấy lời nói toàn vẹn, cho nên Lý Đam mất ở làng Hòe, Tần Thất khóc mà không mê. Mã Thiên giảng ở Lưu sa, y hỷ biến mà để lại dấu vết. Chẳng phải như Đại thánh họ Thích, Đề Phong Chu ở Hoàn hải, giáo nghóa mở sáng, thật giúp cho hiểu được chân tục, cho nên hết lòng cung kính vâng giữ quy giới, tạo tượng chép kinh, biểu lộ cung kính, khiến cho U minh khen ngợi đạo dụng tâm, ngày càng hiện rõ, trí mở ra bậc thầm giúp, mãi mãi làm khuôn phép rộng lớn cho bậc anh hiền. Quách Hành Chân bởi giáo của họ Lão không ngoài Lưu sa, tông của họ Thích giáo hóa khắp bốn biển, ngay trong ngày mà trình bày, rộng lớn có thể biết, cùng tận thể của Thần thánh, rõ ràng chẳng phải hoặc, ý của hai thiên nói chưa dứt ở trần tục, lý kinh của ba tạng tự đến chỗ chân cực, cho nên quy y chánh giác, thọ nhận chí thừa, đúc tượng Phật chép kinh, truyền bá khắp thế tục, nguyện trở về đạo gốc. Giúp cho Thiên sư thọ đạo, thường lễ Phật ở Hạc minh, ẩn cư lập kính, thường bái họ Thích ở núi Tranh, ngoài ra chưa ngộ, việc đồng với bắt chước, không có việc gì không chấp cứng. Quách Hành Chân thấy đạo ngày càng tổn, nghóa chỉ còn trong khắc niệm, học với sư Vô Thường, lý sẽ giúp cho dời đến việc lành, còn kinh Đạo Đức có năm ngàn lời, không hợp với điển chương ba động sự Thù Linh Bảo. Có chút phương thuật, Hoàng Thư Xích Phù, không thông với vật nghị, sương tuyết giáng xuống, hoặc bị che lấp ở ô hữu, không phải như Phật tông chí cực, chỉ có bến chung tám chánh, diệu pháp cùng chân, yên tónh rừng mê tám đảo, cho nên trăm vua vâng theo giáo hóa, chùa tháp khắp trong đại thiên. Muôn đời nương theo phong cách, tăng chúng đầy khắp trong nước. Hành Chân không những quê mùa mà vâng theo di pháp, đúc tượng viết kinh truyền bá trong nhân gian, xin cho sớm dứt ba lậu, mau thấy ba thân, chóng thoát ba cõi, liền ngự ba hữu, trùm khắp các bậc cao thức, chung cho ý này. Quách Hành Chân thật nghe đạo vốn hư thông, nghóa chẳng suy kiết, linh trí chiếu suốt, phải biết đại quy. Từ xưa những bậc tài giỏi đồng môn, đều ưa chuộng Phật tông. Bởi không đọc kim khoa nên sinh ra kiến chấp này, không gọi là thông minh. Còn như ba vị sư họ Trương đều theo nhau đến lễ bái Phật, Đào và Khấu hai vị tài giỏi đều kính trọng Thích tông. Hiểu rõ sách Lương Ngụy, so sánh đầy đủ với sự ghi chép của Thục Huyên, há chẳng phải là chọn cây mà ở, được chí thân mà đạt tánh hay sao? Thần ấy biết cơ, ngộ sự chẳng hủ lậu của Phật tánh, cho nên nói về dụng cụ đi nối, đúc tượng viết kinh, lời nguyền của kính Lặc có trình bày ở cuối quyển, ngõ hầu người đồng ngộ đạo này. Quách Hành Chân đối với đạo Nhất thật lý vượt trời tiên, lời của bậc đại giác nghóa bao trùm không hữu, còn như Trần Tư hành đạo là hợp với hoa của phương só, đâu xét mùi vị. Chưa xếp vào cửa Thánh cho nên đạo có chia ra Đại tiểu, Thánh cũng nổi chìm. Lão quân lập giáo chẳng phải để làm chủ, họ Thích ở địa vị Pháp vương, khuôn phép dạy bảo gồm cả u và minh. Cho nên sự biên soạn hai thiên hiển bày ở luận về núi, hai đế đại tạo, trình với tông của họ Chu. Cho nên từ xưa đến nay ít người có khả năng xem kỹ, tôi nương khuôn phép, nghóa theo chân thừa, tạo tượng chép kinh không có tâm cong vạy, dùng điều lành trên đây trùm khắp các tình thức, nguyện hiểu rõ đại đạo, phát tâm vô thượng. Bài tựa hiệu đính lại Tập Cổ Kim Phật Đạo luận hành bốn quyển. Xét bộ sách bốn quyển này, về quyển thứ tư, bản trong nước và bản đời Tống thì đồng, chỉ có tám trang, còn Đan bản thì chênh lệch đến ba mươi bốn trang, chẳng những số trang chênh lệch mà văn nghóa cũng không khớp nhau. Lại quyển ba ở trước, bản trong nước và bản đời Tống thì đồng, Đan bản thì đầu cuối khác hẳn là vì sao? Nay xem xét tới lui, bản đời Tống lộn xộn mất quyển ba, dẫn đại quyển bốn làm quyển ba. Trong quyển bốn thì dẫn thêm việc Đạo só Quách Hành Chân bỏ đạo theo Phật, hơn mười đoạn gồm tám trang, bổ túc làm một quyển, bản trong nước y theo bản đời Tống, cho nên cũng lầm. Nay rõ được thể soạn tập của bộ sách này, bắt đầu từ thời Hán minh đế, cuối cùng đến đời Đường Cao Tông, Phật Đạo Luận Hành trải qua nhiều đời vua, quyển thứ ba của bản trong nước và bản đời Tống gồm có bảy việc, là những việc đời vua Đường Cao Tông. Nay ở sau tám trang của quyển bốn thì chép liền mười việc, là việc đời vua Cao Tổ Đại Tông. Cho nên trước sau lộn xộn, thế không phải như vậy, lý ra phải sửa cho đúng, nay y theo Đan bản, lấy mười việc đời vua Cao Tổ Đại Tông làm quyển ba, bảy việc thời vua Cao Tông là quyển bốn mà sửa cho đúng, văn nói về Quách Hành Chân bỏ đạo theo Phật xếp vào sau cuối, được giữ làm bài tựa.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 192