<經 id="n2102">HOẰNG MINH TẬP (QUYỂN 1 ↘ 1 4) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN HOẰNG MINH TẬP Thích Tăng Hựu trụ chùa Kiến Sơ ở Dương Đô soạn vào đời Lương <卷>QUYỂN 1 LỜI TỰA Phàm biển giáo không bờ, gương tuệ tròn chiếu. Sự giáo hóa kỳ diệu khắp trong cõi nước, nhưng lại mô phỏng theo Nghiêu Thuấn; ng- hóa lý thật u huyền vượt ra ngoài ngôn ngữ mà tùy thuận theo Khổng, Chu. Nhưng đạo lớn thì khó tin, Thanh cao thì ít người hòa. Tu-di chót vót thì gió mạnh nổi lên; kho báu tích tụ thì sinh ra oán giặc. Khi xưa đức Như Lai còn tại thế, sự giáo hóa của Ngài chấn động khắp Đại thiên, mà còn bị Y ma phẩn nộ, sáu ngoại đạo sư oán hận, hà huống gì vào đời Tượng, Mạt này mà có thể tránh được ư? Từ khi giáo pháp truyền đến Đông thổ này, đến nay đã hơn năm trăm năm, về duyên thì có tin và không; về vận thì lúc hưng lúc suy. Người chánh kiến thì khen ngợi, kẻ tà mê thì hủy báng. Đến hàng nho học sinh ra thiển cận theo văn thì phản bác cho là dị giáo, còn kẻ tà đạo xảo ngôn thì dẫn dụng cho là đồng pháp. Như phản bác thì có cái mê mất bản giáo, dẫn dụng thì có cái loạn lợi danh. Từ đó bèn phát sinh nhiều luận già trẻ và từ ngữ điêu ngoa. Phàm chim hạt đán kêu ban đêm cũng không đổi được ánh sáng của mặt trời, chim Tinh vệ ngậm đá mà không làm suy tổn thế của biển lớn. Nhưng dùng tối để loạn sáng, dùng nhỏ để mờ che lớn, tuy không làm lay động mảy may, mà cũng có người nghe thấy, khiến cho kẻ yếu đuối theo lời ngụy biện mà mãi mãi lầm mê, hàng điên đảo thì theo tà thuyết mà trường kỳ chìm đắm. Do đó mà dễ lạc vào chốn u đồ, khó bước lên cảnh giới thanh tịnh. Tăng Hựu tôi vì hàng tu học thời mạt pháp, chí sâu rộng giữ gìn sự an tónh, mà lời thì tùy theo thế tục phẩn uất nơi tâm; nên trong lúc tật bệnh tạm an, thời giờ rảnh rỗi mới soạn ra những văn sáng xưa nay, những luận hay của đạo tục, với chủ ý phá tà, lập ngôn hộ trì chánh pháp; không phân Đại, Tiểu, tất cả đều chọn dùng. Cho đến Thư, Ký,Văn, Lục của các bậc Thắng só đời trước mà có ích cho Tam bảo cũng được gom chép, phân loại, sắp xếp thành mười bốn quyển. Phàm đạo là do người hoằng dương, còn giáo thì dùng văn để làm sáng tỏ. Hoằng đạo minh giáo, nên lấy tên là Hoằng Minh Tập. Sau cùng có phụ một bài nói lên bản hoài thô thiển của mình, ngõ hầu dùng một hạt bụi, một giọt nước thêm vào núi cao, vào biển lớn. Nhưng tài học thì thấp kém, sự thấy biết thì nông cạn, hổ thẹn mình hạn hẹp, kính mong các bậc quân tử làu thông gia ân tăng bổ cho tập sách được sâu rộng thêm! ***** <詞>MÂU TỬ LÝ HOẶC LUẬN. Còn gọi: Thương Ngô Thái Thú Mâu Tử Bác Truyện Mâu Tử vốn đã giỏi kinh truyện các nhà, lại còn rất thích các sách vở khác. Tuy không ưa binh pháp nhưng cũng xem đọc; dù xem các sách nói về Thuật thần tiên bất tử mà chẳng tin, cho là hoang đãng. Bấy giờ Linh đế đã băng hà, đất nước loạn lạc, chỉ có Giao Châu hơi bình yên, những dị nhân phương Bắc đều đến lánh nạn, nhưng phần nhiều theo thuật tịch cốc trường sinh của đạo thần tiên. Đối với những người có học bấy giờ, Mâu Tử thường dùng Ngũ kinh để gạn hỏi, các Đạo gia, thuật só không ai dám luận đáp, giống Mạnh Kha phản bác Dương Chu, Mặc Địch. Lúc đầu Mâu Tử dẫn mẹ lánh qua Giao Chỉ, đến năm hai mươi tuổi mới trở về Thương Ngô cưới vợ. Thái Thú nghe danh Mâu Tử học rộng nên mời ra làm quan, bấy giờ tuổi đang còn trẻ, dốc chí học tập, vả lại thấy thời thế nhiễu loạn, không có ý làm quan, nên Mâu Tử chẳng nhận. Các quan châu quận thời ấy nghi hiềm nhau, nên không kết giao qua lại, quan Thái Thú thấy Mâu Tử học rộng biết nhiều nên sai làm sứ mang lễ vật đến Kinh Châu. Mâu Tử cho rằng: Vinh tước thì dễ nhường, sứ mệnh thì khó tránh, nên chuẩn bị lên đường, lại gặp lúc quan Châu Mục chuộng văn tài, mời ra làm quan, nhưng Mâu Tử cáo bệnh chẳng đến. Bấy giờ em của quan Châu Mục là Thái thú Dự Chương bị Trung Lang Tướng Sạ Dung sát hại. Châu Mục sai Kî Đô Úy Lưu Ngạn đem quân hỏi tội, nhưng sợ các châu quận khác nghi nan, không cho tiến binh. Vì thế Châu Mục đến hỏi Mâu Tử rằng: “Em tôi bị nghịch tặc sát hại, đau xót tình cốt nhục, hận đến tim gan, nay sai Lưu Đô Úy hành binh, nhưng sợ bên ngoài hiềm nghi, quân đi chẳng thông. Tôi nghe nói ngài văn võ song toàn lại có tài luận biện, nay muốn cùng đến thuyết phục Linh Lăng, Quế Dương mượn đường để lưu thông, ngài nghó thế nào?” Mâu Tử đáp rằng: “Được nuôi dưỡng đã nhiều, chịu ơn đãi ngộ đã lâu, thì kẻ só sẽ quên thân báo đáp, mong rằng ra đi nhất định sẽ thành công!” Mâu Tử định sẽ lên đường, nhưng gặp lúc mẹ già qua đời, nên chẳng thể đi được. Lâu ngày nghó lại, mới biết vì luận biện thông đạt, cho nên thường được giao cho nhiều sứ mệnh, gặp lúc thời thế nhiễu loạn, chẳng phải là lúc để hiển lộ mình, nên than rằng: - “Lão Tử bậc Thánh lìa Trí, tu thân dưỡng chân, vạn vật chẳng làm lay động được chí của ngài, thiên hạ chẳng thay đổi được niềm vui của ngài. Chẳng làm bầy tôi cho Thiên tử, chẳng làm bạn hữu của chư hầu, thật đáng tôn quý vậy!” Bấy giờ Mâu Tử bèn chuyên tâm vào Phật Đạo, đồng thời nghiên cứu Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Uống Huyền diệu làm rượu ngon, xem Ngũ Kinh làm đàn sáo. Hàng thế tục bấy giờ đều chê bai ông cho rằng trái với Ngũ Kinh mà theo dị đạo. Ông nghó: “Như muốn luận tranh thì chẳng phải Đạo, còn im lặng thì chẳng thể được,”do đó mới dùng bút mực lược ghi lời của Thánh hiền để minh chứng và giải thích, đặt tên là Mâu Tử Lý Hoặc. Người mê hỏi rằng: Phật sinh nơi đâu; có tông tổ quê hương chăng? Làm những việc gì? Hình trạng như thế nào? Mâu Tử đáp: Thật hay thay câu hỏi này! Xin được dùng sự hiểu biết hạn hẹp của mình mà lược giải thích những điều cốt yếu. Từng nghe Phật hóa làm các hình trạng, tích lũy công đức trải qua ngàn ức năm không thể ghi chép hết. Nhưng lúc sắp thành Phật thì sinh nơi Thiên Trúc, gá vào thân phu nhân của vua Bạch Tịnh. Ban ngày phu nhân nằm mộng thấy cưỡi voi trắng sáu ngà, tâm vô cùng vui mùng nên cảm ứng mà có thai. Đến ngày mồng tám tháng tư, Thái tử xuất sinh từ hông phải của mẹ; vừa sinh liền đi bảy bước, tay phải chỉ lên trời nói rằng: “Trong cõi trời, cõi người này không ai hơn được ta!” Bấy giờ trời đất chấn động, trong cung sáng rực. Cũng trong ngày hôm ấy thị tì của vua cũng sinh một bé trai đặt tên là Xa-nặc; ngựa trắng trong chuồng cũng sinh một con ngựa đặt tên là Kiền-trắc. Vua thường cho theo hầu Thái tử. Thái tử có đủ ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp tùy hình, thân cao một trượng sáu, da màu vàng ròng, trên đỉnh đầu có nhục kế, hai gò má như má sư tử, lưỡi khi thè ra thì che phủ cả mặt, bàn tay có tướng Thiên bức luận. Ánh sáng trên đầu chiếu xa vạn dặm. Đó là lược nói về hình tướng vậy. Năm mười bảy tuổi vua bảo Thái tử cưới một công chúa nước láng giềng làm vợ. Nhưng cả hai khi ngồi thì khác tòa, khi ngủ thì khác giường. Do đạo trời rỗng sáng, âm dương linh thông mà công chúa có thai sáu năm mới sinh ra bé trai. Phụ vương rất nuông chiều, trân quý Thái tử, nên xây cung điện, tuyển chọn mỹ nữ; châu ngọc quý giá bày biện trong ấy. Nhưng Thái tử không tham đắm niền vui thế gian, ý muốn giử đức hạnh. Vào khuya mồng tám tháng hai năm mười chín tuổi, Thái tử gọi Xa-nặc dẫn ngựa Kiền-trắc đến, rồi cùng vượt thành. Nhờ mười chín thần giúp đỡ, đưa ngựa bay vọt ra khỏi Hoàng cung. Sáng hôm sau mọi người cũng chẳng biết Thái tử đi đâu; vua quan và nhân dân đều than khóc, sai người đuổi tìm đến đồng ruộng thì gặp. Vua nói rằng: “Khi chưa có con thì ta cầu xin Thần thánh, nay đã sinh được con thì ta quý như châu ngọc, mong sẽ kế thừa Vương vị. Nay vì sao lại bỏ đi?” Thái tử thưa rằng: “Vạn vật vô thường lúc còn, lúc mất nay con muốn học đạo để sau cứu độ khắp mười phương”. Vua biết Thái tử đã kiên quyết, nên xa giá trở về. Thái tử cũng liền đi thẳng. Trải qua sáu năm tư duy về đạo, Thái tử thành Phật. Sở dó sinh vào tháng Mạch hạ, là vì thời tiết lúc này chẳng lạnh chẳng nóng, cỏ cây nở hoa, bỏ áo lông mà mặc áo vải, là thời tiết trung hòa. Sở dó sinh ở Thiên Trúc vì nơi ấy là khoảng giữa của Thiên hạ. Phật thuyết mười hai thể loại Kinh, gồm tám ức bốn ngàn vạn quyển. Quyển nhiều nhất có một vạn chữ trở xuống, quyển ít nhất cũng có một ngàn lời trở lên. Phật dạy dỗ trời người, độ thoát nhân dân. Ngài Niết-bàn vào ngày mười lăm tháng hai. Kinh giới của Phật vẫn tiếp tục tồn tại, người theo đó mà tu hành thì cũng đạt đến vô vi, phước lưu truyền đến đời sau. Người thọ năm giới, giữ sáu ngày trai trong một tháng. Vào ngày trai thì chuyên tâm khắc ý sám hối tội lỗi đã qua, tự đổi mình ngày càng tốt đẹp. Sa-môn thọ hai trăm năm mươi giới giữ trường trai, giới này hàng Ưu-bà-tắc chẳng được dự nghe. Oai nghi đi đứng đều giống như phép tắc xưa chẳng khác. Ngày đêm chuyên giảng đạo tụng kinh, không tham dự vào việc thế tục. Lão Tử nói: “Hình dáng của Đức lớn, chỉ tùy thuận theo Đạo”, chính là ở đây vậy. - Hỏi rằng: Vì sao gọi là Phật? Phật nghóa là gì? Mâu Tử đáp: Phật là thụy hiệu, giống như gọi Tam Hoàng Thần, Ngũ Đế Thánh vậy. Phật là nguyên tổ của đạo đức, là cội gốc của thần minh. Phật nghóa là giác, trong chỗ mờ mịt mà biến hóa, phân thân chia thể, lúc còn lúc mất, làm lớn làm nhỏ, hay tròn hay vuông, hoặc già hoặc trẻ, thường ẩn thường hiện, đi trong lửa mà chẳng bị cháy, bước trên đao nhọn mà chẳng tổn thương, vào nơi dơ mà chẳng nhiễm, ở trong họa mà chẳng bị tai ương, muốn đi thì bay, vừa ngồi thì phóng ánh sáng, vì thế gọi là Phật. Hỏi: Vì sao gọi là Đạo? Đạo đây là gì? Mâu Tử đáp: Đạo tức là dẫn dắt, dẫn dắt mọi người đến chỗ vô vi, kéo mà không ở trước, dẫn mà chẳng ở sau, đưa lên mà không ở trên, đè xuống mà chẳng ở dưới, nhìn thì không có hình, nghe thì không thấy âm thanh, bốn phương là lớn mà bao phủ bên ngoài, mảy trần là nhỏ mà chuyển động tự tại ở bên trong. Nên gọi là Đạo vậy! Hỏi: Khổng Tử lấy Ngũ Kinh làm Đạo để chỉ dạy, có thể cầm lấy mà tụng, theo đó mà thực hành. Nay ông nói Đạo là hư vô, mờ mịt, chẳng thấy được ý nghóa, chẳng chỉ ra sự hành, vì sao lại khác với lời của bậc Thánh vậy? Mâu Tử đáp: Chẳng thể xem thói quen là nặng, chỗ chưa biết là nhẹ, mê lầm theo vật bên ngoài mà đánh mất tâm bên trong. Lập sự nghiệp mà chẳng làm mất đạo đức, giống như điều chỉnh dây đàn mà chẳng mất cung bậc. Đạo trời thì có bốn mùa, đạo người thì có ngũ thường. Lão Tử nói: “Có vạn vật là do nơi hỗn độn tạo thành, có trước cả trời đất, có thể cho đó là mẹ của Thiên hạ. Ta chẳng biết nó tên gì, gắng gượng gọi là Đạo vậy!” Đạo đó là vạn vật; ở nhà có thể cung phụng cha mẹ, làm vua có thể cai trị nhân dân, đọc thì dùng để tu thân. Theo đó mà thực hành thì cũng khắp cả trời đất; phế bỏ đi không dùng thì nó tiêu hoại mà chẳng xa lìa. Vì ông chẳng hiểu, chứ đâu có gì khác? Hỏi: Phàm chỗ chân thật cùng tột thì không rườm rà, lời tột cùng thì chẳng hoa mỹ. Lời ngắn gọn mà rốt ráo thì đó là đẹp, sự đơn giản mà đạt thành thì đó là sáng. Cho nên châu ngọc ít mà quý, ngói đá nhiều mà vô dụng. Bậc Thánh lập gốc của bảy kinh, chẳng hơn ba vạn lời, mà các sự đều gồm đủ. Còn như nay Phật kinh đến cả vạn, ngôn từ trên số ức, sức một người chẳng kham thọ học. Tôi cho đó là rườm rà mà chẳng thiết yếu vậy! Mâu Tử nói: Sở dó sông biển khác với vũng nước là vì nó sâu rộng; núi Ngũ nhạc sở dó khác với gò đồi là vì nó cao lớn. Nếu cao chẳng hơn đồi gò thì loài dê sẽ dẵm đạp trên đỉnh núi, nếu sâu chẳng hơn dòng nước nhỏ thì trẻ con sẽ tắm ở vực sâu. Kỳ lân chẳng ở trong vườn, cá kình chẳng bơi trong khe hẹp. Tách con ngao ba tấc mà tìm hạt châu minh nguyệt, lấy cái tổ gai tranh mà bắt chim phượng hoàng, thật là khó được. Vì sao? Vì nhỏ chẳng nuốt được lớn. Kinh Phật, trước nói về việc của ức năm, lại nói điều cốt yếu của vạn thế, lúc Thái Tố (vạn vật mới thành) chưa khởi, Thái thỉ (khởi đầu của hình tượng) chưa sinh, Càn khôn mới có tượng, vi tế không thể nắm bắt, nhỏ quá không thể vào trong. Phật nhất định bao trùm bên ngoài sự rộng lớn ấy, phân tích đến bên trong chỗ u vi ấy. Không việc gì là không ghi chép, vì thế kinh quyển mới lên số vạn, lời lẽ đạt đến số ức. Nhiều thì càng đầy đủ, đông thì càng phong phú, có gì mà không cần thiết? Tuy một người chẳng thể kham nhận, nhưng cũng như đến bên suối uống nước hết khát, mà đâu biết là nước thừa? Mâu Tử đáp: Không được! Phàm mặt trời mặt trăng đều có ánh sáng, mà mỗi mỗi đều có nơi chiếu soi riêng; hai mươi tám vì sao mỗi mỗi đều có chủ; một trăm vị thuốc đều sinh mà mỗi vị đều trị mỗi bệnh; áo lông chống rét, áo vải che nóng, xe cộ thuyền bè thủy bộ khác nhau mà đều vì kẻ lữ hành. Khổng Tử chẳng cho năm kinh là đủ nên mới soạn Xuân Thu, Hiếu Kinh, đó là vì muốn mở rộng đạo thuật, khai phóng ý người vậy. Kinh Phật tuy nhiều, nhưng quy về một ý; giống như bảy kinh tuy khác mà then chốt là ở đạo đức, Nhân nghóa cũng là một. Sở dó nói về Hiếu rất nhiều đó là vì tùy theo đức hạnh của người mà chỉ dạy. Như Tử Trường, Tử Du đều hỏi về một hiếu, mà Trọng Ni đáp mỗi mỗi khác nhau, đó là để công kích sở đoản của họ mà thôi, đâu có gì phải bỏ? Hỏi: “Phật đạo thật chí tôn, chí đại”, Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng há chẳng giỏi sao, mà trong bảy kinh chẳng thấy lời này; ông đã thích Thi, Thư vui cùng Lễ Nhạc, sao lại còn thích Phật đạo vui với Dị thuật nữa? Há có thể bỏ Kinh Truyện mà khen Thánh nghiệp ư? Trộm nghó ông chẳng nên giữ lấy vậy! Mâu Tử đáp: Thư chưa hẳn phải là lời của Khổng Tử, thuốc chưa hẳn phải là phương dược của Biển Thước, hễ sách nào hợp nghóa thì theo, thuốc nào trị lành bệnh là tốt. Người quân tử nên gom giữ mọi điều thiện để trợ giúp tu thân. Tử Cống nói: “Phu tử đâu có gì gọi là Thường Sư? Nghiêu thờ Doãn Thọ, Thuấn thờ Vụ Thành, Đám học Lã Vọng, Khâu học Lão Đam cũng đâu thấy ghi trong bảy kinh. Bốn vị tuy đều là Thánh nhưng so với Phật thì giống như nai trắng so với kỳ lân, én so với phượng hoàng. Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng hãy có phải học Phật. Huống gì Phật còn đủ ba mươi hai tướng quý, tam mươi vẻ đẹp, thần lực biến hóa vô cùng, đâu thể bỏ qua mà chẳng học? Sự và nghóa của năm kinh thiếu sót nên không thấy ghi Phật, đâu cẩn phảinghi ngờ gì? Hỏi: Phật có ba mươi hai tướng quý, tám mươi vẻ đẹp, vì sao khác xa với người thường như thế? Ắt là lời thuận tai chứ chẳng có thật? Mâu Tử đáp: Ngạn ngữ có câu: “Phàm việc gì ít thấy, thì có nhiều điều quái dị” như thấy con lạc đà thì cho là ngựa bị sưng lưng; lông mày của vua Nghiêu có tám màu, mắt vua Thuấn có hai đồng tử; Cao Đào có miệng ngựa, Văn Vương có bốn lỗ mũi, Vua Vũ có ba lỗ tai; Chu Công lưng gù, Phục Hy mũi rồng, Trọng Nữ đỉnh đầu lõm; Lão Tử trán nhô cao, mắt đen, mũi có ba cây trụ, tay có cầm mười văn tiền, chân đạp hai mươi lăm văn tiền. Đó chẳng phải là các tướng khác người thường ư? Vậy Phật có tướng quý và vẻ đẹp đâu có gì phải nghó? Hỏi: Hiếu Kinh nói rằng: Thân thể, râu tóc, da dẽ đều nhận của cha mẹ, chẳng dám làm tổn thương. Tăng Tử lúc lâm chung còn gọi đệ tử đến bảo rằng: “Dở mền ra để ta xem tay chân của ta có còn chăng!” Nay hàng Sa-môn cạo tóc, thì khác gì đã trái lời Thánh nhân, chẳng hợp đạo hiếu. Ta nghó ông luôn thích luận về thị phi, bàn về tà chánh mà lại trái với điều thiện sao? Mâu Tử đáp: Phàm chê Thánh hiền là bất nhân, luận chẳng đúng là bất trí; bất nhân bất trí thì lấy gì mà lập đức, đức mà chẳng lập được thì đó là bọn ngu si, đâu dễ gì luận bàn? Khi xưa có hai cha con người nước Tề đi thuyền qua sông, chẳng may người cha rớt xuống nước, người con đưa tay nắm đầu vớt lên rồi dốc ngược đầu xuống đất để nước từ bụng trào ra ngoài, do đó người cha thoát chết. Phàm nắm đầu, dốc ngược cha đó là đại bất hiếu, nhưng làm cho cha toàn mạng sống. Nếu khoanh tay khư khư giữ lấy cái thường tình của người con hiếu, thì người cha chết chìm dưới sông rồi! Khổng Tử nói: “Có thể được thì nói thật Đạo, chưa được nói quyền nghi. Nghóa là tùy thời nghi mà thi hành vậy!” Hiếu Kinh có nói: “Tiên Vương có chí đức lại cầu đạo, mà Thái Bá cạo tóc, xăm mình, theo tục của Ngô Việt, trái với nghóa giữ thân thể râu tóc, nhưng Khổng Tử lại khen. Có thể cho đó là người chí đức vậy”. Trọng Ni chẳng cho rằng Thái Bá cạo tóc là hủy hình. Do đó có thể thấy rằng nếu có đức lớn thì chẳng câu nệ việc nhỏ. Hàng Sa-môn lìa gia đình bỏ tài sản vợ con, chẳng nghe tiếng, chẳng nhìn sắc, có thể cho là sự xả bỏ cùng tột; đâu trái với lời Thánh hiền chẳng hợp với hiếu nghóa? Dự Nhượng nuốt than, sơn thân thể; Niếp Chánh rạch mặt mình; Bá Cơ đạp trên lửa, Cao Hành hủy dung mạo; người quân tử vì dũng, mà có nghóa. Chẳng nghe có lời chê bai họ tự hủy mình. Hàng Sa-môn cạo bỏ râu tóc, so với 4 người kể trên chẳng phải đã hơn xa lắm ư? Hỏi: Phàm tạo phước không gì hơn là kế thừa, bất hiếu không gì bằng tuyệt hậu. Hàng Sa-môn lìa vợ con, bỏ sản nghiệp, hoặc suốt đời chẳng lấy vợ. Sao lại trái với hạnh phước hiếu, tự làm khổ mình mà chẳng lấy làm kỳ; tự làm xấu mình mà chẳng lấy làm khác lạ? Mâu tử đáp: Phàm bên trái dài ắt bên phải ngắn, phía trước lớn ắt phía sau nhỏ. Mạnh Công Xước làm đến Triệu Ngụy Lão thì được nhưng chẳng thể cho làm Đằng Tiết Đại Phu. Vợ con tài sản là việc của thế gian, thanh bần vô vi là chỗ diệu của đạo. Lão Tử nói rằng: “Danh và lợi, điều nào quý hơn, thân và tài cái nào nhiều hơn?” Lại nói: Xem di phong của Tam Đại, xét đạo thuật của Nho Mặc, đều là tụng Thi Thư, học lễ tiết, tôn nhân nghóa, trọng sự trong sạch, người trong nước truyền sự nghiệp danh dự vang xa. Đó là chỗ làm của hàng Trung só; người đạm bạc thì chẳng quan tâm. Cho nên trước thì có hạt châu của nhà Tùy, sau mới có hổ gầm, người nhìn thấy thì chạy, mà chẳng dám lấy. Vì sao? Vì trước lo đến thân, sau mới nghó đến lợi. Hứa Do lánh ở Sào Mộc; Di, Tề nhịn đói ở Thủ Dương; Thuấn, Khổng khen là người hiền rằng: “Cầu nhân thì được người nhân vậy!” Chẳng nghe ai chê họ là tuyệt hậu, không có tài sản. Hàng Sa-môn tu đạo đức, để thay cái vui thế tục, trở về với hiền tuệ để xa lìa niềm hoan lạc vợ con. Đó chẳng phải là kỳ, ai cho là kỳ, đó chẳng phải là lạ ai cho là lạ? Hỏi: Hoàng Đế vô vi cai trị mà chế định y phục; Ky Tử đặt ra quy tắc lớn dùng dáng mạo đứng đầu năm việc, Khổng Tử soạn Hiếu Kinh, nêu phục sức là Khởi đầu của ba đức. Lại nói: Chấn chỉnh về áo mão, tôn kính cho người nhìn, nguyên Hiến nghèo mà chẳng bỏ áo mão, Tử Lộ gặp nạn mà chẳng quên thắc giải mũ. Nay hàng Sa-môn cạo tóc đắp ca-sa, thấy người không có lễ nghi quỳ lạy, không có dung nghi đường hoàng, thật trái với chế định về y phục dáng mạo; nghịch với trang phục của nho quan. Mâu Tử đáp: Lão Tử nói: “Bậc Thượng đức chẳng phải đức mới thật có đức, hàng Hạ đức chẳng để mất đức tức là vô đức”. Thời Tam Hoàng, con người chỉ ăn thịt, mặc vỏ cây, ngủ trên tổ ở trong hang, chuộng sự thuần phát, đâu cần áo mão cân đai? Nhưng người bấy giờ được khen là có đức mà đôn hậu, thành tín mà vô vi. Hàng Sa-môn cũng giống như thế! Hỏi: Như lời ông nói thì kinh sách của Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng đều bỏ hết, không đáng làm phép tắc ư? Mâu Tử đáp: Phàm thấy biết nhiều thì chẳng mê, nghe thông suốt thì chẳng lầm. Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng khéo về thế sự, Phật Lão thì chí tại vô vi. Trọng Ni đi khắp mười bảy nước, Hứa Do nghe nói nhường ngôi thì liền rửa tai bên suối. Đạo của bậc quân tử có lúc xuất thân có lúc ẩn lánh, hoặc nói hoặc nín, mà chẳng phóng túng tâm tình, chẳng mê loạn bản tánh. Cho nên phàm nói đến Đạo thì quý ở chỗ dùng, đâu có gì phải bỏ? Hỏi: Phật đạo nói ngưới chết rồi sẽ sinh trở lại, tôi chẳng tin lời này! Mâu Tử nói: Người vừa chết, người trong gia đình leo lên mái nhà kêu gọi, đã chết rồi thì kêu gọi ai? Đáp: Kêu gọi hồn phách của họ. Mâu Tử nói: Thần thức trở lại thì sống, chẳng trở lại thì gọi thần thức là gì? Đáp: Thành quỷ thần. Mâu tử nói: Đúng vậy! Quỷ thần nhất định chẳng diệt, chỉ có thân này tự hư hoại. Thân thể được ví như gốc rễ cành lá của ngũ cốc, qủy thần ví như hạt ngũ cốc, rễ lá có sinh ắt phải chết, còn hạt há có diệt mất ư? Đắc đạo thì thân diệt. Lão Tử nói: “Sở dó Ta có nỗi lo lớn là vì Ta có thân. Nếu Ta chẳng có thân thì nào có lo lắng gì?” Công thành danh toại, thì thân trở về, đó là đạo trời vậy. Lại có người hỏi rằng: Tu đạo cũng chết không tu đạo cũng chết, đâu có gì khác nhau? Mâu Tử nói: Đó chính là kẻ không có một ngày làm thiện mà muốn hỏi tìm danh dự suốt đời vậy! Có đạo tuy cũng chết mà thần đến cảnh giới phước; còn làm ác đã chết mà thần sẽ còn bị tai họa nữa. Người ngu thì mê mờ nơi việc đã thành hình, bậc trí thì dự biết việc chưa phát sinh. Có đạo và không đạo như vàng và cỏ, thiện và phước như trắng và đen, sao chẳng khác mà nói là: Đâu có gì khác! Hỏi: Khổng Tử nói: “Chưa thể phụng sự người thì đâu thể phụng sự thần? Chưa biết sống, làm sao biết chết”. Đây là lời của bậc Thánh. Nay nhà Phật thường nói đến việc sống chết, việc quỷ thần, đó ắt chẳng phải là lời của bậc Thánh triết. Phàm người đạt đạo thì nên sống rỗng rang đạm bạc, tâm ý thuần phác, vì sao lại luận sống chết để loạn ý, bàn những việc quỷ thần viễn vông. Mâu Tử đáp: Như lời ông nói thì chỉ thấy ngoài mà chưa biết bên trong. Khổng Tử bệnh, Tử Lộ chẳng hỏi gốc ngọn gì cả, lấy việc này để mà xét biết vậy. Hiếu Kinh nói: “Lập Tông miếu để quỷ thần hưởng thọ, tế tự hai kỳ xuân thu để luôn luôn nghó nhớ đến”. Khi sống thì lo kính yêu, khi chết thì đau xót”; đó há chẳng phải là dạy người phụng sự quỷ thần, biết sống chết đó ư? Lại Chu Công vì Võ Vương mà tâu xin rằng: “Đán nhiều tài nghệ có thể phụng sự quỷ thần”. Đó là gì? Kinh Phật nói cõi sinh tử, chẳng phải là nghóa này sao? Lão Tử nói: “Đã biết con, lại giữ mẹ, suốt đời chẳng nguy”. Lại nói rằng: “Dùng ánh sáng ấy, lại chiếu sáng mình, thân không bị tai họa”. Đó là nói đến chỗ về của sinh tử, là chỗ gá nương của lành dữ. Chỗ cốt yếu của chí đạo chính là chỗ rỗng lặng. Nhà Phật đâu có muốn nói, vì người đến hỏi, không thể không đáp. Chuông trống đâu thể tự kêu, có người đánh mới kêu. Hỏi: Khổng Tử nói: “Di Địch có vua chẳng bằng các nước vùng Hoa Hạ chẳng có vua”. Mạnh Tử chê bai Trần Tướng trở lại học thuật của Hứa Hành, nói rằng: “Ta nghe nói dùng phép Hoa Hạ để biến cải Di Địch, chứ chưa nghe nói dùng phép của Di Địch biến cải Hoa Hạ”. Ôâng lúc hai mươi tuổi đã học Đạo Nghiêu Thuấn, Chu Khổng mà nay lìa bỏ, lại học thuật của Di Địch, chẳng phải đã bị mê hoặc rồi ư? Mâu Tử nói: Đây là những lời luống suông khi ta chưa hiểu được đạo lớn. Như ông, tôi có thể cho rằng ông mới chỉ thấy được cái hoa mỹ của lễ nhạc mà chưa biết được cái thật của đạo đức; mới thấy ánh sáng của ngọn đuốc, chưa thấy được mặt trời trên thiên đình. Lời Khổng Tử nói là để thuận với thế pháp, lời của Mạnh Kha thì chuyên nhất. Khi xưa Khổng Tử muốn đến sống ở Cửu Di, mới nói rằng: “Quân tử sống nơi ấy cũng đâu có gì thô lậu?” Đến lúc Trọng Ni không được Lỗ Vệ dung nạp, Mạnh Kha chẳng được Tề Lương tin dùng, thì cũng đâu trở về làm quan nơi Di Địch? Vũ sinh tại Tây Khương mà là bậc Thánh triết, Cổ Tẩu sinh ra Thuấn mà lại là kẻ ngu hèn; Do Dư sinh ở nước Địch mà xưng Bá ở Tần, Quản Tế xuất từ Hà Lạc mà lời được lưu truyền. Truyện ghi: “Sao Bắc Thần, đối với trời thì ở giữa, đối với người thì ở phương Bắc. Theo đây thì đất Hán chưa hẳn là ở giữa trời đất”. Kinh Phật nói các loài vật có máu trong trời đất này đều thuộc về Phật. Vì thế ta tôn kính mà theo học, cũng đâu xả bỏ đạo Nghiêu Thuấn Chu Khổng! Vàng ngọc chẳng làm tổn thương nhau, châu ngọc chẳng làm hại nhau, chỉ có người khi mê thì tự lầm mà thôi! Hỏi: Dùng tiền bạc của cha mẹ bố thí cho người đi đường chẳng thể cho là ban ân huệ; cha mẹ còn sống mà tự giết mình để thay cho người, thì chẳng gọi là nhân. Nay kinh Phật nói Thái tử Tu-đại-noa dùng tài vật của cha để thí cho người ở xa, lấy voi báu của quốc gia ban cho oán địch, lại còn đem vợ con cho người khác. Chẳng kính người trên mà kính kẻ khác, đó là trái đức. Tu-đại-noa bất hiếu, bất nhân mà nhà Phật lại tôn kính, thì đâu chẳng khác ư? Mâu Tử đáp: Theo nghóa của Ngũ Kinh thì lập con trưởng làm Đích tử, nhưng Văn Vương thấy được chì của Xương, nên chuyển lập con út làm đích tử mà thành tựu sự nghiệp nhà Chu, đất nước thái bình. Lấy vợ theo nghóa là phải thưa với cha mẹ, nhưng Thuấn cưới vợ mà chẳng thưa, lại thành tựu luân lý đạo đức cơ bản. Hàng Trinh só cần phải có lễ mời mới đến, bậc hiền thần đợi chiếu triệu mới vào triều, nhưng Y Doản vác đảnh cầu kiến vua Thang; Ninh Thính gõ sừng trâu để mong gặp vua Tề; Thang phong Doản làm Vương, Tề phong Thích làm Bá. Theo lễ thì nam nữ chẳng được chạm nhau, nhưng khi gặp người đàn bà sắp chết đuối thì phải dùng tay mà vớt lên, đó là quyền biến khi có nguy cấp. Nếu muốn được việc lớn thì chẳng nên câu nệ việc nhỏ. Bậc đại nhân há lại chấp vào thường tình ư ? Thái tử Tu-đại-noa biết tài vật thế gian vô thường chẳng phải là vật báu của mình, mới tự ý bố thí mà sau thành tựu đạo lớn. Quốc gia được phước này mà oan gia chẳng xâm nhập; cho đến thành Phật thì cha mẹ, anh em đều được độ. Đó chẳng phải là hiếu, là nhân thì cái gì là nhân là hiếu đây? Hỏi: Phật đạo trọng vô vi, thích bố thí, chăm chăm trì giới như đứng bên bờ vực thẳm, mà nay có Sa-môn thích uống rượu, nuôi vợ con, giữ cái hèn mà bỏ chỗ cao quý, chuyên làm điều hư dối. Đó là sự trá ngụy của thế gian mà Phật đạo lại cho là vô vi ư? Mâu Tử nói: Công Thâu có thể cho người búa kềm, mực thước chứ chẳng thể làm cho người khéo léo được; Thánh nhân có thể dạy cho người Đạo lớn chứ chẳng thể khiến người theo đó mà hành trí được; Cao Đào có thể trị tội kẻ trộm, chứ chẳng thể làm kẻ trộm khiến Bá Di, Thúc Tề được; năm loại hình phạt có thể trừ kẻ đại gian ác, chứ không thể làm kẻ ác thành Tăng Mân; vua Nghiêu chẳng thể cải hóa Đan Chu, Châu Công chẳng thể dạy dỗ Quản Thái. Đâu phải giáo Đường Nghiêu chẳng rõ, đạo nhà Chu đủ, nhưng không bằng kẻ ác, là vì sao? Ví như người đời học làu thông bảy kinh mà còn đam mê tài sắc, có thể cho lục nghệ là tà dâm ư? Hà Bá tuy là thần, nhưng chẳng thể nhận chìm hết người trên đất liền được. Gió thổi tuy nhanh thật, nhưng chẳng thể làm cho nước trong lặng nổi bụi mù được; người đang lo sợ thì chẳng thể đi, đâu thể cho rằng đường Phật có hiểm ác? Hỏi: Khổng Tử nói: “Xa xỉ thì chẳng khiêm nhường, cần kiệm thì sinh hẹp hòi”. Thúc Tôn nói: “Cần kiệm là đức khiêm cung, xa xỉ là ác to lớn”. Nay nhà Phật cho bố thí hết tiền bạc là danh, ban phát tận tài vật là quý. Như thế há có phước ư? Mâu Tử đáp: Kia là lời nói nhất thời, đây cũng là lời nói nhất thời. Lời của Trọng Ni cho rằng quá xa hoa thì không có lễ nghóa, lời của Thúc Tôn là chê Nghiêm Công xa hoa, chứ chẳng phải là cấm bố thí. Khi Thuấn cày ở Lịch Sơn thì ân đức chẳng thấm nhuần các châu quận; lúc Thái Công giết trâu thì ân huệ chẳng đến vợ con. Đến khi được trọng dụng thì ân nhuần tám cõi, huệ ban khắp bốn biển. Tài sản vô số thì quý ở chỗ hay ban phát cho người; nghèo túng không tài sản thì quý ở chỗ hành đạo, Hứa Do chẳng tham ngôi quốc chủ, Bá Di chẳng cam chịu ân lộc của quốc gia, Ngu Khanh dùng tước phong vạn hộ để cứu cùng dân nguy cấp, mỗi người đều có chí riêng. Hi Phụ Ky biếu một bữa cơm để bảo toàn nơi ở của mình; Tuyên Mạnh thí một bữa cơm mà cứu sống được thân mạng chẳng lường của mình. Âm thí thì hiển hiện bất ngờ, dương báo thì rõ ràng như ngày sáng. Huống hồ dốc tài sản, phát thiện tâm, thì công đức ấy cao lớn như Tung Sơn, Thái Sơn, mênh mông như sông biển vậy. Người có tâm thiện thì hưởng phước báo, kẻ mang lòng ác thì bị chiêu cảm tai ương. Không có việc trồng lúa mà được đậu, gây họa mà được phước! Hỏi: Phàm về Sự thì không gì hơn Thành, về Thuyết thì không gì qua Thật. Lão Tử gạt bỏ lời hoa mỹ, chỉ chuộng ngôn ngữ thuần phát mà thôi. Kinh Phật khi thuyết không chỉ rõ sự, chỉ rộng dùng thí dụ, mà thí dụ thì chẳng phải là yếu nghóa của đạo. Lấy dị làm đồng thì chẳng phải là chỗ diệu của Sự. Tuy ngôn từ rộng nhiều, nhưng cũng giống một xe ngọc vỡ, chẳng thể cho là vật báu. Mâu Tử đáp: Khi Sự mà mọi người đồng thấy, thì có thể nói là Thật. Nếu một người thấy một người chẳng thấy thì khó cho đó là Thành. Khi xưa, một người chưa thấy Lân hỏi người đã thấy rằng: “Lân giống con gì?” Người đã thấy đáp: “Lân giống Lân”. Người kia liền nói: “Nếu tôi đã thấy Lân, thì không hỏi ông, nay ông nói Lân giống Lân thì tôi đâu thể biết được!” Người đã thấy Lân bèn nói: “Lân có thân như cái cối, đuôi trâu, chân nai, lưng ngựa”, người kia lại mờ mịt. Khổng Tử nói: “Với người chẳng biết thì chẳng giận, chẳng phải cũng là quân tử ư?” Lão Tử nói: “Trong khoảng trời đất, nó giống như cái bể thợ rèn ư?” Lại nói: “Thí như Đạo ở trong Thiên hạ giống như ao nhỏ và sông biển vậy” như thế đâu có gì hoa mỹ đâu? Luận Ngữ nói: “Vì phép tắc mà dụ đức như sao Bắc Thần, dẫn trời dụ cho người”. Tử Hạ nói: “Dùng dụ về các loại cây cỏ để phân biệt”. Ba trăm bài của Kinh Thi đều dẫn vật để so sánh; từ sấm vó của các nhà, cho đến nghóa bí yếu của Thánh nhân đều dùng thí dụ để thuyết minh; sao ông chỉ chê Phật thuyết kinh dùng dụ thôi? Hỏi: Con người sống trên đời này, không ai chẳng thích giàu sang, ghét nghèo hèn; thích vui nhàn mà ghét khổ nhọc. Hoàng Đế dưỡng tánh lấy năm hào làm trên hết; Khổng Tử nói: “Đối với gạo thì cái tinh chẳng biết đủ; với nem thì sự tế nhuyễn chẳng bao giờ thừa!”Nay Sa- môn đắp ca-sa, ngày ăn một bữa, đóng chặt sáu căn, tự đoạn thế tình, như vậy đâu có gì là vui thú? Mâu Tử đáp: Phàm giàu và sang là điều mà con người ước muốn, chẳng vì Đạo ấy, dù được nó mà chẳng ở; nghèo và hèn là điều mà con người chán ghét, chẳng vì Đạo ấy, dù gặp nó mà chẳng bỏ. Lão Tử nó: “Năm sắc khiến cho mắt người bị mờ, năm thanh khiến cho tai người bị điếc; năm vị khiến cho lưỡi người bị tê, dong ngựa săn bắn khiến tâm người phát cuồng, tài vật quý hiếm khiến hạnh người bị tổn thương. Thánh nhân chỉ vì bụng chẳng vì con mắt”, lời này há hư dối ư? Liễu Hạ Huệ chẳng vì tước vị Tam Công mà thay đổi hành vi của mình; Đoàn Can Mộc chẳng vì thân mà đổi lấy sự phú quý của Ngụy Văn. Hứa Do, Sào Phụ sống trên cây, tự cho đã ở yên nơi Đế Cung; Bá Di, Thúc Tề nhịn đói ở Thủ Dương mà tự cho là đã no với cơm của Văn Võ, đó là do mỗi người đạt được ý chí của mình mà thôi, đâu có gì mà chẳng vui thú? Hỏi: Nếu kinh Phật sâu xa vi diệu, ngôn từ hay đẹp, vì sao ông chẳng đem ra bàn nơi triều đình, luận với quân vương, dạy dỗ chốn khuê môn, giao tiếp với bằng hữu, mà lại đọc Kinh Truyện, đọc Chư Tử vậy? Mâu Tử đáp: Chưa biết được nguồn mà chỉ hỏi đến dòng của nó vậy! Phàm bày lễ vật trước cửa quân doanh, dựng tinh kỳ khắp chốn triều đường, mặc áo lông cừu để chống với tháng năm, mang áo vải để chịu với tháng 11, chẳng phải không đẹp đẽ ư? Nhưng đã trái nơi chốn, lại chẳng hợp thời tiết. Cho nên phải giữ cái thuật của Khổng Tử mà vào cửa của Thương Ưởng, mang cái thuyết của Mạnh Kha để đến nơi Tô, Trương. Công chẳng bao nhiêu mà họa thì to lớn. Lão Tử nói: “Bậc Thượng só nghe đạo thì siêng năng thực hành, hàng Trung só nghe đạo thì lúc nhớ lúc quên, kẻ Hạ só nghe đạo thì cười”. Ta sợ cười nên chẳng dám nói. Khi khát nước chẳng cần phải tìm đến sông hồ, mà uống nước giếng cũng được đã khát vậy! Vì thế lại phải đọc Kinh truyện. Hỏi: Đất Hán mới nghe được Phật đạo, vậy Phật đạo từ đâu mà xuất hiện? Mâu Tử đáp: Khi xưa Hiếu Minh Đế nằm mộng thấy một thần nhân, toàn thân có ánh sáng bay vào cung, Đế vui mừng khôn xiết. Sáng hôm sau Đế hỏi khắp các quần thần, rằng đó là vị thần nào. Có một vị quan tên là Phó Nghị học rộng biết nhiều tâu rằng: “Thần nghe ở Tây Thiên Trúc có một người đắc đạo, gọi là Phật, có thể bay trong hư không, thân có vầng ánh sáng mặt trời; ắt là vị thần này”. Bấy giờ Đế mới biết, liền sai mười hai người như Trung Lang Thái Âm, Lang Trung Vũ Lâm Tần Cảnh, Bác Só Đệ Tử Vương Tuân … đến nước Nguyệt Chi chép kinh Tứ Thập Nhị Chương mang về giữ tại gian thứ mười bốn trong thạch thất Lan Đài. Bấy giờ Đế ban sắc xây chùa Phật bên ngoài Ưng Môn, phía tây thành Lạc Dương. Trên vách chùa có vẽ hình ngàn cổ xe vạn kî mã nhiễu tháp ba vòng. Lại tại Thanh Lương Đài ở Nam Cung và trên cổng thành Khai Dương cũng có vẽ hình Phật. Khi Minh Đế còn tại vị cũng dự định tu sửa Thọ lăng. Trên lăng có ghi: “Hiển Tiết cũng đã vẽ tượng Phật trên lăng”. Bây giờ đất nước giàu có, nhân dân an lạc. Các nước ở vùng ngoại biên xa xôi mến chuộng đạo nghóa, do đó người học Phật bấy giờ rất đông. Hỏi: Lão Tử nói: “Người biết thì không nói, người nói thì chẳng biết”; lại nói: Giỏi luận như khờ, quá khéo như vụng, quân tử hổ thẹn vì lời nói vượt hơn việc làm. Ví như Sa-môn có chí đạo thì sao chẳng ngồi mà hành trì, sao lại luận thị phi, bàn tà chánh? Tôi cho đó là đức hạnh thấp kém. Mâu Tử nói: Xuân đến sẽ đói mà Thu nay nhịn ăn, tháng mười một trời lạnh mà tháng năm lo mặc áo lông cừu. Tuy có dự định sớm mà chẳng thể không bị chê là ngu. Lão Tử nói: “Người đã đắc đạo thì xong, còn người chưa đắc đạo, đâu biết được gì? ” Đạo lớn chỉ một lời mà thiên hạ an vui, đó chẳng phải là đại biện tài ư? Lão Tử chẳng từng nói Công thành thì Thân trở về, đó là đạo của trời; Thân đã trở về thì đâu có gì để nói? Nay hàng Sa-môn chưa đắc đạo thì đâu chẳng được nói; Lão Tử cũng còn nói vậy. Nếu Lão Tử chẳng nói thì năm ngàn lời kia làm sao mà tỏ bày? Nếu biết mà chẳng nói thì còn được; nếu đã chẳng biết mà chẳng thể nói thì đó là người ngu. Cho nên có thể nói mà chẳng thể làm là thầy của nước, có thể làm mà chẳng thể nói là cái dụng của nước; có thể nói có thể làm là vật báu của nước nhà. Ba phẩm mỗi mỗi đều có chỗ thi hành, đâu phải là đức kém? Chỉ như chẳng thể nói, lại chẳng thể làm mới là đức kém. Hỏi: Như lời của ông thì chỉ cần học luận biện thông đạt, giỏi ngôn từ là được, sao lại còn tu tâm tánh, hành đạo đức? Mâu Tử đáp: Sao chậm hiểu như thế? Phàm ngôn ngữ, đàm luận mỗi mỗi phải hợp thời. Như Cừ Viện nói: “Quốc gia có đạo thì ngay thẳng, quốc gia không có đạo nghiêng mà hủy hoại”. Ninh Võ Tử nói: “Quốc gia có đạo thì trí, Quốc gia không đạo thì ngu”. Khổng Tử nói: “Đáng nói mà chẳng nói thì mất người, chẳng đáng nói mà nói thì mất lời”. Cho nên trí hay ngu tự có lúc, luận đàm mỗi mỗi có ý riêng. Vì sao đang nói năng mà chẳng hành? Hỏi: Ông nói Phật đạo chí tôn, chí lạc, vô vi, đạm bạc, vì sao các học só thế gian phần nhiều phỉ báng rằng: “Lời nói rỗng suông khó dùng, giáo thuyết thì hư vô khó tin?” Mâu Tử nói: Vị ngon quá thì chẳng hợp với nhiều miệng, âm cao quá thì chẳng thuận với nhiều tai. Soạn Hàm Trì, tạo Đại Chương, khởi Tiêu Thiều, Vịnh Cửu Thành, thì chẳng ai hòa được. Trương Trịnh, Vệ Chi đàn ca âm điệu thời tục thì không hẹn mà vỗ tay. Cho nên Tống Ngọc nói: “Khách ca ở đất Dónh, tấu khúc Hạ Lý thì cả ngàn người hòa theo, nhưng khi dẫn sang tấu Thương tấu Giốc thì chẳng có ai theo”. Vì họ đều vui thích với âm bất chánh mà chẳng hiểu được âm lượng khoan hòa rộng lớn. Hàn Phi với cái thấy nhỏ hẹp của mình mà chê bai Nghiêu Thuấn, Tiếp Dư dùng thân phận thấp kém của mình mà phản bác Khổng Tử, họ đều là người chỉ tham việc nhỏ, chẳng biết việc lớn. Phàm nghe âm Thương trong mà cho là âm Giốc, đó chẳng phải do lỗi của đàn, chỉ vì người nghe chẳng đạt; thấy hạt ngọc của Biện Hòa mà cho là đá, đó chẳng phải là do hạt ngọc tầm thường, chỉ vì người xem chẳng rõ. Rắn thần đứt rồi có thể nối liền, nhưng chẳng thể khiến người chẳng đoạn; rùa linh báo mộng cho Tống Nguyên mà chẳng thoát khỏi lưới của Dự Tư. Đạo lớn thì vô vi, hàng phàm tục chẳng thể thấy được, Đạo chẳng vì người khen mà quý, chẳng vì người chê mà hèn; dùng hay chẳng dùng là do trời, hành hay chẳng hành là tùy thời, tin hay chẳng tin là do người mà thôi! Hỏi: Ông dùng Kinh truyện của các nhà để giải thích lời của Phật, tôi thấy ngôn từ phong phú mà nghóa lý rõ ràng; lời văn mạnh mà thuyết giáo trọn vẹn, không có gì trái, đó ắt là do ông biện luận vậy? Mâu Tử đáp: Chẳng phải tôi luận biện, vì thấy rộng nên chẳng lầm mà thôi! Hỏi: Thấy rộng, có thuật gì ư? Mâu Tử đáp: Từ Kinh Phật mà ra. Khi tôi chưa hiểu được kinh Phật, còn mê lầm hơn ông nữa! Tuy đọc Ngũ Kinh làu thông, nhưng lúc ấy chỉ mới là hoa, chưa kết thành quả. Khi tôi đã xem kinh Phật, xét tinh yếu của Lão Tử, giữ được tánh điềm đạm, quán hạnh vô vi rồi trở lại nhìn thế sự thì giống như đứng trên bầu trời mà nhìn khe cốc, lên núi cao mà ngắm gò đồi. Ngũ Kinh là ngũ vị, Phật đạo là ngũ cốc. Từ khi tôi nghe Đạo đến nay, như vẹt mây đen nhìn thấy mặt trời, cầm đuốc lớn bước vào phòng tối! Hỏi: Ông nói kinh Phật như sông biển, văn từ như dệt gấm thêu hoa. Vì sao chẳng dùng kinh Phật đáp lời tôi; lại dẫn Thi Thư để giải thích, đó là hợp dị làm đồng ư? Mâu Tử đáp: Người khát nước chẳng cần phải uống nước sông biển, người đói ăn chẳng cần phải đến kho gạo thóc mới được no. Đạo là vì người trí mà lập, luận biện là vì người biết mà giải thông, Sách là vì người hiểu mà truyền, Sự là vì người thấy mà bày sắp. Tôi cho rằng ông biết được ý này, cho nên mới dẫn việc ấy để thuyết minh. Nếu dùng lời trong kinh Phật, luận đến yếu chỉ vô vi, cũng như nói năm màu với người mù, tấu năm âm cho người điếc. Sư Khoáng tuy giỏi đàn, nhưng chẳng thể khảy đàn không dây. Hồ Lạc tuy ôm hận nhưng chẳng thể đốt người không có khí lực. Công Minh Nghị đàn âm điệu “Giốc trong” cho một con bò cái nghe, nhưng bò vẫn cắm cúi gặm cỏ như cũ. Chẳng phải con bò không nghe, chỉ vì tiếng đàn không có tác dụng đối với đôi tai của bò, nó cho là tiếng muỗi vo ve. Nếu có tiếng kêu của bò con thì nó liền vẫy đuôi, vễnh tai, bước lên nghe ngóng. Vì thế tôi dùng Thi Thư giải thích cho ông nghe vậy! Hỏi: Khi xưa tôi ở Kinh đô đã vào Đông quán đến Thái học đã thấy được phép tắc của các tuấn só, nghe được chỗ luận đàm của Nho gia, nhưng chưa từng nghe nói tu Phật đạo là quý, hủy hình mạo là cao. Vậy sao ông ham thích đến thế? Phàm đi lạc thì chuyển đường khác, suy cùng thì trở về nơi cũ, Ông khá chẳng suy nghó lại ư? Mâu Tử đáp: Phàm người giỏi biến hóa thì không thể dùng sự trá ngụy để chỉ bày, người thông suốt Đạo thì chẳng thể dùng sự kỳ quái làm kinh sợ, người thấu rõ được ngôn từ thì không thể dùng lời nói để mê hoặc; người đạt nghóa thì chẳng thể vì lợi lộc mà động tâm. Lão Tử nói: “Danh là cái hại của thân, lợi là vết hại nhơ của hạnh”. Lại nói: Dẫu đối lập được quyền, lấy hư vô làm quý, học lễ nghi chốn khuê môn, sự giao tiếp của thế tục, đạt đến chỗ tinh vi để cầu mong thích hợp đương thời thì đó cũng chỉ là việc làm của hàng Hạ só, hàng Trung só không màng đến. Hà huống chí đạo mênh mông là chỗ làm của bậc Thánh, lồng lộng như trời xanh, sâu thẳm như biển cả, chẳng hợp với kẻ có cái thấy nông cạn hạn hẹp cố chấp. Người thấy cái cửa, ta thấy cái nhà, người hái hoa, ta thâu quả, người cầu nhiều ta lấy chỗ chuyên nhất. Ôâng mau chuyển đường, ta xin ông thực hành Phật đạo, vì gốc của họa phước chưa biết thế nào? Hỏi: Ông dùng lời trong Kinh truyện, ngôn từ hoa mỹ để tán dương hạnh của Phật, ca ngợi đức của Phật, cao thì vút tận trời mây, rộng thì khắp cùng mặt đất, như vậy có vượt cái gốc, quá cái thật chăng? Còn lời tôi phản bác thì như đã chẩn xét trúng căn bệnh vậy! Mâu Tử đáp: Ôi! Lời khen của tôi giống như thêm mảy bụi vào núi Tung núi Thái, hứng giọt sương mai mà đổ vào biển lớn. Lời ông chê bai lại giống như dùng gáo múc nước muốn cạn sông biển, kéo chiếc cày mà muốn san bằng núi Côn Lôn? Dùng một bàn tay mà muốn che ánh mặt trời, ném một hòn đất để ngăn chặn Hoàng Hà. Tôi khen chẳng thể khiến đạo Phật cao, ông chê cũng chẳng làm cho Phật thấp. Hỏi: một trăm bảy mươi quển lục Thần Thư của Vương Kiều, Xích Tòng Bát Tiên có nói đến thuật trường sinh có đồng với kinh Phật chăng? Mâu Tử đáp: So về loại giống như Ngũ Bá với Ngũ Đế, Dương Hoa với Trọng Ni; so về hình thì như gò đồi với Hoa Sơn Hằng Sơn, ao vũng với sông biển. Xét về văn thì giống như da hổ với da dê, vải thô với gấm thêu. Đạo có chín mươi sáu loại, nhưng chỉ có Phật đạo là chí tôn chí đại. Sách của thần tiên tuy nghe thì đầy lổ tai mà tìm cầu chỗ công hiệu thì như nắm gió, bắt bóng vậy. Vì thế Đại đạo chẳng lấy nó, pháp vô vi chẳng quý trọng nó. Như thế thì đâu thể đồng! Hỏi: Người tu Đạo hoặc là tịch cốc chẳng ăn, nhưng có uống rượu ăn thịt, cũng gọi là một thuật của Lão Tử. Nhưng Phật đạo thì xếp ăn thịt uống rượu vào trọng cấm, ngược lại ăn ngũ cốc, vì sao trái nghịch như thế? Mâu Tử đáp: Đạo gồm chín mươi sáu loại nhưng chỉ có Phật đạo là đạm bạc nhất. Ta xem hai Thiên thượng hạ của Lão Tử chỉ thấy giới cấm ngũ vị chứ chưa thấy ghi tuyệt ngũ cốc. Bảy bộ sách của Thánh nhân cũng chẳng ghi về thuật nhịn ăn; năm ngàn lời của Lão Tử không đề cập đến việc tịch cốc. Thánh nhân nói: “Ăn ngũ cốc thì có trí, ăn rau cỏ thì ngu, ăn thịt là hung dữ, hớp khí thì trường thọ”. Người đời chẳng hiểu việc này thấy sáu loài chim nín thở, mùa thu mùa đông nhịn ăn, muốn bắt chước làm theo, mà chẳng biết mỗi loài đều có tánh riêng, giống như nam châm hút sắt, không thể dời đổi mảy may. Hỏi: Có thể tuyệt ngũ cốc chăng? Mâu Tử đáp: Khi ta chưa hiểu Đại đạo, cũng đã học qua. Phương pháp tịch cốc có đến ngàn, trăm cách, nhưng thực hành không có công hiệu, làm theo thì không thành tựu, nên tôi bỏ. Xem như ba vị thầy mà tôi theo học, mỗi mỗi tự cho là đã sống bảy trăm, năm trăm, ba trăm tuổi, nhưng tôi đến học, chưa đầy ba năm thì họ đã qua đời. Vì sao thế? Vì chẳng ăn ngũ cốc, mà ăn quả đủ loại, hưởng thịt đầy mâm, uống rượu cạn hủ, tai mắt điếc mờ, hoang dâm chẳng cấm. Ta thấy vậy mới hỏi căn nguyên, thì họ đáp rằng: Lão Tử nói: “Giảm rồi lại giảm, giảm đến chỗ không làm gì (vô vi)”, chỉ ngày mai sẽ giảm”. Nhưng ta xem thấy ngày càng tăng chứ chẳng giảm. Vì thế mỗi người chưa đến năm mươi tuổi đã chết. Vả lại Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng vị nào cũng chẳng thọ đến một trăm tuổi, mà người đời sau ngu si uống linh đan và tịch cốc để mong trường thọ! Hỏi: Người tu đạo cho rằng có thể tự tiêu trừ bệnh hoạn. Khi bệnh chẳng cần châm cứu, uống thuốc mà bệnh tự lành, có tin như thế chăng? Vì sao nhà Phật khi có bệnh lại phải cần châm cứu, uống thuốc? Mâu Tử đáp: Lão Tử nói: “Vật lớn thì sẽ già, đó là chẳng có đạo”. Chẳng có Đạo thì sớm mất. Chỉ có người đắc đạo thì chẳng sinh, chẳng sinh thì chẳng lớn, chẳng lớn thì chẳng già, chẳng già thì chẳng bệnh, chẳng bệnh thì chẳng hư hoại. Vì thế Lão Tử mới cho thân là mối lo sợ lớn nhất. Võ Vương bị bệnh, Châu Công xin mạng sống; Trọng Ni bị bệnh Tử Lộ khẩn cầu. Ta thấy bậc Thánh đều có bệnh, chưa thấy ai chẳng bị bệnh. Thần Nông nếm cỏ trị bệnh đến mấy mươi lần, Hoàng Đế cúi đầu cho Kỳ Bá châm kim. Ba vị Thánh này đâu như các Đạo só ngày nay? Xét kỹ lời này cũng đủ để phế bỏ rồi vậy! Hỏi: Đạo thì chỉ có một vô vi, vì sao ông lại phân biệt ra nhiều loại khác nhau như thế, khiến cho người học sinh nghi ngờ? Tôi cho rằng uổng phí mà vô ích. Mâu Tử đáp: Đều cho là cỏ, thì tánh chất của cỏ chẳng thể nói hết; đều cho là vàng thì tánh chất của vàng chẳng thể nói hết. Đồng loại mà khác tánh, vạn vật đều như thế, đâu chỉ có Đạo mà thôi? Khi xưa Dương Mặc bít đường đi của các nho só, xe cộ người ngựa chẳng thể đi qua, nhờ Mạnh Kha khai thông, mới biết được nơi đến. Sư Khoáng khảy đàn đợi tri âm mai sau; bậc Thánh chế định phép tắc mong rằng quân tử sẽ thấy. Ngọc đá chung một hòm, Y Thuận vì thế áy náy chẳng yên, đỏ tía tranh đoạt nhau, Trọng Ni vì thế mà than thở. Mặt trời mặt trăng chẳng phải không sáng, nhưng do các bóng râm che mất ánh sáng của nó, Phật đạo chẳng phải không ngay, nhưng bởi các điều tà vạy ngăn bít sự công chánh của đạo. Vì vậy ta chia chẽ ra để biện biệt. Lời trí của Tang Trượng, ngay thẳng của Vi Sinh, chân thật của Trọng Ni đều là lời trị thế, đâu có gì là uổng phí và vô ích? Hỏi: Ông chê thuật thần tiên, bác bỏ điều kỳ quái, chẳng tin có đạo bất tử, vì sao chỉ tin Phật đạo độ được thế gian? Phật ở một cõi nước khác, chân ông chưa dẫm lên đất ấy, mắt ông chưa nhìn thấy nơi ấy, mới xem sách vở mà đã tin hành vi của Phật rồi. Phàm thấy hoa chưa thể biết được quả, nhìn ảnh chưa thể biết được thật hình. Tôi nghi điều ấy chẳng chân thật! Mâu Tử đáp: Khổng Tử nói: “Thấy khởi nguyên của nó, xem con đường của nó trải qua, xét nơi nó an định, thì con người đâu thể che giấu được!” Xưa Châu Công, Lã Vọng hỏi Thi Chánh, thì mỗi người đều biết được nguyên nhân chung cuộc mai sau; ngày Nhan Uyên cưỡi xe tứ mã, thấy con ngựa của Đông Dã, mà biết ngựa sắp đuối sức; Tử Cống xem hội ở Châu Lỗ mà biết nguyên nhân có tang; Trọng Ni nghe tiếng đàn của Sư Khoáng mà biết được chi tiết của Văn Vương; Lý Tử nghe nhạc mà biết phong tục của các nước, cần gì phải đi đến nơi ấy, nhìn thấy cõi ấy? Hỏi: Tôi từng đến nước Vu Điền, có vài lần gặp Sa-môn, tôi đều dùng đạo của mình để gạn hỏi, nhưng tất cả đều chẳng đối đáp được, mà lời lẽ lại lui sụt, phần nhiều đã hồi tâm cải ý. Chỉ có ông là khó cải hóa mà thôi! Mâu Tử đáp: Lông nhẹ ở trên cao gặp gió nhẹ thì bay, đá nhỏ ở dưới đất gặp dòng nước thì lưu chuyển. Chỉ có Thái sơn chẳng bị gió làm lay động, đá tảng chẳng bị dòng nước xiết chuyển dời. Cây mai cây lý gặp sương thì lá rụng, mà cội tòng cội bá đâu dễ điêu tàn. Những Sa- môn đạo nhân mà ông gặp, chẳng qua vì học chưa đến, biết chưa rộng, nên mới bị khuất phục như thế. Như tôi ngu khờ, lại chẳng thể học đến cùng tận mà như thế, hà huống gì người đạt đạo? Ông chẳng tự sửa đổi mà muốn sửa đổi người, thật tôi chưa từng nghe nói Khổng Tử học theo đạo chích, Thang Võ bắt chước Kiệt Trụ! Hỏi: Theo thuật thần tiên thì thu đông chẳng ăn, hoặc nhập thất nhiều tuần chẳng ra, có thể nói rằng đã cùng tột đạm bạc rồi, tôi cho là tôn quý rồi, còn Phật đạo thì chẳng được như thế! Mâu Tử đáp: Chỉ Nam là Bắc mà cho là không lầm, lấy Tây làm Đông mà tự nói là chẳng mê, lấy phận cú mèo mà cưỡi phượng hoàng, với thân dế giun mà bỡn cợt rồng rùa. Ve nhịn ăn, bậc quân tử chẳng cho là quý; rắn ếch nấp trong hang, Thánh nhân không lấy làm trọng. Khổng Tử nói: “Tánh của trời đất, lấy người làm quý,” chưa nghe nói tôn trọng rắn ve bao giờ! Nhưng người đời nay, có kẻ ăn xương bồ mà bỏ quế gừng, uống cặn rượu mà bỏ cam lồ. Mảy lông tuy nhỏ, nhưng nhìn thì rõ ràng, Thái sơn dù lớn mà quay lưng thì chẳng thấy. Về Chí thì có giữ và chẳng giữ, ý thì có bén nhạy và chẳng bén nhạy. Nước Lỗ tôn Lý Thị mà hạ thấp Trọng Ni, nước Ngô yêu kính Tể Thỉ mà chẳng thích Tử Tư. Điều ông nghi ngờ chẳng phải cũng nên sao? Hỏi: Đạo gia cho rằng bảy mươi hai đệ tử của Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, đều chẳng chết mà thành Tiên. Phật gia nói con người đều phải chết, không ai tránh khỏi, là vì sao? Mâu Tử đáp: Đây là lời của loài yêu mị, chẳng phải của thánh nhân. Lão Tử nói: “Trời đất còn chẳng được lâu dài, huống gì con người?” Khổng Tử nói: “Người hiền qua đời, nhân hiếu thì thường còn”. Tôi xem cả lục nghệ, đọc cả truyện ký thì thấy Nghiêu có Tồ Lạc (chết), Thuấn có núi Thương Ngô, Vũ có lăng Cối Kê, Bá Di Thúc Tề có mộ ở Thủ Dương, Văn Vương chẳng kịp giết Trụ thì đã chết, Võ Vương chẳng đợi Thành Vương khôn lớn mà băng; Chu Công có soạn một thiên Cải táng, Khổng Tử có giấc mộng hai cây cột, Bá Ngư có nói về tuổi thọ của cha, Tử Lộ có lời văn cháo thịt, Bá Ngưu có văn vong mạng, Tăng Sâm có từ mở chân, Nhan Uyên có ghi lời bất hạnh yểu mạng, Miêu Nhi có dụ chẳng đẹp… Tất cả đều có ghi trong kinh sách, là lời chân thật của Bậc Thánh, tôi dùng Kinh truyện để chứng minh để người đời nghiệm xét, nếu còn nói là bất tử, há chẳng mê làm quá ư? Hỏi: Lời ông giải thích thật đầy đủ, đều là những điều mà từ xưa chúng tôi chưa được nghe. Nhưng lời ông giải thích lấy gì làm căn cứ, soạn ba mươi bảy thiên cũng có phép tắc chứ? Mâu Tử đáp: Phàm thấy cỏ bồng theo gió xoay chuyển mà chế thành bánh xe; thấy khúc cây lõm trôi mà tạo thuyền chèo; thấy nhện giăng mà làm ra lưới, thấy dấu chân chim mà lập văn tự. Nên có khuôn mẫu thì dễ thành, không khuôn mẫu thì khó đạt. Ta xem kinh Phật thấy có ba mươi bảy phẩm thiết yếu, đọc Đạo kinh của Lão Tử cũng xét có ba mươi bảy thiên, nên ta lấy đó làm phép tắc vậy. Bấy giờ, người kia nghe như thế thì kinh sợ mặt biến sắc, vội vòng tay rời chỗ ngồi, cung kính quỳ lạy thưa rằng: Kẻ hèn này thật đui mù sinh nơi hèn kém, dám nói những lời ngu si, chẳng nghó đến họa phước. Nay nghe được lời chỉ dạy, bỗng chốc tan như sương tuyết. Nguyện đổi ý rửa lòng tự răn, xin được thọ năm giới làm một Ưu-bà-tắc! ***** <詞>CHÁNH VU LUẬN Không rõ tác giả Có một người lạ vu báng Phật rằng: Doãn Văn có thần thông, thương xót cha con người nước Hồ, loạn dâm tham gian, giết hại mưu lợi, vô só làm tổn hại người, thích giết chóc quần sinh, không biết nhún nhường, tàn ác không thể luận bàn, thí dụ đủ các các việc… lại bảo đệ tử đắc đạo biến hóa… cấm sát sinh, đoạn tuyệt việc hôn nhân, khiến không có con cháu nói dõi. Dẹp cái thuật người Hồ, ai giỏi hơn người ấy? Chính ghi: Người vu báng đã nói không có Phật, lại cho rằng Do- ãn Văn có thần thông; có đệ tử đắc đạo, giỏi biến hóa thấu đạt hết cái lý thần diệu, đó thật là lời mâu thuẫn không suy nghó. Phàm Doãn Văn là học trò của Lão Tử, Lão Tử là đệ tử của Phật, cho nên trong kinh của Lão Tử có nói: “Nghe nói ở Trúc Càn có một vị Cô Tiên sinh, diệu nhập Nê-hoàn, vô thỉ vô chung, vónh viễn tồn tại chẳng diệt”. Trúc Càn tức là Thiên Trúc, Nê-hoàn là tiếng nước Hồ, nhà Tấn dịch là Vô vi. Nếu Phật chẳng xuất thế trước Lão Tử, vì sao được gọi là Tiên sinh. Nếu Lão Tử chẳng sống trước Doãn Văn, vì sao Doãn Văn xin Đạo Đức kinh. Lấy đây mà suy thì biết Phật chắc chắn là Tổ tông của Doãn Văn, là khởi nguyên của các Thánh. Vậy đâu có lý đệ tử được thần hóa mà Thầy chẳng có? Phàm bậc Thánh đứng đầu thế gian ắt phải để giáo hóa dùng đạo mà cai trị, nếu người ở phương xa không phục, trước dùng Lễ nhạc cho yên định. Bất đắc dó mới dùng binh lực, thì cũng để trừ bạo, dẹp can qua, cứu vớt quần sinh, dùng tiểu sát để chấm dứt đại sát. Cho nên vào đời Xuân Thu, chư hầu chinh phạt, động binh một cách chánh thuận. Như nước Địch khi có biến động, thì đánh trống để nêu rõ tội lỗi, dùng binh chính nghóa để đến bắt tội nhân, không bao giờ ngầm giết hại người. Vì thế người quy phục thì dùng lời nhu hòa để phủ dụ, không vội vã dùng trọng hình, võ lực mạnh; đắc thắng thì dùng tang lễ để đối xử; giết người thì buồn khổ khóc than. Vì thế châm biếm, dụ dẫn là dùng để ngăn chặn căn nguyên diệt tuyệt. Nếu ôm lòng ác mà tính điều bất nghóa, mượn đạo đức để mong toan thành việc bạo ác, thì cũng đã thấy trong Kinh truyện, Biến văn chê bai rất nhiều vậy. Cho nên hội minh ở Tống là để chế phục Sở, nhưng trước phạt Tấn là vì ghét sự dối trá của Tân Phi, mà tôn kính sự cao đẹp của Trớ Tín vậy. Phàm oán kẻ địch thì ân huệ chẳng đến được người nối dõi, ác trừ hết nơi thân thì bốn trọng tội chẳng còn. Đó là phép tắc rõ ràng của các vua, là tiểu lệnh để trị quốc. Đến khi các tướng thời mạt thế đều là kẻ thích dùng binh, sợ rằng đạo mỏng đức suy, mới mặc tình lừa dối, ra sức tranh giành, dùng mưu kế quỷ quyệt cộng thêm với tâm tàn độc, đánh ngoài đồng nội thì tự do tiến lên giết sạch, đánh trong trành quách chôn hết chẳng chừa. Cho nên Bạch Khởi bị chặt đầu nơi Đỗ Bưu, Đổng Trác táng thân ở triều đình. Người quân tử biết họ ắt sẽ chết, cả thế gian buồn vì họ bị giết; sự tệ hại của binh nhung cũng đến như thế. Điều này thật đáng đau lòng mà mãi thở than vậy, có bậc Thánh nào muốn bắn tên âm độc giết hết lê dân đâu! Hơn nữa, một làng bé nhỏ mà còn có hiền tài, hà huống gì vạn dặm bao la rộng lớn! Trọng Hoa sinh ở Đông Di, Văn Mạng ra đời ở Tây Khương, bậc Thánh triết xuất sinh, há có nơi chốn nhất định. Hoặc diễn ná nơi này, im lặng giáo hóa nơi kia. Hình biến hiện hơn độ khắp vạn phương, nhưng lý chuyển vận không mảy may sai biệt. Sở dó đạo Phật tuyệt tích ở Trung Thiên mà sáng rực tại Tây Vức, đó là có ý thú đặc biệt, chẳng thể trình bày hết được. Đâu có bậc Thánh nào ghét cường địch, muốn giết sạch không chừa. Điều này đâu khác gì dịch khí đã lan, mà chẳng xua đuổi sạch, dù có thiêu đốt Trung Nguyên, hoa lan du cỏ du hôi thối đều cháy, lại sự bạo ngược của Kiệt Trụ còn chẳng như thế! Dẫu có khiến cho nước Hồ phần nhiều tin tà ác; như dùng bạo ngược thay bạo ngược, thì chẳng phải là chỉ thú của quyền biến. Dẫn các lời này vừa đủ để biết những lời hủy báng kia mê hoặc người ngu si, đâu thể hợp tình hợp nghóa mà có tâm nghi nan? Vu báng rằng: Doãn Văn khinh khi trời có ba mươi hai tầng … lại vọng dẫn kinh Lâu Thán nói: Cung điện của chủ Thiên dài rộng hai mươi bốn vạn dặm, mỗi mặt mở một trăm cửa, cửa cao rộng vạn dặm… Đính chánh rằng: Kinh Phật nói cảnh giới của trời đất thềm bậc cao thấp đều có hệ thống xuyên suốt, bộ vị rõ ràng, thứ tự hợp lý. Mà người vu báng hoặc thêm vào, dối tạo ngụy thuyết, hoặc điên đảo lầm lẫn không đạt được nghóa cốt yếu. Đâu lý nào một cung điện rộng hai mươi bốn vạn dặm mà cửa chiếm bốn trăm vạn dặm. Dùng một việc để xét thì biết rõ người ấy lầm lẫn rất nhiều. Người nô lệ hay trẻ chăn trâu còn biết được điều ấy sai lầm, huống gì bậc hiểu biết? Muốn tỏ cái rộng mà lại lộ cái ngu vậy! Vu báng rằng: Phật cũng vào khắp năm đường; người phạm đủ các tội, làm việc ác mà còn thành Phật; vậy đây chẳng phải là pháp để khủng bố người làm ác. Lại tính tất cả chúng sinh thì người hành thiện ít, kẻ làm ác thì nhiều. Người ác chết thì đọa vào lục súc, thế thì từ khi có trời đất đến nay đã đủ từ lâu rồi, đáng lẽ nay súc sinh chiếm chín phần mười, còn loài người thì hy hữu mới đúng! Đính chính ghi: Đúng như lời ông nói, Phật cũng từng làm ác, sở dó nay được thành Phật là do cải ác theo thiện. Nếu cứ mãi làm ác, chẳng hết mê lầm, sau tiếp theo trước, thì mãi mãi ở trong đêm dài chịu khổ, luân chuyển trong năm đường, không có cách nào ra khỏi. Nay đã nhổ gốc ác, diệt tắt lửa ba độc, tu năm giới thiện, học mười đức tốt; thấu hiểu được Bản tế, rõ ràng được ba đời là không. Nên mới hiểu được ngoài sinh tử hư vọng có cõi vô vi. Như nói đến các loài côn trùng thì chẳng thể tính lường hết, còn người ở tại chín châu thì chẳng bằng mảy may mà thôi, chín phần mười thì có gì đáng nói đâu? Cho nên tánh của trời đất lấy người làm cái tôn quý nhất. Vinh Kỳ sở dó tự được ba điều vui thú là vì phân biệt rõ ràng quý tiện. Nay chẳng trở về nương tựa nơi con người, chẳng chán ghét súc sinh, lấy nước thải làm cam lộ cho sự trói buộc là an ổn, thì đâu chẳng vì đó mà sinh nhiều nghi ngờ? Vu báng rằng: Có Vô Linh Hạ Kinh, Vô Linh Hạ kinh là sách yêu quái, chẳng phải là lời dạy răn trong ba phần năm điển, bậc thông đạt nho cũng chưa nghiên cứu đến. Lời của Tam Tằng Ngũ Tổ lại giống như hiểu tấu văn ư? Điều này chẳng cần cật vấn mà điều hư vọng cũng đã tự lộ rõ vậy. Nay tôi xin nói điều này! Hàng phàm tục thường cho rằng người chết thì hết, không có linh hồn, không có thần quỷ. Như không có linh hồn thì không có Thiên Tào, không thần quỷ thì không ai bắt thâu. Nếu con cháu thờ Phật mà vì trách tội tổ tiên, hoặc tổ tiên là hiền nhân quân tử vì lúc ở đời không hành sự đồng với con cháu, mà Thiên Tào thâu bắt về trị tội, khiến cho thi thể nhan hồi, nhiễm canh chịu hình phạt thống khổ vô ích, Tổ Khảo nhân từ thì lại càng oán hận di thể. Đó là đâu phải là vị thần thông minh chánh trực? Nếu chẳng phải như thế, thì các loại quỷ hồ lạc, võng lượng, dâm lệ vì sao có thể ngược lại áp chế linh hồn người hiền nhân, làm khốn khó người có giới hạnh. Lấy đây mà luận thì biết đó là kinh sách tồi tệ. Lại vu báng rằng: Người tu đạo Phật gom góp vật chất của bá tánh, xây dựng nhiều chùa pháp, lộng lẫy xa hoa, thì thật là hoang phí, vô ích. Đính chính rằng: Phàm giáo thì có cạn sâu, hợp thời ứng vật, đã trình bày đầy đủ ở đầu luận rồi, nhưng đây xin được nói lại. Nói về tâm cần kiệm thì không ai hơn Nghiêu Thuấn, thế mà cũng đầy đủ lễ phục gấm nhung thêu núi, rồng, hoa, trũng. Vì thế Tả Truyện ghi: “Dùng tích, loan, hòa (đều là chuông của xe ngựa) và linh để phát ra âm thanh; dùng ba loại cờ áo mặt trời, mặt trăng và sao để phát khởi ánh sáng; dùng tỷ tượng xe cộ, binh khí … năm màu để tỏ rỏ khí vật”. Vì thế nơi vua chúa ở nhất định là cửa vàng, thềm ngọc, linh đài, cung phượng, để khác biệt với phàm dân, và phân chia quý tiện. Phàm con người tùy theo cảnh mình thấy mà cảm biết, như nghe tiếng trống, thấy cờ xí thì nghó đến tướng nái; nghe tiếng đàn, thấy nghi biểu an tường nghiêm nghị thì nghó đến quan ở triều đình. Thay đổi cảnh quan, thay đổi cái nhìn thì tâm tánh và dáng mạo cũng biến chuyển theo, khiến một số người thấy hình mà chẳng biết đến đạo. Không ai chẳng quý điều cao thượng mà bỏ chỗ thô lậu, vì thế người kính Phật ngưỡng mộ di tích, tư duy đến oai dung còn lại, mô phỏng theo để khắc họa thành hình tượng để thành kính chiêm lễ; lại dùng các tài vật quý giá tôn đạo chùa viện; khiến cho bậc Thượng căn đến xem thì quên hình tích mà giữ lấy ý vị cao xa; hàng Trung, Hạ đến xem thì khen sự hoa mó, thưởng thức cái rực rỡ của kiến trúc; trước làm vui hòa tai mắt, sau đó dần dần dùng chánh đạo để chỉ dạy họ. Cả ba bậc đều có thể thâu hút không sót, giống như vật chứa nước, túy theo dung lượng nhiều ít mà dùng, chỉ như thủng dáy không giữ được, thì mới chẳng thể chứa nước. Lại có người dối rằng họa phước do Phật tạo ra, có thể cho rằng người ấy chưa hiểu vậy. Tôi cũng xin giải thích điều này. Phàm kiết hung và họa phước cũng giống như ảnh tùy hình, vang tùy tiếng tự nhiên như thế, không thể tránh khỏi, xa lìa nhau được. Hành thì do nơi mình mà lý thì ứng hợp một cách vi diệu. Phật và Chu Khổng đều nói về trung hiếu tín nghóa, thuận theo thì gặp lành, trái nghịch thì gặp dữ. Như muốn qua sông thì phải nhờ thuyền bè, chẳng thể đi bộ mà qua được. Như phép dạy người, thuật cứu nguy cũng giống như Thần Nông bảo ăn ngũ cốc để trị đói, Hoàng Đế dạy may y phục để chống nóng lạnh. Nếu ngậm miệng mà muốn no, để trần mà cầu ấm thì chẳng thể cưỡng ép mà cho được. Lại nữa, sở dó Biển Thước được gọi là lương y là vì ông tùy bệnh mà cho thuốc, chẳng sai lầm phương dược. Chẳng thể mong cầu ông khiến không có người chết. Hơn nữa Biển Thước cũng đã nói: “Ta có thể làm cho người đang sống chẳng chết, nhưng chẳng thể khiến người chết sống lại!” như làm con thì bất hiếu, làm tôi thì bất trung, cứ giữ chặt sai lầm chẳng chịu tỉnh ngộ, đưa thuốc hay chẳng chịu uống, đến ngày họa đến sắp chết thì lại đổ lỗi cho Thánh nhân, oán hận lương y, thì không chỉ đã mê muội mà có su thế rơi vào hầm sâu nữa. Vu báng rằng: Ở Kinh lạc có rất nhiều Sa-môn, mà chưa từng nghe nói làm cho Hoàng đế được kéo dài tuổi thọ. Trên thì chẳng thể điều hòa âm dương, chẳng làm cho mùa màng bội thu, nhân dân giàu có, tiêu trừ tai nạn, xua đuổi dịch bệnh, định yên họa loạn; dưới thì chẳng thể nhịn ăn ngũ cốc, luyện khí ngưng thần, giữ mạng vượt nguy, trường sinh bất lão … Đính chính rằng: Chẳng đúng! Trang Chu nói rằng: “Người mà thấu đạt được thân mệnh, không mong cầu điều mà thân mệnh không thể làm được”. Như thế đã định kỳ hạn thì không thể dời đổi. Nếu như có dùng trí đức mà cầu cứu được tánh mạng, thì hai Thái tử Cơ Phát, Cơ Đán đủ khiến cho cha là Văn Vương thọ cả ngàn tuổi. Nhan Tử chết thì hợp mệnh trời, nhưng mọi người đều vô cùng thương tiếc, không biết làm sao để kéo dài mạng sống cho ông. Vả lại trải bao năm tháng, mang lấy vận mạng sáu trăm năm là cùng tột rồi đến lúc phải ra đi. Vì thế Nghiêu mới có nạn hồng thủy ngập trời, Thang có hỏa tai ngút đất; Trác Lộc máu đổ thành sông, Phản Tuyền thây đầy đồng nội. Vì sao chẳng ngồi yên mà cứu hết? Việc ấy chưa được như thế ư? Phàm thực hành các thuật dưỡng sinh của Đạo gia như “Hùng kinh vô duệ”, dẫn khí ra vào, tuyệt ngũ cốc hút nhụy hoa, hớp gió uống sương thay cho lương thực, lấy các thuật này mà cầu trường thọ, đều là có sự mong đợi. Như thế sẽ có lúc yểu vong mà chẳng thể trường tồn . Hàng Sa môn xem Xích Tòng, Vương Kiều như những đứa trẻ chưa ra đời mới chẳng chịu để tâm cầu ra khỏi lưỡng nghi, mà ở mãi trong miền sinh tử. Thế thì đâu thể lóng tâm trong sạch để trường thọ sánh cùng Quyên Tử, Bành Tổ? Người vấn nạn nếu muốn dùng lời lẽ hoa mó để luận biện phản bác, lập ngôn từ mạnh mẽ để cản ngăn, lời không có tiết tấu, nghóa chẳng hợp cung bậc, than ôi! Bắc Lý Loạn mất nhã phong, màu xanh kia đoạt mất sắc vàng. Còn tất cả âm điệu huyên náo khác chẳng có kỷ cương thì nhất luật tuân theo Tôn Sư chẳng đáp. Vu báng rằng: Vào cuối đời Hán có Sạ Dung hợp binh theo Thứ Sử Từ Châu là Đào Khiêm, Đào Khiêm sai Dung làm Đốc vận ( lo chuyển vận quân lương); mà trước kia Sạ Dung theo đạo Phật, nên nay trộm lấy tài vật của quan quân, dùng tự lợi này làm chùa Phật, cấp rượu thịt cho người đi đường… Sau bị Lưu Dao đánh giết. Chánh rằng: Câu hỏi này chẳng đợi trói mà đã tự buộc. Phàm Phật giáo luôn lấy nhân tử bất sát, trung tín chẳng lỗi lầm, liêm trinh không trộm cắp làm đầu. Như Lão Tử nói: “Binh khí là vật bất tường”, đến gần thì hung hiểm, nhưng Dạ Dung lại nhẫn tâm đem binh kết cấu với giặc cướp, đó là phạm sát; nhận sứ mệnh của người, lấy mà chẳng báo đáp cho chủ, đó là phạm tội khi dối; cướp lấy vật của quan để tự lợi là phạm tội trộm cắp; Kinh Phật dạy không được ban cấp rượu cho người khác, mà Sạ Dung lại tự do cấp cho, đó là phạm tội uống rượu. Phạm cả 4 giới thì đi vào con đường chết vậy. Giống như kẻ làm quan đã treo ấn, trả mũ, mà hoành hành bạo ngược trên đường thì đứa bé cũng có thể chế phục, Sạ Dung chết dữ cũng đã giúp sáng tỏ được đạo lý làm ác gặp tai ương vậy. Vu báng rằng: Thạch Sùng cũng rất Kính Phật mà chẳng tránh khỏi tội bị tru di tộc họ. Chánh rằng: Thạch Sùng này, tôi biết rất rõ, đó là kẻ kiêu ngạo, đam mê rượu thịt, phóng túng vô độ. Cất chứa tiền bạc rất nhiều mà chẳng cứu giúp cho người cô độc. Luận về tài thì chỉ ra tay 1 lần là đoạt lợi, về đức thì không được mảy may. Tuy thờ Phật mà chẳng giữ cấm giới, giống như người thế gian; hình dáng thì có vẻ thanh cao, nhưng tâm thì ô uế; sắc diệu thì cứng cỏi nhưng trong lòng thì nhu nhược; miệng luôn khen Vũ Thang mà làm thì như Kiệt Chích. Tự chuốc lấy cái họa ấy, thì đâu có gì mà lạ? Vu báng rằng: Chu Trọng Trí kính tin Phật cũng rất tinh tấn, nhưng rốt cuộc cũng chẳng hưởng được phước. Đính chính rằng: Mới nghe lời này thì tựa như cái họa của người được ân sủng chẳng phải là lời thông đạt! Trọng Trí tuy có tâm mến mộ Phật đạo, nhưng chưa thọ giả làm đệ tử. Luận về bẩm tánh thì trong sáng, ngay thẳng, lịch lãm, kiệt xuất, có thể cho là bậc anh tài; nhưng còn lo về sức mạnh của thân, chưa hợp với chí thú anh nhi (dùng chì luyện thuốc)của Đạo gia. Như thế mà gặp kẻ mạnh tật đố tài danh thì ắt sẽ táng thân ngay. Như nói rằng tinh tấn mà bị hại, thì thật đã có. Việc ấy đâu khác gì Nhan Tử, Hạng Võ yểu mạng; Bá Di, Thúc Tề nhịn đói chết, Tỷ Can tận trung mà bị họa lấy tim. Công Tử Thân Sinh chí hiếu mà đau xót vì tự ải. Những việc giống như thế chẳng kể hết. Khổng Tử nói: “Người có đức nhân thì sống lâu; người có nghóa thì sáng tỏ,” vậy mà có người chẳng tránh khỏi yểu vong. Cho nên phải tin có đức mạng. Vu báng rằng: Nhà Phật ưa tử ghét sinh, đến khi người thân chết thì cho rằng vì phước lộc mà đi, nên không có vẻ buồn đau thương xót gì cả? Đính chính rằng: Người gạn hỏi ắt đối với vạn vật đã đạt được tâm minh bạch rồi; nếu không vì sao lại nói trái nghịch như thế? Phàm kinh Phật đã nói rằng người đắc đạo thì người, ta đồng nhất, dài ngắn như nhau; lội trong dòng sinh tử vẫn vắng lặng không phân biệt, vào trong cõi phước họa tâm vẫn bình đẳng chẳng nhọc nhằn lao khổ. Vui với trời, biết số mệnh, yên với thời, sống thuận đạo. Còn người chưa thể hội được Đạo, than ôi! Phải có tâm thận trọng đến lúc cuối đời; vì muốn tăng trưởng tâm này, thuần nhất không tạp, nên mới có nghóa “Đại bi hoằng thệ”. Phàm kẻ thù chết mà còn thương xót, dùng đức báo oán, chẳng nghó đến thù xưa, huống gì tình cốt nhục sâu đậm tự nhiên, mà có thể chẳng có lòng đau xót ư? Phàm thương người thân, chẳng dám gây ác với người khác, sợ rằng mãi mãi báo trả cho mình. Trái với tình, nghịch với đạo thấy rõ nơi đây vậy! Thích Tăng Hựu trụ chùa Kiến Sơ ở Dương Đô soạn vào đời Lương Phàm biển giáo không bờ, gương huệ tròn chiếu. Sự giáo hoá kì diệu khấp trong cõi nước, nhưng lại mô phỏng theo Nghiêu Thuấn; ng- hóa lý thật u vì vượt ra ngoài ngôn ngữ mà tùy thuận theo Khổng, Chu. Nhưng đạo lớn thì khó tin, thanh cao thì ít người hòa. Tu ơi chót vót thì gió mạnh thổi lên; Kho báu tích tụ thì sinh ra oán giặc. Khi xưa Đức Như Lai còn tại thế, sự giáo hóa của ngài chấn động khắp đại thiên, mà còn bị y ma phẩn nộ, sáu Sư oán hận, hà huống gì vào đời Tượng, mạt này mà có thể tránh được ư? Từ khi giáo pháp truyền đến Đông thổ này, đến nay đã hơn năm trăm năm, về duyên thì có tin và không; về vận thì lúc hưng lúc suy. Người chánh Kiến thì khen ngợi, kẻ tà mê thì hủy bán. Đến hàng nho sinh thiển cận theo văn thì phản bác cho là dị giáo, còn kẻ tà đạo xảo ngân thì dẩn dụng cho là đồng pháp. Như phản bác thì có cái mê mất bản giáo, dẫn dụng thì có cái loạn lợi danh. Từ đó bèn phát sinh nhiều ngụy luận và ngoa từ mạnh mẽ. Phàm chim Hạt đám kêu ban đêm cũng không đổi được ánh sáng của mặt trời, chim Tinh vệ ngậm đá mà không làm suy tổn thế của biển lớn. Nhưng dùng tối để loạn sáng, dùng nhỏ để mờ che lớn, tuy không làm lay động mảy may, mà cũng có người nghe thấy, khiến cho kẻ yếu đuối theo lời ngụy biện mà mãi mãi làm mê, hàng điên đảo thì theo tà thuyết mà tưởng kỳ chìm đắm. Do đó mà dễ lạc vào chốn u đồ, khó bước lên tịnh cảnh. Hựu tôi vì hàng tu học thời mạc pháp, chí sâu rộng giữ gìn sự an tónh, mà lời thì tùy theo thế tục phẩn uất nơi tâm; nên trong lúc tật bệnh tạm an, thời giờ rảnh rỗi mới soạn ra những văn sáng xưa nay, những lu- ận hay của đạo tục, với chủ ý phá tà, lập ngôn hộ trì chánh pháp; Không phân Đại, Tiểu, tất cả đều chọn dùng. Cho đến Thư, Ký,Văn, Lục của các bậc Thắng só đời trước mà có ích cho Tam bảo cũng được gom chép, phân loại, sắp xếp thành mười bốn quyển. Phàm Đạo là do người hoằng dương, còn giáo thì dùng văn để làm sáng tỏ. Hoằng đạo minh giáo, nên lấy tên là Hoằng Minh Tập. Sau cùng có phụ một bài nói lên bản hoài thô Thiển của mình, ngõ hầu dùng 1 hạt bụi, 1giọt nước thêm vào Thái Sơn vào biển lớn. Nhưng tài học thì thấp kém, sự thấy biết thì nông cạn, hổ thẹn mình hạn hẹp, kính mong các bậc quân tử làm thông gia ân tăng bổ cho tập sách được sâu rộng thêm!  HOẰNG MINH TẬP <卷>QUYỂN 2 MINH PHẬT LUẬN (Còn gọi là Thần Diệt Luận) (Đời Tấn, Tông Bích soạn) Phàm đạo thật kỳ diệu, còn phong hoa thì tôn quý, nhưng người đời thì phần nhiều cho đạo Phật là hoang đãng. Tự nghó rằng “thân mình đây còn không quan tâm đến, đâu rảnh để nghó đến con cháu mai sau”! Việc trong vạn dặm ngoài một trăm năm thì chẳng còn như thế! Hà huống gì núi Tu-di to lớn, cả Phật vó đại, tinh thần bất diệt, người có thể thành Phật, tâm tạo vạn pháp, các pháp đều không, nhưng quá khứ kéo dài đến muôn ức kiếp sau mới thọ báo? Nhưng đây đều là các sự thật kỳ diệu, siêu tuyệt đáng tin. Nghe khúc Hoàng Hoa đâu thể tấu khúc điệu Vân Môn? Người đời lại quý kinh sách của Chu Khổng; từ đời Nghiêu đến Hán, chín châu ở Trung Quốc chưa từng được truyền đến, cõi kia có cảm gì, Minh Đế có đức gì mà chỉ có hào quang Phật chiếu soi? Những tình huống này đều để dẫn dắt dần dần hợp với tập quán xưa; chẳng thể dùng ánh sáng của nội tâm soi chiếu; nên chí lý chẳng xa, do nghi mà tự mất; thật buồn thay! Các bậc quân tử ở Trung Hoa hiểu rõ lễ nghóa mà mờ mịt về tâm người thì sao biết được tâm Phật? Như ngày nay đối với sự nghiệp thế gian gần gũi đây, nếu mưu tính chẳng thành, thì còn hưng binh chém giết, hà huống là những điều do tinh thần tạo tác, nếu được thì thăng cao đến vô cùng, nếu mất thì vónh viễn đọa đến vô cực. Vậy có thể chẳng vào chỗ sâu mà tìm cầu, bước lên nơi cạn mà suy nghó ư? Phàm toàn cuộc thì to lớn mà phép toán số thì thiển cận; nhưng tâm cao rộng chưa từng có đắc, mà muốn dùng cái thấy hạn hẹp vọng ức chế bầu trời, cho đến muốn hãm thần vào vùng đất hẹp lậu, thật chẳng thể kham được ư? Nay dùng cái biết lờ mờ soi chỗ tối tăm, thì đã không thấy được cái mất, làm sao có thể chỉ soi rõ điều được. Chỉ cần biết rõ sáng tối để hướng đến hoặc xa lìa mà sống nơi thiện. Nhưng phải luôn lấy kinh Phật làm chỉ nam mà tu tập. Vì kinh Phật đã hàm chứa đức sâu xa của Ngũ Kinh lại còn thêm sự chân thật cao xa; bao quát chỗ rỗng rang của Lão Trang mà có thêm nghóa cùng tận không nữa. Lời cao xa, lý chân thật thầm cảm đến Thần; nó sáng như mặt trời, mát như gió, chẳng phải là bậc Thánh thì ai nói đây? Chỉ cần dẹp sở kiến của thế gian, thể hội được lý Phật thì thấy rõ ràng. Luận rằng: Nay ở từ chân tới đầu, cho đến cõi hư không kia, tâm hướng đến mà chẳng trọn, thế thì bốn phương, trên dưới đều vô cùng. Sinh Khống chỉ đến mà còn truyền nơi nương gá, truy cứu chỗ truyền ấy thì vô thỉ. Đời đời tương sinh mà chẳng dứt thì cũng vô chung. Thân này hằng ngày sử dụng đến cái chân thật vô ngần. Chính từ vô thỉ mà đến, lại truyền đi vô chung. Thế thì rộng vô lượng, lâu vô cùng, con người chắc chắn xâm phạm nhau để tự bày tỏ mình. Vậy sống ở Trung Nguyên chẳng nghi ngờ gì về tám phương. Nhưng nay trải khắp ba ngàn nhật nguyệt, giăng cùng một vạn hai ngàn thiên hạ, hằng sa thế giới, kiếp số như điểm trần, đồng dung nạp để âm thầm biến hóa, tất cả chỉ là mảy may trong chỗ vô cùng tận. Sao chỉ an nơi mình mà nghó về người? Phàm một mảy lông giữa biển khơi, cái huyền diệu của nó còn có chỗ cùng cực; còn nay đặt thường lý vào hư khôn, vì nó bé nhỏ thì đâu thể nói được? Cho nên thế gian lớn, đạo nhỏ; người thì xa mà trời thì gần. Cảnh địa trước thời Hiên Viên thì xa quá ư? Thật là xa vậy. Như dùng kiến thức cao xa để thể hội được đạo, thì bao quát các việc hôm qua vậy. Kinh Thư gọi là tri viễn, nhưng biết chẳng vượt ra ngoài đời Đường Ngu. Các lời trong Xuân Thu đều nói về nghiệp Đế Vương, như cái tôn kính của lễ nhạc, trong âm của Thi Dịch. Nay trong cõi vô cùng, đốt ba ngàn nhật nguyệt để chiếu rực rỡ, xếp bày mười hai ngàn để xem rõ ràng. Như thế mới biết được điều trình bày của Chu Khổng; bao quát cả vùng biên địa. Nên cầu đối trị với cảm giác thô mà an định chung trong một đời. Còn những người ẩn dật ở ngoài thế sự thì không luận đến mà giữ lại. Nếu chẳng như thế, vì sao lại trọng thân hình lúc khởi đầu, mà bỏ qua thần lúc chung cuộc. Lên Mông sơn thì thấy nước Lỗ nhỏ, lên Thái sơn thì thấy Thiên hạ nhỏ, đó là có bờ mé. Vả lại Tam Phần Ngũ Điển đã mất, hàng tục nho chỉ soạn về phép trị thế mà thôi. Những ngôn từ vượt ra ngoài thế gian, hoặc ghi chép trong sử sách, hoặc tuyệt duyệt nơi hầm lửa. Nếu đạo của Lão Trang, thuật của Xích Tòng, Vương Kiều tiên nhân, tin rằng có thể tẩy tâm dưỡng thân, mà cũng đều chẳng dùng sáu kinh; nhưng người học chỉ giữ lấy Khuyết văn cứu cái thô, lấy Thư, Lễ làm giới hạn, đoạn mất sự nghe biết, khiến cho sự thần diệu của sự vật, sự biến hóa nhiều kiếp ở trước mắt rõ ràng mà lại vónh viễn bỏ qua. Chẳng phải cũng đáng buồn ư? Than ôi! Có người như đi dưới đám mây mà chẳng tin có nhật nguyệt. Nay nói một âm một dương là Đạo, âm dương chẳng lường được là Thần; bởi vì cho rằng đến đạo vô vi thì âm dương hòa hợp, nên gọi là một âm một dương. Từ Đạo giáng hạ liền nhập vào tinh thần, thường hiện hữu ngoài âm dương, chẳng phải là chỗ truy cứu của lưỡng nghi, nên nói là âm dương chẳng lường được. Thuyết của Quân Bình nói từ một sinh hai là Thần chính là nghóa này. Như hai câu này đều để nói về vô thần, vì sao lại dùng đến tinh thần? Thần của quần sinh, chỗ rốt ráo tuy đồng, nhưng tùy duyên dời đổi thành sự biết có thô và diệu, nhưng cái gốc thì chẳng diệt. Tuy Thu- ấn sinh từ Cổ Tẩu, nhưng tinh thần của Thuấn ắt chẳng phải do Cổ sinh ra! Vậy tinh thần của Thương Quân cũng chẳng phải do Thuấn dưỡng dục, thế thì “Tiền Tố” của sinh và dưỡng có thô và diệu. Gốc đã lập trước khi chưa sinh thì biết chẳng diệt sau khi đã chết. Lại chẳng diệt thì chẳng đồng, ngu Thánh có khác biệt, nên biết được phần ngu Thánh sinh tử chẳng đổi chẳng diệt. Cho nên nói “Tinh thần thọ nhận hình thể đi khắp năm đường, tồn tại cùng sự thành hoại của trời đất, chẳng thể tính kể”. Phàm với cái chất ngờ nghệch mà sinh ra từ kẻ ngu si, với thân ngu si mà thọ hình nơi Hoàng đế, thì ngu Thánh cách tuyệt, làm sao mà tính cho hợp? Đâu chẳng phải linh thần của Trọng Hoa mới thô. Khi xưa, trước kết nhân từ nhiều kiếp, sau duyên hợp với vạn hóa mà có ư? May thì chỉ dứt tinh thần mà xưa đã có nhiều kiếp tiếp thọ cái thô, thế thì sự tinh luyện đã chấm dứt. Nếu như nói hình sinh thì thần sinh, hình diệt thì thần diệt, thì cũng nên cho rằng thân tàn thì bị thần hủy, thân bệnh thì thần đau. Nhưng có người thân hư hoại, hoặc sắp chết mà thần ý vẫn bình toàn, còn tự nắm tay. Lại có người bị bệnh quá nặng, mà vẫn làm chủ, không biến đổi đức hạnh. Đó là sự chứng minh cho trạng thái thần chẳng diệt! Nếu nói thần nhất định sinh từ hình, chẳng do duyên hội, thì nay xin nói đến các vật, sau đó mới xét đến thân. Phàm bốn sông năm núi cho rằng chẳng linh, thì chưa thể đoạn. Như cho rằng có thần thì núi chỉ do tích tụ nhiều đất đá, sông chỉ do dung chứa nhiều nước mà thành. Chỉ có một linh vì sao sinh nước đất khác nhau, mà cảm gá vào núi sông để thành 1 thể? Dẫu núi bằng sông cạn thì đất, nước cũng chẳng mất. Thần chẳng phải do hình tạo ra nên chẳng diệt, con người cũng thế. Thần chính là diệu, vạn vật mà có lời. Nếu nhờ hình để tạo, tùy hình mà diệt thì lấy hình làm gốc, đâu thể lấy lời làm diệu? Phàm tinh thần thông bốn phương, lưu chuyển vô cùng, trên thì suốt đến trời, dưới thì chiếm khắp đất. Bậc Thánh đạt cùng, người Hiền suốt tận. Đến như Tể Tứ Trang Kê, Ngô Trác, Tử Phòng, tinh thần hoạt dụng đều không thể không cung kính, thấu triệt vũ trụ; nhưng hình thể thì tầm thường, thức ăn uống đồng với hàng phàm ngu. Như thế thì đâu có nhờ vào đó để sinh, tùy theo đó mà diệt? Cần phải suy nghó; Chu Công tế ở Giao đàn, Hậu Lăng cúng ở Tông miếu vào thời Văn Vương, hoặc cho rằng không biết hiếu, thì liền hỏi: lấy gì mà biết nhất định không? Thì hẳn không cách gì để biết. Nếu không có cách gì để biết thì linh thần của Văn Lăng chẳng thể nói là diệt! Ăn chay ba ngày ắt thấy được chỗ công hiệu, người ăn chay chẳng vì người khác chẳng thấy mà bỏ. Chu Công hẳn chẳng thấy ư? Ngày tang Doanh Bác lại nói rằng: “Xương thịt ắt trở về đất cát, hồn phách thì chẳng phải không có”. Đó chính là chẳng diệt. Phàm đến lúc thạnh trị cùng tột thì thiên hạ sẽ loạn lạc ngút trời, đó đều là do tâm thần tạo ra. Vua Nghiêu thì không đạo lý nào rõ, không dục nào chẳng trừ, đó là Thần sáng tỏ. Kiệt thì không ác nào chẳng làm, đó là do Thần mờ mịt. Chẳng phải Kiệt không biết điều thiện của Nghiêu, mà còn biết điều ác của mình, nên ác đã trừ sạch do sự ham muốn của thân, nên nghịch với Thần. Nhưng cái Thức mà biết được Nghiêu và ác đã trừ đó, thường tồn tại trong Thần. Nếu chẳng ở vương vị thì ngàn năm chẳng chết, làm ác thì sự oán độc đến, làm thiện ít thì ít có lòng khoan dung. Vậy sao chẳng dần dần diệt ác, dần dần tu thiện? Như thế thì cái Thức biết Nghiêu hàm chứa trong Thần trước kia, ắt sẽ có một ít tác dụng, nếu gia công thêm một ngàn năm mà chẳng bỏ, có thể tâm dục sẽ lắng hết, mà Thần cũng được tinh thuần như Nghiêu vậy. Phàm trăng sao biến thì luật lữ động, sáng tối giao nhau thì nghieu sò tùy phần mà mở ngậm. Nhưng én nhạn, rồng rắn ẩn hay xuất đều là trước tiên từ sự minh hóa( âm thầm biến hóa), sau đó mới phát động đến vật loại. Tất cả mọi loài đồng được giáo dưỡng từ trong minh hóa; đâu chỉ một vài việc như thế, mà vạn hóa chẳng bao giờ tận ư? Do giết người mà bị chết, do làm tổn thương người mà bị hình phạt làm tội nhân nhiều kiếp. Đến nay thì người vô tội và kẻ có tội đồng như thế, đều là do duyên sâu kín đã cấu thành từ trước, mà người gây tạo hiểu phát sau này. Phàm ẩn và hiển chỉ là một, nhưng ác cấu thành thì sâu kín, mà phát động thì hiển lộ, không có gì phải kỳ lạ! Làm ác hiển lộ mà âm thầm chịu oán, cũng đâu có gì lạ? Nay với Thần chẳng diệt hàm chứa Thức biết Nghiêu, ẩn hiển trong vạn đời; khổ vì tạo ác, vui do làm thiện. Lại thêm nhật nguyệt ở trên cao chiếu soi trợ giúp, thì duyên nào chẳng rỗng suốt, sau đó nghiên cứu thân nhập một đường thẳng đến đạo; Tự e rằng kiệt trụ ở kiếp xưa đều có thể từ từ thành Thang Vũ ở mai sau, hà huống ngày nay hàng phong tình đã ít, mà con có người để tâm đến đức hạnh vậy. Do đó có thể thấy rõ người có thể thành Phật. Phàm sinh khởi đều bắt đầu từ tình. Nay nam nữ cấu tinh, vạn vật sinh hóa đều từ tinh do tình cấu thành. Tình cấu thành nơi mình thì một ngàn chúng Thần thọ thân, rất giống như tình là gốc của sinh. Đến như Ngũ Đế, Tam Hoàng, tuy vượt khỏi tình đạt đến thần, nhưng không lý nào chẳng thuận. Nếu duyên xưa tụ hội, thì nhất định cũng tuân theo mà nhập tinh biến hóa, cùng nhau thuận sinh, tạo ra hàng vạn tộc họ. Hà huống ngày nay tình nhất quán với Thần, thân chết thì tình diệt. Đâu thể chẳng thọ lại thân, chịu sinh tử vô lượng? Thức có thể lắng trong cái gốc bất diệt, thọ học pháp ngày càng giảm, giảm rồi lại giảm, giảm đến vô vi vô dục. Dục tình nếu có Thần độc chiếu vào thì không sinh, không sinh thì không có thân; không có thân mà có thần, đó chính là Pháp thân. Nay Hoàng đế, Ngu Thuấn, Cơ Công, Khổng Tử là các bậc thế gian kính ngưỡng mà tin phục. Xem việc buông thả dây cương thăng Thiên, rồng ẩn chim bay, làm đổi gió khiến lúa nẩy mầm tăng trưởng, hoặc nhịn ăn chỉ đàn ca đều do đã thấu đạt được linh thần là thể, nên công dụng của Thần ứng hợp, tự tại vô cùng. Nay hình lý tuy ở ngoài, nhưng khi tùy cảm ứng thì khởi diệt, cũng có lúc chẳng phải do sức người tạo mà dẫn đến, như Hoàng Hà hiện Đồ (Hà đô) sông Lạc cho Thư (Lạc Thư); cỏ Minh Giáp chẳng trồng mà mọc, ngọc huyền chẳng mài dũa mà tự thành; như dâu và lúa mọc ở triều đình, bỗng chốc lớn lên, bỗng chốc biến mất; lửa cháy ở cung vua mà vì chim; nặng nhẹ, lớn nhỏ của cái đỉnh, đều là do sự xao động biến hóa cảm với linh diệu mà tạo thành. Đó là các việc chẳng thể nghó bàn. Phàm Pháp thân rất linh, cơ cảm với diệu chúng mà hóa hiệu, chiếu soi đến công năng của Thần để làm sáng tỏ vật. Như thế thì điều kỳ diệu nào mà chẳng tạo được, sự biến hóa nào mà giới hạn được? Đâu chỉ vọt lên trời cao, ngầm đi trong đất, hớp gió nhịn ăn mà thôi? Phàm những điều kỳ lạ như hiển hiện nghi dong sáng rỡ, điềm lành báo hiệu Thánh quân ra đời, cho đến phân thân, từ đất vọt lên, di chuyển thế giới, sợi lông dung nạp biển lớn, đồng như Thần hóa vô cùng của Hoàng Đế, Ngu Thuấn, Cơ Công, Khổng Tử. Trước kia cái điềm lành mờ mịt ẩn hiện, nhưng đã ra khỏi hình mà nhập vào Thần, thì cũng đồng âm thầm mà kỳ diệu giáo hóa, sao chỉ tin chỗ này mà bức ép điều kia? Đấng Minh Giác Pháp Vương trong sáng, vắng lặng; tin mà có bằng chứng, chẳng trái với Thánh quân, nhưng người mê chẳng biết thật buồn thay! Phàm Đại Pháp ứng với các điềm dứt lỗi đều do tâm mà hiện. Như các điềm cầu vòng vắt ngang qua mặt trời, sao Thái Bạch phạm vào sao Ngang, hang lạnh sinh lúa, thành đổ, sương rơi … đều từ nhân tình phát khởi mà lấy những hình ở xa, cái sự việc trên bầu trời, những tướng trạng cố định làm hình ảnh. Nhưng không có hình thì không có ảnh, không âm thanh thì không có tiếng vang, cũng nói không có tình thì không có báo. Đâu chỉ có các điềm cầu vồng, sương rơi … mà thôi đâu? Tất cả đều tùy tình ứng vật, vật chẳng thể giấu hình, hoặc giả là kết thành thân, hoặc là hiện nơi sự, giao kết rối rắm ẩn hiện mờ mịt, ai có thể thấy được bờ mé? Sự biến hóa khắp thế gian, hình tượng hiện đầy trước mắt đều là từ hàng vạn đời đến nay, do linh cảm mà nên. Vì thế kinh Phật nói: “Tất cả pháp đều từ ý sinh hình” lại nói: “Tâm là gốc của pháp. Tâm tạo thiên đường, Tâm tạo địa ngục”, tức là nghóa này. Vì thế lắng tâm sạch tình thì Diệu sinh vào cảnh tốt đẹp; nếu tình nhơ hạnh xấu thì vónh viễn đọa vào tam đồ. Đâu thể nói rằng trong chỗ xa xăm mờ sáng có thật lý mà bỏ qua, để cho hồn tiêu, tưởng tán, khiến tâm chí kinh sợ? Tuy nhiên, những tình nhớ nghó … duyên nhau mà thành Thức, Thức cảm thành hình, mà thật chẳng có tánh. Từ khi có được sự khai ngộ đến nay; chỉ một tiếng vang đã hoát nhiên diệt trừ tâm lo sợ, chưa có pháp nào cùng tột như thế, xin được giải thích rõ thêm. Phàm cái Thần của bậc Thánh huyền chiếu mà không có Thức suy lường, đó là tâm và vật đã tuyệt dứt, chỉ còn Thần mà thôi. Cho nên cái gốc của hư minh (rỗng rang) trước sau vẫn thường trụ, chẳng thể tiêu hoại. Nay Tâm và vật duyên nhau, chẳng hợp nhất nơi Thần, tuy đạt đến chỗ u vi của Nhan Tử, nhưng cũng phải siêng năng tham cứu, thích điểu nhân, ưa núi rừng ngõ hầu đạt được không, như tâm dụng là Thức thì dụng dụng kỳ diệu tiếp nối, thức thức kỳ diệu tương tục. Giống hơi nóng của lửa tương tức thì thành sự đốt cháy. Nay vì ngộ được không nên bặt tâm, tâm đã dừng thì hình thức cũng dứt, nên Thần hoàn toàn sáng tỏ. Vậy sự cấu thành tình thức đã có mới cũ tương tục một cách kỳ diệu, thì đó ắt là nơi bất nhất, vậy đâu thể thường có? Ví như một đầu bếp nhìn ắt chẳng thấy hoàn toàn con bò. Kinh Phật nói Pháp biến dịch ly tán, tánh của Pháp thức như hư không, mộng, huyễn, hình ảnh, tiếng vang, bọt, bóng nước, bóng trăng trong nước, há chẳng đúng sao? Nhan Tử biết như thế, cho nên đối với có như không, chạm thật như hư, chẳng thấy có, phạm mà chẳng chấp