<經 id="n2097">NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP LỜI TỰA Với Nam nhạc có nhiều Cổ Chí (ghi chép từ xa xưa), song noi theo nhau đều ẩn dật chẳng lưu truyền. Trong kho tàng kinh, sách, chí của thời nhà Tùy, có các bộ như “Hành Sơn ký” do Tống cư só soạn thuật. “Nam Nhạc ký” của Thái Bình Ngự Lãm Dẫn Từ Linh Kỳ, “Lô Hồng Hành Sơn ký” của nghệ văn chí thời (tiền) Tống), “Nam Nhạc Thắng Khái” của Tiền Cảnh Khản. Các sách đó đều không được thấy, chỉ có Đạo só Lý Trọng Chiêu ở thời nhà Đường soạn “Nam Nhạc Tiệu Lục” 1 quyển, bộ đó được đưa vào trang Tử Khố Thư. Ngoài ra còn có như “Hành Nhạc Chí” của Bành Trâm thời nhà Minh, “Nhạc Lộc Chí” của Quốc triều Triệu Minh, đều xuất hiện sau mà lại ít, nênh thật chỉ có bộ “Nam Nhạc Tổng Thắng tập” 3 quyển này do Trần Điền Thu soạn thuật trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1163) thời Nam Tống, rõ ràng người ảnh Tống sao bản, thể lệ đã tốt đẹp, sách cũng rất xưa cũ. Khảo xét đó thì như Tiền Công Võ đọc thư, Chí thì có sách đó mà không ghi tên người soạn thuất. Nghệ văn chí Nhà sử thời nhà Tống cũng không ghi sách đó, bởi nó sót lại có Đường Đào Sơn, bạn của tôi làm Phủ só ở thời nhà Minh rất ưu đặc là học ham thích thuần tố xưa cũ, xét giao mở khắc, duyệt xem trong tháng thì khắc thành, rất đáng vui mừng vậy. Trước kia, Tử Cầm rảo bước đến Ngũ nhạc nhưng đợi hoàn tất việc hôn giá, tôi vì thiểu tiện theo việc hoàn tất Đốc bộ nịch phủ. Từ Hoa Sơn trải qua Tung Sơn, lại vì đường cấm ở Đô Quan Hổ, nên theo hướng Tây đi quanh qua Khúc dương, đến núi Đại mậu hỏi xét các vết tích xưa miếu cũ ở Bắc nhạc, và đến Quan đông lỗ, cầu tuyết Thái sơn, ở lại vài đêm ngày trông xem. Cong tay chỉ Ngũ nhạc đã đến được 4 nơi, chưa đến được Nam nhạc và ông Đường Đào Sơn lúc chưa đỗ đạt, lấy tên Hiếu Liên để du học, dấu chân đã giẫm bước khắp nửa thiên hạ, trao kinh dưới chân núi Thái sơn, chọn xem 30 quyển tại núi Đại, góp nhặt vết cũ vàng đá, phần nhiều là người xưa trước chưa thấy từ Quan đó về phía Đông nam, đem kinh thuật nghiêm sức Lại trị, mới tìm cầu đến đất Ngộ, ghi về sông nước của trong đất Ngô, tiện lợi ghi tả khắc thành, để trưng bày văn hiến 1 phương rất đáng nghó nhớ. Sách này là ghi về vết cũ danh sơn của Hương quận, gấp nên rộng lưu bố. Tôi và Đường Đào Sơn sinh đồng năm, vừa đến lúc biết chẳng phải là tóc xanh mà đã đến lúc lang bạt, thôi từ Quan, nghó đến cứu tế mọi vật, trọn chẳng thể tự làm theo ý mình, như đợi hoàn tất việc hôn giá mới rảo bước các danh sơn, sợ tuổi già suy thiếu mọi sự cứu tế ưu thắng, trọn ngày cầm nắm biên lề sách này tiên xét danh thắng, dùng đang lúc đi hay nằm, hoặc sau vài năm liền giải bày, bèn mới đầu theo Đường Đào Sơn đến ở Tiêu tương, giữa khoảng vân mộng trông nhìn 9 mặt của Hành sơn để bổ khuyết cho ý nguyện Tử Cầm xưa trước chưa toại, thì cùng với Đường Đào Sơn y cứ Đồ hình khảo xét xưa cổ, tiếp tục bổ khuyết điều chưa ghi chép đến ở trong sách này. Lại nêu bày rộng lớn. Ngày mồng 01 tháng 06 năm Gia Khánh thứ 6 (1802)(1) thời nhà Thanh. Tôn Tinh Diễn ghi lời tựa thư ốc 5 cây tùng ở kim lăng. ------------------------------ Thắng cảnh của núi khe, vẻ đẹp của rừng hang là nơi mọi người đồng ưa thích. Và các hàng nhân só mến tình thuyết dã thường riêng thân gần, hẳn là chỉ chẳng bó buộc bởi tham muốn lợi danh, hình chẳng dính bám nơi chốn thị thành, dưỡng tâm thanh tịnh nuôi khí đạm bạc, nuôi dưỡng thân gần ở chốn hoan tịch, sau đó trông xem cảnh núi rừng, thành đạt chân thú đó. Lãng Trung Đạo Nhân Trần Canh Sưu có được như vậy, am ở dưới ngọn núi Tử cái của Nam Nhạc, suốt thời gian hơn 30 năm qua lại giữa khoảng 72 ngọn núi, tâm có chỗ mến mộ, chẳng nhọc mệt, tìm cầu xưa trước người khác có cao tăng Nham ở nơi hang cốc, kím sâu tung tích, xét xem việc ấy mà ghi chép đó, trải qua thắm đượm cũng nhiều, đạt được cũng rộng, bèn tích chứa mà thành sách vở, lấy tên là “Tổng thắng tập”/ phàm những nơi sâu ẩn của núi non, <節>SỐ 2097 - NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP, Lời Tựa 1023 <大>卐 cùng với chùa quán trước sau, các thứ Đề vịnh xưa nay có liên quan đến thắng thú, không gì chẳng ghi chép đầy đủ, hoặc gọi đó là cốt yếu của Đạo giả tu luyện, xét Huyền tẩu xem Tỷ cô cũng nhàn rỗi ấy ư, thì sắp ứng đó mà nói là tuy nhiên việc làm của sách vở đó đặc biệt vốn chẳng là việc ưa thích, tìm xét u thắng, một lúc lên trông xem đó mà hưng phấn, hẳn có lòng trong trắng với duyên trong sạch, im lặng với chân thú, y cứ sự tích gom tập cảm nay nghó nhớ xưa, sớm hợp với tâm xưa trước đó, phát nhã chỉ đó, tỏ ngộ chí lý tu chân, dẫm theo sự siêu nhiên của người trước, ngưỡng mộ cảnh hạnh núi, nôm cá lưới thỏ có ở ấy vậy, thì với việc làm sách vở này, ngõ hầu vì các ngươi biết có lấy đó. Ngày Thượng tî năm Giáp thân, thuộc trong niên hiệu Long Hưng (1164) thời Nam Tống, vụng sưu lời tựa. <詞>LỜI TỰA TỔNG QUÁT VỀ NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP Ghi chép về Hành Nhạc có 2 quyển “Tầm Thắng”, “Chứng Thắng” lớn nhỏ, đại khái ghi tập “Hành Sơn Ký”, đều là việc tốt đẹp ở đời gần đây. Biên tập sơ lược không nhiều, và mỗi quyển chấp riêng 1 góc, chưa thể rộng sự trông xem đó. Nên Tăng só trước thuật “Tầm Thắng” thì việc mà Đạo gia gọt bỏ không nói. Còn Đạo gia trước thuật vì “Chứng Thắng” thì cảnh mà Tăng só khuyết thiếu không ghi chéo đó. Không thể không nghiên cùng sự thỉ chung của 2 Đạo giáo. Đè nén thì cũng che mờ khác lạ của các ngon núi. Đến như việc Miếu Giám Nhạc, Dương Xuân Huyện Úy Tiền Cảnh Khản tuy lắng tónh mà ghi chép đó. Trong đó, thắng khái xoay quanh kỳ đặc, vết linh hiển bày trước trăm phần chỉ được 3-5 phần mà thôi. Kẻ ngu tôi nhân lúc làm vườn rảnh rỗi, nhóm hợp cả thảy 4 bộ ghi chép trước, rộng vì tu chỉnh, lượt bớt sự trùng lập rườm rà, bổ túc nơi khuyết thiếu, mênh mông giữa khoảng núi trống không, thông thả có nhiều năm tháng, trâu dương đỉnh núi, giẫm đạp hang cốc, chưa đến đầu nói là nhọc, tham tầm thắng chânh, chóng cảm thấy chí mệt. Sưu cầu nội giáo, rộng gặt hái tiên kinh, và xét theo xưa trước, đoán chắc là từ thời Tam Hoàng trở lại, mãi đến thời Nam Tống chúng ta đây, ước số thời gian thì đã ngàn vạn năm. Những bậc đắc Đạo chân tiên phàm đã giẫm trải qua chốn Nam Nhạc hẳn vì đó mà ghi chép, bày thuật có đến 4-5 vạn lời, phân làm 3 quyển thượng, trung, hạ. Chẳng kể là chùa hay quán đểu khảo xét đến mọi hưng phế đó. Vả lại, Nhạc miếu từ thời nhà Chu nhà Tần trở về trước đền thờ tại trên ngọn núi Chúc Dung, lễ trật sánh với Tam công, đến thời nhà Hán nhà Đường phong làm vương tước, nay miếu thứ 2 ở dưới núi Luyện ngọc. Lại xét theo Quán vũ ở Hành nhạc, kịp đến chân tiên đắc đạo, y cứ theo 4 ghi chép trước đều cho là bắt đầu từ trong khoảng niên hiệu Thái Khương (280-290) thời Tây Tấn, tức là từ thời nhà Tấn trở về trước chưa có cung, đền, điều đó có thể biết vậy. Lại xét rõ về Hoàng đế nội truyện nói cùng với Tây Vương Mẫu ở tại trong cung riêng tạo dựng Tiên quán. Lại ở các nơi như Hoa sơn, Tung sơn, Vương ốc sơn, Thái sơn, Hành sơn, Chung nam sơn và ở các động thiên đều có tạo dựng Vương Mẫu Quán để hầu thần vậy. Lấy điều ngày nay để xem xét đó thì bởi duyên lắng chìm ẩn đã lâu, trọn không còn có di tích, đâu có nước nhà Thọ sơn thuộc hệ động thứ 3. Trong bầu trời có 4 phước, trên mặt đất trải ngàn xưa, mãi đến thời nhà Tấn mới dựng lập cung quán ư? Hẳn không như vậy, tức nay tại dưới phía nam có Vương Mẫu Quán xưa cổ, mãi đến đời nay độ người nữ chân tinh đốt hương tu tập không ngưng nghỉ. Có thể lấy đó làm chứng cứ thì lời nói của “Nội truyện” quả thật chẳng dối bày. Lại nữa, Võ Vương ở thời nhà Hạ đến Hành sơn thiết đặt trai hội, tạo dựng Thanh lãnh cung để an trí phụng thờ tôn tượng Ngu Thuấn. Tức biết từ thời nhà Hán nhà Tần trở về trước cho đến thời Thượng cổ, tạo dựng cung đền tiếp đãi chân tiên đến nghỉ ở, chẳng giảm so với ở thời nhà Tấn nhà Đường vậy. Nên nêu một vài sự kiện làm tiêu đề. Nên nay đây thì, quyển Thượng nói về linh tích của núi non. Đền thờ kế tiếp đó và cả đến nhiều đời các bậc Đế Vương truyền kinh thọ học Đạo. Quyển Trung nói về mọi sự hưng phế của các chùa quán và gồm cả Dị nhân đắc Đạo, các bậc Cao tăng ở trong núi nơi sản sinh linh dị. Quyển Hạ nói về các bậc Dị nhân, Cao tăng đắc Đạo ở thời nhà Đường nhà Tống, cho đến các hàng ẩn dật, lời tựa cổ bạt. Trước sau thứ lớp theo đó, nên số có tương quan, bày giải có thể gắt hái đó, để các kẻ só tìm u thưởng thắng lấy làm ty nam có thể được vậy. Ngày mồng 09 tháng 09 năm Long Hưng thứ nhất (1163) thời Nam Tống, lão già cày ruộng Trần Điền Phu ở am Lão phố, động Cửu chân kính thuật. --------------------------------- NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP <卷>QUYỂN THƯỢNG Theo “Thượng Chân ký” nói là: Dòng họ Chúc Dung vì Xích Đế mà sửa núi Hành hoắc, tức là Hành nhạc. Hành nhạc là Nam nhạc của Ngũ nhạc. Tức Chu Quan gọi đó là trấn của kinh châu. Và Hạ Thư gọi đó là núi Uyển ủy. Trong Đạo Điển nói: Ngũ nhạc Ngũ sơn mỗi mỗi đều có trử tá. Xưa kia Hoàng đế đi trông xem Lục hợp, bày thỉnh thần linh thấy ở Đông nhạc, Trung nhạc, Tây nhạc, Bắc nhạc đều có Ty Tá mạng, chỉ có Nam nhạc trơ trọi không có, mới cùng Xương Vũ, Lực Mục, Phương Minh v.v… các chương từ Tam Thiên, Thái Thượng sai bảo Hoắc sơn, Tiềm sơn làm Nam nhạc Trử Quân, bái Thanh thành làm Trượng nhân, đặt Lô Sơn làm Sứ giả, khiến bao gồm Hành Nhạc làm đảnh trấn, đế cử Đức Chánh vì làm chủ, Trử Quân là phó quân của Hành nhạc vậy”. Theo “Thuật Dị Chí” nói là: “Nam nhạc là cánh tay trái của Bàn cổ, đến lúc Hán Võ theo hướng Nam tuần du, vì Nam nhạc ở nơi xa xôi mới dời về cúng tế ở Lô Giang, cũng là tiếp thừa phó nghóa của Hiên Viên vậy”. Theo “Tương Trung ký” nói là: Hành nhạc là linh đài của Chu Lăng, là động báu của Thái Hư. Trên tiếp thừa sao chẩn cân đức lường vật, ứng độ với Ky hành, nên gọi là Hành sơn. Dưới ngồi xổm nơi cung ly, tiếp vị với làng hỏa. Xích Đế quán năm trên đỉnh đó, còn vườn nhà Chúc Dung nằm tại phía Nam, nên gọi là Nam nhạc”. Theo “Võ Cống” nói là: “Kinh và Hành Dương chỉ là kinh châu”. Lại nói: “Theo hướng Nam đi tuần đến Hành nhạc” (Khổng chú Nam nhạc Hành sơn vậy). Theo “Dó Nhã” nói là: “Hoắc sơn là Nam nhạc, tức là Hành Hoắc vậy”. Lại trong “Ngụ Nhạc kinh” nói là: “Lô sơn, Ma cô sơn, Ngọc tứ sơn, Động dương sơn, Thái vi sơn, Cửu nghi sơn, La phù sơn v.v… đều làm tá mạng”. Theo “Nam Nhạc ký” của Từ Linh Kỳ nói là: “Động thiên Chu Lăng gọi là Thái Hư, nhỏ có trời đó, chu vi bao quanh khoảng 800 dặm, bên trong có Thanh ngọc đàn, Quang thiên đàn, động Linh nguyên, động Chân khư, 4 chỗ đất phước, xoay nhạn làm đầu, chân sườn núi làm chân. Lại theo “Ngũ nhạc chân hình đồ” nói rằng: “Phía trên có Lưu Đan, vuông 40 dặm, cỏ chi sinh mọc tươi tốt, phía Nam có suối ngọt Thiên tân, nếu uống được nước suối đó thì trường sinh bất tử, phía Đông có sỏi đá ngọc thường là sắc màu xanh trắng đẹp xinh, phía Tây có dòng sông Côn, phía Bắc có loại cỏ chi sắc đỏ. Từ dưới lên trên cao 9730 trượng, phía Đông dài đến Đông Dương, phía Tây tới Bạch Hạc, phía Nam đối mặt với Vânh Dương, phía Bắc có vòng vây lớn ngồi xổm. Về phía Tây nam gần sông Tương, từ sông Tương đến Trường sa dài 700 dặm, về phía Đông bắc đến Trường sa 270 dặm, phía Tây xoạc đến Hành Dương dài 90 dặm. Trống đá là cửa phía tây của Chu Lăng, cỏ xanh là nách trái của Hành sơn, cách Việt huyện dài 30 dặm, cặp đường cây tùng cây sam xanh biếc, tay giữa lúc rất nắng chẳng cần phải giăng lọng che, thoảng vang tiếng sảng bút buồn khơi gợi tai mắt người. Trên đường đi có 4 ngôi đình làm nơi mọi người qua lại dừng nghó”. Nên trong thơ “Nam Nhạc Chu Lăng Động Thiên” của Xung Diệu tiên sinh Lý Tư Thông nói rằng: “Núi linh bảy hai (72) ngọn vút sắc Lọng tía phù dung đạp khí mù Ảnh lấn tiêu tương cuộn mạch đất Đẹp trội che quanh cắm lửa trời Chân quân ngọc sách ngàn xưa tỏa Xích đề toàn cung trấn tám phương Khéo sánh vua ta thông toán lớn Ngàn năm Tùng tại đỉnh non cao”. Vốn lệ thuộc Hành Dương. Đến năm Thiên Phước thứ 5 (?)(1) mới cắt ở quận Trường sa. Đến trong niên hiệu thuần hóa (990-995) thời Bắc Tống, Hàng Dương Thái Thú Thành uân lại xin phụ thuộc vào Hành dương. Đến năm thứ 4 (993) mới có chiếu ban y như cũ là lệ thuộc Đàm châu, để tiện cho nước nhà thâu thuế của dân chúng cầu đảo, thì theo chế đặt khiến Lôi hữu chung đến tấu thỉnh vậy. <詞>Lính tích của 5 ngọn núi. * Núi Chúc Dung: Núi Chúc Dung. Xưa kia vào đời của Viêm Hoàng, đó là nơi Chúc Dung Quân đến dừng ở, nhân đó mà xưng gọi tên như vậy. Trong “Quảng ký” nói là: Chúc Dung đền dừng nghỉ tại Hành phụ”, tức là ở đó vậy. Trên đỉnh núi Chúc Dung tướng trạng tợ như Chu Tước Nguyên khí xông lên liên tục, muôn sao sáng rực, ánh thái dương nóng cháy, đó là nơi Lão quân cai trị. Bên trong Chủ Hạ khí trưởng dưỡng muôn vật, khiến thần Bính Đinh (lửa) thực hành đức trời, khiến thần Kỷ Ngọ (?) chỉnh sửa khí đất. Muôn thần thường lấy ngày lập Hạ dất cao ngọn núi đó vào cửa ngọc đá đỏ bái yết Viêm Lão Quân, nhận phù Thiên huyền, rồi mỗi tự trở về 4 phương gọi bảo trăm thần chém giết quỷ ác, do đó mà giúp đất trời nuôi dưỡng người vật vậy. Hành sơn quân ấy thống lãnh tiên quan, mặc áo bào của Chu Quang, đội mũ của Cửu-đan-nhật- tinh, đeo ấn Dạ-quang-thiên-chân, cưỡi rồng sắc đỏ. Nhạc thần vốn dòng họ Sùng, húy là (?) (. . . ). Theo Từ Chân Nhân nói rằng: “Trên đỉnh núi Chúc Dung về phía Tây nam có nước của ao côn, suối cam, bến thần (Côn Trì, Cam Tuyền, Thần Tân). Người nào uiống nước đó thì được trường sinh, lên cảnh tiên, như rượu của Quân Sơn, Thạch Chi của Tung sơn. Xưa kia, Hồ Biều Tử đến ẩn cư tại thạch thất Tịch dương. Được uống nước đó mà thành đạo. Khe suối đó tên là Tịch dương, khe núi cao 9.730 trượng, tại phía Bắc của các ngọn núi đó là ngọn núi cao hơn cả, trông nhìn xuống các núi chỉ tợ như gò đống, tuy các ngọn núi như Tử cái, Vân mật v.v… cũng không thể sánh bằng. Nên trong thơ có 2 câu đối liền nói rằng: “Năm ngàn dặm đường đều trông thấy Bảy hai ngọn núi riêng trội cao. ” Ở phía Nam có miếu Chúc Dung, nền móng hiện còn. Xưa kia có Quang thiên quán. Theo “Phước địa chí” nói rằng: “Thuộc hệ phước địa trong 22 Quang thiên đàn, phía Đông có am ngủ nghỉ, là nơi Bạch Vân Tiên Sinh Diên Hà Tôn sư hỏi Đạo. Lại có Thượng thanh viện. Nơi góc núi đục vách giá hiểm mà ở. Xưa kia có ẩn só hiệu là Lãn Ông chỉ ngậm nuốt phù ăn dùng trà mà ẩn hiện chẳng thường cuối Kiến Long vào Hoa sơn, ở phía Tây có Thanh ngọc đàn, thuộc hệ trong 21 phước địa. Nên trong “Tập phước địa chí thơ” của Động thiên có đoạn tuyệt tác rằng: “Ngọc đàn sánh đối thọ sơn cao Vút cùng đọng dài bít cự ngao Chân nhân ở nghỉ thường ẩn đó Trước động trồng gióng Bàn đào xinh”. Xưa kia, vào thời sở Linh Vương, đỉnh núi chịu dung sụp đổ, có được Họa đồ nhân hoàng 9 đầu. Theo “Đồ kinh” nói rằng: “Trên Thanh ngọc đàn có nơi các Tiên nhân hành đạo, xa lắc riêng biệt men giá hiểm mà lên, nước nhà phụng tu trai hội kim lục hoàn tất thì ẩn tàng. Kim long ngọc giản cũng tại xứ đó”. Lại theo “Nhạc Đồ kinh” nói rằng: “Phía dưới có cỏ chi núi lửa” theo “Thần nông bản thảo thảo” nói là: “Cỏ chi sắc đỏ sinh mọc tại Hành sơn (cỏ chi sắc đỏ tức là cỏ chi núi lửa vậy), ban đêm có ánh sáng linh như đuốc bay, người đời gọi đó là đèn Thánh”. Theo “Thảo chi Đồ” nói rằng: “Ở Hành sơn có 9 loại cỏ chim, trong đó 3 loại sinh mọc khắp đầy hang cốc ở phía Đông ngọn núi Liên hoa, 3 loại sinh mọc phía dưới Đàn đó và 3 loại sinh mọc tại phía Đông ngọn núi kim giản”. Lại theo “Địa lý chí” nói rằng: “Tại Hành sơn có 2 Đàn Thanh ngọc và Bạch Bích (Thanh Ngọc tức là cầu tiên nhấn, Bạch Bích tức là Quang thiên đàn). Ngọn núi đó nhỏ đẹp, lạc thiên tiêu như chữ vàng ròng. Trên đó rộng khoảng vài thước, cũng như như kim đình của Đồng Bách, kim đài của cú khúc. Đến trong thời nhà Tùy đổi Quán làm chùa tức là chùa Thượng phong ngày nay vậy. Thổ địa Già lam trong chùa tức là Chân Quân Thổ Địa của Đạo quán, chư Tăng trong chùa bỏ tuyệt không lo hương hỏa nên dòng suối nước cúng dường sử dụng trong chùa liền khô cạn. Chư Tăng lại lấy Thanh ngọc đàn đổi làm Đàn La-hán hành Đạo. Lại có cây Tiên lê. Theo “Tương trung ký” nói rằng: “Ở phía Đông ngọn núi Chúc Dung có tiên lê lớn như Đấu sắc đỏ như mặt nhật loại tợ Bình thật, cũng như mẫu đan ở Thanh thành, hoa sen ở Thái hoa, tre lồng tung ở La phù”. Lại có tủy đá, xưa kia Hành dương lệnh Phan giác được trông thấy loại đó, đá nẻ xé có bùn sắc tía chảy đổ ra. Trong kinh nói: Danh xuất 500 năm mới lần mở chảy ra, nếu người nào được uống loại đó tức Bạch nhật nhẹ bổng”. Lại có loại cây giao tùng, hoặc biến làm thành trăn lớn, mị hoặc con người nhưng không làm hại. Cây tùng Phất đàn gọi là cây ải, tùng vạn năm cao không quá 1 trượng, gốc rễ hung tợn, tướng trạng kỳ quái như rồng, nên Hoàng đế chúng ta sánh thọ như tùng. Lại có suối Hổ bào, khe Tịch dương, đình Tân nhật (có thể trông thấy mặt nhật ló dạng), nhà Long Vương, hang Bả châm, hang tối thắng, hang Dạ quang (nơi có lắm nhiều sơn tiêu quỷ mị, hang ao sấm vực gió, mỗi lúc sắp râm tối gió tức dữ gọi là từ hang đó phát ra. Nên trong Bản triều có Đào Bật có bài thơ tứ tuyệt “Lên núi Chúc Dung” là: “Từng đến đảnh trọi núi Chúc Dung Rảo bước dưới trăng bên cửa thiền Đêm khuya một trận mưa đập cửa Nằm nghe sấm gió nửa chừng non”. * Núi Tử cái. Núi Tử cái cao hơn 5.400 trượng, có tướng trạng ráng tía lồng hoa, hình nó như lọng, cũng gọi đó là ngọn núi Hoa cái. Lại gọi Tiểu tử cái là ngọn núi Hoa cái. Trong tất cả các ngọn núi đều chầu về núi Chúc Dung tướng trạng như khoanh tay kính vái, riêng ngọn núi Tử cái này xoay mặt hướng Nam, nêu nguồn của Chu Lăng Động thiên xoay về hướng Nam vậy. Vì thế núi Chúc Dung phối với Hỏa đức, tuy là cao quý hơn cả trong các ngọn núi. Phía trên có 2 phước địa Thanh ngọc và Bạch bích, vì sở ty chấp chưởng Địa tiên nên thấp hơn so với Động thiên, và hình thế uyển nhiên theo hướng Nam thôi, nên nhà thơ Đỗ Phủ ở thời tiền Đường có bài thơ “Vọng nhạc” đại khái là: “Chúc dung cao hơn cả Núi núi dần thấp ngang Tử cái riêng chẳng chầu Tranh dài cao cùng trông. ” Và theo “Tương Trung ký” nói là: “Mỗi lúc khí trời lắng sáng, có đôi hạc xoay liệng phía trên”. Nay có đài Hạc minh, bếp Tiên trà, suối Bạch hạc, đài Bảo lộ. Thời nhà Hạ, vua Võ chân bình Bảo lộ ở dưới đài đó, bên trong chứa đựng mở vàng ngọc sắc tía, người nào uống loại đó thì được trường sinh. Lại theo “Phương dư ký” nói rằng: “Trên đỉnh núi có ao tiên nhân, ban đêm Hạc thanh kêu tợ như chuyển sang canh. Phía Đông có đài Thiên bảo, phía Tây có viện Tử cái, là nơi xưa kia đãi các tiên đắc đạo. Lại có Đàm tước huyện Đan tại đó. Có trần tàng khí thượng tiên sinh ở đó, rộng trồng loại cây phỉ, dưới vườn trà có nhà thuốc của Vương Thị tại hang túy lộc, lâu đượm núi cần hà đầu quạ hơn 120 năm. Về sau dời đến dưới ngọn núi Vónh Hòa, đến khe Linh, suối Dạ lạc tu linh tể vậy. * Núi Vân mật. Núi Vân mật cao hơn 5.300 trượng, dưới phía Nam có chùa Vân Phong, phía Tây có hang Đại Võ, là nơi xưa kia Võ vương thiết trai hội cầu chân. Lại có thạch thất của Đan hoắc tiên nhân. Tại phía Tây bắc của núi vào những đêm mờ tối có đèn Tiên xuất hiện nhảy nhót như đuốc bay. Có người nói là xưa kia Chu Quân Tử ương từng chôn Đan tại đó, về phía Tây bắc có Ẩn Chân bình, phía trên có Hội tiên đàn, tại trong số núi hỗn loạn nhưng vẫn thảng nhiên bình lắng, chu vi rộng khoảng 5-7 dặm, Động thiên phước địa, là nơi các chân nhân nắm giữ các chức đều so sánh công đến dừng ở, m thường có mây lành che phủ tại đó. Giữa lưng chừng núi có bia của Võ Vương. Võ Vương đến đó đo lường độ cao khoảng 4.010 trượng, đều viết theo lối chữ hình con nòng nọc. Xưa kia có kẻ tiều phu thấy trên vách đá có 2 con rồng cùng giao nhau trên bia, 2 tròng mắt chế ra chữ lôi ( sấm), đá tỏa sáng ngời, mắt không thể trông nhìn thẳng vào được, bèn kinh sợ bỏ chạy không dừng, về sau trọn không có người thấy nữa, cũng như cầu kim ngân ở Thiên thai, cầu ngọc ở Bắc nhạc, xưa nay đều chỉ 1 lần trông thấy. Tất Bình có bài thơ vịnh về “Võ bia” theo lối tứ tuyệt là: “Sửa nước công thành ngôi vua thạnh Mưu tốt dạy đời rõ rành rành Ngọc khắc nòng nọc còn khó biết Huống gì mây sâu ẩn chẳng bày”. Lại có cây tốt giao cành, cỏ thơm liền nhánh, chim vàng vượn trắng khác hưởng đồng vận. Phía Bắc có bồ Lưu Châu, có sàng giường Bạch ngọc, dưới kỷ có suối cát ngọc, sắc màu như son, người nào uống được đố thì lên cõi trời. Phía Tây có nguồn Đào Hoa, nhân có Du tăng Huệ Quang đến thăm phỏng đó thấy Hoa Đào như lửa cháy đỏ rực bèn hái vài cành mà đi ra, mọi người trông thấy đều ngờ lạ, dẫn bạn trở lại phòng tìm trọn không còn thấy gì nữa! * Núi Thạch lẫm. Núi Ngọc lẫm cao hơn 4.500 trượng. Theo “Tương trung ký” nói rằng: “Núi ấy cao vót, từ xa trông nhìn hình tướng như kho lẫm, có tôn tượng đá đứng 2 bên cửa. Hoặc lúc gió bảo mưa sấm, dân chúng sinh sống dưới núi nghe có tiếng đóng cửa đá”. Tương truyền rằng: Chu Lăng động là cửa thuận tiện của trời. Vào thời nhà Tấn có Mao Cảnh làm Hành Dương lệnh, dân chúng man rợ nói cùng Mao Cảnh rằng: “Trong kho lẫm đều là mật”. Mao Cảnh bèn thiết trai chí thành cầu đảo, đích thân sang trông xem quả nhiên thấy có, bèn kính bái mà lấy ăn dùng đó và liền bay lên cảnh tiên. Lại có các Lương thạch khác, là lương thực sót lại từ xưa kia của Võ Vương hóa nên. Lại có Nam Dương Đạo só đi đến núi, lên tuyệt cốc (có thuyết nói là Mãn Cốc) mà chẳng ra. Trong niên hiệu chí hòa (1054-1056) thời Bắc Tống, có Đạo nhân Lý Cổn Dung đến đó hái rau phục linh ăn dùng nhà thành tiên. Lại theo “Kinh Châu ký” nói là: có 1 ngọn núi tên là Thạch khuân. Ở trong thạch thất thường nghe có tiếng tụng kinh. Lại nói: Ngọn núi Thạch khuân tại phía Đông mãn cốc, gọi đó là Tiểu thạch lẫm. Theo “Phương Dư ký” nói là: “Hình như kho lẫm, có 2 cửa, 1 cánh mở, 1 cánh đóng, cửa đóng cũng có hình cửa khóa”. Lại theo “Tương Trung ký nói rằng: “Cửa mở thì năm đó thiếu kém, cửa đóng thì năm đó được mùa màu”. Theo “Phương Dư ký” nói là: “Xưa kia có Lưu Di Dân vân du Hành sơn đến tuyệt cốc, xa thấy 2 Thạch khuân cách nước không qua đến được, bèn xoay trở lại, gặp 1 cụ già bảo rằng: “Trong thạch khuân ở phía Đông bến Tịch Dương đều là phương thuốc ưu thượng của các tiên. Lưu Di Dân trở lại sang đường đó, bèn mê mất không trở về lại, nhân đó mà gọi đó là bến mê. Nên Tất Điền có bài thơ nói về núi Thạch Lẫm, đại khái là: “Lúc mưa nghe mở đóng, mùa màn biết thiếu đủ”. Lại nói: “Mới bày tuyết bốn mùa Mở đóng gió một trời Thuốc tốt bao giờ được Bến mê đường ít thông”. Là chỉ nơi đó vậy. Phía trên có Thanh ngọc quán, trên đỉnh có Đàn của Trần Chân Nhân luyện Đan, hang quỷ trồng đá sấm gió sâu thẳm, Đàn tụng kinh, suối Dục đan. Về phía Đông nam có nền móng Thái thanh quán, phía Tây có nền móng Động dương cung, phía chánh tông có nền móng Thái sơ quán. Núi Thiên trụ. Núi Thiên trụ cao hơn 4.800 trượng, hình dáng như 2 cột trụ, ở trên 2 đầu vót thẳng cao hơn trăm trượng. Theo “Cửu vức chí” nói rằng: “Trong 360 Danh sơn có 8 trụ, tại trong đó có 6 trụ. Dưới núi có chùa Thiên trụ, về phía Tây bắc có thạch thất. Trong niên hiệu Thái hòa thời nhà Ngô(1), có người miền quê giả cả tên là Lý Động Nham đến ở đó và tự nói rằng: “Xưa trước Ngụy Phu nhân (?) có trông Hương Bạch chỉ tại núi đó. Nếu người nào dùng cỏ xương bồ hòa chế để uống thì có thể sống thọ đồng như trời đất. Chỉ pháp không lớn nhỏ, thật tin được vậy. Tôi qua lại nơi đây đã hơn 50 năm, nay đã 117 tuổi”. Về sau người đó sang Thanh thành chưa đầy 2 tháng, trông về nơi chỗ mình ở, thấy lửa dữ bốc cháy cao giữa khoảng không. Mọi người ở dưới núi sang trông xem, trọn không thấy có gì. Ở phía bắc có nền móng am và hang đá, chỉ thấy cỏ mọc loạn xa và tro than nguội lạnh. Bấy giờ lại có vị Đạo nhân đi hái thuốc nơi tuyệt đỉnh, trọn không biết ở tại nơi đâu. Xưa kia, vào thời Tây Tấn có Trần Hưng Minh gặp 2 Thần nhân truyền đạo tại đỉnh núi đó. Ngoài 5 ngọn núi trên ra còn có 67 ngọn núi khác. Di tích linh thiêng tuy ít so với 5 ngọn núi trên nhưng cũng khả quan. Nay theo sự phụ thuộc 5 ngọn núi trên mà thứ tự ghi thuật như sau: Núi Triền nhật. Núi Triền nhật là nói xưa kia Ân tiên sinh tụng kinh Phụ huyên Triều nhật, nhân đó mà gọi tên vậy. Núi Trắc dao. Phía Đông núi Trắc dao có ngôi Thạch thất, là nơi Tuệ Xa tử tu hành, trong thời Tam quốc, có lý ý mong được gặp đó, mà hay ẩn hình trốn ảnh. Ngược lại biết rõ mọi sự tốt xấu của người. Ngụ ở nơi số âm dương. Lại có Đàn lễ đấu của Tiết U Lâu. Chung quanh Đàn cỏ mọc sắp vảy cả thước, lại còn có 1 tên khác là đài Hỏa Đăng, lá nó tầng tầng sắp lớp, ró nó sắc tía, mũ sửa sắc hồng tơ như lá hạnh mà mềm mịn. Mong hái nó thì không thấy, lửa kịp với Đồ sắt làm cuối. Người uống thứ đó chẳng khuyết, kiên cử các thứ huyết thịt tanh nồng suốt 3 năm và thông thần trường sinh, chẳng già suy. Lại hay dùng thủy ngân khô lập thành thủy ngân răng ngựa làm chân bảo, về sau lập hóa ở núi Thục. Núi Huệ nhật. Núi Huệ nhật. Xưa kia, mới đầu có vị Cao tăng đến ở đó. Về sau, đến thời nhà Tùy, vua (?) mới ban sắc chiếu gọi là “Đạo tràng Huệ nhật”. Lại qua thời tiền Đường có vị Cao Tăng ở lâu tại am Di lặc, đàm luận kinh giáo, tạo dựng nơi đó rộng rãi ra, mọi người đến quy y rất đông nhiều. Tự soạn truyện 18 vị Cao tăng, về sau ứng phó chiếu chỉ sắc hiệu là “Huệ nhật”. Xưa kia gọi đó là núi Tần nhân, các hàng môn nhân đệ tử mãi đến ngày nay gọi thành tên núi vậy. Núi Bích la. Núi Bích la gần với núi Yên hà, trông nhìn xuống dưới có chùa Đại Minh, ngay đường lớn đi đến núi có hang Quán Âm, tháp vua A-dục đều xếp phía dưới đó, cúi trông nhìn các núi phía Nam tột cùng tầm mắt xa cả ngàn dặm. Núi Yên hà. Núi Yên hà về phía Nam xuống dưới có chùa Đại Minh, sau đó có tháp Đại Minh, hang Lạn kha. Phía trước có Hành Đạo Đàn. Về phía Đông có hang Lãn tán là nhà ở đoan nghiêm của Lý Nghiệp Hầu (5 núi trên đều hệ thuộc núi Chúc Dung). Núi Kim giản. Núi Kim giản. Xưa kia Hoàng đế vâng thọ giới kinh tại đó. Nay hiện có Đàn thọ kinh, hang Hoàng đế, động Hoàng lạc, là nơi của Chương từ Tam Thiên. Về phía Đông có hang Đại vọ, Võ Vương thiết trai hội, mộng thấy Thương Thủy sứ giả lên Thượng quân trao cho Kim giản ngọc thư, nhân đó mà gọi tên như vậy. Nữ có nguồn Đoạn thạch ẩn chân bình. Ở nguồn nước phía Tây nam có tảng đá cao vài trượng rộng vài trượng mà bên trong cắt đứt trên sườn đá đó có khắc chữ rằng: “Nước của ngọc sa như sửa ngọt thơm, người nào được nếm uống đó thì sống thọ đồng như trời đất”. Hoặc có người đến đó nghe dưới đá có tiếng nước, lắng nghe bên phải tức nghe bên trái, lắng nghe bên trái tức nghe bên phải. Theo “. . . ký” nói là: Nếu người tìm được nơi nguồn nước, ở đó có 1 cây lê, dùng đá đánh chọi vào cây, có tiên nhân tự ra. Xưa trước, Hiền Đề có bài thơ tứ tuyệt nói về “nguồn đoạn thạch” rằng: “Một giọt hoa sen hưởng muôn năm Mọi người đua hỏi nghe tiếng tăm Nào biết giếng đất lấp cát lâu Trên bờ sinh mọc cỏ san hồ”. Núi Hội tiên. Núi Hội tiên. Xưa kia, Tiết u lâu chú kinh Linh Bảo, đặt 2 người biện bạch về Tiên sinh, đàm Diệu huyền luận 5 châu du thần, bỗng nhiên gió thơm tỏa quanh chỗ ngồi, khí tốt lành ngưng lắng mây khói, 2 người mới lên đài phía tây, ẩn ánh thấy Xích Quân, bay giữa hư không mà qua. Chiêm ngưỡng vài lần, bỗng nhiên mất hẳn chỗ hiện tại, mây khói bèn tan, phía dưới có nhà của tiên sinh Bạch Vân. Núi Giáng chân. Núi Giáng chân. Theo “Tiêu lục” nói rằng: “Xưa kia, cung chúa của Viêm Đế thiết trai hội cầu chân, cảm được Huyền Quân giáng đến truyền Đạo, sau đó vài năm đổi hình luyện cốt đồng bay lên. ” Núi Tiên nham. Phía dưới núi Tiên nham có hang đá cao thoáng có thể dung chứa được vài trăm người. Xưa kia Lưu Căn tiên sinh đến ở đó luyện Đạo Thần - triêu - tu đế - nhất. Phía Đông có Tiếu đàn, dùng đèn đuốc mọi dụng cụ tế lò đến đá mà thành. Lại có, hang gió, ao Trường sinh, suối treo dỏ giọt giữa khoảng hang trống lạnh nhạt mà như tiếng đàn cầm. Cũng như Thính tuyền ở Tiểu tiềm, ứng tuyền ở cú dung. Phía dước có cỏ linh Tiên hoằng. Từ động Phong về phía Nam có hang động lớn, đó là cửa phía Đông của Chu Lăng. Nên trong thơ của Tào Đạo Xung có vế đối rằng: am. “Cửa nhà Trường sinh rõ ràng mở Mây ráng động lớn thước tấc liền. ” Là ấy vậy. Phía dưới lại có Tập tiên quán và nền móng Đan Hà Núi Phù dung. Núi Phù dung. Theo “Đế kỷ” nói rằng: Xưa kia Xích tinh tử trao cho vua Chuyên Húc kinh vi ngôn tại đó”. Nay hiện có Đàn Truyền kinh. Trong niên hiệu Hàm Hòa (?), Sơn Nam thấy có vài đổng tử cùng đàn hạc trắng bay liệng phía trên. * Núi Linh ẩn. Phía dưới núi Linh ẩn có hang Phục hổ. Theo “Cựu ký” nói rằng: “Cuối niên hiệu Quảng Minh (?) có người quê mùa tên là Trương Bạch Lao bỏ ăn cơm gạo, thường ngày chỉ uống rượu đục, chưa từng có lúc nào tỉnh, qua lại nơi Hành Dương. Ban ngày ngủ tại động Thạch cổ, ban đêm trở về lại hang. Mọi người có vài lúc thấy hổ nằm trước cửa hang nên không dám đến gần. Có người qua lại mà hỏi đó thì đáp rằng: “Phẩy đất lại, phẩy đất đi”. Trên đầu lại cắm hoa cỏ đông hoang, miệng thường ngâm ca rằng: “Hoa núi cắm trên đầu Rượu đục rót trong miệng Mắt say nhìn người tỉnh Bận rộn mất hết chân”. Về sau cũng không biết đi đến xứ nào, có người hái củi trông thấy thỉ chỉ đập phá chén bát mà thôi. Và từ đó, hổ cũng chẳng lại. Sau đó 5 năm có người trong làng trông thấy ông đến chốn thành đô. Phía dưới có am, nhà, ao, đường. Về phía Tây có nơi Trương Nguyên Hà thoát thay. Núi Bích vân. Núi Bích vân tại dướu Tử kim đài (Tử kim đài tức là Bình Bảo lộ) và Hạc minh đài. Về phía Tây nam trông thấy Vân Dương như bột chàm bác lam. Núi Thê châu. Núi Thê châu ở dưới Sản vân mẫu kim tương ngân. Theo “Cựu ký” nói rằng: “Xưa trước có người ở động Võ Dương gặp người chất phác, rẽ tóc mặc áo cỏ thân đài cao hơn 1 tấc, thấy thế mà bỏ chạy. Người chất phác ấy bảo rằng: “Ta là tiên đất, chẳng phải là quỷ núi, biết ngươi rất mực chí hiếu không giết hại mọi vật. Ngày nay cùng gặp đây cũng là có phần vậy. Ta nương náu nơi đây đã lâu, thường uống ăn thương nhó nay đã 200 năm. Ta sẽ vì ngươi mà chỉ bảo cách uống ăn đó”. Người kia chỉ bái lia lịa không thôi, mới chỉ cho cỏ để trông thấy đó. Bỗng nhiên biến mất. Từ đó về sau người kia uống loại cỏ đó, lâu ngày sức lực địch hơn cả trăm người mạnh khỏe, sống thọ hơn trăm tuổi. Nhân một ngày nọ nằm ngủ lại thấy người chất phác xưa trước, mới báo cùng cháu con xong rồi nằm nghiêm thiếp luôn qua đời. Núi Linh chi. Trong khoảng niên hiệu Hàm Thông (860-874) thời tiền Đường có Lý Sinh là người chất phác, khéo giỏi đàn cờ, khuôn mặt như xử nữ, thường ở tại kinh Tương, qua lại Trường sa, các hàng phụ lão hay trẻ con từ mới đầu trông thấy cho mãi đến ngày nay tướng trạng vẫn như nhất. Thường nói với mọi người rằng: “Núi nay là đất Chí Dương, dùng 1 âm làm trọng (chủ bên trong vậy, nên luyện tinh của thủy thạch, lâu mà uống dùng đó, thân nhẹ mà khí trụ, hết thật mà cốt chắc, đây là sáng sạch vậy (tức là vân mẫu). Tôi buổi sáng đến núi Thê hà, chiều tối về ngủ ở núi Linh chi, các bè bạn chơi cờ đánh đàn ở phía Tây núi Thiên nữ (bè bạn chơi đàn đánh cờ là kỳ xà thiện nữ. Thê hà quân là từ Quế lâm về hướng Bắc đi khoảng 20 dặm). Núi Hoa cái. Trong niên hiệu Đại nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, có vị Cao tăng ở tại đó tu hành, đến lúc hết lương thực, bèn trì tụng chú, uống dùng tinh, có người đến thăm hỏi mà chẳng hề nói. Về sau vào núi Liên hoa mà ở ẩn. Tại phía Nam núi đó có viện Hoa cái, là nơi 2 người con của Hoa cái quân bày biện tu hành. Lại có Đàm tiểu, Đan thành, sau đến cháu lên Đàn thoát thay. Ở phía Bắc núi đó có loại cỏ Trường sinh mọc lắm nhiều, thâu hái nó tuy lâu khô rất đơn lược, dùng nước ấm nóng rưới vào thì xanh biếc như mới mọc. Nếu người mang thai đến lúc gân sinh nấu nước ấm nóng mà uống tức liền sinh. Lại còn gọi đó là cỏ thúc giục sinh. Nay ở các núi khác cũng có. Núi Tử tiêu. Phía dưới núi Tử tiêu có Thuyên Đức quán, phía trên có Giá hạc đình, nền móng am Thiệu Duẫn. Xưa kia trong thời Đông Tấn, ngày Duẫn chân nhân xung bay có mây trắng phủ che khắp cùng núi hang suốt 3 ngày chưa tan. Về sau các hàng môn nhân đệ tử tạo dựng nhà Bạch Vân, nay hiện ở trong quán. Núi Hỷ dương. Dưới phía Nam núi Hỷ dương có nền móng viện Bắc Đế, ở phía Bắc có hang Điền chân. Phía Tây gần núi Tử tiêu, cũng còn gọi là núi Hỷ dương. Nay để xem xét thì Long sơn chẳng phải đó. Núi Vị đế. Núi Vị đế, xưa trước gọi là núi Luyện ngọc, phía trên có nói Huệ xa tử thoát thay, phía Đông có bàn cờ đá của Triệu giản. Phía sau có tảng đá khắc thơ, người biết chữ cũng không được thấy. Tương truyền rằng: “Đá của 3 đảo, mỗi đảo tướng trạng như Bầu chỏ, dưới thấu không đáy thông liền ra biển. Núi Chẩn tú. Núi Chẩn tú ở phía Bắc đền thờ cự nhạc dưới phía Tây nam núi Chúc dung, phía trên ngay núi Chẩn tú là nơi người cháu đời thứ 7 của Thiên sư thời nhà Hán được sách trời, phía sau là núi Ẩn thục. Phía Bắc, núi đó nơi ẩn níu có mọc nhiều loại cỏ Địa bất dung, hái lấy châm rót hòa đồng với bột Hùng Hoàng điều hòa mà uống dùng thì giải độc rắn rất tốt. Dùng nó tẩm buộc vào vết thương, tuy rắn khúc cách chừng 5 bộ cũng không lấy làm hại. Thuốc chữa trị rắn tuy lắm nhiều, nhưng công hiệu nhanh cóng không gì hơn thứ cỏ ấy. Huống gì Chu Lăng là phủ chú sinh, làng Thiên Thiện, giữa khoảng trong và ngoài núi hơn 300 dặm có trùng độc thú dữ cũng chẳng làm hại tổn thương đến người. Địa chỉ ở đó dung hòa, nước ngọt đất đẹp. Đến ở đó chẳng cần phải tu gì cũng được trường thọ và được tốt lành đến cùng bởi cũng do sự che chở của thọ sơn vậy. Núi Thị đế. Núi Thị đế phía dưới có nguồn Linh nguyên, nghe tiếng vọng hưởng mà không thấy nước, chỉ nghe giữa khoảng đá có âm thanh lạnh nhạt như tiếng người cùng nói với nhau, cũng như Thính thạch ở Lao sơn, thoại thạch ở Vạn niên sơn, phía dưới thông liền với khe Linh thọ, khe sâu ngầm, trong hang hóc có nhiều cây linh thọ, cành nhánh đều đối tiết, hoặc như chữ “phẩm”. Có người chặt lấy đó làm gậy chống. Lại còn gọi đó là vạn niên đằng. Núi Linh ứng. Xưa trước có Đặng Úc Chi, tự là Nguyên Đạt, người ở Tân Dã; Nam Dương có Phủ ấn trừ tà dứt độc trị bệnh, cứu giúp không thứ gì chẳng lành. Nhân đi hái thuốc nghỉ lại qua đêm nơi hang đá, mộng thấy Thần nhân báo rằng: “Ông rất có công sắp được nêu bày mời gọi. Ông nên ứng đáp đúng thời sẽ có nhiều vị tiên hầu ông”. Sau khi tỉnh giấc vừa kinh sợ vừa mừng vui. Đến đầu niên hiệu Thiên giám (502- 520) thời Nam Lương, Đài Ty tấu trình, có ngôi sao nỗi bày ở địa phận Trường sa. vua Võ Đế (Tiêu Diễn) ban sắc giám quân dò tìm phỏng hỏi. Sau khi có chiếu chỉ gọi đến luyện đơn được thành. Bèn dời đến ở trước động đó, quả nhiên có nhiều chân nhân nhóm tụ mà nghinh đón đồng bay lên Chu tónh chân. Nhân đó mà gọi tên như vậy. Núi Côi tiêu. Xưa kia, Trai Trương tư không đến bái yết đỉnh núi Chúc dung xoay trở về lên đến núi Côi tiêu an nghỉ thời gian dài, đưa mắt trông nhìn các ngọn núi thấy mây râm rất lớn như nhà sắp lớp của Phù đồ. Xa thấy ở phía Nam sông lớn mây khói sương móc tốt lành cuộn quanh giữa trời, ẩn ẩn có vài ngọn núi cắm giữa tầng mây, mới nói với mọi người cùng đi theo rằng: “Đây chẳng là Tử Lân ư?” Bèn dẫn cả gia đình cỏ Trường phát, phàm ngắt bẻ 1 cành, bên trong đều như tơ nhỏ mịn, mãy lông không thấy, dùng lửa thiêu đốt thành bột hòa với đầu hang bôi thoa lên đầu, có thể làm tóc nhanh dài. Lại có Kim lộ bàn sinh mọc nơi thuyết ẩn, hái nó ở nơi đen đối, ẩn ẩn có ánh sáng cũng trải qua nửa năm không khô. Trong Tiêu phương nói giống cỏ đó thông linh, cũng ít có dùng. Lá hạnh kim tuyến sách cũng chẳng kịp với nó. Núi Thạch khuân. Núi Thạch khuân có 2 tảng đá hình tròn, bên trong có thạch thất, tại trên hang cốc thuyết tối, mọi người đi hái thuốc thường nghe trong thất có tiếng tụng kinh. Lại có Thạch nhũ. Người nào uống dùng đó thì được Trường sinh. Hoặc có thuyết nói: Núi Thạch khuân tựa vào núi Thạch lẫm, phía Đông có nền móng Thái Thanh quán. Tại phía Đông bắc của Thái thanh quán, nay không khảo cứ có nền móng cũ, tức xưa trước có am cốc vậy. Núi Hương lô. Dưới phía Nam núi Hương lô có chùa Bảo thắng, phía trên có nền móng viện Tử cái, bếp tiên trà, tức là nơi trạm tiếp đãi Tiên luyện đan vậy. Núi Nhật cái. Núi Nhật cái nhìn về bên tả là Thánh thọ Hoa Nghiêm, nhìn về bên hữu là Nam đài Thiên trụ. Núi Nữ thiện. Núi Nữ thiện, xưa kia có 1 người nữ để xõa tóc dài tới eo lưng, lông trên than mình dài hơn cả tấc sắc màu xanh biếc, mọi người thường trông thấy, hỏi điều gì cũng chỉ nói là “Thiện”. Nhân thế mà gọi đó là Thiện nữ. Hoặc thấy ở tại núi Kỳ Xà cùng với Đạo nhân Lý Hà Chu làm bạn chơi đàn đánh cờ. Núi Tập hiền. Phía dưới núi Tập hiền có thư viện Nam nhạc, là nói Lý Bí và Trương Cửu Lónh thường đàm luận tại đó, nên xưng gọi tên như vậy. Dưới phía Nam núi đó có chùa Hành nhạc. Hai núi Thổ vụ và Thân tử. Hai núi Thổ vụ và Thân tử gần liền với núi Bạch mã, đều là núi chúa trong bản huyện. Trên đỉnh núi Thổ vụ cùng mây kín tương ưng, trong cảnh vức xác định về mưa, thương chẳng sai thờihạn. Phía dưới có động Bạch Long, phía Bắc có đài Ngưỡng Thiên, miếu thần nền móng chùa Ni, cũng có am vũ và Tăng só, Đạo só ở đó. Núi Bạch mã. Núi Bạch mã, y cứ theo “Sơn Hải kinh” nói rằng: Xưa kia Hạ Võ ở đó giết ngựa trắng tế trời, ngửa mặt lên trời mà kêu mộng thấy có đồng tử vận mặc tơ màu tự xưng là Thương thủy nữ di sứ giả, trao cho kim giản và ngọc văn, nhân đó mà đặt tên như thế. Lại gọi là đài Ngưỡng thiên. Theo “Thập di” nói rằng: Đó là nơi xưa kia Tử Hư nguyên quân triệu phù rượt đuổi rồng trắng”. Nay trong đời gọi đó là động Bạch long, chỉ có miếu Thần long, phía trên có am Vũ, và Tăng só, Đạo só ở đó. Núi Mã yên. Núi Mã yên tại phía Nam đường lớn Bình dã và không đặt để gì tốt đẹp. Núi Di lặc. Núi Di lặc, trong thời tiền Đường, có Đạo giả đến Nam nhạc, lợp chọi lại am cũ của Cao tăng Trí Dónh ở thời nhà Tùy mà ở, tự xưng gọi là Di Lặc, rất thông rành cả Tam giáo, vận mặc áo sam, chẳng kiểm thúc, ham ưa thích ngủ nghỉ. Về sau ứng chiếu mà chẳng trở về. Dân chúng ở địa phương nhân đó mà xưng gọi là núi Di lặc vậy (27 ngọn núi trên hệ thuộc về núi Tử cái). Núi Bích thứu. Núi Bích thứu tại phía Bắc động Cửu chân, cuối thời nhà Đường có Vương tiên sinh, cũng không biết tu ở xứ nào đến lập am tại phía Nam núi đó. Nhân thấy hình