<經 id="n2084">TAM BẢO CẢM ỨNG LƯỢC YẾU LỤC (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TAM BẢO CẢM ỨNG LƯỢC YẾU LỤC Thích tử Phi Trược ghi tập. <詞>LỜI TỰA Tam bảo cảm ứng yếu lược tức lấy vị cảm ứng của Linh cảm ứng là thuộc Phật Bảo, cảm ứng của Tôn Kinh là thuộc Pháp Bảo, và cảm ứng của Bồ-tát là thuộc Tăng Bảo. Thật là chủ chốt của trong đời mạt Phật uế trược, là khuôn phép của sự đoạn ác tu thiện. Phàm, đức tin là sự tích tụ công đức nguồn đạo. Công hạnh là nền tảng của yếu lộ giải thoát. Đạo thấu đạt cả ba ngàn, khuyên răn người sau kính tin, giáo trùm khắp trăm ức, chỉ bày vết tích cho thời tượng pháp. Nay lược nêu bày cương yếu, thô thiển nêu dẫn các điềm kì đặc. Duyên này nếu bị rơi lạc thì tương lai không u cứ. Nên chọn làm ba tụ, phân thành ba quyển, để khiến thấy hiếu vậy. --------------------------------- TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC <詞>PHẬT BẢO TỤ <卷>QUYỂN THƯỢNG MỤC LỤC Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Thích-ca bằng vàng và bằng gỗ của vua Ưu điền và vua Ba-tư-nặc tu tạo. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Thích-ca do vua Cảnh Thắng đắp họa. Cảm ứng của Linh tượng Đức Phật Thích-ca đầu tiên tại đất Hán (Trung Hoa). Cảm ứng của Thuî tướng Đức Phật Thích-ca do vua Võ Đế thời Nam Lương phụng thỉnh. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Thích-ca do Sa-môn Pháp khánh ở chùa ngưng Quán tu tạo chưa hoàn tất. Cảm ứng của vợ Lý Thái An vì Lý Thái An tu tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca mà được cứu thoát chết. Cảm ứng của Sa-môn Thích Huệ Kính ở chùa Ngộ chân tu tạo Tôn tượng đức Phật Thích-ca và Phật A Di Đà mà được thấy tưởng Tịnh độ. Cảm ứng của hai người nghèo khổ ở nước Kiền Đà La mỗi người cúng một tiền vàng cùng đắp họa một Tôn tượng Phật. Cảm ứng của Ngu an Lương ở thời tiền Đường hổ trợ tu tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca mà được thoát khỏi khổ. Cảm ứng của Sa-môn Đạt-ma-Lưu-chi ở xứ Bắc Ấn Độ cảm được đức Phật Thích-ca. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà do vị Bồ-tát chứng đắc Ngũ thông ở chùa Kê Đầu Ma cầu thỉnh đồ tả. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật vô lượng Thọ do Sa-môn Thích Huệ Hải ở chùa An Lạc thời nhà Tuỳ đồ tả. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà cao ba tấc của Sa-môn Đạo Dụ ở thời nhà Tuỳ. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà do Trương nguyên Thọ ở Tinh Châu vì song thân qua đời mà tu tạo. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà do Sa-môn Thích Đạo Như vì muốn cứu chúng sinh trong ba đường khổ mà tu tạo. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Vô lượng Thọ cao trượng sáu do Sa-môn Thích Tăng cao tu tạo ở thời tiền Tống. Cảm ứng do Đức Phật A Di Đà hóa làm chim Oanh Vũ để dẫn tiếp người nước An Tức. Cảm ứng do Đức Phật A Di Đà hóa làm thân cả lớn dần tiếp ngư dân vớt bắt. Cảm ứng của người phụ nữ Kính tin xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Cảm ứng của xưng niệm vãng sinh. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Sơ do Sa-môn Thích Tuấn Huệ tu tạo. Cảm ứng của vị Bà-la-môn ở Thiên trúc tu tạo Tôn tượng Đức Phật Dược Sư mà người con được kéo dài tuổi thọ năm mươi năm. cảm ứng của Linh tượng Đức Phật Dược Sư do một người giòng họ cao quý thỉnh mà được giàu sang. Cảm ứng của người nghèo khổ dùng một và tiền Đồng cúng dường Tôn tượng Đức Phật Dược Sư mà được giàu sang. Cảm ứng của một người phá giới xung niệm danh hiêu Phật Dược Sư mà giới Phật được trở lại thanh tịnh. Cảm ứng của Tôn tượng đức Phật Dược Sư do HaÏ Hầu Quân tu tạo mà được thoát khỏi tội. Cảm ứng do Đức Dược Sư Như Lai cứu khổ sản nạn. Cảm ứng của thân thuộc trong gia đình Tư mã ở Ôn Châu nơi trong một ngày tu tạo được bảy Tôn tượng đức Phật Dược Sư. Cảm ứng của người tu tạo Tôn tượng đức Phật Tỳ Lô Xá Na mà được phủi trừ chương nạn. Cảm ứng của Thánh Vô Động Tôn tữ xưng Vô giá Đà Bà. Cảm ứng của Sa-môn Thích HaØm chiếu đồ tả ngàn Tôn tượng Phật. Cảm ứng của Thai Tạng mạn trà La tương truyền. Cảm ứng của Kim cang giới Mạn Đà LA truyền hoằng. Cảm ứng của Sự kiến tạo Kim cang giới Quán Đảng Đạo tràng cầu mưa mà được. Cảm ứng của sự lễ bái Kim cang giới Đại mạn Đà La Đồ. Cảm ứng của sự xưng niệm các Tôn tượng ở Thá Tạng Đại mạn Đà La. Cảm ứng của Xá-Lợi-Phất ở đời vua minh Đế thời Hậu Hán. Cảm ứng khi thời nhà Ngô bao vây chùa cấm bắt chư Tăng mà Xá-Lợi hiện nổi toả phóng ánh sáng trên Bình bát. Cảm ứng của Đường A Đắc kiến tạo tháp được phóng thả. Cảm ứng của sự Đầu chưa đến chộ hành hình mà dao bén tự gãy mất. Cảm ứng của thần miếu dâng cúng vải lụa quyên để. Sa-môn An thế cao Kiến tạo Bảo Tháp mà được thoát khỏi thân trăn. Cảm ứng của Trưởng giả Tu Đạt tính do đất xây dựng Tịnh xá. Cảm ứng nói chỗ đất xây dựng tinh xá sau khi Đức Phật diệt độ. Cảm ứng của vị Sa Di dùng gậy trượng mở rộng tịnh xá làm vách phên bằng cây gỗ mà được kéo dài thọ mạng. Cảm ứng của sự phẩy quét sân tịnh xá mà được sinh lên cõi trời. Cảm ứng của chùa sự nơi chỗ đất vườn nhà cũ của cha mẹ mà Kiến tạo Tịnh xá. Cảm ứng của chùa ở nước Thất La-phạt-tất-Để che phủ đền thờ lớn. Cảm ứng của đức bé nghèo khổ dùng lá cây đùa vui là chùa mà được kéo dài thọ mạng. Cảm ứng của vị Tỳ-kheo đắp vá lổ hổng vách tường chùa mà được kéo dài thọ mạng. Cảm ứng của vua nước Kim Địa tu sửa chùa cổ mà được kéo dài thọ mạng. ***** Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Thích-ca bằng vàng và bằng gỗ do vua Ưu điền và vua Ba-tư-nặc tu tạo. (Rút từ kinh A-hàm Quán Phật tạo tượng Du lịch Kỷ luật và Tây quốc truyện, chỉ, cáo, v.v…) Sau khi thành tựu đạo quả tám năm, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai nghó suy muốn báo đáp thâm ân của Thánh mẫu Ma Da, bèn từ chùa Kỳ hoàn, lên đến cung trời Đao-lợi, ở trong Thiện Pháp Đường. Đức Phật ngồi kiết già trên Kim Thạch. Khi đó, Thánh mầu Ma Da toả phóng hai luồng sữa đượm nhuần vào môi Đức Thế Tôn, phô bày duyên mẹ con. Đức Phật vì Thánh mẫu mà thuyết pháp. Bấy giờ bốn chúng đệ tử Phật ở nhân gian không thấy đức Như Lai, nêu sinh lòng khát ngưỡng buồn rầu như mắc phải chịu tang cha mẹ, tợ mũi tên bắn găm vào tim, bèn cùng nhau sang đến chỗ Đức Thế Tôn, họ càng gấp bội sự buồn thương, chẳng thể tự cản ngăn, liền hỏi cùng Tôn giả A-nan rằng: “Ngày nay, Đức Như Lai hiện ở đâu?” Ngài A-nan đáp: “Tôi cũng không biết!” Hai vua nghó muốn được thấy Đức Như Lai, bèn cảm mắc khổ hoạn. Khi đó, vua Ưu Điền ban sắc mời gọi tất cả các bậc thầy thợ tài giỏi ở trong cõi nước lại mà bảo rằng: “Nay ta muốn tạo Tôn tượng đức Phật”. Những người thợ khéo giỏi tâu cùng vua rằng: “ Chúng tôi không thể tạo tác Diệu tướng của Đức Phật. Giả sử như thời Tỳ-thủ-yết-ma mà có tạo tác cũng không thể tương tợ đức Như Lai. Nếu chúng tôi có vâng mạng lệnh thì chỉ có thể mô phỏng tướng một phần nhỏ trên búi tóc ngọc hào. Ngoài ra, các thứ tướng hảo quang minh oai đức khó kịp. Vậy ai có khả năng tạo tác ư? Lúc Đức Thế Tôn đến Pháp hội, với hình tượng tạo tác như có sai lầm thì thanh danh chúng tôi thảy đều mất cả.” Họ trộm cùng nhau bàn tính không dám tạo tác. Họ lại tâu cùng vua rằng: “Nay tạo Tôn tượng nên dùng toàn gỗ chiêu Đàn thuần sắc tía. Văn lý thể chất thãy đều kín chắc. Chỉ là hình tượng Tôn tượng là đứng hay ngồi, cao thấp như thế nào?” vua đem việc ấy hỏi các Quan thần. Có Quan có trí tuệ tâu vua rằng: “Nên tạo Tôn tượng ngồi, vì tất cả chư Phật chứng đắc đạo quả Bồ-đề, chuyển vận bánh xe chánh pháp, hiện các thần biến, làm mọi Phật sự thảy đều ngồi cà. Nên tạo Tôn tượng ngồi Kiết già trên tòa sư tử”. Khi ấy trời Tỳ-thủ- yết-ma biến hóa thân làm người thợ mang các dụng cụ khắc chạm đến nơi cửa Thánh, tâu vua rằng: “Nay tôi muốn vì Đại Vương tạo tác Tôn tượng Phật”. Trong tâm vua rất mừng, cùng quan thần làm chủ kho tàng đến trong kho tàng chọn lấy gỗ hương, vua dùng vai vác mang cùng nâng đở, bảo cùng người thợ rằng: “Nhân giả vì tạo Tôn tượng, cần nên tương tợ cùng hình tượng Đức Như Lai vậy”. Khi đó, Tôn giả Đại Mục- kiền-liên cầu thỉnh Thần lực của Phật, sang cung trời đồ họa hình tướng rồi trở về, nắm búa rìu phá gỗ, âm thanh phá gỗ vang vọng lên đến cùng trời Đao-lợi, đến pháp hội nơi chỗ Đức Phật đang giảng pháp. Do vì sức thần của Phật nên âm thanh ấy vang khắp mọi nơi, khiến các chúng sinh nghe được, tội cấu đều tiêu trừ, như người mù được mắt sáng, người tai điếc lại nghe được, người câm ngọng lại nói được, kẻ xấu xa được đoan chánh, kẻ nghèo khổ được phước lợi. Cho đến tất cả chúng sinh trong ba đường đều lìa khổ được vui. Tất cả đều được lợi ích chưa từng có, và thảy đều hiệu khởi. Khi ấy, người thợ trởi chưa hết một ngày mà tạo tượng hoàn thành, cao bảy thước, hoặc có thuyết nói cao năm thước, bởi tuỳ căn cơ nên sự thẩy chẳng đồng. Mặt, mắt và tay chân Tôn tượng thảy đều sắc màu vàng tía. vua trông thấy tướng hảo, tâm liền khởi sinh tịnh tín. Chứng đắc pháp nhẫn nhu thuận, nghiệp chướng phiền não thảy đều tiêu trừ, chỉ trừ đã từng đối với Thánh nhân khởi tạo nghiệp ác ngữ. Khi đó, vua Ba-tư-nặc lại mời gọi tất cả các thợ khéo giỏi trong nước lại, muốn tạo tác Tôn tượng đức Phật, mà sinh khời ý niệm rằng: “Hình thể Đức Như Lai chẳng như thuần vàng thật”. Liền dùng vàng Tử ma mà tạo Tôn tượng cao năm thước. Từ đó trong cõi Diêm phù đề mới có hai Tôn tượng Đức Như Lai ấy. Qua khỏi mùa hạ sau chín mười ngày rồi, Đức Như Lai bảo cùng bổn chúng rằng: “Bảy ngày sau ta sẽ xuống cõi Diêm phù Đề đến bên ao hồ nước Tăng-già-thi”. Khi đó, vua trời bảo cùng trời tự tại rằng: “Từ đảnh núi Tu Di đến nơi ao hồ nước nên làm ba con đường thẳng thuần bằng vàng, bạc và thủy tinh”. Hoặc có thuyết làm bằng đường đất, hoặc có thuyết nói do trời Tịnh cư làm đường ấy. Đức Như Lai đi trên đường vàng mà xuống. Khi đó, năm vị vua đồng sang đến chỗ Đức Phật. Trong đó, vua Ba-tư-nặc ở nước Già Thi, vua Ưu Điền ở nước Bạt Ta, chủ của nhân dân Ngũ Đô là vua Aùc sinh. chủ ở Nam Hải là vua Đà Diên, và vua Bình Sa ở nước Ma-kiệt-đà đem cả đầu mặt đảnh lễ chân Đức Phật. Khi đó, vua Ưu Điền dùng đảnh đầu đội Tôn tượng Phật và các thứ ngon lành thượng vị khác lạ đi đến nơi chỗ Đức Phật mà dâng cúng. Khi ấy, Tôn tượng Đức Phật bằng gỗ từ tòa đứng dậy như Đức Phật hiện sống chân bước giữa hư không, dưới chân mưu hoa, tỏa phóng ánh sáng đến nghinh đón Đức Phật, chấp tay xoa tay tác lễ đức Phật có phần ít tương tợ Đức Phật, mà nói kệ rằng: “Phật tại trời Đao-lợi Tiếng người thợ tạo tượng Chúng trời tam thập Tam Người đời sau tạo tượng Lúc vì mẹ giảng pháp Vang đến Thiện pháp đường Đồng âm đều tuỳ hỷ, Được vô lượng Thắng phước” Khi đó, Đức Thế Tôn cũng quỳ dài chấp tay hướng về Tôn tượng ở giữa không trung, có trăm ngàn hóa Phật cũng đều chấp tay. Tự thân Tôn tượng ấy cúi thấp đảnh đầu, Đức Thế Tôn thân gần xoa đảnh mà dự ghi rằng: ” Sau khi Tôi diệt độ ngoài ngàn năm, sẽ ờ tại cõi này, vì các hàng trời người mà làm điều lợi ích lớn. Với các Đệ tử của ta, ta đều giao phó người. Nếu có chúng sinh sau khi Phật diệt độ tu tạo Tôn tượng, dùng các thứ phan hoa hương đèn mang đến cúng dường. Người ấy ở đời sau ắc được thấy Phật, ra khỏi khổ sinh tử.” Lúc ấy, vua Ưu điền bạch cùng Đức Thế Tôn rằng: “Trước lúc Đức Phật diệt độ, người tu tạo Tôn tượng còn tại thế chăng?” Đức Phật bảo rằng: “Ta dùng Phật Nhãn xem khắp mười phương, sau khi cá Đức Phật diệt độ, những người tu tạo Tôn tượng đều sinh trước chư Phật ở mười phương. Không có một người còn ở tại sinh tử, chỉ một người tu tạo Tôn tượng Bồ-tát nên còn ở lại nơi đời, đó là vua Bình Sa vậy.” Khi ấy Tôn tượng Phật bằng gỗ bach cùng Đức Phật rằng:”Đức Thế Tôn bước đi trước, có thể vào Tịnh xá”. Đức Thế Tôn cũng bảo Tôn tượng rằng: “Thôi, thôi, chẳng cần nói, Duyên ta sắp hết, sự diệt độ không còn lâu. Người nên ở lại Thế gian lâu dài để làm lợi ích cho chúng sinh. Ta nhập diệt trước, nếu nhập diệt sau, mọi người sinh khởi khinh mạn vậy. Vài ba phen đối đáp qua lại như thế, Tôn tượng bèn tiến trước trở lại nguyên vị. Khi đó, Đức Thế Tôn tự dời vào trong tinh xá nhỏ ở bên cạnh chùa, ở khác chỗ với Tôn tượng, cùng cách vài mươi bữa. vua Ưu Điền vui mừng chẳng thể tự ngưng nghỉ. Khi ấy năm vị vua bạch cùng Đức Thế Tôn rằng: “Nên tạo lập chùa thần như thế nào?” Đức Thế Tôn bèn duổi cánh tay phải, từ trong đất lưu xuất chùa Phật Ca Diếp, lấy đó làm pháp. Lúc đó, năm vị vua liền đến tại chỗ ấy, tạo dựng chùa thần lớn để an trí Tôn tượng đó mà trở về v.v… Cảm ứng của Linh Tượng Đức Phật Thích-ca do vua Cảnh Thắng đắp họa. (Rút từ Tỳ-nại-da luật văn) Xưa kia, khi Đức Phật ở tại Trúc Lâm, bấy giờ trong Nam Thiện Bộ Châu, có hai Thánh lớn. Một Thánh tên là Hoa tử và một Thánh tên là Thắng Aâm. Trong hai Thánh ấy đắp đổi thay nhau mọi sự suy thạnh. Lúc ấy, nhân dân ở thành Thắng Aâm đang giàu có hưng thạnh. vua ở thành ấy là Tiên Đạo, dùng chánh pháp để trị vì đất nước. Không có các thứ oán đói bệnh khổ, ngủ cốc đều được tốt tươi. Phu nhân của vua tên là Đảnh Kế. Có hai vị Đại thần tên là lợi ích và Trừ Hoạn. Khi ấy, vua ở Thành Vương Xá tên là Cảnh Thắng, phu nhân tên là Thắng Thân, Thái tử tên là Vị sinh oán, Đại thần tên là Hành Vũ. Bấy giờ, vua tiên Đạo nhóm tập Đại hội triều đình, vua hỏi mọi người rằng: “Có nước nào giàu có an vui tương tợ như nước ta chăng?” Khi đó có người dấy khác ở nước Ma-kiệt-đà tâu cùng vua rằng: “Ở phương Đông có thành Vương Xá, nước ấy tương tợ như nước nhà của vua đây vậy.” vua Tuên Đạo nghe thế bèn sinh tâm ái niệm đối với vua Cảnh Thắng, nên hỏi quan Đại thần rằng: “ Ở nước ấy thiếu thốn vật gì?” Quan Đại thần đáp:”ở nước ấy không có vật báu”. Khi ấy, vua Tiên Đạo đem các vật báu kỳ diệu đựng đầy trong hòm vàng, và ban sắc thư sai sứ đến dâng tặng vua Cảnh Thắng. vua cảnh Thắng đọc xem thư và nghe Quốc tín, tâm rất hoan hỷ hỏi rằng:”Ở nước ấy thiếu thốn vật gì?” Mọi người đáp: “Ở nước ấy không có bông vải đẹp”. vua liền đem vải bông đẹp làm ra từ trong nước đựng đầy rương tráp, chẩn biết theo việc trên báo đáp dâng tặng lại vua Tiên Đạo và đưa thư đến vua Tiên Đạo ở thành Thắng Âm. vua Tiên Đạo trông thấy rất vui mừng hỏi kẻ sứ rằng: “Hình tướng của vua Cảnh Thắng như thế nào?” Kẻ sứ đáp rằng” Hình tướng của vua cao lớn, có phần tướng tợ như Đại Vương, tánh hạnh hùng mạnh, tự thân xông ra chinh chiến”. vua Tiên Đạo liền y theo lượng mà tạo áo giáp thượng phục có năm Đức để sai kẻ sứ đưa đến dâng tặng. Một là, lúc thời tiết nóng mặc vào liền được mát lạnh Hai là, đao đâm chém không thủng Ba là, tên bắn không xuyên lủng Bốn là, tránh được các độc hại Năm là, hay toả phát ánh sáng. Khi áo giáp làm xong, vua liền ban sắc thư sai sứ mang đến dâng tặng vua Cảnh Thắng. vua Cảnh Thắng đọc thư xong xem áo giáp, trong lòng khởi sinh hiếm có, chuẩn lượng trị giá bằng mười ức tiền vàng, nên liền lo nghó rằng: “Nước ta không có các thứ này, biết lấy gì để đáp trả ư?” Khi đó, Đại thần Hành Vũ thấy vua lo buồn hiện bày trên sắc mặt nên hỏi nguyên do. vua Cảnh Thắng đem sự việc ấy đáp đủ. Đại thần nói:’” vua nước kia chỉ tặng một chiếc áo giáp quý báu. Còn trong nước của Đại Vương đây có Phật. Phật là diệu bảo trong loài người, khắp mười phương không có gì sánh bằng vậy”. vua Cảnh Thắng nói: “Thật là việc ấy nhưng muốn phải làm thế nào?” Đại thần nói: “Nên đắp họa ảnh tượng Đức Thế Tôn trên vải bông đẹp, rồi sai sứ đưa dâng tặng” vua Cảnh Thắng nói: “Nếu vậy thì nên bạch cùng Đức Phật “Khi ấy, vua bèn đem sự việc ấy bạch cùng Đức Phật, Phật bảo: “Lành thay! Ý nghó hay khéo. nên đắp họa một Tôn tượng Phật để hiến tặng vua kia. Với phương thức: trước tiên đắp họa Tôn tượng đã, phía dưới Tôn tượng ghi viết ba pháp Quy y, tiếp theo viết năm họa xứ-tức là ngũ giới, tiếp nữa viết pháp mười hai nhân duyên lưu chuyển và hoàn diệt. và ở phía trên viết hai bài kệ tụng rằng: “Ngươi nếu cầu ra khỏi Hay dứt trừ sinh tử Đối với pháp Luật này Hay cạn biển sinh tử Tinh cần theo Phật dạy Như voi xô nhà cỏ Thường tu không lười biếng Sẽ hết ngăn mé khổ” Vua Cảnh Thắng viết xong trao cho kẻ sứ và bảo rằng: “Khi ngươi mang thư và Tôn tượng đến nước ấy, nên ở chỗ rộng thoáng, treo các thứ phan lọng, dàn bày hương hoa thiết đặt trang nghiêm, mới mở Tôn tượng ấy. Nếu có người hỏi đó là vật gì thì nên trả lời với họ là: “Đó là hình tượng Đức Thế Tôn. Người đã xả bỏ Vương vị thành Đẳng Chánh giác. Và với chữ nghóa phía dưới lần lược nên giải đáp đó” Khi ấy vua Cảnh Thắng vui mừng mà trở về, tạo tác Tôn tượng và thư đúng như hình trạng rồi xếp đặt trong hòm bằng vàng bạc. Ban sắc thư sai sứ đưa đến dâng tặng vua Tiên Đạo. vua Tiên Đạo mở đọc xem thư rồi tức giận bảo Quan Đại thần rằng: “Chưa biết ở nước ấy (Vương Xá) có thư và vật gì thắng diệu kỳ đặc, mà trong thư viết là nêu cách chừng hai trạm sửa sang đường sá, trang sức thành hoàng, treo bày các thứ hoa lọng tràng phan, nhóm tập dân chúng, và bảo ta tự dẫn đầu bốn binh ra nghinh tiếp. Tiên Đạo ta xem hình chú này thấy trong ý muốn khinh thường, các ngươi nên sắp đặt bốn binh, ta sẽ tự thân ra đến để đánh diệt nước vua Kiệt Đà”. Quan Đại thần tâu rằng: “Từng nghe vua ấy rất độ lượng, chẳng có sự xem thường Đại Vương, nay nên thuận theo lời ấy.” vua Tiên Đạo bèn y như thư thiết bày các thứ cúng dường, dẫn đến nơi tháp ấp, mở bày Tôn tượng đắp họa, đứng mà chiêm ngưỡng. Khi ấy, các hàng Thương nhân trong nước cùng nhóm lại, khác miệng đồng lời xưng niệm: “Nam mô Phật Đà Da v. v…” vua nghe mà lông tóc khắp mình mẩy đều dựng đứng, bèn lần lược hỏi về các nghóa ấy. Các thương nhân đều trả lời đầy đủ, vua đọc tụng văn ấy rồi bèn trở về lại cung nội, y cứ theo văn mà suy nghó. Đến sáng hôm sau chẳng lìa khỏi tòa, vua chứng đắc sơ quả, trong tâm rất vui mừng nói lời kệ rằng: “Kính lạy Đại y Vương Thế Tôn tuy ở xa Khéo chữa trị tâm bệnh Hay khiến ban mắt sáng” Và liền viết thư báo cùng vua Cảnh Thắng rằng: “Tôi nhờ ân của Nhân giả nên được thấy Chân Đế. Tôi Muốn được thấy chúng Tỳ-kheo, xin nên ban đến đây”. vua Cảnh Thắng đọc thư xong rồi, bạch cùng Đức Phật. Đức Phật quan xét biết Tôn giả Ca-Đa-Diễn-na có dibằnguyên với nước ấy, nên bảo sang đó để hoằng truyền giáo pháp. khi ấy, năm trăm vị Tỳ-kheo sang đến Thánh Thắng Âm. Và vua Cảnh Thắng báo cùng vua Tiên Đạo rằng: “Nhân tỏ ngộ được pháp duyên sinh, chứng đắc sơ quả, muốn cùng được thấy chúng Tỳ-kheo. Đức Phật bảo cho năm trăm vị Tỳ-kheo, xa khởi cầu phước, Nhân giả nên tự đến nghinh đón. Tạo dựng một ngôi chùa lớn, làm năm trăm gian phòng, được phước vô lượng”. vua Tiên Đạo đọc thư rồi bèn y theo lời ấy mà thực hành. Tôn giả Ca-Đa-Diễn-Na tuỳ có duyên mà thuyết pháp, nên hoặc có vị chứng đắc A-la-hán quả, cho đến phát khởi thú hưởng đại thừa. Bấy giờ các người nữ trong cung cầu thỉnh Tôn giả, nhưng Tôn giả Ca-Đa-Diễn-Na không chấp thuận đến trong chỗ người nữ để giảng pháp, mà bảo có các vị Tỳ-kheo có thể vì phái nữ mà giảng pháp. vua Tiên Đạo bèn gởi thư báo cùng vua Cảnh Thắng. vua Cảnh Thắng đem sự tình bạch Phật. Đức Phật bảo Thế La v.v… năm trăm vị thọ giáo sang đó vì giảng pháp. Đến lúc phu nhân mạng chung sinh lên cõi trời,bèn xuống cảnh giác cùng ctd. vua Tiên Đạo buồn vui lẫn lộn tự suy nghó rằng: “Ta nên lập Thái tử Đảnh Kế lên làm vua, còn ta xuất gia”. và đưa trạng văn bảo cùng hai vị Đại thần. hai vị Đại thần nghe thế rồi rơi lệ, bảo cùng Thái Tử Đảnh Kế. Thái Tử nghe xong buồn khóc. vua Tiên Đạo bèn đánh trống tuyên lện bảo cùng dân chúng trong nước. Khi ấy, những người đội ơn vua đều buồn khóc, phần nhiều xuất thế của cải vật báu thiết lập pháp hội vô giá. vua dẫn theo một vị thị giả bước bộ mà đi, đến thành Vương Xá. Thái Tử và dân chúng trong nước đều theo đến thành Vương Xá. Vào trong một khu vườn, bảo cùng vua Cảnh Thắng. vua Cảnh Thắng nghe xong, bèn sửa sang đường sá, dẫn bốn binh đến chỗ vua Tiên Đạo cùng uỷ an thăm hỏi. vua cưởi một con ngựa vào thành hỏi han về nguyên do, vua Tiên Đạo đáp: “Đến nơi chỗ Phật, muốn cầu xin xuất gia”. vua Cảnh Thắng bèn cùng đi đến nơi Phật, Đức Phật bảo “ Lành thay!” Râu tóc của vua Tiên Đạo đều rơi rụng, tướng mạo như vị Tỳ-kheo đã trăm tuổi hạ.vua Cảnh Thắng đảnh lễ rồi trở về. Tỳ-kheo Tiên Đạo nương theo Đại chúng mà sống an lạc vậy(Lấy ý rút lược). Cảm ứng của Linh tượng Đức Phật Thích-ca đầu tiên tại đất Hán. (Trung Hoa) (Rút từ văn bản Danh Vương Tuyển, Minh Tường Ký v.v…) Vua Minh Đế (Lưu Trung 58-76) thời Đông Hán mộng thấy Thần nhân thân hình cao hai trượng sắc màu vàng ròng. Nơi cổ đeo vầng nhật quang, bèn đem hỏi Quần thần. Có vị đáp rằng: “Ở phương tây có Thần hiệu là Phật, hình tướng như là điềm mộng của Bệ hạ vậy”, Khi ấy, vua sai sứ đi Thiên Trúc ghi tả kik điển, đồ họa Tôn tượng mang về tại Trung hạ (Trung Hoa), từ nhà vua cho đến các bậc Vương hầu thảy đều kính thờ đó. Người nghe khi chết tinh thần chẳng diệt mất, không ai chẳng lo sợ tự mất. Mới đầu sứ giả Thái Âm dẫn Sa-môn ca Diếp Ma Đằng từ Tây vực và mang Tôn tượng Đức Phật Thích-ca do vua Ưu Điền đắp họa về, đúng như sự mộng thấy của vua, vua bèn sai bảo thợ đắp họa làm nên vài bản tôn trí tại Thanh Lương Đài ở phía nam cung điện và trên Hiển Tiết thọ Lăng ở cao Dương môn để ccg. Lại đến nơi vách tường chùa Bạch Mã đắp họa Tôn tượng, ngàn xe muôn ngựa nhiểu quanh Tháp ba vòng và nhiểu quanh Tôn tượng cũng như vậy, đúng như pháp mà truyền tải khắp nơi. Cảm ứng của Thuî Tướng Đức Phật Thích-ca do vua Võ Đế thời Nam Lượng phụng thỉnh. Ngày mồng tám tháng giêng năm Thiên giám thứ nhất (502) thời nam Lương, vua Võ Đế (Tiêu Diễn) mộng thấy Tôn tượng bằng gỗ Chiên Đàn đưa vào nước Trung Hoa, nhân đó, vua liền ban chíếu chiêu mộ người đi nghinh đón. Căn cứ theo “ Phật du Thiên Trúc Ký” và hai quyển Kinh “Ưu Điền Vương” thì Đức Phật lên cung trời Đao-lợi trọn một mùa Hạ, vì Thánh Mẫu ma Da mà giảng pháp, tất cả vua tôi muốn được trông thấy Phật hiện ở tại nước nhà nên vua sai ba mươi hai người thợ khéo giỏi, và mang gỗ Chiên Đàn, thỉnh cầu thần lực của Tôn giả Mục-kiền-liên chuyển vận đưa lên cung trời khiến đồ họa dung tướng Đức Phật. Khi đã như ý nguyện đồ họa xong trở về tôn trí nơi tòa cao năm thước tại chùa Kỳ Viên, cúng dường mãi đến ngày nay. vua Võ Đế muốn nghinh thỉnh Tôn tượng đó. Bấy giờ, Quyết Thắng tướng quân, Hác Kiên Hoa phụ v.v… gồm tám mươi người ứng chiếu chiêu mộ mang trrạng văn sang cầu thỉnh, vua nước Xá Vệ bảo rằng: “Tôn tượng trên trời trong đây không thể nghinh đưa đến xứ biên địa”. Mới sai bảo ba mươi hai người thợ khắc chạm một tướng của Tôn tượng bằng gỗ Đàn hương, từ giờ mão bắt đầu ra tay mãi đến giờ ngọ thì hoàn tất, tướng hảo đầy đủ, mà trên đảnh tôn tượng ấy toả phóng ánh sáng tuông rải mưa nhỏ và có múi hương thơm khác lạ. Nên trong Kinh Ưu Điền Vương nói rằng: “Sau khi chân thân đã ẩn (Tức là Đức Phật đã diệt độ) do từ hai tượng hiện đều vì chúng sinh làm mọi sự lợi ích sâu dày” là ấy vậy. Hác Khiên v.v… mang thỉnh Tôn tượng thứ hai đi vài muôn dặm trải qua khắp nơi, khó thể nói đầy đủ, lại trải qua biển lớn lăn lộn giữa sóng gió, tuỳ theo cơn sóng đứa lên đến núi, lương thực lại hết, những người dẫn theo và nghinh đưa phần nhiều bị hại mất mác, lại gặp phải thú dữ. Mọi người mới nhất tâm niệm, nghe ở phía sau Tôn tượng có tiếng của áo giáp mũ trụ. Lại nghe có tiếng chuông vang, ở bên cạnh đỉnh núi có vị Tăng đoan toạ dưới gốc cây. Hác Khiên bèn mang Tôn tượng đến đặt trước mặt, vị tăng ấy đứng dậy đảnh lễ Tôn tượng. Hác Khiên v.v… đảnh lễ vị Tăng ấy. Vị Tăng ấy đưa cho nước tắm rửa Khiến uống, mọi người đều được no đủ. Vị tăng ấy bảo: “Tôn tượng này tên là Tam Miệu Tam Phật Đà. vua Kim Kỳ la tự theo đến đó làm Phật sự lớn”. Nói xong bổng chốc biến mất. Đêm đó mọi người đều mộng thấy thần, đến sáng cùng nhau đồ họa lại. Đến ngày mồng năm Thánh tư năm Thiên giám thứ mười (511), Hác Khiên v.v… về đến Dương Đô. vua Võ Đế cùng trăm quan đi ra đến bốn mươi dặm nghinh đón Tôn tượng về Điện Thái Cực, kiến laập trai hội, độ người, đại xá nạp giết, chỉ là cung Dao dự v.v… đều làm tháp Hoa sen, vua Võ Đế cho đó mà ăn dùng rau quả đoạn dục. Đến tháng năm năm Đại Thông thứ ba (529 1) thời Nam Lương, vua Võ Đế băng hà, Tương Đông Vương lên ngôi tại Giang Lăng lấy hiệu là “Vô Thừa Toạ”, sai người đến Dương Đô nghinh thỉnh Tôn tượng đưa lên Kinh châu, tôn trí tại Điện Thừa Quang để cúng dường. Đến năm Đại Định thứ tám2 thời Hậu Lương, vua Tuyên Đế (Tiêu Sát) tạo dưng chùa Đại Minh tại Tỉng Lăng ở phía bắc thành, mới nghinh thỉnh Tôn tượng ấy về đó để thờ phụng, mãi đến nay có lắm sự ghi chép lưu truyền v.v…. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Thích-ca do Sa-môn Thích Pháp Khánh ở chùa Ngưng Quán tu tạo chưa hoàn tất. (Rút truyện). Năm Khai Hoàng thứ ba (583) thời nhà Tuỳ, Sa-môn Thích Pháp ở chùa Ngưng Quán dùng sợi gai vải tu tạo một Tôn tượng đứng Đức Phật Thích-ca cao một trượng sáu thước, công việc tạo tượng chưa hoàn tất, Pháp Khánh bèn tịch. ngày đó lại có Sa-môn Đại Trí ở chùa Bảo Xướng cũng tịch, ba ngày sau sống lại bèn đến chúng Tăng trong chùa mà kể rằng: “Ở trước vua Diêm La, thấy Sa-môn Pháp Khánh có tỏ vẻ lo buồn, chỉ chốc lát sau lại thấy Tôn tượng đến. vua Diêm La vội chạy lại trước, xuống thềm cấp chấp tay lễ bái Tôn tượng ấy. Tôn tượng ấy bảo vua Diêm La rằng: “Pháp Khánh tu tạo Tôn tượng ta đây, nay chưa hoàn tất cớ sao khiến chết?” vua Diêm La tự xoay lại hỏi một người rằng: “Sa-môn Pháp Khánh chết đã hợp chưa?” Người ấy đáp rằng: “Mạng chưa hợp chết mà Vua Võ Đế băng hà năm Thái Thanh thứ ba (550). Niên hiệu Đại Định chỉ có năm năm (557-562) thức ăn đã hết”vua Diêm La bảo: “Có thể cấp dùng lá sen, người ấy mạng chung có được phước nghiệp vậy.” Bỗng chốc bèn liền không thấy.”Sa-môn Đại Trí sau khi sống lại vì chúng Tăng trong chùa kể như thế rồi liền sai người đến chùa Nhưng Quán trông xem sao. Chỉ thời gian ngắn, Sa-môn pháp Khánh sống lại, nói bày không khác với Sa-môn Đại Trí vậy. Từ sau khi sống lại, Sa-môn Pháp Khánh thường luôn ăn lá sen, lấy đó làm mùi vị ngon lành. Như ăm các thức ăn khác trọn không thể được. Sau khi Tôn tượng làm hoàn tất khoảng vài năm, Sa-môn Pháp Khánh mới thị tịch. Tôn tượng ấy dung nghi tướng hảo viên mãn, thường luôn toả phóng ánh sáng, chùa Ngưng Quán tuy từng bị hư hoại mà Tôn tượng ấy vẫn hiện còn v.v… Cảm ứng của Lý Thái An ở Lủng Tây thời Tiền Đường vì Lý Thái An mà tu tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca mà được cứu thoát. (Rút từ Minh Báo Ký). Lý Thái An ở Lủng tây thời Tiền Đường là Anh của Công bộ Thượng thư Lý Thái Cao. Trong khoảng niêm hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, Lý Thái Cao làm Tổng quản tại Việt Châu, Lý Thái An từ Kinh đô sang trông xem, Lý Thái Cao sai bảo vài người tôi tớ theo người anh (Lý Thái An) trở về. Vừa đến Cốc Châu, qua khỏi cầu bèn dừng nghỉ qua đêm. Kẻ tớ ấy có âm mưu ý muốn giết hại Lý Thái An, chờ đợi ngủ sau, quá nữa đêm, kẻ tớ bèn dùng mũi nhọn nhỏ đâm vào cổ Lý Thái An, mũi nhọn xuyên găm nơi giường. Kẻ tớ chẳng rút ra mà bỏ chạy trốn. Kinh hãi tỉnh giấc, Lý Thái An gọi kẻ tớ, kẻ tớ ấy chẳng trở lại. Kẻ tớ khác muốn rút dao ra, Lý Thái An bảo:”Rút dao ra hẳn sẽ bị chết, nên trước lấy cho giấy bút để việt thư”. Quan huyện cũng vừa đến, nhân đó, rút dao, tẩy rửa vết thương và băng bó thuốc thang. Lý Thái An bèn chết ngất, bỗng như trong mộng thấy tất cả mọi vật đều dài hơn cả thước, rộng sâu bốn năm tấc, tướng trạng tợ như thịt heo, cách đất khoảng hai thước, từ ngoài cửa đi vào đến trước giường nằm trong vật đó có tiếng bảo rằng: “Hãy gấp trả thịt heo lại cho ta”. Lý Thái An nói: “Tôi không ăn thịt heo, duyên gì mắc nợ ngươi?” Liền nghe phía ngoài cửa có tiếng nói lầm bầm vậy. Vật ấy liền ra ngoài cửa Lý Thái An bèn thấy trước sân có ao, ao nước trong cạn rất đáng ưa thích, ở trên bờ tây có Tôn tượng bằng vàng cao khoảng năm tấc., bỗng chốc dần lớn hóa thành vị tăng đắp mặc áo cà sa rất mới sạch, bảo cùng Lý Thái An rằng: “Ngươi bị thương nay se vì ngươi mà dứt trừ đau khổ ấy. Người sẽ được bình phục, trở về nhà nhớ niệm Phật tu thiện vậy”. Nhân đó đưa tay xoa vào vết thương nơi cổ Lý Thái An rồi đi. Lý Thái An thấy trên lưng vị Tăng ấy có vết sắc hồng đắp vá nơi áo cà sa vuông khoảng một tấc rất rõ ràng. Thế rồi, Lý Thái An tỉnh giấc sống lại, vết thương cũng trở lại không đau nhức, có thể đứng dậy ngồi xuống, ăn uống khoảng sau mươi ngày. Con em ở Kinh đô đến đón đưa về nhà, mọi người trong nhà đến hỏi thăm, Lý Thái An kể lại tình trang nguyên do bị thương và việc thấy Tôn tượng. có một kẻ tớ đứng bên tả nghe nói vậy, nhân nói khi Lý Thái An vừa mới đi, ở nhà, vợ của Lý Thái An sai bảo kẻ tớ đến chỗ người thợ làm tượng vì tạo Tôn tượng Phật. Khi tượng đã hoàn thành dùng các màu để tô vẽ y áo, có một vết son làm dơ bẩn trên lưng tượng, bảo người thợ tẩy xoá mà không được, nên tướng trạng ấy vẫn hiện còn tợ như lời nói của Lý Thái An kề vậy. Lý Thái An nhân đó bèn cùng vợ và các người nhà đồng đến trông xem Tôn tượng, mới thật đồng như chỗ thấy, không nhác chấm dơ trên vai ấy nhiên chỗ đắp vá vậy. Do đó khen lạ, tin biết Thánh giáo no lừa dối, bèn càng tin sùng Phật pháp, càng ân cần lể bái, trải qua nhiều năm mà chẳng chết. Từ khi Phật pháp kưu truyền đến Trung Hoa, những sự cảm ứng của Linh Tượng, ghi thuật không thể hết, nhưng không Tôn tượng nào như Tôn tượng ấy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Huệ Kính ở chùa Ngộ Chân tu tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca và Phật A Di Đà mà được thấy tướng Tịnh độ.(Tân Lục). Sa-môn Thích Huệ Kính ở chùa Ngộ Chân, vốn người Truy Châu. Từ khi xuất gia, chỉ ăn rau quả khổ hạnh., rất có tài năng khéo léo, tâm ý luôm kính sùng đạo Phật, tư tạo hai Tôn tượng Đức Phật Thích-ca và Phật A Di Đà, để cúng dường lễ bái. Đến năm sáu mươi bảy tuổi, vào đêm rằm tháng giêng, Huệ Kính mộng thấy có một vị Sa-môn thân hình sắc màu vàng ròng đến bảo cùng Huệ Kính rằng: “Ngươi muốn thấy Cảnh Tịnh độ chăng?” Huệ Kính đáp: “Rất muốn được thấy”. Sa-môn ấy lại hỏi:”Ngươi muốn thấy Phật chăng?”