trước. Nay xem nghóa thường không của Nhan Tử thì biết đã đạt được thật không, hà huống từ đây về sau lìa mất chân thật đã quá xa, tuy có người hướng đến Đạo lớn, mà giống như chạy nhanh về hướng Đông, nên gọi là người điên. Họ đều trái với lý, lầm với cơ cảm, trốn trời, quên hạnh càng trái với chân hữu. Hơn nữa chất, vị, thanh, sắc lại là ảnh hóa của Tình thức hư giả. Thế sự vô thường biến diệt nhanh như ngựa qua cửa sổ, như chớp. Vị lai chưa đến, quá khứ đã qua, hiện tại chẳng dừng. Trong khoảng một chớp mắt, một hơi thở, không có mảy may để y cứ thì muốn nắm bắt cái gì để cho là có đây? Thậm chí dùng cái có hư giả để che lấp thân. Nay có gương sáng, bấy giờ nếu có những bụi dơ bám vào, như ít, mỏng thì gương còn chiếu sáng, nếu bụi bám nhiều thì gương lu mờ, nếu bám quá dày thì gương vẫn chiếu mà chẳng sáng được. Chất vốn là sáng nên có bụi dơ mà vẫn còn sáng. Tuy từ chiếu sáng đến không còn sáng, nhưng cần phải theo nghóa gương chẳng mất mà luận biện, như vậy vật ắt tùy theo sự dơ uế làm mất mà cấu thành tội lỗi. Lý về Thần của con người cũng giống như thế. Cái có hư giả đã che lấp thần, khiến thành cái Thức tinh và thô. Thức gá vào thần, nên tuy người chết nhưng chẳng diệt, mà dần dần đạt đến không, ắt sẽ huân tập dần dần đến cùng tận mà thông đạt Bản thần; đó chính là Nê-hoàn. Vì thế, lời nói cùng tột thì nhiều người nghe theo mà hoát nhiên đạt được không. Phàm người sống nơi núi rừng u tịch, xem mây nước là hư vô, chất chứa trong lòng mà đến, nhưng vẫn có lúc khoáng đạt, hà huống gì bậc Thánh đã đạt đến chỗ sâu xa, rỗng rang trao hư vô cho người mà chẳng lóng tâm tận dục ư? Vì thế người xưa từ nơi Hư vô mà nhập đạo, một hạt cát, một vị Phật, há chưa nhiều ư? Hỏi: Thần vốn chí hư, vì sao đã nhuần thấm khắp vạn hữu, mà còn duyên với vạn hữu nữa? Lại Hư vốn đã đồng, vì sao còn phân làm Ngu Thánh? Lại nữa đã nói tâm tạo vạn hữu, vậy khi chưa có vạn hữu lấy gì làm lụy tâm để cảm sinh vạn hữu? Đáp: Thần thì diệu, hình thì thô mà tác dụng lẫn nhau. Dùng diệu duyên thì biết dùng hư duyên với hữu. Hàng phàm phu tuy ngu, nhưng sống ở hiện tại cũng có thể biết được quá khứ, đến nơi này thì nhớ nơi kia. Đó đều là do công năng của Thần. Thế thì tu luyện đến cùng tận, biết được gốc ấy đều hư. Tâm tạo vạn hữu đã luận đầy đủ ở trước. Căn cứ vào ba điều kiện là Thấy, Quán và Thật thì chắc chắn tin như thế. Nhưng thế nào là từ vô thỉ? Bắt đầu của vô thỉ lại có thỉ ư? Việc này cũng như Huyền rồi lại huyền vậy? Trang Chu gọi là “nhiễm cầu”. Hỏi rằng: “Trước khi có trời đất có thể biết chăng?” Trọng Ni đáp: “Cổ giống Kim”. Nghóa là tuy ở trước vô thỉ, nhưng tìm cầu chỗ khởi đầu của mé trước ấy thì mờ mịt. Giống như hôm nay “nhiễm cầu” vậy! Chỗ khởi đầu của thần minh và Tổ đầu tiên của quần sinh, thì mờ mịt, chẳng thể suy tưởng đến được. Há người học có thể thông hiểu được chỗ đến ư? Phàm bậc Thánh nhất định là lặng lẽ, có cảm sau đó mới ứng. Ý tưởng chẳng thể đạt đến. Tức đã ở ngoài lục hợp thì không lấy gì để cảm, nhưng Thánh vẫn tồn tại mà chẳng luận. Thánh mà chẳng luận thì dân do đâu mà ngộ? Nay cùng nhau đạp đất đội trời, nhưng Thánh tồn tại ngoài đất trời, vậy há có ghi chép hết ư? Như Vũ giúp đỡ thành lập ngũ phục, thâu đất đai, nhưng cũng chẳng hơn chín châu, là vì đạo ấy là con đường thế gian đạt đến! Như bên ngoài cõi xa xôi hoang vu là nơi mặt trời xuất hiện, chẳng phải là nơi mà con người có thể đến, thế thì bậc Thánh đã có điều chẳng nói. Hà huống còn những nơi xa xôi mờ mịt hơn nơi này nữa, há có thể luận bàn đến biên cương được chăng? Nay bỏ chỗ đạp đất đội trời này để cuối cùng đến chỗ chẳng thể bàn, cho nên được nhất thể. Bỏ thần dụng hôm nay mà cầu chỗ khởi đầu khi xưa, cuối cùng đến chỗ tồn tại của bậc Thánh mà chẳng nói ấy, cũng là một lý xuyên suốt, há có thể bàn được ư? Đó đều là do duyên sâu kín tùy vũ trụ vô cùng, mà vật tình cơ cảm thì có giới hạn. Các tâm nhờ có Thánh mà biết, giống như con mắt gặp khi có mặt trời thì có thấy. Như cách xa một vật nhỏ chưa biết khoảng một trăm tầm, nhưng nhờ mắt sáng nương ánh sáng mặt trời mà thấy được. Nay đặt một vật nhỏ bé ngoài một ngàn bước, mục lực hết tầm, không nhờ vào đâu để thấy, nhưng rõ biết chỗ xâu xa, cao rộng không thiếu vật gì. Đâu lại vì mê mờ việc một ngàn bước, mà nghi ngờ vật nhỏ trong một trăm tầm? Nay chẳng thông đạt gốc duyên, cơ cảm của tình thức không đạt đến, chẳng biết lấy gì để hội được Thánh, nhưng biết được bến bờ đạt đến chí đạo không thiếu xót gì. Vì sao do mê mờ chỗ khởi đầu của duyên, mà lại nghi sự biến hóa đã rõ ràng? Hỏi: Có người nói rằng: Chẳng biết chỗ khởi đầu của duyên, nên chẳng tin Phật. Đó chẳng phải là cơ cảm ư? Vì sao Thánh nhân chẳng nói điều ấy? Đáp: Nói cơ cảm, nghóa là mới ôm giữ phần thăng tiến mà lý thì chưa đạt đến, cần phải nhờ Thánh để thông đạt, bấy giờ lý này mới thật cơ cảm. Vì thế ưa thân kẹt nơi Hữu thì dùng nghóa khổ không để trừ, nhân ái chẳng rộng thì dùng tâm từ vào thân để chỉ dạy. Thể chẳng đồng đến, nên phân lập ba Thừa; nghiệp tu khác nhau nên thành sáu Độ. Bến bờ tùy ứng không một pháp nào chẳng đủ, có thể cho rằng trước cảm rồi sau mới ứng. Vì thế nghe đạo nơi Linh Thứu, trời người đều vui sướng, mà đạt đạo rất nhiều. Đâu có viễn vông nghi ngờ khởi đầu của duyên, rồi sau mới đạt đến? Lý rõ ràng, dạy đầy đủ, như lời nói mà tu hành, thì chỗ nào mà chẳng đủ. Nhưng nếu còn chẳng tin, rốt cuộc ôm giữ lỗi lầm, nghi ngờ nơi mà Tưởng chẳng thể đến, thì sẽ tổn hại. Có bệnh, đưa thuốc chẳng chịu uống; trúng tên chịu đau chẳng nhổ, lại muốn biết khởi nguyên của thuốc và mũi tên, mà dẫn đến mạng vong, đâu khác gì việc này? Đó đều do từ xưa đã nghi ngờ đạo nên chưa hội được không lời, dẫn đến ngày nay đáng tin mà vọng nghi, thì đâu thể cho là thật lý để cơ cảm; mà cảm từ phi lý vọng nghi. Vậy chắc chắn không thể nào cảm được Thánh mà sáng tỏ. Phàm Phi ngã mà cầu chỗ mờ mịt, mờ mịt mà cầu ngã; nhất định nên rỗng rang nơi tụ kỷ và thân nên tùy thuận sự biến hoá sâu kín, chí Thành dùng tin mà đến, sau đó mới ngộ, thì tùy ứng mà đi. Do tâm ngộ phát khởi mà cuối cùng có thể được sâu kín cùng tột. Nếu cứ giữ chặt lấy vọng nghi chẳng quay về chỗ tinh thần, thành kính, ắt sẽ đắm chìm mãi trong lưới mê, đâu thể có ngày mai? Thuận nghịch vừa sai thì lên xuống cách biệt, có thể chẳng cẩn thận sao? Hỏi: Khổng Tử dạy không cần sống để hại đức nhân, sát thân để thành nhân đó là chí nhân, cũng là hạnh Bồ-tát mà kinh Phật đã nói. Lão Tử nói cùng tột của vô vi, tức Niết-bàn rốt ráo, mà chưa từng nói Thần ấy chung cho thành Phật. Há Khổng Lão có chỗ chẳng rốt ráo, muốn cùng với Minh đạo vì hiển vật mà ngăn che cái thật của chí đạo ư? Mối nghi về Không Thật đâu thể không phát sinh! Đáp: Việc giáo hóa, mỗi mỗi chỉ vì tùy ứng theo đời mà trừ loạn, Khổng Tử hoằng truyền là hợp với đạo trị thế. Hai thiên Thuần Phong và Di Diên soạn ra là để ngăn dứt cái động. Ví như Nhan Nhiễm, Tể Tứ, Y Hó, Trang Chu, bên ngoài thì tán dương dấu vết Nho Huyền, để dẫn dắt thể tình đến chỗ cùng tột; bên trong thì vâng thừa cái học vô vi để chuyên cầu Thần lý, thế gian ai biết được? Đến như Nhiễm Lý, Tử Du, Tử Hạ, Tử Tư, Mạnh Kha, Lâm Tôn, Khương Thành, Cái Công, Ng- hiêm Bình, Ban Từ, Dương Vương hoặc có người suốt đời theo lễ giáo, hoặc tự chung mệnh ẩn dật nhưng không thích Phật pháp, họ đều thiếu duyên với chỗ cùng tột, không thể vượt qua được. Cho nên Khổng Lão mới dùng lời để chỉ dẫn. Từ đây, cơ cảm của họ mới hướng về chỗ đến, nên chẳng thể vượt qua lễ nghóa. Nho thì hoằng truyền đức nhân, Đạo thì chế phục cái Động đều để dẫn dắt giáo dưỡng, như đã được bến bờ, thì không thuật nào chẳng cùng tột. Tuy từ Lương, vô vi cũng đồng một dòng như Phật đã nói, nhưng Pháp thân, Nê-hoàn thì không thể nói hết được, cho nên chẳng nói. Vả lại tuy vô vi mà vô sở bất vi (không làm, mà không gì chẳng làm), cùng với Pháp thân vô hình thâm nhập vào tất cả, há chẳng đồng chỉ thứ ư? Do đó Khổng Lão, Như Lai tuy dạy khác đường, nhưng tu thiện thì đồng một vết. Hỏi: Từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế đến nay, cả Khổng Lão dạy tẩy tâm, Phật khai pháp yếu chỉ thấy có người mà dấu tích luận đáp chưa từng nghe qua, là vì sao? Đáp: Ý nghóa này tôi đã luận rõ ở đoạn trước, hàng tục nho ngày nay chỉ chuyên biên chép về việc trị thế, còn lời nói xuất thế thì hoặc là tản mác trong các sử sách, hoặc là bị thiêu đốt. Nay tôi lại trình bày điều nghi này. Phàm sách của Tam Hoàng gọi là Tam phần, nói về Đạo lớn. Bấy giờ hiếu từ gồm đủ thì đâu cần chỉ dạy nhân nghóa, lại chẳng mất sự thuần phác. Như Lão Trang lại hiểu bày như thế nào? Nếu chẳng luận về Thần vốn vô sinh, rỗng không các tánh để chiếu soi chỗ cùng tột, thì lấy gì làm Đạo lớn? Văn này đã mất, người đời ai biết được đây? Tư Mã Thiên nói về Ngũ Đế đều cho rằng: Sống thì Thần linh, hoặc yếu mà có thể nói, hoặc tự nói tên, dùng sự sâu xa, thông đạt, trí huệ như thần, để so sánh. Phàm Bồ-tát Đại thừa hóa hiện mà sinh, sống trên gò Hiên Viên, lên Không Động, đến Thái Sơn, dạo nơi U Lăng, Bàn Mộc, buông chân vượt sóng. Làm sao biết được họ chẳng theo đạo Bồ tát? Đời Ngũ Đế rất dài, Nghiêu tại vị một trăm năm, Thuấn trị bảy mươi năm; trong đó Quảng Thành, Đại Ngỗi, Hồng Nhai, Sào Phủ, Hứa Do, Khoa Phụ, Bắc Nhân và bốn vị ở Cô Tạ đạo phong cao rộng lúc bấy giờ; nhưng trong ngũ điển và các loại khác chỉ có hai Thiên về Đường Ngu, mà rất ít ghi về Tử Trường. Lại cho rằng Bách gia nói về Hoàng đế, văn thì không phong nhã thuần chánh, về các Đại só phu quan lại thì gạn hỏi, chỉ ghi nhiều về các việc đánh giết, còn các việc về trị chánh thì vạn điều chẳng ghi được một. Vậy há sự hưng thạnh của chí đạo chẳng thấy nơi các thiên thiếu sót, mà liền cho là đều hư vọng ư? Nay vị vua Thần minh dạo chơi nơi cõi rộng lớn, dắt bảy thánh tại Cụ Thư, gặp thần nhân nơi Cô Tạ, một đời giáo hóa đâu đủ để nói nhiều? Như chẳng nói đến chỗ tinh của đạo, thì đâu biết được chẳng thông đạt linh Thần ngoài ức kiếp. Quảng Thành nói: Chỗ Tinh của chí đạo thì mờ mờ mịt mịt, đó là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm; người đạt được đạo ta, trên thì làm Hoàng Đế, dưới thì làm Vương. Cũng là tùy sự biến hóa mà lên xuống, hoặc làm Phi hành Hoàng đế hay làm Chuyển luân thánh vương. Người mắt đạo ta, trên thì thấy ánh sáng, dưới làm đất, cũng sinh tử trong cõi trời người. Như cảm được di phong của Đại Ngổi thì gọi Thiên Sư, mà lui, cũng có mười danh xưng. Tự sợ rằng những bậc vô sinh biến hóa, đạo thì thông đạt sâu xa lúc bấy giờ, còn sự nghiệp thì lưu truyền siêu thế, nhưng về sự không làm hưng khởi được cái xưa, mà lý thì theo văn mà mai một. Cho nên những điều mà Bách gia nhặt lấy thì như sáng như tối. Còn hàng đại só phu thì cho là chẳng phong nhã thuần chánh. Nay khiến cho hàng tùy thuận thế tục mà chẳng hiểu sâu về Đạo, y cứ theo sử sách, ngăn che chí lý, theo tình tướng ở gần mà quên mất sự biến hóa cao xa, làm khốn khó tinh thần vónh kiếp. Há chẳng đau xót lắm ư? Bá Ích nói về núi sông, cho rằng nước Thiên Độc, người gần gũi nhau và thương yêu nhau. Quách Phác truyện ghi: Xưa nói Thiên Độc tức là Thiên Trúc, là nơi hưng khởi của Phật. Nói ôi tức là ái, cũng là lời giáo huấn Đại từ của Như Lai. Chắc chắn cũng đã nghe nói vào đời Tam Hoàng, Ngũ Đế, sách vở của quốc gia chẳng truyền, thì chẳng cần phải nghi ngờ gì? Phàm trong khoảng thời gian sau Tam Đại đến Khổng Lão, những sách vở ngoài sử không thể tính được. Như Khổng Tử hỏi về Lễ, Lão Tử trả lời, sau Doãn lại hỏi thì lại nói về Đạo. Dẫu hai Thiên không có lời này, chỉ còn trong Lễ Ký, thì người học đời sau đâu thể không cho rằng hàng só phu chỉ biết Lễ Lão, Nho; há chẳng thể hội được đạo ư? Nay sử sách của các đời sau khi đã tản mác trong lúc biến động, về nghóa lý đã không còn đầy đủ, nhưng đâu thể chỉ dùng chỗ thấy mà đoán định để tuyệt dứt dấu tích của Khổng Lão ư? Như Đông Phương Sóc có thuyết Kiếp thiêu thời Hán Võ Đế, Lưu Hưởng nên bảy mươi bốn vị tiên trong kinh Phật, người học hạn hẹp nhìn vào đó rồi cho rằng Minh Đế chẳng phải khởi đầu. Nhưng người lìa thế theo thần thì nhiều mà rõ, người đạt đến chỗ u vi thì ít mà ẩn. Cho nên âm thầm cơ cảm, thật chẳng hiển rõ nơi vật. Đạo nhân Trừng Công Nhân Thánh vào đời Thạch Lặc Hổ, nói với Hổ rằng: Trong thành Lâm Trung có di tích chùa A Dục xưa, còn hình tượng và Thừa Lệ bàn ở sâu hai mươi trượng dưới gốc cây lớn trong rừng. Lặc Hổ sai người y theo họa đồ đào đất tìm thì được những vật đúng như lời nói. Lại Thúc Phụ của Dao Lược là Tấn Vương, nghe một người già ở Bồ Phản, Hà Đông cho rằng vùng đất của chùa A Dục Vương xưa, thường thấy có ánh sáng phát ra. Nên đến đào tìm, thì được di cốt của Phật cất giữ trong hộp bằng bạc đặt trong một hòm bằng đá, phóng ánh sáng rực rỡ lạ thường, Lược nghinh thỉnh về Kinh đô. Ở nơi Tỳ-kheo Bá Thượng nay thấy có một ngôi chùa mới xây dựng. Do đó mà biết đã có Phật sự ở đất Tề, Tấn từ lâu. Vì thế những điều chẳng nói ở Tam Truyện, thì cũng còn ghi ở Sử của Bảo Tôn Tha- ïnh. Tuy không có lời tôn xưng Phật mà việc giáo hóa đã thạnh hành vào đời Tấn ở vùng Giang Tả. Hỏi rằng: Nếu cho rằng Phật hiện tồn tại, thấu suốt tất cả, có sức oai thần tự tại với các pháp, vì sao chẳng làm rực rỡ tên nhau đến hôm nay, khiến cho kẻ ngu người trí đồng tin ngộ, thần lực chiếu sáng đến người cùng bách để cứu mạng sống oan uổng của họ; mà lại khiến cho hàng quân tử không thấy Phật, đồng chẳng tin, đọa vào nỗi khổ viễn đề? Lại như quân Tần Triệu, trong một ngày bị Bạch Khởi, Hạng Tịch chôn sống sáu mươi vạn người. Xưa nay những người được chọn làm quan và kẻ bị chôn sống chưa hẳn là có duyên lành lớn từ đời trước, mà đều chất chứa đại ác; nhưng không thấy Phật tỏ lòng buồn thương đau xót, khi tất cả đều bị chôn sống trong một ngày, mà vẫn thờ ơ ngồi nhìn sự tàn khốc, không ứng cứu; vậy vì sao gọi là Từ? Duyên chẳng thể che trời, đức chẳng siêu thoát thế tục, vậy không thể cứu giúp; đâu thể gọi là thần lực tự tại bất tư nghị? Lỗ Dương xoay mặt trời, Đam Cung khiến suối bay, Tống Cửu Giang, Hổ Vi Giang, là nơi châu chấu ẩn trốn. Đó đều là do sức của tâm thấu triệt, khiến cho hàng phi đạo thầm thông đạt, hà huống gì thần lực của Phật, làm tiêu dung cái khí của Bạch Khởi, đốt chảy cái tâm của Hạng Tịch để cứu sống hàng vạn sinh mạng dễ dàng. Như khi xưa nhét núi Tu-di vào hạt cải, thể hiện lòng nhân, thí thân cho hổ, cắt thịt cứu chim bồ câu. Nhưng nay tưởng mà Ngài chẳng đến, báo mà chẳng nghe, cầu xin mà chẳng cứu, trống vắng lặng lẽ như hư không chẳng khác. Trong đó cũng có Sa-môn thiêu thân, cũng có kẻ tuyệt đạo làm người cắt dứt sáu tình, có người dốc sức đem hết tài sản cúng dường chùa, tượng. Chỉ thấy đoạt mất tuổi thọ của họ mà chẳng thấy họ được gì! Than ôi, đáng tiếc thay! Nếu cho rằng tương lai mới có cảm ứng, thì sáu mươi vạn mạng kia thiện ác khác nhau, mà chết oan uổng lại đồng thời. Nay thiện ác tuy khác, mà thân sau đâu được hiện thế sai khác? Khác phẩm loại đã là một, thì chẳng mong được phân biệt. Vậy tương lai mênh mông mờ mịt, lại muốn mong cầu điều gì? Hà huống sợ thật chẳng có tương lai. Kinh ghi: “Ngón chân ấn trên mặt đất thì ba ngàn cõi Phật đều hiện, tất cả những người điếc, đuôi, câm ngọng, tù ngục, đau khổ đều được an ổn”. Phật đối với những người ở gần hay xa, còn hay mất, có giới hay không có giới đều có tâm từ bình đẳng. Như có tâm này thì lẽ ra hiện sự thống khổ, hiện sự an lạc đồng với chúng sinh. Nhưng kinh thì có rất nhiều lời này, còn sự thật lại không có mảy may ứng hợp. Đâu biết rằng chẳng phải nước kia có bậc siêu xuất thế gian, tạo ra pháp không này để hỗ trợ cho sự bạo ngược. Như khéo luận đàm thì có tình và sự sâu xa, có mỹ và thuần nghiêm chánh. Người dễ tin một khi đã mất thân, thì cứ mãi mãi nhận lãnh sự bất trắc, mà thế lực ấy không thể đoạn dứt ư? Đáp rằng: Chẳng thấy đường, nên cho bằng phẳng là hiểm trở; như nhìn rõ con đường thì chẳng thấy hiểm nạn. Phàm thường vô là đạo, chỉ có Phật lấy Thần làm đạo. Cho nên đức và đạo là một, thần với đạo là hai. Vì có hai nên phải chiếu để giáo hóa; vì một nên có thường nhân mà chẳng tạo. Phàm vạn loài mỗi mỗi đều tùy nhân duyên, tự tạo tác từ trong Đại đạo. Nay sở dó Phật nói: Các pháp tự tại chẳng thể nghó bàn, chẳng phải là nói chẳng do duyên số, vượt qua túc mạng mà cưỡng cứu giúp vậy. Vì chúng sinh do vô lượng công năng của Thần dẫn dắt, tất cả đều nương vào bến bờ mà thông đạt cùng tận. Sự chiếu soi của Thần chẳng thể nghó bàn. Thí như Hồng Thủy thì dù cho tứ hung có ngu si, cao ngạo cũng đều giáo hóa, Nghiêu Thuấn chẳng thể cải biến, mỗi mỗi đều nương theo bờ vực của nó mà tuôn nước ngập Tứ Hung; nếu có thể hài hòa được, đức ấy há chẳng phải là lớn lắm sao? Phàm Phật tức là chẳng phải người khác, đó là đạo Thánh nhân, chẳng bỏ việc tục cứu giúp chúng sinh, diễn hóa đối với thế gian quên mình. Đến nơi người mà chẳng dung công, tự vật thành, chính là sự ứng hiện khác lạ của Nghiêu. Phàm âm luật của chuông là do tâm thầm nhận biết, hà huống bậc Linh thánh dùng Lý Thần để so sánh ư? Các bậc cùng nhau âm thầm thành tựu nơi Phật quốc, đều là do chí mạnh mẽ, thần trong lặng tích tập nhiều kiếp mà càng sáng tỏ. Nên đều cảm đến chỗ rỗng rang thông thấu, như Thích-ca phát ánh sáng mười phương đều ảnh hiện chiếu soi, Đa Bảo Phật từ đất vọt lên, Đăng Vương nhập thất … Há Phật chỉ có hiển ư? Vì ta thấy được vậy! Đến như hôm nay quân tử chẳng sinh vận ứng cúng, nhưng trong cõi nước vua Vũ tích tập đều trái với xưa, cho nên sẽ nghịch với nay. Tuy trong như Di Tề, trinh như Liễu, Lý, nhưng chí khác thì làm sao cảm được mà thấy Phật? Hà huống hôm nay cho rằng từ đây về sau tuy dùng lễ nghóa để tu thân, vang danh nơi thế tục, tình sâu đậm với người, mà chí chẳng theo đạo, dù là quân tử của loài người, nhưng thật ra là tiểu nhân của cả trời; tôn dung cực linh làm sao mà cảm được? Nếu như tùy duyên mà sinh đến, sáu Độ thật phát khởi từ túc nghiệp, cảm thấy được trong sáng, thì cũng sẽ có người ấy; nhưng đạo tục so sánh nhau lại do đâu mà biết nhau? Thế thì thô hay diệu là do nơi ngã, nên thấy và không thấy khác nhau. Đâu thể vì ta chẳng có dung nghi rực rỡ, mà nghi Phật chẳng tồn tại? Vậy trời đất có linh, tinh thần chẳng diệt đã rõ ràng vậy. Nay quân của Tần Triệu, Thần và vũ trụ đều đến, tuy có thành bại, trời đất nhưng chẳng diệt mất. Khởi và Tịch đâu thể diệt được sáu mươi vạn thần? Vì Thần chẳng thể nào diệt. Vậy cái diệt mất là thân. Há chẳng nghe Phật nói ư? Thường diệt thân của quần sinh. Cho nên thân bị diệt, mà mạng số lại gặp nơi Khởi và Tịch. Vì sao biết? Phàm đạo trời biến hóa, mỗi mỗi đều có chánh tánh mạng. Đến như gà, heo, chó, dê, mạng của chúng cũng đều là một trong sáu chữ của càn khôn. Người ăn mạng để nuôi thân, bạo ác đồng như nhện giăng tơ vậy. Cọp sói chim ưng nếu chẳng cắn xé thì chẳng sống. Con người như ăn cơm rau mà tồn tại thì rất ngược vậy. Đạo trời chí công, cái quý hiếm nhất là mạng, vậy đâu cho phép làm ngược lại mạng mà ức chế sự âm thầm ứng hợp? Nay sáu mươi vạn người tuy có tốt xấu khác loại, nhưng đều nhẫn tâm ăn thịt quần sinh, e rằng chẳng khác. Vì tốt xấu khác nhau nên chỗ hưởng thọ trong đời ắt khác; vì đồng hại chúng sinh, nên bị chết đồng một ngày. Nay đạo gia nói nơi mà người thế gian sinh đến thì chẳng thể nói được. Đến như Vu Công, Bónh Cát, Ngu Di đức ứng đến ngày sau; Nghiêm Diên Niên, Điền Phần, Tấn Tuyên quả báo giết người hiện đời ứng nghiệm. Tất cả đều có ghi trong đời Ngụy Hán, có thể tin nhận. Phàm cứu sống người mà phước lạc còn lưu truyền đến con cháu, huống gì tinh thần làm chủ việc giết cứu, thì sẽ không có họa phước ở thân sau ư? Giết hoại cứu thân người ắt sẽ có báo nơi thân mình, hà huống khai thông hay ngăn chặn thần hóa người mà chẳng cảm lấy hưng phấn hay … tiều tụy thần của mình sao? Phàm những kẻ mà Diên Niên giết gồm phàm phu tiểu nhân và các người giàu có như Đậu Anh, Vương Lăng, Tễ Mục. Hiền và ngu tuy khác, giàu và nghèo sai biệt nhưng quả báo chỉ là một. Báo đã đến thì không kể giàu nghèo, tướng văn, tướng võ, Tấn Vương đều chẳng khác. Đó há chẳng phải là trời chí công ư? Có tài và bất tài đều là người, về đạo lý bảo tồn tánh mạng không ở tại sang hén! Thế thì chim cá tuy hèn mà tính mạng của chúng cũng trong càn khôn. Xem chim mẹ quẩn quanh, chim con ríu rít, trâu nghe ngóng nơi Cát Lự, dê cơ cảm ở Tây Ba, mỗi mỗi đều chí tình yêu thương đồng loại. Nhưng nay có đàn bà mang thai, trẻ con ở nơi đây mà có xẻ mổ chém, thiêu đốt họ, thì thật là tai ương thống khổ, cơ cảm đến trời. Lại mùa xuân săn bắn những con thú mang thai, đốt nấu chim non, thì theo đạo trời, há chẳng có báo ư? Nhưng nay tướng và lý duyên nhau, vào đời uống máu này thì nghề săn bắn và đánh cá chẳng thể khiến nhanh chóng dứt bỏ, nên nhà bếp của Thánh Vương là nơi giáo hóa; bởi vì thuận theo tâm sát của dân để dứt trừ tai họa giết hại. Như đến nhà bếp nghe tiếng kêu của con vật thì bất nhẫn; nhân sài lang và rái cá săn mồi mà lập tiết xuân thu tế tự trước khi săn bắn, nên chóng dẹp lưới, bỏ mành, chẳng đúng thời làm thương tổn đến các con thú có thai. Đó là nói lên sinh mạng của loài vật là quý trọng. Mạnh Kha thường tán thưởng đối với chuông có thoa máu của muôn sinh, nhưng khi nghe vua có đức thì liền bỏ sát sinh; như Tiêu Vương vuốt ve con nai để cứu mạng nó. Cho nên người có lòng nhân sâu dày thì chẳng khốn khổ với điều cấm này. Đức Như Lai thông đạt thần, thấu suốt đến cùng tận, nên Ngài đều xem trọng sinh mạng của năm đường. Cấm sát là đầu tiên của các giới. Vua Bình-sa hiện đời thọ báo làm thỏ trắng; Thích-ca ở quá khứ bị chết bởi cá vàng; đó là chỉ rõ thế lực của nghiệp báo mờ mờ mịt mịt, sâu xa mà chẳng lầm lẫn. Nếu đời trước nghe được đạo, kính tin tu tập giới pháp thì nhất định chẳng đọa vào Trường Bình để bị chôn sống. Nếu đã đọa đến đây, nhưng có tin pháp mà thấu triệt được thì cũng sẽ vượt qua được nạn ấy. Nếu duyên giết chúng sinh đến trước thì có quả báo trước; giới đức đến sau, ắt chẳng bị nạn chôn thân đến với mình. Dùng công năng của thần chiếu soi kẻ cùng bức, để cứu vớt các sinh mạng oan uổng, đạo lý như thế, đó là lòng từ cùng tột vậy. Tuy có tâm thiện thế giau, nếu không có tâm đạo, mà phạm tội giết mạng chúng sinh, thì lý đương nhiên sẽ bị quả báo bức bách. Lý của Phật thừa, chân thật là dùng pháp cứu vật, nếu không thực hành theo pháp thì không thể cưỡng cứu giúp. Thí như Biển Thước dùng thuốc cứu bệnh, nếu chẳng tin, chẳng uống thuốc thì bệnh chẳng lành. Đâu thể cho Biển Thức chẳng giỏi? Lỗ Dương, Đam Cung, Viễn Tổ Cửu Giang sở dó có thể xoay mặt trời, khiến suối bay, trùng cọp tránh đức, đều là do lòng chí thành cảm động. Thần cảm tức Phật cảm. Nếu vào thời Tần Triệu ắt chẳng hãm vào mạng ấy. Vậy người bị hãm ấy ắt chẳng chí thành, đâu thể cho rằng đặt tâm cơ cảm nơi Phật mà tiêu dung tâm khí của Khởi, Tịch. Dùng chúng thông thần để hợp ngôi nhà giáo hóa. Cho nên núi Tu-di hiện trong hạt cải. Tuy nay làm thân cọp, chim câu, nhưng xưa hẳn là người, từng có duyên gặp gỡ. Cho nên gặp vận tốt của Phật, gieo thân cứu đói, cắt thịt đùi thay mạng. Nếu không có cảm để động thân, dùng mạng bồi thường nghiệp sát, thì đâu được vọng làm tiêu dung tâm khí. Hàng vạn cái chết ấy đều do chính mình tạo ra mà nghi Phật ư? Phàm chí thành, thì tưởng sẽ hiện, báo sẽ nghe. Suy từ việc Chu Khổng cảm mộng tương giao, nói hình tìm thật, cho đến cổ kim lâu xa, núi non cách biệt mà âm thầm đối đáp vô ngại, thì có thể tin rằng chí thành tưởng niệm ắt cảm được Phật Vô Lượng Thọ cùng cảnh giới siêu việt trăm ức, chẳng cần dụng công. Như thế sao lại nói là đồng với hư không? Phàm Đạo là do luyện thần chứ chẳng phải do bảo tồn hình thể, vì thế Sa-môn cạo tóc đốt thân luyện thần, bặt đứt chỗ đến, nhưng Thần chẳng thể diệt mà còn hướng đến nơi cần đến, há có gá nương ư? Lìa xa đạo lý làm người, 6 tình thì khó lượng biết, sao lại cầu được nơi thân mà làm hại đến thần? Tự cắt dứt thì ngày càng suy giảm tình, chân thật dần dần đến với đạo; cần khổ ra sức quán xét, dốc hết tài sản sinh sống, chưa bao lâu thì có được. Bỗng chốc thân diệt, danh thật đều thâu, thì cũng chẳng ra ngoài Đạo Khoa (tức Phi đạo). Lập đạo quán, thờ thần tượng, lặng lẽ sâu vắng. Hình do đó mà diệu, thần theo đó mà xa. Diệu thì ứng mới trong, xa thì phước mới kỳ. Đạo Khoa và Đạo cái gì hơn? Chóng đoạt tuổi thọ mới được siêu thăng; chuyên tu hành thì trợ giúp thần minh, tạo phước đức thì sẽ hiện ở thân sau, há có thấy chỗ đạt được ư? Nếu việc của người động ắt xuyên suốt đến Thần đạo; vật chẳng hư vong, nhưng cần phải có mới như thế. Ví như quả báo sâu kín chẳng đúng như lời luận bàn ở trên, thì sáu mươi vạn mạng sống vì lý do gì mà bị chôn? Đã vì quả báo mà chôn sống, ắt vì quả báo mà chẳng chôn sống. Người thời Chiến quốc, thông minh thì như An Kỳ, ngu tối thì như Tứ Hạo, Long Nhan làm Đế, Liệt Địa làm vua, danh thơm đức tốt chẳng thể tính kể. Tất cả đồng ở trong cái đích của người mà thôi! Vì sao như thế? Há chẳng phải mỗi mỗi do nghiệp báo đời trước cảm ứng ư? Đã thấy phước thành tựu từ hành vi đời trước, thì hành vi hôm nay không thể phụ thân sau, đã rõ rồi vậy! Hiện đời khác phẩm loại đã là do túc mệnh phân biệt, thì chỗ nhận lãnh của thân sau đâu thể lẫn lộn. Kinh cho rằng khi Phật hóa hiện, đều do lúc trước đã có hội ngộ tốt đẹp, nên hôm nay mới gặp như thế. Nhưng hôm nay không có ứng đều là do không có duyên, mà trái lại vu báng là chí pháp hư cấu. Than ôi! Thần chiếu soi rỗng suốt, ngăn chặn tai ương của Thánh nhân, thật cũng đáng sợ. Dám hỏi rằng: Hư cấu là để cho Thánh nhân, hay cho Hiền nhân hay Tiểu nhân? Thánh nhân không có tâm thường hằng, tùy theo tánh của vật mà giáo hóa, khiến chúng thuận theo. Nếu thân chết thần diệt, thì chỉ cần dùng nho giáo để chỉ dạy đến hết đời, đâu còn việc gì để luận? Mà lại dùng bất diệt để dối gạt, dùng thuyết thành Phật để khinh nhờn? Ví như cạo tóc đốt thân dứt tình chồng vợ, con cháu bị đoạn tuyệt không thể tính kể. Vả lại bậc Minh triết thông đạt nuôi dưỡng chỗ vô thường, hoặc cũng có lúc âm thầm ngăn bít. Hư cấu đâu có lợi ích gì mà còn gây khổ lớn nữa! Như thế thì biết chẳng phải do Thánh hiền tạo lập vậy! Nếu là người ư? Như Phiền Tu, thì cũng quy thân theo Chu Khổng, sợ hãi dị thuyết, đâu dám vong tạo ra? Nếu từ đây trở xuống đều là hàng tầm thường thì đâu có thể lập tông gia ngoài chín phái, tăng tiến ngoài Lão Trang để chiếu sáng mãi ngàn năm sau? Như ngài Long Thọ, Đề- bà, Mã Minh, Ca-chiên-diên, Pháp Thắng, Sơn Hiền, Đạt-ma-đa-la trong năm trăm năm trước thuật, giảng dạy tạo Đại Trí Độ, Trung Luận, Bách Luận, A-tỳ-đàm, đều là bậc anh tài thông thần đạt lý. Gần đây có Tôn Xước soạn Tụng, tám bậc hiền là Kỳ Vực, Kiện-đà-lặc…, Chi Đạo làm phỏng theo đó mà soạn Tán. Trúc Pháp Hộ, Vu pháp Lan, Đạo Thúy Khuyết Công Tắc đều là các bậc chói sáng ở Trung Hoa; như ngài Trúc Pháp Hành ở Trung Quốc, người bấy giờ sánh ngài là Nhạc Lịnh. Ở vùng Giang Tả có Thi-lợi-mật, mọi người tôn kính sự siêu tuyệt của ngài. Quách Văn Cử rỗng rang mà thâm thúy chỉ tin phụng Phật pháp. Từ ngài Long Thọ trở xuống, đâu đều mất thân mà lúc trước nói hàng tầm thường là dối gạt ư? Thế thì việc của Hoàng Diệu Phu Tử, đâu chẳng rõ? Nay ảnh tượng, xương cốt, răng, tóc, pháp khí, uy vũ còn để lại vẫn rực sáng ở bản quốc. Điều này cũng đã chứng minh cho Đạo vậy. Phàm tánh của cõi kia phần nhiều có tài tinh xét, rõ ràng, nhưng tham ái rất sâu, họ đều đứng trước Phật dâng hoa đích thân truyền trao, thế gian tôn kính sự chân thật ấy. Hình tượng, dấu tích, các việc còn để lại trợ giúp việc giáo hóa được sáng tỏ. Cho nên các vua đời sau dạy cả nước tuân thủ giới cấm, bốn chúng cần khổ, đến chết vẫn không xem thường. Nếu lý hư vọng, sự chẳng thật kỳ diệu, thì họ đâu chịu dốc lòng phá dục để tôn kính chỗ vô hình? Nếu hình tượng, sự vật không thật, âm thanh phát ra có đến di thì người đến xưa nay vì sao phải khổ thân lìa dục. Nếu là chỗ cùng tột, người đến lại quay trở về, lẽ ra nên thấy giải đaĩ, nhưng họ đều là những người dốc lòng siêng năng? Vì thế thì có thể xét rõ. Luận rằng: Từ xưa sở dó thường hiển thị về đạo lý trị quốc gia là vì muốn giữ gìn chỗ sinh, mà khổ là do sinh đem đến, người mê muội chẳng biết. Cho nên chư Phật dùng khổ để ngộ, dùng vô sinh để dẫn dắt. Vô sinh chẳng thể trực tiếp thể ngộ, mà phải dẫn đát thì thiện ác đồng, thiện báo mà càng cao xa thì rộng lớn vô tận, có thể nương gá. Vì thế Đạo ấy rộng lớn như biển xanh, nhỏ không đâu chẳng là bến bờ, lớn thì không đâu chẳng thông thấu. Tuy xa mà cùng với đạo trị quốc giữ gìn cái sinh, trái lại thì cũng giữ gìn ngữ điển của Đào Tiềm, trợ giúp cho lễ giáo. Đời nay sở dó dối tạo họa phước nơi đạo trời, giống như Tư Mã Thiên cảm khái vì Bá Di. Khổng Tử há có nói dối ư? Ngài nói tích thiện thì được phước, làm ác thì bị họa, mà Nhan Nhiễm yểu mạng mà con cháu chẳng nổi danh, cha của Thương Thần chết mà Trang Chu thành hiền bá. Phàm những việc như thế theo lý thật khó thông nhưng lý há có chỗ chẳng thông sao? Thế thì thuyết tạo phước mà thân sau thọ khổ nơi Tam đồ chẳng thể chẳng tin. Tuy hình có mất còn, mà tinh thần nhất định ứng đến hiện đời mà thọ báo, thì đâu có gì khác biệt? Chỉ vì nhân duyên có trước sau, nên đến có mau chậm. Giống như họa phước trong một đời đến sớm hay muộn vậy! Thế thì lời dạy của Khổng Tử, nhờ giáo của Thích Thị mà thông, có thể chẳng cho rằng đạo Huyền cực không biến dịch ư? Phàm lý của con người tản mác, mất còn như huyễn, trong vòng một trăm năm già trẻ đều tận. Tuy tóc bạc lưng còng mà vẫn còn tự biết khoảnh khắc trôi qua, hà huống gì thời gian ngắn? Thời gian thì chẳng dừng, vận thì vô cùng. Đã từ vô lượng vô số kiếp khi xưa, trong một chớp mắt đã đến hôm nay; nay trong chớp mắt đã đến một trăm năm, đâu từng khó đến, mà bổng chốc đã được một nửa. Phàm cái đẹp của vật đối với thân sương sớm này, giống như không có sự thanh cao thoát tục chân thật vậy. Vì sao phải cam chịu dơ uế nơi hẹp lậu, để uổng phí tinh thần trường tồn mà chẳng tự học theo phong cách cao xa. Tuy là một nhà Danh pháp giúp đời, nhưng đâu không có phần nơi đạo lớn? Chỉ vì mãi lăn lóc trong cõi người, dại khờ nơi đường thế; cho nên chỉ biết nhiều về nhân đạo mà xem thường Thần tưởng. Nếu quay thân với miễu hoang dã, lên đỉnh núi cao, nhìn xa thấy rõ sự rộng lớn của vũ trụ trong xanh, sự kỳ diệu của nhật nguyệt chiếu soi. Thì há chẳng có liệt thánh oai linh tôn nghiêm trong đó sao? Chỉ cần xa lìa nhân quần, bỏ qua việc thế mà thôi! Nhất định sẽ ôm chí cao xa để khai mở tâm tưởng thần đạo, cảm sự tịch mặc để sáng tỏ sự ứng hiện của Linh minh. Khi xưa Trọng Ni soạn Ngũ Kinh ở đất Lỗ để giáo hóa Thiên hạ, và căn nguyên mờ mịt xa xôi của nó, nhưng Thiên hạ và Lỗ đều nhỏ bé, há chẳng phải Thần hợp với tám cực mà siêu việc một đời ư? Thế thì Ngũ Kinh được soạn trong khoảnh khắc ứng với không gian nhỏ bé kia. Vậy thế gian đâu được vì đối lập với Phật pháp mà chẳng tin? Xin hỏi nay chẳng tin vì cho rằng ngoài con người ra thì không có Thần minh ư? Hay cho rằng cũng có Thần minh mà không có Phật? Nếu không có Thần minh mà chỉ có người, thì ai bảo Huyền Ô giáng xuống sinh Thương, ai bảo cảm dấu chân lớn mà sinh Khí? Các đời Hán, Ngụy, Tấn, Tống đều có hiện điềm lành về Thiên mệnh. Cho nên biết ngoài điều thấy nghe, rõ ràng còn có Thần đạo. Có Thần lý ắt có diệu, đạt được sự linh diệu, chẳng do Phật thì do ai làm ra? Phàm nói Thần, tức nương vào Phương Sở mà ứng hiện, chẳng ứng thì chẳng tồn tại. Từ thật mà lập hóa thì đâu sợ chẳng cùng tận. Há phải cần đến vật hư giả rồi sau mới chỉ dạy ư? Thế thì pháp này thật, giáo này đáng tin, chẳng cho nghi ngờ. Luận rằng: Quần sinh đều lấy tinh thần làm chủ, nên cái linh của Huyền cực đều có lý để cảm. Như Nghiêu đã cách xa rồi mà trăm thú vẫn còn nhảy múa tán dương đức ấy, đó há chẳng phải là cảm ư? Vậy Phật là gốc của vạn cơ cảm. Trời trăng còn có Lễ sáng tối, nghóa sóc vọng hà huống gì đạo chúng của Phật. Bậc cao thì thấu đạt được Thần, vượt ngoài nhân thế, bậc Trung thì thọ thân nơi diệu cảnh, bậc hạ thì cũng tránh khỏi ba đường. Việc trị thế mà giáo thế gian chủ trương, chỉ hạn hẹp trong một đời mà thôi. Phàm người đạt được đạo thì ít mà theo thế gian thì nhiều, như thế đâu chẳng từng cùng nhau học theo thế tình mà cao rằng chết thì Thần diệt? Cho nên mới chẳng mong cầu chí cho xa thoát tục, mà phần nhiều theo tình ngắn ngùi, từ đó mà đạo của bậc quân tử suy vi. Nếu dùng Phật pháp mà soi xét thì thân này chẳng phải là ngã, vì chỉ một lần ngừng dứt không thở là xong. Còn tinh thần mới là thân của ngã, vì nó rỗng rang trường tồn không bao giờ mất. Bậc thượng đức thì đức ấy lưu chuyển nơi mình đến vô cùng, bậc trung thì cái tốt đẹp sẽ từ từ thăng cao cho đến cùng tận, bậc hạ thì có cái xấu, nên mới có đường khác tự sửa đổi, có thể cải lỗi mà chuyển lên trên. Vì thế từ xưa trong cái tình thô, làm trong sạch mình, ôm chí cao xa chỉ mong thực hành hôm nay để định cho nghiệp mai sau, mà đạt xa hơn bậc chí đức thì nhiều không thể kể hết, đó là hiệu nghiệm của Phật pháp vậy. Đó là chỗ bế tắc của thế gian, chỗ khai thông của Phật pháp. Đạo ấy như thế, há chẳng rộng lớn mênh mông mà diệu kỳ có đường thông ư? Vậy vì sao lại bỏ qua mà không tin phụng? Phàm gió thổi qua lửa thì reo, thổi qua rừng thì mát mẻ, nước xao động thì đục, lắng đọng thì trong sáng. Dụng của Thần được hay mất thì cũng còn nơi nương gá. Nay chẳng tin Phật pháp, nên chẳng có phần là lẽ tất nhiên. Bởi vì trụ nơi ý thì như thế, thử lìa xa tâm nơi thế vật, chuyển đổi thành trong sáng vi diệu thì Lý Phật sáng tỏ, sự Phật đều đáng tin. Như thế chẳng khéo trụ nơi ý ư? Nhờ sự tin hiểu này mà cho đến cuối cùng sẽ được Vương đạo Thần đạo, sự nghiệp trăm đời trước đều có thể thành. U hiển đều vónh viễn được cứu độ, đó là đại hiếu; chúng sinh đều thấm nhuần lòng nhân, đó là chí từ; ngưng thần độc diệu, đó là cực đạo; rỗng suốt vô ngại, đó là tận minh vậy. Khai phát tâm của người tầm thường, đi đường phải theo dấu xe, thì dầu trải qua vô số kiếp thì cuối cùng ắt sẽ đạt đến chỗ rốt ráo huyền diệu. Kỳ diệu như thế, mà các ông trái nghịch với dấu, lạc mất đường đi, ngơ ngác loanh quanh đi mãi rồi vónh viễn chìm vào chín cõi, chẳng đáng buồn ư? Nếu chẳng như thế, vì sao lại nuôi Hiền Thánh mà lại dưỡng kẻ ngu hèn? Trên là chư Phật, dưới đến bò, bay, cựa, động đều là do thế được mất về tinh thần. Nay con người với thân máu thịt già chết, thọ trong mấy kỷ này mà ban đêm đã chiếm hết một nửa rồi, các duyên bệnh, tang làm khổ nửa đời khỏe mạnh, trong đó hiển vinh, vui thú, đắc chí chẳng được là bao. Nhưng lúc tráng niên chẳng được vinh thì ắt là sự nhục, vui thú đi liền với lo buồn, nên cũng chẳng hoàn toàn là khương thái. Như thế mà tranh nhau bước vào con đường hiểm thế tục, đi ngược lại con đường thênh thang của Phật pháp. Đâu như người trí? Người đời vì chẳng đạt được duyên bản mà mê mờ Phật lý, thật cũng rất nhiều. Phàm duyên khởi thật mênh mông, truy tưởng chẳng thể đạt đến. Như mất đi chỗ dựa then chốt của sự chứng đắc, sẽ không có lý gì để cơ cảm được. Tức ngoài Lục hợp (vũ trụ) có Phật tồn tại mà chẳng luận … như đã nói đầy đủ ở trước. Đến đây xin được trình bày lần lượt tiếp. Phàm Thánh nhân tạo Kinh Dịch, trời hiện ra Tượng, thì những việc trị, loạn, hung, kiết có thể xem mà biết được. Nhưng truy tìm nguyên nhân của các trạng thái ấy, nếu Thánh nhân chẳng nói thì chẳng biết. Nay dùng cái chẳng thể biết để phế trừ cái có thể biết. Nghịch xem thì trái với trời mà động, há có điều chẳng quên ư? Chẳng thể vì chẳng biết Duyên Khởi đầu mà trái với Phật pháp cũng giống như vậy. Lại chẳng vì không nhớ ý của thân trước mà cho rằng thần chẳng tồn tại. Phàm con người lúc trong thai đến khi thành đứa bé, chẳng được cho là không có tinh thần. Trong cùng một thân, mà nay suy nghó còn mờ mịt chẳng nhớ, hà huống đã trải qua nhiều lần sinh tử, thay đổi nhiều thân. Khi xưa nhớ đâu thể chẳng quên. Chỗ nhớ đã quên mà không làm hại đến sự trường tồn của thần, thì chẳng đạt duyên đầu tiên cũng đâu ngại gì lý thường sáng tỏ. Tử Lộ hỏi về sự chết, Khổng Tử nói: “Chưa biết sinh, làm sao biết chết”. Hỏi về phụng sự quỷ thần. Khổng Tử nói: “Chưa biết phụng sự người, sao biết phụng sự thần quỷ?”. Đâu chẳng vì nguyên do đó, mà tận lực với hiếu dũng, dốc chỉ phụng sự vua. Nhất định cần phải dùng một đời đạt đến gốc của sinh tử quỷ thần. Tuy nói có hỏi, nhưng chẳng phải là thật lý cảm nên. Cho nên Tánh và Thiên đạo, chẳng được nhà Phật nói đến. Giống như là câu hỏi sau: Chúng sinh hữu biên hay vô biên … bậc Nhất Thiết Trí đã bỏ qua không đáp. Thật ra như đáp thì đã không có lợi ích mà khiến họ đọa vào tà kiến. Thế thì đạo theo Thánh thờ Phật, chắc chắn phải cảm tạ chỗ im lặng đó và hưởng thọ chỗ ứng hiện đó. Như người khát uống nước sông, lấy nước trên dòng rộng lớn để no bụng, đâu cần phải tìm đến tận nguồn ở Côn Sơn? Phàm trong Phật pháp, nếu trái với trời thì ngại lý chẳng thể nắm bắt được như thế, thì đáng nghi. Nay không có chỗ ngại chẳng thể nắm bắt được như thế, mà chỉ có sự thật thuận trời đạt thần, thì há chẳng thật như thế ư? Phàm người sinh thì mối lo cũng sinh theo, hoạn họa phát khởi nơi thời và Sự, tai ách sinh ra từ chốn tối tăm. Dù phú quý vô lượng, đồ chúng hàng trăm vạn, cũng chỉ có một hình và thần ngồi đợi vô thường đến, người nhà kêu gào, vợ con khóc lóc, bỗng chốc chìm đắm mịt mờ, hốt hoảng, thân người đâu đủ để gá nương. Vì thế thời gian trôi qua rất nhanh, cần phải mạnh mẽ, xa hoa thì mất sự minh hóa, phóng túng dục tình, xa xỉ thì có hại. Thần đã chẳng thể diệt, cần diệt chẳng thể được mà sẽ theo tội thọ thân. Nay các chúng sinh tầm thường, trùng kiến, dế giun vạn loại … đều được ân cần soi chiếu, vì chúng mà toan tính, chỉ cần có tâm chí thành tin Phật, tu giới để cứu giúp tinh thần. Sống thì nhờ vào Linh lúc chết thì được trong sạch siêu thăng, siêu thăng đến vô cùng thì làm Phật. Phật hẳn đã nói như thế, mà người lại xem thường, vì sao đoạn làm người để làm Phật? Chẳng thể làm Phật, thì sẽ chẳng đọa vào nơi ác, vónh viễn chịu cực khổ ư? Than ôi! Lục cực ( sáu hạng người cực ác). Khổ độc mà lại sống, vì vậy khổ nảo chẳng dứt. Người nghe thấy tinh tấn mà chết vì vậy kẻ chết mới nhiều. Người có thần ý an định mà có nguy cấp, nếu nhứt tâm niệm Quan Thế Âm, thì đều được cứu độ; tất cả phù hợp với điều gọi là “Sống thì nhờ linh thần đến chết thì siêu thăng” đã nói ở trước. Phàm làm bậc quân vương, mặt trời đã xế bóng mà chẳng kịp ăn, suốt một đời trị quốc luôn làm chỗ nương tựa cho muôn dân, thế thì lấy gì để tăng trưởng tinh thần mà làm vua vạn loài? Nay theo Chu Khổng để dưỡng dân, học Phật pháp để dưỡng Thần, thì sống làm Minh hậu (vua anh minh), chết làm minh thần mà thường trị hóa; vậy Như Lai đâu xem thường Ngã? Chẳng nên lập nhiều chùa tháp, đúc tạo nhiều tượng, nuôi dưỡng tăng xấu ác để hao tốn tiền tài, làm hại nhân dân. Đối với vật thì chẳng nên từ xa nhìn cái chân thật, rồi nhìn gần thấy chỗ xấu mà cưỡng hủy nhục. Như thế mới tôn kính Đạo, tôn phụng đại giáo; ngộ vô thường, không sắc, có tâm từ rộng khắp, chẳng nên trọng giàu khinh bỏ sinh mạng loài vật; không thuận theo kẻ tiểu nhân, trộm mặc y phục phi pháp; đó há chẳng phải là dùng Đức để dẫn dắt, dùng lễ để cứu giúp, khiến Thiên hạ trở về với nhân càng nhiều sao? Khi còn nhàn hạ và tấm thân quê mùa này, đâu có gì đáng tiếc, mà chẳng tự cứu tinh thần của mình? Khi xưa Hòa thượng Viễn tu tịnh nghiệp ở Lô Sơn, tôi có đến đó nghỉ ngơi năm tuần (50 ngày), thấy ngài là bậc cao khiết, cần khổ, lý học rất tinh thông, chắc chắn sẽ lưu truyền lâu dài. Thầy của ngài là Pháp sư An cũng có linh đức kỳ diệu, các tỳ kheo tập hội đồng giữ Thiên chân, tất cả đều cùng nhau sớm hòa hợp với Đạo, nhưng sau một mình vào trụ nơi núi cao. Vì thế sự giáo hóa của thần minh vào sâu nơi rừng núi. Bỗng nhiên ngài nói với tôi rằng: “Trong khoảng núi rừng khe suối mờ mịt này mà có người đến, lời nói làm phép tắc để chấn chỉnh người, chính là ở luận này”. Đó là Hòa thượng y cứ vào yếu chỉ của kinh mà nói vậy. Phàm người khéo tìm cầu thì nhân dấu chân chim mà tạo chữ viết; thấu đạt thần minh cùng người khen ngợi, một lời của Đề Oánh mà nghiệp Bá Thành, nhục hình trừ bỏ; cũng có người bỗng nhiên cơ cảm mà cuối cùng đạt đến cao xa. Nay dùng lời thô lậu này để kích phát chỗ cơ cảm ấy, đến khi bỗng nhiên thân diệt, thì đâu biết chẳng do đó mà được siêu thăng? <篇> HOẰNG MINH TẬP <卷>QUYỂN 3 DỤ ĐẠO LUẬN (Tôn Xước soạn) Như có người nghi Chí Đạo, thì hiển dụ họ rằng: Thiên hạ bao la, vạn loài đầy khắp, thiên biến vạn hóa mờ mịt chẳng có mối manh. Vì thế hàng có thức tình bốn phương mỗi mỗi đều mong có sở kiến, vậy loài mai vảy thì chẳng biết việc trên đất, loài lông cánh thì chẳng rõ thế lực của dòng nước; chỉ biết ở giếng ao thì kinh sợ với cái lượng rộng lớn của biển khơi; bay cao được vài trượng thì nghi ngờ sức mạnh vút trời; trói buộc trong thế giáo, chỉ xem dấu vết của Chu Khổng rồi cho rằng Nghiêu Thuấn là tận cùng của chí đức, Lão Dịch là tận cùng của diệu ngôn mà đâu thấy được chỉ thú kỳ diệu ngoài thế gian, sự chiếu soi siêu tuyệt trong hoàn vũ. Buồn thay! Giống như mũ của Nho só bỏ nơi kẻ lõa hình; nhạc Thiều, Hạ mà trao cho người thô lậu; chí chân bị tuyệt nơi kẻ buông lung, Đại đạo phế nơi kẻ ngu si. Nếu đã cùng mê mà chẳng biến cải, thì lời lẽ dụ dẫn cũng chẳng thể cảm hóa được. Nay thử luận về chỉ thú này, ngỏ hầu có người ngộ nơi đây! Phật là người thế hội được Đạo. Đạo tức dẫn dắt vạn loài, ứng cảm thuận thông, không làm mà không gì chẳng làm. Không làm, nên rỗng lặng tự nhiên; không gì chẳng làm nên, mới thần diệu giáo hóa muôn vật. Vạn vật mong cầu có cao hèn chẳng đồng, nên thuật giáo có tinh thô sai biệt. Ngộ được Thượng Thức thì nêu Tông bản; như người chẳng thuận mà còn gây họa như uống rượu thì bị trói thân, dâm tà thì phạt nặng, trộm cắp thì bị đánh, ba tích năm hình nếu phạm thì chẳng tha. Đó là pháp thường của các vua chúa do Tể Mục nắm giữ. Nếu bậc Thánh vương ra đời, trăm quan đều sáng suốt, thì các tội nhân kể trên ắt bị xét xử đến cùng tận, mà không có đất ẩn trốn. Khiến kẻ gian ác không thể tự do phóng túng. Thế thì quốc gia không nghịch với nhân dân, mà hàng hiền thiện ắt được trọng dụng làm quan vậy. Vả lại vua anh minh, bầy tôi chí công thì đời an bình, thạnh trị. Lại còn làm cho thiện ác phân minh; thẳng cong chẳng lẫn lộn. Hà huống chỗ đến của thần minh mà không có xa gần, tăm tối, thông minh, chánh trực, phạt ác, giúp thiện ư? Cho nên một chút công lao, mảy may tội lỗi, thì thời kỳ báo ứng đến không bao giờ sai lệch. Xem những bằng chứng về họa phước từ xưa đến nay, đều có nguyên do, năm tháng, quê quán rõ ràng, há có giấu giếm ư? Đó là những gì? Như kẻ thường có âm mưu thì con cháu chẳng được hưng thịnh, làm tướng ba đời thì Đạo gia cúng giỗ lớn. Đó chẳng phải là do trong chiến trận hung hiểm giết người nhiều dẫn đến sao? Như Ngụy Khỏa theo di mệnh mà báo kết cỏ; Tử Đô giữ tín mà được ban cho ngựa quý; Tể Tương đổ tội cho người mà bị họa té xe; Tắn Huệ bỏ Lễ, nên gặp khốn ở Tế Hàn. Đó đều là ứng nghiệm về người chết báo người sống. Đến như Tuyên Mạnh Thương Ế Tang đói khát, Phiếu Mẫu cảm Hoài Âm mệt nhọc, mà dùng một bữa cơm cứu lúc đói rét; cho nên sau Triệu lại được ân bãi binh, Phiếu Mẫu được thưởng ngàn lượng vàng. Đây là tạo một mà báo gấp vạn lần, chẳng vượt ra ngoài thế gian. Cho nên lập đức trong chỗ mờ mịt, mà phước báo hiển lộ ra vạn vật. Âm làm dương hiển là thế lực tự nhiên vậy. Thí như gieo hạt trên ruộng sau đó thâu hoạch nhiều gấp trăm lần. Đất và hạt không có tình đối với người, mà lợi tự nhiên đến. Có người gạn hỏi rằng: Việc báo ứng, thật có bằng chứng, vì sao giáo của Chu Khổng chẳng bảo trừ bỏ sát sinh mà để Thiếu Chánh thọ hình, Nhị Thúc bị tru diệt? Đáp: Có thể nói ông mới biết được giáo thanh chứ chưa đạt được giáo tình, cho rằng Thánh nhân có tâm giết hại ư? Không có! Đáp: Ông thật biết Thánh nhân không có tâm giết hại. Giết hại là tâm của bá tánh. Phàm thời thay thế đổi, vạn vật có tốt có xấu. Trước khi Kết thằng (đời Thượng cổ, thắt dây thế văn tự) thì thiên hạ thái hòa. Đến thời Đường Ngu mới lập Lễ Pháp, đến Tam Đại thì chế định hình pháp kỷ cương rõ ràng. Đao phủ tuy nghiêm mà còn chẳng thể trừng trị. Đến như vua tôi chém giết nhau, cha con tàn hại nhau, ăn nuốt lẫn nhau, thật quá loài lang sói. Bậc Thánh biết sự cố chấp của tánh người, đối với việc sát sinh không thể dứt trừ trong sớm chiều, nên từ từ chế phục để cầu đoạn tuyệt. Giống như rắn rết độc cắn vào chân, phải mau chóng chặt chân để bảo toàn mạng sống. Bệnh ung thư nhiễm vào thân, phải giết bỏ để cứu nhiều mạng, mất một cứu giữ mười, cũng là quyền biến khinh trọng mà thôi. Cho nên xử chém phải thi hành vào mùa thu đông, đó là thuận thời sát. Mùa xuân săn bắn, mùa hạ gieo cấy cần phải loại trừ những loài vật có thai. Vào ngày Lễ Tam Khu, nếu chim đến phải giấu cung tên, nghe tiếng kêu, thấy thịt đem đến thì chẳng ăn, đánh cá thì chẳng quăng lưới lớn; bắn thì chẳng bắn chim ngủ ban đêm. Phàm đối với các loài côn trùng phải có lòng trắc ẩn. Đến như lúc đoán ngục thì nên miễn tội chết; lầm lỗi nên tha bổng. Hình án nào còn nghi thì nên giảm nhẹ, cho đến nguyện làm mất tội danh. Khóc mà hạ búa, buồn bã xót thương, chớ nên vui mừng. Ân sinh dưỡng phải dốc lòng, đạo nhân ái nên tận sức. Còn như làm thì chẳng cậy, lớn mà chẳng tự cao. Đức gồm đủ mà nên cho rằng công chẳng ở nơi mình; hằng ngày sử dụng mà muôn vật chẳng hay. Nêu những điều này để cầu, thì đủ làm cho người ngộ được mà trở về. Hỏi rằng: Chu Khổng bảo nên sát đúng thời, còn Phật thì muốn đoạn tuyệt, như thế lấy gì để trừng ác trị gian, lãnh đạo quân sinh. Đáp: Chẳng đúng! Chu Khổng tức Phật, Phật tức Chu Khổng. Đó từ trong ngoài mà gọi tên. Cho nên ở ngôi Hoàng đế thì gọi là Hoàng, ở vị Vương thì gọi là Vương. Phật là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Giác, Giác nghóa là ngộ được vạn vật. Giống như Mạnh Kha gọi bậc Thánh là Tiên Giác, cũng cùng một ý nghóa với ở đây. Ứng thuận thế gian, làm phép tắc cho muôn vật, lại cũng tùy thời nghi nữa. Chu Khổng cứu chở cực xấu ác, còn Phật thì luận rõ về căn bản. Cùng một giáo mà có đầu đuôi khác nhau, như bậc Thánh của ngoại giáo có dấu tích sâu cạn vậy. Vào đời Nghiêu Thuấn thì thiên hạ vua thái bình, cho nên hai nhường vị, thời Thang Võ loạn lạc nên hai đế tranh nhau. Im lặng và xao động, dấu tích của nó ở tại Hồ và Việt, nhưng nguyên gốc của dấu tích ấy đâu từng có bờ mé? Cho nên nghịch cầu thì thường thấy có hai, mà thuận thông thì không đâu chẳng là một. Hỏi: Giáo của Chu Khổng lấy hiếu làm đầu. Hiếu đức là gốc của trăm hạnh. Gốc lập thì đạo sinh, thông đến thần minh. Cho nên con cái phụng sự cha mẹ, lúc sống thì hết lòng cung dưỡng, khi chết thì chí thành cúng tế. Trong ba ngàn tội, không tội nào qua tội tuyệt tự. Thân thể ta là của cha mẹ, chẳng dám làm thương tổn, vì thế Nhạc Chánh bị thương nơi chân mà suốt đời hổ thẹn. Nhưng đạo Sa-môn xa lánh chỗ sinh ra, lìa thân theo sơ, cạo bỏ râu tóc, hủy hoại dáng mạo trời ban. Sống thì không dưỡng nuôi, chết thì không tế tự, xem cốt nhục song thân như người qua đường, trái lý tổn tình không đâu hơn đây, mà nói là hoằng đạo, trải lòng nhân, rộng cứu quần sinh? Như thế đâu khác gì chặt gốc rễ, mé cành lá mà nói là không mất đi sự xanh tốt? Chưa nghe nói da đã không còn mà lông sẽ mọc! Rất trái với thế giáo, ông lấy gì để trừ dẹp đây? Đáp: Thật là điều quá mê hoặc của thế tục, lầm lẫn lớn của điên đảo kiến, xin được luận bàn mà chẳng thể im lặng vậy. Phàm cha con một thể, vì mạng đồng. Cho nên mẹ cắn ngón tay mình thì tim con co thắt, vì đồng khí mà cảm nên, chỗ đồng không gián đoạn. Như chỉ làm tâm mẹ được an vui tức đã tận hiếu. Cha thịnh thì con quý, con quý thì cha tôn cho nên hiếu là quý. Quý có thể lập thân, hành đạo, vónh viễn làm rực rỡ cha mẹ. Nếu cứ ra sức ôm giữ ngày làm ba con bò, mà chẳng khiến vạn vật tôn quý mình, cả đời ta nhờ đó để cung dưỡng cha mẹ thì cái vinh ấy rất gần vậy. Phàm duyên chính cho là Kinh, giữ lòng nhu là Thường, hình danh đều Tuyệt, Người thân và Ngã đều quên, đó là đạo phụng dưỡng cha mẹ. Đã nói về Tông rồi, bây giờ vì ông mà luận đến việc kế tiếp. Phàm Trung và Hiếu chẳng thể đồng lập. Như Dónh Thúc trái vua mà Kinh Thư khen là thuần hiếu. Thạch Thạc giết con mới toàn được tiết nghóa. Tả Truyện ghi: “Con làm quan, cha dạy lòng Trung, ghi tên vào thẻ, trao hình cho vua, cả hai nên sáng tỏ!”. Thế thì ung dung chết nơi triều đình thì bỏ đạo làm con vậy. Vì sao bị nguy ách trao cho thân mạng mà nguyện chẳng đoái hoài đến cha mẹ, đều có tên ghi trong sử sách. Về sự thì nêu hiếu làm đầu, mà người ghi chú há lại cho bất hiếu là tội? Cho nên ngạn ngữ có câu: “Cầu trung thần ắt phải đến nhà người con có hiếu!” rõ ràng tuy phạm một trái nghịch nhỏ với việc này mà đại thuận với việc kia. Hài cốt bỏ ngoài biên thùy mà Vũ chẳng bảo đem về; nếu như bỏ lệnh của Nghiêu để tìm cha, thì mất chí công ở nơi riêng tư. Đó chỉ là một điều thiện nhỏ, chưa phải là to lớn, cao xa. Như Tần Ba đời Chu lìa bỏ cha mẹ đến một nước xa xăm, cạo tóc vẽ mình, cha mẹ còn mất cũng chẳng trở về mà luận, cho là chí đức, Thư ghi là Đại hiền. Thật ra ông ấy đã bỏ ngôi vua tôn kính để giữ cái linh hư cao quý. Công lao ba lần nhường thì xa, tội làm thương tổn thì nhỏ, cho nên ông mới thay đổi lớn về tập tục của Di, truyền phong hóa, dạy dỗ dẫn dắt. Bá Di, Thúc Tề cùng nhịn đói ở Thủ Dương không thương hậu duệ của Cô Trúc, Trọng Ni cho là hiền nhân. Người luận đúng đắn, đâu thể nói đó là mất đức? Cao Hành đời Lương hủy hoại dung nhan để thủ tiết. Bá Cơ đời Tống vì thuận lý mà quên thân, danh đứng đầu liệt nữ, đức làm mô phạm cho các bà. Nêu hai người nữ này lên để tránh sự chê bai của người ngu muội vậy. Kể ra các việc trên thì chỗ khinh trọng giữ lấy có thể biết được. Khi xưa Phật còn là Thái tử, đã bỏ nước nhà mà tu đạo, Ngài cũng muốn bảo toàn thân hình để tu đạo, nhưng sợ rằng không tránh được những trói buộc, nên mới cạo bỏ râu tóc, thay đổi áo quần. Vì bên ngoài biểu thị sự bất cập, bên trong cầu giản dị, nên mới bỏ cung điện đẹp đẽ, mà sống nơi rừng núi, vất long bào mà mặc da thú; kết cành cây làm nhà, nhờ vào cỏ làm đệm, bỏ lược gương phiền toái, dẹp nước nóng nhọc nhằn, ghìm dây cương rong ruổi, đóng cánh cửa dục động; mắt thôi nhìn sắc đẹp, tai bặt tiếng dâm, miệng quên ngọt đắng, ý chẳng vui buồn, tâm lìa các khổ, lòng chỉ ôm một, đó là hồn phách, trong niệm hơi thở, một sổ, hai tùy, ba chỉ, bốn quán, năm hoàn, sáu tịnh; tưởng quán Tam Tứ Thiềân, xuất nhập mười hai môn, Thiền định lặng lẽ, núi dừng sông cạn, thần như tro lạnh, thân như cây khô, ngồi lặng sáu năm mới thành đạo lớn, hiệu gọi là Phật, đầy đủ ba minh, trọn vẹn sáu thông, thành Chánh giác vô thượng. Thân cao trượng sáu, có ba mươi hai tướng quý cùng tám mươi vẻ đẹp, lại thêm thần túc vô ngại. Bấy giờ Ngài bước ra ngoài ba cõi, tự tại giáo hóa trong cảnh giới vô tận. Nào xoay trời, chuyển đất, làm núi chạy sông dừng, mắt còn chớp mắt, thần biến cao xa. Nơi ý đến không đâu chẳng thông, làm phép tắc lớn cho quần tà, chuyển họ trở về đường chánh. Ma quân, Tiểu đạo thấy đều tuân phục. Lúc bấy giờ trời trong đất thấm, vạn loại đều được an hưởng. Loài trùng kiến được nước linh dưỡng dục, cây cối héo khô trở lại tốt tươi. Ngài lại trở về bản gốc rộng chuyển pháp âm, phụ vương cảm ngộ, liền đến đạo tràng. Làm hiển vinh cha mẹ như thế, có tâm hiếu nào bằng? Bấy giờ hàng hậu học cảm ngộ lời giáo huấn sâu rộng, tư duy đến phép tắc cao xa; tất cả đều do cha mẹ đồng lòng ưa thích, trước vâng theo tâm hoan hỉ rồi sau mới khiến cảm ngộ. Nếu có anh em thì cũng giáo dưỡng chứ chẳng bỏ. Như thế đã hoằng truyền được nghiệp lớn mà ân đức chẳng suy. Lại còn khiến người chết được phước sinh về cõi trời, chẳng cần phải lo tế tự theo thế tục. Đó há chẳng phải là ạo Hiếu thiện gồm thông ư? Phàm nhà bên Đông giết trâu, nhà bên Tây tế tự, nhà Ân thích lúa thóc, nhà Chu chuộng minh đức. Việc hưng suy ở đây hiển lộ rõ ràng nhất. Đức Phật nói mười hai thể loại Kinh, trong đó có bốn loại chuyên nói về việc khuyên hiếu dưỡng, chỉ thú rất tha thiết có thể cho là cùng tột. Nhưng người đời chẳng biết nguồn gốc, chưa bước đến đạo tràng rồi lộng ngôn vọng thuyết sinh tâm phản bác. Dùng cái thấy biết của đom đóm mà nghi sự rực rỡ của trời trăng, với giọt sương trong kẽ lá mà ngờ lượng nước của biển sâu. Dùng lưới vu báng để luận biện, lấy sự ương ngạnh để nổi danh, thật có thể nói là khinh khi bậc Đại nhân, xem thường mệnh trời như vậy. Cư Só Tông Bính đáp thư của Hà Thừa Thiên gạn hỏi về Bạch Hắc Luận. Thư Hà gởi cho Tông. Gần đây tôi biết được Hiền giả qua thơ của Trung Lãng, trong thư nói Túc hạ siêng năng với pháp sự Tây phương. Hiền giả có chí lớn, đâu cho vạn kiếp là xa, chỉ hận cuộc đời quá ngắn không cách gì lường được cái Linh minh vậy. Nay có tạo nhân Huệ Lâm ở Dã Thành soạn luận Bạch Hắc bị chúng Tăng tẩn xuất, may nhờ gặp được minh chúa khéo cứu giúp, mới tránh khỏi tội Ba-la-di. Đã làm Tỳ-kheo thì chẳng nên luận điều này, còn hàng Bạch y vì sao chẳng nói? Túc hạ thử xem, hai nhà ai đúng, còn tôi rất mờ mịt, mong có vài lời khai ngộ quý báu! Hà Thừa Thiên kính ghi. Tông Bính phúc đáp Hà Thừa Thiên. Bộ luận Bạch Hắc của Huệ Lâm mà ngài gởi cho tôi thật văn hay ý đẹp, nhưng tôi còn mờ mịt chỗ nói về Chiếu Lý, chưa đạt được ý ấy. Đã nói: “Lý sâu kín chẳng cùng tận với nhân sự (sự động loạn, hay hành vi của con người), Chu Khổng nghi nên chẳng luận, Thích Thị Luận mà chẳng thật”, thế thì lý sâu kín ngoài nhân sự kia là trống rỗng như hư không, hay còn có thần minh? Nếu trống rỗng như hư không, vì sao Lão Trang đều nói có thần minh? Nếu đã có thần minh, vì sao lại đoán là chẳng thật, như Phật nói? Nay cùng nhau tại cõi của người thường, tính toán việc gần gũi mà còn sai lầm để rước lấy tai họa, cho đến việc thô lậu như cờ bạc mà còn phải chú tâm nghiên cứu, hoặc cho rằng sinh rồi tử, hoặc cho tử là thật sinh. Trong các việc gần bên, chưa thấy việc gì thường còn mà chẳng mất. Vì sao quyết đoán trong chỗ mờ mờ ngoài trời đất, vượt ức kiếp, mà cho điều luận biện là không thật? Nếu suy cứ đến sự mà không đạt được chỗ chân thật, thì có thể nghi. Nay thân người thì quá thô, tinh thần thì chí diệu. Vì hình tùy theo thần, thì đâu thể đồng dứt tuyệt chỗ cơ cảm của tâm, như thành đổ, sương rơi, cầu vồng xuyên qua mặt trời, sao Thái bạch phạm đến sao Ngang, khí do chú thuật tạo che phủ; tâm tạo nước lửa thì lạnh nóng liền theo. Hà huống nay dùng cái trí cực sáng, cái chí cực thuần, chí thành thấu triệt cơ cảm để thọ thân. Lại sinh vào cõi bảy báu, thì vì sao chẳng cho là thật? Lại nói: “Chặt một mảy may của cây thì chẳng làm thương tổn đến sự mát mẻ của bóng cây, chất đống trong nhà trống cũng không làm mất vẻ đẹp của sự cao to tráng lệ của ngôi nhà. Gấm quý nhờ màu sắc mà rực rỡ, canh ngon phải dùng muối mơ làm chính”, để ngăn bớt giáo thuyết bản vô, thì chẳng đúng vậy! Kinh Phật nói Bản vô chẳng phải nói cái do các duyên hòa hợp là không. Vì bóng mát hay sự cao lớn tráng lệ ấy tự có thể nơi vật, nên gọi là Hữu đế; vì tánh vốn không, nên gọi là vô đế. Tuy tôi chưa rõ hết lý Phật, nhưng lời này rất rõ ràng đúng như thế. Những cái Hữu thiên biến vạn hóa xưa nay, bỗng chốc trở về không, lại đang lúc Thịnh Hữu đâu chẳng phải là Thường Hữu, nhất định là thật của không, cho nên bỗng chốc mà được không ư? Cũng như Huệ Tử nói: “Vật vừa sinh liền tử, mặt trời vừa trưa liền chiều”. Tử và chiều đã luôn dự biết trước khi chưa sinh, chưa trưa. Nhưng người ngu chẳng biết lý này, chỉ thấy lúc hiện hữu; nên Tề Hầu thâu lấy chỗ dư của họ Sàng Cưu, giả dối luyến tiếc sự vui thú. Bậc hiền thì tâm và lý là một, cho nên Nhan Tử gần như Từng Không, tức có mà như không, thật mà giống hư. Từ Nhan Tử về sau, mỗi mỗi tùy theo sự hiểu biết sâu cạn mà cũng nếm, được vị hư ấy. Vả lại càng về lâu sau dẫu cho chẳng thể tự thấu được chí ngôn để trừ hoặc cứ nổi lên, cũng đâu từng không có mảy may phảng phất. Đâu thể ngược lại vì một ngọn lửa trong cái lạnh, khiến luyến tiếc cái dục vui thú? Lại nói: “Nói vô thường thì tăng lòng mong được che chở, luận rõ khổ ngụy thì dốc lòng nghó đến việc xu thời”. Lời này sai lầm vậy. Như các lời “thuyền qua khe nhỏ”, “xe tứ mã qua đường hẹp” đều đã được nghe đầy tai ở Trung Quốc; chẳng phải là chỗ ảo diệu của lý, cho nên chẳng nêu làm giáo bản. Cho rằng phân tích lý này lại là do người, những người bình thường. Phàm các thí dụ “thuyền qua khe”, “âm thầm diệt mất” Phật kinh dùng để nói về hiện tại chẳng dừng trụ. Thật như rõ được lý này thì vật ngã thường rỗng không, há chẳng phải là chỗ áo diệu của lý ấy sao? Bởi vì người ngộ quá ít, nên chẳng lấy đó làm gốc của sự giáo hóa. Chi Công cho rằng chưa đồng với Phật, vì sao lại dùng những lời đã được nghe ở Trung Quốc để miệt thị lời Thánh? Vả lại xét về thần quang thì thật không chiếu sáng được gang tấc, nghiệm về linh biến thì chẳng thật có mảy may, chỉ nói suông là thọ vô lượng, thì ai nấy được ông già một trăm tuổi. Những việc này đều cho là chẳng hợp sự thật. Phàm thần quang, linh biến và thọ vô lượng đều do lòng thành tín sâu kín kỳ diệu mà có. Cho nên khi sinh đến cõi Phật thì tự thân phát ánh sáng và tuổi thọ vô lượng. Nay bị chìm trong tà kiến, xem thường sự linh hóa, theo lý thì cách xa trời đất, vậy do đâu để thấy việc ấy phù hợp? Phàm, tâm chẳng tham dục là gốc của thập thiện, nhìn xuống thì không còn địa ngục, ngửa lên thì sinh thiên đường, đó là hiểu nghóa, hành theo đạo, làm ngay thẳng tâm vậy. Nay bên trong ôm lòng chí thành kính ngượng, nên lễ bái sám hối tội lỗi. Như đạt được vô thường, nên lòng không bỏn xẻn, bố thí cả vợ con. Vậy đâu có gì mong cầu hơn nữa? Vậy đâu thể nói không từ ý cung kính, không nhờ lòng không bỏn xẻn mà có? Nê-hoàn lấy không vui làm vui, Pháp thân lấy không thân làm thân. Nếu vốn chẳng rỗng lặng, thì cũng có thể tăng thêm lòng đam mê, khởi lên tâm hiếu kỳ. Nếu thành thực tu tập thì đam mê tiêu trừ, đạt được lợi ích nơi không lợi ích. Vì sao lại nói quan hệ đến thế tục tranh đoạt danh lợi? Lại nói: “Đạo ở tại vô dục mà dùng dục để tìm cầu”, trong cuộc đời ngắn ngủi này, nếu không có lợi thì chẳng ai làm, sao lại vu báng Phật sâu nặng thế? Phàm chỉ thú của nhà Phật là do tám khổ đều do Dục mà có; luận rõ mười hai nhân duyên làm cho hàng cao diệu sáng được thần minh nơi vô sinh. Người muốn đạo này, có thể cho rằng có dục nơi vô dục vậy. Đến như dùng các việc thô gần để dẫn dắt, thì nói thiên đường địa ngục đều có ảnh hưởng chân thật. Cũng giống như Vu Công vì lòng nhân cứu sống, mà được phong chức, Nghiêm Thị Thích giết người mà bị tru di. Sợ tru di hay muốn phong tước, ắt phải bỏ tâm sát tu lòng nhân. Siêng năng Tu-diệu hạnh để mong sinh thiên đường; giữ năm giới để xa lìa địa ngục. Tuy có dục nơi vô dục, nhưng thật ra đó là con đường trong sạch dẫn đến chỗ mỗi ngày một giảm. Đó cũng là đi về phía Tây để về đất Dónh, lo gì chẳng đến? Ngặt vì xanh đỏ làm mê mờ con mắt kẻ thích sắc, gỗ đất dối gạt tâm ưa tráng lệ, tạo thành quyền riêng tư, cấu kết thế bè đảng, cầu mong danh dự, buông thả cái chí tranh đoạt, củng cố cái xấu của loài sâu đen. Hoặc có thể cho rằng cách làm ở nơi thuần lương, mà tệ hại như tham, vậy đâu thể khinh mạn Phật mà nói rằng: “Cách làm ở nơi tham”? Vương Mãng trộm sáu kinh để soán Đế vị. Tần Thủy Hoàng nhân lễ Triều Cận mà xây cung A Phòng, đâu thể vì việc ấy mà đổ tội cho Lễ giáo của vua trước? Lại nói: Nên phế bỏ dấu vết mập mờ mà giữ lấy yếu chỉ; nêu bày việc đời sau là che lấp mất đạo thích đó. Như nói “bất dắc dó”, xin hỏi rằng cái chỉ thú đó muốn cầu điều gì? Ắt là muốn khiến người tu lợi, cải ác theo thiện để thành tựu cho cái tánh ấy. Thánh nhân không có tâm thường hằng, chỉ tùy theo tâm vật làm tâm. Nếu thân chết thần diệt là chân tánh của vạn vật, thì chỉ đem tánh ắt diệt ấy cùng với Chu Khổng ra sức chỉ dạy, khiến cho vạn vật không bẩm thọ, thế thì sự thật cải ác tu thiện, há chẳng thuần nhất ư? Vì sao lại phải dùng thuyết bất diệt dễ lừa, dùng Phật lý để dối gạt, khiến cho người cạo bỏ râu tóc, đốt da, dứt tình chồng vợ, đoạn tuyệt vô lượng con cháu; làm hại như thế, tổn thương đến sự cao đẹp của Tận tánh, vì sao Thích Thị cho là bất đắc dó? Nếu những người không tin, thì sẽ không chịu tu lợi mà cải ác theo thiện. Còn người tin thì ắt như Kỳ Vực, Kiền-đà-lặc, Di-đà-mật, Trúc Pháp Thừa, Bạch Pháp Tổ, Trúc Pháp Hộ, Vu Đạo Thúy, Trúc Pháp Hành, Vu Pháp Lan, Khuyết Công Tắc, Phật Đồ Trừng, Thi-lợi-mật, Quách Văn Cử, Thích Đạo An, Chi Đạo Lâm, Viễn Hòa thượng. Thần lý và phẩm đức của họ tựa hồ chẳng kém Lâm Tỳ-kheo, thì há họ lại vọng hủy nhân lý mà lạc vào sự giáo hóa của người chẳng thật? Đó đều là do sự thật linh minh kỳ diệu dẫn dắt cái tâm vô cùng, để thành tựu sự nghiệp đạt được thần, trong sạch chân tánh. Túc hạ dựa vào tâm chẳng tin ấy, nên từ xa gửi cho tôi bản luận này, hơn nữa người nghi ở đời cũng đều cho là hay; nên tôi phải ra sức giải đáp để bày tỏ tâm ý mình. Phàm thế gian chấp nhận hay phản bác Phật Pháp cũng đều là việc lớn hưng hay mất của con người, thì đâu thể cùng nhau ở khoảng giữa của việc thị phi ấy. Vì thế tôi dốc hết ngu ý để soạn Minh Phật Lu- ận, hầu hiến tặng bản hoài của mình. Vừa soạn xong, tôi liền bảo người chép lại, nhưng không kịp với lá thư này. Sợ muộn nên tôi sai người mang thư hồi đáp ngài trước, sẽ gởi bản luận đến sau! Tông Bính bạch. Thư đáp Cư só Tông Bính giải thích Quân Thiện Luận Lúc trước tôi có gửi cho ngài một bản Quân Thiện Luận, đồng thời thưa hỏi, cầu nghe được chỉ thú; ngài đã trả lời thật đầy đủ, và cho rằng cần phải hiểu rõ sự hưng diệt của lý này, không thể ở khoảng giữa của sự chấp nhận và phản bác. Tôi tuy chẳng thể y cứ hoàn toàn, nhưng cũng không chấp thiên kiến, chỉ cầu hạt châu dạ quang nơi biển lớn, đó là điều mà tôi chưa được. Có người cho rằng kinh Phật hay hơn mỗi nhà của chín dòng (Cửu Lưu), xem lẫn Đạo và Mặc, từ bi và ưa bố thí chẳng khác Trung Quốc. Bậc Đại nhân quân tử lấy đức Nhân làm nhiệm vụ, tâm không ghi nhớ. Nhưng người đời dùng hình tượng trau truốt đẹp đẽ để làm vui tai mắt của kẻ tầm thường, điều ấy sẽ tổn giảm chỗ cao thượng. Vì chỗ dẫn dụng rộng và hiểu rõ, cho nên cả hai đều tồn tại. Đến như người hiếu sự nhân đó mà cho rằng siêu Khổng vượt Lão, chỉ có đây là quý nhất. Người này thật chưa thể tìm được gốc lập ngôn, mà mê mờ ngọn ngành vậy. Người biết lời này, ắt sẽ đợi bậc quên lời. Nếu chỉ tin về báo ứng thiên đường địa ngục, linh nghiệm nhân duyên bất diệt, ức chế tình thức, ăn chay, siêng năng lễ bái, hầu được che mắt dưới lọng Bảo Xứng, lên tòa Tu-di, thì thật là một trò đùa lớn của Thuần Vu Sinh. Ngài luận rằng: Các Thánh Lão Trang đều nói có Thần minh, vì sao lại đoán là không đúng như lời Phật nói? Tôi xin đáp rằng: Ở cõi sáng thì có lễ nhạc, ở chốn u ẩn thì có quỷ thần, vì thế bậc Thánh vương mới chỉ dạy, không có mảy may mê lầm về sự có ấy. Nếu thật có chuyện báo ứng đời sau, sao Chu Khổng im lặng mà nói một lời? Như đứa bé sa xuống hầm kẻ phàm phu thấy đều kinh hãi, bậc Thánh lại bất nhân ư? Ngài luận rằng: Hình người thì quá thô, tinh thần thì chí diệu, vì hình tùy theo thần, thì đâu thể cùng diệt hết. Tôi đáp rằng: Hình và Thần nương nhau. Người xưa dùng củi và lửa để thí dụ. Củi ít thì lửa yếu, củi hết thì lửa tắt. Tuy có sự kỳ diệu, nhưng đâu thể chỉ một mình nó mà lưu truyền được? Lại nói rằng: Tâm cảm nên thành đổ, sương rơi, cầu vồng xuyên qua mặt trời, sao Thái bạch phạm vào sao Mão, vì thuốc cấm khí, lạnh nóng liền theo; vậy như chí thành diệu cảm để thọ thân, lại sinh vào cõi bảy báu, thì vì sao chẳng được? Xin đáp rằng: Thành đổ sương rơi, cầu vồng vắt ngang mặt trời, sao Thái bạch phạm vào sao Mão đều chẳng phải là thí dụ về đời sau, chẳng phải là việc cần phải dẫn ở luận này. Còn như thấy nước lửa cấm kî mà mong sinh vào quê hương bảy báu, thì giống như thấy vàng nấu chảy ra rồi mong cầu nó tự có thể đúc thành đồ vật, rốt cuộc chẳng thể được; vậy việc sinh kia không thể được, cũng có thể biết. Luận lại nói: Hữu đế và vô đế, lời này hiển nhiên rất đúng; từ xưa những sự thiên biến vạn hóa, đang có bỗng chốc đều không. Ngay lúc thịnh có, há chẳng thường có sự thật về ắt không ư? Người ngu chẳng biết lý ấy, chỉ thấy lúc có mà thôi! Tôi đáp rằng: Như luận nói đang lúc thịnh có, đã có sự thật ắt không, thế thì vạn vật thường không, không và vật là một. Nay không và có chưa khác nhau mà hiền ngu đã phân biệt rồi, là vì sao? Xưa gọi là đạo thì ở nơi hình mà vô hình, nơi sự mà vô sự, lặng lẽ sâu xa, dưỡng trí an thần, đâu phải chỉ sợ chưa trừ ái dục và túc duyên? Chỉ thấy đến sự có (hiện hữu), há lại là lỗi ư? Lấy đây mà chê cười Tề Hầu thì giống như người mới đi được năm mươi bước mà cười người đi một trăm bước. Việc thuyền lướt qua khe, âm thầm biến diệt, kinh Phật dùng để nói đến nghóa hiện tại không dừng trụ. Nếu thật có thể thấu rõ được lý này, thì vật ngã thường rỗng không. Xin đáp rằng: Âm thầm biến diệt chẳng dừng trụ, há chẳng phải từ sống vào chết, từ có về không ư? Vì thế mới nói: Thân thể biến hóa mà tâm thần không suy tổn, hình hài thay đổi mà không sợ cái chết. Giả Sinh cũng nói rằng: “Hóa làm vật khác thì đâu có gì phải lo?” Đó là người đã đạt được sự biến hóa của sự sống chết vậy! Sao lại cứ khư khư lấy bỏ, lúc còn sống thì lo nghó đến cái chết, tâm còn bị vô lượng trói buộc mà chí cầu sinh thiên đường. Chúng tôi thường lấy làm lạ trước điều này! Lại luận rằng: Thần quang, linh biến và thọ vô lượng do sự thành tín sâu kín kỳ diệu, nên mới phát ra ánh sáng; nay chìm vào tà kiến, theo lý chắc chắn cách xa như trời đất. Xin đáp rằng: Nay cũng chẳng theo kẻ dối trá để cầu ánh sáng, chỉ theo người thành tín để cầu vậy! Xét giáo pháp của Đức Thích-ca, thì dùng phương tiện khéo léo để cứu vật, nếu có ứng nghiệm như thế, vì sao không hiện sự linh biến ấy để cảnh tỉnh kẻ tà kiến? Như thế sao không tiếc nói vài chục, trăm, ngàn, vạn lời mà chỉ tiếc phát thần quang trong giây lát; chỉ luận bàn suông, rốt cuộc vẫn mê mờ nơi chân trí. Cho nên suốt đời lao nhọc mà chẳng biết chốn trở về, há chẳng đáng thương xót ư? Ngài lại nói: Bên trong ôm lòng chí thành kính ngưỡng, nên lễ bái sám hối tội lỗi. Đạt được vô thường, nên lòng không bỏn xẻn, bố thí cả vợ con, thì đâu có gì mong cầu nữa đâu? Xin trả lời rằng: Lập nhiều phương tiện khéo léo để tạo nên việc, chẳng bằng trừ tham dục mà dứt tranh giành; tuân theo giới để sám hối rửa sạch tội, chẳng bằng bỏ vinh hoa mà cầu sự thuần phác. Huống gì dùng sự ưa chuộng dụ dẫn để cầu lợi, quên đi thiên tánh để cầu danh mà cho rằng chẳng mong cầu, thật tôi chẳng thể tin. Lại nói rằng: Nê-hoàn lấy không vui làm vui, Pháp thân lấy không có thân mà làm thân, nếu thật có thể tuân phụng thì lòng đam mê tiêu trừ, đạt được lợi ích nơi không lợi ích. Xin đáp rằng: Nê-hoàn lấy sự lìa khổ làm vui, lấy việc thọ thiện làm thân. Vì thế mới khiến cho những người sùng phụng không thể tự dứt ra được. Nếu thật trở về nơi không lợi ích, thì người siêng năng đâu đạt được gì, mà nói là đạt được ở nơi không lợi ích? Đây là minh chứng cho việc hình và thần đều diệt; sợ rằng đó chẳng phải là lời mà bộ luận hay nên nói đến. Ngài lại nói: Người muốn đạo ấy, có thể nói là có dục nơi vô dục. Đến như dùng các việc thô gần để dẫn dắt, nói có ảnh hưởng chân thật; cũng giống như Vu Công vì lòng nhân mà sống còn được phong chức; Nghiêm Thị hiếu sát nên bị tru diệt; gắng sức Tu-diệu hạnh để cầu sinh thiên đường, giữ kỹ năm giới để xa lìa địa ngục. Tuy có dục nơi đáng dục, mà thật đã bước trên con đường “ngày càng giảm”. Cũng như đi về phía Tây đến đất Dónh, lo gì chẳng đến! Tôi xin giải rằng: Nói dùng các việc thô gần để dẫn dắt khai phát, vậy nên dùng báo ứng dụ như bóng và vang, chẳng phải cũng hay hơn chăng? Nhưng nhân của bóng và vang ắt là hình và tiếng. Hình bình thường thì đâu thể có được cái bóng tám vạn do tuần? Nếu chỗ trệ ngại là có dục nơi vô dục, thì còn thường trệ ngại vào chỗ dục. Tai mắt có nhiệm vụ riêng, công và nghệ cũng khác nghiệp. Công và thương đồng tồn tại, hoài nghi và tin thành chẳng cùng chung. Vì thế vàng đá được hòa hợp mà Thái sơn chẳng thể tự hiển bày sự cao lớn; chim hồng hộc vừa tụ tập mà mùa thu mờ mịt chẳng thể truyền ý chỉ; như thế mà muốn lấy có dục để thành vô dục, hy vọng việc ngày càng giảm, thì tuy nói đi về Tây mà cách đất Dónh càng xa, như thế thì làm sao? Lại nói: Nếu thân chết thần diệt là chân tánh của vạn vật, thì chỉ cần cùng với Chu Khổng ra sức giáo hóa, vì sao lại dùng thuyết bất diệt để dối lừa, dùng Phật lý để gạt gẫm, khiến cho người cạo tóc, đốt da, cắt tình chồng vợ, làm tổn thương đến cái đẹp của Tận tánh? Xin đáp rằng: Trung Hoa và Di Dịch tự khác biệt nhau. Vì sao? Vì người Trung Quốc bẩm tánh trong sạch hòa hiếu, gồm đủ nhân nghóa. Vì thế Chu Khổng dạy về giáo Tánh tập (tu tánh). Người ngoại quốc bẩm tánh ngang ngược, tham dục, hung dữ, nên Thích Thị mới nghiêm khắc đề ra năm giới. Đó là điều mà thư ngài nói: “Bậc Thánh không có thường tâm, chỉ theo tâm tánh của vật”. Trừng ác thì không đâu khổ bằng địa ngục, khuyến thiện không gì tốt hơn là thiên đường. Muốn nhổ tận cái gốc của sự tàn hại, thì chẳng phải là lời Trung dung được. Chu Khổng chẳng phải như thế, chỉ thuận theo thiên tánh mà trừ bỏ đi những cái thái quá. Dâm, trộm thì nêu ở Ngũ hình, rượu chè thì nói ở Chu cáo. Đi săn vào mùa xuân thì không nên vây trọn, thấy sống thì không nỡ giết. Dùng ngũ phạm, không vây trọn (săn chỉ vây ba mặt), bắt cá mà chẳng giăng lưới; vì thế lòng nhân ái ban cùng khắp, ân đức nhuần thấm đến loài chim cá. Trong Gia Lễ (một trong năm lễ thời xưa: Cát, Hung, Quân, Tân và Gia) có mâm lễ vật, người già được ăn thịt, mùa xuân cầy cấy, mùa thu thâu hoạch, nuôi tằm dệt vải đúng thời, tam linh (trời, đất, người) cảm cách, trăm thần đồng hưởng. Việc làm ấy, há chẳng rộng lớn ư? Đặt ra sự ban thưởng là nghiêm phạt kẻ nghi pháp; thuật lại lời nói của Bồ Tể để làm gốc cho việc khuyến hóa; diễn lại lời đáp của Quân Hạo để làm rõ việc ứng nghiệm của đời sau; họ lại mặc lễ phục tốt đẹp, rồi trợn mắt nhướng mày mà khoe khoang thuyết này, như thế thì tâm của họ cũng ở nơi hung hãn vậy. Luận lại nói: Những người như Kỳ Vức, Di-đà-mật-thi-lợi … về thần lý và phẩm hạnh chẳng sau Lâm Tỳ-kheo. Vậy Túc hạ đã từng nói người tầm thường chẳng tính toán được việc gần. Vì sao nay lại biết được việc thắng bại trước một trăm năm, ngoài ngàn dặm? Như Tỳ-kheo Lâm có hình tướng Tăng só mà rất thông minh, thấu suốt được chân ngụy. Cho nên chẳng chịu kî úy Kinh điển, giúp đỡ Thầy tổ tô vẽ cho ngụy thuyết. Điều đó khiến tôi kính phục. Tôn Hưng Công nói Trúc Pháp Hộ đạt sâu, Vu Pháp Lan chuyên và rộng, vậy Túc hạ muốn so với ai của Trung Thổ đây? Cho đến Sở Anh lập chùa Tu Nhân, Sạ Dung cấp thức ăn cho người đi đường đói khát; vậy những người này há lại có phẩm chất trong trắng chân chánh ư? Xưa ở Đông Ấp có Sa-môn Đạo Hàm từ Ngô Trung đến, thấy rõ được sự khuyến dụ, có tâm rất thành khẩn, bèn ở lại ba đêm cùng nhau bàn về chuyện luyện thân thể làm trong sạch tinh thần và sự ứng nghiệm về tội phước khởi diệt; tất cả đều có hệ thống. Tôi khoanh tay ngồi nghe lời chân thật đến sáng quên cả ngủ nghỉ. Sau đó, tôi cho rằng sở dó kẻ só có thể lập thân, dương danh, thủ tín, hành đạo được thật là nhờ vào lời dạy của Chu Khổng. Tử Lộ nói rằng đã nghe được mà chưa thể làm được, chỉ sợ có nhiều người nghe đến việc làm của ta vậy. Như thế vì sao lại bỏ đây mà mong cầu nơi kia? Vả lại xét phép tắc hợp tình lập văn, thì biết chuyện đời sau là xa vời, rốt cuộc suốt đời buồn bã mãi không thôi, mà hiểu thọ thân hình là khó được lại. Đã nói Thánh nhân là thầy của ta, vậy Chu Khổng há lại lừa dối ta sao? Nhân Túc hạ có lòng chí thiết, nên tôi bày tỏ đầu đuôi; mong rằng bậc kỳ cựu đại trí chỉ dạy người không mỏi mệt, không thể im lặng về việc này. Trước tôi đã sai người lấy. Minh Phật Luận, đợi luận đến; mong rằng có thể làm sáng tỏ tâm mình. Hà Thừa Thiên Bạch. Đáp lời vấn nạn của Hà Hành Dương, giải thích Bạch Hắc Luận. Kính xem bài luận ngài gởi đến, thì biết ngài đoạn dứt Phật giáo mà dốc chí vào nghiệp Nho. Ý nghóa bài luận đã chặt chẽ mà văn tài biện bác thật xác thực, khéo có thể dùng để cảnh sách người đời. Thật là bài văn hay của Trung Thổ. Xét ý của Túc hạ, thì chẳng phải cho người chế định Phật Pháp chẳng phải Thánh, chỉ cho Pháp này là quyền chứ chẳng phải thật. Nhưng chưa thẩm định xong thì lấy gì để biết đó là không thật? Nay cùng với ngài đoán định, như mới nhìn thấy sự mà đã vội tính toán thì được mất đã qua một nửa rồi! Sự linh hóa vượt ra ngoài huyền cực, nhưng nguyên do thì kết chặt nơi cõi u minh; chưa từng có thần nhân chỉ bày dạy bảo, chỉ tin vào khuyết văn của sử sách còn lại sau khi đã bị thiêu đốt, mà vội muốn phế bỏ thần hóa để trợ giúp cho tâm thống khổ này. Phàm bậc Thánh đạt cùng lý, thấu Tận tánh, cho đến đối việc cai trị muôn dân, nếu có người chết vì tai họa, giống như mình đẩy họ vào thành trì. Nay ngài vội nói rằng dùng thuyết bất diệt để lừa dối, dùng chuyện thành Phật để gạt gẫm khiến cho người cạo đầu, đắp y vàng, thiêu thân đốt tay, chẳng theo Thiên mệnh để dưỡng nuôi cái đạo cha mẹ, vợ chồng, cha con! Phàm từ khi có Phật Pháp đến nay, từ sông Sa trở về Tây gồm ba mươi sáu nước, cuối cùng đến Trung Quốc, người cắt đứt sự nối dõi ấy, có thể kể đến ức triệu. Đông Di, Tây Khương hoặc có thể còn được, còn bậc Thánh và các người như Do Dư, Nhật Thiền, Đắc Lai … muốn sống mà chẳng được sống cũng rất nhiều vậy. Ví như Phật Pháp không thật, thì sự thãm khốc của việc đẩy người vào thành trì đâu thể nói hết? Và sự quyền biến của kinh hợp với đạo gì, mà nói: Muốn dùng pháp cải lỗi quá đáng để trị những kẻ ngang ngược hung bạo? Phàm những kẻ hung bạo, dùng ba chương hình pháp để trói buộc, khen thưởng, trị phạt, chúng còn chẳng tin sợ, huống gì dùng những lời Tức sắc bản vô, Niết- bàn, Pháp thân, mười hai nhân duyên, vi trần kiếp số để trị? Người tin nhận được lời giáo huấn này đều là những người mà Túc hạ nói: “Bẩm chất trong sạch, hòa ái, gồm đủ nhân nghóa” vậy. Nhờ vào sự trong sa- ïch hòa ái để thông suốt lời vi diệu, gắng giữ điều nghóa để tu tập diệu hạnh, nên họ có thể làm trong lặng sự chiếu soi, thấy rõ được các vật. Vật và chiếu đều không mà đạt đến đạo. Đó là các điều mà kinh Phật đều có ghi, Túc hạ đã tin vậy. Đến như các bậc đã đạt được Thần, đức độ cao quý gần đây như tám Hiền mà Tôn Hưng Công đã khen, năm Triết mà Chi Đạo Lâm đã ca ngợi, đều là những bậc được người đương thời tôn quý. Cho nên hai công mới viết lời khen, vì sao lại là vọng ngữ? Tôn ca ngợi sự uyên đạt của Trúc Pháp Hộ, sự thuần bác của Vu Pháp Lan. Tôi chẳng quan hệ đến kẻ só thế tục nên chẳng biết sánh họ với ai? Nhưng đệ tử của Pháp Lan là Đạo Thúy, chưa bằng thầy của mình. Tôn bàn rằng: “Bấy giờ như so với hàng cao quý thì có Dửu Văn Bính”. Như Thế Hộ và Lan phải vượt trên Văn Bính; nhưng tôi thì hoàn toàn không biết Tỳ-kheo Lâm, lại bất tất phải luận theo thế tục. Nếu Túc hạ cho rằng người đồng với Văn Bính, thì chắc chắn sẽ không thua Đạo Thúy, nhưng còn kém Hộ và Lan. Vậy lời luận bàn trước chưa phải là sai lầm; thật đúng là có Tăng tướng, thông minh, hiểu sâu được lẽ chân ngụy, sao nhất định chẳng phải là trời Đế thích hóa thân? Vì thế mà dùng thuyết thành Phật để khích lệ ư? Cho nên biết rằng Bạch Hắc Luận chưa thể cho là thành thật được. Ngài gởi đến nêu điều nghi rằng: Nếu thật có báo ứng đời sau, vì sao Chu Khổng chẳng nói một lời? Đây là mối nghi thường hằng của người thiên kiến, đúng là điều chúng ta nên cùng luận bàn. Phàm Thánh Thần sâu kín phát động, trước có cảm rồi sau mới ứng, chẳng phải xướng lên trước khi có vạn vật. Vào cuối đời Thương Chu, nhân dân rơi vào cảnh lầm than, nghịch tặc giết hại hoành hành khắp nơi. Nêu lên thế tình để cảm bậc Thánh chính là loạn lạc. Cho nên mới lập 6 kinh để ứng với trị loạn mà thôi, do vậy mà không có lời Phật. Lưu Hướng khen ngợi chín châu Vũ Cống, đó là thuật lại lời của Sơn Hải Kinh đã ghi: “Người dân nước Thân Độc gần gũi người và thương người”. Quách Phác cho rằng đó là Thiên Trúc, nơi phát khởi của Phù đồ (Phật). Tuy nơi ấy là vùng đất của Di, nhưng có vạn cõi nước như sao trên bầu trời, rốt cuộc biết nước nào là Trung Hoa đây? Chỉ suy xét chỗ cảm về tình thân ái đó mà Phù đồ ứng hóa đến vậy. Chỗ thô của cõi kia là có việc loạn ngược, vua tôi bất trị. Điều tinh cõi này là tùy thời giữ đạo, Phật sự cũng tồn tại. Tuy có thể thọ nhận pháp tánh nơi y lạc, sùng phụng chân tế ở Chu Tứ, nhưng Sử Dật cho rằng chẳng phải là đạo trị nước nên chẳng ghi; Bốc Thương cho rằng trái với nho thuật nên chẳng chép. Dẫu có tồn tại trong những sách vở ngoài kho tàng thì cũng bị Tần Thủy Hoàng đốt sạch. Việc Chu Khổng không nói đến, do đó chẳng cần phải xét nữa. Phàm đạo hư huyền, việc linh tiên sách vở thế gian đều nói đến, nhưng lời đạo của Phu Tử, xa thấy ở thiên Trang Chu; yến tiệc của Diêu Trì lại tìm được từ Cấp Trủng. Thế thì học theo Ngũ kinh chưa thể thấu rõ hết những sự biến hóa kỳ diệu ngoài cõi trời này. Túc hạ gạn hỏi: Nếu “tức vật thường không”, không và vật là một, khi không và vật chưa khác, vì sao có hiền ngu sai biệt? Phàm Kinh Phật nói: Tức sắc là không, lại chẳng khác không. Không, chẳng phải cho rằng không có gì, mà có tức là không vậy. Có thì hiền ngu sai biệt, không thì vạn sự sai biệt đều không. Phàm sắc chẳng tự là sắc, nên tuy sắc mà không, do duyên hợp mà có. Vốn tự chẳng có, nhu huyễn tạo ra, như cảnh trong mộng. Tuy có mà chẳng có. Tương lai chưa đến, quá khứ đã diệt, hiện tại chẳng dừng trụ. Có chẳng nhất định là có. Những nghóa trên đây đều là lý cùng tột của bậc Hiền thánh, như dùng lời mà bài bác thì thật khó có thể thấu rõ được! Nhưng dùng đó để quán xét vật và ngã thì thật biết được nó rất rõ ràng. Cho nên sáng tỏ thì tăng thêm sự tẩy rửa trong sạch tâm mình. Còn Túc hạ lấy gì để có thể an định đây? Lại nói: Hình và thần nương nhau, người xưa dùng củi và lửa để dụ, củi ít thì lửa yếu, củi hết thì lửa tắt, tuy thần có diệu nhưng đâu thể tồn tại riêng biệt. Phàm lửa là do củi sinh ra, mà thần thì chẳng phải do thần tạo; ý có tinh thô cơ cảm mà được hình thể tùy theo đó. Tinh thần đạt đến cực tấc thì vượt ngoài hình thể mà tồn tại độc lập, không có hình mà thần vẫn tồn tại, đó chính là Pháp thân thường trụ. Vì thế đầu tiên là phàm phu, cuối cùng là Như Lai; tuy một đời vẫn còn thô, nhưng nếu biết hướng thượng thì vạn kiếp vẫn không mất, nếu tu tập sẽ trở nên trong sạch. Nhền nhện có con mà tò vò mang lấy, huống gì tại Thần minh, được che dưới lọng Bảo tích, được thăng lên tòa Đăng Vương, sao lại không có hy vọng? Lại nghi Đức Thích-ca dùng phương tiện khéo léo cứu vật, sao chẳng tiếc nói hàng chục trăm vạn lời mà lại tiếc hiện thần quang trong giây lát để khai ngộ cho kẻ tà kiến? Tuy nói phương tiện khéo léo, nhưng cảm ứng, sáng tối mỗi mỗi đều y cứ vào tội phước. Xưa Đức Phật vì đại chúng mà phóng ánh sáng, mọi người đều đã tích lũy tâm chí thành tốt đẹp, nên mới có được thần thông du hý. Nếu bấy giờ nói xong rồi viết chép, nhất định kẻ ngã mạn sẽ nhìn thấy; ánh quang minh phát ra là do quán chiếu, tà kiến không do đâu mà phát sinh. Nay xem kinh mà không cải lỗi thì tà kiến vẫn hiện hữu như trước như thế lại có ích lợi gì? Nếu người hiền thành tín riêng họ sáng tỏ với thần minh chiếu soi, thì Túc hạ làm sao biết được mà nói tức là vọng thuyết. Các ngôi sao chẳng hiện vào đêm trăng sáng vậy. Xét niên đại thì Đức Phật sinh vào đêm phóng ánh sáng. Quản Ấu An ban đêm bị gió thổi trôi dạt trên biển, bạn đồng hành đều chết chìm, trong đêm tối An thấy luồng ánh sáng chiếu xuống đảo, nên chỉ một mình An được cứu sống. Đức Phật không yêu ghét, chỉ người thiện thì ứng mà hiện. Như Vương Tường, Quách Cự không thể nói ra mà họ cũng thấy ánh sáng thật phù hợp. Túc hạ chưa thấy, mà liền nói không có Phật sao? Vả lại sự trình bày của Chu Khổng như so với Phật là rộng lớn, nhưng đó là sự đầy đủ của bậc quân vương trị nước vậy; chỉ có tinh thần chẳng diệt âm thầm vận chuyển mà thôi, trong một chớp mắt một hơi thở của cuộc đời có đầy đủ tám khổ. Tuy khắc chí với nho nghiệp để an định trong giây lát, nhưng chưa bao lâu đã diệt mất. Các nạn Tam Giám cha con nghi ngờ nhau, anh em giết hại nhau. Bảy mươi hai người đều được tôn lên bàn thờ, đưa vào tông miếu, mà được sống đến tuổi năm mươi chẳng được vài người. Trong đó Nhan thì yểu mạng, Nhiễm thì bệnh tật, Do bị lóc thịt ướp muối, Tứ bị cắt râu, Khuông bị khổ ở đất Trần, đâu thể kể hết? Chịu đói khổ để hoằng đạo ở các nước loạn lạc, rốt cuộc lại cứu được những gì? Từ Phật Pháp mà nhìn, chỉ thấy sự lo buồn như thế há chẳng phải do túc duyên của chúng sinh thế gian dẫn đến ư? Nếu thật lý đã gồm đủ, thì ở đây còn chưa được nói là sâu rộng. Nếu bên ngoài theo Lễ nhạc, bên trong tu vô sinh, lắng trong tinh thần nơi cảnh Nê-hoàn, lấy ức kiếp làm năm hiện tại thì há chẳng thật là rộng lớn lắm ư? Sự chẳng truyền về sau, lý chưa thể biết. Xin chớ y cứ vào các dấu vết thô thiển mà nói rằng: “Chu Khổng chẳng phải như thế”. Người đời đều cho Phật là vọng ngữ, kinh Sơn Hải nói rằng có rất nhiều người chết rồi sống lại. Như núi Côn Lôn, đồng Quảng Đô, gò Hiên Viên, nước Bất Tử, thời tiết chẳng lạnh chẳng nóng, trứng chim phượng là thức ăn, cam lồ là thức uống, nghỉ ngơi dưới cây Can kỳ, tắm mát trong nước suối Chu, con người ở đây sống đến vài nghìn năm, rồi hóa thành màu vàng mà vào Vũ Uyên, các chuyện như Thân Sinh, Bá Hữu thì Tả Khâu Minh nói đến cũng chẳng ít. Như thế có thể suy xét cái thô ở chốn này mà tin được cái tinh diệu ở chốn kia. Xưa nhờ có đạo, nghe được Phật pháp mà lễ kính, người đó nhất định chẳng khác gì tạo ra cái chết ở Bồ Thành, kẻ só có thể biết được vậy, đó là do chỗ nghe hiểu chưa cao ư? Chỗ nghe biết của Túc hạ đã cao, thì ngay đây có thể trở thành tốt đẹp. Con người là tinh thần vật, chỉ cần làm cho trở về tin được cái linh minh cùng cực ấy, thô nhận sự khuyên bảo, dẫu có cạn mỏng, yếu kém cũng đủ để cảm được; có cảm thì càng thăng cao, như thế há chẳng giải là kế hay cho việc phải thoát hoặc bất diệt ư? Sự thật của việc thần bất diệt, khi xưa như Phật đã nói, mà nay lại quay lưng với thần, hủy hoại tâm tự nghịch với cõi u minh, thì đâu biết được sự khổ sở của đời này chẳng phải do nhân đời trước sao? Vội dùng sự thấy biết của riêng mình để khinh ngạo lời chỉ dạy của Tôn thần, e rằng mê lầm mà tự để lại sự trở ngại vậy. Kinh Phật nói khi xưa đức Phật Thích-ca Văn làm một Tỳ-kheo tu Tiểu thừa hủy báng Đại thừa, vì thế chịu khổ ở địa ngục vô số kiếp, hà huống là kẻ hoàn toàn chẳng tin? Như thế, vì sao lại đoán định kinh này là hư vọng? Điều Túc hạ cật vấn trong lá thư trước có nói rằng: “Nhân nơi chương cú của Lâm Đạo Nhân”, ý này tôi đã tạm hiểu, nhưng chẳng thể một vài lời mà đáp xong. Nay Luận Minh Phật đã soạn xong, trong đó trình bày thông suốt mọi việc. Xin được gửi đến Túc hạ. Tôi gắng sức khéo léo tham tầm, trình bày đầy đủ điều phải trái trong đó. Tôi già yếu sắp qua đời viết thư này tiếp theo luận ấy. Mong rằng luận này đến thì liền nhờ đó mà tìm lời giải đáp. Vì tất cả đều đầy đủ. Tông Bính bạch. Phúc đáp thư của Tông Cư Só. Xin đáp lại thư ngài rằng: Khi tôi đọc luận này xong, thấy trong đó bày trận như Hạng Tịch, đủ để làm khốn khó cho Hán Cao Tổ, hà huống là kẻ só hèn kém này? Nào là chứng minh thí dụ chặt chẽ rõ ràng, văn từ uyên bác và phong phú. Ngài thật muốn quảng bá lợi ích Phật Pháp nhuầm thấm đến phàm dân, thấu rõ được dụng tâm của quân tử vậy. Túc hạ muốn ảnh hưởng để thần cách giáo ấy, cho nên tôi phải im lặng trước việc giúp cho người thành tựu điều tốt đẹp. Nhưng tôi thường cho rằng việc của nước ngoài chẳng phải là việc làm của người Trung Hoa, vì thế mới có lời nói khi trước vậy. Thật như nayngài nói trong ngoài đều đồng, thì tôi đã kém cỏi rồi. Xin thứ lỗi vì mình không sáng suốt. Tuy nhiên vẫn có một vài điều nghi, phàm người đạt rõ được tánh của trời đất thì chẳng mê hoặc nơi các việc quái dị, người thấu được con đường thạnh suy thì chẳng lao nhọc tâm mình đối với các việc ngoài lý. Ví như bộ luận hay kia chẳng do nơi phương tiện khéo léo, dốc lòng dạy dỗ mà đều do tình cảm phát ra, thì há chẳng phải là điều tệ hại của người đã thông đạt sao? Tôi chưa có duyên gặp Túc hạ để bày tỏ, xin được dùng thư này để thay thế. Hà Thừa Thiên bạch.  