<經 id="n2065">TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG Ở HẢI ĐÔNG (QUYỂN 1 ~ 2) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG Ở HẢI ĐÔNG Sa-môn Giáo học được ban tặng y tía là Thích Giác Huấn, trụ trì chùa Linh Thông, núi Ngũ Quan thuộc Kinh bắc vâng chiếu tuyên soạn. <詞>LỜI TỰA Luận rằng: Giáo lý của Phật-đà, tánh tướng thường trú, Bi nguyện sâu rộng, cùng khắp ba đời, khắp mười phương, đượm nhuần như sương móc, vang rền như sấm sét. Không đi mà đến, chẳng gấp mà nhanh. Năm mắt không thể thấy được tôn dung, Bốn biện chẳng thể bàn hình trạng. Về mặt thể thì không đến không đi, về mặt Dụng thì có sanh, có diệt. Nên Đức Thích-ca Như lai của ta từ cung trời Đâu-suất nương lầu gác chiên đàn, gá thai Hoàng hậu Ma-da, ngày mồng tám tháng tư năm Giáp Dần-thời Chu Chiêu Vương, sanh ra từ hông phải, đản sanh tại cung vua Tịnh Phạn. Đêm đó, hơi sáng năm mầu vào suốt đại vi, cùng thông khắp phương tây. Vua Chiêu Vương hỏi Thái sử Tô Do, Tô Do đáp:“ Có bậc Đại Thánh đản sanh ở phương Tây”. Chiêu Vương hỏi:“Có lợi hay hại?” Tô Do đáp:“Lúc này không sao, nhưng ngàn năm sau, Thanh giáo sẽ truyền khắp xứ này (= Trung Hoa). Ban đầu, Thái tử sống ở trong cung cũng như người thế tục. Ngày mồng tám tháng tư năm Giáp Thân, năm thứ bốn mưoi hai Thái Tử vừa tròn ba mươi tuổi, vượt thành xuất gia, ngồi dưới gôc cây thành tựu Đạo Quả, nói pháp lợi sanh. Như hoa Ưu-đàm qua nhiều kiếp mới xuất hiện một lần. Đầu tiên, Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm, kế đến nói các pháp Tiểu thừa, rồi nói kinh Bát-nhã, giải thâm mật, Pháp Hoa, Niết-bàn v.v.., tùy cơ trùm khắp, theo vật mà vuông tròn. Tợ như một luồng gió thoảng mà muôn lỗ đều kêu, một bóng trăng lẻ loi mà ngàn sông đều hiện. Suốt bốn mươi chín năm cứu giúp chúng sanh. Đó là chỗ mà Liệt tử gọi là:“Ở Tây Phương có bậc Đại Thánh” vậy. Bấy giờ Văn-thù; và Mục-liên là hóa nhân cũng noi theo đến Chấn Đán. Năm bảy mươi chín tuổi, Đức Phật nhập Niết-bàn tại Quỳnh Lâm vào ngày mười lăm tháng hai năm Nhâm Thân ( )- thời vua Mục Vương. Hôm đó mười hai lằn cầu vồng suốt đêm không tan. Mục Vương hỏi Thái Sư Hỗ-đa, Hỗ-đa đáp:“ Ở phương tây có Bậc Đại Thánh mới diệt độ!” Từ đó, Tôn giả A-nan v.v… kết tập lời vàng, ghi trên đá bối Diệp. Kinh luật luận, giới định tuệ, bắt đầu lưu hành, nhưng thuyết hoa tạp thường hằng, ẩn vào cung rồng, tà tông thịnh hành, dị Bộ phát triển. Đã vậy nên, Mã Minh dựng cao sanh trội, cho đến Trần Na, Hộ Pháp người xướng kẻ hòa. Dẹp tà hiển chánh, diễn nghóa bày tông, ban rải khắp vùng Tây Vực, sẽ có đợi chờ mà truyền sang Đông độ vậy. Sau Phật diệt độ một trăm mười sáu năm, tại Đông Aán-độ, có vua A-dục, thâu nhặt xá-lợi Phật. Sai sứ quỷ binh xây dựng tám mươi bốn ngàn ngôi tháp báu khắp cõi Diêm-phù-đề. Bấy giờ là năm Đinh Mùi thời vua Chu Kính Vương, năm thứ hai mươi sáu. Tháp báu được xây khắp cùng mọi nơi, trải qua hai mươi hai đời vua, đến thời Tần Thuỷ Hoàng năm thứ ba mươi bốn (212 TCN) thiêu đốt sách vở, các tháp báu của vua A-dục do vậy mà ẩn mất. Bấy giờ, có Sa-môn Lợi Phương cùng mười tám vị hiền giả mang kinh Phật đến hoằng hóa ở Hàm Dương, Tần thỉ Hoàng chẳng những không theo mà còn bắt giam họ. Đến tối có người bằng Kim Cương phá ngục, dẫn các vị ấy đi, vì có duyên chưa chín muồi. Đến thời Hậu Hán, năm Vónh Bình thứ mười hai (7 0), hai Tôn-giả Ma-đằng và Trúc Pháp Lan đến đất Hán. Mây lành rãi khắp chín châu, mưa rưới khắp cùng bốn biển. Nhưng theo truyện“Hoắc Khử Bệnh” nói rằng:“Được nghỉ Đồ Vương cúng tế người vàng thì tượng thiết bày tợ như trước vào nơi sa mạc vậy. Lại nữa, vào thời vua Ai Đế đời Tiền Hán ( 0 6-01 TCN), Tần cảnh đi sứ nước Nguyệt-chi lại truyền kinh giáo Phật-đà. Vậy mới biết rằng trong thời Tiền Hán đã có lưu hành. Đến đời vua Minh Đế thứ sáu mươi ba ( 5 8-76 SCN) thời Hậu Hán mới cảm mộng người vàng. Còn như ở Hải Đông ta đây, thì trong thời Giải Vị Lưu Vương ở Cao-cú-ly, Thích Thuận Đạo đến thành Bình Nhưỡng, kế đến, có Ma- la-nan-đà từ Đất Tần đến nước Bách Tế, thì vào đời vua Chẩm Lưu. Về sau, ở Tân-la, đời vua Pháp Hưng thứ hai mươi ba, tương đương với niên hiệu Đại Thông thứ nhất (5 2 7) ngày mười một tháng ba năm Đinh Mùi, A Đạo đến dừng chân ở huyện Nhất Thiện, nhân đó ẩn cư tại nhà tín só Mao Lễ, gặp sứ giả Đất Ngô, A Đạo chỉ bày cho cách châm đốt hương, nhân đô mời đến vương cung, nhưgn giáo điển Phật-đà chưa mở mang. Xá nhân Yếm Độc một lòng trong mặt nhất định xua tan mối nghi của người trong nước. “Ôi Vi Diệu theo phu tử, ta phải theo giáo điển nào!”. Từ đó các lớp người như Viên Quang, Từ Tạng đến phương Tây truyền pháp. Trên dưới kính tin, trong ngoài vâng làm, trước hô sau ứng, ngày tháng càng tăng, nên làm cho Tam Hàn cùng với Thánh Tổ Vi Cựu Đảnh ta rất tôn kính Phật Giáo. Phàm, chế sử dụng nhiều về Phật Giáo, Quân Vương giữ văn nối thể, truyền bá nên chẳng mất, chỉ có bốn đời Thái Tổ, Quốc Sư Đại Giác, vào tháng tư năm Ất Sửu thời Tuyên Vương năm thứ ba, nương thuyền biển đi cầu Pháp, ở phương Đông đến Vu Dương, dẫn trăm dòng từ năm Phái Đại Tiểu Thỉ chung Đốn Viên. Mỗi đạt được nơi chốn. Như vậy cội nguồn phát xuất từ thời nhà Chu, dòng phái phát ra từ thời nhà Hán, lớn mạnh ở thời nhà Tấn, nhà Ngụy, lan tràn vào thời nhà Tùy, nhà Đường, sóng gió ở thời nhà Tống. Mà sâu động là ở tại Hải Đông. Tóm lại, từ khi Phật nhập Niết-bàn cho đến năm Ất Hợi này (1 2 1 5) đã là hai ngàn một trăm sáu mươi bốn năm, sau Phật Niết-bàn một ngàn không trăm mười bốn năm, truyền vào Trung Hoa, từ thời Hậu Hán đến nay là một ngàn một trăm năm mươi mốt năm. Từ Ngài Thuận Đạo đến xứ Cao-ly đến nay là tám trăm bốn mươi bốn năm. Vả lại, Đạo chẳng thể tự mở rộng mà được mở rộng là do con người, nên viết thiên lời tựa này (= lưu thông) để chỉ bày cho người học đời sau. Xét theo truyện các bậc Cao Tăng ở ba đời Lương, Đường, Tống đều có phiên dịch kinh điển. Bởi vì bổn triều ta (= ở Hải Đông) không có việc phiên dịch nên không có khoa ấy vậy ./. * Hải Đông: theo một vài bộ tự điển thì Hải Đông chỉ cho Triều- tiên, nhưng xem toàn bộ truyện thì không thể liên quan đến Triều-tiên, nên ở đây để nguyên chữ Hải Đông theo bản gốc. ** Trong đây có một số niên hiệu không chú thích được bởi tính đi tính lại không phù hợp thời gian với lịch sử phổ thông, nên đành để trống. *** Trong lúc chuyển ngữ có đảo ngược Tiêu Đề và sự sắp xếp so với bản gốc. Điển hình như hai chữ “Lưu thông” sẽ viết là “Mục lục” và thay vào đó bằng từ “Lời tựa”. Và rất sai sót ở bộ truyện này là tôi không chú thích được năm tháng bởi niên biểu lịch sử ở tôi có phần bị hạn hẹp. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG Ở HẢI ĐÔNG <卷>QUYỂN 1 MỤC LỤC 1-Thích Thuận Đạo. 2-Thích Vong Danh. 3-Thích Nghóa Uyên. 4.Thích Đàm Thỉ. Thích Ma-la-nan-đà. Thích A Đạo (Hắc Hồ Tử Nguyên Biểu). 7-Thích Huyền Chương. 8-Thích Pháp Không. 9-Thích Pháp Vân. **** Thích Thuận Đạo. Thích Thuận Đạo, không biết là người xứ nào. Đức cao hơn người, từ nhẫn cứu giúp chúng sanh, chí nguyện hoằng tuyên, đi khắp Trung Hoa, bỏ nhà theo đạo, dạy người không mệt mỏi. Cú-cao-ly đời thứ mười bảy vào tháng sáu mùa Hạ; Giải Vị Lưu Vương (hoặc gọi là Tiểu Thú Lâm Vương), năm thứ hai; vua Phù Kiên nhà Tần phái sư cùng Phù Đồ Thuận Đạo đưa tặng tượng Phật, kinh văn. Bấy giờ, vua quan dùng lễ hội ngộ, đón rướx đến Tỉnh môn. Đầu thành kính tin, cảm mừng lưu hành. Tìm sai sứ trở lại cảm tạ dâng cống vật mới. Có thuyết nói:“Thuận Đạo từ nhà Đông Tấn đến”. Bắt đầu truyền bá Phật Pháp thì đời Tần hay đời Tấn chẳng được rõ ràng đâu là đúng, đâu là sai. Thích Thuận Đạo đã đến nước khác, truyền Đèn từ của tây Vức, treo mặt trời trí tuệ ở Đông Di, chỉ bày Nhân quả, lấy họa phước dẫn dụ, Hương thơm đượm móc, dần thấm thành khí. Nhưng thế chất Dân thuần chẳng biết vì sao xét Đó. Thích Thuận Đạo tuy chứa sâu hiểu rộng, chưa nhiều tuyên sướng. Từ Tôn giả Ma-đằng vào thời Hậu Hán đến nay hơn hai trăm năm. Sau đó bốn năm, Thần tăng A Đạo lại đến từ đất Ngụy (còn văn cổ), mới xây dựng chùa Tỉnh Môn để an trí Thích Thuận Đạo ở đó. Lời ghi rằng:“Lấy Tỉnh Môn làm chùa”, nay là chùa Hưng Quốc. Về sau viết lầm là“Tiếu Môn”. Lại sáng lập chùa Y-phất- lan để an trí Thích A Đạo. Xưa kia ghi là chùa Hưng Phước. Đó