<經 id="n2099">QUẢNG THANH LƯƠNG TRUYỆN (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN QUẢNG THANH LƯƠNG TRUYỆN LỜI TỰA Triều phụng lang thượng thư chức cục viên ngoại thị lang Thái nguyên phủ Đại Thông Giám kiêm binh mã Đô thượng kî đô úy tứ phi ngư đại tiền câu đang Ngũ đài sơn tự công ty sự Khích Tế Xuyên soạn thuật. Phàm pháp ---------------------------------- <詞>QUẢNG THANH LƯƠNG TRUYỆN <卷>QUYỂN THƯỢNG Núi Thanh Lương, chùa Đại Hoa Nghiêm, Đàn Trưởng Đại sư Diệu Tế ban tặng pháp y sắc tía, Sa-môn Diên Nhất biên tập lại 1- Công đức nghe thấy nơi Bồ-tát sinh sống. 2- Có duyên Tổng biệt của Bồ-tát ứng hóa. 3- Thời nào Bồ-tát đến núi này? 4- Nguyên nhân núi Thanh Lương có được tên gọi. 5- Vết đi của Thánh xưa nơi năm Đài bốn Đống. 6- Chùa chiền Thánh tích ở cảnh giới Ngũ Đài. 7- Giải thích nơi chốn các chùa ở Ngũ Đài. <詞>CÔNG ĐỨC THẤY NGHE NƠI BỒ TÁT SINH SỐNG Rõ ràng rằng Đại Thánh Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi Duệ từ lâu đã thành Phật, thị hiện ở nhân vị hành hạnh Bồ-tát để tiếp độ quần sinh đang mê mờ cớ sao biết vậy? Căn cứ kinh “Lăng Nghiêm” quyển hạ nói: “Trong thời quá khứ cách đây vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. Bấy giờ có Đức Phật hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương Như Lai, cõi nước đó tên là Bình Đẳng… cho đến Đức Long Chủng Thượng Tôn Vương Như Lai ở thế giới Bình Đẳng thời bấy giờ đâu phải người nào lạ. Đó chính là Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử vậy? Lại thọ kinh “Ương Quật Ma La” quyển tư nói: “Về phương Bắc cách đây hơn 42 hằng hà sa cõi nước, có nước tên là Thường Hỷ. Đức Phật hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma ni Bảo tích Như Lai… cho đến: nếu có người nghe được danh hiệu Đức Như Lai đó, cung kính lễ bái thì sẽ sinh về cõi nước Hoan Hỷ. Xót thương bốn đường xấu ác. Nếu có người chuyên trì danh hiệu Đức Như Lai đó, thì ngay trong hiện tại cho đến các đời ở tương lai, giả sử có đến các nơi hiểu nạn đồng trống hoang dã, khiếp sợ, thảy đều được che chở cứu hộ đến khắp các nơi, khiếp sợ đều diệt mất, tất cả tám bộ quỷ thần xấu ác chẳng thể làm tổn hại”. Lại theo kinh “Đại Bảo Tích” quyển sáu mươi, “Hội Văn-thù-sư-lợi thọ ký” nói: “Lúc Văn-thù-sư-lợi thành Phật, hiệu là Phổ Kiến, vì ý nghóa gì tên hiệu là Phổ Kiến? Vì Đức Như Lai đó ở trong vô lượng trăm ngàn muôn ức na do tha cõi nước ở mười phương khiến đều trông thấy, tuy chưa thành Phật, ở nơi ta hiện nay và sau khi ta diệt độ, nếu có người được nghe danh hiệu Đức Như Lai đó, cũng đều nhất định sẽ được thành Phật, chỉ trừ hạng đã vào địa vị ly sinh và hạng tâm chí hẹp hòi yếu kém. Cõi nước của Đức Phật ấy tên là “Tùy nguyện tích tập thanh tịnh viên mãn”… cho đến: nếu có người nghe được danh hiệu Văn-thù-sư-lợi, thì đáng gọi người đó là tận mặt được thấy chư Phật. Nếu có người thọ trì danh hiệu trăm ngàn muôn ức chư Phật, và nếu có người xưng danh hiệu Văn-thù-sư-lợi thì phước nhiều hơn hẳn người kia, huống gì xưng danh Đức Phật Phổ Kiến, cớ sao vậy? Bởi lẽ trăm trăm ngàn na do tha chư Phật làm lợi ích chúng sinh, chẳng bằng Văn-thù-sư-lợi ở trong một thời gian ngắn làm việc nhiêu ích? Các văn chứng như vậy có nhiều chẳng phải chỉ một. Hoặc có người hỏi: “Cõi nước của Văn-thù-sư-lợi khi đã thành Phật so với cõi nước của Đức Phật A-di-đà hơn kém như thế nào? Xin đáp: Theo kinh “Đại Bảo Tích” nói: “Thí như có người phân chiếc một sợi lông làm thành trăm phần. Lấy một phần sợi lông đặt để trong biển lớn lấy một giọt nước, dụ như cõi nước trang nghiêm của Đức Phật A-di- đà, còn nước của biển lớn kia dụ cho cõi Phật trang nghiêm của Đức Phổ Kiến Như Lai, lại quá hơn thế, cớ sao vậy? Bởi cõi Phật trang nghiêm của Đức Phổ Kiến Như Lai, không thể nghó bàn. Phần trên là nơi công đức của Bồ-tát lúc thành Phật, tiếp dưới là nơi về nơi sinh sống vừa chân lẫn tục của Bồ-tát. Về phương diện sinh sống theo chân đế của Bồ-tát, thì theo kinh “Hoa Nghiêm” quyển bảy mươi chín nói: “Bồ-tát có mười thứ nơi sống. Những gì là mười? Này Thiện nam! Tâm Bồ-đề là nơi Bồ-tát sinh sống, nên sinh vào nhà Bồ-tát. Thâm tâm là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà Thiện tri thức. Các địa là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà Ba-la-mật. Đại nguyện là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà diệu hạnh. Đại bi là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà Bát nhã Ba-la-mật. Đại thừa là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà phương tiện thiện xảo. Giáo hóa chúng sinh là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà Phật. Trí tuệ phương tiện là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà vô sinh Pháp nhẫn. Tu hành hết thảy các pháp là nơi sinh sống của Bồ-tát nên sinh vào nhà cửa hết thảy các Đức Như Lai ở thời quá khứ, thời hiện tại và thời vị lai. Này Thiện nam! Bồ-tát dùng Bát nhã Ba-la-mật làm mẹ nuôi, dùng trì giới Ba-la-mật làm mẹ dưỡng, dùng nhẫn nhục Ba-la-mật làm pháp cụ trang nghiêm, dùng tinh tấn Ba- la-mật làm dưỡng dục, dùng thiền Ba-la-mật làm người tắm rửa, dùng thện tri thức làm thầy giáo thọ, dùng hết thảy Bồ-đề phần làm bè bạn, dùng hết thảy thiện pháp làm quyến thuộc, dùng hết thảy Bồ-tát làm anh em. Dùng tâm Bồ-đề làm nhà. Cứ như lý tu hành làm gia pháp, dùng các địa làm nhà ở, dùng các pháp nhẫn làm gia tộc, dùng đại nguyện làm gia giáo, dùng đầy đủ các hạnh làm thuận gia pháp, dùng khuyên phát Đại thừa làm tiếp nối gia nghiệp, dùng nước pháp rưới đảnh một đời làm chỗ buộc Bồ-tát làm Vương Thái tử, dùng thành tựu Bồ-đề làm hay sạch gia tộc. Đó gọi là nói sinh sống chân thật của Bồ-tát. Tiếp theo, nói về nơi sinh sống của Bồ-tát thị hiện theo tục đế. Căn cứ theo kinh “Văn-thù-sư-lợi Bát Niết-bàn” nói: “Lúc bấy giờ Bồ- tát Bạt-đà-bà-la từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh trang y phục đảnh lễ Đức Phật, quỳ thẳng chấp tay bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Văn-thù-sư- lợi Pháp Vương Tử đã từng thân gần trăm ngàn chư Phật, ở nơi thế giới Ta Bà này làm các Phật sự, với mười phương tiện biến hiện tự tại, đời kiếp lâu sau sẽ nhập Niết-bàn”. Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la: “Văn- thù-sư-lợi đây có đại từ bi, sinh nơi nhà Bà-la-môn Phạm Đức ở Tụ-lạc- đa-la nước Xá-vệ. Lúc ra đời, tất cả phòng ốc vườn nhà đều có hóa mọc hoa sen, Văn-thù-sư-lợi từ hông phía hữu của mẹ mà sinh thân sắc màu vàng tía, vừa mới lọt lòng bèn liền nói được như Đồng tử cõi trời, có lọng bảy báu che phía trên. Đến nơi tiên nhân, cầu pháp xuất gia, các Bà-la-môn. Cả thảy chín mươi lăm thứ luận nghị sư đều không thể đối đáp nỗi. Chỉ đến nơi chỗ ta, xuất gia học đạo… cho đến: ta nay lược nói vì chúng sinh mù tối ở trong đời vị lai”. Lại theo kinh “Bát Niết-bàn” nói: “Như người nghe danh hiệu Văn-thù-sư-lợi, hoặc thấy hình tượng, trong trăm ngàn kiếp chẳng rơi đọa vào đường xấu ác. Nếu có người đọc tụng danh hiệu Văn-thù-sư-lợi, giả sử có các tội chướng sâu nặng, cũng không sa đọa vào địa ngục A tỳ lửa dữ cực ác, thường sinh cõi nước thanh tịnh nơi các phương khác, gặp Phật nghe pháp, chứng đắc vô sinh pháp nhẫn”. Lại theo kinh “Bảo Khiệp” quyển hai nói: “Nếu cúng thí cho tất cả chúng sinh khắp trong ba ngàn Đại thiên thế giới, cung cấp các thứ vui thích suốt trăm ngàn ức năm, chẳng bằng cúng thí Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chỉ bằng chút đầu móng tay, phước đức có được, ưu thắng hơn phước đức cúng thí trước”. Hoặc có người hỏi: “Bồ-tát thành Phật đã lâu, cớ sao lại làm Bồ- tát?”. Xin đáp: “Trong kinh “Vô cấu xưng” nói: “Tuy chứng đắc Phật quả, chuyển đại pháp luân, mà chẳng xả bỏ đạo Bồ-tát, đó là Bồ-tát hạnh”. Lại nữa, trong kinh A-di-đà sớ giải của Pháp sư không có ở chùa Đại Từ Ân nên dẫn kinh nói: “Xưa, ta thầy Năng Nhân, nay làm đệ tử Phật, hai tên đều chẳng hóa, nên ta làm Bồ-tát”. Lại hỏi: “Cớ sao Bồ- tát tên là Văn-thù-sư-lợi?” Xin đáp: “Đó là do thời xưa lược phiên dịch từ Phạm ngữ mà sai nhầm. Nay tân truyện trong thời Bắc Tống ta, và lưu truyền của Tam tạng Pháp sư Bất Không ở thời Tiền Đường đều gọi là Mạn-tổ-thất-lợi-đa. Trung Hoa ta phiên dịch nghóa là Diệu Cát Tường. Bồ-tát ấy lập danh có hai duyên. Một là theo thế tục, nhân thụy chướng mà gọi tên, hai là theo thắng nghóa mà xưng đức hiệu, tạm theo thế tục, nhân thụy chướng mà gọi tên, thì lúc Bồ-tát ra đời, có mười sự cát tường, do đó gọi tên Bồ-tát là Diệu Cát Tường. Những gì là mười sự cát tường? Một là trời mưa cam lồ. Hai là đất tuôn vọt cát thứ phụ tàng. Ba là biển xanh biến thành lúa vàng. Bốn là trước sân sinh mọc hoa sen vàng. Năm là có ánh sáng tỏa khắp phòng nhà. Sáu là gà sinh ra loan phụng. Bảy là ngựa sinh kỳ lân. Tám là bò sinh bạch đà. Chín là heo sinh ra long độn. Mười là voi sáu ngà xuất hiện. Do vì Bồ-tát nhân thụy chướng ấy mà gọi tên. Thứ hai, y theo chân đế mà xưng đức hiệu, thì căn cứ theo kinh “Kim Cang đảnh” nói: “Do thân Bồ-tát nhiếp khắp hết thảy pháp giới v. v… các thân Như Lai, hết thảy trí tuệ v. v… của Như Lai và hết thảy thần biến du hý v. v… của Như Lai. Đã do cực diệu cát tường, nên gọi tên là Diệu Cát Tường”. Nên biết Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi thần thông công đức chẳng thể nghó bàn”. Theo kinh “Đại Hoa Nghiêm” quyển sáu mươi mốt, phẩm “Nhập Pháp giới” nói: “Xá-lợi- phất bảo các Tỳ-kheo: các ông quán sát thân Văn-thù-sư-lợi thanh tịnh, tướng tốt trang nghiêm, hết thảy trời người chẳng thể nghó bàn. Các ông có thể quán sát Văn-thù-sư-lợi có ánh sáng soi suốt khiến vô lượng chúng sinh phát tâm hoan hỷ. Các ông có thể quán sát Văn-thù-sư-lợi có lưới sáng trang nghiêm, diệt trừ vô lượng khổ não chúng sinh. Các ông có thể quán sát chúng hội đầy đủ của Văn-thù-sư-lợi đều là Bồ-tát nhiếp thọ thiện căn trong đời kiếp trước. Các ông có thể quán sát đường sở hành của Văn-thù-sư-lợi hai bên tám bộ bằng phẳng trang nghiêm. Các ông có thể quán sát nơi trú xứ của Văn-thù-sư-lợi khắp cùng mười phương thường có đạo tràng tùy theo mà chuyển. Các ông có thể quán sát đường sở hành của Văn-thù-sư-lợi đầy đủ vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên phải trái có phục tàng lớn, các thứ quý báu tự nhiên xuất hiện, các ông có thể quán sát Văn-thù-sư-lợi thiện căn từng cúng dường chư Phật lưu Bồ-tát hết thảy lủy gian xuất hiện kho tàng trang nghiêm. Các ông có thể quán sát Văn-thù-sư-lợi, mười phương hết thảy chư Phật Như Lai lúc sắp nói pháp đều tỏa phóng ánh sáng từ giữa chân mày soi chiếu đến thân Bồ-tát từ trên đảnh vào. Lại bảo rằng “Bồ-tát Văn-thù hay tùy chỗ ưa thích, hiện thân tự tại, oai quang rực rỡ che khắp đại chúng, dùng sức đại từ tự tại khiến kia trong mát, dùng sức đại bi tự tại khởi tâm giảng nói pháp, dùng sức biện tài quảng đại, giúp vì giảng nói pháp”. Văn nhiều ở đây không ghi chép. Nên biết Bồ-tát dùng đại thiện xảo tiếp cứu quần sinh, làm bạn không thỉnh mời, tâm đại bi cứu đời, lời ấy thật đáng tin cậy. Lại nữa, trong kinh “Hoa Nghiêm” quyển bảy mươi chín, nói: “Bồ-tát Di-lặc bảo Thiện Tài rằng: “Văn-thù-sư- lợi có tâm nguyện lớn, chẳng phải trăm ngàn muôn ức na do tha chúng Bồ-tát khác có thể sánh kịp. Thiện nam tử! Đồng tử Văn-thù-sư-lợi có chí hạnh rộng lớn. Tâm nguyện vô biên xuất sinh công đức của hết thảy Bồ-tát, không có ngưng chỉ. Này Thiện nam Văn-thù-sư-lợi thường làm mẹ của trăm ngàn muôn ức na do tha chư Phật. Thường làm thầy của trăm ngàn muôn ức na do tha chư vị Bồ-tát, giáo hóa thành tựu hết thảy chúng sinh. Danh xưng vang khắp mười phương thế giới. Thường ở trong chúng của hết thảy chư Phật làm thầy thuyết pháp. Hết thảy các đức Như Lai đều ngợi khen, trú trí tuệ sâu xa, hay như thật mà thấy hết thảy pháp, thông đạt hết thảy cảnh giới giải thoát, rốt ráo hạnh sở hành của Phổ Hiền. Này Thiện nam! Văn-thù-sư-lợi là Thiện tri thức của ông, khiến ông được sinh vào Như Lai, nuôi lớn hết thảy các căn lành, phát khởi hết thảy phần trợ đạo pháp, gặp ngay Thiện tri thức chân thật khiến ông tu hết thảy công đức, vào lưới hết thảy chí nguyện, trú nơi hết thảy đại nguyện, vì ông giảng nói pháp bí mật của hết thảy Bồ-tát, hiện hạnh mà hết thảy Bồ-tát khó thể nghó bàn, cùng ông trong đời kiếp xưa trước đồng sinh đồng hành. Cho nên, này thiện nam ông nên đến nơi Văn-thù-sư-lợi chớ sinh nhàm chán”. Với người biên tập truyện thì, kiểm xét đó mà luận bàn là đã rõ thiện tài kia được thấy Văn-thù-sư-lợi đều là đời kiếp xưa trước đồng sinh đồng hành… cho đến chớ sinh nhàm chán, huống gì các người con ở trong nhà cửa nay đây, nếu hay chuyên tâm cầu thấy Đại Thánh, há chẳng nên ư? <詞>CƠ DUYÊN TỔNG BIỆT CỦA BỒ TÁT ỨNG HÓA. Phàm, Đại Thánh ứng hóa có tổng có biệt, bởi tùy cơ duyên nên vậy. Thế nào là không? Xin đáp: Như kinh “Hoa Nghiêm” quyển năm mươi nói: “Thí như vầng nguyệt luân có bốn pháp hy kỳ hiếm có. Những gì là bốn? Một là ánh sáng che khắp hết thảy ánh sáng của muôn sao. Hai là tùy xoay theo thời, thị hiện đầy khuyết. Ba là khắp chốn Diêm Phù Đề nói có nước trong, không đâu ảnh bóng chẳng hiện. Bốn là tất cả mọi người thấy thảy đều được đối trước mắt, mà vầng nguyệt luân ấy không có phân biệt, không có hý luận. Phật tử! Thân nguyệt của Đức Như Lai cũng lại như vậy, có bốn pháp hy kỳ chưa từng có. Những gì là bốn: một là theo chỗ nói ánh sáng soi chiếu hết thảy các chúng Thanh văn, Duyên giác, Hữu học, vô học. Hai là tùy chỗ thích nghi mà thị hiện thọ mạng ngắn dài chẳng đầy nhưng thân Như Lai không có tăng giảm. Ba là hết thảy thế giới tâm chúng sinh thanh tịnh trong khi Bồ-đề, ảnh bóng Như Lai không đâu chẳng hiện. Bốn là hết thảy chúng sinh có chiêm ngưỡng đối mặt, đều nói là Đức Như Lai chỉ hiện trước ta. Tùy tâm ưa thích của người đó mà Đức Như Lai vì giảng nói pháp, khiến được giải thoát… cho đến: mà thân Như Lai không có phân biệt, không có hý luận”. Nay Văn-thù-sư-lợi cũng như vậy cũng như vậy. Nên trong kinh “Bồ-tát Bát Niết-bàn nói: “Thú trong sức Lăng Nghiêm Tam-muội, nên ở mười phương diện, hoặc hiện sơ sinh, hoặc hiện diệt độ, nhập bát Niết-bàn, hiện chia Xá-lợi, làm lợi ích chúng sinh… cho đến: Văn-thù-sư-lợi có vô lượng thần thông biến hiện, không thể nói đủ cả”. Nêu bày trên tức là Bồ-tát biến khắp tất cả nơi, ứng khắp có duyên, nên gọi là tổng. Nên trong “Hoa Nghiêm sao” dẫn lời kệ của kinh nói: “Bồ-tát Đại Văn-thù, chẳng xả nguyện đại bi, biến thân làm di đạo, đội mũ hoặc mình trần, hoặc ở trong đám trẻ, đùa vu nơi tụ lạc, hoặc làm người bần cùng, dung mạo già suy yếu, lại hiện khổ đói lạnh, rong ruỗi nơi phường chợ, xin áo cơm mọi vật, khiến người một lần thí, cho đủ hết thảy nguyện, sai khiến phát tâm tin, tâm tin đã phát rồi, vì nói pháp lục độ, dẫn muôn vàn Bồ-tát, ở nơi núi Ngũ Đảnh, phóng muôn ức ánh sáng, người trời thảy đều thấy tội cấu đều tiêu trừ”. Hai là biệt duyên tức nay biến ở tại núi Ngũ Đài, Thanh Lương ấy vậy. Xứ đó cơ duyên ưu thắng, lại là chỗ vốn ở, báo độ thế giới sắc mùa vàng ròng chánh ở đó. Căn cứ theo Đại Đường Đông Hạ Thần Châu cảm thông lục”, thì giữa tháng 12 đến tháng 03 năm Lân Đức thứ nhất (664) thời Tiền Đường, Luật sư Đạo Tuyên có vài người trời đến lễ bái cùng đàm nói. Nhân đó Luật sư Đạo Tuyên hỏi người Trời rằng: “Xưa trước tương truyền Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi ở tại núi Thanh Lương, dẫn dắt năm trăm tiên nhân, giảng nói pháp. Trong kinh nói rõ Văn-thù-sư-lợi xưa kia là Bồ-tát ở thế giới Ta Bà. Ta Bà là tên gọi chung của Đại Thiên, cớ sao lại riêng ở xứ này?” Người trời đáp rằng: “Văn-thù-sư-lợi là bậc Đại só Pháp Thân là Nguyên soái của chư Phật, tùy duyên lợi hiện, ứng biến không cùng. Công năng của Đại só chẳng như cảnh giới con người, chẳng nhọc bình luận, chỉ nên biết Đại Thánh phần nhiều ở tại núi Thanh Lương”. Dưới núi Thanh Lương có núi Tiên Hoa, lại có huyện Ngũ Đài, phủ Thanh Lương, thường luôn có người đến, không thể không tin. <詞>THỜI NÀO BỒ TÁT ĐẾN NÚI NÀY? Căn cứ kinh “Đại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm” quyển bốn mươi lăm, phẩm “Trú xứ của Bồ-tát” nói: “Ở phương đông bắc có nơi, tên là núi Thanh Lương, từ xa xưa đến nay, các chúng Bồ-tát đến ở trong đó. Hiện tại có Bồ-tát tên là Văn-thù-sư-lợi cùng với quyến thuộc, các chúng Bồ-tát có cả thảy một muôn vị, đều thường ở tại trong, mà giảng nói pháp”. Lại căn cứ theo kinh “Văn-thù Bồ-tát hiện Bảo Tạng Đà-la-ni” nói: “Bấy giờ Bồ-tát Kim cang Mật-tích chư bạch Đức Phật rằng: “Thế Tôn xưa trước từng vì chúng con giảng nói là “sau khi ta diệt độ, tại Nam Thiệm Bộ Châu trong thời ác thế Văn-thù-sư-lợi hay làm lợi ích hết thảy chúng sinh, làm những Phật sự lớn”. Cúi mong Đức Thế Tôn vì chúng con mà phân biệt giảng nói”. Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Mật Tích chủ: “Sau khi ta diệt độ tại Thiệm Bộ Châu này, về phương đông bắc có nước tên là Đại Chấn Na, trong nước đó có núi tên là Ngũ Đảnh. Đồng tử Văn-thù-sư-lợi du hành đến ở đó, vì các chúng sinh ở trong đó mà giảng nói pháp. Lại có vô lượng Trời rồng, Dạ-xoa, La sát, Nhẫn-na-la, Ma-hầu-La-già, người và phi nhân v. v… vây quanh cúng dường… cho đến: Văn-thù-sư-lợi có vô lượng oai đức như vậy. Thần thông biến hóa, tự tại trang nghiêm, hay rộng làm lợi ích hết thảy các loài hữu tình, thành tựu viên mãn sức phước đức, không thể nghó bàn”. Lại căn cứ theo kinh “Văn-thù Bát Niết-bàn” nói: “Đại só như vậy, lâu trú trong Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội, sau khi Phật diệt độ bốn trăm năm mươi năm, sẽ đến núi Tuyết vì năm trăm Tiên nhân nói pháp giáo hóa, thành tựu khiến không thối chuyển. Lại theo “cảm thông lục” quyển thượng nói: “Luật sư Đạo Tuyên hỏi người Trời rằng: “Nay cách hai mươi dặm về phía Đông nam của Trung đài ở núi Ngũ đài, thấy có chùa Đại Phu Linh Thứu. Hai nhà cách nhau khe suối đến nay vẫn hiện còn, phía nam có vườn hoa rộng khoảng ba khoảnh, quanh năm sắc thái tươi tốt, mọi người chẳng nghiên cứu rõ nguyên do đầu tiên từ đâu. Có người nói do vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Hậu Hán tạo lập nên, hoặc có người nói do vua Hiếu Văn Đế (Nguyên Hoành 471-450) thời Bắc Ngụy tạo lập nên, nói bày chẳng đồng. Việc ấy như thế nào?” Người Trời đáp: “Hai vị vua ấy từng đến nơi đó tạo chùa cúng dường. Và vua A-dục cũng từng đến đó tạo dựng tháp. Xưa vua trong đời vua Mục Vương (Cơ Mãn 976-921 trước Tây lịch) thời Tây Chu đã có Phật pháp. Núi đó Linh Dị, là nơi Văn-thù-sư-lợi thường ở. Đầu đời vua Minh Đế thời Hậu Hán, tôn giả Ca-diếp-ma-đằng dùng thiên nhãn cũng thấy có tháp, khuyên nên tạo dựng chùa đặt tên là “Đại Phu Linh Thứu”. Nói “phu” nghóa là “tin”, tức chỉ vua tin lý Phật, nên dựng lập chùa khuyên người, nên gọi tên là “Đại phu”. Lại vì hình trạng núi đó so với núi Linh Thứu ở Thiên Trúc có phần tương tợ, nhân đó mà gọi tên là “Đại phu Linh Thứu” như vậy”. Thời Bắc Ngụy, vua Hiếu Văn Đế (Nguyên Hư 516-528) thường đến đảnh lễ bái yết cách Bắc Đài không xa thấy có dấu vết người ngựa đi trên đá rất rõ ràng, việc ấy có thể biết được. Đến thời Tiền Đường, Pháp sư Trừng Quán đến đó tạo “Đại Hoa Nghiêm kinh sớ”. Nhà vua bèn ban sắc cải đổi tên chùa là “Đại Hoa Nghiêm”. Hoặc có người hỏi: “Căn cứ theo “Phẩm Bồ-tát trú xứ” trong kinh Hoa Nghiêm, tức nói Bồ-tát thường ở tại núi đó. Cớ sao trong hai kinh “Hiện Bảo Tạng” và “Bát Niết-bàn” đều nói sau khi Phật diệt độ mới đến đó?” Xin đáp: “Đó là do Bồ-tát an trú trong Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội, với diệu lực vô tác, hay phân chia một thân làm vô lượng thân, lại đem vô lượng thân nhập vào trong một thân, đều không chướng ngại. Như trong kinh rộng nói hay đem một phân thân vô lượng thân, tức một thân thường trú tại núi đó, còn các thân được phân hóa thì đến các cõi ở mười phương, thì khó nghó hóa tức như Hoa Nghiêm nói tại núi đó vậy. Lại nữa, lại đem vô lượng thân vào trong một thân, tức mười phương cõi thí hóa đã xong, trở lại vào trong một thân này, để dẫn dắt chúng sinh khiến phát đạo tâm tức như trong kinh Hiện Bảo tạng và kinh Bát Niết-bàn nói sau khi Phật diệt độ lại vào núi này, là đó vậy. Đối với lý, đâu phòng ngại gì, huống hồ cảnh giới của Đại Thánh không thể nghó bàn, đâu có thể dùng sức phàm tình mà có thể lường đạt được ư? Nên trong “Hiển Dương Thánh Giáo luận” nói: “Đối với cảnh giới chẳng thể nghó bàn, mà cưỡng ép nghó bàn, thì có ba điều lỗi quá, đó là: Một là tâm cuồng loạn, hai là sống chẳng có phước, ba là không được tốt lành, còn nếu chẳng cưỡng ép nghó thì được ba quả lành, đại lược có thể biết đó”. Lại có chua chú thêm rằng: “Tuy thần ứng vô phương, nhưng đạo không thể đâu chẳng ở, chỉ vì Bồ-tát vốn giáo hóa ở cảnh giới ấy, có duyên riêng ưu thắng. Đâu có gì đáng nghi ư? <詞>GỌI NGUYÊN NHÂN NÚI THANH LƯƠNG CÓ ĐƯỢC TÊN Căn cứ theo “Hoa Nghiêm kinh sớ” nói: “Núi Thanh Lương tức là núi Ngũ Đài ở quận Nhạn Môn tại Đại Châu. Do nhiều năm tích chứa băng cứng, mùa hạ mới có hơi tuyết bay, chẳng hề nắng nóng, nên gọi là Thanh Lương. Có năm ngọn núi cao vút, trên đảnh không có cây rừng, chỉ có đài như đất đắp ụ nên gọi là Ngũ Đài”. Lại căn cứ theo “Hải Đông Văn-thù truyện” nói rằng: “Ngũ Đài tức là tòa của các đức Như Lai ở 5 phương, cũng là trên đảnh tượng Bồ-tát có 5 búi tóc”. Nhân hai đoạn văn trên, tôi (Diên Nhất) nay lại diễn rộng ra. Căn cứ “Kinh Thiên Bát” và “Văn-thù-sư-lợi Ngũ Tự Đà-la-ni” cùng “Du Già Quán môn” nói: “Văn-thù là tiêu biểu cho Bát nhã, hay sinh ra chư Phật”. Theo kinh “Đại Bảo Tập” quyển sáu mươi, trong hội “Văn-thù” nói: “Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Thế Tôn! Tôi dùng thiên nhãn vô ngại trông thấy hết thảy các Đức Như Lai ở trong vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật, nếu chẳng phải do tôi khuyến phát tâm Bồ- đề quyết định, dẫn dắt dạy răn, khiến tu các pháp bố thí, trí giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, khiến chứng đắc A-nâu-đa-la-tam Bồ-đề, thì tôi đối với đạo Bồ-đề trọn không nên chứng, mà tôi cần phải hoàn toàn tâm nguyện ấy, về sau mới chứng Vô Thượng Bồ-đề”. Lại nữa, Văn-thù là tiêu biểu cho Bát nhã, Bồ-tát với tâm đại bi hay làm tăng thượng, diệt trừ tất cả nghiệp chướng phiền não của chúng sinh v. v… căn cứ theo kinh “Kim Cang đảnh”, trong phẩm “Kim Cang giác Đại Bồ-tát Tam ma địa nhất thiết Như Lai trí tuệ” nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nhập “Văn-thù-sư-lợi Ma-ha Bồ-đề tát đỏa Tam-ma-da sở sinh pháp” như trì Kim Cang Tam ma địa rồi, lại từ tự tâm lưu xuất hết thảy Như Lai đại trí tuệ Tam-ma-da đây, gọi là nhất thiết Như Lai tâm ấn, và liền nói mật ngữ “Bạt chiết ra để sắt na”. Khi mới tuyên xuất lời ấy, ở nơi tâm hết thảy Như Lai tức Bạt già phạm kia nắm giữ Kim Cang làm kiến trí mà lưu xuất rồi, đồng một mật hợp, vào nơi trong tâm Phật tỳ-lô-giá-na, bèn làm túi dao. Đã thành tựu rồi, trú nơi trong tay Phật Tỳ-lô-giá-na. Khi ấy từ trong thân túi dao Như Lai kia xuất hiện thân Như Lai ở hết thảy các thế giới v. v… hết thảy Như Lai trí tuệ v. v… và hết thảy Như Lai thần biến du hý rồi. Do cực diệu Cát tường và Kim Cang tát đỏa Tam ma địa, cực kiên lao đồng một mật hiệp, dùng làm thân Văn-thù-sư-lợi Ma-ha Bồ-đề tát đỏa. Đã thành tựu rồi, trú nơi tâm Phật Tỳ-lô-giá-na Thế Tôn, mà lớn tiếng tuyên phát lời rằng: “Ta là lời chư Phật, gọi là tiếng Văn-thù, như dùng không hình sắc, âm thanh khá được biết” (vì pháp thân chư Phật vốn không hình tướng, sợ thành đoạn diệt, nên dùng âm thanh giả thuyên giải tiêu biểu. Thuyên giải lời Phật nói tức là tiếng của Văn-thù). Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi ma-ha Bồ-đề tát đỏa từ tâm Thế Tôn trở xuống, nương theo bên hữu hết thảy Như Lai trú trong Nguyệt luân lại cầu thỉnh chỉ dạy. Khi ấy, Phật Tỳ-lô-giá-na nhập “Nhất thiết Như Lai trí tuệ Tam-ma-da Kim Cang Tam ma địa” rồi, hiện hết thảy Như Lai đoạn trừ phiền não Tam-ma-da, vì cùng tận cõi chúng sinh đoạn trừ tất cả các khổ, và tất cả đều an lạc thỏa ý thọ dụng v. v… cho đến, thành tựu, hết thảy Như Lai tùy thuận chúng sinh âm thanh, viên mãn trí tuệ tối thượng tất địa. Bồ-tát Kim Cang giác kia ở nơi Văn-thù-sư-lợi Ma-ha Bồ-đề tát đỏa, như trên nơi hai tay trao lấy v. v… cho đến Dao Kim Cang ấy khua phá rồi, mà lớn tiếng xướng rằng: “Đây là Bát nhã Bà-la-mật của Như Lai hay phá trừ các thứ oán địch, rất ưu tối trong việc diệt tội. Nên tay hữu nắm dao tiêu biểu cho dụng của Bát nhã, đoạn trừ tất cả phiền não oán địch của chúng sinh”. Lại, sự tiêu biểu của Ngũ Tự “Du già quán môn” là: “A” tức là vô sinh môn, thuyên giải hết thảy các pháp vô sinh, tiêu biểu cho đại viên cảnh trí Đông phương Kim Cang Bộ chủ, A-sơ Như Lai tức tượng một búi tóc trên đảnh Bồ-tát ở phía Đông vậy. “Ra” tức là vô cấu môn, thuyên giải hết thảy các pháp vô cấu, tiêu biểu cho bình đẳng tánh trí. Nam Phương Bảo bộ chủ, Bảo Sinh Như Lai, tức tượng một búi tóc trên đảnh Bồ-tát ở phía nam vậy. “Bả” tức vô đệ nhất nghóa đế môn, tiêu biểu cho Diệu Quán Sát Trí. Tây phương Liên Hoa bộ chủ vô lượng thọ Như Lai, tức tượng một búi tóc trên đảnh Bồ-tát ở phía Tây vậy. “Tả” tức chư pháp vô hành môn, tiêu biểu cho thành sở tác trí, Bắc phương Yết Ma bộ chủ bất không thành tựu Như Lai, tức tượng một búi tóc trên đảnh Bồ-tát ở phía Bắc vậy. “Na” tức các pháp không tánh tướng, lìa ngữ ngôn văn tự môn, tiêu biểu cho pháp giới thanh tịnh, ở phương giữa Như Lai bộ chủ, Tỳ-lô-giá-na Như Lai, tức tượng một búi tóc trên đảnh Bồ-tát ở phương giữa. Nên trên đảnh tóc Bồ-tát phân làm năm búi tóc và núi phân năm ngọn há tự nhiên rỗng không ư? Nên có nguyên do vậy. Do đó, trong “Hoa Nghiêm sở” nói: “Tiêu biểu Đại Thánh của chúng ta, năm trí đã chu toàn, năm nhãn đã thanh tịnh, gồm chân nguyên của năm bộ nên trên đầu đội mũ có tượng năm Đức Phật. Đảnh đầu phân búi tóc ở năm phương là chuyển vận cốt yếu của năm thừa, là thanh lọc tai ương của năm trược. Núi ấy đầy dẫy vài châu, dài năm trăm dặm, bên tả gần Hằng Nhạc, ẩn vút tận trời, bên hữu khống chế khắp cùng Hồng Hà quấn quanh dãy đất phía bắc gần Sóc Dã, lấy hạn định từ quan phòng của Hùng Trấn, phía nam ôm choàng cả phần dương, làm thế ưu thắng của Thần Châu, xoay quanh Nhật Nguyệt, chứa rõ mây rồng, tuy tuyết tích chứa mùa hạ vẫn ngưng đọng mà Hoa Kỳ có cả muôn thứ, mùa đông rét giá nhưng cỏ quý có cả ngàn loại. Núi đỏ mở giăng, đất bằng biếc lớp lớp nổi, dàn trải khoảng không, vượt qua hiểm trở. Khi gặp có hạng người vật ngoại sờ vỡ nấm mốc giẫm trải hiểm nguy, mỗi lúc đến cảnh phi thường, mây trắng ngưng giăng, nghi sạch quấn nơi sông dài. Lúc mặt nhật mọc lên, nhận phù tang nơi biển lửa. Lại nữa, trong “Hoa Nghiêm sớ” chú thích ở phẩm “trú xứ của Bồ-tát” nói: “Tôi (?) thủa nhỏ tầm theo sách đây, mỗi lúc đến đoạn văn đó, đều xếp xấp quyển mà tán thán, nên chẳng ngại xa ngàn dặm, phó mặc tánh mạng nương gá đến cảnh Thánh, cùng dẫn dụ mười năm ở đó, hoặc cảm ứng hiển bày, đầy cả tai mắt, cho đến các việc phu hạ cảnh thắng thật lắm nhiều, rành rẽ cung rồng, ban đêm mở bày ngàn ánh trăng, nẩy mầm cỏ quý, sáng sớm có trăm hoa, hoặc muôn Thánh liệt bày giữa hư không, hoặc năm thứ mây ngưng đọng trên chót vót, viên quang ngời sáng giữa núi biếc, chim quý vỗ cánh bay giữa khói mây chỉ nghe tên của Đại Thánh, không còn phải lo nghó ở nhân gian. Người vào cảnh Thánh mà tiếp võ, kẻ đổi tâm trần mà giả vai cùng trông xem đồng gọi là chẳng phải phàm, tận mắt đều là Phật sự, chùa chiền ở thế núi ấy, chẳng thể tính kể. Từ khi đấng Đại sư ẩn vết ở Tây Thiên, Diệu Đức Phật huy nơi Đông Độ. Tuy pháp thân mãi còn mà Kê Sơn không ngăn bít nơi hoang tầng mà ứng hiện có phương. Thứu Lãnh có được tên ở xứ này, Thần tăng hiển bày nơi cảnh linh. Tuyên Công (Luật sư Đại Tuyên) lên bẩm các trời. vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Hậu Hán mở đầu từ Ca-diếp Ma-đằng. Trong thời nhà Ngụy, vui kính tin chí hóa, thời Bắc Tề có vài châu dốc cả bổng lộc. Có sự hồi quang của chín vua thời Tiền Đường, có người từ năm xứ Thiên Trúc quên cả thân mạng mà rão tìm phong hóa, có người ở khắp tám phương bỏ cả thân mình mà đua ganh ghi ký. Như có người ở Thần Châu, suốt một đời mà chẳng đến, nào khác gì ba ức đồ chúng ở Xá-vệ ư?” Lại, căn cứ theo “Đại Đường Thần Châu cảm thông lục” nói: “Từ đông sang tây của Đại Châu có núi Ngũ Đài, xưa trước xưng gọi là vườn nhà của thần tiên. Núi vuông năm trăm dặm, dáng thế rất cao vút. Ở trên có năm đài, đảnh lễ không cỏ sinh mọc, tùng bách tươi tốt như rừng rậm nơi đáy cốc. Núi đó rất lạnh ở phía nam gọi là núi Thanh Lương, phía dưới núi có phủ Thanh Lương. Trong kinh nói rõ Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi đem năm trăm tiên nhân đến ở núi tuyết Thanh Lương, tức là nơi chốn đó vậy. Do đó, xưa nay các bậc cầu đạo phần nhiều đi đến núi đó. Dấu vết linh thiêng còn lại nơi hang cốc, rõ ràng trước mắt, thẳng nhọc thiết bày. Trung Đài rất cao, cách đất bằng bảy trăm, trông như ngón tay. Ở trên có ngôi Phù Đồ bằng đá nhỏ, lượng cả hàng ngàn, tức do vua Văn Đế (thác bạt hoành 471-500) thời Bắc Ngụy tạo lập. Trên đá, dấu vết người ngựa uyển nhiêu hiện cai. Trên đảnh có dòng suối lớn tên là Thái Hoa, lắng trong tợ như gương soi. Có hai ngôi Phù Đồ cặp theo đó. Bên trong có tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, người nào có đến đó, thì tiếng chương hơi hương không ngày nào chẳng nghe, tượng quý thần tăng thường luôn gặp gỡ. Khoảng trong niên hiệu Long Sóc (661-664) thời Tiền Đường trở lại, vua Cao Tông (Lý Trị 650-684) ban sắc Sa-môn Hội Di ở chùa Hội Xương, đến đó tu sửa chùa tháp. Trước sau có vài lần lui tới, cũng gặp các điều linh cảm. Đến trong niên hiệu chánh quán (?), có Thiền sư giải thoát đến theo hành tập định pháp, tự nói “ở phía Bắc vườn hoa đã từng bốn lược trông thấy Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi, có các đồ chúng bay theo đầy cả hư không, các tiên dị Thánh, chẳng thể tính kể”. Hoặc có người hỏi: “Núi Thanh Lương chỉ là núi lạnh, nên gọi đó là Thanh Lương, là tựu thuộc thắng đức ư? Nếu chỉ là núi lạnh mà gọi là Thanh Lương, tức âm sơn cùng cốc, các phương rét lạnh đều là Thanh Lương. Nếu tựu thuộc thắng đức mà gọi là Thanh Lương tức chỉ nơi các tiên Thánh ở, đáng cũng nên gọi là Thanh Lương, tức đâu riêng núi ấy chiếm tên đó ư?-xin đáp: “Hẳn gồm có hai tướng, tức không xen lạm vậy. Một là núi lạnh gồm có năm đảnh như núi ở trên. Hai là chỉ tựu thuộc hóa cảnh của Văn-thù-sư-lợi chọn nơi ở cho các tiên Thánh khác. Như trong kinh “Bát Nê Hoàn” nói: “Nếu có người đọc tụng danh hiệu Văn-thù-sư-lợi, giả sử có các trọng chướng cũng không sa đọa vào địa ngục A-tỳ lửa dữ rất khổ, mà thường sinh về cõi nước trong mát ở phương khác, gặp Phật nghe pháp, chứng đắc vô sinh nhẫn”. Lại nữa, trong phẩm “nhập pháp giới “ở kinh Hoa Nghiêm” nói: “Dùng sức đại từ tại khiến kia trong mát”. Đó tức có nghóa ấy vậy. Nên hóa phương theo vật, chúng sinh tự thấy ở sự hưng thạnh trong mất mát, nhưng kỳ thật báo độ vẫn lắng yên không theo sự sinh liệt của khí giới, như thế mà thôi vậy. <詞>VẾT ĐI CỦA THÁNH XƯA NƠI NĂM ĐÀI BỐN ĐỐNG Căn cứ theo “Linh Ký” nói: “Ngũ Đài có bốn đống, cách đài mỗi mỗi một trăm hai mươi dặm”. Căn cứ theo “Cổ Đồ” biên ghi thì đài nay đây tức là Trung Đài xưa trước, còn Trung Đài tức là Nam Đài. Đại Hoàng tiêm tức là Bắc Đài, núi Khảo Lão là Tây Đài, Man Thiên Thạch tức là Đông Đài (chỉ có Bắc Đài và Trung Đài thời xưa có khác, còn Đông Đài và Tây Đài xưa nay không khác). Đài Vô Tuất, tức là đảnh Thường Sơn vậy. Xưa kia, Triệu Giản Tử tên là Vô Tuất từng lên núi đó trông nhìn Đại Quốc, nhìn xuống Đông Hải có cung Bồng Lai, trông xem vườn nhà của thần tiên. Đó là nơi Bồ-tát Phổ Hiền dừng ở trong đó, có ráng mây ẩn hiện qua lại cả năm đài. Những người lên đài phần nhiều trông thấy điềm linh, duyên Thánh tích ấy nên gọi là đống phía Đông. Ở Phía Tây có núi Măng…, phía trên có cung điện, ao hồ, miếu cổ. vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) thời nhà Tùy đến ở đó tránh nắng nóng. Nhân đó nói ao trời, tạo lập cung thất, lầu rồng cửa phụng đầy khắp bên cạnh ao hồ. Ao hồ đó, ở đời tương truyền là nơi rồng thần ở. Duyên Thánh tích ấy nên xưng gọi là đống phía tây. Ở phía nam có núi Hệ Chu (buộc thuyền), phía trên có vòng đồng, trục thuyền vẫn hiện còn. Xưa kia vua Nghiêu gặp nạn hồng thủy nên buộc thuyền tại đó. Ở đời tương truyền vua Nghiêu thấy được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi xuất hiện ở Nam Đài. Duyên Thánh tích ấy nên gọi là đống phía nam. Ở phía Bắc có đồi Phú Túc, tức là núi Hạ Ốc. vua Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoành 471-500) thời Bắc Ngụy đến dừng nghỉ qua đêm tại đó để lánh nắng nóng, nhân đó mà đặt gọi tên, trông nhìn xuống dưới thấy chùa Thạch Quậc ở Vân Châu. Ở đời tương truyền trên núi đó có thành Càn Thác Bà, tức là Hóa Thành, thường lúc mặt nhật sắp ló dạng thành ấy mới hiện. Lại trông thấy ở Bắc Xuyên, phần mộ của Ngô có cả từng lớp, có quỷ rảo đi đến phía Nam. Lại thấy ở Nam Sơn có lũy tùng cốc xuất hiện theo hàng, vua Văn Đế kêu gọi tên ấy, lũy ấy liền xoay thấp uốn cong mà chạy, nhân đó gọi đó là Á Tẩu Bách. Và do sự tích ấy nên gọi là đống phía bắc. Đền thời Tiền Đường, có Thiền sư Nghiễm là vị Tăng thần dị từng lên trên Tây đài và Nam đài, trông thấy ở năm đảnh có mây năm sắc che phủ. Theo mây che phủ, phối đó làm đài. Chỉ có Trung Đài ngày xưa tức là Bắc Đài ngày nay, Nam Đài ngày xưa tức là Trung Đài ngày nay (vua Hiếu Văn Đế phong làm Nam Nhạc vậy), ngoài ra đều y định vậy. <詞>CHÙA CHIỀN THÁNH TÍCH Ở CẢNH GIỚI NGŨ ĐÀI. Trên đảnh Trung Đài có ao Thái Hoa vuông rộng hai dặm, trời sinh chín khúc, nước ở đó lắng trong, sắc màu tợ lưu ly suốt thấy tận đáy. Trong ao ấy nơi bằng phẳng có đá lối lạc. Giữa khoảng rừng đá lại có hoa quý, trăm thứ ánh ngời là nơi vườn nhà cung thất rồng thần ở. Có người vừa trông thấy, khiếp sợ kinh thần, mây mốc đẹp lành ngời ánh, khó thể nói đủ cả. Nhưng ao ấy có lớn nhỏ cạn sâu, tùy theo thần biến chẳng định, người đến bái yết kính lễ cỡi mở chuỗi châu anh lạc v… đang mang đeo ném bỏ vào trong ao mà đi. Năm Khai Hoàng thứ 11 (591) thời nhà Tùy, vua Văn Đế (Dương Kiên 581-605) ban sắc sai Hân Châu thứ sử Thôi Chấn mang các thứ cúng cụ đến đảnh Ngũ Đài, thiết trai cúng dường, dựng lập văn bia và thấy ở thời Bắc Ngụy, Bác Lăng Công Thái thú vâng phụng đi sứ đến đài, xa thấy rừng đá đều là thân Bồ-tát mang đeo anh lạc, nên đài báu tháp sắt công đức rất nhiều, chẳng thể ghi hết. Xưa trước có mười ngôi chùa: 1- Chùa Đại Phu Linh Thứu 2- Chùa Vương Tử. 3- Chùa Linh Phong. 4- Chùa Phạn Tiên. 5- Chùa Thiên Bền. Chùa Thiên Lương. Chùa Thạch Quậc. 8- Chùa Phật Quang. 9- Chùa Đấng Xướng. 10- Chùa Lâu Quán. Đến nay, từ thời nhà Đường trở lại, có thêm sáu chùa: 1- Chùa Trúc Lâm. 2- Chùa Kim Các. 3- Chùa An Thánh. 4- Chùa Văn-thù. 5- Chùa Ngọc Hoa. 6- Chùa Thánh Thọ. Lại có bốn Linh Tích: 1- Ao Thái Hoa. 2- Ao Bạch Thủy. 3- Dấu người ngựa thời vua Hiếu Văn Đế. 4- Hang Băng đóng ngàn năm. Lại có năm thứ danh hoa: Hoa Nhật Cúc. Hoa mười hai viện Hiếu Văn. 3- Hoa Ngũ Phụng. 4- Hoa Bách Chi. 5- Hoa Bát Nang. Trên đảnh Bắc Đài có giống trời, phía dưới có cung rồng gần ao Bạch Thủy nối liền nhau, hang Kim Cang cũng cùng thông suốt. Xưa trích có tám ngôi chùa: 1- Chùa Bảo Tích. 2- Chùa Tịch Minh. 3- Chùa Mộc Thảo. 4- Chùa Phổ Tế. 5- Chùa Công Chúa. 6- Chùa Cam Tuyền. 7- Chùa Đại Cốc. 8- Chùa Thánh Thọ. Đến nay, lại có thêm hai ngôi chùa: Chùa Bảo Sơn. Chùa Thái Bình Hưng Quốc. Lại có mười sáu Linh Tích: 1- Ao Thất Phật. 2- Đài La-hán. Suối Cữu nữ. Đài Công Chúa. Đài Hiếu Văn Đế dạy chim răn. 6- Trường Hiếu Văn Đế đánh cầu. 7- Am tiên nhân. 8- Lũy Thiền Am. 9- Bách Á tẩu Lũy sinh tử. Lũy không tâm. 12- Địa ngục sinh. 13- Tháp Đặng Ẩn Phong. 14- Hám Sơn Suối ngọc. Giếng vàng. Lại có hai thứ cỏ lạ: Cỏ Kê túc. Cỏ măng đăng. Đông Đài, xưa trước gọi là Tuyết Phong, tại sườn núi có núi Nghiên-già-la, lên trên đài xa thấy bể cả các châu, lúc mặt nhật ló dạng, trông nhìn xuống dưới biển lớn, tợ như vũng đầm vậy. Xưa trước có mười lăm ngôi chùa: Chùa Hoa Lâm. Chùa Hương Vân. 3- Chùa Quán Hải. 4- Chùa Hương Lũy. 5- Chùa Đồng Chung. 6- Chùa Thạch Đường. 7- Chùa Long Bàng. 8- Chùa Quang Minh. 9- Chùa Vạn Tượng. 10- Chùa Phụng Lãnh. 11- Chùa Long Tuyền. 12- Chùa Ngũ Vương. 13- Chùa Thiên Thành. 14- Chùa Ôn Thang. 15- Chùa cổ Hoa Nghiêm. Đến nay có thêm ba ngôi chùa: 1- Chùa Kim Giới. 2- Chùa Càn Minh. 3- Viện Đông Tháp (nay làm ni viện). Lại có mười một linh tích: 1- Tùng Tử Mậu. 2- Cửa Xích Long. 3- Hang Lục Phụng. 4- Ao Minh Nguyệt. 5- Thành Ngũ Vương. 6- Rừng táo. 7- Lũy Nhũ Đầu Hương. 8- Núi Nghiêng-già-la. Hang Na-la-diên. Dấu chân Vạn Thánh. 11- Ôn Thang (ấm lạnh). Lại có ba thứ thuốc: Nhân sâm. Trường tùng. Phục Linh Tây Đài nối liền với hang Bí Ma, bậc đá hiểm nguy vút tận mây rừng cầu phẩy mặt nhật, phân khoảng không tuyệt dứt tường vách, tiếp liền với núi Hán tầng. Xưa trước có mười hai ngôi chùa: Chùa Bí Mật. Chùa Thạch Môn. 3- Chùa Du Cần. Chùa Nhũ Thạch. Chùa Đông Tiêm 6- Chùa Đại Hội. Chùa Nhật Chiếu. Chùa Hướng Dương. 9- Chùa Thiết Cần. 10- Chùa Phù Đồ. 11- Chùa Hùng Đầu. 12- Chùa Báo Tử. Đến nay, có thêm bốn ngôi chùa: 1- Chùa Lý Ngưu. 2- Chùa Hắc Sơn. Chùa Ngưỡng Bàn. Chùa Bệnh Ngưu Tuyền. Lại có mười lăm Linh tích: Hòa thượng Nê Trai. Đống đất Hiếu Văn Đế bắn. 3- Sườn Bồ Dược Vương. Hương Sơn. Dấu vết sư tử. Dấu vết vua nước Vu Điền. Tảng đá hai vị Thánh Đàm nói. 8- Nước tám công đức. Cửa đá. Cửa chim. Hang rồng. Sườn Bồ-tát đỏa. Tháp Vương Tử thiêu thân. 14- Tảng đá ngồi cắt thịt. 15- Đào tiên Vương Mẫu. Lại có ba thứ thuốc. Hoàng tinh. Mộc qua. 4- Phục linh. Nam Đài cô tuyệt, cách các đài hơi xa, sườn rừng tươi tốt, bờ hang nghiêng thực, rất là vắng lặng. Xưa trước, có Thiền sư tăng minh đến ở đó hơn ba mươi năm, cũng thấy gặp thần tiên bay giữa hư không mà đi, chỉ cỡi lột da. Trong khoảng ba mươi dặm đều là các thứ danh hoa mọc khắp đầy sườn núi, người đời gọi đó là núi Tiên Hoa. Chùa biến hóa từng gấp, tiếng chuông có lúc ngân vang. Xưa kia có người từng gặp dị nhân thân hình to lớn hơn hẳn người đời, dùng nói năng chốc lát, bỗng vọt bay đi xa. Nên Thiền sư tăng minh có làm bài ca rằng: “Nam Đài núi đẹp, rồng thần tựa nương, mây xuân ùn nổi, mưa hạ lã tã, tăng tục chiêm lễ, nằm nơi kẻ đá, quên cả mệt khát, tội gì chẳng diệt, phước nào không nhuần, nằm nơi kẻ đá, mà ngồi thần quy, gai Bồ-tát sung làm gậy rồng, cỏ La Phù bện làm áo thiền. Ở nơi hang núi chừ tỉnh lự, giẫm bước đảnh núi chừ tìm sư, ăn trường tùng tỏa trí, ngậm thưởng hoa cúc trừ đói, giảng nói Bát nhã, chí hạnh Thiền sư. Lại thấy Long Mẫu, lại thấy rồng con, người cúng bạch dược, trọn lìa khổ suy!” Xưa trước có chín ngôi chùa: Chùa Sa Bà. Chùa Thù Công. 3- Chùa Quách Ma. 4- Chùa Khảm Nham. 5- Chùa Tịnh đồ. 6- Chùa Cao Lãnh. 7- Chùa Thạch Đài. 8- Chùa Tiểu Bách. 9- Chùa Xích Nhai. Đến nay có thêm ba ngôi chùa: 1- Chùa Phước Thánh. 2- Chùa Linh Cảnh. 3- Chùa Pháp Hoa. Lại có chín Linh tích: Cốc Thất Phật. Đồi cảnh thắng Long cung. 3- Bình nguyên vạn mẫu. 4- Tướng Đông Vương. 5- Tướng Tây Vương. 6- Thần Quy. Đông Xa Tiêm. Tây Xa Tiêm. 9- Kẻ đá nức nẻ. Lại có hai thứ thuốc: Nhân sâm. Chung nhủ. Phía Bắc của Trung Đài, phía Nam của Bắc Đài, khoảng giữa đó có ao chư Phật tắm rửa, cả thảy một trăm hai mươi cơ sở, bốn mặt đều là nước, chính giữa là đài đất, vuông tròn rộng ba thước, gọi là bồn rửa tay của Bồ-tát là nơi du hý. Năm đó, mùi hương phảng phất, sắc tướng quang minh. Người nóng trông thấy, thần dời mắt loạn chẳng dám dừng đứng lâu, nhưng mọi người cũng ít đến đó. Trong ao, phần nhiều hay sinh mọc mây trắng tướng trọng như đội trượng, có tựơng Bà-la-môn Phạm chí. Nếu trông thấy Bồ-tát và vầng ánh sáng thì nếu là bạch y Cư só tức chứng đắc sơ quả hay nhị quả, còn nếu là Tăng só xuất gia nghiêm trì tịnh giới tức chứng đắc tam quả hoặc tứ quả. Hang Kim Cang tức là vườn nhà lớn của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, hang đó tại dưới sườn núi của Đông Đài và Bắc Đài, lầu quán tại trong cốc, giữa khoảng đảnh núi của nam và bắc có cửa đá, là nơi Đại Thánh xưa trước từng vào ra mà mọi người phần nhiều không biết. Trước kia, có Sa-môn Phật Tuệ ở huyện Phồn Trỉ từng vào hang đó, đi khoảng chừng ba mươi dặm, có dòng sông giăng ngang, đã vượt qua tức đến Bình Xuyên, không có các loại cây như cõi phàm, chỉ thấy toàn là rừng báu. Trông nhìn khắp bốn phía đều là lầu vàng tháp ngọc, ánh ngời lóa mắt. Sau khi trở ra, Sa-môn Phật Tuệ kể nói cùng mọi người như vậy. Năm Trường An thứ hai (702) thời Tiền Đường, Võ Hậu (Võ Tắc Thiên 685-705) sai sứ đến chùa Đại Phu Linh Thứu tại núi Ngũ Đài, trước là tìm hái hoa vạn chu, chuyển dời đến tường cấm, mùi hương kỳ đặc sắc màu thường, có trăm ngàn danh phẩm, khiến tại nội đạo tràng gieo trồng cúng dường. Lại ban sắc cô Ni Diệu Thắng ở chùa Vạn Thiện đến Trung Đài tạo dựng tháp. Phàm suốt một năm, công việc hoàn tất, lại sai Nội thị hoàng môn Kim Thú Trân đến núi cúng dường. Trong khoảng niên hiệu Hiển Khánh (656-661) thời Tiền Đường, vua Cao Tông (Lý Trị 650-684) thiết trai là cúng dường vạn vị Bồ-tát. Ngày đó, ở Hậu Châu Đại Châu có một vạn vị Tăng tuần lễ, đều nói là vạn vị Thánh đến dự hội, cúng thí một vòng tiền, một vạn dây xâu tiền, riêng cúng thí Bồ-tát. Nội thị cùng các châu huyện đều tấu đạt đến triều đình, từ đó điềm Linh Đài núi trở lại hưng thạnh. <詞>GIẢI THÍCH NƠI CHỐN CÁC CHÙA Ở NGŨ ĐÀI. Căn cứ theo “Linh Tích ký” nói xưa trước tương truyền có một trăm mười ngôi chùa. Đến trong thời Bắc Tề có cắt thuế khóa của vài châu để sung vào cúng dường bèn từ thời Bắc Chu trở lại nhân gặp phải sự phế hủy, chân đài tịch mặc trống không, chỉ còn trường mê lộc, tháp báu hư đổ, chỉ còn dấu vết chim chuột nhóm tụ, bỗng chốc tiếng chuông vắng bặt, trong nước nhà phân chia nát đổ, ngụ ở cao vọt bay, muôn dân thán oán, binh lửa kéo dài liên miên đến nỗi vàng bạc chẳng còn gì, đại để các ngôi già lam phần nhiều bị cháy rụi, biển ngạch danh hiệu đã hết, nền móng chẳng còn. Số có thể trú trì gìn giữ có cả thảy sáu mươi bảy ngôi, ngoài ra đều tiêu mất cả! Chùa Đại phu Linh Thứu, ở đời tương truyền là được dựng lập trong khoảng niên hiệu Vónh Bình (58-76) thời Hậu Hán. Sở dó chùa có tên là Linh Thứu, căn cứ theo theo “Tây Vức ký” quyển chín nói tiếng Phạm là núi “Kết-lật-đà-la-củ-tra” tức là nơi đức Thích Tôn giảng nói kinh Pháp Hoa, tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường phiên dịch nghóa là “Thứu Phong”, cũng gọi là “Thứu Đài”. Tiếp liền với phía nam của Bắc Sơn riêng lẽ nỗi trội. Đã là nơi chim thứu nương đậu dừng ở lại cũng thuộc loại Đài Cao, giữa khoảng không xanh biếc ánh ngời, nồng đượm phân sắc. Núi đây cũng như vậy. Nay là nền móng của viện chân dung, sườn núi đặc biệt riêng nổi trội, có cùng thuộc loài đài cao, dáng thế tiếp liền với sườn núi của Trung Đài và Bắc Đài, hình dáng núi tương tợ. Do đó, mà gọi tên như vậy. Chùa y cứ núi ấy mà đặt tên, nên gọi là chùa “Đại Phu Linh Thứu” vậy. Xưa trước, có Thiền sư Tuệ Vân ở chùa Đại Vân tại Sóc Châu, là bậc đức hạnh cao vời. vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Hậu Hán) rất mực lễ trọng, ban chiếu thỉnh mời đến làm Thượng tọa ở chùa đó. Tạo một bộ âm nhạc, công kỷ có cả trăm người, tiêu sáo, không hầu, tỳ bà, tranh sắc, thổi loa đánh trống, trăm thứ đùa vui náo động, tay áo múa mây bay, xà nhà ca bụi nổi, tùy theo thời cúng dường, kết chuỗi ngày thành năm, nhạc sánh như khúc nhạc của tiên trời ma lợi, đồng như cõi Phật Duy Vệ, bay đến trong hang Kim Cang, nay ra trong chùa Linh Thứu, tiếng vang tấu nổi hợp với khổ không. Người nghe dứt ác tu thiện, viên mãn lục độ, muôn hạnh tinh thuần. Từ trong thời tượng pháp trở lại, chỉ một lần gặp đó. Chùa Thanh Lương y theo núi mà đặt tên, chùa gá ở bên cạnh hang. Phía trước thông liền với khe hang, phía trên tiếp với ráng mây. Ngày mười lăm tháng năm năm Trường An thứ hai (702) thời tiền Đường, Kiến An Vương Só tinh châu trưởng sứ tấu trình trùng tu sửa sang. Võ Hậu (Võ Tắc Thiên 685-705) ban sắc đại đức Pháp sư cảm đích thân đến bái yết Ngũ Đài. Ngày hai mươi tháng bảy, lên đảnh đài, các hàng tăng tục có hơn ngàn người đều thấy trong mây năm sắc xuất hiện tướng tay Đức Phật, chồn trắng nai trắng quen thuần phía trước, phạm âm vang vọng theo gió róc rách. Giữa núi cốc, hương thơm khác lạ phảng phất, mọi người xa gần cùng theo, lại thấy có đại tăng thân sắc vàng tía đứng ngay trước mặt. Lại thấy có Bồ-tát, thân mang đeo chuỗi anh lạc xuất hiện ở đảnh núi phía tây, Pháp sư cảm mới đồ họa tấu trình, Võ Hậu rất vui mừng, bèn phong ban Pháp sư cảm là “Xương bình huyện khai quốc công”, và thực ấp gồm ngàn nhà, thỉnh mời sung đến ở chùa Thanh Lương, chủ quản việc tăng ni từ kinh đô rộng đến cả nước nhà. Võ Hậu lại ban sắc Tả Thứ Tử Hầu Tri Nhất, Ngự Sử Đại Phu Ngụy Nguyên Trung bảo thợ đục lạc ngọc làm tôn dung của Võ Đế đưa vào núi Ngũ Đài, lễ bái Bồ-tát. Đến năm Trường An thứ ba (703) thời Tiền Đường, đưa đến núi Thanh Lương để tôn trí. Khi ấy các hàng tăng ni khắp cả nước đều tấu xin đưa đi, Võ Hậu không chấp thuận, cho rằng xứ Nhạn Môn tiếp liền với mọi rợ, chỉ lưu tôn dung Võ Hậu tại giữa đại điện chùa Sùng Phước ở Thái Nguyên mà cúng dường. Đến núi Ngũ Đài tạo tháp lập bia, thiết trai cúng dường. Vậy đủ biết, cảnh chân nơi Bồ-tát ở, các bậc đế vương thường ngày chăm lo muôn việc còn tạo thân ngọc đến lễ bái Đại Thánh. Huống gì các hàng phàm thứ há chẳng theo phong hóa một lần đến cảnh thanh tịnh, tai ương nhiều kiếp bèn tiêu, tạm lên Linh Phong, tội chướng lắm đời tự diệt ấy ư? Chùa Phật Quang, do Yến Đãng Vương dựng lập, bốn mặt đều là núi rừng, ngay giữa bằng phẳng. Yến Đãng Vương tuần du bái yết kính lễ, đến cửa núi đó, gặp ánh sáng thần của Phật tỏa chiếu khắp núi rừng. Nhân đó, đặt biển ngạch gọi tên là chùa Phật Quang. Năm Chánh Quán thứ bảy (?) thời Tiền Đường, Thiền sư giải thoát ở chùa Chiêu Quả tại huyện Ngũ Đài lại gia công trùng tu tái tạo sự việc như trong truyện của Sa-môn Tuệ Đường (Cổ Thanh Lương truyện) đã nói. Chùa Thiên Tử, biên ghi rõ đủ như trong truyện của Sa-môn Tuệ Tường (Cổ Thanh Lương truyện) Tây Đài tiếp liền với cốc Đông Nga, có một ngôi chùa xưa tên là “Bí Ma Nghiêm”. Cũng đã nói đầy đủ ở trong truyện của Sa-môn Tuệ Tường (Cổ Thanh Lương truyện). Chùa ấy, trong khoảng niên hiệu Thùy Củng (685-689) thời Tiền Đường, tại Nhạn Môn có Thanh Tín cư só Bích Lư sùng nghóa từ thủa hình đồng vốn phục tâm tạo huyền quan, dốc chí có chỗ kết quy tinh cầu chẳng nhọc mệt, rão bước đến chùa đó, thệ nguyện trú trì, kinh các mới hoàn thành, lầu đài doanh niệm, đường điện phòng hiên có sáu bảy viện vũ. Khoảng hai, ba, bốn đồng bạn hành nhân, mây giăng đất từ, các bậc danh đức ở mười phương đồng đến ở trong đó, chẳng sợ nhọc mệt, chỉ chuyên thiền tụng. Đến năm Trường An thứ ba (703) thời Tiền Đường, khắp nước nhà đều sưu tầm các bậc tài giỏi chẳng bỏ sót nơi chốn đồng hoang hay hang cốc, Bích Lư sùng nghóa bèn bị mời vào, nhân đó xin được xuất gia làm tăng, bèn được ban sắc chấp thuận cho được xuống tóc đắp mặc pháp y, sau mới trở về núi, trọn đời ở tại chùa ấy vậy. Phía tây của Bắc Đài, thuộc phía Đông nam của huyện Phồn Trỉ có một ngôi chùa tên là “chùa Công Chúa”, do công chúa Tín Thành, con gái thứ tư của vua Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoành 471-500) thời Bắc Ngụy tạo lập. Với thời gian niên đại lâu xa, ni chúng đều vắng tuyệt, phòng hiên viện vũ, điện Phật giảng đường, tháp chín vị nữ, ngoái gạch vẫn hiện còn. Đến trong thời Tiền Đường, có một ni cô đồng nữ tên là Xú Xú có được một viên thạch ngọc vuông tròn một thước, có các đường văn năm sắc, trong ngoài ngời sáng, tự mang đến kinh đô, hiến dâng cho Võ Tắc Thiên (Võ Hậu 685-705), Võ Hậu bèn tặng cho một trăm xấp lụa nguyên, sau đó lại bảo có chí ý định đặt biển ngạch độ ni chúng, nhưng Xú Xú cảm mắc bệnh mà về đến nơi đã chết, mới chịu chẳng toại tâm nguyện ấy! Tại sườn núi của Bắc Đài có chùa Mộc Qua, xưa trước lên đài, đường đi do từ xứ đó, do thời gian lâu xa nên không biết mới đầu do ai tạo dựng như thế nào. Chùa có một người nữ tóc dài tên là Phật Tuệ tuổi khoảng 74-75, dáng mạo tợ ngu si, nhưng các bậc lão túc đã trăm tuổi từ thủa thiếu thời từng trông thấy dáng mạo người nữ ấy vẫn như mới đầu không đổi khác, tu sửa già lam thường là dẫn đầu. Tại huyện Phồn Trỉ từng có hơn ba trăm người theo Phật Tuệ lên Bắc Đài, vừa gặp lúc mưa bão, bèn vội dẫn nhau xuống bên cạnh đài vào dưới một lũy, một nửa lũy ấy trống rỗng như phòng nhà, Phật Tuệ dẫn trước, mọi người cùng theo vào, đồng ngồi giữa lũy trống rỗng và đều dung chứa tất cả mọi người, thật chẳng thể lường biết sức thần ấy, người thời bấy giờ cho rằng Phật Tuệ là nhục thân Bồ-tát. Chùa Phổ Tế ở phía nam của non Đại Hoàng Tiêm, bờ rừng thanh hư, đất bằng sông suối thoáng rộng, nhìn về phía tây thấy núi khảo lão nhìn về phía Đông thấy đá Man thiên, nhìn phía nam thấy Trung Đài và Bắc Đài. Ngay phía Bắc của chùa Mộc Qua có dòng suối vào đất, những người đi tuần đài bỗng gặp mưa bão đến đó lánh nạn. Trong hang cốc của phía Bắc Đài có chùa Tống Cốc, chùa Bảo Tích, lại về phía Đông bắc có chùa Bảo Sơn đều ở trong hang cốc, viện vũ u kỳ, lầu đài tráng lệ, đến nay vẫn hiện còn. Địa ngục sinh cách bắc đài về phía Đông không xa, có đá loạn lẫn chồng chất vút cao. Nghe các bậc lão thành xưa trước có Trương Thiện Hòa từng đuổi theo một con thỏ trắng đến đó, mà vùi lấp vào bên trong thấy địa ngục. Cách địa ngục không xa lại thấy một kinh tạng, tầng các tráng lệ, Trương Thiện Hòa kinh sợ là đến trong đó, nhân thấy trong tạng bụi bặm lắm dày, bên cạnh đó cũng có cái chổi, chổi sạch để quét dọn đó. Khi ấy Trương Thiện Hòa chợt sinh phát thiện tâm, nhân vì quét dọn khiến đều sạch sẽ, nhờ chút thiện tâm đó, Trương Thiện Hòa lại được ra khỏi nơi đó. Tôi (Diên Nhất) cho rằng nếu chẳng phải cảnh giới do sức nguyện của Đại Thánh thì sao có thể cảm hóa được như vậy ư? Thiền sư Đặng Ẩn Phong vốn người xứ Thiệu Võ, Phước Kiến. Ở đời tương truyền Đặng Ẩn Phong cùng người em gái xuất gia đều đến nơi đài. Lúc đến trên đảnh đài, bỗng nhiên người anh (Đặng Ẩn Phong) biệt mất. Người em gái phỏng tin không được, bèn đến phía tây của Bắc Đài, theo đường phía nam lên trên đá, đầu chúi xuống đất, chân lên trên trồng ngược mà đứng. Quần áo tung lên trên, dựng đứng mà chẳng loạn, an nhiên thị tịch. Người em gái bảo: “Tánh tình khinh tháo đến lúc chết mà không sửa đổi”. Bèn mới xô ngã, và liền ngay đó cử hành trà tỳ, xong gom nhặt linh cốt và chất đá làm tháp, đến nay vẫn hiện còn. Hám Sơn tức thuộc phía Đông bắc của Bắc Đài. Ở đời tương truyền là vua Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoành 471-500) thời Bắc Ngụy đến Đài Sơn lánh nắng nóng, Đại Thánh hóa làm thành vị Phạm tăng theo vua xin một chỗ đất trải tọa cụ, tu hành dừng ở. vua chấp thuận. Phạm tăng mới trương bày tọa cụ mà che phủ hơn năm trăm dặm. vua biết đó là thần mới vội vã mà đi, xoay đầu trồng nhìn lại, núi ấy cao vợi theo sau, vua kêu bảo: “Người khéo hám núi, sao theo trẩm ư?” Nhân đó mà dừng, vì vậy gọi tên như thế. Chùa Đường Xương cách chùa Phật Quang về phía Đông bắc khoảng bốn, năm dặm. Xa xôi cao vợi chùa Vũ vắng vẻ. Ở đời tương truyền là xưa kia Đãng Xương Vương tạo thành Phật Quang, an dừng tại đó, nhân vậy mà đặt gọi tên. Xin ghi chú rằng thuyết ấy có thể hoặc là sai nhầm, nghi rằng trong thời Tiền Đường ban sắc biển ngạch lấy chữ Xương thạch làm tên vậy. Chùa Thạch Quật cách chùa Phật Quang về phía Đông bắc hơn hai mươi dặm, do Thiền sư Nghiễm tạo dựng. Ở Ngay cửa núi, lên chùa Thanh Lương đường đi trải qua xứ ấy, nên đó là nơi dừng nghỉ của các người đi lễ bái. Chùa Vương Tử thiêu thân tiếp theo về phía bắc cách khoảng năm, sáu dặm, có chùa Tiểu Nham, chùa Đại Lũy, chỉ còn ngói gạch nền móng. Ngoài ra đều đã hủy hoại, tháp miếu ở đương thời chẳng còn một gì. Xứ đất ấy rất là sinh thiện, nhưng đường đi tham lễ nhỏ hẹp nên người đến rất ít. Xưa trước có Cô ni Minh Nguyệt Pháp Ốc v. v… ở chùa Vạn Thiện tại Tây Kinh đến đó dựng lập am mà ở, thường chuyên trì tụng kinh Hoa Nghiêm và kinh Niết-bàn. Đến năm Thần Long thứ nhất (705) thời Tiền Đường thì thị tịch. Tại phía Bắc của Trung Đài và phía nam của Đài Lãnh, có hai ngôi già lam tên là Ngô Ma và Thông Viên. Hai ngôi chùa ấy, có chủ chùa Hồng Mã ở đó trú trì, cũng nói là bậc giới đức tỏa sáng ở đương thời, oai nghi cảm động vật tình, có Đàn Hổ như chó quen thuần vây quanh sân viện, chuông khánh ngân vang giữa hư không như có người khua gióng, sáu sự chẳng mất, mười tháng thường nghe. Các hàng tăng tục đi tuần đài, đến đó mà tham lễ, có ba, năm Cô ni tuổi hết kỳ nuôi, chủ chùa suốt cả trăm năm chẳng