<經 id="n2064">TRUYỆN THẦN TĂNG (QUYỂN 1 ~ 9) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TRUYỆN THẦN TĂNG LỜI TỰA Do vua Thành Tổ đời nhà Minh Ngự Chế Thần tăng là những vị có sức Thần thiên biến vạn hóa vượt trội hơn hẳn mọi người. Nhưng đều có truyện rải rác trong kinh điển. Người xem rất mong được khảo cứu nhưng văn từ trong Tam tạng lại rộng lớn mênh mông, khó thể hiểu được, cho nên ở đời phần nhiều không thể biết hết được ý sâu xa và cũng không thể thấu hiểu cặn kẽ nguyên do, vì các vị đó chính là Thần. Nhân đó mà cố gắn góp ghi lại các truyện gom thành chín quyển, để người xem khỏi nhọc công tốn sức tra cứu tìm tòi. Một lần xem qua thì có thể biết tất cả, như vào kho báu thì thấy tất cả tốt đẹp đều có đủ, liền đem khắc bảng in để lưu truyền, bày rõ chứng cứ trong khoảng đất trời, khiến mọi người đều biết đó là Thần tăng, đều ghi đủ chứng cứ. Nên nay đem ghi lời này để ở đầu sách. Vónh Lạc năm thứ 15 (1 4 1 8), ngày mồng 6 tháng giêng. ******* TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 1 Ma Đằng: Thích Ma Đằng, người trung Thiên Trúc, tánh cách phong thái nghóa khí, thông hiểu các kinh điển Đại, Tiểu thừa, thường lấy việc du hóa làm chính. Đến Thiên Trúc nương vào một nước nhỏ, giảng kinh Kim Quang Minh. Gặp lúc có nước cừu địch xâm lăng, Ma Đằng nghó: “Trong kinh nói: Pháp này là chỗ Địa thần ủng hộ, khiến ở được an lạc. Nay giặt dã mới bắt đầu, ta làm sao bỏ mặc?” Mới quyết bỏ thân mạng này, cùng đến khuyên hóa, do đó mà tiếng tăm vang lừng. Đến niên hiệu Vónh Bình ( 5 8- 76), đời Hậu Hán, vua Minh Đế nằm mộng thấy người vàng bay giữa không trung đến, liền nhóm họp quần thần cùng nhau đoán mộng ấy. Thông nhân Phó Nghị tâu rằng: Kẻ bề tôi nghe ở Tây Vực có thần, tên gọi là Phật, mộng của bệ hạ quả là vậy! Nhà vua cho vậy, liền sai Lang Trung Thái Âm, Tần Cảnh đệ tử Bát Só… đến Thiên Trúc tìm hỏi Phật pháp, Thái Âm… đến đó gặp được Ma Đằng, muốn mời về đất Hán, với ý nguyện hoằng thông Phật pháp, Ma Đằng không sợ gian khổ, mạo hiểm vượt qua Lưu sa đến ở Lạc ấp. Vua Minh Đế rất vui mừng cung kính nghênh tiếp, dựng lập tịnh xá ở ngoài cửa phía Tây thành thỉnh Ma Đằng ở đó. Đất Hán có Sa-môn, từ Ma Đằng là tiếng gọi đầu tiên. Chỉ vì đại pháp mới truyền đến nên chưa có mấy ai quy hướng kính tin, nên lịch sử hiểu biết thâm sâu của Ma Đằng không cũng chưa ghi chép nhiều. Về sau, Ma Đằng viên tịch tại Lạc dương. Có ghi rằng: “Ma Đằng phiên dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, 1 quyển, gian phòng thứ mười bốn là nơi Ma Đằng ở cũng là nơi đầu tiên ngài bế quan trong thạch thất tại Lan đài. Ngày nay là chùa Bạch Mã ngoài cửa Tây ung thành Lạc dương. Lại có tương truyền rằng: “Ở ngoại quốc có vua thường hủy phá các chùa, chỉ có chùa Chiêu Đề chưa kịp phá hủy, ban đêm có con ngựa trắng đi nhiễu quanh tháp kêu tiếng bi ai, liền đem việc ấy tâu vua. Nhà vua liền cấm việc phá hủy các chùa. Nhân đó, đổi tên Chiêu Đề thành Bạch Mã. Pháp Lan Trúc Pháp Lan người trung Thiên Trúc, tự nói tụng đọc kinh luận vài vạn chương, là bậc thầy của các học giả ở Thiên Trúc. Lúc Thái Âm đã đến nước ấy, Trúc Pháp Lan cùng với Ma Đằng đồng kết ước du hóa, cùng Thái Âm đến Trung Hoa, khi đã đến Lạc dương ngài ở cùng với Ma Đằng. Thuở thiếu thời, Pháp Lan đã khéo giỏi Hán ngữ nên các kinh điển được Thái Âm thỉnh ở Tây Vực, phiên dịch cả thảy là năm bộ. Đó là Thập Địa đoạn kết, Phật Bổn Sinh, Pháp Hải Tạng, Phật Bổn Hạnh, và Tứ Thập Nhị Chương. Gặp lúc phải dời đô bởi giặc loạn nên bốn bộ đã bị thất truyền, tại Giang tả chỉ còn kinh Tứ Thập Nhị Chương được lưu giữ đến ngày nay, có thể hơn hai ngàn lời. Các kinh hiện còn tại đất Hán, chỉ có kinh Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh đầu tiên. Thêm nữa, Thái Âm lúc ở tại Tây Vực họa được tôn tượng Đức Phật Thích-ca dựa vào tượng gỗ Chiên-đàn do bốn thầy trò vua Ưu-điền kiến tạo, khi về đến Lạc dương, vua Minh Đế liền sai thợ vẽ đồ vẽ và an trí tại trang đài Thanh lương và phóng to cao lớn trên lăng, tượng cũ xưa nay đã không còn giữ lại. Lại nữa, xưa kia, Hán Vũ Đế đào hồ Côn minh, thấy dưới đáy có tro đen, đem hỏi Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc bảo: Có thể đem hỏi Phạn Nhân ở Tây Vực. Lúc Pháp Lan đến, mọi người liền tìm tới hỏi. Pháp Lan bảo: Thế giới đến đời kiếp tận, động lửa thiêu đốt là tro tàn. Pháp Lan nói có chứng cớ, mọi người tin rất đông. Về sau, Pháp Lan viên tịch tại Lạc dương, hưởng thọ hơn sáu mươi tuổi. Thế Cao An Thanh tự là Thế Cao, là vương tử nước An Tức. Thuở nhỏ, hiếu hạnh song toàn, lại thêm chí nghiệp thông mẫn, khắc ý ham học. Các điển tịch ngoại quốc cũng như Thất Diệu Ngũ hành y phương dị thuật, cho đến tiếng của các loài cầm thú, tất cả đều thông đạt. Từng đi đó đây, thấy bày chim yến, liền nói với chim yến rằng: Sẽ có người đưa thức ăn đến. Trong phút chốc quả thật có điều này, mọi người rất lấy làm lạ. Tiếng thơm tài giỏi khác thường sớm vang cùng Tây Vực. Thế Cao nhường ngôi vua, xuất gia tu đạo, hiểu rộng kinh tạng, rất tinh thông giáo học A-tỳ-đàm. Đã vậy lại thích du phương, đi khắp các nước. Năm Kiến Hòa thứ 2 (1 4 8) vua Hoàn Đế, đời Đông Hán, Thế Cao đến Trung Hoa, học thông Hoa ngữ, tuyên dịch các kinh, có nhiều thần tích. Thế Cao tự xưng đời trước đã từng xuất gia, có một người bạn đồng học, tánh hay sân hận, được phân việc canh giữ, gặp thí chủ không được ngợi khen, mỗi lúc như vậy liền nổi sân giận. Thế Cao luôn can gián, song vẫn không thay đổi. Như vậy hơn hai mươi năm, Thế Cao mới từ biệt với bạn đồng học, bảo rằng: Tôi phải qua Quảng châu để đáp trả hoàn tất việc đời trước. Ông thấu rõ kinh điển, tinh cần chỉ tại vì sau tôi mà tánh nhiều nóng nảy sân hận, sau khi mạng chung sẽ phải nhận chịu thân hình xấu xí. Nếu tôi đắc đạo hẳn sẽ cứu độ.” Nói xong, đi đến Quảng châu, gặp phải giặc loạn, trên đường đi gặp một gã thiếu niên, chàng ta vung tay đao, bảo: Thật, đã được ngươi vậy! Thế Cao cười, bảo: Ta đời trước mắc nợ nhà ngươi, nay từ xa đến để đền trả đây. Sự phẫn nộ của ngươi là ý của đời trước. Thế Cao bèn đưa cổ dài ra chịu nhận, sắc mặt không hãi sợ. Gã thiếu niên ấy giết chết Thế Cao. Mọi người nhìn thấy bèn chôn lấp, không ai chẳng kinh hãi sự kỳ dị của Thế Cao. Sự việc xong rồi, thần thức trở lại sinh Thái tử vua nước An Tức, du hóa khắp Trung Quốc, gặp cuối thời vua Linh Đế (1 8 9), đời Đông Hán, Quan Lạc nhiễu loạn, Thế Cao mới chấn tích đến Giang nam, bảo rằng: Ta phải qua Lô sơn để độ bạn đồng học ngày xưa. Đi đến miếu hồ Cung đình. Ở miếu đó xưa có uy linh, các thương buôn cầu đảo, hay phân gió đưa thuyền lên xuống, mỗi không lưu dừng ứ đọng. Thường có vị Khất thần bóng dáng người Tây Trúc, chưa hứa khả bèn lấy, thuyền cập mạn liền lật úp, Thần ấy trở về chỗ cũ. Từ đó, người đi thuyền rất kính sợ, không ai chẳng nép bóng. Thế Cao cùng đoàn hơn ba mươi thuyền hiến dâng muôn sinh cầu phước, Thần mới giáng chúc rằng: Thuyền có vị Sa-môn, có thể cùng gọi lên. Khách đều kinh ngạc, Thần mời Thế Cao vào miếu, Thần nói cùng Thế Cao rằng: Tôi xưa kia ở nước ngoài cùng ngài xuất gia tu đạo, ưa thích làm việc bố trí mà tánh có lắm sân hận, ngày nay làm Thần ở miếu Cung đình, chung quanh trong vòng ngàn dặm đều là chổ tôi cai trị. Vì nhân bố trí nên các thứ trân quý có rất nhiều, mà cũng bởi vì sân mà phải đọa chịu quả báo làm thần như thế này! Nay thấy bạn đồng học buồn vui có thể cùng nói. Mai đây tuổi thọ sẽ hết mà thân hình xú lậu lớn dài, như đến lúc xả bỏ thân mạng này hẳn dơ bẩn sông hồ, nên phải qua ở trong đầm Sơn tây. Sau khi mất thân này lại sợ phải đọa vào địa ngục! Tôi có ngàn xấp lụa và nhiều thứ vật báu, có thể vì lập pháp tạo dựng tháp để khiến được sinh về chỗ an lành. Thế Cao bảo: Tôi từ xa lại để cùng độ, sao chẳng xuất hiện hình? Thần thưa: Hình hài tôi rất xấu xí khác lạ, mọi người hẳn sợ hãi. Thế Cao chỉ bảo: Nên xuất hiện mọi người chẳng quái ngại gì. Thần từ sau sàng lò đầu ra, mới là một con trăn lớn, không biết đuôi nó ngắn dài, đến bên đầu gối Thế Cao. Thế Cao hướng đến nó, nói tiếng Phạn vài lần, bái tán vài lời. Con trăn buồn rơi lệ như mưa, phút chốc ẩn lại. Thế cao bèn lấy lụa và các vật rồi từ biệt mà đi. Khách thuyền căng buồm, gió thổi nhanh. Con trăn lại xuất hiện thân lên núi mà ngóng nhìn, mọi người đưa tay khoát chào, sau đó mới biệt mất. Trong chốc lác, thuyền đã đến Dự chương, Thế Cao bèn đem các vật ở miếu tạo dựng chùa Đông. Sau khi Thế Cao đi rồi, thần liền mạng chung. Đến chiều tối có một gã thiếu niên vừa mới đến tức là Thần ở miếu Cung đình, đã được thoát kiếp xấu xí. Từ đó, miếu ấy hết thần và sự linh nghiệm không còn nữa vậy. Sau đó, có người đến trong đầm Sơn tây có một hình hài con trăn chết, đầu đuôi nó dài đến vài dặm. Ngày nay, ở quận Tầm dương có thôn Rắn. Thế Cao sau đó lại đến Quảng châu, tìm người thiếu niên đã giết hại thân mình kiếp trước. Bấy giờ người thiếu niên đó vẫn còn, Thế Cao đi thẳng vào nhà người đó nói lại sự việc ngày trước đền trả và đầu mối duyên xưa. Vui vẻ cùng nhau, Thế Cao nói rằng: Tôi còn dư báo, nay phải qua Cối kê đề đền trả cho xong. Mọi người khách ở Quảng châu biết được Thế Cao chẳng phải là người phàm, bỗng nhiên hiểu ý, ăn năn lỗi trước, cùng nhau góp sức cúng dường trọng hậu, rồi theo Thế Cao đi đến hướng Đông. Vừa tới Cối kê, liền vào chợ, gặp lúc trong chợ có người ẩu đả lẫn nhau, đánh lầm vào đầu Thế Cao, tức liền mạng chung. Mọi người ở Quảng châu đã từng chứng kiến hai lần Thế Cao đền trả quả báo, bèn tinh cần tu tập Phật pháp nói đủ mọi sự duyên, mọi người ở xa gần nghe biết, ai ai cũng đều tán thán là Thần dị. Tăng Hội Thích Tăng Hội vốn dòng họ Khương, tổ tiên là người nước Khương Cư, nhiều đời đến sống ở Thiên Trúc. Thân phụ của Tăng Hội vì việc buôn bán nên dời đến ở đất Giao chỉ. Năm Tăng Hội hơn mười tuổi, song thân đều qua đời, Thế Cao giữ lòng chịu tang, hiếu mãn, phát chí xuất gia, chuyên cần tu tập. Là người cao nhã, có hiểu biết nhiều lại dốc chí chuyên tâm học hành nên hiểu rõ Tam tạng, xem cùng sáu kinh, Thiên Văn Đồ Vó, không gì chẳng biết. Lại thêm khéo văn chương, tài giỏi giảng nói. Bấy giờ, Tôn Quyền, đời Đông Ngô đã chế định ở Giang tả, mà Phật pháp chưa được lưu hành xứ đó. Năm Xích ô thứ 10 (2 4 7), lúc mới đến Kiến nghiệp, Tăng Hội dựng lập am thanh, thiết bày tượng Phật hành đạo. Khi ấy, người nước Ngô vì mới thấy Sa-môn, chỉ thấy hình mà chưa hiểu đạo, nghi là lập dị. Có vị quan tâu rằng: Có người Hồ mới đến ở ngụ, tự xưng là Sa-môn, ăn mặc khác thường, vì thế nên tra xét. Tên Quyền bảo: Ngày trước, ở đời Hậu Hán, vua Minh Đế ( 5 8- 76) mộng thấy Thần xưng hiệu là Phật, đạo mà người ấy tôn thờ há là Di Phong của Phật ư? Liền mời Tăng Hội đến tra hỏi: Đạo ông có gì linh nghiệm? Tăng Hội đáp: Đức Như Lai ẩn dấu đã hơn ngàn năm. Di cốt xá-lợi thần diệu vô cùng. Xưa kia, vua A-dục xây dựng tám mươi bốn ngàn bảo tháp. Phàm tạo lập chùa tháp là để hiển dương chánh pháp của Như Lai. Tôn Quyền cho là hư dối bèn bảo Tăng Hội rằng: Nếu có thể cầu được xá-lợi, ta sẽ vì tạo tháp cúng dường, còn bằng không thì phải y theo luật nước gia hình. Tăng Hội xin kỳ hạn bảy ngày, rồi nói cùng các đệ tử rằng: Sự hưng phế của Phật pháp chỉ tại đây, ngày nay nếu không chí thành về sau hối tiếc cũng không kịp. Tăng Hội cùng Đệ tử trai tịnh, vào tónh thất, lấy một bình đồng đặt trên bàn, xông đất hương trầm, lễ thỉnh. Đã mãn hạn bảy ngày, vẫn lặng lẽ không gì ứng nghiệm. Tăng Hội lại xin thêm bảy ngày, cũng lại như thế. Tôn Quyền nói: Đây chỉ là việc khinh thường hư cuống. Lúc sắp gia hình, Tăng Hội lại xin thêm bảy ngày nữa. Tôn Quyền lại đặc ân chấp thuận cho. Tăng Hội nói với đồng đạo rằng: Khổng Tử nói: “Văn Vương đã băng hà, Định Chế Lễ Nhạc chẳng còn nơi ta ư?” Phép linh đã ứng giáng, chỉ bởi chúng ta không thành cảm, thì cần gì phải mượn phép vua? Chỉ nên nguyện chết làm kỳ hạn.” Đến chiều ngày thứ hai mươi mốt, còn không thấy gì, không ai chẳng lo sợ. Vào khoảng canh năm, bỗng nghe trong bình có tiếng rổn rảng. Tăng Hội đến xem, quả thật đã có xá-lợi. Sáng sớm mai, Tôn Quyền tự tay nắm bình đổ xá-lợi ra chiếc mâm đồng, nơi xá-lợi chạm đến, mâm Đồng liền vỡ vụn. Tôn Quyền kinh ngạc nói: Thật là điềm hi hữu! Tăng Hội bước đến, bảo: Sức oai linh của xá-lợi đâu chỉ có phóng ánh sáng mà thôi, cho đến lửa của kiếp thiêu cũng không thể đốt cháy, chày Kim Cang cũng không thể đập nát. Tôn Quyền bảo đem thử nghiệm. Tăng Hội lại phát lời nguyện rằng: “Mây pháp vừa trùm khắp, chúng sinh mong đượm nhuần, xin lại hiện thần tích để hiển bày oai linh!” Nói xong, Tăng Hội bảo người đặt xá-lợi lên đe sắt, sai một lực só dùng chày sắt đập mạnh, nhưng chày và đe đều hư khuyết mà xá-lợi không hề hư hại gì. Tôn Quyền vô cùng thán phục, liền dựng tháp cúng dường. Vì mới có chùa Phật nên đặt hiệu chùa là Kiến Sơ, và tên của chỗ đất đó là thôn Phật-đà. Từ đó, Phật pháp tại Giang tả rất hưng thạnh. Sau này, Tôn Hạo lên ngôi ( 2 6 4- 280), sử dụng chính sách hà khắc, phá bỏ dâm tế, hủy hoại chùa tháp. Ngày nọ, sai binh lính vào hậu cung sửa sang vườn tược, bỗng nhiên được một tôn tượng vàng cao khoảng vài thước, đem dâng lên Tôn Hạo. Tôn Hạo bảo đem để nơi chỗ bất tịnh, lấy nước nhơ uế rưới lên, cùng với quần thần đùa cười lấy làm vui. Bỗng chốc khắp mình Tôn Hạo sưng lớn, ở chỗ kín đau đớn, kêu la thấu trời. Quan Thái Sư đoán rằng: Bởi do xúc phạm đến một vị thần lớn mà sinh vậy. Tôn Hạo liền sai người đến các miếu Thần cầu phước. Các thể nữ liền nghênh tôn tượng đặt vào trên điện, lấy nước thơm tẩy rửa vài mươi lần, rồi đốt hương sám hối. Tôn Hạo lạy quỳ cuối đầu trên gối, tự tỏ bày tội lỗi, bỗng chốc đỡ đau. Tôn Hạo sai sứ đến chùa thỉnh Tăng Hội về thuyết pháp. Tăng Hội liền theo vào cung. Tôn Hạo hỏi về nguyên do của tội phước nghiệp báo, Tăng Hội phân tích giảng giải lời lẽ rất tinh yếu. Tôn Hạo lãnh hội thông suốt nên vô cùng vui vẻ. Nhân đó, Tôn Hạo xin được xem giới pháp của Sa-môn, Tăng Hội cho rằng: “Giới Văn là pháp Kiêm Khen, không thể khinh xuất giảng nói.”, bèn phân một trăm ba mươi bảy điều nguyện trong kinh Bản Nghiệp làm hai trăm năm mươi việc, đi đứng nằm ngồi đều nguyện vì chúng sinh. Tôn Hạo thấy nguyện từ rộng lớn, nên càng tăng thêm ý thiện, cầu xin Tăng Hội trao truyền ngũ giới. Mười ngày sau, bệnh lành hẳn, Tôn Hạo sai người đến tu sửa trang nghiêm chùa Tăng Hội đang ở. Đồng thời ban lệnh mọi người trong tôn thất đều phải kính tín Tam bảo. Tại thời nhà Ngô, Tăng Hội luôn giảng dạy chánh pháp, vì tánh tình của Tôn Hạo rất hung hăng thô tháo, không thể hiểu đươc diệu nghóa, nên Tăng Hội chỉ dùng các việc báo ứng để khai hóa mà thôi. Đến năm Thiên Kỷ thứ tư (2 8 0), Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn. Tháng 9 năm đó, Tăng Hội ngã bệnh rồi viên tịch. Và năm đó cũng là năm Thái Khang thứ nhất; niên hiệu thứ ba của vua Vũ Đế thuộc đời Tây Tấn. Khoảng niên hiệu Hàm Hòa ( 3 2 6- 335), vua Thành Đế, thuộc đời Đông Tấn, Tô Tuấn làm loạn, thiêu đốt ngôi tháp do Tăng Hội đã tạo dựng, sau đó, quan Tư Không Hà Sung trùng tu lại. Bấy giờ, có Bình tây tướng quân Triệu Dụ, ở đời không tin thờ Phật pháp, khinh báng Tam bảo. Một hôm, Triệu Dụ vào chùa nói với các Sa-môn rằng: - Từ lâu, nghe ở tháp này thường phóng ánh sáng, thật là điều hư dối, chưa thấy không thể tin, nếu hẳn chính mắt thấy thì không gì phải bàn luận. Nói xong, từ tháp phóng ra luồng ánh sáng năm sắc chiếu soi khắp nơi, Triệu Dụ vô cùng kinh hãi, do đó mà kính tin Tam bảo, xây dựng một ngôi tháp nhỏ ở phía Đông chùa. Đến niên hiệu Vónh Huy ( 6 5 0- 656), đời vua Cao Tông nhà Đường, lại thấy Tăng Hội đến đất việt, tự xưng là vị Tăng du phương, nhưng thần khí đặc dị, người thấy phải run sợ, không biết đã chứng đắc nào. Lúc ấy, vị Duy Na ở chùa Vónh Hân ra vấn nạn về hành tung rồi mắng chưởi đuổi đi. Vừa bước đến cửa, Tăng Hội xoay lại bảo rằng: –Tăng Hội chính là Khương Tăng Hội đây. Nếu có thể lưu giữ được chân thể của ta ở đây thì sẽ tạo phước cho chùa Viện của ngươi đó! Thoáng chốc, Tăng Hội đứng yên thị tịch, trong dáng vóc hai mắt hơi nhắm lại nhưng nét hào sang vẫn không mất, hai tay đưa lên như vái chào, chân bước như sắp đi. Mọi người bàn luận nếu an táng trong nghóa địa thì sợ sức người không thể nào di chuyển được Linh thân, xin dời đến thắng địa lập riêng một linh đường để phụng thờ. Mọi người xứ Việt tranh nhau đem hương hoa đèn nến, phan lọng đủ màu, y phục khí vật đến cầu xin, thảy đều thỏa nguyện. Lúc đầu, Quân đội xứ Việt phần nhiều đóng tại chùa Vónh hân, binh lính ăn uống rượu thịt còn vợ của họ thì sinh sản làm ô uế chùa viện, khiến mọi người không chịu nỗi, Tăng Hội hóa hiện hình đến yết kiến Mân Liêm Sứ Lý Nhược Sơ, nói rằng: Ngày sau, quân hầu sẽ làm thứ sử xứ Việt, tôi nhờ người hãy dời quân đội đi nơi khác. Nói xong bèn khoát tay mà đi, liền mất tung tích. Lý Nhược Sơ vừa mừng vừa sợ, ghi nhớ lời nói ấy. Về sau, quả nhiên Nhược Sơ đến xứ Việt. Nhậm chức xong, liền đến lỗ bái linh tích mới nhận ra người nói lúc trước chính là vị Tăng này. Lý Nhược Sơ liền ban lệnh triệt thoái quân đội trở về bổn doanh. Lại có một sản phụ lúc sắp sinh mà không đèn dầu, chung quanh không một ánh sáng, bỗng có một vị tăng cầm đuốc từ cửa bước vào. Sáng hôm sau, người chồng vào chùa Vónh Hân, nhận ra hình dạng Tăng Hội tức là vị Tăng đã trao cây đuốc để cứu sản phụ đêm qua. Từ đó, dân chúng thường đến cầu sinh con trai, con gái. Thêm nữa, Tăng Hội từng đến nhà thường dân xin giày cỏ, vì thế đến nay, người dân xứ Việt phần nhiều thường dùng giày cỏ và tràng phan bằng vải dầu để dâng cúng. Nơi nơi, Tăng Hội thường đến nhà người để giáo hóa, không thể thuật lại hết các Linh tích, nên chỉ tôn xưng Tăng Hội là Thiền sư Siêu Hóa. Chu Só Hành Chu Só Hành người xứ Dónh xuyên, xuất gia từ thuở niên thiếu, chuyên học kinh điển, thường giảng kinh đạo hành, cảm thấy văn ý u ẩn hẹp hòi, liền phát chí nguyện đi xa tìm cầu Đại bổn. Đến nước Vu Điền ở phương Tây, được chánh bản bằng Phạm văn. Đến lúc sắp trở về Lạc dương, các học chúng nước đó tấu trình cùng vua rằng: Có vị