<經 id="n2083">SỰ TỰ XÉT GHI TRONG NHÀ PHẬT (QUYỂN THƯỢNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỰ TỰ XÉT GHI TRONG NHÀ PHẬT Sa-môn Thích Hoài Tín ở Lam Cốc ghi thuật. <詞>LỜI TỰA Năm 9 tuổi, tôi xuất gia, nay đây đã ngoài 60.Đến ở nhà rộng Tiêu Dao, ngoảy bước phương âm, hình thể an khương mềm mại, thân sống nhàn dật. Ánh tinh thể chưa ló dạng, cổ bàn tinh khiết 10 lợi đã bày, vầng nhật vừa giữa ngày, thức ăn quý lạ 3 đức hợp đủ, chẳng biết sự khốn khó do cấy cày mà có được, không hay sự lao nhọc bởi nấu đem rồi đảnh mà nên. Thân cao 6 thước, toàn mạng trăm năm. Ai người đạt đến cùng ấy ư? Ấy là nguyện lực của Đức bản Sư chúng ta vậy! Tôi thử ước tính trong vòng 50 năm, sớm trưa ăn uống, hao phí hơn 300 thạc, nóng lạnh áo thuốc tổn phí hơn 20 vạn vậy. Kia cửa cao hiên sâu, thềm biếc cột son, xe cưỡi tôi hầu các thứ, ghế bàn giường nệm các loại, tổn phí lại không ngằn mé đó. Hoặc lại vô minh đen tối dấy khởi, tà kiến phát sinh, bỏ dùng phi pháp, ăn uống trái thời, những tổn phí ấy lại khó lường biết được. Mọi thứ như thế đều có ra từ sức lực kẻ khác, giúp thành cho ta dùng. Cùng với người nông phu miệt mài công việc đâu được quanh năm mà sánh ví khổ vui ư? Vậy đủ viết giáo nghóa của đức Đại từ đạt đến thế, sức lực của đức đại bi sâu như vậy. Huống hồ Đức Như Lai 10 hiệu điều ngự và chúng ta là con mà che chở đó, 8 bộ trời rồng vì ta là thầy mà phụng cung đó. vua chúa tuy quý, song không dám lấy lễ đối đãi bề tôi mà nuôi dưỡng ta, vậy thì điều quý ấy có thể biết, cha mẹ tuy sâu nặng, nhưng không dám nghóa cử đối đãi với con mà trông nhìn ta, vậy đủ biết sự tôn trọng ấy. Nếu như dằng dặc khắp 4 hạng người, mang mác cùng cả 9 xứ, nhà ai chẳng phải là kho tích trử của ta, người nào chẳng phải là con em của ta. Do đó, mang bát vào nhà, bữa cơm ngậm bít sâu mở, chống tích lên đường, dung nghi buôn mạng mà chỉnh túc cung kính. Người xưa đem 1 bữa ăn mà ban cho còn hay dốc sức, dùng 1 lời mà đoái hoài còn hoặc mất thân. Huống gì chúng ta từ đảnh đầu cho đến gót chân đều do Đức Như Lai nuôi dưỡng, từ sống đến chết đều nương nhờ bóng mát của Đức Như Lai ư? Giả sử như chẳng gặp được Phật pháp, chẳng được dự phần xuất gia, thì theo nghề nghiệp sớm tối xâm phạm giữa gió sương, sáng chiều chăm chỉ nơi đồi ruộng, rong ruổi muôn mối, bức bách ngàn mưa, áo thô tơ bụi hoặc chẳng đủ mà che hình, dưa đậu rau lá ăn ngon hoặc chẳng thể được đầy mồm. Sao rảnh nhìn ngang điện rồng, roi trượng ở nhân đình, mở giày thanh đàm, vạch áo đùa vui, trốn lánh nóng lạnh lựa chọn ngọt cay, mắng quở trẻ nhỏ, nêu đòi bưng cấp, phỏng ý ngựa đến hại cả đàn, mặc tình khỉ bay nhảy cây, chỉ bởi ba chướng mây cao, 10 triền thắc buộc, nghó phỏng ái loạn tâm, cuồng ngu hoạn não, tự hối tự trách chỉ qua nháy mắt mà đã đổi dời. Buồn thương đó, tủi hận đó, qua 10 ngày nửa tháng mà bỗng nhiên biến cải. Hoặc lại lên Phật đường mà chí thành kính lễ, xấu hổ với Tôn nghi mà mưa khóc. Đối cảm cách mở bày văn, hổ cùng Thánh giáo mà rơi lệ, hoặc vận mặc áo quần tả tơi ăn nuốt cây cỏ, khốn nhục mà sửa trị đó, mất của cải, bỏ bạn bè. Một mình khốn cùng mà chịu khổ đó, trọn chẳng thể khuất trừ núi mạn, lắng trong lửa dục, xả bỏ thanh sắc thô tệ, miễn khỏi trách sâu vạc sôi. Há chẳng đau xót thay! Há chẳng đau xót thay! Do đó mà thường buồn thảm thường khóc thương, chua cay chẳng cùng cực, không gian ẩn giấu, đất dày ẩn giấu, vô phương mà cứu tiếp. Tôi thường trở lại tìm xét ngay tự mình, hình dung tai mắt đâu giảm bớt so với người thường, thức ngộ thân tình sâm sai so với danh bối. Bởi phước gì mà được sinh ngay giữa chốn văn hóa? Bởi căn lành gì mà được dự phân xuất gia? Bởi tội chướng gì mà giới kiểm lắm trái phạm? Bởi hứa gì mà cứng cỏi khó chuyển hóa? Do đó, quanh co giữa ngày, đứng than trong đêm, chẳng biết phương thức gì để cứu đó, chẳng rõ pháp thuật gì để đổi thay đó! Nhưng từ bé nhỏ, có được dạy răn ở sân nhà, sớm đượm nhuần Thích giáo. Lại nghe di ngôn của các bậc Trưởng giả, từng tham yết cao luận của Danh tăng. Kẻ só Tam Tư gá dây đàn da thuột dùng làm vốn, khắc cửu Triết đợi minh châu mà làm lời dạy răn. Nên mới tìm rõ nhiều đời, bày xem các thiên, gặt hái từ hàng hạ lưu đồng bệnh, phỏng hỏi khách thôn dã bến mê. Trong đó như có khi miệt <節>SỐ 2083 - MINH BÁO KÝ, Quyển Hạ 77 <大>卐 Thánh ngôn, xem thường nghiệp lụy, phóng túng không xấu hổ, ngu đần chẳng kiểm xét. Có thể bị trừng trị khuyên răn đều nhóm tập mà ghi chép lại đó, bèn chọn làm 10 khoa, phân thành 3 quyển ( 2 quyển?) để sớm tối đọc xem, ngõ hầu bổ ích trong muôn một. Như là ngồi thành quả báo làm rồng, đứng nghiệm thành thân rắn, trâu khóc mà lên sườn núi, lạc đà kêu gào mà nhiễu quanh chùa. Hoặc bị roi gậy đánh đến, khắp thân thể đều lửa đốt cháy, hoặc bị giáo mác qua lại, tức thời máu đổ, hoặc lưỡi tiêu tan, mày my rơi rụng, hoặc mất tâm tánh phát cuồng, hoặc ân cần đói khát mà làm kẻ tôi đòi, hoặc xâm lấn bó củi mà bị đốt chân, hoặc nương tựa thần vườn cây mà cắt thịt báo đáp ân thí chủ, gá vết cánh cửa vườn, biến cất nhận chịu sự trách phạt phỉ báng người. Xưa chẳng thấy mà nay được thấy, trước không biết mà nay mới biết, kêu trời đập đất chẳng vì truy tìm, phá gan rạch mật chẳng phải chỗ kịp. Đang lúc đó, cha mẹ trăm thân mà không chuộc nỗi, khách thân vang danh bốn xứ mà chẳng cứu, của cải tặng đưa giao phó tích chứa mà bày không, chung quanh vỗ ngực mà đâu bổ ích. Xưa trước vui chơi mỹ lạc làm sao còn ư? Ngày xưa bè bạn thân thuộc sao cậy ư? Than ôi! Sáng sớm là bậc Thạnh đức xướng dứt nơi hiên dài, chiều tối làm kẻ chết non buồn khóc nơi phòng vắng chẳng phải người ấy riêng có! Nghó đến thân phận tôi chừ hoặc đương đầu, hoặc giả trăm năm sau 1 lần gặp, xin sẽ hổ thẹn sám hối chừ ương gì, có thể chẳng xót thương ư? Có thể không lo sợ ư? Nên biên cả đuôi đầu đó, đủ đầy phải trái, đứng đợi gắng răn của thư thân, xin mong công của chiến thắng, trong đây hoặc có nhã cao của bậc danh hiền hiền, khác vết của hàng triết nhân, nhơ bẩn ùn đầy của hóa đạo, che giấu chăng của thời sự cũng phụ mà ghi chép đó để gởi cùng mọi người thông biết. Người xưa có nói rằng: “Bóng hình trăm năm năm chết, tâm thức ngàn năm còn”. Thật mong, sau ngàn năm biết được tâm thức tôi còn vậy!  SỰ TỰ XÉT GHI TRONG NHÀ PHẬT <卷>QUYỂN THƯỢNG MỤC LỤC Quyển Thượng Ghi về nghiệp buộc dài lâu. Ghi về bột nghịch xiển đề. Ghi về khinh hủy giáo pháp. Ghi về ghen hiền ghét hóa. Ghi về sân hận tham hèn. Ghi về học thế tục không bổ ích. Ghi về biếng lười khinh mạn chẳng siêng năng. Quyển Hạ: Ghi về hại vật thương tổn Đức từ Ghi về uống ăn trái pháp. Ghi về keo kiệt bớt xen vật của chúng Tăng. Trong 10 khoa mục trên, gồm cả thảy 73 điều (có 2 chương nhã cáo, sự tích có 71 người, phụ có 14 người. ---------------------------- chó. GHI VỀ NGHIỆP BUỘC DÀI LÂU Thánh giả Đạt-ma-mật-đa ở Tây Vức đã 500 kiếp làm thân Sau khi Đức Phật diệt, trong núi Kế Tân có 1 Thánh Tỷ-khưu tên là Đạt-ma-mật-đa là bậc tài tuệ siêu tuyệt, tọa thiền đệ nhất. Tại chỗ Thánh giả ở có 3 lớp hang. Bấy giờ có 2 vị Tăng xa nghe danh tiếng ưu thắng của Thánh giả nên sang lễ bái. Thấy Thánh giả mặc y phục thô xấu, nhơ nháy lộ bày đang ở trước bếp dưới hang vì muốn điều phục thân tâm nên làm vị Tăng đốt lửa. Khi đó, 2 vị Tăng ấy hỏi rằng: “Trưởng lão Đạt-ma-mật-đa đang ở tại nơi nào”. Thánh giả đáp: “Đang ở trong phòng trên lớp hang cao tột cùng”. 2 vị Tăng ấy bèn sang tìm. Thánh giả dùng sức thân túc bỗng chốc trở về lại phòng cũ, 2 vị Tăng ấy đã trông thấy nên đều sinh nghi ngờ quái lạ, hỏi rằng: “Đại Đúc là bậc Thánh nhân oai danh vang khắp chốn Diêm Phù Đề. Cớ sao tự chịu làm vị Tăng đốt lửa?” Thánh giả bảo: “Nay ông nên biết, tôi nghó nhớ sinh tử chịu khổ lâu dài, giả sử như đầu tay có thể được đốt cháy, tôi sẽ vì chưa Tăng mà đốt đó. Xưa trước trang 500 đời, Tôi thường làm thân chó đói khát khốn cùng, tuy trải qua lắm thân hình mà chỉ được 2 lần ăn no đủ. Một lần nọ có người uống rượu say bên vệ đường ói mửa, Tôi đi ngang qua gặp thấy bèn được ăn một bữa no nê, và 1 đời nọ, tôi làm thân chó ở trong nhà người nghèo khổ, 2 vợ chồng nấu 1 nồi cháo đầy, có duyên sự nên tạm đi vắng, tôi vì quá đói nên đưa đầu vào trong nồi cháo mà ăn, khi đã được no, kéo đầu không ra khỏi, có người lại thấy vậy, tức giận nổi lên bèn nắm dao sắc bén mà chặt đứt đầu tôi. Tôi tự nhớ nghó 500 đời chịu làm thân chó, tuy gặp được 2 lần no đủ mà lại bị mất thân mạng, cho nên suy tư sinh tử dài lâu xoay chuyển trong năm đường không nơi nào chẳng nhận chịu khổ. Nên nay tôi chẳng sợ lao nhọc, đâu chối từ vì chư Tăng mà đốt lửa vậy!” Thánh giả Xà-dạ-đa ở Tây Vức thấy quỷ và quả than khổ tử dài lâu (rút từ Phú Pháp truyện). Xưa kia, có vị Thánh giả hoằng truyền giáo pháp tên là Xà-dạ-đa dẫn các đệ tử vào thành, vừa đến nơi cửa bỗng nhiên buồn thảm không vui. Sau đó lại đi tiếp, trên đường thấy 1 con chim quả, bỗng nhiên Thánh giả mỉm cười. Các đệ tử lấy làm quái lạ, hỏi Thánh giả nhân đó mà trả lời rằng: “Mới đầu nơi dưới cửa thành, thấy con Quỷ đói khát, nó quá đói khốn cùng suy yếu, từ nói rằng: “Từ khi mẹ tôi sinh tôi trở lại nay, đi vào thành tìm kiếm thức ăn, từ khi cách biệt đến nay đã trải qua 500 năm, Tôi đói khát trong lòng trống rỗng khốn cùng, mạng sống chắc chẳng được kéo dài lâu”. Đến khi gặp thấy Quỉ mẹ, tôi nói lại ý của Quỷ con, Quỷ mẹ nói rằng: “Tôi từ giả nó vào thành trải qua thời gian lâu dài tìm kiếm thức ăn không có được, giả sử như có được chút ít đàm giải thì bị các Quỷ lớn mạnh cướp đoạt mất. Mới ngày hôm nay, vừa gặp 1 người khạc nhổ, bên cạnh không có Quỷ nào khác, Tôi muốn đem về cho con, nhưng nơi dưới cửa thành có lắm Quỷ thần, sợ bị cướp đoạt mất nên không dám đem ra. Nguyện xin Tôn giả rủ lòng từ bi dẫn cho tôi ra cửa thành”. Sau khi Quỷ mẹ mang các thứ đàm giải cho Quỷ con cùng ăn rồi, Tôi lại hỏi rằng: “Từ lúc mới sinh trở lại, thời gian trải qua đã bao lâu?” Quỷ mẹ đáp rằng: “Tôi thấy thành này đã 7 lần xây dựng và 7 lần hư hoại!” Tôi nghe lời nói ấy vô cùng khiếp sợ sinh tử thật không ngằn mé nên nhăn mày sụ mặt buồn thảm chẳng vui. Lại ở trong thời quá khứ đã qua 91 kiếp. Lúc bấy giờ, Tôi làm con của 1 vị Trưởng giả, chí nguyện tôi nhàm chán thế tục muốn được xuất gia. Nếu như tôi được xuất gia thì hẳn đã dứt đoạn các kết sử thành A-la-hán, chỉ vì song thân tôi chẳng chấp thuận theo chí nguyện tôi, cưỡng ép tôi lấy vợ mong cầu có con cái để nối dõi tông đường. Thế rồi, không được thoát khỏi, tôi lấy vợ sinh con. Sau đó, tôi lại mong cầu xuất gia, khi ấy con tôi vừa 6 tuổi. Song thân tôi dạy bảo con tôi rằng: “Cha của con muốn giả từ ông bà mà xuất gia, con nên ôm lấy chân cha con mà nói: “Nếu cha bỏ con mà đi thì ai sẽ nuôi sống con, nên trước tiên cha hãy giết chết con sau đó rồi đi!”. Tôi thấy con ôm chầm lấy chân và nói thế, bèn sinh luyến ái, nên bảo cùng con rằng: “Cha nay vì con mà không xuất gia nữa!” Do vì đứa con nên chẳng chứng Đạo quả. Qua 91 kiếp lưu chuyển trong 5 đường, vì thân sinh tử nên chưa từng cùng gặp đứa con ấy. Nay dùng Đạo nhãn thấy nó sinh trong loài chim quạ, xót thương cho con trẻ ngu muội, do đó nên cười vậy!”. Thánh giả Bích Chi Phật Ly Việt ở Tây Vức từng phỉ báng người, trộm cướp trâu nên bị quả báo. Xưa kia, tại phía Tây thành của nước Nguyệt Thị ( Chi) có 1 núi lớn, đó là chỗ ở của Thánh giả Ly Việt. Mảnh thượng cách đó không xa, có 1 người mất trâu, tìm đến nơi núi ấy, khi ấy gặp lúc Thánh giả đang đốt lửa xông y phục, bởi do nghiệp lực xưa trước nên bình bát bỗng nhiên biến thành đầu trâu, pháp y biến thành da trâu, nước nhuộm y biến thành máu huyết, cặn bả nước nhuộm biến thành thịt trâu và củi đốt biến thành cốt xương trâu, vết tích chứng cứ đã rõ ràng như thế nên Thánh giả bị người chủ mất trâu bắt đưa giam vào trong tù ngục, các đệ tử tìm kiếm chẳng biết Thánh giả ở đâu từ đó dần dà trải qua 12 năm, sau gặp nhân duyên mới biết là Thánh giả đang ở trong ngục, các đệ tử bèn đến tấu trình vua rằng: “Thầy của chúng tôi đang bị giam ở trong tù ngục, xin vua nên ân xá phóng thích!” vua hỏi vị cai quản ngục có vị Tăng nào chăng? Vị cai ngục đáp “không có vị Tăng nào cả!” Các đệ tử thưa cùng vua rằng: “Xin vua kêu gọi vị Sa-môn trong ngục ra thì Thầy tôi sẽ ra vậy” vị cai ngục tìm kêu gọi: “Bích Chi Phật hãy ra”. Vì Thánh giả ở trong ngục thời gian đã lâu dài, nên tóc ra dài, pháp y hư hoại, hình tướng Sa-môn đều biến mất. Các đệ tử liền đảnh lễ mà hỏi rằng: “Cớ sao Thầy bị giam ở trong này?” Khi đó Thánh giả đem sự việc trên mà trả lời. Các đệ tử lại hỏi: “Do đời trước thầy tạo nhân gì mà nay phải bị như thế?” Thánh giả đáp rằng: “Trong đời quá khứ tôi phỉ báng người và trộm cướp trâu, nên nay khiến bị như vậy!”. Sa-môn Thích Tuệ Đạt ở thời nhà Tần chết đoạ vào địa ngục, và đời trước phạm giới (Rút từ Minh Tường ký v.v…) Sa-môn Thích Tuệ Đạt vốn dòng họ Lưu, tên là Tát Hà, người xứ Ly Thạch, Hà Tây. Lúc đang còn tại gia, được sinh trưởng nơi quân lính nên chẳng nghe Phật pháp, rất mến chuộng võ khí, khéo giỏi về săn bắn. Năm 31 tuổi, bỗng nhiên mắc bệnh dữ mà chết, thân thể còn nóng ấm mềm mại nên người nhà chưa dám tẩn liệm an táng, qua 7 ngày sau, sống lại kể rằng: “Lúc vừa chết bị 2 người trói buộc lấy dẫn đi, theo hướng Tây Bắc mà đi, đường đi chuyển dần lên cao, vừa đến được nơi đường hơi rộng bằng phẳng, 2 bên trồng những hàng cây, thấy 1 người cầm nắm cung tên đeo mang kiếm ngay giữa ngã tư mà đứng chỉ bảo 2 người dẫn tôi đến hướng Tây. Ở đó, tôi thấy phòng nhà lắm nhiều, bỗng chốc thấy có 2 vị Sa-môn hỏi tôi rằng: “Ngươi biết ta chăng?” Tôi đáp: “Không biết”. 2 vị Sa-môn ấy bảo: “Nay ngươi nên quy mạng Đức Phật Thích- ca văn”. Tôi nghe lời ấy rồi bèn phát nguyện. Nhân đó, theo 2 vị Sa- môn cùng đi, xa thấy 1 thành, tướng trạng như thành Trường An nhưng sắc màu rất đen tối, bởi đó là thành sắt vậy. Thấy người thân hình rất dài lớn, da dẻ như sơn, đầu tóc dài tới đất. Vị Sa-môn bảo: “Đó là Quỷ trong ngục ấy vậy”. Tại xứ đó rất lạnh, có băng như đá bay tan, dính vào đầu người thì đầu người đứt mất, dính vào cẳng chân người thì cẳng chân người đứt mất, dính vào cánh tay người thì cánh tay người đứt mất. 2 vị Sa-môn ấy bảo: “Đây là địa ngục Hàn băng vậy”. Trong tâm tôi lúc ấy tức khắc nhớ biết về túc mạng. Biết 2 vị Sa-môn ấy xưa kia ở thời Đức Phật Duy Vệ đều là thầy của tôi. Lúc ấy tôi được xuất gia làm Sa-môn, vì phạm tội thế tục nên không được thọ giới, tuy ở đời có Phật xuất hiện mà Tôi trọn không được thấy! Từ đó trở lại nay, 2 lần được tái sinh trong loài người; 1 lần sinh trong giống rợ khương và nay được sinh trong đất nhà Tấn. Tiếp đến, lại thấy địa ngục núi Đao, lần lượt trải qua trông xem nhìn thấy lắm nhiều, mỗi mỗi ngục khác thành chẳng cùng xen tạp, số người trong đó rất nhiều không thể tính kể, bày đọc khoa pháp lược như kinh diễn tả cùng phù hợp. Bỗng chốc có ánh sáng sắc màu vàng ròng soi chiếu rực rỡ, có một người thân cao 2 trượng, tướng hảo trang nghiêm xinh đẹp, khắp thân thể toàn là vàng ròng, mọi người chung quanh bảo rằng: “Đại só Quán Thế Âm!” Và đều đứng dậy đảnh lễ nghinh tiếp. Có 2 vị Sa-môn hình chất đồng loại đều đi ở 2 phía Đông Tây. Tôi đảnh lễ xong, Bồ-tát đều vì mọi người mà giảng pháp, phát ra hơn ngàn lời, rồi lại bảo tôi rằng: “Đáng lẽ ngươi phải trải qua nhiều kiếp chịu đủ mọi thứ tội báo, vì từng được nghe kinh pháp mà sinh tâm hoan hỷ, nay sẽ bị nhận chịu tội báo nhẹ qua 1 phen bèn khỏi. Ngươi được cứu sống lại, nên xuất gia làm Sa-môn”. Khi đó lại gặp thấy 1 người hỏi tôi rằng: “Lúc ở tại Tương Dương cớ sao ngươi cố giết hại nai?” Tôi quỳ đáp rằng: “Người khác giết nai, tôi chỉ rập theo, lại chẳng dám ăn thịt, bởi duyên gì mà phải chịu tội báo”. Khi đó, Tôi liền thấy ở tại Tương Dương nơi chỗ bắn giết nai, cỏ cây rừng chầm uyển nhiên như tại trước mắt. Với ngựa sắc đen tôi cưỡi đều mở lời nói được và đồng làm chứng rõ ràng ngày tháng năm giết nai. Tôi liền khiếp sợ không dám mở lời. Phút chốc có người nắm cầm chỉa đâm chích ném tôi vào trong vạc sôi, Tôi tự cảm thấy khắp thân mình đều tan vỡ nát bấy, có gió nhẹ thổi lại, dạt tấp bên bờ sông nước, bỗng chốc cảm thấy hoàn phục lại toàn thân hình. Người ấy lại hỏi rằng: “Ngươi lại còn bắn chim trỉ, giết chim nhạn”. Nói xong, liền nắm chỉa đâm vào thân mình tôi và ném vào trong vạc sôi và cũng tiêu rã như trước. Nhận chịu tội báo ấy xong. Mới sai bảo tôi đi. Đi vào trong 1 thành lớn, có người ở đó nói cùng tôi rằng: “Ngươi đã nhận chịu tội báo nhẹ, nên nay được sống lại. Do phước lực nâng đỡ, từ nay trở về sau không nên tạo tội ác nữa!” Và liền sai bảo người đưa tôi đi. Xa thấy thân hình cũ, tôi chẳng muốn trở lại, người đưa tôi đi bèn đẩy dẫn, lâu sau mới gá vào thân hình mà được sống lại…” Từ đó, Ngài kính phụng Phật pháp rất tinh cần, bèn liền xuất gia, về sau tỏ ngộ thiền pháp, khéo giỏi hoằng hóa. Riêng có truyện ký. Sa-môn Thích Đạo Quang ở thời tiền Đường nhiều đời cầu độ xuất gia chẳng được Quan danh. (Rút từ Tân Lục). Sa-môn Thích Đạo Quang, Ngài người xứ Tinh Châu, vốn dòng họ Trương, gia phong tỉnh thối, thẹn ở Danh quan. Từ tuổi bé thơ, Ngài lánh xa thế tục, sớm biết trai giới. Năm 10 tuổi, Ngài giả từ thân thích, rảo bước khắp nơi cầu hỏi Đạo. Nhân đó, tự xuống tóc phiêu bạc đến ngụ ở Quang Trung, sau, Ngài phụng thờ Luật sư Đạo Tuyên, hành giải rất hiển trước, xoay chuyển chí thành tư duy, sớm tối thưa hỏi tiếp thừa, rất mực hiếu dưỡng ôn thanh, xa hẳn đồng bạn. Ngài Đạo Tuyên vì tình lễ cùng đến ấy mà càng thêm sự dạy răn. Ngài tinh chuyên tập học qua vài năm, bèn thành hồng khí. Đến lúc vua Cao tông (Lý Trị) lên ngôi, trong khoảng niên hiệu Vónh Huy (650-656) thời tiền Đường, vua rất lưu tâm để ý đến Phật giáo, từng có dịp ban sắc độ người xuất gia, nhưng Ngài thường trái duyên chẳng được dự tham, trong lòng hổ thẹn hận trách, thường ôm hoài tấm tức. Đến trong khoảng niên hiệu Lâu Đức (664-666) thời tiền Đường, ngài Đạo Tuyên do nhờ Giới Đức, bỗng cảm có thiên thần qua lại, nhiều ngày cùng đàm với danh lý, từ vài Đức Phật ở đời quá khứ trở lại, mỗi lúc và nơi chốn đi ngồi, không gì chẳng rõ biết. Ngài Đạo Tuyên nhân hỏi về kinh luật khai già, nguyên do các Thánh tích, mới trước thuật 1 bộ “Thông Ký” 10 quyển. Lại nhân những lúc rảnh rỗi thong dong, mới hỏi cùng thiên thần rằng: “Đạo Tuyên tôi có đệ tử là Đạo Quang là người hiếu ái chí thuần, không biết bởi nghiệp gì mà bị như thế?” Thiên Thần nói: “Đạo Quang cùng Luật sư đã từng làm cha con môn đồ hơn 300 kiếp, ân quen thân lâu dài nên đến nỗi như vậy. Ngặt vì quả báo dư thừa và các duyên khác đến nay vẫn con chưa hết”. Ngài Đạo Tuyên lại hỏi: “Đạo Quang đã từng cầu được độ xuất gia thọ giới mà trọn chẳng toại tâm nguyện. Ấy là bởi nghiệp gì mà nên vậy?” Thiên thần đáp: “Xưa kia vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, Đạo Quang lúc đó từng làm vị chủ chùa, có 1 Tăng giới hạnh phần nhiều bị khiếm khuyết, chủ chùa tức giận bèn bảo hoàn tục. Do duyên nghiệp ấy nên đời đời Đạo Quang vào Đạo chẳng được Quan danh, nghiệp dư thừa ấy ương lụy đến nay vẫn còn chưa hết”. Sau khi ngài Đạo Tuyên thị tịch, ngài Đạo Quang bèn chọn mộc Đông tây, nhân đó đến dừng ở tại Hà Bắc. Đến năm Chí Nguyên thứ 2 (675) thời tiền Đường vua Cao Tông vì hiếu kính đối với vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) mà tu sửa lại chùa Bạch Mã, chủ chùa lúc ấy là Sa-môn Sùng Nghóa sưu tìm khắp cùng, nhân vì tiếng tăm Ngài (Đạo Quang) đã ngời sáng từ trước, bèn ứng với sự tuyển chọn tốt lành ấy, nên tấu trình tên vào nội. Ngài cảm mắc bệnh, vua bèn ban sắc đưa đến Ngụy Châu, thì thân Ngài đã qua đời, nghiệm xét lời nói của Thiên thần thật đáng tin vậy. Có Thiền sư Bảo Lượng là người đã từng cùng Ngài vân du vài năm, từng tiếp nhận mọi sự nói nín của Ngài ghi nhớ ở cõi lòng. Đến khi nghe Ngài tiếng tăm vang vọng thì thân đã mất. Mới biết nghiệp mạng ấy như vậy. Thiền sư Bảo Lượng bày tỏ với tôi (Hoài Tín) đầy đủ như thế đó!. <詞>GHI VỀ BẬC NGHỊCH XIỂN ĐỀ. Sa-môn Thích Đạo Chí ở chùa Đa Bảo tại Tống Bắc trộm lấy châu ngọc tướng tốt nên chịu khổ (Phụ Cô Ni Trí Thông). Sa-môn Thích Đạo Chí, chưa rõ người xứ nào, xuất gia từ thuở thiếu thời, ở chùa Đa Bảo tại Bắc Tống, từng giữ chức trong coi điện tháp. Nhân lúc thuyết tối trộm lấy các vật màng trướng, lọng v.v… Sau bèn trộm lấy châu ngọc tướng tốt nơi giữa chặn mày tôn tượng, thế rồi đục thủng vách tường như người ngoài vào lấy trộm, nên chúng Tăng không thể phát hiện được. Hơn 10 ngày sau, Đạo Chí mắc bệnh bèn thấy có người khác lạ cầm nắm qua màu đến đâm chém, khi lại khi đi, Đạo Chí kinh sợ kêu vang, theo tiếng mà trào máu huyết. Mới đầu còn trong 1 ngày 2 lần như thế, về sau càng lắm đâm chém nhiều lần, thương đau lở loét khắp thân thể, rên rỉ không ngưng dứt. Chư Tăng trong chùa ấy rất nghi là có tội, muốn vì sám hối thay, mới hỏi, nhưng Đạo Chí vẫn kiên dè chẳng chịu nói. Đến trước lúc sắp chết vài ba ngày, Đạo Chí mới tự tỏ bày đầy đủ, khóc lệ thỉnh cầu, nói rằng: “Tôi vì ngu bột mê mờ Đạo, cho là không có sự đồ thán, phóng ý tạo tội, nay rước lấy ương khốc này, đang sống thì nhận chịu tra khảo, đến lúc chết thì bị dao chém vạc sôi, thân đã nát nhừ, chỉ xin rủ lòng thương xót, riêng không có vật gì khác, chỉ có y phục chăn màn giày dép hoặc có thể sung đủ 1 hội. Và cần cầu thỉnh mọi người xưa cũ vì tôi mà sám hối. Ngày trước tôi trộm lấy 2 viên châu ngọc tướng tốt nơi tôn tượng, trong đó 1 viên đã thuộc về người mẹ không thể lấy lại được, còn 1 viên cầm đỡ tiền tại nhà trần chiếu, nay có thể vì tôi mà chuộc lấy lại”. Nói xong Đạo Chí bèn qua đời. Khi đã chuộc lại được viên châu ngọc tướng tốt, và thiết lập trai hội sám hối. Mới đầu, người thợ gắn đặt viên châu ngọc lại mà cứ xoay chuyển loanh quanh trọn chẳng vừa hợp. Chư Tăng lại vì đốt hương lễ bái, mới gắn đặt được. Hơn một năm sau, các bạn đồng học đang lúc đêm tối, nghe giữa không trung có tiếng nói năng, lắng nghe kỹ đó là tiếng của Đạo Chí, nói rằng: “Từ khi mới chết đến nay phải chịu lắm sự thống khổ độc địa, mới trải qua nhiều năm kiếp chưa có kỳ hạn được ra, may nhờ chúng Tăng xót thương cứu hộ chuộc lại châu ngọc tướng tốt, nên ở trong lúc khổ khốc có được thời gian tạm ngưng nghỉ. Cảm ân đức quên mình ấy, nên tạm đến tỏ bày cùng cảm tạ!” Chỉ nói lời ấy mà thôi, và mọi người đã nghe lời ấy, khi ấy có mùi tanh nồng hôi thối không thể tả nói. Nói xong mới hôi hết. Lúc đó là khoảng cuối niên hiệu Thái Thỉ (465-472) thời tiền Tống vậy. Cô Ni Trí Thông xuất gia từ thuở thiếu thời ở chùa giản tỉnh tại kinh đô, tin Đạo chưa thuần. Đến năm nguyên gia thứ 9 (432) thời tiền Tống, bổn Sư thị tịch, Trí Thông bèn bỏ Đạo lấy chồng, làm vợ của Lương Tê Phủ ở Ngụy quận sinh được 1 đứa con trai, khi đứa con ấy lớn khoảng 6, 7 tuổi, trong nhà rất nghèo khốn không biết lấy gì để làm áo mặc, lúc Trí Thông đang là Cô Ni có vài cuộn lụa ghi tả các kinh Vô Lượng Nghóa, Pháp Hoa v.v… Trí Thông bèn lấy luyện đàm đó để làm áo cho con mặc. Qua sau 1 năm đứa con trai ấy mắc bệnh hoảng hốt kinh sợ, khắp thân mình lở loét tướng trạng như vết bỏng lửa, có những trùng nhỏ sắc trắng ban ngày tràn ra ngoài, đau nhức thảm thiết phiền độc ngày đêm gào khóc. Bỗng nghe giữ không trung có tiếng bảo rằng: “Phá hoại kinh làm áo mặc nên bị quả báo lắm như thế”. Hơn 10 ngày sau thì đứa con ấy qua đời. Yến Thông trộm lấy tiền só nhục tôn tượng hiện thân cảm lấy bệnh hủi và bị đất vùi lấp. (Rút từ Quang Trung Phong Tục truyện ký). Yến Thông không biết là người xứ nào, tuy dự vào hàng Đạo môn, mà chí lắm ngu đần, cậy gá việc công đức để mưu cầu việc nhuận, từng chủ đúc 1 tôn tượng lớn bằng đồng, Quang hu thị vệ thảy đều khuyết đó, các thứ tài thí có được liền tự thâu vào mà gọi là tôn tượng vì xuất thế cho đứa ở vậy. Về sau, trải qua thời gian lâu mà một mảnh cũng không có, Yến Thông bèn nắm gậy xỉ vào tôn tượng mà bảo rằng: “Đứa ở cớ sao không xuất thế?” Và sắp muốn đánh tác vào tượng, trong lúc chưa gian tay, bỗng thấy 1 người thân tướng cao lớn 2 trượng, có đủ Qua giáp, trong ánh mắt tức giận đi thẳng đến quát rằng: “Kia vô lại thụ tử sao nhẫn đối trước tôn tượng Phật mà như thế ư?” Bèn kéo cổ lìa khỏi đất khoảng vài thước, dùng roi sắt mà đánh đó, khắp thân mình từ đầu đến chân đều tuôn đổ máu. Yến Thông rên rỉ kêu than cầu cứu, tiếng nghe vang xa ngoài cả dặm. Các hàng Đạo tục trông thấy không ai chẳng lạnh lòng. Sau hơn 10 ngày dưới các vết thương bị đánh roi lại sinh ra vết lở lớn như trái đào trái hạnh, máu mủ chảy tràn, khắp mình mẩy biến thành sắc đỏ tứng trạng như lửa đốt, cách khoảng vài bước mà hơi nóng tỏa đến cùng. Yến Thông chỉ sớm tối kêu gào lăn lóc trên máu mủ. Qua hơn trăm ngày ngay tại trong phòng, đất sụp lở sau vài thước, và Yến Thông chết ở dưới đó vậy. Tư Lễ chẻ tượng trộm lụa quyến bị thần đè đánh, thời tiền Đường. Tư Lễ, chưa rõ là thuộc dòng họ nào, người xứ Lam Điền, Ung Châu. Lập tánh ngu tiện, chí quy cẩu lợi. Tuy dự phần xuất gia mà chưa đượm nhuần chân hóa. Trong khoảng niên hiệu Hàm Hanh (670-674) thời tiền Đường, Tư Lễ đến Kiết Hạ an cư ở chùa Ngộ Chân tại Lam cốc. Bấy giờ chúng Tăng có khoảng vài mươi vị phần nhiều đều là tinh luyện, Tư Lễ mạo trộm hình dáng lạm thổi thường ôm hoài không khuôn phép, mới vào trong chánh điện trộm lấy lụa quyên trong tôn tượng Phật. Vài ngày sau, chư Tăng phát hiện được nhưng chẳng biết ai trộm cắp, bèn xúm xít cùng nhau suy hỏi vặn, mọi người ôm hoài nghi hoặc. Những vị hổ thẹn phần nhiều mỗi tự muốn mau tan. Khi đó, Thượng tọa pháp tạng đối trước chúng Tăng mà nói rằng: “Từng nghe tại chùa này linh tích lắm nhiều, nay đã có người chẻ phá tôn tượng, Thần hộ trì già lam đâu nên im lặng vậy? Nội trong 3 ngày, xin nên chỉ bày rõ ràng việc ấy đế khiến chúng tăng được an ổn!” nói xong mỗi người tự trở về phòng mình ở. Tư Lễ ở nơi phòng dưới lầu chuông, đang nằm ngủ ngày, bỗng thấy Đại thần Bạch y đến vây hãm Tư Lễ vào giữa khoảng giường nằm và vách tường, duỗi đầu xuống đất, dùng đá đè chằn lên. Đến sáng sớm hôm sau, chư Tăng trong chùa đã không thấy Tư Lễ, bèn đến phòng hỏi tìm, phòng ấy bít đóng bền chặt mở không thể được, lại trải qua 1 đêm nữa, chư Tăng càng nghi ngờ quái lạ rất lắm bèn đục lỗ hổng nơi cánh cửa, nhìn vào thấy Tư Lễ nằm nơi giường, các tấm lụa quyên trong tôn tượng chất chồng nhiều lớp trên thân mình Tư Lễ. Chư Tăng bèn cùng nhau kéo dẫn ra ngoài cửa, thấy sắc mặt Tư Lễ như sơn phết, hơi thở chẳng thông. Chư Tăng v.v… mới vì đó mà sám hối, lâu sau, Tư Lễ mới hơi tỉnh sống lại tự rõ bày tội ác của mình, đến đêm tối Tư Lễ bèn bỏ trốn đi, không biết về sau như thế nào. <詞>GHI VỀ KHINH HỦY KINH GIÁO. Luận Sư Vô Cấu Hữu ở Tây Vức phỉ báng Đại thừa, 5 chiếc lưỡi đồng mọc dài 1 lần. (Rút từ Tây Vức truyện, phụ Sa-môn người nước Vu điền). Xưa kia tại Tây Vức có vị Luận sư tên là Tỳ-mạt-la-mật-đa, Trung Hoa dịch là Vô Cấu Hữu, người nước Ca-thấp-di-la, xuất gia theo Nhất Thiết