xuống núi cốc. Đến tháng giêng năm Trường An thứ ba (703) thời Tiền Đường thì qua đời. Ở thành Ngũ Vương có chùa Ngũ Vương tạo lập tu sửa rất kỳ lạ, chưa rõ biết Ngũ Vương đặt tên tạo chùa từ thời đại nào, chung quanh còn có dấu vết rừng dâu vườn táo, mọi người vân du bái yết nghó suy kính mộ quên cả trở về. Dưới chân ở phía nam của Đông Đài thuộc phía trên của Nam Lãnh có chùa Quán Hải, bên trong có ao Minh Nguyệt vuông tròn rộng một dặm, nước sâu tám thước, tuy đầu tháng hay cuối tháng, bóng trăng vẫn hiện ở trong. Cặp quanh ao có hai lũy tùng cành nhánh đang xen, mỗi lúc gió trong lành thoảng qua phát tiếng vang như cầm sắt. Từng có Vương Thạch Kỳ người xứ Nhạn Môn, Quách Thượng Hạng người xứ Thái Nguyên, Ngụy Pháp Tài người xứ Tấn Châu, Tiết Tư Cung người huyện Phồn Tró v. v… cả thảy hơn ngàn người đi tuần lễ bái ở Đông Đài, bỗng đến chùa đó gặp mưa dầm lớn suốt bảy ngày chưa thôi. Mọi người mới chí thành phát nguyện, nhân đó mà được ráo tạnh, chỉ còn mây giăng chẳng tan. Nhìn về tận phía Đông là biển cả một màu xanh biếc phẳng bằng như sông lớn. Ở trong đó hiện bày tượng Đức Lô Xá-na và nghe giảng pháp. Về sau, Quách Thượng Hạnh v. v… có hơn mười người phát tâm xuất gia, đều được xuống tóc đắp mặc pháp y, và đồng có tiết tháo cao vời. Trong cốc đại hội ở phía Đông của Đông Đài có chùa Đồng Chung được tạo dựng khoảng trong thời nhà Ngụy. Chùa có một quả chuông đồng có thể chứa đựng ba mươi hộc, hình như bụng bình, thân làm tám góc, Khắc Tử Ngụy đó Kim Cang, lấp vùi lỗ mũi voi ẩn nổi, các thứ báu xen tạp trang nghiêm rồng voi nhiễu quanh thân, thần tiên khắp bụng, tham thần nhật nguyệt, hình ảnh Thích Phạm liệt bày trên đảnh. Năm Trung Bình thứ nhất (?) có Sa-môn Tuệ Trừng ngụ ở chùa đó, sau nhân việc hoằng truyền giới mà xa đến kinh đô, vài năm sau mới trở về lại, thì giữa chuông bỗng nhiên không còn, bèn rất bồi hồi xót xa đau đớn càng lắm, bỗng thấy một dị nhân, Tuệ Trừng bèn hỏi nguyên do, người ấy đáp: “Tôi là thần núi ở đây, chuông đã đưa vào trong hang Kim Cang, vốn do vua trời Đâu Suất chú tạo vậy”. Tuệ Trừng bảo: “Chẳng phải thế, chuông ấy được chủ tạo thời Phật Câu Lâu Tần, cớ sao thần núi gom đưa vào hang Kim Cang?” và Tuệ Trừng bèn khắc đá ở chùa làm bài minh rằng: “Chùa gần hang pháp cổ, khua giáng rống động nị tra nghe, nhóm tập hiền Thánh diệt nhân khổ, bị thâu đưa vào Kim Cang luân, ai được biết thấy thần núi, trước vạn Thánh sáu thời nghe, viết phụng biếc khắc bạc trắng tiêu biểu nơi chuông đồng đi để dứt tuyệt người nghi đời sau”. Chùa Ôn Thang do Ngũ Vương tạo lập, xưa kia năm vị Vương tử, chẳng biết thuộc thời đại nào nhờ đời kiếp trước gieo trồng căn lành nên được làm Vương tử, lại bởi duyên tạo nghiệp xấu ác, nên nhiễm mắc bệnh già-ma-la, bèn chuyển dời vào núi, đến nơi suối ấm này mà tắm rửa, bệnh bèn được lành, thân trở lại nhẹ nhàng, nên tạo chùa trú trì, nhân đó lấy chữ “Ôn Thang” (ấm lạnh) làm hiệu, bên trong chùa có một ngôi tháp gạch cao khoảng hai trượng, tầng cấp ba lớp, bên trong có tượng Lô-xá-na, Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và các bộ cùng theo thảy đều đầy đủ. Trong khoảng niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên (697-698) thời Tiền Đường, có Sa-môn từ vân sáng lập an đặt, về sau mọi người vân du tham lễ qua lại chẳng ngớt. Từ non Thanh Lương về phía nam cách hơn ba mươi dặm vào trong cốc lớn, có chùa Khảm Nham, chùa Tiểu Bách, chùa Khảm Nham có điện Phật cửa lầu. Trong chùa Tiểu Bách có hai ngôi Phù Đồ, một ngôi ngay cửa đừơng, một ngôi tại trong cốc. Người xứ Đông Sơn phần nhiều ghi họp tại đó. Ở phía bắc có bình nguyên muôn mẫu, đó là trang điền của Sa-môn Lý Trừng làm phổ thông cúng dường. Xưa kia có vị Tăng xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, cứ một niệm thì ném một hạt đậu vào trong cái chum mười hộc, niệm đầy đủ chum ấy mới thấy Phật A-di-đà đến nghinh đón, nhân đó mà thị tịch. Chùa Xích nhân ở giữa sườn núi gần đường an đặt chùa đó, suối cao nhỏ giọt rơi nước thấu hang. Phía dưới cách khoảng bảy tám dặm cúi nhìn xuống là linh thọ trấn định, lại thấy Dịch Châu ôm quanh bụng núi công đức. Phía nam cốc Đông Nga có chùa Thiết Cần chùa Hướng Dương, chùa Nhật Chiếu, chùa Lũy Thạch đều tại trong cốc, cây rừng cao sâu liên miên chẳng cùng. Chư tăng chùa Phật Quang phần nhiều đến dừng ở đó. Vào cốc Đông Nga có chùa Đại Hội, chùa-dục Vương, chùa Du Cần, chùa Nhũ Thạch, chùa Đông Tiêm, phía trên bên hữu có ngôi già lam đều ở tại trong cốc, phần nhiều ở nơi hang hiểm trở. Bên trong có sườn Bồ Quyên thân, sườn Bồ-tát đỏa, tảng đá ngồi cắt thịt v. v… Trước mặt có chùa Hùng Đầu, chùa Báo Tử, chùa Hắc Sơn, Chùa Cam Tuyền, chùa Vọng Đài cùng cách nhau chẳng xa chỉ khoảng từ mười đến mười lăm dặm, đều chiếm cứ hình thế ưu thắng, miếu Phật tinh xá mỗi mỗi đều có. Hòa thượng Thạch Nê, không rõ biết là người thuộc thời nào. Nghe các bậc lão thành kể là ở hang dưới cốc phía Đông bắc gần Tây Đài, tu đạo, mỗi lúc đến giờ ngọ vắt bùn làm tể để dùng bữa ăn, mọi người chẳng thể lường biết, và cuối cùng cũng không biết như thế nào. Từ Đông Đài về phía bắc cách hơn bốn mươi dặm đến dưới đáy cốc có dùng Hoa Lâm, chùa hương Vân. Từ chùa về phía Đông cách năm mươi dặm có chùa Hương Lũy. Bên cạnh chùa có Nhũ đầu Hương Lũy. Về phía nam lũy cách 80-90 dặm có chùa Từ Vân, chùa Thạch Thất. Phía dưới có chùa Long Bàn, có hình rồng cuộn cong trên đá hiện còn. Tiếp về phía nam có chùa Quang Minh, chùa Vạn Tượng, chùa Long Tuyền, chùa Phụng Lãnh. Chùa Từ Vân tại trong cốc Đại Hội, chùa Thạch Thất tại trên non Ôn Tuyền, chùa Long Bàn chánh ngay dưới xuyên, chùa Quang Minh chùa Vạn Tượng mọi người trông thấy chẳng đồng, hoặc ẩn hoặc hiện, có người từng thấy tại bên cạnh chùa Nam Lãnh, có lũy lúa vườn quả, có vị Tăng thấy tại trong xuyên. Suy lường chẳng biết nguyên do tại sao. Cảnh giới Đài Sơn chẳng thể y cứ lời nói mà lấy làm cố định, phần nhiều đều là sai khác, bởi quyền nghi hóa hiện của các Thánh, nên người thấy gặp mỗi tự có khác biệt. Có hai ngôi chùa biến hóa. Căn cứ theo “Linh Tích ký” nói thì một là chùa Thiên Thành từ thành Ngũ Vương về phía Bắc cách khoảng năm mươi dặm, bốn mặt đều là thành Trời, một sông bằng phẳng, mây núi cao vút, tuyết bão tuôn đổ. Căn cứ theo “Cổ già lam truyện” xưa trước nói: chùa biến hóa chẳng y cứ nơi đất mà dựng lập, chỉ hiện ở giữa không trung, đạo tràng của Bồ-tát, cõi tịnh của Văn-thù, lầu son điện biếc, do bảy thứ báu hợp thành, vàng tía bạc trắng, lưu ly đồi mồi, lưới châu giăng móc xoay ra ráng mây. Các người được gặp, máy trần chóng dứt. Có ao nước sâu khoảng trượng bốn, năm thước, trong suốt thấy tận đáy, bình thường tràn đầy chảy xuống. Có lúc có chim linh lông cánh năm sắc bay liệng trên dưới ao hồ hòa tiếng kêu vang. Cũng có am tranh nhà cỏ hơn mười lăm ngôi ở lưng chừng núi, chẳng lường biết đó là Thánh hay phàm, những người lên đài có lúc được thấy. Từ chùa Hoa Lâm ở phía Đông của Đông Đài xuống dưới sườn núi có một ngôi chùa xưa, chẳng thấy có biển ngạch, bên trong đường viện rộng một hai dặm. Bốn mặt đều là mây núi như đồng khắc vót, ở lưng chừng núi tạo dựng tinh xá già lam. Tháp báu vút giữa hư không, thật chẳng phải khả năng con người tạo dựng. Xưa trước có Thiền sư Nhuận là bậc đức hạnh cao khiết rảo bước đến đó, bỗng gặp chùa biến hóa, thấy hai Lão nhân dung mạo khác phàm đi như ngựa chạy thẳng đến đảnh núi đó, chỉ trong chốc lát biến thành thiếu niên, nói năng hòa nhã âm thanh như chuông khánh, miệng xướng lời kệ rằng: “Lời của Thượng Thiện có thể buông phóng, thiện của Trung Hạ, cần nên gôm thâu. Báu của Kim Cang có thể lấy dùng, Đề Hồ Diệu dược khá đáng uống”. Vị Tăng ấy ngưng lắng tư duy, nghe nghi điều nói đó. Có Tuấn biện Công Tôn Sinh, Xá-lợi tử Hùng Nhã, thấu cùng căn nguyên của ba cõi, đồng cú nghóa của nhất thừa, để lại cho vị Tăng Thánh được, bèn được phương cách ăn bánh bột. Vị Tăng ấy đã được nhận sự chỉ dạy xoay trở lại liền chẳng thấy người. Đã chẳng biết chùa cũng khó gặp gỡ, hoặc là biến hóa hoặc là chân thật, không thể biết được vậy. Về phía Đông nam của Trung Đài có chùa Ngọc Hoa, ở đời tương truyền là xưa kia có năm trăm Phạm tăng ở trong đó chuyên tu thiền định trí tuệ, chín tuần chùa hạ nắng nóng tức đến Trung Đài an cư, còn ba tháng mùa đông rét giá liền trở về ở Ngọc Hoa, tinh cầu thiền tụng, khổ chí chẳng phế bỏ tất thời gian, từng có ba mươi con. Tuy chẳng phiền nhọc nhằn trông theo bắc xuyên lên xuống chuyển vận lương thực để chư tăng sử dụng như vậy suốt vài mươi năm chưa từng khuyết thiếu, tức nay là phía bắc của nhà trù ở Trung Đài, nền móng địa chỉ chùa xưa vẫn hiện còn. QUẢNG THANH LƯƠNG TRUYỆN <卷>QUYỂN TRUNG 8- Bồ-tát hóa thân làm người nữ nghèo khổ. 9- Cô Thiên nữ Tam-muội. An sinh đắp họa chân dung Bồ-tát. Hòa thượng Ngưu Vân cầu thông minh. 12- Phật Đà-ba-lợi vào hang Kim Cang. 13- Hòa thượng Vô Trước vào chùa Bát nhã biến hóa. 14- Hòa thượng Thần Anh vào viện Pháp Hoa biến hóa. 15- Hòa thượng Đạo Nghóa vào chùa Kim Các biến hóa. 16- Hòa thượng Pháp Chiếu vào chùa Trúc Lâm biến hóa. 17- Các hàng tăng tục quên thân vì đạo. 18- Châu Mục Tể quan quy hướng chánh tín. 19- Sự tích chư Tăng cao đức. <詞>BỒ TÁT HÓA THÂN LÀM NGƯỜI NỮ NGHÈO KHỔ . Chùa Đại Phu Linh Thứu là nơi cả chín khu quy hướng, chỗ muôn Thánh tu sùng, mở móng từ thời Đông Hán, tới thời Hậu Ngụy khai thác, không rõ biết thuộc thời đại nào. Thường cử đến tháng giêng đầu năm chuẩn bị trai hội, chẳng kể xa gần, các hàng phàm Thánh lẫn lộn chung đồng. Có truyện tích đã mất y cứ nói rằng: Có một người nữ nghèo khổ gặp lúc trai hội nhóm tập, từ phía nam mà lại, lúc sáng sớm đến chùa, dẫn bồng hai đứa con và có một con chó cùng theo, ngoài thân mình ra không có một vật gì, bèn cắt tóc mà cúng thí. Chưa đến lúc chư tăng thọ thực, người nữ ấy bảo với vị Tăng chủ trì rằng: “Tôi muốn được ăn trước, vì còn phải đến nơi khác”. Vị Tăng ấy cũng hứa thuận cho, và bảo hai đứa con cùng cho thức ăn, cả ba phần gấp bội, trong ý muốn người nữ nghèo khổ đó và hai đứa con đều được no đủ. Người nữ ấy nói: “Con chó đây cũng đáng cho nó một phần”. Vị Tăng ấy miễn cưỡng mà lại vì cho, người nữ ấy lại nói: “Ở trong bụng tôi có một đứa con, nên cũng cần có được một phần ăn”. Vị Tăng đó mới tức giận bảo: “Ngươi cầu xin thức ăn của chư tăng mà không biết nhàm chán, nếu là ở trong bụng chưa sinh, đâu cầu phải ăn ư?” quát mắng và đuổi đi. Người nữ nghèo khổ ấy bị quở trách, liền rời khỏi đất, biến thành hóa thân tức tượng Văn-thù-sư-lợi, con chó làm thành sư tử, hai đứa con tức Thiện Tài Đồng tử và vua Vu Điền. Mây khí năm sắc ngùn ngụt đầy cả hư không. Nhân đó lưu lại bài kệ khổ (đắng) rằng: “Dầu đắng, đắng luôn rễ. Dưa ngọt, ngọt suốt cành. Là ta dấy ba cõi. Tức kia đáng ghét hiềm”. Bồ-tát nói bài kệ rồi bèn ẩn mất không còn trông thấy, các hàng tăng tục trong chúng hội không ai chẳng kinh sợ tán thán. Vị Tăng chủ trì đó tự hận không biết được chân Thánh, muốn dùng dao tự đâm vào mắt, mọi người khổ thiết can ngăn mới thôi. Sau đó, các hàng sang hèn đồng đều xem như nhau, nghèo giàu không hai. Bèn đem tóc của người nữ nghèo khổ ấy cúng thí đến nơi chỗ Bồ-tát cưỡi mây nổi đi, dựng tháp mà cúng dường Đại Thánh. Đến năm Cung Hy thứ hai (984) thời Bắc Tống lại gia tâm tu sửa. Ngay dưới nền móng tháp từng đào bới được ba-năm quấn tóc của Đại Thánh. Tóc như vàng ròng, khoảnh khắc lại biến thành màu đen. Mọi người trông thấy đó chẳng nhất định, chong mắt cùng trông xem, thật chẳng thể nghó bàn, bèn hoàn trả lại dưới tháp mà vùi lấp lại. Tức nay là tháp ở góc Đông nam của chùa Hoa Nghiêm ấy vậy. <詞>CÔ THIÊN NỮ TAM MUỘI Các bậc cổ đức tuyên truyền rằng: Có cô thiên nữ Tam-muội, không biết là người thuộc thời đại nào, tự nói rằng: “Đại Thánh bảo ta đến ở đại non Hoa Nghiêm và căn dặn rằng “duyên xưa trước của ngươi ở tại đây, nên ứng xử cốt yếu, hành đạo Bồ-tát, dẫn dắt quần sinh, giúp cúng Sơn Môn ta cũng chiếu cố đến ngươi, lại cho một phần cúng dường, khiến ngươi trọn năm chẳng đói chẳng khát”. Mọi người xa gần nghe thế đến kính phụng cúng thí đông nhiều như chợ. Cô thiên nữ mới kêu tìm người thợ tạo dựng tinh xá Điệu Vũ, không mấy ngày mà hoàn thành. Lại đích thân đến trong Hương Xuyên khuyến hóa mọi người cúng thí gạo bún và tự thân khiêng mang về sung vào việc cúng dường. Mọi người trong xuyên lục nghinh đón hưởng ứng chỉ sợ là mình đến sau. Các hàng tăng tục cúng dường đông nhiều muôn ức chẳng thể tính lường. Cô Thiên nữ tự mang một thạch nặng đi nhanh như gió, lại thêm một thạch, cũng không nhọc mệt gì. Về sau, các kho lầm thảy đều tràn đầy, sử dụng chẳng hết. Một ngày nọ, mọi người đến tham lễ đông nhiều. Đệ tử thưa: “Bình cơm đã hết sạch” Cô thiên nữ bảo: “Cớ sao nói dối như vậy?” Dùng dây lạt quấn lấy, cơm liền tràn đầy cung cấp chẳng hết. Các vật khác cần dùng đại khái cũng như vậy. Mọi người ở bốn phương đến tuần lễ, muốn mong cầu thấy Đại Thánh, đến cầu thỉnh nơi cô. Cô thiên nữ bảo: “Chỉ nên chí thành dứt hết nghó ngợi, đốt hương cầu thỉnh tức thấy sắc màu vàng ròng, đến cả muôn chúng, các thứ ánh sáng đều y theo lời như ước nguyện. Đến ngày mười lăm tháng hai năm Trinh Nguyên thứ ba (787) thời Tiền Đường, bỗng nhiên cô thiên nữ bảo đồ chúng rằng: “Hóa duyên của tôi vừa hoàn tất, nay có thể trở về trời, các người nhớ nghe lời tôi răn bảo, chớ để dứt tuyệt”. Nói xong bèn thị tịch. Ngày đó mây lành tỏa bủa ngời ánh hang cốc, nhạc trời vang vọng giữa hư không, hương thơm khác lạ phảng phất khắp cùng cả rừng chàm, các loại chim kêu vang, muôn thú gầm hét có hạt trắng cát từng bay liệng quanh trọn ngày mới bỏ đi. Muôn đồ đệ tử các chúng vô sinh v. v… đều y theo lời thầy dạy răn cúng dường chẳng ngớt. <詞>AN DANH ĐẮP HỌA CHÂN DUNG BỒ TÁT Phía Bắc chùa Đại Phu Linh Thứu có một ngọn núi nhỏ trên đảnh bằng phẳng không có cây rừng, cao vợi nổi trội tợ như Thứu Phong ở Tây Vức. Trên đó, mây lành thường mọc nổi, chân dung Đại Thánh từng hiện. Xưa trước gọi là Đài Sơn Văn-thù. Đến trong niên hiệu Cảnh Vân (710-712) thời Tiền Đường, có Sa-môn Pháp Vân, chưa rõ vốn giòng họ gì, ở chùa Đại Hoa Nghiêm, từng tư duy Đại Thánh thị hiện cảm hóa, mà không đôn tượng khiến mọi người khắp bốn phương vân du tham lễ biết chiêm ngưỡng vào đâu? Mới sửa sang nhà cửa tìm mời thợ đắp họa nghi dung. Có xử só An Sinh, không rõ biết từ xứ nơi nào đến, một ngày nọ vào ứng sự tìm mời, vì Sa-môn Pháp Vân mà đắp họa tôn xưng. Sa-môn Pháp Vân trả giá rất nồng hậu, muốn thợ làm nhanh. An Sinh nói cùng Sa-môn Pháp Vân rằng: Nếu chẳng tận mắt trông thấy tượng thật thì trọn không thể chẳng nghi”. Mới đốt hương khẩn thiết chí thành cầu thỉnh trong thời gian. Bỗng nhiên Đại Thánh ứng hiện nơi sân, An Sinh mới vui mừng nhảy nhót giữa đất, cầu nguyện rằng: “Xin lưu lại trong khoảng bữa ăn để phỏng họa hết các tướng tốt: “Nhân đó liền đắp họa, về sau trong tâm không một chút nghi ngờ. Mỗi lúc xoay lại trông nhìn, chưa từng chẳng thấy Bồ-tát Văn-thù ở bên cạnh. Trải qua vài năm công việc mới hoàn tất, mà trước sau có đến bảy mươi hai lần Đại Thánh thị hiện. Nghi dung chân tượng vừa hoàn bị, từ đó linh ứng vang dậy, xa gần đến tựa nương, nên lấy Chân Dung đặt gọi tên viện. Đến lúc vua Thái Tông (Triệu Quýnh 976-998) thời Bắc Tống lên ngôi, vốn bản chất thần võ, nhiếp trị Ngụy chúa, chỉnh định vũ trụ, tạo dựng lại sinh linh, nên được tượng giáo càng hưng long, Linh Phong càng che phủ. Mới đầu sai Trung Sứ đến núi Ngũ Đài đốt hương chí thành cầu nguyện, đặt biệt tu tạo lại. Ngày mười lăm tháng tư năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980) thời Bắc Tống, ban sắc sứ thần Thái Diên Ngọc, nội thần Dương Thủ Tuân v. v… đến viện Bồ-tát tại núi Ngũ Đài, cùng tăng Thánh tịnh nghiệp tính lường việc tu đạo, và đồng bộ hạt công thợ v. v… Đồng thời ban sắc hai đường Hà Đông, Hà Bắc chuyển vận cung cấp phí dụng tu tạo cho viện Bồ-tát ở núi Ngũ Đài. Đến ngày hai mươi hai tháng tám năm Thái Bình Hưng quốc thứ bảy (982) thời Bắc Tống, Trương Đình Huấn v. v… tấu trình công việc tu tạo hoàn tất. vua Thái Tông trước kia đã tự xuống Tây Thục, sau đến năm Thái Bình Hưng Quốc thứ hai, tức năm Đinh Dậu (phải là năm Đinh Mão mới đúng 977) thời Bắc Tống, ban sắc ở phủ Thành Đô biên tả một tạng Đại Tạng kinh thứ năm bản chữ vàng. Đến ngày mồng năm tháng bảy năm Thái Bình Hưng Quốc thứ tám, tức năm Quý Mão (phải là năm Quý Sửu mới đúng 983) thời Bắc Tống, lại ban sắc nội thần An Trọng Hối trông xem nghinh đưa đến tôn trí tại viện Bồ-tát ở núi Ngũ Đài, và cứ mỗi năm, độ năm mươi người xuất gia làm tăng. Đến năm Cảnh Đức thứ tư (1007) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng 998-1023) lại đặc biệt ban sắc nội khố xuất một vạn quan tiền để gia công tu sửa, và tạo dựng một tòa đại các gồm hai tầng rộng mười ba gian, bên trong tôn trí Chân Dung Bồ-tát, ban sắc biển ngạch đề tên là các “Phụng Chân”. Mỗi năm, sai nội thần đến núi thiết trai cúng dường. Từ đó, tầng lầu điện rộng, các bay hiên dài, mây và mặt nhật cùng tỏa, vàng ngọc giao ánh, trang nghiêm sùng phụng vượt hẳn đời trước. Đến thời vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1066) thời Bắc Tống lại kế thừa nghiệp lớn của cha ông ngày trước, giữ phép đại giáo của Nho Thích, từng sai Trung Sứ thiết bày trai cúng đến núi. Mỗi lúc giao tế lễ hoàn tất, đạo tràng thiết trai cúng dường, mọi vật quý báu tốt lành đều xuất từ cấm cung. Tháng ba năm Khánh Lịch thứ tám (1048) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông ban sắc sai nội thị Hoàng môn Tạ Võ Khuê đưa đến một chiếc bảo quan. Trước là từ niên hiệu Khánh Lịch (1041- 1049) đến năm Hoàng Hựu thứ ba (1051) thời Bắc Tống, triều đình có ba lần sai sứ phân ban. Từ vua Thái Tông, vua Chân Tông và vua Nhân Tông cả ba triều đại bút ghi ngự thư có cả thảy 180 pho, và nguyên chữ Thiên Trúc có bảy sách. Về sau, có các sơn môn Tăng Thủ, Pháp Tuệ, Thuận Oản đến phía bắc điện Thụy Tướng lại tạo dựng một tòa đại các hai tầng có cả thảy mười ba cột, ở tầng trên thiết đặt đấu quan phân bố, gian giữa an đặt tôn trượng Phật Tỳ-lô-giá-na, khắp bốn phía tạo một vạn tôn trượng Đại Thánh, khắc họa thêu vẽ hết mực tinh xảo. Đến năm Gia Lựu thứ hai tức năm Đinh Dậu (1057) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông lại ban sắc vào nội. Nội thị tỉnh Lê Vónh Đức đưa ngự thư bảo Chương Phi Bạch một mặt bia ngạch các đến viện Chân Dung. Đến ngày 22 tháng ba đặt treo trên các. Nếu chẳng do các bậc vua chúa lưu tâm với Thánh giáo, chú ý nghóa tưởng đến Linh Phong thì sao từng ban Bảo Nghiêm, tự tay vẩy bút thần huống hồ từ thời vua Thái Tông xưa trước ban sắc ruộng đất chùa núi đều quyên từ thuế khóa. Từ các triều đình xưa trước sùng chuộng, tạo dựng chốn già lam, rộng độ các hàng tăng ni, trừ bỏ các sự sai dịch, nào chỉ một mối. Do đó, ở thời Bắc Tề từng dốc bổng lộc của vài châu, đến thời Tiền Đường có cả chín đời vua xoay lại chiếu cố đó ư? <詞>HÒA THƯỢNG NGƯU VÂN CẦU THÔNG MINH Sa-môn Ngưu Vân vốn người dòng họ Triệu ở Nhạn Môn. Từ thủa bé thơ tướng dáng tợ như ngu độn. Song thân đưa đến ở Hoàng Đường (Trường học), đều không có ý nói xem chỉ mỗi lúc trông thấy tăng ni thì liền nghiêm trang kính lễ. Năm Ngưu Vân 12 tuổi, song thân lại đưa đến các viện Thiện Trú ở chùa Hoa Nghiêm cầu xin xuất gia tôn thờ Sa-môn Tịnh Giác làm thầy. Mỗi lúc sai bảo múc nước hái củi, đại chúng đều dèm chê là quê kệch ngu dốt. Đến lúc đủ tuổi, Ngưu Vân thọ giới cụ túc đặc biệt riêng không đụng tập, mãi đến năm ba mươi sáu tuổi, khi ấy đang tháng mùa đông, Ngưu Vân mới phát tâm chí thành từ bên trong, tự suy nghó, thổn thức rằng: “Ta thấy mọi người bảo trên đài từng có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thì chỉ cầu mong được thông minh, học tụng kinh pháp”. Khi ấy vừa lúc tuyết rét, mà tâm Ngưu Vân không lùi sợ, trước tiên đến trên đảnh Đông Đài, bỗng nhiên thấy một người già đốt lửa mà ngồi, Ngưu Vân hỏi: “Tuyết lạnh như vậy, ông từ phương nào lại đây?” Người già ấy đáp: “Tôi từ trên núi xuống”. Ngưu Vân hỏi: “Vì sao trên đường toàn không thấy dấu chân?” Người già ấy đáp: “Tôi đến trước lúc tuyết đổ” và lại hỏi Ngưu Vân rằng: “Sư có tâm nguyện gì mà xung bạo giữa tuyết đi chân trần đến đây? Há chẳng khổ nhọc ư?” Ngưu Vân đáp: “Tôi tuy xuất gia làm tăng mà tự than trách mình ngu dốt không biết tụng niệm kinh pháp”. Người già ấy hỏi: “Vậy, ý muốn đến đây làm gì?” Ngưu Vân đáp: “Cầu thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chỉ xin được thông minh”. Người già ấy bảo: “Kỳ lạ thay!”, lại hỏi “Nếu ở nơi này mà không thấy gặp Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thì định đi đâu?” Ngưu Vân đáp: “Lại lên trên Bắc Đài”. Người già ấy bảo: “Tôi cũng muốn đi”. Ngưu Vân hỏi: “Đồng đi có được chăng?” Người già ấy bảo: “Xin sư đi trước”. Ngưu Vân mới đi khắp đảnh đài rồi cáo biệt, người già ấy theo hướng Tây mà đi. Tới chiều tối, vừa mới đến đảnh đài, cũng thấy người già đốt lửa mà ngồi, Ngưu Vân kinh ngạc sinh nghi bảo cùng người già ấy rằng: “Vừa rồi tại Đông Đài cùng giả biệt, tôi đến đây trước. Cớ sao Lão nhân lại đã đến trước?” Người già ấy bảo: “Vì sư không biết đường tắc, do đó mà đến chậm”. Ngưu Vân tuy nghe theo lời nói ấy mà trong tâm vẫn cho rằng chỉ Lão nhân này đáng là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi”, mới bèn lễ bái. Người già ấy bảo: “Tôi là người phàm tục không nên tác lễ”. Ngưu Vân vẫn thiết lễ trong tâm ý chẳng hề đổi thay. Giây lâu, người già ấy bảo: “Hãy đợi tôi nhập định quán xét đời trước ông tạo nghiệp gì mà nay ám độn như vậy”. Người già ấy vừa mới tợ như nhắm mắt, liền vội bảo rằng: “Đời trước ông làm thân trâu, nhân chở tạng kinh của nhà chùa, nên nay được xuất gia làm tăng. Do vì từ trong kiếp trâu lại nên bị ám độn như vậy. Ông hãy đến bên cạnh Long Đường lấy một các vạc lại đây, cho ông phá ngay thịt bùn ở đầu tâm tức liền sáng suốt”. Ngưu Vân bèn y theo lời bảo đó, đến bên cạnh nhà, quả nhiên có được một cái vạc, bèn liền đưa đến cho lão nhân, người già ấy bảo: “Ông chỉ nên nhắm mắt chờ đợi tôi bảo mở mắt mới có thể mở”. Ngưu Vân y theo lời chỉ bảo, cảm giác tợ như ngay tim bị đập phá mà thân không đau nhức, tâm mới rổn rang như trong nhà tối gặp được đèn sáng, tợ giữa đêm đen mà nhật nguyệt soi sáng. Người già ấy bảo mở mắt. Ngưu Vân đã mở mắt liền thấy người già ấy hóa thành tượng Văn-thù-sư-lợi, bảo cùng Ngưu Vân rằng: “Từ nay trở đi, ông tụng niệm kinh pháp, chỉ trải qua tai mắt tức liền không quên mất viện Giản Đông ở chùa Hoa Nghiêm có nhân duyên lớn với ông, nên ông chớ thối chuyển. Ngưu Vân mới chẳng dằn nỗi cõi lòng buồn vui lẫn lộn, gieo mình xuống đất kính lễ, trong khoảng chưa ngẫng đầu lên, Bồ-tát đã ẩn mất. Ngưu Vân liền xuống núi, thân thể nhẹ nhàng bèn tập trung kinh pháp, mắt thấy tai nghe, không gì chẳng ghi nhớ. Tháng 5 năm sau, Ngưu Vân đi nhiểu quanh tháp Dục Vương hành đạo niệm kinh, đến đầu canh hai trong đêm, chợt thấy một luồng ánh sáng thật từ trên đảnh Bắc Đài suốt liền đến nơi nền tháp, giây lâu mà chẳng tan. Trong luồng ánh sáng ấy xuyên ngang trên các, hiện một tòa các, ánh sáng sắc màu rực rỡ, phía trước có bia văn biển ngạch viết bằng chữ vàng rằng “khéo ở tại các này”. Ngưu Vân mới nhớ lời Bồ-tát dạy răn, bèn y cứ như các hiện trong luồng ánh sáng mà tạo lập. Đến năm Khai Nguyên thứ 23 (735) dưới triều vua Huyền Tông (Minh Hoàng-lý Long Cơ) thời Tiền Đường, Ngưu Vân vừa 63 tuổi, 44 hạ lạp, tự nhiên không bệnh mà thị tịch. <詞>PHẬT ĐÀ BA-LỢI VÀO HANG KIM LONG Phật Đà Ba-lợi tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường phiên dịch nghóa là Giác Ái, vốn người nước Kế Tân thuộc xứ bắc Ấn Độ. Giác Ái vì đạo bặc quên thân mạng vân du tham quan các Linh Tích. Nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở núi Ngũ Đài Thanh Lương, nên xa vượt qua lưu sa, đích thân đến lễ bái tham yết. Năm Nghi Phụng thứ nhất (676) dưới triều vua Cao Tông (Lý Trị 650-684) thời Tiền Đường đến Đài Sơn. Theo hướng nam giẫm trải qua non Tư Dương, thấy cây rừng cao vút lẫn trong mây, cảnh vật thù thắng, trong tâm vui thích, gieo năm vóc xuống đất, hướng về núi đảnh lễ, thưa rằng: “Sau khi Đức Như-lai diệt độ, các Thánh ngầm ẩn linh thiêng, chỉ có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở trong núi này, cứu độ quần sinh, giáo hóa các Bồ-tát, Ba-lợi. Con hận trách chính mình sinh gặp tám nạn, chẳng thấy tôn dung Đại Thánh, xa vượt qua lưu sa, cố đến tham yết lễ bái, cúi xin Đại Thánh như tâm từ bi che chở khắp khiến được thấy tôn nghi”. Nói xong, buồn khóc rơi lệ, hướng về đảnh núi mà kính lễ. Lễ bái xong, bỗng thấy một người già từ trong núi đi ra, với tiếng nói của Bà-la-môn bảo Giác Ái rằng: “Sư tâm tình kính mộ đạo, phỏng tìm Thánh tích, chẳng sợ khổ nhọc, xa tìm linh dị, nhưng chúng sinh ở đất Hán phần nhiều tạo các tội nghiệp, những bậc xuất gia cũng lắm phạm giới luật ở Tây Vức có “kinh Phật đảnh tôn thắng Đà-la-ni” có khả năng diệt trừ nghiệp ác của chúng sinh, không biết sư có đem kinh ấy đến chăng?” Giác Ái đáp: “Bần đạo chỉ đến tham yết lễ bái nên không mang kinh đến”. Người già ấy bảo: “Đã không đem theo kinh, khổ nhọc đến đâu có ích lợi gì? Giả sử có thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cũng không biết được sư nên trở về lại thỉnh kinh ấy đến đây, lưu truyền xứ này tức là kính phụng khắp các Thánh, rộng làm lợi ích cho quần sinh, cứu vớt cả cõi u minh, báo đáp ân sâu của chư Phật. Nếu sư thỉnh kinh ấy đến đây được, đệ tử liền chỉ nơi chốn của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi”. Giác Ái nghe lời nói ấy rồi, chẳng giằng nỗi sự vui mừng, bèn cắt đứt dòng lệ, chí tâm lễ bái, vừa ngẫng đầu lên, liền không thấy người già ấy nữa. Giác Ái rất kinh ngạc, càng gấp bội sự chí thành, dốc chí quên cả than mạng, trở về lại Tây Vức tìm thỉnh “Kinh Phật đảnh tôn thắng Đà-la-ni”. Đến năm Vónh Thuần thứ hai (683) thời Tiền Đường, Giác Ái trở lại Trường An, tấu trình rõ ràng sự việc như trên, vua Cao Tông lưu bản kinh vào nội cung, thỉnh mời Tam tạng Pháp sư Nhật Chiếu, và ban sắc điển khách lệnh Đỗ hành Khải ở chùa Tư Tân v. v… cùng phiên dịch thành bản kinh theo tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường, ban tặng ba trăm xấp lụa quyên và bản kinh được lưu giữ lại ở nội cung. Giác Ái buồn khóc tâu rằng: “Bần đạo bỏ quên thân mạng, thỉnh đem kinh