Sa-môn ở đất Hán muốn đem sách của Bà-la-môn để nhiễu loạn kinh điển chánh giáo, nếu không ngăn cấm vị ấy sợ rằng sẽ làm mê muội mọi người ở đất Hán. Vua nước Vu Điền liền không cho Chu Só Hành mang kinh đi. Chu Só Hành rất đau xót tâm can, bèn xin lấy lửa thiêu đốt kinh để làm chứng. Nhà vua chấp nhận ý kiến đó, khi ấy, Chu Só Hành chất củi trước điện để thiêu đốt kinh. Đến lúc nhóm lửa, Só Hành phát thệ nguyện rằng: “Nếu như đại pháp cảm ứng, đáng nên lưu truyền đến đất Hán thì kinh sẽ không cháy, như kỳ không hộ mạng vậy.” Nói xong, đưa kinh vào lửa, lửa tắt, mà kinh không tổn hoại một chữ. Đại chúng vô cùng kinh sợ kính phục, đều gọi đó là có sự thần cảm. Và Só Hành được đưa kinh đến Trung Quốc. Về sau, Chu Só Hành viên tịch tại nước Vu Điền, thọ tám mươi tuổi. Sau khi trà-tỳ lửa đã tắt hết mà thi thể vẫn còn nguyên vẹn, mọi người đều lấy làm kinh lạ, mới cầu nguyện rằng: “Nếu thật đắc đạo, theo pháp nên hủy bại.” Chu Só Hành ứng theo lời cầu xin ấy mà vỡ vụn tất cả. Mọi người nhân đó mà lượm nhặt di cốt xây dựng tháp cúng dường. Ha-la-kiệt Ha-la-kiệt, không rõ là người thuộc dòng họ gì. Xuất gia từ thuở thiếu thời, tụng kinh đến hai trăm vạn lời. Tánh rỗng rang tónh lặng, giữ giới thanh tiết, giỏi trù biện, đẹp dung sắc. Thường hành hạnh Đầu-đà, riêng ở một mình trong núi rừng hay đồng nội. Năm Thái Khang thứ 5 (2 8 8), thời vua Vũ Đế, nhà Tây Tấn, Ha- la-kiệt tạm đến Lạc dương. Bấy giờ, gặp lúc dịch bệnh, người chết liên tục, Ha-la-kiệt chú nguyện chữa trị, mười phần lành được tám, chín phần. Đến năm Nguyên Khang thứ 1 (2 9 1) đời vua Tuệ Đế cũng thuộc Tây Tấn, mới đi Tây Vực, Ha-la-kiệt dừng ở núi tại một thạch thất, thường luôn tọa thiền. Ở thất đó cách nước rất xa, người thời bấy giờ muốn khai mở khe suối, Ha-la-kiệt bảo rằng: –Không cần phải cùng khổ nhọc. Bèn tự đưa chân trái ấn vào vách đá phía Tây của thất, vách đá lỏm mất chừng ngón tay. Chân vừa cất khỏi, nước từ trong tuông theo ra, trong mát ngọt thơm, chảy suốt bốn mùa không dứt. Mọi người đều đến lấy dùng được hết sự đói khát, dứt trừ được bệnh tật. Đến năm Nguyên Khang thứ 8 (2 9 8), Ha-la-kiệt đoan nhiên an tọa thị tịch, chúng đệ tử y theo quốc pháp mà cử hành lễ trà-tỳ. Qua nhiều ngày thiêu đốt mà nhục thể vẫn còn ngồi trong lửa trọn không cháy hết, mới xin thỉnh trở về lại tôn trí trong thạch thất. Kỳ-vực Kỳ-vực vốn người Thiên Trúc. Đi khắp các vùng từ Trung Hoa đến Nhung địch, không có chỗ nhất định, thần kỳ không ai bó buộc được, nhậm tánh thoát tục, hành tích chẳng thường. Người thời bấy giờ ai cũng biết đến. Kỳ-vực phát xuất từ Thiên Trúc đi đến Phú nam trải qua các bờ biển, ven vượt giao chỉ Quảng châu, đâu đâu cũng có linh dị. Khi đến Tương dương, muốn nhờ chở qua sông, thuyền chủ thấy Kỳ-vực là Phạm Sa-môn ăn mặc tệ lậu nên khinh thường mà không chở. Khi thuyền tới bờ phía Bắc, thì Kỳ-vực cũng đã đi qua trước. Thấy hai con hổ. Hổ vãnh tai quẫy đuôi, Kỳ-vực đưa tay xoa đầu nó, hổ liền bước xuống đường mà đi. Người hai bên bờ thấy vậy đi theo thành đoàn. Khoảng cuối thời vua Tuệ Đế, (3 1 7), nhà Tây Tấn, Kỳ-vực đến Lạc dương. Mọi người đều kính lễ, Kỳ-vực quỳ dài an nhiên, dung nhan chẳng động. Bấy giờ, nói cùng mọi người về sự đổi thay đời trước. Bảo rằng Chi Pháp Uyên là từ trong loài dê mà lại, Trúc Pháp Dữ từ trong loài người mà lại. Lại quở trách các chúng Tăng là ăn mặc y phục hoa lệ không ứng hợp với pháp của người xuất gia. Nhìn thấy cung thành Lạc dương, Kỳ-vực nói rằng: Phảng phất tợ như cung trời Đao-lợi, chỉ không đồng ở điểm tự nhiên và nhân sự vậy. Kỳ-vực nói với Sa-môn Kỳ-xá-mật rằng: Người thợ tạo dựng cung thành này là từ trời Đao-lợi đến, khi làm xong liền trở lại trời. Ở nóc nhà, phía dưới ngói nên có một ngàn năm trăm tạo vật. Mọi người thời bấy giờ đều nói: –Nghe nói ngày xưa người thợ này quả thật có đem tạo vật đặt ở dưới mái ngói. Bấy giờ, Hành Dương thái thú Nam Dương Tất Vónh Văn ngụ trong chùa Mãn Thủy tại Lạc dương, cả hai chân co quắp không thể đi lại, Kỳ-vực đến thăm, bảo: Ông muốn lành bệnh ư? Sao không đem một chén nước sạch và một cành dương liễu? Kỳ-vực liền lấy nhành Dương phết nước đưa tay về hướng Vónh Văn mà chú nguyện, ba lần như vậy. Nhân đó, đưa tay xoa bóp đầu gối Vónh Văn rồi bảo đứng dậy. Vónh Văn tức thời đứng dậy bước đi như cũ. Cũng tại chùa đó, có vài mươi gốc cây bị khô chết Kỳ-vực hỏi Vónh Văn: Các cây đó khô chết bao lâu rồi? Vónh Văn nói: Đã nhiều năm rồi vậy. Kỳ-vực liền hướng về các cây chú nguyện như pháp chú nguyện cho Vónh Văn vậy. Cây bỗng đâm mầm phát triển đều nhau tươi tốt. Trong mùa nắng nóng, có một người mắc bệnh Hòn sắp chết, Kỳ-vực đem bình bát đặt trên bụng người bệnh, lấy vải trắng phủ kín lên trên, chú nguyện vài ngàn lời, liền có mùi hôi xông khắp trong nhà, người bệnh nói: Tôi được sống. Kỳ-vực sai người lấy vải ra, trong bình bát có như bùn nhơ khoảng vài thăng, hôi không thể đến gần, người bệnh liền lành mạnh. Đến tại Lạc dương binh lính nhiễu loạn, từ giã trở về Thiên Trúc. Sa-môn thành Lạc dương khoảng vài trăm người, mọi người đều thỉnh mời Kỳ-vực cúng dường ngọ trai, Kỳ-vực đều hứa khả. Sáng hôm sau, ở năm trăm nhà đều có một Kỳ-vực, ban đầu cho rằng Kỳ-vực riêng đến nhà mình, đến cuối cùng nhau thăm hỏi mới biết Kỳ-vực phân thân đến nhà. Trai Phạm xong, các Sa-môn đưa tiễn Kỳ-vực đến thành Hà nam, Kỳ-vực đi thong thả mà mọi người đuổi theo không kịp. Kỳ-vực mới dùng gậy viết trên đất rằng: “Đến đây là từ biệt!” Ngày đó, có người từ Trường an trở lại nói thấy Kỳ-vực ở trong một chùa kia. Về sau, có khách buôn từ Hồ thấp lên nói chiều tối hôm đó gặp Kỳ-vực ở Lưu sa. Tính ra đã hơn chín ngàn dặm. Sau khi đã trở về Tây Vực, không biết cuối cùng Kỳ-vực như thế nào và đã đi đâu! Pháp Lãng Thích Khương Pháp Lãng đến học ở Trung sơn. Khoảng niên hiệu Vónh Gia ( 3 0 7- 313) đời Tây Tấn cùng với một vị Tỳ-kheo đi đến Tây Vực vào Thiên Trúc, đi qua Lưu sa, hơn ngàn dặm đường, thấy hai bên đường Phật đồ bại hoại, lại không điện đường, có bồng cỏ ngải cao phủ mắt. Pháp Lãng,… cùng xuống dừng chân chiêm lễ, thấy có hai vị Tăng, mỗi vị ở một phòng riêng. Trong đó, một vị đang đọc kinh, còn một vị bị bệnh lî nhơ uế đầy phòng. Vị đọc kinh hẳn là không trông xem chăm sóc. Pháp Lãng… khởi niệm thương xót vì vị bị bệnh mà nấu cháo nhừ, quét dọn tẩy rửa, đến ngày thứ sáu, người bệnh hơi mỏi mệt, đi ngoài như suối chảy, Pháp Lãng… chăm lo chữa trị. Đêm đó, Pháp Lãng… đều cho rằng người bệnh hẳn không qua khỏi đêm ấy. Đến sáng sớm, qua thăm người bệnh nhan sắc tươi sáng hẳn ra, bệnh trạng chống lành và tự nhiên các vật nhơ uế trong phòng đều xinh đẹp thơm tho. Pháp Lãng… mới rõ ra rằng đó là bậc đại só đắc đạo dùng để thử người. Người bệnh bảo: Vị Tỳ-kheo ở cách phòng bên cạnh là Hòa thượng của tôi, đắc đạo tuệ đã từ lâu, các vị có thể sang đảnh lễ hầu thăm.” Trước đây, Pháp Lãng… rất ghét vị Sa-môn đọc kinh đó bởi không tâm Từ ái, giờ đây nghe vậy rồi bèn liền đảnh lễ sám hối lỗi lầm. Vị Sa-môn đọc kinh bảo rằng: Các vị chân thành và đồng chỉ hướng sẽ được nhập đạo. Pháp Lãng đời trước học nghiệp thiển cạn, đời nay chưa thể thành tựu ý nguyện. Còn bạn của Pháp Lãng là Tuệ Nhã đã gieo trồng căn sâu nên ở đời nay sẽ thành đạt ý nguyện. Nhân đó, mà lưu giữ lại. Về sau, Pháp Lãng trở lại Trung sơn, làm vị đại Pháp sư, kẻ Tăng người tục vô cùng tôn kính. Phật Đồ Trừng Phật Đồ Trừng vốn dòng họ Bạch, người xứ Tây Vực, xuất gia từ thuở thiếu thời, trong sạch chân chất chuyên học, tụng kinh vài trăm vạn lời. Năm Vónh Gia thứ 4 (3 1 0), đời Tây Tấn, Phật Đồ Trừng đến Lạc dương với chí nguyện hoằng dương đại pháp. Đã giỏi trì niệm thần chú lại có tài năng sai sử quỷ vật. Phật Đồ Trừng dùng dầu mè và các chất mỡ béo bôi xoa lòng bàn tay thì mọi sự việc vài ngàn dặm đều thấy suốt trong lòng bàn tay như đang đối diện, và cũng khiến người trong sạch trai tịnh cùng thấy. Ngài muốn tạo lập chùa tại Lạc dương, nhưng gặp lúc Lưu Diệu cướp đánh Lạc đài; Đế Kinh nhiễu loạn nên chí nguyện lập chùa của Phật Đồ Trừng không thành tựu, mới tiềm ẩn thân ở đồng quê cỏ nội để nhìn xem sự đời biến đổi. Bấy giờ, Thạch Lặc đóng binh tại Cát pha, chuyên lấy việc giết hại để ra oai, các Sa-môn bị hại rất nhiều, Đồ Trừng khởi niệm thương xót muôn loài, muốn đem đạo để giáo hóa Thạch Lặc, khi đó liền chống gậy đến trước quân lính. Đại tướng của Thạch Lặc là Quách Hắc Lược dâng biểu muốn kính phụng pháp, Đồ Trừng bèn thẳng đến nhà Hắc Lược. Hắc Lược liền theo cầu thọ ngũ giới, kính lễ tôn sùng nguyện làm đệ tử. Sau đó, Hắc Lược theo Thạch Lặc đi đánh chiếm trừng phạt, thường dự biết hơn thua. Thạch Lặc nghi ngờ, hỏi: Quả nhân không biết khanh có mưu trí xuất chúng nào mà mỗi lần hành quân đều biết sự việc cát hung như vậy? Hắc Lược nói: Tướng quân tư chất trội vượt khác thường nên được sự hổ trợ từ thần võ u linh. Có vị Sa-môn biết rõ pháp thuật khác thường bảo rằng tướng quân sẽ lấy được khu hạ và tôn làm thầy. Mọi điều tấu trình trước sau của thần đều do vị ấy nói vậy. Thạch Lặc mừng bảo: Thật là trời ban! Bèn mời Phật Đồ Trừng đến hỏi: Phật Đạo có gì linh nghiệm? Đồ Trừng biết Thạch Lặc không thể thấu hiểu được nghóa lý sâu mầu, nên chỉ dùng đạo thuật mà giáo hóa. Nhân đó, bảo: Chỉ đạo tuy xa nhưng cũng có thể lấy việc gần để chứng minh. Liền lấy cái chén đựng đầy nước, đốt hương chú nguyện vào đó, phút chốc mọc lên một đóa sen xanh, màu sắc sáng rỡ hoa mắt, Thạch Lặc do đó mà tin phục. Phật đồ Trừng cũng nhân đó mà khuyên can rằng: Phàm là bậc quân vương phải nên dùng đức để hóa trị mọi người thì tứ linh sẽ hiển hiện điềm tốt. Còn lấy chính sách tệ ác, đạo đức tiêu mòn, thì sao chổi sẽ hiện trên trời, pháp thường hiển hiện, tai họa theo đó mà hoành hành. Đó là lý thường của xưa nay, là giới sáng của trời người. Thạch Lặc rất vui mừng với lời răng dạy đó. Phàm mỗi lúc chuẩn bị đánh chiếm nhờ lợi ích đó mà mười phần có được tám, chín phần. Từ đó, người Hồ ở Trung châu đến nguyện phụng Phật. Có mắc bệnh cố tật, ở đời không ai có khả năng chữa trị. Đồ Trừng vì luyện phương thức chữa trị, đúng thời nên chóng lành mạnh. Thạch Lặc từ Cát pha trở lại Hà bắc đi qua phương đầu. Đên đó có người muốn phá doanh trại, Đồ Trừng nói cùng Hặc Lược rằng: Chốc nữa sẽ có giặc đến nên báo cho ông biết. Quả thật như lời Đồ Trừng nói, do có chuẩn bị nên không thất bại. Thạch Lặc muốn thử Phật Đồ Trừng. Đêm đến, đội mũ trụ, mặc áo giáp nắm. Nhận mà ngồi, sai người đến nói với Đồ Trừng rằng: Từ tối đến giờ không biết đại tướng quân ở đâu! Kẻ sứ mới đến, chưa kịp mở lời, Đồ Trừng hỏi ngược rằng: Đang bình an không giặc cướp, cớ sao hồi đêm chuẩn bị nghiêm mật vậy? Thạch Lặc càng thêm kính trọng Đồ Trừng. Sau, nhân sự tức giận, Thạch Lặc muốn hại các Sa-môn và muốn làm khổ Đồ Trừng. Đồ Trừng lánh đến nhà Hắc Lược. Trước khi đi, dặn các đệ tử: Nếu kẻ sứ của tướng quân đến hỏi ta ở đâu, nên bảo là không biết. Kẻ sứ đến tìm không thấy Đồ Trừng, bèn trở về báo cùng Thạch Lặc. Thạch Lặc kinh hải, nói: Ta có ác ý đối với Thánh nhân, Thánh nhân liền bỏ ta mà đi! Suốt đêm mà ngủ, nghó muốn được thấy Đồ Trừng. Đồ Trừng biết Thạch Lặc có ý hối lỗi, sáng sớm đi đến chỗ Thạch Lặc. Thạch Lặc hỏi: Hôm qua đi đâu? Đồ Trừng bảo: Bởi ông có tâm tức giận, nên hôm qua tạm lánh mặt. Nay ông đã đổi ý, nên mới dám lại đây. Thạch Lặc cười lớn, bảo: –Đạo nhân nói lầm rồi! Hào nước ở thành Tương quốc, bắt nguồn từ phía Tây bắc thành cách xa năm dặm nhỏ tròn như hòn đạn ở dưới đền, nên nước ở đó mau hết. Thạch Lặc hỏi Phật Đồ Trừng: Làm sao để dẫn nước? Đồ Trừng bảo: Nay nên bảo Rồng dẫn. Thạch Lặc tự là Thế Long nên cho rằng Đồ Trừng giễu cợt mình, đáp: Chính vì Rồng không có khả năng dẫn nước nên mới hỏi”. Đồ Trừng bảo: Đó là nói chân thật, đâu phải là đùa giỡn. Nguồn nước suối hẳn có Thần rồng ở đó, qua dùng sắc chỉ cáo cầu, hẳn có thể được nước. Mới cùng đệ tử là Pháp Thủ… vài người đến trên nguồn suối. Chỗ cũ nguồn đó từ lâu đã khô tao vết nứt như lằn bánh xe. Những người đi theo sinh tâm nghi ngờ sợ nước khó được. Đồ Trừng ngồi trên giường dây đốt hương An tức, chú nguyện vài trăm lời, ba ngày như thế, nước ứa rỉ ra dòng nhỏ, có một con rồng nhỏ dài khoảng năm, sáu tất, theo nước mà ra. Các Sa-môn đua nhau lại xem nó, Đồ Trừng bảo: Rồng có độc tố chở lại gần trên đó. Trong khoảnh khắc nước lớn tràn đến khắp cả ao hồ đều đầy. Đồ Trừng nhàn tọa than rằng: Hai ngày nữa sẽ có một tiểu nhân kinh động dưới đây. Xong Bệ Hiệp người Tương quốc có hai người con đã nhỏ lại kiêu ngạo, khinh chê kẻ tớ là Tiên Tỳ. Kẻ tớ tức giận tìm dao giết chết người em, bắt người anh vào nhà dùng dao trấn áp: Nếu người vào nhà tu sẽ ra tay. Bèn nói với Bệ Hiệp rằng: Đưa ta trở về nước, ta sẽ tha sống cho con ngươi, bằng không thì nó sẽ chết. Ở đó, trong ngoài đều kinh ngạc không ai dám qua xem. Thạch Lặc tự mình qua xem, nói với Bệ Hiệp rằng: Đưa kẻ tớ trở về, để an toàn tánh mạng con khanh, đó là việc tốt. Cách thức này một khi nghe qua mới là hậu họa, khanh tạm thả khoan tình. Nước thường có chuyện hiến dâng mạng người để lấy kẻ tớ, kẻ tớ giết con mà chết. Tiên Tỳ Đoàn Ba công kích Thạch Lặc, bọn chúng đông mạnh, Thạch Lặc lo sợ đến hỏi Đồ Trừng, Đồ Trừng bảo: Tiếng linh ở chùa hôm qua kêu rằng. Sáng sớm mai, giờ ăn sáng sẽ bắt được Đoàn Ba. Thạch Lặc leo lên thành, trông nhìn quân của Đoàn Ba, chẳng thấy đâu là đầu đuôi, đổi sắc mặt, bảo rằng: Quân lính đi nghiêng đất, há có thể bắt được Đoàn Ba, Đồ Trừng chỉ nói lời an ủi ta thôi. Lại sai Quỳ An đến hỏi Đồ Trừng, Đồ Trừng bảo: Đã bắt được Đoàn Ba rồi. Bấy giờ, ở phía Bắc thành phục binh đi ra gặp Đoàn Ba và bắt lấy nó. Đồ Trừng khuyên Thạch Lặc vâng theo, cuối cùng cũng đạt được thành tựu. Bấy giờ, Lưu Tải đã chết. Em họ của Lưu Tải là Lưu Diệu soán cướp ngôi, xưng là Nguyên Quang Sơ. Năm Quang Sơ thứ 8 (), Lưu Diệu sai em họ là Trung Sơn Vương Nhạc đem binh công kích Thạch Lặc. Thạch Lặc sai con là Thạch Hổ dẫn binh vừa chạy bộ vừa chống cự lại. Đại chiến ở Lạc tây. Lưu Nhạc thất bại giữ lấy đất Thạch lương. Thạch Hổ kiên quyết ngăn đón bắt. Đồ Trừng cùng đệ tử từ chùa Quan đến chùa Trung. Mới vào cửa chùa than rằng: “Lưu Nhạc thật đáng thương!”, đệ tử là Pháp Tộ hỏi nguyên cớ. Đồ Trừng bảo: Hôm qua, giờ Hợi, Lưu Nhạc đã bị bắt! Quả thật đúng như lời nói đó. Năm Quang Sơ thứ 11, Lưu Diệu tự dẫn binh đánh chiếm Lạc Dương. Thạch Lặc muốn tự mình chống cự. Quan liêu tướng tá trong ngoài đều can ngăn. Thạch Lặc đem hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng bảo: Tiếng linh tướng luân kêu rằng: Tú Chi giúp đỡ bạo ngược không tôi tớ cùng đường bắt kẻ ngốc là đáng. Tú Chi giúp đỡ bạo ngược không ra, tôi tớ cùng đường như Lưu Diệu đâu có ngôi vị, bắt kẻ ngốc đáng bắt. Với lời đó làm cho quân tức mới bắt được Lưu Diệu. Bấy giờ, Từ Quang nghe Đồ Trừng nói lời ấy, liền khuyên Thạch Lặc thực hành. Thạch Lặc để con trưởng là Thạch Hoằng lại, cùng với Đồ Trừng trấn tại Tương quốc, còn tự mình dẫn trung quân vừa chạy bộ vừa chống trả thẳng đến thành Lạc dương. Hai trận mới giao chiến, quân lính Lưu Diệu chạy tán loạn, ngựa của Lưu Diệu đắm chìm trong nước. Thạch Kham Sinh bắt được Lưu Diệu dâng nạp Thạch Lặc. Bấy giờ, Đồ Trừng dùng vật bôi tha vào tay. Xem xét vào đó, thấy đại chúng bắt trói một người, dây tơ đỏ bó thắt khủy tay. Nhân đó nói với Thạch Hoằng biết. Ngay thời gian đó là Thạch Kham Sinh bắt đươc Lưu Diệu. Sau khi đã khống chế được Lưu Diệu, Thạch Lặc mới tự xưng Triệu Thiên Vương thực hành việc Hoàng đế. Đổi lại là Nguyên Kiến Bình. Năm đó là năm thứ Hàm Hòa thứ 5 (3 3 0), đời vua Thành Đế; nhà Đông Tấn. Từ khi lên ngôi trở về sau, Thạch Lặc càng dốc lòng phụng thờ Đồ Trừng. Đến lúc Thạch Thông phản nghịch. Năm đó, Đồ Trừng khuyên Thạch Lặc rằng: Năm nay trong rau hành có sâu, ăn hẳn hại người, nên ban lệnh cho bá tánh không nên ăn rau hành. Thạch Lặc liền ban bảo khắp nơi mọi người cẩn thận chớ ăn dùng rau hành. Đến tháng 8, quả nhiên Thạch Thông bỏ chạy. Thạch Lặc càng thêm tôn trọng. Mỗi lúc có việc gì là hỏi trước sau mới thực hành, tôn xưng Phật Đồ Trừng là đại Hòa thượng. Thạch Hổ có người con tên là Thạch Bân. Sau, Thạch Lặc nhận nó làm con. Thạch Lặc mến thương và quý trọng nó. Bỗng nhiên Thạch Bân mắc bệnh dữ mà chết, qua hai ngày, Thạch Lặc bảo rằng: Trẫm nghe Quắc Thái tử chết mà biển thước có khả năng cứu sống. Đại Hòa thượng là thần nhân của nước nhà, có thể ban phước cho. Đồ Trừng dùng nhành dương để chú nguyện, trong phút chốc liền cử động, khoảng thời gian ngắn được bình phục. Do đó, các trẻ con của Thạch Lặc phần nhiều là được nuôi dưỡng ở tại chùa. Mỗi năm, đến ngày mồng 8 tháng 4, Thạch Lặc đích thân tự đến chùa, vì các con thơ mà phát nguyện làm lễ tắm Phật. Đến năm Kiến Bình thứ 4 (). Trong tháng tư, bầu trời tónh lặng không gió mà một chiếc linh trên tháp bỗng nhiên tự kêu. Đồ Trừng nói cùng đại chúng: Tiếng linh nhắc nhở: Nội trong năm nay, nước nhà có đại tang! Qua tháng 7 năm đó, Thạch Lặc băng hà. Thái tử Thạch Hoằng tiếp nối ngôi vị. Một thời gian ngắn, Thạch Hổ phế Thạch Hoằng mà tự lập, dời đô đến đất Nghiệp xưng là Kiến Vũ. Thạch Hổ dốc lòng phụng sự Phật Đồ Trừng quý trọng như Thạch Lặc. Lúc Đồ Trừng dừng ở chùa Trung trong thành Nghiệp, sai đệ tử là Pháp Thường đến Tương quốc ở phương Bắc. Trong khi đó, Pháp Tá cũng là đệ tử của Đồ Trừng từ Tương quốc trở về, hai người gặp nhau và cùng ở lại đêm tại thành Lương cơ. Hợp xe cùng nói chuyện trong đêm, bàn đến Hòa thượng. Đến sáng sớm, đường ai nấy đi, Pháp Tá đến, vừa mới vào hầu Đồ Trừng, Đồ Trừng quay lại cười, bảo: Hồi đêm, ông cùng Pháp Thường giao xe nói chuyện của thầy các ông ư? Người xưa có nói: Chẳng gọi là kính, ở chỗ tối tăm mà không sửa đổi. Chẳng gọi là thận trọng, riêng một mình mà không biếng lười. Nơi tối tăm ở riêng một mình là gốc của kính và thận trọng. Các ông không biết ư? Pháp Tá ngạc nhiên, hổ thẹn sám hối. Từ đó, mọi người trong nước mỗi lúc cùng nhau nói chuyện, thường bảo nhau rằng: Chỗ khởi ác tâm, Hòa thượng đều đó. Chỗ ở của Đồ Trừng, không ai dám hướng mặt về