Hữu Bộ. Rộng thông kinh giáo Tiểu thừa, vang danh khắp 5 xứ Ấn Độ. Trên đường sắp trở về bản quốc, lần lượt đến nơi tháp của Luận sư Chúng hiền, vỗ về mà than rằng: “Chỉ Luận sư là người nhã lượng thanh cao, khéo giỏi đè nén hay nâng bốc Đại nghóa, mới muốn khuất nhục Dị bộ, lập nghiệp Bản tông. Cớ sao giáng năm chưa trọn? Tôi là Vô Cấu Hữu Kê bèn tiếp thừa học cuối. Lúc khúc Chiêu mộ nghóa mở rộng thay thế ôm hoài Chí Đức. Thế thân tuy đã chết mất nhưng tông học còn hoằng truyền nơi đời. Với tất cả khả năng nhận biết của tôi, Tôi sẽ chế tác các Bộ luận, khiến các người học v.v… ở Thiệm Bộ châu nương theo, dứt tuyệt danh xưng Đại thừa, diệt mất tên gọi Thế Nhân”. Nói lời ấy rồi, trong tâm Vô Cấu Hữu phát nên cuồng loạn, 5 chiếc lưỡi đồng một lúc mọc dài ra. Máu huyết nóng tuôn trào. Biết thân mạng hẳn chết mất, Vô Cấu Hữu mới ghi thư sám hối rằng: “Đại thừa giáo là thuyết cứu cánh trong Phật pháp, danh vị sâu tuyệt, lý giáo cao mầu. Vì ngu muội nên tôi khinh thường chê bai các bậc đi trước, báo ứng rõ ràng diệt mất thân mạng nên vậy. Xin báo cùng tất cả những người cầu học quyết phải soi xét ngay đây, mỗi tự thân trọn giữ gìn chí ý, chớ hoài nghi hoặc vậy!” Liền đó, trái đất rung chuyển, Vô Cấu Hữu bèn qua đời. Ngay chỗ chết ất đất vùi hỏm sâu thành hố. Bấy giờ có vị A-la-hán chỉ một lần trông thấy nơi Vô Cấu Hữu qua đời mà than rằng: “Tiếc thay! Khổ thay! Nay Luận sư này mặc tình chấp kiến, hủy ác Đại thừa, bị đọa vào địa ngục vô gián vậy!” Lại nữa, tại nước Vu Điền có vị Sa-môn tên là Bạt-chiếc-tư-la-na, Trung Hoa dịch nghóa là Kim cang quân, chuyên thọ trì thọ trì giáo pháp Tiểu thừa học luận Câu Xá, chẳng tin giáo nghóa Đại thừa, thường luôn đấu tranh phỉ báng, 2 mắt nhân đó mà mờ tối, trải qua hơn 10 năm mù tối không thấy gì. Về sau nghe được Sa-môn Sư Tử Hữu răn bảo, vẫn chưa tin hẳn ngài Sư Tử Hữu mới răn bảo trì tụng Quán Âm tâm chú, liền đó 2 mắt được tỏ sáng. Nhân vậy mà xoay chuyển quy hướng kính tin Đại thừa, bỏ học Tiểu thừa vậy. Thích Tuệ Nghiêm, ở chùa Đông An tại kinh đô thời nhà Tống được Thần răn bảo. (Phụ; Sa-môn Tăng Tung, Sa-môn Tăng Uyên). Thích Tuệ Nghiêm, ngài dòng họ Phạm, người xứ Dự Châu, là bậc Lý thức thanh bác, các hàng học giả thảy tôn sùng. Bấy giờ Đại Niết Bàn kinh mới lưu truyền đến đất (tiền) Tống, văn ngôn rất mực tốt lành mà phẩm số còn đơn giản sơ sài, nên hàng hậu học khó toan liệu ghi nhớ, Tuệ Nghiêm mới cùng Sa-môn Tuệ Quán, Tạ Linh Vận v.v… y theo bản Nê Hoàn mà thêm vào đó phẩm mục, như văn từ hoặc có vượt quá thật chất cũng lại sửa chữa đó, sang định 40 quyển làm thành 36 quyển. Mới đầu, vừa chỉ có lưu hành vài bản, nhân lúc nằm ngủ, Tuệ Nghiêm bỗng thấy có 1 người thân cao 2 trượng, hình nghi rất kỳ vó đến bảo rằng: “Với Tôn kinh Niết bàn cớ sao khinh thường mà thêm sứ châm chước?” Khi đã tỉnh giấc, Tuệ Nghiêm lo sợ không vui, lại thấy người hôm qua, tướng trạng như tỏ vẻ tức giận đến bảo rằng: “Nếu cố chấp giữ mưu đồ sau này sẽ khiến ông biết đó”. Tuệ Nghiêm kinh hãi mất tiếng, mới nhóm tập chư Tăng thâu rút lấy các bản lưu hành trước, tuy được mà cấm đó. Có những vị thức giả can gián rằng: “Đó là bởi muốn răn khuyên những người về sau vậy. Nếu hẳn không thích ứng sao có thể dung thứ đến nay đây mới báo mộng ư?” Tuệ Nghiêm tuy đồng ý như thế trong tâm vẫn kinh sợ vậy. Lại nữa, trong khoảng niên hiệu Thái Thỉ (465-472) thời tiền Tống có Sa-môn Tăng Tung ở chùa Trung Hưng là bậc thông rành về số luận. Đến lúc tuổi già chấp trước hẹp hòi, cho rằng: “Phật không nên thường trú”. Đến ngày qua đời, chiếc lưỡi thối rửa trước. Lại nữa, trong nhà Lương, tại Bành Thành có Sa-môn Tăng Uyên phỉ báng kinh Niết Bàn, bỗng chốc chiếc lưỡi liền bị tiêu tan. Sa-môn Thích Tăng Phạm ở chùa Đại Giác tại Nghiệp Hạ, thời nhà Tề, lúc Bồ-tát thấy Thần răn trách dựng lập nghóa. Thích Tăng Phạm, Ngài dòng họ Lý, người xứ Bình hương. Năm 29 tuổi mới xuất gia, học hạnh đều ưu tú, rất được mọi người thời bấy giờ mến chuộng, Ngài thường giảng kinh Pháp Hoa, liền có 1 vị Tăng khinh hủy rằng: “Hết Cao, giải chỗ nào?” Liền đó thấy có 1 vị thần đặc kỳ riêng đánh roi, vị Tăng ấy chất mà được sống lại. Lại môt lần nọ, Ngài đến chùa khác nghỉ lại qua đêm, gặp ngày Bồ-tát, có vị Tăng lên tòa sắp muốn dựng lập nghóa, mới nói rằng: “Dựng lập nghóa luận bàn pháp tướng sâu hợp với Thánh ngôn, sao nhọc phái thuyết giới, chư Tăng há chẳng thường nghe vậy?” Bỗng thấy có 1 vị Thần thân hình cao lớn hơn trượng, tướng mạo rất oai hùng đi đến trước tòa, hỏi vị Tăng dựng lập nghóa ấy rằng: “Nay là ngày gì?” Vị Tăng ấy đáp: “Nay là ngày Bồ-tát”. Vị thần liền đưa tay vắt lấy kéo vị Tăng ấy xuống khỏi tòa nhanh chóng như rủ chết. Tiến đến Thần lại vắt kéo trên tòa đồng như trước. Từ đó đến lúc thị tịch, Ngài (Tăng Phạm) trọn không dám “gởi Dục”, cho đến những lúc mắc bệnh rất lắm cũng bảo khiêng đến trong chúng Tăng. Do vì kính trọng ngày thuyết giới ấy vui thấy được pháp thân vậy. Sa-môn Thích Tăng Vân ở chùa Bảo Minh tại Nghiệp Hạ, thời nhà Tề bỏ Bồ-tát bị thần hại. Sa-môn Thích Tăng Vân, không rõ ngài là người xứ nào, rất thông minh tài biện, từ lệnh đủ đầy, rành rỏi cả giáo nghóa Đại thừa lẫn Tiểu thừa, Ngài mang đội Tăng luân ở chùa Bảo Minh. Khi ấy, vào ngày 15 tháng 4, sắp đến lúc thuyết giới, chúng Tăng đếu nhóm tập tại Phật đường. Ngài ngồi ở đầu hàng, mới bạch cùng Đại chúng rằng: “Giới bản là phòng phi, mọi người đều đọc tụng được, sao phiền nhọc chúng phải thường luôn ngồi lắng nghe đó? có thể nên dựng lập nml để khiến hàng hậu sinh khai ngộ”. Bởi khí độ phong cách của Ngài thời bấy giờ, không ai dám chống lại, nên mỗi mỗi đều theo đó, đến cuối mùa hạ vẫn thường phế bỏ vị Bồ-tát thuyết giới. Đến ngày 15 tháng 7, sắp lên tòa cỏ, bỗng nhiên Ngài mất dạng không biết ở đâu, trong đại chúng vì các hàng tân học tuổi nhỏ chưa thọ giới đều bỏ tự tứ. Đồng một lúc ảo khắp 4 phía để tìm kiếm Ngài, mới đến nơi trong một gò mả xưa cũ cách chùa khoảng 3 dặm tìm thấy Ngài ở đó, khắp thân thể đều tuôn đổ máu như chỗ bị dao cắt hại. Gá hỏi về nguyên do, ngài đáp rằng: “Có 1 người Trượng phu cầm nắm con dao lớn dài 3 thước, tỏ vẻ sân hận hỏi” cớ sao đổi bỏ Bồ-tát, vọng khiến dựng lập nghóa?” Và dùng dao cắt thái thân hình, thống khổ khó nhẫn chịu”. Nhân đó mọi người dìu đỡ Ngài trở về lại chùa. Ngài dốc hết tâm thành sám hối, mới trải qua 10 năm Thuyết giới, Bồ-tát, tụng đọc các kinh, Ngài lấy đó làm hạnh nghiệp thường. Đến ngày thị tịch, có mùi thơm khác lạ đến nghinh đón, thần sắc Ngài vẫn không loạn tạp, an nhiên mà thị tịch. Sa-môn Thích Tuệ Thiếu ở chùa Thần Túc tại Tương Châu thời tiền Đường phỉ báng Tam Luận bị nhổ kéo lưỡi dài ra ba thước. (Phụ: Sa-môn Hiếu Từ, Thần Phưởng và Tín Hạnh). Sa-môn Thích Tuệ Thiếu, Ngài dòng họ Trang, xuất gia từ thuở thiếu thời, chuyên lấy pháp Tiểu thừa làm thường nghiệp, vang danh khắp xứ Giang Hán. Nhân tượng vương Triết Công giảng về Tam luận, trong tâm Ngài khởi sinh bất nhẫn, cho rằng: “Tam Luận nói rõ về không mà người giảng lại chấp trước không”. Nói xong, chiếc lưỡi dài ra 3 thước, mũi mắt và 2 tai đều tuôn trào máu, suốt 7 ngày không nói năng gì được. Có Luật sư Thái nghe thế, bảo Ngài rằng: “Ông là người rất si mê, một lời phỉ báng kinh giáo, tội báo quá hơn ngũ nghịch. Nên kính tin theo Đại thừa mới được miễn khỏi vậy”. Mới bảo Ngài sám hối, chiếc lưỡi dần thâu rút vào, bèn khiêng Ngài đến chỗ Thiết công, phát nguyện nghe học Đại thừa. Về sau, Ngài thường giảng các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, dùng để tỏ bày sám tạ. Ngài từng ở nơi rừng tùng tọa thiền, thấy có 3 người hình sắc đều cao nhã đến thỉnh cầu Ngài cho thọ giới Bồ-tát. Sau khi thọ giới xong, thưa cùng Ngài rằng: “Thiền sư là bậc Đại lợi căn, nếu chẳng cải đổi tâm tánh tin theo Đại thừa, thì sau khi ngàn Đức Phật đã xuất hiện ở đời, vẫn còn ở nơi địa ngục chưa ra khỏi”. Nghe nói lời ấy rồi, lệ trào hoen my, Ngài khóc lớn mà trở về chùa, đến trước phòng của Triết Công lăn lóc nghẹn ngào chẳng thể nói nên lời. Sau đó, Ngài lại khuyên hóa các hàng só tục tu tạo các kinh Hoa Nghiêm, Đại Phẩm, Pháp Hoa, Duy-ma, Tư Ích v.v… mỗi thứ trăm bộ. Đến lúc Ngài thị tịch, cảm động cả rừng cây đều biến thành sắc trắng. Thật đáng xưng gọi là: “Có lỗi quá mà hay cải đổi vậy!” Lại nữa, có Sa-môn Hiếu Từ ở chùa Từ Môn. Lúc ấy tuổi độ 50, từ thuở nhỏ trở lại, Ngài y theo Thiền sư Tín Hạnh giảng dạy về Tam giai Phật pháp. Ngài chuyên tu khổ hạnh, thường hành khất thực, mỗi ngày 6 thời lễ bái, đắp mặc y phấn tảo. Tùy chỗ đến ở, Ngài thường giảng dạy về Tam giai Phật pháp đế khuyên dẫn các hàng mông tục. Và, những lúc giảng dạy Tam giai Phật pháp, Ngài thường bảo: “Không hợp việc tụng đọc các kinh điển Đại thừa. Nếu người nào đọc tụng tức sẽ đọa vào nơi địa ngục A-tỳ ở khắp 10 phương, cần phải gấp nhanh sám hối”. Sau đó, có 1 lúc Ngài đến Kỳ Châu giảng dạy về Tam giai Phật pháp. Bấy giờ có 1 vị Ưu-bà-di thọ trì kinh Pháp Hoa, lại khuyên hóa những người có duyên đồng thọ trì kinh Pháp Hoa. Ngài bèn khuyên cá Ưu-bà-di v.v… thọ trì kinh Pháp Hoa ấy rằng: “Các ngươi thọ trì kinh Pháp Hoa chẳng xứng hợp với căn cơ, nên sẽ bị đọa vào địa ngục. Tôi xin khuyên các người nên bỏ sự tụng trì ấy”. Bèn có vài vị Ưu-bà-di bỏ sự tụng trì kinh Pháp Hoa, đến nơi trong chúng ở chỗ Ngài để sám hối tội trì tụng kinh Pháp Hoa, vị Ưu-bà-di dẫn đầu khuyên hóa mọi người trì tụng kinh Pháp Hoa ấy trong tâm bất nhẫn, bèn ngay ngày Đại trai hội khi các Thiền sư vì giảng dạy về Tam giai Phật pháp, lúc đó dưới tòa có cả muôn người cùng đến dự, vị Ưu-bà-di ấy đối trong đại chúng, đốt hương lễ bái mà phát nguyện rằng: “Nếu chúng con (…) trì tụng kinh Pháp Hoa không xứng hợp với ý Phật thì nguyện cho chúng con (…) ngay thân này chịu bệnh tật xấu ác, để khiến đại chúng cùng biết trì tụng kinh Pháp Hoa mắc phải tội báo như thế. Lại nguyện ngay thân hiện sống này bị vùi lấp vào thẳng chốn địa ngục, khiến cho đại chúng đồng trông thấy. Trái lại, như chúng con (…) thọ trì kinh Pháp Hoa xưng thuận với ý Phật, thì các Thiền sư đây cũng bị như thế”. Ngay lúc vị Ưu- bà-di ấy phát nguyện như thế. Thiền sư (Hiếu từ) thì thần đánh, mất cả âm tiếng không thể nói năng, vị xướng tập lục trên tòa cao ở phía Tây cũng bi mất âm tiếng không thể nói năng, lại có 5 lão Thiền sư khác cũng bị mất âm tiếng không thể nói năng. Và số người trước đó bỏ sự trì tụng kinh Pháp Hoa, nhân đó bèn phát tâm trì tụng kinh Pháp Hoa, lại càng sinh tâm ân trọng. Lại nữa, ở chùa Từ Bi có Sa-môn Thần Phưởng, từ thuở bé nhỏ trở lại từng theo nghe học kinh Thập luân, tinh cần khổ hạnh, đặc biệt khác lạ người thường, đắp mặc y phấn tảo, mỗi ngày 6 thời lễ bái, chuyên hành khất thực. Mỗi lúc giảng kinh Thập luân, thường nói: “Chúng sinh không hợp đọc tụng kinh điển Đại thừa. Nếu người nào đọc tụng hẳn sẽ đọa vào địa ngục”. Cuối cùng đến lúc mạng chung, với thân đang hiện sống này bị lửa địa ngục thiêu đốt, bên cạnh thân có hơi khói sắc đen. Khi ấy Sa-môn Tư Giản ở chùa Tế Pháp thân gần trông thấy sự việc ấy, nên tin biết bỏ học Bát Nhã hẳn có ác chứng hiện thân lập nghiệm vậy. Thứ nữa, ở chùa Phước Tiên tại Thần Đô có Sa-môn (…) trong một lúc bỗng nhiên mạng chung, thần thức theo trong nghiệp Đạo thấy Thiền sư Tín hạnh làm thân rắn lớn khắp thân thể đều có những lỗ miệng. Lại thấy những người thọ học về Tam giai Phật pháp sau khi chết đều vào trong lỗ miệng thân rắn ấy, chẳng biết đi đâu. Vì Sa-môn (…) ấy sau khi đã sống lại, nhân sự cố ấy nên đến kinh đô báo cùng Thiền sư Tăng Tỉnh. Thiền sư Tăng Tỉnh không tin, bèn liền bỏ trở về Thần đô. <詞>GHI VỀ GHEN HIỀN GHÉT HÓA. Sa-môn Đạo Tú ở Tương Châu thời nhà Tề biến làm thành thân rắn. Sa-môn Thích Đạo Tú xuất gia từ thuở thiếu thời, chuyên tinh tập học, mọi người đều tôn xưng là bậc thần tuấn. Học chúng nhàn tụ đông đúc, nên Đạo Tú trở thành bậc tôn tượng ở đương thời. Có bạn đồng học của Đạo Tú là Sa-môn Tuệ Ý, tuy tuổi nhỏ hơn vài năm mà sức tỏ ngộ siêu vượt đó, giới hạnh tinh thuần tự sống, cao đàm xuất chúng, do đó tiếng tăm vang khắp nghiệp Đô, các hàng Đạo tục thảy đều quy hướng kính ngưỡng, bèn đến đối diện chùa Đạo Tú mà khai giảng. Trong lòng Đạo Tú ôm hoài ghen ghét, chuyên nghó suy tìm cách muốn bẻ gảy làm nhục. Mà ngài Tuệ Ý tiếng tăm càng vang cao, không do đâu mà mở đầu, Đạo Tú bèn dùng bạo liền họa sắp có mưu đồ khác, vây bọc đã lắm nhiều rốt cùng không được tỉnh. Về sau, Đạo Tú cùng các đệ tử ra thành, dừng nghỉ dưới gốc cây. Đạo Tú nằm ngủ, bỗng nhiên có cơn gió xoay chuyển nổi dậy, mưa nhỏ tuôn đổ trên thân Đạo Tú, 2 chân bỗng chốc hợp liền với nhau biến thành đuôi rắn, cứ như thế dần dần lên đến ngực. Đạo Tú buồn khóc bảo cùng đệ tử rằng: “Ta vì tâm xấu ác chuyển thành mạnh dữ, muốn hại Sư Tuệ Ý. Độc hại bên trong ta nung nấu biến làm thành thân rắn. Nghiệp báo như thế này hối hận cũng không ích lợi gì! Có thể lấy các thứ y vật trong phòng vì Ta mà tu tạo việc phước, và đến sám tạ cùng sư Tuệ Ý xin ban cho sự hoan hỷ”. Nói xong, Đạo Tú bỗng nhiên biến thành thân rắn dài vài ba thước, chỉ phút chốc từ trong cỏ rậm có vài trăm con rắn nhỏ đua nhau lại nghinh tiếp, từ đó mà đi, mọi người xa gần nghe thế, không ai chẳng vì thương than vậy. Sa-môn Đạo Khế ở chùa Bạch Tháp tại Dương Châu, thờ nhà Tùy bị thần đánh giết. Sa-môn Thích Đạo Khế, vốn dòng họ Trần, người xứ Dónh Xuyên, dung mạo nhan sắc rất xấu xí, nói năng tánh tình hẹp hòi thô bỉ. Tuy đến ở chỗ lắng tịnh mà chí vẫn còn bị ràng buộc, nhưng phóng túng làm thầy thuốc chẩn đoán bịnh tật, chẳng khéo giỏi về minh pháp. Bởi vì chỗ biết cạn cợt đến đó, tự khoe, khinh thường lấn lướt mọi người lớn nhỏ. Đồng ở trong chùa có Sa-môn Đức Lân là bậc khí nghiệp thông rành khéo giải Tỳ Ni, kiêm tu Định Tuệ, nhọc khiêm nhường thối lùi tỉnh lắng song, Đạo phong tỏa khắp xa gần. So với Đạo Khế thì tuổi tác hạ lạp ngang bằng nhưng tùy mà tiếng tăm lớn trọng. Đạo Khế ghét sự sáng giá ấy, thường muốn cư xử phỉ báng độc hại. Sa-môn Đức Lân rỗng rang nhận chịu tốn từ, tiếp hầu nhan sắc do dùng chánh pháp mà đượm nhuần, lấy đức từ nhân mà dẫn dụ, Đạo Khế mới ngậm độc trong tâm nung nấu, ngày tháng càng mạnh dữ, ôm hoài gian dối đấu ngụy, bèn cùng vu cáo. Bấy giờ huyện Tể Lưu nghóa là người qua lại Đạo Khế nên tin lời sàm bậy ấy mà hành xử phi lý, dối kết đoán từ, ép buộc Đức Lân phải hoàn tục. Sa-môn Đức Lân chẳng giằng nỗi sự buồn hận ấy, trên đầu mang đội pháp y ca sa đối trước Tăng chúng mà khóc ròng, đem tâm tự thệ nguyện. Khi đó cả chúng Tăng đều buồn đau càng thêm sự phẩn kết, chỉ mặt Đạo Khế mà mỗi cự riêng chú nguyện bởi khó lường vậy. Qua sau đó vài ngày, Đạo Khế ở nơi phòng nằm ngủ giữa ban ngày, bỗng thấy có 4 vị Thần thân hình cao lớn cả trăm thước, mỗi một vị đều dẫn bộ chúng theo đến thẳng tới trước mặt Đức Lân. Trong đó có 1 vị thần với ánh mắt giận dữ bảo rằng: “Ta là Tỳ Sa-môn nên lại đây bắt lấy mạng ngươi. Ngươi là kẻ hay làm giặc hại người, cớ sao như vậy ư?” Rồi bảo lính quỷ đánh đập dào lộn, kéo ra. Đạo Khế kinh hãi kêu rống, âm thang nghe vang ngoài xóm thôn ngỏ vắng. Chư Tăng vội đua nhau chạy sang trông xem, thấy Đạo Khế cách đất vài thước, đầu tay đều rủ xuống, tai mắt miệng mũi đều trào máu, chậm chạp đi giữa khoảng không như có sự nâng đỡ, ra đến ngoài cửa đường thông, bỗng nhiên rơi nơi đất, tắt thở rồi sống lại, vừa nói được vài lời bèn qua đời. Khi đó các hàng Đạo tục đại khái đều lấy làm quái lạ vui mừng kéo đến. Những người có ý bài bác Hiền giả ghét ghen hàng tài đức không ai chẳng chí thành cải đổi tâm tư. Lưu Nghóa chính mắt trông thấy sự yêu trừng ấy nêu bày trải tim gan sám hối lỗi quá, thỉnh mời Sa-môn Đức Lân trở về lại chùa hoằng truyền Bảo Huấn. Sa-môn Đức Lân rộng giáo hóa dẫn dắt những người có duyên. Ghi tả trăm bộ kinh Pháp Hoa, ngàn bộ kinh Bát Nhã, thiết lập pháp hội muôn người, vì Đạo Khế mà tỏ bày sám hối, nguyện tiêu trừ oan chướng. Vị Sa-môn ở chùa Thạch Bích tại Tinh Châu thời tiền Đường ói nhả ra rắn và cải đổi sám hối. Ở chùa Thạch Bích tại Tinh Châu có một vị Sa-môn lạc mất họ tên, đố kî với người hiền, phần nhiều tạo những việc trái với Đạo. Trong chùa ấy có Sa-môn Minh Tịch là bậc giới hạnh tinh thuần ng- hiêm túc thật đáng bậc trú trì Phật pháp. Mỗi lúc muốn cùng chúng Tăng đồng tu Thiền tuệ, vị Tăng ấy kích động khuyên nhủ mọi người dứt tuyệt chánh pháp, trông xem Sa-môn Minh Tịch như là kẻ oán, môn đường phỉ báng, chẳng giằng nỗi sự sân hận độc hại, vị Tăng ấy cầm nắm dao muốn phóng làm hại. Trong chúng Tăng có vị tôn kính Thầy, nghiệp lý cao thuần đối trước chúng mà quở trách khiển phạt vị Tăng ấy, bảo cung kính đứng yên. Vị tăng ấy tuy theo lời Thầy mà tâm ý tức giận càng bền chắc, chư Tăng lớn nhỏ đều mở lời can gián, song chẳng nhổ khoải, cứ đứng yên như thế qua 2 ngày. Sa-môn Minh Tịch cùng chư Tăng trở lại theo xin hối tạ. Vị Tăng ấy chỉ trừng mắt tràn đầy hơi khí phẩn hận, dáng vẻ chuyển nên xấu ác. Thế rồi qua ngày thứ 3 ở trong phòng, vị Tăng ấy bỗng nhiên té ngã mà chết. Sa-môn Minh Tịch cùng thầy và chư Tăng v.v… bùi ngùi quái lạ buồn bả đau thương hận không rõ biết vật tình, bèn đến bên thi thể vị Tăng ấy sám hối lỗi quá mà tự trách. Lại vì chú đúc tôn tượng, chuyển đọc kinh pháp thay vì vị Tăng ấy mà giáo hóa tẩy trừ. Đến chiều tối, mắt vị Tăng ấy mở ra, hơi thở trở lại tiếp tục, mới ói nhả ra 1 con rắn thân dài hơn cả thước chạy ra ngoài cửa. Bỗng chốc vị Tăng ấy bèn sống lại. Từ đó, vị Tăng ấy nghó nhớ sám hối những tội khiên xưa trước, phụng hành các đức tánh từ nhẫn, kính thờ Sa-môn Minh Tịch như là bậc Thầy, bèn trở thành bậc Thắng só. Sa-môn Tuệ Kỳ ở chùa Hành Nhạc tại Hành Châu, thời tiền Đường mắc hoạn mù mắt mà khổ chết. Sa-môn Thích Tuệ Kỳ người xứ Tấn Châu, lưu ngụ xuất gia, đến ở chùa Hành nhạc tại Hành Châu, mà chí đạo rất kém cỏi, ghét ghen các bậc hiền giả lại quá lắm, bên ngoài tỏ vẻ hành trì oai nghi mà bên trong lắm sự thối nát. Có vị chủ chùa là Sa-môn Nghóa Bản là bậc danh Tăng cao hạnh, dẫn dắt nhiếp hóa mọi người khắp bốn phương, hoằng dương muôn Thiện pháp, ngày mồng 08 tháng 04 năm Tái sơ thứ nhất (689) thời tiền Đường, tại đài Bát Nhã chùa Hành Nhạc, vì chư Tăng thọ giới, khi ấy, Tuệ Kỳ tuổi nhỏ đức cạn, không được mời thỉnh dự tham trong số Thập sư, bỗng nhiên phát sinh phẩn hận, dẫn khơi mưu toan khác, vào chiều tối mồng 07, đến nơi chùa núi mà nói rằng: “Có người bảo tại xứ này hẳn phản nghịch, đóng binh sẽ tìm đến, sao được rối ren phóng túng mà tu tập vậy?” Khi đó, Sa-môn Nghóa Bản nói cùng Tuệ Kỳ rằng: “Ngươi muốn tạo duyên xấu ác phá hại pháp nhãn kẻ khác, nếu chẳng gấp sám hối thì khiến 2 mắt ông mù mất, hoặc sẽ mắc lấy bệnh hủi”. Tuệ Kỳ tỏ khí tức giận biến đổi sắc mặt bèn lần lừa mà trở lui, chưa đầy 1 tháng sau, Tuệ Kỳ sang chợ mua vật ở Tương Châu, nhân cảm mắc bệnh mù tối 2 mắt vô cùng đau nhức, vài ngày sau bèn qua đời. Vị Tu-đà-hoàn ở Tây Vức cảm mắc bệnh độc dữ nơi thân mình có trùng rúc rỉa ăn và hơi miệng hôi thối. Xưa kia tại Tây Vức, có vị A-la-hán đi hoằng truyền giáo pháp tên là Ưu-ba-cấp-đa, dẫn 1 đệ tử đi khất thực, đến nhà Chiên-đà-la. Có 1 người con của Chiên-đà-la đã chứng quả Tu-đà-hoàn, nơi thân cảm mắc bệnh độc dữ, khắp cùng thân thể đều bị trùng rúc rỉa ăn, hơi miệng hôi thối, vị đệ tử hỏi rằng: “Bởi duyên gì mà vị Tu-đà-hoàn ấy bị quả báo như thế?” Ngài Ưu-ba-cấp-đa đáp rằng: “Người này đời trước xuất gia làm vị Duy-na. Bấy giờ trong chúng có 1 vị La-hán ở đó mắc bệnh độc dữ cào gảy phát ra tiếng. Vị Duy-na bảo rằng: “Trùng rúc rỉa ăn thịt ông mà phát ra tiếng ấy ư?” Liền nắm cánh tay kéo ra và nói: “Ngươi vào ở nhà Chiên-đà-la”. Vị La-hán ấy bảo: “Ông nên tinh tấn, chớ qua lại nơi chốn sinh tử mà nhận chịu khổ!” Khi đó, vị Duy-na bèn liền sám hối, sám hối xong chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Nay là người con nhỏ trong nhà này vậy. <詞>GHI VỀ SÂN HẬN THAM HÈN. Vị Sa-di ở Tây Vức tham thích mùi vị ngon, ôm hoài phẩn hận, hiện thân biến làm thành rồng. Xưa kia, tại nước Kiền-đà-la ở Tây Vức, có vị A-la-hán thường thọ nhận sự thỉnh mời của Long vương ở trong hồ trên đỉnh núi tuyết vào nơi cung điện để cúng dường mỗi ngày đến giờ cơm trưa, vị A-la- hán ấy dùng sức thần thông ngồi nơi thằng sàng bay bổng giữa hư không mà sang. Có vị Thị giả Sa-di kín núp vào dưới thằng sàng vin theo ngầm đến cung rồng, Long vương nhân đó thỉnh mời ở lại thọ trai, và dùng cơm cam lồ cõi trời mà dâng cúng vị A-la-hán, còn đem các thức ăn ở nhân gian để tiếp đãi vị Sa-di. Vị A-la-hán dùng bữa xong, vị Sa-di ấy thâu dọn tẩy rửa chén bát, nơi chén bát còn dính thừa vài hạt cơm, tỏa ngát mùi vị thơm tho, vị Sa-di ấy liền hận Thầy mình và tức giận rồng, bèn khởi tâm nguyện xấu ác: “Nguyện tất cả phước lực đã có được thảy đều hiện đoạn dứt mạng rồng này, và ta tự làm vua”. Và khi vị Sa-di ấy phát lời nguyện đó, Long vương cảm thấy trên đầu đau nhức, rồng tuy sám tạ, nhưng vị Sa-di ấy chẳng chịu nhận. Thế rồi trở về lại chốn Già lam, vị Sa-di ấy càng chí thành phát nguyện, nghiệp ác cảm đến, đêm đó vị Sa-di ấy mạng chung làm Đại Long Vương, oai thế hùng mạnh phấn phát bèn vào nơi hồ mà giết Long vương và ở tại cung rồng. Do có bệ thuộc, vì ước nguyện xưa trước nên dấy nổi gió bảo tuôn đổ mưa, bẻ nhổ cây cối, muốn phá hoại ngôi Già lam. Khi ấy vua Ca-nặc-sắc-ca lấy làm quái lạ phát hỏi, vị A-la-hán ấy đem sự việc đó tấu trình đầy đủ cùng vua. vua đã vì rồng ( vị Sa-di ấy) đến dưới chân núi tuyết dựng lập ngôi Già lam và ngôi Bảo tháp cao hơn trăm thước. Rồng thường luôn luôn phá hoại đó, và vua vẫn đeo đuổi sửa sang lại có đến 7 lần hư hoại 7 lần tạo dựng. vua vì khuất nhục ấy sắp muốn khỏa lấp hồ rồng, rồng kinh sợ mà sám tạ rằng: “Tôi vì nghiệp ác thọ thân làm rồng, rồng vốn tánh mạnh dữ hung bạo chẳng thể tự gìn giữ. Nếu nay xây dựng lại ngôi già lam, Tôi không còn dám phá hủy nữa. Có thể thường luôn sai bảo người trông nhìn trên đỉnh núi có mây đen nổi lên thì liền gấp gióng chuông. Tôi nghe được âm thanh ấy thì tâm niệm xấu ác sẽ chấm dứt”. Đến nay việc ấy vẫn chẳng ngưng dứt vậy. Sa-môn Pháp Hạnh là bạn đồng học với ngài An Thế Cao ở Lạc Dương thời nhà Hán nhận chịu thân trăn rắn. Sa-môn Thích Pháp Hạnh vốn người nước An Tức, là bạn đồng học với Thần Tăng An Thế Cao, tánh tình có lắm sân hận. Những lúc đi khất thực lần lượt giữa đường, như thí chủ cúng dường không xứng ý, bèn liền oán giận, ngài An Thế Cao chợt cản ngăn đó, song pháp hạnh vẫn không tâm ý sửa đổi, cứ như vậy hơn 20 năm, ngài An Thế Cao sắp giả biệt cùng từ quyết rằng: “Tôi phải sang Quảng Châu để đền trả cho xong việc đời trước. Ông là người sáng tỏ kinh điển, tinh cần chẳng thuộc sau tôi mà tánh tình có lắm sân hận, sau khi mạng chung sẽ phải nhận chịu thân hình xấu ác. Nếu tôi đắc đạo sẽ vì cùng cứu giúp”. Thế rồi, sau khi pháp hạnh qua đời bèn làm thần nơi miếu Hồ cung đình. Ngài An Thế Cao khi đã đắc Đạo, bèn sang miếu ấy. Tại miếu ấy xưa trước có oai linh, càng hàng thương lữ thuyền nhân đặc biệt nghó nhớ kính sợ. Ngài An Thế Cao cùng hơn 30 thuyền mang theo muông sinh dâng cúng cầu phước. Thần mới giáng hiện chú nguyện rằng: “Trong thuyền có Sa-môn, có thể nên kêu lên”. Các thuyền khách trở lại kinh ngạc thỉnh mời ngài An Thế Cao vào miếu. Thần nói rằng: “Xưa trước ở ngoại quốc, tôi cùng ông đồng xuất gia học Đạo, khéo thực hành bố thí mà tánh tôi có lắm sân hận, nay làm thần ở miếu. Chung quanh đây trong vòng ngàn dặm đều do tôi cai quản, bởi nhờ sự bố thí nên các thứ trân quý rất lắm nhiều, và cũng bởi tánh tình sân hận nên bị sa đọa nhận chịu quả báo làm thần đây. Nay thấy được bạn đồng học, buồn vui có thể nói, chứ thọ mạng sẽ hết chỉ trong sớm tối, mà thân hình xấu xí dài lớn nếu xả mạng tại đây thì bẩn dơ khắp cùng sông Hồ, nên phải sang trong đầm ở phía Tây núi. Sau khi thân này chết mất, thần thức sợ sẽ đọa vào địa ngục. Tôi có ngàn xấp lụa quyên và các tạp vật quý báu, nên lấy đó vì tôi mà dựng chùa tạo lập tháp khiến tôi được sinh về cõi tốt lành! Ngài An Thế Cao bảo: “Tôi cố đến cùng cứu giúp, cớ sao chẳng xuất hiện hình?” Thần nói: “Thân hình tôi rất xấu xí, mọi người trông thấy ắt kinh sợ!” Ngài An Thế Cao bảo: “Chỉ nên xuất hiện, mọi người chẳng lấy làm quái lạ vậy”. Thần từ dưới giường ló đầu lên, mới là trăn rắn rất lớn, buồn khóc như mưa, chốc lác liền ẩn lại. Ngài An Thế Cao bèn lấy lụa duyên và các vật rồi từ biệt mà đi. Thuyền khách căng buồm, trăn xuất hiện thân hình leo lên núi mà ngóng trông, mọi người đưa tay vẫy chào, sau đó trăn mới ẩn mất. Ngài An Thế Cao đi đến Dự Chương dùng các vật tạo dựng chùa. Bỗng chốc mà thần đã bỏ mạng, tâm thức đến cùng báo rằng: “Được sinh về chốn tốt lành”. Sau đó có người đến trong đầm ở phía Tây núi có xác trăn nằm chết, từ đầu đến đuôi dài hơn vài trượng. Nay tại huyện Tần Dương có thôn đại xà là đó vậy. Sa-môn Đàm Toại ở chùa Tây Trần thời tiền Tống sau khi qua đời làm thần miếu. Sa-môn Trúc Đàm Toại, không rõ người xứ nào. Thuở thiếu thời vân du phóng đảng, chẳng tu giới hạnh mà khinh ngạo tự khoe, lúc trưởng thành thì lại trộm cướp. Hoặc giả có ai nói một lời nào xúc phạm bèn tích chứa nhiều năm vẫn ôm hoài tức giận. Đồng ở trong chùa mọi người lớn nhỏ, không ai chẳng bị Đàm Toại oán giận. Từng một đêm nọ, Đàm Toại mộng thấy 1 người nữ đến bảo rằng: “Tuy theo nghiệp sẽ làm thần miếu Thanh Khê”. Về sau, cảm mắc bệnh, đến lúc sắp qua đời, Đàm Toại nói cùng các bạn đồng học rằng: “Tôi lúc bình sinh có lắm sự trái nghịch, ít điều chất thức ngay ngắn. Lại vì phước đức cạn mỏng, sẽ phải nhận chịu làm thân quỷ thần, làm chủ miếu Thanh Khê, các bạn là người có duyên, có thể rủ lòng sang phỏng hỏi đó!” Kịp đến lúc Đàm Toại qua đời quả nhiên nghe nói miếu có thần mời. Các Đạo nhân sang đến trong miếu cùng nhau trò chuyện, lời tiếng nói cười còn như lúc đang bình sinh vậy. Mới thỉnh mời chư Tăng đọc tụng kinh điển. Có Sa-môn Tuệ Cận là người trước kia thường đọc tụng, nhân vì làm sổ khế ước, mỗi lần xong bèn ngâm lắng. Nhân đó nói: “Nay tôi nhận chịu thân ác, xấu xí dơ bẩn chẳng thường, khốn khổ quá lắm, sao có thể tỏ bày lại được. Nên bảo đệ tử dưới ngạch cửa nơi phòng cũ của tôi có 5000 tiền, nên vì lấy đó để tu tạo viêc phước, ngỏ hầu tôi được lìa khỏi khổ này!” Từ đó bèn cùng cách biệt, chư Tăng vì thiết trai sám hối, nơi miếu bèn vắng lặng không còn vết tích của thần nữa vậy. Sa-môn Đạo Tuấn ở Thanh châu thời nhà Tề keo kiệt của cải nên cảm mắc bệnh nặng. Sa-môn Đạo Tuấn vốn dòng họ Vương, chẳng tu giới hạnh, chỉ chuyên tạo dựng sự nghiệp ruộng vườn, tích chứa các thứ vải bố lụa quyên, lụa nhũn v.v… đầy cả muôn kế mà tham tiếc keo kiệt chẳng nhổ ra một sợi lông. Về sau bỗng nhiên cảm mắc bệnh nặng, nơi chỗ ẩn kín dính liền đại tiện tiểu tiện chẳng thông, thân mạng sắp muốn dứt mất. Tại chùa đó có 1 vị Pháp sư đến vì giảng pháp, tâm trí Sa-môn Đạo Tuấn có chút khai ngộ, bèn xả một phần ba của