đến, với ý nguyện muốn làm lợi ích khắp các quần sinh, cứu giúp mọi sự khổ nạn, chẳng hề nghó tưởng của cải vật báu, không vì sinh lợi liên quan nỗi lòng, xin được trả lại bản kinh bằng Phạm ngữ cho Giác Ái. Giác Ái mới mang bản kinh đến chùa Tây Minh, tìm hỏi Sa-môn thuận chánh là vị Tăng ở thời Tiền Đường thông rành Phạm ngữ, tấu trình cùng phiên dịch, vua Cao Tông chấp nhận sự thỉnh cầu đó. Giác Ái bèn đối chiếu với các vị đại đức cùng Sa-môn Thuận Chánh phiên dịch xong. Giác Ái lại mang bản kinh đến núi Ngũ Đài. Ở đời tương truyền Giác Ái vào hang Kim Cang mãi đến nay chẳng trở ra. Sa-môn Thuận Chánh v. v… thuật rõ điều Thánh Luân do Giác Ái nói, và ghi ở đầu bản kinh ấy vậy. <詞>HÒA THƯỢNG VÔ TRƯỚC VÀO CHÙA BÁT NHÃ BIẾN HÓA. Sa-môn Vô Trước vốn người dòng họ Đống ở Vónh Gia thuộc Ôn Châu. Dáng mạo bản chất thông mẫn trội vượt, nghị lực hơn hẳn đồng bạn, từ thủa bé thơ đã tỏ vẻ thành tánh. Năm mười hai tuổi, Vô Trước nương theo Luật sư Y ở chùa Long Tuyền thuộc bản chân cầu xin xuất gia, tụng kinh Đại thừa vài mươi vạn bài kệ. Năm Thiên Bảo thứ tám (749) thời Tiền Đường, do hạnh nghiệp ưu tú nên được độ. Năm hai mươi mốt tuổi, Vô Trước mới nối tiếp đạo nghiệp của thầy. Mới đầu tập học tỳ ni. Nhân đến nơi Thiền sư Trung ở núi Ngưu Đầu tại Kim Lăng, tham học pháp định tâm. Giũa mài tiết tháo không khiếm khuyết, chẳng bỏ qua tấc bóng, nghiên cùng lý tánh, khéo thấu đạt cội nguồn. Thiền sư trung bảo rằng: “Chí tánh ông thông mẫn, nên tự khai phát, chúng sinh và Phật vốn không tâm riêng biệt, như mây che nếu trừ tan hết thì hư không vốn trong lành”. Ngay lời nói ấy, Vô Trước chóng tỏ ngộ pháp nhẫn, yếu chỉ bí mật của Đông Sơn bèn có chỗ quy hướng. Tuy đạo không đâu chẳng có mà cảnh thắng dễ theo, Vô Trước bèn xa đến Đài Sơn, quyết chí tìm Đại Thánh. Tháng giêng năm Đại Lịch thứ hai (767) thời Tiền Đường, phát xuất từ chiếc hữu. Đến đầu tháng năm thì tới dưới non Thanh Lương. Bấy giờ đang là ngày nắng nóng, chợt thấy một ngôi chùa biến hóa, hoa đẹp tuyệt ngưng. Vô Trước nhân đó gõ cửa xin vào. Có một Đồng tử tên là Cú Hổ mở ra ứng tiếp, Vô Trước xin Đồng tử vào thưa cùng chủ chùa vì đêm sắp tối nên xin dừng nghỉ lại. Đồng tử được tin báo chấp nhận nên mời Vô Trước vào. Vị Tăng chủ chùa tiếp đải đối lễ như ở nhân gian. Hỏi rằng: “Sư từ đâu đến?” Vô Trước tỏ bày đầy đủ ý niệm của mình mà đáp. Lại hỏi: “Xứ ấy Phật pháp như thế nào?” Vô Trước đáp: “Đang gặp thời tượng quý nên tùy phần giới luật”. Lại hỏi: “Chúng tăng có được bao nhiêu?” Vô Trước đáp: “Hoặc có được ba trăm, hoặc có được năm trăm”. Và Vô Trước lại hỏi: “Còn phương này Phật pháp như thế nào?” Vị Tăng ấy đáp: “Rồng rắn lẫn lộn dấu vết, Thánh phàm đồng ở”. Vô Trước lại hỏi: “Tăng chúng có được bao nhiêu?” Vị Tăng ấy đáp: “Trước tam tam cùng sau tam tam”. Vô Trước ngưng nghỉ giây lâu không nói năng gì, vị Tăng ấy bảo: “Có hiểu chăng?” Vô Trước đáp: “Không hiểu vị Tăng chủ chùa ấy bảo: “Đã không hiểu, mau phải dẫn đi không nên dừng ở đây lâu”. Và bảo Đồng tử khách ra cửa. Vô Trước hỏi: “Chùa này tên là gì?” Đồng tử đáp: “Là chùa Thanh Lương”. Đồng tử hỏi: “Điều hỏi hồi nãy nói trước tam tam cùng sau tam tam, sư có hiểu chăng?” Vô Trước đáp: “Chẳng thể hiểu”. Đồng tử bảo: “Kim Cang sau lưng kìa. Ông có thể lén nhìn đó”. Vô Trước mới xoay mặt trông nhìn, thì chùa biến hóa liền ẩn mất. Vô Trước xót xa giây lâu, bèn nói bài kệ tụng rằng: “Bỗng khắp sa giới Thánh già lam. Tràn mắt Văn-thù tiếp đối hàm Ngay lời chẳng biết mở ấn bảo. Xoay đều chỉ thấy núi rừng xưa”. Vô Trước đã ra khỏi bèn ngồi chờ đợi đến sáng sớm tìm men theo đường tử về. Lúc đó đang là ngày rằm giữa tháng, đến chùa Hoa Nghiêm, Vô Trước yên nghỉ trong tăng đường của Đại chúng. Đến đầu tháng sau, vị Duy Na bảo: “Sau giờ thọ trai, đại chúng đến trao cho Vô Trước và bảo: “Uống trà nhớ đưa đến hang Kim Cang”, Vô Trước vâng nhận lời bảo, chỉ chốc lát uống trà xong, đại chúng giải tán. Vô Trước ngồi trên sàn ở phía nam nhà ăn, thấy một vị Tăng già ngồi nơi sàn phía bắc, hỏi Vô Trước rằng: “Sư từ phương nam đến, có mang chuỗi châu khéo niệm lại chăng?”. Vô Trước đáp: “Không chỉ có chuỗi châu thô xấu”. Vị Tăng ấy xin xem. Vô Trước đưa trao chuỗi châu, bỗng nhiên vị Tăng già ẩn mất. Quá trưa hôm sau, đang ngồi trước lầu kinh tạng ở viện Bát nhã, có hai con chim cát tường bồi hồi bay liệng ngay trên đảnh của Vô Trước vài vòng theo hướng đông bắc mà đi. Qua ba ngày sau, lúc cảnh chánh đông, ngồi tại trong phòng, bỗng thấy hai luồng ánh sáng sắc trắng chiếu đến trên đảnh Vô Trước rồi diệt mất. Các Sa-môn Pháp Hiền v. v… đồng ở chung phòng đều trông thấy. Vô trước rất kinh ngạc nói rằng: “Đây là điềm lành gì xin hiện lại để quyết dứt lưới nghi của đệ tử”. Vầng ánh sáng lại hiện, giây lâu sau mới diệt mất. Giữa trưa ngày đó, Vô Trước riêng đến hang Kim Cang. Đã đến nơi, đảnh lễ hơn mười lạy, Vô Trước bèn ngồi nghó khoảnh khắc. Bỗng thấy như mờ tối, trong giấc ngủ như nghe vài tiếng người gọi trâu tợ như bảo uống nước. Vô Trước kinh hãi tỉnh giấc, chợt thấy một người già tuổi đã tám chín mươi vận mặc vải bố sợi tai thô xấu, chân mang giày gai dẫn trâu mà đi. Vô Trước đến trước nắm tay người già ấy, nhân đó hỏi rằng: “Từ phương nào đến?” Người già ấy đáp: “Xuống dưới núi qua lại xin lương thực”. Vô Trước hỏi: “Nhà ở nơi nào?” Người già ấy đáp: “Tại Đài Sơn này”. Và người già ấy lại hỏi: “Sư có nhân duyên gì mà đến đây?” Vô Trước đáp: “Nghe truyền rằng xứ này có hang Kim Cang, nên đến lễ bái”. Người già ấy hỏi: “Sư có mệt nhọc chăng?” Vô Trước đáp: “Không mệt nhọc”. Người già ấy bảo: “Sư đã không nhọc mệt cớ sao ngủ gật?” Vô Trước đáp: “Phàm phu hôn trầm, đâu có gì phải quái lạ”. Người già ấy bảo: “Sư hôn trầm, xin sư nghỉ chốc lát uống trà có được chăng?” Vô Trước hứa vâng. Người già ấy đưa tay chỉ về phía Đông bắc, Vô Trước ngước mắt nhìn theo, thấy một ngôi chùa, chỉ cách xa hơn năm mươi bộ. Người già ấy dẫn trâu đi trước, Vô Trước tiếp bước theo sau. Đã đến nơi, cửa đóng người già ấy gọi “Quân Đề” vài tiếng, có một Đồng tử mở cửa đi ra, thấy Vô Trước tỏ bày lễ bái, liền dẫn trâu vào và mời Vô Trước vào, chỉ thấy đất ở đó bằng phẳng toàn sắc màu lưu ly, nhà cửa hiên vũ thuần toàn vàng ròng. Ngôi nhà ấy có ba giá, đông tây hai nách, mỗi mỗi có một gian. Người già ấy mời Vô Trước lên nhà, tự ngồi nơi cây Bách Xuyên qua sàn, còn chỉ một cái đôn gấm mà bảo Vô Trước ngồi. Đồng tử đưa hai bình trà đến toàn là bằng chén lưu ly và mỗi bên có một hình tô mật tức bằng mít đồi mồi. Người già ấy bảo Vô Trước rằng: “Ở phương Nam có vật này chăng?” Vô Trước đáp: “Không”. Người già ấy bảo: “Phương Nam đã không có vật này, thì có thể uống trà”. Vô Trước im lặng không nói gì. Người già ấy lại bảo: “Tạm uống trà đã xong” và tiếp hỏi: “Sư xuất gia làm sự nghiệp gì?” Vô Trước đáp: “Đều không sự nghiệp gì, với trong đại Tiểu thừa cũng không có công khóa gì, chỉ khiến qua ngày mà thôi”. Người già ấy hỏi: “Mới đầu xuất gia, sư vốn cầu việc gì?” Vô Trước đáp: “Vốn cầu đại quả”. Người già ấy bảo: “Sư dùng tâm ban đầu mà tu tập tức được”. Và tiếp hỏi: “Sư nay đã bao nhiêu tuổi?” Vô Trước đáp: “31 tuổi”. Người già ấy bảo: “Năm 38 tuổi phước xưa trước của sư hẳn đến lúc, lại đối với xứ này rất có duyên”. Và tiếp bảo Vô Trước rằng: “Sư từ từ mà về, khéo trông nhìn đường sá, chớ để tổn hại chân, tôi tạm nằm nghỉ chốc lát”. Vô Trước xin được ở lại một đêm. Người già ấy không chấp nhận, bảo: “Sư bởi duyên có hai người bạn, nếu chẳng thấy sư về tức trong lòng rất lo khổ. Vả lại chưa có duyên ở đây, sư có thể chấp vậy”. Vô Trước thưa: “Người xuất gia có chỗ nào đáng chấp? Tuy có bạn đồng hành cũng chẳng đoái hoài quyến luyến”. Người già ấy hỏi: “Sư có thường trì ba pháp y chăng?” Vô Trước đáp: “Từ lúc thọ giới trở lại nay thường luôn hành trì”. Người già ấy bảo: “Đó là chỗ chấp vậy”. Vô Trước đáp: “Đã từng nghe”. Người già ấy bảo: “Chuẩn cứ theo luật dạy “Minh tướng Tiểu thừa không gặp nạn chẳng được xả bỏ pháp y”. Sư sớm xuống núi đi”. Và người già ấy liền đứng dậy, Vô Trước cũng đứng dậy theo ra trước nhà mà đứng. Người già ấy nói bài kệ tụng rằng: “Nếu người ngồi lắng trong chốc lát. Hơn tạo muôn vàn tháp bảy báu. Tháp báu sẽ lưu tợ vi trần Một niệm lắng tâm thành chánh giác”. Nói bài kệ tụng xong, ngoảy nhìn Đồng tử bảo đưa tiển ra khỏi chùa. Người già ấy vỗ vai Vô Trước mà bảo: “Sư hãy khéo đi”. Vô Trước liền lui ra, đến bên cạnh hang Kim Cang, Đồng tử hỏi: “Đây là hang gì?” Vô Trước đáp: “Hang này tên là Kim Cang”. Đồng tử hỏi: “Dưới Kim Cang lại còn có chữ gì?” Vô Trước suy nghó giây lâu, nói cùng Đồng tử rằng: “Dưới có chữ Bát nhã”. Đồng tử bảo: “Đây tức là chùa Bát nhã Biến Hóa vậy”. Vô Trước nắm tay Đồng tử kính lễ một bái mà giả biệt. Đồng tử bảo: “Xoay lại kính lễ Thánh hiền”. Và nhân đó nói bài kệ tụng rằng: “Trên mặt không sân, vật cúng dường. Trong miệng không sân, nhả hương thơm. Trong tâm không sân là báu thật. Không nhiễm không đắm là chân như”. Nói bài kệ rồi, Vô Trước lại kính bái, vừa ngẫng đầu lên bèn không thấy Đồng tử nữa và chùa Biến Hóa cũng ẩn mất, chỉ thấy rừng xanh vơi vợi, cây cao sầm uất, Vô Trước xót xa luyến mộ, đứng chờ đợi giây lâu, nhân quán sát nơi gặp người già kia, có mây trắng ùn nổi lên, phút chốc tỏa khắp hang cốc, thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cưỡi sư tử lớn, có muôn Thánh cùng theo, chừng khoảng bữa ăn, ở phía Đông có một đoạn mây đen lại trôi qua, Bồ-tát liền ẩn mất, rồi khoảnh khắc mây tan. Thế rồi, gặp Sa-môn tu chính ở chùa Bồ-tát tại phần châu v. v… cả thảy sáu người đồng đến hang Kim Cang, kính lễ Thánh tích, bỗng nghe đá núi chấn động, tiếng vang như sấm sét, chư tăng đều kinh sợ bỏ chạy ánh ngời cả lũy, chốc lát bèn dứt. Sa-môn tu chính v. v… dò hỏi, Vô Trước mới nói các việc gặp gỡ. Sa-môn tu chính mừng nghe được Thánh tích nhưng tự hận chẳng được trông thấy việc đó, bèn than khổ giây lâu, mới y theo lời Vô Trước nói, cứ như thật mà biên ghi lưu truyền khắp xa gần, chỉ cho người sau trông xem, mà chú ý nghó tưởng đến Linh Phong. Sa-môn Vô Trước, với việc tu tạo cúng dường, đầy đủ như ở biệt lục biên ghi, ở đây chẳng thuật nói nhiều. Lại nữa, trong “Hoa Nghiêm sao” nói là Vô Trước về sau thường nghó ngợi đến Linh Dị, một ngày nọ lại đến nơi hang Kim Cang, tham quan lễ bái Thánh tích, gặp một người già bảo đi vào, Vô Trước đẩy người ấy rảo bước, bèn không thấy trở ra. Vô Trước đừng chờ đợi trước hang đều không trông thấy gì, bỗng thấy có vài người mặc đội khăn áo sắc màu đỏ tía nghiễm nhiên đến trước hang cùng đẩy nhau đi vào. Vô Trước trong tâm nghi ngờ, nhân đó hỏi người cùng đi theo rằng: “Đó là người nào mà được vào trong hang ấy?” Đó là một trong vạn vị Bồ-tát thường đi xiển dương hoằng hóa các nơi, đảm nhận làm quan lâu năm, chức trách đã mãn tức trở về trong hang đây, bởi do Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi hiện ở hang đây giảng kinh Hoa Nghiêm”. Nghe nói vậy, Vô Trước vui mừng cùng theo nó, mới đi được vài ba bước, hang đá bỗng hẹp nhỏ, không dung cho vào mới thôi. <詞>HÒA THƯỢNG THẦN ANH VÀO VIỆN PHÁP HOA BIẾN HÓA. Sa-môn Thích Thần Anh vốn người dòng họ Hàn ở Thương Châu, từ bè thơ đã tỏ ngộ đạo, đến tuổi búi tóc theo thầy tập học đọc tụng rất tinh cần. Suốt đêm ngày chẳng biếng lười, dốc sức thờ thầy, năm sự chẳng khuyết thiếu. Tiết tháo sánh như tùng quân, tâm tánh đồng tợ vàng đá, theo tuổi thọ giới cụ túc, hạnh nghiệp càng tịnh tu. Mỗi lúc nghó đến kiếp sống bồng bềnh nhanh chóng chỉ trong nháy mắt, bèn mới chống mang tích trượng vân du, tìm phỏng các thiện tri thức, sớm thông thiền định và tỏ rõ kinh luận. Xa đến Nam Nhạc tham học nơi Thiền sư Thần Hội. Một ngày nọ, Thiền sư Thần Hội bảo cùng Thần Anh rằng: “Đối với núi Ngũ Đài, ông có nhân duyên rất lớn hãy nhanh theo hướng bắc mà đi chiêm lễ Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, và phỏng tìm di tích”. Đã vâng theo lời thầy chỉ dạy, Thần Anh cố gắng quên cả nhọc mệt. Vào giữa tháng sáu Khai Nguyên thứ tư (716) thời Tiền Đường, Thần Anh đến núi, nguyện cầu được đảnh lễ Đại Thánh, bèn dừng ở tại viện Hoa Nghiêm Vương. Một ngày nọ, sau khi thọ trai, Thần Anh riêng một mình đến bờ rừng phía tây, bỗng thấy một ngôi tịnh xá, biển ngạch đề là “viện Pháp Hoa”, Thần Anh thẳng vào đi quanh tham lễ, chỉ chốc lát thấy một tòa tháp Phật Đa-bảo có bốn cửa, Ngọc Thạch khắc chạm hình tượng tinh xảo đẹp xinh ngời sáng, thợ thần hiếm kịp. Tiếp đến phía sau có lầu “Hộ quốc nhân vương” rộng năm gian, phía trên có tôn tượng Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và bộ tùng toàn bằng ngọc thạch. Trước có ba cửa cả thảy có mười ba gian, phía trong cửa có hai nách có hàng quan đạo tràng, cũng có tôn tượng Văn-thù, Phổ Hiền và Bộ tùng, phía ngoài cửa là biểu đồ huyết mạch mười ngôi chùa ở núi Ngũ Đài. Đi quanh tham lễ đã xong, Thần Anh muốn ra ngoài cửa viện, lại thấy có chúng tăng tướng trạng thần dị. Trong tâm sinh nghi ngờ đây là cảnh biến hóa, bèn ra theo hướng đông mà đi, vừa khoảng ba mươi bước, bỗng nghe có tiếng nói, xoay đầu trông nhìn lại, toàn không thấy gì. Thần Anh mới buồn khóc giây lâu rồi mới bảo là: “Đây hẳn là do Đại Thánh biến hóa. Ta đối với xứ này có nhân duyên rất lớn”. Bèn đến nơi chỗ viện biến hóa ấy dựng lập am mà ở và phát thệ nguyện là sẽ y như viện biến hóa mà dựng lập ngôi già lam. Thần Anh ở đó hơn một năm, mọi người quy hướng nương tựa đông nhiêu, bèn tìm mời thợ giỏi tạo dựng, chẳng phải đáp trả công thợ. Mọi thứ cần sử dụng đều tùy duyên, xa từ các châu khác cách cả ngàn dặm cũng tìm kiếm ngọc thạch để chế tạo tôn trượng giũa gọt đẻo khắc rất mực tinh xảo, nhập thần khắc đắp nơi tường vách, phần nhiều là vết tích thật của Ngô Đạo Tử. Đến lúc viện tạo dựng hoàn tất, chi phí tốn cả trăm muôn, khắc đề biển hiệu là viện Pháp Hoa. Thần Anh trú trì tại đó, hưởng thọ 75 tuổi. Một ngày nọ, kêu gọi các hàng môn nhân đệ tử căn dặn mọi việc về sau, rồi an nhiên thị tịch. Tuy thời đại năm tháng đã lâu xa nhưng linh tháp vẫn hiện còn. <詞>HÒA THƯỢNG ĐẠO NGHÓA VÀO CHÙA KIM CÁC BIẾN HÓA. Thiền sư Đạo Nghóa chưa rõ vốn dòng họ gì, người xứ Giang Đông. Đến thọ học nơi chùa Long Hưng Cù Châu; Thần khí thanh thoát dáng cốt của tú, đạo phong nổi bật thể nhân. Ngày 23 tháng 04 năm Khai Nguyên thứ 24 (736) thời Tiền Đường, xa từ Giang Biểu, Đạo Nghóa cùng Sa-môn Phổ Thủ ở Hàng Châu đồng đi đến chùa Thanh Lương tại núi Ngũ Đài, dừng nghỉ nơi nhà dùng cháo, có vị Tăng chủ sự bảo rằng: “Xin tất cả đại chúng đồng đến Đông Lãnh để mang vác củi”. Đạo Nghóa bèn dùng một đôi giày tre mướn người đi thế. Xong, bèn mang ba pháp y áo nạp riêng một mình theo hướng đông bắc mà đi. Phỏng tìm nơi ở của Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, trong tâm tự tư duy rằng: “Đại Thánh là thầy của chín đời Phật Tổ, thần dụng chẳng thể nghó lường, mây hồng ẩn hiện chẳng do đâu được biết. Tự hận xuất gia trong thời mạt pháp, Thánh hiền đều ẩn tích, chỉ có cảnh Thánh núi Ngũ Đài đây, nhiếp hóa tất cả sinh linh. Dáng vàng vầng ngọc có lúc hiện bày. Đoái hoài từ xứ Giang Tả xa đến Linh Sơn không có hoạn nạn bởi nhờ sức gia trì mà nên. Cúi xin Đại Thánh nhủ lòng từ bi thấm đượm rộng khắp chẳng phân chọn khô vinh, ứng hiện thân thật, thì con kẻ ngu si chí thành mang nguyện đó, tâm chí tinh thành nhất niệm, người vật đều quên” bỗng nhiên ngẫng mắt thấy một người già, thân hình to lớn dung mạo dáng vẻ ánh ngời, tóc tơ xanh biếc, đảnh đầu có điểm nổi, thân mặc áo vân nạp, thần thái nghiêm trang cao vợi cỡi 01 con voi trắng từ trên đảnh núi mà đến. Đạo nghóa trông thấy rồi, bất chợt lánh đường, gieo mình nơi đất, dốc tâm chí thành kính lễ. Voi đi rất nhanh, chốc lát liền đến. Voi đưa vòi xúc phạm Đạo Nghóa, với ý khiến nên lễ bái. Đại Thánh tăng bảo Đạo Nghóa rằng: “Sư xa từ giang biểu, lại vượt qua Linh Sơn, chẳng sợ gian nan nguy hiểm, gom cả Thánh thần, nhưng một cảnh núi Ngũ Đài đây, trên dưới gồm có năm ngọn, chẳng luận kẻ tăng người tục, cho đến bước chân giẫm đạp trên một hạt bụi một viên đá, thì chẳng chỉ diệt tội sinh tử. Đức Phật dự ghi những người như vậy trong tương lại sẽ được thân sắc vàng tía. Ngày nay tuy sắc trời hòa ấm, nhưng trên đảnh núi gió lạnh, tức thời tạm đi phải lấy áo gấm, sáng mai lên đải rất được tiện nghi vậy”. Đạo Nghóa bèn đảnh lễ kính tạ, chưa kịp trông nhìn lại, voi đã đi qua nhanh như gió, mịt mờ chẳng thấy gì nữa. Đạo Nghóa trở về lại chùa Thanh Lương lấy áo khăn gởi tại đó. Từ trong đêm chưa sáng bèn đến Tây Đài, quả nhiên gặp gió lạnh. Đạo Nghóa trong tâm tự lấy làm quái lạ sự việc trước, chẳng dám nói với mọi người. Kịp tới lúc lên đảnh đài, quả nhiên trông xem khắp cùng. Sáng ngày sau đến Trung Đài, vừa đi được nửa đường, lại thấy gặp vị lão tăng cưỡi voi hôm qua chống gậy mà đến, bảo cùng Đạo Nghóa rằng: “Sư có thể gấp đi đến nơi kia thọ thực, ngày nay lão tăng phải đến Thái Nguyên, thứ nhất là có duyên đến phó trai ở nhà của Vi Duẩn, thứ hai là cần luận bàn một ít sự việc. Nhưng giả biệt không lâu, lấy sau giờ ngọ làm kỳ hạn, Sư chớ rão bước đông tây xa vời, sẽ tự có tin tức”. Đạo Nghóa kính lễ chưa xong, vụt chốc lão tăng đã đi mất, Đạo Nghóa bèn đi phía trước, đến nơi cúng dường, quả nhiên cùng chư tăng thọ thực. Tiếp theo Đạo Nghóa lại lấy làm quái lạ đó, an ủi rướm lệ tâm linh, thân thể quên cả nhọc mệt. Đến lúc quá trưa, lược không tin tức gì, Đạo Nghóa lên đảnh non trông nhìn xa, tay xách bình nước tham lễ, nhất tâm chú ý nghó tưởng Chân Nghi Đại Thánh. Lại nhớ lời vị thần tăng cưỡi voi chỉ dạy, đứng đợi tin tức, chẳng dám biếng lười. Nhân đó bước ra phía nam Tăng Đường, đi khoảng vài mươi bước đưa mắt trông nhìn xa, bỗng thấy một Đồng tử tuổi khoảng 13-14, mặc y phục mới sắc vàng, chân mang giày gai mới, tự xưng tên là Giác Nhất và bảo là: “Hòa thượng đang ở tại chùa Kim Các bảo ra mời A-xà-lê Đạo Nghóa ở Cù Châu đến uống trà”. Đạo Nghóa vội theo Giác Nhất theo hướng đông bắc đi khoảng vài ba trăm bước, ngữa mắt trông thấy một chiếc cầu vàng. Đạo Nghóa liền theo bước lên tức đến chùa Kim Các. Ba cửa lầu gác thuần toàn vàng ròng sáng ngời lóa mắt. Các lớn ba tầng trên dưới có chín gian. Trông nhìn đó rất kinh lạ, Đạo Nghóa dốc tâm chí thành kính lễ, bèn vào sân chùa. Điện đường hiên vũ đều toàn trang sức bằng vàng báu. Riêng lầu lớn ngay đường và chiếc cầu đi qua thuần toàn vàng thật sắc tía làm thành Đạo Nghóa trông nhìn chẳng ngưng nghỉ, thần ý như lạt mất, chỉ biết chí thành kính lễ. Đồng tử dẫn Đạo Nghóa vào nơi gian nhà phía Đông, rồi theo hướng nam đến cửa viện thứ nhất. Bỗng thấy vị lão tăng cưỡi voi ngồi nơi giường chỏng lớn bằng vàng tại cửa mà bảo: “A Sư đến đó ư? Chẳng cần phải lễ bái, xin mời bước lên thềm cấp”. Đạo Nghóa muốn trải tọa cú để kính lễ. Lão tăng bèn cản ngăn, Đạo Nghóa không dám trái mạng. Liền bước lên nhà đứng đợi. Đại Thánh bảo Giác Nhất đem lại một chiếc giường chỏng nhỏ và bảo “Xà lê ngồi nơi giường chỏng ấy”. Mọi vật mới toàn thuần vàng ròng. Đạo nghóa chấp tay đảnh lễ, lo sợ mà ngồi, trong lòng kinh lạ ngợi khen nhưng chưa dám thưa hỏi. Chốc lát sau Đại Thánh bảo cùng Đạo Nghóa rằng: “Sư từ Giang Đông đến, Phật pháp ở xứ đó như thế nào?” Đạo Nghóa đáp: “Trú trì mạt pháp, ít kính phụng giới luật, nếu chẳng tận mắt chứng kiến thì không thể biết được”. Đại Thánh bảo: “Lành thay!” Nhân đó, Đạo Nghóa mới dám hỏi Hòa thượng rằng: “Trong đây Phật pháp như thế nào?” Đại Thánh đáp: “Phật pháp trong đây, Thánh phàm đồng ở, thẳng tại danh tướng, chỉ tùy duyên làm lợi vật tức là Đại thừa”. Đạo Nghóa nói: “Chùa viện của Hòa thượng thoáng rộng, nhìn tận mắt đều là vàng ròng làm thành, hàng ngu si tình chẳng thể lường biết, có thể gọi là chẳng thể nghó bàn vậy”. Đại Thánh bảo: “Đúng vậy”. Và bèn bảo Giác Nhất đem trà và dược thực lại. Đã đem đến, lại bảo Đạo Nghóa uống ăn, mùi vị phảng phất rất khác mùi vị tầm thường. Uống ăn xong, Đại Thánh lại gọi Giác Nhất và bảo dẫn đưa A Sư đi tham quan mười hai viện. Đạo Nghóa bèn cùng Giác Nhất đi khắp các viện tham yết. Đến trước nhà ăn lớn, thấy có nhiều tăng lữ, hoặc tòa thiền, hoặc trì luật, hoặc ngồi, hoặc đi, ước số cả muôn vạn, hoặc lại thọ lễ, hoặc là tương thừa tiếp lấy. Đề ngạch ở mười hai mỗi mỗi khác nhau. Ở hiên phía Đông có sáu viện, đó là: 1- Viện Bồ-tát Đại Thánh. 2- Viện Bồ-tát Quán Âm. Viện Bồ-tát Dược Vương. Viện Bồ-tát Hư Không Tạng. 5- Viện Bồ-tát Đại Tuệ. 6- Viện Bồ-tát Long Lũy. Ở hiên phía tây có sáu viện, đó là: Viện Bồ-tát Phổ Hiền. Viện Bồ-tát Đại Thế Chí. 3- Viện Bồ-tát Dược Thượng. 4- Viện Bồ-tát Địa tạng. 5- Viện Bồ-tát Kim Cang Tuệ. 6- Viện Bồ-tát Mã Minh. Đạo Nghóa đi quang bái yết xong, Lão tăng bảo Đạo Nghóa hãy sớm trở về, núi lạnh khó thể ở lại được. Đạo Nghóa bèn giả từ Lão tăng, ra khỏi chùa khoảng trăm bước, xoay nhìn lại thì đã ẩn mất tất cả, chỉ toàn núi không, cây cao mà thôi, mới biết đó là chùa biến hóa, Đạo Nghóa bèn trở về Trường An. Năm Đại Lịch thứ nhất (746) thời Tiền Đường, Đạo Nghóa nêu bày sự việc tấu trình cùng vua Đại Tông (Lý Dự 763-780) thời Tiền Đường, vua bèn ban sắc tạo dựng chùa, và ban sắc sai bảo mười tiết độ sứ trông coi việc tạo dựng. <詞>HÒA THƯỢNG PHÁP CHIẾU VÀO CHÙA TRÚC LÂM BIẾN HÓA. Sa-môn Thích Pháp Chiếu vốn người xứ Nam Lương, chưa rõ dòng họ là gì. Ngày mười ba tháng hai năm Đại Lịch thứ hai (767) thời Tiền Đường, đang ăn cháo tại trai đường Vân Phong ở Nam Nhạc, Pháp Chiếu nhìn trong bát bỗng thấy từ chùa Phật Quang ở núi Ngũ Đài về phía Đông bắc cách hơn một dặm có núi, dưới núi có khe suối, ở phía Bắc khe suối có một cửa đá lớn, đi khoảng năm dặm, thấy có một ngôi chùa, biển ngạch đề là “Chùa Đại Thánh Trúc Lâm”, giây lâu mới ẩn mất, trong tâm Pháp Chiếu rất lấy làm kinh lạ. Lại đến giờ thìn ngày hai mươi bảy, nhìn vào trong bát, Pháp Chiếu lại thấy chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài và các chùa đều rõ ràng có thể trông xem, đất toàn vàng ròng, không có rừng núi, trong ngoài đều sáng suốt, ao đài lầu quán, đều dùng bằng các vật báu trang nghiêm. Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi và cả vạn vị Bồ-tát đồng ở trong đó. Lại thấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Đến lúc ăn xong mới ẩn mất. Trong tâm càng rất nghi ngờ, trở về trong phòng viện Pháp Chiếu kể nơi cùng chúng tăng và hỏi có người nào từng đến núi Ngũ Đài chăng? Khi ấy có hai vị Xà Lê Gia Diên và Đàm Huy Ứng đáp: “Chúng tôi đã từng đến núi Ngũ Đài ghé dừng ở chùa Phật Quang, cùng như sư thấy trong bát tương đồng vậy”. Tuy hỏi biết nhưng Pháp Chiếu cũng chưa phát tâm đi tham lễ. Đến mùa Hạ năm Đại Lịch thứ tư (769) thời Tiền Đường, Pháp Chiếu lên trên lầu cao ở chùa Tương Đồng tại Hành Châu, suốt chín tuần vào đạo tràng niệm Phật. Đến giờ mùi ngày mồng hai tháng sáu, thấy mây lành giăng khắp phủ che các chùa, trong mây ứng hiện các lầu các, trong các có vài mươi vị Phạm tăng thân hình cao lớn cả một trượng cầm tích hành đạo. Phụng Quách ở Hành Châu đều thấy Phật A-di-đà và Văn-thù, Phổ Hiền cả thảy một vạn vị Bồ-tát đều ở trong chúng hội, thân hình cao lớn. Đại chúng thấy Đại Thánh ứng hiện, buồn khóc kính lễ, mãi đến giờ dậu mới ẩn mất. Đến chiều tối, Pháp Chiếu đi ngoài đạo tràng, gặp một người già tuổi khoảng bảy mươi bảo cùng Pháp Chiếu rằng: “A Sư từng phát nguyện đến núi Ngũ Đài, sao mãi đến nay mà chẳng đi?” Pháp Chiếu đáp: “Thời gian khó khăn đường sá hiểm trở, làm sao đi được?” Người già ấy bảo: “Sư có thể nên gấp đi”. Pháp Chiếu liền vào đạo tràng, lại phát nguyện chí thành sau khi mãn hạ sẽ đến núi Ngũ Đài đảnh lễ Đại Thánh. Đến ngày mười ba tháng tám năm đó (769) từ Nam Nhạc, Pháp Chiếu cùng mười người đồng chí ý đến núi Ngũ Đài, quả nhiên không bị nạn ngại. Ngày mồng năm tháng tư năm sau (770) mới đến huyện Ngũ Đài, từ phía nam xa trông về chùa Phật Quang ở phía nam có vài mưoi luồng ánh sáng sắc trắng, mọi người đều trông thấy. Qua ngày mồng sáu, đến chùa Phật Quang dừng nghỉ. Quả nhiên đúng là chùa như thấy trong bát. Quá nửa đêm đó, nhân ra cửa phòng, Pháp Chiếu bỗng thấy một luồng ánh sáng sắc trắng từ dưới núi phía bắc soi chiếu lên trước mặt Pháp Chiếu. Pháp Chiếu bèn vội vào trong phòng nhà, mới hỏi chư tăng: “Đó là tướng ánh sáng gì?” Có vị Tăng đáp: “Ở xứ này thường có tướng ánh sáng của Đại Thánh chẳng thể nghó bàn”. Nghe xong, Pháp Chiếu liền chỉnh cụ oai nghi rão bước tìm theo tướng ánh sáng đó, bèn đến phía Đông bắc của chùa cách khoảng một dặm có núi, dưới núi có khe suối, phía bắc khe suối có cửa đá, và thấy có hai Đồng tử mặc áo sắc xanh khoảng tám-chín tuổi, dáng mạo rất đoan chính, tựa cửa mà đứng. Một người xưng là Thiện Tài, và một người xưng là Nan Đà. Vừa cùng thấy rất vui mừng kính lễ thăm hỏi Pháp Chiếu rằng: “Cớ sao trải qua thời gian lâu dài trôi dạt trong sinh tử, nay mới lại cùng thấy gặp?” và bèn dẫn Pháp Chiếu vào cửa theo hướng bắc mà đi gần đến năm dặm bỗng thấy một cửa lầu vàng cao chừng trăm thước, lại có lầu cặp nách, dần đến nơi cửa mới thấy một ngôi chùa, trước mặt chùa có chiếc cầu vàng lớn, có bảng vàng đề là “chùa Đại Thánh Trúc Lâm”, mỗi một đều như Pháp Chiếu từng thấy trong bát, chu vi rộng khoảng hai mươi dặm, trong đó có một trăm hai mươi viện, trong mỗi viện đều có tháp báu trang nghiêm. Đất ở đó thuần toàn vàng ròng, suối cầu hoa quả khắp đủ trong đó. Pháp Chiếu vào chùa, đến trong giảng đường, thấy Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi ở phía tây, Đại Thánh Phổ Hiền ở phía Đông, đều ngồi trên tòa sư tử giảng nói pháp. Tiếp đến thân Đại Thánh và tòa cao cả trăm thước. Hai bên Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi có hơn vạn vị Bồ-tát, và nơi Đại Thánh Phổ Hiền cũng có vô số Bồ-tát vây quanh trước sau. Pháp Chiếu đến dưới tòa sư tử trước hai Đại Thánh, cúi đầu đảnh lễ xong, thưa hỏi hai Đại Thánh rằng: “Hàng phàm phu ở trong thời mạt pháp, cách Thánh lâu xa, trí thức chuyển dần kém cõi, nghiệp chướng dơ bẩn càng sâu dày, phiền não khuất che trói buộc, Phật tánh chẳng do đâu mà hiện bày. Với Phật pháp mênh mông, không biết tu hành pháp môn gì rất là cốt yếu, dễ được thành Phật, lợi lạc quần sinh, cúi xin Đại Thánh vì dứt trừ lưới nghi!”