phía đó khạt nhổ hay đại tiểu tiện. Bấy giờ, Thái tử Thạch Thúy có hai người con đang ở tại Tương quốc, Đồ Trừng nói với Thạch Thúy rằng: Tiểu A-di-tỷ đang bị bệnh, nên sang đón nó. Thạch Thúy liền vội đưa tin đến xem sao, quả thật là đã mắc bệnh. Quan thái y Ân Đằng và các đạo só ngoại quốc tự nói có thể chữa trị. Đồ Trừng bảo cùng đệ tử là Pháp Nha: Ngay như Thánh nhân có xuất hiện cũng không thể cứu được bệnh ấy, huống gì những người ấy ư! Sau ba ngày, quả thật nó chết. Thạch Thúy hoang đảng rượu chè sắp mưu làm phản, bảo cùng Nội Thụ rằng: Hòa thượng có Thần thông, ắt sẽ phát hiện được mưu to, sáng mai người lại nên trừ diệt đi. Đến ngày rằm, Đồ Trừng sắp vào thăm Thạch Hổ, nói cùng đệ tử là Tăng Tuệ rằng: Hôm qua Thiên thần gọi ta và bảo: Sáng mai nếu vào khi trở lại chớ qua người, vì như ta có chỗ qua, người phải dừng tan lại. Đồ Trừng thường vào, hẳn là qua Thạch Thúy, Thạch Thúy biết Đồ Trừng vào cần phải hầu rất khổ. Đồ Trừng sắp lên Nam đài, Tăng Tuệ dẫn y, Đồ Trừng bảo: Việc chẳng được dừng, ngồi chưa an nên đứng dậy. Thạch Thúy cố giữ lại, song, Đồ Trừng không đồng ý, nên có mưu đồ sai lầm. Trở về chùa, Đồ Trừng than rằng: Thái tử làm loạn, sự việc sắp thành, muốn nói khó nói, muốn nhẫn khó nhẫn”. Nhân sự việc ấy, Đồ Trừng khuyên ngăn Thạch Hổ, Thạch Hổ vẫn không hiểu gì. Bỗng dưng sự việc phát ra mới tỏ ngộ được lời Đồ Trừng nói. Sau, Quách Hắc Lược đem binh chinh phạt giặc Khương ở Bắc sơn, Trường an, rơi lạc vào trong Đọa Khương địch. Bấy giờ, Đồ Trừng ngồi tại Đường thượng, đệ tử Pháp Thường đang ở bên cạnh, Đồ Trừng tự nhiên thảm thương đổi sắc mặt, bảo: Hắc Lượt bị lọt vào lưới địch. Bảo chúng Tăng chú nguyện, chốc lát lại bảo: Nếu tìm hướng Đông nam mà ra thì sẽ sống, còn các hướng khác thì khốn cùng. Lại chú nguyện tiếp, khoảng thời ngắn lại bảo: Đã thoát rồi! Sau hơn một tháng, Quách Hắc Lược trở về, nói: Bị lạc vào vòng vây của Đọa Khương, theo hướng Đông nam mà chạy. Trong lúc ngựa mỏi mệt, gặp được một người đứng dưới trướng đưa đổi ngựa cho và bảo: –Tướng công cỡi ngựa này, còn tiểu nhân xin cỡi ngựa của tướng công. Cứu giúp hay không cứu giúp hẳn là tùy mạng. Hắc Lược có được ngựa đó, nên thoát khỏi. Xét ngày giờ lúc ấy chính là Đồ Trừng chú nguyện. Ngụy Đại Tư Mã Yên Công Thạch Bân, Thạch Hổ cho đến Mục trấn U châu. Bọn hung hăng nhóm tụ, nhân đó phóng túng bạo ngược. Đồ Trừng khuyên Thạch Hổ rằng: Đêm qua, Thiên thần nói phải nhóm gấp ngựa trở về. Đến mùa thu, đều sẽ bị tan tác. Thạch Hổ không hiểu lời đó, liền ban lệnh khắp các nơi thâu tóm ngựa đưa về. Mùa thu năm đó, có người dèm pha Thạch Bân đến tai Thạch Hổ. Thạch Hổ liền gọi Thạch Bân đến, đánh ba trăm roi, giết chết mẹ ruột của Thạch Bân vốn dòng họ Tề. Thạch Hổ nắm cung rút tên, tự xem hành phạt Thạch Bân, phạt nhẹ; Thạch Hổ mới trị tay giết năm trăm người, Đồ Trừng can ngăn rằng: Tâm không thể thao túng, đã chết thì không thể sống. Lễ không đánh giết thương tổn ân từ. Sao có vị Thiên tử tự tay hành phạt ư? Thạch Hổ mới dừng đánh. Sau, quân Tấn đánh chiếm tràn lan, Hoài tứ, Lũng bắc, Ngõa thành đều bị xâm lấn. Ba phương báo gấp, nhân tình nguy hiểm. Thạch Hổ mới sân giận bảo: Ta phụng Phật mà đến nỗi giặc ngoài xâm lược. Phật không Thần linh. Sáng sớm mai, Đồ Trừng vào, Thạch Hổ đem việc đó hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng nhường nhịn bảo Thạch Hổ rằng: Đại vương đời trước đã từng làm vị đại thương chủ, thường đến cúng dường ở chùa Kế Tân trong một đại hội có sáu mươi vị La-hán, chính tôi cũng có dự trong hội đó. Bấy giờ có một người đắc đạo nói với tôi vị thượng chủ này sau khi mạng chung sẽ trở lại làm thân gà sau đất vua Tấn. Ngày nay đại vương làm vua há chẳng là phước ư? Còn Cương Trường quân cướp là việc thường của nước nhà. Sao mà lại tức giận phỉ báng Tam bảo? Hồi đêm dấy khởi niệm độc ư? Thạch Hổ mới tin hiểu, quỳ lạy sám tạ. Thạch Hổ thường hỏi Đồ Trừng: Trong Phật pháp dạy răn không giết hại, trẫm làm chủ thiên hạ, không hình phạt đánh giết thì chẳng biết lấy gì để gạn lọc nghiêm túc trong bờ cõi. Đã trái phạm giới sát sinh, tuy có phụng Phật há được phước ư? Đồ Trừng bảo: Bậc Đế vương phụng thờ Phật phải cung kính tâm tùy thuận, hiển dương Tam bảo, chẳng làm điều bạo ngược không hại người vô tội. Đến như loài hung bạo vô lại, cũng chẳng cải đổi phong hóa. Đối với kẻ có tội không thể không đánh giết, có xấu ác không thể không hình phạt. Song chỉ đánh giết với kẻ đáng đánh giết, chỉ trừng phạt kẻ đáng trừng phạt. Nếu bạo ngược tự ý giết hại kẻ không tội, tuy có dốc hết của cải phụng sự Phật pháp cũng không giải nổi ương họa. Xin bệ hạ hãy khởi đức từ cùng khắp tất cả, thì Phật giáo sẽ mãi mãi hưng thạnh và vận phước mới lâu dài. Thạch Hổ tuy không vâng theo tất cả, nhưng lợi ích cũng được không ít. Các quan thượng thư của Thạch Hổ như Trương Ly, Trương Lương… nhà cửa giàu có, phụng thờ Phật, mỗi nhà tạo dựng một tháp lớn. Đồ Trừng bảo: Phụng thờ Phật là nơi thanh tịnh vô dục, tâm thương xót mọi loài. Đàn-việt tuy phụng thờ đại pháp, mà lòng tham chưa dứt, săn bắn vô độ, tích chứa không cùng. Mới chịu tội của đời hiện tại, sao có thể hy vọng được phước báo ư?. Về sau, Trương Ly… đều bị giết chết. Bấy giờ, thời hạn hán đã lâu, từ tháng giêng đến tháng sáu, Thạch Hổ sai Thái tử đến cửa sông Phủ phía Tây Lâm Chương cầu mưa, nhưng mãi vẫn chưa mưa. Thạch Hổ liền cầu thỉnh Đồ Trừng cứu giúp, ngay khi đó có hai con rồng trắng giáng xuống đền, ngày đó mưa lớn khắp nơi, năm đó được mùa. Bọn Rợ Nhung Mạch trước không biết Phật pháp, nghe Đồ Trừng có thần nghiệm, đường xá xa xôi đều về lễ bái kính phục. Đồ Trừng thường sai đệ tử đến Tây Vực mua hương, vị đó đã đi rồi, Đồ Trừng nói cùng các đệ tử khác là nhìn ở bàn tay thấy vị đi mua hương… đó bị cướp sắp chết. Nhân đó, đốt hương chú nguyện, từ xa hướng đến cứu độ. Sau, vị đệ tử đó trở về nói: Ngày đó tháng đó, ở tại chỗ đó, bị giặc cướp, sắp bị giết, bỗng nghe mùi hương phảng phất, tự nhiên bọn giặc kinh hãi bảo lính cứu đã đến, bỏ chạy đi. Thạch Hổ tu sửa tháp nhỏ Thừa Lộ Bàn ở Lâm chương, Đồ Trừng bảo: Trong thành Lâm chương xưa có tháp của vua A-dục, trong đất có Thừa Lộ Bàn và tượng Phật, phía trên là rừng cây xanh tốt, có thể đào xới để lấy lên. Bèn vẽ sơ đồ để đưa cho sứ, y theo lời chỉ mà đào lấy, quả thật có được Thừa Lộ Bàn và tượng Phật. Thạch Hổ mỗi lần muốn đánh phạt nước Yên, Đồ Trừng thường cản ngăn, bảo: - Nước Yên chưa hết thời vận khó mà chế phục được. Thạch Hổ thường hành quân bại trận nhiều lần mới tin lời khuyên răn của Đồ Trừng. Trong Hoàng hà xưa chẳng có con ba ba, bỗng nhiên có được một con, liền dâng đến Thạch Hổ. Đồ Trừng thấy thế than rằng: Hoàn ôn nó vào sông chẳng lâu. Ôn tự là Nguyên Tử, quả đúng như lời nói. Bấy giờ, tại huyện Ngụy có một người lưu lạc, chẳng biết là dòng họ gì, thường mặt áo cánh vải gai và mang xiêm vải bố ở trong chợ huyện Ngụy xin ăn. Người thời bấy giờ gọi đó là Ma nhu (áo cánh vải gai). Ăn nói trác việt tương trạng như bệnh cuồng xin được các thứ gạo thóc, chẳng chịu ăn mà tung rải tứ phía, gặp đường lớn, bảo: Cho ngựa trời ăn. Triệu Hưng Thái Thú bắt đưa đến Thạch Hổ. Trước kia, Đồ Trừng nói với Thạch Hổ rằng: Ở phía Đông nước nhà cách hai trăm dặm, vào ngày đó tháng đó, sẽ đưa đến một người phi thường. Chớ giết hại người ấy. Kỳ hạn giả thật đã đến. Thạch Hổ nói chuyện cùng với người đó rất trùng hợp ý với nhau và vị ấy còn chỉ bảo rằng: Bệ hạ cuối đời sẽ ở dưới cột trụ của điện hạ! Thạch Hổ không hiểu lời nói đó, bảo mọi người thỉnh Phật Đồ Trừng. Ma Nhu nói với Phật Đồ Trừng rằng: Ngày xưa trong hội Nguyên Hòa, lâu đến ngày nay, Dậu Tuất thọ huyền mạng, trải qua hết, cuối cùng cũng có kỳ hạn, vàng lìa nơi giàu sang, bên hoang sơ không thể tôn quý, trừ hết dấu vết hoài mong linh nghiệm. Đồ Trừng bảo: Trời đất cùng vận sao tướng không phải là cây chín cành, nước làm khô không thể dùng làm thuật ư? Dẫu huyền triết tuy ở đời cũng chẳng thể hiểu. Nhưng nền móng đã sụp đổ từ lâu ở Diêm-phù. Lợi nhiễu, nhiễu lắm hoạn, đi lên lớp mây vũ hội như ở khoảng hư du. Đồ trừng cùng với Ma Nhu giảng luận cả ngày, không ai có thể hiểu được. Có người nghe trộm, nghe được vài lời như thế, cũng như bàn luận sự việc của vài trăm năm trước. Thạch Hổ dùng ngựa trạm để đưa Ma Nhu trở về huyện cũ, khi đã ra khỏi ngoài thành, liền từ tạ và nói có thể đi bộ, bảo rằng: Ta có chỗ qua không tiện, đến tại cầu Hiệp khẩu Ma Nhu đã có ở trên cầu, xét về đi bộ của Ma Nhu tợ như bay vậy. Thách Hổ thường ngủ ngày, mộng thấy bày dê mang cá từ Đông nam lại, lúc tỉnh giấc liền hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng bảo: Đó là điềm bất tường vậy. Tiên Tỳ có tại Trung nguyên ư? Về sau, quả thật dòng họ Mộ Dung cũng đến đó. Đồ Trừng cùng với Thạch Hổ lên Trung đường, bỗng nhiên Đồ Trừng kinh ngạc bảo: Ở U châu đang có hỏa hoạn. Liền lấy rượu để rải, giây lát sau người bảo: Đã cứu được rồi. Thạch Hổ sai người đến U châu thử nghiệm, trở về bảo: Vào ngày đó lửa ở bốn cửa thành đều bốc cháy từ phía Tây nam nhưng lại có mây đen kéo lại nhóm mưa dập tắc, trong nước mưa phảng phất như có mùi rượu. Tháng 7 năm Kiến Vũ thứ 14 (), trong thời Thạch Hổ, Thạch Tuyên, Thạch Thao bày mưu cùng giết hại nhau. Bấy giờ, Thạch Tuyên đến chùa, cùng Đồ Trừng ngồi trên Phù đồ, bỗng nhiên linh kêu lên, Đồ Trừng hỏi Thạch Tuyên: Có hiểu âm thanh của linh nói gì chăng? Tiếng linh nói: Hồ Trể lạc độ. Thạch Tuyên đổi sắc mặt nói: Vậy là nói sao? Đồ Trừng nói lãng rằng: Lão Hồ làm đạo không thể ở núi, không nói quý trọng đem chiếu mỹ phục, há chẳng phải lạc độ ư? Thạch Thao đến sau, Đồ Trừng nhìn kỹ giây lâu, Thạch Thao sợ bèn hỏi, Đồ Trừng bảo rằng: Quái lạ, ông có máu xấu, nên cũng nhìn kỹ! Đến tháng tám, Đồ Trừng bảo mười vị đệ tử cùng ăn chay tại thất riêng. Bấy giờ, Đồ Trừng tạm vào Đông các, Thạch Hổ cùng Hoàng hậu họ Đỗ đến thăm hỏi, Đồ Trừng bảo: Dưới sườn (hông) có giặc, nội trong mười ngày, từ Tôn tượng Phật này hướng về phía Tây; từ chánh điện này hướng về phía Đông sẽ có đổ máu, cẩn trọng chớ đi về hướng Đông. Hoàng hậu bảo: Hòa thượng già vậy, nơi nào có giặc? Đồ Trừng bèn dịch nghóa, bảo: Chỗ thọ nhận của sáu tình thảy đều là giặc, lão tự đã già, khiến bọn tuổi trẻ chớ mê lầm. Nhân tiện dùng ngụ ngôn chẳng đáp lại. Sau đó hai ngày, quả thật Thạch Tuyên sai người giết hại Thạch Thao ngay trong chùa Phật, Thạch Tuyên muốn nhân đó mời Thạch Hổ đến dự tang để mưu đồ đại nghịch. Thạch Hổ vì trước nhờ Đồ Trừng đã khuyên răn nên được thoát khỏi. Đến lúc sự việc của Thạch Tuyên bại lộ nên bắt được, Đồ Trừng khuyên răn Thạch Hổ: Đã là con của bệ hạ, sao lại chồng chất thêm họa? Bệ hạ xả bỏ hận thù mà trải lòng Từ thì còn có thể sống ngoài sáu mươi tuổi, còn quyết giết Thạch Tuyên, thì nó sẽ làm sao chổi xuống quét sạch nghiệp cung vậy. Thạch Hổ chẳng vâng theo, dùng dùi sắt đâm xuyên cổ Thạch Tuyên, chất củi, khiên để lên trên mà thiêu đốt, bắt các quan thuộc của Thạch Tuyên hơn ba trăm người, đều cắt xé phân chia ném xuống sông Chương. Đồ Trừng bảo đệ tử dẹp bỏ trai pháp tại thất riêng. Sau, hơn một tháng, có một con yêu mã lông tóc đuôi đều có tướng trang bị thiêu cháy, chạy vào cửa Trung dương ra cửa Hiển dương, Đông Thủ Đông Cung đều không được vào, chạy theo hướng Đông bắc, bỗng chốc không thấy nữa. Đồ Trừng nghe thế, than rằng: Tai họa ấy đã đến rồi! Đến tháng 11, Thạch Hổ thết đãi quần thần trước điện Đại vũ, Đồ Trừng ngâm rằng: Điện ư! Điện ư! Cây gai thành rừng, sắp hoại áo người! Thạch Hổ lật đá dưới điện để xem, quả thật có gai có mọc. Đồ Trừng trở về chùa, nhìn tượng Phật tự bảo: “Buồn hận không được trang nghiêm”. Nói riêng một mình rằng: “Được ba năm ư?” Tự đáp: “Chẳng đước! Chẳng đước!” Lại nói: “Được hai năm ư? Một năm, trăm ngày, một tháng ư?” Rồi tự đáp “Không được”. Và không nói nữa, trở lại phòng, nói cùng đệ tử Pháp Tợ rằng: Năm Mậu Thân (3 4 8), họa loạn sắp dấy khởi, năm Kỷ Dậu (3 4 9), họ Thạch sẽ bị diệt mất. Ta nên đi trước lúc họa loạn chưa đến. Bèn sai người đến từ biệt Thạch Hổ rằng: Vật lý hẳn đổi đời, thân mạng khó bảo toàn, thân mang đạo soi sáng đổi thay thời kỳ ra đi đã đến. Đã mang đội ơn sâu nặng nên ngược lại tạ từ ngưỡng mong xét biết. Thạch Hổ buồn thương bảo: Nghe Hoàng thượng có bệnh, mới vội bảo người đến cáo chung. Liền tự ra chùa cung an ủi thăm hỏi, Đồ Trừng nói cùng Thách Hổ: Vào ra sinh tử là việc thường của đạo vậy. Tu phận ngắn đã định, chẳng phải chỗ có thể kéo dài ra. Phàm đạo trọng ở hạnh được chu toàn, khách quý ở điều không biếng nhác. Nếu hạnh nghiệp tiếc tháo không khuyết thiếu thì tuy mất mà vẫn như còn. Trái lại mà được lâu dài thì đó chẳng phải điều ước nguyện. Nay đây ý thật chưa cùng tận, vì nước nhà tâm còn Phật lý, phụng pháp không luận tiếc, tạo lập chùa miếu phùng kính phô hiển nghiêm lệ. Xứng với đức đó vậy nên hưởng phước chỉ. Còn bổ chánh mãnh liệt, xử hình thì lạm, phô bày trái với thánh điển, đen tối ngược với giới pháp, nếu chẳng từ răng thay đổi lo nghó ân tuệ cùng với muôn dân thì vận nước sẽ lâu dài và kẻ tăng người tục đều mừng tri ân. Đến lúc mạng tận nhắm mắt lìa đời, không để lại ân hận.” Thạch Hổ buồn khóc nghẹn ngào, biết rằng Đồ Trừng sẽ viên tịch. Liền đục đá xây dựng mộ phần, đến tháng 12 ngày mồng 8, Đồ Trừng viên tịch tại chùa Nghiệp cung, hưởng thọ 117 tuổi. Năm đó nhằm năm Vónh Hòa thứ 4 (3 4 8), đời vua Mục đế, nhà Đông Tấn. Tất cả quan dân só thứ buồn thương khóc thảm thiết khắp nước. Lễ hạ quan an táng tại Tử mạch phía Tây Lâm chương, tức chỗ mà Thạch Hổ đã tạo lập phần mộ. Bổng chốc Lương độc tác loạn, năm sau Thạch Hổ băng hà. Nhiễn Mẫn soán diệt dòng họ Thạch đều hết. Mẫn thưa nhỏ tự là gai nô, trước kia Đồ Trừng nói: Cỏ gai thành rừng” cũng chính là đó. Bên cạnh vú trái của Đồ Trừng từ trước có một lỗ hổng chu vi khoảng năm, sáu phân suốt thông trong ruột. Có lúc ruột già từ trong ra, hoặc dùng bông bít lỗ lại, đến tối đọc sách liền gỡ bông ra thì đó là một cái thất rỗng sáng. Đến ngày trai thì đến bên nước dẫn ruột già ra tẩy rửa, xong rồi đặt trở lại bên trong. Đồ Trừng thân cao tám thước, dáng dấp rất đẹp, giỏi hiểu kinh sâu, bên cạnh đó, tinh thông thế luận. Hằng ngày giảng nói nêu bày chính tông, khiến lời văn trước sau tỏ rõ dễ hiểu. Lại thêm, lòng từ rải khắp quần sinh, cứu giúp nguy khổ. Đương thời, Thạch Lặc, Thạch Hổ hai người hung tàn, bạo ngược, ác hại phi đạo. Nếu không cùng thời có Phật Đồ Trừng thì ai có thể khuyên răn! Chỉ vì trăm họ đôi bên, hằng ngày giao tiếp mà không ai hay biết. Các vị Phật Điều, Tu-bồ-đề… vài mươi danh Tăng xuất phát từ Thiên Trúc, Khương Cư, chẳng xa vài dặm đường, lội bộ vượt qua Lưu sa tìm đến Đồ Trừng để lãnh thọ giáo huấn. Thích Đạo An ở Phiền miện, Trúc Pháp Nhã ở Trung sơn đều băng sông vượt ải, đến nghe Đồ Trừng giảng đạo. Và thảy đều diệu đạt tinh lý nghiên cứu suốt cùng áo nghóa. Phật Đồ Trừng tự nói: “Từ chỗ sinh ra cách đất Nghiệp hơn chín dặm, bỏ nhà vào đạo một trăm lẻ chín năm. Rượu chưa từng dính răng, quá giờ ngọ không ăn, trái giới không hưởng, vô dục vô cầu. Những người thọ học tìm theo thường có vài trăm trước sau khoảng chừng một vạn. Trải qua các châu huyện dựng lập chùa Phật có tám trăm mười ba ngôi”. Sự thạnh hành của việc hoằng pháp từ trước chưa ai bằng Đồ Trừng. Khi Đồ Trừng mới viên tịch, Thạch Hổ đem tích trượng và bình bát của Đồ Trừng liệm theo trong quan. Sau, Nhiễm Mẫn soán ngôi, khai quật mộ phần mở quan ra chỉ thấy bình bát và tích trượng chứ không có thi thể. Có thuyết nói rằng: “Tháng mà Phật Đồ Trừng viên tịch, có người thấy Đồ Trừng ở Lưu sa, Thạch Hổ nghi Đồ Trừng chẳng viên tịch, nhân đó phá mộ mở quan để xem thì chỉ thấy một viên đá. Thạch Hổ bảo: Đá tức là trẫm vậy! Đồ Trừng vùi chôn ta mà đi! Sau đó không lâu, Thạch Hổ qua đời. Sau nữa Mộ Dung Tuyển đến Nghiệp đô, xử Thạch Hổ tại trong cung, bỗng thấy Thạch Hổ cắn vào cánh tay, ý cho rằng Thạch Hổ là quý trọng, mới rộng tìm thấy thi thể của Thạch Hổ ở Đông minh quán, đào bới được thây chết khô cũng chẳng hủy rã, Tuyển Nhẩm đạp lên thây chết, mắng chửi rằng: Mày đã chết sao dám khủng bố Thiên tử đang sống? Ngươi làm thành cung điện mà bị con ngươi bày mưu phá hại, huống hồ người khác ư? Mộ Dung Tuyển đánh roi hủy nhục rồi ném sông Chương, thây xác bắn vào trụ cầu không trôi đi. Tướng nhà Trần là Vương Mãnh mới lượm nhặt mà chôn cất. Đó là điều mà trước kia Ma Nhu đã nói là “Dưới một cột trụ của điện hạ” là vậy. Sau, Tần Phú Kiên Chinh phạt đất Nghiệp, con của Mộ Dung Tuyển làm đại tướng của Phú kiên xây thành Thần Hổ chấp thật chiêm nghiệm trước mộng về Thạch Hổ. Phật Điều Trúc Phật Điều, chưa rõ là người thuộc giòng tộc nào, phụng thờ Phật Đồ Trừng làm thầy, trú tại chùa Trường sơn nhiều năm, chuyên cần thuần phát chẳng phô bày nói năng. Người thời bấy giờ rất lấy đó làm cao quý. Tại Trường sơn, trong những người kính trọng Phật pháp, có hai anh em nhà nọ nhà ở cách xa chùa cả trăm dặm. Vợ của người anh bị ốm nặng, chở đến ở cạnh chùa để gần gủi thầy thuốc chữa trị. Người anh đã tôn thờ Trúc Phật Điều làm thầy, nên sáng sớm thường ở trong chùa học hỏi hành đạo. Một ngày nọ, bỗng nhiên, Phật Điều đến nhà của hai anh em nhà đó, người em hỏi thăm bệnh tật của chị dâu ra làm sao và người anh có được yên ổn chăng. Phật Điều bảo: Bệnh chỉ đơn sơ thôi, còn anh của ngươi cũng như thường. Phật Điều đi rồi, người em cũng đánh ngựa đi tiếp, nói với người anh là hồi sáng sớm, Phật Điều có lại nhà. Người anh kinh ngạc bảo: Hòa thượng từ sáng sớm chưa ra khỏi chùa, sao em thấy được tôn dung của người? Hai anh em tranh cãi nhau, đem hỏi Phật Điều. Phật điều chỉ cười mà không đáp, mọi người đến lấy làm lạ. Phật điều thương một mình vào rừng sâu một năm hay nửa năm, mang theo vài đấu cơm khô, đến lúc trở về thường còn lại. Có người thử theo Phật Điều vào rừng khoảng vài trăm dặm, chiều tối tuyết phủ xuống, Phật Điều vào trong hang đá trú ẩn qua đêm tại hang cọp, lúc trở về cọp nằm trước cửa hang, Phật Điều nói với cọp: Ta chiếm chỗ của ngươi, thật hổ thẹn làm sao! Cọp bèn cụp tai bỏ xuống