<經 id="n2071">TỊNH ĐỘ VÃNG SANH TRUYỆN (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 2071 TỊNH-ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN Sa Môn Giới Châu ở Phi Sơn, thuộc Phước Đường đời Tống soạn <詞>LỜI TỰA Chúng Thánh Hiền đều nhóm hợp trong vườn Cấp Cô, lúc đó không một lời thưa hỏi, mà Như lai tự bảo rằng về phương Tây cách đây mười vạn ức cõi nước có Tịnh độ, cõi ấy rộng lớn do trăm báu họp thành. Lại bảo chúng sinh nghó nhớ tưởng niệm cầu sinh đều được như nguyện. Nói rằng có mười hai Phân giáo bao trùm muôn loài, đây chính là một phần về vô vấn tự thuyết. Giống như mẹ không đợi con đòi mà vỗ về, không đợi đưa tay mới đút mới bồng ẳm. Nhưng Như lai bỏ cung Tịnh Phạm giáng xuống Ca Duy, nói Pháp suốt năm mươi năm, rải Từ chấn tùy cơ mà trao dạy hiện đủ thân Trời-Rồng-Thích-Phạm, Thanh Văn, Duyên Giác, Đại Bồ-tát… bỏ cả đầu mắt tủy não và các thứ bên ngoài như thành quách châu báu ân cần ba lần thỉnh không phải một, Như lai hoặc từ chối hoặc lặng im, chỉ dừng lại mà không nói. Còn ở đây tự nói là vì thương các loài trôi giạt mãi trong năm trược nhiều kiếp chẳng dừng. Nay chán năm Trược hẹn sinh Tịnh-độ, ắt là ở chỗ chuyên niệm. Nói niệm đến mức là tưởng mười sáu quán thứ lớp giúp nhau. Kinh nói chư Phật từ biển Chánh Biến Tri tâm tưởng sinh ra, đó là sao là nói chỗ đầu tư, nêu cái dần dần mà gọi trước có tu trì thì trước có Vô Thượng cực quả bắt đầu ở thâm tâm. Thâm tâm xác thực thì không thể nhổ. Cho nên một niệm mà chuyển được ba đường, mười niệm mà lên chín phẩm Thiện, đây tuy là các kinh Đại Thừa Phương Đẳng đều cùng bày mà cùng phát, chẳng phải một kinh mà nói phát. Từ đời Hán Ngụy trở lại đây, chí thành hướng về Tây, chưa nghe có người thật vì Đại Pháp chưa đủ để truyền bá Văn Kinh. Thời Tây Tấn có giặc Lưu diệu tàn phá vùng kinh Lạc, Tăng hiển ẩn lánh ở đất Giang Đông, mới do ba việc nhân nguyện thương cảm nhưng khác xa cái chí chăm chăm. Cả đời loạn thì di phong thắng nghiệp mà thay cho hoặc là không nghe? Cuối đời Đông Tấn, Viễn sư ẩn tích tại núi Lô, thời ấy có đồng chí là các Pháp sư Thích Đạo Bính, Trúc Đạo Sinh, Phật-đà-da-xá. Đến các tại gia tài giỏi là Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tục Chi, … một trăm hai mười ba người kết giao dạo chơi phương ngoài hiếm mà cùng đến. Viễn công lấy các huyễn tụ tập không gửi chắc thân như mộng ảo chẳng thường còn. Do đó chỉ riêng nước Phật Vô Lượng Thọ mà kết giao cùng dạo chơi, ấy mà thôi. Lại nói nước ấy thanh tịnh không có ba đường không có sáu nẻo, chúng sinh theo đó không chỉ một đời mà sinh, phướn báu dẫn trước, gá thân nơi sen vàng, do đó mà cùng có ý tưởng cũng rõ ràng. Từ Viện Công trở đi việc tu Tịnh-độ càng thịnh đạt. Cho nên Tống có Đàm Hoằng, Tề có Tuệ Tấn, Lương có Đạo Trân. Khoảng đời Lý Đường có nhiều bậc Dónh Ngộ thông thức như Đạo Xước, Thiện Đạo và rất nhiều vị khác. Tôi ở thời Tượng Mạt gặp được Di Pháp của Phật mà theo Tịnh Nghiệp cũng có năm thường lấy các sự tích của các Tiền Hiền chép trong các truyện, ở vào các đời khác nhau không cùng loại một mạch xem qua. Do đó trải qua khảo sát các đời Lương Tùy trở đi, các truyện ký được soạn ra như kể về các ngài Tuệ Giáo, Đạo Tuyên tất cả có mười hai vị. Đến đời Đại Tống có Tân Truyện của Thông Tuệ Đại Sư lại nêu được bảy mươi lăm vị. Truyện này về lý có chỗ tối tăm, về lời thì tủn mủn vụn vặt. Do đó mà có sửa chửa và nói rõ hơn về Hồng Nghiệp, Tuệ Minh v.v… sáu mươi hai vị, các tưởng tượng lúc sống cho đến khi chết, nếu không đủ để giúp khởi tin sâu thì không còn gì khác. Các bậc Minh Triết sợ các việc sau này chưa gom góp đủ, thì tôi cũng đã dự bị rồi. ------------------------------ TỊNH-ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN <卷>QUYỂN THƯỢNG Chánh truyện có mười chín vị, phụ thêm có mười hai vị. Giang Đông, Thích Tăng Hiển ở đời Tây Tấn. Lộ Sơn, Thích Tuệ Vónh ở đời Đông Tấn. Lô Sơn, Thích Tuệ Viễn ở đời Đông Tấn (Có phụ: Phật Đà Gia Xá, Tuệ Trì, Đàm Thuận) Sơn Âm, Thích Tuệ Kiền ở đời Đông Tấn . Lô Sơn, Thích Tăng Tế ở đời Đông Tấn. Lô Sơn, Thích Tuệ Cung ở đời Đông Tấn (Có phụ: Tăng Quang, Tuệ Kham, Tuệ Lan) Lô Sơn Lưu Trình Chi ở đời Đông Tấn. Đông An, Thích Tăng Duệ ở đời Diêu Tần. Giang Lăng, Thích Đàm Giám ở đời Lưu Tống (Phụ: Đạo Hải, Đàm Hoằng, Đạo Quảng, Đạo Quang). Giao Chỉ, Thích Đàm Hoằng ở đời Lưu Tống. Kim Lăng, Ni Pháp Thạnh ở đời Lưu Tống. Đơn Dương, Ni Đạo Viện ở đời Lưu Tống. Dương Đô, Thích Tuệ Tấn ở đời Nam Tề. Nghiệp Hạ, Thích Tuệ Quang ở đời Bắc Tề. Linh Kiến Thích Pháp Lâm ở đời Bắc Tề. Linh Thứu Thích Tăng Nhu ở đời Bắc Tề. Bích Cốc Thích Đàm Loan ở đời Hậu Nguî. (Phụ: Long thọ) Lô Sơn Thích Đạo Trân ở đời Tiên Lương. Hà Dương, Thích Tuệ Mạng đời Hậu Chu (Phụ: Pháp Âm). ***** Thích Tăng Hiển: Ngài họ Phó người ở Đại Quận. Có chỗ nói là người Nam Thành ở Lâm Xuyên. Tổ tiên nhiều đời làm quan ở Đại, do đó mà nhà ở đấy. Hiển tuổi nhỏ đã bỏ tục dày dạn khổ đau, không giao du với người và việc phù ngụy việc biến đổi của thạnh suy cơ xảo vị thỉ hình chi. Hoặc khi Thiền Định dời đổi nhiều ngày. Cuối thời Tây Tấn, giặc Lưu Diệu tàn phá vùng Kinh Lạc, Hiển bèn ẩn lánh ở Giang Đông mà phóng ý đến các danh sơn nơi ven núi cực hiểm vắng dấu chân người, ông đến đó vào buổi chiều vắng thì được vị Tăng Ấn độ truyền cho bản dịch Kinh mới. Văn kinh dự bị ba việc Tịnh-độ, do đó nguyện thứ lớp vãng sinh chín Phẩm Bèn rất mừng bảo rằng: Thân ta trộn lẫn trong các khổ năm Trược ràng buộc, ở đó mà được đây như bay ra khỏi than nóng, bay liệng giữa hư không, ta nghó sau này có chỗ về. Do đó Chí thành Tây tưởng cố gắng mãi không biếng lười. Một chiều tháng 9 bị bệnh, lại thấy Phật Vô Lượng Thọ bay trên hư không mà đến, từ trên không có trăm ánh sáng chiếu vào thân. Chiều ấy ông dậy tắm gội, vì người cùng ở và chăm sóc bịnh mà nói điều đã thấy lại nói rõ ràng nhân quả, khuyên nhủ người chưa ngộ rồi thì mất. Chùa bên cạnh có người thấy đài vàng từ Phương Tây hạ xuống, và nghe mùi thơm lạ đầy nhà. Mọi người đều lấy làm lạ. Thích Tuệ Vónh: Ngài họ Phàn người ở Hà Nội. Cuối thời Đời Đông Tấn, Sư thờ Sa môn Trúc Đàm Hiện Kế nghe Pháp sư Đạo An làm phép tắc thời ấy, người ở ngoài ngàn dặm đến học lúc ấy phần lớn là Trung Nguyên nên dân đi bói đều đến Ngũ Đài mà bỏ La Phù. Do đó ông đến Tầm Dương Người ở Quận là Đào Phạm hết lời giữ ông ở lại, bèn đến trú tại Tây Lâm ở Lô Sơn không đổi, các môn đồ rất đông. Viễn Công lại đến ở, nên cùng bàn ở đấy trọn đời. Viễn Công ở đấy suốt ba mươi năm không hề xuống núi. Vónh ở Tây Lâm cũng thế. Lại rất tinh nghiêm kinh luật và giảng nói, mặc áo vải ăn rau dưa vui với tuổi già. Từng muốn nhà tâm trống vắng rèn tập Tam-muội bèn lập một thất trên đỉnh núi. Mỗi khi Vónh đến có một con hổ đến nằm phục bên thất, người sợ thì đuổi đi, người về thì lại đến. Vónh từng đến Ô Kiều, chủ doanh trại Ô Kiều uống rượu say cỡi ngựa chận đường không cho đi. Lúc đó trời đã xẩm tối, không đường rút lui, Vónh cầm gậy chỉ ngựa, ngựa sợ nhảy lên làm chủ té bị thương. Hôm sau đến hạch tội. Vónh nói Thần Hộ giới phạt người cuồng dại đối với Vónh, bèn xin Sám hối. Vónh tánh chân chất tự nhiên, lời nói không thương tổn người vật, quyết chí ở An Dưỡng. Vào niên hiệu Nghóa Hy năm thứ mười Sư bị bệnh mặc áo liệm, mắt nhìn hướng Tây. Bỗng đòi giày và muốn ngồi dậy, chúng hoài nghi hỏi han thì Sư bảo: Phật đến nên ta ngồi dậy. Nói rồi Sư mất. Đạo-tục kéo đến đều nghe có mùi thơm lạ bảy ngày mới tan. Thích Tuệ Viễn: Sư họ Cổ, người ở Lâu Phiền thuộc Nhạn Môn. Thuở nhỏ theo cậu du học ở Hứa Lạc, làu thông kinh sử, lại giỏi Lão Trang. Năm hai mươi mốt tuổi muốn đi qua Giang Đông định theo học với Phạm Tuyên Tử, nhưng đường Nam bị nghẽn nên chí không thành. Lúc đó Đạo An ở Thái Hành hoằng đạo nổi tiếng. Viễn nghe liền đến thấy mặt rất kính trọng. Sau nghe Sư An giảng kinh Bát-nhã bỗng được khai ngộ liền bảo: Cửu luận khác của chín dòng đều là vỏ trấu. Rồi cùng mẹ và em là Tuệ Trì đều quy phục. Sư có dáng vẻ nghiêm túc tài giỏi nên Đạo An thường khen “Người làm cho giáo pháp truyền bá ở Đông Độ chính là viễn”. Năm hai mươi bốn tuổi, Sư giảng kinh ở chùa Đại Thiện có khách hỏi về nghóa thật tướng, bàn cãi qua lại càng nhiều nghi ngờ, viễn dẫn Lão Trang giải thích, khách bèn hiểu. Từ đó An cho phép Viễn không bỏ ngoại điển. Trong niên hiệu Kiến Nguyên có giặc loạn, Đạo An bị Chu Tự bắt giam, đồ chúng tứ tán. Viễn và Tuệ Trì cùng mấy mươi người đều đến Kinh Châu. Ít lâu sau muốn về Nam đến La Phù, ra Tầm Dương thì thấy Lô Sơn cao vót yên tónh có thể dừng chân. Nhưng chỗ ở cách xa nước, viễn bèn dộng gậy xuống đất bảo: Nếu nơi này ở được thì khiến rã mục thành suối. Nói xong thì suối phun lên. Sau Tầm Dương bị hạn, Viễn ở bên suối đọc Kinh Long Vương thì bỗng có con rắn lớn từ nước bay lên hư không, phút chốc có mưa lớn, do đó gọi là Long Tuyền (Suối Rồng). Lúc đó Sa-môn Tuệ Vónh ở Tây Lâm muốn Viễn cùng ở, lại thẹn vì chỗ ở chật hẹp không đủ chứa. Bèn bảo Thứ Sử Hoàn Y, Y bèn lập Đông Lâm để ở. Thuở xưa Đào Khản trấn giữ Quảng Châu, có ngư dân vớt được tượng do Vua A-Dục tạo ra. Tượng này rất kinh lạ, Khản đưa tượng về chùa Hàn Khê ở Võ Xương, chùa cháy nhưng tượng vẫn còn nguyên. Sau Khản đi trấn giữ quận khác sai Sứ đón về nhưng không được. Khi Viễn cất chùa xong cầu nguyện thì tượng tự nhiên đến. Do đó biết Viễn tu chứng nên cảm được điềm lành. Ân Trọng Kham đi Kinh Châu đến Lô Sơn luận đạo với Sư chẳng biết mệt mỏi. Kham nói sự hiểu biết của Sư sâu sáng khó địch nổi. Tư Đồ Vương Mật, Hộ quân Vương Mặc đều khâm phục Phong Đức của Sư, Mật có thư rằng tuổi chưa bốn mươi mà ai đồng nhó thuận há chẳng buồn cho sự rơi rụng ư? Sư đáp: Người xưa không trọng thước ngọc mà chỉ quý tấc bóng, cái còn lại không do năm dài. Vua Tống Võ đuổi giặc Lư Tuần, các quan tâu Viễn Công trước có giao du mật thiết với Tuần. Tống Võ bảo Viễn là người tiêu biểu cho đời không có kia đây. Do đó sai sứ đem thư tiền gạo đến tặng. Chúa nhà Tần là Diêu Hưng rất trọng tài đức của Sư, đưa bản Luận Đại Trí mới dịch nhờ Sư đề tựa nhưng viết thư nói rõ rằng: Luận này do Long soạn ra, lại là chỉ quy của Phương Đẳng, không có Đại só, ai có thể viết cho lời tựa? Hoàn Huyên phạt tội Trọng Kham đến dưới chân núi, mời Viễn đến Hổ Khê Viễn từ chối. Huyền tự vào núi, người chung quanh Kham rất kính trọng Viễn, xin Ngài chớ trọng. Huyền bảo Trọng Kham sống như người chết nhác! Nhưng khi gặp Viễn thì Huyền kính sợ, các nghi nan đều không dám. Lại hỏi việc đánh dẹp thì Viễn không đáp. Huyền gạn hỏi thì đáp việc quân binh chưa học Huyền bảo giờ đang nguyện điều gì? Nguyện cho Đàn-việt được an ổn họ cũng chẳng khác. Huyền xuống núi bảo người chung quanh rằng người này xưa nay chưa gặp. Sau Huyền dùng oai chủ soái ra lịnh cho Sa-môn phải lạy vua. Thượng thư lệnh Hà Sung Phác, Tạ Chữ Tường v.v… tấu luận khiến môn hạ vâng chỉ, đang bàn bạc lăng xăng chưa định thì Viễn Công làm luận năm Thiên Sa-môn không lạy Vua dâng lên Huyền, bèn thôi. Khi Huyền thua chạy về Tây, An Đế từ Giang Lăng về Kinh đô. Quan Phụ Quốc Hà Vô Kî khuyên Viễn đón Vua thì ông từ bệnh không đi. Vua gửi thư ủy lạo, Viễn đáp tạ. Trần Lưu, Tạ Linh Vận ỷ tài kiêu ngạo nhưng gặp Sư thì rất tâm phục. Viễn công trong thông Phật Giáo, ngoài giỏi sách Nho ở Lô Sơn ba mươi năm không hề xuống núi. Bành Thành có Lưu Di Dân, Dự Chương có Lôi Thứ Tông, Nhạn Môn có Chu Tục Chi… đều kính trọng, Nam Dương có Tông Bính, Thanh Hà có Trương Giả đều bỏ đời mà nương Viễn sư. Viễn cùng Di Dân và tăng tục gồm một trăm hai mươi ba người kết làm Tịnh Xã, trước tượng Di-đà cùng thề đến An Dưỡng. Bèn khiến Di Dân soạn văn khắc đá. Lúc đó đời gọi là Liên Xã, Viễn rất trọng việc hoằng Pháp. Mỗi khi nghe Tăng Đồ từ Tây Vức đến thì ân cần hỏi han Đạo Vị. Sa-môn nước Kế-Tân là Tăng già-nan-đề trong niên hiệu Thái Nguyên đến ở Tầm Dương, Viễn Công thỉnh dịch lại Bộ A-tỳ-đàm Tâm và Luận Tam Pháp Độ. Về già nghe ngài La-thập đến Quan Trung bèn đốt hương xa tưởng và viết thư thăm hỏi. La-thập cũng nghe tiếng Sư đã lâu, bèn viết thư giao hảo. Lại gởi cho năm bài kệ. Từ đó Nam Bắc ngàn dậm thư từ thăm hỏi không dứt tháng tám. Vào niên hiệu Nghóa Hy năm thứ mười hai từ ngày 1 đến ngày 6 Sư bị bệnh, các bậc cao tuổi thỉnh Sư uống rượu đậu. Sư bảo: Uống rượu trị bệnh văn luật không cho, thỉnh Sư uống nước cháo thì Sư bảo đã quá Ngọ. Lại thỉnh Sư uống mật thì Sư bảo mở luật tìm văn, chưa được nửa quyển thì Sư mất, thọ tám mươi ba tuổi. Đạo Tục đưa tiễn như mây đùn. Thái Thú Tầm Dương là Nguyễn Bảo cùng đệ tử là Pháp Tịnh v.v. đào đất ở Sơn Tây mà chôn Sư. Tạ Linh Vận, Tông Bính một thời nổi tiếng là Hiền, trụy điệu Sư đặt bài Minh ghi đức. Tăng Tuệ Giảo đời Lương cách Sư hơn trăm năm biết việc đã viết Truyện nói rằng: Xét về Biệt Truyện, Viễn Công đối với Tịnh-độ chuyên tu siêng niệm. Xưa ở Lô Sơn mười một năm lắng tâm buộc tưởng, ba lần thấy Phật mà im lặng không nói, mười chín năm sau, chiều tháng 7, Viễn Công ở Khám Đông bên đài Bát-nhã, từ Định ra thì thấy thân Phật Di-đà đầy khắp hư không, trong viên quang có các Hóa Phật, lại thấy Quán Âm Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước sáng chia thành mười bốn nhánh mỗi nhánh nước phun trên dưới, tự giảng nói Khổ Không, Vô thường- Vô ngã. Phật bảo Viễn rằng: Ta vì bổn nguyện lực đến an ủi ông, bảy ngày sau ông sẽ vãng sinh về nước Ta. Lại thấy Phật đà-da-xá cùng Tuệ Trì, Đàm Thuận ở bên Phật chào Viễn nói: Pháp sư trước chúng tôi sao đến chậm thế? Viễn thấy rõ ràng và sáng suốt không rối loạn. Rồi nói đủ các việc thấy nghe cho đệ tử Pháp Tịnh, Tuệ Bảo v.v… nghe. Nhân đó bảo Tịnh rằng trước đây mười một năm ta đối Tịnh-độ ba lần thấy Phật, nay lại thấy thì ta chắc chắn được sinh Tịnh-độ. Ngày hôm sau Sư bị bệnh, lại nói với Tịnh rằng chỉ trong bảy ngày là chậm. Các ông phải cố gắng chớ để tình thế gian trói cột. Đến hẹn thì mất. Thích Tuệ Kiền: Sư họ Hoàng Phủ, người ở Hà Sóc. Tinh trì giới luật ý rất bền chắc. Xưa ở Lô Sơn mười năm kẻ đạo người tục đều kính mến. Kiền ở dưới chân núi, Viễn Sư mến nghiệp phong của ông bèn bảo với Minh Thắng, Pháp Bảo rằng người ấy là người của ta, đức nghiệp ông ấy tâm ta không bằng mà không hổ thẹn ư? - Sư đến Ngô Hội ở đất Thục hoằng hóa, rồi đến chùa Gia Tường ở Sơn Âm nhóm họp đồ chúng mà dạy dỗ. Lúc đó ngài La-thập truyền dịch Kinh mới, có chỗ chưa giảng thì Kiền lần lượt giảng, rồi bảo chúng rằng ở đời Tượng Mạt mà giảng dạy Di