HOẰNG MINH TẬP <卷>QUYỂN 4 5.ĐẠT TÁNH LUẬN (Hà Thừa Thiên soạn) Phàm lưỡng nghi đã lập, bậc Đế Vương tham cứu, thì trong vũ trụ không có gì tôn quý hơn. Trời thì có phân âm dương, đất thì có dụng cứng mềm, người thì có lập nhân nghóa. Người mà không có trời đất thì chẳng thể sinh, trời đất mà không có người thì chẳng linh biến. Tam tài đồng thể nương nhau mà hình thành. Cho nên bẩm thừa khí chất trong sáng hòa mục, thần minh thông đạt. Tánh thì suốt cổ kim, trí thì ctùm vạn vật. Khéo léo tư duy đến tận cùng chỗ sâu kín, nguyện tạo tác đồng như tạo hóa, trở về đức nhân, ban cho năng lực. Vì thế bậc Quân Vương dưỡng dục lê dân, giúp trời hoằng đức. Trời trăng điều hòa, bốn linh phò giúp, gió lành trợ luật, đuốc ngọc chiếu soi; chín loại hạt, thịt cá, rau quả, mặn chua, trăm vị, gồm đủ món ngon vật lạ. Nhà cửa, thuyền xe, bạc vàng khắp đất; tơ lụa đen vàng cung cấp y phục. Văn thì dùng lễ độ, vui thì dùng bát âm, giúp vật lợi sinh lập bày đầy đủ. Phàm dân sử dụng cần kiệm thì dễ đủ, dễ đủ thì sức có dư, sức có dư thì ý tình thư thái. Như thế thì tâm an lạc phát sinh nơi đây. Còn như sự đơn giản thì chẳng phiền nhiễu, chẳng phiền nhiễu thì thần minh có linh biến, thần minh linh biến thì suy xét thấu đáo, từ đó mà việc cứu độ thành tựu. Vì thế trời đất dùng cần kiệm thuần phác dạy dân, càn khôn dùng giản dị để chỉ bày cho người. Cho nên ân cần chỉ dạy chí thành như thế, đâu được đồng với các loài bò, bay, cựa, động làm chúng sinh. Chúng sinh, khi giữ thì đúng thời, khi dùng thì hợp đạo; như đốt lửa thì đợi gió mạnh, săn bắn đánh bắt thì đợi lang sói rái cá, vì thế mà thuận thiên thời. Như Đại phu thì chẳng bắt thú con, thứ dân thì chẳng giăng lưới, hoa lau bên đường ca hát, dùng đức nhân giáo hóa; vì thế thương nhân dụng; nhà bếp chẳng gần, năm phạm là che chở; vua Thang chúc nguyện thả cầm thú, Khổng Tử bắt cá mà chẳng giăng lưới, vì thế làm sáng lòng nhân. Đến như đã sinh ắt có tử, hình tan thì thần tán, giống như mùa xuân cây cối tốt tươi, mùa thu thì cây khô lá rụng, bốn mùa thay nhau, đâu có gì để lại thọ hình? Kinh Thi nói: “Quân tử vui mừng, cầu phước chẳng ngừng, nói hoằng đạo tại nơi mình; Tam hậu tại trời, nói tinh linh diệt mất”. Như trong lòng tham dục, bên ngoài sợ quyền giáo, suy nghó sâu xa về việc lai sinh, bố thí mà cầu báo đáp, thì khi xưa thầy tôi chưa nói; tôi lại chẳng thông mẫn, không biết được, nên xin chỉ giáo. Giải thích Đạt Tánh Luận của Hà Hành Dương. Nhan Diên Chi. Trước, tôi đã nhận được luận này, thật là thấy sâu suy rộng, tôn sùng nhân đạo mà gạt bỏ các loại chúng sinh khác. Vật thì có sáng tỏ, sự thì chẳng trái nghóa, chỉ dùng tình mà giúp cho giáo. Đủ khiến cho các môn khác quét trừ quy tắc, hà huống do cầu được đồng, há lại quên mất chỗ nương gá ư? Chỉ sợ cầm sắt riêng biệt mà mất đi hòa điệu, cho nên mới lược trình bày vài điều, để giải thích trọn về hậu báo. Túc hạ nói: Lưỡng nghi đồng thể cùng thành Tam tài, thì đó ắt là lời hợp đức, chứ chẳng phải tên gọi gặp người. Nhưng tổng quát các loài đều gọi chung là chúng sinh, cũng là tên của hàm thức, vậy đâu phải là thụy hiệu của bậc thượng triết. Thế thì Luận Tam tài không lấy dân đen, nói chúng sinh cũng đâu gồm bậc Thánh trí. Tuy tình tại nơi ta thì ta chẳng sợ loạn các loài. Nếu như hai việc là phương và giáo đều nêu lên, như đạt được nghóa sẽ bỏ nơi kia, lìa được văn sẽ tham cứu nơi này. Cùng thật thì có thể khiến nghịch cung tự hòa, thế gãy khiến tự hợp, sao lại cứ khư khư chấp luật để phá lữ? Hơn nữa Đại Đức nói: Sinh có vạn chỗ đồng, đồng đã có vạn, thì đâu được nói sinh có sai khác, sinh chẳng khác thì nên hợp làm chúng. Nhưng trong các phẩm loại lại có ngu trí sai biệt: như con người sử dụng vật để nuôi dưỡng, con vật thì bị sử dụng để nuôi dưỡng người. Tuy khởi đầu, nhưng vì thuận nên rốt cuộc bị tàn diệt, nguyên nhân vừa khởi, lòng dục chẳng ngăn, tàn hại chúng sinh phiền thãm, lý trời diệt tận. Hoàng đế xót thương như thế mà chẳng thể đạt lấy chỗ ngăn trệ, vì thế mới lập lời dạy đợi vật, đặt ra kinh Thuận Thời, để khai lòng nhân, dưỡng cái thức, và dần dần ngăn dứt sự thái quá. Người lấy đạo làm tâm chẳng đồng với các kẻ này, mà ngăn dứt; lại còn biết được phép tắc lớn sinh tử đồng như tươi tốt và khô rụng. So sánh với các nơi nếu có sự thành thật thì cũng nên như thế. Nhưng sự còn mất của thần lý giả như khác với tươi khô, biến diệt, theo như đồng cỏ cây ắt sẽ bị cháy sạch, mà nói là Tam hậu thăng hà, tinh linh tận trời? Nếu tinh linh còn thì nhất định là khác với cây cỏ, thế thì luận thuyết về thọ hình thể không lẽ lại nhờ vào đó để nói, rằng Tam hậu tan nát thì thiện báo sẽ lên trời ư? Muốn phá bỏ thuyết hậu sinh mà lại lập chuyện thăng hà, cũng như muốn phế mà ngược lại là lập, chắc chắn biết chẳng phải ra sức trừ bỏ. Nếu chỉ có tinh linh, không có thể trạng, chưa biết khi sinh lên trời sẽ nương gá vào đâu mà lập? Tôi sợ hãi sự đoạn diệt nên mới mong cầu nương tựa, nhưng tới lui suy nghó tìm cầu mà chưa được an định. Phàm trong vòng khí số thì đều có cảm ứng, đạo thí báo thì tất nhiên phù hợp. Nói tất nhiên phù hợp thì đâu nghi ngờ gì lòng có mong cầu. Cho nên bỏ ân huệ thì không cầu, giữ công đức thì có mong. Mong giữ chưa được mà bỏ ân huệ, cho đến người đã có hiền ngu thì ý có công, tư chẳng thể thấy vật, hoặc mong báo, do đó cho rằng lập đức đều rất cần thiết. Hơn nữa kinh thế hằng luận rằng: Bố thí quý ở chỗ chẳng ghi nhớ, só tử ghi nhớ chánh nghóa, còn ban ân huệ thì chẳng có; huống gì nghe được chỉ yếu của đạo, chẳng được dối tâm mà động, ắt ôm lòng dục mà ngoài sợ quyền giáo ư? Đã chẳng dẫn đến cõi trên, mà thường đuổi khỏi cõi dưới, tuy có nhiều lời cười chê, chỉ trích, nhưng cũng có những lời trung thật chẳng thể đổi thay. Túc hạ thủ thành vững chắc khó có thể gởi thư, còn tôi thì lo lắng buồn rầu, về tình lý không thể chối từ, nên mới khen chê bày tỏ, muốn bày tỏ tâm ý, hầu đến giải thích nhưng lo sợ không được gặp! Nhan Diên Chi bạch. Đáp thơ của Nhan Diên Chi. Kính xem đọc những lời hay đẹp và nghiên cứu yếu chỉ sâu xa. Thấy Túc hạ phân biệt Tam tài, nghiệm xét đến chỗ tinh túy, tuyên dương đạo tâm, khen thưởng người bố thí. Xuyên suốt tối sáng, lòng chân thành đến muôn vật. Thực hành pháp ấy nơi mình thì quý, diễn bày nó nơi giáo thì rộng lớn, hầu như chưa được nghe đến. Nhưng suy nghó lại nguyên do của lời dạy quý báu, thì muốn khiến người xem thấy Bắc đẩu, mà trái lại mê lầm đường đi, hoặc lờ mờ chưa hiểu rõ, nên phải trình thêm những điều còn nghi ngờ trong lòng. Túc hạ nói cộng thành Tam tài là lời hợp đức, bậc thượng triết cũng có thể làm như thế. Phàm đạo làm người thì phải giữ nhân nghóa, lòng trắc ẩn là biểu thị của đức nhân, xấu hổ với điều ác là đầu mối của lòng nghóa. Cây cối ở Ngưu Sơn bị chặt sạch bởi tánh bén của búa đao, tâm đạm bạc chìm đắm nơi sự suy nghó lợi hại. Thành thật ngay thẳng thấm nhuần mầm chồi, giúp ích cho thiện tâm. Như thế mới tồn tại, mà không tính được, chẳng lỗi với cho. Thư ngài lại nói: Bàn về Tam tài, không lấy dân đen; luận về chúng sinh cũng đâu gồm cả Thánh trí. Đã thọ nhận sự chỉ dạy mà còn chưa biết hai đường, thì nên lấy gì mà phán xét. Như Y Doãn, Nhan Hồi kẻ dưới nương gá; Công Tôn Kiều, Lý Trác há có bậc trên cậy nhờ, trông mong chẳng mỏi mệt. Vì trừ bỏ chỗ chưa biết nên hai việc gồm nêu, cung hòa thế hợp, há chẳng cùng thiện sao? Thư lại nói: Đại Đức ghi: Chúng sinh có vạn chỗ đồng, đồng đã có vạn, há chúng sinh lại có khác? Chẳng phải cho là không đúng, nhưng nhân sinh tuy đều gồm đủ đức lớn, mà chẳng thể cho họ là chúng sinh. Thí như Thánh nhân tuy đồng bẩm thọ năm thường, nhưng chẳng thể cho họ là đồng chúng sinh. Như vậy đâu thể vin theo việc nhân sinh chẳng khác thì nhất định đồng là chúng sinh. Thư lại ghi: Con người sử dụng sinh vật để dưỡng dục, sinh vật bị người sử dụng để dưỡng mình; phán định như thế thật là hẹp lậu. Đến như tình dục chẳng trừ, hại sinh thãm vật, những việc gọi là quá đáng, Thánh nhân đều đã dứt trừ. Lại nói: “Người lấy đạo làm tâm thì chẳng đồng như thế mà lại ngăn dứt”. Xin hỏi nếu chẳng ngăn dứt thì chỉ chính mình chẳng sát sinh ư, hay khiến người thọ giác đều đồng? Nếu chính mình chẳng sát sinh mà nhận đủ nơi chợ búa, cho nên mới nói xa cách nhà bếp. Ýù ắt muốn đổ tội cho các hộ dân! Tôi thấy bộ luận này không thể lập được. Thư lại nói: Nếu đồng cỏ cây thì sẽ cháy hết, tinh linh ở trên trời nương gá vào đâu để thành? Xin đáp: Phàm thần phách chập chờn, du hồn biến hóa, khởi tâm xót thương cũng đâu có gì chẳng phải? Trọng Do chịu khuất khi biết chết, Tứ cũng bị mất nơi lời hỏi, mà chẳng trở lại thọ hình. Trong thư trước nói về chỗ nương gá, xin phụ nêu lời đáp của Phu Tử và đạo thí báo thì phù hợp tất nhiên. Nên cho rằng Vu thị nhà cao là do phước tích thiện, Bác Dương chẳng bị dẹp là do lộc công hầu, đâu liên quan gì đến đời sau? Thư lại nói: Kinh truyện thường nói: “Người bố thí nên quên, kẻ só chỉ ghi nhớ đạo nghóa, ban ân huệ mà chẳng có”. Lời này thật hay thay! Như vì niềm vui nhỏ của sự báo đáp để cầu được ban ân huệ đó là việc chính yếu của người thuyết, vui với sự báo đáp mà ban ân huệ là việc thường tình ở đời vậy. Nghi ngờ kinh là phạm tội nhiều kiếp; siêng năng bố thí bồi đắp cho sự báo đáp, chẳng giống như chúng ta vì Đạo vậy. Cho nên mới buồn bã. Biết rằng muốn dẫn đến cõi trên, (2 3) cũng là điều chẳng đáng tiếc lắm, nhưng bậc trượng phu sống nơi chân thật, rất hạn hẹp với sự hòa mỹ của việc biết trước, cho nên chẳng làm. Nếu bố thí chẳng đầy đủ cho kẻ nguy cấp, ban ân huệ để mong cầu danh dự thì bậc cao minh cũng hỗ thẹn. Đó là tôi noi theo tâm thường hằng đã lâu, mà chẳng có thay đổi, trong hỗ thẹn với ông, đâu rảnh để mà chê cưới! Hà Thừa Thiên bạch. Đáp thư của Hà Hành Dương (Thừa Thiên) Lúc bận theo thời vụ, tự thân chuyên nơi vườn ruộng; khi rảnh rỗi việc nông gia thì cùng các già quê làm bạn; lời chỉ luận về thóc lúa, việc chỉ ra sức với cày bừa gặt hái. Bàn về mùa màng, tính đến cày xới; không nghe mà đạt nghóa; lại được lời luận biện khéo léo, đáng dùng để bộc bạch an ủi; sự chỉ bày chí thành thật làm tôi càng thêm hổ thẹn. Nay lại không ghi những việc hoài nghi lúc trước, để chuyển đến những điều chưa nói. Phàm nhờ ý để xét lý chẳng bằng phân tích văn của bậc Thánh mà luận đến Tam tài, nhất định lập gốc Ba vạch, Ba vạch đã bày, vạch giữa gọi là Quân đức. (Đoạn này không có bài sửa) (2 3)cũng chẳng là điều đáng tiếc lắm, nhưng bậc trượng phu sống nơi chân thật, rất hạn hép với sự hoa mó của việc biết trước, cho nên chẳng làm. Nếu bố thí chẳng đầy đủ cho kẻ nguy cấp, ban ân huệ để mong cầu danh dự thì bậc cao minh cũng hổ thẹn. Đó là tôi nói theo tâm thường hằng đã lâu, mà chẳng thay đổi, bên trong hổ thẹn với ông, đâu rảnh để mà chê cười! Hà Thừa Thiên Bạch Đáp thư của Hà Hành Dương (Thừa Thiên) Lúc bận theo thời vụ, tự thân chuyên nơi vườn rộng; khi rảnh rỗi việc nông gia thì cùng các già quê làm bạn, lời chỉ luận về thóc lúa, việc chỉ ra sức với cày bừa gặït hái. Bàn về mùa màng, tính đến cày xới; không nghe mà đạt nghóa; lại được lời luận biện khéo léo, đáng dùng để bộc bạch an ủi; sự chỉ bày chí thành thật làm tôi thật thêm hổ thẹn. Nay lại không ghi những việc hoài nghi lúc trước, để chuyển đến những điều chưa nói. Phàm nhờ ý để xét lý chẳng bằng phân tích văn của bậc thánh mà luận đến Tam tài, nhất định lập gốc từ 3 vạch, ba vạch đã bày, vạch giữa gọi là Quân đức. Sở dó thần đặt Thái thượng sùng nhất đứng đầu, nên trước cho rằng tự chẳng phải thể hợp đất trời, không lấy làm thỏa ứng, nay rộng nghiên xét thanh lự đó, chưa chịu còn đồng, vì sợ gồm cả không bỏ, rộng ghi chẳng sót, dốc chí của vật, thật làm ưu thiệm, sợ lý vị tạp, vượt nghi ngờ Dương toại đông nhiều, như lo lắng chỗ phát cùng lượng của bác ái, xấu hổ chỗ thêm tận chánh của Hựu Trực thì thượng nhân thượng nghóa, tôi không liên quan. Chỉ tình đó là ít, lợi đó là đông, dự có phần đó. Chưa đến cùng cực, chẳng được hai nghi phối phỏng. Nay mới khiến cùng cực thì làm thầy, chẳng cùng cực thì làm trò, hỗ trợ kính nhường, dứt bỏ hại tranh, khiến Di phủ đúc nhọn, lợi hại nghỉ đầu mối, xua dân trăm đời ra đường tin thuần, thì mầm nào chẳng đượm, thiện nào chẳng giúp, mà luống dối vì chẳng tính chưa gặp ý đó. Trường hợp Ba tài, v.v… chẳng được lấy khí của thiên tài, chúng sinh làm hiệu, chẳng được lạm người vô sinh, nên đây bỏ manh lệ, kia luyện Thánh trí, cả hai đều nêu chỉ ở nơi đây. Như Kiều Trát chưa thể nói một. Hoàng Vương đâu được Thượng Phụ, Y Nhan còn chung nhờ khí hóa nghi ổ hạ lệ, chặt đứt hai đường đổi nơi trách chỉ. Lại biết cuộc sống con người tuy đều đầy đủ đức lớn, chẳng thể gọi đó là chúng sinh, thí như bậc Thánh tuy đồng bẩm năm thường, chẳng thể gọi đó là chúng nhân. Chẳng thể gọi đó là chúng nhân, vì mậu nhân là Thần minh, nay đã đều đầy đủ đồng chúng, lại sao húy đồng chúng, nên phải khác đặc linh đó, chẳng nên khác được sinh, luống kî tên chúng, chưa thiếu thật chúng. Được không tợ như Thục Lương lánh sợ, cuối cùng chẳng thể trốn, cái gọi là khiến vật làm dưỡng, thấy sai khiến dưỡng người là, muốn nơi ngu tuệ cùng dốc, tối toán cùng chế. Sự do trí mà ra, làm chẳng phải do lý trời, vì thế mới đầu cố gắng nẩy mầm, sau cùng đau buồn sầm uất diệt, đâu cùng Túc hạ lá cỏ trăm thứ chung chỉ quy. Phàm động mà khéo trói tánh của hạ dân, hóa mà cắt công của Thượng thánh, cẩn trọng làm tường ngăn còn lo ngại vượt tràn, huống chi không chẳng đầy đủ bày để sung nhiều chí, mới mở chỗ thái, sao bàn nghị bỏ nhiều. Nên biết nói bàn của thảm vật không được cùng bạc phu đồng buồn vui, giết ý khéo sinh tình lớn, cái gọi là cùng đạo làm tâm: Lớn ở sinh tình, sắp khiến bài bác luống dối theo chích thật, chớ kịp lợi đượm thông trời mà chẳng ban cho. Thường theo ân chỉ trứng,… Pháp sự sói rái ư? Suy đây mà đến, chẳng phải chỉ tự mình lại đổ lỗi đầu chợ cho đầu bếp, vả lại, ngoài đầu chợ chẳng phải không ngự dưỡng, chỗ thần nông ghi, điều trung tán thuật, công lý ngợi khen việc đó. Trọng Ngạn tinh rành nghiệp, là cũng xưa có truyện đó, nay nghe người đó, đâu hẳn lấy cắt mổ làm tánh của bẩm hòa, nấu nướng làm dụng cụ của giúp thiện ư? Nếu vì biên hộ khó bằng lo xấu luận chưa lập kiến đó, Nhị Thúc chẳng đều lo Chu Đức mất trước, ví như có thể bày để xa nhiều đời của Đồ Yếu, thì ngày tính có thể khắp, công năm có thể hẹn, cây cỏ tinh linh, quả nhiên đã riêng biệt. Đáp của du hồn, cũng là thuyết của tinh linh. Như tuy có không hình, thiên hạ sao có của có không hình? Trông lại đây chỉ nghi ngờ, nên thấy chánh định, Trọng Ni chẳng đáp có không chưa biện rành, Túc hạ đã nói có, đâu được đồng đáp với chẳng nói rành. Tuy ông ham học sợ chưa được chỗ nương gá, hoặc là sớm tối cách đường, việc ẩn hiển khác, bèn khiến trăng sáng bỏ chiếu ở đời, trí hạng tâm biết cho rằng sẽ phù hợp, nói cực của thể ở không giảng cầu, trái ý như chẳng phải cùng tận, hoặc người đời giữ chất phải nhận nhường ngọc chợ đem dịch đều đòi tục trả, nói tình nước nếu chưa chiếu hết, xin lại bày đầy đủ gần thích. Báo thí đầu tiên xưng khí số là lấy làm vật không vọng, nhưng đều theo loại cảm, trong từng loại cảm, tâm người là lớn. Động của tâm thuật, lệ thuộc trải qua chỗ chẳng thể được, và chứa nhóm đến cùng có thể thắng nguồn mà phải đoán lấy đời thấy y cứ làm cao chứng. Trang Chu nói: Lỗ mãng diệt nát báo cũng như thế, Tôn Khanh nói: Thế của báo ứng, mỗi thường loại đến thân sau, chấp giới có thể chẳng kính cùng người của Từ Hộ, sâu thấy số này, nên chánh nói gốc, chẳng phải khơi bới ngọn, lớn mạnh tốt lành, dứt hết xấu ác, trở lại dân đại thuận, tế loại của có sinh, vào chốn của Khổng Tử, khiến mừng vui khắp triệu vật tôn quan cả trăm thần, làm sao thích hợp vận cực con cháu nối dòng, phước hạng khanh tướng mà thôi. Thường thiện để cứu thiện cũng theo thế đó, như ảnh bày chẳng lo, tự lại sao nói ư? Cần ban cho vui báo nghi tội khắc thí, dường như do gần nghiệm, lận tình xa lờn đức giáo, nên mới phạt kiêu công mà lạm lỗi quên hiền, sót còn nghóa khác, công tư khác ý, đã đủ ở bạch trước, như chẳng nói lại, tưởng chỗ thật hẹp, hoa xấu là lại thấy đó ở dày bỏ mỏng, nếu thi vi chẳng phải khắp gấp, ban cho mà mong tiếng tăm, là người của như, thật là sâu mọt của đạo, chỉ hổ thẹn của con, khâu cũng hổ thẹn. Lại đáp Nhan Vónh gia. Tôi thuở nhỏ tin biết hẹp hòi, về già càng dốc chí. Đã nói, bèn cật nạn rằng: Đem tấc vuông nát đổ, nên gió mong nhờ Lưu để gá lân dung, Hậu ý dũ lòng ban cho để giải thích lại. Xét, chứng chu minh hoa từ bác thiệm, phàm lúc ngọc tốt có vết, kẻ tiện phu chỉ vết đó, trong buông ôm phách, người nhà quê nhìn thấy khuyết. Há khéo nói đó chưa được nói là: Đã đến thưa hỏi, mong để xét cùng chỗ dính mắc. Lại bảo rằng: Luận của ba Tài nên đáng bản của ba bức tranh, ba bức tranh đã bày Trung Xưng là Quân Đức, cho nên thần đặt để Thái thượng sùng nhất đứng đầu. Nếu như ý chỉ luận, cho ba tranh là ba tài, thì thứ nhất phỏng làm Địa hào, thứ ba bàn luận Thiên vị, nhưng trốn đời không phiền muộn, chẳng phải mục đích của chở dày, quân tử càn càn chẳng phải gọi là thương thương, quả nhiên Nhị Nghi không nương gá, cũng đâu lấy ở lập người, Chỉ Hào ở trung hòa, nên ứng với Quân Đức. Lại nói: Lo lắng cùng lượng của bác ái, hổ thẹn tận phương của Hựu Trực thì thượng nhân thượng nghóa, bèn là tính thể nhân nghóa là ba tài. Sau đó lại nói: Kiều Trác chưa được thượng phụ, Y Nhan nên hạ lệ đó, cho nên người của Hoàng thường, đó còn chẳng bằng, tuy chỉ của trách, cao thấp không chuẩn, nên lầm hoặc là chưa ngộ. Âm dương luyện khí, cương nhu phú tánh, đầu tròn chân vuông, tiêu mạo chẳng phải khác, lo lắng hổ thẹn dằn dặc đều vậy. Chỉ tham hiểu rõ, chỉ có hai nghi Tham và Thể hẳn nêu nhân nghóa làm đầu mối, biết hạn dục dùng danh khí, thận trọng chỗ nhờ đó, bèn khiến người ban cho, kẻ thanh khiết, tánh bắc ở đàn lông cánh, ngõ hầu bậc hiền đồng khí với các tộc, ý của Lập tượng, há vậy đó ư? Lại nói: Đã khắp đều đồng chúng vì sao húy kî chúng đồng, nên phải khác Đặc Linh, chẳng nên khác được sinh, phàm thần của Đặc Linh đã khác với chúng, lý của được sinh đâu từng tạm đồng, sinh vốn ở lý mà lý khác. Sinh của đồng chúng gọi là sắp an phụ, nếu chấp tên sinh đây hẳn khiến theo chúng, thì vật của hổn thành cũng sắp ở lệ ư? Lại nói: Cẩn trọng làm tường ngăn còn lo ngại vượt tràn, huống chi không chẳng bày đủ để sung nhiều chí, mới mở chỗ thái sao bàn nghị bỏ lắm. Mới đầu, Túc hạ nói: Hoàng thánh bày giáo của đợi vật, cẩn trọng kinh của thuận thời, sắp dùng trở lại dần dứt thái. Nay lại đem vừa mới mở chỗ thái làm nạn, chưa rõ đem cật nạn thô bỉ, bàn nghị sắp cười chê bậc Thánh. Lại nói: Bên ngoài đầu chợ, há không ngự dưỡng, chỗ Thần nông ghi, chỗ Trung tán thuật, đâu cần dùng cắt mổ làm bẩm hòa, nấu nướng là giúp thiện? Phàm yên ế… lật tông xả ba sinh, Hiểu Hương đậu trở để đãi khách, tuổi già bảy mươi, đợi thịt mà no, đâu được chỉ bày cỏ đá lấy đủ thuốc hay bậc thượng mà thôi, chỗ tôi lo chẳng lập là, chẳng phải gọi là Hồng Luận khó trì, lùi hiềm việc này, chẳng thể chóng bỏ ở đời. Lại nói: Thiên hạ đâu có phải vô hình, trông lại đây chỉ nghi ngờ, nên thấy chánh định, sau đó lại chỉ, tợ chẳng hiềm có quỷ, phải nói là quỷ nên có chất được không lầm hoặc. Sách của Thiên-trúc nói quỷ làm sinh loại riêng ư? Người xưa lấy quỷ thần làm giáo, mới xếp nơi điển kinh, bày ở phương sách. Trịnh Kiều Ngô Trát cũng cho là vậy. Vì vậy, mây hòa sáu biến, thật giáng trời thần, cửa rồng chín thành, người quỷ đều cách. Túc hạ nhã nắm theo Chu Lễ gần đây chợt nghóa này, mới cật nạn phải vi vô hình làm biện rành về chi ly. Lại nói: Thân sau chấp giới, có thể chẳng kính cùng người của Từ Hộ, thấy sâu số này, chưa rõ cái gọi là Từ Hộ là con của ai, nếu y cứ ngoại thư, thuyết báo ứng, đều là chỗ tôi gọi là quyền giáo. Giảng cầu không lý chẳng hề chiết lấy lời Thánh, phần nhiều dò tìm dối lạ để cùng giúp đỡ được không, chỉ tợ như nước giúp nước chăng? Lại nói: Vật không vọng vậy, hẳn dùng loại cảm, thường thiện để cứu thiện cũng theo thế đó, như ảnh bày chẳng lo tự đến. Lời đó quả đúng như vậy, cho nên vật của loại cảm, khinh trọng phải có điều kiện, thế của ảnh bày ngắn dài có độ, cho đến trang nghiêm thổ mộc, chẳng phát tâm thương xót, thuận thời săn bắn, chưa có căn tánh của thảm ngược. Hoa nhạc cung trời đâu từng thẳng lên, u khổ nơiï địa ngục nào phạt mà chìm đắm, xướng lời cùng ép nâng, lập pháp không cân đấu, một đến nơi đây, vả lại, sao gìn giữ bác ái thận trọng đến cả chuồng ruột, đầu bếp tốt nắm dao, tình xót xa họ mẹ, bậc Thánh kia là, sáng đồng mặt trời, hóa mở ba thống. Nếu khiến báo ứng phải phù hợp cũng đâu ngại đối với giáo mà giảm cục kỷ Hy Đường, chôn lấp đời của Chu Khổng, mở đầu buộc giềng lưới, dấy tội lụy ức, vẫn chế sinh lao, mở phạt đêm dài, bỏ sót bếp trời kia, cam chịu rau lá đây, đâu từng nhân từ của vớt đắm, giăng thành tàn khốc của nạp hoàng. Đó là không đúng, nên phân biệt vực lo. Nếu cho rằng trí của cùng thần, còn có chỗ chẳng tận, tuy cao tình ái kỳ tưởng, cũng chưa đến đến nơi khinh thường bậc thánh. Túc hạ nói về nhân nghóa thì nói: Tình là ít, lợi là nhiều, nói ban cho thì chấp thuận sót hiền, quên báo tại tình đã ít, ai năng sót hiền, lợi đó là nhiều, sao nói quên báo, nếu năng suy người ưa thí, để mong người ham nhân, diễn ý quên báo, riêng tâm hướng nghóa, thì nghóa thật ở đây, cầu nhân chẳng xa, đến nơi giúp loại của có sinh, vào chốn Khổng Tử, mừng vui khắp triệu vật, tôn quan trăm thần. Ý chỉ này rộng lớn, luận này chẳng sánh bằng, không là Tần Sư sắp theo hành nhân nói bày ư? Đâu có ngặt đó, ở tôi nói ông là, bậc Thánh ở trên, chẳng cùng trăm thần tranh lớn, có đầu có cuối, sao được chốn không chết. Nói rõ sáng tối, nghiên tinh thứ vật, trái lại mới đầu buộc dây cuối cùng lắm nhiều văn giáo, tánh do đạo dẫn nên bặt danh phạm húy của thân dự. Tạo hóa không thương tổn lượng của bác ái, dùng săn dùng chài, dưỡng gần hiền bỉ, được ba phẩm, thật đủ đầu bếp khách. Vàng đá phát hoa, sinh thược hợp tiết, say rượu no đức, hạng này muôn năm. Người ở mở nghiệp ngày mới, kẻ só bày giáo của Tiên vương, thật hiển bày minh quân, đượm khắp muôn vật. Long Chương bày xem, khua ngọc tiết rảo, đó cũng là nhạc của Nghiêu Khổng. Và đó chẳng gặp khảo bàn, làm sao đượm để tốt thân đó, giết gà làm lúa, tạm giữ ôn nắm, hoặc vác đảnh cắt nấu, tung lớn tên nhiều đời, hoặc giết dê múa dao, cao chỉ giữa mây nổi. Đây lại là xử tâm của quân tử, sao hẳn hẹp hòi vận dài của chứa nhóm điều thiện, mong không nghiệm ở đời sau, sinh trái thật vui của năm nay huống nhọc mà chẳng phải trở về, hệ thuộc phong giúp cảnh, chẳng phải vẻ đẹp Trung Dung, mến mộ Di Huyễn yêu hoặc trái ngược thấu đạt của người thông, quỳ mọp tiếp nhường, rốt cuộc chẳng đứng chung. Trộm mong tôi ông bỏ gồm xả mà gồm vâng một, và Thục Lương Nhị Thúc, người đời thí như của Dịch Tư chẳng phải chỗ tiếp nối của nghóa gốc, nên chẳng còn nói đủ. Lại giải thích cho Hà Hành Dương Thánh lự khó tìm nguồn, thần ứng chẳng lường, Trung Tán nói rằng: Trong người tự kiệt, chẳng được đầu mối, há bờ cạn đó là chỗ có thể dò tìm. Huống lấy văn lớn bày thấy in khác đời, vọt theo râu tôm, lấy thẹn đương thời, nên việc của ngoài độ dùng ý cắt đó, Túc hạ đã xét hư thật, mới ghi chép đó chẳng mục nát, riêng soi kiên tinh, nạn lại nghi hỏi, tạm ghi các ôm ấp khác, y theo chiều đáp mà giải thích, sự vó ương phước, nghóa tạp lẫn Hồ Hoa, tuy còn giảm chương tự đến phiền văn, qua đây đã rồi, tôi không muốn nói. Đáp rằng: Nếu như luận chỉ, dùng ba bức tranh vẽ thành ba tài, thì thứ nhất phỏng theo Địa hào, thứ ba nghị Thiên vị, nhưng trốn đời không phiền muộn, chẳng phải con mắt của chở dày, quân tử càn càn, chẳng phải xưng của thương thương, quả thâït, hai nghi không nương gá, cũng nào lấy lập nhân, Chỉ hào ở Trung Hòa, nên ứng với Quân đức. Giải thích: Nghe ở tiền học, thuần tượng mới đầu ở tham họa, gồm quái cuối cùng ở sáu hòa. Tham Họa lập gốc vị ba tài, sáu Hào chưa biến, chỗ các rồng qua. Vì đây vậy sau của trùng quái thì dùng xuất xứ để nói, nên trốn đời càn càn, ngầm tàng đều đi, nghóa của bậc Thánh vừa thời gần đạo đó. Nếu vì Hào thứ nhất chẳng phải địa, vị thứ ba chẳng phải thiên, dùng làm lưỡng nghi không nương gá, lập nhân không lấy, chẳng hay Túc hạ trước nói ba tài đồng thể, do đâu mà sinh, nếu còn nhận ở hệ thuyết chẳng cần thầy răn, sao riêng được đó, lại bói được đơn tượng của tang, như ngoài nghóa văn lại có batài, đây tự ý mới Xuân Thu, tôi không hề biết. Vả lại, trốn đời càn càn, tuy chẳng phải tên của chở che, trong một thể chưa mất thật của thấp cao, đâu được dùng từ của biến động, phế bỏ nghóa của lập gốc. Lại biết, vì Hào ở Trung Hòa nên ứng Quân đức, nếu không có Hào của Trung Hòa, thì không bao giờ có người của Trung Hòa, thì Hào lấy gì phóng, nếu Trung Hòa ở đức thì chẳng có người trái với Trung Hòa, luận của thể hợp hẳn chưa thể khác vượt. Đáp rằng: Thượng nhân thượng nghóa bèn là chấp nhân nghóa: Là ba tài tầm. Lại nói: Kiều Trát chưa được hướng lên nương gá, Y Nhan nên hạ lệ, thì người của Hoàng thường còn chẳng bằng, tuy ngón tay của trách, cao thấp không chuẩn, nên người mê người mê lầm chưa ngộ. Giải thích: Các gọi là thượng nhân thượng nghóa, tức là bao gồm cùng cực của nhân nghóa, có thể dùng đối hưởng với trời đất. Chẳng phải nghóa là ít có hổ thẹn mến ái thì đó là ba tài. Giải thích trước đã đầy đủ quái lạ, lại là hỏi bốn. Trong vực ấy chỉ vua là thể biết ba, lưỡng nghi đây chẳng phải Thánh chẳng ở, Dịch lão đồng quy về không còn lầm hoặc. Y căn cứ Đông Lỗ thềm sai, Kiều Trác Lý chẳng đáng hoàn bị, đâu do trên gá đến vị, nương chuẩn mực phương Tây. Y Nhan chưa được pháp thân, nên phải hạ lệ sinh phẩm, chưa luận cặp cơ nghị thích, nên cả hai giải ý này, mong để lấy xong trở lại đặt từ phí. Thánh làm vua thầy, Hiền làm tôi trò, tiếp sướng thần công, ảnh hưởng nghiệp lớn. Hành tàng có thể cùng, nói nín cùng đồng. Thể phân đến đây, đâu phụ hoàng thường. Bàn nghị là không thấy, chẳng được các vị. Đứng đầu Hoàng sinh chê hận, mà chẳng biết dẫn đến cực địa, lại chẳng phải tình của thủ tiết, chỉ đoán như thế sao gọi là không chuẩn. Đáp rằng: Âm dương luyện khí, cương nhu phú tánh, đầu tròn chân vuông, tiêu mạo chẳng phải khác, lo lắng xấu ác dằng dặc đều phải chỉ hai nghi tham, thể chẳng nêu nhân nghóa làm đầu mối. Giải thích: Nếu cho rằng đầu tròn chân vuông, hẳn đồng thật của hổ thẹn lo lắng, tiêu mạo chẳng phải khác, đều có thể hai nghi tham, thể các hạng chân guốc cũng đáng ở số của ba tài ư? Nếu thật chẳng được chẳng thể thấy đồng của xoe mắt, bèn cùng Đại nhân đồng lệ. Còn ha- ïng dằng dặc, phẩm lượng khó bằng. Đã nói: Nhân là an nhân, trí là lợi nhân. Lại nói: Lực hành gần nhân sợ tôi cưỡng nhân, nếu chánh vị của một sắp chân ngụy xung mạo lẫn nhau, Trang Chu nói: Trong thiên hạ, người thiện thì ít, người bất thiện thì nhiều, phần đó như đây, sao gọi là đều phải. Đáp rằng: Biết hạng dục dùng danh khí, thuận chỗ nhờ đó, bèn khiến người bàn cho bậc thanh khiết ngầm tánh nơi loài lông cánh, ngõ hầu bậc hiền đồng khí ở các tộc, ý của lập tượng, há như vậy ư? Giải thích: Danh khí có hạng, vì tư thể chẳng hoàn bị, tuy muốn nhờ đó nghi ngờ, Dương cho rằng Hàm Linh là người, loài lông cánh chẳng thể đồng, bẩm khí thành sinh, các bậc thanh khiết có chẳng được khác tượng, phóng linh đó chẳng phải tượng, sinh đó chỉ một mà thôi, không phải dối mạn. Đáp rằng: Đã đều khắp đồng chúng, v.v… thần Đặc Linh đã khác với chúng, lý đắc sinh, nào từng tạm đồng, sinh vốn ở lý mà lý khác. Sinh của đồng chúng gọi là sắp an phụ, nếu chấp tên sinh này thì khiến theo chúng, vậy vật của hổn thành cũng sắp tại lệ ư? Giải thích: Trước tôi cho rằng: Đồng ở sở phương, đâu được sinh đó có thể khác, Túc hạ đáp rằng: Phi nghóa là không đúng. Lại nói: Sao lấy sinh của chẳng khác, phải nên làm chúng thì bỏ tôi làm chúng, mà lấy tôi chẳng khác. Đâu có chẳng khác mà chẳng phải chúng ư? Do đó lại nói: Nên phải khác, đặc linh đó chẳng nên khác được sinh, nay đáp lại cho rằng lý được sinh đâu thường tạm đồng, sinh vốn ở lý mà lý khác, xin hỏi lý đắc sinh, có phải là âm dương không? Tôi chẳng thấy khác đó, mà Túc hạ cho rằng chưa tường tạm đồng, nếu có khác lý, chẳng phải lại chiếu chưng ư? Cho nên sự phô bày âm dương lại có thọ sinh đọa thú, ba đời đâu nên dựng lập, khiến sinh của hổn thành với đồng khí vật, đâu phải nghóa của hỗn thành, nếu luống mượn tên sinh, chẳng thấy sinh thật, thì chẳng hạn vừa rồi nói, nói sinh chẳng phải sinh, tức là có vật, chẳng vật. Lý tẩu thuyết này hoặc lại có nghóa đó, vì không hỏi vặn có, vả lại là chưa giống. Đáp rằng: Cẩn thận làm tường ngăn, v.v… mới đầu nói Hoàng thánh bày giáo của đợi vật, cẩn trọng kinh của thuận thời, sắp vì trở lại dần dứt thái, nay lại dùng phương mở sở thái làm nạn, chưa rõ ở đây đem cật nạn thô bỉ bàn nghị làm chê trách bậc Thánh. Giải thích: Trước xét luận này, từ cửu cốc trở xuống cho đến Khổng điếu chẳng võng, lúc đầu biết cao nghị, cho rằng phàm có tể làm đều ra bậc Thánh, tự thân làm sự tượng để dẫn trước hạ dân, cô bỉ vụng ý, tự cho rằng: Mỗi chỗ thi vi làm động hẳn có nhân, bậc Thánh theo làm tiết đó, khiến chẳng dời vượt hai thứ này, ôm đoạn lớn đó, chỗ đây kia chẳng đồng, tôi sắp tiết xa lưu, nên có thuyết dứt thái, Túc hạ mới rõ hoàn bị lập bày, chưa biết ở đâu bỏ lắm mà trúng. Đáp lại rằng: Cái gọi là lắm, là bậc Thánh hẳn đã bỏ đó, chẳng rõ ý này nên gần lại lấy sở thái làm câu hỏi. Đáp là chưa rõ ai cật nạn hoặc tự vọng báo trước. Đáp rằng: Bên ngoài đầu chợ, v.v… Phàm, yên ế v.v… lật tông xả ba sính, hiểu hương đậu trở dùng để cúng dường tân khách. Lão của bảy mươi nhờ thịt mà no, đâu được bày cỏ đá lấy đủ thuốc hay bậc thượng mà thôi, mà lo chẳng lập chẳng phải nghóa là Hồng Luận khó trì, thôi hiềm việc này chẳng thể chóng bỏ ở đời. Giải thích: Thần nông định sinh, người Chu đủ giáo, đã xướng liệp thực, lại nói thước hay bậc thượng đã dùng hy lao, lại gọi làtần phồn, đạo của tế thiện, nên không định phương, trước nêu bên ngoài của đầu bếp, lại có ngự dưỡng, là chỉ dính mắc của mổ nấu xưa cũ, để nói diên tánh chẳng phải một, chẳng phải gọi là sự của trải đời, đều phải lấy đầy đủ cỏ đá, nhưng công của rau cỏ, trải đến trăm năm, ý của chi truật, cùng vang ngàn năm. Do vậy mà nói: Già bảy mươi phải nhờ ân ở ăn thịt, chỉ tự bít một vứt là bỏ không thuật ở đây, tưởng chẳng thể bỏ ở đời, còn là chỗ giải thíchở trước, cái gọi là chẳng thể chóng đoạt chỗ dính mắc, mới đầu được Phù-đồng lấy chẳng quy về tốt lành, đã biết chẳng thể chóng bỏ, hoặc chẳng gọi là đạo tận cùng ở đây. Đáp rằng: Thiên hạ sao có phải vô hình, v.v… tìm đến ý chỉ tương tợ chẳng hiềm có quỷ, phải gọi rằng quỷ nên có chất được vô hoặc. Sách của Thiên-trúc nói quỷ làm sinh loại riêng ư? Người xưa lấy quỷ thần làm giáo, mới nêu ở điển kinh, trang trải nơi phương sách. Trịnh Kiều Ngô Trát cũng lấy làm vậy. Do đó, mây hòa sáu biến thật giáng thiên thần, cửa rồng chín thành, người quỷ đều cách, Túc hạ nhã nắm Chu Lễ, chợt gần nghóa này, mới cật nạn phải vô hình, là biện của chi ly ư? Giải thích: Chẳng phải chỉ chẳng hiềm có quỷ, là cho rằng phải phải có hình, Túc hạ chẳng không là đồng ở có lại khác, vì vậy sánh bằng chất cật nạn muốn để cầu tận cùng, xin bỏ thuyết của Thiên-trúc, cẩn trọng nương kinh của Trung thổ (Trung hoa) lại đặt làm sinh loại riêng, cùng bàn lên mây thể trạng tinh linh có hay không, hẳn nhiên nên báo định, trong Điển Sách, quỷ thần lụy vạn, chỗ chẳng rõ là chẳng phải phải danh hiệu, sánh được ba luận, thời đến càng đông, muôn quỷ rốt cùng đến cuối chưa đáp chút nào tuy mở cáo rộng khắp chẳng phải giải mong khát, vô phải hình đã chẳng khéo lập, không cho rằng chi ly lấy làm thuyết chung. Nếu lấy xét chánh làm chi ly: sắp lấy nỗi mạn làm thẳng đạt ư? Đáp rằng: Thân sau mang giới, v.v… chưa rõ, cái gọi là từ hộ là: Con của họ nào. Nếu y cứ ngoại thư, thuyết báo ứng, đều là cái mà tôi gọi là quyền giáo. Giảng cầu chí lý chưa từng chiết đó, lời thánh phần nhiều dò tìm dối lạ, để nâng giúp nhau, được không tợ dùng người giúp nước ư? Giải thích: Chủ của từ hộ tính cũng nghe lâu, người đó trách vì ai ông dùng văn khác họ Thích, biết gọi là thuyết báo ứng, đều là quyền giáo, quyền đạo ẩn sâu, chẳng phải thánh thì chẳng tận, tuy ông thông thức lự cũng chưa thấy cùng cực, tôi nhọc ở tìm cầu mà Túc hạ vượt nơi riêng rõ, rất có xấu ác, nếu chỗ quyền giáo nói đều là khi vọng, thì trong tự nhiên không còn báo ứng. Tôi nhút nhác ở sự kiểu định, Túc hạ yếu kém ở sự chuyên đoán, lại cũng là sợ. Thần cao nghe thấp, hình thường có thể lừa dối ư? Tưởng rằng lời thánh đó hẳn là lời của Cơ Khổng, nay chỗ bàn nói đều là việc tin thuận, mà cho là chẳng hề bị gẫy, lại chưa trải qua rõ ràng, tư duy lại luận lập cơ phế thích, nên tôi nêu dẫn thích phù hợp, đáp chẳng vượt hỏi, chưa rõ phần nhiều dò tìm do ngày nay đạn chẳng sinh hoa nhượng, sao hạng ngoài của phục chẳng có người cùng lý. Trong ngoài làm phán, thật cũng khó ư, nếu tự tin độ đó tư duy riêng, tai mắt tập quen phô bày về thức đều là dối lạ, thì tôi cũng thôi. Đáp rằng: Lại nói vật không vọng, nhưng hẳn vì loại cảm v.v… lời đó quả nhiên vậy thì vật của loại cảm nặng nhẹ phải có điều kiện, thế của ảnh biểu, ngắn dài có độ, rốt cùng nghiêm sức thổ mộc, chẳng phát tâm thương xót thuận thời săn bắn, chưa căn tánh của thảm ngược, hoa nhạc cõi trời nào thưởng mà bay lên, địa ngục u khổ nào phạt mà đắm chìm, xướng lời cùng nâng ép, lập pháp không cân đấu, một đến nơi đây. Giải thích: Thuyết của ảnh biểu dùng trưng cảm báo, lại ý nghi chẳng hẳn đều, hiềm vô độ ấy, tức lại trừ phước ứng, phước ứng chẳng phải do khí số khác sinh ra. Nếu diệt phước ứng tức không có khí số. Túc hạ Công còn giẫm nghiệm mà trở lại đánh chỗ biết, tưởng Tín đạo làm tâm là hẳn chẳng đến đây. Nếu cho rằng chẳng từ đối với trang sức của thổ mộc, có lắm thuận với giết hại, không là rất phụ tâm của phu nhân, phòng vàng ấn ngọc hẳn là tình của Nghiêu Thuấn, ở Lệ dưỡng đẹp đâu phải là ý của Thích-ca, trách thưởng của cõi trời, cầu phạt của địa ngục, vả lại loại người xưa cật nạn của á phu hỏi han của anh bố, có mùi vị ở lời đó, đây bởi chỗ rõ ràng của chúng dứt tâm, tôi có thể được mà lược quả. Đáp rằng: Vả lại ai gìn giữ truyền ái thận trọng và chuồng ruột, đầu bếp tốt cầm dao, tình xót xa mẫu tộc, bậc Thánh kia sáng đồng mặt trời, hóa mở ba thống. Nếu khiến báo ứng hẳn phù, cũng nào ngại ở giáo mà bít cục kỷ của Hy Đường, chôn lấp đời của Chu Khổng, mở đầu kết giềng mép lưới, dấy tội nhiều cả lụy ức, bèn chế sinh lao, mở phạt của đêm dài, bỏ sót bếp trời kia mà cam chịu rau lá này, từng không nhân từ vớt đắm, giăng thành tàn khốc của nạp hoàng. Đó là không đúng, nên phân biệt với vực lo. Nếu cho rằng trí của cùng thần còn có chẳng tận, tuy cao tình ái kỳ tưởng chủng chưa đến nơi xem thường bậc thánh. Giải thích: Biết gọi là nghóa báo ứng, bít đời Hy Chu, lấy đây suy cầu làm chứng của chẳng phù, Hy Đường xa vời, rõ ràng của nhân anh, chỗ thượng thư ghi chẳng qua vài thiên, phương ngôn mất của đức hình, vội ghi nguồn họa phước. Nay đế điển vương sách, còn chẳng ghi việc của tánh mạng, mà trưng bày khuyết văn lấy làm xưa hẳn không, đây cũng là lỗi của tâm thầy, vả lại tin thuận tốt xấu đều xếp vào sách vở của Cơ Khổng, gọi là chôn lấp, như đường nhỏ hẹp, chỉ nói có xa gần có cạn sâu, nên khiến người trí cùng đây mà đoạt kia ư? Phàm, sinh thì có dục, dục thì có cầu, dục thiếu thì tranh giành, cầu hợp thì vui mừng, tranh giành thì hại nhau, vui mừng thì cùng an, lập bày lưới tội, sắp bỏ hại để lấy an ư? Vả lại, săn chài sinh việc lao nhọc đó chẳng khác, đã biết sinh lao nhọc chẳng thể chóng bỏ ở đời nay. Lại cho rằng săn chài chẳng thể riêng bỏ ở xưa, chưa làm loại chung. Ham sống ghét chết ban xuống càng dốc, nên có chết là thuận tình, đoạt sinh là ngược tánh, bậc chí nhân còn vậy, sao lại phạm thuận mà ở nghịch ư? Vậy biết chẳng thể chóng đoạt chỗ dính mắc, nên nhân đó mà chế ra. Thánh linh tuy tốt lành nhưng không dùng duệ tâm mờ tối, dân của yếu kém sao có thể Thắng Luận. Lại của tội phạt đem vật tự lấy đó, sự xa khó thấu đạt, chẳng do bếp trời thấy sót vật, gần dễ vui nên thường rau lá là ngọt, cứu vớt chìm đắm ra thành là chỗ các triết chung cùng, chỉ hóa vật chẳng đồng, chẳng phải khác của đạo, nhường của chẳng tận, cũng như quá đáng, con lớn mừng lạ, vốn chẳng giống như đây. Đáp rằng: Túc hạ nói về nhân nghóa, thì nói tình là ít, lợi là nhiều, nói ban cho thì chấp thuận bỏ sót hiền quên báo, tại tình đã ít, ai có thử bỏ sót hiền lợi đó là nhiều, sao nói quên báo. Nếu năng suy người ưa thí, vì mong muốn lòng nhân, giảng nói ý quên báo, dẫn tâm của hướng nghóa, thì nghóa thật ở đây cầu nhân chẳng xa. Giải thích: Tình nhân nghóa là ít, lợi nhân nghóa là đông, nghe đó ở trang thư, chẳng phải nay cô thuyết, chưa được rõ sánh đã bị quở trách, ở tình đã ít, lợi đó là nhiều, chẳng thể bỏ sót hiền, sao nói quên báo. Thật tôi trước sau chăm chăm lấy làm chẳng được, hai nghi phối nghó. Lại chẳng phải dốc chỗ luận y cứ chánh, nếu vui thí quên báo tức là thể nhân, còn quên báo mà thí thì là hợp nghóa, có thể bỏ chữ dục và trừ tên hướng, ở đây chẳng xa, ai chẳng mến mộ. Đáp rằng: Cứu giúp loài có sinh v.v… ý chỉ này rộng lớn, luận này chẳng bằng, không là Tần sư sắp theo hành nhân nói bày ư? Giải thích: Túc hạ nói cặp cơ thích, tôi cũng đáp gần Nhung Chu, Túc hạ lấy đây ép kia, cho là phước cực cao môn, tôi bày giải thích kia, đây nói mừng khắp triệu vật. Túc hạ y cứ chỗ thấy này, cho rằng phước đức chỉ công hầu. Tôi tin chỗ nghe kia, nói Tôn puan trăm thần, vốn bàn nghị là tranh giành, sao nói chẳng bằng, phàm luận nạn đó, vốn lấy dễ đoạt làm thể, mất đó ngoài ra đều nói là rộng lớn. Đường lối của cầu lý cơ hồ bít nghẽn, sự theo lời nói bày, hoặc chẳng ở đây. Đáp rằng: Đâu cùng ép ngặt đó, ở tôi nói ông, bậc Thánh đối với trên chẳng cùng trăm thần tranh giành lớn, có đầu có cuối, đâu được chốn không chết,v.v… Giải thích: Há sự bức bách đó, một sao chuyên đức, ở tôi nói ông, lại sao tráng từ, hễ làm lớn của vật, há chỗ tranh giành được, chẳng phải chỉ tranh giành, phải đem xuống đó, chẳng thể thấy tôn quan, trăm thần bèn cho là trăm thần tranh giành lớn, không là lấy đăng tiết, bỏ thể nhân biết đó, gọi là vật có đầu cuối, không có đất bất tử, cầu đó ở vức nội thật là Như lai thú, trước giải thích cái gọi là thắng loại, các khu có thật cũng nên như thế. Còn như chỗ bắt chước của Sơn Kinh, chỗ ghi của tiên truyện, mọi sự liên quan đời năm đã chẳng thể nguyên, huống chi là đạo dứt thường tình, lý cách thường chiếu, hẳn do ở ta, chẳng cũng đều phải dứt bỏ, đây lại là chỗ chẳng được an. Đáp rằng: Nói về chương u minh, nghiên tính thứ vật, v.v… Giải thích: Đợi xét chương này, nêu bày nhiều đời, văn rộng thể khắp, rất khéo sư pháp. Ca tụng đời thánh, đủ làm lắm tiếng, xét cầu đạo nghóa chưa phải cần nói, xưa kia ở thời trẻ mạnh, từng trải các kỷ, khuôn phép của Hoàng Vương, vết tích của hiền trí, lắng nghe lược đó, dám nhục rõ ràng, dốc thiết của ban bày, thật cần chấp sự. Đáp rằng: Sao hẳn hẹp hòi vận dài chứa mừng vui, mong không nghiệm ở đời sau, mọp quỳ tiếp nhường, trọn chẳng đều đủ, trộm mong tôi ông gồm bỏ cả mà vâng theo một, v.v… Giải thích: Chẳng hẹp hòi chứa nhóm mừng vui, đã nêu bày ở điều tin thuận, xuyên suốt mong đời sau cũng đủ ở thuyết cảm ứng, áo vẽ cừu lớn cùng dùng một thể, quỳ mọp tiếp nhường đâu chẳng đều hành ở một đời, lý có thể gồm cả vô, nói là nên xả. Đáp rằng: Hai thúc Thục Lương, người đời thí như của Dịch Tư, chẳng phải chỗ kế tiếp của luận này nên chẳng nói lại đủ cả. Giải thích: Gần đây vài điều, tạm phát mối đùa bởn, cũng do vượt người hỏi bày, thấy tìm ở bàn nói trước, buông nghiệp đến cả không tưởng lắm lạ, nhưng hai thúc là hỏi, muốn dùng thì nghi ngờ của biên hộ, mất mà chẳng đáp, thật có mong mõi, Túc hạ liền nước, mây theo, rộng Luận Phong hành, tôi mờ tối sinh đơn lẻ nói, thường được trộm bàn, chẳng bằng nhau đây việc hẳn cố vậy, thật do chỗ thông tài cùng lý đó, bỗng nhiên quên phiền, tham đều dứt tâm. <篇> <卷>QUYỂN 5 Viễn. Luận Cánh Sinh, của La Quốc Chương. Luận Thần Bất Diệt của Trịnh Đạo Tử. Luận Sa-môn bất kinh Vương giả (năm thiên) của Pháp sư Tuệ Luận Sa-môn Đãn Phục (Hà Trấn Nam vấn Nạn và đáp) của Pháp sư Tuệ Viễn. Luận về Báo Ứng đáp lời Hoàn Huyền của Pháp sư Tuệ Viễn. Luận Nhân Tục Nghị Thiện Ác không hiện nghiệm ba báo của Pháp sư Tuệ Viễn. **** <詞>LUẬN CÁNH SINH CỦA LA QUỐC CHƯƠNG Lành thay! Lời nói hướng sinh, hỏi: Trời là gì? Là tên chung của muôn vật, Người là gì? Là một vật trong trời, do đây mà bàn nói, nay muôn vật có số mà trời đất không cùng, nhưng biến của không cùng, chưa bắt đầu có ra muôn vật, muôn vật chẳng lại sinh, thì trời đất có rốt cùng, trời đất chẳng có rốt cùng, thì sinh có thể biết. Tim các luận cũ, cũng chép: Muôn triệu huyền định, chúng sinh thay tạ. Bậc Thánh soạn dịch đã đủ cùng cực, cùng thần biết hóa, cùng lý tận tánh, nếu thần có thể cùng, có hình là chẳng được vô số, vậy thì người vật có định số, ta người có thành phần, có chẳng thể diệt mà làm không, kia (người) chẳng được hóa mà làm ta, tụ tan ẩn hiển, xoay qua- nh đường của ta không cùng, hiền ngu thọ yểu, trở lại vật ấy, tự nhiên lần lượt, hào phân chẳng sai, cùng vận hết ở chẳng thành chẳng biết, xa ư? Vời ư? Đạo đó mịt mờ, trời đất tuy rất hỗn độn mà chẳng loạn, muôn vật tuy nhiều khu mà riêng biệt, mỗi tự gốc nó, tổ tông có thứ lớp, gốc cành trăm đời chẳng mất cũ. Lại thần và chất, là sự gặp nhau của tự nhiên, tình cờ có lìa hợp, biến của tử sinh, chất có tụ tan, thế của qua lại. Người vật biến hóa đều có tánh đó, tánh của bổn phận nên lại thường vật, tan tuy hỗn độn mà tụ chẳng thể loạn, qua càng xa, nên lại càng gần. Lại thần chất minh kỳ phù khế tự hợp, đời đều bi hợp hẳn lìa mà chẳng yên, lìa đó hẳn hợp, đều biết tụ đó sẽ tan, mà chẳng biết tan đó sẽ tụ, chưa suy nghó đó thì há xa ư? Đời nay tức là đời trước, việc cũ của sanh tức là việc cũ, đối với thể không chỗ để ý, cũng đã ngầm mờ, đều chẳng tự hay, Ai nói hay đó ư? Nay bàn nói là không biết ta vừa rồi chẳng phải nay, mà chẳng biết nay ta nên xưa ta. Bậc đạt quán sở dó bằng tử sinh cũng nói tử sinh là tỉnh ngủ, thành thật thay lời nói đó. Thư của Tôn Trường Sa của An Quốc. Xét luận Cánh Sinh, bao gồm biến hóa, tìm tận cùng tan tụ nghó lý đã đẹp lại chỉ mùi vị từ đặt cũng khoái, là Hảo Luận. Nhưng ý tôi còn có đồng khác, vì khiến muôn vật hóa thành khác hình là, chẳng thể thắng số, ứng lý không mất, chỉ ẩn hiển có năm tháng, nhưng nay muôn vật còn ứng nhiều ít có trở lại được hình là không. Duyên tận nên phải mờ xa, tai mắt lại chẳng mở theo, nhưng sau mới trở lại gốc. Tôi cho rằng hình đã tan rã, cái biết cũng như vậy. Tan rã lẫn lộn hóa thành vật khác. Vật khác mỗi mất cũ đó, chẳng phải lại ngày xưa, phải tình đây là sở dó buồn than, nếu vậy thì Túc hạ chưa thể tự yên riêng. Trả lời thư của Tôn An Quốc. Được thử, văn lược chỉ từ, lý cũng gồm tình, tuy vui thanh thù chưa dụ, bèn ôm khư khư chẳng thôi, xin tìm gốc trước, gốc cũng không gọi là vật đều chẳng hóa, nhưng hóa thì đều tự được, sở hóa đó suy đồi cũng chẳng mất thể cũ, ai chủ đào luyện là tráii hỗn tráii, phán lời như vậy cho đến phân mà chẳng thể loạn. Như thế há từ một canh mà thôi ư? Sắp và không cùng mà dài canh. Cuối trở lại đầu, số đó rõ ràng chưa thể biết nay, làm sao biết được canh, bởi chứa buồn quên lời, hỏi cầu chỗ thông, đâu nói chỉ yên tạm để gởi tan mà thôi. <詞>LUẬN THẦN BẤT DIỆT CỦA TRỊNH ĐẠO TỬ Phần nhiều vì hình thần đồng diệt, chiếu thức đều tận. Sở dó như vậy có thể nói ở một đời. Đã lấy Chu Khổng làm cực, nhân nghóa lễ giáo trước kết tâm đó, gốc của thần minh dứt mà không nói, nên chỗ của cảm thể tự hình đã trở lại, Phật xướng lời Chí Ngôn, lơ là chẳng tin, tôi đọa yếu lấp, nghó nhổ vớt đắm chìm, kính tìm huyền chỉ, nghiên cầu thần yếu, ngộ lý tinh ở hình, thần diệu ở lý, gởi tượng truyền tâm, thô cử chứng đó, ngõ hầu soi các nơi sắp ngộ, có công đối với dính mắc lầm hoặc. Hình thần hổn hội, tuy đều tồn tại với sinh, đến như thô diệu nguồn thì có không riêng khác, vì sao nói đó. Hình là năm tạng, sáu phủ, bốn chi, bảy khiếu cùng nhau làm một, nên sở dó làm sinh phải nó thọ sinh thì năm thường khác trao, vì vậy chi thể riêng bệnh, tai mắt lẫn khuyết, không đoạt đó làm sinh, bên trong một hình đó còn như thế, huống chi thần thể linh chiếu diệu gồm nhiều hình, hình và hơi thở đều vận, thần cùng Diệu Giác đồng lưu, tuy động tónh, giúp nhau mà tinh thô khác nguồn, há chẳng phải đều có gốc, nhân nhau làm dụng ư? Gần thì lấy nơi thân liền rõ lý, ngõ hầu có thể ngộ. Chỗ một thể giúp da cốt thì chỗ đau nhức biết, móng tóc thì chỗ dứt, vì sao ư? Há chẳng phải da cốt sở dó làm sinh, móng tóc chẳng phải gốc của sinh ư? Sinh ở gốc thì biết còn, sinh ở ngọn thì biết mất, dụng của một hình còn lấy ngọn làm hưng phế, huống chi thần làm gốc sinh, nguồn đó chí diệu, đâu được cùng bảy thước đồng khô, cửa nhà đều hết đó ư? Suy lý này vậy thì sự bất diệt của thần có thể biết. Khách cật nạn rằng: Biện luận của ông là thần hình tận, tức lấy bên trong của một hình, biết và chẳng biết đều tinh, nhưng hình thần tuy thô diệu khác nguồn đều lấy có làm phần, cho nên là có thì sinh là gốc, đã ai có gốc đã tận mà vốn ở gốc là được còn riêng ư? Phô bày sinh ra thì rõ ràng mờ tận, đã mờ tận thì chẳng phải chỉ không chỗ lập. Nói cũng không chỗ lập là thức, thức chẳng lập thì thần sắp an giữ, đã không giữ làm sao chẳng diệt ư? Đáp rằng: Cật nạn của ông, biện thì biện, nhưng chưa tận gốc các tâm, nên có cật nạn như thế. Phàm, muôn hóa đều có, tươi khô, thạnh suy, tử sinh thay nhau, một hình tận một hình sinh, đây có thỉ chung của sinh, còn như nước lửa thì càng xuyên suốt chúng sinh, trông mà chẳng hết, đâu chẳng phải thể lửa nhân vật, lý nước hư thuận, sinh không tự sinh mà làm chỗ giúp chúng sinh. Nhân tức là công, nên vật chẳng thể cạn kiệt ư? Đồng tại vực sinh, diệu đó như thế, huống chi thần lý riêng dứt, chỗ khí chẳng gần, mà hạn cục lấy sinh phô bày mờ tận, thần không chỗ gửi gắm ư? Do đây mà bàn nói, Thái Cực là mẹ của Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi là gốc của muôn vật, Thái Cực kia là khí của Hỗn Nguyên mà thôi, còn có thể gồm hóa căn này chẳng biến một đó, huống chi thần minh linh cực, có không gồm tận ư? Đó là bất diệt có thể để ngộ ư? Cật nạn rằng: Ông nay thần chiếu ở hình phô bày, chỉ Thái Cực nơi vật trước, thật có nghóa đó, nhưng lý quý ở tâm nhàm chán, sau đó bàn nói có thể rốt ráo. Thần hình chưa từng có lúc nào trái nhau, trái nhau thì không có thần, không có thần của cỏ cây vô thức, nên hình này tận, thần sắp an phụ mà gọi là bất diệt ư? Giả sử có thể bất diệt thì tự trái linh đó chẳng giúp hình. Đã chẳng giúp hình, lý nào làm sinh với hình, trọn chẳng trái nhau, chẳng thể trái nhau thì sinh vốn là đồng, đoán có thể biết. Đáp rằng: Có cật nạn này thần hình có nguồn, xin vì ông theo gốc mà giải thích: Lửa nhân củi mà có lửa, không củi thì không lửa. Củi tuy sở dó sinh lửa mà chẳng phải gốc của lửa, lửa vốn tự nhân củi làm dụng. Nếu đợi củi sau đó mới có lửa, thì trước toại nhân, không có lửa ư? Lửa vốn chí dương, dương là hỏa cực, nên củi là chỗ lửa gửi gắm, chẳng phải là gốc. Thần hình giúp nhau cũng giống như thế. Giúp nhau nhân nhau, là lý do của đường sinh, sao ở có hình thì thần còn, không hình thì thần mất, gốc hốt hoảng chẳng thể nói, xin vì tôi nói rộng loại ấy để hiểu rõ, ngay củi đó ở nước thì lửa tận, ra khỏi nước thì lửa sinh, một củi chưa đổi mà lửa lúc trước, thần chẳng nhờ hình, lại như đây vậy. Thần chẳng đợi hình, có thể ngộ ư? Nạn rằng: Thần chẳng đợi hình, chưa thể chóng nói, y cứ như ông nói, giả sử chẳng đợi hình thì đó cùng riêng chiếu, lý đó thường một, tuy nói giúp nhau mà vốn chẳng tương quan, điều mà lý Phật nói hẳn nắn đúc nên thần đây để cứu giúp hình kia hay sao? Đáp rằng: Câu hỏi của ông là nói có tâm, đây là chỗ cảm của dằng dặc mà chưa kịp gốc đó. Thần tuy chẳng đợi hình, nhưng hình kia sẽ sinh, hình của sẽ sinh, thần đây sẽ ở, hẳn ở hẳn sinh thì chiếu cảm làm một, tự nhiên giúp nhau, tự nhiên giúp nhau thì lý cực ở nắn đúc, nắn đúc cứu giúp thì công còn, công còn thì đạo hành, như bốn mùa đối với muôn vật, đâu có tâm ở cứu giúp nhau ư? Chỗ thuận của lý, chỗ đến của tự nhiên. Cật nạn rằng: Hình thần tuy khác tự nhiên cứu giúp nhau thì kính nghe. Ông đã thí dụ thần đó đối với hình như lửa ở củi, củi không ý ở có lửa, lửa vô tình ở gửi củi, nên năng hợp dùng không cùng, tự cùng hóa trọn chẳng phải lửa của củi này dời đến củi kia, nhưng sau là lửa, lý Phật vì hình này đã tận lại gá vào hình kia. Thần hình đến đi do ở tội phước. Xin hỏi: Hình này làm tội có phải là hình không? Phải là thần không? Nếu là hình thì một vật lớn đúc. Nếu thần cũng là thần thì thần chẳng tự cứu giúp ở hình khác, thì luận của ông hình chẳng giúp nhau ở đây mà vấp. Đáp rằng: Nên có câu hỏi này,, sau đó lý có thể tận, cái gọi là hình thần chẳng giúp nhau, thì đó khác gốc, đã lấy làm sinh, sinh bên trong của sinh đều khắp dụng đó, giả sử dùng sinh này để thành tội phước, thần đâu tự chiếu diệu đó chẳng làm dụng của hình này ư? Nếu như vậy, thì có ý ở hiền ngu chẳng phải quên chiếu mà huyền hội, thu- ận lý huyền hội thuận lý tận hình, hóa thần ở hình, ông chẳng nghi đầu tiên, kia đây một lý mà tánh ở cuối cùng ư? Cật nạn rằng: Thần ngay nơi hình làm chiếu, hình do thần mà làm dụng. Đây thì như vậy, ngộ đã do thần, lầm hoặc cũng ở thần. Thần tùy hình đây nên có hiền ngu, hiền ngu chẳng phải thần, mà thần làm hình dụng, ba đời trùm khắp, muôn kiếp không tính toán, hiền ngu chẳng phải đầu tiên mà công hiển ở giữa đường, không có lý huyền đầu tiên mà công ở giữa đường chưa thuần thục, có công của ở cuối, mà nhổ sợ không có bát đầu? Nếu có vui mừng chung thì theo bụi trần ở sau. Đáp rằng: Ông trách đầu tiên có lời đó, lý không thỉ chung, huyền cực không bờ mé, đã sinh, đã hóa tội phước qua lại, tự nhiên sinh ra. Cái gọi là thông minh, thật do tai mắt, gốc của tai mắt chẳng phải thông minh, cái gọi là hiền ngu thật nên có thỉ. Đã là hiền ngu vô thỉ có thể biết. Hễ có vật thì không thể quản vật, chỉ có không vật sau đó năng làm chỗ vật quy về. Nếu có thỉ vậy thì chẳng thể làm chung, chỉ vô thỉ, sau đó chung thỉ vô cùng, đây tự chỗ lý đó chẳng vậy, chẳng thể nêu có thỉ của sự mà trách thần đồng với sự, thần đạo vời xa, chí lý không lời, phản phất tông đó cùng nhau làm ngộ, từ ngọn nêu gốc, động mất bao gồm, do vậy giữ một quán đây ngõ hầu thềm bậc cao vút, nếu bày biện tranh từ, tôi biết nó dứt. Hồng Phạm nói gốc của sinh, đồng với Phật nói, con như điều Phật nói, thì nhiều như Hà Hán. Đây đắm chìm ở nhật dụng. Thương thần cực nghịch, sau nối dõi nghiệp lớn, Nhan Nhiễm đức hạnh, chết yểu không nghe. Giáo của Chu Khổng tự làm phương nội, suy lý này vậy, đó cũng có thể biết, xin nói rộng chứng để nghiêng cứu cho rõ ràng. Phàm bẩm Linh Nương Hòa, thể rất thuần túy, Nghiêu sinh Đan Chu, Ngoan Hung không rõ, chẳng biết nhân nghóa, việc đó như nay, mà rằng lý Phật là xa vời, có thể chẳng ngộ ư! Hoàn Quân Sơn Tân Luận về Hình Thần (Quân sơn chưa nghe giáo của họ Thích, đến luận hình thần đã bày thí dụ củi lửa, sau lời đó mới mở tối, cùng đó hội nên có lấy đây). Tôi thường qua Cố trần lệnh, đồng phòng quận xã thấy đó đọc sách Lão Tử rằng: Lão Tử dùng điềm đạm dưỡng tánh, đến nỗi thọ mấy trăm năm, nay hành đạo đó, làm sao có thể kéo dài năm tháng chẳng già ư? Tôi liền ứng đáp rằng: Tuy đồng hình danh mà chất tánh tài, cán là đều khác, độ có dáng vẻ mạnh yếu, cứng mềm, ái dưỡng vừa dùng đó thẳng sai hơn, thí như áo giày khí vật mến giữ đó thì hoàn toàn lâu dài, tôi thấy bên cạnh đó có đuốc vừng mà bó đuốc duỗi dài đến một thước, thì nhân dùng thí dụ việc đang nói, tinh thần ở hình thể, như lửa đốt đuốc, nếu khéo giữ gìn tùy theo lửa nghiêng về bên nào mà có thể tắt mà trọn đuốc, đuốc không có lửa cũng chẳng thể đi một mình trong hư không. Lại chẳng thể sau đốt bó đuốc đó, bó đuốc giống như người già răng rụng, tóc bạc da dẻ khô cằn mà tinh thần chẳng vì đó năng đượm nhuần, trong ngoài khắp cùng thì hơi khí hết mà chết, như lửa đuốc đó đều hết, người gặp phải bệnh tà thương mà chẳng gặp cung dưỡng thầy thuốc tốt, là hoặc cưỡng chết, chết thì da thịt gân cốt phải như nghiêng chích gió của lửa mà chẳng được cứu hộ, cũng qua diệt thì da thừa cán lớn. Ban đêm tôi thường ngồi uống, bên trong đốt đuốc, một nửa bó đuốc đè nghiêng muốn tắt, liền tự bảo sữa xem, thấy da đó có bóc khoét bèn giữ cho chuyển nghiêng, lửa bèn độ mà trở lại, thì chỉ thân người hoặc có khuyết bóc gọt quá lắm, năng nuôi dưỡng thận trọng khéo gìn giữ, cũng có thể được độ. Lại người chẳng thể biết lúc mới sinh, thì già và chết chẳng phải tự biết, xưa kia đời Hòa Bình, người dân mong đẹp thạnh mà sinh, đều kiên cường già thọ, đều trên dưới trăm năm mới chết, lúc chết chợt như nằm ra đó, còn quả vật lúa thóc thật lâu già thì tự rơi rụng. Đời sau gặp suy bạc ác khí, cưới gả lại chẳng phải thời, siêng năng khổ nhọc quá độ, là vì thân sinh con đều cùng thương tổn, mà gân cốt huyết khí chẳng sung cường, nên phần nhiều hung dữ nên chết yểu, giữa đường, họ bị bệnh hoặc đau đớn, buồn sầu, sau đó dứt mất, nên than hỏi ganh ghét cho chết là lớn. Nên xưa kia Tề Cảnh Công ngợi ca nước đó, mừng vui nhạc đó, nói là: Giả sử xưa mà không chết thì thế nào? Yếu Tử nói: Thượng đế cho cái chết của người là thiện, bậc nhân thì dứt, kẻ bất nhân thì như vậy, nay chẳng nghó gắng rộng bảo là học tự thông, để hướng đến lập thân nêu danh, như chỉ tham lợi sống lâu, phần nhiều cầu thọ dài thêm tuổi, thì lầm hoặc chẳng hiểu. Hoặc cật nạn rằng: Dùng lửa đuốc dụ cho hình thần, sợ tợ mà chẳng phải, nay da thịt của người lúc bốc lột tổn thương mà tự lành khỏi là bởi khí huyết thông hành, kia đốt đuốc khuyết hoại thương tổn, tuy có lửa ở đó, chẳng thể trở lại hoàn toàn là do thần khí mà sinh trưởng, như đuốc lửa chẳng thể tự bù đắp hoàn toàn, bởi chỗ đó lấy làm khác, mà sao muốn đồng đó? Nên nói rằng: Lửa thì từ một mối khởi, mà thần khí người ở thể phải từ trong ra, chút ít hợp ở ngoài, nếu do ngoài thấm đạt đến trong, chắc chắn chưa hẳn do đầu mối mà đến, thí như đốt đỏ lửa than, như nước quá độ đó cũng giảm chút ít nhưng sau lại sinh, đây cùng như người có khí huyết sinh trưởng da thịt, v.v… trông lại rốt cùng đó hoặc là than, hoặc là bó đuốc, sao ø chẳng thể dụ ư? Về sau tôi cùng Bá Sư ban đêm đốt lửa mỡ cùng ngồi trò chuyện, mỡ trong đèn hết mà cháy rụi sắp tắt, thì lấy đó để bày hiểu, Bá Sư nói: Người già suy cũng như đèn cháy rụi kia, lại vì nói việc đốt đuốc mè ở trước, Bá Sư nói: Lửa đèn hết, phải thêm mỡ để đổi lửa, người già suy thì ngã té tiếp theo, tôi liền nói: Người đã bẩm hình thể mà lập, như kia gìn giữ đèn một ngọn lửa, đến lúc nó hết, làm sao tự hết, được đổi hết; đổi là do người, sự ngã té của người cũng do trời. Trời hoặc vì người khác, da cốt huyết khí giúp cho đầy đủ mạnh mẽ, thì hình thần lâu sinh ác, dứt bặt thương tổn, như lửa đó tùy mỡ, ngọn lửa ít nhiều dài ngắn làm chậm nhanh. Muốn lửa đèn tự thêm, đổi dùng chẳng được, chỉ thúc kiểm mỡ bên cạnh nhuần thấm đầu đó, chuyển nghiêng đốt cán khiến lửa được đứng yên thì đều sáng lại. Đến lúc gốc hết là cũng không thể dùng đốt, nay dưỡng tánh người, hoặc kh- iến cho răng rụng mọc lại, tóc bạc lại đen mượt, sắc da sáng nhuần, như kia thúc mỡ chuyển đuốc là đến thọ cực cũng riêng chết. Người thông minh biết đó khó cầu, nên chẳng dùng tự nhọc, kẻ ngu dốt khinh nhầm mà mong được, thêm mỡ đổi lực của đuốc, nên châm thêm chẳng dứt, lại cỏ cây ngũ cốc lấy khí âm dương sinh ở đất, đến lúc nó phát triển lớn thành thật, thật lại vào đất mà sau năng sinh, như người cùng cầm thú côn trùng, đều do trống mái giao tiếp mà sinh, sinh thì có lớn, lớn thì có già, già thì có chết, như bốn mùa thay đổi vậy, mà muốn biến đổi tánh đó, cầu làm khác đạo, mê lầm đó chẳng hiểu. <詞>LUẬN SA MÔN BẤT KÍNH VƯƠNG GIẢ CỦA PHÁP SƯ TUỆ VIỄN Vua Thành Khang đời Tấn, đời, Xa-ky tướng quân Dữu Băng nghi ngờ các Sa-môn chống lễ, lý mà vạn thừa nói là thế nào. Phiêu Kî có đáp (hai luận gia, đều ở mỗi tại bản tập) cho đến trong niên hiệu Nguyên Hưng, Thái Úy Hoàn Công cũng đồng nghóa này, cho rằng lời nói của Dữu Băng chưa cùng tận, mới gửi thư cho Bát Tòa, nói rằng: Sự hành hóa của Phật tuy lớn, vì mênh mông suy ngoài nghe thấy, lấy kính làm gốc, xuất xứ này chẳng khác, vì chỗ mong cầu có khác, chẳng phải cung kính, nên phế bỏ. Lão Tử đồng Vương hầu ở Ba Đại Nguyên, chỗ đó trọng đều ở chỗ tư sinh thông vận, đâu riêng vì bậc Thánh tại vị mà sánh cân hạn nghi ư? Dẫn lấy đức lớn của trời đất, gọi là sinh, thông sinh lý vật ở nơi vương giả, nên tôn thần khí đó mà lễ thật là lớn, đâu phải hư tướng sùng trạng nghóa hoằng ngự mà thôi, cho nên Sa-môn sinh sống ở nước nhà, cũng thường dùng hằng ngày nơi lý mạng, đâu có thọ đức mà bỏ sót lễ, đượm ân ban mà phế bỏ kính đó ư? Bấy giờ các hàng triều só danh hiền cùng đối đáp rất đông, tuy lúc nói chưa ngộ nhưng đều cùng nhau ngợi khen, không đều hết chỗ nghó nhớ mà lý tích chứa ở tình, bèn khiến cho đạo phục vô thượng hủy bỏ ở trần tục, tâm lượng đáo khuất nơi nhân sự. Buồn thay! Đây mới là lý do của giáo táng, chẳng phải vận ngàn năm, rất lo sợ đạo pháp sắp đắm chìm, mến cảm chẳng quên việc trước, nên soạn thuật luận năm thiên, rốt ráo ý nhỏ nhiệm, đâu nói đợi thần lộ của hang vực, bởi bày võng cực, cũng mong các bậc quân tử sau này hoặc người tôn kính Phật giáo thử xem cho rõ. Thứ nhất: Tại gia. Phật giáo nói điều cốt yếu, lấy xuất gia làm khác. Người xuất gia gồm có bốn khoa, họ hoằng giáo thông vật thì công ngang với Đế vương, hóa gồm đạo trị, còn như cảm tục ngộ thì cũng không đời nào chẳng có, chỉ chỗ ngộ có hành tàng, nên lấy phế hưng làm ẩn hiển. Trong đó có thể được luận là, xin lược mà nói. Tại gia thời phụng Phật pháp thì là dân của thuận hóa, tình chưa biến tục, dấu vết đồng phương nội, nên có ái của thiên thuộc, lễ của phụng chủ, lễ kính có gốc, bèn do đó mà thành giáo bản, sở nhân thì công do ở xưa. Cho nên nhân mẹ dạy dỗ yêu thương, khiến dân biết có ân tự nhiên, nhân cha dạy kính khiến dân biết có trọng của tự nhiên, xưa nay hai điều đó thật do ngầm ứng, ứng chẳng ở nay thì nên tìm gốc, nên lấy tội đối làm hình phạt, khiến sợ mà sau thận trọng, lấy thiên đường làm tước ban thưởng khiến vui mà sau động. Đây đều là báo của ảnh hưởng đó mà rõ ở giáo, lấy nhân thuận làm thông mà chẳng đổi thay tự nhiên, vì sao? Vì hậu thân còn sinh, lấy có bít làm vướng lụy. Rễ sâu hẳn do ta, ngã chưa quên phương, đem lấy tình dục làm vườn uyển, thanh sắc làm dạo xem, chìm đắm vui đời chẳng thể tự khỏi mà đặc biệt vượt ra, cho nên chỗ xem xét của giáo là lấy đây làm bờ mé, chẳng nói rõ bên ngoài, bên ngoài chưa rõ thì đại đồng với thuận hóa, nên chẳng thể thọ nhận đức mà bỏ sót lễ, đượm nhuần ân tuệ mà phế bỏ kính, cho nên người ưa thích phong hóa của Thích-ca thì trước phải thờ phụng cha mẹ mà kính trọng vua, biến tục vất bỏ trâm là hẳn trì mạng mà thuận động. Nếu vua hay cha mẹ có nghi ngờ thì lui cầu chí đó để đợi đồng ngộ. Đây mới là sở dó trọng tư sinh giúp vương hóa của Phật giáo đối với trị đạo. Luận là ý chỉ của lập ngôn, dáng mạo có chỗ đồng, nên địa vị có phân nội ngoại để nói về chí của ở ba, lược thuật ý kinh, tuyên gửi điều ôm ấp. Thứ hai: Xuất gia. Người Xuất gia là khách của phương ngoài, vết bặt nơi vật, đó là giáo, đạt hoạn lụy duyên do có thân, chẳng còn thân thì dứt hoạn. Biết nhiều đời do nơi bẩm hóa, chẳng thuận hóa để cầu tông, cầu tông chẳng do thuận hóa thì chẳng trở lại vốn giúp cho vận thông. Dứt hoạn chẳng do còn thân thì chẳng quý ích lợi của hậu sinh. Lý này trái với hình, đạo này trái với tục. Nếu người này tự thể lúc đầu ở lạc trâm, lập chí hình ở biến phục, cho nên là xuất gia, đều trốn đời để cầu chí, biến tục để đạt đạo, biến tục thì phục chương chẳng được đồng lễ với thế điển, trốn đời thì nên cao chuộng dấu vết. như vậy thì vớt được người đắm tục ở dòng chìm, nhổ căn sâu tối trong nhiều kiếp, xa thông bến ba thừa, rộng mở đường trời người. Nếu khiến một người toàn đức thì đạo trị sáu thân, đượm nhuần thiên hạ, dù chẳng ở ngôi vị Vương hầu cũng đã khế hợp hoàng cực, tại giúp sinh dân, cho nên trong thì trái trọng của thiên thuộc mà chẳng trái hiếu, ngoài thiếu cung kính của phụng chủ mà chẳng mất kính. Từ đây mà quán xét, nên biết vượt ngoài hóa để tìm tông thì lý sâu mà nghóa dốc, rõ thái tức để nói nhân, thì công ngọn mà ân ban cạn. Nếu vậy thì, tuy đem mặt che mờ núi mà xoay bước, vẫn còn hổ thẹn nghe phong cách đó, huống chi là dân của thuận hóa, hiền của thị lộc, đồng cùng hiếu kính. Thứ ba: Cầu tông chẳng thuận hóa. Hỏi rằng: Tìm ý của họ Lão, trời đất láy được một là lớn, Vương hầu lấy thể thuận làm tông, được một nên làm gốc của muôn hóa, thể thuận nên có công của vận thông, nhưng rõ tông thì còn ở thể cực, thể cực thì do thuận hóa, cho nên các bậc tiên hiền cho là lời nói hay, điều các luận chẳng thể khác, khác với các luận đó thì nghóa không có chấp, mà nói là chẳng thuận hóa là sao? Đáp: Do có phương đồng bẩm sinh ở đại hóa, tuy các phẩm muôn sai, tinh thô khác quán, thống cực mà nói chỉ có linh và không linh, có linh thì có tình ở hóa, không linh thì không tình ở hóa; không tình ở hóa thì hóa cuối cùng sinh linh, sinh mà chẳng do tình, nên hình hủ nát mà hóa diệt, có tình đối với hóa, cảm vật mà động, động thì vì tình nên sinh chẳng dứt, sinh chẳng dứt thì hóa càng rộng, hình càng chứa nhóm, tình càng dính mắc là lụy càng sâu, đó là hoạn, làm sao có thể nói hơn ư? Cho nên kinh nói Nê-hoàn bất biến, lấy hóa tận làm nhà, ba cõi lưu động lấy tội khổ làm trường, hóa tận thì muôn duyên dứt hẳn, lưu động thì thọ khổ không dùng. Lấy gì nói đó ư? Sinh lấy hình làm gông cùm, mà sinh do hóa, có hóa do tình mà cảm, thì thần dính mắc gốc đó mà trí mờ chiếu, ngay đó có bít thì chỗ còn chỉ đã xong, chỗ trải qua chỉ có động, từ đó, dây linh mất ngự, đường sinh ngày càng mở, mới tùy tham ái ở dòng dài, đâu môït thọ nhận mà thôi ư? Cho nên trở lại gốc cầu tông thì chẳng vì sinh mà lụy thần. Vượt rơi bụi bít là chẳng vì tình mà lụy sinh, chẳng vì tình lụy sinh thì sinh sẽ diệt, chẳng vì sinh lụy thần, thì thần có thể ngầm thần dứt cảnh, nên gọi là Nê-hoàn. Tên của Nê-hoàn, đâu phải hư cấu. Xin suy tìm sự thật, trời đất tuy lấy sinh sống làm lớn, mà chưa thể khiến sinh là chẳng hóa, Vương hầu tuy lấy tồn tại làm công, mà chưa thể khiến sự tồn tại đó không hoạn. Cho nên luận trước nói: Đạt hoạn lụy duyên do có thân, chẳng còn thân vì dứt hoạn, biết sinh sống do ở bẩm hóa, chẳng thuận hóa để cầu tông, nghóa còn ở đây, nghóa còn ở đây, đây là lý do Sa-môn chống kháng lễ muôn thừa, cao chuộng việc ấy, chẳng tước Vương hầu mà đượm ân ban đó. Thứ tư: Thể cực chẳng gồm ứng. Hỏi rằng: xem qua các sử trước, từ thượng hoàng trở lại tại vị ở tông, chưa từng khác nguồn gốc đó, gốc chẳng thể hai, cho nên trăm đời đồng điển, đều là một thống, cái gọi là chỉ có trời là lớn, chỉ có Nghiêu là đó. Như thế thì chẳng trí có chỗ chẳng chiếu, tự không ngoài chẳng thể chiếu, chẳng phải lý có chỗ chẳng cùng tận, tự không có lý để cùng tận. Lấy đây mà suy thì ngoài sự thấy nghe rỗng rang không chỗ gửi gắm, Lý không chỗ gửi gắm thì tông cực có thể rõ. Nay các Sa-môn chẳng ngộ ý của văn biểu mà mê lầm văn của giáo biếy. Đây là sai nhầm, hẳn đã hoàn toàn mất, nếu lại hiển nhiên có nghiệm đây, mới mong cái nghe của thế gian. Đáp rằng: U tông rộng xa, thần đạo sâu mầu, có thể dùng lý tìm nạn, dùng sự vặn hỏi. Đã giẫm trải nơi giáo thì dùng nhân thời để kiểm, tuy ứng đời đó đủ hơn kém muôn sai, con như khúc thành ở dụng, cảm tức tâm dân mà chung phần đó, phần đến thì dừng chỗ của trí đó chẳng biết, mà chẳng liên quan bên ngoài. Nếu vậy thì chẳng phải thể cực chỗ của đó chẳng gồm, gồm thì chẳng thể đều ngự. Cho nên xưa nói đại đạo là năm biến mà hình danh có thể nêu, chín biến mà thường Phật có thể nói, đây chỉ là thềm bậc khác nhau của phương nội, mà còn chẳng thể chóng bày, huống chi ngoại đó ư? Xin lại suy nghiệm mà rộng đó, để xa loại đó, bên ngoài của sáu hợp có mà chẳng nói là: Chẳng phải không thể nói, mà nói, hoặc trái ngược, trong sáu hợp nói mà chẳng nói, là chẳng phải không thể nói, mà nói, hoặc nghi ngờ, Chí của tiên vương, Xuân Thu Kinh thế nói mà chẳng bàn luận là chẳng phải không thể bàn luận mà bàn luận đó, hoặc loạn. Ba thứ này đều là chỗ mà tai mắt của thân chẳng thế đến được. Lấy làm quan them chốt, mà chẳng liên quan ngoài thấy nghe. Do đây mà cầu ý của bậc Thánh, thì đạo nội ngoại có thể hợp mà rõ. Thường lấy làm đạo pháp và danh giáo, Như lai cùng Nghiêu Khổng, phát rốt ráo tuy khác mà thầm cùng ảnh hưởng, xuất xứ thật khác mà trọn kỳ thì đồng, rõ ràng mà nói, chỉ quy có thể thấy, lý hoặc có trước hợp mà sau trái, có trước trái mà sau hợp. Trước hợp mà sau trái là Chư Phật, Như lai. Trước trái mà sau hợp là, quân vương các đời chưa đến chỗ thể cùng cực. Đây là hạng đó làm sao biết được? Trong kinh nói: Phật có pháp từ thần thông nhiên, hóa vật dùng quyền giăng rộng tùy chỗ vào, hoặc làm tiên linh, chuyển luân thánh đế, hoặc làm khanh tướng Quốc sư Đạo só, các hàng như thế, tại chỗ biến hiện, các vua quân tử chẳng biết là ai, đây là cái gọi là hợp mà sau trái. Hoặc có mới đầu mở sự nghiệp lớn mà công hóa chưa xong, vết có so le nên chỗ thọ chẳng đồng, hoặc mong công ở thân sau, cũng chẳng thể tính toán, tuy ép dẫn vô phương, hẳn về đường có hội, đây gọi là trái mà sau hợp. Nếu nay trái mà sau hợp, thì phỏng bước đường thông đó hẳn chẳng từ bờ mé ở một đạo. Nếu nay hợp mà sau trái, thì Thích-ca và Nghiêu Khổng chỗ quy về chẳng khác, đoán có thể biết, cho nên tự trái mà cầu hợp thì biết lý hội sẽ đồng, tự hợp mà cầu trái thì ngộ, thể cực đó lắm phương, chỉ thấy chỗ chẳng gần của hình, nên lầm hoặc nhiều đường mà kinh sợ, do đây mà quán xét: Đạo trời đất công tận ở vận hóa, đức của đế vương lý cực ở thuận thông, nếu đem đối với giáo riêng bặt, tông chẳng biến thì chẳng được đồng năm mà nói sự hơn kém, cũng đã rõ vậy. Thứ năm: Hình tận mà thần chẳng diệt. Hỏi rằng: Luận chỉ lấy hóa tận làm chí cực, cho nên tạo cực hẳn là trái hóa mà cầu tông, cầu tông chẳng do ở thuận hóa, do đó nêu dẫn quân vương các đời khiến đồng với Phật giáo, giúp cho đến chỗ thể cực hoặc dùng quyền ở thống, đây là chỗ nương gá của Nhã Luận, tự hẳn ở đại thông, cầu đó thật đáng lý thì chẳng đúng, vì sao? Bẩm khí cực ở một đời, đời tận thì tiêu dịch mà đồng với vô thần, tuy diệu vật nên là hóa của âm dương, đã hóa mà làm sinh, lại hóa mà làm tử, đã tụ mà làm thỉ, lại tan mà làm chung, do đây mà suy nghiệm, nên biết thần hình đều hóa vốn không khác thống, tinh thô một khí, thỉ chung đồng nhà, nhà toàn thì khí tụ mà có linh, nhà hủy thì khí tan mà chiếu diệt, tan thì trở lại chỗ thọ ở gốc lớn, diệt thì lại về nơi vô vật, qua lại chung cùng đều là số tự nhiên. Ai làm việc đó? Nếu khiến gốc khác thì khác khí, số hợp thì đồng hóa, cũng là xứ hình của thần, như lửa ở gỗ, sinh đó thì còn, hủy đó thì diệt, hình lìa thì thần tan mà không gửi, gỗ nát thì lửa tàn mà không bám, lý đó như vậy, giả sử phần của đồng khác tối mà khó rõ, thuyết có không hẳn còn ở tụ tan, tụ tan là lâm chung của khí biến, là sinh diệt của muôn hóa, nên Trang Tử nói: Sinh của người là tụ của khí, tụ là sinh, tan là tử, nếu tử sinh là bọn kia khổ, tôi nào lo hoạn gì. Thiện ngày xưa gọi là Đạo, hẳn có vì được đó, nếu quả nhiên như vậy, thì chí lý cực ở một đời, đời tận chẳng hóa, nghóa có thể tìm. Đáp rằng: Thần là gì? Tinh cực là linh, tinh cực thì chẳng phải chỗ mưu tính của quẻ tượng, nên bậc Thánh lấy điệu vật làm lời nói. Tuy có thượng trí, còn chẳng thể định thể trạng đó, thấu cùng u trí đó mà bàn nói, vì thường thức sinh nghi phần nhiều đồng mắt loạn, đó là lừa dối vậy, cũng đã xâu xa. Sắp muốn nói, đó là nói, chẳng thể nói, nay đối với chẳng thể nói lại cùng nhau nương mong, thần là viên ứng vô sinh, khéo tận vô danh, cảm vật mà động, mượn số mà hành, cảm vật mà chẳng phải vật nên vật hóa mà chẳng diệt, mượn số mà chẳng phải số nên số tận mà chẳng cùng, có tình thì có thể dùng vật cảm, có thức thì có thể dùng số cầu, số có tinh thô, nên tánh đó đều khác, trí có tối sáng, nên chiếu đó chẳng đồng, suy theo đây mà luận thì biết hóa dùng tình cảm, thần dùng hóa truyền, tình là mẹ của hóa, thần là căn của tình, tình có hội là đạo của vật, thần có ngầm là công của dời, chỉ bậc triệt ngộ trở lại gốc, kẻ mê lý đuổi theo vật, xưa kia luận đạo là cũng chưa có chỗ đồng xin dẫn nêu để nói, Trang Tử Phát Huyền Âm ở Đại Tông rằng: Đại khối nhọc ta dùng sống, dứt ta dùng chết. Lại cho sinh là sinh y, tử là trái chân. Đây chỗ gọi là biết sinh là đại hoạn, lấy vô sinh làm trở lại gốc. Văn Tử xưng lời của hoàng đế rằng: Hình có chẳng phải mà thần chẳng hóa, dùng chẳng hóa nương hóa, biến đổi không cùng. Trang Tử cũng nói: Giữ hình của phạm nhân mà còn vui mừng, nếu như hình của người, muôn hóa mà chưa bắt đầu có cực. Đây là cái gọi là biết sinh chẳng tận, đối với một hóa mới đuổi theo vật mà chẳng trở lại. Luận của hai ông, tuy chưa rốt ráo thật đó, cũng thường bên cạnh tông mà có nghe. Luận là chẳng tìm thuyết mới sinh mới chết, mà lầm hoặc tụ tan đối với một hóa, chẳng tư duy thần đạo có linh của diệu vật, mà cho rằng tinh thô đồng tận, chẳng đáng buồn ư? Ví dụ lửa gỗ vốn từ Thánh Điển, vì mất lưu thống, nên ngầm dấy chẳng tìm, nên lời theo chìm ở thường giáo, khiến người bàn nói, do đó thành nghi ngờ, vừa rồi giả sử lúc không có bậc ngộ tông thì chẳng biết có rõ của tiên giác, ngầm truyền đó công mất đời chẳng nghe, vì sao? Vì tình số cảm nhau, hóa đó không đầu mối, nhân duyên kín dựng ngầm cùng truyền ghi, tự chẳng phải đạt quán thì làm sao biết biến đó. Xin vì bàn luận xem xét. Vì lửa thật truyền từ củi, như truyền của thần nơi hình, truyền của lửa khác củi, như truyền của thần khác hình, củi trước chẳng phải củi sau, thì biết thuật diệu của chỉ cùng, hình trước chẳng phải hình sau, thì ngộ cảm sâu của tình số, kẻ lầm hoặc thấy hình hủ nát ở một đời bèn cho là thần tình đều mất, như thấy lửa cùng ở một gỗ, cho rằng kỳ cuối đều hết. Đây là do theo bàn luận của Dưỡng Sinh, chẳng phải xa tìm loại ấy. Y cứ Như lai Luận, mượn khiến thần hình đều hóa, lúc đầu từ trời vốn ngu trí tư sinh đồng bẩm chỗ thọ, hỏi chỗ thọ là làm thọ đó ở hình ư? Hay làm thọ đó ở thần? Nếu thọ đó ở hình thì, hễ có hình đều hóa làm thần. Thọ đó ở thần là do thần truyền, thần thì Đan Chu và đế Nghiêu bằng thánh, Trọng Hoa và Cổ Tẩu đồng linh, đó có thể vậy ư? Đó có thể vậy ư? Nếu chẳng thể thì biết gây dựng của ngầm duyên ở kiếp xưa phân định có tối sáng ở hình đầu, tuy linh đều khéo vận, còn chẳng thể biến tự nhiên của tánh, huống chi giáng đây đã trở lại ư? Lấy lý nghiệm đó, thì nêu lời mà có răn, dùng sự mà sánh đó, thì có thể không mê lầm đối với đại đạo. Sau khi luận thành, có khách về ở, giẫm trăng tỏ mà dạo trời xanh, cùng nhau chung nhóm nơi pháp đường, nhân đó hỏi rằng: Kính tìm Nhã Luận, đại quy có thể thấy, gần như không chỗ hở, một ngày thử nghiên cứu lại, bởi chỗ chưa tận cũng ít chấp thuận xử, ý cho rằng Sa-môn đức thức là khác chế của biến tục, danh khí của đạo gia thi vi ở vua cha, hẳn nên lược ở hình kính, nay chỗ nghi ngờ là, giúp mở là nghiệp của khó đến, xa mong là công của hóa biểu, ngầm đượm không công hiệu của hiện pháp. Lại bao mầu nhiệm mà chưa ứng, mới khiến các hàng vương công hiến cúng, tín só khom mình, được ngồi không mà thọ nhân đức, vùi lấp nơi lụy của tính sớm, huống đượm ân tuệ đó, đồng người chê bai ăn chay ư? Chủ nhân giây lâu mới bảo: Xin vì các hiền gần lấy loại này, có người ở đây phụng tuyên thời mạng mà xa thông tục của khác phương chín dịch. Hỏi rằng: Vương giả đang giúp là dùng lương tích hay dùng kiệu phục ư? Đáp rằng: Đúng vậy! Chủ nhân bảo: Loại có thể tìm. Gọi là Sa-môn là gì? Nghóa là họ năng mở sự mờ tối của mông tục, khai tỏa đường huyền của hóa biểu, mới sắp đem đạo gồm quên cho thiên hạ đồng đến, khiến người mong cao nắm đựơc di phong đó, hàng thấm môn đượm vị bến thừa, nếu vậy tuy có nghiệp lớn chưa thành, nhưng xen vết tích vượt độ ù, chỗ ngộ hẳn đã rộng lớn, nhưng công của vận thông, lợi ích của giúp còn, vẫn chưa đáp trả tâm thề ước đầu tiên đó, huống chi đáp nhọc của ba nghiệp ư? Lại người này là hình tuy có đãi tình không gần nương, xem cúng bốn việc cần dùng, như quá của muỗi khỉ trước đó, ban tuệ của bọt bóng đâu đáng nói ư? Từ đó, các người khách mới tỏ ngộ đường ngầm, lấy mở vết làm công, lắng lòng để sạch, rốt cùng làm đạo, mới vui mừng thỏa lòng, ca vịnh mà lui về. Đời Tấn, niên hiệu Nguyên Hưng thứ ba. Năm đó gặp phải chẹt lấp, Thiên Tử mất ngôi, dân chịu trăm điều buồn lo. Tôi đồng chí đều phán của thôi cờ, nên nhân đó mà thuật luận việc này <詞>LUẬN SA MÔN ĐÁP Y BÀY VAI PHẢI CỦA PHÁP SƯ TỰ VIỄN Có người hỏi rằng: Sa-môn mặc y bày vai phải (đản phục) xuất phát từ Phật giáo là lễ điển ư? Đáp rằng: Đúng vậy. Lại hỏi rằng: Ba đời trước khác chế, lễ ấy chẳng đồng, biến của chất văn đầy đủ ở điển trước, mà Phật giáo xuất phát từ bên ngoài, luận là đều có nghi ngờ, nếu có thấu đạt sâu mầu, thì mong dạy răn những điều chưa nghe. Đáp rằng: Dân của Huyền Cổ, Đại Phác chưa thiếu, lễ đó chẳng có văn, ba vua ứng đời, nên cùng thời mà biến, do đó quán xét, chỗ chấp của luận là cách ngôn của phương nội, vì sao biết như vậy? Chỗ không của Trung quốc hoặc được đó ở khác tục, dân đó chẳng dời nên đạo đó chưa mất, vì vậy pháp nước Thiên-trúc, tận kính với chỗ tôn, tỏ thành thật với thần minh tất cả đều mặc y bày vai, cái gọi là rất lắm của nghiêm sức, tuy sách vở ghi chép ngọn ngành truyền đến xứ này, lúc đầu dường như có nghe, Phật ra đời nhân đó làm giáo, rõ chỗ hành chẳng phải bên trái nên ứng bày vai phải. Vì sao? Đem nói sang hèn nên tồn tại ở vị, vị lấy tấn đức thì chuộng tâm sinh của hiền, cho nên Sa-môn vượt danh phần vì trái thời, chẳng lui rồi mà cầu trước, lại chỗ hay khéo của người đều ở bên phải, nếu động chẳng dùng thuận thì gặp việc sinh rắc rối, quá mà năng lại tuy trung hiền còn chưa được, huống chi có dưới so với đây ư? Xin thử nói xem, hình lấy phái trái làm thể, lý dùng tà chánh làm dụng, xưa nay cả hai đều nương theo gốc, vướng rễ chẳng nhổ thì sự chưa thắng, ứng mà hình lý giúp nhau đạo đó, nhỏ nhiệm rõ hay đời quen chưa đổi, nên nêu khó nói mặc y bày vai đã rõ thì hình tùy sự cảm, lý ngộ tâm đó, dùng khí của ngự thuận, bày thể của thành thật, mà tà chánh hai hàng chẳng phải gốc đó, cho nên Đức Thế tôn dùng mặc y bày vai phải, dốc thành thật mà bỏ tà đó, khiến danh thật có đáng kính mạn chẳng tạp, sau đó mở đường xuất yếu dẫn chân tánh ở dòng mê, khiến bậc hiền của ẩn đời chẳng tự dứt nơi vô phần, còn hàng mong đến tới chẳng mê lầm đường mà trải bước, từ đó hạng phục ứng cửa thánh đều trải chánh nghó thuận, khác vết đồng khuôn, kéo dài tố phong mà nghó nhớ xưa cũ, trái bỏ hoa tục rửa tâm, tìm gốc đạt biến tức gần ngộ xa, hình phục thẹn nhau, lý sâu cảm đó, như đây thì tình lễ chuyên hướng tu đó chẳng mỏi mệt, động thì dùng thuận bất chợt hình đó tự cung, đây mới là nhân bên ngoài của Như lai khuyên dụ, gom dấu vết diệu của thô mà mọi người bàn nói chưa dụ, hoặc muốn đổi thay, trái với đạo xưa, sao sâu vậy ư? Hà Trấn Nam cật nạn. Thấy hỏi đáp mặc y bày vai phải chỉ răn gồm nêu điều chưa thành văn ở huyền cổ giúp hình, lý ở gần dụng, khiến kính mạn khác dòng, thức phục đều hết, gần như không liên quan. Đến nơi sở dó nói rõ về thuận, còn có chưa đồng, vì sao? Vì lập bày của nghi hình, do thời mà dùng, vì vậy sự có nội ngoại mới có thể lấy cạn sâu mà ứng, Lý Thích cùng với Chu Khổng, tiệm thế dùng với di tục, ở nhân theo chẳng đồng, hẳn không khác của nghịch thuận thì rõ, nên lão nói binh hung ở phải, lễ lấy tang chế chẳng trái, vả lại tứ đẳng cùng chí của phụng thân, tam khu hiển nhân của vương tích, ở sau cần ý chỉ có thể thấy, sao có thể gửi chí thuận, nơi việc hung mà bày cát, thật ở tang dung ư? Trịnh bá sở dó hở bày thịt cũng như Hứa Nam Kiệu Thẩn, đều do vì cưỡi là nghịch, hẳn chịu phạt của chẳng lường. Lấy đây làm chứng thì thuận sẽ ở đâu? Nên dẫn chỗ nghó tưởng, lại rõ ràng hết, khiến trong ngoài có chỗ về! Pháp sư Tự Viễn trả lời. Kính tìm ý chỉ câu hỏi, bởi nghe đường xa, chỗ chiếu chưa tận, khiến tinh thô đều thuận, trong ngoài có chỗ về, ba lần răn đây, chỗ ngộ rất nhiều, thường lấy làm đạo răn đó cùng danh giáo, Thích-ca và Chu Khổng, phát đặt tuy khác mà thầm cùng ảnh hưởng. Xuất xứ thật khác mà cuối kỳ thì đồng, chỉ vết diệu ẩn nơi thường dùng, chỉ quy mờ tối mà khó tìm, bèn khiến chí ngôn cách vời thế điển. Người bàn nói phát khác đường với luận. Vì sao biết đó? Vì bậc Thánh mác móc để bỏ đó lắm, thuận bốn mùa để phân biệt phiền đó, lễ của ba khu mất cầm trước mà chẳng lận, lập bày của lưới tội hẳn đợi hóa mới dùng, thượng cực hành vi ở nhân. Nội diên Thích-ca ở từ, khiến thiên hạ bằng mình, vật ngã đồng quán, thì hợp gồm ở một, đâu có liên quan ở hơn kém mà chẳng phải cùng nhau ư? Nhưng từ dấu vết mà tìm, như đại đồng ở gồm ái, xa cầu thật đó thì thềm bậc sai có phân, chỗ chung của bên ngoài phân, chưa thể nói hơn, nên tạm đây để tấn đức, khiến sự hiển bày ở vua cha, theo đây mà quán xét, thì giáo nội ngoại có thể biết, tình của thánh có thể thấy, chỉ đường về chưa mở, nên vật chẳng biết, nếu chấp thuận đó như đây thì nghóa lý của mặc y bày vai phải chẳng cho nghi ngờ, lại bảo sao gọi là nên rõ ràng hết, nên trở lại xét thuật bản hoài, vốn hóa của hình, âm dương nắn đúc nhận thể của phải trái, tối sáng thay vận, có thuyết của tử sinh, nhân tình đều vui, sinh mà sợ tử, thích tiến mà ghét lùi, cho nên tiên vương đã thuận tánh dân, vỗ về tự nhiên, khiến khác chế, phải trái khác vị, do đó, việc lành chuộng bên trái tấn tước vì hậu sinh đó, việc dữ chọn bên phải, dáng buồn vì hủy tánh, đây đều vốn chỗ thọ nhận, nhân thuận vì thông giáo, cảm nơi sự biến nghó nhớ tiên đức, chỗ quý của đời là chẳng qua sống còn, sống còn mà co duỗi, tiến lùi đạo tận ở đây, ứng của cạn sâu ở đâu ư? Sa-môn thì chẳng phải như vậy. Thân sau lùi mình mà chẳng ganh hèn kém, thời đến chẳng phải ta, mà từ nhục, hèn kém, vì tự chăn dắt gọi là khiêm nhường, ở chỗ ganh ghét của nhiều người gọi là Thuận. Nhường thuận chẳng mất gốc, thì công của ngày tổn dễ chưa nhóm. Đường xuất yếu có thể bước đi, cho nên theo đợi bỏ sót vinh, trái tục mà động, động mà trái tục là cùng bậc hiền của phương nội, tuy dáng mạo đồng mà thật khác, làm sao rõ đó, phàm ở xuất gia là đạt hoạn lụy duyên ở có thân, chẳng còn thân vì dứt hoạn biết sinh sống do ở bẩm hóa, chẳng thuận hóa vì cầu tông, suy nghiệm đây mà nói hẳn biết phát chẩn đường về là chẳng vì sinh lụy thần đó, vượt rơi việc đời là chẳng vì tình lụy sinh đó, chẳng vì tình lụy sinh đó thì sinh sẽ dứt, chẳng vì lụy thần đó thì thần sẽ thầm, nhưng chỗ vừa rồi gọi là lành dữ thành lễ, phụng đích thân thờ vua, bởi là lời nói của một vức, chưa mới đầu ra nơi có bít, có bít chưa ra thì là ngu khờ, văn đó chưa đạt biến. Nếu vậy mới sắp kẹt danh giáo vì theo sinh, nương muôn hóa mà trái tông, tự chí thuận mà quán xét, được chẳng gọi là nghịch ư? Tạm đời đó cùng di tục chỉ còn ở đây. <詞>LUẬN VỀ BÁO ỨNG CỦA PHÁP SƯ TUỆ VIỄN Hỏi rằng: Kinh Phật cho rằng sát sinh là tội trọng địa ngục phạt đây. Minh khoa u ty ứng như ảnh hưởng. Tôi có điều nghi, vì sao? Vì thể của bốn đại tức địa, thủy, hỏa, phong, kết mà thành thân, lấy làm nhà thần, nương sinh gá chiếu bến thỏa minh thức, tuy gá đó để còn mà lý ấy thiên dứt, đâu chỉ giữa tinh thô, hẳn cũng không chốn thọ thương, diệt đó đã không hại ở thần, cũng không do diệt nước lửa trong trời đất. Lại hỏi: Tâm của muôn vật, ái dục rất nhiều, chỉ riêng ta có sự sâu xa của tónh lự chính mình. Nếu nhân tình đặt để, báo nương cảm sinh, ứng thì đạo của tự nhiên, chỗ nào nương gá ư? Đáp rằng: Ý cho rằng hai điều nay là quan kiện của lại hỏi, tân yếu của lập ngôn, tân yếu đã rõ, thì các nghi ngờ đồng mở tan, lúc đầu giẫm đến dòng, hoặc nhân đây để ngộ có thể là sáng tỏ kẹt tình ở bên ngoài thường thức, phát xướng lạ ở trước khi chưa nghe, nhưng Phật giáo sâu mầu, lời sâu xa khó nói. Giả sử chưa gần chỉ quy thì làm sao có thể thỏa sướng u trí, phải là nương cạnh đại tông, thử nói chỗ nghó nhớ, suy nêu tánh của bốn đại để rõ gốc của thọ hình, thì mượn nơi khác vật gá làm đồng thể, sinh như bỏ sót bụi trần, sanh diệt một hóa, Đây là chỗ vào tuệ quán, chỗ dạo mà chẳng phải ngã, ghé các hình nơi mộng lớn, thật ở có mà đồng không, đâu lại có bít chỗ thọ nhận, có hệ thuộc ở chỗ biến ư? Nếu lý này tự được ở tâm mà vật bên ngoài chưa ngộ thì buồn riêng thiện đó không có công, cảm tiên giác mà dấy lòng, từ đó nghó mở mang đạo để nói dạy răn, nên đức của nhân thứ còn vậy. Nêu ta người đồng được tâm không hai đối, dạo mũi nhọn thì hết sạch một huyền, trông nhìn giao binh thì chẳng nghịch gặp nhau, thương tổn đó đâu chỉ không hại ở thần, hẳn cũng vô sinh có thể giết, đây thì Văn- thù đè kiếm,vết nghịch mà đạo thuận, tuy là suốt ngày khua giáo múa nhọn mà không đất. Nếu vậy là mới sắp gá cổ vũ để tận hình, vận can nhung mà thành hóa, tuy công đủ khắp mà không thưởng, nào có tội phạt đó ư? Nếu trái với đây mà tìm nguồn, thì báo ứng có thể được mà rõ, suy nghiệm sự mà cầu tông, thì tội phạt có thể được mà luận, từng thử nói đó là, chỗ của nhân duyên, chỗ sinh của biến hóa, đâu chẳng do đạo ấy ư? Vô minh là vực thẳm của lưới mê hoặc, tham ái là dinh phủ của các lụy, hai lý đều dạo ngầm mà thần dụng, lành dữ hối lận, chỉ có động này, không dụng che chiếu đó, nên tình tưởng ngưng trệ ở vật bên ngoài, tham ái chung tánh đó, nên bốn đại kết mà thành các hình, kết thì ta người có bít, tình vướng thì thiện ác có chủ, có bít ở ta với người thì riêng thân đó mà thân chẳng quên, có chủ ở thiện và ác, thì biến sinh đó sinh mà chẳng dứt, từ đó cam chịu ngủ giấc mộng dài, mờ tối chỗ mê, ôm nghi ngờ đêm dài, chỗ còn chỉ có mê đắm, cho nên mất được cùng suy, họa phước theo nhau, ác chứa mà ương trời tự đến, tội thành thì địa ngục phạt đây. Đây mới số của hẳn nhiên, không chỗ dung chứa nghi ngờ. Vì sao? Hợp đó có gốc thì lý tự ngầm đối, triệu đó tuy nhỏ, thế cực thì phát, cho nên tâm lấy thiện ác làm hình tiếng, báo lấy tội phước làm ảnh hưởng, gốc lấy tình cảm mà ứng tự lại, đâu có u ty do ngự mà mất đạo. nhưng ứng của tội phước chỉ chỗ có cảm, cảm đó là vậy, nên gọi là tự nhiên, tự nhiên tức là ảnh hưởng của ta, ở bậc chủ tể, nào có công gì ư? Xin tìm cốt yếu của câu hỏi mà nghiệm đó ở thật, ý chỉ cật nạn hoàn toàn chấp thuận địa thủy hỏa phong kết thành thân, lấy làm nhà thần. Đây tức nhà của chủ. Hỏi chủ đó ở nhà là có tình hay không? Nếu nói không tình thì kết của bốn đại chẳng phải chỗ cảm của chủ nhà, nếu vì cảm chẳng do chủ nên ở chẳng vì tình, thì ở nhà của thần không tình chẳng biết đau nhức. Thần đã không biết nhà, lại không đau nhức, lấy tiếp vật thì là phát cỏ cắt rừng dụ cho vô minh ở nghóa. Nếu thật có tình, thì kết của bốn đại là chỗ cảm của chủ. Nếu vì cảm do chủ nên ở hẳn là tình, thì ở nhà của thần chẳng được không biết đau nhức. Thần đã có biết nhà lại không đau nhức, vì tiếp vật nên dụ đốn chặt cỏ cây là vô minh đối với nghóa. Nếu quả hữu tình kết bốn đại là do chủ chiêu cảm, nếu chiêu cảm là do chủ thì phải có tình, cho nên thần nương gá không được chẳng biết đau, thần đã có biết nương gá, lại bị đau ngứa, vì tiếp vật nên chẳng được đồng với thủy hỏa trong trời đất là rõ. Nhân đây để bàn nói, phàm thần hình tuy khác, cùng nhau mà hóa, trong ngoài thật khác, lẫn lộn làm một thể, tự chẳng phải đạt quán thì đâu được ngằn mé ư? Giả sử chưa được thì thắng lâu thắng mê. Bẩm hình thọ xúc chẳng phải đều như thế. Thọ đã vậy, đều lấy riêng biến làm kẹt, kẹt rễ chẳng nhổ, thì sự sống càng chắc, nguồn ái chẳng dứt thì gìn giữ đó cũng sâu, lập bày một lý nghịch tình, khiến tâm mê loạn, huống chi khắp thể đều mất ư? Cho nên đồng nghịch nương nhau, cùng sinh lỗ thu, họa tâm chẳng ngầm thì gây oán chẳng dứt, giả sử lại khi rốt cùng chịu não, tình không sót hận, hình tiếng đã dính mắc thì ảnh hưởng tự bày. Lý không hẹn trước, thường hợp khiến vậy, tuy muốn trốn lánh, có thể được chăng? Đây thì nhân tình đặt để, báo nương lầm hoặc sinh ứng, nhưng yếu chỉ của lập ngôn vốn khác, nên hội đó chẳng đồng. Hỏi rằng: Nếu vì vật tình trọng sinh chẳng thể nói trí táng, thì lý do của sinh tình là hoặc của tư biến. Nên dùng đạt quán để rõ, dùng đại phương để hiểu, đâu được y cứ mê trệ để làm đối của báo ứng ư? Đáp rằng: Phàm, sự khởi thì do ở tâm, báo ứng thì do ở sự, cho nên tự báo dùng quán sự mà sự có thể biến, nêu sự thì trách tâm, mà tâm có thể phản, suy nghiệm đây mà nói, thì biết bậc Thánh do mê trệ đó đẻ nói đối của báo ứng, chẳng y cứ mê trệ đó lấy làm đối của báo ứng, vì sao? Vì người cật nạn mà tỏ ngộ thì ngày đó lâu xa, vì thế Phật giáo vốn có lý do mà dạy răn thì có dần dần, biết thói quen lâu ngày khó phế bỏ ngay,nên trước lấy tội phước để chỉ bày, tội phước chẳng thể đều quên, nên khiến quyền có khinh trọng. Khinh trọng quyền ở tội phước, thì nghiệm thiện ác ở nhà tâm, thiện ác dính mắc ở riêng biến, thì dùng vật chung để suy ta, hai lý đều hoằng tình, không chỗ hệ thuộc, nên năng Tôn Hiền, dung chúng thứ mình, thí an, xa tìm báo của ảnh hưởng, để giải thích mê qua lại, mê tình đã giải thích, sau đó lời của đại phương rất dễ hiểu, lụy của bảo sinh có thể dứt, phàm sinh lụy là tuy trung hiền con chưa được, há chỗ của thường trí thấu đạt ư? <詞>LUẬN VỀ BA BÁO CỦA PHÁP SƯ TUỆ VIỄN (Vì người thế tục nghi thiện ác không có hiện nghiệm nên soạn ra bài này). Trong kinh nói: Nghiệp có ba báo: Một là hiện báo; hai là sinh báo; ba là hậu báo. Hiện báo là thiện ác mới ở thân này thì thân này chịu, sinh hóa là đời sau mới chịu, hậu báo là trải qua hai đời, ba đời hay trăm đời, ngàn đời sau mới chịu, sự nhận chịu đó vốn không có chủ, là do ở tâm. Tâm không nhất định ty, cảm sự mà ứng, ứng có chậm nhanh, nên báo có trước sau, trước sau tuy khác, nhưng đều tùy chỗ mà thành đối. Đối có mạnh yếu, nên khinh trọng chẳng đồng, đây mới là thưởng phạt của tự nhiên Đại lược của ba báo. Nếu chẳng phải bậc thông tài đạt thức nhập vào cốt yếu thì ít được môn đó. Hàng đây rồi trở lại, hoặc có mới đầu giẫm trải phương lớn, lấy ngộ trước làm kỳ quy, bao gồm nội tịch trở lại ba góc ở chưa nghe. Thầy bạn nhân tượng tập để dời tánh, sai đó thể được mà nói, xin thử luận đó. Phàm hứng khởi thiện ác do nó có dần dần, dần dần dùng ở cực thì có luận của chín phẩm, ở chín phẩm thì chẳng thuộc về hiện báo, nhưng hiện báo dứt hẳn loại thường có thể biết. Loại chẳng phải chín phẩm thì chẳng thuộc về ba báo. Vì sao? Nếu lợi hại giao nhau trước mặt mà chóng khuynh đoạt nhau, thần có tự vận, chẳng đợi tư lự mà phát, phát chẳng đợi tư lự, thì báo chẳng theo gót mà ứng, đây là một góc của hiện báo, dứt hẳn chín phẩm. Lại ba nghiệp khác thể, tự đồng có định. Báo định thì thời đến phải chịu, cầu nguyện chẳng chuyển dời được, chỗ miễn khỏi của trí lực, đem suy mà cùng cực, thì nghóa sâu số rộng chẳng thể rõ ràng, rốt ráo. Nên nói lược tướng đó, hạng tham hoài Phật giáo vì có người được đó, ở đời hoặc có kẻ chứa điều thiện mà ương họa kéo đến, hoặc có kẻ hung tà mà lại lắm an vui, đây đều là hiện báo chưa đến mà hành trước mới ứng. Nên nói: Trinh tường gặp họa, yêu nghiệt được phước, nghi ngờ tợ hiềm đó là ở tại đâu. Làm sao nói ư? Hoặc có người muốn giúp chủ cứu thời, đạo giúp sinh dân, định bước vết cao, chí ở lập công, trong cơ nghiệp lớn mà trời nghiêng ương họa chóng tới. Hoặc có kẻ chậm rãi hành môn, không muộn phiền thế sự, lấy bước an nhàn làm vui dạo trọn đời, mà thời đến không vọng, chẳng gặp được vận, đời đạo giao nhau nơi nhàn tập, hoặc có hạng danh trùm bốn khóa. Đạo ở nhập thất, toàn mến thể nhân, kính mến bậc thượng thiện để tấn đức, chính như người này. Ngậm xung hòa mà mắc bệnh, giẫm tin thuận mà chết trẻ, đây đều là ngang trái của lập công lập đức, biến chỗ của hiềm nghi để sinh. Đại nghóa đã rõ, nên tìm đối đó, đối đều mỗi có gốc, đợi cảm mà phát, nghịch thuận tuy khác, đạo đó là một, vì sao? Vì thế của nương định là ở xưa, minh phù cáo mạng ngầm cùng đổi nhau, nên khiến khí của họa phước giao rụng nơi sáu đường, báo của thiện ác khác bày ở hai hàng, là khiến lúc sự ứng, ngu trí đồng lầm, nói là chứa nhóm điều thiện không an vui, chứa nhóm điều ác không ương họa, cảm thần minh mà buồn những đều phải gặp, xót thiên táng ở người thiện. Đều gọi là tận cùng của danh giáo không tông ở trên, trên khiến đạo lớn che mờ ở thành nhỏ, dùng chánh ngôn làm khéo dụ, ứng tâm cầu thật th không có chí lý ở đây, vì lý do đó, do dị điển ở thế gian lấy một đời làm hạn, chẳng nói bên ngoài, bên ngoài chưa rõ, nên tìm lý là tự rốt cùng bên trong nói thấy nghe. Tiên vương này tức tâm dân mà thông phần, lấy tai mắt làm then chốt, như nay hợp đạo trng ngoài để cầu tình của hoằng giáo, thì biết lý hội sẽ đồng, chẳng lầm hoặc các đường mà nghiệm khác, nếu năng nhìn ba báo để quán phần của cùng thông, thì Ni Phụ đó chẳng đáp Trọng Do, Nhan Nhiễm đối thánh tượng mà như ngu, đều có thể biết. Cũng có duyên khởi mà duyên sinh pháp tuy dự vào sự rõ ràng của đế, mà bỏ sót mến ái chưa quên, như lấy ba báo làm Hoa Uyển, hoặc đạp mà chưa lìa nơi vực thẳm. Suy nghiệm đây để quán xét, thì biết có khách của phương ngoài, phục ứng Diệu pháp, tẩy tâm huyền môn, một khi cảm đến thì vượt lên giai vị trên, hàng lớp như thế, ương họa trước tuy chứa nhóm, công chẳng ở trị lý thì tự an tiêu, chẳng phải chỗ hợp của ba báo, do đây mà nói, chỗ kinh Phật lấy vượt danh giáo dứt chín dòng, há chẳng sớ thần đạt yếu đúc linh phủ cùng, nguyên tận hóa soi xét muôn tượng ở nơi không có tượng ư!  <卷>QUYỂN 6 Luận Thích Ngự của Pháp sư Đạo Hằng. Luận Chánh Nhị Giáo của ngài Tăng Thiệu đời Minh. Chu Diệm Ngung cật nạn luật với Trương Trưởng Sử Dung. Luận Chiết Di Hạ của Tạ Trấn Chi. **** <詞>LUẬN THÍCH NGỰ CỦA PHÁP SƯ ĐẠO HẰNG Vào niên hiệu Nghóa Hy đời Tấn, như nghe hai bậc Hiền Viên và Hà ở Giang Trái đều thương lược trị đạo, phỏng thích thời chính, tuy chưa thấy văn ý đó dường như nương bên cạnh bút chẳng phải thiên của Ngũ Đố, bèn cười chê thiếu sót của đời, phát luận ngũ hoạnh, mà Sa- môn vô sự bị rơi vào lệ đó, tội sợ lúc lòa mờ thì tình, đắm hẳn tà hoặc, chẳng thắng nổi chí tức giận, nên bày luận chủ khách để giải thích. Có quân tử thúc giáo ở Đông kinh cật vấn người nhà quê ngạo tán ở Tây bỉ rằng: Tớ từng dự nghe Phật pháp cao sâu, chẳng phải chỗ bàn nghị của danh giáo, đạo phong cao xa chẳng phải chỗ phỏng theo của khí tượng, thanh hư nhàn thắng, chẳngliên quan đến hạng biết gần, khéo dứt các phải chẳng phải chỗ so lường của thường tình, nên luôn là chỗ tôn sùng của các vua đương thời, là chỗ kính ngưỡng của hàng quý đạt. Do đó các bè bạn như sấm tuôn đồng hướng đến, đều tán vịnh xưng thuật tốt lành rằng: Như nhuận thấm phong lưu thì tinh nghóa nhập vi, nghiên cứu lý vị thì khéo khế thần dụng, quét bụi dơ trong cõi lòng, thoát gông cùm ở hình biểu, vượt tục lụy nơi lưới lồng, xa việc đời mà cao đạp, luận về Chân tố thì Di Tề không hơn tiết tháo đó, bỏ vinh sủng thì Sào Hứa chẳng thể hơn chí khí đó, nếm vị huyền chỉ thì Nhan Nhiễm không tham dự phong cách đó, dứt rối dơ thì thông kiểu chẳng thể so sánh sự thanh khiết đó, tin như chỗ làm nói thì nghóa không liên quan, nhưng nay thấy các Sa-môn đều chẳng có tài đó, hạng ở hổn tạp chưa thấy đẹp lạ, lẫn như Kinh Vị gợn sóng, sạch như Huân Du đồng tráp, nếu nguồn trong thì bến dòng sẽ đẹp, rễ sâu thì cành nhánh tốt tươi, khảo xét ngôn hành đó mà đầu cuối chẳng thường, cứu xét gốc ngọn đó gần như không có hiệu nghiệm, cho nên sự quái lạ của tôi tớ là do đây, như quên trí của hoàng đế, không còn sức mạnh của cứ lương đều ở khoảng của bệ lô nắn đúc để thành bậc Thánh. Nếu đạo chẳng hư hành, tài phải ứng khí, nhưng Sa-môn đã xuất gia lìa tục cao chuộng chí đó, trái thân thiên thuộc, bỏ trọng vinh hoa, hủy sự tô điểm của hình hảo, giữ giới cấm thanh tiết, nghiên tâm chí lý thuộc mình, chỉ pháp đặt chân, ăn chay mà thôi, khiến đức hạnh cao vời, được thời tôn ngưỡng nghi dung, ấp túc làm khuôn phép cho chúng sanh nhưng gặp việc thì quay lưng, không gặt hái được một điều gì làm sao nương gá chcao xa mà nghiệp còn xấu gần, còn như doanh cầu chăm chăm cấp, không tạm ngưng nghỉ, hoặc đào xới ruộng vườn như hàng nông phu, hoặc buôn bán đổi chác tranh lợi với mọi người, hoặc gắng cậy y đạo khinh làm lạnh nóng, hoặc cơ xảo dị đoan để giúp nghề nghiệp nuôi sống, hoặc xem tướng rỗng vọng, Luận chép tốt xấu, hoặc dối đạo giả quyền, phải bắn thời ý, hoặc gom nhặt chứa nhóm dung dưỡng có thừa, hoặc chỉ tay nói rỗng, ngồi ăn của trăm họ, đó đều là đức chẳng xứng phục, hạnh nhiều trái pháp, tuy tạm có một điều thiện cũng đâu đủ để nêu điều tốt đẹp cao thắng ư? Tự có thể vì một phong tục mà phế bỏ, đây đều không ích lợi đối với thời chính, có tổn hại đối với trị đạo, là chỗ bệnh sâu xa của hạng chấp pháp, chỗ có hoạn nạn lớn của nước nhà, vả lại ở đời có năm sự ngang trái, mà Sa-môn là một trng đó. Làm sao biết đó? Là bày phương tiện lớn cổ động ngu tục, một thì dẫn dụ, một thì bức hiếp rằng: Làm ác sẽ có ương họa nhiều kiếp, tu thiện sẽ có an vui vô cùng, luận tội thì có dò xét của u minh, nơi phước thì có cứu hộ của thần minh, cố gắng dẫn dắt khuyên răng hành nhân mà chẳng thể hành, cưởng bức gắng làm việc người chẳng thể làm, trên giảm dưỡng của cha mẹ, dưới tổn phần vợ tớ, hội đồng sự ngọt ngon của tận hào thiện, chùa miếu đẹp đẽ tráng lệ, cắt trân ngoạn của sinh dân, sùng hư phí của vô dụng, hết của chứa nhà riêng, thiếu tư thật của Quân Quốc, bày tiếng rỗng đến tương lai, đồ tượng không ở chưa điềm, nghe lời đó thì vời vợi mà đầy tai, nhìn dáng đó thì lạc lạc mà tràn mắt, khảo hiện sự để cầu trưng và chưa thấy nghiệm chân, cái gọi là buộc ảnh bắt gió chẳng biết đầu mối, thật chỗ của tình tớ chưa an, có chỗ của thức giả lầm hoặc lớn, nếu có vui tin xin tiếp hạ phong, nếu có tạm thì trọn hẳn dính mắc đó, chủ nhân bùi ngùi nghe vậy xót xa thở dài than rằng: Ôi! Lạ thay điều ông nói đó, sao thấp hèn vậy? Phàm hạng thấp hèn chẳng thể vì nói đại đao dính mắc ở hình, kẻ khắc só chẳng thể vì nói tông cực là hạn cục ở danh ấy. Nay sẽ vì ông mà lược nêu một góc, tự có thể suy nghó lại tông đó. Bởi bậc Thánh lập giáo ứng khí, theo pháp nhận lượng, có hạn nên giáo hóa thì dùng tiệm, ghi thiện tâm ở đầu mảy lông, quên bỉ lận nơi gò đống, thực hành chút điều thiện để giúp thân, mãi mãi, phước trong một niệm trọn làm thần dụng, mới khi giẫm một chiếc chiếu chẳng thể tránh lấy làm công của núi, vừa vào tuyệt cảnh chẳng trúng cùng lấy thật của bó bao, nhưng sở dó biển gọi là lớn, do không có cái trong của lắng sạch, Đạo sở dó gọi là mờ vết vì không quán rực sáng, phàm oán thân uyển biến có chỗ dính mắc của tâm, mà Sa-môn xả bỏ như cởi giày rách, danh vị tài sắc là chỗ coi trọïng của tình đời, mà Sa-môn xem đó như cặn bã, có thể gọi là chỗ người nhẫn chẳng thể bỏ, đây mới là nhã thú của tiêu thượng, việc tốt đẹp của hoằng đạo, mà nói là thường, hóa chẳng phải chỗ gọi là tiêu thật ư? Vả lại, chí nghiệp chẳng đồng quy hướng trái đường, đường này phân vết, chẳng cùng lãnh ngộ, chưa thấy đẹp lạ cho nên thích nghi. Người xưa thường than tài là nạn, rất là đáng tín! Chu Hiệu lắm só loạn thần mười người, đời Đường Ngu hưng thạnh niên hiệu Nguyên Khải hai tám, cửa khổng ba ngàn, đều là người tài giỏi trong nước, của Hải nội, chọn sung vào bốn khoa, số chẳng đầy mười, trong đó Bá Ngưu phế bệnh, hồi thì sáu cực, thương thì keo lận, tứ thì buôn bán, Dư cũng khó điều, Do thì hung dữ, cầu cũng tụ liểm, nhậm chẳng xứng chức, Trọng Cung tuy mặt đỏ bừng ra nơi sắc cày mà cả đời suy đức, làm tông của nhân luân, khâm chuộng khuôn phép, làm tiêu biểu của tấn thân, trăm đời vịnh Sa-di phong, ngàn năm kính ngưỡng cảnh hạnh, đến nơi Sa-môn mới khổ cùng bóc tiết, tàn khốc cùng ngói sỏi, đó há đạo của quân tử mở mang, là luận của nhã chánh ư? Đây do người lầm, hoặc vào làm phường trộm cắp, chẳng xứng xảo diệu của chỉ nam, chỉ cười chê tổn thương tay của kẻ vụng, rất đáng gọi là phục ứng hạ lưu, chí còn hèn kém xưa kia thừa tướng hỏi khách, ở đời nói chim si kiêu ăn thịt mẹ, có thật không? Khách đáp: Chỉ nghe quạ hiền mớm mồi lại cho mẹ! Tướng bèn buồn bã tự thẹn, nói nay ông xử tâm sắp không tợ hỏi của tướng. Quân tử bỏ ác bày thiện, trái đó gọi là gì? Lai nói đặt chân mà an, vả lại rừng hoang tiêu điều, mỗi lúc có hoạn giặc cướp, cạnh thành ra vào động mắc cười chê của giao du, xử thân chẳng phải chỗ thì chuốc lụy phong trần. Bà-sa Điền lý thì phạm luận của nhân gian, hai ba không thể tiến lùi chỉ lỗi, vũ trụ tuy rộng chẳng biết chỗ để, lại nói: Ăn rau cỏ mà thôi, nhân gian có thiếu thốn chẳng giúp, núi đầm không chứa để tích nhóm, mới nên lấy cấp lại dùng pháp nương đó, chỗ vừa rồi cửu chiết ở đâu mà được lập. Nếu rành rành đời thánh mà có đói của Thủ dương, phàm rõ ràng thời yên mà có chết của xuống biển, khách ở nhã hoài thế nào, nhưng thể không lông cánh chẳng thể bày vai mà không y phục, bụng cũng bầu dưa chẳng thể buộc mà chẳng ăn, từ chưa tạo cực, phải có chỗ giúp. Năm được mùa thì lấy đủ ở trăm họ, lúc khó khẳn thì dốc sức để tự cung cấp, thật chẳng phải việc thích hợp nên chẳng được thôi, nên rắn độc cắn tay thì cắt bỏ để cầu toàn, suy nghiệm khinh trọng, bởi còn mạng lá quan trọng, tuy tạo dựng một mình mà chẳng cầu không được, cầu đó không hẳn là một đường, chỉ nêu cứu giúp, có lý cũng đâu hiềm ghét, nhiều nơi cho là phiền dơ, muốn sai khiến chẳng được vọng động, vì sao quá chấp vậy? Xưa kia, Bá Thành đích thân cày cuốc để trồng tỉa, cày bừa để tu nông, Đào Chu buôn bán để sinh sống, ở gò tưới rau để tự cung cấp. Thôi Văn bán thuốc để tiếp thiếu thốn, Quân bình bói quẻ để bổ bù không, Trượng Hành thuật số để nổi tiếng, Mã Quân kỳ xảo để sính công, cá vị đó chính là người trái tục trốn đời, chưa chánh kiến mà có xa vời, dứt trần cách vật như trời với đất mà đều cùng thán vịnh chẳng ngưng, nhưng trong Sa-môn vết vượt các thiếu thốn xấu hổ cùng dòng, động có muôn số đến nơi thể đạo, thần hóa nêu vượt người bít chẳng thể tính kể, mà chưa từng nói: Thế nào là bè đảng đó? Nên cùng tư duy so sánh sự thật, chẳng thể xưa nay khác luận, nhiều ít khác từ hiếm chọn làm quý, lờn nhiều khiến thấp hèn, sợ chẳng phải bàn nói để cầu tinh xét lý. Nói tự có thể dùng một phong tục phế bỏ, là nói gì ư? Bậc Thánh chẳng lừa dối mười nhà, ba người trong đó hẳn có thầy trò, phương lan đều tươi tốt mà muốn chất cao đốt đó, chẳng phải bạo ư? Trong đó tự có đức trùm sâu xa, khí nêu thời vọng, hoặc kiều sở ngao, khiết gá nghó xa trong, hoặc thiền tư nhập vi lắng thần dứt cảnh, hoặc bày diễn lời mầu, tán thích u trệ, hoặc siêng năng phước nghiệp khuyến hóa làm điều lành. Về Căn bản của việc xuất gia, ngày cạo tóc vất trâm, tâm miệng riêng thệ tình rất khẩn chí, tuy sinh tử càng dài, đường huyền xa vợi, phải tự cố gắng bước lên thềm đến đạo, sự vinh hạnh của kim luân chợt như bụi dơ, sự coi trọng đối với Đế-thích lại thường như căn bã, đầu tiên là tinh thành mới có chỗ cảm, tự chẳng phải một việc mà chóng đến thể đủ tròn đầy, khoảng đó sao có thể chẳng có mất nhỏ, vả lại đang ghi lục chân tố đó, lược nêu huyền hoàng, sao lẫn lộn nêu một đại khái, lại không luyện riêng? Chẳng thể vì thề của Quản Thái mà cơ tông giết hết, bạo của Tứ Hủy mà cả triều thả trôi, đây không khác người chỗ đầu chấy rận nhân muốn cả đầu đều đốt, hoạn ở chân chân, bèn muốn bỏ cả đùi vế, cũng chẳng lạm ư? Lại nói: Không lợi ích đối với thời chính, lại có tổn hại ở trị đạo. người mở mang đạo là lợi ích cho đời, vật có nhật dụng mà vì chẳng biết, họ Lão nói: Hóa của vô vi trăm họ đều nói là ngã tự nhiên, lời nói đáng vậy, vì thế, can mộc gối cao mà nước Ngụy đại trị, canh tang khéo răn mà nhiều lớp quy nhân, Sa-môn ở đời, thật không có công của khảo khóa trước mắt, bên ngoài danh giáo thật có nguồn ích, gần thì lấy năm giới răn bảo chúng sanh chẳng phải trù của sáu kinh, xa thì dùng ba, nạn u hiểm chẳng phải xếp của hình pháp, xin lấy tam tạng mà thuyên tội chẳng phải lưu sướng của luật lệnh, lấy Bát-nhã để giải thích hoặc, chẳng phải lời của Lão Trang, nói Đạo phẩm vô lậu, nhổ nhân duyên khổ thì còn mà chẳng luận giáo của Chu Khổng, lý tận cực của hình khí chí pháp, gồm luyện thần minh, tinh thô thăng giáng, chẳng thể đồng ngày mà nói hơn kém, xưa kia bột trợ hóa dùng đạo giúp trị, cả nước bình an, dân biết nghóa đó, năm được mùa chứa để, vật không dịch bệnh, chẳng phải lợi ích thì gọi là gì? Nói ở đời có năm thứ ngang trái mà Sa-môn là một trong năm thứ đó. Nói ngang trái là, vì chí nó không nghề nghiệp còn tan dối, chẳng danh hoặc bác dịch phóng đảng mà dốc hết gia tài, hoặc danh treo ở biên hộ mà trôi nổi trọn năm, hoặc thi lộc ăn không mà chẳng chịu dung tâm, hoặc ở thế chấp chính mà cá ăn trăm họ hoặc đua tranh tấn thú mà công tư đều tổn, hoặc buông lung hung bạo gian ngược mà thô tháo chẳng có khuôn phép, đây đều là tổn giáo, loạn chánh, đại bại phong tục, do đó nếu thỏa vui phấn bút mà luận của dạo cặp dấy phát, bút chẳng phải lông đơn mà văn của Ngũ Đố làm, cho đó làm ngang trái, lý đúng nên vậy, buông thả đó ở Sa-môn cũng chẳng luống dối ư? Quốc gia mới trên hết cùng đường ngu tranh giành tốt đẹp của cao vời, dưới cùng Ân Chu bằng với phong hóa thơm lừng, chẳng khiến cơ dónh có khách ngạo đời, thương lạc riêng nêu khách của gia tuần, phủ dục quạt lớn gió của vượt dân, sùng túc bậc só của phương ngoài trông thấy ông đặt lông kinh lược thời chính, mới muốn theo gót thuật hiểm của mất Tần Hổ Lang, tập theo tệ pháp của thương quân khắc bạc, chôn đốt nho điển, trị không giếng mối, chế thuế hơn một nửa, nhà không của dạo, bày cấm ba, năm, đủ dân như giặc, thiên hạ là người sát sanh, người không nơi nương sống, khiến tộc của họ danh chẳng xong ở ba đời, họa của hai ông tức giết ở đương thời, ngày đến chịu hình mới là đuổi theo hận. Đầu tiên là sự sai nhầm của lập pháp, vốn muốn nước lặng dân yên, chẳng ý đề phòng cao lớn, trái lại chẳng dung việc mình đã qua, sao than đó kịp, lại nói: Một thì dẫn dụ một thì bức hiếp, vả lại chúng sinh duyên có nồng có bạc, tài có lợi có độn, giải thích có khó dễ, hành có cạn sâu, vì vậy, đạo của cáo răn chẳng một ngộ phát đó do chẳng đồng, ép nâng chóng tỏa, chuyên khiến theo thiện, đây mới là cảnh sách của quyền mưu, bến cầu của khéo giúp, rất chẳng phải chỗ nói của dụ ép. Lại nói: Tội thì ngầm xét, phước thì thần giúp, phàm ngậm đức chí thuần thì các thiện quy về, Dịch nói: Giẫm tin nghó thuận, tự trời giúp đó, tốt lành không chẳng lợi. Lại nói: Làm điều bất thiện trong mờ tối, quỷ được dịp giết hại, há chẳng phải sự giúp đở của thần minh ở minh ty ư? Quả báo thiện ác, kinh có thật chứng, lại chẳng cần nêu. Lại nói: Hội tận hào thiện, chùa cực tráng lệ, đây là những nhà tu phước dốc hết của cải để chuẩn bị tư lương cho tương lai gần hết, tự làm mưu kế lớn của thân, đâu phải thần minh hưởng tráng lệ đó, chúng tăng tham vị đượm đó, do nông phu cày trồng, thợ thuyền xây dựng, mà đem chọn tốt quý đó để cầu tô điểm nhà cửa ư? Tinh tế chọn lựa hạt giống để lấy thật của mầm tốt, nên lúa mạ hẳn gieo cấy nơi đất màu mỡ, bói ở thì cần chọn nơi chốn cao ráo, vì vậy biết ba tên là phước của chúng sinh. Lại nói: Cúng dường là tự tu công đức của mình, nói cắt xén trân quý của sinh dân mà vui sùng hư phí vô dụng. Rộng thí gồm ái là đức dày của bậc ái nhân, sùng nghiêm tông miếu là dốc lòng của hiếu kính, thế giáo như vậy, đạo cũng như vậy, vật có tổn đó mà ích lợi là hẳn được. Vả lại của nổi như bụi đất. Thị tuệ làm thần dụng, thí như cây mục nát làm thuyền ghe mới chuyên chở vượt qua đến bến bờ, nào có hư phí ư? Muốn ngồi thẳng mà trông tự nhiên, khoanh tay mà mong an vui, giống như không rìu mà muốn chặt, chẳng ăn mà được no, làm sao được ư? Giả sử thân chẳng tu, mình làm khốn khổ, đâu hẳn là tệ tai mắt của trăm họ, bít đại thiện của thiên hạ, đã tự uống chất độc lại muốn mê người, sao tàn khốc như thể? Có thể gọi là mất ta vùi lấp người, cùng nhau đời mắc họa, vì thế đối của mù điếc câm ngọng, trải qua nơi tối tăm ương họa trong nhiều kiếp, quả báo của Điều-đạt, trải qua khổ của địa ngục Vô Gián. Nói hết của cải chứa nhóm cả năm, thiếu giúp thật của quân quốc, thánh vương ngự đời thuần phong tỏa xa, khua lưới đạo để duy sáu hợp, bủa lưới đức để trùm các bậc tài giỏi, sông không kẻ nổi sóng, hang không người hợp thán, bốn dân đều an nghiệp đó, trăm quan đầu tận phần, trăng nước dung thông chín châu đồng suốt, quân Nhung ở nơi giá ngủ, giáp só bỏ chạy, đem phân lúa tốt gieo xuống đất ruộng, kho lẫm chứa để mà thành mục nát, trẻ con tấn đức ngày một mới, tóc vàng hết ở mày thọ, phải cùng đánh mầu mở để ca tụng thái bình, vỗ bụng để quán thạnh hóa. Ông sao lắm lo toan sâu rộng đó, buồn thời chẳng đủ, cũng chẳng lỗi lầm ư? Lại nói Lận Thái Quan mà sưng miệng, đến biển cả mà nhiếp bụng, là thật chỗ nói của ông. Nói buộc ảnh bắt gió, chẳng biết đầu mối, phàm Ngụy biện loạn chân là chỗ buồn thương của Đại thánh, than thời chẳng biết báu, biện hòa do đó mà thương khóc, nhưng diệu chỉ hy di mà thể đó là đạo, xung hư chọn đến mà hội đó là được. Dụng xa năng bến cầu sụp đổ nhấm chìm, vớt u cứu kẹt tốt giúp, đương thời không ngoài hóa lưu. Thần huy hễ chấn động thì chỉ động đại thiên, ân tuệ tạm ngời thì chín châu đều đượm, cho nên Thích Phạm Ngộ u chỉ mà quy về thành thật, Đế vương trông huyền tông mà ủy chất. Tám bộ nắm linh hóa mà rửa tâm, só thứ quán chân nghi mà chạy đến, lạc lạc vậy nên chẳng phải danh giáo trong vức, túc túc vậy mới là khuôn thầm của phương ngoài, nhưng tường thành vời vợi nên ít được môn đó, khí vũ sâu xa nên ít vào nhà đó, do đó đạo đế càng chìm mà lý trái với đó, đức bao không ngằn mà sự ngăn cách. Ông chấp mê tự xong, hết đời chẳng ngộ bởi lý do đó. Trời, trăng tỏa sáng giữa trời mà người chẳng thấy sáng, sấm sét rung chuyển mặt đất mà người điếc chẳng nghe âm hưởng đó, vậy là lỗi của ai ư? Mà muốn bàn nghị âm của cung thương, xem thường quán của văn chương, thật lỗi đó quá lắm! Xưa kia, Văn Lân đổi trông nơi diệu trước, phải khó khẳn mở nghe ở duyên sau, ông sao chẳng may mắc tội riêng ôm nghi ngờ đó trọn năm, so với chỗ buồn của mọi người rất đáng chỗ trước buồn! Từ đó, thay nhau, lui chỗ ngồi, buồn bã tự mất, ngưng giây lát bèn nói: Nghe thuyết của Đại Đạo càng rõ suốt nhân duyên đại phán xưa nay, cùng lý tận tánh, lập lý chẳng làm, năm đó hoằng đạo chẳng mong một đời, có thể gọi là nguyên thỉ hội chung về mạng. Tớ thật đắm ngủ đêm dài chưa đạt ý chỉ đó, nên mỗi tạo có bít nay mai nghe Luận thừa của đại phu, buộc mở nghi ngờ mất tan, chợt nhiên tỉnh giác, như vạch lớp đêm để trông mặt trời sáng tỏ, phát mờ che mà ngộ chân tuệ, tớ thật chẳng thông minh, kinh vâng lời dạy răn tốt lành! <詞>LUẬN CHÁNH NHỊ GIÁO CỦA TRƯNG QUÂN (TĂNG THIỆU) ĐỜI MINH (Đạo só có soạn luận Di Hạ, nên soạn luận này để đánh chánh). Kịp nghe lời bén nhọn của luận khác đặt trong nhà, bèn có sợ lo lừa dối thánh sắp nói chỗ trở về, nên trước phải nói rõ chánh (chỉnh) chỗ chứng câu của hai kinh, ngõ hầu cả hai đều ngộ rõ bến bờ sâu sắc. Luận chép Đạo kinh chép: Lão Tử vào quan đến nước Duy Vệ ở Thiên-trúc, phu nhân của vua nước đó hiệu là Thanh Diệu, Lão Tử nhân lúc phu nhân ngủ ngày bèn nương tinh của mặt trời mà vào trong miệng Thanh Diệu, qua năm sau, nửa đêm mồng tám tháng tư thì vạch nách phía phải mà sinh ra, vừa xuống đất liền đi bảy bước, dơ một tay chỉ trời mà nói “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, ba cõi đều khổ, đâu là vui ư!” từ đó, Phật đạo hưng phát (sự việc tại nội thiên huyền diệu, đây là chân điển của trong Hán, chẳng phải sách xuyên tạc). Chánh rằng: Ý chỉ của Đạo gia, ở tại hai kinh của họ Lão bày ra huyền diệu đủ trong bảy chương Trang sinh, mà được một đều hư, không nghe kỳ lạ của hình biến, bành thương đều thọ, chưa thấy chủ trương không chết, nên lặng yên thiên hòa là chẳng chuyên biến thường, thời an thuận ở, nào lấy trường sinh, như nương tinh của mặt trời mà vào miệng vạch nách, năm tháng sự việc chẳng phù hợp, gá dị hợp thuyết, xưng chẳng phải đó có luống dối bàn nghị thần hóa, vọng yêu của Tần Hán kéo dài đến Ngụy Tấn, lời chẳng phải kinh thánh, sao gọi là chân điển? Luận chép: Kinh Phật chép: Thích-ca thành Phật đã có số của trần kiếp, hoặc làm tông rừng nho, Quốc sư Đạo só (đây đều thật là chánh kinh, chẳng phải thuyết phương tiện). Chánh rằng: Tông căn của kinh Phật nói về cực giáo, mà ba đời không thật có, tục chứng giác đạo chẳng phải có thể sự bày, nhưng chỗ hội tinh sâu, định tuệ có nêu trong đó, chỗ duyên cảm ứng, nhân quả không vọng ở ngoài, Đức Thích-ca phát chân xướng cùng nguồn, để nói về chỗ thông của thần đạo. Nên luyện tinh nghiên chiếu đó chẳng phải công của dưỡng chánh, nêu thềm cực thiện, khác hết mọi tự bờ đường cứu giúp tại quên hình mà chỗ quý chẳng phải toàn sinh, sinh sinh chẳng quý tồn tồn, công nào quên công mà công hiển trước, tịch diệt mà đạo thường, ra nơi vô thỉ vào nơi vô chung, chẳng phải ứng chẳng phải thân, trần kiếp chẳng phải xa vời, đây là lý do đó là giáo. Luận chép: Ý chỉ của đại kinh như hợp phù khế. Chánh rằng: Phật mở ra ba đời nên viên ứng vô cùng, lão chỉ sinh hình (hiện đời nay) thì giáo cùng cực bạc thuần, do đó giáo ở hình chẳng bàn nghị đời khác, hóa của viên ứng đâu tận ở vật loại. Vậy Chu khổng, Lão Trang thật là thầy của đế vương mà chẳng phải chứng của thuyết trước, đã mở bít khác giáo lại trái nghiệm của phù hợp. Luận chép: Đạo là Phật, Phật là đạo. Chánh rằng: Giáo đã có vuông tròn, đâu thấy đó đồng, hễ do Phật thì có thể dùng quyền lão, học lão sao cho đồng với Phật? Nếu cặp giành mến mộ cao chọn hội tạp, vọng muốn nhân đồng đó mà dựng tà bỏ chánh, thì học chẳng phải học, tự lọt đường mọt, chỉ nhiều chẳng lường, thấy hổ thẹn giữ khí. Luận chép: Đó vào chẳng đồng, đó hẳn là khác, đều thành tánh nó, chẳng đổi sự đó. Lại nói: Hoặc chiếu điển ngũ thường, hoặc trải giáo Ba thừa, ở hoa thì hoa ngôn, ở hóa di thì di ngữ, lại nói: Phật đạo ngang bằng ở đạt hóa mà có Di, Hạ khác nhau. Chánh rằng: Tịch cảm bền thông ở vật thì sướng, Phật dùng một âm mà tùy loại được ngộ, tại hóa của Di đâu hẳn giáo Ba thừa, đạo của hoa đâu hạn cục giáo năm thường? Xung dụng nhân cảm đã di hoa chưa khác, mà chỗ khác của tục nào có trái thánh thì tuy đó vào chẳng đồng nhưng giáo đó tự đồng đều. Luận chép: Thẳng rủ tấn thân là dung của các hoa, cắt tóc hay y là phục của các Di. Chánh rằng: Đem chỗ quý của cầu lý, nên không vốn lễ tục, men theo dị đạo chỉ là thời vật đó, nên quân tử báo biến, dân văn trước đổi, chuyên tôn ứng răn mất chí học ân, trí đức thiều võ thì thiền đại khác điển, hậu thánh có làm đâu hạn cục ở Di Hoa, huống chi do cực đó giáo hẳn bó buộc quốc phục ư? Do đó hệ thuộc phương thường đó mà mê giẫm động đó. Đất nước đã biến, rốt cùng xa có tiết, thí dụ thuyền xe được không san sát ư? Mà khắc thuyền, giữ gốc hẳn vì chỗ quy của hai kiến. Luận chép: Dưới bỏ vợ tớ, trên phế tông kỷ, vật của ham muốn đều dùng lễ bày, điển hiếu kính, riêng dùng pháp khuất phục, bội đức phạm thuận, chẳng hề giác ngộ, lại nói: Toàn hình giữ lễ là giáo tiếp thiện, hủy mạo đổi họ là học tuyệt ác. Chỗ đáng quý của lý là đạo, đáng hèn của sự là tục. Chánh rằng: Nay cho rằng phế bỏ tông kỷ là phạm, thuận còn ham dục để bày lễ, thì là điển hiếu kính, ở ta là được, tục không hẳn là thấp hèn. Hủy mạo dứt ác tự kia là xấu. Đạo không hẳn là quý, mến tục hạn cũ tông hoa chuộng lễ, quý hèn thay nhau đặt nghóa thành thuyết riêng. Không muốn mọt cháo nơi phàm quán đâu mong gốc ký ở lời thánh ư? Luận chép: Nê-hoàn tiên hóa, đều là một thuật, Phật hiệu là chánh chân, đạo gọi là chánh nhất, nhất quy không chết, chân quy không sinh. Chánh rằng: Hầu vương được một mà thiên hạ trinh, chớ bàn nghị tiêu hóa, chết mà chẳng mất là thọ, bất luận không chết, tự nghó nói dối lạm từ chẳng phải đượm. Đại đạo đã ẩn, tiểu thành sanh khởi lẫn nhau. Thật thay lời đó! Các thứ dối trá báng mạn muốn dùng cẩu thả giúp trái mà tìm lời thánh, hẳn chẳng cho che bai. Nay chỗ giáo của đạo gia chỉ lấy trường sinh làm tông, chẳng chết làm chủ, họ luyện ánh kim đan hưởng ráng bánh ngọc, linh thẳng cánh ve, thây giải hình hóa, là họ gá thuật nghiệm đó mà không hề thấy như vậy. Lại gọi là chẳng lên tiên, chết thì thành quỷ, hoặc vời giúp thiên tào, tùy phước gốc đó, tuy rất trái lập ngôn của Lão Trang, lý vốn như vậy còn có thể không trái với thế giáo, tổn muốn thú thiện nương hóa nhậm đến, quên ý chỉ của sinh sinh tồn tồn. Thật lý quy về vọng mà chưa làm loạn thường. Còn học trò của Trương Cát lại đều tạp dùng thần biến hóa tục quái lạ dối hoặc thế gian, phù chú chương hiệu đều gá chỗ truyền của Lão Quân, mà tùy nơi tăng rộng, bèn lại xa dẫn Phật giáo chứng thành Ngụy đó, lập ngôn lẫn lộn, thầy học không y cứ, xét nghóa điển đó chẳng đúng có thể biết, sắp khiến chân vọng lẫn lộn lưu bày, người mong ngộ mãi mãi mê lầm chẳng thể nói rành, dối loạn đã quá lắm. Khách đã đều chánh ở Phật và lão mà vẫn chưa gặp bến bờ. Nay đem canh thô mà nói một góc, khiến tự trở lại. Lý chiếu nghiên hai tâm, danh giáo hai được, mới có thể động tónh gồm hết, chỗ gặp tại thừa đây, giáo của Lão Tử là tu thân trị quốc dứt bỏ quý chuộng, sự chỉ phần đó, hư gốc vô vi, mềm yếu làm dụng, xem nghe trở lại, căn sâu yên cực, mạnh nghó thiên nguyên, lặng cao người đời, rộng khí dưỡng hòa, mất được không biến, cùng chẳng mưu thông, rốt mạng mà đợi, đạt chẳng mưu mình, lấy công làm độ, đây là lý do người học hỏi kính ngưỡng các dòng khác, mà đạo đó như còn, sao lấy nơi thần hóa vô phương, cứu đời chẳng chết ư? Đó tại điều ráng vũ hóa tinh biến cùng linh, đây tự khéo chứa thành trước sinh luyện khí lạ. Nên tuy gá giữ đó mà có nhưng nói lý là chẳng do, xét thần công đó nên kịp vật loại, lớn như lân phụng điềm lạ, nhỏ như biến hóa của tước tró. Đã một thọ hình mà mong học có rốt ráo ư? Cho đến Nhan Khổng đạo gần thân nhờ nạp cùng cực, hẳn sẽ ngưỡng linh rơi đọa mà ngưng dục, từ cuối do đó mà phân mạng chẳng vọng, có suy nghiệm thì có thể rõ. Nên Trọng Ni quý biết mạng mà có chỗ chẳng nói. Bá Vương bỏ kỳ thượng mà hẳn giữ vô vi, đều sắp vô ngưỡng chỗ của dối vọng đó mà tự đến. Nhưng cùng thần tận giáo phải do ở có công. Đạo thành sự được mỗi hội đều có nguyên. Hạnh nghiệp là ở đời trước mà cưỡng học vì cầu rốt ráo công đó, chứa nhóm thành nơi vốn yếu đuối mà ngang mến mộ để vọng đổi đó làm đầu, Yến cầu vượt hy vọng đến đó, do đâu ư? Nên học được sở học mà học để thành, làm đó có thể làm mà làm có thể rốt ráo, cho nên học soi rọi sinh linh, giữa trời bày giáo quán tượng lường biến, còn mà chẳng luận sâu của kinh đời, là cực của Khổng Lão. Vì chưa có tận chiếu cũng duyên khác đời chung lý, luyện ngụy về chân, là chánh của thần công, hoằng của Phật giáo, mới là Phật rõ tông đó, Lão hoàn toàn sinh đó, giữ sinh là tệ, minh tông là thông suốt, nhưng lặng ngưng phương lớn là tuy tệ mà chẳng phải vọng. Động do tông đó thì lý thông mà chiếu cực, hẳn đức quý thiên toàn tự cầu đạo, sùng gốc giúp thông, công về bốn đại, chẳng mưu là chẳng đúng vậy, giữ giáo gìn thường, thuần chỗ được sở học của Khổng Lão, vượt tông cực nhìn tìm dòng xét nguồn, lấy có sinh làm trần độc, dứt kính ở vua cha, chẳng tợ bàn nghị hóa khác, chẳng chấp phương mà kinh hãi kỳ diệu, tịch quán để giúp suy nghó, công chưa kiến mà cần đến, thì tinh túy của Phật giáo rõ ở làm cho nên phàm học được chỗ học thì có thể dùng giúp toàn sinh linh mà giáo tôn trong vực. Rõ làm ở làm sắp mới diệt tập, trái ngược dòng mà xa trời người, qua đây đã hoặc biết của qua lại, được của tẩy lự đó gần ở đây. <詞>LUẬT CỦA TRƯƠNG TRƯỞNG SỬ DUNG CHU DIỆM NGUNG CẬT NẠN Nhà tôi nhiều đời cung kính Phật, họ cậu tôi thờ đạo, đạo cùng Phật cùng cực không hai. Vắng lặng chẳng động, rốt cùng thì đồng, cảm mà xa thông, đạt vết thành khác. Đó như chẳng trị của nhạc, chẳng cách bí của Năm thường, chẳng tập của lễ, chẳng điếu Thánh của Tam Hoàng, đâu ba và năm đều khác thời nên chẳng đồng phong, khác đời nên chẳng một nghóa, sao có thể tạm giá dung ngu, dối hỏi thần cực, tôi thấy đạo só và đạo nhân đánh nhau, đạo nhân và Đạo só Nho Mặc bảo tù phải quấy, xưa kia, có chim hồng bay đầu trời, chứa xa nạn chim le, người Việt cho là chim le, người Sở cho là ất, người tự Sở Việt, hồng thường một hồng ư? Phàm lắng gốc tuy một, tôi tự đều tông gốc đó, vết chim hồng đã phân, tôi đã liệng quanh chỗ tập đó, ông hãy chuyên tông ở vết Phật mà không khinh thường gốc đạo. Thư gửi cho Hai Hà Lưỡng Khổng của Chu Diệm Sơn Thứ. Thiếu tử mang thư đến, các Du sinh nói rằng: Trương Dung nói chim buồn hót lúc gần chết, người thiện nói ở xế chiều, khoảnh khắc đã bệnh lớn sinh suy, đây cũng là hồn còn lại mấy hơi khí, huống chi sợ thuyền mất xà ngang ở ngôi trống, chân núi không gông buộc ở giữa đầm, nên giữa khoảng âm dương tuy tấc thường xa chẳng vá bổ chuyển dời, muốn cho phách sau ý thừa dây mực, em cháu nên làm môm luật, vài lầm hoặc một chương, thông nguồn hai đạo, nay tấu cùng các hiền, nên làm thế nào? Trả lời thư của Trương và vặn hỏi Trương. Chu Diệm Sơn Thứ mang thư về, Thiếu Tử nói: Chu Ngung cúi đầu thưởng chế lại ban, tiếp lại cao nhà đó thì người tham cứu không ngồi, thật chẳng đợi giúp kính, tìm đồng gốc có lường cao, tâm tuy là chỗ thần đạo quy về, tôi biết chủ đó, nhưng tự ngoài của thích, lưới Nho làm rộng, quá đây thì năng cùng Trọng Ni mà như nhau, Hoàng lão thật hùng, giáo đó lưu chậm phải chẳng không có tà tệ, gốc của Tố Phác, nghóa có đáng sùng, tôi lấy bỏ nghó nhớ xưa thô có khi Kinh Vị đoạt nhau, chẳng đến Chu Tử, chỉ chứa nhóm ôm nghó chẳng kịp để nói, vết được trái thuận chẳng thể nhầm giữa đồng khác, văn nên có quy biện về ý chỉ, nghóa là thấu đạt gốc thì đồng dường như chẳng phải, cái mà tôi gọi là đồng khác thời khác phong, lại chẳng phải chỗ tôi gọi là đồng thì khác, từ lâu muốn trong đây nhỏ nhiệm nêu điều xén, may nhân nhã thú, đây chung cực ngôn, vả lại lược như dưới đây chậm nghe so sánh sâu. Thông Nguyên nói: Đạo cũng cùng Phật cùng cực không hai, vắng lặng chẳng động, rốt cùng gốc thì đồng cảm mà xa thông, gặp vết thành khác. Câu hỏi của Chu là: Luận chép: Rốt cùng gốc thì đồng, vậy xin hỏi: Nghóa gì là chỗ gọi là gốc ư? Nói đạo gia là há chẳng lấy hai thiên làm chủ, nói Phật giáo thì cũng nên lấy Bát-nhã làm tông, chỗ hai thiên quý là nghóa cực hư vô, chỗ Bát-nhã quán là chiếu tận cùng pháp tánh. Hư vô và pháp tánh, vắng lặng tuy đồng vị, phương của tịch ý chỉ đó thì luận riêng, cái gọi là cùng cực không hai là, cùng cực lại có gốc khác, như hư vô và pháp tánh chỗ hướng về chẳng khác ư? Nếu có khác gốc, nghó suy cáo tình của khác gốc, nếu đó chẳng khác thì xin nghe thuyết của chẳng khác. Thông Nguyên nói: Khác thời nên chẳng đồng phong, khác đời nên chẳng phải một nghóa. Tôi thấy Đạo só cùng đạo nhân đánh nhau, đạo nhân và Đạo só nho mặc bỏ tù phải quấy, xưa kia có chim hồng bay đầu trời xa xa nạn chim le. Người Việt cho là chim le, người Sở cho là ất, người Tự Sở Việt, chim hồng thường một chim hồng ư? Lắng gốc tuy một, tôi tự đều y cứ, gốc đó vết chim hồng đã phân, tôi đã liệng quanh chỗ tập đó. Câu hỏi của Chu là: Luận chép thời khác nên chẳng đồng phong, là Phật giáo khác với đạo. Đời khác nên chẳng một nghóa, là trái của đạo ngôn đối với Phật. Đạo và Phật khác nhau, chẳng phải chim le thì ất, chỉ Túc hạ là chỗ gốc của tông, một vật làm chim hồng, rong ruổi Phật và đạo Phật chẳng khơi hai lỗi, chưa biết soi cao, làm sao nhận biết gốc khinh mà y cứ, có ý chỉ ư? Nếu còn dùng hai giáo để đặt vị gốc, sợ đánh nhau bỏ tù mới khởi, chưa nghe tố tụng. Nếu tuy nhân hai giáo đồng lường nguồn giáo thì nguồn của giáo này không men theo giáo mà thấy, tự nên khẳn nai vòng gậy, chợt mắt thấy Nho Mặc mờ tối, xưa lại nào tranh, nếu hợp nguồn thì cùng phân vết, cả hai chẳng phải thì dụng của hai vết, nên đều lấy bỏ, sao vì chỗ liệng tập vừa rồi siêng chuyên chỉ Phật chuyên khí ôm một không cẩn trọng với đạo ư? Nói tinh chỉ xa vời, mong nghe cốt yếu sau! Thông Nguyên nói: Ông hãy chuyên vâng dấu vết Phật mà không xem thường gốc đạo. Câu hỏi của Chu là: Túc hạ chuyên vâng theo dấu vết Phật, không xem thường gốc đạo, tôi thì tâm trì thích huấn, nghiệp mến lời nho, chẳng hay Túc hạ nhã ý Phật Nho ở đâu? Là phải gốc một ngọn khác, hay gốc ngọn đều khác ư? Đã muốn tinh xét người và ta sánh nhau, ng- hiên cứu qua chỗ liên quan lý loại, chẳng được không thỉnh. Đáp lại thư Chu Ngung của Trương Dung. Trương Dung nói: Tôi chưa thể quên thân nên có tình, ngoài thân phần đã hóa cực phách, đầu lại bị con em lưu lại nơi đất, chẳng muốn khiến tấc vuông đó cũ đều đêm ngày hoang mất, chỗ bình sinh khốn hoạnh đầu mặt mà cỏ. Do đó chế luật ấy để làm muôn luật, vì là môn luật nên chẳng phải Phật và đạo môn dùng luật gì, cho nên cáo khí hoãn mạng, nhờ phách bày âm, vài cảm mười ứng, thông nguồn định gốc, thật muốn Túc hạ phát ý tôi lạ, nếu năng đùa đọc khởi tình khéo thấy chánh cần, đã khởi chí nay làm lời ông. Câu hỏi của Chu là: Luận chép rốt cùng thì đồng xin hỏi nghóa gì, là chỗ đây gọi là gốc ư? Đáp lại Chu rằng: Tánh linh đó là tánh năng biết đạo đức là đạo có thể biết đó. Năng biết mà chẳng biết chỗ đáng biết, chẳng phải ng- hóa năng biết, có thể biết mà chẳng làm năng biết, chỗ biết chẳng phải có thể biết, nên biết và năng biết sẽ đến chỗ đạo, có thể biết hẳn biết chỗ đến, mà hạ só sấm tình sóng chiếu muốn tham thần, tinh minh xua động thức dụng trầm mờ, cho nên đảo tâm rót xuống chiếu cách đối với đạo. Đến như Bá Dương chuyên khí rất mềm, đình hư nhậm phách chuyển doanh nắm một, ở ngưng thông tónh, tónh chỉ là thông, cho nên chiếu không chỗ mất, phách đầu mối đình hư nên dung chứa tự đạo, Túc hạ muốn cho Bá Dương chẳng yên tónh, mà có thể được ư? Khiến tónh chẳng ghé đạo cũng ở đâu mà được, nay đã tónh mà hai thần thần tónh mà đạo hai, trước tôi chưa nghe, nên cùng cực sở dó một là tánh dạo chọn, lại càng rõ rộng chẳng thể hành lại kế đánh nhau nghó định chiếm vũ nội chỉ bày chí xa của sinh linh, ngõ hầu Túc hạ không tượng để vỗ châu, cho nên đế thuộc năm mà thần thường một, hoàng có ba mà đạo không hai, giữa của chim le và ất nhất định là chim le ư? Cho nên tôi thẳng dây. Câu hỏi của Chu là: Nói đạo gia là há chẳng lấy hai thiên làm chính, nói Phật giáo cũng nên lấy Bát-nhã làm tông, chỗ hai thiên quý là nghóa cực hư vô, chỗ Bát-nhã quán là chiếu cùng pháp tánh, hư vô và pháp tánh tịch đó tuy đồng, phương của trụ tịch ý chỉ đó thì khác. Trả lời Chu rằng: Pháp tánh tuy lấy tức sắc đồ không, hư vô thật là có nghóa ngoài Trương, nhưng hoàn hội trong đó, Túc hạ phải thêm dùng một nửa tư duy, cho đến dạo không có tư duy mênh mông, tâm trần tự phủi, tư duy vì không mênh mông, một nêu trên hình là tuy quên có lão khiến giải thích, nhưng mà có quên giải thích chẳng thay lão, ngay thần đó vậy, dằng dặc tinh hòa ngồi phế bỏ vắng vẻ để lắng, thần đó bèn thông vì xung dụng đó, bước lên địa này, tôi chẳng thấy Thích gia cùng họ lão giẫm lên ý này. Tôi rất biết họ Lão và họ Thích sở dó của cùng cực không hai thân tình nên khéo được một, ngay vì vật cảm đã phân ứng vật khó hợp, nay muôn tượng cùng thấy nghe giao nhau, thấy nghe cùng muôn tượng ngang nhau. Đắm trước đó đã sâu, tức đó hẳn mới cạn, cho nên ông trong khổ tạm tàng tức sắc, thuận chỗ đó có chẳng động tình đó, tôn chỗ đó không thuận tiệm tình, và vật có tiếm bỏ, người thời muốn không. Đã có thể tây phong ngày nêu mà đến, nam tinh đêm mộng ngủ trong hồn hán, chẳng thể đó ư? Nếu khanh cho rằng họ Lão bất tận mà không thì chẳng phải mong ở được ý, nếu khanh cho rằng tận không mà chẳng tận hữu đắc ý, lại thỏa chỗ tôi mong, nếu khanh nghi họ Lão đều có mà chẳng tin dùng giáo thì họ Thích có tận, lấy gì cao vời vết, thời này nếu khanh vì họ Thích thì nên vết cao vời, đó như thời họ Lão cao vời vết đây, cùng cực đó đồng với ý tôi nay. Câu hỏi của Chu là: Luận chép thời khác nên chẳng đồng phong: Là khác của Phật giáo đối với đạo. Đời khác nên chẳng phải một nghóa, là trái của đạo ngôn đối với Phật, đạo khác với Phật chẳng phải chim le thì ất. Đáp Chu rằng: Chẳng phải chim le thì ất vết hẳn vậy đó, tôi chẳng đáp lại, chỉ được đời khác thời, khác thế, chẳng nên khác cho nên khác. Câu hỏi của Chu là: Chưa biết soi xét cao làm sao biết gốc? Đáp Chu rằng: Dù cho biết ở gốc rồi nhã độc trước, tôi và họ Lão nhận biết nhau chánh như thế, chánh lại là mục kích đạo nay còn, khanh muốn hẳn cong quắp từ đó, tôi không biết đổi cho nên tự tố tụng. Câu hỏi của Chu là: Nếu còn lấy hai giáo để vị gốc đó, sợ đánh nhau bỏ tù mới khởi chưa thể nghe tố tụng. Đáp Chu rằng: Được ý có gốc đâu đến chấy giáo. Câu hỏi của Chu là: Nếu tuy nhân hai giáo đồng lường xét nguồn giáo, thì nguồn của giáo này thường duyên theo giáo mà thấy. Đáp Chu rằng: Chân thật thay lời nói đó, tôi sở dó thấy đạo chưa một nơi Phật, chỉ tôi đó tức lời này có kỳ lạ riêng. Câu hỏi của Chu là: Tự nên khăn nai chợt nhiên mục kích Nho Mặc mờ tối từ xưa nay vì sao tranh? Đáp Chu rằng: Đấu ruộng của hai nước Ngu, Nhuế, biết Văn Vương chẳng nát vụn bạch ngọc để hết đánh đấu, có riêng tôn ấy ư? Huống chi đêm đánh một chim hồng vọng quân chim le, chim ất. Đây tự không của khăn nai mang trên đầu, tự lừa dối của vòng gậy trong tay, tôi đâu được rõ đó ư! Câu hỏi của Chu là: Giả sử hợp nguồn cùng phân vết, cả hai chẳng đúng phải dụng của hai vết nên đều lấy bỏ, sao là chỗ liệng tập vừa rồi cần chuyên chỉ Phật, chuyên khí ôm một không cẩn trọng đối với Đạo ư? Đáp Chu rằng: Ứng cảm nhiều mối, thần tình số rộng, tôi chẳng liệng quanh nơi bốn quả, khanh còn không nghi tập Phật đó, tôi chẳng liệng quanh ở năm thông mà đối với tập đạo sao lại mờ tối, vả lại thánh báu nên gốc vết chẳng phải tình gấp, ví như tôi đã có thể tập chỗ tập mới lại dời liệng đó ư? Khanh được không hai đó ở hai doanh, chẳng cao vợi suất lấy bỏ đó. Câu hỏi của Chu là: Tôi thì tâm thực hạnh theo lời dạy của Phật, nghiệp mến lời nho, chẳng hay Túc hạ nhã ý Phật Nho ở đâu, là phải gốc một ngọn khác, hay gốc ngọn đều khác ư? Đáp Chu rằng: Tôi là tự nguyên hỗn trăm thánh đồng gieo một cực, mà gần luận thông nguồn Nho chẳng ở bàn nghị, Túc gạ nay cực Nho, phải muốn xếp nho quanh đạo, nên trước thuộc tường thành, oán nghó tiếm thầy, ban đêm bèn mưu tính bít lấp thành trời, sợ hiểm của khó thẳng chẳng phải chỗ ông leo lên được, thì tôi thấy ra của thầy chẳng thấy đó vào, tôi đã nói là trăm thánh đồng chỗ gieo, nào dung gốc đều khác, lại vì lịch thế đảo binh, tha khanh trí dũng chỗ trí dũng của tôi từ dọc ngang mà có ra. Đáp thư của Trương Trưởng Sử của Chu Ngung. Chu Ngung cúi đầu, có thể dùng vận gửi tình, ôm chẳng phải lý có thể làm thầy, thanh huấn trong ngoài, chỗ lên đường vâng theo mà khiến trong đây giới phân, bỏ lại không bạc, cho nên tấm tức mất đường tại ta sao khó, Túc hạ khéo muốn nói, tôi cũng nói đó chưa xong, tạm lại sang nghiên cứu, chậm nương chiết sau. Thông Nguyên nói: Pháp tánh tuy lấy tức sắc mưu tính không, hư vô thật là có nghóa ngoài trương, sở dó ông ở trong khổ, tạm tàng tức sắc, thuận chỗ có đo,ù chẳng động tình đó, tôn chỗ không đó, dần tình thuận đó. Câu hỏi của Chu là: Tàng ở trong khổ tức là sắc tin vậy đây nói, ở lại sợ có khi chẳng bằng tức sắc, dung chứa tự nương gá để năng tàng thì năng tàng là rộng, hoặc chẳng riêng ra nơi lệ hương. Hễ có đó có vật biết có đó, không là không người biết không đó, nhà của họ Lão có đề không ra vực này, thì tôi ba tông bỉ luận, cúi gọi là lấy bỏ rong ruổi, chưa có ai năng vượt độ đó, Phật giáo sở dó nghóa đoạt tình linh ngôn dối trá thanh luật, bởi gọi là tức sắc chẳng phải có, nên chuyên dứt ở các nhà. Đường này chưa rõ, ở Lão làm sao tiếp tục, chí lăng xăng vọt ngang, đều do đắm trước có, gặp đạo chìm tục, nay vậy là hoạn, đã hoạn do có dính mắc mà có tánh chưa rõ, nắn nhà của có nhân sùng không thuật, có tánh chẳng rõ, tuy là rất tệ nhưng trái ai chuộng tónh giẫm lụy thật nhỏ nhiệm là lý do của Đạo gia có thêm hoằng giáo, trước nói: Cái gọi là Hoàng Lão thật là hùng, vương vào thuyết cũ đều nói Lão chẳng bằng Thánh. Nếu luận này chẳng được ảnh hưởng đối với Thích Tông thì địa vị lão của tôi chẳng đến như vậy. đại só ra đời thể đó vô phương, hoặc là tông của rừng Nho, hoặc làm Quốc sư Đạo só, đây là thành thuyết của kinh giáo, cho đến Tể quan, trưởng giả đều gá thân tướng, vì sao lão sinh riêng chẳng phải một vết, chỉ chưa biết quán qua cạn sâu, phẩm vị cao thấp. Đây đều là đại minh chưa mở, quyền tiếp một phương, mặt trăng xuất hiện lửa đuốc nên bỏ, vô dự đã nói thì các quyền tự dứt. Túc hạ còn muốn chôn lấp lửa thừa ở dưới mặt trời mặt trăng, rõ lửa này cùng trời trăng chung nguồn, đã tinh sùng đối với mặt trăng lại không xem thường đối với gốc lửa, chưa biết gốc lửa này là danh hay là thật ư? Danh mà đã vậy, gốc đạo ở đâu. Nếu nói muốn trời trăng của thật là thật, đây thì sự tận ở một Phật chẳng biết đạo đó, ý chỉ chung nguồn, nguồn chung với ai? Thông Nguyên nói: Ngay thần địa đó dằng dặc tinh hòa bị phế bỏ, bước lên địa này tôi chẳng thấy họ Thích cùng họ Lão giẫm qua ý này, tôi rất biết họ Lão đó cùng họ thích, lại nói nay đã tónh mà hai thần, thần tónh mà đạo hai, là trước tôi chưa nghe, lại nói: Bá Dương chuyên khí rất mềm mại, đình hư nhậm phách đầu mối phách đình hư, nên dung vậy tự đạo, lại nói: Tâm trần tự phủi, một nêu trên hình. Câu hỏi của Chu là: Túc hạ pháp tánh tuy lấy tức sắc mưu không, hư vô thật là có, bày ở nghóa ngoài, trộm nghó rằng Lão, Thích lại ra đối phân khu dã, chỗ cảnh vực đó không quá lời này, nhưng thần địa của họ Lão dằng dặc, tự dằng dặc ở ngoài có, tinh hòa của họ Thích gia bị phế, thường bị phế ở sắc không, lên địa của họ Lão thì họ Lão khác so với Thích, giẫm ý của họ Thích khác so với Lão. Thần đã tónh mà chẳng hai, tónh đã hai mà đạo hai, Túc hạ trước đó chưa nghe, tôi thì trước đã nghe, nếu vậy thì đầu mối phách đình hư là tự hư. Đó gọi là dung tự đạo, cũng chẳng phải cái mà tôi gọi là Đạo. Nếu là tâm trần tự phải một nêu trên hình, đều hoặc chưa giẫm nơi đại phương, chẳng dám lấy nguồn chung mà hòa nhau. Thông Nguyên nói: Túc hạ muốn cho Bá Dương chẳng yên tónh mà có thể được chăng, khiến tónh mà chẳng sợ, đạo cũng ở đâu mà chẳng được. Hỏi của Chu là: Lời Như lai nói tôi cũng suy nghó mà chưa cùng cực. Đây cái gọi là được ở nơi thần tónh, mất ở vật hư. Nếu cho rằng tónh nơi tónh chẳng gọi là cùng tónh, phách ở phách, chẳng gọi là tận phách, là điều tôi bác bỏ, không có liên quan. Thông Nguyên nói: Nếu ông cho rằng họ Lão chẳng phải đều là không thì chẳng phải tưởng mong đắc ý. Nếu khanh cho rằng đều không mà bất tận hữu, đắc ý lại thỏa chỗ tôi mong. Câu hỏi của Chu là: Tận có tận chẳng phải cực chẳng đủ, biết không biết có, tôi chấp thuận đạo gia đó, chỉ một địa của chẳng phải có chẳng phải không, lời của Đạo chẳng bằng, chẳng phải có chẳng phải không, chỗ ba tông chứa, thảng như trông lo các thứ khác là chỉ Túc hạ xét đó, miệng chẳng khiến được ý đó cùng thỏa, dời mất nơi có quy về. Thông Nguyên nói: Chẳng phải chim le thì ất, vết hẳn đó, vết hẳn đó, tôi chẳng đáp lại. Lại nói: Tôi cùng Lão, Thích biết nhau đúng như thế, chánh là mục kích đạo còn ở đây. Lại nói: Được ý có gốc, sao đến chấy giáo. Lại nói: Thật thay có lời nói đó, cho nên tôi thấy đạo đến một Phật. Câu hỏi của Chu là: Chỗ của Túc hạ thấy đạo còn được ý, có gốc tưởng nghóa chân của pháp tánh, là địa đó ư? Phật giáo có đó, chỗ Túc hạ chấy chẳng phải lý do vì sao chấy giáo. Gốc của trông thấy tức ở dấu vết giáo, gọi là giác (hay biết) ất thì chim hồng đâu dần dần ư? Chân tánh các pháp, Lão không có ý chỉ đó, mắt thấy cao tình không còn vết lão, ý chỉ dấu vết cả hai đều mất, sạch tông không chỗ luận, cái gọi là không xem thường đối với gốc đạo, phải không xem thường ở địa nào ư? Nếu cho rằng dò tìm vết của Đạo gia thấy nó lại một nơi Phật, thì là thật nghóa của Chân đế, duyên theo văn sẽ thấy, sắp duyên theo đạo chương mà được đó ư? Vì duyên theo đức thiên mà gặp, nếu cả hai không chỗ duyên theo mà khéo được tấc vuông đó, đây hoài bảo của tự Túc hạ cùng Lão Thích mà làm ba. Hoặc có thể lập riêng một nhà, chẳng phải chỗ của Lão dám dựng lập. Thông Nguyên nói: Đấu tranh ruộng của hai nước Ngu, Nhuế chẳng phải chỗ Văn vương biết, đây tự không của khăn nai mang trên đầu, tự lừa dối của vòng gậy trong tay, tôi làm sao có thể rõ ư? Câu hỏi của Chu là: Túc hạ cho rằng: Tam tạng trong khổ tức là sắc thì hư không có thiếu. Túc hạ cho rằng pháp tánh lấy tức sắc để mưu không, thì pháp tánh là đầy đủ, nay có người ở đây tháo vòng gậy mà nói pháp tánh, kẻ của khăn nai chấp hư vô mà lại cười trách rằng: Mày chẳng đồng ta, ta đến với mày, Túc hạ ung dung dựa gai nghe đoán, ở trong đó bảo: Đều chẳng thể, nghóa là khăn nai đó không mang ở trên đầu, vòng gậy tự lừa dối ở trong tay, vì tinh của Túc hạ rõ ràng đặt đạt mà phán tụng như thế, là lý do Ngu Nhuế ở ấp. Thông Nguyên nói: Tôi chẳng liệng quanh ở Bốn quả, khanh còn không nghi tập Phật, tôi chẳng liệng quanh ở năm thông, mà đối với tập đạo sao lại mờ tối. Câu hỏi của Chu là: Túc hạ chẳng liệng quanh ở Bốn quả, còn siêng tu tập Phật giáo, chẳng liệng quanh ở năm thông, sao riêng bỏ ở vết đạo? Lý lệ chẳng chung mới bị kia bác bỏ. Thông Nguyên nói: Phải muốn xếp Nho vây quanh Đạo, trước thuộc tường thành có lỗ thủng. Câu hỏi của Chu là: Túc hạ chung nguồn chỉ nguồn đạo chẳng bằng Nho, tôi hẳn nghi ngờ là thiếu, cho nên hỏi nhau, nhưng chưa biết dung vậy tự đạo, chỉ đạo năng dung, đem dung của đạo theo Nho có thể hội chăng? Tuy chẳng phải nghóa gốc, dù nói cũng nên kịp tưởng gốc thích phần nhiều rỗi, may mắn ban cho âm thừa. Tôi tìm Chu Trương nạn hỏi, tuy qua lại chứa nhóm cả quyển nhưng hai nhà lập ý, lý ở phen đầu, nên lược văn sau, ý chỉ ở nghóa gốc. <詞>THƯ CỦA TẠ TRẤN CHI GỬI ĐẠO SÓ HÔ TỐ Tạ Trấn Chi nói: Kính xem luận của Di Hạ, biện xác một nguồn, rõ chứng cứ hai điển, từ ngữ văn vẻ cung thương có tự thể, huyền trí gắng gỏi, đó đáng mùi vị ư? Tôi chẳng mé mờ tối, dốc nhìn u tông, khổ chẳng nghó trách, không thềm bậc mãy may, chỉ soi lại qua ba, chưa tiêu lậu hoặc, tạm thuật chỗ nghó nhớ, mong nghe giải thích sau. Luận lúc đầu nói: Phật là Lão Tử, Lão Tử là Phật, lại đem tiên hóa sánh với Nê-hoàn, sống lâu ngang với không chết, trích dẫn lời dạy của thế gian để phù hợp huyền giáo, gồm từ lệ đó vì đều đồng vậy, không chê xấu đẹp, phế phạm cũng như, trùng húc chim mổ, chẳng phải chỗ nên so sánh, xin thử nói đó, y cứ Chu Khổng lấy Nho Mặc làm điển, Lão Trang dùng biện giáo về nôm, đây đều mở dần phương gần, chưa đủ hồng hựu, vả lại trùng chim khác loại, hóa đạo vốn cách, hễ muốn thì đó, trước nên nghiên cứu lý do, nên người tham cứu hai nghi gọi là ba tài, chỗ ba tài bao gồm, đâu phân Di Hạ, thì biết người hẳn là loài người, thú hẳn là bầy thú, gần mà nêu đó, bảy trân là chỗ yêu mến của người, nên Hoa Di đồng quý, cung kính là chỗ của người, nên chín phục đều thuần, vì vậy liên quan chỉ ở phong hành trong bốn nước, huống chi chỗ đại hóa cách mà chẳng hợp ba ngàn ư? Nếu y cứ kinh mà nói thì, thầm nghe Đức Phật xuất hiện đời, xưa kia một pháp, muôn cõi đồng khuôn, Đức Thích-ca lúc mới tu hạnh Bồ-tát rộng hóa độ chúng sinh, đến lúc thành Phật mà có cõi đó, dự đượm ân từ đều sinh đến nước ta, ta là Diêm-Phù-Đề, chỉ lâu mê sinh tử tục lưu theo nhiễm, tạm mất đường chánh, chưa giác ngộ trước, vì bậc Thánh có ba đạt trí, thường quán căn đó, biết khu phẩm chẳng đồng, nên nói ba thừa mà tiếp đó. Hễ là chân đạo chỉ một, pháp cũng chẳng hai, nay phương tiện nói có ba, khác dẫn mà đồng về, nên dạo hội nói pháp, người ngộ như số cát sông Hằng, vớt đắm cứu mê không vượt ngoài pháp này, vì vậy tương lai hay quá khứ vô biên thế giới cùng một đạo này. Vậy biết trong chín mười thì có năm chẳng phải dòng đó, kia là lúc đầu nói đồng mà cuối cùng nói khác, nên biết chỗ đồng của lúc đầu là chẳng phải đồng, chỗ khác của cuối cùng là chẳng phải khác, sắp chẳng phải sai lầm đánh đồ gốm chảo loạn hợp chuông vàng ư? Há chẳng phải lừa dối ư? Còn như toàn hình lễ, đội mão rủ đai, mặc bông rải bối chôn bụi đốt lửa, chánh âm của lúc đầu, vận của Lũ-la, đây là nhỏ khác của tục lễ. Nay thấy tại chim mà chim hót, tại thú mà kêu, đáng báo một của muôn ngàn, âm cảm khác loại mà khác ứng, bèn khiến Di Hạ cách hóa, một sao lẫn lộn ư? Thuyền khô quân đắm, có thể để cảnh răn kia, phàm tục lễ là, phát xuất từ bạc bẽo của trung tín, chẳng phải nồng đượm của đạo, tu đạo nồng đượm là chuyên ở trái tục, tục đã có thể trái thì đạo có thể nồng đượm, khó của phản tục, nên bỏ quá đáng, bỏ quá đáng thì trước cỡi mũ cắt tóc, mặc áo vuông, bớt ăn, cỡi mũ thì không phí trang sức ở đời, cắt tóc thì không phiền bởi trâm lược, mặc áo vuông thì chẳng nhờ công cắt rọc, bớt ăn thì dứt tưởng ham vị. Đây thì đạo là ngày một tổn, đâu phải chỗ chế của di tục, kịp đó bày văn áo tịch ba tạng bốn hàm, đây thì vì hoc là ngày một lợi ích, đâu phải năng tạo của Hoa phong? Lại nói kinh Phật phồn hiển, kinh đạo giảm u, suy đây mà nói: Đó thì u là dùi ngưỡng khó mong hiển thì giẫm cầu dễ trông, giảm hẳn chẳng đủ để bày lý, phồn thì thú hội mà nhiều bến, Phật pháp lấy có hình làm không huyễn, nên quên thân để cứu chúng. Đạo pháp lấy tôi ta làm chân thật nên ăn mặc để dưỡng sinh. Vả lại, sinh mà có thể dưỡng thì hớp mặt trời có thể cùng ngàn thông sánh sương, chầu khuẩn có thể cùng muôn thung bằng tuyết ư? Hẳn chẳng thể vậy. Nếu thể nhận sâu sắc ba cõi là nhà của đêm dài, có sinh là chủ của mộng lớn thì tư duy đạo giác ngộ đâu quý ở hình hài, nếu hình đó có thể luyện sinh mà chẳng chết, đây thì Lão tông vốn khác, chẳng đồng với lý Phật, lấy gì nói đó? Phàm, ngẫu hình của thần giống như nghịch lữ, nếu đến nhà có thì nên thì đâu nêu luyến mến ở mái nhà ư? Biết của có biết, hình của có thể hình, chẳng phải thể của bậc Thánh, tuy là sinh của Nghiêu Khổng, thọ chẳng đầy trăm, đại thánh Nê-hoàn đồng với biết mạng. Vì vậy trọn kiếp trở lại, lắng luyện thần minh, thần minh đã lắng, chiếu bặt có không, danh vượt bốn câu, đây thì đạo của chánh chân thỉ chung chẳng sửa đổi. Lại khắc thuyền là cầu tâm nơi chất vàng, giữ gốc là mong tình ở vũ hóa, nên bít có mà hành sáu độ, ngưng trệ mà nẩy mầm linh chi, có bít tuy trái với thể của sáu độ, vì đó hoặc năng cứu giúp vật, ngưng trệ hẳn chẳng vũ hóa, tức sự đâu đủ gần người, tìm hai nguồn hơi vết rộng cục khác nghó, hơn kém rõ ràng, như hạng hiện nay, chẳng thể cật nạn đầy đủ, kia đều tự gần tình của ta, chẳng phải nhận biết rộng của thông phương, thì biết khác tục có thể để luyện đạo, buồn thay! Thánh đạo đã xa, văn vẻ tranh nhau nổi lên, có thể gọi là chỉ vết trùng làm vân xanh, ăn sữa độc làm đề hồ, rất đáng buồn thương, Phật đạo rộng sâu, trí lượng chẳng thể nói cùng, ứng vết khó dùng hình lường nói có, cho nên muôn tượng rậm bày như ngàn núi chót vót đều đứng, chiết đó là không, thì Thái sơn không tận cùng, mảy may đều tan, vận mười lực để dẹp tà, mở mang bốn đẳng để giúp tục, chống đuốc pháp của Bát-nhã, sao u tối mà chẳng đốt đuốc, tiếm pháp oai tam-muội, sao xa mà chẳng phục, sao nghi ngờ mà chẳng công hiệu? Lại gửi thư và tụng cho Đạo só họ Cố của Tạ Trấn Chi. Tạ Trấn Chi nói: Lăng nhục phản thích cứu xét rõ nguồn, huống chi đã hòa quang Phật đạo mà kinh vị thích lý, xúc loại lớn đó sao đến Cơ Dịch, bày Phật càng cao, tinh chỉ càng mờ, tô điểm hòm giác, trân diệu đêm chẳng nhóm, cái gọi là rong chạy dứt vết, nhảy động dứt ảnh, làm sao có thể khỏi ư? Theo chỗ Nhã Luận y cứ thì chánh vì trùng chim khác loại, Di Hạ khác tục, tôi lấy ba tài đều gồm, người lý là một, tục huấn khác ít, pháp giáo đồng nhiều, Túc hạ đáp rằng: Còn ở Chu Dịch, chẳng phải chỗ Hồ thư phỏng theo, bèn cho là Tố Kỳ đã nêu chẳng còn bày xét, Huyền Kỳ làm Tố Huy, khác với Quán Kỳ của Tào Tử. Tạm lại lược các cốt yếu gần, để nêu lớn về, nhưng tóc châu tuy ẩn chiều bốn dịch hiển, liền đem gửi đùa bỡn, thảng chẳng đưa cho ngang ngược. Phàm thái cực mổ xẻ, lưỡng nghi vọng dựng, năm âm hợp hưng, hình thức nhầm lẫn rõ ràng, tình do lưu nhiễm nhân kết, hình vì ái tệ duyên sinh. Trước của Hy Hoàng, dân phần nhiều chuyên ngu thì ở hang ở ổ, ăn lông uống máu. Vua tôi cha con tự như Hồ Việt, giống như cầm thú, lại sánh với trẻ nít, chỗ đạo giáo chẳng vào, chỗ nhân nghóa chưa dời. Đến lúc đắm chìm sóng chạm bờ nghó cứu, nghó cứu thì cầu thiện, cầu thiện thì thánh ứng, vậy thánh là gì ư? Cảm vật mà thông đó. Thông chẳng tự thông, cảm chẳng tự cảm, cảm thường ở đây, thông thường tự kia, tự kia mà lời huyền soi nhà cao, tự đây mà nói muôn tượng nay về, nên biết Thiên-trúc là ở chánh vực của Ta-bà, ở gia hội của thuần thiện, nên năng cảm thông với Chí thánh thổ trung, với ba ngàn thánh ứng đã tiếng kia khắp cùng, cho nên đây trông nhìn sáng tỏ của mặt trời, nào nhờ xét của lìa gốc, nghe tiếng sấm xét, đâu nghe việc của Tử dã, nên thấp cao khác vật, chẳng hiềm đồng đạo, phải trái lưỡng nghi không hại thiên quân, không hai thiên quân thì mây hành pháp giáo, chẳng hiềm đồng đạo thì mưa tuôn Di Hạ. Đạo là một, hình là hai. Đạo là chân, hình là tục, chân đã như một, tục cũng như hai, tận hai được một, nên một pháp đó, diệt tục về chân thì trái với tục. Vì vậy, Như-lai khuôn phép huyền kiếp đồng phong, dù khiến Khổng Lão là Phật thì là giấu sáng, tiếm dẫn cứu giúp lệch tâm. Lập nhân dựng nghóa, sắp thuận gần tình, là vì toàn hình giữ tế ân tiếp sáu thân, nhiếp sinh dưỡng tánh, vật ngoài tự ngã, mới là tận mỹ chẳng phải tận thiện, vì có chế của bến bờ, chưa đánh sau đó, được định nói Bồ-đề, sánh với thánh Mâu-ni, Phật giáo bày rõ cốt yếu mà năng rộng lớn, cốt yếu mà năng rộng lớn thì tinh sơ đều cấp tinh sơ đều cấp thì cương nhu nhất trí. Vì vậy bến trong sâu thỏa, thật là khuôn phép đáng y cứ. Lấy khuôn làm tròn thì dễ, lấy tây làm tròn thì khó, sẽ chẳng xả bỏ chỗ khó đó, theo chỗ dễ đó ư? Đạo gia kinh Dịch giản lậu, sinh ra nhiều xuyên tạc đến như linh bảo diệu chân, lượm nhặt Pháp Hoa chế dùng rất vụng, và như thượng thanh, chỗ hoàng đình ưa chuộng, ăn mặc ném đá hớp ráng, chẳng phải đồ pháp chẳng thể so sánh đạo, cũng khó đồng. Trong đó có thể lớn, chỉ ở đạo năm ngàn, hoàn toàn là dụng vô vi, hoàn toàn là dụng vô vi không thể bỏ sót có (phải). Bỏ sót phải vi nghó nhớ linh phương, sao dưỡng nhà Phật chỗ ba thừa dẫn chín dòng đều tiếp, chín dòng đều tiếp thì động tónh ở đây được, lý của thiền thông là một trong ba, chẳng phải cùng cực. Thiền kinh nhiệm mầu cảnh tướng tinh thâm, lấy đó đề chân còn chẳng thể đến, nay nói đạo ở vô vi được một mà thôi, vô vi được một thì huyền khế ngàn năm, huyền khế chẳng ghi chẳng đợi cao xướng, hễ rõ tông dẫn hội dắt đạt phong lưu là, nếu phải phế bỏ học tinh tư duy thì cũng chẳng phải biếng lười ư? Đâu là môn của đạo giáo ư? Kính tìm chỗ nói, chẳng phải học trò chỉ chẳng hiểu Phật mà cũng chẳng hiểu đạo. Phản loạn một bài liền đáp mở rằêng. Loạn rằng: Vận đến thì giấu sáng, huyền thánh thì tối mờ, đêm dài thì dằng dặc, các sao thì lấp lánh, thái huy đốt thì thăng diệu, xếp sao lâu thì tiêu tệ, thiên luân đánh thì khác tài, bày dây thì một chế, nếu chuyên mê thì chẳng ngộ, tăng thượng kinh hãi thì xa thệ biện hòa lo sợ thì gai nghiêng, đâu riêng vưu thì sở lệ, lương sô miệt thì Bát-nhã, cùng trách thìø trí tuệ).  <卷>QUYỂN 7 Luận nạn Di Hạ của Chu Chiêu Chi. Luận Tư Di Hạ của Chu Quảng Chi. Luận Bác Di Hạ của Pháp sư Tuệ Thông. Luận Nhung Hoa của Pháp sư Tăng Mẫn. **** <詞>LUẬN NẠN DI HẠ CỦA CHU CHIÊU CHI Thấy Túc hạ cao đàm Di Hạ, biện thương hai giáo, điều lặc kinh chỉ, ngầm vậy huyền hội, khéo xướng thiện đồng, chẳng phải lời nói luống dối. Xưa, Ưng Cát Phủ ngang với Khổng Lão ở trước, tôi hiền lại đều Lý thích ở sau, khác đường của muôn đời đồng về ở một triều, nghi tranh của nhiều đời, vui vẻ ở ngày nay, thưởng sâu ngộ xa, quyên ủy lắm nhiều, bàn nói về lợi ích cho đời chẳng gì hơn đây. Còn như chỗ hay của mỗi lời, bèn là gan mật Sở Việt chẳng biết phương cam khổ, tuy hai mà thành tánh của thể hẳn một, mới công kích lẫn nhau, mối khác bèn khởi, qua lại rối ren, hại đó ttiếc rẽ chẳng ít, mới đầu như lên trời, sáng tỏa ngoài tục, cuối cùng như xuống vực sâu sáng càng ngời đắm. Đạo sư mất lối, thì người mê đường đông nhiều, nên quên cạn mờ tối, cứu vớt lẫn nhau. Nay trước bày nỗi lòng đó mà chưa nêu chỗ hận, tưởng theo thiện như dòng là chẳng tiếc, trái với một qua, núi sông dài xa, lời tốt chưa mong, tạm gửi ở đây để thay tình tạm đối, nêu một tiếp chỗ giải thích chẳng cạn. Chu Chiêu Chi nói: Phàm, thánh đạo vắng lặng nên năng viên ứng vô phương, vì ứng vô phương đó, nên ứng không gì chẳng thích hợp. Do đó tự thánh mà xét tâm vốn không tên, ở muôn hội vật tự hội mà làm tên gọi, thì danh hiệu do đó tỏ rõ, vì thế trí không đâu chẳng khắp, thì gọi là Chánh giác, thông không đâu chẳng thuận gọi là bậc Thánh, mở vật thành việc, không gì chẳng đạt, gọi là Đạo, nhưng thánh chẳng vượt hơn giác, giác chẳng ngoài đạo. Ông hãy biết vậy, sao phải xa cầu ư? Chỉ Hoa Di khác tục, tình hảo chẳng đồng, vì thánh động thường nhân nên lập giáo có lẽ khác, nhưng khúc lễ tịnh giới số đồng Ba trăm oai nghi, dung chỉ lại đồng ba ngàn, chỗ có thể làm khác, chánh ở danh của Phật đạo, ở trong hình phục. Bậc thấu đạt còn lại lấy hình hài làm nghịch lữ, cổn miện đâu đúng luận ư? Chỗ có thể bị chê bai, chỉ ở lúc đầu lập giáo. Hoa Di khác dụng, là tục của hiện nay, mà lại gồm trì chuyển dời biến đổi, một điều nên nói, nay phải nói đó. Huấn của bậc Thánh động hẳn nhân thuận, đông quốc quý hoa thì làm phục của cổn miện, dung của lễ nhạc, tiết của co duỗi cúi ngước, sức của áo mão trâm bội, để hoằng đạo đó, bởi dẫn mà gần đó. Di tục trọng tố, giáo dùng cực chất, râu rụng cờ dung, áo xiêm chẳng cắt rọc, nhàn tình mở chiếu, thần đó nhiều kiếp, để lớn tâm đó, suy mà xa lìa, đạo pháp thì dò tìm, ăn chi anh xan ráng phục đan, hô hấp quá một, nhã cũ nạp mới, lớn thì linh bay vũ hóa, nhỏ thì nhẹ mạnh không bệnh, để còn thân đó, tức mà so đó. Ba là đều ứng đó cảm đó, một là dùng chẳng phải cái ta gọi là đến, phàm cực của đạo là chẳng phải hoa, chẳng phải tố, chẳng tức chẳng khác, không gần không xa, ai bỏ ai ở, chẳng thiên chẳng đảng, chớ hủy chớ khen, viên thông tịch mặc, mượn chữ nói là không cảnh diệu, như vậy chỗ nào khác ư? Chỉ từ Hoàng Hy trở lại, mỗi hoằng phương đó, sư sư truyền nhau, chẳng quan hệ nhau, do vì đây kia đều đủ, không còn tìm cầu ngoài ta, nên từ đời Hán trở lại, thuần phong chuyển bạc, nhân ng- hóa dần phế, khoa đại đạo chẳng truyền, môn học Năm kinh càng ít, đại nghóa đã trái, lời mầu lại dứt, cửa các diệu chẳng dạo, nghi của Trung dung chẳng thấy, lễ thuật đã hoại, nhã nhạc lại nát, phong tục ngầm lấn, vua tôi không chương, chánh giáo lấn lướt, nhân luân không thứ lớp, từ đó thánh đạo càng xa, vận trời xa khắp, huyền hóa đông lưu, dùng từ là chúng sanh ở thế gian, đọc điều tu tập của người trước, ưa thích điều mới nghe, đổi mặt theo hòa, tinh nghóa lại khởi, nên nhà vi ngôn nơi nơi đều dựng, khách của Huyền Vịnh, chỗ nào cũng đều có. Đây có thể dùng sự thấy, chẳng phải nói không của thật bày, sắp không vật chẳng thể để rốt cùng ư? Cho nên nhận đó để đồng người, nên tà ý đó, bậc Thánh vổ về trăm họ, cũng như mẹ hiền nuôi nấng con thơ, mới đầu ăn thì dùng bánh bột ngọt béo, ngọt béo đã nhàm, lại đổi dùng mỡ mật, mỡ mật đã nhàm thì năm thể tốt hòa, trong ngoài bình yên, là ích lợi đến, đó chẳng vậy ư? Lý đã như vậy mà giăng để chẳng phải biếm vọng cùng phân biệt, là chưa ngộ trong vòng chẳng thể cùng nghóa, hai hiền suy động qua lại giải thích thế của tài, giả sử lại được giải, chẳng phải làm của thuận lý. Thuận lý chiết đó đâu đợi suy động. Túc hạ phát nguồn mở mối, Khổng Lão là Phật, kết chương bàn nghị thì cùng đoạt treo nhau, sao tấn thân kích kî là các dung của hoa, cúi đầu chân Phật thì có biếm của chồn ngồi, thẳng rủ hết triết làm cung của đợi sân. Gối phải chấm đất, thêm nhục của chó ngồi, xin hỏi: Nếu Khổng là Chánh giác, Thích là tà kiến. bàn nói ở ngày nay tôi chẳng chịu nghe, chấp thuận là chánh chân, lý nào xấu cười, đã khuyết tàng của sợ thánh lại quên lễ của không cẩu thả. Lấy đó chỗ hận thứ nhất của tâm ta. Lại nói toàn hình giữ tế là giáo tiếp thiện, hủy dáng đổi họ là học dứt ác, con của thương thần có công tiếp thiện, phú chướng hủy bỏ có chí của dứt ác, suy tìm tên thật là hận thứ hai. Lại nói: Dưới thì bỏ vợ tớ, trên thì phế tông kỷ, phàm lý của quỷ thần mênh mang khó rõ, nên Tử Lộ có hỏi mà Tuyên Ni chẳng giải thích, phải do sinh tử khác đường, thần duyên khó lường, đâu vì thánh chẳng thể nói, chỉ bởi sợ hiền chẳng được, soi chiếu của ba đạt đó có còn, Túc hạ đã chấp thuận thần hóa đông lưu, mà lại lấy tang tế nương nhau đoạt nhau không nhất định, là hận thứ ba. Lại nói: Pháp thiết thực có thể để tấn khiêm nhược, pháp xa xôi có để thối mà mạnh, ba lại bàn nói này điên đảo chẳng giống, phàm khiêm nhược dễ xoay, có thể dùng xa xôi vào mà tiến, chừ mạnh khó hóa nên vì khổ thiết mới lùi, ẩn tâm xét việc, đó chẳng vậy ư? Gạo trấu ở mắt thì đông tây đổi vị, thiên đắm phân tâm thì từ nghóa lầm hoặc, cái gọi là trái là hận thứ tư. Lại nói: Ép thì rõ là riêng tiến, dẫn thì tối là tranh trước. Lời đạo chân thật, kính đồng cao xướng, chở che muôn vật, dưỡng nuôi mọi hình, mà nói thì riêng tiến, dường như tự riêng tư, lời Phật nói ra thì tứ đẳng bao gồm, ba thừa đồng thuận, trời rồng đều ngợi khen, mà nói tối tăm thì tranh trước, cũng lại gần lừa dối, bàn nói của thám trách, mà vọng sinh bệnh hạn, dạo từ buông phát là hận thứ năm. Lại nói: Phật là phương của phá ác, đạo là thuật của khởi thiện, phương của phá ác tôi không liên quan, phàm ác dứt thì thiện hành mới là nguyên do của pháp giáo khởi vậy, chỉ chưa biết thuật của khởi thiện, thuật dẫn ai vậy? nếu thiện là đã thiện đâu dùng khởi thiện. Thiện là chẳng phải thiện, lại chẳng phải khởi thiện, thì danh nghóa của khởi thiện không chỗ nương gá, nay đạo là thiện, lại dùng khởi thiện lấy ở danh nghóa, rất nối tiếp giàu, chẳng vì khua ác làm giáo thiên lệnh ư? Đại đạo gần hoằng mà muốn hạn cục, là hận thứ sáu. Lại chép: Tàn nhẫn, ngang bướng thì bắt chước Phật làm lớn từ nhu hư thọ, thì phục đạo làm đến (chí). Đẹp núp mạnh mẽ xoay không gì chẳng tàn bạo, thật là huân lớn của Mâu-ni, chẳng trái với tuệ chỉ, chỉ có đạo lực cương minh hóa công càng xa, thành tánh tồn tồn, ân không đâu chẳng khắp, kiêu chẩm đổi tâm, oai không gì chẳng chế, mà nói chỉ được hư thọ, rất là cạn lược, gần như vô ý chìm lấp, thiên chấp chẳng ngộ, hẹp kém tổn tạo, mở tìm đệ mục thì trước răn tự nghó nói, lập ngôn bày luận thì bất giác đổi tình, phân danh khó trì là hận thứ bảy. Lại nói: Tám tượng Tây nhung các điển rộng lược, gầm bày văn Kim Cương Bát-nhã, chẳng vượt ngàn bốn câu, chỗ hoằng đạo khắp muôn pháp, thô diệu đều buông, ít nhiều đều có, điển pháp nhỏ nhiệm răn, khoa lẽ đồng nát tinh thô hoạnh sinh, nói trái với thật, là hận thứ tám. Lại nói: Lấy nước nhà mà quán xét thì di ngược Hạ Ôân, xin hỏi: Khổ của pháp lạc đâu phải hình của Khương Trúc, buồn của đổ máu, há con của Tề Tấn? Khổ mổ xẻ hại chẳng tâm của Tả Nhậm, Sương Thu ngậm dơ chẳng phải bậc só Hải Tân. Suy xét tánh tình, Hoa Di một đạo, hư thiết ôn nghiêm, là hận thứ chín. Lại nói: Bác Dịch hiền đối với mạn du, giảng tụng hơn so với đùa bỡn, tìm dòng phu phong sở dó được truyền, sở dó kinh tịch chẳng phế là nhờ giảng tụng, vì được thông hỏi cầu để thành ngộ, nên nói: Học mà chẳng giảng, là tôi lo buồn, mà sánh đó với đùa bỡn, rất là mạn đức, xin hỏi: Nơm của dụ khéo, đó sắp an giữ, mới đầu chưa được ý mà muốn quên lời, là hận thứ mười, có mười hận này chẳng thể tự giải thích, tướng mong quân tử thay vì nói bày, tạ sống cũng có so le, Túc hạ công kích đó rồi kín tạm chuyên, chỗ thỉnh chẳng còn thay thợ. <詞>NGHI LUẬN DI HẠ HỎI ĐẠO SÓ HỌ CỐ CỦA CHU QUÃNG CHI Chu Quảng Chi cúi đầu, thấy cùng Tạ Thường Thị qua lại luận của Di Hạ biện chương, nghóa đồng quy, có thể gọi là giản kiến thông di bàn nói của thanh luyện, đến như Đam còn nghiêm sức của Đoan miện, phá tố thân của Tiển lạc, dùng cung nhục của chống quỳ, dùng cùm ngay của chồn ngồi, người Đông Hoa ngậm tuyệt pháp bên ngoài, dụ của thuyền xe tuy đẹp, tình của bình thứ chưa dốc, nguồn của đến hội đã phẳng, đường của nôm gửi mới lấp, nhưng ngộ của Ba thừa sâu mong cõi này, bến của sáu độ ở nay quyết lớn, mở kinh vui lý, bùi ngùi rất sâu, tạ sinh chê mất tiên đạo, khen ngợi Phật giáo, dùng thuật vũ hóa làm thuyết phù lạm, xướng của tàn hình làm văn của giẫm chân, không biết mình chỉ đó làm chỉ, chẳng biết kia chỉ đó không khác, đâu sở dó thông phương được ý gọi là khéo đồng ư? Chất phác xưa trước dần pháp hóa muộn đượm vị đạo phong thường tôn sùng không quý, không tông thú một, lưới môn đều bày nghóa không nghiêng lấy, đều tùy hiểu vào, chỉ chỗ tâm an, đâu hẳn áo rồng có thể lót mà anh lạc khó đeo ư? Tự ng- hèo lại nhiều việc nghiên học đắm chìm, ngậm quyển khăn độc lâu hơn mười năm, nhỏ tập nghe trước, linh lạc chóng hết, chứa chí không tuổi mở trông, chẳng phải thềm bậc, thường một mình bùi ngùi, đêm dài tạm mở, sáng sớm quên ngủ mà sạch lòng, xa tin buộc khổ càng dốc, nếu tin chẳng duyên theo lý, thì nhẹ nổi không chủ chuyển cười đến khách do đây mà khởi, vì vậy dốc hết cuồng quản ghi thuật tâm hèn, nguyện lại vì mở răn bày dẫn quyết nghi. Quảng Chi cúi đầu! Luận chép: Chống quỳ chiết hết cung của đợi săn, chồn ngồi, chó ngồi nghiêm túc của Hoang lưu. Nghi rằng: Bang khác dụng cách lâu tự khó đều, đến như nổi được chỗ an, xưa nay chẳng biện, dung mạo của đợi săn, điều nói đáng vậy, mắt chồn chó chẳng riêng thương tổn. Luận chép: Nếu cho rằng thấu đạt đó đã đều, pháp đó có thể thay đổi, mà xe có thể lội sông, thuyền có thể đi bộ ư? Hẳn là chẳng thể. Nghi rằng: Phàm, pháp là sở dó pháp tình, tình chẳng phải pháp, pháp đã không định do tình chẳng một, tình của chẳng phải một chỗ hướng khác đường, cương nhu đều rong ruổi, hoa nhung hẳn là đồng. Vì vậy, sông dài mênh mông không đáng với đây, bình nguyên đất xa đâu lấy ở kia ư? Thuyền xe hai chở dụng nào chẳng được. Luận chép: Đã chẳng hoàn toàn đồng, lại chẳng hoàn toàn khác, dưới bỏ vợ tớ, trên phế tông kỷ, nghi rằng: Nếu phế kỷ ở trên chẳng thể dứt bỏ ở dưới, đây tự phỏng khác vào đồng, chẳng phải lỗi của đồng, sao có thể thấy trâu cày chẳng lên dụng của tông miếu mà bỏ hẳn dụng cụ nơi Lao hý ư? Luận chép: Vật của ham dục đều dùng lễ bày, điển của Hiếu kính riêng dùng pháp khuất. Bội đức phạm thuận chẳng hề hay biết, nghi rằng: Nếu bội đức phạm thuận, không thí mà có thể Từ kính, ban cho hòa chạm đất mà thông, vì vậy tổn thức ăn hành đạo, chẳng phải nhà của trưng hung, phục miện ăn chay chẳng phải phương dưỡng chánh, sự trông mong của co duỗi có thể dứt nhau ở đây. Luận chép: Có thể quý của lý là đạo, có thể hèn của sự là tục. Nay bỏ Hoa, bắt chước Di, nghóa sắp an lấy, nếu vì đạo đó tà đạo hẳn phù hợp. Nếu vì tục, tà tục thì trời trái. Nghi rằng: Chí đạo hư thông nên chẳng tước mà tôn, tục không gì chẳng vướng nên chẳng truất mà hèn. Hèn là chẳng thể không lụy, Tôn là tự nhiên trời đủ, cảnh của trời đủ đã phù hợp, vức của tục lụy cũng đều, đạo phù lụy đều thì ai đẹp ai xấu? Nên đều là thánh hóa, chỉ soi chiếu chỗ lầm hoặc, lầm hoặc hết là sáng tỏ sinh, thì người và ta tự quên, đâu phiền chậm chậm nơi khoảng bỏ sánh, rõ ràng ở giữa Hoa Di ư? Luận chép: Giáo của Vô sinh xa xôi, hóa của vô tử thiết thực. Pháp thiết thực có thể để tiến khiêm nhược, pháp xa xôi có thể để lùi thì mạnh, nghi rằng: Vô sinh tức là vô tử, vô tử tức là vô sinh, danh trái thật, hợp dung được riêng biết của xa xôi và thiết thật ư? Nếu vì vết có sai giáng, nên hơn kém cách nhau thì nên lấy thiết thực ép mạnh, lấy xa xôi dẫn yếu kém, nên Khổng Tử nói: Cầu là lùi nên tiến, do là gồm người nên lùi, phương của trí giáo, chẳng như thế ư? Luận chép: Phật giáo văn mà rộng, Đạo giáo chất mà tinh, tinh thì người thô chẳng tin, bác bỏ thì người tinh chẳng làm được. Nghi rằng: Nghe rộng biết nhiều hẳn duyên chiếu xa rộng, dốc tu hạnh lành phải nhân lý nhập vi. Chiếu sáng thì lý không gì chẳng tinh, lý tinh thì sáng không gì chẳng cùng tận. Nhưng tinh bác đồng công, lợi dụng lẫn nhau. Bác như tinh vậy, há chỗ người thô có thể tin, tinh như bác, há chỗ hoằng thông riêng thiếu. Luận chép: Phật ngôn hoa mà dẫn, đạo ngôn thật mà chiết, chiết thì người sáng riêng tiến, dẫn thì người tối tranh trước, nghi rằng: Hoa chẳng cách lý thì làm đạt giám, chỗ luyện thật chưa đến hư nên làm toản thưởng. Chỗ nghiệp luyện có thứ lớp là làm chất tối ư hay làm đợi sáng ư? Chất tối thì sáng chẳng tiến riêng. Nếu hẳn đợi sáng thì tối chẳng được trước. Nếu sáng tối đều được sao chẳng phải ép dẫn diệu, huống chi chỗ nạn chương nên lại nói. Luận chép: Kinh Phật phồn mà hiển, kinh Đạo đơn giản mà u, U thì diệu môn khó thấy, hiển thì đường chánh dễ vâng. Vâng chánh thì về đường chẳng mê, thấy diệu thì trăm lo đều được. Nghi ngờ rằng: Giản thì dễ theo, vì sao khó thấy, phồn thì khó lý, sao được dễ vâng vâng theo chánh thì về đường chẳng mê, có thể dùng cực của thềm đạo, tuy chẳng phải u giản tự nhiên huyền tạo, sao mượn thuật của khó sáng thay đường dễ hiểu ư? Luận chép: Nếu hèn nhẫn ngang bướng thì bắt chước Phật làm lớn, Từ Nhu hư thọ thì phục đạo làm đến, nghi rằng: Tà kiến uổng đạo chỗ pháp chẳng còn, từ bi hỷ xả là chỗ dần lục hỷ thì năng thọ, xả cũng sẽ hư. Nghóa hư thọ sâu xa lại hội, chẳng hay người hèn bướng nương vào pháp nào? Nếu cho rằng chỗ thọ là khác, thì vụt thành khắc thuyền, làm sao có phù hợp nhau ư? Luận chép: Phật là phương phá ác, đạo là thuật của khởi thiện. Lại vì tánh của trung hạ chẳng thể bắt chước pháp của Tây Nhung. Nghi rằng: Bàn nói của khởi thiện là tốt đẹp. Lời nói chớ bắt chước xem thường, chỗ ý chưa an. Xin hỏi: Tánh của trung hạ cùng với người Tây Nhung, là tánh hạ thuần thiện, người Nhung căn ác, như nay căn ác, thì đối với lý làm sao phá, nếu đó thuần thiện thì đối với nghóa có thể khởi, nên biết có ác để phá chưa lìa nơi thiện, có thiện để khởi ở ác, Nhưng thiện ác lộn dòng mà cạn sâu khác nhau. Nên La Vân từ tuệ chẳng mượn Đông quang. Kiệt Chích hung ngược đâu chung Tây khí. Đâu riêng cao phong của Hoa mà khinh bỉ pháp của Nhung ư? Nếu vì thiện này khác với thiện kia, ác kia khác với ác này thì thiện ác vốn trái, đâu được đồng rốt ráo. Luận chép: Nghi của Tôn Di, biên của Lũ la như trùng kêu chim hót, sao đáng thuật học đòi. Nghi rằng: Lễ dùng bày kính nhạc để cảm hòa. Tuy kính do lễ bày, mà lễ chẳng phải kính, hòa đồng nhạc cảm, mà nhạc chẳng phải hòa. Nên trên an dân thuận thì ngọc gấm đình sọt phong thuần, tục thái thì chuông trống liền hưởng. Lại, vận của chuông gấm chẳng cùng hai nghi đều là vị, vì lúc vớt chóng quyền chẳng đặng đừng mà hành. Nhưng mà chỗ đạo nghóa còn không hệ hình dung, nếu tạo phản lại đó chẳng hiềm khác nhân, nay chồn ngồi chó ngồi ai bảo chẳng phải kính? Kính để bày tâm, ai bảo chẳng phải lễ? Lễ kính nay phù hợp, như sao không bỏ loại hàm thức? Người nêu điều họ quý, quý chẳng ở lời nói, lời nói ở quý lý, vì vậy lân phụng âm nhân, thấy ở thiên trùng linh, tinh tinh năng nói, nhận ở chương tao lễ. Chưa biết chỗ đó luận, nghóa lấy từ đâu, nếu chấp lời tổn lý thì chẳng phải chỗ y cứ của người biết. Nếu cậy lý quên lời, thì kia vì phá tướng nói