là khởi đầu của Phật Giáo Hải Đông. Tiếc thay! Người như thế! Đức như thế! Nên viết trên trúc, lụa để tuyên dương thành tích tốt đẹp. Văn từ ấy chẳng ít thấy đón sơ. Vì sao? Vì người sứ ở thế gian tại phương tây, chẳng nhục Quân mạng, hẳn hầu bậc hiền mà có khả năng như thế, thì riêng đến nước khác mới thực hành những việc lớn chưa từng có. Nếu như Thích Thuận Đạo chẳng có trí tuệ lớn có mưu lược lớn, có năng lực thần thông, không thể suy nghó bàn luận thì Thích Thuận Đạo làm sao có thể thực hành được ư? Do đó mà biết rằng Thuận Đạo là người khác thường. Đó cũng là thuộc dòng Trúc Pháp Lan, Khương Tăng Hội vậy! . Thích Vong Danh Thích Vong Danh người ở xứ Cú-cao-ly, Chí Đạo Nương nhân, giữ chân, ý cứ Đức. Người không biết mình mà mình không buồn giận. Khảo chung tại Nội, ở tại nước chắc chắn nghe, mưa móc rải ban có dư, Quyết vang bên xa. Từ thời nhà Tấn, Pháp sư Chi-độn, để lại thư viết rằng:“Thượng Tọa Trúc-pháp thâm là đệ tử của Lưu Công ở Trung Châu, thể tánh trong trắng cao vời, đời đạo kết thắc, thường ở tại Kinh ấp, giữ gìn giềng mối giáo Pháp, trong ngoài đều giúp đủ. Đó là bậc thầy mở mang Đạo vậy”. Pháp sư Chi-độn ở trong triều rất được trọng vọng, vậy mà cùng gởi lời giao hảo, hẳn là bậc hoằng tài rộng lớn, huống gì kẻ só nước ngoài. Nếu kẻ ấy không hơn người thì sao có thể báo như thế ư? Vả lại, Phật giáo đã từ thời nhà Tấn lưu truyền đến Hải Đôn thì khoảng thời gian nhà Tống, nhà Tề nên có những người tài giỏi cùng thời phấn phát, mà không sách vở ghi chép lại. Đáng buồn thay! Nhưng sau này, Chu Linh Kỳ là người đời Tống đi sứ từ Cao-ly, trở về Thất Tế ở Châu Thượng, được Bình bát của Bôi Độ. Lại nữa, thời nhà Tề, tại Cao-ly chưa hiểu thấu đạt đạt được việc Đức Phật đản sanh, nên đem hỏi Cao tăng Pháp Thượng, Pháp Thượng lấy Điềm lành của Chu Chiêu Vương để đáp, thì bậc cao nhân liệt só tây cười ở Trung Quốc, người hỏi lấy cương yếu hẳn không ít vậy. Đương thời không có quan tốt bèn giăng tơ và quyết bắt đầu là hận vậy. Khen ngợi rằng: Người xưa Tam Hàn đảnh cao, mở nước xưng vương, âm thanh ánh sáng Đức Phật không có điềm lành ấy. Đến lúc cảm ứng Đạo giao thì các bậc Hiền Đức bèn lại, để đến cơ khấu, trong sách Dịch nói rằng:“Có cảm chắc chắn có thông, Thiên hạ hẳn thế”. Thích Thuận Đạo có như thế ấy. Ban đầu tôi mới đến chỗ gọi là Hưng Quốc Hưng Phước, nhân chỉ có nói văn ghi sự, song không có duyên để phát đó. Nay sai lầm vâng thừa cảnh mạng, mới đem Thích Thuận Đạo làm truyện đầu tiên v.v… vậy (Bài ca ngợi này phải để sau truyện Thích Thuận Đạo-truyện thứ nhất ở trên) ./.. Thích Nghóa Uyên. Thích Nghóa Uyên người xứ Cú-cao-ly, thế hệ nhân duyên đều không nghe. Từ lệ cắt tóc nhuộm áo, khéo giữ luật Nghi, tuệ giải sâu xa, thấy nghe rộng rãi, đạt được huyền chỉ Nho gia. Là một thời mà Đạo tục đều quy hướng, tánh ưa thích truyền pháp, ý ham muốn tuyên giảng rộng. Đem Pháp Bảo vô thượng làm cho sáng ngời thật khó, chưa rõ được nguyên nhân. Nghe ở thời tiền Tề, Sa-môn Pháp Thượng ở chùa Định Quốc là bậc Núi Giới biển tuệ, vật trang nghiêm, người là khuôn phép, trải suốt thời nhà Tề giữ chức Đô Thống, Tăng Ni hiện có trên dưới hai trăm muôn người, mà Pháp Thượng làm giềng mối gần bốn mươi năm. Đương thời Văn Tuyên Đế rất thạnh hành để mở mang kinh điển Phật Giáo, trong ngoài đều mở rộng, kẻ tăng người tục đều vâng theo. Cảnh hạnh đã ngời sáng, âm hưởng cũng vang xa. Bấy giờ, Đại thừa tướng Vương Cao Đức ở Cú-cao-ly có tâm chánh tín sâu xa, sùng trọng Đại thừa, muốn đem luồng gió Phật Giáo thổi trùm khắp Hải Khúc, mà chẳng lường được duyên do đầu cuối. Phật Giáo từ phương Tây truyền đến phương Đông vào khoảng năm nào, thời nào, thời vua nào v.v… Nên phân biệt ghi rõ từng sự, từng điều. Bên bảo Thích Nghóa Uyên nương thuyền đi đến đất Nghiệp hỏi điều chưa nghe biết. Đại khái là:“Đức Phật Thích-ca từ khi nhập Niết-bàn đến nay đã bao nhiêu năm?, Lại, từ Thiên Trúc trải bao nhiêu năm mới truyền đến đất Hán? Đầu tiên truyền đến vào đời vua nào? Niên hiệu là gì? Trong thời nhà Tề, nhà Trần, ai là người đứng đầu trong Phật Pháp? Đến nay đã trải qua bao nhiêu năm tháng; đời Vua? Cúi xin giải thích rõ ràng cho! Lại nữa, các bản luận như Thập Địa, Trí Độ, Địa Trì, Kim Cương bát-nhã v.v… do ai trước tác soạn thuật. Duyên khởi các Điềm lành linh ứng nguyên do có truyện ký chăng? Xin kính cẩn ghi chép thưa hỏi, xin rũ lòng xé tan lưới nghi cho!”. Pháp Thượng đáp rằng: Đức Phật Đản sanh năm Giáp Dần, thời cơ Chu Chiêu Vương năm thứ hai mươi bốn ( ). Năm mười chín tu- ổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Bấy giờ, là năm Quý Mùi, thời vua Chu Mục Vương năm thứ hai mươi bốn ( ), Vua nghe ở phương Tây có Hóa Nhân xuất hiện bèn tìm đến phương Tây, đến rồi không trở lại. Lấy đó làm nghiệm chứng. Đức Phật trụ thế bốn mươi chín năm, từ khi nhập Niế-bàn đến nay là năm Bính Thân niên hiệu Vũ Bình thứ bảy đời Tề (5 7 6), là đã một ngàn bốn trăm sáu mươi lăm năm. Vào niên hiệu Vũ Bình ( 5 8- 76) đời vua Minh Đế thời Hậu Hán, kinh pháp Phật Giáo mới bắt đầu truyền đến Trung Hoa, trải qua các triều Đại Ngụy, Tấn cùng nhau truyền trì, đến thời Ngô Tôn Quyền, khoảng niên hiệu Xích Ô ( 2 3 8- 251), Khương Tăng Hội đi đến đất Ngô mới mở rộng giáo pháp. Luận Địa trì, do Tỳ-kheo A-tăng-già học được bản nầy với Bồ-tát Di-lặc, khoảng niên hiệu Long An ( 3 9 7- 402) thời Vua An Đế đời Tấn, pháp sư Đàm-ma-sấm ở tại Cô Tang vì Hà Tây Vương là Thơ cừ mông Tốn mà phiên dịch. Các luận Đại thừa là do Bồ-tát Long Thọ soạn, cũng khoảng niên hiệu Long An, đời Tấn, Pháp Sư Cưu-ma-la-thập đến Trường an, vì Diêu Hưng mà phiên dịch. Các Luận Thập Địa, Luận Kim Cương bát-nhã là do Thế Thân (=bà tẩu bàn đậu = Varubandhu) em ruột Ngài Vô-trước (A-tăng-gGià = Tăng-khư = Asănga) soạn. Đến thời Đông Ngụy, thời Vua Tuyên Vũ Đế ( 5 0 0- 516), Pháp sư Bồ-đề Lưu- chi mới phiên dịch. Pháp Thượng trả lời chứng minh chỉ rõ, nhân duyên rất rộng lớn, nay chỉ nêu cốt yếu, Nghóa Uyên Khâm phục ứng khéo khuyến dụ, thấu suốt chỗ sâu xa, biện luận cao siêu không cùng, nghiên cứu liên tục, những nghi ngờ nhiều ngày bỗng nhiên tan biến như băng tiêu. Nay đây diệu Nghóa sáng như ráng chiều, Tây nương mặt trời trí tuệ, đông rót nguồn pháp. Hy vọng treo vàng không khắc, truyền các thứ Ngọc không cũ mục. Đó, chỗ gọi là bờ bến của bể khổ, rường cột của Pháp môn, ấy chỉ có thầy ta thôi. Thích Nghóa Uyên bèn trở về nước, khen ngợi bậc có trí tuệ rộng lớn, dẫn dắt các chúng sanh mê muội, nghóa suốt xưa nay, tiếng tài giỏi nương nhờ rất lắm, tự chẳng phải thiên chất hỏa phát, thế đạo giúp nhau, sao có thể đến cùng cực thế ư? Sử không ghi lại sự việc về sau của Nghóa Uyên nên không viết được! Khen rằng: Ngày tháng năm Phật xuất thế, Truyền ký đều nêu bày, Lý Khó nhất định. Nhưng Nghóa Uyên gần gũi lãnh thọ từ Pháp Thượng khẩu truyền mà được, mới cùng với Luận Biện Chánh của Pháp Lâm đời Đường chỗ căn cứ như hợp phù tiết. Nên lấy đó làm Kim Chỉ Nam. Nhưng các bậc Cự Nho như Ngô Thế Văn trích dẫn văn xưa riêng mở Dị Luận, còn như hỏi đáp, tuy từ chỉ phiền lệ cũng chẳng đáng nương tựa vậy! Thích Đàm Thỉ. Thích Đàm Thỉ người xứ Quan Trung, Từ lúc xuất gia có nhiều sự tích lạ, chân trắng ở mặt, tuy bước đi trong bùn nhưng không hề thấm ướt, nên thiên hạ đều gọi là Hòa-thượng Bạch Túc. Khoảng cuối niên hiệu Thái Nguyên ( 3 7 6- 397)-thời Đông Tấn, Đàm Thỉ mang kinh luật mấy mươi bộ đến mở mang ở xứ Liêu Đông, thừa cơ tuyên hóa, bày trao ba thừa, để lập ra Quy giới. Trong Lương Cao Tăng Truyện cho rằng Đàm Thỉ là người đầu tiên khai pháp tại Cao-cú-ly. Bấy giờ là thời Khai Độ Vương năm thứ năm, vua Nại Vật năm thứ bốn mươi mốt, nước Tân-la, vua A-tân năm thứ năm người Bách Tế, mà Tần Phù Kiên đưa tặng kinh tượng sau hai mươi lăm năm. Bốn năm sau, Pháp Hiển đi về phía Tây đến Thiên-trúc. Hai năm sau, La-thập đến Trường An, Pháp Sư Huyền Cao lại đến. Khoảng đầu niên hiệu Nghóa Hy (4 0 5)-đời Đông Tấn, Đàm Thỉ trở lại Quan Trung, xướng đạo Tam Phụ. Chú ruột của Vương Hồ-người xứ Trường An, chết đã mấy năm, một ngày nọ, Vương Hồ mộng thấy hiện hình về dẫn Vương Hồ đi xem khắp các Địa Ngục, chỉ bày các thứ quả báo. Vương Hồ từ biệt rồi trở về kể lại. Người chú bảo Vương Hồ rằng:“ Đã biết nhân quả như thế, thì cần phải phụng thờ Bạch Túc A luyện để tu nghiệp lành! Vương Hồ kính vâng, tỉnh rồi hỏi khắp chúng Tăng, chỉ thấy Đàm Thỉ là chân trắng ở mặt, do đó nên kính thờ Đàm Thỉ. Đến cuối thời Đông Tấn (4 2 0), Hung nô nổi dậy đùng đùng đánh lấy Quan Trung, chém giết vô số, Đàm Thỉ cũng bị hại, Dao chẳng thể làm thương tổn, Sa-môn Phổ Xá thảy đều chẳng giết mà lẩn trốn trong núi, tu mật hạnh đầu-đà. Sau đó không lâu, Thác-Bạt-Đào (=thái Vũ Đế- 4 2 4-452 thời Bắc Ngụy) đánh lấy lại Trường An, bành trướng uy quyền cả Quan Trung, lạc Dương. Bấy giờ, Truyền Lăng Thôi Hạo, lúc còn trẻ có tu theo Tả Đạo, ganh ghét Phật Giáo. Ở địa vị Ngụy Phụ, là chỗ thâm tín của Thác Bạt Đào, Thôi Hạo mới cùng với Thiên Sư khấu khiêm chi nói cùng với Thác-Bạt-Đào là Phật Giáo không ích lợi gì cho đời, người vật đều bị tổn hại, khuyên nên dẹp bỏ đi. Thách Bạt Đào lầm mê lời ấy, đến niên hiệu Thái Bình Chân Quân thứ bảy (4 4 7)-thời Bắc Ngụy, bèn dẹp bỏ Phật Pháp, phân sai quân lính đốt cướp chùa xã, bắt buộc tăng Ni trong nước buộc phải bỏ đạo. Trong đó, những người nào chạy chốn thì bị đuổi bắt chém bêu đầu. Khắp trong nước không còn vị Sa-môn nào. Bấy giờ, Pháp sư Huyền Cao v.v… đều bị hại, có nói ở bổn truyện. Đàm Thỉ đóng cửa dứt chặt, ở chốn binh giặc không thể đến, nương ẩn nhìn đời, đến cuối niên hiệu Thái Bình Chân Quân (4 5 1), Đàm Thỉ tính biết Thác Bạt Đào sắp đến lúc tàn rụi, bèn ở ngày bắt đầu gặp gỡ, tay nắm gậy vàng đi đến cửa cung, có Quan tư tâu rằng:“ có đạo nhân Bạch Túc từ cửa Quan đi vào, hình nghi rất quái lạ”. Thác Bạt Đào nghe thế rồi bèn sai quân lính hùng mạnh đến đánh chém Đàm Thỉ, nhưng không thương tổn gì, Thác Bạt Đào rất tức giận, tự lấy kiếm bén nhọn bồi chém, chỉ ở chỗ lưỡi khiếm chạm vào có vết sẹo như bông đỏ, ngoài ra thân thể không có vết gì khác. Lúc ấy, tại khu vườn ở phía bắc có chuồng nuôi Hổ dữ, Thác Bạt Đào nghiệm thử bảo đem Đàm Thỉ ban tặng cho Hổ, Hổ đều nép phục, không hề dám lại gần. Thác Bạt Đào lại thử bảo Thiên sư Khấu Khiêm Chi đến gần chuồng Hổ, Hổ liền gầm rống như muốn chụp bắt ăn. Từ đó, Thác-Bạt-Đào mới biết uy thần của Phật giáo, Hoàng Lão chẳng thể sánh bằng. Liền kính mời Đàm Thỉ lên điện, đảnh lễ dưới chân, hối trách lỗi lầm cũ, Đàm Thỉ nói cho nghe nhân quả báo ứng không sai, chỉ tay mở bày, lượt hiện thần dị, Thác-Bạt-Đào sanh tâm xấu hổ lo sợ, sửa đổi mọi hành động, nhưng mà họa ác đã chứa nhóm chín muồi nên chiêu cảm bệnh dịch. Và Thôi Hạo, Khấu Khiêm Chi cũng phát bệnh nguy hiểm, lúc sắp vào cửa chết, Thác Bạt Đào nói Họa do kia tạo tội nên không thể ân xá, nhân đó bảo giết gấp hai tên ấy (Khấu Nghiêm Chi và Thôi Hạo). Đồng thời ra lệnh trong nước khôi phục lại Trúc giáo (=Phật giáo). Tiếng chuông chùa lại vang xa. Đã vậy mà, cháu là bậc tuấn triết nối ngôi, răn dè tha thiết, đau đáu xét soi, mở rộng phong hóa chánh chân, chế độ Bảo diệp lớn mạnh. Về sau, không biết Đàm Thỉ đi về phương nào? Khen rằng: Lửa dữ nơi sườn núi, Đá ngọc đều cháy tiêu, sương lạnh đồng cỏ nội, Tiêu Lan đều úa tàn. Sự gian nan hiểm trở của Đàm Thỉ, thật đáng nguy thay! Tuy chặt cây bới vết, cũng chẳng đáng sánh, nhưng tùy thời ẩn hiện, như sự vén khai của non xanh mây trắng. Gặp hại thường đầy, tợ hơi khí thoảng của Đầm bích trăng soi. Quên thân cứu vớt kẻ đắm chìm, Đạo nhờ đó mà hưng thạnh, Bồ-tát Hộ Pháp, chính đáng như thế. Đàm Thỉ vừa đến tang vực, vén màn người mù, cũng nương nguyện xưa mà đến ấy ư? Thích Ma-la-nan-đà Thích Ma-la-nan-đà là vị tăng người Hồ, thần dị cảm thông, chẳng lường được địa vị vị, ước chí du phương, không vướng mắc nơi nào. Xét theo bản ghi xưa thì Ma-la-nan-đà vốn từ trời Tây đến Trung quốc. Cậy tài truyền thân, chưng khói mời bạn, cỡi nguy nương hiểm, trải qua gian nan, có duyên thì theo, không nơi xa nào chẳng đến. Bấy giờ là đời vua Bách-tế đời thứ mười bốn, Chẩm Lưu Vương lên ngôi vào tháng chín năm thứ chín, từ đất Tấn mà đến, Chẩm Lưu Vương ra ngoại ô đón rước mời vào cung, kính thờ cúng dường, bẩm thọ sự chỉ dạy của Ma-la-nan-đà. Trên ưa mến, dưới cảm hóa, mở mang Phật sự, cùng ca ngợi vâng làm, như đặt trạm mà truyền mạng. Đến mùa xuân năm thứ hai, xây dựng chùa tại Hán Sơn, độ mười vị tăng, và tôn xưng Ma-la-nan-đà là Pháp sư vậy. Do đó, Bách-tế kế đến Cao- ly, nhân đó mà hưng khởi Phật giáo. Ngược dòng lịch sử từ lúc tôn giả Ma-đằng đến Trung hoa vào thời Hậu hán, cách nay khoảng chừng hai trăm tám mươi năm, có bậc Kỳ lão ghi rằng: “Thỉ tổ của câu Cú-cao- ly là Chu Mông lấy vợ là con gái xứ Cao Ly, sanh được hai người con, gọi là lánh dòng ân tổ. Hai người cùng chí hướng, đi về hướng nam đến Hán sơn mở nước, nay là Quảng Châu. Vốn đem theo trăm nhà vượt sông nên gọi là Bách-tế. Sau đó ở quận Phù Dư thuộc Công Châu, trước sau lần lượt lập Đô thành. Tronh biển ở góc Đông Nam Tam Hàn có nước Uỷ, tức là nước Nhật Bổn. Phía Đông bắc nước Ủy có nước Mao Nhân, phía Đông bắc nước Uûy lại có nước Văn Thân, từ phía Đông nước đó cách hơn hai ngàn dặm có nước Đại Hán, từ nước đó trở về hướng Đông cách hai muôn dặm có nước Phù Tang. Ở thời nhà Tống có năm vị tăng từ Thiên Trúc du hành đến đó, đầu tiên hành hóa Phật pháp tại Hải trung, chỉ có chư tăng nước Nhật Bổn qua đêm vượt biển mà đến, ngoài ra đều không rõ. Phàm Tam Hàn tức là Mã Hàn, Biện Hàn và Thần Hàn. Trong kinh Bảo Tạng nói: “Ở phía Đông bắc có nước Chấn Đán, có chỗ gọi là Chi-na, Hán dịch là Đa Tư Duy (=suy nghó nhiều), có nghóa là người ở nước ấy suy nghó đến trăm điều, tức là nước Đại Đường (=Trung Quốc) vậy”. Nhưng Tam Hàn lại là bờ ranh phía Đông bắc cõi Diêm-phù-đề ở phía Nam, chẳng phải là hải đảo. Sau Phật nhập Niết-bàn hơn sáu trăm năm mới bắt đầu xây dựng, ở giữa có núi Thánh trụ, tên là Thất Lê Mẫu Đát Lê (Đời Đường dịch là núi Tam Ấn), ngọn cao chót vót, cung điện thờ Bồ-tát Quán Thế Âm tại trên đảnh núi ấy, tức là núi Nguyệt. Các Thánh ở xứ đó không dễ ghi cho hết vậy, nhưng Bách-tế chính là Mã Hàn vậy. Trong “Tống Cao tăng truyện” chép: “Nan-đà chứng đắc Tam-muội Như Huyễn, xuống nước không bị ướt, nhảy lửa không bị cháy, có khả năng biến đá thành vàng, hóa hiện vô cùng”. Bấy giờ, đang là niên hiệu Kiến trung (?) niên đại trái nhau chứ không giống, sợ rằng chẳng phải dấu vết của một người vậy. Khen rằng: Lưu Dân ở đời, tánh nhiều trái ngược, lệnh vua có khi chẳng vâng, Quốc lệnh có chỗ chẳng thuận, một mai nghe điều chưa từng nghe, thấy điều việc được thấy, tức thay đổi sang điềm lành, thật tu mặt trong, để thuận cơ nghi nên vậy. Truyền chỗ gọi nói ra lời thánh thiện, thì ngoài ngàn đạm hẳn ứng đó, há chẳng vậy ư? Nhưng Đạo nhiếp cơ duyên thì phải nương thời, nên việc bằng một nửa người xưa, công chắc chắn là gấp bội. Thích A Đạo Thích A Đạo có chỗ cho rằng vốn là người Thiên Trúc, có chỗ cho rằng từ xứ Ngô đến, có thuyết lại cho rằng từ Cao-cú-ly đến đất Ngụy, mới trở về Tân-la, chưa biết ai đúng. A Đạo phong đặc biệt khác thường, thần biến lạ lùng, thường lấy việc hành hóa làm chính. Mỗi lúc khai giảng, trời mưa hoa báu. Đầu tiên, tại Tân-la, vào thời Nột-kỳ Vương có Hắc Hồ Tử từ Cú- cao-ly đến quận Nhất Thiện, tuyên hóa có duyên, nên Mao Lễ người ở quận ấy làm hang thất trong nhà để Hắc Hồ Tử an nghỉ. Lúc đó, Lương (?) sai sứ ban tặng y phục cùng hương vật, Vua tôi không biết tên Hương và cách thức sử dụng, mới sai Trung sử mang hương hỏi khắp trong ngoài. Hắc Hồ Tử thấy thế, bèn nói tên Hương và bảo: “Đốt hương này thì hơi hương thơm phức, do đó thấu đạt tới thần linh. Gọi là Thần thánh, chẳng gì hơn Tam Bảo, tức là: Phật-đà, Đạt Ma và Tăng già. Nếu đốt hương ấy mà phát nguyện thì chắc chắn có linh ứng”. Bấy giờ, con gái nhà Vua bị bệnh nặng, Vua bảo Hắc Hồ Tử đốt hương tỏ bày thệ nguyện, bệnh liền được lành. Nhà Vua rất vui mừng, ban tặng rất nồng hậu. Hắc Hồ Tử ra khỏi cung, thấy Mao Lễ, bèn tặng các vật có được cho Mao Lễ để báo đáp ân đức ấy. Nhân đó nói rằng: “Tôi có chỗ về, xin từ tạ”. Bỗng chốc không biết Hắc Hồ Tử đi đâu! Đến thời Tỳ Xử Vương, có Hòa-thượng A Đạo cùng với ba người hầu cùng đến nghỉ tại nhà Mao Lễ, nghi biểu dường như Hắc Hồ Tử, ở đó vài năm không bệnh mà tự nhiên qua đời, còn ba người hầu ở lại đọc tụng kinh luật. Qua đêm có người tín nhận vâng làm vậy. Nhưng xét theo xưa ghi: “Vào ngày mười một tháng ba niên hiệu Đại Thông thứ nhất (5 2 7), A Đạo đến quận Nhất Thiện, trời đất rung chuyển, A Đạo tay trái nắm tích trượng có khoen vàng, tay phải ôm bát ứng khí bằng ngọc, thân mặc áo nạp, miệng tụng Hoa thuyên, đầu tiên đến nhà Tín só Mao Lễ. Mao Lễ bước ra nhìn thấy, kinh ngạc nói rằng: “Ngày trước có vị tăng người xứ Cao-ly đến nước ta, Vua tôi lấy làm lạ, cho là điều không tốt lành, cùng bàn nhau để giết vị đó. Lại có Tỳ-kheo diệt Cấu Tỳ lại đến, cũng bị giết hại như trước. Ông muốn cầu gì mà đến đây? Nên mau vào cửa kẻo người chung quanh thấy được”. Rồi dẫn đến an nghỉ nơi nhà kín, sửa soạn các vật cúng dường không nghỉ, ngay lúc ấy có sứ nhà Ngô đem ngũ hương dâng tặng vua Nguyên Tông, nhà Vua không biết cách dùng, hỏi khắp trong nước, sứ giả bèn đến hỏi Pháp sư, A Đạo bảo lấy lửa đốt xông cúng Phật. Về sau Nhà Vua vời Pháp sư đến kinh đô, Vua bảo Pháp sư (=A Đạo) ra mắt các sứ thần, các sứ lễ bái và thưa rằng: “Cao tăng ở biên giới nước này sao chẳng xa”. Và nhân đó, nhà Vua biết được Phật và chư tăng là bậc đáng kính, bèn ban sắc cho phép lưu hành”. Lại theo “Cao đắc tương thi sử” ghi rằng: “Lương thị (?) sai sứ bảo rằng: Nguyên Biểu biếu tặng Trầm đàn và Kinh tượng, không biết để làm gì, bèn hỏi khắp bốn phương, đến lúc gặp A Đạo chỉ cho phương pháp sử dụng”. Cùng chú thích rằng: “A Đạo lại gặp nạn bị giết hại, nhưng nhờ có thần thông nên không chết mà ẩn cư tại nhà Mao Lễ”. Vậy thì sứ của nhà Lương hay nhà Ngô, chẳng biết ai đúng? Lại nữa, vết tích của A Đạo phần nhiều giống như Hắc Hồ Tử, vì sao? Vì từ niên hiệu Vónh Bình ( 5 8- 76) đến năm Đinh Mùi niên hiệu Đại Thông thứ nhất (5 2 7), có hơn bốn trăm mười năm, Cú-cao-ly Hưng Pháp đã hơn một trăm năm mươi năm và Bách-tế đã thực hành hơn một trăm bốn mươi năm. Nếu theo “Phát Dần Lượng thù dị truyện” ghi rằng: “Cha của Sư là Quật-ma người nước Ngụy, mẹ là Cao Đạo Ninh, người Cao-ly. Quật Ma vâng lệnh vua đi sứ Cao-ly, tư thông rồi trở về đất Ngụy, Đạo Ninh nhân đó mà có thai. Đến lúc A Đạo ra đời, đã dồn nén năm năm nên có dị tướng. Người mẹ bảo rằng: “Con riêng có Thần giúp, bằng như làm tăng”. A Đạo vâng theo lời dạy, liền ngay ngày ấy cạo tóc, năm mười sáu tuổi vào đất Ngụy, ra mắt Tỉnh-Quật-Ma, bèn đưa đến Hòa thượng Huyền Chương. Năm mười chín tuổi xuất gia rồi trở về ở với mẹ. Mẹ dạy rằng: “Nước này cơ duyên chưa thuần thục, khó hành Phật Pháp, chỉ có xứ Tân-la kia, nay tuy chưa có Thanh giáo, nhưng sau này hơn ba mươi tháng có Hộ Pháp Minh Vương ngự vũ sẽ làm phát triển Phật sự. Thêm nữa, ở kinh đô nước ấy có bảy nơi Pháp trú: 1/ Rừng Kim Kiều Thiên cảnh (nay là chùa Hưng Luân) 2/ Tam Xuyên Kỳ (nay là chùa Vónh Hưng) 3/ Long Cung Nam (nay là chùa Hoàng Long) 4/ Long Cung Bắc (nay là chùa Phân Hoàng) 5/ Rừng Thần Du (nay là chùa Thiên Vương) 6/ Sa-Xuyên-Vó (nay là chùa Linh Diệu) 7/ Tế Thỉnh Điền (nay là chùa Đàm Nghiêm). Ở các chỗ ấy, Phật Pháp bất diệt, thời tiền kiếp là thành cũ của chùa Viện vậy. Ngươi nên trở về xứ ấy, đầu tiên trao truyền Huyền chỉ, làm thỉ tổ phù đồ hà chẳng tốt lắm ư?”. A Đạo vâng lời dạy con, đi ra biên cương đến cư ngụ tại làng quyết tây (nay là chùa Trang Nghiêm) của vua Tân-la. Bấy giờ, vua vị Trâu lên ngôi đã hai năm ( )- vào năm Quí Mùi. A Đạo cầu xin thực hành Trúc giáo (=Phật giáo). Vì từ trước đến nay chưa từng thấy nên lấy làm quái lạ. Đến lúc có kẻ sắp muốn giết hại nên lui về ở ẩn tại nhà Mao Lễ thuộc làng Trụ, nay là Thiện châu. Lánh hại ba năm, đến lúc Công chúa Thành Quốc mắc bệnh không lành, sai sứ đi khắp bốn phương, tìm cầu người có khả năng điều trị. A Đạo treo bảng để vào cung, để chữa bệnh cho Công chúa. Nhà Vua rất vui mừng hỏi A Đạo cầu mong điều gì? A Đạo thưa rằng: “Chỉ xin xây chùa ở núi Thiên Cảnh là thỏa nguyện của tôi vậy”. Nhà Vua chấp thuận, nhưng vì tư chất người dân ở đời ngu dốt không thể quy hướng, nên bèn lấy nhà trắng làm chùa. Sau đó bảy năm mới có người muốn làm tăng đến nương thọ Pháp. Em gái của Mao Lễ tên là Lại thị cũng xuất gia làm ni, bèn ở Tam Xuyên Kỳ xây chùa đặt tên là Vónh Hưng, để nương ở tại đó. Sau khi vị vua Trâu băng, vị vua nối ngôi cũng chẳng kính tin Phật giáo, muốn dẹp bỏ, A Đạo bèn trở về làng tục, tự xây mộ rồi vào trong đó, đóng cửa thị tịch, vì vậy mà Thánh giáo không được lưu hành tại xứ ấy. Sau đó hơn hai trăm năm, Nguyên Tông Quả làm hưng khởi tượng giáo, đều như lời Đạo Ninh nói. Từ Vị vua Trâu cho đến vua Pháp Hưng tất cả là mười một đời Vua. Niên đại của A Đạo xuất hiện trước sau có sự sai lầm như thế, đều là do cổ văn không thể lấy bỏ. Nhưng nếu ở thời Vị Trâu đã có lợi ích của sự mở mang thì rõ ràng cùng đồng thời với Thuận Đạo. Bởi vì khoảng giữa thời gian ấy bị phế bỏ, đến niên hiệu Đại Thông thời Nam Lương mới hưng thịnh trở lại, nên đều xuất hiện Hắc Hồ Tử, Nguyên Biểu.v.v . . . Bắt đầu xem xét. Khen rằng: Từ tượng giáo dần truyền về phương Đông, kẻ tin người hủy xen nhau, xe Quyền mở sáng, đời có người ấy như A Đạo, Hắc Hồ Tử đều đem Pháp thân vô tướng mà ẩn hiện tự tại, hoặc trước hoặc sau, tợ như vừa đồng vừa dị, như bắt gió buộc ảnh, không thể nắm bắt dấu vết mà định. Chỉ có trước thử xem sau mới thực hành, ban đầu trốn hại mà cuối cùng thì thành công thì như Lợi Phương ở đời Tần, Ma Đằng ở thời Hán cũng không có thêm gì. Kinh Dịch nói: “Tàng khí chờ thời”. Đó là nói A Đạo vậy. Thích Pháp Không Thích Pháp Không tức là vua Pháp Hưng đời thứ hai mươi ba ở Tân-la, tên là Nguyên Tông, vua Trí Chứng vốn là mẹ con với phu nhân Diên Đế. Vua thân cao bảy thước, khoan hậu thương người, là thần là thánh, tin rõ triệu dân, vừa mới ba năm mà rồng hiện dưới giếng Dương, bốn năm mới đặt binh bộ, bảy năm ban bố luật lệnh, bắt đầu chế ra phẩm trật của trăm quan chu tử. Từ ngày lên ngôi về sau, thường muốn làm cho Phật pháp hưng thạnh, bọn bầy tôi ồn ào miệng lưỡi. Vua thật khó thực hiện việc đó, nhưng nhớ nghó chí nguyện của A Đạo mới vời các quan đến bảo rằng: “Thánh tổ là Vị vua Trâu cùng với Hòa-thượng A Đạo đã mở cho việc mở mang Phật giáo, công lớn chưa thành tựu mà đã băng, Năng nhân diệu hóa, bị ngăn cấm không được thực hành, Trẫm rất đau xót!”. Phải xây dựng chùa miếu thật lớn, trùng hưng tượng giáo, khôi phục theo nếp của Tiên Vương, ý các khanh nghó sao?”. Các Quan Đại Thần.v.v. . . cùng đến tham yết, cản ngăn rằng: “Những năm gần đây nước nhà không lên, dân chúng chẳng an, lại thêm quân giặc các nước bên cạnh đang xân lấn biên giới, binh lính chưa được nghỉ ngơi, dân chúng lao dịch đâu rảnh mà xây dựng nhà vô dụng ư?”. Nhà Vua rất buồn bực vì các quan chung quanh không ai tin, bèn than rằng: “Bởi do Quả nhân không có đức, đội chịu báu lớn, Âm dương không rõ, lê dân chẳng an, nên các quan chống nghịch chẳng vâng theo. Ai có khả năng đem thuật của Pháp mầu để dắt dẫn người mê ư?”. Giây lâu không người trả lời. Đến năm thứ mười sáu, bèn có Nội sứ xá nhân là Phác Yêm Độc (Có chỗ gọi là Dị Thứ Đốn, hay là Cư Thứ Đốn) mới hai mươi sáu tuổi, chẳng phải người ngay thẳng, người đem tâm lấp vực sâu, phấn chấn dõng khí khi thấy việc nghóa, muốn giúp nguyện lớn, thầm tâu với Vua rằng: “Nếu Bệ hạ muốn làm cho Phật pháp hưng thạnh, thần xin giả vờ truyền lệnh vua đến quan Hữu Ty rằng “Nhà vua muốn tạo lập Phật sự” như vậy thì các bầy tôi chắc chắn can ngăn. Ngay khi ấy, Bệ hạ nên ban sắc rằng: “Trẫm không có ra lệnh ấy, kẻ nào kiêu mạn vậy ư?” và các vị quan ấy sẽ hạch tội thần. Nếu có thể làm được như thế thì những người kia chắc chắn sẽ phục vậy”. Nhà Vua bảo: “Bọn ấy đã ngu dốt ngạo mạn, dẫu trẫm có giết khanh, họ cũng đâu có phục!”. Xá nhân Yếm Độc thưa: “Giáo lý của bậc Đại Thánh, thiên thần đều kính vâng, nếu chém đầu tiểu thần thì sẽ có sự thay đổi của trời đất. Và nếu quả thật có sự biến đổi thì ai còn dám trái ngạo ư?”. Nhà Vua bảo: “Vốn muốn muốn làm lợi lớn, trừ dứt các hại, phản giặc trung thần có thể không thương tổn ư?”. Xá nhân Yếm Độc thưa: “Giết thân để thành nghóa nhân, ấy là tiết tháo lớn của bề tôi, huống gì mặt trời thường soi sáng, vận mệnh Hoàng thượng càng vững bền, một ngày nhắm mắt qua đời giống như sống một năm!”. Nhà Vua khen thưởng rằng: “Khanh là người mặc áo mà tâm nghó đến gấm thêu!”