. Khi ấy, Đại Thánh Văn-thù-sư- lợi bảo rằng: “Ông dùng pháp niệm Phật, nay chánh phải lúc, trong các môn tu hành không gì qua môn niệm Phật, cúng dường Tam bảo, phước tuệ sang tu, hai môn này rất là cốt yếu. Cớ sao như vậy? Trong đời kiếp lâu xa ở thời quá khứ, tôi nhân quán Phật, nhân niệm Phật nhân cúng dường. Nên nay được nhất thiết chủng trí. Cho nên tất cả các pháp Bát nhã Ba-la-mật, hiện thiền định sâu xa, cho đến chư Phật thành vô thượng giác, đều từ niệm Phật mà sinh. Nên biết niệm Phật là vua của các pháp. Các ông nên phải thường niệm pháp vương vô thượng, khiến chớ ngưng nghỉ”. Pháp Chiếu lại hỏi: “phải nên niệm như thế nào?” Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi bảo: “Từ thế giới này về phương tây có cõi nước cực lạc, ở đó hiện có Đức Phật hiệu là A-di-đà. Phật ấy nguyện lực chẳng thể nghó bàn. Nên phải buộc niệm quán tưởng cõi nước ấy khiến không gián đoạn. Sau khi mạng chung quyết định vãng sinh về trong cõi nước Đức Phật ấy, trọn không thối chuyển, chóng vượt ra ba cõi mau được thành Phật”. Nói lời ấy rồi, khi đó cả hai Đại Thánh duỗi cánh tay sắc vàng xoa đảnh của Pháp Chiếu mà vì thọ ký: “Ông đã niệm Phật, không lâu nữa sẽ chứng đắc Bồ-đề Vô thượng chánh đẳng. Nếu người Thiện Nam kẻ tín nữ nào mau chứng đắc vô thượng Bồ-đề, hết một báo thân này nhất định vượt qua biển khổ, đến thấu bờ kia”. Khi ấy Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi vì nói bài kệ tụng rằng: “Các ông muốn cầu được giải thoát. Trước nên phải trừ tâm ngã mạn. Ganh ghét lợi danh và xan tham. Dứt bỏ các ý bất thiện ấy. Nên chuyên xưng niệm hiệu Di đà. Tức hay an trú cảnh giới Phật. Nếu hay an trú cảnh giới Phật. Là người thường thấy hết thảy Phật. Nếu được thường thấy hết thảy Phật. Tức hay thấu đạt tánh chân như. Nếu hay chóng dứt các phiền não. Tức hay thấu đạt tánh chân như. Ở trong biển khổ mà thường lạc. Thí như hoa sen chẳng dính nước. Và tâm thanh tịnh vượt sông ái. Tức hay nhanh chứng quả Bồ-đề”. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói thêm bài kệ tụng nữa: “Các pháp chỉ tâm tạo. Rõ tâm chẳng khá được. Thường theo đây tu hành. Gọi là tướng chân thật”. Bồ-tát Phổ Hiền cũng nói bài kệ rằng: “Bảo ông cùng với hết thảy chúng. Thường nên khiêm hạ các Tỳ-kheo. Nhẫn nhục tức là nhân Bồ-đề. Không sân hẳn được báo đoan nghiêm Mọi người trông thấy đều hoan hỷ. Tức phát tâm Bồ-đề vô thượng. Nếu theo lời đây mà tu hành. Vô số cõi Phật theo tâm hiện. Đều hay tu tập các hạnh nguyện. Chuyển tiếp hết thảy các hữu tình. Mau lìa sông ái đến bờ kia. …” Nghe xong, Pháp Chiếu vui mừng nhảy nhót, lưới nghi hết thảy đều dứt trừ, Pháp Chiếu lễ tạ rồi, chấp tay mà đứng. Đại Thánh Văn- thù-sư-lợi bảo Pháp Chiếu rằng: “Ông có thể đến viện của các Bồ-tát lần lượt mà kính lễ. Đã vâng theo lời chỉ bảo rồi. Pháp Chiếu lần lượt đi tham lễ, bèn đến nơi vườn trái cây bảy báu. Trái cây ấy vừa mới chín lớn bằng cái chén, Pháp Chiếu bèn hái ăn, mùi vị rất thơm ngon. Pháp Chiếu ăn xong, thân ý thư thái, trở về trước Đại Thánh, đảnh lễ mà lui ra. Sai hai Đồng tử đưa ra ngoài cửa. Đảnh lễ rồi, ngẩng đầu bỗng nhiên không thấy nữa. Pháp Chiếu mới bùi ngùi càng gấp bội buồn cảm. Bèn dựng đá ghi dấu, đến nay vẫn hiện còn. Ngày mồng tám tháng tư đến viện Bát nhã tại chùa Hoa Nghiêm dừng nghó dưới lầu phía tây. Đến sau giờ ngọ ngày mười ba, Pháp Chiếu cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang đi quanh tham lễ, đến nơi Hòa thượng Vô Trước thấy gặp Đại Thánh, chỉ tâm kính lễ danh hiệu ba mươi lăm Đức Phật, vừa lễ bái hơn mười biến, bỗng thấy nơi ấy đều thuần là cung điện lưu ly bảy báu. Đại Thánh Văn-thù, Phổ Hiền cùng vạn vị Bồ-tát, đồng thời Phật đà Ba-lợi đồng tại trong một pháp hội. Trông thấy rồi, Pháp Chiếu chỉ tự mừng vui, theo chúng trở về chùa. Giữa đêm đó, đến trên lầu phía tây chùa Hoa Nghiêm, bỗng thấy một ngôi chùa ở lưng chừng núi phía Đông, có năm chén đèn Thánh lớn như cái bát, Pháp Chiếu cầu nguyện rằng xin chân thành trăm chén, đèn bên phân thành trăm chén. Pháp Chiếu lại cầu nguyện xin phân thành ngàn, sau đó cũng bèn phân, lại biến thành ba hàng, các hàng cùng tương đối khắp đầy cả nửa núi. Nhân đó, Pháp Chiếu quên thân mình riêng đến chỗ quán thấy Đại Thánh ở hang Kim Cang. Quá nửa đêm đó, đến hang Kim Cang, lại đảnh lễ danh hiệu ba mươi chín Đức Phật, do biến năm hội, xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà hai ngàn tiếng, buồn khóa cầu thưa: “Chỉ tự vì nghiệp ác từ vô thủy, trôi nổi sinh tử”. Khắc trách các thứ, nghiêng thân hơn ba mươi lần tự đánh. Chưa thôi, bỗng thấy một vị Phạm tăng thân cao bảy thước tự xưng là Phật Đà-ba-lợi đến trước mặt Pháp Chiếu, bảo rằng: “Nay sư buồn khóc đâu có ý gì ư?” Pháp Chiếu đáp: “Pháp Chiếu tôi từ xa đến, mong nguyện được thấy Đại Thánh”. Phật Đà-ba-lợi bảo: “Thật nguyện mong thấy chăng?” Pháp Chiếu đáp: “Thật nguyện mong thấy”. Phật Đà-ba-lợi liền cỡi giầy đứng trên bảng và bảo: “Sư chỉ nên nhắm mắt theo ta mà đi”. Rồi bèn dẫn Pháp Chiếu vào hang Kim Cang, bỗng thấy một viện, có bảng vàng ròng đề là “chùa Kim Cang Bát nhã”, đều dùng bằng bảy món báu trang nghiêm, phòng hiên lầu các cả thảy có một trăm bảy mươi gian. Kim Cang Bát nhã hết thảy kinh tạng tại trong các báu Pháp Chiếu bèn hướng về Đại Thánh gieo thân mình đảnh lễ, chấp tay thưa bạch Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Chỉ nghó lúc nào chóng chứng Bồ-đề vô thượng chánh đẳng, hóa độ chúng sinh khiến vào không sót, lúc nào quả thật con mãn nguyện hải vô thượng”. Phát thệ nguyện ấy rồi. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo rằng: “Tâm ông chân chánh, chí làm Bồ-tát, có thể ở trong đời xấu ác, phát nguyện thù thắng ấy làm lợi ích quần sinh. Như lời ông nói hẳn sẽ nhanh chứng Bồ-đề vô thượng, hẳn sẽ chóng đủ vô lượng hạnh nguyện Phổ Hiền, viên mãn cụ túc, làm thầy trời người, độ vô lượng chúng”. Pháp Chiếu được thọ ký xong, cúi đầu đảnh lễ, lại hỏi rằng: “chưa biết ngày nay và trong đời sau, hết thảy bốn chúng đồng chí ý niệm Phật, chẳng cầu danh lợi, dõng mãnh tinh tấn, đến lúc lâm chung có được cảm Phật đến nghinh đón dẫn tiếp vãng sinh thượng phẩm chóng lìa sông ái chăng?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo: “Nhất định không nghi, chỉ trừ người vì danh lợi và không chí tâm”. Nói xong, bèn sai Đồng tử Nan Đà đem nước trà và dược thực đến, Pháp Chiếu nói: “Không cần dược thực”. Đại Thánh bảo: “Chỉ nên ăn, chớ sợ gì”, bèn đưa đến hai chén nước, một chén thức ăn, mùi vị rất ngon lành. Đại Thánh cũng đưa đến ba chén nước cùng với dược thực. Đồ đựng đó toàn bằng lưu ly vật báu làm thành. Thế rồi, bảo Phật Đà-ba-lợi đưa ra. Trong ý Pháp Chiếu không muốn đi ra. Đại Thánh bảo rằng: “Không thể được, thân ông nay đây vốn là phàm chất, vật thể bất tịnh, không thể ở đây. Chỉ vì ông cùng ta có duyên nay đã thuần thục. Một báo thân này hết, ông sẽ vãng sinh tịnh độ, mới có thể lại ở đây”. Nói xong bỗng nhiên ẩn mất không thấy, Pháp Chiếu trở lại trước hang đứng trên bảng chờ đợi. Trời sáng, riêng thấy một vị Phạm tăng bảo Pháp Chiếu rằng: “Khéo đi, khéo đi! Hãy cố nỗ lực, nỗ lực, dõng mãnh tinh tấn”. Nói lời ấy xong, bỗng nhiên cũng ẩn mất. Giây lâu chần chừ, buồn vui không thôi, Pháp Chiếu mới biết bi nguyện của Đại Thánh thật khó thể nghó bàn! Pháp Chiếu tuy thấy Thánh vị nhưng không dám vọng truyền, sợ sinh nghi ngờ phỉ báng. Đến đầu tháng mười hai, ở chùa Hoa Nghiêm, bèn vào đạo tràng niệm Phật, Pháp Chiếu bỏ ăn lấy làm kỳ hạn, cầu sinh tịnh độ được vô sinh nhẫn, chóng vượt biển khổ cứu độ quần sinh. Như vậy suốt bảy ngày, vừa đến đầu đêm nguy lúc niệm Phật, bỗng thấy một vị Phạm tăng đến trong đạo tràng, bảo Pháp Chiếu rằng: “Những điều ông thấy, cảnh giới Đài Sơn, cớ sao không nói?”. Nói xong liền ẩn mất. Trong tâm Pháp Chiếu nghi ngờ vị Tăng ấy, nhưng cũng chưa tuyên bày. Đến ngày hôm sau lúc giờ thân đang tụng niệm, lại thấy vị Phạm tăng tuổi khoảng 80 thần sắc cao vợi trang nghiêm, bảo Pháp Chiếu rằng: “Vừa rồi ông thấy cảnh giới Đài Sơn, sao chẳng y như sự thật mà biên ghi, chỉ bày cho tất cả chúng sinh được nghe thấy đó mà phát tâm Bồ-đề, đoạn ác tu thiện được lợi ích lớn, sao sư bí mật không nói cho người khác nghe biết?” Pháp Chiếu đáp: “Thật không có tâm che giấu việc ấy, chỉ sợ người sinh nghi ngờ phỉ báng sa đọa vào địa ngục, do đó mà không nói”. Vị Phạm tăng ấy bảo: “Đại Thánh Văn-thù hiện tại ở nước này còn có người phỉ báng, huống gì cảnh giới ông thấy nay đây, chỉ vì khiến cho nhiều người thấy nghe, phát tâm Bồ-đề, nên đến xứ này diệt trừ vô lượng vô biên tội sinh tử, đoạn ác tu thiện, xưng niệm danh hiệu Phật, được sinh về tịnh độ, tức là lợi ích vô lượng vô biên chúng sinh, há chẳng lớn thay, sao lo nghi ngờ phỉ báng mà che giấu chẳng nói?” Pháp Chiếu nghe xong, đáp rằng: “Kính trọng vâng lời chỉ dạy, không dám che giấu”. Vị Phạm tăng ấy móm cười, liền ẩn chẳng hiện. Pháp Chiếu mới y theo lời chỉ bảo, đầy đủ như thấy gặp trước đúng như thật biên ghi chỉ bày cho mọi người nghe biết. Ngày mồng chín tháng giêng năm Đại Lịch thứ sáu (771) thời Tiền Đường, Sa-môn Thích Tuệ Tùng ở Giang Đông, cùng các Sa-môn Sùng Huy, Minh Khiêm v. v… ở chùa Hoa Nghiêm cả thảy có hơn ba mươi vị theo Pháp Chiếu đến hang Kim Cang nơi thấy gặp viện Bát nhã, dựng đá nên mốc viết minh ký. Đồ chúng cùng đi, chí thành chiêm ngưỡng, buồn vui lẫn lộn, chợt nghe nơi đó có tiếng chuông ngân vang âm thanh hòa nhã, đại chúng đều kinh ngạc tán thán linh dị, quả quyết đặc biệt nói cùng Pháp Chiếu là: “Chỗ thấy không hư dối, đều nghó nhớ duyên xưa trước lắm may mắn”, được cùng mọi người đồng đi biên ghi trên vách tường khiến tất cả đều đồng nghe thấy, đồng phát tâm thù thắng, cùng mong chứng thành Phật quả. Về sau, đến ngày mười ba tháng chín năm Đại Lịch thứ mười hai (777) thời Tiền Đường, Pháp Chiếu cùng các tiểu sư v. v… cả thảy tám người đến Đông Đài đồng thấy có hơn mười luồng ánh sáng sắc trắng xuất hiện, tiếp theo lại có mây đen ngùn ngụt, chỉ khoảnh khắc mây tan, thấy ánh sáng năm sắc soi chiếu khắp thân, trong ánh sáng sắc hồng tròn sáng, Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi cưỡi con sư tử lông xanh. Cả đại chúng đều thấy rõ. Lại giáng tuyết nhỏ mịn và vầng ánh sáng năm sắc hiện khắp núi cốc, chẳng biết rõ lượng là bao nhiêu. Các tiểu sư đồng đi như là Sa-môn Thuần Nhất, Duy Tú, Quy Chính, Trí Viễn, Sa di Duy Anh, Hành giả Trương Hy, Đồng tử Như Tỉnh v. v… không ai chẳng thấy. Sau đó, Hòa thượng Pháp Chiếu mới vượt qua phía nam chùa Hoa Nghiêm cách mười lăm dặm ngay giữa dưới sườn núi của Trung Đài, y theo cách thức của chùa biến hóa mà dựng lập một ngôi chùa đề hiệu là “chùa Trúc Lâm”. Trong khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) dưới đời vua Đức Tông (Lý Khoát 780-805) thời Tiền Đường, có Hộ quân trung úy Bân Tân quốc công, Phù Phong Đậu công thi hành sắc lệnh lấy lợi của tô thuế trang điền huyện Tam Nguyên, mỗi lúc tới ngày Đản Thánh của Hoàng đế, đến mười chùa và Lan Nhã Phổ thông thiết trai cúng dường vạn vị Tăng. Bảo Tư binh tham quân vương só Chiêm soạn thuật khắc đá biên ghi bài tụng, đại khái với văn từ là: “Di-đà ở nước Tây phương, Đại sư Pháp Chiếu làm chủ vậy. Lúc Đế Nghiêu đang trên ngôi, Bân Công phụ giúp. Vậy đủ biết Phật báu nước báu khác vết mà đồng thể. Chùa Thánh Trúc Lâm ứng hiện thi công, đã lập Tây phương giáo chủ”. Đại sư Pháp Chiếu từ Nam Nhạc ngộ đạt chân yếu, chống tích trượng đến Thanh Lương, căn thụy tướng mà bồi hồi, đạp đường mây mà chẳng tới. Vượt Linh Sơn mà vào chùa biến hóa, giẫm trải khắp cùng cả thảy một trăm hai mươi viện, trông thấy ánh sáng khác lạ vết tích kỳ đặc, biên ghi đầy đủ nơi thực lục của Đại sư v. v… Xét, nên lược mà chẳng ghi. Đây là Giáo chủ tịnh độ phân giòng đến phương Đông, nên sửa đất… chùa vậy, văn nhiều chẳng thể ghi lại đầy đủ. Hòa thượng Từ Ân ở Trung Đài trước kia khuyến hóa các hàng tăng tục cả thảy năm trăm vị khắc tạo mười hai tôn tượng công đức bằng ngọc thạch và một tòa đại điện. Đến mùa xuân năm Nguyên Hựu thứ năm (1090) thời Bắc Tống, có ba người cố ý phóng lửa thiêu hủy. Đinh trên điện tự cứu chén công đức bằng ngọc thạch hóa làm tro tàn. Sa-môn Tỉnh Thụy lại khuyến hóa bốn chúng ở mười phương đồng dốc sức tu đạo, đến Hoàng Sơn ở Định Châu khắc tạo tôn tượng Thích Ca, Văn-thù, Phổ Hiền v. v… cả thảy mười hai tôn tượng đem đến Trung Đài và điện. Ngày… tháng sáu năm Thiệu Khánh thứ năm (1098) thời Bắc Tống, công việc hoàn tất, nêu bày cùng người đời sau rõ thấy người thiêu hủy công đức, chưa đầy một năm mà đều chết trong xấu ác, ương lụy cùng theo không gián đoạn. Nên biết người phá hủy, ác báo vô lượng, quả khổ lưu chuyển chẳng dứt. Người đồng tâm hợp sức tu tạo, được phước vô biên, sẽ chứng quả Bồ-đề vô thượng vậy. <詞>CÁC HÀNG TĂNG TỤC QUÊN THÂN VÌ ĐẠO. Sa-môn Thích Vô Nhiễm, chưa rõ là người vốn thuộc dòng họ gì? Đến thọ học trong núi Trung Điều, giảng luật tứ phần, kinh Niết-bàn, luận Nhân Minh, bách pháp v. v… mỗi lúc tụng kinh Hoa Nghiêm đến phẩm “Trú xứ của các Bồ-tát” thấy nói: “Ở phương đông bắc có nơi tên là núi Thanh Lương, từ xưa đến nay các chúng Bồ-tát dừng ở trong đó. Hiện tại có vị Bồ-tát tên là Văn-thù-sư-lợi cùng với quyến thuộc các chúng Bồ-tát cả thảy một vạn vị thường ở trong đó mà giảng nói pháp”. Lại nghe Phật Đà-ba-lợi từ nước Tây Vức lại tìm cầu Thánh tích, gặp được người già biến hóa, lại khiến trở về Tây Vức lấy kinh đem đến vào hang Kim Cang, mãi đến nay chưa trở ra, các bậc cổ đức đã như vậy. Tôi đây há riêng vô duyên ư? Vô nhiễm mới tự phát thệ nguyện cất bước du phương tham lễ, phỏng hỏi các bậc danh công, hoặc gặp thiền tông, tham quyết lý tánh, hoặc gặp bậc giảng trao, tham xét nghóa kinh… Năm Trinh Nguyên thứ bảy (791) thời Tiền Đường, đến núi Ngũ Đài, dừng nghỉ tại các viện Thiện Trụ. Bấy giời tại viện có Sa-môn Trí Quân làm Ngũ Đài sơn thập tự đô kiếm hiệu, chủ quản việc chúng tăng. Vô nhiễm mới nương tựa Sa-môn Trí Quân, treo tích gá tâm có ý trọn ở đó. Tự suy nghó rằng: “Cảnh biến hóa của Bồ-tát Văn-thù, chẳng phải phàm tình có thể bước tới. Ta nay may được ở đây, há lại biếng lười ư?” Nên mùa đông thì theo chúng hái củi mang vác, mùa hạ thì đi chân trần đến nhà, lập chí không đổi thay, trải qua hơn hai mươi năm, có hơn bảy mươi lượt đến lễ bái các đài. Thấy gặp các thứ linh tích, tướng cầu vàng biến hóa, tháp báu khánh Thánh, chuông vàng vầng ánh sáng v. v… chẳng rõ hết số ấy. Cuối cùng đến phía Đông của Trung Đài, bỗng thấy một ngôi chùa biển ngạch đề là “chùa Phước sinh”, bên trong các vị Phạm tăng có cả vạn vị. Vô nhiễm mới cúi đầu đảnh lễ, đi khắp ủy nhọc, thế rồi tận mặt thấy gặp Văn-thù-sư-lợi cũng là tướng vị Tăng, bảo cùng vô nhiễm rằng: “với núi này ông có nhân duyên từ xưa trước, phải nên cúng dường đại chúng. Chớ luống qua không”. Nói xong bèn ẩn mất không thấy nữa, chùa biến hóa cũng ẩn mất. Vị Phạm tăng đều mất. Vô nhiễm mới tán thán rằng: “Ta được thấy cảnh linh dị đây, há có thể để luống không vậy, nghó đến niềm vui nguy ách này, đâu có gì bền bỉ lâu dài”, mới phát thệ nguyện, báo cùng các hàng tăng ni ở pháp bốn phương đi đến đài cùng các hàng tín só, mỗi một lần cúng dường một trăm vạn vị Tăng, mới đốt một ngón tay lấy làm mốc vậy. Dần đến số năm trăm vạn, xa gần thảy đều biết, các hàng vương hầu chẳng khuyến hóa mà tự lại, vàng báu chẳng mong cầu mà tự đến, cúng dường ngàn vạn đã xong, mười ngón tay đều đốt hết. Đến trong khoảng niên hiệu Khai Thành (836-841) thời Tiền Đường, vào khoảng tháng tư, Vô Nhiễm bạch cùng đại chúng rằng: “Đối với núi này, tôi có nhân duyên mỏng đạt, đã bảy mươi hai lần đến các Thánh tích, thù đáp cúng dường vạn vị Tăng, chẳng ra khỏi núi này. Nay tôi già suy đã bảy mươi tư tuổi, năm mươi lăm hạ lạp, thân này khó bảo tồn, nguy ách đồng như sương mai, nên muốn đến trên đảnh Trung Đài đốt một nén hương để đáp tạ chư Phật mười phương và vạn vị Bồ- tát, dứt tâm mà trú. Các đồ chúng v. v… mỗi chẳng cùng thời đại, đều là đệ tử của Bồ-tát, là quyến thuộc của Long Vương, xưa trước gieo trồng thiện nghiệp được đến ở núi này, sớm tối phải nên tinh cần xét răn ba nghiệp. Long Hoa tam hội cùng kết kỳ hẹn, đợi sau xuống núi sợ có lưu nạn, trân trọng mà đi”. Đại chúng chẳng hiểu tâm ý của Vô Nhiễm, cùng nhau thưa rằng: “chỉ hạn thời gian ba-năm ngày sư sớm trở về lại viện”. Vô Nhiễm mới chỉ mang bình chống tích và ít hương đốt, riêng cùng thanh tín só Triệu Hoa, mang theo hai đoạn sáp bố, một cân gai thô, một hộc dầu thơm, đến trên đảnh Trung Đài, từ sáng tới chiều tối, đốt hương lễ bái không lúc nào tạm nghó, bỏ cả uống ăn cũng chẳng ngủ nghỉ, chí thành niệm Phật lời tiếng không gián đoạn. Đến gần nửa đêm, Triệu Hoa ngờ mình trở về, sáng sớm lên lại đài sẽ thấy sư. Vô Nhiễm giữ chỉ xác thực không đổi thay, càng tinh chuyên gấp bội ngày thường. Vô Nhiễm mới bảo Triệu Hoa rằng: “Tôi có tâm nguyện sâu kín, đã thấy công thành, ông cùng tôi soi chiếu duyên, không được làm chướng ngại đạo. Hãy vì tôi mà lấy bố sáp, gai thô và dầu thơm đem lại buộc trong thân tôi. Đến nửa đêm giờ tý, đốt thân cúng dường chư Phật. Nếu tôi được thành đạo quả, trước tiên sẽ cứu độ ông”. Triệu Hoa khuyên xin đối luận nhưng chẳng ngưng, bèn mang sáp bố đến buộc trên thân Vô Nhiễm, tiếp buộc thêm gai thô, dùng dầu thơm tưới rót, trước tiên đốt trên đảnh đầu. Vô Nhiễm bảo rằng: “Nếu tôi có hài cốt còn lại, tiếp nên dùng củi để thiêu đốt, lửa tắt khói bay, nên vung vãi tan hết, không được hiển bày quái lạ làm mê hoặc mọi người”. Triệu Hoa vâng theo lời chỉ bảo, từ đầu mà đốt đến chân mới ngả, Triệu Hoa cố gắng mà tán thán rằng: “Xưa trước nghe Kỷ Kiến Bồ-tát dùng nguyện lực thiêu thân, nay thấy Thượng nhân nối tiếp theo. Thật kỳ đặc thay!” Mới tuyên bảo cùng môn nhân thâu gom linh cốt đưa đến phía nam núi Phạm Tiên xây dựng tháp cúng dường, đến nay hiện còn. Sa-môn Thích Phước vận ở chùa Tổng Nhân tại Đại Châu là vị Tăng tiết hạnh thanh khổ, từng bùi ngùi kiếp sống huống qua không, thường bảo mọi người rằng: “Chim săn đuổi bắt chim sao chẳng cùng gặp, hổ dữ bắt người lúc nào gặp thẳng, tự hận tuổi già thân thịt khô khan, chẳng thể cho chúng sinh có được một bữa ăn no đủ. Khổ thay! Khổ thay! Ngày 15 tháng 12 năm Khai Nguyên thứ 21 (733) thời Tiền Đường, phước vận vào chùa Tuế Cốc Đại Thạch tại Nam Sơn, đến phía bắc có một tảng đá lớn, bèn ngồi kiết già ở trên, dùng dao tự cắt phần thân thịt làm thành 30 phần đặt để trên đá, nhân đó phát thệ nguyện: “Xin thí cho các loài chúng sinh chim bay thú chạy một bữa ăn, nguyện cho các chúng sinh ăn thịt này bỏ thân ác thú, thọ quả báo trời người”. Nói xong bèn qua đời, các hàng môn nhân só tục chạy đến nơi đó, thấy hài cốt vung vãi nơi đất, các hàng tăng tục buồn khóc, nhóm củi trà tỳ. Thế rồi, mây lành giăng bủa đầy cốc, bỗng chốc gió bão nổi khắp bốn phía, cốt tro của thân phiêu bạc chẳng còn. Thần dị như thế, nếu chẳng phải quên bỏ ngã tướng thấu rõ sắc không, thì sao có thể được như vậy ư! Thanh Tín Sỉ Tống Nguyên Khánh, vốn người xứ Bắc Hương huyện Lạc Dương. Ngày 14 tháng 12 năm Thánh Lịch thứ nhất (699) thời Tiền Đường đi đến núi Ngũ Đài, kính lễ Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi. Tống Nguyên Khánh gieo trồng căn lành từ xưa trước, từ lâu đã nhàm chán trần lao, nết hạnh thanh khiết như băng sương, chẳng từng bị tỳ vết. Đến với cảnh chân ấy rất hợp với bản tâm, cầu khẩn một thời công thành vượt cả nhiều kiếp. Nhân đến chùa Bí Ma Nham ở Tây Đài, mới lén đến bên cạnh miếu Phật, sau khi chất củi, rưới dầu thiêu thân cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và vô lượng Thánh chúng. Ngay lúc ấy nghe ở núi góc Đông nam có vài tiếng chấn động phía tây bắc thấy có ánh sáng năm sắc chói lòa. Đó là do Tống Nguyên Khánh cúng thí nội tài mà cảm ứng nên vậy. Thật kỳ lạ thay! Phồn Trỉ huyện môn Minh Nhã là bậc có trí thấu đạt không hữu, ngã vật đều quên, nhàm chán thân hữu lậu, vui chuộng tam quả bền chắc. Ngày mồng ba tháng tư năm Tống Nguyên Khánh thiêu thân (699), đến bên cạnh miếu Bí Ma sư, kẻ thân cúng dường, tay tự cầm dao phân tách thân thể sắc mặt không biến đổi, bắt đầu từ hai chân, dần đến tim, da thịt xẻ phân chỉ còn có lồng ngực, nhưng còn chấp tay phát thệ nguîên rằng: “Nguyện được sớm thành Phật cứu độ chúng sinh”. Sau đó mới móc quả tim, mạng số khi ấy mới dứt. Tiếc thay! <詞>CHÂU MỤC TỂ QUAN QUY HƯỚNG CHÁNH TÍN Năm Khai Nguyên thứ 18 (730) thời Tiền Đường, Đại Châu Đô đốc Tiết Huy vì gặp năm nắng hạn, qua thời gian lâu không mưa, cỏ cây khô cháy, các thứ gieo trồng đều hư phế. Tiết Huy bảo cùng mọi người rằng: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở Đài Sơn có lắm nhiều linh dị, có vô duyên từ, ắc nên cầu thỉnh”. Bèn lên đảnh đài khẩn Thánh cầu mưa, chợt thấy trên chùa Hoa Nghiêm có đàn hạc trắng hai mươi hai con bay liệng bồi hồi nhóm tụ trên đài, phút chốc liền tan, khoảnh khắc sau, mây đen ùn nổi tuôn đổ rưới mưa, cả năm huyện thấm đủ (xưa trước có huyện Đường Lâm). Dân chúng đến ngày 26 mới bắt đầu canh cây. Mùa thu năm ấy mùa màu trúng đậm, canh cây gieo trồng thóc nhỏ đều chín. Một hộc thóc giá ba tiền, muôn dân được an vui. Nếu chẳng phải sự chí thành cảm thần, thì đâu có thể được vậy. Năm Khai Nguyên thứ 23 (735) thời Tiền Đường, Đại Châu Đô đốc Vương Tự, từng đi tham lễ các chùa viện ở Ngũ Đài núi Thanh Lương, bỗng gặp một ngôi nhà lam rộng lớn trang nghiêm, bên trong có tôn trượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nhân vào trong đó lễ bái, lại từ viện đi ra, mới gặp 3-5 người ẩn giả, mặc áo cỏ đi giày gai, dung mạo rất xấu xí, Vương Tự tự bảo “Đó là kẻ nghèo khổ xin ăn đến đây”. Mới hỏi rằng: “Từ xứ nào lại?” Ẩn giả đáp: “Đến rão bước núi rừng, nhân mà trúng thưởng, tôi có thể đem cả lục hợp vào trong một mãy trần, đem tam thiên đặt để trong hạt cải”. Lại vì Đô đốc Vương Tự đàm nói chánh lý mười hai không, diễn giả tà tông 12 kiến, ngôn từ đàm luận ngang dọc, biện tài vô ngại. Vương Tự nghe thế kinh ngạc, Ẩn Giả mới có lời bảo răn. Vương Tự cúi đầu chưa đối đáp, bỗng nhiên ẩn mất không thấy nữa. Từ đó, Vương Tự chóng phát nguyện tâm, muốn cúng dường trai phạm ngàn vị Tăng để cầu thắng phước, hỏi chư tăng trong chùa rằng: “Trong đây có đủ số ngàn vị Tăng chăng?” Vị Tăng ấy đáp: “Nay đang là tháng bảy, tháng tám những vị đi núi đều đã đi, chư tăng khó có thể đủ số đó”. Vương Tự mới chí tâm cầu thỉnh minh trợ, đến ngày thiết trai cúng dường, cảm được ngàn vị Tăng đồng đến dự hội. Vương Tự rất chí thành thiết trai cúng thí. Xong rồi, chư tăng giải tán, chẳng biết ở đâu. Vương Tự thấy cảm ứng đó, tín tâm càng kiên cố. Về sau xa đến kính lễ Ngũ Đài, tan thân về hưởng vậy. Năm Thanh Lịch thứ hai (thời Tiền Đường), Trưởng sử Thôi Nghóa Du đến tham lễ Bắc Đài ở Ngũ Đài, bỗng nhiên mây mốc ùn nổi mịt mờ, bước chân không thấy. Thôi Nghóa Du bèn ném mình tự đánh, khắp thân thể máu sục đầm đìa, chết đi sống lại, ngữa mặt nhìn giữa khoảng mây, thấy một luồng ánh sáng tiếp đi chùa Hoa Nghiêm. Thôi Nghóa Du mới tìm theo ánh sáng mà đi, qua đâu theo ẩn đó, thẳng đến chùa Hoa Nghiêm, dừng nghỉ qua đêm rồi theo hướng nam đi đến chùa Phật Quang, có hơn trăm dặm. Trước điềm ứng tốt lành ấy đến chùa, trông thấy Thiền sư Giải Thoát như lúc hiện sống cùng Thôi Nghóa Du đàm nói. Thế rồi, Thôi Nghóa Du kể nói cùng chư tăng ở các chùa, chư tăng không ai chẳng kinh ngạc, đều bảo là: “Thiền sư Giải Thoát thị tịch đã nhiều năm, cớ sao lại thấy gặp. Đó thật là việc chẳng thể nghỉ bàn vậy”. Thôi Nghóa Du càng lấy làm kinh lạ v. v… Năm Thánh Lịch thứ hai (699) thời Tiền Đường, Trưởng sử Tề Chính dẫn người nhà lên đài, đến phía bắc chùa Thanh Lương, gặp thấy vài vị Phạm tăng chống tích trượng để chân không mà đi. Tề Chính dò hỏi đó, các Phạm tăng đáp: “Đi phỏng tìm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi”. Nhân đó khuyên Tề Chính phát tâm cùng lên trên đảnh đài. Vừa đi lên các Phạm tăng bỗng nhiên ẩn mất, Tề Chính ngờ lạ mà xuống, trở về đến chùa Thanh Lương, lại nghe tiếng chuông Thánh ngân nga vang vọng khắp núi cốc, Tề Chính chí thành thiết trai cúng dường mà trở về. Cảm linh ứng ấy, nhân vì biên ghi vậy. Từ Trung Đài về phía tây nam cách hơn trăm dặm, có một núi nhỏ tên là Phong Sơn, ngay phía bắc của đài ấp, nửa núi có hang sinh phong, do Tiên nhân trông coi, có am của đạo nhân, đài thuyết pháp, xưa trước gọi là núi Cửu tuyền. Phía trên có chùa Kim Hoa, phía dưới có ao Tháo Dục. Ở đời tương truyền đó là nơi vạn vị Bồ-tát qua nghó mùa hạ, có lúc hiện ảnh tương tợ như mảnh mây bay vụt trên đỉnh núi, hoặc như hạc trắng từng đàn bay liệng phía sau núi, giây lâu mới tan hết, các hàng só tục đều trông thấy, và đều bảo là muôn Thánh xuất hiện, điềm hiện của năm được mùa, lời nói ấy có lắm ứng nghiệm. Ngày mồng năm tháng bảy năm Khánh Lịch thứ hai (1042) thời Bắc Tống, có vài mảnh sương mốc mỏng từ sau điện chùa cổ nổi ra, dần tràn lên đảnh núi. Trong đó hiện hình tướng Bồ-tát, hoặc ba hoặc năm, mỗi mỗi đều sắp thành hàng lớp lìa khỏi núi về hướng nam theo phía hữu nhiễu quanh huîên ấp. Các hàng tăng tục bảo là không ai chẳng ngữa mặt trông xem. Đường trước huyện lệnh rộng phẳng, lưu lại bài thơ để ghi kỳ lạ ấy. <詞>SỰ TÍCH CHƯ TĂNG CAO ĐỨC. Sa-môn Thích Trí Quân, quên mất vốn dòng họ gì, là người ở Trung Sơn. Từ thủa bé thơ đã nổi vượt đồng hàng. Đến tuổi hai mươi, nhàm chán vinh hoa thế tục, Trí Quân bèn xa đến Đài Sơn vào các viện Thiện Trụ cầu xin Sa-môn Hiền Lâm làm thầy, giũa mài chuyên cần không biếng trể, sớm tối quên cả nhọc mệt, xuống tóc đăng đàn thọ trì giới luật như minh châu sáng sạch, bẩm tánh tiết kiệm, trong phòng nhà không tích chứa y phục, lúc có của thừa, tùy duyên cấp thí cho người nghèo bệnh. Thế rồi, giả từ thầy, Trí Quân vân du phỏng đạo, chưa đầy vài năm mà tinh thông Phật giáo, giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thấu đạt Phật tri kiến, xiển dương yếu chỉ thù thắng của Duy Ma, thấu đạt pháp môn bất nhị, luân nghó tướng pháp tánh sâu mầu, lười nôm quyền giả, mới gom vết đến linh cảnh, treo tích trượng nơi chỗ ở xưa. Trí Quân đức cao phục nhân như thế, đẩy vùi tuy thoát mà hiển bày dónh ngộ, tiếng tăm vang vọng khắp xa, chuông trong cũng khua gióng mà bay tiếng. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) thời Tiền Đường, tăng chúng bàn nghị, thỉnh mời Trí Quân sung làm sơn môn tăng thủ. Trí Quân cố chối từ mà không được, cúi ngưỡng vâng theo mạng. Gặp năm khó khăn đói kém. Đàn-việt cúng thí hiếm ít sơ sài, viện vũ dần tiêu điều hoang phế, chuông khánh vắng bặt tiếng. Tăng chúng lại cúi đầu cầu thỉnh Trí Quân làm chủ việc cúng dường trông coi thường trú tại chùa Hoa Nghiêm là nơi bốn phương nhóm tụ cúng dường. Thích nghi với đức hạnh ấy hẳn có tương lâu, thiện tâm thì được ứng, nên gặp các Sa-môn Pháp Chiếu, Vô Trước chủ soạn “Hoa Nghiêm sớ”, đều là bậc long tượng của Thích môn, là chi lan nơi đất báu, các hàng tăng tục đua nhau đến nương tựa, thần linh ngầm ủng hộ. Bấy giờ Sa-môn Trừng Quán mới chế thuật sớ giải hoàn tất. Tăng chúng thỉnh mời Trí Quân giảng đại kinh Hoa Nghiêm, do vậy mỗi ngày có cả ngàn vị Tăng dự tham, nhưng thiết trai cúng dường đủ đầy, kho chứa đầy tràn, chẳng biết do từ đâu. Người thời bấy giờ đều cho là cảm được Thánh chúng đến”. Trí Quân tự làm chủ việc chùa có hơn mười năm, có vị Tăng ở viện gần bên tên là Nghóa Viên cũng là bậc tài giỏi trong chúng tăng cho rằng Trí Quân thời gian lâu dài trông coi việc thường trú mà ý chỉ vì lợi ích của cải cúng dường, đã sinh nghi ngờ phỉ báng, mới dấy dựng rao bày nói là “Tâm Trí Quân không bình đẳng, chí ý chuyên tham lợi dưỡng, tu đức tranh đua thời đâu đáng như vậy ư?” Trí Quân nhận hiểu sự phỉ báng đó, vội xin tự rút lui, tăng chúng bèn chấp thuận, ngay ngày ấy, Trí Quân mới khoanh tay mà ra. Đêm đó có thiên thần Hộ Pháp báo Nghóa Viên rằng: “Hòa thượng Trí Quân là một trong ngàn Đức Phật, Sư dám có lời khinh thường ư? Nên nhanh cầu xin sám tạ lỗi quá, nếu không như vậy, hẳn sẽ sa đọa trong đường xấu ác”. Nghóa Viên kinh sợ, sáng sớm tìm đến nơi chỗ Trí Quân, đảnh lễ sám tạ lỗi quá. Đức hạnh của Trí Quân ứng cảm như vậy! Đang lúc vua Võ Tông (Lý Viên 841-847) thời Tiền Đường đang ở ngôi, hủy diệt Phật pháp, Trí Quân ẩn náo nơi rừng chầm, các chúng khác đều giải tán. Khi vua Tuyên Tông (Lý Thầm 847-860) thời Tiền Đường lên ngôi, trùng hưng lại chùa viện, ban sắc các chùa ở Ngũ Đài, độ năm ngàn vị Tăng, lại thỉnh mời Trí Quân làm tăng thủ của cả mười chùa và làm chủ trong coi việc cúng dường tu tạo. Đến tháng tư năm Đại Trung thứ bảy (853) thời Tiền Đường, Trí Quân cúng dường trai cháo tất cả bốn chúng trong thiên hạ đến tham lễ, suốt một tháng mới thôi. Một ngày nọ bảo cùng đại chúng rằng: “Mạng người như tên bắn đâu có thể bảo tồn lâu dài, tâm theo cảnh phù hoa, chẳng cầu dứt nghó lự. Ai để luống qua vậy ư?” Xong, bèn lui ở nơi tỉnh thất, hai ngày chẳng ra khỏi, an nhiên đoan tọa mà thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi, 58 hạ lạp. Sa-môn Thích Pháp Trân không biết vốn người xứ nào và cũng quên mất năm thọ giới. Pháp Trân tự xả bỏ trần tục, nghiêm trì giới hạnh tinh khổ, thệ nguyện diệt trừ nhân ngã, chí cầu giải thoát, giảng kinh Hoa Nghiêm, Lăng Già, luận Duy thức, Du già. Mỗi lúc lên pháp tòa tuyên giảng, âm thanh như sư tử rống, cảm hóa dẫn dắt không ngưng nghỉ, mọi người xa gần đều quy tâm. Pháp Trân ở chùa Hoa Nghiêm hơn 30, tự thân thấy gặp Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ẩn hiện trong mây, hiện các thứ hình có ngàn vạn lần. Nhân đó Pháp Trân phát thệ nguyện thiết trai hội vô giá. Mỗi năm có hàng vạn người tham quan, đến đảnh núi Ngũ Đài, đốt đèn sáng lớn, giăng treo hoa phan chẳng dứt. Đến trong tháng bảy năm Khai Hoàng thứ mười ba (593) thời nhà Tùy, Pháp Trân thị tịch. Sau đó năm năm, vua Văn Đế (Dương Kiên 581-605) thời nhà Tùy mộng thấy nơi viện Đại sư Pháp Trân ở chùa Hoa Nghiêm tại núi Ngũ Đài có hai mươi viên ngọc báu Ma ni, vua bèn sai hoàng môn thị lang Quách rong ruổi đến tìm lấy ngọc báu nơi viện Pháp Trân cúng dường trong kho, quả nhiên có được ngọc báu phù hợp với Thánh mộng, mới tạo hộp bằng bảy báu đựng đầy đưa đến kính dâng. Ngoài ra các ngọc báu khác có trăm ngàn thứ cả thảy có hơn năm mươi hộc, vua lại có chiếu ban sắc đưa đến Đài Sơn, bèn dùng một gốc cây san hô đều đưa về núi cúng dường Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, đức hạnh của Pháp Trân đại khái như vậy v. v… Sa-môn Thích Tôn Triết, không rõ vốn dòng họ gì và người ở xứ nào. Đến ở chùa Thiên Bồn hơn ba mươi năm chuyên ăn bánh bột tùng bách vào giữa trưa mỗi ngày, thường ngồi chẳng nằm, không hề nói năng, chỉ biết cao vợi thoát vượt ngoài trần. Nắng lạnh hành đạo chẳng từng biếng nghỉ, thân mặc áo nạp thô xấu. Ngoài ra không phụ sức gì, hạnh nguyện Bồ-tát mọi người hiếm lường biết. Từng có một ngày, Tôn Triết tự thân trông thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mang một cái trống giáp hạc mặt vàng vào đến trong già lam. Tôn triết kinh dị buồn cảm nhân đó tự ngã mình miệng mũi đều trào máu. Xong đứng dậy mà nói rằng: “Vừa rồi nghe tiếng trống Thánh, nhạc trời tha hóa. Xưa kia lúc Đức Phật tại thế. Đại Thánh mang đến cúng dường nơi Phật. Sau khi Đức Như Lai diệt độ lại mang đưa về trời. Đệ tử bản chất hạnh nghiệp dơ uế, Đại Thánh ứng hiện dấu vết già lam này, khiến vô hạn trần lao nay đây tiêu diệt hết”. Xong, Tôn Triết chí thành kính lễ, lễ bái xong bèn không còn thấy nữa. Từ đó, Tôn Triết bảo cùng môn nhân rằng: “mạng tôi sắp hết, sợ thân bất tịnh khiến dơ uế chốn già lam, muốn đến trấn Hoành Thủy mà ẩn diệt. Các người mỗi nên nghó nhớ vô thường, cố gắng tinh tu thắng nghiệp”. Căn dặn xong, xuống núi, quả nhiên đến trấn ấy, Tôn Triết an nhiên thị tịch. Sa-môn Thích Thần Tán vốn dòng họ Lư, không biết người xứ nào, giới hạnh cao vợi tinh khiết, ham thích phỏng tìm Thánh tích. Năm 40 tuổi, Thần Tán đi đến Đài Sơn tham yết đảnh lễ Bồ-tát ở chùa Hoa Nghiêm giữa khoảng núi Thanh Lương, tinh chuyên thiền tụng, tăng chúng đồng suy tôn là bậc cao đức chưa rõ về sau Thần Tán thị tịch tại nơi nào. Sa-môn Thích Tuệ Long, vốn người xứ U Châu, vừa tuổi búi tóc cầu xin xuất gia, năm hai mươi tuổi thọ giới cụ túc, tâm tánh tràn đầy như vầng trăng thu, tiết tháo cứng rắn tợ tùng giữa sương, giới hạnh ngang bằng như Hộ Nga, lòng từ sâu sắc cứu cả Trùng Kiến, thông rành luật tang tứ phần, không điều nghi trệ. Mọi người xa gần đến thỉnh hỏi điều lợi ích, dẫn dụ dạy răn dốc cả tài năng, chuyên đến Đài Sơn đảnh lễ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, mỗi ngày sáu thời sám tụng, vì pháp quên cả thân mạng, tự thích máu trong thân mình biên tả giới Bồ-tát lưu bố khắp cùng, cầu nguyện sớm Thánh Phật. Tuệ Long khí mạo trang nghiêm cao vợi, nói năng rành rẻ, diễn giảng giáo pháp dẫn dắt kẻ mê, không kẻ cứng rắn nào chẳng kính phục. Cũng là bậc rất có tài năng trong chúng tăng. Về sau không biết như thế nào. Sa-môn Thích Linh Hưu, người xứ Hà Nam, ưa thích phỏng tìm Thánh tích, rão bước khắp các danh sơn, chỉ biết cần khổ, mọi người đều kính phục Linh Hưu xa đến Đài Sơn, đảnh lễ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Bỗng nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Người ở cõi Nam Diêm Phù Đề, phần nhiều thuộc bất định tụ, cứng cõi khó giáo hóa, ông nên cứu độ đó, chớ sợ nhọc mệt. Đó là bậc thượng só”. Linh Hưu hỏi: “Muốn cầu giải thoát làm sao có thể được?” Giữa hư không bảo rằng: “Ông có thể trừ tâm”. Linh Hưu hỏi: “làm sao trừ tâm, dùng phương tiện gì?” Giữa hư không bảo: “Cỏ vô tâm tên là măngoại đạo đặng. Ông nên quán sát đó, tự sẽ ngộ giải”. Linh Hưu bèn tìm kiếm, về quả thấy loại cỏ đó, mới tự suy nghó rằng: “Ta hỏi có phương tiện để trừ tâm, liền bảo ta quán sát loại quả vô tâm này, tức có ý chỉ phiền não, vô tâm dụ cho không. Cỏ đã không tâm, phiền não cũng vậy, có gì phải đoạn: “Mới đại ngộ vô sinh pháp không quán môn, ngay đó rõ vậy”. Linh Hưu chẳng giằng nỗi sự buồn vui, bèn đến nơi loại cỏ đó dựng lập am mà ở. Có người hỏi về lý do. Linh Hưu chỉ ngay cỏ đó mà bảo: “Người nhiều tâm bịnh, cả này hay dứt trừ, ước muốn lại mong cầu, cùng bày ứng nghiệm tốt lành vậy”. Về sau hạng người được khỏi, đông nhiều vậy. Đến thượng tuần tháng giêng năm Quý Dậu tức năm Khai Hoàng thứ 21 (01) thời nhà Tùy, tự nhiên không bệnh mà thị tịch, Linh Hưu hưởng thọ 73 tuổi. Năm Quý Dậu tức năm 613, nhằm năm Đại Nghiệp thứ 09, còn năm Khai hoàng thứ 21 tức năm Tân Dậu. QUẢNG THANH LƯƠNG TRUYỆN QUYỂN TRUNG (HẾT)  <卷>QUYỂN HẠ thấy. 19- Sự tích chư Tăng cao đức (tiếp theo). 20- Sự tích chư Ni cao đức. Các điều linh dị mà các hàng tăng tục ở thời Nam Tống trông Cây lũy linh dị. Các bài tán tụng xưa nay về Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi. SỰ TÍCH CHƯ TĂNG CAO ĐỨC (Tiếp Theo). Sa-môn Thích Gia Phước, vốn người dòng họ Niếp ở Nhạn Môn, Đại Quận. Năm bảy tuổi đến chùa Tổng nhân thuộc bản châu cầu xin xuất gia, năm mười lăm tuổi thọ giới cụ túc. Về sau đến ở vọng đài Thanh Lương hơn 30 năm thường trì tụng kinh Duy ma, văn giới hai bản Bồ-tát và Thanh văn, hai bộ Niết-bàn và Bát nhã. Có nhiều điều ngộ nhập, và tụng các bộ kinh luận có hơn năm bản, mười ngày một vòng lược không dư rỗi, đến lúc đốt năm ngón tay cúng dường chư Phật, đốt đèn trên vai cầu sinh tịnh độ. Đến hạ tuần tháng 12 năm Khai Hoàng thứ 24 (niên hiệu Khai Hoàng chỉ có 21 năm (581-601) mà thôi) thời nhà Tùy. Chợt nhiên thấy một luồng ánh sáng sắc trắng thẳng đến phương Tây, như vậy suốt hai ngày, mọi người đều thấy, gia phước an nhiên mà thị tịch. Sa-môn Thích Đạo Tuyên vốn người dòng họ Tiên ở Ngô Hưng vốn là cháu chắc của Bành Tô. Thủa thiếu thời tập trung giáo văn, lúc trưởng thành thân gần pháp tịch của chư sư, khắp đông tây của quan, nam bắc của Giang phỏng tìm tông tượng chẳng sợ khốn khổ. Bên ngoài gồm cả chín dòng học phái, bên trong tinh thông tam học. hương giới phảng phất, nước định lắng trong, bảo tồn thành vức hộ pháp, trước thuật không ngưng nghỉ, rất khéo giỏi luật tạng, khéo đạt sâu mầu, năm thiên bảy tụ rành rẽ như băng tan, cảm bếp trời hiến dâng thức ăn, đầy đủ như các biên ghi trước, từ thời nhà Lương mãi đến nay chẳng ai sánh bằng. Căn cứ theo “Hoa Nghiêm Linh Ký” nói: Luật sư Đạo Tuyên từng đến trên Trung Đài, thấy một Đồng tử hình dáng khác thường, Đạo Tuyên hỏi về nguyên do Đồng tử ấy đáp: “Đệ tử là trời, Đế Thích sai bảo đi tuần thú cảnh Thánh”. Đạo Tuyên lại hỏi: “Đạo Tuyên tôi từng đọc xem kinh Hoa Nghiêm trong phẩm “Trú xứ của Bồ-tát” nói là Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi thường ở núi Thanh Lương, Đạo Tuyên tôi từ lúc đến núi tới nay chưa từng được thấy, cớ sao như vậy?” Đồng tử đáp: “Sao sư nghi ngờ, lúc thế giới mới thành, đại địa này ở ngay trên Kim Luân, trên Kim Luân đó nhóm gom cốt lang nha sinh một kim luân nhỏ. Kim luân đó đến bụng nửa Bắc Đài là nơi cung điện bằng bảy báu của Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi ở vậy, vườn rừng cây quả thảy đều đầy đủ, có vạn vị Bồ-tát vây quanh. Trên mặt đất Bắc Đài có một ao nươc tên là Kim Tỉnh (giếng vàng). Đại Thánh Văn-thù cùng các Thánh chúng vào ra trong đó, thông cùng với hang Kim Cang. Nơi Đại Thánh ở chẳng phải cảnh giới của phàm tình, sư có thể biết đó”. Nói xong bèn ẩn mất. Đạo Tuyên xuống núi nói cùng mọi người về việc ấy. Pháp sư Thích Khuy Cơ, vốn dòng họ Uất Trì, tổ phụ húy là Ý Ninh quốc công, thân phụ tên là Kính Tông nhậm chức Lục Quân Khanh Trụ, đảm nhận Tùng Châu đô đốc. Có người bác tên là Kính Đức tức là Tổng quản vô lược… Cổ ở thời Tiền Đường, tiếng tăm vang dậy cả một đời, được phong là Ngạc Quốc Công. Đường thư có bốn truyện, Khổng Tử có bốn khoa, … phó có bốn Thánh, Tam tạng Pháp sư Đại Đường (Huyền Trang) có bốn đệ tử là Cơ, Quang, Phường, Trắc. Nên nay chủ sở tức là một đó vậy. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang đi Tây Vức thỉnh cầu kinh, sau khi đã trở về, Viên Giáo Đại thừa bắt đầu lưu truyền ở Đông Độ, đem giáo pháp lợi ích khắp cùng quần sinh, hẳn nhờ đầy đủ giỏi tài, Pháp Uyển suy tôn chuyên kết quy chủ sớ. Năm 17 tuổi, Khuy Cơ dự phần xuất gia, đặc biệt vâng phụng Minh Chiếu làm đệ tử của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang, chủ sớ chuyên thọ học bí quyết Tam tạng Đại thừa. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang cho rằng muốn cứu tế khắp các quần sinh không gì hơn hoằng tuyên giáo pháp, truyền trao có thể kết quy. Khuy Cơ vâng phụng mạng trước thuật, chế soạn sớ Pháp Hoa, Duy Thức v. v… có hơn trăm bộ, hưng thạnh lưu truyền nơi đời. Sau khi Tam tạng Pháp sư Huyền Trang thị tịch khoảng vài năm. Khuy Cơ đến núi Ngũ Đài, kính lễ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, dừng nghỉ ở viện phía tây chùa Hoa Nghiêm. Thường mỗi tháng, Khuy Cơ tạo một tôn tượng Bồ-tát Di-lặc, mỗi ngày trì tụng giới Bồ-tát một biến, nguyên sinh lên cõi trời Đâu Suất, cần cầu chí ý ấy vậy, điềm ứng cảm thông thường luôn rất khả quan. Lại tự thân biên viết kinh Kim Cang bản chữ vàng hoàn tất, có ánh sáng thần mây tốt lành quấn phẩy nơi Đài Vũ, ánh ngời nơi hập tráp. Khuy Cơ tự bảo: “Nếu ta không kiên chí, linh ứng làm sao đến”. Từ khi đi núi xong trở về ở chùa Từ Ân tại Kinh Đô. Đến năm Vónh Thuần thứ hai (683) thời Tiền Đường, Khuy Cơ an nhiên thị tịch. Ngày 15 tháng 03 năm Khai Nguyên thứ 23 (735) thời Tiền Đường, có Thiền sư Mỗ Quán ở chùa Thanh Lương, cùng đồng tạo công đức chủ, Sa-môn Pháp Hội đến ở Trung Đài, tạo tôn tượng Thích Ca, Văn-thù, Phổ Hiền v. v… một bộ tùng, thần công tuyệt diệu, qua năm sau công việc hoàn tất. Sau, đến năm Hội Xương thứ 05 (845) thời Tiền Đường, vua Võ Công (Lý Viêm 841-847) phá hủy chùa chiền trong thiên hạ, nên đồng gặp nạn bị phá hủy, buồn thay! Sa-môn Thích Chí Viễn, vốn dòng họ Tống, người xứ Nhữ Nam. Từ thuở bé thơ đã chịu tang thân phụ, đơn côi được mẹ nuôi dưỡng, thừa thuận nhan sắc, sớm tối chẳng nhọc mệt, người mẹ thường đọc tụng kinh Pháp Hoa, tinh thông năm quyển Chí Viễn nhờ xưa trước đã gieo trồng gốc lành, thường nghó suy muốn giả từ vinh hoa, năm hai mươi tám tuổi, mới cầu xin mẹ xuất gia, giữ lễ phụng thờ thầy, chuyên cần không luống qua, tự thân chăm việc chúng tăng, chưa từng sai trái. Về sau giả từ thầy đi tham học, mang tráp suốt tám năm, với nam bắc hai Tông, yếu chỉ sâu mầu của đại đạo thảy đều tinh thông, nhưng với Đốn giáo của Thiên Thai không gì chẳng tông chuộng, có thể gọi là định tuệ sáng tỏ, huệ tu gồm bị. Sau đó nhân nghe nói Đài Sơn linh dị, chỉ viễn mới cùng đồng bạn vân du, đến dừng ở nơi viện nhỏ bên hữu chùa Hoa Nghiêm, giảng truyền giáo nghóa Viên Đốn của Thiên Thai suốt bốn mươi năm. Đại chúng nhân đó mà xưng gọi viện ấy là Thiên Thai. Đến năm Hội Xương thứ năm (845) thời Tiền Đường, bỗng nhiên Chí Viễn bỏ ăn vài ngày, mà việc giảng dạy chưa từng tạm nghỉ. Qua ngày 17 tháng 02, Chí Viễn bảo Môn Nhân rằng: “Bình sinh tôi tu tinh tấn, chẳng khinh thường tâm miệng, nay được hai thứ quả báo là nằm thì an ngủ, thức không phiền não. Tôi trước thuật Hoa Nghiêm sớ mười quyển, Bản Tích Nhị Môn, ba lần riêng ghi, mở gần hiển bày xa. Huyền Môn mười quyển, năn nghóa phán quyết giải thích. Chỉ quán mười quyển, đó là tông tích của Thiên Thai chuyên tại tuyên dương đều khiến hoằng thông chớ khiến ngưng dứt”. Nói xong, Chí Viễn an nhiên thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi, 48 hạ lạp. Căn cứ theo Bia Văn nói rằng: “Hòa thượng Kim Quang Chiếu, tổ tiên vốn người huyện Thằng Trí phủ Hà Nam, dòng họ Lý. Năm 13 tuổi, Kim Quang Chiếu xuất gia, nương theo Sa-môn Linh Sán chủ chùa Bảo Vân tôn xưng làm thầy, đến năm 19 tuổi, vào núi Hồng Dương, tố thuật Hòa thượng Ca-diếp, nương hầu suốt ba năm y như một ngày, có thể gọi là áo chẳng mang, bố hạt che thân, hình sắc tàn tạ hủy hoại dung nhan, cần cầu chí đạo. Hòa thượng Ca-diếp bảo rằng: “Đạo thường không làm nhưng không gì chẳng làm, Phật thường không ứng nhưng không đâu chẳng ứng. Giữ đó thì giữ một, chuyên cần thì ở ba, tuy có vô số tên khác, nhưng tùy duyên mà nhiếp hóa, và bờ kia đồng thể, cảm vật theo quyền. Vả lại núi Thanh Lương là nơi chư Phật ứng hóa, chúng sinh duyên nặng, ông có thể đến đó”. Kim Quang Chiếu vâng nhận lời chỉ dạy ấy rồi, bèn đến Phần Châu, vừa lúc trong khoảng niên hiệu Bảo Ứng (762-763) thời Tiền Đường, gặp khi gian thần loạn động, ngựa cho sinh ngoài bang giao, Kim Quang Chiếu bị nạn trở ngại trong đó, chưa thể tiến tới trước được, mới xoay trở lại vào núi Mã đầu, qua núi Cô Xạ, lại chuyển đến núi Đàn Đặc, suốt sáu năm ở núi, phụng thờ Thiền sư Tuệ Siêu, thệ nguyện khổ thân tín sùng chí học, thường dấy khởi trọng nguyện vì cứu độ quần sinh, chí ý muốn ở núi rừng, cầu vô thượng giác, Thiền sư Tuệ Siêu biết có hạnh nguîên sâu nặng ấy, mới bảo Kim Quang Chiếu chóng chuyển đến kết hạ nơi núi Ốc Đãng, nương theo Hòa thượng Tuệ Ngộ tham hỏi chí lý. Lại nghe Thiền sư Thuần Đạt ở Phương Sơn là bậc đức hạnh thanh cao, tiếng tăm vang vọng. Khi đã đến nơi, chỉ một lần thấy gặp Thiền sư Thuần đạt hỏi: “Sư từ nơi nào đến?” Kim Quang Chiếu đáp: “Không từ đâu đến”. Thiền sư Thuần Đạt bèn dùng vi ngôn mà đãi tiếp, Kim Quang Chiếu bỗng nhiên tỏ ngộ, mới biết chúng sinh tức Phật, Phật tức chúng sinh, tam giới Viên Thông chỉ tại nhất tâm vậy, bèn ở Tung Sơn, trải qua ba năm chuyên hành thiền tập, giữ giới lấy làm thường. Kim Quang Chiếu từng tự tư duy rằng “Chí nguyện đến Đài Sơn, trọn chưa toại tâm, thuộc tại nước nhà ta, Thánh đức mở vận lớn, nhật nguyệt soi chiếu, công cao trăm vua, nghiệp cứu giúp cả ngàn xưa”. Năm Đại Lịch thứ hai (767) thời Tiền Đường, Kim Quang Chiếu mới đến núi Ngũ Đài, dừng nghỉ nơi viện vạn Bồ-tát ở chùa Hoa Nghiêm. Ngày đó, bỗng nhiên sấm sét nổ ầm, mưa bão đua nhau trút đổ, trong tâm Kim Quang Chiếu mới kinh sợ, im lặng nghỉ niệm Đại Thánh, chỉ chốt lát bỗng tạnh ráo, chợt thấy có luồng ánh sáng sắc trắng từ Đài bay xuống, trong ánh sáng có ngàn Đức Phật, nghiêm trang rực rỡ, Kim Quang Chiếu cảm khóc rơi lệ, dất thân gieo xuống đất đảnh lễ, vừa lúc ngẫng đầu lên, bỗng nhiên trước đó vọt ra lầu cao mười tượng, có tòa hoa ngàn cách dùng làm đỡ nâng, bèn thấy chư Phật duỗi cánh tay sắc vàng, ba lần xoa đảnh Kim Quang Chiếu mà bảo rằng: “Từ nay trở đi nên gọi là Kim Quang Chiếu vậy”. Chư Phật bảo Kim Quang Chiếu tụng kinh Kim Cang Bát nhã lấy đó làm thường thức. Nói xong, bỗng nhiên không thấy gì nữa, trung tâm Kim Quang Chiếu vui mừng vô hạ, cảm ngộ lắm nhiều. Ngày hôm sau đảnh lễ giả từ chúng tăng ở chùa, Kim Quang Chiếu bèn đến hang Bí Ma, ở yên tu tiến đức, mỗi ngày thêm mỗi điều mới. Sau đó, từ Tây Đài, bỗng nhiên sấm gió bão bùng, sét nổ mưa tuôn, giây lâu mây tan, cốc bay mốc vàng chỉ trong chốc lát ngàn muôn biến hóa. Kim Quang Chiếu nhất tâm trông xem, thệ nguyện cầu Phật quả. Ứng thời gió hòa trong thoáng, mây mốc đua bay, bỗng thấy cư só Duy Ma, Bồ-tát Phổ Hiền, Văn-thù-sư-lợi, Kim Quang Chiếu buồn khóc lễ bái, bỗng nhiên không thấy nữa. Lại thấy có hai Đồng tử dẫn Kim Quang Chiếu lên đảnh đài, thấy hai Đức Như Lai sạch như lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sắc tía lóa mờ mặt nhật, khí trắng bay lên giữa trời, khắp đầy giữa rừng núi đều đông sắc màu vàng ròng, các bạn đồng đi chẳng biết nguyên do tại sao. Sau đó lại đến hang Na-na-diên ở Đông Đài, từ xa thấy có ba vị Tăng cưỡi mây trắng bay ra, đến trước bèn ẩn. Lại đến khoảng canh ba trong đêm, bỗng thấy trước hang có lầu các tầng lớp cao vợi, nhạc trời vang vọng, đến vài ngày rồi, trở lại hang Bí Ma ở sáu năm. Về sau, Phồn Tró huyện lệnh Lã Tài Tuấn cố thỉnh mời đến huyện, thành tâm cúng dường. Về sau nữa, Đại Châu đô đốc tân văn triều nghe hiểu đức hạnh cao lớn của Kim Quang Chiếu, bèn sai sứ nghinh thỉnh mời vào ở chùa Đại Vân, Kim Quang Chiếu dẫn đầu chư tăng hoằng dương Phật pháp, không biết sau cùng như thế nào. Chủ sớ Hoa Nghiêm húy là Trừng Quán, vốn dòng họ Đái, người huyện Sơn Âm, Cối Kê, Việt Châu. Trừng Quán sống dưới đời vua Túc Tông (Lý Hanh 756-763) thời Tiền Đường. Năm 13 tuổi xuất gia. Sau đó, đối với sách Nho, chín phái triết học, bách gia chư tử, không gì Trừng Quán chẳng tinh thông. Sau khi thọ giới cụ túc, tiết tháo Trừng Quán khác thường, chỉ nơi nào có danh sơn hẳn tìm đi tới, nơi nào có bạn ưu thắng tìm hỏi. Đến năm Đại Lịch thứ 11 (776) thời Tiền Đường, Trừng Quán đến núi Ngũ Đài, dừng ở dưới viện Bát nhã thuộc phía tây chùa Hoa Nghiêm. Trước sau đến núi vân du các đài có hơn 40 lần. Sau đó, đến chùa Đại Hoa Nghiêm, Trừng Quán chuyên đọc giáo nghóa Đại thừa phương quảng, chỉ một kinh Hoa Nghiêm, riêng chuyên tụng tập đề tự tỏ ngộ tâm, mừng thích ý tưởng sáng sớm nghe đạo, kinh quyển chẳng rời khỏi tay. Bấy giờ có vị Sa-môn tên là Hiền Lâm ở các viện Thiện Trụ (trong thời nhà Tùy, vốn tên là Đông Đạo Tràng) cũng là người chẳng thể lường biết được thỉnh mới sung làm chủ chùa Hoa Nghiêm. Hiền Lâm mới cùng chúng tăng trong chùa cung thỉnh Trừng Quán giảng kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v. v… trước sau cả thảy năm năm, Trừng Quán từng bảo rằng: “Hoa Nghiêm cựu sớ yếu chỉ ước lược mà văn lắm nhiều”. Mới tự tư duy rằng: “Trộm lấy Văn-thù-sư-lợi tiêu biểu cho Chân Trí, Bồ-tát Phổ Hiền hiện bày chân lý, hai pháp hổn dung tức hiển bày tự thể của Tỳ-lô-giá-na vậy, lý bao muôn hạnh, sự gồm ngàn môn, rộng dụ như Thái Hư, khắp cùng bằng võng cực. Lớn thay! Ngã tức là áo chỉ Hoa Nghiêm ư? Nay ta đã dừng ở nơi chốn của Văn-thù-sư- lợi, cảnh vức Thanh Lương huyền diệu. Kinh lớn Hoa Nghiêm há có thể để mất được sao?” Từ đó, sớm tối ôm ấp trong lòng, tư duy muốn tạo sớ, bèn từ chùa Hoa Nghiêm chuyển lời đến viện Bát nhã. Trừng Quán thong dong bảo Đại chúng rằng: “tôi đến nơi Thánh địa, nhiều kiếp hiếm được gặp, muốn lắng bặt sự giao du, lắng tâm để tạo sớ, có thể vì tôi mà tạo dựng một tòa các, ở trên đó tạo sớ có được chăng?” Sa-môn Hiền Lâm chủ chùa v. v… đều nói: “Xin vâng theo”. Mới tìm gọi thầy thợ bắt đầu ra tay, không mấy ngày mà tạo dựng hoàn thành. Bấy giờ có Sa-môn Vô Trước ở Ôn Châu, đích thân từ Sách Lương, bút tích của Hy Hoàng, kỳ thay khả quan! Công việc xây dựng các hoàn tất, Trừng Quán lên trên thiết lập đạo tràng chế tạo sớ. Bắt đầu từ ngày mồng tám tháng tư năm Hưng Nguyên thứ nhất (784) thời Tiền Đường, sớm tối đốt hương cầu nguyện, tâm mong có được điềm ứng, sau đó vài ngày, đang lúc nửa đêm ngủ, Trừng Quán mộng thấy một kim nhân đến đứng trước Trừng Quán, Trừng Quán mới đưa tay sờ vuốt, từ đầu hưởng thực cho đến chân mà tỉnh giấc, trong t6am Trừng Quán riêng tự mình vui cho rằng. Đây hẳn là Đại Thánh đuổi ban điềm lành, là ta được hưởng thọ pháp vị Hoa Nghiêm. Được yếu chỉ tinh túy ấy là điềm thủy chung tạo sớ”. Mới dậy súc rửa, bèn vào đạo tràng đốt hương thiết lễ, mừng tạ điềm lành. Sau đó, như tự thân đối trước Thánh dung, nắm vẫy đầu bút, biện tài tư duy như dòng chảy, tinh tường giải thích vi ngôn, chưa từng ngưng ngại, bèn được một bộ, văn của bảy xứ chín hội, rõ ràng tại trước mắt. Từ năm Hưng Nguyên thứ nhất (784) đến ngày mồng 05 tháng 11 năm Đinh Mão (tức năm 787, còn khoảng thời gian này không có niên hiệu “Chánh Nguyên”, mà chỉ là niên hiệu Trinh Nguyên (785-Ất Sữu-805) mà thôi) tức năm Chánh Nguyên thứ nhất thì gát bút, Trừng Quán đã tạo sớ xong, mới dốc hết tư duyên thiết trai hội cúng dường ngàn vị Tăng, dùng làm hiển bày mừng vui. Lại muốn ứng nghiệm điềm bản sớ ấy lưu thông như thế nào, Trừng Quán bèn vào đạo tràng khẩn cầu minh ứng, bỗng đang đêm ngủ, mộng thấy tự thân mình hóa làm con rồng lớn đầu gối ở Nam Đài, đuôi chấm ở Bắc Đài, nhảy vọt thân ấy lại hóa làm ngàn con rồng nhỏ, phân tán mà đi. Sau khi tỉnh giấc, Trừng Quán mừng vui bảo là: “Đó là điềm ứng bản tân sớ lưu hành vậy”. Từ đó, Sa-môn Hiền Lâm chủ chùa Hoa Nghiêm, thượng tọa Ngộ Tịch làm chủ cúng dường mười chùa Sơn môn, Sa-môn Vô Trước ở Ôn Châu và tăng chúng ở Hạp Sơn lại cùng thiết lập đại trai hội hiển bày mừng vui bản tân sớ. Đến năm Chánh Nguyên (Trinh Nguyên) thứ tư (784) thời Tiền Đường, tinh Châu Tiết độ sứ Mã Toại, Đại Châu đô đốc Vương Triều Quang mỗi mỗi đều sai sứ mang các thứ cúng dường đến núi, cầu thỉnh Trừng Quán giảng bản tân sớ đó, mỗi ngày dưới pháp tòa có cả ngàn vị Tăng lãnh hiểu tuyên dương Diệu Hiển. Chúng học lưu xuất trước sau có cả ngàn vị. Ngoài ra, các sự tích khác về Trừng Quán ở Biệt truyện đã nói rõ. Sa-môn Thích Thường Ngộ, vốn dòng họ Âm, người xứ Phạm Dương. Đầu tiên, Thường Ngộ nương theo chùa An Tập tại quê hương cầu xin xuất gia Thường Ngộ bẩm tánh thuần phác, dung mạo khôi ngộ, vui thích cảnh suối rừng, nương tâm ngoài vật. Năm Đại Trung thứ tư (850) thời Tiền Đường, riêng một mình chống mang tích trượng đến núi Ngũ Đài tham lễ, tìm phỏng Thánh tích, dừng ở nơi Bồ-tát Đường tại chùa Hoa Nghiêm, chiêm ngưỡng tôn dung Đại Thánh đốt ngón tay giữa bên cánh tay phải mà cúng dường. Sau đó đi khắp cả năm đảnh, trông thấy ánh sáng tốt lành, không thể ghi nhớ hết ưu thắng. Đến nơi tây đài gặp Thánh tích cổ tên là Bí Ma Nham. Thường Ngộ chỉ trong khoảnh khắc mở mắt, bỗng thấy ánh sáng vàng ròng sáng rực lóa mắt, dần phân thành trỉ điệp, phương thế như tường thành, tức xưa trước gọi đó là thế giới kim sắc. Nhân đó, Thường Ngộ hỏi chư tăng ở chùa, có vị Tăng đáp: “Đất đây xưa trước có bậc cổ đức trú trì tên là Hòa thượng Kim Quang Chiếu, đó cũng nhân ánh sáng (Quang) mà lập thụy hiệu, nên hẳn đó là điềm lành vậy”. Thường Ngộ buồn vui lẫn lộn, thệ nguyện ở tại xứ ấy, bèn dựng am để ở, lắng ý gá thần, mỗi lân nhập định môn, suốt 49 ngày mới xả, chim bay mưa hoa, hợp mây thơm mới, mọi người tung khăn rũ áo quy y đông nhiều như chợ, nhân đó dựng lập thành Phạm vũ, xây tạo Phật cung. Suốt 17 năm, Thường Ngộ chẳng từng xuống khỏi núi, chuyên tinh thiền tụng, chẳng phế bỏ tấc bóng. Có thể gọi là nhờ sức Thánh ngầm thông, đạo vượt cảnh phàm. Đến cuối thời vua Chiêu Tông (Lý Diệp 889-904) thời Tiền Đường, Thường Ngộ cũng hiện hóa chẳng thường, hoặc có lúc vỗ tay cười lớn, hoặc tay nắm hai viên đá cùng mài xác, chỉ gọi là: “Cùng hợp, cùng hợp”. Mọi người chẳng lường biết là nguyên do gì. Đến sau khi vua Trang Tông (Lý Tồn Húc 923-926) thời Hậu Đường thôn tính Chu Lương, mọi người mới tỏ ngộ lời của Thường Ngộ nói trước kia. Bấy giờ, Võ Hoàng (?) đang ở tại Hà Đông, kính mộ cao đức của Thường Ngộ nên đến núi kính lễ. Tháng tư năm Văn Đức thứ nhất (888) thời Tiền Đường, bảo Hiến Châu thứ sử Mã Sư Tố truyền ý đến thỉnh mời. Thường Ngộ cố chối từ chẳng hứa thuận, và đến ngày 13 tháng 07 năm đó (phần cuối ở đây về niên đại có phần không phù hợp, cần đối chiếu lại). Sa-môn Thích Nguyện Thành, vốn dòng họ Tống, không biết là người ở xứ nào. Gia đình nhiều đời theo Nho nghiệp vang danh xa gần, chẳng chuyên việc phù hoa, chẳng rão xen vinh lợi. Mới đầu, thân mẫu của Nguyện Thành vốn người dòng họ Âm, ban đêm mộng thấy trước sân có hai cây, đều nở rộ hoa, chỉ chốc lạt mà rơi rụng cả, chỉ còn một cành riêng không điêu tàn, kết thành quả quý, tỉnh giấc bèn mang thai, tâm ý thân mẫu vui mừgn, mong nguyện được sinh con trai. Đã phát nguyện rồi, đến thời kỳ bèn sinh con trai, nên đặt gọi tên là Thành. Đến lúc trưởng thành nương theo thầy, riêng xưng chữ “tiểu”. Vừa tuổi bé thơ, Nguyện Thành đã ra đến trường học, chuyên tập minh huấn, dẫn đầu đồng bạn. Sau đó, xả bỏ thế tục, giả tử thân thích, đến núi Ngũ Đài, nương theo Sa-môn tăng Chánh Hạnh Nghiêm ở chùa Phật Quang cầu xin xuất gia, tôn xưng làm thầy. Đến năm Thái Hòa thứ năm (831) thời Tiền Đường, thọ giới cụ túc, tụng giới Đại thừa Tiểu thừa, các kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Phật đảnh, đại bi thần chú, dùng làm việc thường. Đến trong đời vua Võ Tông (Lý Viêm 841-847) thời Tiền Đường phá hủy Phật giáo, mà Nguyện Thành vẫn giữ chí không cải đổi. Sau khi vua Tuyên Tông (Lý Thầm 847-860) thời Tiền Đường lên ngôi, Phục Hưng chùa Phật, sơn môn lại tuyển chọn thỉnh mời Nguyện Thành dẫn đầu tăng chúng, đặc hứa tu sửa một chùa Phật Quang. Sau khi công việc hoàn tất, vua lại ban phong Nguyện Thành hiệu là “Viên tướng”, lại sung thêm chức là “Sơn môn Đô Kiểm hiệu”. Đến ngày mồng năm tháng sáu năm Quang Khải thứ ba (887) thời Tiền Đường Nguyện Thành bỗng cảm thấy chí khí suy yếu, mới dốc xả tất cả y vật để sung vào cúng thí, sau đó không bao lâu bèn thị tịch. Người sau xây dựng tháp ở góc tây bắc của chùa mà cúng dường. Thiền sư Thừa Phương ở chùa Phật Quang, quên sót mất dòng họ và quê hương, vốn là cháu của Hòa thượng giải thoát. Thừa Phương thân cao bảy thước năm tấc, dáng mạo oai phong, tay duỗi dài quá đầu gối. Mây dài tấc, mắt có hai tròng ngươi, mỗi ngày sáu thời lễ bái tụng niệm, hành đạo không ngưng nghỉ, tiếp nối vết cao, lại tạo dựng phạm cung, đài điện giăng giữa hư không, lần lượt theo đẳng cấp. Có một só nữ ở Thái Nguyên tu tạo một tôn tượng Đại Thánh, phỏng định đưa đến sơn mòn, theo đường đi qua sông Hô Đà, nước chảy bồng bềnh, sóng cả dồi vỗ, thuyền chèo nghiêng ngả. Thừa Phương đứng cách bên kia bờ xa kính lễ đốt hương cầu đảo, bỗng nhiên nước ngưng dòng, Thánh tượng đã đưa qua thì nước cháy xoáy lại như cũ. Về sau, không biết năm tháng nào, Thừa Phương thị tịch tại chùa, nhục thân vẫn hịên còn, có văn bia dựng cách chùa một dặm về hướng tây. Hòa thượng Vô Danh vốn người ở quận Bột Hải, tức cháu của Cao lực só ở Tiên Triều. Từ thủa bé thơ đã mộ đạo, cắt bỏ tóc xanh nơi nườn vàng, cầu thọ giới cụ túc, phỏng tìm thầy, đượm nhuần giới phẩm ở chốn kinh đô. Tâm địa sâu mầu, thọ tông của Hà Trạch, văn tảo dọc ngang, ra câu của Thang Hưu, có thể gọi là rường cột của pháp uyển, tiêu chuấn của thích môn. Đến năm Chí Chánh thứ nhất (?), ngày thị tịch tắm gội sạch sẽ, sáng sớm ăn một bữa rồi gọi tất cả môn nhân tăng chúng trong chùa dặn bảo xong, ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Sau đó 11 năm, Hà Đông tiết soái Lý Công lên đảnh đài tham yết, nghe có mùi hương thơm khác lạ, tu sửa lại khám thất, cảm có ánh sáng thần rộng dài vài tượng, tướng lành ứng hiện, mới cùng bàn nghị trà tỳ, thịt heo lửa cháy, cốt sương vẫn đoan tọa sáng sạch quanh minh, chi tiết liền nhau, sáng trơn như ngọc, bèn dựng tháp cúng dường tại chùa, khắc văn bia đá đến nay vẫn hiện còn. Hòa thượng Thuyên Luận, vốn người thổ cư, đại địa. Năm 07 tuổi xuất gia, y theo đuổi đủ thọ cụ, giới châu sáng sạch, hạnh nghiệp tỏa ngời, bên ngoài tập học tỳ ni tạng giáo. Bên trong chuyên tu nhân đại địa thừa, thành đạt tha tâm thông soi chiếu, mọi việc đều biết trước, chỉ dùng rau lá quá trưa chẳng ăn, áo xấu mới đủ che thân, chẳng chứa thóc gạo, không cất vải vóc, có thể xưng gọi là vị Tăng cao hạnh thanh khổ. Đến ngày thị tịch có ráng mây giăng che giữa hư không, nhạc trời vang vọng bên tai, hương thơm khác lạ phảng phất, mọi người xa gần tụ tập, mới gọi nhóm tăng chúng trong chùa, nắm tay tuần tự trái, căn dặn môn nhân rồi, ngồi kiết già mà thị tịch. Sa-môn Thích Pháp Hưng, vốn người ở Tây Kinh, năm 07 tuổi xuất gia, chẳng cùng xen tạp với bạn ở đương thời, vâng hầu sư trưởng, cố gắng quên cả nhọc mệt, trì tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đến lúc tuổi già thuộc thành bài tụng, lại niệm kệ vàng tịnh danh, chẳng đầy chín tuần, hai bản giới kinh chỉ hơn một tháng, mỗi ngày thường trì một biến, phúng tụng pháp vị tinh thông, luật nghi tinh nghiêm, vâng trì không phạm. Đến lễ bái Thánh tích chỉ ý vui thích chốn suối rừng, lệ thuộc vào chùa Phật Quang, bèn có chí ý muốn trọn ở đó. Bốn phương cúng dường lợi hưởng, tự thân chẳng giữ gìn, giao cho môn nhân đệ tử, tu tạo đại các Di-lặc gồm ba tầng chín gian cao chín mươi lăm thước, tôn tượng trang nghiêm không gì chẳng hoàn bị. Cho đến 72 vị Thánh hiền, tám đại long vương, Thánh tượng các chùa ở đài sơn, có hơn cả vạn, khắc họa đều hoàn tất, chư tăng xưng dương tán thán khác miệng mà đồng lời, liệt bày thuộc như trên, cầu thỉnh sung làm sơn môn đồ cương, khuôn phép chuẩn mực làm pháp cho đời sau. Đến tháng giêng Thái Hòa thứ hai (828) thời Tiền Đường, nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Lúc nhập diệt đã đến, các chúng trời Đâu Suất, nay lại nghinh đón”. Pháp Hưng bèn tắm rửa xong, đốt hương, an nhiên đoan tọa mà thị tịch. Tăng chúng tạo dựng tháp cúng dường cách chùa một dặm về phía tây bắc. Tất Cứu Đô Cương ở chùa Vương Tử thiêu thân, không biết vốn người xứ nào và tên họ là gì, bởi nghe các bậc lão thành rao truyền qua miệng nên sự việc có nhiều lạm phế, nay biên truyện đây chỉ là đại khái. Khổng Tử nói rằng: “Ta thích lễ ấy, đó cũng như vậy”. Vốn là ở đời tương truyền Tất Cứu Đô Cương là cậu của vua Diêm Ma, vì từng trông coi việc tăng chúng, nhân đó mà gọi là “Đô Lương”. Xưa trước, tại phủ Thanh Lương tức thành cổ của huyện Ngũ Đài ngày nay. Huyện Tể ở đó, quên mất tên họ, đang giữa mùa hạ, riêng ngồi một mình uống rượu ban đêm nơi hiên nhà, chợt thấy có vài người hình chất rất to lớn, mang cầm gông cùm tợ như kẻ sứ đuổi bắt người trong quan đến trước mặt mà đứng. Huyện tể ấy dò hỏi về nguyên do. Các người kia đáp rằng: “Chúng tôi là lính sứ của vua Diêm Ma, vua Diêm Ma sai đến tìm bắt ông, ông nên đi vậy”. Huyện Tể ấy rất kinh hãi vụt đứng dậy, bảo cùng ngục sứ rằng: “Chết là việc làm xưa nay, tôi không phải sợ, chỉ duyên bởi có người thân già cô quạnh đang ở nhà, chỉ nhờ bỗng lộc tôi làm quan, lấy đó mà báo ân nuôi dưỡng, nếu theo sự tìm bắt đây thì việc hiếu dưỡng bị phế mất, nếu được đợi người thân đã trăm tuổi, thì tôi chết không lấy gì phải hận, nay có thể dùng vàng ngọc để chuột khỏi được chăng?” Ngục tốt bảo: “Đây là nghiêm lệnh của vua Diêm Ma, chúng tôi không dám phán quyết, nếu ông muốn khỏi, thì tại chùa Vương Tử thiêu thân ở núi Ngũ Đài có Tất Cứu Đô Cương, là cậu của vua Diêm Ma. Nếu ông có thể đến báo xin thì có thể giúp được”. Khi ấy, huyện Tể vội sai chuẩn bị ngựa cùng lính trong phủ cấp tốc mà đi. Vừa lúc mặt trời ló dạng thì đến chùa, cánh cửa nơi phòng Tất Cứu Đô Cương còn đóng kín, ngủ chưa dậy. Huyện tể đích thân tự gõ cửa, nhỏ tiếng gọi kêu. Chốc lát sau Tất Cứu Đô Cương ra, Huyện Tể liền gieo thân mình đảnh lễ. Tất Cứu Đô Cương bảo: “Đức Phật của sơn tăng chẳng tiêu sự kính lễ của quý nhân. Quan tể trước đây thường vân du đến núi, rất mực xem thường, lúc này có việc gì bức bách mà lễ kính quên cả nhọc mệt vậy”. Huyện Tể ấy thưa: “Không biết được Thánh nhân, tội thật sâu nặng”. Vừa khóc, Huyện Tể vừa kính bái. Tất Cứu Đô Cương bảo: “Có thể được”. Nhân đó, đòi lấy giấy bút, viết rõ việc ấy, viết xong giao cho Huyện Tể. Huyện Tể kính bái vài ba phen tỏ bày cảm tạ rồi trở lui. Từ đó về sau tới lúc nghó việc quan, Huyện Tể ấy trọn không việc gì khác. Và cũng từ đó mà tiếng tăm Tất Cứu Đô Cương vang vọng. Tiếng tăm đã rõ ràng như vậy. Về sau, Tất Cứu Đô Cương cũng thị tịch, có tháp hiện còn ở góc Đông nam của chùa. Theo người biên tập truyện, Diên Nhất tôi cho rằng: “Đó là Đại Thánh biến hóa”. Nên trong truyện Kim các biến hóa nói phàm Thánh chung ở lẫn lộn, lấy đó làm ứng nghiệm vậy. Đại sư Hàng Long, vốn dòng họ Lý, húy là Thành Tuệ, là người huyện Linh Nhạc, Úy Châu. Song thân mạnh khỏe mà không con nối dỏi, nghe nói Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở núi Ngũ Đài vô cùng linh dị, nên đích thân đến đó cầu thỉnh. Sau khi trở về, người vợ bèn cảm mang thai, đến lúc mãn nguyệt, sinh được một người con trai, khắp xóm làng đều thán dị đồng xưng gọi là con Thánh. Đến lúc lớn, phong cốt mẫn tú, thần trí vượt khác đồng hành, Hàng Long mới đến núi Ngũ Đài nương theo Sa-môn Pháp Thuận chủ hiện viện Chân Dung, tôn xưng ngoại đạo làm thầy mà cầu xin xuất gia, năm 20 tuổi đăng đàn thọ giới cụ túc. Về phía Đông nam của Đông Đài, cách khoảng hơn trăm dặm có một cái ao tên là Long Cung. Theo các bậc lão thành tương truyền rằng: “Đại sư Hàng Long thường ở tại đó, dựng lập am tu đạo”. Đến nay có rừng tùng, nền móng cũ vẫn hiện còn. Ở trong bình sạch, Hàng Long vốn nuôi một con rồng, rồgn từng nhảy ra, vào ở trong sông nước trong. Sông ấy có một đá lớn, phía trên có ba lỗ thông, rồng vào ngầm ẩn nơi đó. Một ngày nọ, lúc mặt nhật ló dạng, phía tây nam trên sông thấy có hơi khí sắc trắng xuất hiện, Hàng Long biết rồng ngầm ẩn phía dưới, mới đem bình đến nơi sông, hướng trông uể lỗ nói đá, lớn tiếng kêu gọi, rồng trở vào lại trong bình, Hàng Long bèn đưa về am. Suốt nước ấy vẫn còn linh dị. Tuy sông bùn lấm nước lấm xoáy lẫn lộn, nhưng riêng trong ao suốt ấy không mấy dơ bẩn. Trong khoảng niên hiệu Thiên Hy (1017-1022) thời Bắc Tống, Diên Nhất tôi đích thân đến tham quan. Quán Long Tuyền ngày nay, cũng nhân dòng suối ấy mà đặt gọi tên. Hàng Long thường ở trong cốc Lý Ngưu thuộc phía Đông bắc của Tây Đài, cũng có nơi dựng am tụng kinh, thường cảm thần núi hiện thân đến nghe pháp. Về sau, có các Sa- môn Trạm Sùng v. v… ở chùa Vương Tử, dẫn tăng chúng mang thư đến khẩn thiết cầu thỉnh Hàng Long về ở chùa, bày lễ kính trọng, giữ phép thầy trò. Hàng Long chẳng chống trái, chuyển dời đến ở chùa ấy, nên được núi vàng càng tỏa sáng, đất báu sinh cỏ thơm, vật báu ở chín châu đều đến, lầu đài của mười chùa càng mở mang, tài thí, pháp thí, ruộng Phật ruộng tăng, đều do Hàng Long trú trì, đồng dượm phước lợi. Đến thời Hậu Đường, vua Trang Tông (Lý Tồn Húc (923-926), nghe hạnh cao của Hàng Long, nên tháng bảy năm Đồng Quang thứ nhất (923) thời Hậu Đường sai sứ mang pháp y sắc tía ghi đề tên Hàng Long, trao sắc thư ban tặng, với chiếu văn ghi rằng: “Thật huệ non thức, sinh tỏa vườn kê, thượng triết tinh thành giữ giới Hộ Nga, hoằng tuyên đàm pháp nhạn trú. Ngầm bao quát tam thừa, sâu sáng rõ tứ đế. cỏ nhẫn mới tốt nơi vườn tánh, hoa ý chẳng nhiển nơi ruộng tình, tự ẩn vết nơi Linh Phong, gá tâm ở thắng địa, nổi thuyền từ mà cứu vớt kẻ đắm chìm, cầm đuốc tuệ mà dẫn dắt kẻ mê, 500 Long Thần đều phục đức lớn, một vạn Bồ-tát đồng tiếp vết cao làm rường cột của pháp vũ, nêu tiêu biểu của không môn. Trẩm vừa mới dựng xây cảnh vân, chấn xiển Chân Phong, nên nêu danh chứa hạnh để phụng giáo pháp vô vi. Nay ban phong hiệu “Quảng Pháp Đại sư”, và ban tặng pháp y sắc tía”. Hàng Long cố chối từ không nhân. vua Trang Tông lại ban sắc chiếu mong khuyên, đại khái là “Nhờ sai nội quan xa đến ban thành mạng, hiệu sư đã rõ bày nơi giới hạnh, pháp y sắc tía không tưng hửng hành trì. đã lâu dáng thuộc bậc nhân, chẳng nên lắm nhiều từ nhượng”. Đến tháng 12 năm Ất Dậu (925) tức năm Đồng Quang thứ ba thời Hậu Đường, Hàng Long căn dặn môn nhân rồi, gối tay mà thị tịch, hưởng thọ 50 tuổi, 30 hạ lạp. Sau khi Hàng Long thị tịch, vua lại ban phong thụy hiệu là “Pháp Vũ Đại sư” và linh tháp hiệu là “tháp Từ Vân”. Đến nay vẫn hiện còn tại chùa. Đại sư Siêu Hóa hý là Khuông Tự, vốn dòng họ Lý, người thôn Tề Phụng huyện Văn Thủy, Thái Nguyên. Từ thủa bé thơ đã mến mộ đạo, chẳng vui thích vinh hoa thế tục, chú ý đến Đài Sơn, mong nguyện được xuống tóc xuất gia, nương theo Sa-môn Hạo Oai ở viện Chân Dung, tôn xưng làm thầy. Sau khi thọ giới cụ túc, gắng chí vượt hẳn đồng bạn. Chống tích đến phương nam, tham tìm Thiện tri thức, học thông nội ngoại giáo điển, nghiên cứu thiền luật, truyền pháp độ người, mở mang tai mắt đại chúng. Năm Thiên Phước thứ ba thời Hậu Tấn tức năm Mậu Tuất (938), Siêu Hóa vân du các phương hoằng hóa, đến Hồ Nam, bái yết Ngụy Quốc Chúa Vương Công. Vương Công cúng thí, hương trà cả vạn. Đến năm Đinh Mùi (947), lại sai sứ mang đưa vào núi cúng cấp khắp các chùa. Năm Quý Mão (943) Siêu Hóa đến nước Ngô Việt ra mắt Thượng phụ Nguyên soái Tiền Vương, Tiền Vương tiếp lễ rất nồng hậu. Siêu Hóa đàm luận đến sâu mầu, nhã hợp ý Tiền Vương, Tiền Vương bèn dâng các thứ hương vật trà đến cúng thí Đại só Văn-thù-sư-lợi và một vạn Thánh chúng ở núi Ngũ Đài, và tạo Bồn bát bằng bạc đựng trong hột đủ một vạn bộ, 100 sọt trà, và sai bảo người đưa đến trong quán của Ngô Việt. Thứ sử của các châu, mỗi mỗi đều bày biện thí lợi các thứ cúng cụ, không gì chẳng hoàn bị. Riêng tạo một thuyền lớn để chuyên chở, đi bằng đường biển theo hướng bắc mà trở về, từng gặp gió bão nổi khắp bốn phía, sóng cả vỗ dồi, mọi người trên thuyền đều kinh sợ, nghiêng khắc muốn chìm đắm. Siêu Hóa mới chỉnh trong pháp phục, đốt hương, vọng về núi, xa kính lễ Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, nguyện cầu thầm gia hộ. Bỗng chốc thấy Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi xuất hiện nữa thân trên biển, sóng to gió lớn đột nhiên dứt mất, bèn được về đến Thương Châu, khiêng chở về núi. Sau đó, cùng Đại sư Hàng Long bình đẳng cúng thí các Lan Nhã nơi sơn phường, chùa viện ở đài núi, chẳng riêng lấy làm lợi. Đến lúc, Siêu Hóa dừng tích nơi chỗ ở xưa, tăng chúng cố thỉnh mời Siêu Hóa chủ lãnh việc chúng tăng. Về sau, triều đình ban sắc thống lãnh cả sơn môn. Suốt thời gian 15 năm phục hưng tu tạo chùa Phật, cúng dường chư tăng có hơn trăm vạn. Căn cứ theo Biệt truyện nói: Xưa trước, Hồ Nam Mã Vương vốn kính trọng lệnh vọng, từng sai sứ mang 200 sọt trà đưa đến Đài Sơn để sung vào cúng dường trước Đại Thánh. Mới chia cấp cho các chùa ở Sơn Môn, sau đó cùng Đại sư Siêu Hóa đồng lên đảnh đài đốt hương khẩn cầu. Thiết lễ đã xong, đều cùng dừng nghó bên cạnh ao rồng, bỗng nhiên thấy một con rắn nhỏ thân hình sắc đỏ, bơi nhảy trên nước xoay đầu trông nhìn Đại sư, Siêu Hóa bảo: “Ngươi đến đó ư?” Rồi bảo kẻ sứ ấy là: “Ông hãy nhanh trở về, sợ hẳn có Đại sư”. Kẻ sứ ấy bèn vâng theo lời cùng Đại sư trở về đến viện. Qua ngày hôm sau, kẻ sứ ấy mới tỏ ngộ ứng ngộ trông thấy rắn. Siêu Hóa có sự dự tính thấy biết như thế. Đó là hạng người gì ư? Cũng là người chẳng thể lường biết vậy, ngoài việc trú trì cũng thường xuyên thiền định lễ tụng. Đến tháng chín năm Giáp Thìn tức năm Thiên Phước thứ chín (944) thời Hậu Tấn, Siêu Hóa cảm bệnh, qua sau năm ngày thì thị tịch, sau khi trà tỳ, Môn nhân tăng chúng gom thâu linh cốt xá-lợi, xây dựng tháp cúng dường, đến nay vẫn hiện còn. Đạo giả thủ tánh, sống trong thời Hậu Tấn, quên mất dòng họ là gì và quê hương ở đâu? Vốn ở viện Thủ Tánh, tức là Lan Nhã ở phía Đông bắc chùa Vương Tử ngày nay, cải đổi tên là viện Bắc Phước Thánh vậy. Với tâm hạnh bên trong của sư không thể lường biết được, bên ngoài hịên tướng thô xấu, vận mặc áo nạp cũ rách, ăn dùng vật thừa của tăng chúng, chẳng nhiễm thanh danh. Mọi người khâm phục kính trọng như Thánh, mọi người trong Hương Xuyên cúng thí, không gì chẳng vui cho. Các hàng tăng tục đi núi, trông thấy cứu giúp không phân chọn. Thường mang theo con dao sắc bén vào núi, thấy rắn liền chém và chỉ bảo: “Thủ tánh, thủ tánh”. Do đó, nên mọi người xưng gọi sư tên là Thủ Tánh Đạo giả. Sư từng dạy răn đệ tử rằng: “Các ngươi vào núi hái củi, nếu như lúc thấy gặp rắn, phải thận trọng chớ đánh giết. Quả báo rắn rất nặng, ngàn năm thiếu một, lại phải nhận chịu đó”. Các đệ tử thưa: “Nếu vậy, sao thầy chém giết rắn?” Sư bảo: “Ôi! Các ngươi sao biết được, lão tăng chém giết rắn, khiến nó giữ lấy tánh, tức là giả mở quả báo kiếp rắn cho nó. Các ngươi không có khả năng, đâu có thể đồng như ta”. Sư có mật hạnh như vậy. Về sau thị tịch tại bản viện v. v… Đại sư Tăng Thống, vốn dòng họ Lưu, húy là Kế Ngung, người xứ yên kế, thân phụ húy là thủ kỳ, ở cuối thời Tiền Đường đảm nhận Thương Châu Tiết độ sứ. Từ thủa bé, Kế Ngung đã mất sự vương cậy, tánh vốn tri thức, gặp lúc nạn loạn nên lánh đất đến ở núi Thanh Lương, đảnh lễ Đại sư Quả Thắng-hoằng Chuẩn tôn xưng làm thầy cầu xin xuất gia. Đến năm đủ tuổi, thọ giới cụ túc, chuyên tinh tụng tập chẳng nhọc mệt. Xa đến Kinh đô tập học, gần được vài bản kinh luận, bèn tìm trở về lại chùa xưa, trên đầu đội kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, đi chân trần lễ bái khắp cả Ngũ Đài, mỗi lúc đến một đài, giảng “phẩm trú xứ của Bồ-tát” một biến, trọn năm như vậy lấy làm thường. Mỗi lần giảng xong, thiết bày các thứ trà thuốc thức ăn tốt lành káhc lạ để cúng dường. Sau đó đối hướng Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, đốt hướng lập thệ nguyện. Lúc đi đến Đông Đài, Tấn Thiếu chúa đang ở ngôi thấy gặp rất mực kính trọng, ban sắc mực kính trọng, ban sắc thỉnh mời đến ở chùa Đại Tướng Quốc giảng Đại kinh Hoa Nghiêm, dẫn cùng các hàng vương hầu quy y tin nhận. Và trong khi giảng có các thứ cúng thì nhiều cả vạn muôn. Kế Ngung đều để tại đó, xây dựng vách tường đá phía dưới hiên vũ bốn mặt giảng đường của chùa ấy, bảo trợ ghi khắc kinh đã giảng, thời gian tháng trời công việc hoàn tất. Sau đó, Kế Ngung xin trở về núi, được ban tặng tài thí lắm nhiều vô kể, bèn dựng xây hiên vũ bốn mặt tại viện Chân Dung và lầu các ở chùa Hoa Nghiêm, có cả thảy 3 ngàn gian. Chẳng những cúng thí hơn 700 hội, mà còn đắp họa khám núi La- hán gồm 32 nhà, đọc tụng kinh Kim Cang và tạng kinh có 6 trăm vạn quyển, đồng thời chú kệ chân ngôn, khắc đàn hết lớp. Những lúc gặp phải ba tai tám nạn, Kế Ngung đều cúng thí khắp cùng, thiết hội vô giá cấp cháo cho bốn chúng, nhân quả thù diệu gieo ruộng phước lớn, chưa từng có ai hưng thạnh như thế. Về sau, Kế Ngung có được sắc chiếu ban giao tổng quản mười chùa ở núi Ngũ Đài, ban tặng pháp hiệu là “Quảng diển Khuông Thánh Đại sư Hồng Lô Khanh”, và ban tặng y phục, vua Cao Tổ (Lưu Trí viễn 947-948) thời Hậu Hán chỉ một lần thấy gặp Kế Ngung ngợi khen thật chưa từng có, đặc biệt bảo cùng các Vương Kiết làm anh em. Thiếu chưa lên ngôi (?) lại ban thêm chức là “Ngũ Đài sơn quản nội đô Tăng Thống”, về sau lại đem công trao làm “Đại hán Quốc độ Tăng Thống kiểm hiệu Thái sư” Kiêm Trung thủ lệnh. Đến ngày 12 tháng giêng năm Thiên Hội thứ 17 thời Ngụy Hán (?) Kế Ngung thị tịch tại viện Bồ-tát ở núi Ngũ Đài, hưởng thọ 73 tuổi, 32 lạp. Có sắc chiếu ban Ngụy giản nghị Đại phu Dương Mộng Thân soạn thuật bia minh thần đạo dựng lập tại phía Đông bắc của viện, môn nhân tăng chúng gom thâu linh cốt, dựng tháp cúng dường đến nay vẫn hiện còn. <詞>SỰ TÍCH CHƯ NI CAO ĐỨC Căn cứ theo “Hoa Nghiêm cảm ứng truyện” nói: Trong khoảng niên hiệu Nghi Phụng (676-679) thời Tiền Đường. Từ Tây Vức có hai vị Phạm tăng đến núi Ngũ Đài, mang theo các thứ hoa cỏ, bưng nắm lò hương, dùng khủy tay đầu gối đi bộ hướng đến núi đảnh lễ Bồ-tát Văn- thù-sư-lợi gặp một ni cô tại giữa khoảng hang đá nghiễm nhiên ngồi một mình trên sàn giường dưới gốc cây tùng, miệng chuyên trì tụng kinh Hoa Nghiêm, khi ấy cảnh trời đã chiều tối, Cô ni ấy bảo hai Phạm tăng rằng: “Phận kẻ ni không hợp cùng Phạm tăng đồng chung ở qua đêm, chư đại đức tạm đi nơi khác, sáng ngày trở lại”. Hai Phạm tăng nói: “Núi sâu đường xa, không biết dừng nghỉ nơi đâu, nên xin chẳng bị sai khiến đi”. Cô ni ấy bảo: “Nếu không đi thì tôi đây không thể ở lại được, mà phải vào trong núi sâu”. Hai Phạm tăng ấy bồi hồi lo sợ chẳng biết nên đi đâu, Cô ni ấy bảo: “Chỉ nên xuống cốc phía trước tại đó có một hang tọa thiền”. Hai Phạm tăng ấy y theo lời chỉ bảo mà đi tìm đó, quả nhiên thấy có một các hang tọa thiền cùng xa cách hơn một dặm. Hai Phạm tăng ấy nhất tâm chấp tay, rồi tay bưng lò hương xoay mặt về hướng nam xa kính lễ, lắng tâm nghe kinh rõ hiểu tận tai. Mới đầu Cô ni ấy khai đề kinh, xưng tụng: “Tôi nghe như vậy…” Mới xa thấy Cô ni ấy thân ngồi nơi giường xoay mặt về hướng nam, trong miệng tỏa ánh sáng rực rỡ sắc màu vàng ròng, ánh ngời trước núi, tụng đến hai quyển trở lên thì ánh sáng ấy tỏa lớn ở phía nam của cốc vuông tròn, rộng khoảng mười dặm cùng như ban ngày không khác, tụng kinh đến quyển thứ tư, ánh sáng sắc vàng ấy hơi gom thâu lại, tụng đến hết quyển sáu, thì ánh sáng ấy đều trở lại vào trong miệng Cô ni. Trong phẩm “Trú xứ của Bồ-tát” ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Về phía Đông bắc của nước Chấn Đán có trú xứ của Bồ-tát tên là núi Thanh Lương, chư vị Bồ-tát trong thời quá khứ thường ở trong đó. Hiện nay có vị Bồ-tát tên là Văn-thù-sư-lợi cùng vạn vị Bồ-tát đồng ở tại trong đó”. Núi đó ở phía Đông nam của Đại Châu tên là Ngũ Đài vậy. Lại nữa, trong kinh “Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội” nói: “Văn-thù là Nhật Long Chủng thượng tôn ở thế giới Bình Đẳng trong thời quá khứ”. Lại nữa, trong kinh “Ương Quật ma la nói: “Văn-thù là Phật ma ni Bảo Tích ở thế giới hoan hỷ tại phương bắc”. Nên nghó tưởng cảnh của vị thần Ni ấy hẳn là sự phân hóa của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi để chỉ dạy cho hai vị Phạm tăng vậy. Cô Ni Pháp Không, vốn dòng họ Hàn, người xứ Tuyên Châu. Từ thủa bé thơ, giả từ song thân đến chùa Kiến An cách núi Ngũ Đài về phía Tây Nam hơn trăm dặm, cầu xin xuất gia. Về sau đến chùa Kỳ Hoàn thọ giới. Chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa lấy làm hạnh nghiệp thường. Về sau mang rương tráp đi nghe học kinh luật, trải suốt vài mươi năm nhưng không được khai ngộ, tự biết tánh mình thiếu hẳn minh tuệ bởi do xưa trước không có sức tập học. từng nghe tại núi Ngũ Đài, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hiện các thứ thân cứu độ quần sinh. Có người bảo: Có Sa-môn Đạo Siêu, riêng không hạnh nghiệp gì, chỉ lâu ở nơi chùa Hoa Nghiêm chẳng ra khỏi Sơn Môn hơn 20 năm. Sau khi mạng chung, sinh lên nội viện Di-lặc ở cung trời Đâu Suất. Người trời ấy bảo Đạo Siêu rằng: “Ông ở nhân gian riêng không hạnh nghiệp thù diệu gì, chỉ nương nhờ sức của cảnh giới nơi nhân gian, dẫn dắt bốn bộ khiến nên biết được công đức của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, hầu mong tạm lên trong núi ấy mà tiêu trừ các tội chướng dùng làm bù đắp các hạnh khuyết thiếu ở cõi trời”. Đạo Siêu y theo lời đó chẳng xả bỏ quả báo cõi trời mà xuống báo cùng trong nhân gian”. Cô ni Pháp Không tư duy như vậy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có cảnh giới đại nguyện không thể nghó bàn, nên sinh tâm hy hữu. Lại tự thoát, hai nghiệp thiện ác do tâm tạo tác”. Bèn phát đại nguyện đến núi Ngũ Đài, chí ý mong cầu Đại Thánh ban nhũ từ tâm tiếp dẫn, mới cùng người em gái cũng xuất gia làm ni chung lập thệ nguyện. Bắt đầu từ năm Nguyên Hòa thứ tư (809) thời Tiền Đường, đến núi đi quanh lễ bái, rão bước khắp cả năm đảnh đài, trông thấy các thứ hóa hiện. Sau đến trong rừng sâu trước viện Tam Tuyền cách chùa Hoa Nghiêm về phía tây bắc, gặp một người già bảo cùng Pháp Không rằng: “Ngươi nên ở đây tu hành, quyết định sẽ chứng đắc quả vị ưu thắng”. Nói xong bèn ẩn mất”. Pháp Không biết đó là Đại Thánh bảo răn, mới buồn khóc đổ lệ như mưa, lâu sau mới tự hối trách mình nghiệp ác tội chướng, nên phát chí nguyện diệt trừ, bèn y theo nguyện ấy riêng dựng lập thảo am để ở giũa mài ba nghiệp sớm tối chẳng biếng lười. Đến ngày 15 tháng 02 năm Nguyên Hòa thứ tám (813) thời Tiền Đường, Pháp Không mới đem các thứ y vật của tự thân, bảo đệ tử thảy đều xung vào cúng thường trú. Thí cho đại chúng sử dụng. Mới nhóm tập đại chúng cùng giả biệt, có người hỏi về nguyên do. Pháp Không bảo rằng: “Từ khi tôi đến ở đây, được Đại Thánh chỉ bày, dạy trao bốn chữ “Diệu Pháp Liên Hoa”, mở được tri kiến Phật thanh tịnh không nhiễm, được sinh về tịnh độ, đại chúng các người phải nên nỗ lực, không được để luống qua không. Nói xong bèn thị tịch, nhưng vẫn đoan tọa như đang sống. Đại chúng bèn trà tỳ, gom thâu xá-lợi được hơn ngàn viên, bốn chúng cùng phân chia để sung cúng dường. <詞>CÁC ĐIỀU LINH DƯỢC CÁC HÀNG TĂNG Ở THỜI NAM TỐNG TRÔNG THẤY Sa-môn Thích Tịnh Nghiệp vốn dòng họ Mạnh, người huyện Ngũ Đài. Từ thủa bé thơ mà đã tỏ vẻ cứng rắn, thần khí ưu tú khác hẳn đồng bạn. Năm 13 tuổi, mới đầu tịnh nghiệp đến nương theo Đại sư Thông Ngộ ở viện Chân Dung tôn xưng làm thầy cầu xin xuất gia chăm lo theo hầu thầy đặc biệt khác thường. Từng đến Thái Nguyên hành hóa, sơn môn cúng dường các thứ tự cụ, không gì chẳng đủ đầy. Ngụy Chúa Lưu Thị (?) rất mực tôn sùng kính ngưỡng, ban tặng pháp y sắc tía và thêm hiệu là Quảng Tuệ Đại sư. Đến năm Thiên Hội thứ 11 (?) tăng chúng cầu thỉnh làm “Sơn môn đô giám”. Về sau lại thuộc nơi vua Thái Tông (Triệu Quýnh 976-998) thời Bắc Tống với xe lính đến đánh dẹp bình trị tấn ấp. Tịnh Nghiệp mừng vui gặp được chân chúa, mới dẫn đầu tất cả tăng chúng đến nơi hành cung chỉnh tu thăm hầu, tỏ bày tình thực, bèn dâng “Sơn môn cảnh thắng đồ” và “Ngũ Đài Long Vương Đồ” vua liền trải bày trước ngự tòa. Bỗng nhiên sấm sét nổ vang giữa trời không một mảnh mây mà mưa trút đổ. Vua rất kinh ngạc hỏi: “Đây là điềm lành gì?” Tịnh Nghiệp đáp: “Long Vương ở Ngũ Đài đến hầu bệ hạ, nay hai rồng vừa thấy gặp nhau nên đang vui mừng, mà sấm mưa tuôn đổ như thế”. vua rất vui lòng, liền bảo gan lấy bản đồ và nói với Tịnh Nghiệp rằng: “Đợi trẩm đến ngày trở về nơi kinh đô, riêng thiết bày cúng dường”, và mới ban sắc mạng phục, cải đổi hiệu là “Sùng giáo Đại sư”. Và xếp đặt làm “Đài sơn tăng chánh, ứng với dòng họ Lưu ở Hạp Sơn ban tặng pháp y và danh hiệu quả, tịnh nghiệp, và đều cả nguî cho chân. Đến hạ tuần tháng tư năm thuần hóa thứ tư (993) thời Bắc Tống, nhân cảm bệnh mà thị tịch, tịnh nghiệp hưởng thọ 59 tuổi, 39 hạ lạp. Sa-môn Thích Duệ Gián vốn dòng họ Lưu, người xứ Vân Châu. Phong cốt thần tú, vượt hẳn người đời, chí khí xem thường quan vị, tánh tình vui thích chốn suối rừng. Giả từ song thân xuất gia ở Ngũ Đài, nương tựa Đại sư Tăng Thống Kế Ngung ở viện Chân Dung tôn xưng làm thầy. Đến sau khi thầy thị tịch, việc tang hoàn tất, thắng nguyện bên trong dấy khởi muốn tu tạo