. Huệ Kính đáp: Cũng rất muốn được thấy. Khi đó, vị Sa- môn ấy đưa cho Huệ Kính một cái bát và bảo: “ngươi nên trông xem vào trong bát này”. Huệ Kính liền trông vào trong Bình bát, bỗng thấy thoáng rộng, cõi Tịnh độ trang nghiêm, dùng các vật báu để trang nghiêm, cõi đất thuần ròng vàng, dây vàng giăng mé đường đi, cung điện lầu gác lớp nhiều vô lượng, các đồng tử cõi trời dạo chơi trong đó, có cả chúng hội Thanh văn Bồ-tát vây quang, Đức Thế Tôn về giảng pháp. Khi đó, vị Sa- môn ấy đi trước, Huệ Kính theo sau, dần đến trước Đức Phật. Khi đã đến chỗ, bỗng nhiên không còn trông thấy vị Sa-môn ấy nữa. Huệ Kính chấp tay mà đứng, Đức Phật hỏi: “ngươi có biết vị Sa-môn dẫn trước ấy chăng? “ Huệ Kính đáp: “Không biết”. Đức Phật bảo: “Đó là Tôn tượng Đức Phật Thích-ca do ngươi tu tạo vậy. Và ngươi có biết ta chăng?” Huệ Kính đáp: “Không biết”. Đức Phật lại bảo: “Ta là Tôn tượng Đức Phật A Di Đà do ngươi tạo nên vậy. Đức Thích-ca như cha, ta đây như mẹ, chúng sinh ở cõi Ta Bà như con đỏ. Thế như cha mẹ cò nhiều người con, vì nhỏ dại không hay biết nên bị rơi lạc trong bùn dơ, người cha vào trong bùn sâu vớt đưa các người con ấy đặt để trên bờ cao, còn người mẹ ở trên bờ bồng ẳm nuôi dưỡng dạy dỗ không để rơi lại trong bùn dơ. Chúng ta đây cũng như vậy, Đức Thích-ca giáo hóa chúng sinh ngu si ở trong cõi Ta Bà trược ác, vì chúng sinh mở lối dẫn dắt, chỉ bày đường đến Tịnh độ. Còn ta đây ở cõi Tịnh độ tiếp nhậ lấy chúng sinh, Không để trở lại cõi Ta Bà”. Huệ Kính nghe lời ấy rồi, vui mừng nhảy nhót muốn được thấy Đức Như Lai, bổng nhiên không còn thấy gì nữa. Sau khi tỉnh giấc, thân tâm Huệ Kính cảm giác an lạc như vào cõi Thiền định. Huệ Kính càng kính tin lễ bái hai Tôn tượng, Lại mộng thấy vị tăng trước kia bảo rằng: “Mười hai năm sau, ngươi sẽ sinh về cõi Tịnh độ. Nghe lời ấy, Huệ Kính suốt đêm ngày tinh tấn thân tâm không biếng lười. Đến năm bảy mươi ba tuổi, Huệ Kính thị tịch. Có vi Sa-môn ở phòng bên cạnh mộng thấy có trăm ngàn Thánh chúng từ phương Tây lại nghinh đón Huệ Kính đi, có tiếng âm nhạc vang vọng giữa không trung. Đồng một lúc có nhiều người nghe biết. Cảm ứng của hai người nghèo khổ ở nước Kiền Đà La mỗi người cúng một tiền vàng cùng đắp họa một Tôn tượng Phật (Rút từ Tây Vức ký). Tại nước Kiền Đà La có một Tôn tượng Phật đắp họa cao một trượng sáu thước, từ phần ngực trở lên phân làm hai Thân, từ ngực trở xuống hợp thành một hình thể. Nghe các bậc lão túc nói về Tôn tượng ấy rằng: “Mới đầu có một người nghèo khổ riệng tự lực nuôi sống tích chưa được một tiền vàng, nguyện muốn tão một Tôn tượng Phật, nói cùng một người thợ đắp họa rằng: Nay tôi muốn đắp họa diệu tướng đức Như Lai, mà chỉ có được một tiền vàng sợ trả tiền công còn thiếu, bởi tâm ngày trước lo sợ nghèo khổ bức bách nên bị thiếu thốn.” Khi đó, người thợ ấy sự chỉ thành của người nghèo khồ đó mà không nói về giá cả chỉ hứa sẽ làm hoàn thành. lại có một người khác cũng đồng cảnh ngộ như thế, mang đến một tiền vàng, xin đắp họa Tôn tượng Phật. Khi ấy, người thợ nhận tiền của hai người đó mua sắm các thứ sắc màu xnh đỏ cùng đắp họa một Tôn tượng. Hai người đó cùng một ngày đồng đến lễ kính Tôn tượng. Người thỡ đồng chỉ vào một Tôn tượng cho hai người đó thấy mà nói rằng: “Đó là Tôn tượng Phật của ngươi vậy.” Hai người ấy cùng trong xem mà như có sự ngờ vực. Người thợ trong tâm biết là nghi ngờ nên nói cùng hai người đó rằng: “Cớ sao suy nghó gì lâu vậy ư? Phàm, tiền tôi nhận của hai người làm hết không sót mãy có thể. Nếu tôi nói vậy mà chẳng sai lầm thì Tôn tượng hắn có thần biế”. Lời nói chưa lắng dứt của người thợ thì Tôn tượng ứng hiện Linh dị, phân thân giao ảnh ánh sáng cùng toả chiếu, Cà hai người đó đều vui mừng đượm nhuần, tâm kính tin hoan hỷ vậy. Cảm ứng của Ngu An Lương ở thời Tiền Đường hổ trợ tu tạo Tôn tượng được Thích-ca mà được thoát khỏi khổ. Tại huyện Ngư Dương ở U châu có An Lương người giòng họ Ngu. Gia tộc chuyên lấy sự sát hại làm nghiệp sống chính. Với sinh mạng mà Ngu An Lương đã giết hại không biết số lượng đã mấy ngàn muôn ức. LẠi không từng nhận biết tu tạo công đức, thường bảo rẳng: “Nếu tu Thiện hẳn sẽ suy tổn”. Đến năm ba mươi bảy tuổi, đang lúc đi săn bắn, Ngu An Lương bị rơi từ lưng ngựa xuống đất bè tắt hơi thở chết ngất, trải qua nữa ngày mới sống dậy, Ngu An Lương vật vả thân mình nơi đất khóc than ăn năn hối quá với trời Tịnh cư rằng: “Tôi sai lầm, Tôn giả sai lầm” Kẻ Tôi tớ hỏi về nguyên do, giây lát sau, Nhu An Lương mớ nói: “Lúc đầu mới chết ngất, có hai người đầu trâu mặt ngựa đem xe lửa đến ném vào thân tôi, lửa dữ thiêu đốt thân mình, đau đớn vô lượng. Khi ấy, có một người vận mặc sắc phục cua Sa-môn đến dùng nước rưới vào trên xe, đưa tay chống cự lại lửa. Thân tâm tôi ngừng dứt bớt đau khổ, dần đến chỗ vua Diêm-ma. vua thấy Sa-môn ấy bèn từ thềm cấp mà chạy xuống chấp tay cung kính mà bạch rằng: “Có duyên cớ gì ngài đến đây?”. Vị Sa-môn ấy bảo: “Người tội này là Đàn Việt của ta, nên ta muốn đến xin tạm tha mạng”. vua Diêm-ma nói: “Người này rất ác, không thể phóng thả, nhưng vì Đại Sư đến xin nên không thể lận tiếc đó”. Vị Sa-môn ấy dẫn ta trở về. Trong tâm ta nghi ngờ quái lạ, chẳng biết cớ sao cứu giúp ta, nên ta bèn hỏi. Vị Sa-môn ấy bảo: “Ngươi không nhận biết ư? Anh của ngươi là Ngu An Thông phát tâm tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca, ngươi nương tựa theo duyên ấy mà nên cúng ba mươi văn tiền, hổ trợ cho anh ngươi tạo tượng. Ngươi đã góp thể một ít tiền để tu tảo Tôn tượng ta, cho nên ta đến cứu ngươi, ngươi thấy xem ta vận mặc sắc phục của sa nhân, nên lấy đó mà nghiệm biết”. Nói rồi bèn không còn thấy nữa. Vì nhân duyên ấy nên ta ăn năn lỗi quá tự thương trách”. Ngu An Lương mới sang nhà của Ngu An Thông, trông xem Tôn tượng của Anh tu tạo toàn đồng như chỗ thấy. Đượm nhuần cảm ngộ nên Ngu An lương tự phát tâm tu tạo Tôn tượng Đức Phật vậy. Cảm ứng của Sa-môn Dạt ma Lưu Chi ở nước Tăng-già Bổ La thuộc Bắc Ấn Độ cãm được Đức Phật Thích-ca dạy răn. (Rút từ Thường mẫn du lịch Ký). Sa-môn Thích Thường mấn phát đại thệ nguuyện từ xa đến Tây vức Đảnh lễ đức Như Lai. Với các di tích ngài đi qua, đến nước Tăng- già Bổ La ở Bắc Ấn Độ có một Tháp đá cao hơn hai mươi trượng, bên cạnh có một người tinh xá mới có khắc chạm Tôn tượng ngồi: hai Đức Phật Thích-ca và Phật Di lặc bằng gỗ Chiên Đàn, nếu ai chỉ tâm cầu thỉnh hẳn Tôn tượng hiển bày Diệu thân, chỉ rõ mọi sự tốt xấu. Theo các bấc kỳ cựu kể lại nguyên do khoảng vài mươi năm trước có một vị Tỳ Khưu tên tiếng phạn là Đạt-Ma-Lưu-Chi, tiếng Trung Hoa dịch nghóa là Pháp ái ở bên cạnh Tháp đá, phát nguyện muốn tu tạo Tôn tượng Đức Bồ-tát Di Lặc. Khi ấy có một vị Sa-môn người ngoại quốc đến dừng nghỉ qua đêm nơi phòng của Pháp Ái, tán thán Đại nghóa của Kinh giáo, Pháp Ái nghe mà mừng vui cùng thuật ý niệm quang co, mà nói rằng: “Tôi muốn sinh lên cung Trời Đâu-suất, sắp tu tạo tượng đức Từ Thị”. Vị Sa-môn ấy bảo: “Như phát nguyện muốn sinh lên cung trời Đâu-suất, nên tu tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca, Đức Từ Thị (Di Lặc) là đệ tử của Đức Phật Thích-ca, ngươi được giải thoát trong ba hội giảng pháp. Đức Phật Thích-ca di chúc giáo pháp cho Đệ tử. Nếu có đủ thì trước nên tạo Tôn tượng Đức Phật Thích-ca. Tại sao vậy? Bởi vì, nay trong ba cõi đây đều là của Đại Sư (Thích-ca) có ra. Đức Thích-ca tự nói: “Chỉ một mình ta có thể vì cứu giúp” Ông há chẳng nghó đến ân phần ấy ư?” Đức Phật Thích-ca đã diệt độ, không giáo hóa ở tương lai, đâu giúp hiện đời này ư” Cố chấp không cải đổi. Xong, mỗi người tự nằm ngủ. Đến lúc canh phân tỏ rạng, Pháp Aùi chóng thức dậy sớm, buồn khóc gieo cả năm vóc vật vả nơi đất. vị Sa-môn người ngoại quốc ấy hỏi về nguyên do, Pháp Ái đáp: ” Tôi mộng thấy có người thân sắc vàng ròng cao lớn hơn cả trượng, với lời nói mềm dịu mà bảo cùng Tôi rằng: “Người là Đệ tử được ta điều phục trong nhiềi đời kiếp đã lâu. Cớ sao xằng bậy cho là ta vónh viễn diệt độ. Chúng sinh thường ngài hưởng dụng mà không hay biết. Tất cả các thứ cỏ cây rừng rậm đất đai cho đến hư không các thứ lúa thóc chúng sinh ăn dùng v.v… Trong ba cõi đều là thân ta trở lại làm ra. Chư Phật ở mười phương giúp ta hiện hóa, cớ sao ngươi khinh mạn chẳng chịu tạo Tôn tượng ta? Nếu ngươi chẳng chịu tạo Tôn tượng ta thì không thể được sinh lên cung trời Đâu-suất. Vì đã khinh thường bậc thầy thì Từ Thị sao dám tán Thánh hổ trợ ư? Và cũng không được sinh về cõi cảnh giới Tịnh độ ở mười phương, vì chư Phật hổ trợ ta thì đâu muốn khinh thường ta”. Nói lời ấy rồi bèn ẩn mất không thấy nữa” Và khi đó, vị Sa-môn người ngoại quốc ấy cũng không bước đi đâu mà bỗng chốc không còn trông thấy. Pháp Ái tự buồn thương, xả thí y bát của cải, tu tạo hai Tôn tượng ấy,và tinh xá đó do dân chúng trong nước ấy cùng nhau xây dựng nên. Sa-môn Thường mẫn dừng ở lại đó nhiều ngày cầu thỉnh mọi điều rồi đi v.v… Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà do vị Bồ-tát chứng đắc Ngũ Thông ở chùa Kê Đầu ma cầu thỉnh Đồ Tả (Rút từ cảm Thông lục và dẫn ở Tây vức truyện). Tương truyền rằng: Xưa kia tại chùa Kê Đầu ở Thiên Trúc có vị Bồ-tát chứng đắc ngũ thông sang thế giới An Lạc cầu thỉnh Đức Phật A Di Đa vì chúng sinh ở cõi Ta Bà muốn sinh về Tịnh độ song không có hình tượng Đức Phật và nguyện lực chẳng do đâu mà có được nên xin Đức Phậtrủ lòng giáng hiện. Đức Phật A Di Đà: “Ngươi nên đi trước, ta sẽ hiện sang đó”. Khi vị Bồ-tát trở về thì Tôn tượng ấy đã đến. Một Đức Phật và năm mươi vị Bồ-tát mỗi mỗi đều ngồi trên hoa sen tại trên cây lá, vị Bồ-tát ấy lấy lá ấy đồ họa ghi tả lưu bố khắp cả xa gần vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Vô lượng thọ do Sa-môn Thích Huệ Hải ở chùa An lạc thời nhà Tuỳ đồ tả. (Rút từ Đường Cao tăng truyện). Vào thời nhà Tuỳ ở chùa An Lạc tại Giang Đô có Sa-môn Thích Huệ Hải, ngài vốn giòng họ Trương, người xứ Võ Thành, Thành hà, ngài có khả năng thông rãnh Kinh Luận, nhưng lấy pháp môn Tịnh độ làm hạnh nghiệp chính, ngài chuyên tinh đến nổi có sự cảm ứng, bổng có Sa-môn Đạo Linh ở Tề Châu mang đến Tôn tượng Đức Phật Vô lượng Thọ mà nói rằng: “Đó là Tôn tượng do vị Bồ-tát chứng đắc lục thông ở chùa kê Đầu ma tại Tây trúc lước giữa không trung sang thế giới An Lạc, đồ tả nghi dung Đức Phật”. Đã thầm hợp với tâm tình thuần khiết, ngài luôn nghó nhớ lễ sám, mới trông thấy ánh sáng thần rực rỡ, thấu đạt tốt lành hiếm có. Từ đó, ngài mô tả lìa khổ, nguyện sinh về thế giới Tịnh độ. Đến lúc tuổi già vẫn khuyên niệm. Đến tối bỗng nhiên ngài ngồi dậy, y theo lệ thường xoay mặt về phương Tây lễ bái mến mộ rồi ngồi Kiết già, tới sáng sớm ngài mới tịch, nhan sắc vẫn tươi mươi, nghiễm nhiên như thần thức hiện còn. Ngài hưởng thọ sáu mươi chín tuổi vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà cao ba tấc của Sa- môn Thích Đạo Dụ ở thời nhả Tuỳ (Rút từ Thuî ứng truyện). Trong thời nhà Tuỳ, có Sa-môn Thích đạo Dụ ở chùa Khai Giác chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tạo Tôn tượng Đức Phật cao ba tấc. Về sau bỗng nhiên ngài tịch, bảy ngày sau bèn sống lại kể rằng: “mới đầu trông thấy một vị Hiền giả, sinh sang bên bờ Ao báu, Hiền giả ấy đi nhiểu quanh Hoa ba vòng, Hoa bèn nở ra, bèn vào trong Hoa mà ngồi. Ngài cũng đi nhiểu quanh ba vòng mà hoa khôn hé nở nên đưa tay ngắt bẻ hoa, hoa héo úa rơi. Đức Phật A Di Đà liền bảo rằng:”Ngươi nên trở về cõi nước ấy, sám hối các tội, dùng nước nóng ấm hương thơm mà tắm gội. Đến lúc sao mai lộ dạng, ta sẽ đến nghinh đón. Ngươi tạo hình tượng của ta cớ sao quá nhỏ vậy?” Ngài bạch rằng: “Tâm lớn tức lớn, tâm nhỏ tức nhỏ”. Nói xong, Tôn tượng bèn biến giữa hư không. Ngài y theo đó dùng nước ấm hương thơm tắm gội, nhất tâm sám hối. Bảo cùng mọi người rằng: “Hày vì Tôi mà xưng niệm danh hiệu phương Đến lúc sao mai ló dạng, hóa Phật sẽ lại nghinh đón”. Đến lúc ánh sáng toả phóng, mọi người đều thấy biết, ngài liền thị tịch. Lúc đó là năm khai Hoàng thứ tám (588) thời nhà Tuỳ vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà do trương Nguyên Thọ ở Tinh Châu vì song thân đã qua đời tu tạo (Rút từ Tinh chau Ký). Ở Tinh Châu có Trương nguyên Thọ tuy là người có Thiện Tâm, song trong gia đình chuyên sống với nghề giết hại. Sau khi song thân qua đời, Trương Nguyên Thọ dứt bỏ nghiệp giết hại, tu hạnh xưng niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà, phát tâm muốn cứu độ song thân, tu tạo Tôn tượng Đức Phật A Di Đà cao ba thước tôn trí nơi phòng nhà xưa cũ, dùng các thứ hương hoa đèn đuốc cúng dường lễ bái. Trương Nguyên Thọ mộng thấy trong phòng nhà có ánh sáng phóng toả. Trong ánh sáng đó có hơn hai mươi người ngồi trên đài hoa sen. Trong đó lại có hai người đến gần trên sân gọi Trương Nguyên Thọ. Trương Nguyên Thọ liền hỏi: “Hai người là ai?” Hai người ấy đáp: Ta là cha mẹ của người, tuy có hiểu biết pháp môn niệm Phật Tam muội, nhưng vì ham thích uống ăn rượu thịt, giết hại các thứ chim cá v.v… lắm nhiều nên ra đoạ vào Địa ngục kêu gào. Tuy đoạ nơi Địa ngục nhưng nhờ sức niệm Phật của ngươi nên sắt nóng nước đồng sôi đều như nước mát. Hôm qua có vị Sa-môn thân hình cao lớn ấy giảng pháp đều được thoát khỏi chốn Địa Ngục, sinh về cảnh Tịnh độ, nay lúc đã chín mùi nên lại báo cùng rõ biết nhân duyên ấy. Các người hiện ở giữa không trung tức là những người đồng nghiệp trong Địa Ngục vậy”. Nói lời ấy rồi, bèn theo hướng Tây mà đi! Trương nguyên Thọ đem điều mộng thấy ấy kể cùng chư Tăng. Chư Tăng đều bảo đó là Tôn tượng do Trương Nguyên Thọ tu tạo vào trong chốn Địa ngục để cứu khổ vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Di Đà mô Thích Đạo Như vì muốn cứu chúng sinh trong ba đường khổ mà tu tạo (Rút từ Tinh Châu Kỳ). Sa-môn Thích Đạo Như là người xứ Tấn Dương, Tinh Châu, là Đệ tử huyền tôn của Thiền sư Đạo Xước, tâm ý bao gồm nhân tử, xót thương bốn loài chúng sinh đang chịu khổ. Tuy tu Tinh Nghiệp nhưng trước muốn độ kẻ khá. Phát nguyện cứu độ chúng sinh nhận chịu khổ trong ba đường mà tu tạo Tôn tượng Đức Phật A Di Đà cao trượng sáu bằng vàng ròng, nhưng vì là khả năng của Bầu đạo nên phải trải qua ba năm mới thành, tinh tấn chuyện cúng dường. Bèn ngay tại trước Tôn tượng ngài nộng thấy có một minh quan đem Điệp thư bằng vàng ròng đến thưa rằng: “Đây là Điệp thư của Diêm-ma pháp Vương tuỳ hỷ tâm nguyện của Đại sư”. Ngài liền mở xem thấy viết rằng: “Đại sư vì muốn cứu các chúng sinh chịu khổ trong ba đường, tu tạo Tôn tượng Đức Phật A Di Đà, vào nơi Địa Ngục giáo hóa chúng sinh, uyển nhiên như Phật hiện dống toả phóng ánh sáng giảng pháp, lợi ích không thể nghó bàn. các chúng sinh nghiệp nhẹ nơi Địa Ngục đều thoát khổ được vui”. Sau khi tỉnh giấc, ngài càng chuyên chỉ nguyện ấy. Đến ngày trai, nơi ngục Tôn tượng ấy toả phóng ánh sáng, trong mười người chỉ có năm sáu người được thấy. Hoặc có người mộng thấy ngài hiện thân sắc màu vàng ròng vào chốn Địa Ngục giảng pháp, hoặc vì hàng ngạ quỷ giảng pháp. Cảm ứng như thế của ngài có lắm nhiều, nhất quyết điều nguyện không luống hư vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Vô lượng Thọ cao trượng sáu do Sa-môn Thích tăng cao tu tạo thời tiền Tống. (Rút từ Lương cao Tăng truyện và lấy ý trong Châu Lâm). Vào thời tiền Tống ở chùa Trường Sa tại Gisng Lăng, có Sa-môn Thích Tăng Cao là người có khí tiết tháo mạng mẽ, mong cầu Tây phương phát nguyện tu tạo Tôn tượng Đức Phật vô lượng Thọ Cao trượng sáu, mọi công dụng đã lớn, trải qua nhiều năm mà không hoàn thành. Nghe ở miếu núi Đông Khê ở Tương châu có nhiều vậtbằng đồng, nên ngài muốn giáo hóa dẫn dắt Quỷ thần đến lấy để nung vào làm hoàn thành Tôn tượng, bèn đến quan thứ Sử trong Châu là Trương Thiệu nói việc cầu vật liệu và sức người, xin cho vài chiếc thuyền và trăm người khoẻ mạnh. Trương Thiệu nói: “Miếu ấy rất linh nghiệm, kiện án tức liền chết. Vả lại, người giống man rợ giữ gìn, sợ khó thành quả việc ấy.” Ngài bảo: “Như Họa với ông cùng chết trừ thân tôi sẽ tự gánh lấy” Trương Thiệu bèn cấp cho người và thuyền. Chưa qua khỏi một đêm mà thần đã dự biết, gió chuyển mạnh dữ, mây kéo nịt mờ, thủy thủ kêu rú, chỉ chốc lác thì ngài đến, mây sương tan biến mặt nhật tỏ rạng. Cách miếu khoảng hơn hai mươi bước có hai chiếc vục Đồng, mỗi chiềc lớn vài trăm hộc, thấy có một con rắn lớn dài hơn mười trượng từ trong vạc vọt nhảy ra cắn thân mình chắn ngahng đường, cả trăm người cùng theo thảy đều chạy lùi tan, ngài mới chỉnh trang y phục, bước tới, dộng tích trượng mà bảo cùng rắn rằng: “Ngươi bởi tại nghiệp đời trước nên phải nhận chịu làm thân rắn, chẳng từng nghe đến Tam bảo, vậy do đâu mà có thể thoát khỏi. Tôi tạo Tôn tượng Đức Phật vô lượng Thọ cao trượng sáu, nghe ở đây có nhiều vật bằng đồng nên từ xa tìm đến, mang cơ thể mở đường để tôi được đi tới trước.” Rắn bèn ngẫn đầu trông nhìn ngài rồi chuyển thân mình từ từ bước đi. Ngài đích thân dẫn mọi người đi bộ, nhanh chóng lấy các vật bằng đồng, chỉ có cái ống nhỏ ở đầu giường có thể dung chứa cả bổn suyển, có con thằn lằn dài hơn một thước nhảy vọt vào ra, ngài bèn vất bỏ không dấy. Mọi vật quý trọng ở miếu lớn nhỏ chẳng lấy một thứ, chỉ hơn nhỏ vậy, chất đầy thuyền mà trở về, người giữ miếu là giống man rợ chẳng dám chống cự. Ngài về đến Thành đô, chú đúc Tôn tượng. Đến năm Nguyên (Gia) thọ thứ chín (432) thời tiền Tống thì công việc hoàn tất, Thần sắc phô bày đoan nghiêm, oai quang hùng vó tráng lệ, tạo tượng linh dị tiếng tăm truyền khắp vậy. Cảm ứng do Đức Phật A Di Đà hóa làm chim Oanh Vũ đễ dẫn dân chúng nước An Tức. (Rút từ ngoại Quốc ký) Dân chúng ở nước An Tức không biết Phật pháp, sống nơi biên địa, bẩn chất ngu mờ. Bấy giờ có con chim Oanh Vũ thân sắc vàng ròng có các màu xanh trang xen lẫn nghiêmsức có khả năng nói tiếng người. vua Tôi dân chúng thảy đều mến thích. Thân chim béo tốt mà khí lực yếu đuối, có người hỏi chim rằng: “Ngươi dùng vật gì để ăn?”. Chim đáp: “Tôi nghe tiếng xưng của Đức Phật A Di Đà lấy đó làm thức ăn mà thân được béo tốt sức lực khoẻ mạnh. Nếu muốn nuôi dưỡng tôi thì nên xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà”. Mọi người đua nhau xưng niệm, chim dần bay nhảy giữa không trung rồi trở lại nơi dất, bảo cùng mọi người rằng: “Các người có muốn thấy cõi đất tốt lành sung túc chăng?” Mọi người đáp: “Muốn được trông thấy đó” Chim bảo: “Nếu muốn trông thấy thì nên cưỡi trên lông cánh ta”. Mọi người liền cưỡi lên trên lông cánh. Do vì sức lực còn yếu nên chim khuyên mọi người nên xưng niệm Phật, và chim bay vạt giữa không trung chỉ thẳng hướng Tây mà đi, vua tôi đều ngợi khen khác lạ mà nói rằng: “Đây là Đức Phật A Di Đà hóa làm thân chim dẫn tiếp mọi người ở chốn biên địa ngu hèn, há chẳng hiện thân vãng sinh sao?” Bèn ở ngay xứ ấy tạo tinh xá đề hiệu là chùa oanh Vũ, đến mỗi ngày trai tu pháp niệm Phật Tam Muội. Từ đó trở lại dân chúng ở nước An Tức ít biết Phật pháp vãng sinh Tịnh độ lắm nhiều vậy. Cảm ứng do Đức Phật A Di Đà làm thân cá lớn để dẫn tiếp ngư nhân vớt bắt. (Rút từ ngooại Quốc kỳ). Ở phía Tây nam chấp sư tử trông nhìn hết sức thấy của ánh mặt không biết bao nhiêu dặm có một hòn đảo riêng biệt, người sinh sống ở đó có khoảng hơn năm trăm ngôi nhà, chuyên bắt chim để ăn, lại chẳng được nghe Phật pháp. Bấy giờ có vài ngàn con cá lớn đến ở gần bờ biển, mỗi mỗi đều nói tiếng người, xưng niệm nam mô A Di Đà phương Dân chúng ở ven biển thấy thế không nhận biết về nguyên do chỉ y theo lời xướng mà gọi là Cá A Di Đà. Có người xướng gọi A Di Đà thì cá dần đến gần bờ, từng bảo giết hại đó mà cá chẳng đi, mùi vị của thịt cá rất ngon, như các người xưng niệm lâu thì cá họ vớt bắt mùi vị thịt rất tối thượng. Người xưng niệm lâu thì thịt cá họ vớt có mùi vị cay đắng. Ngư dân ở bờ biển ăn dùng thịt cá và chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà lấy làm việc chính. Trong số mới ăn đầu tiên có một người mạng chung, ba tháng sau cưỡi giữa áng mây sắc tía toả phóng ánh sáng đến nơi bờ biển bảo cùng mọi người rằng: “Tôi là bậc già nhất trong các người vớt bắt cá, sau khi mạng chung được sinh về thế giới Cực lạc. thân hình cá lớn ấy là do Đức Phật A Di Đà Như Lai hóa hiện ra vậy. Đức Phật ấy xót thương chúng ta ngu hèn nên hóa hiện làm thân cá lớn khuyên chúng ta siêng năng niệm Phật Tam muội. Nếu như không tin thì cứ xem nơi thân cốt của cá đều là hoa sen. Khi đã thấy bèn cảm ngộ dứt bỏ nghiệp giết hại, chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, mọi người sinh sống ở đó đều vãng sinh về cõi Tịnh độ, để hoang trống nhiều năm. Có A-la-hán Sư Tử Hiền ở nước Chấp Sư Tử vận dụng thần thông sang đến Đảo đó, truyền thuyết như vậy. Cảm ứng của người phụ nữ Kính tin xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. (Rút từ ngoại Quốc Hiền Thánh Ký). Xưa kia trong nước A Du Sa ở Thiên Trúc, có vị Bà-la-môn ngu si không tâm kính tin, chuyên làm nghiệp xấu ác để trang nghiêm thân mình, trái lại, người vợ của ông rất kính tin thanh tịnh, hiểu biết niệm Phật Thiền định, từng khuyên chồng rằng:”Ông nên xưng niệm danh hiệu Đức Phật vô lượng Thọ”. Người Bà-la-môn ấy lắm ham thích mến thương vợ, tình sâu đắm nhiểm, chẳng biết chán đủ. Khi ấy người vợ bảo rằng:”Vợ chồng như hai cánh, cớ sao ông không tợ như công hạnh của tôi?” Đã chẳng theo tâm tôi thì cũng chẳng tuỳ theo ông”. Mọi sự đều chẳng thuận tình. Khi ấy, Bà-la-môn ấy nói rằng: “Tôi ngu si nên không thể thực hành theo công hạnh của người, theo như thế nào?” Người vợ bảo:”Ông hãy tập Định một thời gian, tôi tu niệm Phật định xong, đến lúc đánh tiếng vàng thì theo xướng nam môA Di Đà Phật rơi vào phòng ngủ mới cùng nằm”. Bà-la-môn ấy bèn y theo lời nói ấy mà thực hành. Ba năm sau cản mắc chút bệnh mà qua đời, ở phía trên hông vẫn còn nóng ấm, người vợ nghi mà chẳng vội an táng. Năm ngày sau sống lại, Bà-la-môn ấy buồn khóc mà kể cùng vợ rằng:”Tôi chết bị vô địa ngục vạc sôi, các La Sát bà dùng gậy sắt đánh tội nhân, đánh động đến vạc và liền bảo người là tiếng trống vàng, bất chợt tôi xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật. Khi ấy, Địa ngục như ao mát, hoa sen nở khắp đầy trong đó, âm thanh vang vọng, các tội nhân đều sinh về Tịnh độ. La sát Bà tâu cùng vua Diêm-ma, vua bèn phóng thả ta và bảo rằng nên đem việc kỳ lạ này mà nói cùng mọi người ở nhân gain. Và liền nói một bài kệ rằng: vậy. “Nếu người tạo lắm tội Phải đoạ trong ngục tối Vừa nghe hiệu Di Đà Lửa dữ liền mát lạnh”. Bà-la-môn ấy nhớ kỷ mà nói lại, mọi người nghe đều vui mừng Cảm ứng của Xưng niệm Vãng sinh (Rút từ Tịnh độ Luận). Nghe có một người không biết tên họ là gì tánh tình rất thô tháo gian hiểm, không tin nhân quả, thường lấy việc săn bắn giết hại làm chính. Vì cảm mắc bệnh sắp mạng chung thấy các thứ khổ cụ ở Địa ngục. Người ấy bèn ăn năng hẳng: “Lúc bình sinh, Tôi không tin lời chư Tăng, mọi điều ngày nay trông thấy quả đúng như trong Kinh nói”. Liền bảo mọi người trong nhà rằng: “Các người hãy cứu ta”. Người con hỏi rằng: “Phải làm thế nào để cùng cứu”. Người ấy bảo: “nếu không thể cứu ta thì hãy gấp đến nơi chùa thỉnh mời một vị Tăng. Người ấy buồn khóc mà nói rằng: “Xin Đại Sư rũ lòng Đại bi gấp cứu Đệ tử”. Vị tăng đó bảo rằng: “Khi bình sinh bỏ qua không kính tin Tam bảo, ngày nay sắp chết, rất cùng cứu khó được vậy”. Người ấy nói: “Thật đúng vậy, Đại sư tụng đọc Kinh Phật như đệ tử là kẻ tội nhân lúc mạng sắp chung, có pháp gì để cứu độ chăng?” Vị Tăng đó bảo:”Trong Quán Kinh có viết, đoạn văn ấy là…v.v… “ Bỗng nhiên người ấy nhảy nhót vui mừng nói rằng: “Lời Phật nói có Đại ngục, như lời nói ấy thật có vậy. và Phật dạy chỉ niệm mười niệm tức được vãng sinh, nay Đệ tử nhất định được vãng sinh vậy”. và liền bảo người nhà rằng: “nên đem lửa lại đây”. Người nhà liền đem lửa màu và lò hương đưa người ấy. Người ấy bảo: “Nay, chỉ thời gian ngắn ta liền vào trong Địa ngục tại trong lò vạc đâu dùng lò hương, nên đem lửa đến đặt trong tay ta”. Và liền đó, tay trói nắm lấy lửa màu, tay phải cầm nắm hương, người ấy xoay mặt về hướng Tây, chỉ tâm xưng niệm Phật. Chưa đủ mười niệm người ấy lại bảo mọi người rằng: “Đức Phật từ phương Tây đến có nhiều Đồ chúng đều toả phóng ánh sáng lớn, trao cho ta tòa hoa”. Nói xong, người ấy liền mạng chung. Đó là mười niệm vãng sinh vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật A Sơ do Sa-môn Thích Tuấn Huệ tu tạo. (Rút từ Tuỳ Ký). Trong khoảng niên hiệu Khai hoàng (581-601) thời nhà Tuỳ, Có Sa-môn Thích Tuấn Huệ (tức Song Huệ). Không biết ngài là người xứ nào, trọn một đời cầu mong chứng đắc quả vị Bất thối chuyển, ngài đắp họa Tôn tượng Đức Phật A Sơ gồm mười một hình thể, ngài lại tu tạo cũng Tôn tượng như thế gồm mười hai linh thể; Tôn tượng đứng cao ba thước. Ngài chuyên tâm cầu thỉng Cảm ứng, mộng cảm có hai vị tăng, một vị tự xưng là Nhật Quang và một vị xưng là Hỷ Bích hỏi ngài rằng: “Ngươi có biết Bản nguyện của Đức Phật A Sơ chăng?”. Ngài đáp” Có biết sơ qua”. Hai vị tăng ấy hoan hỷ bảo: “Lành thay! Như Ông ở trong đời dơ uế mà quy y với Đức Phật A Sơ, ngay trong một đời này sẽ vào Quả vị bất thối, được sinh về cõi nước Hoan hỷ”. Sau khi tỉng mộng ngài cùng xưng niệm. Đến lúc lâm chung, ngài bảo cùng đại chúng rằng: “Nay Tôi vãng sinh về cõi nước Hoan hỷ vậy”. Cảm ứng của vị Bà-la-môn ở Thiên Trúc tu tạo Tôn tượng Đức Phật Dược Sư mà người con được kéo dài tuổi thọ năm mươi (Rút từ Tam bảo ký). Xưa kia tại Thiên Trúc có vị Bà-la-môn vốn giàu có mà không con nối dõi, nên thỉnh cầu ở trời Tự tại, người vợ bèn mang thai, khi đủ chín tháng sinh được một đứa con trai, nhan sắc đoan chánh, mọi người đều quý mến. Bấy giờ có một vị Ni tên là Càn Thiện trông xem tướng, vừa thấy liền không vui mà bảo rằng: “Đứa trẻ này có các tướng chưa đủ để kế thừa gia nghiệp, thọ mạng chỉ ngoài hai tuổi”. Vợ chồng vị Bà- la-môn đó nghe thế sinh buồn rầu như trúng phải tên độc. Vị Bà-la-môn đó ngày trước có người bạn thân xuất gia làm Sa-môn rất thông rành bí ảo, đến thăm, hỏi về nghuên nhân, vị Bà-la-môn đó đem đầu đuôi sự việc trên mà nói. Vị Sa-môn ấy bảo: “Ông nên y theo Phật của bảy Đức Phật mà tu tạo Tôn tượng Đức Dược Sư Như Lai, và nên đúng như pháp mà cúng dường “. vào ngày trai đầu tháng, Bà-la-môn đó y theo pháp thức mà cúng dường, đến đêm, ông mộng thấy có một người mặc y phục khác lạ đội mũ sắc đỏ từ trong minh Đạo cưỡi ngựa sắc xanh tay cầm cái thẻ đến bảo rằng: “Ngươi y theo pháp của bảy Đức Phật, tu tạo Tôn tượng Đức Phật để cúng dường, con của ngươi sẽ được kéo dài tuổi thọ năm mươi năm!” Về sau quả như mộng ấy vậy. Cảm ứng của Linh tượng Đức Phật Dược Sư do một người thuộc giòng họ cao quý phụng thỉnh mà được giàu sang. Tương truyền xưa kia tại Thiên Trúc có một người thuộc giòng họ cao quý nhưng rất nghèo khổ, thường ngày chỉ xin ăn để tữ sống. Người ấy đến trong thành ấp thảy đều đóng cửa. Mọi người đều gọi những người ấy là Đóng cửa. Do đó, người ấy thường tự buồn thương sang đến trước Tôn tượng Đức Phật Dược Sư ở trong chùa đi nhiểu quanh theo phía hữu Tôn tượng Đức Phật, chí tâm sám hối lỗi quá, bỏ ăn suốt năm ngày. Như trong mộng từ Tôn tượng Đức Phật lưu xuất thân hình xinh đẹp tợ Tôn tượng nhỏ, bảo người ấy rằng: “nghiệp chướng xưa trước của ngươi đã diệt, ắt sẽ được giàu sang, ngươi nên rõ về nơi vườn nhà xưa cũ của cha mẹ đã ở,” Sau khi tónh rõ lời đó, người ấy bèn trở về đến vườn nhà xưa cũ, thành quách đều đã hư hoại, chỉ còn sàng cột gỗ cũ mục nát. Tin theo lời bảo độ, người ấy ở đó hai ngày dùng gậy moi đào đất, tự nhên kho tàng hiển hiện đó là của cải của cha mẹ người ấy cất giấu. Nội trong một năm, người ấy liền được giàu sang. Đó tức là nương nhờ Phật lự c vậy. Cảm ứng của người nghèo khổ dùng một văn tiền Đồng cúng dường Tôn tượng Đức Phật Dược Sư mà được giàu sang. (Rút từ Minh Bảo ký). Trong thời Tiền Đường, tại Biên Châu có một người nữ nghèo khổ, cô độc tự sống, trong nhà chỉ có được một văn tiền Đồng, người nữ ấy suy nghó rằng: “Một văn tiền này không thể đủ làm vốn liếng của một đời, Ta nên cúng dường Tôn tượng Đức Phật”. Và liền sang trong một ngôi chùa để cúng dường Linh tượng Đức Phật Dược Sư. Qua sau bảy ngày ở huyện gần đó có một nhà rất giàu sang, người vợ của ông ta sớm qua đời, lại muốn tìm cưới một người nữ khác, đã lâu mà không được vừa ý, bèn đến thỉnh cầu nơi Tôn tượng đồng ở chùa ấy. Mà có được cảm mộng báo lấy người nữ nghèo khổ ấy làm vợ, cùng được hưởng phước thọ. về sau sinh được ba người con trai và hai người con gái. và đều cho đó là nhờ Phật lực vậy. Cảm ứng của một người phá giới xưng niệm danh hịêu Đức Phật Dược Sư mà giới pháp được trở lại thanh tịnh. (Rút từ Thượng Thống Pháp Sư truyện). Xưa kia có một vị Tỳ Khưu sang Tây vức muốn thưa hỏi về nguyên do Đắc giới. Khi đã đến Thiên Trúc, vừa gặp một vị A-la-hán, vị Tỳ- kheo ấy liền thưa hỏi về việc Tăng vi đắc giới và không đắc giới. Vị A-la-hán ấy bảo: “Ta là Thánh giả Tiểu thừa không biết về giới của Bồ-tát Tăng Ni v.v… có đắc chăng! Và Vị A-la-hán ấy liền nhập định lên trời Đâu-suất kính hỏi đức Di Lặc”. Và vị A-la-hán ấy liền nhập định lên cõi trời hỏi đầy đủ về Tăng Ni và đắc giới cầu xin linh nghiệm. Đức Di Lặc liền trao cho một hoa vàng ròng và bảo rằng:”Nếu Tăng ni ở Biên địa nắm lấy hoa vàng ròng này đặt vào lòng bàn tay A-la-hán không thể chẳng vào được”.. Vị A-la-hán ấy khi đã phát tâm xong, có được hoa, đặt để vào trong lòng bàn tay, hoa hiển hiện cao một thước. Lấy đó làm ứng nghiệm. Vị A-la-hán ấy lại hỏi: “Nếu người đã thọ giới lại bị huỷ phạm thì phải làm thế nào để giới pháp được trở lại thanh tịnh?” Đức Di Lặc đáp: “Nếu theo pháp của Thanh văn thì đã phạm Tánh giới, ngay hiện đời nay khó được trở lại thanh tịnh. Còn theo pháp đại thừa thì việc ấy không khó. Ở phương đông có cõi nước tên là Tịnh Lưu Ly, Đức Phật hiệu là Dược Sư, với sức bản nguyện của Đức Phật ấy thì người phá giới xưng niệm danh hiệu của Đức Phật ấy hẳn được trở lại giới pháp thanh tịnh vậy”. Sau khi nghe xong, vị Tỳ-kheo ấy nói lại sự việc đó, mọi người nghe được đều tin nhận vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Dược Sư do Hạ Hầu Quân tu tạo mà được thoát khỏi tội. (Rút từ Linh Ứng Ký). Hạ Hầu Quân vốn người xứ Dõng Châu. Năm Hiển Khánh thứ hai (657) thời Tiền Đường, cảm mắc bệnh nặng trả qua hơn bốn mươi ngày hôn loạn chết ngất, tự bị phối hợp làm thân trâu, bèn cầu xin rằng: “Từng trải qua ba lần chỗ Âm Sư thọ giới và gần thọ trì Kinh Dược Sư, tự tu tạo Đức Phật. Tự xét biết mình không có lỗi quá cớ sao bị sai làm thân trâu nhận chịu khổ như vậy.” Hạ Hầu Quân đã bị phối hợp vào ma phường,trải qua hai mươi bốn ngày nhận chịu khổ sai, sau vì xét về các sự thọ giớiv là có thật không hư dối, mới được thoát khỏi khổ. Sau khi sống lại kể rõ sự việc ấy vậy. Cảm ứng do Đức Phật Dược Sư Như Lai cứu khổ sản nạn. (Rút từ Dược Sư nghiệm Ký). Tại Truy Châu có một người phụ nữ mang thai qua mười hai tháng mà không sinh nở được, thân mình khổ nhọc cốt tuỷ đau nhức cất tiếng khóc than. Sau đó nghe theo lời chỉ dậy của Sa-môn Mại Công mà xưng niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư, bèn mộng thấy Đức Phật tự đến cứu giúp, lại càng kính tin xưng niệm, mọi khổ đau tạm dứt, sinh được người con trai, mọi người đều cho là việc hiếm có vậy. Cảm ứng của thân thuộc trong gia đình Tư Mã ở Oân Châu nội trong một ngày tu tạo được bảy Tôn tượng Đức Phật Dược Sư. (Rút từ Linh Ứng Ký). Tư mã ở Ôn Châu cảm mắc bệnh lâu ngày, suy hư sắp muốn qua đời, mọi người thân thuộc và tôi tớ đều nhóm tập tại nhà mà khóc than. Tư Mã đã chết trải qua một ngày. các người trong thân thuộc có sự nhận biết, bèn chỉ tâm quy ydp Dược Sư cầu nguyện ứng cảm diệt trừ bệnh khổ. Chỉ trong một ngày tu tạo bảy Tôn tượng Đức Phật Dược Sư, y theo pháp mà cúng dường. Qua đến nhày thứ hai, Tư Mã sống lại kể rằng: “Lúc ta vứa ra khỏi nhà bị ba người minh quan trói buộc dẫn qua con đường tối tăm, không có người nào đi theo. Đến trong một thành thấy có tòa cao, thần đội mũ ngọc đều ngồi, phía trước đều có cả ngàn người đều bị xiềng xích. Tôi hỏi kẻ sứ: “Đó là ai?” Kẻ sứ đáp: “Đó là vua Diêm-ma vậy. Đã đến lúc xứ trị tội ngươi”. Khi ấy. vua Diêm-ma gọi tôi lại hỏi:”ông có là được việc Thiện nào chăng?” Tôi đáp: “Tôi chưa trọn chí ý mà đã sớm chết”. vua bảo: “Ngươi có lắm tội ác nhất định không thể thoát khỏi Địa ngục “. Khi ấy bỗng nhiên có ánh sáng khác lạ soi chiếu trên thân Tôi, vua nhận biệt mà bảo rằng: “Thân thuộc và Tôi tớ của ngươi tu tạo bảy Tôn tượng Đức Phật, nên ngươi được kéo dài tuổi thọ mạng. Ngươi hãy sớm trở về lại nhân gian.” do nhân duyên ấy mà Tư Mã sống tỉnh lại. Cảm ứng của người tu tạo Tôn tượng Đức Phật Tỳ Lô Giá ma mà được phải trừ chướng nạn. (Rút từ Thường Mẫn Ký và Du Thiên Trúc ký). Sa-môn Thích Thường Mẫn phát nguyện tìm cách Thánh Tích, vân du đến Thiên Trúc, một ngày nọ đến xứ Trung Ấn Độ qua nước Bích Sách ca, tại đường phía nam thành Vương Xá, hai bên đường đều có tạo dựng tinh xá cao hơn hai mươi trượng, bên trong tinh xá có Tôn tượng Đức Phật Tỳ Lô Giá Ma rất mực linh nghiệm, phàm có mong cầy gì thảy đều như ý. Nghe về nguyên do của Tôn tượng từ xưa trước là: “Xưa nay tại nước ấy, quỷ thần nhiều loạn, dân chúng hoang phế, có một Ni Càn Tử khéo giỏi về Chiêm sát, vua trong hò muốn đoán biết sự hoang phế của nước nhà. Ni Càn Tử ấy đưa thẻ ấn xuống đất mà bảo rằng: “Hoang thần loạn khởi các chướng nạn, phải kết quy về Đại thần mới an ổn”. vua ấy là người thọn minh thấu đạt quy tông, biết Đại thần trong các thần không ai bằng Đức Phật, nên liền tu tạo Tôn tượng Đức Phật Tỳ Lô Giá ma ấy tôn trí tại các Tịnh xá hai bên, ở phía tả thì thuần toàn bạc trắng và đều cao hai mươi trượng thường ngày lễ bái cúng dường,từ đó phô bày Đồng tử Dạ xoa xua đuổi Hoang thần ác quỷ ra khỏi cõi nước, mới không các chưởng nan vậy. Cảm ứng của Thánh vô Động Tôn tự xưng là Vô Giá đà Bà. (Rút từ Bí mật ký). Xưa kia tại Nam Thiên Trúc có vị Thiên tử, nhàm chán thế tục mà xuất gia hành trí hoằng dương chánh pháp, đọc tụng Kinh Thánh Vô Động minh vương, riêng bước nơi đồng hoang, minh vương hiện hình cùng làm bạn, tự xưng là Vô Giá Đà Bà phụng thờ người tu hành giống như Đệ tử Đức Thế Tôn cung phụng Đức Thế Tôn, khăn lụa buộc trên vai tôi, ấy là tiêu biểu cờ hiệu vậy.