. Bèn cùng với Xá nhân Yếm Độc kết thệ nguyện lớn. Yếm Độc bèn tuyên truyền rằng: “Sáng lập chùa ở núi Thiên cảnh, những người điều hành công việc hãy kính vâng sắc lệnh hưng công”. Các quan từ xa liền nhóm mặt, vội cản ngăn. Nhà Vua bảo: “Trẫm không ban ra lệnh ấy”. Yếm Độc tâu rằng: “Thần cố làm như thế, nếu thực hành Pháp ấy thì cả nước được an vui thái bình?”. Khi đó các quan đều hỏi, và nói thêm rằng: “Ngày nay thấy tăng đồ là những trẻ con hủy phục, bàn luận khác lạ, quỷ quyệt, chẳng phải Thường đạo. Nếu bỗng dưng theo nó, sợ rằng sau này sẽ có ăn năn hối tiếc, chúng thần tôi thà chấp nhận tội chết chứ không dám kính vâng chiếu lệnh”. Yếm Độc phấn chấn bảo rằng: “Lời nói của các quan ngày nay là không đúng, hễ có người phi thường, thì sau này sẽ có việc phi thường. Tôi nghe Phật giáo sâu xa, nên không thể không thực hành. Vả lại loài chim yến, chim sẻ làm sao biết được chí khí của chim Hồng chim Hộc ư?”. Nhà Vua bảo: “Lời của các khanh vững chắc không thể phá, còn Yếm Độc thì nói khác, không thể theo hai đường”. Bèn sai sứ đem ra giết. Yếm Độc khấn cáo giữa trời thề rằng: “Con vì Chánh pháp mà phải chịu tội hình, ngõ hầu làm cho việc nghóa lợi được hưng thịnh. Nếu Phật có linh thiêng thì khi con chết sẽ xảy ra việc khác lạ”. Đến lúc chém, đầu của Yếm Độc bay đến rơi ở đảnh núi Kim Cương, sữa trắng ở chỗ chém tuôn vọt lên cao mấy mươi trượng, mặt trời bỗng nhiên tối tăm, trời mưa hoa báu, mặt đất rung chuyển. Vua tôi thứ dân thảy đều trên thì sợ lo trời biến đổi, dưới thì động lòng xót thương. Xá Nhân Yếm Độc vì quý trọng Pháp mà bỏ thân mạng, bèn cùng nhau cất tiếng khóc, sau đó phụng nghinh Di thể về an táng tại đảnh núi Kim Cương và kính lễ vậy. Khi ấy, các quan cùng lập lời thề rằng: “Từ nay về sau, xin kính thờ Phật, quy y Tăng, có ai thay đổi lời thề này thì minh thần xử chết kẻ đó”. Quân tử bảo: “Đại thánh ứng vận đã một ngàn một trăm năm năm, Đức Nhơn phát khởi ở tốt đẹp, Đức Nghóa sanh ra nơi điềm lành. Không ai chẳng ứng nơi trời đất, thường hằng như mặt trời mặt trăng, chuyển động cả quỷ thần, huống gì ở con người ư?. Phàm người có lòng tự tin đối với Đạo thì trời đất không thể không ứng vậy. Công quý ở thành thì nghiệp quý ở rộng lớn vậy. Nên nếu có nương nhờ thì chuyển núi Thái đặt để trên đầu lông chim Hồng. Hùng tráng thay! Được cái chết như thế! Năm đó nhà Vua hạ lệnh cấm sát sanh (đây là căn cứ theo quốc sử và các truyện xưa, thương lượng mà thuật vậy) Đến năm thứ hai mươi mốt, chặt cây trong rừng Thiên cảnh, muốn xây dựng Tịnh xá, quét đất thấy được trụ nền khám đá và tầng cấp. Quả là nền cũ của Chiêu Đề ngày trước. Các cây dùng làn rường cột đều lấy tại rừng ấy. Đến ngày thợ bảo đã hoàn tất, nhà Vua bèn nhường ngôi vị, xuất gia làm tăng, đổi tên là Pháp Không. Chỉ nhớ nghó ba y bình bát, chí hành cao xa, Trí bi đối với tất cả. Nhân đó, đặt tên chùa là “Chùa Đại Vương Hưng Luân”. Vì là chỗ ở của Đại Vương. Đây là ngôi chùa được xây dựng đầu tiên ở Tân-la. Vương phi cũng kính thờ Phật làm Tỳ-kheo-ni, trụ chùa Vónh Hưng. Từ đó mở lớn Đại sự. Thụy hiệu của Vua là Pháp Hưng, chẳng phải luống đặt tên đẹp. Về sau mỗi năm đến ngày húy kî của Yếm Độc đều lập hội ở chùa Hưng Luân để tưởng nhớ sự việc xa xưa ấy. Đến thời Đại Vương Tông, Quan tể phụ Kim Lương mưu tin hướng cho phương Tây, cho hai người con gái tên Hoa Bảo và Liên Bảo làm người giúp việc ở chùa ấy, lại bị nghịch thần Mao Xích đồng loại sung tiện, nên hai thứ đồng thiếc đến nay vẫn làm việc nặng nhọc. Tôi đến đông đô, lên đỉnh núi Kim Cương, thấy trên một ngôi mộ có một tấm Bia ngắn, bùi ngùi không thể tự kiềm chế được. Ngày ấy mọi người ở miền núi rừng tụ hội lại mà ăn, hỏi về nguyên cớ, mới biết là ngày giỗ của Xá Nhân Yếm Độc. Có thể nói là ra đi đến nay đã lâu, nhớ nghó như vậy thật sâu xa. Lại xét xem văn bia của Hòa-thượng A Đạo thì vua Pháp Hưng có pháp danh là Pháp Vân và tự là Pháp Không. Nhưng nay căn cứ theo Quốc sử và những truyện khác thì chia làm hai truyện, những ai ưa thích tìm hiểu về xưa, xin xét rõ ràng vậy. Khen rằng: Đại khái Vua tôi cả nước cùng nêu việc, có thể cùng giữ thành, chưa thể cùng lo trước. Thêm nữa có lúc lợi và bất lợi, tin và không tin buộc ràng vậy. Cho nên vua Nguyên Tông tuy muốn làm cho Phật Pháp hưng thạnh, cũng khó sáng sớm ban lệnh mà chiều tối thi hành, nhưng nhờ năng lực Bổn nguyện, ngôi vì sùng cao, lại giúp hiền thần mở lệ, có năng lực đem lợi ích tốt lành cho dân chúng. Cuối cùng cũng đồng với bậc Hảo hán thông minh ngồi chung xe cùng chạy. Kỳ vó thế ư! Lấy ở thời gian nào mà nói? Đem Lương Võ Đế mà sánh đó thì chẳng phải. Kia vì nhân chủ là người giúp việc ở chùa Đại Đồng, Đế nghiệp sụp đổ, còn Pháp Không đã cố nhường lại vì hẳn đã có người nối tiếp, tự dẫn làm Sa-môn. Sao có ở ta ư! Còn Yếm Độc thì trong kinh gọi là khác thân mà đồng thể với Vua Tỳ-kheo vậy. Nếu tay quét sạch mây mê, phát sáng mặt trời tuệ vào tánh không, kẹp đó mà bay đi thì chỉ do năng lực của Yếm Độc vậy. Thích Pháp Vân Thích Pháp Vân tên là Công Lăng Tông, thụy là Chân Hưng, là em của vua Pháp Hưng, là con của vua Cát Văn. Mẹ họ Kim, sanh ra được bảy tuổi liền lên ngôi, tánh khoan dung nhân từ, kính thờ sùng tín, nghe việc lành như kinh sợ, dứt bỏ việc ác là gốc. Năm Sư lên bảy thì chùa Hưng Luân hoàn thành, cho phép mọi người xuất gia làm tăng ni. Đến năm thứ tám, vua bảo Đại A Xan thất phu.v.v. . . rộng nhóm họp văn só tu soạn Quốc sử, đến năm thứ mười, Lương sai sứ cùng học tăng Giác Đức đưa tặng xá-lợi Phật. Vua sai các quan đón rước đường chùa Hưng Luân. Đến năm thứ mười bốn, vua ban lệnh cho quan Hữu ti xây dựng cung mới ở phía đông thành Nguyệt Hoàng Long được đất đó, Vua nghi ngờ nên đổi thành chùa Phật, đặt tên là “chùa Hoàng Long”. Đến năm thứ hai mươi sáu, Trần sai sứ là Lưu Tư và vị tăng tên Minh Quán đem tặng kinh luận hơn bảy trăm quyển. Qua năm thứ hai mươi bảy hai ngôi chùa Kỳ Viên và Thật Tế xây dựng hoàn thành và chùa Hoàng Long cũng hoàn thành. Đến tháng mười năm thứ ba mươi hai, vì các binh lính đánh trận mà chết nên thiết hội bát quan trai ở ngoài chùa suốt bảy ngày mới chấm dứt. Năm thứ ba mươi lăm đúc pho tượng cao một trượng sáu ở chùa Hoàng Long, có chỗ cho rằng thuyền của Vua A-dục chở vàng ròng đến Ty Phổ, chuyển vào mà đúc thành, nói trong truyện Từ Tạng. Đến năm thứ ba mươi sáu, tôn tượng cao trượng sáu rơi lệ chảy đến gót chân. Năm thứ ba mươi bảy mới thờ Nguyên Hoa làm Tiên lang. Ban đầu Vua tôi đều bệnh, không cho người biết, muốn nhóm họp các quan để đi xem hành nghi của Họ, nêu mà không dùng đó, bèn chọn hai người con gái đẹp tên là Nam Mô và Tuấn Trinh, nhóm tụ hơn ba trăm người, hai người nữ cùng nhau tranh gian, Tuấn Trinh dẫn Nam Mô bắt ép uống rượu say rồi xô xuống sông giết chết ù, mọi người mất hòa khí bèn tan bãi. Sau đó chọn một người nam dáng mạo khôi ngô, tô điểm trang sức cho đó, phụng làm Hoa Lang, đồ chúng cùng nhóm họp, hoặc cùng mài soi Đạo nghóa, hoặc lấy ca nhạc để chung vui, hoặc dạo chơi sơn thủy, không nơi xa nào chẳng đến. Nhân đó rõ được sự tà chánh của con người, bèn chọn người hiền lành mà tiến vào triều. Nên trong “Kim đại vấn thế ký” ghi rằng: “Hiền tá trung thần từ đó mà kết đơm bông trái, tướng tốt mạnh sắp chết nhờ đó được sống”. Trong lời tựa văn bia của Loan Lang, Thôi Trí Viễn ghi rằng: “Nước nhà có Đạo huyền diệu, gọi là “Phong lưu”, thật bao gồm cả Tam giáo, hóa độ chúng sanh. Vả lại, như vào thì hiếu ở nhà, ra thì trung với nước. Đó là yếu chỉ của Lỗ Tư Khấu. Sống với việc vô vi, thực hành Đạo giáo bất ngôn, đó là Tông chỉ của Chu Trụ Sử. Không làm các việc ác, siêng tu mọi điều lành. Đó là sự chỉ dạy của Thái tử ở Tây trúc”. Thêm nữa, “Đường lệnh cô trừng, Tân La quốc ký” chép: “Chọn người đẹp con em quý nhân để tô điểm trang sức, cung phụng họ, đặt tên là Hoa Lang. Mọi người trong nước đều tôn thờ, đó là phương tiện giáo hóa của nhà Vua. Từ Nguyên Lang đến cuối thời La-mạt, gồm hơn hai trăm người, trong đó có bốn vị Tiên rất hiền. Vả lại như Thế ký chép: “Nhà Vua tuổi còn bé đã lên ngôi, nhất tâm thờ Phật, đến năm cuối, xuống tóc làm phù-đồ, đắp mặc Pháp phục, tự lấy hiệu là Pháp Vân, thọ trì giới cấm, ba nghiệp thanh tịnh, cho đến lúc qua đời. Đến lúc an táng, người trong nước giữ lễ cung phụng, đến an táng ở bắc phong của chùa Ai Công”. Năm đó, Pháp sư An Hàm đến từ xứ Tùy, đến truyện ngài An Hàm sẽ nói rõ. Khen rằng: Phong tục đối với người thật lớn thay! Vua chúa muốn dời đổi ở ngay đương thời như nước đổ xuống, nhào lộn như vậy, ai có thể ngăn cản ư. Đầu tiên Chân Hưng đã tôn thờ Tượng giáo, bày Hoa Lang để ngoạn du, người trong nước vui mừng bắt chước theo, như rão bước trong kho báu, như bước lên Xuân Đài. Cốt yếu quay về ở chỗ đổi thiện theo nghóa, dần dần đến với Đại Đạo mà thôi. Kia! Thời nhà Hán, Vua Ai Đế nhọc về sắc mà yêu, nên ban cố nói rằng: “Mềm mỏng nhẹ nhàng làm nghiêng đổ ý người, chẳng riêng gì bọn nữ nhân, bởi cũng có Nam sắc vậy. Bình luận việc đó không thể cùng một ngày mà nói hết được. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG Ở HẢI ĐÔNG (QUYỂN 1 HẾT)  <卷>QUYỂN 2 MỤC LỤC 1-Thích Giác Đức (Minh Quán) 2-Thích Trí Minh (Đàm Dục) Thích Viên Quang Thích An Hàm (Đàm Hòa, vị tăng Ấn-độ) 5-Thích A Ly Da Bạt Ma 6-Thích Tuệ Nghiệp 7-Thích Tuệ Luân 8-Thích Huyền Khác (Huyền Chiếu, tên hai người) 9-Thích Huyền Du (Tăng Triết) 1 0-Thích Huyền Đại Phạm **** Thích Giác Đức: Thích Giác Đức người Tân-la, thông minh hiểu rộng, phàm thánh chẳng thể lường được. Ở Tân-la đã phụng hành Phật giáo, người người tranh nhau quy y tăng. Giác Đức dùng đạt trí biết đời đã đến lúc có thể giáo hóa, nên bảo rằng: “Đổi Kiều cải trang thì ra khỏi hang, học đạo cốt là tìm thầy, nếu yên đêm mà ở, đợi đến đêm mà đi, chẳng phải bổn ý bỏ Ân của Thích tử”. Bèn nương thuyền vào đất Lương, là người đầu tiên cầu pháp, chỉ tiếc không rõ là đời thứ mấy và năm nào! Đó là người đầu tiên ở Tân-la đi cầu học. Giác Đức trải qua một thời gian phụng thờ Minh sư, lãnh nhận mọi điều giảng dạy, như trừ được bệnh màng mắt, tợ dứt được khăng khăng, có thỉ có chung, không buông lung, không biếng nhác, đức hạnh cao xa, trông đạo càng lớn. Đem của báu lượm nhặt được, chẳng chỉ tự mình dùng, khi trở về nước xưa đem cứu giúp những người nghèo khó,đến năm thứ mười, đời vua Chân Hưng, Giác Đức cùng với sứ Lương mang xá-lợi Phật về đến đô thành cũ, nhà Vua vội bảo quan Hữu ti liền sai trăm quan đầy đủ lễ nghi ra đón rước ở trước đường chùa Hưng Luân. Đó cũng là lần đầu tiên đón rước xá-lợi. Xưa kia, Khương Tăng Hội đến đất Ngô, bày cầu bảy ngày mới có được Thần nghiệm. Nay đây, Giác Đức ngay lúc nhân Chúa đã tin, tùy theo nước lớn quí trọng sứ thần nên đến bổn quốc, thật là không khó nhọc gì cả! Lại đem nước Pháp rưới khắp bể trong, khiến cho những kẻ biếng lười lập chí đều ôm hoài chí nguyện muốn qua. Công đức lợi ích ấy còn có gì hơn Đạo ư? Về sau, đến năm thứ hai mươi sáu, nhà Trần sai sứ Lưu Ân cùng du học tăng Minh Quán mang tặng kinh luận Phật giáo, hơn hai ngàn bảy trăm quyển. Đầu tiên tại Tân-la, Pháp hóa mới bày, kinh tượng phần nhiều bị thiếu thốn. Sau nầy mới đầy đủ khắp cùng. Hai vị Giác Đức và Minh Quán mất ở đâu đều không rõ. Thích Trí Minh Thích Trí Minh người Tân-la, thần giải siêu ngộ, đi đứng hợp độ, trong chứa mật hạnh, khen ngợi đức hạnh người khác, kéo hướng về mình, buông xả với người, nghiêm khắc lại chính mình, mọi cử chỉ hành động đáng chiêm ngưỡng, từ khi Phật giáo lưu truyền, ở Hải Đông, trong giai đoạn Quyền dư, chưa từng có đại tập, chỉ do các vị tài giỏi hăng hái bắt tay vào làm, hoặc tự ngộ vì thích hay, hoặc xa cầu mà ban giá. Thầy thuốc cũ hợp với thầy thuốc cũ, Tà chánh mới phân chia, quan cũ bảo cùng quan mới, thầy trò truyền trao nhau. Bấy giờ từ phương tây đến Trung quốc, tham cầu đầy đủ rồi trở lại, nối gót mà khởi dậy. Trí Minh đem tài năng giúp đời. Đến tháng bảy mùa Thu năm thứ bảy- thời vua Chân Bình, Trí Minh hỏi Tân Lợi để đến nhà Tần cầu Pháp, vân du khắp biển cả và đất liền, trôi dạt khắp đông tây, nếu nơi nào có Đạo có tiếng tăm, đều bèn dò hỏi mà tìm đến, như gỗ theo giây mực, như vàng thành vật dụng, tự nhiên thẳng một đường mà đi. Bổng vậy mà đã mười năm, học đã nắm bắt được cốt tủy, trong lòng tha thiết muốn truyền đăng. Đến tháng chín năm thứ hai mươi bốn-thời vua Chân Bình, Sư theo sứ triều đình trở về nước. Nhà Vua rất khâm phục ngưỡng mộ, suy trọng giới luật, khen là Đại đức để khuyên những ai mới lại. Sư nhạc đứng cao, . . . lượng bao hàm bể khơi, dùng tăng tuệ chiếu soi, dùng gió Đức để lay động, kẻ tăng người tục là răn là dạy, sau thêm đức lớn, tươi tốt nơi Lăng trật, không biết cuối cùng như thế nào. Đầu tiên, Sư đến nhà Trần năm năm, Pháp sư Viên Quang đến nhà Trần tám năm, Đàm Dục đến nhà Trần bảy năm, theo vào chầu sứ Tuệ văn đều trở về. Sư cùng với Trí Minh đều là những bậc cao đức nổi tiếng, là những người tài giỏi tốt đẹp ở đương thời. Cố nhiên chẳng cùng những người trên kẻ dưới vậy. Khen rằng: Quý Trác xem nhạc ở nhà Chu, Trọng Ni hỏi Lễ với Lão Đam, chẳng phải mới học, cũng có chủ ý vậy, Giác Đức, Trí Minh.v.v… qua lại nước lớn học hỏi Đạo lý mà trở về, đó cũng là khác loại mà đồng về vậy ư? Thích Viên Quang Thích Viên Quang họ Bệ, có chỗ nói họ Phúc, người xứ Tân-la vương kinh. Năm mười ba tuổi xuống tóc làm tăng, thần khí khôi ngô, trí tuệ hiểu biết hơn mọi người. Năm ba mươi tuổi về ẩn cư tại núi Tam Kỳ, chẳng ra khỏi động. Có một vị Tỳ-kheo lại gần chỗ đó cất A-lan Nhã (=am thất) tu đạo. Đêm đến, Viên Quang ngồi tụng niệm, có vị Thần gọi bảo: “Người tu hành tuy nhiều nhưng không ai hơn Pháp sư cả. Ngày nay, vị Tỳ-kheo kia tu về chú thuật, chỉ gây phiền nhiễu tịnh niệm của ngươi và chướng ngãi đường tôi đi vậy, không được gì cả. Mỗi lúc đi ngang qua là bấy nhiêu lần sanh khởi tâm ác, xin Pháp sư khuyên nhủ cho dời đi nơi khác, nếu không cứ ở mãi, sẽ có hoạn nạn vậy”. Sáng hôm sau, Viên Quang qua mách bảo vị tăng ấy rằng: “Nên dời chỗ ở để lánh nạn, bằng không sẽ có điều bất lợi”. Vị tăng ấy đáp: “Chí hạnh thì ma chướng ngại, cớ sao lo sợ yêu quỷ mà nói vậy”. Đêm ấy vị thần ấy đến hỏi, vị tăng ấy đáp: “Viên Quang sợ ông ta tức giận”. Và nói dối là “Chưa nói tới tai chứ đâu dám không nghe theo!”. Vị thần bảo: “Tôi đều đã rõ tình thế đó, vả lại có thể điềm nhiên để ở mà nhìn đó!”. Đến nửa đêm, có tiếng động như sấm nổ, Lê Minh liền đếm xem, có núi đổ đè lấp am thất. Vị thần ấy đến làm chứng bảo: “Tôi sống ở đây mấy ngàn năm, oai biến rất mạnh, như thế đâu đáng quái lạ”. Nhân đó Thần khuyên dụ rằng: “Nay sư (ViênQuang) tuy có tự lợi, mà thiếu lợi tha, sao chẳng vào triều để sóng Pháp phủ cùng lớp hậu học?”. Viên Quang bảo: “Học Đạo ở Trung Hoa, để làm vững chắc sở nguyện, còn tại chốn đất biển xa xôi cách trở, chẳng thể tự thấu đạt!”. Khi đó, thần dụ dỗ việc Tây du, Viên Quang bèn đến đất nhà Trần, đi khắp các trường giảng, lãnh thọ lời hay, truyền bẩm các bộ Thành thật, Niết bàn, Tam tạng số luận, bèn đến Hổ khâu của đất Ngô, nhiếp tưởng trời xanh. Nhân tiện có tín só mời, bèn giảng Luận Thành Thật, mong được lợi ích, tiếp nhau như Lân, gặp lính nhà Tùy đến Dương Đô, chủ tướng trông thấy tháp bị lửa bốc cháy, cùng nhau đến cứu, chỉ thấyViên Quang bị trói ở trước tháp, nếu không có cáo trạng thì mở trói cho. Khai Hoàng nghe nhiếp luận, bắt đầu hưng phát, kính mang văn ngôn, đến tuyên dự ở Kinh cao, chứa nghiệp đã tinh, nói ở đông hải phải tiếp nối, Bổn triều tấu lên, có sắc lệnh thả cho trở về. Đến năm Canh Thân, đời vua Chân Bình thứ hai mươi hai, nhà Tùy hỏi sứ Nại-ma các phụ đại xá Hoành xuyên trở về nước. Bổng chốc thấy trong biển có Dị nhân xuất hiện lễ bái cầu xin rằng: “Nguyện xin Sư (Viên Quang) vì tôi mà sáng lập chùa, thường giảng kinh Pháp, khiến đệ tử được quả báo tốt đẹp”. Viên Quang gật đầu chấp thuận, Viên Quang qua lại nhiều lần, già trẻ đều mừng vui, nhà Vua cũng đích thân cung kính như đối với Phật. Viên Quang bèn đến núi Tam Kỳ-chỗ ở xưa. Nửa đêm, vị Thần ấy lại thăm hỏi việc qua lại thế nào. Viên Quang cảm tạ rằng: “Nhờ ân Ngươi giúp hộ trăm việc đều hài lòng mãn nguyện”. Thần bảo: “Tôi cố nhiên là chẳng lìa nâng đỡ, vả lại sư cùng Hải Long kết ước nguyện xây chùa, Hải Long ấy nay cũng đều đến”. Viên Quang hỏi Hải Long rằng: “Nơi nào có thể làm được?”