Giáo, nguyện đem chút điều lành nhỏ này kính dâng Phật Di-đà. Sau đó năm năm bị bệnh. Kiền biết đã đến lúc liền bảo: Lên ngồi Sen Vàng trong ao ngọc, hoa nở thấy Phật chính là lúc này. Lại cần cầu Hải chúng là bạn thật vì Pháp. Quán Âm Thế Chí đến đây đã về rồi, không nguyện nào khác. Đêm ấy ở phía Bắc chùa tại Sơn Âm, có Ni Tịnh Nghiêm nằm ngủ bỗng thấy Quán Âm Thế Chí cùng trăm ngàn chúng từ trên cao xuống cờ phướn lọng báu ánh sáng rực rỡ như mặt trời mặt trăng. Nghiêm thấy vừa lạy vừa chiêm ngưỡng, bèn đến trước hỏi rằng: Thưa Đại Só ngài đi đâu thế? Đáp: Đến Gia Tường đón Kiền. Chiều đó Kiền cũng thấy được thắng tướng rồi an nhiên mà mất. Thích Tăng Tế: Không biết Sư là người ở đâu, cạo tóc với Sư nào? Vào thời Tấn An, từng vào Lô Sơn hỏi đạo với Viễn Công. Ông làu thông kinh sách trong ngoài. Viễn thường bảo: Cùng ta nối thạnh Đại Pháp là người ấy. Tế do mẫn ngộ nên được Viễn công khen ngợi, phàm các giảng luận đều khâm phục. Khi ông bị bệnh nằm liệt giường muốn dậy mà không ngồi được, ngày thứ ba Viễn giao cho một cây đuốc bảo ông hãy dựa vào đây mà lập tâm An Dưỡng Tế vâng lời cầm đuốc dừng tưởng, lại mời Chư Tăng đến tụng Quán kinh, lần hồi sắp đến canh năm mới trao đuốc cho đệ tử là Nguyên Bậc rồi đi theo Tăng. Chốc lát như sực tỉnh lại cầm đuốc bay trên hư không, được Phật Di-đà duỗi tay tiếp dẫn lại đến khắp mười phương cúng dường chư Phật. Phút chốc tỉnh lại, kể rõ các việc cho Bậc, rồi vui mừng nói: Ta một đêm quán niệm mà được Phật tiếp dẫn, chỉ có Phật Đại Từ ai niệm đều đến. Tối hôm sau lại thấy trên hư không có Hóa Phật và Hóa Bồ-tát chập chờn hiện đến. Sư bảo Bậc: Hóa Phật đã đến ta đi đây, rồi nhìn về hướng Tây một hơi mà mất. Sau khi mất hơn ba tháng vào mùa nắng gắt mà da thịt vẫn không rã mục. Thích Tuệ Cung: Sư là người ở Phong Thành thuộc Dự Chương. Từ khi vào học Phật ông và ba Pháp sư Tăng Quang-Tuệ Kham-Tuệ Lan là bạn rất thân. Bọn Lan sức học không bằng Cung, còn đối với Tịnh-độ tinh chuyên niệm tưởng nguyện thì Cung không bằng. Bọn Lan có lần gọi bảo anh sức học rộng nhưng đối với Phật đạo thì như kẻ điếc trỗi nhạc mà mình không nghe được minh thức của bậc Thánh, anh biết được gì? Cung đáp: Thì làm càng vậy, học mà không thông đạt ai như chưa chết, mà mê muội ngu ngây được ư? Sau bảy năm bọn Lan đều mất. Khi chết đều biết trước ngày giờ. Năm năm sau tức đời Tấn niên hiệu Nghóa Hy năm thứ mười một, Cung bị bệnh, trong lúc bệnh nằm nghỉ bọn Lan đã chết, nay bị bệnh khổ không chỗ nương, bèn bảo: Sáu nẻo noi nhau có khi nào dừng mà còn nhiều thêm. Lại nói sinh tử tới lui ta sao về được? Do đó gục đầu khóc lóc quyết tâm về An Dưỡng. Tuy bị bệnh khổ nhưng niệm vẫn không xen hở. Một hôm mắt thấy Phật Vô Lượng Thọ bưng đài vàng tím đến rước. Cung biết mình nương đài vàng. Ở trong đài phát ra ánh sáng như đống báu. Lại thấy các vị Tăng Quang, Tuệ Kham, Tuệ Lan cùng ở trong ánh sáng vui mừng bảo Trưởng lão thọ thị sinh về Thượng phẩm. Chúng tôi chỉ mong năm Trược được yên mà nương Tịnh-độ dầu muộn. Cung bảo ta biết thân tâm ta không có các đau đớn. Nói xong thì mất. Lưu Trình Chi: Ông tự là Trọng Tư, người ở Bành Thành là con cháu của Hán Sở Nguyên Vương. Tổ tiên làm quan đời Tấn rất vinh hiển. Trình Chi thuở nhỏ mồ côi cha, thờ mẹ rất chí hiếu, tiếng vang khắp nơi. Lại ỷ tài tự phụ không chịu uốn mình theo tục, dầu mình đói lạnh ở trước oai phước mà vẫn y nhiên rỗng sáng. Tư Đồ Vương Mật, Thừa Tướng Hoàn Huyền, Thị Trung tạ Côn, Đô Đốc Tạ An, Thái Úy Lưu Dụ đều mến mộ muốn tiến cử nhưng đều từ chối. Ông đến Lô Sơn nương Viễn Công. Viễn công hỏi: Quan Lộc vòi vọi sao chẳng làm? Trình Chi nói Vua quan nghi nhau vạch lá tìm sâu. Tấn thất lại không có cái vững chắc của bàn thạch, vật tình có cái nguy như chất trứng, sao tôi làm được? Viễn nghe nói bảo là Tướng lớn khí dày. Thái Úy Lưu Công cũng vì chí như thế nên không thể dùng sức ép được, bèn bàn nhau lấy hiệu là Di Dân mà tặng. Lôi Thứ Tông, Chu Tục Chi, Tất Dónh Chi, Trương Tú Bảo v.v… đều cùng đến nương Viễn Công. Viễn Công nói các ông đến thì phải quên mà dạo chơi Tịnh-độ. Nếu có tâm thì phải cố gắng chớ có chuyện sau này. Trình Chi có văn tạc vào đá để ghi nhớ. Sau ông chăm chăm lo Phật đạo không màng chuyện vinh nhục. Dốc chí mười một năm, năm cuối trong khi niệm Phật thì thấy thân Phật Di-đà màu vàng chiếu sáng thất. Trình Chi thẹn buồn khóc lóc thưa rằng: Con mong được Như lai xoa đầu, đắp y cho con. Bỗng nhiên Phật xoa đầu và đắp y cà sa cho. Một hôm niệm Phật lại thấy xuống ao lớn bảy báu, hoa sen trong ao xanh trắng xen nhau, nước mênh mông không bến bờ. Có một người trên đảnh có vầng ánh sáng tròn ngực có chữ vạn chỉ nước trong ao bảo là nước tám công đức con hãy uống. Trình Chi uống vào thì thấy ngon ngọt. Khi tỉnh dậy thì biết mùi thơm phát ra từ lỗ lông tay. Trình Chi nói duyên Tịnh-độ của ta đã đến, chúng sáu hòa nào cùng ta chứng minh. Lúc đó Tăng ở núi Lô đã tập hội, Trình Chi đối tôn tượng thắp hương kính lễ khấn rằng: Con nhờ lời dạy của Phật Thích-ca mà biết có Phật Di-đà, nén hương này trước cúng dường Thích-ca Như lai, kế cúng dường Phật A-di-đà, sau cúng dường Phật và chúng Bồ-tát trong hội Pháp Hoa và đến khắp Phật Bồ-tát ở mười phương, nguyện khiến tất cả hữu tình đều sinh về Tịnh-độ. Nguyện xong vái quỳ mọp mà mất. Mười một ngày sau Viễn Công sắp Trình Chi vào xã và ghi vào truyện. Thích Tăng Duệ: Ông là người Quán Đào đời Ngụy. Năm mười tám tuổi thờ Tăng Hiền xin làm đệ tử. Đến hai mươi tuổi thì làu thông kinh Phật cũng thông cả sách Nho. Có lần nghe Tăng Lãng giảng Kinh Phóng Quang nhiều lần đến hỏi, Lãng gọi Hiền bảo: Duệ trí thức hơn người đáng gọi là đệ tử Hiên của Hiền. Duệ vì còn học tập chưa rèn Định đủ Tuệ, lại thêm áo vị của Thiền Định phải từng bậc nên bảo: Kinh Pháp tuy ít biết nhân quả, Thiền Pháp chưa truyền không có đất bày tâm. Sau ngài La-thập vào Quan Trung dịch ra Thiền Yếu ba quyển. Duệ có được, ngày đêm tu tập liền thông suốt năm môn giỏi vào sáu Tịnh. Ngụy Tư Đồ Diêu Tung đức hạnh cao vời, có lần Tần Chúa là Diêu Hưng hỏi Tung: Ông Duệ ra sao Tung đáp: Thật là hạng thông bách của Nghiệp Vệ. Do đó tiếng tốt vang xa. Ngài La-thập dịch Kinh Luận Duệ đều sửa đúng. Sau dịch Luận Thành Thật khiến Duệ giảng. Thập ngó Duệ nói Luận này có 7 chỗ văn phá Tỳ-đàm ở lời có ẩn kín, nếu không hỏi mà hiểu được thì thật là bậc tài giỏi. Sau Duệ giải rõ không cần hỏi La-thập. La-thập khen: Ta truyền dịch mà gặp ông thì ta không còn hận gì. Sau Duệ viết tựa cho Luận Đại Trí, Luận Thập Nhị Môn, Trung Luận v.v…, lại viết tựa cho Đại Tiểu Phẩm Pháp Hoa, Duy-ma và Kinh Tư Ích đều truyền ở đời. Xưa Duệ giỏi nhiếp oai nghi, rộng khen Kinh Pháp thường hồi hướng các đều lành, nguyện sinh An Dưỡng, nên nằm ngồi tới lui chưa hề quay lưng về hướng Tây. Sau không bệnh mà nhóm họp chư Tăng bảo rằng: Tôi bình sinh giữ nguyện An Dưỡng, như Duệ thấy thì chắc chắn sẽ được sinh, nếu thân miệng ý nghiệp chưa phạm hoặc không phạm thì nguyện thí Đại Từ để làm bạn Pháp. Rồi thiết đãi chư Tăng và ngồi mà mất. Ngày Duệ mất tăng trong chùa đều thấy khói mù năm màu từ phòng Duệ phát ra lượn quanh mấy vòng rồi đi về phía Tây. Thích Đàm Giám: Ông họ Triệu, người Hạ Bác thuộc Ký Châu. Thuở nhỏ chán tục cầu Thầy với Trúc Đạo Tổ học tập các kinh làu thông các luận. Luận văn có chỗ chưa thông thì bảo không có đời sau, ta sắp an phu. Sau nghe ngài La-thập vào Quan Trung liền chống gậy đến quyết tâm học hỏi “nhất ngung tam phản”. Khi La-thập tịch rồi thì Giám nói chẳng may ngài La-thập vắng bóng không nơi học hỏi. Bèn đến các chùa núi ở Giang Lăng. Lúc đó tuổi già đi đứng rất cẩn thận. Từng nguyện đích thân đến An Dưỡng, tận mặt thấy Di-đà, dầu một mảy may điều lành cũng đều hồi hướng vào đó. Một hôm trong Định thấy Phật Di-đà tay cầm bình vàng rảy nước vào mặt bảo rằng rửa sạch bụi nhơ cho con, khiến trong tâm con, giúp thân miệng con đều nghiêm tịnh. Rồi trong bình mọc lên một hoa sen bèn trao cho Giám. Khi xuất Định, Giám gọi đệ tử là Tuệ Nghiêm bảo rằng: Ngươi có quán niệm Tịnh-độ nên ta không giấu ngươi điều gì, bèn thuật rõ các điều đã thấy. Ba ngày sau đệ tử là Đạo Tế đến từ giã mà vãng sinh. Sư bảo: Ngươi chưa thể lên An Dưỡng thoát Ta-Bà, ruỗi rong Nam Bắc, cuối cùng thì ra sao? ngươi nên nghe lời ta, ngày sau sẽ cùng ở với ta. Nếu không thì ngươi sẽ theo nghiệp mà có dời chỗ. Tối ấy Giám và tăng trong chùa nêu ý ngày nào sẽ đi mãi không trở lại. Người nghe không ai hiểu gì đêm ấy ngủ say. Có Sa-di Tăng Nguyện luôn theo hầu bên cạnh, Giám nhìn hỏi đèn đêm hao dầu, ông biết ở đâu chăng? Tăng Nguyện dẫn đi. Giám một mình đi dưới hiên niệm Phật A-di-đà gần suốt năm canh tiếng càng lúc càng lớn, đến sáng bọn nghiêm đến thăm hỏi, Giám vẫn ngồi im, xem ra thì đã mất. Bọn Nghiêm không dùng hai quan quách để liệm. Đến ba tuần mà thi thể vẫn mềm dịu lại có mùi hoa phù dung tỏa ra. Cùng lúc ấy có Thích Đại Hải ở Giang Lăng, Thích Đàm Hoằng ở Hoài Nam, Thích Đạo Quảng ở Đông Hiên, Thích Đạo Quang ở Hoằng Nông đều có tâm cầu An Dưỡng cũng cùng ra đi. Họ đều nói mắt thấy có Đài vàng, lưới báu cùng các chim Tần-già, Cộng Mạng hiện ra. Thích Đàm Hoằng: Sư là người ở Hoàng Long, có chỗ cho là người ở Cao Bưu thuộc Quảng Lăng. Trong niên hiệu Vónh Sơ đời Tống, dạo chơi phương Nam dừng lại ở chùa Vu Đài tại Phồn Ngu, sau đến chùa Tiên Sơn ở Giao Chỉ, ngoài việc hương lửa không còn việc gì khác, tụng Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh không biết số lượng. Hoằng thường nghó rằng một thân muôn mối. Chánh niệm khó giữ vững hãy nương Chánh niệm mà sớm thấy Di-đà. Do đó ở trong núi vắng đã chứa củi để sẵn. Một hôm chui vào đống củi tự bảo rằng: Nguyện bỏ báu thân này mau gặp Kim Nhan, không ở ba cõi và đọa các Hữu! Do đó đốt lửa, các đệ tử tìm gặp bèn khiêng về chùa. Phần nửa thân bị đốt đã rạn nứt, trải hơn tháng chỗ lở nứt lại lành. Sáng hôm sau cả làng nghiêm lập Đại hội, cả chùa đều đến. Ngày ấy Hoằng lại vào hang sâu nhóm củi đốt, dân làng chạy đến cứu nhưng Hoằng đã chết. Do đó chất thêm củi đốt ngày sau mới hết. Đệ tử thâu nhặt di cốt được mấy trăm hạt Xá-lợi như đá sáng lấp lánh không nở ra. Ngày hôm sau thấy Hoằng có thân màu vàng ròng cởi nai chạy về phương Tây rất nhanh có người hỏi không đáp. Lại hỏi thì chỉ giơ một ngón tay chỉ về Tây mà thôi. Có người cố gắng đuổi theo, cùng đi rất xa, cuối cùng không kịp. Ni Pháp Thạnh: Bà họ Niếp, người ở Thanh Hà Bối Chi. Cuối đời Đông Tấn ở ẩn tại Kim Lăng. Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống mới đến chùa Kiến Phước xuất gia. Thông minh tài giỏi do trời. Bèn đến chùa Đạo tràng gặp Pháp sư thọ giới Bồ-tát. Ngày thì đọc sách xem kinh, tối thì lắng suy lý vị, chứa nhóm hằng năm thì thần trí sáng láng, dầu nói tuổi già mà có hơn lúc trẻ, thường muốn vượt khỏi ba cõi bước lên chín phẩm. Do đó phân ra mười sáu pháp quán và làm tám ao để hệ tưởng trước. Ngày 27 tháng 9 niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười sáu, bà ở dưới chùa tháp mà lễ tượng Di-đà. Chiều đến bị bệnh, bệnh càng lúc càng nặng hơn, mới nằm ngủ thì thấy Phật Di-đà và 2 vị Bồ-tát ngồi mây nhiêu hoa, mây phát ra ánh sáng báu chiếu vào Thạnh. Lúc đó các Ni mang dép cỏ đến thăm bệnh thì thấy ánh sáng trong phòng Thạnh chói lòa, lấy làm lạ hỏi thì Thạnh nói vừa rồi tôi nằm ngủ thấy Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát ở trước tôi, lại chiếu ánh sáng vào tôi, há Phật Từ bi độ tôi ư? Nói xong thì mất. Bấy giờ Trương Biện ở quận Ngô là Thái thú Dự chương, xưa này rất kính trọng mà ghi vào truyện kể. Ni Đạo Viên: Bà họ Giang, người ở Đan Dương, có kẻ nói là người ở Đan Đồ. Thuở nhỏ rất thông minh. Tự nhiên kinh sách văn sử đều tìm hiểu rộng ra. Sau khi thành tựu giới pháp, nghiền ngẫm ý vị trong ba Tạng, được chỗ cốt yếu. Đời Tần Hiếu võ trong niên hiệu Thái Nguyên, Hoàng hậu khen hạnh cao cả, làm các điều lành đều quy về Chùa, các cô gái con nhà giàu đều tranh nhau giao du với cô. Đời Tống niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 8 cô tạo nhiều tượng Phật để tạo Phước. Ở Bành Thành có hai tượng vàng, ở Chùa Ngõa Quan có tượng Phật Di Lạc đi, ở chùa Kiến Hưng có hai tượng vàng, ở Chùa Kiến Phước có tượng Phật nằm và hai Tượng Phổ Hiền đi. Lại theo tượng có các phướn hoa rất đẹp. Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ mười lăm, lại tạo một tượng Phật Vô Lượng Thọ vàng , nguyện nhờ tượng này mà được tiếp dẫn Tây Phương. Ngày 11 tháng 4 mùa hạ giữa hai đầu chân mày tượng phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu sáng chùa, trong chùa đều biết là màu vàng, trong ánh sáng vàng Phật Vô Lượng Thọ thọ ký cho Viên rằng: Ngươi bỏ báo thân này sẽ về nương ta, nên khéo giữ gìn chớ nghi và khinh thường. Được thọ ký càng vui vẻ tinh tấn. Ngày rằm tháng ấy đến trước tượng ngồi mà hóa. Thích Tuệ Tấn: Sư họ Diêu, người ở Ô Trình thuộc Ngô Hưng, tánh hùng dũng hào hiệp. Năm bốn mươi tuổi biết thân là mộng huyển, bèn đến chùa Cao Tòa ở Dương Đô xuất gia. Tấn vì trung niên xuất gia nên không thể hiểu sâu xa viên đốn. Bèn nguyện tụng Kinh Pháp Hoa, trọn đời dụng tâm lao khổ luôn cầm quyển kinh, bị bệnh bèn than: Há nghiệp chướng sâu dày theo lời Như lai dạy mà không thắng nổi ư? Bèn phát nguyện tạo Kinh trăm bộ để sám hối các chướng đời trước, góp tiền được một ngàn sáu trăm đồng, một chiều giặc đến cướp. Tấn không sợ sệt mà chỉ gập mình chắp tay chỉ vào túi tiền và bảo: Đây là tiền Kinh lấy của Đàn-việt, tôi không có. Đám giặc nghe xong xấu hổ bỏ đi. Sau quả in xong trăm bộ kinh, bệnh cũng lành. Tấn hồi hướng công đức để cầu Tịnh-độ, nguyện thâm tâm bền chắc. Bỗng trên hư không có tiếng nói: Ngươi việc đã xong nguyện đã trọn sẽ sinh Tịnh-độ không phải ngươi thì là ai. Tấn thưa tôi không dám mong Thượng phẩm chỉ cầu Hạ phẩm cũng không lui sụt rồi. Niên hiệu Vónh Minh năm thứ 3 đời Tề, Sư không bệnh mà mất, thọ hơn tám mươi tuổi. Thích Tuệ Quang: Ông họ Dương, người ở Nghóa Phong thuộc Định Châu. Năm mười ba tuổi theo Cha đến Lạc Dương thấy Thiền sư Phật-đà kính mến Sư là người có đạo bèn xin thọ ba Quy y. Sư thấy Quang có tướng lạ, có thể gánh vác Chánh Pháp bèn khuyên gắng nên theo Phật Quang bèn thờ Phật đạo khắc kỷ gắng học, ngày nhớ mấy ngàn lời và suy tìm chỗ sâu kín đều do túc ngộ. Có người hỏi han thì Quang chỉ dẫn đều hiểu rõ, mọi người gọi là Thánh Sa-di. Đến khi thọ Đại giới ai nấy đều kính trọng đức độ. Của sư, sư thường mở túi bố thị không vắng ngày nào. Sư có soạn làm Sơ Luật Tứ Phần và các Kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn Thập Địa… quyền thật đều gồm, người đời đều gọi là Hiền. Như có Tư Mã Bộc Tạ Cao Long khiến con côi của mình vốn học Nho theo hầu. Nhưng Quang tu hành tinh khổ chưa biết khi nào sinh về nước Phật. Bị bệnh liền sanh tâm rất hổ thẹn, bỗng thấy các vị trời hiện đến. Quang bèn chí thành xin về An Dưỡng. Trong nháy mắt lại thấy Tịnh-độ Hóa Phật và Hóa Bồ-tát đầy khắp hư không. Quang nói: Chỉ có Phật nhiếp thọ mới toại bổn nguyện ta. Lại gọi đệ tử bảo Hóa Phật và Bồ-tát số đông vô kể, ta lại được đắp y, theo sau đầy đủ. Phút chốc thì tiếng nói và hơi thở đều im bặt. Thích Pháp Lâm: Sư họ Lạc, người ở Tấn Nguyên. Cạo tóc ở quận nhà đến học ở quận Thục . Sư thường buồn than ở đất Thục không có thầy. Khi Ẩn Công đến thì ông ngày đêm thưa hỏi thầy. Khi Ẩn về Thiểm Tây thì Lâm đi theo. Mấy năm sau thì các Bộ Tỳ-Ni đều hiểu rõ Trì Phạm. Lại trở về Thục nghỉ ở chùa Linh Kiến. Tăng Ni ở đất Thục đến thăm rất đông nhưng tâm Sư vẫn dững dưng. Ngoài Luật bộ ra khi nói bàn đều cầu sinh Cực Lạc. Cho nên sớm tối thường tụng Quán Kinh để cột các niệm Khi tung thường thấy một Tăng thân rất cao lớn ở bên Lâm, tuy lấy làm lạ nhưng không nói với ai chỉ có đứa hầu là thấy. Đời Tề niên hiệu Kiến Võ năm thứ hai không bao lâu lại thấy một cây báu lớn, dưới cây có ba hoa sen, trên hoa có tượng Phật và hai Bồ-tát. Lâm mừng rỡ nói rằng người tu Tịnh nghiệp mà được thấy tượng báu liền trừ được vô lượng ức kiếp tội nặng, ta là người ấy thì sao? Ta may được thấy chẳng nghó đến sen vàng ao ngọc mà chẳng được sinh. Do đó dặn việc chôn cất không nên phí phạm của Tăng, chẳng theo tục lệ xưa này nên theo Tây Trúc làm lễ hỏa táng. Lại bảo tăng đêm nay nghe tiếng chuông thì đến xem tôi. Đến nửa đêm nghe tiếng chuông, Sư bèn đến chiếu ngồi nhắm mắt, Tăng đồ đều nghe theo lời dặn, nơi đầu ngỏ chất củi mà đốt, lửa cháy phừng phừng ba ngày mới hết. Thích Tăng Nhu: Ông họ Đào, người ở Đan Dương thuộc Nhuận Chi. Chín tuổi học với cha mẹ, tính thông minh tự phát, làng xóm đều khen tài giỏi. Sau gặp Pháp sư Hoằng Xứng bèn theo, Xứng nổi tiếng một thời, học giả kính mến hầu hạ bên mình. Nhân đề phát chỗ học cũ mà các kinh Phương Đẳng đều thấu suốt chỗ sâu kín. Sau đến chùa Linh Thứu ở núi Diễm Bạch. Tăng trong chùa thấy Nhu lấy làm lạ, Nhu nói ta là quỉ thấy vật có gì lạ. Tề Thái Tổ và Thế Tổ Văn Tuyên đều biết tiếng, trước sau chiếu triệu mời đến nhưng Nhu không thân tục chuộng danh, thấy sự vật thạnh suy nên chỉ chuyên tâm Tịnh-độ. Ngày Sư mất, thấy Hóa Phật cả trăm ngàn. Lại nghe trong ngoài phòng có mùi thơm lạ quanh quẩn. Nhu nói mùi thơm lạ đến quanh quẩn bên ta là Thánh Hiền đến rước ta về Tây. Bèn nhờ người trải chiếu hướng về Tây chí thành kính lễ rồi mất, thọ sáu mươi bốn tuổi. Chôn toàn thân. Ở phía Nam núi. Sa môn Tăng Hựu giao du tốt với Nhu, gom lấy việc trước sau mà khắc vào đá. Thích Đàm Loan: Người Nhạn Môn, lúc nhỏ đến núi Ngũ Đài, cảm được linh dị mà thề xuất tục. Sư rành ba Thừa văn lý Đốn Tiệm. Sư đọc Kinh Đại tập khỏ vì lời nghóa sâu kín. Nhưng sau vẫn khai Ngộ bèn soạn chú giải. Có lần bị bệnh đến Phần Xuyên, bỗng thấy mây che sao Bắc đẩu, cửa trời rộng mở thềm bậc sáu tầng trời cõi Dục trên dưới lớp lớp, sư vừa nháy mắt thì bệnh lành. Sau dụng tâm với Phật đạo thường sợ không kịp lại dạy dỗ kẻ tục không xen hở lúc đầu Loan thích Thuật Học (Tiên Thuật) nghe Giang Nam có Đào Ẩn Cư được phép tiên sống lâu, bèn ngàn dặm đến học Đào trao cho Kinh Tiên mười quyển. Loan rất mừng được thuật thần tiên. Sau trở về Lạc Dương gặp Bề-đề-lưu-chi bèn hỏi: Đạo Phật có pháp sống hoài chẳng chết chăng? Chi cười đáp: Sống hoài chẳng chết là Đạo Phật ta, Đạo Tiên nào có? Bèn trao cho Kinh Quán Vô lượng Thọ. Bảo rằng ông tụng kinh này thì ba cõi chẳng sinh, sáu đường chẳng đến, thì sự đầy vơi, còn mất họa phước thành bại không lay động được, sống lâu như kiếp đá, như số cát sông. Số cát sông còn có cùng, tuổi thọ Phật ta thì vô cùng cực. Loan bèn khởi tin sâu, đốt hết kinh Tiên mà chuyên về Quán kinh. Đối với Quán Kinh được lý nghóa tu ba phước nghiệp quán tượng chín phẩm, mưa nắng không đời bệnh hoạn chẳng bỏ. Ngụy Chúa chuộng chí ông lại thêm tự làm dạy người rộng khắp nên được ban hiệu là Thần Loan, mời trú tại chùa Đại Nghiêm ở Tính Châu. Không bao lâu dời về chùa Huyền Trung ở Bích Cốc, Phần Châu. Một tối, đang khi trì tụng, Loan thấy một vị Tăng Ấn- độ đến, vào thất bảo ta là Long Thọ, nơi ở là Tịnh-độ. Vì ông có tâm Tịnh-độ nên đến gặp. Loan thưa: Có gì dạy con? Sư nói: Việc quá khứ không thể kịp, việc vị lai không thể tìm, việc hiện tại đang ở đâu, ngựa chạy khó trở về. Nói xong biến mất Loan biết là việc Sinh tử đã đến hẹn. Bèn nhóm họp đệ tử mấy trăm người khuyên bảo dạy rằng: Bốn loài thay đổi chẳng ngừng, khổ địa ngục chẳng thể chẳng sợ, chín phẩm Tịnh nghiệp chẳng thể chẳng tu. Do đó sai đệ tử lớn tiếng niệm Phật A-di-đà, rồi quay mặt về hướng Tây nhắm mắt mà tịch. Lúc đó đạo tục đều nghe tiếng nhạc từ Tây đến rồi đi về Tây. Ngụy Chúa nói đó là chỗ về của Phật tử chân tu, ra sắc chôn ở Văn Cốc Phần Tây, làm bia ghi chép việc lúc sống. Thích Đạo Trân: Không biết sư họ gì, trong niên hiệu Thiên Giám thời Lương, dừng chân ở ở Lô Sơn. Nghe xưa Viễn Công và Tuệ Trì, Đàm Thuận, v.v… kết tưởng Tịnh-độ thì rất kính mến. Nhưng tâm kính mến lúc có lúc không do dự không nhất định. Lúc khác trong mộng thấy trên biển có chiếc thuyền chở mấy mươi người Trân hỏi thì nói đến nước Di-đà. Trân xin theo thì họ không cho, bảo rằng công đức tu một ngày siêu suốt nhiều kiếp, còn Kinh Di-đà ông chưa tụng làm sao đòi đi. Trân trong mộng biết có sai. bèn tìm Kinh sớm chiều tụng niệm suốt hai năm không bỏ giở. Đêm nọ thấy có người bưng Đài bạc đến nói Pháp sư báo hết thì lên đài này. Lại bảo công đức của Sư đáng được đài vàng nhưng vì tâm ban đầu còn do dự nên được ngần này. Trân khóc lóc tạ rằng: Nếu quả có thể vượt khỏi ba cõi tránh được năm khổ thì chính là Trân, nhưng cơ thấy Phật dù chậm thì vẫn là Đài vàng. Trân ít nói nhưng nhiều chê bai, dầu được đây nhưng chưa từng thương xót người. Người cũng không biết chỉ Trân tự ghi mấy trăm chữ giấu trong rương kinh ở bên tòa ngồi. Đêm Trân mất thì trên núi có hằng ngàn ngọn đuốc sáng ngời. Dân làng hơn mấy trăm nhà đều thấy vô cùng quái lạ. Sáng hôm sau mới biết đó là điềm lành báo hiệu Trân vãng sinh. Ngày nọ mở rương kinh của Trân ra mới được các điều Trân đã ghi, bèn phổ biến rộng ra. Thích Tuệ Mạng: Sư họ Quách, niên hiệu Đại Thông năm thứ hai đời Lương sinh ra ở Trường Sa tại Tương Châu. Rồi xuất gia. Người hiểu biết cho là Mạng cuối cùng sẽ vào Nhà Như lai. Năm mười lăm tuổi tụng bảy ngày hết một bộ kinh Pháp Hoa. Các văn khác tụng cũng thế. Khi cạo tóc học với Sư Vô Thường, nghe Thiền sư Ân Quang liền đến học do tư chất thông minh nên chưa đầy ba năm mà đã thông suốt Thiền Yếu. Lại giao hữu thân thiết với Thiền sư Tuệ Tư ở Nam Nhạc. Thường bảo Tư rằng ta và ông gieo nhân Tịnh nghiệp chính là hẹn xa với Tây Phương. Tư nói ý chăm chăm nào dám quên. Ở núi Thiên Thành có Đạo Só Mạnh Thọ, có tâm phản chánh định ở Chùa Sung Kiến. Bỗng nhiên Thọ mộng thấy có mấy trăng người mặc áo giáp vàng canh gác nghiêm trang như đợi ai. Thọ nói Chắc có Dị nhân nào đến, nếu không sao ta mộng thấy trước. Quả nhiên hôm sau thì Mạng đến. Thọ bèn tin sâu mà bỏ chỗ ở ấy. Không bao lâu Mạng bảo: Chùa mới cất còn cần nhiều Kinh sách, ta nên bỏ Thiền quán mà cột tâm ở đây chẳng? Bèn cùng đồ chúng trở về rừng cũ ở Trường Sa. Lúc đó, Thiền sư Pháp Âm là người cùng quận, họ Vương kết bạn Tịnh-độ với Mạng tuổi già càng thêm thân thiết. Một đêm nọ, Mạng dắt tay Âm ở dưới trăng nhìn nhau cười bảo rằng: Thời đến mà chẳng đi thì gọi là ham sống, đáng đi mà không đi thì gọi là Cẩu dục, thì ta đi đây. Âm nói biết nhau sao chẳng đợi ta mười ngày ư? Mạng đưa hai ngón tay lên bảo nếu qua đây thì không kịp nữa. Sáng hôm sau quả nhiên Mạng bị bệnh, còn lại một ngày thì mất. Ngày ông mất là ngày 05 tháng 10 năm niên hiệu Thiên Hòa năm thứ 3 đời chu. Ngày ấy mọi người đều thấy có người trên cõi trời xuống có nhiều cờ phướn. Lại nghe trong Phòng có tiếng nói lành thay! Lại nghe có tiếng nhạc và mùi thơm lạ lâu ngày không tan. Sau mười ngày thì Âm cũng mất, các điềm lành cũng tương tự.  TỊNH-ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN <卷>QUYỂN TRUNG Chánh truyện có hai mươi vị, phụ thêm có bốn vị. Thích Tuệ Tư ở Nam Nhạc đời Trần. Thích Trí Khải ở Thiên Thai đời Tùy. Thích Trí Thuấn ở Triệu Quận đời Tùy. Thích Trí Thông ở Hà Đông đời Tùy. (Phụ: Đảnh cái đệ tử Thông và bà mẹ họ Vương Thích Chân Tuệ ở Bồ Châu đời Tùy. Thích Pháp Trí ở Thiên Thai đời Tùy. Thích Thiện Trụ ở kinh đô đời Đường. Thích Pháp Tường ở Đồng Châu đời Đường. Thích Minh Chiêm ở Chung Nam đời Đường? Thích Đạo Xước ở Tính Châu đời Đường Thích Quán Đảnh ở Thiên Thai đời Đường. Thích Đạo Ngang ở Tương Châu đời Đường. Thích Trí Diễm ở Võ Khâu đời Đường. Thích Thần Tố ở Bị Châu đời Đường. Thích Thiện Đạo ở Kinh đô đời Đường Thích Công Hướng ở Trần Lưu đời Đường. Thích Duy Ngạn ở Tính Châu đời Đường. Thích Pháp Trì ở Kim Lăng đời Đường. Thích Tuệ Nhật ở Lạc Dương đời Đường Thích Hùng Tuấn ở Thành Đô đời Đường ***** Thích Tuệ Tư: Sư họ Lý, người ở Võ Tân. Thuở nhỏ mộng thấy vị Tăng Ấn-độ khuyên thoát tục, do đó cạo tóc. Nhưng chỗ Sư nương không phải là Lan- nhã. Bèn cảm được thần tăng khuyên giữ trai giới. Tư càng cố chí ngày chỉ ăn một bữa, việc đời đón đưa đều dứt. Sư tụng kinh Pháp Hoa, Duy- ma v.v… hơn ba mươi bộ, chỉ ở trong rừng vắng hoặc chỗ thiêu người, liền bị bệnh lî, ai cầu sám hối thì bình phục. Ngày nọ lại mộng thấy hơn trăm vị Tăng Ấn-độ ở trên tòa an ủi bảo rằng: Ông trước thọ giới không phải Thắng luật nghi thì đâu thể khai Chánh Đạo. Ông tịnh hạnh may gặp thanh chúng phải nên đổi dàn, tối đó tự lại phát sanh tình cảm nhiều lần do đó được thấy việc ba đời hành đạo. Lại từng trong mộng thấy Phật Di-đà nói Pháp cho Tư, do đó tạo tượng để nghiêm quán tưởng. Sư có lần an tọa hệ niệm thấy tướng của nghiệp thiện ác một đời cùng hiện ra rõ ràng. Hiện xong thì thân tâm mạnh mẽ ngộ được Pháp Hoa Tam- muội và ý chỉ Đại thừa Phương Đẳng, bèn đối với hai thừa Đại Tiểu, các học định tuệ mà tuyên bày dẫn dắt để nhiếp mình người, lâu dần các tạp tịnh thô khởi động lăng xăng… Các học trò đều trình hỏi Tư nói: Phật ở đời chưa khỏi để lại lời há ta chẳng bị chê nhỏ. Huống chi không bao lâu Phật pháp sẽ bị diệt chưa biết phương nào lánh khỏi. Bỗng trên hư không có tiếng nói rằng: Nếu muốn tu định thì Võ Đương Nam Nhạc là chỗ ấy. Trong niên hiệu Võ Bình đời Tề đi về phía Nam đến Quang Châu thì vì nhiễu nhương nên đường nghẽn tắt, phải cùng môn đồ tạm nghỉ ở núi Đại Tô, núi này là biên giới của Trần Tề nên quân binh vây chặt lại gặp lúc Phật Pháp băng hoại, năm chúng ly tán, kẻ tài giỏi một thời còn kính mến đức sư đang mai danh ẩn tích cùng đến học hỏi lý vị. Tư nói Ta già rồi không thể giúp được các ông. Học trò là Trí Khải thay thầy giảng Kim Kinh đến chỗ “một tâm đủ muôn hạnh” thì Khải sanh nghi. Tư bảo ông hướng chí nghó về ý Đại phẩm, thứ lớp chưa làm ý Pháp Hoa Viên đốn Ta xưa ở trong Hạ khổ công suy nghó không có một niệm nào hiểu nhanh các pháp chính mình chứng được không chút nghi ngờ. Khải liền học hỏi Pháp Hoa ba mươi bảy cảnh giới rồi thưa: Hành vị của Hòa Thượng đáng ở Thập Địa. Tư nói: Không phải, chỉ là vị Thập Tín Thiết Luân, ta lấy việc nghiệm ra thì có thể tự thấy. Trong niên hiệu Quang Đại đời Trần, rời Đại Tô Cùng hơn bốn mươi vị Tăng đi đến Nam Nhạc. Khi đến nơi bảo chư Tăng rằng: Xưa ta ở đây mười năm hẳn là sự Viễn Du. Sáng hôm sau Sư đến Hành Dương, gặp một ngọn núi cao cây cối xinh tươi, Sư chỉ dưới đám rừng rậm bảo. Đây là chùa Xưa, trước ta ở đây mấy năm. Rồi vạch cỏ thì thấy nền chùa cũ và các đồ dùng của tăng. Lại chỉ một nơi bảo đây là chỗ xưa ta ngồi thiền, đám giặc chặt đầu ta chết rồi mà có thân này. Kế đó ít bước là một đống xương khô. Sư cầm cái sọ người lên bảo đây là đầu ta, chứng tỏ Phật lực rất nhiệm màu rồi thâu nhặt lấy mà xây Tháp. Trần Đế nghe Sư có nhiều việc lạ bèn hạ chiếu mời Sư đến ở chùa Thê Huyền. Tìm đến một ngôi chùa khác thì gặp mưa y phục đồ đạc và hài cỏ đều không ướt. Tăng chánh Tuệ Tung thấy bèn khen rằng: Đây quả là hành nhân bọn ta không thì biết được. Đại Đô Đốc Ngô Minh Triệt đến thăm dâng cho sư cái gối sừng tê. Biệt Tướng Hạ Hầu Hiếu Oai đến chùa Yết kiến Sư, giữa đường bỗng nghó việc Ngô Hầu dâng Tư gối sừng Tê hình dạng nó ra sao. Ông đến với vẻ chi kính thì Tư bảo muốn thấy gối sừng tê thì đến xem. Hạ Hầu hoảng sợ, mới biết Sư có tha Tâm thông. Tư ở Nam Nhạc, ChúaTrần mỗi năm đưa ba bức thư đến ủy lạo cung ứng các vật. Nơi núi Sư hoằng hóa có thần biến khó lường, hoặc hiện thân lớn nhỏ hoặc che kín dấu vết không còn có gì, hoặc dựa vào vật bên ngoài, hiện đủ các điềm lành. Lâm chung đến đạo tràng ở lưng chừng núi, ngày tiếp theo nói pháp, nói năng rất nghiêm nghị, người nghe cảm thấy sợ hãi. Lại bảo nếu mười người tu được Tam-muội Ban-chu thì tùy chỗ cần ta sẽ bảo cấp nếu không có các người này thì ta đi. Cuối cùng không ai trả lời. Sư liền liễm niệm trong chốc lát thì im lặng. Có đạo nhỏ tên Linh Biện, lúc đó ở bên cạnh cất tiếng gào khóc, thì Sư mở mắt trách rằng Thánh chúng đến rước ta đang luận chỗ thọ sinh vì sao ngươi khóc lóc làm loạn động? Rồi đuổi lịnh Biện đi và lại im hơi như trước. Vào niên hiệu Thái Kiện năm thứ chín đời trần, Sư 64 tuổi tính ra sau mười năm Viễn Du đến nay là mười năm luận ra thì Sư được Di-đà nói Pháp lại tạo Thánh tượng Di-đà để nghiêm quán tướng. Lại cùng Thiền sư Tuệ Mạng kết duyên Tịnh Nghiệp hẹn gặp ở An Dưỡng và cuối cùng thì Sư thật sinh An Dưỡng. Thích Trí Khải: Sư họ Trần, trước là người ở Dónh Xuyên. Khi Tấn dời đô thì ngụ ở Hoa Dung, thuộc Kinh Châu. Mẹ Sư họ Từ khi mang thai Sư thì mộng thấy nhiều điềm lành, đến khi sinh thì trong nhà sáng rực hơn mặt trời. Lúc còn bé hễ nằm thì chắp tay, ngồi thì xoay mặt về hướng Tây. Lớn lên thì thường đến Già lam, các vị Tăng lấy làm lạ bèn miệng trao cho phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa chỉ đọc qua một lần là thuộc làu. Đến tuổi đi học thì đi về phía Bắc qua Hiệp Châu học với người cậu. Mười tám tuổi gặp Pháp sư tại Tự chùa Quả Nguyện ở Tương Châu xin cạo tóc thọ mười giới, Sư khiến đến ở với Luật Sư Tuệ khoáng, ở núi Đại Hiền tụng Kinh Vô Lượng Nghóa và Pháp Hoa, Phổ Hiền, Quán Kinh chưa đầy một tuần đã xong ba bộ. Kế nương Thiền sư Tư núi Đại Tô ở Quang Châu. Tư thấy Khải bảo rằng Xưa cùng ở Linh Sơn nghe Pháp Hoa, duyên lành nay lại gặp nhau ở đây. Trước chỉ Đạo tràng Phổ Hiền và nói bốn hạnh An vui. Khải đến núi Tô thực hành Tam-muội Pháp Hoa mới ba đêm đến câu “tinh tấn chân thật” Phẩm Dược Vương thì giải ngộ khai phát. Lại thấy cùng Tư ở hội Linh Sơn nghe Phật nói Pháp. Đêm sau trình với Tư, Tư bảo không phải ông thì chẳng cảm, không phải ta thì chẳng biết. Đây chính là phương tiện trước Tam-muội Pháp Hoa . Chưa bao lâu lại đến núi Bạch Sa ở Hy Châu, như trước vào quán, đối với kinh có nghi liền thấy Sư đến ngầm giải thích. Sau, Sư nhờ giảng kinh thay thì người nghe đều phục, chỉ đối ba thứ Tam-muội, ba quán, Trí Dụng đem xét hỏi còn thì đều rõ ràng tự hiểu. Ở dưới tòa Tư xem nghe bảo học trò rằng. Đây là con nuôi của ta, chỉ tiếc Định lực còn yếu. Do đó Đạo tục đổi quán tên nghe xa gần. Liền từ biết Sư, Sư nói: Ngươi có duyên ở nước Trần đến đó mà làm lợi ích. Khải bèn đến Kim Lăng trú tại chùa Ngõa Quan hoằng hóa Pháp Thiền. Bộc xạ Từ Lăng cùng Thời quý Vọng đều chào hỏi. Nhưng tánh Khải thích vắng lặng không ưa khuấy động. Trong niên hiệu Quang Đại đời Trần sư từng mộng thấy núi cao ngàn trượng, mây phủ ánh mặt trời, biển rộng mênh mông không bờ mé, thấy có một vị Tăng ở trên đỉnh núi vẩy tay tay xách một cái sọt tre đưa cho Khải mà hỏi. Sáng hôm sau nói việc người trong mộng, có kẻ bảo đó là Thiên Thai ở Cối Kê. Từ đời Tấn Tống các ngài Tăng Quang, Đạo Du, Pháp Lan, Đàm Mật v.v… đều ở đó. Khải vui mừng cùng Tuệ Biện v.v… hơn hai mười Tăng đi về Nam, núi ấy trước có Tăng Định Quang ở trong bốn mươi năm. Hai năm trước khi đến, Quang bảo với người rằng sẽ có Thiện tri thức đến đây, hãy lo việc để đợi. Khi Khải đến thì mừng rỡ đón tiếp hỏi rằng Thiện tri thức có nhớ năm nào ta vẩy tay kéo nhau chăng Khải kinh hoàng biết mộng xưa có linh nghiệm. Khải nghe tiếng chuông quanh quẩn khắp hang núi, Khải thấy trong hang núi không có chùa bèn lấy làm lạ. Quang nói tiếng chuông chỉ mời người có duyên đến ở nào có gì lạ. Đến khi sắp xây chùa, Quang nói nên tùy nghi yên ở, đến thời đất nước thanh bình, Quốc Thanh sẽ có quý nhân lập chùa. Hai năm sau Tuyên Hoàng Đế nghe đạo hạnh của Khải liền ra sắc chỉ lập chùa. Lại biết tăng đồ ở đấy, Cảnh Phụ liền đặc biệt cắt huyện Thủy Phong để cung cấp cho chùa. Khải ở chùa ấy, mỗi Hạ sai giảng Kinh Tịnh Danh. Một sáng đang giảng kế thấy ba đường thềm báu từ trên trời xuống, lại có một số Phạm tăng trên thềm bước xuống tay cầm lò hương đi nhiễu quanh Khải ba vòng hồi lâu mới mất kẻ biết chuyện là Thạch Kiều Thánh chúng thị hiện ấn chứng Khiếu tâm càng vững chắc. Vónh Dương Vương Bá Trí thờ Khải làm thấy ra lời vổ về cả nhà Ngô Hội đến núi thỉnh giới Pháp. Tuyên Đế cũng từng hỏi: Trong cửa Phật hiện nay ai là người nổi tiếng. Các quan tâu Thiền sư Ngõa Quan thật là người hơn hết Danh Thắng xưa là gốc các thiền? Trước ở tại kinh đô được người hiền tài mến mộ nay ở ẩn tại Thiên Thai vật tình mất nương xin bệ Hạ ra chiếu mời về dạy bảo Đạo Tục. Vua bèn viết thư mời. Khải đến Đô, Vua sai các quan ra đón vào Điện Thái Cực ở nhà phía Đông giảng Luận Trí Độ. Lại sai Đồng tử Dương Xa dẫn trước, Tuyên Trung Thư Xá nhân đi sau. Lúc đó trong Thiên Hạ kiểm soát Tăng Ni, ai không sổ bộ thì van kế triều nghi, nếu ai biết ít kinh thì đánh thuế. Khải can rằng Điều Đạt tụng 6 vạn lời Kinh mà không khỏi đọa địa ngục, còn Bàn-đặc chỉ đọc một câu kệ mà được chứng Thánh quả, Luận dốc lòng vì Đạo há tụng nhiều kinh. Vua vui mừng bèn dừng việc thu thuế. Bỗng mộng thấy một người nghiêm chỉnh đến trước bảo rằng: Tôi là Quán Đạt thỉnh trú ở Tam Kiều. Khải nói Quan Đạt là Pháp danh của Lương võ Đế, vậy Tam Kiều không phải là Quang Trạch ư? Bèn dời chỗ ở. Năm ấy mùa Hạ tháng tư, Chúa Trần đến chùa thỉnh giảng Kinh Nhân Vương, Vua ở giữa chúng ân cần kính lạy, các Hoàng hậu phi tần cũng đều tôn kính giới hạnh đầy đủ. Văn nói chỉ có Sư dạy dỗ, tùy cơ dẫn dắt giữ gìn đất nước hóa độ trời người. Lại nói: Nay muốn trọn bổn nguyện thỉnh làm giới Sư Bồ-tát! Mong sao Từ nhẫn như ý trẩm. Khải lên tòa cao, dưới tòa là vua theo lễ đệ tử. Khi Kim Lăng bị bại việc thuộc họ Dương. Lúc đó Tấn Vương ở Dương Châu cũng muốn xin thọ giới Pháp, đích thân viết Văn nói Đệ tử nhân chứa nhóm điều lành nên sinh ở Hoàng gia sớm biết học hỏi lại nói Hòa-thượng danh đồn khắp nơi. Xa gần chúng đều biết, nên nay thành kính mến mộ. Sai Niếp Viễn đón Khải về Dương Châu. Vua bày Pháp Hội một ngàn vị Tăng để thọ giới. Khi thọ rồi Khải bảo Vua rằng: Đại Só siêu độ tổng nhiếp làm đầu, nêu danh biểu Thật xưa nay như thế. Nay đặt Pháp danh cho vua là Tổng Trì để bày rõ về thật. Vua đảnh lễ nhận lấy. Vua cũng ở giữa chúng thưa với Khải rằng: Thiền sư Trí Đức trong chứa từ nhẫn, ngoài phát hàng phục trời người, chế phục ngoại ma, nay xin dâng hiệu Trí giả dưới nhiếp tâm chúng sinh nhân đó cúng dường Khải hơn sáu mươi vật Khải đem các vật tặng lại cho những người nghèo thiếu. Sau trở lại núi cũ nhất tâm vào Định. Một hôm từ Thiền Định ra, Sư gọi đệ tử Trí Việt bảo rằng: Huyển chất của ta sớm tối sẽ mất thôi. Ngươi ở Thạch Thành nghiêm giữ hương hoa đợi ta mãn báo thân này. Khi Khải đến thì bày giường, Sư xoay mặt về hướng Tây niệm Phật Di-đà và hai Bồ-tát. Ở Tịnh-độ có Hóa Phật và Hóa Bồ-tát đến ủng hộ, lại dặn đệ tử đốt nhiều hương đuốc, còn đem ba y và Trượng Bát để gần bên. Có người muốn dâng cơm. Sư nói không quyến luyến các duyên là thật ăn chay là Chân trai. Lại đòi nước thơm súc miệng rồi nói mười Như, bốn Bất Sinh, mười pháp giới, ba Quán, bốn Trí, bốn Vô Lượng, sáu Ba-la-mật v.v… các pháp. Tăng có người hỏi chỗ chứng thì Sư đáp rằng: Không lãnh chúng thì thanh tịnh sáu căn, nay vì người khác mà tổn mình nên thối về năm phẩm vị. Lại nói: Mạng người sắp mất nghe tiếng chuông khánh thì tăng thêm Chánh niệm. Ngươi nên đánh khánh để tăng thêm chánh niệm cho ta. Rồi tự ngồi kiết già trước tượng Phật mà tịch. Thích Trí Thuấn: Sư họ Mạnh, người ở Đại Lục thuộc Triệu Châu. Thuở nhỏ có khí tiết không a dua, có chí ở ẩn chốn suối rừng. Sư thờ Thiền sư Vân Môn Trù hơn mười hai năm. Yên lặng không nói, nói ra đều là giới Định và mong tu chứng vị ba Thừa. Trù sư lấy làm lạ bảo rằng Đối nhận sự thì ông được mấy vô tâm? Từ nay trở đi ta có thể nói giáo cho ông. Do đó mà ba thừa quyền thật thấy nghe ngày càng mới. Đối với tăng hạnh ông càng dồi mài, hoặc khi vọng tình chợt khởi thì lấy dùi đâm vào bắp vế để nhắc niệm, đến một lỗi nhỏ cũng thế. Xưa cùng với Pháp sư Đàm Tuần đồng tu Niệm Định suốt mười năm không ra khởi cổng làng. Tánh Thuấn giản dị và rất nhân từ các loài nhỏ nhít như kiến muỗicòn không giết hại huống chi các loài khác. Lại có người ăn cá thịt thì Thuấn bảo sáu đường khác hình dạng nhưng anh đều trải qua, tất cả có mạng sống đều là cha mẹ anh, tất cả có sinh đều là thân cũ của anh. Anh ăn thịt nó là ăn thịt cha mẹ mình là ăn thân thể mình, anh chẳng thương cha mẹ và thân mình ư? Người nghe bèn chừa. Có thợ săn đuổi con chim tró chạy vào phòng, sư gắng xin thả ra nhưng không đổi ý bèn lấy dao bén thẻo lổ tai đưa cho bảo rằng tôi không đổi được ý ông vì ông ham ăn thịt, nay tôi xin thế vào. Người thợ săn kinh ngạc hứa sau không làm nữa. Làm ruộng săn bắn mười người thì có tám, chín người như thế. Thuấn ở Hứa Đình lâu ngày, dân dưới núi kính mến kéo đến nhưng Thuấn không ưa thích. Thuấn lại vào hang phía Nam núi Chương Hồng chi càng chuyên niệm định. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười, Văn Để biết Thuấn khắc khổ bèn đặc biệt hạ chiếu rằng: Hoàng Đế kính hỏi Thuấn Thiền sư ở hang phía Nam núi chương Hồng ngày đông rất lạnh đạo vị được an ổn gắng giúp đời thành tựu thắng nghiệp, mong nguyện này có năng lực, trẩm rất mừng. Nay sai khai phủ Lư Nguyên Thọ, chỉ tuyên ý trẩm chiếu cho Thiền sư đến làm lễ. Thuấn dâng biểu tạ ân và từ bệnh không đến. Dân khâm phục Đức sư xây chùa cho Sư ở. Sau Sư trú chùa Đại Lâm ở Tô Sơn vì xưa Viễn Sư có tu Tịnh Xã Liên Đài còn để dấu vết rõ ràng, nay ở đó nối gót trước mà tu mười sáu quán, với các quán môn ngày luôn niệm tưởng. Cuối năm đó Đạo Tục ở Dự chương thỉnh sư giảng Quán Kinh. Thuấn nói Quán Kinh là giáo Tịnh-độ, ta tu Tịnh-độ ta đâu từ chối không giảng. Giảng xong thì ngày mồng năm bị bệnh. Một hôm ở trong bệnh Sư thấy các chim Anh Võ Khổng Tước có cả trăm con vây quanh niệm Phật niệm Pháp, nói các Ba-la-mật tiếng rất mầu nhiệm. Thuấn cố gắng ngồi dậy bảo các đệ tử rằng các chim Anh Võ Khổng Tước nhóm họp niệm Phật niệm Pháp là báo trước ta sẽ hóa sinh Tịnh-độ, hôm nay ta sẽ mất, rồi quả nhiên hóa. Thích Trí Thông: Sư họ Trình, người ở Hà Đông, mười tuổi mặc áo đạo làm Sa-di, oai nghi nghiêm túc. Sau khi thọ giới cụ túc thì dứt hết các duyên siêng năng Sám Tụng, tụng hơn ba ngàn bài kệ ca ngợi của các bậc tiền Hiền, sáu thời ở trước Tôn tượng lớn tiếng tụng đọc rõ ràng, suốt năm mươi năm không nghe nói mệt mỏi. Cuối đời Chu Võ, cửa Phật bị phế bỏ, thông phải ẩn giấu lánh nạn. Đến Đời Tùy lại phục hưng Phật giáo. Sư ở một ngôi chùa vắng mà sáu thời tinh chuyên cầu thoát ly năm khổ ba cõi mà sinh An Dưỡng. Tháng mười niên hiệu đại Nghiệp năm thứ bảy Sư bị bệnh sai môn nhân Đảnh Cái hơn mười người đồng hướng về Tây niệm Phật A-di-đà, Thông nhắm mắt nghiêm tưởng, giây lâu hỏi Cái có duyên gì mà đốt sáng đèn đuốc, cái do đó tắt đuốc. Thông lại bảo đốt sáng nào có ích gì. Cái bởi vì không có đuốc liền thưa rằng: Tướng lạ sáng suốt chắc có người đợi. Ngoài Cái không ai biết. Thông lại mở mắt nhìn quanh rồi bảo Cái thắp hương. Khói hương bay lên Thông búng ngón tay nói: Quý lạ vô cùng chỉ mình ta có. Có người hỏi sự quý lạ ấy, thông nói có nhiều cờ phướn và tràng hoa báu ở trước ta, không quý lạ là gì? Ngày sắp tối lại bảo Cái rằng: Ta sinh về Tịnh-độ vào đêm nay, các ông tinh tấn chớ lui sụt. Đến nửa đêm thì lên thiền Đường Sám tụng hoặc thiền định. Tăng trong chùa là Đạo Tuệ thấy ở bên Tả Đường có lầu các ngàn lớp hiện trên hư không đi về Tây càng xa càng ẩn mất, giống như mây mù nhiều từng hoặc tan hoặc họp, không thể mô tả. Lúc đó mẹ của Đảnh Cái là Vương Thợ sắp mất cũng thấy hoa sen xanh đầy nhà. Đến khi vãng sinh thì nghe mùi hương sen nhiều ngày không tàn. Thích Chân Tuệ: Sư họ Trần, người ở Bình Lục thuộc Thiểm Tây. Trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, ông nhàm chán thế tục thờ Thiền sư Thanh ở châu nhà, kế là đến Nghiệp Đô thọ giới cụ túc với Luật Sư Hồng, kế nghe Thiền sư Tuần Vệ Châu thâm ngộ Phật thừa bèn đến học hỏi. Cuối niên hiệu khai Hoàng chống tích trượng về Tây giữa đường ra khỏi núi có trăm con hươu trắng trên mỏm núi, do đó mà ngụ ở đấy. Có người nói với Tuệ chọn được đất U Thê ở Bồ Bản rất tốt. Tuệ rất mừng bèn đi Bồ Bản đến Ma Cốc lập chùa cốt tu Tịnh Nghiệp. Đã từng ăn bột huỳnh tinh nhịn cơm hơn trăm ngày để quán tưởng Tịnh-độ. Lại ngồi trong hang, hang có cọp dữ đã hại dân hơn bốn năm, khi Tuệ đến thì lánh đi hết. Ngày 7 tháng 10 niên hiệu khai Hoàng năm thứ mười một Sư bị bị bệnh và mất trong hang Nam Nghiêm, thọ bốn mươi bảy tuổi, Tăng lạp ba mươi lăm. Xưa Tuệ thích kinh luật lâu ngày thành tánh. Khi gặp Tịnh-độ chín phẩm liền theo tu. Lại sợ tu tập chưa bền chắc ngoại ma quấy nhiễu. Lại bảo các niệm lăng xăng nếu không nương nhờ Phật lực thì nương ai. Bèn lập đất Tịnh-độ là một đàn vuông. Trong Đàn cất đài cao châu ngọc các báu trong ngoài trang sức bốn mặt. Lại có bốn cột cờ phướn lọng báu lưới giăng soi chiếu nhau. Trong có Tượng Phật vô lượng Thọ, Quán Âm Thế Chí đứng hầu. Dưới có voi đá xanh, đất lưu ly, giây vàng giăng mắc chia ranh giới các đường, có cờ phướn bảy báu vàng bạc chia làm tám hướng. Nơi để kinh có cờ phướn bảy báu đất lưu ly. Trước khi quán tưởng Tuệ đều tắm gội thay áo, sau mới vào đàn ngồi thẳng tưởng niệm. Có nhiều thần biến của chư Phật hiện ra. Đêm Sư mất bảo với đệ tử rằng: Nghiệp Tịnh-độ ta không chừng đêm nay, ta sẽ thấy hoa sen khép mở nâng chân ta ở trên hư không. Không bao lâu chúng nghe tiếng chuông khánh lại nghe gió từ bốn phương đến và phát ra ánh sáng lạ thì Tuệ mất. Thích Pháp Trí: Không rõ họ, vào thời Tùy Văn Đế đến học ở Đông Việt Việt có người mà thông suốt kinh nghóa Đại Tiểu thừa thì Trí xem là thầy. Thông minh học rộng ít ai sánh bằng. Cuối đời lấy, đường tắt không gì bằng pháp môn niệm Phật. Do đó sớm chiều sám niệm không nghỉ. Suốt bảy năm luận rằng một khi phạm tội Kiết la sẽ bị tội trải một trung kiếp , một câu A-di-đà Phật diệt được tội nặng trong ức kiếp. Riêng có nghi, có người bảo, Trí nói không tự nghi. Bèn dạy cho niệm Phật, lâu thì có công, công thì hóa, hóa thì Tam-muội hiện tiền. Nay ông nghi là nghi giáo. Phàm nghi giáo thì tin không nương, không nương thì tình tự loạn, loạn mà mất thì có lỗi chê bai, chê bai thì khởi nhân đọa địa ngục. Vì sao lại tự nghi. Trí thành ý ở chùa Quốc Thanh bên đài Đâu-suất mà dứt hết các duyên, nhất tâm niệm Phật, tưởng niệm đã tột cùng cảm được Quán Âm Thế chí đồng lúc cùng hiện. Một hôm lại cảm được mũi Bảo Bình chiếu sáng vào thân. Trí bảo đạo tục người thân rằng: Sinh về Tịnh-độ có cả ngàn người. Ai có thể ăn no mà chúng cười, đáp rằng quả có thể thì bọn ta đâu tiếc một bữa ăn, chỉ người đạo không thể được. Bèn hẹn sau ba ngày cùng đến ăn. Ăn xong Trí không bệnh nào khác chúng có người tin người không hoặc nghi thì khinh thường. Trời đã tối bèn ngủ đêm lại trong phòng xét lương khô. Chưa nửa đêm thì Trí ngồi yên trên giường dây Niệm Phật mà hóa. Đêm ấy có ánh sáng sắc vàng từ Tây đến chiếu xa mấy trăm dặm. Ngư dân trên sông gọi nhau trời sáng. Nhiều thuyền nhìn nhau đều kinh hãi, lâu lắm mới sáng. Thích Thiện Trụ: Sư họ Hoài, người ở Bác Dã thuộc Doanh Châu. Thuở nhỏ thông nghóa học ra ở Lưu Ngũ. Từng đến Ngô Trung gặp Pháp sư Tuệ Tịnh giảng Kinh Niết-bàn đạo tục ngàn người đang lắng nghe thì sư giữa ngàn người nghị luận qua lại và đại thắng. Do đó một số quận ngợi khen. Niên hiệu Nhân Thọ năm thứ ba Văn Hoàng Đế ra chiếu chọn năm mươi ba danh tăng chia xá-lợi ở năm mươi ba quận. Trụ cậy mình lành muốn được chọn, bèn được chọn. Trụ rất nổi tiếng, nhưng Trụ ít thân thế mà đời thì chuộng thân thích nên tình cũ cũng cạn mỏng. Nhưng sư chỉ riêng gắng nghiệp Tịnh-độ. Tại chỗ ở có Tượng