thế của ngọn núi khác lạ, khói trong khí đẹp che phủ đỉnh núi, cỏ thơm hoa tiên ánh ngời nơi khe hang. Theo “Tín sơn ký” nói rằng: “Thuốc mùa thu thì thật, mùa đông dùng rễ. Mầm mống mùa xuân lấy vào tháng 3, mùa hạ lấy vào tháng 5.Dư Bình ngày trước có được bí quyết sắp thành nơi đây, mới sai sơn đồng đi hái cỏ linh ở khắp 5 ngọn núi, đem về đàn cao kiếm bộ tinh cương, y cứ theo Chu thiên điều hòa nước lửa luyện Đan tam tố. Thuốc lớn thì kéo dài mạng sống nhẹ nhàng, thuốc nhỏ thì cứu giúp các bệnh trầm kha. Lâu dần mà tiếng tăm vang đến chốn kinh đô. Phụng vâng chiếu chỉ bèn dời đến ở Trung nhạc để tiện tu hỏi”. Núi Bạch vân. Phía Tây núi Bạch vân có chùa Bạch vân, phía dưới có đầm rồng, thần rồng thường vào ra linh cảm, những người còn mang nặng các chất tanh nồng không dám đến gần. Là tiện cửa phía Đông của Chu Lăng động thiên cùng với nguồn Đoạn thạch phía trước Đông thông nhau. Phía dưới có động Bạch vân. Núi Cao kỳ và núi Hạp trỉ. Núi Cao kỳ và núi Hạp trỉ đều thuộc giới phận của Tương Đàm, chốn đất cách Nam nhạc khoảng vài xá, đều không đặt để tốt đẹp, có chùa, cũng chẳng hệ thuộc cảnh vức của núi. Núi Linh lộc. Núi Linh lộc (tức là Nhạc Lộc) tại phía Tây sông Tương thuộc Đàm châu, hệ thuộc phước địa 20 động chân khư. Theo “cổ thơ” nói rằng: “Động ngọc, đàn tiêu cao lãnh lạc Thành châu hang hóc sắc đẹp xinh Đáng thương trong thành người dằn dặc Chẳng biết Tiêu tương, xuân bốn mùa”. Theo “Tương Trung ký” nói là: Bên trong có động Bảo hoàng, phía dưới có động Chân quán là nơi Đặng Úc Chi ở thời Đông Tấn tu luyện Đan nội ngoại, về sau thăng chân ở Nam nhạc. Mỗi năm đến mùa thu tiên hạc thường tụ tập trước cửa động, đến nay vẫn không tuyệt dứt. Trong triều nhà Tống chúng ta có bài thơ “Mặc tình ngủ” là: “Đặc đạo chân tiên đi chẳng về Để không cung diện cao vời vợi Ngàn năm thắng địa nhiều cảm lạ Đàn hạc liệng bay từng năm về”. Và cũng trong triều đại nhà Tống chúng ta cải đổi là Cảnh Đức, miếu Huy triều đổi là Nhạc lộc vạn thọ cung, hai bên tả hữu có 2 ngôi chùa Đạo Lâm và Nhạc Lộc, xưa kia trong “Hiền thi” có 1 câu đối là: “Mây che một phước địa, đường cách hai rừng thiền”. Đường Hiên viên, Di Minh thường ở ẩn tại thư viện Nhạc Lộc đó, thì ở bên trong đó. Trong niên hiệu Tường Phù (1008-1017) thời Bắc Tống, có Tú thủy Lê bạch đến ở đó gặp được Đạo só Trương Bảo Hoàng truyền cho nội Bát quái Hệ từ, vâng tu theo đó mà thành Đạo, núi đó vốn không có chim tước, tại động có đá xanh, phía Đông có hàng Quân chân, phía Tây có tháp xá-lợi, Đài Đạo Hương, suối Hán Hoàng quảng Bạch Hạc, đình Phong Ngạc, đều tốt lành đặt để vậy. Lại có Bả tiên gặp Lã Động Tân đồng qua lại trong động, có vài lần qua dưới thành mà không người nào hay biết (5 núi trên hệ thuộc núi Vân Mật). Núi Thạch lựu. Dưới phía Nam núi Thạch lựu có cửa động và nền móng Đạo quán. Phía Bắc có khe Tịch dương, hang Tịch dương đảo ngược lại động. Dưới phía Bắc có Mê tân (Bến mê). Xưa kia có người đi tìm thuốc lạc mê đường sá, chỉ thấy hoa lựu đỏ như lửa. Đi đến Mãn cốc gặp ông cụ già nắm cành hoa thạch lựu mà bảo rằng: “Thuốc tiên cách đây không xa”. Nói xong, bèn liền không thấy. Người đó về sau trở về cung Động dương nói cùng Đạo bạn, mọi người đều ngờ rằng, lại dấm thử hoa lựu mà nghỉ bỏ ăn lươngthực, không biết về sau thế nào. Lại nữa, dưới phía Nam có nơi Huệ ung chân nhân gá vào nước trốn lánh người tần. Người đó gọi là Đầm Trương Ông. Núi Thái hà. Núi Thái hà, xưa kia tức là núi Tương ứng, vào thời nhà Tề có chữ bá ngọc, tự là nguyên cừ ẩn tại phía Nam núi đó hơn 10 năm, khéo thông gồm các thuật giải, hái huyện nhả nạp. Ban đêm có Thần nhân đến báo cùng Tề Cao Tổ rằng: “Tại Nam nhạc có người khác lạ, báo cho bệ hạ vì cầu phước”. Nhân đó, vua dò xét phỏng hỏi, ban sắc chiếu mời gọi mà chẳng chịu đến, sau đêm Đoan ngọ (mộng 05 tháng 05), mộng thấy luyện Đan, vua bảio: “Đó là tiên Bách vậy, trước ta từng ban sắc chiếu mời mà chẳng đến”. Nhân đó bèn ban chiếu cho cả 2 quân Ngô, Cối đem lễ đến dâng cúng, ban sắc tạo dựng Thánh bình quán, dời núi Bạo bố xuống dưới, có môn nhân đệ tử Vương Tăng trấn, tên là Ứng tướng. Núi Bạch thạch. Núi Bạch thạch trùng điệp với núi Ứng tướng, phía dưới, xưa trước có am vũ. Núi Vónh thái. Núi Vónh thái, xưa trước gọi là núi Triều châu. Phía Đông có nền móng ngôi Đạo Quán xưa cũ, phía Nam có nền móng ngôi chùa xưa cũ, động Long châu. Phía trên có nền móng địa chỉ nơi Ân tiên sinh chầu Đẩu, thất ẩn của Thạch khác. Núi Cửu nữ. Núi Cửu nữ, hoặc có thuyết nói là xưa trước có miếu của 9 người nữ. Nay ở phía Tây bắc thấy có hang của 9 người nam. Đều không có văn kiện nào đáng nêu xuất. Núi Vân long. Dưới phía Tây núi Vân long có nền móng Tây chân quán. Theo “Đạo lục” nói là: Vào thời Tây Hán Thục, đó là nơi Đạo só Vương Cốc Thần, Bì Huyền Diệu ở núi Thanh thành tu nhân tại đó. Đến thời Hậu đường lại có Huân Phụng Tiên tiếp tục tu hành. Lại vào Hành dương tìm Chân quán, nay còn có đá tụng kinh và tôn tượng chân nhân bằng đá. Phía Bắc có nền móng chùa Vân long. Núi Song thạch. Phía dưới núi Song thạch có 2 ngôi chùa Song phong và Năng nhân, phía Bắc có đình Bạo Bố Ngọc Hồng, chùa Sơ An, hang Thập huệ. Núi Minh nguyệt. Núi Minh nguyệt tại núi Song thạch, phía Đông bắc có 2 ngôi chùa Thừa thiên và Sơ minh. Núi Thanh sầm. Phía dưới núi Thanh sầm có 2 ngôi chùa Đông lâm và chùa Tây lâm. Núi Phổ Hiền. Núi Phổ Hiền về phía Đông bắc có Thạch thất, lấy sự nghỉ ngơi mà đặt tên. Vào thời tiền Đường có vị Cao tăng để dài buông xỏa râu tóc mà ở đó, và không có khói lửa mọi thứ khí cụ. Như có người hỏi điều gì thì chỉ nói: “Vui vẻ nghỉ ngơi chỉ hơn 70 năm, thọ trăm vài mươi tuổi”. Hoặc nói là: “Từng gặp Tông Bính ở thời Tiền Tống truyền Đạo mà không ăn”. Theo “Cựu ký” nói rằng: “Phía dưới có Phổ Hiền Quán, các Đạo só đều là những vị đức lớn ở mười phương tụ tập, giảng luận sâu mầu. Tiếng tăm vang khắp nước nhà, vâng phụng chiếu ban sắc biển ngạch là “Phổ Hiền” và gồm thêm các thứ trang điền để đầy đủ cho việc tu tập và hương hỏa. Núi đó nhân từ Đạo quán mà có được tên gọi. Đến trong triều đại nhà Tống chúng ta thì ban sắc biển ngạch là “Xung chân” vậy. Núi Cú lũ. Dưới phía Nam núi Cú lũ có chùa Pháp luân, phía sau có điện Tiên Vương, động Lôi, động Diệu hỷ, đình Đạo nhân. Hàn Dũ có bài vịnh về văn bia của Võ Vương đại khái là: “Đạo nhân riêng ở trên, tình cờ trông gặp được” ấy vậy. Trong “Hành sơn ký” của Từ Linh kỳ nói rằng: “Tại núi Vân mật có văn bia của Võ Vương trị thủy, đều viết theo lối chữ hình nòng nọc. Dưới bia có Thạch đàn, dòng nước cuộn quanh đó rất là thắng tuyệt”. Nay tại chùa Pháp Luân có đình Đạo nhân. Tương truyền là: Xưa trước có vị Đạo nhân, thấy gặp ở núi Cú lũ. Về sau trong văn của Hàn Dũ mới có câu đó. Nay đây nêu bày ra cả hai. Núi Hội thiện. Núi Hội thiện, xưa trước gọi là núi Mao nữ. Phía dưới có chùa Hội thiện, là nơi cùng gặp gỡ tụ hội của 18 vị Cao tăng. Là nơi giảng tập rất đượm nhuần thiền duyệt, nhân đó mà đặt gọi lại tên như thế. Núi Tiềm Thánh. Núi Tiềm Thánh, xưa trước có Cao tăng Hy Tần vân du đến Nam nhạc, gấp tìm chùa Phương Quảng, phỏng hỏi Tôn giả Tuệ hải, trải qua trọn năm mà không thấy tông tích. Bỗng một ngày nọ thấy ngôi Tinh xá đề hiệu là “Phương Quảng”. Gặp Tôn giả hỏi cớ sao đến chậm trễ. Cho nghỉ lại qua đêm, sáng sớm ngày đưa tiễn ra thì phòng nhà người và chùa, trọn không thấy gì cả, nhân đó mà đặt tên như vậy. Lại nữa, Phòng Nhật tỳ tiên sinh đã 3 thời kỳ tu luyện pháp Huyền Bạch tại đó, bỏ ăn cơm gạo, bị sơn tiêu yêu quái não hại, nhân đó dời chuyển đến núi Cửu nghi mà thoát bỏ thay. Lại có vị Tăng chùa Chúc Dung, ở từ phương xa đến quyên góp được 500 đồ vật để cúng dường, ước theo ý chí chủ phỏng hỏi chùa núi, trọn ngày rảo đi khắp mà không nghe thấy danh tích. Đến chiều sẩm tối trông nhìn về phía Tây đỉnh núi Chúc Dung, ẩn hiện ngôi Tinh xá và thấy vị Hóa chủ, hỏi rằng: “Sao đến muộn màng thế?”. Và tiếp đãi rất nồng hậu, xong rồi đến hiêng phía Tây, có người sang quý vận mặc y phục sắc vàng nằm ngủ, vị Tăng ấy bảo: “Đó là Thánh đế, lánh nơi ồn ào huyên náo mà đến nghỉ ngơi tại đây”. Kịp đến lúc tiển đưa ra cửa trọn không còn thấy gì chỉ là núi hoang mà thôi. Núi Liên Hoa. Núi Liên Hoa, phía dưới có chùa Phương Quảng. Có 8 núi 4 sông bao bọc chung quanh. Xưa trước có người đề thơ đại lược là: “Chùa tại trong hoa sen Các núi gá cánh hoa”. Lại nữa, phạm dần lượng có 1 câu đối rằng: “Chùa ẩn đỉnh búi tóc Người ở ngó tim hoa”. Phía Bắc có dấu vết xe nguồn Linh Triệt. Theo Tích ký nói rằng: “Xưa kia có vị A-la-hán ở đó, các quỷ thần vận chuyển lương thực, dấu vết xe in trên đường. Phía Đông trông nhìn đến am Ba tiêu, là nói Cao tăng Tông Bính ở thời Tiền Tống tu hành, phía Bắc có tháp Linh nguyên”. * Núi Thiên Đường. Núi Thiên Đường về phía Tây có Thạch thất, khám định chí; Ân Cảnh Đông lễ Tinh Đẩu, là nơi xuất sinh tự trồng giống Sài Hồ Ưu Thắng. Lại có Hòa thượng Thảo y (áo cỏ) gọi là Đinh Danh, về sau dời đến ở núi Diệu cao, Hòa thượng bện kết cỏ làm áo mặc, nhân đó mà xưng gọi như vậy, cành cỏ ấy cứ từng cặp buộc nhau, nếu cành có rủ đầu thì gọi là cành La-hán. Từ trong các hang cốc của núi Thiên Đường, tiềm Thánh sinh mọc rất nhiều. Xưa kia là nơi trạm tuyến tiếp đãi các Tiên thường hái cỏ ấy để kết chu thủy ngân làm Đan đầu, nhân đó mà gọi là cành tiên nhân. Nên trong thơ “Đan phòng lục” có câu đối rằng: “Trước hang nhặt dây buộc, trong lửa phục Đan sa” là ấy vậy. Cỏ ấy từ trên hang núi tủa rủ xuống, nên cũng còn gọi là “cỏ thùy nham”, xưa kia có người vịnh thơ “La-hán Điều” rằng là: “Năm năm dời lầu dứt động sâu Chẳng để vết tích khó tìm cầu Men tơ cành giải người nào thí Dài đến qua xuân treo đầy rừng”. Núi Tường Quang. Núi Tường Quang, xưa trước gọi là núi Hạc Minh. Phía Bắc có Linh Điền. Có thuyết nói là đồng bằng linh và hang linh. Theo “Cựu tập” nói rằng: “Tiêu linh gìn giữ bếp Đan ở tại đó, khoảng đầu niên hiệu Đoan Củng (988-990) thời Bắc Tống thường có ánh sáng của Đan tỏa ra như khí đuốc. Ở Dự chương có vị Đạo só đi đến núi thầm kín có điều cảm, chí thành mong cầu mà không gặp. Về sau có 1 liùnh tốt đến núi đó, ở nơi Hang linh mà có được vài quyển Đạo Vinh, bèn đem ra ngoài đổi bán vậy. Núi Hồi nhạn. Núi Hồi nhạn tại phía Nam thành Hành châu, căn cứ theo Đồ kinh nói rằng: Đó là đầu của Nam Nhạc. Chim nhạn đến đó bèn đứng chẳng tiếp qua phía Nam, gặp đến lúc mùa xuân thì trở về lại phương Bắc. Nên trong “Nguyệt lệnh” nói: “Quê hương chim nhạn ở phương Bắc” là đó vậy. Trong thơ “Phiếm tiểu tương” của Đổ tuân Hạc có 1 khúc rằng: “Vườn đến đêm sâu khóc Nam Nhạc lộc biết xuân Gần cách Hành Dương nam Có Đùa ngư châu hợp”. Đình Giang, am Bàng cư só vô sinh, cảnh đức đạo quán. Xưa trước có chùa Thạch cổ. Nay thư viện thạch cổ là nơi nền móng xưa cũ của chùa vậy. Lại có Nhạn phong sứ giả (kẻ sứ núi nhạn), sự việc cụ thể như ở quyển hạ (17 ngọn núi trên hệ thuộc núi Thạch Lẫm). Núi Di Đà. Núi Di Đà về phía Đông bắc có hang rỗng hiểm mờ tối, trước thất cách vài bước không dung đặt chân. Xưa kia cây dây quái lạ giăng phủ đầy ních không có vết chân người. Theo Cựu ký nói là: “Người xưa thường nghe có tiếng tụng kinh”, tương truyền là có vị Cao tăng ở trong hang núi chẳng ăn uống gì, chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Triều đình đến nêu bày hỏi cũng không dậy ra. Về sau, Cao tăng đó đắc đạo, nhân đó mà gọi là núi Di Đà, phía dưới có chùa-di-đà, ban sắc là “Ban Chu Đạo Tràng” vậy. Núi Bình chướng. Núi Bình chướng tại phía Đông núi Thiên Đường, phía trên có luyện Đan đàn, và đá chầu tinh đẩu. Núi Vónh hòa. Núi Vónh hòa, phía trên có đài Vónh Hòa, xưa trước tương truyền có 2 nền móng Đạo quán và chùa Phật. Núi Kỳ xà. Núi Kỳ xà, nghóa là hình tượng của núi cùng với núi Kỳ xà ở nước Thiên Trúc không khác, nên gọi tên như vậy. Về phía Bắc có am, hang, nền móng hiện còn. Theo “Cựu ký” nói là: “Xưa trước có 1 người thiện nữ, không biết dòng họ là gì. Có người hỏi han điều gì thì chỉ vén kéo tay áo vui vẻ mà nói là “Thiện”, nhân đó mà xưng gọi “Thiện nữ”. Hoặc có thuyết nói: Thiện nữ thường tụng kinh Hoàng Đình, tứ nói là: “Đánh cờ chơi đàn ở ngụ vui nhạc là có Lý sinh”. Trong khoan ngoài nhu, đồng hoang rảo ngựa, gặp người thường nói đó mà xưng là “Thiện” về sau cũng không biết đi đến nơi nào. Theo Lý Hà Chu nói là: Dưới phía Tây núi Thiện nữ có gò núi xanh biếc, ở đó có tháp của Khế Hàng Đại Trưởng lão. Núi Linh dược. Núi Linh dược về phía Đông bắc có ngôi thạch thất. Theo “Tiêu Linh Hộ Động Chân tập” nói là: Những Đạo só tu luyện Đan muốn hái thuốc linh cỏ lạ để chế luyện Đan thạch, thì trong núi đây, ngoài 5-7 dặm đại khái có đến 10 loại đều là Tiên phẩm thượng dược. Các núi khác tuy rộng thoáng, hang hóc sâu tối, nhưng so về cỏ linh thì chẳng sánh kịp như ở núi này. Xưa kia, Tân Dã tiên sinh Đan tài gần hoàn bị, nhưng gặp phải một vài hoạn nạn khó xét, cùng với Từ Quân rảo bước khắp tam tương, nhân trở lại Nam Sơn, đến núi này hái thuộc, về sau Đan luyện được thành, nhân đó mà gọi tên như vậy”. Núi Bích tụ. Núi Bích tụ, phía dưới có nền móng chùa Tụ Phong, phía Tây có nền móng Tây đài quán, còn gọi là Thái sơ quán, không văn kiện nào có thể y cứ. Xưa trước có am vũ. Núi Am thượng. Núi Am thượng về phía Tây nam có chùa chỉ Quán. Chùa Nhiếp thọ, chùa An lạc, nền móng cũ của Linh nham, ao mực Triệu Quý Tây thư trai, đều ở trước sau, có miếu Thuấn, khe Thuấn, động Thuấn là những nơi mà xưa kia Đế Thuấn trèo đến núi Cửu nghi nhân đi qua những nơi đó vậy. Núi Linh cầm. Núi Linh cầm về phía Bắc có Đàn Lương song tập tổ chầu Tinh Đẩu. Vào thời tiền Đường, Tiết U Thê cũng đến Đàn đó để tìm chân cầu cảm, bao quanh cây cũ bít trời, rừng lớn tốt tươi. Phía trên vong vọng tiếng chim kết thành Đàn mà bay, lông cánh khác màu hồng đỏ xen lẫn, tiếng kêu như sinh Hoàng, bay trên chẳng cùng hòa mà kêu, thường đến đậu nghỉ tại núi đó, nhân thế mà gọi tên vậy. Núi Phụng hoàng. Núi Phụng hoàng, xưa kia Chúc Dung Quân lên Nam Nhạc bái yết Huyền Quân, cảm có Bích kê phụng hoàng nhóm tụ tại núi đó. Trên núi sinh mọc loại trúc thật. Trong “thơ cổ” nói là: “Văn Phụng nhóm Nam Nhạc Bồi hồi rễ trúc đơn Trong tâm không nhàm chán Vượt bay lấn núi tía. Há chẳng từng gian khổ Ngon cùng Đàn sẻ vàng, Bao giờ thường ứng lại Thuận cùng Thánh minh quân”. Lại nữa, Mã dung có bài phú rằng: “Chỉ ngô đồng sinh mọc ư? Tại Hành sơn đến Tuấn pha”. Theo “Cựu ký” nói là: Trên có Tuấn pha mà sinh mọc ngô đồng, chim son cỏ đẹp nên cùng lại vậy”. Núi Văn-thù. Núi Văn-thù, xưa trước Thái tử của vua Tuyên Tông thời tiền Đường kính mộ Đạo, từ Hoắc sơn đến Hành sơn đi tuần lễ bái các Đạo tràng cổ tích. Đến Tuấn Pha theo hướng Tây trông thấy thụy tướng sắc màu vàng ròng, thấy giữa lưng chừng khoảng không, bèn kính bạch rằng: “Thật Phật Tổ sư!”. Về sau đem hỏi. Hòa thượng Di Đà bảo: “Đó là Bồ-tát Văn-thù vậy”. Nhân đó mà gọi tên như thế. Núi Trịch Bát. Núi Trịch Bát phía trên có đá định tâm, phía dưới có hang Ẩn thân, hai dòng suối Hổ bào và Trác tích, 2 am Quán Âm và Mã tổ, nước đủ 8 công đức, Tam sinh tàng. Đình Nhạc tâm, cầu Đâu suất v.v… đều xếp bày trước sau, hai bên tả hữu hệ thuộc chùa Phước Nghiêm. Tương truyền là: Xưa kia Đại Hòa thượng Ân ném bát mà cưỡi qua sông đến ứng chiếu của Trần chúa. Nhân đó mà đặt gọi tên như vậy. Núi Thụy ứng. Núi Thụy ứng phía trên có cây lớn, cành rễ tập tễnh hiện nổi tướng trạng như rùa, chợt trông thấy đều rất đáng sợ. Nhân đó mà tạo dựng điện Thọ tinh để vì cầu đảo; đó là chỗ Thánh vậy, phía dưới có chùa Nam Đài. Núi Vân cư. Núi Vân cư, phía dưới có chùa Vân cư, cầu đá, đình Ngưng bích, đường Kim Ngưu, sườn Thối Đạo, cùng gần với Nam đài, ngay đường lớn đi đến núi vậy (13 núi trên hệ thuộc núi Thiên trụ). <詞>Nam nhạc có 1 động Thiên. Động thứ 3 của Nam nhạc hành sơn, tức Chu lăng thái hư nhỏ có 1 động thiên. <詞>Nam nhạc có 4 phước địa. Phước địa động Chân khư (tại Nhạc lộc thứ 20) Phước địa Thanh ngọc đàn (thứ 21) Phước địa Quang thiên đàn (thứ 22) Phước địa động Linh nguyên (thứ 25). <詞>Hai cảnh. Ở phía Tây núi Bạch vân, thuộc phía Đông núi Thanh sầm hình thế như 9 nhìn tới gọi đó là Thánh cảnh (Thánh tức là Chu lăng cung). Ở phía Bắc núi Triều nhật, thuộc phía Nam núi Cú lũ hình thế như 9 xoay lưng, gọi đó là Linh cảnh (Linh nghóa chùa Phương Quảng). <詞>Ba khe suối. Khe suối Linh: Thông với nguồn iên mà có lắm nhiều thuốc tiên, nhân đó mà gọi tên như vậy. Xưa trước gọi là Long châu, chảy ra nơi Hoàng đình quán ở phía dưới núi Thiên trụ, phía Nam hợp với khe suối Thọ, thành dòng đổ vào Bình dã tưới tốt ruộng lúa. Khe suối Thọ: Nguồn nước rất cao ở tại Thánh thọ quán, nhân đó mà gọi tên như vậy, chảy ra hang núi Dã nhân ở dưới phía Tây núi Tử cái, trải qua dưới Lộc uyển đến trước Quán hợp dòng đổ xuống đảo Thạch, ngang qua cầu Nhạc từ Linh thọ, hợp dòng với khe suối Linh để tưới tốt ruộng lúa. Khe suối Động chân: Thông tiếp với Chu lăng động phủ, thế nước từ cao trút rót xuống như rèm, cũng như Thủy liêm động, nguồn nước ấy rất cao ngang bằng cùng các ngọn núi, chảy ra phía Đông núi Tử cái, thuộc phía Nam núi Chúc Dung, đến Hội chân Quán ở dưới nguồn Động linh, thành dòng đổ vào Bình dã để tưới tốt ruộng đồng. <詞>Sáu nguồn: Nguồn Đoạn thạch Nguồn Đào hoa Nguồn Động linh Nguồn Linh Nguồn Linh triệt Nguồn Đại thủy. <詞>Sáu cửa: Động Đại (cửa phía Đông Động thiên) Đầm Đâu suất (cửa phía Nam Động thiên) Động Thạch cổ (cửa phía Tây Động thiên) Đầm núi Long vương (cửa phía Bắc Động thiên) Đầm Bạch vân (cửa Tiện phía Đông) Động Môn quán (cửa Tiện phía Tây). <詞>Chín khe: Khe Thuấn Khe Võ Khe Thanh Khe Minh Khe Song Khe Quyên Khe Hoằng Khe Vân Khe Tịch dương. <詞>Mười lăm động: Động Chu lăng Động Hoàng lạc Động Thuấn Động Bạch vân Động Tây minh Động Quán Âm Động Điệp tướng Động Tiền Động Ngọc thanh Động Cửu chân Động Diệu hỷ Động Vân cảnh Động Bảo chân Động sau La-hán Động Đảo. <詞>Mười sáu đài: Đài Chu lăng Đài Thiên bảo Đài Phóng hạc Đài Ban chu Đài Bát Nhã Đài Nam Đài Cao Đài Động linh Đài Thất bảo Đài Tầm chân Đài Ngưỡng thiên Đài Vónh hòa Đài Tử kim ( Bảo lộ) Đài Thiên hương Đài Lăng không. Đài Tây. <詞>Mười bốn tháp. Tháp Xá-lợi Thích Ca Tháp A-dục vương Tháp Tam sinh Tháp Văn-thù Tháp Linh Nguyên Tháp Quán Âm Tháp Nhị sinh Tháp Thạch Đầu Tháp Thiền Lâm Tháp Đại Minh Tháp Lại Tán Tháp Thập Huệ Tháp Thánh Tháp Khế Hàng. <詞>Hai mươi ba Đàn. Đàn Thanh ngọc Đàn Quang thiên Đàn Xích tùng Đàn Lễ đẩu Đàn Thăng thiên Đàn Giáng chân Đàn Triều chân Đàn Truyền kinh Đàn Phi lưu Đàn Hành đạo (2) Đàn Triều thiên Đàn Tôn đăng Đàn Luyện chân Đàn Tế thăng Đàn tụng kinh Đàn Hội tiên Đàn Thọ giới (2) Đàn Luyện đan (3) Đàn Giảng kinh. <詞>Ba mươi tám hang núi. Hang Hoàng đế Hang Đại Võ Hang Đan Hoắc Hang Tî Tiền Hang Thượng Thanh Hang Lưu Chân Hang Lónh thư Hang Ẩn thân Hang Tiêu táo Hang Dã nhân Hang Huyện đan Hang Tiếu đẩu Hang Phụ huyên Hang Tịch dương Hang Khống báo Hang Lâu toàn Hang Bả châm Hang Quán Âm Hang Bạch hạc Hang Hưu Hang Dạ quang Hang Tối thắng Hang Ổ dược Hang Hưu lương Hang Quy Hang Điền chân Hang Phục hổ Hang Quảng thành Hang Thạch nhũ Hang Hạ Hang Khổng Tước Hang Thảo y Hang Phi phù Hang tụng kinh Hang thượng Hang Linh Hang Thập huệ Hang Yến tiên. <詞>Hai mươi lăm suối: Suối Ngọc sa Suối Hạc minh Suối Quán Âm Suối Mộng ứng Suối Cam Suối Hổ báo Suối Dạ lạc Suối Đắc Đạo Suối Dục đan Suối Phổ dung Suối Huyền (Phụng hoàng) Suối kim sa Suối Bạch hạc Suối Trác tích (3) Suối Linh Suối Tẩy dược Suối Bạch quy Suối Lôi đình Suối An lạc Suối Thương long Suối Nhất chước. <詞>Chín ao. Ao Tiên nhân Ao Trường sinh Ao Dục đan (2) Ao Pháp lũ Ao Tẩy bát Ao Lôi (2) Ao Tẩy dược. vậy). <詞>Tám ngôi nhà. Nhà thuốc tiên sinh Bạch Vân Nhà thuốc Vương Thị Nhà Đan của tiên sinh Trần Nhà Luyện đan tiên sinh Vương Nhà kinh của ẩn só Kinh Đài Nhà sách của tướng công Lý Bí Nhà sách của tướng công Vi Trụ Nhà sách của xá nhân Lô Phan (Nay tức là Thọ Kỳ Đạo Quán <詞>Tựa Nhạc từ. Nhạc miếu tại dưới phía Nam núi Tử cái, thuốc phía Tây núi Hỷ dương, phía Đông núi Tập hiền, núi Nhã vụ xoay mặt về phía Nam, núi Chẩn tú xoạc dài về hướng Bắc, chu vi rộng khoảng 2-3 dặm, ước có hơn 800 gian, ngàn cây sam xanh rờn tốt um, vạn ngói khói sinh mọc, 1 dòng nước 3 chầu. Các ngọn núi bao quanh 4 phía, khe suối Linh thọ, 9 dòng nước chảy xiếc 3 lớp trút đổ xuống Đảo thạch, nhiễu quanh núi Xích đế, phân dòng theo hướng Đông chảy vào trong miếu. Ao Kê minh chảy ra ngoài cửa Lưu tinh. Ao Hộ long theo hướng Tây chảy hợp vào khe suối, phân rót vào Bình dã, vốn tên là “Ty Thiên Hoắc Vương Miếu”. Vì Nam phương thuộc Hỏa nên phối thần gọi là Chúc Dung. Căn cứ theo “Ngũ Nhạc kinh” nói rằng: Núi Nam nhạc hình thể tợ như Chu Hoắc, là nơi trị vì của Thái Dương Viêm Lão Quân, nguyên khí xông lên liên tục, sao sáng ngời, Viêm Lão Quân dùng để xử lý chủ hạ khí bên trong đó, nuôi lớn muôn vật, sai thần Bính Đinh (lửa) thực hành Thiên đức, sai thần Kỷ Ngọ (?) chỉnh sửa khí đất. Muôn thần đế đến ngày Lập hạ lên núi đó, vào xích thạch ngọc quan (ải ngọc đá đỏ) bái yết Viêm Lão Quân, thọ nhận phù Thiên huyền, xong rồi mỗi tự trở về khắp 4 phương, vời gọi sai sử trăm thần, chém giết quỷ ác để giúp đỡ trời đất nuôi dưỡng người vật. Hành sơn quân ấy thống lãnh Tiên quán vận mặc áo bào của Chu Quang, đội mão Cửu Đan Nhật Tinh, mang ấn Dạ Quang Thiên Chân, cưỡi rồng sắc đỏ, nhạc thần vốn dòng họ Sùng, húy (?) (. . . ). Về sau đến thời Tam Hoàng, thuần phác đã sinh, dần có điều sửa trị, giao phó đó cho chủ giả dưới đất. Viêm Đế mặc áo giáp mà trị vì. Theo Tư Mã Thiên sư ở thời tiền Đường nói là: Nhạc thần tức là chủ giả dưới đất, chẳng phải là Thiên chân. Thái Thượng dùng Đức huân đúc Nam nhạc. Xưa kia Hoàng đế lên phong Nhật nhạc thần, du lịch tuần thú. Đến thời nhà Tần nhà Tùy, lấy vua (vương) làm tượng. Đến năm Khai Nguyên thứ 9 (721) thời tiền Đường, mới phong là Ty Thiên vương, đến nay tượng Hốt vẫn hiện còn. Đến đầu niên hiệu Khai Bình (907) thời Hậu Lương (Ngũ Đại), phủ chúa mới sửa sang trong tiết miếu mạo. Xưa kia, vốn ở trên núi Chúc Dung, đến thời nhà Tùy mời chuyển dời xuống để cúng tế thờ tự, bói theo Thái hư quán xưa cổ mà xác định. Nay xét cứ ở phía tả núi Chúc Dung nền móng địa chỉ vẫn hiện còn. Đến trong niên hiệu Tường Phù (1008-1017) dưới thời Chân Tông Hoàng Đế (Triệu Hằng) thời Bắc Tống mới phong sùng Ngũ nhạc, mới ban sắc Công Bộ Thị Lang Tiết Công Ánh, Cấp Sự Trung Tiền Công duy mới mang ngọc sách, thêm hiệu là “Ty Thiên Chiêu Thánh Đế”, và phi tức là Cảnh Minh hoàng hậu. Nay ngọc giản dài 1 thước 5 tấc, văn viết chữ bằng vàng khâu liền bằng dây vàng, dùng đãy gấm để che phủ, mọi người vận mặc y phục màu ráng tía, áo lễ mũ miện, mang đeo kiếm bội cặp theo gìn giữ, đều như phép tắc ở trong cung. <詞>Văn Ngọc Sách. Do Lễ Bộ Thị Lang Đinh Vị soạn thuật. Điện Trấn Nam, để tôn phụng Ty Thiên Chiêu Thánh Đế. Trong điện ngoài cửa phía Tây thiết lập 4 Nhạc Đế thần tòa, phía trước bày sắp 6 thừa tướng. Phía Đông phụng an đặt Tiếu bia ngọc thanh thượng chân 9 vị. Phía Tây Phụng An đặt ngôi vị Hoàng đế thọ tinh. Hai phía Đông tây của điện liệt bày tiếp đãi 4 Học só đọc tụng. Hai phía Đông- tây của miếu thiết bày tiếu bia các tinh tú. Ở điện Phan Hy dùng để tôn phụng Tư Không Chiêu Thánh Đế Cảnh Minh Thánh Hậu, đều có đủ ngự phục khăn bịt đầu, mũ mão, khăn phủ vai. Hai bên trong điện thiết bày màu trướng giường ngủ hai phía Đông-tây, mọi thứ điểm trong gương, lược, tẩy giặt v.v… ở phía Đông bên ngoài là điện Thái tử. Đến trong niên hiệu Kiến Viêm (1127-1131) thời Nam Tống đều phong hầu tước như là Thế đức hầu, Thế liệt hầu, Thế hiển hầu. Ở phía Tây là điện Công chúa, tôn phụng an đặt 3 vị cung chúa có 36 cung, tính ra phòng ốc có cả thảy 66 gian. Hai phía Đông-tây mội bên đều có cửa, xoay quanh tường vách vẽ họa cung tần. Là bút tích của Võ Nhạc từ thời đầu nước nhà tạo dựng. Đến năm Chính Hòa thứ 8 (1118) thời Bắc Tống, sắc màu xanh đỏ bị bụi phủ mờ mới tu sửa trang tiết lại. Cửa Linh huống là cửa phía Bắc của miếu, lại còn gọi là cửa Binh lính, có 1 gốc cây Thần chương, phàm những lúc mở cáo cầu thỉnh binh lính hẳn là mở cửa đó, ngoài ra đều luôn đóng bít, gặp những lúc thỉnh cầu chú đảo đều được cảm ứng. Ngày 21 tháng 10 năm Thiện Hưng thứ nhất (1131) thời Nam Tống, Soái Thần Hướng Tử Nhân Tế cáo văn bên cạnh điện. Phía Đông của điện Nam trấn, tường tựa tượng đắp họa 10 vị Học só. Đến năm Chính Hòa thứ 7 (1117) thời Bắc Tống chuyển vận phó sứ Niếp Sơn tu sửa Thánh tượng ghi văn bia. Phía Đông có cửa Hương hỏa 3 gian, hàng hiên dài 17 gian, đắp họa liễn cung thiết bày nghi tượng, vách tường đắp họa theo sau oai nghi. Trong năm Bính ngọ(1) thuộc niên hiệu Chính Hòa thời Bắc Tống (1111-1118), chuyển vận phó sứ Niếp Sơn vị, dưới sân an phụng thần thuật, tức là trong năm tường phù thứ 4 (1011) thời Bắc Tống, Chân Tông Hoàng đế (Triệu Hoằng) chế ban thư kính phụng thần thuật. Cửa Hưu hổ có 3 gian. Lại nữa trong năm Thiên Hy thứ 3 (1019) thời Bắc Tống, Chân Tông Hoàng đế ngự chế phần âm lễ tất. Hành lang dài 16 gian, họa đắp tượng Bách quan. Ở phía Tây điện Trấn Nam cũng tường tự thiết bày tượng họa 10 vị Học só. Phía Tây có cửa Hương hỏa 3 gian, hàng hiên dài 17 gian, đắp họa Liễn quan, thiết bày nghi vệ trượng vật, trên vách tường đắp hoại nối tiếp nhau oai nghi. Dưới sân có đình bia ngọc sách. Chân Tông Hoàng đế (Triệu Hoằng) dâng Đế huy hiệu là “Sách văn ngọc sách”, dùng vàng xỏ suốt hộp báu. Đến trong tháng 3 năm Thiệu Hưng thứ nhất (1131) thời Nam Tống, Khổng Ngạn Chu trộm lấy hủy hoại, van đó chẳng còn. Ngày mồng 10 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất (1086) thời Bắc Tống. Giám Quan Hoàng An Kỳ khắc đá, cửa thuận thành gồm có 3 gian. Có năm Càn Đức thứ 3 (963) thời Bắc Tống, Đàm Châu tu sửa miếu ghi văn bia, do Binh Bộ Lang Trung Giả Thử soạn văn, Soái thần Phan Mỹ lập, hàng hiên dài 16 gian, họa tượng Bách quan. Trước điện Trấn Nam, nơi khám đá có 1 tòa đèn. Trước kia Quảng Tây đề cử Lã Vị Kiến xả thí đèn đuốc, Đường Sở Vương xả thí Bồn sắt, đài Lộ treo sân đình, vách tường họa vẽ thần tượng Nhạc bộ bách hý, tức là tiêu tường vậy. Cửa Trấn Nam có 5 gian, có viết 2 chữ “Nam nhạc” theo lối chữ Triệu, chuyển vận phán quan Văn Huân khắc triệu hùng vó cứng mạnh thanh sạch, ở đời rất trân quý. Ở cửa Đông hoa và cửa Tây hoa đều có hàng hiên dài 7 gian, và có khắc họa hình tượng binh ngựa nghi vệ. Ở điện Nam Hải Quảng Lợi Vương, điện Giang độc nguyên vương, hai phía Đông-tây cửa tiện đều có hành lang mỗi bên dài 14 gian, khắc họa thần nghi Đội trượng, bộ chúng sấm mưa. Ngoài hành lang phía Đông có ao dơ giọt gà gáy, chén đồng dỏ giọt, cung tên, cảnh nhạc v.v… Tiếp về phía Bắc có Thanh trai cung, phía trước có nhà sắc màu 9 tía 8 trắng, phía trước nửa khắc bia Họa đồ nhạc sơn, bia Tế nghi, bia Cấm chẻ núi, văn bia khác ghi chép, trong niên hiệu Hàm Thông (860-874) thời tiền Đường, bia thơ của chiếc tham chánh bái yết miếu Nam nhạc. Đá giải vế. Triều đình sai sứ tiếu cáo thiết đặt trai. Từ đó đến phía Bắc có cửa Thần trù, đến phía Nam là giám sinh thái bảo vị, đúng tháng thì đến chước hiến cúng tế thực. Tiếp về phía Bắc có giếng Thương long, vách tường phía Đông liệt bày điện Đông nhạc Thánh đế. Ở cửa phía Đông có nhà Thị Lang, điện Thiền tào quân, điện Địa phủ quân, điện Ty mạng quân, điện Bắc nhạc Thánh đế, nhà Long vương. Ở ngoài hành lang phía Tây miếu có thần khố, thương khố sảnh, cộng cả thảy 20 gian. Trong sâu có giếng Kim sa. Ở vách tường phía Tây liệt bày điện Tây nhạc Thánh đế, nhà Nam môn thị lang, điện Thất tú phương Nam, điện Ty lục quân, điện Trung nhạc Thánh đế, nhà Tây môn thị lang, điện Trung tónh vương. Trung tónh vương vốn dòng họ Trương, y cứ theo Ngô Trí Nghiêu văn bia nói là: Vương húy là Biện, trong khoảng niên hiệu Thiên Bảo (742-756) thời tiền Đường, gia đình ở tại Bạch mã; Cốt chi, có thuyết khác cho là ở Nam Dương; Đặng châu. Hào hiệp chuộng khí, luôn cất đặt chày vàng trong tay áo để đánh những kẻ bất bình, gặp nạn của An Sử, Trương Tuần hứa đi xa dẫn theo quân lẻ trấn giữ Huy Dương, lập đài chiêu mộ tử só. Được Nam tể vân dùng làm tướng, nhân đó xin quân soái đến Tấn Minh ở Hạ Lan, Tấn Minh chẳng chấp thuận, 2 người mới thề chặt ngón tay để làm tin, chết làm quỷ dữ ở núi hang, chẳng phóng thả Tấn Minh, qua hơn tháng đều chết, Vương báo mộng về nhà bảo là: “Tôi được thỉnh mới đến nơi Đế, bảo làm phụ Nam Nhạc làm Tư Đồ”. Truyền ký về tên húy của Vương chưa được thống nhất, hoặc nói Vương húy là “ký”, hoặc là “Hựu”, là “Tuần”, hoặc xưng là người ở thời Ngũ đại v.v… Nay thì lấy theo ở đình vất bỏ ngón tay tại Lâm Hoài làm thật. Đến trong niên hiệu Chính Hòa thứ 2 (1112) thời Bắc Tống, có Dao Nhân Hoàng An Tuấn làm loạn. Thần châu cầu đảo, cảm ứng bày tấu, nên sắc phong là Linh Hựu Hầu. Đến năm Chính Hòa thứ 8 (1118) thời Bắc Tống, nhân giặc Nguyên Châu Phan Tông Nham làm quá, tấu xin phong thân là Hổ Thiện Linh Hiển Công. Đến đầu niên hiệu Kiến Viêm (1127) thời Nam Tống, Đàm Châu tấu thỉnh, đặc biệt phong là Trung tónh vương, cáo tại bản miếu, rõ bày biển ngạch miếu tại Hành sơn treo ở hành cung. Gần đây lại phong là Oai hiển vương. Cửa gia ứng ở nhà Thổ Địa tại điện Ngũ thông gồm có 5 gian, phía Tây trong cửa có thiết 2 tôn thần cổ ty, phía ngoài cửa có văn bia tu sửa miếu, vào năm Hy Ninh thứ 3 (1070) thời Bắc Tống, do Gián Nghị Đại Phu Yến Độ dựng lập, Tiết Độ Thôi Quan Ngô Cư Hậu soạn văn. Phía dưới cửa có Đình chuẩn lệnh hạ mã, phía Đông có cửa nách trái, phía Tây có cửa nách phải. Hai phía Đông-tây hàng hiên kéo dài 26 dặm. Ở vách tường họa đắp các hình tượng quỷ, thần, binh lính, giáp, ngựa. Cả 4 phía Đông Tây Nam Bắc mỗi nơi đều có góc lầu. Lầu bia ở góc Đông-bắc là có văn bia đề là “Đại Tống Tân Tu Nam Nhạc Tư Thiên vương Miếu”, do Hàng Lâm Học Só Lý Phưởng vâng phụng sắc chiếu kính soạn, lập ngày 25 tháng 2 năm Cảnh Đức thứ 3 (1066) thời Bắc Tống. Trên lầu có treo 1 quả chuông sắt. Năm Thiệu Hưng thứ 11 (1141) thời Nam Tống, dân chúng huyện An nhân vất bỏ. Lầu bia ở góc Đông nam, tựa đề bia là “Đại Tống Nam Nhạc Tư Không Chiêu Thánh Đế”, do Hàng Lâm Học Só Lý Tông Ngạc vâng phụng sắc chiếu kính soạn, lập ngày mồng 01 tháng 09 năm Đại trung tường phù thứ 8 (1015) thời Bắc Tống. Lầu bia ở góc Tây bắc, tựa đề bia là “Đại Tống Trung Tu Nam Nhạc Tư Không Vương”, do Hàng Lâm Học Só Tô Dị Giản vâng phụng sắc chiếu kính soạn. Đợi chiều Hoàng thức khắc triệu, phía Bắc tường bia có ghi lối chữ Khải, lập ngày mồng 05 tháng 06 năm Đoan Củng thứ 2 (989) thời Bắc Tống. Phía trên lầu có 1 phòng tôn trí chiếc trống. Lầu bia ở góc Tây nam, có văn bia đề là “Đại Tống Tân Tu Tư Thiên”. Do Hữu Ty Gián Tiều Hồi vâng phụng sắc chiếu kính soạn, lập ngày mồng 06 tháng 07 năm Cảnh Đức thứ 2 (1005) thời Bắc Tống. Ở cửa Linh tinh có 3 gian, hai phía Đông-tây có ao nước, ao lửa, phía trước có ao Hộ long. Tiếp về phía Bắc có nhà ở của Giám quan, phía trước có Ty phòng khách vị. Phía Đông cửa Gia ưng có nhà ở của giám miếu, kế tiếp nữa có cửa Đông nhỏ. Ở cửa Linh huống có miếu Thị Lang, ở cửa phía Bắc. Ngày mộng 01 tháng 04 năm Thiệu Hưng thứ 5 (1135) thời Nam Tống, chuẩn cứ sắc phong là Hiển trợ hầu. Miếu Hồ Nam An Phủ Hướng Tử Nhân tu sửa phụng đặt văn bia cúng tế. Dưới sân có Thần vị Lôi Quang Phong, mọi điều cầu đảo thảy đều linh ứng. Tại Nhạc miếu chỉ bày tiết lập hạ gọi đó là Đại tế. Trước kỳ hạn thâu mua mọi vật liệu, đặt tạo ngự phục xiêm y khăn mũ trùm đầu. Đến ngày chánh thức cúng tế, từ nội ban giáng Ngự danh chúc bản. Bản châu giao phó cho nhau cùng khắc in, hoặc dùng thứ quan sung vào. Mới đầu Hiến quan tri huyện thừa bộ bản miếu quan nhiếp Á hiến chung hiến thái chúc dâng cúng lễ sau khi binh lửa đã dứt ngưng. Đó là pháp phúc của Bản châu, sai các quan vận mặc lúc tế cúng. Khổng Ngạn Chu cướp lấy hết chẳng còn, nên chỉ dùng xiêm y công chánh. Trước lúc cúng tế 1 ngày, Hiến quan phải nhóm tập kiểm xét tất cả mọi vật dâng cúng hoàn tất, tiếp đến nghinh thỉnh ở điện Phan Hy, lại thay đổi thần ngự y phục khăn mũ trùm đầu. Hai cung treo giá ngự y. Đến 3 khắc canh 5 ngày hôm sau. Hiến quan cùng mọi người chuyên lo công việc thảy đều nhóm tập để thiết tế bày các thứ vàng lụa, dâng ngọc quý đẹp, đọc chúc hiến nghinh Đế khúc, Ngũ phước giáng đến trung ương, 3 lần hiến cúng hương Tô hợp. Hoàng Đế Viêm, 4 Đóa tử thiêu đốt tiền tệ, tấu dẫn giá hành nhiễu ngũ khúc. Nhạc ấy là nói từ khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường dùng loại nhạc ấy. Chỉ có Nhạc hạ và Hành sơn theo nhạc có công năng đó. Quân Trà Lăng ở miếu Viêm Đế cũng dùng Ngũ khúc, âm thanh hòa xướng thông hoảng. Năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119) thời Bắc Tống, thường ban Nhạc Đại Thạnh, gặp phải giặc ngựa hủy hoại, chẳng lại dùng đó. Gần đây khoảng cuối niên hiệu Thiệu Hưng (1163) thời Nam Tống, gặp phải Đồng Lộc, nên cung điện nhà cửa đều đã bị thiêu cháy đến khoảng 5-6 phần. Phải trải qua 5 năm sửa sang mới bắt đầu hoàn bị. Năm Thiệu Hưng thứ 30 (1160) thời Nam Tống, đang lúc tu chỉnh cung điện, Học Só Tri Đàm Châu Ngụy Lương Thần soạn Phụng An Thanh từ bia. (Đêm 30 tháng 04 năm Tân dậu thuộc niên hiệu Cảnh Định (?) gặp phải Hồi lục nên Chánh Định Hậu Cung đều hư hoại hết, chỉ còn lại 3 cửa, tan nát hành lang mà thôi). <詞>Tuần tự lịch đại chư vị Đế vương chân tiên thọ Đạo. Tích tập ghi chép từ xưa chư vị Đế Vương Chân Tiên tinh cần tư duy nơi hang cốc, lắng thần tónh lự xông đốt hương thơm, tấu trổi trống nhạc, và đến cả các nơi nhà cửa chức phần an nghỉ mà kinh du. Số ấy chẳng thể nói hết. Những vị Đắc Đạo trước sau đều đã ghi tả nói các sử sách, thảy đều bí ẩn danh sơn, rải rác khó cùng. Nhưng chẳng phải những người ở Nam nhạc thì không thể được mà ghi chép. Nay đây, ngoài việc thuật bày những linh tích của chốn núi non, so sánh trong các triều đại có những vị dẫn đầu trùm suốt các bậc chân tiên vậy. Ở thời Biêm Đế, Thái Thượng gọi là Đại thành tử, trao bày Giáp nguyên tinh kinh, dạy Đạo sửa đời để hóa sinh, trao cho trăm giống lúa để thay sự mấu nước giết hại. Hòa trăm thứ thuốc để cứu chữa trăm bệnh, thưởng cho 5 giống cây mà trở thành 5 giống lúa để nuôi mạng sống của muôn dân, cấm ngăn sự giết hại các loài cầm thú. Công đã thành nhàm chán ở đời, chóng bày xa giá lên thành trà, thiết đặt trai hội ở Nam nhạc để cầu thông châu, cảm được Vũ sư Huyền Quân (Huyền Quân tức là Xích Đế Quân, sự việc làm Huyền Quân). Dạy bày pháp luyện thủy ngọc, vào lửa tự thiêu đốt mà không cháy nóng. Về sau, huyền hóa nơi đồng hoang của Chu Dương. Thái Thượng dùng Đức chánh mà trấn tại Viêm phương ( phương Nam), làm Chủ Ty Nam nhạc. Người con gái Công chúa của Viêm đế cũng rất kính mộ đạo, kính lễ Huyền Quân làm thầy, sau khi Đạo thành cũng đồng bay lên đến cửu quan. Vào thời Chúc dung, Thái Thượng hiệu là Quảng thọ tử, trao truyền Án Ma Thông Tinh kinh, dùng Đạo dạy răn an thần. Nay trên đỉnh núi, nền móng địa chỉ vẫn hiện còn. Theo Hoàng đê nội truyện nói là: Xả bỏ hơn 300 cung quán để vì tạo dựng thành Đạo quán. Lại ở nơi Ngũ nhạc, mỗi mỗi đều đặt Đạo quán. Hoặc có thuyết nói: Tây Hoa quán ở Nam nhạc tức là Thái Chân quán xưa trước, là nơi vì Tây Vương mẫu mà tạo dựng để hầu thần, mỗi lần độ các Đạo só có hơn 50 người, đốt hương tu luyện cùng với dân chúng cầu phước. Mới biết các thứ Quán vũ tại Nam nhạc, bắt đầu từ thời Hoàng đế, tiếp đến thời Hạ Võ đã có vậy. Theo Đế Kỷ nói rằng: Xưa kia ở thời Chuyên Húc, Thái Thượng giáng hiện làm Đế sư ( thầy của vua) hiệu là Xích Tinh Tử, ở tại Hành Dương trao truyền cho Đế ( Chuyên Húc) kinh Vi Ngôn dùng Đạo Trung thuận mà chỉ dạy, đúc đồng của Vũ sơn làm đỉnh báu. Đào bến 7 sông để nhiếp phục vạn linh, dùng Tín thuận để xét xem các thần dẫn dắt mọi vật phục dịch, chế ngự trăm khí chu toàn khắp 4 phương, nên Đức hiệu là Huyền Đế. Theo Đế kỷ nói là: Xưa kia, Cao tân đến Chung Nam gặp thần nhân mà có được kinh 9 biến 10 hóa, dùng để ẩn mặt nhật trốn mặt nguyệt, du hành giữa muôn sao mà nói rằng: Ta ở thời Đế, phù du trong nguyên khí mà làm Nguyên Quân. Ở thời Viêm Đế làm Vũ sư nghóa Huyền Quân, tại thời Hoàng Đế lại hiệu là Xích tùng tử. Lại theo sách Lãnh Nam Thượng Chú Sinh nói là Xích Quân, tức là Thái Hư Chân Nhân Cửu Thiên Xích Đế Quân ở tại Nam thần để ứng điềm, ở tại Huyền phủ để sống lại. Nay làm chưởng chức Nam nhạc, coi gồm tất cả vạn linh, nơi nhật nguyệt soi chiếu đến, chỗ núi sông giẫm trải qua, không gì chẳng hệ thuộc vậy. Đế đều kính lễ đó, bỗng nhiên ẩn mất, về sau ngọc tự đi đến thoát giải thay ở núi biển. Theo “Thượng Thanh Tứ cực Minh Khoa Thần Tiên Truyện” nói là: Xích Đế Ngọc Ty Quân húy là cảnh độ, mặc y phục màu ráng tía hoa đỏ, y 9 màu phụng chương, đầu đội mão phù Thái nguyên phi thần vương, tay cầm nắm tiết 9 màu, trị vì đài Chu Dương động Thiên thái nguyên đô nữ thạnh tả cung lãnh Nam nhạc Hành sơn, Tiên quan Địa linh, binh lính hỏa tinh xích bính, nam cực cùng trời không ngăn mé, không giằng không cướp cung điện vô cùng vô cực, nắm gồm tất cả quyền của thiên chân, thảy đều lệ thuộc Xích Đế Ngọc Ty Quân, chủ mạng con người tử sinh, nhờ biết tên húy còn ở thần ấy tu hành, cứ 9 năm đặt đến thuốc cỏ thần ngọc anh bất tử, ráng đỏ may bay xuống nghinh, triệu thân mà bay vút lên. Theo Ngọc thanh đế kỷ nói là: Xưa kia vào thời Ngu Thuấn, Lão Quân xuống làm thầy hiệu là Duẫn Thọ Tử, truyền Đạo Đức kinh cho Đế Thuấn giảng nói về Đạo hiếu để, Đế dốc công thực hành khắp cùng sinh linh, bít trốn tam miếu, qua đến động đình, tuần thú đến Nam nhạc xây dựng nên quán để ngóng trông ngày dời bình báu cam lồ lên trên núi, thiết đặt trai hội tại Nam cung để cúng tế Viêm Đế, vận mặc y phục sắc tía hoa lớn dày đẹp mà trèo đến núi cửu nghi. Theo chân cáo nói là: Bắc Nhung Trưởng Hồ Đại Vương Hiến Đế là cao mổ của Bạch lang và chuyển hoa tía vận mặc đó khiến người trường sinh bay lên tiên cùng trời tương tất, vua Thuấn liền đượm phục đó mà thoát giải thay ở đồng trống thương ngô. Lại nói là: Ngu Thuấn Tuần Thú Nam Nhạc đến cửu nghi gặp vị tiên nào uống thần Đan mà được giải thoát thay. Theo Vương Thị Thần Tiên truyện nói là: Đế Thuấn giáng đến Hoàng đình quán tại núi Cửu nghi, nói cùng Nữ chân vương diệu tướng rằng: “Tinh chuyên chí Đạo là thềm cấp đến trường sinh. Tôi là Đế Thuấn, ngươi xưa trước nhọc chán muôn