(Đà Bà, Trung Hoa dịch nghóa là tôi tớ, không dùng tiền xâu xỏ gọi là Vô giá, trên vai buộc khăn là tiêu biểu cho sự khác lạ. Thánh vô Động Tôn nhận là việc sai sử của người khác, tuỳ theo mà làm. tương tợ như không dùng tiền mua tôi tớ. Nay tự buộc khăn là tiêu biểu kẻ tớ vô giá, nói tự xưng không thể sai lầm vậy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Hàm Chiếu đồ tả ngàn Tôn tượng Phật (Rút từ Tự Ký). Trong thời Tiền Đường, tại chùa Hưng Thiện có Sa-môn Thích HÀm Chiếu phát nguyện đồ họa Tôn tượng ngàn Đức Phật, vứa mới đồ họa được Tôn tượng bảy Đức Phật, không biết còn lại chín trăm chín mươi ba Đức Phật oai nghi thủ ấn như thế nào mới tinh thành cầu thỉnh rơi lệ sám hối lỗi quá, mộng thấy chín trăm chín mươi ba Đức Phật hiện hình trên lá cây, nên vui mùng đồ tả lưu bố nói đời vậy. Cảm ứng của Thai tạng mạn Trà La tương truyền. Đức Tỳ Lô Giá ma Như Lai giảng thuyết Đại bi Thai tạng Mạn đà La cứu hộ hết thảy chúng sinh, ngài Kim Cang thủ truyền nhận Phật dạy trải qua vài trăm năm sau bài truyền trao cho Ngài Đạt ma Cúc Đa ở chùa Thế Vô Yểm tại Trung Ấn Độ. Ngài Đạt Ma Cúc Đa kính cẩn hoằng truyền phó chúc cho Sa-môn Thích Thiện vô uỷ là con cháu đời thứ năm mươi hai của vua Hộc Phạn. Đến năm Khai Nguyên thứ bảy (713) thời Tiền Đường, từ Tây vức ngài Thiện vô uý đem Đồ Ấn Mạn Đà La đến Trung Hoa. Dưới thời vua Huyền Tông (Lý Long Cơ 712- 756). Ngài Thiện Vô Uý là Quốc sư, phiên dịch Đại Giáo Đại Mạn Đà La, thiết lập Đại Đán Trường, chư Tôn tòa phóng ánh sáng, trời mưa hoa nhỏ nhiệm mà cúng dường. Với sự cảm ứng ấy không thể ghi chép một cách đơn thuần. Cảm ứng của Kim Cang giới mạng Đà La truyền hoằng. Xưa kia, Kim cang Tát đoả thân gần trước Đức Phật Tỳ Lô Giá ma thọ nhận pháp nghóa Kim cang giới Đại Mạn Đà La, vài trăm năm sau lại hoằng truyền cho Bồ-tát Long Mảnh. Lại qua vài trăm năm sau, ngài Long Trí mảnh lại truyền trao cho ngài Long Trí. Ngài Long Trí cẩn trong truyền trì như bình đựng đầy nước mà chuyển dời, lại truyền trao đến ngài Kim Cang Trí. Ngài Kim Cang Trí vốn người ở nước Ma Lại Da thuộc nam Ấn Độ, theo duyên mà vẫn du tuỳ xứ mà làm lợi ích quần sinh, nghe tại nước Trung Hoa, Phật giáo hưng thạnh, nên theo đường thuyền ngài đến phương đông có thể đến được bờ biển. Đến năm Khai Nghuyên thứ tám (720) thời tiền Đường, ngài Kim Cang Trí mới đến Kinh Aáp, từ đó rộng hoằng truyền Bí mật giáo, Kiến lập Man Đà La y cứ theo pháp mà làm thành, đều cảm các điềm ứng vậy. Cảm ứng của sự kiến tạo Kim Cang giới Quán Đảng Đạo tràng cầu mưa mà được (Rút từ Kim Cang Trí truyện). Xưa kia, Hòa thượng Tam Tạng pháp sư Kim Cang Trí vào năm ba mươi mốt tuổi, ngài sang nam Thiên Trúc theo ngài Long Trí thọ học Năm Bộ Quán Đảnh các tạng Bí mật rồi trở vế lại Trung Thiên Trúc. Sau đó tại nam Thiên Trúc suo61t ba năm nắng hạn, cây cỏ đều khô chết, vua xứ đó sai sứ đến nghinh thỉnh ngài vào ngay trong cung Kiến lập Kim Cang giới Quán Đảnh đạo tràng để cầu mưa. Khi ấy, nước mưa đượm nhuần, vua toi thảy đều mừng vui, bèn vì ngài mà tạo lập chùa, đem thờ Kinh pháp vậy. lục). Cảm ứng của sự lễ bái Kim Long giới Đại mạn Đà La Đồ (Tân Tương truyền rằng: tại Tân Châu có một người nữ goá bụa, ngu si không có niềm tin, không biết nhân quả. Đến lúc năm mươi bảy tuổi cảm mắc bệnh tật mà qua đời, trong thấy mọi xự, sau sáu ngày sống lại, người ấy rơi lệ vật vả thân mình mà tự trách lỗi quá. Mọi người thấy lạ bèn hỏi về nguyên do, người nữ ấy đáp rằng:”Tôi thấy những sự hiếm có, chẳng thể nghó bàn. Lúc đầu mới chết vào nơi Địa ngục sắt lửa, bị ném vào trong Địa ngục, nơi ngục có người tâm tâu cùng vua, vua bèn kiểm xét ở một quyển sách mà nói rằng:”Người nữ này ngày trước đến nơi thất Hòa thượng Biện ngôn Hoằng lễ bái Kim Cang giới Đại mạn Đà la Quán Đảnh Đạo Tràng. Chỉ do công sức ấy nên ngươi chẳng phải là người sinh tử, hãy sớm trở về nhân gian”. Thấy sự việc ấy rồi được sống lại, nhân đó mà phát tâm tu hành vậy. Cảm ứng của sự xưng niệm các Tôn tượng ở Thai Tạng Đại mạn Đà La. (Tân Lục). Tương truyền rằng: “Sa-môn A Xa Lệ Huệ ứng ở chùa Đại Hưng Thiện truyền pháp Quán Đảnh, có một vị Sa Di từ năm bảy tuổi theo phụng thờ Hòa thượng. Sau bảy năm, nhân có Phật sự. Vị Sa Di ấy nương nhất tâm xưng niệm Thánh chúng Thai tạng mà cầu nguyện rằng: “Xin Đại chúng trong Hải hội Khởi Tâm Đại Bi, khắp cứu mọi người cùng thuyền bị đắm chìm”. Bèn như mộng thấy giữa Hư không Thánh chúng đông nhiều như sao toả phóng ánh sáng. Thân mình vị Sa Di ấy bỗng ở tại trên bờ, hơn năm mươi người kia chẳng bị đắm chìm mà ở đồng một chỗ, trong đó hơn hai mươi người nói là có thấy Thánh chúng giữa hu không. Nên biết sức lực cứu nạn chẳng thể nghó bàn vậy. Cảm ứng của Xá-Lợi Đức Phật ở đời vua Minh Đế thời Hậu hán (Rút từ Hán Phật nội truyện v.v…). Vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76). thời Hậu hán hoằng dương Phật pháp xây dựng chùa Viện. Bây giờ từ Tây vức đem lại năm viên Xá Lợi, năm sắc đặt để giữa không trung, xoay chuyển như lọng, ánh sáng chói ngời khuất lấp cả mặt nhật. Cảm ứng khi thời nhà Ngô bao vây chùa cấm bắt chư Tăng mà Xá Lợi hiện nổi toả phóng ánh sáng trên Bình Bát. (Rút từ Dị Lục Tuyên Nghiệm Ký). Khi Tôn Hạo (Quy Mệnh Hầu 264-280) thời đông Ngô có được ngôi vua, Chánh giải tấu trình sự việc mà nói rằng: “Phật pháp nên cảm ứng tại Trung Quốc chỗ liệt bày đồng như các vị thần ở nước Hồ”. Tôn Đạo bèn ban sắc chiếu nhóm tập các vị Sa-môn, dàn bày quân lính bao vây chùa, muốn thực hành việc giết phá. Nói cùng Phật sư Khương Tăng Hội rằng: “Phật mà như thần thì nên Kính sùng đó, còn như Phật không có oai linh, thì Hắc y cùng một ngày đồng với mạng chúng Tăng”. Khi ấy, hoặc có người tự quyên sinh, hoặc có người trốn bỏ ra ngoai. Ngài Khương Tăng Hội mới cầu xin thiết trai cầu hiện oai thần, dùng một bình bát bằng đồng đựng đầy nước đặt để trong sân. Sau khoảng bữa ăn bỗng chốc thấy có ánh sáng toả chiếu và trong bình bát giữa sân có tiếng soang soảng, bỗng thấy có Xá Lợi chiếu sáng nơi thềm cấp phòng nhà, nổi trên Bình Bát. Tôn Đạo và Đại Chúng đến trông xem trước, kinh nhạt mất cả thái độ bình thường, rời khỏi chỗ ngồi đổi sắc mặt mà bước tới, Ngài Khương Tăng Hội nói: “Bệ hạ hãy bảo người có sức rất mạnh khoẻ dùng chày bằng chất Kim cang nặng trăm cân để đánh, trọn chẳng thể phá hoại được”.Tôn Hạo bèn y theo lời ấy mà cho rằng trước Kinh bái là bái, rải hoa thiên hương mà xướng cao lời rằng:”Thật là dấu vết Quân Từ Thị đến bờ chưa dứt, thì bánh xe chánh pháp vẫn còn xoay chuyển in dấu vào trong đường tối, oai thần chẳng thiếu ngầm hiện. Ngày nay nếu chẳng như thế thì Tam bảo hẳn dứt mất.” Nói lời ấy vừa xong thì cháy nơi Quân só bỗng nhiên nổi gió. Mọi người trông xem thảy đều Kinh sợ đến ngưng thở, chày vỡ nát mà Xá Lợi chẳng tốn hại gì. Aùnh sáng từ chày toả phóng ngời sáng khắp đầy. Tôn Hạo bèn khâm phục chử thành khuyên thiết lập trai giảng, xây dựng tháp đá tại phía Bắc chợ lớn Kiến Đường, sau vẫn còn toả phóng ánh sáng tốt lành. Đến mùa thu năm Nguyên gia thư mười chín (442) thời tiền Tống, vào nửa đêm nơi chùa toả phóng ánh sáng, trên sông phát nên hình thể tươi đẹp, có ánh sáng lửa khác lạ khiến trên bốn tầng từ phía tây nhiểu quang đến phía nam. Lại vì lừa thiêu đốt nên ánh sáng nhảy vọt lên trên hóa làm hoa sen lớn. Mọi người bèn phát sinh niềm tin, mới về lập chùa đề hiệu là kiến Sơ, đổi tên đất tại chỗ ấy gọi là Đất Phật vậy. Cảm ứng của Đường A Đắc kiến Tạo Tháp được phóng thả sống lại. Đường A Đắc bị chết, ba ngày sau sống lại kể rằng: “Lúc đầu vừa chết, có hai người đến cắp nách và một kẻ sứ lại cưỡi ngựa trắng đến xua đuổi, không biết đi được mấy dặm, thấy phía Bắc có lửa tối đen mà vào, lại thấy ở phía đông có cửa tối đen mà vào, thấy phía nam có cửa tối đen rồi đến phía bắc vào thấy có hơn bảy mươi rường nhà thảy đều có người ở, mặc áo sắc đen đội mũ rồng, bên cạnh có hơn hai mươi kẻ lại nói đều nói là Phủ quân. Phía Tây nam lại có bốn mưoi kẻ lại. Đường A Đắc bèn giả từ Phủ Quân trước. Phủ Quân hỏi: “Ông phụng thờ gì?” Đường A Đắc trả lời rằng: “Khi ở nhà dựng xây bảo Tháp chùa chiền,cúng dường Đạo nhân”. Phủ Quân nói: “Ông là người có phước đức lớn”. Và bèn hỏi quan sứ Đô Cục rằng: “Người này thọ mạng đã hết chưa?” Thấy nắm một quyển sách đặt để nơi Aùn, chữ viết rất nhỏ đề rằng: “Tuổi thọ còn thờ ba mươi lăm năm”. Phủ Quân tức giận bảo: “Kẻ sứ nhỏ này dám vội cướp đoạt mạng người”. Liền sai bắt kẻ sứ cưỡi ngựa trắng trói vào nơi trụ phạt đánh trăm trượng, máu me đổ chảy lan tràn. Rồi hỏi Đường A Đắc rằng: “Ngươi muốn trở về lại chăng?” Đường A Đắc đáp: “Muốn vậy”. Phủ Quân nói:”Nay nên đưa ông trở về, muốn tiện khiến ông xét xem các Địa ngục”. Liền cấp cho một con ngựa và một người, từ phía đông bắc mà đi ra không biết bao nhiêu dặm, thấy một thành vuông vài mươi dặm, nhà cao khắp đầy thành, nhân thấy họ chưa phụng thờ Phật. Khi ấy vợ chồng người bác và vợ chồng người chú đã qua đời đều mặc y phục thần vức rách nát, thân hình tan hoại máu me lan tràn. Đi thẳng đến trước lại thấy một thành, trong đó có dùng giường sắt đặt để ở trên, đốt giường cháy đỏ, có đến mười ngục, mỗi mỗi đều có sự khổ sở độc hại, ngục tên là cát đỏ, cát vàng, cát trắng, bảy loại cát như thế có cây dao kiếm muốn cột đồng cháy đỏ. Khi ấy bèn đi nhanh. Lại thấy có bảy mươi hai gian nhà, cặp theo đường đi đều trồng cây hoè gọi đó là nhà Phước. Các Đệ tử Phật ở trong đó, người nhiều phước thì sinh lên các cõi trời, người thiếu phước thì sống ở nhà ấy. Xa thấy một Đại Điện có hơn hai mươi gian, có một người nam vì hai người nữ từ trên Đại Điện đi xuống, là sau khi Đường A Đắc phụng thờ Phật, vợ chồng người bác đã qua đời chỉ phút chốc gặp gỡ, người lại hỏi Đường A Đắc rằng: “Một thành vuông vài mươi dặm khắp cùng, vậy có biết ta chăng?” Đường A Đắc nói: “Không biết”. Lại hỏi: “Cớ sao ngươi không biết ta? Ta cùng ngươi làm chủ nhà Phật”. Khi ấy bèn cười mà nhớ lại đó. Về đến chỗ Phủ Quân, kiền sai hai người trước đưa Đường A Đắc trở về, gấp khiến sống lại vậy. Cảm ứng của Sư Đầu chưa đến chỗ hành hình mà sao bèn tự gãy mất (Rút từ Tuyên Nghiệm ký). Ở Vinh Dương có Cao Cẩu tuổi đã năm mươi là người giết hai bị bắt xiềng xích nơi cổ trong nhà tù khác, thân phận hẳn phải nhận chịu chết. Có người đồng ở trong tù khuyên: “Nên nổ lực đọc tụng Kinh Quán Thế Âm”. Cao Cẩu nói: “Tội tôi rất nặng phải chịu chết, chẳng có đâu mà có thể thoát khỏi”. Lại có người cùng bị giam cấm khuyên bảo, nhân đó Cao Cầu bắt đầu phát tâm, thệ nguyện sẽ bỏ ác làm lành. Và khuyên xưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, chẳng gian vội vàng. Nếu như được thoát khỏi thì nguyện sẽ tạo dựng tháp Phật cao năm tầng. Xả thân làm kẻ tôi tớ để cúng dường chúng Tăng. Chỉ mới dụng tâm trong mười ngày mà gông cùm tự cởi mở, quan coi ngục tù kinh sợ, nói cùng Cao Cẩu rằng: “Nếu được Phật thần thương xót ông thì tạm nên thoát khỏi chết”. Đến ngày hành hình dao vừa giất lên chưa hạ xuống mà tự nhiên dao nhọn gãy mất, quan sứ tâu trình nên được thoát khỏi. Cảm ứng của thần Miếu dâng cúng vải lụa để Sa-môn An Thế cao kiến thọ tạo bảo tháp mà được thoát khỏi thân hình trăn rắn. Sa-môn An Thế Cao là thái tử con vua nước An Tức rất hết lòng du phươnghoằng hóa. Trên đường sang Dự chương, đến hồ Cung đình, vào miếu, Thần miếu nói cùng ngài rằng: “Xưa trước ở ngoại Quốc. Tôixuất gia làm đạo nhân, ưa thích thực hành bố thí mà chẳng trì Giới, nên ngày nay sinh làm thần ở Hồ Cung Đình này. Chung quanh trong vòng ngàn dặm đều đặt dưới sự cai quản của tôi, trăm họ dâng cúng nọi thứ quý báu vô số, đó là quả báo do đời trước của tôi tự tổn mình để lợi người vậy. Nếu như hay hình trì giới pháp cùng với phước ấy hẳn sinh ở cõi trời, nhưng vì huỷ phạm giới pháp nên bị đoạ làm thần ở trong đây. Đại Sư là bạn đồng học của tôi ở ngày xưa trước, nay được gặp gỡ, mọi điều buồn vui có thể cùng tỏ bày vậy. Thọ mạng của tôi sắp hết chỉ trong sớm tối mà thân hình to lớn xấu xí, nên tôi không muốn xả bỏ báo thân nơi đây khiến bẩn dơ nước Hồ. Tôi sẽ vượt qua núi phía tây ở giữa đầm trống để xả bỏ thân này, Nhưng sợ Tâm thức sẽ xa đoạ vào Địa ngục, tôi có ngàn xấp lụa quyên hiệu để trong hộp đá và các thứ tạp vật. Đại sư có thể vì tôi. Lấy đó mà xây dựng Bảo tháp cúng dường Tam bảo, ngỏ hầu sau khi qua đời tôi được sinh về cõi đất lành. Rất lấy làm mong mỏi nương cậy vậy.” Ngài nghe thế, buồn khóc lưu luyến, bèn bảo cùng thần rằng: “Sao chẳng thấy thân hình mặt mũi mà cùng đối đáp ư?” Thần đáp: “Do vì tội huỷ phạm giới nên thân hình tôi rất xấu xí. Sợ trông thấy hẳn sẽ khiếp sợ”. Ngài bảo: “Hãy cứ tạm hiện thấy, thân tôi đây không khiếp sợ vậy.” Thần bèn từ phía sau sáng ló đầu ra thì là thân rắn lớn đến bên đầu gối của ngài, lệ đổ như mưa. Không biết đuôi trăn dài ngắn đến bao nhiêu, bỗng chốc liền ẩn mất sau sàng. Khi ấy ngài gom lấy lụa quyên và mọi vật mà thối lui, đặt để vào thuyền rồi cùng giả biết. Cùng với đồng bạn vượt thuyền tiến tới, trên đường lại thấy thần phô bày thân hình rắn bò lên đảnh núi mà vượt qua xa,mọi người đều hua tay cùng từ biệt. Chốc lác bèn đến sự chương. Và ngài ở tại xứ ấy xây dựng chùa chiền. Thần vượt phía Tây núi xả bỏ thân mạng. Đầu đuôi cùng cách nhau hơn bốn mươi dặm. Nay đó tức là Xà Thôn (Làng Rắn) ở quận Tầm dương vậy. Ngài dùng các vật khác ở trong miếu thần đến báo là” : Do nhờ Đại sư tu tạo phước mà thần được thoát khỏi thân rắn vậy”. xá. Cảm ứng của trưởng Giả Tu Đạt tỉnh đo đất xây dựng tinh Trưởng giả Tu Đạt cùng ngài Xá-Lợi-Phất sang tình do đất xây dựng tinh xá. Tự tay trưởng giả đưa một đầu dây cùng tỉnh đo xây dựng tinh xá.Khi ấy tự nhiên ngài Xá-Lợi-Phất mỉm cười. Trưởng giả hỏi rằng: “Cớ sao Tôn giả mỉm cười vậy?” Ngài Xá-Lợi-Phất bảo: “Ông chỉ mới ở tại chỗ đất này, mà cung điện trong cõi trời Lục Dục đã hoàn thành vậy. Nhưng sức Đạo nhãn tôi thấy cả thảy sáu cõi trời trang nghiêm các Điện Báu”. Trưởng giả hỏi ngài Xá-Lợi-Phất rằng: “Trong sáu cõi trời, nơi nào là vui thú An Lạc nhất?” Ngài Xá-Lợi-Phất bảo: “Dưới ba cõi sắc nhiễm, trên hai cầu vượt qua, ở trong cõi trời thứ tư, là nơi ít ham muốn biết đủ, thường có các Bồ-tát trong một đời sẽ được Bổ xứ làm Phật đến sống tại đó, ngôn từ giáo pháp luôn tuyên giảng không ngừng dứt. Trưởng giả nói:”Tôi sẽ sinh vào trong cõi trời thứ tư”. Nói vừa xong, các cung Điện khác đều ẩn mất chỉ còn cung Điện của cõi trời thứ tư vẫn trạm nhiên vậy. độ. Cảm ứng của chỗ đất xây dựng tinh xá sau khi Đức Phật diệt (Rút từ Thiên Thỉnh Vấn Ký và Quang Mẩn Bồ-tát Kinh). Xưa kia, khi Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, ngài toả phóng ánh sáng lớn soi chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế giới đến trăm ức xứ trời đất. Không chỗ nào chẳng thấu suốt như vật trong lòng bàn tay. Bấy giờ trong Đại chúng có trăm ức vị như ngài Xá-Lợi-Phất v.v… làm Thượng Thư. Ở trong ánh sáng ấy thấy trăm ức bốn Thiên hạ, cõi đất thuần bằng vàng ròng, nơi nơi khắp cùng, ánh sáng của Đức Phật phân tán dừng ở chỗ đất vàng ròng không thâu lấy lại. Qua thời gian lâu, cư só Tu Đạt từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, cớ sao ngày nay Đại Chúng con v.v… đây thấy trong thế giới tạp nhiễu nơi nơi đều có đất vàng ròng như khắc chạm.? Cớ sao Đức Thế Tôn phân tán ánh sáng dừng ở nơi nơi vàng ròng mà không thâu lấy lại?” Đức Phật dạy: “Sau khi ta nhập Niết-bàn, lúc phân các thời chánh pháp tượng Pháp và Mạt Pháp, các hàng Thiện nam tín nữ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Quốc Vương, Trưởng giả, Đại thần, nhân dân, do oai thần của Phật mà nói các xứ ấy dựng xây chùa chiền, chỗ ở của ánh sáng ngày nay là nơi đất vàng ròng ấy vậy. Bồn Bộ Đệ tử ấy do công đức ánh sáng Bạch hào của ta phân tán nên làm được mọi Phật sự, công đức có được so với ông thật không khác lạ.Thứ nữa lưu lại ánh sáng Bạch hào, tuy ta nhập Niết-bàn nhưng vẫn thường trú bất diệt. Trong tương lai, lúc hưng khởi, rất vì chiếu sáng theo miệng của thế chủ vào ờ trong cõi lòng tấc vuông, dần dần chiếu lắng trong sinh tử, nhất định không còn sa đoạ trong bốn đường xấu ác, hẳn sẽ thành Phật. Cõi báu vàng ròng, như Văn Thù Sa Lơi v.v… tuy có lợi ích đó. Bốn bộ Đệ tử thường ngày hường dụng mà trọn không hay biết vậy. Cảm ứng của vị Sa Di dùng gậy trượng mở rộng tinh xá, làm vách phên bằng gỗ mả được kéo dài Thọ mạng. (Rút từ Tây vức tạp kỳ). Xưa kia, tại nước Kế Tân có một ngôi tinh xá, Tăng chúng có hơn ba trăm vi, Sa Di có hơn hai mươi vị. Trong đó có một vị Sa Di nhỏ nhất, tuổi mới mười ba, các vị Thượng Toạ sai bảo làm việc của chúng Tăng. vị Sa Di ất chẳng hề trái phạm. Bấy giờ có một vị Ni càn Tử rất khéo giỏi đoán tướng thấy vị Sa Di ấy mà bảo rằng: “Tuổi thọ của ông còn hơn hai năm nữa”. Vị Sa Di ấy nghe vậy trong lòng rất khiếp sợ. Trãi qua thời gian sau một mùa hạ. Ni Càn Tử đó trông thấy lại vị Sa Di ấy mà bảo rằng:”Thật không thể nghỉ bàn! Không thể nghó bàn, rất là hiếm có, tuổi thọ của ông đã kéo dài đến năm mươi tuổi, ông có pháp thuật kỳ diệu gì vậy?” Vị Sa Di ấy đáp:”Trọn không tu pháp gì để kéo dài Thọ mạng”. Ni Càn Tử đó bạch Thượng tọa. Thượng tọa là bậc Đại A-la-hán chứng đạt Tam minh, vào Định Biên Tế, quản xét biết về nhận duyên, nên sau khi Xả Định, bảo cùng Ni Càn Tử rằng: “Vào đầu hạ, chúng Tăng tạo dựng vách phên Thích-ca, vị Sa Di ấy dùng một cây gỗ nhỏ tức nắm chiếc gậy xưa cũ gia thêm vách phên, do nhân duyên ấy nên tuổi thọ kéo dài đến năm mươi năm vậy.”. Cảm ứng của sự phẩy quét tinh xá mà được sinh lên cõi trời. Xưa kia, khi Đức Phật Như Lai còn tại thế, bấy giờ có một người trời xuống đến tinh xá Kỳ Hoàn. Đức Phật vì người ấy mà giảng pháp Tứ Đế, Người ấy chứng đắc pháp nhãn Tịnh. Ngài A-nan bạch hỏi Đức Phật về nhân duyên Phật dạy: “Sau khi Trưởng giả Tu Đạt tạo dựng tinh xá rồi, sai bảo một kẻ Tôi tớ quét trước sân chùa, sửa sang đường sá. Do căn lành đó mà kẻ Tôi tớ ấy được sinh lên cõi trời Đao-lợi, nay đến nghe giảng pháp mà chứng đắc pháp nhãn tịnh vậy. Cảm ứng của sự ở nơi chỗ đất vườn nhà cũ của cha mẹ mả kiến tạo tinh xá.(Rút từ Hiền Thánh tập truyện). Xưa kia, Tôn giả Dạ Tu Đa trở về quê cũ, ngay chỗ đất vườn của cha mẹ mà dựng xây tinh xá để thờ phụng Phật vào nữa đêm, có trăm ngàn Thiên tử đến cúng dường tinh xá. Tôn giả không biết nên hỏi. Thiên tử đáp rằng: “Ta là cha mẹ của ngươi, vì nghiệp ác nên đoạ nơi Địa ngục. Ngày ngươi xuất gia, ta được sinh lên cõi trời. Lại đến khi nơi vườn nhà xưa cũ mà ngươi xây dựng tinh xá thì cung điện ta ở tự nhiên lay động, toả phóng ánh sáng gấp bội thường ngày,Vì thấy sự việc ấy nên đến cúng dường vậy. Cảm ứng của chùa ở nước Thất-La-Phạt-Tất-để che phủ đền thờ lớn. (Rút từ Tây vức Ky Tại nước Thất-La-Phạt-Tất-để có một tinh xá cao hơn sáu mươi thước, ở phía đông có một đền thờ trời cũng cao ngang bằng tinh xá, sáng sớm mỗi ngày mặt nhật soi chiếu ánh sáng, song bóng của đền thờ trời không thể che phủ tinh xá. Khi mặt mật nghiêng ngữa về tây soi chiếu thì ảnh bóng tinh xá bèn che phủ ảnh đền thờ trời vậy. Cảm ứng của đứa bé nghèo khổ dùng lá đùa vui làm chùa mà được kéo dài Thọ mạng (Rút từ bần Nhi diên thọ Kinh). Xưa kia có vị A-la-hán đi giữa đường gặp một đứa bé nghèo khổ, quán xét biết được Thọ mạng còn lại của đứa bé chỉ có ba ngày, nên vị A-la-hán ấy bèn thương mà bỏ đi. Qua đến ngày thứ ba gặp lại đứa bé ấy, vị A-la-hán nhập Định quán sát biết đứa bé ấy tuổi thọ kéo dài đến sáu mươi năm,bèn sinh ýn hiếm có, lại quán sát do căn lành gì, mới biết đứa bé ấy cùng các trẻ nhỏ khác đùa vui nhặc lấy lá cây làm chùa, nói với mọi người, khiến người nghe phát sinh tín tâm nên được vậy. Cảm ứng của vị Tỳ-kheo đắp vá lỗ hổng vách tường chùa mà được kéo dào Thọ mạng (Rút từ Tạp Bảo Tạng). Xưa kia, có một vị Tỳ-kheo đến lúc sắp lâm chung, nhân vào trong Tăng-già Lam, thấy nơi vách tường có lỗ hổng, bèn lấy đất bùn mà đắp vá vách tường ấy, do đó được kéo dài tuổi thọ vậy. Cảm ứng của vua nước Kim Địa tu sửa chùa Cổ mà được kéo dài Thọ mạng (Rút từ Thế Dụ Kinh). Xưa kia, có vị thầy khéo giỏi đoán tướng, đoán biết vua nước Kim Địa bảy ngày sau hẳn sẽ qua đời. Ngày hôm sau, đang lúc đi săn bắn thấy một ngôi chùa cũ bị hư hoại liền phát khởi bi Tâm gấp tu sửa lại, nên vua được kéo dài tuổi thọ thêm ba mươi năm vậy. TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC QUYỂN THƯỢNG (HẾT)  <詞>PHÁP BẢO TỤ <卷>QUYỂN TRUNG MỤC LỤC Cảm ứng của sự sắp tụng Kinh Hoa Nghiêm dùng nước rửa tay, nước rơi vải thấm ướt côn trùng được sinh lên cõi trời. Cảm ứng của sự các Sa-môn tu pháp Tiểu thừa đem Kinh Hoa Nghiêm đặt để dưới Kinh A-hàm mà Kinh Hoa Nghiêm thường nằm trên Kinh A-hàm. Cảm ứng của Sa-môn Thích Linh Cán giảng Kinh Hoa Nghiêm thấy cung trời đến nghinh đón mà cải đồi sinh về thế giới Hoa Tạng. Cảm ứng của sự phát nguyện hi tả Kinh Hoa Nghiêm của quan Triều tán Đại phu Tôn Tuyên Đức thời tiền Đường. Cảm ứng của Hành chứng ở phía đông chợ vì người thân mà ghi tả Kinh Hoa Nghiêm đề cứu khổ. Cảm ứng của Vương Thị Cảm Bồ-tát Địa tạng tụng kệ Kinh Hoa Nghiêm mà phá dẹp Địa ngục. Cảm ứng của Sa Di Định sinh ở chùa Không Quán thấy Địa ngục Hồng Liên mà lầm cho là Thế giới Hoa Tạng. Cảm ứng của Rồng con theo Tỳ-kheo Tăng Độ tụng tấp bốn bộ Kinh A-hàm. Cảm ứng của Sa-môn Thích Tăng Du ở nước Tân La tụng Kinh A-hàm vãng sinh về Tịnh độ. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh A-hàm được sinh lên cõi trời. Cảm ứng của A-la-hán Phú Na Xá ở nước Kiền Đà Vệ xưa trước nghe Kinh Trung A-hàm. Cảm ứng của năm trăm co dơi ở bờ biển Nam Hải nghe giảng A- tỳ-đạt-ma tạng mà chứng đắc thành năm trăm vị A-la-hán. Cảm ứng của con chuột ở nước Kế Tân nghe tụng Luật tạng mà chứng đắc Quả vị A-la-hán. Cảm ứng của vị Tỳ-kheo trì Luật Cảm người trời cúng dường. Cảm ứng của Đức Phật Thích-ca trong Kiếp xa xưa lúc còn ở Phàm vị được một Hộp Kinh Đại tập mà diệt tội chứng đắc thần thông. Cảm ứng của Tỳ-kheo Đạo Như ở Trinh Châu chỉ nghe danh tự Kinh Phương Đẳng mà được sinh về Tịnh độ. Cảm ứng của Sa-môn Đàm Vinh và Tăng Định hành về trì pháp sám Phương Đẳng mà được thọ ký. Cảm ứng của Đại sư Trí giả ỡ thời nhà Tuỳ giảng Kinh Tịnh Danh. Cảm ứng của Sa-môn Thích Phổ Minh ở Lâm Truy thời Tiền Tống tụng Kinh Duy ma. Cảm ứng của một thư sinh ở Sơn âm; cối kê ghi tả Kinh Duy Ma mà dứt trừ khổ bệnh cứu độ người thân đã qua đời. Cảm ứng của Pháp sư Pháp tổ vì vua Diêm La mà giảng Kinh Thư Lăng Nghiêm Cảm ứng của Pháp sư Vân ở chùa Quang Tịnh giảng Kinh Thắng Ma mà trời giáng mưa. Cư của người nữ nghèo khổ trì tụng Kinh Thắng ma mà hiện đời được làm Hoàng Hậu. Cảm ứng của Thiền sư Đạo Trân tụng Kinh A Di Đà mà được vãng sinh Tịnh độ. Cảm ứng của pháp sư Đàm Loan được Kinh Quán Vô lượng Thọ mà vãng sinh Tịnh độ. Cảm ứng của Sa-môn Tăng cảm ở Tinh châu thọ trì Quán Kinh và Kinh A Di Đà mà được vãng sinh Tịnh độ. Cảm ứng của sự giảng Kinh Kim Quang Minh ở nước phía Tây Ấn Độ mà nước thù địch được hòa. Cảm ứng của sự giảng Kinh Kim Quang Minh tối Thắng ở nước Trung Ấn Độ. Cảm ứng của Trương cư Đạo đang trên đường đến Minh phủ phát nguyện tu tạo bốn quyển Kinh Kim Quang Minh. cảm ứng của Hoàng Hậu Tắc Thiên cúng dường Kinh Kinh Quang Minh tối Thắng Vương. Cảm ứng của Diêu Hải ở Tử Châu vì người thân qua đời mà tự ghi tả bốn bộ Kinh Đại thừa. Cảm ứng của Trương Tạ Phu ở thời Tiền Đường tụng Kinh Dược Sư mà dứt trừ bệnh. Cảm ứng của Trương Lý Thông ở thời Tiền Đường ghi tả Kinh Dược Sư mà được kéo dài Thọ mạng. Cảm ứng của sự ghi tà hoằng truyền Kinh Đại Tỳ Lô Giả Ma. Cảm ứng của sự ghi tả thần chú Tuỳ Cầu Đa-la Ni buộc đeo nơi cổ mà được diệt tội. Cảm ứng của Kinh Tôn Thắng Đà La Ni được thỉnh lại. Cảm ứng của đứa trẻ nghe tụng Kinh Thọ mạng mà được kéo dài Thọ mạng. Cảm ứng của Vương nử ở nước Ô Kỳ trì tụng Kinh Bát Nhã mà dứt trừ oán hại v.v… Cảm ứng của vua nước Tất Thí ghi tả trì tụng Kinh Bát Nhã mà dứt trừ oán hại v.v…. Cảm ứng của Vị hoạc Khắp Tam Tạng mở đầu bước đường đi Tây vức mỗi ngày trì tụng hai mươi mốt biến Kinh Bát Nhã. Cảm ứng của lúc phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã. Cảm ứng của sự cúng dường Kinh Đại Bát Nhã lần đầu tiên. Cảm ứng của một thư sinh ở trung niên hiệu Càn Phong thời Tiền Đường y cứ sắc ban của vua Cao Tông mà ghi tả một pho Kinh Đại Bát Nhã. Cảm ứng của sự đọc tụng cúng dường Kinh Đại Bát Nhã của vua nước Tam Ma Đát Tra tại phía Đông Ấn Độ, Cảm ứng của Thiền sư Thường Mẫn ở Tinh Châu ghi tả Kinh Đại Bát Nhã. Cảm ứng của Sa-môn Thích Tăng Trí ở Kinh Triệu phúng tụng hai quyển Kinh Đại Bát Nhã. Cảm ứng của Sa-môn Đạo Tuấn ở Tinh Châu ghi tả Kinh Đại Bát Nhã. Cảm ứng của thân mẫu ở Dự Châu thời Tiền Đường nghe tên Kinh Đại Bát Nhã mà chết rồi được sống lại. Cảm ứng của sự đạp vào chỗ đất hiện tôn thờ Kinh Đại Bát Nhã mà được lìa khỏi nghiệp ác thú. Cảm ứng của Đức Phật Thích-ca lúc đế dưới gốc cây Bồ-đề, Đại Thần dâng cúng cặp vàng tôn trí Kinh Bát Nhã. Cảm ứng của Kinh Đại Tập lúc vua Võ Đế thời Bắc chu phá diệt Phật Pháp. Cảm ứng của Tỳ-kheo A Luyện Nhã đọc tụng Kinh Đại Phẩm. Cảm ứng của Trương Chí Đạt ở quận Thiên Thủy ghi tả ba hàng Kinh Đại Phẩm mà được kéo dài Thọ mạng. Cảm ứng của Kinh Đại Phẩm Bát Nhã của cư só Tấn Châu Mẫn. Cảm ứng của Kinh Phóng Quang Bát Nhã của Sa-môn Tam tạng Pháp sư Chu só hành. Cảm ứng của Sa-môn Thích Thanh Hư vì chúng sinh nhận chịu khổ trong ba đường mà Thọ trì Kinh Kim cang Bát Nhã. Cảm ứng của Sa-môn Thích Pháp Tạng ghi tả trì tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã mà diệt trừ tội chứng. Cảm ứng của vua Huyền Tông thời Tiền Đường đọc tụng Kinh Nhân Vương cầu thỉnh binh lính cõi trời cứu giúp nước An Tây. Cảm ứng của vua Đại Tông thời Tiền Đường giảng Kinh Nhân Vương Bát Nhã mà trời giáng mưa. Cảm ứng của Kinh Nhân Vương Bát Nhã bản cựu dịch. cảm ứng của sự hoằng truyền Kinh Vô lượng nghóa. Cảm ứng của Công đức nghe Kinh Vô lượng nghóa mà được sang lên cõi trời Đao-lợi. Cảm ứng của sự trì tụng Kinh Pháp Hoa đủ số một ngàn bộ hẳn có linh nghiệm. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh Pháp Hoa đủ tám bộ hẳn có được sự cứu khổ. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh Pháp Hoa nội trong một ngày liền được cứu khổ. Cảm ứng của sự phân chia bày quyển Kinh Pháp Hoa giảng ở tám tòa. Cảm ứng của Tam tạng Pháp sư Đàm ma Sấm hoằng truyền Kinh đại Niết-bàn. Cảm ứng của Sa-môn Huệ Nghiêm san lược sửa đổi Kinh Niết- bàn bị thần quở trách. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh Niết-bàn được sinh về nước Bất Động. Cảm ứng của sự nghe hai chữ “ Thường trú”. Cảm ứng của sự đưa tay xúc chạm Kinh Niết-bàn. Cảm ứng các vua ghi tả hết thảy Kinh. ***** Cảm ứng của một người sắp tụng Kinh Hoa Nghiêm dùng nước rửa tay, nước rơi vải thấm ướt côn trùng được sinh lên cõi trời. (Rút từ Kinh Điền và Du Ký). Sa-môn Thích-Ca-Di-Đà-La người nước Chấp Sư Tử, tiếng Trung Hoa dịch nghóa là “Năng Hửu” là người đã chứng đắc Tam quả. Khoảng đầu niên hiệu Lâm Đức (664) thời Tiền Đường, ngài vân du đến Chấn Đán (Trung Hoa), tham lễ khắp các Thánh Tích danh sơn chùa viện v.v… Ngài đến chùa Đại Nguyên ở phìa Tây Kinh Đô, khuyên chư Tăng đọc tụng Kinh Hoa Nghiêm, mới gọi vị dịch ngữ hỏi: “Đó là Kinh già?” Vị ấy đáp:”Kinh Hoa Nghiêm”. nghe thế, bất chợt ngài cải đổi sắc mặt và nói:”Không biết ở xứ này cũng có Kinh Hoa Nghiêm ư?” Và Ngài chấp tay hoan hỷ tán thán rằng: “Nếu nghe được chữ Đề mục Kinh Hoa Nghiêm, hẳn nhất định không đoạ lạc vào bốn đường xấu ác. Đó là công đức của Đại Phương Quảng chẳng thể nghó bàn! Ở Tây vức tương truyề rằng: Có người dùng nước rửa tay lúc sắp tụng Kinh này, nước ấy rơi vải thấm ướt trùng kiến, nhân đó mà kẻ xả bỏ thân mạng về sau được sinh lên cõi trời, huống gì là người thọ trì đọc tụng, phước lợi ấy thật không thể nghó bàn. Tôi từng nghe ở phía đông nam nước Vương Điền cách chứng hơn hai ngàn dặm có một nước tên là Giá Câu Bàn, bên cạnh cung vua có một tinh xá, trong đó các Sa-môn tu Pháp đại thừa đọc tụng Kinh Hoa Nghiêm, vua tôi rất mực cung kính công đức tinh xá ấy.Bỗng nhiên vào nữa đâm nọ có toả phóng ánh sáng soi chiếu khắp trong thành, trong ánh sáng ấy có trăm ngàn người trời dùng các thứ y phục cõi trời, ngoạ báu, anh lạc v.v… đến hiển dâng vua và các Sa- môn. vua hỏi: “Ngươi là ai?” Người đáp: “Tôi là côn trùng ở bên cạnh tinh xá, do Sa-môn dùng nước rửa tay lúc sắp tụng Kinh Hoa Nghiêm, nước ấy rơi vải thấm ướt, nhân đó mà tôi xả bỏ thân mạng, được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Ở trên cõi trời được Pháp như vậy mới biết rõ về bản nhân nên xuống cùng báo đáp thâm ân”. vua nghe người trời nói như thế, buồn vui lẫn lộn, liền chế ước định rằng: “Nước ta riêng Kính trọng Phật Đại thừa, không nên lưu hành pháp Tiểu thừa” . Từ đó trở về sau, trải qua nhiều đời vua ở nước ấy thảy đều tụng kính trọng pháp Đại thừa. Những bậc Danh tăng ở các nước vào nước đó đều phải trải qua sự kháo xét, nếu là người học pháp Tiểu thừa thì mời đi không giữ lại, còn người tu học Phật đại thừa thì thỉnh mời lưu giữ lại để cúng dường, mãi đến ngày nay ước định ấy vẫn không cải đổi. Ở trong cung vua tự có các Kinh Hoa Nghiêm, Ma-ha Bát Nhã, Pháp Hoa v.v… Cả mười hai loại bộ Kinh giáo và cả mười vạn kẻ tụng. vua tự thọ trì, đích thân nắm giữ chìa khoá cửa. Khi đọc tụng thì chưng bày hương hoa để cúng dường, những điều kỳ đặc như thế có lắm nhiều vậy. Cảm ứng của sự các Sa-môn tu pháp Tiểu thừa ở chùa Tỳ Sắt Noa đem Kinh Hoa Nghiêm đặt để dưới Kinh A-hàm mà Kinh Hoa Nghiêm thường nằm trên Kinh A-hàm. Sa-môn Tam Tạng Pháp sư Nhật chiếu nói rằng: “Ở phía nam Thiên Trúc gần thành Chiêm Ba có một ngôi già Lam tên là Tỳ Sắt Noa. Trong đó có các Sa-môn tu pháp Tiểu thừa thường sống. Về sau có một pháp sư tu pháp Đại thừa mang đến đó một pho Kinh Hoa Nghiêm. Các Sa-môn tu pháp Tiểu thừa chẳng tỏ vẻ kính tụng. Vị pháp sư Đại thừa ấy lưu để bộ Kinh ấy lại đó mà đi. Các Sa-môn học pháp Tiểu thừa trong Tâm chẳng tin nên đem pho Kinh ấy ném vất trong giếng. Sau đó thấy trong giếng tỏa phóng ánh sáng như lửa dữ. Tuy lâu ngày ở trong giếng mà pho Kinh ấy không hề bị thấm ướt, các Sa-môn tu pháp Tiểu thừa mới tin Kinh ấy là do chính Đức Phật giảng nói song vẫn chẳng bằng Kinh giáo Tiểu thừa, bèn đem bộ Kinh ấy đặt để dưới các Kinh Luật như A-hàm, v.v… Đến sáng ngày hôm sau liền thấy bộ Kinh ấy nằn ở trên các Kinh luận kia, mới quở trách lớp nhỏ trong chùa: “Mới đặt xuống dưới trờ lại như cũ, Qua sáng ngày hơm sau, Bộ Kinh ấy cũng lại nằm ở trên các Kinh luận kia, qua vài lần như thế, các Sa-môn tu pháp Tiểu thừa rất kinh hãi, mới biết bộ Kinh ấy hơn hẳn ác Kinh luận mà mình hiện đang tu học, bèn ngã mình nơi đất lăn lóc khóc gào sám hối hồi tâm, cùng nhau chuyên thọ trì chỉ một bộ Kinh Hoa Nghiêm và hoằng truyền hưng thạnh tại nước ấy vậy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Linh Cán giảng Kinh Hoa Nghiêm thấy cung trời đến nghinh đón mà cải đồi sinh về thế giới Hoa Tạng. (Rút văn từ các Kinh truyện). Sa-môn Thích Linh Cán thường giảng Kinh Hoa Nghiêm, xa gần đều đượm nhuần. Năm Khai Hoàng thứ mười bảy (597) thời nhà Tuỳ, ngài cảm mắc bệnh nên chết ngất, chỉ nơi tim còn ấm nên mọi người chưa dám tổn liệm an táng. Sau đó, ngài tỉnh lại kể rằng: “Ta sinh lên cung trời Đâu-suất, thấy hai pháp sư Huệ Hưu va Huệ Viễn đều ngồi trên đài hoa toả phóng ánh sáng khác thường ở trên thế gian, bảo cùng ngài rằng: “Ông cùng các đệ tử của ta sau này đều sinh lên đây”. Đến tháng giêng năm Khai Hoàng thứ mười tám(598) thời nhà Tuỳ, ngài thị tịch, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi, bèn hoả táng tại phía bắc núi Chung Nam. Lúc bình sinh ngài luôn giữ chí kính phụng Kinh Hoa Nghiêm, thường y theo nguyên bản mà khởi quán tưởng thế giới liên Hoa Tạng và Di Lặc Thiên cung. Đến lúc cảm mắc bệnh rất lắm, ngài thấy trên tròng mắt mà chẳng nói cùng mọi người, lâu sau mới trở lại như thường, có Sa-môn Đồng Chân chăm sóc bệnh ở bên cạnh, Ngài mới bảo cùng Đồng Chân rằng: “Vừa rồi ta thấy có Đồng Tử mặc áo sinh dẫn đến cung trời Đâu-suất. Mà những sự an vui ở cung trời chẳng được lâu dài, rốt cùng sẽ rơi lạc luân hồi, Thế giới liên Hoa Tạng là nơi ta thường mong tính”. Sau đó không lâu, ngài ngưng thở, chỉ chốc lát trở lại, Đồng Chân hỏi ngài trông thấy gì. Ngài bảo: “Thấy nước lớn khắp đầy, có hoa sen lớn như bánh xe, ngồi trên hoa đó, điều ước nguyện đã tròn đầy”. Phút chốc ngài bèn thị tịch vậy. Cảm ứng của sự phát nguyện ghi tả Kinh Hoa Nghiêm của quan Triều tán Đại phu Tôn Tuyên Đức ở thời tiền Đường.