Di-đà và hai vị Bồ-tát, nhiều lần phát ra ánh sáng trong ngoài, người thấy đều khen ngợi, nhưng Trụ rốt cuộc chẳng nói với ai. Niên hiệu đại Nghiệp năm thứ hai Sư bị bệnh. Đến niên hiệu Võ Đức năm thứ ba thì bệnh lành. Vị nói bệnh ta lành nhưng mạng sắp hết, sau đó rất dốc chí. Lại nói: Ta đối Phật giáo vốn không xem thường thị Tịnh-độ chẳng lo không sinh. Liền nhờ các vị Tăng quét dọn phòng ốc trang nghiêm chờ lúc đến. Tối đó chư Tăng ở bên Trụ mà Trụ lại chắp tay khấn rằng Phật dùng bốn mươi tám nguyện nhiếp con Hữu tình chắc chắn mong mỏi, lúc này như bổn nguyện Phật, rồi nói có các chúng sinh trong nhiều kiếp chẳng gặp Phật chẳng nghe Pháp. Này ánh sáng Phật đã chiếu đến Trụ, Trụ hướng nguyện này đến không sai. Nói xong thì mất. 8 - Thích Pháp Tường: Sư là người ở Trừng Thành thuộc Đồng Châu. Tuổi nhỏ có chí tự lập. Cuối triều đại Chu Võ bắt Tăng đồ ra làm quan, vì sư lanh lợi nên được chọn, ông vì tự phụ nên ra làm quan. Đời Tùy khôi phục Phật pháp, Tường dâng biểu xin trở lại làm tăng, tìm đến trú tại Chùa Đại Hưng Quốc ở Dương Đô, ba mươi năm trầm tư mặc tưởng bao gồm quyền thật, chỉ dạy người tục làm lợi ích giúp sinh An Dưỡng, một nền nhà dựng lên một thiền Đường gồm đủ các đồ vật gỗ đá để dẫn nguyện. Niên hiệu Võ Đức năm thứ bảy đời Đường Sư bị bệnh đến hồi nguy cấp. Đệ tử nghe tiếng Tường niệm Phật phát ra từ miệng xưa chưa nghe nói bảo rằng: Trong lúc bệnh niệm Phật mà nguyện tưởng. Nhìn lại thì thấy ở vách phòng phía Tây có ánh sáng, ánh sáng tròn họp nhau như các gương báu chiếu nhau, các cõi nước khác đều hiện trong đó. Trong ánh sáng đó lại có các chim Tần già đến từ bốn phương, Tường chỉ các học trò hỏi có thấy chăng, nếu thấy ngày kia sẽ thấy ta ở Tịnh-độ, rồi ánh sáng tắt và Tường cũng tịch. Do đó trà tỳ theo Tây Vức nhặt Xá-Lợi mà an táng. 9- Thích Minh Chiêm: Sư họ Đỗ, người ở Thạch Ấp thuộc Hằng Châu, tánh Sư ngay thẳng có học nay, người trong châu gọi là Sư tuấn só. Biết đời là huyễn nên xuất gia ở chùa Ứng Giác núi Phi Long, sau nương chùa Đại Tập ở Nghiệp Hạ chuyên về Đại Luận Vũ Văn Thi phế bỏ Phật giáo. Nghiệp bèn ẩn lánh ở Nghiêm Cốc. Đến đời Tùy Văn khôi phục Thánh hóa ông mới ra trú chùa Pháp Tạng ở Tương Châu. Nhưng chí Nghiệp siêu bạt không dính đến loại khác, ngoài hương nến ra không có giao thiệp với người khác. Niên hiệu khai Hoàng năm thứ ba vua ra chiếu mời ở chùa Đại Hưng dịch thuật Thánh văn. Niên hiệu đại Nghiệp năm thứ hai lại ra sắc chỉ Tăng Đạo đều lạy vua. Lúc đó trước điện nhóm Hoàng Lão đều vâng chỉ, chỉ có tăng còn kênh kiệu. Vua nói chiếu ban đã lâu phải lạy vua. Chiêm thưa: Bệ hạ ban chế phản đạo thì phận ngựa chó phải theo, nếu Đại Pháp đáng kính thì dưới Pháp phục Tăng đồ không thể lạy tục. Vua nói: Tăng đồ không lạy tục sao lạy Tống Võ? Chiêm thưa: dùng oai tàn bạo nhân đức chẳng làm, nếu trái chiếu chỉ thì phải bị tru lục. Còn bệ hạ Thánh hóa nuôi vật chẳng gây lỗi quấy, nên thần tận trung mà nói. Vua bèn chuẩn tấu và bỏ chiếu trước. Chúng cho Chiêm tánh cứng rắn không sợ cường bạo bèn cử làm Kinh Ấp Thượng Tọa. Đời Đường Thái Tông cũng lấy từ nhẫn làm gốc. Vua liền hạ lệnh giảm bớt giết mỗ, chỗ hành quân đều đặt nơi thờ Phật, đến lúc tuổi già tu trì kẻo muộn Chiêm nói ai muộn mà không quên mười niệm cũng được thấy Phật, huống là niệm muôn muôn câu ư? Ngày 2 tháng 10 niên hiệu Chân Quán năm thứ hai Sư bị bệnh bảo đệ tử rằng: số vật có cuối số mạng có cùng, nay mạng ta cuối lại cùng. Lại nói: Ta mất rồi chẳng sinh An Dưỡng ư? Rồi hẹn tăng Tục mấy trăm người ngày mai thọ trai ở chùa Hưng Thiện. Khi đó Bộc Xa Phòng Huyền Linh, tướng quốc Đổ Như Hối đều hội họp. Đã quá ngọ Chiêm trở về chùa oai nghi trang nghiêm như có vẻ đợi. Khoảnh khắc bảo Phật đã đến. Chốc lát lại bảo: 2 vị Đại Bồ- tát cũng đã đến, rồi nghiêm mình chắp tay vui vẻ mà mất. Thích Đạo Xước: Sư họ Vệ, người ở Vấn Thủy thuộc Tính Châu. Xuất gia học hỏi khắp các danh sư. Sau nghe Thiền sư Toán lý hạnh gồm đủ liền đến trú chùa Huyền Trang ở Bích Cốc, đây là nơi ở xưa của Pháp sư Đàm Loan. Sư Loan ở đấy tu tịnh nghiệp rất lâu, ngày Sư mất có rất nhiều điềm lành. Người trong quận gom nhặt các việc khắc vào bia. Khi xước đến xem văn thì càng tin tưởng nên nương vào tịnh cảnh mà lắng trong các niệm, niệm Phật A-di-đà nhiều vô số. Mỗi ngày bảy muôn câu làm mức. Trong vùng Tịnh và Phần Châu ít việc, người niệm Phật lần chuỗi rất ít có. Xước khuyên Tăng tục gắng niệm Phật người không lần chuổi thì lấy đậu mà đếm cứ một câu Phật thì một hạt đậu, hoặc lấy mè gạo mà ghi. Tính ra có đến mấy muôn hộc. Ngày 8 tháng 4 niên hiệu đời Đường Chân Quán năm thứ ba Đạo tục đến chùa lễ mừng Như lai giáng sinh lại thấy Loan trên thuyền bảy báu ở giữa hư không chỉ Xước mà nói: Ông ở trong nhà Tịnh-độ đã xong chỉ có báo thân chưa hết. Lại thấy Hóa Phật và Hóa Bồ-tát ở trên hư không, chúng đều kính khen phục. Do đó thời Sơ Đường ở các quận Tính Phần Tịnh-độ nhờ Xước mà hưng thịnh. Có bạn đồng chí là Đạo Phủ đi khỏi chùa Huyền Trang đã lâu lại ít gặp nhau, nghe Xước mất đã ba ngày, Phủ nói tưởng mình đi trước không ngờ lại sau. Lại nói Ta dùng công phu một hơi thấy Phật sẽ theo kịp. Ngày hôm ấy ở trước tượng cúi đầu bày tỏ rồi trở về chỗ ngồi mà hóa. Thích Quán Đảnh: Sư tự là Pháp Vân, họ Ngô, người ở Nghóa Hưng thuộc Thường Châu. Ngũ Thế Tổ ẩn lánh ở Đông Âu, do đó nhà ở gần biển dời đến Chương An, lúc đó Đảnh còn bé hỏi mẹ niệm Phật Pháp Tăng, chỉ sơ liền biết đọc rất rõ ràng. Ở chùa Nhiếp Tịnh Pháp sư Tuệ Chửng nghe nói bảo là có túc tập. Năm bảy tuổi làm đệ tử Chửng mỗi ngày học tập có sự thành tựu. Đến khi xuất gia đến hỏi Đạo ở Thiên Thai, học tập giới Định. Đến niên hiệu Chí Đức đời Trần theo ngài Trí Giả ở Quang Trạch. Họ Trần mất ngôi giao về họ Tùy. Niên hiệu khai Hoàng năm thứ mười một Tấn Vương trấn giữ Dương Châu, Đảnh theo Trí Giả ở chùa Thiền Chúng, được 3 năm Trí Giả trở về chẩn, Đảnh cũng theo hầu. Niên hiệu khai Hoàng năm thứ mười bảy, Trí Giả bị bệnh, Đảnh nhận lời di chúc. Tấn Vương có thỉnh giới với Khải, khi Đảnh đến thì vua rất mến, nhân đó mở rộng nghiệp Tịnh-độ kế sai Dương Châu Tổng Quản Phủ Tư Mã Vương Hoằng đưa Đảnh về núi. Nhưng vì Trí Giả sáng lập chùa Quốc Thanh, niên hiệu Nguyên Thọ thứ nhất, Tấn Vương vào miếu Đảnh chúc rằng làm thạnh chùa miếu đài điện thì tăng thêm. Vua liền ban chiếu mời vào cung giảng kinh Tịnh Danh, Pháp Hoa v.v…, ba hạ hoằng pháp, sáu cung kính mến, được hai năm thì Đảnh trở về Thiên Thai. Đến ngày 7 tháng 8 niên hiệu Chân Quán năm thứ 6 đời đường, Đảnh mất ở Chùa Quốc Thanh thọ bảy mươi hai tuổi. Trước Đảnh bị bệnh nhà có mùi thơm lạ, Đảnh vui mừng nói đây là mùi thơm hoa sen sẽ đưa ta đi. Do đó ở trước tượng Phật niệm mười câu A-di-đà Phật, ba tiếng hai Bồ-tát Quán Âm Thế Chí và Thanh Tịnh Hải Chúng các Bồ- tát thì đến chiếu chắp tay an nhiên mà tịch. Thích Đạo Ngang: Sư là người ở Hồ Thành thuộc Ngụy. Khi mẹ mang thai sư thì không ăn được đồ mặn, người ăn mặn và hành tỏi đến gần bà cũng không chịu được. Đến chín tuổi thì thờ Pháp sư Linh Du làm thầy, thiên tư rất thông minh, bắt đầu chẳng phải Sư trao, từng ở chùa núi Hàn Lăng nghiên cứu ý kinh suốt hai mươi năm. Tăng Đồ Nghóa học ở Ngụy có điều không hiểu đến hỏi Sư đều được thông suốt. Mùa Xuân niên hiệu Chân Quán năm thứ bảy đời Đường, sư thấy các trí thức quan thân xa gần thường đến hỏi han, sư nói “Ta sống đây đến chết sẽ về, đến tháng tám ta về!” Đến hẹn mọi người đều đến, thấy sư không bệnh bèn nghi. Sư nói đã đến lúc rồi, đừng nghi. Rồi lên tòa Cao, khuyên mọi người cố gắng. Đang khuyên bỗng sư vái chào bảo: Sao các vị Trời đến đông, tôi không muốn sinh lên cõi Trời nếu sinh Tịnh-độ thì đón rước, liền nghe theo. Do đó nhắm mắt, hồi lâu lại nói: Ánh sáng Phật A-di-đà đã chiếu thân ta, các Hóa Bồ-tát cũng đến rước. Sư bèn bưng lò hương cúi đầu tự bày tỏ vui mừng bỗng xoay mình lò hương rớt, sư cũng đã tịch. Thích Trí Diễm: Sư họ Chua, người ở quận Ngô. Mẹ là người họ Tước khi mang thai sư mộng thấy lên tháp Chùa Thông Huyền xa nhìn lên hư không, chẳng có vẻ sợ. Lúc sinh ra thì hình dung khôi ngô dễ nhìn. Tám tuổi thờ Pháp sư Cừ ở chùa Thông Huyền làm thầy. Năm mười hai tuổi tụng kinh Pháp Hoa ngày một bộ cả sớm chiều trong suốt ba năm. Mười sáu tuổi đến Pháp sư Trì nghe Luận Thành Thật. Không đầy hai năm Trì Công lại về Nam, Diễm đi về Đông đến chỗ Pháp sư Tương chùa Đại Trang Nghiêm nghiên cứu lại Luận Thành Thật. Niên hiệu Chí Đức năm thứ ba đời Trần, ở Kinh Sư lập Nhân Vương Trai, vua ra chiếu mời ba giáo luận nghị, trăm miệng tranh hơn suốt bảy đêm, chỉ có lời Diễm được vua khen thưởng. Trần mất Tùy lên, Thượng thư lệnh Sở Quốc Công Dương Tố Tả bộc xạ chất Quốc Công Tô Oai đều kính trọng. Đến lúc Đại Đường thống trị thì Đạo của Diễm đã rất lớn rộng. Đến tuổi trung niên thì thực hành Pháp Hoa và Phổ Hiền Sam, lại tụng Pháp Hoa hơn ba vạn bộ, còn đối với Tịnh-độ tu ba Phước nghiệp và các quán tưởng, cùng Tăng Tục trong ngoài châu hơn năm trăm người mỗi tháng gặp nhau một lần suốt cả mười năm ý chí chuyên cần trước sau như một. Tháng mười niên hiệu Chân Quán năm thứ Tám Sư bị bệnh, trong bệnh thấy một vị Tăng Ấn-độ tay cầm Bónh báu bảo Diễm rằng ta là Vô Biên Quang, ở cuối bộ Tịnh-độ có khen ngợi Công Đức Bảo Vương chính là khen ta. Được việc ấy Diễm bảo tăng trong chùa rằng Vô Biên Quang tức là Thế Chí khi thành Phật hiệu là Công Đức Bảo Vương. Do nhân nói quả ý nói ta sắp về Tây Phương vậy. Ngày ấy Sư mất tại phía Đông chùa ở Võ Khâu, thọ bảy mươi mốt tuổi. Dân cả châu lớn nhỏ đều buồn khóc đến kính lễ, rồi chôn sư ở ngọn núi phía Nam của chùa. 1 4- Thích Thần Tố: Sư tự Thiệu Tắc họ Vương, trước là người Thái Nguyên sau ở An Ấp nơi đồng quê Minh Điều. Thuở nhỏ Tố làm Tăng cùng với Pháp sư Đạo Kiệt kết ý học đạo, là đôi bạn thông suốt văn nghóa ít có rất nổi tiếng thời ấy. Trong niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy, sư giảng Luận A Tỳ Đàm hơn bốn mươi lần, Luận Thành Thật hơn hai mươi lần và các Tiểu Bộ khác không ngày nào nghỉ. Từng nói: nếu chỗ giảng của tôi có mở sáng cho người thì nguyện thân này chết rồi sớm sinh về An Dường. Ông rất khiêm nhường cung kính không hề phạt rầy ai. Ngày 13 tháng 2 niên hiệu Chân Quán năm thứ mười bảy đời Đường sư bị bệnh nhẹ, bảo đệ tử rằng ta quyết tâm gieo nhân An Dưỡng nay ta bị bệnh may mắn không có khổ não, các con chờ gì không giúp ta. Rồi bảo đệ tử tụng Quán Kinh, Sư lắng nghe xong lại niệm Phật A-di-đà hai Bồ-tát Quán Âm Thế Chí và Hải Chúng Bồ-tát như thế xưng niệm mấy lần lại bảo một vị Tăng đọc các Tăng họa theo. Đến nửa đêm thì ngồi thẳng mà tạ thế. 1 5. Thích Thiện Đạo: Không rõ sư họ gì và người ở đâu, đi chu du hỏi đạo khắp nơi. Trong niên hiệu Chân Quán đời Đường gặp Xước Thiền sư ở Tây Hà thực hành Sám Phương Đẳng và Đạo Tràng Tịnh-độ Cửu Phẩm, Đạo vui mừng nói đấy thật là bến bờ cốt yếu vào Phật mà ta có được. Rồi siêng năng khổ nhọc như cứu lửa cháy đầu. Sư đến Kinh đô hoằng hóa bốn bộ Đệ tử bất luận giàu nghèo sang hèn, kẻ giết mổ hoặc buôn bán rượu thịt đều thâu nhận phát ngô cho. Sư có viết Kinh Di-đà mười vạn quyển để thí cho người thọ trì. Người ở Kinh đô và các quận đều nối gót sư tụng kinh niệm Phật. Có người hỏi: niệm Phật giỏi có sinh Tịnh-độ chăng? Sư đáp nếu ông niệm thì sẽ toại nguyện. Nói xong Thiện Đạo tự niệm A-di-đà Phật một câu thì từ miệng có một luồng ánh sáng ra, niệm mười câu, trăm câu đều có ánh sáng phát ra. Sư nhàm chán thân nhiều khổ ép ngặt tình ý dối trá đổi đời, bèn leo lên cây liễu ở trước chùa hướng về phía Tây khấn rằng: Nguyện oai thần Phật tiếp dẫn con, Quán Âm Thế Chí đến giúp con khiến tâm con không mất chánh niệm, không sợ sệt, trong Pháp Di-đà con không lui sụt. Nguyện xong thì gieo mình xuống đất mà mất. Lúc đó các só đại phu ở Kinh Sư đều kính tin, bèn thâu nhặt hài cốt đem chôn. Vua Đường Cao Tông biết sư niệm Phật miệng phát ra ánh sáng lại biết khi mất sư rất tinh thành bèn ra sắc đổi hiệu chùa là Quang Minh. 1 6- Thích Công Huýnh: Sư họ Biên, người ở Lăng Nghi thuộc Đông Kinh. Năm sáu tuổi nghó chuyện xuất gia thì các thân thuộc ngăn cản. Đến năm mười sáu tuổi mới thỏa chí khi làm Tăng thì suốt hai mươi năm không đến nhà Tục. Từng đi vào núi Thái sơn thực hành sám pháp Phổ Hiền và ngồi đọc tụng không dựa ghế suốt ba năm như thế. Một sáng Đức Phổ Hiền ngồi voi sáu ngà hiện ra trước, cảnh giới màu bạc cũng hiện ra, sư biết do tinh thành mà cảm được nên càng thêm dồi mài. Chúng mời Sư đến chùa Tuệ Phước trong quận giảng kinh Thắng-man và cũng giảng thêm các kinh luận khác. Tuổi về già sư chỉ chuyên giảng Pháp Hoa, có soạn Pháp Hoa Nghóa Sớ năm quyển. Lúc giảng đến Phẩm Dược Thảo Dụ thì trời liền mưa, trước sau năm mươi lần đều có ứng nghiệm. Nên người ở đất Biện gặp lúc hạn hán đợi giảng. Sau soạn Luận Phật Địa và Nhiếp Luận các Sớ. Khi Sớ chưa thành thì Sư nói: đem hết tình làm sáng Thánh giáo nguyện chỗ làm này được sinh An Dường. Khi Sớ thành thì có ánh sáng lạ năm màu chiếu vào nhà. Tăng trong chùa kinh hãi không biết nơi đến. Sư nói lấy việc ta làm sáng Thánh giáo mà nghiệm ra. Sư lại nói ta vì khổ ba độc mà thường chán lìa do tâm chán lìa mà khởi niệm tinh tấn. Được đây thì nương ánh sáng mà đủ thấy Phật. Do đó hệ niệm Tây Phương, nhịn ăn mà mất. Thích Duy Ngạn: Sư người ở Giao Thành thuộc Tính Châu. Thường than rằng: Ba cõi không yên cũng như nhà lửa, chưa sinh An Dưỡng đều là đống khổ. Do đó mười sáu quán môn thường siêng năng không nhàm chán. Ngày 7 tháng Giêng niên hiệu Thùy Củng đời đường, nhân khi xuất quán thì thấy hai vị Bồ-tát Quán Âm Thế Chí hiện trên hư không rất lâu chẳng mất. Sư đảnh lễ khóc lóc than rằng: con may mắn mắt thịt mà được thấy hình Thánh, tiếc rằng không thể truyền lại cho đời sau. Bỗng có hai người tự xưng là thợ vẽ, thì trong nháy mắt hình đã vẽ xong, sau đó người biến mất. Đệ tử lấy làm lạ hỏi, sư nói: Há là thợ vẽ ư? Lại nói: Đã đến lúc ta về Tây, đệ tử ai muốn theo ta thì nói. Có đứa bé thưa con không dám cãi lịnh thầy. Sư bảo: được theo ta nhưng phải thưa với cha mẹ, Cha mẹ nghe nói liền cười là chẳng biết gì. Đứa bé trở về chùa tắm gội nước thơm rồi quì trước tượng Phật Di-đà mà mất. Có người đem việc thưa sư, Sư đến vỗ vào lưng cậu bé bảo: Việc ngươi sao lại trước ta? Rồi cầm bút đốt hương trước tượng Bồ-tát mà viết rằng: Quán Âm xa rước con, Thế Chí xa đón con, Trên mũ bình báu hiện, Đảnh Hóa Phật sáng trưng, Ai khắp mười