cải vốn có thí cúng khắp cùng, vừa mới xong thì cơn bệnh ấy nhẹ khỏi hẳn. Sau khi cơn bệnh tạm lành được vài ngày, Sa-môn Đạo Tuấn kiểm xét trên gác thấy không có các vật, nghó nhớ tiền của, khi ấy bèn thành cuồng loạn, chuyên xướng giặc rằng: “Chư Tăng ở các chùa lại cướp vật của tôi”. Những vị đồng bạn bèn vì can gián. Song, mới đầu không sự tỉnh ngộ, vị Pháp sư ấy mới báo khắp chư Tăng ở các chùa khiến hoàn trả lại các tài vật. Sa-môn Đạo Tuấn thấy các vật rồi, tiếng kêu than mới ngưng dứt. Một vài ngày sau, bệnh cũ phát lại, khốn khổ càng quá lắm. Lại thỉnh mời vị Pháp sư ấy đến xin của cải sám hối. Vì Pháp sư ấy chê trách rồi khuyên răn khiến xả bỏ tâm tánh keo kiệt tham lam, trở lại cúng thí các vật ngày trước, bệnh ấy lại giảm đỡ. Sau khi đã lành, Sa-môn Đạo Tuấn lại nghó nhớ đến tiền của thường ôm hoài phẩn hận. Vài ngày sau đó bèn qua đời. Lúc chết, mắt sưng lớn như cái chén, khắp thân thể biến thành sắc màu hồng đỏ. Sa-môn Đàm Lượng ở Tống Châu thời nhà Tề keo kiệt tham tiếc của cải biến làm thành thân rắn. Sa-môn Đàm Lượng, người dòng họ Phó, xuất gia từ tuổi bé thơ, ít theo tập học, vì phước trước nên được lợi dưỡng, giàu có tích chứa, gấm lụa tính ra hơn cả vạn mà keo kiệt ngu đần tự khốn khổ, thân chẳng ăn mặc. Có Thiền sư Nghiêm ở Bắc châu là bậc giới hạnh tinh thuần, mỗi năm thường thỉnh mời các bậc danh đức đọc tụng Đại Tạng kinh 1 biến, nghe Đàm Lượng giàu có nên sang bảo xin, Đàm Lượng bèn đối lại mở lời sân hận mắng trách rằng: “Ông đã tự có ăn mặc, cớ sao lại đến cùng não hại?” Hoặc có người khốn khổ đến cầu xin, Đàm Lượng cũng lại mắng rằng: “Người sa đọa chẳng chuyên cần đến nỗi phải bần cùng khốn khổ”. Từ trẻ nhỏ đến người già, Đàm Lượng chẳng từng xả thí một mảy may. Về sau, mắc phải bệnh hoạn khốn đốn quá lắm, Chư Tăng trong chùa sang thăm hỏi. Từ xa thấy, Đàm Lượng trố mắt tức giận bảo rằng: “Trọn chẳng phải là có tâm tốt, chỉ vì cần đến vật của ta mà đến”. Năm ba ngày sau vắng bặt không một người sang thăm hỏi. Lại ở nơi hợp tối tăm, bèn đóng kín cửa, Đàm Lượng nằm trên rương tráp vài ngày. Chư Tăng thử đến trông xem mới thấy biến thành một con rắn dài vài trượng cuộn tròn nằm trên rương tráp, chư Tăng bèn bảo người đưa rắn đi nơi khác, sau đó rắn cũng trở về lại. Về sau đem đặt để nơi hầm hố sâu, bèn tuyệt mất không còn thấy nữa. Sa-môn Đạo Tuệ ở Tề Châu thời nhà Tề có tiền ban đêm bỗng dời chạy đi (Phụ, Sa-môn Đàm Tuệ). Sa-môn Thích Đạo Tuệ vốn dòng họ Trương, là người giới hạnh phần nhiều khiếm khuyết, chỉ chuyên mong cầu tiền tài của cải, chỉ trong vài mươi năm mà có được 2500 quan tiền, thuần dùng sợi dây gai tự tay xỏ buộc, mỗi mỗi văn tiền cùng hướng mỗi mỗi lưng cùng đè lấy. Đến khi mãn kỳ đủ 3000 quan tiền mới sắp phí dùng. Về sau, mộng thấy có một vị Tăng bảo rằng: “Người keo kiệt tham tiếc tiền của chẳng chịu tu tạo phước. Tại Ương Châu có Lý Đức Thắng đang doanh tạo tạo công đức, nay đem tiền của người đưa sang cho người đó khiến tu tạo phước nghiệp”. Sau khi tỉnh mộng, kiểm xét lại tiền quả đúng nhơ lời nói nên không trông thấy, bèn buồn rầu đến nỗi ói trào ra huyết. Đến sáng ngày chẳng bước ra, chư Tăng ở phòng bên cạnh bèn sang hỏi. Đạo Tuệ trình bày rõ ràng về sự việc gì. Chúng than kêu quái lạ vậy. Đạo Tuệ bèn sang Tương Châu tìm hỏi Lý Đức Thắng. Lý Đức Thắng bảo: “Đúng thật có vậy, hồi đêm đệ tử nghe tiếng như 2 thạch đấu, đến sáng sớm nay tìm kiếm, ở dưới cỏ Tể có được 1500 quan văn và dước trúc um tùm có được 1000 quan. Tuy nhiên tiền của Sư có chứng cứ gì?” Đạo Tuệ y như thật mà đáp đó. Lý Đức Thắng đem tiền tự kiểm nghiệm quả nhiên chẳng khác, nên bảo: “Tiền tài thuộc ở nhà tôi, nên trước dùng được, Sư đã không dùng, Thiên thần đoạt lấy đó đưa đến cho đệ tử khiến tu tạo phước nghiệp”. Lý Đức Thắng mới đối cùng Đạo Tuệ phân tán 1500 quan để doanh tạo công đức, còn 1000 quan trao cho Đạo Tuệ và khuyên nên bố thí, mà bảo rằng: “Nếu như còn keo lận tham tiếc, thì không lâu sẽ hoàn trả lại”. Đạo Tuệ có được tiền liền bố thí, không dám lưu giữ nữa. Lại nữa, tại Bột Hải có Sa-môn Đàm Tuệ có 100 quan văn tiền, úp mặt của mỗi mỗi quan tiền hợp nhau đựng đầy trong rương tráp. Khi đi khỏi phòng nhà, Đàm Tuệ ngủ mộng thấy mất số tiền ấy và có tiềng nói là “Do họ tên (…) người ấy ở phường Đàn tại Tinh Châu lấy đi”. Sau khi tỉnh mộng trở về kiểm xét mở rương tráp ra trông xem thì thật không có số tiền ấy, bèn y theo mộng báo sang đến nhà người ấy khất thực. Người chủ ấy đáp: “Nghèo khổ không có cơm”. Đàm Tuệ nói: “Mới được trăm quan văn tiền làm gì hết?” Người chủ ấy kinh ngạc đáp: “Thật là mới có được tiền, xin sẽ dâng cúng ông”. Đàm Tuệ chối từ, bảo: “Trời đem tiền đó cho ông bần đạo không được lấy đó vậy”. Sa-môn Tăng Cương ở chùa Đại Từ tại Tương Châu thời nhà Tùy chẳng hay cúng dường bị thần quở trách. Sa-môn Thích Tăng Cương từ thuở thiếu thời chuyên hành tập Thiền pháp, cùng Sa-môn Hồng Hiến đồng ở chung phòng. Ngài Hồng Hiến giới hạnh tinh chuyên hiển trước, từng cảm có 1 vị thần tự xưng tên là Bát Nhã đến cầu thọ giới và thường luôn cùng đàm nói. Tăng Cương tánh lắm keo kiệt. Bát Nhã bèn lấy các thứ y vật đó cúng thí cho ngài Hồng Hiến, ngài Hồng Hiến đem việc ấy báo cùng Tăng Cương, như Tăng Cương trọn chẳng tin. Thần bèn mở toan phòng ở của Tăng Cương, đem các thứ y vật để đầy trên bàn, lẫn lộn khắp cùng sân, quạt trúc cân thước đều bẻ gảy vài đoạn. Thần ở giữa không trung nói rằng: “Sa-môn Tăng Cương chẳng hay khéo thiết lập trai hội cúng dường Tam bảo, Ta gieo họa mà ngươi chưa tỏ sáng”. Tăng Cương chẳng biết làm sao, chỉ sợ bức bách không thôi, bèn đem tất cả của cải chi phí của riêng mình tu tạo các trai phước. Bát Nhã bảo: “Đã thực hành tu tạo phước, nay cùng buông thả vậy”. Vị Lão tăng ở chùa Linh Quang tại Tể Châu thời tiền Đường tiếc lận bình bát, bị bạo tử biến thành thân rắn. Ở chùa Linh Quang tại Tể Châu, có 1 vị Lão tăng mất họ tên tịnh tu giới hạnh, thường trì một bình bát hơn vài mươi năm từng sai bảo người khác bưng cầm xúc chạm. Về sau, nhân có công việc gấp nên bảo vị Sa-di tẩy rửa bình bát đó. Vì Sa-di ấy bị sẩy tay làm rơi vỡ bình bát đó. Lão Tăng nghe thế kinh hãi kêu mất tiếng, hận tiếc quá lắm bèn xếp nằm mà qua đời. Các đệ tử đưa đi an táng nơi đồng hoang trống. Qua vài ngày sau Lão Tăng biến hóa làm con rắn lớn quấn quanh vị Sa-di ấy từ chân lên đến đảnh đầu và cúi đầu xuống dưới sắp muốn nuốt sống vị Sa-di ấy. Chư Tăng thấy vậy kinh hãi chú nguyện rằng: “Chỉ bởi duyên cớ 1 bình bát, keo lận sân hận ác độc chết rồi làm thân rắn, chẳng chịu cải hối tội khiên xưa trước, lại muốn nuốt giết đệ tử, tội nghiệp rất lắm, cớ sao như thế ư?” Và rộng vì giảng nói các pháp thiện ác, thay thế vì đó mà sám hối phát nguyện, lâu sau, rắn mới mở giải khỏi thân vị Sa-môn ấy mà bỏ đi. Vì Sa-di ấy mê ngất kinh sợ hơn 10 ngày sau mới dần tỉnh lại. Sa-môn Thích Trí Bảo ở chùa Thắng Quang tại kinh đô thời tiền Đường sau khi qua đời làm Thần nơi tháp. Sa-môn Thích Trí Bảo, người xứ Hà Đông, xuất gia từ thuở thiếu thời. Do giới hạnh mà vang danh, tài trí đầy đủ, Tăng truyện cụ thể vậy, mà lập tánh cứng rắn, ít tâm từ thuận. Đến lúc sắp tịch, bảo cùng người bạn là Sa-môn Tuệ Mãn rằng: “Tôi muốn chết vậy mà quả báo trong tương lai, tinh thần không được siêu thoát ưu thắng, tợ như là làm thần giữ chùa ở nơi viện phía Tây Phật điện. Tôi từng dùng pháp để xua đuổi đó mà trọn chẳng thể xa lìa!” Nói xong bèn thị tịch. Từ đó ở viện phía Tây Phật điện, mọi người ít ai dám đến một mình. Những lúc cần mở cửa, không ai chẳng kinh sợ dựng đứng cả lông tóc. Sau sau hơn trăm ngày, có một bà lão cất giấu thức ăn và rượu bụng đem vào cho 1 vị Tăng, vừa mới đi đến cửa chùa, bỗng nhiên gặp bị Thần hại, thân nằm chết nơi đất, các vật vung vãi, chúng Tăng trong chùa kinh sợ đó, mới biết là có chứng nghiệm vậy. Vị Lão Tăng ở chùa Hưng Luân tại nước Tân La thời tiền Đường biến làm thân rắn (Phụ: Một Cô Ni). Ở chùa Hưng Luân tại nước Tân La, vị Lão Tăng thứ nhất quyết tên là Đạo An, xuất gia từ thuở nhỏ liền ở chùa ấy, lại thông rành các kinh luận nên rất được mọi người lớn nhỏ tôn kính. Nhưng đối với mọi sự cơm nước ăn uống riêng hay ưa thích chọn lựa, như có một thứ trái với tâm mình bèn liền roi gậy vung vãi, nên sớm tối thường luôn chẳng an ổn trong phòng nhà. Chúng Tăng tuy khốn khổ đó mà chẳng ai có thể cứu vớt ngưng dứt. Về sau, nhân cảm mắc tật bệnh quá lắm so từ trước trở lại, chửi mắng sân đánh ném vất các vật, trong ngoài thân gần không ai dám đến dòm xem, qua vài ngày sau bèn biến làm thân rắn dài hơn trăm thước, kêu rống, ra cửa đi thẳng vào trong rừng hoang. Các hàng Đạo tục thấy nghe, không ai chẳng thương tâm mà răn dè. Ở xứ đó, lại có một Cô Ni tánh cũng lắm sân hận, sau khi qua đời vài ngày hiện hình về báo cùng Thầy rằng: “Sinh ở nơi chốn xấu ác bị làm thân rắn ở tại phía Nam thành”. Rồi khóc lóc từ bỏ đi. Sau đó quả nhiên ở phía Nam thành cách chừng vài dặm có 1 con rắn đầu lớn như cái đấu, thân dài 3 trượng, đi thì uyển chuyển, gặp người hẳn rượt đuổi. Những người gặp rắn phần nhiều đều bị chết, hiếm có người thoát khỏi. Người vật qua lại rất lấy làm răn dè vậy. <詞>GHI VỀ HỌC THẾ TỤC KHÔNG BỔ ÍCH Tiên Ba Dó Ni ở Tây Vức tạo Thanh luận đến đời sau không nghiệp học. (Rút từ Tây Vức truyện). Xưa kia, sau khi Đức Như Lai diệt độ khoảng 500 năm, có vị A- la-hán từ nước Ca-thâp-di-la đến ấp Bà-la thuộc nước Kiền-đà-la, thấy 1 vị Phạm Chí răn dạy trẻ thơ. Vị La-hán ấy hỏi: “Cớ sao làm khổ con trẻ vậy?” Phạm Chí đáp: “Bảo nó học Thanh minh mà nghiệp chẳng lúc nào tiến triển!” Vị La-hán thở dài mà cười. Phạm Chí thưa rằng: “Sa- môn lấy từ bi làm tâm tình thương xót mọi vật loại. Với sự mỉm cười nay đây của Nhân giả, tôi xin được nghe bởi duyên cớ gì?” Vị La-hán hỏi: “Ông có từng nghe Tiên ba Dó Ni chế thuật Thanh minh luận để răn dạy ở đời ư?” Phạm Chí đáp: “Đã có nghe”. Vị La-hán bảo: “Con của ông tức là Tiên ấy vậy”. Do vì cưỡng học ham thích theo sách thế tục, chỉ đàm nói Dị luận chẳng rốt ráo chân lý, thần trí mất hết, lưu chuyển chưa dứt. Xưa kia tại bờ của Nam Hải có một cây khô, tại đó có 500 con dơi ở trong hang. Bấy giờ có đoàn thương khách đến dừng ở dưới cây, gặp lúc gió đông, mọi người đều đói lạnh bèn chất củi đốt xông phía dưới cây, khói cháy dần mạnh cây khô, tự bị đốt cháy, trong số thương khách ấy có một người khách buôn vào lúc sau nữa đêm đọc tụng A-tỳ- đạt Ma tạng, thỉnh nguyện các con dơi ấy tuy bị lửa đốt khốn khổ nhưng mến thích pháp âm đành nhẫn chịu chẳng bay đi. Do đó, đàn dơi mạng chung thọ sinh trở lại được làm thân người, bỏ nhà thế tục để tu học, nhờ nghe pháp âm nên thông minh lợi trí đều chứng Thánh quả. Nên khi vua Ca-ni-sắc-ca cùng Hiếp Tôn giả chiêu tập 500 Hiền Thánh ở nước Ca-thấp-di-la trước thuật Tỳ-bà-sa luận đó đều là 500 con dơi xưa trước ở trong cây khô ấy vậy. Tôi tuy là kẻ ngu hèn cũng thuộc 1 trong số ấy vậy. Đó thì hơn kém tốt lạ bay nằm khác nhau. Nhân giả nay mến thương con thì nên đi xuất gia. Công đức ấy rất lớn không thể thuật nói rõ hết”. Khi ấy, vị La-hán nói lời đó rồi thì hiện các sự thần thông, và nhân đó bỗng nhiên không thấy nữa. Phạm Chí rất sinh kinh dị bèn cho người con ấy xuất gia vậy. Sa-môn Tuệ Lâm ở chùa Bành Thành thời tiền Tống phỉ báng Phật pháp bị lưu đày và mắt mù lòa (Phụ: Sa-môn Tuệ Hưu). Sa-môn Thích Tuệ Lâm, vốn dòng họ Lưu, người xứ Tần Quận, khéo thông các kinh và Trang Lão, chê bai khôi hài, hay khéo nói cười, có sở trường về việc chế tác, nên nhóm tập có 10 quyển. Mà vì tánh ngạo dối rất tự khoe khoan. Thầy của Tuệ Lâm là Sa-môn Đạo Uyên là vị Tăng rất có học hạnh. vua Văn Đế (Lưu Nghóa Long 424-454) thời tiền Tống rất mực mến quý. Ngài Đạo Uyên thường đến chỗ Phó Lượng, Tuệ Lâm đã ngồi ở đó trước, lúc ngài Đạo Uyên đến, chẳng chịu đứng dậy thi lễ, ngài Đạo Uyên tức giận hiện rõ trên nét mặt. Phó Lượng bèn phạt đánh 20 trượng. Về sau, Tuệ Lâm trước thuật “Bạch Hắc luận” dèm pha chê trách Thích giáo. Nhan Diên Chi và Tống Bính khó bác bỏ luận của Tuệ Lâm, mới có hơn ngàn lời. Tuệ Lâm đã tự phá hủy giáo pháp ấy bèn bị ruồng đuổi đến Giao Châu. Nhân cảm mắc bệnh mắt mù, qua sau vài năm phẩn kết mà qua đời. Luận ấy hiện ghi đầy đủ trong “Hoằng Minh tập” của Sa-môn Tăng Hựu ở thời nhà Lương vậy. Sa-môn Tuệ Hưu tự là Mậu Viễn, vốn dòng họ Thang, ở chùa Trường Can. Lưu Đảng tự do, thích rượu ham sắc, khinh thường đồng bạn trong thích giáo, chiêu mộ tâm ý thế tục, nắm bút tạo nên văn thơ, văn từ rất rõ rệt, như chẳng thẳng nuốt lời của áo đen cũng là bít miệng trên đời. Từ đó, tiếng tăm chóng bay cao, tài bén trội vượt. Tốt lành của Thanh Diễm có vượt cả ca xưa, lưu chuyển vào phương Đông đều khéo giỏi ca vịnh, Chỉ Quý thường ngợi khen tuyệt luân. Tự cho là nhỏ hèn chẳng muốn bãi bỏ Đạo. Đang lúc bấy giờ có các hàng Thanh Hiền thắng lưu đều cùng tán thưởng mến chuộng đó. Đến đời vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 454-465) thời tiền Tống, mời vị ban sắc buộc hoàn tục, bổ nhậm Dương châu văn học tùng sự. Ý khí đã cao nên Tuệ Lâm rất có hổ thẹn. Lại gặp xuất bổ nhậm câu dung lệnh, bèn không được thỏa ý mà qua đời. (Rút từ Trần ước Tống thư). Sa-môn Trí Lăng ở thời Lương Ngụy bải bỏ Đạo, khinh hủy giáo pháp nên bị mất tiếng và lưỡi cuốn lại. (Rút từ Đạo học truyện, và Phụ: Vương Bân). Sa-môn Thích Trí Lăng vốn dòng họ giả, xuất gia từ tuổi bé thơ, phụng thờ Sa-môn Đạo Thừa làm Thầy. Trí Lăng thông ngộ quá vượt người, lại có sở trường về hài hước, khéo giỏi các kinh Niết Bàn, Tịnh Danh, rất công kích về số luận. Với 2 thứ sách của Trang Lão lại càng là chỗ lưu tâm. Về sau, gặp lúc giặc dã nên Trí Lăng hoàn tục. Sinh kế đã thường rỗng không, lại vì Đạo só mạnh Tất Đạt luôn qua lại dẫn dụ cung cấp cho mọi chi phí sớm tối, nên dụ khiến làm Hoàng Cân. Trí Lăng thẹn vì ân huệ ấy, nhân đó mà bèn theo. Đã có tiếng tăm từ xưa trước nên bèn vì Đạo Tông. Giảng giải về “Tây Thắng Diệu Chân” và các Đại nghóa đều phát xuất đầu tiên Trí Lăng vậy. Mà các kinh của Đạo gia đại khái đều không Tông chỉ, Trí Lăng bèn tham cứu Phật giáo vì đó mà nhuận sắc. vua Võ Đế lúc chưa xả bỏ Đạo từng dẫn Trí Lăng đến điện Ngũ Minh để dựng lập nghóa. Đến lúc tuổi già, Trí Lăng ở Diệu môn quán vì các Đạo só mà giảng “Tây Thăng kinh”, tại nơi hội tòa có vài trăm người mà Trí Lăng mạnh dạng nêu dẫn kinh Phật vạch chiết phù hợp, ngôn từ chống báng thẳng hơi hân hoan tỏ vẻ tự đặc. Bỗng chốc mà mất tiếng, lưỡi cuốn xuống dưới, môi răng cùng cách xa vài tấc, chỉ đổ lệ mà thôi, bèn chết nơi giảng tòa vậy, các hàng thức giả nghe thế, lấy làm ứng nghiệm bởi khinh hủy giáo pháp vậy. Lại có Vương Bân, thuở thiếu thời cũng làm Sa-môn. Ngôn từ thanh biện kiêm khéo giỏi Văn nghóa, mà tánh dụng thô tháo gian dối phần nhiều trái với giới hạnh, hình thể kỳ quái tánh tình khác lạ làm việc chẳng thường, luôn mang giày cỏ đến ngồi trên tòa, hoặc mang guốc rảo bước giữa đường thông, đã từng trái nghịch với chúng Tăng, bèn bỏ Thích giáo theo Đạo giáo, vì do tài giỏi tư duy trong lành mới lạ nên ở hàng cao vọng của Hoàng câu. Thiệu Lăng Vương nhã cùng thường tiếp, xưng gọi là “Tam giáo học só”, có trước thuật các bộ Đạo gia Linh Bảo đại chỉ, tổng xưng Tứ Huyền, Bác Cảnh, Tam Đổng, Cửu Huyền v.v… có vài trăm quyển, phần nhiều là dẫn từ kinh Phật, nên có các từ nhân duyên, pháp luân, ngũ đạo, tam giới, thiên đường, địa ngục, ngạ quỉ, túc thế, thập hiệu, thập giới, thập phương, tam thập tam thiên v.v… Lại cải đổi Lục Thông làm thành Lục Đổng, như nước Uất đơn lại gọi là thế giới khí hiền, cũng có các ngôn từ Đại phạm, Quán Âm, Tam bảo, Lục tình, Tứ đẳng, Lục độ, Tam nghiệp, Tam tai, Cửu thập lục chủng, Tam hội, Lục trai v.v… Lại soạn ngũ cách bác, đều là pháp luận nạn. Sa-môn Thích Minh Giải ở chùa Phổ Quang tại kinh đô thời tiền Đường bãi bỏ Đạo, sau khi thân chết về gá mộng. Sa-môn Thích Minh Giải tự là Chiêu Nghóa, vốn dòng họ Diêu, người xứ Võ Khương, Ngô Hưng, xuất gia từ tuổi bé thơ ở chùa Phổ Quang tại Tây kinh. Bẩm tánh thông mẫn, ít có văn tảo, đàn sách xanh đỏ, bấy giờ chẳng cùng đua tranh. Vả lại, gieo giống tam tuyệt, nhưng khoe anh biết cạn, dính trệ nài tửu sắc hoang tình. Bởi vì chỗ biết của kẻ văn hợp, chỗ bỏ của hàng trinh thuần. Mỗi lúc thấy kẻ chẳng học đến hỏi, chư Tăng phần nhiều xưng gọi đó là “Lừa con”. Năm Hiển Khánh thứ 5 (660) thời tiền Đường. vua Cao Tông (Lý Trị) tạo dựng chùa Tây Minh, sưu tìm những bậc Long tượng để thỉnh mời đến ở đó. vua lấy một người sai bảo đến chỗ Pháp sư Linh Nhuận ở chùa Hoằng phước rõ ràng tuyển chọn có được chăng? Bấy giờ có vài người thuộc hàng liêu tể đến chỗ ngài Linh Nhuận, đề cử Minh Giải. Ngài Linh Nhuận bảo: “Các ông là Quốc khí danh thần mở lời không phải dễ, nên tìm cầu những bậc có giới định tuệ học để tăng trưởng phước điền, cớ sao lại nên cử kẻ khách rượu thầy họa để đáng làm hồng kỷ?” Các quan v.v… kinh sợ đổi sắc mặt toát đổ mồ hôi, rụt rè giây lát rồi rút lui. Minh Giải nhân đó lại rất mực căm hận, vô cùng khinh thường Pháp Hoa. Bỗng chốc mà lên đạt Tứ khoa, chẳng can gián các hàng Đạo tục, Minh Giải ứng theo chiếu ban tự giất cung tên roi ngựa lên để, vui mừng nói cùng người bạn rằng: “Nay, Minh Giải tôi được xả bỏ da lừa con mà trở lại thân người vậy!” Nhân đó đặt rượu thiết hội vui mừng, thuật lại chí ý của mình mà làm thơ rằng: “Nhất thừa vốn chẳng có Tam không quy chỗ nào May được chiếu cửa vàng Đi lúng ngời ngọc sáng Chưa thể bằng ta vật Còn nghó biết thị phi Nhờ ông đồng tâm hợp Biết chí tôi chẳng sai Màn ngang mây lá cuốn Rượu bằng hoa lựu bay Gởi lời giường chỏng giữ Xa ông chẳng ngồi oai”. Nhân đó đề ghi lớn vách tường rằng: “Mẹ già còn sống Phạp phục lìa thân Đường trước đen tối Sóng gợn mở sáng ( minh giải).” Minh Giải chán ghét đó. Sau đó không bao lâu, cảm mắc bệnh, Minh Giải thấy vài mươi người hình dung lạ lùng, mỗi người tự cầm nắm khuôn mạnh mẻ đến nghinh đón Minh Giải. Minh Giải rất khiếp sợ đổ mồ hôi. Nói chưa xong mà chết tại làng Trạch thiện ở Đông Đô. Lúc đó là tháng 08 năm Long Sóc thứ nhất (661) thời tiền Đường. Sau đó, Minh Giải gá mộng báo cùng Sa-môn Tăng Chỉnh ở chùa Tịnh Độ tại Lạc châu là người ngày trước cùng quen biết rằng: “Minh Giải tôi chẳng tuân theo nội giáo, nay chịu tội lớn, đói khát thiếu thốn chẳng thường, mong có sự quen biết xưa cũ nghó nhớ mà ban cấp cho 1 bữa ăn”. Đang trong cơn mộng ngài Tuệ Chỉnh đáp “vâng!” Sau khi đã tỉnh giấc bèn vì thiết bày. Đêm đó, ngài Tuệ chỉnh vừa mới nằm ngủ, liền thấy Minh Giải đến hổ thẹn mà cảm tạ. Đến trong mùa thu năm Long Sóc thứ 2 (662) thời tiền Đường, Minh Giải lại gá mộng báo cùng người thợ họa vẽ rằng: “Tôi vì không tin Phật pháp, đam mê ưa thích sách vở thế tục, nay chịu khổ lớn. Mong ông nên nỗ lực vì tôi mà ghi tả cho vài ba quyển kinh!” Và nắm tay ân cần đề thi phú giả biệt, bảo người thọ họa vẽ đọc tụng 18 biến khiến được ghi nhớ. Sau khi tỉnh mộng, người thợ họa vẽ ghi nhớ đó với bài thơ rằng: “Nắm tay chẳng thể rời Vỗ ngực lại tự thương Đau thay thời gian ngắn Buồn thay đường suối dài Rừng tùng sợ gió trống Mồ hoang sương lạnh rơi Lìa lời lấy gì tặng Dặn lòng nội điển chương!” Người thợ họa vẽ trước kia vốn không biết chữ, khi tỉnh giấc mới nhờ mượn người ghi chép, và dẫn nêu việc cũ lúc sinh tiền của Minh Giải. Mọi người đều bảo “Đó là văn thể của Minh Giải vậy”, không ai chẳng xót xa! <詞>GHI VỀ BIẾNG LƯỜI KHINH MẠN CHẲNG SIÊNG NĂNG. Sa-môn Chi Pháp Hành ở thời nhà Tấn thấy bánh xe sắt nhận chịu khổ. (Rút từ Minh Tường ký). Sa-môn Thích Pháp Hành, không rõ người thuộc dòng tộc nào. Tuy ôm hoài mến mộ đạo mà chẳng lắm tinh cần. Về sau mắc bệnh hơn 10 ngày thì qua đời. Qua 3 ngày sau, sống lại, Pháp Hành kể rằng: “Lúc vừa mới chết, có 2 người dẫn đi, thấy vài chỗ như nhà của Quan Tào và chẳng chịu nhận lấy. Bỗng chốc thấy có 1 bánh xe sắt, bánh xe có móng sắt từ phía Tây xoay chuyển lại, không người điều khiển mà xoay chuyển như gió. Có 1 quan lại kêu tội nhân đến đứng nơi bánh xe sắt. Bánh xe sắt xoay chuyển lại nghiến cán lên thân, vùn vụt trở lại như thế, vài người vỡ nát. Quan lại gọi tôi: “Đạo nhân đến đứng nơi bánh xe”. Tôi khiếp sợ tự trách hối hận bởi chẳng tự tinh tấn nên ngày nay phải bị bánh xe sắt nghiến cán như vậy, mới chí tâm xưng niệm danh hiệu Đức Phật. Quan lại bảo: “Đạo nhân có thể đi!” Lại vì tôi mà trao cho thuyền bè, Quan nói thuyền bảo tôi nắm lấy bánh lái. Lại gặp đàn chó tranh nhau muốn cắn tôi. Tôi rất kinh sợ, cổ khát muốn được uống nước, mới rơi vào trong nước, nhân đó được sống lại”. Từ đó, Pháp Hành ngày đêm tinh tấn tư duy, trở thành bậc Sa-môn chí hạnh vậy. Sa-môn Thích Tăng Quy ở Thánh đế thấy sự cân lường tội phước. (Rút từ Minh Tường ký). Sa-môn Thích Tăng Quy, chưa rõ là người xứ nào, xuất gia từ thuở thiếu thời, lấy việc hóa chuyển mọi vật làm chuyên mà khinh phạm tiểu giới. Phần nhiều hay giao du với nhà thế tục. Bấy giờ tại Kinh Triệu, có Trương Du thường thỉnh mời Tăng Quy đến nhà để cúng dường. Ngày mồng 05 tháng 12 năm Vónh Sơ thứ nhất (420) thời tiền Tống, tự nhiên không bệnh, bỗng chết giấc, 2 ngày sau sống lại. Tăng Quy tự kể rằng: “Vào khoảng canh 2 đêm mồng 5, tôi nghe nơi cửa tắc có tiếng rõ dần rồi phút chốc có 5 người nắm đuốc lửa, cầm thư phan đi thẳng vào phòng nhà quát gọi tôi. Nhân đó tôi cúi nằm kinh sợ, 5 người bèn dùng dây chạy trói buộc dẫn đi. Đi đến một núi lớn toàn không cây cỏ, đất màu đen bền chắc có loại như sắt đá. Bên cạnh núi chung quanh xương cốt trắng chất đầy. Đi qua khỏi núi chừng vài mươi dặm, đến đoạn đường rẽ 3, có một người rất lớn mạnh mặc áo giáp nắm gậy, hỏi 5 người rằng: “Có được bao nhiêu người lại?” 5 người đáp rằng: “Chỉ có 1 người đây vậy”. 5 người ấy lại dẫn tôi vào trong một thành, phía ngoài thành có vài mươi ngôi nhà đều xây dựng theo kiến trúc giàu có làm nên. Phía trước nhà có 1 cây gỗ dựng đứng cao hơn 10 trượng, phía trên có xà sắt hình dáng như con quay, 2 bên có cả lồng đất lớn nhỏ vài loại. Có 1 người vận mặc khăn áo toàn sắc đỏ hỏi tôi rằng: “Lúc bình sinh ngươi làm những tội phước gì? Cứ y như thật mà nói chớ chớ vọng khai bày”. Tôi kinh sợ chưa dám trả lời. Người mặc áo đỏ ấy bảo 1 người khác như là Cục Lại rằng: “Có thể mở lồng để kiểm xét tội phước của kẻ này”. Chỉ khoảnh khắc kẻ Quan lại ấy đến dưới cây gỗ kéo lấy lồng đất treo lên trên xà sắt để cân, xong rồi bảo tôi: “Ngươi phước ít mà tội nhiều, nên trước phải nhận chịu tội”. Bỗng chốc có 1 người áo mão cao lớn đến bảo cùng tôi rằng: “Ngươi là Sa-môn, cớ sao không niệm Phật. Tôi nghe sám hối lỗi quá có thể vượt qua 8 nạn”. Khi đó tôi nhất tâm xưng niệm danh hiệu Đức Phật. Người mặc áo mão cao lớn ấy nói với Quan lại rằng: Nên vì người này mà cân thử lại, đã là đệ tử Phật, may có thể độ thoát”. Quan lại lại vì treo lên cân, đòn cân khi ấy được ngang bằng. Thế rồi dẫn tôi đến chỗ Giám quan lúc trước mà nêu bày. Giám quan nắm bút trông xem sổ bộ chần chừ còn nghi ngờ chưa quyết định. Giây lát sau đó lại có những người mặc áo đỏ đội mũ đen đeo ấn dây thao cầm nắm ngọc bảng lại bảo rằng: “Trên sổ bộ chưa có tên người này”. Giám quan ngạc nhiên bảo tả hữu thâu ghi v.v… Bỗng chốc thấy trói buộc dẫn 5 người trước kia lại, Giám quan bảo: “Quỷ giết hại cớ sao lạm dẫn người lại đây?” và đánh roi 5 người ấy. Chỉ giây lát lại có sứ giả xưng là Thiên đế bảo gọi tôi lại. Đã đến nơi cung vua, trải qua mọi chỗ thấy thảy đều là vàng báu lấp lánh ngời sáng, những người 2 bên vua mặc áo đỏ đội mũ báu. vua hỏi tôi: “Ngươi là Sa-môn cớ sao chẳng siêng năng tu hành để bị bọn tiểu quỷ vây bắt như thế?” Tôi cúi đầu cầu xin ban ân. vua bảo: “Mạng của ngươi chưa hết, nay sẽ được sống trở lại, nên phải chuyên cần tinh tấn, chớ thường giao du với nhà người thế tục!” Rồi Sứ giả đưa tôi đến nhà Trương Du mà bỏ đi vậy. Sa-môn Thích Pháp Tông ở chùa Long Hoa thời tiền Tống chẳng chuyên cần tu tạo nên cảm mắc bệnh. (Rút: Minh Tường ký) Sa-môn Thích Tăng Diệu ở thôn Thượng Minh tại Giang Lăng. Vào năm Đại Minh thứ nhất (457) thời tiền Tống, ngài Tăng Diệu vân du đến Lónh Lăng, nhân đó ở lại tinh xá Long Hoa tại quận trị buôn bán, tích chứa gạo thóc được vài ngàn hộc. Đến năm Đại minh thứ 8 (484) thời tiền Tống, chùa Long Hoa gặp phải hỏa hoạn nên bị thiêu cháy hết. Đến lúc sắp tịch ngài Tăng Diệu đem tất cả của cải giao cho đệ tử là Sa-môn Pháp Tông và bảo tạo dựng giảng đường, Tăng phòng. Pháp Tông xây dựng giảng đường hoàn tất bèn rất biếng lười chẳng chịu xây dựng Tăng phòng. Đến tháng giêng năm Thái Thỉ thứ 3 (467) thời tiền Tống, Pháp Tông cảm mắc bệnh rất quá lắm. Bấy giờ có Tỳ-kheo Đạo Mãnh từ Tuyền Lăng lệnh Cao Dương Hứa Tỉnh Tuệ tại huyện. Huyện tức là ấp của quận Trị vậy, đi sang thăm bệnh của Pháp Tông. Vừa mới vào chùa vài bước, ngài Đạo Mãnh thấy 1 vị Sa-môn mặc quần vải bố hoa đào, y đơn, áo ngủ nhỏ sắc vàng vừa đi vừa mắng rằng: “Tiểu tử Pháp Tông làm trái nghịch sự ta phân chia, chẳng chịu xây dựng Tang phòng, phung phí tan mất của cải v.v…” Thế rồi xoay nhìn lại, thấy ngài Đạo Mãnh, tỏ vẻ tướng trạng như xấu hổ kinh hãi bàn lấy áo ngủ mà trùm đầu, đi vào trong phòng Pháp Tông. Tuy thường qua lại chùa ấy nhưng ngài Đạo Mãnh chưa bao giờ thấy vị Sa-môn đó. Vì không muốn liên can đường đột, nên trước hết ngài Đạo Mãnh đem mọi sự thấy nghe ấy báo cùng Đạo nhân Pháp Siêu. Ngài Pháp Siêu nghi ngờ cho là dối vọng mới kiểm xét hỏi lại hình trạng lời tiếng, thì ngài Đạo Mãnh diễn tả đầy đủ đó. Ngài Pháp Siêu mới bảo: “Đó tức là thầy của Pháp Tông vừa mới thị tịch cách đây vài năm”. 