tông, nên thường của Lý Sưu chẳng phải chỗ danh muốn mà bằng. Duy-ma im lặng chẳng phải chỗ xảo biện đuổi tìm, xét lời đó vậy. Người ta đều đuổi bỏ, tìm ý chỉ đó, Lão Thích không bờ mé. Đều đuổi bỏ thì bọt nước có thể đuổi bỏ, không bờ mé thì chẳng phụ cao quý, sao là xa trông, danh Bát-nhã chẳng phải trí tuệ, bèn cùng bẻ đuổi, sánh loại như trùng chim. Nghiên lại vượt quá ngày chưa hợp lòng xấu. Vả lại, phương tục khác vận, đâu chuyên Hồ Hạ, gần chỉ trung bang, Tề Lỗ chẳng đồng, Quyền Dư thúc lạc, cũng xưa nay thay thuật, vì đó không phòng ngại chỉ lục, nên truyền trao thế tập, nếu kia chẳng đúng, thì đây chưa đúng, nếu đó đúng thì kia chẳng riêng chẳng phải. Đã chưa thể cũng phải thì đều ở với chẳng phải. Tưởng Hán âm đây trôi vào nước kia, lại thọ quá lắm của trùng đùa, cười chê của chim hót. Biện của Lũ la cũng có thể biết. Một vì đây nói đình doanh có thể bằng, hai nếu gồm trừ chẳng thông ư? Phàm nghóa sâu kín chẳng phải chỗ nên tham, thật muốn xét phương huyền tượng tạm bày qua một, lắng tâm xa đợi chậm nghe giải sau! <詞>BÁC BỎ LUẬNN DI HẠ CỦA ĐẠO SÓ HỌ CỐ CỦA PHÁP SƯ TUỆ THÔNG Tôi an cư kiết hạ có rỗi mất việc chợt cảnh mở xem luận của Cố sinh, chiếu như mở mờ, thấy biện nguồn của đồng khác, rõ đường phải quấy, từ phong nghóa hiển, văn hoa tình áo, mỗi lúc nghiên đọc quên cả nhọc mệt, như chỗ tuyên thảo chân gọi là hồng bút quân tử có làm nỗi lòng. Cho nên xét chỉ quy đó, nghi cười rất nhiều, thí như kẻ mù mò châu, nhặt đậu đỏ mà lại cho là được báu, người điếc nghe nhạc, nghe tiếng lừa hý mà vui ngừng là biết âm. Đây bởi bàn nói của quân tử Di Hạ lấy làm được lý, đó trái lắm vậy. Thấy luận dẫn đạo kinh càng có mờ tối. Xưa, họ Lão soạn văn chỉ có năm ngàn, ngoài ra hỗn tạp đều là thuyết của dâm lầm. Mà riêng xưng là Đạo kinh, từ đâu mà ra? Đã chẳng phải chỗ họ Lão khai sáng thì sao là chân điển. Lại đôi ba phen nghó thử bỏ lầm hoặc đó. Luận chép: Khổng Tử chẳng phải Phật thì ai xứng đáng? Đạo là Phật, Phật là đạo, lấy đó mà nói, gần như bến mê khuyết. Nên kinh nói: Ma-ha Ca-diếp kia xưng là Lão tử, đồng tử Quang Tịnh kia gọi là Trọng Ni, gần biết họ Lão chẳng phải Phật, đó cũng rõ vậy. Thật như tôi và ông thấy lý chưa rộng nên có chỗ cố chấp, nhưng mà họ Thị Trọng Ni là chỗ bỏ của Phật, vả lại tuyên đức bày vật hoa phước mà Phật giáo kia lưu truyền. Nhưng phàm, đại đạo khó vâng, tiểu thành dễ tập. Từ xưa mà đặt nạn chẳng phải chỗ bùi ngùi đến nay. Họ Thị soạn văn gồm có năm ngàn, mà xuyên tạc thì nhiều, hoặc thuật yêu vọng để xoay tâm người, hoặc truyền dâm ngược để làm rung động tánh chúng sanh. Nên làm lành là ít mà nhiễm ác thì nhiều. Tớ cho rằng: Nghiêm sức của tấn thân, cung của khánh chiết, lễ của tang tống, đó bởi thời của đại đạo phế. Nhân nghóa do đó sinh, hiếu kính do đó ra. Trí muốn mới khởi, tình ngụy càng đượm. Bậc Thánh dùng lễ giáo để cấm, dùng pháp độ để chế, nên lễ là bạc của trung tín, là đầu của loạn, đã mất vô vi mà chuộng phải vi, đâu đáp thêm ư? Dung của cắt tóc, kính của chồn ngồi, tục của trọn đắm, tớ cho rằng hoa sắc chẳng đáng lận, tiền của chẳng thể giữ, cũng đã tin. Họ Thị cho rằng: Năm sắc sở dó khiến mắt người mù, phần nhiều giấu kín đó đến sau mất, nên mới cắt tóc, huyền phục, bỏ của bỏ đời, đến chỗ nhường vậy, vì thế, Thái Bá không đức, Khổng Phụ chỉ dạy, đây là loại đó. Hồ Quỳ mới đầu từ Thiên-trúc mà bốn phương theo đó, Thiên-trúc là trung tâm của trời đất, chỗ Phật giáo phát xuất. Đây mới là chỉnh túc của đại pháp, là tề ng- hiêm của chí giáo. Tôi và ông sánh đó như chồn ngồi, khuyết lý làm sao nêu? Nên, hung quỷ giúp ác, ma mạnh hủy chánh. Điều ông nói là vậy, thí như giữ phao muốn giảm sông biển, nghiêng tay để che mặt trời mặt trăng chẳng thể tổn suối của sông biển, che sáng của trời trăng. Còn như lúc đầu của Thái cổ, vật tánh còn thuần không nhờ lễ giáo mà năng theo, chẳng buông hình phạt mà tự trị, chết thì chôn trong đồng hoang, chẳng bít chẳng dựng, tang lễ không hạn kỳ, buồn đến bèn khóc, đó mới là thuần phong của thượng cổ, đâu đủ sánh vậy, ông muốn chẳng phải, thì nghóa đó đâu chấp. Lại, Phật giáo, Đạo giáo dùng xe thuyền mà dụ, hễ có thức nghe đó không ai chẳng hoang vậy mà cười, tớ cho rằng đạo trời chẳng nói bậc Thánh vô tâm. Vì vậy đạo do người mở mang chẳng phải đạo mở mang người, nhưng bậc Thánh thần xét, không chỗ nào chẳng thông, trí chiếu đâu có chẳng khắp mà nói chỉ đó chuyên một chẳng thể gồm giúp. Thí như Linh Huy sáng gặp, xứng vật nhận chiếu, thời phong đêm rưới, bày hình phú âm. Nên hình khác thì âm khác, vật khác thì chiếu khác. Ngày chẳng làm khác vật mà khác chiếu, gió chẳng làm khác hình mà khác âm, sắp biết ngày đó là một, phong đó là một. Bẩm đó là chẳng đồng. Tôi và ông lấy làm dụ thuyền xe nghóa sắp xứng, nhưng Đại giáo không riêng tư, chí đức chẳng nghiêng lệch, hóa vật cùng ý chỉ, dẫn người đều thấu đáo. Tại Nhung địch dùng đều hưởng, ở Hồ Hán mà đồng âm, bậc Thánh sao lại phân đất khác giáo, cách ngụ khác phong, đâu có Di ư? Nào có Hạ ư? Xưa, Công minh nghi làm đàn trâu, thanh giác chi tháo phục ăn như cũ, chẳng phải trâu chẳng nghe hợp tai đó, chuyển thành tiếng ruồi muỗi cô độc, từ đó rung tai vẫy đuôi hớn hở mà nghe, nay chỗ tôi và ông nghe là bởi âm của ruồi muỗi. Riêng của Di Hạ, ý chỉ đó còn đâu? Lại nói: Dưới bỏ vợ tớ, trên phế tông kỷ, vật của ham dục đều do lễ bày, điển của hiếu kính, riêng dùng pháp khuất phục. Đạo tục có tối sáng khác nhau, trong ngoài có nói nín khác nhau. Còn như tông miếu hưởng tế, đề hợp Hoàng khảo, nhưng đến Hiếu kính thì đời chẳng thêm. Nếu là đài khói hương đêm, cung vận pháp sớm. Lễ bái sám hối cầu thỉnh không ngưng, trên đãi nhiều đời thân thuộc, dưới đến tất cả chúng sinh, như vậy sự rộng lớn của hiếu kính chẳng phải chỗ lường của kẻ ngu mù. Nước giúp dân làm gốc, vua nhờ dân mà lập nước, cho nên được yên là nhờ sức dân. Suy Như lai bàn nói tợ như rỗng bày. Lại nói: Khắc thuyền tang môn, giữ gốc Đạo só, không giành lớn nhỏ đàn bắn lẫn nhau, mở vổ Hoa luận, giải thích sâu dính mắc lâu, tìm văn cầu nghóa, ở đâu đáng về. Ngoại đạo dâm bôn, dời tuổi chứa kỷ, chìm tối chẳng đổi, đắm hoặc nào phản, dạo giẫm làng gò nổi vượt xóm lũy, công nhân thánh thuật, lén hành dâm loạn. Đắc đạo như thế sao nay đáng xấu hổ. Xưa kia người Tề ham đi săn nhà nghèo, chó nai suốt năm rong ruổi chẳng được một con thú, từ đó lui mà về cày cấy, nay tôi và ông có biết về cày cấy được toán. Lại nói: Đại đạo đã ẩn, tiểu thành sanh khởi lẫn nhau, nói ngọng khuynh nhau, ai chánh cho đó? Chánh đạo khó hủy, tà lý dễ lùi, thí như cánh nhẹ ở cao gặp gió thì bay. Đá nhỏ tại cốc gặp chảy thì chuyển, chỉ Thái Sơn chẳng bị gió thổi động, bàng thạch chẳng bị nước dốc xoay. Vì vậy, mơ mận thấy sương mà rụng lá, thông bách gặp năm lạnh mà chẳng rụi tàn, là đáng tin. Thuật của dâm yêu gặp chánh thì gãy, ông là đại đạo, ai là tiểu thành tưởng, lại luận đó sau mới lấy biện. Như, Nhan Hồi thấy ngự xe của Đông Dã, thì suy lường sắp bại, Tử Cống trông gió của trâu lỗ xét đó sẽ mất. Sao ông không biết, như thế là quá lắm! Nên nêu riêng về ngu và trí, chọn hiền và bỉ khác nhau, tạm nêu một góc bày cho ông thấy mà có thể trở lại ba góc. Lại nói: Nê-hoàn tiên hóa, đều là một thuật, Phật gọi là chánh chân, đạo xưng là chánh nhất, nhất về vô tử, chân hội vô sinh, giáo vô sinh xa xôi, giáo vô tử thiết thực. Đây bởi tôi và ông biện chung năng nói bỉ phu xem thường để thêm. Nhưng thuyết Nê-hoàn diệt độ soạn ra ở Chánh điển, xướng tiên Hóa nhập đạo lý gần an phụ, Lão Tử nói: Dày của sinh sống hẳn ở đất chết. Lại nói: Trời đất sở dó dài mà lại lâu, vì nó chẳng tự sinh. Quên sinh là sinh còn, còn sinh thì sẽ chết, đường chết sắp đến nên gọi là thiết thực, đó khác thiết thực ư? Ngạn ngữ nói: Chỉ nam là bắc tự cho là chẳng lầm, chỉ Tây là đông, tự cho là chẳng mờ tối, ông lấy hẳn chết làm sắp sinh, sao trái ngược như thế. Nên cướp ngôi vua đoạn lương thực để tu tiên thuật. Tớ nghe họ Thị có răn của năm vị mà không có dạy tuyệt cốc. Vì thế, con ve, con Ngài chẳng ăn, quân tử ai trọng. Ếch trăn núp hang, bậc Thánh nhân ai quý. Vả lại, từ xưa thánh hiền không ai chẳng quy chung. Tôi và ông riêng cho là chẳng chết, sao lạm đó ư? Cho nên thuấn có phần của Thương Ngô, Võ có lăng ở Cối Kê, Chu Công có thiên cải táng, Trọng Ni có mộng của hai doanh. Tăng Sâm có từ của Khải Túc, Nhan Hồi có lời than bất hạnh, ông chẳng nghe ư? Đâu có nhầm lẫn. Xưa, có người chưa thấy kỳ lân, hỏi người từng thấy rằng: Lân giống như con gì? Đáp: Lân giống như lân, người hỏi nói: Nếu đã từng thấy lân thì chẳng hỏi, mà nói lân giống như lân là thế nào? Đáp: Lân là thân quân, đuôi trâu, móng nai, lưng ngựa. Người hỏi mới hiểu ra mà ngộ. Nay tôi và ông muốn thấy lân không? Chẳng muốn thấy thì bảo. Lại nói: Đạo kinh đơn giản mà u, u thì diệu môn khó thấy. Tớ cho rằng: Lão giáo chỉ ở năm ngàn, ngoài ra chẳng phải chân tịch, mà đạo văn trọng hiển hơn sâu nghi quái, phần nhiều là dối gá gian từ, rổng xưng câu đẹp. Thí như người Chu ôm chuột để đổi ngọc, Trịnh Tử thấy đó mà tạm lui, chính là nghóa này. Nói theo đây, lấy gì khắc đáng. Lại nói: Tàn nhẫn ngang bướng thì bắt chước Phật là lớn, từ nhu hư thọ thì phục đạo là dễ. Nên Lão Tử nói: Cường lương là chẳng được chết, tôi sắp lấy làm học văn, nên người sở dó bày hành răn tịch, hiển bày văn giáo lấy làm cũ của kẻ ngu mù, chẳng phải làm thí của bậc hiền triết. Trái đó là dữ, thuận đó là lành. Người ngang ngạnh bướng bỉnh la loại hạ ngu, đại giáo thương xót phương tiện vì đó chẳng phải hư học ư? Từ nhu hư thọ, tớ cho là thích nghi nói rỗng. Nay học đạo trái lại đó, bày hoàng thư họ là chân điển, đeo lục tía cho là Diệu thuật, só nữ không phân, phòng the hỗn loạn, hoặc phục thực để cầu tuổi thọ, hoặc dâm giao cho là lành bệnh, luận của từ nhu ở đâu gá. Lại, vết đạo kín mà nhỏ lợi dụng ở mình, nên Lão Tử nói: Tôi sở dó có hoạn lớn là vì có thân, nếu tôi không có thân thì đâu có hoạn gì. Họ Thị cho thân là đại hoạn, tôi và ông cho thân làm bảo tồn lâu dài, sao trái đó nhiều vậy? Phàm thân sau mà trước thân, ngoài thân mà thân còn, chỉ nói ở mình, chẳng hay bàn luận này lấy gì làm biện. Lại nói: Biện của Lũ la đều có ra từ tục kia, tự cùng lãnh giải như trùng lúc nhúc, chim ồn náo, đâu đáng so sánh? Tớ cho rằng: Ăn cay là chẳng biết cay đó là cay, mà không với mùi vị ngọt, thích hôi là chẳng biết hôi đó là hôi mà chẳng thích tiêu lan, như ông và tôi chìm đắm dâm ngụy, đâu có nhớ tưởng Đại pháp. Thánh giáo diệu thông, chí đạo sâu rộng, đã chẳng được gọi là có, cũng chẳng được gọi là không, không có nghóa bỉ ngã, đều nói đồng khác, lời nói còn bắn rơi, như mũi tên lìa khỏi dây cung, chẳng hối hận kịp, ông có cẩn thận lời nói ư, mà nói là trùng lúc nhúc, chim ríu rít, thì ý làm sao nương? Gần thì cháu con càn rỡ, hiển hành vô đạo, yêu dâm mất lễ, tàn nghịch phế nghóa hiền só đồng chí mà kẻ ngu lại ngụy xoay tâm, lũ gian đầy nhà, bạn ác chật cửa, gò ấp có buồn thống thiết, đường bờ có oán, lưới khổ. Đạo trời họa đầy, quỷ thần phước nhường, sau đó tự chuốc chìm lấp. <詞>LUẬN NHUNG HOA BẮT BẺ LUẬN DI HẠ CỦA ĐẠO SÓ HỌ CỐ CỦA PHÁP SƯ THÍCH TĂNG MẪN Ở QUÃNG LĂNG Xưa kia, Duy-ma là trong nương đường cao, công rộng ngoài việc. Rồng ẩn nhân gian, chỉ dương biển thẳm, thần rưới mười phương, lý chánh thiên hạ, nên để dấu vết ở cõi Tây hiệp đồng u xướng, như nói Linh biến đó, cho nên khiến trời đất ngã lấp, nắm kéo mặc tình, như nói chân chiếu, thì quên lo mà u ngưng, lời bặt đó vậy. Người như thế, có thể gọi là cư só, chưa thấy ông xưng ý của cư só. Nay ông múi bảy mạn chưa xô ngã, hang năm dục chưa lấp đầy, mặt trời tuệ chưa chiếu, mây vô minh chưa tan, gió vịnh mờ chưa dứt, mê đi đêm chưa trở lại, ông đã hiểu như thường phẩm mà núi hiệu là Cư Só ư? Bần đạo vui hưởng khí lượng, biết ông chưa kham chỗ y cứ, nhưng ở đây tuy hiệu cạn của Đại pháp mà cũng chưa dễ có thể đáng. Xét ý luận Di Hạ của ông cũng đủ soi lại tâm, bần đạo giẫm học thiên đàn hy chúc đây, huống chi đều ở đây nói, tài không đẹp của ngoạn văn, thức không hiệu của giám u, chiếu không tấc sáng, đượm không mốc nhuần, muôn đường khuyết đây, có nghóa gì ư? Mà lại trong nắm tư duy mênh mang được tâm chấp tối, khinh đùa bút mực, ngước bói Thánh chỉ, hoặc lẫn lộn Đạo Phật hợp đồng, hoặc luận sâu cạn là khác, hoặc nói thần bang hơn kém, hoặc hủy thanh chánh hư thật. khổ lý lắm con mà cành gãy biến lớn, nhầm xướng mà nhận kiêu, đây đều là thành chế của trên đời, bậc tài giỏi xa của hậu hiền. Nay đem bày ông danh nghóa của đạo Phật là khác. Phật là biệt hiệu của Chánh linh, đạo là đô danh của Bách lộ, Lão Tử là triết của một phương, Phật y cứ tông của muôn thần, Đạo thì lấy tiên làm quý. Phật lấy lậu tận làm nghiên. Tiên đạo có thọ ngàn năm, lậu tận có linh vô cùng. Linh vô cùng nên diệu tuyệt thăm thẳm, thọ ngàn năm trên cưỡi rồng ngự mây, cưỡi rồng ngự mây là đạo sinh tử, linh của thăm thẳm là thường lạc tịnh hẳn. Như đây là mới năng toàn cơ đều ứng. Vết đến thành vua mà thông ngầm xa khiếu, gần ủy trọng cán nên buông muôn nước kia, thề vượt ba không. Rồng bay hoa quán, chỉnh giá đạo tràng, do đó mới đầu thì xướng ở vườn Nai, kế đến thì nhóm họp ở cung trời, giữa thì truyền bá ở Linh Thứu, sau cùng thì quạt ở Hy liên, nên mới sáng lớn chiếu xa, bạch nhật mờ tỏ, hoa hiên bốn lọng, phạm giá trời rũ, chín trời đều ca, các tiên ngộ cơ, dám dự có duyên, không ai chẳng nhóm hội quay về. Chỉ có chu hoàng biên bá, đạo tâm chưa khởi, vì vậy Đức Như lai khiến hiền oai hành đường tây, Bahiền đều dẫn đông đô, nên kinh nói: Đại só Ca-diếp là Lão Tử người ấy, nên dùng giáo lừa dối năm ngàn, giúp tượng đời Chu, hóa duyên đã hết, trở về Thiên-trúc, nên có chỗ xa của xoay lưng của ải dẫn về Tây, người Hoa cho đó soạn kinh Hóa Hồ. Đến nỗi khiến ít thấy vịnh ca hoa mỹ. Ông chưa rõ u chỉ mà liền xướng lão Phật là một ư? Người nghe Đại thánh hiện tông của rừng Nho, bèn khiến Trang Khổng, Chu Lão đây đều là Phật, nếu vậy thì ông cũng có thể là Lão Tử ư? Bèn khiến năm đường các phẩm không gì chẳng phải Phật. Vậy thì sao nói ư? Thật nghóa là cha giờ đuổi theo mặt trời hẳn chết khát. Ông nói luận Di Hạ là, Đông có xấu của Lân tế, Tây có dòng của Khương Nhung, Bắc có loạn đầu phủ tóc, Nam có cắt tóc văn thân, Cơ Khổng bày lễ ở giữa, nên có Di Hạ riêng biệt, Nhung Hoa là đông thì tận ở hư cảnh, Tây thì cùng đến u hương, Bắc thì vượt qua ngoài bể, Nam thì cùng cực lao diêm. Đức Như lai quạt hóa trung độ, nên Nhung Hoa có khác nhau. Ông trách lấy tánh của trung hạ sánh với pháp của Tây Nhung là, ông xuất phát từ vực thẳm của giếng sâu, chưa thấy xa trông của sông hồ. Như kinh nói: Phật y cứ giữa trời đất mà thanh dẫn mười phương. Nên biết cõi của Thiên- trúc là giữa nước. Chu Khổng có chế độ nhã chánh, Như lai có hiến siêu tục, nhã chánh chế nên có khác đối với bốn Di, siêu tục hiến nên chẳng đồng với Chu Khổng, chế khắp bốn Di nên tám phương suy đức, hiến thêm Chu Khổng nên Lão tử trở lại Tây. Lão Tử trở lại Tây nên sinh các Nhung đó, Bốn di suy đức nên vượt thêm mê. Chánh thể không thể đổi, chân pháp chẳng dời. Chánh lễ không thể đổi, nên Thái Bá thì ở Ngô Việt mà chỉnh phục, chân pháp chẳng dời, nên Phật giáo lưu truyền phương đông mà không đổi. Duyên chỉnh phục nên lõa nhượng đùa xiêm, pháp không đổi nên khiến các bậc Hiền ở đất Hán cạo tóc, vì đùa xiêm nên khiến hạ trong hình bức, vì cạo tóc nên khiến ngưỡng bằng tây phong, hình bức Trung Hạ nên khiến núi tàng mà không mạn, xa bằng tây phong nên khiến gần thấy mà không ai chẳng tin. Nếu cho là khuôn phép thánh không nhất định, nên tùy phương mà khác là, Thái Bá cũng có thể lõa bước giang đông, nay ông cũng có thể chưa phục xiêm. Nên tuy là phương loại chẳng đồng, thánh pháp chẳng khác. Ông nói nghóa sắp an lấy đó, nghóa là lấy chánh đạo. Do đó, chỉ suốt huyền làm chánh, Phật lấy không không làm tông. Lão lấy thái hư làm áo (sâu mầu) Phật lấy tức sự làm thẳm. Lão cho rằng tự nhiên mà hóa, Phật lấy duyên hợp làm sanh. Đạo lấy phù chương làm diệu, Phật lấy giảng nói dẫn đắt làm tinh, Thái hư làm áo nên có trung vô vô, ngay nơi sự làm thẳm nên chạm vật đây áo. Tự nhiên mà hóa nên tiêu đường chẳng lên, duyên hợp mà sinh nên tôn vị có thể lên. Phù chương làm diệu nên đạo không thần linh. Giảng nói dẫn dắt làm tinh nên nghiêm tầm thánh tâm. Có trung vô vô nên đạo thì chẳng phải đại. Chạm vật đây áo nên đường thánh xa rộng. Tiêu đường chẳng lên nên, v.v… luống nhọc, tôn vị có thể lên nên trí só mất thân. Đạo không thần linh nên dáng đổ sao cứu, nghiên tầm thánh tâm nên Sa-môn như mây nổi, đó mới nên biết kinh của đạo thì ít mà cạn, kinh Phật thì rộng mà sâu, kinh của đạo thì nhỏ mà uế, kinh Phật thì rộng mà trong, kinh của đạo thì đục mà rỉ, Phật kinh thì trong mà trinh, kinh của đạo thì gần mà tối, kinh Phật thì xa mà sáng. Ông nhuộm phục đổi trắng thật dự tham cao phong. Đầu mũ khăn vàng là tướng hèn xấu. Da đổi thiêm đảnh thật chẳng phải hoa phong, buôn phù bán lục là tà tục trong thiên hạ, tát má gõ răng là chí (đến) của đảo hoặc, trái buộc cúi đất là dáng mạo địa ngục. Phù chương hợp khí là cùng của gian giảo. Đây thì tối sáng đã bày, chân ngụy đã rõ, ông có thể chỉnh dẫn bè bạn xoay bước đường sạch. Bần đạo nhã đức bên trong, đoái hoài đông phụng thánh chân, đâu có ác ư? Tưởng hẳn chẳng nghịch, đáng với đẹp bày.  <卷>QUYỂN 8 Luận Biện Hoặc của Pháp sư Huyền Quang. Luận Diệt Hoặc của Ký Thất Lưu Hiệp. Luận Chiết Tam Phá của Pháp sư Tăng Thuận. **** <詞>LUẬN BIỆN HOẶC (VÀ LỜI TỰA) CỦA PHÁP SƯ THÍCH HUYỀN QUANG LỜI TỰA Đại đạo xa tít, muôn hóa không ngằn, dạo trần cảnh mộng nhiễm mê thanh hoa, duyên tưởng thêm mờ sao biết minh chính, do thuần phong bạc bẽo khiến các ma lăng xăng tranh giành. Nếu nắm dối mưu vinh hẳn hành năm nghịch, oai cường dẫn mù hẳn thi sáu cực, khí trùng mờ khắp khiến hoạn chẳng phải một niệm, Đông Ngô mắc ách của thủy tiên, Tây Di chở danh của lính quỷ, Mân tẩu lưu uế của chủng dân, Hán diệp cảm ca của Tư Tử. Trung hiền vỗ tham dân trị lấn hết, quậy đất cát cỏ, sao đếm tội đó, giọt dòng học cuối chẳng biết gốc tông, thế giáo dối từ quỷ che Tam bảo, dân lão quỷ, v.v… vịnh than đầy đường, đều là tro nóng của Viên sơn, cạn bã của hà lạc, đắm chìm hiểm nạn, tôi rất xót thương. Giải thích tích xưa, để làm gương chưa đúng, chiếu mê đồng ở huyền hương, hiển diệu hướng về ngoài trần, gió tốt ngầm khắp, người và ta tình phân, đâu là chỗ lời tiếng có thể bày tả. Cấm kinh lên giá là một tội nghịch. Phàm, huyền tích mây buông suốt đẹp xinh của không phải, Thánh hiền tích công sao chẳng do đây, thật là biển thẳm của học giả, trời trăng của sinh dân. Do đó, Bồ-tát Ba-Luân từ bi chiếu soi bình đẳng, ánh chớp sáng nơi đường mờ, dứt giặc trần nơi đầm hiểm, nổi thuyền linh ở gió tin, tiếp phù sinh nơi biển khổ, nghe đạo các kinh chế tạp ý phàm, vết giáo tà hiểm, cho nên chẳng truyền, quái lại thay, đạo hoá không bị cấm cố, trông học giả ngày nay chẳng đoái hoài nghiêm khoa, chỉ được vàng lụa, bèn cho kinh đó, người nghèo tạo đó đến chết chẳng thấy. Tham lợi không tâm từ nghịch chẳng gì hơn đây. Lại nữa, phương thuật đó dơ đục chẳng trong, mới gõ răng làm trống trời, nuốt đàm dãi làm suối rượu, phẫn ngựa làm củi Linh, chuột già làm thuốc linh chi, nhờ đó cầu đạo, sao có thể được ư? Xưa kia, Tần Hoàng Hán Võ chẳng được khinh thân, khiến từ phước Công Tôn xa mờ mây sóng cầu đợi thông tiên, ảnh hưởng không bày, nhàn tâm dứt dục, thì sự gần với đạo, đâu mượn nhọc của chợt giẫm nuốt đàm dãi cắn răng ư? Vọng xưng chân đạo là hai tội nghịch. Chất tốt ráng đỏ là, nói công của thần Đan, mở sáng tịnh trí hẳn khí của nương hoa, tuy gìn giữ đây là chân, mà chưa thể không rốt cùng, huống chi Trương Lăng vọng xưng là thiên sư, đã khinh mạn người quỷ, ngay nơi thân thọ báo, cuối niên hiệu Hưng Bình đời Hán làm chỗ trăn rắn hớp. Tử hành rảo tìm không biết đâu, sợ mang báo dèm chê thanh nghi, bèn giả bày quyền phương để bày vết Linh hóa, sinh buộc chân hạc, đặt đá đảnh lớn, mưu sự biện xong, hẹn kỳ phát đó. Đến niên hiệu Kiến An thứ nhất, sai sứ bảo rằng: Ngày mồng bảy tháng giêng, Thiên sư lên Huyền Đô, dân gạo săn núi nhóm họp ngoài làng đông như kiến, vân đài trị dân, v.v… cúi đầu lạy thưa: Cúi xin nghe thánh giá Huyền Đô, chúng tôi từ biệt, ngầm tiếp thây trần, mới hưởng cửu u, vừa tối thì hành nhập, giây lâu trở ra dối xưng rằng: Tôi xoay giá trở lại thần hoa, các người mỗi trở về chỗ trị, tịnh tâm hành trì, nhớ thầy niệm đạo, hành bèn kín rút dạo buộc hạc thẳng cân hư không, dân Liêu ngu xuẩn, kiểm lời lên tiên, bại chết lợi sinh khinh thường trời đất. Hợp khí giải tội là tội nghịch thứ ba. Diệt tình dứt dục thì đạo minh chân quần tư ban tánh vọng tạo hoàng thư, chú bệnh không đầu mối, lại núp khinh cười (Chu nói Thiên Đạo xong ba, năm thành, mặt trời sáng, ra sâu thẳm vào mờ mờ, khí vào chân khí thông thần, khí trải đạo khí hành gian tà, quỷ giặc đều tiêu mất, thấy ta là mù, nghe ta là điếc. Dám có mưu đồ là ta trở lại chịu ương họa đó. Ta tốt mà kia xấu. Đến năm Giáp Tý ban chiếu làm tiêu lục, nam nữ sính hợp, tôn ty chẳng khác. Ngô Lăng, Tu Tónh lại chuyên cần thực hành). Mới mở cửa mạng, năm trẻ con chân nhân, xoay đùa rồng hổ, làm thế như đây, để tiêu tai tan họa, đó có thể vậy ư? Thời nhà Hán, nghi quân hành đây làm đạo, quỷ mî loạn tục, bị đuổi tới Đôn Hoàng. Sau đến tôn ân hiệp rộng thấm lắm, nam nữ chung chuồng chẳng khác cầm thú. Sắc trần dễ nhiễm, ái kết khó tiêu, huống chi giao khí đan điền, diên mạng tiên huyệt, bày binh qua cấm của ngọc môn, biến thái cùng thế của rồng hổ. Sống không kết trung trinh, chết có khổ thanh đình, thật mong trời sáng xét soi, bọn này vật ta chánh trong, chẳng phụ minh chiếu. Hiệp đạo làm loạn là tội nghịch thứ tư. Chân tông khó hiểu, thanh hoa dễ lầm, duyên lụy nhiều lớp núi, đức nhẹ gió thổi bày, như hoàng cân, v.v… diều trông nhà Hán, trái lại đổi trời rõ tội đều chịu giết, tiếp có Tử Lỗ lại xưng quỷ đạo. Thần kỳ chẳng giúp làm chỗ huyệt của nai hoang, sau cùng có tôn ân lại xưng là tử đạo, chẳng dùng khinh của dân hèn, muốn mưu trọng của Đế quý, làm mây hưởng nơi hang tối, phát vọng tưởng ở không huyền, thủy tiên mê hoặc vật, uổng giết già trẻ, phá nước hoại dân, há chẳng phải hung nghịch. Vì vậy, Tống Võ Hoàng Đế chỉ bùi ngùi đó, mới là rồng bay ngàn dặm, hổ bước ba sông, bít đánh bầy yêu, chẳng nhọc quanh khắp. Hàm thức vui mừng cỏ cây tươi tốt. Chương thư phạt đức là tội nghịch thứ năm. Chí hóa là các trần khác chẳng thể dối che. Giải thích thụy linh phách chuyên nương minh đức. Đạo không có chân thể, vọng đuổi theo yêu không, liền nói đông hành say rượu mà mất, như kẻ mù này sao chẳng hẹp lánh. Lại đổi đạt thất tổ văn ý cạn mỏng, xin khỏi vốc cát đá, lâu thành quỷ đạo. Thánh trí cùng vi, có niệm đây chiếu, sao phiền tế rượu tốn phí giấy mực, nếu hẳn phải có văn tự mách báo sau mới phân phán, mới đầu biết đạo, ông không khả năng Huyền giám, Thiên tào không chiếu thiên nhãn. Ba quan nhọc bởi cẩn án, ty lại nhọc do xét bắt, nghe đó tấu chương vốn phỏng gấp gáp, mà ngày của Mậu Thìn trên hẳn chẳng đạt, chẳng đạt Thái thượng thì sinh dân uổng tử, than ôi buồn thay! Thật là năm tội nghịch. Sợ quỷ đeo phù cực phi pháp thứ nhất. Chân tâm giẫm thuận, là yêu nghịch đổi khí, vì vậy chí thánh cao hiền vô tình với muôn hóa, nên năng đông dạo vàng đá, nằm ngủ trên mây khói, đây là thuần thành cảm thông, đâu đeo mang khiến vậy ư? Kinh đó từ đặt sính mạn quỷ tệ nói: Bên trái đeo chương thái cực, bên phải đeo thiết côn ngô, chỉ mặt trời thì dừng tỏa sáng, phỏng định quỷ thì máu phun ngàn dặm. Như Thọ Hoàng Thư, Xích Chương chép: Tức là Linh tiên lang triển vào tónh chẳng chầu Thái thượng. Đến nơi khiến thần lục giáp mà quỳ bái thanh xý (như Quách Cảnh Thuần cũng nói: Tiên lưu lên thanh độ ách trọn chẳng khỏi tai), ngu si điên đảo đâu biết nghi tiết, nghe đó mang phù. Xưa kia Quân Tiêu, Trương Giác, Hoàng Phù, Tử Lỗ. Đới Giáng, Lư Tủng, Tử Tiêu, Tôn Ân, Cô Hư đều nắn hoặc vương sư, trọn diệt người quỷ. Chế dân khóa thâu cực của khí xảo thứ hai. Giáo ngũ đẩu mễ phát xuất từ Thiên sư, hậu sinh tà đục lại lập mễ dân, người đời nhàm chán sợ hãi. Vì vậy, Tử Minh, Đỗ Cung đều khốn khổ ma trăn, lại đồ thán trai tịnh, sự khởi từ Trương Lỗ Thị Di rộng nan hóa mới chế pháp này, là lừa lún trong bùn, muối vàng mặt bùn, trích đầu treo ngang đất cho chín, pháp này chỉ ở biên thùy, chẳng thực hành ở Hoa Hạ, đến đầu niên hiệu nghóa hy, có Vương Công, kế đó tham báu sợ khổ, trộm xét đánh tát, Ngô Lăng, tu tónh rất biết nguồn hẹp, như trán treo buộc mà thôi, cực của si hẹp, mong chớ nói Đạo. Giải trù cửa mộ cực bất nhân thứ ba. Mở cửa đại thí cùng vật thông mỹ, trái đạo dư khí là cửa ngộ giải trù, gắng thân áo thực, ôm sắc thái của duyên ban, xưa kia Trương Tử, Lỗ Hán Trung giải phước, nhóm họp đông nhiều tế rượu, và các quỷ tốt (quỷ tốt là Dân quỷ, Lại quỷ, quỷ Đạo, đây là Tử Lỗ Khinh với Lỗ Di mà làm tên này. Lại Thiên sư, Hệ sư, Tự sư và ba nữ sư, đây là Trương Lỗ tự xưng tốt đẹp. Lại đạo nam quan, nữ quan, đạo cha, đạo mẹ, thần quân chủng dân, đây là sau hợp khí tặng tên vật. Lại dân mễ, họ mễ Đô Công tế rượu, đây là thời hoang tên vỗ hóa. Lại, bần đạo ba động Pháp sư trưởng an tăng vó làm tên này. Lại, tiên sinh, đạo dân tiên công vương Mạt lăng huyện dân, Vương Linh Kỳ làm. Lại Đạo só giặc kiến chế rượu giặc mễ, đây là chỗ nhắm của người đời. Lại, Pháp sư, Đô Giảng, Thị kinh là Lăng tu tónh tựa Phật, nương đời mà chế tên đó. Lại, Thiên Công, Địa Công và xưng thần thiếp, đạo của Thái Bình, đạo ngũ đấu mễ, Đại đạo, Đạo tử, quỷ thần, sư quân đây là lúc làm giặc, mượn uy danh. Lại, giao đông loan đại bái, ngũ lợi tướng quân, tuy có cỏ tranh và đất mà không thần tiết, cuối thời Hán Võ, chẳng còn gọi nữa, vui tiến quá thường, bèn khiến buông lung, tiếng xấu lan tỏa xa tới muôn phương, Lưu Chương Giáo nói: Linh tiên dưỡng mạng, như tiết trùng sương ráng mà dày thân, ham vị làm sao có thể chuộng đạo? Tử Lỗ nghe vậy tức giận xấu hổ, ý sâu phạt quét đường đó, đời truyền Đạo só, sau gặp nêu lên, để phòng nạn đó, gồm chế rượu trù mạng với hạng ba thăng, Cuối đời Hán lại gọi đó là Chế tửu, đến Vương Linh kỳ tước bỏ mục thề, tiên sinh đạo dân đều chấn tích, tuy có quý về năm lợi, nhưng lại làm tên của yêu vật. Độ ách khổ sinh cực hư vọng thứ tư. Chất nguy thu núm, mạng mỏng như băng mùa xuân, gió nghiệp thổi lan, cỏ xoay hóa cảnh. Sở dó cảnh công nhậm ở duyên mạng, cháu con ghi làm hành thây, trò mê học cạn không biết đại phương, đến lúc bệnh tật suy họa vọng lắm, nguyên vực của yêu sùng, quỷ quán lấy làm tai ương, độ nguy ách ở sông xa, chiêm điếu tinh ở Huyền Lựu, tuyết Đan Chương ở Hoa Sơn mới cùng bức mặt mày dáng mạo dối mắng. Minh quỷ bảo rằng: Ba quan sứ giả đã đưa tiên sư đi, nên vậy không tang từ hóa, đây thật khuôn tế rượu, lợi của cân tư, tằm ăn trăm họ, công tư đều tổn, đến nỗi khiến nhà lửa kinh sợ đối với chí thánh, quy ca động ở người nghó. Trong mộng tạo tội cực ngoan si thứ năm. Thiên thuộc hóa thủy mới biết chiếu làm nguồn, xả bỏ thân mạng, cỏ cây chẳng phải số. Nhưng đại địa núi gò không gì chẳng phải ta cho nên là trần, sông biển mênh mông đều là máu lệ của ta. Lấy đây mà quán, ai chẳng phải thân phải, hoặc mộng thấy người đã mất trước, liền bảo là biến quái. Người quỷ tuy khác nhưng sinh diệt là đồng, tình ân ái thời đến lại có ảnh hưởng, các tà không tướng trạng, chẳng biết thuận nghịch, triệu thực quỷ lại binh tấu chương đoạn, cắt tiệt u linh đơn tâm ai chiếu, mong nguyện vị lai chớ chuộng lời mê, khiến thiên đường không nghó thôi ăn, sông băng lắng tiếng niệm tónh tai. Khinh làm cực lạnh nóng, hung nịnh thứ sáu. Lặng sâu tâm miệng là chân đức của muôn hạnh, mà chúng sinh cõi đều không từ ái, hổ hung tà nịnh phù chương tranh nhau làm, huyền môn thiếp hộ để lừa dối ngu tục, cao hiền có biết chưa an đó, tạo hoàng thần việt, chương dùng để giết quỷ, lại chế xích chương để giết người, thú vui tình đời chẳng kể tội ương, âm mưu ôm ghét kinh có y cứ cũ, chết vào địa ngục kềm sắt, sinh ra si quyết ngọng câm, tinh hài mê mục, chìm lìa trọn kiếp, ai biết điều này? Quỷ lão bọn dân tướng đạo chẳng vậy, sự đó nên chất. Phàm, luyện chích tuy khổ, người trí chịu nghe, nên lược đặt lời, mong thử ba lần suy nghó, có thể phủi vết đổi mưu, tức cùng đại hóa đồng phong. Bởi đó chẳng đổi xin đợi minh đức, đầy đủ chiếu tiếng cong để hiểu đêm dài, đâu là ngày nay chỗ từ yếu tỏ bày ư? <詞>LUẬN DIỆT HOẶC CỦA LƯU KÝ THẤT HIỆP Ở ĐÔNG HOÀN Mê hoặc soạn luận Tam Phá là, nghóa chứng thường gần, từ thể quê kệch, tuy chí lý định ở thức sâu, mà lưu ngôn lầm ở tính cạn, cong vẹo hẹp thuyết, thật chẳng đáng nói, lại sợ người quê mùa nghe mà nghe tin theo, nên chọn điều trong đó đáng nói, lược nêu nhã trí. Luận Tam Phá chép: Giáo của đạo gia, diệu ở tinh tư được một, mà vô tử (không chết) chứng thánh, hóa của nhà Phật, diệu ở tam-muội, thần thông vô sinh có thể mong cầu, gọi tử là Niết-bàn, chưa thấy học tử mà chẳng được tử. Luận Diệt Hoặc chép: Nhị giáo chân ngụy rõ ràng dễ phân biệt, Phật giáo luyện thần, Đạo giáo luyện hình. Hình khí cuối cùng vướng ngại bên trong một bức tường. Thần thức vô cùng lại vỗ về bên ngoài của sáu hợp. Người sáng suốt nhờ ở giáo vô cùng thắng tuệ, kẻ tối tăm biến đó hẳn cuối cùng cuồng dùng tiên thuật, tiêu thuật cực ở bánh thuốc, tuệ nghiệp mới đầu ở quán thiền, Thiền luyện chân thức nên tinh diệu, mà Nê-hoàn có thể mong, thuốc dừng ở ngụy khí nên tinh tư mà vụt vọt không kỳ. Nếu là bỏ kho tàng diệu bảo, bỏ sót trí dưỡng thân. Y cứ lý tìm đó, ngụy ấy có thể biết, giả sử hình bay lên khoảng trời, thần tối diều bay lệ thiên, đâu khỏi làm chim, diệu quả Nê-hoàn, đạo chỉ có thường trú, bàn về học tử, đâu chiết lý ư? Luận Tam Phá chép: Nếu nói Thái tử là giáo chủ, chủ chẳng cạo tóc mà khiến người cạo đầu, chủ chẳng bỏ vợ mà khiến người đoạn chủng, thật là đáng cười, biết rõ Phật giáo là thuật diệt ác, cúi nghe đức của quân tử thì thân thể da tóc thọ nhận từ cha mẹ, chẳng dám hủy thương, là đầu tiên của hiếu. Luận Diệt Hoặc chép: Thái tử bỏ vợ, cạo tóc, việc ấy nói rõ trong kinh, mà phản trắng làm đen, cũng chẳng nhầm ư? Hiếu của nhà Phật chỗ bao gần xa. Lý do ở tâm, không thuộc ở tóc, nếu mến tóc bỏ tâm, sao lấy ở hiếu. Xưa kia, Thái Bá, Ngu Trọng cắt tóc Văn Thân, Phu Tử hai lần gọi là quyền trong chí đức, lấy hiền ở trong tục, nên tu thế lễ, cắt tóc nhường nước, thánh triết bàn nói ngợi khen, huống chi giáo Bát- nhã, quyền trong nghiệp thắng, quả Bồ-đề, Diệu lý khắc nhường đó ư? Diệu ký khắc nhường nên bỏ tóc theo đạo, Quyền trong nghiệp thắng nên bỏ vết cầu tâm, y cứ theo hai hiền không thiếu ở hiếu, soi lấy cảnh thánh,đâu có quái lạ ư? Phá thứ nhất nói: Vào nước mà phá nước là cuồng ngôn thuyết ngụy, khởi tạo không phí, khổ khắc trăm họ, khiến nước trống dân cùng, chẳng giúp nước nhà mà sinh dân diệt tổn, huống chi người không nuôi tằm mà mặc, không làm ruộng mà ăn, nước diệt người dứt, do đó mà mất. Nhật dụng tổn phí, không ích lợi mảy may, hại của năm tai chẳng gì hơn đây. Luận Diệt Hoặc chép: Đại thừa viên cực, cùng lý tận, nói về hai đế để bỏ phải nói về ba không để nêu vô, bốn đẳng mở rộng thắng tâm sáu, độ dứt nghiệp khổ, sự chê cười của lời nói cuồng đâu tổn trời trăng. Sự xây dựng chùa tháp, mở mang linh giáo, công lập một thời mà đạo khắp ngàn năm. Xưa kia, võ hội chư hầu, vàng gấm muôn nước, đến lúc đánh phạt chỉ còn bảy vị. Thái Thủy Chính Phụ, nhà dân chật đầy, binh loạn xích my, ngàn dặm không khói, nước mất người diệt, đây là lý do? Thời của Hợi Anh, thạch cốc mười muôn, đời của Cảnh Võ chứa thóc hồng thối, chẳng phải cuối đời Tần lắm nhiều Sa-môn, mà đầu đời Hán không có Phật pháp, nghiệm xưa y cứ nay đâu tổn ở chính. Phá thứ hai rằng: Vào nhà mà phá nhà, khiến cha con khác việc, anh em khác pháp, đuổi bỏ cha mẹ, hiếu đạo chóng dứt, buồn vui đều khác, ca khóc chẳng đồng, cốt huyết sinh thù, phục thuộc bỏ hẳn. Bội hóa phạm thuận, không quả báo của Hạo Thiên, năm tội nghịch bất hiếu, chẳng gì hơn đây. Luận Diệt Hoặc chép: Lý hiếu chí cực đạo tục đồng chung, tuy trong ngoại khác vết mà thần dụng một đạo. Nếu mạng nối tục nhân vốn tu giáo, ở Nho Lễ vận bỏ đạo quả, đồng hoằng hiếu ở phạm nghiệp. Vì vậy thưa hỏi thân thích mà xuất gia, trong kinh Pháp Hoa có nói về nghóa đó, nghe mà học sau. Duy-ma nêu ví dụ đó, đâu quên gốc ư? Có khi do như vậy, kia đều chiếu ngộ thần lý mà soi rọi người đời, quá bày giá ở cách ngôn, chết sông tổn nơi thượng triết, nên biết minh dứt tận dưỡng thì không tế u linh, học đạo bỏ thân thích thì khổ ngầm dứt hẳn, xét diệu cảm đó không sai, nói về Thắng quả đó hẳn như vậy, sở dó khinh trọng cùng dẹp, bỏ kia lấy đây, nếu là chỗ thực thi của phục chế, sự do đuổi tìm xa, cúng tế tuy nhân tâm, ép cũng duyên theo đời, xưa kia Tam Hoàng chí trị, Nghiêu Thuấn mến mộ, chết thì dùng củi làm áo, chôn lấp trong đồng hoang, dựng lập chẳng sửa, tư trảm không kỷ, đâu thể gọi Tam Hoàng giáo, dân bỏ nơi hiếu ư? Và Ngũ Đế, phục chế rõ ràng, chưa nghe Nghiêu Thuấn chấp lễ tìm trách Tam Hoàng, Tam Hoàng không trách, đâu riêng nghi Phật, không có phục của Phật, lý do dứt khổ, Tam Hoàng bỏ tang, sự theo thuần phác, thuần phác chẳng nghi mà dứt khổ thấy sáng. Cái gọi là sáng ba chiều bốn mà mừng vui giao bày. Biết rõ giáo của bậc Thánh xúc cảm viên thông. Tam Hoàng dùng thuần phác vô phục, Ngũ Đế dùng theo tình chế tang, Thích-ca dứt khổ nên bỏ tục về chân, xét vết khác đường mà huyền hóa đồng về. Phá thứ ba rằng: Vào thân mà phá thân, thể của nhân sinh, một là có tật của hủy thương, hai là có khổ của hói đầu, ba là có nghịch của bất hiếu, bốn là có tội của dứt chủng, năm là có thể của sinh, từ mới nhận biết, chỉ học bất hiếu, làm sao nói ư? Răn khiến chẳng quỳ cha mẹ bèn tranh theo đó, con trước làm Sa-di, người mẹ sau làm A-ni thì quỳ trước người con, giáo của chẳng lễ, Trung Quốc nên dứt, làm sao có thể được theo. Luận Diệt Hoặc chép: Phàm, gá hình bẩm thức, lý định tiền ng- hiệp vào đạo ở tục, sự hệ nhân quả. Vì vậy, Đức Thích-ca ra đời, giáo hóa trời người. Trị nước, trông nhà đều chứng vết đạo. Chưa nghe thế giới khắp đồng xuất gia, vì duyên cảm không phải một, danh giáo có hai, Tấn thân Sa-môn sở dó có khác, chỉ vì mới đầu nhổ vức trần, lý do giới định, vợ là ái lụy, tóc là hình sức, ái lụy tổn thần, hình sức trái đạo. Do đó, lắng thần diệt ái, tu đạo bỏ trang sức. Lý ra thường đều mà giáo thì trái tục, nếu là chẳng quỳ cha mẹ, đạo tôn nên vậy, cha mẹ tôn đạo của lễ nên vậy. Lễ quan mới ra mắt mẹ, mẹ bèn bái đó, mừng đó đủ đức, khuật tôn lễ ty, bậc giới vị thấy vua chẳng bái, trọng nắm võ đó nên tôn chẳng thêm. Truy biện khinh mão, vốn không có thần đạo, áo mão hung khí chẳng có chí đức. Nhưng sự lẽ ra thêm cung thì vì mẹ bái con, cho nên dừng kính thì tôi chẳng quỳ vua. Lễ điển thế giáo, do Chu Khổng đặt ra. Luận về Biến Thông chẳng do một phép, huống chi tôn của Phật đạo nêu vượt ba cõi, thần giáo diệu bản, quần trí huyền tông, lấy đó thêm cho người thật tôn ở áo mão, áo mão trái lễ, xưa nay chẳng nghi ngờ, Phật đạo thêm kính, sao lại quái lạ. Luận Tam Phá chép: Kinh xưa của Phật vốn chép: Phù-đồ, La- thập đổi thành Phật-Đồ, vì biết nguồn gốc xấu ác nên gọi là Phú-Đồ, vì người Hồ hung ác. Lão Tử nói: Hóa mới đầu đó chẳng muốn thương tổn hình, Hồ hói đầu đó, gọi là Phù-Đồ, huống chi đồ là cắt, đến sau Tăng Vó đổi thành Phật-Đồ, Vốn kinh cũ nói: Táng môn, Táng môn là do môn tử diệt, nói pháp ấy là giáo vô sinh, gọi là Táng môn, đến La-thập đổi thành Tang môn, Tăng Vó lại đổi là Sa-môn, Sa-môn do pháp sa thải, chẳng đáng gọi. Luận Diệt Hoặc chép: Đời Hán Minh, kinh Phật mới đến, nên Hán dịch ngôn âm chữ chưa chánh, phù âm tợ Phật, táng âm tợ sa, là sự sai lầm của tiếng, lấy đồ là đồ là sự nhầm lẫn của chữ. La-thập ngữ thông Hoa Nhung, thức gồm âm nghóa, cải chánh ba thỉ hẳn thích nghi. Ngũ kinh sách đời, học chẳng dophiên dịch mà Mã Trịnh ghi chú nói âm chữ đổi lẫn nhau. Từ đó, với mục chẳng ghi sai nhầm thầy trò, với Chu tụng đáng bít yên, sao trái Thánh đức, với sâu sắc của Nghiêu Điển chỉ giáo, sao ở hai chữ. Được ý quên lời, điều Trang Chu lãnh hội, dùng văn hại chí, điều Mạnh Kha chê trách, vốn chẳng đại lý, chỉ chữ là cầu, người Tống bày bó buộc, đâu còn gì hơn đây. Luận Tam Phá chép: Có pháp của Tam Phá này, chẳng thực hành ở Trung quốc, vốn chỉ ở Tây Vực, sao nói vậy ư? Người Hồ không ác, ngang bướng, không có Lễ, chẳng khác cầm thú, chẳng tin hư vô, Lão Tử vào quan nên làm giáo của hình tượng hóa đó. Lại nói: Người Hồ tục tằn, muốn dứt sự xấy ác đó nên khiến nam chẳng cưới vợ, nữ chẳng lấy chồng. Phàm, phục pháp một nước tự nhiên diệt hết. Luận Diệt Hoặc chép: Song thọ mờ vết, hình tượng thay nhau khởi, hẳn đã lý tích từ vô thỉ mà đạo khắp vô cùng xét Lý Tẩu ra quan, thuộc cuối thời nhà Chu, ở đời mờ tới, hiền giả dần ẩn, nên đi mà quên về, tiếp kiệu lánh đời còn diệt vết đó, huống gì vượt ra ngoài vức, ai thấy dấu vết đó. Do đó, gian giảo tế rượu soạn kinh Hóa Hồ, lý vụng từ quê, chỗ tư lệ truyền tìm, Tây Hồ lo sợ, Bắc Địch hung dữ, như Lão Tử diệt ác, bỏ đức dùng hình, nào mến Hung Địch mà phản diệt Hồ yếu ư? Bèn khiến Hiểm Duẩn bày hành độc hại muôn đời, sói lang giữa đường, mà Hồ Ly là giết, chìm đắm tàn khốc, chở che không nghe. Pháp của thương ưởng, chưa ngược như thế, đạo của Bá Dương, đâu đến nỗi vậy. Vả lại, chưa phục thì bầy tượng không thi vi, tin thuận thì bắt giết có thể dứt. Đã phục giáo vậy mới thêm cực hình, một lời mất đạo, các ngụy có thể thấy, lời của Đông Dã đó là như lý sao? Luận Tam Phá chép: Thầm nghe! TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ học trò của Tam Vương, vì sao học đạo đồng thời cảm ứng mà chưa nghe Phật giáo. Là vì Cửu Hoàng chợt vậy, hay Phật giáo chưa ra. Nếu là Phật giáo chưa ra thì là tà Ngụy, chẳng còn trở lại. Luận Diệt Hoặc chép: Thần hóa biến thông, giáo thể chẳng phải một, linh ứng cảm hội, ẩn hiện không ngằn. Nếu duyên ở diệu hóa thì Bồ-tát mở mang đạo đó, hóa ở duyên thô thì thánh đế diễn đức đó. Phàm, Bồ-tát thánh đế tùy cảm hiện ứng, khác giáo hợp khế chưa mới đầu chẳng phải Phật. Nên biết từ Tam Hoàng đến nay cảm diệt mà danh ẩn, giáo của Hán Minh duyên ứng mà tượng hiện, nếu là Tam Hoàng đức hóa, Ngũ Đế nhân giáo, đây gọi là đạo, dường như chẳng phải Thái thượng, Hy nông bày trị, chưa nghe tấu chương, Nghiêu Thu- ấn tiếp chính yên chịu họa phù, Thang Võ cấm bạo đâu thưởng bánh Đan, điển tịch ngũ kinh chẳng kể Thiên sư mà cầu viện thánh đế, há chẳng buồn sao! Luận Tam Phá chép: Đạo lấy khí làm tông gọi là được một, tìm khắp trung nguyên nhân só không ai chẳng phụng đạo, nay ở Trung quốc có thờ Phật hẳn là giống của Khương Hồ, nếu nói chẳng phải tà, vì sao thờ Phật? Luận Diệt Hoặc chép: Chí đạo tông cực lý quy về một, diệu pháp chân cảnh vốn hẳn không hai, là chỗ đến của Phật, thì không huyền vô hình mà muôn tượng đều ứng, vắng lặng vô tâm mà huyền trí càng chiếu. U số tiếm hội chẳng thấy cùng cực, công ngầm thường ngày chẳng biết, chỉ nói muôn tượng đã sinh giả danh, bèn lập Hồ ngôn. Bồ- đề, Hán dịch là Đạo, đó là hiển vết, thì Kim Dung dùng tiêu biểu thánh, ứng tục cho nên cung vua lấy làm hiện sinh, dùng Tứ thiền nhổ bỏ ngu làm đầu, dùng Thập Địa làm thềm cấp của tấn tuệ, gồm quỷ rồng mà đều dụ dẫn, cả xuẩn động mà đẳng từ. Quyền giáo vô phương chẳng vì đạo tục trái ứng, diệu hóa không ngoài, đâu vì Hoa Nhung cản trở tình. Vì vậy một âm diễn pháp khác dịch, cùng giải thích Nhất thừa, bày giáo khác kinh, đồng về kinh điển. Do quyền nên giáo của Khổng Thích khác nhau, mà Đạo khế giải đồng. Do diệu nên Hồ ngữ, Hán ngữ cách mà hóa thông, chỉ cảm có tình thô nên giáo phân đạo tục, địa phương có Đông Tây nên hạng nước có nội ngoại. Tỏa rộng đó là thần hóa nắn đúc chúng sinh không khác, dụng năng cứu vớt sáu đường gồm nhiếp đại thiên, đạo chỉ có chí cực, pháp chỉ có tối tôn, nhưng chí đạo tuy một mà đường rẽ sinh mê, chín mươi sáu thứ đều gọi là Đạo, nghe tên thì tà chánh chẳng phận biệt, kiểm pháp thì chân ngụy tự phân. Y cứ đạo gia lập pháp, khuyết phẩm có ba: Trước nêu Lão Tử, kế nói về thần tiên, sau tiếp Trương Lăng. Thái thượng làm tông, sau đó trụ Sử mừng trốn, thật chỉ đại hiền, viết sách luận đạo quý ở vô vi. Lý về lắng một, hóa vốn hư nhu, nhưng ba đời chẳng kỷ, tuệ nghiệp chẳng nghe, đây mới là lương thư (sách hay) của đạo tục, chẳng phải diệu kinh xuất thế. Nếu là thần tiên tiểu đạo gọi là Năm thông, phước cực sinh lên cõi trời, thể đều bay nhảy. Thần thông mà chưa khỏi phải lậu, thọ xa mà chẳng thể không rốt cùng, công chẳng phải bánh thuốc, đức duyên theo nghiệp tu. Do đó ngu giảo phương só ngụy gá bèn đượm. Trương Lăng giặc mễ thuật ghi thăng thiên. Cát Huyền Dã viết truyện tiên, công ngu lầm hoặc ấy, người trí có thể không cùng, nay tổ thuật lý tẩu thì giáo mất như hiến chương kia, thần tiên thì thể kém như thế. Thượng trung là diệu còn chẳng đáng kể, huống chi bắt chước Lăng Lỗ tiếu sự chương phù, lập giáo năm đấu, muốn cứu ba cõi, dùng muỗi vác núi, ngu thường há hơn ư? Nêu danh đại đạo mà giáo rất ở tục, nêu hiệu Thái thượng mà pháp cùng hạ ngụ, làm sao biết? Ham sống sợ chết, chỗ đồng của hàm thức, nên nhục chi, thạch hoa dối dùng liệng vọt, ham sắc xúc tình, chẳng khác thế gian, nên hoàng thư ngự nữ dối xưng là địa tiên, da thịt đầy hư không mà chúng sinh đều ưa thích, nên báu tiếc đàm dãi dùng rưới Linh căn. Lánh tai khổ bệnh là thường hoạn của dân, nên chém buộc ly mî để khoái ngu tình, ngu oai cậy võ, phong cũ của tục, nên lại binh móc cưỡi để động tâm cạn. Còn như tiêu tai dâm thuật nhàm thắng gian phương, lý dơ từ nhục, bút chẳng thể truyền, sự hợp manh thứ, sánh nhà về tông, vì vậy Trương Giác Lý, Hoằng độc truyền cuối đời Hán, Lư Tưng, tôn ân loạn đầy cuối thời Tấn, chỗ bao trùm sóng khác, thật phiền có học trò, tước chẳng phải thông đợi mà khinh lập hộ dân, điềm lành không hổ trúc mà lạm cầu thuế khóa, phí cháo sản nghiệp, trùng lầm hoặc nam nữ, vận nghịch thì nước Hiết, đời bình thì mọt dân, tổn chính mầm loạn, đâu đồng như Phật. Vả lại, Niết-bàn đại phẩm, sao sánh huyền thượng đại thanh, Kim dung diệu tướng đâu đẹp bằng nhà quỷ phòng không? Dẹp phục thiên ma chẳng cung kính dối trá của Huyễn tà, tịch tu giới hạnh, đâu đồng với xấu xí của xong khoán, chưa hoằng thệ ở tấc vuông, đâu đồng tạng cung, sắp ở đan điền, hồng chung vang nơi phạm âm, đâu như khua trống trời ở môi mép, lấy hình tích so sánh tinh thô đã cách, lấy chí lý xét hạch chân ngụy đâu ẩn. Nếu dùng thô cười tinh, dùng ngụy báng chân là kẻ mù đối với ly châu, nói là mình sáng. Đáp Đạo só giả xưng luận Tam Phá của Trương Dung của Pháp sư Thích Tăng Thuận (gồm mười chín điều). Luận chép: Nê-hoàn là tử, chưa thấy học tử mà được trường sinh, đây là hóa của diệt chủng. Giải thích: Phàm, sâu dày của sinh sinh cho đến vô sinh thì Trương Nghị học trò Đơn Báo là dạng đó. Vì thế nhà Nho nói: Người ta chẳng ai không mến chết mà lo sinh đó. Họ Thị nói: Nếu tôi không thân thì tôi nào lo gì. Trang Chu cũng tự đau nhức một thân đó. Ba vị này là hạng thánh đạt, không chỉ cho sanh là hoạn, muốn cầu Vô sinh không gì bằng Nê-hoàn, Nê-hoàn là diệu xưng của vô vi, bàn nói vết thì có văn về cung vua song tho, nói về thật thì có thuyết thường trụ, thường lạc. Ông mới luân hồi năm đường, do đâu nghe cốt yếu của Niết-bàn? Hoặc có ba kẻ mù sờ voi, người sờ tai voi, thì giành nói voi như cái nia, người sờ mũi voi, thì giành nói voi như cái chày giã. Tuy được một góc của voi mà chẳng hề hoàn toàn thật của voi. Ông nói Nê-hoàn là tử, thật là kẻ mù sờ voi. Luận chép: Thái tử chẳng bỏ vợ mà khiến người dứt chủng. Giải thích: Bậc thánh thật vắng lặng, vết có bày ứng, Thái tử cưới phi ở Trữ Nhị là vì muốn bày đạo nhân luân đã đủ, bèn năng bỏ báu lớn, dứt ân ái kia. Còn như các trời ban đêm xuống, cưỡi ngựa bạch bay vượt thành. Lý của mười hiệu là ở đây, làm sao có vợ có con được? Vả lại, tớ trẻ đời là lụy rất sâu, đói lạnh thì sinh giặc trận, no ấm thì phát kiêu xa. Vì vậy, vợ bệnh đêm sinh gấp cầu lửa soi, chỉ sợ tợ mình lại là bệnh, chủng của phàm phu như bệnh sinh. Trong kinh chép: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, ngưỡng tìm thấy ý chỉ này thì là Phật chủng, bỏ nhà theo đạo, bỏ bệnh đến Phật là vui là lợi, sao lại là thêm. Ông mê nơi tục vận kẹt nơi mê hoặc nhiều lớp, mộng ở trong mộng, sao đáng hiểu ư? Luận chép: Thái tử chẳng cao tóc mà bắt người cạo đầu. Giải thích: Tại gia thì có mến ái đối với cha mẹ, xuất gia thì coi trọng thầy nghiêm. Nói về mến ái thì da tóc là trên hết, nói về nghiêm trọng thì cắt bỏ là khó, do đó y cứ cắt bỏ mà vui vẻ. Nếu lìa cha mẹ mà đi thẳng là vì muốn bỏ phiền não này, tức vô vi kia là sự luyến mến đối với da tóc còn có thể vất bỏ, mọi thứ là vật bên ngoài có gì đáng tiếc ư? Chẳng khinh da tóc thì lấy gì tôn đạo, chẳng từ Thiên thuộc, đâu cần thầy nghiêm? Thí như tang phục nêu ra là tiếp nối đại tông thì dẹp gốc đó sinh, mà lớn chỗ sau đó. Gần khiến ông đây chấp người xem trọng tông miếu, cắt bỏ tình của đoái hoài, trở lại gốc chánh từ một mộ, chẳng phải bạc mỏng sau của ân. Chóng bày ba năm sâu dày của thật nghóa. Lễ Ký chép: Ra hẳn giáng là có ái ngã mà so sánh sâu dầy. Kinh chép: Chư thiên dâng dao cầm tóc, trên cõi trời không nói về cạo, là nói gì vậy? Ông chỉ mạnh ở xuyên tạc mà sợ ở tìm ý chỉ, là bùi ngùi lẫn nhau. Luận chép: Con xuất gia trước, mẹ làm Ni sau, thì kính người con, mất lễ quá lắm. Giải thích: Người xuất gia tôn thầy trọng pháp bỏ tục theo đạo, làm sao có thể một dạng mà cầu. Vả lại, Thái tử học, vua cha cung kính. Hán tổ vui mừng bảo đó rằng lấy Thái Hoàng làm bề tôi. Cao quý của Ngụy kính Tề vương ở nhà riêng, Trử Hậu đời Tấn thiếu cha ở cung đình, dẫn đây mà phán chẳng phải nghi ngờ. Luận chép: Cạo đầu làm Phù-đồ. Giải thích: Trong kinh nói: Phù-đồ Thánh Thụy linh đồ nổi biển mà đến, nên gọi là Phù-đồ. Phật đá ở Ngô trung trôi nổi trên biển chợt đến, tức là việc đó. Nay ông hủy đồ của đồ tượng, làm đồ của hình đồ, thì Thái Bá đoan ủy mà trị nên không thẹn đức, Trọng Ung cắt tóc Văn Thân thong dong mà hóa, gặp ông ngày nay hẳn mắc hơn việc của tiếng chó sủa, có tợ mà chẳng phải chẳng phải mà tợ là như ngoại thư cho Trọng Ni là bậc Thánh. Nội kinh nói Ni là nữ, có người bảo Trọng Ni là người nữ, Ông đâu tin đó ư? Giống như cùng loại của Phù-đồ, cũng nào có khác. Luận chép: Táng môn là môn tử diệt. Giải thích: Môn là gốc, nói về chỗ ra vào của lý. Ra vào từ gốc mà khởi. Họ Thích có pháp môn không hai Lão Tử có môn các Diệu. Thư nói: Họa phước không có cửa, đều là rừng chằêm của hội thông, nhà vực của diệu cơ, người xuất gia được nghóa đó. Táng là diệt, nhọc của diệt trần, giải của thông thần, tức là táng môn. Tang đang là sai lầm của chữ thừa. Thừa môn, tức là môn Đại thừa, phiền tưởng đã diệt, gặp vật thừa này. Trước nói diệt môn, sau nói thừa môn, vả lại tám mươi bốn ngàn đều gọi là pháp môn, đâu chỉ có hai môn táng và tang? Luận chép: Người Hồ chẳng tin hư vô, Lão Tử vào quan nên làm hóa hình tượng. Giải thích: Hình tượng lúc đầu chẳng phải là ý của giáo bản, phải do sau của diệt độ, là luyến mất hình hương chiên đàn của mình, cũng có văn nói, vả lại Trọng Ni đã mất, ba ngàn học trò trọn nói mến mộ, vì có dáng rất giống phu tử ngồi trên giảng đường, khiến đó diễn giảng, môn đồ hỏi nghóa cũng như ngày trước chẳng khác. Tăng sâm tự nhiên nói: Ông dậy, đây chẳng phải tòa của ông, suy đó mà bàn luận suy nghó có thể biết, Pháp sư La-thập sinh từ phương ngoài, thông minh, hiểu rộng, khéo nói về pháp tướng, mang vác kinh Phật lưu truyền quan phụ, giải thích hai từ ngữ chân tục, nghiệm lấy cảnh chiếu song tịch, rung gió mạnh vô vi, khơi dòng huyền ở chưa ngộ. Cái gọi là khiến cho đến nơi không khiến. Ông nói: Người Hồ chẳng tin hư vô, thật chẳng phải dốc luận, quân tử tự cường, lý có hơn kém, chẳng lệ thuộc hình tượng. Ông lấy hình tượng mà nói, cũng chẳng công kích ở mối khác. Luận chép: Cạo tóc vốn chẳng cầu Phật làm phục Hung Hồ, nay người trong nước lấy chánh thần tự răn mà lấy pháp của ngoan Hồ. Giải thích: Sáu Nhung, năm Địch bốn di tám man chẳng biết Vương hóa, chẳng nghe Phật pháp: Thí như súc sinh sự đều có tám nạn. Mới nay thánh chủ mở lớn cái trị của tam ngũ, xiểm dương pháp Nhất thừa. Người trời đồng vui mừng, bốn biển giao hòa, sâu bò gằng thở, đều nương nhờ đó, trùng của suyễn nhu tự cho là được chỗ, nếu ông chẳng tự nghó để nói v.v… thì nên gấp bít lưỡi đó cũng đâu nhọc kéo dậy. Luận chép: Sa-môn là nghóa sa thải. Giải thích: Dứt tâm đạt nguồn, gọi là Sa-môn. Đây là luyện thần rưới uế, ngược dòng về trong khiết, tức là nghóa sa thải, ông muốn hủy đó mà nghóa càng đẹp hơn, thật đáng kính đó càng cao, dùi đó càng chắc. Luận chép: Vào nước phá nước. Giải thích: Bậc thánh duyên cảm, không đến thì chẳng ứng, từ buộc dây về sau, dân kiêu tục bạc, đời sau vương giáo đối bày Nghiêu Khổng cho đến như chỗ đượm của diệu pháp, hẳn giúp tục làm hóa, chẳng đợi hình hại mà tự thuần, không mượn đánh đập mà lấy chánh thạch chủ sư lắng mà khởi nước. Vua xưa hỏi bột: Để làm cho đạo hưng thạnh. Văn về phá nước, từ đâu mà nói? Luận chép: Vào nhà phá nhà. Giải thích: Huấn của họ Thích là cha hiền con hiếu anh mến em kính, chồng hòa vợ dịu, có đủ tốt đẹp về sáu hòa, nào có bất thiện mà năng phá nhà, chỉ nghe Đạo só học sau có xích chương trú trớ. Phát trích âm tư, hành đàn xủ tóc. Ôi! Trời dẫn đất chẳng hỏi thân sơ, đích thân nhàm chán giết, đây là pháp phá nhà. Luận chép: Vào thân phá thân. Giải thích: Thân là rất lụy về gông cùm, họ Thị hình hài là bụi đất, Thích-ca cho ba cõi là nhà lửa. Người xuất gia phải bỏ đeo tràng hoa, bỏ danh lợi, giác ngộ nạn nghịch lữ, thương mong vắng lặng, lấy đó làm vui. Hạng lưu tục trái đây để cầu toàn, tức cái gọi là sát sinh chẳng chết, sinh sinh là bất sinh. Gần đây có Đạo só ham danh, tự nói thuật của thần hơn người, khắc kỳ nhẹ cử, giữa ban ngày lên cõi trời chưa được vài trượng, thì bị rơi xuống đất, đến xem xét thì chính là hai cách của con chim lớn, thật cái gọi là chẳng thể phấn phát mà bay. Nghiêïm diệt mất nơi tức sự chẳng xoay gót mà chịu chết. Trương Lăng đời Hán vu võng công nói gọi là giặc mễ, cũng bị di tiễn, vào thân phá thân, không là giác cung ư? Luận chép: Ca và khóc khác nhau. Giải thích: Người khóc cũng khóc, là ngầm vết trong tục, đến chỗ tang mà cười mới là thản tình của phương ngoài, Nguyên Nhưỡng leo lên cây mà ca, Khổng Tử qua mà chẳng chẳng phải, đây cũng là một phương của danh giáo. Luận chép: Chẳng triều tông. Giải thích: Khổng Tử nói: Nho trên chẳng có bề tôi, Thiên Tử dưới chẳng có sự công hầu, Nho là một vật trong tục còn có thể như vậy, huống chi Sa-môn là người của phương ngoài ư? Xưa kia, Bá Thành Tử Cao Tử Châu Chi Bá chỉ mong huyền mộ đạo, dường như chẳng gần việc của người chẳng ra gì. Luận chép: Cạo tóc Phạm Hủy thương. Giải thích: Giải thích về tóc da đã đầy đủ ở đáp trước, tạm lược mà trình bày ù. Phàm nói chẳng dám hủy thương chính là để ngăn ngừa,chẳng phải đó hẹp hòi xúc mạo Hiến ty, chỗ thêm của ngũ hình đến nỗi có tàn khuyết. Nay Sa-môn là phục ứng Thánh sư xa cầu Thập Địa, cắt bỏ râu tóc đắp mặc pháp y, lập thân chẳng trái, dương danh đắc đạo, trở lại độ thiên thuộc, có gì chẳng thể mà nhập vào nghóa hủy thương? Hạng học trò giữ văn chưa đạt ý chỉ ngoài văn, luân bức còn chẳng dời thuật ở trẻ con, tôi làm sao nói ư? Luận chép: Người xuất gia chưa thấy quân tử đều là trốn tránh làm việc nặng nhọc. Giải thích: Than ôi! Sao ông khó dụ ư? Trái Tuyện chép: Lời là văn của thân, Trang Chu nói: Lời chẳng rộng chẳng đủ để nói đạo, tôi muốn không nói có thể được chăng? Người xuất gia đều linh căn xưa chắc, đức vũ thẳm sâu, lắng ở chiếu soi đó, xác ở chẳng bạt, vì thế thần ngưng tâm là đạo, siêu nhiên xa tưởng vũ trụ chẳng thể điểm, lồng ngực đó lặng, không giữ bụi dơ, làm sao có thể quậy tấc vuông đó, cắt ân trọng của cha mẹ, bỏ mến vui của phòng lồng, phòng trống sinh bạch, giữ huyền hành thiền, hoặc đầu-đà rừng trống, bố thí thân cho thú đói, hoặc tónh tiết ăn chay, tinh tâm không lười, sắp siêng cầu mười lực, vượt lên giải thoát vô thượng lưới trời tiêu tan màn đất, triệu trăm phước nơi chưa nẩy mầm, tế chúng sinh trong muôn kiếp, đây thật là hồng đồ của đại trượng phu, chẳng phải chỗ tôi và ông mở cửa. Bàn nói việc trốn dịch là nói sao ư? Khổng Tử nguyện miệng ba thước, tuy nói ra ở miệng mà chẳng hề dùng lưỡi dài phạm người thì miệng của ông ba trượng, sao là lụy nhiều miệng, thương tổn người sâu. Luận chép: Ba đinh hai xuất, một sao vô duyên. Giải thích: Vô duyên tức là duyên, vô duyên sinh. Có duyên tức là duyên có duyên khởi. Làm sao biết đó? Ở đời có đóng cửa vào đạo, nên nói duyên có duyên khởi. Có sinh chẳng biết Tỳ-kheo, nên nói duyên, vô duyên sinh. Mười sáu vị vương tử đồng một ngày xuất gia, theo cha vào đạo, thì là chỗ dẫn dắt của duyên, đóng cửa chóng đến, sao có việc xuất hai ư? Vô duyên là, tự y cứ trong vô duyên, cầu tìm ở chính mình mà thôi. Ông mới đọa hẳn vô gián. Nhàn rỗi lại luận việc này sắp chẳng muốn ngã, gặp phải chiến tranh ư? Nếu trái được mê, thì khác với chỗ mong. Luận chép: Giáo của Đạo gia dưỡng đức thành nước. Giải thích: Đạo có chín mươi sáu thứ, Phật là tối tôn. Học trò của Phạm Chí là bồi lũ, giả sử thần núi sông phát ra mây mưa đó cũng là chỗ cúng tế của nước nhà. Đó nói dưỡng đức thành nước, không gì chẳng ít nhiều, chỉ rộng cứu giúp vô biên, trọn nhổ đồ thán, ta Kim Cươg một thánh vời vợi riêng hùng. Lúc đầu của Thái cực mổ phân thì đã tự có Phật, chỉ ở thời chúng sinh nhân duyên chưa động cho nên thích nghi, vả lại mờ tối danh xưng, lấy gì để nói? Suy từ Tam Hoàng trở lên nào dung, đều không Lễ Dịch thì hai quẻ trời đất. Lý Dự hai hào bèn đáng cùng trời đất đồng sinh. Tuy nói là đồng sinh mà danh chẳng đồng ra, vì cơ cảm chẳng phát, thi dụng chưa hình, lý đó thường còn mà vết đó chẳng bày. Hai thánh trong ngoài, đạo đó là một. Nên lập Pháp hành rằng: Trước khiến Ba Hiền dần dụ tục giáo, sau lấy kinh Phật đổi tà theo chánh, môn Lý Lão thiên của họ Thích bổ ích. Kinh chép: Nơi nơi tự nói, tên gọi chẳng đồng hoặc làm tông của rừng nho hay Quốc sư, Đạo só, hoặc tịch mặc vô vi mà làm Phật sự. Lời do miệng vàng nói hợp như phù khế, sao là Đông Tây nhảy cầu chẳng tránh cao thấp ư? Than ôi! Ngoại đạo mượn trí tuệ ta, nhờ thần lực ta, bèn muốn nhiễu loạn văn kinh ta, hiếp đánh giáo ta, không tốt lành của dạy người, một đến nơi đây. Luận chép: Đạo là hơi khí. Giải thích: Danh của đạo, lấy lý làm dụng, được lý đó thì đối với đạo là đầy đủ. Cho nên, Sa-môn hiệu là Đạo nhân. Dương Bình gọi là Đạo só, Thích Thánh đắc tông của đạo, Bành Đam ở cuối của đạo. Tông của đắc đạo là chẳng đợi nói đạo mà đạo tự hiển, ở cuối của đạo là thường gọi là đạo mà đạo chẳng đủ, thí như Trọng Ni học rộng chẳng vì một việc mà thành danh, học trò của Du Hạ hoàn toàn dùng bốn khoa để lập danh mục. Trang Chu có nói: Sinh là khí tụ thì làm sinh, tan thìø làm tử, y theo ông nói nếu đạo là khí thì phải có tụ có tan, có sinh có tử, thì đạo của ông là pháp sinh diệt, chẳng phải thường trụ, từng nghe đạo của ông lại có việc của hợp khí. Xin ông chớ nói, đây thật là nhục. Trang Tử lại nói: Đạo ở cứt đái, đạo cứt đái này chẳng phải tôi và đạo hợp khí của ông ư?  <卷>QUYỂN 9 Đại Lương hoàng đế lập thần minh thành Phật nghóa ký (và Thẩm Tích ở Ngô Hưng soạn lời tựa chú) Tiêu Sâm cật nạn luận Thần Diệt của Phạm Chẩn. Tào Từ Văn cật nạn luận Thần Diệt của Phạm Chẩn. **** <詞>ĐẠI LƯƠNG HOÀNG ĐẾ LẬP THẦN MINH THÀNH PHẬT NGHÓA KÝ (VÀ THẨM TÍCH Ở NGÔ HƯNG SOẠN LỜI TỰA CHÚ) Phàm, thần đạo minh mặc, Tuyên Ni hẳn đã hết nói, tâm sở lý diệu, trụ sử lại chỗ chưa nói. Chẳng phải thánh trí thì chẳng khắp, vì tình gần khó dùng nói xa. Vì thế, Huyền nho đời trước bàn nói bỏ lại túc nghiệp, đời sau nói chung dễ chìm thân sau. Chẳng phải cực lự của thiên hạ, sao được mà rõ ràng. Nên kẻ lầm hoặc nghe thức thần chẳng mà hoàn toàn cho đó là Thường. Nghe tâm niệm chẳng thường mà toàn cho đó là Đoạn. Nói đoạn thì mê tánh Thường, ù, nói thường thì nhầm dụng đó Đoạn. Nhân dụng nghi ngờ gốc cho rằng tại gốc có thể diệt, nhân gốc nghi ngờ dụng cho rằng tại dụng chẳng dời, chẳng thể tinh cầu, cùng nhau khởi thiên chấp, mới khiến giác tánh thiên tự mất. Bàn luận thánh vương bẩm lấy huyền phù, ngựï đại bảo giác nỳ, tiên thiên rủ thì quán dân bày hóa, sắp sợ chi ly dối biện dựng nghóa giăng dòng, nêu thuật lắm tợ đó ai có khả năng chấn chỉnh. Thích giáo di văn đó sắp mất. Vì thế soạn Nhã Luận này để hoằng chí điển tích, sớm niệm thân không gá tâm nội giáo, từng hưởng pháp âm, dùng quên ăn ngủ, mà tình mờ tối khó hiểu, chạm lý lắm nghi ngờ. Còn như đại nghóa Phật tánh chóng mê đường tâm, đã thiên cáo dòng dự đồng vỗ thăm, muôn đêm được mở, ngàn tối trọn thấy, nghi ngờ của phân trừ rõ ràng đều suốt, trộm chỉ sự và lý hạnh không vật nào chẳng biết. Dụng tùy đạo hợp, sao tâm chẳng nói, nên dùng trôi bồi hồi, còn cảm hòa của mỹ âm, cá dạo nhảy nhót còn thưởng vận của tơ trong, huống gì sự mầu nhiệm của nhập thần phát từ cung trời. Đây, tôi sở dó vũ đó mà chẳng thể tự mình, xin dùng da thọ kính cẩn làm chú thích, há chày ống đó dụng cùng thiên áo, ngõ hầu cố lầm hoặc sở dó giải thích. Phàm giẫm trải hành bản ở lập tín (Thẩm Tích nói: Phàm ngu tâm tối thì phát sáng lớn, sáng chẳng chợt phát, phát thì do hành, hành chẳng tự tu, tu phải do tín, tín là nhờ thầy nương lý, tâm của không trái. Nên năm căn lấy một tín làm gốc, bốn tín lấy chẳng trái làm tông, tông tín đã lập muôn thiện tự hành, hành thiện tạo quả, gọi là hành) tín lập do chánh giải (Thẩm Tích nói: Tà chánh chẳng biện, làm sao lấy tín, nên lập gốc của tín nhờ chánh giải). Chánh giải thì tà bên ngoài chẳng nhiễu, (Thẩm Tích nói: Một tâm chánh thì muôn tà diệt, vậy biết trong lòng chánh kiến thì tà bên ngoài chẳng động). Tín lập thì nội thức không nghi ngờ (Thẩm Tích nói: Bàn luận là tâm. Nên luận Thành Thật chép: Tâm ý thức thể một mà tên khác, tâm đã tin vậy lấy gì nghi ngờ). Nhưng chỗ tin hiểu nương, tông đó còn có (Thẩm Tích nói: Nương là cậy nhờ, an tâm có gốc thì chi hành tự theo, ý chỉ của gốc, nói ở câu sau). Vì sao? Vì nguồn thần minh lấy chẳng đoạn làm tinh, tinh thần hẳn về diệu quả (Thẩm Tích nói: Thần mà có hết, thì sao gọi là Thần ư? Nên trong kinh nói tôi thấy chết là hình hoại thể hóa mà thần chẳng diệt, tùy hành thiện ác, họa phước tự tìm theo, đây tức là nghóa chẳng đoạn diệt. Nếu hóa đồng với cỏ cây thì đâu gọi là Tinh ư? Vì chẳng đoạn nên chung quy diệu cực, nhờ tâm địa này thì xúc lý đều rõ, rõ ở các lý, sao hành chẳng thành. Tông tin hiểu là nghóa này). Quả mầu thể cực, thường trú tinh thần, chẳng tránh khỏi vô thường (Thẩm Tích nói: Quả mầu rõ lý đã đủ, cho nên thể chỉ cực thường tinh thần, giẫm hành chưa mãn nên nó chưa khỏi biến đổi). Vô thường là trước diệt sau sinh, từng sát-na chẳng trú (Thẩm Tích nói: Sát-na là tiếng Thiên-trúc, tên cực của Tấn tốc, sinh tức là diệt, nào có trụ ư? Nên Tịnh Danh than rằng Tỳ-kheo tức thời sinh, già diệt). Nếu tâm dụng tâm ở phan duyên, thức trước khác với sau, đó thì cùng cảnh đều qua, ai thành Phật ư? (Thẩm Tích nói: Tâm tùy cảnh động là dụng bên ngoài, sau tuy tiếp nối trước, mà trọn chẳng phải thật, luận nên biết thần bàn nghị tánh vắng lặng nhiên chẳng dời, vì vắng lặng chẳng dời nên chung quy ở diệu quả). Kinh chép: Tâm là chánh nhân, trọn thành quả Phật (Thẩm Tích nói: Lược nói về nhân Phật, nghóa đó có hai: Một là duyên nhân; hai là chánh nhân, duyên là muôn thiệ, chính là thần thức, muôn thiện có công của giúp phát, nên nói là duyên nhân. Thần thức là chánh gốc nên nói là chánh nhân. Đã nói trọn thành quả Phật, đây nghiệm về chẳng đoạn). Lại nói: Nếu vô minh chuyển thì biến thành minh, theo kinh này thì lý cầu thế nào, vì sao? Vì tâm là dụng gốc, gốc một mà dụng khác, khác dụng tự có hưng phế, tánh của một gốc chẳng dời (Thẩm Tích nói: Đào thải trần uế, bản thức thì minh, minh và ám thay đổi, gọi là biến. Nếu trước đi sau lại, chẳng phải gọi là biến). Một gốc: Tức vô minh thần minh (Thẩm Tích nói: Thần minh vốn tối, nên lấy vô minh làm nhân) tìm tên gọi của vô minh chẳng phải mắt của Thái hư, đất đá vô tình, đâu gọi là vô minh (Thẩm Tích nói: Thiện ác, khác nhau chẳng phải tâm thì chẳng biết, xét rõ phải quấy, chẳng phải tình thì chẳng biết, thái hư vô tình nên chẳng rõ ngu trí, đất đá không tâm, đâu biện giải mê hoặc. Nên biết giải mê hoặc còn ở có tâm, ngu trí ở nơi có biết, đã gọi là vô minh thì nghóa ở tâm). Nên biết thức lự nên sáng thể chẳng khỏi lầm hoặc. Lầm hoặc lự chẳng biết, nên gọi là Vô minh (Thẩm Tích nói: Minh là bản tánh, vì thức sáng nhiễm trần nên ngoài nên trong chẳng khỏi lầm hoặc, lầm hoặc mà chẳng rõ, nên gọi là Vô minh, do đây đặt mà xưng, đâu chỉ không ư?) mà trên thể vô minh có sinh có diệt. Sinh diệt là khác dụng. Tâm vô minh nghóa chẳng đổi, (Thẩm Tích nói: Đã có tự thể thì có dụng, nói dụng chẳng phải thể, luận thể chẳng phải dụng. Dụng có hưng phế, thể không sinh diệt). Sắp sợ thấy dụng đó khác, bèn gọi là tâm tùy cảnh diệt (Thẩm Tích nói: Lầm hoặc là mê thể dụng, nên chẳng năng tinh. Vì sao? Vì thể đó cùng dụng chẳng lìa, chẳng tức, lìa thể không dụng, nên nói chẳng lìa, dụng nghóa chẳng phải thể, nên nói chẳng tức, thấy chẳng lìa đó mà mê chẳng tức đó, vì mê chẳng tức đó bèn gọi là tâm tùy cảnh diệt). Nên tiếp nối vô minh, thần minh tánh chẳng biến đổi (Thẩm Tích nói: Vô minh hệ thuộc trụ địa, vì bài xích mê thể đó mà bao gồm hạng lầm hoặc, chưa từng dẫn dụ). Tại sao biết vậy? Như trước tâm làm trọng ác vô gián, sau thức khởi Diệu thiện phi tưởng, lý thiện ác rất xa, trước sau cách nhau rất xa. Dụng này nếu không một gốc, làm sao được tương tục như thế (Thẩm Tích nói: Chẳng có một gốc thì dụng không chỗ nương, mà lầm hoặc là thấy đó tiếp tục làm một, nên nêu địa thiện, bài xích mê của tương tục). Nên biết ác trước tự diệt, thức mê hoặc chẳng dời, thiện sau tuy sinh, tâm mờ tối chẳng đổi. (Thẩm Tích nói: Chưa hề vì thiện ác sinh diệt mà khuyết gốc đó). Nên kinh chép: Nếu chung với các kết phiền não thì gọi là Vô minh. Nếu chung với tất cả pháp thiện thì gọi là Minh, há chẳng phải tầm thức tánh là một mà tùy duyên nên khác ư? (Thẩm Tích nói: Nếu thiện ác cùng khởi đâu gọi là chung ư? Mà hằng đối lời đó mà thường mê ý chỉ đó, nên nêu yếu văn này để hiểu các lầm hoặc). Nên biết sinh diệt biến chuyển để đáp lại nhân trước, thiện ác tạ nhau sinh ở hiện cảnh (Thẩm Tích nói: Sinh diệt nhân do nghiệp gốc, chẳng phải hiện cảnh khiến nó vậy. Thiện ác sinh ở cảnh nay, chẳng phải nghiệp gốc khiến nó như vậy), mà tâm làm gốc, chưa hề khác (Thẩm Tích nói: Tuy là dụng do chẳng đồng, mà thể đó chẳng khác). Vì dụng đó vốn chẳng đoạn. Lý thành Phật rõ ràng, tùy cảnh thay đổi, sinh tử có thể hết là rõ ràng. (Thẩm Tích nói: Thành Phật rõ ràng, tướng trạng là gốc, sinh tử có thể hết, do dụng đó. Nếu dụng mà không gốc, thì diệt mà chẳng thành, nếu gốc mà không dụng thì thành không chỗ diệt). <詞>CẬT NẠN LUẬN THẦN DIỆT VÀ LỜI TỰA CỦA TIÊU SÂM Nội huynh Phạm Tử chân soạn luận Thần Diệt để nói về không Phật, tự cho là xô dẹp nhiều miệng, ngày phục ngàn người ý tôi còn có lầm hoặc, bèn muốn gom xét nghi ngờ, dò hỏi chưa ngộ. Luận đến nay chỗ trì là Hình Thần, chỗ tụng là tinh lý. Nếu là Xuân Thu hiếu hưởng làm tông miếu đó, thì cho là bậc Thánh, thần đạo, thiết giáo lập lễ phòng ngu, Đỗ Bá Quan Cung Bá có bị giới. Lại cho rằng: Giữa trời đất tự có quái vật, chẳng phải người chết làm quỷ, như đây thì chẳng được, dùng thi thư cật nạn so sánh việc đã qua, chỉ có thể ở trong hình thần, nói về ly hợp thì thoát hình thần một thể còn mất chẳng khác, thì Phạm Tử phấn dương đạp, Kim thang xa vời, như linh chất chia đường, Hưng hủy khác nhau, thì tôi khắc địch được mạnh, có thể việc xong, lại tôi tuy nói có Phật mà thể Phật chẳng tục với đồng. Gồm bày bản ý, liên hệ với luận như sau. Luận Thần Diệt (hỏi đáp là từ của chủ khách trong luận này, cật nạn là chỗ hỏi ở nay). Hỏi: Ông nói Thần Diệt, lấy gì để biết đó diệt? Đáp: Thần tức là hình, hình tức là thần, vì vậy hình còn thì thần còn, hình mất thì thần diệt. Hỏi: Hình là tên gọi của không biết, thần là danh của có biết, biết và không biết ngay nơi sự có khác, thần và hình lý chẳng dung một, hình thần tức nhau chẳng phải chỗ nghe. Đáp: Hình là chất của thần, thần là dụng của hình, vậy thì hình là gọi chất, thần là nói dụng, hình và thần chẳng được khác nhau. Cật nạn: Nay nói hình thần hợp thể thì nên có chứng của chẳng lìa, mà nói thẳng: Thần tức là hình, hình tức là thần, hình và thần chẳng được khác nhau, đây nói mà nêu có trái dốc dụ. Nay ông y cứ mộng để nghiệm hình thần chẳng được chung thể. Đang lúc người ngủ, hình đó là vật của không biết mà có thấy, đây chỗ tiếp của thần dạo. Thần chẳng lập riêng, phải nhờ hình khí, như người chẳng xứ bày, phải có nhà ở. Chỉ hình khí là chất của dơ tối, nhà ở là chốn của ngăn bít. Thần trở lại trong hình, thì thức đó suốt mời tối, nên lấy thấy làm mộng, người về trong nhà, thì thần đó tạm bít lấp, nên lấy sáng lam tối, người đang nằm mộng nhảy vọt lên huyền hư, xa đến muôn dặm, nêu chẳng phải thần dạo thì là hình đi ư? Hình đã chẳng đi, thần cũng chẳng lìa, vì sao được như vậy. Nếu cho rằng là chỗ tưởng thấy, và thân an ngủ đó tợ khí của cây gỗ cứng, như tro lạnh gọi là chẳng nghe, vỗ đó không hay biết, tức gọi thần và hình đồng đều thì là trong ngoài đều mỏi mệt. Đã chẳng tiếp âm thanh bên ngoài, làm sao có thể bên trong dấy khởi tư tưởng. Đây là hình lắng thần rong, đoán có thể biết. Lại nghi về giấc mộng, hoặc trở lại trong dối gặp (Triệu giản Tử mộng thấy đồng tử lõa ca, có thể Ngô vào Trâu, Tấn Tiểu Thần mộng thấy Phụ công lên trời mà Phụ công ra nói ra các loại nhà xí). Hoặc lý chẳng dung (Lã ký mộng thấy bắn thỏ trong trăng, Ngô Hậu mộng thấy ruột ra nhiễu loại của xướng môn). Hoặc tiên giác chưa triệu (Lã Khương mộng thấy lên trời gọi con là Ngu, Tào nhân mộng thấy các quân tử mưu muốn giống như só Tào). Hoặc mượn nhờ tượng loại (Thái Mậu mộng thấy lúa mất làm lộc, Vương Tuấn mộng thấy ba dao làm loại của châu ấy). Hoặc ngay nơi sự là không (người Hồ mộng thấy thuyền, người Việt mộng loại của họ cưỡi). Hoặc vừa nghiệm vừa chẳng phải (Ân Tông mộng thấy được truyền nói, Hán Văn mộng được Đặng thông Nghiệm, chẳng phải sự lắm nhiều, chẳng lại ghi đầy đủ). Đây đều là thần hóa mênh mông, tối sáng chẳng lường. Dễ dùng ước thông, khó dùng lý xét. Nếu chẳng chấp thuận thần dạo thì nên cầu tìm ở hình. Trong sợ khối ấy ngầm linh ngoài tuyệt thấy thăm, tuy dùng sáu mộng nâng đỡ, dùng tưởng nhân cứu giúp, lý cũng chẳng được. Hỏi: Vì là Thần nên chẳng phải chất, vì là hình nên chẳng phải dụng, chẳng được làm khác, nghóa đó ở đâu? Đáp: Danh thì khác mà thể là một. Hỏi: Danh đã khác, thể sao một được. Đáp: Thần là ở chất, như sắc bén ở dao, hình ở dụng như dao bén nhọn, tên bén nhọn chẳng phải dao, tên dao chẳng phải bén nhọn, nhưng bỏ bén nhọn thì không dao, bỏ dao thì không bén nhọn, chưa nghe dao mất mà bén nhọn còn đâu được hình mất mà thần còn ư? Cật nạn: Có bén nhọn của dao là do công của gọt mài, nên nước năng cắt giao ly, đất đoạn Hủy Hổ, nếu cùng bén nhọn thì đều dùng để bẻ gãy mũi dao đó, hóa thành mũi lụt. Như thế thì bén nhọn diệt mà dao còn, tức là thần mất mà hình còn, vì sao nói bỏ bén nhọn thì không dao, danh thì khác mà thể là một ư? Dao và bén nhọn đã đều chẳng diệt, hình và thần thì chẳng cùng mất, tuy năng gần lấy nơi thí dụ, mà lý thật là trái. Hỏi: Dao cùng bén nhọn hoặc Như lai nói, hình đó cùng thần ng- hóa đó chẳng như vậy. Tại sao nói thế? Chất cây gỗ là không biết, chất người là có biết, người đã có chất như cây gỗ mà có biết của khác cây gỗ, há chẳng phải cây gỗ có một mà người có hai ư? Đáp: Nói Lạ thay! Người nếu có chất như cây gỗ lấy làm hình, lại có biết khác cây gỗ lấy làm thần, thì có thể Như lai nói vậy. Nay chất của người là chất có biết, chất của cây gỗ là chất không biết, chất của người chẳng biết chất cây gỗ, chất của cây gỗ chẳng phải chất người, làm sao có chất như cây gỗ mà lại có biết khác cây gỗ. Hỏi: Chất của người sở dó khác chất cây gỗ là vì nó có biết. Người mà không biết, cùng với cây gỗ sao khác? Đáp: Người không có chất của không biết, như cây gỗ không có hình của có biết. Hỏi: Hình hài chết đó há chẳng phải chất không biết ư? Đáp: Là chất của không biết. Hỏi: Nếu vậy là người quả thật có chất như cây gỗ mà có biết khác cây gỗ ư? Đáp: Chết là có chất như cây gỗ, mà không có biết khác cây gỗ. Sinh là có biết khác cây gỗ mà không có chất như cây gỗ. Hỏi: Hài cốt của người chết há chẳng phải hình hài của người sống ư? Đáp: Hình của người sống chẳng phải hình của người chết. Hình của người chết chẳng phải hình của người sống, thân đã cách thì làm sao có hình hài của người sống mà có hài cốt của người chết ư? Hỏi: Nếu hình hài của người sống chẳng phải hài cốt của người chết, hài cốt của người chết thì lẽ ra nên chẳng do hình hài của người sống, chẳng do hình hài của người sống thì hài cốt này từ đâu mà đến? Đáp: Hình hài của người sống đó biến thành hài cốt của người chết. Hỏi: Hình hài của người sống đó tuy biến thành cốt của người chết, há chẳng nhân sống mà có chết, thì biết thể chết như thể sống. Đáp: Như do cây tươi biến thành cây khô, chất của cây khô đâu phải là thể của cây tươi. Hỏi: Thể tươi biến thành thể khô, thể khô tức là thể tươi, như thể tơ biến thành thể sợi, thể sợi tức là thể tơ, có gì lỗi ư? Đáp: Nếu khô tức là tươi, tươi tức là khô, thì lẽ ra lúc tươi điêu tàn, lúc khô thì kết thật. Lại cây tươi chẳng nên biến thành cây khô, vì tươi tức là khô nên khô không có chỗ lại biến. Lại khô tươi là một sao chẳng trước khô sau tươi, mà phải trước tươi sau khô là sao? Tơ và sợi đồng thời chẳng được làm dụ. Hỏi: Tàn tạ của hình người sống nên chợt đều hết, vì sao vừa chịu chết, hình miên lịch chưa thôi ư? Đáp: Vì thể của sinh diệt phải có thứ lớp, hễ chợt sinh thì chợt diệy, dần dần sinh thì dần dần diệt, chợt sinh là vụt chợt. Dần dần sinh là động vật thực vật. Có là chợt có, dần dần là lý của vật. Cật nạn: Luận chép chất của người là có biết, chất của cây gỗ là không biết, há chẳng vì người biết nóng mát đau nhức ư? Dưỡng thì sống, tổn thương thì chết ư? Cây gỗ cũng vậy, đang xuân thì tươi, đến thu thì tàn, trồng thì sống, nhổ thì chết, sao gọi là không biết? Nay chất của người giống như cây gỗ. Thần lưu lại thì hình lập, thần đi thì phế, lập là cây tươi, phế là cây khô, ông lấy gì nói? Đây chẳng phải thần biết mà gọi là chất có biết ư? Muôn phải đều do thần biết ,không do chất biết. Chỉ có tánh của cây cỏ côn trùng hay biết tươi khô, sống chết. Thức của sinh dân thì chung cả an nguy, lợi hại, sao gọi là chẳng phải có chất của như cây gỗ lấy làm hình, lại có biết của khác cây gỗ lấy làm thần ư? Đây thì hình thần có hai, ở có thể riêng. Chỉ cây gỗ bẩm thị khí âm dương của trời, người gần tinh chiếu của một linh, thức hoặc đồng, thần thì khác. Luận về hình hài, hài cốt, thuyết sống chết trao nhận, ng- hóa đã định trước, sự lại chẳng trải qua, đâu dùng quanh co để nói ư! Hỏi: Hình tức là thần thì tay, v.v… cũng là thần phải không? Đáp: Đều là phần thần. Hỏi: Nếu đều là phần thần, thì thần nên suy nghó, tay v.v… cũng nên suy nghó v.v… Đáp: Tay v.v… có biết đau nhức, không có suy nghó phải quấy. Hỏi: Biết và suy nghó là một hay khác? Đáp: Biết tức là suy nghó, cạn là biết, sâu là suy nghó. Hỏi: Nếu vậy, nên có hai lự, lự đã có hai, thì thần có hai hay không? Đáp: Thể người chỉ một, thần đâu được hai. Hỏi: Nếu chẳng được hai, thì sao có biết đau nhức, lại có suy nghó phải quấy? Đáp: Như tay chân tuy khác mà chung là một người, phải quấy đau nhức, tuy là có khác, mà cũng gồm là một thần. Hỏi: Suy nghó phải quấy chẳng liên quan tay chân, thì có liên quan gì? Đáp: Suy nghó phải quấy, chỗ tâm khí làm chủ. Hỏi: Tâm khí là tâm của Năm tạng có phải không? Đáp: Phải. Hỏi: Năm tạng có gì khác nhau mà tâm có suy nghó phải quấy riêng? Đáp: Bảy lỗ nào khác gì nhau mà chỗ dụng chẳng đều là sao? Hỏi: Suy nghó vô phương, làm sao biết là tâm khí làm chủ? Đáp: Tâm đau thì suy nghó trái, do đó biết tâm là gốc của suy nghó. Hỏi: Sao biết chẳng gửi lại trong các phần như nhãn, v.v… Đáp: Nếu lự có thể gửi ở nhãn phần, vì sao nhãn chẳng gửi ở nhó phần? Hỏi: Thể của lự không gốc nên có thể gửi đó ở nhãn phần, nhãn tự có gốc, chẳng nhờ gửi ở phần khác phải không? Đáp: Vì sao nhãn có gốc mà lự không có gốc, nếu không có gốc ở hình ta mà có thể gửi khắp chốn khác, cũng có thể tình của Trương giáp gửi thân của Vương Ất, tánh của Lý Bính, gá thể Triệu Đinh, nhưng chẳng phải như vậy. Cật nạn: Luận chép: Hình thần chẳng khác, tay v.v… đều là phần của thần. Đây thì thần lấy hình làm thể, thể hoàn toàn thì thần hoàn toàn, thể tổn thương thì Phật thiếu. Thần là gì? Tức là thức lự. Nay người hoặc chặt tay chân cắt da thịt, mà trí tư chẳng loạn, như Tôn Tẩn chặt chân mà binh lược càng sáng rõ, Lô Phù mở cổ tay mà Nho đạo mới yên lặng. Đây là thần lìa hình, hình tổn thương thần, thiết thực của chẳng hại là chứng. Chỉ thần nhận trí để sai sử vật, gá khí để chiếu chung, thấy nghe hương vị, đều có chỗ nương, mà tư thức trở về tâm khí. Thí như có nhà của người, đông mới hiền, hiên nam dẫn cảnh, cửa bắc vời gió, mác tây ánh trăng, chủ nhân ngồi yên, trung lựu để thâu dụng của bốn việc. Nếu Như lai nói miệng mũi tai mắt, đều có phần của thần, một mắt đau thì thấy hủy, hai mắt thì lẽ ra đều mù, một tai đau thì thần nghe tổn thương, hai tay thì lẽ ra đều điếc. Nay thì không như thế, vậy biết thần lấy làm khí, chẳng phải lấy làm thể. Lại chép: Tâm là gốc lự, lự chẳng thể gửi ở phần khác, nếu ở miệng, mắt, tai mũi thì luận này là đúng. Nếu ở tâm khác thì chẳng đúng. Tai mũi tuy cùng thể này mà chẳng thể dùng lẫn lộn, vì sở ty đó chẳng đồng khí. Khí dụng đều khác. Tâm khác tuy ở hình kia mà có thể được liên quan nhau, vì thần đó lý đều diệu, thức lự bằng công. Nên thư nói: Mở tâm ngươi rót tâm trẫm, Thi nói: Người khác có tâm, tôi thốn độ đó, Tề Hoàn bắt chước mưu của Quản Trọng. Hán Tổ dùng sách của Trương Lương, là đều gốc đó ở hình ta gửi đó nơi phần khác, sao nói tình của Trương giáp chẳng thể gửi ở thân của Vương Ất, tánh của Lý Bính chớ được gửi nơi thể của Triệu Đinh ư? Hỏi: Hình của bậc Thánh như hình của người phàm mà có sự khác nhau giữa phàm thánh, nên biết hình thần khác nhau. Đáp: Chẳng đúng. Tinh của vàng là năng chiếu, dơ bẩn là chẳng thể chiếu, tinh vàng của năng chiếu làm sao có chất dơ bẩn của chẳng chiếu? Lại đâu có thần của bậc Thánh mà gửi ở khí của người phàm, cũng không có thần của người phàm mà gá nơi thể của bậc Thánh, vì vậy tám sắc trùng ngươi là dung của Huân Hoa, dáng rồng miệng ngựa là tướng của Hiên Phụ. Đây là khác của hình bên ngoài. Tim của Tỷ Can bảy lỗ đều nêu, mật của Bá Ước lớn như nắm tay, đây là khác của tâm khí. Vì thế khu phần của bậc Thánh đều khác thường phẩm, chẳng phải chỉ đạo cách chúng sinh, cũng là hình vượt muôn phải, phàm thánh đều thể chưa dám an. Hỏi: Ông nói hình của bậc Thánh thì khác với phàm, vậy xin hỏi: Dương Hóa giống Trọng Ni, Hạng Tịch tợ Đế Thuấn, Thuấn Hạn Khổng Dương, trí cách hình đồng đó cớ sao ư? Đáp: Mân tợ ngọc mà chẳng phải ngọc, cư giống phụng mà chẳng phải phụng, vật thật có đó, vì là người nên như vậy. Hạng Dương dáng mạo tợ mà chẳng phải thật, vì tâm khí chẳng đều, tuy có dáng mạo mà không có ích vậy. Hỏi: Khác của phàm thánh, hình khí chẳng phải một thì có thể, bậc Thánh viên cực lý không có hai mà lại khác dáng. Dương Văn khác trạng, thần chẳng hệ thuộc sắc ở đây càng rõ. Đáp: Thánh và thánh đồng, đồng ở thánh khí mà khí chẳng hẳn là đồng, như ngựa khác lông mà đều nhảy vượt, ngọc khác sắc mà đều xinh đẹp. Vì vậy, gai tấn, lúa sở đồng giá liền thành, Lân Lưu trộm ly đều đạt ngàn dặm. Hỏi: Hình và thần chẳng hai, đã nghe việc đó, hình mất thần diệt, lý cố nhiên là như vậy. Xin hỏi: Làm tông miếu thì quỷ hưởng, nghóa là sao? Đáp: Giáo của bậc Thánh là vậy, cho nên theo tâm của hiếu tử mà mài ý của du bạc, thần mà sáng là nghóa này. Hỏi: Bá Cơ mặc giáp, Bành sinh heo hiện, phần tố soạn thuật việc đó, sao là thiết giáo mà thôi ư? Đáp: Yêu quái đầy khắp, hoặc còn hoặc mất, gượng chết thì đông mà chẳng phải đều thành quỷ, Bành sinh Bá có khả năng gì riêng ư? Vừa là người vừa là heo, chưa hẳn công tử của Tề Trịnh. Hỏi: Dịch xưng nên biết tướng trạng của quỷ thần tương tợ với trời đất mà chẳng trái. Lại nói: Chổ quỷ một xe, nghóa đó thế nào? Đáp: Có cầm, có thú, bay chạy khác nhau, có người, có quỷ, U minh khác nhau. Người chết thành quỷ, quỷ chết thành người, thì tôi chưa biết. Nạn rằng: Luận chép: Đâu có thần của bậc Thánh mà gửi nơi khí của người phàm, cũng không có thần của người phàm mà gá vào thể của bậc Thánh. Nay Dương Hóa giống Trọng Ni, Hạn Tịch tợ Đế Thu- ấn, tức là thần của người phàm gá vào thể của bậc Thánh. Mân và ngọc, cư và phụng chẳng được làm dụ. Nay mân tự gọi là mân, ngọc thật gọi là ngọc, cư gọi là viên cư, phụng gọi là thần phụng, danh đã gọi khác, mạo cũng sai thật, nay thuấn có hai con ngươi, Hạng Vũ cũng có hai con ngươi, chẳng phải có hai tên mâm ngọc, chỉ thấy hai con ngươi cùng loại. Lại có Nữ-oa thân rắn, người thợ gốm họ Cao miệng ngựa, chẳng phải chân thánh vào nơi phàm khí, bèn mới gá thể của vật trùng. Đây hình thần khác nhau, sáng tối chẳng đồng, nay càng rõ bày. Nếu hình thần là một, lý bặt ở nhân trước, thì thánh phải sinh ra thánh, hiền lẽ ra sinh ra hiền, mạnh sợ ngu trí đều là loại gốc đó, tức chỗ đào luyện của hình thần, chỗ mang dưỡng của một khí, chẳng được có Nghiêu Tuấn, Chu Huyên, Tẩu ngoan, Thuấn thánh. Luận lại chép: Thánh đồng thánh khí (hơi) mà khí (thân) chẳng hẳn là đồng, như ngựa khác lông mà đều nhảy vượt, nay lông lại vượt khí (hơi) ư? Ngựa có đồng sắc lông mà siêng nhác khác nhau là như thế, thì lông chẳng phải vượt tướng, do thể không phải thánh khí. Người hình hài không có khác nhau giữa phàm thánh, mà có khác nhau giữa Trinh Thúy, nên linh xa gá nơi chất xa, thần gần ngụ ở thể gần, thì chỉ đây mà thôi. Vừa rồi cái gọi là thể của bậc Thánh, chỉ nói thẳng hình của Khâu Thuấn, chẳng nói khí có thánh trí, chẳng phải thuyết mâu thuẩn, chớ gần mê hoặc điều này. Hỏi: Biết thần diệt này có lợi dụng gì? Đáp: Phù-đồ hại chính, tang môn rúc đục phong tục, mốc kinh hãi rong ruổi mênh mông chẳng dứt, tôi buồn tệ đó, nghó cứu đắm đó. Bỏ hết của cải để đến làm tăng, phá tài sản để tới Phật, mà chẳng giúp thân thích chẳng xót thương cùng khốn, đó là sao? Vì tình của ta dày sâu, ý của cứu vật cạn. Vì vậy, khuê toát giẫm nơi bạn nghèo, lận tình động ở nhan sắc, ngàn chuông giao nơi phú tăng, vui lòng thỏa nơi dáng tóc, há chẳng vì tăng có nhiều lúa nếp, bạn không báo của di bính, chuyên thi vì chẳng liên quan chu cấp, lập đức thì ở mình, lại làm hoặc vì lời mờ tối, vì sợ khổ A-tỳ, dụ dùng từ của luống dối, vui lòng thú của Đâu- suất, nên bỏ vá nách, mặc áo rộng, phế trở đậu theo bình bát, nhà nhà bỏ thân ái, người người bặt nối dõi. Đến nỗi khiến binh tỏa nơi hàng gian. Lại không ở quan phủ, thóc hết ở biếng dạo, của sạch nơi nước đất, sở dó gian trộn Phật thắng tiếng tụng chuộng quyền, chỉ có cớ này, hạng đó chẳng thôi, bệnh đó không căn. Nếu biết đào luyện bẩm nơi tự nhiên, sum la đều với riêng hóa, hốt vậy tự có hoản mà không, đến cũng chẳng ngự, đi cũng chẳng tìm, nương phàm lý trời mỗi an tánh, tiểu nhân cam chịu gò ruộng, quân tử gìn giữ điềm tố, cày mà ăn, ăn mà chẳng thể cùng, chăn tằm để mặc, mặc mà chẳng hết, dưới có thừa để dâng trên, trên không làm vì đợi, có thể toàn sự sống, có thể toàn dưỡng thân thích, có thể vì mình có thể vì người, có thể giúp nước, có thể Bá Quân, là dùng đạo này. Cật nạn: Có không của Phật giữ ở thần lý còn mất, đã có nói qua, lại muốn lược nói. Nay chỉ nói tổn hại và lợi ích, lấy cho ngay phu tử bàn nói về quá chánh. Tử nói: Hoặc Thích đục tục tổn hóa, phí của tổn dịch, đây là kẻ lầm hoặc làm, chẳng phải lỗi của Phật. Phật lập giáo vốn lấy mến sống ghét giết, tu thiện chuyên thí, mến sống chẳng phải chỉ muốn nuôi nhiều chim thú, lấy nhân linh làm trọng, ghét giết đâu thể được hoãn giúp trốn lánh, dùng ai căng đoán xét. Tu thiện chẳng hẳn là nhìn hình trượng sáu, lấy trung tín làm trên hết. Chuyên thí chẳng cẩu thả khiến hết sạch của cải nước đất, lấy chu cấp làm tốt đẹp. Nếu dứt bặt nối dõi, thì hẳn pháp chủng sẽ chẳng truyền, như đều khởi Phù-đồ, lại cũng gieo trồng mà không có đất. Người còn biết đó, huống chi họ từ ta sao vui vậy ư? Nay giữ gốc tang môn, mê mù tục só, thấy kẻ lạnh thì chẳng thí cho áo hạt ngắn, gặp kẻ đói chẳng ban cho chút lương đậu, mà tranh nhau nhóm họp làm tăng không hiểu biết, giành tạo Phật lắm nhiều, thân thích bỏ mà chẳng đoái hoài, tế tự phế mà chẳng tu, bởi hội nát ở trên chùa, đan kim vòng ở dưới tháp, mà gọi là làm ruộng phước, mong được báo nghiệp, đây đều hiểu Phật chưa sâu, rõ pháp chẳng diệt. Tuy gọi Phật là Phật mà đâu hiểu ý chỉ của Phật, gọi Tăng là tăng, mà nào đạt ý nghóa nương tăng, đây cũng là thần chẳng giáng phước, tôi không lấy vậy. Thuật của sáu nhà đều có lưu tệ, nho mất ở hẹp. Mặc mất ở tệ, pháp mất ở cao, danh mất ở dối. Đều do bắt chước mất truyền để đến nổi đắm bùn sình. Nay ông chẳng lấy hẹp tệ để giết Khổng Mặc, lấy cao dối để trách Hàn Đặng, mà riêng buộc tội