núi. Người đi theo thấy vậy rất sợ hãi. Sau, Phật Điều tự biết ngày sắp viên tịch, mọi người xa gần đều đến, Phật Điều nói với họ rằng: Trời đất lâu dài còn có lúc băng hoại, huống gì người vật mà mong cầu trường tồn vónh cửu sao? Nếu thường tẩy trừ ba thứ cấu bẩn, chuyên tâm chân tịnh thì thần số tuy trái nghịch nhưng thần hội ắt cũng hợp nhau. Mọi người đều rơi lệ cố thỉnh cầu, Phật Điều bảo: Thân mạng sinh tử ai có thể thỉnh cầu? Nói xong, Phật Điều trở về phòng, an nhiên tónh tọa, dùng y mà phủ lên đầu mà thị tịch. Sau đó vài năm, có tám vị đệ tử tại gia của Phật Điều vào Tây sơn đốn củi, bỗng nhiên thấy Phật Điều ở trên đỉnh núi cao, y phục mới đẹp sáng rỡ, dung nghi vui vẻ, mọi người vừa sợ vừa mừng cúi đầu đảnh lễ, thưa: Hòa thượng vẫn còn trụ thế ư? Phật Điều bảo: Ta vẫn thường còn vậy! Hỏi đủ biết mọi việc cũ chăng, giây lâu mới đi. Tám người đều bỏ công việc trở về nhà, đến nói với những người đồng đạo. Mọi người không biết lấy gì để nghiệm xét, bèn cùng nhau quật tháp mở quan tài, không thấy có thi thể, chỉ có y và giày tại đó thôi. Pháp Tuệ Trúc Pháp Tuệ vốn người xứ Quan trung, ngay thẳng, có giới ha- ïnh, vào Tung Cao Sơn phụng thờ Phù Đồ Mật làm thầy. Năm Kiến Nguyên thứ nhất (3 4 3), đời vua Khang Đế, nhà Đông Tấn, đến Tương dương, dừng ở tại chùa Dương thúc tử, chẳng thọ biệt thỉnh, thường ngày chuyên đi khất thực. Thường mang theo giường dây, tùy chỗ đường rộng rãi tự bày ra mà ngồi, nếu gặp lúc trời mưa, dùng áo choàng dầu tụ che trùm, đến lúc mưa tạnh, chỉ thấy giường dây, không biết Pháp Tuệ ở đâu, mọi người hỏi thăm chưa dứt lời thì Pháp Tuệ đã có mặt tại giường. Ngày nọ, Pháp Tuệ nói với đệ tử Pháp Chiếu rằng: - Ở đời trước, ông bẻ gãy chân con gà, ương báo đó nay đang tìm đến. Bỗng chốc, Pháp Chiếu bị người đánh, nên chân bèn thành cổ tật. Sau, nói cùng các đệ tử: - Trong cánh đồng mới, có cụ già sắp qua đời, ta muốn cứu độ ông ta. Liền đi đến bên bờ ruộng, quả thật thấy một ông già đang dắt trâu cày ruộng. Pháp Tuệ tìm đến bên ông già ấy xin trâu. Ông ta không cho, Pháp Tuệ bước tới trước, tự nắm lấy mũi trâu, ông già hoảng sợ việc làm khác thường đó, bèn hứa cho trâu. Pháp Tuệ vừa dẫn trâu đi vừa chú nguyện, đi bảy bước rồi dẫn trâu trả lại ông ta. Sau đó ít ngày, cụ già ấy qua đời. Sau, chinh Tây Canh Trỉ cung trấn tại Tương dương, vốn đã không kính phụng chánh pháp, nghe Pháp Tuệ có các sự tích phi thường, càng rất ganh ghét. Pháp Tuệ nói cùng các đệ tử: Ta nghiệp xưa của ta đang tìm đến! Răn khuyên quyến thuộc, phải chuyên cần tu tập phước thiện. Quả thật sau đó hai ngày, Pháp Tuệ bị bắt và hành xử. Pháp Tuệ hưởng thọ năm mươi tám tuổi. Đến lúc sắp tịch, Pháp Tuệ nói cùng các đệ tử: Sau ba ngày ta chết, trời sẽ mưa lớn. Đến kỳ hạn, quả thật mưa lớn như thác đổ, khắp các cửa thành nước sâu một trượng. Cư dân bị chìm đắm, có nhiều người chết.  TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 2 Thần tăng Đạo An Thần tăng Thích Đạo An, dòng họ Vệ, người xứ Phù liễu, Thường sơn. Gia đình vốn nhà Nho học. Song thân mất sớm, Đạo An được người anh bên ngoại nuôi dưỡng. Năm lên bảy tuổi, ngài đọc sách, xem lại có thể tụng thuộc lòng, mọi người trong xóm làng đều ngợi khen khác lạ. Năm mười hai tuổi, ngài xuất gia, thần thánh thông mẫu. Tướng mạo thấp lùn xấu xí, Đạo An không được thầy thương mến. Sau vài năm, ngài trình thưa thầy, cầu xin học kinh, thầy đưa kinh Biện Y, 1 quyển, khoảng năm ngàn lời. Ngài mang kinh vào ruộng, nhân lúc nghó ngơi thì xem đọc, chiều tối trở về, đem kinh trả lại thầy và cầu xin đọc kinh khác. Thầy bảo: Kinh hôm qua chưa đọc, sao lại cầu xin kinh khác? Ngài đáp: Xin để tối tụng đọc. Thầy tuy lấy đó làm lạ nhưng còn chưa tin, lại trao cho kinh, 1 quyển, không dưới một vạn lời, ngài mang kinh đi, cũng như trước, đến chiều đem trả lại thầy. Thầy nắm kinh dò, ngài đọc lại không sai sót một chữ, thầy ngài vô cùng kinh ngạc và ngợi khen, kính mến khác thường. Sau khi thọ giới Cụ túc, ngài được đi học, đến đất Nghiệp, gặp Phật Đồ Trừng, nhân đó, Ngài phụng thờ Phật Đồ Trừng làm thầy. Đến khi cha con dòng họ Thạch sắp nhiễu loạn, ngài cùng với đệ tử là Tuệ Viễn… hơn bốn trăm người vượt qua sông đi về hướng Nam. Đến tối, gặp cơn mưa gió lớn sấm sét vang trời, ngài nương theo ánh chớp sáng mà đi tới trước. Đi gặp được một nhà người, thấy trong cửa có một cây liễu to lớn, khoảng giữa cây liễu treo một cái mũ có thể dung chứa được một hộc. Đạo An bảo gọi: Lâm Bá Thăng. Người chủ kinh hãi chạy ra, quả thật là họ Lâm, tên là Bá Thăng. Bá Thăng cho đó là Thần nhân, bèn cung nghênh tiếp đãi nồng hậu. Vậy rồi, các đệ tử hỏi: Làm sao biết được tên họ người ấy? Ngài bảo: Hai cây thành rừng, mũ dung chứa trăm. Khi tới Tương dương, lại hoằng dương Phật pháp. Bấy giờ, tại Tương dương, có Tập Tạc Xỉ là người có tài biện luận bèn nhạy vượt xa người thường, là nơi gom góp kiến thức ở đương thời, ông ta trước đã nhẫm xéo, an phận với cao danh. Đến khi nghe Đạo An đến ở, liền đến tu sữa rất tháo vác. Vừa ngồi yên, bèn xưng liền: Từ Hải Tập Tạc Xỉ. Đạo An đáp lại: Di Thiên Thích Đạo An. Người thời bấy giờ lấy làm danh đáp. Đạo An chú giải các kinh, sợ không hợp lý mới phát lời thề rằng: Nếu chỗ nói không trái với lý mầu, xin nguyện được thấy điềm tốt lành. Ngài bèn thấy một đạo nhân đầu bạc lông mi dài, nói với ngài rằng: Kinh điển của ngài chú giải rất hợp với đạo lý. Tôi không được vào Niết-bàn, ở tại Tây Vực, sẽ cùng ngài giúp thông. Đến giờ thì thiết trai thọ thực. Sau, bộ thập tụng luật truyền đến, Tuệ Viễn mới biết vị Hòa thượng gặp trong mộng chính là Tôn giả Tân- đầu-lô. Sau, đến thời nhà Trần, năm Kiến Nguyên thứ 21 (), ngày 27 tháng giêng, bỗng có một vị Tăng xa lạ, hình trông rất xấu xí, đến chùa xin ở nhờ qua đêm. Vì các phòng trong chùa đều chật hẹp nên để vị đó ở tại giảng đường. Lúc đó, vị Duy na trực chánh điện, ban đêm thấy vị Tăng từ sau cửa song mà ra vào, liền trình cùng Đạo An. Đạo An kinh hãi đứng dậy đảnh lễ thăm hỏi ý. Người lại đây. Vị Tăng đó đáp: Cùng vì mà lại! Ngài nói: Tự duy tội sâu nặng há có thể độ thoát? Đáp: Rất có thể thoát vậy! Ngài thưa hỏi chuyện lai sinh và chỗ sinh sống. Vị Tăng ấy đưa tay khoát rỗng về phía Tây bắc giữa trời, liền thấy mây vén mở, thấy đủ quả báo ở cung trời Đâu-suất diệu thắng. Lại bảo: Phải tắm rửa Thánh tăng mới thành quả sở nguyện. Chỉ bày đủ pháp thức tắm rữa. Sau, ngài thiết bày tháp tắm rửa, thấy khoảng vài mươi đứa trẻ chạy vào chùa, phút chốc chỉ nghe tiếng sử dụng nước tắm rửa trong thất, lâu sau không thấy gì nữa, mở thất ra thì thấy khăn ước nước có sử dụng. Ngày mồng 8 tháng 2 năm đó, bỗng nhiên ngài bảo chúng rằng: Tôi sắp đi đây! Sau khi thọ trai xong, không bệnh gì mà viên tịch, an táng ngài tại trong chùa Ngã cấp, thành Nội. Năm đó nhằm năm Thái Nguyên thứ 10 (3 8 5), đời Đông Tấn. Thần tăng Đàm Du Trúc Đàm Du, có thuyết gọi là Pháp Du, Ngài người xứ Đôn hoàng. Thuở thiếu thời khổ hạnh tu tập thiền định, sau đi đến Giang tả dừng ở núi Thạch thành, đất Diệm, chuyên hành khất thực, tọa thiền. Ngài từng đến một nhà Cổ độc để khất thực, sau khi chú nguyện xong, bỗng thấy con rết từ trong thức ăn nhảy ra, ngài vẫn an nhiên thọ thực như không gì khác. Sau, dời đến núi Thỉ phong xích thành, tọa thiền tại một thạch thất, hổ dữ khoản vài mươi con đến ngồi xổm trước mặt, ngài vẫn tụng kinh như cũ. Riêng có một con nằm ngủ, ngài bèn dùng chuỗi như ý gõ vào đầu nó, bảo: Sao không nghe kinh? Chốc lát, cả bày hổ cùng đứng dậy bỏ đi. Trong khoảng khắc lại có bầy rắn xuất hiện, lớn độ mươi viên, nó lần lược qua lại, ngẩn đầu hướng đến ngài, qua hơn nửa ngày, chúng lại bỏ đi. Sau một ngày nọ, có vị Thần hiện hình đến thưa cùng Pháp Du: Pháp sư oai đức tôi đã kính trọng, nay đến dừng ở núi này, đệ tử xin nhường thất để cúng dường ngài. Pháp Du bảo: Bần đạo tìm đến núi, nguyện được cùng tụ hội, cớ sao chẳng chung ở? Vị thần thưa: Đối với đệ tử thì không sao cả. Chỉ nhóm bộ thuộc chưa thấm nhuận Pháp Hoa, cuối cùng khó mà chế ngữ. Những người từ phương xa qua lại hoặc cùng đụng chạm, người và thần khác lạ vì thế nên xin đi. Ngài bảo: Ông vốn là thần gì? Ở đâu đã bao lâu? Nay muốn dời đến xứ nào? Vị thần ấy đáp: Đệ tử là con của Hạ đế, ở tại núi này hơn hai ngàn năm. Núi Hàn thạch là nơi cậu của đệ tử đang ngự trị, nên xin dời đến đó ở. Nói rồi, thần lại tìm trở vào trong miếu khuất. Đến ngày từ biệt, thần chắp tay, tặng Pháp Du ba hợp hương thơm, từ đó đánh bao dao, thổi sừng, lước mây mà đi. Thiên Thai là núi treo cao, ven sườn núi đá lởm chởm đỉnh cao thương thông với trời. Những người già xưa tương truyền rằng: “Tại trên đỉnh có tinh xà tuyệt đẹp, người đắc đạo ở trên đó. Tuy có cầu đá gác qua khe, mà đá nhọn lởm chởm cắt người. Vả lại, rêu xanh trơn nhẵn, từ xưa đến nay chưa ai đến đó được”. Pháp Du đi đến cầu đá, nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng: Biết ông thực sự dốc chí nhưng nay chưa được vượt qua. Hãy trở về, mười năm sau sẽ tự lại vậy! Ngài buồn bả đi lui, trên đường ngang qua một thạch thất, bèn vào đó dừng nghỉ. Bỗng chốc sương mù tối sầm kín ngịt, trong thất có tiếng kêu vang, thần sắc của ngài vẫn không đổi khác. Sáng sớm thấy một người mặc áo đen đi lại bảo: Đây là chỗ ở của kẻ tớ, không ai đi vắng, trong nhà bèn có tiếng quấy động rất lấy làm thẹn! Đạo Du bảo: Nếu đây là nhà ông, tôi xin trao trả lại. Vị thần ấy nói: Gia đình kẻ tớ đã dời khỏi thất, xin thỉnh ngài nên trú ở. Trong niên hiệu Thái Nguyên ( 3 7 6- 397), đời Đông Tấn, có yêu tinh xuất hiện, vua Hiếu Vũ Đế ban chiếu đi khắp các nước, thỉnh mời những bậc Sa-môn đức hạnh; tinh cầu Phật sự để sám cầu tiễn trừ tai ương. Đạo Du chí thành nguyện cầu cảm cách thần minh, đến sáng sớm ngày thứ 6, thấy có một đứa trẻ mặc áo xanh đến xin sám hối lỗi quá, thỏa rằng: Con ngang bướng, làm khổ Pháp sư! Đêm đó, yêu tinh lui mất. Khoảng cuối niên hiệu Thái Hòa (), ngài thị tịch ở Sơn thất, nhục thân còn như lúc bình sinh mà khắp thi thể đều đổi màu xanh lục. Sau đó, có người vào núi, lên đỉnh cao, thấy nhục thể ngài vẫn không rã mục. Thần tăng Đàm Đực Thích Đàm Đực vốn dòng họ Diêu, người xứ Rợ Khương. Năm mười sáu tuổi xuất gia, phụng thờ ngài Đạo An làm thầy, trú tại chùa Đàn khê. Thời Đông Tấn Quan Trường Sa thái thú Tất Xá Chi ở Giang lăng bỏ gia nghiệp để tạo dựng chùa. Thưa cùng ngài Đạo An xin thỉnh một vị Tăng về hoằng đạo. Ngài Đạo An nói với Đàm Đực: Dân chúng ở Kinh sở bắt đầu muốn tạo lập tông sư. Người thành tựu được phong hóa ấy nếu chẳng phải ông thì ai? Đàm Đực liền chống tích trượng đi tới phương Nam tạo dựng chùa viện. Sau khi đến, giặc Việt phong tủa xâm lăng Hán nam, khắp xứ Giang lăng đều đóng chặt, lánh nạn nên đến Thượng minh. Ở đó, ngài tạo dựng lại chùa chiền, đến lúc giặc cướp không còn, ngài trở lại Giang lăng trùng tu chùa Trường sa. Với tâm nguyện thành kính cầu thỉnh liền được cảm ứng xá-lợi đựng đầy bình vàng đặt tại trai tòa. Ngài đảnh lễ phát thệ nguyện rằng: “Nếu thật là Kim cang dư âm, xin nguyện tỏa phóng quang minh”. Nửa đêm, có ánh sáng năm sắc từ trong bình phóng ra chiếu soi khắp ngôi nhà. Đại chúng kinh sợ ngợi khen, ai cũng nén lòng trước sự thần biến của ngài. Sau, vào núi Ba lăng quân chặt cây gỗ, gặp rắn trắng vài mươi con nằm ngang ngăn cản đường đi, Ngài bèn trở về lại chỗ ở, mới nói với thần núi rằng: Tôi muốn chặt cây gỗ để xây dựng chùa, mong rằng cùng tu tạo công đức! Đêm đó, Ngài mộng thấy thần nhân đến bảo rằng: Pháp sư vì Tam bảo, phải nên tùy hỷ, chứ đừng khiến những kẻ khác vọng trộm chặt phá. Sáng sớm lại lên đường rất bình an. Từ đó chặt những cây ven dòng mà đem xuống, trong số đó có những người đi chặt cây không khỏi có kẻ sinh tâm trộm riêng. Khi về đến chùa đem cây gỗ cho Đàm Đực xong rồi, còn các kẻ trộm riêng đều bị quan bắt lấy. Thật cảm kích như vậy. Ngài thường than: “Ở chùa Tăng chúng đông đủ mà vẫn còn thiếu tôn tượng. Xưa kia, đại đế A-dục tu tạo các tôn tượng thần diệu tốt lành đều ban bố ở khắp mọi nơi, sao ngài không thể không thỉnh cầu đến!” Liền mời đến quả thật thành cảm ứng. Năm Thái Nguyên thứ 19 (3 9 4), đời Đông Tấn; nhằm ngày mồng 08 tháng hai năm Giáp Ngọ, bỗng có một tôn tượng hiện ở Bắc thành, ánh sáng chiếu suốt lên trời. Lúc đó, Tăng chúng chùa Bạch mã đến muốn nghênh đón thỉnh về mà không thể làm cho tượng chuyển động, ngài mới đến đó lễ cầu. Nói với mọi người rằng: Đang lúc tôn tượng của đại đế A-dục Vương ban giáng cho chùa Trường sa chúng ta! Liền bảo ba vị đệ tử cùng bưng thỉnh, quả thật đi trong nhẹ nhàng, thỉnh đón về chùa. Kẻ Tăng người tục đua nhau kéo đến, xe ngựa tấp nập. Sau Thiền sư Tăng-già Nam-Đà, người nước Kế Tân từ đất Thục xuống, vào chùa lễ bái, thấy trên ánh sáng của tôn tượng có nhữ Phạm, bèn hỏi: Đây là tôn tượng của đại đế A-dục vương, đến đây hồi nào vậy? Đực. Người bấy giờ nghe nói như thế mới biết sự hiệu nghiệm của Đàm Năm tám mươi hai tuổi, ngài viên tịch, viên quang tôn tượng lặng lẽ biến hóa, chẳng biết đi về phương nào. Kẻ Tăng người tục đều cho rằng đó là sự cảm thông của Đàm Dực vậy. Thần tăng Đàm Thỉ Thích Đàm Thỉ, người xứ Quang trung. Từ ngày xuất gia trở về sau, có nhiều kỳ tích. Khoảng cuối niên hiệu Thái Nguyên (3 9 7), thời vua Hiếu Vũ Đế, đời Đông Tấn, Ngài mang kinh luật vài mươi bộ đến Liêu Đông tuyên dương hoằng hóa, bày trao truyền thừa giáo pháp, thiết lập quy giới. Đến đầu niên hiệu Nghóa Hy (4 0 5), ngài lại trở về Quang trung, đã ba lần giúp đỡ mọi người. Lòng bàn chân Đàm Thỉ sắc trắng, tuy lội đạp trong bùn nước nhưng chưa từng thấm ướt. Thiên hạ đều tôn xưng ngài là: “Hòa thượng Bạch Túc” (chân trắng). Bấy giờ, tại Tường an, có Vương Hồ, chú ruột của Vương Hồ đã chết khoảng vài năm, bỗng nhiên thấy hình trở về dẫn Vương Hồ đi khắp các địa ngục và chỉ cho thấy các quả báo. Khi Vương Hồ từ biệt trở về, người chú ấy nói với Vương Hồ rằng: “Đã biết rõ nhân quả như thế, thì phải nên phụng thờ Bạch Túc A Luyện”. Vương Hồ đi hỏi chúng Tăng. Chỉ thấy ngài là người có bàn chân sắc trắng. Nhân đó mà phụng thờ Đàm Thỉ làm thầy. Đến cuối thời Đông Tấn (4 2 0), bọn hung nô nổi dậy hùng hổ đánh cướp Quang trung, chém giết vô số. Bấy giờ, ngài bị hại mà dao mác không thể làm tổn thương, tiếng kinh lạ đùng đùng vang khắp. Sa-môn Phổ Xá đều bị giết hại. Từ đó, ngài ẩn lánh trong núi Chầm tu hạnh Đầu-đà. Sau đó, Thác Bạt Đào (Thái Vũ Đế ( 4 2 4- 452) đời Bắc ngụy) đánh lấy lại Trường an, bành trướng uy quyền khắp cả Quan trung, Lạc dương. Bấy giờ, có Thôi Hạo ở Bác lăng, thuở thiếu thời theo học tả đạo, khinh ghét Phật giáo, khi đã ở địa vị Ngụy Phụ, Thôi Hạo rất được Thác Bạt Đào tin cậy, mới cùng Đại sư Khấu Khiêm Chi cho rằng: “Hoàng đế dùng đạo Phật hoằng hóa, không ích lợi cho đời mà còn làm thương tổn người và vật, xin hãy phá dẹp đi”. Thác Bạt Đào đã bị mê hoặc bởi lời nói đó, đến năm Thái Bình thứ 7 (4 4 7), liền tiêu diệt Phật pháp, phân sai quân lính cướp đất chùa viện, tóm bắt Tăng ni, phải bỏ đạo, những ai chạy trốn, đều sai người bắt và đem chém đầu, khắp mọi nơi không còn bóng dáng các vị Sa-môn. Ngài quyết không lui tới chốn binh đao giặc giã.Đến cuối niên hiệu Thái bình (4 5 1), Ngài biết thời vận của Thác Bạt Đào đến lúc tàn rụi. Nhân ngày nguyên hội, ngài chống tích tượng đến cửa quan, có quan Ty tâu rằng: “Có vị Đạo nhân chân trắng từ cửa theo vào”. Bạt Đào sai bảo y theo quân pháp mà chém giết, song không thương tổn, vội tấu trình lại cùng Bạt Đào. Bạt Đào tức giận đùng đùng tự tay rút kiếm chém bừa trên thân thể của ngài nhưng vẫn không hề hấn gì, chỉ chỗ lưỡi kiếm chạm thì có vết sẹo như bong đỏ. Bấy giờ, vườn ở phía Bắc có chuồng nuôi hổ dữ, Thác Bạt Đào ban đêm ban tặng cho hổ ăn. Các con hổ dữ nép phục, trọn không dám tới gần, Bạt Đào lại đem Thiên sư Khấu Khiêm Chi đến gần chuồng, hổ liền gầm la. Từ đó, Thác Bạt Đào mới biết Phật tôn quý cao vời, hoàng lão không thể sánh kịp, liền mời ngài lên điện, đảnh lễ dưới chân ngài, cầu xin sám hối những lỗi lầm trước kia. Ngài vì Bạt Đào giảng giải chánh pháp, biện rõ nhân quả. Bạt Đào sinh lòng hổ thẹn; sợ hãi, bèn chiêu cảm bệnh dịch. Còn Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi hai người cùng lần lượt phát bệnh dữ. Cuối cùng không biết ngài đi về phương nào. Thần tăng Pháp Hiển Thích Pháp Hiển, vốn dòng họ Cung, người xứ Vỏ dương, Bình dương, có ba người anh đều chết từ thuở còn bé. Thân phụ ngài lo sợ họa ấy ảnh hưởng đến ngài, nên năm lên ba tuổi, bèn độ cho làm Sa-di, sống ở tại nhà vài năm, gặp cơn bệnh nặng muốn chết. Nhân đó liền đưa đến chùa, ngủ qua hai đêm, bệnh liền lành, ngài chẳng chịu về nhà. Năm lên mười tuổi, gặp chịu tang thân phụ. Chú ruột ngài bảo rằng: Mẹ ngài ở góa độc thân, không người kế thừa. Ép buộc ngài hoàn tục. Ngài nói: Vốn chẳng vì có cha mà xuất gia, chính vì muốn xa lìa trần tục nên nhập đạo! Chú ruột lấy làm phải từ lời nói ấy, bèn thôi. Trong khoảng thời gian ngắn, ngài lại phải chịu tang thân mẫu! Chí tánh ngài vượt trội mọi người, mãng tang xong, ngài liền trở lại chùa. Ngài cũng từng cùng các bạn đồng học cắt lúa trong đồng ruộng. Bấy giờ, có bọn giặc đói muốn cướp đoạt số lúa thóc đó, các vị Sa-di thảy đều bỏ chạy, chỉ còn một mình pháp hiển còn ở lại. Ngài nói cùng bọn giặc rằng: Nếu muốn lấy lúa thóc này thì tùy ý cứ lấy, chỉ vì các ông ngày xưa chẳng bố thí cho nên dẫn đến đói khát như thế. Ngày nay lại cướp đoạt của người, sợ rằng ngày sau càng tệ hại hơn thế nữa! Bần đạo dự biết nên vì các ông mà lo vậy! Nói xong liền trở lui, bọn giặc bỏ lúa lại mà đi, chúng Tăng thảy đều thán phục. Đến lúc thọ Đại giới, chí hạnh càng minh mẫn, nghi đắc chỉnh tề. Ngài thường suy tư về kinh luật lẫn lộn khuyết thiếu, nên phát chí nguyện đi tìm cầu. Năm Long An thứ 3 (3 9 9), đời Đông Tấn, Ngài cùng các bạn đồng học như Tuệ Cảnh… xuất phát từ Trường an đi Tây Trúc, vượt qua Lưu sa. Trên đường đi đó, thường có gió nóng ác quỷ, gặp nó hẳn là chết. Ngài tùy duyên phó mạng, qua thẳng hiểm nạn đi tới Thông lãnh, mùa Đông mùa Hạ, tuyết thường phủ đầy, có loài rồng dữ nhả