2 ngài bèn cùng nhau than thở buồn bả. Đêm đó liền gá nhập vào Linh ngữ bảo gấp gọi Pháp Tông. Pháp Tông đã đến liền tỏ vài lời quở trách rất nghiêm trọng, còn đem sự việc Tăng phòng mà nói đó, lời tiếng hơi điệu chẳng khác (ngài Tăng Diệu) lúc bình sinh, Pháp Tông cúi đầu sám tạ xong, bèn hỏi: “Hòa thượng nay sinh ở xứ nào, thiện ác ra làm sao?” Ngài Tăng Diệu gá tiếng đáp: “Sinh ở chỗ lại thô, chỉ phải nhận chịu khiển trách nhỏ, 2 năm sau mới có thể được khỏi. Lại có sự ngang trái nhỏ, ta muốn kêu oan cùng sở ty, ngặt nỗi không có pháp y ca sa nên không thực hành được, ngươi có thể gấp vì ta mà chế tạo đó”. Pháp Tông nói: “Pháp y ca sa thì có thể làm được, nhưng không biết làm sao để dâng đưa đến được cho Hòa thượng?” Ngài Tăng Diệu gá tiếng bảo: “Thỉnh mời chư ta mà thiết cúng, đem pháp y ca sa vì dâng thí ta liền được”. Pháp Tông bèn y theo lời bảo thiết đặt trai phạn thỉnh mời cúng dường chư Tăng và dâng thí pháp y. Lúc đó, ngài Đạo Mãnh có dự tham trong pháp hội, lại thấy ngài Tăng Diệu đứng tựa ngoài cửa giảng đường khoanh tay lắng nghe kinh. Sau khi dâng cúng trai phạn hoàn tất, ngài Đạo Mãnh liền thấy pháp y ca sa đã ở nơi thân ngài Tăng Diệu, mới đến giữa giảng đường xướng rằng: “Muốn nương tựa theo Tăng thì nên y thứ lớp mà ngồi”. Hỏi Ngài về niên lạp bao nhiêu. Ngài Đạo Mãnh đáp: “Tôi quên năm ấy rồi, chỉ nhớ là tháng 2 năm Sách Lỗ Lâm Giang vậy”. Ngài Tăng Diệu nói: “Vậy là cùng tôi đồng tuổi, nhưng Ngài được lớn hơn 1 tháng vậy”. Mới đến ngồi phía dưới ngài Đạo Mãnh. Ngài Đạo Mãnh liền co xếp đầu gối lại, để trống 1 chỗ ngồi. Ngài Tăng Diệu đoan nghiêm im lặng lắng nghe kinh. Đến lúc pháp hội tan, mới lại không thấy. Khi đó trong giảng đường, các hàng Đạo tục có hơn trăm người, Linh Lăng Thái úy Dương Xiển cũng dự pháp tập ấy. Chính tự ngài Đạo Mãnh và ngài Tăng Diệu giảng luận qua lại. Đại chúng chỉ nghe riêng mình ngài Đạo Mãnh nói năng. Sở dó đều biết ứng nghiệm là thật vì ngài Đạo Mãnh và ngài Tăng Diệu chẳng cùng biết nhau. Nói về hình sắc cử động tuổi tác lúc trước thiếu thời, không gì chẳng là phù đồng khế hợp. Thứ nữa, Pháp Tông lúc mắc bệnh nguy khốn mới bảo đến Linh Ngữ nói, thì cơn bệnh trầm lắng liền lành. Linh Ngữ là người trẻ nhỏ mà mở lời hơi tiếng âm từ khiến người nghe chẳng rõ khác lạ đó nên đều tin lạ vậy. Mới đầu, Dương Xiển chẳng lắm kính phụng pháp, nhân sự việc đó mà dấy khởi sự kính ngộ, liền kiến tạo phước tập, nên ngay năm đó, thuyết giảng tại chùa ấy và trì trai bố thí v.v… mọi việc. Sa-môn Thích Tri Đạt bị thần quở trách cho đến nhận chịu tội. Sa-môn Thích Tri Đạt, chưa rõ là người xứ nào, tuy dự phần Đạo môn mà hạnh rất lưu tục. Tháng 6 năm Vónh Huy thứ 3 (652) thời tiền Đường(1), cảm mắc bệnh mà qua đời, nhưng thân thể còn ấm nóng, mọi người chưa ẩn liệm an táng, bèn kéo dài qua ngày thứ 2, hơi thở trở lại bình thường, qua ngày thứ 3 mới nói năng được, Tri Đạt tự tỏ bày rằng: “Lúc mới cảm bệnh khốn đốn, thấy có 2 người đều mặc quần áo kép bằng vải bố sắc vàng. 1 người đứng ở ngoài cửa, còn 1 người đi thẳng đến trước giường, nói rằng: “Thượng nhân nên đi, có thể chóng bước xuống đất”. Tôi nói: “Bần đạo thân thể suy yếu chẳng kham giẫm trải giữa đường”. Người ấy bảo: “Có thể cưỡi kiệu vậy”. Và liền đưa kiệu đến. Tôi đã lên ngồi trên kiệu, ý thức bèn liền hoang mang, lại chẳng còn thấy người nhà phòng ốc, từ nơi kiệu cưỡi trông nhìn khắp bốn phía xa vời chỉ thấy toàn là hoang dã đường lối hiểm nguy, 2 người khiêng dẫn đi chẳng được ngưng nghỉ. Đến nơi 1 cửa sơn son, tường cửa hoa hòe xinh đẹp, vào trong nhà dưới, ở nhà trên có 1 quý nhân mặc áo sắc đỏ, mũ khăn cứ ngạo nơi sàng tòa, dáng mạo nghiêm trang, từ xa trông thấy rất là oai dung, 2 bên binh lính gìn giữ có đến cả trăm, mọi người đều mặc áo đỏ chống dao liệt bày hàng lớp, Quý nhân vừa trông thấy tôi, liền chau mày nghiêm nét mặt bảo rằng: “Người xuất gia sao nên lắm lỗi quá?” Tôi đáp: “Từ khi có sự nhận biết đến nay chẳng nhớ đã tạo những tội gì?” Quý nhân hỏi: Ngươi có phế bỏ tụng giới chăng?” Tôi đáp: “Lúc đầu mới thọ giới cụ túc thật thường tụng tập, đến lúc chuyên việc trai hội giảng pháp chỉ thường đọc tụng kinh, nên đối với việc trì tụng giới có khuyết bỏ”. Quý nhân bảo: “Lúc làm Sa-môn mà chẳng đọc tụng giới đó là vô cùng trái pháp”. Và Quý nhân liền bảo người đến ghi chép về tôi rằng: “Nên đưa kẻ này vào thẳng nơi xấu ác, chớ khiến đại khổ”. 2 người dẫn tôi đưa đi, cách chứng vài mươi dặm hơi nghe có tiếng soang soảng vang vọt giữa trời mà đường phía trước chuyển dần mờ tối. Tiếp theo đến nơi một cửa cao vài mươi trượng, sắc màu rất đen tối, bởi đó là cửa sắt, tường vách cũng như vậy. Khi đó, trong tâm tôi tự nghó nhớ “trong kinh nói địa ngục” chắc hẳn là đây vậy. Mới rất khiếp sợ, hối trách lúc còn ở đời chẳng tu nghiệp hạnh. Kịp đến lúc vào trong cửa, âm thanh quẩy động càng mạnh, lâu lâu tỉnh lắng chăm chú nghe mới biết đó là âm hưởng của người kêu cầu. Khi đó có ánh lửa sáng chợt tắt chợt hiện, thấy có vài người bị trói ngược xô đẩy tới, ở phía sau có vài người nắm chỉa đâm chích, máu huyết tuôn đổ như dòng suối. Đi vào trong cửa khoảng 200 bước, thấy có 1 vật hình tướng như vựa thóc cao hơn 1 trượng. 2 người nắm lấy tôi đặt ném lên trên vựa. Trong vựa có lửa cháy rực, thiêu đốt thân tôi, nửa mình thân thể đều bị đốt cháy, đau nhức không thể nhẫn chịu nỗi. Từ trên vựa rơi xuống dưới đất, tôi chết ngất giây lâu, 2 người ấy lại dẫn tôi đi, thấy có hơn 10 cái vạc sắt đều đem nấu tội nhân. Người trong vạc theo vọt trào lên rồi chìm xuống, bên cạnh có 1 người cầm chỉa đâm chích. Hoặc có người vin miệng vạc mà ra, 2 mắt vỡ hổng, lưỡi kéo ra dài hơn cả thước, thịt chẻ cháy hết mà vẫn còn không chết. Ở trong các vạc đều chứa đầy, chỉ có 1 cái còn trống không, 2 người ấy bảo: “Thượng nhân liền sẽ bị vào trong vạc này”. Nghe lời nói ấy gan mật tôi đều xoa đất, mới cầu xin 2 người ấy rằng: “Các ông cho Bần đạo tảm thời đảnh lễ Phật”. Và tôi liền chí tâm cúi đầu cầu xin miễn khỏi khổ ấy, tôi nằm úp nơi đất chừng khoảng bữa ăn nguyện cầu sám hối rất mực chí thành. Thế rồi trông nhìn khắp 4 phía không còn thấy gì nữa, chỉ thấy đồng bằng, cây cối tươi tốt phong cảnh trong lành mát sáng. Và 2 người ấy còn dần tôi đi đến 1 tòa lầu. Hình dáng tòa lầu càng lên cao càng nhỏ, trên đó có 1 người nói cùng tôi rằng: “Sa-môn nhận chịu tội báo nhẹ, thật rất nên vui mừng vậy”. Khi đó tôi ở dưới tòa lầu, bỗng nhiên bất chợt mà trở lại bổn thân”. Trí Đạt hiện nay vẫn còn ở tại chùa Sách, trai giới rất bền bỉ, Thiền tụng rất kiên cố vậy. Sa-môn Thích Tuệ Nghi ở chùa Sùng Chân thời Hậu Ngụy trước mặt vua Diêm-ma thấy phán xét năm vị Tăng. (Rút từ Lạc Dương Già Lam ký). Sa-môn Thích Tuệ Nghi ở chùa Sùng Chân chết qua thời gian 7 ngày, cùng với 5 vị Tỳ-kheo đối trước chỗ vua Diêm-ma xét duyệt tội quá. Tuệ Nghi về sai lầm bắt lấy nên được phóng thả sống lại, tỏ bày cụ thể mọi việc trước vua Diêm-ma. Trong ý như là các quan hiện sống chẳng khác vậy, và 5 vị Tỳ-kheo ấy cũng là Đạo nhân ở các chùa tại kinh ấp cùng với Tuệ Nghi đồng sổ bộ mà sai lầm. Trong đó, 1 Tỳ-kheo tức là Sa-môn Trí Thông ở chùa Bảo Minh tự nói là: “Lúc bình sinh tọa thiền khổ hạnh lấy đó làm hạnh nghiệp chánh”, nên được sinh lên Thiên đường. Lại có 1 Tỳ-kheo là Sa-môn Đạo Phẩm ở chùa Bát Nhã tự nói là: “Tụng kinh Niết Bàn được 40 quyển, cũng được sinh lên Thiên đường. Lại có 1 Tỳ-kheo là Sa-môn Đàm Mô Tối ở chùa Dung Giác xưng là chú giải 2 bộ kinh Niết Bàn, Hoa Nghiêm, thường lãnh chúng cả ngàn người giải thích nghóa lý. vua Diêm-ma bảo: “Giảng kinh cho chúng Tăng mà ngã cống cao, trong tâm ôm hoài ý niệm ta người, kiêu ngạo lấn lướt người. Đó là hành vi thô xấu thứ nhất của Tỳ-kheo”. Đàm Mô Tối nói rằng: “Bần đạo từ lúc lập thân trở lại thật chẳng kiêu mạn, chỉ ưa thích giảng kinh, phu diễn nghóa lý”. vua Diêm-ma bảo: “Giao phó cho quan Ty”, liền có 10 mặc áo xanh đưa Đàm Mô Tối đi về hướng Tây bắc vào trong cửa phòng nhà đen tối, bạn chẳng phải chỗ tốt lành. Lại có 1 Tỳ-kheo là Sa-môn Đạo Hoằng ở chùa Thiền Lâm tự nói: “Tôi giáo hóa 4 chúng đàn việt tạo hết thảy kinh, ở trong cõi người có chú đúc 10 tôn tượng bằng vàng ròng”. vua Diêm-ma bảo: “Thể của Sa-môn hẳn phải nhiếp tâm Đạo tràng, chí niệm thiền tụng, chẳng can dự việc thế tục, chuyên tâm nghó niệm giới, chẳng tạo mọi sự hữu vi. Giáo hóa mà cầu tài lợi thì tâm tham liền khởi. Đã ôm hoài tâm tham thì 3 độc chẳng thể diệt. Giao cho Quan ty y cứ thử xét”. Liền có người mặc áo xanh đưa đi đồng vào một chỗ với Đàm Mô Tối. Lại có 1 Tỳ-kheo là Sa-môn Bảo Chân ở chùa Linh Giác tự nói là: “Trước lúc chưa xuất gia từng làm Lũng Tây Thái Thú, từ khi nhận biết về khổ không bèn quy y Tam bảo, cắt bỏ xả thí của cải gia nghiệp tạo dựng chùa Linh Giác. Khi chùa đã hoàn thành, bèn xả bỏ quan vị mà vào Đạo. Tuy chẳng thiền tụng, mà lễ bái chẳng khuyết”. vua Diêm-ma bảo: “Ngày ông làm Thái thú sử dụng tình cong ép uổng trái pháp cướp đoạt của cải muôn dân để sung vào làm vật của mình. Giả sử như có làm ra chùa ấy cũng chẳng phải sức lực của ông, cớ sao nhọc nói vậy? Cũng giao cho quan ty chuẩn cứ xét thử”. Và cũng có người mặc áo xanh đưa đi vào cửa đen tối, tợ chẳng phải chỗ tốt lành vậy. Còn tôi vì bắt lấy sai lầm nên chẳng hỏi, được phóng thả trở về sống lại”. Khi Tuệ Nghi tỏ bày đầy đủ mọi sử xảy ra trông thấy ở trước mặt vua Diêm-ma. Lúc đó trong số những người nghe kể có Tần Hồ Thái Hậu. Thái Hậu nghe thế lấy làm điều khác lạ, bèn sai Hoàng môn thị lang y cứ theo sự trình bày của Tuệ Nghi mà phỏng hỏi về các Sa-môn Trí Thông v.v… ở cả 5 chùa, và đều cho biết có những vị ấy vừa qua đời trong vòng 7 ngày trở lại và những hạnh nghiệp lúc bình sinh đều đúng như sự bày nói của Tuệ Nghi vậy. Sa-môn Huyền Chân ở chùa Huyền Pháp ở thời tiền Đường phá trai nhận chịu tội báo. Sa-môn Thích Huyền ( Hành?) Chân vốn dòng họ Thiệu, người xứ Lam Điền. Từ thuở bé thơ kính thờ bậc danh Sư, sớm ôm hoài thức ngộ mà rất công kích sự đọc tụng, nổi tiếng khắp cùng thôn ấp, từng bị cảm bệnh nóng sốt quá nửa ngày rất kịch liệt nên từng phạm phá trai pháp, chưa hồi hoàng cải đổi chỉnh túc. Đến năm Vónh Huy thứ 3 (652) thời tiền Đường, Huyền Chân đến chùa Thắng Quang nghe Pháp sư Nhuận giảng kinh Niết Bàn. Qua ngày 17 tháng 05, bỗng nhiên đang ngủ ban ngày, thầm như chết ngất, khắp thân thể hơi lạnh, hơi thở dần suy yếu, người bên cạnh chẳng dám rối loạn xúc chạm, trải qua một đêm mới sống lại, mồ hôi tuôn đổ, kinh sợ, Huyền Chân tự nói rằng: Bị Minh Quan quở trách tội phá trai, nên đáng nhận chịu làm thân quỷ đói. Huyền Chân buồn hận, không biết tính sao mới đáp rằng: “Bởi vì khốn khổ bệnh nóng sốt, chẳng phải là cố tâm. Nếu được ban ân, thì sẽ thiết trai hội cúng dường trăm vị Tăng, từ nay xin cải đổi lỗi làm xưa trước không còn dám trái phạm phá trai”. Nhân đó được trở về sống lại, xả thí hết y vật theo như lời nói mà thiết trai hội. Về sau trải qua năm tháng mà nhã chí chưa hoàn toàn. Đến tháng 08 năm Hiển Khánh thứ 5 (670) thời tiền Đường, Pháp sư Nhuận lại đến chùa Huyền Pháp giảng kinh Niết Bàn, Huyền Chân cũng lại bị ép bắt như trước, Minh Quan tức giận quở trách rằng: “Ngươi dám còn trở lại đây ư? ” Và bảo 2 người dẫn đến hướng Bắc, mới thấy vài lớp hầm khe, gai góc kín đầy, 2 người ấy ruồng đuổi phải từ trong đó mà qua, máu thịt rách xé rơi rớt không còn chỗ nguyên vẹn. Khi đã qua khỏi hầm gai rồi, thấy có ngàn quỷ đói, hình dung cháy đen gầy ốm, cổ họng như kim, lông mình như gai nhọn, tranh nhau ăn nuốt các thứ máu mủ tanh nồng, trông nhìn lại thân mình cũng đồng như thế, Huyền Chân kinh hãi hối trách, gieo mình nơi đất, bất chợt xưng niệm danh hiệu Phật, ngước dậy trong lúc chưa chết, trọn không thấy các tướng trước đó. 2 người ấy lại dẫn đến trước mặt vua Diêm-ma. vua hỏi: “Ông thấy như thế nào?” Huyền Chân cúi đầu tự trách thệ nguyện trọn sẽ tu trì cải hối. Khi đó được phóng thả trở về. Và Huyền Chân không còn dám thối lùi. Vị Thiền sư ở nước Tân La cắt thịt để đền đáp thí chủ. Khoảng cuối thời nhà Tùy, tại nước Tân La có 1 vị Thiền sư, mất họ tên, cảnh hạnh rất tinh cần hiển trước, phần nhiều hay ở tại 1 nhà Đàn Việt nhận thọ sự cúng dường, qua lại không ngưng nghỉ có hơn 10 năm. Vì Đàn Việt ấy cũng do sức tin sâu bền, trong nhà lại đầy đủ tiện nghi nên sớm tối cung cấp tứ sự dốc cả thân tâm. Đến lúc Thiền sư tuổi già mà thị tịch cũng y cứ như pháp mà an táng. Chưa đầy vài ngày sau trong vườn nhà Đàn Việt ấy có 1 cây khô bỗng sinh ra loại nấm mềm mại, người trong nhà bèn hái lấy làm canh thịt, mùi vị thật đồng như thịt, mọi người lớn nhỏ đều ưa thích, ngày ngày hái lấy nấu ăn, khắp thân cây khô cũng tùy mọc ra cung cấp đủ đầy, trải qua năm tháng lâu dài, mọi người thân gần thảy đều biết. Về sau ở gần phía Tây có 1 người ban đêm đạp tường rào dùng dao trộm cắt lấy nấm, bỗng nghe từ thân cây khô phát ra tiếng người nói rằng: “Ai cắt thịt tôi ấy? Tôi đâu mắc nợ ông?” Người ấy kinh ngạc hỏi: “Ngươi là ai?” Từ cây khô đáp rằng: “Tôi là Thiền sư (…) ngày trước, duyên vì tôi đạo hạnh thiển cạn mà nhận thọ tâm sâu nặng của thí chủ cúng dường, hạnh nghiệp chẳng thể tiêu, nên nay trở lại đây để đáp trả. Ông có thể vì tôi mà xin mọi vật hoàn trả lại cho người chủ thì tôi liền được giải thoát”. Người ấy nhớ nghó về xưa trước, có cùng nhận biết đó nên quái lạ. Ôi thôi! Liền vì báo lại cùng người chủ, người chủ nghe thế lặng ngã gào khóc chết ngất, đối diện với cây mà sám hối mong thứ lỗi oan khiên, phát nguyện cùng phóng thả khói. Và người ở gần nhà kia vì xin trăm thạch gạo mang lại trao cùng người chủ. Từ đó, cây khô trong vườn không còn mọc sinh nấm nữa. Có Sa-môn Đạt Nghóa cũng người nước Tân La tuổi gần 80 trinh thuần thành khẩn đến nương náu nơi núi này. Tôi (Hoài Tín) kính trọng đức hạnh ấy nên luôn cung cấp áo mặc thuốc thang, ngài Đạt Nghóa buồn khóc đối với tôi mà thuật kể việc trên và nói rằng: “Tôi cũng lại phải cắt thịt để đáp trả Sư vậy!” Sa-môn Biện Khuê và Sa-môn Hoằng Lượng ở Tương Châu thời tiền Đường sau khi đã qua đời mà mong cầu phước. Trong khoảng tháng 05 năm Vónh Huy thứ 5 (652) thời tiền Đường, có Lý Tư Nhất ở Tương Châu chết ngất qua 1 đêm sống lại nói rằng: “Vì thọ mạng chưa hợp đáng chết nên được vua Diêm-ma phóng thả trở về. Ở trước mặt vua Diêm-ma thấy có Sa-môn Biện Khuê ở chùa Pháp Quán, huyện Phủ Dương, Tương Châu. Lại thấy có Sa-môn Hoằng Lượng và Sa-môn Tuệ Bảo ở chùa Hội Phước, 3 người đều tại trước vua Diêm-ma để đối biện. Minh Quang bảo: “Sa-môn Tuệ Bảo thời gian chết chưa đến nên phóng thả trở về tu hành công đức. Còn Sa-môn Biện Khuê và Sa-môn Hoằng Lượng tuổi chết hẳn đã đến. Hậu quả như lời nói: “Chư Tăng ở trong 2 chùa ấy mới mời 1 thầy đồng cốt đến phòng Sa-môn Biện Khuê và Sa-môn Hoằng Lượng vời gọi thần thức để hỏi đó. Sa-môn Biện Khuê gá ứng nói rằng: “Tôi vì phá trai nên nay phải nhận chịu rất mực đau khổ, nên bảo cùng các đệ tử… vì tôi mà thiết trai cúng dường để cứu bạt khổ nạn ấy”. Các đệ tử và thiết lập trai hội, thầy đồng cốt liền báo là: “Đã được miễn khỏi tội”. Còn Sa-môn Hoằng Lượng gá ứng nói rằng: “Tôi vì phá trai lại thêm rao nói những chuyện tốt xấu ngắn dài của người khác, nên nay bị kéo lưỡi rất thống khổ, chẳng thể nói được nhiều!” Sa-môn Thích Tuệ Ước ở chùa Thắng Nghiệp tại Tây kinh thời tiền Đường thấy chư Tăng nhận chịu tội khổ. Hai vị Sa-môn Thích Tuệ Ước và Thích thọ quả đều xuất gia từ thuở thiếu thời ở chùa Thắng Nghiệp tại Tây Kinh. Năm Thùy cũng thứ 3 (687), thời tiền Đường, hai người đều làm trị thế trong nhà kho. Bỗng nhiên trong tháng 05 bị Minh quan bắt dẫn đến chỗ vua Diêm-ma. vua hỏi: “Các ngươi lúc bình sinh làm những hạnh nghiệp gì?” ngài Tuệ Ước đáp rằng: “Tụng kinh Pháp Hoa được 3, 4 quyển”. vua Diêm-ma bèn chấp tay cung kính mà nói rằng: “Thả phóng thích trở về”. Và sai bảo người dẫn đi trông xem các chỗ nhận chịu khổ. Bèn theo hướng Tây nam đi đến một cửa lớn, ở viện phía Bắc thấy 1 hàng nhà dài, dùng bảng làm tường, hai phía Đông Tây tương đương với nhau, làm lỗ như lỗ gông cùm không khác. Trong mỗi mỗi lỗ đều có đầu chư Tăng ở đó. Thấy có Sa-môn Đại Lượng cùng ở đồng chùa, thây tuy còn sống mà đầu đã xuất hiện trong lỗ. Vừa trông thấy 2 ngài Tuệ Ước và Thọ Quả liền gào khóc sợ kêu, không thể trình bày lại đầy đủ. Sa-môn Đại Lượng thường coi sóc sửa sang 3 tôn tượng lớn trong chánh điện, riêng lạm dùng vật tu sửa tôn tượng nên bị đuổi bắt. Bên cạnh mỗi lỗ đều có ngục tốt, hình trạng rất đáng sợ, cầm nắm dao đâm vào đó, máu huyết dơ bẩn lan tràn. Ngục tốt đặt đầu lên rồi kêu sống trở lại. Đầu liền chứng ngộ trong lỗ, cứ như thế không bao lâu mà đã trải qua vài ba mươi lần. Tiếp đi đến hướng Tây, lại thấy chỗ kẻ giết hại ăn thịt tội khổ. Có vô số chúng Tăng bị cắt hại. Tiếng kêu khó kham nhẫn sự bị hại, các chúng sinh bị ăn thịt xưa trước đều đến đòi mạng, chia nhau ăn gặm máu thịt. Lại thấy Sa- môn Trí Cảm là vị chủ chùa đồng ở trong chùa và Đô Duy Na Sa-môn A Lục bị trói buộc rất bức gấp. Đang khám xét tội ăn thịt và dùng vật của chúng Tăng, bỗng nhiên 2 ngài Tuệ Ước và Thọ Quả bị đẩy rơi vào trong hầm đen tối, chốc lát mà được sống lại, khắp thân thể toát đổ mồ hôi, tâm thần không tự chủ. Sau đó, chưa đầy một tháng, Sa-môn Đại Lượng qua đời, Sa-môn Trí Cảm cũng bị bạo tử, nhận chịu thống khổ vô cùng. Sa-môn A Lục liền phát tâm sám hối, không ra khỏi cửa phòng, tụng đọc hết thảy các kinh, ngày đêm cầu khẩn. Có vài lần thấy Minh quan sai 2 kẻ sứ mặc y phục sắc vàng cưỡi ngựa trắng đến muốn bắt lấy, vừa đến trong cửa phòng Sa-môn A Lục, một người nói rằng: “Phát khởi đại tâm ngày đêm không phế bỏ đọc tụng hết thảy các kinh, nên sẽ có thể được phóng thả”. Phàm có 3, 4 lần đến như thế, do được thân gần trông thấy A Lục chuyên cần sám hối không thôi nghỉ, bèn được không sao. Lược trích “Tịnh Độ Tử” do Cánh Lăng Văn Tuyên Vương thời Nam Tề soạn thuật. Tiêu Tử Lương ở thời Nam Tề soạn trước bộ “Tịnh Độ Tử” 20 quyển, trong đó có kiểm hiệu Tam nghiệp môn, nay lược trích phần ấy vậy. “… Thứ lại, kiểm hiệu càng thêm kinh sợ hổ thẹn, kiểu hiệu thế nào? Thân ta đây từ sáng sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng, cho đến trong một giờ một khắc một niệm một khoảnh, ta đã có bao nhiêu tâm bao nhiên thiện bao nhiêu ác? Bao nhiêu tâm muốn diệt trừ phiền não? Bao nhiêu tâm hàng phục ma oán? Bao nhiêu tâm nghó nhớ Tam bảo và pháp tứ đế? Bao nhiêu tâm nghó nhớ báo ân sinh dưỡng của mẹ cha? Bao nhiêu tâm nguyện thay thể chúng sinh để nhận chịu khổ? Bao nhiêu tâm phát khởi nghó nhớ Đạo ý của Bồ-tát? Bao nhiêu tâm muốn bố thí trì giới? Bao nhiêu tâm muốn nhẫn nhục tinh tấn? Bao nhiêu tâm muốn thiền tịch niệm định? Bao nhiêu tâm muốn hiển bày trí vô tướng? Bao nhiêu tâm muốn thực hiện từ bi cứu độ? Bao nhiêu tâm muốn độ khắp năm loài? Bao nhiêu tâm muốn giúp khuyên gắng thực hành việc kho thực hành? Bao nhiêu tâm muốn vượt cầu thắng quả hoàn thành sự khó hoàn thành? Bao nhiêu tâm muốn giữ nhọc nhẫn khổ kiến lập Phật pháp? Bao nhiêu tâm muốn xả bỏ thân mạng để hộ trì Tam bảo? Bao nhiêu tâm muốn tiếp nối giống Phật khiến không đoạn tuyệt? Bao nhiêu tâm muốn chuyển hóa các hàng ngoại Đạo khiến họ vào với chánh pháp? Bao nhiêu tâm nghó nhớ việc làm đã xong của các Thanh văn? Bao nhiêu tâm nghó nhớ công đức hạnh địa của các Bồ-tát? Bao nhiêu tâm chuyên nghó nhớ cầu trí tuệ của Đức Như Lai? Bao nhiêu tâm tự nghó ta sẽ làm Phật? Bao nhiêu tâm vận tưởng duyên đến cõi tịnh? Bao nhiêu tâm phát ý quán chiếu nỗi khổ chốn địa ngục? Thứ lại kiểm xét về miệng, từ sáng sớm trở lại, lần lượt theo thời khắc. Ta đã được diễn nói bao nhiêu câu nghóa lý sâu mầu? Đã mở bày đọc tụng bao nhiêu quyển kinh điển? Đã được ôn tụng bao nhiêu văn tự? Đã được bao nhiêu lần chịu xưng tán tùy hỷ? Thứ lại kiểm xét về thân, thời khắc như thế từ sáng sớm trở lại, khuất mình cúi ngưỡng kính lễ Phật bao nhiêu bái, cho đến cả pháp và Tăng số ấy được ít nhiều? Đã được bao nhiêu lần chịu quét tháp lấp đất? Đã được bao nhiêu lần chịu đốt đèn rải hoa? Đã được bao nhiêu lần vào trong điện đường thờ Phật? Đạ được đi nhiễu quanh mấy mươi vòng? Đã được bao nhiêu lần chịu quét trừ bụi dơ? Đã được bao nhiêu lần sửa bày các vật dâng cúng? Đã được mang đội trên đầu bao nhiêu tràng phan? Đã được thiêu đốt bao nhiêu Diệu hương? Thử kiểm xét như thế thì nên biết hợp với Lý thì rất ít mà trái với Đạo có lắm nhiều, nghiệp Bạch tịnh quyết chắc không đủ nói. Còn phiền não trọng chướng thì có lắm đầy tràn mắt, mờ che tích chứa, giải thoát do đâu mà có được! Nếu chịu bỏ nói năng thế tục, bè bạn tụ hợp giao du đùa bởn, mà chăm lo kiểm xét như thế, thì ác do đâu sinh khởi? Chỉ được tự cứu mình còn không rảnh, đâu được bàn luận đề cập đến người khác. Nếu chẳng chịu kiểm xét như thế, thì lại cũng nói ta công đức chẳng ít, và có lắm nhiều việc thiện. Và, bèn tự cho rằng việc người làm không được mà ta làm được, người không thể thực hành mà ta thực hành được. Còn nếu sinh khởi kiểm xét như thế thì bèn có thể liền biết thiện ác cạn sâu, nhẹ nặng ít nhiều. Đức Như Lai đại bi thương xót nghó nhớ chúng sinh, muốn khiến xa lìa khổ mà được an ổn nên xiển dương vô lượng pháp môn, mở đường chân chánh cho trời người, mà ta xúc niệm trái với kinh, trải tâm trái với luật, Thư Lễ Châm răn vất bỏ chẳng theo, thuận với ác, nghịch với thiện, trong mỗi mỗi niệm Tăng thêm lớn mạnh, mà muốn dùng mảy may phước mọn ngỏ mong hầu thoát khỏi khổ lớn. Há được thoát khỏi ư? Nay kiểm xét đã xong, thật rõ biết việc ác nặng như núi đồi, điều thiện nhẹ như lông tóc. Bèn nên mỗi mỗi tự trách tâm miệng cùng dạy răn. Tâm bảo cùng miệng “Ngươi phải thường nói pháp, chớ nói phi pháp”. Miệng trở lại bảo cùng tâm “Ngươi phải thường tư duy về pháp chớ tư duy phi pháp”. Tâm lại bảo cùng thân “Ngươi phải siêng năng thực hành như pháp, chớ thực hành phi pháp”. Như thế thì tâm ta tự răn chế miệng ta, miệng ta tự răn chế tâm ta, tâm ta tự răn chế thân hình ta, thân hình ta tùy thuận theo miệng ta. Lại cùng răn chế siêng năng há chẳng tốt lành ư? Sao phải nhọc mệt tâm miệng người khác răn chế tâm miệng ta. Nếu nhọc mệt tâm miệng người khác để răn chế tâm miệng ta. Ta sao chẳng tự xấu hổ với tâm miệng ta ư?”.  SỰ TỰ XÉT GHI TRONG NHÀ PHẬT <卷>QUYỂN HẠ GHI VỀ HẠI VẬT THƯƠNG TỔN ĐỨC TỪ. Sa-môn Trúc Pháp Tuệ ở Tương dương thời nhà Tấn bị hại và môn nhân đệ tử bị bẻ gảy chân. Sa-môn Trúc Pháp Tuệ vốn dòng họ Trương là bậc Hiền giả ngay thẳng rất có giới hạnh, lại còn có cả Thần tích, từng bảo cùng đệ tử là Sa-môn Pháp Chiếu rằng: “Ở trong quá khứ ông từng bẻ chân 1 con gà, ương lụy đó vẫn còn tìm đến ngày nay, ông nên cẩn trọng đó”. Pháp Chiếu bỗng nhiên đi ra, lầm bị người đánh ném bèn gảy 1 cẳng chân, Pháp Chiếu mới tin ngộ. Trúc Pháp Tuệ lại nói cùng môn nhân rằng: “Ta có mắc nợ oan trái xưa trước, nay phải nhận chịu”. Bỗng chốc đi đến hướng Tây, bèn bị Sưu Trỉ Cung làm hại. Thích Tăng Quần, ở Hoắc sơn bẻ gảy cánh vịt thấy nhận chịu quả báo. (Rút từ Minh Tường ký, phụ: Chi Tuần). Thích Tăng Quần, chưa rõ ngài là người xứ nào, thường luôn thanh bần thủ tiết, ăn rau quả trì tụng kinh. Về sau, đến ở Hoắc Sơn, núi ấy một mình riêng lẻ trong biển, phía trên có chén đá, đường kính khoảng vài trượng, nước sâu khoảng 6, 7 thước thường có dòng chảy trong mát. Các bậc kỳ lão xưa trước tương truyền đó là chỗ ở của các tiên, uống nước tức liền chẳng đói, nhân đó dứt bỏ gạo thóc. Am cốc của Ngài ở cách chén ấy một khe suối nhỏ, thường lấy cây gỗ làm xà cầu, do đó mà qua lại múc nước. Về sau, có một lúc bỗng thấy 1 con vịt bị bẻ gảy cánh buông rơi cánh ở đầu xà cầu đến lẹt xẹt, Ngài muốn giất tích trượng gạt vất đi, bỗng nhiên nghó nhớ thuở thiếu thời từng bẻ gảy cảnh 1 con vịt, tự nghiệm lấy đó làm nhận chịu quả báo, mới bỏ hằn sự ăn uống mà thị tịch. Đến lúc sắp tịch tỏ bày sự ấy đầy đủ với người mà thôi! Lại nữa, Sa-môn Chi Tuần tự là Đạo Lâm, vốn dòng họ Lậu, người xứ Trần Lưu. Ngài xuất gia tử thuở thiếu thời, là bậc thần tuấn siêu ngộ ngàn năm có được một người, mà lấy làm trứng gà ấp khí chưa đủ cho là không có mạng sống, nói ăn thứ đó không tội. Thầy của Ngài là bậc danh Tăng giới hạnh trinh thuần thường vì dạy răn, mà Ngài khoái biện luận nói thẳng lời nên thầy Ngài chẳng thể điều phục. Sau khi thầy Ngài đã thị tịch, bỗng lại hiện hình lấy trứng gà đối trước mặt Ngài mà ném nơi đất, mới có gà con từ trong trứng xuất hiện ra bay liệng mổ ăn, trong ý Ngài hơi sinh nghi ngờ, chưa thể toàn cải đổi, về sau lại muốn ăn đó nữa, bèn mộng thấy có 2 vợ chồng người nọ đến quỳ thẳng trước mặt Ngài mà thưa rằng: “Có 30 người con, ngày mai cung cấp vào nhà trù để nấu ăn, nên xin thầy ban tha mạng, nguyện rủ lòng xót thương cứu với”. Mới ngậm gà con đến trước mặt Ngài gõ phá, đều có những đứa trẻ mặc áo trắng từ trong mà ra. Sau khi tỉnh giấc rồi, Ngài rất tự hối trách, từ đó chỉ rau quả đến trọn đời. Sa-môn Trúc Tuệ Só ở chùa Tứ Tầng tại Giang Lăng thời tiền Tống ăn thịt nên sinh làm chó đói nơi địa ngục. (Rút từ Minh Tường ký). Sa-môn Trúc Tuệ Só người xứ Tân Dã, ở chùa Tứ Tầng tại Giang Lăng, tịch năm Vónh Sơ thứ 2 (421) thời tiền Tống. Các đệ tử vì thiết trai hội cúng dường 7 ngày. Ngày đó, lúc sắp tối đốt hương xong. Sa- môn Đạo Hiền nhân sang trông xem đệ tử của Tuệ Só, vừa đến trước cửa phòng, bỗng thấy loáng thoáng như có hình bóng người. Trông nhìn kỹ thì là Tuệ Só, dung mạo y phục chẳng khác lúc bình sinh. Tuệ Só nói cùng Đạo Hiền rằng: “Ông ăn thịt có ngon chăng?” Đạo Hiền đáp: “Ngon!” Tuệ Só bảo: “Tôi vì ăn thịt nên nay đọa làm chó đói nơi địa ngục”. Đạo Hiền kinh sợ chưa kịp nói năng gì. Tuệ Só lại bảo rằng: “Nếu như ông không tin thì thử trông xem sau lưng tôi”. Mới vén lưng cho Đạo Hiền xem, thấy 3 con chó vàng, một nửa thân hình tợ như lừa, mắt rất đỏ phóng tỏa ánh sáng soi chiếu vào trong cửa nhà, tướng trạng như muốn gặm cắn Tuệ Só mà lại ngưng dừng. Đạo Hiền kinh sợ chết ngất, giây lâu mới sống lại tỏ bày đầy đủ sự việc ấy, nhân đó mà hối chừa cải đổi. chết. Linh Tài ở thời nhà Tề ăn thịt vừa vào cổ họng bị đau khổ mà Linh Tài vốn dòng họ Triệu, người xứ Đông Dương. Tuy thân dự phần Đạo môn mà hạnh đồng như thế tục, nhóm tụ uống ăn, chưa bao giờ sinh tâm hổ thẹn. Từng ở tại xứ Ngô đến nhà Hào Só Cổ Bái, đưa khách lên chơi tại đình Thăng Bình, thấy dẫn theo 1 con dê sắp đưa vào bếp để làm thịt, vì lưới tham che phủ Tâm nên Linh Tài chẳng hề cản ngăn, bỗng chốc con dê ấy kéo giựt đứt dây chạy vào dưới đầu gối Linh Tài xuyên chui đầu vào dưới áo ca sa, tỏ vẻ muốn được cứu giúp, mà Linh Tài vẫn điềm nhiên không nói năn gì. Con dê đã bị dẫn kéo đi, chỉ chốc lát mổ xẻ đã xong, đốt lửa nướng mà hành. Linh Tài trước ăn một miếng thịt mới đưa vào cổ họng, thịt bèn từ trên chạy xuống dưới xung chạm tới tim quẩy động trong bụng, thắt chặt khổ thống, chẳng thể kham nhẫn, đứng nằm rên rỉ, đau buốt những người chung quanh. Cổ Bái liền bảo thầy thuốc châm chích, cứu còn nhiễu động, mới phá da mà ra nguyên miếng thịt cũ, Linh Tài mắc bệnh làm tiếng dê kêu nhả nước bọt, trở về chùa thời gian ngắn thì qua đời, mọi người xa gần thấy nghe đều lấy đó để tự răn mình chỉnh túc. Sa-môn Trí Thận ở Dương Châu thời nhà Trần bị vua Diêm- ma răn dè khuyên bảo. (Rút từ Trưng Nghiệm truyện). Sa-môn Trí Thận, chưa rõ là người thuộc dòng tộc nào, nói năng hành xử có lắm bẩn dơ, đam mê dâm dục, thường ăn cá tươi lấy làm ngọt ngon miệng bụng, mới tại nơi phòng đào cái hồ rộng khoảng 2 trượng thả nuôi nhiều cá ngon lành dùng để cung cấp sớm tối. Lại đồ họa tượng vua Diêm-ma đặt để nơi tòa không, cá lương nấu chín, trước hiến dâng tượng. Có người hỏi về nguyên do, Trí Thận nói rằng: “vua Diêm-ma là chủ ngục tối, đuổi phạt đều do đầu ngọn bút của vua, giả sử như cùng gặp, ngỏ hầu được khoan dung tha thứ”. Các đồng bạn chê trách quở răn, nhưng Trí Thận trọn không nghỉ bỏ, về sau cùng mặc bệnh mà chết ngất, bèn thấy vua Diêm-ma bảo rằng: “Đệ tử từ trước trở lại từng được cúng dường, tuy Sư dốc hết ý nồng hậu mà trọn chỉ khiến đệ tử tội lụy càng sâu, mong Sư chớ như thế nữa! Việc giết hại sinh mạng tội nặng chẳng thể cứu chuộc lại được”. Và bảo quan trông coi ngục dẫn đi trông xem các chỗ nhận chịu tội khổ, trông xem rồi có thể đưa Sư trở về lại. Trí Thận đi thẳng đến trước, thấy một thành rất lớn