nước, nhân tuần thú đến Nam nhạc cúng tế Chúc dung mà ở đó. Ngươi có chí cần khổ nên lại cùng gặp đây. Đạo chẳng phụ lòng người, tu thì hẳn chứng đắc đó, huống gì là có thiên cốt ư?” Lại nữa, Đế Nghiêu thường lấy Bình mã não vật báu của Hoàng Đế ban tặng cho Đế Thuấn, theo hướng Nam đi tuần, dời vật báu đến Nam nhạc. Võ Đế chôn giấu vật báu ở phía Tây đài Thiên Bảo, và ban sắc Địa kỳ gìn giữ đó. Theo Tiên lục nói là: Xưa kia Võ Vương thiết trai tại Hành nhạc, cảm được Thương Thủy sứ giả trao cho Kim giản ngọc thư gồm cả thảy có 5-3 điều cốt yếu, ngầm giúp Vương sửa trị thủy, Võ Vương tạo dựng cung Thanh lãnh, kính phụng an đặt tôn tượng Ngu Thuấn, độ các Đạo só xông đốt hương tu tập. Theo Mục Thiên Tử truyện thì là: Mục Vương có được xe 8 ngựa giỏi đi tuần thú, xả bỏ hơn 300 Hành cung để tạo dựng làm thành Đạo quán. Nay tại Nam nhạc có 4 đài Quán nền móng hiện còn vậy. Tần Thỉ Hoàng mến thích Đạo, tìm phương só ra đến Vân mộng, nổi trôi đến tận Động Đình, tuần thú đến Nam nhạc, trông thấy núi mà cảm thán (nay phía Bắc núi có núi Hoàng tưởng) đều thờ Thuấn Đế ở Cửu nghi, sóng gió đầy trời, nổi trôi theo sông mà xuống, vượt đến mai chữ qua Đan dương trèo đến Cối Kê, cúng tế Võ Vương ở Đông Hải, mong cầu từ phước ở Bồng Lai. Đến thời nhà Hán, vua Võ Đế theo hướng Nam đi tuần, vì Hành phụ ( nhạc) xa xôi, nên dừng bước tại Hoắc sơn mà cúng tế. Ban sắc tạo dựng Vương mẫu quán tại Nam nhạc. Nay, tại phía sau ngọn núi Bích tụ còn có địa chỉ nền móng. Hoặc có thuyết nói là tạo dựng chùa nhưng không bao lâu cũng bị hư phế. Lại nữa, Huệ Xa Tử, không biết là người thuộc dòng họ gì, tu Đạo tam bên thất diệu, cùng với Nghiêm Quân Bình làm bạn tốt lành, đã có vài lần đi đến Tam tương, nương náu tại Nam nhạc với thời gian lâu, thoát giải thay ở núi Luyện ngọc. Lưu Căn tiên sinh tu Đạo Đại Động Đế Nhất, rảo bước trông xem khắp bốn hướng, làm chánh trị rất có đạo đức, lúc tuổi già bèn về ngọn núi phía Đông của Nam Nhạc, luyện chân, châu tinh đẩu, đượm phục khí, cúng tế thần mà Huyền hóa. Vương cốc Thần ba huyền diệu là Đạo só ở núi tại thành phía Đông, thời Tây Hán; Thục. Từ thuở bé nhỏ mà thông minh dónh ngộ, chẳng ở nơi vinh hoa sủng ái, thông rành văn liệt của Lão Trang, khéo giỏi về tinh vó, chu du khắp các danh sơn, vượt qua kinh sử, nổi trôi tới Tiêu tương đến Nam nhạc dựng lập ăn ngon mặc đẹp vợ con đầy nhà tranh tại điện kim mẫu. Về sau tu luyện khai thức hoàn nguyên qua vài năm, khi Đạo đã thành theo hướng Đông đi khắp các nơi anh ngọc, phỏng hỏi cửu tiên, gặp được Võ Đế theo hướng Nam đi tuần. Trông thấy thần khí vượt khác hẳn mọi người mới mời gọi lại đền ẩn dưới ngọn núi phía Tây, Võ Đế ban đãi rất nồng hậu và phong Vương Cốc làm Thái vi tiên sinh, Thần Ba làm Thái tố tiên sinh, dùng Thượng khanh mà tiếp đãi đó. Sau 3 năm khống ngự Bích loa mà bay lên. Lý Phụng Tiên là người Đông Thục. Từ thuở nhỏ chẳng hề nói năng, đến năm 18 tuổi, từng muốn sống lạnh lùng để trốn lánh các thứ tanh nồng hôi hám, có người hỏi đến thì nói là: “Biết trắng giữ đen, Đạo quý ở sự trầm mặc. Thầy của ta là Nam Nhạc công, Ta là Thái tử thổi tiêu của vua Linh Vương thời nhà Chu. Ta đã 3 đời kính phụng Đạo, mà ma luôn thử thách, do vì công đó chưa hiển trước vậy. Nay trao cho ta pháp của Chu Võng, giúp cùng bay qua Nam cung. Thầy ta là Phù Khâu Công truyền trao cho con, nay giao lại con, cho nên tinh cần, nếu lại chậm trễ ở đời này thì muôn kiếp chẳng độ được. Ta là Nam Nhạc Tư Mạng Thị Đế Thần, lại phụ giúp cho Đồng Bách Chân Nhân”. Nói xong bèn ẩn mất. Về sau hành đạo được vài năm, xua đuổi sai sử quỷ thần, dứt trừ, mọi điều hại, tạo nên mọi điều lợi, khắp cả nước nhà đều ngưỡng mộ. Về sau, vua Tuyên Đế thời nhà Hán ban chiếu mời mà chẳng đến. Động Chân tập. Trong khoảng niên hiệu Vónh Quang (?) thời vua Minh Đế nhà Đông Hán, có Trương Đạo Lăng ở núi Thiên mục tại đất Ngô vân du đến Hành sơn bái yết Thanh Ngọc Đàn và Quang Thiên Đàn. Lễ bái đền thờ Chúc Dung Quân, rảo bước trông xem khắp bốn phía, bỗng nhiên đổi sắc mặt mà bảo rằng: Lạ thay núi này, dằng dặc đồng hoang sông nước, 3 triều 5 chiết dùng khoảnh phía Đông. Lớn lao núi lạ, sau theo trước tham như khoanh tay vái chào. 5-3 vị Quân vương đều thọ Đạo tại đây. Tử Dung khí tốt bít ngăn Chu Lăng, trong 10 năm sau sẽ là khí bay, đất của Vũ Hóa, siêu việt hơn xưa, sau trôi nổi đến Động đình, ngầm đi đến Hoắc sơn mà ở Trung nhạc. Theo Chân cáo nói là: Xưa kia trong Nhạc sơn có người học đạo là Trương Lễ Chánh và Trị Minh Kỳ. Trương Lễ Chánh vào núi khoảng cuối thời nhà Hán, ăn dùng đượm phục Hoàng tinh, nhan sắc còn đang trẻ khỏe, tuổi khoảng 40.Trị Minh Kỳ vào núi khoảng cuối thời nhà Ngụy đượm phục Bạch thật Hoàn ở Trạch tả. Hai người cùng ở trong hang núi, về sau đều thọ tây thành Vương quân, truyền cho Hồng Cảnh Đan Phương. Từ khi trở lại đượm phục loại Đan ấy rồi, trong 40 năm gặp hoạn Đan Sa nên khó chứng đắc, đều ra Quảng châu làm tang môn. Khi ấy Ất Hàm đang làm thứ sử, bèn được rộng suốt trong ngoài, khí xông vọt thân nhẹ nhàng, mỗi ngày đi 500 dặm, về sau vào núi cửu nghi. Tôn Đăng vất bỏ vinh vị, ẩn trốn để cầu tiên đến nỗi ngủ nằm lộ bày, nhẫn chịu cóng lạnh, ăn dùng rau cỏ, trộm cầu chí Đạo, cảm được xích quân, có được keo mở ngọc sa. Lâu sau, vào cối kê. Nên xưa trước ghi là Tôn Đăng ở nơi chúc bảng lưu lại tại Hổ sơn vậy. Ngụy phu nhân, căn cứ theo nội truyện thì húy là Hoa Tồn, tự là Hiền An, người xứ Nhâm thành, tức là Tả bộc xạ ngụy thư nữ ở thời vua Võ Đế nhà Tấn. Phu nhân là người thiên tài trác dị, nêu huyền dẫn u. Thuở thiếu thời tụng đọc Lão Trang và cả các sách xuân thu, tam truyện ngũ kinh, Bách tử, mọi sự đều ngầm xem, tánh ý mến thích thần tiên, đượm phục vị chân mến mộ Đạo. Từ thuở thiếu thời ăn dùng cơm với vừng mè lẫn viên phục linh. Nhả nạp khí dịch, nhiếp sinh thường vắng lặng, thân thích qua lại, không một liên quan gì. Thường muốn riêng ở 1 viện, riêng lập nhàn xứ. Cha mẹ tuy vui mừng điều xa lạ ấy nhưng việc chẳng thể giao thuận. Vài lần hạn chế cản bức đó, dùng nhân lễ để dạy răn. Đến năm 24 tuổi, cưỡng gả cho Thái Bảo Công Duyên Nam Dương Lưu Hựu, tự là Ấu Ngạn. Nữ lễ có hạnh, thời chẳng được vậy, đánh phải chấp thuận làm vợ nhà họ Lưu, lại chẳng đượm phục ăn dùng, mọi sự nhả nạp thày đều phế bỏ. Nhưng tâm luôn mong cầu u linh, mở thệ cáo thề, tinh thần kín khổ, ứng hợp nương cảm, chí ý xưa trước vẫn còn chẳng khuyết. Huyền Lý trái với Đầu, đường chưa được toại, đãi cùng cháu con, thô lập kế tiếp dòng họ Lưu, từ đó phân riêng phòng nhà, lìa phòng cách giưỡng, sâu gá ẩn ấn, trở lại tu theo điều chuộng xưa trước. Năm tháng cáo cảm, nghiên tầm Đạo đã ưu thắng. Ấu ngạn vì tu võ, khiến phu nhân dần tùy theo đó. Tuy nhà đồng trong huyện, mà cách nhiều trùng lớp, bèn nhân lúc thanh nhàn thiết trai ở phòng thất riêng, kính cẩn tu hành Đạo pháp, nhập thất cả trăm ngày, mong cầu tiên linh, tinh cần tư duy mong cảm. Do đó vào một đêm tháng 12 tónh lặng, bỗng nghe có tiếng vang vọng của chuông, trống, kèn, tiêu, âm nhạc rầm rỉ, nghi là có việc chẳng thường, nên ra khỏi phòng nhà để trông xem, thì trong hư không từ phương Đông mà xuống, cờ xí lẫn lộn, lọng vũ tấp nập, bay buộc giữa khoảng mây, sáng ngời các ráng tối, tỏ rõ cả thái không, mà mọi người khác không nghe thấy. Chỉ khoảnh khắc đi đến, xe hổ kiệu ngọc, xe ẩn vòng bánh đều chóng giá đến giáng xuống nơi phòng vắng của phu nhân. Có 4 Chân nhân đều tuổi ngoài 20, dung mạo to lớn, dáng dấp tuấn tú dónh ngộ, trên đầu đồng đội mũ hoa sen sắc tía, vận mặc xiêm y gấm lụa, nhị ngọc giải báu, thân mang đường văn hổ, cổ có vòng sáng, tay nắm phan hoa. Trong đó, 1 người tự xưng là: “Ta là Thái Cực chân nhân an độ minh”, lại người kế tiếp là: “Ta là Đông hoa Đại thần phương thỉnh thanh đồng quân”. Người thứ 3 tự xưng là: “Ta là Phù tang dương cốc thần vương”. Và người thứ tư xưng là: “Ta là Thanh Hư chân nhân. Nhỏ có Thiên vương vương tử đến vậy”. Khi đó phu nhân lăn lóc bái lạy cúi đầu tự vo tròn mà nói rằng: “Không nghó tính ngày nay các Đạo quân giáng xuống. Chỉ xin thần tiên trường sinh độ đời!”. 4 chân nhân mới đồng ngồi giây lâu, Vương tử đứng dậy báo cùng phu nhân rằng: “Nghe con ngày trước chuyên niệm thiện, triển chuyển cầu sinh, kín xuyên ngang chân khí, hồn hòa với thể thanh, Đan ân hoài xa vợi, ghi chữ thượng thanh, cao hợp với chân nhân, ôm giữ chữ tín mong cầu linh, ngầm cảm thông triệt, lắng soi sáng xích thành, toại với kim thư tử cực, tàng giản ở Vương đình, đức vị cao tỏa, Huyền xướng ngang giếng. Do đó, Thái Đế Quân ban bảo ta đến dạy cho con Đạo lý thần chân!” Khi đó phu nhân bèn thọ học Đạo, xong rồi đến kỳ hẹn ước, gặp tại Dương Lạc, các chân nhân lại giáng hiện, khiến phu nhân gá bệnh mà thoát thay. Vùn vụt xoay chuyển dẫn mạng đến phỏng hỏi Vương ốc thanh hư, Động thiên vâng phụng Thiên Đế quân mạng truyền ban thẻ ngọc văn vàng, đặt vị ở tử hư. Nguyên quân lạnh thượng chân ty mạng chủ, sổ sách các Đạo só sống chết, nhiếp ngự 3 quan, xét kiểm hạch tội, lại thêm Nam nhạc. Phu nhân sánh so thứ lớp tiên công sửa trị Đại Hoắc sơn động đài. Bỗng chốc mà tư mạng thần tiên, xung tịch ma cô đại tiên, tá trị tỉnh Nam nhạc động thiên phước địa tiên quan, linh đàn chủ giả quan thuộc đều đến nghinh đưa phu nhân đến thượng cung thanh hư. Chỉ thời gian khoảnh khắc bèn đã đến thạch sàn tại Nam nhạc. Trông yêu khí trước núi, biết là có tinh vật gây tạo dịch bệnh, nhân đó ghi viết Phù để khử trừ. Ngày nay ngửa trông lên Thiên thai có động Bạch long là đó vậy. Về sau, đến năm Hàm Hòa thứ 4 (329) thời Đông Tấn, vụt xoay xe xuống nghinh bay lên trời. Tiên Truyện Thập Di Tiết Nữ Chân, không biết là người thuộc dòng họ gì. Trong thời nhà Tấn, gặp lúc tàn tệ, khắp chốn kinh ấp không được an ninh, nên những vậc hiền só có Đạo phần nhiều đều đến nương náu nơi chốn núi rừng để lánh cuộc đời. Nhân ở Nam nhạc tầm kiếm chân đài, ngoài hiện bày tướng đồng trần mà trong luyện tu chí Đạo, thường cưỡi con báo trắng tới lui ở núi Kỳ-xà, chim vàng vượn trắng chẳng lìa khỏi hai bên, về sau đến núi Vân long mà thoát giải thay. Tiên truyền Lưu Lâu Chi, tự là Tử Ký, từ thuở thiếu thời mến chuộng tố chất, khiêm hòa ít muốn, chẳng tu chỉnh oai nghi tiết tháo, mọi người chẳng thể lường biết đó. Ưa thích rảo bước chốn núi hang, chí ý muốn ẩn dật. Nhân đi hái thuốc, đến Hành nhạc, vào trong sâu xa, quên cả trở về thấy 1 khe nước, ở phía Nam khe nước có 2 Thạch khuân ( vựa đá), 1 vựa mở, 1 vựa đóng, nước sâu ngút chẳng thể qua đến, muốn xoay trở lại thì lạc mất đường, gặp người đi hái củi, liền dò hỏi bến, người ấy kính cẩn đưa dẫn về nhà, nói là trong vựa ấy toàn là thượng được tiên phương, các thứ quý báu kỳ lạ lắm nhiều. Lâu chi bèn trở lại tìm, thì đã mất hẳn nơi chốn. Liễu Nhiên Tử, người xứ Liêu Đông, không rõ bày tên họ là gì. Nhân đi đến 24 trị ở Tây Thục, sau vào ở núi Thái Bạch, phàm những lúc vào ra, Hổ báo thường luôn nhiễu theo, cũng không biết tu theo pháp gì. Sau lại đi đến Tam sở chỉ hơn trăm năm, có các bạn lành thân thiện như là Ngô Mạnh, Lục Tónh Tu, Quách Phác, Tạ Linh Vận, Tăng só Huệ Viễn v.v… trước sau nối tiếp nhau. Sưu Lượng thường sư đến mà nói rằng: Tiên sinh trông xem các bậc Hiền giả có thể thoát khỏi đời ô trược ư? Liễu Nhiên Tử bảo rằng: “Công thì có cạn sâu, Đạo thì chỉ 1. Tuy mỗi có được chỉ thú nhưng chưa thể như Liễu nhiên”. Lại hỏi rằng: “Tiên sinh như thế nào?” Đáp rằng: “Ông qua khỏi tháng này mà trở lại thì sẽ vì ông nói”. Sau đó chưa qua khỏi tháng thì sưu lượng qua đời. Tiên sinh từ Tây sơn phỏng tìm đến Nam nhạc bái yết Thanh ngọc đài và Bạch bích đài, sau đó đến trước động, vào cửa động phỏng hỏi xướng lợi tiên sinh, uống quá vài ngày mà lý tiền đến Thục sơn, tiên sinh trở lại ẩn ở Động trước. Đến thời nhà Tống, có cao Tăng Tông Bính phỏng tìm mà chẳng gặp. Tiên truyền Đặng Dục Chi, tự là Ngạn Đạt, ở ẩn tại động Linh Đài; Nam nhạc, ban đêm trì tụng Đại đông kinh thượng cảm, Ngụy phu nhân giáng hiện xuống bảo Dục Chi rằng: “Ông có Tiên Phần đặc biệt lại cùng phỏng tìm đây”. 1 ngày nọ bỗng thấy 3 con chim sắc xanh hình dáng như Hạc đến bay liệng cổ vũ kêu hót, qua cả giờ mới đi. Dục Chi bảo cùng đệ tử rằng: “Chim xanh đã đến, tức hội chầu đã đến vậy” bèn giải hóa ( qua đời). Cao Tăng Tông Bính ở thời nhà Tống, tự là Thiếu Van, khéo giỏi viết chép, người xứ Nam Dương, tánh tình ưa thích ở chốn núi sông. Giẫm trải qua kinh vu theo hướng Nam lên Hành nhạc, nhân lập am ở tại Hành sơn. Lâu sau vì tật bệnh, bèn trở về lại Giang Lăng mà tự than rằng: “Lão bệnh đều đến Danh sơn, sợ khó đi cùng khắp! Phải lắng lòng quán Đạo, nằm mà đi vậy”. Phàm những nơi đã giẫm trải qua đều họa vẽ lại nơi tường vách, ngồi nằm mà dò xét đó. Ở thời Bắc Tề có Ngô Đạo Vinh. Từ thuở bé nhỏ mà ít nói không thông rành văn tự, thường ưa riêng ở 1 mình. Nhân đi đến Nam nhạc, gặp được Xích Quân trao cho phù thủy cấm chú, số của Vó Hầu không gì chẳng gồm đủ, thường đến cửa Liêu Dương, có hổ đi ngựa đứng cách hơn 10 bộ, mọi người đều kinh sợ bỏ chạy. Đạo Vinh từ từ dùng gậy họa vẽ nơi đất thành hầm hố lớn, Hổ bèn bỏ đi. Chữ Bá Ngọc, tự là Nguyên Cừ, người xứ Tiền Đường; Ngô quận, ở ẩn tại núi Bạo bố; Nam nhạc, khéo thông rành các thuật giải, xem xét sâu về Đồ bí, hái luyện nạp ngự, không gì chẳng làm, vua Cao tổ thời nhà Tề ban chiếu lấy 1 quận ở Ngô Hội để dùng lễ cấp ban. Lại lấy cớ bệnh mà khước từ, bỗng chốc mà qua đời, người chủ đều hối hận, mới ban chiếu xuống dưới núi Bạo bố dựng lập Thái bình quán. Vì Bá Ngọc ưa thích tụng kinh Thái Bình và kiêm tu Đạo ấy nên lấy đó mà đặt tên Đạo quán. Lại giá tự nhiên ở đó đốt hương tu luyện, gặp được Nam Nhạc Chân Nhân Trần Hiếu Vi; tự là Tử Minh, mà kính lễ đó. Chân nhân bảo rằng: “Pháp của con tu Ta đây có biết vậy, sắp có Cao nhân, hẳn turyền cho Diệu chỉ”. Về sau gặp được thanh thành trượng nhân giáng hiện đến nơi phòng thất, trao truyền cho 91 bí quyết tiên bay. Giữa lúc ban ngày tự nhiên cử vọt lên nhẹ. Câu Tiên Cô, người xứ Trường sa, sau khi nhập Đạo, ở tại Hành sơn, tuổi ngoài 80 mà dung mạo rất trẻ khỏe. Đến ở nơi Đàn Ngụy Phu nhân, tình tu hương hỏa hơn 10 năm, trọn không bè bạn, bên cạnh Đàn có lắm nhiều hổ. Mọi người đi thì phải kết bạn cầm nắm các khí cụ mà vào. Trong thời gian Tiên Cô an ẩn, chẳng từng thấy khiếp sợ, đỉnh đầu sắc hồng, đuôi đài, bay đến chỗ Tiên Cô ở mà tự nói rằng: “Ta là kẻ sứ của Nam nhạc phu nhân. Vì Cô tu Đạo tinh khổ riêng ở nơi chốn núi rừng sâu cùng, nên bảo ta đến vì làm bạn”. Ngày khác, chim lại bảo rằng: “Vương Mẫu dòng họ Câu, là Tổ của Tiên Cô vậy, chỉ vì thời kỳ chưa đến, nên gắng mà tu luyện vậy”. Mỗi lúc có người đến núi, chim xanh thảy đều dự báo nói cho rõ biết dòng họ tên tự của người đó. Lại bảo rằng: “Họ Câu ở Hà Nam là chốn núi xưa cũ của Vương Mẫu tu Đạo vậy”. Một ngày nọ, chim xanh bay lại báo rằng: “Đêm nay có sự hung bạo làm hại, nhưng chớ vì vậy mà khiếp sợ”. Đêm đó quả nhiên có hơn 10 Tăng só đến phá hủy Đàn tiên Ngụy phu nhân, là 1 tảng đá lớn vuông rộng hơn 1 trượng, phía dưới nhỏ nhọn nổi cắm trên tảng đá khác, thường lúc 2 người xô đẩy thì lay động, còn nhiều người xô đẩy thì cứng chắc mà đứng. Đêm đó các Tăng só mang lửa cầm nắm dao sắm muốn hại người Tiên Cô ở thất đó. Tiên Cô nằm ở trên sàn mà các Tăng só không thấy. Các Tăng só đã ra khỏi cửa, liền xô đẩy phá hoại Đàn Tiên, rầm ró vang động, núi nong lay lắc, hang cốc rách xé, cho là đã bị sụp đổ, nhưng chẳng mảy may lay động. Các Tăng só cũng dẫn nhau kéo chạy. Đến lúc trời sáng, có người chạy đến thôn xa. Cả 10 người phân tán, trong đó hết 9 Tăng só bị hổ làm hại, chỉ có 1 người chẳng cùng xô đẩy Đàn Tiên nên được thoát khỏi. Hơn năm sau, chim xanh lại đến báo cùng Tiên Cô dời đến ở nơi khác. Nhân đó Tiên Cô dời đến ở Tương Nam, chim cũng liền theo đến. Mà người khác chưa từng gặp nói đó. Trịnh Điền tự thừa chỉ Học só tả dời đến Ngô Châu, bắt chước tôn thờ nơi Tiên Cô. Tiên Cô bảo cùng Trịnh Điền rằng: “Từ nay trở về sau khắp 4 biển có lắm nạn, không thể sống ở lâu dài. Tôi sắp ẩn tại núi Cửu Nghi vậy”. Một ngày nọ bèn đi ra nhóm tập ở tường thành. Thời nhà Lương, có Cao tăng Đại sư Hải Ấn, mới đầu ở tại chỗ cao nhất của Hành sơn, tính về niên Đại thì khoảng trước niên hiệu Thiên giám (502-520) đến Đại Đồng (535-546) thời Nam Lương, nên cùng tương tiếp với Tổ sư Đạt Ma, và đồng thời với Khả Công (Huệ Khả) chung sống. Đó gọi là Đạo Tràng Thiện Quả vậy. Sư Hải Ấn an ở tọa tónh thiền định, có hơn trăm thứ nhiễu loạn, mà chí ý vẫn như mới đầu. Trải qua vài năm cảm động đến đất trời, hoặc có dòng nước mới tự đến, hoặc có các tặng phẩm vận chuyển từ sâu xa, xua đuổi hổ rắn chạy xa, các bậc hiền quý cảnh mộ cùng đến. Đến đầu niên hiệu Quang thiên (?)(1) thời nhà Tần, có Hòa thượng Huệ Tư mới từ Bắc lại, đến chỗ Đại sư, hân hoan khế hợp. Từ đó riêng dựng lập am xá trên cầu đá. Cao ở phía nam, nên gọi là Nam đài. Trước kia cỏ dại Tây Tần lớn thành rừng, chướng khí ùn tỏa thành sương mốc, hổ gấu kêu réo, quỷ mị tung hoành. Từ khi có Đại sư đến ở thì tự nhiên An Lạc. Nếu chẳng là tiết tháo tinh thần cao vợi thì ai có thể trấn phục được như vậy ư? Mới đầu thì che chở kinh tượng, sau cùng thì tạo thành điện, đường, chùa, viện. Hoặc kho lẫm cao lớn đựng đầy thóc gạo, dần thí ban cho những người mang vác, hoặc là đá lớn mài hương, chuyển dời tạo hóa, vết tích hiện bày rõ ràng vậy. Lại nữa, bên cạnh đài có phòng nhà 500 vị A-la-hán. Đến nay nghiệm xét, nền móng ấy vẫn hiện còn. Hoặc có thuyết nói: Bậc siêu nhiên lãnh dẫn chúng đi, vết xe đi ruống lúa dứt tuyệt chẳng trở lại, bèn vì ẩn hóa. Sau lại có người đến tìm cầu, có lúc nghe có tiếng chuông vang vọng. Than ôi! Thần công của biến hóa, tướng của hiện thấy chẳng thể lường được vậy! Về sau, đến thời tiền Đường có Thiền sư Thạch Đầu Hy vận truyền pháp hưng thạnh trùm khắp phương Nam trước thuật thảo am ca tham tầm đồng bạn, đến nay vẫn hiện còn. Trong khoảng niên hiệu Thiên Giám (502-520) thời Nam Lương, có Cao tăng Hy Tuần là bậc tinh tu phạm hạnh, thầm tụng giáo điển, ẩn ở tòng lâm người thời bấy giờ chẳng thể lường biết. Nhân An cư kiết Hạ tại Thiên Thai, gặp Tôn giả Huệ Hải, sớm tối chuyên việc phụng thờ chưa từng biếng trễ. Đến lúc Hy Tuần muốn giả từ ra đi, nên xin cùng Thầy Huệ Hải. Tôn giả Huệ Hải bảo rằng: “Ông, giới hạnh không khuyết thiếu, chỉ vì tụng kinh tiếng tăm ồn náo trong chúng. Ta hứa cho ông cùng gặp ở tại chùa Phương Quảng ở Nam nhạc sau này vậy”. Biết thầy là bậc có khả năng thông hiểu tâm mình thật là người khác thường vậy. Kịp tới lúc Hy Tuần đến Nam nhạc tìm hỏi chùa ấy. Các bậc Lão thành từ xa gần bảo là: “Các chùa trong núi đây không có chùa nào tên là Phương Quảng Hy Tuần cho là bậc chí nhân nói lời thật đâu có thể khi dối ta ư? Mới giẫm trải khắp cùng các hang cốc, mong cầu trông thấy Đạo tràng. Một ngày nọ bỗng ở giữa khoảng 72 ngọn núi gặp một ngôi tinh xá hiệu là Phương Quảng, đất ở đó bằng phẳng, suối Linh giao dòng, quỷ thần vận chuyển lương thực đến, trâu vàng cưỡi chở, bỗng chốc thấy Tôn giả Huệ Hải bảo rằng: “Sao người đến chậm vậy?” Hy Tuần tán thán đảnh lễ. Tôn giả Huệ Hải bảo rằng: “Đây là nơi Đạo tràng của 500 Tôn giả, ông chưa thể ở đây được, ông nên đến đỉnh núi ở phía Tây bắc”. Mới lưu ở tại đó 1 đêm mà đi. Hy Tuần bèn y theo lời Tôn giả Huệ Hải kết lập am viện tại đó. Đến năm Đại Thông thứ 6 (532) thời Nam Lương, bèn xây dựng chùa Phương Quảng tại nền móng am viện đó. Trong thời nhà Tần, có cao Tăng Đại Hòa thượng Tư, húy là Huệ Tư, vốn dòng họ Lý, người xứ Võ Tân, vừa mới sinh mà tướng tốt hiện bày, nhục kế nổi trội trên đỉnh đầu, trội vượt hơn hẳn các tướng, tự chứng đắc đạo lý chẳng nói bày, gá tu tịnh Phạm mà chứng Viên giác, thường bảo cùng Đồ chúng rằng: “Ta đi sang phía Nam Hành sơn vậy”. Nhân đó mà từ núi Đại Tô đi đến. Thời vận nhà Lương ngắn ngủi, cõi đất phương Nam luôn lộn xộn. Qua vài năm mới đến được Nam nhạc, trông xem khắp 4 phía, sai lại đến nơi cội ngô đồng. Trên sườn núi có tảng cứng lớn như đài, Huệ Tư bảo cùng đồ chúng rằng: “Xưa trước tôi ở tại nơi đây tu tập, đến nay đã có 3 đời kiếp. Ước tính về khoảng đất lấp sâu cạn đều có hài cốt vậy, đến nay có tảng đá đây cùng biết. Và nay, tôi ngụ ở tại đây 10 năm nữa”. Nhân đó mà tạo dựng Bát Nhã đài để ở, thiếu nước thì Đại sư dùng gậy gõ vào sườn núi tự nhiên suối nước tuông chảy, đến lúc đồ chúng càng đông nhiều lại không thể cung cấp, lại cảm có 2 hang hổ bay đá khỏi dòng vận nước như thần. Nhân 1 ngày nọ, Đại sư Huệ Tư bảo cùng môn nhân đồ chúng rằng: “Kỳ hạn 10 năm đã đến vậy. Ta đem giáo pháp trao truyền và đi đây”. Lúc đó là ngày 22 tháng 06 năm Thái Kiến thứ 09 (577) thời nhà Trần, Đại sư Huệ tư nghiểm nhiên thâu thần thị tịch. Có đệ tử Linh Biện giằng lòng cảm tuyệt. Bỗng nhiên Đại sư bảo rằng: “Cớ sao phải nghó nhớ ta đến nỗi như thế?” Lại vì giảng nói pháp. Nói xong, Đại sư lại tịch diệt, hưởng thọ 64 tuổi. Tính lại mới đầu từ năm Quang Thái thứ nhất tức năm Bính Tuất (566) đến đây là năm Bính thân (576) Đại sư tịch diệt, quả đúng 10 năm vậy(1). Về sau, đến thời tiền Đường (Đại sư Huệ Tư) lại hóa làm vị Tăng tên là Viên Trạch cùng vị Tăng họ tên là Lý Nguyên đồng đi đến bến sông phía Nam kinh hạp. Viên Trạch nói cùng Lý Nguyên rằng: “Ta đến nhà người con gái dòng họ Vương Đầu thai làm con, cảm phiền ông lo việc hậu sự cho ta, hẹn 13 năm sau sẽ gặp lại phía ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu”. Quả nhiên Viên Trạch thị tịch, mọi việc hoàn tất, về sau Lý Nguyên trở lại nơi ước hẹn, từ đất Lạc đến đất Ngô, nghe dây sắn đu đưa trên bờ sông có Đồng tử gõ sừng trâu mà ngâm ca rằng: “Ba đời trên đá tinh hồn cũ Thưởng trăng ngâm gió chẳng đủ bàn Xấu hổ tình người xa cùng hỏi Thân này tuy khác, tánh thường còn”. Lý Nguyên bèn kêu hỏi: “Trạch Công khỏe mạnh chăng?”. Đồng tử cưỡi trâu đáp rằng: “Lý Công thật bâïc só giữ chữ tín! Nhưng duyên trần tục chưa hết, lại nên tu tiến mới có thể cùng gặp”. Lại ngâm ca rằng: “Thân trước thân sau việc vội vàng Muốn nói nhân duyên sợ rách lòng Núi sông Ngô Việt tìm đã khắp Tới lui sóng khói lên cù Đường!” Trong niên hiệu Đại nghiệp thời nhà Tùy (605-617), có Cao tăng húy là Đại Minh, người xứ Ngô quận, dòng họ Chu; thật ra dòng tộc Hồng ở Giang Biểu. Tánh lượng bao quát núi sông, chí ý bền chắc như vàng đá, tài cao riêng ưu tú. Học nghiệp thông rành nghe rất nhiều. Lúc vua Dương Đế (Dương Quảng) đang ở đất phiên thỉnh mời vào Đạo tràng Tuệ Nhật. Đến năm Đại Nghiệp thứ 12 (616) thời nhà Tùy, ban sắc Pháp sư đến Nam nhạc nơi chốn Hiểu Giảo, tạo dựng tôn tượng Đức Phật Vô Lượng Thọ cao 36 thước, và 2 tôn tượng Bồ-tát, Phục hưng lại Long. . . (phần văn dưới khuyết!). NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP QUYỂN THƯỢNG (HẾT)  <卷>QUYỂN TRUNG 1.LẦN LƯỢC NÓI VỀ CÁC ĐẠO QUÁN VÀ CHÙA PHẬT * Chân Quân quán. Chân Quân quán tức từ Thuyên đức quán về phía Đông cách 50 bộ, tức là Quán của Cửu thiên nam thượng tử quang khách hoa xích đế thái hư chú sinh Chân quân. Vốn đó là Chân quân miếu tại các cửa trong đền thờ nhạc. Trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường. Tư Mã Thừa Trinh tấu trình nói rằng: “Các Động Thiên ở Ngũ nhạc mỗi mỗi đều có Thượng Chân quản trị, không thể thiết bày các thứ máu huyết đồng cúng tế thần”. Thánh chỉ vui mừng sáng lập thanh cung, phàm đến ngàn Lập hạ, trước nên thiết trai thanh khiết, ban sắc quan tước các châu đến tế ở Quán ấy và độ 50 Đạo só đốt hương tu luyện. Năm Khai Nguyên thứ 5 (717) thời tiền Đường, Minh Hoàng Chế Kinh Ngũ Linh nói rằng: “Giúp quản trị gồm có 9 người, theo quan lại phải hơn 300 người, giúp phòng vệ nha quan có 300 người, đến chỗ đất vì nước nhà cầu chân thỉnh phước”. Theo “Thượng Chân ký” nói là: “Thái Hứ Chân Nhân Lãnh Nam thượng Ty mạng tức Xích Đế vậy”. Tiềm sơn Ngụy quân (xung) làm Phó trị Hoắc sơn Hàng quân (chúng) làm Tá trị Hoắc Lâm sơn Hứa quân (ánh) Đan Hoắc sơn Chu quân (tử Dương) Kim Hoa sơn Hoàng quân (sơ Bình) Nam Hoắc sơn Trịnh quân (Ẩn) Thiên Trụ sơn Nguyễn quân (Ngạo) Tử Hư Nguyên quân Ngụy phu nhân (Hoa tồn) Xung tịch nguyên quân ma cô. Bên Hữu đều là ty của Quân Tá Mạng, đất của Ngô, Việt, Sở, Thục phải do bản ty coi xét. Đến torng niên hiệu Thuần Hóa (990-995) thời Bắc Tống mới cải đổi là Chân Quân quán. Đến trong niên hiệu Đại trung tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng) ban sắc bản ngạch của Quán. Xưa trước, năm Khai Nguyên thứ 6 (718) thời tiền Đường, Thượng đế giáng ban Chân Quân. Một mình chóa ngọc xua đuổi Tà tướng trạng như kiếm, dài 3 thước, rộng 4 tấc. Ngọc văn như ráng mây, thẳng ngay nhỏ nhiệm như kiếm bén. 1 Đạo Ngọc sách dài hơn 1 thước, rộng 6 tấc, có Triệu văn viết rằng: “Ngọc sách của Đạo Quân”. Có 2 ấn văn ghi là: “Ấn của Tam Thiên Thái Thượng” đều khắc lối Văn Triệu. Hoặc có người nói Bản ngọc sách xưa trước đắp ở cánh tay Chân Quân. Dùng gỗ đàn hương khắc chạm để lưu truyền đời sau. Có 1 chiếc ấn ngọc vuông rộng 5 tấc có 8 góc, viết rằng: “Chú sinh Chân Quân ngọc ấn” cũng viết theo lối văn Triệu, nay đều hiện còn. Hoặc có thuyết nói là: Đó là Triệu văn của Tư Mã Thiên sư vậy. Triều đình ngày nay giáng đến Hỏa linh ở 1 đỉnh đầu, dùng vàng lót để nghiêm sức. Tiềm Chân Quân và Hoắc Chân Quân, Ngọc Quân nhai 2 mặt đều có. Trong triều đại Bắc Tống, các vua Thái Tông (Triệu Quýnh 976-998), Chân Tông (Triệu Hằng 998-1023) và Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-10474) Ba Thánh ngự thư sắc vàng vẫn hiện còn. Tháng 3 năm Đại Quán thứ 2 (1108) thời Bắc Tống, vâng phụng sắc chỉ tạo dựng điện Nguyên Thần, tức là điện Tập Phước tại trong Quán, phía trước có cửa Ngọc thanh kim khuyết. Mỗi năm vào dịp tháng 6 sinh thầnh, và 2 dịp cúng tế mùa xuân mùa hạ đều từ kinh đô giáng ngự danh từ biểu thị đến đó để cúng tế. Mỗi lúc đốt ngự hương 6 lượt 2 lần cầu chúc Thánh thọ, ân ban 1 Đạo tử y. Thật là nơi cầu phước của nước nhà vậy. Nêu Giang Lăng Quân có lưu lại bài thơ đề về Chân Quân quán, toàn bài là: “Điện kín cao vợi, tía khoảng không Động tiên sâu lắng các Chân Quân Lúc lông sương xuống Chu Lăng Hạc Thê vàng còn xét nét bút xưa Gió phẩy đàn ngọc diềm tha thước Mây về non tím kiệu vụt bay Khói trúc giăng lười trăng gói trọn Một luồng suối lạnh súc bích cừ”. Tại Chân Quân quán có 6 văn bia: Chú sinh Chân Quân bia (năm Khai Nguyên thứ 20 (732) thời tiền Đường, do Hàng Châu Tư Mã Triệu Di soạn, Tiêu Thành ghi). Di Kiến Hoàng Đế Bản Mọng bia (tháng 3 năm Đại Quán thứ 2 (1108), Thông Trực Lang Quyền Đàm Châu Thông Phán Kiêm Quân Châu Sự Triệu Khiên soạn văn và ghi viết dựng lập. Ngự chế Hoa Đạo văn Tống Tuyên Hiếu Thi Triều Hiền Tống Đan Đại sư Thi Thạch Nam nhạc tạp thi. * Hành Nhạc quán. Hành Nhạc quán tại dưới phía Nam núi Tử cái, ở trước núi tử tiêu. Năm Thái Khang thứ 8 (287) thời Tây Tấn, có người đất Ngô là Từ Linh Kỳ, Tân Dã tiên sinh Đặng Úc Chi khai quật nền móng điện Vương Mẫu xưa cũ mà tạo dựng. Trong niên hiệu Nguyên Gia ( Vónh Gia 307- 313) thời Tây Tấn, Hoài Đế (Tư Mã Sí) ban sắc biển ngạch là Hoa Tẩu Quán. Đến thời nhà lương lại cải đổi là Cửu Châu Quán. Nên Trương Tá Nghiêu có bài thơ đại khái là: “Đời Tấn gọi Hoa Tẩu Đời Lương kêu Cửu Chân Cửa cung từng đổi ngạch Cửa động chẳng dời xuân” Là ấy vậy. Người trú trì tức Chu Tỉnh Chân là thầy của vua Võ Đế (?). lòng vua mong cầu thượng thiện nên luôn thân gần đi quanh phòng vàng bái yết Nguyên Đô ấy. Như Hiên Hậu đến kính bái Không Đồng, Hán Hoàng tham lễ Hà Thượng, khác đời mà đồng thời vậy. Vâng phục sắc ban trang điền gồm 300 hộ dân để sung lo có nghiệp. Đến năm Đại Nghiệp thứ 8 (612) thời nhà Tùy, cho đến đời vua Cao Tổ (Lý Uyên) thời tiền Đường, ban chiếu thỉnh mời 2 Pháp sư Thái Pháp Thọ và Lý Pháp Siêu đến làm chủ quán và lo việc đốt hương tu luyện, mở mang hoằng truyền giáo pháp, tất cả mọi thứ ruộng lúa kho phủ mọi vật v.v… ở Hàng châu đều cung cấp vào Quán để làm vật dụng. Đến năm Trinh Quán thứ 2 (628) thời tiền Đường, vua Thái Tông (Lý Thế Dân) lại viết biển ngạch, ban chiếu mời Trương Huệ Minh Thiên sư độ 49 vị Đạo só để lo việc đốt hương tu luyện. Đến năm Hoằng Đạo thứ 2 (684) thời tiền Đường, vua Cao Tông (Lý Trị) lại ban sắc chiếu mời Diệp Pháp Thiện Thiên Sư, và phong vức địa phương chung quanh Nam nhạc trong khoảng 40 dặm đều sung vào Quán, làm xứ đất Trường sinh, cấm không được chặt phá hái củi, săn bắn muôn thú, giao vào Long Hiến tốt đẹp khuôn phép thường lệ. Từ trong niên hiệu Khai Hoàng (581-601) thời nhà Tùy, lại đã cải đổi là Hành Nhạc quán, về sau gặp binh lửa hủy hoại. Đến đầu niên hiệu Thiên Hựu (904-907) thời tiền Đường, Phủ Chúa Lệnh Công lại tạo dựng lại đó. Đến trong thời Bắc Tống, các vua Thái Tông (Triệu Quýnh 976-998), cả 3 Thánh ngự thư nhuần nhã văn bia bằng vàng báu. Mỗi lúc xông đốt ngự hương cầu chúc Thánh thọ, cũng là nơi cầu phước của nước nhà. vua Chân Tông (Triệu Hằng) ban sắc sai Xung Tónh Thiên sư Đan Duy Nhạc đến trú trì, đề cử nhạc môn cung quán, kiêm lo việc hương hỏa. Về sau vâng phụng sắc chỉ cải đổi làm Giáp ất, bắt đầu từ đó. Nên Tể tướng Vương Khâm tiễn đưa Đan Đại sư về núi có làm bài thơ rằng: “Ngọc thư vụt ngự giáng Thần châu Lầu quán đài son chọn Đạo lưu Hang cốc khó giấu tánh vượn hạc Ngâm nghó trọn nhớ nước mây sâu. Chiều hẹn vượt tuyết đến Tiêu tương Hái thuốc men khe nương thuyền nhỏ Chợt đến đất Sở nhớ tình quê Mười năm người vật nửa nổi chìm”. Đến năm Tuyên Hòa thứ 6 (1124) thời Bắc Tống, lại y chuẩn ban sắc tạo dựng điện Hạo Thiên, đổi sắc Hành Nhạc là Thuyên Đức Quán. Từ năm Tuyên Hòa thứ 3 (1121) thời Bắc Tống được sắc chỉ miễn thâu 2 loại thuế của Đạo nghiệp. Đến trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131- 1163) thời Nam Tống, Thái Thượng Hoàng Đế (Cao Tông - Triệu Cầu) ban sắc ngự thư “Hoàng Đình Nội Cảnh kinh” 1 quyển, pháp thiếp ( Diệp) 9 quyển. Tại quán, ở trong Bạch Vân đường có an trí tôn tượng Bảo sinh thiên tôn bằng đồng. Trong niên hiệu Hàm Hanh thời nhà Tấn (?), chú đúc Điền Lương Dật tiên sinh ở Ngự thư các tại Vô Cực đường, Lưu Quảng Thành tiên sinh ở Giáng Chân đường. Châu Đường lâu trông xem các đổ dòng nước quanh hiên. Trước Quán về nách phía tả cách 200 bộ, trên đỉnh Long sơn có nơi Mao Só Hải người xứ đất thục sống vào thời nhà Đường nhà Tống đắc Đạo. Phía sau quán, trên chùa sơn xưa trước có am của Duẫn Chân Nhân, Đàn chầu thiên kính lễ tinh Đẩu, Đình Giá Hạc. Chân Nhân vốn dòng họ Duẫn, húy là Đạo Toàn, người xứ Thiên thủy, tu theo Đạo của Động Chân Hoàn Thần, mang phù Ngũ đế lục giáp tả hữu linh phi. Thiên tiên giáng đến mà bảo cùng rằng: “Người bay lên phải có tài quý và sau mới thành Đạo đó. Xưa kia vua Võ Đế thời nhà Hán thâu gồm thọ nhận 12 Linh phi của kim mẫu và Ngũ nhạc chân đồ hình mới được thoát giải thay, mà chưa thể khiến hình cốt đều cùng bay. Nay ông có được 1 mà có ước mong bay lên trời, há chẳng do tích công có phần xưa trước mà được gặp ư?”. Đạo Toàn nói rằng: “Tôi học cạn chưa từng được nghe, xin chỉ bày cho biết tiêu mục của 12 sự”. Thiên Chân bảo: “12 sự là: Một là phù của Ngũ Đế lục giáp tả hữu linh phi Hai là văn của Thái nhất hỗn độn Đông mông Ba là phù của Bính Đinh nhập hỏa cửu xích bang Bốn là văn lục của Thái âm lục đinh thông chân độn linh ngọc nữ Năm là sách của Lục Mậu thái dương chiêu chân thiên quang sách tinh Sáu là quyết của Lục Tî thạch tinh kim quang tàng cảnh lục hình Bảy là luật của Lục Canh tố chiêu nhiềp đầu Tám là pháp của Lục Tân trí hoàng thủy nguyệt hoa Chín là Tám thuật Nhâm quý lục độn ẩn địa Mười là Tý ngọ mão dậu 8 bẩm 10 quyết 6 hư oai nghi. Mười một là Sửu dần tuất mùi Địa chân khúc tố quyết tử 3-5 thuận hành - Mười hai là Dần tî thân hợi tử độ viêm quang nội thị trung ương. Và Ngũ nhạc chân hình đó là: Một là Ngũ nhạc sơn phù an trấn phương nhạc, hịch chiêu vạn linh thái thượng chân văn. Hai là Ngũ nhạc sơn chích, thần tiên giẫm xéo xoay đảo cảnh cúi nhìn núi sông, tả về hình thế khúc chiếc cuộn bàn mỏng nhạt nơi đất. Ba là Ngũ nhạc sơn hình, tức lấy nơi chỗ đỉnh núi tròn cao vút có các động thất, nơi sản sinh các loại cỏ linh chi thần, số lượng cao thấp thước trượng đẳng cấp, hạn định Đông Tây Nam Bắc làng nhà. Bốn là Ngũ nhạc sơn cốt tức lấy chỗ phân cành nhánh hình tượng cốt thể, nơi sinh khởi trên thì pháp tinh văn dưới thì chủ nhân sự. Năm là Đồ hình của Ngũ nhạc sơn thủy huyệt quán, tức lấy chỗ xuất sinh dịch suối, nơi ẩn tàng vật báu vàng bạc, nơi mạch đất lưu thông mà làm Đồ hình. Chủ Phù đồ lại binh quan phụ thuộc mỗi mỗi có vài vạn người. Ngũ nhạc bao gồm 360 núi lớn, 1. 200 núi nhỏ, đều liệt bày tiên tào chức tể có thể gọi là đông nhiều vậy. vua Võ Đế tuy được pháp đó mà không có khả năng chuyên tinh hành giới, chung cùng vui võ ham binh tự phá hủy phước đó nên chẳng được đồng công như Hoàng đế. Nay ông gặp đây mới biết là con cháu của văn thỉ, thuộc tông tộc của Thái hòa, ở đời chỉ có người này vậy. Ta sẽ cùng ông mong lên cửu thanh vào trong Thái hư vậy!” nói xong Thiên Chân bèn đi. Đến ngày mồng 09 tháng 03 năm Vónh Gia thứ nhất (307) thời vua Hoài Đế (Tư Mã Sí) nhà Tây Tấn, bỗng nhiên có mây trắng nổi hiện trong phòng thất của Đạo Toàn chân nhân, suốt 3 ngày không tan. Đến lúc đã tan, vào trong xem, không thấy chân nhân đâu cả, chỉ nghe có mùi hương xông ướp vào người. Đến năm Trạng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, Huy Tông Hoàng đế (Triệu Cát) ban sắc hiệu là “Thông chân quán Diệu chân nhân”. Tri Đàm Châu Trương Mậu Tông có lưu lại bài thơ đề về “Hành nhạc quán” là: “Núi Linh nhạc trước đến Quán xưa Trong đây đâu khác cung nhị châu Năm mây tiên khách hình đều khác Mười động khói hoa cảnh chẳng đồng Luyện thuốc lò hương khí vàng đá Đàn tế tinh lạnh gió lay nấm Nhân nghe Đại đạo tu chân quyết Thước tấc ba thanh đường có thể lên”. Tại Quán Hành Nhạc có 6 văn bia: Cửu Châu Quán ký (do Vương Tiêu Vó ở Tương Đông thời nhà Lương soạn thuật). Bia Hà Tôn Sư đắc Đạo (do Hàng Châu Thái Thú Tô Vụ Liên soạn thuật thời tiền Đường). Bia Quảng Thành Tiên sinh thần đạo (do Hàng Lâm Thừa Chỉ Tiêu Nghiệp soạn thuật, Thái tử Thiếu Phó Trí Só Lô Phan ghi). Ẩn Chân Khản Điền tiên sinh ký. Quảng Thành tiên sinh nội truyện (do Lại Bộ Thị Lang Triệu Lỗ soạn thuật). Trung Thư Xá Nhân Vương Hựu tặng Đạo só Suất Tử Thi (do Đông Pha Cư só Tô Thức làm bài ký và ghi). * Chùa Thắng Nghiệp. Chùa Thắng Nghiệp tại nách phía Đông của miếu. Xưa kia gọi là chùa Thánh Dung. Hoặc có thuyết nói là: Thời nhà Hạ, Võ Đế xây dựng cung Thanh lãnh để kính phụng an trí tôn tượng Ngu Thuấn (Thánh Dung tức là Thánh tượng vậy). Đến thời vua Võ Tông (Lý Viêm 841- 847) thời tiền Đường, bèn phá hủy. Mã thị y cứ có Hồ Tương có chưởng cáo, phu nhân Dương Tử Oánh cúng thí tiền xây dựng lại, cải đổi làm thành chùa Báo Quốc. Theo “…. ký” nói là: Đó là cung xưa cũ của thời Hạ Võ vậy. Đến trong niên hiệu Chánh Hòa (1111-1118) thời Bắc Tống, lại cải đổi làm cung Thần tiêu, về sau lại thay đổi làm chùa. Ở phía Tây nhà ngủ có ngôi am tên là Võ Bách, giữa khoảnh sân tuy rộng, mà chỉ 1 cây bách che phủ khắp. Phía sau lại có Duyệt Đình, mặt núi bao quanh như tường lắng, đề thơ ngâm vịnh cũng lắm nhiều. Tăng só ở đó có Sa-môn Văn Chánh có 4 câu thơ rằng: “Chim núi không tiếng phàm Mây núi chẳng dáng tục. Dẫn đắc thiền Bạc đầu Luôn luôn cậy gậy lê”. Ở phía Đông có đình Lão Mẫu, hiên chân như, đều thuộc loại nhã chuộng. Xưa trước, chùa không có nguồn suối, Sa-môn Văn Chánh nhân đi trồng cây sam, phỏng tìm dò theo hang cốc có được 1 mạch nước tuôn chảy thành suối, mát ngọt rất đượm ích với mùi vị trà. Lấy ngay nền móng xưa cũ của thời Hạ Võ mà tạo dựng ngôi đình trên đó, lấy làm nơi thuyền duyệt. Chùa vốn có ngự thư. Đến đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976) thời Bắc Tống mới ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay. Bảo Chân cư só khu mật chiếc công Ngạïn chất có lưu lại bài thơ rằng: “Cung xưa còn vết Võ Thắng Địa thuộc chùa Tăng Miếu cũ Tùng che phủ Đình râm bóng trúc đầy. Đảnh mây hợp ngâm thưởng Núi chim ồn trong Định Xua đuổi thành kinh khác Lòng không khách tặng đường”. Tại chùa có Liễu Tử Hậu ở thời tiền Đường soạn thuật về văn bia thứ 2 của Hòa thượng Di Đà, gồm tự khắc ghi theo lối chữ Triệu. Đến thời nhà Tống chúng ta có Khương Túc Công Trần Công Nghiêu phỏng hỏi chỉnh sửa ghi vào tạng bản. Chùa Cáo Thành. Chùa Cáo Thành xưa kia cũng gọi tên là Hành nhạc. Năm Nhân thọ thứ nhất (601) thời nhà Tùy, vua Văn Đế (Dương Kiên) đem xá-lợi Phật phân đặt ở các quận, khiến tạo dựng tháp để tôn thờ, có cả thảy 30 nơi. Tại Nam nhạc tức xây dựng tháp ở chùa Hành nhạc. Ngày 23 tháng giêng năm Nhân thọ thứ 2 (602) thời nhà Tùy, bắt đầu sư giả nghinh thỉnh đến các đường, vua ban sắc lấy giờ Ngọ ngày mồng 08 tháng 04 năm đó tức đồng 1 loạt các nơi đều an táng, và đó là 1 trong nhiều nơi vậy. Theo Mã Thị gọi đó là Phước. Đến năm Nhân thọ thứ 5 (605) thời nhà Tùy, mới xây dựng phòng nhà tháp lầu, chỉ thành tựu 1 ngôi chùa. Đến trong niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1008-1017) thời Bắc Tống, Đông Phong cải đổi lại biển ngạch chùa như hiện ngày nay. Phía sau, đi lên núi có tảng đá lớn cùng nặng hình tướng uyển nhã như hình mài cọ, tương truyền đó là Đại Hòa thượng Tư ( Tuệ Tư?) cảm hóa được quỷ nên vì mài hương, nay trong núi đó có hương suất lũ, bởi sót trồng lại vậy. Chùa Hành Nhạc. Chùa Hành Nhạc tại dưới núi Tập hiền, cách miếu 1 dặm về hướng Tây bắc. Năm Thiên Giám thứ 2 (503) thời Nam Lương, xây dựng Đạo tràng của Tôn giả Huệ Hải. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) ban sắc lấy biển ngạch xưa cũ làm biển ngạch chùa. Phía sau có am Thiện quả là nơi Thiền sư Hải Thê an nghỉ, suối bay trúc dài trống đá cây quái lạ đặc kỳ. Xưa kia Hòa thượng Lãn Toàn thường ẩn tại đó cùng gặp Lý quỷ cốc. Thái tông Hoàng đế (Triệu Quýnh) thời Bắc Tống ban sắc ngự thư. Trong chùa có văn bia Thiền sư viện Luật do Đường hoàng phủ thực soạn văn, Liên Châu Thứ sử Vương Hủ viết khắc. Hàn Dũ thời tiền Đường có bài thơ nghỉ lại qua đêm tại lầu cửa chùa Hành nhạc, đại khái là: “Tử cái, Thiên trụ núi liền nhau Thạch lẫm, Chúc Dung thắng ném đồi Rậm rợp rùng mình xuống ngựa bái Tùng bách một ngành đến linh cung”. Trườc chùa có văn bia của 5 ngôi chùa do Đường Lý Tốn soạn, La Trung lập 8 phần sách, 5 ngôi chùa đó là: - chùa Bát Nhã, - chùa Nam Đài, - chùa Vạn Thọ, - chùa Hoa Nghiêm và - chùA-di-đà. Ở phía Tây có am Văn-thù. Xưa kia, Chu Đạo tu hạnh Đầu đà, chứng đắc sức định tam muội, trở lại biết được tâm ý của người. Người thời bấy giờ không ai dám khinh hoặc. Ngày nay con đường lớn đi đến núi được cắt xẻ đá thuận tiện cho mọi người qua lại, đó là sức của Đạo vậy. * Chùa Tịnh Nghiêm. Chùa Tịnh Nghiêm ở góc Tây bắc của miếu, cách khe nước ngầm, gần chùa Tây thiền, tạo dựng trong khoảng niên hiệu Hàm thông (860- 874) thời tiền Đường. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976- 984) thời Bắc Tống, mới lấy theo biển ngạch cũ mà sắc ban. Trước kia (1004-1008) thời Bắc Tống, có vị Tăng an tọa bỗng thấy từ trong đất có tỏa phóng ánh sáng vút cao hơn 1 trượng, mới đào bới tại chỗ đó, có được 7 tôn tượng Đức Phật. Đến nay sắc màu vẫn mới đẹp như xưa cũ vậy. Chùa Tây Thiền. Chùa Tây Thiền cũng ở tại phía Tây bắc của miếu, không thấy khắc ghi gì về sự tạo dựng mới đầu. Chỉ thấy đến trong niên hiệu Thiên giám năm thứ 3 (504) thời Nam Lương mới tu sửa lại, và cũng không nêu bày những tốt đẹp gì khác. Bên trong có 2 cây thụy lư thụy liên, chim bay chẳng dám ghé đậu. Nói là có Đạo nhân ở nơi mỗi cây, nên chim muông lánh né đó. Lưu Hầu quán xét mà có lời thơ rằng: “Lầu điện chẳng dạy chim đậu đêm” là đó vậy. Chùa Hoa Nghiêm. Chùa Hoa Nghiêm, là từ miếu theo hướng Tây bắc leo lên núi cách chừng 3 dặm. Trong khoảng niên hiệu Đại nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, có Cao tăng Huệ Điều chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm, có lúc Đồ chúng ít đến, Huệ Điều mới sắp chất đống đá trước mặt mà bảo rằng: “Các ngươi có phải là đệ tử của Ta chăng?”. Các tảng đá đồng gật đầu. Đến trong thời vua Thuận Tông (Lý Trọng 805-806), mới đến chỗ đất đó mà tạo dựng chùa lấy biển ngạch là chùa Hoa Nghiêm. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) lại lấy theo biển ngạch xưa cũ mà sắc ban. Chùa Vân Cư. Chùa Vân Cư, tức từ miếu về hướng Tây bắc leo lên núi cách khoảng 7 dặm, do Mã Thị tạo dựng, có đình ngưng bích, thế mặt cao vút, trông nhìn xuống khắp cảnh vực của Nam nhạc thấy khắp cùng tất cả, là nói đến dừng nghỉ của các du khác. Người thời xưa trước ngâm vịnh rất nhiều. Chỉ có Tất Điền nói là: “Bốn mặt núi sắp lớp trùng Hang xưa sâu thẳm chắn lạnh không Thu trong riêng tựa hiên cao đứng Lưu ly thế giới, thân ở trong”. Và Liệu ngưng cũng có đôi câu đối rằng: “Nước xa nhỏ tràn dẫn trước núi Lần lượt khiến người xem thán phục”. Chùa bị phế hoại đã lâu, gần đây mới được xây dựng lại. Trên tảng đá phía trước chùa có dấu vết trâu nằm, theo “Cựu ký” nói là: Dấu vết trâu vàng nhưng có thể nhìn thấy. Phía dưới tàng đá ấy có bậc thềm đá hơn trăm cấp. Trong khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581-601) thời nhà Tùy, do Tăng só Thần cũng đục mở nên. Gần đây lại tạo dựng cầu mở mang phòng ốc lan can để tiện leo trèo lên nhưng nay cũng đều đã bị hư hoại, nên Mao Lý Từ có bài thơ vịnh về cầu đá đại lược là: “Riêng lên thang mây ba trăm cấp Xoay nhìn cười thỏa muôn núi thấp”. Lại còn gọi đó là chùa Thạch Kiều, phía trước có đường đi lui, sườn mé đường đi rất cao hiểm. Người đến đó phải dốc hết lực mới lên nỗi, nhân đó mà gọi tên như vậy. Xưa trước có bậc Hiền giả làm bài thơ chưa thành câu rằng: “Người đi phải nỗ lực Thắng cảnh tại non mây”. * Chùa Nam Đài. Chùa Nam Đài nằm tại phía Bắc miếu leo lên núi cách khoảng 10 dặm. Trong khoảng niên hiệu Thiên giám (502-520) thời Nam Lương, có cao Tăng Tôn giả Hải Ấn vui thích thế đất linh cảnh nói ưu tú ấy nên dựng lập am tranh mà ở. Lại đến đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường, có đệ tử của Lục tổ là Thiền sư Hy Thiên đến phía Nam chùa thấy có tảng đá tướng trạng như Đài mới dựng am mà ở đó, nên chùa mang tên hiệu là Nam Đài. Trong văn bia do Ngự Sử Lưu Kha ở Thánh đế soạn thuật đều có nói vậy. Sau khi Thiền sư Hy Thiên thị tịch, bèn tạo dựng tháp tại góc chéo của núi, để thụy hiệu là “Vô tế kiến tướng”, có 2 văn bia vẫn hiện còn, do Bùi Hưu ghi viết chữ khắc họa bền chắc cứng mạnh. Có thuyết nói không phải do Bùi Hưu ghi viết, nhưng cũng rất khả quan. Bàng Cư só từng đến đó thỉnh hỏi điều lợi ích nơi Thiền sư. Phía dưới điện có tảng đá là nơi Đan Hà xuống tóc. Lại có tảng đá gọi là Phi La-hán. Ở đời tương truyền là do thần vận chuyển đến dựng nên, nay nền móng di tích vẫn hiện còn. Hòa thượng Thạch Đầu trước tác bài ca “Tham đồng khế thảo am” ( thăm am tranh của bạn), Thiền sư Thiện Viên khắc ghi vào đá. Phía Tây chùa có dòng suối ngọt, nước chảy đến tận nhà trù nên gọi đó là ao rửa bát. Đến trong thời Bắc Tống, các vua Thái Tông, Chân Tông và Nhân Tông cả 3 Thánh ngự thư có hơn trăm quyển. Có Thạch Man Khanh viết 4 chữ “Thích-ca Văn Phật” trên sườn đá phía trước chùa. Đàm soái Trương Mậu Tông có bài thơ rằng: “Khói nấm nơi sâu, chùa Nam Đài Cảnh tượng nhìn lại đất cao thay Xẻ đất ai mở đến trên động Tầng lầu người gát nửa sườn nguy. Cầu đá qua nơi vài ngàn nhận Đường tùng lúc đi mấy vạn lần Đến đây, tâm sinh ngoài thanh tịnh Đầu non nhàn thấy khỉ vượn đùa”. * Chùa Phước Nghiêm. Chùa Phước Nghiêm tại phía Bắc miếu leo lên núi cách khoảng 15 dặm, là 1 ngôi Thiền sát (chùa viện) đứng đầu trong Nam nhạc. Trong niên hiệu Thái sơ (1) sắc ban biển ngạch như hiện ngày nay. Trong Thánh đế, có Thiền sư Hoài Nhượng dựng am ở nơi nền móng xưa cũ của Hòa thượng Huệ Tư. Có Hòa thượng Đạo nhất tọa thiền bên cạnh đó qua thời gian lâu, Thiền sư Hoài Nhượng sang đó nắm gạch cọ mài để khơi động, Hòa thượng Đạo Nhất hỏi rằng: “Ông mài gạch để làm gì?” Thiền sư Hoài Nhượng đáp: “Mài gạch làm gương soi”. Hòa thượng Đạo Nhất bảo: “Gạch làm sao làm thành gương soi được?”. Thiền sư Hoài Nhượng nói: “Gạch đã không thể làm thành gương soi, vậy tọa thiền sao có thể đắc đạo?”. Hòa thượng Đạo Nhất lấy làm lạ đó mà nói rằng: “Vậy rốt cùng như thế nào ư?”. Thiền sư Hoài Nhượng nói: “Nghóa là như người cưỡi xe, xe đã không đi thì là đánh xe hay là đánh trâu vậy”. Hòa thượng Đạo Nhất bỗng nhiên khai ngộ. Phía trên am đó có tảng đá Định Tâm, hang vị A-la-hán ẩn thân. Xưa kia có vị Cao tăng. Nhân có sự rao mời khắp cùng đến dọn dẹp củi. Vì cao Tăng A-la-hán ấy bồi hồi mà chẳng đến, lưu lại bài tụng ẩn thân, vào trong hang núi đó mà chẳng trở ra lại. Bài tụng đó là: “Diệu tướng chân không không người biết Vừa bị Duy na lấy thứ sai Thà nên vắng lặng về thất đá Ai hay vì chúng dẹp củi đây”. Phía dưới núi có suối trác tích, là nơi y tư đại trác tích vì tạo dựng am khó khăn bởi nước, lại có hổ nhảy nhót mở thành 2 dòng suối như tuôn trào có thể cùng cung cấp đại chúng. Có nước đủ 8 thứ công đức. Nói ẩn tàng 3 đời, am của Mã tổ, tháp Hòa thượng Huệ Tư. Xưa kia, Hòa thượng Huệ Tư trải qua 3 đời sống ở đó tu hành mới đắc đạo. Đến năm Chính Hòa thứ 6 (1116) thời Bắc Tống, bị nạn Hồi Lục, nên phòng nhà Phật tượng đều bị thiêu cháy hết, chỉ có nơi ẩn tàng 3 đời, am Mã Tổ, cầu Đâu suất vẫn hiện còn, sau đó phải trải qua 7 năm sửa sang tạo dựng lại mới được hoàn bị. Xưa kia, Trung ý Vương lúc ở tại Ngô Việt từng dùng 7 món báu tạo 84.000 ngôi tháp vua A-dục, dùng đồng đúc 84.000 ngôi, dùng sắt đúc 84.000 ngôi, dùng chỉ lụa quyên ấn phước có tháp 7 báu, xưa trước đặt để nơi phương trượng. Sau khi kinh điển đã bị đốt cháy hết, chuông lớn đá lớn đều rách nát, chỉ riêng tháp đó không biến đổi, mọi người đều nói đó là do nhờ nguyện lực của Trung Ý Vương nên được vậy. Đến như các kinh giáo bằng Phạm văn ở thời tiền Đường, xá-lợi, tôn tượng bằng gỗ đan hương, cho đến tích trượng của Hòa thượng Huệ Tư đều còn. Ngoài ra các vật cúng dường nhiều không thể tính kể. Bên cạnh đó có đàn giới do thiên nhiên mà thành tựu, Trung Thư Xá Nhân Hàn. Tông ghi viết biển ngạch chùa Bát Nhã, có 2 ngôi tháp kiên cố và Huyền Thái hiện đang còn. Trương Mậu Tông lưu lại bài thơ đề chùa Bát Nhã là: “Ném Bát nơi núi cao Xếp bày điện vài tầng Có tên chùa ngàn xưa Chẳng nhớ Tăng mười phương. Mây nổi cạnh cửa tùng Rêu mọc góc đá chẻ Thiết tha bá Quân lục Khó tiếp Nam năng đây”. Đến cuối niên hiệu Thiệu Hưng (1163) thời Nam Tống, lại gặp nạn Hồi lục, nên chỉ còn lại nơi ẩn tàn 3 đời, am Mã Tổ, ngoài ra đều bị cháy tiêu hết, lại phải trải qua 5 năm tu sửa lợp chòi lại, chỉ được hoàn tất 5-7 phần tráng lệ như xưa. Phía sau, có hang Dã nhân. Trong khoảng niên hiệu Thái Sơ (xem chú thích ở trước) có kẻ trốn lánh người Tần, qua lại bay vượt nơi núi hang, chẳng thể đến gần được, lén nhìn vào trong hang, không thấy có vật gì. Về sau có giống người chất phác ở đó, mãi đến nay vẫn hiện còn. Trong khoảng niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1008-1017) thời Bắc Tống, có 3 thiếu niên mặc áo đỏ, ngồi tròn trên đá, mọi người đến gần phỏng hỏi, bèn liền chẳng thấy. * Chùa Đại Minh. Chùa Đại Minh tại phía Bắc miếu leo lên núi cách khoảng 25 dặm, khói mây bên cạnh núi có nơi Hòa thượng Huệ Tư yên tọa. Trong khoảng niên hiệu Quảng Đức (?), có Tăng só Huệ Khai tạo dựng. Đến trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường, mới xây dựng lại. Có văn bia của Hòa thượng Đại Minh do Liễu Tử Hậu soạn thuật. Đến trong thời đại nhà Tống chúng ta mới ban sắc biển ngạch. Phía trước chùa có nền móng đàn xưa cũ nơi 18 vị Cao tăng hành đạo đến nay vẫn hiện còn. Phía Đông có hang Lại tiện, ngọn núi phía trên che chở gió mưa, có Bích Kê 5 sắc thường tu tập tại đó. Xưa kia có vị Cao tăng ở đó. Nhân vị ấy mà gọi tên như vậy, mặc áo cỏ, ăn cây lá, chẳng can dự việc đời, biếng lười (Lại) mà ăn vật tiện tàn (tiện) của người. Nghiệp Hầu Lý Bí cũng lập am ở bên cạnh, đặc sắc hiệu là “Đoan cư đường”, suốt cả 10 năm chẳng cùng qua lại, tiếng tăm vang vọng mọi nơi, có chiếu nhà vua sai sứ đến thỉnh mời thì cự tuyệt không đối đáp hiện tướng câm ngọng, luôn đổ hai dòng lệ. Sứ giả Lý Hầu có tặng bài thơ rằng: “Phẩn lửa chỉ biết màu vàng đẹp Cân Bạc đâu hay bùn tía bày Còn vô tình bay thâu lệ lạnh Ai có công đâu hỏi người đời”. Lại từng làm bài tụng rằng: “Việc đời dằng dặc Về núi nghỉ thôi Nằm dưới dây la Hòn đá gối đầu”. Hoàng Đình Kiên thường tự tán chân rằng: “Tự nghi đó là Đại sư Lại Tán ở Nam Nhạc mới già như vậy”. Hoặc có người xưng gọi “Lại Toàn” tức nói sai nhầm vậy. * Chùa Thượng Phong. Chùa Thượng Phong tại phía Bắc miếu leo lên núi cách khoảng 35 dặm, nằm dưới núi Chúc Dung. Căn cứ theo “Thắng Khái tập” của Tiền Cảnh Khản thì nói là: “Do bản Triều nhà Tống chúng ta ban sắc biển ngạch mà tạo dựng”. Có 1 thuyết nói là: Xưa trước đó là Tiền Thiên Quán, sau cải đổi làm chùa như hiện nay. Như lúc khói mây hơi tan mở, trông nhìn 4 phía xa đến ngàn dặm. Các hàng Tao nhân du thưởng đề vịnh thật lắm nhiều. Chỉ có Tăng Tề đã có bài thơ rằng: “Chim vượn cùng chẳng đến Ta lại thân muốn nỗi Bốn phía đều trời xanh Cùng đảnh chánh thu trong Vũ trụ biết sao cùng Phổ, quê thấy dòng nhỏ Đứng lâu phía Tây đàn Bạch nhật xoay thần châu”. Chùa có các rừng sâu, trong phòng Tăng chẳng từng để mất lửa, mới đầu thu đã đóng băng, tuy giữa mùa Hạ cũng mặc áo kép. Cây cao lớn chẳng quá 6-7 thước, nên gọi đó là cây thấp lùn. Tùng vạn năm cũng không cao quá trượng. Bởi cao quá chỉ đến lạnh mà thôi. Thế hình riêng cao chót vót, chim muôn cũng chẳng thể đến nơi. Trông nhìn phía dưới các núi chỉ như gò đống, chỉ phản phất như thương đậu mà thôi. Bên cạnh chùa có hang vực gió, ao sấm, nhà Long niên, nền móng miếu Chúc Dung. Đàn Thanh ngọc và Bạch bích tức hai nơi Phước địa, nay gọi đó là Đàn La-hán Hành đạo vậy. Xưa trước Tất Điền có bài thơ rằng: “Đã xây nhà vàng ròng Sao gọi đàn ngọc xanh Ai người sắp ứng cúng Lại đổi Tiên cung đây”. * Chùa Ứng Thiên Vạn Thọ. Chùa Ứng Thiên Vạn Thọ tại phía Bắc miếu leo lên núi cách khoảng 15 dặm, nằm ở phía Đông chùa Phước Nghiêm. Biển ngạch chùa là nơi do vua Ý Tông (Lý Thôi) thời tiền Đường ghi đề và dùng bằng ngọc khắc nên. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976- 984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) chỉ lấy theo biển ngạch cũ mà sắc phong. Chùa có Vương Mạnh Thị người xứ đất Thục xả thí tu tạo kinh tạng và tôn tượng Đức Phật bằng đồng chế tác đều tinh vi khả quan. Xưa trước cây tre cây si tốt um che kín trước sau. Phía Nam núi đó các ngôi chùa đều rất là sâu kín. Chùa đó trong thời nhà Tống có vua Thái Tông (Triệu Quýnh) và vua Nhân Tông (Triệu Trinh) ngư thư Tam Chúc Đường. Vô tận Cư só Trương Thương Anh có đề 1 bài thơ rằng: “Đánh đất vậy, biết sức vua sâu Cày ruộng đục giống tự ngâm âu Nhiều của, thọ lâu, lắm nam tử Nhớ Biểu phong người chúc Thánh tâm”. Lại còn có nền móng địa chỉ của am Lộc uyển nửa. Viện Tử Cái. Viện Tử Cái cách miếu về phía Bắc khoảng 15 dặm, ở phía trên chùa Bảo Thắng. Trong thời tiền Đường, đó là trạm tiếp đãi các tiên tu hành. 2 Đạo só Đàm và Trần cũng tu luyện tại đó. Lại có nền móng địa chỉ của Thiết Biều Tiên Trương Bạch Cư đến phía Bắc vào Đào nguyên, đã bị hư hoại đã lâu, có Dã nhân ở đó. Phía trên có bếp đàn tế cúng Tinh Đẩu, về phía Bắc là nơi Lý sinh thoát giải thay. Phía dưới có cây thông; nơi Đường Thái tử buộc ngựa. Chùa Bảo Thắng. Chùa Bảo Thắng, tại miếu về phía Bắc leo lên núi khoảng 12 dặm. Từ Hành nhạc qua chùa Hoa Nghiêm, trải vượt qua Thọ Kỳ quán theo hướng Bắc đi lên mới đến. Sam tùng che phủ tốt tươi ngoài ra không gì xinh đẹp nữa. Dưới phía Nam núi Hương Lô là có con đường đến viện Tử cái. Thánh Thọ Quán. Thánh Thọ Quán cách miếu về phía Bắc leo lên núi khoảng 7 dặm, được tạo dựng khoảng trong niên hiệu Hàm thông (860-874) thời tiền Đường. Nhân có khe suối mà Đạo quán được đặt tên như thế. Theo “Cựu ký” nói là: Xưa kia Linh Võ Lô Phan Trấn Kiềm Nam Nhật, tấu xin lấy nhà sách xưa cũ để làm Quán. Qua sau 6 năm lại tấu xin xả thí trang điền phòng nhà trọn sung vào làm vật thường trú ở trong Quán. Nay nhà của Lô Công Chân cho đến Đường Vũ nghiễm nhiên. Xưa trước, có Thanh âm các, Tuyển tiêu đình, Nghinh tiên các, Thử quân các. Tầng men sườn núi vách cao chót vót, trúc dài trùng lớn, khe sâu trong mát nước chảy xiếc, cảnh tượng rất kỳ lạ. Sách đó so với vạn thọ gấp bội lần tươi tốt kín mầu, khe suối thọ chảy quanh phía dưới trước Quán hợp với khe suối linh đổ dòng xuống Bình dã. Dưới đời vua Ý Tông (Lý Thôi) và Hy Tông (Lý Hoàn) thời tiền Đường, có Hiên Viên Di Minh ẩn dật tại đó lâu năm, sau đó trở lại Bảo Hoàng động đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, có Bả Tiên gặp Lã Động Tân ở tại Quân Sơn, về sau cũng ẩn tại đó hành Pháp linh quy thôn thổ, công thành bèn trở về Nhạc Lộc, tự hiệu là Tiêu Tương Tử, và từng nói rằng: “Ta mến cảnh Tiêu Tương Bụi hồng rủ cách bờ Nam sơn bảy hai (72) núi Chỉ thích gò Động chân”. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hựu (1086-1094) thời Bắc Tống, từng có hạc trắng bay đến đầu nơi sam trùng kêu hót trọn 3 ngày mới đi. Đến trong niên hiệu Uyên Hòa (1119-1126) thời Bắc Tống, cải đổi lại là Thọ Kỳ. * Viện Hoa Cái. Viện Hoa Cái là nơi Hoa Cái Quân tu hành, chẳng hiển bày tên họ. Hoặc có thuyết nói xưa kia đó là Thái Thanh quán vậy. Cách miếu về phía Đông bắc khoảng 15 dặm, từ Nguyên Dương cung leo lên Thượng Thanh cung mà đến. Xưa kia, Đàm Tiểu Nham, tự là Cảnh Thăng ở núi Chung Nam, lâu sau trước thuật Hoa thư, qua Đông Ngô thấy gò Tống Tề, đến Lô Phu rồi trôi nổi thuyền theo Tiêu Tương rồi đến luyện Đan tại đó. Lại có Mặc Hy Tử, không biết thuộc dòng họ gì đến ở đó trước thuật kinh Thông Nguyên. Trong khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581- 601) thời nhà Tùy, có Đạo só Ngô Hàm Khư tự là Hợp Linh, ở đó phong cuồng, chưa từng xuống núi, trọn ngày say sưa, cũng không có các vật khói lửa, người đời gọi đó là Ngô Nhu (vượn trọ ngô), khéo ngủ nghỉ trải qua cả tuần không ăn, và từng nói là: “Người muốn được, tức nếu lười biếng. Nếu như siêng năng cần mẫn không thể nhàn”. Vốn chẳng công kích văn chương, bỗng nhiên trước thuật “Thượng Thăng ca” rằng: “Ngọc Hoàng có chiếu lên Tiên chức Rồng nhả mây chừ, gió giúp sức Bỗng nhiên trước mắt thấy lâu đài Hoa lạ cỏ kỳ đáng thưởng thức. Ta đến Đại la nhìn thế giới Thế giới chỉ tợ ngón tay thôi Ngay lúc chẳng vì bay lên vội Một chút dẫn hương bán biển chơi”. Đến năm Thanh Thái thứ 2 (?), bỗng nhiên Thượng thăng. Lại có kinh đài ẩn só Thiết Quan tiên sinh, Phiền Thị kính mộ Đạo Hợp Linh, thường cưỡi trâu trắng đến phỏng tìm, Sở Vương Mã Hy theo khuôn phép thường noi theo đó. Về sau Mã Hy có tiếng tăm nối ngôi, còn tiên sinh chẳng biết đi đến đâu. * Thượng Thanh Cung. Thượng Thanh Cung cách miếu về hướng Bắc khoảng 7 dặm, là nơi Từ Linh Kỳ chân nhân vốn người đất Ngô tu hành tại đó. Từ Linh Kỳ thuở bé thơ gặp được thần nhân trao cho yếu quyết Huyền đan, pháp thuật ngậm hớp ánh sáng mặt nhật, đạo lý giữ lấy Nê-hoàn, ăn dùng cơm Hồ ma, nên được chu du khắp sông núi, qua lại Nam sơn lắm nhiều năm phỏng tìm núi động hang cốc, trước thuật “Hành Nhạc ký” nêu bày động Phủ linh dị, nói về 2 núi Tử cái và Vân mật đều cao hơn 000 trượng, và ở núi Vân mật có văn bia Hạ Võ trị thủy đều viết theo lối chữ hình nòng nọc. Phía dưới bia có thạch đàn, có dòng nước chảy quanh rất là thắng tuyệt. Còn ở núi Tử cái thường có đàn hạc tụ tập trên đỉnh, thần chi linh thảo sinh mọc lắm nhiều, phía dưới có thạch thất, có lò hương, cối chày, bếp táo luyện đan. Trên đỉnh núi Chúc Dung có đàn Bích ngọc chuông vuông 5 thước, phía Đông có giếng Lê sắc tía cao 300 thước do Hạ võ trồng nên, thật lớn như đấu, sắc màu đỏ như mặt nhật, nếu ai được ăn trái đó thì trường sinh bất tử. trong khoảng niên hiệu Nghóa Hy(1), có người ở núi tên là Phan Giác đến phía Tây đỉnh núi, đá tự nhiên nức nẻ có vật lưu xuất tợ như bùn sắc tía, Phan Giác không biết đó là Thạch tủy, nên trọn lấy dùng mà vất bỏ đi, bỗng nhiên tỏ ngộ, trở lại thì không trông thấy nữa. Đó là những điều ghi chép Thánh dị của Từ Linh Kỳ. Lại có khả năng sai sử quỷ thần, nhiếp phục rồng hổ. Đến ngày mồng 9 tháng 9 năm Nguyên Huy thứ nhất (473) thời Tiền Tống thì xung chân. Đến năm Trọng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) ban sắc truy tặng là “Minh chân động, vi chân nhân”. Nay tại nền móng cung, thấy còn có bia đá. Tương truyền là: Xưa trước có Tiên kê (gà Tiên) gáy báo trời sáng, nhân ăn cỏ tiên nên chẳng chết, lúc bấy giờ có người đi hái củi trông thấy mà không bắt được năm Đại Lịch thứ 7 (772) thời tiền Đường, Huyền Hòa tiên sinh Trương Thái không là thầy của Lý Bí ở đó mà đắc Đạo. Về sau vào Nguyên Dương cung mà thoát giải thay. Năm Đại Trung thứ nhất (847) thời tiền Đường, Hàn oai nghi mến mộ Đạo Phong ấy bèn đến ở đó tu phù cũng đắc đạo vậy. Hang Thạch Thất Ẩn Chân. Hang Thạch Thất Ẩn Chân ở giữa khoảng Thượng Thanh cung và Nguyên Dương cung, sam tùng cặp theo đường đi, núi hang cao vợi đồi gò sắc lam, có 2 ngôi thạch thất vốn là hang huyệt của Hổ Báo. Trong khoảng niên hiệu Đại Trung (847-860) thời tiền Đường, Lưu Nguyên Tónh tiên sinh ở đó, lễ bái tinh đẩu, giẫm bước cứng cáp, xua đuổi Hổ báo, dùng ngãi để trừ gai gốc cây tần mà ở. Có Hàng Châu thứ sử Hàn Hoa xả thí tiền bổng lộc đề vì tạo dựng hội chân các, đến hang núi mở rộng thạch thất đó, dẫn suối chảy quanh, chặt cây diệt cỏ, đục làm bếp trà, tạo đàn cờ cục cúng tế, cối thuốc, bồn, sàn, đèn đuốc đủ mọi khí cụ, tự nhiên sinh thành, trong khoảng niên hiệu Hội Xương (841-847) thời tiền Đường, vua Võ Tông (Lý Viêm) ban chiếu mời vào nội cung truyền thọ phù lục, phong tặng hiệu là Quảng thành tiên sinh, qua thời gian lâu bèn xin trở về lại núi. Đến tháng 10 năm Đại Trung thứ 5 (851) thời tiền Đường, có mây hạc gián hiện từng tầng, sau đó không bao lâu thì Lưu Nguyên Tónh bỏ đời, nghe có tiếng nhạc trời vang vọng giữa không trung, đến ngày dời cách tâm thần, chỉ lưu để lại gậy và giày. Có đệ tử Lã Chí Châu cảm đắc Đạo ấy. Binh Bộ Thị Lang Tiêu nghiệp soạn bộ văn ấy, Lại Bộ Thị Lang Triệu Lỗ viết truyện. Thái Tử thiếu phó Lô Phan làm bài minh nói thạch thất. Đạo só Trương Kiên làm nội truyện, còn Thần Đạo bia thì hiện ở tại Thuyên Đức Quán. Nền móng đó nay nay hiện còn. Trung cung. Trung cung tại phía Đông bắc của miếu cách khoảng 07 dặm, được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Thiên giám (502-520) thời Nam Lương. Là nơi chơn nhân Vương Linh Dư tu hành. Vương Linh Dư vốn người Tấn Lăng, từ thủa bé nhỏ mà đã thông minh dónh ngộ, lại chẳng cưới vợ, làm quan, chuyên chỉ cần mẫn sống với Đạo, giả từ thân thích bè bạn đến lập am ở dưới núi Ngũ Lão. Tợ như có điều chứng đắc, bỗng một đêm nọ có Thần nhân đến bảo rằng: “Người tu hành đắc Đạo chẳng phải ở chỗ đất này, như gieo trồng ngũ cốc ở giữa khoảng các đá thì không thể nào thành. Ông tuy có cốt bay cao, cần phải chọn nơi Phước Địa Linh Đàn, ông mới có thể lấy làm biến hóa. Tuy tích phước dắm nhiều lấy làm thổ địa, tích công làm thành lông cánh. Như chẳng có được chỗ đất như thế, thì ma phá hoại công phu, Đạo ấy không do đâu mà thành được. ” Vương Linh dư nói rằng: “Vậy chỗ đất nào có thể nên nương náu?”. Thần nhân bảo rằng: “Phía trên Chu Lăng, gần núi Tử cái có ngọn núi có thể lấy làm nơi xung thiên”. Vương Linh Dư bèn từ Lô phụ chuyển dời đến ở Trung cung tại Nam nhạc, tu hành 12 năm thì Đạo thành. Lại dời đến phía Đông Chu Lăng chầu tinh đẩu huyện Chân. Đến ngày 12 tháng 07 năm Thiên giám thứ 13 (514) thời Nam Lương thì xung cử. Đến năm Tròng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) ban truy hiệu là “Thông vi tập Hư chân nhân”. Lại nữa, khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường, Huân Phụng Tiên đến ở đó tu pháp Cửu Hoa Đan mà đắc Đạo. Lâu sau, đến thành Hành Dương nương náu tại động phía sau Chu Lăng. Trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) thời tiền Đường, Phùng Duy Lương cũng tu hành tại đó. Bản truyện đều có ghi đầy đủ ở quyển Hạ. Lại nữa, trong niên hiệu Đại Lịch (766-780) thời tiền Đường, có Lý Đức Lâm tiên sinh tu hành đắc Đạo tại đó. Trung cung đã bị hư hoại từ lâu. Nguyên Dương cung. Nguyên Dương cung tại phía Đông bắc miếu leo lên núi cách khoảng 5 dặm, cùng với Thượng Thanh cung và Trung cung ở trên đỉnh chót vót. Trong khoảng niên hiệu Thái Thỉ (265-275) thời Tây Tấn, đó là Quán của Trần chân nhân húy là Hưng Minh tu hành vậy. Chân nhân thuở thiếu thời vân du các chốn danh sơn, nhân phỏng tìm chân tích, đến trên núi Thiên trụ gặp 2 thần nhân tuổi khoảng 18-19, tự nói rằng: “Tôi đi khắp 4 biển độ những người có chí. Người tới tu đạo tạo có thể tinh chuyên, đến giữa đường bèn phế bỏ, chẳng thiết tha tinh cần lâu dài thì sao có thể gạt hình mây trời, bay vượt giữa khoảng không. Ông tích chứa công cũng đã đáng tốt đẹp vậy, chớ nên thối chuyển, khỏi phải lo không bày nêu tên nơi nhà ngọc của vàng. Trước khổ sau an vui, khổ có ngằn mé, vui chẳng tận cùng. Sao là nương náu nơi rừng hang sâu thẩm, tức cùng làm bạn với chim thú, dói khát hẳn đến, nóng lạnh vẫn chuyên cần, cắt bỏ sự đời xa lìa vinh vọng, từ thân bỏ ái, có thể gọi đó là khổ vậy. Được sống thọ như trời đất, biến hóa không cùng, đánh cưỡi lui không, ngồi sinh lông cánh, đó có thể gọi là vui vậy. Được chẳng khắc chí với sự tu hành ư?”. Hưng Minh chấp tay kính bái mà thưa rằng: “Trọn xin mang đội Thánh ngôn, rốt cùng với Đạo chẳng dám biếng lười”. Hai thần nhân bèn trao cho Đạo minh cảnh (gương sáng). Hưng Minh tu hành suốt 18 năm, 2 vị Tiên lại giáng hiện mà bảo rằng: “Xưa trước, Ta trao cho con chí Đạo, quả thật có khả năng cần khổ chuyên hành, nay thì nối gót lên cửu thiên, giao du ngơi nghỉ khắp 8 biển. Đó là quả báo của sự tích công vậy. Trước khổ sau vui, nay con đã đạt được vậy”. Đến ngày mồng 1 tháng 3 năm Thái Khương thứ nhất (280) thời Tây Tấn, mây khói tự nhiên giăng bủa quanh phỏng thất, nhạc trời nổi giữa không trung, mọi người ở dưới núi đua nhau sang mà tor6ng xem, chỉ có phòng thất trống không. Đến như các vật gá chó cũng vui mừng nhảy nhót. Đến năm Trọng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) sắc phong hiệu là “Trí Hư Thủ Tónh Chân Nhân”. Lại nữa, trong thời tiền Đường, có Trương Nguyên Hòa tiên sinh đến ở đó. vua Đức Tông (Lý Khoát 780-805) có ngự chế bài từ ban tặng rằng: “Phàm, Chí Đạo không tên gọi, gượng mượn tên gọi mà sùng kính Đạo, Chí Chân không thụy hiệu, ắc nương thụy hiệu để làm sáng tỏ Chí Chân. Chỉ điều đáng tương xứng ấy chính là Toàn Đức. Nên ở cung Nguyên Dương núi Nam nhạc, Đạo só Trương Thái Hư, lẫn lộn giữa nguyên vẹn mà nuôi dưỡng thuần túy. Nguyên đó lại càng nguyên. Luyện cốt tam thanh, còn lưu thần nơi 8 cảnh. Dưỡng đức ở Hành Phong gần đây đã trăm năm, nương võng tượng để ngầm tìm tòi, cậy Hồng mông mà xung dụng, gá đợi Hạo khí, rất khổ chân hình, khoảnh khắc tại Tiên Hoàng mà bày cao diệu Đạo, trông mong cưỡi giá hạc đen, chống xiêm ráng tía. Ta có phụ thần, cách ngôn cao bước. Trọn nghó nhớ tiên tử, hận chẳng đồng thời. Tạm bày tình mừng chuộng, kính giáng mạng tuyên dương, răn danh bày đức. Ngõ hầu trọn được không cùng, có thể phong tặng là Huyền Hòa tiên sinh vậy”. Đến ngày 13 tháng 06 năm Trinh Nguyên thứ 4 (788) thời tiền Đường, Trương Nguyên Hòa xuống phía sau giải thay tại núi Linh ẩn. Cung ấy đến trong thời Bắc Tống qua các niên đại Thuần Hóa (990-995), Thiên Thánh (1023-1032) và Chánh Hòa (1111-1118), đã có 3 lần sửa sang tu bổ. Đến năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) lại cải đổi sắc ban là Sùng Minh Quán. Phía sau Quán cách 3 dặm, có hang Phục hổ. Viện Điền Chân. Viện Điền Chân, tức từ cung Nguyên Dương về phía Đông nam cách 2 dặm, được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Bảo Lịch (827-827) thời tiền Đường. Tre biếc tùng xanh trước sau che phủ kín, từ Tam thanh, điện Thạch tượng về hướng Bắc cách hơn trăm bộ có 1 hang nhỏ, đó là nơi Điền tiên sinh thường ở nghỉ, phía trên hang có 1 gốc tùng, gọi là Hoa cái tùng, gốc rễ cuộn cong, cành nhánh bên tả nhỏ như lọng hoa, chu vi của hang tuy rộng nhưng chỉ 1 cây tùng ấy che khắp cả. Khoảng trong niên hiệu Khai Hoàng (581-601) thời nhà Tùy, Điền Lương Dật tên thật là Hư Ứng, vốn người nước Tề, kính hầu song thân nên từ huyện Du dời đến ở núi Hỷ vương tại Nam nhạc, sau đó tự thân canh cày đổi bán củi để hầu mẹ, ban đêm riêng 1 mình vào ngồi trong hang. Một ngày nọ phóng chí đi khắp 5 ngọn núi, gặp thấy Hà Tôn sư mà hỏi Đạo. Người mẹ hong phơi áo ở phía Bắc núi, nghe con trẻ di xa vội sang tìm đó chưa kịp trở về thì áo đã hóa thành đá, đến nay cách đã vài trăm năm mà sắc màu áo vẫn không biến đổi, trắng sạch như lúc mới đầu. Phía dưới có 1 hang nhỏ là nơi người mẹ thường nghỉ tại đó, ngồi trọn cả ngày thường đượm phục khí giảm bỏ uống ăn. Người mẹ đã ngồi mà qua đời, chí khí của Hư Ứng càng cứng mạnh. Về sau gặp được Tiết Quý Xướng mà truyền Đạo, rồi theo hướng Đông vào núi Thiên Thai chẳng trở lại. vua Hiến Tông (?) ban chiếu thỉnh mời mà chẳng đến, sau đó giải thay. Đến trong niên hiệu Tuyên Chánh (?) thời nhà Tống gặp phải Hồi lục, nên chỉ còn đá Tam thanh. Đến trong khoảng niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1163) thời Nam Tống, mới xây dựng lại 1 ngôi điện nhỏ. Có Đạo nhân lo việc đốt hương tu luyện, đến nay vẫn chẳng ngưng dứt. Viện Bắc Đế. Viện Bắc Đế tại phía sau Thuyên Đức Quán cách khoảng nửa dặm, trúc dài tùng lớn trước sau tươi tốt che kín, khoảng cuối niên hiệu Thiên Giám (520) thời Nam Lương, có nữ quán Từ Luyện Sư ở đó tu hành đắc Đạo. Đến cuối niên hiệu Trinh quán (650) thời tiền Đường, có Trương Huệ Minh trở lại tu, gặp được Nam nhạc Hữu Anh phu nhân truyền Đạo, hành bảo pháp Nhất tam ngũ hỗn hợp, mà sau đó thoát giải thay. Lại có Lý Tư Mộ ở đó tu hành đắc Đạo. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) mới ban sắc biển ngạch. Gần đây lại bị hư phế. Lăng Hư cung. Lăng Hư cung tại phía Bắc miếu leo lên núi cách khoảng 8 dặm, thuộc dưới phía Nam núi Hoa cái, được tạo dựng khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường. Tiết Luyện Sư tên là Quý Xương làm am mà ở. Minh Hoàng (?) ban chiếu cử ở Giáng Thánh quán tại núi Cửu chân, tiến hành chú giải Đạo Đức kinh, soạn thuật Huyền Vi luận, Ngự thư phê đáp có cả 10 thứ. Về sau từ giả vinh hoa sủng ái, xin trở về lập am cỏ ở đó. Một ngày nọ, bảo cùng Môn nhân rằng: “Đêm nay khí trời khác thường. Tôi sẽ có chỗ đến vậy”. Bèn vượt giữa hư không mà đi. Về sau có Tiết U Thê từ Tây Thục trải qua 24 trị, vượt kinh chữ, đi ngược dòng Tiêu tương, chiêm lễ Xích quân, đến ở đó tu chân, ẩn giấu họ tên, đến dưới 5 ngọn núi, ở trên thạch đài chú giải kinh Linh Bảo. Phía trên đài mây khói như khói hương ùn nổi liệng quanh. Kinh chú giải xong nghỉ bải thì mây khói cũng tự tan. Do có sự cảm cách như vậy nên xưng gọi là Thiên Hương đài, về sau thoát giải thay. Trong khoảng niên hiệu Hội Xương (841-847) thời tiền Đường, có Chu Hỗn Ô từ núi Cửu chân đền ở đó về sau đắc Đạo, tạo dựng Đại La quán. Trước Vương cung tự nhiên có Thạch Đàn các vật cúng tế, và sinh thành đá thử kiếm, suối Dục Đan. Đến cuối niên hiệu Thiệu Hưng (1163) thời Nam Tống dời xuống dưới núi mà khai sáng chỉ được 5-7 phần mà chưa hoàn bị (lại nên xem rõ ở quyển hạ). Động Linh cung. Động Linh cung cách miếu về phía Đông bắc leo lên núi cách khoảng 18 dặm, thuộc dưới phía Nam núi Tử cái. Xưa kia, vào cuối thời Đông Tấn, có Đặng Dục Chi, tự là Ngạn Đạt ở đài Động Linh tụng Động kinh. Gặp được Ngụy phu nhân truyền pháp, bèn tu hành theo đó mà đắc Đạo. Đó thuộc phước địa trong 25 nguồn Động linh. Xưa trước có lời thơ rằng: “Nguồn Động linh tiếp động Dương thiên Hang buồn núi hiểm nhả khói mây Từng đạp hoa rơi nghe tiêu ngọc Tùng đỏ bồ đàn, suối Hạc minh”. Cung tạo dựng xong, Lý Tuấn Dân tiên sư ở đó mà đắc Đạo. Xưa kinh có 2 Chân nhân Bành và Thái ở ẩn tại đó, đến cuối thời nhà Đường có Niếp Sư Đạo gặp gỡ mà tôn thờ đó, đầy đủ như nói ở quyển Hạ. Nay, hiện có rừng đào, hai bên tả hữu trồng tỉa các vườn trà, quật quýt. Trước cung xưa trước có 1 gốc cây phong thẳng vút cao vài trượng, rễ cẳng ùn nổi cuộn kết thành hình con rùa lớn, đầu đuôi chân vảy hiện bày như sống, mọi người trông thấy đều kinh sợ. Các thứ am vũ nơi cung đó đã bị hư hoại từ trong thời Ngũ đại đều bởi gặp phải Hồi lục, núi hang rỗng tuết. Đến cuối niên hiệu Đại quán (1111) thời Bắc Tống, có Trung quý nhân môn ty xả thí của cải mà tạo dựng lại. Cung điện hiên vũ đến nay mỗi mỗi đều mới. Những vị ở am ẩn dật cũng chẳng giảm so với xưa. Về phía Đông bắc có nguồn Đào hoa, suối Hạc minh, đều là nơi mọi người ít đến, trên sườn núi phía Tây có khắc bài phú Trương nguyên hóa hoàn đan, phía dưới có ao Tẩy dược, phía Đông có đàn chầu tinh đẩu. Chiêu Tiên quán. Chiêu Tiên quán tại phía Đông của miếu cách khoảng 8 dặm. Theo “Cựu ký” nói là: “Khai mở nền móng, Lưu Tông bói chữ Tiêu Tế”. Lại theo lời ghi là: Đạo quán đó tạo dựng trong khoảng niên hiệu Hàm Hanh (?) thời nhà Tần. Xưa kia có Trương chân nhân húy là Đàm yếu ở đó tinh cần tư duy, cảm thông được thiên chân ẩn giáng truyền cho Đạo nội dưỡng nguyên hòa mặc triều Đại Đế, hành trì suốt 12 năm, thần vân du đến Thái không, mặt chầu với Hoàng Cực Đại Đế, được ban cho dịch Quỳnh thật lang cao hỗn thần hợp cảnh, ăn dùng đó xong, biến hóa chẳng thể lường biết, thần dụng vô phương. Đến ngày mồng 3 tháng 7 năm Diên Hưng thứ nhất (494) thời Nam Tề, bỗng nhiên có tiếng sấm nổ, trời đất chấn động, bỗng chốc chim loan chim hạc ngậm đan chiếu đến nghinh Đàm yếu bay lên trời. Đến năm Trọng hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) ban phong hiệu là “Bảo quang tập minh chân nhân”. Lại nữa, trong năm Trinh quán thứ 2 (628) thời tiền Đường, có Pháp sư Lô Lăng Tiêu, húy là Linh Hộ đến ở đó, hóa thuật Hoàng bạch ra ngoài nuôi dưỡng đó, sửa sang QuánVũ. Đến năm Trinh Quán thứ 5 (631) thời tiền Đường, xây dựng các tầm chân. Qua năm sau là năm Nhâm thìn (632) đến Quế Châu chú đúc 1 quả chuông đồng nặng 500 cân, nghinh đưa về Quán, những lúc chuyển canh không dám gõ đánh, bởi kinh động địa phủ bốc cháy âm thần. Sau đó, luyện đan tại phía Bắc núi, qua 3 lần luyện mới thành mà đượm phục đó. Đến ngày 15 tháng 8 năm Hoằng Đạo thứ 2 (684) thời tiền Đường, Linh Hộ thoát giải thay. Lại nữa, cuối niên hiệu Nguyên Hòa (821) thời tiền Đường có Hứa Thước từ núi Nga my đến, đề ghi trên xà nhà, thường những lúc rất say hay ca dài, trong bài ca cũng như nơi ghi đề thường luôn có câu “Tầm yển nguyệt tử”, trọn không biết “yển nguyệt” là vật gì. Lại để lại 1 bài trên tường vách nhà mà các câu cuối như là: “Đặng thông chết đói, nghiêm lăng nghèo Đại vương đâu phải người không sức Trượng phu chưa đạt chớ tự thân Vin vảy tựa lông tổn tinh thần”. (Đề xong sau đó không bao lâu, giữa lúc Bạch nhất bay lên trời). Đến cuối niên hiệu Đoan Củng (990) thời Bắc Tống, một ngày nọ mới đầu canh 5, bỗng nghe vang tiếng chuông. Mọi người đều kinh lạ nghi ngờ, tới sáng ngày, sang trông xem thì chuông bị phá bể. Chưa đầy 10 ngày sau, có 1 Đạo nhân vận mặc áo vải rách rưới đến tự nói là: “Có thể vá được chuông, chỉ cần có vài ngàn cân củi lửa”. Khi ấy đốt than nung chuông. Đạo nhân dùng lòng bàn tay làm khuôn rót đồng, đến sờ mò đắp nơi chỗ chuông bị nức bể, lửa hồng đó tự đen tối. Mọi người trông nhìn đều kinh sợ. Đạo nhân vào khe nước rửa tay, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa. Đến nay quả chuông ấy vẫn còn dấu vềt bàn tay sờ vào. Đó thật là linh dị. Lại nữa, cuối thời nhà Đường, có 3 chân nhân Niếp Sư, Đạo Phỏng, Bành Thái, mọi sự đầy đủ như ở quyển Hạ. Đến trong triều đại vua Nhân Tông (Trinh Trinh 1023-1064) thời Bắc Tống, có Dưỡng tổ tiên sinh vâng phụng sắc chỉ đến ở đó, lâu sau vào sau Hành nhạc quán mà giải thay. Trong khoảng niên hiệu Tuyên Chánh (?), có người ẩn dật từ xa mến mộ Đạo phong ấy nên vì tạo dựng hiên Dưỡng Tố, tại Quán đó xưa cũ có Dao Bích các, đình Cạnh tú, đàn Triều thiên. Về phía Bắc cách khoảng 2 dặm có đình Tuyết lãng, khe Động châu. Thác nước từ động mà tuôn đổ, đá lớn rộng cao, ngay trên sườn đá có 1 ao đá tướng dáng tròn như cái chỏ rộng hơn 1 trượng, sâu chẳng thể cùng, có 1 mặc nước bay xuống như đường văn mái diềm, gọi đó là động Chu lăng; là động thứ 3 trong 36 động Thiên. Lại có giếng đá thẳng xuống dưới sâu không đáy, thông suốt ra 4 cửa, dòng khe chỉ 20 dặm thành dòng nước treo cao tuông đổ ấy. Từ mới đầu khe đến giữa đầm dài 9 nhận, từ giữa đầm xuống vào hang cốc dài 18 nhận, có vách đá mờ tối cuộn quanh, trên mặt rộng khoảng 4 chỗ ngồi, sóng tuyết vọt bay, mưa sấm chợt trút đổ, tuy ở Thiên Thai, nga my cũng chẳng sánh kịp thế đó. Phía dưới có đầm Đầu Long ( thả rồng) trong nước nhà mỗi lúc cúng tế xong thả rồng xuống đó. Với khoảng đá nức nẻ, nghe có tiếng nhạc trời, nên trong thơ Động thủy liên của Lân Dương có 1 câu đối rằng. “Mở đầu thả rồng vàng Cuối nước nghe nhạc trời” Là đó vậy. Nếu người đến đó với tâm chí khiết tịnh thành kính chiêm lễ mà lén nhìn thì mờ mờ có thấy giường vàng ghế ngọc. Trong khoảng niên hiệu Chí Đạo (995-998) thời Bắc Tống, có người phụ nữ mang thai xúc chạm vào đó, sườn núi đá dần khép kín lại, không còn trông thấy gì nữa. Mọi người tới lui để lại thơ vịnh, viết đầy tường vách. Riêng Lý tiên Phụ ở Lô Lăng có 1 bài thơ siêu tuyệt các bạn thường, đó là: “Một mảnh treo sườn xanh Rõ ràng không bụi bặm Đá thành châu ngọc trắng Rủ xuống lại dây ngọc. Yến đồng bay khó vào Gió núi cuốn chẳng mổ Tiếng tiếng cách biển dâng Chẳng ý mên hang hiểm”. Câu trong lành, phong cách cứng mạnh, xem qua lời khó phục. Tháng 10 năm Chính Hòa thứ nhất (1111) thời Bắc Tống, có Trương Huy Ngôn, người ở Kiến An, Lãnh Tào Bản Lộ Án Bộ Từ Tương Đàm vượt đền thờ nhạc đi chưa đến 3-4 dặm, thấy bên tả đường đi có tùng la tươi tốt, bên trong có cửa cao tráng lệ, có bảng son lớn viết 3 chữ “Chu Lăng cung”. Bên trong cửa, lầu các ẩn hiện, có một người đứng ở ngưỡng cửa như có sự dò xét. Bấy giờ trời đã xế bóng nên chưa rảnh để đi trông xem, trong ý hẹn đợi vào ngày khác. Đến ngày mồng 5 tháng 9 năm sau (1112), từ Hàng Châu trở lại nghỉ qua đêm tại chùa Thắng Nghiệp nói chuyện cùng vị Trú trì là Tăng só Cảnh Tương rằng: “Sáng sớm mai có thể đồng cùng đi đến Chu Lăng?”