phương cõi, Cầm hoa tiếp chín sinh, Nguyện dưới tay Từ Bi, Dắt con về Phương Tây. Khen xong liền nhờ đệ tử giúp niệm Phật, rồi nhắm mắt xoay mặt về hướng Tây mà mất. Thích Pháp Trì: Sư họ Trương, người ở Giang Ninh thuộc Nhuận Châu. Chín tuổi thờ Thiền sư Phương ở núi Thanh Thành, thiên tánh thông minh sâu rộng. Đến mười ba tuổi Nương Đại Sư Huỳnh Mai Nhẫn mà được tâm, liền về Thanh Thành thờ Thiền sư Phương giúp Tông môn cực sáng. Từ đó bốn phương theo học nổi tiếng xa gần. Huỳnh Mai trước khi tạ thế thường bảo chúng rằng mười người truyền giáo ở Kim Lăng, Pháp Trì là một. Sư đối với Tịnh-độ đã buộc tâm tới lui đều quán tưởng. Ngày 5 tháng 9 niên hiệu Trường An năm thứ hai hai sư mất ở Chùa Diên Phước. Một ngày trước khi mất, sư bảo đệ tử là Trí Oai rằng: khi ta sống chưa dạy mọi người về Tịnh-độ, khi ta chết rồi hãy đem hài cốt ta để dưới cội tùng cho cầm thú ăn mà tạo nhân Tịnh-độ, con hãy nhớ lấy! Trí Oai thưa con xin vâng lời. Đến khi Sư mất, Trí Oai cùng người trong quận cung kính rước di hài sư ra cội thông theo đúng ý sư. Ngày hôm ấy Tăng trong chùa thấy có mấy mươi lá cờ phướn thần từ phương Tây đến. Cờ phướn phát ra ánh sáng chiếu vào thất của sư ở trước đây. Chùa cũ Trúc Lâm cũng sáng trưng. Thích Tuệ Nhật: Sư họ Tân người ở Đông Lai. Được Độ ở thời vua Thái Tông đời Đường, gặp Tam tạng Nghóa Tịnh từ Tây Vức trở về ngày đêm thưa hỏi thông suốt Phật Thừa. Mỗi khi nghe Tịnh nói di tích Như lai ở Tây Vức thì cảm thấy phơi phới chí muôn phương. Đến niên hiệu Đại Túc thời Võ Tắc Thiên sư ngồi thuyền buồm đến phía Đông Nam Hải, ba năm đi khắp các nước Côn Luân, Phật Thệ, Sư Tử Châu v.v… Kế đến Thiên-Trúc học hỏi Thiện tri thức mười ba năm học kinh Pháp không để trống ngày nào. Lại ở Tuyết Lãnh Song Lâm trải qua bốn năm. Vì chạm nhiều gian khổ nên nhàm chán cõi Diêm Phù, do đó nói: Nước nào phương nào có vui không khổ, Pháp nào hạnh nào mau được thấy Phật: Hỏi khắp các Tam tạng Thiên Trúc, thì các Tam tạng đều khen ngợi Tịnh-độ. Lại nói: Giáo chủ Tịnh-độ Bi sâu nguyện rộng, người muốn sinh đều được thỏa nguyện. Sư nghe xong rất vui mừng. Khi đến nước Kiện đà la, ở phía Đông Bắc thành có núi lớn, trên núi có tượng Bồ-tát Quán Âm. Người chuyên cầu thỉnh Ngài thường hiện thân. Sư bèn tuyệt thực bảy ngày cố chết để thỉnh. Đếm đêm thứ bảy thì Bồ-tát Quan Ậm hiện ra trên hư không thân vàng tím cao hơn một trượng, ngồi trên hoa sen báu tay phải xoa đầu Sư bảo rằng: ngươi muốn truyền pháp lợi người, lại muốn sinh về nước Di-đà, thì chỉ cần buộc niệm sẽ được như nguyện. Ngươi cũng nên biết Pháp môn Tịnh-độ hơn các hạnh khác. Bỗng nhiên biến mất. Sư vì tuyệt thực lâu ngày nên thân thể mệt mỏi, do việc này liền thấy sảng khoái nhẹ nhàng. Nhật từ khi đến Tây Vức lúc trở về trải qua hai mươi mốt năm, đi qua hơn bảy mươi nước. Niên hiệu khai Nguyên năm thứ bảy sư đến Trường An dâng lên vua hình tượng Phật và kinh tiếng Phạm, cảm ngộ được tâm vua, vua ban đức hiệu là Từ Mẫn Tam tạng. Song chí của Sư chuyên cần đối với Tịnh-độ. Sư có soạn Tịnh-độ Văn Ký 5 quyển dễ dạy người thế tục tin sâu Tịnh Tông. Sư rất gần với các bậc Hiền như Đạo Xước, Thiện Đạo. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ bảy Sư mất ở tại chùa, thọ sáu mươi chín tuổi an táng toàn thân ở ngọn phía Tây của núi Bạch Lộc. Trước khi chết ba ngày Sư nói mắt thấy hoa sen như vầng mặt trời. Thích Hùng Tuấn: Sư họ Chu, người ở Thành Đô, tánh ngang bướng không có giới hạnh nhưng giỏi thuyết giảng. Khi giảng được tiền của thì dùng vào việc phi pháp. Người đất Thục khinh bỉ coi là kẻ phá đạo, các Sa môn không ghét cũng không giúp sư. Sư cũng từng bỏ tăng vào trại lính. Nhân lánh nạn lại vào tăng. Tăng đồ có kẻ giữ danh tiết phòng khi chưa bị nên số đông sợ lánh mặt Sư. Sư nghe kinh nói niệm một câu A-di-đà Phật thì diệt được tội nặng sinh tử trong năm mươi ức kiếp bèn mừng rỡ nói rằng: Ta nhờ việc này! Do đó khi gây lỗi ác, miệng liền niệm Phật thì chỗ niệm hoặc còn mà mất, dường như được mà tan cũng khiến bọn ta làm trò cười mà thôi. Ngày 5 tháng 2 niên hiệu đại Lịch năm thứ hai đời đường bị bạo bệnh mà chết, xuống minh phủ gặp vua, vua nói: Bắt lầm ngươi, cho ngươi trở về. Nhưng tội ác của người rất lớn phải bị khổ sở. Bèn sai ngưu đầu đuổi vào địa ngục. Tuấn đến cửa địa ngục chống cụ la lớn: Niệm một câu A-di-đà Phật còn diệt sinh tử tội nặng trong năm mươi ức kiếp huống chi Tuấn này chưa gây ra năm tội nghịch, chưa gây mười điều ác lại luôn niệm Phật không quên, dựa vào lời Phật há bị khổ sở? Do đó lại khóc lớn nhìn ngó hai bên. Ngục tốt nhìn nhau chẳng dám làm gì Tuấn, rồi thưa lên vua gọi Tuấn đến bảo: Ngươi niệm Phật nhưng không thật tin, chỉ là thân miệng có nhân hãy trở về mà tu tâm. Tuấn được về đem việc kể lại. Có kẻ hài hước bảo Tuấn là kẻ lọt lưới địa ngục. Tuấn nói: Đừng nói giỡn chơi, do đây mà sau tự biết lối. Bèn đến Tây Sơn ở quận Nam mà rửa sạch tình ý chuyên tâm niệm Phật suốt bốn năm ba tháng bảy ngày. Bạn bè của Tuấn bảy người ở Tây Sơn đến thăm hỏi, Tuấn vui mừng bảo thời đã đến. Các anh trở về, có duyên sẽ gặp có việc đáng nhờ. Các anh về gặp người quen thân nói Tuấn nhắn rằng Tuấn nhờ công đức niệm Phật mà được sinh Tịnh-độ đừng như ngày nào gọi Tuấn là người địa ngục nữa. Nói xong thì cười mà mất. <篇> TỊNH-ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN <卷>QUYỂN HẠ Chánh truyện có mười bảy vị, phụ thêm có ba vị. Thích Tăng Huyền ở Tính Châu đời Đường. (Phụ: khởi Phương, Viên Quả) Thích Biện Tài ở Sóc Phương đời Đường. 3- Thích Pháp Chiếu ở Ngũ Đài đời Đường. 4- Thích Tự Giác ở Trấn Châu đời Đường. 5- Thích Hoài Ngọc ở Thai Châu đời Đường. 6- Thích Tề Hàn ở Ngô Quận đời Đường. Thích Thần Hạo ở Ngô Quận đời Đường. Thích Thiếu Khang ở Lục Châu đời Đường. 9- Thích Tri Huyền ở Bành Châu đời Đường. 1 0- Thích Tăng Tạng ở Phần Châu đời Đường. 1 1- Thích Đại Hành ở Duyễn Châu đời Đường. 1 2- Thích Duy Cung ở Kinh Châu đời Đường. (Phụ: Linh khuy) 1 3- Thích Hồng Cử ở Ôn Châu đời Hậu Đường. 1 4- Thích Chí Thông ở Phụng Tường đời Thạch Tấn. 1 5- Thích Thiệu Nham ở Tiền Đường đời Đại Tống. 1 6- Thích Thủ Chân ở Đông Kinh đời Đại Tống. 1 7- Thích Ngộ Ân ở Dư Hàng đời Đại Tống. ***** Thích Tăng Huyền: Người Thọ Dương ở Tính Châu. Thuở nhỏ niệm Từ Thị Di-lặc nguyện sinh Nội Viện Đâu-suất. Năm tám, chín tuổi gặp Thiền sư Đạo Xước dạy cho Tịnh-độ nhưng chưa ngộ chỉ mới hồi Tâm. Huyền thấy Đạo suy đồi, công chứa nhóm không lớn, bèn sớm chiều lễ Phật thường hơn ngàn lạy, niệm danh hiệu cả vạn tiếng. Thức ngũ thường canh cánh chăm chăm không bỏ như thế được ba năm. Niên hiệu Chân Nguyên năm thứ chín bị bệnh đến Đại Tàm gọi đệ tử bảo rằng ta là người hữu lậu mới bị bệnh này, Phật A-di-đà trao cho ta hương y, Quán Âm, Thế Chí đưa cho ta tay báu. Do đây mà Tây Phương đều là cảnh Tịnh-độ, ta theo Phật mà đi. Rồi mất, mất đã bảy ngày mà mùi thơm chưa tan. Người ở Tinh Phần do đó mà càng tin về Tịnh-độ. Lúc đó chùa Ngộ Chân ở Phần Tây có hai Pháp sư Khải Phương và Viên Quả, xưa từng vì già tôn kính Huyền lại chính mắt thấy sự việc bèn ở trước tượng Quán Âm mà sám hối lỗi xưa. Rồi bẻ nhánh dương để trên tay tượng Quán Âm mà thề Phương Quả chúng con nếu có duyên Tịnh-độ thì làm cho nhành dương này bảy ngày không héo. Đến hẹn nhánh dương càng tươi. Phương Quả sớm chiều không bỏ quán niệm. Sau mấy tháng quán niệm, một tối trong khi quán niệm bỗng biết mình đến ao lớn bảy báu, trong ao có màng báu lớn chui vào thì thấy Quán Âm Thế Chí ngồi trên đài hoa báu, dưới đài có ngàn vạn hoa sen, Đức Phật A-di-đà từ Tây đến ngồi trên một hoa sen lớn nhất, phát ra ánh sáng chiếu khắp, Phương Quả đến trước lễ hỏi: chúng sinh Diêm Phù y kinh niệm Phật có được sinh lên đây chăng? Phật bảo Phương rằng như niệm danh ta thì sinh nước ta không có ai niệm mà chẳng sinh. Lại thấy đất bằng phẳng như bàn tay, cờ phướn lưới châu trên dưới giao nhau. Lại thấy một vị Tăng ngồi trên xe báu, tiến đến bảo Phương Quả rằng ta là Pháp Tạng đây, do nguyện xưa mà đến rước Phương-Quả lên xe đi về phía trước. Lại thấy thân ngồi trên hoa sen báu. Lại nghe Đức Như lai Thích Ca và Bồ- tát Văn-thù dùng âm Phạm mà khen Tịnh-độ ở trước mặt. Có ngôi điện lớn, điện có ba đường thềm, đường thứ nhất toàn người tại gia, đường thứ hai gồm cả tăng tục, đường thứ ba chỉ có Tăng chứ không tục. Phật chỉ đường có Tăng Tục bảo Phương Quả rằng: Đây đều người Diêm- Phú niệm Phật mà sinh về, các ngươi phải rất cố gắng. Phương Quả tỉnh dậy cùng bàn bạc. Năm ngày sau hai người không bệnh nghe có tiếng chuông, hỏi tăng bên cạnh bảo chẳng nghe gì. Phương-Quả nói: Tiếng chuông là việc của chúng tôi. Phút chốc thì hai người cùng mất. Thích Biện Tài: Sư họ Lý, người ở Tương Dương từ khi mẹ mang thai sư lại ghét đồ mặn, đến tối sinh ra Sư thì mùi thơm đầy nhà. Năm bảy tuổi xuất gia theo Thiền sư tịnh ở Hiện sơn, mười sáu tuổi cạo tóc tại chùa Đại Vân ở Bổn Châu. Kế đi khắp quận nghiên cứu kinh sách. Sau nghe Luật sư hoài Oai chùa An Quốc ở Trường An, Pháp môn đầy thân bèn đến học mà có đại thành. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ mười bốn đời Đường vua Huyền Tôn vì người phương Bắc tánh khí cứng rắn lâu thành thói quen, nên trong các chùa thường tập cỡi ngựa bắn tên, bèn ra chiếu cho tài dạy răn, đến Đàn để điều tập. Đầu niên hiệu Chí Đức vua Túc Tông lên ngôi. Quan Tể tướng Đỗ Hồng Tiệm tâu vua ra chiếu ở chùa Long Hưng ban cho Tài thêm chức Sóc Phương Quản Nội Giáo Thọ khiến khuyên cố gắng để thay đổi thói xấu. Lộc Sơn nổi loạn người chết máu tanh đến Hà Lạc Tài bèn giả bệnh tuyệt âm không nói suốt ba năm. Khi Lộc Sơn bại trận Túc Tông ban thư khen ngợi. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 3 lại ra chiếu làm Đại đức ở chùa Chương Tín. Lúc đó phủ soái Quắc Quốc Thường Công và Hộ Nhung Nhậm Công rất kính mến danh tiếng của Tài tuy chưa nhường nhưng khi luận Đạo thì rất tâm phục. Tài đối với Tịnh-độ ngầm kín tinh tu suốt hai mươi năm chưa hề nói với ai. Khi giao thiệp với Nhậm Công mới nói Tài thấy huyển thân này đã già yếu khi chết ắt sinh Tịnh-độ chỉ khoảng mười năm nữa thôi. Mùa Thu năm thứ mười ba, Tài bị bệnh, đến chiều Đông mùng tám, bảo đệ tử: Ngươi đến Nhậm Công đã đến hẹn 10 năm, Nhậm Công sẽ không quên đâu. Đệ tử nói y lời, Nhậm Công nói chẳng lẽ Sư giã biệt ta ư? Rồi cùng Thường Công đến thăm. Hai ông mới đến cửa, đệ tử vào báo, Tài bảo: Đến thì ta đi, rồi ngồi kiết già im lặng mà mất. Lúc đó mọi người nghe có tiếng âm nhạc từ Tây đến và mùi thơm phát ra, đến sáng hôm sau lại càng thơm hơn. Thích Pháp Chiếu: Chẳng rõ sư người ở đâu thời nào. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ hai đời Đường, Sư trú tại chùa Vân Phong ở Hành Châu, từ Nhẫn giới định rất tinh nghiêm. Một hôm, ở trong Tăng Đường ăn cơm thì thấy trong bát có mây năm màu. Trong mây có ngôi chùa, ở phía Đông Bắc chùa có ngọn núi lớn. núi có khe, khe có cửa đá. Qua cửa khoảng năm dặm có một ngôi chùa bảng vàng đề chùa Đại Thánh Trúc Lâm Tự Chiếu tuy mắt thấy mà tâm không nhớ rõ. Ngày khác vào lúc ăn trong bát hiện mây năm màu, trong mây hiện ra mấy chùa nhưng không có núi rừng dơ bẩn, sắc vàng sáng rực, ao đài lầu quán đầy các báu, có rất nhiều vị Bồ-tát ở trong đó, trong cõi nước trang nghiêm tịnh của chư Phật có các thức đẹp đẽ lấp lánh thích nhìn. Nhân hỏi thăm thì có hai Tăng là Gia Diên và Đàm Huy bảo rằng việc Thánh thần biến hóa phàm tình không thể lường được, nói về địa thế núi sông thì đúng là núi Ngũ Đài. Mùa Hạ niên hiệu Đại Lịch thứ 4 đời Đường Chiếu trú tại chùa Hồ Đông ở Hành Châu mở Đạo Tràng ngũ Hội Niệm Phật. Ngày 2 tháng 6 năm ấy, mây lành năm màu che phủ chùa, trong mây có lâu đài, có nhiều vị Tăng Ấn-độ thân cao hơn trượng cầm tích trượng hành Đạo. Lại thấy Phật A-di-đà cùng hai Bồ-tát thân cao lớn đầy khắp hư không. Lúc chiều tối, Pháp Chiếu ở ngoài Đạo tràng gặp một cụ già bảo: trước ông ở cõi sắc vàng đã phát nguyện lễ chào Đại Thánh nay sao lại bỏ đi. Chiếu nói thời buổi đường xá lúc khó khăn không bỏ sao được? Cụ già bảo gấp đi liền thì sao gọi là khó? Chưa kịp đáp thì ông lão biến mất. Chiếu thấy việc lạ lại phát nguyện rằng: Nguyện đem thân này kính dâng Đại Thánh dầu gặp đống lửa sông băng cũng không thối chí. Năm ấy ngày 13 tháng 8, chiếu mấy người đồng chí từ Nam Nhạc đi lên thì đường không hiểm trở, ngày 5 tháng 4 năm thứ 5, đến Ngũ Đài, nhìn xa thấy phía Nam chùa có mấy luồng ánh sáng. Ngày mồng 6 đến chùa Phật Quang giống y như đã thấy trong bát. Đêm ấy canh bốn lại có ánh sáng lạ từ phía Bắc đến chiếu soi vô số kể, bèn hỏi: Đây là điềm gì tốt hay xấu? Vị Tăng ở đó đáp đây là ánh sáng không thể nghó bàn của Đại Thánh chiếu nhiếp thân tâm ông, còn hỏi gì. Chiếu nghiêm túc đến một chùa, ở phía Đông Bắc cách năm dặm quả nhiên có ngọn núi, trong núi có khe, phía Bắc khe có cửa đá, bên cửa có hai đứa trẻ mặc áo xanh khoảng tám, chín tuổi hình dung đẹp đẽ, một người tên Thiên Tài, người kia tên Nan đà, dẫn Chiếu vào cửa đi về phía Bắc khoảng năm dặm thì thấy một Cửa Vàng, trên cửa có lầu, bên lầu có một ngôi chùa, cửa chùa có bảng Vàng lớn đề Chùa Đại Thánh Trúc Lâm chùa vuông vức hai mươi dặm có cả trăm viện, các viện đều có tháp, đất vàng ròng, đài hoa cây ngọc đầy khắp. Chiếu vào giảng đường thì thấy Văn-thù ở phía Tây, Phổ Hiền ở phía Đông đều ngồi trên tòa cao sư tử, tiếng nói Pháp rõ ràng trong tai. Quanh đức Văn-thù có mấy nhiều Bồ-tát, Đức Phổ Hiền cũng có các Bồ-tát đi nhiều quanh. Chiếu đảnh lẽ hai vị Bồ-tát thưa rằng: Phàm phu đời mạt trí thức cạn cột, Phật tánh tâm địa không do đâu mà hiển sáng, chưa biết tu hành pháp môn nào là cốt yếu nhất, cúi mong Đại Thánh giải nghi cho con. Ngài Văn-thù nói điều ngươi hỏi nay rất đúng lúc, các hạnh môn tu lành không gì bằng niệm Phật ta ở kiếp quá khứ nhân niệm Phật mà được Trí Nhất Thiết Chủng. Cho nên các Pháp Bát-nhã Ba la mật đa sâu nhất là Thiền định, cho đến Chánh Biến Tri của chư Phật đều từ Niệm Phật mà sinh. Chiếu nói đó là niệm gì. Bồ-tát Văn-thù nói phía Tây thế giới này có Phật Di-đà, nguyện lực Phật ấy không thể nghó bàn, ông phải niệm không xen hở thì, khi qua đời chắc chắn vãng sinh. Nói xong hai vị Bồ-tát duỗi tay màu vàng xoa đầu Chiếu và Thọ ký rằng: Ông niệm Phật không thể nghó bàn nên rốt ráo chứng được Vô Thương Giác. Các Thiên nam nữ muốn nhanh chóng thoát ly thì phải niệm Phật. Khi đó hai vị Bồ-tát cùng nói Già Đà. Chiếu nghe xong càng thêm mừng rỡ. Đức Văn-thù