lửa dữ cháy bừng, chưa đến vài trăm thước, sao lửa vụt bay loạn xạ, gần đến nơi chỗ Trí Thận, Trí Thận kinh sợ chẳng chịu tiến tới. vua Diêm-ma mới hỏi: “Sư thấy thế nào?” Trí Thận buồn khóc cầu xin sám hối, mong cầu được tạm thả về để tu công đức. vua Diêm-ma bảo: “Ở phía ngoài ngục còn như vậy, nên nghó biết phía trong ngục như thế nào. Tự mình tạo tác, tự mình nhận chịu, lời nói ấy thật không xằng bậy! Từ trước đến giờ mong đội ân, nay lấy đó vì báo đáp!” Trí Thận bèn được sống lại, rất sinh tâm cải hối, sớm tối tinh cần, về sau trở thành vị Tăng cao hạnh vậy. Sa-môn Oai Chỉnh ở chùa Thái Bình tại Thần Đô thời tiền Đường hại con nhền nhện. (Tân Lục). Sa-môn Oai Chỉnh, chưa rõ là người thuộc dòng tộc nào, xuất gia từ thuở thiếu thời, chuyên tu tuệ giải, tinh cần nghe học, chưa từng luống qua thời gian, ở chùa Thái Bình tại Thần Đô, thường giảng vài bộ kinh luận Đại thừa, rất có lợi ích rộng lớn. Bỗng nhiên phía trên tường vách ở sau giường, thấy có 1 con nhền nhện, dùng gậy xua đuổi, lầm làm gảy mất một chân, bảo người đưa đi ném thả nơi khác. Đến ngày hôm sau, Oai Chỉnh cũng trở lại thấy con nhền nhện ấy, lại bảo người mang đến thả ở phía Nam dòng nước. Qua một đêm sau, nhền nhện cũng trở lại, vô tướng mới đưa tay xé bỏ cẳng chân bị gảy ấy và bèn bị nó cắn vào ngón tay, lại bảo người đem đi thả bỏ chỗ xa. Ngày khác, bất chợt nhền nhện trở lại và cắn tay Oai Chỉnh. Mới đầu, vết thương tuy nhỏ mà đau nhức không thể nhẫn chịu, lại bảo người đưa nó đi, từ đó không thấy nó trở lại, vết thương nơi tay Oai Chỉnh về sau dần Tăng lan dần khắp thân thể, nơi thân thể cảm thấy dần sinh ngứa, Oai Chỉnh mới đưa tay gãi cào đó, bèn theo dấu tay mà làm thành vết thương, trong vết thương có tơ của nhền nhện rút ra ngoài vết thương đều dần lớn đến vào ba tấc. Tối sớm khổ đau khó nói khó nhẫn, trải qua thời gian 2 năm, khạt nhổ tiểu tiện đều có con nhần nhện nhỏ cùng ra, mãi đến nay vẫn chưa lành, tìm hỏi trăm phương trọn chẳng thể chữa trị. Tăng chúng trong chùa luôn luôn nhóm tập vì Oai Chỉnh mà khẩn cầu Phật, liền cảm thấy nhỏ, mới xả thí tất cả của cải y phục đến núi Long Môn tạo lập 15000 tôn tượng, tôn tượng đến nay sắp hoàn thành, vết thương ấy hơi thu gom nhỏ lại, há chẳng phải ương trái xưa trước chỗ chẳng thỉnh cầu đặt để đó ư? <詞>GHI VỀ ĂN UỐNG TRÁI PHÁP. Sa-môn Trúc Đàm Du ở núi Thiên Thai thời nhà Tấn, lúc còn trong thai mẹ từng giẫm qua chỗ đất trồng hành kiệu nên bị Thánh giả xua đuổi. Sa-môn Trúc Đàm Du còn gọi là Pháp du, người xứ Đôn Hoàng. Từ thuở thiếu thời sống theo khổ hạnh hành tập Thiền định, có lắm thần tích diệu ngộ, chưa rảnh nêu bày tường tận. Về sau đến ở núi xích thành, hang núi ấy liền thuộc với núi Thiên Thai, mà sườn núi Thiên Thai cao vợi súc tích. Các bậc kỳ lão xưa trước tương truyền rằng: “Trên đó có tinh xá, là nơi những vị đắc Đạo ở, nhưng có cầu đá gác qua khe mà đá đâm ngang cắt đứt người. Vả lại, rêu rong xanh phủ trơn nhẵn, từ xưa trước trở lại không người nào được đến đó”. Đàm Du đi đến nơi chỗ cầu đá, nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng: “Biết ông rất mực chí thành, nhưng nay chưa được qua, hãy trở về 10 năm sau đến lại đây vậy!” Trong tâm Đàm Du buồn bả, dừng nghỉ lại qua đêm tại đó, nghe có tiếng hành Đạo xướng tát. Thả từ sau muốn tới trước, thấy có 1 người tóc mày bạc trắng hỏi Đàm Du đến đó với việc gì? Đàm Du đem tâm ý mình mà đáp. Người ấybảo: “Ông ở trong sinh tử, tội lấm thân sao có thể được đi? Tôi là thần ở núi này, nên cùng báo ông biết vậy”. Đàm Du mới lui về đừng ở thời gian ngắn, khiết trai nhiều ngày, nhân lại sang đó, thấy đá đâm mở rỗng, cầu đi qua ngắn ít, trông thấy rõ các bậc Thần Tăng và tinh xá, quả đúng như lời đồn đãi. Nhân đó, Đàm Du đốt hương giữa bữa ăn trưa, ăn xong, có vị Thần Tăng bảo rằng: “Nói ông có mùi hơi hành kiệu, nên chưa thể đến ở đây. Hãy trở về 10 năm sau đến lại đây vậy!” Đàm Du nói: “Từ lúc mới sinh trở lại tôi chưa từng biết mùi vị tanh nồng dơ uế huống gì là ăn vào miệng mà nói là có mùi hôi ư?” Thần tăng bảo: “Lúc ông ở trong bào thai, mẹ ông từng giẫm trải qua nơi chỗ đất trồng hành kiệu”. Đàm Du hổ thẹn mà thối lui, trông nhìn thấy đá ngâm ngang, bèn trở lại phòng nhà như mới đầu. Về sau, tịch tại núi ấy mà khắp thân thể toàn sắc màu xanh lục. Sa-môn Nan Công ở chùa Tân thời tiền Tống uống rượu bị quở trách. (Rút từ Minh tường ký). Tương Tiểu Đức người xứ Giang Lăng, tuy mới độ tuổi niên thiếu mà kính tin chí hướng tinh cần vượt qua người. Đến cuối niên hiệu Đại Minh (465) thời tiền Tống, cảm mắc bệnh mà chết, tới canh ba trong đêm sắp tẩn liệm, bỗng nhiên sống lại kể rằng: “Có Sứ giả tự xưng là vua sai chiếu tới gọi bắt, Tiểu Đức bèn theo đi. Đã đến nơi, vua Diêm-ma bảo: “Ông tinh cần dùng tâm nhỏ mà kính phụng đại pháp, được vua Trời Đế Thích chỉ vì ông chuyên chí nên chóng được sinh về cõi tốt lành. Mà tính về tuổi ông thì còn lâu dài, bảo ta đặc biệt với gọi ông vậy. Ngày nay sắp nhận thọ khoái lạc trên cõi trời, nên cùng vì ông mà vui mừng vậy”. Tiểu Đức rất hoan hỷ thưa: “Vâng”. vua Diêm-ma lại bảo: “Ông có thể trở về lại nhà muốn gởi gắm gì và làm mọi việc công đức nhanh chóng, 7 ngày sau lại đây vậy!” Tiểu Đức vâng lời mà trở về, trên đường do đi qua 1 chỗ có một ngôi nhà nhỏ rất hẹp xấu, thấy gặp Sa-môn Nan Công ở chùa Tân ở trong ngôi nhà ấy. Vì trước vốn đã quen biết, nên cùng han hỏi. Nan Công bảo rằng: “Bần đạo từ lúc xuất gia trở lại chưa từng uống rượu, thả tạm đến nơi phòng Lan Công. Lan Công khổ thấy khuyên ép uống một thăng, khiến ngày nay bị ở trong ngôi nhà hẹp xấu này vậy, 3 năm sau mới được lên trên”. Tiểu Đức trở về nhà muốn nghiệm biết lời nói ấy, ngay đêm đó vội sai người sang hỏi về Nan Công. Quả nhiên ngày đó nằm ngủ nơi phòng Lan Công, đến tối không bệnh mà Nan Công qua đời. Tiểu Đức đã qua trong 7 ngày thiết Đại trai phước cúng dường. Đến kỳ hạn an nhiên mà qua đời. Lan Công và Nan Công 2 Sa-môn ấy đồng ở tại chùa Tân, Nan Công đạo hạnh rất tinh cần. Sa-môn Thích Viên Thông ở chùa Đại Trang Nghiêm tại Nghiệp Hạ thời nhà Tề uống rượu bị Thánh giả ruồng đuổi quở trách. Sa-môn Thích Viên Thông, không xõ là người thuộc dòng tộc nào, xuất gia từ thuở thiếu thời, nghiên tầm tụng đọc kinh Niết Bàn. Trong mùa Hạ năm Kiến Đức thứ 4(1), vừa tan buổi giảng, có vị khách Tăng bỗng nhiên lại chùa nương náu muốn dừng ở mà thể mắc bệnh nặng dữ, mùi hôi thối xông tỏa, chư Tăng không ai ngó ngàn đếm xỉa. Viên Thông mới dẫn khách Tăng ấy đến trong phòng mình, vì lo chăm sóc thuốc thang, tuy có dơ uế, nhưng Viên Thông trọn không khinh sợ. Trong một đêm nọ, Viên Thông đem lại 1 bát “Xuân Tửu” và nói rằng: “Bạn khách đang bệnh hoạn uống rượu này rất tốt?” Vị khách Tăng ấy ngần ngại giây lâu mới vì đó mà nhăn mày uống một ngụm bèn thôi. Đến lúc mãn hạ, cơn bệnh cũng tạm lành, vị khách Tăng ấy bèn tự tạ Viên Thông để đi. Lúc cách biệt, nắm lấy tay Viên Thông, vị khách Tăng ấy răn bảo: “Người tu Đạo chớ khinh thường lúc ở nơi phòng tối, huống gì rượu là thứ bất thiện, gốc của mọi việc ác. Pháp sư ngày trước ban tặng, vì sợ tổn thương tâm ý tốt lành mang lại nên uống vậy. Từ nay trở đi, việc ấy xin nên chấm dứt! Tiểu Tăng ở dưới nhà chùa nhỏ cách 5 dặm về phía Bắc của chùa Thạch Quật tại Cổ Sơn, phải đi nhiễu quanh khe đầm mà lại tức là chùa Trúc Lâm vậy. Như có duyên nghó tưởng thì cùng phỏng hỏi đến đó!” Viên Thông nghe nói chùa Trúc Lâm tức là chỗ ở của các bậc Hiền Thánh, bèn kính tạ lời dạy răn ấy trước, và hẳn sẽ tìm sang thăm đó. Đến năm sau, Viên Thông sang chùa Thạch Quật an cư kiết hạ, mới cùng vài người mang hương hoa tìm đường mà đi, đến trong hang núi phía Bắc cách chùa khoảng 5 dặm, rồi theo hướng Đông mà ra leo lên trên gò núi, thấy một ông già khăn tay bịt trán cầm bừa khai hoang hơn vài mươi mẫu đất. Ông ta thấy chư Tăng bèn cưỡi phóng trên mình 1 con ngựa mà quát mắng rằng: “Năm trước chùa Quan phóng thả ngựa ăn phá lúa mạ sống, con ta ra ngăn cản giữ gìn lại bị đánh đến chết, nay lại dẫn mặt mũi đến đây ư?” Và kéo bừa lại rượt đuổi, chư Tăng vội rút lui, riêng không được đuổi Viên Thông, mà bảo rằng: “Ngươi can cường cứng mạnh, hẳn bảo hổ đói bắt ăn”. Viên Thông đi ra hướng Đông, tìm theo một khe nhỏ, nghe trên đảnh núi có tiếng tụng kinh. Viên Thông hỏi chỗ chùa Trúc Lâm, liền ứng tiếng đáp rằng: “Há chẳng là Pháp sư Thông đó ư?” Viên Thông liền biết quả là vị khách Tăng xưa cũ, bèn vạch rừng vượt đường hiểm nguy đi đến chỗ Viên Thông rất mừng vui. Nhân đó bảo cùng đi tới trước vài dặm, bỗng thấy 2 cái cổng cửa cao hiên dài, đường nhiều lối, trúc dài chạm tới mây, tùng xanh ngăn che ánh mặt nhật, mới để Viên Thông dứng lại phía tả cửa và bảo là: “Phải bước hỏi ý Hòa thượng!” Chốc lát lại dẫn vào trong giảng đường dưới hàng hiên phía Tây. Hòa thượng ngồi nơi sàng tòa cao, có năm sáu mươi người thị giả, Hòa thượng tuổi khoảng 70, tướng trạng như Phạm Tăng, Viên Thông lễ bái xong rồi đứng yên, mới bảo an đặt dẫn đi lễ bái chung quanh, thấy 2 dãy phòng Tăng mỗi mỗi đều ngồi nơi màn trướng báu giao kết trang sức các thứ ánh ngời sáng lòa cả mặt nhật, bảo cùng vị Tăng ấy đi rằng: “Kẻ kia khách rượu ở đâu dám đến đây vậy?” và đưa tay xua đuổi đi. Viên Thông tỏ vẻ xấu hổ, vị Tăng ấy mới dẫn vào phòng mình và thiết bày thức ăn bữa trưa. Viên Thông nhân đó tỏ bày ý nguyện của mình muốn được ở tại đó cùng quét tước. Vị Tăng ấy bảo: “Cần phải hỏi ý Hòa thượng”. Hòa thượng cố khước từ. Vị Tăng ấy đưa ra đầu cửa, Viên Thông ngoảy nhìn lại luyến mộ rơi lệ tự thương trách tội trước của mình, nắm tay vị Tăng ấy mà giả biệt. Theo hướng Tây đi chừng trăm bước, trông nhìn lại còn thấy cửa cổng nghiễm nhiên, vừa bước từng bước vừa trông nhìn lại. Đi chừng 4 dặm, bỗng nhiên thấy ngọn núi cao vợi, chẳng còn lại chùa vũ, đến nơi chỗ đất khai hoang, trọn không vết tích manh mối, chỉ là một rừng cây Tần. Các bậc thức giả cho rằng: “Ông già nói: “Năm trước chùa Quang phóng thả ngựa” là chư Tăng như ngựa chỉ nghó nhớ đến nước cỏ, chẳng mong cầu Thánh đạo. Và nói “ăn phá lúa mạ sống” tức nói Viên Thông khuyên mời khách Tăng uống rượu, bị hại mầm Đạo, và nói “Con ta ra ngăn cản giữ gìn” là nói khách Tăng mới đầu giữ giới chẳng chịu uống rượu còn nói “bị đánh đến chết” tức nói bị khuyên uống một ngụm mất không biết bao nhiêu Thánh Đạo. Và rượt đuổi chư Tăng tức là riêng để lại dẫn đến người có duyên vậy. Viên Thông chẳng liễu ngộ lời nói ấy, mà chẳng trở lại gia tâm chuyên cần sám hối. Nên bị xua đuổi khiến bảo đi ra, há chẳng phải ư!. Sa-môn Tăng Đạo Viễn ở chùa Tiết tại Lương Châu thời nhà Tề uống ăn yến tiệc bị lông my rơi rụng. Sa-môn Thích Tăng Đạo Viễn, không biết là người xứ nào, ở chùa Tiết tại Lương Châu. Vì tánh sơ suất dối trá, chẳng tu tế hạnh, ưa thích theo sự uống ăn yến tiệc lấy làm chuyên. Năm Võ Bình thứ 3 (572) thời Bắc Tề, bỗng nhiên mộng thấy 1 người to lớn nghiến răng quở trách rằng: “Ông là người xuất gia mặt mắt như thế, vội phóng túng tạo ác, sao chẳng lấy gương để tự soi chiếu xem coi?” Đạo Viễn tỉnh giấc toát mồ hôi, đến sáng sớm vì bồn nước tự ngời ánh mới thấy bên khóe mắt có chấm đen, cho đó là bẩn dơ bèn có cọ rửa lông my đều rơi rụng. Nhân đó tự hối trách, nghó nhớ tội ương ấy, bèn cải cách thường tu tập, thay hình đổi chí, mang mặc y phục thô xấu dép giày rách rưởi, ngày ăn một bữa trường trai, tuân phụng theo luật nghi, sớm tối thực hành sám hối, chẳng lúc nào lệ không rơi đổ, trải qua hơn một tháng, Đạo Viễn lại cảm mộng thấy người trước kia mỉm cười bảo rằng: “Biết được lỗi qua mà hay cải đổi, đó là người trí vậy! Tha cho ngươi những lầm lỗi trước kia, chớ trở lại tiếp tục”. Đạo Viễn kinh sợ vui mừng mà tỉnh giấc, mồ hôi đổ ướt thân mình, mặt mắt sáng sạch đượm nhuận lại, lông my đều mọc ra. Đạo Viễn từng gióng chuông báo tin biết mọi sự trong 3 đời, dốc hết tánh tình kính phụng pháp, bèn trở thành vị Tăng luyện hạnh vậy. Sa-môn Thích Pháp Tứ ở chùa Nõa Hưng tại Hà Tây thời nhà Tùy uống rượu say bị vua Diêm-ma khuyên răn. Sa-môn Thích Pháp Tứ, giới hạnh tuy lắm trái phạm mà thường ôm hoài kính hướng sùng chuộng. Vào thời niên thiếu thường cùng cách vài ba đêm uống rượu. Đêm lâu mà tan, chỉ ra nơi cửa, bỗng chốc có 3 người vây bọc trước sau. Pháp Tứ hỏi: “Các ngươi là ai?” Đáp là kẻ sứ của vua Diêm-ma sai đến gọi bắt, và liền kéo dúm lại. Pháp Tứ dốc hết sức lực tranh đấu, bảo rằng: “Tôi có tội gì mà bị bắt bớ?” Vừa lùi vào được trong phòng vin tựa té ngã mà chết ngất. Chư tăng cả chùa kinh ngạc đều lại giữ gìn trông coi. Đến sáng sớm mai, Pháp Tứ sống lại, nhân đó buồn khóc mà tỏ bày những sự thấy biết rằng: “Sang thấy vua Diêm-ma. vua hỏi: “Ngươi tạo tội gì?” Pháp Tứ đáp: “Từ lúc thơ bé vào Đạo, phần nhiều khiếm khuyết giới hạnh, ngoài ra hứa hổ chuộng khinh, chỉ uống rượu là thường thôi”. vua Diêm-ma liền bảo người hai bên rót rượu đưa cho Pháp Tứ. Các người ấy vội lấy rượu, khi đã mang đến đưa cho Pháp Tứ bát rượu lớn bằng một thăng. Pháp Tứ nhận lấy bưng vào trong tay, bỗng nhiên biến thành nước đồng sôi phừng phực cháy cao lên vài trượng. Pháp Tứ kinh sợ ném vất đi mà không thể rời khỏi tay. vua Diêm-ma lại thúc giục bảo uống nhanh. Pháp Tứ gào khóc xin cứu. vua Diêm-ma hỏi: “Lúc bình sinh ông tạo phước gì?” Pháp Tứ đáp: “Thường tụng giới kinh mỗi đêm một biến”, nói vừa xong thì bỗng nhiên bát rượu lìa khỏi tay. vua Diêm-ma bảo: “Giới là gốc hạnh đã tụng thì phải trì, chớ lại nói không thì chỉ tổn phí hơi sức. Sức lực của sự tụng trì cũng có khả năng tiêu trừ lắm tội chướng. Nay thả Sư trở về, nên tư duy mà cải hối, như lại muốn uống rượu thì nên nghó nhớ đến nước đồng sôi”. Bèn thấy 1 vị Phạm Tăng dẫn Pháp Tứ cùng đi ra. Về sau, Pháp Tứ lại chẳng tuân theo thầm hối cải, nên lại bị đuổi bắt lần nữa. Từ đó mới cải đổi, bèn được không sao. Sa-môn Thích Huyền Giám ở chùa Thanh Hóa tại Trạch Châu thời tiền Đường phá vỡ vật đựng rượu, các Sa-môn khác bị quỷ khuyên răn. Sa-môn Thích Huyền Giám, vốn dòng họ Tiêu, người xứ Cao Bình, Trạch Châu, năm 19 tuổi xuất gia quy hướng Đạo Phật. Đối với các thứ rượu thịt thức ăn tanh nồng, tự nhiên chán ghét. Về sau đến ở chùa Thanh Hóa, nương tựa theo Viễn Công, rộng tham cứu các kinh luận, đối với kinh Niết bàn, rất thấu đạt chí thú, mà chánh tánh thuần thẳng thắng, nói năng và hành động cùng nương nhau. Phàm những lúc thấy gặp uống rượu trái pháp, không lúc nào chẳng phá vỡ vật đựng rượu, nên các hàng só tục tụ tập uống ăn yến tiệc, nghe Huyền Giám đến đều liền vội bỏ tan. Bấy giờ, chùa Thanh Hóa tu sửa tạo dựng điện Phật, Trường Tôn Nghóa là Quan trưởng ở Trạch Châu rất mến mộ kính tin, nghe số người thầy thợ làm việc ở đó rất đông, mới đưa đến 2 kiệu rượu để ban tặng. Khi đó, Huyền Giám thấy vậy liền phá vỡ tất cả vật đựng rượu tung tóe nơi đất, và bảo: “Công đức của ta chợt có thể chẳng thành, nhưng trọn chẳng dùng vật trái pháp này vậy”. Tôn Nghóa nghe thế rất tức giận, muốn ngày hôm sau sẽ đến làm hại, đêm đó liền mộng thấy có người nắm dao đi đến, thế rồi bỗng nhiên kinh hãi tỉnh ngộ, bèn liền quy y sám hối. Lại nữa, có một thời gian gặp phải bệnh dịch khí chết người, chẳng chỉ một người đến chỗ Huyền Giám mà sám hối. Huyền Giám khuyên bảo họ dứt bỏ rượu thịt, được bình phục lại số ấy đông nhiều. Có Lý Thiên là người ở trong làng tánh riêng ham thích uống rượu, nhân cảm mắc bệnh nên đến cầu xin sám hối, bỗng chốc bệnh được lành, từ đó chán ghét vật bỏ hết, từng không nói năng đến, và thường nói cùng các người bạn rằng: “Từ khi gặp được Đại sư Huyền Giám trở lại, với hơi rượu như là thuốc độc, tôi còn chẳng vui thích nghe, huống gì chánh mắt trông thấy”. Với sức giới hạnh thanh tiết của Huyền Giám cảm hóa mọi người đại loại đều như thế. Thứ nữa, năm Võ Đức thứ 4 (621) thời tiền Đường, Lý Lục sự là Đang Bộ Hộ Trạch huyện qua đời, qua 7 ngày sau lại bảo cùng người vợ rằng: “Tôi bị làm quỷ, hồn vân du ở nhân gian, mọi việc chưa rõ ràng thảy đếu nhận biết đó. Cùng người giao tiếp nói năng mọi sự, lúc đang sống chỉ vì vật tự ngăn che không hiện được hình tướng ấy, còn lúc làm quỷ. Tôi sang chùa cảnh nghiệp nghe giảng kinh Duy Ma, có các Pháp sư khác có lúc uống rượu nói cùng với quỷ rằng: “Nay giảng kinh này cảm có hạng người nào nghe?” Quỷ đáp: “Từ loài người trở lên tức là có quỷ thần và lên đến cả chư thiên, có nhiều tầng lớp khắp đầy giảng hội. Lúc xướng lời văn thì đều chỉnh trang nghi dung lắng nghe, lúc Pháp sư giải nghóa thì xoay mặt về hướng khác mà nghe, bởi vì nghe tỏa hơi rượu nên vậy. Như thế nhất định cần nên đoạn tuyệt, nếu chẳng thế thà không nên giảng còn hơn, không chỉ ở pháp hội này, mà hết thảy đều như vậy! Chư Tăng hổ thẹn tự dứt bỏ vậy. Bài văn khuyên dứt bỏ uống rượu ăn thịt của vua Võ Đế (502- 550) thời Nam Lương. (Nguyên bản nhiều rộng, ở đây lượt bớt) Đệ tử con Tiêu Diễn kính bạch chư Đại đức v.v… Phàm, sửa chánh Phật pháp là việc của hàng Hắc y ( Sa-môn), chẳng phải sự cần kíp của hàng đệ tử bạch y ( cư só), chỉ vì trong kinh giáo Đức Phật cũng có nói “Phật pháp giao phó cho người thế tục”. Do đó, đệ tử không thể chẳng nói. Nay chư Đại đức Tăng Ni nên mở ý nghe nhận, chớ sinh nghi ngờ bít đóng! Phàm người xuất gia sở dó khác với hàng ngoại Đạo chánh vì tin nhân tin quả, tin điều trong kinh giải thích rõ ràng, tin đó là do Phật nói. Trong kinh nói: “Người làm 10 nghiệp xấu ác thì phải nhận chịu quả báo xấu ác, người hành trì 10 nghiệp tốt lành thì hưởng thọ quả báo tốt lành. Nay người xuất gia còn ham thích uống rượu, gặm ăn các thứ cá thịt. Đó là hành vi đồng với hàng ngoại Đạo. Hàng ngoại Đạo chấp đoạn kiến thường kiến, không nhân, không quả, không thi vi, không quả báo. Nay đệ tử Phật mà vui thích uống rượu ăn thịt, không sợ tội nhân, không sợ khổ quả, tức là không tin nhân, không tin quả, và không thi vi không quả báo, thì đâu có gì khác ư? Việc ấy so với hàng ngoại Đạo thì thấy đồng, mà lại có sự chẳng bằng với hàng ngoại Đạo, vì: Hàng ngoại Đạo mỗi mỗi đều tin theo lời thầy của họ. Thầy bảo là “phải” ( thị), đệ tử cũng nói là “phải”. Thầy bảo là “Quấy” ( Phi), đệ tử cũng nói là “Quấy”. Trong kinh Niết Bàn, Đức Phật dạy rằng: “Ngày nay cấm chế các đệ tử không được ăn hết thảy các thứ thịt”. Và trong giới luật nói: “Uống rượu tức phạm Ba-dật-đề”. Ma nay chư Tăng Bi uống rượu ăn thịt, việc ấy trái với sự dạy răn của Thầy mình. Đó là điều thứ nhất không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo tuy là tà kiến hành trì giới trâu, giới chó, nhưng sau khi đã thọ giới rồi thì trọn không có tái phạm. Nay, người xuất gia đã thọ giới rồi, thì khinh mạn húy phạm. Đó là điều thứ 2 không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo tuy là dùng 5 thứ lửa nóng nướng đốt thân, ném vất vào hầm lửa sâu, chưa hẳn là ăn thịt chúng sinh. Nay người xuất gia ăn nuốt các thứ cá thịt. Đó là điều thứ 3 không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo dị học tuy chẳng phải lý chánh đáng, song mỗi tự hành tập theo pháp của bậc thầy của họ, không có che giấu. Nay người xuất gia ăn nuốt cá thịt, ở chỗ người thân mới tự cùng chung tỏ sáng, ở chỗ người sơ thì đều ẩn lánh. Hành vi như thế là điều thứ 4 không sáng bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo mỗi mỗi tự trọng pháp của họ, cho đến bảo là “Tất cả không gì bằng Đạo chân chánh của ta”, đối với người khác, không tỏ vẻ kiên kî khiếp sợ. Nay người xuất gia ăn nuốt cá thịt, hoặc tự trốn lánh các bạn đồng học, hoặc trốn lánh đệ tử của mình, hoặc trốn lánh hàng tại gia, hoặc trốn lánh các quan trông coi chùa. Lòng hẹp chí tà, gập ghềnh che giấu. Đó là điều thứ 5 không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo thẳng tình thẳng hạnh, có thể nuôi lớn đồ chúng ác của mình, mà không nuôi lớn dị bộ xấu ác. Nay người xuất gia ăn nuốt cá thịt, hoặc cùng với chỗ nghe thấy của hàng đệ tử tại gia mà trong tâm không từng hổ thẹn, mới trang sức tà thuyết, bảo rằng: “Phật giáo là pháp vốn còn ở nhân xa, tại ngay ngày nay chưa đều dứt đoạn hết”. Các hàng tại gia ngu si nghe chư Tăng nói thế cho đó là lời nói chân thật, bèn tin nhận tự tạo các nghiệp bất thiện, tăng rộng thêm các ác. Đó là điều thứ 6 không sánh bằng hàng ngoại Đạo Lại nữa, hàng ngoại Đạo tuy là trái pháp mà nói là pháp, song mỗi mỗi tự tin theo kinh sách ấy, mãi đến lúc chết vẫn không trái phạm. Nay trong kinh Lăng Già, Đức Phật dạy rằng: “Vì lợi mà giết hại chúng sinh, dùng tài của mà bủa lưới cá thịt, cả 2 nghiệp ấy đều là bất thiện, sau khi chết đọa vào địa ngục kêu gào. Cớ sao vì tài của mà bủa lưới cá thịt? Ở trên đất liền thì đặt lưới Ta phù ( lưới săn thỏ), ở nơi dưới nước thì đặt lưới cổ ( lưới vớt bớt cá). Đó là dùng lưới bủa lưới cá thịt. Nếu ở sự giết hại trong nhân gia chỉ dùng tiền để mua cá thịt, còn đây thì dùng tài của bủa lưới cá thịt. Nếu khiến người ấy chẳng dùng tài của bủa lưới cá thịt, tập hành theo ác luật nghi, bắt hại chúng sinh, người ấy sẽ chuyên tự cung cấp vào miệng mình, cũng lại riêng có chỗ phỏng định, nếu riêng có chỗ phỏng định, cố ăn nuốt cá thịt, há không phần giết hại, sao được nói là Ta không sát sinh. Đó chính là châm lửa đốt hưng kinh văn. Đó là điều thứ 7 không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo đối với người đồng pháp của họ thì hòa hợp, khác pháp của họ thì khổ công sửa trị, khiến thực hành cấm chỉ, không ai chẳng vâng theo. Nay người xuất gia, hoặc làm bậc Sư trưởng, hoặc làm quan trông coi chùa, tự khai mở cấm rượu, ăn nuốt cá thịt, thì lại chẳng thể được thi vi dạy răn, vừa mới muốn mở lời thì người khác liền cười chê châm chích. Thân mình đã có vết bẩn, đã không thể điều phục vật, trái lại bị mài dũa quở trách. Ngay đó chỉ còn, bởi vì người ở tại chùa sai trái, nên người thọ Đạo buông lung. Đó là điều thứ 8 không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, hàng ngoại Đạo nhận sự cúng dâng của người khác thì phải đúng như pháp của mình mà nhận. Người thọ giới chim quạ thì nhận sự cúng dâng của giới chim quạ, người thọ giới nai thì nhận sự cúng dâng của giới nai, người thọ giới chim quạ trọn không che giấu giới mà nhận sự cúng dâng của giới nai. Người thọ giới nai trọn không che giấu giới mà nhận sự cúng dâng của giới chim quạ. Nay người xuất gia bảo rằng: Ta có khả năng tinh tấn, ta có khả năng khổ hạnh”, đồng một lúc che giấu tướng thật lừa dối các hàng tại gia. Đi ra thì uống rượu, mở toan các cửa xấu ác, đi vào thì ăn thịt, nhóm tập lắm gốc khổ. Đó là điều thứ 9 không sánh bằng hàng ngoại Đạo. Lại nữa, người uống rượu là mùi hôi thối, nước gạo mất tánh chánh thật của gạo, biến thành mùi vị riêng biệt ấy. Chúng sinh vì nhân duyên ác nghiệp nên nhận chịu xúc chạm sự xấu ác ấy. Đó chẳng phải là Đạo pháp chánh chân, cũng chẳng phải là cam lồ mùi vị cao thượng. Làm sao hàng Tăng Ni xuất gia trao truyền ngũ giới cho hàng tại gia, khiến bảo không được uống rượu, khiến bảo không được nói dối. Cớ sao lật lại tự mình uống rượu, trái phụ lời ước thệ? Giới của 7 chúng, 8 trai giới, 5 thiên 7 tụ. Luật nghi dài ngắn, ở trong khoa nào mà rút ra văn ấy? Như người tại gia cam chịu thuốc cuồng ấy còn phải quở trách dừng bỏ, cớ sao người xuất gia mà lại tự uống rượu, sa đọa vào địa ngục Ni-la-phù-đà, thân như từng đoạn thịt, không có nhận biết. Đó là người nào mà đều uống rượu? Các hàng Tăng Ni xuất gia, há chẳng thể tin sâu vào kinh giáo, há có thể bên trong chẳng thẹn mà còn mặc áo Như Lai, thọ nhận sự cúng dâng của người kính tin, ở nơi chùa tháp, ngửa mặt đối cùng tôn tượng, nếu như uống rượu ăn thịt thì không thể sánh bằng với người tại gia, vì: Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt mà không tội phạm giới. Đó là điều thứ nhất không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt, nhưng mỗi tự có phòng nhà hang đồi, trọn chẳng vì thế mà ngưỡng nhìn đối xúc với tôn tượng. Đó là điều thứ 2 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt nhưng trọn chẳng ói nhả tiết lậu nơi chùa nhà. Đó là điều thứ 3 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt mà không có hiềm trách đố kî. Người xuất gia nếu uống rượu ăn thịt tức khiến người khinh tiện Phật pháp. Đó là điều thứ 4 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt thì cửa nhà giếng bếp mỗi đều an đặt quỷ ở đó. Người xuất gia nếu uống rượu ăn thịt thì hơi thối xông khắp, tất cả thiên thần thảy đều lánh xa, tất cả ma quỷ đều cùng vui mừng. Đó là điều thứ 5 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt, song họ chỉ tự phá tài sản của mình, không phá tài sản người khác. Người xuất gia nếu uống rượu ăn thịt, tự phá thiện pháp nơi chính mình lại phá ruộng phước của người khác. Đó là điều thứ 6 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt đều là do tự sức lực của chính mình tạo tác ra. Người xuất gia nếu uống rượu ăn thịt đều do sự kính tin mà dâng cúng của người khác. Đó là điều thứ 7 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt là tội nghiệp thường, không việc gì khác. Người xuất gia nếu uống rượu ăn thịt thì các ma ngoại Đạo mỗi một đều được tiện lợi. Đó là điều thứ 8 không sánh bằng với người tại gia. Người tại gia tuy là uống rượu ăn thịt vẫn còn cúng dường mất sự nghiệp ở đời, trừ hạng người quá đam mê mờ tối tức là không được. Người xuất gia nếu uống rượu ăn thịt hoặc nhiều hoặc ít thảy đều đoạn mất giống Phật Đó là điều thứ 9 không sánh bằng với người tại gia. Lại nữa, ăn thịt đoạn mất hạt giống đại từ. Phàm người có tâm đại từ hay khiến chúng sinh đồng được an lạc. Nếu người ăn thịt thì với tất cả chúng sinh đều là oán đối, đều chẳng an lạc. Nếu người ăn thịt tức là xa lìa các pháp của hành Thanh văn, Bích Chi Phật, xa lìa các pháp của Bồ-tát, Phật quả, xa lìa các pháp Bồ-đề, Niết bàn. Nếu người ăn thịt tức là chướng ngại sinh lên cõi trời lục dục, huống gì đối với các pháp Tứ thiền tứ không, 37 phẩm trợ đạo, 6 Ba-la-mật. Cũng là chướng ngại 4 hoằng thệ nguyện, 4 món nhiếp pháp tất cả các môn tam muội, ngũ nhãn, thập lực, cho đến Vô thượng Bồ-đề. Tại sao? Vì nếu người ăn thịt tức là chướng ngại tâm Bồ-đề, không có pháp Bồ-tát, không có 4 vô lượng tâm, không có Đại từ Đại bi. Vì nhân duyên đó nên Phật tử không tiếp tục. Do đó, tụng kinh Phật dạy: “Người ăn thịt tức đoạn mất hạt giống Đại từ”. Các người xuất gia tuy là không thể thực hành Đại từ Đại bi, rốt ráo hạnh Bồ-tát, thành tựu Vô thượng Bồ-đề, cớ sao chẳng thể nhẫn chịu các thứ tanh hôi ấy mà tu Đạo Nhị thừa? Đến như các loài chó sói, dã can đều biết ham thích ăn thịt. Con người có sự nhận biết ưu tối hơn hẳn tất cả các loài chúng sinh, cớ sao lại đồng với những loài vật ấy cam chịu dơ bẩn như thế? Như nói ở trước, đó đều là việc đáng xa lìa, chưa là thân gần cần thiết. Chư Đại đức Tăng Ni! Nếu người ăn thịt chúng sinh tức làm việc ma, là hạt giống địa ngục, là Ấn Độ khiếp sợ dứt đoạn mạng đốt nấu, là cắt xé da thịt, chặt đứt tay chân, phá bụng mổ ruột, nát tủy móc mắt, nghèo hèn hạ tiện, lạnh đói xấu