độc, gió mưa cát đá. Đường núi nguy hiểm, vách đá dựng đứng cao khoảng bảy ngàn thước, phàm các nơi ngài vượt qua, hơn bảy trăm chỗ. Tiếp theo là núi Tiểu tuyết, gió rét lạnh bốc mạnh, Tuệ Cạnh bị cảm lạnh, không thể đi được nữa, nói cùng Pháp Hiển: Tôi sẽ chết mất, bạn nên đến nơi, chớ để mất mạng! Nói xong bèn thị tịch. Pháp Hiển vỗ về đồng bạn, khóc bảo: Vốn ước muốn mà không viên mãn, mạng sống sao đây!” Ngài lại một mình cố gắng tiến tới đường phía trước, vượt qua núi non nguy hiểm. Trải qua hơn ba mươi nước, gần đến Thiên Trúc, cách thành Vương xá hơn ba mươi dặm, có một ngôi chùa, ngài cố nhắùm mắt qua đó. Ngài muốn lên núi Kỳ-xà-quật, chư Tăng chùa đó cản ngăn, bảo: Đường đi rất gian nan hiểm trở, có nhiều sư tử đen thường ăn thịt người, làm sao có thể đi đến? Ngài bảo: Tôi từ xa vượt qua vài vạn dặm, thệ nguyện được Linh thứu, thân mạng vốn đã không thể kỳ hẹn, hơi thở ra khó mong bảo toàn. Đâu có thể giữa mãi sự chí thành đã nhiều năm mà đành phá bỏ ư? Tuy có hiểm nạn, tôi đã quyết thì không còn sợ nữa! Đại chúng không thể cầm chân ngài được, bèn sai hai vị Tăng đưa đi. Vào tới núi, trời cũng vừa tối, ngài muốn ở lại qua đêm, hai vị Tăng ấy sợ nguy hiểm, để ngài ở lại mà trở về. Một mình ở lại trong núi, ngài đốt hương lễ bái, ngẩn đầu lên như được cảm tích xưa hiện được Thế Tôn. Đến nửa đêm, có một con sư tử đen đến ngồi trước mặt ngài, lè lưỡi quẩy đuôi. Ngài tụng kinh không dừng nghó, nhất tâm niệm Phật, sư tử bèn cúi đầu rủ đuôi nép phục dưới chân ngài. Ngài đưa tay xoa đầu nó, chú nguyện rằng: “Nếu muốn làm tổn hại thì đợi chờ tôi tụng kinh xong, còn như không muốn thì có thể lui!” Một hồi lâu, sư tử mới bỏ đi. Sáng sớm trở về lại, đường đi tối tăm cản trở, chỉ có một đường đi thông suốt, Ngài đi chưa tới một dặm, bỗng gặp một đạo nhân tuổi độ chín mươi, ăn mặc thô sơ mà thần khí tuấn tú cao xa, ngài tuy biết người đó có cốt cách cao nhã mà không rõ là Thần nhân! Sau, lại gặp một vị tăng trẻ, ngài hỏi: Đạo nhân tuổi già kia là ai vậy? Vị tăng ấy đáp: Đó là Đầu-đà Ca-diếp đại đệ tử! Ngài mới hãi hùng buồn giận. Đến trung Thiên Trúc, ngài thỉnh được luật Ma-ha tăng-kỳ tại chùa Thiên vương; phía Nam bảo tháp vua A-dục tạo dựng ở ấp Ba- kiên-phất Ma-kiệt-đề. Ai thỉnh được các kinh như Tác-bà-đa Luật sao, Tạp A-tỳ-đàm, Tâm Tuyến Kinh, kinh Phương Đẳng, Niết-bàn… Ở lại đó hai năm, ngài lại thỉnh được luật Di-sa-tắc, kinh Trường A-hàm, Tạp A-hàm và Tạp Tạng, đều là những bộ kinh luật tại đất Hán không có. Sau, nương theo thuyền thương buôn trở về bằng đường biển. Trên thuyền có hơn hai trăm người, gặp mưa bão gió lớn, mọi người đều lo sợ, liền đem các tap vật quăng bỏ, ngài sợ họ quăng bỏ số kinh tượng ấy, nên chỉ nhất tâm xưng niệm hồng danh đức Bồ-tát Quán Thế Âm và quy mạng về chúng Tăng ở đất Hán. Thuyền thuận theo gió mà đi, không bị thương tổn gì, ngài liền thẳng theo hướng Nam về đến chốn kinh đô, tới chùa Đạo tràng cùng Thiền sư Phật-đà Bạt-đà, người ngoại quốc phiên dịch luật Ma-ha tăng-kỳ, kinh Phương Đẳng, Nê-hoàn, Tạp A-tỳ-đàm Tâm luận có hơn trăm vạn lời. Ngài đã ấn xuất kinh Đại Niết-bàn, lưu rộng giáo hóa, đều kiến mọi người thấy nghe. Có một nhà nọ, mất họ tên, ở gần cửa Chu Tước, đã nhiều đời phụng thờ chánh pháp, tự tay đã viết một bộ để đọc tụng cúng dường, không chia cách kinh thất và nhà để sách tạp. Sau, gió lửa bỗng nhiên bừng cháy từ xa đến nhà đó, mọi thứ của cải vật dụng đều bị hay hết, chỉ còn bộ kinh Niết-bàn. Đưa bỏ vào lò đốt nướng vẫn không xâm tổn, sắc màu quyển kinh cũng không đổi khác. Khắp chốn kinh đô, rao truyền lẫn nhau, mọi người đều khen ngợi là thần diệu. Ngoài ra, các kinh luật khác còn chưa phiên dịch. Sau, ngài đến Kinh châu, thị tịch tại chùa Tân, hưởng thọ tám mươi sáu tuổi. Thần tăng Pháp Khoáng. Thích Pháp Khoáng, vốn dòng họ Cao, người quê ở Hạ bi, đến ngụ ở tại Ngô hung. Song thân mất sớm, ngài kính thờ kế mẫu vong danh hiếu hạnh, đến lúc kế mẫu qua đời, cử hành tang lễ vẹn toàn. Mãn tang, ngài xuất gia phụng thờ Sa-môn Trúc Đàm Ấn làm thầy. Ngài Đàm Ấn thường bệnh tật trầm kha, ngài bèn phát nguyện suốt bảy ngày đêm chí thành lễ sám. Đến ngày thứ 7, bỗng nhiên có ánh sáng chiếu soi trong phòng ngài Đàm Ấn, ngài cảm thấy như có người đưa tay nâng nhấc, mọi sự thống khổ liền tan biến. Sau, ngài từ biệt thầy, đi xa tìm cầu kinh yếu, trở về dừng ở chùa Thạch thất tại núi Tiền thanh. Trong thời Đông Tấn, vua Giản Văn Đế ( 3 7 1- 373) sai Đường Ấp thái thú Khúc An mang chiếu đi xa tìm hỏi chỗ ngài ở và hỏi để trừ yêu tinh, thỉnh ngài giúp đỡ. Ngài cùng các đệ tử, thiết trai cầu sám, sau một thời gian, tai ương tiêu diệt. Dân chúng ở Đông độ, phần nhiều mắc chướng bệnh dịch, khẩn cầu ngài liền ra tay cứu giúp. Có người thấy quỷ, nói: - Ngài đi đứng, thường có quỷ thần vài mươi vị theo hộ vệ trước sau. Người thời bấy giờ đều khen ngợi ngài là bậc phi khác. Năm Nguyên Hưng thứ 1 (4 0 2), đời Đông Tấn, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi sáu tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Thần tăng Tuệ Viễn Thích Tuệ Viễn, vốn dòng họ Giã, người xứ Lâu phiền, Nhạn môn. Tuy ốm yếu mà ham thích học hỏi. Năm mười ba tuổi, ngài theo người cậu, họ Linh cô đến học ở Hứa lạc, nên ít làm các trò. Xem một lược sáu kinh, rất khéo giỏi tư tưởng Trang Lão. Tánh ngài độ lượng khoang dung, phong thái sáng ngời. Tuy các bậc Túc nho anh đạt, ai cũng kính phục sự uyên thâm của ngài. Năm hai mươi mốt tuổi, ngài muốn qua Giang đông, cùng nhóm họp với Phạm Tuyên Tử. Gặp lúc Thạch Hổ đã chết, khắp Trung nguyên giặc nổi loạn, đường đến phương Nam bị bế tắc, nên chí nguyện của ngài không được viên mãn. Bấy giờ, Sa-môn Thích Đạo An, dựng lập chùa tại Thái hành hằng sơn, hoàng dương xiển dương tượng tháp, tiếng tâm vang khắp. Ngài liền đến đó nương tựa. Vừa gặp mặt, ngài hết lòng cung kính, xứng đáng là bậc thầy của chính mình. Sau, nghe ngài Đạo An giảng kinh Bát-nhã mà ngài hoát nhiên tỏ ngộ, nhân đó cùng với đệ tử ngài Đạo An là Tuệ Trì ném trâm cài tóc xuống, phó mạng thọ nghiệp. Vào đạo, ngài gắng sức dũa mài, tự nhiên vượt trội hơn người ngài muốn thu nhiếp giềng mối đem đại pháp để mình gánh vác, tinh chuyên tư duy tụng trì tối đến đọc sách. Vốn nghèo khó không buông thả, huynh đệ luôn cung kính, tánh tình trước sau không biếng lười. Có Sa-môn Đàm Dực thường chu cấp phí tổn đèn đuốc, ngài Đạo An nghe thế mừng bảo: Đạo só quả thật biết người ấy. Năm hai mươi bốn tuổi, ngài đến giảng thuyết, khách thường lui tới nghe giảng, cật nạn nghóa thật tướng. Khi đối đáp qua lại mỗi lúc càng thêm căng thẳng mê muội. Ngài liền đem nghóa lý của Trang tử làm ví dụ dẫn chứng, nên người mê hoặc được tỏ rõ. Từ đó về sau ngài Đạo An đặc biệt lắng nghe Tuệ Viễn là không phế bỏ sách thế tục. Ngài Đạo An có các vị đệ tử như Pháp Ngộ, Đàm Huy đều là những bậc có phong thái tài giỏi chiếu sáng chí nghiệp thanh tịnh thông mẫn, họ đều nâng dẩy kính phục Tuệ Viễn. Sau, ngài theo ngài Đạo An về hướng Nam đến Phiền miện. Năm Kiến Nguyên thứ 9, đời Ngụy Tần, tướng Ngụy Tần là Phù Bình đánh chiếm Tương dương, ngài Đạo An bị Chu Tự bắt giữ không thể đi đâu được bèn sai đồ chúng mỗi người tùy chỗ mà lưu trú và được răn dạy đủ mọi điều trọng yếu. Riêng Tuệ Viễn chẳng được một lời, ngài mới quỳ, thưa: Riêng mình con không được răn dạy, lẽ nào con không phải là học trò của thầy! Ngài Đạo An bảo: Người được như con, ta đâu còn ngại phải lo. Từ đó, Tuệ Viễn cùng vài chục người đệ tử thẳng đến Kinh châu, trú tại chùa Thượng minh. Sau, muốn qua núi La phù, khi đến Tầm dương, thấy đỉnh Lô sơn yên tónh, có thể tư duy. Đầu tiên, ngài đến trú tại tịnh xá Long tuyền. Ở đó đi lấy nước vốn xa, ngài dùng tích trượng thổ xuống đất, bảo: Nếu nơi đây có thể dựng lập nơi dừng nghỉ, nên có một mụn đất mềm để khơi nguồn nước. Nói xong, một dòng nước tung vọt ra rất xa, trở thành một khe suối. Sau đó một thời gian ngắn, tại Tầm dương hạn hán, ngài đến cạnh bờ hồ, đọc tụng kinh Hải Long Vương. Bỗng có một con rắn lớn từ trong hồ nhảy vọt lên không trung, trong khoảnh khắc mưa lớn tràn đầy khắp nơi, nhờ đó mà được mùa màng, nhân đó, gọi tịnh xá Lâm tuyền là chùa Lâm tuyền. Đào Khản đến trốn ở Quảng châu, ngư nhân ở biển thấy ánh sáng thần, mỗi đêm soi sáng tuyệt đẹp, qua một tuần càng lớn, lấy làm lạ nên tấu trình cùng Đào Khản. Đào Khản đến xem tường tận mới là tôn tượng của vua A-dục, liền nghinh thỉnh đưa về Hàn khê ở Võ xương. Chủ chùa đó là Tăng Trân, Tăng Trân thường qua Hạ Khẩu, đêm đến mộng thấy chùa bị nạn lửa cháy mà riêng ngôi nhà tôn Trí tượng đó có thần rồng vây quanh. Tăng Trân tỉh giấc, vội trở về chùa, quả thật chùa đã cháy rụi hết riêng chỉ ngôi nhà và tôn tượng vẫn còn đó. Sau, Đào Khản dời trấn, vì oai linh tôn tương, nên phải nghênh thỉnh đi, mười mấy người đưa xe chở đến bờ sông, kịp lúc lên thuyền, thuyền lại chìm đắm, mọi người lo sợ muốn vớt lên trả lại, nhưng không thể nào được. Đến lúc Tuệ Viễn tạo dựng xong chùa, nhất tâm cầu nguyện phụng hành. Tôn Tượng bỗng nhiên tự nổi, qua lại không bị chướng ngại. Từ đó, ngài dẫn chúng hành đạo, sớm tối không ngừng nghỉ. Phong hóa còn lại của Đức Thích-ca Thế Tôn từ đó trở nên hưng thịnh. Từ lúc Tuệ Viễn nghiên cứu ở Lô sơn, hơn ba mươi năm chưa ra khỏi núi, dấu vết chẳng nhiễm bụi trần. Mỗi lúc đưa khách tham quan, thường lấy Hổ khê là mốc giới dừng chân. Năm Nghóa Hy thứ 12 (4 1 6), đời Đông Tấn, ngày mồng một tháng tám, Ngài thị tịch, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. Thần tăng Cưu-ma-la-thập. Cưu-ma-la-thập, Hán dịch là Đồng thọ. Ngài người xứ Thiên Trúc, khéo giỏi kinh luật luận hoằng hóa ở Tây Vực. Đến khi ngài đi về phương Đông, đến nước Quy Tư. Vua nước Quy Tư thiết lập tòa sư tử bằng vàng để dâng cúng dường ngài. Bấy giờ, Tần Phù Kiên hiệu ở Quan trung, có Tiền Bộ Vương và Quy Tư Vương ở ngoại quốc đều đến triều cống nạp Phù Kiên. Phù Kiên thấy hai vị vua ấy nói với Phù Kiên rằng: Ở Tây Vực có nhiều tài sản trân quý, xin viện binh qua đó chiếm định để cầu nội phụ. Đến tháng giêng năm Kiến Nguyên thứ 13 (), Quan thái sử tâu rằng: Có vị sao xuất hiện ở nước ngoài, ắt hẳn sẽ có người đại Trí thức đến giúp đỡ Trung Quốc! Phù Kiên bảo: Trẫm nghe ở Tây Vực có Cưu-ma-la-thập, chẳng phải đó sao? Liền sai sứ đi thỉnh cầu. Đến tháng 5 năm Kiến Nguyên thứ 18, Phù Kiên sai Lã Quan đem bảy vạn binh lính đánh chiếm nước Quy Tư. Lúc sắp khởi binh, Phù Kiên thiết tiệc tiễn đưa Lã Quan ở Kiến chương, bảo rằng: Phàm bậc Đế vương ứng mạng trời mà bình trị thiên hạ, lấy tấm lòng thương mến con mà thương mến muôn dân làm gốc, đâu vì lòng tham mà khởi binh đao, chính vì người có lòng mến đạo nên nghó vậy. Trẫm nghe ở Tây Vực có Cưu-ma-la-thập hiểu sâu pháp tướng, giỏi về âm dương, làm nơi tông thú cho hoàng hậu học. Trẫm rất lo nghó việc đó, làm các bậc hiền triết là của báu lớn của nước nhà. Nếu quy thuận được Quy Tư lập tức đưa ngựa trạm thỉnh mời La-thập về. Quân lính Lã Quan chưa đến, ngài La-thập nói với vua nước Quy Tư là Bạch Thuần rằng: Vận nước đang suy biến sẽ có lính mạnh từ phương Đông tiến lại, nên quy thuận, chớ nên chống cự quân lính bén nhọn ấy. Bạch Thuần không nghe theo, mà cố đánh trả. Lã Quan phá được Quy Tư, giết hại Bạch Thuần, lập em của Thuần là Bạch Chấn lên làm chủ. Lã Quan đưa La-thập cùng về. Giữa đường, đóng quân tại dưới núi, tướng só đã nghỉ ngơi. La- thập nói: Không thể được. Ở đây hẳn bị nguy khốn, nên dời quân lên gò cao. Lã Quan không nghe, đêm đó, quả thật mưa lớn ngập lụt lên nhanh nước sâu vài trượng, binh lính chết khoản vài ngàn. Lã Quan rất kính phục điềm lạ đó. La-thập nói với Lã Quan rằng: - Đây là đất lung vong, không nên dừng ở lâu, phải đi thôi, giữa đường hẳn có chỗ đất phước lành có thể dừng ở. Lã Quan liền nghe theo. Về đến Lương châu, nghe Phù Kiên đã bị Diêu Tránh giết hại, ba quân của Lã Quan lập tức đóng quân tại phía Nam của thành Đại lâm, từ đó Lã Quan trộm xưng là quan ngoại, lấy niên hiệu là Đại An. Tháng giêng năm Đại An thứ 2 (), ở Cô tàng có gió lớn, ngài La-thập nói: Đó là gió mang điềm không tốt, sẽ có kẻ gian phản nghịch. Nhưng khỏi phải nhọc, tự nhiên an định. Bỗng chốc mà Lương Khiêm Bành Hoàng tương kế cùng phản, rồi cùng tự biến mất. Đến năm Long Phi thứ 2 (), thời Lã Quan, Trương Dịch, Lâm Tồng, Lô Thủy Hồ, Trở Cừ Mông Nam và em là Trở Cừ Mông Tấn phản lại, suy tôn Kiến Quan thái thú Đoàn Nghiệp làm thủ lónh. Lã Quang sai thứ sử Tần châu, thứ sử Thái Nguyên Lã Toản đem năm vạn binh để đánh giết. Bàn luận thời bấy giờ cho rằng Đoàn Ng- hiệp… họp nhau như bầy quạ. Lã Tủy có uy lực và thanh thế, hẳn chế định toàn bộ. Lã Quang đem việc đó hỏi La-thập, ngài nói: Quan sát hành động ấy chưa thấy Lã Toản có lợi. Thế rồi, Lã Toản bại hoại tích chứa ở hợp lê. Bỗng nhiên, Quách Nôn lại nổi loạn, Lã Toản giao phó đại quân mà trở về rỗng không, làm cho Quách Nôn bại hoại chỉ được thoát thân! Quan Trung thư giám của Lã Quang là Trương Tư, văn hàn ôn nhã, Lã Quang rất kính trọng. Trương Tư bị bệnh, Lã Quang tìm cầu khắp cùng để trị liệu. Có đạo nhân La-xoa, là người ngoại quốc nói: Có khả năng chữa lành bệnh của Trương Tư! Lã Quang vui mừng ban tặng rất nồng hậu. Ngài La-thập biết La- xoa hư dối, bảo cùng Trương Tư rằng: La-xoa không thể chữa trị lành mà làm thêm phí tổn. Minh vận tuy ẩn, nhưng cũng có thể lấy sự việc này để thử nghiệm. Bèn lấy tơ ngũ sắc kết thành dây đưa bỏ vào lửa đốt cháy thành tro, cuối cùng ném vào trong nước, nếu tro nổi ra khỏi nước và trở thành sợi dây như cũ thì bệnh không thể lành. Giây lát, quả thật tro nhóm lại và nổi ra thành nguyên hình sợi dây. Vậy là việc chữa trị của La- xoa không hiệu nghiệm. Ít ngày sau, Trương Tư chết. Khoảng thời gian ngắn nữa, Lã Quang băng hà. Con của Lã Quang là Lã Thiệu nối ngôi, vài ngày sau, con thứ của Lã Quang là Lã Toản giết hại Lã Thiệu mà tự lập, xưng hiệu Nguyên Hàm Ninh. Năm Hàm Ninh thứ 2 (), có một con heo sinh con một thân mình mà ba đầu rồng xuất hiện trong giếng Đông sương, đến trước điện nằm cuộn tròn. Gần sáng sớm bỏ qua đi, Lã Toản cho đó là điềm lành nên gọi đại điện là Điện Long Trường, bỗng chốc lại có rồng đen bay lên trên cửa cửu cung, bèn gọi là Cửu Long Hưng. Có đứa bé tâu rằng: Ngày rồng ẩn lặn mà xuất hiện phiêu du, heo yêu lại hiển hiện quái dị. Rồng là loài âm, vào ra hẳn có lúc, mà nay thường hiện thì ra là tai ương sinh khởi, hẳn là có biến động, kẻ dưới mưu hại người trên. Cần phải tự kiềm chế mình, tu đức để đáp lại ân đức trời ban! Lã Toản không nghe theo, cùng La-thập đánh cờ cười giỡn. Lúc giết quân cờ, Toản nói: Chém đầu Hồ Nô. Ngài La-thập bảo: Không chém được đầu Hồ Nô, Hồ Nô sắp chém được đầu người. Lời nói đó đều có hàm ý chỉ Lã Toản mà Lã Toản không hiểu như thế nào. Em của Lã Quang là Lã bảo có người con là Lã Siêu, Lã Siêu thuở nhỏ tự là Hồ Nô. Sau, quả thật Hồ Nô chém đầu Lã Toản và lập anh ruột là Lã Long lên làm chủ. Bấy giờ mọi người mới kiểm nghiệm lời nói của ngài La-thập là đúng. Ngài La-thập nghó mát nhiều năm, cha con họ Lã đã không cho hoằng dương đạo giáo, nên sự tích chứa hiểu biết sâu sắc của ngài không có nơi để tuyên hóa. Còn Phù Kiên cũng đã chết nên chẳng cùng diện kiến! Kịp đến lúc Diêu Trành đánh chiếm được Quan Trung, cũng ôm ấp cao danh rỗng lòng muốn thỉnh. Song, họ Lã cho rằng ngài La- thập tài trí mưu kế có nhiều, sợ sẽ bày mưu cho họ Diêu nên không chấp nhận để ngài vào hướng Đông. Kịp đến lúc Diêu Trành qua đời, con là Diêu Hưng lên nối ngôi, lại sai sứ triệu thỉnh. Tháng 3 năm Hoằng Thỉ thứ 3 (4 0 1) có cây Liên lý mọc ở sân miếu, trong vườn Tiêu dao, cây rau hành biến thành cây kỳ chỉ (một loại rau thơm), Diêu Hưng cho là điềm tốt lành, nghóa là có người tài trí ứng vào. Đến tháng 5, Diêu Hưng sai các vị Thạc Đức ở Lung tây đi đánh phạt Lã Long. Quân của Lã Quang đại bại, qua tháng 9, Lã Long dâng biểu quy hàng, Diêu Hưng mới ng- hênh thỉnh được ngài La-thập vào quang nội. Ngày 20 tháng 12 năm đó (4 0 1), ngài đến Trường an, Diêu Hưng thiết lễ tôn thờ ngài như quốc sư, rất ưu đãi sùng kính. Ban đầu, Tỳ-kheo Bôi Độ ở Bành Thành nghe ngài La-thập ở Trường an mới than rằng: Tôi cùng La-thập cách biệt hơn ba trăm năm, mịt mờ chưa có kỳ hẹn, đợi chờ có gặp chẳng chi ở đời sau vậy! Trước lúc viên tịch ít ngày, ngài La-thập tự cảm thấy tứ đại không an, ba phen tư tụng thần chú, bảo các đệ tử người ngoại quốc tụng để tự cứu, chưa đến lúc dốc lực, chuyển sang cảm biết đã nguy ngập. Khi đó, ngài dốc lực cáo biệt cùng Tăng chúng rằng: Nhân pháp cùng gặp rất chưa tận tâm mới để lại đời sau, thật xót xa biết nói làm sao! Tự lấy sự ám muội sai lầm sung vào truyền dịch. Phàm các kinh luận đã phiên dịch hơn ba trăm quyển, chỉ có một bộ luật Thập tụng chưa kịp lọc bỏ. Còn đối với chỉ thú hẳn không sai lạc, nguyện sự tuyên dịch truyền lưu hậu thế cùng hoằng thông, nay đối trước chúng Tăng, tôi phát lời thành thật thệ nguyện: Nếu chỗ dịch kinh điển của tôi không sai lầm thì khiến sau khi thiêu đốt nhục thân còn lại chiếc lưỡi không tiêu cháy! Ngày 20 tháng 8 năm Hoằng Thỉ thứ 11, ngài La-thập viên tịch tại Trường an. Năm đó nhằm năm Nghóa Hy thứ 5 (4 0 9), đời Đông Tấn. Và tại vườn Tiêu dao, y theo pháp ngoại quốc dùng lửa để thiêu đốt nhục thể. Sau khi củi hết lửa tắt, nhục thể rã nát, chỉ còn chiếc lưỡi không tiêu cháy. Thần tăng Pháp An Thích Pháp An còn có một tên khác là Từ Khâm, chưa rõ là người xứ nào. Ngài là đệ tử của ngài Tuệ Viễn. Giỏi trì giới hạnh, giảng nói các kinh kiêm hành trì thiền định. Khéo khai hóa các hàng phàm phu ngu muội, nhổ trừ tà kiến đưa về đường chánh. Khoảng niên hiệu Nghóa Hy ( 4 0 5- 419), đời Đông Tấn, tại huyện Tân dương có tai họa do hổ gây ra. Ở huyện đó có đại xã, dưới cây xây dựng miếu thần, dân chúng ở chung quanh khoảng số trăm, gặp nạn hổ hại chết hằng đêm có đến một vài người. Ngài Pháp An thử đến huyện đó, chiều tối vào thôn ấy, dân chúng vì sợ hổ nên sớm đóng cửa ngõ. Ngài bèn đến dưới cây ấy, suốt đêm tọa thiền. Đến gần sáng nghe hổ mang xác người đến ném ở phía Bắc miếu đó. Thấy ngài, hổ vừa mừng vừa sợ, nhảy đến phủ phục trước mặt Ngài. Ngài vì hổ nói pháp trao truyền cấm giới. Hổ quỳ xuống đất không dám lay động, khoảng chốc lát rồi đi. Sáng ngày, người trong thôn đuổi tìm hổ, đến dưới cây, thấy Ngài, mọi người kinh sợ, cho là thần nhân, liền trao truyền khắp cả huyện, tất cả dân chúng thảy đều tôn kính phụng thờ. Và tai nạn về hổ cũng từ đó mà chấm dứt. Nhân đó, cải đổi miếu thần tạo lập thành chùa. Ruộng vườn chung quanh, mọi người đều hiến dâng làm của Tăng chúng. Sau, Ngài muốn chủ ý đúc một tôn tượng bằng đồng xanh, khốn nổi hiếm có. Tối đến, ngài mộng thấy một người đến gần trước giường bảo rằng: “Tại dưới đây có chuông đồng.” Tỉnh dậy, ngài liền đào xới lên, quả thật có được hai chuông đồng, nhân đó, ngài lấy đồng xanh để đúc tôn tượng. Sau, ngài đem một chuông đồng hổ trợ ngài Tuệ Viễn cũng để đúc tôn tượng. Còn một chuông, Võ Xương thái thú Hùng vô Hoạn mượn xem, liền giữ lại. Sau, cuộc đời còn lại của ngài, không biết rõ! Thần tăng Đàm Hoắc Sa-môn Đàm Hoắc, không biết thuộc dòng họ gì, ở vương quốc Nan lương. Bấy giờ, ngài từ Hà Nam lại, cầm theo một tích trượng bảo người quỳ rồi nói: “Đây là mắt trí tuệ, phụng trì hẳn có thể đắc đạo”. Người thời bấy giờ cho là điều kỳ lạ, hoặc có người đem y phục tặng ngài. Nhận rồi đem quăng bỏ ở bờ sông, ngày sau đem trả lại chủ nhân, y phục không chút nhơ bẩn. Ngài đi bộ tựa như mây gió, nói việc sinh tử sang hèn của người không sai mảy may. Có người đem giấu tích trượng, Ngài liền khóc lớn vài tiếng, nhắm mắt trong giây lát rồi mở mắt lấy lại. Đều là những điều kỳ lạ thần kỳ, không ai có thể suy lường được. Nhân đó mà mọi người phụng thờ Phật pháp rất đông. Lợi Lộc Cô có người em là Nộc Đàn, giả đặt kî xa, quyền nghiên nước Ngụy, nghi kị có lắm gian tặc, ngài nói cùng Nộc Đàn rằng: Phải nên tu thiện phụng thờ Phật pháp để làm ngỏ hầu cho đời sau. Nộc Đàn bảo: Cha ông chưa từng kính phụng Phật pháp, nếu nay kính phụng Phật pháp sợ trái với ý chỉ của cha ông. Nếu ngài có thể bảy ngày không ăn mà nhan sắc vẫn như thường, thì đó là phần minh của Phật đạo, kẻ bề tôi đây hẳn sẽ phụng thờ. Bèn sai người giữ ngài tới bảy ngày, mà ngài không tỏ lộ sắc thái đói khát. Nộc Đàn bảo Sa-môn Trí Hạnh kín mang bánh dâng ngài, ngài vẫn không chịu ăn, Nộc Đàn rất lấy làm kỳ lạ, ngài nói với Nộc Đàn: Nếu có thể ngồi yên không làm gì không khởi niệm thiện ác, thì thiên hạ có thể an định, vận phước cháu con sẽ đông đầy, còn như luôn cùng binh giết hại thì họa sẽ lây vạ đến mình. Nộc Đàn vẫn không hoàn toàn vâng theo. Sau con gái của Nộc Đàn bệnh nặng, thỉnh ngài cứu chữa. Ngài bảo: - Việc sống chết của người tự có định kỳ, các bậc Thánh nhân cũng không thể chuyển họa thành phước. Huống hồ Đàm Hoắc tôi làm sao có thể kéo dài mạng sống được! Sự việc ấy tôi đã biết từ sáng hôm qua. bảo: chết. chết. Nộc Đàn vẫn cố thỉnh nài. Bấy giờ, nơi hậu cung đóng cửa, Ngài Hãy mở gấp cửa sau ra. Mở cửa kịp thì sống, mở không kịp thì Nộc Đàn bảo người mở cửa. Song mở không kịp nên đành chịu Sau, binh giặc nổi loạn, không biết ngài ở đâu. Thần tăng Đàm Ung Thích Đàm Ung, dòng họ Dương, người xứ Quan trung. Thuở thiếu thời làm quan, giữ chức vụ tướng quân của Ngụy Tần. Thân hình cao tám thước hùng võ hơn người. Năm Thái Nguyên thứ 8 (3 8 4), theo Phù kiên đánh chiếm phương Nam, bị quân Đông Tấn đánh bại, rút trở về Tường an. Nhân đó, Ngài phát nguyện theo ngài Đạo An cầu xin xuất gia. Sau khi ngài Đạo An viên tịch, ngài lại phụng thờ ngài Tuệ Viễn. Sau, tạo lập am tranh ở phía Tây nam ở Lô sơn, cùng đệ tử Đàm Quả lắng đọng tư duy cửa thiền. Một ngày nọ, Đàm Quả mộng thấy thần núi đến cầu thọ ngũ giới, Đàm Quả bảo: –Thầy tôi có ở tại đây, nên đến cầu thọ! Ít lâu sau, ngài Đàm Ung thấy một người mặc áo đơn đội mũ, dáng vẻ đoan trang thanh nhã, có đi theo khoảng vài mươi người đến xin thọ ngũ giới! Nhân vì Đàm Quả mộng thấy trước đây nên ngài biết đó là thần núi, liền giảng dạy trao quyền giới pháp. Thần đem thìa và đũa ngoại quốc dâng cúng ngài rồi lễ bái từ biệt, bỗng chốc thì không thấy ngài nữa. Đến ngày ngài Tuệ Viễn sắp tịch, ngài vội chạy về khóc gào nhảy nhụa. Về sau, không biết ngài thế nào. Thần tăng Tăng Lãng Thích Tăng Lãng, chưa rõ ngài thuộc dòng họ gì. Người xứ Kinh triệu. Thuở thiếu thời, ngài du phương học đạo ở Trường an rồi trở về Quan trung. Ngài chuyên đảm nhận việc giảng thuyết, từng vài người đồng đến cầu thỉnh, đi đến nửa đường, bỗng ngài bảo đồng bạn rằng: Y vật của các vị ở chùa dường như có kẻ lấy trộm. Theo lời ngài nói liền trở về, quả thật có kẻ trộm mất. Sau, ngài đến cốc Kim dư trong núi Côn lôn, lập riêng tịnh xá, xây dựng phòng thất, trong ngoài phòng nhà hơn vài mươi thước. Do nghe tiếng tăm ngài mà tìm đến hơn trăm người, ngài chuyên tinh giảng dạy, lao nhọc vẫn không mỏi mệt. Vua Tần là Phù Kiên khâm phục kính trọng đức hạnh của ngài, sai sứ đem các vật dâng cúng. Sau, Phù Kiên có lần sa thải Tăng chúng, mới ban chiếu riêng bảo: Pháp sư Tăng Lãng hình đức trong sạch như băng sương, học chúng của ngài đều là thanh tú. Nên riêng một núi Côn lôn không liệt trong loại phạt trượng. Trong cốc, xưa có tai nạn do hổ gây nên, mọi người thường nắm gậy kết đàn mà đi. Từ lúc ngài đến đó ở, thú dữ đều quy phục, kẻ tăng người tục sớm tối đi về đều không trở ngại gì, mọi người bàn bạc khen Thiện vô cùng, nên nay vẫn gọi là Lãng công cốc (hang ông Lãng). Phàm có người đến, ngài đều biết được số lượng bao nhiêu, trước đó một ngày đã bảo đệ tử sắm sửa đủ các thức ăn uống, số lượng người đến quả thật đúng như ngài nói. Mọi người khen ngợi ngài có trí sáng dự kiến. Sau, ngài thị tịch tại trong núi hưởng thọ tám mươi lăm tuổi. Thần tăng Phật-đà-da-xá Phật-đà-da-xá, Hán dịch là Giác Danh. Ngài thuộc chủng tộc Bà- la-môn, người nước Kế Tân, tổ tiên phụng thờ ngoại đạo. Có một vị Sa-môn đến nhà ngài khất thực, thân phụ ngài tức giận sai người đánh vị Sa-môn ấy. Tự nhiên tay chân co quắp không thể đi lại, mới hỏi thầy đồng bóng. Thầy đồng bóng đáp: Vì xúc phạm Hiền nhân nên quỷ thần khiến. Thân phụ ngài liền thỉnh vị Sa-môn đó lại, chí thành xin sám hối, vài ngày sau lành hẳn. Nhân đó cho phép ngài xuất gia làm đệ tử vị Sa-môn đó. Bấy giờ, ngài vừa mười ba tuổi, thường theo thầy đi xa, đến một đồng trống, gặp hổ, thầy ngài muốn chạy lánh, ngài nói: Con hổ ấy đã no, hẳn không xâm phạm đến người. Giây lát, hổ bỏ đi, quả nhiên đi tới phía trước thấy vết tích còn lại. Thấy ngài âm thầm lấy làm lạ. Đến năm mười lăm tuổi, ngàu tụng kinh mỗi ngày, và nhớ đến hai, ba vạn lời. Tại chùa ngài ở, mọi người thường chạy theo việc ngoài, phế bỏ sự tụng tập. Có một vị La-hán kính trọng sự thông mẫn của ngài, thường đi khất thực về cúng dường ngài. Đến năm mười chín tuổi, ngài tụng đọc các kinh điển Đại, Tiểu thừa vài trăm vạn lời. Năm hai mươi bảy tuổi, ngài mới thọ giới Cụ túc. Sau, ngài đến nước Sa-lặc. Bấy giờ, vua nước đó thường bất an nên thỉnh Tăng thiết cúng trai hội. Thái tử thấy đó mà mừng vui, thỉnh ngài ở lại trong cung để cúng dường. Ngài La-thập đến sau, lại theo ngài thọ học, cùng tôn kính. Sau, ngài La-thập sang nước Quy Tư bị Lã Quang bắt giữ. Ngài Da-xá lưu trú ở nước Sa-lặc hơn mười năm mới về hướng Đông, đến nước Quy Tư, xiển dương Phật pháp rất hưng thạnh. Bấy giờ, ngài La-thập đã ở tại Cô tàng, ngài bèn sai người đến kết giao. Ngài muốn bỏ nước Quy Tư mà mọi người lưu giữ ngài lại ít năm. Sau ngài nói với đệ tử rằng: Ta muốn tìm đến La-thập, có thể cải đổi y phục chớ để mọi người biết! Đệ tử thưa: Sáng ra phát hiện ngài đi thì mọi người đuổi theo không khỏi trở lại. Ngài liền lấy một bát nước trong bỏ thuốc vào trong đó, chú nguyện vài chục lần, đưa cho đệ tử rửa chân. Và ngay đêm đó ngài lập tức lên đường, gần đến sáng sớm, đi được vài trăm dặm, ngài hỏi đệ tử: Cảm thấy thế nào? Đệ tử đáp: Chỉ nghe âm hưởng tiếng gió thổi nhanh, đôi mắt đổ lệ. Ngài lại đưa cho nước đã chú nguyện rửa chân rồi dừng nghỉ. Sáng sớm, mọi người trong nước đuổi tìm thì ngài đã đi quá xa vài vạn dặm không thể đuổi theo kịp. Ngài đến Cô tàng thì ngài La-thập đã vào Trường an, nghe Diêu Hung ép bức dùng nàng hầu khuyên ngài La-thập làm sự phi pháp, ngài mới than rằng: La-thập như tấm lụa sạch đẹp sao có thể khiến đưa vào trong rừng gai gốc ư? Ngài La-thập nghe ngài đã đến Cô tàng nên khuyên Diệu Hưng đến nghênh đón ngài, Diệu Hưng chưa nhận chịu. Khoảng thời gian sau, Diệu Hưng ban chiếu ngài La-thập phiên dịch kinh tạng. Ngài La-thập bảo: Phàm hoàng dương giáo pháp văn nghóa phải viên thông. Bần đạo tuy tụng thông văn kinh, nhưng vẫn chưa suốt thấu nghóa lý. Chỉ có ngài Phật-đà-da-xá mới thấu đạt nghóa lý sâu xa. Nay, đang ở tại Cô tàng, xin đem chiếu đến thỉnh mời ngài! Một thời thấu suốt cả ba, sau đó mới năm bút, khiến lời vàng chẳng rơi lạc, giữ lấy đức tin cho cả ngàn năm! Diêu Hưng nghe theo, liền sai sứ đến thỉnh mời ngài, thậm chí tặng nhiều vật rất nồng hậu, ngài Phật-đà-da-xá đều không nhận, mới cười bảo: Chiếu lệnh đã ban thì phải nên đi gấp. Đàn-việt ưu đãi kẻ só rất nồng hậu, nhưng khinh mạn thì bần đạo đây chưa dám vâng nghe thánh chỉ. Kẻ sứ trở về tấu trình lại rõ ràng đầy đủ. Diêu Hưng khen ngài rất mực thận trọng. Khi ngài đã đến Trường an, Diệu Hưng đích thân ra thăm hỏi, lập riêng một nơi mới vườn Tiêu dao, cúng dường tứ sự, ngài đều không nhận. Đến giờ ăn, ngài giữ phận chỉ một bữa mà thôi. Đầu tiên, ngài tụng luật Đàm Vô Đức. Ngụy Tư Lộ hiệu Uùy Diêu sảng thỉnh ngài truyền dịch và có ý thử ngài, bảo người đọc Khương Tịch Dược mới khoảng năm vạn lời, trải qua một ngày, ngài viết lại thành văn không sai một chữ, mọi người kính phục sức ghi nhớ phi thường của ngài. Năm Hoàng Thỉ thứ 12 (4 1 0), ngài phiên dịch luật Tứ Phần gồm 44 quyển và phiên dịch các kinh Trường A-hàm… Tại Lương châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm cũng phiên dịch, gọi là Tần Ngôn, ngài bạo hàm bút thọ. Đến năm Hoằng Thỉ thứ 15 (4 1 3), giải tỏa được mọi khúc mắc, Diêu Hưng cúng dường ngài vạn xấp vải lụa, ngài đều không nhận. Các vị Sa-môn Đạo Hàm, Trúc Phật Niệm mỗi vị ngàn xấp. Các vị Sa-môn Danh Đức gồm năm trăm người, Diệu Hưng đều cúng dường trọng hậu. Sau, ngài từ biệt trở về ngoại quốc, đến nước Kế Tân, ngài dịch kinh Hư Không Tạng được quyển, ngài bèn gởi các khách buôn đem về cho chư Tăng ở Lương châu. Cuộc đời ngài về sau thế nào không được biết rõ. Thần tăng Đàm-vô-kiệt Đàm-vô-kiệt, Hán dịch là Pháp Dõng. Ngài dòng họ Lý, người xứ Hoàng long, U Châu. Thuở nhỏ đã thọ Sa-di, siêng tu khổ hạnh trì giới tụng kinh, ngài rất được chư Tăng kính trọng. Ngài thường nghe các ngài Pháp Hiển… đích thân đi đến nước Phật, liền có lời thề nguyền quên thân. Năm Vónh Sơ thứ 1 (4 2 0), đời tiền Tống, ngài chiêu tập các vị Sa-môn đồng chí hướng như Tăng Mãnh… cùng mang các thứ phan lọng… đi về phương Tây. Đến nước Hà nam mới ra biển Tây thuận, vào Lưu sa đến quận Cao xương trải dọc theo các nước Quy Tư; Sa lặc; lên Thông lãnh, vượt núi Tuyết, để đến nước Kế Tân lễ bái bình bát của Đức Phật. Ngài dừng ở đó hơn một năm, học Phạm thư, Phạm ngữ, thỉnh cầu được kinh Quán Thế Âm thọ ký 1 quyển Phạm văn. Sau đó, đi đến hướng Tây bờ sông đến nước Nguyệt chi, lễ bái di cốt tóc của Đức Phật và xem thuyền tự phất thủy. Kế tiếp là đến chùa Thạch lưu ở phía Nam núi Đàn đặc. Chư Tăng ở đó hơn ba trăm vị, học tập Tam thừa, ngài dừng tại chùa đó, thọ giới Cụ túc. Ngài đến trung Thiên Trúc, đường đi rất xa, chỉ mang theo thạch mật làm lương thực, tuy thường trãi trải nguy hiểm gai gốc mà ngài luôn buộc niệm ở kinh Quán Thế Âm đang mang theo, chưa từng giải đãi. Gần đến nước Xá-lệ, giữa đồng trống gặp một đàn voi rừng, ngài liền xưng danh quy mạng với Bồ-tát Quán Thế Âm liền sau đó có sư tử từ trong rừng ra nên đàn voi khiếp sợ bỏ chạy. Sau, vượt qua sông Hằng, lại gặp một đàn bò hoang kêu rống chạy lại, sắp muốn hại người, ngài lại quy mạng như trước, bỗng có chim Thứu lớn bay tới, đàn bò kinh hãi tản mất, ngài được thoát khỏi. Sau, từ Nam Thiên Trúc, ngài theo thuyền biển về đến Quảng châu, ngài phiên dịch kinh Quán Thế Âm thọ ký, truyền bá khắp chốn kinh đô. Và sau đó không biết ngài thế nào. Thần tăng Phật-đà Bạt-đà-la Phật-đà Bạt-đà-la, Hán dịch là Giác Hiền. Ngài vốn dòng họ Thích, người nước Ca-duy-la-vệ, là con cháu của Cam Lộ Phạm vương. Từ thuở bé, song thân ngài đã qua đời, ngài theo Tổ Cưu-bà-lợi. Nghe ngài thông mẫn và xót thương sự cô quạnh nên Tổ đón về độ làm Sa- di. Đến năm mười bảy tuổi, ngài cùng với vài người bạn đồng học, lấy việc tụng tập làm chính. Mọi người đều tụng tập một ngày là hoàn tất. Thầy khen ngài rằng: Giác Hiền một ngày chọi với ba mươi người. Đến lúc thọ giới Cụ túc, ngài lại tu nghiệp tinh cần, học rộng các kinh, thông đạt rất nhiều, ít vì thiền lực mà rạng danh. Ngài thường cùng các bạn đồng học là Tăng-già Đạt-đa, đồng đến nước Kế Tân và cùng ở đó nhiều năm. Đạt-đa tuy phục tài trí mà chưa từng chiêm nghiệm con người của ngài. Sau ở trong thất kín, đóng cửa tọa thiền, bỗng nhiên thấy ngài lại, kinh ngạc hỏi: Từ đâu lại? Ngài đáp: Tạm đến cung trời Đâu-suất kính hầu Đức Phật Di-lặc! Nói xong, ẩn mất. Đạt-đa biết ngài là Thánh nhân. Sau chưa lường được quả vị sâu cạn. Sau thường thấy ngài thần biến, mới đem tâm thần kính cầu hỏi và biết ngài đã chứng quả Bất hoàn. Ngài thường muốn du phương hoằng hóa, xem các phong tục. Bấy giờ có Sa-môn Trí Nghiêm đi Tây Trúc, đến nước Kế Tân, thấy pháp chúng thanh tịnh mới bùi ngùi xoay về hướng Đông, nói: Các đồng bọn của tôi ở Trung Hoa vốn có chí đạo, mà không gặp được chân Thiện tri thức. Do đó, chẳng do đâu mà phát ngộ. Nay xin hỏi chư vị trong Tăng chúng ai có thể đến hoằng hóa ở Đông độ. Tất cả các chư Tăng đều bảo: Phật-đà Bạt-đà-la là người làm được việc đó! Ngài Trí Nghiêm bèn khẩn thiết thỉnh cầu, ngài Giác Hiền xót thương mà hứa khả. Từ đó, ngài bỏ đồ chúng từ biệt thầy bạn, hành lý lên đường tìm đến phương Đông, suốt ba năm, trải qua đủ thứ nóng lạnh. Vượt qua Thông lãnh. Trên đường đi qua sáu nước, các vị Quốc chủ đều khen ngợi ngài đã hoằng hóa phương xa, họ dốc lòng ngưỡng mộ phụng cúng mọi điều kiện. Đến giao chỉ mới nương thuyền men theo biển mà đi, ngang qua dưới một hòn đảo, ngài đưa tay chỉ vào núi, nói: Có thể dừng ở đó! Chủ thuyền bảo: Hành khách tiếc ngày thuận gió khó gặp, không nên dừng. Đi được hai trăm dặm, bỗng nhiên gió chuyển hướng thổi thuyền ngược trở lại dưới đảo. Mọi người mới rõ ra sự thần dị của ngài, đều rất kính phụng nghe theo sự chỉ bảo tiến hay dừng của ngài; sau, gặp cơn gió thổi thuận hướng, mọi người đều muốn khởi hành, ngài bảo: Không nên cho thuyền đi. Chủ thuyền bèn dừng lại. Còn các thuyền không nghe theo, bỏ đi trước, đồng một lúc đắm chìm. Sau đó, giữa lúc trong đêm tối, ngài bảo các thuyền nên khởi hành, mọi người không chịu nghe theo, ngài tự đứng dậy nhổ neo chỉ một thuyền ngài đi. Bỗng chốc giặc đến, các thuyền còn ở lại đếu bị bắt hại. Khoảng thời gian sau, đến quận Đông lai, Thanh châu, ngài nghe Cưu-ma-la-thập đang ở Trường an, ngài liền đến đó, ngài La-thập rất vui mừng, cùng nhau luận bàn phát huy sự mầu nhiệm, có được nhiều sự tỏ ngộ ích lợi. Bấy giờ, chúa đất Tần là Diêu Hưng chuyên chí phụng sự Phật pháp, thiết hội cúng dường hơn ba ngàn vị Tăng. Và thường xuyên tới chốn cung đình lớn chăm lo mọi việc, chỉ một mình ngài giữ sự yên tỉnh chẳng cùng đồng chúng. Sau ngài nói với đệ tử rằng: - Hôm qua ta thấy ở quê nhà có năm chiếc thuyền cùng khởi hành. Vậy rồi, đệ tử ngài rao truyền ra người ngoài, chư Tăng xưa cũ ở Quan trung đều cho là ngài bày điều quái lạ mê hoặc quần chúng. Sa- môn Đạo Hằng… bảo: Phật còn không cho nói Pháp sở đắc của mình, Phật-đà Bạt-đà- la nói trước có năm chiếc thuyền sắp đến là hư dối không thật. Vả lại, học trò của ông ta cuồng si tạo ra mọi sự tranh cãi đồng dị, căn cứ giới luật tức có vi phạm, đúng lý không được cọng trú, nên phải thời mà đi chớ được dừng ở. Ngài bảo: Thân tôi nếu trôi dạt tới lui như lục bình rất dễ. Chỉ hận hoài bảo chưa được làm cho phải lẽ, vì vậy mà xót xa! Từ đó ngài cùng các đệ tử Tuệ Quán… hơn bốn mươi vị đều phát thần chí thong dong ra đi không đổi thay sắc mặt. Các người chân Thiện tri thức đều ca ngợi mến tiếc, kẻ tăng người tục hơn ngàn vị tiễn biệt ngài ra đi. Diêu Hưng nghe ngài đi, buồn bả tức tưởi, mới nói với Đạo Hằng rằng: Sa-môn Giác Thuyền cách thuyền cách đạo lại đây muốn hoàn tuyên di giáo, lời bèn chưa nhã, quả thực đáng tức giận. Đâu có thể vì một lời nói sai lầm mà khiến muôn vạn người không được dẫn dắt! Nhân đó, ban lệnh truy đuổi ngài. Ngài nói với kẻ xứ rằng: Thật biết ơn thánh chỉ, xong không dự bị để vâng mạng. Từ đó, ngài dẫn đạo bạn nửa đêm hướng thẳng đến Lô sơn. Sa-môn Thích Tuệ Viễn từ lâu đã thầm phục phong thái thanh danh của ngài. Nghe ngài đến, Tuệ Viễn vui mừng nghiêng lộng đón rước như xưa. Tuệ Viễn cho rằng ngài bị tẩm xuất chẳng qua là do môn nhân như hyuền kí có năm chiếc thuyền, chỉ nói vậy đồng ý đối với luật cũng không phạm. Tuệ Viễn bèn bảo đệ tử Đàm Ung gởi thư đến chùa chúa Tần cũng như chư Tăng ở Quang trung để cởi mở việc của ngài. Tuệ Viễn bèn thỉnh ngài giảng dạy các kinh Huyền Số, chí nguyện của ngài là muốn du hóa chứ chẳng ngồi không cầu an. Ngài dừng ở Lô sơn được ít năm lại đi đến Giang lăng ở phía Nam, gặp các thuyền người ngoại quốc. Thế rồi hỏi han, quả thật là năm chiếc thuyền ngài thấy trước kia vậy. Mọi người khắp nơi tranh nhau tìm đến cúng lễ phụng thờ, tất cả mọi thứ cúng dường, ngài đều không nhận. Ngài giữ phận trì bát khất thực, không phân biệt giàu nghèo. Bấy giờ, Trần Quận Viên báo làm thái úy trưởng sử của vua Võ Đế ( 4 2 0- 423), đời Tiền Tống, Võ Đế đến phương nam đánh phạt Lưu Nghị, Viên Báo theo phụ đến Giang lăng, ngài dẫn đệ tử Tuệ Quán đến Viên Báo khuất thực. Báo vốn không tin nên đãi ngài rất lạnh nhạt, ăn trưa no ngài đã từ biệt ra đi, Viên Báo: Tợ như không đủ nên không dừng ở lâu. Ngài bảo: Thí chủ cúng dường mà tâm hạn hẹp nên khiến sự thiết bày đã hết sạch. Viên Báo liền gọi người chung quanh