lại nói: Ông nên trở về kính lễ khắp các vị Bồ-tát mà tiếp nhận giáo thọ. Chiếu theo đúng lời dạy thỉnh các Giáo thọ kế đến Hoa Viên bảy báu ra trước Đại Thánh mà làm lễ từ giã. Rồi hai trẻ Thiện Tài và Nan-đà mặc áo xanh đưa ra ngoài cửa. Chiếu lại đảnh lễ, ngẩng đầu lên thì đều biến mất. Đến mười ba ngày sau Chiếu cùng hơn năm mươi vị Tăng đến Hang Kim cương Vô Trước thì thấy Đại Thánh ở đấy. Bỗng thấy đất đai mở rộng nghiêm tịnh lưu ly các báu làm thành cung điện, Văn-thù Phổ hiền cả vạn vị Bồ-tát Phật Đà-Ba-Lợi cũng ở trong đó. Thấy xong Chiếu theo chúng về chùa. Đêm ấy canh ba ở lầu Tây của viện Hoa Nghiêm lại thấy ở hang núi phía Đông chùa có năm ngọn đèn lớn hơn một thước. Chiếu lại nguyện chia làm trăm ngọn đèn rồi hợp lại thành một, lại nguyện chia làm ngàn ngọn đuốc rồi sắp thành các hàng ánh sáng chiếu vào nhau và ánh sáng phân tán khắp núi rừng đồng cỏ v.v… Chiếu lại đến trước hang Kim cương nguyện thấy được Đại Thánh. Vào đầu canh ba thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật-Đà-Ba-Lợi dẫn chiếu vào chùa. Đến ngày 1 tháng 12 ở Viện Hoa Nghiêm vào Đạo Tràng Niệm Phật trong khi quán niệm thì hai vị Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền bảo mình rốt ráo chứng Vô Thượng Giác, lại ghi mình niệm Phật Di-đà chắc chắn vãng sinh. Do đó ta nhất tâm niệm Phật Chánh niệm thì thấy một vị Tăng Ấn-độ vào chùa bảo rằng ông sinh vào đài hoa ở Tịnh-độ, ba năm sau ông đến sẽ nở ra nhưng việc ông thấy chùa Trúc Lâm sao không nói cho mọi người cùng biết. Chiếu nghe nhớ việc thấy xưa bèn gọi thợ khắc đá, chỗ thấy chùa Trúc Lâm xưa thì cất lên một ngôi chùa cũng tên là Trúc Lâm. Chiếu nói việc ta đã xong, ta há lại ở lâu cõi này ư? Qua mấy ngày sau thì mất suy ra đúng là ba năm như lời vị Tăng Ấn-độ nói. Thích Tự Giác: Sư là người ở Vọng Đô thuộc Bác Lăng. Năm mười tuổi thờ ngài Tri Khâm chùa Khai Nguyên ở bổn quận làm thầy. Khâm thấy chí ông khác thường bèn khiến đặt tên Tự Giác và nói chơi rằng nghe tên nghó ngợi mà vô ích ư? Giác thưa hạt giống Phật từ duyên khởi sao quên lời dạy dỗ. Niên hiệu Chí Đức thứ 2 đời Đường sư thọ Cụ giới, đi về phương Bắc đến chùa Linh Thọ Thiền Pháp mà rèn tập các kinh luật Đại Tiểu thừa. Lai so sánh nghó rằng việc đời lăng xăng ngày cả muôn mối, không bằng vào núi Thái Sơn cất lều tranh trên tảng đá lớn mà ở là đủ. Đầu niên hiệu Đại Lịch ông được Viện Trùng Lâm phía Tây Bình Sơn, Giác nói núi vắng không người phiền lự chẳng sinh, đất phiền lự không sinh đâu tuyên nói Phật giáo mà không người nghe, ắt có đạo quỉ thần ở đấy. Do đó Sư sớm chiều giảng nói cho các âm hồn suốt ba năm, năm năm trời hạn hán thêm nạn trộm cướp như ong vở tổ, lại khắp nơi in dấu cọp sói hổ báo Sư hái rau quả ngày ăn một bữa. Tiết Độ Sứ Hằng Dương là Trương Chiêu, lúc đó hạn hán nghe Giác siêng năng khổ nhọc có nhiều điềm lành, bèn đích thân vào núi thỉnh rằng: Chiêu tôi ít phước, họa đến trăm họ, suốt ba năm không mưa nên tự trách mình vô ích. Lại nói: Chiêu nghe Long vương nương Ngài nghe Pháp mà quên làm mưa, mong Ngài từ bi thương xót cứu giúp. Sư bèn đốt hương xa trông ao đầm mà khấn rằng: Chỉ có rồng làm mưa đất đai thấm ướt. Phút chốc thì mưa lớn ào xuống. Năm ấy dân Hằng Dương trúng mùa. Sư Giác từ khi vào Pháp đến nay có phát bốn mươi chín nguyện trong đó có một nguyện, là nguyện do Bồ-tát Đại Bi tiếp gặp được Phật Di-đà. Do đó quyên góp đúc tượng Đại Bi cao bốn mươi chín thước và xây chùa để thờ. Khi chùa thành thì Phật sự rất thanh hành. Trước tượng Đại Bi Sư cúi đầu than khóc rằng Thánh tượng đã thành, chùa tháp đã xong, nay nguyện nương Thánh lực mà sớm lên An Dưỡng. Đêm ấy vào canh ba bỗng có hai luồng ánh sáng màu vàng. Trong ánh sáng có Phật A-di-đà nương mây mà xuống, Quán Âm Thế Chí đứng hầu hai bên, Phật đưa tay vàng xoa đầu Giác nói: Chớ bỏ lợi vật làm đầu, ao báu được sinh ai không thỏa nguyện. Bỗng mây cuốn ánh sáng tắt không còn dấu vết gì. - Sau mười một năm ngày 15 tháng 7, lại thấy một người ở trên mây hiện ra nửa người giống như Tỳ-sa-môn gọi Giác bảo rằng hẹn về An Dưỡng nay đã đến, Giác đem việc đã thấy bảo đệ tử siêng năng mạnh mẽ đối với Pháp của Như lai không lười biếng. Rồi ở trước Tượng Đai Bi ngồi kiết già mà hóa. Biết đệ tử muốn đưa khám thờ về quê cũ khiến người trong châu khốn khổ, bèn dời tháp về phía Nam chùa Đại Bi. Thích Hoài Ngọc: Sư họ Cao, người ở Đan Khâu, chuyên tu Tịnh nghiệp suốt bốn mươi năm, mỗi ngày đọc niệm Phật A-di-đà năm vạn biến, tụng các kinh khác ba trăm vạn quyển. Niên hiệu Thiên Bảo đời Đường Năm thứ nhất ngày 9 tháng 6, Sư Ngọc đang niệm Phật bỗng thấy Thánh chúng Tây Phương số đông như cát sông Hằng, trong đó có một người tay cầm đài bạc trình ra trước Ngọc, Ngọc nói Hoài Ngọc tôi vốn mong đài vàng nay sao đưa đài bạc đến? Nói xong thì đài và người đều biến mất. Ngọc do đó càng cố gắng suốt hai mươi mốt ngày thì người đưa đài bạc trước lại đến bảo Pháp sư vì tinh khổ nên được lên Thượng phẩm, vãng sinh trước thấy Phật, nên ngồi kiết già mà đợi. Chưa dời gót thì thấy có ánh sáng lạ chiếu vào thất, Ngọc đưa tay nói với mọi người rằng: Chớ đụng vào ánh sáng ấy ta muốn đạp lên ấy mà đi. Ba ngày sau thì ánh sáng lạ lại hiện ra, đệ tử nghi Sư tạ thế bèn vây quanh hỏi, Ngọc nói: Không phải lúc, lại nói: Nếu các ngươi nghe có mùi thơm lạ thì ta mất. Hôm sau đệ tử là Huê Mạng hỏi: báo thân này mất rồi thì sinh về cõi nước nào? Ngọc không đáp chỉ viết sáu câu kệ rằng: Thanh tịnh sáng sạch không bụi nhơ, Hoa sen hóa sinh là mẹ cha, Ta trải nhiều kiếp tu đến nay, Chỉ bày Diêm Phù chán các khổ, Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp, Lìa hẳn Ta-bà về Tịnh-độ. Nói kệ xong thì mùi thơm bốn phía bay đến. Trong số đệ tử có người thấy Phật và hai vị Bồ-tát ngồi Đài vàng, bên Đài có trăm ngàn vị Hóa Phật từ Tây Phương đến rước Ngọc. Ngọc cung kính chắp tay mỉm cười mà hóa. Thích Tề Hàn: Sư tự là Đẳng Chí con của họ Thẩm ở Ngô Hưng, Cao Tổ là Trần Quốc Tử Tế Tửu, Tằng Tổ là tùy Ngụy Châu Tư Mã, Tổ Khảo thì không ra làm quan. Thuở nhỏ Hàn dạo chơi ở chùa đạp đất sạch không bụi liền biết có túc mạng thấy rõ chỗ sinh rõ ràng trước mắt, do đó đi xuất gia. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ tám đời Đường đến chùa Vónh Định ở Bổn Châu, năm thứ chín thì lên Ngũ Phần Đàn ở chùa Khai Nguyên. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ ba thì chuyển thuộc hai châu Võ Khâu, Đạo Tục ngày càng đến quy phục rất đông. Tánh Hàn không hay la rầy tiếng lành đồn xa. Ở riêng một nhà im vắng như không người, rất khổ nhọc chẳng bỏ thì giờ luống uổng. Rất rành rẽ kinh Pháp Hoa và các luật bộ, thông minh lanh lợi làm sáng nghiệp lành dắt dẫn kẻ hậu lai. Tất cả nghe thấy dầu có chút điều lành cũng đều quy về Tịnh-độ. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ mười sư bị bệnh vào Lưu Đạo Tràng lưu Thủy Niêm Phật, cảnh tượng Tịnh-độ một niệm liền hiện. Hàn ra khỏi Đạo tràng làm kệ rằng: Lưu Thủy động sóng gợn lăn tăn Chiếu nhau hề sáng báu tùy nương Cưỡi ánh sáng đi ra, phần ấy thuộc về ai? Ông mất ở phía Đông chùa Hổ Khâu, thọ sáu mươi tám tuổi, pháp lạp ba mươi sáu. - Trước đó, Hàn ra khỏi Đạo tràng làm kệ xong bảo đệ tử rằng: Thiên không thể bỏ, thời gian không thể mất. Các con nên bền chắc điều lành An Dưỡng. Đệ tử thưa: không dám quên. Hàn bảo Phật đạo không quên thì Đức các con nhờ đây mà thịnh. Có người hỏi: Hòa Thượng bỏ sinh sao còn bệnh? Hàn đáp: đến lúc từ biệt Thánh còn không khỏi huống chi là ta. Rồi nhìn về Thánh tượng mà mất. Thích Thần Hạo: Sư tự là Thường Khánh, họ Từ, trước là người Bắc Tần Tằng Tổ thờ nhà Trần do đó nhà ở đất Ngô Hạo tánh khí phóng khoáng thông minh, thuở nhỏ thờ Hoài Nhất trong Đạo tràng làm thầy. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ sáu vua ra chiếu mỗi quận độ Tăng ba người, xét về danh tiết Đạo nghiệp mà tiến cử lên, Hạo được cử đứng đầu. Hạo nương sư Đàm Nhất ở Cối Kê ở mà học thông Luật bộ. Rồi trờ về chùa Phước Nguyện ở Bao Sơn mà tiêu dao, được mọi người chí cao kính phục, danh vang một thời. Đầu niên hiệu Càn Nguyên đời Đường, vua ra chiếu hai mươi bảy chùa trong nước mỗi chùa chọn bảy vị Đại Đức Tăng thường giảng giới luật, Hạo vàng chiếu. Thứ Sử Khai Châu là Lục hướng, Cấp Sự Trung Nghiêm làm đệ tử. Lễ Bộ Thị Lang Lưu Thái Chân, Đại Lý Bình Sự Trương Tượng Liêm Sử Lý Quân đều khâm phục phong đức của Sư. Cuối đời sư cùng kết Tây Phương Pháp Xã để phát triển Đạo Tục lúc đó có nhiều người không thể lánh Trần lự để tịnh sáu căn, thường lui sụt. Có người cho rằng vì trong rừng các cây chiên đàn tự khô – Niên hiệu chân Nguyên năm thứ 6 tháng 10, Sư bị bệnh, ngày 5 tháng 12 Sư dặn dò đệ tử là Hoài Lượng rằng: Đêm nay ta sẽ mất, ước nguyện là sinh Tịnh-độ con nên sắp bày Chín Phẩm để dẫn dắt ta. Chiều đó các điềm lành ngầm hiện. Hạo tắm gội thay áo rồi tịch. Tịch rồi ba ngày sau trong thất vẫn còn mùi thơm lạ. Thích Thiếu Khang: Sư họ Chu, người vùng Tiên Đô thuộc Tấn Vân. Mẹ họ La, khi mang thai Sư mộng thấy dạo chơi núi Đảnh Hồ được Ngọc Nữ trao cho cành hoa sen xanh bảo: Hoa kiết tường này trao ngươi sinh quý tử. Đến khi sinh ra Sư thì ánh sáng xanh đầy nhà, mùi thơm giống như hoa Phù Dung. Lúc còn bé mắt xanh môi đỏ khác thường. Lại khi sinh ra về sau không hề lên tiếng. Thầy tướng bảo đứa bé này hiếm lạ khó lường, chi việc không nói thì ta không biết. Đến bảy tuổi, mẹ vào chùa Linh Sơn ở quận nhà, lên điện chỉ điện Phật hỏi đùa rằng: Con có kính Phật chăng? Khang nói: Phật Thích-ca ai chẳng kính. Người nghe lấy làm lạ vì từ lúc sinh đến nay chưa từng nói. Cha mẹ do đó cho đi xuất gia. Năm mười lăm tuổi đã tụng được năm bộ kinh Pháp Hoa, Lăng-nghiêm v.v… Liền tìm đến chùa Gia Tường ở Việt Châu nghiên cứu Tỳ Ni. Sau đến chùa Long Hưng ở Thượng Nguyên nghe kinh Hoa Nghiêm và luận Du-già các . Đầu niên hiệu Chân Nguyên đến chùa Bạch Mã ở Lạc Hạ, thấy trong điện thờ các sách vở phát ra ánh sáng. Khang bất ngờ rút ra một quyển thì đó là Văn dạy về Tây Phương của ngài Thiện Đạo thuở xưa. Khang nói nếu tôi có duyên với Tịnh-độ thì khiến cho bản văn này phát ra ánh sáng. Lời nguyện chưa dứt thì thấy ánh sáng chói lòa. Khang nói kiếp đá có thể dời chứ nguyện tôi không đổi. Bèn đi về phía Nam đến Trường An ở trước ảnh đường của ngài Thiên Đạo mà trình bày cúng lễ. Khi mới cúng lễ thì thấy di tượng ngài Thiện Đạo bay lên hư không bảo Thiếu Khang rằng: Ngươi theo việc ta lợi lạc hữu tình ắt công phu của người sẽ đồng sinh An Dưỡng. Khang nghe lời ấy như có chỗ chứng. Bèn đến chùa Quả Nguyện ở Giang Lăng, giữa đường gặp một vị Tăng bảo: Ông muốn hóa độ người hãy đến Tân Định. Nói xong thì biến mất. Khi đến quận lục, người ở đấy chưa theo sự hóa độ của Sư, Khang bèn xin tiền đem cho con nít dụ bảo: Phật A-di-đà thật là thầy con, nếu con niệm một câu ta cho một đồng. Trẻ con ham tiền cùng đua nhau niệm. Hơn một tháng trẻ con niệm Phật đợi tiền càng nhiều. Sau đó lại bảo niệm mười câu mới cho một tiền, trẻ con từ chợ đến thôn quê đều như thế. Được một năm thì trai gái lớn nhỏ sang hèn hễ thấy Thiếu Khang thì đều niệm A-di-đà Phật. Cho nên người Lục Thành cùng nhau niệm Phật đầy đường. Niên hiệu Chân Nguyên năm thứ mười, Khang ở núi Ô Long lập Đạo Tràng Tịnh-độ, xây Đàn ba tầng tập họp người ngày đêm hành đạo. Lúc đó Khang lên tòa cao khiến nam nữ nhìn mặt Khang rồi lớn tiếng niệm Phật A-di-đà cả chúng cùng lớn tiếng họa theo. Đến khi Khang niệm thì thấy từ miệng hiện ra một Đức Phật, niệm liền mười câu có mười Đức Phật liền nhau như xâu chuỗi. Khang hỏi các vị có thấy Phật chăng? Người thấy Phật thì chắc chắn sinh Tịnh-độ, người Lễ Phật cả mấy ngàn người, rốt cuộc cũng có người không thấy. Ngày 3 tháng 10 niên hiệu Chân Nguyên 21, Khang dặn dò Đạo Tục phải khởi tâm tăng tấn với An Dưỡng và chán sợ cõi Diêm-phù-đề cầu mong thoát ly. Lại nói: Các con lúc này thấy ánh sáng mới thật là đệ tử ta rồi. Liền phóng ra mấy luồng phát ánh sáng la mà viên tịch. Tháp Sư xây ở phía Đông ngọn Đài Tử ở Vu Châu. Niên hiệu Càn Hựu năm thứ 3 đời Hán Thiền sư Đức vận ở Thiên Thai xây mới lại, nhiều người bây giờ chỉ vào tháp ấy cho là con cháu cua Thiện Đạo. Thích Tri Huyền: Sư tự là Hậu Giác, họ Trần, người ở Hồng Nhã thuộc Mî Châu mẹ họ Ngụy, mộng thấy mặt trăng chui vào bụng do đó mà mang thai. Lúc còn bú hễ thấy Phật thì mừng, năm tuổi nghe ông nội vịnh hoa thì lên tiếng mà đến. bảy tuổi gặp Thái Pháp sư ở chùa Ninh Di giảng kinh Niết-bàn. Huyền vào chỗ giảng bày như thấy nhân trước. Đêm ấy mông thấy Phật đưa tay xoa đầu, bèn xuất gia. Năm mười một tuổi cạo tóc đến chùa Tây An ở Đường Hưng truyền Đại Kinh bốn mươi ba quyển, Viễn Sư nghóa sớ nêu ý chỉ sư một trăm hai mươi lăm vạn lời chỉ trích Tăng đồ làm cảm động lão thành. Lúc đó Thừa Tướng Đỗ Nguyên Dónh trấn thủ Tây Thục nghe danh Huyền liền mời Sư giảng ở gác Phổ Hiền chùa Đại Bi thì cả đạo tục mỗi ngày đến mấy vạn chú tâm lắng nghe khen mãi không ngớt. Người Hậu Thục không dám gọi đích danh chỉ gọi là Trần Bồ-tát. Huyền ở chùa Tịnh Chúng nghe Tỳ-ni, thông cả Câu-Xá. Trú chùa Tư Thánh ở Thần Kinh. Chùa này là nơi hội họp của người bốn biển ba học, Huyền ở đó luận giảng tăng tục kính mến ngày càng đông đảo. Vua Văn Tông nghe tiếng bèn mời vào cung hỏi han rất hợp ý vua. Sau sư học Luận Duy Thức với An Quốc Tín Pháp sư đến như kinh sách ngoại điển của trăm nhà Hiền triết đều bao gồm. Có điều là tiếng không thông chẳng thể giảng nói. Bèn đến núi Tượng Nhó tụng Chú Đại Bi. Đêm nọ Huyền mộng thấy Thần Tăng cắt lưỡi mình đổi cho lưỡi khác. Sáng hôm sau bỗng nói thông tiếng Tần. Lúc đó Dương Hình Bộ Nhữ Só Cao, Tả Thừa Nguyên Dụ, Trường An Dương Lỗ Só… đều đến cửa Sư xin kết Liên Xã. Vua Võ Tông đầu niên hiệu Ngự Vũ, trước rất cung kính Phật giáo, sau nghe Phù Nghị cúng tế Bồng Lai, xây Phong đài để vũ hóa. Tuy Gián Quan dâng sớ chống lại nhưng vua không đổi ý. Huyền soạn sách có năm Thiên, Thiên cuối nói rằng sinh lên trời vốn là do nghiệp sinh lên trời, chưa ắt cầu Tiên mà được thành Tiên, Rồng Hạc gặp nguy cũng rớt, còn quân vương cao lắm là một ngàn năm. Vua xem thơ chỉ hiểu chút chút. Đến khi vua đuổi hết Tăng Ni hoàn tục, thì Huyền trở về núi cũ Ba Mân giới hạnh càng tinh chuyên. Ở chùa Khai Nguyên, vua Tuyên Tông Long Phi Dương cùng hội họp định cộng lao, bèn xin phục hưng Phật giáo, lại hỏi tung tích của Huyền. Do đó Huyền lại làm Tăng nghỉ ở chùa Bảo Ứng. Các quan tân bổ Sư làm Thủ tọa Tam giáo, vua