. Thần bảo: “Đến phía bắc núi Vân Môn, chỗ có bầy chim Thước mổ đất, chính là chỗ ấy vậy”. Sáng sớm, Viên Quang cùng Thần Long đều trở về, quả thật thấy đất ấy, liền đào lên thấy có ngôi tháp đá hiện còn, bèn sáng lập ngôi chùa đặt biển hiệu là “Vân Môn” và trú tại đó. Thần lại chẳng bỏ mà âm thầm hộ vệ. Một ngày nọ, Thần báo rằng: “Kỳ hạn của tôi không lâu nữa, xin được thọ giới Bồ-tát để làm vốn liếng qua lại lâu dài”. Viên Quang bèn trao cho giới bồ-tát, nhân đó kết thề đời đời độ nhau. Viên Quang lại hỏi: “Thân tướng của Thần có thể thấy được chăng?”. Thần đáp: “Sư hãy đợi đến sáng nhìn về phương Đông có cánh tay lớn xuyên qua mây tiếp giáp với trời”. Thần hỏi: “Sư thấy tay tôi chăng? Tuy có sức thần như thế, nhưng không khỏi bị vô thường chi phối, sẽ vào ngày ấy tôi sẽ chết tại chỗ ấy, xin đến từ biệt”. Viên Quang nhân tiện hẹn đến xem, thấy một con chồn đen hơi thất thểu tiếng kêu rồi chết, tức vị thần ấy. Có con rồng cái ở phía Tây biển thường theo nghe giảng, gặp năm đại hạn, Viên Quang hỏi: “Ngươi có mong mưa trong phạm vi cảnh giới của mình chăng?”. Long nữ đáp: “Thượng đế không cho phép, nếu tôi làm mưa đại thì sẽ mắc tội với trời và không nơi để cầu cứu”. Viên Quang bảo: “Với khả năng của ta chắc chắn có thể khỏi!”. Bổng chốc khắp cả Nam sơn triều tề, sùng triều đều mưa, bấy giờ sấm trời nổ vang, liền định trách phạt. Long nữ bảogấp, Viên Quang giấu Long nữ dưới tòa giảng Kinh, sứ trời đến bảo rằng: “Tôi vâng lệnh Thượng đế, sư làm cho kẻ chạy trốn, chủ bắt không được, thành mạng làm sao?”. Viên Quang chỉ cây lê ngoài sân, bảo: “Kẻ ấy biến thành cây kia, ngươi nên đánh nó đi”. Sứ trời bèn đánh cây lê rồi bỏ đi, Long nữ mới ra tạ lễ, lấy cây gỗ chặt đã chịu phạt, đưa tay vỗ xoa nó, cây bèn sống lại. Đời vua Chân Bình thứ ba mươi, vua sợ Cú Cao-ly thường xâm lấn biên cương, muốn xin binh lính nhà Tùy để đánh dẹp nước địch, bảo sư viên Quang sửa biểu xin binh. Viên Quang bảo: “Cầu tự mình còn mà giết hại kẻ khác, đó chẳng phải hạnh của Sa-môn. Nhưng Bần đạo sống trên đất của Đại Vương, tổn phí cơm áo của Đại Vương, chẳng dám không vâng theo!”. Bèn thuật biểu để tấu trình. Viên Quang tánh luôn hư nhàn, tình lắm trầm ái, nói thường mỉm cười, không dáng vẻ giận, làm then chốt viết biểu khải, đều xuất phát từ đáy lòng, cả nước đều kính vâng, giao phó dùng cách sửa trị, nương cơ giáo hóa, để lại khuôn phép cho đời sau. Đến năm thứ ba mươi lăm, chùa Hoàng Long lập Pháp hội trăm tòa, thỉnh mời chư tăng giảng kinh, Viên Quang làm bậc thượng thủ, thường ở nhờ tại chùa Gia tất, giảng nói kinh pháp tại Sa Lương Bộ, có Quý Sơn, Đới Đảnh, đến cửa vén áo, thưa rằng: “Kẻ phàm tục chúng tôi ngu muội, không có sự hiểu biết, xin sư ban cho một lời để làm điều răn trọn đời”. Viên Quang bảo: “Có giới Bồ-tát, trong đó riêng có mười điều, nhưng sợ các vị không thể thực hành. Nay có năm giới của thế tục:- 0 1/ là lấy lòng trung để thờ Vua- 0 2/ là lấy tâm hiếu để thờ cha mẹ- 03/ là lấy đức tín để kết giao với bạn bè- 04/ là lấy chí khí không thối lui mà vào trận chiến và 05/ làsát sanh phải có sự lựa chọn. Từng ấy điều thực hành không sai sót”. Quý Sơn thưa: “Các điều ấy thì đã vâng mạng, chỉ không hiểu điều sát sanh phải có sự lựa chọn là thế nào”. Viên Quang bảo: “Các tháng mùa xuân, mùa hạ và sáu ngày trai không được giết hại, đó là lựa chọn về thời gian, không giết các loài vật được nuôi như bò ngựa gà chó, không giết những con vật nhỏ, tức loài mà thịt nó không đủ một bữa ăn, đó là lựa chọn về vật. Hơn thế nữa, tuy có chỗ dùng nhưng không cầu giết hại nhiều. Trên đây có thể gọi là thiện giới của thế tục”. Quý Sơn.v.v. . . giữ gìn mà chẳng sa đọa. Về sau, Quốc Vương bị bịnh, thầy thuốc chữa trị không dứt, thỉnh Viên Quang nói Pháp, vào cung an trí, hoặc giảng hoặc nói, nhà Vua thành tâm kính tin, đầu hôm thấy Viên Quang làm thủ lãnh, sắc vàng như vầng mặt trời, mọi người trong cung đều thấy, Vua vội đứng dậy bắt chước, Viên Quang Pháp lạp đã cao, ngồi xe vào cung, y phục thuốc thang đều là do Vua tự tay làm, hy vọng chuyên cầu phước. Mọi vật người cúng thí, Viên Quang đều sung vào việc làm chùa. Ngoài ra chỉ còn lại y bát, lấy đó mà mở mang chánh pháp, dẫn dụ kẻ tăng người tục. Khi sắp lâm chung, Vua gần gũi an ủi, Viên Quang để lại Di pháp, cứu giúp dân chúng vì nói các điềm lành. Đến niên hiệu Kiến Phước thứ năm mươi tám, chẳng quá dự đoán bảy ngày, dặn dò tha thiết, ngồi ngay thẳng thị tịch tại chỗ ở. Lúc ấy, ở phía Đông bắc chùa Hoàng Long, giữa không trung âm nhạc rền vang, mùi hương lạ xông đầy viện, cả nước vui buồn chan hòa, tang lễ đầy đủ, đồng như lễ an táng vua. Viên Quang thọ chín mươi chín tuổi, năm đó nhằm niên hiệu Trinh quán thứ tư (6 3 1). Sau đó có một thai nhi bị chết, nghe truyền rằng đem chôn người bên cạnh mộ người có đức thì con cháu không tuyệt tự, bèn lén giấu chôn. Ngày đó, sét đánh thai nhi văng ra khỏi mộ, ngày nay tháp báu thờ Viên Quang vẫn còn tại núi Tam kỳ. Viên Quang có người đệ tử Viên An cũng người Tân-la, có cơ phong bén nhạy duệ, tánh ít thích lịch lãm, thích chốn vắng lặng, bèn đi đến phương bắc, rảo khắp chín châu, đông quán chẳng nại, lại đến tây Yên bắc Ngụy, sau đó lần lượt đến đế kinh, thông hiểu phong tục các nơi, tìm các kinh luận, nắm lấy đại cương, suốt thông ý chỉ nhỏ nhiệm, vết cao rõ trần, vì Đạo vốn có nghe, đắc tiến túc vũ, mời trụ chùa Thanh lương ở Lam điền, cúng dường tứ sự. Không biết Sư tịch ở đâu. Khen rằng: Xưa kia, Tuệ Viễn chẳng bỏ sách thế tục, những lúc giảng dụ, thường dẫn Lão Trang liên loại, có khả năng giúp người tỏ ngộ huyền chỉ. Như Tiên sư Viên Quang bàn luận giới của thế tục, bởi học thông trong ngoài, bắt chước tùy cơ nói Pháp. Nhưng sát sanh có sự lựa chọn là phàm lìa bỏ ba mặt nước nóng, lưới võng, nghóa là Trọng Ni bắn mà chẳng bắn lúc ban đêm. Lại nữa,Viên Quang động đến Thiên Thần, lại Thiên sứ thì đạo lực cố nhiên có thể biết. Thích An Hàm Thích An Hàm họ Kim, cháu của Thi phú Y San. Vừa mới sanh đã giác ngộ, tánh lượng xung hư, cương quuyết sâu sắc, chẳng cùng ngằn mé, thường lãng chí đi các nơi, xem xét phong tục, tập quán riêng tư. Niên hiệu Chân Bình thứ hai mươi hai, ước hẹn kết bạn cùng Cao tăng Tuệ Tú, định nương cây xà nổi bơi qua bến phổ, vượt qua dưới đảo, bổng gặp sóng gió, trôi dạt về bờ này. Năm sau, có chiếu chỉ chọn người có khả năng trở thành Pháp khí, bèn vào triều học hỏi, nên bảo Pháp sư nên thực hành đầy đủ. Mới cùng dò hỏi Quốc sứ cùng thuyền vượt biển, xa đến Thiên đình. Thiên Vương dẫn thấy, ý vua rất vui, ban sắc đến ở tại chùa Đại Hưng Thánh. Khoảng chừng một tháng, hiểu rõ huyền chỉ, từ đó Hiệp sơn tiên chưởng đường dài mười trạm, ngay trưa hôm ấy trở về, ai nghe tiếng trống tối, cung Tần lãnh đế đất xa xôi ngàn dặm, tức sao sáng vội lên xuống, đâu đợi chuông sớm. Bí pháp mười thừa, chân văn huyền nghóa, chỉ trong năm năm, đều xem cùng hết. Đến năm thứ hai mươi bảy, An Hàm bèn cùng Sa-môn Tỳ-ma-chân-đế, sa-môn Nông Gia Đà.v.v. . . người nước Vu-điền đều đến nơi đây, Hồ Tăng Tây vức thẳng đến Kê Lâm, bởi tự đó vậy. Trong truyện “Nghóa Tương” do Thôi Trí Viễn soạn có chép: “Năm ấy Pháp sư An Hoằng là bậc Thánh ở phương đông cùng với hai vị Tam tạng pháp sư ở Tây vức, hai vị người Hán đến từ nhà Đường”. Lại chú thích rằng: “Pháp sư Tỳ-ma-la-chân-đế bốn mươi bốn tuổi và Pháp sư Nông-già-đà bốn mươi sáu tuổi là hai vị ở nước Ô-trành thuộc bắc Thiên Trúc. Pháp sư Phật-đà-tăng-già bốn mươi sáu tuổi người nước Ma-đậu-la, đi qua năm mươi hai nước mới đến đất Hán bèn tìm đến phương Đông, trú tại chùa Hoàng Long, dịch Kinh”Chiên Đàn Hương Hỏa Tinh Quang Diệu Nữ”, vị tăng trong làng là Đàm Hòa ghi chép. Sau đó không lâu vị tăng người Hán dâng biểu xin trở về Trung Quốc, nhà Vua chấp thuận và đưa tiễn”, cho nên hình như An Hoằng là Hòa- thượng vậy. Lại xét theo “Tân la bổn ký” thì đời vua Chân Hưng Vương thứ hai mươi bảy, An Hoằng đến đất Trần cầu Pháp, cùng với vị tăng Ấn-độ là Tỳ-ma-la.v.v. . . hai vị trở về, dâng lên các Kinh Lăng-già, Thắng-man và xá lợi Phật. Từ cuối niên hiệu Chân Hưng đến năm Chân Bình Kiến Phước cách nhau khoảng năm mươi năm, trước khi ba tạng đến lại như vậy. Hoặc sợ rằng An Hàm, An Hoằng thật là hai người? Nhưng chỗ ấy cùng với Tam Tạng chẳng khác, mà khuyết danh chẳng khác. Nay hiệp lại mà lập truyện. Lại chưa rõ vị Tam Tạng Pháp sư ở Tây vực ra đi hay ở lại, cuối cùng như thế nào? Hòa-thượng trở về nước, về sau soạn sấm thư một