mang cơm thêm, quả thật là cơm đã hết, Viên Báo vô cùng hổ thẹn. Thế rồi, Báo hỏi Tuệ Quán rằng: Sa-môn ấy là người như thế nào? Tuệ Quán đáp: Đức lượng cao xa chẳng phải kẻ phàm có thể suy lường được. Báo vô cung thán phục sự khác thường, nên tấu trình cùng thái úy. Thái úy xin được cùng diện kiến và rất sùng kính ngài, cúng dường đầy đủ mọi thứ. Bỗng chốc mà thái úy trở về lại kinh đô, thỉnh ngài cùng về an trú tại chùa Đạo tràng. Năm Nguyên Gia thứ 6 (4 2 9), đời tiền Tống, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi. Thần tăng Đàm Thúy Thích Đàm Thúy chưa rõ là người xứ nào. Xuất gia từ thuở thiếu thời, ở tại chùa Bạch mã; Hà âm. Ngài chỉ dùng rau quả qua bữa, mặt áo vải thô, tụng kinh Pháp Hoa, thường giải thích ý thú của kinh và cũng là người thường luôn cởi mở cho mọi người. Thường ở trong đêm, bỗng nghe tiếng gõ cửa và thưa rằng: Muốn xin thỉnh pháp sư thuyết pháp cho chín tuần! Ngài không hứa khả; xong, cố thỉnh ngài nên ngài mới đến giảng, và cũng chỉ riêng trong giấc ngủ, đến lúc tỉnh giấc thì thân đã trong đền thờ thần ở hốc núi Bạch Mã cùng với một đệ tử. Từ đó, ngày ngày hai thầy trò kính đáo song giảng. Sau, chư Tăng trong chùa đi ngang qua đền, thấy có hai tòa cao, ngài ngồi phía Bắc, vị đệ tử ngồi phía nam, lại như có tiếâng giảng nói và nghe mùi hương thơm kì lạ. Từ đó, kẻ tăng người tục cùng rao truyền thần dị. Đến khi mãn hạ, thần cúng dường một con ngựa trắng, năm con dê trắng và chín mươi sắp lụa. Ngài trú nguyện xong, từ đó dứt tuyệt. Thần tăng Đăng Sư Thần tăng Đăng Sư ở chùa Đại lâm, Khuông lư, tụng thông kinh Pháp Hoa, ngày đêm không ngừng nghỉ. Một ngày nọ bỗng thấy giữa không trung có một điện bạc dần dần hạ xuống nơi phòng và biến thành điện vàng, ngài bèn vào trong điện, đứng ngoài kinh thành, cứ như thế trong ba năm. Tứ chúng xa gần trang nghiêm hương hoa theo ngài cầu xin thọ giới. Ngài bảo: Ban ngày lắm sự thi tạp, tâm nhiều tán loạn, nên giữa đêm thanh tịnh vắng lặng mà thọ giới. Đến đêm tối, ngay lúc thuyết giảng giới tướng Tam quy. Khi đó, trong giọng nói của ngài phóng ra luồng ánh sáng chiếu soi khắp đại chúng. Đại chúng thấy ánh sáng, đua nhau lễ bái huyên thuyên ồn náo, ngài liền ngưng giảng và ánh sáng cũng dần dần biến mất. Ngài bảo: Vốn muốn trong lúc thọ giới thấy được ánh sáng mà quý vị ồn náo. Ánh sáng là biểu hiện điềm tốt lành của việc thọ giới, chưa phải là chánh duyên đắc giới. Nên lập lại như từ đầu. Đại chúng im lặng, ngài lại thuyết pháp và phóng ánh sáng, chúng lại ồn náo, nhân đó mà ngài dừng nghỉ. Sáng ngày trở lại, ngài liền từ biệt trở vào núi, chỗ hiện điện vàng hoàn lại như cũ. Một ngày nọ, bỗng nhiên ngài bảo mọi người: Nay lên điện vàng không còn trở lại. Ngay ngày đó, bỗng chốc siêu hóa. Thần tăng Bảo Thông Ngài Bảo Thông tinh tu phạm hạnh, trường kỳ trí tụng phẩm Đà- la-ni trong kinh Pháp Hoa, hỏi có phần linh dị. Bấy giờ, ở thôn Dương kiều, có gia đình họ Triệu, người vợ bị thần gạ gẫm, nên thỉnh ngài trì chú. Ngài vừa đến nhà ấy, thần liền hiện hình, ngài bảo rằng: Phàm là thần ở trong thôn ấp, hợp lý phải nên vun bồi phước đức. Cớ sao trái lại gạ gẫm hại người? Thần thưa: Việc đó không phải do đệ tử làm mà chính do tiểu quỷ thuộc hạ làm. Liền gọi tiểu quỷ đến trước trách phạt. Nhân đó mà người vợ họ Triệu được lành bệnh, bèn ca ngâm suốt đêm. Gia đình lại thỉnh cầu ngài, ngài đến xem và trách quỷ tại trước giường bệnh. Ngài bảo: - Trước ta đã răn trị ngươi không được trở lại. Nếu ngươi không đi, ta sẽ trì tụng thần chú khiến đầu ngươi chia chẻ thành bảy phần như nhánh cây a-lê. Quỷ liền gục đầu thống thiết cầu xin ngài chớ có trì tụng thần chú. Từ đó, bệnh dứt hẳn và quỷ không còn trở lại nữa. Thần tăng Tuệ Thiệu Thần tăng Tuệ Thiệu, không biết gốc tích ngài ở đâu. Từ thuở bé thơ, mỗi lúc mẹ mớm cơm có cá thịt ngài liền nhả bỏ, từ đó ngài không ăn các thứ cay nồng. Năm lên 8 tuổi, ngài xuất gia làm Tăng, ngài thông hiểu kinh Pháp Hoa, kiên trì tu khổ hạnh. Sau, ngài theo thầy là ngài Tăng Yếu trú tại chùa Chiêu đề, Lâm châu. Ngài thường nhớ nghó thâm ân chư Phật, phát nguyện muốn xả bỏ thân mạng để báo đáp. Ngài bèn thuê người chặt củi chất cao một trượng ở thạch thất tại Đông sơn, ở giữa mở một cái khám rồi trở về chùa báo cho thầy ngài biết. Thầy ngài cản ngăn. Song, ngài chẳng vâng theo. Từ đó, ngài định ngày đến núi thiết hội Bát Quan Trai, mọi người khắp nơi đều tụ hội về, mây phủ khắp hang núi. Đến đêm tối, ngài tự hành hương, cầm đuốc châm lửa vào củi rồi vào trong khám ngồi tụng phẩm Dược Vương xả thân trong kinh Pháp Hoa, lửa men cháy đến trán vẫn còn nghe tiếng tụng kinh. Đại chúng bỗng thấy một vị sao lớn như Bắc đẩu sa thẳng xuống trong lửa, giây lát sao thăng biến lên giữa trời. Mọi người đều cho rằng “Đó là điềm từ cung trời đến nghênh đón.” Ngài từng nói với các bạn đồng học rằng: Nơi chỗ tôi thiêu thân, sẽ mọc lên cây ngô đồng, xin chớ chặt phá nó! Quả thật sau ba ngày ngài thiêu thân, tại đó có cây ngô đồng mọc, kẻ Tăng người tục đều lấy làm lạ đó. Thần tăng Ngộ Thuyên Thần tăng Ngộ Thuyên ở đất Thục, ngài hiệu là Giác Hải, có chân tánh sáng suốt. Có người nhà giàu ở Hạp châu, tên là Trình Di Bá, năm hai mươi chín tuổi, một đêm nọ mộng thấy cha ông ta bảo rằng: Nội trong năm nay ông sẽ chết. Nên đến hỏi ngài Giác Hải. Di Bá mịt mờ chẳng hiểu gì. Một hôm có vị Tăng đoán tướng, tự hiệu là Giác Hải, Di Bá xin đoán tướng một quẻ, hỏi rằng Tôi sống thọ được bao lâu? Ngài Giác Hải bảo: Lão Tăng đều không cầu. Ngài chỉ tìm kiếm một chén nước, hà hơi vào trong nước, đưa cho Di Bá uống và bảo: Đêm nay, có mộng tốt lành, có thể bảo tướng cho ông biết. Ngay đêm đó, Di Bá mộng thấy đến một quan phủ, ở phía hành lang bên trái, kẻ nam người nữ áo mũ nghiêm chỉnh đều cùng nhau mừng vui, còn ở hành lang bên phải đều là những người bị gông cùm bó buộc, kêu gào khóc lóc nước mắt rơi dầm dề. Bên cạnh có một người bảo Di Bá rằng: Ở hành lang bên trái là những người chăm lo tu sửa cầu đường, ở hành lang bên phải là những người thuyền xuyên phá hủy cầu đường. Nếu ngươi muốn cầu phước thọ thì hãy tự chọn lấy. Di Bá tỉnh giấc mộng, liền phát tâm làm cầu đường trong phạm vi trăm dặm, mỗi mỗi đều tu sửa nghiêm chỉnh. Khi công việc hoàn thành, ngài Giác Hải trở lại bảo: Ông làm việc như vậy có thể kéo dài mạng sống được mười năm! Từ đó, trên mọi nẻo đường, Di Bá đều dốc công tu sửa không hề biết mệt mỏi. Di Bá thọ được chín mươi hai tuổi. Trong gia đình, năm đời đồng chung sống xướng minh hưng thịnh. <篇> TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 3 Thần tăng Đàm-vô-sấm Thần tăng Đàm-vô-sấm còn gọi là Đàm-ma-sấm. Ngài người nước trung Thiên Trúc. Năm lên sáu tuổi, chịu tang thân phụ, một mình cùng sống với mẹ. Ngài được Sa-môn Đạt-ma-da-xá nhận làm đệ tử, tập học Tiểu thừa. Sau, ngài gặp được Thiền sư Bạch Đầu, bèn thọ học Đại thừa. Năm hai mươi tuổi, ngài tụng các kinh điển Đại thừa lẫn Tiểu thừa hơn hai trăm vạn lần. Anh của ngài giỏi hay chế ngự điều phục loài voi. Cởi mà giết chết voi lớn tai trắng của nhà vua. Vua tức giận giết chết anh ngài và ban lệnh: Kẻ nào dám nhìn nhận kẻ đó thì sẽ giết cả ba họ. Bà con thân thích không ai dám đến nhìn. Ngài khóc mà đem chôn xác anh ngài. Vua tức giận muốn giết ngài, ngài bảo: Nhà vua về pháp luật giết anh tôi, còn tôi vì tình thân thích mà chôn cất. Đều chẳng trái với đại nghóa, sao lại bị oán giận ư? Mọi người chung quanh nghe thấy vậy mà đứng tim, còn ngài thần sắc vẫn tự nhiên. Nhà vua thấy ngài có chí khí khác thường, liền lưu giữ lại mà cúng dường. Ngài thông hiểu chú thuật, phàm hướng việc gì đều có ứng ng- hiệm, ở Tây Vực đều xưng ngài là đại Chủ sư. Sau, ngài theo nhà vua vào núi, nhà vua khát nước mà tìm không được, ngài mới âm thầm trì chú, nước từ trong khe đá chảy ra. Nhân đó, ngài ca ngợi rằng: Do sự cảm ứng âm trạch của Đại vương bèn khiến đá khô sinh ra suối nước! Các nước chung quanh nghe vậy đều tán thán ân đức của vua. Đến khi mưa thuận gió hòa, trăm họ đều ngợi ca, nhà vua rất vui thích đạo thuật của ngài và càng thêm sủng ái. Thời gian sau, nhà vua đổi ý, tiếp đãi ngài có phần lạnh nhạt. Hơn nữa, ở một nơi lâu ngày nên ngài cũng chán nãn, bèn từ biệt đi đến nước Kế Tân, muốn xiển dương giáo pháp Đại thừa, song không hợp với quần chúng nước đó. Ngài liền đi thẳng hướng Đông, đến nước Quy Tư, một thời gian sau, ngài lại đến xứ Cô tàng. Dừng ở tại nhà trạm, sợ mất kinh điển nên ngài gối đầu nằm ngủ, có người khuyên ngài để xuống đất, ngài kinh hãi cho là kẻ trộm. Như vậy liên tiếp ba đêm. Bỗng nhiên, ngài nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng: Kinh điển là kho tàng giải thoát của Đức Như Lai, sao đem để gối đầu nằm? Ngài mới tạm ngộ nên mới đặt để ở chỗ cao. Đến tối, có kẻ trộm, qua vài lần nâng nhấc, trọn không động đậy. Sáng sớm, ngài mang kinh mà đi chẳng lấy làm nặng nề. Kẻ trộm thấy vậy cho là Thánh nhân, bèn chạy lại lễ bái tạ tội. Bấy giờ, vua xứ Hà tây là Trở Cừ Mong Tổn chiếm cướp Lương Thổ. Ngài thường bảo Mông Tổn rằng: Có vào nơi tụ lạc, hẳn là có nhiều tai dịch. Mông Tổn không tin, muốn được chính mắt thấy mới là thực ng- hiệm. Ngài liền dùng pháp thuật khiến Mông Tổn thấy mà khiếp sợ. Ngài bảo: Phải nên thanh khiết chí thành thọ trì trai giới trì tụng thần chú để dứt trừ nó đi. Ngài trì chú ba ngày rồi bảo Mông Tổn rằng: Quỷ đã đi. Bấy giờ trong địa vực có người thấy quỷ, bảo rằng: Thấy vài trăm dịch quỷ tuôn chạy thốt nhiên mà chết. Nên trong tụ lạc được an ổn. Bấy giờ, Ngụy Lỗ Thác Bạt Đào nghe ngài có đạo thuật, sai sứ đến thỉnh đón ngài. Mông Tổn đã phụng thờ ngài lâu ngày nên không nhẫn nở để ngài đi. Sau lại đến nghênh đón, Mông Tổn đã tiếc ngài không ở lại. Lại bởi sự cưỡng bức của Ngụy Lỗ, đến tháng ba năm Nghóa Hòa thứ ba (4 3 3), đời Trở Cừ Mông Tổn, ngài nhân đó xin đến phương Tây tìm lại phần sau của kinh Niết-bàn. Mông Tổn tức giận vì nói ngài muốn đi, mới kín bày mưu hại ngài, dối đem tư lương cung cấp khi đi, tặng các vật báo rất nồng hậu. Gần đến ngày ra đi, ngài rơi nước mắt, nói với mọi người rằng: Sấm tôi, nghiệp quả sắp đến, các bậc Thánh cũng không thể cứu vãn! Vì vốn có tâm thệ nguyện đại nghóa chẳng dung dừng. Lúc ra đi, quả thật Mông Tổn sai thích khách đón đường hại ngài. Ngài thọ được bốn mươi chín tuổi. Năm đó là năm Nguyên Gia thứ 10 (4 3 3), đời tiền Tống. Mọi người xa gần đều than tiếc! Thế rồi, thường ngày Mông Tổn thấy chung quanh mình có quỷ thần dùng kiếm đánh Mông Tổn. Đến tháng tư, Mông Tổn lâm bệnh nặng mà chết. Thần tăng Bôi Độ Thần tăng Bôi Độ, không biết tên họ ngài là gì. Ngài thường cỡi chén gỗ để qua sông, mọi người nhân đó mà gọi ngài là Bôi Độ*. Đầu tiên, ngài ở Kỷ châu, chẳng tu tế hạnh mà thần lực ngài thật trác việt, người đời chẳng thể suy lường nguyên do. Ngài thường ngủ lại tại một nhà nọ ở phương Bắc, trong nhà đó có một tôn tượng bằng vàng, ngài trộm lấy mang đi, chủ nhà biết được bèn đuổi theo, thấy ngài đi thông thả mà cỡi ngựa rượt theo không kịp. Đến sông Mạnh tân, ngài thả chén gỗ nổi trên nước, nương vào đó mà qua sông, không cậy nhờ gió hay bơi chèo mà nhẹ nhàng đi mau như bay. Chốc lát qua tới bờ kia rồi đi đến chốn kinh đô. Lúc ấy ngài khoảng bốn mươi tuổi. Ngài đeo mang lam lũ gần như chẳng vật che thân, nói năng úp mở, mừng giận bất thường. Hoặc đang lúc tiết trời rét lạnh mà gục đầu trong băng tuyết tắm rửa hay mang giày leo lên núi, hoặc đi bộ vào chợ. Chỉ mang theo một bồ cỏ lau, ngoài ra không vật gì khác. Ngài thường đến Sa-môn Pháp Ý ở chùa Diên hiền. Ngài Pháp ý dùng một phòng riêng để tiếp đãi ngài. Sau, ngài muốn vượt qua sông, ở bờ sông, nói với chủ thuyền. Chủ thuyền bảo không chịu chở ngài đi. Ngài lại bước chân lên chén, ngoảy lườm nhìn, nói vịnh, tự nhiên, chén lướt dòng thẳng đến bờ phía Bắc. Ngài đi về hướng Quảng lăng, gặp nhà Thôn Xá Lý thiết hội Bát quan trai. Trước kia chưa từng quen biết, ngài đi thẳng vào trai đường mà ngồi, đặt để bồ cỏ lau ở giữa sân. Mọi người thấy ngài hình dáng xấu xí, nên không tỏ lòng cung kính. Xá Lý thấy bồ cỏ lau giữa đường muốn dời để bên cạnh bờ tường. Vài người nâng nhấc mà không lay động. Ngài ăn xong, đứng dậy xách bồ cỏ lau mà đi, và cười bảo rằng: - Tứ Thiên vương nhà Xá Lý. Đến lúc có một người trông coi nhìn lén trong bồ, thấy có bốn đứa bé cao độ vài tấc, mặt mày đoan chánh, áo quần sạch đẹp, từ đó mới đuổi tìm, song, không biết ngài ở đâu! Sau đó vài ngày, mới thấy ngài ở ranh giới phía Tây, mông lung ngồi dưới gốc cây. Xá Lý lễ bái thỉnh ngài trở về nhà, thường ngày cúng dường. Ngài không chuyên trì trai giới, uống rượu ăn thịt, đến cả nem cay, chẳng khác gì người thế tục. Bá tánh cúng dâng hoặc có lúc ngài nhận có lúc không nhận. Tại Bái Quốc có Lưu Hưng Bá làm thứ sử ở Duyên châu, sai sứ đến đón bắt, ngài mang bồ cỏ lại. Hưng Bá sai người nâng thử xem, hơn mười người nhấc không nổi, Hưng Bá tự đến xem chỉ thấy một chiếc áo nạp rách nát và một chén gỗ. Sau, ngài trở về nhà Xá Lý được hơn hai mươi ngày. Một sáng sớm, bỗng nhiên ngài bảo: Ta muốn được chiếc áo ca-sa, đến trưa nay phải làm xong. Xá Lý liền bảo người may sắm, đến trưa chưa xong. Ngài bảo: Ta tạm đi đây! Đến tối không trở lại. Khắp trong khu vực nghe có mùi hương thơm khác lạ, nghi ngài bày điều quái dị, bèn tìm khắp nơi mà không thấy ngài, sau đó mới thấy chân núi cao ở phía Bắc, trải chiếc áo cà sa rách nát giữa đất, ngài nằm đó mà chết, trước đầu sau chân đều mọc hoa sen rất thơm đẹp, qua một đêm thì héo úa. Cả ấp cùng nhau an táng ngài. Sau đó vài ngày, có người từ hướng bắc đi lại bảo thấy ngài mang bồ cỏ lau đi ở hướng Bành thành, mọi người lại cùng nhau đào xới mở quan tài ra thì giày ủng hiện còn đó. Đến Bành thành, ngài gặp cư só Hoàng Hân, rất kính tin Phật pháp. Thấy ngài, Hoàng Hân đảnh lễ rồi thỉnh ngài về nhà. Nhà Hoàng Hân rất nghèo chỉ có cơm gạo tẻ mà thôi, ngài chấp nhận vui vẻ ở đó được nửa năm. Bỗng nhiên ngài bảo Hoàng Hân rằng: Ông có thể tìm kiếm ba mươi sáu cái bồ cỏ lau, tôi cần dùng đến thứ đó. Hoàng Hân đáp: Lúc này chỉ có khoảng mười cái, nghèo không lấy gì để mua, sợ không có đủ. Ngài bảo: Ông chỉ kiếm tìm trong nhà hẳn là có. Hoàng Hân liền kiếm tìm khắp nơi, quả thật có được ba mươi sáu cái, đem bày nó giữa sân. Tuy có đủ số đó nhưng phần nhiều bị hư nát. Bỗng chốc, Hoàng Hân lần lượt xem kỹ lại thì đều là mới và nguyên vẹn. Ngài phong kín lại, nhân đó bảo Hoàng Hân mở ra, mới thấy tiền bạch đều đầy, có thể đến trăm vạn. Những người biết được khen rằng: Ngài phân thân đến cõi khác, chỗ đáng được cúng thí. Nên vội cùng nhau đem đến cúng thí Hoàng Hân, Hoàng Hân nhận rồi đều đem làm mọi việc công đức. Trải qua một năm thì ngài từ biệt ra đi. Hoàng Hân lo sắm mọi thứ lương thực. Đến sáng sớm, thấy lương thực vẫn còn đó mà chẳng biết ngài đã đi đâu. Sau, ngài đi đến hướng Đông vào Ngô quận, trên đường đi thấy có người câu cá, nhân đó mà đến xin cá. Người đó cho một con cá đói, ngài đưa tay bắt lấy rồi quăng thả vào nước bơi lội mà đi. Lại thấy một người đang chài lưới cá, ngài cũng đến xin cá, người ấy tức giận mắng chửi không cho, ngài mới nhặt hai viên đá ném vào trong nước, bỗng chốc có hai con bò nước đấu đá nhau trong lưới, đến khi lưới rách nát thì không còn thấy bò và ngài cũng ẩn mất. Ngài đến sông Tùng bèn ngửa nón để trên nước, nương đó mà qua bờ, ngài vượt qua Cối kê, Diệm huyện, lên núi Thiên thai. Vài tháng sau ngài trở lại chốn kinh đô. Thuở thiếu thời, ngài đi ở bất thường. Đàm Việt thỉnh mời nhưng có lúc đến lúc không. Bấy giờ ở Nam châu, có nhà họ Trần giàu có đầy đủ mọi tiện nghi. Ngài đến nhà ông ta, rất được cung kính đón tiếp. Nghe dưới thành đô lại có một vị cũng tên là Bội Đồ, cả năm cha con nhà Họ Trần đều không tin nên kéo nhau xuống Thành đô để xem thử, quả thật có một người hình tướng giống hệt Bôi Độ ở nhà. Trần bày một hộp mật gừng, cùng con dao, hương huân lục, khoan tay… Bôi Độ đều ăn mật gừng đến hết, còn các vật khác vẫn còn y nhiên ở dưới chân. Cả năm người sợ đó là Bôi Độ hiện ở nhà bèn phái hai người ở đó trông xem, còn ba người trở về lại nhà. Bội Đồ ở nhà vẫn như cũ, dưới chân cũng có hương, con dao… chỉ khác là không ăn mật gừng mà thôi. Ngài mới nói nhà họ Trần rằng: Con dao bị lụt, có thể mài nó đi. Hai người kia trở về nhà bảo: Bôi Độ kia đã dời đi đến chùa Linh thứu. Gia đình họ Trần tìm cầu hai bức giấy vàng viết thư, viết không thành chữ, trái hợp đồng ấy, bèn hỏi: Thượng nhân viết hợp đồng như thế nào? Ngài không đáp. Cuối cùng cũng chẳng biết ra sao cả. Bấy giờ, tại Ngô quận, có Chu Linh Kỳ đi đến Ca ly, lúc trở về, gặp gió thổi thuyền phiêu bạc đến chín ngày, đến một châu nọ, nơi ấy có núi cao lớn, bèn vào núi hái củi. Đi hơn mười dặm, nghe có tiếng khánh và khói hương, khi ấy mọi người cùng nhau xưng niệm Phật lễ bái. Bỗng chốc thấy một ngôi chùa rất trang nghiêm tráng lệ, phần nhiều toàn bằng thất bảo. Lại thấy có hơn mười người bằng đá, mới cùng lễ bái rồi trở lại. Đi khoảng một quãng đường, lại nghe tiếng xướng dẫn, liền dừng lại nhìn xem cũng chỉ là người đá, Linh kỳ…, cùng nhau bảo rằng: được! Đó là Thánh tăng, chúng ta là những kẻ có tội nên không thấy Nhân đó, mọi người cùng nhau chí thành sám hối. Tàn canh mới thấy được người thật. Những vị đó là vì Linh Kỳ… bày các thức ăn. Thức ăn chỉ là rau quả mà mùi vị thơm ngon khác hẳn ở đời. Xong rồi cùng nhau cúi đầu lễ bái. Xin trở về cố hương. Có một vị Tăng bảo: Ở đây cách thành đô hơn hai mươi dặm, khiến mọi người chí tâm không lo không mau vậy, nhân đó hỏi Linh Kỳ rằng: Có biết đạo nhân Bôi Độ chăng? Linh Kỳ đáp: Rất biết! Vị Tăng đó chỉ ở vách tường phía Bắc có một cái Hồ treo tích trượng và bình bát, bảo rằng: Đó là trú xứ của Bôi Độ. Và viết thư để trong hòm, lại có một gậy trúc xanh, vị Tăng ấy bảo Linh Kỳ: Chỉ cần ném chiếc gậy này vào trong nước trước mui thuyền rồi đóng cửa thuyền mà tónh tọa, không cần phải nhọc sức, hẳn khiến mau tới vậy. Đến lúc từ biệt, lại bảo một vị Sa-di đưa đến trên cổng bảo rằng: Đường này chỉ đi bảy dặm là đến thuyền, chẳng cần đi theo đường