xí, điếc đui câm ngọng, tay chân què quệt, ung nhọt, tất cả các thứ bệnh khổ đều nhân đó mà hoành hành. Cho đến dây đen, kêu gào, lạnh nóng, A-tỳ, quỷ đói, súc sinh, vô lượng cực khổ, đều là do nghiệp sát sinh mà nhận chịu quả báo như thế. Lại phải nên tư duy một việc lớn. Nếu như ăn thịt cha mẹ của chúng sinh, thì chúng sinh cũng báo ăn thịt cha mẹ kẻ đó. Nếu như ăn thịt con của chúng sinh thì chúng sinh cũng báo ăn thịt con kẻ đó. Oán đối cùng báo ăn thịt như thế, trải kiếp đêm dài không có cùng tận! Như trong kinh nói: “Có 1 người nữ suốt 500 kiếp hại con chó sói con, con chó sói con cũng suốt 500 kiếp hại con người nữ ấy. Lại có 1 người nữ suốt 500 đời đoạt dứt mạng căn của quỷ. Quỷ ấy cũng suốt 500 kiếp đoạn dứt mạng căn người nữ ấy”. Kinh nói như thế, không thể không tin. Ngoài ra các thứ tướng báo chuẩn cứ theo thể lệ có thể biết. Lại có 1 Đại sự cần phải nên tin nhận là từ vô thỉ trở lại cho đến đời nay, trải qua trong 6 đường, nhận chịu đủ thứ quả báo, hết thảy thân duyên cùng tất cả chỗ. Chỉ vì trải qua có lắm bận sinh tử, thần minh cách trở chướng ngại nên các hàng quyến thuộc không còn nhận biết với nhau. Chúng sinh ngày nay hoặc đã từng trải qua làm cha làm mẹ thầy bạn anh em chị em con cháu bè bạn, mà ngày nay vì không có sức lực Đạo nhãn nên không thể phân biệt mà trở lại cùng ăn thịt nhau chẳng tự nhận biết. Lúc ăn thịt thì vật ấy có tánh linh tức khởi sinh phẩn hận trở lại thành oán đối. Từ trước là rất mực thân gần mà nay trở lại thành rất mực thù oán. Những sự như thế há chẳng tư duy ư? Tạm tranh nhau chút ít mùi vị trong thời gian ngắn qua đầu môi lưỡi, mà trọn cùng những kẻ thân thích xưa trước trở thành oán đối dài lâu. Rất đáng đau lòng, khó bày nói hết! Lại, cũng phải tư duy thêm một việc nữa. Phàm là ăn thịt chúng sinh là oan gia của hết thảy chúng sinh như thế, oan gia khắp cùng cả 6 đường, như muốn tu hành đều là chướng nạn. 1 là chướng về Lý và 2 là chướng về Sư. Thế nào là chướng về Lý? Vì nghiệp nhân duyên tự sinh chướng nạn, khiến hành nhân ấy ngu si không trí tuệ, không biết pháp xuất yếu, không có phương tiện. Giả sử như gặp được Thiện tri thức cũng không thể tin nhận. Giả sử như có tin nhận cũng không thể tập hành! Còn chướng về Sự là như các oán đối ấy, hoặc tại trong ác quỷ thú độc, hoặc tại trong thần rồng trời ma. Các chốn như thế đến làm lưu nạn. Giả sử như gặp được bạn lành, tâm tin nhận sâu, vừa muốn tu hành liền có nạn khởi, hoặc dẫn vào đường tà, hoặc nhiễu não khiến loạn tâm. Tu giới định Tuệ, tu các Đồng cư, thường chẳng thanh tịnh, thường chẳng đầy đủ, đều do oán thù xưa trước khởi nên đối chướng. Những sự như thế lại nên tư duy sâu sắc. Đệ tử Tiêu Diễn con lại kính bạch chư Đại đức Tăng Ni! Đệ tử Tiêu Diễn con đối trước mười phương chư Phật tôn pháp chúng Tăng cùng chư Đại đức Tang Ni đều tỏ bày ước thệ! Ngày nay tập hội này là Đại sự nhân duyên, chẳng ngay hết thảy chư Phật ở tại đây, hết thảy tôn pháp, chúng Tăng ở tại đây. Các trời hộ đời, 4 vua Kim Long mật tích, Ma-hê-thủ-la, Tán chỉ Đại tướng, mười phương hết thảy 8 bộ rồng thần, có thần túc lớn đều ứng tại đây, bên cạnh hay ẩn hình giữa không trung, u hiển như thế, không ai chẳng xét xem quán sát. Người xưa có nói rằng: “Khó của không biết”, đó lại thực hành vậy. Đệ tử Tiêu Diễn con ngày nay phải phát thệ nguyện trước để rõ bản tâm, từ nay trở đi cho đến ngày ngồi nơi Đạo tràng giác ngộ, nếu phóng túng uống rượu, khởi sinh các thứ dâm dật, khi cuống vọng ngữ ăn thịt chúng sinh, cho đến uống các thứ sữa mật và cả Tô Lạc ( ván sửa) thì nguyện xin hết thảy quỷ thần trước phải khổ trị thân Tiêu Diễn con, sau đó mới đem giao phó cho vua Diêm-ma ở chốn địa ngục. Phải nhận chịu các thứ tội khổ, cho đến khi tất cả chúng sinh đều thành Phật hết, mà đệ tử Tiêu Diễn con vẫn còn ở tại trong địa ngục, A-tỳ. Trong hàng Tăng Ni nếu có người uống rượu ăn thịt mà chẳng sám hối lỗi quá, thì hết thảy các vị quỷ thần có sức lực lớn cũng nên trị hỏi như thế để khiến tăng thêm rộng lớn các thiện pháp làm thanh tịnh Phật quả. Nếu chưa bị sự tra hỏi trừng trị của U-ty, hiện còn sống ở đời, thì đệ tử Tiêu Diễn con sẽ như pháp mà trị hỏi, đuổi buộc hoàn tục, tùy lúc mà sai sử. Đệ tử Tiêu Diễn con lại kính bạch chư Đại đức Tang Ni! Từ trước đến đây con đã trình bày thô thiển về cá thịt chướng lụy chuốc đến quả khổ. Nay đây lại muốn kính bạch chung một lời: “Ở trong cõi Diêm Phù Đề thọ mạng tuy nói 120 năm”, nhưng ở trong nhân gian ít nghe có hạng người ấy, mà phần nhiều biến đổi lưu lạc không ngưng nghỉ ở thời sớm trẻ. Trong kinh nói rằng: “Trong khoảng 1 niệm có 60 sát-na, sinh tử vô thường tạm có các căn, bỗng nhiên suy diệt, các khổ trong tam đồ vụt chốc liền đến. Muốn xa lìa địa ngục, việc ấy rất khó, những bậc oai đức thanh tịnh còn sợ khó tránh khỏi, huống hồ hạng người húy phạm sao thoát miễn ư? Chư Đại đức Tăng Ni nên biết việc này. Phàm là ăn cá thịt là cảnh giới của ma, làm việc ma làm, tâm không quyết định, phần nhiều có lưu nạn. Trong ngoài các ma cùng nhau nhiễu loạn. Do đó, hành giả cần phải tư duy nghó nhớ cá thịt rượu là nước sữa của ma, nên không được đợi nói. Phàm người ăn cá thịt ham thích uống rượu thì các thiện thần xa lạnh, bên trong không có chánh khí. Hạng người như thế phần nhiều là suy não. Nếu người có tâm quyết định chỉ ăn dùng rau quả khổ tiết, tức un đúc tâm đại bi. Hàng người như thế phần nhiều là sức Thánh thiện, với sự hộ trì chánh pháp. Có lắm khả năng kham nhận. Chư Đại đức! Kể từ ngày nay trở đi nên khéo cùng mở dẫn, khiến người chưa đạt từ nay trở đi đều đạt. Nếu đã nhóm tập hạnh nguyện thì bền bỉ chí lực. Như chưa từng có hạnh nguyện thì đều cải đổi. Ngày nay cùng nhau đồng làm chủng tử Bồ-đề, chớ nên quái lạ mọi điều tỏ bày kính bạch từ trước tới đây của đệ tử Tiêu Diễn con vậy!” Khi ấy 1448 Tăng Ni nhóm tập tai trước điện Hoa Lâm. Khuyến thỉnh Pháp sư Vân ở chùa Quang Trạch lên pháp tòa giảng 1 phần trong phần của phẩm “Tứ Tướng” trong kinh Niết Bàn, trình bày về nghóa ăn thịt đoạn dứt hạt giống Đại từ. vua Võ Đế tự thân ngồi giữa đất ở phía Bắc cao tòa. Sau đó, lại nhóm tập các hàng Tăng Ni nghóa học gồm 200 vị đến điện Hoa Quang, khuyến thỉnh các Sa-môn luật học lên tòa cao. vua Võ Đế bày trải nơi đất mà ngồi, chế chỉ mà hỏi rằng: “Nay nhóm tập Đại chúng vì muốn tìm cầu hiểu nghóa trong luật. Đệ tử nghe chư Tăng nói trong luật không có pháp dứt bỏ ăn thịt, lại cũng không có pháp sám hối về tội ăn thịt. Chư vị Luật sư từ trước trở lại làm thế nào để mở dẫn, khiến người hiểu suốt có điều nghi ấy?” Luật sư Pháp Siêu kính đáp rằng: “Giáo chỉ là 1 mà người thọ nhận bất đồng. Luật tuy hứa cho ăn dùng ba thứ Tịnh nhục, nhưng ý muốn vónh viễn dứt bỏ. Cớ sao biết vậy? Vì trước nói rõ dứt bỏ 10 thứ bất tịnh, tiếp đến hứa cho ăn ba thứ tịnh nhục và sau cùng lại hứa cho ăn 9 thứ tịnh nhục, tiệm chế như thế tức là ý muốn vónh viễn dứt bỏ”. vua lại hỏi Sa-môn Tăng Biện. Ngài Tăng Biện đáp rằng: “Chỉ vì giáo có cạn sâu, theo tầng cấp mà dẫn vật, lý đúng là lỗi quá, chỉ bởi giáo chưa rốt cùng”. vua lại hỏi: “Người ăn thịt là có tâm từ bi hay không tâm từ bi?”. Ngài Tăng Biện đáp: “Chẳng có tâm từ bi”. vua lại hỏi: “Luật giáo muốn khiến người vượt ra khỏi chăng?”. Ngài Tăng Biện đáp: “Muốn khiến người vượt ra khỏi”. vua lại hỏi: “Ăn thịt có vượt ra khỏi được chăng?”. Ngài Tăng Biện đáp: “Không được”. vua lại hỏi Luật sư Bảo Độ: “Ý Luật sư thế nào?” ngài Bảo Độ đáp: “Theo sự hiểu biết ngu cạn của tôi thì chỉ là Tiệm giáo. Do đó trong luật văn hứa cho ăn thứ Tịnh Nhục. Còn trong kinh Niết Bàn thì rốt ráo không hứa cho ăn thịt. Nếu là hàng lợi căn đối với ba thứ tịnh nhục, chỉ dạy tức được chẳng ăn. Còn hàng Độn căn mới phải đợi chỉ bày lại sau”. vua lại hỏi Tỳ-kheo Pháp Sủng: “Theo như ông thì chúng Tăng cớ sao có nên ăn thịt chăng?”. Ngài Pháp Sủng đáp: “Không nên ăn thịt, chỉ vì ăn thịt thì dục tình càng sâu”. vua lại hỏi: “Thế nào là sám hối?”. Ngài Pháp Sủng đáp: “Khẩn thiết xót xa chí tâm tức là sám hối”. vua lại hỏi: “Sám hối xong có ăn chăng?” Ngài Pháp Sủng đáp: “Do vì vô minh nên phần nhiều hoặc cũng chẳng khỏi”. vua lại hỏi: “Trước nói sám hối, mà lại còn ăn thịt, như vậy tức là biết mà cố phạm, chẳng thể gọi là hổ thẹn. Nếu như lúc trước không biết hoặc là lầm lỗi, sau mới sinh khởi tự thẹn, ấy mới gọi là hổ thẹn. Lại hổ thẹn chẳng được trái phạm lại, như đây trái phạm lại thì tội ấy càng lớn”. vua cùng chư vị Đại đức qua lại vài phen đều chẳng thể giải đáp. vua lại ban sắc Sa- môn Cảnh Du lên tòa cao tụng các kinh Lăng Già, Ương-quật-ma-la, Niết Bàn v.v… nói rõ về nghóa dứt bỏ ăn thịt, xướng đọc kinh văn xong, thiết hội hoàn tất bèn tan bãi. Chiều hôm đo; vua Võ Đế bảo cùng Hữu Vệ Suất Chu xả rằng: “Như điều nói của Sa-môn Pháp Sủng, hổ thẹn mà lại ăn thịt chúng sinh. Đó chính trong kinh nói rõ về nữ La-sát rằng: “Vì ta thương nhớ người nên ta ăn thịt ngươi”. Tâm mà Sa-môn Pháp Sủng nói đó tức là La-sát nói ở trong kinh vậy”. vua lại bảo Chu Xả rằng: “Điều nói của Sa-môn Tăng Biện là tự thịt đã chết. Nếu nói như thế thì các con vật như cú tai mèo, chim quạ khoang, chim tu hú, chim bồ câu, tại chỗ nó ở không con nào chẳng chết mà lại chẳng thấy có 1 con tự chết? Và các loài chương, nai, chim trỉ, thỏ khắp đầy đồng hoang đầm nước, cũng chẳng từng thấy có 1 con tự chết. Mà muốn tìm thấy thịt chết chỉ đến nơi nhà mổ giết, tìm thấy cá chết hẳn đến nơi mành lưới vớt bắt. Trong kinh nói: “Mua thịt và tự giết hại, tội ấy ngang bằng nhau”. Ta vốn chẳng tự làm, chánh vì chư Tăng Ni làm nhân duyên xa lìa tội!” vua lại bảo cùng Chu Xả rằng: “Sở dó không được giết hại chúng sinh vì phàm nơi một chúng sinh có đủ tám vạn Hộ trùng, như trong kinh cũng có 80 ức vạn Hộ trùng. Nếu dứt đoạn sinh mạng của một chúng sinh tức là dứt đoạn mạng sống của tám vạn Hộ trùng. Chúng sinh tự chết lại cũng không được ăn thịt nó, vì trùng loại nương gá trước tuy đã diệt mất mà trùng nương gá sau số ấy càng đông hơn nhiều. Hoặc nấu hoặc nướng thì số trùng loại nương gà sau đều không còn mạng sống. Chỉ lợi đầu chóp lưỡi chút ít mùi vị mà hại vô lượng chúng sinh. Trong đó, loại nhỏ thì mắt thịt không thể nhìn thấy, loại lớn nếu đốt lửa thì có thể trông nhìn thấy. Diệt mất tâm từ bi, tăng trưởng độc ác. Đó thật chẳng phải việc đáng nên làm của hàng Sa-môn Thích Tử”. Vua đã bảo cùng Chu Xả rằng: “Chúng Tăng ăn thịt đã phạm tánh tội, lại tổn thương giới luật. Vì đó nên nói có 2 trọng tội. Nếu là chúng Tăng học vấn mà ăn thịt, đó là nghiệp ác lại gấp bội hơn trước. Sở dó như vậy là vì đã thân gần trái với kinh giáo, lại vì người khác mà giảng nói. Miệng xưng là từ bi mà tâm nghó nhớ độc hại. Phải quấy (thị phi) chẳng biết, biết mà lại cố phạm, nói năng và hành động trái nhau, tức thành lừa dối. Luận về học vấn ăn thịt tức tội có 3 thứ. Sở dó quý ở giải nghóa chánh vì như thuyết mà tu hành, trái lại ăn nuốt cá thịt, xâm chiếm tàn khốc đối với sinh loại, tạo ác tri thức, khởi sinh lắm oán đối, đọa vào địa ngục nhanh như khoang dáo. Phàm là người xuất gia thật nên phải tư duy sâu sắc!” Vua lại bảo cùng Chu Xả rằng: “Hàng Thanh văn thọ giới luật nghi, vốn Chế Thân miệng 7 chi phần, một khi đã thọ từ đó về sau cho đến cả trong ngủ nghỉ mê say v.v… Luật nghi vẫn thường sinh được luật nghi chưa từng được. Sở dó như vậy là vì những lúc ngủ nghỉ v.v… chẳng khởi tâm ác nên không tổn không mất, cho đến thường sinh. Nếu khởi tâm muốn giết hại, đối với trong pháp Thanh văn tuy chẳng mất giới của thân và miệng, mà đối với giới có sự hao tổn, chẳng chỉ hao tổn giới không giết hại, cũng gồm dơ bẩn các giới khác, đến như tay gắp răng nhai động nghiệp thân miệng thì mất giới thân miệng. Khi ấy luật nghi vô tác liền gián đoạn chẳng tương tục. Đã mất giới không giết hại, cũng còn dơ bẩn đến các giới khác. Sở dó như vậy là vì như người Chiên-đà-la làm nghề mổ thịt lúc ấy vì những người nào mà giết? Chánh vì người ăn thịt. Nếu là người ăn thịt tức có phần giết hại. Ở nơi giới không giết hại tức thành có khiếm khuyết. Nếu cho là ở thiện luật nghi nhận chịu phần giết hại, ở nơi giới không giết hại không có khiếm khuyết, thì là người thọ bất thiện luật nghi trì 8 trai giới, là ác luật nghi còn nên tương tục. Nếu người thọ ác luật nghi trì 8 trai giới, ác luật nghi chẳng lại tương tục, là biết người thọ thiện luật nghi nhận chịu phần giết hại, là giới không giết hại tức liền khiếm khuyết, giới Biệt giải thoát chẳng còn lại giải thoát. Người thọ ác luật nghi không luận là trì 8 trai giới, chỉ khởi 1 tâm niệm thiện thì ác luật nghi liền dứt đoạn. Nếu 1 niệm chẳng dứt đoạn, thì lắm niệm cũng nên không dứt đoạn. Nếu lắm niệm chẳng dứt đoạn, thì lắm niệm cũng nên không dứt đoạt. Nếu lắm niệm dứt đoạn là biết lúc 1 niệm dứt đoạn. Người thọ thiện luật nghi, việc ấy cũng vậy, không luận nhận chịu các phần giết hại, có ít phần giết hại, luật nghi không giết hại tức thời cũng dứt đoạn. Người Bồ-tát trì tâm giới nên biết, không có lý ăn thịt chúng sinh, nếu không khiếm khuyết giới Thanh văn, trọn chẳng khỏi tội địa ngục v.v… <詞>GHI VỀ KEO KIỆT BỚT XÉN VẬT CỦA CHÚNG TĂNG. Thánh giả Tăng-già-da-xá ở Tây Vức tuần du thấy chư Tăng nhận chịu khổ. (Rút tứ phú pháp tạng truyện). Sau khi Đức Như Lai diệt độ khoảng vài trăm năm, có 1 Thánh giả đi hoằng truyền giáo pháp tên là Tăng-già-da-xá, từng đến bên bờ biển thấy 1 trụ xứ, nhà gác trang sức nghiêm lệ mọi thứ kỳ diệu, chúng Tăng ở đông nhiều trong đó, kinh hành thiền niệm, ban ngày gióng chuông bèn nhóm tập tại trai đường, ăn xong thì các thức ăn ngon lành bỗng biến thành máu huyết tanh nồng, bình bát cùng đánh vào đầu mắt mà vỡ nát, máu dơ chảy tràn thân thể và y phục, mà nói lời rằng: “Cớ sao tham tiếc ăn uống khiến nay phải nhận chịu khổ này ư?” Thánh giả đi tới trước mà hỏi. Chư Tăng ấy đáp rằng: “Trưởng lão, chúng tôi ở đời trước ở thời Đức Phật Ca-diếp, bấy giờ đồng ở 1 chùa, thấy có vị khách Tăng đến, tâm sinh phẩn hận, cất giấu tham tiếc ăn uống, chẳng chịu phân phát cho cùng. Do sự keo kiệt tham tiếc ấy nên nay nhận chịu khổ này”. Thánh giả nghe thế sinh tâm khiếp sợ, quán sát như thế bỗng chốc chứng đắc Thánh quả. Sa-môn Thích Pháp Phong, bớt xin thức ăn của chúng Tăng sau khi qua đời làm thân quỷ đói. (Rút từ Trưng Nghiệm truyện). Sa-môn Thích Pháp Phong, dòng họ Trúc, người xứ Đông Hoàng. Về sau sang đến nước Quy Tư tu sửa tạo dựng 1 ngôi chùa, mọi công việc hoàn tất, bấy giờ nhân xưng gọi đó là chùa Pháp Phong. Vì đã trải qua thời gian lâu dài chuyên đảm nhiệm việc chùa nên hỏi ỷ lại công sức mình, Pháp Phong rút trong lấy cho rất trái với châm chước, liền giảm xét bớt thức ăn của chúng Tăng, khiến không được chu toàn đầy đủ. Lâu sau qua đời, Pháp Phong đọa trong loài quỷ đói, thường ở nơi chùa viện đến lúc đầu đêm cuối đêm làm tiếng lạc đà đói kêu réo, tuần rảo các phòng nghe vang tiếng. Có đệ tử là Sa-môn Bảo Tuệ nghe mà than rằng: “Đó thật là tiếng của Thầy ta!” Nhân hỏi cớ sao vậy? Pháp Phong đáp rằng: “Do vì giảm bớt thức ăn của chúng Tăng nên nay nhận chịu khổ của quỷ đói. Sự khổ sở quá lắm khó kham nhẫn nỗi! Nguyện xin được cứu giúp”. Các đệ tử vì đó mà thiết trai sám hối, Pháp Phong được sinh về cõi thanh tịnh ưu thắng v.v… Sa-môn Thích Huệ Quả ở chùa Ngõa Quang tại kinh đô thời tiền Tống đến nhà xí thấy quỷ xin cầu cứu. Sa-môn Thích Huệ Quả, người xứ Dự Châu, từ thuở thiếu thời chuyên ăn rau quả thuần tố, trì tụng kinh Pháp Hoa. Từng đi đến nhà xí, trên nhà xí thấy có 1 con quỷ rất mực chí kính đến nói với Huệ Quả rằng: “Thân trước của con xuất gia làm Duy-na, vì xúc phạm dơ bẩn nơi tịnh trù nên bị đọa trong loài quỷ, thường ăn phẩn uế. Pháp sư đức hạnh trinh thuần cao minh từ bi cứu giúp, nguyện xin vì chỉ bày phương thức để diệt trừ khổ!” Và, quỷ lại nói: “Xưa kia con ở nơi chùa này đi thẳng theo hướng Đông đến phòng thứ 3, trước sân có 1 cây thị, bấy giờ con có chôn giấu 3000 quan tiến tại dưới cây ấy, xin hãy lấy đó để làm phước”. Nói xong bèn ẩn mất. Huệ Quả bảo cùng chúng Tăng đào bời, quả nhiên có được tiền, vì tạo kinh Pháp Hoa và thiết trai cúng dường. Sau đó, Huệ Quả lại mộng thấy con quỷ ấy báo là được sinh lên cõi trời. Tăng chúng nghe thế, không ai chẳng tự răn sợ. Sa-môn Hoằng Minh ở chùa Bách Lâm tại Vónh Hưng thời nhà Tề thấy 1 trẻ nhỏ xin cầu cứu. (Rút từ Cao Tăng truyện). Sa-môn Thích Hoằng Minh vốn dòng họ Doanh, người xứ Sơn Âm, Cối kê. Xuất gia từ thuở thiếu thời, rất trinh khổ, có giới tiết, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa hành tập thiền định. Hoằng Minh từng đến chùa Vân Môn, thấy 1 trẻ nhỏ lại nghe mình tụng kinh, nhân đó, Hoằng Minh hỏi: “Người là ai? Trẻ nhỏ ấy đáp: “Xưa kia con làm Sa-di ở trong chùa này, vì lén trộm các thức ăn uống của chúng Tăng nên nay bị đọa ở trong nhà xí. Xin nguyện trợ giúp phương tiện cho con thoát khỏi khổ ấy!” Hoằng Minh liền vì nói pháp khuyên hóa, nhận hiểu rồi trẻ nhỏ ất mới ẩn mất. Sa-môn Thích Tuệ Mân ở chùa Sách tại Ích Châu thời Bắc Chu lén trộm vật của chúng Tăng bị đọa làm thân trâu. Sa-môn Thích Tuệ Mân, dòng họ Cố, xuất gia từ thuở thiếu thời, chẳng tu hạnh nghiệp, khéo giỏi tạo dựng buôn bán, thường ở nơi nhà trù nhà kho của Tăng chúng, riêng tự ăn dùng, trông coi của cải vật tiền của chúng Tăng, bèn dùng phương tiện trộm cắp. Về sau, mắc bệnh mà qua đời, thân thức bèn gá trong bụng trâu, sau khi sinh ra, hình dung sạch đẹp, móng chân và sừng tròn đẹp, chúng Tăng thấy rất mến thương riêng gia tâm nuôi dưỡng. Đến thời gian sau, nhân giá xe chở trúc sắp muốn lên sườn núi. Trâu ấy dùng hết sức lực cố kéo khốn khổ mà chưa lên tới, bèn 2 đầu gối quî ngã nơi đất, khuỷu chân lỗ mũi thảy đều đổ máu. Bấy giờ có Sa-môn Song Nam ở Miên Châu chẳng lường biết là người xứ nào, đến Ích Châu, nhân trên đường đi thấy thế, mới thở than rằng: “Người đây vậy!” và đưa tay xoa vuốt sừng trâu, hỏi han với trâu rằng: “Sao tợ như Mân Công đền trả khổ nhọc vậy?” Khi đó, trâu tuôn đổ nước mắt như mưa, chúng Tăng thấy thế không ai chẳng xót thương, bèn báo cho đệ tử của Tuệ Mân cùng chuộc lại đó. Trâu bỏ ăn vài ngày, sau đó bèn chết. Vị Thiền sư nhân lấy ít rau quả của chúng Tăng sau khi qua đời làm đứa ở trong chúng. (Rút từ Quốc Thanh tự Bách Lục, và phụ: Sa-môn Tăng Chiếu). Thiền sư Trí Giả ở núi Thiên Thai răn bảo cùng vị Tri Sự rằng: “Xưa kia, có 1 ngôi chùa nọ, thầy trò đông cả trăm vị, ngày đêm thiền tụng, đúng như thời khóa không phế bỏ. Có 1 tịnh nhân ( cư só) lén trộm nghe giảng pháp, bèn buộc niệm chuyên tập, bỗng nhiên ngồi xổm trước bếp. Lặng lẽ mà nhập định, nên lửa tắt nước lạnh. Vì Duy-na sợ bỏ sót bữa ăn của chúng Tăng, nên đến thưa cùng Thượng tọa. Vị Thượng tọa bảo: “Đó là sự ưu thắng, chúng Tăng nên nhẫn chịu, cẩn trọng chớ kinh xúc khiến nghe người ấy sẽ tự dậy”. Vài ngày sau, vị Tịnh nhân ấy mới tỉnh lại, đến trước Thượng tọa trình bày sở chứng của mình, tuần tự pháp dần sâu. Thượng tọa bảo dừng, mà nói rằng: “Với điều nói của ngươi đều là cảnh giới của ta, mà nay điều nói ấy chẳng phải sự ta biết vậy. Ngươi chớ nói lại nữa!” Nhân đó trông nhìn và Thượng tọa hỏi rằng: “Ngươi có biết được túc mạng chăng?” Người tịnh nhân ấy đáp: “Có biết sơ sài”. Thượng tọa lại hỏi: “Bởi tội gì mà làm kẻ hèn kém? Bởi phước gì mà dễ tỏ ngộ?” Tịnh nhân ấy đáp: “Sở dó làm thân hèn kém là vì lúc đời trước là làm Thầy của Thầy trò lão ngày nay. Sở học của Đồ chúng ngày nay đều là sự dạy bảo ngày xưa của con vậy. Thời bấy giờ con có lắm khách riêng nhưng thường tự ước chế không dám xâm phạm vật của chúng Tăng, bỗng nhiên có khách đến gấp nên liền lấy dùng một ít rau quả của chúng Tăng mà quên bồi thường lại. Do thế mà bị khiển trách. Ngày nay làm đứa ở trong chúng Tăng, vì sự tập học trước chưa bao lâu có tạm tu nên để tỏ ngộ. Tội phước của Túc Mạng việc ấy như vậy!” Đại chúng mọi người nghe thế buồn hương không ngăn cản nỗi!” Thiền sư Trí Giả lại bảo: “Tôi có người bạn đồng học là Thiền sư Tăng chiếu, ở trong chúng Nam Nhạc, khổ hạnh thiền định rất đạt được nhất, tạm dùng của chúng Tăng 1 nắm muối để tự làm thức ăn chay tịnh, với xâm phạm ấy không bao nhiêu chẳng lấy làm thành việc quan trọng. Về sau, Tăng chiếu lại hành trì phương Đẳng, bỗng nhiên thấy tướng nắm muối hiện khởi. Tính ra chỉ mới 3 năm mà Tăng lớn đến vài mươi hộc, gấp khiến bồi thường đầy đủ, Tăng chiếu mới bán tất cả của cải y phục, mua muối đền trả chúng Tăng. Việc ấy không xa, và cũng chẳng truyền rộng ra. Nên lấy đó làm khuôn phép, chớ để về sau phải hối hận ăn năn. Sa-môn Đạo Minh ở Tương Châu thời nhà Tùy xâm lạm củi của chúng tăng nên bị đốt chân. (Rút từ u nhân ký). Sa-môn Thích Đạo Minh, dòng họ Nguyên, người xứ Tương Châu. Tuy tuổi còn niên thiếu mà cao thượng, có lắm tiết hạnh kỳ đặc, tiếng tăm thiền tụng vang khắp gần xa, khoảng trong tháng 3 năm Đại nghiệp thứ nhất (605) thời nhà Tùy, Đạo Minh thị tịch tại Bản tự. Đến tháng 7 năm đó (605) có người bạn cùng ở chung phòng với Đạo Minh là Sa-môn Huyền Tự, nhân đi đến ngoài giao dã, gặp lúc trời sắp chiều tối, bỗng gặp được 1 ngôi Già lam, bèn sang muốn xin dừng nghỉ qua đêm. Vừa đến đầu cửa, mới thấy Đạo Minh từ trong chùa mới đi ra, tướng mạo nói năng chẳng khác lúc bình sinh, bèn dẫn Huyền Tự vào đến nơi phòng. Trong tâm Huyền Tự riêng lấy làm quái lạ, mà chẳng vội hỏi. Đến cuối đêm, Đạo Minh bàn dậy bảo cùng Huyền Tự rằng: “Đây là xứ chẳng thường, Thượng nhân phải thận trọng chớ lên trên trai đường”. Đến sáng, lúc nghe tiếng chuông gióng, Đạo Minh lại nói cùng Huyền Tự cũng không chấp thuận cho lên trai đường, mà hình thể Đạo Minh chóng tiêu hao, nhan sắc đổi khác hẳn. Sau khi Đạo Minh đã đi, Huyền Tự liền sang nơi trai đường đứng sau bên cạnh cửa sổ, trông nhìn mọi sự trong trai đường, cũng lễ Phật hành hương như pháp của chúng Tăng. Vị Duy-na xướng dâng thí cháo rồi liền thấy có người khiêng cháo đem lại, đều là sắc màu như máu huyết dâng thí khắp đủ, và thấy khắp thân thể chúng Tăng lửa cháy xoay chuyển mà chết ngất, như thế chừng khoảng bữa ăn. Lâu sau, vị Duy-na đánh lắng, chư Tăng đồng 1 lúc không còn tướng khổ. Huyền Tự kinh sợ về lại nơi phòng nghỉ, chốc lát, Đạo Minh đến, sắc da càng đen nám và tiều tụy. Huyền Tự hỏi Đạo Minh đáp rằng: “Đây là địa ngục, khổ chẳng thể nói!” Huyền Tự lại hỏi: “Cớ sao ông khổ đến như thế?” Đạo Minh đáp: “Vì ngày trước lấy dùng của chúng Tăng 1 bó củi để nấu nước nhuộm y mà quên bồi thường, vì vậy phải chịu nhận tội bị đốt chân 1 năm”. Và Đạo Minh đưa tay vén y phục lên, từ đầu gối trở xuống đều bị cháy den. Nhân đó, Đạo Minh khóc than mà nói rằng: “Thượng nhân từ bi, xin nguyện được cứu độ!”. Huyền Tự kinh sợ thở than mà bảo cùng Đạo Minh rằng: “Ông là người tinh luyện, còn mắc phải như thế, huống hồ chúng tôi sẽ lại phải thế nào? Chẳng xét biết phải làm sao để cùng thoát khỏi!” Đạo Minh bảo: “Mua cho trăm bó củi để bồi thường chúng Tăng thường trú, và ghi tả cho 1 bộ kinh Pháp Hoa”. Huyền Tự nói: “Tôi sẽ tự dốc hết những gì tôi có được vì ông mà lo liệu đó. Cầu nguyện cho ông sớm lìa khỏi nỗi khổ này”. Nhân đó bèn giả biệt, Huyền Tự trở về lại chùa, y như lời nói mà đáp trả, và ghi tả kinh, xong rồi trở sang đó tìm xem, tự nhiên tỉnh lặng không thấy gì nữa. 8.Sa-môn Thích Đạo Tướng ở Ký Châu thời nhà Tùy thấy chư Tăng ở chùa Linh Nham nhận chịu tội khổ. (Rút từ Linh Nham tự ký). Sa-môn Thích Đạo Tướng, người xứ ký châu, nghe chư Tăng ở chùa Linh Nham tại Tề Châu tu hành nghiêm chỉnh, thần linh kính túc. Vào năm Khai Hoàng thứ 16 (596) thời nhà Tùy, nhân trên đường hành Đạo, bỗng chốc Đạo Tướng bị bạo tử, thần thức đến trong Minh Ty, thấy Bồ- tát Đại Thế Chí, và được Sa-môn Đàm Tường chủ chùa Hóa Xưng dẫn đi trông xem chư Tăng đọa nơi địa ngục. Mới đầu thấy Sa-môn Tăng Chân. Tăng Chân bị đọa trong địa ngục hắc ám (đen tối), than lửa thiêu đốt đó. Nói cửa ấy có tấm bảng ghi rằng: “Người này vì riêng dùng 20 quan tiền dầu đèn nhà chúng Tăng, chỉ đèn vô tận trong chùa dầu do nhà rất có của cải dâng cúng, Tăng Chân trải qua thời gian làm chủ chùa, trong ý cho rằng: “Dầu của đèn vô tận, nghóa là chúng Tăng có thọ dụng”. Tuy bảo là vay mượn dùng, mà ý riêng chẳng hoàn trả. Vì nghiệp Đạo ấy nên chẳng khỏi nhận chịu quả báo”. Tăng Chân nhiều năm trở lại đây, thân thường đen nám suy gầy sinh mọc các mụt nhọt nóng đốt, chữa trị đó mà chẳng lành khỏi. Ngài Đàm Tường bảo cùng Đạo Tướng rằng: “Ông trở về lại chùa nói cùng Tăng Chân hãy gấp hoàn trả lại vật cho nhà cúng đầu đèn, thì được thoát khỏi đọa địa ngục. Tăng Chân liền tự ngày ấy hoàn trả, trọn từ đó được khỏi và tấm bảng nơi địa cũng theo dứt mất”. Tiếp đến thầy Sa-môn Pháp Hồi tại địa ngục Phương lương Yểm. Tấm bảng ở đó ghi rằng: “Người này riêng dùng 30 xấp lụa quyên của chúng Tăng”. Ngài Đàm Tường bảo cùng Đạo Tướng rằng: “Ông trở về lại chùa nói cùng Pháp Hồi phải chóng hoàn trả lụa quyên cho chúng Tăng, thì được thoát khỏi đọa địa ngục”. Đạo Tướng trình bày việc trên đầy đủ, Pháp Hồi liền chống cự không thừa nhận, mới nói là: “Từ trước trở lại chẳng dùng của chúng Tăng 1 thước vật, nhân nào có được 30 xấp lụa quyên?” Đạo Tướng nói nơi tấm bảng ấy ghi rằng: “Năm Khai Hoàng thứ 5 (585) thời nhà Tùy, chúng Tăng sai pháp Pháp Hồi đến kinh đô xin đặt để biển ngạch chùa Linh Nham, mang theo 100 xấp lụa quyên, 2 con lừa, ngoài ra còn có các thứ lương thực. Pháp Hồi đến kinh đô, gặp được Thông sự xá nhân vốn là Đàn Việt của chùa Linh Nham vì giúp tấu trình mà được biển ngạch chùa chẳng phí tổn 1 tiển. Pháp Hồi tự suy nghó rằng “Biển ngạch chùa này do Pháp Hồi đây mà có được, nên đối với chùa rất có công ân, nên tiêu 30 xấp lụa quyên”. Mới dùng 10 xấp mua đổi vàng, 5 xấp đổi lấy tơ vải, 6 xấp mua chén sữa và thạch hộc, 6 xấp mua trầm hương, 3 xấp mua than thạch, và rương khóa, đủ cả thảy 30 xấp, trong đó 25 xấp đủ bán, 5 xấp hiện tại trong rương, hương ấy đều hiện còn, chén sửa thạch hộc dùng xong, tơ vải hiện còn 2 xấp tạo trong rương, vàng 1 trượng cũng chưa dùng”. Pháp Hồi hiện thấy sự việc nghiệm chứng, ngay đó liền cúi đầu hoàn trả lại 30 xấp lụa quyên và trong ngày đó liền xong, tấm bảng niêm yết trên cửa ngục cũng tiêu mất. Tiếp đến thấy Sa-môn Đạo khuếch tại địa ngục Hỏa thiêu. Tấm bảng ở đó ghi rằng: “Người này đốt của chúng Tăng 80 tiển củi nên đọa vào địa ngục này”. Đạo Tướng trình bày đầy đủ như thế mà Đạo Khuếch không thừa nhận, mà tự bảo rằng: Từ lúc ở chùa trở lại nay, với 1 tấc củi lá chưa từng bám đốt, huống gì là có riêng dùng 80 tiền củi”. Đạo Tướng nói thầy trên bảng ghi rằng: “Có người trộm cây hạnh trong rừng của chúng Tăng kéo ra ngoài ranh giới cắt làm lược gỗ, do có không hết, Đạo Khuếch thâu gom gỗ còn sót lại cắt làm 3 bó, và 1 cái rễ là thô, nên tính thẳng là 80 tiền”. Đạo Khuếch do không phục bảo “ngoài rừng đem 3 bó củi thô là 1 kể vào bó, trị giá củi bán thời bấy giờ, đến chùa chỉ 20 văn tức được 1 đoạn. Sao có 3 bó củi hạnh được ngay 80 tiền?” Đạo Tướng nói trên bảng nói rằng: “Thô chỉ 1 cái rễ nhưng có thể làm được lược gỗ, nên tính thẳng 80 tiền”. Đạo Khuyết thấy vậy bèn thừa nhận, hoàn trả lại cho chúng Tăng 80 tiền, và như trên mà được ra khỏi. Tiếp đến thấy Sa-môn Tuệ Thái ở trong địa ngục hỏa thiêu, trên tấm bảng ghi rằng: “Thiêu đốt 1 cái nia mộc trác của chúng Tăng, chỉ tính thẳng 20 tiền”. Tuệ Thái liền thừa nhận, hoàn trả lại 20 văn tiền. Và như trên mà được ra khỏi. Tiếp đến thấy Sa-môn Tuệ Khản, trên tấm bảng ghi rằng: “Trong Lan nhã có 40 người thường ngày đều làm 1 bữa thức ăn chay tịnh. Tuệ Khản khuyên mời chư Tăng ở ngoài lại ăn cháo tốn hao hết 3 thăng gạo nên đọa vào địa ngục”. Hoàn trả lại được ra khỏi. Tiếp đến thấy riêng Đạo Tướng đọa nơi địa ngục tiếp chúc, lửa đốt cháy tay. Trên tấm bảng ghi rằng: Người này được sai bảo vì chúng Tăng mà làm đuốc, bèn bỏ khuyết không làm, và người đồng cùng làm từng kêu không được, mới làm nói đùa: “Đại đức sao có thể cùng ngươi làm đuốc?” Vì trái chúng Tăng như thế nên đọa địa ngục này”. Đạo Tướng hoàn trả lại trị giá đuốc cho chúng Tăng, liền được ra khỏi ngục ấy. Tiếp đến thấy 3 vị Sa-di, quên mất tên tự của họ bị đọa nơi địa ngục hỏa thiêu. Trên tấm bảng đề rằng: “Theo pháp chùa ấy tuyệt không được đốt củi khô. Các Sa-di ấy liền đốt của khô. Ở trên cửa ngọc có nhóm trùng con theo Sa-di ấy đói lấy mạng nên đọa vào địa ngục này”. Ngài Đàm Tường bảo cùng Đạo Tướng rằng: “Người trở lại chùa nói cùng 3 Sa-di ấy, mỗi người thiết 1 hội cúng để cúng dường chúng Tăng mà shthì được thoát khỏi”. 