Như lai tai, chê Chánh giác này, là giận sóng gió mà hủy thuyền chèo. Nay, những người nghịch bội, những kẻ không chỗ nương nhờ, trên không vua cha, dưới loại ngược đảng, hoặc chẳng kî minh hiến mà chợt sợ u ty, sợ sức mạnh của Diêm-la, lo tàn khốc của đầu trâu, bèn hối hận sự uế ác hóa mà đổi thiện, lợi ích của Phật. Lại, lý tội phước chẳng nên khác với thế giáo trái với nhân tình, nếu có người dùng lòng trung thờ vua, chỉ hiếu phụng cha mẹ, lấy tín chơi với bạn bè, người như vậy còn dùng một mắt mù bít đức, xem thường mà bỏ. Cắt phạm cá trùng lấp vào địa ngục, đó là không đúng. Lòng trung chẳng ai hơn Y Duẫn, hiếu chẳng ai hơn nổi tăng sâm, Y Công giết một con vật để nấu ăn, tăng tử nấu hai con chim để dưỡng điểm, mà đều rão đến vạc lửa, đồng tới cây nhọn. Vậy thì công lớn mất ở lỗi nhỏ, kính phụng trên trái với ban ân dưới. xưa kia, Di tử kiểu giá, còn vì nghóa rộng mà được miễn tội chết. Than ôi! Từng cho rằng linh gần chẳng như gìn giữ quân tử ư? Nên biết đây là ngăn ngừa của người nhẫn, mà chẳng phải răn dè của người nhân. Nếu năng soi chiếu hạng kia đảng hấn chẳng ở Phật, xét xem họa phước này, ngộ giáo mở dụ, nghó dứt ngọn để tôn gốc, chẳng nhổ gốc để cứu ngọn, nghó quên ta để mở mang Phật pháp, chẳng dùng pháp sau để lợi ta, thì tuy nói không phải Phật tôi cũng cho đó là Phật. Cật nạn về luận Thần Diệt của Phạm Trung Thư của tào Tư Văn. Nạn về thần diệt thứ nhất (đồng thời khải chiếu đáp), Phạm đáp thứ nhất, lại nạn thần diệt thứ hai (lại khải chiếu đáp) - Nạn về luận Thần Diệt của Phạm Trung Thư, của tào Tư Văn. Luận chép: Thần tức là hình, hình tức là thần, là vì hình còn thì thần còn, hình mất thì thần diệt. Cật nạn: Hình chẳng phải tức là thần, thần chẳng phải tức là hình, là hợp mà làm dụng, mà hợp là chẳng phải tức. Sinh thì hợp mà làm dụng, tử thì hình còn mà thần đi ä. Lấy gì nói thế? Xưa kia, Triệu Giản Tử bệnh năm ngày chẳng biết người, Tần Mục Công bảy ngày mới tỉnh lại, đều là thần dạo đến Đế Sở, Đế ban cho quân trời rộng vui, đây là hình lưu lại mà thần mất? Nếu như Luận chép, hình diệt thì thần diệt; hình đây cùng thần nên như ảnh hưởng hẳn là chung, nhưng hình đã bệnh thì thần cũng bệnh, vì sao hình chẳng biết người và thần riêng dạo Đế, mà hân hoan nơi quân trời rộng vui ư? Đây đó ngủ thì hồn giao, nên thần dạo nơi hồ điệp, tức hình cùng thần phân. Đó tỉnh giấc thì hình mở vội vàng cùng khắp, tức hình hợp với thần, thần và hình có phân có hợp, hợp thì cùng làm một thể, phân thì hình mất mà thần đi. Vì vậy, Diên Lăng chôn con mà nói là: Cốt nhục trở về với đất mà hồn khí không đâu chẳng có. Đây tức là hình mất mà thần chẳng dừng, nhưng kinh sử minh chứng rõ ràng, như thế sao là hình mất mà thần diệt ư? Luận chép: Người hỏi rằng: Kinh nói làm tông miếu thì quỷ được hưởng. Thông nói: Chẳng có quỷ, đó là giáo của bậc Thánh, sở dó đạt tâm của hiếu tử mà mài ý của du bạc. Cật nạn: Nay điều Luận chép đều là tình nói, chẳng phải thánh chỉ. Xin nêu kinh ghi để chứng minh giáo của bậc Thánh. Hiếu kinh chép: Xưa kia Chu Công giao tế, Hậu tắc dùng phối với trời, tông kỷ văn vương ở Minh Đường để phối với thượng đế. Nếu hình thần đều diệt, thì ai phối với trời ư? Và ai là phối với đế ư? Vả lại, không thần mà là có thần, Tuyên Ni nói: Trời có thể khinh thường ư? Nay Tắc không có thần, mà phối Tắc ở đây đó là Chu Đán khinh thường trời ư? Quả thật đó không có Tắc, mà không dùng phối với trời, tức đó khinh thường trời, lại khinh thường người. Đây là giáo của bậc Thánh. Giáo dùng khinh vọng. Bày khinh vọng để lập giáo, lại sao đạt tâm của hiếu tử, mài ý của du đảng ư? Vốn tìm ý chỉ của luận, lấy không có quỷ làm nghóa. Thử lại cật cấn đó là: Khổng Tử dùng canh rau để cúng tế tổ nể. Lễ nói: Vui để đón lại, buồn để đưa đi, thần đã không thì, đón là đóm cái gì? Thần đã không thì đưa là đưa cái gì? Đón đến mà vui, đó là nhờ vui ở dáng khổng, đưa đi mà buồn, lại lệ suông đối với thể Khâu. Đây là tế tự của phu tử, khinh ngụy đầy nơi tấc vuông, hư giả tràn cả miếu đường. Giáo của bậc Thánh là như vậy ư? Mà nói giáo của bậc Thánh là sao ư? Tư Văn thưa: Trộm thấy luận Thần Diệt của Phạm Chẩn, tự làm khách chủ, có hơn ba mươi điều. Tư Văn chẳng chỉ lờ mờ, về cật nạn đại chỉ của luận hai điều mà thôi, mà muốn làm đổ ngã gốc rễ đó, kính cẩn mạo trình trên nghe. Nhưng Tư Văn tình dùng cạn hẹp, sợ chẳng thể nêu chiết quỷ kinh, ngưỡng phiền trời soi, cúi tìm theo động lòng, kính cẩn khải trình. Hai điều cật nạn phải xem cho rõ. - Đáp Tào lục sự cật nạn luận Thần Diệt. Nạn rằng: Hình chẳng phải tức là thần, thần chẳng phải tức là hình, là hợp mà làm dụng, mà hợp chẳng phải tức. Đáp rằng: Nếu hợp mà làm dụng: Là nói chẳng hợp thì không dụng, như kháng cự giúp nhau, phế một thì không được, đây mới là tinh cứ của diệt thần, mà chẳng phải nhã quyết của còn thần, ý ống vốn muốn xin chiến mà định vì ta viện binh ư? Nạn rằng: Xưa kia, Triệu Giản Tử bệnh năm ngày mà chẳng biết người, Tần Mục Công bảy ngày mới tỉnh, đều là thần dạo ở đế Sở, đế ban cho quân trời rộng vui, đây là hình còn lại mà thần dạo đó ư? Đáp rằng: Thượng khách của Triệu Giản Tử, dạo thượng đế của Tần Mục, đã nói tai nghe quân trời, ở vậy miệng thưởng thức trăm vị, cũng có thể thân an Quảng Hạ, mắt vui Huyền Hoàng, hoặc lại mặc áo của Văn Tú, nắm dây Bí của Như Long, nên biết thần đó phải đợi đã chẳng khác người, bốn chi bảy khiếu, đều bằng với hình, một cánh chẳng thể bay đến xa, nên chẳng tỷ chẳng bay, thần không thiếu gì, cớ sao cậy hình để tự lập? Cật nạn: Nếu như luận chỉ hình diệt thì thần diệt là, nay hình đó cùng thần nên như ảnh hưởng đó, hẳn là chung đồng. Nhưng hình đã bệnh thì thần cũng bệnh, vì sao hình chẳng biết người, thần riêng dạo Đế Sở? Đáp rằng: Nếu như ý vừa nói là hình bệnh mà thần chẳng bệnh. Nay thương tổn đó thì bệnh là hình đau, mà thần chẳng đau. Não thì buồn là hình buồn mà thần chẳng buồn, buồn lo đau hình đã được đó như thế, đâu cần nhọc thần ở vô sự ư? (Tào lấy làm sinh thì hợp mà làm dụng, bệnh phế là đồng. Tử thì hình còn mà thần đi, thì nên dạo đế chẳng đồng hình với). Cật nạn: Đó ngủ thì hồn giao nên thần dạo nơi Hồ Điệp, tức hình phân chia với thần. Đó tỉnh giấc thì hình mở, vội vàng cùng khắp, tức hình hợp với thần. Đáp rằng: Cật nạn đây có thể gọi là cùng biện, chưa thể gọi là cùng lý, ông cho rằng thần dạo Hồ Điệp là thật làm trùng bay ư? Nếu vậy là hoặc mộng làm trâu các càng xe người, hoặc mộng làm ngựa vào người đạp dưới, đến sáng sớm nên có trâu chết ngựa chết, mà không vật đó là vì sao? Lại, trường nhiễu xướng môn, người đây liền chết, đâu có bỏ sót gan phổi, mà có thể để sống ư? Lại, trời trăng sáng giữa trời, vòng lớn ngàn dặm, không dung dưới theo xếp vợ gần vào tay áo. Mộng huyễn hư giả không có tự đến, một mai thật đó bởi đủ lớn. Rõ buộc tưởng, trong đêm ngồi khắp trời biển, thần tối ở trong, vọng thấy khác vật. Đâu Trang sanh thật loạn vườn nam, Triệu Giản thật lên xướng hạp, em ngoài họ trâu là Tiêu Sâm cũng lấy mộng làm văn câu rất đều, tưởng đến lấy xem. Cật nạn: Diên Lăng chôn con mà nói là: Cốt nhục về với đất, mà hồn khí không đâu chẳng có, đây tức hình mất mà thần chẳng mất. Đáp rằng: Sinh của người nhờ khí ở trời bẩm hình ở đất. Vì thế, hình tiêu ở dưới, khí diệt ở trên, khí diệt ở trên nên nói không đâu chẳng có. Không đâu chẳng có là từ của chẳng lường, đâu hẳn thần đó có khởi biết ư? Cật nạn: Nay chỗ Luận chép đều là tình nói chứ chẳng phải thánh chỉ, xin nêu kinh ghi để chứng giáo của bậc Thánh. Hiếu Kinh chép: Xưa kia. Chu Công giao tế Hậu đắc để phối với trời, tông tế Văn Vương ở minh đường để phối với thượng đế. Nếu hình thần đều diệt, thì ai phối với trời ai phối với đế ư? Đáp rằng: Nếu đều là bậc thánh đạt, vốn tự không giáo, chỗ bày của giáo thật ở đầu đen, tình của đầu đen thường quý sinh mà hèn chết. Tử mà có linh thì lớn tâm của sợ kính, tử mà không biết thì sinh ý của mạn dịch. Bậc Thánh biết như thế, nên miếu thiêu đàn thiện để dốc thành tâm, trải chiếu trao án để toàn mất mình, tôn tổ để cùng kính của giao thiên, nghiêm phụ để phối hưởng của Minh Đường. Vả lại, người của trung tín giữ tâm có kẻ hữu địa cường lương, ở đây sao là sợ? Do đó thanh giáo chiếu ở trên, phong tục thuần ở dưới, nên dùng đạo này. Nên kinh nói: Làm tông miếu thì quỷ hưởng, nói dùng đạo quỷ thần, đặt để hiếu hưởng. Xuân Thu cúng tế, lấy thời suy nghó, nói mạnh đó đuổi xa, chẳng thể sáng chết tối mất. Tử Cống hỏi: Chết có biết không? Trọng Ni nói: Tôi muốn nói chết mà có biết, thì hiếu tử khinh sống để theo chết. Tôi muốn nói chết mà không biết, thì con bất hiếu bỏ mà không lễ tang. Tử Lộ hỏi về thờ phụng quỷ thần, Phu Tử bảo: Chưa thể thờ phụng người, làm sao thờ phụng được quỷ? Vừa rồi nói quỷ hưởng, tại sao chẳng chấp thuận thờ phụng đó ư? Chết mà có biết khinh sống mà theo, vì sao chẳng nói đó có mà làm du mạn đây để đáp ư? Nghiên cầu nghóa đó, chết mà không biết cũng đã xét, tông miếu giao xã đều là vết giáo của bậc Thánh, đạo luân thường, không được phế bỏ. Cật nạn: Vả lại không thần mà làm có thần, Trọng Ni nói: Trời có thể khinh thường ư? Nay Tắc không thần mà dùng tắc phối, là Chu Đán khinh thường trời ư? Đã khinh thường trời, lại khinh thường người, đó là giáo của bậc Thánh dùng khinh vọng, dùng khinh vộng đó làm giáo làm sao đạt tâm của hiếu tử, mài ý của du đảng ư? Đáp rằng: Bậc Thánh là hiển nhân tàng dụng cùng thần tận biến, nên nói thánh đạt tiết mà hiền giữ tiết. Sao có thể cầu ở đề thuyên cục nói giáo. Khinh thường nghóa là tổn thương hóa bại tục, dẫn dắt người chẳng phải đạo. Nếu có thể dùng an trên trị dân, dời phong đổi tục, ba ánh sáng tỏa trên, muôn dân vui ở dưới, thì nào có khinh vọng ư? Xin hỏi: Thang Thả Kiệt, Võ đánh Trụ, là giết vua chẳng phải ư? Mà Mạnh Tử nói: Nghe giết riêng Trụ, chưa nghe giết vua. Ông chẳng trách vết của bậc Thánh thả giết mà chăm chăm ở vọng của giao tắc ư? Giao khâu minh đường chính là phủ sâu của nhà nho, chứ chẳng phải nghóa của thần hình, phải như đây là sao ư? Cật nạn: Vui để đón đến, buồn để đưa đi, v.v… Đáp rằng: Đây nghóa chưa thông mà tự thích, chẳng cần phí từ đối với vô dụng. Lễ Ký có nói nhiều về việc này, gần đây ghi điều này chỉ tiếc đôi chút là chưa khắp? Tư Văn khải tấu: Lúc đầu được Phạm Chẩn đáp về luận Thần Diệt, con chấp mê trước. Tư Văn thử liệu lý đó đến cùng, xung bốn chứng đó. Kính cẩn mạo tấu trình, chỉ Tư Văn tình thức ngu cạn, không dùng chiết bén nhọn, ngưỡng trần thánh giám, cúi theo run sợ, kính cẩn khải tấu! Chiếu đáp đầy đủ một vài điều, Phạm Chẩn đã trái kinh để khởi nghóa, trái lý để đặt đàm. Diệt thánh nạn thánh tránh, trái lý nạn dùng lý cật vấn, như vậy thì luận ngôn ngữ lược thành sẽ dứt. <詞>TÀO TỪ VĂN LẠI CẬT NẠN LUẬN THẦN DIỆT CỦA PHẠM TRUNG THƯ Luận chép: Nếu hợp mà làm dụng là rõ, chẳng hợp thì không dụng, như giúp nhau mà chống cự, phế một thì chẳng được, đây mới là tinh cứ của diệt thần, mà chẳng phải nhã quyết của còn thần. Ý ông vốn muốn xin chiến mà định vì ta viện binh. Luận lại chép: Hình đó ở thần như dao đó ở bén nhọn, chưa nghe dao mất mà bén nhọn còn, há hình mất mà thần còn ư? Lại bày lời của Diên Lăng nói: Tức hình tiêu ở dưới, thần diệt ở trên, nên nói không đâu chẳng có. Lại nói: Phối tắc với trời chẳng phải khinh thường trời, như Thang thải kiệt Võ đánh Trụ chẳng phải giết vua. Ông chẳng trách vết của bậc Thánh thả giết, mà chăm chăm nơi vọng của giao Tắc ư? Cật nạn: Củng củng cự hư là chứng của hợp dụng mà chẳng phải y cứ của hình diệt tức thần diệt. Vì sao nói vậy? Vì cũng chẳng phải hư, hư chẳng phải củng, nay diệt củng củng mà cự hư chẳng chết, chém cự hư củng củng chẳng mất, chẳng phải tương tức. Nay dẫn đây để làm tinh cứ về hình thần đều diệt, lại làm lương viện của cứu binh. Nay ngã dáo trao người mà muốn cầu còn mãi, bBuồn thay! Đây tức chứng thứ nhất của hình diệt mà thần chẳng diệt. Luận chép: Hình và thần như dao bén nhọn, chưa nghe dao mất mà bén nhọn còn, đâu được hình mất mà thần còn ư? Nhã Luận y cứ hình thần đều diệt, chỉ một chứng này mà thôi, ngu có lầm hoặc. Vì sao? Vì Thần và hình là hợp dụng của hai vật, tức chỗ luận dẫn củng cự giúp nhau. Là nay dao đó ở nơi bén nhọn mà hai tên của một vật, nhưng một vật mà hai tên, nên bỏ dao thì không có bén nhọn. Hợp dụng của hai vật, nên hình mất thì thần đi. Nay dẫn hai tên của một vật, nêu hợp dụng của hai vật, sai này nếu mảy may là nào xa ngàn dặm. Đây lại là chứng thứ hai của hình diệt mà thần chẳng diệt. Lại bày lời của Diên Lăng nói, tức là hình tiêu ở dưới, thần diệt ở trên. Luận chép hình thần là tức nhau của một thể, tức này hình diệt ở đây, tức nên thần diệt ở trong hình. Đâu được nói hình tiêu ở dưới, thần diệt ở trên, mà nói không đâu chẳng có ư? Đây lại là chứng thứ ba của hình diệt mà thần chẳng diệt. Lại nói: Phối tắc với trời, chẳng phải là khinh thường trời. Như Thang thả Kiệt, Võ đánh Trụ, chẳng phải là giết vua. Tức là quyền giả để trừ ác? Nhưng vua của Đường Ngu không mắc hoạn của thả đánh. Nếu là vận phải thái bình, đời gặp ba cuối, quyền giả lập giáo để cứu một thời, cho nên quyền tắc phối với trời, mượn văn phối với đế thì có thể, nhưng có vua thiên hạ của họ Ngu. Đề Hoàng mà giao khốc, tổ chuyên mà tông Nghiêu, đã thuần phong chưa hết, thời chẳng phải quyền giả, mà khiến khinh thường trời không vua, là sao ư? Dẫn chứng như nay. Đây là chứng thứ tư của hình diệt mà thần chẳng diệt. Bốn chứng nay đã lập, mà gốc rễ tự nghiêng đổ, ngoài ra cành lá còn lại ngõ hầu không đợi gió mà chẳng còn. Luận chép: Vui thì đón đến, buồn thì đưa đi, nghóa này chẳng nhờ thông mà tự thích, chẳng cần phải phí nơi vô dụng, Lễ Ký có nói nhiều. Lại nói: Phàm, nói khinh thường nghóa là thương tổn hóa bại tục, nếu có thể dùng an trên trị dân, lại nào có khinh vọng ư? Cật nạn: Cật nạn trước nói đón đến mà vui là mượn vui ở dáng Khổng, đưa đi mà buồn lại là hư lệ ở thể khâu, đây thật là vân thê của bỉ nạn, phong đích của nghóa kém, tại lời này, mà đáp chẳng hề có tuệ giải, chỉ nói chẳng nhờ thông mà tự thích. Xin lại nói đó là y như luận chỉ, đã chấp thuận Khổng là giả vui mà hư lệ. Lại chấp thuận phối trời của Tắc, là chỉ không để làm có. Tuyên Ni nói: Mất mà làm có, rỗng mà làm đầy, chỗ hào tượng chẳng chiêm, mà chỗ cách ngôn xả bỏ, dùng gió này để quạt, sao được chẳng tổn thương, tục này ở đâu chẳng bại, mà nói có thể dùng an trên trị dân. Từ hóa ở đâu? Luận chép: Đã thông mà mờ tối là chưa ngộ, tạm lại sang hỏi, lắng nghe dắt dẫn.  <卷>QUYỂN 10 Đại Lương Hoàng Đế sắc đáp hạ thần luận Thần Diệt. Pháp sư Pháp Vân chùa Trang Nghiêm gửi thư cho các công vương triều quý. (và công vương triều quý đáp) **** <詞>ĐẠI LƯƠNG HOÀNG ĐẾ SẮC ĐÁP HẠ THẦN LUẬN THẦN DIỆT Địa vị hiện chính luận, cần phải có tự thể, muốn bàm nói không Phật, nên lập bày chủ khách, nêu lên tông chỉ, nói về trường đoản, lại y cứ Phật lý để khuất phục Phật lý, thì có nghóa của Phật đã trở ngại, luận của Thần Diệt tự hành, đâu có chẳng cầu ý khác, vọng làm mối khác, vận cách tâm, cổ xúy vọt miệng, hư họa bệnh tật rỗng đặt chê trách, trùng của dốc thời, kinh nghi ở qua lại, ếch của kẹt giếng, Hà Hán ở xa lớn, vì sao? Luận mờ biếng lười mà tranh một hơi thở, ôm cô lậu mà giữ cán giếng, đâu biết sự dài lâu của trời đất, rộng lớn của biển khơi. Mạnh Kha có nói: Chỗ biết của người chẳng như chỗ chẳng biết của người. Tin thay! Xét ba thánh lập giáo đều nói bất diệt, văn ấy rộng lớn khó có thể chép đủ. Chỉ nêu hai việc thử để làm lời. Tế Nghóa nói: Chỉ hiếu tử làm năng hưởng thân thích. Lễ Vận chép: Ba ngày trai sẽ thấy chỗ tế, nếu cho rằng hưởng chẳng phải chỗ hưởng, thấy chẳng phải chỗ thấy, trái kinh trái thân thích, ngôn ngữ có thể dứt. Luận thần diệt là điều trẫm chưa rõ. <詞>PHÁP SƯ PHÁP VÂN Ở CHÙA TRANG NGHIÊM GỬI THƯ CHO CÁC CÔNG VƯƠNG TRIỀU QUÝ (VÀ CÔNG VƯƠNG TRIỀU QUÝ ĐÁP LẠI) Chúa thượng đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, nay dâng tấu bày. Thần diệu vắng lặng có thể biết mà chẳng thể nói, nghóa qua khâu mà chưa hiểu, lý đến sớm mà còn mờ, chúa thượng ngưng trời chiếu gốc tiếp đạo tới có, rủ đáp hạ thần, ý chỉ dạy răn xét khắp. Lễ hiếu hưởng đã rõ, Kiệt mang mến mộ của Tăng sử, lời ba đời lại mở mang. Trụ hiệp tình của ba luân, dự chẳng phải cỏ cây, ai chẳng ca thán, mong đồng ân phong du, cùng thêm khen ngợi. Thích Pháp Vân tấu trình. Lâm Xuyên Vương đáp: Được sở đưa đến sắc đáp luận Thần Diệt, cúi xem ý chỉ sâu xa, lý tinh từ tới, đạo hai giáo hợp ngay năm nay, rường cột ba đời ở ngày nay, đủ khiến mê đường tự trở lại, diệu thú càng sáng, chậm gần trái đối, lại đủ vạch chiết. Tiêu Hoằng kính lễ. Kiến An Vương Vó đáp. Nhục cáo ban bày, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, thiên thức chiếu xa, thánh tình sâu phát, cúi xem huyền vi, thật hiểu dung tối, bàn năng còn bày, sâu tiếp dốc đoái hoài. Tiêu vó kính lễ. Trường Sa Vương Uyên đáp. Ân chỉ sắc đáp, hạ thần xét luận Thần Diệt, duệ chỉ lắng ngưng, cơ chiếu sâu xa. Có thể vì thuyên đề lầm hoặc thấy, răn dẫn tâm mờ, dìu ngưỡng cùng khắp, tẩy rửa trần lự, bèn năng còn bày, giấu cuộn sâu tốt. Tiêu Nguyên Nghiệp kính lễ. Thượng thư lịnh Thẩm ước đáp. Thần vốn chẳng diệt, chỗ lâu xa phục ứng, bàm nói thần diệt, bởi dụng sợ hãi. Gần đây Pháp sư ước từ trong điện ra, cũng được sắc đáp hạ thần một bản, vui mừng cung kính, tìm xem quên nhọc. Đâu luống phục ngoại đạo, có thể dùng để dẹp hẳn chúng ma, Khổng Thích đều hoằng, từ đó ở đâu? thật diệu chỉ chẳng phán, thuyền bè của muôn đời, đệ tử cũng tức luận đó, nhỏ nhiệm trải qua nghi ngờ xét sánh bày đủ để tấu trình. Thẩm ước kính lễ. Quang Lộc lãnh Thái tử phải xuất Phạm Tụ đáp. Tụ tôi kính lễ, cúi thấy chiếu chỉ chỗ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, soi chiếu vực sâu, động soi cơ nhọn, nêu dẫn ngoại điển hoằng nội giáo này, phát mờ mở kẹt, răn dẫn chưa ngộ, mới khiến bốn biển bẩm thọ, kính ngưỡng, mười phương khen ngợi. Dị kiến ngậm miệng, đạo tục đều mừng, kính cẩn thêm tụng tập, thức ngủ thư thân, ban cho đợi chỉ dạy, sâu tiếp nghó nhớ. Phạm Tụ kính lễ. Duẫn Vương Oánh ở Đan Dương đáp. Nhục cáo cúi xem sắc chỉ nghóa thần chẳng diệt, sáng nghó có sâu, tình trời mây vén, nêu lý sáng sánh so như băng tan, chỉ sự tạo lời cùng như mặt trời chiếu, dùng mở ngu tối, chuyển dời mù che. Hễ là loài hàm thức không ai chẳng nương theo, kính dùng thư thân phụng đó mất xỉ. Đệ tử Vương Oánh kính lễ. Trung Thư lệnh Vương Chí lễ. Nhục cáo cúi xem đáp hạ thần luận Thần Diệt, ý chỉ cao nghóa rộng, chiếu như phát mờ. Đệ tử xưa kính thờ Thích giáo, luyện phục nghe cũ có khi tự đến, chẳng phải chỉ mây đồng xa lớn tán kích thiên chỉ mà thôi. Vả lại rủ đáp hai giải, yểm phục tâm linh, mở rộng thấy nghe, lại chẳng biết lấy gì mở mang đạo pháp, sáng rõ thánh thuật. Vả lại được võng tượng chẳng bó` buộc ở chân, trong ngoài không rối như nói kẹt, thật nghó tốt biện bèn ban cho lại bày, bội xuân chỉ có sâu xa. Vương Chí kính lễ. Phải Bộc Xạ Viên Ngang đáp. Nhục cáo đều cúi thấy, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, kính đọc xoay quanh, chóng tỉnh mê buộc. Phàm, thức thần mênh mặc, lý đó khó cùng, bèn tại dong ngu, đâu thể dò xét, gần lấy trong các hài, cốt nhật dụng chẳng biết, huống chi sâu tối, lý về lầm giải, kính tìm thánh điển, đã hiển lời chẳng không, chỉ nên tông giáo quy y mà có, căn cứ có, bàn có nói còn chưa thể tận tánh. Bèn ở chẳng không luận không đây có thể xa. Tự chẳng phải thần giải, riêng thoát, cơ giám chẳng ai bằng, đâu thể khéo lường chẳng đoạn, ngộ sâu ý chỉ tương tục, gồm hai chứng dẫn dụ, mới thấy thần có rõ ràng. Cầu ở ba đời, lý chẳng diệt càng hiển rõ, có thể gọi là, dùi đó càng chắc, ngưỡng đó càng cao. Mới khiến các lầm hoặc trần mở, các mê trở lại đường, cúi tụng không thích múa may chẳng hơn. Đệ tử Viên Ngang kính lễ. Vệ Úy Khanh Tiêu Ngung đáp. Nhục cáo đều cúi thấy, chiếu đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Ba đời tuy nói, Nhất thừa giáo xa, hoặc có thiên tệ như chấp mối lạ. Thánh thượng dò ẩn xét vi, ngưng thần buộc biểu, cùng lý tận tánh bao gồm trời, người. Trong ngoài phân tích, từ chỉ điển áo, đâu ngay quần sinh chẳng phải lầm hoặc, thật cũng mở mang liền hiểu, mới tuyên dương bốn biển, để lại khuôn phép đời sau, ân ban khiến mở thấy chỉ sâu đeo mặc. Cô Tử Tiêu Ngung cúi đầu kính lễ. Lại bộ thượng thư Từ Miễn đáp. Ý chỉ trời đáp hạ thần về luận Thần Diệt, một ngày thô tối dủ bày, nhục cáo lại đưa đến, cúi thêm nghiên đọc, cùng lý tận tịch tinh nghóa nhập thần, văn nghóa đều rõ, vượt sâu ngoài tục, ngưỡng rõ ba đời, sáng như phát mông, chẳng phải ngay kính cẩn thêm tụng trì, liền khiến chưa ngộ của ban, ân bày nương quyến đến. Đệ tử Từ Miễn kính lễ. Thái tử Trung Thứ Lục Quả đáp. Lục Quả tôi kính lễ, cúi xem sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Từ gốc vô trụ, tại điểm ngăn nghó, phục Như lai tạng, sâu tuyệt khó nói, nên khiến trọng sơ khởi chấp củi lửa, Tuệ Viễn rộng nạn về đốt diệt, truyền nghi ngờ chúng bàn nói, đạp chìm lâu năm. Thần thông trời cao, thánh chiếu chúng sinh biết, rõ căn trao thuốc, tùy phương vận tiện, bèn nói lễ nắn uổng chỉ hiếu bày góc. Do mê phát tục học, khiến tuc bạc để sánh đạo, lầm hoặc vốn từ văn ngoài, tức y cứ ngoài để rõ trong, nhậm lời để ra kỳ lạ, nhân chỗ y cứ lý hẳn dùng thành lũy, ba đời mong đợi chúng sinh, hiện ở phá tối, tương lai xé lưới, giữa một độc, ở đâu chẳng lợi ích của một lời, há có thể quanh co, sinh nhân xưa mừng vui, chí đức đồng thời, dự vâng luận khác, cung kinh hớn hở, ân bày chẳng sót, sâu ôm dốc niệm. Lục Quả kính lễ. Tán Kî Thường Thị Tiêu Sâm đáp. Đệ tử Tiêu Sâm kính lễ, nhục cáo cúi thấy, chỗ sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, khéo lường cơ thần phát huy lễ giáo, thật đủ khiến tịnh pháp thêm sáng. Nho môn kính nghiệp, vật ngộ duyên giác, dân nghó hiếu đạo. Gốc của nhân luân ở đây càng sáng, dối kinh loạn tục chẳng đánh tự hoại, đọc tụng tráio biện, cung kính chẳng gì hơn. Gia đệ tối ngắn vời lỗi, nay ở so sánh lý, công tư tiển sợ, tình lự động vượt, không vì ngưỡng độc Hồng Hán, đối nêu tinh nghóa, vâng hóa nghe đạo, cúi dùng sợ làm, cúi sáp bày minh, khắp đeo nhân dụ. Đệ tử Tiêu Sâm kính lễ. Thường Thị Vương Bân Vương Hàm đáp. Nhục cáo cúi thấy, sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, Thánh tư sâu lắng, thiên lý dứt bặt, biện ba đời thì thích nghóa rõ, nêu hai sự thì hiếu đạo thỏa, bít đường dùi xét, ngậm miệng đường khác, đủ khiến tường ma chìm hẳn, núi chánh thì cao, Đệ tử phục ứng chí đạo, vâng giữ phép trời, tâm vui hớn hở, đâu lại thường chuẩn. Vương Bân Vương Hàm kính lễ. Thái tử Trung Xá Lục Hú đáp. Bèn nhục đợi cáo, cúi thấy chí tôn đáp hình hạ xét luận Thần Diệt, cúi ngước mọp bái, bồi hồi dầu rổng. Trộm nghe thánh chỉ một đạo, Đường Ngu chưa có lời trước, biết mấy vị thần đó, ngày nay riêng phụng Lương chiếu đạo chở thì muôn phải đè chìm mê. Đức thọ thì cửu phục dương chiếu thệ, mới có thể giúp dàn nuôi đức, trăm năm đều nhiếp nhận. Nhọc dân động vật, ngàn xưa đều chiết phục. Pháp sư trí sâu quyết định, trì của thọ trì đều xứng đáng, chỉ hợp thông minh, nương thần của thần đều hài khắc. Lục Hú kính lễ. Hoàng Môn Lang Từ Côn đáp. Từ Côn tôi kính lễ, phục cáo đều đợi bày, sắc đáp về luận Thần Diệt, cúi xem ý chỉ sâu, sơ tâm rộng lụy, chỉ gốc của Hy Di khó tìm, nguồn của diệu chỉ khó thấy, tự chẳng phải thượng thánh, không bàn nói tông đó, chẳng phải bậc chí duệ, sao có thể nói chỗ cùng cực đó. Hoàng thượng tận cùng thần thức, thể lắng soi đạo, ở nhỏ nhiệm phát đức âm thì ba đời tự rõ, trái lời thiện mà ngàn dặm tiếp hưởng, thật hợp lễ kính, nghóa cảm người cầu, lý quạt gió huyền đức trùm u hiển, dằng dặc đêm dài mờ tối chợt tỏ xuẩn động ngu sinh, một mai riêng ngộ, gắng ngầm công của vườn Nai, rót dòng pháp nơi nhật dụng, danh lớn lan tỏa, tốt thật mới rong ruổi, mê trệ biết trở lại, chìm nghi tự dứt. Đệ tử quy hướng sớm sâu, bồi gồm biện duyệt, liền vâng phụng để chu toàn, chẳng dám nói đọa lạc, chỉ lo lường ống nhàn, trọn ôm như mất. Từ Côn kính lễ. Thị Trung Vương Giản đáp. Uổng cáo đều vâng xem, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Thánh chỉ chiếu soi huyền diệu, mở ngộ quần mông. Nghóa bày u vi, lý tuyên lắng mờ. Phàm, kinh thuật nên nghóa của thân, phồn thuật là bàn nói về du hồn. Chỗ ngu cạn biện đã chẳng phải diệt, huống chi duệ tư rộng xa, tận lý cùng vi, dẫn văn chứng điển, rõ như băng tan, người mắt thịt cung kính hồi hướng, chúng của hoặc lụy sợ đổi tâm phù, phát minh đã qua, răn dẫn sắp đến. Cúi vâng giáo sâu, vui mừng không thôi. Vương Giản kính lễ. Thị Trung Liễu Uẩn đáp. Nhục cáo ân bày, chỗ sắc đáp hạ thần về luận Thần Diệt. Chỉ quy không hai, tông trí vốn một, tiếp tục nên chẳng dứt hoằng quy của Thích Huấn. Vào thất dung tiếng, mở rộng ý sâu của kinh. Hai thánh trong ngoài, ảnh hưởng hợp nhau, tuy lý ở cố nhiên mà si chấp cùng một nửa. Cúi vâng ý sâu chiếu như phát mông, ngang hội huyền thú, cùng thần biết lắng, lường tình hết trạng, trời đất tương tợ, ngàn năm khuyết nghi theo băng xuân đều tan, một đời điên đảo, chung mở với mây nổi, chỉ tụng hoàn hồi, mãi dùng huyền giải, côn cả đến đoái hoài, do vì buồn giấu. Đệ tử Liễu Uẩn cúi đầu kính bạch. Thường Thị Liễu Trăng đáp. Nhục cáo ân bày, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, ý sâu mạo xung, lý cùng cơ áo, trộm vì, tu nhân hướng đến quả, thần không hai thức, do đạo được diệt, Phật chỉ một tánh, người ân bày dân có biết. Khổng Tử tế thì thần còn, hoặc lý truyền diệu giác, hoặc nghóa diễn sinh biết mà dương mặc rối ren, luống vậy xuyên tạc, ngưng trệ bèn qua, che lấp danh giáo, thánh tình chiếu mầu, lý chứng không ngừng, khua cổ nắm giềng, buông bày lông mắt, ép nâng ba đời, cấp dẫn đồng về, hai pháp thật, giả, sáng suốt vô ngại, cúi vâng tuần hoàn, nghi lận đều hết, lại bảo còn cả buồn ân chỉ có sâu. Liễu Trăng cúi đầu kính bạch. Thái tử Chiêm Sự Vương Mậu đáp. Vương Mậu tôi kính lễ, nhục cáo cúi thấy, sắc chỉ đáp luận Thần Diệt, cung kính vui mừng chẳng kịp biện vũ, thần Lý rộng lớn, tuy chẳng phải chỗ lập lời cùng cực, nhưng Di Văn của Liệt thánh, cũng rõ ràng hiển trước, không ai chẳng vổ biện kiền câm, thử vâng theo phép thường, đâu thể vọng bày dối nắn, dày lừa cáo trước, cho rằng chẳng kỳ hẹn của duyên sau, bỏ chí lễ của hưởng tiến, mê lối mênh mông, về đường chẳng thoáng, khổ không đến cùng lúc, có hối cũng không kịp, Chúa thượng ngậm sáng thể thánh, khéo suốt chân giả, phát nghóa chiếu từ, thuyền bè chìm đắm, đâu chỉ trời người khen ngợi, kính ngưỡng tin, mà Chư Phật cũng hồi quang. Đệ tử xưa gá tâm, vốn nương tịnh độ, vài phen may mắn, dự gặp đời thạnh, mới đúng chứa nhiều nhân sau trọn luyện, thật của từ dụ tráio duyệt, chẳng phải chỉ ngày nay chưa được chỉ nêu, thường sâu cuộn liệng, sánh nên tu theo, bạch này không bày. Vương Mậu kính lễ. Thái Thường Khanh Dữu Vịnh đáp. Nhục cáo ân bày, Chí tôn sắc đáp hạ thần về luận Thần Diệt, cúi xem chưa khắp, khói mây lại vén. Trộm chỉ nguyển động có biết cây cỏ không có thức, Thần Diệt là luận mù, muốn đem có biết đồng với vô thức này. Mới cho là chủng trí cũng cùng hình hài đều tận. Đây là đều đáng buồn của thật lý, tự chẳng phải đức hợp trời đất đều lớn trong vức, thuộc ngày ngược dòng, gặp cơ của uống hóa thì lời về hai đế không được trùm khắp, bàn nói về ba đời, cơ bồ dứt. Thánh thượng xót thương bốn loài này chìm trong sáu đường, nghiên sánh Khổng Thích, chung cùng dẫn chứng, khiến cùng đất biết biển, tối tăm đều thấy mặt trời, chí cùng thu dương đồng sáng, các nghi cùng băng xuân đều tan, tuy phát luận hoằng đạo, đức cảm xung khâm, mà dự nghe răn dạy, cúi mừng nghiệp trước, Pháp sư phục ứng pháp môn sâu đồng vui mừng này. Kính cẩn đang tán vị ngâm tụng, đầu cuối không dịch. Đệ tử Sưu vịnh kính lễ. Dự Chương Vương Hành Sự Tiêu Ngang đáp. Nhục cáo tuyên bày, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, thánh chỉ vạch chiết, khiến kẻ lầm hoặc được hiểu rõ. Thần đó chẳng diệt, hiển trước ở cáo chung, lý đã xa mặc, nên đến nỗi có mê. Chúa thượng thức chiếu biết vị lai, soi vượt tạng qua, mở diệu tư của ngoài cơ, dẹp bỏ thuyết sai lầm dị đoan. Lại dẫn lễ kinh, lấy nghiệm hư thật, Đạo hiếu kính ở đây mới mở rộng. Cô Tử Tiêu Ngang cúi đầu kính lễ. Thái Trung Đại Phu Dữu Đàm Long đáp. Nhục cáo cúi thấy, chúa thượng đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, mờ tối mở ngộ, sáng rỡ chiếu soi. Chí lý vắng lặng, đạo thú không vi, thượng thánh cực trí mới đáng cùng diệu thật, hạ phàm phu sinh tự chẳng nói được vực huyền. Như nghe lập luận là kinh diễn dũ răn, đều là vết giáo, đến như ở Phật, nên sách dối lạ, khó dùng lý mong. Đây thì bặt đường ngôn ngữ, ngưỡng nhọc thánh tư, vì hạ thần giải thích các tình, há chẳng mừng khen, chép nắm minh chỉ, gồm dùng đầu cuối, Pháp sư răn kỹ, càng thêm hổ thẹn. Đệ tử là Dữu Đàm Long kính lễ. Thái tử Tẩy Mã Tiêu Mî đáp. Ân ban sắc đáp, hạ thần xét luận Thần Diệt, mở xem chưa khắp, tình dùng biện vui. Chúa thượng ngưng thần vút trời, gần thánh lắm tài năng, văn áo chẳng phán, từ tràn nhiều ngoài, nghóa chứng chu kính, tình hiếu trị hiển trước, ý chỉ gồm Thích Điển, tâm của đại từ càng dốc. Kính cẩn đặt đó ngồi gốc, bày nơi án gối ngủ dậy mở xem, mãi dùng thư thân, ban ngày chẳng sót, giấu cuộn tốt dầy. Đệ tử Tiêu Mî kính lễ. Ngự Sử Trung Thừa Vương Tăng Nhụ đáp. Nhục cáo ân bày, đưa đến chỗ chúa thượng đáp, các quan kính hỏi về luận Thần Diệt, cúi xem tuần hoàn, chuyển sâu dùi phụng, phát mờ bỏ tệ, sáng như vén mây. Trộm vì sự chứa khó hình, chẳng phải thánh thì chẳng mở mang, lý tịch khu vị tại ngu thành lầm hoặc. Nếu chẳng phải thần vượt ngoài buộc, tư vượt trước cơ, đâu thể soi sáng lời huyền này, như mở vàng đá suốt cảnh diệu này, từng chẳng phải vướng vít lối đi, dùng hẳn dâng dụ đó, lấy như có bày, khiến người trì luận chẳng trọn vùi nơi vết xa, kẻ chuyên sai lầm không chìm hẳn nơi biển hoặc. Dự vâng vực mê, ai chẳng mừng kính. Cắt đáp bạch này, chẳng bày buộc múa. Vướng Tăng Nhụ kính lễ. Hoàng Môn Thị Lang Vương Ấp đáp. Nhục cáo ân bày, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Trời xanh huyền mặc, vốn dứt nói bàn, tánh cùng đạo trời hẳn cũng khó nghe, nhân của mến nuôi nương phương cảm động, giáo của mở dẫn, duyên sự mà giáng bày, hạn cục ếch dưới hang giếng, buồn ách ve sầu ở tấc bóng. Tư phát thần chung lời nhiệm gương lý. Dẫn cứ kinh trước, văn ước ý xa, ngưng thần mờ che, một lý năng suốt, phần điển rối ren một lời dùng che, hiểm ngưng ý của các thánh, quyết dính mắc hoặc của kiếp xưa. Còn diệt do đây mà hiểu, Hiếu kính do đây mà lớn, tin đủ để cảnh răn nhiều lớp mê, khuôn phép trăm đời cái gọi là lời thánh mênh mông, lời tốt Khổng Chương. Đệ tử đã thẹn, nói lý càng mờ, biết âm thì được, dự nghe đạo răn rõ thấy tảo tốt, thứ vỗ dưới bày, trọn rũ phép thánh. Đệ tử Vương Ấp kính lễ. Lại Bộ Lang Vương Thái đáp. Một ngày khúc mông vui riêng, dự nghe mang trung thư có luận Hình Thần tiếm diệt, người nay kinh đình, chẳng gần tình người, lấy ngay tài kém, chẳng thể bẻ sừng của năm nai, nhục cáo rủ bày, thánh chỉ nêu dẫn, hiếu đạo phát dương, thầm đến cẩn đáng, tìm đọc dứt mê lầm hoặc. Đệ tử Vương Thái cúi đầu kính lễ. Thị Trung Thái Tôn đáp. Nhục cáo vâng tuyên sắc chỉ, đáp hỏi luận Thần Diệt. Thần lý huyền diệu, khéo nạn đều nói, tuy là thánh trước chẳng nói, hiền sau còn lầm ý trời dẫn thích, rõ như phát mông, hẳn dùng vượt muôn xưa mà chuyên ngộ lạ, mới lại dùng chẳng hủ nát, cúi vâng chầu nghe, chở sâu vổ nhảy, kính cẩn dùng thư thân, dứt hẳn mê trệ. Thái tôn kính lễ. Kiến Khương Lệnh Vương Trọng Hân đáp. Trọng Hân thưa rằng: Nhục cáo ân bày, chỗ chiếu đáp hạ thần về luận Thần Diệt, cúi đọc vực lệ, vỗ chẳng thắng vọt, hoàng đế duệ tánh từ trời, cơ thần riêng xa, chiếu ngoài năm lễ, ánh trong ba minh, kim luân từ từ chuyển thì đạo giúp tám hoành, ngọc toản đã bày thì hiếu tỏa bảy miếu, mở mặt trời tuệ nơi Thanh Hán, bủa mây pháp ở đại thiên, nghóa như tại, lại mở rộng ở buổi này, minh của thường trụ trọn chứng kiếp sau, nên dùng đức trùm trăm vua tiếng cao muôn xưa, đệ tử gá tâm vào pháp môn, kính tin đại điển, thật của múa đạp, riêng sâu le tảo. Vương Trọng Hân kính lễ. Kiến An Vương Ngoại Binh Tham Quân Thẩm Tích đáp. Đệ tử là Thẩm Tích kính lễ, duỗi bày sắc đáp hạ thần về luận Thần Diệt, cúi sâu vui mừng hớn hở. Đệ tử trộm nghó, đạo chẳng tự mở mang, mở mang thật do người, người phải biết điều đó, phải biết vị đó. Bậc Thánh mà Chu Dịch gọi Đại bảo gọi là vị, đâu ý đó ư? Nhưng hoặc vị mà chẳng có người, hoặc có người mà chẳng vị. Ba là nói đầy đủ lý đó rất khó cho nên Tuyên Ni dứt bút ở được lân, Mạnh Kha trái thân ở Thiên tước, thật không có vị đó. Than ôi! Chân hóa sắp chìm mất. Nay thiên tử dùng nhân thánh thạnh sáng, y cứ giai vị chí tôn, bởi tầng núi có thể để các khí ấm vụt, hòa đó chẳng thể dời. Chuông trống có thể vì gà heo loạn, gõ đó chẳng thể nghe, sắp khiến nguy sợ đầu đen, giúp ích đêm dài, tự chẳng phải đức hợp trời đất, ai có thể năng như vậy. Đệ tử sớm gội linh phong, đã nghe điều đó. Nhưng sự nhóm họp của yến tước vẫn còn lờ mờ, cửa bay bồng còn tự giao cấu. Thánh chỉ viện giáng từ cao lý thỏa, dùng thiện của trời, người để đôn đúc, dùng hình của chẳng lớn để răn. Một lời làm huấn, trong ngoài đều vui. Hễ đem con nít xuống giếng, thì phàm dân còn bị thương, huống chi thánh từ ngự vật hẳn dùng trắc ẩn làm tâm ư? Năng chỉ chẳng phải trắng của ngựa trắng, còn thấy khuất ở trung dung, đến chỗ thần hưởng ngoài cơ, chỉ còn hoằng hóa, quỷ mî đẩy má lưỡi đó, đâu đáng nói ư? Thần tích trời quý vốn chẳng lén nhìn, bèn năng còn bày, dùng thẹn ngầm đức. Đệ tử là Thẩm Tích kính lễ. Từ Bộ Lang Tư Mã Quân đáp. Nhục cáo đều rủ bày sắc đáp, hạ thần xét luận Thần Diệt, cúi đọc khắp dòng, thử ca lại múa. Thức lự trầm ẩn, tinh linh u diệu, bước gần không dùng đuổi theo, phàm tình chẳng thể lường, Thánh ngoài biết đó như thế, sở dó ép mà chẳng bàn nói, cho nên hợp với Khổng Phụ đó còn mờ tối kinh, cơ công đó chưa sáng, mà hạng thấp hèn quên lý tin nhắm chùy họa, dòm ống dị kiến chóng khởi, nếu theo danh lìa hiền, bèn mê thật của sương tuyết, Ngu hoặc đến đây rất là xót thương. Vua ta đạo khắp u hiển, sáng hơn trời trăng, cùng cực của trời đất, tận chỗ sâu kín của đầu cuối, kî phòng của Du Tử khác khí, loạn của mân tró phụng ngọc. Viện phát thánh ctung giáng nghóa nhã này, tin đủ đó để sáng dương Diệu giác, cực khuyết chìm bùn, gần chiếu cực tánh linh, xa rõ gốc hiếu đức. Thật khiến dị học cắt bỏ tà tâm đó, hướng phương dốc dáng mến mộ đó, lầm vì lắm may dự vâng đào quân, gội đượm uống hòa có gồm vui mừng hớn hở, lưu thông khúc bị mang đội càng sâu. Tư Mã Quân kính lễ. Vương Công Tào ở Dự Chương là Tham Quân Thẩm Côn đáp. Thẩm Côn tôi kính lễ, đệ tử trộm lấy đạo của giao cầu, hẳn lấy cùng làm giúp, đến nơi tục mông bày cáo, thì không đặt xung xung quán của điều chợt, gần sắp có thể dứt. Sở dó tự dứt thưa hỏi nhận sùng sâu chẳng lén nhìn, thật tự là thẹn, luống vì ám thức nhân quả tu cục, thật mong giẫm sương chẳng lùi, băng cứng có thể đến, mà Pháp sư hoằng tâm rừng chầm may năng giấu bịnh, tuy chưa thăng đường mà vời lấy dòng pháp. Đỗ Di nói: Vời ngựa khát ở suối Bưu, chẳng đợi roi rút mà tự đến. Duỗi bày thượng đáp hạ thần về luận Thần Diệt, sớm hôn cúi đọc, dùng quên nhọc ngủ, dựng cột pháp này, dẫn mê dòng kia, thiên thuộc đã bày, ba đợi lại nói, quỷ thần tình trạng ở đâu có thể cầu, nhưng cho rằng biển thật rộng, rộng sao biết được? Cho rằng trời che cao, cao chẳng thể lương? Thánh luận móc ý cỉ sâu, vượt ngoài hệ thuộc, tình mờ dễ dốt, là ác năng, châm rỗng cuối bày, trọn thẹn dùi ngưỡng. Đệ tử Thẩm Côn kính lễ. Kiến An Vương Công Tào Vương Tập đáp. Ân bày sắc đáp, hạ thần xét luận Thần Diệt, trộm nghó thần là minh mặc, các thánh chưa truyền. Tuyên Ni còn gọi là chẳng nói, Trang Sinh không dựng lời đó, cầu ở phương sách, khen mờ giao sâu thấy nhầm. Nay luận ân trời phát sâu, diệu chỉ lắng ngưng chí lý đã mở rộng, hiếu cơ gồm cực, tin đủ ẩn vượt, ngàn xưa chiếu soi đến nay, đệ tử sinh gặp thời thạnh, dựa xem thánh tráio, đã băng tan ở ôm giữ, tin hiểu lầm hoặc ở tùy tiện. Phàm thiếu linh tri, thì ai chẳng khen kính. Ví dẫu đó mờ tệ, khơi vỗ thật sâu. Vương Tập kính lễ. Phải Vệ Tướng Quân Vi Duệ đáp. Chí lý hư tịch, mờ tối khó biện, nói có dường như không, nói không là thật có, diệu ở lão bàn, tinh ở Thích giáo, từ sáng sách vàng, văn ngời là Ngọc, xưa nay còn vậy. Chúa thượng đạo gồm vũ trụ, sáng đồng trời trăng, cơ ẩn hiển hẳn chiếu, sự quan trọng về có không đã xem, bèn dũ soạn Minh Luận, trọng chiết hạ thần dẫn dụ đã sâu, răn nghóa mới hợp, phàm ở có tâm, ai chẳng mừng may, mong bày trời chế, kính thêm đọc tụng, mây dơ lận tiêu, đặc gồm thường vỗ, Pháp sư quả sâu, duyên xưa nhân hội, nay pháp lìa năm dục mà nhập vào tám giải, bỏ ba cõi mà đến một thừa. Lại được dự nghe đức âm, càng đủ mừng khen, âm cáo đượm khắp đeo thật sâu. Vi Duệ kính lễ. Đình Úy Khanh Tạ Xước đáp. Tạ Xước tôi kính lễ, nhục cáo mong bày sắc đáp, hạ thần xét luận Thần Diệt. Cúi xem mô sâu, để sạch phủ hồn, đã vạch đoản nói thật, mở các nghi ngờ. Trộm nghó chỉ nhân sinh tối linh, thần dụng chẳng cực. Trên thì biết lại giấu đi, kế là gần thứ vào cơ. Lấy đây quán đó, lý không thể diệt, vì thế, nho bày tế đó, thờ phụng đại từ, chiếu sinh duyên đó, trong ngoài phát sáng, đã đủ bỏ trệ. Huống chi trời răn đinh ninh dẫn dụ càng rộng, hoằng giúp mới đầu dân thứ, đạo biết nghiệp ở tinh sảng, hẳn khiến mở núi tối, chướng ngồi so lường trùng huyền, dị đoan đã bặt đường chánh nay trở lại, luận là thẹn mực đó, gìn giữ họ mạng, ngộ bệnh dữ đó, dự tại có biết ai chẳng cử tán. Chỉ đệ tử theo âm dạo thánh trọn mờ dòm ống, kính vâng hớn hở, trọn mừng âm dụ. Tạ Xước kính lễ. Tư Đồ Tế Tửu Phạm Hiếu Tài đáp. Đệ tử Hiếu Tài kính lễ, đợi sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Trộm nghó: Bành sinh thỉ lập, gọi hiện Tề Công, Nguyên Bá rủ sự Cao Hán sử. Vả lại, chặt thẻ làm dụ nghóa ở hẳn thần còn chẳng diệt, pháp tục đồng suốt muốn diệt thần đó, trong ngoài đều mất, cái gọi là trông ống sâu cực, sao phân biệt được đông tây, mọt đụt qua bể cả, làm sao biết phảng phất, ý trời rộng sâu ân cần ở diệu tượng, thánh tình ẩn trắc, nối liền ở hưởng tế, đâu ngay kinh giáo thêm lớn, thật khiến mông ngu ngộ đạo, cuộn đợi chỗ bàn co duỗi ban đến, minh răn dụ này mới đầy tất lòng. Đệ tử Mang Hiếu Tài kính lễ. Thường Thị Vương Lâm đáp. Nhục cáo ân bày, chí tôn đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, kính cẩn hết ngu hẹp, nghiêm cung xem thánh chế, tiếng đầy vàng đá, lý suốt suối sâu, nghóa xuyên sáu hào, lời gồm ba đời, đủ khiến hẹp học biết tông, mê đường bay trở lại, đệ tử sinh ra đời gặp thôi sáng, thân đội ân đượm, lại được nghiêng tai trời làm phủi mắt, thần trảo thật của vỗ le vì không kỷ cực, bèn ân ban đợi ghi hớn hở chỉ trọng. Đệ tử Vương Lâm kính đáp. Khố Bộ Lang Hà Đát đáp. Hà Đát tôi kính lễ, nhục chỗ ban thư và duỗi bày đáp, hạ thần xét luận Thần Diệt. Trộm nghe thần như còn, cầu tiền vương mà chưa lường trụ. Thường trụ chẳng đổi dời, phục ứng mà hiểu, vùi ngưỡng sâu kín, đổi đó băng tan, nên biết rối ren vết thánh chẳng do một đạo. Sâm sai động ứng vốn tự nhân thời, nay dòng bạc đã dứt, vô minh sắp mở, chúng sanh có căn cơ giáo chỉ phát ở đây, dốc nghóa của hiếu trị, rõ ý của giác giả, dự có linh thức ai chẳng biết mừng, đâu là chỗ Viêm Hạo được giành cân, chẳng phải chỗ Hiên Đường năng đua sáng, vời vợi chí đức, chẳng có hoặc để gọi, rõ ràng đại đạo ở đây là cùng cực. Hà Đát kính lễ. Dự Chương Vương Chủ Bộ Vương Quân đáp. Vương Quân kính lễ nhục cáo duỗi bày thượng đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Trộm nghe phảng phất có thấy cách ngôn của lễ điển, nay thì chẳng diệt hoằng chỉ của pháp giáo, nhưng diệu tướng hư huyền, thần công ngưng lắng. Tự chẳng phải lễ đạo thì đâu thể mặc lãnh tông đó. Chẳng có biết cơ là không do đâu ngầm ứng hội đó. Thánh chúa vết suốt muôn cơ, tâm dạo bảy tịnh, xót thương chúng sinh, ôm ấp mọi vật tẩy che buộc kia, gắng dùng giải tuệ, bỏ mê hoặc đó, theo nơi nhân thọ, tin là lớn thay! Làm vua khéo nói trí độ đó vậy, đệ tử nhiều đời thờ phụng đại pháp, nhà truyền đạo huấn, mà học cạn hành sơ, bít lụy còn vết, đã được hưởng bẩm thánh giáo, dự nghe hoằng dụ, một lời được mở, muôn thiện đều có, tình hớn hở, không thể thí dụ nói. Đệ tử Vương Quân kính lễ. Thượng Bộ Lang Tôn Ấp đáp. Nhục cáo ban bày sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Cúi vang mừng ngưỡng, vui chẳng tự chi. Sông biển sâu rộng chẳng phải chỗ ếch giếng đến được. Phạ nhiên vào định, há ngoại đạo có thể phá được một sợi lông chẳng động thì các tà lui tan. Thuyền bè đã qua mà bờ kia vượt lên. Thánh Hậu thể chứa hai nghị, đức gồm ba đại. Võ Linh có mà gồm cực, nắm thượng trí để điều dân. Phát hiệu ban lệnh thì gió thổi cỏ rạp, lâm triều tôn mặc mà hóa động như thần, lớn năm Đế để sánh vết, vượt muôn kiếp phương đó trọn, còn lại khua tiếng vàng nơi ngón tay giáng diệu tư để phát mông, lý đã ngưỡng mà hướng về phương sâu, càng dùi mà vượt xa đều châu báu ở vô giá, bằng hoa sen chẳng bụi dơ. Hiếu kính khắp các loại. Huấn phạm tỏa ngời tiên thánh, chi hành suyễn thở đồng biết vui mừng, vút bay xuẩn động, chung luyện an vui này. Ban cáo chưa đến dụng sâu vinh đội, cẩn đảnh nhận thư thân mở hẳn ngu hoặc. Đệ tử Tôn Ấp kính lễ. -Đáp lời Thừa Tiêu Chân Tố ở Đan Dương. Nhục cáo đều cúi thấy sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, tánh cùng thiên đạo gọi là lý bặt. Nhiều kiếp lắm may bèn ban diệu huấn, tiếp chân đảnh nhận, mừng kính chở hoài. Trộm nghó thần đạo vắng lặng, biển pháp khó bờ, vì vậy Trí tích lau vừng mà chẳng lường, thức rõ sắc trần mà còn mê, đâu chỗ dong mạt đó, có thể kích ngưỡng. Nhưng tự mây tuệ đông dần, thuyền báu đến nam, năm tháng lâu dài, pháp âm truyền xa. Vua sáng quan tốt tuy đời năng tôn phục, còn như tự rót nguồn huyền, gần bày diệu cực là trọn chưa nghe. Vì thế hai đế tám giải riêng khuyết hoàng ngôn, chín bộ ba minh, rỗng hoang quốc học. Than ôi, đáng làm than dứt. Trộm tìm khởi của Thần Diệt, thì người ra kinh Lăng-già gọi là vệ thế, tuy nghóa khuất Đề-bà ma tục khác chưa thôi, nên khiến các nghị dị học tập để thành kiến, nếu chẳng bẩm giáo của tiên giác, thật trọn lụy ở đời sau, thánh thượng đạo cứu giúp thiên hạ, có suốt vô phương, hổ nhìn cùng cung rồng đều xem chí đức cùng thật tướng đều dẫn nên năng phù tục giáo mà đế chân đạo đức hiếu hưởng để mở mang giác tánh, chiếu khốn mê đây, nhổ lưới nghi này, tuy là mềm dịu khéo nói của Mâu-ni. Rộng ước khéo dụ của Khổng Khâu, sao dùng dụ này, vời vợi thay mười thiện đã thành kim luân nào xa, Pháp sư bẩm không tuệ trong nhiều đời, Tập học rộng ở kiếp này, bánh xe pháp xong mà tám bộ mây nhóm, vi ngôn phát mà trời người nhiếp nhận. Nên năng tỏa hương giới ở phụng vi, vẽ hoa giác ở thần trắc, đáng tin thay! Năng dùng tiếng Phật đạo, khiến tất cả được nghe. Đệ tử không ghi Thích tạng, chẳng đợi Khổng môn, tuy nguyện chầu nghe, trọn thẹn lận mỏng, ngõ hầu duyên pháp vô tận gồm lợi ta và người, chóng bít giúp tâm đó lo lắng sợ hải kính dốc lực cắt, giải thích, nghiêng đời hỏi bày, vâng theo chí giáo vậy. Đệ Tử Tiêu Châm Tố cúi đầu kính lễ. Trung Thừa Lang Phục Hằng đáp. Bèn duỗi ban này, chỗ Chí tôn đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, cúi vâng ý sâu, chóng dứt các nghi, thiên tình riêng chiếu diệu xem xét cao soi, nên chẳng phải chỗ phàm ngu có thể kính ngưỡng, nhưng thường sư quán kiến cũng trộm ôm khuê cầu. Nay lại bẩm vâng giáo nghóa, xa tìm ý kinh, lắm nhiều khuôn mẫu, tin như phù khế, Pháp sư tuyên dương lý sáng, mở rộng lời thánh, mới khiến hai giáo đồng về, chân tục nhất trí, dự được hưởng gội răn dụ, nung nhiễmchí hóa, vỗ đánh hạ phong thật gồm múa nhảy, đời sánh hỏi xem mới tận khâm thành, đến thưa mừng đeo chẳng biết cắt thuật. Phục Hằng kính trình. Ngũ kinh bác só Gia Sương đáp. Nhục cáo duỗi bày sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, kính ngưỡng trở lại, tụng vị tuần hoàn, nên biết diệu chưa cơ đầu sự cách phàm cạn, thần ngưng buộc bày, nghóa bặt tình thường, hoàng thượng sáng xem thông u, tánh cùng thiên đạo, sở dó cơ thấy anh xa, riêng ngộ vượt sâu, thuật ba thánh để dẫn chưa hiểu, nêu hai việc để tẩy thiên hoặc, nên là ý chỉ của một hệ hiếu càng sáng, tông của nhân quả càng thỏa, thúy điển núi quật tức đây lại rõ, nước rửa Thanh giáo ở đây lại trong, thí như trời trăng, không được vượt qua. Đệ tử tuy ngầm phiền lắm tệ, lầm vâng cách ngôn, nghiên cầu diệu thú, giống như nhảy múa. Pháp sư tuyên dương chí đạo, mở sáng đường lớn, bèn ân ban chưa kịp càng thêm khắc đội. Đệ tử Gia Sướng kính trình. Thái tử Trung Xá Nhân Lưu Hiệp đáp. Nhục cáo vâng xem, chỗ sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, cúi mở tố trát, ngước xem bàn huyền. Văn suốt thiều hạ, nghóa lường quái phồn, đựng gồm kinh điển, lồng chuồng thuật làm, mở mang chánh giáo kia duỗi đến phương giảm. Hy Di vợi vậy khó được mà nghe, châm chước hiền thánh, mổ phá mảy may, gồm thông lối nói trong ngoài, qua khoảng trời người, tự chẳng phải thể chí đức đây, nghó hợp tới thần, đâu thể sâu sáng cốt yếu đạo người biết mang kịp, kính ghi các thần, trọn dùng làm bội, lạnh nơi đã vào chiếu như phát mông, giúp nên tu đến cùng bày giảng lại. Đệ tử Lưu Hiệp cúi đầu kính trình. Ngũ kinh bác só Nghiêm Thực Chi đáp. Nhục cáo, cúi thấy sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Hình thần giẫm thô, hoặc nhỏ ẩn khó ngộ, huống chi thức lý tinh mật, há mê thấy mà hiểu được. Sở dó đoạn thường giao vụ một khác giành chạy. Nếu trung đạo ở lòng thì muốn đi có thể trở lại. Hai bên kẹt ý, bờ kia dài trái. Luận Thần Diệt này chướng thật nhiều, kính nhờ thánh chúa rường cột chí giáo. Minh chiếu viện phát rõ, như vén mây, chẳng phải trực minh phù huấn điển phụ hoằng hiếu nghóa. Bởi diệu đạt sinh nguồn, sâu cùng hành gốc khiến tánh chấp lễ đạp sương mốc mà càng dốc, thức ng- hiên thần, ngưỡng thuyền duyệt mà thêm tâm, đều phải tập đường nhẫn tuệ vụt dòng biển hoặc. Đệ tử sớm nêu cõi lòng chưa biết bến giúp, cúi đọc mừng vui tràn đầy thân thức, bèn ân này còn gắng đội cuộn chỉ sâu! Nghiêm Thực Chi kính trình. Đông Cung Xá Nhân Tào Tư Văn đáp. Nhục đưa đến sắc thư, đệ tử vừa gần cũng thân vâng phụng ý chỉ này, Phạm Trung Thư bèn mê kẹt, như vậy rất đáng buồn. Thánh thượng lo sâu, dân chúng rất lầm hoặc, ban chiếu chiết trung. Ý chỉ này một hành, tuy là thức ngu tối, rõ biết thần chẳng diệt. Đệ tử gần nương đến Chu Khổng lấy làm khó, nay phụ phân biệt nhau, nguyện ân ban một lần soi xét, chiết quỷ kinh đó chẳng tìm, buộc bày chẳng lắm. Đệ tử Tào Tư Văn kính lễ. Bí Thư Thừa Tạ Cử đáp. Nhục cáo ân bày, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, trộm nghe nói rằng: Muôn vật rối ren thì treo các thiên tượng, mọi lời lộn xộn thì chiết ở Thánh lý, rõ ràng từ xưa sự chứa ở thời nay, cúi nhục duệ huấn, duỗi văn nghóa sâu nung đúc xứng tượng, chẳng đến hy vi, ai biết luân u chí cực, tận tánh cùng thần xót thương sáu tệ này, buồn lo bốn chấp này, truất loạn đạo của tiểu ngôn, giúp hành nơi đường lớn, ý chỉ ban mà ẩn, nghóa uyển mà rõ, rộng ước chở rộng, rộng lớn đều khắp, một lời nửa kệ, hiển ngộ bạt này, tuệ nhật chánh nước tràn trần mê này, giúp tông áo có quy giáo tư thưa còn, mối lạ tự dứt, dối thiện biết dứt, ngưng buộc bày nơi đầu dây, dẫn thiền lưu ở biển khổ, há đó ngậm chứa ba tạng, mũi mão bảy tịch mà thôi ư? Đệ tử may gặp đến vận, nghiêng thưa cách dụ, gội tắm hoan kích, vâng dùng thư thân. Tạ Cử bạch. Ty Nông Khanh Mã Nguyên Hòa đáp. Nhục cáo ban bày sắc chỉ duỗi đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Trộm nghe nêu ý chỉ của cơ, chẳng phải chỗ phàm trông, khế của phù thần, chỉ có nhân là cực, nên các giáo bồi hồi đến nơi hưởng thiện, các kinh ủy khúc tận nơi mở giúp. Cúi vâng, chỉ chí tôn trước trời chế vật, thể đạo cắt hóa, lý bặt lời đầu, nghó bao ngoài tượng, kích lấp mối lạ, mở dẫn về một, muôn phải biết tông, người trời kính thức, tin thuyền cầu của biển cả, trời trăng của huyền tiêu, luận về Thần Diệt nên chỗ chưa an, vì sao? Thánh trước bày giáo, ép dẫn chẳng đồng, bao gồm mà nói, lý thật không hai, Dịch nói: Nhà chứa việc thiện sẽ có an vui, nhà chưa việc ác sẽ có ương họa, Hiếu Kinh chép: Sinh thì thân an, tế thì quỷ hương, tuy chưa hiển luận ba đời mà ý đó đã hiển trước, củi hết lửa tắt, Tiểu thừa quyền giáo, diệu phải vắng lặng, rốt ráo thuyết chung nhân tình tức lý, lý thật đáng nương. Vả lại cẩn thận lúc sắp qua đời và vói nhớ đến người chết đã lâu xa, dân đức về hậu lễ, có nước có nhà, nhiều đời do đó. Báu của ba tài chẳng đồng giáng tình, soạn luận Thần Diệt, ngại chính thật nhiều, chẳng phải bậc Thánh là không pháp, chẳng phải hiếu để là không thân, hai là đều trái, khó thực hành ở đời thánh. Đệ tử ngu dốt mù tối đối với chí đạo, lạm được ban hỏi, chỗ y cứ phàm cạn, thật của đội sự, tìm dùng không nơi để. Đệ tử Mã Nguyên Hòa kính lễ. Công Luận Lang Vương Tónh đáp. Trình bày thánh chỉ, đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, cúi nghó chỉ Chí tôn duỗi khoanh cao rộng, dạo tâm muôn xưa, ở không bỏ ngày, đạo thắng chỉ có cơ, chẳng lẽ hỏi han việc quần hạ thực hành hiếu đạo rộng lớn, duệ tảo nguồn huyền, lý mầu sâu cực tự chẳng phải khắc rõ vua của theo bằng, đến ngày chủ của trông mây, đâu có mổ phán ngầm lặng rõ bày Nhã Luận. Mở mang đại thánh trong khoảnh khắc, định tục nghi ở chốc lát, chẳng phải chỉ lý lượng thần trung cũng là nghóa thiết tôi con, hợp hòa bang của uống ân ban, áo xiêm vức của đạo tố, không ai chẳng nghiêng đầu nhân đượm tắm gội đường phong, đệ tử riêng sinh ở Giang Hoài, chẳng học không thuật, tuy là theo thầy xoay mặt về phương Bắc một kinh chẳng rõ. Giả sử nhớ văn cũ đâu đó phản phất, năm kinh rối ren sự loại rộng lớn, ý của thần minh nghóa đó nhiều mối, còn như tiếng vang của vàng đá tơ trúc, thuyết Công Đán đánh Võ, sao chẳng phải thánh chỉ? Vả lại, nghóa tế mà bàn nói rất hiển cứ, nếu luận không thần cũng có thể không thánh. Chấp thuận đó có thánh thì lẽ ra có thần, thần lý rõ ràng đâu cho tịch dứt, chỗ đệ tử thấy ngu cạn, không dùng để tuyên dương chí trạch, đã giẫm phỏng đợi, liền nêu ra điều ấp ủ. Đệ tử Vương Tónh kính lễ Tán Kî Thị Lang Lục Nhậm, Thái tử Trung Xá Lục Thùy đáp. Nhục cáo ân bày, chỗ Chí tôn đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, xưa kia, Dị học tranh đường. Mạnh Tử chống pháp của Chu Công, Tiểu thừa loạn đạo, Long thọ bày giáo của Thích-ca. Từ đó, bọn của Dương Mặc lưỡi le miệng há. Bọn lục sư vết loạn cờ chẳng phải, nói thần diệt là có thể gọi là học hẹp mà chắc. Đường nam cầu yến, xe bắc đầu sở, lấy đến đạo đây ngàn dặm mà xa, thánh thượng xót thương mê lầm đường đó, viện vẽ trời cũ móc sâu đặt xa, tận hóa biết thần, khiến nhân này đều như băng tan ù, bày yếu đạo này đồng trăng chiếu kia. Đệ tử đều vì phạm bạc mới trộm ân kỷ, dây mũ triều Tắc Thiên, hưởng bắt luận của xét cổ. Thật của tán hạnh, riêng thêm hớn hở, bèn ban cáo đợi, kính cẩn dùng thư thân. Lục Nhậm, Lục Thùy kính trình. Lãnh Quân Tử Mã Vương Tăng Thứ đáp. Nhục cáo, ân bày sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Lắm thay lý đó lớn! Đây sao chỗ thấy của tấc ống, nói tánh đó có thể nghe mà tùy loại thản gặp, vui thay được thích vâng đội chu toàn, dùng thứ lớp, dùng tụng. Pháp sư đức xa hiện nay, tiếng nêu muôn xưa, bàn biết mười mỗi hội, giàu của khởi dư hẳn đáp, tưởng xiển hoằng thánh chỉ sang ngời mây tan ư? Đệ tử học thẹn nhóm đom đóm, thức chẳng phải thấy chung, sao năng ngưỡng tán hồng huy, tuyên dương diệu phạm đó ư? Chỉ luận là chấp tình của một hoặc, theo vết vủa một lần qua, hẳn chẳng thể để nói đại phương, sao biết đạt xa sợ hẳn bùn sình ư? Phàm, lý u minh rõ ràng chẳng sai, tướng nhân quả khởi, nghóa không lập riêng hình diệt tự có thể dùng cỏ cây làm lũ, thần minh thường tùy duyên mà có. Sở dó họ Trái có Bành sinh heo, thấy thượng thư thì tổ khảo lại cách. Lễ chép: Như lạc chín biến, người quỷ có thể được lễ. Quả báo của kết cỏ há đó bèn diệt, giấc mộng của nguyên quy đâu được không thần, thần minh chẳng diệt hiển trước nơi miệng vàng, lời Khâu Ni nói càng có lắm chứng cứ. Nếu văn tuy năm ngàn, thi mới ba ngàn, đắc lý đó là tự có thể một lời mà dùng tệ, nên chẳng lại phiền cầu rộng chứng. Ba thánh tuy có minh giáo, trăm nhà thường đặt hoằng lý, mà còn khiến cuồng giản văn vẻ thành chương, kích công lũ làm. Nay, Hoàng Minh thể chiếu u tịch, thức suốt trong ngoài, dùng lâu xa của tiền thánh cảm vọng hứng của mối khác, đượm nhuần viên phát mới duỗi cuộn thâu, khiến xiển đề một khi ngộ liền được quả thông, diêm phù chấp hoặc chợt nhiên tẩy trệ, huống chi các bậc Tấn thân làm ích nhân hoằng đó ư? Đệ tử hưởng đạo không ghi, Pháp sư hứa một trách, bèn năng ban đợi thần tráio, khiến được dự gội thanh phong, vừa mừng hớn hở, không dùng tự thí dụ giấu khắp càng sâu, càng nhiều. Đệ tử Vương Tăng Thứ cúi đầu kính lễ. Ngũ Kinh bác só Minh Sơn Tân đáp. Nhục cáo ân bày sắc chó đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Nguồn sâu thú xa, nai thỏ đâu thể lường được, tùy loài được hiểu, hoặc cũng mỗi chỗ đó thấy, vâng dùng chu toàn chẳng hơn múa nhảy, Pháp sư học trùm một thời, đạo hợp ngàn năm. Thuyết của Khởi Dư gửi tại minh đức, nghó hoằng tuyên diệu chỉ, không còn sót chứa ư? Đệ tử ng- hiệp rụng chuyên kinh, trí chẳng phải thức chung, đâu thể ngưỡng thuật đường sâu, tán dương phong giáo, luận là hạn lấy xem nghe, đâu đạt rộng xa, mắt thấy trăm năm, tâm lầm ba đời, cho rằng hình phách đã mất, thần hồn đều diệt. Đây đã trái thích điển, lại trái khổng giáo, làm sao có thể cùng nói chí đạo bày diệu lý ư? Minh thì có lễ nhạc, u thì có quỷ thần. Vì vậy, Khổng Tuyên duỗi phép để biết chết hỏi đáp, Chu Văn lập giáo dùng nhiều tài thay chung. Thi xưng ba hậu tại trời, Thư nói: Tổ Khảo lai cách, vả lại, Hào thượng anh hoa soạn luận Phương Sinh. Trụ hạ duệ triết xưng quỷ chẳng có thần, làm củi mà lửa, truyền giáo tay mà sinh tạ, đây đều bày đó, chuyển tịch phô bày đó rõ ấy vậy. Vì duyên giả nên có diệt, nghiệp tạo nên vô thường. Vì vậy, năm âm hợp thành, cuối cùng đồng khói hết, bốn vi hư cấu hội đều lửa diệt, cũng nghóa là đạo của thần minh, chẳng phải nghiệp chẳng phải duyên, vì chẳng phải nghiệp chẳng phải duyên nên tuy đổi dời mà chẳng diệt, vì năng duyên năng nghiệp, nên khổ vui khác báo. Đây diệu xướng của năng nhân, chỗ ép của Tấn thân, tuy giáo có khác đường lý về nhất trí. Nay bỏ chánh văn của Chu Khổng, trái chân thuyết của họ Thích, chẳng hay vì đây sắp muốn về đâu! Chánh pháp trụ đời còn có thuyết Đoạn Thường, huống chi tượng pháp đã lưu mà không luận về mới khác, có thần chẳng diệt là ba thánh đồng phong, tuy điển tịch ghi rõ, phần nhiều trải qua thời gian và nơi chốn, thông Nho thạc học đều chưa thể gặp. Hoàng thượng trí khắp có không, chiếu cực nguồn thần, bèn phát thánh trung, thân nhuộn bút thần, hoằng giúp chí giáo mở ngộ lắm mê, khiến các người học bỏ hẳn nghi hoặc, quyến đợi chẳng sót, khiến người được dự phong huấn, gội nhuần đảnh đội, bởi gồm mừng giấu. Minh Sơn Tân kính lễ. - Thông Trực Lang Sơn Kiềm Lũ đáp. Hiếu Kinh chép: Sinh thì thân an, tế thì quỷ hưởng ù. Nhạc Ký chép: Minh thì có Lễ Nhạc, u thì có quỷ thần. Thi nói: Túc ung hòa minh, Tiên tổ nghe đó. Chu Quan Tông Bá Chức nói: Nhạc chín biến người quỷ có thể được mà lễ. Tế Nghóa nói: Vào nhà thở dài sẽ có nghe tiếng than thở Thượng Thư chép: Nếu thế thì ba vua có trách con hay không? Trái Truyện chép: Huyền thần hóa hành hoàng năng, Bá có làm yêu, Bành sinh dám thấy. Bảy điều trên đây, đệ tử sống trăm năm này, sớm nghe ba đời nghiệm lấy các kinh câu các cớ thật. Chứng của thần quỷ đã trải sách trong nước. Quả Bồ-đề lại bày học của Tây thiên. Thánh giáo phù hợp nhau, tánh linh không hết. Đặt lời hoặc khác, đạo đó chỉ một, chỉ vì hóa của bậc Thánh, nhân vật thông cảm, ép dẫn theo gấp, cùng đoạt tùy duyên. Chẳng hội thì không nói, nói thìthành chuyên. Chẳng phải thời chẳng cảm, cảm chỉ cứu vật, mà nghiệp báo so le, đường lấy bỏ nên phân, duyên qua lại nhóm, tình chìm ngộ cùng sai, lờn biết nhỏ đó mờ ý lớn này, kẹt gần nghe thấy chẳng nói u vi. Đây chỗ du phương lấy cười chín muôn. Chỗ xích huyện dùng bao trùm đại thiện nên đó thích nghi. Nếu thường của đây bèn dựng xuyên tạc, giá ách biện, cổ xúy lời ngụy quạt chẳng phải học, đó gọi là mối khác, nên là chỗ hại của Trọng Ni. Hoàng thượng ta kế tiếp ba, năm mà đến muôn cơ, nối dõi bảy trăm để ngự sáu biện, huân cách không xưng, đạo lại thuần túy, đức của kinh trời vó đất, sáng của trời trái trăng phải. Chỗ hoàng vương chưa hiểu, chỗ các thánh chẳng đủ, chỗ ức triệu nên thông, chỗ tương lai sẽ đến, không gì chẳng đến sóng huyền đó mà đạt u trí. Cúi xem thần luận, gồm trùm chân tục. Ba tài chuyển sáng, chín phục đổi tâm, kỳ hành xuẩn động còn biết múa đạp, huống chi ở sinh linh ai chẳng an ủi. Đệ tử thiếu sót chút ít, dưới chỉ tệ hại gọi là lý, đã phù hợp với chí nguyện xưa, thầm rất hớn hở, đến như trăm nhà khôi khôi chỗ thuật rất nhiều, tìm thần linh quỷ hiển nghiệm chẳng phải một. Vả lại, sách Bát-nhã vốn nói về nghóa này, đã chỗ bọn ma bày đặt, tạm không gồm dẫn, tự chẳng phân cách ngôn, ai năng lấy chánh? Lược nói bảy điều, đều theo kinh điển, thí như nhờ Năm nhạc của mảy lông, phụ sáu quân của họ xúc, dám thấm vi trần, chỉ thêm sợ bẩn. Đệ tử Dữu Kiềm Lũ kính lễ. - Thái tử Gia Lệnh Ân Quân đáp. Gần nhục cáo ân bày, chỗ chúa thượng sắc hạ thần xét luận Thần Diệt. Tánh cùng thiên đạo thật chẳng được nghe. Hạng quán hai đế thông cả ba thánh, đều mở rộng chút lời chiết diệu nửa chữ. Hàm linh từ trong Năm lễ, ý chỉ bao trùm ngoài sáu hợp. Thí như kỷ địa của sông biển, giống như sáng rực trời của mặt trời mặt trăng. Cúi đọc thỏa thích hồn cảnh đều vui, vì sao Đệ tử xưa đào luyện huyền hóa cho đến lúc lớn chẳng thiếu, thường sợ thức nghiệp chưa rộng, giữa đường lùi ngã, hoặc lắng yên tỉnh, niệm tâm vùn vụt mà chẳng bạc, hoặc nhã lời bày luận thì bị khuất phục bởi biện thông. Đại đạo rất rộng sâu mà mọi người ưa vượt tắt, đều dùng đây vậy. Nay bèn vâng phụng thần chỉ rõ ràng như phát mông, vừa phục vừa tụng mãi làm thân báu. Vài ngày nay việc công tư lôi kéo, xong trở lại chóng nằm chưa bạch đáp ngay, ngậm cuộn càng sâu. Ân quân kính lễ. Bí Thư Lang Trượng Miện đáp. Tìm ba đời rõ ràng, hai quả phô bày, sao có thể lầm hoặc sáu trần mà chẳng hiểu, mê năm đường mà mất mãi, lấy làm hình mất thần diệt, hài mất thức nát, đây là tà kiến của ngoại đạo, đâu thể khống ngự chánh pháp của Cù-Đàm. Cái gọi là khinh bày một vòng địch bén nhọn rành rành, tạm rong ngựa hèn cùng ngựa giỏi đồng hành, sợ nhiều kiếp có tận lãnh trùng mới đến. Một thân chết hoại lại thọ một thân, tinh thần không gá người súc tuy duyên. Văn nói về Niết-bàn, thụy ứng nói cao. Chúa thượng thánh chiếu sâu tối gương soi đầm xa, thí như hai kỳ tế mà biết chẳng diệt, dụ như vọng làm trái thân, nghóa tùy tám dẫn mà vào sai, nói sánh tánh đạo mà khó nghe, đệ tử lúc nhỏ đạo chơi nước cạn thọ giới quanh quẩn bên sư Đặng, đến Pháp sư Kỳ ở chùa Bạch Mã thường vì giảng nói dường sâu sinh tử, thường bày diệu chỉ của tinh thần, tử đó đến nay quy tâm dứt bặt nghi tưởng này, lại thấy phán này, càng phá bọn ma, chẳng phải chỉ xem ở nay mới kết duyên sau, luống biết quy tín, tối sánh cầu danh, bèn ân ban đượm bày, sâu nương quyến dốc. Đệ tử Trương Miện kính lễ. Ngũ Kinh bác só Lục Liên đáp. Lục Liên kính bạch đợi cáo duỗi bày sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, cúi đọc thiên chỉ chiếu soi trần mông. Đệ tử môn y theo Tam bảo, thuở nhỏ vâng theo đạo huấn, tuy thật quy về chí giáo mà thức tối bến huyền, kính tìm trong ngoài các thánh mở dẫn khác văn. Như lai nói ba thưa để nêu một rốt ráo, nói hai đế để ngộ chỗ dính mắc, tiên vương giải thích năm lễ để thông ái kính, tuyên sáu nhạc để dẫn tánh linh, hoặc hiển ba đời để bày nhân quả, hoặc nói thành cảm để nghiệm ứng thật, đâu thể chóng bày nguồn thần, dứt hẳn duyên thức ư? Nếu vậy thì quả báo thiện ác dối bày, thiết lập tế kính là vọng, tình của cầu, lý đó có thể an ư? Mà hạng người lầm hoặc còn nhiều thiên chấp, vì vậy thánh minh cao soi thần dạo cửa diệu, động lời ra lý rõ như sớm mai, phát văn bày chứng rành như đuốc đêm, chóng đủ bày ngu, tối thỏa tin phàm bỉ. Cúi học chiếu chỉ, xét chung nguồn tâm, kính lại thưa bạch, chẳng tuyên vỗ múa. Đệ tử Lục Liên kính trình. Dương Châu Biệt Giá Trương Phiên đáp. Nhục cáo, cúi thấy sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Thạnh chỉ cùng cơ, vi ngôn hợp đạo, sinh biết ra đầu của sáu nho, tự nhiên gồm ngoài của mười thánh. Còn như khuôn phép cảm quả, lý chiếu ba đời, phép hiếu hưởng nghóa suốt trăm vua diệu hội cùng băng xuân đồng tan, chí thú như trăng thu cùng sáng, đủ khiến điều xiển biến tình, kiệt chích dời chí, trở lại phong bạc mà theo xưa, khua sóng thuần tợ phương sách. Lời hay tốt thật bèn theo chẳng đánh chuông. Pháp sư tài tú tinh ly,ù chiếm cao dưới mặt trời, đều gội nhuần thánh hóa, riêng dạo thần minh soi sâu đạo uẩn, rỗng suốt đường tông, đệ tử xưa nghe sư ngộ ý chỉ của thái nho, nay gặp thời thạnh vâng theo lời dạy chẳng diệt, tin dùng chiếu triết, mong mờ ở tẩy trần, bởi chân giẫm tay vỗ ngôn tượng có thể hơn. Trương Phiên kính lễ. Thái tử Suất Vương Trân Quốc đáp. Nhục cáo, cúi thấy sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Sự chẳng diệt của thần, kinh điển có văn nói rõ, tức tâm nói sự rành rành ở lý, luận Thần có diệt thật chỗ kinh khen. Trời chiếu sâu ngưng, diệu chỉ rộng khắp, bỏ mối khác kia, mở mang nhã phạm này. Tin có thể dùng sáng ngộ đường tối, rường cột ngàn năm, cúi xem kính mừng, trộm sâu không cùng, khiến nên đến bày đợi được hỏi tỏ. Vương Trân Quốc kính trình. Lãnh Quân Tướng Quân Tào Cảnh Tông đáp. Uổng cáo chỗ bày đáp sắc thần diệt, lý khắp muôn xưa, ý chỉ gồm ba đời, sáu đường mê lâu, ngay đây ngộ hẳn, năm đường thường nghi, hiểu như phát mông, tự chẳng phải soi cùng tám giải, chiếu đều mười hiệu, bày không vượt quá tục, đâu được như thế, vâng đeo thư thân, dám trái ăm ngủ. Pháp sư thức vượt có cảnh, học đến vô sinh, thiện của dụ dương sáng như làng đông. Vạch vui khắp cùng dùng quên chỗ bệnh. Tào Cảnh Tông trình đáp. Quan Lộc Huân Nhan Thiện đáp. Bèn uổng minh cáo, ban thuật sắc chỉ, xét thần chẳng diệt để đáp hạ thần. Lý cứ thấy nhiên, trong ngoài gồm diệu. Sở dó tuệ hiện riêng tuyên, thuyền càu hợp khế. Chỗ mắt chẳng thấy, màn chắn làm ngăn, chỗ tai chẳng nghe xa vời bưng bít, chẳng được vì chẳng nghe chẳng thấy thì là không tiếng, không vật. Nay muốn cật hỏi nội giáo phải nương ngoại thư, ngoai thư chẳng khác nội giáo. Nay hiện thư nói: Hồn khí không chỗ nào chẳng có. Kinh Phật lại nói: Mà thần chẳng diệt tức nội ngoại Phù-đồng với việc thần còn, không có lắm nghi. Nghi diệt tức là phù du chẳng biết tối sáng, tuệ hựu chẳng phải Xuân Thu, sao biết sự vónh cửu của đại thung, vô cùng của mặt trăng, chúa thượng thánh minh vượt xưa. Vi diệu thông thần, ý chỉ ba đời có chứng lý hiếu hưởng nay sáng, trời xanh thấy qua ống đã tối mà lại hiểu, muộn tục đắm chân đã mê mà lại ngộ. Đệ tử xưa gieo trồng may gặp dự theo hưởng đạo, gieo tâm Từ thị quy kính thật sâu, chỉ duyên hèn kém lại có thể mong chuyển tảo le mà thôi. Đệ tử Nhan Thiện kính trình. Ngũ Kinh bác só Thẩm Hoằng đáp. Đệ tử Thẳm Hoằng cúi đầu kính lễ, nhục cáo cúi xem, sắc đáp hạ thần xét luận Thần Diệt. Chỉ mấy điều khó hiểu, dùng mờ dễ tối tự chẳng phải ngưng thần xét đây, dò trách sáng đây, đạo đâu thể vén lắm mây nơi có cảm, đâu thể vận riêng thấy ở không sáng. Trộm nghó, chỉ có đại thánh ngự vũ thượng đức biểu vật, duỗi mây pháp để đượm nhuần, mở mặt trời tuê để thêm sáng. Xa sánh bể cả, gần ví giếng cạn, vừa nay vừa xưa ai năng biết ở đây. Còn như kính dụ chim bay bình còn, lửa tắt chữ còn. Lễ chép: Chẳng phải loại chẳng am tường cúng tế mới giáng phước. Vả lại, mộng lan để trao Trịnh Mục, bện cỏ để chống Đỗ Hồi, phàm các trường hợp này chẳng thể đều ghi. Lại năm đường đắp đổi qua lại, sáu độ đồng về, đều là sự hiển nghiệm của thần, u chỉ chẳng diệt, chỉ khích khắc múa chân, đâu theo Hàm Đan sánh vết. Lư Ngao liền đến, sao cùng Nhược Só đều có dấu vết, nay ngưỡng rơi thiên giáo, cúi đợi xiển-đề, cái gọi là như vạch nhiều lớp sương để vin hợp bích, ra đêm tối mà thấy đuốc rồng, ngắn bện viện cấp trông sóng ngắm biển, thật vui mừng cung kính như châu báu vô giá. Thẩm Hoằng cúi đầu kính lễ. Kiến Khương Bình Tư Mã Cảnh đáp. Nhục cáo ân ban sắc cật nạn luận Diệt Tánh. Trộm nghó: Sóng từ vỗ khắp, đạo gồm các linh, trí chiếu ngưng sâu, lý bặt mọi loài. Xưa kia, giải thích bảy thiền tám tuệ, sự nhỏ nhiệm của ba không bốn đế, nên dùng sáng ở tráii tịch rõ nơi thông cáo. Do đó, Ưu-đà nói: Dụ như trăm bài đều âm đồng khen ngợi Diệu giác còn chẳng thể nói một trong muôn phần. Nghiệp sinh thì báo khởi, nhân qua thì quả lại, tuy nghóa mấu nhiệm mà sự thì bày rõ, cũng lý sâu mầu mà chứng hiển hiện, từ gần có thể dùng để biết xa, tìm vết có thể để dò gần, thí như trời trăng treo giữa trời, không nhờ mắt của Ly Châu, khua ở tai chẳng nhọc nghe của Tử Kỳ. Mà bàn nghị là tự mê đường khó hiểu, nếu theo chỗ nghó nhớ, ngồi điên hố hầm, cúi xem lệnh của hoàng thượng, lý diệu lìa nhục, rốt cùng móc sâu, rất vắng lặng mà lại xiển bày mở đường mê để trở lại sáng, tuy là các thánh đều đủ các kinh liền sâu kín. Miệng vàng từ Linh Sơn, lưỡi ngọc tỏa nước thiền, chẳng thể nào bỏ đây để cầu thông, trái đây mà được chánh tín! Tháo sóng vẩn đục của Giang Hán để tẩy rửa, dẫn dức đều lễ trở lại phong tục, pháp tục gồm thông, ở đó là đâu? Nhờ mượn lời bày mới hết thuật tán. Đệ tử Tư Mã Cảnh kính trình. - Trái Thừa Khâu Trọng Phu đáp. Cúi xem sắc chỉ đáp hạ thần xét luận Thần Diệt, thánh chiếu vực sâu, bao gồm chân tục, Lý vượt ngoài hệ thuộc nghóa trùm các nhận biết. Toản phụng thần du, cúi sâu múa nhảy, ân bày còn cuộn. Khâu Trọng Phu kính bạch.  <卷>QUYỂN 11 Hà lệnh thượng chi đáp việc Tống Văn Hoàng Đế khen ngợi Phật giáo. Hai pháp sư Cao và Minh đáp việc lý Giao Châu Miểu cật nạn Phật chẳng thấy hình (và thư của Lý) Tư Đồ Văn Tuyên Vương gửi thư cho Khổng Trung Thừa Tró Khuê giải thích nghi hoặc (và tiên thư) Hằng Công và Tiêu Công trả lời thư của Diêu chúa xúi giục bỏ đạo. (và thư) Tăng Khế, Tăng Thiên, Cưu-Ma đáp lời tâu của Diêu chúa.(và thư) tục. Pháp sư Tuệ Viễn đáp thư Hằng Huyền khuyên bỏ đạo. Thích Tăng Nham trả lời thư của Lưu Thanh Châu khuyên hoàn **** <詞>HÀ LỆNH THƯỢNG CHI ĐÁP VỀ VIỆC TỐNG VĂN HOÀNG ĐẾ KHEN NGỢI PHẬT GIÁO Ngày mồng năm tháng năm niên hiệu Nguyên Gia thứ mười hai, Phải Ty tấu Đan Dương Duẫn Tiêu Mô dâng lời nói Phật hóa trùm khắp nơi trong nước đã trải qua bốn đời, chùa tháp hình tượng hiện có đến hàng ngàn, tiến thì có thể để buộc tâm, lùi đủ để vời khuyên, mà tự khi làm khuynh về đời sau tình kính ngọn nổi, chẳng lấy tinh thành làm chí, lại lấy xa xỉ đua tranh làm trọng, nhà cũ đổ nát chẳng hề tu sửa mà đều tạo dựng mới mẻ khoe chuộng, trải đất bày ở đây gần hết, rừng trúc đồng vẻ không gì chẳng tổn hoại vô cực, trái trung vượt chế, nên thêm xét cắt, chẳng vì đó phòng ngại hạng theo chưa thôi. Xin từ nay về sau, nếu muốn đúc tượng đồng đều đến đài tự nghe, xây dựng chùa tháp, tinh xá đều đến chỗ tại hai ngàn thạch, thông phát gốc ngọn, y sự bày nói ở Bản Châu, đều phải báo chấp thuận, sau mới thi công. Như có đúc đồng tạo chùa nhà, đều phải vâng theo chiếu thư. Luật luận đồng nhà gỗ ngói đều mất, sung vào của quan. tấu như vậy. Bấy giờ, có Sa-môn Tuệ Lâm giả mặc tăng thứ mà hủy pháp, soạn luận Bạch Hắc. Thái Thú Hành Dương là Hà Thừa Thiên cùng Tuệ Lâm so sánh hơn kém, cùng nhau kích dương, soạn luận Đạt Tánh, đều buộc kẹt một phương, chê trách Thích giáo. Vào niêu hiệu Vónh Ga, Thái Thú Nhan Diên Chi, Thái tử Trung Xá Nhân Tông Bính là ngườin tin pháp xét hai luận đều có hơn vạn lời. Tuệ Lâm, v.v… lúc đầu cũng qua lại nhưng chưa đến chỗ triệt để, rồi thôi. Tông Bính do đó soạn luận Phật để nói rộng tông, Đế ngợi khen mà bảo với Hà Thượng Chi rằng: Ta thuở nhỏ chẳng đọc kinh, lại không rãnh rỗi, với nhân quả ba đời chưa được hiểu rõ, mà lại chẳng dám lập dị; vì những bậc tiền đạt cho đến các ông đều là những bậc tài giỏi ở đương thời mà đều kính tin. Phạm Thái, Tạ Linh Vận v.v… từng nói: Văn điển sáu kinh vốn ở cứu tục làm trị, hẳn cầu chân áo tánh linh đâu được chẳng dùng kinh Phật làm chỉ nam ư? Chiết đạt tánh của Nhan Diên Niên, cật nạn Bạch Hắc của Tông Thiếu Văn, nói về Phật vời vợi rất là Danh lý, đều đủ mở giúp ý người. Nếu khiến khách khắp nơi đều thuần hóa đây, thì ta ngồi yên đến thái bình! Lại vì việc gì mà gần đây Tiêu Mô xin chế chưa toàn khiến kinh thông tức đã cùng bày, ủy khanh thêm tổn, hẳn có dùng thử qua, phù dâm không thương tổn giúp đó mới đáng trước lệnh. thượng Chi đáp rằng: Hạng người lo lắng phần nhiều chẳng tin pháp. Vì tôi ngu tệ riêng nắm đối đáp, sợ vì khuyết bạc chuốc dơ đại giáo, nay mới lại đội ân khen phủi, chẳng phải chỗ dám cáng đán, còn các bậc hiền đời trước thì chẳng phụ lòng minh chiếu, từ trung triều đã xa, khó lại biết hết, từ vượt sông trở lại, thì vương đạo Chu Khải là lộng mũ của tể phụ, Vương mông tạ thượng là vũ nghi của nhân luân, Khích Siêu, Vương Thản, Vương cung, Vương Mật, hoặc gọi là tuyệt luân, hoặc xưng là riêng bước, khí tốt tình trinh lại là bên ngoài vật. Quách Văn, Tạ Phu, Đái Quỳ, v.v… đều dùng thanh thức làm mẫu mực cho đời. Vương Nguyên Lâm côn Quý, dùng tài hoa trùm triều, ngoài ra còn như Phạm Uông, Tôn Xước, Trương Huyền, Ân Khải, lược mấy mươi vị, không ai chẳng là bậc tài giỏi của thế thời. Lại, chỗ nêu của Tông Bính thì các Sa-môn v.v… như Bạch Đàm Thúy v.v… là đó. Chỗ cùng tỷđối thì Duy Nguyên Quy, từ Thúy trở lên thì có như Hộ Công, Lan Công, v.v… đều sắp vết Á trong hoàng, hoặc là người chẳng lường, các hàng đạo tục ở đời gần đây so sánh, bàm nói bèn vậy, nếu phải nêu đầy đủ Di Hạ bèn đợi Hán Ngụy. Kỳ tài đức lạ làm sao có thể nói hơn, sao phải không yểu tánh linh, chịu bỏ thiên thuộc, chìm đắm lầm hoặc ở thuyết huyễn vọng, tự vùi lấp nơi hóa của không trừng ư? Bệ hạ, ân suốt ngoài cơ, lự cao ngoài tượng, móc sâu thấu xa, không dung lấy gần, ở đây từ bề tôi, v.v… trở xuống nếu kính cẩn suy lệ đây, thì các bậc thanh tín không thiếu ở thời nay, cái gọi là người có khả năng mở mang đạo, há là lời luống dối ư? Pháp sư Tuệ Viễn có nói: Tự giáo hóa của họ Thích không chỗ nào chẳng thể đến. Đạo nhân từ nguồn giáo, giúp tục cũng là việc cần yếu, thế chủ nếu năng cắt lấy luống dối đó, giúp nghiệm thật đó, cùng chính của hoàng đều hành khắp bốn biển, u hiển hợp lực, cùng đôn đóc lê thứ, đâu thành khương văn cảnh riêng có đáng lạ không? Khiến lúc đầu của Chu Hán lại gồm hóa đây, tố tụng làm hình thanh gấp bội, phải nhanh chóng vậy, trộm nghó rằng: Thuyết này có khế lý mầu. Vì sao? Làng có trăm nhà mà trong đó có mười người giữ năm giới thì mười người thuần cẩn. Ấp có ngàn nhà mà trăm người tu mười điều thiện, thì trăm người hòa hậu. Truyền phong huấn này cho khắp trong nước, biên hộ ngàn muôn, thì người nhân từ trăm vạn. Đây là nêu toàn cụ của giới thiện. Nếu giữ một giới một thiện, đều tính làm số là ép đem mười có vai ba. Thực hành được một điều thiện thì bỏ một điều ác, một điều ác đã bỏ thì dứt một hình phạt, một hình phạt dứt ở một nhà thì vạn hình phạt dứt ở mặt nước, bốn trăm ngục tù, đâu đáng khó bỏ. Nhã tụng đó cùng lý nên nhanh gấp bội, tức ở dưới thềm cái gọi là ngồi yên đến thái bình. Luận Lý thì như thế nêu việc thì bề tôi lại nói, trước sử gọi là Tây Vực, phong tục đều thờ Phật, kinh pháp, nên chúng của nước lớn có hàng muôn, nước nhỏ có hàng trăm, mà chẳng cùng kiêm đều sau của nội thuộc, tập tục rất tệ, còn lắm thuần nhược, ít thực hành đánh giết. Lại, từ Ngũ Hồ loạn hoa trở lại, sinh dân đồ thán, chết chóc ngang trái, oan uồng chẳng kể tính kể số đó. Trong đó nếu được sống lại, đều là nhờ ở Thích giáo, nên Phật-đồ-trừng vào đất Nghiệp, mà thạch hổ giết hại giảm một nửa, tháp báu diêu trì tỏa ánh sáng mà Phù Kiên cưa đứt Mông Tốn, trái lại cắn xé kẻ vô thân, ngổ ngược như lang hổ, mạt tiết cảm ngộ bèn thành người thiện, đạo nhân pháp Dãi sức mạnh bằng muôn người, có loạn sông vị mặt trói chịu chết để đến sư ách, vì đây chẳng phải có người khác kính tin. Thần đạo giúp giáo có khi tự đến, chỗ sấm sét đánh, nắng mưa việc thường, và bày miếu gặp thần, mà thư làm ẩn núp, triều của Kiệt Trụ, chết oan chẳng thể tính kể, mà Chu Tuyên Tấn Cảnh riêng được hình sâu nhận sùng, xem xét số báo ứng đã có chẳng phù hợp, nêu lệ xưa nay, chỉ lại thêm lầm hoặc, mà kinh sử ghi chếp, đó dùng để bày khuyên răn, muôn một ảnh tượng còn nói thâm thiết, đâu như Phật giáo tránh ngôn nghóa thì có thể, đáng tin đến rốt cùng. Khảo sự thật lại không rồi trái lỗi đã vọng. Vả lại, chỗ đại só quán giáng nghiệm gần đều tức bày thân, mọi người ở đời mắt đều trông thấy. Nhà nhà cầu nguyện sự đó tiếp nhau, cho nên làm khuyên răn, cho nên làm thâm thiết, đâu đáng cùng kia đồng ngày mà bàn nói ư? Mà hạng ngu đối cẩu thả bèn hủy báng, bèn chết lớp nhẹ, kẹt tiểu mê đại, giận bặt dưỡng tốt của tăng ni, ghét đỏ tía của tháp tượng, đây như đức của sinh dân mang đội che chở, nhật dụng mà chẳng luận, sử ty khổ nhọc bởi chôn giấu, có thời mà chê mạn, Tuệ Lâm nương trời che cũng thế! Tiêu Mô Khải chế, bề tôi cũng chẳng cho là toàn quấy, chỉ thương khoét đạo tục, rất quan trọng là ở tăng ni không hạnh mà tình mạo khó phân, chưa thể khinh bỏ vàng đồng gỗ đất, tuy tốn phí đây nhiều nhưng hẳn là chỗ phước nghiệp gửi gắm lại khó chóng dứt. Bề tôi sánh nghó làm châm chước tiến lùi khó an, ngày nay kính thờ đức âm, thật dụng rộng lớn. Bấy giờ, Lại Bộ Lang Dương Huyền Bảo đang ngồi, bèn đứng dậy tâu: Ở đây nói lúc che khắp trời người, đâu phải chỗ bề tôi nên dự, trộm nghó sợ vâng phụng chỗ luận thuật của binh mạnh, Tôn Ngô hết kế của thôn tính, gần như không lấy ở đây ư? Đế báo đây không phải công cụ của chiến quốc, vì như khanh nói: Thượng Chi nói lễ ẩn dật thì chiến só biếng lười, quý nhân đức thì binh khí suy, nếu dùng Tôn Ngô làm chí mà ở gặm nuốt thì cũng không lấy đạo của Nghiêu Thuấn, đâu chỉ Thích giáo mà thôi. Đế vui vẻ bảo: Thích môn có khanh cũng như họ Khổng có Quý Lộ, cái gọi là lời xấu ác chẳng để vào tai! <詞>HAI PHÁP SƯ CAO VÀ MINH ĐÁP SỰ LÝ GIAO CHÂU MIỂU CẬT NẠN PHẬT CHẲNG THẤY HÌNH (VÀ THƯ CỦA LÝ) Đạo ở Thanh hư, bốn đại thường lý, mà có pháp môn khéo ra các vực, nếu gọi là xảo năng thì lợi vật độ thoát vô lượng làm giáo, cớ sao chẳng thấy chân hình ở đời, chân không thuyết mà không có thật ư? Nay Chánh tìm cội nguồn ở phương Tây, cúi xin đại Hòa-thượng dũ lòng doãn nạp. Hạ tâm không tiếc thần cáo. Đệ tử là Lý miểu kính lễ. Thích Đạo Cao bạch: Vâng hỏi cho đến vết tích của chí thánh hiển ẩn, lý vị sâu rộng, từ nghóa chiếu tẩy, kính xem trở lại càng cao đức âm, khiến quân tường thành cao sâu, được cửa tự khó, tạm dốc hết ống ngu, võng tượng Huyền Châu. Như lai ứng vật là gồm có ba: Một là thấy thân phóng quang động địa; hai là chánh pháp như Phật tại thế; ba là tượng giáo phản phất, nghi quỹ phảng phất, nghi quỹ ứng kim nhân tình, nhân tình cảm tượng, ai là thấy ư? Nên kinh Tịnh Danh nói: Khéo giải pháp tướng, biết căn chúng sinh. Đến như rảo đầu cuối thành, ba hội Long Hoa, nhân tình cảm thấy, ai làm ẩn ư? Nên kinh Pháp Hoa chép: Lúc ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu, cung của Hoài Khư quẩn bách có thể mong, mà cội nguồn ở phương Tây vì sao chẳng thấy, mà nghi ngờ của đời phần nhiều cho là: Kinh nói chẳng phù hợp, tối cậy tình ít đều vì chẳng thấy sinh kẹt. Ba Hoàng năm đế, ba Đại, nămõ Bá, Cơ Đán, Khổng Khâu, san thi chế lễ, đều nghe sử tịch, ai thấy đó ư? Họ Thích đánh trống pháp ở vườn Nai, Phu Tử tỏa đức âm ở Trâu Lỗ, đều là chỗ mắt tai chẳng đến được, đều tin đó ở thư khế, nếu chẳng tin kia, chẳng hoạn nghi đây, đã năng rõ kia. Sao lại riêng dính mắc đây? Khiến quân thánh nghó sâu xa, soi suốt ba đời, nguyện tìm giáo của thọ lượng chưa tận, gần lấy vết của Định Quang Nho đồng, giữa suy tập của Đại Thông Trí Trắng để giải thích u trệ của mọi người, như vạch đêm dày ở thái dương, bần đạo lời cạn từ vụng, nói chẳng bày tâm, mong vâng ngày của thấy, đáng nơi luận nạn bày đó, kính bạch! Lý Miểu kính lễ, toàn tỉnh Nhã Luận, vị thứ phân riêng từ huống xung mỹ, mừng gặp rất nhiều. Cái gọi là cảm hóa khác thời, tượng chánh khác tục, vin dẫn ngoài để rõ soi trong, nêu văn để xét thật, kính phạm hướng lại, không có gián cách, nhưng lý do được ngộ, là nhờ soi xét. Tối cậy sinh nghi, nghi chẳng phải ngộ gốc, như chỗ thứ khế còn khác đời đồng giải, sau của muôn đời có thể chẳng đợi thánh mà bắt chước. Nếu là vết tiếng đều nhờ ngôn tượng giúp nhau, đại nghóa đã trái, Nho Mặc tranh nhau khởi, há luống chánh tín, chẳng rõ sắp cũng báng nhầm thêm hấn, được không lấy chứng ở thấy ấn ký để tự chắc ư? Đại thánh dùng tuệ vô ngại, dũ lòng từ bất thỉnh, sao là keo lận sáng rành rành, tối khí của bội tìm ư? Dứt các mong ở sau Nê-hoàn, dấy tội cấu ở trước ba hội, sô cẩu rỗng bày, đó năng ngộ ư? Nghi tượng hư thiết, đó năng tin ư? Đến như đế vương cơ Khổng huấn chỉ đương thời, việc ở đời sau còn mà chẳng nói, nên đó ẩn thấy hưng quyền chẳng biện, nay khuôn nghiệp của Như lai cùng suốt ba đời, từ bi đượm khắp, chẳng được dùng thấy ở hạn định, các mê cầu giải chẳng thể dùng diệt tận đến cùng, là vì hóa độ chẳng chỉ ở thiện tịch, Phật sự khắp bày nơi muôn vàn. Hỏi nay gọi là Phật sự, nó ở đâu ư? Nếu như nhã huống chỗ tin ở đây, chỗ nghiệm ở kia, mà thánh chẳng ra đời, Khổng Thích khác đường, tức sự mà bàn nói không gì chẳng mâu thuẫn, điều đó có thể nghiệm nhau không? Chưa thể điểm phế, tạm là ngụ ngôn, mong lại nghiên cứu rõ ràng, châm thấy thanh thích! Thích Đạo Cao bạch: Lại vâng huấn sâu, nghóa hoa ý xa, ba lần đọc, chín phen nghó mới phục rốt sâu. Biết chí lý chẳng phải thường gần năng lường. Vi ngôn áo từ, kẻ thô vụng chẳng thể tham dự. Nay kính cẩn đem thường cạn thô bày chỗ nghó tưởng. Muôn điều thiện làm giáo, đường đó chẳng phải một. Có thiền yên nơi rừng chằm, có tu đức bên cạnh thành, hoặc khom mình búng ngón tay, hoặc ca tụng nói vịnh, đều là chỗ mắt tai cùng rõ làm, cũng vô lượng. Đây là bến của được ngộ, do xưng của mờ xương tối cậy, đâu hẳn được ngộ ở nhân, soi xét đâu hẳn mờ tối nương cậy, đó thì sinh nghi, nghi cũng ngộ gốc, xin nói điều đó. Nghi thì cầu giải, giải thì năng ngộ, ngộ thì vào đạo, chẳng phải gốc thì sao? Tuy Nho Mặc đó giành hưng khởi. Phải quấy của chín dòng, mới là chẳng tắt của lửa đuốc, chẳng phải mặt trời chẳng sáng, sao gấp ở bày hiện mà hối thúc ở đồng về? Nay chẳng đồng cuối tục không chứng, xét dùng nêu thật, cũng chẳng sai nhầm Đại giáo, lận ánh sáng rõ ràng, mà nghi ngờ thế gian là quẩn, vì chẳng thấy hình, bèn mê dài ở mông lớn, hoạnh đắm chìm mà vùi sinh tử, nho xưa đến thời triết thô có thuyết cũ, đường không khác vết, tạm thuật lại mà chẳng sáng tác. Vong thân chí thành nếu có cảm, cảm thì đều thấy, chẳng cảm chẳng thấy. Đó có thấy là vì cáo chẳng thấy. Đó chẳng thấy là hội chẳng tin thấy. Bậc Thánh đâu từng chẳng ở sinh, đâu từng chẳng thấy ư? Nghe pháp âm mà xưng thiện, chó nhồi bông chẳng gọi là rỗng bày, thấy hình tượng mà cúi mình, linh nghi đâu là lập suông, Cơ Khổng cứu đời suy đổ mà chẳng đủ, nào rảnh bày vật để tương lai. Nếu Khâu Đan sinh gặp ở thắt dây thì rõ ba đời mà chẳng thôi, hỏi: Nay Phật sự, nó ở đâu ư? Cúi đầu chắp tay không gì chẳng phải Phật sự, chỉ khiến ngộ sâu mới có khác đường đồng về. Chỗ sớ trước rộng nghi kia đây, tin là chánh, vì người đời chẳng thấy bèn cho là không Phật, nên thủ chẳng thấy, Chu Khổng làm thành tiêu chuẩn. Đây mới là khoanh tay mà theo nhau, đâu gọi là mâu thuẫn ư? Khiến chúng sinh biết không mượn tố khí thiện nhiên, ở chốn đại bảo, vận tư duy về Dónh thoát, lưu lãng vườn nghóa, giẫm bước vườn nhả nạp rỗi thừa thong dong cả ngày, đức âm đã tuyên, không ai chẳng nghiêng tai lắngnghe, bần đạo học nghiệp thô cạn, càng thẹn phân biệt, dâng đáp nhầm lược, sợ bụi trần lắm vẻ, càng thêm sợ lo, đổ mồ hôi đẩm ướt, kính cẩn bạch. Lý Miểu kính lễ! Nhã Luận nói bến được ngo, sao tự nghi được tối cậy có thừa không chấp soi xét, cúi mình tán tụng đều đủ đến đạo, xem so sánh qua lại càng thấy sâu sắc, nhưng cáigọi là tượng pháp trái chánh, cầu ngộ lý thô. Mượn thuyên hội ý không nhờ bày thấy, đây hẳn Cơ Khổng sở dó bày răn. Huy quang sở dó duỗi bày, biểu tắc lấy đó, thế Điển tốt đẹp sao đủ. Phát ra ánh sáng động đất là luống uổng ư? Nếu chánh tin chẳng dừng ở cúi ngước, mà Phật sự đủ khắp ở hình thanh. Sở do đại giác diệu sắc đó, giẫm cầu đó, có thể nền tảng đó đầu tiên, nên biết tin là hẳn Nho Mặc khiến nghi ngờ, người học do không chứng tự hối, lận sáng không lỗi với ba năm, ngầm cảnh đạo đức có lỗi với mười hiệu, há chẳng vậy ư? Lại, cái gọi là Cơ Khổâng cứu giúp đời suy đổ, không rảnh đời sau. Nếu ở buộc dây, ba đời tự rõ, cũng lại chẳng vậy. Chỗ bảy kinh nói nghóa gần cả vị lai, thích điển phô tráii sự chánh duyên báo, nên Dịch nói: Làm điều thiện thì có an vui, làm ác thì có ương họa. Kinh chép: Không ta không tạo tác, không nhận chịu, nghiệp thiện ác cũng chẳng mất. Đây là duyên giáo thường hoản, gồm huấn đã mở mang, đâu gọi là chỗ chuyện ở đây, chỗ thiếu ở kia ư? Luận này tuy tốt đẹp, nên thuyết của tự tuần hoàn. Mong lại quấy mới diễn khác, để rửa sạch dính mắc xưa nay, khiến đường rộng thênh thang, chứa ngại rất thông. Rất mong đại hòa-thượng duỗi nhận tin thật. Đệ tử Lý Miểu kính trình. *** Giải thích pháp rõ ràng, luận lớn ban giáng, kính xem nhiều ngày, thơm như u lan, trong như gió tuệ, bần đạo khí chẳng phải sương dónh, vận chẳng phải bào sinh, động trái khoảng lý, riêng múa nghi sợ. Vì từ vụng ý kẹt, mổ khó sao bày, ngu gọi là nị ám cậy kỳ lạ, soi xét bày thấy, khom mình ca tán cảm động linh biến, đều là bến cầu của đến đạo. Hội tốt của thanh thăng, nên hẳn cậy xét nêu vài điều nghi nghiệm hai hàng, đâu được bãi dứt bày thấy chóng rò rỉ thần thái, bằng khuôn phép Cơ Khổng đồng mẫu mực thế huấn, phát ra ánh sáng động đất luống là nói rỗng. Pháp thân bất động, diệu sắc vắng lặng, nên năng ẩn hiện thuận thời, hành tàng chẳng lường. Hiển thì nương như mà đến, ẩn thì khéo qua mà đi, tức lời cầu ý chỉ sao mắc lỗi với mười hiệu ư? Ngoài ra chỗ ánh sáng đủ ngời ở cuối tục. Tin là đầu vì đóm đuốc thêm nghi, chánh hướng sáng sớm hắc bạch sánh vai. Tháp tượng kinh sách càng đầy khắp thế giới. Người học đâu vì không chứng tự hối, lại dẫn nghóa của bảy kinh gồm cả vị lai, làm thiện thì có an vui, làm ác thì có ương họa, tuy thường sinh diệt giao tay thay rụng, nghiệp thiện ác, chẳng thể chẳng chịu, đây là quá rõ ba đời, càng sáng suốt bảy kinh, nêu bút xét thật thì nghe mạng. Luận trước nói: Đế vương Cơ Khổng Huấn chỉ đương thời, việc đời sau còn mà chẳng luận. Nên có ẩn thấy phế hưng quyền thật chẳng nói, dường như mâu thuẫn nghóa sắp an cậy. Ngay nhân chẳng nhượng, cúi nghe sâu sắc, sớ trước thô thuật, chí thánh nổi chìm, mà nghóa quẩn chưa chiếu, từ huấn chưa hết, kính cẩn lại nghiên cứu rõ ràng cùng mở mang chí đạo. Chúng sinh ngủ lâu dài nơi ba cõi, các thức mãi mê tối ở sáu trần, tiến dời làm chủ của gặm nuốt, nối tiếp làm vòng xoay chuyển, hình sung quán nghịch lữ, thần đang khách của quá nghó. Qua lại ba đường ác khổ sở kinh lìa tám nạn mà chua cay, hoan lạc tạm vui, buồn sợ nhiều kiếp, một thân chết hoại lại thọ một thân, tuy thế trí biện thông, các sách đầy, bụng, trăm nhà liền triết rõ suốt, chín dòng hẳn đạt. Biết sống chết có mạng, giàu sang ở trời, quỷ thần chẳng quan trọng. Thánh triết chẳng thể can dự, chưa khỏi thấy lầm bởi mờ tình, nghi tợ vì can lư,ï cậy nghó ở vu tinh, chí thành đối với phù chú, chấp tà để mong chánh, còn ngụy để đợi chân, chậm xoay ở hai tâm, thùi thụt nơi hai lối. Phóng quang động đất có thể thấy ư? Sở dó huyền tịch lưu bố bày nơm đợi cơ. Cơ động thì cảm, cảm mà sau ứng. Tự có gá chí nhà Huyền, hạ tháo sâu đạt càng rõ, một đời như sương mai, nói chẳng luống dối của ba đời, buông dây nơi thuật thanh chân, kiễm khống ở đường tục ngụy. Gieo đức cày tà mà um tùm, dựng phước rưới chánh mà phù sơ, khổ tiết tranh thời ở tấc bóng. Khiết mình tranh qua nơi tang du, ôm thật bao hướng cảm mà bèn thông, há chẳng thân ngời ánh sáng mà thấy linh biến đó ư? Nếu chỗ tai mắt tự rõ, hoặc chỗ thấy của thông mộng. Như Hán Minh nhân mộng để cảm thánh, đại pháp từ đó mà dạo đến. Đế chúa chân thành mà quy đức, anh hào vén áo mà phục hóa, Sa-môn sánh vai với Vương Công, tăng ni thẳng mình nơi Thiên Tử, trong chín mươi sáu thứ ai là cao ư? Tống Hoàng Đế lúc mới lên ngôi, mộng thấy một đạo nhân ôm bát đến xin, nhân đó bảo rằng: Vua ở đời trước cúng Phật Duy-Vệ một bát cơm, nay được ngôi vị này, bèn sai người hỏi Nghiêm Công xem xét hư thật. Nghiêm Công liền trình lên kinh Thất Phật. Ngô chủ Tôn Quyền lúc đầu nghi Phật không ứng nghiệm, ngay dừng bãi bỏ xét bèn được Xá-lợi, ánh sáng soi chiếu trong cung, vàng sắt chẳng thể đập vỡ, khuôn lò chẳng thể nung đúc. Nay thấy chùa Kiến Sơ ở đế kinh. Ở quận Ngô có tượng Phật đá nổi trên mặt biển, Đạo só, thầy đồng người theo có hàng trăm, phù chương cổ vũ, một chẳng thể động, áo đen năm sáu chiếc, vài ba thù trướng, mõng vậy phụng tiếp bèn cùng dất hơn, tức nay thấy ở chùa phía bắc quận Ngô Thuần thành đến nước, không ai chẳng hữu cảm. Chu Liên nhiều đời thờ Phật, do đó thấy hiệu nghiệm, Trí Quách Văn cử chỉ tôn sùng Tam bảo, chánh tín vững sáng, tay mò hổ nghạch rất biết an nguy, điện Phật của Lan Công nghiêm tuyết với thú dữ, Hộ Công cảm suối khô mà chảy tràn, đều là cao hạnh vượt quần, thanh thần xa tục, đều có vết lạ, đời đều ghi chép, từ đây ra ngoài chẳng thể luận hơn. Bần đạo thuở bé biếng học đến lúc bạc đầu, hẹp hòi ít nghe. Rõ ở mình thật, lời thẳng từ chất phác chưa hẳn có thể lượm nhặt chẳng xứng đáng, cúi tìm thẹn sợ kính cẩn trình bạch. Cứ só Tông Bính ở Kinh Châu soạn luận Minh Phật, xưng Bá Ích thuật núi biển, người của Thân-độc gồm người mà mến người. Quách Phác ghi chú: Thân-độc tức Thiên-trúc, nơi Phù-đồ xuất phát (Phù-đồ tức là Phật đồ, lưu hướng có truyện liệt tiên thuật bảy mươi bốn vị tại kinh Phật nhòm ống của người học là ở đây, lại chẳng phải Hán Minh Đế mà đầu tiên. Đạo nhân Trừng công nhân thánh, ở đời Thạch Lặc, Thạch Hổ, bảo với Thạch Hổ rằng: Trong thành Lâm Truy có chùa A- dư Vương cổ vẫn còn hình tượng thừa lộ bàn, ở rừng sâu dưới cây lớn, sâu dưới đất hơn hai mươi trượng. Thạch Hổ sai sứ y theo Phật-đồ-trừng mà đào bới tìm kiếm, đều như lời nói mà được, chú Vua A-dục tức là vua A-dục, chú của Diêu Lược làm Tấn Vương ở Bồ Phản ở Hà Đông nên già, gọi là nơi chùa của A-Dục Vương thấy có ánh sáng, đục khoét tìm được cốt Phật bên trong hợp đá tráp bạc. Ánh sáng khác thường theo đường nghịch thấy nơi Bá Thượng, Tỳ-kheo nay thấy chùa mới, do đây mà xét, có Phật sự ở đất Tề Tấn đã lâu. Sở dó chẳng nói ở ba truyện là cũng còn ngàn báu, sử của Tộ Thạnh không lời xưng Phật diệu hóa thật rõ, có Tấn mà hưng thạnh ở Giang trái. <詞>VĂN TUYÊN VƯƠNG GỬI THƯ TRUNG THỪA KHỔNG TRÍ KHUÊ GIẢI THÍCH NGHI HOẶC (VÀ TIÊN ĐÁP) Xem thư vua đủ một hai, luôn lo phù ngôn đó ngăn ngại chánh đạo, kích liệt đó thương tổn thuần hòa cũng đã lâu. Mạnh Tử có nói: Quân Vương không ham trí, Quân Vương không có dũng khéo, Trí đó quá sinh nơi họa hoạn, chỗ vâng chánh đáng, nhân nghóa làm gốc, nay nhân tu thích huấn, mới đầu thấy chỗ thực hành này phát thệ nghó thực hành muốn thấp cao đều tốt đẹp, vả lại lấy dụ giải thoát, chẳng được chẳng nhỏ còn mất, lớn đến ngoài hình, tự chẳng đáng nói, giáo chân tục rốt ráo đó chỉ là một. Thủ đó là chưa đạt, nên khởi lên đồng khác một cách ngang trái, vua nói: Chứa nghiệp gá tin bèn là ngôn hành cùng lỗi, đâu có kính thờ thân thích một hủy một kính mà nói là đại hiếu, trước đây chưa nghe. Hành của người có lòng nhân chẳng phải tàn hại thêm tốt đẹp. Tiết tháo liêm khiết chẳng bởi nghèo trận thành đức. Như thế thì ba quy y năm giới cấm há một niệm mà có thể bỏ, mười thiện tám chánh sao mù tưởng mà đáng quý, chưa thấy khinh gốc mà năng trọng ngọn, cái gọi là gốc đã nghiêng thì sau cành lá nghiêng theo, nay nói hai đường lìa khác đâu được cùng thuận. Lời này nên lá thấy bàn nói của đó cạn gần. Vua chẳng thấy chỗ kinh luật nói rõ, vì sao nghiêng chí một phương, vùi lấp đường thông? Phu só chưa hề lìa tục thi huấn, giáo của thế gian có thể dùng biết. Nếu nói pháp không thì thành dối vọng, lại thêm nghi ngờ, nên phải hủy diệt, y cứ tức nhân mà nói: Khuê môn hiếu để là liền làng tiếp xóm có được mấy người. Nay có thể được gì không nhiều kế tiếp các huấn cáo. Kinh sử châm răn đều hãy đốt bỏ, chẳng vua nay đợi nghi nơi nội giáo, cũng lại rất khác với đây ư? Sở dó quy tâm thắng pháp là chẳng vì ở ta nên quên vật. Nay ân cần khắc kỷ là chánh vì hạng của vua các ông. Muốn cùng nhau bỏ kiêu căng, trừ mạn ngạo, tiết tình dục, chế tham cầu, tu phước nhượng tập khiêm cung, phụng nhân nghóa, thuần hiếu để dùng bác thí khóa, dùng phiếm ái rộng, dùng Anh Hiền để thưởng, dùng tuấn dị để nhổ, sao lại thẹn với quỷ thần ư? Chăm chăm răn gắng, rất tại ở đây. Tuy chưa thể vâng phụng, cũng ý chẳng quên, nay chưa có gieo của dạ quang, mà đè kiếm đã khởi, muốn đối nhau bằng đạo đức, sao chẳng lắm thẹn. Phải do chưa thấy tình đây nên thường tin mong tâm, ở lòng thì chẳng như vậy, thường khổ đó chẳng bằng, phủ Tư Đồ vốn năm giáo là khuyên mới cùng dốc hạnh đẹp đây để dẫn không tham muốn, khiến dối vọng, xiểm nịnh mong ngóng cửa mà tự mới, phù ngụy mông lung giẫm sân mà biết vết, đồng quán của tức tâm kia, bằng đài của không tham muốn này, cũng chẳng tốt lành ư? Một thì ngưỡng thuận thần cực từ của khắp trời. Hai là kính phụng thiện của Chử hoàng duỗi ái. Sớm tối kính sợ là chánh lo hoạn tâm này không Toại. Lời của lo lắng khéo tự nhiều mối. Đó nói: Nguyện điều thiện nên nói chưa biết trọng của thương hóa, thảng khiến dối sự để trung hiếu, nịnh vui để nhân nghóa. Hư bày để lễ nhường, giả cong để vuông thẳng, mới đến một ngày, khắc kỷ thiên hạ quy nhân, huống chi năng tuần sóc có thừa, chỗ mong quá vậy, vốn tự chỗ mở tâm nhận chánh, như thế nắn chẳng nhiều, như đó đây phiền chưa rộng, nên bỉ mộng rất bùi ngùi. Vua chính nên hiện can ngăn trái đó, mở phát chưa đạt, vì sao nói thương tổn hiếu vốn nói tổn hại nền tráing nghóa, ở ấp có nghó nhớ chẳng phải điều mong mỏi. Nếu việc này có thể bỏ thì mừng nghe các điều thiện khác. Lại nói: Chưa hẳn khuyên người trì giới, phải khiến khéo do dưới phát, phải như thế mà hoằng giáo là buông giúp phải bốn hung đổi, mà khải thánh ngu thuấn đợi thương quân hiền mà đức sáng, như thế mà tốt đẹp, điều đó có thể mong ư? Ý này của vua thì nên rộng có chỗ chiết, bèn đáng nói Nghiêu dùng kiệm của thềm đất, mừng sự rực rỡ của Ly cung, biếm Võ dùng xấu của cỏ tranh, tôn sùng chỗ quý của A Phòng, thẹn chánh dung của cấp ảm, vinh nhan sắc của Chúc-đà, ngoài ra tiết nghóa trinh tín, đức của khiêm cung đều phải đổi đường mà trái mặt. Lại sao hành đó có thể tu? Hễ nghe ở lời, thì xét hành đó, nhìn ở hành thì cầu ở lý, nếu lý chẳng trái mà hành chẳng vượt là: Xin không tạo ở mối khác, vả lại khác đường đồng về, chưa hẳn quẩn bách một quán. Khoảnh cũng có nhiều với vua, ý này đồng nghóa là nay gửi lời giấy này tình chẳng chuyên nhất là để tâm ở nghi vọng, vua nước khắp tuyên bày đó lược nói nghó nhớ, không thấy phảng phất vết bút dễ phiền, trọn chẳng tận ý, vừa thấy vua riêng lại giáo phó cả thảy. Phàm dùng chẳng đồng của tâm người còn như dáng mạo đó, há cho phép một mà đồng trí đó ư? Soi sâm của có đợi đủ thấy trái lỗi của tình linh. Một được chí đó chẳng phải chỗ tận của nói bàn, một trái đường là đâu chỗ trái của du thuyết, thấy vua tuy là nói mặt mà gửi hết cũng không bằng chỗ này, vì cái thấy của mình và người đã khác, mong có thể đều giữ phương sai đó, chẳng phải không chấp phải quấy, khởi lên báng nghị một cách ngang trái, gá tâm vào tin là trước nhờ đều có chí này. Nay dùng bắt chước thiện đó làm vui, nên bỏ kiêu lăng để đợi vật, nếu vua dùng đắc vượt qua hiền thánh hơn tu ở trước, trí vượt các loại, địa vị cùng cực người quý là tự có thể tiêu dao ở ngoài thế gian, dùng đạo giáo hóa vật, cao chuộng nghó nhớ, không cầu tự đủ mà lùi phỏng trước, bởi sợ chưa thể huyền bặt không, nắm giữ hai đường, riêng khác thắng pháp, nếu lo lắng cùng mong vốn chẳng bằng nói, ý tại chẳng bạc vì là bày mong nhớ, gần mặt riêng một hai, gần tạm có giải thích nghị trệ này hai quyển, tưởng ở ngoài đã đáng thấy có, nay đưa đến cùng bày. Nếu đã xem là giao trả lại, mong không nhọc hình mắt, giả như chưa xem là vì có thể một trải ý, vốn chẳng mong người khác đổi chánh là tự giải thích nghi trệ. Vua thấy đó sẽ vỗ tay! Tiêu Tử Lương kính sớ. Thư và đáp của Khổng Tró Khuê. Tró Khuê Khải: Dân sớm thờ phụng Minh công, nhân của nâng phủi, rất đượm đại từ, huấn của hoằng dẫn, chỗ ân giúp xua tánh mạng đều hết, dám thấm gan tủy, xin chiếu thần khâm. Dân nhiều đời gia ng- hiệp nương thờ Lý Lão. Lấy xung tónh tâm, dùng biểu thối thành hạnh, vết đạp vực thẳm của muôn điều thiện, thần mong nhà chí thuận. Dân ngưỡng vin khuôn phép trước tự dứt bụi thu mà chỗ tông tâm hướng về, còn chưa dám rơi đến nơi minh giáo của đấng Đại Giác, nguồn chánh Bát-nhã, dân bình sinh chỗ kính sùng lúc đầu chẳng chống trái. Thường suy tôn chí lý, chí lý thì về một, đặt đó ở cực tông, cực tông chẳng dung hai, tức ngưỡng bẩm huấn của Minh công, nương tiếp phong của Minh công, dùng chánh thừa đắt dẫn, dùng thông giới dẫm. Khiến dân sáu dính mắc chóng dứt, năm tình vừa ló dạng, xoay tâm đảnh lễ chắp tay nguyện trì. Dân đều cung kính quy y sớm tự tịnh tín, trọng luật khinh điều vốn đã hợp một nửa. Sở dó chưa biến y bát cuộn hoàng lão là, thật vì môn nghiệp có gốc, chẳng nỡ một ngày chóng bỏ, tâm thế gian có nguồn, chẳng muốn trọn chầu hối theo. Đã vì hai đạo đồng một gốc, chẳng dám tiếc hồi hướng thật, nên nói xưng nghiệp thẳng trước chẳng nhẫn bỏ chí nhà. Há chẳng nghó vui mới rộng chăm chí nhất thừa, huống là ngưỡng nhờ Minh công đều lễ đạo đức thêm phải thờ tụng. Minh công thanh tín, chí chế tịnh trú ông rõ, muôn nhà sáng sâu, ức phẩm tuyên huyền. Nói tuy nguyện trái, tâm chẳng tỉnh say. Lại chưa lường diệu của minh công khéo dụ, một đến như thế, rộng theo lăng xăng, tinh huy chiếu sáng ra, muốn bãi bỏ còn chẳng được, muốn trái sao dùng khỏi hướng, mà xưa mà trước dân cố chẳng rõ, mà nay mà sau đây nói xin sự, ngu tâm của dân chánh chấp khuôn nhà, tình ở Thích lão chẳng dám khác đồng, mới đầu hòa đuổi tìm, nhà dân xưa từng rõ nghóa kinh của một đồng, dùng đây răn dạy Trương Dung, Trương Dung bèn soạn luận Thông Nguyên. Nó tên Thiếu tử, điều Thiếu tử rõ, hội đồng đạo Phật dung đó, ngộ này ra khỏi nhà dân. Nhà dân đã vậy, dân lại nào ngại, mới đầu là chầm chậm chấp vết, nay tạm dùng tâm gồm kính, một chẳng không bỏ Hoàng Lão, một thì quy y Chánh giác, chẳng mong một mai chợt nhiên đại ngộ, chỗ ngộ dẫn nêu từ Minh công, chẳng hơn chí hớn hở, kính cẩn khải tấu. Lại, sự dùng tấu rõ, lại trộm nghiền ngẫm đạo đó khác Phật, chỉ tại luận cực chưa tận. Đạo đó luận cực, cực ở chư thiên, Phật là kém đây, chẳng ra khỏi ba cõi. Đó thì tinh thô xa gần thật có thẹn với đại phương. Nhưng tìm Đạo gia, giáo đây chỉ bày cơ quyền, đó như ngoại điển Trọng Ni rất chỉ thiên địa che khởi chỗ trăm họ thấy hai nghi mà thôi. Giáo vốn do tâm, chấp hội muôn vật, dùng chỗ thấy đó thuận mà vâng theo. Phải chốn vâng đó đều cùng diệu vật, nên thác thược của Khổng Tử, Vô ngã của Duy-ma hợp đức trời đất, Dịch gia có thái cực, cho nên nhân sùng trời của vật bèn tôn sùng đó, dùng cực diệu mà chí cực, trọn có đất sâu chắc liên can đến ngoài trời. Lão Tử cũng nói: Có vật hổn thành trước trời đất sinh, đã là đạo ở ngoài trời, hơi chẳng dùng trời làm đạo, nào khác nhà Phật La-hán cũng chí cực bốn quả mới đến, Thắng-man tự biết chốn phải dư, sùng thiên cực của đạo như Phật có quả La-hán, Phật chẳng hề dừng nơi La-hán. Đạo cũng chưa dứt ở trời. Giúp chỗ đạo của tin đạo nhất định chung nguồn với Phật đạo. Chỗ quy của tâm dân nay tạm quy một hướng của Minh công, đạo gia giới thiện, nên đồng với nhà. Hai xứ đồng, dân chẳng cẩu thả bỏ đạo pháp, chỗ khác của đạo tạm uyển tạm vào công Đại thừa, xin ở ngày nay chẳng dám là địa vị khác đồng, chí của phục ứng, kính cẩn khải dưới thật, cúi xin nhặt chưa hối tiếc đó, tin thật địa vị lúc đầu, lui tự hối tiếc mới đầu tự cung tự sợ, kính cẩn khải trình. Lại, ngày hai mươi chín tháng mười một, Châu Dân Ngự Sử Trung thừa Khổng Tró Khuê Khải được bày đủ nghó nhớ rất đỗi vui mừng, lý vốn không hai, lấy bỏ nhiều đường tranh luận, v.v… chỗ thường xót xa. Chỉ ở lúc đầu thông đạo thì nên vậy, học mà người học chưa thể, vua chỉ rộng tìm các kinh, chẳng lo loạn dính mắc vết đó, sánh mặt riêng một hai. Tiêu Công đáp rằng: Ông thư này rất hay, nên rộng bày cho những người chưa thấu đạt! <詞>PHÁP SƯ ĐẠO HẰNG VÀ ĐẠO TIÊU ĐÁP THƯ CỦA NGỤY TẦN CHÚA DIÊU LƯỢC KHUYÊN BỎ ĐẠO (VÀ THƯ CỦA DIÊU CHÚA) Diêu chúa gửi thư cho Hằng Công và Tiêu Công. Các khanh vui đạo thể nhàn phục ứng pháp môn, tháo nghóa của Hạo Nhiên thật đáng vui mừng, chỉ trẫm đến bốn biển trị hẳn phải tài, mới muốn vời lại đầy đủ theo nơi núi rừng, tìm dính mắc ở đồ tứ. Huống chi các khanh chu toàn, chỗ trẫm trước biết, đều là khả năng lúc nắm cán mà ngầm chốn riêng thiện, đây đâu phải chỗ chí tình cầu hiền của trẫm, các khanh gồm hoằng thú sâu ư? Người xưa có nói: Nước có ngựa giỏi mà chẳng cưỡi, mới bàng hoàng mà lại cầu tìm, chính là nghóa này. Nay ban sắc thượng thư lệnh hiển nhóm họp các khanh, tâm phước của Nhị thừa do khanh, dung thất của thanh danh ngầm heo thời lợi ích cho đời, há chẳng lớn sao? Giả sử tâm còn đạo vị, sao hệ thuộc hắc bạch, mong rõ lòng này, chẳng thể dùng giữ tiết làm từ! Thích Đạo Hằng và Đạo Tiêu đáp thư của Tần chúa. Vâng phụng sắc chiếu đi từ ngày hai mười tám tháng trước. Thượng thư ra lệnh nhóm họp Đạo Hằng, Đạo Tiêu, v.v… chúng tôi pháp phục vâng mạng lo sợ, năm tình mất giữ, cúi ngưỡng thẹn sợ, không chốn tự để, Đạo Hằng v.v… chúng tôi thật tài chất tối ngắn, nhiễm pháp chưa lâu, chỗ còn đã nặng, cuộn cuốn cũng sâu, bèn được ưu chiếu khen sắc quá hay, mờ dụ khuyên lời lý đầy đủ đến cùng. Chỉ chỗ của tình sao thật ôm ấp không thôi, dưới của pháp phục, thề dốc thân mạng. Gồm thiếu tập Phật pháp, chưa nhàn thế sự, huống chi phát việc của chẳng thường, không hề có công khác lạ. Tuy có tên của nhổ năng, mà không có dụng của ích thời, chưa thấy bổ của mảy lông, gồm có tổn của núi non. Trộm nghó vì bệ hạ chẳng lấy. Quang Võ còn buộng tâm của Nghiêm Lăng, Ngụy Văn toàn tháo của Quản Minh, thiết nghó cao của Chí tôn, bèn nêu chí của thất phu. Tại giúp các phương không gì chẳng tự hết, huống chi bệ hạ dùng đạo ngự vật, gồm mở mang Tam bảo, khiến các hàng Nghóa học khắp bốn phương đông đúc nơi kinh đô, kinh điển mới lạ lưu tỏa xa vời, hưng long đại pháp ở đây rất thạnh, mới mở mang hoằng hóa, giúp cho thêm sóng, nối tiếp di hưởng của Ký-hoàn, thổi phong thừa Linh Thứu, dựng khuôn phép của ngàn năm, làm bến đường của hậu sinh, mà thường bằng đều đâu thể riêng khuất đối với minh thời, chẳng được bày chí nguyện đó, cúi mong soi tinh nguyên nguyên, đặc biệt duỗi lý của mênh mông thông vật, lại ban minh chiếu, nghe bèn vi tâm, thì ngậm ân chín suối, cảm đức nhiều kiếp, chẳng hơn nối lo sợ, kính cẩn tấu trình để rõ. - Diêu Lược ban chiếu đến Hằng Công Tiêu Công. Xét điều tấu đủ ý, nay sở dó khuất phục nhau là, chỗ thời phải vậy, chẳng là cùng suy bản tâm để kịp nơi đây, phiền ân cần rộng tự liệu lý, tình thú của ta, tưởng các khanh dùng ở tố của thể, chẳng cầu phiền nói, bèn có thể vâng thừa thời mạng, gắng tiếp vết của Bồ-tát. - Thích Đạo Hằng và Đạo Tiêu lại đáp Tần chúa. Đạo hằng, v.v… chúng tôi gần đây tự bày ghi, mong ngộ thánh xem xét, lại vâng phụng minh chiếu, chẳng mong khen thứ, cúi đọc lo sợ, như không thần giữ, bệ hạ nhân hoằng chở che, khiến vật vui tánh đó, Đạo hằng, v. v… chúng tôi thuở nhỏ ít tập học pháp hóa, chỗ ngu tình ưa thích thề đem mạng bé nhỏ cùng pháp phục đều hết, mà quá ân duỗi và cuộn quên, bỉ lậu đó, khuyên mở mang đạo Bồ-tát gồm giúp nhưng chí lực có hạn, thật chẳng kham nổi, chẳng luống tuổi thừa, cẩu thả tự cầu khỏi, thẳng qua chỗ nghỉ còn riêng nghỉ hẳn giữ, cúi mong xét thứ, thật của một đi, chẳng trách lỗi của thiên chấp, đặc biệt ban ân chỉ, nghe toại vi tâm, từng kéo minh chiếu theo dùng sợ nghỉ chẳng thắng chí của nguyên nguyên, kính cẩn lại tấu trình để rõ! Diêu Lược lại ban chiếu đến Hằng Công và Tiêu Công. Được trình tấu lại, một hai đầy đủ. Tình sự đủ như chiếu trước, chỉ phải mở ý để theo thời mạng, không lại phiền với trịnh trọng! Thích Đạo Hằng và Đạo Tiêu lại đáp Tần chúa. Đạo Hằng, v.v… chúng tôi chỗ ngu ý chấp, đủ như Văn Biểu trước, tinh thành nhỏ mỏng, chẳng thể cảm ngộ tâm thánh. Phiền được chiếu ban đến, chưa được từ thứ, cúi ngưỡng lo sợ, không còn tâm tình, bệ hạ đạo ôm rỗng nạp, dưỡng vật không ngằn, nguyện mở ân trời đất, được toại chí của một phần, thành thật của ngu giữ dốc mạng không tội, phân nhận lỗi trái chiếu, cam dẫn không giới hạn, luôn ngàn thánh nghe, đuổi tìm dùng sợ dứt, chẳng nhậm tình võng cực, kính cẩn tấu trình để tỏ rõ. <詞>PHÁP SƯ TĂNG KHẾ TĂNG THIÊN, CƯU MA KỲ BÀ ĐÁP THƯ CỦA DIÊU CHÚA ĐÌNH CHỈ HẰNG TIÊU TẤU TRÌNH Riêng có dùng mấy tuần, toàn có tư tưởng, tạm ấm so sánh tự thế nào, Tiểu Lỗ xa nêu lại không xử phân, chánh có rối ruột, sự lớn lao của muôn viec, phải tài để lý đó, gần đây chiếu cho Đạo Hằng, v.v… khiến cởi phục của La-hán, tìm vết của Bồ-tát, tưởng đang lạc hoàn. Đạo không đâu chẳng có, Pháp sư có thể khuyên tiến đó, dù cho phế tâm tìm đạo, cũng đâu hẳn phải vậy, đặt để ý Tăng Thiên thượng nhân riêng làm sao giống, chẳng xét Tăng khế thống lại thế nào, lắm việc chẳng thể một hai làm thư, Đạo Hằng, v.v… cũng đâu phiền, các thượng nhân khuyên đó khiến tu hạnh Bồ-tát. - Diêu chúa gửi thư cho Tăng Thiên, v.v… Xét điều sớ dẫn, một vài đủ đó, trẫm lấy làm tốt lành của Độc thiện, chẳng như công của gồm giúp, tiết của tự giữ, chưa như lớn của cứu vật, tuy Tử Lăng Long bay liệng ở Quang Võ, Quân Bình hỏi bến nơi Thục Tứ, Chu Đán từ lộc ở Hán triều, Đỗ Vi xưng điếc ở Gia Cát, đây đều là những bậc riêng chuộng rõ ràng. Đâu đủ để mở yếu lãnh của nói nín, đường của cao thắng ư? Nay chín có chưa đến, dân đen đắng cay. Trẫm vì kém đức riêng phải chịu tệ đó. Nghó được các bậc anh tài cùng mở mang chí trị, Pháp sư, v.v… tuy ngầm tâm pháp môn, cũng tỳ thế tuyên giáo, dù chẳng thể dẫn vật hóa thời, khuyên người làm trị, mà xa tốt lành lìa đời như Hứa Do, gần cao tan tóc với tạ phu, như chín song ngang dòng, người đều làm cá, Pháp sư, v.v… tuy tỳ thế tuyên giáo, cũng đâu thi vi ư? Mà Đạo Hằng, v.v… phục ứng pháp huấn là lâu ngày. Nhưng tài dụng đó đủ thành chuyên, nên muốn uổng đoạt chí đó để giúp mờ chính, nếu phước báo có nêu, Phật chẳng nói suông. Công của cứu đời bệnh gấp, huân của tế thế yên trị, sợ phước ở đây mà chẳng ở kia, có thể cùng răn dụ, chỗ mong của thời phó. - Tăng Khế, Tăng Thiên, Pháp Phục, Pháp Chi, Cưu-ma-kỳ-bà v.v… tấu cầu chấm dứt việc bãi đạo của Đạo Hằng, Đạo tiêu. Kính nghe: Thái thượng dùng đạo dưỡng dân, mà vật tự thứ lớp có đức mà thiên hạ trị. Vì vậy, minh vương thời xưa xét khó ngự của trái tánh, ngộ dễ nhân của nhậm vật, nên Nghiêu thả Hứa Do ở Ky Sơn. Lăng nhưỡng buông trượng ở nước Ngụy, Cao tổ buông Tử Hạo ở Chung Nam, Thúc Độ từ Bồ Luân vào đời Hán nước Tấn, Tái Đạt trùm áo ở huyện Diệm. Tạ Phu trải tóc ở Nhã Da. Bởi dùng tánh vừa hiền mà được hiền, nên trên có minh quân, dưới có Thúy Đái, phong của vượt dân duỗi răn ở nay. Nay Đạo Tiêu, Đạo Hằng, v.v… đức chẳng phải viên đạt, phân ở giữ tiết, vả lại thiếu thời học tập huyền hóa, phục ứng Phật đạo, thành thật của một đi, hẳn chí chẳng phải tịch, đến như phô diển diệu điển nghiên cứu u vi, đủ để mở ngộ trẻ con, công đức giúp hóa, khiến vật nhận biết tội phước, thì có lợi ích cứu khổ, nếu Phật chẳng nói rỗng, Đạo Tiêu, v.v… có mở mang lời dạy ở Tỳ-da. Trộm nghó ngày gần đây bèn được ưu chiếu, khiến thích pháp phục sắp dắt Thúy Kiều ở trên hàn điều, tỏa phù cừ ở dưới trùng băng, đây thật bệ hạ nhân ái vui vẻ rộng ân của chẳng đời, nhưng Tăng Khế, v.v… chúng tôi trộm có ngu tâm, vì bệ hạ dất lưới của đạo đức để bủa sáu hợp, khôi phục lưới chín đức để trùm bốn biển, khiến gió huyền thổi trước ngàn năm, nhân nghóa luyện sau của muôn đời, bên ngoài vũ trụ cảm thuần đức vì hóa rộng. Bên trong chín vực, bày bến huyền để tiêu dao, thất phu không có oán hang ngòi, Ly phụ không thán của Đình Vó. Đây thật sở dó duỗi hóa hải nội, sở dó ngưỡng nhờ, người ngu cho rằng Đạo Hằng, Đạo Tiêu tuy khư khư một giới giữ sở kiến làm tiểu dị, nhưng nên ở trong giềng lưới, tức là một trong đạo hóa của bệ hạ. Bề tôi xưa có giúp trị mười hai năm, chưa nghe cởi đoạt pháp y hình phục đời bàn nghị. Nếu ở đời có bổ ích thì trong ca sa cũng có hoằng ích, đâu đáng lại đoạt đạo và tục trái với tánh thích hợp. Xưa kia, Sào Do chống tiết, Nghiêu Hứa đều cao, bốn hạo chẳng giáng, trên dưới đồng tốt đẹp. Đây mới là một đạo của xưa nay, đồng phong của trăm đời. Vả lại đức chẳng phải Quân Trọng, chẳng đủ hoa hiên đường phụ, trí chẳng phải Khổng Minh, đâu đủ ba lượt trông lại Thảo Lư, xin bệ hạ thả ân đã qua, theo chí nhỏ đó khiến trên chẳng quá ân ban, dưới chẳng mất phần, thì hóa của Hoàng Đường do đây mà có, khách của Ky Dónh lại thấy ở ngày nay, Tăng Khế ,v.v… thường gần dân ngu, nói thẳng sợ xúc phạm thiên oai, tìm dùng sợ dứt, Tăng Khế ,v.v… kính tấu. <詞>PHÁP SƯ TUỆ VIỄN Ở LÔ SƠN ĐÁP THƯ CỦA HOÀN HUYỀN KHUYÊN BÃI ĐẠO (VÀ THƯ CỦA HOÀN HUYỀN) - Thư của Hoàn Huyền. Chí đạo dài xa, lý Phật sâu nhiệm, đâu là chỗ hạng thường lo lắng có thể tập cầu, Sa-môn dứt bỏ tình của sáu thân, hủy bỏ hình hài, miệng dứt vị đượm, áo hạt mang đeo, gá rừng gối đá, trọn trái việc đời, trong trăm đời ngõ hầu hoặc một khoảng của phảng phất. Đạo só đời nay, tuy ngoài hủy nghi dung, tâm hơn người tục chỗ bàn nói ở giữa đạo tục, có thể gọi là học bước Hàm Đan, lăn lóc mà về, các bậc tiên thánh có nói: Không biết sinh làm sao biết chết, mà khiến trong một đời khốn khổ hình thần, mới cầu suối vàng xuống phước, đều là nhìn qua ống chưa thể nhận đại hóa, mê mà biết trở lại, cách đạo chẳng xa, có thể chẳng ba lượt tư duy, vận chẳng ở người, chợt bỗng sắp chết, có thể còn đuổi tìm ư? Tạm ban tặng chí ngôn, mong có thể nạp nhận! - Pháp sư Tuệ Viễn đáp. Đại đạo cao xa, lý đó sâu mầu, ngậm cao chỉ đây thật Như lai bàn nói, nhưng bần đạo xuất gia thật là khách của phương ngoài, tuy chưa giẫm đức của hiền xưa, lấy chí của một đi, dứt bỏ tô điểm, trang sức, bỏ danh cầu thật, nếu khiến u inh có uổng, nên phải chẳng tạ người tục, bên ngoài dường như bất tận, bên trong như cắt vàng, có thể gọi là thấy hình chẳng kịp đạo. Buồn thay! Buồn thay! Kẹt đòi gối đá, đẹp mà chẳng thật, người nhìn qua ống chẳng đủ đẹp. Tuy là dưỡng tố núi rừng, nào khác cây gỗ? Phàm đạo tại tấc vuông, mượn luyện hình làm chân, biện hòa kêu thương ở Kinh Sơn, vì lo hoạn người chẳng khác. Xưa nghe danh, nay thấy người, nên Trang Chu buồn thương, nhân sinh giữa khoảng đất trời, như qua lỗ hổng của chó trắng, lấy đây mà tìm ai được dừng lâu? Đâu thể chẳng vì làm khách tương lai. Nói học bước Hàm Đan: Mới thì không công mất bản của công, nên khiến người Hàm lăn lóc mà về, trong trăm đời có một lần này, đâu hỗn đồng để thông đó, bần đạo đã trái việc đời, hình tạm ở lưu tục, muốn ở trong đó, giáo hóa người chưa giáo hóa, tuy là tắm gội cứ ngạo v.v… sao nghi kết vậy? Sự vinh hoa trong một đời nhanh như điện chớp, tụ thì đến lìa, đâu đáng tham ư? Hạng người thấy cạn mê hoặc, có thể gọi là Hạ só, nghe đạo lớn mà cười, thật đáng gọi là mê mà chẳng trở lại, bần đạo hình chẳng vượt ngoài con người, tài chẳng ứng thế, cho nên hủy chất bỉ lậu đó, đắp mặc pháp phục cắt rọc, lý chưa thể tâm ngầm huyền hóa, xa còn chế của đại Thánh, đâu bỏ bản hoài đó mà đáp cao huấn, bần đạo tuổi và thời suy đồi, chỗ hoạn nạn chưa lành, mới lại co duỗi quan ủy, cảm mừng giáo đến. Đàn Việt tín tâm sâu xa đáng chỗ đại pháp cậy gửi, đâu có một thương hủy gốc đó, e chẳng phải ngôn từ của ba tuần thử nhiễu, vụng ít nghe mới đáp cao mạng, bởi là ôm ấp của chẳng nghịch! <詞>PHÁP SƯ TĂNG NHAM TỪ THƯ CỦA THỨ SỬ LÀ THANH CHÂU LƯU THIỆN MINH NÊU TÚ TÀI (VÀ ĐÁP CỦA LƯU THIỆN MINH Bần đạo xuất gia từ nhỏ, sớm trái việc đời, tâm thích da phong, chỉ trái Khổng giáo, tuy là đạo tràng chưa tức cũ, cũng thù huấn dài xa, mới sắp bỏ thân cho thú đói, ngõ hầu vượt công phu trong chín kiếp, rạch da mớm chim, tình còn ngự của cưỡi mây, sao có thể duỗi phụ trong ruộng trái vết chậu lồng, bỏ vừa phải của giữa đường, buộc lụy của miếu đường này ư? Vả lại, vị quan nhân dùng khí vị thì phải tài, chưa có việc vượt phần, trọn có thể gìn giữ vinh đó. Nay tạm vâng phụng trở lại bản mạng, mong nhận quá ân, không khiến Tào Công lại than, Vương Chu lại thẹn. Đá của phụ tú chẳng phải chỗ kham khắp, Thích Tăng Nham kính trình. Tề Lưu Công đáp thư Pháp sư Tăng Nham. Trang thiện có nhầm của nhược táng, Thích điển có mê của cùng tử, mỗi lúc đọc sách vì đó mà bùi ngùi, kính thận da tóc bày danh sử sau, ngưỡng bày đã trọng, cúi hoằng là lớn, xa tìm thánh ngôn giáo đó là trên hết gần láy nơi thân thật mê tình lý. Cù-đàm thấy đây cũng phải chẳng nghịch ở tâm, huống chi quân biện phá mảy lông nhận biết suốt xưa nay, xé mũ chẳng nghi, nhổ gốc chẳng ngộ, u minh cũng hãi, xa gần khiến kinh. Xưa, Lã Thượng ân cần ở tuổi tám mươi, chí câu do thời chưa gặp vua, đắm chìm chưa kịp mong có thể có tốt đẹp như người, như đó chẳng vậy, há chẳng buồn ư? Tớ nhục ly tử đông đúc tại minh, ng- hiêng nhìn cống đế đình hẳn tận tài ý, nên muốn thông chỗ chưa thông, khuất phục chỗ chưa khuất phục, Như lai cáo lăng xăng, có trái với chân xướng, nếu là dối nói, thì đâu có chỗ mong ư? Xưa, Vương Tường nhặt củi bên cạnh Sông Nghi, đến tuổi thuận tai mới ứng châu mạng, Công Tôn Hoằng chăn heo trên biển, đến bạc đầu mới sung hương cử, trọn năng đặt để vị nguyên đài, chầu trời khắp đất, Đạo Sướng đang tuổi tiếng tăm lưu tỏa muôn năm. Ý ông thế nào? Kính bày tim lòng tưởng lại mưu tính, Lưu Quân tự đáp. Pháp sư Tăng Nham lại đáp. Rối nhục lại răn, ưu chỉ vẫn ban, nêu trang viện Thích Lý cứ Hạo Nhiên, hạng muốn phục nghóa biện tình cuối nguyên do cũng xong, tuy nghóa cao vượt ngoài tượng, vi ngôn vào thần chỗ hẹp ôm chấp còn hoặc có thể hiểu, vì sao? Vì biết người là Triết, tự xét là Minh, quên phần mờ tiến bởi chỗ chưa an. Xưa kia oai trực ứng mạng, trọn được thẹn của giảm danh, tuân tổ sính tài năng rốt cùng hổ thẹn của Dương Hộc, nếu để lại ta muốn bắt chước kia, tìm vết Vương Lã sợ phơi bến cá rồng, chấm trán là nhiều, khí cùng trộm đồng tội, nêu mất tài đó, cũng khách chủ cùng bỉ lậu, có thể chẳng thận trọng ư? Lại nữa, Lễ chép: Chẳng phải chỉ ngọc bạch là hiếu ư? Đâu chỉ gìn giữ da, nên xẻo da không chê cười đời trước, cắt tóc có thêm ở thời xưa, tư hạp chặt tay toàn thân, chỗ còn là lớn, sao quái lạ ư? Mong chuộc ngu chấp, ban toại lậu khâm. Thích Tăng Nham kính trình. Lại đáp Pháp sư Tăng Nham. Lại được thư đến, lúc đầu thấy ngộ của huyền giải rõ ràng, có thể gọi là cùng xem mà cười. Ông nhận biết soi xét các dòng, trí gồm thông lý sâu kín, thường xét kiểm nguồn của cảm ứng, tìm tận cùng thuyết phân thạch đâu thường không phá từng câu suốt tận nghóa tông, mà cẩu thả tự khiêm sáng trái nghiêng tịch, vẫn theo che xe, không hối vết bại, chẳng biết đó khó hành đó, không dễ. Bỏ nước ba năm thấy tợ người nhà là mừng làm khách lâu ngày, sao chẳng bi tâm, nay thề bỏ gánh nặng mà an tọa. Vất la lữ như về nhà, đối hảo của Khổng hoài, dốc đẹp của chín tộc, vào cửa mừng rỡ là vui đã lắm, huống chi văn minh ngự vận, có triệu hợp chính, nghó hiền tán đạo, bóng xế quên ăn. Lấy tài của ông hoằng đức của ông, mang tiếng ngọc châu, vạch gấm động xa, công giúp đời tốt, danh tỏa đời sau, cùng như nhục của cắt tóc, khổ của góa vợ, đâu thể đồng năm mà nói ư? Tướng cùng khế hoạt lâu cần phải luyện, chí sâu như ẩn, hiền của triển cầm sợ chuốc trách họ Tàng chẳng trung, nên lực vội đề tâm lại bày bạch trước, tuổi nói là xế chiều, thời chẳng cùng đợi, ông nên cố gắng, chớ có hối của cắn rốn, Lưu Quân bạch đáp. Tăng Nham lại gửi thư cho Lưu Thứ Sử. Việc của một ngày, là có thể tạm làm một vui, chẳng gọi là ân chỉ, ràng buộc phương âm chợt đến, dày của nhọc răn một đến ở đây, cúi đọc chưa xong, thẹn đổ mồ hôi, nhưng chí hẹp hòi khư khư đã nói đủ ở khoảng trước. Vả lại, tráng kiện của Nham, còn sau đối với người, nay đã già, đâu thể có làm. Dùng tuổi già suy, chỉ phất cờ thành việc, đây dự thương linh, đặc viện mượn đầu mất công, hiệp giúp anh tài như rồng bay, phụ chúa tiếm đổi mạng, nay muốn dùng nông phu của đông mẫu, trử tẩu của tây viên, nghiêng cảnh sáng trước, xen vết bày xưa, không khác đánh ngựa hèn đủ để ngựa giỏi, buộc trỉ đầm để bằng loan hộc, chẳng bằng ở đây, nào đợi xét sâu, xưa kia Tử Thái cúi mạng vỗ tiết Công Tôn, dự báo biết sâu mắt thân chẳng hối tiếc, ngày nay quả thường đức liệu hai hiền, Chánh hận tuổi xa vời vợi, tuổi gấp mênh mông, nuốt than ngược giáo, mãi cách với nguyện, sờ tới giấy xót xa, không biết điều trình bày, mong thâu nhận quá cuộn, chẳng còn phiền lại. Thích Tăng Nham kính trình. Lại đáp Pháp sư Tăng Nham. Ông bàn trời nói đất, thần tình như gương soi, rút hào phủi giản, trí tư vào sâu, mà trẻ mất gốc lý, ngơ ngác tóc bạc, tiếc cả tài ông, thường dùng than thở. Ông tuy tâm còn trên mây mà hình ở dưới đất, đã làm bầy với chim sẻ vàng, sợ mất đẹp của phượng hoàng, nên dẫn lễ của cung bạch, khuất ứng cử của chủ khách, huy độc ba đổ, trác hẹp lại răn, giả sử tự khiên xung cố từ lấy cớ tuổi già, đội tuổi đức ông mới hưởng nguyên cát, chưa thể phụ chí là chánh phải dạo liệng chọn cây, đợi cơ đồng trúc thật, khinh thường lệnh đòi sao đủ giáng ư? Kính tiếp gió mát, chỉnh túc theo chỗ chuộng, vốn mưu tính đã trái, cắt trở lại thẹn xót, Lưu Quân Bạch đáp.  <卷>QUYỂN 12 đáp). Tập Tạc Xỉ gửi thư cho Thích Đạo An. Tiếu Vương Thư luận về Khổng Thích, Trương Tân An đáp. Trịnh Đạo tử gửi thư cho Vương Tư Đồ nói về ngồi ăn. Phạm Bá Luân gửi thư cho Vương Tư Đồ nói về ngồi ăn. Pháp sư Nghóa đáp thư của Phạm Bá Luân (và Phạm Bá Luân Phạm Bá Luân y cứ thực gửi thư cho Pháp sư Sinh và Quán. Phạm Bá Luân Biểu và Chiếu về ngồi ăn đối đáp bốn bài. Tấn thượng thư Lệnh Hà Sung, v.v…tấu chấp Sa-môn chẳng nên kính Vương Giả (và chiếu hai bài). Hoàn Huyền gửi thư cho Bát tọa nói về việc đạo nhân kính vương (và bát tọa đáp). Hoàn Huyền gửi thư cho Vương Lệnh nói vềviệc kính Vương (và Vương Lệnh đáp qua lại có tám bài). Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn đáp thư Hoàn Huyền nói về Sa-môn chẳng nên kính Vương giả (và thư Hoàn Huyền). Hoàn Huyền sắc chiếu Sa-môn lại chẳng kính Thiên Tử (và Biện Từ Chi, v.v… đáp qua lại gồm năm bài) Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn gửi thư cho Hoàn Huyền nói về phân biệt Sa-môn một bài (và Hoàn Huyền giáo một bài). Pháp sư Đạo chi Lâm gửi thư cho Hoàn Huyền nói về Châu Phù cầu danh tịch Sa-môn. Thích Đạo Thạnh ở chùa Thiên Bảo khải tấu Tề Võ Đế nói về kiểm thử tăng sự. **** Hoằng Minh do Tôi (Tăng Hựu) soạn đều là nhóm họp luận của Hộ Pháp, nhưng dẫn ghi thư biểu là, bởi sự sâu nên. Tìm Sa-môn khước từ tước lộc ở đời, từ thời Hán Ngụy đến nay, trải qua anh thánh đều đặt để lễ mà chẳng cầu bái, mà sưu quân chuyên oai vọng khởi mối khác. Họ Hoàn Nghi Dương kế tiếp Phù nghi, nếu Hà Công chẳng nói thì pháp tướng chìm hẳn. Tuệ Viễn chẳng luận thì tăng sự chóng mất, nhìn lại xưa đuổi tìm bùi ngùi, làm sao có thể chẳng biên ư? Cổ Hào của Dịch chẳng thờ Vương hầu, nho hành của lễ, chẳng tôi Thiên Tử, tại tục bốn dân còn có chẳng khuất, huống chi bỏ tục theo đạo, sao trách tôi lễ, nên chẳng ở nơi tốt sáng mà loại ra ở cuối vận. Còn như Đạo Hằng, Đạo Tiêu từ Diêu Lược, Viễn Công sự lại Hoàn Huyền, tuy toàn đã chẳng phải kỳ lạ, nhưng cũng đủ dốc gắng yếu, đuốc ngày đã tỉnh là lời tủa thế tục. Tôi làm ba hạch cũng là thuyết dẹp ma, nên gồm ghi lại. <詞>TẬP TẠC XỈ GỬI THƯ CHO THÍCH ĐẠO AN Ngày mồng năm tháng tư niên hiệu Hưng Ninh năm thứ ba, Tập Tạc Xỉ cúi đầu kính lễ, nương ứng chân giẫm chánh, minh bạch nội dung, từ huấn gồm chiếu, đạo tục đều che. Tông hư là ngộ ý chỉ vô thường, còn có là đạt quyền ở ngoài thân, tảo Thanh Phong ở Trung hạ, loan hưởng mài ở Bát minh, Huyền vị đường xa, nào vinh như thế. Đệ tử nghe trời trọn chầu mà mưu sáu hợp là mây của Dó thiên, hoằng nguồn sâu để nhuần tám cực là dòng của bốn đại, chân vô vi kia giáng mà muôn vật được đượm, gốc không tâm này hành mà cao thấp được nhuần, huống là thương đời giáng bước xót thời mà sinh, nhờ lúc đầu hệ thuộc ở độ vật, Minh đạo còn ở luyện tục, nương sự dấy khởi của không bịnh để hợp với đạo không xa, mạng giá ở ngoài thân, để ứng cầu của mười phương mà có thể được ngọc nhuận ở một núi, băng kết ở một hang, ngóng gió rộng mà chẳng xoay nghi, tổn đời này mà chẳng răn độ? Vả lại, từ khi Đại giáo lưu truyền đến phương Đông đã hơn bốn trăm năm, tuy thời cư só Phan Vương có kính phụng, mà chân đan huấn cũ hành trước từ đời xưa, đạo vận thời đổi, tục chưa đều ngộ. Vẻ vui gợn sóng hàng hạ só mà thôi, chỉ Túc Tổ Minh Hoàng Đế, thật trời ban đức, lúc đầu phụng khâm đạo ấy, tay vẻ họa dung tướng của Như lai, miệng đượm vị ý chỉ của tam-muội, giới hạnh cao vợi nơi non ẩn huyền tổ thỏa sướng với vô sinh, khối lớn đã xướng, muôn lỗ đều kêu, hiền triết quân tử không ai chẳng quy tâm, mặt trời tuy xa quang cảnh càng sáng, lớn mạnh của đạo nghiệp chẳng đâu thạnh so với nay, há cái gọi là nguyệt quang đạo lắng, sắp sinh cõi chân, linh bát về đông chợt nghiệm ở đây ư? Lại nghe ba ngàn đắc đạo đều thấy Nam Dương, minh học khai só luyện diễn chân ngôn, trên là khảo huấn của thánh đạt, dưới lường ng- hiệm của đạo hạnh, thâm kinh qua khắp chẳng phải đây là ai? Ôm đạo xa dạy nhà đây ai giáng, cho nên xứ này chư tăng đều có khuynh tưởng, mắt ưa điềm lành của sắc vàng, tại đợi kho tàng của vô thượng, già trẻ đồng nguyện, đạo tục đồng mong, buộc tình của vịnh chẳng phải nói thường, nếu mây lành mọc ở phương Đông, ma-ni xoay chiếu, một theo tòa bảy báu, tạm xem đèn minh triết, mưa cam lồ nơi cỏ tốt, trồng chiên đàn ở ven sông, thì giáo của Như lai lại sùng ở ngày nay, sóng huyền vượt hưởng lại tràn rưới ở một đời chẳng thắng mời dự rọc thư gắm tích chứa của tâm ý, sao nói năng thỏa sướng, đệ tử Tập Tạc Xỉ ở Tương Dương cúi đầu kính lễ (sưu xiển lạc hiền đường tụng, bài tựa cũng nói Tiêu Tổ Minh hoàng đế nhã hảo Phật đạo, tay sờ linh tượng). <詞>THƯ CỦA TIỂU VƯƠNG NÓI VỀ KHỔNG THÍCH Phật giáo dùng tội phước nhân quả có như ảnh hưởng. Thánh ngôn minh xét khiến người lạnh lòng. Nhưng từ thượng cổ, Hoàng đế Văn Võ Chu Khổng, điển mô huấn cáo không gì chẳng đủ khắp, chưa thuật rõ ba đời, nêu bày báo ứng. Các bậc thánh kia đều cùng lý tận tình, chiếu hiểu vật duyên, đâu được nhẫn xem chìm lấp, chẳng chịu trao tiếp, không hề một lời chỉ bến đường đó. Vả lại câu mà chẳng lưới, chặt chẳng bắn trước, rộng lớn béo mập, Thượng đế là hưởng, lấy đó quán xét, bởi chỗ khó rõ, tưởng vài ba ông khua vạch mà bày, khiến họa vẽ vậy có chứng, vén lầm hoặc đó. Trương Tân An đáp. Kính đáp lại ý chỉ sâu mầu, chẳng phải gần giáo ấy, phụ chỉ chưa tạo khom mình rộng đối. Trộm lấy làm bèn giúp chung nhờ cảm, chẳng phải ngộ nhờ duyên. Thật nhân tốt nhỏ nhiệm thì Hà Hán đượm mê hoặc, nên đợi thưa hỏi ở khua chuông, khải phát nhờ ở tức giận. Diệu giác cùng lý, là thánh là thần quang cảnh soi rọi tám duy, cúi ngước nhìn chín hữu, nhưng vận gặp trăm tuổi sâu thẩm đều muôn kiếp, há chẳng phải duyên tốt chưa gây, nên nghiệp hóa chẳng mở ư? Vì vậy, thánh linh liền khuôn, văn đây chẳng chép, chẳng phải được rõ lý nhiệm kết quy chỉ bài bác tông trí, chỉ dùng nhỏ nhiệm hiểm uyển mà thành tiếm dời mờ xa, ham sống dẫn nguồn ba đời, chứa điều thiện mở vết của báo ứng, võng vốn chiếu nhân, sưu miêu hoằng tín, đã vì đần thấm tập thành, lận kẹt ngày một bỏ, sau đó, đạo sướng thích triều của Hoàng Hán, huấn phô kỷ của Vónh Bình, vật không lóa nhòa người đây cỏ rạp. Thật biết phóng hoa còn mờ, văn tuyên chưa rõ, chẳng phải ý chỉ trái vì khác thông, thật lý quân bình mà đều vấp là, phụ hội cao xa, ai di mạo ngôn, nhầm phạm chẳng phải, khinh suất cuồng giản. <詞>TRỊNH ĐẠO TỬ GỬI THƯ CHO THIỀN SƯ NÓI VỀ NGỒI ĂN Lời dạy của bậc Thánh, tu vốn bỏ ngọn, tức tâm làm giáo nhân sự thành dụng, chưa có phản tánh trái hình mà dốc đại hóa. Tuy là hình khác với tục, sự cao ngoài đời đến như tiết của bái kính, lễ của vái nhường, do chỗ bày chí đạo tục chẳng khác, nên trai giảng tứ nghiệp thì đủ pháp phục, lễ bái có thứ lớp, trước sau có thường, kính tâm trong đủ mà hình chỉnh túc ở ngoài, cúi đầu đến đất chẳng dung, lễ của việc ngồi, kiểm vén ở bái sự, chẳng phải thiên ngồi dự, mà lấy ngồi ăn làm tâm dụng, bỏ sót nghị mà kiểm thô, sự lý đều trái, chưa thấy thông đó. Giáo của phải vi, nghóa đều có đó. Còn như ban chu khổ hình để còn đạo, đạo thân mà hình sơ, hành đó có lý, dụng đó có gốc, giáo của ngồi ăn, nghóa không có chỗ mở rộng, tiến chẳng phải khổ hình. Lùi chuốc mạn dịch, thấy hình mà chẳng kịp đạo là, mất tình của cung túc, mà khởi lời của hãi mạn. Há bậc Thánh nhân sự mà làm giáo, chương phủ chẳng nghóa của thương việt? Nguyên chỗ đó khởi, hoặc xuất từ tánh của khác phương, hoặc nơi trong của nắn cong, chỉ có chỗ cứu, như bệnh gấp thì thuốc chóng, chẳng phải phục ngự pháp của lâu dài. Hình giáo xứng nhau, sự nghóa có thường, đã chế ba phục, thực hành lễ bái, tiết dùng pháp cổ, bày dùng thứ tự, đâu được ngóng ngồi, khoảng đó chỉnh mạn trái nhau đó ư? Thuở xưa, thích nghi thì chỗ vừa việc đến, dụng của một ngày, chẳng thể làm huấn của nhiều năm. Lý có thể biết, nên hỏi nhân là đông nhiều mà lại lễ làm gốc, nay lễ niệm hóa tâm mà giữ vết chẳng biến, lại lý đã ngọn, ở dụng lại thô. Cẩu thả chỗ chưa đạt, dám chẳng trải lòng, Trịnh Quân cúi đầu. <詞>PHẠM BÁ LUÂN GỬI THƯ CHO CÁC VỊ NHƯ VƯƠNG TƯ ĐỒ NÓI VỀ ĐẠO NHÂN NGỒI ĂN Phạm Thái (Phạm Bá Luân) kinh bạch các hiền giả công khanh! Ngày nay Sa-môn ngồi có hai pháp, xưa kia, tại Kỳ-hoàn dường như chẳng đúng. Y nay ngôn ngữ nước ngoài chẳng đồng dùng bỏ cũng khác. bậc Thánh tùy tục chế pháp, nhân phương hoằng giáo, còn chẳng thay đổi lời, sao hẳn khổ đồng chế! Chỉ một nước chẳng nên có hai: Một nhà làm sao có thể chẳng đồng, mà nay thường tin thiên kiến, mình phải người quấy, chẳng tìm ý chế tác, chỉ có sấm đồng là đẹp, trấn đó không chủ, bèn đến nơi đây, không hư ở nhận người, có dụng ở hẳn chấp, chẳng cầu thật của cá thỏ, tranh kích ngọn của lưới nôm. Phong này chẳng đổi, khó ở giữ đạo, thọ vương sáu năm để đến Chánh giác, lúc đầu nói về huyền tông tự trải tòa cao đều ngồi kiết già, chẳng hề thiên cứ. Ngồi thiền để định, nghóa chẳng bày đợi, cái đẹp của ngồi ăn, vì ăn chẳng cầu no, đây đều thiên pháp của một nước, chẳng phải chế chung cho thiên hạ, cũng do xứ lạnh không có lễ của Hy Hoành. Nhật nam tuyệt luật của chiên cừu, chẳng thể thấy mới đầu của Đại Võ cởi xiêm, bèn cho là không còn chương phụ. Xin bỏ cả hai, đều giao cho quân tử chiết chung. Phạm Thái khư chánh mong nay tập đồng của một cách ăn, qua đây trở đi, hoặc chưa biết đó, lễ dùng hòa quý, tăng pháp chuộng đồng, nay lên trai đường đối thánh tượng như thần hiện có, trong tượng bốn song tám bối, nghóa không nói khác, tình của tự kiêu, làm sao có thể thử tạm, chẳng phải ta thích công xưa ở Tương Dương, thiên pháp trở lại nghó mà chẳng biến, đáng có ý chỉ đó, vì vậy ném gậy cưỡi xe, nghóa còn đồng chúng, gồm thiền sư đạo tràng thiên hội cũng mới ngồi đó, đâu chẳng phải còn đại lược tiểu lý chẳng gồm nêu cũ ư? Mới ngồi không thời mà thiên ngồi có thời, từ mới lấy luôn vừa khác làm khó, thường biến lấy đồng làm dễ. Vả lại, chủ nhân hạ mình kính khách có từ xưa nay. Lại hỏi nghóa công, hoàn toàn chẳng thấy đáp, vì vậy kính bạch đồng ý để cầu trong khuyết, nguyện ban thừa của họ nghẹn,đạo để che tâm khiếp sợ. <詞>THÍCH TUỆ NGHÓA ĐÁP THƯ CỦA PHẠM BÁ LUÂN Tại chùa Kỳ Hoàn, Sa-môn Thích Tuệ Nghóa ,v.v… tất cả năm mươi vị kính thưa cùng các Đàn Việt: Pháp Sa-môn chánh nên cẩn trọng giữ kinh luật, lấy tín thuận làm gốc, nếu muối trái kinh trái luật, tâm thầy tự cho là phải, đây thì hoạn sâu của đại pháp, dứng đầu uế đạo. Như lai chế giới mở thì thực hành không nghi, đóng thì chẳng dám phạm. Giới phòng ngăn Sa-môn chẳng được thân và tay chạm gần người nữ. Các vị trì giới thầy người thân đắm chìm nơi nước sâu, thấy người đó chết mất không dám cứu vớt, do đó người đời cho là Sa-môn không có tâm từ, đây sao có của đạo? Do vậy Như lai vì người đời chê trách nên mở một giới này, nếu gặp nạn thì cho cứu giúp, Như lai lập giới là họa vẽ chế của một, chánh có thể cẩn thận giữ gìn thực hành, đâu cho dùng ý chuyên liền đổi làm, tục Nho còn chuộng cẩn trọng giữ gìn hạ ngũ, chẳng dám thêm tháng đó là, sắp muốn phòng ngại sâu xa của hạng người xuyên tạc, dứt bặt khách ham mới vui lạ, mà huống chi bậc Tam đạt chế giới, đâu dám vọng có thông bít, Đàn Việt Phạm Bá Luân muốn cho chúng này đổi thiên theo phương, cầu hòa của chẳng khác, tuy tham hòa đó làm đẹp. Nhưng hòa chẳng dùng đạo, thì là cầu đồng, chẳng phải cầu hòa, chùa Kỳ-Hoàn từ lúc có chúng đông về sanh đến nơi pháp tập, chưa hề có hai chúng phương thiên, đã không có kinh luật làm chứng, mà chợt muốn sửa đổi Phật pháp, đây chẳng phải là việc nhỏ, thật chưa dám cao đồng, chùa này thọ trì luật Tăng-kỳ ngày tháng đã lâu, luật có văn nói, nói pháp thiên thực. Gồm tám nghi, vốn không có chế về thiên thực thì không hai trăm năm mươi. Nói thức ăn chẳng được đặt trên giường, chỗ bỏ thức ăn đặt ở hai bên. Lại nói: Chẳng được tréo chân xếp cẳng, ở đây há chẳng phải minh chứng của thiên thực ư? Giới luật là bí pháp của Sa-môn, quốc chủ cũng chẳng được dự nghe. Nay Đàn Việt nghi hoặc phương thiên, muốn sinh hưng phế, bần đạo chẳng được không quyền khinh trọng, lược nêu vài điều, bày đó có gốc, cam nhận tội tuyên giới, Phật pháp thông bít, tiếp nối các Đàn Việt, thông thì cùng được công của hộ pháp, bít hẳn cùng nhau có tội diệt pháp, cúi mong ba lượt tư duy khiến u hiển không hận. Đáp lại Nghóa Công. Đáp rằng: Luận trước đã bao gồm, đây thông ý thượng nhân khí mạnh chẳng tìm, giới để ngăn quấy, đâu phải không có giới? Cho nên hạng ngu hoặc giới đó tùy theo tục mà biến luật. Hoa hạ vốn chẳng nghiêng lạch, thì luật của nhóm xương giao cẳng, nên có thể được mà lược, giới dùng tay vốc ăn, không dùng văn muỗng đũa, sao xem trọng thiên ngồi mà khinh ở tay vốc ăn? Luật nói chẳng được tay chạm người nữ, sau đó lại cho phép người thân bị chìm được vớt thì đó là điều nghi của phàm phu, quả thật đủ để sửa đổi luật của bậc Thánh. Càng biết hai trăm năm mươi chẳng phải định pháp tự nhiên, như thế thì cố giữ chẳng phải hoàn toàn hiểu được tâm thầy, không đáng quái la lắm. Năm thứ dưới thiếu văn cố giữ chẳng gì nghi ngờ, nói cẩn thận chỗ thấy nếu hiểu rõ thì đâu được trông lại chúng mà động, trông đó làm nghóa, ý là nên tiến, muốn chóng thì sự chẳng được hành, ngồi yên thì bất an chỗ ở, thời có kẻ cứ ngạo, nên chẳng phải chỗ lễ pháp chấp thuận một nhà hai chế, đồng hết sạch của thượng nhân mà chẳng trái nghịch, hòa trọn của đệ tử cũng riêng lẻ, sao dám đáng năm mươi trận lớn, là dụng sợ địch mà im, ngõ hầu cứu của thượng thiện! <詞>PHẠM BÁ LUÂN GỬI THƯ CHO PHÁP SƯ SINH VÀ QUÁN Phong tục nước ngoài lại tự chẳng đồng, Đề-bà từ đầu đến nay, hạng người nghóa quán không ai chẳng tắm gội kính ngưỡng, vì đây là pháp Tiểu thừa, bèn cho rằng chỗ cực của lý là Vô sinh, kinh Phương Đẳng đều là ma viết. Đề-bà sau cùng nói kinh bèn chẳng lên tòa cao. Pháp Hiển sau đến Niết-bàn mới xướng, bèn cho rằng lời của thường trụ là ưu tối của các lý, Bát-nhã tông cực đều ra từ dưới đó. Lấy đây mà suy thì là không chủ của trong có nghe liền biến, thí dụ ở sau bắn phá đoạt trước thì biết luật của nước ngoài chẳng phải pháp nhất định, nhà của thiên tọa không có thời mà chánh, tòa cao nói pháp cũng là ngóng ngồi, ăn của nước ngoài ở tay vốc, thật không muỗng đũa, học trò của Tuệ Nghóa biết nên chẳng đổi, còn như thiên tọa trọn chẳng thẹn đồng, tự làm mâu thuẫn đó si năng giải ý đệ tử, thường cho rằng cùng người đồng mất, hiền ở tự thay, đó là suy tâm vui đồng, chẳng dám chấp thuận để cầu thẳng. Nay người tại gia thờ pháp quyết không thể đắp mặc theo nước ngoài, Sa-môn sao phải khổ giữ thiên pháp! <詞>BIỂU VĂN NÓI VỀ SA MÔN NGỒI ĂN CỦA PHẠM BÁ LUÂN Thần nói: Bệ hạ thể đạt Phật lý, sắp đến rốt ráo, tâm mong xa vời nghiên tinh vào chỗ sâu xa. Chỉ tiếc khởi cho tôi chẳng phải xưa đối dương chưa dễ, thần từ nhỏ kính tin đại pháp, chứa nhóm pháp lành, lại nghe luận khác phảng phất huyền tông, xưa kia hầu tòa, quá được quyến dụ, ý hèn từ vọng chẳng thể có chỗ vận thông, đây là tiếc trọn đời không thôi, thần gần đây cật nạn Tuệ Nghóa về ngồi ăn, bởi khư khư ý của vui đồng, chẳng dám cầu lớn ở người, nghiêng hưởng dưới phong đã đạt trời chấp thuận. Thần xin việc này tự thiên pháp của một nước, chẳng phải kinh thông trọn chế hẳn, phong tục nước ngoài chẳng đồng, ngôn ngữ cũng khác, bậc Thánh chẳng biến lời đó, sao riêng khổ đổi dụng đó, nói để bày ý, ý đạt quên lời, nghi để còn kính, kính lập hình phế, vì vậy bậc Thánh do sự chế giới, tùy tục biến pháp, đạt đạo mới có thể không luật, nghó phàm đó phòng càng nhiều, dùng xả có thời thông bít chỉ lý, dán trụ giữ gốc chẳng vì sợ ư, Sa-môn ngày nay, khéo dụ của tượng, đạo không lớn một, đều tin chỗ thấy, ít hay hư thọ, cho đến giành khác ở trong của một nhà, chẳng hòa ở đời, ủng hộ của đời, thầm trộm hổ thẹn, huống chi ở khác thần đó ư? Tư Đồ Hoằng Đạt ngộ trong có lý, chẳng vì thần nói là quấy lệnh của nay mong tin đạo chưa dốc ý không định trước, lấy hai thuận làm đẹp, chẳng đoạn làm lớn, đợi đây mà thế sông có thể trong. Tuệ Nghiêm, Đạo sanh vốn tự chẳng mong, tuệ quán dường như hối, địa vị mới đầu cúi độ, tâm thánh phàm đang có, ở nay chẳng mong minh chiếu riêng phát, chỉ khiến thánh chỉ thô đạt, Tể tướng thì xét xuống mà hóa, ai bảo chẳng xứng đáng, hoàng phong mới đáng xa thỏa, văn quỹ sắp đến đại đồng, tiểu dị tuy nhỏ nhiệm, dần chẳng thể lớn, xanh xanh chẳng chặt, sắp tìm cán búa, nên phải từ gần đến xa, nay không nghó chẳng phục, trong giang trái dựng tòa cao, lại dạo mừng vui Hoa Hạ, chẳng nói chế này, thích công tin đạo lại dạo mừng vui hoa hạ, chẳng nói chế này, Thích Công tin đạo rất dốc, chẳng khổ tiết đó, nghó mà chẳng đổi, có dung ý chỉ đó, La-thập siêu việt không mắc tội, bất chánh có thể lường cạo tóc mà chẳng thiên cứ, như là có thể tìm, thiền sư lúc đầu đến cung khuyết cầu thông, muốn dừng tống xưa vào cứ, lý chẳng thể mở, nên chẳng chấp thuận tiến lên, sau đông an chứng nhóm họp, quả nhiên chẳng thiên thực. Đây là việc cũ triều trước, là điều bề tôi trông thấy kính cẩn khải trình. Lại tiếp biểu văn. Bề tôi nói: Gần đây bệ hạ có đến Kỳ-hoàn, bề tôi cố thỉnh viết bài toán trên bia, như lớn phảng phất là có hứa, pháp giá đã xoay liền kính khắc trên bia là “Hoàng Đế Tán” chánh ba chữ này mà thôi, tội của chuyên liền, nghó chỗ thần cam chịu, đến chỗ ghi trong phước minh kia bằng, nếu ban sắc bút thần cài chữ, thần chết lại chẳng mục nát, lấy đó mở mang phong hóa còn có ích mà không tổn, muôn cơ, giả sử có chưa rảnh, thánh chỉ tự có thể viện, thần của trái sứ thị vệ, sao không tâm tự bắt chước, giúp tin thế thúc có nào xa, có thể chẳng nhọc thánh lự, cũng là ý của cờ mũ, thần phụng sự lâu dài suy tạ, đường sống đã tận, khư khư ở tâm chỉ đời sau mà thôi, thần thọ ân sâu nặng, lộc ban tặng có thừa, tự độ không hề báo với thánh thế xong, che đầu đều thành thật kết cỏ, xin bệ hạ xót thương mà chẳng trách! Thần nói: Chiếu biết cùng Tuệ Nghóa nói về ngồi ăn, gần đây cũng thô nghe suất ý, chẳng khác ý chỉ đưa đến, chỉ chẳng xem kinh Phật không duyên chế sở dó thấy vậy, chẳng biết Tuệ Nghiêm, vì sao Đạo Sinh bèn là treo đồng Tuệ Quán, dường như chưa chịu hối, họ là địa vị đầu tiên. Sánh tự có thể cùng các đạo nhân lại cầu trong đó ư, Kỳ-hoàn bia tán mới chẳng nhớ cùng hứa, đã chẳng phải chỗ tập thêm vì không rảnh, chẳng được cùng đáp, rất lấy làm tiếc. Lai tiếp biểu văn. Bề tôi nói: Vâng phụng minh chiếu, lo sợ lắng doanh, doanh huyệt thiên kiến, chẳng đáng bày nghe, lấy ngay việc rồi thượng đạt chẳng sao ngủ im, nay sắc ban lại khiến tìm cầu trong đó, là dùng càn rỡ lại bày bản hoài. Bề tôi cho rằng: Sở tại của lý, may có thể chẳng dùng văn hại ý, ngũ đế chẳng cùng nối tiếp lễ, ba vua chẳng theo nhạc đó, cách mạng tùy thời, nghóa đó đều lớn, Trang Chu lấy xưa nay thí như xe thuyền. Mạnh Kha lấy chuyên tín thư chẳng như không thư, cho nên chứng dê chẳng nghe thẳng, hai dụng đây hành của đại đạo, thiên hạ làm khư khư của nhà thần, đồng của một nhà, mà huống chi khác tục thiên chế, vốn chẳng phải giáo của trung dung, đạo sinh Tuệ Nghóa, Tuệ Quán được nhờ hoằng tiếp thánh chỉ, nếu như dưới hỏi, mong đó y cứ lý dâng đáp, chẳng dám dùng nhiều tự, giúp lớn ở người, Tuệ Quán đáp bề tôi đều không lý y cứ, chỉ dùng quá lời khen thần, lấy can quấy tránh thần, suy nghi đây đó hẳn hối chưa tiệm có từ trở lại khéo nhờ, thần hoằng cũng cho là vậy, Tuệ Nghóa hoằng trận đã sụp đổ, chạy núp cùng đường, cậy đây vì cứu khó ở tự khởi, huống là ty khế ở trên. Đạo từ biết cùng thần gần đây cật nạn Tuệ Quán, tạm lại dâng trình như sau, thần vì ngu hẹp sắp trí mà già, đầu chỉ nói đó chẳng trúng, rất sợ bất chợt mê đó, bề tôi thị vệ, thật mong có lúc, đã chẳng thể khen ý này của bề tôi, lại chẳng thể răn thần chẳng đợi, đây đều là bề tôi tự chuốc ở tự lỗi mà thôi. Cúi mong bệ hạ, ghi chép một lần đến, chẳng lấy biết vụng làm tội, lại xúc mạo mê mờ ngàn uế, trộm cậy cổ điển chẳng thêm hình đó? <詞>THƯỢNG THƯ LỆNH HÀ SUNG TẤU SA MÔN KHÔNG NÊN TẬN KÍNH Niên hiệu Hàm Khương năm thứ sáu đời Tấn, vua Thành Đế còn nhỏ, Dữu băng phụ chính cho rằng Sa-môn nên tận kính vương giả, thượng thư Lệnh Hà Sung v.v… bàn nghị chẳng nên kính, hạ lễ quan tường nghị, Tiến só nghị đồng với Hà Sung, môn hạ nương sắc chỉ của Dữu hăng làm lộn xộn, thượng thư Lệnh Hà Sung và Bộc Xạ Chử Dực, gia cát khôi, thượng thư Phùng Hoài, Tạ Quảng, v.v… tâu sa-môn không nên tận kính. Thượng thư Lệnh, quan quân, phủ quân, đô khanh, hầu Thần Hà Sung, Tán kî thường thị trái bộc xạ trường bình bá Thần Dực, Tán kî thường thị phải bộc xạ kiến an bá Thần Gia Cát Khôi, Thượng thư quan trung hầu Thần Phùng Hoài Thủ, Thượng - thư xương an tử Thần Tạ Quảng, v.v… Thế tổ Võ Hoàng Đế dùng thạnh minh cách mạng, Túc tổ Minh hoàng đế thông thánh huyền lãm, há thời đó Sa-môn chẳng dễ co gối, trông lại dùng chẳng biến pháp tu thiện, sở dó thông chí của thiên hạ, Ngu cho rằng nên vâng theo việc cũ của tiên đế, đối với nghóa là lớn, Dữu băng lại đọc chiếu chỉ, bảo là nên tận kính, thay Tấn thành đế mà làm chiếu chỉ. Muôn phương khác tục, thần đạo khó nói có từ xưa đến nay. Đạt quán bàng thông không đáng quái lạ, huống chi lễ của bái quỳ vì sao phải chuộng? phải là nguyên ý của tiên vương cho nên chuộng đó, đâu ngay ham khuất chiết này mà ngồi gặp quanh quẩn ư? Hẳn chẳng như vậy, nhân kính giữa cha con, lập thứ lớp vua tôi, chế pháp độ tôn sùng lễ trật đâu theo vậy ư? Bởi có như vậy. Đã có dùng đó, vậy sao lại đổi? Nhưng bày của danh lễ, nó vô tình ư? Vả lại, quả thật có Phật? Hay không có Phật? Có Phật sao đạo đó cố mở mang, không Phật thì nghóa lấy ở đâu, kế tin đó hay việc của phương ngoài, việc của phương ngoài, há là thể của phương trong, mà phải uốn nắn hình hài trái với việc thường, dễ lễ điển khí, danh giáo là chỗ tôi rất nghi, danh giáo có lý do, chỗ trăm đời chẳng phế, mờ sớm chẳng bày, đời sau còn sợ, sợ đó là tệ nên khó tìm, mà nay đang xa kính mộ manh muội, y hy chưa phân, bỏ lễ ở một triều, phế giáo ở hiện đời, khiến phàm phu ngạo vượt hiến độ lại là chỗ tôi rất nghi, dù cho tin vậy, dù cho có vậy, tôi sắp thông đó ở thần minh, được đó ở nổi lòng, quỷ hiến hoằng mô, hẳn chẳng thể phế ở chánh triều, phàm các loại này đều là dân của nhà Tấn nói về tài trí lại là người thường, mà phải nhân chỗ nói khó nói, nhờ phục sức để lấn độ, chống kháng ngạo lễ của khác tục, thẳng hình hài nơi muôn thừa lại là chỗ tôi chẳng lấy, các ông đều là quốc khí, ngộ lời nói thì phải lướng u vi, nói về trị thì phải trọng quốc điển, nếu chẳng như vậy thì tôi lấy gì mà thuật ư? - Thượng thư Lệnh Hà Sung và Chử Dực, Gia Cát khôi, Phùng Hoài, Tạ Quảng, v.v… lại tấu biểu văn. Thượng - thư - lệnh - quan - quân - phủ - quân - Đô - lương - hầu Thần Hà Sung, Tán - kî - thường - thị - trái - bộc - xạ - trường - bình bá Thần Chử Dực, Tán -kî - thường - thị - phải - bộc - xạ - kiến - an bá Thần Gia Cát Khôi, Thượng - thư - quan - trung - hầu Thần Hoài Thủ, Thượng - thư - an - xương - tử Thần Tạ Quảng, v.v…, nói chiếu thư như trên, chúng tôi mê tối, chẳng đáng để tán đương thánh chỉ, tuyên sướng đại nghóa, cúi xét minh chiếu run sợ lắng doanh, liền cùng tìm rõ có Phật hay không, hẳn chúng tôi chẳng thể định đoạt, nhưng tìm di văn, dùi yếu chỉ đó, năm giới cấm thật giúp vương hóa, hèn danh hạnh rõ ràng, quý ngầm tháo mờ mờ, hạnh đức ở nơi quên thân, ôm thanh diệu của một tâm, vả lại hưng từ đời Hán đến ngày nay, tuy pháp có thạnh suy mà tệ không yêu vọng, kinh thần đạo lâu chưa có gì sánh, phàm nguyền rủa có tổn, chú nguyện hẳn có ích, ngu thành của bề tôi thật mong nhỏ nhiệm của bụi mốc thên đượm nơi Tung nhạc, huống chi khư khư trên giúp hoàng cực, nay một khiến họ bái hoại pháp đó, khiến tục của tu thiện phế ở đời thánh, tập tục sinh thường hẳn khiến buồn sợ ẩn đó, tâm bề tôi trộm nghó chỗ chưa an. Bề tôi tuy tối tệ, đâu dám dùng thiên kiến nghi nhầm thánh chấp thuận, thẳng cho rằng: Thế kinh ba đời người lại minh thánh, nay chẳng vì đó khế không thiếu, vương pháp mà cách của u minh có thể không bít lấp, vì vậy lại bày ngu thành, xin duỗi xét soi kính cẩn khải trình. Thành Đế lại ban sắc chiếu. Xét chỗ trình bày đầy đủ tình chỉ, việc trong mờ tối thật chẳng phải chỗ ngụ ngôn cùng tận, nhưng vết đó lược và đại, người thần thường độ, thô lại có phân lệ vậy, đại để trăm vua chế pháp tuy chất văn tùy thời, nhưng chưa có dùng khác tục xen trị quái đản tạp hóa, há bậc thánh xưa chẳng đạt, thánh sau đó hoằng thông ư? Vả lại, tài của ngũ giới khéo thô phỏng tợ nhân luân, mà lại đối với thế của lược bỏ lễ kính đó ư? Lễ là trọng kính là đại, lưới của Lâm trị tận ở đây. Vua của muôn thừa chẳng phải ham tôn, dân ở khu vực chẳng phải ham ty. Mà ty tôn chẳng bày, vương giáo chẳng được chẳng một, hai đó thì loạn, đây chỗ thánh xưa dùng hiến chương thể quốc, chỗ thích nghi chẳng lầm, thông tài bác thái xưa đủ việc đó, tu đó nhà có thể dùng, tu đó nước và triều chẳng thể, đây há chẳng xa ư? xét chỗ trình bày quả thật cũng chưa thể rõ có đó hay không, giả sử rõ đó còn gọi là chẳng thể dùng tham trị, huống chi đều không mà phải dùng hai hàng ư? Thượng thư Lệnh Hà Sung, Bộc Xạ Chử Dực, v.v… lần thứ ba tấu việc chẳng nên tận kính. Bề tôi v.v… tuy thật tối tệ chẳng thông ý xa, đến như càn càn túc dạ nghó theo vương độ, thà nếu chấp thiên doanh mà loạn đại luân, thẳng từ Hán Ngụy cho đến đời Tấn chẳng nghe dị nghị, tôn ty hiến chương không hề tạm thiếu, nay các Sa-môn cẩn thận giới trì chuyên chuyên, và vì lễ đó một mà thôi, còn như dốc giữ giới là mất thân chẳng tiếc, đâu dám vì hình hài mà khinh mạn lễ kính ư? Thường thấy đốt hương chú nguyện, hẳn trước vì nước nhà muốn lớn mạnh phước hựu, tình không cùng cực đã phụng thượng sùng thuận, ra nơi khoảng của lễ nghi tự nhiên, bởi là chuyên một giữ pháp, vì vậy tiên thánh ngự đời, nhân mà chẳng đổi, lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt chúng tôi cung cẩn lấy làm, chẳng khiến bái quỳ, với pháp không thiếu, nhân chỗ lợi mà ban ân, khiến hiền ngu chẳng dám chẳng dùng tình, thì trên có thí của trời che đất chở dưới có người giữ tu một thiện, kính cẩn lại trình bày ngu cạn, mong được soi xét, kính khải trình, khi ấy Dữu băng luận nghị ẩn mất, chẳng thi hành lễ kính. <詞>HOÀN HUYỀN GỬI THƯ CHO BÁT TỌA NÓI VỀ VIỆC ĐẠO NHÂN LỄ KÍNH Hoàn Huyền lại bái bạch cúi đầu, tám ngày ban đến các cựu Sa- môn đều chẳng kính vương giả, Hà Sung và Dữu Băng tuy đã luận đó mà đều dẫn chỗ thấy chưa là lý khuất phục nhau. Ý Dữu Băng lại ở tôn chủ mà lý y cứ chưa cùng tận, Hà Sung phát xuất từ thiên tín nên chìm trong danh lễ, hể làm việc giáo hóa của Phật, tuy dối dùng mênh mông ở ngoài thấy nghe, nhưng lấy kính làm gốc, xứ này chẳng khác, bởi chỗ mong là khác chẳng phải cung kính nên phế bó. Hiếu tử đồng Vương hầu ở ba lớn, vốn chỗ đó trọng đều ở giúp sinh thông vận, đâu riêng vì bậc Thánh ở tại vị mà sánh xứng hai nghi ư? Gần lấy đức lớn của trời đất gọi là sinh, sinh chung vật lý, còn ở vương giả, nên tên thần khí đó mà lễ thật lớn mạnh, đâu là cùng sùng trọng nghóa còn quân ngự mà thôi ư? Sa-môn sở dó đời đời giúp còn cũng là nhật dụng ở lý mạng, há có thọ đức mà bỏ sót lễ, đượm ân ban mà phế kính đó ư? Đã chỗ lý chẳng dung cũng chỗ tình chẳng an, việc lớn một đời, nên cùng câu chung tưởng, lại cùng nhau nghiên tận, vừa rồi tám ngày khiến rõ định, Hoàn Huyền kính lễ cúi đầu. Bát Tòa đáp (bài này xuất xứ từ cố sự) Trung – quân, tướng – quân, thượng - thư, lệnh – nghi, dương – khai, Quốc hầu hoàn khiêm,v.v… lo sợ tội chết, vâng theo lới răn khiến Sa-môn kính lễ Vương giả. Hà Sung và Dữu Băng tuy nói nhưng chưa nghiên cứu cùng tận, đây là viêc lớn nên khiến thỏa đáng, thật như Nhã luận, nhưng Phật pháp cùng Nghiêu Khổng khác dường, lễ kính chánh trái. Người lấy da tóc làm trọng, mà cắt rọc chẳng nghi, xuất gia từ bỏ thân thích chẳng lấy sắc dưỡng làm hiếu, gỗ đất hình hài dứt dục, bỏ tranh giành, chẳng mong một đời, cần phước muôn kiếp, chỗ quý của đời đều đã rơi rụng, chỗ trọng của lễ giáo, ý đều dứt đó, giúp cha thờ vua chí của thiên thuộc, còn lìa thân ái, đâu được đặt lễ muôn thừa, chấp tự nên phế, mà trải qua ba đại, đặt dứt tội đó, phải dùng thần minh vô phương để bày chẳng dùng bờ xét, ngoài thấy nghe hoặc có lý riêng, nay bèn khiến đặt cung kính, sợ nên đổi đó, phần nhiều chẳng phải chỉ khởi bái. Lại nữa, vương giả thờ pháp xuất xứ từ kính tin, lễ đó mà biến nghi, lại là chỗ tình chưa trọn, tức là dung đó, mới là hoằng vương của tại hựu, khiến dùng đáp riêng, công cật nạn Khổng Quốc Trương Sưởng ở tưởng kia đã tận, mặt hỏi chỗ hoài mong đạo báu, các đạo nhân đều đủ đối đáp cao chỉ, hạ quan v.v… chúng tôi chẳng biết rõ Phật lý, dẫn tình để nói, thẹn chẳng đủ xét, hoàn khiên v.v… sợ tội chết! <詞>HOÀN HUYỀN GỬI THƯ CHO VƯƠNG LỆNH NÓI VỀ VIỆC ĐẠO NHÂN NÊN KÍNH VƯƠNG GIẢ Sa-môn Kháng lễ chí tôn, chánh tự là chỗ tình chẳng an, việc lớn một đời nên cùng luận bàn cho càng tận, nay gửi thư cho Bát Tọa, vừa rồi đã đưa đến đô, nay giao tin này, ông nên nhậm lý này, chậm nghe đức âm. - Vương Lệnh đáp thư Hoàn Huyền. Lãnh - quân - tướng - lại - bộ - thượng - thư - trung - thư - lệnh Võ Cương Nam Vương Mật lo sợ tội chết, vâng theo răn bảo, và đạo nhân kháng lễ chí tôn, đều thấy gửi thư cho Bát Tọa, đầy đủ tiếp nhận cao chỉ, xương lên dung âm, từ lý đều đến, gần đây cũng thô nghe công đạo chưa được nghiên cứu tường tận, tìm ý chỉ của Hà Sung và Dữu Băng cũng tiếc chẳng xoay, vì làm hai luận rò rỉ ở thiên kiến không hiểu nhàm tâm nhưng ở chân như nhã hối, sự hưng khởi của Phật pháp phát xuất từ Thiên-trúc. Tống vốn tối xa khó dùng lời nói, đã dẫn xen nơi giáo nên có thể lược nói, ý lấy làm khác phương di tục, tuy chỗ an thường trái, còn như lý của quân ngự, không gì chẳng hẳn đồng, nay Sa-môn tuy úy sâu ở kính, chẳng lấy hình cúi cong làm lễ, vết tràn khắp nơi mà thú vượt phương nội. Vì thế, vua của nước ngoài không ai chẳng giáng lễ, vì đạo còn thì quý, chẳng lấy người làm khinh trọng, tìm đại pháp tuyên lưu ngày đó thật lâu xa, hơn bốn trăm năm trải qua ba triều đại, tuy phong dời chính đổi mà mở mang đó chẳng khác, há chẳng vì hóa của riêng đi tuyệt có nhật dụng ở luyện dần, phong của thanh ước không hại ở Long Bình ư? Nên Vương giả cung mình chẳng tiếc, tiếc ở thiếu nhà, Sa-môn gìn giữ chân chẳng tự nghi ở dối đời, nương lấy thông sinh lý vật ở Vương giả, khảo các lý về thật như gia luận, ba là đức âm chẳng thể xong rồi, tuy muốn vâng đáp, lời sắp không gửi, còn lấy làm công cao là chẳng thưởng, ân tuệ sâu là quên tạ, tuy là một bái một khởi, cũng đâu đủ đáp đức của tế thông ư? Công cuộn nhìn chưa sót bèn thấy đợi hỏi, liền dẫn bày ngu hẹp chẳng khiến hiềm ở chỗ kính phụng. Mong chẳng vì người phế lời, đến bạch phản trắc, hoàn mật lo sợ tội chết. Hoàn Huyền cật nạn. Đã chỉ dạy rằng: Sa-môn tuy ý sâu ở kính nà chẳng lấy cúi mình làm lễ, vậy hỏi rằng: Kính của Sa-môn, há đều lược hình còn tâm, sám hối lễ bái cũng dốc ở sự, Thầy của viện kịp đợi nơi Thượng tọa cùng người đời bái quỳ, chỉ vì tiểu dị chế đó. Đã chẳng thể quên hình đối với kia, chợt nghi thức đối với đây? Vả lại, làm lý của sư lấy giúp ngộ làm đức, quân đạo thông sinh thì lý nên ở gốc, nghóa ở ba, há chẳng phải cực của tình lý ư? Đã chỉ dạy rằng: Vua ở nước ngoài, không ai chẳng giáng lễ, vì đạo còn thì quý, chẳng vì nước làm khinh trọng. Hỏi rằng: Vua ở nước ngoài chẳng nên ví dụ, mà hưng khởi của Phật giáo ý chỉ đó cũng có thể biết, há chẳng dùng sáu nghóa kiêu cường, chẳng phải chỗ hóa của thường giáo, nên bày lớn linh kỳ khiến cho sợ phục, đã sợ phục đó, sau mới thuận theo khuôn phép, đây đều là vốn sợ quỷ thần, việc của phước báo, đâu là y cứ đạo diệu huyền ư? Đạo còn thì quý, e khác với nhã chỉ, đâu được đắp pháp phục, bèn đạo còn trong đó, nếu dùng đạo còn sau đó làm quý, y cứ như ông nói, đạo của bậc Thánh là cùng cực của đạo, kính của vua tôi là thuần dốc ở lễ, như thế thì Sa-môn chẳng kính đâu được lấy đạo làm quý ư? Vừa rồi nói: Trải qua hơn bốn trăm năm và cả ba triều đại mà mở mang chẳng khác, há chẳng vì hóa của riêng dứt có nhật dụng ở luyện dần, phong cách của thánh ước không hại đối với Long Bình ư? Hỏi rằng: Các đời chẳng đổi thay, chẳng phải chỗ lấy làm chứng, ngày xưa người Tấn xem thường không thờ Phật, đồ chúng Sa-môn đều là các người Hồ. Vả lại, Vương giả cùng đó chẳng tiếp, nên có chỗ nhậm tình phương tục, chẳng vì đó xem xét. Nay chúa thượng thờ Phật, thân tiếp Pháp sự, sự khác với xưa, làm sao có thể chẳng khiến lễ đó có chuẩn, nhật dụng thanh ước có giúp cho giáo đều như ông nói, đây bởi là công của Phật pháp, chẳng phải chỗ lợi ích của Sa-môn ngạo dối. Nay dốc lấy cầu kính e rằng không được nhiệt tình giúp đỡ. Đã chỉ bày rằng: Công cao mà chẳng thưởng, ân sâu mà quên tạ, tuy là một bái một khởi đâu đủ đáp ân của tế thông? Hỏi rằng: Lý chí không đáp, thật Như lai dạy, nhưng tình còn võng cực thì kính tự theo đó, đây là lý do bậc Thánh duyên theo tình mà chế lễ, mà đều chung gửi. Nếu vì công sâu ân nặng, hẳn lược tạ đó, thì đức của Thích-ca là sâu hay cạn ư? Nếu cạn thì chẳng nên vì tiểu đạo mà loạn Đại luân. Nếu sau thì đâu được kia trang nghiêm cung kính đó mà đây dứt kính đó ư? - Vương Lệnh đáp Hoàn Huyền. Hỏi rằng kính của Sa-môn đâu đều bỏ hình còn tâm, sám hối lễ bái cũng dốc ở sự phải không? Đáp: Đạo Sa-môn tự lấy kính làm chính, nhưng bến đường đã khác, nghóa không giáng khuất, nên tuy trọng hình của thiên thuộc, lễ đều cùng tận. Sa-môn sở dó suy tông sư trưởng tự sùng kính nhua là vì tông trí đã đồng thì già trẻ đều thứ lớp, tự thông có hệ thì sự cùng tâm ứng, nguyên Phật pháp tuy thoáng rộng mà chẳng bỏ sót điều thiện nhỏ, công của một phần, báo cũng ứng theo, chưa mảy may thành núi, nghóa đây rõ ràng. Hỏi rằng quân đạo thông sinh thì lý nêu tại gốc, nghóa ở ba đâu chẳng phải cực của tình lý ư? Đáp: Quân đạo thông sinh thì lý đồng tạo hóa. Phàm, luyện đục phô khí, công thì mở mang, mà chưa có tạ ân ở chỗ bẩm để cảm ở lý gốc đó sao, vì gốc mờ u dứt, chẳng phải chỗ nêu của vật tượng, vận thông lý diệu, đâu phải năng đáp của vết thô. Vì vậy Phu tử nói: Có thể khiến lý do, chẳng thể khiến biết, là nghóa này. Hỏi rằng: Vua của nước ngoài, chú giải phải chỗ nên ví dụ, sự hưng khởi của Phật giáo, y chỉ đó có thể biết. Đâu chẳng vì sáu di kiêu cường, chẳng phải chỗ hóa của thường giáo. Nên thiết lớn linh kỳ, kh- iến đó sợ phục. Đáp: Phàm, thần đạo lập giáo thật khó dùng lời nói, ý lấy làn thiết lớn linh kỳ, nêu bày báo ứng, đây là thật lý rất ảnh hưởng, căn yếu của Phật giáo, nay nếu cho ba đời là luống dối, tội phước là kh- iếp sợ, thì chỗ nói của Thích-ca, gần như không nương cậy, thường lấy làm hóa của Chu Khổng cứu sự thậm tệ đó, nên nói vết tận ở một đời mà chẳng mở đường muôn kiếp, nhưng xa dò ý chỉ đó cũng thường có thể tìm, hiếu để nhân nghóa rõ chẳng mưu mà tự đồng, sinh sát của bốn mùa thì tâm thấy của căng từ, lại thuộc ức trọng do đó hỏi, cũng dường như có ý chỉ sâu, chỉ giáo tâm đã khác nên xứ này thường mê mờ. Lắng tónh mà cầu, gần như là vậy ư? Gần như là vậy ư? Hỏi rằng: Kính của vua tôi thuần dốc ở lễ, như thế thì Sa-môn chẳng kính đâu được lấy đạo còn làm quý ư? Xin đáp: Lại tìm Cao luận, lấy làm quân đạo vận thông, lý đồng ba lớn. Vì vậy, điều trước đã thô nói ý lấy làm đạo của vua người, trộm đồng cao chỉ. Cần như kính của vua tôi thì lý tận danh giáo, nay Sa-môn đã chẳng làm tôi Vương hầu nên kính cùng đó phế bỏ. Hỏi rằng: Lịch đại chẳng đổi thay chẳng phải sở dó làm chứng. Ngày xưa người Tấn xem thường không thờ Phật, đồ chúng Sa-môn đều là các Hồ. Vả lại, Vương giả cùng đó chẳng tiếp, nên có thể mặc tình phương tục đó chẳng vì đó xét. Xin đáp: Trước sở dó nói trải qua có niên đại là, chánh vì đạo của dung dưỡng, vì cần phải có dùng, chẳng phải gọi là việc đã vậy, không thể sửa đổi ở lý, đây bởi nói chỗ đến của thế, chẳng phải chỗ y cứ của họa vẽ, nên người chẳng tiếp Vương giả, lại như cao xướng chẳng luận của đời trước, có lẽ ở đây ư? Hỏi rằng: Đây bởi là công của Phật pháp, chẳng phải chỗ lợi ích của Sa-môn ngạo dối. Nay dốc dùng cầu kính, sắp không càng đượm nồng giúp đó ư? Đáp rằng: Kính tìm luận lại, là chẳng lừa dối Phật lý. chỉ vết của ngạo dối có thiếu đại hóa, thật Như lai răn dạy! Thật Như lai răn dạy! Ý nói là đạo Sa-môn có thể được gọi khác mà chẳng phải ngạo dối, nay nếu cuối của ngàn năm, thuần phong trở thành mỏng manh, ha- ïng hoạnh phục phần nhiều chẳng phải người ấy là, dám chẳng ôm thẹn, nay chỉ nói là từ lý mà im lặng, như có thể bỏ sót người mà nói đạo. Đáp trước rằng: Chẳng vì người mà khinh trọng ý nhỏ nhiệm ở đây. Hỏi rằng: Nếu vì công sâu ân nặng sẽ bỏ tạ đó thì đức của Thích- ca là sâu hay cạn? Nếu cạn thì chẳng nên vì tiểu đạo mà loạn đại luân, nếu sâu thì đâu được kia cung kính đó mà đây bỏ kính ư? Xin đáp: Vì đạo của Thích-ca sâu thì vậy, mà người chiêm ngưỡng càng dốc kính là, do đây luân của tạo đạo này hẳn giúp hành công, cái đẹp của hành công chẳng chuộng ở đây, như nay bèn chứa nhóm sở nhân của hành, then chốt của đời sau. Vả lại chính kính sư trưởng công còn khó ép, huống chi là phỏng tâm tông cực mà có thể tiếm lễ ư? Nên tuy cúi ngước nhiều kiếp mà chẳng gọi là Tạ ân! - Hoàn Huyền lại cật nạn. Xét nêu bày vẫn chưa giải thích chỗ nghi. Nhân đến cáo lại thô có cật nạn đó. Lý của tình kính đâu dung có hai, đều là từ trong để kịp đến ngoài. Đã vào cảnh của phải tình thì chẳng thể không được. Nếu Như lai nói: Vương giả đồng với tạo hóa, chưa có Tạ ân đối với chỗ bẩm để cảm ở gốc lý, là công huyền lý sâu chẳng đâu lớn bằng đây, thì sự hóa độ của Phật lấy gì hơn đây mà luận xưa nay chép: Bến đường đã khác thì nghóa không giáng khuất, tông trí đã đồng thì già trẻ thứ lớp, tư thông có hệ thì sự với ứng tâm, nếu lý ở mình, vốn đức sâu ở cực, đâu được nói khác của bến đường mà nói giáng khuất ư? Tông trí là gì? Nếu lấy học nghiệp làm tông trí, thì sở học của học, nên là phát tánh của tự nhiên, nếu tự nhiên có ở nguyên do mà bẩm thì gốc của tự nhiên ở đâu sẽ biết. Ngộ của tư thông lại là phát ánh ở ngọn, sự ứng với tâm sao được ở đây mà chẳng ở kia? Lại nói: Hóa của Chu Khổng cứu sự thậm tệ, nên tận ở một đời mà chẳng mở đường của muôn kiếp. Hễ dùng thần kỳ làm hóa thì giáo đó dễ thực hành, khác ở dốc dùng nhân nghóa tận ở nhân sự. Vì vậy, bọn Hoàng cân yêu hoặc đều đến như mây, nếu đây là thật lý, thì thực hành dễ, bậc Thánh vì sao bỏ thật đạo của chỗ dễ mà làm việc ngọn của khó hành, đó là chẳng đúng? Cũng đã rõ, hay lấy hóa giáo khác tục, lý ở quyền tế, bàn nói của lộng dối thú hướng có thể biết. Lại nói: Kính của vua tôi, lý tận danh giáo, nay Sa-môn đã chẳng làm tôi Vương hầu, nên kính cùng đó phế sao làm đó. Lý của kính, đã nói rõ trên giấy, kính của vua tôi đều là chỗ sinh của tự nhiên. Lý dốc ở tình gốc, đâu là sự của danh giáo ư? Luận trước đã nói: Đức lớn của trời đất gọi là sinh, thông sinh lý còn ở Vương giả. Nếu chỗ thông ở đây, sao đây chẳng phải chỗ trọng của tự nhiên ư? Lại nói luân của tạo đạo phải giúp công hành, chứa sở nhân của hành là then chốt của đời sau, phỏng tâm tông cực chẳng thể thế kính ù, tuy cúi ngước nhiều kiếp mà chẳng gọi là tạ ân, xin lại y cứ ý chỉ nêu lại mà mượn lấy làm cật nạn, Như lai cáo, kính đó là hạnh đầu, là trọng của kính, công hạnh là phải tính nhọc của làm công, sao được lấy ngay quý ngưỡng Thích-ca nói chẳng chuộng ở đây ư? Ân tuệ không chỗ tạ, chỗ người đạt giả không lầm hoặc, chỉ lý căn sâu cực, tình kính chẳng thể không được, kính vua cả bề tôi đâu tạ ân đó ư? Vương Lệnh lại đáp Hoàn Huyền. Vâng phụng cáo văn và lại cật nạn, đủ tiếp nhận cao chỉ, lý này nhỏ nhiệm, rất khó đặt để lời nói. Lại, việc lớn của một đời ứng thời biết rõ, Hạ quan tài chẳng phải nhổ tối giữ thiếu nghiên cứu chiết Trung. Vả lại, diệu nạn ràng đến càng thêm mờ hoặc, chỉ vì cao chỉ đã đến chẳng dám im lặng, bèn lại dẫn đoản kiến đó vọng đáp lại hối, không dùng khải phát dung trí, chỉ dùng phản trắc, mong lại hỏi các đạo nhân thông tài hết chẳng đợi đó, ông nói: Tông trí là gì? Nếu lấy học nghiệp làm tông trí, thì sở học của học nên phát tánh của tự nhiên. Nếu tự nhiên có ở nguyên do mà bẩm thì gốc của tự nhiên ở đâu sẽ biết. Nay lấy làm tông trí là, là chí đạo của chỗ thú hướng. Học nghiệp là nôm lưới của nhật dụng, nay sắp muốn thú hướng chí cực kia chẳng được chẳng mượn nôm lưới để tự vận dụng. Nên biết công của chỗ mượn chưa là bặt xứ. Phàm chứa học dùng cực đó là hẳn thềm thô để đến diệu, được cá thì nôm phế, lý thấy ở đây, ông cho rằng sự hóa độ của thần kỳ dễ, công của nhân nghóa khó, bậc Thánh có gì bỏ thật đạo của chỗ dễ mà làm việc ngọn của khó lành, đó là chẳng đúng? Cũng rõ ràng. Ý cho là giáo của Phật cùng thánh bên trong hẳn khác, đã nói khác lý thì không đều, nay luận Phật lý nên phải y cứ tông đó mà lập ngôn, nhưng sau đường thông bít có thể được rõ ràng. Đáp ở trước sở dó nói: Hành của nhân lành là ý chỉ của bất sát, đó nếu tợ thể đồng là nên dẫn để đến đây. Còn như mở lời chống luận chỗ bến đường về, nên khó được làm một, nhưng chỗ ngu ý thấy là lại cho rằng Phật giáo là khó. Vì sao nói thế? Vì nay điều nội thánh nói lấy làm ra lời đó khéo ứng như ảnh hưởng, như đó chẳng thiện ngàn dặm xa, như đây thì thiện ác lẽ ra trong chốc lát, họa phước giao nhau trước mắt. Vả lại, làm nhân do mình, mở mang đó thì bỏ chánh tức tà, trái đạo mà theo ham muốn, huống chi Phật giáo dụ một đời như búng ngón tay, quan trọng là ở nhiều kiếp. Nói không địa vị của linh dị, bày báo ứng khi chưa hiện điềm, lấy đó có thể tin, cũng chẳng khó ư? Vì vậy hóa đến Trung quốc ngộ đó là ít, nên kinh Bản Khởi chép: “Chánh ngôn dường như trái lại, chính là nghóa này. Ông nói: Hành công là phải tính nhọc của làm công, sao được lấy ngay quý ngưỡng Thích-ca mà nói chẳng chuộng ở đây ư? Xin thử nói rằng: Vì Phật đạo rộng sâu, sự số càng nhiều, có thể dùng luyện thần thành đạo, chẳng phải chỉ một việc. Còn như ở tâm không nhọc ở sự năng nhọc quý ngưỡng tông cực, bèn là một của hành công, đáp ở trước sở dó nói: Chẳng chuộng ở đây, là tự cho rằng phỏng vết tâm tông, lý đó khó chuộng, chẳng gọi là sự của lễ bái. Bèn là không lấy, chỉ đã ở vực của chưa tận, chẳng được chẳng có tâm của mong thông, tuy nhỏ nhẹ của một phần, hẳn trọn chỗ cần của mong đó, ông nói kính của vua tôi đều là chỗ sinh của tự nhiên, lý dốc ở tình bản, đâu là sự của danh giáo ư? Kính vái cao luận, chẳng cho không trống, vì thế đáp ở trước nói: Đạo của vua người trộm đồng cao chỉ là ý ở đây. Còn như kính của vua tôi, sự tận tiếp bái, nên cho đây là danh giáo, chẳng phải gọi là khoảng tận của cùng nhau ở hình vết. Xin lại trình bày để tận ý nhỏ nhiệm. Phàm, đời Thái Thượng, vua tôi đã phân vị, tự nhiên tình ái thì nghóa rõ ở gốc hóa mãi đến thời nay, thì hình kính chẳng thèm nghe, quân đạo hư vận, nên lý của cùng vọng hưng thái, thần (tôi) đạo ngầm luyện, nên sự cùng tận ở biết đủ, do đây mà suy, hình kính chẳng với có ảnh hưởng tâm, gàn như rõ ràng, thân dự đã sinh, lễ này mới hưng, há chẳng phải chế của hậu thánh, làm sự cùng thời ứng đó ư? Lý này hư xa, bởi cật nạn mà làm biện, như thế chưa thỏa đáng, xin đợi cao chuộng. Hoàn Huyền lại gửi thư cho Vương Lệnh. Vừa rồi cật nạn, v.v… tay bút rất đẹp, rất là văn vẻ, có thể dùng để giải thích điều nghi, mà chỉ là chưa đến, bèn cùng kích nạn chưa thấy đó thôi, nay lại phân biệt rõ lý ở ba, để biện đối khinh trọng, thì lý của kính hay không sẽ biết, tưởng công của nghiên vi hẳn ở khổ chiết, tám ngày đã đến nay gửi thư cho Phải Bộc Xạ, khiến thi hành đạo của kinh sự tôn chủ, khiến thiên hạ không ai chẳng kính, tuy là Phật đạo không lấy thêm tôn đó, há chẳng tận thiện ư? Sự tuy đã hành không dự chỗ luận nên rốt ráo, tưởng các người hoặc lại có tinh chiết, có thể để bày trọng văn. Hoàn Huyền lại cật nạn. Vừa rồi được bày lại, và chỗ luận của các vị đều chưa có để giải thích điều nghi, y cứ mà cật nạn, gần như lưu chuyển, nay lại trình bày ý trước mà quanh co, tưởng Túc hạ có dùng đến dây của ngựa trắng, biết có của biện chế. Chỗ coi trọng của Phật giáo hoàn toàn lấy thần làm quý, cho nên thầy trò y cứ nhau, chẳng có hai luân, phàm sáng tối của thần đều có bổn phận, chỗ nhờ của phận là bẩm thọ có gốc, làm công của thầy ở nơi phát ngộ, thí như kinh phác mà oánh phất. Nếu chất chẳng phải là ngọc đẹp thì mài giũa đâu ích gì, đó là tốt xấu còn ở tự nhiên. Đức sâu ở vốn nơi lúc đầu, công của phất oánh thật đã ở ngọn, đã ôm ngọc ở trong, lại thợ làm thành đồ dùng, chẳng phải quân đạo (đạo vua) thì không dùng bày, bèn nay mà thông làm đạo đó. Vì là trọng của ba mà thầy là cuối. Vì sao nói vậy? Đạo vua gồm thầy, mà thầy gồm vua, giáo dùng để mở mang pháp dùng để cứu giúp, là đạo của vua, há chẳng đúng ư? Há có thể vì khinh ở lý mà đoạt kính của nên tôn? Ba là lý đó, hơn chỗ nghi sợ, ý chỉ của chế tác sẽ ở kia mà chẳng ở đây, nhầm mà dùng, tệ đó càng quá lắm. Tưởng là lãnh thú hướng mà quý sự, được đó trên ao. Vương Lệnh lại đáp Hoàn Huyền. Lại Khuyết Gia Hối nói: Làm giáo của Phật lấy thần làm quý, sáng tối của thần, đều có bổn phận, làm lý của thầy là ở phát ngộ. Còn như đạo vua thì có thể dùng bày, bèn đời này chung làm đạo đó. Bày làm thầy, không đẹp của gồm thông, vua có gồm đức của thầy, hoằng sùng chủ đó. Đại lễ chiết sâu cạn ở ba, thật như Cao Luận. Hạ quan gần đây sở dó thốt lời hẹp thấy đến nơi qua lại, duyên nhìn lại hỏi đã um tùm mà chẳng cho có ẩn, mới lại thành riêng biện một lý, chẳng phải chỉ lầm hoặc của tập thường, đã nghiên cứu lại diệu chì, lý thật rộng xa, thoáng như phát mông, đó là ở đâu? Nhân đã bảo Dữu hằng thi hành sự chí kính, thời định công tư, may lắm hạ quan chiêm ngưỡng, chỗ ngộ nghóa ở kích tiết, đến nơi răn bảo trên ao, chẳng dám đương đầu vâng mạng. <詞>PHÁP SƯ TUỆ VIỄN Ở LÔ SƠN ĐÁP THƯ CỦA HOÀN HUYỀN NÓI VỀ SA MÔN CHẲNG NÊN KÍNH VƯƠNG GIẢ (VÀ HAI THƯ CỦA HOÀN HUYỀN) Thư của Hoàn Huyền gửi Pháp sư Tuệ Viễn. Sa-môn chẳng kính Vương giả, đã là chỗ tình chẳng rõ, với lý lại là chỗ chưa hiểu, việc lớn một đời, chẳng thể khiến cho thể đó chẳng thỏa đáng, vừa rồi Bát Tọa có gửi thư, nay bày tỏ cùng ông, ông hãy nêu lý do chẳng, kính ở đây thực hành việc đó, một vài khiến rõ sai tưởng, ông phải có để giải thích chỗ nghi ngờ. Vương Lệnh Quân rất có nhậm ý này, gần đây cũng cùng đến Tạ Trung, tạn mặt hỏi nhau đó, chỗ y cứ lý khác chưa giải thích điều nghi. Nay Quách Giang Châu lấy lời ông đáp, có thể giao ý chỉ cho. Pháp sư Tuệ Viễn đáp. Xét biệt cáo và thư của Bát Tòa, hỏi lý do Sa-môn chẳng kính vương giả, ý nghóa ở tôn chủ sùng thượng, xa còn danh thể, nêu dẫn họ Lão đồng Vương hầu ở ba đại, để giúp sinh đạo của vận thông, nên phải trọng thần khí, nếu suy gốc đó để tìm nguồn đều bẩm khí ở lưỡng nghi, thọ hình ở cha mẹ, thì dùng của đời đời vận thông hoằng tư, còn lý nhật dụng làm đại, nên chẳng nên thọ đức mà bỏ sót lễù, đượm ân tuệ đó mà phế kính, đây là chỗ y cứ của Đàn Việt lập ý, bần đạo cũng chẳng khác đối với sự nghó nhớ cao xa, cầu đó ở Phật giáo, để tìm đạo lý của Sa- môn thì chẳng đúng. Vì sao? Vì điều mà kinh Phật nói, gồm có hai khoa: Một là ở tục hoằng giáo; hai là xuất gia tu đạo. Ở tục thì lễ của phụng thượng kính của tôn thân, nghóa của trung hiếu, phô diễn tại văn kinh, huấn của ở ba nói rõ ở thánh điển. Đây cùng vương chế đồng mạng có như phù khế, điều này hoàn toàn được Đàn Việt rõ biết, lý chẳng được khác, xuất gia thì là khách của phương ngoài, vết bặt ở nơi vật đó là giáo. Đạt hoạn lụy duyên ở có thân, chẳng còn thân để dứt hoạn, biết nhiều đời do bẩm hóa, chẳng thuận hóa để cầu tông, cầu tông chẳng do thuận hóa, nên chẳng coi trọng sự giúp của vận thông. Dứt hoạn chẳng do ở còn thân, nên chẳng quý ở lợi ích của sinh dày, lý này trái với thế gian, đạo đó ngược với thế tục, vì thế người xuất gia đều ẩn cư để cầu chí, biến tục để đạt đạo, biến tục thì phục chương, chẳng được đồng thể với thế điển ẩn cư thì nên cao chuộng vết đó, như vậy thì cứu vớt được thế tục trong dòng chìm, nhổ căn sâu tối ở nhiều kiếp, xa thông bến của ba thừa, rộng mở đường của trời người, cho nên trong trái với tụng của Thiên thuộc mà chẳng trái với hiếu đó, ngoài thiếu cung của phụng chủ mà chẳng mất kính. Nếu người này tự thề bắt đầu từ lúc cắt vất trâm tóc, lập chí thành ở tuổi già, như nay một bậc toàn đức thì đạo đượm cả sáu thân, thấm khắp thiên hạ, tuy chẳng ở địa vị Vương hầu, hẳn đã hợp khế hoàng cực giúp đỡ sinh dân. Như thế đâu ngồi thọ nhận đức đó, luống đượm ân huệ đó cùng bậc hiền của hộ lộc đồng hưởng không đó? Đàn Việt hoặc là có phục mà không có người, nên lắng trong giản luyện, dung mà chẳng tạp, mạng này đã tuyên, trăm người đều thành