mời sư đến ở chùa Pháp Càn. Niên hiệu đại Trung năm thứ ba, Tuyên Tông Đản Tiết ra chiếu cho Gián Nghị Lý Di, Hệ Cấp Sự Dương Hán Công cùng Huyền ba người nghị luận, huyền tâu vua Thiên hạ bỏ chùa nay cho đại phục hưng chùa Tháp, Huyền có công lớn. Vì Huyền tài trí sâu rộng nên vua cho thợ vẽ hình Sư để trong cung cấm. Lúc đó tướng Quốc Bùi Công Hưu làm bạn thân với sư cũng mạnh dạn trùng hưng giáo Pháp. Niên hiệu Quảng Minh năm thứ hai, vua Hy Tông lánh nạn ở Tây Thục sai Quách Tuân Thái, mang ấn dấu cũ Thư ra chiếu Huyền cùng đi. Huyền đến thừa cơ biện luận vui ý vua. Các quan đều khâm phục Huyền hỏi Đạo quên sớm chiều. Vua muốn ban cho cờ xí để biểu đức, ra chiếu các Học Só chọn Hiệu cho Huyền. Cuối cùng vua ban hiệu là Quốc Sư Ngộ Đạt. Một năm sau sư xin về quê cũ là Cửu Lũng để nối nghiệp Tịnh-độ. Vua chấp thuận. Năm sau, ngày 21 tháng giêng sư bị bệnh thấy cảnh đã dạo chơi hiện rõ trước mắt. Sư bèn dậy đốt hương hướng về Tây khấn rằng: Tuy cảnh tượng đó nhưng không đúng ý, nếu được thấy Tịnh-độ thì ắt mãn nguyện. Nói xong thì trên hư không có tiếng nói rằng: Hạnh Nguyên của ông chắc chắn sinh về An Dưỡng sao nguyên không mãn. Huyền nghe rất vui mừng bèn bảo đệ tử là Từ Đăng dâng biểu lên vua, lại bảo Đăng rằng: Ta tu Tịnh-độ được một năm, hôm nay được Ta nguyện xưa đã xong, rồi nằm nghiêng bên hông phải vui vẻ mà mất, thọ bảy mươi ba tuổi. Thích Tăng Tạng: Sư là người Tây Hà không biết họ, tánh hiền từ không tranh giành với ai, thấy người già thì kính, gặp bậc có Đức thì trọng, hễ gặp khổ nhọc thì ở trước mọi người niệm Phật A-di-đà suốt 20 năm miệng không hề nói điều quấy ác. Thường mong cho mau ra khỏi ba cõi không có gì hơn niệm Phật, cho nên đi đứng nằm ngồi ăn uống ngủ nghê đều nghó đến An dưỡng. Trong niên hiệu Càn Phù Đời Đường Hy Tông Sư bị bệnh thấy Hóa Phật Tịnh-độ chiếu sáng thân mình. Người hầu bệnh ở bên Tạng, Tạng bảo tự nghó từ nhiều kiếp đến nay đã chứa nhóm nhiều tội lỗi như số cát bụi. Nay Thánh Chúng riêng chiếu sáng thân ta, đây là Tịnh-độ giáo chủ Đại Từ nhiếp ta. Ngày hôm sau lại gọi vị Tăng bảo rằng: Tôi nhắm mắt thì thấy các bậc Thượng Thiện ở Tịnh-độ đón rước, tôi đến các vị ấy đều mừng rỡ và rải hoa cho tôi. Chưa xong bữa ăn lại bảo: Các Thượng Thiện Nhân mời tôi và tôi đi đây. Rồi ngồi dậy đắp y ngay ngắn về hướng Tây mà hóa. Thích Đại Hành: Không rõ họ. Niên hiệu Càn Phù đời Đường giặc giả bức hiếp dân, ông phải ở trên núi Thái Sơn kết cỏ làm áo, hái rau mà ăn, thực hành sám Pháp Hoa Phổ Hiền đã ba năm hết mực tinh thành, cảm được Đức Phổ Hiền hiện thân, thấy rõ nhân lớn đời trước, do đó mà cố gắng các niệm, nghó Pháp Như lai vẫn còn, nghó mình tu chưa chứng, sớm chiếu cố gắng quên cả ăn uống. Chưa được một năm vì Phật đạo chỗ tu chưa chuyên nhất một cảnh, lại vì huyễn thân vô thường sẽ bị hư rã, biết đời sau sẽ sinh về đâu. Bèn vào Đại Tạng hết sức tha thiết bày tỏ rằng: Con nguyện tin tưởng lấy được kinh văn nào thì thọ trì mãi mãi. Rồi bất chợt lấy một quyển chính là kinh Di-đà. Bèn ngày đêm trì tụng không dứt cầu sinh An Dưỡng. Chưa được hai mươi mốt ngày vào khoảng nửa đêm bỗng thấy đất lưu ly hiện ra trước mắt thì tâm nhãn rỗng suốt, thấy Phật Di-đà và Quán Âm Thế Chí, vô số Hóa Phật. Lúc đó xa gần truyền nhau sự việc. Vua Hy Tông ban chiếu mời vào nội cung hỏi mọi việc. Sư thưa đây chỉ cần tinh tấn, vua bèn ra sắc ban hiệu là Bồ-tát Thường Tinh Tấn, ban chức là Khai Quốc Công. Một năm sau, Sư bị bệnh, thấy đất lưu ly lại hiện. Sư nói: Ta không có tưởng mà đất lưu ly lại hiện há An Dưỡng chẳng có duyên ư? Ngày ấy, Sư tịch ở thiền thất. Thích Duy Cung: Chẳng rõ Sư người ở đâu, xuất gia tại chùa Pháp Tánh ở Kinh Châu. Sư khinh trên hiếp dưới làm thân với kẻ vô loại. Lúc rảnh rang thì tụng kinh cầu sinh An Dưỡng. Đám bạn rượu thịt bài bạc thường nhóm họp ở trước cửa hư cuồng bảo làm tăng chẳng có ngày bỏ không. Ở phía Đông chùa có tăng Linh Vị là người ở Kinh Châu thường nói đùa rằng: Linh Khuy làm hết nghiệp, Duy Cung tiếp dấu tích địa ngục ngàn vạn lớp, không chán kẻ chui vào. Cung nghe và nói: Ta đã làm thì cũng tránh được là nhờ có Giáo chủ Tịnh-độ thương ta gây ác mà cứu ta khổ sở. Chống cự không có địa ngục để vào. Niên hiệu Càn Ninh năm thứ hai đời Đường, Duy Cung bệnh chết nhưng chưa ai biết lúc đó khuy ra khỏi chùa khoảng trăm bước, giữa đường gặp sáu, bảy người trẻ tuổi áo quần đẹp đẽ, tay cầm nhạc khí như ở nước Quy-tư khuy nghi là họ đến chùa trỗi nhạc cúng Phật. Hỏi từ đâu đến, bảo từ Tây đến. Lại bảo rằng chúng ta đi đây, có người đợi. Lại hỏi Thượng nhân Duy Cung ở Chùa nào? chỉ tay nói: Đây là chùa ông ta, đây là phòng của ông ta. Người trẻ tuổi nghe xong rất mừng rỡ, lấy trong bụng ra một bình vàng, trong bình có một hoa sen còn búp như nắm tay, từ từ nở ra to bằng cái chậu, ở dưới những cánh sen có ánh sáng lạ màu sắc chiếu nhau như mấy cụm đèn, chạy mau đến chùa, chưa đến chùa bỗng biến mất. Khuy kinh hãi chẳng dám nhìn lại cũng chẳng nói với ai. Hôm sau Khuy trở về đến cửa chùa thì nghe tiếng chuông, lại thấy Tăng trong chùa đều nhóm họp dưới cửa hỏi thì bảo Duy Cung đã mất từ đêm qua. Có người nói khi Cung chết thì tăng trong chùa có người mộng thấy hoa sen có ánh sáng đến nhà, hồi lâu mới về Tây. Khuy bèn kể việc mình nghe thấy, càng đáng tin. Người làng có kẻ đem việc khuyên gắng Khuy, Khuy nhân đó cảm ngộ giữ danh tiết mà thành Cao tăng. Thích Hồng Cử: Sư họ Đường, người ở Vónh Gia, xuất gia tại chùa Long Hưng ở Cối Kê, đến học tại chùa Bảo Hưng ở Trường An. Người Trường An thấy tăng môn không ai đẹp lạ bằng Cử, mà Cửû thì không lấy làm tự đắc. Cử từng cùng Thái Khuê ở Trần Lưu đến chơi tại chùa Hóa Độ, trong chùa có văn bia, Cử đọc mắt nhìn mấy hàng. Khuê làm lạ hỏi ông đọc thuộc lòng được ư? Củ nói mới đọc lần đầu thôi nhưng biết văn không sai. Khuê nghi là Cử may đã thuộc. Khi đến chùa Sùng Thánh thì có khoảng mười tấm bia, Cử cũng chỉ đọc qua một lần thì cũng thuộc làu như trước. Khuê khen nói ta nghe có người tài giỏi nhưng mắt chưa thấy, nay thấy ở ông. Củ không đáp. Tuổi về già đến xứ Việt, tăng ni ở Việt thỉnh làm y chỉ cho hai chúng hạnh làm và nơi đến đều nuôi dưỡng Từ Nhẫn không hề mắng người là mèo chó. Sư thường tụng Quán Kinh kết tưởng An Dưỡng, nhiều lần cảm được điềm lành nhưng không nói. Niên hiệu Thiên Thành năm thứ ba đời Hậu Đường sau một cơn lũ dân chúng đói kém khổ sở có tên trộm lẽn vào nhà, sư gọi trộm bảo các ngươi gặp tai trời mà khốn khổ, người khác cũng như vậy, vượt qua lúc này, nên tự mình thương tiếc, tên trộm hổ thẹn. Đệ tử muốn may áo kép cho sư nhưng sư không mặc, bảo: các ông chẳng phải là đệ tử của ta, ta phải bỏ mà đi. Đệ tử bèn thôi. Niên hiệu Trường Hưng năm thứ tư đời Hậu Đường , sư điềm nhiên không bệnh mà gọi đệ tử bảo rằng: Thắng Tướng Tịnh-độ đã đến, ta sẽ tạ thế. Các con phải thay áo mới cho ta để xong việc. Canh ba đêm ấy quả nhiên sư tạ thế. Quan tài Sư để ba ngày, một tối nghe có tiếng gõ áo quan. Đệ tử mở ra thì Củ ngồi dậy nói ta bảo các ngươi thay áo mới cho ta nhưng các ngươi không làm. Nay hải Chúng bảo ta áo không sạch có người khó gần gũi. Ta về đây để các ngươi thay áo. Thay xong thì nằm chết như trước. Thích Chí Thông: Sư họ Trương, người ở Phù Phong. Cuối đời Hậu Đường, ngày binh lửa Sư tìm chỗ ở không nhất định, than thở buồn trách. Sau đó dạo đến Lạc Hạ gặp ngài Tam tạng Phược-Nhật-la hành Du-già giáo bèn bảo: Đây là Mật Tạng của Như lai ta không truyền là lỗi ở ta. Bèn xuống tóc thờ thầy truyền cho Mật tạng, suốt mười năm không chút biếng lười. Lại muốn đến Thiên Thai sang La Phù, bèn từ giã Tam tạng, Sư nói binh lửa chưa yên, con có nam chinh thì lại càng khó khăn cách trở. Thông nói: Có hố trời sao cách trở được. Tạng nói: Nếu Ngô Hội có thể trao cho Phạm Văn, gặp lúc có thể truyền dịch thì ta cũng xong việc. Rồi trao cho Phạm Văn. Niên hiệu Thiên Phước đời Thạch Tấn năm thứ tư, được Văn Mục Vương ở Tiền Đường vãng mạng triều đình vốn có đầy đủ oai nghi Lạc Bộ ra đón về ở chùa Tháp Chân Thân. Không bao lâu thưa hỏi Thiên Thai, do đó lên Xích Thành đến Hoa Đảnh, khi thấy Nghi Thức Tịnh-độ của Trí Giả thì mừng vui khôn xiết, không xoay về hướng Tây khạc nhổ, không ngồi xoay lưng về Tây. Thiên Thai có ngọn Chiêu Thủ cao chót vót nhìn xuống cả ngàn tầm. Thông leo lên đảnh bảo rằng: thân ở cảnh này không bằng bỏ báo thân này, mà thấy Phật, ngày khác đâu kịp. Bèn hướng về Tây nhắm mắt tự bày Đại Nguyện và nghó đến nhân địa của Di-đà mà phát hạnh nguyện. Nguyện xong liền gieo mình xuống, đến nửa chừng như có vị thần nâng đỡ nhánh cây nên thân thể không tổn hại. Thông bảo sao còn sống? Lại chỉnh tâm chánh ý trèo lên ngọn tự bảo đời này đã chán, đại nguyện đã phát, cúi mong các hải chúng tiếp dẫn. Khiến thân này không còn sống nữa. Rồi gieo mình xuống. Nhưng lại rơi trên đám cỏ non, giây lâu tỉnh lại. Tăng trong chùa nghi Thông đi đâu có lẽ bị cọp sói hại đi tìm thì thấy xả thân, chúng bèn khiêng về Đạo tràng trị bệnh. Niên hiệu Thiên Phước năm thứ sáu đời Thạch Tấn thỉnh đến núi Pháp Hoa ở Việt Châu. Năm thứ bảy khi sắp muốn quy tịch, Thông thấy bầy hạc trắng, chim công đi bốn phía, lại thấy hoa sen phát ra ánh sáng khép mở ở trước mắt. Thông nói: Hạc trắng chim công là cảnh Tịnh-độ, hoa sen phát sáng là nơi gá sinh. Tịnh-độ sắp đón ta? Bèn ngồi dậy lễ Phật ở trước Phật mà hóa. Khi trà- tỳ thì có mây năm màu che phủ trên đống lửa ở núi Pháp Hoa, các tăng đều nhìn thấy. Thích Thiệu Nham: Sư họ Lưu, người ở Ung Châu. Mẹ là người họ Trương mang thai Sư mộng thấy nhiều điềm kỳ lạ. Khi sinh ra thì hình dung khôi ngô, mười tám tuổi thọ Cụ túc giới với Luật sư Hoài Huy bèn tìm đến Ngô Hội ở các núi Tứ Minh, Thiên Thai, nghiên cứu các kinh Phương Đẳng trong mười năm. Từng cùng Đức Vận Thiền sư quyết nghi, ở Văn Ích tại Lâm Xuyên, sư đã được tâm. Nhân đó nghỉ tại chùa Hồ Tâm ở Tiền Đường chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Từng nói: Nguyện tụng kinh này một vạn bộ cầu sinh An Dưỡng. Ngày đêm siêng năng cảm được đất liền mà mọc hoa sen. Cả thành đều kính trọng, người ngựa chen dấu ồn ào đến với nhau. Niên hiệu Kiến Long năm thứ 2 đời Đại Tống, thệ nguyện sẽ đốt thân cúng dường Phật Di-đà và hải Chúng thanh tịnh. Ngô Việt Quốc Vương họ Tiền khổ công khuyên can, thì tạm ngưng. Sau đó lại gieo mình ở giữa sông Tào Nga để làm thức ăn cho rùa cá, lại được cá cứu sống. Khi cá cứu tự biết có vật nâng chân mình vượt sóng đi thẳng lên. Họ Tiền nghe nói càng thêm kính mến, lập viện Tịnh-độ ở chùa Bảo Tháp tại Hàng Châu mời Sư ở. Ngày 9 tháng 7 Niên hiệu khai Hoàng 4 Sư bị bệnh, nằm thấy hoa sen có ánh sáng chiếu vào thân, nhân làm mấy bài kệ để chỉ bày cho môn đồ. Lại nói ta tụng Liên Hoa muôn bộ hẹn, một ngày Liên Đài chín phẩm thác sinh. Nay ta chưa chết Liên Đài đã đến trước, nhân tu há trái, ba ngày sau khi sắp mất tâm vui vẻ tự đắc. Thích Thủ Chân: Sư người ở Vạn Niên thuộc Vónh Hưng, họ Kỷ trong niên hiệu Càn Phù đời Đường, Tằng Tổ từng làm quan ở Thục bèn thành người Thành Đô. Lúc tuổi đôi mươi, Sư dạo chơi chùa Thánh Thọ thấy Thiền sư Tu Tấn lập hạnh cẩn thận bèn than: Ta bỏ người này thì còn ai là thầy nữa? Bèn bỏ mũ thờ thầy, rồi tìm đến Lãng Sư học Luận khởi Tín, tánh Quang truyền cho Pháp Giới Quán và được yếu chỉ. Sau đó hoằng hóa Thắng Nghiệp (Tịnh-độ) hơn bốn mươi năm. Trước sau chỉ dạy chăm chăm như một. Giảng Khởi Tín và Pháp Giới Quán hơn bảy mươi lượt. Người nối Pháp của Sư đến hai mươi người. Sư khai Đạo tràng Quán Đảnh năm lần, Đạo tràng Thủy Lục hơn hai mươi lần, tăng ni theo thỉnh Pháp hơn ba ngàn người. Thường vào canh ba sư luân kết Vô Lượng Thọ Vãng Sinh mật ấn, đến canh năm thì luân kết Văn-thù Ngũ Kế Thần Chú. Ngày 5 tháng Trọng hạ Niên hiệu Khai Bảo thứ 3 khi đang luân kết thì tự biết thân mình lên nước Vô Lượng Thọ mở mắt thấy Phật, Phật chỉ hoa sen trong ao báu, hoa này ngày nọ làm cha mẹ, ngươi nên giữ gìn đừng để cho héo. Niên hiệu khai Bảo năm thứ tư thì sư gọi đệ tử là Duyên Ngộ bảo rằng Như lai không sinh tử Vô thường ư? Tuổi ta, tuổi về già ta muốn thuận theo thế tục mà xây hai ngôi Tháp được chăng? Ngộ thưa lệnh của thầy phải vâng. Năm ấy ngày 5 tháng Mạnh Đông khởi công, ngày 30 tháng Trọng Đông thì hoàn thành. Ngày kế sư mời Tăng trong chùa và đệ tử rằng: vì khổ sáu đường lên xuống bởi nhân vạn nghiệp luân lưu. Nhân đó khiền đồng niệm A-di-đà Phật, kế tán tụng. Sư ở trước tượng Di-đà khấn rằng: Nguyện Phật bốn mươi tám nguyện độ hữu tình chúng con, đối với nguyện không sai trái. Nguyện xong cầm hương hoa trước các Điện Đường đều cúng dường nguyện được như trước. Rồi hỏi canh ba ư? Đệ tử thưa đúng là canh ba. Bèn ngồi im dứt hơi mà mất. Thích Ngộ Ân: Sư tự là Tu Dó, người ở Thường Thục thuộc Cô Tô. Mẹ là người họ Trương đã từng mộng thấy vị Tăng Ấn-độ gọi bảo: “ta muốn nhờ ngươi làm mẹ” rồi bà có thai. Thuở nhỏ Sư không thích chơi giỡn. Năm mười ba tuổi nghe tăng tụng kinh Di-đà bèn xin xuất gia. Trong niên hiệu Trường Hưng đời Hậu Đường Sư cạo tóc về sau nương chùa Tuệ Tu ở Côn Sơn rộng học năm Bộ Luật Văn. Niên hiệu Thiên Phước đời Tấn theo ngài Linh Quang Hạo Đoan nghiên cứu các kinh hiểu rõ ý chỉ. Tuy Thiên Thai có nghóa ba quán sáu Tức chưa nghiên cứu nhưng đã ngầm hiểu. Về già nương sư Chí Nhân ở Tiền Đường mà thông suốt các Bộ Đại Kinh như Pháp Hoa, Kim Quang Minh v.v…, các học giả đều khâm phục gọi là Nghóa Hổ. Sư bình thường rất khiết khổ, ngày ăn một bữa, chẳng chứa của dư, chẳng mặc áo dài. Khi Bồ-tát chúng Tăng nhóm họp đầy đủ mới Bố-tát. Thường xem Tịnh-độ là Thắng Nghiệp. Đêm 30 tháng 8 Niên hiệu Ung Hy năm thứ ba đời Tống, sư thấy mấy luồng ánh sáng từ giếng phóng lên thường tắt cháy, liền bảo môn nhân ánh sáng chớp tắt là biểu hiện sinh tử. Bèn tuyệt thực cấm khẩu nhất tâm niệm Phật. Ba ngày sau thấy một vị Tăng Ấn-độ thân hình rất cao lớn bưng lư hương đi nhiểu quanh thất ba vòng. Sư hỏi Tăng nói ta là Quán Đảnh sanh lên Tịnh-độ đã lâu, vì ngươi tu đồng chí ta nên ta đến chào. Lát sau đệ tử đến thì vị tăng biến mất. Hôm sau lên tòa kể việc thấy và vì đệ tử giải rõ chỉ quán và yếu nghóa các kinh khác, nghóa lý rất thông suốt. Sư nói nháy mắt tất khó bảo toàn xưa nay thường nói thế, nhưng ta có thể bảo đảm hôm nay. Ngày ấy ngồi mà mất tại Giảng Đường Chỉ Quán. Đến nửa đêm Tăng trong chùa là Văn yển nghe trên hư không có tiếng nhạc đi dần về Tây, bèn kể lại. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 187