3 Sa-di ấy mỗi một đều thiết lễ hội cúng dường, nên được ra khỏi. Theo đó, thấy Sa-di Minh có đọa trong địa ngục phí thiết bạc tỉnh, lửa đến đốt cháy mặt. Trên tấm bảng ghi rằng: “Người này vì chúng Tăng thường làm bánh mỏng, lại không người sai sử, vì không dụng tâm tiếc giữ bột bánh, mới phủi bột bánh rơi vãi nơi đất chẳng thể thâu gom lấy nên đọa vào địa ngục này”. Sa- di Minh có trong khoảng 4, 5 năm trở lại đây, khắp mặt mày sinh nhiều mụt nhọt, chịu khổ não lớn, chữa trị không lành. Ngài Đàm Tường bảo cùng Đạo Tướng rằng: “Ngươi nên bảo cho Minh có biết vậy”. Sa-di Minh có liền thừa nhận, thiết lễ cúng dường mà được khỏi. Tiếp theo lại thấy Sa-di Đạo Hoằng đọa trong địa ngục nuốt viên sắc, từng viên sắt lửa đốt cháy nuốt vào trong miệng, miệng đều tiêu cháy. Trên tấm bảng ghi rằng: “Người này vì chúng Tăng làm bánh bao, đại chúng chưa ăn mà trộm ăn một bát, nên đọa vào địa ngục này”. Sa-di Đạo Hoằng trong khoảng vài năm trở lại đây, trong miệng luôn mọc mụt nhọt, đau khổ khác thường. Ngài Đàm Tường bảo nên vì chúng Tăng mà thiết 1 lễ cúng, tức được thoát khỏi sa đọa địa ngục ấy. Những vị như thế có cả thảy hơn 30 người, trong thời gian 7 ngày mà Đạo Tướng chỉ bày tội tướng, rộng như ở Biệt ký. Sa-môn Thích Trí Khôi ở chùa Quốc Thanh thời tiền Đường qua đời làm đứa ở trong chúng Tăng. (Tân Lục) Sa-môn Thích Trí Khôi, không rõ là người thuộc dòng tộc nào, xuất gia ở chùa Quốc Thanh tại núi Thiên Thai. Theo thứ lớp giữ việc trị tuế, mới đem 10 xấp vải nhỏ cho Thừa Lý Ý ở huyện Thỉ Phong vay mượn, đến khi hoàn tất trọn chẳng trả lại. Về sau Trí Khôi qua đời sinh làm đứa ở trong nhà chùa, tên là Sư Lập, trên lưng có đường văn làm thành chữ là “Trí Khôi”, mọi người hiện tại đồng thấy. Và, Lý Ý kia sau khi chết cũng sinh làm đứa ở trong chùa, tên là Só Tung, trên lưng cũng có thể “Lý Ý” và danh tự. Sa-môn Đạo Sưởng ở chùa Bạch Tháp tại Dương Châu thời tiền Đường bị Minh Quan răn khuyên. (Tân Lục. Phủ: Cô Ni Diệu Giác). Sa-môn Đạo Sưởng dòng họ Tống, người xứ Giang Đô, Dương Châu, xuất gia từ thuở thiếu thời ở chùa Bạch Tháp, nhậm giữ chức Đô Duy-na trông coi mọi vật của chúng Tăng, tự do xâm lạm sử dụng. Trong khoảng niên hiệu Vónh Xương (689-689) thời tiền Đường, bỗng nhiên có vài người Minh quan đều mặc y phục đỏ tía cưỡi ngựa giữa ban ngày xông vào trong phòng, kéo Đạo Sưởng xuống đất, trong ánh mắt tức giận vung dao sắp xuống cổ Đạo Sưởng. Đạo Sưởng không biết là người nào kinh sợ kêu gào xin tha mạng. Các đệ tử v.v… chạy đến báo cùng chủ chùa. Chủ chùa đi đến thấy vậy rơi vãi dơ uế đứng bên cạnh đều không nói được gì. Minh Quang gằn tiếng bảo: “Tất cả của cải phòng nhà có ra đều phải đưa hoàn trả chúng Tăng thì sẽ tha cho ngươi được sống”. Đạo Sưởng cúi đầu đáp: “Xin vâng, không dám trái mạng lệnh”. Minh Quan nói: “3 ngày sau sẽ trở lại”. Đạo Sưởng liền gióng chuông nhóm tập chúngTănng, xả hết mọi thứ y vật bồi thường chúng Tăng, tu tạo tôn tượng, thiết trai sám hối, 3 ngày sau Minh Quan lại đến, thấy Đạo Sưởng chỉ còn 1 bình bát 1 áo nạp, ngoài ra không tích chứa gì, Minh Quan bèn chẳng nói gì mà bỏ đi. Từ đó, Đạo Sưởng không còn bị gì, về sau trở thành bậc Minh hạnh. Lại nữa, Cô Ni Diệu Giác ở chùa Pháp Giới, trong lúc đang nhậm trị tuế đưa 26 quan tiền nhờ Sa-môn Huyền Trạm ở chùa Khai Nghiệp bàn 200 thạc thóc quan, thiếu 13 gian tiền thóc, chưa hoàn trả tiền ấy. Quan điển nhớ trong lòng vị Tăng ấy, khổ công quyết đòi không được. Bèn trải qua 3 năm sau. Đến trong tháng 9 năm Thánh Lịch thứ nhất (698) thời tiền Đường, Cô Ni Diệu Giác đang ở tại phòng, bỗng nhiên mắc bệnh nặng. Bền có người đuổi theo bảo: “vua đuổi tìm đòi Sư!” Diệu Giác liền theo kẻ sứ đến chỗ vua Diêm-ma. vua hỏi: “Tại sao Sư dùng tiền của nhà chùa ư?” Cô Ni Diệu Giác nói: “Một đời trở lại chùa từng dùng tiền của nhà chùa”. vua bảo: “Lúc đang giữ việc trị tuế dùng 13 quan tiền bán lúa thóc quan, thóc đã không được, tiền sao chẳng hoàn trả”. Cô Ni Diệu Giác nói: “Tiền ấy Sa-môn Huyền Trạm đem giao cho Quan Điển, còn Diệu Giác tôi thật chẳng tự dùng”. vua liền gấp sai tìm kiếm Sa-môn Diệu Giác để đối chất với Cô ni ấy. Đang lúc ở trong Minh Đạo suốt 2 ngày tìm kiếm Sa-môn Huyền Trạm khắp nơi không được, bèn xin vua Diêm-ma đuổi tìm, vua cũng chấp nhận đuổi tìm. Cô Ni Diệu Giác chết trong Minh Đạo, lúc tìm kiếm Sa-môn Huyền Trạm thì Diệu Giác đang nằm trên giường tại phòng nhà cũng nhiều lần mở miệng bảo: “Hãy gấp gọi Sa-môn Huyền Trạm”. Người đứng bên cạnh liền vì tìm kiếm, trải qua 2 ngày tìm thấy được Sa-môn Huyền Trạm, Cô Ni Diệu Giác đang bệnh đã nghe Huyền Trạm đến, bất chợt trên giường bỗng nhiên ngồi dậy, trong ánh mắt sân hận bảo: “Vì Đại sư bị đuổi tìm kêu gọi gấp, đã 2 ngày tìm kiếm Sư khắp nơi không được, dưới cẳng chân tôi bị phá hết. Đại sư làm gì không lại?”. Khi đó, người bên cạnh xét xem dưới cẳng chân Cô Ni Diệu Giác đều bị phá làm thành vết sẹo. Cô Ni Diệu Giác nói cùng Sa-môn Huyền Trạm rằng: “Đại sư không thể chẳng vì gấp hoàn trả vật lại cho nhà chùa. Nếu không có được vật tôi trọn không được phóng thả. vua Diêm-ma hiện tại cũng đang đuổi tìm Đại sư. Bối rối như thế khổ đòi Sa-môn Huyền Trạm”. Huyền Trạm bèn liền lập tờ thiếp xin hoàn trả lại. Ghi rằng: “Đến tháng chạp sang năm mà không hoàn trả, thì xin mọi vật trong phòng hiện nay đều đem giao trong minh đạo, trình bày đầy đủ và quanh co bảo rằng: “Sa-môn Huyền Trạm đều cho biết đó, không liên quan gì đến việc Diệu Giác tôi”. Quan điển trong Minh đạo còn tự khổ lưu giữ chẳng phóng thả Cô Ni Diệu Giác, bỗng thấy Pháp sư Ẩn và Pháp sư Thúy khuyên rằng: “Sự việc đã chẳng cùng liên quan, cớ sao không phóng thả?”. Điện Lại trong Minh Đạo bèn cấp cho Cô Ni Diệu Giác bản sao, và bảo: “Phóng thả Sư đi”. Cô Ni Diệu Giác thân bệnh bèn được dần lành. Và Sa-môn Huyền Trạm đến trong tháng chạp năm sau hoàn trả tiền lại bên xong. Đồ chúng cả 2 chùa đều thấy biết việc ấy. Vị Tăng ở Ấn Châu thời tiền Đường cắt thừa giảm bớt cháo, hiện đời nay bị ăn phẩn uế. (Tân Lục). Tại Ấn Châu có 1 vị Tăng, mất tên họ, đã từng trải qua sự việc trị tuế, bèn cắt cái thìa khiến nhỏ bớt, nên cháo chúng Tăng ăn không no đủ, qua sau 1 tháng, hằng ngày vị Tăng ấy không ra khỏi phòng, chư Tăng lấy làm quái lạ riêng đến trông xem, thấy vị Tăng ấy mỗi lúc đến giờ ăn mang bát đến nơi nhà xí lấy phẩn uế mà tự ăn. Chư Tăng nhân đó liền mở phòng ra, trong phòng ấy đặc đầy mùi hôi thối, bèn hỏi nguyên do. Vị Tăng ấy đối trước chúng Tăng mà sám hối, bèn được trở lại như xưa cũ.. Sa-môn Tuệ Tiên và Sa-môn Thần Anh ở chùa Đạo Thắng tại Ninh Châu thời tiền Đường nhận chịu khổ báo. (Tân Lục). Thượng tọa Tuệ Tiên và Đô Duy-na Thần Anh ở chùa Đạo Thắng tại Ninh Châu, đều vì chùa đồng sự hòa mục, dùng vật của chúng tăng thường trụ, không ngang hạng mượn, tiện vượt hẳn ăn uống vô số. Với nhân quả nghiệp Đạo chẳng hề liên quan đến tâm. Thiền tụng kinh hành không từng để ý. Tuy sống trong hàng Tăng Lữ mà thật làm dơ bẩn Đạo phong. Các hàng Đạo tục đều dèm pha quở trách cho đó là hạng người không báo ứng. Thượng tọa Tuệ Tiên cảm nhiễm bệnh mà qua đời, sau đó 3 năm Đô Duy Na Thần Anh cũng bỏ đi. Đến trong tháng 7 Vạn Tuế Thông Thiên (696-697) thời tiền Đường, bỗng gặp Sư Bà ở Quách Lý, nhân liền hỏi: “Thần Anh tôi có tốt lành chăng?” Sư bà trông nhìn Thần Anh mà bảo rằng: “Sau lưng Sư có 1 vị Tăng luôn đuổi theo sư. Nếu qua khỏi phương tháng 8 tức sẽ không việc gì”. Thần Anh cho đó là lời nói đùa chơi. Đến đầu tháng 8, có người nhà trong chùa ban đêm mộng thấy Thượng tọa Tuệ Tiên cùng 1 người khác cầm nắm sợi dây màu đỏ đi vào chùa hỏi: “Đô Sư ( Thần Anh) người nhà ấy đáp: “Không có ở đây”. Thượng tọa Tuệ Tiên bảo: “Tôi cùng ông ấy đồng trong coi việc chúng Tăng, riêng phá tài vật của chúng Tăng phung phí tan mất rất nhiều. Tôi bởi duyên tội ấy mà bị đọa vào địa ngục Ngại luân ( cối xay), ngày đêm nhận chịu khổ, không sao diễn tả được. Ông lại chẳng vì tôi mà tạo tác chút ít công đức, đâu được khiến tôi riêng nhận chịu khổ ấy”. Bèn vào trong chùa tìm kiếm Đô Sư Thần Anh, thấy gặp Sa-môn bát Nhân là chủ chùa hiện đương thời, người nắm sợi dây đỏ liền dùng dây gỡ xé chủ chùa Bát Nhân. Sa-môn Bát Nhân bảo: “Việc không liên quan gì đến tôi”. Và liền đưa tay nắm lấy dây dẫn kéo chống cự, nhân đó liền được thoát, vượt tường mà ra. Người nhà ấy sau khi tỉnh mộng, kể cùng mọi người. Lại thấy Thần Anh, liền nói: “Đêm qua có 1 giấc mộng rất không tốt lành, con muốn tỏ bày cùng Đô Sư nhưng sợ Đô Sư tức giận”. Thần Anh bảo: “Cứ nói có gì phải sợ”. Người nhà ấy liền đem sự việc trong mộng tỏ bày đầy đủ, và nói: “Tháng này Đô Sư không nên ở tại chùa”. Trong tâm ý Thần Anh tỏ ngộ thấy đồng như lời nói của Sư bà ngày trước, nên lo sợ mà trở về nhà. Đến ngày 21 tháng 08, Thần Anh bảo cùng trong nhà rằng: “Ngày nay trên chùa có Quan đến cúng trai mà không người tán Phật, nên tôi tạm trở về chùa”. Người trong nhà nói: “Sư không nên ở chùa, tại sao phải đi?” Thần Anh bào rằng: “Đâu thể do vậy. Tôi tạm sang rồi trở về liền”. Nhân đó đi đến chùa, giờ cúng trai chưa đến nên Thần Anh xuống nhà trù xét xem, vừa tạm ngồi, người trong nhà trù đem bún ăn bày mời. Thần Anh liền lấy ăn vài ba miếng, trong cơ thể nóng bừng, Thần Anh bảo: “Tôi uống thuốc trước tợ như không thích nghi”. Giờ cúng trai đã đến, Thần Anh tự tán Phật, đến nửa chừng, hơi khí sức lực chuyển suy yếu dần không thể trọn được buổi lễ, liền nói cùng Sa-môn chủ lễ pháp ngưng rằng: “Thần Anh tôi trong thân tôi không được khỏe tốt, xin được về nhà để nghỉ”. Sa-môn Pháp Ngưng bảo: “Tôi thấy ông rất là khốn khổ, không nên ở lại lâu”. Về đến nhà được 1 đêm, đến sáng ngày hôm sau Thần Anh không dậy nỗi, người trông nhà cùng đến trông xem, liền thấy có 2 người cùng đi theo vào, Thần Anh bảo: “Đỡ tôi dậy, Trương Đô, Vương Đô 2 quan đã lại”. Và Thần Anh hướng về Vương Đô cúi đầu nói rằng: “Xin phóng thả Thần Anh lại được 1 năm để tu tạo công đức, cũng vì Đô quan mà tạo tác công đức, ân đức ấy không do đâu có thể nói!” Vương Đô bảo rằng: “Hẳn không thể được, Thượng tọa Tuệ Tích kia sớm đã chết trước 3 năm nhận chịu thống khổ nơi địa ngục Ngại luân, sao nói người khác chờ đợi Sư rất gấp không thôi”. Thần Anh cầu xin Vương Đô không được, bèn hướng sang Trướng Đô cúi đầu nói rằng: “Tôi cùng Đô Quan đồng dòng họ, há chẳng cùng cứu tôi sao?” Trương Đô liền nói cùng vương Đô rằng: “Sư Thần Anh muốn cùng ông tu tạo công đức, trong ý ông sao mà không phóng thả?”. Vương Đô bảo rằng: “Việc này hẳn không thể được, giây lát nữa vua Diêm-ma đến, đâu được tự do?”. Mới ước định trói buộc Thần Anh, bèn bảo rằng: “Chớ nên lắm lời nữa, vua đến sẽ sân trách”. Thần Anh cầu xin đã không được, liền hỏi người trong nhà rằng: “Có sữa mật chăng?” Người trong nhà đáp: “Không có sữa mật, chỉ có trái cây”. Thần Anh liền bảo dời giường phô bày, đặt hơn 10 diệp trái cây, phỏng định dâng cúng Đại vương. Chỉ thời gian ngắn, Đại vương ( vua Diêm-ma) liền đến, thân cao hơn 8 thước, cưỡi ngựa Tử lưu, thân mặc áo bào sắc tía, các người theo hầu đông nhiều có hơn 30 vị, đến chỗ Thần Anh đang nằm, Trương đô và Vương Đô liền bước xuống thềm cấp đứng bên cạnh. Thần Anh liền ngồi dậy, như muốn nói lời từ tạ. Đại Vương bảo cùng 2 Đô quan rằng: “Lại đợi đến lúc nào? Gấp trói ngược tay lại”. Thần Anh 2 tay đưa lui ra sau lưng tợ như muốn bị trói ngược, muốn kéo đưa tay tới trước trọn không thể được. Đại vương lại bảo: “Sao chẳng đánh gấp?”. Thần Anh rên rỉ thống khổ. Người nhà vén kéo y phục lên, thấy trên lưng rộng khoảng 2 bàn tay, chỗ gậy đánh xanh bầm sưng thấu đến trước ngực. Đến chiều ngày ấy Thần Anh qua đời vậy. Sa-môn Huyền Biện ở chùa Đài Từ Ân tại kinh đô thời tiền Đường bị Minh quan đuổi bắt. (Phụ: Sa-môn Thần đức ở chùa Khai Nghiệp). Sa-môn Huyền Biện, dòng họ Vương, người xứ Trường An, xuất gia vào Đạo từ tuổi bé thơ, ít dự can theo lưu tục, tuy đượm nhuần pháp vũ, mà chẳng nảy mầm tiêu cháy giống. Từng vì chúng tăng sai bảo đến Trị Tuế nơi trang trại ở Đồng châu, mới chẳng tư duy đến nghiệp lụy, thỏa sướng ở đó không nhàm chán, riêng dùng của chúng Tăng 30 thạc hồ ma, 20 thạc đậu lớn. Đã ẩn giấu nhiều năm, chẳng tỏ bày sám hối. Đến trong niên hiệu Vónh Xương (689) thời tiền Đường, bỗng mắc phải khổ hoạn, tự thấy thân mình ở trong hầm lửa. Lại có con rắn lớn muốn lại ăn nuốt. Thân sắc mà hồng đỏ, 2 cẳng chân cháy nát, xoay quanh kêu gào, chua xót khó nghe. Chúng Tăng thấy thế không ai chẳng dựng đứng lông tóc toát đổ mồ hôi. Trong giây lát tỉnh táo, liền sai một người giữ bên cạnh thay thư và kêu dẫn Sa-môn Cảnh Tiên đến. Cảnh Tiên lúc chân đang còn sống mà Huyền Biện đã thấy Cảnh Tiên ở trong hầm lửa. Huyền Biện cắt hết y vật của cải, khắc ký tỏ bày sám hối. Trải qua 20 ngày sau mới thấy Minh quan dẫn theo năm sáu trăm người cầm nắm khí trượng đến, Huyền Biện chỉ biết cúi đầu, cúi đầu như thế mà qua đời. Bấy giờ Pháp sư Hoa Nghiêm đang giảng pháp ở trong, các hàng Đạo tục có đến vài trăm người, thảy đều nghe biết đó. Thứ nữa, Sa-môn Thần Đức ở chùa Khai Nghiệp, cũng tiêu dùng lắm vật của thường trụ, bỗng nhiên bị bạo tử. Có người dòng họ Lưu ở Tân Phong cũng bị bạo tử thấy đầu Thần Đức như núi lửa, thân làm thành chân vạc, lại dẫn Thượng tọa ở cùng đồng đi và dẫn Đô Duy-na nhân kính. Thần Đức bèn xả thí y vật đền trả của Thường trụ, sớm tối tinh cần tu tập, bèn khỏi bị đuổi bắt. Sa-môn Tuệ Trừng ở chùa Khải Phước tại Phần Châu thời tiền Đường dùng vật lẫn lộn nhận chịu khổ. (Tân Lục). Sa-môn Tuệ Trừng là chủ chùa Khải Phước ở Phần Châu, là bậc rất phong phú tuệ giải luật nghi, đai mũ môn đồ. Đồ chúng có đến vài trăm vị nên rất vang danh ở đương thời. Đến trong tháng 06 năm Điều Lộ thứ 3 (681) thời tiền Đường, cảm mắc bệnh hoạn sắp hết, uống sữa bò vài ngày, tự nhiên không sao mà qua đi. Vài ngày sau đó, có Sa-môn Trường Ninh ở Đồng chùa là bậc tinh tu thiền hành, ban đêm bỗng thấy Tuệ Trừng lại mà hình sắc tiều tụy, nói rằng: “Tôi vì dùng vật lẫn lộn của Tam bảo, chịu khổ quá lắm khó thể nói, nay mong theo ông xin cho 1 bữa ăn!” Và lại nói cùng Trường Ninh rằng: “Các tội đều tạm nhẹ, thứ nhất là không được dùng vật của chốn già làm, nhiều lần phải đền trả”. Bấy giờ có 1 vị Sa-môn tên là Trí Cảm là ngượi học hạnh kiêm thông, tinh tu thận mật. Tuệ Trừng nơi cùng Trường Ninh rằng: “Cả trong 1 châu chỉ có 1 người ấy có thể toàn khỏi, ngoài ra đều là rất khó!” Và lại nói: “Pháp sư Thiện Trừng ở chùa Đường Hưng cũng sử dụng lẫn lộn vật của Tam bảo, không bao lâu nữa sẽ phải nhận chịu”. Sa-môn Trí Thao ở chùa Nghóa Hưng tại Tinh Châu thời tiền Đường xâm phạm vật của chúng Tăng bị rừng phạt, ngục tốt hiện đến. (Tân Lục). Sa-môn Trí Thao ở chùa Nghóa Hưng, năm Điệu Lộ thứ nhất (679) thời tiền Đường, bỗng nhiên trong đêm thấy lửa bốc cháy phủ cao trên đầu vài trượng, ngưu đầu ngục tốt đông đầy trước sau, bảo cùng Trí Thao rằng: “Ngươi tự do dùng vật của chúng Tăng, nên phải vào trong địa ngục”. Trí Thao buồn khóc cầu xin, thề đền trả liền, rỏ giọt máu khẩn thành đến sáng sớm mới được khỏi, mê muội qua vài ngày, sau mới nói lại điều đó và liền chừa bỏ cải đổi, bèn được không việc gì. Sa-môn Bá Đạt ở chùa Nội Giới tại Phần Châu thời tiền Đường sau khi qua đời làm thân trâu ở chùa. (Tân Lục). Trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời tiền Đường ở chùa Nội Giới tại Phần Châu có 1 vị Sa-môn tên là Bá Đạt, tánh tình ham thích uống rượu, mỗi ngày thường say. Sau được sung vào nhà khố làm Trị tuế, thường luôn lấy tiền chúng Tăng để mua rượu uống, vài năm sau qua đời. Về sau, chúng Tăng trong chùa mua được 1 con trâu rất có sức lực. Tăng chúng ở ngoài cửa dời cậy hoặc ngồi hoặc đứng, thấy người nhà xua đuổi đàn trâu vào chùa, con trâu mới mua được ấy đi sau cuối đàn cách vài mươi bộ, có 1 vị Sa-môn bảo: “Con trâu đi bước đặng trược rất tợ như Bá Đạt bàn thời xưa của chúng ta”. Con trâu ấy nghe tên đó bèn sang xoay nhìn đến chúng Tăng. Chư Tăng bảo “phần nhiều là Bá Đạt”. Mới nói cùng trâu ấy rằng: “Nếu ngươi thật là Bá Đạt tức nên đến trong chúng Tăng”. Trâu ấy ứng tiếng liền đến, nhân cúi đầu nơi đất mà trong ánh mắt tuôn trào lệ. Chúng Tăng nhân đó vỗ xoa đầu trâu, đối cùng nó mà rỏ lệ khóc, vì trâu mà sám hối và cho thọ giới. Đến năm Trinh Quán thứ 19 (645) thời tiền Đường, vua Thái Tông (Lý Thế Dân) đánh phạt Liêu Đông, bảo Tả Thừa Vũ Văn Tiết đến trong các châu gom bắt tất cả trâu để cung cấp cho quân lính ăn. Đến trong chùa ấy tìm bắt trâu, con trâu ấy riêng chồm nhảy húc chống chẳng ra, chúng Tăng nói cùng Vũ Văn Tiết sự tình nghi như thế. Vũ Văn Tiết nói cùng chúng Tăng báo trâu ấy Sứ giả không bắt lấy ngươi. Nhân đó bảo cùng trâu rằng: “Sứ giả chỉ muốn trông thấy ngươi, không bắt dẫn ngươi đi”. Trâu ấy ứng tiếng liền ra. Sứ giả bảo quỳ, trâu liền quỳ, Vũ Văn Tiết rất kinh ngạc mà bỏ đi. Sa-môn Tăng Giác ở chùa Không Tuệ tại Ích Châu thời tiền Đường sử dụng tiền chùa nên bị đục trán khổ chết. (Tân Lục). Sa-môn Tăng Giác, không rõ là người thuộc dòng tộc nào, xuất gia từ tuổi nhỏ ở chùa Không Tuệ. Trong chùa ấy tiện nghi đầy đủ, mọi vật tràn đầy. Tăng Giác dòm ngó đục khoét lén trộm lắm nhiều. Đến năm đảm nhận trông coi mọi việc, chiếm dùng tiền của chúng Tăng, chẳng từng hổ thẹn. Sao đó bỗng thoát cởi y phục thân thể đỏ rần, tay như bị trói buộc, kêu gào lớn tiếng buồn khóc rơi lệ. Bấy giờ có Sa-môn Tăng Thái v.v… lấy làm quái lạ sang hỏi thăm. Tăng Giác nói rằng: “Hiện thân tôi nay bị đoạ vào trong địa ngục, có người ở giữa không trung nắm cái đục, đục trên trán tôi lui tới sau não và cho đến cả trên lưng đều làm lỗ trống lớn. Ở giữa không trung có tiền hoặc đan xen hoặc cả xâu hoặc 1.000 hoặc 100 theo từ miệng vào trong lỗ trên lưng rồi ra, hoặc từ trong lỗ trên lưng vào trong miệng rồi ra, hoặc từ trước trán vào trong não rồi ra, hoặc từ sau não vào trước trán rồi ra, lúc tiền xoay chuyển đau nhức không thể nói. Muốn có được sám hối mong cầu đều tạ”. Liền đó mê ngất, lăn lóc vài ngày rồi qua đời. Sa-môn Hiếu Chí ở chùa Thắng Quang tại Tây kinh thời tiền Đường lấy trái cây cho người thên ăn bị tội báo. (Tân Lục). Sa-môn Thích Hiếu Chí, dòng họ Đậu là con của Hoa Quốc Công Đàn. Tuy từ thuở bé nhỏ mà dốc chí với kinh giới, đặt để tâm ý nơi Thích giáo. Năm Trinh Quán thứ 13 (639) thời tiền Đường, xuất gia ở chùa Thắng Quang. Chùa đã kín gần chợ quán, anh em thân nhân qua lại thường xuyên. Hiếu Chí từng lấy trái cây trong chùa ra cùng ăn, không bao lâu cảm mắc bệnh ói máu. Khi mọi người phát hiện ra thì chỉ còn có chết. Hơi thở kéo dài buồn kêu rất chua xót, những người trông thấy không ai chẳng sợ run đùi vế, qua thời gian ngắn tỉnh sống lại, máu huyết ngưng lại. Hiếu Chí tự kể rằng: “Trước lúc sắp muốn ói máu, thấy có kẻ sứ mặc y phục sắc đỏ dần Hiếu Chí sang trong rừng đen tối, quạt gió lớn thổi khắp các thân phần của Hiếu Chí khiến tự phân tán, bỗng chốc lại dẫn Hiếu Chí đến chỗ trong sáng. Tại đó, Đài quán thoáng rộng, phía trên có người nghi dung rất đáng sợ, gằn tiếng bảo cùng Hiếu Chí rằng: “Cớ sao lấy trái cây trong nhà chùa để cùng các người thân v.v… ăn ư? nói xong bèn ẩn mất”. Như thế trải qua hơn 1 tháng sau Hiếu Chí tạm thường phục. Đến ngày 24 tháng 06 năm Hiển Khánh thứ 5 (660) thời tiền Đường, Hiếu Chí qua đời tại chùa, chỉ thọ 21 tuổi. -------------------------------------------- <詞>NÊU BÀY Y CỨ (Những sự tích trên đây được rút từ nhiều sách khác nhau, do đó nêu bày chứng cứ rút trích để tiện đối chiếu). - Truyện Đạt-ma-mật-đa (rút từ Tạp Bảo Tạng kinh quyển 6, truyện 11 và phá pháp tạng kinh quyển 5 truyện 10) -Truyện Xà-dạ- đa (rút từ Tạp Bảo Tạng kinh quyển 6, truyện 9 và kinh luật Dị tướng quyển 19 truyện 19) -Truyện Ly Việt (rút từ Tạp Bảo Tạng kinh quyển 2 truyện 12 và và kinh luật Dị tướng quyển 19 truyện 26) -Truyện Tuệ Đạt (rút từ Lương cao Tăng truyện, quyển 13 truyện 1 và Đường Cao Tăng truyện quyển 33 truyện 5, Tam bảo Cảm Thông Lục quyển 3 phần C truyện 5, Pháp Uyển Châu Lâm quyển 41 truyện 8 và quyển 103 truyện 16) -Truyện Đạo Chí (rút từ Châu Lâu quyển 96 truyện 14) -Truyện Trí Thông (rút từ Châu Lâm quyển 36 truyện 13) -Truyện Vô Cấu Hữu (rút từ Tây Vức ký quyển 4 truyện 5) -Truyện Tuệ Nghiêm (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 1 truyện 7 và Châu Lâm quyển 26 truyện 13) -Truyện Tăng Tung (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 7 truyện 24) -Truyện Tăng Phạm (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 10 truyện 1, Châu Lâm quyển 33 truyện 18 và quyển 61 truyện 21) -Truyện Tăng Vân (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 34 truyện 1, Châu Lâm quyển 108 truyện 24) -Truyện Tuệ Chiếu (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 17 truyện 4) -Truyện Tu Đà Hoàn ở Tây Vức (rút từ Phú Pháp quyển 18 truyện 21) -Truyện vị Sa-di ở Tây Vức (rút từ Tây Vức ký quyển 1 truyện 22, kinh luật Dị Tướng quyển 20 truyện -Truyện Pháp Hạnh (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 1 truyện 3 và Cảm Thông Lục quyển 3 phần C truyện 3, Châu Lâm quyển 71 truyện 14, Khai Nguyên Thích Giáo Lục quyển 1 truyện 17) -Truyện Đàm Toại (rút từ Châu Lâm quyển 108 truyện 22) -Truyện Tăng Cương (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 34 truyện 3, Châu Lâm quyển 61 truyện 13) -Truyện Vị Tăng ở chùa Linh Quang (rút từ Nguyên Hóa ký, Thiện Ác Ứng Báo Thiên 6 điều dẫn thứ 16) -Truyện Trí Bảo (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 27 truyện 22) -Truyện Tiên Ba Nể Ni (rút từ Tây Vức ký quyển 22 truyện 13) -Truyện Tuệ Lâm (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 7 truyện 10) -Truyện Minh Giải (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 35 truyện 33, Châu Lâm quyển 61 truyện 24) -Truyện Pháp Hành (rút từ Châu Lâm quyển 12 truyện 18) -Truyện Tăng Quy (rút từ Châu Lâm quyển 100 truyện 14) -Truyện Pháp Tông (rút từ Châu Lâm quyển 47 truyện 13) -Truyện Trí Đạt (rút từ Châu Lâm quyển 108 truyện 22) -Truyện Tuệ Nghi (rút từ Châu Lâm quyển 111 truyện 14, Tống truyện quyển 29 truyện 1) -Truyện Vị Tăng ở nước Tân La (rút từ Truyền Đăng Lục quyển 2 truyện 2, Phật Tổ Thông Tải quyển 5 truyện 11, Đề Bà truyện) -Truyện Biện Khuê và Hoằng Lượng (rút từ Châu Lâm quyển 109 truyện 18) -Truyện Tịnh Độ Tử (rút từ Quảng Hoằng Minh Tập quyển 32 truyện 11) -Truyện Tăng Quần (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 12 truyện 1) -Truyện Chi Tuần (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 4 truyện 12, Châu Lâm quyển 89 truyện 20) -Truyện Tuệ Só (rút từ Châu Lâm quyển 113 truyện 4) -Truyện Đàm Du (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 11 truyện 3, Cảm Thông Lục quyển 3 phần A truyện 1, Châu Lâm quyển 27 truyện 24 quyển 52 truyện 15 quyển 100 truyện 13) -Truyện Nam Công (rút từ Châu Lâm quyển 113 truyện 4) -Truyện Viên Thông (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 33 truyện 17, Cảm Thông Lục quyển 3 phần A truyện 3, Châu Lâm quyển 25 truyện 25 quyển 52 truyện 17) -Truyện Huyền Giám (rút từ Đường Cao Tăng truyện quyển 17 truyện 3, Phật Tổ Thống Ký quyển 40 truyện 10) -Văn Đoạn Tửu Nhục (rút từ Quảng Hoằng Minh Tập quyển 30 truyện 9 quyển 31 truyện 1) -Truyện Tuệ Quả (rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 12 truyện 13, Cảm Thông Lục quyển 3 phần A truyện 14, Châu Lâm quyển 13 truyện 22) -Truyện Hoằng Minh (rút từ Cảm Thông Lục quyển 3 phần A truyện 15) -Truyện Đạo Minh (rút từ Tam bảo Thống Ký quyển 40 truyện 8) -Truyện Đạo Tướng (rút từ Tam bảo Thống Ký quyển 40 truyện 5) -Truyện Trí Khôi (rút từ Tam bảo Thống Ký quyển 40 truyện 32) -Truyện Đạo Sưởng (rút từ Tam bảo Thống Ký quyển 40 truyện 35) -Truyện Tuệ Trừng (rút từ Tam bảo Thống Ký quyển 40 truyện 33) -Truyện Hiếu Chí (rút từ Tam bảo Thống Ký quyển 40 truyện 27). -------------------------------- <詞>BỔ TÚC TIẾP THEO Sa-môn Thích Minh Sâm. Sa-môn Thích Minh Sâm, người xứ đất Tề. Thuở nhỏ thời du học ở Lưỡng Hà, vì thông rành soi xét nên vang danh, tuy tài giỏi kinh luận mà tâm luôn lấy làm nêu bày cật nạn. Dưới thời vua Minh Nguyên Đế (Thác Bạt Tư 409-424) thời Bắc Ngụy, Phật giáo rất hưng thạnh Minh Sâm có học thức nhưng chỉ du tứ mà thôi, nên nhã lượng chẳng phải Đạo nghiệp lớn. Bấy giờ có Sa-môn Trí dực tiếng tăm Đạo hạnh rất được mọi người mến chuộng, xa gần đều tôn xưng, học chúng đông đảo như chợ. Minh Sâm không hơn nỗi u tình, rất kî ghét tiếng tăm rộng lượt, mới riêng kết mật giao, rộng tìm các luận Đạo, mới đầu làm “Ốc Tử Luận Nghị Pháp”, lập biểu đồ, trước thuật kinh, bên ngoài thi vi danh giáo, bên trong dắt lời dẫn, kéo dẫn vào ra chẳng trùm dậy thanh thuyết nghe nói thì có thể lãnh hội nhưng đến lúc thuật bày thì mịt mờ. Các hàng Dõng ý đua nhau nhóm tập như mây ùn trông biểu đồ đọc xem kinh hoảng hiên như mây mộng, một lần theo chỉ bày thì tan vỡ như băng tiêu. Nên người đến học trước bày suối gấm, vào học Ốc tử pháp ấy bàn lắm thừa, có nắm bắt được chẳng hay bí ẩn, nên tiếng tăm của Minh Sâm ít dần so với trước kia. Minh Sâm mới lại “Xà thế pháp”. Thế ấy như đồ họa trận Xà thế đánh đầu đuôi đến ở Thường Sơn của Gia Các Lượng, đại loại là như vậy, trở lại dùng pháp số bên cạnh rắn ( xà) để sánh định, chợt đạt tính, chợt vất bỏ trước sau sâm sai. Tôi (có lẽ là Đạo Tuyên) đã từng thấy đồ họa ấy rất là đáng sợ, họa vẽ làm 1 con rắn dài khoảng 3 thước lúc cụp xuống lúc ngổm lên, bên cạnh lại thêm đạo phẩm. Đến cuối niên hiệu Đại nghiệp (617) dưới nhà Tùy thì cũng có người học đó, nhưng đến nay thì chẳng lưu hành, tưởng cũng nên dứt mất. Mới đầu, Minh Sâm hoằng truyền lưu hành Xà luận, khắp ở Đông Xuyên có nhiều vị Đạo hạnh, Minh Sâm cùng can gián dẫn dụ quyết ý lưu hành rộng rãi để làm thành Đạo thế. Bấy giờ tại Thượng ấp thuộc Lộ châu, nghó muốn Hoằng dương kinh Pháp Hoa, mới sang chùa Hồng Cốc ở huyện Lâm Lự thuộc Nham Châu thỉnh mời chư Tăng, quên mất tên vị Tăng sang giảng đó. Minh Sâm vốn cùng có sự quen biết, nên nghe thế bèn tìm sang đến. Vị Tăng ấy nghe Minh Sâm đến, trong tâm rất lo sợ, vì biết Minh Sâm luận Đạo thì tự mình không thể nào cùng chống cự, mới đem tình thật mà nói cùng Minh Sâm rằng: “Mọi người ở ấp đây vừa mới kính tin nên mọi sự cần phải quy phục. Các hàng só tục v.v… đã có dốc lòng, xin Pháp sư chớ để lại xưa cũ mong cùng thành tán thán, nay đây có ít y phục cắt may, tạm dùng kính dâng, mong hiểu sâu cho nỗi lòng tôi đây”. Bèn dâng 10 xấp lụa quyên, Minh Sâm bảo: “Xưa nay ở đây có thể có ý lấn lướt ấy ư? Mong dứt bỏ tâm niệm ấy đi”. Nhưng Minh Sâm chẳng chịu đi, muốn ở lại được nghe một lần. Vị Tăng ấy càng khiếp sợ, nhưng sự tình chẳng đặng đừng, nên phải như thường lệ mà lên giảng. Sau cùng Minh Sâm vào nơi giảng đường mang theo lụa quyên bó lại đến trong chúng, bảo rằng: “Pháp sư trên tòa cao hôm qua đem lụa quyên này đến dâng tặng tôi, tỏ ý muốn không nên luận nghị, nhưng đối với Phật pháp rộng sâu, phải quấy cần được rõ ràng, giả như dùng tà pháp để giáo hóa người thì biết bao nhiêu hàng só tục sai lầm”. Vị Tăng ấy ngồi trên tòa cao nghe thế, khiếp sợ không thôi, nên y cứ theo thường xướng kinh văn, giảng giải theo nghóa sớ. Minh Sâm gọi dừng lại, muốn cùng luận bàn chí lý. Khi đó vị Tăng ấy ngồi nơi tòa cao thần ý rong ruổi mạnh dạng tự nhiên đợi chờ hỏi. Minh Sâm bèn bày nêu hỏi. Vị Tăng ấy tùy điểu hỏi bèn vị giải nói, trùng điệp tuy lắm nhiều nhưng gì chẳng thông nghóa. Minh Sâm tinh thần trở nên bối rối, nghó khỏ thể không theo, liền từ tòa đứng dậy nói rằng: “Pháp sư nơi tòa cao từ trước trở lại mờ tối, cớ sao ngày nay nhanh chóng tỏ rõ, như thế tức là có thần quỷ trong núi hổ giúp niệm lực, nếu chẳng vậy làm sao được thế ư?” Vị Tăng ấy cùng Đại chúng cả giảng đường đồng 1 lúc cười lớn. Minh Sâm liền ra ngoài ấp cùng 2 người bạn đến nhà người khất thực. Đã bị đầy hơi, nghẹn không thể xuống, các giải dụ khác làm sao tranh luận ư? Luận nghị chẳng lại là đại lý ngày thường bởi nhân gì chóng khởi phiền não như thế. Minh Sâm chẳng nên cùng, bèn theo hướng Đông mà đi từng bước mà than thở quát mắng. Lên đến trên đỉnh núi, khốn đốn vô cùng, bèn dừng nghỉ dưới gốc cây. Minh Sâm nói cùng 2 người bạn rằng: “Nay ta bị phiền não đốt cháy không thể nói, trong ý sợ hẳn sẽ làm thân rắn”. Bèn mở xé xiêm y để lộ bày thân hình đỏ au mà nằm, lật qua lật lại không an định, kéo dài 2 chân, chỉ trong chốc lát, 2 chân bỗng nhiên hợp lại làm thành đuôi rắn đưa cao ngất nghểu, bèn tự chuyển động. Minh Sâm lại nói cùng 2 người bạn rằng: “Ta làm “Xà Thế luận” nên nay mắc quả báo thế này. Các ông nên nhanh leo lên cây, tâm rắn nếu đến thì ăn nuốt kẻ có duyên, nên phải gấp gấp leo lên cây”. Tâm Minh Sâm chưa hoàn toàn biến đổi, 2 người bạn tiện leo lên cây nhưng vẫn còn nói năng với nhau. Thường làm xà luận quả đến như thế nào? Nói năng trong chốc lát, tự nhiên toàn thân Minh Sâm biến làm thành rằn, chỉ còn cái đầu chưa biến đổi mà chẳng nói năng được nữa, lăng lóc nơi đất, ngẩn cao đầu tự đánh, đánh không dừng nghỉ, đến lúc vỡ nát bỗng nhiên biến thành đầu trăn, thân hình bỗng biến dài khoảng 5 trượng ngẩn đầu trông nhìn 4 phía ánh mắt như sao lửa. Bấy giờ khắp 4 có vô lượng các loài rắn đồng 1 lúc đua nhau kéo đến. Con trăn ấy ngẩn đầu cao cách đất năm sáu thước, theo hướng hang cốc mà xuống, các con rắn khác cũng theo đó mà đi. Hai người bạn ấy chính mắt trông thấy chứng nghiệm quả báo của Minh Sâm như thế, đến Nghiệp Đô nói lại vậy. (Rút từ tục Cao Tăng truyện). Sa-môn Thích Thuận Cảnh. Thích Thuận Cảnh, người ở Lãng quận, vốn dòng tộc thượng Chi mà gia hệ ở Đông Di, nên khó rõ ràng về manh mối. Thuận cảnh rất trọng về Dịch học thanh giáo, bởi xuất phát thiên nhiên huống hồ là Học Nhân Minh do Trang sư tinh chuyên nghiên cứu truyền nhận, chư Tăng tại Trung Hoa còn chưa lắm thấu đạt, mà Thuận Cảnh chỉ trong khoảnh khắc bèn thông, nếu chẳng do sức lực gieo trồng từ đời trước tự sao mà đến như thế ư? Trong khoảng niên hiệu Càn Phong (666-668) thời tiền Đường, nhân sứ thần vào triều cống, Thuận Cảnh nương theo đó mà đến. Bấy giờ Sa-môn Đại thừa có ngợi khen rằng: “Tại nước Tân La có Pháp sư Thuận Cảnh tiếng tăm vang động khắp Đường Phiên, tài học bao gồm cả Đại thừa Tiểu thừa, hạnh nghiệp tôn sùng theo Tôn giả Ca-diếp chỉ chuyên hạnh Đầu Đà, tâm rộng thoáng bó buộc từng nổi danh là Thiểu Dục v.v… Chỉ tiếc thay! Thuận Cảnh lui ở Bản quốc có trước thuật ít nhiều và cũng có truyền đến Trung Nguyên. Với tông chữ ấy là pháp tướng Đại thừa liễu nghóa vậy, thấy trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Mới đầu theo phát tâm liền đã thành Phật”, mới khởi sinh phỉ báng không tin. Hoặc có thuyết nói là đang lúc mở tay chân, bảo các đệ tử v.v… nâng đỡ xuống đất, đất liền từ từ xé nát ra, bỗng chốc thân hình Thuận Cảnh rơi lọt xuống, người thời bấy giờ nói là thân đang còn sống mà đã bị lấp vùi xuống địa ngục. Đến nay còn có hầm hố rộng hơn 1 trượng, thật là hố hỏm vậy, và xưng gọi là “Thuận Cảnh Nại-lạc-ca” vậy. (Rút từ Tống Tăng truyện). Khoảng đầu niên hiệu Khai Hoàng (581) thời nhà Tùy, tại Dương Châu có 1 vị Sa-môn, quên mất tên họ, tụng đọc thông rành kinh Niết Bàn tự khoe khoang lấy làm Đạo nghiệp của chính mình. Tại trong thôn Đông Sơn hạ ở Kỳ Châu, có 1 vị Sa-di chuyên trì tụng kinh Quán Thế Âm, cả 2 vị ấy đều bị bạo tử, dưới tim ngực đều còn nóng ấm và tâm thức của 2 vị đồng đến chỗ vua Diêm-ma, vua thỉnh mời vị Sa-di ngồi nơi tòa vàng cao, rất tỏ vẻ cung kính đó, còn mời vị Sa-môn tụng kinh Niết Bàn ngồi nơi tòa bạc, tỏ tâm cung kính không trọng vọng lắm. Sau mọi sự khám xét đã xong, vua Diêm-ma nói “2 vị thọ mạng vốn còn thừa, nên đều phóng thả trở về”. Vị Sa-môn tụng kinh Niết Bàn ấy trong tâm buồn hận, cậy ỷ sự tụng đọc của mình lắm nhiều, mới hỏi chỗ ở của vị Sa-di ấy. Xong rồi 2 người từ biệt nhau, mỗi mỗi đều sống lại. Sau đó, từ phía Nam của vị Sa-di, và hỏi rõ về nguyên do, vị Sa-di ấy đáp: “Tử thuở nhỏ, tôi trì tụng Quán Thế Âm, thay đổi y phục riêng khác tại chỗ riêng khác, đốt hương chú nguyện xong rồi, sau đó mới tụng, pháp thức ấy trọn chẳng biếng lười phế bỏ, ngoài ra không thuật gì khác”. Vị Sa-môn ấy sám tạ rằng: “Tội tôi thật sâu nặng vậy. Tôi trì tụng kinh Niết Bàn mà oai nghi không nghiêm chỉnh, thân miệng bất tịnh, cứu quên mà thôi. Người xưa có để lại lời rằng: “Lắm ác chẳng bằng chút ít thiện”. Ngày nay mới lấy nghiệm biết vậy”. Hối tạ xong, vị Sa-môn tụng kinh Niết Bàn ấy bèn trở về. (Rút từ Pháp Uyển Châu Lâm). Trong thời tiền Đường, tại tích xây dựng lại điện Từ Hòa, sửa đất thường gặp phải loài giun xuyên đục hang lỗ, có 1 vị Sa-môn bảo dùng nước đá vôi rưới đó thì có thể hết. Nhân đó mà giết chết loài giun vô số con. Sau đó không bao lâu vị Sa-môn ấy cảm mắc bệnh ngứa khắp thân thành bệnh nhọt, da thịt đều thối rửa mà chết. (Rút từ Công Quá Cách). Ở chùa Đại Từ tại Thục quận có luật sư Tu Chuẩn, tuy nói là kính phụng luật mà tánh rất hẹp hòi và thô tháo, trước sân trồng tre, có nhiều kiến men ở dưới mái hiên nhà, Tu Chuẩn tức giận chặt bỏ tre, bắt hết kiến vất bỏ vào trong lửa. Về sau, Tu Chuẩn bỗng cảm mắc bệnh ghẻ lỡ khắp đầu mặt, thầy thuốc bảo: “Bởi kiến tiết lậu, vết thương không thể trị lành”. Sau đó đành chịu chết. Ở chùa Kim Hoa tại Thục quận có Pháp sư Tú Vinh, trong viện có nhiều tùng bách nên sinh loài trùng lông sắc vàng thân dài vài ba tấc, chẳng biết số lượng là bao nhiêu, Tú Vinh bảo người quét trừ chôn lấp hoặc thả vào trong chỗ chất chứa củi. Sa-môn Nhân Tú lo liệu việc củi đốt nấu, nên đem củi ấy phơi khô giữa ngay nắng nóng, loài trùng đó chết vô số. Qua hơn tháng sau, Tú Vinh bèn bị bạo tử, trong chùa Kim Hao có 1 Sa-môn khác thần thức vào chốn minh quan thấy Tú Vinh mang gông sắt ngồi nơi đất trống giữa ngày nắng nóng, có hàng vạn con trùng rúc rỉa thân thịt ăn. Vị Sa-môn ấy sau khi hoàn hồn tỏ bày lại đầy đủ sự tình ấy cùng Nhân Tú. Nhân Tú rất kinh sợ, bèn cảm mắc bệnh nhọt sau lưng, qua vài ngày sau đó thì chết. Chùa Từ Vân trên núi Vân Đảnh rất được đàn tín khắp bốn phương quy hướng tìm đến cúng dường vật thực rất nồng hậu, chủ chùa là Sa-môn Thẩm Ngôn tánh tình tham lam thô bỉ, khi dối cất giất của cải cúng thí bản tự để uống rượu ăn thịt nuôi dưỡng vợ con, không điều gì chẳng làm. Tăng chúng hơi cô quạnh thanh khiết nếu gặp hắn lấn lướt mắng nhục. Một sáng sớm nọ, cảm mắc bệnh rất lắm. Thẩm Ngôn tự nói rằng: “Giữa không trung có dây treo 1 cối đá, có 1 con chuột gặm cắn dây, dây ấy đứt cối đá rơi trúng ngay tim”. Kêu lớn 1 tiếng rồi tắt hơi thở, lâu sau tỉnh sống lại, cứ như thế qua vài mươi lần mới chết. Qua năm sau, trong thôn phía dưới chùa có 1 con trâu sinh ra con nghé, dưới bụng rõ ràng có 2 chữ “Thẩm Ngôn”. (Rút từ cảnh giới lục). Trong thời nhà Tùy tại Lương Châu có Sa-môn Tuệ Toàn, có được đồ chúng đến 500 vị. Trong đó có 1 vị thô xấu khác lạ, Tuệ Toàn vốn chỗ chẳng ghi nhận, bỗng nhiên người ấy tự nói chứng đắc A-na- hàm quả. Tuệ Toàn cảm mắc bệnh đóng bít cửa, người ấy đi thẳng đến trước giường để hỏi thăm bệnh, mà cửa vẫn đóng bít như cũ, ngày hôm sau cũng lại như vậy. Nhân đó người ấy nói cùng Tuệ Toàn rằng: “Sau khi Thầy mạng chung sẽ thác sinh vào nhà Bà-la-môn”. Tuệ Toàn bảo: “Ta suốt 1 đời tọa thiền, cớ sao lại sinh vào đó?” Người ấy đáp: “Vì thầy tin Đạo chưa thuần, ngoại học chưa dứt, nên tuy có phước nghiệp mà chẳng được vượt đến”. Ở chùa Lợi Tế tại Ô Trấn có vị Sa-môn, chỉ 2 thầy trò, đều xưng là cẩn trọng thuần hậu, nên mọi người đến nương nhờ tụng kinh bái sám ngày một đông nhiều. Nhân đó mọi sự cúng dường càng sung túc, nhưng vị Sa-môn ấy lại keo lậu chẳng tự sử dụng lại cũng không bố thí. Về sau cảm mắc bệnh, người trong dòng tộc đến nghinh đón về để điều trị, bỗng chốc vị Sa-môn ấy qua đời, mọi của cải tích chứa lúc bình sinh đều thuộc về của người dòng tộc có được. Qua 10 năm sau, vị Sa-môn ấy hiện mộng về báo cùng người thân rằng: “Tụng kinh sám bái chưa được hoàn tất, nơi âm phủ xét khảo rất kỹ, khổ chẳng thể nói được”. Trong Tạc Sơn có vị Tăng phương ngoại cảm mắc bệnh đã quá dữ, đến chiều ra ngoài cúng thí, vị Tăng ấy nói cùng những người đến thăm bệnh rằng: “ Có quỷ bạn ta đồng ra đến hưởng thọ. Giả từ rồi chẳng đến, bỗng chốc trở lại nói” Pháp sư chẳng thành thật. Chúng tôi rỗng không trở lại hẳn phải có gì báo đó chứ?” Khi đó nắm lấy cánh tay ta hài hòa cùng đi. Chúng tôi kéo dùng dằng, bảo rằng: “Muốn kéo Pháp sư nay xuống đất”. Ta ra khiếp sợ kêu cứu thất thanh, đồng 1 lúc tan đi hết”. Qua vài ngày sau, vị Tăng ấy qua đời. Cho đến có 1 vị Tăng không thành thật, bị quỷ khiêng đến trong sông nước muốn nhận chìm đó. Lại có 1 vị Tăng mất chìa khóa rương tráp, y phục, trong tâm cứ nghó tưởng đến lá mía ổ khóa, các quỷ thấy trên cơm đều là sắt mảnh, bèn không ăn được. Có 1 vị Tăng hong phơi y phục chăn màn chưa gom lấy, gặp lúc trời mưa nên trong tâm nghó nhớ y phục chăn màn ấy. Các quỷ thất trên cơm đều là lông thú, bèn ăn không được. Mỗi mỗi đều nhận chịu hiển bày quả báo. Lại có 1 vị người thần thức đến chốn minh quan thấy trong phòng đen tối có vài trăm vị Tăng thân thể suy yếu tiêu hao, nhan sắc tiều tụy, tợ như tướng trạng khổ não chẳng kham. Bèn hỏi thăm đó thì đều là những vị Sư chuyên cúng thí thực vậy. (Rút từ Trúc Song Tùy Bút). Tại Giang Bắc có Sa-môn Ẩn Viên, tham học ở Thiên Ninh. Trong tháng 06 năm đó, bị bạo tử. Thân mẫu của Ẩn Viên ở tại Tần Châu nên khi báo đến thì da dẻ của Ẩn Viên dính liền với chiếu. Sắp tẩn liệm, Ẩn Viên bỗng nhiên sống lại, nói với lời tiếng nhỏ nhiệm rằng: “Đời trước từng làm quan lệnh ở huyện (…) ấy, tự xâm đoạt lấy kho bạc rồi vấy họa cho kẻ lại giữ kho, lại tính cách giết chết kẻ đó để bít lấp miệng mồm. Kẻ lại ấy rất phẩn hận, kiện tụng đến Diêm Quân ( vua Diêm-ma), dòi phải bắt lấy để đối trị. vua Diêm-ma khuyên kẻ lại ấy rằng: “Kẻ kia (tức chỉ Ẩn Viên) đã xuất gia làm Tăng, mà ngươi quyết ý báo thù lại thì sao bằng khiến dùng pháp lực để siêu độ cho ngươi ư? Ẩn Viên vâng thừa ý chỉ bèn lập nguyện suốt 3 năm mỗi ngày sám hối đảnh lễ danh hiệu ngàn Đức Phật, ban đêm phóng thả được trở về lại núi, để giải mở oán hận xưa trước. Kẻ lại ấy bèn gật đầu chấp nhận. Nên Ẩn Viên được sống lại. Nhân xin 1 vị Minh sứ dẫn đi nơi chốn địa phủ đến 1 chỗ đại hội, trên tấm bảng ghi là “Bổ Kinh Đường” ( nhà tụng kinh bổ khuyết), trong đó có hàng trăm Tăng Đạo nương nhờ ánh sáng mà tụng đọc kinh, bỗng chốc liền tối mịt. Ẩn Viên hỏi “Đó là xứ nào?” Minh sứ đáp rằng: “Đó là các vị Tăng Đạo lúc ở dương gian bao nhận tạng kinh của thí chủ, tuy được tiền của mà kinh chưa tụng xong, nên ở trong đây để tụng bổ khuyết vậy”. Ẩn Viên lại hỏi: “Cớ sao bỗng chốc liền tối mịt như thế?” Minh sứ đáp: “Vì nghiệp lực sâu dày, không cho được tiện lợi khiến bổ khuyết hoàn mãn nên phải chờ đợi lâu ánh sáng mới hiện lại, vừa hiện thì liền thâu tắt, khiến các vị ấy ở lâu nơi ngục tối vậy”. Sau khi sống lại, Ẩn Viên thù đáp nguyện mong hoàn tất. Sau đó đến tham học ở Linh Ẩn vậy. Ở chùa Bạch Tước tại Hồ châu có Luật sư Nhược Am là người nối dõi dòng pháp của Hòa thượng Mậu Lâm ở chùa Báo Quốc tại Tô Châu. Trong chùa xây dựng điện Đại Bi thiếu thềm cấp đá, có 1 thí chủ người dòng họ Phan quyên được 20 vàng khiến tạo dựng hoàn tất công án ấy. Nhược Am cho là nhà xí ở phía Đông chưa hoàn thành, chúng Tăng không nơi tiện lợi, nên tạm mượn thềm cấp đá ấy để làm hầm hố. Sau đó, vị thí chủ ấy đến, hỏi nguyên do. Nhược Am nói: “Tôi đã riêng làm được 1 việc công đức rất tốt lành. Sau này sẽ tìm kiếm bạc để hoàn thành thềm cấp ấy vậy”. Vị thí chủ ấy đành lòng ngậm hân. Sau khi Nhược Am qua đời, có 1 vị Sa-di bỗng nhiên phát điên. Vị Tăng chủ sự dùng dây cỏ gai buộc trói ngược giam giữ trong 1 ngôi nhà. Sáng ngày hôm sau, vị Sa-di ấy bỗng nhiên thoát vượt ra ngoài, có người hỏi: “Ai mở khóa trói cho ngươi vậy”. Vị Sa-di điên ấy đáp: “Hòa thượng Nhược Am mở khóa vậy”. Đại chúng nghi ngờ cho là dối vọng. Nhược Am liền gá miệng vị Sa-di ấy mà bảo: “Sa-di này chẳng dối đâu, chính ta mở thật đó. Nhân vì ta sai lầm dùng đá làm thềm cấp điện Đại Bi mà làm nhà xí ở phía Đông, nên Minh phủ thường dùng đá lớn để đè ép ta, khổ sở chẳng thể nói. Đồ chúng các ông mà phá gỗ đá tẩy rửa sạch. Đồng thời nhóm tập Tăng chúng tụng kinh Phạm Võng, thì nỗi khổ của Ta liền được thoát khỏi vậy”. Tăng chúng hỏi: “Hòa thượng làm sao nương gá vào Sa-di ấy ư?” Nhược Am đáp: “Lén thấy Sa-di ấy đã điên, trên đầu không có ánh sáng lớn, ta mới được nương gá vào đó mà truyền tin. Nếu chẳng vậy thì ta phải nhận chịu khổ không có kỳ hạn thoát khỏi đó”. Tăng chúng bèn y theo lời bảo mà phá gở đá, và nhóm tập Tăng chúng tụng kinh Phạm Võng, Nhược Am mới đi vậy. Tại Tần Châu có 1 vị Tăng hiệu là (…) theo hầu Tam Muội Tiên Lão Nhân (Hoa Sơn Cụ Đức). Có 1 năm nọ vì làm Giám viện ở điện Tạng tại xứ (…) đó, mà tánh rất keo kiệt, chẳng lãng phí tiêu dùng 1 tiền. Sau khi vị Tăng ấy thị tịch, vào trong giữa đêm, có vị Tịnh nhân (cư só) ở trong điện, nơi 2 Thiền đơn của Tăng, liền thấy Giám viện ( vị Tăng ấy) hiện hình, mới đầu vì sửa chỉnh giày dép nơi 2 đơn của Tăng mà nét mặt tỏ vẻ buồn khổ, tiếp đến lên nơi tòa Phật đưa tay sờ mó vào tạng hoa quan khác, sau đó vui cười mà đi, chúng Tăng đem sự việc ấy thưa bạch cùng Tiên Lão Nhân. Tiên Lão Nhân bảo: “Nghiệp chướng ấy hẳn có di vật tại trong hoa quan, nên ràng buộc quyến luyến không xả bỏ vậy”. Và liền bảo đưa thang leo lên xét xem quả nhiên có bạc và 80 vàng. Tiên Lão Nhân bảo vì tu tạo trai phước mà truy cúng. Sau khi Pháp sư hoàn tất, từ đó không còn thấy hiện về nữa. Nôi ngỏ tắc Lô Phủ ở Giang Ninh, có 1 tục Tăng rất ưa thích bài bạc, nên các thứ y vật đều hết sạch, chỉ còn được 1 tôn tượng Đức Phật Di Lặc bằng đồng cao khoảng 2 thước, bèn đem đổi bán cho Hồi Tử lấy bạc và 3 vàng. Trong đêm, Hồi Tử khiêng đưa tượng về nhà, dùng chày sắt lớn đánh vào đầu tượng Phật. Song, bền cứng chẳng lay động, lại bắn tóe sao lửa, Hồi Tử bảo “chắc là trên đỉnh đầu đồng đúc dày”. Mới dùng chày đánh vào bụng tượng, bỗng nhiên Đức Di Lặc mở miệng cười lớn, Hồi Tử kinh sợ ngã lộn, cúi đầu tạ tội. Đến sáng ngày bèn dùng hương hoa trống kèn nghinh đưa tôn tượng trả lại am cũ. Vị tục Tăng chủ ở đó vội chạy trốn, về sau mắc bệnh độc dữ mà qua đời. Tại Ma Thành có 1 Tăng-giàu có tên là Bích Phan, từng quyên 100 vàng để trợ giúp dân chúng trong thôn xây dựng chỗ canh phòng bảo vệ 1 phương. Đồ chúng đông vô cùng, muốn được đi cầu thọ giới, Bích Phan không chấp thuận. Ban đêm đồ chúng lén chạy đến chỗ Hòa thượng Hạnh Nham cầu xin bẩm thọ giới pháp xong rồi trở về lại. Bích Phan chỉ 1 lần vừa trông thấy liền nổi cơn tức giận đùng đùng, xé rách 3 pháp y, ném vỡ bình bát. Ngay chiều hôm đó, vừa mới nằm ngủ, Bích Phan liền thấy Vi Đà Tôn Thiên tức giận rất lắm qiát mắng rằng: “Ngươi là người gì mà dám hủy phá pháp khí của Đức Như Lai vậy ư?”. Và dáng đứng như muốn dùng chày báu để đánh đó, Bích Phan cúi đầu cầu xin sám hối. Vi Đà Tôn Thiên bảo rằng: “Nghó nhớ người có công lao tu tạo nơi canh phòng, chẳng lấy bớt đi 1 cánh tay”. Bèn đưa chày nhẹ nhẹ đến chấm 1 chấm nơi cánh tay phải. Bích Phan cuồng đau kêu lên 1 tiếng mà tỉnh lại. Trong khoảng vài ngày bỗng có 1 vết tiêu đen nơi cánh tay phải, dài khoảng bảy tám tấc, nắm tay nhỏ như trái quýt treo trên vai. Đến nay thầy trò Bích Phan vẫn hiện còn vậy (ghi theo quả báo hiện có). Ở chùa Đại Trung Hưng tại kinh đô thời Bắc Chu, có Sa-môn Thích Đạo An, vốn dòng họ Diêu, là bậc Thức ngộ Huyền lý, sớm nương gá pháp môn, thần khí cao sáng, tiết tháo cao xa, có trước thuật Dị giới gồm 1 chương để răn dạy môn nhân đệ tử. Bản Di giới ấy với văn từ ghi rằng: “Kính tạ cùng các đệ tử v.v…! Phàm xuất gia làm Đạo rất nặng rất khó, không thể tự xem thường, không thể tự lấy làm dễ. Sở dó nặng là vì đội Đạo đeo đức buộc nhân mang nghóa, phụng trì tịnh giới đến chết mà thôi. Sở dó khó là vì dứt thế lìa tục, trọn cắt bỏ thân ái, xoay tình đổi tánh, chẳng đồng như mọi người, thực hành việc mà người không thể thực hành, cắt bỏ sự mà người hữu tình cắt bỏ. Nhẫn khổ chịu nhục, vất bỏ thân mạng, nên gọi là khó vậy. Được mang danh là Đạo nhân. Đạo nhân nghóa là dắt dẫn cho người vậy. Hành vi hẳn có thể đáp lại, nói năng hẳn đúng hợp với pháp. Đắp mặc xuất gia thì cử động là phép tắc, không tham không tranh, không gièm pha không trốn giấu. Học hỏi cao xa, chí luôn đặt để huyền mặc, thì là danh xưng dự tham ngôi vị trong tam tôn, ra hiền vào Thánh, tẩy trừ tinh hồn. Nêu được vua chúa chẳng cao hơn phước báo ấy, song thân chẳng cao hơn Đạo lực ấy, khắp trong trời người không ai chẳng quy nhiếp. Vất bỏ vợ con, giảm bớt nuôi dưỡng, cúng dâng ăn mặc, chịu thân cúi ngưỡng, chẳng từ nhọc hận. Dùng chí hạnh ấy thanh khiết thông cả thần minh, đạm bạc rỗng sạch, đáng kỳ đáng quý. Như tự khuynh hướng hoang lưu thì Đạo pháp bèn suy biến. Những người mới học chưa thấu hiểu pháp tắc, bỏ chánh theo tà,quên sự chân thật ấy. Lấy chút hiểu biết cho là trí tuệ, lấy chúc cung kính lấy đó làm đủ. Ăn no trọn ngày không chút dụng tâm. Lại tự suy xét, thật đáng buồn thương. Tính đến ngày nay xuất gia đã nhiều năm tháng mà kinh nghiệp chưa thông, chữ nghóa chẳng rành, nhọc mất một đời, không chỗ thành danh. Những sự như thế, không thể nghó sâu, hạn định vô thường chẳng sớm thì tối, thống khổ trong tam đồ, không mạnh thì yếu. Bởi tình nghóa sâu xa giữa thầy trò nên vì tỏ bày chỉ bảo, các hàng hữu tình có thể lấy để tự răn: Ông đã xuất gia trọn trái ngược với sự sống thế tục, cạo bỏ râu tóc hủy phá dung nghi, dùng pháp phục che thân. Ngày xa lìa thân thích, trên dưới mọi người lệ đổ hoen my, cắt đứt ái ân kính sùng Đạo pháp, ý muốn vượt lên sự trong sạch lớn, đáng nên tuân theo chí ý ấy, kinh đạo tu tập thông rành. Cớ sao lại vô tâm cố còn thanh sắc, dằn dặc trọn ngày, kinh nghiệp chẳng thành, đức hạnh ngày một tổn mất, vết dơ bẩn bèn mạnh lớn. Thầy bạn xấu hổ, phàm tục xem thường. Xuất gia như thế nhọc tự làm nhục chánh danh. Nên răn khuyên gắng, cần phải tinh chuyên. Ông đã xuất gia bỏ tục lìa vua, nên tự răn gắng, chí quả ở tận mây xanh, tài sắc chẳng đoái hoài, chẳng đền như thế tục. Vàng ngọc không quý, chỉ Đạo là trân quý, ước chế tự mình giữ gìn chí tiết, nhẫn khổ vui nghèo, pháp huy đức hạnh tự độ, lại hay cứu độ người, cớ sao đổi bỏ tiết tháo rong ruổi theo phong trần, ngồi chưa nóng chiếu vội rảo Đông tây, quá hơn quan huyện kéo bắt làm việc, kinh Đạo không thông, giới đức chẳng toàn, bè bạn cười chê, động học vất bỏ, xuất gia như thế, chỉ nhọc mất ngày trời. Nay nên răn khuyên gắng, mỗi cần tự thương xót mình. Ông đã xuất gia, vónh viễn xa lìa tông tộc họ hàng, không thân không sơ, thanh tịnh không ham thích, tốt cũng chẳng mừng vui, xấu cũng không buồn khóc, vượt hẳn thong dong, tự nhiên lìa tục, chí ở huyền diệu, khuôn phép chân thật, giữ gìn mô phạm, được độ lại rộng cứu giúp, khiến khắp thấm đượm phước lộc. Cớ sao lại vô tâm, bèn đắm nhiễm xúc, tranh không hơn kém, cân lường đấu hộc, cùng người thế tục tranh lợi, đâu khác gì kẻ tôi tớ. Kinh Đạo chẳng rành, đức hạnh không đủ. Xuất gia như thế, nhọc tự hủy nhục. Nên nay răn bày, mỗi tự nên tắm gội. Ông đã xuất gia, xưng gọi Đạo nhân, cha mẹ chẳng kính, vua chúa không hầu, khắp trời đồng dâng phụng kính thờ như thần, cúi đầu cung kính, chẳng kể giàu nghèo, bởi kính chuộng sự tu trì thanh tịnh ấy, tự lợi lợi người, giảm cắt rất nặng, một hạt gạo có đến 7 cân. Cớ sao lại biếng lười khi mạn, chẳng hay báo ân, cậy phóng du dật, thân ý rỗng phiền. Không giới đức mà ăn dùng cúng thí, sau khi chết vào núi Thái Sơn, ăn viên sắt nóng, uống nước đồng sôi, thống khổ như thế, kinh điển diễn tả đủ. Nên nay răn ước, mỗi tự cần phải đổi mới. Ông đã xuất gia, xưng gọi là tức tâm, chẳng đắm trước uế tạp, chỉ khâm trọng Đạo, chí dự tham thanh khiết như ngọc như băng, phải tu kinh giới để cứu giúp tinh thần, chúng sinh mong đội nhờ và độ bao người thân. Cớ sao lại vô tâm, đắm chìm theo thế tục, phóng túc bốn đại mặc tình năm căn. Đạo đức bèn cạn, việc đời càng sâu, xuất gia như thế, đồng như bụi đời. Nên nay răn ước, mong mỗi tự mở thần. Ông đã xuất gia, vất bỏ hình hài thế tục, phải chuyên dốc tâm tình phù hợp với Niết bàn, cớ sao lại nhiễu động, chẳng vui thích nhàn cư, kinh Đạo tổn hao, việc đời có thừa. Sạch trắng chẳng đến, vào trái Niết bàn. Mạng thoát quá ảnh chỉ trong chốc lát. Thống khổ nơi địa ngục, không thể ghi hết. Nên nay răn khuyên gắng, mỗi tự nên tôn sùng khuôn phép. Ông đã xuất gia, không thể tự khoang dung, thân hình tuy thô xấu mà cử chỉ đáng trông xem, y phục tuy đơn sơ, đứng ngồi khiến đoan chánh, ăn uống tuy đạm bạc nhưng mở lời đáng ngon lành. Mùa hạ thì nhận nóng, mùa Đông thì chịu lạnh, hay tự giữ tiết, chẳng uống trộm nước suối, cung phụng của kẻ ngu đủ chẳng vọng trước. Lâu ở nơi thất riêng như vào nhà đấng chí tôn. Học tuy chẳng lắm, nhưng có thể ngang bằng bậc Thượng Hiền, xuất gia như thế, đáng đủ báo bổ song thân, tông tộc dòng họ quen biết thảy đều nhờ ân. Nên nay khuyên răn các ông, nên mỗi tự đôn đốc. Ông đã xuất gia, tánh có tối sáng, học không ít nhiều, cốt yết ở tinh tu, hạng Thượng só thì tọa thiền, hạng Trung só thì tụng kinh, hạng Hạ só thì kham nhận tạo dựng chùa tháp, đâu có thể trọn ngày không thành một sự gì. Lập thân không nghe mới có thể gọi là học trò. Nên nay khuyên răn các ông, mỗi tự thẳng tình. Ông đã xuất gia, trọn trái nghịch với song thân, nương đạo pháp mà đổi tánh, y phục thế tục lìa khỏi thân hình. Ngày xa lìa thân thích chợt buồn chợt vui. Xa vời dứt tục, vượt khỏi trần ai, phải tu kinh Đạo, khắc chế tự mình giẫm trải chánh chân. Cớ sao lại vô tâm, càng nhiễm tục nhân, kinh Đạo đã mỏng manh, chí hạnh lại không mảy lông, nói năng chẳng gì đáng quý, đức hạnh chẳng gì đáng trân. Thầy bạn rất mực phiền lụy, phẩn hận ngày một lớn sâu. Xuất gia như thế, chỉ tổn hại Đạo pháp ô nhục tự thân, nên tư duy dó, nghó nhớ đó, khéo tự nuôi thân!” (Rút từ tục Cao Tăng truyện và pháp Uyển Châu Lâm). Sa-môn Như Cảnh ở chùa Nguyên Thiên răn dạy rằng: “Gần đây có những hạng người xuất gia, tuy nói là lìa tục, mà tập tục chẳng trừ bỏ, nói là xuất trần mà trần duyên chẳng dứt. Đối với kinh giáo cố nhiên không biết, còn với tham thiền lại chẳng hiểu gì. Tâm vượn chạy loạn, ý ngựa buông rong, nhóm đội thành đàn đánh hống qua ngày, không chỉ rỗng tiêu của tín thí, mà cũng tự lấp vùi tánh linh của chính mình. Đến lúc mắt sáng rơi nơi đất, đầu đường biết đến hướng nào. Đang khi giữa trời trong tỏ sáng mà cha mẹ chẳng biết, chưa chứng cho là đã chứng, chưa đắc cho là đã đắc. Thật là nhọc vào không môn, sống rỗng chết buông. Ôi! Thử xin hỏi cùng các ông nhân xuất gia để làm việc gì? Vì cơm áo ư? Vì tham giàu sang ư? Vì cầu sự an lạc ư? Cha mẹ xả bỏ cho các ông xuất gia, chỉ hoài mong siêu độ cho song thân, báo đáp bến ân, mà nay tự mình còn không thể nương tựa, huống hồ làm sao cứu giúp người khác ư? Có ngày Diêm La Lão Tử sẽ cùng ông đánh tính tiền cơm, sẽ rất chỉ trích, như chẳng rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, nhất định cũng phải mang lông đội sừng. Xuất gia như thế thật đáng buồn thương, thật đáng đau xót! Chư nhân giả đuổi theo đó, trước lúc chưa già không bệnh, hãy gấp sớm tính kế tạo tác sự sống, kiên trì trai giới, niệm Phật tụng kinh, lễ sám phát nguyện, cầu sinh về Tịnh độ. Sau khi được thấy Đức Phật A-di-đà, mới có thể lấy đó cứu độ mẹ cha, mới có thể lấy đó báo đáp bốn ân, mới có thể lấy đó cứu vớt quần sinh, mới có thể lấy đó trọn hưởng thọ khoái lạc. Xuất gia như thế mới thật là Phật Tử”. (Rút từ Tịnh độ hoặc vấn). Phàm, thuyết thiện ác báo ứng, kiệt xuất nơi kinh điển, mà hàng ngu bột còn mê hoặc đó. Nếu chứng nhận dó ở sự thật, cũng là một thuật cảnh giác vậy. Nhân những ngày rảnh rỗi, giẫm đọc các truyện xưa, tham cứu ghi chép nghiệp báo của hàng Tăng Lữ rõ ràng. Chợt gặp được bộ “Sự tự xét ghi trong nhà Phật” ( Thích Môn Tự Cảnh Lục) của Đại sư Hoài Tín, tôi mới than rằng: “Ta nghó người xưa thật thấu được tâm ta thay!” Mới đem khắc bản in để rộng lưu truyền. Vả lại nay đây có thêm được bấy nhiêu điều mới phụ bổ túc ở sau vậy. Ngày 14 tháng 08 năm Nhâm thìn tức năm An Vónh thứ nhất Sa-môn Thích Huyền Trí ở chùa Khánh Chứng tại Bình An viết tại Nam Kỷ Lộ Sâm tỉnh sở. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 190