(Tân Lục). Tôn Tuyên Đức là quan triều Tán Phu thời Tiền Đường là người ở huyện Vónh An, Ung Châu. Tuyên Đức nương theo nhân duyên phát nguyện, sắp tu tạo Kinh Hoa Nghiêm. Đang lúc gặp việc bèn sinh tâm Bất tín liền phế bỏ tất cả, trái lại không việc ác gì chẳng làm. Về sau, đang lúc đi săn bắn bị rơi trên mình ngựa xuống đất nên chết ngất, trải qua một ngày, sống lại buồn khóc vật vả, ăn năn hối lỗi quá mà tự trách nói cùng Tư Mạc rằng: “Lúc đầu tôi mới chết thấy ba người ở Minh Quan đuổi bắt đưa đến trước một thành lớn. các Đại thần trong ngũ đạo theo thứ tự mà xếp hành. vua Diêm-ma ngồi yên tại chỗ tỏ vẻ tức giận mà quát mắng tôi rằng: “Ngươi là người ngu si, là kẻ phóng túng tạo ác. Theo các loại cầm thú mách tố bị giết hại chẳng phải phần mà kêu bắt ngươi”. Liền thấy trong sân có trăm ngàn muôn vật bị tôi giết hại mỗi mỗi hướng đến vua tấu trình nguyên do chẳng phải phần mà bị cướp mất mạng sống” vua càng tức giận. Khi ấy có một Đồng tử tự xưng là Thiện tài bỗng nhiên đến nơi chỗ vua. vua cung Kính từ chỗ ngồi bước xuống chấp tay vái chào Đồng tử. Đồng tử bảo: “Ngươi có thể phóng thả Tuyên Đức, người ấy phát tâm tu tạo Kinh Hoa Nghiêm mà chưa hòa thành. Lúc phát nguyện, người ấy không gì chẳng là tín tâm. Há vì việc ác về sau này mà vất bỏ nguyện Thiện trước kia ư?” vua hoan hỷ nói rằng: “Lý thật đúng như vậy, nên có thể phóng thả trở về. Và nhờ Đồng tử chỉ đường trở về mà được sống lại”. Thật công đức của Kinh Đại Hoa Nghiêm không thể nghó bàn. Từ đó Tuyên Đức bèn sám hối những ngu muội cưa trước, dốc hết của cải ghi tả tu tạo Kinh Hoa Nghiêm. Đến năm tám mươi sáu tuổi, trước lúc qua đời, Tuyên Đức nói cùng bè bạn thân thích rằng: “Tôi ghi tả Kinh Hoa Nghiêm được sinh lên cung trời Đâu-suất, phụng thờ đức Từ Thị”. Nói xong bèn qua đời. Cảm ứng của Hành chứng ở phía đông chợ vì người thân mà ghi tả Kinh Hoa Nghiêm đề cứu khổ. (Rút văn từ Kinh Truyện). Ngày mồng một tháng năm năm Điều Lộ thứ hai (680) thời Tiền Đường, có Khương A Lục Sơn-người huện vạn Niên, Ung Châu bị cảm mắc bệnh mà qua đời. Năm ngày sau sống lại, A Lục Sơn tự nói các điều ở Minh Đạo, bó lầm bắt đến chỗ vua Diêm-ma, khi ấy thấy người làm thuốc A Dung sư ở phía Đông chợ mà đi, A Dung sư cảm mắc bệnh nên đã qua đời từ năm Điều Lộ thứ nhất (679) thời Tiền Đường. Lúc sống chiên nấu thịt gà, nên cùng bảy trăm người sa đoạ vào Địa ngục vạc sôi, vì trước kia cùng có biết A Lục Sơn nên bèn nhắn lời về nói rằng: “Hành chứng là người con thứ tư của tôi hơi có chút nhân từ, ông nên nói với nó, bảo ghi tả cho tôi một bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tôi chẳng cùng gặp được nó. Nếu như vừa mới ghi tả Kinh ấy thì bả trăm người đây đều được giải thoát”. A Lục Sơn đi sang phía đông chợ mua thuốc ở nhà A Dung, đem lời nhắn nhủ của A Dung sư nói cùng hành Chứng. Hành chứng rất buồn cảm bèn đến chùa Đại Nguyên ở phía Tây thỉnh Kinh và mời người ghi tả. Kể từ khi A Dung sư qua đời, mọi người trong nhà không ai mộng tưởng, đến đêm đầu tiên mới ghi tả Kinh cả nhà đều đồng mộng thấy A Dung sư đến tỏ vẻ rất vui mừng không thôi. Đến tháng tám năm Vónh Long thứ nhất (689) thời Tiền Đường, công việc ghi tả Kinh Hoa Nghiêm được hoàn tất, thỉnh mời Đại Đức Pháp Tạng và các Sa-môn nghóa học cùng vui mừng Kinh mà thiết cúng. Ngày đó A Lục sơn cũng có vinh dự tham tại hội, mới thấy A Dung sư v.v… cả thảy bảy trăm quỷ chúng đều đến nơi thiết trai, lễ kính Tam bảo,đồng quỳ trước chư tăng mà sám hối thọ giới.Khi pháp sự hoàn tất, A Dung sư nói rằng: “Chúng tôi nhờ sức lực của Kinh mà được cải đổi quả báo sinh lên Thiên Đường”. Nói xong bèn đi. A Lục sơu1d9 thoát khỏi và đã thấy rõ mọi sự ở Minh ty nên rất Kính tin mõi điều tội nghiệp vậy. Cảm ứng của Vương Thị Cảm được Bồ-tát Địa tạng dạy tụng kệ Kinh Hoa Nghiêm mà phá dẹp Địa ngục. (Rút từ Kinh truyện biệt kỳ v.v…) Tại Kinh đô có người giòng họ Vương mà không biết tên là gì (Tôi ghi là Định tạng). Người ấy vốn đã không giới hạnh, lại chẳng từng tu tập thi65n pháp. Năm VĂn Minh thứ hai (686) thời Tiền Đường, nhân cảm mắc bệnh, người ấy qua đời, thấy hai người dẫn đến cửa Địa ngục. Vương thị vốn phụng thờ Bồ-tát Địa tạng, thấy có một vị tăng nói là Bồ-tát Địa tạng mới dạy cho Vương thị tụng một hàng kệ trong Kinh. Bài kệ đó là: “Nếu người muốn biết rõ Chữ Phật trong ba đời, Phải nên quán xét là Tâm tạo chư Như Lai.” Bồ-tát bảo rằng: “Tụng được kệ ấy tức có thể phá dẹp Địa ngục” . Vương thị tụng xong, bèn vào chỗ vua Diêm-ma. Vua hỏi: “Người này có công đức gì?” Đáp rằng: “Chỉ thọ trì được một bài kệ bốn câu” đầy đủ như ghi trên, vua bèn phóng thả Vương thị. Đang lúc Vương thị tụng đọc bài kệ đó âm thanh vang vọng đến người nhận chịu khổ được nghe mà đều được giải thoát. Ba ngày sau, sống lại, Vương thị nói lại việc ấy cùng các Sa-môn (Một bài kệ ấy tức trong Phẩm. “Vô lượng chư vị Bồ- tát vân tập nói pháp tại cung trời Da ma” Ở Kinh Hoa Nghiêm quyển mười hai vậy). Cảm ứng của Sa Di Định sinh ở chùa Không Quán thấy Địa ngục Hồng Liên mà lầm cho là Thế giới Hoa Tạng. (Rút văn từ Biệt Lục). Sa Di Định sinh Phụng vâng pháp tắc của chúng tăng chẳng hay đọc tung Kinh giới. Nghe nói về tướng của thế giới Hoa Tạng, trong tâm thườn gluo6n mến mộ ưa thích, phóng tứ lầm làm mọi việc od chúng Tăng bị đoạ vào nơi Địa ngục Hồng Liên Hoa mà lầm cho đó là Thế giới Hoa Tạng, hoan hỷ ngợi ca “ Cõi nước Hoa Tạng vi diệu”. Khi ấy cả Địa ngục biến thành Hoa Tạng. Những người nhận chịu khổ nghe lời xướng ấy đều ngồi trên Hoa sen. Bấy giờ, quan cai quản ngục tâu cùng vua Diêm-ma. vua bảo: “Đó là do sức lực của Kinh Đại Hoa Nghiêm không thể nghó bàn vậy”. Và liền nói lời kệ tụng rằng: “Quy mạng Hoa Nghiêm Nếu nghe tên Kinh, Hay phá Địa ngục Các vật nơi ngục Và đều tự thấy Kinh chẳng nghó bàn Một kệ bốn câu Giải thoát nghiệp buộc Đều thành Hoa Tạng Ngồi Hoa sen báu”. Qua một ngày một đêm sau, Sa Di Định sinh mới sống lại, tự nói kể về nhân duyên ấy. Và từ đó về sau có sự tỏ thông. Sau khi đã nhóm tập đầy đủ, không biết sa Định sinh du phương như thế nào. Cảm ứng của Rồng con theo Tỳ-kheo Tăng Độ tụng tấp bốn bộ Kinh A-hàm. (Rút từ văn Kinh Tăng Hộ). Xưa kia, lúc Đức Phật còn tại thế, trong nước Xá Vệ có năm trăm Thương nhân vào trong biển lớn tìm cầu Châu báu. Họ thỉnh mời Tỳ- kheo Tăng Hộ vì họ làm vị pháp sư. Khi chưa đến chỗ vật báu, vua Rồng đến gìn giữ thuyền ngừng lại, các Thương nhân Kinh sợ ngữa mặt hỏi: “Thần Kỳ nào mà kéo cản thuyền dừng lại vậy?’ Khi ấy, vua Rồng hiện thân thỉnh mời Tỳ-kheo Tăng Hộ, các Thương nhân sợ oai lực của Rồng nên để ngài ở lại mà tự ra đi. Vua Rồng mừng vui dẫn ngài đến trong cung, Rồng có bốn Ròng con rất thông minh trí tuệ xin là Đệ tử ngài. vua Rồng thưa ngài rằng: “Xin ngài vì tôi mà dạy dỗ bốn Rồng con ấy, mỗi mỗi học một bộ A-hàm, Rồng con thứ nhất, ngài dạy cho học Kinh Tăng nhất A-hàm, Rồng con thứ hai ngài dạy cho học Kinh tăng Nhất A-hàm, Rồng con thứ ba ngài dạy cho học Kinh Tạp A-hàm và Rồng con thứ tư ngài dạy cho học Kinh Trường A-hàm.” Ngài liền vì chỉ dạy cho đó. Trong đó, Rồng con thứ nhất thì im lặng nghe nhận, Rồng con thứ hai thì nhắm mắt ngủ miệng đọc tụng bằng, Rồng con thứ ba thì xoay nhìn nơi khác mà nghe nhận, và Rồng con thứ tư thì đứng xa mà nghe nhận. Bốn Rồng con ấy rất thông minh trí tuệ nên chỉ trong sáu tháng tụng thông bốn bộ Kinh A-hàm, nhớ giữ trong lòng. Không một sai sót. Khi ấy vua Rồng hỏi: ngài có buồn phiền gì chăng?” Ngài đáp:”Rất buồ, tại sao? Người thọ trì Kinh pháp, cốt yếu cần phải có phép tắc. Các Rồng con đây ở trong loài súc sinh không tuân khuôn phép nên không đúng như o pháp mà thọ trì đọc tụng”. Vua Rồng thưa cùng ngài rằng: “Đại Đức chớ nên quở trách tôi. Vì muốn gìn giữ mạng sống của pháp sư, phàm loài rồng chúng tôi có bốn thứ độc, nên không được đúng như pháp mà thọ trì tụng tập. Tại sao? Sở dó im lặng mà nghe nhận là vì lời tiếng độc hai nên vậy, nếu mở miệng phát lời hẳn hại mạng sống của pháp sư, cho nên im lặng mà nghe nhậ. Nhắm mắt ngủ mà nghe nhận vì thấy hẳn độc vậy, xoay nhìn nơi khác mà nghe nhận là vì giữ độc. Đứng xa mà nghe nhận là vì xúc chạm đến độc hại vậy”. Bấy giờ, các Thương nhân trở về lại chỗ mất ngài. Vua Rồng biết tâm niệm của các Thương nhân nên liền đưa ngài trả lại cho các Thương nhân v.v… Rồng mà còn cần phải tụng tập huống gì là người ư. Cảm ứng của Sa-môn Thích Tăng Du ở nước Tân La tụng Kinh A-hàm, vãng sinh về Tịnh độ. (Tân lục). Sa-môn Thích Tăng Du, ngài người nước Tân La, xuất gia từ thuở thiếu thời, quy tâm với giáo điển Tịnh độ. Thấy những người tụng tập Kinh A-hàm, bèn quở trách khiến bỏ. Ngài mộng thấy đến cõi Tịnh độ Cực lạc ở cửa phía đông, sắp vào trong cửa, dùng ấy có Vô lượng Đồng tử người trời đứng tại ngoài cửa dùng gậy báu xuôi đuổi ngài ra mà bảo rằng: “Tiểu đạo diệt mất thì Đại giáo cũng cùng diệt, vì tiểu pháp là thềm thang để bước lên Đại Đạo, là khuôn phép ở cõi nước của ông vậy. Khinh mạn Kinh A-hàm, xả bỏ mà không tập tụng thì không thể vào trong cửa Đại thừa v.v… “Sau khi tỉnh mộng, ngài buồn khóc hối quá, kiêm chuyên thọ trì đọc tụng bốn bộ A-hàm, được cảnh Tịnh độ đến nghinh đón. Đệ tử cũng mộng thấy ngài ngồi trên hoa sen đến bảo là: “Ta ở cõi Ta Bà kiêm tụng tập Kinh A-hàm, do tụng tập ấy nên trước được tiểu đạo, không bao lâu nữa sẽ trở vào Đại Đạo vậy. 10.Cảm ứng của sự ghi tả Kinh A-hàm được sinh lên cõi trời. (Rút từ Ngoại quốc Ký). Xưa kia, sau khi Đức Như Lai diệt độ trong khoảng một trăm năm, vào nửa đêm có một người trời tòa phóng ánh sáng soi chiếu xuống chỗ Tháp Ngài A Na, rãi hoa cúng dường. Bấy giờ có vị Đại A-la-hán hiệu là Cận Hộ tức thầy của vua A Dục hỏi người trời rằng: “Cớ sao ông thường đến lễ bái nơi tháp?” Người trời ấy đáp: “Xưa trước ghi toàn bốn bộ A-hàm nên được sinh lên cõi trời Đao-lợi, đó là do ân đức của ngài A-nan, vì nhân duyên ấy nên thường lại cúng dường “. Ngài Cận Hộ lại hỏi: “Ở cõi trời ấy có ai như ông nữa chăng? Người trời ấy đáp: “Có cả trăm ngàn người đồn nghiệp trong đó hành trì Bộ Tăng Nhất A-hàm mà được sanh lên cõi trời có lắm nhiều vậy.” Cảm ứng của A-la-hán Phú Na Xá ở nước Kiền-Đà-Vệ xưa trước nghe Kinh Trung A-hàm. Xưa kia, tại nước Kiền Đà Vệ có tinh xá Cù Mà Di, trong đó có vị A-la-hán tên là Phú Na Xá, với Tam minh lục thông thảy đều thấu triệt, suốt ngày đêm ngài thường trì tụng Kinh Trung A-hàm, chưa từng tạm phế bỏ.Có người hỏi ngài rằng: “Sư đã chứng quả vị Thánh cùng cực, cớ sao riêng ưa thích tập tụng?”. Ngài đáp: “Ban đêm Tôi an trú trong Tam muội xét biết nghiệp đời trươc. Xưa kia, tôi bị snh trong loài chó theo một vị Tỳ-kheo mà đi. Vị Tỳ-kheo ấy tụng Kinh Trung A-hàm, Tôi theo nghe đó mà vui thích nên không tru sủa, nhờ một căn lành ấy nên được sinh trong nhà Bà-la-môn ở nước Kiền Đà Vệ xuất gia tu tập mới chứng đắc quả vị A-la-hán. Vì nhân duyên ấy nên tôi thường trì tụng không phế bỏ vậy. Cảm ứng của năm trăm con dơi ở bờ biển Nam Hải nghe giảng A-tỳ-đạt-ma Tạng mà chứng đắc thành năm trăm vị A-la-hán.(Rút từ Tây vức truyện) Xưa kia, tại bờ biển nam Hải có một cây khô, có năm trăm con dơi cùng nhóm tụ ở trong bộng cây. Có đoàn thương buôn đến dừng nghó dưới gốc cây, gặp tiết giá rét, mọi người đều đói lạnh, nên nhóm cha6t củi khô đốt lửa phía dưới, lửa khói dần bốc mạnh, cây khô bèn bị thiêu. Khi ấy trong đoàn thương buôn có một khách buôn đã quá nữa đêm đọc tụng A-tỳ-đạt-ma tang, các con dươi tuy bị lửa nóng thiêu đốt khốn khổ nhưng vui thích được nghe pháp âm nên nhẫn chịu chẳng bay đi, đó mạng chung, thầm thức theo nghiệp thõ sinh đều được làm thân người, bỏ nhà xuất gia tu tập theo giáo Tiểu thừa, nhờ thông minh lợi trí nên đều chứng đắc quả Thánh. Nên khi vua Ca Nị sắc Ca cùng Kiếp Tôn giả chiêu tập năm trăm vị Hiền Thánh đến ở nước Ca Thấp Di La trước thuật luận Tỳ-bà-sa, đó chính là năm trăm con dơi ở trong bộng cây khô ấy vậy. Cảm ứng của con chuột ở nước Kế Tân nghe tụng Luật tạng mà chứng đắc Quả vị A-la-hán. Xưa kia, ở tinh xá A-la-hán mạt Điền Địa tại nước Kế Tân, có một vị A-la-hán chứng đắc Tam minh Lục thông, thấu đạt Tam Tạng, mười hai phần loại Kinh giáo. Trong đó, riêng về giới luật rất thanh cao tương đồng như Tôn giả Ưu Ba Ly lúc còn tại thế, thường quở trách khuyên răn Môn đồ rằng: “Các ông phải siêng năng tu học giới luật. Tại sao? Tôi xưa trước khi đang ở phân vị, do vì nghiệp ác nên nhận chịu làm thân chuột ở nơi hang đá. Bấy giờ có một vị Tỳ-kheo thường đêm ở trong hang đá ấy đọc tụng giới luật. Tôi lắng nghe đó. Do căn lành ấy mà được làm thân người tu tập chứng đắc quả vị A-la-hán, thông rành giới luật. Do từ làm thân chuột lắng nghe Luật tạng còn được như thế, huống gì người có tín tâm tu hành ư?” Cảm ứng của vị Tỳ-kheo trì Luật Cảm người trời cúng dường. Xưa kia, trong tinh xá Khả Duy ở nước Kế Tân, có hai vị Tỳ-kheo, trong đó một người thọ trì Luật tụng, một người thọ trì Luận tạng. Mọi người đều đem các thứ ăn thựơng diệu đến cúng dường Luật sư. Vào nửa đêm, người trời lại đến cúng dường lễ bái vị Tỳ-kheo hành trì luật mà không lễ bái cúng dường vị Tỳ-kheo hành trì luận tạng. Cứ như vậy, hơn một tháng sau, vị Tỳ-kheo hành trì luận tạng trong tâm khởi nên tức giận. Người trời bèn quở trách rằng: “Giới luật mở đường cho người và trời và cho đến cả Đạo giả Niết-bàn. Vì nhân duyên ấy nên người trời đều kính trọng trì tụng, Không nên hối hận”. Khi ấy vị Tỳ-kheo hành trì Luận tạng và vị Tỳ-kheo hành trì luật tạng đều tinh cần tu tập nên đồng chứng đắc sơ quả. Và Người trời cúng dường cả hai vị Tỳ-kheo ấy vậy. Cảm ứng của Đức Phật Thích-ca trong Kiếp xa xưa lúc còn ở Phàm vị được một hộp Kinh Đại tập mà diệt tội, chứng đắc thần thông. (Rút từ tập Pháp diệt xả khổ Đà La vi Kinh, tức bản riêng lưu hành trong Kinh Đại tập vậy). Trong vô lượng kiếp xa xưa, Đức Phật Thích-ca lúc còn tại trong phàm phu, với tên gọi là Già Tha, ở nước Gia Thâu La làm người Thương khách buôn bán để sống, hư dối không thật, tạo các vie6c ác, giết hại cha mến yêu mẹ. Trải qua vài năm, dân chúng trong nước ai ai cũng biết, rêu rao gọi: “Già Tha Đả giết hại cha mến mẹ yêu”. Khi ấy, ngài tự suy nghó mình chẳng khác gì với loài súc sinh, nên trong đêm tối ngài vượt thành chạy đến trong đầm sâu. vua nước ấy tên là Xà Xà La báo cùng dân chúng trong nước: “Đó tức là kẻ dâm si vô đạo. Nếu ai bắt được thì sẽ ban thưởng các thứ vật báu”. Dân chúng trong cả nước đều nhận lời vời gọi ấy, muốn bắt được thân ngài. Ngài bèn vượt ra nước ngoài làm vị Sa-môn. Khi ở tại nước khác ngài toạ Thiền học Đạo, ngày đêm đổ lệ than khóc suốt ba mươi bảy năm, vì chướng ngại của tôi ngỗ nghịch, nên trong tâm no, sở đắc. Suốt ba mươi bảy năm ngài ở trong hanh núi gào khóc buồn than. Ngài xuống hang núi đi khuất thực, giữa đường bèn được một bình bát lớn. Trong bình bát có một tập Kinh. Không Kinh gì khác mà chỉ có “Kinh Đại tập Pháp duyệt xả khổ Đà La ni”. Kinh ấy có khả năng dứt trừ các tội nặng ngũ nghịch sinh tử trong năm trăm ức kiếp. Nếu người thọ trì đọc tụng trọn không sa đoạ trong ba đường xấu ác. Tại sao? Vì Kinh ấy do chư Phật nhiều hơn hơn số cát sông hằng giảng nói vậy. Khi có được Kinh ấy rồi, ngài không đi khất thực nữa, vui mừng trở lại trong hang núi, đốt hương lễ bái, buồn khóc tán ngưỡng, ngài ở trong hanh núi tu tập đọc tụng, trải qua một năm mới được, nhưng vì tội nghiệp chướng ngăn nên không thể thấm đượm vào tâm. Lại trải qua vài năm tu hành, ngài mới bay đi không ngại, thấy được chư Phật ở mười phương.:ại như có hành trì thì đúng như pháp mà hành trì vậy. Cảm ứng của Tỳ-kheo Đạo Như ở Trinh Châu chỉ nghe danh tự Kinh Phương Đẳng mà được sinh về Tịnh độ. Tại Tinh Châu có vị Tôn giả tên là Đạo như. Từ năm bảy tuổi trở đi, ngài đã hiểu niệm Phật, nhưng chẳng tu niệm Phật, chẳng trì trai giới, cất chứa vật bất tịnh, thân có trái phạm cũng khônghề sám hối. Đến lúc sáu mươi mốt tuổi, mắc phải bịnh phong, hơn một Thánh sau thì qua đời. Ba ngày sau sống lại, ngồi dậy nhẹ dàng, bệnh chứng dứt trừ, kể rằng:”Lúc tôi mới chết, thấy các Bồ-tát Quán Âm, Thế chí đến chỉ dạy lợi mừng, bảo rằng: “Ngươi chẳng tu nghiệp Tịnh độ, chỉ nghe danh tự các Kinh điển Đại thừa Phương đẳng, mười hai bộ loại Kinh giáo. Do nhân duyên đó mà tội cấu dạt phai, xa lại ảnh hưởng, Thọ mạng còn chưa hết. Mười hai năm sau, Ông sẽ sinh về Tịnh độ.” Tôi bèn chắp tay rơi lệ, mới sống tỉnh lại”. Và bèn xả bỏ tất cả mọi vật của mình tu tạo các Kinh Phương Đẳng Đại Tập, Kiêm tu niệm Phật. Đến ngày mười lăm Thánh giêng năm thứ mười hai, ngài mới thị tịch, trong phòng có tiếng âm nhạc, trời rãi mưa hoa, mọi người đều thấy nghe thế. Cảm ứng của Sa-môn Đàm Vinh và Tăng Định hành về trì pháp sám Phương Đẳng mà được thọ ký.(Đường cao Tăng truyện). Năm Trinh Quán thứ bảy (637) thời Tiền Đường, Sa-môn Thích Đàm Vónh ở chùa Pháp Trú, nhân sự thỉnh mời của các cư só Thường Ngưng Bão v.v… mà hành trì pháp sám hối Phương Đẳng tại chùa Pháp trú. Đến ngày mười bốn tháng bảy, có Sa-môn Tăng Định là người đồng ở chùa ấy là bậc giới hạnh tinh cao, ở trong Đạo tràng thấy ánh sáng lớn soi chiếu từ trên xuống; năm sắc rực rỡ, trong ánh sáng có bảy Đức Phật tướng tốt khác thường nói cùng Tăng Định rằng: “Ta là Tỳ Bà Thi Như Lai vô sở trước chư Chân Đẳng chánh giác. Vì người tội chứng tiêu diệt nên ta lại làm chứng, nhưng chẳng phải là Bản sư nên Ta chẳng vì thọ ký cho ngươi”. và như vậy có đến sáu Đức Phật đồng nói như thế, cuối cùng có một Đức Phật nói rằng: “Ta là Bản sư Thích-ca Mâu-ni, vì ngươi tội chứng tiêu diệt nên ta ta lại thọ kỷ. Sa-môn Đàm Vinh là nhân duyên tốt lành cho ngươi diệt trừ tội chứng, ở trong đời Hiền Kiếp thành Phật là Phổ Ninh, ngươi có được thân khí thanh tịnh, về sau sẽ thành Phật cũng hiệu lả Phổ Ninh”. Ứng hiếu cảm nên linh tường như thế, tin thật khó cùng vậy. Cảm ứng của Đại sư Trí giả ỡ thời nhà Tuỳ giảng Kinh Tịnh Danh.(Rút từ truyện và Thuî ứng truyện v.v…). Đại sư Trí giả ỡ thời nhà Tuỳ, ngài tên huỷ là Trí Khải, vốn dòng họ trần, người xứ Dinh Quyên. Khi ngài ra đời thì đất nổi lên một ngọn núi tên là Đại Hiền, đến kúc ngài tịch thì xuống núi ấy cũng theo ẩn chìm làm thành Hồ Đại Hiền vậy. Ngài giảng Kinh Tịnh Danh lần lược bỗng thấy ba đường thềm câp báu tử giữa không trung mà xuống, một hội ở cõi nước Đức Phật A sơ nghiễm nhiên mà hiện. Có hàng chục vị Phạm tăng cầm nắm lò hương vào trong giảng Đường đi nhiểu quanh ngài ba vòng mà tán thán rằng: “Lành thay Trí Khải Khéo ngộ ý Phật Tôi lại ảnh hưởng Cảm ứng như vậy”. Cảm ứng của Sa-môn Thích Phổ Minh ở Lâm Truy thời Tiền Tống tụng Kinh Duy ma. (Rút từ Lương cao Tăng truyện). Trong thời Tiền Tống tại Lâm Trung có Sa-môn Thích Phổ Minh chuyên trì tụng hai bộ Kinh Pháp Hoa và Duy ma. Khi ngài tụng Kinh Duy Ma, nghe giữa không trung có tiếng nhạc xướng, Ngài lại khéo giỏi về thần chú, cứu giúp đều tốt lành, có người vợ của Vư Đạo Chân ở trong làng quê bị bệnh, thỉnh mời ngài chữa trị, ngài mới vào, người vợ ầy bèn chết ngất, bỗng thấy có một vật con Ly dài cả vài thước v.v… Cảm ứng của một thư sinh ở Sơn âm; cối kê ghi tả Kinh Duy Ma mà dứt trừ khổ bệnh cứu độ người thân đã qua đời. (Tân lục) Ở huyện Sơn âm, Cối Kê có một Thư sinh mất cả họ lẫn tên, trong thân mình có chút bệnh tật, Thư sinh ấy phát nguyện ghi tả Kinh Duy Ma, ngay đêm mới lập đề Kinh, mộng thấy có một Thiên nữ đến đưa tay xoa thân mình Thư sinh. Sau khi tỉnh mộng, thân liền hết bệnh, Thư sinh ấy càng phát tín tâm, đến lúc hoàn tất một Bộ Kinh, Thư sinh ấy lại phát nguyện về song thân đã qua đời mà ghi tả thêm một bộ khác. Khi viết đến phần “Thăm Bệnh”, bỗng nhiên mộng thấy có vị trời nương trong mây mà đến dừng nơi phòng và bảo rằng: “Tôi là cha của ngươi do vì nghiệp ác nên vị đoạ trong Địa ngục tối tăm, ngươi vì chúng ta mà tu tạo Kinh, bèn có ánh sáng soi chiếu đến nơi thân, nhân đó mà được dsứt khổ, sinh lên cõi trời. Do vui mừng nên đến báo cho biết rõ nguyên nhân”. Khi đó Thư sinh lại hỏi: “Không biết thân mẫu hiện ở tại xứ nào?” Người ấy đáp: “Mẹ ngươi vì tham lam của cải nên bị đoạ trong loài ngạ quỷ, ngươi ghi tả Kinh đến phẩm “Phật Quốc” thì mẹ ngươi lìa khỏi khổ và liền sinh về cõi nước Bất động. Không bao lâu nữa Tôi cũng sinh về cõi nước ấy. Ngươi nên ân cần ghi tả cho hoàn tất!” Khi đã tỉnh mộng, Thư sinh ấy buồn cảm rơi lệ. Bộ Kinh ghi tả hoàn tất lại thiết bày cúng dường. Thư sinh ấy lại mộng một quan nhân mặc y phục khác la cầm nắm cờ hiệu đến mà nói rằng: “Trong văn điệp vời gọi của vua Diêm-ma có tên ông, nói ông ghi tả Kinh Duy ma nên có thể sinh đến cõi nước Đức Phật Kim Lật. vua ban cho ông tuổi thọ thêm hai mươi năm. Ông nên nỗ lực chớ biếng lười”. Đến năm bảy mươi chín tuổi, Thư sinh ấy qua đời, thân sắc vàng ròng, mọi người đều gọi đó là sinh về cõi nước Đức Phật Kim Lật nên biểu hiện như vậy mà thôi. Cảm ứng của Pháp sư Pháp tổ vì vua Diêm La mà giảng Kinh Thư Lăng Nghiêm.(Rút từ trong truyện). Sa-môn Bạch Viễn tự là Pháp tổ, người xứ Hà Nội mới đến Trường An tạo dựng tinh xá. Ngài chuyên giảng tập Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Bấy giờ có một người giòng họ Lý tên là Thônh chết đi sống lại kể rằng: “Thấy Pháp Tổ tại chỗ vua Diêm-ma, vì vua mà giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, có vô lượng tội nhân nghe tiếng pháp sư giảng nên được sinh lên cõi trời thứ hai. Tự nói giảng xong sẽ sinh lên cung trời Đao- lợi. Ở các cõi trời ấy nếu nghe được Kinh này tức được công đức không thối lui. Cảm ứng của Pháp sư Vân ở chùa Quang Tịnh giảng Kinh Thắng Ma mà trời giáng mưa. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương muốn cầu mưa, Ngài Chí Công bảo thỉnh mời Pháp Sư Vân ở chùa Quang Trạch. vua liền thỉnh mời ngài giảng Kinh Thắng man mà trời mưa đượm nhuần khắp nơi. Cư của người nữ nghèo khổ trì tụng Kinh Thắng ma mà hiện đời được làm Hoàng Hậu.(Rút từ Kim Bảo Ký). Xưa kia, sau khi Đức Phật diệt độ trong khoảng ba trăm năm, tại nước A Du Xà, có một người nữ nghèo khổ thân thích đều không có, thường ngày chuyên lượm củi để tự nuôi sống, những lúc rãnh rỗi thì thọ trì Kinh Thắng man. Người nữ nghèo khổ ấy vì lượm củi mà vào núi, thân mình mệt lã nên chẳng thể trở ra, bèn nằm trong núi mà tụng Kinh. Bấy giờ vua vào núi săn bắn, bỗng nhiên thấy người nữ ấy có mây phủ trên thân mình, vua lấy làm lạ bèn đến gần trông xem, thấy rõ là một người nữ đoan chánh nên vui mừng đưa về cung, lập làm Hoàng Hậu. Tại nước ấy từ lâu không lưu hành Kinh điển, đến lúc đó mới trở lại thỉnh cầu giáo pháp, từ đó mới có được bản Kinh ấy. Cảm ứng của Thiền sư Đạo Trân tụng Kinh A Di Đà mà được vãng sinh Tịnh độ.(Rút từ Thuî Ứng truyện) Thiền sư Đạo Trân ở thời nhà Lương niệm Phật tạo Thủy Quán, mộng thấy nước có trăm người đi thuyền, ngài muốn sang Tây phương mới cầu xin được chở đi, người trên thuyền trộng thấy ngài không cho. Ngài nói: “Một đời tôi tu nghiệp tây phương, cớ sao không cho?” Người trên thuyền bảo: “Hạnh nghiệp sư chưa tụng Kinh A Di Đà và tạo nhà tắm”. Kho đo, thuyền mọi người đồng một lúc đều đi. Ngài không được đi bèn khóc gào đến tỉnh giấc mới trì tụng Kinh A Di Đà và làm phòng tắm chúng Tăng. Lúc khác ngài lại mộng thấy một người cưỡi trên lầu đài bằng bạc trắng hua tay bảo ngài rằng: “Hạnh nghiệp của ông đã viên mãn cần khéo nên dụng tâm nên ta đến cùng báo, nhất định người sẽ vãng sinh về Tây Phương”. Đến đêm ngài thị tịch, trên đảnh núi sáng rực như có vài mươi đuốc lửa, có mùi hương thơm khác lạ lan toả khắp chùa. sau khi ngài tịch có người nhặc được duy ký lúc bình sinh của ngài trong hộp Kinh. Cảm ứng của pháp sư Đàm Loan được Kinh Quán Vô lượng Thọ mà vãng sinh Tịnh độ. Trong thời nhà Tề, Pháp sư Đàm Loan gặp được Kinh Tiên mười quyển ở tại Trung Hoa, muốn phỏng hỏi Đào Ẩn để ở học Tiên thuật. Sau, gặp được Tam Tạng Pháp sư Bồ-đề, ngài hỏi: “Trong Phật Pháp có pháp trường sinh bất tử ưu thắng hơn Kinh Tiên ở xứ này chăng? Ngài Bồ khạc nhổ nơi đất mắng quở trách rằng: “tại phương này nơi nào có pháp Trường sinh bất tử? Giả sử như có kéo dài mạng sống cuối cùng cũng vẫn đoạ lạc trong ba cõi. và liền đem Kinh Quán Vô lượng thọ trao cho ngài mà bảo rằng: “Đây là Đại Tiên Phương, y cứ đó mà thực hành hẳn sẽ được giải thoát, xa lìa sinh tử”. Ngài liền lấy lửa thiêu đốt Kinh Tiên. Bỗng trong nữa đêm nọ, ngài cảm được Bồ-tát Long thọ vì nói kệ tụng. Ngài mới biết thọ mạng sắp chung, bèn cầm nắm lò hương xoay mặt về hướng tây xưng niệm danh hiệu Phật và thị tịch, nghe giữa không trung có tiếng âm nhạc từ phía tây vọng lại, chỉ chốc lác liền đi vậy. Cảm ứng của Sa-môn Tăng cảm ở Tinh châu thọ trì Quán Kinh và Kinh A Di Đà mà được vãng sinh Tịnh độ. Tại Tinh Châu có vị Tỳ-kheo tên là Tăng Cảm chuyêøn thọ trì Kinh Quán Vô lượng thọ và Kinh A Di Đà lấy làm hạnh nghiệp chánh. Ngài mộng thấy thân mình làm lông cánh, bên tả là văn Kinh Quán Vô lượng thọ và bên hữu là văn Kinh A Di Đà, ngài muốn bay lên mà thân còn hơi nặng. Sau khi tỉnh giấc ngài càng trì tụng hai Kinh ấy. Ba năm sau lại mộng thấy long cánh đã dài, ngài muốn bay, thân mình có phần nhẹ. Lại trải qua hai năm nữa ngài mộng thấy thân mình nhẹ dàng, bay vọt giữa hư không chẳng ngăn ngại, liền thẳng hướng tây mà bay đi đến nước Cực lạc. Khi ấy có một Đức Phật và hai vị Bồ-tát bảo ngài rằng: “Ngươi nhờ sức tụng Kinh được đến nơi ngẳn mé cõi Cực lạc, người sớm trở về lại nơi cõi Ta Bà, mỗi ngày trì tụng bốn mươi sáu quyển qua một ngàn quyển, sau đó ngươi mới sinh nơi thượng phẩm”. Sau khi tỉnh mộng, niệm ngài bèn y theo lời nói ấy mà tu hành, ba năm sau, ngài thị tịch, tại chỗ ngài nằm liền mọc lên bảy cánh hoa sen suốt bảy ngày sau mà Hoa vẫn không héo rơi. Cảm ứng của sự giảng Kinh Kim Quang Minh ở nước phía Tây Ấn Độ mà nước thù địch được hòa. (Rút từ Khai Nguyên lục và Ma Đằng truyện). Ở phía tây Ấn Độ có một nước nhỏ thỉnh mời Tôn giả Ca Diếp Ma Đằng giảng Kinh Kim Quang Minh, bỗng chốc mà quân lính ở nước láng giềng kéo lại đã lấn chiếm trên địa vức, liền có sự ngăn ngại, binh lính ấy không thể tiến thêm nữa. Binh lính nước ấy nghi ngờ cho là có pháp thuật kỳ lạ mới kín sai sứ đến dò xem, chỉ thấy Quần thần vẫn an nhiên cùng lắng nghe giảng Kinh Đại thừa nói rõ về Pháp vua Thần đất gìn giữ cõi nước. Khi ấy, nước kia bèn xin cầu phương pháp hòa giải và đều được an ổn vậy. Cảm ứng của sự giảng Kinh Kim Quang Minh tối Thắng ở nước Trung Ấn Độ.(Rút từ tây Quốc truyện). Tại Trung Ấn Độ có một đất nước tên là Bôn-Na-Phạt-Đàn-Na, sau khi Đức Phật Như Lai diệt độ khoảng tám trăm năm, đất nước ấy hoang đàn, ngũ cốc chẳng tươi tốt, vua tôi dân chúng trong nước đói kém, dịch bệnh hoành hành, người chết non đầy đường. Vua hỏi Quần thần rằng: “Có phương tiện gì để cứu khổ hoạn này chăng?” Có bề tôi thông minh trí tuệ tâu vua rằng: “Trừ yêu nghiệt trong nước nhà không gì bằng Kinh Phật.vua nên tu hành theo Phật giáo”. Vua hỏi: “Kinh điển gì?” Bề tôi đáp: “Xưa kia, tại nước Ma-kiệt-đà vì cứu trái nạn nên nương pháp giảng Kinh Kim Quang Minh tối Thắng Đế Vương.Vì vậy ngài nên giảng nghe Kinh ấy.”, vua liền thỉnh mời pháp sư suốt nột mùa hạ giảng được năm hiến. Bấy giờ mộng thấy có các Đồng tử cầm nắm gậy trúc đánh đuổi ác quỷ ra khỏi đất nước, liền đó dịch bệnh chóng dứt. Lại mộng thấy có quỷ thần với sức lực mạnh mẽ đào cuốc đất đai, nước ngọt tuông trào thấm khắp ruộng đồng,liền có lúa mạ tươi tốt, ngũ cốc được mùa. Chưa đầy một năm mà dân chúng cả nước giàu có, lấy làm một năm thử nghiệm vậy. Cảm ứng của Trương cư Đạo đang trên đường đến Minh phủ phát nguyện tu tạo bốn quyển Kinh Kim Quang Minh. Xưa kia, tại Ôn Châu có Trương Cư Đạo nhân việc cưới gã con gái nên giết hại các vật heo, dê, ngỗng, vịt v.v… Sau đó chưa đầy một tuần, bèn cảm mắc bệnh nặng mà qua đời, trải qua ba đêm sau, sống lại Trương Cư Đạo kể rằng: “Mới đầu thấy có bốn người đến rút một trang văn thư từ trong bụng ra chỉ bày cho Trương Cư Đạo thế đó là văn từ của các vật heao, dê, ngỗng, vịt v.v… đồng tố cáo rằng: “Heo v.v… tuy thân đời trước tích chứa tội ác nên nay phải nhận chịu làm thân súc sinh, nhưng mỗi tự có niên hạn tuổi tác, bèn bị Cư Đạo giết hại oan uổng nên xin xét đoán, sau đó có phán sai ty mang đuổi bắt” Và liền đánh trói buộc dẫn đi, thẳng một đường đến phía bắc, đang giữa đường kẻ sứ bảo rằng: “Ông chưa đáng phải chết nhưng phải có hơn ba mươi kẻ chuyên tại dưới đáy cửa vua, ăn năng khó kịp vậy”. Trương Cư Đạo nói: “Tôi tự tính tội đã trái phạm thật khó thoát khỏi, xin bày cho một phương kế”. Kẻ sứ bảo:”Ông nên vì các vật bị giết hại mà phát tâm nguyện tu tạo bốn quyển Kinh Kim Quang Minh thì sẽ được thoát khỏi nạn”. Trương Cư Đạo theo lời bảo ấy liền xướng lời ấy, chỉ chốc lác trông nhìn cửa thành thấy trước sảnh của vua có vô số muôn ức người tiếng kêu la ai oán đau đớn không thể nghe nổi. Kẻ sứ gọi tên, vua liền đem trạng văn tố cáo của các vật heo v.v… ra chỉ bày. Trương Cư Đạo thuật lại lời trạng phát nguyện. Các vật bị giết hại nương nhờ công đức đó nên đều theo nghiệp mà hóa hình thác sinh. vua hoan hỷ cho Trương Cư Đạo trở lại đường sống”. Nghe được nhân duyên đó mà phát tâm tu tạo Kinh có hơn trăm người, và chấm dứt sự giết hại ăn thịt thì có cô số người. (Lại có truyện Thừa thê thoát khổ ở huyện An cố, nhưng phiền nhiều chẳng ghi thuật đó). Cảm ứng của Hoàng Hậu Tắc Thiên cúng dường Kinh Kim Quang Minh tối Thắng Vương.