. Tăng só Cảnh tương bảo rằng: “Từ chùa đây về phía Đông có Chiêu tiên quán, phía sau quán có đền thờ Chu Lăng. Tôi cho rằng: Năm trước từng qua Chu Lăng cung, thấy cửa cao bảng lớn viết chữ son lớn cả thước. Tôi hận chưa đi đến đó, nay lại đây rất hợp ý vậy”. Đến ngày hôm sau đồng đến Chiều tiên quán, trải qua các phía trông xem trọn không thấy gì, chỉ toàn núi trống không mà thôi. Cùng đến Chu Lăng động, 4 mặt toàn vách đá, thác nước đổ bên trong cũng không có phòng nhà. Dò hỏi, các hàng Đạo lưu nói là: “Vốn không có cung đó, cũng không có cửa đó, khác lạ thay”. Mới biết chùa Đại Phương Quảng ở núi Thiên Thai, chùa Thánh Trúc Lâm ở Tung Sơn, những sự ấy đều đồng loại đây vậy, chỉ ghi chép lại để nhận biết thế. Về sau, vị trí trì là Đạo só Vương Nguyên động tạo dựng đình Vọng Tiên, tại nơi chỗ thấy làm cửa cung, Huyện úy Tiền Cảnh Khản viết 3 chữ “Chu Lăng cung”, dùng chu son bôi lấp làm bảng. Về sau nữa lại tạo dựng Vọng tiên kiều quán, có tôn tượng bảo sinh Thiên tôn bằng đồng. Trong khoảng niên hiệu Hàm Hanh (?) thời nhà Tấn, có đục tạc tôn tượng Lão quân bằng đá và tùy tùng và đồng thời tạo dựng. Quán xưa cũ ngay cửa động. Đến trong niên hiệu Vónh (. . . ?) thời tiền Đường mới dời ra điện Lão quân, riêng đắp nguyen thỉ ngọc thần cùng làm 1 điện để kính phụng hương hỏa. Có thuyết nói là: Trong thời tiền Đường vì tôn phụng Huyền nguyên làm Thánh tổ nên tạo dựng ngọc thần ở đá vậy. Đến năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119) thời Bắc Tống, vua Huyền Tông (Triệu Cát) đổi ban biển ngạch như hiện nay vậy. Tại Chiêu tiên quán có 4 văn bia: Bia Động Chân Bạo Bố Quốc gia kim lục Đạo tràng tề tiếu ký Kiến Tầm chân các ký Chu Lăng cung ký. Cửu Chân quán. Cửu Chân quán tại phía Đông miếu cách khoảng 10 dặm. Theo “cựu ký” nói: “Cửu Chân quán do Tân Dã tiên sinh tạo dựng trong khoảng niên hiệu Thái khương (280-290) thời Tây Tấn. Đến đầu niên hiệu Thiên Giám (502) thời Nam Lương, có Trương Như Trân chân nhân ở đó. Trương Như Trân là người cùng quê hương với Tân Dã tiên sinh. Từ thuở bé thơ đã ít nói năng, đạm bạc chẳng như đồng bạn. Đến tuổi tráng niên thì nương náu nơi sâu lắng mà sớm bẩm cốt tiên, gặp được Thần nhân giáng hiện đến nơi hang thất truyền cho Đạo Minh Cảnh Đổng Giám, khiến Trương Như Trân tu hành mà bảo rằng: “Phàm, đuốc soi vật lý là trời, xét rõ vật hình là Đạo, Đạo của trời lấy sự trong sạch, Đạo của Cảnh (kiếng) lấy sự sáng soi. Xét thật không sai vậy. Hình định tại đây, vật ứng với kia, nên tướng trạng của núi sông, tình của quỷ thần, không nơi nào trốn mà ẩn vậy. Trời lấy sự trong sạch mà dung chứa vạn hữu, nước lấy sự lắng trong mà soi chiếu mọi hình. Nếu tu theo trời trong sạch cảnh sáng soi, lắng tâm tónh thần mà được thông triệt cả trong ngoài thì chí Đạo thành đạt vậy. Còn nếu như ngoài phục dịch theo vật, trong khổ nhọc tâm thần. Tâm thần mờ tối vẫn đục không thể lắng trong thì cách Đạo rất xa vậy. Pháp này ngày xưa tôi thọ học ở Trường Tang Công Tử. Trường Tang Công Tử thọ học ở Thái Vi Thiên Đế Quân, khả năng chứng đắc suốt đạt huyền thông, xa chiếu cùng 8 cực. Pháp trong pháp Động Chân có 4 quy cách đến với Đạo, y cứ theo 4 mùa mà thực hành, cũng đồng thể với đây vậy. Người xưa nói là: Rỗng rang phòng thất rõ ràng tự thân, định được tâm thần thì Đạo tự đến. Điều đó đáng tin thay”. Trương Như Trân y cứ theo đó tu hành 9 năm, trông thấy thấu suốt ngàn dặm, không 1 vật gì có thể ẩn khuất. Đến ngày 18 tháng 11 năm Thiên Giám thứ 13 (514) thời Nam Lương, Trương Như Trân riêng 1 mình vào núi 3 ngày chẳng trở về, đệ tử đi tìm kiếm, mà ao vuông của Trương Như Trân cùng áo Tiên giá cùng kiệu mây, có tiếng tiêu đàn nhạc trống vang nổi xa tít mà bay lên trời. Đến năm Trọng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) sắc phng hiệu là “Toàn chân đạt đạo chân nhân”. Khoảng đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) thời tiền Đường, có Tư mã Thừa Trinh, tự là tử Vi, từ Hải sơn cưỡi bè luyện Chân Nam nhạc đến lập am ở phía Bắc Quán cách 1 dặm. Ban ngày có mây trắng hiện nổi, Thừa Tướng Trương Cửu Linh từng đến bái yết đó. Minh Hoàng sai người ekm là Thừa Vó Mang chiếu đến mời Giảo Chánh Đạo Đức kinh, tiếp lễ rất nồng hậu, xưng gọi là Đạo Huynh, phàm mọi thứ khí mảnh vàng bạc cúng dường trong Quán thảy đều ban tặng tất cả. Từ ngự trác bài đáp biểu thư qua lại không ngưng dứt. Khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường. Có Tiết Quý Xương; người xứ đất Thục, xưa trước ở núi Nga My, chú giải Đạo Đức kinh 2 quyển, sau đó đến ẩn cư tại núi Hoa cái; Nam nhạc, soạn thuật Huyền Vi luận 3 quyển và Đại Đạo tụng 1 bài và chú lược. Đệ tử của Tư Mã Thừa Trinh là Vương Tiên Kiệu ghi tả mà tấu trình, có chiếu ban sắc đến ở Giáng Thánh quán, các thứ khí vật cúng dường, ngự thư bài đáp qua lại không ngưng dứt. Đến lúc ở Cửu Chân quán phụng tạo 1 pho Thánh tượng Thánh tổ thiên đạo huyền nguyên Hoàng đế, và 13 sự thông tỏa ánh sáng, tòa cao 1 trượng 7 thước. Kinh điển gồm cả thảy 670 quyển. Tiên Kiệu mói là Đạo đồng của Bản Quán, tánh tình ưa thích đạm bạc. Nhân đọc xem Liệt Tiên truyện, bèn có tiết tháo vượt ngoài mọi vật, từng cho rằng: “Ngoài 5. 000 lời đều là thổ ngạnh”. Bèn đem trà trong núi vào chốn kinh đô mà giáo hóa, thường đến trong cửa thành mà thí trà. Bỗng 1 ngày nọ, gặp cao lực só, thấy mà lấy làm lạ đó, Cao lực só hỏi từ đâu lại? Tiên Kiệu đáp: “Tôi là Đạo tràng ở Cửu Chân quán tại núi Nam nhạc, vì điện đường hư hoại quá lắm nên đặt cách mang trà lại đây mộ hóa thí chủ”. Lực só vui vẻ với lời nói đó, nhân đó tấu trình cùng Minh Hoàng tuyên kiến. vua Huyền Tông (Lý Long Cơ) vui vẻ với sự thanh tú ấy mà hỏi rằng: “Ông có ước nguyện gì chăng?” Tiên Kiệu đáp: “Nguyện tốt tươi nước nhà thạnh ích lợi kinh Đạo hưng”. vua vui vẻ bảo bái kính Tư Mã tiên sinh làm thầy. Ở nơi nội điện mang đội ban tặng nồng hậu rồi Tiên Kiệu trở về núi. Đến đêm mộng cảm Chân nhân Trương Thiếu Vi mà đắc Đạo yếu. Lại có lịnh ban theo hầu Tư mã tiên sinh đến ở nơi Vương thất. Lâu sau, tấu xin rằng: “Năm Khai Nguyên thứ 23 (735) thời tiền Đường, tôn sư Tiên hoa. Xin lấy chỗ ở xưa cũ tại Nam nhạc để làm quán, mong Thánh ân ban viết biển ngạch”. Vua bèn ban chiếu bảo Tiết Quý Xương trú trì tại Giáng Thánh quán, tuyên sắc Thánh tượng và mọi khí cụ cúng dường. Đến năm Thiên Bảo thứ 12 (753) thời tiền Đường, vua Huyền Tông lại ban lịnh đến Hàng Châu đúc 1 quả chuông và ban sắc tặng cho Đạo quán, âm vận bên trong kích động thì vang xa đến tận Tiêu Hán, chuông nặng 4.000 cân, phía trên khắc hiệu Minh Hoàng Đế ngự chế bài minh rằng: “Chuông đúc ở quận, treo tại quán, đất trời lâu dài chẳng thể tính lường”. Do Phiếu Kî Lại Đại Tướng Quân Cao Lực Só trông coi việc chú đúc. Đó là 1 danh khí của trong Chân nhạc vậy. Về sau, đến tháng 2 năm Càn Nguyên thứ 3 (760) thời tiền Đường, gặp phải binh lửa nổi loạn, mọi vật sắt đá đều hư hoại, chỉ còn lại quả chuông đó. Há chẳng phải do nguyện lực mà khiến được vậy thay! Trong khoảng niên hiệu Hàm Thông (860-874) thời tiền Đường, có Vương Cố tiết là bậc Đạo hạnh cao vợi, khắp 1 phương ngưỡng mộ, tạo dựng mỗi mỗi đều mới mẻ, xiển giáo đàm kinh, học chúng đông đúc như chợ, vâng phụng sắc chiếu trở về bắc nhạc và phong làm Tổng giáo Đại sư. Đến trong khoảng niên hiệu Nguyên Hựu (1086-1094) thời Bắc Tống. Quả chuông đó bỗng nhiên không thấy qua vài ngày, một ngày nọ lại thấy ở giữa đường phía trước quán, rêu rong tẩm thấm, rồng trên đỉnh chuông bị gãy mất chân phải, bèn lại thỉnh đưa thiết đặt lên trên lầu tương truyền chuông đó cùng cỏ xanh vượt đến đấu tránh với rồng. Nay phía sau quán có hang Long tân. Cách quán 1 dặm là nơi Tạ tiên sinh vốn người xứ Võ Lăng sửa sang lại am Bạch Vân mà ở, thường cùng với Tào Đạo Xung làm bạn thơ ca. Nên Tào Đạo Xung có bài thơ rằng: “Cửa động Đào Nguyên, người Võ Lăng Giẫm ngoài bụi hồng hai mươi lăm Chỉ vui mây trắng sâu có thú Chẳng biết mắt xanh gần lại thâu Đan cát đà đến lò đất cúi Ngọc ngâm nấu từ đỉnh hỏm sâu Tính kế một trượng ngoài đuôi cháy Bích đàn ba thước lễ nam thần”. Về phía Tây có nơi Dược Liệu Vương vốn dòng họ Vương ở lâu sau dời đến Linh Nham rồi đến núi Vân Long mà giải thay. Từ quán về góc phía Bắc cách khoảng 50 bộ có đình Thọ tiên. Phía dưới đình có suối Bạch quy (rùa trắng). Đó tức là suối thứ nhất ở Nam Sơn vậy. Suối đó từ hóc sườn núi tuôn vọt lên, nước lắng trong mát ngọt, sắc màu biến đổi theo sớm chiều, tuy các dòng suối danh tiếng ở Nam ơn không đâu hơn suối đó. Người nào uống được nước suối đó, đã không bệnh mà lại sống thọ, trong suối có 1 con rùa sắc trắng, lớn bằng đồng tiện, trắng tợ ngoc, ẩn trong hóa đá, hiếm ít người thấy được, như ai gặp được đó tức là tốt lành mà còn kéo dài thọ mạng. Tương truyền rằng: “Lúc rùa đó ra thì Tiên đến, rùa đó ẩn thì Tiên đi”. Mọi người đề thơ cũng lắm nhiều, chỉ có dã nhân Hoàng Phủ Hoán nói là: “Linh đài, bụi chẳng bám Bụi bám chẳng Linh đài Mến thay suối trong này Từng gá Linh vật lại!” Kẻ ngu tôi (?) mấy năm gần đây dựng am ở tại phía Bắc suối đó, cách núi xa khoảng 5 dặm, nhân đi hái thuốc thường dừng nghỉ tại Đình đó, thường khâm chuộng tán thán sự kỳ lạ ấy rằng: “Vắng lặng trong vũ trụ, phàm các bậc chân tiên ẩn hóa ở suối Bạch quy, tính ra đó là nơi thứ 3 vậy. Mùa thu năm trước kẻ ngu tôi đến nương náu tại núi này có ý tính trọn muốn ở đó. Đã 3 lần chuyển dời chỗ ở, đến phía Đông của Chu Lăng, nơi vườn thuốc xưa cũ của Sam Vương Thị mà ở, vừa cùng gần với đó, chẳng phải là ngẫu nhiên, nhân thành 1 bài thơ, lừa dối ghi viết ở đó. Trong thiên hạ có 3 nơi có rùa trắng, đó là núi Hiển di, Thiếu thất, và đình Thọ tiên. Nay tôi chọn xây dựng ở đỉnh Nam sơn được đó làm gần Chúc thọ linh. Tại Cửu chân quán có Cử tiên các, phía sau các, xưa cũ có Lan anh các. Năm Trọng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huyền Tông (Triệu Cát) đổi ban biển ngạch như hiện nay vậy. Giáng Thánh quán. Giáng Thánh quán cách Cửu Chân quán khoảng 1 dặm, xưa trước gọi là Bạch vân am, là nơi Tư Mã Tử Vi tu hành, nhân đệ tử là Vương Tiên Kiệu tấu xin vì lấy am của Tiên sư làm thành Quán, được ban biển ngạch và thân triệu. Ban sắc Tiết Quý Xương chân nhân ở Cửu Chân quán kiêm nhậm trú trì. Cửu Tiên cung. Cửu Tiên cung tại phía Đông miếu cách khoảng 12 dặm, được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Thiên Giám (502-520) thời Nam Lương. Xưa kia, Vương Xử Dư từ Trung cung huyện hạnh đã hoàn bị xung tịch, sau dời đến đó ở, chấu tinh đẩu tư duy huyền vi, một ngày nọ được Thiên chân nghinh rướt. Lại có Đặng Úc Chi là người xứ Tân dã; Nam Dương, thuở nhỏ mộng thấy có 1 con chim nhà ấn mà cho, từ đó trong nhân gian có người mắc bệnh thì dùng ấn ấy mà trị cứu, cầu làm phù chương, người bệnh tự nhiên lành, về sau cùng với Từ Linh Kỳ kết bạn phương ngoài, chu du khắp các danh sơn, tìm hỏi những bậc thượng só, gặp được bậc chí nhân truyền cho thuầt Kim đảnh hỏa long. Đến năm Nguyên Huy thứ 3 (475) thời Tiền Tống, Từ Linh Kỳ đã thượng thăng, Đặng Úc Chi đến ẩn cư tại cửa động, mới bồi hồi ngoài hồ về phước địa động thiên, không nơi nào chẳng giẫm trải qua, song mắc phải hoạn Đan tài không đủ sức có thể thiết đặt, nhân có Hữu Ty tấu trình Thiếu Vi Tinh tại Nam Sở, vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550 thời Nam Lương) ban sắc giám quân tìm phỏng, ban chiếu hỏi cầu gì? Đặng Úc Chi nói: “Bần đạo tu luyện Kim địch mà khuyết thiếu Đan tài”. Vua Võ Đế bèn ban cho vàng bạc của cải, hứa cho đến phước địa động chân ở Nam nhạc chọn nơi u thắng, thiết đặt 3 cung thượng, trung, hạ để tu luyện Đan nội ngoại. Một đêm nó có thần nhân đến bảo cùng Đặng Úc Chi rằng: Gần Đại động là Hương Chiêu hước là làng Diên Sinh, khéo nên ghi nhớ chớ quên, sau này Đan ông sẽ thành, lại dời đến phía Đông núi Tử cái”. Đến ngày 30 tháng 12 năm Thiên Giám cuối cùng (520) thời Nam Lương, có 8 chân nhân cưỡi cánh từ núi Cái vân giáng hiện đến trong thất, tức là 8 chân nhân đã đắc Đạo trước kia vậy, khi ấy tự nhiên Thạch đàn bay lên trời. Đến năm Trọng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông ban sắc phong hiệu là “Siêu Chân Tập Diệu Chân Nhân “. Lại nữa, năm Hàm Thông thứ 9 (868) thời tiền Đường, Hàng Châu Thứ Sử Trương Địch tấu trình xin đặt biển ngạch của Quán, qua tháng 10 năm sau (869) vua Tuyên Tông (Lý Thầm) ban sắc nên y cứ theo sự tấu trình. Lại nữa, trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường Minh Hoàng (Huyền Tông - Lý Long Cơ) ban chiếu tặng Thần triệu rằng: “Núi Tử cái có cung Cửu tiên tại Thạch Đàn”. Các bậc hiền giả xưa trước từng ca vịnh về cung Cửu tiên, đại lược là: “Một núi xếp bày mở một Quán Mảnh đá bạn cùng chín tiên hội Dia đá còn ghi Triệu Minh Hoàng Linh mộng thường nghe ngự sử truyền”. Lại nữa, trong niên hiệu Cảnh Hựu (1034-1038) thời Bắc Tống, với Quán xưa cũ, Văn Điện Học Só Tôn Cái làm Ngự sử tấu trình hỏi việc trái nghịch Thánh chỉ, bèn bị biếm đưa đến Vinh châu, mộng thấy có Đạo só đem ruộng mà gởi nhờ. Về sau dời đến Đàm châu, nhân cúng tế Nhạc âm, đem mọi sắc vật để cầu điều mộng bèn được tôn tượng Vương Quân tại cung Cửu tiên, bèn ban hịch trong huyện tìm tòi tất cả ruộng của cung, quả nhiên ở gần Quán có đất bị lấn chiếm làm. Việc ấy nói rõ ở quyển Hạ. Đến năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119) vua Hy Tông (Triệu Cát) cải đổi ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay. Phía sau có động lớn (nay gọi đó là Tiền động vậy) và nền móng am Đan hà. Chùa Quán Âm. Chùa Quán Âm tại phía Đông miếu cách khoảng 13 dặm, đường đá quanh co, tại dưới phía Nam núi Vân mật, do Mã Thị tạo dựng. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) cải đổi ban sắc biển ngạch là chùa Phổ Tế, gần đây đã bị hư phế. Về phía Tây bắc có nhà thuốc của Trần tiên sinh. Trần tiên sinh vốn người Thương Ngô, thường tu pháp Thái âm huyện tî cùng Dương Thái Sơ là người đồng hương gặp được chân nhân Niếu Thiệu Nguyên truyền cho pháp Nhị cảnh cao bôn, sau khi tu thành bèn theo hướng Tây vào Tam đô. Chùa Vân Phong Cảnh Đức. Chùa Vân Phong Cảnh Đức tại phía Đông miếu cách khoảng 15 dặm, phía sau tựa núi Vân mật, phía trước gần khe Võ, phía Tây có hang Đại Võ, là nơi Võ Vương truyền Ngọc Văn, chùa được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Thiên giám (502-520) thời Nam Lương, chùa có Cao tăng Pháp Chứng, vốn người dòng họ Quách, đi Tây Trúc học Đạo 57 năm, trở về thiết lập Giới đàn, nhóm chúng giảng Đạo sau đó mới thị tịch. Môn nhân đệ tử có các vị như là: Sa-môn Tuyên, Viễn, Chấn, Tốn, Tố v.v… hơn 3.000 người. Các bậc Trưởng lão đều nói là: “Thầy tôi là bậc mô phạm đạo hạnh cao vợi, khí vũ rỗng lớn. Như người đến tìm cầu học luật, thì Thầy tôi đem sự tôn nghiêm chỉnh tề mà chỉ dạy cho, bày rõ nghóa khế, khiến người biết điều đáng nên làm. Như có người tìm cầu học hỏi Đạo lý thì Thầy tôi đem sự cao rộng thông đạt mỗi mỗi rõ ràng về Hữu và Vô, khiến người biết điểm hướng đến. Nên các bậc nguyên thần thạc lão đều cúi đầu thọ giáo, các hàng tuổi trẻ đầu xanh cũng mừng vui nhảy nhót vâng theo thực hành. Nên theo sự chỉ dạy của Thầy tôi mà giáo hóa được hơn 50.000 người. Mở mang rộng lớn chùa nhà cửa”. Đến trong niên hiệu Kiến Long (960-963) thời Bắc Tống, chùa có trùng tu sửa sang. đến trong niên hiệu Đại trung tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hoằng) ban sắc biển ngạch là “Cảnh Đức”. Tại chùa có Hội Thánh các, Tề vân các, Dưỡng đình, Thanh chiếu đình, Tùng phong đình, 2 dòng suối Quán Âm mộng ứng đều rất mực đẹp xinh. Nên chuyển vận Phó Sứ Lục thầm lưu lại bài thơ vịnh rằng: “Cung biếc trong tuyệt chiếm núi cao Nỗi bày phía Đông Chu Lăng báu Rảo khắp rừng thiền về nghỉ muộn Khe Võ chéo trời chiếu tan phong”. Chùa Diên Thọ. Chùa Diên Thọ tại phía Đông miếu cách 16 dặm. Từ đó về phía Bắc có nền móng chùa Tôn Thắng. Chùa Bạch Vân. Chùa Bạch Vân tại phía Đông nam nhạc cách khoảng 18 dặm, không rõ được tạo dựng thời nào. Tại dưới núi Bạch Vân, có Bạch Vân động và Long Đàm, như người nào có mong cầu gì mà thiết bày các vật tanh nồng, xúc chạm tức liền nổi sấm gió, hang cốc tối tăm đen nghịt, mọi người phần nhiều rất khiếp sợ. Và đó cũng là cửa thuận tiện ở phía Đông của Chu Lăng vậy. Chùa Thất Bảo. Chùa Thất Bảo tại phía Đông bắc của Nam nhạc cách khoảng 35 dặm. Xưa kia Cao tăng Huyền Thái hiệu là Bố Nạp ở đó, rất tinh thông thiền lý khéo giỏi về thi ca. Mỗi lúc có dân chúng ở địa phương làm ruộng ngon cảm mắc bịnh, nhân đó làm bài vè về ruộng núi, đại khái là: “Do nói năm nay gieo chẳng nhiều Song năm mở phá sườn núi thêm Nước nhà núi Thọ còn như vậy Lý ấu chẳng biết ra thề nào!” Mã Thị nghe thế bèn cấm ngăn. Tháp đá Phước nghiêm và kiên cố cùng gần đó, phía dưới có dòng suối tuôn vọt. Chùa Sùng Quả. Chùa Sùng Quả tại phía Bắc Nhạc sơn cách 50 dặm. Chùa Phổ Tế. Chùa Phổ Tế tại phía Bắc Nam nhạc cách 35 dặm. Phía dưới có đầm rồng. Phía Đông chùa có 3 bếp luyện đan thượng trung hạ của Lý chân nhân, tại bếp trung có nguồn nước, những lúc nắng hạn như có ai mong cầu, không điều gì chẳng được cảm ứng, mọi người tham quan hiếm ít tới đó. Quang Thiên quán. Quang Thiên quán tại phía Bắc miếu leo lên núi cách 35 dặm, căn cứ theo “Phước địa chí” nói là: Quán đó thuộc hệ phước địa trong 22 đàn Thiên quang. Trong thơ “Động uyên tập” nói là: “Thái cực phân hình tướng tợ đàn Mây trắng khóa sâu đường hang yếu Tự nhiên ngàn xưa ngậm xuân sắc Chiếu soi hiện tại Chúc thọ sơn”. Có thuyết nói là: Trong niên hiệu Thiên nghiệp (?), cải đổi Quán làm thành chùa tức là chùa Thượng Phong ngày nay vậy. Lại theo “Nam nhạc thập bát Cao tăng truyện” nói là: “Đầu niên hiệu Quang thái (567) thời nhà Trần. Đại Hòa thượng Huệ Tư lãnh dẫn đồ chúng đến đó, xây dựng các làm chân. Nơi chỗ đồ chúng trên dưới kinh hành nghe pháp, thì Quang thiên quán riêng có nền móng. Phía Tây có Phước địa; Thanh ngọc đàn, nay nhà Phật cải đổi gọi đó là Đàn La-hán Hành Đạo. * Chùa Thiên trụ. Chùa Thiên trụ tại phía Bắc của miếu leo lên núi cách khoảng 18 dặm, nằm dưới núi Thiên trụ. Ở gần núi thì Thiên trụ là nơi cao nhất, chùa nằm giữa lưng chừng núi, lầu các lắm nhiều đan xen, gần chùa-di- đà, vào ra giữa khoảng mây khói, người ở nghi ngờ như là trong hư vô. Bảo Chân cư só có bài thơ nói rằng: “Phước nghiêm thẳng lên nhìn Thiên trụ Lầu điện lả tả dựa trời xanh Tức nhìn Phước nghiêm như vời vẽ Lại gần mưa khói khéo mông lung”. Phía dưới chùa có tháp 2 đời của Hòa thượng Huệ Tư. Núi có Hương Võng, chu vi rộng khoảng vài dặm, phần nhiều sinh mọc loại hương bạch chỉ, tương truyền giống ấy do Ngụy phu nhân trông nên vậy. * Chùa-di-đà. Chùa A-di-đà tại phía Tây bắc của miếu leo lên núi cách 20 dặm, tại dưới núi Di Đà, ngửa nhìn lầu các tợ như trong tranh vẽ. Vua Tuyên Tông (Lý thầm 860-874) thời tiền Đường ban sắc biển ngạch là Đạo tràng Bát Nhã. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay. Cư só Bảo trực đi phỏng tìm, gặp 1 vị Tăng đi ra đều không có 1 vật gì. Hỏi rằng: “Chư tăng đều vào trong thôn mà sinh hoạt, từ lâu chẳng đến đây”. Nên có để lại 1 bài thơ rằng: “Rêu phủ điện Phật khói chẳng xông Trọn ngày bay bụi gần bít cửa Tuy là Đạo nhân quên mùi thối Hỏi ông mũi miệng có còn không”. Chùa Thanh Hóa. Chùa Thanh Hóa tại phía Tây bắc miếu leo lên núi cách 25 dặm, bị hoang phế đã lâu, nay có Dã nhân ở đó. Phía đàn Tùng cốc truyền kinh. Chùa Vân Cảnh. Chùa Vân Cảnh tại phía Tây bắc miếu leo lên núi cách 25 dặm, gọi là Trung động, do Mã Thị tạo dựng nên, chỉ phá phòng thất khoảng 3-4 gian. Tương truyền: Trong khoảng niên hiệu Thiên phục (901-904) thời tiền Đường, am vũ lắm nhiều, nay đều đã bị hư phế từ lâu. Bên cạnh đường lớn có 2 gốc cây sam lớn đều thẳng đứng chu vi đường kính khoảng vài trượng cao vút ngoài tầng mây, hùng tráng rất đáng sợ. Có thuyết nói: Xưa kia Thái tử Chân Tông thời tiền Đường thường nghỉ tại đó, thấy 2 vị tướng quân đến bái tạ, bỗng nhiên biến mất, nhân đó mà xưng gọi là song tướng quân. Chùa An Bảo. Chùa An Bảo tại phía Tây bắc miếu leo lên núi cách khoảng 35 dặm. Đó là nơi trạm tiếp đãi Tiên dùng khoang gỗ để khang đá mà có được sách trời, rừng cây tươi tốt che kín, nay đã bị tàn phế. Chùa Bảo Tích. Chùa Bảo Tích tại Động hạ tại phía Bắc Nam nhạc leo lên núi cách 30 dặm, hiện tại chỉ còn phòng thất trống không. Chùa Thái Bình. Chùa Thái Bình gần Động Hạ, hiện chỉ còn phòng thất bị hư phá, tại dưới phía Tây núi Trắc dao. Chùa Bảo Lâm. Chùa Bảo Lâm tại sau núi Chúc Dung, phía trên suối phong trang, gọi đó là Động hạ, chỉ bị hư phá phòng thất vài gian mà thôi. Chùa Hóa Thành. Chùa Hóa Thành qua khỏi núi khoảng 50 dặm, không có gì xinh đẹp khác lạ đáng nói. Chùa Nam Châu. Chùa Nam Châu qua khỏi núi khoảng 55 dặm về phía Đông, trông nhìn gò đồi nhạc sơn toàn một màu xanh biếc. Chùa Vân Khê. Chùa Vân Khê qua khỏi núi cách khoảng 70 dặm, tại dưới núi Hoàng tưởng, ngay đường giữa của Thiệu châu, tre dài che phủ xanh, cây cối kỳ lạ lắm nhiều, phía Đông là núi Vọng dung cao cắm giữa mây. Chùa Bạch Mã. Chùa Bạch Mã gần chùa Hoàng Long. Núi hang có Võ Vương Viết Phù Sắt mà hóa thành hạc trắng, nay gọi đó là hang Phi phù, cũng gọi là hang Bạch hạc, lại còn gọi là Đạo quán xưa cũ. Phía dưới có kho lẫm bằng đá, tự nhiên mọi vật thường đầy, nay nền móng kho lẫm ấy hiện còn. Chùa Tư Phước. Chùa Tư Phước gần chùa Hoàng Long, rất là sâu kín. Chùa Hoàng Long. Chùa Hoàng Long tại Trung động, có nền móng am cốc xưa cũ của Thiền sư khai sơn Phật quang đang hiện còn. Bạch Cư Dị ở thời tiền Đường có bài thơ rằng: “Trăng rơi sáng lánh điện đường mới Gió quẩy vận trong tùng sam xưa Hỏi sư ngạch báu nhân gì lập Cười, chỉ khe ngang có rồng nằm”. * Chùa Cao Đài Huệ An. Chùa Cao Đài Huệ An tại Hậu động phía dưới núi Diệu cao, gần chùa Phương Quảng, thế núi suy xét, cảnh vật so với phía trước núi chẳng sánh bằng. Đến trong thời nhà Tống chúng ta mới ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay. Từ chùa tới phía trước khoảng 50 bộ là nơi hiểm tuyệt, trên đá có dấu vết tướng trạng như vết bánh xe. Theo “. . . ký” nói là: Xưa kia có 500 vị A-la-hán ở đó, nghe Hòa thượng Huệ Tư sắp đến, mới cùng nói với nhau rằng: “Chủ núi sắp đến, chúng ta nên lánh đi”. Và bèn dời đến ở nơi khác, nay dấu vết hiện còn vậy. Lại theo “. . . ký” nói: Đó là dấu vết do quỷ vận chuyển lương thực đến cúng trong nhà trù. Lại về phía Tây có nguồn nước, xuất phát từ dưới hang đổ ra, chẳng biết gốc gác từ đâu, tự gọi đó là nguồn Linh. Trong thời nhà Tống chúng ta, có ngôi am của Tăng só Tông Bính tại trên nguồn Linh, nay tức là am Ba tiêu (lá chuối) vậy, nền móng vẫn hiện còn. Tại chùa có 2 tảng đá có dấu vết của Đức Phật, mỗi dấu vết dài thước 8, hiện rõ 6 tấc. Phía dưới chân có 2 tùy cầu và ấn đều như đường Văn Triệu, nói là từ Tây Vức đến. Hành Dương lệnh Trương Quân có đề bài thơ Cao đài rằng: “Muôn dặm nơi riêng cao Khói mây xa tít trời Nguồn linh tiếng chẳng dứt Dấu vết in lỗ loang Chim núi kêu không sợ Mây khe thường tự bày Tựa hành lan buông mắt Xoay đầu chán trần ai”. Về phía Đông bắc có mục am, là nơi Trung đạo ở đó, chẳng tu phạm hạnh, ban đêm hay rảo bước khắp các hang cốc, không sợ trùng độc hổ rắn, nóng lạnh chẳng xâm, gặp mưa gió cũng không mang đội tói nón, thường dùng lời ngay thẳng để chỉ bày cho người và đều có sự chỉ dạy, sau đến ở tại Hoàng Long, lâu sau thì qua đời. * Chùa Phương Quảng Sùng Thọ. Chùa Phương Quảng Sùng Thọ tại phía Tây Nhạc sơn cách Hậu động 40 dặm, gần chùa Cao Đài tại dưới núi Liên Hoa. Phía trước soi chiếu núi Thạch lẫm, bên cạnh tựa vào Thiên đường. Theo truyện ký nói là: “Khoảng đầu niên hiệu Thiên Giám (502) thời Nam Lương, có Tăng só Hy Tuần, nhân an cư kiết hạ tại Thiên Thai gặp Tôn giả Huệ Hải, sớm tối Hy Tuần chăm lo hầu hạ. Tôn giả Huệ Hải bảo rằng: “Sẽ cùng gặp ông tại chùa Phương Quảng ở Nam nhạc”. Kịp đến lúc Hy Tuần đến Nam nhạc phỏng tìm chùa Phương Quảng thì trọn không có, sau đó bỗng nhiên gặp một ngôi tinh xá hiệu là Phương Quảng, có quỷ thần vận chuyển lương thực, lại có trâu vàng cưỡi chở, chốc lát lại thấy Tôn giả Huệ Hải bước ra cửa, hỏi rằng: “Sao ông đến chậm vậy?” Hy Tuần xin nghó lại. Tôn giả Huệ Hải bảo rằng: “Nơi đây là chỗ ở của 500 vị Tôn giả, ông nên lên ở đỉnh núi phía Tây bắc”. Ở nghỉ lại một đêm rồi đi. Vừa bước ra khỏi cửa thì Tôn giả Huệ Hải và chúng Tăng chùa Phương Quảng bỗng nhiên biến mất. Hy Tuần bèn y theo lời chỉ bảo đó, lập am mà ở. Về sau, xây dựng thành chùa Phương Quảng. Đến trong triểu đại nhà Tống chúng ta mới ban sắc biển ngạch là Sùng Thọ, nay gọi đó là nền móng của chùa Thánh Thọ vậy, vào nửa đêm thường nghe có tiếng chuông khánh, ra ngoài hang núi thấy có ngọn đèn Thánh, khoảng trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1086) thời Bắc Tống, tại núi bỗng bão lớn phát nổi, tức là Hòa thượng kỷ khai sơn đất tích trượng dời chuyển xây dựng chùa ngày nay. Lý Bạch có một bài thơ vịnh về chùa Phương Quảng rằng: “Chùa Thánh, nhàn nghỉ ngủ tỉnh giấc Khi ấy nơi nào rất sâu trong Đầy cửa trăng soi, gió trời lắng Khánh ngọc cùng nghe vài tiếng vang”. Chùa Bảo Khánh. Chùa Bảo Khánh tại phía Tây nam chùa Phương Quảng, chuông khánh giao âm, cây rừng cách bít. Chùa Linh Động. Chùa Linh Động tại phía Tây bắc Nhạc sơn, Hậu động là Tiền sơn của Cao đài, núi rừng xanh kín, khí núi thường ùn nổi, Hậu động tiếng vượn nghe như Ba Hạp, các người đi săn không sao bắt được, bởi thường luôn có nhạc thần bảo hộ. Lại có cầu Minh Nguyệt bắt thẳng lên đỉnh cao, có tháp Thiên thành tầng cấp tự nhiên, cao ước khoảng 5 tầng, dưới rỗng trên bén nhọn. Nếu chẳng cần việc tốt lành thì chẳng thể một lần phỏng hỏi, bởi sợ đường hiểm mà xa vậy. Chùa Quốc Thanh. Chùa Quốc Thanh ở Hậu động, tại dưới phía Tây núi Thạch lẫm, Tiền sơn của Cao đài, gần chùa Linh Xuyên, chuông khánh cùng giao vang. Chùa Linh Xuyên. Chùa Linh Xuyên Hộ quốc tại Hậu động, gần chùa Quốc Thanh. Chùa Minh Khê. Chùa Minh Khê tại phía Tây cầu Mã tích gần hang Kim quy, cách Nhạc sơn khoảng 70 dặm. Xưa kia có người ẩn dật Lý Tư Thiện ở tại hang Kim quy, về sau đi đến La Phù. Lại có Cao tăng Huệ Giám ở đó, bỏ ăn dùng cơm gạo tư duy thiện pháp. Thư tề đều đã hư phế, về sau có vị Tăng sửa sang lại làm thành ngôi phạm sát. Chùa Pháp Luân. Chùa Pháp Luân tại phía Tây nam Nhạc sơn cách khoảng 70 dặm, hệ thuộc dưới núi Cú Lũ; Hàng dương, được xây dựng trong khoảng niên hiệu Hàm Hòa (326-335) thòi Đông Tấn, hiệu là chùa Vân long. Đến cuối niên hiệu Đại Nghiệp (617) thời nhà Tùy, có Cao tăng Đại Minh ở đó. Đến cuối thời tiền Đường, chuyển dời xuống núi, Mã Thị lại cải đổi tên là chùa Kim Luân. Hoặc có thuyết nói là: “Đó là nơi trang trại Mã Thị vậy”. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống. vua Thái Tông (Triệu Quýnh) lại cải đổi ban sắc biển ngạch như hiện nay. Bao quanh chùa có vài vạn cây tùng cây sam. Mỗi lúc gió kích động, tiếng cây rừng xao động như sóng biển. Chùa có bài ký khắc ghi vào đá do Sầm Văn Bản ở thời tiền Đường soạn thuật, và bia thơ nói về núi Cú lũ của Hàn Dũ cũng tại đó, theo tương truyền là bia của Võ Vương tại trên chót vót núi đó. Xu Mật Chiết Công lưu đề lại rằng: “Đường xoay đảnh gập ghềnh Nước chứa ruộng uốn quanh Rừng tốt sâu tợ biển Chùa xưa rất như vực Cú lũ chưa thể đến Bia Võ chân mạn truyền Rừng Tây về sợ muộn Muốn đi lại mịt mờ”. Tại chùa có suối Phổ dung và am Đạo nhân. Chùa Tây Lâm. Chùa Tây Lâm cách Hành dương khoảng 50 dặm, tại phía Tây nam Nhạc sơn cách khoảng 50 dặm. Chùa Hội Thiện. Chùa Hội Thiện tại phía Tây nam Nhạc sơn cách khoảng 90 dặm, tức chùa Trọng Lý xưa cũ được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Hàm Hòa (326-335) thời Đông Tấn, là nơi thiền hội của 18 Cao tăng trong Nhạc sơn; tại dưới núi Hội thiện. Trong thời tiền Đường, Sa-môn Huệ Nhật soạn “Thập bát cao tăng truyện” tức ở thời nhà Trần có Cao tăng Huệ Tư, ở thời nhà Lương có Cao tăng Huệ Hải, ở nhà nhà Tùy có Cao tăng Trí Dónh, Đại Thiện, Tăng Chiếu, Huệ Thành, Đại Minh, Huệ Dõng, Huệ Điều, Huệ Thành, Huệ Đàn, Thiện Phục, Đàm Giai, Nghóa Bản, Nghóa Hạo, Ngộ Thật, Đạo Luân và Trí Minh. Chùa Phổ Tế. Chùa Phổ Tế tại phía Tây nam miếu cách 80 dặm, xưa kia đó là chùa Long Vương vậy. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976- 984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) mới ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay. Tầm Chân quán. Tầm Chân quán cách miếu khoảng 90 dặm tại phía Bắc thành Hành Dương, Quán trấn sông lớn, có chiếc trống đá. Hậu động là cửa phía Tây của Chu Lăng, là nơi Bạch chân nhân Huân luyện sư phi thăng vũ hóa ở thời tiền Đường. Tiên nhân Thạch khác có bài thơ “Tiễn đưa Điện Trực Lôi Thừa Hạo Phụng Mạng Hành Dương” toàn bài là: “Hành dương cách đây khoảng ba ngàn Một đường dằng dặc rất thảng nhiên Sâu xa tường cửa ngoài Tam sở Gió trong ao quán trước năm non. Phía Tây giếng chợ khách buôn lại Đông Nghi, châu thấp nhóm thuyền câu Ông lui chỉ nên không việc khác, Chu Lăng, Hậu động hỏi Tiên thần”. Theo “Tương Xuyên Ký” nói là: “Trống đá đó có lục tự kêu vang tức là có binh lính nổi dậy”. Hoặc có thuyết nói: Lô Lông đẩy trống vào trong đầm. Lô Long, không rõ tên tự là gì, nay xét nghiệm ở trống cũng nói là” Miếu Lô Long, không biết được dựng lập vào thời đại nào. Đến tháng 08 năm Long sóc thứ nhất (661) thời tiền Đường, vua Cao Tông (Lý Trị) ban sắc sai Đạo só Quách Hành Chân cúng tế Nhạc sơn, nhân đó phá hủy miếu không cúng tế. Từ đó về sau dân chúng trong quận mắc phải tai hoạn, đến nay trăm họ mới lập đền phụng thờ lại. Năm Trinh Quán thứ 5 (631) thời tiền Đường, Tướng công nhà Tề xưa cũ đến ở đầu núi đó tạo dựng đình Hợp giang. Đỗ Tuân Hạc ở thời tiền Đường có đề bài thơ Tầm Chân Quán là: “Lẳng lặng cửa mây trắng Tầm chân chẳng gặp chân Cầu ứng hạc trên tùng Bèn là người trong động. Vườn thuốc hoa hương lạ Suối cát dấu chân nai Đề thơ lưu tên họ Ngày sau cùng đây thân”. Lại nữa, trong niên hiệu Đại trung tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống, có Sướng huyền tiên sinh Thạch Trọng Nguyên ở Thê Hà động tại Quế Lâm trú trì, là bậc Đạo hạnh siêu tuyệt, thơ tải hay giỏi, kinh doanh mỗi sự mỗi đổi mới, xây dựng lại hàng hiên Bạch Vân, nhìn xuống dưới cỏ tốt vượt, phía trước có Bạch Vân đường vào ao sen trắng. Từ năm Bình Dần (1146) thuộc trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1163) thời Bắc Tống, kẻ ngu tôi (?) Độ hạ tại Bạch Vân đường đó, cũng có lưu lại 40 chữ, tuy chẳng đủ phưởng phất, song đối với Tiền hiền chỉ biết mọi sự của Chu Lăng, với lời thơ đó là: “Tôi mến cảnh Tiêu tương (Quán đối diện với cửa Tiêu tương) Chu Lăng, Hậu động thiên Khách trong Bạch Vân đường Cỏ xanh phủ đầu ngủ Thuyền nhỏ câu cá chép Ao sâu trồng sen trắng Di chân chịu đất ấy Gió trăng vẫn y nhiên”. Đến trong niên hiệu Cảnh Đức (1004-1008) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng) mới cải đổi ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay. Chùa Thạch Cổ. Chùa Thạch Cổ tại trên động Thạch Cổ (trống đá), trông nhìn phía dưới là dòng sông lớn, gần Niểu đức, nay cải đổi làm thư viện. Đến năm Tân dậu (?) thuộc niên hiệu Cảnh Định (?) Hiến Sứ Du Công xây dựng lại, quy mô rất hùng tráng. Chùa Đông Lâm. Chùa Đông Lâm gần biên giới Hành Dương. Trong thời tiền Đường, có Từ An Trinh (tên phạm húy miếu) trốn lánh việc triều đình, dối giả ngọng câm đến ở chùa, nhân đó mà xây dựng điện Phật, không có người ghi viết và xa nhà. Từ An Trinh là tay nghề ghi viết, vì gần mọi người nên chúng Tăng trong chùa bảo ghi chép đó, vết chữ rất cứng mạnh, mọi người trông nhìn đều kinh ngờ, về sau có Lý Ung rảo bước đến núi, trông thấy chữ viết mà kinh lạ, bèn mời ra đồng về kinh đô lại. Đó tức là nền móng vết tích xưa cũ vậy. Thị Lang Lô Tương có đề bài thơ là: “Thu đến chân núi một chiêu đề Tên cùng giúp Lô Tấn giết Tề Đất trời tẩy căn bay lá rụng Ráng mây in ảnh thoáng khe minh Dây hoang phủ ổ quấn sừng trâu Tốt mạnh dán khói ướt chân ngựa Còn ghi hái cỏ thời tiết bày Nương dâu gà gáy ruộng chùa Tây”. * Phổ Hiền quán. Phổ Hiền quán tại phía Nam núi Cú lũ, dưới là bên tả của đường Hành Dương, do Đạo só Hứa từ tiên sinh Trương Chí Đàm khai sơn trong khoảng niên hiệu Vónh Minh (483-494) thời Nam Tề. Đến trong thời Nam Lương, Chu Tỉnh Chân là thầy của vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502- 550) trú trì tại đó. Mây nước tụ hội đều như là trên biển, người lạ đến giảng đường đông như chợ, không ngày hở trống. vua ban sắc tên gọi là Phổ Hiền. Đến thời tiền Đường có Trần Pháp Minh tiên sinh ở đó tu hành nhân hiến, trong niên hiệu Lân Đức (664-666) thời tiền Đường, vua Cao Tông (Lý Trị) có vời vào nội, chẳng nhận sự vinh hoa sủng ái, xin trở về lại núi, được vua phong là Ngộ Chân tiên sinh. Đến năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) ban sắc phong là Xung Chân. Chùa Vô Ngại. Chùa Vô Ngại tại phía Tây Nam của miếu, tương truyền là chùa được xây dựng vào cuối thời nhà Tấn. Chùa Phước Xương. Chùa Phước Xương cách miếu về phía Tây khoảng 20 dặm. Bên cạnh có đầm rồng và gần chùa Tây Minh. Chùa Tây Minh. Chùa Tây Minh tại dưới núi Thạch lẫm, ở phía Bắc có động Tây Minh. Xưa trước có am vũ, nay đều đã hư phế. Ngọc Thanh quán. Ngọc Thanh quán tại phía Nam núi Thạch lẫm cách miếu leo lên núi cách khoảng 15 dặm, được tạo dựng khoảng đầu niên hiệu Vónh Hưng (?) thời nhà Tề. Trần chân nhân húy là Huệ Độ, người xứ Dónh Xuyên, mới đầu ở tại Mao Sơn hái cỏ linh dị, mang ra đổi bán để uống rượu vài năm không ăn gì, về sau đi đến hướng Nam gánh 2 hòm rương toàn các loại vàng đá. Đến Nam nhạc, chọn nơi u thắng, cáo khấu đất trời phát thề luyện đan, nửa đêm bị phá thất nhiễu loạn, 3 lần nâng đất lò Đan, chuyển vận đá bít lấp, chỉ giữ tâm thầm kín ngồi trên tảng đá trì tụng kinh Hoàng Đình, đem mang Ngũ nhạc chân đồ hình, chí khí càng thiết kính, được âm thầm cảm cách, Đạo lực ngầm phò trì, bắt được ly mî, yêu khí dần tan, quỷ ấy kinh sợ buồn khóc. Chân nhân lại bảo dựng đá phát thề khỏi giết hại, xua đuổi hình quỷ ra xa ngoài biên giới cảnh vức. Về sau, Đan thành, khí sáng tỏa khắp núi, soi chiếu cùng xa gần, sau, đượm phục đó. Đến ngày 13 tháng 5 năm Vónh Minh thứ 3 (485) thời Nam Tề, Trần chân nhân Xung Thiên. Đến năm Trọng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Hy Tông (Triệu Cát) ban sắc phong hiệu là Xung hư nguyên diệu chân nhân. Nay ở trên đỉnh nền móng quán đó hiện có Đài Đan, đá quỷ dựng, hang sấm gió, đàn tụng kinh, suối Đan. Gần đây có vị Tăng só đến nơi nền móng quán, xây dựng ngôi chùa đặt hiệu là Quang Minh, sau đó không lâu cũng lại bi hư phế. Trong niên hiệu Càn Đạo (?) thời nhà Tống chúng ta, có Đạo só Đặng Thời Vónh và Đạo Nhân Hoàng Thủ Chánh phát tâm khai phát núi chặt cây, cắt cỏ chiêu mộ các bậc Hiền thiện cùng xây dựng lại điện đường, cầu mưa đảo họa, đều có cảm cách, các dã nhân ở am cũng dần đượm nhuần Đạo hóa. Động Dương cung. Động Dương cung tại phía Tây bắc núi Thạch lẫm, là nơi thí chân nhân nhiếp phục quỷ hội chân. Trong thời tiền Đường, có Trần Pháp Minh ứng chiếu trở về lại dưới núi đó khai phá hang dựng lập đàn, được thần núi thần vì hộ giúp, qua phía Nam mong ngóng vân dương, sớm tối chầu chân, đọc tụng động kinh, về sau đượm phục đan mà huyền hóa, nay hiện còn có nền móng. Xưa trước cũng có am vũ. Động Môn quán. Động Môn quán tại phía Tây núi Thạch lẫm; thuộc dưới phía Nam núi Thạch lựu, cách miếu khoảng 20 dặm. Xưa kia, Thí chân nhân húy là Tồn, tự gọi là Hồ Phù tiên sinh, hoặc nói là Uyển bồn từ sư Hoàng lô tử đắc đạt nội văn của Tam Hoàng, thuật phục ngự hổ báo, pháp độn biến hóa cảnh, hoặc ẩn hoặc hiện trong vài trăm năm, mến mộ cửa động Thạch lẫm, đó là nơi chốn của ta xung chân, bèn đến ở đó. Lại đến nơi Thạch thất tại phía Tây của núi tạo dựng cá, vòng quanh giữa không khoảng hơn 10 trượng. Lúc đi ra thì cưỡi con báo sắc trắng, hoặc đi bộ quanh núi, con Báo cũng liền nghinh đón theo, Tiên thần núi biển có lúc nhóm tụ. Trong cảnh vức có người kính mộ, nhưng ít được đến gần trông xem. Đến ngày mồng 07 tháng 04 năm Vónh Khương thứ nhất (300) thời Tây Tấn, cưỡi con Báo mà bay lên trời. Đến năm Trạng Hòa thứ nhất (1118) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) ban sắc phong hiệu là xung hòa kiến tố chân nhân. Lại có Lý Xương lợi tiên sinh vốn người đất Thục đến nương ở đó vài năm rồi đến Động Thiên bảo, nay chỉ còn có hang Khống chế Báo, và các nền móng khác cũng hiện còn. Trong thời tiền Đường, có Trương Cửu Linh đển cửa Động ghi đề thơ nơi Đài Đan của Trần chân nhân rằng: “Gà gối đầu tây bèn mở cửa Trần Thị Đan bay bỏ nhận đài Nam xưa đuổi quỷ thề thật chăng Đến nay còn nói quỷ cắm mày”. Thái Bình quán. Thái Bình quán ở phía Tây miếu cách 25 dặm tại dưới núi Bạo Bố, ở thời nhà Tề, có chữ bá ngũ tụng Thái bình kinh và hành Đạo Thái bình, vâng phụng sắc ban tạo dựng Thái Bình quán, nay đã bị hư phế, xưa trước cũng có am vũ. Chùa Tụ Phong. Chùa Tụ Phong tại dưới núi Bích tụ cũng đã hư phế từ lâu. Tây Đài quán. Tây Đài quán tại phía Tây bắc chùa Tụ phong. Tương tuyền là do Chu Mục Vương tạo dựng. Đến thời nhà Trần cải đổi là Thái sơ quán. Lại có thuyết nói là sau đó làm thành chùa cũng đã hư phế từ lâu. Chùa Bạch Vân Hưng quốc. Chùa Bạch Vân Hưng quốc tại phía Tây của miếu cách 22 dặm, là nơi an táng di cốt của Thiền sư Thiên ở Nam Đài, vua Tuyên Tông (Lý Thầm) thời tiền Đường ban phong thụy hiệu là “Vô Tế Đại sư”. Thấy ở gần tháp có 2 văn bia dấu tích sắc đen, do Bùi Hưu Tướng Quốc ở thời tiền Đường tạo dựng nên vậy. Chùa Sở An. Chùa Sở An tại phía Tây của miếu cách 20 dặm, ở trên núi song phong, là nói xưa kia có vị Thiền tăng yên tọa. Theo “…. ký” nói là phía Bắc núi đó có ngôi thạch thất, có người ẩn dật ở đó, chỉ nghe tiếng tụng kinh. Đến trong niên hiệu Quảng Minh (880-881) thời tiền Đường gặp phải hoạn nạn bèn theo hướng Bắc vào núi Đại Tây. Chùa Đa Bảo. Chùa Đa Bảo tại phía Tây nam của miếu cách 18 dặm, xưa trước gọi là chùa Tư Phước. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976- 984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) cải đổi ban sắc biển ngạch như hiện ngày nay vậy. Chùa Song Phong. Chùa Song Phong tại phía Tây miếu cách 25 dặm, núi tròn xoay quanh tướng trạng như thành quách. Đường lên núi quanh co khúc khỉu đi khoảng 1 vài dặm, cây rừng che phủ ánh sáng dất dần đến sâu xa. Tại phía Tây của hang Thập Huệ. Xưa kia có Cao tăng Huệ Đàn ở trong hang, mọi sự thường do Thập Huệ cung cấp, nên xưng gọi là hang Thập Huệ, thường có 2 con hổ tên là Đại không và Tiểu không, mỗi lúc Thập huệ bổ củi gánh nước, hai con hổ mang vác vẽ hang, như người sai sử lo mọi việc gần xa, song không người nào dám sang đó. Chùa được xây dựng trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Cao tông (Triệu Quýnh) ban sắc biển ngạch y như cũ. Ở phía Bắc có dòng thác đổ, cảnh sắc rất khả quan. Chùa Vân Long. Chùa Vân Long tại dưới núi Vân Long, đã bị hư phế từ lâu. Lại có nền móng của Tây chân quán. Chùa Thừa Thiên. Chùa Thừa Thiên tại phía Tây miếu cách 15 dặm vốn hiệu là chùa Thượng Nham. Trong niên hiệu Đại trung tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng) cải đổi ban biển ngạch là chùa Năng nhân, cảnh sắc khác thường, khe nước phun tràn, bậc đá cao vút, cây cỏ tốt rợp trước sau như nhau, đối diện trước mặt có 1 tảng đá tướng trọng như bức bình phong. Nền móng nhà sách xưa cũ của Vi Dần ở thời tiền Đường vẫn hiện còn và thường có loài dã nhân ở đó. Và có tháp Hòa thượng Thập Huệ vẫn hiện còn. Tương Tăng có bài thơ vịnh về chùa năng nhân rằng: “Chùa tại trong tầng mây Thu sâu mộng chuyển nhọc Trước hiên hai khe dốc Ngoài cửa một núi cao Chim cốc phiên nhạc mới Tùng núi gọi sóng chiều Bao giờ rủ áo đi Gối dài nghe tiêu tao”. Chùa Vân Phong. Chùa Vân Phong tại phía Tây miếu cách 7 dặm, do Mã Thị tạo dựng trong khoảng niên hiệu Thiên Phước (936-944) thời Hậu Tấn (Ngũ Đại), gần đây đã bị hư phế. Bên cạnh có khe Thuấn, phía trước có miếu Thuấn, phía Tây có động Thuấn. Ao Pháp Võ, hang Khổng Tước. Phía sau có nơi Triệu Khiên mặc bơi lội đến dừng nghỉ. Về phía Tây bắc có nền móng điện Vương Mẫu. Phía dưới có tảng đá khắc hình tượng chân nhân, nơi vương thị thoát giải thay. Chùa Thọ Quang. Chùa Thọ Quang hiện còn nền móng, về phía Đông có nền móng chùa ni. Phía Nam có động rồng. Chùa Chỉ Quán. Chùa Chỉ Quán tại phía Tây của miếu cách khoảng 5 dặm gồm nơi đường lớn, được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Hiển Đức (?) thời nhà Tống (?), có tháp của Đại sư Từ Quang; người xứ đất Ngô. Xưa trước gọi là chùa Tháp Thiền Lâm. Đến trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Cao Tông (Triệu Quýnh) cải đổi ban sắc biển ngạch là chùa chỉ quán, cùng chùa An Lạc, Bảo Phước và nhiếp thọ cả 4 chùa chuông khánh giao âm, tùng trúc xanh phủ. Thái Đường Bác só Lã Thọ có lưu lại bài thơ ghi về động Thuấn rằng: “Ngàn xưa dấu vết nay hiện còn Nam Tuần Thánh ý trọn ra sao, Tám nguyên đồng bạn nhờ ân nặng Tức là Hồ phi hận lệ nhiều”. Chùa An Lạc: Chùa An Lạc tại phía Tây miếu cách khoảng 5 dặm, xây dựng trong năm Thanh Thái thứ 2 (thuộc triều đại nào?) Chùa Nhiếp Thọ. Chùa Nhiếp Thọ tại phía Tây miếu cách khoảng 5 dặm, xây dựng trong khoảng niên hiệu Thiên giám (502-520) thời Nam Lương. Tại chùa có suối Nhất chước. Chùa Bảo Phước. Chùa Bảo Phước, gần đây đã bị hư phế. Tử Hư các. Tử Hư các, các miếu về phía Tây khoảng 3 dặm, tại dưới phía Nam núi Thiên trụ, được tạo dựng trong khoảng niên hiệu Thiên Bảo (742-756) thời tiền Đường, Mã Thị y cứ Hồ Tương có sửa sang tu bổ lại. Đến trong niên hiệu Thiên Thánh (1023-1032) thời Bắc Tống, lại có được sắc chỉ của vua Nhân Tông (Triệu Trinh) sửa sang lại, trước sau chỉ gọi là Ngụy Các. Trong niên hiệu Cảnh Hựu (1034-1038) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông mới ban sắc biển ngạch với 6 chữ là “Tử Hư Nguyên Quân Chi Các”, đồng thời cấp tặng lễ phục tốt đẹp và Tiền, đặt ruộng để cung cấp cho Đạo chúng. Về sau, đến năm Chánh Hòa thứ 5 (1115) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) lại cải đổi ban sắc hiệu là “Hoàng Đình Quán Các”. Phía dưới có Thạch đàn rộng hơn 1 trượng, danh phi lưu đàn. Theo “Cựu ký” nói là: “Xưa kia, phu nhân từ Phủ châu cưỡi đó bay đến trong tương đây”. Theo “. . . ký” nói là: Đàn cao hơn 1 trượng, xưa kia Nguyên Quân cưỡi xe gió đến đó ngơi nghỉ. . theo Đổ Thiên sư Thập Di nói là: Đàn của phu nhân là 1 tảng đá vuông rộng hơn 1 trượng, phía trên rộng tròn, phía dưới nhỏ nhọn cắm tựa vào trên 1 tảng đá khác, phàm chỉ 1 người đưa tay thử xô đấy thì lay động, nhưng nhiều người cùng dốc sức xô đẩy thì lay động, nhưng nhiều người cùng dốc sức xô đẩy trọn không lay động. Mọi người đi đến chí thành thanh khiết đốt hương dùng ngón tay đụng nhẹ liền lay động. Nay tại núi Phủ châu có hang huyệt sâu rộng, tướng trạng như đá, có thuyết nói là: Xung tịch nguyên quân ma cô đưa phu nhân cưỡi mây đến đó, mây rơi hóa thành Đá vậy. Lại thuyết khác nói là: Đá ma cô tại trên núi ở phía Tây của Quán. Căn cứ theo “Nội truyện” nói là: Phu nhân vốn dòng họ Ngụy, húy là Hoa Tồn, tự là Huyền An. Người xứ Nhậm thành, tức là con gái của Tả Bộc Xạ Ngụy Thư ở thời vua Võ Đế (Tư Mã Viêm 265-290) thời Tây Tấn. Được phong chức là Thượng chân ty mạng tử hư nguyên quân. Lại thêm tên núi mà phong vị ước đồng chư hầu. Xung tịch nguyên quân ma cô vì ngụy phu nhân mà giúp cai trị. Nay tại phía trên quán cũng có tượng của ma cô xếp bày cùng với phu nhân. Năm Hàm Hòa thứ 4 (329) thời Đông Tấn. Thái Nhất Nguyên Quân cưỡi xe gió nghinh đưa phu nhân bay lên trời. Phu nhân có Linh Văn Bí yếu gần hơn trăm quyển cất chứa trong hang đá động Long chân. Nên gọi đó là hang Linh thư. Thời bấy giờ có 1 cụ già vốn dòng họ Bàng đến lễ bái mà thưa rằng: “Xin giữ Linh đàn để được nghe pháp ngữ”. Đại tiên quát mắng bảo: “Ngươi thuộc loài súc vật tanh nồng hôi hám nên gây vạ dịch bệnh cho dân chúng trong cảnh vức ư?”. Bèn rút kiếm ra chém, xua đuổi chạy đến ngầm trốn tại khe ở phía Tây. Nay, đó tức là động Long chân vậy. Trong niên hiệu Khai Bảo (968-976) thời Bắc Tống, có các chư Đạo só Suất Tử Liêm đắc Đạo, giải thay. Sự việc cụ thể như ở quyển Hạ. Tây Linh quán. Tây Linh quán tại phía Tây miếu cách khoảng 2 dặm. Theo “Tương Trung ký” nói là: Ở thời nhà Tấn, đó là nơi Nữ Trinh tiết luyện sư xung cử. Đến năm Thiên Giám thứ 5 (506) thời Nam Lương mới tạo dựng thành quán. Về sau Công chúa của Chu Võ Mục tức là Chu Huệ Biện, vừa mới sinh mà có ánh sáng khác lạ khắp đầy phòng nhà, thuở bé không ăn các thứ rau tanh nồng, lúc trưởng thành Niết-bàn nghó suy muốn ở 1 mình, mến mộ chí khí của Nguyên Quân Tiết Luyện Sư Hầu Tiên Cô, nhân đó mà đến ở thạch thất, cảm được Tây linh Thánh mẫu giáng hiện truyền cho kinh lục, Đạo tu Tam Tố, cảnh của Đàm Hành. Các hàng só nữ kính mộ có đến vài trăm người. Gặp đời sắp loạn lạc, bèn bảo cùng các người học rằng: “Ta sẽ tạm đi xa, ước hơn trăm năm sau sẽ trở lại”. Các hàng hậu học đông nhiều như chợ. Đầu niên hiệu Khai Nguyên thời tiền Đường (713), vua Huyền Tông (Lý Long Cớ) ban sắc biển ngạch hiệu là “Tây Linh”. Về sau có Nữ quán Lý Thái Chân Tào Diệu Bản đều tiếp gót mà đến và đắc Đạo. Tức nơi thường ở ngày nay là nơi xả thí của Chu công chúa vậy. Quán đã bị hư phế từ lâu. Mã Thị tạo dựng lại. Đến trong triều đại nhà Tống chúng ta đặc biệt ban sắc mỗi năm độ 1 nữ quán để tiếp tục lo việc đốt hương tu luyện vậy. Hang Tịnh cư. Hang Tịnh cư tại sau chùa Giác Hải, cách huyện về phía Tây 2 dặm, suối bay phun nước tiếng vọng hưởng, cây xưa cũ giao bóng, đường đá khúc chiếc. Phía trên hang có cây A-la-quả. Xưa kia, có người rảo bước đi đến đó, thấy dưới hang có 1 lão Tăng tướng mạo cao vợi, thân mặc áp nạp rách nát, nhân đó hỏi han mà chẳng đoái hoài, gây lâu mới bảo là: “Đây là trời Tịnh cư vậy”. Bỗng đưa tay chỉ và nhìn quanh 4 phía rồi biến ẩn mất. Tại hang có đình Tả Hồng. Hiến sứ Trương Công Thọ có 1 bài thơ rằng: “Rì rì bậc đá suối tả Hồng Theo đường thang Đan vào khói tía Hang có cao nhân chẳng hỏi chốn Am la tỏa bóng biếc trời khung”. Tuy gần thành quách mà có cảnh ngoài trần. Lại nữa, phía sau núi có cái hang loài giao, có Tăng só Tông Dự ở trong Uổng sơn lúc đầu mới đến đó, thích cảnh thuyết nhàn rộng thoáng mới dựng am để ở, có người phụ nữ qua vài lần nhiễu loạn, do vậy Tông Dự bèn lánh bỏ đến chùa hang chẳng dám ở lại đó. Năm Thiệu Hưng thứ 11 (1141) thời Nam Tống, có Tăng só Thiện Đông bắt đầu đến ở đó, mời đầu phòng ốc chỉ có vài gian. Có Du Tăng Diệu Ấn vừa 28 tuổi ở đó, người phụ nữ lại cùng giao hợp, đến sáng ngày từ eo lưng trở xuống thảy đều như băng, sau vài ngày thì qua đời. Lại có Hành giả Tổ Uyên đi chặt cây gỗ trong núi, mê lạc đường chẳng thể trở về. Qua 5 ngày sau mọi người đi tìm bỗng thấy ở trong hang hổ già mà nói rằng: “Có 1 người phụ nữ bảo ở đây, nay ra tìm kiếm trái quả để cho tôi ăn”. Miệng hang rất chật hẹp, chỉ dung chứa được 1 thân người, nhưng bên trong rất rỗng thoáng. Đó là hang huyệt của giao vậy. Tổ Uyên trở về cũng cảm mắc bệnh. Ngày rằm tháng 4 năm đó, gió mưa bao đến, khắp núi đều tối đen, sấm sét đánh nổ quanh ở ngoài thất. Tăng só Thiện Đồng vốn không ngủ, an tọa trong khám, đã qua nửa đêm, bật đèn sáng nghe có tiếng ra dưới khám như bể trống, nhưng trông nhìn kỹ thì đó là 1 con trăn lớn đang cuộn quanh vài vòng, đuôi còn ở ngoài cửa. Thiện Đồng gọi bảo chúng Tăng dùng gậy đánh xua đuổi. Con trăn ấy đi rồi trở lại, chư Tăng lại đánh đuổi đó, con trăn bèn chạy vào nơi khe hở của tảng đá lớn, muốn vào chốn chết. Nước ở núi dần lớn lên Hành ốc đã quá nửa thất, thế rồi trăng sao tỏa sáng, gặn hỏi trông xem thì con trăn đó đã chết, thân dài cả trượng 2, chu vi lớn khoảng vài thước, thân thể toàn sắc đen có đường văn hoa vuông. Ngày đó Tổ Uyên cũng phát cuồng tướng trạng tỏ vẻ như vui mừng như luyến tiếc, vài ngày sau cũng chết. Trước sau chư Tăng bị hại có đến 8 vị. Trước đó mỗi lúc vào đêm núi liền đen tối, tuy có trăng cũng vậy. Từ đêm con giao đó chết, sắc núi mới tỏa sáng. Nay hiện có ngôi tháp vài tầng, phòng ốc có vài gian và Tăng só có vài chúng bạn. Chùa Đâu Suất. Chùa Đâu Suất do vị trụ tướng quốc dựng lập ở thời tiền Đường. Đến trong triều đại nhà Tống chúng ta mới ban sắc biển ngạch là chùa Tịnh Phước, chùa gối lưng bến sông Tương, phía dưới có đầm xưa cũ. Nước nhà thả rồng vàng nơi nhà sách của Vi Trụ đó, chư Tăng trong chùa thường luôn sửa sang không ngưng dứt, để lấy làm cảnh đẹp cho những người bơi lội thuyền bè đến trông xem. Ở phía Tây có miếu Thần Hác than. Tương truyền rằng: Xưa kia Hòa thượng Thạch Đầu tọa thiền tại đó, tiếng nước réo rắc om sòm tai, đó là bởi thần la hét vậy. Cách Nhạc sơn tuy xa nhưng sự việc ở đây cũng nên đáng ghi vậy. Trong khoảng niên hiệu Trị Bình (1064-1068) thời Bắc Tống, có vị chủ Bộ vốn dòng họ Đặng, nhân ngày nhà rỗi phỏng tìm đến nơi suối đá đẹp xinh, nhân đến chùa đó, kéo chống gậy muốn leo lên núi, bỗng nghe có mùi thơm của cây hoa khác thường, đưa mắt trông nhìn, thấy giữa lưu chừng núi có lầu đài cao thấp, vàng ngọc soi rọi lẫn nhau. Phía trên có tảng bia đề là “Từ Hồ Chân Nhân Chi Động”. Đặng mới kinh ngạc gọi Thư Lại Đàm Anh cùng trông xem đó, khoảnh khắc bèn ẩn mất. Theo “. . . kỳ” nói: Đó là cửa phía nam của Chu Lăng động thiên vậy. Liệu xử só có thư trai tại bến Tương giang. Đồ Ngưng Dung đã qua vài đời khéo giỏi văn thơ. Từ cuối niên hiệu Vân Hựu (?) thời nhà Đường đến ở đó. Nay hiện có “Ngũ Phong Tập” lưu hành ở đời, từng làm thơ nói rằng: “Mua được Hành châu mười dặm xanh” là đó vậy. Cây nước lắng đẹp, đất gần mà cảnh xa, thật là bộ giáp áo mão của Tương Trung vậy. <詞>NHẠC SƠN SINH SẢN CÁC LOẠI CÂY TRÂN QUÝ: Cây hương nam Cây hoàng tâm Cây huyết bách Cây phỉ tử Cây ngân (kiên bạch) Cây tử (làm đàn) Cây sơn chá Cây thổ trọng (có thể sung làm quân gáp) Cây ngô đồng Cây linh thọ Cây hoàng dương Cây thiên liệu. NHẠC SƠN SINH SẢN CÁC LOẠI THUỐC TẠP (phụ lục sơ quả) Hương bạch chỉ Sài hồ Sơn đậu căn Tần bồng Võ dư lương Thạch yến tử Thược dược Tiên linh tỳ Vân mẫu Hoàng dược tử Bạch dược tử Ô dược Thạch xương bồ Lương cương Ngũ vị tử Hà thủ ô Đại phong đằng Mạch môn đông Thiên môn đông Cẩu quyến Hương giao Lậu lô Bạch cập Tiên lữu Bạch truật Khổ xâm Quế tân Sơn từ cô Ngô thù du Sơn khung Xuyên ô Tục tùy tử Oanh lật Cảo mộc Phục linh Thiên nam tinh Tử kim đằng Sơn đại hoàng Bán hạ Đương quy Bách bộ Biên trúc Cù mạch Cúc hoa Mã đâu linh Bách hợp Đại ngao Tế tân Hoàng tinh Võ ty tử Tỳ giải Ngũ bộ tử Qua lâu Tục Đoạn Thiên niên nhuận Mộc tặc Võng thảo Sơn ngôi Quyển bách Quán chúng Địa du Ý dó Hải kim sa Thạch phát Bồ-đề tử Trà Thì la Vạn tuế đằng Phì trư Thích vị Xuyên sơn giáp. . . . . . . . . . . . . Thái Thái thanh Phỉ tử Sơn hồ tiêu Sơn cai đào Sơn lệ chi La-hán quả Anh đào Sơn quế tử. <詞>NHẠC SƠN SINH SẢN CÁC LOẠI HOA LẠ: Hoa sa-la Hoa hồ điệp 5 sắc Hoa bạch đinh hương Hoa sơn thạch lựu Hoa sơn anh Hoa tử kinh Hoa phù dung Hoa nham quế Xuân lan Thu lệ Kim phụng Ngân phụng. <詞>NHẠC SƠN SINH SẢN CÁC LOẠI CỎ HƯƠNG: Giáng chân hương Sơn đàn hương Thanh mộc hương Thạch nhũ hương La-hán hương Hoàng liên hương Đâu lâu hương Phong hương. <詞>NHẠC SƠN SINH SẢN CÁC THỨ CỎ LINH: Thiên lân thảo Kim lộ bàn Hạnh diệp kim tuyến Ngân lục thảo Tỷ hà xa Kim bạch thảo Tử bối thiên quỳ Thiên hà thảo Tử cần thảo Trường phát thảo Địa bất dung thảo Kim tương thảo Vạn niên tùng Tiên nhân thảo Trọng đài kim tuyến Long tu thảo Tử bối hổ nhó Tử bối hổ thiệt Cẩm bối long thiệt Bức hà tiên Tử bối long nha Tử bối quá giản Cẩm bối thạch vi Độc giác tiên Kim tinh phụng vó Kim tinh thạch vi Thạch tầm Sơn phỉ. <詞>7. NHẠC SƠN CÓ CÁC LOẠI CHIM LINH THÚ LẠ ï. Chim âm thanh (bay liệng thành đàn, lông cánh 5 sắc, chầu ánh sáng mặt nhật nhóm tụ kêu hót, âm thanh như trương nhạc) Chim sơn thước (bắt nó rất khó) Chim linh cưu (lông cánh sắc màu như gấm) Chim viên (chỉ hót lúc sáng sớm và chiều tối, như vượn hú). Chim bạch nhàn Chim sơn giá Gà cẩm Gấu ngựa Gấu heo Gấu chó Vượn Trúc lưu Kỷ hổ 2 con hổ đi tuần núi 2 con quạ bảo hộ quán. NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP QUYỂN TRUNG (HẾT)  NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP <卷>QUYỂN HẠ Nói về các dị nhân Cao tăng đắc Đạo từ thời tiền Đường đến thời nhà Tống (phụ lục các vị ẩn dật). Song Tập Tổ. Ở thời nhà Lương có Song Tập Tổ, tự là Trọng Viễn, người xứ đất Ngô, ở động Bạch mã tại Nam nhạc, từ thuở bé thơ mà đã biểu thị thuần tố, chẳng ham thích nói nhiều, phàm đối với mọi sự xét xem hay giao tiếp với thân thích bè bạn đều tỏ bày nghiêm nghị giữ nét mặt đoan chánh mà tiếp đãi đó, nên mọi người không dám xem thường dễ dãi. Được tài khéo giỏi bơi lội ngược dòng, qua lại kinh tương trong 1-2 trăm năm mọi người chẳng lường biết. Lại vào Nam nhạc, đi khắp 5 núi lớn, gặp được bậc chí nhân cho được phục pháp vụ khi. Lâu sau, vào Vân Dương, ở tại động Tần Nhân mà nói rằng: “Xưa kia Xích Quân từng giáng hiện ở núi này”. Tức phía Nam của Chu Lăng vậy. Từ đó đọc tụng Hoàng Đình ngọc kinh không ngưng nghỉ. Có đệ tử thỉnh cầu mời đến quán vũ trong ấp để tiện việc cúng hầu. Tiên sinh bảo là: Kinh dạy “Sao không lên núi đọc tụng sách của ta, ở trong nhân gian rối rắm xú uế như vợ con? Tôi cho rằng: Xú uế như vọ con, muôn cảnh đều rối rắm, bên ngoài thì lục đục quấy động, bên trong thì tam bành nhiễu loạn. Xưa kia Ngụy phu nhân truyền ngọc kinh đây, mà theo hướng Đông dời đến Dương Lạc và đắc Đạo. Trong đời chẳng thiếu người như vậy. Chỉ sợ hư rỗng, không thiết cùng, gìn giữ chẳng dốc chí, thì Đạo không do đâu để thành vậy”. Qua vài năm sau bèn vào núi Cửu nghi, ở hang Bạch mã. Chợt nhiên ở đó mà bảo rằng: “Mới đầu ta ở động Bạch mã, mà nay cuối cùng lại ở hang Bạch mã, hẳn nơi ở của ta trái phản chân vậy. Phàm Mã (ngựa) là khí của Càn Kiện Hạo Nhiên, Bạch (sắc trắng) là Phương kiến tố hoàn nguyên. Mà ta lại ở đó”. Bỗng một ngày nọ bảo cùng môn nhân rằng: “Sau khi tôi vào thất nếu như có khí trời khác thường, thì phải gấp lại báo cùng tôi”. Qua giữa trưa hôm sau, 4 phương khí trời lắng trong, đệ tử đến báo, bèn đòi tắm gội rồi đốt hương, lẳng lặng quy chân, bỗng chốc dất bỗng nhẹ, để lại khăn trùm nơi mộc sa. Lúc đó là tháng 4 năm Trinh Quán thứ nhất (627) thời tiền Đường vậy. Các thứ giường chiếu và đàn ngồi ở trong hang, trải qua hơn 200 năm mà chẳng hư nát, các đệ tử đưa về tôn trí trong quán chân đường để cúng dường. Liệu Xung. Liệu Xung tự là Thanh Hư. Năm Đại Thông thứ 3 (529) thời Nam Lương, ở quận Liên Hoa, do tài đức mà nổi danh, làm chủ bộ của bản quận. Về sau giả từ ấn quyết dây thao, vân du tham tìm Đạo yếu, đến ở núi Tung cao. Lâu sau qua kinh chữ, có 2 thần công an tác yêu nổi sóng gió cản trở thuyền bè, Liệu Xung bèn nhiếp phục khiến bảo hộ thuyền mà vượt đến Nam nhạc, ở tại đỉnh núi Chúc Dung gặp được Thái Bình Chân Quân truyền cho Đạo yếu. Lại bảo cùng với 2 thần rằng: “Tôi ở Tài Dương làm đan, nên vì tôi mà giúp gìn giữ lò, ngày sau đan được thành đạt thì các người cũng có phần vậy”. Đến lúc đan thành, bèn trở về quê hương, thường cưỡi 1 con hổ, nắm con rắn làm roi, thọ ngoài trăm tuổi. Đến năm Quang thiên thứ 2 (?), bỗng nhiên gió mây mờ tối mà dất bay. Tiêu Linh Hộ. Tiêu Linh Hộ tự là Thiên Hổ, người xứ Lô Lăng, vừa mới sinh lớn khoảng 5-7 tuổi đã có năng khiếu văn thơ, phàm mọi tác thuật đều mang ý vượt ngoài trần. Đến năm 15 tuổi, lại ham thích Đạo tràng, gặp được bậc chí nhân truyền cho Kim đan thai tức. Phỏng hỏi khắp cùng các danh sơn, mang theo sách Đạo có hơn trăm quyển. Tiêu Linh Hộ thường nói rằng: “Muốn lên Nam cung”, trước đến Chu Lăng, quanh co tìm hỏi động dương qua Nhạc lộc, chiêm ngưỡng hình tượng của Đặng Chân Nhân. Núi đó là Phước địa thứ nhất của Chu Lăng. Ban đêm gặp được chân nhân truyền cho thuật Hỏa đảnh; Đến trong niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời tiền Đường, đi ngược dòng Tiêu tương, đích thân lễ bái chú sinh, hành pháp xua đuổi tà, khắp trong làng nước mọi người được cứu giúp số lượng chẳng thể lường biết hết. Về sau, đến ở Chiêu tiên quán, luyện thuật Hỏa đảnh, hóa Hoàng bạch mà bên ngoài hộ giúp tu sửa Quán vũ làm thành toàn mới, các hầu vương rất lễ kính, thỉnh mời làm pháp chủ, đều xoay mặt hướng Bắc mà tôn thờ đó. Về sau lại chọn nơi u thắng để luyện thần Đan, trải qua 3 đàn luyện mới được thành sau, đượm phục đó. Đến rằm tháng 8 năm Hoằng Đạo thứ 2 (684) thời tiền Đường, Tiêu Linh Hộ bảo cùng đệ tử rằng: “Thời điểm ta đi đã đến và sẽ có nơi đến, không thể chần chờ ở lại, các ông phải tinh cần, sẽ có sự tiếp thừa”. Và bèn giải thay. Hơi thơm tỏa khắp phòng nhà, tợ như có âm thanh trong trẻo mong ngóng ngoài cửa, trải qua thời gian mới ngưng hết. Trương Huệ Minh. Trương Huệ Minh người xứ Triệu Quận, dựng lập am ở tại núi Trung Điều, thọ học pháp ở Nguyên Chân quán, thường dùng chú thuật để xua đuổi tinh mî. Về sau, sang Trường An, gặp được Hổn Nguyên Tử, thọ học đạo Cao Bôn (chạy cao) mà thực hành đó, công thành đức đủ, Đạo học vượt trội. Phàm những ai đến nơi pháp tịch đều là đồ chúng của Chương Phủ. vua Thái Tông (?) ban chiếu mời vào nội điện, thiết đặt lễ tế mà có cảm cách. Sau đó, xin trở về chốn núi rừng, vua chấp thuận, ban sắc đến ở Nam nhạc, tên phong là “Diệu Tế Đại sư”. Bỗng 1 đêm nọ gặp được Nam nhạc Hữu Anh phu nhân trao truyền cho yếu pháp Bảo nhất thủ chân tam ngũ hỗn hợp, thực hành theo đó 1 năm, sau lại theo chiếu đến Tây nhạc để thiện hỏi việc, về sau giải thay. Thiền sư Đàm Tạng. Ở Viên lan nhã tại phía Tây Nam nhạc, Thiền sư Đàm Tạng nuôi 1 con chó linh, thường đêm kinh hành, con chó ấy ngậm theo áo Thiền sư. Khi trở về phòng thì con chó đó nằm bên cạnh cửa gìn giữ mà sủa cắn, tự giữ thế thân mình sẵn sàng cắn sủa mạnh dữ. Một sớm mai nọ ở đỉnh núi phía Đông có 1 con trăn lớn dài vài trượng, há mồm nhả khí độc bung cháy dữ dội, Vị Thị giả cầu xin nên lánh né. Thiền sư bảo: “Việc chết có thể trốn lánh ư? Kia đem độc lại, ta dùng tâm từ mà nhận lấy. Độc không có thật tánh, kích phát thì mạnh. Từ gá vô duyên, oán thân chỉ một Đạo”. Nói xong, con trăn ấy bèn nép đầu từ từ mà đi, bỗng nhiên không còn trông thấy. Lại 1 đêm nọ có kẻ trộm đến, con chó ấy cũng ngậm dật áo Thiền sư. Thiền sư bảo cùng kẻ trộm rằng: “Ở trong nhà cỏ có vật gì vừa ý thì cứ mặc tình lấy đi”. Kẻ trộm cảm kích lời nói đó bèn bỏ đi. Hà Tôn Sư. Hà Tôn Sư, không biết là người ở xứ nào. Trong khoảng niên hiệu Long Sóc thời tiền Đường (661-664), đến ở tại Hành nhạc, chẳng nói bày tên họ. Nhan sắc dung mạo như người khoảng 40 tuổi, đi bước như bay, thường qua lại thương ngô giữa khoảng 5 ngọn núi lớn. Đến không chỗ mến, đi không chỗ, đi không chỗ chán, chỉ hơn trăm năm, mọi người thường trông thấy dung mạo vẫn không cải đổi. Hoặc có người hỏi về dòng tộc và tuổi tác thì chỉ nói: “Hà hà!” Hoặc có cật vặn hỏi về quê hương và sự tu chứng, thì cũng chỉ nói là: “Hà, hà!” Nên người thời bấy giờ xưng gọi là: “Hà tôn sư”. Mặc áo thô xấu, chân đeo mang giày, tâm lượng thênh thang như vậy. Các người ẩn dật như Điền Hư Ứng, Đặng Hư Trung từng thưa thỉnh rằng: “Tôn sư rốt cùng không nói như thế, thì lấy gì để khai ngộ cho ngươi học? Hà Tôn Sư bảo rằng: “Người biết và không biết thì trên còn không biết, còn người biết tức là bệnh vậy. Ai có thể đục tháo ngồi hỗn độn, để lại lý tự nhiên ư?” Bèn chống gậy đi vào trong rừng, chốc lát có đàn hổ cùng đi theo và không còn thấy nữa. Đến trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường, Tư Mã Thừa Trinh đi đến núi Chúc Dung ở Nam nhạc, nói rằng: “Hẳn có cao tiên ở đây, cớ sao khí sắc đẹp lạ như vậy?” Thế rồi thấy Hà Tôn Sư từ trong rừng đi ra. Thừa Trinh chí thành kính lễ thưa hỏi, Hà Tôn Sư y cứ trên đá màn gồi tợ như không trông thấy gì. Khi ấy Thừa Trinh không thấy nói gì bèn rút lui mà than rằng: “Đây có thể gọi là tài toàn mà đức chẳng lộ hình ấy vậy!” mới tạo dựng am mà thỉnh mời ở đó. Hà Tôn Sư đến ở, lại chẳng ra. Quán sát sứ Lã Vị đến am ấy thỉnh cầu truyền trao phù lục, Trương Thái Hư, Điền Hư Ứng, Đặng Hư Trung bắt chước mà tôn thờ đó, nhưng đều chẳng được yếu chỉ. Đến ngày 15 tháng 10 năm Thiên Bảo thứ 2 (743) thời tiền Đường, có mây hạc liệng bay giữa khoảng không, hương thơm khác lạ phảng phất, Hà Tôn Sư bảo đệ tử rằng: “Sau khi tôi đi phải nâng cử đến trên tảng đá ở phía Nam núi Tử cái”. Bèn hóa, nhan sắc vẫn không biến đổi. Đệ tử mới vây quanh cử hành pháp nghinh dời thần. Trong đêm nghe có tiếng sấm sét vang động, bèn liền biến ẩn mất Hành Dương Thái Thú Tô vụ Liêm soạn viết văn bia dựng tại Thuyên đức quán. Từ Kính Nghiệp. Từ Kính Nghiệp sống trong thời Võ Tắc Thiên - thời tiền Đường, lúc dương châu loạn lạc, Võ Tắc Thiên bảo sang bình trị đó. Quân lính bại trận. Từ Kính Nghiệp bèn bỏ trốn. Người nuôi dưỡng Từ Kính Nghiệp dung mạo như nhau. Đến lúc Từ Kính Nghiệp thất bại, Võ Tắc Thiên bắt người nuôi dưỡng ấy giết chết mà cho đó là Từ Kính Nghiệp, mà Từ Kính Nghiệp thật đã trốn ẩn tại núi Đại cô, cùng đồng bạn khoảng vài mươi người dựng am khai khẩn đục tạc, chẳng tương thông với việc người đời, mới cắt tóc làm Tăng, các đồng bạn cũng nhiều người cùng cắt tóc. Đến đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường, có lão Tăng pháp danh Trú Quát tuổi đã ngoài 90 cùng đệ tử đến chùa Hành nhạc tại Nam nhạc, phỏng hỏi chư Tăng và dừng ở lại hơn 1 tháng, (Từ Kính Nghiệp) bỗng nhiên thỉnh cầu chư Tăng nhóm tập sám hối tội quả giết người, chư Tăng rất lấy làm lạ. Lão Tăng ấy hỏi rằng: Ông có nghe tên Từ Kính Nghiệp chăng? Chính là thân tôi đây, khi quân lính bại trận, tôi vào núi Đại cô, tinh cần tu đạo, nay sắp mạng chung nên đến chùa đây, muốn khiến người đời biết tôi đã chứng đệ tử quả vậy”. Nhân đó tự nói về kỳ hạn ngày chết, và quả đúng thời hạn ấy mà qua đời, bèn an táng tại Hành sơn. Tiết Lý Xương. Tiết Lý Xương, người xứ Miên Trúc; Hán châu, gia đình nhiều đời nối dõi nghiệp quan. Tiết Lý Xương từ bé nhỏ đã chẳng ham thích vinh hoa, chẳng ăn dùng các vật tanh nồng, thường mặc áo vải sắc trắng, khổ khốc ở chốn núi non. Một ngày nọ xin đi đến thành, song thân cho là không xa bèn chấp thuận đó. Tiết Lý Xương bèn theo hướng Nam thẳng đến Đào Nguyên, sau đó gặp được Chánh Nhất tiên sinh ở Nam nhạc, thọ học Bí Lục Tam Đổng, nghiên cùng chân yếu, từng cảm cao chân mật giáng. Minh Hoàng ban chiếu thường hỏi về đạo đức kinh, mà đàm biện tinh thông. Minh Hoàng rất vui lòng đó. Lâu sau, xin trở về lại núi. Minh Hoàng chấp thuận bèn làm thơ phú mà ban tặng, ghi chép rõ ràng rằng: “Luyện Sư chí khí mến mộ Huyền môn, gá tâm ở Nam nhạc, đến lúc lên Đạo lục, bỗng nhiên lại giả từ, muốn trở về chốn núi xưa cũ, để giữ sự rỗng rang trinh bạch. Không dám trái với ý chí cao nhã, vả lại rất mến trọng sự tinh tu, như lúc gặp được bậc chí nhân và linh dược đến chốn thành quyết vậy!”. Và với lời thơ rằng: “Động phủ tu chân khách Hành dương Nhớ chốn xưa sắp thành kim khuyết Cầu mong Ngọc thanh vẽ đường mây Gần Tam thiên, vạn tùng khe tiếng vọng hư không”. Bèn làm kiệu tiễn đưa Tiết Lý Xương đến ở Giảng Thánh quán tại núi Cửu chân, sau trở lại chỗ ẩn xưa cũ tại núi Hoa cái tu luyện đan thành. Một ngày nọ bỗng bảo cùng đệ tử rằng: “Đến nay tại núi Chúc Dung có hội của các chân nhân, ta bị mời sang đó”, bèn vượt giữa hư không đi đến, và chẳng trở lại. Người sau tạo dựng Lăng Hư cung. Đặng Tử Dương. Đặng Tử Dương, người xứ Nam thành; Phủ chân. Mới đầu ở tại núi Ma-cô. Sau nhân kính bầu song thân nên xuống núi, gặp 1 con trăn lớn cản trở bước đường đi, Đặng Tử Dương bèn cứng mạnh mà xua đuổi đó, con trăn hóa làm 1 cây kiếm, Đặng Tử Dương lại lấy kiếm đeo mang, tánh khí càng thêm cứng mạnh, thường mang tài cứu giúp cho đời, luôn nghỉ ở giữa khoảng khe hang, tụng chú Thiên Bồng không ngưng nghỉ. Bắc Đế sai thần nhân đến trao cho kiếm pháp. Đặng Tử Dương xa phỏng hỏi đến Chu Lăng; Nam nhạc, bái yết đàn Thanh ngọc và Quang thiên. Lễ kính Đặng chân nhân. Mộng có điềm cảm, Hữu Lưu, Hữu Tông bắt chước theo đó cầu truyền cấm chú. Đặng Tử Dương bảo rằng: “Động bên cạnh núi Thạch lẫm, bốn mê Tịch dương, Quỷ mî núi non ở đông thành đàn Tổ của ta xưa kia xua đuổi nó đã trải qua hơn 300 năm. Nay vì sinh khí chẳng chánh, loại ấy nối tiếp theo người. Các người về sau nên lập đàn để dứt trừ đó, kiêm bên trong dưỡng khí Hạo nhiên, mới mong có được bước thềm lên tiên”. Về sau, Minh Hoàng ban chiếu mời Đặng Tử Dương vào nơi Nội Diện lập đàn cúng tế phá Hồ Phan, Minh Hoàng sắc phong là Thiên. Sau đó giải thay. Hữu Tông y theo pháp tạo lập đànm viện tại dưới núi Thạch lẫm, gặp phải hung dữ nơi quận bèn bỏ đi đến núi khác. Điền Hư Ứng. Điền Hư Ứng, tự là Cấn Dật, vốn người nước Tề, phú tánh bộc phác, nói năng không kiên cử húy. Trong khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581-601) thời nhà Tùy, kính hầu song thân ở Du huyện, bởi sự ồn náo nên chuyển dời đến ở Nam nhạc, đích thân Điền Hư Ứng canh cày ở dưới núi Tử cái, để hết chức phận làm con suốt hơn 50 năm, thân mẫu sau khi đã qua đời. Điền Hư Ứng mới rảo bước khắp 5 ngọn núi lớn, phỏng chí tự đi. Trong khoảng niên hiệu Long Sóc (661-664) thời tiền Đường, Mục Châu Điền Hầu ở Hành nhạc quán tạo dựng Giáng chân đường để ở, Điền Hư Ứng đến tán thàn để phân Bích ngọc, thọ học pháp lục Thượng Thanh Đại động, từ Chánh Nhất tiên sinh truyền cho Thiên sư. Thiên sư truyền trao cho Điền Hư Ứng. Đã tiếp thừa Đạo yếu, vượt trải qua mây nước, vì làm bạn lành, chỉ có Tương Xá Hồng Thời, Lã Vị, Dương hùng đều là sứ giả ở Hồ Nam thường đến phỏng hỏi cao luận. Tại Đàm Châu bị hạn hán, cầu mưa đã lâu mà không được, mời thỉnh Điền Hư Ứng để tóc rối bù mặc áo thô xấu đến quận, chẳng nói điều gì mà mưa tự đổ. Lại từng gặp lúc mưa lâu ngày không ngưng dứt, Quận thú tạo lập đàn tại Hành nhạc quán, Điền Hư Ứng im lặng trên bờ vèn tóc mà ngồi, kịp đến lúc lên đàn thì liền dứt mưa. Đến trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) thời tiền Đường, theo hướng Đông vào núi Thiên Thai mà chẳng trở ra. Ở thời vua Hiến Tông (Lý Truân 806-821) ban chiếu mời mà chẳng ứng đối. Có Âu Dương Bình là người Đạo học cũng cao thường bắt chước mà tôn thờ đó, một ngày nọ mộng thấy có 3 thần nhân mỗi vị mang đến 1 lô vàng từ trời giáng xuống như có sự mời gọi, bèn kín báo với mọi người là: “Hai tiên nhân không bao lâu nữa sẽ đi vậy. Ta hẳn cũng kế tiếp”. Sau đó không bao lâu, Hư Ứng quả nhiên cũng vũ hóa, Tương xá cũng kế tiếp đi. Trong môn nhân các vị Đạt giả như Thê Dao phùng duy lương, hương lâm Trần quả ngôn, Phương do- anh từ linh phù cả 3 vị đều lần lượt tiếp nối mà giải thay. Lý Tư Mộ. Lý Tư Mộ, người xứ Thành kỷ, cùng với Đông sở Huân Luyện Sư Bạch tiên sinh kết bạn ráng mây, vân du khắp Danh sơn tam tương. Sau, phỏng hỏi đến Nam nhạc và khắp cả 5 ngọn núi lớn. Tuy sư phạm chẳng đồng mà mỗi tự có chỉ quy. Bạch tiên sinh đã thượng thăng tại Thạch cổ, Lý Tư Mộ vào kinh đô, cao lực só xiểm nịnh Ngô quân tấu trình lên Minh Hoàng. Qua hỏi đáp xứng hợp với Thánh chỉ, sau đó Lý Tư Mộ xin trở về lại núi, Minh Hoàng nồng hậu ban tặng tiền. Lý Tư Mộ hành chú kinh thanh tịnh lưu hành nơi đời. Sau đó, huyền hóa tại núi Tử cái. Chỉ Huân luyện lẫn lộn vết ở Hậu động Hành dương, thường dùng chú thuật để trị bệnh người. Như có người đền đáp thì uống rượu say mềm làm khéo. Từ đó, phàm những lúc tỉnh, say nằm ngang giữa đường lớn. Hoặc ở nơi khe hang gặp mưa bất chợt mà áo chẳng thấm ướt, lấn lướt trong sương lạnh mà trắng xoá vậy. Qua vài năm sau, đi rảo quanh cửa, bảo cùng mọi người rằng: “Các ông khéo nên mỗi tự ngưng nghỉ”. Mọi người đều lấy làm ngờ lạ. Rồi cũng giải thay tại Hậu động như ve sầu thoát xác. Đổ phủ ở thời tiền Đường có bài thơ “Ức tích hành” câu cuối nói là: “Lại hỏi Hành Dương Huân Luyện sư, Nam đến Tiêu tương gõ bái thuyền”. Tiết U Thê. Tiết U Thê, người xứ Bảo đảnh, Bồ châu, tánh tình trầm tónh, thông mẫn nhận biết trông thấy cao xa. Những lúc rảnh rỗi tu tập nghiệp học, khéo ưa thích phỏng hỏi việc phương ngoài. Trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường, đỗ đạt cấp Tiến só, tuổi vừa mới 20, được điều cử làm quan Lăng quận úy chưa đầy 10 năm, mà có hứng thú của núi non, bèn rủ áo vất bỏ mũ mão áo lễ ra vào thanh thành Nga my. Lâu sau đi đến núi Hạc Minh phỏng hỏi nơi chỗ Hán Thiên sư. Tu hành chỉ 1 năm mà khí đạo càng sung mãn. Đến đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường, lại rảo bước đến Nam nhạc bói tìm chỗ đất tu chân, mới ẩn giấu họ tên, ở dưới 5 ngọn núi lớn, buông tâm đến trường tự đắc, rỗng thoáng không chỗ buộc phiền, mà hay hòa quang hỗn tục, hủy phương ngỏa hợp. Đối với Tam động kinh cáo. Không thứ gì chẳng gồm đọc xem, nên các hạng nhân khách ẩn dật sâu xa hưởng vọng phong hóa mà đến bẩm thọ, thường ngày nhóm tập chung quanh, mà Tiết U Thê biện luận rộng xa, tùy theo căn tánh mỗi mỗi đều được phát minh, tấu dâng Huyền Vi luận 3 quyển, xứng hợp Thánh tâm, Minh Hoàng tưởng thưởng xưng gọi là Đạt Ngộ. Sau cùng bèn giải thay. Lưu chú linh bảo nơi đời. Nay tại Lăng Hư cung có Thiên Hương đài là nơi chú kinh xưa trước, sớm tối mây khói ùn nổi như hương cuộn quanh. Đường Nhã Sơn. Đường Nhã Sơn, người xứ Lỗ Quận. Trong khoảng niên hiệu Tiên Thiên (712-713) thời tiền Đường, trải qua thời gian nhậm quan tước giữ chức Thượng thứ lang liên điển kích quận. Đến trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời tiền Đường, lại ra trấn thú giản châu, rất có chánh sách ân huệ, mọi người xa gần đều ngợ ca. Đường Nhã Sơn lại khó giải Đạo Trường sinh, bảo em là Đường Nhã Thủy làm Hành nhạc Đạo só. Anh em cùng đồng được yếu pháp Thai nguyên cốc thần, từng có chiếu mời vào nội điện, sau đó lại xin trở về núi, cũng được chiếu chấp thuận. Về sau, Đường Nhã Sơn đến trong sông Dương tử, cưỡi mốc 5 sắc mà bay lên tiên. Còn Đường Nhã thủy giải thay ở Nam nhạc. Thân Thái Chi. Thân Thái Chi, từ là Quảng Tường, tiên tổ vốn người xứ Lạc Dương, nhân trấn nhậm quan ở Hồ ngoại, nên nhiều đời ngụ ở Trường sa, về sau tan loạn chuyển dời khắp 4 phương, xa gần thảy đều khâm chuộng kính mộ. Thân Thái Chi dựng nhà ở Liễu đường Thêu Nhân Phong, Thiệu Châu, đã trải qua vài đời đều tu từ huệ. Từ thuở nhỏ, Thân Thái Chi đã xa xứ, chẳng cùng tương giao với thân thích bè bạn, ham thích đọc sách, thường luôn thanh bạch kiệm tiết tìm đến Nam nhạc phỏng hỏi việc Thần tiên. Một đêm nọ ở tại đỉnh núi Chúc Dung, gặp được chân nhân truyền cho bí thuật Kim đan hỏa long, người vợ luyện đan tại đỉnh Dư Hồ thuộc phía Bắc Vân sơn, trải qua nhiều năm, Đại Dược đã thành, công thành hoàn bị và hay bay vượt giữa hư không du thần, vào ra ẩn hiện rất có thần dị, mọi người chẳng thể lường biết, đến năm Khai Nguyên thứ 26 (738) thời tiền Đường, Minh Hoàng (vua Huyền Tông - Lý Long cơ) ban chiếu bảo cùng quan cận thần rằng: “Hôm qua lúc nửa đêm, trẫm mộng thấy Thần nhân bảo cùng trẫm rằng: “Tại Vân sơn, Thiệu quận, Hồ nam có 1 Đạo nhân luyện Đan đắc tiên” khanh nên đúng như lễ tìm gặp có thể vì nước nhà mà thỉnh mời về”. Tể tướng Lưu Yên. Tể tướng Lưu Yên từ thuở bé thơ đã ham thích du thuật, tinh cần khẩn thiết chẳng biếng lười mà không chỗ gặp. Từng nghe nói các hàng Dị nhân phần nhiều ở nơi phố chợ, lấy sự ồn náo huyên tạp để có thể lẫn lộn vết tích. Nhân đó đi đến Trường An vào nơi 1 tiệm thuốc, tình cờ hỏi, chủ tiệm đáp: Thường có 3-4 người già vận khăn chống gậy đến mua lấy rượu uống xong liền đi, cũng có tìm xem hỏi thuốc nhưng chẳng mua nhiều, tỏ ý thật là người khác tục vậy”. Lưu Yên hỏi rằng: “Sớm muộn họ đến đây?” chủ tiệm đáp: “Ngày mai có thể lại gặp”. Vào lúc sáng sớm, Lưu Yên bèn sang, chốc lát quả nhiên có 3 Đạo nhân đến, kéo đầy rượu ra uống cười nói hài hước rất vui vẻ tợ như bên cạnh không có ai. Giây lâu nói rằng: “Ở thế gian này còn có ai tợ như chúng ta chăng?” 1 người bảo rằng: “Có Vương Thập Bát”. Xong rồi, họ bèn bỏ đi. Từ đó về sau, Lưu Yên thường luôn ghi nhớ nhưng không thể tìm cầu. Đến lúc làm quan Thứ sử sang Nam đi ngang qua huyện Hành sơn, bấy giờ đang là mùa xuân, phong cảnh ấm áp, uống 1 cốc lãnh đào, hương vị thuộc loại nhân trần, rất thơm ngon thanh khiết. Lưu Yên rất lấy làm lạ đo, bèn hỏi Bưu lại rằng: “Gần đây hẳn là có hàng y quan ở chăng, sao có được loại trà như vầy?” Đáp rằng: “Ở huyện đây có con quan viên là Vương Thập Bát khéo giỏi vua trồng, nên trong quán đây thường có trà ngon như vậy”. Lưu Yên bỗng nhiên kinh ngạc nhớ lại điều nói lúc gặp gỡ của các Đạo nhân, bèn hỏi vườn quan ấy cách đây xa gần có thể đến đó được chăng?” Bưu lại nói: “Ở tại phía sau quán”. Lưu Yên bèn sang hỏi. Vương Thập Bát vận mặc áo lỗ mũi trâu tưới bén ruộng nương dung mạo như sơn dã, trông thấy Lưu Yên đến liền bước ra bái chào kính sợ. Lần lượt Lưu Yên hỏi han về quê hương xứ sở thân thuộc, Vương Thập Bát nói là lưu lạc chẳng xét biết ở đâu, và cũng không có thân tộc. Lưu Yên lại cùng lấy làm lạ, bảo ngồi và đòi lấy rượu ra cùng tiếp đãi, cố nhiên chẳng chịu liền trở về. Lưu Yên mới đế huyện lệnh xin cùng đồng song ngoài lãnh. Huyện lệnh cũng không hiểu bao giờ đi. Vương Thập Bát cũng chẳng kháng cự, bèn mặc áo rách giày cỏ lên thuyền mà đi. Lưu Yên dần cùng quen thuộc, bảo vợ con cùng kính bái đó, đồng ngồi chung ăn cơn uống trà, hình dung y phục Vương Thập Bát mỗi ngày càn dơ bẩn rách rưới, người nhà đều lén trộm chán ghét đó. Phu nhân nói là: “Sao nay có khác lạ như thế? Cớ sao lại như vậy ư?” Lưu Yên chẳng trễ nãi, chỗ đến còn cả vài trăm dặm. Vương Thập Bát phát sinh bệnh lî, sớm tối khốn khổ. Thuyền bè lại chật hẹp, chẳng thể lìa khỏi chỗ của Lưu Yên, nên mọi người cùng đi đều bít mũi bỏ ăn, chẳng giằng nỗi khổ. Lưu Yên đều không tỏ vẻ nhàm chán kiên cử, chỉ buồn lo mà thôi, khuyên Vương Thập Bát nên uống thuốc ăn cháo v.v… Vài ngày sau, Vương Thập Bát bèn qua đời. Lưu Yên khóc than thảm thiết, bày lễ tống chung mọi sự đều hoàn bị, mới an táng bên góc đường đi. Năm sau, bãi kỳ quan nhậm trở về lại triều, vừa đến huyện Hành sơn, Huyện lệnh ra tận bang giao nghinh đón. Đã gặp rồi, Huyện lệnh nói là: “Sứ quân dẫn theo Quan Viên Tử đi sau đó liền trở lại, thật là hạng không kham việc sai sử”. Lưu Yên kinh ngạc hỏi: “Về lại lúc nào?” Huyện lệnh đáp: “Sau đó hơn 1 tháng thì trở về, và nói là “vâng phụng sai phân thả trở về”. Lưu Yên rất kinh hãi, ngay lúc đó đi bộ đếntrong vườn, phòng nhà tuy còn nhưng không thấy gì cả. Có người ở gần đó bảo là: “Vương Thập Bát vừa mới đi khỏi hôm qua”. Lưu Yên oán hận càng rất lắm bèn hướng vào phòng nhà kính bái, buồn khóc mà tự xét là ngày đi đến quận, vừa nửa đường Vương Thập Bát cảm mắc bệnh mà chết, bèn sai người sang quật phá mộ, nơi chôn trống không, chỉ còn có y phục. Vài tháng sau về đến kinh thành, Lưu Yên làm quan giữ theo triều lệ, tình cờ cảm mắc bệnh nặng, gần đến lúc dùng bông tơ để dò thăm hơi thờ, người nhà vợ con vây quanh gào khóc. Bỗng chốc nghe có tiếng gõ cửa rất gấp, người canh cửa chạy vào báo là có người tự xưng là Vương Thập Bát. Bảo báo vui mừng hân hoan nghinh đón. Vương Thập Bát mỉm cười vào nơi Lưu Yên đang nằm, cảm mắc bệnh người không tự biết đã lâu vậy. Vương Thập Bát mới khiến vất bỏ hết mọi ngăn che v.v… và cả thuốc thang, tự lấy trong lưng mình ra 1 cái hồ lô mờ lấy ra 3 viên thuốc, nhỏ như hạt đậu lớn, dùng ống đồng lấy nửa chén nước hòa tan mà rưới rẩy đó. Chỉ khoảnh khắc trong bụng tợ như có tiếng sấm. Sun say chốc lát bỗng nhiên mở mắt, Lưu Yên tự bật ngồi dậy, đều như trước khi chưa có bệnh. Phu nhân bảo: “Đây là Vương Thập Bát vậy”. Lưu Yên mới tuôn lệ đổ dài, kéo áo kính lạy, như chẳng giằng nỗi tâm tình nên thê thiếp tôi tớ đều cùng khóc. Vương Thập Bát xót thương mà bảo rằng: “Vâng kính thẹn tâm tình xưa trước nên lại cùng cứu giúp. Một viên thuốc này có khả năng kéo dài tuổi thọ 10 năm. Đến kỳ hạn đó tôi sẽ trở lại”. Bèn tự uống cốc trà mà đi. Lưu Yên nhân mời lưu dừng ở lại thời gian ngắn nhưng không được, lại muốn tặng vàng lụa v.v… Vương Thập Bát lại cười lớn. Về sau, Lưu Yên bái tướng kiêm lãnh cổ thiết, gặp việc bị biếm cử đến Trung châu 30 năm. Một ngày nọ, cảm mắt bệnh, Vương Thập Bát lại đến bảo: “Cần gặp tướng công”. Lưu Yên cảm thán vô cùng, mời vào khuê các, lại khẩn cầu Vương Thập Bát, ngay ngày đó bệnh liền lành. Vả lại lấy lại viên thuốc đó, Vương Thập Bát mới dùng vài hạt muối hòa vào trong nước bảo Lưu Yên uống, và liền ẩu ra, trong đó có 3 viên thuốc nhan sắc không khác như 30 năm trước đã uống. Vương Thập Bát bảo dùng nước ấm nóng để tẩy rửa, người cháu của Lưu Yên đang hầu chăm sóc bệnh bèn nhón lấy 2 viên mà nuốt chửng. Vương Thập Bát trông thấy kỷ, cười và bảo rằng: “Ngươi có Đạo khí. Ta cố biết hẳn vì ngươi mà đánh đòn vậy”. Bèn rảo bước đi ra chẳng cùng nói giả biệt. Sau khi đó Lưu Yên lại cảm mắc bệnh, có chiếu ban đến, bèn đã qua đời vậy. * Cao Tăng Lại Tiện. Cao Tăng Lại Tiện, khoảng trong đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) thời tiền Đường, là vị Tăng lo việc sai sử trong chùa Hành nhạc. Chư Tăng ăn xong thì vén dọn thức ăn còn thừa mà ăn. Tánh đã làm biếng, lại ăn vật dư thừa nên gọi là Lại Tiện. Ban ngày thì chuyên công quả ở 1 chùa, đêm lại ngủ dưới đàn bò, từng không tỏ vẻ mệt nhọc đã suốt 20 năm. Bấy giờ, Nghiệp Hầu Lý Bí đến trong chùa mà đọc sách, xét xem mọi việc làm của Lại Tiện thật chẳng phải phàm vật, trong đêm nghe tiếng tụng kinh vang vọng suốt lên trên, Lý Bí tình ý khéo biết âm thanh, có khả năng biện rõ tốt xấu, cho rằng “Lại Tiện tụng kinh âm thanh nghe tuy xót thương mà sau càng vui vẻ, hẳn là người cảm mắc lầm lỗi mà sa đọa vậy”. Bèn hỏi rành tên mà sang bái yết, bái chào nhã kính. Lại Tiện liền quát mắng lớn nhổ nước bọt bảo rằng: “Ngươi sắp hại ta vậy”, Lý Bí càng thêm nhã kính. Lại Tiện bươi móc trong phẩn trâu ra củ khoai nướng mà ăn, giây lâu bảo cùng Lý Bí rằng: “Ông có thể ngồi xuống nơi đất”. Và đưa nửa cũ khoai đang ăn mà trao cho. Lý Bí ăn hết cả. Sau đó Lại Tiện bảo: “Ông nên thận trọng chớ nói nhiều sẽ nhận lãnh 10 năm làm Tể tướng”. Lý Bí cảm tạ mà rút lui, sau hơn 1 tháng Thứ Sử Tế Nhạc rất kính sùng Đạo, bỗng trong 1 đêm gió sấm nổi đùng, 1 ngọn núi sụp đổ, đường núi đá chắn cản ngăn, bèn dùng 10 con trâu buộc vào để lôi kéo, lại có vài trăm người cổ xúy cùng đầy, sức người đã hết mà đá lại càng bền chắc, trọn không có đường khác để có thể lo việc. Lại Tiện bảo rằng: “Chẳng cần nhiều sức người, nên thử đẩy xô đi”. Mọi người đều cười lớn cho là kẻ điên cuồng. Lại Tiện bảo: “Tại sao cười chê vậy, cứ thử đã hãy hay”. Chư Tăng trong chùa cười mà chấp thuận đó. Lại Tiện bèn giẫm đạp đá lay động, bỗng xoay chuyển lan xuống, tiếng chấn động vang như sấm. Đường núi đã mở thông chúng Tăng kính bái dài. Mọi người trông thấy đều tôn xưng là bậc Chí Thánh. Thứ sử kính phụng như Thần. Lại Tiện lặng yên, mới có ý muốn bỏ đi. Phía ngoài chùa, bỗng nhiên hổ báo kéo lại thành đàn, thường ngày sinh sự tổn thương không do đâu mà cấm cản. Lại Tiện bảo: “Đưa cho cây tre, tôi sẽ vì các người mà xua đuổi hết”. Mọi người bảo: “Đá lớn còn đẩy nỗi, với các vật ấy thì quá dễ”. Nhân đó đưa cho Lại Tiện cây gai thẳng, và mọi người cùng theo bước mà trông xem. Lại Tiện vừa ra khỏi cửa liền bị 1 con hổ chụp bắt lấy đưa lên núi mà ăn. Mọi người đều thương than cho đó là không khỏi số phận. Lúc đầu ở tại hang qua thời gian lâu, từng làm bài thơ ca hát, đại lược là: “Việc đời dằng dặc Chẳng như núi gò Tùng xanh che trời Khe biếc chảy dài Mây núi thường mến Trăng đêm liềm câu Nằm dưới Đẳng la Gối đầu hòn đá Chẳng chầu Thiên tử Đâu tham vương hầu Chết sống không nghó Còn gì phải lo Nước trăng không hình Ta thường tự yên Muôn pháp đều vậy Chẳng tử chẳng sinh Tự nhiên không mộc việc Xuân đến cỏ tự xanh”. Về sau, Lý Bí quả nhiên vào làm tướng, có thuyết lại nói là: Lại Tiện ở tại Thạch lẫm dẹp phục sơn yêu mà bán vật báu bị kiện cáo nên chết trong ngục mới giải thay vậy. Hành sơn ẩn giả. Hành sơn ẩn giả (người dật tại Hành sơn), không biết tên họ là gì. Nhân đi bán thuốc mà qua lại ở nghỉ tại chùa Hành nhạc. Hoặc có lúc suốt 4-5 ngày không ăn, chư Tăng lấy làm quái lạ. Sau lại bán thuốc đến nơi chỗ đông người thấy không ăn, mới biết đó là Dị nhân, kính tiếp rất nồng hậu. Gặp Nhạc nhân đem người nữ đến chùa, người nữ đó rất có sắc đẹp. Mọi người muốn cưới lấy. Cha mẹ người nữ đòi giá 500.000 đều chẳng dẫn lui. Ẩn giả nghe người nữ gá chồng, mới mời chư Tăng sang trông xem, hỷ hoan muốn cưới lấy đó. Ẩn giả bèn mang 2 chóc vàng đúng 200 lượng, nói với thân phụ người nữ đó rằng: “Vàng đây trị giá 700 quan, nay cũng chẳng luận tính”. Tự giao vàng xong sắp dẫn đi. Nhạc sư khi ấy sung vào kho lẫm quan sứ xong bèn cùng giả biệt. Ẩn giả chỉ nơi sinh sống mà nói là: “Cách đây hơn 40 dặm, chỉ đi thẳng lên núi thì sẽ biết nơi”. Song thân người nữ ấy sau khi mọi việc hoàn tất, nghó nhớ con gái mới sang phỏng tìm thăm, thấy ngay cửa son cao lớn tráng lệ, bèn gõ cửa. Ẩn giả cùng con gái đồng ra nghinh đón. Mới đến ăn 1 bữa, bèn không còn cảm thấy đói. Ở lại liên tiếp 5-6 ngày cũng chẳng nghó đến uống ăn. Song thân sắp trở về, Ẩn gãi bèn dùng cái sọt 5 sắc đựng đầy 5 chóc vàng ròng mà đưa tặng đó, và nói cùng song thân rằng: “Nơi đây sâu xa, thôi nên ở lại chớ trở về nữa, sau khỏi phiền phải sang thăm”. Về sau, song thân lại tìm sang mà chỉ thấy núi cỏ hoang vu, không còn có người ở, mới biết đó là hang huyệt của thần tiên vậy. Lý Bí. Lý Bí, trong khoảng thời vua Túc Tông (Lý Hanh 756-763), ẩn dật tại Hành sơn. vua ban chiếu cấp Tam phẩm lục, tặng y phục ẩn só vì sửa trị cung thất. Lý Bí thường hái tùng chi để che ẩn lưng, gọi đó là Dưỡng Hòa, về sau được như hình rồng bèn đem dâng hiến vua. Thuở bé thơ Lý Bí từng làm thơ rằng: “Trời sinh ta, đất chở ta Đất trời sinh ta có ý không Chẳng vậy, bỏ ăn lên trời rỗng Chẳng vậy, ngựa xe đến đế đô Sao hay chẳng quý lại chẳng đi Không từ ngang tàng một trượng phu Một trượng phu chừ một trượng phu Bình sinh chí khí lắm tốt mưu Xin ông xem lấy việc trăm năm Nghiệp thành thuyền nhỏ dạt ngũ hồ Nền am thấy tại núi Yên hà Được Bí ngữ của tiên sinh Huyền Hòa Do Lại Tiện mở phát, Đạo nghiệp song toàn…” Câu cuối bài thơ ấy đã thấy sự việc ở trước kia vậy. Du Linh Côi. Du Linh Côi, người xứ Hà Vấn, Ở tại Cửu chân quán, Hành sơn. Về sau học Đạo hơn 10 năm. Nam nhạc Xích Quân rất mến thương đó, truyền cho Đạo Hồi phong hỗn hợp và giữ pháp Minh Lương 12 năm. Hay ngồi trong nhìn mọi sự trong thiên hạ tợ như nhìn lòng bàn tay, nhưng tự giấu ẩn chẳng làm lạ để kinh hãi mọi người, và người cũng chẳng biết Du Linh Côi có Đạo vậy. Những lúc cùng bàn nói phần nhiều nói những việc du lịch khắp 4 biển 9 châu. Dung mạo thường như người 30 tuổi. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-521) thời tiền Đường, Lâm Châu quan lại nghinh hầu Thái thú, nhân đó nhóm tập tại cửa quán. Du Linh Côi vận mặc y phục thô xấu tự nhiên, mọi người trông thấy cũng không lắm lễ đãi. Bỗng nhiên, Du Linh Côi trải qua nơi quan lại nói về mọi sự của cha ông như tên, họ, tướng mạo, tánh tình, chức tước, tuổi thọ v.v… mọi sự đều trúng, mọi người kinh lạ mà kính lễ đó. Du Linh Côi lại nói: “Tôi tình cờ vậy thôi, chẳng phải điều thật biết đó”. Bèn vào đóng kín cửa mà chẳng ra, tuy khẩn cầu đôi ba phen cũng không nói lại. Mới biết Du Linh Côi là Dị nhân, thường đọc tụng kinh Đại Động, hoặc có lúc bỏ ăn, hoặc có khi uống rượu. Có Phan lão tiên đi đến Nhạc sơn cùng với Du Linh Côi rất thành thực thường nuôi 1 con rùa, thân hình lớn rộng 4-5 thước, sức lực có thể địch nổi 10 người, nên mọi người trông thấy đêu lo sợ, Du Linh Côi cưỡi nó vào núi Cửu nghi, những tiều phi có lúc trông thấy Du Linh Côi vậy. Chim như tước. Xưa kia, ở thời vua Thuấn, có con chim như tước (se sẻ) từ Đan châu bay lại, nhả khí 5 sắc tan hòa như mây, nên gọi tên thứ nhất là phùng tiêu, chim tước hay bay thành đàn ngậm thư sa nhân nhẹ nhỏ như gió thổi bụi trần, nên lại gọi là châu trần. Nay, ở núi ngoài thương ngô, những người đi hái thuốc có lúc gặp được đá xanh tròn như ngọc, đượm phục đó không chết, đeo mang nó thì thân nhẹ nhàng, khoảng cuối niên hiệu Nguyên Hòa (821) thời tiền Đường, tiên nhân Phương Hồi đi đến Nam nhạc, gặp đó ngợi ca bằng 7 từ là: “Châu trần tròn nổi nhẹ lại sáng”. Có đạo đượm phục đó được trường sinh. Vương Tử Niên nói ở núi Vân mật, bờ Lưu châu cũng có loại châu ngọc đó, có người đi từng gặp được đượm phục đó mà không chết. Lưu Nguyên Tónh. Lưu Nguyên Tónh, người xứ Võ Xương, thầy là Vương Đạo Tông truyền phù lục của Chánh Nhất. Sau đó không bao lâu, Vương Đạo Tông cáo tịnh, do đó mọi vật sở hữu đều để lại quân bình cho các môn nhân. Lưu Nguyên Tónh chỉ nhận lấy Đồ thư. Sau khi đã an táng tại phía Đông của núi, trong đêm thanh vắng bỗng nhiên có khí từ trong mộ tỏa phát ra cao mười mấy trượng. Lưu Nguyên Tónh lấy làm lạ đó, bèn khai quật nơi an táng, lúc mở quan tài ra thì chỉ còn lại y phục chăn đắp mà thôi, mới biết thầy mình là người đắc Đạo, Lưu Nguyên Tónh cảm ngộ, trôi nổi Động Đình đến Võ lăng, lại vào Nam nhạc. Sư nói: Tiên sinh nhân đàn của Ngụy phu nhân tiên mới có ý bói ở đó. Từ đàn về hướng Đông leo lên núi Tầm tuấn khoảng mười mấy dặm, thấy 1 hang đá xoay mặt hướng Nam mở toang rộng mà ở, dẫn dòng suối chảy quanh, chặt cây cắt cỏ, trước tiên xây dựng trên các, tìm ước nói bếp táo trà, đục đá mà làm thành. Sứ quân Hàn Hoa đi đến đó, nói các đó là nơi tiên nhóm tụ, thường dùng lá bách ủ men tượu, tuy bỏ ăn cơm gạo luyện khí mà mỗi lần uống hơn cả đấu. Đầu niên hiệu Bảo lịch (827) thời tiền Đường, vua kính Tông (Lý Trạm) tìm cầu phương só, Giám quân Lã Lệnh Tông mời đến Đàm châu. Tiên sinh bảo là: “Nơi nào có núi thê đãi thiếp, dùng thịt trâu làm mạng, nếu lấy làm thuật só, sợ tướngquân có tên của Võng Thượng vậy”. Nhân đó xin vai con lợn nái tự cắm dao vào tỏi muối mà ăn đó, Lã Lệnh Tông càng nghi ngờ, nhân đó xoa bóp chân cầu xin đi, Tiên sinh chẳng đặng đừng bèn chịu lên đường. Tới ngày mồng 01 tháng 12 năm 827 thì đến Kinh đô. Bèn mời vào ở điện Tư Chánh. vua Kính Tông hỏi về những việc của Thần tiên. Sư bảo: “Không lợi thì chẳng làm, ít của ít ham muốn, đó là yếu chỉ của tu thân xuất thế vậy”. vua Kính Tông không vui lòng, mà thật khó làm gì được. Văn Hoàng phóng thả trở về núi, Lý Huấn muốn sử dụng đó, Đổng xương Linh từ Giao Quảng cưỡi chuyển từng trạm qua dưới Nhạc sơn mà kính lễ Tiên sinh. Tiên sinh bảo: “Trong quán, thừa Vương khí chưa máy động, không nên có như vậy. Thực hành hãy từ từ đó”. Huân Linh Xương nhân đó lui dây cương vào Thương sơn, Lý Huấn quả nhiên dấy loạn. Vợ của Lãng Châu Thứ Sử Đường Thân cảm mắc bệnh, đến cầu xin phù ở Lưu Nguyên Tónh. Lưu Nguyên Tónh căn dặn người đến xin rằng: “Phù này nên đưa bày cho Sứ quân, chớ trước cho phu nhân biết vậy”. Kẻ Sứ trở về thì Đường Thân bèn qua đời, phu nhân tự lên cầm nắm trụ cột. Từng nghe môn nhân của Tiên sinh là Triệu Trung Nhàn nói là: “Tiên sinh nói về những việc của Đỗng Xương Linh, Đường Thân như chính tự mắt trông thấy. Triệu Trung Nhàn nói: “Tiên sư ở tại trong núi nhiều năm, mọi cảnh vật thình lình như có chỗ thấy”, và cũng không nói chỉ định”. Năm Hội Xương thứ 3 (843) thời tiền Đường, vua Võ tông (Lý Viêm) kính phụng giáo điển của Huyền Nguyên, sắp dẹp trừ chùa Phật, mời Tiên sinh vào cung quyết. Khi ra đối kiến, vua Võ Tông thấy thần mạo cao khiết, bèn đổi sắc mặt sùng kính nhân hỏi: “Phật pháp khuynh loạt đè lấn phong hóa của liệt Tổ, trẫm muốn dứt trừ đó”. Tiên sinh đáp rằng: “Dòng họ thích hiện hữu đã lâu xa, nay sắp cấm tuyệt đó, có thể tạm đổi thay những điều lệ, cuối cùng rồi có sự biến đổi tức buộc mọi điều chúng hại thì không lợi với Đạo môn vậy”. vua lại hỏi về các thuật kim đan, Tiên sinh đem vật chí linh, chẳng phải núi sâu nơi kẻ só riêng qua không thể được! Vua hỏi: “Sư có đạt được vậy chăng?” Tiên sinh đáp: “Nếu thần mong đạt được đó, nay thật chưa có đạt được, còn đạt được thì Bệ hạ không thể thấy được vậy”. Vua bèn ban tặng trăm xấp lụa nhủn và đường kẹo mạch nha. Tiên sinh nghó ở tại Thái thạch cung, vua thường luôn mời vào phỏng hỏi Đạo, những lúc có ân ban tặng. Tiên sinh liền xả cấp cho các người trông coi, kẻ sứ v.v… vừa về đến cửa vọng tiên thì đã tay không vậy. Đến mùa thu năm Hội xương thứ 5 (845) thời tiền Đường, vua Võ Tông cảm mắc bệnh nhẹ, sắp muốn được truyền pháp kục. Quan nội thần cho là Triệu Quy Châu có riêng lụy ham của cải, suy cử tiên sinh là người thanh tịnh có thể làm thầy của vua, bèn mời Tiên sinh vào điện Nội quân linh phù. vua Võ Tông hỏi về các việc thọ phù thề tin uống huyết. Tiên sinh đáp: “Lấy sự chí tôn tối trọng không gì hơn là thành kính trai giới. Bệ hạ cứ thực hành 7 ngày trai 3 ngày giới tự có thể được chầu Ngọc đế, không hợp dùng vàng ngọc tóc máu làm tin, cắt tóc uống huyết chẳng phải việc vua thường, vâng quyết bạch bích châu ngọc chẳng phải vật báu của bậc chí tôn”. Bấy giờ lấy làm trung luận, đến lúc sự việc hoàn tất trừ ngân thanh quang lục đại phu sùng huyền quán Đại học só hiệu là Quảng Thành tiên sinh, riêng xây dựng Sùng Huyền quán đế ở đó. Về sau xin trở về núi. Khi ấy vua cũng muốn khiến Mao sơn thả rồng, bèn hứa từ Mao sơn trở về lại Nam nhạc. vua Đại Tông băng hà các Đạo só Hứa Nguyên Trường, Triệu Quy Chân v.v… có hơn 10 người đều ở ngôi vị cùng cực. Pháp thượng riêng có chiếu quán sát khiến hỏi tặng lụa bó, danh hương v.v… mọi vật. Mới đầu ở Cửu Chân quán có Đại só Chu Hỗn Hãn tại trung nhạc trông mong kề cận ngang cùng Tiên sinh, chầu mong chưa nêu cử thất sinh. Có Đạo só Mao Thái Huyền ở Hành nhạc quán từng mộng thấy Chân quan cầm nắm lục từ trời giáng xuống nói là: “Dùng Hỗn Hãnlàm chủ Đại la quán”. Mao Thái Huyền nhân đó hỏi: “Sao chẳng nêu cử Lưu tiên sinh ( Lưu Nguyên Tónh) trước ư?” Chân Quan đáp là: “Lưu Quân Nghiệp đời chưa hết, nêu cử thì sai sử làm Tiêu quan, lại chẳng tu hạnh người vậy”. Quả đúng như lời nói đó, Tiên sinh từ triều đình trở về Nhạc sơn mà than rằng: “Nay tôi phải làm Địa tiên qua vài trăm năm, căn chẳng thể thoát thân, bởi phiền lụy từ 2 vua vậy. Nay đã tính chẳng là vậy”. Đến tháng 10 năm Đại Trung thứ 5 (851) thời tiền Đường, có mây hạc từng giáng xuống, sau đó không bao lâu, Tiên sinh qua đời, nghe có tiếng âm nhạc trôi nổi giữa hư không, đến ngày dời chuyển thần, chỉ có chiếc gậy thường còn lại. Đệ tử là Lã Chí Chân cũng đắc Đạo ấy vậy. Tạ Tu Thông. Tạ Tu Thông, người xứ Nghi xuân, bẩm tánh hòa nhã, chẳng ham thích trang sức, nghe vui mừng thì vui mừng, thấy xấu ác thì như vốc sâu nóng bỏng, kính thờ thân mẫu rất mực chí hiếu, thường ôm hoài sắc mặt vui vẻ. Một đêm nọ mộng thấy có người mang đội mão miện áo hạt đến bảo rằng: “Cốt tướng của ông khác phàm, cớ sao chẳng xuất gia học Đạo?”. Tạ Tu Thông bèn mách cùng mẹ, bà mẹ chấp thuận. Khi ấy, Tạ Tu Thông bèn đến Nam nhạc, vào Hành nhạc quán Phan Như Tùng làm Đạo só mà nương nhờ vậy. Nhân đi khắp 5 núi lớn, phỏng tìm các Linh tích. Một đêm nọ, mộng có Thần nhân bảo rằng: “Chu Lăng động phủ, nay ông chưa hợp ở đó, sau 50 năm trở lại đây có thể được nương ở. Từ đây về phía Đông có phước địa Ngọc phong động thiên, cũng là Hiến từ của Chu Lăng. Ông nên đến ở đó, sẽ có điều gặp”. Khi ấy Tạ Tu Thông kính hầu tên thân mà nói cùng mạ là: “Nay gặp năm khó khăn thiếu kém, lúc hung nạn khó cấp dưỡng mẹ, có điềm cảm nên sang ở Ngọc tử động thiên có thể tu hành được, ý mẹ thế nào?” Mẹ bèn chấp thuận đó. Tạ Tu Thông bèn khiên mang mẹ sang núi Ngọc tứ, tìm hang huyệt nương ở vài năm, cung phụng mọi thứ cam chỉ dụ thù hoàng tinh bách hợp. Sau đó, mẹ qua đời, an táng xong, ở không 3 năm, gặp được 2 chân nhân Mai, Tiêu truyền Đạo cho và thực hành đó. Về sau giải thay tại góc phía Đông Thanh hư quán, lại vào Nam nhạc, ẩn thân tại động Linh nguyên, quả đúng 50 năm vậy. Liễu Thật và Nguyên Triệt. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) thời tiền Đường, có Liễu Thật và Nguyên Triệt ở tại Hành nhạc. 2 ông đều có theo cha làm quan Triết hữu xử lý, dân chúng liên lụy mỗi tự ẩn trốn đến châu của Hoan Ái, 2 ông cùng kết đi xa mà sang tỉnh vậy, khi đến Liêm châu, Hợp phố huyện. Lên châu mà muốn vượt biển đến giao chỉ. Thuyền vừa ghé bờ Hợp phố, đang ban đêm, người dân trong thôn cúng tế thần, tiêu trống ồn náo, người thuyền cùng các Tam công bộc sứ đều sang trông xem. Gần nửa đêm, bỗng nhiên gió dữ nổi dậy bứt đứt dây neo, vụt chốc ra giữa biển lớn, chẳng biết tới đâu, bỗng nhiên vừa đến hòn đảo riêng lẻ thì gió ngưng dứt, 2 ông buồn bả mà leo lên, thấy tượng Thiên Tôn ánh ngời nơi án, có lò vàng đốt hương, mà riêng không 1 vật gì khác, 2 ông trông xem khắp cùng, bỗng nhiên thấy trên phía Đông biển có 1 con thú lớn ngẩn đẩu trông nhìn 4 phía như có điều xét nghe, giây lâu mới ẩn mất thùi thụt, có mây tía từ biển tuôn vọt lên, tỏa tràn khắp vài trăm bộ, có hoa sen 5 sắc cao hơn trăm thước, cánh cánh xếp đầy, bên trong có màu căng như lụa tơ tạp bày sáng lóe mắt người, thấy 1 cầu vồng bỗng nhiên nổi thẳng lên đến trên Đảo, chốc lát có thị nữ Song Hoàn (kẻ tớ búi 2 lọn tóc) bưng hộp ngọc, nâng lò vàng tợ như hoa sen đến nơi chỗ tượng Thiên Tôn, thay đổi lò hương tàn hết nhóm đốt hương mới lạ. 2 ông trông thấy Song Hoàn, cúi đầu kính bái, nói năng buồn thảm, cầu xin trở về nơi cõi người. Song Hoàn không đối đáp gì. 2 ông thỉnh hỏi điều lợi ích, giây lâu Tỳ nữ mới hỏi: “Các ông là người gì mà đến đây?” 2 ông bèn đem sự việc đuôi đầu mà nói đó. Tỳ nữ bảo rằng: “Thời gian sắp đến đây có Ngọc Hư Tôn sư sẽ giáng đến Đảo này, cùng với Nam Minh phu nhân hội ước, các ông cố thỉnh cầu hẳn sẽ được toại nguyện”. Nói xong, bỗng có 1 Đạo só cưỡi con nai trắng ngự trên ráng mây giáng đến trên đảo. 2 ông kính bái mà khóc lóc tỏ bày. Thiên sư xót thương đó, mà bảo: “Các ông theo người nữ này đến bái yết Nam Minh phu nhân, sẽ có lúc trở về chớ phải lo”. Tôn sư bảo cùng Song Hoàn rằng: “Ngươi tạm tu chân hoàn tất, sẽ đi đến kia”. 2 ông vâng lời chỉ bảo, đến trước màn, hành lễ bái yết, thấy nữ tử chưa cài trâm, áo mặc 5 sắc chương, 2 ông mới nói bày họ tên mình. Phu nhân mỉm cười mà bảo rằng: “Xưa trước tại Thiên Thai có Lưu Thần, nay thì có Liễu Thật, xưa có Nguyện Triệu, nay lại có Nguyên Triệt, không ai chẳng là trời vậy”. Bèn bày 2 giường mà ngồi. Khoảnh khắc thì Tôn sư đến, phu nhân nghinh đón vái chào xon rồi trở lại chỗ ngồi, có vài đoàn Tiên nga dùng các thứ sinh can tiêu địch mà hòa tấu. Bên cạnh dẫn thêm loan phụng nhã hợp tiết tấu, 2 ông hoảng hốt như mộng đến ngang bằng trời thì ở chốn người đời ít nghe thấy vậy. Bèn bảo phi thương, bỗng chốc có huyền hạc ngậm mốc tia sáng từ giữa khoảng không giáng xuống mà nói là: “An Kỳ tiên sinh biết Tôn sư đến hội Hải Minh, tạm thỉnh đoái hoài ghé giá”. Tôn sư đọc thư đó và bảo Huyền Hạc là: “Chốc lát sẽ đến đó”. Tôn sư nói cùng phu nhân rằng: “Chúng ta và An Kỳ tiên sinh đã cả ngàn năm không gặp, nay vân du phương Nam không nhân đâu phỏng hỏi chuyện trò”. Phu nhân hối thúc Thị nữ dọn bày thức ăn. Đồ vật bằng ngọc sáng sạch. Tôn sư ăn cùng phu nhân, 2 ông không được hưởng dùng. Tôn sư bảo: “2 vị khách chưa hợp hưởng dùng, nên dọn bày thức ăn của nhân gian mà ăn đó”. Phu nhân nói: “Đúng vậy”. Bèn dọn bày thức ăn của nhân gian mùi vị bình thường. Tôn sư ăn dùng xong. Lậy từ trong bụng ra 1 quyểnĐan Triệu trao cho phu nhân. Phu nhân kính bái nhận lấy và cáo lui, bảo cùng 2 ông rằng: “Các ông có đạo cốt, trở về chẳng khó khăn, nhưng tình cờ cùng gặp đây, hợp với linh dược cùng ban tặng. Chỉ vì các ông với phần xưa trước vốn đã có thầy, tôi nay không nên vì làm thầy các ông vậy”. 2 ông kính bái, Tôn sư bèn đi. Phu nhân bảo Thị nữ rằng: “Có thể đưa 2 người khách đi, và cưỡi chở bằng phương tiện gì?” Thị nữ đáp: “Có cầu trăm hoa, có thể ngự đó được vậy” 2 ông cảm tạ bái biệt. Phu nhân tặng 1 cái ngọc hồ cao hơn 1 thước. Phu nhân bảo lấy bút và đề vào ngọc hồ bài thơ rằng: “Lại từ trong một lá thuyền lại Đi đến trên cầu trăm hoa đến Nếu đến nhân gian gỏ ngọc hồ Uyên ương tự giải rõ mọi lời”. Bỗng chốc có chiếc cầu dài vài trăm bộ, trên lan can đều có hoa màu khác lạ, 2 ông đi giữa khoảng các hoa ngầm lén trông nhìn thấy có ngàn rồng vạn cầu cùng nhau quấn quanh trụ đá cầu. Có sứ giả bảo rằng: “Tôi không kham làm kẻ sứ mà đưa tiễn các ông”. Bởi có ý sâu muốn vâng gá gượng đi đó. Giữa khoảng dải áo có 1 hộp nhỏ, trong hộp có vật ẩn, ẩn nhưng hình trạng như con nhện, nói cùng 2 ông rằng: “Chúng tôi là loài thủy tiên. Thủy tiên tức thuộc về âm mà không nam tử. Tôi xưa kia đi đường gặp Phiên ngu với ít năm chí tình thì có con, sau đó chưa đầy 3 năm thì khiến bỏ. Phu nhân bảo cho làm con của Nam nhạc thần lại đã lâu vậy. Giữa khoảng Nam nhạc sứ giả núi Hồn nhạn có việc ở tại Thủy phủ. Ngày tor73 về nhớ gởi vòng ngọc lọng sang đến chỗ con tôi mà sứ giả ẩn đó, tôi rất lấy làm căn. 2 ông vì mang hộp con đến dưới núi Hồi nhạn phóng hỏi miếu sứ giả mà thả đó và sẽ có sự biến lạ. Như có được vòng ngọc, xin vì đưa cho con tôi, con tôi cũng sẽ có báo hiệu, xin các ông cẩn thận chớ mở ra đó”. 2 ông nhận rồi nói cùng sứ giả rằng: “Trong bài thơ của Phu nhân nói là: “Như đến nhân gian gõ ngọc hồ, uyên ương tự giải rõ mọi lời, là thế nào?” Sứ giả đáp rằng: “Ông trở về, nếu có việc gì chỉ cứ gõ vào ngọc hồ, thì sẽ có loài chim vì ứng đáp, mọi sự không gì chẳng theo ý mình”. 2 ông lại hỏi: “Còn ngọc hư tôn sư nói “Chúng tôi tự đã có thầy, vậy thầy đó là ai?”. sứ giả đáp: “Đó là Nam nhạc thái cực tiên sinh, các ông sẽ tự gặp đó”. 2 ông giả biệt sứ giả thì đã hết cầu, vì đến nơi Hợp phố ngày xưa, chỉ có thuyền chở về, trông nhìn lại không còn chiếc cầu nữa. 2 ông dò hỏi về thời gian thì đã trải qua 10 năm, về đến Châu Hoan ái thì thân thuộc đều đã chết hết. 2 ông buồn bả hỏi đường sắp về đến Hành sơn, đang giữa đường nhân đưa tay gỏ ngọc hồ, bèn có tiếng chim uyên ương bảo rằng: “sẽ có ăn uống, cứ đi tới trước thì tự gặp”. Chỉ khoảnh khắc, ở bên tả đường đi, có bày biện mâm cổ thịnh soạn, 2 ông cùng ăn no đủ rồi, qua vài ngày sau tìm về tới nhà, những trẻ nhỏ năm xưa nay đã đến tuổi 20.Nhưng vợ của 2 ông mỗi đều đã qua đời 3 ngày. Mọi người trong nhà vui lẫn lộn chẳng thể tự cản ngăn được! Có người nói: “Tướng lang quân đã đắm chìm giữa biển lớn nên ở nhà mang đội tang chế đã năm nay”. 2 ông tợ như nhàm chán sự đời tâm thể rỗng rang, trông thấy tang của vợ mà chẳng lắm buồn cảm. Nhân đó cùng đến dưới núi Hồi nhạn phỏng hỏi miếu sứ giả đem hộp nhỏ ấy thả bỏ đó, bỗng có 1 con rồng đen dài vài trượng khơi gió phun bão, bẻ cây nhổ nhà, sấm sét nổ vang 1 tiếng, miếu vũ vỡ nát, 2 ông kinh sợ chẳng dám trông nhìn kỹ. Lại giữa không trung có ném xuống vòng ngọc, 2 ông nhận lấy đó mà đưa đến Nam nhạc miếu. Kịp đến lúc trở về có 1 thiếu niên mặc áo vàng bưng 2 hộp vàng nhỏ, mỗi đem về đến nhà của 2 ông mà bảo rằng: “Lang quân bảo đem thuốc này gọi là phản hồn cao để báo đáp cùng 2 ông. Nếu ở nhà có người chết tuy đã 1 giáp (60 năm) còn có thể bôi thoa vào cổ mà sống lại đó”. 2 ông nhận lấy rồi, bỗng chốc người thiếu niên ấy ẩn mất, 2 ông bèn làm cho vợ chồng sống lại, sau đó cùng tìm mây nước, phỏng hỏi thái cực tiên sinh mà không có cùng tìm mây nước, phỏng hỏi Thái cực tiên sinh mà không có tăm hơi gì, buồn bả mà trở về, nhân giữa khoảng mây tuyết bỗng thấy 1 ông già mang củi để bán, 2 ông xót thương ông già chịu lạnh, bèn tặng cốc rượu để uống ấm lòng, bỗng trông thấy trên vát củi có khắc chữ Thái Cực, mới nghi lạ đó, 2 ông bèn kính lễ tôn làm thầy, đem ngọc hồ ra mách cùng. Ông già ấy bảo: “Tôi tích trữ ngọc định trong hồ ấy, từ trước đến nay thời gian đã lâu lắm vậy, nên rất mừng vui”. Bèn dẫn 2 ông đồng lên núi Chúc Dung, trọn không trở ra lại. Nghi là từ đó đều đắc Đạo vậy. Nữ quán Đạo só Khương Tử Hà. Chủ miếu Đông Lăng Thánh mẫu là nữ quán Đạo só Khương Tử Hà tự nói là: Thuở thiếu thời trong mộng thường bị người bằt đầu đến 1 nơi mà nói là: “Thiên phủ bảo dẫn tướng quân đi tuần Nam nhạc”. Bèn đem giáp khóa vàng mà bảo cưỡi, người ngựa cùng dẫn theo đông hơn cả ngàn đi đến phương Nam. Phút chốc đến nơi, Nhạc thần kính bái trước ngựa. Trong mộng như có quân xử, khe hang núi cao chót vót trong Nam nhạc không đâu chẳng giẫm trải qua. Rồi hoảng hốt mà trở về, đến lúc gà gáy thì tỉnh giấc, từ đó sinh mọc vài mươi cành râu”. Phùng Duy Lương. Phùng Duy Lương, tự là Vân Dực, người xứ đất Tương, tu Đạo ở trung cung tại Nam nhạc, cùng với Từ Linh Phù, Trần Quả Ngôn làm bạn mây khói, ngoài việc hương hỏa thì đàn hát uống rượu tự vui, lâu sau đến Giáng chân đường thọ học Tam Động Bỉ Quyết với thầy là Điền tiên sinh, trị bệnh giải độc. Đến trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) thời tiền Đường, hầu thầy vào núi Thiên Thai mà đắc Đạo. Lô My Nương. Trong khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thời tiền Đường có Lô My Nương do Nam Hải triều cống, tuổi vừa 14, lông mày xanh biếc lại dài, nên có tên gọi như vậy. My nương bé nhỏ mà thông tuệ mẫn ngộ, khéo léo không ai sánh bằng, có thể trên 1 trượng lụa quyên thêu trọn bộ kinh Pháp Hoa 7 quyển, chữ nhỏ như hạt thóc nhưng điểm họa rất rõ ràng, lại khéo làm lọng mây bay, dùng 1 cuộn tơ phân làm 3 đoạn nhuộm thành 5 sắc, kết làm lọng vàng, bên trong có các hình tượng 10 châu 3 đảo điện đài lân phụng, và các đồng tử cầm tráng bưng tiết chẳng những có đến cả số ngàn. vua Thuận Tông (Lý Tụng 805- 806) ngợi khen và xưng gọi đó là thần, bèn độ cho làm Đạo só, ban tặng hiệu là Tiêu Dao, sắc ban đến ở Ngụy các tại Nam nhạc, lâu sau nói bày kỳ hạn mà vũ hóa vậy. Tiên sinh Lã Chí Chân. Tiên sinh Lã Chí Chân, không biết là người xứ nào, là đệ tử của Quảng Thành tiên sinh, bên trong thanh khiết mà bên ngoài hòa đồng, trọn ngày ngồi vắng teo, tợ như không biết nói. Ở hang ẩn chân tại Nam nhạc hơn 10 năm. Từ đó về sau cứ mỗi năm đến kinh đô 1 lần, rảo bước Tiêu tương, thăm viếng nhà của các môn nhân, thường mang theo 2 trái bầu lớn, các thứ thuốc thang, phục sức Đạo cụ binh lục đều chất chứa trong đó, khéo dùng dược thuật để cứu giúp người. Vào trong hang cốc rừng rậm thì hổ báo thuần theo, có người hỏi về Đạo tu thì im lặng chẳng nói, ra giữa đường đi khách thương buôn núi, bỗng nhiên đổi sắc mặt không đi trước. Mọi người đều ngờ lạ mà hỏi đó thì bảo là phía trước có kẻ cướp đang đi lại. Quả nhiên thấy binh lính mang mũi nhận kéo đến. Chí Chân bảo rằng: “Mọi người đi đây đều là đệ tử của tôi, không được đụng đến đó”. Mọi người đi đó đều kính lạy lánh đường không dám đi trước. Lại đến 1 cửa cốc mà bảo rằng: “Nơi đây có vật hại người”. Mọi người đồng đi đều muốn trông thấy đó, bèn đến núi Thạch kim từ nửa đêm đến sáng dừng nghỉ tại đó. Lúc sáng sớm hôm sau sang phỏng hỏi đều đồng như nhau. Hoặc bảo là: “Đi hái thuốc mà nghe được nhạc tiên, há chẳng phải là điềm của đắc Đạo ư?” Về sau, đi đến Nam nhạc, lễ bái Thanh ngọc đàn và Quang thiên đàn, ngụ ở tại Chiêu tiên quán, bỏ ăn cơm gạo 7 ngày, vào động Linh Nguyên Phỏng hỏi nơi chỗ núi ẩn xưa cũ của Bành chân nhân và Thái chân nhân mà đến đó. Lúc xế chiều vừa lên bờ khe, gặp 1 tiều phu ngồi, hỏi Sư Đạo ( Lã Chí Chân) rằng: “Một mình ông muốn đi đến đâu?” Sư đạo đáp rằng: “Nghe nói Bành chân nhân và Thái chân nhân ẩn cư tại núi này nên mong được 1 lần bái yết kính lễ”. Tiều phu bảo: “Nơi ở của Thái chân nhân, không thể đến đó được, giờ này trời sắp chiều tối vậy. Tạm đi qua núi nay về hướng Đông có ngôi nhà người, có thể nghỉ lại qua đêm”. Nói xong, Tiều phu mang đội bước qua khe nước rất cạn, Sư Đạo đi đến thì nước rất sâu. Tiều phu xoay trở lại bảo rằng: “50 năm sau mới có thể đi qua đây được”. Sư Đạo bèn theo hướng Đông đi hơn 10 dặm đến chỗ có ngôi nhà tranh có hàng rào, gà chó v.v… thấy có 1 người tướng trạng như nhà nông tuổi khoảng 30, hỏi Sư Đạo rằng: “Ông đến đây mong cầu gì?”. Sư Đạo đáp rằng: “Muốn tìm Bành chân nhân và Thái chân nhân!”. Người ấy bảo: “Vậy trên đường đi, Ông có gặp tiều phu nào chăng?”. Sư Đạo đáp: “Đúng có gặp tiều phu”. Người ấy bảo: “Đó là Thái chân nhân vậy”. Sư Đạo kinh hãi tự than rằng: “Gặp tiên nhân mà không biết, đâu chẳng phải bởi mạng ư?”. Nhân đó nghó lại qua đêm, dưới giường có 1 cái lò, bên trong có đỉnh nước nóng đang còn, phía sau có vài hộp sứ sắp bày quanh. Người ấy bảo: “Đặt gạo chưa lấy về. Vật trong hộp có thể lấy dùng ăn, cứ theo ý mà lấy”. Sư Đạo nói: “Đi núi Phỏng tìm chân nhân, chẳng nghó nhớ đoái hoài việc uống ăn”. Khi ấy giơ lên một hộp, trông nhìn đó thì là trà, bèn lấy nước ấm nóng châm vào để uống, mùi vị ngọt ngon hương thơm khác lạ. Lại giơ lên thì không mở ra được nữa, các hộp khác cũng vậy. Sư Đạo không dám nói, nhân đó nằm nghỉ, qua hôm sau, mặt nhật đã lên cao mà chủ nhân chưa dậy. Sư Đạo ngờ lạ đó, bèn ngầm bỏ đi, ước khoảng mười mấy dặm, gặp 1 người già ngồi trên đá hỏi han. Sư Đạo bèn đem đầu đuôi sự tình mà đáp. Người già ấy bảo: “Cha con của Thái chân nhân đều ẩn tại núi này. Chỗ nghỉ lại đêm qua của ông tức là nhà con Thái chân nhân vậy”. Lại bảo rằng: “Đạo khí của ông chỉ bởi còn nồng đặc và cốt còn chưa thành tựu”. Nhân đó bè 1 cảnh cỏ trao cho Sư Đạo. Cành cỏ đó như mầm gừng, dài hơn cả thước mùi vị ngọt ngon. Lại bảo uống nước suối. Nhưng nước vừa nâng lên đầu thì biến ẩn mất. Từ đó chi ăn cỏ trà, lại cảm thấy khí lực nhẹ nhàng, mạnh khỏe hơn hẳn lúc mới đến. Sau đó, trở về Chiêu tiên quán. Đạo chúng kinh ngờ lấy làm lạ hỏi rằng: “Đi đã hơn 1 tháng, sau như lâu lắm vậy? Trong núi không nơi dừng nghỉ qua đêm ư?” Sư Đạo kinh ngạc tự nói là: “Vừa mới trải qua 1 đêm”. Và đem mọi sự thấy gặp mà tỏ bày đó. Đạo chúng lại than rằng: “Chúng tôi ở tại quán đây nhọc vì học Đạo, ông mới chỉ 1 lần vào núi mà 3 lần gặp được tiên nhân. Chỉ ngủ 1 đêm mà trải qua thời gian dài hơn 1 tháng. Người già đó chính là Bành chân nhân vậy. Đã thấy được cha con Thái chân nhân lại gặp được Bành chân nhân, được chỗ đến chẳng tu hành ư?”. Về sau vì để thăm viếng thân thích, về hỏi Chánh sơn mỗi lúc hái thuốc chẻ củi đều dùng hổ báo mang về, người mẹ vui mừng bảo: “Ngươi lấy tâm hiếu nuôi dưỡng. Ta lấy Đạo làm vốn liếng, ta cũng mong vì làm mẹ của ngươi vậy”. Thế rồi đến Ngọc tứ thanh hư phỏng hỏi Mai chân nhân và Tiêu Chân nhân. 3 lần đi đều dùng bằng thuyền gỗ, mong 1 lần trông thấy đó đi ở núi, gặp 1 người mặc áo vải trùm khăn qua dáng mạo như người 50 tuổi. Sư Đạo hỏi nơi ở của Mai chân nhân và Tiêu chân nhân. Người ấy bảo: “Tôi là Tạ Tu Thông, Tôi ở động Linh nguyên tại Nam nhạc, nơi khe cùng Bành chân nhân và Thái chân nhân ẩn cư hơn 200 năm, biết ông từng đến Nam nhạc. Tôi vừa vâng mạng của Đông Hoa Quân làm Địa tiên tại núi Ngọc tứ, kiêm cai quản Thanh hư quán. Ông và tôi có chút Đạo duyên nên được gặp nhau vậy”. Nói xong bỗng nhiên ẩn biến mất. Sư Đạo trở lại động Linh nguyên thì tuổi đã 50 vậy. Vị Tăng ở Tương châu Vệ châu. Giữa khoảng Tương châu và Vệ châu có vị Tăng, từ thuở thiếu thời đã tập học thông nhiều kinh luận, lại hay khéo giảng thuyết. Mỗi lúc có giảng viên, tự cho là siêu tuyệt mà hiếm ít người nghe, tài lợi cũng mỏng nhạt. Cứ như vậy nhiều năm, nhưng là bậc chân tăng nên chẳng tức giận, bèn mang các kinh luận giẫm trải khắp các danh sơn để phỏng tìm người biết. Về sau vân du Hồ ngoại đến chùa Hành nhạc ở Nam nhạc nghỉ lại hơn 1 tháng, thường ở nơi trai đường của chùa lúc nhàn rỗi tầm dịch kinh luận. Lại tự trách lỗi quá rằng: “Với nghóa lý hiểu biết há trái với Thánh ý ư?” trầm tư điều đó giây lâu, bỗng ngẩn đầu lên thấy 1 lão tăng chống gậy đi vào mà hỏi rằng: “Sư tập đọc kinh luận gì vậy? Nghiên cứu nghóa lý gì thế?”. Vị Tăng ấy nghi đó là dị nhân, mới thuật rõ nguyên do, lại tự trách lỗi quá là: “Như gặp được người trí phân biệt rõ việc này cho?”. Và bên khóa miệng cùng lưỡi không nói năng gì thêm nữa. Lão Tăng đó cười bảo: “Sư hiểu biết sâu rộng mà lại không biết nghóa ấy ư? Bậc Đại thành còn không thể độ người vô duyên, huống hồ là kẻ sơ tâm ư? Đây chỉ bởi Sư không có duyên với chúng nên vậy”. Vị Tăng ấy nói: “Nếu thế thì trọn đời cứ mãi như vầy ư?” Lão Tăng đó bảo: “Nay tôi thử vì ông mà kết duyên”. Nhân đó hỏi vị Tăng ấy có được bao nhiêu của cải hiện còn. Vị Tăng ấy đáp: “Từ quê đến phương Nam đây trải qua đường dài muôn dặm, chi phí lương thực, mọi vật đều hết. Hôm trước vừa đến Nam nhạc đây chỉ còn pháp y 7 điều mà thôi”. Lão Tăng đó bảo: “Chỉ chừng ấy cũng có thể được, Ông nên đem bán pháp y đó có được bao nhiêu tiền đều sắm sinh các thứ bánh bột dầu ăn v.v… ”. Vị Tăng ấy bèn làm theo lời chỉ bảo đó màsắm sinh ước chừng đủ khoảng vài mươi người ăn, mang đến trong đồng trốngbằng phẳng vung rải các vật đó; đốt hương quỳ thẳng mà chú nguyện rằng: “Mong những loài ngày nay ăn dùng các vật tôi ban thí đây thì trong đời tương lai sẽ làm đệ tử của Tôi. Tôi sẽ vì giáo hóa đó cho đến thành Đạo Bồ-đề”. Nói lời ấy vừa xong, chim quạ đua nhau loạn xạ xuống mổ ăn, các loài giun kiến dưới đất cũng lắm nhiều không thể tính kể. Vị Lão Tăng ấymới bảo rằng: “30 năm sau, ông mới có thể trở về khai mở pháp tịch, nay tạm chu du, chớ nên giảng nói”. Nói xong, bèn bỏ đi. Vị Tăng ấy y theo lời nói đó, sau 20 năm trở về Hà Bắc khai giảng, thính chúng đông nhiều cả muôn vạn người đều tuổi dưới 20, còn các vị già lớn trong 10 người chẳng có đến một hai. Vị Tăng ở núi Nam nhạc. Trong thời tiền Đường có vị Tăng ở tại núi Nam nhạc, thấy 1 vật đuôi sắc xanh che phủ kính mình thẳng đến trước tòa. Vị Tăng ấy bảo: “Bần đạo sống thiền chẳng nhiều, sinh linh thần có biết chớ cùng não hại”. Vật đó hỏi: “Ông có biết thời nhà Tấn nhà Tống chăng?”. Vị Tăng ấy đáp: “Từ thời nhà Tấn đến thời nhà Đường đây đã 400 năm vậy”. Vật đó lại hỏi: “Ông có biết Diêu Hoằng chăng?”. Vị Tăng ấy đáp: “Tôi nghe Diêu Hoằng đã chết vậy”. Vật đó nói: “Diêu Hoằng chính là Tôi đây”. Khi ấy nói bày về sự chết đó, thoát thay chạy trốn đi đến động Thiên phước địa, đói thì ăn lá bách khắp thân mình mọc lông. Dưới đời vua Đại Tông (Lý Dự 763-780) thời tiền Đường, có Cao tăng Pháp Chiếu làm Quốc Sư mới nói là: “Thầy tôi là Đại trưởng lão ở Nam nhạc, có đức rất kỳ đặc”. Thiên tử xoay mặt phương Nam thiết lễ kính vọng bái, độ người theo Đạo đó đông không thể tính kể, mới xưng gọi nơi chỗ ở đó là “Đạo tràng ban chú” dùng để tôn quý ngôi vị ấy vậy. Mới đầu ở dưới của Nam nhạc phía tây núi, có người cho thức ăn gì thì ăn thức ăn đó, như không có thức ăn thì ăn đất bùn cỏ lá, và lấy đó làm y phục, Nam cùng Hải duệ, bắc tận thuyết đô, mọi người đều đến cầu Đạo ấy, hoặc ở nơi cốc hang sườn núi, hoặc thân hình gầy ốm, mặt mày dơ bẩn, tự thân mang vác than củi để làm kẻ tớ sai sử. Qua sau vài năm công thành, Đạo hoàn bị, mọi người đều mang vải gấm thay thế cây gỏ đá, giao đến nơi hang nhà, chẳng cự tuyệt mà cũng chẳng tạo dựng. Đến lúc đền nhà đã đủ, vua Đức Tông (Lý Khoát 780-805) thời tiền Đường ban chiếu ngợi khen, vì tạo dựng chùa-di-đà. Mọi vật cúng thí dư thừa thì ban cho các người tật bệnh đói kém, chẳng bày công khó. Bên cạnh đó có Động Nguyên vốn người xứ Lạc Dương đến ở Tung sơn cao vợi, sau khi gặp Đạo thì luôn say rượu. Như kẻ phong cuồng lẫn lộn bụi trần. Một sáng sớm nọ trở về Lạc Dương, nhân say mềm lặng vào dòng nước chẳng trở ra. Về sau có vị khách từ Hành tương đến, Động nguyên ở núi Nam nhạc nhờ gởi thư đến Lạc Dương. Pháp thuộc giao hữu đó tiếp nối theo xưa, kịp đến sẩm đen bèn đó là do Động nguyên thân gần nhuấn nhiễm, mọi người đều gọi đó là Thủy tiên. * Xử só Mã Chửng. Trong khoảng niên hiệu Trường Khánh (821-825) thời tiền Đường, có Xử só Mã Chửng, tánh tình nhàn nhã thanh hư khéo vui thích đến cảnh núi sông chẳng kể hiểm nguy đều men trải vượt, đến ở Mân Trung. Nhân đến núi Chúc Dung ở Nhạc sơn; vào Đạo tràng Phục hổ sư Phật đường, trang nghiêm hương hoa quả phẩm và thiết bày 3 thoi bạch kim lên trên bàn Phật. Thấy có 1 Lão tăng lông mày đều bạc, tướng trạng dung mạo rất khôi ngô. Lão Tăng rất vui mừng đến Mã chửng đến, Mã Chửng sai bảo kẻ tớ mang lấy chiếc đãy. Lão Tăng nói: “Tạm xin bộc phu lang quân đến chợ gần Huyện mua giúp cho ít muối”. Mã Chửng hứa thuận, kẻ tớ bèn mang tiền đi xuống núi, Lão tăng ấy xoay trở lại, cũng không biết đi đâu, tiếp tục theo đó lại có 1 người đi núi tên là Mã Chiêu cũng chỉ 1 mình lên đến đó. Vừa thấy Mã Chửng, rất cùng ủy an mừng rỡ. Mã Chiêu nói cùng Mã Chửng rằng: “Trên đường đến đây nửa đường thấy 1 con hổ ăn thịt người, không biết tên họ người đó là gì?” Nhưng diễn tả phục sức thì đúng là kẻ tớ của Mã Chửng. Mã Chửng rất kinh hãi. Mã Chiêu lại nói: “Từ xa trông thấy con hổ ăn thịt người đó hết mới cở bỏ lớp áo da, mà mặc lại áo Thiền là 1 vị Lão Tăng vậy”. Mã Chửng càng kinh sợ. Đến lúc Mã Chiêu gặp thấy Lão Tăng trở lại, mới nói cùng Mã Chửng: “Đúng là đây vậy”. Mã Chửng thưa cùng Lão Tăng rằng: “Có người họ Mã đi núi lại nói là kẻ tớ đó vừa đến nửa đường núi thì bị hổ ăn thịt mất rồi. Việc ấy thế nào?” Lão tăng tức giận bảo: “Bần đạo ở tại núi này, trọn không có hổ lang, cỏ cũng không trùng độc, đường đi hẳn không có rắn hổ, rừng không có chim cú kêu, không thể tin tình cờ nói vậy”. Mã Chửng trông thấy nơi mép miệng Lão tăng còn mang dính màu nồng, mà không muốn nói. 2 người bèn cùng nép mình trong nhà ăn, bít chắn kỹ cửa nẻo, dưới ánh đèn sáng dòm thấy nửa lúc đêm khuya phía ngoài cửa có con hổ tức giận đưa đầu húc vào cánh cửa đôi ba phen nhưng nhờ cửa cứng chặt không rơi xuống. 2 ông càng khiếp sợ, đốt hương chí thành cúi đầu trước tôn tượng Tân đầu lô phả trong nhà ăn, nghe tôn tượng đó ngâm bài thơ rằng: “Người Hổ rớt đắm nước trong lan Ngựa con phải phân chắc bờ vàng Nên bảo Đặc Tấn cài cung lại Qua qua tướng quân hẳn hại tim”. Hai ông ghi nhớ mà giải nghóa bài thơ đó là: “Người Hổ” (dần nhân) tức vị Tăng ấy là hổ vậy, “Nước trong lan” (Lan trung thủy) tức là giếng. “Ngựa con” (Ngọ tử) tức là chúng ta (Mã Chửng và Mã Chiêu). “Chắc bờ vàng” (cấn bạn kim) tức là bạc vậy, còn 2 câu sau không giải nổi. Đến sáng sớm, lão Tăng gõ cửa bảo rằng: “Lang quân dậy ăn cháo”. 2 ông mới dám dậy ra ăn cháo như khác lạ. 2 ông tính kế là: “Nếu Lão tăng này còn đây thì chúng ta không dám xuống núi”. Mời gọi lão Tăng ấy lại và nói “Trong giếng có vật gì lạ”. Lão Tăng đó vừa trông nhìn xuống, 2 ông cùng xô đẩy lão Tăng đó rơi lọt xuống giếng mới hóa làm thành hổ. 2 ông bèn dùng đá lớn bít chân lấp lại. Rồi lấy 3 thoi bạc cùng trở xuống núi. Vừa lúc trời hơi sẩm tối, gặp 1 người thợ săn bên cạnh đường trương bày cung tên rồi leo lên trên cây chắn rào mà ở đó, bảo cùng 2 ông rằng: “Chớ nên xúc chạm vào máy tôi cài”. Lại nói với 2 ông là: “Đường xuống núi còn dài xa, hổ dữ hung bạo, sao chẳng tạm nghỉ nơi đây”. 2 ông cùng động lòng vin leo lên sắp yên định người. Bỗng nhiên có khoảng 30-50 người vừa Tăng só vừa Đạo só hoặc nam hoặc nữ ngâm ca vui múa, bỗng đến nơi chỗ cài cung, chúng tức giận bảo rằng: “Từ sáng sớm đã bị 2 tên giặc giết hại Thiều Hòa của chúng ta nay mới đuổi bắt. Lại có người dám dàn bày bẫy Tướng quân chúng ta nữa”. Bèn mở phá máy cài mà đi qua, 2 ông đều thấy nghe nói thế mới nói với người thợ săn rằng: “Thứ trành quỷ đây là hạng người bị hổ ăn thịt vậy, vì hổ trước mà trách nói. Nhân đó, 2 ông bèn hỏi về họ tên của người thợ săn. Người thợ săn ấy đáp: “Vốn tên Tấn dòng họ Ngưu”. 2 ông rất vui mừng, bởi 2 câu thơ cuối của to nay đã có nghiệm biết vậy. “Ngưu Tấn” tức là “Đặc Tấn”, “Tướng Quân” tức là “Hổ” vậy, bèn khuyên người thợ săn đó cài đặt cung tên như trước lại, người thợ săn liền làm vậy xong. Vừa mới leo lên bờ rào chắn, quả nhiên có 1 con hổ gầm gừ đi đến, chân trước vừa chạm vào máy cài, mũi tên liền trúng vào hàng thứ 3 xuyên qua tim, hổ ngã lăn sùi sụt. Các Trành quỷ đua nhau chạy xoay trở lại cúi đầu trước hổ, khóc than thảm thiết nói là: “Người nào giết Tướng quân ta vậy!” 2 ông nhân đó tức giận mới quát bảo là: “Các ông không tự biết mình là hạ quỷ, đời trước mắc phải Hổ giết chết ăn. Chúng tôi nay vì các ông mà báo thù. Các ông đã không thể hổ thẹn từ tạ mà lại dám khóc than. Há có làm quỷ chẳng linh ư?” Khi ấy bèn đều lặng thinh, bỗng có 1 con quỷ đáp rằng: “Đều bởi không biết Tướng quân là hổ vậy. Nay nhận lãnh được lời nói của Lang quân mới rất kinh sợ”. Tỏ ngộ rồi bèn theo nhau giẫm đạp đuôi hổ mắn rủa đó, xong rồi xoay cảm tạ mà đi. Đến sáng sớm, 2 ông bèn chia cho người thợ săn 1 thoi vàng mà trở về (rút từ truyện kỳ lạ). Hướng Tử Văn. Hướng Tử Văn, người xứ Trường sa. Trong khoảng niên hiệu Bảo Lịch (825-827) thời tiền Đường, được làm quan ở Hành Châu, nhưng vì nghèo khó chẳng thể trở về tâm tình mến thích thắng cảnh của núi sông. Một đến bái yết miếu Nhạc thần, bấy giờ đang mùa nắng nóng nên dừng ở lại hơn 10 ngày. Bỗng có 1 người quấn khăn sắc xanh mặc áo cừu sắc tía, vẻ mặt tợ ngọc đã giũa mài, thần sắc oai nghi nghiêm chỉnh râu mây như vẽ, Tử Văn trông thấy mà lấy làm lạ đó với cốt tướng khác phàm, sáng hôm sau sang trông thấy bèn hỏi thăm đó, người ấy nói: “Tôi là Cung Khánh Trường, gia đình ở Lạc Dương, thuở thiếu thời gặp được Tư Mã Ẩn Nguyên tại dưới núi minh cao. Ẩn Nguyên từ đó là Linh quan ở Ủy vũ động thiên”. Phàm khắp 5 núi lớn 4 ngòi, động thiên, phước địa mỗi mỗi đều có linh quan làm chủ quản, xét lường công tội, phỏng dò thiện ác, tấu trình liêncan đến Cửu thiên sứ giả phủ. Ẩn Nguyên nói với Khánh Trường rằng: “Ông đời trước từng giữ chứ vị trọng yếu, có công nhọc biện oan rửa sách tội chết. Người thời bấy giờ ngầm được ông ban ân huệ. Mãi đến khi chu Thử tiếm nghịch, trượng tiết phải chịu sự chết, khí tiết trung kiên tức giận, nghị lực chẳng suy, nên được sinh trở lại làm người, ngày sau thông ngộ hẳn tự thông biết đó. Cửu thiên sứ giả ghi lục công mạng của ông. Nay ta trao cho ông pháp Thạch tinh kim quang tàng ảnh lục hình thần kiếm, chầu của Hoàng thái cực nhất điểm chầu”. Nhân được độ đời, gồm lên núi Tử tiêu trông khí trời, thấy ở ngoài Đảnh yêu khí bừng bừng, muốn sang tể trừ đó, đi ngang qua miếu nhạc nên lại chấu yết. Tử Văn vì vậy nên đặt thân theo cùng. Khánh Trường xoay lại bảo người hầu lấy đàn trống hòa tấu đó. Khúc nhạc đó tên là “lá hình vàng nhảy nhót giữa biển, mưa giót sen thu, say đào ánh trăng mây trắng dẫn đưa”, âm vận trong lành vượt trội, chẳng phải tiếng phàm. Bộ tùng liền cả mấy ngày. Đến lúc sắp giả biệt, Tử Văn kính bái mà nói là: “May được khoảnh khắc gặp gỡ, muốn theo Tiên sinh về hướng Nam vân du có được chăng?”