Phật sự, mới đến phía Đông bắc trong cốc Lâu Quán. Ở đó có dòng suối tên là Lộc Tuyền, dựng am cách dòng suối không xa, chuyên trì tụng kinh tinh tấn cần khổ, sớm tối quên cả nhọc mệt. Một ngày nọ, bỗng mộng thấy một người già đến bảo rằng: “Ông không nên riêng tự an lành, đáng nên tu sùng đại sự. Thêm nữa, xứ đất này, ông có nhân duyên rất lớn, tôi rất ngợi khen sức lực của ông”. Nói xong, Duệ Gián tỉnh giấc, trong tâm tự suy nghó rằng: “Đây hẳn là Thánh hiền cùng khuyến thệ, nên tạo dựng đại già lam tại nơi này”. Ngày nay, Duệ Gián chuẩn bị mọi vật đến phương bắc gieo duyên khuyến hóa. Bắc Triều Ninh Vương cùng phu nhân trước đó có mộng thấy Duệ Gián đến hóa duyên tu tạo”. Đến lúc Duệ Gián đến nơi đó, thì chỉ một lần thấy gặp y như cũ, đã phù hợp với giấc mộng trước nên Ninh Vương cùng thí vàng lụa. Sau khi trở về lại núi Duệ Gián tìm kiếm thầy thơ để tu tạo. Lại đến Thái Nguyên, ra mất Ngụy chúa dòng họ Lưu, cũng được cúng thí nồng hậu, đặt danh hiệu chùa là “chùa Bạch Lộc”. Đến lúc vua Thái Tông (Triệu Quýnh 976-998) thời Bắc Tống bình trị đất Tấn, Duệ Gián mới đến hành cung xin ra mắt. Vua hỏi nguyên do tạo dựng ở Đài Sơn, Duệ Gián tấu đáp lại xứng hợp ý chỉ nên được đặc ân ban thưởng nồng hậu. Sau đó, vua ban sắc biển ngạch, hiệu là “chùa Thái Bình Hưng Quốc”. Duệ Gián được cảm vời, đại khái như vậy. Đến ngày mồng 01 tháng 08 năm Đại Trung Tường Phù thứ nhất (1008) thời Bắc Tống, nhân cảm bệnh mà thị tịch, Duệ Gián hưởng thọ 66 tuổi, 49 hạ lạp. Cảnh tháp đến nay vẫn hiện còn. Trong khoảng niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1008-1017) thời Bắc Tống, có vị Tăng ở Lưỡng Chiếc, đã quên mất tên họ và Châu Quận vốn ở đâu, đến lễ bái Đại Thánh, lên đảnh Đông Đài, bỗng thấy một viện, lầu đài tráng lệ, điện vũ trang nghiêm thanh khiết, vị Tăng ấy bèn vào viện, đến cả trước sau viện vũ, trông thấy tôn trượng thiết bày mới đẹp sáng rỡ, Thích Phạm Long Vương nghiễm nhiên tương đối, vị Tăng ấy đến tham lễ khắp cùng, thấy gặp vị Tăng chủ sự tiếp đón nói cười uyễn nhã như thật, đón tiếp trò chuyện xong, gần ra ngoài viện đi loanh quanh tham quan, mới đầu vị Tăng ấy không kinh lạ. Khi ra rồi mới không còn thấy gì, vị Tăng ấy mới nhận hiểu đó là cảnh hiện hóa, bắt đầu kinh ngạc tán thán đó. Vị Tăng ấy bèn rời khỏi đảnh đài cho hướng tây xuống núi, đến dừng nghỉ nơi viện chân dung, xong lại đi tham lễ bái yết, trước sau điện vũ, chư tăng chủ sự, mỗi một đều như chỗ thấy ở Đông Đài, rõ ràng không khác, vị Tăng ấy bái yết cảnh giới Đài Sơn, tán thán việc chẳng thể nghỉ bàn, xong bèn trở về viện tỏ bày cùng chư tăng mọi điều trông thấy, không ai chẳng ngợi khen tán thán. Trong khoảng niên hiệu Thuần Hóa (990-995) thời Bắc Tống, có vị Tăng ở Dương Châu, quên mất pháp danh, thân mặc vải bố thô sơ, trai giới rất nghiêm cẩn. Từng mang 500 bộ bình bát lớn nhỏ cùng đầy, mỗi bỗ đủ năm sự vào núi cúng thí khắp cùng, chí thành đảnh lễ Đại Thánh, rồi đến dừng nghó tại viện chân Dung. Nhân ngày thiết trai phân chia đều đã hoàn tất. Sau đó có thí chủ đến thiết bày nhà tắm nơi thất viện nhà tắm phía Bắc, cầu thỉnh chư vị hiền Thánh ở Hạp Sơn, dưới đến các hàng tăng tục, không phân biệt chọn lựa một nước. Sau khi trai hội hoàn tất, vị Tăng ấy đến nơi nhà tắm ấm nóng, có 03-05 vị Tăng cùng đến tắm rửa, đã đến nơi nhà tắm. Vị Tăng ở Dương Châu ấy thô mất cởi bỏ y phục trước, vén cửa rèm mà vào, bỗng thấy một người nữ đoan chánh còn đang tắm rửa. Vị Tăng ấy khốn đốn mà ra, chư tăng dò hỏi nguyên do. Vị Tăng ấy tỏ bày việc vừa thấy gặp, có người không tin, vào phòng tắm để kiểm nghiệm, quả nhiên không trông thấy gì. Trong khoảng niên hiệu Chí Đạo (995-998) thời Bắc Tống, có Sa- môn Đạo Hải vốn dòng họ Dương, người đất Đại Quận, đến thọ học tại viện Chân Dung, cũng gặp có thí chủ đến thiết bày nhà tắm, sau khi trai xong, bèn tự đến nơi nhà tắm, còn chưa một vị Tăng nào vào viện tắm rửa. Đạo Hải cởi nó mà vào, bỗng thấy chư tăng tắm rửa đông nhiều cả phòng, tợ như không biết, nên vừa thấy Đạo Hải vào, bèn đồng một lúc đi ra. Trong tâm Đạo Hải tuy nghi ngờ nhưng chưa lường biết đó là Thánh hay phàm, bèn ra mà dò xem, vắng teo không một người vậy. Kẻ biên ghi về cao đức, Diên Nhất tôi có ý cho rằng: “Phàm thí chủ thiết lập nhà tắm, hẳn dự định cúng dường Thánh hiền sau mới là hàng phàm thứ, lúc sáng sớm là Thánh hiền đến, nên phàm thứ cẩn trọng chớ đến trước. Nếu đến tức xúc phạm Thánh hiền, tự chuốc lấy lỗi quá. Thêm nữa đó tức là phá diệt phước người cúng thí, nhọc thiết bày khó khổ. Đó cũng là lời của Thánh nhân dạy răn cảnh tỉnh, phàm trăm quân tử há được không nghó nhờ ư? Tại quán tiệm Hoa Nghiêm, xưa trước có một người đi săn tên là Mã Thu Nhi, gia đình vốn nghèo khổ nên duyên việc giết bắn muôn sinh để tự sống. Từng đến Đông Đài. Cách Đông Đài về phía Đông hơn mười dặm, có nền móng của một ngôi chùa cổ. Người đời tương truyền đó là chùa cổ Hoa Nghiêm, Mã Thu Nhi đến đó thấy một tảng đá lớn bằng phẳng như mặt bàn, từ phía dưới có ánh sáng, trong tâm rất nghi ngờ, mới gọi vài người cùng dất đá lên xem, chợt thấy vài mươi bộ kinh Phật, bèn lấy một quyển mở ra trông xem, chữ đều vàng ròng sáng lóa cả mắt. Đồng bạn của Mã Thu Nhi đều là kẻ ngu dốt ở sơn dã nên không lấy gì làm lạ. Sau khi trở về, có người truyền đạt đến Tăng Khoan chủ viện Chân Dung. Nghe vậy, Tăng Khoan mừng sợ khác thường, vội gọi môn nhân đệ tử khoảng 05- 07 người mang theo các thứ cúng cụ đi đến tìm cầu. Đã đến nơi chỗ đó, trọn không trông thấy gì, chỉ là nền móng cũ kỷ, ngói gạch đổ nát mà thôi, bùi ngùi giây lâu, bèn đốt hương than thở mà trở về. Ở huyện Đường Lâm, Đại Quận xưa kia có một người nữ, suốt ba mươi lăm năm chẳng rời khỏi thành ấp, mọi người xưng gọi là cô. Cô là Cô ni tóc dài đồng hạnh đầu đà, vật lớn thẳng chứa, chỉ mặc áo đơn che thân, mùa đông rét giá, mùa hạ nắng nóng chẳng lấy làm khổ. Phường chợ đường hẻm theo nơi mà ngủ, mọi người lo lắng thật chẳng thể nghó lường. Tại núi Ngũ Đài có 120 chùa chiền, không đâu chẳng từng qua. Nhân mùa hạ vân du đến đài, thì đến nơi người thấy đồng đi cùng nói, ngồi nơi gò hoang, chê trách hủy bỏ tục trần, ghét chán sắc dục. Về sau không biết đi về đâu. Nên trong truyện Bồ-tát Bù-lũ-bàn-đậu ở Tây Vức nói: “Tại thế giới này có một ức vị Bồ-tát, trú trì đi lại giáo hóa mọi vật, nói bày chẳng hư dối”. Truyện trước đã từng nói “Thánh phàm ở lẫn lộn” có thể không tin ư? Về sau có người đến cảnh đó, bỗng thấy người ấy, thận trọng chớ khinh mạn, răn dè thay! Sa-môn Thích Đạo Diễn vốn dòng họ Thôi, người xứ Định Tương, Hân Châu. Vừa mới vài tuổi đã xuất gia, nương tựa Đại sư Pháp Nhẫn ở viện Chân Dung xin làm đệ tử. Từng trì tụng kinh Pháp Hoa, Khổng Tước, Kim Cang Bát nhã v. v… lấy làm việc thường. Đạo Diễn vốn có chứng bệnh Tức Bí, kết hôn như đá. Mỗi lúc phát động, đau không nhẫn nỗi, qua thời gian lâu mà không thể cứu chữa, bỗng thấy một người phụ nữ mặc áo xanh đến đứng trước giường nằm, hỏi về nguyên do chứng bệnh. Đạo Diễn như thật mà trình bày, người phụ nữ ấy mới đưa tay xúc chạm vào hòn ấy mà bảo: “Sư muốn lành khỏi chăng?” Đạo Diễn đáp: “Nếu được thì rất hợp với ước muốn”. Liền dùng vật như sợi tơ buộc thắc hòn ấy mà nhổ đi, lâu sau chứng bệnh lành hẳn. Đạo Diễn mới muốn dậy để cảm tạ, người phụ nữ ấy chợt nhiên ẩn mất. Đạo Diễn mới muốn dậy để cảm tạ, người phụ nữ ấy chợt nhiên ẩn mất. Đạo Diễn kể nói cùng chư tăng ở gần, chư tăng đều đảnh lễ. Mỗi lúc nghó nhớ đó, Đạo Diễn chưa từng chẳng cảm tán thán sức lực của Thánh hiền cứu hộ. Về sau mỗi ngày càng khỏe mạnh, đến năm 85 tuổi, Đạo Diễn mới thị tịch. <詞>CÂY LŨY LINH DỊ Từ chùa Hoa Nghiêm về phía Đông bắc có cốc Lâu Quán, trong cốc ấy có cửa cốc hang Kim Cang, xưa trước tương truyền có lũy phụng thê. Tiếp về phía tây, có lũy thập nhị nhân duyên, gần với lũy phụng thê ở bên cạnh hang Kim Cang, có một thân cây xoay ra 12 cành cao hơn trăm thước, xưa kia có cổ đức đến nơi dưới lũy tu quán pháp Thập nhị nhân duyên, bèn lấy đó mà gọi tên. Vào trong cốc cách một vài dặm, có ao bạch thủy sắc màu như tô lạc, mùi vị tợ cam lồ, người uống nước ấy da dẻ đượm nhuần, như nếu thường uống thì khiến người khó già. Ở phía tây của Đông Đài có văn bia của Vương tử tạo luận, văn tự hiện còn, lại có văn bia ghi về Tư Không đô đốc thấy gặp Phật. Người đến đó tức biết vậy, vì đến nay thời gian đã lâu xa bị hư hủy chẳng thấy gì, thật đáng tiếc thay. Bên cạnh Hoành Hà phía Đông chùa Hoa Nghiêm có một lũy tụng, thân tùng lá bách, giăng cành đến đất, phía trên cao vút tận mây. Xưa trước tương truyền gọi đó là Lũy Tứ Đế, cành lá rũ bốn phía khắp vườn đều râm mát. Có tượng Minh Đường, tám lửa song bốn cửa nách, chính giữa có một cái dầm chống lên có cả trăm lớp, trên tròn dưới vuông, có thể gọi là kỳ dị, mưa tuyết không thấu, gió và ánh mặt nhật chẳng xuyên qua, mọi người đi tuần đài đều đến dưới lũy, có thể dung chứa cả vài trăm người. Từng có vị Tăng đến dừng ở dưới lũy ấy vì mọi người mà tuyên giảng pháp Tứ Chân Đế, người ngộ nhập được đông nhiều. Khi ấy có đàn chim bay lại dừng đậu nơi đó, bay liệng trên dưới thời gian lâu mà chẳng đi, vị Tăng ấy bảo: “Chim đây như xưa kia Đức Phật đến nơi lũy có chim oanh vũ đến trước Phật nghe hiểu pháp Tứ Đế mà được sinh lên cõi trời, đây cũng ứng vậy”. Nhân đó mà gọi là lũy Tứ Đế. Chim muôn điềm linh bay liệng đến nương đậu dừng nghỉ qua đêm. Lũy đã linh dị, vị Tăng ấy cũng phi phàm. <詞>CÁC BÀI TỤNG TÁN XƯA NAY VỀ ĐẠI THÁNH VĂN THÙ SƯ LỢI. - Tán thán tôn trượng Đại Thánh Văn-thù và lời tựa Chí Đạo Lâm ở thời nhà Tấn soạn thuật, Văn-thù-sư-lợi là vị Bồ- tát du phương. Nhân lời khó đó mà có chỗ nhìn đó, chẳng phải chỗ khuyết hiệu trước vậy. Nguyên phàm xưng gọi đó là sinh cái, Chí Đạo dấy khởi xa với đó. Cớ sao? Tánh rỗng dẫn rõ bày ở đức nhân đổi dời, thì cảm dạy răn nơi dời dấy khổ. Nên nói Nho đầu tiên lấy Pháp Vương Tử làm tên vậy. Phàm muốn thấu cùng sâu thẩm ấy hẳn còn ở nơi sâu rộng, trọn xưa xa vời. Đâu phải chỗ ngôn tượng kịp đến, kiếp số khó tính, công cao như bụi trần chất chứa dằn dặc rộng xa vậy. Có thể gọi là các lời lược nói bao gồm, như người lúc mới sinh, bèn tự đế trụ, tôn xưng hiệu là pháp vương, tâm của vô thượng, muôn triệu mà riêng tỏ ngộ. Cảm từ trong phát không đâu chẳng do, gần một gặp chánh giác mà linh khác trong ánh ngời. Cảnh huyền chưa đổi dời, bèn vượt phát đạo vị. Từ đó, rể sâu trọn bấu nơi đất tốt, canh lạ thần kha mà nguyệt mậu, khí của từ bi cùng gió tuệ cùng quạt thổi. Sáng của Tam Đạt cùng với Nhật Nguyệt đồng tỏa phát. Đủ thể mà nhỏ nhiệm bền chắc đã công phu kiện thành pháp thân vậy, như là cơ trời sắp chuyển vận tức thần thông làm quán vũ, viên ứng ngầm hợp, dùng không vết tích làm ảnh vết. Do đó, động mà chẳng lìa tịch. Mà càng mở rộng cả vũ trụ. Chợt cảnh chẳng thường, mà danh trùm cả mọi người du phương vậy. Đức Thế Tôn xuất hiện nơi đời trao vết bước tiến tới tỏ dáng, hiển bày đức ngầm ở rừng hương. Nhân mây lành ẩn bóng trời tây, lại thấy rồng ở cõi này vậy. Xe pháp đã chuyển xoay thì Huyền Âm thường xướng, đối vực sáng sâu cùng, liền thỏa lời pháp sâu. Đạo ánh ngời khai só nên chư Phật tôn xưng tốt lành. Thể dứt tuyệt trần tục, bậc sáng ngời cao dấu vết, chẳng phải trời hợp trời hòa để dẫn dắt vận, hớp xung khí mà làm thành linh, duỗi khí trọng để xoay che râm, nhả đức âm mà lưu vọng hưởng, thì ai có thể cùng được như vậy ư? Lúc muốn lay qua tánh quần sinh, gá Huyền Tông mà riêng đến chẳng nói phong hóa của Văn-thù, thì chưa phải lượng thấu đạt vô cùng, dưới dài nơi phương lớn nhanh chóng vậy. Từ khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn đến nay gần cả ngàn năm, lưu tỏa ánh sáng phước che râm lại cùng thời mà lên xuống. Do đó thầm nghó nhớ tông cực được cảm, buồn thương nguồn tang của sông dài, sợ mặt nhật phong hóa ngầm mất bèn cùng bày biểu lớn, dùng kim thạch làm tôn dung, tiếp dùng văn tụng, người nghó tự hết, ngõ hầu mây mốc thêm đượm nhuần. Chỗ nay đây được gặp, tức do gần trăm năm đây có Chuyển Luân Vương, vua cõi Diêm Phù Đề hiệu là A-dục, kính ngưỡng lén nhìn dấu vết còn lưu lại, phỏng định mà làm tượng. Tuy chân tể chẳng còn nơi hình, mà linh dị như được có chủ. Tuy chốn u tuy chẳng dùng tình mà tìm cầu, mà cảm đến ứng đó. Khác lạ của thần biến, từng liên can đến muôn dân được nghe. Nhân đều ngộ thời, tin có tự lại, ý cho là tiếp vận suy đồi, nhưng thật do công của Minh Duy, tục của thông thiên mờ tối chăng, gá tưởng đến hiền, chỉ thật thửa gởi nương, dây tơ chủ chốt sắp dứt giềng mối, dẫn mãy tâm mà nêu vị, mới xa phỏng theo thợ tốt lành. Tượng là tượng của trời, cảm đến tự phô bày, bất chợt mừng vui, đồng ca vịnh vì đó mà tán thán rằng: Nho nhỏ Đồng Châu, bé thơ mở phát, ngậm anh nhả tú, lên huyền giẫm phong, Đạo Vương làm thần, xung thông làm thể, du phương hoằng hóa, mới khuôn vết cao, tỏa sáng lưu ngời bèn đến xứ đây, nghó đối khéo sâu, lắng một chỉ cung, áo linh thôi thay, ngõ hầu rơi lạc cõi trần. <詞>Tán thán Văn-thù-sư-lợi: Đồng Châu lãnh đạt Huyền, Linh Hóa thật lo dài, xưa làm Phật Long Chủng, nay lường mộng du phương, hoảng hốt cưỡi sóng thần, cao bước quê Duy Ma, dất chất Hy Di này, ánh ngời nhà trống rỗng, xúc loại dấy gặp trong, mắt nhìn suốt liền quên, Phạm Thích kính mừng gặp, nhàn nhã nạp lưu phương. <詞>Tán thán tôn trượng Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Ân Tấn an soạn thuật. Văn-thù thấu suốt, thức ngời quyết tiếng, tham huyền phát sáng, lên đạo nghó anh, Lang Da tam đạt, như sáng mặt nhật, gắng gỏi thần thông, ở biến hình ấy, sắp mở hằng sa, đào luyện quần sinh, Chân Phong mờ mịt, ngàn năm càng linh, nghó vẻ Triết Tông, hiểu lời chỉ thật, tuyệt mừng riêng nghỉ, cầu tưởng thái minh. <詞>Tán thán Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi. Bí thư thừa khích tế xuyên soạn thuật. Đức Thế Tôn xuất hiện nơi đời, giảng nói pháp độ người, Đại Thánh Văn-thù, hiện thân Bồ-tát, Phật chẳng cùng hóa, giúp đạo Năng Nhân, Kim Khẩu tuyên lời, chứng hiệu tiếng xưa, Long chủng thượng tôn, Ma ni bảo tích, khắp hóa sắc thân, tương lai sẽ được, song lâm ẩn bóng, các Thánh ngầm mờ, đại đạo sư ta, ẩn gá Thanh Lương, đủ năm trăm tiên, giảng đạo làm thường. Ba lợi xa đến, Vô Trước mong thấy, hoặc trao mật ngữ, hoặc thấy thần biến, vì độ hữu tình, chẳng bỏ phương tiện, ta từng cúng dường nay lại gần nương, chiêm ngưỡng tôn trượng, như thấy ánh linh, duyên trần chưa dứt, thiện niệm quay về. Ta đối kim dung, sẽ phát đại nguyện, vận tâm Bồ-đề rộng độ tất cả, gần hầu cát tường, ức đời vạn kiếp. - Tiếp tục còn lại. Tiền Đại Châu quản nội tăng chánh thắng hạnh Đại Đức Sa-môn minh sùng soạn thuật. Tại An Châu, có người dòng họ Trương là người thuần hậu, sùng tín Tam bảo. Năm Giáp Tý (1084) thuộc trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1086) thời Bắc Tống, đi đến núi Ngũ Đài đem trăm vạn tiền phụng cúng, Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, mỗi ngày ba thời đến mở điện, đốt hương dâng trà quả quý, tâm ý dung mạo trang nghiêm thành kính. Người giữ điện, do sự thành khẩn ấy nên chẳng phải lao nhọc. Một ngày nọ đi khắp các đài, đến trên đảnh Tây Đài, lần lượt đốt hương, bỗng nhiên nghe có mùi hương thơm khác lạ, giây lâu mà chẳng ai lường biết. Thế rồi, ngữa mặt trông nhìn giữa hư không, mới thấy hoa trời có trăm ngàn vạn đóa, xanh vàng đỏ tía các hình thể đều đủ, lẫn lộn rơi xuống vừa mới ngang đầu người. Có cả trăm người trông thấy mọi người muốn hứng nhặt lấy, hoa đó liền vọt bay lên. Có một đóa hoa riêng rơi trên tay của người họ Trương ấy, hình trạng sắc màu không thể nói tả. Đến chiều trở về lại nơi viện Chân Dung, các hàng tăng tục đều trông xem ngợi khen chưa từng có. Vị Tăng chủ sự khẩn thiết cầu xin cúng dường trước Bồ-tát, người họ Trương ấy bảo: “Bồ-tát trao cho tôi, mà trái lại tôi lưu để đây tức tối làm ngược ý ban cho của Bồ-tát, huống gì là cỏ tiên đà Thánh ư?” Vị Tăng chủ sự cũng không dám đoạt ngang ý chí đó, sáng sớm hôm sau xuống núi, người họ Trương ấy tự thân bưng đóa hoa đó, và luôn còn ánh sáng vòng tròn rộng cả trượng hiện theo thân, mọi người cùng theo đưa cách xa vài mươi dặm, chẳng thể bỏ rơi, ngợi khen than thở mà trở về… Ở phòng chợ Đức Châu có Vương Tại gia đình rất giàu có, tháng năm năm Canh ngọ (1090) thuộc niên hiệu Nguyên Hựu (1086-1094) thời Bắc Tống, Vương Tại dẫn vợ cùng tôi tớ đi đến Đài Sơn, chiều tối dừng nghỉ qua đêm tại viện Chân Dung. Ngày hôm sau đội mũ chỉnh trang y phục đến nơi tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thế rồi chiều tối chỉ thấy bụi trần, nên có tỏ vẻ bất kính mở lời, đến nơi quán. Sa-môn Tỉnh Ngạn đang là Tri Khách đến hỏi chào, cùng Vương Tại trò chuyện mà nói rằng: “Sơn tăng ở đây hơn 40 năm đã đối tiếp lắm nhiều người, ngày nay ông đến lễ bái yết, tợ như mới đầu kính cẩn mà sau thì biếng lười, lại thêm tỏ vẻ không vui ấy tại vì sao?” Vương Tại tức giận nói: “Tôi đến nơi đây thật vượt quá mọi điều nghe, nghóa là có Bồ-tát nhục thân, nên chẳng ngại xa xôi ngàn dặm mà đến, nay trông thấy chỉ là đống bùn đất thôi vậy, trái ngược nghó tưởng nhọc nhằn leo vượt, sao chẳng là khổ”. Tỉnh Ngạn bảo: “Cớ sao nói vậy ư? Xưa kia Đại Thánh ở nơi Đài thứu này, từng thấy điềm tướng tốt lành. An sinh tự thân đắp họa, trong ý có điều nghi ngờ, mong cầu mà lại hiện trước sau bảy mươi hai lần, nên vua Duệ Tông (Lý Đán 710-712) thời Tiền Đường lấy chữ Chân Dung mà đặt biển ngạch của viện, Ông sao nói khác vậy?, núi này rồng thần gìn giữ, nếu như tức giận, thì thân ông không có đất để chôn vùi”. Vương Tại nói: “Há chỉ một rồng mà có thể hại ta được ư?” Tỉnh Ngạn bảo: “Ông vừa mới đến đây mà khinh thường dung mạo Thánh tượng, dèm chê rồng thần, tôi sợ rằng họa sinh chẳng thể lường. Ông đáng nên chóng sám hối lỗi quá, nếu không như vậy thì thân ông bị nát vụn dưới nanh vuốt của rồng thần”. Vương Tại không kinh sợ sửa đổi, ba ngày sau đi đến Đông Đài cùng hơn trăm người, dừng nghỉ qua đêm nơi nhà Hiện Hóa tại đảnh đài, vừa tới nửa đêm, sấm sét bỗng nhiên phát nổi, như trời nức đất vỡ, tường nhà đã làm thành hang hổng, lửa dữ theo vào, chốc lát trong hang lửa lại trào ra, thân của Vương Tại đã vỡ nát vậy. Có lẽ tớ là Hiếu Tồn mượn một kiện áo gấm của nhà chùa để ngăn cản lạnh, áo trong ngoài đều bị thiêu cháy hết, chỉ có vật mượn của chùa ở khoảng giữa hiện còn, vợ và kẻ tớ của Vương Tại bị lửa thiêu đốt lôi bày xương cốt mà xuống núi, mọi người nghe nói việc ấy không ai chẳng kinh dị. Cũng đêm hôm đó, có cô Ni Hải Tuấn ở Thương Châu, đồng nghỉ qua đêm tại nhà Hóa Hiện, lúc trời đã xế tối, bỗng có một người già bảo rằng: “Nhà tôi ở cách đây không xa, xin thỉnh mời sư để được một lần phỏng hỏi, và xin dâng cúng cháo bữa sáng”. Cô ni Hải Tuấn liền chấp thuận, đồng đến nơi một thạch động, người già ấy bèn ẩn mất. Sáng sớm hôm sau trở về lại nơi nhà Hóa Hiện, biết Vương Tại nhận chịu tai họa, mà Cô ni Hải Tuấn được thoát khỏi rất mực kinh sợ, cuối cùng tìm hiểu biết được nơi thạch thất ẩn ngụ qua đêm đó tức là động Na-la-diên. Sa-môn Thích Tuệ Thông người xứ Nghi Châu là bậc thượng thư trong chúng tăng, xưa trước mùa hạ năm Chính Hòa thứ nhất (1111) thời Bắc Tống, cùng các hàng tăng tục cả ngàn người đồng đến Đài Sơn. Sa-môn tăng chánh Thông Nghóa đại đức Minh Uẩn ngày nay ở lúc bấy giờ đang sung làm tri khách, nói cùng Tuệ Thông rằng: “Ở núi Phạm Tiên có 05 con rồng có lúc lại xuất hiện có thể trông thấy”. Nhân đó, Tuệ Thông cùng vài ba người đệ tử đồng đi đến núi, lại gặp người đồng chí y, bèn hỏi người đó rằng: “Núi có rồng thần, ông có thấy chăng?” Người ấy đáp: “Có thấy”. Tuệ Thông hỏi: “Hình trạng như thế nào?”. “Như rắn” - Người ấy đáp. Tuệ Thông bảo: “Ngay như rồng thật vẫn còn thuộc loại súc vật, huống gì trăn rắn ư? Mới trở về lại nơi phòng nhà dừng nghỉ. Chỉ khoảnh khắc, Tuệ Thông cảm giác nơi eo bụng có vật như rắn mà có thêm sừng vuốt dần buộc eo bụng thắt chặt, đau không thể nhẫn nỗi, vừa dậy liền ngã xuống vài phen. Người đồng chí y kia chạy đến báu cùng vị Tăng chủ sự thuật bày về sự việc ấy. Tuệ Thông cũng sai bảo người đến thưa cùng vị Tăng chủ sự thuật bày về sự việc ấy. Tuệ Thông cũng sai bảo người đến thưa cùng vị Tăng chủ sự, xin cầu cứu rằng: “Tôi vì khinh mạn xem thường rồng thần nên mắc tôi, nghe trong núi có Bồ-tát Hy, xin nên vì tôi mà sám hối tội quá”. Gặp lúc Hy Công theo Tào sứ Trần Công biết còn đến chùa Hưng Quốc, vị Tăng chủ sự cũng kinh sợ chẳng nghó lường, đến báo cũng chủ điện Bồ-tát là Đại sư Hồng Biện Ôn Trinh tác pháp sám hối, Tuệ Thông xả hết y bát để sám hối lỗi quá, qua thời gian ngắn cơn đau chấm dứt, Trần Công nghe thế cũng cùng thán dị. Thư sinh Lý Thăng vốn người lùng Tướng Như tại Trung Sơn, xưa kia cùng Hữu Thừa Vương Công An trung đồng là bạn bút nghiên. Có người con là Chân Hy tức tu tạo công đức chủ ở chùa đại Hoa Nghiêm. Đại Châu thú Vương Tẩy từ Trung Sơn mời đến, bảo con cháu đều theo đó học. Năm Khánh Hòa thứ nhất (1111) thời Bắc Tống đi đến núi cùng các só đại phu ở đương thời lại yên vui. Một ngày nọ đến chùa, Vương Thiên Dân đô tuần Trần Khứ bắt trận phục biến, mới bảo tiên sinh đến núi Phạm Tiên, tới hang phía Đông cầu đảo dưới đền thờ rồng thần, khoảnh khắc sau có hai con rồng xuất hiện nơi đá một con sắc màu vàng ròng, một con sắc màu xanh biếc. Các công đốt hương thiết lễ kính bái, dùng hốt mà vời lại, con rồng sắc màu vàng ròng men theo hốt mà lên đến nơi sâu xa, như có sự nghe người, mọi người trong ý lại càng tinh tấn, riêng tiêu sinh dùng gậy mê xúc chạm đó và bảo rằng: “Đây là rắn lạ vật quái, đâu có gì đáng lấy làm quý ư?” Nói chưa xong, có vật như thần đánh ngã tiên sinh nơi đất, mọi người đều rất kinh sợ, chốc lát lại ném xuống hang cao sâu vài trăm thước, tiên sinh đã chết, người con là Chân Hy ấy dùng lễ mà an táng. Đêm đó mưa bão dữ dội, sấm sét mịt mờ, thây của tiên sinh lại bị bão thổi bày ra ngoài nhân đó lửa đốt hỏa táng vậy. Động Na-la-diên ở bên cạnh phía Đông của Đông Đài, cửa động xoay về phía Đông sâu hơn vài trượng, quanh eo hiểm trở chập hẹp như cái đấu lớn. Những người tham lễ đến đó đã không thể tiến vào thường luôn chỉ đưa tay sờ mó, hoặc cầm đuốc soi rọi, chỉ một cái hang chỉ về phía tây bắc hơi hướng lên nhưng sâu chẳng thể lường, có lúc gió lạnh táp phẩy vào mặt. Tương truyền rằng: “Động ấy cùng hang Kim Cang đều là nơi vườn nhà của Đại Thánh. Ngày 23 tháng 05 năm Tuyên Hòa thứ 08 (1126) thời Bắc Tống, có vị Tăng ở Thiệu Võ, quên mất tên họ, cùng Sa-môn Tây Tân đồng đến Đài Sơn, dừng nghỉ tại viện Chân Dung chiêm lễ chân tượng. Một ngày nọ lên đảnh Đông Đài, gặp Triệu Công Khương Bậc ở Đại Quận cùng các quan đồ tuần kiểm huân hương v. v… và Sa-môn Từ Hóa, Đại sư Chân Hy là các bậc thượng thư ở Sơn Môn có hơn trăm người đồng đến cầu hiện cảnh quang, thế rồi đến động ấy. Triệu Công v. v… vào trông xem khắp cùng, chỉ có vị Tăng ở Thiệu Võ đứng chờ đợi ngoài động có một vị quan đùa cười bảo rằng: “Cớ sao sư không vào, vào trong đó thì không ngại gì vậy”. Vị Tăng ấy mới vái chào Triệu Công, Sa-môn Từ Hóa, Tông Tân v. v… mà nói: “Trân trọng, trân trọng!” Bèn rão bước tiến tới vào nơi hiểm trở chật hẹp thì vén áo còng lưng mà vào, không ngăn ngại gì như đi giữa nhà trống, mọi người đều kinh ngạc, kêu réo mà thôi, chẳng lường biết nguyên do thế nào. Sa-môn Tông Tân gọi kêu vào nhau, vẫn mịt mờ không tiếng tăm dấu vết, qua thời gian lâu mà không trở ra. Sa-môn Tông Tân bảo mọi người rằng: “Tôi cùng vị Tăng ấy đồng đi đã vài tuần, mà trọn không biết đó là bậc Thánh hiền. Nhân đó, gạo khóc tự oán trách mình, mọi người cũng buồn khóc đổ lệ, Triệu Công tìm cầu di vật của dị tăng ấy, Tông Tân chỉ cho có được cây gậy, chiếc nón và vài cái bánh nướng. Sau đó, có quan tạm Bình Ải là Trương Trọng Cổ làm thơ ngợi ca, trình bày với Triệu Công rằng: “Tăng ở phương Nam xa đến lễ bái núi Ngũ Đài, vào động Na la không ra lạc, từ xưa Triệu Công truyền phất tử, nay lưu gậy nón ở nhân gian”. Bia khắc bài thơ ấy đến nay vẫn hiện còn, chiếc nón cũng đang còn. Ôi! Mới tin cảnh giới Thanh Lương, hay có rắn lẫn lộn vết, Thánh phàm đồng ở, chẳng hư dối vậy. Đại sư Từ Dõng ở Sóc Châu, chưa rõ biết thọ nghiệp tôn hạ là gì, mà đạo hạnh và sự hiểu biết sâu rộng, mọi người xa gần đều khâm trọng kính phục. Cuối năm Nhâm Tý (1132) thuộc trong niên hiệu Thiên Hội (1132-1135) thời nhà Kim, lại đến Đài Sơn, cùng các đệ tử như Pháp sư tử v. v… có hơn trăm người đồng dừng nghỉ tại viện chân dung. Pháp sư Sử cũng là người thuần hậu. Một ngày nọ đến chùa Đại Hoa Nghiêm, bỗng thấy bên cạnh chùa có mây lành từ phương đông bay lại, năm sắc đều đầy đủ. Lại, trong mây đó, Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi ứng hiện ngồi nơi tòa sen đặt trên mình sư tử, Đồng tử Thiện tài dẫn bước, vua nước Ưu Điền, Ưu-ba-ly cùng theo sau, và có cả Long Mẫu, năm vị Long vương, nắm ngọc khuê mà chầu. Ngoài ra, mũ cao đai lớn, phục tướng kỳ lạ ngàn muôn trạng thái, mà hay biết hết Đại Thánh máy mắt xin tay áo vải lay vẫy. Đệ tử không nghe tiếng Thánh ấy nói, quanh co theo hướng tây mà đi. Có hơn ngàn người cùng trông thấy, bốn chúng đều vui mừng, ngợi khen chưa từng có. Ngay thời gian ấy, viện Chân Dung gặp hồi lục có thừa mới muốn phục hưng lại, do điềm lành đó, nên Đàn tín bốn phương đua nhau kéo đến, mọi người thí tài thí sức chỉ sợ đến sau, Đại Diện viện Chân Dung không mấy ngày mà hoàn thành, hết thảy đều hiện đất hiện thân chẳng nhọc thiết bày. Sa-môn Vónh Châu, người xứ Dương kỳ đất tấn, vốn dòng họ Vương, khoảng cuối niên hiệu Thiên Quyến (1141) thời nhà Kim, đi đến Ngũ Đài tham lễ Thánh tích, dừng nghỉ nơi viện Chân Dung, ngưỡng mộ cảnh Thánh, thời gian lâu quên trở về. Một ngày nọ chúng nhóm tụ hái rau, bỗng nhiên thấy mọi người vận mặc y phục đều là sắc màu vàng ròng. Bất chợt thần ý tâm tình kinh hãi, vónh Châu muốn nói đó, nhưng sợ mọi người nghi ngờ quái lạ nên chỉ tự mừng vui mới tỏ ngộ chúng ở Đài Sơn, đều là quyến thuộc Bồ-tát, người trong thế giới kim sắc vậy. Về sau, nghe Đại sư Trường Hưng là bậc dùng mắt thiên nhãn dẫn bay đến trong mây, Vónh Châu mới tìm đến nơi pháp tịnh độ, bày lễ thầy trò, quả nhiên không chỗ được. Nhân đại chúng thỉnh mời, mới nói đến các sự tích được thấy ở Đài Sơn, Sa-môn Phổ An ở chùa Viên Quả hay hiểu rõ việc ấy vậy. QUẢNG THANH LƯƠNG TRUYỆN QUYỂN HẠ (HẾT)  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 190