(Rút từ Hoàng Hậu truyện). Sa-môn Tam Tạng Pháp sư Nghóa Tịnh người xứ T6è Cha6uvo61n giòng họ Trương, tự là văn minh, ngài phát chí nguyện vân du Tây vức, trải qua hơn ba mươi nước. Đến năm Chương Thánh thứ nhất (695) thời Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên), ngài về đến Hà Lạc. Thiên Hậu nhận Phật dự ghi kính trọng Đạo pháp. Ngày mồng bốn tháng mười năm Trường An thứ ba (703), phiên dịch Tỳ Sa-môn Bà Luân, tại chùa Tây Minh do các Sa-môn Huệ Biểu, Huệ Trị bút thọ. Đến ngày mười lăm tháng mười liền thiết bày cúng dường tại chùa Tây minh, cúng hai cây phan dài một trăm thước, bốn mươi chín cây phan mỗi cây dài bốn mươi chín thước, trăm xấp lụa quyên, các thứ hương hoa v.v… đều dùng bảy báu để trang nghiêm. Khi ấy, mây tía phủ khắp cả chùa, Kinh quyển toả phóng ánh sáng, quả đất rung nhẹ, trời mưa hoa nhỏ nhiệm. Nếu chẳng phải nhận sự dự ghi của Đức Phật, thì ai là người sau khi Phật diệt dộ trong năm trăm năm mà có được sự cảm ứng như vậy. Cảm ứng của Diêu Hải ở Tử Châu vì người thân qua đời mà tự ghi tả bốn bộ Kinh Đại thừa.(Rút từ Kim cang Bát Nhã ký v.v…) Diêu Hải người xứ Huyện Thê, Tử châu, Năm Trường An thứ tư (704) thời Vũ Hậu-tiền Đường, có tang nên phát nguyện vì song thân đã qua đời mà tự ghi tả bốn bộ Kinh Đại thừa. Trong đó, Kinh Pháp Hoa và Duy ma mỗi loại một bộ, Kinh Dược sư mười quyển, Kinh Kim Cang Bát Nhã một trăm quyển. Đang lúc ban ngày giữa trưa, có một con nai xung xáo qua cửa mà vào đứng trước án Kinh, ngẩn đầu đưa lưỡi liếm vào án Kinh. Con chó trong nhà trông thấy mà chẳng liền sủa. Diêu Đải bước xuống khỏi sàng ôm bắt lấy, con nai ấy cũng chẳng Kinh sợ, bèn vì nó mà cho thọ pháp Tam quy, nó nhảy nhót lên tới đùi vế, phóng thả ra, nó cũng chẳng chịu đi. Lại có Lý Hồi Nô là con của nhà Đồ tể lại đứng trước án Kinh, cầnm nắm quyển Kinh Bát Nhã mà rão đi. Sau khi đã đi không thấy trở lại nữa, chẳng biết đi đâu.(Khi ấy có người láng giềng mộng nói con nai ấy là mẹ của Diêu Đải, còn đứa trẻ con nhà Đồ tể là chị của Diêu Đải, mỗi người tự ý theo nghiệp mà nhận chịu thân khác. Diêu Đải tự vì ghi tả Kinh nên đến nhận sự cảm hóa mà thôi vậy. Cảm ứng của Trương Tạ Phu ở thời Tiền Đường tụng Kinh Dược Sư mà dứt trừ khổ bệnh.(Rút từ Tam bảo Ký). Trong thời Tiền Đường có Tạ Phu vốn giòng họ Trương cảm mắc bệnh nặng. Vợ con trong nhà thỉnh mời chúng tăng suốt bảy ngày bày đêm đọc tụng Kinh Dược Sư. Đến đêm đã hoàn mãn, Trương tạ Phu mộng thấy co chư Tăng đem quyển Kinh che phủ trên thân mình, sau khi tình giấc bèn được bình phục như cũ, tự nói đó là do công sức của Kinh vậy. Cảm ứng của Trương Lý Thông ở thời Tiền Đường ghi tả Kinh Dược Sư mà được kéo dài Thọ mạng. Trương Lý Thông năm hai mươi bảy tuổi, có một thầy tướng thấy mà bảo rằng: “Tuổi thọ của ông quá ngắn ngủi, chẳng qua khỏi ba mươi mốt tuổi”Lý Thông buồn rầu tìm đến nương tựa Mại Công. Mại Công bảo: “Có phương pháp để được trường thọ. Ông nên đem tâm cung kính ghi tả thõ trì”. Và liền trao cho Kinh Dược Sư bản dịch của pháp sư Huyền trang. Lý Thông nói: “Công việc ở đời rất sợ qân cương quở trách, thọ trì thật vô cùng khó khăn, nay trước phải ghi tả”. Và liền thỉnh quyển Kinh, tinh thành tự ghi tả. Do việc ở đời cùng bức bách, nên mới được một quyển vị thầy đoán tướng trước kia gặp lại Lý Thông, liền bảo: “Rất là hiếm có, rất là hiếm có! Ông có công đức gì mà chóng được kéo dài tuổi thọ thêm ba mươi năm?” Lý Thông bèn đem sự việc trên mà kể lại, mọi người nghe mà quy tâm kính hưởng đông nhiều. Na. Cảm ứng của sự ghi tà hoằng truyền Kinh Đại Tỳ Lô Giả (Rút từ lời tựa của Kinh). Xưa kia, trong địa vức của bắc Thiên Trúc có một nước nhỏ tên là Bột Lỗ La, ở phía bắc thành nước ấy có một núi đá lớn, vách đứng cao ngàn nhận, ven sườn dài muôn trượng, ở kưng chừng núi có một hanh ẩn tàng Bí pháp. Thường năm vào tháng bảy có các Thánh giả nhóm tập trong đó, lại có vài ngàn con khỉ vượn bưng Kinh ra hang phơi. Đã đang lúc sáng sớm tinh sương, phảng phất trông thấy đó, nhưng múôn lên thì không có thềm cấp. vì trông xem mây chim nhạn lại gặp khi gió bão bỗng kéo đến mới thổi bay một hòm phạm bản xuống. Khi ấy áo người đi hái cửi gặp được, trong thấy kỳ đặc bèn liền đem dâng lên vua. vua đã nhận lấy, cho là chưa từng có, Đến chiềi tối ngày hôm đó, có một con khỉ lớn đến đòi Kinh đó, chỉ cần chưa trả, con khỉ ấy liền muốn tự hại thân mạng, vua mới dùng phương tiện khéo léo, ân cần đôi ba phen nói rằng: “Con khỉ thấy ngôn từ của vua khẩn thiết bèn hứa thuận đó mà nói rằng: “Tạm có thể nhận chịu từ trước, nội trong ba ngày tức sẽ lại lấy đi.” vua,ới sai phân các nhóm khéo giỏi ghi tả để kịp thời hạn mà hoàn trả. vua chỉ một Minh Thái tử cùng truyền cho bản Kinh đó, không lưu xuất ra ngoài. Gần đây có A Xà Lê Đại Du Già ở Trung thiên từ xa giẫm bước khắp núi sông tìm câu Bí tạng quý Báu. Khi ấy vua trông thấy A Xà Lê có sự kỳ dị mới vui mừng mà truyền cho Kinh đó. Cảm ứng của sự ghi tả thần chú Tuỳ Cầu Đa-la Ni buộc đeo nơi cổ mà được diệt tội.(Rút từ ghi chú quyển thượng). Từ có vị Tỳ-kheo tâm luôn nghó nhớ thanh tịnh kính tin. Đối với giới luật Như Lai cấm chế có sự trái phạm, chẳng dốc lấy vật của chúng Tăng hiệu tiền, vật của chúng tăng Ký đem vào riêng mình dùng. Về sau cảm mắc bệnh nhận chịu mọi khổ não. Khi đó vi Tỳ-kheo ấy không có người cứu giúp, kêu gào vang tiếng lớn. Tại xứ đó có một Bà-la-môn nghe tiếng gào đó liền sang đến chỗ vị Tỳ-kheo mắc bệnh ấy mà sinh tâm thương cảm, liền vì ghi tả thần chủ Tuỳ cầu Đại Minh Vương Đà La Ni rồi đeo vào dưới cổ vị Tỳ-kheo ấy. Mọi thứ khổ noã đều dứt mất,Vị Tỳ-kheo ấy mạng chung đoạ vào Địa ngục Vô gián. thi thể vị Tỳ-kheo ấy an táng trong Tháp, thần chú Đà La Ni ấy đeo mang trên người nhận chịu tội, các thứ thống khổ thảy đều ngưng dứt và đều được An Lạc. trong Địa ngục A-tỳ nơi có lửa dữ, do sức oai đức của thần chú ấy mà thảy đều tiêu mất. Cảm ứng của Kinh Tôn Thắng Đà La Ni được thỉnh lại. (Rút từ lời tựa và mục Lục của Kinh v.v…). Sa-môn Phật-Đà-Ba-Lợi, tiếng Trung Hoa dịch nghóa là giác Hộ, ngài người nước Kế Tân thuộc Bắc Ấn Độ. Ngài quên mất thân mạng, nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở tại núi Thanh Lương nên từ xa giẫm bước đến tự thân muốn lễ bái yết kiến mong được trông thấy Thánh dung. Bỗng thấy một ônh già tử trong núi đi lại nói cùng ngài rằng: “Sư từ nước ấy lại có mang theo Kinh Tôn Thắng Đà La Ni đến chăng? Chúng sinh ở cõi này phần nhiều tạo các thứ tội. các hàng xuất gia cũng lắm sai phạm. Thần chủ Phật Đảnh là Bí pháp diệt tội. Nếu chẳng mang Kinh ấy theo thì chỉ nhọc lại đâu có ích gì. Giả sử như có được thấy Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi cũng không thể nhận biết. Sư có thể trở về nước ấy thỉnh Kinh đóù lại lưu truyền nơi cõi này”. Ngài nghe lời ấy rồi, mừng vui nhảy nhót không thể tự ngăn dừng. Khoảnh khắc ngẫn đầu, bỗng nhiên ông già ấy đã biến mất. Ngài kinh ngạc bèn trở về lại nước mình thỉnh được kinh ấy đem vào trong núi Ngũ Đài, mãi đến nay vẫn chẳng thấy ra. Cảm ứng của đứa trẻ nghe tụng Kinh Thọ mạng mà được kéo dài Thọ mạng.(Rút từ lời tựa của Kinh sớ). Cuối niên hiệu Khai Nguyên (742) thời vua Huyền Tông (Lý Long Cơ-thời Tiền Đường), có một vị thầy đoán tướng chỉ nghe tiếng tức liền biết được tuổi thọ ngàn dài. Đến chùa Tư Thánh, nghe ngoài cửa có tiếng nói, thấy tướng ấy đoán biết tuổi thọ chỉ nội trong ngày ấy, liền bước ra trông nhìn thì là đứa trẻ vừa mới mười ba tuổi dung mạo sắc tướng đoan chánh, bèn buồn thương mà đi vào. Đến sáng ngày hôm sau lại nghe tiếng nói của đức trẻ ấy, thì tuổi thọ đã kéo dài đến ngoài bảy mươi, thầy tướng sinh khởi ý niệm kỳ đặc liền ra hỏi về nguyên do. Đứa trẻ ấy nói:”Đêm qua Tôi dừng ngủ tại Tăng phòng nghe tụng Kinh Thọ mạng, ngoài ra không việc gì khác”. Thấy tướng tán thán rằng: “Phật pháp thật không thể nghó bàn, dùng trí tuệ đoán tướng không thể nhận biết được đó vậy.”. Cảm ứng của Vương nử ở nước Ô Kỳ trì tụng Kinh Bát Nhã mà dứt trừ oán hại. (Rút từ Kinh Minh Nghiệm tán ký). Xưa kia, tại nước Ô Kỳ, dân chúng mắc phải dịch bệnh diệt mất hơn một nữa. Có một Vương Nữ tên là Điển Ni, sau khi mang thai, dần đến chín tháng, người mẹ bị bệnh nặng, thai con đã chết mất, Vương Nữ vào nơi chỗ mờ tối lo sợ vô cùng, chuyên bức bách muộn tuyệt. Không cậy nhờ. Vương Nữ khiếp sợ, ngày đêm rơi khóc, đọc tụng Bát Nhã Tâm k. Do sức Thần của Kinh mà thai con sống lại, an ổn sản sinh, tật bệnh được bình phục. Tiếng khóc lóc kêu của đứa con ấy khác lạ nơi đời, và thường tụng Kinh Ma-ha Bát Nhã Ba La maÄt. vua tôi rất vui mừng, đặt gọi tên là “Ba La”. Đến ăm ba tuổi, đứa con ấy nói Bát Nhã liểu nghóa. Đến năm bảy tuổi trở thành Thái Tử thông minh mẫn duệ, thấu hiểu Tam Tạng, tài tuấn ở đương thời. Mọi người đều mừng vui kinh sợ hành sự của đứa con ấy. Khắp cả nước nhà đều đọc tụng Kinh, tật bệnh không còn nỗi dậy. Thiên hạ thái bình, muôn dân được An Lạc. Cảm ứng của vua nước Tất Thí ghi tả trì tụng Kinh Bát Nhã mà dứt trừ oán hại v.v… Xưa kia, nước Tất Thế là một nước nhỏ ở ven bờ, giòng tộc của vua dứt mất sự tiếp nối, phải chịu khổ dịch phụ thuộc nước gần đó, các hàng quý nhân sang giàu trốn lánh rãi rác đến các xứ khá. Dân chúng phần nhiều oán thán nhà vua. Các nước đua nhau đến bức hiệp cướp đoạt. Bấy giờ có vị Thánh chúa tên là Thính Hửu là bậc trí tuệ vang danh, trong Tâm tự tư duy Phật pháp linh nghiệm tại Bát Nhã Tâm Kinh. Quán xét như thế rồi, ban cáo khắp trong nước nhà cá hàng nam nữ lớn nhỏ, mỗi mỗi đều phải ghi tả đọc tụng Bát nhã Tâm Kinh, mỗi mỗi sớm mai một kỳ hạn. Chuẩ theo hình luật mà ước chế, khen phong chức vị mà khuyên răn. Chỉ thời gian ba năm mỗi mỗi sáng mai trì tụng một biến khắp cùng cả nước nhà, nên rồng thân vui vẻ. Khi ấy các nước sinh khởi ác tâm đến nước Tất Thế thì quên lính ấy hoặc chết hoặc đều rơi lạc mất. Như có bọn phản nghịch. Khi ấy, nước Tất Thí sau khi đã được bình định, dầu kéo dài đến mười năm lan toả hơn ba mươi nước thành Đại Thánh chúa, các phương như Quý Hồ v.v… có ba mươi bốn nước, Sở Triều v.v… hai mươi tám nước, gọi là cảm hai nghiệm, riêng người ghi tả đọc tụng cứu hộ đời, người hành trì luôn theo lệ thường, hết thảy chúng sinh không ai chẳng được cứu hộ. Cảm ứng của Vị hoạc Khắp Tam Tạng mở đầu bước đường đi Tây vức mỗi ngày trì tụng hai mươi mốt biến Kinh Bát Nhã. Pháp sư Huyền Trang vốn tên Vó, giòng họ Trần. Năm Trinh Quán thứ ba (629) thời Tiền Đường, bắt đầu gậy trượng lên đường, mỗi ngày ngài tụng Bát Nhã Tâm Kinh hai mươi mốt biến, phát lời thệ nguyện rằng: “Bần Đạo vì muốn cầu Đại pháp nên cất bước đến Tây phương, nếu không đến được nước Bà-la-môn thì trọn chẳng trở về lại phương Đông. Giả sử có bỏ mất thân mạng giữa đường cũng không gì phải hối hận”.Thật trong nhật khinh, ngài vân du đến Tây vức suốt mười bảy năm, mọi sự tai mắt nghe thấy trải qua một trăm ba mươi tám nước. Nếu đến nơi nào gặp phải chướng nạn, ngài trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh và xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Aâm, và thảy đều thoát khỏi mọi khiếp sợ. Đến tháng giêng năm Trinh Quán thứ mười chín (645) thời Tiền Đường, ngài mới trở về. Khi đã đến Trường An, các Kinh luận ngài thỉnh về được cả thảy sáu trăm năm mươi bảy bộ, ngài tự nói: “Đó đều là do sức lực của Bát Nhã Tâm Kinh và Bồ-tát Quán Thế Âm vậy. Cảm ứng của lúc phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã. (Rút từ Từ Ân truyện). Ngày mồng một tháng giêng năm Hiển Khánh thứ năm (660) thời Tiền Đường, bắt đầu phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã. Theo Kinh văn phạm bản có cả thảy hai mươi vạn bài tụng. Văn đã rộng nhiều, nên Đồ chúng mỗi mỗi đều xin dan định lược bớt. Ngài (Huyền Trang) cũng tuỳ thuận theo ý của Đại chúng, như ngài La Thập phiên dịch bỏ rườm ràbớt trùng lập, khởi nên ý niệm ấy rồi, liền ở trong mộng thấy có những sự rất khiếp sợ, hiện tướng kinh răn như thấy giẫm trải qua mọi thứ hiểm nguy, hoặc thấy thú dữ bắt lấy người, kinh sợ toát đổ mồ hôi mới được thoát khỏi. Sau khi tỉnh giấc vẫn còn kinh sợ, ngài liền đ1ên trước Đại chúng kể rõ vie6c ấy và trở lại phên dịch đầy đủ theo nguyên bản. Đêm đến, ngài lại mộng thấy chư Phật Bồ-tát toả phóng ánh sáng giữa chặn mây soi chiếu khắp thân mình ngài, trong tâm ý vui thích, Ngài lại thấy tự tay mình cầm nắm hoa đèn cúng dường chư Phật, hoặc lên tòa cao vì Đại chúng mà giảng pháp. Có nhiều người vây quanh tán thán cung kính. Hoặc mộng thấy có người đem hoa quả cúng dường ngài, Sau khi tỉnh giấc, ngài vui mừng, không dám lước bỏ, mỗi mỗi đều y theo phạm bản mà phiên dịch. Đức Phật giảng nói Kinh Đại Bát Nhã ở bốn trú xứ: một là tại núi Linh thứa ở thảnh Vương Xá, hai là tại vườn Cấp Cô Độc, ba là tại cung trời Tha hóa tự tại, bốn là tại tinh xá Trúc lâm ở thành Vương xá, và cả thảy có mười sáu hội, nay làm thành một bộ. Nhưng khi ngài đến Tây vức thỉnh được ba bản, đến đậy ngày phiên dịch với văn bản nghi có sự sai lầm nên phái kiêm xét cả ba bản để xác định, chăm chú xét lại mới viết thành văn Kinh. Tâm ý cẩn trọng xét khảo từ trước chưa Kinh nào như thế. Hoặc như văn Kinh có trái với ýêu chỉ sâu mầu, có ý do dự, hằn cảm thấy có cảnh giới khác tợ như có người trao cho mà rõ ràng quyết định, tính thức liền rõ ràng như vạch mây mà trông nhìn mặt nhật. Ngài tự nói:”Như điềm tỏ ngộ đây, đâu phải cõi lòng thiển cạn Huyền Trang tôi mà thông được, mà đều là do chư Phật Bồ-tát thầm gia hộ vậy”. Hội đầu trong Kinh có phẩm: “Trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật”. Trong phẩm ấy nói:’ các chúng Bồ-tát Ma-ha Tá vì Bát Nhã Ba La Mật Đa nên dùng Thẩn Thông nguyện lực, khắp cả đại Thiên Thế giới có các thứ trân báu thựơng diệu, các thứ hương hoa vi diệu trăm thứ uống ăn, y phục âm nhạc thảy đều tuỳ ý, Khởi sinh năm thứ vi diệu, muôn ức các thứ cúng dường để trang nghiêm nơi nói pháp: “Khi ấy chủ chùa ngọc hoa là Sa-môn Tuệ Đức và Sa-môn Hỷ Thượng trong chúng Tăng phiên dịch Kinh, đêm đó đồng cảm mộng thấy trong chùa Hoa Ngọc rộng thoáng nghiêm tịnh, trang sức tráng lệ, tràng trướng xe báu, hoa phan kỷ nhạc đầy khắp trong chùa. Lại thấy có vô lượng chúng Tăng tay nắm lọng lụa như trước mà cúng dường Kinh Đại Bát Nhã. Các lối đường đi tường vách trong chùa thảy đều trang nghiêm, đất trải các thứ danh hoa, Tăng chúng cùng giẫm bước trên đến viện phiên dịch Kinh, gấp bội sự thắng diệu như trong Kinh ghi tả vật báu trang nghiêm cõi nước. Lại nghe trong viện nơi ba giảng đường đều có giảng pháp, Pháp sư (tức Huyền Trang) ở trong giảng đường mà tuyên giảng. Đã thấy thế rồi, cả hai vị điềm mộng. ngài bảo: “Hiện nay đan gphie6n dịch phẩm Kinh ấy, chư vị Bồ-tát hẳn có cúng dường. Chư vị thấy tin vậy ư?” Khi ấy bên cạnh chánh Điện có hai cây lý, bỗng nhiên trái mùa mà hoa đang nở, hoa đều sáu màu hồng trắng ánh ngời tươi đẹp khác thường rất đáng ưa thích. Khi ấy, Đại chúng ban luận rằng: “Đó là điềm hiện khai diễu Bát Nhã. Lại Hoa nở sáu màu tức biểu hiện của sáu Pháp Ba La mật vậy”. Đến ngày hai mươi ba tháng mười năm Long Sóc thứ ba (663) thời Tiền Đường, mới gát bút trang nghiêm. Bộ Kinh hợp thành sáu trăm quyển xưng gọi tên là Kinh Đại Bát Nhã. Ngài chấp tay hoan hỷ bảo cùng Đại chúng rằng: “Đậy là có duyên với xứ này vậy. Huyền Trang tôi đến chùa Ngọc Hoa này là do sức của Kinh vậy.” Cảm ứng của sự cúng dường Kinh Đại Bát Nhã lần đầu tiên. (Rút từ phiên Kinh tạp ký). Sa-môn Thích Tịnh Chiếu là Đô Duy Na chùa Ngọc Hoa vui mừng công việc phiên dich Kinh Đại Bát Nhã đã hoàn tất, bèn đem tấu trình cùng vua Cao Tông (Lý Trị), Kinh phiên dịch đã hoàn tất nên thiết trai hội cúng dường. Vua Cao Tông hoan hỷ trang nghiêm điện Gia Thọ thiết lập trai hội, trong hoàng các thứ tràng phan lọng báu các thứ cúng dường rất mực xinh đẹp. Đến ngày ba mươi tháng mười năm Long Sóc thứ ba (663) thời Tiền Đường, nghinh thỉnh Kinh từ điện Túc Thành sang điện Gia Thọ, nơi trai hội giảng giải đọc tụng. Đang lúc nghinh thỉnh Kinh, Kinh Đại Bát Nhã toả phóng ánh sáng soi chiếu khắp xa gần, trời mưa hoa báu vi diệu, lại có mùi hương thơm khác thường. Khi ấy. Pháp sư Huyền trang bảo cùng Đại chúng rằng: “Kinh tự nói tại phương này, sẽ có nhạc Đại thừa vậy. Quốc Vương đại thần, bốn bộ Đại chúng ghi tả thọ trì đọc tụng lưu truyền đều được sinh lên cõi trời, cúôi cùng giải thoát. đã có văn đó không thể im lặng”. Lại nữa, Sa-môn Tịch Chiếu tự cảm mộng, thấy ngàn Đức Phật ở giữa không trung, khác miệng đồng lời mà nói kệ tụng rằng: “Bát nhã Phật mẫu Pháp sâu mầu Ở trong các Kinh là thứ nhất Nếu người có được một Kinh ấy Thật được thành đạo Đẳng chánh giác Ghi tả thọ trì và đọc tụng Một hoa một hướng dâng cúng dường Là người hiếm có hơn điềm linh Là người hẳn dứt ngăn sinh tử v.v…” Sau khi tỉnh mộng, liền bạch cùng Phật sư Huyền Trang. Ngài Huyền trang bảo: “Đó là ngàn Đức Phật trong Kinh hiện vậy”. Cảm ứng của một thư sinh ở trung niên hiệu Càn Phong thời Tiền Đường y cứ sắc ban của vua Cao Tông mà ghi tả một pho Kinh Đại Bát Nhã. (Rút từ truyện Tan lục). Trong niên hiệu Càn Phong (666-668) thời Tiền Đường, có một Thư sinh cảm mắc bệnh mà qua đời, qua một ngày và hai đêm sau, sống lại kể rằng: “Lúc đầu tôi mới chết có một minh quan mặc y phục sắc đỏ đưa văn điệp mời gọi, tôi bèn theo minh quan đến cửa thành lớn. Sứ giả nói rằng: “Đại Vương ở trong thành, đó là vua Tức “Tránh”, đưa văn điệp kia mời gọi ông. Khi đó tôi kinh sợ, thấy tự thân mình từ tay phải toả phóng ánh sáng lớn soi chiếu thẳng đến trước vua, rực rỡ hơn cả ánh sáng nhật nguyệt. vua kinh lạ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay tầm theo ánh sáng mà đưa đẩy ra cửa. Vua kinh lạ hỏi tôi rằng: “Ông có công đức gì mà từ tay phải toả phóng ánh sáng?” Tôi liền đáp: “Tôi trọn chẳng tu pháp lành nào. Lại chẳng biết nguyên nhân toả phóng ánh sáng”. Vua bèn trở lại trong thành, kiểm xét trong một quyển sách rồi ra thành vui vẻ nói cùng tôi rằng: “Ông y cứ theo sắc vua cao Tông (Lý Trị), ghi tả mười quyển Kinh Đại Bát Nhã. Do tay phải nắm bút ghi tả nên từ tay đó tỏa phóng ánh sáng” Khi ấy tôi nhớ biết lại được việc ấy. vua nói: “Nay phóng thả ông sớm trở về”. Khi ấy Tôi nói cùng vua”: Tôi quen đường trở về”. Vua bảo: “Ông tìm theo ánh sáng mà trở về”. Tôi liền theo lời vua chỉ bảo, về gần đến nhà cũ, ánh sáng tự nhiên ẩn mất, mà tôi sống tỉnh lại”. Nói nhân duyên đó xong, Thư sinh ấy buồn mừng đổ lệ, dốc hết của cải vốn có để ghi tả sáu trăm quyển Kinh Đại Bát Nhã. Đó là do thân gần nghe vậy. Cảm ứng của sự đọc tụng cúng dường Kinh Đại Bát Nhã của vua nước Tam Ma Đát Tra tại phía Đông Ấn Độ. (Rút từ Cầu Pháp Ký). Thiền sư Tăng Triết ở Lễ Châu nghó muồn kính mộ các Thánh Tích, bèn theo thuyền đến Tây vức. Khi đã đến Tây vức, tuỳ duyên mà hoằng hóa, vân du kính lễ khắp cùng, rồi trở về đông Ấn Độ, đến nước Tam-Ma-Đát-Tra. Vua nước đó tên là Hạt-La-Xã-Bạt-Tra, vua rất kính tin Tam bảo hết mực chí thành ngời sáng hơn cả trước sau. Thường mỗi ngày tạo mười vạn tôn tượng Chá mô ni, đọc tụng mười vạn kệ tụng Kinh Đại Bát Nhã, dùng mười vạn cảnh hoa tươi mới xinh đẹp đích thân đến cúng dường trong Vương thành. Chư Tăng ở trong thành có bốn ngàn vó, đều nhận sự cúng dường của vua. Mỗi mỗi sớm mai, vua bèn vào chùa chấp tay, trước phòng gấp làm việc nước nhà, vua kính Phật hụng thăm hỏi: “Chư Pháp sư đêm qua có được an hòa chăng?” Chư Tăng đáp rằng: “Xin nguyện Đại Tăng chú Nguyện Đại Vương không tật bệnh mạng sống trường thọ, vận nước an minh, các nước oán thù đều cầu hòa, dân chúng no đủ. Đó là sức lực của Kinh Đại Bát Nhã vậy. Cảm ứng của Thiền sư Thường Mẫn ở Tinh Châu ghi tả Kinh Đại Bát Nhã. Thiền sư Thường Mẫn ở Tinh Châu pháp đại thệ nguyện muốn sinh về cõi Cực lạc, tu tạo các hạnh tịnh nghiệp đã rộng lớn khó có thể trình bày rõ tất cả. Về sau, ngài đến Kinh đô, lại chuyên kính sùng hạnh nghiệp ấy, rất mực ngầm nghó chí thành. Có được các điềm cảm, bèn phát nguyện ghi tả Kinh Đại Bát Nhã trọn đủ vạn quyển. Lại mong được xa đến Tây vức lễ bái các Thánh tích của Đức Như Lai, do thắng phước ấy mà nguyện sinh Tây phương, bèn đến cung vua tấu trình thư thỉnh, xin đến các châu giáo hóa ghi tả Kinh Đại Bát Nhã. Thả khi tâm đã thấu đạt, trời hẳn tuỳ theo, theo hướng nam đến giang biểu, kính ghi tả Kinh Đại Bát Nhã để báo đáp ơn trời. tâm ước muốn sâu xa đã mãn, bèn nương thuyền đi Tây vức, có trăm ngàn người trời đánh tấu kỷ nhạc, liền thấy ngài nương thuyền lá thuyền như được cặp. Về sau, ngài thị tịch tại Tây vức, được cảnh Tịnh độ nghinh tiếp. Cảm ứng của Sa-môn Thích Tăng Trí ở Kinh Triệu phúng tụng hai quyển Kinh Đại Bát Nhã.(Tân lục). Sa-môn Thích Tăng Trí người xứ Kinh triệu. Thân mẫu ngài mộng thấy nuốt là hương bằng đồng, bèn mang thai sinh ra ngài. Khi vừa mới sinh ngài liền tự xưng tên mình là Đại Bát Nhã, mọi người đều lấy đó làm lạ. Đến năm mười tuổi, tự nhiên ngài tự tụng thầm Kinh Đại Bát Nhã hai trăm quyển, trong tâm lấy làm quái lạ cho là: “Tôi chẳng tập học trước, mong cầu nghó muốn được biết nguyên do, bèn mộng thấy một Sa-môn đến nói cùng ngài rằng: “Đời trước người bị làm thân trâu xấu tệ, người chủ mang hai trăm quyển Kinh Đại Bát Nhã buộc ông chở đến tinh xá. Ông giẫm đạp luốn vàobùn sình sâu mà mạng chung bèn được sinh vào trong nhân gian. Vì nhân duyên đó nên phúng tụng hai trăm quyển Kinh ngoài ra không luyện tập. Ông xả bỏ thân này rồi thì sẽ sinh về cõi Phật oai âm”. Sau khi tỉnh mộng, ngài bèn hối tạ vậy. Cảm ứng của Sa-môn Đạo Tuấn ở Tinh Châu ghi tả Kinh Đại Bát Nhã. (Rút từ Tinh Châu vãng sinh ký). Sa-môn Thích Đạo Tuấn một đời tu pháp niệm Phật Tam muội, chẳng vui thích các hạnh nghiệp khác. Bấy giờ tại Cung Châu có Sa- môn Thích Thường Mẫn khuyên ghi tả Kinh Đại Bát Nhã. Ngài nói: “Tôi tu niệm Phật, toàn không thời gian rãnh rỗi làm sao sao tã được?” Ngài Thường Mẫn nói: “Bát Nhã là đường thẳng đến Bồ-đề, là con đường cốt yếu để vãng sinh, ông nên phải sao tả”. Ngài chẳng vậng theo mà nói rằng:”Tôi sinh về Tịnh độ tự nhiên Viên mãn”. Ngay đêm đó ngài mộng thấy đến nơi bờ biển để vượt qua, trên phía tây bờ biển có điện đường trang nghiêm, có sáu Đồng tử bơi thuyền trên bãi biển, ngài nói cùng các đồng tử trên thuyền rằng: “Tôi muốn nương thuyền để đến bờ phía tây”. Các Đồng tử bảo: “Ông không tin tưởng thuyền, đâu có thể nương tựa thuyền được ư?” Ngài hỏi: “Sao gọi là tôi không tin tưởng thuyền?” Các Đồng tử bảo: “Thuyền là Bát nhã. Nếu không có Bát nhã thì không thể vượt qua biển sinh tử, đâu thể sinh đến cảnh giới địa vị bất thối. Giả sử ông nương gá vào thuyền thì Thuyền liền đắm chìm”. Sau khi tỉnh mộng, ngài kinh sợ, sám hối lỗi quá, xả thí y bát để ghi tả Kinh Bát Nhã, tự nhiên trong ngày cúng dường có mây tía từ phía tây bay lại, âm nhạc nghe vang giữa không trung. Đó chẳng phải cảm ứng ư?”. Cảm ứng của thân mẫu ở Dự Châu thời Tiền Đường nghe tên Kinh Đại Bát Nhã mà chết rồi được sống lại. Trong thời Tiền Đường tại Dự Châu có một bà mẹ già không biết tên họ là gì, chỉ phụng thờ Thần Đạo, không kính tin Tam bảo, mọi người đều xưng gọi là Thần Mẫu. Bà ta bị tà kiến che phủ Tâm thức, chẳng đến chốn chùa tháp, nếu lúc đi đường gặp các vị Tỳ-kheo tăng thì liền bít mắt mà trở về. Bấy giờ có một con trâu đầu vàng đến ngoài cửa nhà bà ta mà đứng, trải qua ba ngày không thấy có chủ trâu, bà ta mới cho đó là Thần hộ trợ, bèn tự ra dẫn trâu vì trâu sức lực quá mạnh nên chẳng theo, bà ta cởi giải áo buộc vào mũi trâu, trâu liền kéo vào trong chùa Phật. Bà ta tiếc trâu và giải áo nên bít che mắt mình mà đi vào chùa, xoay lưng với tôn tượng Phật mà đứng. Khi ấy tăng chúng trong chùa kinh ngạc đi ra, cảm sinh thương xót, mỗi vị đều tự xưng niệm: “Nam mô Đại bát Nhã Ba La mật Đa Kinh”. Bà ta liền vất bỏ trâu mà chạy ra, đến nơi dòng sông nhỏ rửa tai, nói rằng: “Ta nghe việc không tốt lành, chỗ gọi là Nam mô Đại bát Nhã Ba La mật Đa”. Ba lần bà ta xướng như thế và tự cho là đã theo nước mà rơi rớt, rồi trở về nhà. Bỗng nhiên không còn thấy con Trâu ấy đâu nữa, Sau đó bà ta mắc bệnh mà qua đời. Người con gái đầu nghó nhớ mến thương, bèn cảm mộng về bảo rằng: “Khi ta chết, Tâm thức đến chỗ vua Diêm-ma. Chính ta chỉ có toàn nghiệp ác thân, không một mảy có thể căn lành. Vua Diêm-ma kiểm tra lại thẻ, mỉm cười bảo rằng: “Người có nghe tên Kinh Bát Nhã, nhưng vì ngươi nghiệp ở loài người đã hết, nên được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Ngươi chớ sinh lo buồn”. Sau khi tỉnh mộng, người con gái ấy bèn phát tâm ghi tả Kinh Bát Nhã hơn ba trăm quyển, đến nay hiện còn. Cảm ứng của sự đạp vào chỗ đất hiện tôn thờ Kinh Đại Bát Nhã mà được lìa khỏi nghiệp ác thú.(Rút từ cứu pháp ký). Sa-môn Thích Linh vận, tiếng phạm là Bát-Nhã-Đề-Ba, vốn người xứ Tương Dương. Trên bước đường truy tìm Thánh tích, ngài vượt bờ phía nam đến các nước Tây vức. Đến chùa Na Lan Đà, ở đó có tôn tượng Đức Phật Di Lặc và gốc cây Bồ-đề được đắp họa. Ngài lại đến nước Y-LA-Noa-baÙt-Phạt-Đa, tại đó có Cô sơn là chốn đất ưu thắng, Miếu Linh có nhiều và lắm thứ cảm ứng. Trong sâu thẳm có một tinh xá, tại đó có một tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm được khắc chạm bằng gỗ Chiên Đàn. Nếu có người nào hoặc bảy ngày hay mười bốn ngày, phát tâm cầu nguyện mọi ước mong thì từ nơi tôn tượng lưu xuất Diệu thân an uỷ dẫn dụ tâm người đó. Người đó sẽ tròn đầy tâm nguyện, bên cạnh tinh xá có một Tháp sắt tôn thờ hai mươi vạn kệ tụng Kinh Đại Bát Nhã, mọi người ở khắp năm xứ Ấn Độ đua nhau đến cúng dường Tôn tượng và Kinh. Ngài bèn trải qua bảy ngày bỏ ăn, thỉnh cầu ba điều ước nguyện: một là thân hẳn xa lìa ác thú, hai là được trở về bản quốc rộng làm mọi Phật sự, ba là tu hành Phật Pháp mau chứng đắ quả. Và liền từ trong tôn tượng gỗ Chiên Đàn lưu xuất Diệu thân đầy đủ các tượng trang nghiêm toả phóng ánh sáng an ủi ngài rằng: “Ba điều tâm nguyện của ngươi thảy đều thành tựu, ngươi nên vào trong Tháp sắt, đọc tụng Kinh Đại Bát Nhã, giẫm đạp vào chỗ tôn thở Kinh, hẳn sẽ thoát khỏi cõi xấu ác. Nếu ngươi phát tâm đến nơi chốn này mỗi mỗi bước chân đều là diệt tội, tăng tấn Phật đạo. Xưa kia, ta hành Trì Bát Nhã mà chứng Đắc địa vị Bất thối. Nếu ngươi trì Kinh ấy, ghi tả quyển Kinh, ta hiển khiến đầy đủ mọi điều mong cầu của người đó”. Nói lời ấy rồi hóa thân bỗng nhiên ẩn mất. Ngài liền suốt hai mươi mốt ngày vào trong Tháp sắt, lễ bái hộp Kinh rồi mới đọc tụng Kinh văn, trải qua nửa năm. Xong rồi, trở về Trung Hoa, ngài rộng làm mọi Phật sự, phiên dịch Thánh giáo. Thật rất có khả năng kham nhận. Đó là do sức gia vị của Bồ-tát Quán Thế Âm và oai đức của Kinh Đại Bát Nhã vậy. Cảm ứng của Đức Phật Thích-ca lúc đến dưới gốc cây Bồ-đề, Đại Thần dâng cúng Hộp vàng tôn trí Kinh Đại Bát Nhã. (Rút từ Ngoại quốc ký v.v…). Sau sáu năm khổ hạnh, lúc sắp chứng đắc Đạo quả chánh giác, Bồ-tát Thích-ca lên đến núi Bát-La-Cấp-Bồ-Đề; tiếng Trung Hoa dịch nghóa là núi “Tiền chánh giác”. Từ phía đông bắc, Bồ-tát lên đến đảnh núi, quả đất chấn động, núi sắp sụp đỗ. Thần núi Kinh sợ bảo rằng: “Núi này không phài là nơi thành đạt Đạo quả chánh giác, nếu dừng nghỉ qua đêm tại đây, Bồ-tát nhập định Kim Cang thì núi sẽ sụp đổ”. Bồ-tát liền xuống núi, theo hướng tây nam, đi đến lưng chừng núi, vào trong một Thạch thất lớn, ngài ngồi Kiết già, đất cũng lay động. Khi ấy Trời Tu Đà Hội ở giữa không trung bảo rằng: “Đây không phải là nơi chốn Thành Đạo, từ đây theo hướng Tây Nam đi khoảng bốn mươi-năm mươi dặm, cách rừng khổ hạnh không xa có một cây Bồ-đề. Dưới cây Bồ-đề đó có tòa Kim Cang là nơi chổ ba tai tám nạn không thể phá hoại, là nơi đáng nương tựa rất bền bỉ. Chư Phật trong ba đời đều ngồi trên tòa ấy. Đó là nơi chổ Thành Đạo, Bồ-tát nên sang chổ đó”. Khi ấy, tại Thạch thất có một con rồng lớn cầu thỉnh Đức Thế Tôn ở lại. Bồ-tát bèn lưu lại bóng dáng mà đi. các trời dẫn đường đi trước, sắp đến dưới cây Bồ-đề, giữa đường, Đại Thần từ đất vọt lên bưng lấy hộp vàng lớn ba tấc đem dâng lên Bồ-tát mà thưa rằng: “Đây là Hộp chứng của các Phật trước thâu nhập vào Pháp môn Bát Nhã ba La mật. Chư Phật trong ba đời đều được Hộp này. Do sức lực của Bát Nhã mà hành phục ma Đạo, xoay chuyển Đại Pháp Luân cứu độ chúng sinh thoát khổ. Nếu chưa được hộp Ấn chứng thì tuy có ngồi dưới cây Bồ-đề, Phật pháp cũng chẳng hiên ra trước, không được thành Phật Đạo. Tôi trong thời quá khứ, lúc sáu đức Phật mới thành đạo đều kính dâng hộp này”. Bồ- tát liền hoan hỷ đưa tay nhận lấy hộp và mang đội trên đảnh đầu, sang đến dưới cây Bồ-đề, ngồi nơi tòa Kim Cang, lúc mở hộp vàng, trong hộp rỗng thoáng, các cõi Phật ở mười phương, Ấn văn Bát Nhã đều trở lại làm Phật toả phóng ánh sáng lớn soi chiếu trên đảnh đầu Bồ-tát trao đặt ngôi vị Phật Vương, mới thành chánh giác, các vị Phạm Vương ở khắp mười phương đến thỉnh cầu chuyển Pháp luân. Khi ấy Đức Thế Tôn im lặng tư duy chưa vội giảng thuyết vậy. Cảm ứng của Kinh Đại Tập lúc vua Võ Đế thời Bắc chu phá diệt Phật Pháp. (Rút từ Pháp uyển Châu lâm v.v…) Khi vua Võ Đế (Võ văn Ung 561-579) thời Bắc Chu phá diệt Phật pháp, tất cả Kinh điển đều bị thiêu đốt. Đến trong năm sau, bỗng thấy giữa không trung có năm, sáu cây nấm lớn bay liệng trên không trung, đến cùng tầm mắt không thấy toàn là một đoạn theo nhẹ nhàng trên dưới. Triều Tể đứng trong nhìn chẳng lường biết là vật gì, lâu sau mới vụt rơi xuống trên tường nhà thượng só. Trông xem thì đó là Kinh Đại Tập Quyển thứ mười b. Mọi người đều cho là điều cảm ứng hiếm có, nên dốc tâm quy hướng có lắm nhiều. Cảm ứng của Tỳ-kheo A Luyện Nhã đọc tụng Kinh Đại Phẩm. (Rút từ Tây Quốc truyện). Xưa kia, có Tỳ-kheo A Luyện Nhã đọc tụng Kinh Đại Bát Nhã, thường hằng đêm có người trời đến chỗ vị Tỳ-kheo ấy dùng cam lồ cõi trời mà dâng cúng. Vị Tỳ-kheo ấy hỏi người trời rằng: “Trên trời có Kinh Bát Nhã chăng?” Người trời đáp: “Có”. Vị Tỳ-kheo ấy lại hỏi: “Đã có, cớ sao lại xuống đây?” Người trời đáp: “Vì kính Pháp. LaÏi nữa, Bát Nhã trên cõi trời, các trời tương truyền là Bát Nhã ở trong cõi người chánh là ghi lại lời của Đức Phật, cho nên xuống đây vậy”. Vị Tỳ-kheo ấy lại hỏi: “Trên trời có người thọ trì chăng?”. Người trời đáp: “Trên cõi trời đắm trước dục lạc nên không thể thọ trì. Và ở các châu khác cũng không, chỉ tại Diêm Phù Đề này, con người có được căn tánh Đại thừa thuần thục mới có thể hành trì bát Nhã và hẳn dứt hết ngẳn mé khổ đau”. Vị Tỳ-kheo ấy hỏi: “Vậy gìn giữ hộ trì người thọ trì Kinh Bát Nhã là chỉ có một mình ông ư?”Người trời đáp: “Có tám mươi ức các trời đến nơi cõi người này hộ trì người thọ trì Kinh Bát Nhã. Cho đến như nghe được một câu Kinh thì kính trọng đó như Phật gìn giữ Phật mẫu, không thể phế bỏ thôi thất vậy. Cảm ứng của Trương Chí Đạt ở quận Thiên Thủy ghi tả ba hàng Kinh Đại Phẩm mà được kéo dài Thọ mạng.