thật, toại đó càng sâu, chẳng phải chỗ nói dụ, nếu là mở vết của xuất xứ để hoằng đạo của phương ngoài, thì kẻ hư câm ôm lấy di phong, hạng súc dòng vị bến thừa đó. Nếu sau của lắng chọn còn chẳng xứng tình, trong đó hoặc Châu Ngụy mạo phạm nhau, kinh vị chưa phân, thì có thể dùng đạo phế người, chẳng nên vì người phế đạo. Dùng đạo phế người thì nên bỏ phục, vì người phế đạo thì nên còn lễ đó, lễ còn thì ý chỉ của chế giáo có thể tìm, vết phế thì hân hoan cuả toại chí chẳng nhân do, lấy gì để nói rõ? Sa-môn phục chương pháp dụng tuy chẳng phải điển của sáu đời, tự là khác chế của đạo gia, danh khí của ngoài tục, danh khí xen lẫn nhau thì sự gốc đó, sự trái gốc đó thì lễ mất dụng. Cho nên kẻ mến phu lễ hẳn chẳng thiếu danh khí. Được thì chẳng thể thiếu cũng có từ xưa đến. Xa vâng cổ điển là nếu còn khí dương của cáo sóc, khí còn thì có thể còn lễ, đâu sánh cới pháp phục Như lai ư? Suy đây mà nói tuy không đạo đó thì nên còn lễ đó, lễ còn thì pháp có thể mở mang pháp có thể mở mang thì đạo có thể tìm. Đây là đại pháp xưa nay chỗ đồng chẳng đổi khác. Lại ca sa chẳng phải phục của triều tông, bình bát chẳng phải khí của lang miếu. Quân quốc khác dung, nhung hoa chẳng tạp. Người cắt tóc hủy mình, chợt bỏ lễ của các hạ thì là voi của khác loại lẫn nhau, cũng trộm chỗ chưa an, Đàn Việt vận kỳ, nổi bất từ tuổi trẻ, phong lưu xa nơi cuối tục, còn tham cứu thời hiền để cầu trúng, đây mà suy đó hẳn chẳng vì người phế lời, bần đạo tuổi đã già nua, mượn ngày tháng để đợi chỗ tiếc của tận tình, đâu còn một mình cẩu thả keo lận chỗ chấp. Bởi muốn cho Tam bảo hưng thạnh ở vận của mạng thế, minh đức tỏa thơm ở sau trăm đời, nếu một mai hành Phật giáo này chìm mất, đại pháp của Như lai từ đây diệt sạch, người trời cảm thán, đạo tục đổi tâm, bần đạo chỗ sâu thật mong mỏi sao mà an cậy. Duyên cuộn gặp lớn mạnh, nên thản bày chỗ hoài mong, cầm bút buồn xót bất chợt lệ trào hoen mi. Hoàn Huyền đáp thư của Pháp sư Tuệ Viễn. (và chiếu vua dừng việc Sa-môn kính lễ) Biết vì phương ngoài bỏ sót hình nên chẳng quý ích lợi của chúng sanh. Cầu tông mà chẳng do thuận hóa nên chẳng trọng tư của vận thông. Lại nói: Trong trái trọng của thiên thuộc mà chẳng trái hiếu, nhân thiếu cung của phụng chủ mà chẳng mất kính. Nếu Như lai nói lý vốn không trọng thì không duyên có tình của chí hiếu, sự chẳng phải giúp thông, chẳng nên còn có nghóa của trí kính, tình của vua và cha chấp thuận đó chưa tận, thì chỗ cậy của tình làm sao là dứt đó? Lụy mắc ở tâm, vướng kẹt chẳng do hình kính, hình kính bởi là chỗ dụng của tâm, nếu là ở gốc đó mà giả sử dùng hình kính, đây là chỗ chưa dụ. Lại nói Phật giáo mở mang cả hai, cũng có giáo của ở tục, hoặc thấm khắp thiên hạ, đạo đượm sáu thân, phải dùng hợp tán hoàng cực mà chẳng luống đượm đức. Phật giáo còn hành đều dùng sự ứng nhân duyên có gốc, phải đến không sai, như thế thì người hành đạo cũng nào trái ư? Cho nên đạo của Thích-ca chẳng thể vượt bến cầu Bạch tịnh, tuy chưa đắc Tu-đà, cho nên đồng là chỗ mong của người cả nước, y cứ lời Như lai nói đây tự có đạo, công của đức sâu hẳn chẳng phải chỗ của nay gọi là thích nghi giáo là chỗ có thể phỏng bàn, vừa rồi nêu bày chưa thể cùng cầu lý đó, nêu khiến rất bùi ngùi. Cho nên chưa dụ đó, tưởng chẳng lầm hoặc trệ của lưu thường, mà nhầm dụng của tình lý. <詞>HOÀN SỞ BAN SẮC CHẤP THUẬN SA MÔN CHẲNG KÍNH LỄ Môn hạ đối với Phật khắp sâu rộng chẳng thể rõ, suy tình của dốc chí đó, nên lắng yên cùng kính. Nay sự đã ở mình, nếu chỗ chẳng rõ tạm phải lắng yên theo lược, các vị đừng nên lễ nữa. Bèn đều có thể khiến nghe biết. Ngày mồng ba tháng mười hai. Thị Trung thần (tôi) nối tiếp cấp - sự - hoàng - môn - thị - trung thần (tôi) Viên khác Chi nói: Chiếu thư như trên thần đạo mờ tối, thánh chiếu sâu xa, chỗ bệ hạ mở mang là rất viên đãi, đạo nhân thờ Phật vậy. Dân cả nước không ai chẳng phải tôi của vua, mà vì hướng hóa pháp phục bèn chống kháng lễ của muôn thừa, chỗ ngu tình chưa an. Lễ của bái khởi đâu thiếu đạo đó. Đại luân tôn ty chẳng nên đều phế, nếu chấp thuận ngoài của danh giáo, thiếu nghi bái kính, thì xin một đoạn dẫn thấy khải có thể ghi biết. Kính cẩn khải trình, duyên gì vậy, bèn nên vâng chiếu. Ngày mồng bốn tháng mười hai niên hiệu Thái Hanh thứ hai, Môn hạ Thông sự - lệnh – sử thần Mã Phạm, Thị Trung thần Tự Chi nói: Khải trình sự trong được Minh Chiếu, Sùng Chí của xung ấp, che đạo của khiêm quang, ngu tình cuộn cuộn trộm có chưa an. Trị đạo tuy khác, trí lý đồng về. Tôn vua tôn thân, giáo pháp chẳng trái. Lão Tử nói bốn đại là một tôn. Chỗ Sa-môn tiếp nối tuy khác vết mà chẳng vượt đời, đâu được chẳng đồng với dân trời, bệ hạ thật muốn mở mang đó ở trên, nhưng lễ của thấp cao, điển của kinh trị, Ngu cho rằng nên duỗi thuận các tâm, mãi mãi làm pháp thức cho tương lai, xin như chỗ có trình trước, kính cẩn khải trình. Đặt để đó khiến tự mình cũng là gồm mến chín dòng, đều toại đạo đó. Thị - trung - tế - tửu - thần Tự Chi nói: Lại được sắc chiếu như trên, bệ hạ chí đức viên hư, khiến thổi muôn vàn tự mình chín dòng mỗi theo tốt đẹp, bày tối và cực trí, linh đượm u lưu. Vô tư chẳng sợ, các phương sở dó giúp chung trời, người sở dó giao sướng thần (tôi) nghe Phật giáo dùng thần tuệ làm gốc, dẫn đạt làm công, từ đây trở lại, bởi là dụng của kiệm thô, thần lý vời xa, tìm đó ở hình mình, mà trên là chí thành chính túc bái khởi, không thiếu ở trì giới. Nếu hành đạo chẳng mất làm cung đó, phép vua đều kính ở khắp nơi. Đạo hiền đều lớn mạnh, trong ngoài đều được. Thần (tôi) trước thọ ngoại nhậm, nghe tiếp sơ đoản, mới chẳng biết xuân trước đã có Minh luận, gần đây sắc chiếu, bèn dốc ngu tình, chẳng sợ xứng hợp, trở lại đây mới thấy này đã trải qua thần bút, tông trí vời xa, lý chiết nhỏ vời, chẳng phải chỗ thần (tôi) dốt nát có thể khen ngợi, Sa-môn chống lễ, đời trước đã hành, nay sáng lớn đã lên, đạo hóa không ngoài, khắp nước đại luân không thể có thiếu, xin như chỗ khải trình ở trước, nhiếp ngoài thi hành, kính cẩn khải trình. Từ khi có trong ngoài đều mở rộng là, sao đó đối với dùng lý đời trước mà khanh khư khư tiếc rẻ? Lại chẳng phải khen ngợi đạo đó. Thị - trung - tế - tửu - thần (tôi) Từ Chi nói: Lại vâng sắc chiếu, từ khi có trong ngoài đầu mở mang là thánh chỉ sâu thông, đạo suốt trăm vua, cúi đọc ngưỡng tán, người cạn kịp chẳng phải được tôn chủ cầu pháp là tiết của hạ thần, vì vậy cuồn cuộn thường chấp chỗ giữ, minh chiếu vượt xa lược thường đều, thần (tôi) tối tăm chẳng đạt, tìm dùng thẹn sợ bèn vâng sắc chiếu giao ngoài nhiếp vâng theo, kính cẩn khải trình. Ngày hai mươi bốn tháng mười hai niên hiệu Nguyên Trị năm thứ nhất kính dâng. <詞>PHÁP SƯ TUỆ VIỄN Ở LÔ SƠN GỬI THƯ CHO HOÀN HUYỀN NÓI VỀ PHÂN BIỆT SA MÔN (VÀ THƯ CỦA HOÀN HUYỀN) - Hoàn Huyền phụ chính muốn sa thải chúng tăng và Liêu thuộc giáo. Thần đạo mịt mờ, chỗ mà bậc Thánh chẳng nói nhưng chỉ chế tác chỗ mở mang đó như sắp có thể thấy, chỗ Phật quý vô vi, ân cần ở nơi dứt dục, mà so sánh lấn lướt bèn mất đạo đó. Kinh đô tranh giành, xa xỉ hoang dâm, vẻ vang lăng xăng nơi triều chợ, thiên phủ vì đó mà nghiêng úp, danh khí vì dơ nhuốc, lánh dịch chung ở trăm dặm, bắt trốn doanh nơi chùa miếu, cho đến một huyện, mấy ngàn bèn thành gian truân lưu lạc. Lạc ấp nhóm họp những kẻ dạo ăn, khắp nơi chứa nhóm hạng chẳng ràng buộc, đây sở dó thương trị hại chính vẩn dục Phật giáo, hẳn đã đây kia đều tệ, thật bẩn phong quỹ vậy, bèn có thể nghiêm hạ tại chỗ các Sa-môn có thể bày thuật kính cáo, xướng nói nghóa lý, hoặc cấm hành tu chỉnh phụng giới không thiếu, luôn làm A-luyện Nhã là hoặc ở núi rừng dưỡng chí, chẳng doanh sự lưu tục là đều đủ để tuyên gủi đại giữ hóa, cũng sở dó bày vật, dùng Đạo mở mang dạy bảo làm khuôn phép, may gồm trong ngoài. Đó hoặc có trái với đây là, thảy đạo bãi đuổi, tại chỗ lãnh hộ tịch đó nghiêm vì đó chế, chóng bày dưới đó và nêu trên vậy, chỉ Lô Sơn là nơi các bậc đạo đức nương ở, chẳng ở lệ của tìm chọn. - Pháp sư Tuệ Viễn gửi thư cho Hoàn Thái Úy nói về phân biệt Sa-môn. Phật giáo bị lấn lướt uế tạp đã lâu ngày, mỗi lần nghó tới buồn giận đầy lòng, thường sợ vận ra chẳng phải ý, lẫn lộn đắm chìm. Đây sở dó đêm trước than sợ quên ngủ và ăn. Thấy Đàn Việt lắng lọc các đạo nhân dạy, thật xứng bản tâm, sông Kinh dùng sông Vị phân thì đục trong khác dòng, cong dùng thẳng ngay thì kẻ bất nhân tự xa, suy đây mà nói: Phù mạng đã hành thì hai lý đây được, nhưng lệnh tiết Ngụy lấy dâng đó, tự bặt nơi đường của xa thông, tin đạo mến chân là không còn chê ghét phụ tục, như đây thì đạo đời đều hưng, Tam bảo lại thạnh ở nay. Bần đạo sở dó gửi mạng Giang Nam, muốn gá có đạo để còn chí nghiệp, thạnh suy của nghiệp do người, gặp đang năm của Đàn Việt thì thật vận của bần đạo Trung hưng, chỗ u tình gá đã ngầm đó ở xưa. Vì vậy thư sớ trước sau tạm dùng nhờ gửi làm đầu, mỗi lúc tìm cáo ủy cuộn lòng chẳng quên, chỉ sợ tuổi trái với thời, chẳng tận hóa của Đàn việt hưng thạnh. Nay muốn thưa hỏi vài điều, như ở biệt sớ, chỗ kinh giáo mở gồm có ba khoa: Một là thiền tư vào vi; hai là phúng vị di điển; ba là xây dựng phước nghiệp, ba khoa thật khác, đều lấy luật hành làm gốc, Đàn Việt gần đây chế tợ đại đồng với đây là chỗ chẳng nghi, hoặc có người tạo phước, bên trong chẳng hủy cấm mà vết chẳng phải A-luyện- nhã, hoặc phần nhiều tụng kinh phúng vịnh chẳng dứt mà chẳng thể thỏa sướng nghóa lý, hoặc tuổi đã già lớn tuy không có ba khoa để ghi nhớ, mà thể tánh trinh chánh chẳng phạm lỗi lớn, hạng người như vậy đều là chỗ nghi, nay tìm lệ của Đàn Việt xua đuổi chẳng nên hỏi đây, mà vật ngoài sợ nhầm chẳng dám tự yên, nên dùng thưa riêng: Hình vết dễ xét mà chân ngụy khó phân biệt, tự chẳng phải xa xét tin được là khó, nếu Sa-môn ở đô ấp, trải qua thấy nghe của Đàn Việt, hẳn không chỗ nghi, nếu bên cục xa ty nhận biết chẳng kịp xa thì chưa đạt giáo chỉ, hoặc nhân phù mạng lạm nơi người lành, đây rất là lo sâu, nếu quan sở tại chấp pháp, chỗ ý chưa rõ, và thời không trước mong, Sa-môn có thể dùng cầu trúng được, khiến tấu đến đại phủ dùng kinh cao xét thì với lý là hoằng tưởng Đàn Việt thần lự đã được ở tâm, ngay là tình của bần đạo thường gần, nên chẳng thể chẳng kịp. Nếu có dòng họ con em vốn chẳng phải dịch môn, hoặc nhiều đời kính thờ Đại pháp, hoặc nhỏ bé mà thiên ngộ, muốn bỏ tục vào đạo cầu làm Sa-môn, suy lệ tìm ý tợ chẳng lấp bít đường trong sạch, nhưng cần phải hỏi định khiến tẩy tâm hướng vị thì không còn là tâm tự nghi, xưa kia, các vua nước ngoài phần nhiều, tham hoài thánh điển, cũng có vị nhân thời giúp hoằng đại hóa đỡ nguy cứu tệ tin có từ xưa đến nay. Đàn Việt thường mong người thời xưa, nên lại lược nêu điều đã nghe. <詞>PHÁP SƯ CHI ĐẠO LÂM GỬI THƯ CHO HOÀN HUYỀN NÓI VỀ CHÂU PHÙ CẦU DANH TỊCH SA MÔN Ngày mồng năm tháng tư niên hiệu Long An thứ ba, khắp kinh ấp các Sa-môn, v.v… cúi đầu trình bạch, tiêu cực có tông thì ngưỡng đến chí cực, Lý khế thần minh thì gội tẩy càng sâu, nên Ni phụ tố thất, Nhan thị lưu luyến, đâu chẳng vì đạo lớn đức thạnh, đi thẳng quên trở lại ư? Bần đạo, v.v… tuy người phàm hạnh bạc, kính thờ Tam bảo, mến tự thiên chí, tin chẳng đợi tập, chỉ ngày tổn công đức vỗ tâm thêm giận, nhờ thánh chủ triết vương lại tự thân mở đạo, được khiến người ở núi sính nghiệp, kẻ nương thành nhàn đạo, duyên hoàng đượm rộng, rưới cây khô được tươi, nhưng Sa-môn ở đời như thuyền rỗng giữa nơi hang lớn, họ đến chẳng vì sự lùi cũng nương nhàn, trong bốn biển trọn tự không có vườn nhà, nước loạn thì chống gậy dạo riêng, đạo hợp thì hân hoan nhóm họp, sở dó từ xa mà đến, bởi có lý do. Sắp khua bủa lưới nơi cuối đời, bày tâm thành ở trăm kiếp, mà vừa rồi từng bị Châu Phù tìm cầu danh tịch, tiển thiết rất gấp, chưa ngộ cao chỉ, người quê mùa dễ sợ, âu lo thật sâu, bèn khiến thiền nhân mất lắng, cần só phế hạnh, mất tinh dứt khí, đến sáng sớm chẳng ngủ, đòi vậy chẳng biết lấy gì tự an, cúi mong minh công quạt gió Đường ở thượng vị, đãi bạch túc ở dưới, khiến mến mộ đạo được giúp có chí đều toàn, thì thân mất thể tận, dốc mạng với đây, trời nghe xa khác, hoặc chưa phân biệt, kính cẩn trình dâng, cúi tìm sợ dứt. <詞>THÍCH ĐẠO THẠNH CHÙA THIÊN BẢO KHẢI TẤU VIỆC HOÀNG ĐẾ TỀ VÕ NÓI VỀ KIỂM THỬ TĂNG Sa-môn Thích Đạo Thạnh ở chùa Thiên Bảo kính khải trình: Xưa Trọng Ni nuôi dưỡng ba ngàn học trò, người học thiên văn thì đội mũ tròn, kẻ học địa lý thì mang giầy vuông, Sở Trang Chu đến Ai Công nói là: Thầm nghe nước này có người biết thiên văn, địa lý chẳng ít, xin thử đó. Ai công liền tuyên lệnh trong nước người biết thiên văn thì đội mũ tròn, người biết địa lý thì mang giày vuông đến nhà, chỉ có một mình Khổng Khâu đến cửa không gì chẳng đối, nên biết các người khác đều là trộm phục. Đức Thích-ca ra đời giảng nói Bốn đế sáu độ, chế giới oai nghi, Xá-lợi-phất, v.v… đều đắc A-la-hán. Nên biết đại pháp chẳng phải không có tông, nhưng từ đó đến nay lại, căn cơ người chuyển thành độn, xa bỏ đạo huyền, tập quen lầm hoặc buộc tâm, nếu năng cách ý thì hợp luật khoa, chẳng vậy thì đều là kẻ trộm phục, cúi mong bệ hạ, thánh minh rộng thứ, lý này chẳng đến. Phàm phu cầu đạo của bậc Thánh, xưa kia Quảnh Tử Sản xưng rằng: Đại hiền còn chẳng thể thâu mất, vì bày chỗ chứng vui mừng dèm chê, huống chi Tỳ-kheo đời Mạt thì chẳng thâu mất? Nếu chẳng thâu mất, thì sẽ khởi tâm ác, ba quân của chùa lấy gì để kham mạng. Nước có điển hình mong ban ở chỗ y tội trị phạt, may có thể chẳng loạn thánh đức, Đạo Thạnh tôi tuy già bệnh nhưng xa kính mến bảng gỗ dám bày tấu trình, cúi đầu giấy đổ mồ hôi, kính cẩn khải trình.  HOẰNG MINH TẬP <卷>QUYỂN 13 Hy Gia Tân kính vâng pháp yếu. Nhan Diên Chi đình cáo hai chương. Vương Cai nhật nguyệt chúc. **** <詞>HY GIA TÂN KÍNH VÂNG PHÁP YẾU Ba tự quy là: Quy Phật quy mười hai bộ kinh, quy Tỳ-kheo tăng, quá khứ hiện tại và tương lai, Phật ba đời mười phương, kinh pháp ba đời mười phương, tăng ba đời mười phương, mỗi lễ bái sám hối đều dốc lòng quy mạng, và thương nhớ tất cả chúng sinh, nguyện cho đều được độ thoát, tiếng nước ngoài là Nam-mô. Hán dịch là Quy mạng; Phật, Hán dịch là giác; Tăng, Hán dịch là chúng. Năm giới: Một là chẳng giết hại, chẳng được bảo người giết, thường phải giữ chắc suốt đời; hai là chẳng trộm cướp, chẳng được dạy người trộm cướp, thường phải giữ chắc suốt đời; ba là chẳng dâm dục, chẳng được bảo người dâm dục, thường phải giử chắc suốt đời; bốn là chẳng lừa dối, chẳng được dạy người lừa dối, thường phải giữ chắc suốt đời; năm là chẳng được uống rượu, chẳng được đưa rượu cho người uống, thường phải giữ chắc suốt đời. Nếu dùng rượu làm thuốc, phải biết tính nặng nhẹ, nhưng quan trọng là chẳng được say, say có ba mươi sáu lỗi, kinh giáo lấy làm răn sâu, chẳng giết hại thì trường thọ, chẳng trộm cướp thì thường an thái, chẳng dâm dục thì thanh tịnh, chẳng lừa dối thì người thường kính tin, chẳng uống rượu thì thần lý minh trị. Đã hành năm giới thì tu mỗi năm ba tháng, mỗi tháng sáu ngày trai: Mỗi năm ba tháng trai là: Tháng giêng từ mồng một đến ngày rằm, tháng năm từ mồng một đến ngày rằm, tháng chín từ mồng một đến ngày rằm. Mỗi tháng sáu ngày trai là: Ngày mồng tám, muười bốn, rằm, hai mươi ba, hai mươi chín và ba mươi. Ngày trai đều chẳng được ăn dùng cá thịt, ăn đúng giữa ngày, đã quá nửa ngày thì mọi thứ mùi vị ngọt ngon đều chẳng được nếm, rửa tâm niệm đạo, quy mạng tam tôn, hối lỗi tự trách, hành bốn đẳng tâm, xa lìa phòng nhà, chẳng đắm sáu dục, chẳng được đánh đâïp chửi mắng, cưỡi chở trâu ngựa, cầm nắm binh trượng, vợ người, gồm bỏ hương hoa phấn sáp các thứ nghiêm sức, ngay thẳng tâm ý, chuyên ở nhu thuận. Trai là khắp vì người đã mất, hiện tại tri thức thân thuộc cùng với tất cả chúng sinh, đều phải do đây chí thành thường cùng phát tâm, tâm đã cảm phát thì thoát khỏi tội khổ, vì vậy mọi người trung hiếu chuyên tâm cố gắng, vì gần công cứu giúp, chẳng phải không ở nơi mình nên như vậy, ngày trai chỉ được chuyên việc huyền quán giảng tụng nói pháp, nếu chẳng thể thành không, phải tập sáu tư niệm, sáu tư niệm là: Niệm Phật, niệm kinh, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên. Sao gọi là niệm thiên? Mười điều thiện, bốn bình đẳng là ứng thiên hạnh. Lại phải xứng lực chỗ gắng cứu giúp chúng sinh. Mười điều thiện là: Thân chẳng sát, đạo, dâm. Ý chẳng tật, nhuế, si, miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, hai lưỡi, ác khẩu. Sao gọi là chẳng sát? Thường phải xót thương tất cả các loại nhuyễn động, tuy gặp phải khốn gấp nhưng chẳng hề hại nó. Chúng sinh ách nạn đều phải tận tâm cứu giúp, tùy đất nước đó mỗi khiến được chỗ xứng hợp, nghi có vì mình mà giết hại, đều chẳng đáng nhận. Thế nào gọi là trộm? Lấy của cải chẳng phải mình có, chẳng kể lớn nhỏ, và cả quan vị chẳng thanh liêm, đều gọi là trộm. Thế nào gọi là Dâm? Tất cả các thứ mê đắm, đều gọi là Dâm, thí sắc dục chẳng phải vợ chánh thì đều chẳng được phạm. Lại riêng trộm bất công cũng thuộc tội trộm. Nói Tật tức nghóa là ganh ghét. Thấy thiện của người, thấy người có đức, đều phải vui mừng thay, chẳng được có tâm tranh giành ganh ghét. Nói Nhuế, tức là tâm ôm ấp tức giận chưa kết bên trong. Nói si, là chẳng tin Đại pháp, nghi ngờ kinh đạo. thế nào là nói dối? Lấy không làm có, hư tạo không đầu mối, sao gọi là thêu dệt? Văn sức xảo ngôn, hay lo mà chẳng thật, sao gọi là hai lưỡi? Trái ngược khác từ, đối đây nói kia, sao gọi là ác khẩu? Nghóa là mắng chửi. Có người nói: Miệng nói việc bất thiện khiến người nương lấy làm tội, cũng là ác khẩu. Mười việc đây đều chẳng được tạm khởi ý nghó, đó là mười điều thiện, cũng gọi là mười giới, năm giới kiểm hình, mười thiện phòng tâm, sự có thưa dày, nên quả báo có nhẹ nặng. Phàm ở cảnh hữu phương, gọi chung là ba cõi, trong ba cõi, gồm có năm đường: Một là trời; hai là người; ba là súc sinh; bốn là ngạ quỷ; năm là địa ngục. Giữ đủ năm giới thì tướng người hoàn bị, đủ mười thiện thì sinh cõi trời, giữ được một giới thì cũng được làm người, người có cao thấp, hoặc thọ hoặc yểu khác nhau, đều do giới có ít nhiều, trái với mười điều thiện thì gọi là mười đều ác, mười điều ác đều phạm thì vào địa ngục chống đánh mạnh dữ, chẳng nhận trung cản, khi tâm độc bên trong tràn đầy, theo riêng khinh cấp thì hoặc đọa vào súc sinh, hoặc sinh làm rắn hổ, san tham chuyên lợi, thường khổ chẳng đủ thì đọa vào ngạ quỷ. Tội đó nếu chuyển ít mà nhiều che chở, tình riêng chẳng công thật đều đọa vào quỷ thần, tuy thọ phước nhỏ nhưng chẳng khỏi đau khổ. Đây gọi là ba đường cũng gọi là ba đường ác. Sắc đau ngứa suy nghó thức sinh tử, gọi là năm ấm. Phàm, ngoài một vật có hình để thấy, đó là sắc, mất đó thì ưu não là thống, được đó thì hân hoan là dương, chưa đến nghịch niệm là tư. Quá khứ tìm nhớ là tưởng, tâm niệm mới khởi là sinh, tưởng qua ý thức diệt là tử, từng liên quan với tâm ẩn giấu mà chẳng quên là Thức. Thức là trải qua nhiều kiếp, như mầm đó ở trong lòng, tuy mờ tối lý do, mà vướng kẹt ở căn, ngầm kết mới đầu từ mảy may cuối cùng thành núi vực. Vì vậy, người học phải chuyên thận trạng tu tập, ngũ cái: Một là tham dâm, hai là sân nhuế; ba là ngu si; bốn là tà kiến; năm là điệu hý, nói riêng đó thì: Cầu dục là tham, mê đắm là dâm, ngoài phát là sân, trong kết là nhuế, hệ nơi buộc đắm, xúc lý đảo hoặc là ngu si, nhân duyên của sinh tử thì si là cội gốc, tất cả các mê đắm đều bắt đầu từ si, địa ngục khổ khốc phần nhiều do nhuế. Trong kinh nói: Lính đánh giết người, tội đó còn nhẹ, ôm độc ngậm mưu thì nhiều kiếp càng kết, không giải thoát, sáu tình, còn gọi là sáu suy, còn gọi là sáu dục, nghóa là mắt thọ sắc, tai thọ thanh, mũi thọ hương lưỡi thọ vị, thân thọ láng mịn, tâm thọ thức, thức tức là thức ấm nói ở trên, năm ấm sáu dục là cội nguồn sinh tử, lý do của tội khổ, phương của tiêu ngự đều nói đủ trong các kinh. Trong kinh nói: Tâm làm trời, tâm làm người, tâm làm địa ngục, tâm làm súc sinh, cho đến đắc đạo cũng là tâm. Phàm lự phát nơi tâm đều niệm niệm thọ báo, tuy sự chưa đến hình mà u đối minh cấu. Phàm tình niệm tròn nhanh, chợt vậy vô gián, cơ động mảy may bèn đầy vũ trụ, tội phước hình đạo không gì chẳng do đó. Lành dữ hối lận định ở chốc lát, vì vậy người hành đạo phải riêng cẩn thận ở tâm, ngăn ngừa các suy nghó nhỏ nhiệm, lúc đầu dùng chí lý làm thành trì, thường lãnh gốc để giữ ngọn, chẳng gì sự hình chưa mê đắm mà khinh khởi tâm niệm, đâu chỉ nói ở phòng nhà mà ngàn dặm ứng đó, chẳng thấy chỗ ân thận trọng ở hình ư? Kinh Dị Xuất Thập Nhị Môn nói: Người có điều thiện thường phải che giấu, có điều ác nên khiến phô bày. tâm của quân tử, không ưa thích không chán ghét, lỗi mà không hối phải chẳng tự đắc. Nên nhậm hành tàng ở chỗ gặp, đâu có tâm ở ẩn hiển, nhưng chỗ thi vi của giáo đó là ở thường gần ư? lý trời ở nơi tội phước, ngoài rỉ thì càng nhẹ, trong kết thì càng nặng, đã dấu vết hiển ở việc người, thì có tổn hại ở minh ứng. Vả lại, phạt thiện nhọc làm, tình lớn của có sinh, nép chẳng phải văn phá, chỗ đồng của phẩm vật. Thiện hiển trước thì vết rõ bày, vết rõ bày thì tiếng tăm nhóm họp. Nếu tình hệ cản trở khuyên mà tiếng tăm nhóm tập ở ngoài, tâm của giấu lận sẽ đầy ở trong. Vả lại, quân tử của người còn là tiểu nhân của trời, huống chi nhân đức chưa đến mà danh nổi ở thật, được lệ u minh nên hẳn vậy đó, nếu chẳng đầy đủ đức thìcó chẳng khắp, ví như mà công đó thì cùng sự mà tan, nếu là tâm của phụ lý, hoài bão của khắc ghi, mà ngoài tu tình mạo để khỏi người oán, thâu nhóm tiếng tăm thế tục, thì rất lừa dối lý trời, thệ của tự nhiên được chẳng càng nặng ư? Vì vậy, Trang sinh nói: Làm điều bất thiện ở trong tối tăm, quỷ thần biết được mà giết, lại tình của người, chẳng thẹn với lý mà thẹn với vật, khiên trước thì hủy chí, hủy chí mà xấu hổ sinh. Tình còn gần lại thì tệ chẳng đến chứa, cậy chẳng bày rõ, thì trọn chẳng chừa đổi, thêm vì, trời thề bên trong thỏa đáng mà sợ bên ngoài, hiển thì “ lự muôn mối, khéo phòng càng kín, chỗ cùng năm còn, chỉ mục đích này, trời ương vật lụy trọn hẳn chóng nhóm, bởi do chẳng phòng mầm mưu lúc đầu mà núp lì chẳng phải dương thiện. Kinh Chánh Trai nói: Chỉ được nói người trăm điều thiện, chẳng được nói người một điều ác. Nói điều thiện của người tâm thiện bèn sinh, nói điều ác của người bèn khởi ý giận, ý lúc đầu tuy nhỏ, dần cùng chứa nhóm, vì vậy một điều thiện sinh cự ức muôn điều thiện, một đường ác sinh cách ức muôn điều ác. Người xưa nói: Dấy khởi của nhà binh chẳng ngoài ba đời. Trần Bình cũng nói: Ta nhiều âm mưu, con cháu chẳng xương thạnh nổi, dẫn lấy làm giáo, thật đủ để có hoằng, nhưng Tề Sở thuần di nối tiếp ở nhiều đời, Nhan Nhiễm chẳng phải hiển báo ở con cháu đời sau, đã là hiển bày đó ở sự nghiệm, chẳng đợi suy lý mà sau rõ. Vả lại cổn mất, võ nổi, mâu phụ khác hình, bốn tội chẳng kịp, trăm đời phép chung, triết vương ngự đời còn không dâm lạm, huống chi tự nhiên huyền ứng chẳng dùng tình đó, mà khiến tội phước lầm nhận thiện ác không chương, là lừa dối lý, hẳn cũng là sâu. Vả lại, Tần chế hình của thâu nô còn lấy người phạm làm chính, chủ mắc phạt đó, sau trách đến các kẻ khác, như thề chăng ngay thân mà ương gần thân thuộc, dùng đây chế pháp, đâu chỉ chỗ của thánh điển chẳng dung, hẳn cũng bày chỗ của Hàn hẳn bỏ. Vì thế, kinh Nê-hoàn chép: Cha làm bất thiện, con chẳng chịu thay, con làm bất thiện cha cũng chẳng chịu, thiện tự được phước, ác tự chịu ương, rốt ráo thay lời nói đó xứng tâm ứng lý! Dấy khởi của thế giáo,đâu chẳng dùng tình nhận, chỗ còn chẳng dừng ở mình, chỗ kịp càng rộng thì răn sợ càng sâu, vì thế ẩn lý thật ở uẩn độc, mỗi bày gần để kiểm thô tiến không thiếu ở răn khuyên mà có thích hợp ở vật, nên có những người ôm ấp đó, nên lược việc đó mà dụ lãnh sâu u chỉ, nếu là giữ văn mà chẳng thông biến đó, theo giáo mà chẳng đạt giáo tình, dùng đó ở tâm theo lý đạo cũng ngoài ư? Tội phước ở nghịch thuận nên hẳn ứng mà không sai. Nếu mờ tối đạo, thì tà chánh không vị, gá tâm không u cứ. Còn như xét đó ngay năm ấy thì tin tràn mà ít nêu, lý không lỗi trái mà sự hằng hiển trước, đâu được chẳng về các duyên xưa, suy đó ở đời sau ư? Vì vậy có tâm với lý là xét khó lừa dối ảnh hưởng, phế sự chứng mà ngầm gửi, đạt hoằng sớ của lưới trời, nên mong đó chẳng rỉ lọt, ngộ vận qua nơi vô gián, lẫn lộn muôn kiếp ở một triều, bao gồm ba đời mà huyền đồng, cốt yếu rốt cùng về nơi sẽ đến. Đâu vì hiển mờ đổi tâm, ngầm xa thay lự ư? Đây rất là căn chí của tin đầu tiên, mà chỗ tâm ng- hiệp mong sâu. Kinh Thập Nhị Môn chép: Có lúc tự chấp: Ta đoan chánh hảo, bèn tự nghó là trong thân không có gì, chỉ có gan ruột, tỳ phổi, xương máu cứt đái, có gì tốt đẹp? Lại quán trong thân người khác, xấu bày đều như vậy, nếu khởi ý san tham, phải nghó của cải châu báu sinh chẳng đem đến, chết chẳng mạng đi, mà đổi dời biến hóa sớm tối khó gìn giữ. Thân chẳng còn lâu, vật không thường chủ, nên phải tức thì ân ban tuệ, dùng của cải giúp thiếu thốn, dùng thuốc thang cứu tật bệnh, suốt ngày mừng vui chuyên lo giúp đỡ. Nếu khởi ý sân nhuế, phải rất sinh bình đẳng, gồm hộ mười giới, Sai-ma-kiệt nói: Bồ-tát sở hành, nhẫn nhục là lớn nếu mắng chửi là im lặng mà chẳng báo, nếu đánh đâïp là cam nhận mà chẳng giao, nếu sân nộ là tự tâm hướng về. Nếu hủy báng là chẳng nghó xấu ác. Kinh Pháp Cú lại chép: Tâm chịu nhục như đất, hành nhẫn như chốt cửa, đất và chốt cửa đều lấy giấu dơ nhận bẩn, suốt ngày chịu giẫm đạp. Kinh Thành Cụ nói: Kia dùng bốn lỗi gia vào mình thì giác biết lỗi của miệng, dùng lời hòa tiếng lành báo đó, chí thành chẳng trang sức, bốn lỗi là, chỗ trên gọi là hai lưỡi, ác khẩu, nói dối và thêu dệt. Kia đem điều ác đến, ta dùng thiện mà ứng, nếu tâm chẳng phải gỗ đá, lý không chẳng cảm, chỉ lo hoạn ở đó mà chẳng thường, mở rộng chẳng chứa nhóm. Nếu mỗi việc đều nghó đến nhẫn, thì hối lận tiêu ở hiện đời, phước báo hiển ở tương lai, kinh Hiền Giả Đức chép: Chỗ tâm chẳng an chưa hề thêm vật, tức gần mà nói thì đạo trung thứ, suy mà cùng cực là, nghóa bốn đẳng, bốn đẳng là gì? Tức từ, bi, hỷ, hộ. Sao gọi là Từ? Xót thương chúng sinh đồng là một vật như ta, suy mình tha thứ cho kia, nguyện khiến đều an, mến cả côn trùng, tình không đồng khác. Sao gọi là Bi? Bác ái gôm cực, mưa lệ nghiêng tâm, phải khiến công thật, ngầm trước chẳng có tâm thẳng mà thôi. Sao gọi là Hỷ? Là vui vẻ, mềm dịu, bố thí mà không hối. Sao gọi là ái hộ? Tùy theo phương tiện, gặp loài khéo cứu, bến cầu hội thông, chuyên còn cứu giúp, thực hành được bốn đẳng, ba cõi cực tôn, chỉ chưa thể ngầm tâm không điềm, thì có số hẳn rốt cùng. Vì vậy, kinh Bản Khởi chép: Các trời tuy vui nhưng phước hết cũng mất, quý cực mà đạo trời cùng địa ngục đối cửa, kinh Thành Cụ lại chép: Phước là có khổ, có tận có phiền, nhọc có qua lại, kinh Nê-hoàn chép: Năm đường không an, chỉ có vô vi là vui sướng, kinh nói hành đạo là trước phải bỏ tám việc ở đời: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, nghe điều thiện chẳng mừng, nghe điều ác chẳng sợ, tâm tin trời chắc, khuyên không để động chí, vùi căn ở trong, vật ngoài chẳng thể liên can đến sự lo lắng đó. Vả lại, chỗ gặp ở năm ấy hẳn do duyên xưa, duyên xưa vận xa, tin đồng bốn mùa, nó đến chẳng thể ngự, nó đi chẳng thể cản, hẳn phần thuận mà an, vui mà xong siêng năng thêm đạo, tập kỳ các vọng tâm hình báo đã phế, mới được rất an. Lý vốn ở tâm, mà báo rõ ở sự, như hình ngay thì bóng thẳng, tiếng hòa thì vang thuận, đây là huyền ứng tự nhiên, sao có làm đó ư? Nhưng khế tâm thần đạo, hẳn nên mong ở thông lý, chuyên còn xa trong thái hư chánh mính mà không mong ngoài giúp, chẳng thể tiếp để thấp nhàm, phải dùng tình cầu. Đây mới là then chốt để lòng,điều người học nên suy nghó vậy. Có chỗ cho rằng: Tâm niệm hẳn có báo, lý đồng ảnh hưởng, chỉ phải cầu ở mình mà thôi, hẳn không sự ở u minh, nguyên bày của kinh giáo, bởi sỡ dó ngộ thì cầu ở mình, nhưng phương của cầu mình, chẳng phải giáo thì chẳng ngộ, ngộ nhân ở giáo, thì công do thần đạo, mừng cảm phát trúng hẳn hình ở sự, cũng do ca vịnh chẳng đủ thì dùng tay múa, nhưng phụng và kính đó, bởi chỗ lý chẳng hẳn an mà chỗ tình chẳng thể phế, nên buông mình sâu hiểu giáo chỉ quên ôm mừng tưởng, sắp lấy mình dẫn vật đồng ở đông nhiều, sở dó hẳn mới giẫm nơi chí mà khiến cậy lòn có nghi ngờ. Kinh chép: Khổ sinh, khổ giả, khổ bệnh, khổ tử, khổ chét mà phải thấy mặt, khổ yêu thương mà phải chia lìa, khổ sở cầu bất đắc, gặp các khổ này thì chỉ nêu duyên đối gồm rõ ma ngụy, dùng đạt quán mở đó, dùng đẳng tâm mà quán hoằng. Vả lại, khư khư một đời có đồng qua lổ hổng, chỗ gặp tuy khác nhưng trọn về khô mục. Được mất ít nhiều, hẳn chẳng đáng chấp, gồm dùng số đường thì tâm này tự dứt. Lại nếu chưa vào đạo thì hưu thần thay dụng, tụ tan đi lại hiền ngu đồng rốt ráo. Vì vậy kinh nói: An thì có nguy, được thì có mất, hội hợp có lìa, sinh thì có tử, bởi thế thường của tự nhiên, định kỳ của hẳn đến, suy mà an đó thì không trụ chẳng dời. Duy-ma-Cật nói: Tất cả các pháp định ý sinh hình, nhưng mà điềm động ở lúc đầu sự ứng cuối cùng. Niệm khởi mà có lự dứt thì không, chỗ an của ý thì xúc gặp mà di, chỗ ngại của tình thì không đi mà dính mắc, do đây mà nói, lý do của thông bíït, tại ta mà chẳng tại vật. Nếu là sợ sinh ở tâm thì thề nương ở ngoài, thề ngoài đã nương sợ trong càng kết, nếu lo hoạn mất đó không chỗ nào chẳng đến. Vì thế trong kinh nói là lúc trượng phu sợ thì phi nhân được dịp làm hại, thật năng trụ tâm dùng lý cửa trời trong chắc, thì người quỷ không liên quan, duyên đối tự dứt, muôn phải không vì mắc, các tà chẳng thể tiếp nối. Bốn phi thường là: Một là vô thường, hai là kho, ba là không, bốn là chẳng phải thân, lớn nhỏ khác hình, gò hang khác xứ, gọi là vô thường, thạnh suy nối tiếp nhau, vui hết sẽ buồn, gọi là khổ, tất cả muôn phải trọn về nơi không, gọi đó không, thần không vườn nhà đường biến hóa chẳng dừng, gọi là chẳng phải thân. Kinh nói: Ở chốn mê hoặc thì vui giác đối hẳn là khổ, bởi suy thay rụng ở qua lại, xét vui qua thì suy đến, nên ở an lự ách, đêm sợ vinh quán. Nếu phàm sâu nơi khổ thì gọi là kiến đế, đạt có tâm thì có kẹt, có kẹt thì khổ còn, tuy quý cực trời người, vị gồm sùng cao, chỗ nương càng nặng, thương đắm càng sâu, chỗ của tình vui đối với lý càng khổ, nên trong kinh nói: Ba cõi đều khổ, không thể vui được. Lại nói: Chúng sinh năm đường cùng ở trong một ngục lớn, nếu tâm ràng buộc nơi phải thì tội phước đồng suốt, nên gọi chung ba cõi là một ngục lớn. Phật hỏi các đệ tử: Thế nào là vô thường? Một vị đáp: Một ngày chẳng thể gìn giữ, gọi là vô thường. Phật bảo chẳng phải đệ tử Phật. Một vị khác nói: Chừng khoảng bữa ăn chẳng thể gìn giữ, đó là vô thường. Phật bảo cũng chẳng phải đệ tử Phật. Một vị khác đáp: Một hơi thở ra chẳng thở vào đã qua đời sau, đó là vô thường. Phật bảo ông thật là đệ tử Phật! Vô thường hiển chứng thường ngày bày ở trước, mà muôn đời đồng về, mà chẳng hề ngộ, không an trong nháy mắt, hơi thở, gìn giữ kế trọn đời, sợ chẳng ở giao thì mỗi sự hết biếng lười, dùng đó tấn đức, thì công không che lấp, lấy đó trị tâm thì lười chỗ tập đó, vì thế người có đạo, chỉ tấc bóng mà tiếc qua, thường tự cố gắng ở roi, nghiệp sau cùng thời đua tranh, chỉ ngày chẳng đủ thì loạn niệm không nhân mà sinh, duyên đối chẳng lý do mà khởi! Sáu độ gồm: Một là thí; hai là giới; ba là nhẫn nhục; bốn là tinh tấn, măn là nhất tâm; sáu là trí tuệ, chứa nhóm mà năng tan đượm giúp chúng sinh, là thí, cẩn trọng giữ mười điều thiện, dùng thành thật đóng bít tà, là giới, phạm mà chẳng sánh, thường khéo thấp mình là nhẫn nhục, chuyên hành chỗ tập, sớm tối chẳng lười, là tinh tấn, chuyên tâm giữ ý, dùng ước liễm nhiều, là nhất tâm. Phàm năm việc hành này vì có tâm, gọi là tục độ, lãnh để gồm quên, gọi là đạo tuệ, kinh bản khởi chép: Chín mươi sáu thứ đạo thuật đều tin chỗ sự đều vui sống an, ai biết lầm hoặc. Mừng được ác mất, vui còn suy mất bởi thường của yếu đuối, kẹt chỗ có sinh cảm đồng, nhưng minh lực ngầm rụng, chẳng phải chỗ thương luyến lưu lại, đối đến mà ứng đâu chỗ trí dụng chế, vì thế người học phải quy tâm hóa gốc, lãnh quán huyền tông, vui đó quý đó các niệm tự phế, phế thì có quên, có quên thì duyên bặt, duyên báo đã bặt, sau đó nhập vào vô sinh, đã chẳng thọ sinh nên có khả năng bất tử, vì vậy, kinh Phổ Diệu chép: Không chỗ theo sinh chẳng phải chỗ chẳng sinh, ở các chỗ sinh mà không chỗ sinh, kinh Nê-hoàn chép: Tâm thức lắng nghó thì chẳng tử chẳng sinh, tâm làm giống gốc, hạnh làm đất, báo làm kết thật, tợ như gieo giống đều theo loại nó, thời đến mà sinh, chẳng thể hết được. Gieo giống mười ác, giới thiện thì báo của thọ sinh đủ ở chương trên, thêm giống bốn không như v.v… thì quý cực Thiên đạo, Bốn không và thiền vài kinh đều ghi nghóa đó, từ tầng trời thứ nhất đến tầng trời thứ hai mươi tám, tùy sự hành đó, phước chuyển tăng gấp boiä, gieo giống thiền Phi thường, đều trái với Đế, đắm trước không thì đắc La-hán Nê-hoàn, chẳng kî phải vi, chẳng hệ quán không, gặp lý mà ngầm không chấp không cậy là không chỗ gieo giống. Đã không chỗ gieo giống nên chẳng thọ báo, rỗng rang huyền phế là Nê-hoàn của Phật, Nê-hoàn, Hán dịch là Vô vi, cũng gọi là Diệt độ, Duy-ma Cật nói: Lục sư kia nói: Ỷ là Đạo, theo sư đó là trú các kiến, là đọa biên tế là về tám nạn, chẳng được lìa đạo sinh tử, tuy huyền tâm thường tập mà ngay đó vi động, còn đều sáu sư kia đồng kẹt một phải, huống chi tham sinh cậy tưởng, chấp ta giữ hóa, tuy là phước theo núi sông, quý cực ba cõi, cậy cực xoay quanh, trọn rơi vào tội khổ, đâu được yên thần đại tạo, mênh mông cao rộng ư? Phàm sinh thì có tình, thế trời dẫn đến, chẳng nhất định ở thiện thì ở nơi ác. Vì vậy, mới đầu hành đạo là phải có cậy. Sở nhân của cậy hẳn nhân nơi phải, sở tư của là giúp ở phiền, vì vậy trong kinh nói: Muốn ở trong không tạo lập cung thất, thì chẳng bao giờ thành, lấy cõi nước Phật là chẳng phải ở không, nhưng mà năm độ bốn đẳng mới đầu chưa thể phế, chỉ phải tức sự dụng đó mà bỏ kỷ tâm đó, về nơi Phật thì không giải nơi Phật, về nơi giới thì không giải nơi giới, thì thiền đế cùng năm ấm đều ngầm, ngọn dụng cùng gốc quán đồng hết, tuy là các hạnh gồm bày, hẳn là không trung hành không, hoặc lấy làm không thì không hành, hành thì chẳng phải không. Đã có hành không mới mất không ư? không là tên gọi của quên lòng, chẳng phải nghóa của phủ nhà chẳng phải thật không. Còn không thì kẹt bít, có thật là có, cả hai quên thì huyền giải. Nhưng có không do nơi tấc vuông, mà không hệ ở vật bên ngoài, khí tượng tuy bày ở sự dụng, cảm dứt thì lý ngầm, đâu diệt có mà sau không, thềm tổn để đến hết ư, do đây mà nói: Có hẳn chẳng phải kẹt, kẹt có thì trái tông, ngược dòng về gốc thì tự sướng. Vì vậy, Khai só hành sâu gồm dùng một quán, đạt thường minh của muôn tượng, nương chỗ ngụ mà huyền, lãnh biết trước không của lai lý, luôn được đó ở đồng rốt ráo, ngộ không điềm của bốn sắc, thuận bản tế mà đều phế, xét dự nhiên của các quán, nên tuy hành mà chẳng phải vết, Kinh Phương Đẳng sâu đều hết một, ba đời mà chưa thường, gọi là thấy ở làm phải thì ý chỉ không trung hành không nay thấy. <詞>ĐÌNH CÁO HAI CHƯƠNG CỦA NHAN QUANG LỘC DIÊN CHI Đạt thấy đồng thiện, thông biện khác khoa: Một là ngôn đạo; hai là nói về Tâm; ba là hiệu lý. Nói Đạo là; gốc đó ở trời, nói tâm là bàn đó ở người, hiệu lý là lấy đó ở vật, theo mà riêng đó, theo lối lẫn bày, cần mà hội đó, rốt cùng có thể một. Phàm như kinh của Huyền Thần, thuyết của cùng minh, nghóa gồm ba mối, đến không hai cực, chỉ nói ra phạm phương, nên thấy phỏng thế học, sự khởi khác luân, nên được chẳng phải tình thường, phú đạo của trời chẳng phải hoa khương hồ, bẩm linh của người đâu hạn cục trong ngoài, một dùng tư duy này, có thể không nghó tưởng rọc. Hành đạo là bởi xuất xứ từ pháp tiên, nên lấy luyện hình làm trên, sùng Phật là vốn ở Thần giáo, nên lấy trị tâm làm trước. Nhà của luyện hình hẳn y cứ sâu rộng, phản bay linh hầu chu thạch lạp chi tinh, sở dó trở lại tuổi tức già, trải hoa chú thể, muốn cho thể hợp huân ráng khuôn khắp trời biển, đây là sở trường đó, và Ngụy là làm đó thì kî ở sùng thô nguyện lẫn, só nữ loạn yêu chánh đây là sâu mọt lớn. Thuật trị tâm, hẳn từ thân, chợt bít thân tánh sư tịnh, giác tín duyên mạng. Sở dó trái một vô sinh, khắc thành thánh nghiệp. Trí xa đại minh, chí hẹp nhiều kiếp. Đây chỗ đó quý, và dối trá là đó thì nhờ cắt tóc, lờn tinh hoa, dựa vinh thanh, mưu lợi luận, đây rất lừa dối. Vật có chẳng vậy, sự không trọn tệ. Cân đá bày thường, ngày còn lo hoạn sai lầm. Huống chi Thần đạo chẳng có hình, hẳn chỗ mượn của các mối chưa thể thế nhập thần mà chẳng nghi thần là vô, lấy làm linh tánh kín nhiệm, có thể dùng chứa lý mà biết, hồng biến chợt nhiên có thể dùng đại thuận đợi chiếu như gương, thiên túc như nhìn vực thẳm, năng dùng lý thuận làm người là có thể cùng nói có thần. Nếu là không chân mà trách tệ đó là chưa thêm tâm chiếu. <詞>NHẬT CHÚC CỦA VƯƠNG CAI Tìm điển của chí đạo, sướng nguồn của sinh tử, nêu báo thiện ác, mở bến lăng hóa, huấn giới minh bạch, lũ la đầy đủ. Nhưng tin lời chẳng đẹp, văn nhiều từ rộng. Lụy mờ bặt tối, lắm vực cách sóng. Vì vậy, người học chưa được môn đó, hoặc chưa lưu ý, tạm nhặt âm xa của hàm trì, vừa làm khác gần của làng xóm, mượn Tiểu thông Đại thảng có thể tiếp tục, giúp trời tỏa sáng gọi là Nhật chúc. Luyện hoằng cáo của tiên giác, mở huyền quản ở linh môn khắp thái hư để dạo ngắm, cứu mênh mông mà không bờ, thế che đất ở phương tục, trời mũ tròn ở đậy bồn, xa vời vợi của ba cõi, dựng khói ấm của hai khí, tìm bản ngầm của đại tạo, lường căn sâu của hóa dục. Hình mượn bốn đại mà bọt tan, thần diệu muôn vật mà thường còn, kia đạt phần của dân tốt, nên buồn sống mà vui hồn, phàm luân của hàm khí, thần đó vô phương. Loại nhuyễn động chất đó vô thường, cậy như thế nước, gá như lửa sáng. Tùy hành quyến luyến thay khô đổi thơm, qua lại vào ra mênh mang mang, biển lớn xoay dòng, đại biến luân hồi, nương sóng xa nổi, cứu đến sao thềm, uyển chuyển trong ba đường, chìm kẹt giữa tám nạn, xót không kỳ của mong khiếu, thương có về của dung làm, ngắm có thể chóng của sùng đức, soi nên chậm của nhóm dữ. Đây dễ thấy thành việc, chẳng phải động vi của tiên kiến, năm phước khởi ở dẫm phải, sáu cực dựng ở đạp quấy, lý cảm tự nhiên, ngầm đối huyền ngưng, phước chừ ai tạo họa chừ ai gây, nước vận chung thấp, nhân đạo xấu ghét, thề nhân chứa nhiều, phước duyên khiêm thăng, trẻ nhỏ chánh mà quỷ lùi, trượng phu tà mà mî lấn, xét lượng ngẫu của hình thanh, xét song trưng của hưu cữu. Lý gieo tư duy mà hợp khế, vết trông mắt mà tương ưng, như ôm khuôn của vòng tròn, tợ phụ dây của thẳng góc, thương khuyển ra nơi đế phục, Hoàng Hùng hỏi ở thánh tử, bèn trưng hóa mà chẳng cứu, sao nói y cậy của thiên thuộc, thực cầu phước ở mình, tin ở mình của con người, tư thứ hớp chẳng phải thường, biết chợt đi sao dừng, kia thập ngập của phi nhân, đâu chỗ mới đầu của không khí, buồn chết yểu của uyển luyến, lại gá sinh ở voi heo, xưa kia nuôi dưỡng mà ôm ấp, nay giết mổ để làm lễ. Thần ở diệu mà thường ngã, hình thọ biến mà đổi thể, chưa một tuần mà quên nhau, có thể than dài mà rơi lệ, phàm xiển ngu đều như vậy. Chẳng phải riêng mày của người ấy, xét ít mang ở loại tốt, ngộ sinh nhiều ở sâu trùng, dụ linh lâm đó còn mong, như đổ gạo của đãy phước, dùng thường ngày làm ồn náo, ai biết phục mà đạt nương, chẳng phải năng lường của tình tôi. Lầm nghe đó vì như vậy, như phàm tộc của ngã đặt mịt mờ dời sinh, binh phong đã đến, chợt nhiên ngầm chinh, thần đạo tuy tối, quỷ pháp rất sáng, bồi hồi trung ấm sinh thành sắt kia, đêm dứt mong tha, ngày không ánh linh thân tạo chuồng của tránh ngạc, chân đạp sân của lửa than, núi Dao Sương vút ma chứa nhọn, rừng kiếm vuốt nhọn mà túc tinh, lò đồng sùng sục như biển vọt, vac lớn sóng tràn mà sấm gầm. Diêm vương lãnh duyệt, lính tốt bên cạnh cầm xoa, ba lặc một phẩy, trăm ngàn lưới lụy, chẩm chẩm bén mổ hoàng hoàng lửa xe, đinh nhọn sao chổi giảo cẩu ngưng răng, dâm đồ cháy tiêu ở huyễn trụ, tù đói khô nát nơi cát bụi, nhờ linh chất của khinh diệu, càng dễ thêm của đau giết, trọn phiền oán cả cùng kiếp, sao có thể qua tàn khốc này, ba sáu lưới vút chẳng thể xé lũ, ngàn điều khác kịch, muôn mối khác khổ, chẳng phải thở giằng mà chẳng qua, bỗng chốc bèn đến mà quên nhà, tôi lược một triều nói đó, sắp trọn năm mà chấn sở, bèn có năm đức không vết, mười thục đạo toàn, tịch dương khổ qua, mừng lên chín trời, điện báu sáng rực, cao dựng hư huyền, phòng quỳnh gồm trăm, nhà dao xoa ngàn, cửa vàng rực rỡ, sáng của thủy tinh, lối ngọc ánh ngời mới của lưu ly, cây châu bày bên cạnh đường, oanh phụng hót trên cành nhánh, hoa thơm xinh đẹp mà tươi vẻ, gió hương linh tỏa mà bay khói, tưởng áo vẻ thề để che thân, nghó ăn thơm dùng đầy trước, kia là dài xa của hy hòa, trọn một ngày mà muôn năm, không việc làm vì can tánh, thường thong dong với tự nhiên, ánh ngời rực rỡ của nhụy, xa bày vùn vụt của nhẹ dất, rốt chí lạc của diệu âm, cùng ca vời của phải sinh. Bỏ đời hẹp hòi mà lên giúp, bạn vượt thường đó mà cao đổi, nhưng phàm hưởng đức cũ này, nhật dụng ngọc thực, khuyết thổ chẳng mảy lông, không bày mầm mống, chứa nhóm tuy nhiều, đâu có chẳng hết, linh vận tuy tu trọn về diệt, ba tai nổi dậy mà cung nhà tiêu tan, bảy chứng đến mà lộc trời dứt, hội thu lớn để khảo, không riêng của rơi lộn nấm thung. Vì vậy, Đức Như lai Đại thánh ba đạt chiếu suốt, thương ta khốn mờ, hiểu rõ đạo yếu, thiện quyền lệ lạc, hoặc thô hoặc diệu, như vận chảy của biển cả, như tỏa sáng của ngày trời, thượng só hư hoài quên lời đó, trung tài trinh chí chấp giáo đó, giáo không định phương, vừa vật sở do, dùng xe đến đất, dùng thuyền dạo nước, phô bày, v.v… rộng thuật vằng vặc, quynh chưa lấp đến ba trăm, cần chỉ tại nơi một u, nắm cổ lưới của lụy huyền, xua lòng mắt ở lưới cừu, lồng rộng đại huấn mở trí phần của ta, tri không gì chẳng đều, chất có lợi độn, hư đi thật về, mỗi đủ tấc vuông, ngu dốt đều dụ, rồng quỷ đều hóa, muôn đường rậm về một do Bát-nhã, thí như kia vượt biển chẳng phải thuyền chẳng qua, ruổi muôn động nơi đạo tràng, rốt cùng vô vi mà dứt giá, vốn phàm mới đầu của ba thừa đồng về một không, tài chiếu đều khác thấu đạt dụng so le, ứng chân quên có mà cầu không, bèn đắm không mà vui vẻ, Duyên giác thật lụy ở biết vi, bèn đổi huyền mà chẳng ở, tuy vết diệu đó lại mất, như có đuổi mà chưa rỗng, khai só giải vật ở đều hết, làm không còn đó sao trừ, ngộ đó chợt ở soi trước, rõ đó ngầm ở ý đầu, lý lại sâu mà dứt vận, trù khắc thực mà nghiệp nhiều, từ cổ tại xưa dân trước có gặp rành rành râm ngời tự thâu thọ thánh dụ, chăm chăm mọi nơi, người tai mắt ngưỡng tiếng ho, hoặc phát mông ở một họ, hoặc đổi mặt ở một mớm, đều do lời nói mà sau hóa, chưa có người mà chẳng độ, Thiện Thệ mãi đến nay đạo vận trở nên suy, đại giáo tuy còn, vị đó thường hiếm, chiên đàn với đồng mùi liệu tô, dạ quang cùng Tập diệu đều ngời, ở dân vượt đời, tông thể huyền chỉ, vui trốn núi đầm, nhân cảm hổ hủy, hộ công lắng tịch đạo đức sâu đẹp, vi ngâm cốc sâu suối khô đượm nước, thiếu tẩu lên tiêu, vệ độ hệ quỹ đều đạm bạc ở vô sinh, đều thoát hài ở bất tử, nay thì chi tử đặc tú lãnh nắm huyền nêu, đại nghiệp xung tử, thần phong thanh túc, một lời phát ra thì chứa kẹt vạch, ba phen bày thì lắm mở rõ, thấy đó đủ để tẩy rửa bỉ lận, nghe đó thể để rơi cân kiêu, tốn trạc chảy để vượt khế, vịnh toại mới đầu ở đông cao, vị nào sâu để gá tố,đại bảo nhẹ ở mảy lông, chỗ của đạo phong quạt rộng. Chỗ của thâm đạt tiêu dao, tài chẳng khó thì hiền chẳng quý, ngu chẳng cười thì thánh chẳng cao, tiếng xa thấy hẹp ở gần tai, ai năng quên cự ở nghe vận ư? Sao vừa chẳng phải đạo, sao đó không thần, lý có tinh thô vật có ngạn chân, lớn ở tế quân (vua nhỏ) nhỏ làm thạc thần (bề tôi lớn) loài lông lệ thuộc cách vàng, loại vảy lệ thuộc tu-luân, lưỡng nghi y cứ theo thái cực, các sao hệ ở bắc thần, vì vậy chín mươi sáu thứ cành nhánh bày nhiều, khinh đạo trọng căn đạp phế Tónh vương đều nói cùng thánh, đều chiếm một phương, hoặc dời núi mà trú dòng, hoặc chợt vậy ở còn mất, mạng vẻ đẹp của áo trời thổi mùi thơm của bếp linh, diệu thúc chấn lữ nơi hung bạo, hóa cung hóa sỏi đá ở lâm lang, kiệt quật kỳ của biến huyễn, tiếc không lớn của có đợi, đây mới là ngọt thuần của số nội, chẳng như cặn bã của chí đạo, kịp hàng của liệt tiên thứ của luyện hình, gấu qua quạ bày hô hấp thái nhất, tối hưởng du âm cùng tố nguyệt, sớm nắm ráng dương và chu nhật, xích phủ sống lâu ở cuống đan, quyên tử vụt bay nơi bánh truật, sao mong lâu thấy ở mảy thông, phong nhân nhẹ nâng ở bách thật, kia chỗ sâu của hòa dịch, đủ chi niêm mà trú chất, trong chẳng di mà ngoài y, dời lên mây mà chết mất, đều nắm đãy để cứng trứng, hẳn đồng cửa mà cùng ra, lý chưa lên ở Nhan đường, trọn bít mong ở Khổng thất, quý ở năng bay thì bướm ngài cao liệng, kỳ ở khó già thì rùa rắn phải khảo, ấy là dạo khí của nghịch lữ, chỉ đáng báu của tâm huyền, còn hình là chẳng đủ cùng luân thần, lờn tục là chưa thể cùng nói đạo. Đạo làm sao nói ư? Không hỏi không đáp, hỏi là gõ cùng, đáp là phụ trong, im đó nay thông, nói vậy thì hết, phải ở huyền châu cùng giảng đạo, tôi thành võng tượng không, nghóa là ngột nhiên vắng lặng, huyền thù có châm tông tản phù hưởng, chẳng ngộ minh âm, mong đó càng nhầm, tìm đó càng chìm, người Dónh qua đó làm thợ búa, ai bày nơm lưới nơi vực rậm, đợi cá thỏ ở sông rừng, thảm như được ý ở ngoài bàn nói, cùng mắt thấy mà phế tâm, không tạn trông đợi qua vậy, lại đây nhẫn lập hiền đạt chợt như đi đêm, ngàn sư dối hóa, điềm qua một sáu, Từ Thị mới khởi, ngưỡng mong nhân dục. Ai bảo: Số xa mù như máy mắt, dây linh tuy tới duyên chốt chẳng cùng, kia không gốc nêu, ta có đầu cuối, gá bước cuối của điện chớp, nương nghỉ trong của đá bay, biết sợ đường mà kinh cướp, mê trần dục ở trái Nhung, ngầm xa thắng mà lam gần gọi là xa kiệm mà giao phong, chẳng phòng ngại khô, cơ chưa nổi, đã linh lạc ở gió cứng, nghỉ trái mang mà lại đẹp, kết muôn hối hồ đó sung, vì vậy hạng của đại thệ đốt ngón tay xuyên đá, ngầm mong không đợi, chí cùng tâm chứa, lướt ao trí sùng vách tuệ, rút kiếm thần khua mác giới, tưởng dẫn mầm mà rộng chém, tình hướng triệu mà cắt mổ, quét sáu giặc ở rong ngực, nghỉ năm đạo mà làm hoài, khoanh mình trị trong tổng trì pháp nhẫn, ba đời đều lắng, nhất tâm chợt hết, gửi tai không rõ, ghét mắt chẳng chuẩn. Lại theo không rơi uế cùng hư rớt, rỗng vậy linh ngộ nhân quyền làm duẫn cự khắp an độ. Đại bi ai thương, gá cừ lô để hòa quang, thường dạo ở nơi ngầm sạch, nhậm thiên hành cùng vật hóa, nhưng không vết của đạp nước, mới là diệu biến thần kỳ, lý chẳng nghó bàn, Đại thiên nâng trong lòng bàn tay, hạt cải chứa cả núi Tu-di, bốn biển vườn nhà nơi lỗ chân lông, bảy báu trọn ở kiếp dời, có thể tin mà chẳng thể tìm, có thể do mà chẳng thể biết, chẳng phải chỗ tuyên của bàn vịnh, ác năng vạch của Hòa Tố, thiện ở lời của Ưu-đà. Khiến người trí đầy ở thiên hạ, người có trăm đầu, đầu có trăm lưỡi, lưỡi trăm nghóa biện tài chọn vượt, hợp người này khen đạo, vẫn muôn phần mà chưa được một, chỉ giác giác đó cùng khen ngợi mới phô sướng mà rõ hết, ví như cố hẹp hòi của ngu muội, gá cuồng giản mà ngưỡng thuật, ánh lập lòe của lửa đóm muốn thêm sáng để sánh với mặt trời đó ư? Than ôi! Linh tạng phương ngoài xa vời đản đảng, các diệu cao sâu, các sâu kín vô lượng, nhỏ thành chẳng mượn, lớn nói giăng mất, đức đất có thể dày, ở đâu chẳng có, sợ nghe hốc lớn, kinh nhìn núi cao. Hạ điển ghi chép cầm nắm, ho- ang kinh liệt ở nhà đó, chu đã đạt mà chưa tận, tin nhỏ xấu đều hài hòa, thấy bằng côn mà nêu lớn, mà chẳng thấy chim vua cùng cá mẹ. Than ôi! Việc kỳ vó chứa mượn xa mạn có thể xưng ghi, y hoàng xem đó khắp gồm đủ thám u mà thể khác, sao gần hiềm ở cát vương lại lớn dối ở lửa dệt, huống chi dưới đây mà buộc giáo hướng tới bánh quyền của Nghiêu Khổng, thường chuyên chyên mà giữ kiểm, sợ giữ vượt đạt ở sở ty, đều phế lý chứng lời chẳng xúc loại lấy ý, luống rộng lớn mà lắm dựng, lại thêm lờn mà khiến kî, ngộ ngạc vật của trí trang sức, nên gom bút mà tạm nghỉ, gởi một gốc ở ngạnh chỉ, đợi thể tin ở minh thức đó thay! <篇> <卷>QUYỂN 14 Văn Hịch Thái Sơn của Trúc Đạo Sảng. Văn Hịch Ma của Thích Trí Tónh. Văn Phá Ma Lộ bố của Thích Bảo Lâm. Lời bạt luận Hoằng Minh của Thích Tăng Hựu. **** <詞>VĂN HỊCH THÁI SƠN CỦA TRÚC ĐẠO SẢNG Sa-môn Trúc Đạo Sảng dám cáo Thái Sơn Đông nhạc thần phủ và đô lục sứ giả, bởi huyền nguyên mở phán hai nghi mới đầu phân, trên đặt toàn cơ thì dùng ba quang (ba thứ ánh sáng) để giúp, dưới bày hậu thổ thì dùng năm nhạc trấn đó, âm dương trải hóa ở tám phương, muôn vật sinh ra trong đó. Vì vậy, Thái Sơn cứ vực của Thanh long, hành hoắc ở nghi của Chư Dương, hoa dương hiển cảnh của Linh ban, hằng đại liệt khách của u võ, tung kỳ bên trong của Hoàng Xuyên. Trấn chỗ phần của bốn ngồi, đây đều bẩm khí vận không uế của tà, thần đạo tự nhiên sùng chánh chẳng ngụy, nhân che của trời, thuận chở của đất, thuần phác vuông thẳng, điềm nhiên huyền tịnh, tiến đạo mối của bốn vận, lùi giẫm tinh của năm giáo, trong ẩn vốn của thông vi, ngoài bày sáng của đạo đức, trên đạt hư vô, dưới dưỡng thương sinh, ngậm đức ngầm thông không xa đâu chẳng suốt, dạo bước chín bờ liệng quanh huyền thiếu, nên năng hình không chánh, mới đầu hô hấp âm dương, âm dương, nắm quậy trời đất, đẩy bước tám hoang. Đông nhạc là bắt đầu của long xuân, khí của thanh dương nuôi dưỡng mầm sống, vị của vua cha. Nam ky Bắc đẩu giữa hoàng chín trời, Đông vương Tây mẫu, Vô cực tiên quân, cưỡi khí phụng liệng bỏ u huyền này. Lắng ở Thái Tố chẳng ở nhân gian, rộng nêu các bẩn đạo đó tự nhiên, mà sao quỷ yêu tường, tinh vọng lượng, gá đạo Đông nhạc, mượn linh ở núi, nhân cuồng dối của du hồn, mê hoặc ngu tình của người tục, khắc tượng thần điển, ngụy lập thần hình, gốc không chỗ ghi, ngọn không chỗ qua, ngoài có khí độc hại sinh, trong thì lưu hành trăm quỷ, ngày thì cốc cơm thành thế, đêm thì các tà ở sân. Đây đều là bầy quỷ lang sói, hư thanh của kiêu trăng, từ thời Tam Hoàng mở cơ đồ truyền chuyển tới nay. Chỗ các đời sùng chưa thấy hưởng này. Nên Linh Chinh Ký nói: Thần chánh thì ngầm diệu sâu tối, trên vọt cao tượng, dưới đùa huyền thiếu, tiêu dao ảnh mây, rồng liệng tám cực, gió cuốn mưa tuôn hóa như sấm chớp, hành trù chẳng bày, trăm vị tự nhiên, ngậm từ nắm tố đượm nhuần thương sinh, ân quá hai dưỡng, tuệ như triều dương, ứng trời mà ăn chẳng hại các mạng, đây là diệu tiết của linh tường, thần đạo của thanh hư. Nếu thần chẳng chánh thì liên can đến muôn vật, nhân thời gá hưởng, truyền lầm hoặc ở tục nghe, thành trở ngại phác khơi động tâm người, dốc của cực giết, cắt đứt các mạng, uổng hại trung niên, chết cốt nhục đó, tinh thần lìa chóng, đau thương nguyên khí, thần của Đông nhạc há như vậy ư? Nên lời răn trong gối nói là: Ngậm khí xuẩn nhuyến, trăm trùng chớ mắc, không ăn trứng chim, trong có thần linh, trời nguyên thọ mạng, sân đất có hình, thô bẩm hai nghi sao có tâm hại sinh, đây đều là bản kinh trái lý nghịch đạo, muôn dân ngậm từ thuận trời chẳng giết, huống chi hại heo dê mà uống máu, lấy đây mà suy, đó chẳng phải thần. Lại Ngũ nhạc chân thần thì hầu của tinh, trên pháp định cơ, dưới cưỡi trời đất, bẩm đạo thanh hư, không âm không hưởng, kính đó chẳng dùng hoan, mạn đó chẳng dùng thích, ngàn khen muôn hủy, thần không thêm bớt, mà ngươi kiêu xưng giả, gá sinh nhân, nhân hư động khí giết hại ở miệng, thuận thì ban ân, trái thì có họa, tiến thối xiểm ngụy, không hề có phép hiền, hủy nhục chân thần, chẳng phải đạo đó. Nên Huyền Trung Ký ở kinh Hoàng La Tử chép: Hễ tự xưng là thần Sơn Nhạc thì phải là trăn rắn, tự xưng thần sông biển thì phải là cá rùa, tự xưng thần cha mẹ trời đất thì phải là chồn mèo dã thú, tự xưng thần tướng quân thì phải là gấu beo hổ báo, tự xưng thần só nhân thì đó là khỉ vượn, dã nhân v.v… tự xưng thần vườn nhà thì đó là chó dê heo trâu, cửa nhà giống táo thuộc về phá khí, quỷ mî giả hình đều xưng là thần, làm kinh khủng muôn họ, khí của dâm quỷ. Đây đều là điều mà kinh ghi, nghiệm rõ của truyện. Từ ngươi yêu tường dần vượt sáu tráii, vời lại bốn xa không gì chẳng hưởng ứng, đưa nhanh mà qua như nước nhỏ về biển, được chết là trở lại buồn kêu đầy đường, trọng là tiên vong bèn nói toán tận, khinh là dễ giáng tự xứng phước đó. Nếu khiến lại lo hoạn khó giúp thì người không ân, bệnh của Trung Dung chẳng phải chỗ ngươi cứu chữa. Hai là không công liệu, sao có thể kính thờ, mới khiến các dân gieo tâm quy mạng. Đã không có thầy giỏi thuốc tốt, chẳng phải năng hàng của tóc tan, trải qua tuần tháng không hề ảnh báo, lấy đây suy đó, có gì chứng nghiệm? Lại nữa, quốc thái nguyên hoàn vương và phong tích ý tiết của sáu nước, phụ quang của ba đài, tán hoàng gia lê không từ vui, thiên họa lầm thêm, thể mắc bệnh nhỏ, bảo là cầu của người năng cảm linh đức, nên tuyên đức tin mạng đến điện thần của ông, hiến dâng ba sinh thêm tăng quý lạ. Nếu ngươi thánh đạo thông càn thần trí diệu, sao chẳng trên trình cửu hoàng, dưới hỏi hậu thổ, xen nhóm trăm linh hiển bày diệu thuật, khiến nước nhà tốt giúp tiêu bệnh được an, đã không hưởng ứng, mới ngầm chôn xa, nghiệm luống dối này đâu đáp kính thờ ư? Lại nữa, Xưa kia, Thái Sơn thạch lập, xã dời thần linh giáng tượng tiếng xa muôn đời, đây là chỗ chiêu cảm của trời đất, hiểm làm thời tốt lành, ngươi gá xưng là thánh, đã chẳng thể giăng mây đổ mưa để biểu hiện thần đức, mưu đồ yêu tà để tổn chân đạo, chánh khiến cho ông năng chân mâm động đũa, giơ chén hết rượu, còn là quỷ huyễn, chẳng phải chân chánh, huống chi không trưng bày, nào có thần ư? Lại Thái Sơn là thống của vua Diêm-la, đất đó mờ tối, cùng đời khác linh, Đô - lục - sứ - giả giáng đồng thần đi, định bản mạng ở hoàng ký, xét đô tịch ở Thiên Tào, các ác không nhỏ nhiệm chẳng bỏ, mãi thiện bé bỏng mà không sót, gồm nhóm hồn linh, chẳng phải sinh nhân ứng phủ, mà sao tệ quỷ dối xưng ý chỉ này, hoạnh bủa nhân gian khinh gấp muôn mối, cây của rừng rậm, hoang dã của quạ thước, máy động xa gần nêu bày trong từ điển, tụ hội nam nữ tâm thọ tục, khí uế ngoài thề, tiếng kêu tỏa xa, độc chung cảnh vua làm hại quá lắm. Mây mốc che trời, các tà ngăn chánh, tự ngươi yêu dị lắm chỗ thương hại, tôi tuy ở cuối dòng đủ giẫm ba phục, thường xem kinh truyện mà thấy nghiệt này, suy xưa nghiệm nay, tà chẳng ở chánh, tôi dẫn lắm uế, sáng tỏa thánh đạo, cáo đến nghiêm câu, quỷ đảng lại đi nơi mồ mả, ăn quả uống nước suối, đường của đủ sống, đã khiến mọi người khốn đốn, dốc hết của cải, chim thú không chết trong lưới võng. Nếu là mến luyến mong ăn chẳng bỏ đi, tôi dẫn tuyên tập Tỳ-sa-thần Vương - hòa - la – tử,v.v… đem trao đồn Kim Cương, chân sư dũng võ, thu sương lấn động, ba ngàn oai mãnh khó đương đầu, dáo ngời kiếm sáng phỏng thì xô núi hàng rồng dẹp ma, không gì chẳng cúi đầu. Ông là tiểu quỷ dám xúc chạm ba quang, lông hạc vào lửa than,cá lội vạc sôi, nghiêng sông dập lửa, sương mai thấy mặt trời. Ta nghó nhân từ xót thương sở hành của ông, chiêm ách hết đây, lo thì thương tâm. chóng ở trước tôi trở lại hình gốc của ngươi lớn về muôn dặm, sóng gợn bên biển, chở nên xét ở lại rõ thuận vâng hành. <詞>VĂN HỊCH MA CỦA THÍCH TRÍ TÓNH Thích Trí Tónh cúi đầu minh tướng quân luân hạ, cùng nhau đường huyền khác bến, người trời một thống, tông sư tuy khác, ba cõi đại đồng, mỗi khuôn tốt hợp trải bày xưa chưa, mà nêu bảng chưa ngầm, do đó khiến cách, nay pháp vương ngự đời, mười phương nghó thuận, lưới lính vừa giăng giềng mối cùng that, đại thông có kỳ hạn, cao hội ở gần, chẳng nhậm kiều tưởng và thư dụ ý, phàm thời bít có thông, vận cùng thì thái, ngàn thánh theo nhau, các sư tiếp nối, xưa Hoàng tổ ta, bản nguyên thiên vương thể hóa ứng phù, rồng bay đầu vực. Cậy quyền hình để phụ muôn bang, khua búa tuệ để che sáu hợp, oai tỏa bốn tà, quét sạch ba cõi, mới đáng kháng tám khu dọc ngang, vội rút lưới nơi vũ trụ. Rộng lắng bày hoang yên một chín cõi, mà minh tông chẳng điếu, chân dung lắng tónh, sáng suốt nhiều lớp, thuyền rỗng phủ sóng, nên khiến cho nhóm kiến tà, kiêu thấy bạo khởi, nghẹn nhiễm đường chân, bụi mờ thanh chúng, tuyết chung thương sinh, độc lưu muốn kiếp, phải tình mến đạo, khác tâm đồng giận. Đấng Pháp vương của ta cưỡi vận ưng kỳ lý loạn, trên tiếp cao trụ, dưới gá tâm chúng sanh, năm cờ lớn để trùm ba ngàn, cầm thánh đồ để hưng lỏng đại nghiệp. Mây bủa bốn cung, Loan liệng Thiên-trúc, giáng thần ở Ca-duy làm thời thành hào, buông vỗ mọi người khéo an quan só, dẫn dắt các tình ủy dụ có ganh ghét, nghiêm búa tuệ nơi lòng ngực, mặc giáp thần ở ngoài thân, thương mười tám không tội, xót bặt lối của ba không, chí giúp thái ho- ang, hẳn bình lắm nạn, trăm vức ngàn bang cao phục phong hóa, nương quân chẳng kî lắm mê tự che,sâu nhiếp lòng ngu nên giữ ngụy kiến, sói chiếm trời Dục, cú kêu cửa thần, tan vỡ cương trường, chống kháng linh tiết, gọi là vị lớn có thể lên, khuôn rộng có thể đổi, xem vài ba đây, bèn là than thở, xưa kia đại thông ngự các phương ảnh phụ, có thiên ma ngụy si chẳng vâng chánh tiết. Phạm nghịch thánh nghe, bày quấy thần lự, lãnh lính bít hư, quyền hình muôn biến tinh giáp chiếu hy, sương dáo phủi vức, trống linh giành gióng, vang tỏa phương ngoài, kiểu bước cầu đất tự cho là mạnh mẽ, vương sư phấn phát, các tà chết mất, các mê đổi tâm, trông phong ảnh phục. Huống chi quân đơn tướng kiểu, mà một cõi só không phương, chúng chẳng thành lữ, mà muốn trái ngược lấn lướt hoa ấp, gôm tập linh quyền vọt xa tối thắng, lấy làm nhục chân, có thể chẳng lầm ư? Nay tức Thích-ca ở đời, đạo tỏa kiếp trước, diệu hóa mênh mông, lưới thần xa ngự, trí só đông đầy, mây bủa che đời. Võ phu rồng nhảy khống huyền muôn đội, hiệp lực ứng chân, mưu kỳ vượt trội, nên mạng khiến trì tiết, tướng quân xông trước, đô đốc Diêm-phù về nghóa hầu Tát-đà-ba-luân, riêng bẩm thiên kỳ bụi mờ gương huyền, thần cao Tu-di, khí mạnh trùm đời khéo võ kính văn trung bày cửa vua, lãnh chúng bốn mươi muôn ức, dương náo đầu đường, khiến trì tiết oai, xa đại tướng quân bốn trời đô đốc đạo lợi công. Đạo sư võ thắng nêu các văn vượt, hoằng mưu khéo giữ bặt trần, tâm gá ngoài mộng, lo thời quên thân, chí hẳn giúp đời, lãnh chúng trăm muôn ức, loan bay đường trời, khiến trì tiết đánh, ma đại tướng quân, sáu trời đô đốc, Đâu-suất vương giải thoát nguyệt, diệu tư hư huyền cao bước ngoài trần, lược đều đồng chân, công đều chín địa, xót thương ba đường, giận như tung hại, rút kiếm khẳng khái, rồng về phấn phát, lãnh chúng bốn trăm muôn ức mây về cửa trời, khiến trì tiết thông vi đại tướng quân, bảy trời đô đốc, Tứ thiền vương Kim Cương Tạng. Chất sáng ánh ngời, dáng vàng xa chiếu, ân quá cửu dương, lực nghiêng núi biển, trông phía phải thì mông phạm bay sống, nhìm phía trái thì phù tang rơi diệu. Đức không đâu chẳng chiếu, oai không đâu chẳng phục, lãnh chúng bảy trăm muôn ức hổ liếc Tu-di, khiến trì tiết trấn vực đại tướng quân, chín trời đô đốc, tám trụ vương đại Duy-ma-cật. Kỳ toán chẳng nghó, búa pháp xa khua, thể ngậm dáng thần, quyền dụ muôn biến, hô hấp thì chín phục mây theo, gặm nhấm thì mười phương gió phất. Thương hạ dân kia không tội ba sở, lãnh chúng chín trăm muôn ức ngựa uống bến hư, khiến trì tiết giám hậu. Đại tướng quân, mười ba trời Đô đốc tiểu thiên các quân sự chín trụ vương Đại Văn-thù nương trụ xa nguyên hình ngời ba cõi, nối dõi từ cung tía thần cao thể lớn, ứng vừa ngàn đường, cao tính muôn kế, các động cảm ở một thân, các lự lắng ở một niệm ôm sâu từ bi, tình gồm bốn nhiếp, lãnh chúng như bụi trần bay liệng ở đây, khiến trì tiết giúp giáo đại tướng quân, lục ma các quân sự các tà hiệu úy trung thiên vương Quán Thế Âm. Trí lược lắng sâu, búa tuệ xa động, minh đạt bốn thông, sáng soi ba cố, hoặc gá vết các tà, diệu kỳ bèn khởi, hoặc quyền hình hai chín, dứt đồ thán kia, khua tay thì thiết vi sườn núi đổ, hà hơi thì mây nổi ngùn ngụt, làm người bạn chẳng mời của muôn phương, lãnh chúng không nghó, gậy dáo hổ gầm, khiến trì tiết bố hóa đại tướng quân, ba cõi đô đốc bổ xứ vương đại Từ Thị, diệu chất tung lưới, dáng trời nêu Kiệt, thể vượt Kim Cương, tâm trùm ngoài trần, khí mạnh đường mây, búa tuệ xa khua, vô sinh chuyển trong lồng ngực, quyền trí ứng ngoài sự. Chí có khuôn phép, không đi chẳng đến, oai ân song hành chân tục đều bày. Lãnh chúng tám muôn bốn ngàn nghiêm cảnh đãi mạng, hạng của nhảy ra tràn đầy đại thiên, só của Kim Cương rộng bít tám cực, oai nghó giúp qua, chiếu cuộn sáu hợp cưỡi xe báu các độ, giữ đường tu của tám chánh, vượt ngựa linh của sáu thông, khống dây thần của hư tông, bật cung cứng của Bốn thiền, buông tên nhọn của quyền kiến, hý ngựa hoàn hoàn, nhẹ bước kiểu kiểu, vâng mạng sân thánh không hề có thiếu, đạo sư quý lang năm trăm thắng tử. Xét sâu thiên mạng lại gieo vương hóa, thánh thượng mở áo cả khí về thuận, đều trao danh tước phong thưởng liệt só, bạn công tôi cũ, tiếng tỏa muôn vực, mà ông sao tâm hoạnh sinh khác kế, rạp núp bên hoang, khuôn phép vị thường, độc hại nổi ở thương sinh, tai họa tràn ở nhiều kiếp, chẳng thể buồn ư? Chẳng thể lầm ư? Xưa, ông nhân thời mà làm chỗ vật cảm, cuồng mê tâm ông gieo ách ngoài hang, trăm hạnh một lỗi hiền đạt thường mất lâu, nghóa là ông hay biết, phản ngu pháp về tội tượng, ngụy buộc thân ném trâm, đồng dạo các tài tuấn, dùng đạo tự mừng vinh danh đầu cuối, vì sao nhiếp ngu giữ làm ở yên vị tà, gá núi Si để tự cao, cậy rừng kiến để dạo nghỉ, đắm uế trần của sáu dục, vui tà mê mà thỏa tánh, dựng phướn cao kiêu ngạo, dẫn hung trận vô minh, rộng bước đường hoang, nhẹ đùa thần khí, trộm lấy cung trời, kháng cân nhật nguyệt, sợ chẳng quả ư? Dắt tay mà ngời ba quang, nắm đất để lấp biển lớn, tuy phỏng tâm rỗng nêu việc đó khó thành, tướng quân gieo phước bến huyền bốn tiếp rộng xa, hoa mạo ngời tỏa các tình chăm mắt, cơ của vọng trụ dễ lên, công ở xưa nay đáng tiếc, ông có thể phản đi tu lại, vụt nhiên về thuận tạ quá cửa Chu, vì đạo đều tốt, nước nhà đều còn, vua tôi đồng hiển, thân danh được an, hiểu tự mê đạt quán quyến thuộc an nhiên, có thể chẳng đẹp sao? Nay vương sư khắc cử mười phương dây múa, tây nâng lưới pháp cùng múa các thánh, búa đạo ngời ở khu trước trống linh nổi ở đội sau, chuông thần một gõ mười phương nghiêng úp, sóng biển vọt bay, đất bằng nhảy lộng, ở thời nay. Núi Tu-di nhét vào một hạt bụi, trời đất xoay ở một xe, không động an nơi áo trái, diệu lạc ngời ở tay phải, thần lực như thế, đâu có thể đáng Đấng Pháp Vương ta thể đạo nhân từ, chẳng nỡ bèn noi theo, quyền dừng các quân, tạm dây đài linh. Đến đường đưa thư ngõ hầu xoay giá mê, ông có thể sớm định mưu tốt, mặt buộc về khuyết, giao mạng sân hoàng, thong dong cảnh huyền, lớn danh trong tỏa dạo hình gửi ngoài, phương trên tức nhậm, chẳng phải ông thì là ai? Phàm tuệ phải nhận biết cơ, minh quý khỏi họa, cùng mà biết phản là chỗ đẹp của quân tử, đây mới là cao thu của chuyển họa, tiết tốt của lấy công. Xưa kia, hạ kiệt vô đạo, vua ân khiến đánh, Thương trụ thủ loạn, Chu Võ lập quân. Đây tức kỳ quy của xưa nay, lời răn của tướng quân, cùng nhay tuy trái với hiện tại, nhưng phong lưu nên đồng ở đạo vị, người trời vời vợi, đâu đủ khiến cách, tưởng tiện quyền nhiên. Thông thư đến mạng, sở dó trộn đau từ đó, quanh co qua lại là chẳng muốn cho lan thơm hạ tàn, tu kha bẻ gậy, sâu nghó đặt lời, khéo tự lường tính, không khiến thân ông nghiêng giúp ba đường, chẳng khiến sáu trời khom sinh đề bại, tạo dónh liếc mắt giúp lòng sợ hái,đến đường gửi thư các tình nhiều giận, nói chẳng mượn ý. <詞>VĂN PHÁ MA LỘ BỐ CỦA THÍCH BẢO LÂM Hiền kiếp đại thiên vi trần năm, năm trược đảnh vọt sóc hiện thọ ngày trăm tuổi, khiến trì tiết Đô đốc Hằng sa thế giới các quân sự đánh ma đại tướng quân. Thứ sử Tịnh Châu thập địa vua tôi Kim Cương Ta- ïng, khiến trì tiết đô đốc tám muôn Ba-la-mật các quân sự phá kết tướng quân lãnh Ma-man hiệu úy đại tư mã, thứ sử Sở Châu Bát Địa công thần giải thoát nguyệt v.v… cúi đầu kính lễ trình dâng. Thánh triều thượng thư, kính cẩn y cứ phàm sáu hợp đồng soi của Diệu Linh, các dòng về vua của trăm hang. Muôn hóa đều không huyền, các kỳ tông ở một trí. Đây bởi lý có thống của tông cực, vật không hội của khác đường, vì vậy Như lai vượt lắm mờ tối mà riêng nổi, úy cần công ở nhiều kiếp, người cao sáng của ba đường. Nhổ nghi lớn ở mới tạo, cùng tận khu áo của thánh đức, cứu hư trí của vô sinh, xem then chốt của vật hóa, nắm nút buộc của mở đức, đến như dáng anh đỉnh đặc, thần quang rực rỡ, tuy là ngàn sáng đều chiếu hẳn đã dứt. Thân khác muôn trọng mà chẳng phải đông nhiều, thể hợp chí diệu mà chẳng phải một, ứng ra năm đường mà chẳng phải sinh, bày vào hình mất mà chẳng phải diệt. Hy Di hoảng hốt không danh không tượng, chẳng lường sâu đó, chẳng biết rộng đó, ứng các cảm mà chẳng nhọc, khắp muôn động mà thường tónh, trải Hằng sa đề chợt nhiên, vỗ tám hoang ở khoảnh khắc, lưỡng nghi đổ lấp mà chẳng di, lực phụ ngầm dời mà chẳng dịch, hớp lửa lớn mà chẳng cháy, ôm dòng lớn mà chẳng chìm, trời đất chẳng đủ để nói đức, văn huyền chẳng đủ để rõ đạo. Cự bao sáu hợp chẳng thể gọi là lớn, khéo vào Vô gián chẳng thể gọi là nhỏ, ấy mới dừng độc thương sinh, hóa gồm thỉ mẫu, vô dục vô vi mà không gì chẳng làm, bay liệng nơi đường ứng biến, tiêu dao ngoài có không. Đỉnh đạt đầu mối của các thánh, điềm đạm cảnh vực Niết-bàn, hai thừa giấu nghó ở rốt ráo của lắm quên, Thập trụ dứt lự ở cơ động tónh. Phạm vương dò hỏi để trở về đức, Đế- thích phục ứng mà chán vị. Đó là bậc thánh, cũng đã cùng cực. Từ đó ứng xa dự ghi của Định Quang, nghiệm Đồ Lục của Đại Thông. Ra khỏi năm đường mà rồng nổi, vượt đế hoàng để mạng thế. Đạo vương ba cõi, đức trùm mười phương, mấy điện Hằng sa, đô ấp Đại thiên núp thất nhàn của chín định, lên quán mây của bảy giác, rửa ao trong của tám giải, dạo vườn rộng của Tổng trì. Đó mới là ở điện của từ bi, ở tòa đồng với không, suy rồng các tốt thiên quan đảnh tướng, trái giúp dòng của Di-lặc, phải đỡ phái của Văn-thù. Trước Ca ngợi Nhã Tụng của Đại Phương, sau múa loan phất của bốn Nhiếp, dùng tám trụ gìn giữ thể rỗng thất só, dùng bốn quả hầu cận, vời vợi thông tiện, ba đài chỉ có thánh, sáu phủ chỉ có hiền, ấy mới tuyên giáo Cơ Khổng. Tể thú đường ngu, dương oai Thang Võ, châu mục Tam Hoàng. Đó là hóa, thản đường bằng tám chánh, mở bến thông của Ba thừa, bày nhà diệu vô vi, cứu khổ lớn ở trần lao, bít đường gian bá ác, mở hoan lạc ở trời người. Tước dùng vị của quả Bá, Lộc dùng hưởng của cam lộ, công lớn là thưởng dùng phong của tịnh độ, huân nhỏ là chỉ chỉ dùng an của hóa thành. Đây mới là nghiệp lớn của trăm vua, chí trị của thái bình. Năm đường là thanh triều của hoạn thân, bốn là tông cực của só vị, mà các mê gặp hiểm, trái chân rộng thoáng, mừng vui với gần đủ của bọt bóng, quên giang hồ ở xa toàn, nên ma vương ba tuần gieo ngu căn ở khoáng thỉ, chứa tâm mê ở cảnh vọng, chìm nổi sóng lớn của ba nhiễm, vào rừng rậm tà kiến, cho đến trộm lộng thần khí giả ngụy mạo chân, khoe vua cung trời, phân bày núi non chế mạng sáu trời, buông tuồng thiên oai, trong dùng ba công, các độc khanh tướng chín kết, ngoài dùng quân tướng sáu sư nhung tốt bốn binh, trong hành ương ngạnh chẳng kî hoàng hiến, tự lửa đom đóm lập lòe tranh sáng trời chiếu, nên mới khuynh là chống hành thần oai, dương binh đạo thọ, chấn lôi công tiếng sấm sét, nêu gánh vác chúng của nhả lửa. Lại trì thế khiến lầm hoặc ở tónh thất, ba-luân buồn gào ở Đô tứ. Đây đều si cuồng tung bạo thiếu ở thánh tiết, làm loạn trung hạ ngày tháng lâu dài. Thánh hoàng thương kẻ điếc mù của dân tục, buồn trẻ chết để thêm lo, dẫn chung các tà để đều thấy hợp chín dòng mà đồng bến. Từ đó, mạng dẫn hạng của thế lớn, phân biệt các loại Kim Cương, lường vàng kẻ gặm sắt, xung băng bậc của đạp lửa, lính mạnh nhiều như cát bụi, kiêu hùng muôn ức, sao dời gió động, rồng vọt cảnh ma, đặt quân sách của muôn toàn, bức cướp hoang của hẳn chết, mà ma giặc chẳng cầu, dám chấp khuấy động của man kinh, kháng trốn ngạo của tông hội, dựng cờ nơi đất của tự kiêu, kết chắc nơi hiểm của mây mê, dựa đường lắm lớp cậy lũy nhiều thứ. Vả lại hình thế đó thì núi Si cao vời, chắc trước đó nước ái mênh mông tuôn ở sau, rừng tà rậm rạp mờ bên trái, khe Si sâu thẳm đeo bên phải, lính sài của trần lao nhìn nơi cảnh giao, tướng hổ của sáu sư bước nơi đường lớn, trông như mây nổi che trời, sương lấp sáu hợp, đó là hưng thạnh, mở bít ít có, bề tôi, v.v… từ đó nương oai xa của thánh triều, ra kỳ lược của siêu đồ, che lồng của cao toán, bủa dùng vây của huyền sách, tinh kî ngàn lớp, bước lính muôn vòng, du sư che đồng trống, truân bít yếu hại, khiến tướng quân đàn na ở trước trông san huy để thẳng tiến, quân Tỳ-da ở sau rão lính lười ở sau. Thiền-na lược dạo cưỡi ở bên trái, Thi-la phòng mật gian ở bên phải. Quân ngoài hòa ca sóng cưỡi đội trên bình nguyên, chạy đợi lính ở dưới của cật quật, bày hổ lữ nơi cao tương, thiết nguy cơ ở u phục, trung quân Bát-nhã nắm diệu giám của huyền xu, cầm kỳ thuật của chiến thắng, khống hùng tướng của ức triệu, bít lính mạnh của cát bụi. Từ đó các quân hưởng ứng, muôn đường giành tiến, cảm động sáu hợp, tiếng động khắp đất trời, bậc hùng phấn oai, sóng vọt sáng của bạch nhận đoạt nơi hy diệu, tiếng của trống pháp loạn nơi sấm động, ngựa siêng dự bàn để vọt ném, voi tiến bay khống để rong ruổi, thiền cung khói dậy mà mây nổi, mũi tên tuệ mưa rưới để lưu hư, roi dùng sách của giả danh, rão vào nguồn có không, nghiên dùng tiếng rống của sư tử, thích dùng âm khổ không, huơ gươm giáo để loạn trận, động dao kiếm ở tranh đấu, thây ngổn ngang ở đồng trống, chảy huyết nhọc ở dòng dài, đổ cao vời của núi Si, kiệt dòng lớn của nước ái, cùng tiếm ở hang các kiến, bẻ cao nơi ổ bảy mạn. Từ đó, giặc ma tiến, không có dụng của kháng vảy, lùi không ẩn của mong thoát, lự tận đường cùng hồi hoàng chẳng có y cứ, ma vương mặt buộc nơi sân ma, các tướng đưa mang đến cửa quân, các thiên lôi cuộn để về hóa, hạng mê gió ruổi ở sáng đầu, hoàng oai quết sạch, như dập sớm của mặt trời, sương đổ dòng lớn để dập tắt lửa, nên khiến trốn cướp của muôn đời, đất lở ở sùng triều, xưa kia ở Trung hoa khó túc thanh ở chốc lát. Đây thật là kỳ công ở thánh hoàng thần hội, hưu liệt của nhiều đời hiển trước, tuy xưa kia Ân Thang dựng vân công ở Giao Hạ, Chu Võ quét thanh khí ở thương dã, đây mới là hùng kỳ ở thượng cổ, đâu dùng được bằng với thánh huân, bề tôi tạm vâng tuyên hoàng du, hoảng ủy phụ lúc đầu. An dùng vườn nhà đồng với không, sung dùng dòng của tám giải, phòng dùng lễ của giới thiện, tu tập phong cách của sáu độ, người già ngộ thì chân ở mới xướng. Trẻ mới đầu nghe về cùng âm. Ứng trời thuận phạt là đạo Xuân Thu, Hưng Công định loạn là chỗ đẹp của tiên vương, nguyên ác vì khách chỉ theo thánh hiến, sáu hợp đồng rõ, rỗng sạch trong nước, huyền phong xa thổi, khắp chốn hòa vui, triều đình có ca của Khương thay, thôn dã có vịnh của nhạc giao, công cao đạo lớn, chẳng phải chỗ thấy bày, thánh lự sâu mầu chẳng phải lời năng nói. Thô điều hoàng oai là phương của kỳ toán, lại nêu các quân là thế của Long Tương, điện nối sao liền kính cẩn lộ bố để trình nghe, bề tôi, v.v… thật sợ vì vỗ, Tôi nhân rảnh rổi việc giảng, tạm lại trọn ngày gá lời mượn việc, ngõ hầu rõ đại đạo, mong hạng ham mê chẳng xa mà trở lại, trong kinh nói: Niết-bàn vô sinh mà không gì chẳng sinh, chí đạo không chiếu mà không gì chẳng chiếu, đó chỉ Như lai ư? Chiến thắng chẳng nhờ công của dáo mác, lược địa chẳng vì binh mạnh thiên hạ, hoàng vương chẳng phải tôn của xử một. Bá thần chẳng phải quý của Hoàn Văn, giáo của Khâu Cơ ở đây xa. Lời của Đam Chu tợ mà chẳng đúng, nên biết tông cực còn ở ngoài tục kiến, chí tôn vương ở trong chân giám, trung hựu trù trứ ở khoảng có không. Hạ Ngu sợ cười ở cảnh của thường mê, nay ngõ hầu nhìn xem là xả tự nhiều của thu thủy Hà bá,xa dạo nơi vực thẳm Hải nhã, chẳng buộc tình ở giáo gần, mà sợ thần ở thuyết hoang đường. <詞>LỜI BẠT LUẬN HOẰNG MINH CỦA THÍCH TĂNG HỰU Tôi nhóm tập Hoằng Minh làm pháp ngự khinh, người thông Nhã Luận, thắng só diệu thuyết, đường dẹp tà phá hoặc, hào của hoằng đạo hộ pháp, cũng đã đầy đủ, nhưng người trí chẳng mê, kẻ mê trái trí. Nếu dùng pháp sâu để dẫn dắt thì chẳng thể nào lãnh hội, nên phải gồm nêu thế điển chỉ sự lấy nêu. Lời chẳng phải vinh hoa, lý về thật chất, ngõ hầu người mê lầm chẳng xa mà trở lại, gồm giải thích mọi thứ nghi ngờ nên gọi là Hoằng Minh. Luận chép: Hai đế sai khác, đạo tục từ đây phân, đạo pháp vắng lặng gồm ba cõi để đồng quán, tục giáo bít lấp, chấp một nước để hạn cục tâm. Tâm hạn cục ở một nước thì ngoài của tai mắt đều nghi ngờ, đồng quán xét ba cõi thì lý thần hóa thường chiếu, chấp nghi vì mê chiếu là chúng sinh, cho nên mãi chìm đắm. Xét rõ tục giáo và hiến chương năm kinh, chỗ tôn chỉ trời, chỗ pháp chỉ thánh, nhưng chẳng lường hình trời, chẳng thấy tâm thánh, tuy kính mà nói, còn mịt mờ chưa rõ, huống chi Phật tôn ở trời, pháp tôn ở thánh, hóa vượt trong vức, lý bặt ngoài ràng buộc, vai tôi vẫn kinh sợ với Hà Hán, tục só sao chẳng nghi hãi ở biển giác ư? Đã biển giác thì kinh hãi đồng Hà Hán, một là nghi kinh nói xa dối lớn mà không nêu, hai là nghi người chết thần diệt không có ba đời, ba là nghi chẳng chân Phật, không ích lợi với quốc trị, bốn là nghi xưa không pháp giáo, gần đây ra ở đời Hán, năm là nghi giáo ở phương Nhung chẳng phải hoa tục, sáu nghi ở thời Hán Ngụy pháp nhỏ bé đến đời Tấn mới thạnh, vì sáu điều nghi này nên tín tâm chẳng lập, sắp đắm chìm nên cứu vớt, vì vậy, so sánh mà luận. Nếu Nghi kinh nói xa dối lớn mà không nêu là vì nhiều kiếp chẳng cùng, thế giới vô biên. Đời nay đều biết ngoài trăm năm sẽ đến muôn năm, mà chẳng tin chứa nhóm biến của muôn đến nơi nhiều kiếp, là hạn cục tâm để lường tạo hóa. Đều biết ngoài của huyện lớn hẳn có bốn cực, mà chẳng tin chứa nhóm xa của cực, lại có thế giới là chấp thấy để phân chia thái hư. Xưa kia Thang hỏi Cách rằng: Trên dưới tám phương, có cùng cực chẳng? Cách đáp: Ngoài của vô cực không còn có vô cực, trong của không tận lại không còn có vô tận. Do đó trẫm biết vô cực không có cùng tận. Từ thời thượng cổ, các bậc đại liền y cứ lý huấn của thánh, ngàn năm phù khế, xa hợp với kinh, hạng nhận biết đáy giếng làm sao biết được việc khác, dùng tâm tấc vuông mưu tính thêm mình mà khiến lầm hoặc, tròng ngươi chỉ phân tròn cách vách tường chẳng thấy, mà muốn xem thường tôn kinh, trái ngược thánh nói, lừa dối nhiều kiếp không có thế giới. Đáng vì xót thương là một. Nếu nghi người chết thần diệt không có ba đời là tự lừa dối tánh linh đó mà khinh miệt, vất bỏ tổ nể, nhưng Chu Khổng chế điển, xướng nói quỷ thần, Dịch chép: Du hồn làm biến, do đó mà biết tình trạng của quỷ thần, đã tình lại tra- ïng, thì vô hình ư? Thi nói: Ba hậu ở thiên vương phối ở kinh lên linh thượng mân, đâu nói là diệt ư? Lễ nói: Hạ tôn mạng thờ quỷ kính thần, chỗ đại võ kính cầu, sao huống dối ư? Thư chép Chu Công Đại Võ nói: Phụng thờ quỷ thần, Cơ Đán cầu đáo thân thích, có thể huống dối ư? Nếu chết mà có linh thì ba đời như gương, biến hóa luân hồi, ai biết cực đó, tục só chấp lễ mà trái với năm kinh, chẳng phải thẳng lừa dối Phật mà cũng khinh thường bậc thánh. Nếu tin quỷ ở năm kinh mà nghi thần ở Phật nói, đây hẳn là hàng mù điếc. Chẳng phải chỗ bàn luận kịp, đáng nên xót thương là hai. Nếu nghi chẳng thấy chân Phật, không ích lợi cho quốc trị, thì cúng tế mong cầu cũng nên phế bỏ, vì sao? Rờn rờn chứa giữa khoảng không ai thấy dáng mạo của Thượng đế, mênh mông nhiều khối, sao biết hình của hậu tắc, dân tự thân cày cấy, xã thần lực nào, người tạo thành lũy, lạp quỷ nào công, nhưng do thạnh phí của hy sinh, nhiều người cúng tế năm được mùa, không ai chẳng vì u linh, nên tôn mà dạy dân khéo báo ư? Huống chi trí Phật khắp cùng không giới, thần ngưng ngoài vực thượng đế thành trời, duyên theo tâm từ của hun đúc đo, Thánh vương làm người nương giới của đình dục đó, sùng pháp thì sáu trời đều mừng, phế đạo thì muôn thần đều giận, nay người chẳng thấy hình trời, mà xưng tế giao có phước, chẳng thấy Kim Dung mà cho là kính thờ không báo, khinh gốc trọng ngọn, dáng nên run sợ là ba. Nếu nghi xưa không Phật giáo, gần đây ra từ thời nhà Hán. Thần hóa ẩn hiển, đâu lường đầu cuối ư? Tìm Hy Hoàng vời xa chính tích còn mất, kia có pháp giáo cũng nào được nghe, xưa Phật-Đồ-Trừng biết Lâm Truy phục thạch, có tượng cũ lộ bàn, Kiền-đà-lặc thấy bàn chí trong núi có nền móng chùa cũ, mọi người đào bới đều đúng như lời nói, đây là di trưng của muôn đời, hiển nghiệm của đời Tấn, ai phán ở thời thượng cổ hẳn không có Phật ư? Liệt tử xưng ở thời Chu mục vương, phía Tây cực có hóa nhân lại vào nước lửa xuyên vàng đá, phản núi sông dời thành ấp, cưỡi giữa hư không chẳng rơi, xúc chạm thật chẳng ngại, ngàn biến muôn hóa chẳng thể cùng cực, đã hình năng biến người, lại vừa lự của đổi người, mục vương kính đó như thờ thần như vua, xem linh tích đó mới là hóa của bậc khai só, mầm điềm đại pháp đã thấy ở đầu đời Chu, ngầm dần cảm ứng, chẳng phải bắt đầu ở đời Hán, mà bít chấp một thời, đáng nên than thở là bốn. Nếu nghi giáo tại Phương Nhung, hóa chẳng phải Hoa Hạ, thì là bậc thánh trước chấp địa vực để định giáo, chẳng phải lập giáo để dời tục. Xưa kia, Tam Hoàng vô vi, năm đế đức hóa, Bá vương lễ hình, bảy nước quyền thế, địa vực thường các hạ mà thế giáo chín biến, nay trái lại dùng nguồn chí đạo, gương dùng huấn đại trí, cảm mà bèn thông, sao đến chẳng khắp. Võ xuất xứ từ Tây Khương, Thuấn sinh ở Đông Di, ai nói địa giặc mà bỏ thánh, khâu muốn ở Di, Đam đến Tây Nhung, chỗ ở của đạo sao chọn địa vực. Phàm dùng tục thánh thiết giáo còn chẳng hệ thuộc ở Hoa Di, huống chi Phật gồm cả đại thiên đâu hạn cục hóa ở Tây Vực ư? Y cứ lễ Vương Chế nói: Bên trong bốn biển vuông ba ngàn dặm, chỗ Trung Hạ chiếm cứ cũng đã chẳng rộng, y lạc gốc hạ mà khom làm nhung khư. Ngô Sở vốn di mà vụt thành hoa ấp, Đạo có vận lưu mà địa vực không hằng hóa, Vả lại, phàm chở dầøy không lũy hoàn vực khác thống, bắc thần tây bắc, nên biết Thiên-trúc ở trung tâm, nay lấy khu phần trung thổ xưng Hoa để cách chánh pháp, tuy muốn cách bít mà thần hóa thường thông, đáng buồn lạnh đó là năm. Nếu nghi ở thời Hán Ngụy pháp nhỏ bé đến đời Tấn mới thạnh là, đạo vận sùng tiếm chưa thể cật nạn. Tìm tu Thích giáo của Sa-môn, đâu khác thuật Đường Ngu của họ Khổng? Khổng tu chỉnh năm kinh thùy phạm trăm vua, nhưng thời Xuân Thu chư hầu chẳng chịu tuân theo, chiếm phạt khinh miệt đó sắp rơi xuống đất, dần đến Tần hoàng lại thêm thiên thủy, há Trọng Ni đó ngu hèn, mà thi thư đó cạn dở ư? Gần đây, đến thời Hán Võ mới hiển hành Nho giáo, nêu tướng của minh kinh, dùng thuật của Khổng thánh, sao có thể vì thấy khinh bảy nước mà bèn phế ở đời sau ư? Y cứ đời của Hán Nguyên, Lưu Hướng Tự Tiên nói: Bảy mươi bốn vị xuất xứ từ kinh Phật, nên biết kinh lưu truyền đến trung hạ từ đó đến nay đã lâu. Mãi đến thời Minh Đế cảm mộng mà truyền Hịch xưng Phật. Từ đó, Tần Cảnh từ phương Đông đi sứ, Ca-diếp Ma-đằng từ phương Tây đến, mới đồ tượng ở quán của Quan Dương, tàng kinh ở thất Lan đài, chẳng giảng văn sâu nên chẳng biết áo nghóa, vì vậy, Sở Vương tu sửa từ của nhân khiết, Hiếu hoàn dựng lập cúng tế lọng đẹp, pháp tướng chưa dung, chỉ có thần mà thôi, đến thời Ngụy Võ chẳng xem xét thư thuật Diệu hóa, Tôn Quyền hùng lược xây dựng chùa tháp. Đầu đời Tấn Võ, cơ duyên dần sâu, kỳ vức tỏa vết thần thông. Trúc Hộ tập tạng pháp bảo, do đó trăm vua Tấn thân tẩy tâm để tiến đức, muôn bang lê hiến, khắc ý mà đổi thiện, đến thời Tấn Minh Dónh ngộ nắm một nhiếp thần, tay vẽ tượng báu ngoài quán để vui xem. Đã an mà trên hoằng kinh ở Sơn Đông, thập công tuyên pháp ở Quan Hữu, tinh nghóa đã nêu thật tướng càng chiếu, anh tài thạc chí đều nghiệm lý mà phục ứng. Nên biết mây pháp mới đầu ở chạm đá, nước tuệ chảy đến lạm thương, giáo hẳn có dần thường của thần hóa, cảm ứng nhân thời, chẳng phải duyên làm sao. Nên Nho thuật chẳng phải ngu ở Tần mà trí ở Hán, dùng và chẳng dùng. Phật pháp chẳng phải cạn ở Hán sâu ở Tân, bởi rõ mà chẳng rõ. Vậy biết năm kinh thường thiện mà sùng tiếm tùy vận, Phật hóa thường mà thông bít ở duyên. Lấy một này để tư duy, có thể không lầm hoặc sâu, mà chấp nghi chẳng ngộ, thật đáng đau thương, đó là sáu! Tin thuận nền phước, mê báng cửa họa, huống chi hạng một mờ phần nhiều chẳng lường năng lực. Lấy chỗ mình không biết, mà lừa dối biết khắp của bậc Tiên giác, lấy chỗ họ chẳng thấy, mà khống phải cái thấy rõ của chí nhân, soi đạt ba đời lại gọi là tà tịch, chuyên hạng cúc trước mắt mà tự cho là minh trí, từ đó mê nghi bít lồng ngực, nhạo báng đày mồm, khinh bàn nghị để bày trọng khổ, hiển phỉ gạt để mua u phạt, lời nói không công của cân lạng, lo lự không ích của mảy may, vào như bay ẩn núi như chớp một hơi thở chẳng trở lại, lặng lẽ qua đời sau. Báo theo bóng đến, hồi đó chẳng kịp. Thần hóa mênh mông, u minh thay vận, Năm đường biến hóa ở đâu chẳng đủ, cõi trời hiển nghiệm, (gậy) của Triệu Giản Tần Mục, đường quỷ giao báo, thấy của Đỗ Bá Bành sinh. Tu đức phước ứng, nghiệm Tống Cảnh đời Ân, giết nhiều họa tới, chứng của bạch khởi Trình Tấn. Hiện đời u minh đủ rõ điển tịch, đời sau minh ưng trải ở tôn kinh, chỉ duyên cảm lý áo, nhân quả nghóa sâu kín. Sâu kín khó lãnh hội nên lược mà chẳng trình bày, chỗ các bậc tiền triết biện giải, then chốt đã chánh, khinh suất lòng xấu tiếp đó ở cuối, tuy văn chẳng phải khuê chương, mà sự đủ để kích xét, chỉ vui mừng quân tử tự cầu nhiều phước. LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 191