quyển, chữ in ly hợp, vì đó nên ít lường xét, tông mê u ẩn, người tìm cầu lý giải khó nghiên cứu. Như nói: “Chim cú tai mèo (văn bia mà mờ không rõ) tan”. Lại nói rằng: “Nữ chúa thứ nhất an táng trên tầng trời Đao-lợi, cho đến ngàn dặm chiến quân bị thất bại, thành của chùa Tứ Thiên Vương. Năm vua tử trở về quê cũ là năm Đại quân Thạnh Minh”. Đều là lời huyền dự ký dường như mắt thấy, rõ ràng không sai sót. Đến ngày hai mươi ba tháng chín đời vua Thiện Đức Vương năm thứ mười, An Hàm thị tịch ở đạo tràng vạn Thiện, thọ sáu mươi hai tuổi, cũng tháng đó hương sứ theo Hán mà gặp gỡ Pháp sư, trải tòa trên sóng biếc, an nhiên đi về phía Tây. Thật như cái gọi là nhảy vọt giữa không trung, rảo bước thềm bậc, ngồi trên nước, đi trên đất. Hàn Lâm Tiết Mỗ vâng chiếu soạn văn bia, trong đó bài Minh viết rằng: “Hậu táng Đao lợi Dựng chùa Thiên Vương Lạ chim kêu đêm Bọn lính sớm chết Vương tử qua ải vào triều Thánh nhan năm năm, Tuổi ngoài ba mươi mà trở lại. Nổi trôi xoay lăn Kia ta đâu khỏi? Năm sáu hai tuổi Tịch chùa Vạn Thiện Sứ về đường biển Sư cũng cùng gặp Ngồi ngay trên nước Thẳng hướng về Tây” (Văn bia rêu phủ mất mười chữ, mất bốn-năm chữ, lượt lấy có thể xem phỏng lấy thành văn) Bởi chẳng đợi kia Cũng phảng phất dấu vết còn để lại vậy. Khen rằng: Sức thần thông giải thoát của sư (An Hàm) đi ở tự tại, là việc an nhàn của Đại Bồ-tát, đâu cho bút lưỡi xen vào? Nhưng vào triều mới cùng Tam Tạng pháp sư-người tây vực, tay phân phối nguồn chân, thổi loa pháp, mưa xuống mưa pháp, sông đượm góc biển, thật là chữ bậc Thánh mở mang Phật pháp. Chữ viết qua ba lần thì chữ ô viết thành chữ yêu, rồi viết thành chữ Mã. Tôi nghi ngờ hai chữ “Hàm, Hoằng “cũng có thể viết lầm như thế. Thích A Ly Da Bạt Ma Thích A Ly-Da-Bạt-Ma thần trí riêng ngộ, hình mạo khác thường, ban đầu từ Tân-la đến Trung quốc, tìm thầy tham học, không chỗ xa nào chẳng tìm đến, nhìn nghó hang hóc tối tăm, leo lên tận các tầng trời, chẳng phải chỉ có khuôn phép của đương thời, mà cũng muốn đào luuyện bến bờ cho đời sau. Chí tha thiết dạo xem, chẳng sợ đi xa, bèn đến cầu pháp tận chốn Tây trúc, mới đến tận nơi xa xôi Thông lãnh, sưu tầm mọi thứ khác lạ ưu việt, trải qua chiêm ngưỡng các Thánh tích, nguyện xưa đã thỏa mãn, khi ấy lương thực cũng đã hết, mới dừng ở tại chùa Na-lan-đà, sau đó không lâu thì thị tịch. Thời bấy giờ, có vị cao tăng Chuyên nghiệp trụ chùa Bồ-đề, các vị Huyền Khác, Huyền Chiếu đến chùa Đại Giác. Đó là bốn vị sống trong niên hiệu Trinh Quán ( 6 2 7- 650), có công hạnh như thế. Cùng gieo trồng nhân tốt, bèn gặt hái dòng giống họ Thích, xa tạ nơi cũ, đến thấy phong tục Tây Trúc, tốt lành danh dự khắp cả đông tây, rõ vui lớn nơi võng cực, chẳng phải hạng thượng bối có đại tâm thì làm sao họ có thể tham dự được như thế ư? Nếu xét theo về niên phả thì dường như cùng với Tam Tạng pháp sư Huyền Trang đồng phát xuất từ Tây quốc, chỉ không biết vào đời thứ mấy và năm nào mà thôi. Thích Tuệ Nghiệp Thích Tuệ Nghiệp tài trí sâu xa, khí lượng bất đọng, dung nghi cao vời, phong cách ngay thẳng, thẳng lời riêng nhưỡng, vừa mới đến Trung Hoa, khoảng niên hiệu Trinh Quán ( 6 2 7- 650) qua đến Tây vực. Vượt qua sa mạc rộng lớn, trèo lên hiểm nguy của núi Tuyết. Mỗi lúc mặt trời vừa tỏ dạng liền ẩn núp trong rừng thâm u, đợi đến lúc trăng soi nửa đêm mới ra ngoài, coi thường mạng sống, chết vì Phật pháp, chí nguyện tha thiết tuyên dương, bèn đến chùa Bồ-đề, chiêm ngưỡng đảnh lễ các Thánh tích, lại đến chùa Na-lan-đà, gởi vết dừng ở đó lâu, xin đọc Kinh Tịnh Danh, nhân đó kiểm nghiệm lại bản dịch đời Đường, thấu hiểu sâu sa xuyên suốt. Trong “Lương Luận hạ ký” chép: Dưới cội Phật xỉ, vị tăng người Tân-la là Tuệ Nghiệp có viết ký truyện rằng: “Tuệ Nghiệp thị tịch tại chùa ấy, bấy giờ hơn sáu mươi tuổi”. Phàm các sách Tuệ Nghiệp chép bằng tiếng Phạn đều để tại chùa Na-lan-đà cả. Thích Tuệ Luân Thích Tuệ Luân người xứ Tân-la, tiếng Phạn là Bát-nhã-bạt-ma (đời Đường dịch là Tuệ Giáp), xuất gia tại quê nhà, tâm gá nơi cảnh Thánh, theo thuyền buôn đến đất Mân, Việt, lặn lội để tới Trường An, chịu đựng đủ mọi thứ nóng lạnh, mọi thứ gian nguy. Vâng sắc theo Pháp sư Huyền Chiếu làm người hầu đi Tây Trúc, bay qua thềm thang gác trên nguy hiểm, khi đã đến Tây Trúc, liền tham lễ khắp cùng các kỳ tích, đến ngụ tại chùa Tín giả của nước Yêm-ma-la-ba, trụ đến mười năm, ở gần phía Đông là xứ Kiền-Đà-la có chùa Sơn Trà, sản phẩm hóa vật rất dồi dào, cúng dường các bữa ăn. Ngoài ra chẳng có thêm gì. Ở phương bắc các vị tăng Ấn-độ qua lại, đều trú tại chùa ấy, các vị tài giỏi nhóm họp, mỗi vị đều tu theo pháp môn, Tuệ Luân đã giỏi tiếng Phạn lại hiểu rộng Câu-xá, ngày đến vẫn còn, gần bốn mươi tuổi, đầy đủ như trong truyện cao tăng Tam Tạng pháp sư Nghóa Tịnh cầu pháp. Thích Huyền Khác Thích Huyền Khác người Tân-la, tánh cao vời cứng cỏi, có tri kiến hoàn toàn, tánh vui thích giảng nói, phó cảm tùy cơ duyên. Người thời bấy giờ chỉ như phù dung trong lửa. Huyền Khác thường than là thọ sanh chốn biên địa, chưa thấy được Trung Hoa, nghe nếp sống mà mừng vui, Đạo chân chất mới tới, mắt quỳnh ở đông kỳ, bèn ngậm cười Tây, tâm hổ thẹn giữa ban ngày, chí muốn tham yết qua, sánh như trăng đi, nửa đêm nhận vận mà chuyển, hoặc tầng lớp chất chồng bốn hợp, đường chim bay ngang mây, hoặc liền băng ngàn dặm, gío thổi mây ngàn. Bèn cùng pháp sư Huyền Chiếu nương nhau tìm đến chùa Đại Giác ở trời Tây, đi khắp đường sáng rực, thường rảo xứ không ảnh. Vác hòm sách nghiên cứu tinh tường, giũa ngọc thành vật dụng, tuổi quá già mà không lẫn mê, bị bệnh nên thị tịch. Huyền Chiếu cũng là bậc cao só Tân-la cùng với Huyền Khác đồng liệu trước sau một Đạo, không rõ thị tịch ở đâu! Lại có hai vị tăng cũng người xứ Tân-la, không rõ tên gì, cũng phát xuất từ Trường An, nổi trôi trên thuyền, đến nước Thất-lợi-Phật-thệ, gặp phải bị bệnh mà thị tịch. Thích Huyền Du Thích Huyền Du người xứ Cú-Cao-ly, tánh tình hư dung, bẩm chất ôn nhã, ý muốn tự lợi lợi tha, chí quý trọng cầu học hỏi, nương chèn ngoi dòng, xét nhà tăm tối. Đến Trung Hoa vào đời Đường, kính lễ phụng thờ Thiền sư Tăng Triết, vén áo bẩm thọ huyền chỉ. Tăng Triết kính mến Thánh tích, nương thuyền đi đến Tây vức, hóa độ tùy duyên, đi đảnh lễ lược quanh, trở về đường Đông Ấn. Huyền Du thường theo phụ phượng, nhân ở lại đó, đuốc tuệ sớm tỏ, cây thiền mau tốt tươi, cùng bờ đầy lượng, lúc đi rỗng không, trở về đầy vật báu. Thật là rường cột của nhà Phật, lãnh tụ của tăng đồ, đã vậy mà thuyền bè ẩn dời, thương đổi chất của gò hang, ở nơi dễ thoát, bùi ngùi đời người khó thường còn, củi hết lửa tắt, đâu tìm lại được! Pháp sư Tam Tạng Nghóa Tịnh mừng Huyền Du tuổi nhỏ mà kính mến giáo pháp với tâm bền bỉ, đã Kiền thành ở Đông hạ, lại cầu học nơi trời Tây, chỉ lại thần châu làm vật ngâm giữ. Truyền mười pháp mà mở mang giáo pháp, rốt cùng ngàn năm mà chẳng là năm. Tuy bỏ thân ở xứ khác, chưa trở về nơi cũ, công của những người ấy lỗi lạc như vậy, sao chẳng nêu danh trên lụa trúc để chỉ bày cho tương lai! Bèn soạn bộ “Cầu pháp Cao Tăng truyện” Tôi tình cờ xem Đại Tạng đọc đến ở đây, chí rất kính mến, bèn lượm nhặt gom góp mà viết vậy. Thích Huyền Đại Phạm Thích Huyền Đại Phạm người xứ Tân-la pháp danh là Tát-bà- thận-thệ-đề-bà (đời Đường dịch là “Nhất thiết trí thiên”), tuổi nhỏ mà thâm trầm, có tướng Đại nhân, chẳng ăn các thứ cay nồng. Thường nương thuyền đến Trung Hoa vào đời Đường, học vấn chẳng phải thường. Khoảng niên hiệu Vónh Huy ( 6 5 0- 656) thời Vua Cao Tông, bèn đến trung Ấn Độ, lễ cây Bồ-đề, như sư tử đi, chẳng có bạn, quất roi vàng ở năm tầng lầu, trông thềm báu của Tam giáo, Huyền Đại Phạm kính mến xa xăm trải qua nhiều thứ phong thổ gian nguy, cũng chưa thể dẫn hết, bèn đến chùa Đại Giác, treo tích trượng, nghiệm rõ kinh luận, biết các phong tục địa phương. Về sau trở lại Trung Hoa giảng nói, giáo hoá, sự u huyền rõ ràng, cao vợi thay thành công ấy! Khen rằng: Số người như trên xa rời thanh khiếu, đến xứ Trung Hoa, truy tìm dấu vết xa mờ của Pháp Hiển, Huyền Trang, qua lại tuyệt vực xem như trong hang cùng ngõ hẻm, so sánh vâng sứ đồng loại như Trương Khiên Tô Vũ. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG Ở HẢI ĐÔNG (QUYỂN HAI HẾT) (TRỌN BỘ)