(Tân lục). Tại quận Thiên Thủy có Trương Chí Đạt là người khéo giỏi ghi tả nổi danh mà chỉ tin thọ theo Đạo só, chẳng ghi tả Kinh Phật. Có lần nọ đến nhà người bạn thân thấy ghi tả Kinh Đại Phẩm Bát Nhã, vì không biết nên cho là Lão Kinh, hỏi người bạn thân đó có phải là Kinh Lão tử chăng? Người bạn thấy ấy mỉm cười nói đúng vậy, Trường Chi Đạt bèn ghi tả ba hàng, mới biết là không phải Kinh của Lão tử nên tức giận mà bỏ đi. Sau đó ba năm, cảm mắc bệnh mà qua đời, sau một đêm sống lại, rơi lệ vừa buồn vừa mừng mà hối tạ, đến nhà người bạn thân ấy nói rằng: “Ông là Đại Thiện tri thức khiến tôi kéo dài được mạng sống. Tôi nay được lên Thiên Đường”. Người bản thân ấy kinh lạ hỏi: “Cớ sao nói vậy?. Trương Chí Đạt kể rằng: “Tôi chết, tâm thức đến chổ vua Diêm- ma, vua thấy tôi đến bèn bảo: “Ông là kẻ ngu si tin theo thầy tà, không biết Phật pháp”. Và liền lấy ra một quyển sách, tra xét các nghiệp ác, sách ấy dày hơn hai mươi trang, lật xem đã đến cuối, chỉ còn nữa trang giấy, vua dừng lại trông nhìn tôi mà bảo rằng: “Ngươi có công đức lớn, đến nhà người bạn thân ghi tả ba dòng Kinh Đại Phẩm Bát Nhã. Chúng ta đây y cứ vào sức của người ở nhân gian thọ trì Kinh Bát Nhã, mà ba thời nhận chịu khổ được giảm nhẹ. Thọ mạng của ông đến nay đã hết, nhưng nay lại có được hạnh nghiệp kéo dài Thọ mạng, nên phóng tha ngươi về lại trong nhân gian. Các ông thọ trì Kinh Bát Nhã, báo ân phóng thả ngày nay v.v… “ Nghe nói lời ấy rồi, Tâm thức tôi bèn được trở lại bản thân, ấy há chẳng phải là ân đức do ông sao?” Nói xong liền trở về nhà, Trương Chí Đạt xả thí tất cả của cải, ghi tả được tám bộ Kinh Bát Nhã mà cúng dường. Đến lúc tám mươi ba tuổi, tự nhiên không bệnh mà Trương Chí Đạt qua đời. Về sau có người trông thấy Di văn ông để lại rằng: “Có ngàn Đức Phật đến nghinh đón tôi, dùng Kinh Bát Nhã làm hai cánh, vãng sinh về Tịnh độ vậy. Cảm ứng của Kinh Đại Phẩm Bát Nhã của cư só Tấn Châu Mẫn. (Rút từ Minh Bảo ký). Tấn Chu Mẫn người xứ Giang Nam, Tấn Hộ quân giúp Quân Thế kính phụng Phật pháp. Gặp lúc loạn lạc ở Tô Lanag, mọi người ở Đô ấp đều đổi dời khắp nơi. Trong nhà Tân Chu Mẫn có Kinh Đại Phẩm dùng nữa bức lụa dài tám trượng lật lại mà ghi tả đó, lại có các Kinh khác trong vài đài, Kinh Đại Phẩm cũng lẫn lộn trong đó, đã đến lúc sắp chạy loạn, không thể mang đi theo hết, rất chú trọng đến Kinh Đại Phẩm mà không biết ở trong đài nào. Qua khỏi bữa cơm hẳn sẽ phải đi, chẳng bày tìm tượng,bồi hồi than tra, bất chợt mà bộ Kinh Đại Phẩm ấy tự lưu xuất, Tấn Chu Mẫn vô cùng kinh lạ vui mừng mang theo, đến lúc nhà họ Chu đổi bắt thể lấy làm quýđó, đến nay vẫn hiện còn. Có một thuyết nói: “Vợ của Chu Tung là Hồ Mẫu có bức lụa ghi viết Kinh đại Phẩm, bức lụa đó rộng năm tấc mà một bộ Kinh Đại Phẩm ghi viết trọn trong đó”. Cảm ứng của Kinh Phóng Quang Bát Nhã của Sa-môn Tam tạng Pháp sư Chu só hành.(Rút từ truyện). Năm cam Lộ thứ năm (260) dưới thời Cao Quý Lang Công (Tào Mao) thời Tiền Nguî, Sa-môn Chi Só Hành giảng Kinh Tiểu Phẩm. Hoặc có thuyết nói rằng thường giảng Kinh Đạo Hạnh Bát Nhã, và thường than bản dịch Kinh ấy chưa hết lý, nên từ Trường An ngài cất bước vượt qua Lưu Sa đến nước Vương Điền, thỉnh được chánh bản phạm âm gần chín mươi chương, tại nước đó phần nhiều là các học giả Tiểu thừa sàm tấu cùng vua nước đó là: “Có vị Sa-môn ở đất Hán muốn đem Kinh sách của Bà-la-môn giáo để hoặc loạn chánh pháp, sao chẳng thiêu đốt bỏ? Đó là lỗi làm câm điếc đất Hán vậy”. vua ấy liền cản ngăn không cho ngài mang Kinh về Trung Hoa. Nhân đó ngài cầu xin thiêu đốt để làm nghiệm chứng, bèn chất củi trước điện, cuối cùng thiêu đốt mà Kinh không tồn hoại, vua ấy mới quy hướng kính tin. Ngài mong thỉnh Kinh ấy về đến được, và do ngài Trúc Thúc Lan Đàm Vô La Xoa phiên dịch, đó là Kinh phóng Quang Bát nhã vậy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Thanh Hư vì chúng sinh nhận chịu khổ trong ba đường mà Thọ trì Kinh Kim cang Bát Nhã.(Rút từ Kinh nghiệm ký). Sa-môn Thích Thanh Hư ở chùa Huệ nghóa tại Tử Châu, từ thủa thiếu thời chuyên trì tụng Kinh Kim Cang Bát nhã. Khoảng đầu tháng mười năm Vạn Tuế Thông Thiên thứ nhất (696) thời Võ Hậu-tiền Đường,ngài đến trong núi Tam Tổng ở phía băùc chùa Linh Nham tại Tềø Châu, phát nguyện vì chúng sinh nhận chịu khổ trong ba đường mà thọ trì tụng Kinh Kim cang Bát nhã. Từ chiều ngày hai mươi ba tháng mười, ngài ở trong núi đoan toạ tụng Kinh, bỗng nhiên tợ như cảm mộng thấy nột Thành quách rộng thoáng khoảng năm dặm, có vị tăng xuống đường đến cửa phía đông của thành, cửa ấy chỉ dung chứa được một người đi vào. Vị tăng ấy hỏi người giữ cửa rằng: Ông có tự biết Đại Vương lúc nào phóng thả những chúng sinh nhận chịu khổ nơi Địa ngục chăng?” Người ấy đáp rằng: “Hôm qua vào giờ mùi, có vị Thiền sư ở Tề Châu cầm nắm Tích trượng tuổi ngoài bảy mươi đến trước Đại Vương mà nói rằng: “Có một khách Tăng vì chúng sinh nhận chịu khổ trong ba đường mà trì tụng Kinh Kim Cang Bát nhã, vua có biết chăng? Và lúc nào vua sẽ phóng thả các chúng sinh nhận chịu khổở Địa ngục này”. đại Vương đáp rằng: “Đã biết trước, ngày mai vào giờ ngọ sẽ vì Địa sư mà phóng thả những chúng sinh có phần tội nhỏ nhiệm”. Người giữ cửa ấy nói với vị Tăng đó rằng: “Đại sư nên đi, xin chớ nói điều ấy vậy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Pháp Tạng ghi tả trì tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã mà diệt trừ tội chướng. Sa-môn Thích Pháp Tạng ở chùa Thật Thất tại tuỳ Phù Châu, vào tháng ba nhuận năm Võ Đức thứ hai thời Tiền Đường, ngài cảm mắc bệnh tật rất khốn khổ, qua hơn hai tùân mới thấy một người vận mặc y phục sắc xanh trang sức rất hoa lệ đứng trên lầu cao, tay nắm một quyển Kinh, bảo cùng ngài rằng: “Đời nay ông sử dụng vật lẫn lộn của Tam bảo, mắc vô lượng tội. Kinh ta đang gìn giữ đây là Kinh Kim Cang Bát nhã, nếu tự tạo một quyển và chú tâm đọc tụng thì một đời trở lại đây các tội sử dụng vật lẫn lộc của Tam bảo đều được dứt mất”. Ngài liền ứng tiếng nói rằng: “Nếu được diệt tội và tật bệnh lành hẳn, tôi kính ghi tả trăm bộ, đọc tụng thọ trì không phế bỏ”. Và ngài liền mạng chung, thần thức dẫn đến chỗ vua Diêm-ma. Vua hỏi: “Một đời qua, ông tạo được những phước nghiệp gì?” Ngài bèn giải bày nào tôn tạo tượng Phật, sao tả Kinh Kim Cang Bát nhã trăm bộ, ở nơi tất cả mọi người xoay chuyển đọc tụng và ghi tả Kinh gồm tám trăm quyển, ngày đêm thọ trì tụng dọc tụng Kinh Kim Cang Bát nhã chưa từng phế bỏ”. vua nghe nói vậy liền bảo: “Đại sư tu tạo công đức thật không thể nghó bàn”. Và liền sai sứ vào kho lấy sổ công đức đem đến nơi vua, vua tự mở xem, thảy đều đúng như những gì ngài nói, không một sai xót. Vua bảo: “Công đức của Đại sư thật không thể nghó bàn, nên phóng thả sư trở về lại chùa. Khuyến hóa tất cả mọi người thọ trì đọc tụng Kinh Kim cang Bát nhã, tập tụng đầy đủ các thứ công đức, chớ nên sinh khởi biếng lười. Sư sẽ được trường thọan lạc không mắt tật bệnh, sau ngày mạng chung sẽ sinh đến cõi Tịnh độ ở mười phương”. Sau khi sống lại, ngài tự bày nói sự việc ấy với mọi người. Cảm ứng của vua Huyền Tông thời Tiền Đường đọc tụng Kinh Nhân Vương cầu thỉnh binh lính cõi trời cứu giúp nước An Tây.(Tân lục). Năm Nhâm Tý(1) tức năm Thiên Bảo thứ nhất thời Tiền Đường, năm Tây Phiên Thái Cực Khương đều xâm chiếm nước An Tây. Ngày mườimo65tm tháng hai năm đó, nước An Tây tấu trình cầu xin viện binh. (1) Năm Thiên Bảo thứ nhấ(742), đúng phải là năm nhâm ngọ. Vua Huyền Tông (Lý Long Cơ 712-756) ban chiếu nếu sai phái binh lính với đường dài hơn vạn dặm, phải trải qua nhiều tháng mới đến, đâu có thể cứu giúp được đó. Có vị Đại thần tâu rằng: “Đại Vương có thể ban chiếu hỏi Tam Tạng Pháp sư Bất Không thử xem”. Vua bèn theo y lời cầy thỉnh thiên vương vì cứu giúp, tự tay vua cầm nắm lọ hương, còn ngài Bất Không trì tụng Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Đà La Ni, qua mười bốn biển, bỗng nhiên, vua thấy có khoảng năm trăm Thần Nhân, mặc áo giáp đội mũ trụ mang vá các thứ giáo mác đến đứng trước điện, vua rất kinh dị hỏi ngài Bất Không. Ngài đáp: “Đó là Trử Kiện, Thái Tử thứ hai con vua Tỳ Sa-môn dẫn đầu binh lính theo ý của Bệ Hạ sang cứu giúp nước An Tây nên đến từ giả đó”. Đến tháng tư năm đó, từ nước An Tây tấu trình rằng: “Từ ngày mười một tháng hai trở lại nay, ở phía đông bắc của thành cách chừng ba mươi dặm, mây mốc mờ tối trong đó có rất nhiều người thân hình cao lớn hơn cả trượng đều mặc áo giáp sắt vàng ròng, lúc đến phía tây, trống kèn vang rền khắp cả ba trăm dặm, đất rung động nghiêng đổ, trải qua hai ngày, binh lính của năm nước Thái, Thạch, Khương, v.v… đồng một lúc tháo chạy, ở nơi trướng màn thấy có các thứ như lông chuột vàng ròng, răng gãy, cung, nỏ, đàn v.v… và các khí trượng đều không thể sử dụng. Trông nhìn lại trên lầu Thành có ánh sáng, vua trời hiện hình, không ai chẳng thấy, kính cẩn đồ học lại hình dạng của vua trời vậy. Cảm ứng của vua Đại Tông thời Tiền Đường giảng Kinh Nhân Vương Bát Nhã mà trời giáng mưa. Mùa thu năm Vónh Thái thứ nhất (765) thời Tiền Đường, khắp thiên hạ không mưa cây cỏ khô chết. Vào ngày hai mươi ba tháng tám, vua Đại Tông (Lý Dự 763-780) ban sắc thỉnh mời một trăm vi Pháp sư ở hai chùa Tư Thánh và Tây Minh giảng Kinh nhân Vương Bát nhã, mời Tam tạng Pháp sư Bất Không làm Đô giảng. Đến ngày mồng một tháng chín, mây đen giăng phủ khắp trời, rưới mưa am lồ, khắp thiên hạ đều được thấm nhuầ, cây cỏ khô chết sớm được trở lại tốt tươi. Thật là oai thần của Kinh Nhân Vương Bát nhã không thể nghó bà! Thêm nữa, giặc cướp Khương Hồ đến bên cạnh Kinh Đô. lại nhân tinh sao biến hiện. Từ trong vua Lưu xuất ra hai quyển Kinh nhân Vương, thiết lập Đạo Tràng Nhân Vương gồm trăm tòa, mọi sự đều có cảm ứng vậy. lục). Cảm ứng của Kinh Nhân Vương Bát Nhã bản cựu dịch.(Tân Năm Trinh Nguyên thứ mười chín (803) thời Tiền Đường, có một vị Sa-môn không biết tên họ và người ở xứ nào đến dừng nghỉ qua đêm tại Miếu Phủ Quân tại Thái Sơn, tụng bốn bài kệ vô thường trong Nhân Vương bản mới phiên dịch. Phủ Quân giáng mộng bào rằng: “Xưa kia, tại trước Đức Phật, tôi đích thân được nghe Kinh này. Ngài La Thập phiên dịch văn từ khí chất nghóa vị thuần hợp, nghe tiếng đọc tụng, thân Tân thảy đều mát dịu. Nay bản Kinh mới phiên dịch đây, văn từ rất hay khéo nhưng nghó vị thì dạt dẻo. Bản Kinh ông trì so với Kinh quyển của Tỳ Sa-môn có phần thua kém”. Sau khi tỉnh mộng, vị Sa-môn ấy kiên trì cả bản Kinh cựu dịch. Cảm ứng của sự hoằng truyền Kinh Vô lượng nghóa.(Rút từ lời tựa của Kinh và Tề ký). Kinh Vô lượng nghóa tuy ghi tả ở đầu Kinh Pháp Hoa, nhưng tại Trung Hoa chưa thấy thuyết ấy. Những vị giảng Kinh Pháp Hoa mỗi lúc đến giảng tứ thướng luôn nghi ngờ không ai chẳng phế bỏ đàm nói mà than nghó thấy văn Kinh ấy. Bỗng nhiên có Sa-môn Huệ Biểu ở Võ Đang là người chuyên cần cầu Đạo, vân du tìm kiếm khắùp nam bắc, chẳng kể hiểm nghuy. Năm Kiến Nguyên thứ ba (481) thời Nam Tề, ngài lại đi tìm tòi điều bí ẩn sâu màu, xa đến Lãnh Nam, vào ở chùa Miếu Đình tại Quảng Caha6u gặp được Sa-môn Đàm-ma-già-Đà- Da- Xá người xứ Trung Ấn Độ, là người khéo giỏi viết chữ lệ, miệng nói rành tiếng xứ tề Châu, muốn truyền Kinh ấy mà chưa biết trao cho ai. Ngài bèn ân cần cầu thỉnh, dốc hết thâm tâm rất mực chí thành, trải qua mươi ngày nữa tháng, chỉ được một bản, bèn trở lại theo đường núi cao từ Bắc Tề mà vào Võ Đang. Đến ngày mười tám tháng chín năm Vónh Minh thứ ba (485) thời Nam Tề, ngài mang đội trên đầu bước ra khỏi núi muốn hoằng truyền lưu thông, kính hầu Chân văn, vui mừng cung kính rất mực chí thành, ca vịnh đến nỗi không biết tay múa, chân nhảy dạp, chẳng tuyên truyền mà đã kiến thành. Khi ấy có một người sinh tâm bất tín, bảo rằng: “Kinh ấy sao có thể làm phần tựa của Kinh Pháp Hoa ư?” Bèn cảm mộng thấy một vị thần thân hình cao lớn một trượng mặc áo giáp vàng, dùng kiếm sắc bén, phóng chận bảo rằng: “Nếu ngươi không tin, ta sẽ chém đầu cổ ngươi. Kinh này chánh là phần tựa của Kinh Pháp Hoa. Người được một Kinh này hẳn không thối thất Tâm Bồ-đề, trải qua thời gian ức kiếp mới một lần gặp, há để mất cả hai điều lợi ư?” Sau khi tỉnh giấc, người đó hối tạ vậy. Cảm ứng của Công đức nghe Kinh Vô lượng nghóa mà được sang lên cõi trời Đao-lợi. (Rút từ tề ký). Xưa kia, Tỳ-kheo Tuệ biểu ở núi Võ Đang trì tụng Kinh Vô lượng nghóa, về sau ngài mang đội Kinh ra núi, đến dừng nghỉ qua đêm trorng núi, mới đầu đêm có vị trời đến và dẫn theo trăm ngàn người trời dùng làm quyến thuộc cúng dường Kinh và ngài. Ngài hỏi: “Ngươi là ai?” Vị trời ấy đáp: “Chúng là chim tước lông xanh ở tại núi Võ Đang nhóm tụ nghe Vô lượng nghóa, nên khi mạng chung được sanh lên cõi trời Đao- lợi. Vì muốn báo đáp nên đến ra mắt cà cúng dường. Chúng tôi cùng nhau tụ một góc ở phía Tây nam của núi mà xả bỏ báo thân”. Nói lời ấy rồi bỗng nhiên ẩn mất. ngài mới sai bảo người đến tìm kím nơi chim nhóm tụ, quả nhiên đúng như lời nói ấy. thật công đức nghe Kinh có được như vậy. Ngài hoan hỷ dốc lòng hoằng thông vậy. Cảm ứng của sự trì tụng Kinh Pháp Hoa đủ số một ngàn bộ hẳn có linh nghiệm. (Rút từ Lương cao tăng truyện). Dưới thời vua Võ Thành Đế (Cao Chạm 561-565) bắc Tề, bên cạnh núi Đông Khán ở Tinh Châu có một người đào bới đấy, thấy một chỗ đất sắc màu vàng trắng. Sau đó thấy có một vật tướng trong như hai bờ môi của người, phía trong có chiếc lưỡi sắc màu đỏ hồng tươi đẹp. Bèn đem sự việc ấy tấu trình, vua hỏi các hàng Đạo tục, không một ai biết đến. Bấy giờ có Sa-môn Pháp Sư Đại Thống dâng biểu văn tâu rằng: “Đó là quả báo của người thọ trì Kinh Pháp Hoa sáu căn không rã hoại vậy. Nếu thọ trì đủ số ngàn biến hẳn có ứng nghiệm”. vua mới nhóm tập những người trì tụng Kinh Pháp Hoa đi nhiểu quanh mà tụng, vừa nói mở lời, môi lưỡi linh ứng ấy đồng một lúc máy động. Mọi người nghe thấy đều dựng đứng lông tóc, đem viếc ấy tấu trình. Vua bèn ban sắc là Hộp đá tôn trí vào trong và thỉnh vào trong thất mà phụng thờ. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh Pháp Hoa đủ tám bộ hẳn có được sự cứu khổ. (Rút từ Kinh truyện). Vào thời tiền Tống tại chùa Ngoã Quang có Sa-môn Thích Huệ Đạo vốn người xứ Dự Châu là em cùng mẹ với Sa-môn Thích Huệ Quả, lúc bình sinh chẳng chuyên tu hành chỉ khéo trái ngược. Đang trong coi nhà kho của Tăng chúng mà riêng lén lấy tự ăn dùng, biết có các thứ vải lụa thì tìm phương tiện mà trộm cắp. Về sau cảm mắc bệnh tật mà qua đời, ba ngày sau sống lại kể rằng: “Tôi bị minh quan rượt đuổi dẫn đến nơi đường Xa Xăm mời tối, có một vị Sa-môn bảo tôi rằng: “Nếu bị vua truy hỏi thì nên nói là ngày trước có nguyện tạo tám bộ Kinh Pháp Hoa”. Nói lời ấy rồi bỗng nhiên ẩn mất. Khi đến nơi chỗ vua Diêm-ma, vua hỏi: “Ông có tu tạo công đức gì chăng?” Tôi đáp: “Tôi có nguyện tạo tám bộ Kinh Pháp Hoa”. vua mỉm cười mà bảo rằng: “Đã nói là có nguyện. Nếu tạo Kinh Pháp Hoa đủ số tám bộ thì hẳn thoát khỏi tám Địa ngục. Y cứ một lời nói nên nay phóng thả ông trở lại nhân gian”. Kể lại nhân duyên ấy rồi, Huệ Đạo bèn xả bỏ thí tất cả mọi vật hiện có mà tạo tám bộ Kinh. Kinh đó đến nay hiện còn. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh Pháp Hoa nội trong một ngày liền được cứu khổ.(Rút từ Kinh truyện). Tại Ráng Châu có Cô Sơn, trong khoảng niên hiệu Vónh Huy (650- 656) thời Tiền Đường, có hai vị Tăng đồng chung sống một phòng. Một vị tên là Tăng Hành chuyên hành trì Tan giai Phật Pháp, còn một vị tên là Tăng Pháp chuyên hành trì Pháp Hoa Tam muội. Hai vị cùng ước hẹn nhau nếu ai qua đời trước thì nên trở lại báo cho biết chổ thác sinh. Về sau ngài tăng Hành qua đời trước. Sau đó ba năm, ngài tăng Pháp cầu thỉnh đức Bồ-tát Quán Thế Âm, bèn mộng thấy đến chốn Địa ngục, lửa dữ cháy phùng, không thể đến gần, có bảy lớp lưới sắt che phủ phía trên, cửa sắt khắp bốn mặt mở đóng rất bền bỉ. Có trăm ngàn vị Sa- môn trái phạm tịnh giới, chẳng chịu điều nhiếp thân tâm, hiện ở trong đó nhận chỉ thống khổ. Bèn hỏi: “Trong đây có Sa-môn Tăng Hành chăng?” Quỷ La sát đáp: “Có”. Lại nói: “Tôi muốn được trông thấy”. Quỷ đáp: “Không thể thấy được”. Lại nói: “Chúng tôi đều là Phật tử, cớ sao cố tiếc như thế?” Khi ấy quỷ La sát dùng mũi nhọc thọc vào trong than mà chỉ bảo. Sa-môn Tăng Pháp thấy than đen đổ lệ khóc ròng, nên liền hỏi: “Sa-môn Thích từ cớ sao phải chịu khổ vậy? Tôi muốn được thấy hình thể ngày xưa”. Quỷ La sát bảo: “Sống”. Liền đó uyển nhiên như bình sinh. Chỉ có khắp thân thể đều bị cháy nám, Sa-môn Tăng Hành nói cùng Tăng Pháp rằng: “Ông hãy cứu giúp tội khổ của tôi”. Tăng Pháp hỏi: “Làm sao để cứu giúp?” Tăng Hành bảo: “Nên vì tạo Kinh Pháp Hoa”. Tăng Pháp lại hỏi: “Tạo như thế nào?” Tăng Hành bảo: “Nội trong một ngày phải làm hoàn tất công việc”. tăng Pháp nói: “Bần đạo làm sao nội trong một ngày mà công việc ấy làm hoàn tất?” Tăng Hành nói: “Khổ đau không thể nhận chịu, chỉ mỗi sát na còn khó qua khỏi. Nếu chẳng nội trong một ngày nhanh nhẹn hoàn tất công việc thì khổ này sao sát dứt được”. Sau khi tỉnh mộng liền trong ngày đó. Tăng Pháp xả thí tất cả y bát mọi thứ của cải vốn có, thuê bốn mươi thư sinh đồng một ngày ghi tả Kinh Pháp Hoa mà cúng dường lễ bái. Đêm đó lại mộng thấy Tăng Hành thoát khỏi khổ Địa ngục, gần sinh lên cõi trời Đao-lợi vậy. Cảm ứng của sự phân chia bày quyển Kinh Pháp Hoa giảng ở tám tòa. (Rút từ Kinh truyện). Sa-môn Thích Huệ Minh, không biết ngài là người xứ nào, cũng lạc mất giòng họ. Phong thái dung mạo ngài trất nhàn thoáng, học rộng nghe nhiềi, thông minh dónh ngộ về Phật thừa. Ngài chuyên giảng Kinh Pháp Hoa có đặc sắc độc đoán, cùng tụng giảng nói giải thích. Hoặc có lúc vào trong núi sâu ngài ngồi nơi thạch thất giảng Kinh. Có một đàn khỉ vượn đến nghe pháp, qua ba tháng sau, trên hang đá bỗng nhiên có ánh sáng, dần lại gần trước hang, thì ra đó là người trời, tự xưng rằng: “Tôi là kẻ già nua lại mù mắt trong đàn khỉ vượn, nhờ nương tựa nghe ông giảng Kinh nên được sinh lên cõi trời Đao-lợi, bản thân của tôi hiện xả bỏ tại phía Đông nam của thất này cách chừng hơn bảy mươi bước. Nghó đến ân đức của Đại sư, do nghe Đại sư giảng pháp, nên nay đến nơi này mong được nghe giảng pháp!”. Ngài hỏi: “Giảng như thế?”. Người trời thưa: “Tôi gấp gấp muống mau được trở về cõi trời, nên xin Đại sư đem một bộ Kinh Pháp Hoa, phân thành tám phần để giảng”. Ngài bảo: “Kinh tôi đang hành trì vốn chỉ bảy quyển, hẳn phân làm bảy tòa, cớ sao phải phân giảng thành tám?”. Người trời nói:”Kinh Pháp Hoa là Kinh Đức Phật giảng nói trong tám năm, nếu như giảng đúng tám năm thì quá lâu dài nên xin mở làm thành tám tòa, phóng tợ như giảng tám năm, lược vậy nhưng cũng có thể hợp với ý chỉ của Đức Phật”. Ngài bèn phân bảy quyển thành tám pho vì người trời mà giảng giải. Người trời dâng cúng ngài tám hạt nhân châu, và nói bài kệ tụng rằng: “Thế Tôn thị tịch đã lâu xa Lưu truyền Diệu Pháp khó gặp thay Tuy gặp, hiểu nghóa cũng là khó Hiểu rồi giảng giải càng khó hơn Nếu nhge một bộ Kinh Pháp Hoa Chỉ trong phút chốc nghe chẳng báng Tôïi chứng ba đời đều tiêu diệt Tự nhiên thành Phật, Đạo không nghi Tôi nay nghe Kinh bỏ thân thú Sinh trong dục giới, trờ thứ hai Oai đức sáng ngời hơn trời trước Thắng lợi khó nghó chẳng thể bàn”. Nói xong bài kệ, người trời ấy liền trở về lại cõi trời, ngài ghi lại đầy đủ sự việc đó, khắc vào nơi đá, đến nay vẫn hiện còn. Cảm ứng của Tam tạng Pháp sư Đàm ma Sấm hoằng truyền Kinh đại Niết-bàn. (Rút từ Tăng mục lục v.v…). Trong thời vau An Đế (Tư Mã Đức Tông 397-419), Đông Tấn, có Tam tạng Pháp sư Đàm ma Sấm, tiếng Trung Hoa dịch nghóa là Pháp Phong. Ngài vốn người Trung Ấn Độ, mang mười quyển phần đầu Kinh Đại Niết-bàn và Bồ-tát giới v.v… đến Cô Tăng, dừng nghỉ tại nhà trọ, vì sợ mất bản Kinh nên ngài gối trên đầu để ngủ, nữa đêm có người kéo ngài xuống đất, ngài kinh hãi tỉnh giấc cho là có kẻ trộm, cứ như vậy mất ba đêm, ngài mới nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng: “Đó là Pháp tạng giải thoát oc đức Như Lai, cớ sao gối đầu lên đó?”. Ngài mới dần tỏ ngou3rie6ng đặt để nơi chỗ cao. Có kẻ trộm ban đêm đến lấy đi nhưng giất không lên nổi. Đến sáng sớm., ngài mang đi không tỏ vẻ nặng nhọc, kẻ trộm mới cho là bậc Thánh nhân nên bèn đến sám tạ. Cảm ứng của Sa-môn Huệ Nghiêm san lược sửa đổi Kinh Niết-bàn bị thần quở trách. (Rút từ truyện ký). Trong thời thời Tiền Tống, có Sa-môn Thích Huệ Nghiêm ở chùa Đông An tại Kinh đô, thường bực nhọc bởi Kinh Đại Niết-bàn văn tự lắm nhiều, bèn gia công san định cắt xén làm thành sổ quyển, ghi tả vài ba phen, ban bố chỉ bà đồng tốt đẹp, nhân nhủ trong lúc mộng, bỗng nhiên thấy có một người thanh hình cao lớn hơn hai trượng, khí mạo oai phong kỳ vó đến bảo rằng: “Kinh Đại Niết-bàn là Tông chủ của các Tạng, cớ sao ông xem thường mà châm chước?” Ngài buồn bả tỏ vẻ không hài lòng, còn cho là ý đã định, chưa có tâm hối cải. Đến đêm hôm sau lại mộng thấy người ấy với tướng trạng tỏ vẻ tức giận bảo rẳng: “Có lỗi mà biết cải đổi thì gọi là chẳng lỗi quá, nên đến cùng, mách bảo cho, cớ sao vẫn không cải đổi ư? Kinh ấy đã không sửa đổi một mảnh, vả lại họa ông cũng sắp đến”. Ngài kinh sợ tỉnh giấc mà mất tiếng, chưa đến trưa hôm sau đã vội đưa thư xin đòi lại các bản Kinh đã lưu bố mà thiếu đốt tất cả. Có các vị Thức giả cho rằng: “Đó là răn dè người sau”. Ngài cũng cho là như vậy nhưng trọn hoài nghi sợ. Cảm ứng của sự ghi tả Kinh Niết-bàn được sinh về nước Bất Động. (Tân lục). Thượng Thư hình bộ Thị lang Trương Hành An phát nguyện ghi tả Kinh Đại Niết-bàn, vừa mới lật đề, đêm đó nằm mộng thấy có hai vị Sa-môn đến bảo rằng: “Ngươi ghi tả Kinh Pháp sâu mầu hẳn nhất định được sinh về cõi nước của Phật Bất động”. Sau khi tỉnh mộng, Trương Hành An chuyên chí ghi tả, không biết về sau ông ta như thế nào? Cảm ứng của sự nghe hai chữ “ Thường trú”.(Tân lục). Tại Dương Châu có vị cư só không tin Đại Niết-bàn là Lý Tánh thường trú của chư Phật, lại nghe hai chữ “ Thường trú”. Chẳng sa đoạ vào đạo ác, mà sinh tâm bất tín mà nói là: “Nghe trọn cả một bộ Kinh còn chưa thể khỏi ác đạo, huống gì chì hai chữ ư?”. Sau đó, vị cư só ấy cảm mắc bệnh mà qua đời, trên tim đang cón ấm nóng nên mọi người chưa vội an táng. Qua bảy ngày sau sống lại kể rằng: “Tôi đến nơi thành Diêm-ma, vua quở trách rằng: “Ngươi phỉ báng Kinh Pháp sâu mầu, quả báo đang sa đoạ vào Địa ngục A Tỳ”. Khi đó, tôi nghó nhớ đến nhân quả nên thưa cùng vua rằng: “Giả sử có phỉ báng nên sa đoạ vào đường xấu ác, nhưng nghe được hai chữ “thường trú” cũng có thể đóng bít cửa ác đạo chứ?” Khi đó giữa không trung toả hiện ánh sáng, trong ánh sáng ấy nói bài kệ tụng rằng: “Hoặc tin hoặc chẳng tin Chỉ nghe chữ Thường trú Hẳn chẳng sa đường ác Sinh về nước Bất Động”. Do đó, vua hoan hỷ mà phóng thả tôi trở về”. Tự nói nhân duyên đó rồi, vị cư só ấy rơi lệ mà tinh tấn tu hành. Đến lúc lâm chung có được cõi nước Bất Động đến nghinh đón vậy. Cảm ứng của sự đưa tay xúc chạm Kinh Niết-bàn. (Rút từ Tây vức cầu pháp truyện). Xưa kia, tại Tây vức có một vị Bà-la-môn từ nơi bàn tay toả phóng ánh sáng. Mọi người lấy làm lạ đó bèn đem hỏi vị A-la-hán, song không biết là do nhân duyên gì. Về sau có bậc Đại só đã chứng đắc thần thông đến nhà vị Bà-la-môn ấy, thấy toả phóng ánh sáng, bèn bảo rằng: “Lành thay Bà-la-môn! Ngày trước ông đưa tay xúc phạm Kinh Đại Niết-bàn, vì nhân duyên ấy nên toả phóng ánh sáng. Trong tương lai ông được thành Phật cũng tên Quang minh Tôn vậy”. Cảm ứng các vua ghi tả hết thảy Kinh.(Rút từ Kinh Lục và Kinh Pháp uyển Châu Lâm). Các vua cao Đế (Tiêu Đạo Thành 479-483), vua Minh Đế (Túc Loan 494-501) thời Nam Tềghi tả hết thảy Kinh. vua Võ Đế (Trần Bá Tiên 557-560) thời nhà Trần ghi tả hết thảy Kinh gồm mười hai tạng. Vua Văn Đế (Trần Quyến 560-567) thời nhà Trần ghi tả năm mươi Tạng, vua Tuyên Đế (Trần Húc 569-583) thời nhà Trần ghi tả hết mười hai Tạng. Vua Đạo Võ Đế (Thác Bạt Quế 386-396) thời Bắc nguî ghi tả hết thảy Kinh. Vua Túc Tông Hiếu Minh Đế thời nhà Tề vì Tiên Vương ghi tả hết thảy Kinh gồm mười hai Tạng. Và có cả thảy ba mươi tám ngàn không trăm bốn bảy quyển. Vua Văn Đế (Dương Kiên 581-605) thời nhà Tuỳ ghi tả hết thảy Kinh, gồm mười sáu Tạng, có cả thảy một trăm ba mươi ba ngàn không trăm tám mươi sáu quyển. vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) thời nhà Tuỳ ghi tả sáu trăm mười hai tạng, hai mươi chín ngàn một trăm bảy mươi hai bộ. Tất cả đều sự cảm ứng, không thể ghi tả đầy đủ cả, cần nghiệm xét ở các sách sử vậy. TAM BẢO CẢM ỨNG LỤC QUYỂN TRUNG HẾT <詞>TĂNG BẢO TỤ <卷>QUYỂN HẠ MỤC LỤC khổ. Cảm ứng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có được danh xưng. Cảm ứng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa thân làm người nữ nghèo Cảm ứng của vua A Dục tạo tám mươi bốn ngàn Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Cảm ứng của Thiền sư Thích Giải thoát ở chùa Chiếu Quả gặp được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Cảm ứng của Sa-môn Thích Trí Mạnh tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tinh thành cúng dường. Cảm ứng của Trương Nguyên Thông ở huyện Ngũ Đài tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Cảm ứng Thái Hậu Lộ Chiếu thời nhà Tống tu tạo Tôn tượng Bồ- tát Phồ Hiền. Cảm ứng của Pháp sư Khuy Xung tạo Tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền mà thoát khỏi tai nạn, đến được nước Ấn Độ. Cảm ứng của Tần An Nghóa ở Cao Lục được Bồ-tát Phổ Hiền cứu khổ tự liệu Cảm ứng của Sa-môn Thích Phổ Minh ở chùa Thượng Định Lâm thấy thân hình Bồ-tát Phổ Hiền. Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Di Lặc bằng gỗ trong sông Đạt Lệ La ở nước Ô Trường Na. Cảm ứng của Giang Di tạo Tôn tượng đức Di Lặc. Cảm ứng của Thích Chiểu Vương tạo Tôn tượng Bồ-tát Di Lặc Cảm ứng của Thích Thuyên Minh tạo Tôn tượng Đức Từ Thị bằng gỗ Chiên Đàn. Cảm ứng của hai Tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại ở dưới gốc cây Bồ-đề. Cảm ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm tại Cô Sơn ở nước Ma-kiệt- đà. Cảm ứng của Luận sư Giới Hiền ở chùa Thế Vô Yểm được ba vị Bồ-tát hiển bày dạy răn. Cảm ứng của Vương tử Giới nhật cảm Tôn tượng Quán Tự Tại. Cảm ứng của Linh Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm của Bồ-tát Y Lợi Mật Đa ở Thiên Trúc. Cảm ứng của các Cư só Lưu Độ v.v… ở thời nhà Tấn tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm đứng. Cảm ứng của Sa-môn Thích Đạo tần xưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm mà được kéo dài Thọ mạng. Cảm ứng của người phụ nữ cô quạnh ở Quận Lỗ cúng dường Tôn tượng Quán Thế Âm đã rã mục. Cảm ứng của sự tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mười một mặt ở nước Kiều-tát-la mà được khỏi nạn dịch bệnh. Cảm ứng của sự tu tạo Tôn tượng Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt mà được kéo dài Thọ mạng. Cảm ứng của sự hành pháp Tôn tượng ngàn tay ngàn mắt ở nước Kế Tân mà được khỏi nạn. Cảm ứng của các người con nhà Đại Bà-la-môn v.v… Cảm được Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt. Cảm ứng của sự tu tạo Tôn tượng Bất Không Quyên sách ở nước Nam Ấn độ. Cảm ứng của Diêu Từ Khúc ở Lương Châu vì người thân đã quá vãng mà tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Âm. Cảm ứng của Triệu Văn Thị ở Kinh Châu vì người thân đã quá vãng mà đắp họa sáu Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. cảm ứng của hai Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm và Địa TẠng được đắp họa tại Hàn Châu thời nhà Lương, Cảm ứng của Lý Triệu Đãi ở Ngạc Huyện Ung Châu vì thân phụ đã qua đời mà tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Đại Thế Chí. Cảm ứng của Bồ-tát Địa Tạng ở thời Quá khứ là người nữ tìm chỗ mẹ thác sinh mà cứu khổ nạn. Cảm ứng của Tôn tượng đắp họa Bồ-tát Dịa tang ở Ích Châu thtd tại chuà Pháp tụ. Cảm ứng của Tôn tượng Địa Tạng khắc tên đầu gậy ở nhà Lưu Thị Lang tại huyện Kim Thủy, Giảm Châu. Cảm ứng của Bồ-tát Địa Tạng cứu nạn ác quỷ ở nhà Trưởng giả Kiều Đề. Cảm ứng của vua nước Di Đề đắp họa năm Tôn tượng Đại Lực mà thoát khỏi bệnh quỷ. Cảm ứng của Tôn tượng Bồ-tát Diệt Aùc Thú do Sa-môn Thích Pháp An ở chùa Pháp tụ tại Ích Châu tu tạo. Cảm ứng của Tôn tượng Dược Vương Dược Thượng do Sa-môn Thích Diệu Vận ở chùa Tổng nhân tại Đại Châu tu tạo. Cảm ứng của Bồ-tát Đà La Ni tự tại Vương vào trong Địa ngục men trên vạc sôi mà giảng pháp. Cảm ứng của thầy trò Tôn giả Mã Minh Long Thọ. Cảm ứng của Thiền sư Thích Đạo Thuyên tạo Tôn tượng Tôn giả Long Thọ mà được sinh về cõi Tịnh độ. Cảm ứng của Sa-môn Thích Huệ Hải ở Truy Châu họa vẽ Tôn tượng Tôn giả Vô Trước, Thế Thân mà được trời nghinh đón. ***** Cảm ứng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có được danh xưng. (Rút từ Thanh Lương truyện v.v…) Văn-thù-sư-lợi, theo cựu dịch nghóa là “ Diệu Đức”, tân dịch nghóa là “Diêu Cát Tường”. Có hai nhân duyên mà đặt tên. Thứ nhất là đến với Thế tục, nhân điềm lành hiển hiện bày tên Bồ-tát ấy có Đại từ bi, sinh trong nhà Bà-la-môn Phạm đức tại tụ Lục Đa-la nước Xá Vệ. Khi sinh, phòng ốc trong nhà đều như hoa sen, và từ hông phía hửu của mẹ mà sinh, thân hình sắc màu vàng tía, vừa lọt lòng liền nói năng được như Đồng tử cõi trời, có lọng bảy báu theo che phía trên, có đủ mười sự cảm ứng nên gọi tên là Diệu Cát Tường. Mười sự đó là: một là trời rải cam lồ, hai là Đất tuông vọt củi giấu, ba là biển xanh biến thành gạo vàng, bốn là trước sân mọc hoa sen vàng, năm là ánh sáng toả chiếu khắp phòng nhà, sáu là gà sinh nở Loan phụng, bảy là ngựa sinh ra Kỳ lân, tám là trâu sinh ra Bạch…, chín là heo sinh ra Long đồn, mười là voi sáu ngà hiện. Do đó Bồ-tát nhận điềm lành ứng hiện mà đặt tên. Thứ hai là y cứ theo thắng đế mà đặt tên thì như trong Kinh Kim Cang Đảnh nói: “Do thân Bồ-tát nhiếp khắp hết thảy thân các Đức Như Lai ở khắp các Pháp giới v.v… Hết thảy trí tuệ v.v… của Như Lai và hết thảy sức thần biến du hý của Như Lai đều do cực Diệu cát Tường nên gọi tên Bồ-tát là Diệu Cát Tường. Cảm ứng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa thân làm người nữ nghèo khổ.(Rút từ Thanh Lương truyện). Ở đời tương truyền xưa kia có một người nữ nghèo khổ, gặp lúc hai hội nhóm tụ nê từ phương nam mà đến, lúc sáng sớm đến nơi chùa, dẫn theo hai đứa con và một con cho. Chưa đến giờ chúng Tăng thọ tri, người nữ ấy thưa cùng vị Tăng chủ rằng: “Tôi muốn được ăn trước để vội đến nơi khác”, Chư Tăng chấp thuận cho, bảo người cấp cho ba phần ăn rất đầy đủ, trong ý muốn khiến người nữ ấy và hai đứa con được no đủ. Người nữ ấy nói: “Con chó cũng nên cho một phần ăn”. Chư Tăng gắng gượng cũng cho đó. người nữ ấy lại nói: “Trong bụng tôi còn có đứa con cũng cần được phần ăn”. chư Tăng tức giận bảo rằng: “Người cầu xin thức ăn của chúng Tăng không biết chán đủ. Con đang còn trong bụng chưa sinh làm sao cần được ăn?”. Quát mắng rồi bải đi. Người nữ ấy bị quở trách, liền lìa khỏi đất, bỗng chốc hóa hiện thân hình tức Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi. Con chó tức là co Sư Tử, hai đứa con tức là Thiện tài Đồng tử và vua nước Vương Điền, mây khí năm sắc che phủ mịt mờ khắp không trung, nhân đó mà lưu lại bài kệ tụng rằng: “Bầu đắng rể cũng đắng Dưa ngọt dây cũng ngọt Ta đấy vượt ba cõi Bỏ sa Sư ghét ghen”. Bồ-tát nói kệ ấy rồi liền ẩn mất, các hàng Tăng tục nơi pháp hội không ai chẳng kinh lạ tán thán. Vị Tăng chư sự tự hận trách mình không nhận biết được chân Thánh, muốn dùng dao nhọn phá hại mắt, mọi người khổ công cản ngăn mới dừng bỏ. Bấy giờ các hàng sang hèn trông xem kẻ giàu người nghèo không hai không khác, bèn đem tóc người nữ ấy dang cúng đến chổ Bồ-tát cưỡi mây mà ẩn dựng lập Bảo Thánh cúng dường. Cảm ứng của vua A Dục tạo tám mươi bốn ngàn Tôn tượng Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi.(Rút từ cảm Thông kỳ và Châu Lâm v.v…) Xưa kia, vua A Dục thống trị châu này, học theo quỷ chúa làm ngục, tàn ác rất lắm, lại làm Địa ngục, người hung dữ làm lính ngục. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hiện đến trong vạc sôi, lửa đốt cháy dữ mà nước mát mát lạnh, lại mọc lên hoa sen xanh. Tâm vua được cảm ngộ, liền trong ngày đó phá huỷ Địa ngục, tám mươi bốn ngàn Phu nhân đồng vào hầm lửa xây dựng tám mươi bốn ngàn Bảo Tháp và đều tạo Tôn tượng Bồ-tát đứngcũng đủ số tám mươi bốn ngàn pho. Vào thời Động Tấn, tại Lô Sơn có một Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bằng vàng là một trong số đó vậy. Cảm ứng của Thiền sư Thích Giải thoát ở chùa Chiếu Quả gặp được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.