. Khánh Trường bảo: “Chưa thể được vậy. Ông phải là Só Tấn, 18 năm sau sẽ cùng gặp tại núi Trung Điều. Tử Văn lại kính bái nài xin. Khánh Trường bảo: “Học trước công thành, gặp thời thì đắc chí. Ông nên cố gắng đó, đến lúc liên can nhả nạp ăn mặc, mới là sự việc khác”. Tử Văn khẩn thiết cầu xin đôi ba phen! Khánh Trường bảo: “Nên đợi gặp sau”. Tử Văn nói: “Vậy có dạy răn gì, thề xin kính vâng!”. Khánh Trường trầm tư giây lâu mới bảo: “Dòng tộc cha ông của ông vùi lấp Tăng xá, phải nhận chịu khổ làm quỷ phục dịch. Ông hảy sớm chọn chỗ đất tốt lành để làm trọn việc lớn”. Tử Văn bái tạ trong khóc buồn, Khánh Trường vụt nhiên mà đi. Luyện sư Niếp Thiệu Nguyên. Luyện sư Niếp Thiệu Nguyên, từ thuở bé thơ đã khéo cao nhã, rành rẽ thi thơ lão trang văn lệ. Một ngày nọ đến Kim Lăng, bất chước Cao Minh Chiêu Phương Ngoại nhận thọ giới lục. Đêm đó, mộng thấy vào trong 1 thành, cung phủ nghiêm trang chỉnh túc. Bên trong có người mặc áo sắc đỏ tựa án mà bảo cùng Niếp Thiệu Nguyên rằng: “Đây là chỗ của Ty Lục, có thể tự mở sách sổ đọc xem”. Trong sách sổ nói: “Niếp Thiệu Nguyên đến năm 18 tuổi vào Đạo. Năm 20 tuổi thọ học pháp Thượng Thanh hoàn tất, năm 22 tuổi sang Nam nhạc”. Bèn đậy quyển mà tỏ ngộ lâu đó. Từ kim Lăng trở về lại núi Vấn chính, Niếp Thiệu Nguyên tạo dựng nhà mà ở, chẳng dự can việc thế tục, tự xưng hiệu là “Vô Sinh Tử”, mà người đời chỉ thường xưng gọi là luyện sư. Niếp Thiệu Nguyên luôn hầu mẹ rất mực chuyên cần tận tụy, một ngày nọ lúc sáng sớm dậy, tắm rửa mà nói rằng: “Bác ta thường dạy răn” Nhà ta đời đời nên tu luyện, chớ nên giáo điển của Thái thượng”. Bỗng nhiên có 4 con hạc nhóm tụ nơi phòng, lại có ánh sáng thần từ không trung soi chiếu xuống, mọi người trông thấy, nghi là lửa đốt cháy, liền đến đó thì vắng teo không gì khác, chỉ có Niếp Thiệu Nguyên đã hóa vậy, 4 con hạc và ánh sáng thần cũng chầm chậm mà đi. Đến sáng sớm, Trang Lệ đến bảo rằng: “Luyện sư cùng 3 Đạo só mặc áo lụa đào sắc xanh cưỡi đi, cùng theo có vài đoàn người thảy đều áo mão dây đai theo hướng Nam mà đi. Luyện sư xoay đầu lại bảo: Ta sang Nam nhạc vậy”. Phan Phát. Phan Phát, tự là Văn Bách, người xứ Lũng hữu, từ thuở bé thơ, Phan Phát tham cầu thọ học pháp lục, ban hịch vời gọi quỷ thần, hành Phù ban thuốc, cứu giúp mọi người tật bệnh, xa gần mọi người đều ngợi khen. Đến đêm rằm tháng giêng vào tỉnh lắng tinh cầu điều lợi ích. Nam nhạc chân quan bảo rằng: “Đêm qua là ngày Thiên lạp, Đông lân nhiếp vời đông nhạc bảo là đã được khai độ, Nam nhạc thọ sinh chưa xét. Đông nhạc nhiềp hồn xét qua, Nam nhạc luyện độ. Pháp chủ lại trông coi việc gì? Chân quan mộng bảo: Năm núi lớn phương diện thuộc phân dã, động thiên, phước địa, khe hang, mỗi mỗi đều có chủ quản, coi xét mọi công tội của người đời, của cải thuế khóa khí dụng của nước nhà cho đến, đất, nước v.v… mọi loài. Hỏa nhạc (núi lửa) cai quản 4 ngôi 4 chân thuộc mang đội”. Ai nói: “Nam nhạc có Tiên nhân chân đỏ. Ông nên chuyên cần tu đức hẳn có lúc gặp đó, và cũng là thầy của ông vậy, và đó chính là Lý thú vị vậy”. Tần Bảo Ngôn. Tần Bảo Ngôn ở Bắc mộng tỏa chuyên cần công việc đốt hương tu luyện, thường thưa cùng Nam nhạc chân quân rằng: “Thượng chân cớ sao phải dùng đến giấy vàng? Đó là điều chưa được hiểu”. Thế rồi ban đêm mộng thấy chân quân bảo rằng: “Giấy tiến tức là sổ sách của minh lại. Tôi đâu cần đó, là càng thêm niềm tin ở trong nhạc (núi) vậy!” Mã Hy Thanh. Tại Hồ Nam có Mã Hy Thanh sau khi nối tiếp địa vị của thân phụ, gặp lúc trải qua nhiều năm nắng hạn, cầu đảo không được cảm ứng, mới lấp bít đền thờ Nhạc sơn, miếu Thiên vương và tất cả các đền thờ thần trong cảnh vức, cuối cùng cũng không có mưa. Anh của Mã Hy Thanh là Mã Hy Chấn vào can ngăn đó, uống rượu đến nửa đêm mới trở về. Nghe trước nhà có tiếng ồn náo, liền kêu gọi Mã Hy Chân, trở vào lại thì thấy Mã Hy Thanh chốc ngược đầu dưới thềm cấp, áo xiêm không trùm mặc, cái đầu đã bị vỡ nát, bảo mọi người thấy bưng đặt lên dùng vải che phủ cái đầu, đến sáng ngày thì phát tang. Lập người em là Mã Hy Liệt lên nối tiếp ngôi vị trước đó, Đại tướng Chu Đạt từ Nam nhạc thấy trên sông trong mây mốc có bắt dẫn Mã Hy Thanh mà đi, nhưng giữ kín không dám nói, đến đêm đó có vật như tấm màn đen xung đột vào trước nhà, tức ngay lúc Mã Hy Thanh chết vậy. Suất Tử Liêm. Trong khoảng niên hiệu Khai Bảo (968-976) thời Bắc Tống, có Suất Tử Liêm vốn người dân canh cày ở Nam nhạc, hung ác ngu dốt không ai bằng, mọi người đều gọi đó là Suất Ngưu. Một ngày nọ nhàm chán thời buổi làm nông, Suất Tử Liêm mới đến Tôn sư Lý ở Hành nhạc quán cầu xin Chánh giác, sau đó không bao lâu được mang mặc áo mão làm Đạo só. Về sau Đạo chúng đề cử đến làm trú trì ở Tử hư các. Vốn chẳng có tài năng đảm đang việc đó nên chỉ khiến uống rượu say rồi quét tước mà thôi. Suất Tử Liêm được vậy, vui mừng hân hoan mà sang, thường cậy rượu cuồng say luôn té nằm ngoài đường hoặc giữa khoảng núi hang. Tuy gió mưa bão nổi, hổ lang đấu nhau, trông thấy mà vẫn xem thường. Một ngày nọ Lễ bộ có chiếu ban Soái thần Vương công giúp đến cầu đảo cúng tế ở Nam nhạc. Vương công vốn tánh tình giản ngạo, bấy giờ các hàng Đạo só và Thích tử ở trong núi thảy đều vội vã ra bái yết. Đến lúc lễ tế hoàn tất, bỗng nhiên hỏi mọi người chung quanh rằng: “Tôi nghe có đàn của Ngụy phu nhân hiện ở đâu?”. Mọi người đáp: “Đó chính là Tử hư các vậy”. Vương công lại hỏi: “Có chủ cai quản không?”. Mọi người đáp: “Có Đạo só Suất Tử Liêm vậy”. Có 1 người nói: “Cớ sao chúng ta không đến bái yết?”. Có người đáp: “Suất Tử Liêm vốn là nông phu dưới núi, không có tài năng gì khác, mọi người đều gọi đó là Suất Ngưu (dẫn kéo trâu), tánh tình chỉ ham thích uống rượu chẳng lại tham yết, hẳn là bịnh rượu vậy”. Vương công mới đi thẳng đến Tử hư các xét xem Suất Tử Liêm, quả nhiên là đang gục đầu trong rượu không thể ngẩn lên nhìn, bờ vực màng sống chỉ có chiếc song sắt hư phá và một ít đồ vật bằng sứ sức mẻ mà thôi, ngoài ra không còn thấy gì. Vương công gọi tên đó, Suất Tử Liêm chỉ gắng gượng chống mắt chăm nhìn mà nói là”. Ở chốn rừng núi sâu, Đạo só hiếm ít khi gặp rượu, nay gặp rượu uống quá say do đó quî ngã như vậy, mong Minh Công chẳng trách ư”. Vương công rất vui vẻ cho là mặc chân giữ phác, tin thật đó là Đạo nhân. Qua hôm sau bèn cùng chung thuyền mà trở về phủ, Vương công an trí Suất Tử Liêm ở trong Thủy các, qua hơn tháng, Suất Tử Liêm sắp đi, Vương công lại nói rằng: “Tôn sư là người ẩn dấu ánh sáng bên trong tỏa ngời. Thật là điều tôi rất trân trọng, muốn viết thuật 1 chương để ca tụng, nhưng vì việc vua quan bức bách liên tục không được rảnh, nên xin hẹn khoảng 5-7 ngày sau thơ hoàn thành sẽ sai sứ đem dâng, xin chớ ngờ lạ bvậy”. Suất Tử Liêm trở về Nhạc sơn, qua vài tháng sau chưa nghe thấy thơ đưa đến. Một đêm nọ Vương công nhân đọc sách quá mỏi mệt bèn gá ngủ, bỗng nhiên mộng thấy Suất Tử Liêm đi thẳng vào phủ bảo rằng: “Chúa công từng nói hứa tặng thơ kỳ hẹn khoảng 5-7 ngày, nay đã trải qua vài tháng mà chưa nghe thấy, mắc phải việc chẳng quá mà phế quên ư?”, nói xong bèn đi thẳng. Vương công tỉnh giấc mà kinh sợ ân hoài hổ thẹn, bèn dưới ánh đèn làm 3 bài thơ thêm đề tựa mà gởi đưa sang đó. Với lời thơ rằng: “Phòng xưa sườn núi ngời trăng tỏ Từng năm kết bạn mây trắng nhàn Hưởng dùng đan lửa từ đâu có Bốn Mặt không người thấy xuống non. Dưới nhìn hư không gần tuyệt khe Trên bày mây móc tựa đầu non Bốn bên hiểm tuyệt không chim thú Riêng nằm mây trắng ba mươi năm. Tâm ý tiêu dao vật chẳng biết Trong núi dưới núi hiếm người hay Tưởng ông dứt tuyệt quên trần cảnh Chẳng là Vương dối liền hiện oai!” Sáng ngày, bảo ghi tả thành bảng và sai người mang sang Nam nhạc treo tại Bản các. Suất Tử Liêm bảo: “Tôi thì đâu có dùng để an ủy, các vốn thanh hư rỗng rang như vậy. Bản thơ nên khắc đá treo ở Giang đình”. Đến trong niên hiệu Hy Minh (1068-1078) thời Bắc Tống, bia thơ bị lửa thiêu đốt. Nay, tại Thuyên đức quán lại khắc đá ghi đó. Cư só Đông Pha có đề tựa và bài thơ. Đến trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1163) thời Nam Tống, Đạo só Trần Tử thường trú trì Hoàng đình quán khắc lại bài thơ ấy ở dưới các của bản quán. Ngày 17 tháng 6 năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980) thời Bắc Tống, Suất Tử Liêm bỗng sai người đến thưa cùng Lý Tôn sư ở Hành nhạc quán rằng: “Vì sắp đi nơi khác nên lại giả từ, xin cắt cử người khác đến cai quản” Lý Tôn sư được tin đó bèn bảo là “Người này cây gỗ đất đá ngu xuẩn, nắng nóng quá sao đi”. Liền đích thân đến đó xét xem. Sang đến nơi thì Suất Tử Liêm đã quá vãng, Lý Tôn sư mới nói với mọi người cùng đi rằng: “Tôi thật không lường liệu Suất Ngưu mà biết trước ngày chết của mình như thế!”. Bèn lo liệu tang lễ. Sau đó không bao lâu, có Tăng só Thủ Trừng ở chùa Nam Đài từ kinh đô trở về, đến ngoài cửa Nam Huân bỗng gặp Suất Tử Liêm cùng thuật bày khế hoạt, ngôn từ rất ưu dật. Nói rằng: “Tôn sư có về trong Nhạc sơn chăng?”. Suất Tử Liêm nói: “Tôi nghó muốn có được 1 lần đến trông xem chốn kinh đô, lúc sắp đi nhờ được Tôn sư tiễn đưa rất nồng hậu, nên muốn kính dâng gởi lá thư về để cảm tạ, nhọc phiền nhờ đại đức trao đến có được chăng?”. Tăng só Thủ Trừng bèn nhận thơ mang đến chỗ Lý Tôn sư ở Hành nhạc, mở ra đọc xem đó thì thơ đề ngày 17 tháng 6, bèn khai quật phần mộ mà trông xem thì chỉ còn để lại 1 chiếc gậy và giày dép mà thôi. Năm Càn Đức thứ 2 (963) thời Bắc Tống, sửa sang miếu Nam nhạc, các tôn tượng đắp họa quỷ thần và người ngựa thật lắm nhiều. Bỗng một lúc một ngày nọ ré hết cắn gặm cờ mao đều ngã đổ chỉ về hướng Tây, thầy thợ mọi người phục dịch thảy đều kinh sợ té ngất nơi đất, lâu sau mới tỉnh lại. Bản miếu mới đem mọi sự đuôi đầu tấu bày cùng Bản châu xét điểm được thật, sau đó mới bay tấu xét ngày tháng đó là ngày phá đất Thục. Từ Triều đình đến thôn dã mọi người đều lấy làm lạ vậy. Nhạc học só sử khoảng cuối niên hiệu Cảnh Đức (1008) thời Bắc Tống, làm Tây kinh lưu đài ngự sử, từng mộng thấy 1 người vận mặc áo mão đầy đủ xưng là mạng Đế mạng lệnh đến vời gọi, bỗng chốc đến nơi cung quyết tráng lệ, nhân hỏi sứ giả thì được trả lời: “Đó là nơi chỗ của Đế vậy”. Đã lên thấy Đế bảo rằng: “Chúa cầu tự (cầu con nối dõi). Tôi vì chọn đó, thiếu chọn 1 người đến”. Đế bảo: “Trung nguyên cầu tự, ngươi nên sang đó, chớ chối từ”. Người ấy cúi đầu vài ba phen xin cầu miễn khỏi. Đế bảo: “Nên sang đi!”. Bèn chỉ vậy mà đi. Bên cạnh có người khoanh tay đứng nói rằng: “Đây là Lý tiên nhân chân đỏ ở Nam nhạc vậy, thường vui chén với rượu”. Năm sau quả nhiên Nhân Tông hoàng đế (Triệu Minh) chào đời (1 đoạn đây so với thực lục của bản triều quả thật rất khác. Nay cũng còn vậy). * Lam Phương. Lam Phương, tự là Nguyên Đạo. Các phụ lão ở Hào châu nói là: “Từ thời thơ bé trông thấy trạng mạo của tiên sinh, mãi đến nay vẫn chỉ 1 tiên sinh, tóc rủ xõa đất sắc đen ngời bóng rất đáng ưa thích, da dẻ như bôi thoa mỡ, mặt mày đẹp xinh, môi như lắm nhiều son, răng tợ bày ngọc, cử động ôn hậu, tiếp đãi vật hiền hòa, mọi người lớn nhỏ đều được. Có người lúc tâm vui vẻ xưng gọi Lam Phương là Tiếu tiên sinh. Hoặc đi đến Kỳ đình gặp phải dân chúng bị phế bỏ, thường ngày ở giữa đường đi, rút bụng ra tiền móc hết mà ban cho, hay khéo bố thí thuốc thang cứu giúp mọi người bệnh khổ. Nhân miếu nghe tên tiên sinh bèn đặc biệt vời gọi tiên sinh, lên điện ban tặng tòa ngồi và trà, Quán tiên sinh ở vườn Phương Lâm mà cáo đi. vua ban hiệu là “Nam nhạc dưỡng tố Tiên sinh”. Tiên sinh mới sang Chiêu tiên quán ở Nam nhạc. Bấy giờ, Học só giả xương Triều có tặng Tiên sinh 1 bài thơ rằng: “Ân Thánh đượm nhuần thân ẩn dật Đạo trong nên dùng dây làm khăn Dưới núi chúc dung say trăng tỏ Đầu nguồn sông tương thả gấm câu Từng thấy Hải Đào sinh kết trái Chẳng biết đậu tiên mấy hồi xuân Năm sau như tôi công thành đạt Nguyện làm cầu mây quỳ lễ người”. Tiên sinh riêng ở nghó trên các, bỗng 1 đêm cùng người nói năng. Thị giả lén nhìn qua khung cửa chỉ thấy ánh sáng sắc hồng tỏa khắp phòng nhà. Đến sáng ngày, có khách dò hỏi đó. Tiên sinh bảo: “Thầy tôi là Lưu Đạo quân nhân hành vũ qua đây dừng lại chuyện trò trong chốc lát”. Một ngày nọ, tắm gội xong, tiên sinh gọi thị giả mà bảo rằng: “Nay tôi đã 172 tuổi, sao có thể nguyện xin lại. Vị hiệu tiên sinh, chỉ chẳng muốn chống cự ý của Thánh quân, nên nay sẽ đi vậy!”. Mới im lặng. Tiên sinh phần nhiều hay đến Tây xuyên cũng lại Hồ tương, người thời nay cũng có lúc trông thấy tiên sinh ở đó. * Vương Linh Dư. Vương Linh Dư, người xứ Tấn Lăng. Từ tuổi thơ tự làm am cốc trên gò đồi để ở, về sau chuyển dời đến Trung cung tại Nam nhạc, tu nhân luyện hạnh, qua 1 năm thì Đạo thành. Lại đến phía Đông của Chu Lăng, sớm tối kính lễ chầu hầu tinh đẩu mong cảm thượng quân và sau đó thăng cử. Nay tại trước Trung cung có mảnh đá đường văn nhỏ tợ cối xay, là tảng đá xưa kia chân nhân lễ chầu tinh đẩu vậy. Bản cung xưa trước có vài khoảnh đất ruộng riêng cho người thuê làm cướp mất. Tháng giêng măm Ất hợi (1035) thuộc trong niên hiệu Cảnh Hựu (1034-1038) thời Bắc Tống. Xu Mật học só Phú Xuân Công Tôn Cái làm Ngự sử. vua Nhân Tông (Triệu Trinh) nhân hỏi về việc trái nghịch Thánh chỉ, bèn biếm đày thị chinh Vónh châu. Ngày 15 tháng 8 thì đến Hạ cung, ngày 18 tháng 10 đến gối vui chén ngủ, mộng thấy đến Thanh đô quán, quán đó có vài hành lan, cây trúc che phủ, uống rượu rất đáng thích, có 4 người mang mặc áo mão, trong đó có Đạo só mặc áo vàng hơi có râu, hình nghi tuấn tú cao vợi, trên đỉnh núi chít trùm khăn lụa mỏng, cùng đến vái chào Công Tôn Cái mà nói là: “Ông có được phú thọ lâu dài, ân mạng sắp đến vậy. Tôi có ít ruộng đất tại ấp Nhạc sơn thuộc trong bộ hạc của ông, mong chỉ được thuộc quyền của tôi”. Khi ấy đang trong mộng tâm tư Công Tôn Cái tự nghó suy vừa mới bị sai khiến làm tả quan sao liền có ân điển? Đây đều là thuật só vọng nói vậy. Đạo só ấy bảo rằng: “Sao chẳngcùng tin đó?”. Giây lâu lại bảo rằng: “Giữa tin dưới chân có ghi chí lớn bằng đồng tiền. Ông chỉ nín lặng chưa từng xét thử”. Công Tôn Cái rút trong tay áo sờ xem, quả thật đúng như lời nói đó. Đạo só ấy lại bảo: “vậy thì lời nói trước đâu phải lừa dối?” Công Tôn Cái cảm tạ đó, vừa muốn lùi bước, Đạo só ấy lại gọi, đang lúc Công Tôn Cái liếc mắt trở lại, Đạo só ấy bảo: “Tôi vồn dòng họ Vương, mong ông ghi nhớ đừng quên”. Khoảnh khắc Công Tôn Cái bàn tỏ ngộ điều ngờ lạ ấy. Phong độ mặt mày Đạo só rõ ràng rất dễ nhớ ghi trong tâm mắt. Sau đó không bao lâu, Công Tôn Cái vâng phụng chiếu dời lính đến Trường sa. Qua tháng 12, đến chỗ quan, Công Tôn Cái đến Hành nhạc quán lễ bái tinh tượng, chính mắt trông xem Cửa tiên cung, 2 bên liệt bày Chân tiên có 4 vị, Vương Trung như thấy gặp trong mộng, nhan sắc dáng mạo mờ ẩn tương phù mà áo mão thì khác hẳn. Nhân đọc xem truyền ký, thì lại nói là: “Trung tôn vốn dòng họ Vương” Công Tôn Cái mới nhận biết giáo hóa đó cùng điều nó trong mộng rất khế hợp. Công Tôn Cái tuy đã phỏng hỏi nơi Bản quán đó. Vả lại đã chọn ngày nhận quan thự bức bách kỳ hội bèn chẳng kịp sang. Đến tháng 4 năm sau (1036), Thứ sử đảm đang kính phụng sắc chiếu đến cúng tế cầu đảo ở Nhạc sơn vì tật bệnh hoành hành, Công Tôn Cái thật thay thế sáng đến Chiêu đàm, nhân ngủ ban ngày trong thuyền bỗng nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Dời mạng sắp đến, việc cầu đảo trọn chẳng vì xử lý sao vậy”. Trông nhìn 4 phía đều không có người nào, Công Tôn Cái tự gọi kẻ sứ trong thuyền từ phía sau đòi tìm người nói lời ấy trọn không có ai. Công Tôn Cái nghó suy há Cửu tiên chưa sang mà có kỳ lạ như vậy ư?”. Ngày hôm sau đến cúng tế Nhạc sơn mọi sự hoàn tất, bèn đến trong quán thấy tôn tượng họa trong phòng xưa cũ, ngôi tượng chánh giữa có tấm bảng ghi là “Vương Linh Dư chân nhân”, dung mạo áo khăn giống hệt người thấy trong mộng năm trước không sai mảy may. Công Tôn Cái bèn đốt hương kính lễ, cảm thán giây lâu, bèn trở về cùng quan huyện suy cứu hơn 1 năm, quả nhiên có được ruộng đất ở gần quán, thường năm thâu lấy lợi tức của đất, nhân đó giải bày rõ ràng, lấy lại hoàn trả cho Quán như xưa cũ. Tập Hiền Chương Công Mân làm Triện khắc đá ghi lại sự việc đó, và Trương Địch tấu trình ban sắc lại biển ngạch của cung bên trong có 1 quyển ký 8 phần sách ghi hiện còn. Lại nữa, từ Quán về phía Tây bắc cách 5 dặm có 1 cái hang sâu xuống bằng phẳng khoảng 3-4 trượng là nơi ngày xưa nước nhà thả rồng vàng, sâu xuống tới nguồn Đoạn thạch ở núi Vân mật. Tương truyền rằng: “Tiền động là cửa phía Đông của Chu Lăng động thiên, Trung động và Hậu động nằm ở phía Tây của Linh cảnh, cũng là cửa tiện lợi của Động thiên vậy”. Trần Lương Khanh. Năm Cảnh Hựu thứ 4 (1037) thời Bắc Tống, Trần Lương Khanh từ Vónh châu theo Hương thư vào đến bộ để thi, tháng 10 thì đến Trường sa, mộng thấy 1 người dẫn vào trong thuyền lớn, thấy 1 Đạo só tự xưng là Thanh Tinh tiên sinh, cùng đó đàm luận ngôn từ nghóa lý cao xưa. Tiên sinh bảo Trần Lương Khanh rằng: “Tôi đã tiến cữ ông đến Nghiêu làm trực ngôn cực gián thần”. Trần Lương Khanh nói là: “Nghiêu nay đâu còn?”. Tiên sinh bảo: “Hiện đang cai quản ở Nam nhạc”. Trần Lương Khanh nói: “Nghiêu là bậc Thánh quân xưa cổ, sao nay còn liệt ở hàng công hầu ư?”, tiên sinh bảo: Nghiêu là Đế của thế gian, nắm giữ Hỏa đức mà làm vua, vất bỏ thiên hạ mà có ngôi vị Thần ở phương Nam, ông còn gì nghi chăng?”. Trần Lương Khanh khước từ vì danh quan chưa lập đợi khôn. Tiên sinh bảo: “Vậy mới hứa lấy 10 năm làm kỳ hạn”. Sau khi tỉnh giấc Trần Lương Khanh chán ghét đó cho là dị mộng, ghi chép lại để khoan tha. Qua năm sau thi đỗ Giáp đệ (đứng đầu), điều quan ra làm Toàn châu phán quan. Trên đường ra trạm dừng ở phía Nam Nhạc châu, bất chợt ngủ ngày mộng thấy sứ giả mang bản dịch đến vòi gọi, Trần Lương Khanh bèn vội tỉnh giấc bùi ngùi nói: “Há là lệnh của Nghiêu ư?”. Mọi người đồng đi chung cùng khuyên cho là trong mộng chưa đủ lấy làm tin. Trần Lương Khanh lại nắm quyển sách nằm đọc, đến bữa ăn nhiều, mọi người gọi dậy thì đã qua đời. Lưu Sơn Phủ. Lưu Sơn Phủ theo quan hầu đến lãnh ngoại, theo hướng Bắc trở về ghé thuyền tại động đình, leo lên bờ, thấy ở phía Bắc có đền miếu thờ Tỳ Sa-môn hiên vương, nhân sung bái yết, thấy miếu vũ sụp đổ hư nát, mới đề bài thơ rằng: “Tường hư mưa gió đã mấy xuân Sắc cỏ đầy sân ngồi một tòa Bởi là thần tiên không cảm ứng Thạnh suy đâu được tại con người”. Đêm đó, mộng thấy Thần chân bảo rằng: “Ta là Thần Nam nhạc, cớ sao ngươi dám khinh thường?”. Bỗng chốc sóng gió nổi lớn khiến thuyền sắp muốn chìm, Lưu Sơn Phủ phải sám tạ lỗi xóa sạch bài thơ nơi bia, mới thôi. Lý Quán. Lúc làm Tiến só, Thượng thư lang Lý Quán đi đến Nam nhạc qua Trường sa, uống cờ trong đình, bỗng có 1 người mang sọt tre có đủ các thứ đinh kéo v.v… đến nói rằng: “Ông qua Nam nhạc, xin nên vì tôi mà hỏi cùng Dưỡng tố tiên sinh là mang thai 10 tháng làm sao đề ra được?”. Lý Quán đến Nam nhạc đem lời đó nói cùng Nguyên Đạo. Nguyên Đạo kinh hãi bảo: “Chân nhân ấy giữa chặn mày có mốc trắng phải không?”. Lý Quán nói: “Đúng vậy”. Nguyên Đạo bảo: “Đó là Hải Thiềm Tử, nghóa Thánh thai của ta đã thành bệnh hoạn không do đâu ra được, nếu chẳng nhờ người đó thì chẳng đủ để thành Đạo của Ta, nay có tiếng hỏi cùng đến mà không được tiếp. Ta không được gặp người ấy răn bảo vậy”. Chương Sát. Dưới triều Đại vua Thần Tông (Triệu Húc 1068-1086) thời Bắc Tống, có Chương Sát tự là Ẩn Chi, người xứ Thành đô. Từ thuở nhỏ đã chẳng như đồng bạn, thiên tài trội nổi khác lạ, những lúc nhàn rỗi tập học, nghiên cứu rất tinh thông về Chu Dịch, chú giải Thái Huyền kinh đến 9 quyển, bỗng nhiên đang lúc ngủ ban ngày mộng thấy Dương Tử Vân bảo là: “Thái Huyền còn như 1 Phù đồ có cả thảy 13 quyển. Ông đã chú giải đến 9 quyển, căn cơ đâu dễ tiết bày ư”. Chương Sát tỉnh giấc rất nghi lạ đó. Sau lược chú đến 10 quyển thì dâng tấu. vua Thần Tông vui mừng ban tặng tước mà chẳng nhận, bèn phong hiệu là “xung thối xử só”, thường cùng Thiệu Ung Khương tiết kết bạn thân. Nhân đi đến cầu Kim nhạn ở Quảng Hán, thấy có 1 trẻ nhỏ không 12 tuổi đi bán thơ, Chương Sát vui vẻ dẫn cùng trở về lại gọi tên là kinh Đồng. Chương Sát thường đọc xem kinh Hoàng Đình, những lúc nghó xem, trẻ nhỏ ấy trộm lấy đọc xem, một ngày nọ có 1 trẻ nhỏ mặc áo xanh mang 1 bức thư đến cho Chương Sát. Nhân thư xong, đứa trẻ ấy bỗng nhiên biến mất, Chương Sát trông xem người bì thứ đề là “Bố Y chân nhân ở Nam nhạc xin gởi thứ đến xung thối xử só ở Tây châu, mở ra đọc xem thì chỉ 1 chương thơ rằng: “Chưa toại ngâm trong núi Tiếng tăm vang giữa đời Nói cười mất chân thuyên Trần uế dơ thần khâm Về trồng cỏ vườn Nam Vội biến vàng bể Bắc Ngàn ngày siêng cày xới Tự nhiên sinh Dao lâm”. Nhân đến Tây khê, bật chợt Chương Sát rửa chân, có Dị nhân Lý Só Ninh phỏng hỏi đó. Chương Sát vội nói là: “Chân rửa khe Tây dòng nước đi”. Lý Só Ninh ứng đáp liền: “Tay mang Nam nhạc thư gởi lại”. Chương Sát kinh hãi cười, nói: Cớ sao biết thế?”. Lý Só Ninh nói: “Đã lâu rồi vậy”. Lý Só Ninh từ giả Chương Sát mà nói là: “Tông sang Nam nhạc trước, ông nên sớm lại đó”. Sau đó không còn thấy Lý Só Ninh trở lại. Một ngày nọ, Kinh Đồng bỗng nhiên nói đi. Lý Só Ninh hỏi: Ông muốn đi đâu?”. Kinh Đồng: “Tôi sinh Nam nhạc trước, chờ đợi Tiên sinh”. Chương Sát hỏi: “Sao ông biết vậy?” Kinh Đổng nói: “Biết đã từ lâu!” Xong rồi Kinh Đồng ngồi mà thoát xác. Hơn tháng sau, Chương Sát giả biệt cùng mọi người mà thoát giải thay. Chương Sát thường luyện đan, về sau đượm phục đan mà hóa như rắn ve lột xác. Người đời nay có lúc trông thấy Chương Sát ở Nam nhạc. Đoàn Nguyện Ngôn viếng điếu Chương Sát bài thơ, đại lược rằng: “Giải thay đi khó tìm Giữa không một đảnh vâng Tây châu ẩn mất lớn Bất cực thiếu nêu trầm”. Trương Hiền Lương lại có bài thơ rằng: “Biển Tây xưa lại vang danh lớn Hoặc nghe thoát xác bỏ tuổi xa Thanh thành đã kết bạn thần tiên Bích lạc bỗng nhiên lắng só tinh Đảnh vàng luyện thành thuốc đan ngân Ngọc Đường truyền trao kinh Thái Huyền Bình sinh tôi rất muốn gieo phần Tự thẹn không tài cùng Khắc Minh”. * Chu Uyển. Chu Uyển, người xứ Tương trung, đi thuyền đến Nam sa, mộng thấy có 2 Quan lại dẫn vào miếu Nam nhạc, vừa bước lên điện, vua đứng dậy tiếp đón mà bảo rằng: “Biết ông vào kinh Thuyên nên muốn kéo lưu lại ở đây, cũng vui không khác của người đời vậy”. Chu Uyển nói: “Danh thần chưa đạt, vả lại muốn đến kinh thuyên”. vua nói: “Như thế thì không dám tuân phụng ràng buộc vậy”. Mời làm bài thơ tiễn đưa Chu Uyển rằng: “Ở đây đã không vui Bỏ đây đến mưu nào Như hỏi việc giạ xanh Chỉ lưu một góc thư”. Vừa đến kinh thuyên, được điều Trung Mâu ký, bỗng nhiên Chu Uyển cảm mắc bệnh trong đòn đi lại lo không dậy nỗi, bèn viết thư gởi cho vợ con chỉ được 1 góc mà qua đời! (Một đoạn đây cùng với sự việc của Trần Lương Khanh ngôn từ có khác, nay cả 2 bản đều còn. Ở đây rút từ động Vi Chí) * Thiền sư Tuyền ở Nam nhạc. Thiền sư Tuyền ở Nam nhạc vốn người phương Nam, tên là Cốc Tuyền Thiếu, trí tuệ thông mẫn, tánh tình nhẫn nại dơ bẩn, nói năng ngôn từ to lớn không khiếm tốn, các hàng lưu tốc nhàm ghét đó. Thiền sư Tuyền đến Thiền sư Chiêu ở phần Dương, kín sai dự ghi đến phương Nam, phóng lãng khắp Tương trung, cùng ao hổ hang rắn làm bạn. Nhân đến chùa Vân Phong tại Nam nhạc, ở tại hang Lại Toàn, sau lại dời đến am Ba Tiêu. Sau nữa lại dời đến am Bảo Chân, viết lớn trên vách tường rằng: “Ta đây ở am Ba Tiêu nơi đồi mây xưa tối, ngàn ban khác vức chưa rảnh tính kể. Vả lại, nhìn tùng thấp lé té có 3-4 cây. Lúc lạnh rét đốt cây sam khô, khi đói làng ăn khoai tía lớn. Mà nay vất bỏ đây đi, không biết ai sẽ đến ở!”. Am Bảo Chân là nơi rất hiểm tuyệt. Ban đêm Thiền sư Tuyền ngồi giữa đất dưới núi Chúc Dung, có con trăn lớn đến cuộn quanh quấy nhiễu, Thiền sư Tuyền cởi vải áo buộc vào eo lưng nó. Ban đêm không trông thấy, đến sáng ngày mới chống gậy đi khắp núi kiềm tìm thì vải áo đang buộc trên cây tùng khô, bởi vì cây tùng là yêu quái vậy. Về sau, lại từ Hậu động, Thiền sư Tuyền mang 1 tôn tượng đá đến Nam Đài nặng ước chừng vài năm cân, chúng tăng kinh hãi chẳng biết tôn tượng từ đâu đưa lại, và chúng Tăng ở Hậu động cũng không biết tôn tượng đi đâu. Nhân đó tương truyền là La-hán bay lại. Từng qua huyện Hành sơn, thấy kẻ đồ tể mổ xẻ thịt, Thiền sư Tuyền đứng bên cạnh mà tỏ vẻ rất đáng thương, đưa tay chỉ vào miếng thịt lại chỉ vào miệng mình. Kẻ đồ tể hỏi: “Ông câm ư?”. Thiền sư Tuyền liền gật đầu, kẻ đồ tể xót thương đó, cắt cho 1 miếng thịt lớn để vào trong bình bát. Thiền sư Tuyền vui mừng đi ra ngoài trông rồi cảm tạ mà đi. Mọi người cả chợ Cười rồi mà Thiền sư Tuyền vẫn tự nhiên. Dùng gậy khiêng 1 bầu lớn qua lại trong núi. Có người hỏi: “Vật gì trong quả bầu?”. Thiền sư Tuyền bảo: “Tương Đại Đạo”. Và tự làm bài kệ rằng: “Ta chẳng ai quản mày Ai là quản chẳng đáy Mặc áo giấy rách nát Một mùi khéo đánh ngủ Mặt nhật phương Đông lên Ánh nguyệt trời tây lặng Vinh nhục sao buộc ta Được mất không quan hệ Một chiếc gậy, một hồ lô Nhàn bước núi Nam cùng núi Bắc. ” Có lúc say nằm giữa đường núi, gặp băng tuyết lớn, tỉnh thức dậy làm kệ rằng: “Sáng nay lắm tuyết đẹp Rơi rơi như trăng thu Văn-thù chẳng lộ đầu Phổ Hiền bày nụng xấu” Thiền sư Tuyền có nuôi một đứa ở tên là Điều, ngày xưa sai bảo nó bổ củi múc nước, hoặc có lúc gọi nó ngồi đối diện nơi hang đá, làm kệ mà tặng cho nó là: “Ta có trẻ núi tên Điều Xưa chẳng tụng kinh, không lễ Tổ Hay dọn gốc cây ngăn đông lạnh Tùy chia áo sam rách chẳng vá Gặp trồng rau khéo trồng khoai Ngàn núi muôn núi đi không sợ Ha! Ha! Ha! Có nhiều xét xử!” Trương Quân Du. Trương Quân Du làm Hồ nam tào quan Nam nhạc. Từ trong kiệu khiên, thấy bên tả đường đi có 1 đạo quán rất tráng lệ với bảng hiệu ghi là: “Chu lăng cung”. Xa trông bên trong có người mặc áo lông đứng trên điện, Trương Quân Du trong ý muốn xuống mà theo cưỡi đã quá một nửa. Năm sau lại đi qua xứ đất đó, Trương Quân Du muốn tìm Chu lăng cung mà không thấy có. Nghe các bậc phụ lão nói là: “Bên cạnh gần đó chỉ có đền thờ Chu Chân Nhân”. Đến đó xuống mới là chỗ thấy Chu lăng cung xưa trước vậy. Mới có phòng nhà nhỏ một vài gian. Ở đó biến dị đến nổi như vậy (một đoạn đây cùng với Trương Huy nói, ý tuy đồng mà ngôn từ có khác. Cả 2 nay đều hiện còn). Trưởng lão Sư Lập. Trưởng lão Sư Lập ở chùa Diệu quả tại Nhiêu châu, thủa thiếu thời đi đến chùa Hạt nghiêm tại Hành sơn. Vừa mới cuối tháng tư, đến nơi cầu Đâu Suất tại trước chùa, thấy dưới đầm giữa khoảng vách đá cao vợi, có vị Tăng trên lưng có mang tảng đá mà đứng. Sư Lập xưa trước đã từng nghe người đời nói là tại xứ đất ấy có vị La-hán ẩn hiện chẳng thường. Vả lại nhớ trong tạng kinh có sự kiện Bồ-tát Trì Địa vào trong vách tường đá, nên kính cẩn đứng mà trông nhìn, bỗng chốc vách đá khép kín lại không còn mảy may dấu vết. Lại trải qua cả 10 ngày phóng tham hoàn tất. Sư Lập cùng 2 vị Tăng khác đồng tham qua đến sau chùa, lên trên đìinh nơi suối Hổ bào. Gió trời chợt đến, 2 vị Tăng ấy muốn trở về. Sư Lập riêng lưu lại chốc lát. 2 vị Tăng ấy bảo: “Từ lâu đã biết phía dưới đìinh có lắm điều khác lạ. Sư không cần phải dừng ở lại”. Sư Lập mạnh dạng không lấy làm để ý, bỗng chốc từ góc Tây nam của đình có tiếng gõ vào cột trụ, tiếp theo duỗi cánh tay từ trong ra dần dài đến không ngừng, khi đã quá 5 thước, Sư Lập cười bảo: “Vậy có thể rút lại chăng?”, ứng theo tiếng cánh tay dần rút lại, chỉ khoảnh khắc lại nghe có tiếng gõ cột trụ. Sư Lập bảo: “Nếu là Thánh thì điềm tà nên ẩn, còn nếu là quỷ núi thì nên hiện hình”. Lại chỉ trong khoảng bữa ăn, có 1 cánh tay lại đưa ra 5 ngón, mới đầu lớn như hen rui, sau tướng trạng nhỏ dần như ngón tay trẻ em vừa mới sinh, Sư Lập hơi kinh sợ bèn xuống núi. Quý Quán. Trong khoảng niên hiệu Thiệu Quán (1094-1098) thời Bắc Tống, có Quý Quán ở Nghi xuân đến trấn thủ Lâm hạ. Có 1 ông già nói: “Tên là Trần Phi ở từ núi La phù lại”. Quý Quán mời tiếp ông già đó, nhân thế mà hỏi về tuổi tác, ông già đó nói: “là 50 tuổi”. Nói năng lần lược, nhân hỏi đến Lã Chân Nhân. Ông già đó bảo: “Ngày trước thấy Lã Chân Nhân tại Nam nhạc” mời ở lại vài ngày. Ông già ấy tự nói: “Gần đây đến Ba lăng thấy lão mộc tinh lưu lại trên vách tường chùa Bạch hạc 1 bài thơ”. Đến lúc giả biệt, ông già ấy nói cùng Quý Quán là: “Tôi nay đã 126 tuổi vậy”, ngày trước chợt gặp không dám nói thật vì sợ nghi ngờ. Nay đã đến lúc giả biệt, nói thật cũng không hại gì. Nay tôi trở lại Nam nhạc vậy”. Quý Quán nghó tính ông già đó cũng thuộc hạng Chân nhân vậy. <詞>Ẩn dật. Hoàng Phủ Hoàng Phủ tên là Hoán, tự là Trí Viễn, người xứ Khai phong. Bẩm tánh rỗng rang điềm đạm, có sức nhận biết thông mẫn thấy nhìn cao xa, những lúc rảnh rỗi việc học hành, lại khéo nghiền tinh Tam Huyền, biết mạng không phụ nên học làm Hoàng quang, đến thọ nghiệp tại cung Thái nhất ở Kinh đông, cử chỉ mạnh mẽ mà nghóa chưa rành. Khoảng đầu niên hiệu Chính Hòa (1111) thời Bắc Tống, triều đình phục hưng đạo học, tiến sinh đến chỉ dạy, qua năm sau (1112) cũng bày thi cử. Tích Ung đứng đầu, Thánh xét trình văn… kim đàn lang chẳng đến, xin đổi tự do, công hoạn dã trang, vân du tìm phỏng đến Tây lạc, gặp chí nhân Phùng Dã Nhân và thành đạt đạo yếu đó. Sau, đến Nam nhạc nương náu tạo Hội chân giám, Lăng hư đài, tư duy chân pháp. vua Huy Tông (Triệu Cát) ban chiếu vời đến triều đình ở liêu thượng só, cung Thái nhất. Sau đó lại xin trở về núi ở tại Nhữ thủy, ngồi mà thoát xác. Lại có Tương Phong Tử vốn dân ở Thiệu dương, bẩm tánh ngu xuẩn thẳng thắn, nói năng không kiên sợ, chẳng liên can việc người, hoặc có chút tỳ vết chẳng bó buộc bởi sang hèn cứ thẳng mặt tỏ bày đó. Chu du khắp Nam nhạc thấy đảnh núi cao chót vót, bèn phát ý muốn tu đó, cũng biết chỗ ăn xưa trước. bỗng một ngày nọ có Tiêu Phu kính cẩn khăn xanh mang vác củi mà giúp đó, nói rằng: “Ngàn muôn toan khổ mà ăn dùng chẳng chẳng cấp, cho ông một viên thuốc, nuốt uống đó hẳn sức lực gấp bội vậy”. Từ đó chỉ uống nước rượu mà thôi. Áo sam đều vất bỏ, nóng lạnh chẳng màng. Mọi người thường nói là “Phong Tử thường nằm ngược giữa đường thông, tuy với người có quyền thế oai vị cũng không khuất ngã, thuốc độc không thể làm hại, hổ lang chẳng thể làm tổn thương. Riêng đi một mình và tự nói năng, mọi người không thể lường biết. Mà ngược lại hay khéo biết tâm ý của người, mãi đến nay vẫn còn thấy đó, đã hơn 30 mà vẫn khí khái như xưa cũ. ” * Hoàng Phủ Thản. Gần đây có Hoàng Phủ Thản, tự là Lý Đạo, người xứ Tây thục, bẩm tánh thông minh mẫn đạt, lập hạnh thanh cao, đạo học gồm thông chẳng đồng bạn thường. Tinh thông vượt ngoài Lão Trang, rất rành về thuật số. Thường vân du khắp mân nga, phỏng tìm nơi tu trị của Thiền sư, gặp được Đường Chu Chân Nhân, thành đạy yếu pháp đó. Lại dùng khí thuật chữa trị cho người tật bệnh. Lại đem chữ nghóa kinh văn để chỉ bày, nói mọi sự tốt xấu của người. Hoặc sóng đảnh thừa ít, hoặc điểm họa cỏ, Chân Nhân có cật hỏi thì chỉ Đông họa Tây, nói Nam nói Bắc, họa phước không gì chẳng gồm đủ. Quanh co bái yết Bình đô, giẫm trải kinh chữ qua Động đình. Phàm những chỗ đến, gặp sự tận cùng hư phế đều được ân huệ. Đạo hạnh càng siêu tuyệt, tiếng tăm vang vọng đến triều đình. Năm Thiệu Hưng thứ 27 (1157) thời Bắc Tống, hoàng đế Cao Tông (Triệu Cấu) ban chiếu vời gọi đến cung quyết. Lúc vào đối đáp xứng hợp Thánh chỉ, vua rất vui mừng lễ đãi nồng hậu. Sau đó, xin trở lại Lô sơn, lập am ở dưới chân núi Bát vân để sắc tinh thần. Mùa thu năm Thiệu Hưng thứ 28 (1158) thời Bắc Tống, Thái thượng hoàng lại ban chiếu bảo ngự chế chiếu thư rằng: “Tiên sinh trong sạch nêu trội riêng ánh ngời, gá vết ngoài vật, vất bỏ trần cấu, ngâm vịnh ráng mây, tin thật đáng vui vậy. Mùa thu năm trước cùng cách biệt, triều phủ mong ngóng tròn năm, dấy lòng nghó nhớ hiểu lời, rong thần xa tít. Xét thanh thành gặp bạn ở Nguyên lãm, mây trắng bèn vô tâm đối với đế hương. Thu lạnh rất gần, không biết ngày cùng gặp. Nguyện sớm đúng lời thì cưỡi kình ngự khí, rành rỏi không khó. Đi thả dùng mây tương, dàn trải bày quế tử, thổi hương quán yến, siêu nhiên dưới gió, hỏi đạo cõi lòng rỗng rang, buộc tâm tưởng từ lắm vậy. Chuyện đây vì hỏi thự tiện ở gần càng bảo tồn thanh hư”. Sau đó lại khiến Tiên sinh giáng hương đến Nam nhạc. Đến năm Long Hưng thứ nhất (1163) thời Bắc Tống, Thái thượng hoàng dời lui ở cung Thọ Đức, lại ban chiếu vời gọi Tiên sinh, mỗi lúc hỏi đáp đạo yếu đều xứng hợp Thánh chỉ. Sau đó lại khiến Tiên sinh giáng hương đến Nam nhạc, kiêm sắc ngự thư 3 bộ kinh Hoàng đình, Đạo đức và Âm phù. Ngự chế ban chiếu thư rằng: “Tự lui ở cung riêng, thường ngày để nuôi thần dưỡng chỉ là sự nghó thấy phong thái thật thà, thân gần đàm nói, mong sớm mạng giá, ít đồng nhàn thích chuyên tin vâng nhanh dùng bày chỉ hoài”. vua lại bảo thư viện tiếp đãi chiếu, ghi tả thần sắc của Tiên sinh. Đích thân vua tán thán rằng: “Hoàng Phủ là bậc cao só, mặt mày ngang bằng tiên, dùng đạo để xây dựng đời, ai tính về năm tháng. Hạc lẻ trong đồng nội, mây trắng thoảng giữa trời, nhấc môi một lần cười, hợp hòa rất nhiều tự nhiên. ” (Chỉ 1 đoạn ấy cũng là việc lớn của giáo môn, nên ghi lại toàn bộ đó. Đại khái thâm tầm sâu mầu trách ẩn, mong bước du phương, tầm thầy học đạo, tâm chí phải thành kính. Bên ngoài mềm mỏng bên trong khoan thai, phàm chỗ gặp gỡ không gì chẳng ngầm phù hợp, thì biết chí đạo quả nhiên ở tại nơi ta. Đạo quả tại ta, cao qua Nam cung cũng chẳng phải hợp nghi ư. Nên điều gọi trước kia là muốn thăng Nam cung, trước phải qua Chu lăng vậy. Ở đời có lời đồn đãi là: “Chẳng qua Nam nhạc Âm bộ”, tin chẳng ngoa vậy. Nay thì đợi đến thời vận nhà Tống chúng ta buổi xương thạnh nên các hàng dị nhân, cao tăng ẩn só nối gót nhau mà nương náu cũng chẳng giảm thiểu so với xưa trước vậy!) 3. Nói về cổ tích. Nay, y cứ theo “chân cáo” nói là: “Người học đạo ở trong danh sơn ngũ nhạc có đến trăm vạn vị. Năm nay có những vị đắc đạo sinh lên trời, tên người như ghi riêng, hằng năm hằng tháng đều có người đi, như vậy không thể đều ghi đủ cả, nay chỉ nói sơ người đắc đạo nội trong 1 năm vậy. Có vị chẳng vui thích lên cảnh tiên mà sống lâu dài nơi ngũ nhạc danh sơn cũng chẳng thể nêu kể. Hoặc làm tiên quan, sứ giả cai quản danh sơn cũng lại có cả vài ngàn vị. ” Lại y cứ theo “Tư Mã Thiên Sư” nói là: “Đền thờ am cũ hang cốc hư hoại chỉ hơn 300 ngôi. Siêu vượt so với triều đại Hán Võ. Hưng thạnh tỏa sáng hơn thời tiền Đường. Những danh sơn khác không thể phỏng theo vậy. Há chẳng là linh tích của muôn xưa, di hóa của ngàn chân, đều hòa hợp với vận Nhâm dần (?), thảy đồng hoàng đế đó… Làm bài thơ rằng: “Chim khách thác tây một mái chèo Ánh trăng xa thiếu hồ Động đình Rất hận qua trước núi Hồi nhạn Trông núi bỏ nhà một chữ không. ” Gần đây từ sau ngũ quý, núi hơi cao lắng. Nay gặp triều đại thạnh xương, Đạo đạo hưng long. Những vị đến nương náu lạnh lùng vui thú đạm bạc thường luôn ở đó. Và các danh sơn khác cũng lại như vậy, há chẳng là đạo hóa đượm nhuần sắp trở lại thuần cổ ư? Mỗi lúc gặp 3 xuân, mọi người khắp 4 phương đến tham lễ rất đông. Các năm gần đây đạo hội càng thạnh, điềm ứng tốt lành hiện bày sáng tỏ. Đến như các bậc lọng mão xe hoa đều giáng khuất, các hàng áo vải áo giấy thảy dự tham. Nguyên vi phỏng hỏi cao thượng đến một lời nửa câu, tợ như có cảm thông, đền tại phía Nam của phần thủy mà chôn mất thiên hạ, há chẳng là chân tiên điểm bày, đạo hóa đượm kịp mà đến như vậy thay! NAM NHẠC TỔNG THẮNG TẬP QUYỂN HẠ (HẾT) --------------------------------------- <詞>LỜI BẠT Từ nhà tôi đến Hành sơn cách 200 dặm mà xa. Mỗi năm vào dịp tháng 08, thường vì tôn thân mà đến cầu nguyện, phồng chân dưới má gục đầu nhạc từ. Sau, lại sang cầu đảo, lên núi Chúc dung muốn làm 1 quyển sách ghi chép các thắng tích đó, nhưng vì bỏ sót núi cả lũ. Thái sử chỉ rẩ rõ nhưng lại vì sự ăn mặc nên rảo chạy chưa được rảnh rỗi. Và Tiên sinh Khâu Lũng đều sườn nhánh nhạc sơn, tùng tử tùng thu rất chẳng quên vậy men sườn núi Thái thì quân tử xưa trước còn lại mến thích, trường lưu nơi gởi huyệt mã tiên từ. Tôi làm thư viện chr giảng, do đó sưu tập thành pho, đề tên là “Đại Lãm”. Nhưng trải qua hơn 10 năm mà sách đó chưa thành, bởi núi kinh sông chỉ biên tập là khó, huống là bộ thư nhọc nhằn ư? Khoảnh khắc đang lường chuyển dời đến Hải châu. Nghe tập tục ở đó chất phác chính sự giản đơn nên có thừa thời gian, cuối cùng sách ấy thành tựu cũng chưa đáng biết, mà sinh Hành sơn thì chẳng phải Quy điều nối gót, nghó nhớ Diêu ma. Vì năm tháng khó thành vậy. Vừa lúc Tôn Uyên đến xem xét, lấy bộ “Nam nhạc tổng thắng tập” bản thời nhà Tống chỉ bày. Từ trước trước không có gỗ ván tốt, nhân đó gấp giao khắc để rộng lưu truyền. Tôi làm quan lại tại Giang nam hơn 10 năm, chẳng đặt riêng quê hương nước nhà, núi mây xa ngoài 2. 000 dặm, tức rừng suối dưới Đại sơn, chỗ đất xưa kia phụ só đặt nghiên từng chẳng được 1 lần bái quét, lại phỏng hỏi theo bè bạn. Thản được rút thân đén lúc nhàn rỗi, qua lại giữa khoảng Hành sơn Nhạc sơn, nhờ đó mà đã đính chính những khuyết sót trong “Đại Lãm”, cũng sắp thành tập trao cho khoáng chí tham xét mà thành ghe tải của Hành sơn vậy và cũng là lòng ước muốn tang tử tùng thông của tôi được toại nguyện, và biết bao nhiêu điều không thể thảy đều được vậy! Giao khắc duyên khởi, rõ ràng như trong Tôn Tử. Và đó thành thực kính giữ theo bản thời nhà Tống xưa trước vậy. Sau ngày rằm tháng giêng năm Nhâm tuất. Thiện Hóa, Đường Trọng Miện kính đề bạt. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 190