(Rút từ biệt truyện). Thiền sư Thích Giải thoát ở chùa Chiếu Quả tại huyện Ngũ Đài, ngài giòng họ Hình vốn người Tây Thể. Ngài thường trì tụng Kinh Pháp Hoa và tu pháp Quán Quang v.v… truy tìm dấu vết Bồ-tát Văn-thù-sư- lợi. Tại phía tả Đông Đường đã vài ba phen gặp đ. Mới đầu thì ngài vừa lễ bái xong thì ấn mất, sau thì đích thân được tiếp nhận sự chỉ dạy. Ngài xin hỏi đức Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đại só làm sao để có được lợi ích cho các chúng sanh ngu si vô trí thuyết khuyết thiếu đức tin khó Tôn giáo hóa?” Đức Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo rằng: “Một ngày có ba thời vào phá tan các ma, ba thời vào phá ma nghiệp của chúng sinh ở cõi này. Nhập Trí mẫu Tam muội để phá mờ tối phá si. Vào trong chốn Địa ngục, nơi mỗi mỗi ngục hiện làm thân Phật toả phóng ánh sáng mà giảng pháp,. Vào Thành của ngạ quỷ ban thí các thức ăn uống. Các người khác ban thí thức ăn đưa vào miệng đều hóa làm thanh lửa, chỉ có thức ăn ban thí có khả năng lợi ích cả thân Tâmnên được sinh lên các cõi trời giải thoát. Vào trong loài súc sinh hay trừ sự ngu si, khai mở trí tỏ ngộ, khiến đều phát tâm Bồ-đề”. Ngài lại hỏi: “Chúng sinh làm sao được hóa độ?”. Đức Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo rằng: “Đắp họa hình tượng ta, tu tạo tượng ta, hoặc dùng móng tay, hoặc chỉ như lá Yêm La, miệng tự phát lời xưng niệm “Nam mô”. Những chúng sinh như thế rất dễ hóa độ. Ngoài ra các chúng sinh khác, tuy có dốc hết lòng thương, nhưng vì nghiệp cũ khó có thể được hóa độ”. Ngài lại hỏi: “Giải thoát con đây làm so liền được tỏ ngộ vô sinh trọn không còn thối thất rơi lạc?” Đức Văn-thù-sư-lợi bảo rằng: “Xưa trước kia ông tạo hình tượng ta chỉ ba tấc, căn lành ấy đã thuần thục, nay đêu cần phải thân gần lễ bái. Với điều tự hỏi trách, hẳn sẽ tỏ ngộ vậy”. Ngài bèn kính vâng Thánh chỉ, nhân đó mà tự tìm cầu ở chính mình mới tỏ ngộ Pháp vô sinh, lại càng tăng trưởng Pháp hỷ, mới cảm được chư Phật hiện thân nói Phật vậy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Trí Mạnh tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tinh thành cúng dường.(Rút từ Biệt truyện). Sa-môn Thích Trí Mãnh thuở thiếu thời trất ngu si, không tâm phân biệt. Thân phụ vì ngài mà dùng ba mươi văn tiền để họa Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và bảo ngài luôn đối diện với Tôn tượng, bèn cảm mộng thấy Tôn tượng toả phóng ánh sáng chiếu trên đảng đầu và gom thâu vào đầu. Sau khi tỉnh giấc tự nhiên ngài có được trí tuệ biện tài như vị Tỳ-kheo học Pháp đã lâu năm, tư chất Kinh luật v.v… các văn, ngài đều ngần tụng văn nghóa không gì chẳng rỏ suốt. Sau khi xuất gia tài trí của ngài vượt quá người khác nên hiệu là Trí mãnh. Đức Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa làm vị Phạm Tăng đến nơi xứ này mà ra mắt ngài vậy. Cảm ứng của Trương Nguyên Thông ở huyện Ngũ Đài tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.(Tân lục). Trương Nguyên Thông tín tâm trinh kiên cố, phát tâm tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cao ba thước tôn trí trong nhà mà cúng dường. Đến đêm tối vào lúc canh ba, có vài ba vị Phạm Tăng tay nắm lò hương vào trong phòng nhà đi nhiểu quang Tôn tượng ba vòng rồi bổng nhiên không thấy đâu cả. Trương Nguyên Thông càng phát tín tâm cúng dường hương hoa. Đến chiều ngày hôm sau Tôn tượng toả phóng ánh sáng. Đêm đó vào lúc canh năm, Trương Nguyên Thông lại mộng thấy chư Phật ở mười phương đồng nhóm tụ trong phòng nhà dùng các thứ Diệu hoa cúng dường hình tượng mà bảo rằng: “Ta là Bản sư (tức là Thích-ca Mâu-ni). Vì kính trọng thầy nên chúng ta đến cúng dường Trương Nguyên Thông, vì ngươi đem tín tâm mà tu tạo Tôn tượng Thầy ta nên đến cúng dường”. Đang trong mộng, Trương Nguyên Thông bạch cùng chư Phật rằng: “các Thế giới ở mười phương có người tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, chư Phật đều đến các xứ ấy ư?” Đức Phật dạy: “Trong các Thế giới ở mười phương, nếu có việc thế này, chúng tôi đều đến cúng dường.Tại sao? Vì chúng tôi phát tâm đều do sức giáo hóa của Đức Văn-thù-sư-lợi. Nếu có người quy y Đức Văn-thù-sư- lợi, quá hơn quy y đức Văn-thù-sư-lợi, quá hơn quy u chư Phật ở mười phương”. Và Đức Phật liền nói kệ rằng: “ Văn Thù Đại Thánh Tôn Thấy chư Phật mười phương Ai quy y cúng dường Hơn cúng dường chư Phật “. Nói bài kệ ấy xong, bỗng nhiên ẩn mất. Trương Nguyên Thông lại thấy Thánh chúng đến nghinh đón mà nói rằng: “Tôi sinh về Thế giới vàng ròng v.v…”. Lúc bình sinh, Trương Nguyên Thông giấu kín không nói, ghi chủ vào Di Thư và cất trong rương tráp, sau khi nạng chung, có người mở bày đọc xem mới thấy vậy. Và Tôn tượng ấy thỉnh dời về chùa Chiếu Quả, Linh Nghiệm vẫn hiện còn. Cảm ứng Tôn tượng Bồ-tát Phồ Hiền do Thái Hậu Lộ Chiếu thời nhà Tống tu tạo. (Rút từ Minh Tường Ký và Minh Cảm truyện). Năm Đại Minh thứ tư (460) thời Tiền Tống, Thái Hậu lộ Chiếu tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền cưởi kiệu báu bạch tượng tôn trí tại thiền phòng ờ chùa Tring Hưng. Ngày mồng tám tháng mười năm đó, nhân thuyết giảng tại chùa đã đến lúc trai lợi hoàn tất giải tòa, Tăng chúng có hai trăm vị. Bấy giờ tại chùa mới mở giảng, vua Hiếu Vũ Đế (Lưu Tuấn 454-465) rất lưu tâm đích thân đến dự, biện liệu công việc đến cùng, có bốn vị Tăng theo đối sắc ban cấm giữ nghiêm túc. Ngài đó danh sách chư Tăng đã định sẳn chẳng ai xen tạp, lâu sau bỗng có một vị Tăng đến dự nơi pháp tòa dáng mạo, phong thái rất đẹp xinh, cả giảng đường mọi người đều kinh lạ đưa mắt chăm nhìn, trai chủ cùng nói bàn qua lại hơn trăm lược, bỗng nhiên không thấy vị Tăng ấy nữa, cả giảng hội trông thấy mới biết đó là Thần nhân vậy. Cảm ứng của Pháp sư Khuy Xung tạo Tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền mà thoát khỏi tai nạn, đến được nước Ấn Độ. (Rút từ Cầu Pháp ký). Pháp sư Khuy Xung, ngài người xứ Giao Châu, chí nguyện monh muốn được đến nước Ấn Độ, nên phát nguyện tu tạo Tôn tượng Đức Bồ-tát Phổ Hiền và cầu thỉnh rằng: “Đại só Phổ Hiền có nguyện luôn tuỳ thuận chúng sinh, há lại xả Tâm chí thành của bần đạo”. Bèn cảm mộng thấy được Bồ-tát Phổ Hiền cưởi voi trắng đến xoa vào đảnh đầu mà bảo rằng: “Ông có tâm chí thành sắp sang nước Ấn Độ, nếu gặp sự trở ngại, ta sẽ vì cứu giúp”. Sau khi tỉnh mộng ngài rất vui mừng, cùng Sa-môn Minh Viễn đông ngồi một thuyền mà vượt biển Nam Hải, bỗng nhiên gặp phải giá dữ, sắp mốn lạc vào nước quỷ La Sát. Ngài chuyên tâm xưng niệm Bồ-tát Phổ Hiền, Tôn tượng ấy bèn hiện trên thuyền, gió dần tỉnh lặng, theo hướng nước Sư tử mà đi, lại gặp phải nạn cá Ma Kiệt, ngài càng chuyên tâm xưng niệm Bồ-tát Phổ Hiền, Tôn tượng ấy lại hiện trên thuyền. Cá lớn bèn ngậm miệng mà đi. Thoát khỏi hiểm nạn, đến được nước Sư tử. Lại theo hướng Tây Ấn Độ mà đi, gặp được pháp sư Huyền Chiếu cùng đến xứ Trung Ấn Độ, ngài lễ bái nơi gốc cây Bồ-đề, lại đến vườn Trúc Lâm, cảm mắc chút bệnh, ngài lại mộng thấy Bồ-tát Phổ Hiền đến bảo rằng: “Nương theo Thánh lực được tròn bản nguyện. Ông được sáu năm căn Thanh Tịnh, chớ sinh lo buồn”. Ngài bèn ghi chú vào Di Thư mà thị tịch. Cảm ứng của Tần An Nghóa ở Cao Lục được Bồ-tát Phổ Hiền cứu khổ tự liệu. (Rút từ cảm ứng truyện). Tần An Nghóa xứ Cao Lục, từ nhỏ đến lớn chỉ phóng túng săn bắn lấy làm nghề nghiệp chính, mỗi ngày giết hại không biết bao nhiêu sinh mạng. Tháng này qua tháng khác năm này đến năm nọ, giết hại sinh mạng thật không thể tính kể. Thật là người tà kiến v.v… Tần An Nghóa vui thích giết hại thân thể chẳng từng bệnh hoạn gì. Đến năm năm mươi tám tuổi, bỗng nhiên phát bệnh ung nhọt, máu mũ tanh nồng khắp thân thể., hôi hám chẳng thể đến gần. Vợ của Tần An Nghóa lúc mặt trời mới mọc thấy các mụt nhọt nổi trên làn da mỗi mỗi đều tợ như mỏ chim tró bèn sinh tâm hiếm có nên gọi các người con đến trông xem, vào đều bảo là tợ như môi mép chim tró, nơi mội như có máy động. Khi ấy vội sai bảo người đi thỉnh mời Pháp sư Đạo Tuấn bảo: “Người này săn bắn tội ác tích chứa nhiều, hiện thân còn bị mổ ăn lạp xạp, nếu chẳng do sức tự cải hối thì rất khó trị liệu cứu thoát”. Và bèn hỏi Tần An Nghóa: “Thân tâm ông cảm thấy thế nào?”. Tần An Nghóa đáp: “Thân tâm cảm thấy như bị đâm giã, nhắm mắt liền thấy có cô sô` chim thú mổ róa ăn lấy thịt xương. Xin nguyện Đại sư cứu giúp trị liệu cho”. Ngài Đạo Tuấn bảo: “Nên tạo Tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền mới sám tạ được tội khiên”. Chỉ chốc lát, Tần An Nghóa tắt thở, mọi người trong thân thuộc than khóc. Ngài Đạo Tuấn khuyên bảo tạo Tôn tượng, tu trì pháp sám Phổ Hiền, ba ngày sau tỉnh lại, Tần An Nghóa kệ rằng: “Ban đầu tôi thấy đầu trâu mặt ngựa từng mắt tức giận, cưỡng bức bảo rằng: “Ngươi là kẻ ngu si, giết hại sinh mạng các loài chim trỉ, gà, v.v… ăn gặm da thịt. Các loài nai, dê, v.v… đông đầy nơi sảnh mỗi mỗi đều tố cáo chưa phải số phận mà bị cướp đoạt mạng sống. vua y cứ theo cáo trang mà sai sứ đến bắt để xét hỏi, ngươi không được chống trái”. Và liền trói ngược tay chân đưa vào trong xe lửa, bỗng nhiên đưa trả lại giữa đường, tự nhiên vô sự gặp được vị Sa-môn đưa tay xoa vào thân mình, tự nhiên nóng khổ tạm ngưng dứt, bèn đến nơi sảnh vua thấy có ngàn muôn ức cầm thú bị gông cùm xiềng xích trói buộc, trở lại trói buộc các tội nhân. Khi ấy vị Sa-môn đó cũng lại, vua liền từ chỗ ngồi chấp tay mà đứng dậy. Vị Sa-môn đó bảo: “Người này là Đàn Việt của ta, thân thuộc người này vì cúng dường ta mà sám hối lỗi khiên của người này, nên hãy phóng thả người này đi”. Vua thưa: “Với lời nói của Đại sư thì không thể chống lại, nhưng nay y cứ sự tố cáo của các loài hữu tình đây, mới bắt gọi đến xét tra đó. Việc này thì thế nào?” Vị Sa-môn đó bảo: “Bạn bè tri thức của người này ở nơi nhân gian đã vì tu pháp sám hối, hồi tưởng công đức cho các loại đã bị giết hạ. Kẻ oán đếu phải trừ oán thì tâm mới được thoát khổ”. vua nói:”Thật như lời đại sư nói, nên sẽ phóng thả trờ về”. Và vua từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ vị Sa-môn đó và thưa rằng:”Đại sư cũng cùng trở về”. Khi ấy vị Sa-môn đó dẫn tôi cùng đi ra, bỗng nhiên thấy lại trở lại nhà cũ. Vị Sa-môn đó dùng gậy mở miệng. Tôi vào bèn liền không còn thấy nữa”. Khi đó, thân thuộc nói cùng Tần An Nghóa rằng: “Chúng tôi vì ông mà tạo Tôn tượng, tượng liền đến cứu giúp”. Tần An Nghóa nghe nói vậy, buồn vui lẫn lộn, những mụt nhọt trên thân mình dần lành, khí lực trở lại điều hòa, bèn xả thí của cải cúng dường Tôn tượng đó. Rồi cắt tóc xuất gia, răn bảo con cháu trong giòng tộc rằng: “Vì thân hình chỉ như điện chớp sương móc nên phạm tội, giết hại một thân mạng, phải trải qua nhiều kiếp nhận chịu tai ương, mọi sự nơi minh ty đều xác thực không thể miễn khỏi”. Tần An Nghóa chỉ để lại lời đó, không biết đi đến ở xứ nào. Cảm ứng của Sa-môn Thích Phổ Minh ở chùa Thượng Định Lâm thấy thân hình Bồ-tát Phổ Hiền. (Rút từ Đường Tăng truyện). Sa-môn Thích Phổ Minh ở chùa Thượng Định Lâm thời nhà Tề chuyên sám hối lấy làm hạnh nghiệp chánh, trì tụng Kinh Pháp Hoa mỗi lúc đến phẩm: “Khuyết Phát” tức liền thấy Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi tượng Vương trắng ở trước mắt v.v… Cảm ứng của Tôn tượng Đức Phật Di Lặc bằng gỗ trong sông Đạt Lệ La ở nước Ô Trường Na.(Rút từ ngoại quốc ký). Trong sông Đạt Lệ La ở nước Ô Trường Na (còn gọi là Bằng Trượng) tại bắc Ấn Độ có một tinh xá, khắc chạm Tôn tượng Đức Di Lặc bằng gỗ sắc màu vàng ròng linh dị, ngầm thông dài hơn mười trượng. Sau khi Đức Phật Diệt dộ do Tôn giả Đại A-la-hán Mạt Điền Địa tạo nên vậy. Tôn giả tự suy niệm rằng: “Đức Đại Sư Thích-ca khi diệt độ đem đệ tử giao phó cho Đức Di Lặc, những người giải thoát trong Tam hội đều là từ trong Di Pháp của Đại Sư Thích-ca. Người xưng một tiếng:”Nam Mô” tức ban thí cho người một nắm thức ăn vậy. Bồ-tát sinh lên cung trời Đâu-suất, chúng sinh nương tựa vào đâu mà thấy được chân dung, chỉ sợ tu tạo Tôn tượng không tương tợ như Diệu thể. Bèn dùng sức thần thông dẫn các người thợ lên cung trời Đâu-suất diện kiến chân tướng Đức Di Lặc. Qua lại đến ba lần, sau đó công việc tạo tượng mới hoàn thành. Lúc ở tại cung trời, đức Di Lặc bảo cùng Tôn giả mạt Điền Địa rằng: “Ta dùng Thiên nhãn xem khắp ba ngàn Đại thiên thế giới, trong đó như có người tạo hình tượng ta, ta kín sai các người hầu thần giúp công việc đó. người đó nhất định chẳng rơi vào đường xấu ác. Đến lúc ta thành Phật, hìng tượng ấy sẽ dẫn đầu đưa người đó đến chổ ta. Khi ấy ta tán thán rằng: “Lành thay chúng sinh các ông ở trong thời chánh pháp tượng pháp và mạt pháp của Đức Thích-ca tạo hình tượng tương tợ ta. Và khi ấy tượng sẽ bay giữa hư không toả phóng ánh sáng và nói bệ tụng ngợi khen. Người nghe đều rơi lệ mà chứng đắc đạo quả Tam Thừa”. Tôn giả Mạt Điền Địa cung kính nhận lấy yếu chỉ dậy răn, công việc mới hoàn tất vậy, tự có Pháp Phật Pháp Tăng lưu truyền đến Đông độ vậy. Cảm ứng của Giang Di tạo Tôn tượng đức Di Lặc. (Rút từ Tăng truyện). Trong thời nhà Tấn có Tiêu Quốc Đái Quỳ, tự là An Đạo, người con thứ hai od Đái Quý tên là Khoả, tự là Trọng Nhã, tố vận sau lắng, khéo giỏi về binh quốc. Đã mang đội U Chân cũng tiếp thừa chí khí khéo léo. Mỗi lúc Đái Quý tạo tượng đều cùng dự tham chung lo. Có Giang Di ở Tế Dương thủa nhỏ kết bạn chơi thân với Khoả. Giang Di từng nhờ Khoả tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, rất dốc sức ân cần lo toan muốn khiến công việc hoàn thành tốt đẹp, mà tướng hảo của Tôn tượng chẳng viên mãn, trải qua nhiều năm mà không thaành. Về sau mộng thấy có người bảo rằng: “Giang Di đối với Đức Quán Thế Âm không được sức gia bị, nên có thể đổi làm Tôn tượng Bồ-tát Di Lặc”. Đái Khoả bèn dừng tay làm tượng, vội viết thư báo cho Giang Di biết, chưa kịp gởi đi mà thư của gang Di đã gởi đến đều cùng trong đêm đó cảm mộng, và điều nói trong thư cũng đồng phù hợp. Đái Khoả vui mừng với Thần Thông liền đòi làm Tôn tượng đức Di Lặc, đến lúc buông tay, bèn thành khéo đẹp, mới đầu chẳng xét nghó, dung mạo toả sáng, bỗng chốc mà thành, có người nhận biết tán thán cảm ngộ nhân duyên chẳng sai vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Bồ-tát Di Lặc do Sa-môn Thích Chiểu Vu tu tạo (Tân lục). Sa-môn Thích Chiểu Vu xuất gia từ thủa thiếu thời, rất có tiếng tăm về nghóa học, ngài thường nguyệ cầu được sinh lên cung trời Đâu- suất, nên ta pháp quán cung trời Đâu-suất, chú giải Nghóa nguyên bốn quyển, mộng thấy có một Đồng tử mặc áo xanh đến bảo rằng: “Đại sư muốn sinh lên cung trời Đâu-suất diện kiến Đại Só Di Lặc thì nên tạo hình tượng mà tu quán chân dung”. Sau khi tỉnh mộng, ngài liền khắc chạm gỗ làm tượng. Đến lúc ngài bảy mươi tuổi ngài thị tịch. Lúc sắp tịch ngài bảo cùng Đồ chúng rằng: “Tôn tượng ta tu tạo hiện giữa không trung. Ta theo Tôn tượng ấy mà được sinh lên cung trời Đâu-suất vậy. Cảm ứng của Pháp sư Thích Thuyên Minh tu tạo Tôn tượng Đức Từ Thị bằng gỗ Chiên Đàn cao ba tấc. Pháp sư Thích Thuyên Minh phát nguyện tu tạo Bồ-tát Tôn tượng Từ Thị khắc chạm bằng gỗ Chiên Đàn cao ba tấc và cầu nguyện được sinh lên cung trời Đâu-suất. Ngài có trước thuật bộ Thượng sinh Kinh sao gồm bốn quyển rõ nghóa lý sâu mầu, bèn mộng thấy Tôn tượng ấy dần cao lớn toả phóng ánh sáng sắc màu vàng ròng rực rỡ đối trước mặt ngài mà mỉm cười. Ngài bạch cùng Tôn tượng rằng: “Chúng con cầu nguyện sinh lên cung trời Đâu-suất có được hay chăng?” Tôn tượng ấy bảo rằng: “Ta đã được Đại Sư Thích-ca Mâu-ni giao phó, chẳng kể là người kính chuộng hay kẻ xả bỏ, huống hồ là người có tâm niệm mong cầu”. Nói lời ấy rồi, Tôn tượng trở lại nguyên hình. Ngài thầm kín chẳng nói với người khác. Sau khi ngài thị tịch mới thấy ngài ghi lại việc ấy trong di thư, nên biết là có sự cảm ứng. Và lúc ngài thị tịch, có người ở bên cạnh mộng thấy có trăm ngàn người mặc áo xanh đến nghinh đón, ngài chỉ lên trời mà đi. Cảm ứng của hai Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ở dưới gốc cây Bồ-đề. Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, các hàng vua chúa ở tại nước tương truyền, nghe Phật nói về hạn lượng của tòa Kim Cang, bèn đem hai Tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại (tức là Quán Thế Âm) đến nêu mốc giới ở hai phía nam bắc và ngồi ở hai phía đông tây. Nghe các bậc Lão đức kỳ cựu nói rằng: “Thân hình Tôn tượng Bồ-tát ấy mà ẩn mất không còn thấy tức Phật pháp sẽ diệt tận vậy”. Nay Tôn tượng Bồ-tát ở góc phía nam đã ẩn chìm quá ngực,. Tháng tám năm Kỷ Sửu (629) tức năm Quán thứ ba thời Tiền Đường, Tôn tượng Phật sư Huyền trang đến Tây vức. Tính từ năm Nhâm Ngọ tức năm thứ năm mươi hai thời Chu mục Vu mãn, lúc đó Đức Phật bảy mươi chín tuổi, vào nữa đêm ngày mười lăm tháng hai thì Đức Phật nhập Niết-bàn đến khi ngài Huyền Trang tới đó tức đã cách một ngàn năm trăm bảy mươi tám năm vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại tại ở Cô Sơn nước Ma-kiệt-đà. (Rút từ Đồng ký và Từ Aân truyện). Tại tinh xá Chánh trung ở Cô Sơn nước Ma-kiệt-đà, có Tôn tượng đức Bồ-tát Quán Tự Tại thân hình tuy nhỏ nhưng oai thần rất lớn, tay nắm hoa sen trên đảnh đầu đội Tôn tượng Phật. Từng có một số người bỏ ăn phát khởi yếu tâm mong muốn thấy Bồ-tát hoặc trong bảy ngày hoặc mười bốn ngày cho đến một tháng hẳn có sự cảm ứng, thấy được Diệu tướng trang nghiêm oai quang rực rỡ của Bồ-tát từ trong Tôn tượng lưu xuất an uỷ người ấy. Xưa kia, vua nước Tăng-già-la ở Nam Hải vào một buổi sáng sớm, dùng gương soi mặt mình mà chẳng thấy hình tướng của mình, mới thấy trên Cô Sơn trong rừng Đa-la ở nước Ma-kiệt-đà có Tôn tượng Bồ-tát ấy, vua rất cảm mừng chuẩn bị mọi thứ để đến mong cầu. Khi đã đến núi đó, thật thể ít tương tợ, nhân đó mà dựng lập tinh xá cúng dường mọi thứ. Về sau các vua khác cũng đến cúng dường không ngớt. Những người cúng dường Tôn tượng đó sợ mọi người đến làm dơ bẩn tôn nghi mới chung quanh Tôn tượng cách chừng bảy bước đóng gỗ làm lan có thể chắn lại, người đến lễ bái chỉ đứng phía ngoài lan có thể, không được đến gần Tượng, các thứ hương hoa dâng cúng cũng từ xa rãi vào. Như người tung rãi mà hoa dính bấm trên tay hay trên vai Tôn tượng ấy thì đều cho là điềm tốt lành là được toại nguyện vậy. Tu tạo Pháp sư Huyền Trang muốn sang đó đề cầu thỉnh, mời mua các thứ hoa kết làm thành tràng đem đến nơi chỗ Tôn tượng, chí thành lễ bái tán thán rồi, ngài quỳ thẳng phát ba điều nguyện rằng: “Một là ở tại Tây vức để học rồi, trở về quê cũ (tức là Trung Hoa) được bình an. Không các chướng nạn thì nguyện tràng hoa dính bắm trên tay Tôn tượng. Hai là mọi sự tu tập Phước Tuệ đều nguyện hồi hướng cầu sinh về cung trời Đâu-suất để phụng thờ Bồ-tát Từ Thị, nếu được như ý thì xin nguyện tràng hoa dính bắm trên hai cánh tay của Tôn tượng. Ba là trong Thánh giáo nói trong chúng sinh có một phần không có Phật tánh, Huyền Trang con nay tự nghi ngờ không biết có phải vậy chăn. Nếu như đều có Phật tánh và tu hành có thể thành Phật thì xin nguyện tràng hoa dính bắm trên cổ Tôn tượng”. Nói xong từ xa ngài tung rãi hoa và cảm được đúng như lời ngài cầu nguyện. Ngài đã mãn nguyện mong cầu, những người chung quanh trông thấy đều nói là: “Chưa từng có vậy, trong tương lai nếu được thành Phật xin nên nhớ nhân duyên ngày nay, trước vì cứu độ vậy. Cảm ứng của Luận sư Giới Hiền ở chùa Thế Vô Yểm được ba vị Bồ-tát hiển bày dạy răn. (Rút từ Từ Ân truyện). Pháp sư Huyền Trang đến nước Ma-ha-đà, vào chùa Thế Vô Yểm, gặp được Luận sư giới Hiền là bậc mà chúng Tăng tôn xưng là Chánh Pháp Tạng vậy. Ngài giới Hiền bảo Pháp sư giác Hiền rằng: “Ông nên vì Đại chúng mà nói về nhân duyên bệnh khổ của tôi ở ba năm trước”. Ngài Giác Hiền nghe vậy nghẹn khóc nuốt lệ mà kể về duyên xưa rằng: “Hòa thượng (tức Giới hiền) ngày trước cảm mắc bệnh phong, mỗi lúc bệnh phát thì tay chân đau nhức như lửa đốt kim châm vậy. Đau nhức chợt phát dứt suốt hơn hai mươi năm như thế, cách ba năm năm trước đây đau nhức chợt rất lắm, nên Hòa thượng nhàm ghét thân này, muốn bỏ ăn để nhận lấy sự chết, bèn trong đêm mộng thấy có ba người trời. Một người nhan sắc vàng ròng, một người nhan sắc nhu lưu ly, và một người nhan sắc như bạc trắng, hình mạo đoan chánh. Nghi dung nhẹ nhàng sáng rỡ, đến hỏi Hòa thượng rằng: “Ông muốn bỏ thân này ư? Trong Kinh nói rằng: “giả sử như thân có các thứ khổ cũng không nên nhàm chán xả bỏ”. Ở đời trước ông từng làm vị Quốc Vu não hại lắm nhiều chúng sinh nên nay phải nhận chịu quả báo ấy. Nay ông nên quán niệm mọi oan trái xưa kia mà chí thành sám hối, nhẫn chịu mọi sự đau khổ, riêng năng hoằng tuyên Kinh Luận, tự sẽ tiêu mất. Ngay sự ông nhàm thân bệnh khổ, trọn không thể hết”. Hòa thượng nghe vậy rồi bèn chí thành lễ bái. Người nhan sắc vàng ròng ấy chỉ người nhan sắc lưu ly mà nói cùng Hòa thượng rằng: “Đây là Bồ-tát Từ Thị”. Hòa thượng liền đảnh lễ đức Từ Thị mà thưa hỏi rằng:”Giới Hiền con thường cầu nguyện được sinh về nơi chốn của từ Tôn. Không biết có được chăng?”. Người ấy đáp rằng: “Ông nên rộng hoằng truyền chánh pháp về sau hẳn sẽ được sinh về đến đó”. người nhan sắc màu vàng ròng tự nói rằng:”Ta là Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi. Chúng tôi đang thấy ông muốn xả bỏ mạng sống, chẳng làm lợi ích cho quần sinh nên đến khuyên ông. Ông nên theo y lời nói của chúng tôi mà hiển dương chánh pháp, giảng giải các luận Du già v.v… lan toả khắp đến mọi người chưa được nghe, thân ông dần dần sẽ được an ổn, chớ buồn lo bệnh không lành. Có vị Sa-môn ở nước Chi-na (Trung Hoa) muốn thông hiểu Đại Pháp, ưa thích đến học nói ông. Ông có thể vì mà trao truyền đó”. Nói xong bỗng nhiên không còn thấy nữa. từ đó trở lại, căn bệnh của Hòa thượng giảm dần. Tăng chúng nghe thế thảy đều ngợi ca là việc hiếm có vậy. Pháp sư Huyền trang ghi chép vào Thánh ký vậy. Cảm ứng của Vương tử Giới nhật cảm được Tôn tượng Quán Tự Tại. (Rút từ Tây vức ký v.v…). Tại phía Đông Ấn Độ, có vua nước Kim Nhó tên là Nguyệt hại, vua nước Yết-nhã-các-xà tên là Vu tăng. Đại Thần rành rõ khuyên tấn con của tiên cảm ứng, vì giới Nhật là em của ông ta là Thái tử của vua, dám chẳng hứa, liền đến trước Tôn tượng đức Bồ-tát Quán tự Tại ở bờ sông Căn Già, bỏ ăn mà cầu thỉnh. Bồ-tát bèn hiện hình mà bảo rằng: “Thân trước của ông ờ tại trong rừng này làm vị Tỳ-kheo A Luyện Nhã mà tinh cần không biếng trễ, nương phước lực đó nên nay được làm Vu tử. vua nước Kim nhó đã phá hoại Phật pháp. Ông tiếp nốiVu vị nên phải phát huy hưng thạnh, lấy tâm từ bi làm chí nguyện không bao lâu sẽ làm vua cả năm xứ Ấn Độ”. Khi đó Vu tử Giới Nhật vâng lời chí giáo mà trở về tiếp nối Vu vị, mỗi mỗi đều y cứ theo Thánh ngôn, suốt ba mươi năm binh lính giặc dã chẳng hề dấy động. Cảm ứng của Linh Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm của Bồ-tát Y Lợi Mật Đa ở Tây vức (Rút từ truyện Thích Trí Mãnh). Vào thời tần Diêu Hưng, tại Kinh Triệu có Sa-môn Thích trí Mãnh vân du đến Tây vức, thủa thiếu thời có sang nơi Tháp của Bồ-tát Y- lợi-mật-đa-la tại nam Ấn Độ, bên cạnh tháp có một ngôi tinh xá bị phá hoại đã lâu ngày. Trong Thích-ca ấy có nột Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm sắc màu vàng ròng, mưa sương chẳng hề thấm ướt thân tượng, bèn thành Tâm cầu thỉnh, thấy giữa không trung có lọng che chở. Theo tương truyền của các bậc lão tử nói rằng: “Xưa kia, có vị Bồ- tát tên là Y-lợi-mật-đa. Với việc lợi sinh luôn nhớ nghó, từ bi thương cứu giúp, rất thương xót chúng sinh nhận chịu khổ trong ba đường, nên phất nghuyện tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, suốt ba năm công việc mới hoàn tất. Có lắm sự linh dị cảm động, như có người chuyên tâm cầu thỉnh, Tôn tượng vì hiện Diệu thân chỉ bảo cho điều ước nguyện ấy. Bồ- tát Y Lơi Mật Đa bèn đối trước Tôn tượng đó mà khởi tâm niệm rằng: “Bồ-tát Quán Thế Âm hay diệt khổ trong hai mươi lăm cõi, mà nổi khổ trong ba đường rất quá lắm. Linh tượng có sự cãm thông xin giúp cho thệ nguyện của con cùng cứu khồ ấy”. Đến đêm tối vào lúc canh hai. Linh tượng toả phóng ánh sáng, khắp đất trời đều sáng rực, trong ánh sáng ấy có thấy mười tám Địa ngục là nơi chúng sinh nhận chịu tội khổ, và ba mươi sáu thành ngạ quỷ nhận chịu khổ, bốn mươi ức khổ của loài súc sinh. Linh tượng chóng hiện trăm ngàn quân lính mang mặc áo giáp vàng, mỗi mỗi đều cần nắm gậy dao qua bỗng vào nơi mười tám Địa ngục, mới đầu từ ngục A-tỳ lần lược đập phá các vạc sôi lò đỏ, các thứ khí cụ lảm khổ chúng sinh đều phá hoại hết. Khi ấy các hàng đầu trâu mặt ngựa v.v… hết thảy lính ngục đều sinh tâm khiếp sợ ném vất các thứ khí cụ làm khổ, mà vội chạy đến thành vua Diêm-ma tâu cùng vua rằng: ”Bỗng nhiên có trăm ngàn quân lính kî binh mặc áo giáp vàng cầm nắm qua nhận đập phá vạc chảo, phá hoại các thứ khí cụ làm khổ. Nói Địa ngục bỗng biến thành ao mát, các khí cụ làm khổ đều biến thành hoa sen, hết thảy tội nhân đều lìa khỏi khổ não. Đó là sự việc chưa từng thấy. vậy phải làm thế nào?. Vua Diêm-ma bảo: “đó chẳng là việc làm của Bồ-tát Quán Thế Âm ư?” Chúng ta không thể sánh kịp được”. Bèn liền chấp tay hướng về phương ấy mà nói kệ rằng: “Kính lạy Quán Thế Âm Bậc Thần thông tự tại Hiển bày trăm ngàn quân Phá trừ vật ba ác”. Phá hoại mười tám Địa ngục như thế rồi, nhiếp hóa chúng sinh mà vì giảng pháp. Tiếp đến vào trong Thành ngạ quỷ, tay phải nắm kéo năm trăm dòng sông, tay tría nắm kéo năm trăm dòng sông ở giữa không. trung mà tuông mưa cam lồ, hết thảy ngạ quỷ đều ndamo, mà vì nói Pháp. Lại vào trong đường súc sinh dòng ánh sáng trí tuệ phá trừ tâm ngu si, mà vì nói pháp. Trong một lúc đến khắp ba đường. Bồ-tát Y-lợi-mật-đa thấy việc hy hữu ấy, bèn tự họa duyên tượng khắc đá ghi chú. Linh tượng đó tức thì duyên ấy vậy. (Riêng xin nói rằng: “Việc hiếm có ấy, nếu chẳng là nghiêm chỉ của Đại Thánh thì khó nghó bàn. Về sau kiểm xét bản mới dịch Kinh Đại thừa Bảo Vương có tướng lợi sinh ấy. Lại xét ở văn kia, nay muốn khuyên người tạo tượng và ghi lại duyên cớ mà lưu truyền v.v… Nay cũng xin nói là trong khoảng niên hiệu Hoằng Thể tại Trung Hoa có Tỳ-kheo Thi La đến nơi Di Tích của Bồ-tát Mật Đa ở Nam Ấn Độ, chùa Quán Thế Âm ấy vậy). Cảm ứng của Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm đứng do các Cư só Lưu Độ v.v… ở thời nhà Tấn tu tạo mà được thoát khỏi khổ nạn (Rút từ Minh tường ký). Trong thời nhà Tấn, có Lưu Đệ vốn người xứ Liêu Thành, Bình Nguyên, trong làng xóm có hơn trăm nhà đều kính phụng Đại Pháp, tạo Tôn tượng đứng, cúng dường Tăng vi. bấy giờ đang thời niên Lự Chúa Mộc vị, tại huyện đó thường có sự trốn mất, nên Mộc Vị rất oán ghét muốn diệt hết một thảnh, mọi người đều kinh sợ số phận ắc sẽ bị giết hết. Lưu Độ mới khiết trai chí thành hướng dẫn mọi người quy mạng đức Bồ-tát Quán Thế Âm, chỉ trong khoảng khắc, Mộc vị thấy có một vật từ giữa không trunbg bau xuống nhiểu quanh nơi cột nhà đang ở, kinh sợ trông nhìn thì đó là Kinh Quán Thế Âm, sai bảo người đọc lấy. Mộc Vị bèn hoan hỷ xét luật hình giết hại, từ đó ở thành bèn được khỏi hại v.v… Cảm ứng của Sa-môn Thích Đạo tần xưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm mà được kéo dài Thọ mạng.(Rút từ Đường Tăng truyện và Bổn ký Cảm truyện). Tại tinh xá Hạnh Đường ở núi Nguî thường có Sa-môn Thích Đạo Tần là người sống cuối thời nhà Nguî, mộng thấy có người bảo rằng: “Ông đến năm đó, sẽ qua đời lúc bốn mươi hai tuổi”. Sau khi tỉnh giấc, ngài rất lo sợ, bèn dốc hết của cải vốn có mà tu tạo việc phước. Có một người bạn bảo rằng: “Tôi nghe Kinh nói cúng dường sáu mươi ức vị Bồ- tát so với một tiếng xưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, phước đức của hai việc ấy ngang bằng không khác. Cớ sao ông chẳng chí tâm quy y để có thể tăng thêm tuổi thọ?” Ngài mới cảm nhận lời nói ấy, suốt bốn ngày đêm chuyên tinh xưng niệm, không ngưng nghỉ ngài ngồi dưới màng trướng bỗng nhiên thấy có ánh sáng từ ngoài cửa soi rọi vào và thấy bàn chân không của Bồ-tát Quán Thế Âm màu vàng ròng chiếu sán bảo cùng ngài rằng: “Như có cảm sâu dày đó. Định nghiệp cũng có thể, nếu duyên ở quá khứ và hiện tại cạn cợt thì khổ nhỏ cũng không nghiệm. Nếu phát tâm quy mạng sẽ biết được có cảm sâu dày. Nếu nghe mà không xưng niệm sẻ như duyên xưa cạn cợt vậy. Ông xưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm ư?” Ngài vén màng trông nhìn thì lại chẳng thấy, buồn vui lẫn lộn toát đỗ mồ hôi, bèn cảm thấy thân thể nhẹ nhàng. Bệnh tật giảm bớt là do sức giabị. Về sau được kéo dài Thọ mạng vậy. Cảm ứng của người phụ nữ cô quạnh ở Quận Lỗ cúng dường Tôn tượng Quán Thế Âm đã rã mục. (Tan lục). Tại Quận Lỗ có một phụ nữ cô quạnh, ở nơi tinh xá xấu cũ, thấy gặp được khúc gỗ ở trong ruộng lúa tương tợ như Thánh tượng bèn đem về tôn trí nơi am tranh. Tôn tượng rã mục đó lấy ra từ ruộng lúa tươi tốt nên người phụ nữ ấy cho là do sức của Tôn tượng, bèn đem phần trên thức ăn của chính mình mà dâng cúng. Về sau cảm mắc bệnh mà qua đời, trải qua một ngày nột đêm mới sống lại, người phụ nữ ấy đem đất nhà cúng dường tinh xá, đem thân mắt mà tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. mọi người lấy làm quái lạ nên hỏi về nguyên do. Người phụ nữ ấy đáp: “Khi tôi chết bị hai người bắt giam trong xe lửa mà chở đi, bỗng nhiên có một vị Sa-môn khắp cả thân thể đều huỷ hoại nói cùng người giữ xe rằng: “Ta thay cho người này, người này là Đàn Việt của ta”. Người giữ xe bèn để xe xuống đất chấp tay mà thưa rằng: “đại só xim lời, không lường được sự thành thực của vua, sẽ phóng thả người nữ này”. Liền đó vị Sa-môn lên xe lửa đưa dẫn tôi trở về nhà. Khi ấy tôi thưa cùng vị Sa-môn rằng: “Sư là mà đến cứu tôi?”. Vị Sa-môn ấy đáp: “ta là Quán Thế Âm, ngươi không biết gỗ rã mục lúa đó là tượng của ta vậy v.v…”. Tôi được lợi ích như thế nên không luyến tiếc ruộng nhà mà thôi”. Cảm ứng của sự tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mười một mặt ở nước Kiều-tát-la mà được khỏi nạn dịch bệnh. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn tromng khoảng tám trăm năm, tại nước Kiều-tát-la bị nạn bệnh dịch lan tràn, người chết đến một nữa, trải qua ba năm mà không dứt nạn, các hàng vua tôi cùng nhau bàn tính lập thệ nguyện cầu thỉnh người có tâm Đại bi ở trong loài người hay trong loài trời khắp mười phương thế giới ắc đến cứu giúp. Bấy giờ mộng thấy có một Thánh tượng đầy đủ mười một khuôn mặt thân sắc vàng ròng toả phóng ánh sáng soi chiếu, buông tay xoa vào đảnh đầu vua mà nói rằng: “ta dùng mười một khuôn mặt để gìn giữ quốc vương”. Sau khi tỉnh mộng, vua bèn báo cùng bề tôi. Vua tôi dân chúng nội trong một ngày tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mười một mắt. Cùng một lúc thoát khỏi ách nạn, từ đó trờ về sau trong trăm nhà chưa một nhà cảm mắc nạn dịch bệnh ấy nữa. Cảm ứng của sự tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt mà được kéo dài Thọ mạng.(Rút từ trong Kinh Thiên Tý (tức là ngàn cánh tay)). Xưa kia, ở nước Ba La nại có một vị Trưởng giả chỉ có được mộït người con Thọ mạng hợp được chỉ mười sáu tuổi. Đến năm mười lăm tuổi, có một vị Sa-môn đi tuần tự từng nhà mà khuất thực, thấy trưởng giả tỏ vẻ lo buồn không vui, vợ chồng tiều tuî mặt mày không tươi nhuận. Vị Sa-môn ấy mới hỏi Trưởng giả: “Cớ sao mà không vui?” Trưởng giả bèn kể lại duyên cớ ấy. Vị Sa-môn ấy bảo cùng Trưởng giả rằng: “Chớ phải nên lo buồn chỉ lấy sự phân xử của bần đạo đây thì Thọ mạng đứa con ắc được lâu dài”. Khi ấy vị Sa-môn đạo pháp tượng đó dùng ngàn tay chú nguyện suốt một ngày một đêm. Bèn được vua Diêm-ma bảo rằng: “Con của Trưởng giả Thị hiện, chỉ hợp mười sáu tuổi, nay đã mười lăm tuổi, đúng chỉ còn sống thêm một năm, nhưng nay gặp được duyên lành, Thọ mạng sẽ được kéo dài đến tám mươi tuổi, nên ta lại cùng báo cho biết”. Khi đó vợ chồng Trưởng giả vô cùng vui mừng xả thí tất cả của cải để cúng dường chúng Tăng. Nên biết Pháp tượng đó thật không thể nghó bàn vậy. Cảm ứng của sự hành pháp Tôn tượng ngàn tay ngàn mắt ở nước Kế Tân mà được khỏi nạn. Xưa kia, tại nước Kế Tân cảm mắc bệnh dịch hoành hàn, người mắc bệnh không qua khỏi một ngày đều chết. Có Bà-la-môn Chân Đế bấy giờ đem Pháp tượng ấy mà thi hành cứu giúp trị liệu, tức thời đều được tiêu diệt. hành bệnh quỷ Vương bèn ra khỏi cảnh vức nước ấy vậy. Cảm ứng của các người con nhà Đại Bà-la-môn v.v… Cảm được Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt. Xưa kia, có một vị Sa-môn phụng hành Đại pháp, theo tuần tự mà đi khuất thực đến nhà Bà-la-môn. Khi đó trong nhà ấy gặp vị Sa-môn ấy đến sường cột trong nhà gãy đổ, bốn bình chậu nước đổ bể, trâu ngựa bức đứt tuông chî tứ phía, vị Bà-la-môn đó cho rằng: “Vì người không tốt lành đến nhà ta nên có biến chuyển quái lạ này”. Vị Sa-môn ấy nghe nói vậy bèn bảo cùng Bà-la-môn đó rằng: “Ông có thấy các con trong nhà ông bụng trướng mặt sưng thân hình nặng nhọc ánh mắt mờ tối, bởi quỷ não hãi đó chăng?”. Bà-la-môn đó đáp: “Ta đã thấy trước như vậy”.Vị Sa-môn ấy bảo: “Trong nhà ông có ác quỷ Dạ xoa hút tinh khí của người, nay trong nhà ông có các chứng bệnh dịch là do các quỷ v.v… ấy vậy. Vì sợ ta nên các quỷ chạy trốn mà sinh việc như vậy”. Liền đó các người con bệnh khổ được dứt trừ, Bà-la-môn nên đó nói rằng: “Ông có sức lực gì vậy?”. Vị Sa-môn ấy đáp: “Vì ta thân gần Đại Pháp của Đức Như Lai, mang Tôn tượng ngàn tay nên có oai thần vậy.” Vợ chồng ông Bà-la-môn nghe xong hoan hỷ mà cúng dường đó vậy. Cảm ứng của sự tu tạo Tôn tượng Bất Không Quyên sách ở nước Nam Ấn độ.(Rút từ Tây vức kỳ). Ở nước nam Ấn Độ bị hoang phế, vua tôi không được bảo tồn Thọ mạng, dân chúng rã tan. vua bèn sai kẻ sứ đến cầu thỉnh Sa-môn Y lợi mật đa ở trung Ấn Độ đến để cứu giúp tai ương trong nước nhà. Ngài Y Lợi Mật Đa đến nước đó tâu cùng vua rằng: “Có Đại Thánh Bật Không Quyên sách Quán Tự Tại Đại Vương, nên tạo Tôn tượng thiết trí tại các phía tây nam của thành”. vua vâng theo lời dạy ấy liền tạo hình tượng tôn trí nơi ác ở góc tây nam của thành. Tượng ấy toả phóng ánh sáng chiếu toảkhắp một do tuần, vua tôi được bảo an Thọ mạng, lúa thóc tốt tươi được mùa. dân chúng từ các nước khác mẫn cảm Tôn tượng đó. ở phía nam của thành có một ngôi chùa cũ, bèn dời các làm lại chùa ấy vậy. Cảm ứng của Diêu Từ Khúc ở Lương Châu vì người thân đã qua đời mà tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Quán Âm. Ở Lương Châu có Từ Khúc vốn giòng họ Diêu, từ nhỏ đã mất cả song thân. không biết phần an nghóa. Đến lúc trưởng thành nghe duyên báo ân, cả hai mắt đều đổ lệ. Bèn họa vẽ Tôn tượng Quán Tự tại ngàn tay ngàn mắt và sáu Tôn tượng Quán tự tại tôn thờ nơi nhà cũ mà cúng dường. trải qua một năm rưỡi, đều không có điềm cảm gì. Đến đêm mười bốn tháng bảy năm sau, bỗng nhiên giữa không trung có tiếng gọi: “Từ Khúc”. Không biết nguyên do gì nên Từ Khúc hỏi ai đó. Bèn đáp lại: “Chúng tôi là song thân của ngươi, lúc sống phóng túng tạo mọi ác nghiệp nên bị đoạ vào Địa ngục nuốc hoàn sắt nóng. Ngày mười tám tháng hai năm trước, có sáu vị Sa-môn oai quang rực rỡ vào nơi Thánh Địa ngục, các hàng ngục tốt thấy vậy nên sinh tâm cung kính không dám niệm¨nguyệt ngại. Khii đã vào Địa ngục rồi, thâu nhiếp ánh sáng vì chúng tôi mà giảng pháp. Mới đầu không nhận biết, dần dần dạy răn dẫn dụ, liền xả bảo mà sinh lên cõi trời có trăm người. Chúng tôi sinh ở trên cõi trời thứ hai. Mới đầu nhận biết được là nhờ ân của ngươi, nhưng ở trên cõi trời thọ hưởng an vui không ngừng nghỉ nên những việc khác dễ quên. Vì vậy mà chúng tôi đến đây chậm trễ”. Từ Khúc hỏi: “Lấy gì làm chứng cứ để biết các người là cha mẹ tôi?” Đáp rằng: “Nếu không tin lời chúng tôi nói thì xem nơi rương vàng trong kho, vì ngươi mà cất lại cho trăm viên tiền vàng”. Nói xong bèn bặt tiếng. Đến sáng ngày Từ Khúc xem lại rương trong kho thật đúng như lời nói ấy, buồn vui dâng trào lẫn lộn, thấy ngày giờ họa vẽ quả nhiên hợp với lời nói ấy vậy. Cảm ứng của Triệu Văn Thị ở Kinh Châu vì người thân đã qua đời mà đắp họa sáu Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. (Rút từ Ty mạng chí). Triệu Văn thị người xứ Kinh Châu, song thân tà kiến, không tin Tam bảo còn văn Thị thì phụng thờ Bồ-tát Quán Thế Âm. Sau khi song thân đã qua đời, Văn Thị khởi niệm rằng: “Song thân ta tà kiến không tin Tam bảo, không biết thác sinh vào xứ nào, ta nên họa vẽ sáu Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm để cùng cứu giúp trong sáu đường, song thân ta há chẳng vào trong số đó ư? Bèn thuê mướn người thợ khéo giỏi họa vẽ sáu Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. Chưa gia công học vẽ mà đem đó mộng thấy sáu Bồ-tát Quán Thế Âm, Văn Thị liền chấp tay bách cùng sáu Bồ-tát Quán Thế Âm rằng: “Xin nguyện rũ lòng từ bi giup1 cho con biết được chỗ thác sinh của cha mẹ con”. Khi ấy, Đức đại Bi Quán Thế Âm bảo văn Thị rằng:’ Cha ngươi bị đoạ trong Địa ngục thiêu đốt nhận chịu tội khổ nóng đốt. Ngươi họa vẽ Tôn tượng ta nên ta sang Địa ngục đó toả phóng ánh sáng mà giảng pháp cứu khổ ở chốn Địa ngục”. Đức Đại từ Quán Thế Âm bảo rằng: “Nếu dời vào trong loài ngạ quỷ, ta sẽ vì cứu giúp. chỉ vì mẹ của ngươi đoạ trong loài ngã Quỷ, ta sang cõi ấy buông tay rưới mưa cam lồ khiến được no đủ, mà vì nói Pháp”. Đức Sư Tử vô Uý Quán Thế Âm bảo rằng: “Nếu dời sinh trong oài súc sinh, ta sẽ về cứu giúp đó”. Đức Thiên Nhân Trượng Phu Quán Thế Âm bảo rằng: “Nếu chuyển sang trong loài người, ta sẽ hiển bày dẫn đường đến Tịnh độ”. Đức Đại Phạm thâm Viễn Quán Thế Âm bảo rằng: “Nếu chuyển sinh trên cõi trời. Ta sẽ vì cứu giúp lúc đắm chìm khổ mà ra khỏi ba cõi”. Sáu Đức Bồ-tát Quán Thế Âm nói như thế rồi, bỗng nhiên giác ngộ, đến lúc học vẽ vừa mới thành, Tôn tượng liền toả phóng ánh sáng, ở xa trông thấy như có ánh sáng đèn đuốc, nhưng ở gần trông thấy ẩn mất. Cha mẹ của Văn Thị đến bào mộng, hai người đều dóng vẻ Trượng Phu cưỡi mây sắc tía mà đến bảo cùng Văn Thị rằng: “Chúng tôi nhờ được Bồ-tát Quán Thế Âm đến cứu giúp vãng sinh về cõi Tịnh độ v.v… “. Những người nghe đều cho đó là song thân của Văn Thị đến báo mộng vậy. Cảm ứng của hai Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm và Địa TaÏng được đắp họa tại Hàn Châu, thời nhà Lương. Trên vách tường Đông Long ở chùa Thiện Tịch tại huyện Đức Dương, Hàn Châu có họa vẽ hai Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm và Địa Tạng tướng mạo đều là Tăng tướng v.v… bày mà ngồi. Được học vẽ trong thời nhà Lương. Bấy giờ mọi người đến chiêm lễ, Tôn tượng toả phóng ánh sáng rực rỡ khác lạ. Đến năm Lân Đức thứ nhất (664) thời Tiền Đường, trong chùa có vị Tăng chiêm ngưỡng Tôn tượng, muốn có sự khác thường, bèn đem lụa quyên đến bvach1 tường mô tả Tôn tượng mà cúng dường, Tôn tượng toả phóng ánh sáng chẳng khác. khi ấy mọi người đua nhau đến mô tả có lắm nhiều. Đến năm Lân Đức thứ ba (666) thời Tiền Đường, Vương Ký ra trấn nhậm Tư Châu Thứ Sử, đang vì mô tả, tinh thành cúng dường, Đoàn thuyền cùng đi có đắm chìm bởi gặp sóng gió ấy, chỉ một chiếc do Vương Ký đi không ngại gì, nên biết đức Bồ-tát hoằng thí Đại từ bi có được sức lực như thế. Đến năm Thuỳ Củng thứ hai (684) thời Tiền Đường, Võ Hậu (Võ Chiếu) nghe Tôn tượng như thế, bảo người thợ mô tả, ánh sáng cũng toả phát như trước, bèn tôn trí tại Nội Đạo tràng mà cúng dường. Đến năm Đại Lịch thứ nhất (766) thời Tiền Đường có vị Đại Đức ở chùa bảo Thọ vào nội Đạo tràng thấy tướng ánh sáng khác lạ nên tấu trình. vua ĐẠi Tông (Lý Dự 763-780) mới phát tâm chí thành đảnh lễ tán thán. Lúc ánh sáng ấy hiện khắp trong nước nhà đều được an thái. Về sau có người vợ của một thương nhấn mang thai đến hai mươi tám tháng mà không sinh nở, bỗng thấy được tướng ánh sáng coả Tôn tượng, bèn liền mô tả nhất tâm phát nguyện ở trước Bồ-tát, đêm đó bèn sinh được một người con trai, tướng tốt đoan nghiêm, mọi người trông thấy đều hoan hỷ. Cảm ứng của Lý Triệu Đãi ở Ngạc Huyện, Ung Châu vì thân phụ đã qua đời mà tu tạo Tôn tượng Bồ-tát Đại Thế Chí. Lý Triệu Đãi, người xứ Huyện ngạc, ung Châu, thân phụ Triệu Đãi khởi sinh ác kiến, bài bát cho là không có Phật pháp, bèn cảm mộng bị thần quở trách, nhân đó ói máu mà chết. Triệu Đãi vốn dốc tâm quy y hướng Bồ-tát Thế Chí, chuyên tinh niệm Phật, lại vì muốn cứu khổ cho thân phụ, nên tạo Tôn tượng Bồ-tát Đại Thế Chí cao ba thước. Mới ngày đầu tiên khắc học, bỗng nhiên quả đất rung động, mọi người cho là Đất chấn động, suy tìm mọi sự tốt xấu. Trải qua hai tháng công việc mới hoàn tất. Triệu Đãi bèn mộng thấy có một người thân sắc vàng ròng trên đầu đội mũ báu đến bảo rằng: “Ông có biết cớ sao ngày trước quả đất chấn động chăng? Ta là Bồ-tát Đại Thế Chí, vì ngươi tạo hình tượng ta, nên ta đáp lại sự thỉnh cầu của ngươi mà đến thế giới này, lúc cất chân lúc đặt chân, khắp cả Đại thiên đều chấn động. Chúng sinh trong ba đường xấu ác đều được lìa khổ. Ta y cứ theo niệm Phật môn, nhập vô sinh nhẫn, nhiếp lấy chúng sinh ở mười phương xưng niệm Phật. Ngươi tạo hình tượng và kiên tu niệm Phật, thân phụ của ngươi đã thoát khỏi ở chốn Địa ngục, tu nhiếp dẫn đưa về cõi Tịnh độ”. Nghe nói thế rồi, Triệu Đãi ngước mắt muốn chiêm lễ, bỗng nhiên tỉnh mộng buồn vui lẫn lộn, Triệu Đãi tinh tấn tu niệm chẳng phế bỏ. 32-C ảm ứng của Bồ-tát Địa Tạng ở thời Quá khứ làm người nữ tìm chỗ mẹ thác sinh mà cứu khổ (Rút từ Kinh văn). Trong thời quá khứ trải qua A Tăng Kỳ Kiếp không thể kể có đức Phật ra đời hiệu là Giác Hoa Định Tự tại Vương Như Lai ở trong thời tượng Phật có một Bà-la-môn nữ đã nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đầu kinh nể. Người mẹ tin theo tà kiến kinh khi Tam bảo. khi ấy Thánh nữ bày nhiều chước phương tiện để khuyên nhủ mẹ khiến sinh chánh tín, nhưng bà ta chưa tin hẳn, chẳng bao lâu bà ấy chết, thần hồn sa đoạ vào Địa ngục vô gián. Bấy giờ Thánh nữ bèn bán nhà đất, sắm nhiều hương hoa và các thứ cúng cụ, đến nơi chùa tháp Phật cúng dường cung kính chiêm lễ tôn dung mà tự suy nghó rằng: “Đức Phật là đấng Đai giác. Nếu Đức Phật còn trụ ở đời, khi mẹ ta mất, ta đến bạch hỏi Đức Phật, hẳn sẽ rõ biết chổ thác sinh của mẹ ta”. Khi ấy Đức Phật ở giữa hu không mà bảo rằng: “Người nữ kia chớ nên buồn rầu quá lắm, nay ta bảo cho ngươi biết chỗ thác sinh của mẹ ngươi. Ngươi nên sớm trở về nhà, ngồi ngay ngắn nghó tưởng danh hiệu ta, tức sẽ biết chổõ thác sinh của mẹ ngươi”. Thánh nữ bèn trở về nhà, vì thương nhớ mẹ nên Thánh nữ ngồi ngay ngắn xưng niệm danh hiệu Phật. Trải qua một ngày một đêm bỗng nhiên thấy tự thân mình đến nơi một bờ biển, nước trong biển đó sôi sùng sục, có nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắc bay nhãy trên biển, thấy có các người nam nữ đâng đến trăm ngàn muôn ức nổi chìm trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt. Lại thấy Quỷ Dạ Xoa thân hình lạ lùng. khi ấy Thánh nữ nỏi một Quỷ Vương tên là Vô Độc rằng: “Đây là xứ nào?” Vô Độc đáp rằng: “Đây là lớp biển thứ nhất ở phía tây núi Đại Thiết Vi”. Thánh nữ hỏi rằng: “Tôi nghe trong núi Thiết Vi có Địa ngục, điều ấy có thật chăng?” Vo Độc đáp rằng: “Thật là Địa ngục”. Thánh nữ lại hỏi: Vì nhân duyên gì mà nước trong biển này sôi sùng sục và có nhiều người tội như thế”. Quỷ Vương đáp rằng: “Đó đều là những chúng sinh tạo nghiệp ác ở trong cõi Diêm phù Đề vừa mới chết trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự về tạo các thứ công đức để cứu khổ nạn. Lúc sống kẻ đó lại không gây nhân lành nên phải cứ theo bản nghiệp mà nhận chịu quả báo nơi Địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này. Về phía đông biển này cách chừng một muôn do tuần lại có một biển nữa, nổi khổ ở biển đó gấp bội hơn biển này, phía đông của biển đó lại có một biển nữa, những sự thống khổ ở biển đó lại gấp bội hơn nhiều, đó đều do ba nghiệp ác mà chiêu cảm quả khổ, nên gọi đó biển nghiệp trong ba đường”. Thánh nữ lại hỏi: “Địa ngục ở đâu?”. Vô Độc đáp: “Trong ba biển ấy đều là Đại Địa ngục. Số đó có đến trăm ngàn, mỗi mỗi đều riêng khác”. Thánh nữ lại hỏi: “Mẹ tôi mới chết gần đây không bao lâu mà không biết thác sinh vào xứ nào?” Quỷ Vương Vô Độc hỏi: “Thân mẫu của Bồ-tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?” Thánh nữ đáp rằng: “Mẹ tôi mê tín tà Đạo, khinh chê Tam bảo. Hoặc có lúc tạm thời nhưng rồi chẳng kính”. Vo Độc lại hỏi: “Thân mẫu của Bồ-tát tên họ là gì?” Thánh nữ đáp: “Thân phụ và thân mẫu tôi đều giòng dỏi Bà-la-môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến, thân mẫu tôi hiệu là Duyệt Đế Lợi”. Quỷ Vương Vô Độc nói: “Thánh giả hãy trở về chớ nên lo buồn quá lắm, tội nữ Duyệt Đế Lợi đã được sinh lên cõi trời các nay ba ngày. Nhân sự hiếu thuận của người con vì mẹ mà thiết cúng tu phước, chẳng chỉ Thân mẫu của Bồ-tát được giải thoát, mà ngày đó các tội nhân đuề được an lạc, đồng được thác sinh về các cõi trời”. Thánh nữ như mộng mơ chợt tỉnh bèn rõ biết, liền đối trước tháp tượng Đức Gián Hoa Định Tự tại Vương Như Lai mà phát lời thệ nguyện rằng: “Nguyện tôi cùng tận đời kiếp ở tương lai nếu có những chúng sinh nhận chịu khổ thì tôi rộng bày các phương tiện khiến họ được giải thoát”. Quỷ vương Vô Độc lúc bấy giờ là Bồ-tát Tài Thủ ngày nay, còn Bà-la-môn nữ là Bồ-tát Đại tạng vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Bồ-tát Địa Tạng được đắp họa ở chùa Pháp tu tại Ích Châu thời Tiền Đường ï Tại chùa Pháp tụ ở Quách hạ, Ích Châu có đắp họa một Tôn tượng Bồ-tát Đại Tạng ngồi cách thằng sàng duổi chân cao khoảng tám, chín tấc. Tôn tượng ấy vốn do Trương Tăng Diêu đắp họa. Đến tháng bảy năm Lân Đức thứ hai (665) thời Tiền Đường có vị Tăng ở trong chùa đồ họa từ Tôn tượng đó được một bản, toả phóng ánh sáng chợt ẩn chợt hiện tợ như vòng vàng, phần nhiều đồng như ánh sáng gốc, và cứ thế lần lược đồ họa lưu xuất và đều toả phóng ánh sáng. Tháng tám năm đó, vua Thái Tông (Lý Thế Dân) ban sắc tìm một bản đưa vào cung để cúng dường. Hiện nay ở khắp trong ngoài thành mọi người đồ họa Tôn tượng ấy mà cúng dường thảy đều toả phóng ánh sáng. Nên biết oai lực của Phật thật chẳng thể lường (Ở nhà riêng có một bản nhưng chẳng riêng dẫn ghi). Cảm ứng của Tôn tượng Địa Tạng khắc trên đầu gậy ở nhà Lưu Thị Lang tại huyện Kim Thủy, Giảm Châu, thời Tiền Đường.(Tân lục). Quan Thị Lang ở huyện Kim Thủy, giản Châu vốn giòng họ Lưu có công việc sang nhà người xóm giềng, giữa đường lượm nhặc được chiếc gậy, thấy trên đầu đều có khắc hình tượng mà không biết là tượng gì, bèn đem về để trong vách nhà, trải qua nhiều năm không nhớ đặt để tại đâu. Về sau cảm mắc bệnh mà qua đời, nơi tim còn ấm nóng nên chưa an táng, qua một ngày hai đêm sau sống lại, Thị Lang rơi lệ hối hận tự trách lỗi quá, vật vả thân mình nơi đất, người nhà hỏi về nguyên do. Thị Lang đáp rằng: “Lúc tôi mới chết có hai minh quan cưỡi ngựa áp đặc trước sau dẫn đến nơi chỗ vua Diêm-ma. vua tỏ vẻ tức giận trừng mắt trông nhìn. khi ấy, có một vị Sa-môn dung mạo xấu xí đến nơi sảnh, vua thấy liền tỏ vẻ cung kính từ chỗ ngồi đứng dậy mà quỳ thẳng thưa cùng Sa-môn ấy rằng: “Đại só có nhân duyên gì mà đến nơi này?”. Vị Sa-môn ấy bảo: “Thị Lang, người bị ông bắt gọi lại là Thí chủ của ta năm xưa trước, nên nay ta muốn cứu đó”. Vua Diêm-ma mói: “Nghiệp đã quyết định, vậy việc này phải làm sao?” Vị Sa-môn ấy bảo: “Xưa kia, nơi cung trời Đao-lợi, ta nhận sự phó thác của Đức Phật Thích-ca Như Lai hay vì cứu vớt những chúng sinh tạo nghiệp đã cố định, há trừ Thị Lang ra sao?”. Vua Diêm-ma nói: “Chí nguyện của Đại só kiên cố không lay động như núi Tu Di, nên tôi phải thả người bày trở lại nhân gain”, Vị Sa-môn ấy hoan hỷ nắm tay tôi dẫn trở về cõi sống. Đến khi từ biệt, tôi hỏi vị Sa-môn “ Không biết ông là người nào mà đến vứu vớt tôi vậy?” Vị Sa-môn ấy bảo: “Ta là Bồ-tát Địa Tạng, lúc bình sinh ngươi đi giữa đường thấy hình tượng ta, ngươi đem về nhà đặt để trong vách tường. Ngươi có nhớ việc ấy chăng?” Nói lời đó rồi, bỗng nhiên ẩn mất. Đã thấy được sự thắng lơi đó, tôi nghó nhớ ngày xưa biến lười, nên tự hối trách mà thôi”. Mọi người nghe thế đều ngợi ca là điều khác lạ, thấy nơi vách có Tôn tượng trên đầu gậy, bèn gia công khắc chạm vẽ họa thành Tôn tượng cao năm tấc toả phóng ánh sáng. Và tôn trí tại trong nhà, xả thế mọi vật làm thành tinh xá đề hiệu là Viện Địa tạng vậy. Cảm ứng của Bồ-tát Địa Tạng cứu nạn ác quỷ ở nhà Trưởng giả Kiều Đề.(Rút từ Địa Tạng Đại Đạo Tâm Khu sách pháp v.v…). Xưa kia, khi đức Như Lai đang còn ở tại núi Linh Thứu. Bấy giờ Bồ-tát Địa Tạng vân du khắp các cõi nước để giáo hóa chúng sinh. Bồ- tát đến nơi nhà Trưởng giả Kiều Đề ở dưới núi Tỳ Phú la, trong nhà Trưởng giả đó bị Quỷ đoạt mất tinh khí, trong nhà có năm trăm voer đều bị mê man đến nổi không hay biết gì, trải qua mười ngày Bồ-tát thấy vậy liền khởi tâm niệm rằng: “Thật là khổ thay! Thật đáng đau xót! ở trong đời có những việc không thể nói như vậy. Ta nay thương xót những chúng sinh này, nên vì cứu giúp”. Nghó nói như vậy rồi, Bồ-tát liền bay bỗng thân hình sang núi Linh thứu, bạch cùng Đức Phật rằng: “Con thấy nhà ông Trưởng giả Kiều Đề có hơn năm trăm người đều bị ác quỷ đoạt mất tinh khí, mê man nơi đất đã trải qua vài ngày. Thấy vậy, con sinh tâm xót thương sinh tâm muốn cứu hộ, cúi xin Đức Thế Tôn hứa khả cho con thiết bày phương pháp cứu giúp đó. Khiến ác quỷ hàng phục nơi người, khiến các hành giả đều tuỳ ý sai sử, và khiến Trưởng giả trờ lại như xưa cũ”. Bấy giờ Đức Thế Tôn từ trên đảnh đầu toả phóng ánh sáng soi chiếu đến thân hình Bồ-tát Địa Tạng. Khi đó, trong chúng hội, mỗi mỗi người cùng nói với nhau rằng: “Ngày nay đức Như Lai toả phóng ánh sáng soi chiếu thân Bồ-tát. Bồ-tát ấy tự nhiên thành Đại Pháp giáo hóa chúng sinh”. Khi ấy Bồ-tát Địa Tạng bạch cùng Đức Phật rằng: “bạch Đức Thế Tôn, nay con có một thần chú hay khiến dứt mất tà tâm, lại sai sử các quỷ v.v… ở trong thời quá khứ đã trải qua vô lượng vô số kiếp lâu xa. Bấy giờ có Đức Phật hiệu là Thiên Quang Vương. Sau khi Đức Phật đó diệt độ ở trong thời Tượng Pháp, con đang là kẻ phàm phu, có một Tiên nhân ở núi Câu đặc La khéo hành các Đạo thuật. Con thấy các chúng sinh bị Quỷ não hại như nhà ông Trưởng giả hiện nay vậy. Khi ấy con phát thệ nguyện: “Nếu gặp được bậc Thiện Tri Thức, con sẽ cầu học phương pháp để nhiếp phục”. Nghó nói vậy rồi, con liền sang núi Câu Đặc La nói cùng Tiên nhân ấy. Tiên nhân ấy thấy con mà sinh tâm hoan hỷ. Con bèn học hỏi phương pháp ở Tiên nhân ấy khiến con được mở rõ, dự biết muôn lý dứt trừ ác nghiệp. Và, các ác quỷ đều phục tâm mình. con khiến họ phát Đạo tâm, chỉ trong khoảnh khắc tất cả chúng sinh nhận chịu khổ nơi chốn Địa ngục mỗi mỗi đều ngồi trên hoa sen, các khổ đều dứt. bấy giờ Tiên nhân ấy thấy con có được thần lực như vậy, bèn vì thọ ký mà nói rằng: “Ông ở nơi vô lượng vô số thế giới được chư Phật cùng thọ ký cho ông tên là Địa Tạng. Và ở trong đời ác năm trược, các hàng người trời bị sa đoạ nơi Địa ngục, ông phải thường nên hóa hiện thân hình mà cứu độ chúng sinh khiến được ra khỏi khổ nạn, như nguyên bảnkhông khác”. Nay con sang nhà ông Trưởng giả đó để vì cứu độ, mong Đức Thế Tôn hứa thuận cho con”. Và Bồ-tát liền sang chuyển hóa hơn năm trăm người đó đồng một lúc sống lại tỉnh táo như cũ. Cảm ứng của vua nước Di Đề đắp họa năm Tôn tượng Đại Lực mà thoát khỏi bệnh quỷ.(Tân lục). Có vị Pháp sư người Thiên Trúc kể rằng: “Sau khi Đức Phật diệt độ trong khoảng thời ba một ngàn trăm năm, tại nước Di Đề có trăm ác quỷ vào nhiểu loạn, tật bệnh hoành hành, dân chúng thống khổ chết non lắm nhiều. vua tôi đại chúng cùng bàn tính với nhau rằng: “Xưa kia, Đức Pháp Vương vô thượng giao phó năm vị Bồ-tát đại lực bão hộ gìn giữ cõi nước của chúng ta, nhưng vì chúng ta vận trước không có thể mắn, trên thì huỷ họa sự dạy bảo của đấng pháp Vương, dưới thì náo loạn vận báu của nước nhà, tiến thì nhục nhã với Tiên Vương, lùi thì xem thường vua sau, vậy làm sao để trừ yêu quái mới khỏi tai họa”. Bấy giờ có vị Quan có trí tuệ tâu cùng vua rằng: “Phải nên đắp họa Tôn tượng năm vị Bồ-tát đại lực, thiết lập trai hội Nhân Vương, kéo dài vận báu của nước nhà dứt trừ tai họa trong dân chúng”. Liền ngay ngày mồng tám tháng giêng, vua ban sắc dân chúng trong nước khiến đắp họa Tôn tượng năm vị Bồ-tát Đại lực, vua tôi dành các thứ bông tơ mịn đẹp nhất để đắp họa. Đến đầu đâm vẽ màu mới khắp, Bồ-tát Kim- Cang-ba-la-mật-Đa toả phóng ánh sáng năm sắc, Bồ-tát Kim Cang Bảo toả phóng ánh sáng xanh, Bồ-tát Kim Cang Dược xoa toả phóng ánh sáng sắc màu lưu ly, Bồ-tát Kim Cang Lợi toả phóng ánh sáng sắc màu vàng ròng, tự nhiên soi chiếu khắp trong cõi nước như giữa ban ngày. vua tôi vui mừng, những người gặp được ánh sáng đó thân tâm an lạc. Các thần ác quỷ thấy ánh sáng đó liền ra khỏi cõi nước. Nếu người đã vào cửa chết bèn được sống lại, nếu người đang lúc mắc bệnh thì tiêu trừ an ổn. Đồng trong một lúc khắp cả cõi nước đều được an ổn, mọi người thâm tâm khoái lạc như vào thiền Định, đến canh ba các Tôn tượng mới thâu ẩn ánh sáng. Từ đó trở về sau, khắp trong cõi nước khỏi hẳn trăm thứ bệnh tật. Mỗi năm theo lệ thường cứ đến ngày mồng tám tháng giêng, thiết lập trai hội Nhân Vương cúng dường Tôn tượng năm Bồ-tát đại lực. Gần bao năm trở lại nay liên tục không ngưng dứt. Cảm ứng của Tôn tượng Bồ-tát Diệt Aùc Thú do Sa-môn Thích Pháp An ở chùa Pháp tụ tu tạo.(Tân lục). Sa-môn Thích Pháp An ở chùa Pháp tụ, hành trí phán sám Phương dẳng, trải qua nhiều ngày chuyên tu mà không ứng nghiệm gì, bèn đến trước Tôn tượng than khóc tự trách, mộng thấy có một vị Thần đội mũ khác lạ đến bảo cùng ngài rằng: “Ông có tội nặng, sám hối không thể kịp”. Ngài hỏi: “Tôi có những tội gì nặng?”. Thần bảo: “Ông phạm dùng vật của Tăng thường trú, tội đó khó diệt”. Ngài hỏi: “Vậy có pháp phương gì để diệt tội ấy chăng?” Thần bảo: “Ông nên đắp họa Tôn tượng Bồ-tát diệt ác thú, chuyên tụng Kinh Tuỳ Cầu Minh, tội sẽ dần tiêu diệt, hành trì pháp sám hối phương đẳng, tội chứng tiêu trừ có thể được hóa thân”. Sau khi tình giấc mộng, ngài buồn cảm rơi lệ, liền đắp họa Tôn tượng Bồ-tát diệt ác thú, chuyên tu sám hối. Mỗi lúc nhắm mắt liền được thấy hóa phương đến năm sáu mươi bảy tuổi ngài mới tịch. Lúc ngài tịch có điềm lành kỳ lạ lắm nhiều vậy. Cảm ứng của Tôn tượng Dược Vương, Dược Thượng do Sa- môn Thích Diệu Vận ở chùa Tổng nhân tại Đại Châu tu tạo.(Tân lục). Sa-môn thích Diệu Vận ở chùa Tổng nhân chuyên trì tụng Kinh Pháp Hoa, thường cầu nguyện sinh lên cung trời Đâu-suất, để phụng thờ đức Bồ-tát Di Lặc. lại đắp họa Tôn tượng hai vị Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng, cầu nguyện được cảm ứng. Đến năm ngoài bảy mươi tuổi, ngài cảm phát chút bệnh, bèn nói cùng với vị Sa-môn bạn thân rằng: “Có hóa Phật đến nghinh đón mà bảo là ông đắp họa Tôn tượng hai vị Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng. Nếu có người biết được danh tự của hai vị Bồ-tát đó thì tất cả trời người cùng nên lễ bái, không bao lâu hẳn dẽ sinh vào Đâu-suất nội viện, phụng sự Bồ-tát Từ Thị vậy”. Sau đó không lâu, ngài bèn thị tịch. Cảm ứng của Bồ-tát Đà La Ni tự tại Vương vào trong Địa ngục men trên vạc sôi mà giảng pháp.(Tân lục). Trong thời Tiền Đường, có Sa-môn Thích Huệ Sinh là đệ tử của Thiền sư Hụê Như ở chùa Chân Tịch, ngài chuey6n trì tụng các Kinh Đại thừa. Bỗng suốt một ngày một đêm thân mình ngài không lay động như vào cảnh Thiền định. Đến lúc mờ sáng, ngài mở mắt, buồn vui lẫn lộn rơi lệ rướm máu. Nhân chư Tăng hỏi về nguyên do. Ngài đáp rằng: “Tôn giả bị dẫn đến cung vua Diêm-ma, vua từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính hỏi rằng: “Đại sư có thấy Địa ngục chăng?” Tôi đáp: “Tuy đã từng nghe tên, song, chưa thật thấy.”.vua bèn sai kẻ sứ dẫn tôi đi, từ phía đông lần lượt mà đi, thấy có ba mươi hai thành lớn, trong mỗi mỗi thành đều có Địa ngục, người nhận chịu tội khổ phần nhiều là hàng Sa-môn. Men theo trên vạc sắt sôi có một vị Sa-môn giảng pháp chỉ bày giáo hóa lợi mừng. Các tội nhân hỏi: “Ông là ai mà vào trong Địa ngục giảng pháp?” Vị Sa-môn ấy bảo: “Ta là Bồ-tát Đà La Ni Tự Tại Vương, trong đại Thiết vi này có vô lượng Sa-môn bị đoạ vào Địa ngục, bởi tham trước danh lợi Thế gian, huỷ phạm giới phẩm Phật chế, đồng sống trong Thành giáo mà làm dơ bẩn chốn già Lam, không tâm hổ thẹn, luống nhanä thọ của tín thí, nói Pháp bất tịnh, dối hoặc thế gian, tạo những tội như thế đều cảm quả báo nơi Địa ngục. Ta vì thương xót các Sa-môn ngu si nhận chịu tội khổ vậy, nên hoặc men theo trên vạc sắt sôi hoặc ở trên xe sắt, tuỳ khổ mà vì giảng pháp, khiến họ nhớ nghó đến nghiệp phạm tội xưa trước mà tự hổ thẹn cải hối, ăn năng tự trách”. Tôi tự thấy nghe việc ấy cho nên vừa buồn vừa mừng”. Mọi người nghe đều ngợi khen khác lạ, bỏ ác lắm nhiều. Cảm ứng của thầy trò Tôn giả Mã Minh Long Thọ.(Rút từ Bản nghiệp nhân duyên luận). Xưa kia, trong thời Đức Phật Ca Diếp, có một Trưởng giả tên là Luân Tú và có một người nữ tên là Thù Tha. Hai người ấy mỗi mỗi đều đem bảy báu dâng cúng Đức Phật Ca Diếp, thỉnh cầu xứng ân. Khi đó Đức Thế Tôn bảo hai người rằng: “Nên mau trở về chỗ ở của mình, mọi sự cầu mong của các người trong vòng mười bảy ngày, đã qua thời gian ấy hẳn sẽ mãn nguyện. Khi ấy, hai người đầu thành đảnh lễ Đức Phật rồi trở về nhà mình, đến ngày thứ mười bảy, đang lúc trong mộng, người nữ Thù Tha ấy mộng thấy điềm tốt lành, rất lấy làm hoan hỷ, không thể thí dụ, đó là thứ nhất mộng thấy ánh sáng nhật luôn soi chiếu đến trong bụng, thứ hai là thấy vòng ánh sáng như trăng tròn đầy soi chiếu vào trong bụng. Được điềm lành ấy rồi, qua sau chín tháng, Thù Tha sinh nở được hai người con, người anh tên là Nhật Châu, người em tên là Nguyệt Cảnh, vì theo tướng trước nên đặt tên tự như vậy. Chỉ mới bảy ngày cả hai anh em bèn đều xuất gia đồng đến ở chùa Đức Phật Ca Diếp, theo Phật Thế Tôn tu hành pháp hạnh, thường phát thệ nguyện rằng: “Đời đời kiếp kiếp bất cứ sinh ở nơi nào cũng chẳng xa nhau, đồng học trì thức, hổ tương cùng làm thầy trò cho nhau, kiến lập chánh Pháp, đầy đủ diệu hạnh. Nghó nhớ đồng một biểu giác”. Nhật Châu xưa đó là Bồ-tát Mã Minh đời nay vậy. Vì sự duyên ấy nên hai vị Bồ-tát ấy chẳng hề lìa nhau, cũng đồng lưu chuyến xuất hiện tích làm lợi ích chúng sinh vậy. Lại nữa, trong Kinh Kim Cang Chánh Trí nói: “Bồ-tát Mã Minh ở thời quá khứ thành Phật hiệu là Đại Quang Minh, còn Long Thọ hiệu là Phật Diệu Vân Tướng. và trong Kinh Đại Trang nghiêm Tam muội cũng nói: Bồ-tát Mã Minh ở thời quá khứ thành Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tinh Minh. Còn Bồ-tát Long Thọ tên là Diệu Vân tự tại Vương Như Lai v.v… Cảm ứng của Thiền sư Thích Đạo Thuyên tu tạo Tôn tượng Tôn giả Long Thọ mà được sinh về cõi Tịnh độ.(Rút từ Tịnh độ truyện). Sa-môn Thích Thuyên, không biết là người xứ nào. Thủa thiếu thời, ngài là bậc nghóa học rất nổi danh, chuyên lấy luận Đại Trí Độ làm tâm yếu, tôn xưng Bồ-tát Long Thọ là bậc sư Tông. Ngài phát nguyện rằng: “Đại só Long Thọ được Phật dự ghi với lời thành thật là đã chứng đắc quả vị Hoan hỷ Địa, sinh nước An Lạc giúp Phật A Di Đà giáo hóa dẫn nhiếp chúng sinh ở mười phương, xin nguyện Đại só rũ lòng thương xót cho con được sinh về cõi nước ấy”. Ngài lại tạo hình Tôn tượng Bồ-tát Long Thọ cao ba thước, dùng các thứ hương hoa mà cúng dường, chuyện tâm cầu nguyện. Ngài cảm mộng thấy có một vị Sa-môn đến bảo rằng: “Ông thành tựu hạnh nghiệp Tịnh độ nhất định ni. nghi, ba năm sau mới vãng sinh về cõi nước An Lạc”. Ngài thưa rằng: “Con còn có thầy bạn, đâu thể xả bỏ mạng trước, việc ấy phải thế nào?”. Vị Sa- môn ấy bảo: “Ta phải bạch cùng Đức Phật A Di Đà rồi sẽ trở lại báo cho biết thật sự”. Sau khi tỉnh mộng ngài càng cầu thỉnh cho chính bản thân mình cùng với thầy bạn đồng bỏ xả Thọ mạng trước sau chỉ trong vòng ba ngày. Lại mộng thấy vị Sa-môn trước đến bảo ngài rằng:”Ta đem lời ông nói bạch cùng do A Di Đà, Phật dạy: Thầy của ông mười hai năm sau sẽ tịch, ông mười bảy năm mới qua đời, thân mẫu ông hai mươi năm nữa mới qua đời, nhưng vì tâm nguyện của ông vi diệu nên kéo dài thêm ba năm thành hai mươi năm nữa ông mới qua qua đời, và đến năm thứ hai mươi ba ông mới sinh về nước ấy. Phật dạy như thế”. Ngài lại hỏi: “Song thân và thầy bạn của tôi có được sinh về cõi trời Tịnh độ chăng?”. Vị Sa-môn ấy đáp: “Đồng tâm phát nguyện, hẳn được vãng sinh không phải nghi ngờ”. Ngài mừng vui lại hỏi: “Ông là người nào?” Vị Sa-môn ấy đáp: “Ta là Long Thọ, trong Phú Pháp Tạng là người thứ mười ba. Do vì ộng tạo hình tượng ta nên ta đến báo cho ông cùng biết đó.” Sau đó hai mươi ba năm, vào ngày mươi lăm tháng giêng, ngài thị tịch. Song thân và thầy bạn của ngài đều đồng như Phật dự ghi rõ biết, đồng sinh về Tịnh độ. Lúc ngài tịch, mây tía nhăng phủ khắp cùng, âm nhạc vang vọng giữa không trung, các điềm kỳ đặc chẳng chỉ có một. Mọi sự thấy nghe đều thật vậy. Cảm ứng của Sa-môn Thích Huệ Hải ở Truy Châu họa vẽ Tôn tượng Tôn giả Vô Trước và Thế Thân mà được người trời nghinh đến đón.(Tân lục). Sa-môn Thích Huệ Hải là người thấu suốt cội nguồn tông Pháp tướng, rành rẽ chư Phật pháp, tự họa vẽ Tôn tượng hai Tôn giả Vô Trước và Thế Thân, nghó suy kính mộ sự giải thích sâu mầu. Đối với Nhiếp Luận Duy Thức ngài thường tìm cầu quyết trạch u áo. Cảm mộng thấy hai Đồng tử đến bảo ngài rằng: “Ông sẽ sinh lên cung trời Đâu- suất, ông họa vẽ Tôn tượng hai Tôn giả Vô Trước và Thế Thân hiện ở trên cõi trời ấy làm thị giả Bồ-tát Từ Thị”. Ngài nói: “tôi chưa vui thích xả bỏ Thọ mạng, muốn tạm ở tại nhân gian mà duy trì Di giáo”. Đồng tử cr ấy bảo: “Ông theo tôi tạm lên cung trời Đâu-suất để quyết trạch điều nghi”. Ngài liền theo hai đồng tử ấy lên cung trời Đâu-suất, thấy có bốn mươi chín lớp Điện Ma Ni, những người mặc áo xanh ở trong đó đông nhiều. Ngài vào Nội viện, thấy Bồ-tát Từ Thị và hai Tôn giả Vô Trước và Thế Thân đều mặc y phục thế tục mà bảo ngài rằng: “Ngươi không lễ bái ta, tại gia xuất gia có tôn ty chẳng đồng. Ông nên hỏi về những điều ông nghi”. Ngài bèn trình bày những điều nghi ngờ. Bồ-tát Từ Thị bảo hai Thị giả vì giải thích cho ngài được thông hiểu. Sau đó ngài lại theo Đồng tử cõi trời trở lại nơi nhân gian, rộng hoằng dương Phật pháp, nhưng giữ kín việc đó, chẳng nói với mọi người. Sau khi ngài thị tịch, thấy có ghi chú trong Di thư, nên nay ghi lại lưu truyền thấy nghe đó. Ngoài ra những sự cảm ứng từ Tam bảo thật có lắm nhiều không thể ghi thuật đầy đủ, nay đây chỉ lược ghi năm ba truyện để tỏ bày kính tin triệt để mà phát thọ nguyện. Thử tóm lược với lời kệ rằng: “Đã theo Tập lục và khẩu truyền Lược ghi Tam bảo cảm ứng lục Đến kẻ thất nghe, khen hoặc che Đều được lợi ích thoát sinh tử. Trong thời Mạt pháp của Thế Tôn Người nghe Tam bảo sinh chút tin Tội chướng ba đời đều tiêu trừ Tương lai hẳn thấy các Thánh chúng, Nguyện ghi cảm ứng các công đức Hồi hướng chúng sinh khắp Pháp giới Khiến được ưu thắng thêm phước tuệ Đồng chứng Đạo Quả Đại Bồ-đề”. TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC. QUYỂN HẠ (HẾT) TRỌN BỘ  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 190