trước kia nữa. Quả thật đi về hướng Tây bảy dặm là tới thuyền, đúng như lời chỉ bày. Chỉ nghe thuyền đi trên núi cây cối mọc cao nên không thấy nước. Trải qua ba ngày thì đến hòn đá sông hoài rồi dừng lại, lại cũng không thấy gậy trúc ở đâu. Thuyền vào sông Hoài đến Chu tước, mới thấy Bôi Độ cỡi thuyền la lớn, vỗ vỗ vào thuyền bảo: Ngựa, ngựa sao chẳng đi? Mọi người cũng đều trông thấy. Linh Kỳ cùng với những người trên thuyền đều từ xa kính lễ Bôi Độ. Ngài mới tự xuống thuyền lấy thư và bình bát. Mở thử ra xem, chữ viết không người nào biết. Ngài cười lớn, bảo: Muốn gọi ta về ư? Ngài ném bình bát vào trong mây, rồi lại đón lấy, bảo: Bình bát này ta không thấy đã bốn ngàn năm. Ngài thường xuyên ở chỗ ngài Pháp Ý, chùa Diên hiền, người thời bấy giờ cho rằng bình bát đó là vật hiếm lạ nên đua nhau đến trông xem. Có đứa tớ gái của Canh Thường thường trộm đồ vật mà trao đổi, tuy tìm khắp mọi nơi mà không bắt được mới hỏi ngài. Ngài bảo: Nó đã chết tại trong gò mã bên cạnh bờ sông Kim thành. Qua xem quả thật đúng như ngài nói. Bấy giờ có Khổng Minh Tử làm Hoàng Môn thị lang, ở nhà bị bệnh lî, viết thư đến cầu thỉnh ngài, ngài chú nguyện xong bảo rằng: Khó lành khỏi. Thấy có bốn con quỷ đều bị thương đón chận Ninh tử, khóc nói: Xưa kia Tôn Ân làm loạn, nhà bị quân người phá hoại, cha mẹ và người chú đều bị thống khổ khóc liệt. Sau, thiết trai thỉnh chư Tăng cúng dường. Trong trai tòa có một vị Tăng khuyên thỉnh mời ngài Bôi Độ. Ngài đến chú nguyện một lần, người bệnh liền lành. Tề Hài kính phục thờ ngài làm thầy. Nhân đó mà viết truyện ký. Từ đó về sau mọi sự thần dị của ngài chẳng thể ghi lại hết. Tháng 9 năm Nguyên Gia thứ 3 (4 2 6), đời tiền Tống, ngài từ biệt Tề Hài đi về hướng Đông, để lại một vạn tiền và các vật nhờ Tề Hài làm trai pháp. Từ đó ngài đi mất biệt. Đi đến Xích sơn, thì bà mẹ vợ họ Hồ bị bệnh mà chết. Tề hài liền vì thiết lập trai hội, đồng thời đưa thi hài về an táng ở núi Phú chu, Kiến giang. Năm Nguyên Gia thứ 04 (4 2 7), Ngô Hưng Thiệu rất kính tin Phật pháp, lại mắc bệnh thương hàn, không người nào dám thăm, mới buồn khóc xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Bỗng thấy một vị Tăng đến bảo rằng: Tôi là đệ tử của ngài Bôi Độ. Người chớ buồn lo, lát nữa ngài sẽ tìm đến thăm! Ngài Bôi Độ viên tịch đã lâu, sao lại có thể đến ư? Đạo nhân đáp: Đến đâu khó gì. Liền sờ vào đầu y và lấy ra một hộp hứa tán cho Hưng Thiệu uống, bệnh liền lành hẳn. Lại có Cổ Tăng Ai ở tại Nam cương, ngày xưa đã từng kính phục thờ Bôi Độ, có đứa con dại mắc bệnh rất nặng, mới nghó nhớ ân hận không gặp được ngài để trì niệm thần chú cho. Song, sớm mai bỗng thấy ngài lại nói năng như thường, liền vì niệm chú, người bệnh liền lành. Đến tháng 3 năm Nguyên Gia thứ 05 (4 2 8), ngài trở lại nhà Tề Hài, Lã Đạo Tuệ nghe mà kinh ngạc, Đổ Thiêu, Tỳ Thủy, Khâu Hy… cũng thấy và đều kinh hãi, liền đứng dậy lễ bái. Ngài nói với mọi người rằng: Năm nay có hung tai lớn, phải siêng tu nghiệp. Đạo nhân Pháp Ý là người rất có đức, nên đi đến đó tu sửa dựng lập lại chùa xưa để lấy đó mà cầu tiễn tai họa. Bỗng chốc trên cửa, có một vị Tăng kêu gọi ngài, ngài liền từ biệt mà đi, bảo rằng: Bần Đạo phải đến xứ Giao châu, Quảng châu, không trở lại nữa. Tề hài cùng mọi người lễ bái tiễn đưa rất ân cần. Từ đó, ngài vắng bặt. Khuynh Thế cũng nói lúc ấy có thấy ngài thật. Thần tăng Đàm Đế Thích Đàm Đế, dòng họ Khương. Tổ tiên ngài vốn người Khương cư. Khoảng thời vua Linh Đế ( 1 6 8- 189), Đông Hán, dời đến ở nhờ đất Trung Quốc. Đến cuối thời vua Hiến Đế ( 1 9 0- 220), Đông Hán, gặp loạn nên dời đến Ngô Hưng. Thân phụ ngài là Dung, từng làm Ký châu biệt giá. Thân mẫu ngài họ Hoàng, ban ngày nằm ngủ mộng thấy vị Tăng gọi bà là mẹ, gởi một mảy bụi vụn và chai Thiết lũ thư Trấn. Đến lúc tỉnh giấc thấy hai vật ấy hiện còn bên mình, nhân đó mà mang thai, sinh ra ngài. Năm lên năm tuổi, mẹ ngài đem những thứ đó chỉ cho ngài. Ngài bảo đó là vật của vua Tần tặng cho. Mẹ ngài hỏi: Con để nơi nào? Ngài đáp: Không nhớ. Đến năm mười tuổi, ngài xuất gia. Học chẳng phải theo thầy, ngộ tự thiên phát. Sau, ngài theo thân phụ đến Phiền Đặng, bỗng thấy Sa- môn Tăng Lược ở Quan trung, liền gọi tên ngài Tăng Lược, Tăng Lược bảo: Gả đồng tử sao gọi tên Lão Túc ư? Ngài nói: Trước kia đã từng thế, nên bỗng gọi. À, trước kia Sa-di Đàm Đế tôi đã từng vì chúng Tăng đi hái rau bị heo rừng làm tổn thương, bất chợt mà mất tiếng vậy. Tăng Lược từng là đệ tử của Hoằng Giác, vì chúng Tăng đi hái rau bị heo rừng hại tổn thương. Ban đầu, Tăng Lược không nhớ, mới hỏi cùng thân phụ ngài. Thân phụ ngài nói rõ đầu đuôi, và chỉ bày cho thấy thư Trấn; mãy bụi vụn… Tăng Lược bèn sực ngộ mà khóc, nói rằng: Vậy đây quả đúng là tiên sư của tôi, Pháp sư Hoằng Giác. Thầy từng giảng kinh Pháp Hoa cho Diêu Trành, bần đạo là Đô Giảng. Diêu Trành tặng thầy hai vật, nay hiện còn đây. Tuy tính lại ngày Pháp sư Hoằng Giác xả bỏ báo thân tức là ngày gởi vật. Và nhớ lại sự việc hái rau, càng thêm bi ngưỡng. Ngài thích ở chốn suối rừng. Sau, trở về lại Ngô Hưng vào núi cũ Chương côn, nhàn cư uống dùng nước suối hơn hai mươi năm. Đến cuối niên hiệu Nguyên Gia (4 5 4), ngài viên tịch tại trong núi, thọ hơn sáu mươi tuổi. Thần tăng Cầu-na-bạt-ma Cầu-na-bạt-ma, Hán dịch là Công Đức Khải. Ngài vốn giòng Sát đế lợi. Gia tộc đã nhiều đời làm ma cai trị tại nước Kế Tân. Năm mười bốn tuổi ngài thấy rõ căn cơ, thông đạt sâu sắc, nhân ái rộng khắp, kính sùng tài đức chuyên tâm làm lành. Thân mẫu ngài thường muốn ăn thịt các loài dã thú nên bảo ngài làm. Ngài bảo: Phàm các loài có sinh mạng không loài nào chẳng ham sống, cắt đứt mạng sống của chúng tức là người bất nhân! Năm hai mươi tuổi, ngài xuất gia thọ giới, thông suốt chín bộ loại kinh giáo, hiểu rộng khắp (?), tụng kinh hơn trăm vạn lời, thân đạt luật tạng, khéo vào yếu chỉ Thiền tông. Người thời bấy giờ đã tôn xưng ngài là Tam tạng Pháp sư. Đến năm ngài 30 tuổi, đại vương nước Kế Tân băng hà, không có người nối ngôi, mọi người cùng bàn với nhau rằng: Cầu-na-bạt-ma là giòng giỏi hoàng gia, thêm nữa ngài có đủ tài trí thông minh, đức hạnh cao trọng, có thể thỉnh ngài hoàn tục để tiếp nối ngôi vị đế vương. Quần thần khoảng vài trăm vị hai ba lần có thỉnh cầu. Song, ngài không ưng thuận, mới từ biệt thầy trái chúng, gá mình chốn hang cốc, độc thân chốn sơn dã, ẩn dấu nơi dân gian. Sau đó ngài đến nước Xà- bà, trước đó một ngày, hoàng thái hậu nước Xà-bà ban đêm mộng thấy có một đạo só dùng thuyền bay mà tới. Sáng sớm mai quả thật là ngài đến đó. Hoàng thái hậu rất kính trọng dùng lễ thánh nhân mà phụng thờ ngài, đồng thời cầu xin thọ từ ngũ giới. Nhân đó, hoàng thái hậu khuyên nhà vua rằng: Do nhân duyên đời trước nay được cùng làm mẹ con. Nay ta đã thọ giới mà con không kính tin Tam bảo, e rằng nhân đời sau hoàn toàn dứt tuyệt từ quả ở đời nay! Nhà vua vội vã vâng theo lời dạy của hoàng thái hậu, liền phụïng mạng thọ giới. Dần dần lâu ngày, chuyên tinh có phần thuần thục. Bỗng có quân lính nước lân cận xâm lấn lãnh thổ, nhà vua bèn thưa cùng ngài rằng: Quân giặc bên ngoài cậy sức mạnh muốn xâm chiếm nước nhà, nếu cùng đánh nhau, hẳn giết hại rất nhiều, còn bằng không chống cự lại thì nguy vong sắp đến. Nay chỉ nương nhờ Tôn sư, chứ chẳng biết suy tính sao cả. Ngài bảo: Quân giặc bạo ngược công kích, ta nên phải bảo vệ giữ gìn. Nhưng chỉ nên bảo vệ và khởi tâm Từ bi, chớ dấy niệm giết hại. Nhà vua tự thân thống lãnh binh lính phỏng theo đó mà thực hành, cờ trống mới nổi lên, quân giặc tự lui tan. Nhà vua bị vấp phải mũi tên rơi lạc nên bị thương ở chân, ngài liền vì chú nguyện trong nước để tẩy rửa vết thương, qua hai đêm thì bình phục. Sau nhà vua vì ngài mà tạo dựng tinh xá, đích thân nhà vua bào chuốc cây gỗ nên bị thương ở tay chân. Ngài lại vì thế mà chú nguyện điều trị, chỉ khoảng thời gian ngắn bèn bình phục. Bấy giờ, tại kinh đô (nước Trung Hoa), có vị Sa-môn danh đức như ngài Tuệ Quán, Tuệ Thông… từ xa nghe phong phanh nên muốn được tham kiến bẩm thọ. Tháng 9 năm Nguyên Gia thứ nhất (4 2 4), đời tiền Tống, các ngài dâng biểu khải tấu trình vua Văn Đế xin được đón thỉnh Cầu-na-bạt-ma. Nhà vua bèn ban sắc Giao châu thứ sử ra lệnh đưa thuyền đi thỉnh mời, Sa-môn Tuệ Quán… lại bảo các Sa-môn Pháp Trường, Đạo Xung, Đạo Tuyển… đến nước Xà-bà để cầu thỉnh ngài, vua Văn Đế biết ngài đã đến Nam Hải, lúc đó lại ban sắc các Châu quận chuẩn bị phát xuất từ hạ kinh và đường đi là ngang qua Thỉ hưng, dừng nghỉ độ một năm. Tại Thỉ hưng có núi Hổ thị, hình dáng cao vót, đứng trơ trọi, đỉnh núi cao tuyệt, ngài cho rằng hình dáng phảng phất tương tợ núi Kỳ-xà-quật, mới đổi tên là núi Linh Thiếu. Ở ngoài chùa núi lập riêng một Thiền thất, cách chùa vài dặm, không nghe tiếng khách. Mỗi lúc tiếng chùy vang lên là ngài đã đến, hoặc xông mưa không thấm ướt, hoặc lội đạp bùn sình mà không hề dơ, kẻ Tăng người tục thời bấy giờ không ai ai cũng tôn sùng kính trọng. Tại chùa có điện Bảo nguyệt, ở tường phía Bắc điện tự tay ngài đắp họa tượng ngài La Vân và hình Định Quang Nhu Đồng Bố Phát. Sau khi đắp họa hoàn thành, hằng đêm tôn tượng phóng ánh sáng rất lâu mới hết. Thỉ hưng thái thú Thái Mậu Chi rất kính ngưỡng ngài, lúc Mậu Chi sắp chết, ngài đến thăm và giảng pháp an ủi. Sau, người nhà mộng thấy Mậu Chi tại trong điện cùng chúng Tăng giảng pháp. Tại núi đó, trước kia tai họa vì hổ rất nhiều. Từ lúc ngài đến ở đó, ngày qua đêm lại, có khi gặp hổ phải dùng gậy đè đầu để gỡ nạn mà đi. Ngài thường nhập thất tọa thiền nhiều ngày. Chư Tăng trong chùa bảo một vị Sa-di đến hầu ngài. Thấy một con sư tử trắng tựa trụ mà đứng, khắp thất mọc đầy hoa sen xanh, vị Sa-di ấy kinh sợ kêu lớn, mọi người đến xem thì bỗng nhiên không thấy sư tử nữa. Sau, trước lúc viên tịch, ngài để lại bài văn di chúc bằng kệ tụng gồm 36 ba mươi sáu hàng. Tự nói kệ nhân duyên là đã chứng nhị quả, tự tay ngài phong dán lấy rồi giao cho đệ tử A-sa-la, bảo: Sau khi ta tịch, có thể đem bài văn này về trình bày cùng chư Tăng ở Tây Trúc và cũng nên trình bày với chư Tăng ở xứ này. Đến khi viên tịch, ngài ngồi riết già trên giường dây, nhan sắc dáng mạo chẳng đổi khác, tợ như đang nhập định. Tăng tục kéo đến hơn cả ngàn người đều nghe mùi hương thơm phảng phất, và đều thấy một vật hình dạng như rồng rắn dài khoảng một thất xuất hiện bên cạnh nhục thể ngài và bay thẳng lên trời, chẳng thể bảo ban gì. Đại chúng y theo pháp ngoại quốc, cử hành lễ trà-tỳ nhục thể ngài trước giới đàn nam lâm, ngài hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi. Thần tăng Tăng Lượng Ngài Tăng Lượng, chưa rõ là người ở đâu. Ngài hành trì giới hạnh mà hiển danh. Muốn tạo một tôn tượng có trượng sáu bằng vàng. Nghe nói ở miếu Ngũ tử tư tại Tương châu có nhiều đồ đồng, nghe ngài bảo thứ sử Trương Thiệu cho nhờ mượn một trăm người mạnh khỏe và mười chiếc thuyền lớn. Trương Thiệu nói: Ở miếu đó rất linh nghiệm, ai phạm đến hẳn là chết, vả lại người mang giữ gìn, há có thể lấy được ư? Ngài bảo: Nếu quả thật có phước đức thì cùng Đàn-việt cùng làm, còn như có sai trái thì tự thân phải gánh chịu! Trương Thiệu bèn cung cấp người và thuyền, đi ba ngày đến miếu. Trước miếu có hai cái vạt dung chứa khoảng hơn trăm hộc, trong vạt có rắn lớn dài hơn mười trượng ra ngăn chặn đường. Ngài mới cầm tích trượng chú nguyện vào đó, rắn liền lánh ẩn đi. Bỗng chốc thấy có một người cầm hốt đi ra, bảo: Nghe ngài đạo nghiệp rất tùy hỷ! Khi đó bảo người kéo xe lấy đồng trong miếu. Nhiều đến mười phần chỉ lấy một mà thuyền đã đầy, kịp lúc trở về gặp gió nước rất thuận tiện, nên bọn người mau bảo nhau cùng đuổi bắt không kịp. Về đến kinh đô, chú đúc tôn tượng đã hoàn thành, chỉ thiếu ánh sáng, vua Văn Đế ( 4 2 4- 454) làm vầng hào quang bằng vàng mỏng, an trí tại chùa Bành thành. Khoảng trong niên hiệu Thái Thỉ ( 4 6 5- 472), đời tiền Tống dời tôn tượng đến chùa Tương cung. Thần tăng Đạo Sinh Thần tăng Trúc Đạo Sinh, vốn dòng họ Ngụy, người xứ Cư lộc. Vừa mới sinh mà ngài đã dónh ngộ thông thiết, thân phụ biết ngài chẳng phải người phàm nên vô cùng mến thương mà lấy làm lạ. Sau, gặp Sa- môn Trúc Pháp Thải ngài bèn cải tục quy y. Đến tuổi có chí học hành, ngài liền đến giảng tòa, nói năng nghe nhận, biện hỏi ngôn từ trong trẻo như châu ngọc. Tuy sớm trông mong cầu học mà chư Tăng danh só ở đương thời đều lo khuất nhục cùng lời, chẳng dám đảm nhận răn dạy. Đến năm thọ giới Cụ túc thì tài năng soi sáng ngày càng một sâu đậm. Đầu tiên, ngài vào Lô sơn ở ẩn bảy năm, thường lấy yếu chỉ của sự nhập đạo Tuệ Giải làm chính, nên ngài nghiên cứu các kinh điển, muôn dặm theo thầy. Chẳng sợ khổ nhọc. Sau, ngài đến Trường an theo ngài La-thập để thọ học, Tăng chúng ở Quan trung cho là Thần ngộ. Ngài trở về trú ở chùa Thanh viên. Vua Vũ Đế ( 4 2 0- 423), vua Văn Đế ( 4 2 4- 454), đời tiền Tống đều rất ngợi khen kính trọng. Sau, vua Vũ Đế thiết cúng trai hội, thỉnh mời Tăng chúng đến dự trai diên, vào trai đường đã quá lâu, đại chúng đều nghi là đã xế chiều. Nhà vua bảo: Mới chỉ là buổi trưa. Ngài nói: Mặt trời sáng rực giữa trời, đại vương bảo chỉ mới là trưa, sao được chẳng phải là giữa trưa? Liền bưng bát thọ thực, khi đó cả chúng đều theo ngài. Không ai chẳng khen ngài là then chốt ở giữa. Thời bấy giờ, phẩm sau kinh Niết-bàn chưa truyền đến Trung Hoa, ngài nói: Hàng Nhất-xiển-đề đều sẽ thành Phật. Chỉ bởi kinh ấy truyền đến chưa đầy đủ hết. Lúc đó, các vị Sa-môn thiên chấp văn tự, vu khống ngài là tà đạo nên mặc tẩn rồi trục xuất ngài đi, ngài bạch cùng đại chúng, phát lời thệ nguyện rằng: Nếu điều tôi giảng nói chẳng hợp với lý kinh thì hay xin hiện thân này chịu phải quả báo xấu ác, còn nếu thật khế hợp với tâm Phật thì nguyện lúc xả bỏ báo thân là đang ngồi trên tòa sư tử. Nói rồi, ngài liền phất áo vào núi Hổ khâu ở Đất thục, dựng đá làm đồ chúng để giảng kinh Niết-bàn. Đến chỗ nói: “Xiển-đề có Phật tánh”, ngài hỏi: Như điều tôi giảng nói có khế hợp với tâm Phật chăng? Tất cả các viên đá đều gục đầu chấp thuận. Mùa hạ năm đó, sấm sét nổ vang nơi điện Phật chùa Thanh viên, rồng bay lên trời, ánh sáng phản chiếu ở bức tường phía Tây. Nhân đó đổi tên chùa là chùa Long quang. Người thời bấy giờ ca ngợi rằng: Rồng đã bay đi, hẳn ngài Đạo Sinh sẽ hành đạo! Bỗng chốc mà theo vết Lô sơn tiếu cảnh hang cùng chót vót, chư Tăng trong núi đều cùng nhau kính phục. Sau, đại bản kinh Niết-bàn truyền đến Nam kinh, quả thật có nói: Xiển-đề hẳn có Phật tánh. Giống như điều giảng nói của ngài Đạo Sinh rất tương phù khế hợp. Ngài có được bản kinh đó, liền giảng nói. Năm Nguyên Gia thứ 11 (4 3 4), đời tiền Tống, tại Lô sơn, ngài lên pháp tòa giảng kinh Niết-bàn. Đến lúc gần xong, bỗng thấy mảy bụi lẫn lộn tự nhiên rơi vải, ngài đoan tọa, dung mạo nghiêm trang tựa ghế mà tịch. Thần tăng Đàm-ma-mật-đa Đàm-ma-mật-đa, Hán dịch là Pháp Tú. Ngài người nước Kế Tân. Năm bảy tuổi, thần minh trong sáng, mỗi khi gặp pháp sự, ngài liền vui mừng nhảy nhót. Song thân ngài mến thương mà lấy làm kỳ lạ, bèn cho ngài xuất gia. Tại Kế Tân thời bấy giờ có nhiều bậc Thánh tăng xuất hiện, nên ngài thường gặp minh sư. Ngài thấu suốt các kinh, thâm đạt thiền pháp, các yếu chỉ đạt được đều vô cùng vi diệu sâu mầu. Ngài là người trầm lắng hài hòa có tuệ giải, nghi quỷ rõ ràng đoan chánh. Thuở bình sinh, lông my ngài liền nhau, nên người đời gọi ngài là My Hòa thượng. Thời niên thiếu, ngài thích du phương, phát chí nguyện tuyên hóa, đi khắp các nước rồi đến Quy Tư. Trước đó một ngày, Quốc vương nước đó mộng thấy có vị thần bảo: Có người đại phước đức ngày mai sẽ đến nước này, ông nên cúng dường. Sáng sớm nhà vua liền ban lệnh cho ngoại ty: Nếu có người khác lạ vào cửa ải hẳn phải gấp báo cho ta biết. Bỗng chốc thì ngài đến. Nhà vua đích thân ra đền bang giao ng- hênh đón, thỉnh ngài vào cung, nhà vua bèn theo ngài để thọ giới pháp, giữ lễ cung kính cúng dường tứ sự. Ngài tuy an túc mà hay đổi dời chẳng câu nệ bởi lợi dưỡng, ở đó được vài năm, ngài có tâm ý muốn ra đi, Thần lại giáng mộng báo cho nhà vua biết rằng: Người phước đức đó sắp bỏ nhà vua đó mà đi! Vua kính sợ tự nhiên kinh giác. Thế rồi vua tôi cố lưu giữ ngài, mà ngài không chấp thuận. Bèn vượt qua Lưu sa, đi đến Đôn hoàng, nơi địa thế nhàn tónh rộng rãi dựng lập tịnh xá, trồng ngàn gốc táo mở vườn rộng trăm mẩu, phòng nhà hồ rừng rất là nghiêm tịnh. Một thời gian sau ngài lại đến Lương châu, dừng trú tại một chùa xưa nơi Công phủ, tu bổ sửa sang lại phòng ngài nhà. Học chúng đông đúc thực hành hiền pháp rất thạnh ngài thường vì Vương kỳ ở Giang hữu có trí muốn hoằng truyền giáo pháp. Năm Nguyên Gia thứ nhất (4 2 4), đời tiền Tống ngài lần lượt đến đất Thục, bỗng chốc mà ra khỏi mỏm núi, dừng trú tại Kinh châu, ở chùa Trường sa tạo dựng thiền các, Kiều Thành khẩn thiết cầu thỉnh xá-lợi. Hơn mười ngày, bèn cảm ứng một viên va chạm vào bình phát ra âm thanh và phóng ánh sáng khắp thất. Môn đồ kẻ Tăng người tục thảy đều tăng tiến dũng mãnh, đồng tâm trí có đến trăm người. Một thời gian sau, ngài lại men theo dòng thẳng hướng Đông đến chốn kinh đô. Ban đầu ngài trú tại chùa Trung hưng. Về sau, ngài dừng nghó tại chùa Kỳ-hoàn. Tiếng tăm hoằng đạo của ngài vang khắp liên bang, ngài đến kinh phủ, mọi người nghiên thành lễ kính, từ Tống Văn Viên cho đến hoàng hậu thái tử công chúa thảy đều thiết trai ở quế cung, thỉnh răn tiêu dịch. Kẻ sứ tham hầu mười ngày cùng trông ngóng ở tại chùa Kỳ-hoàn, ngài phiên dịch các bộ kinh thiền; Thiền Pháp Yếu, Phổ Hiền Quán… Ngài thường dùng đạo thiền để giảng dạy truyền trao hoặc ngàn dặm cầu học bổn chúng. Xa gần mọi người đều tôn xưng ngài là Đại Thiền Sư. Cối kê thái thú Bình Xương Mạnh Khải dốc lòng tin chánh pháp, lấy việc Tam bảo làm việc của chính mình, vốn ưa thích thiền vị, tâm kính cẩn quan trọng. Kịp lúc sang phía hữu sông chiếc, thỉnh ngài cùng đi, đến núi huyện mậu, vì ngài mà dựng lập chùa tháp. Tại phương Đông, xưa cũ có thói quen xu hướng đồng bóng cầu đảo. Đến lúc diệu pháp hoằng hóa, thảy đều bỏ tà quy chánh. Từ Tây đến Đông không lo chẳng phục. Năm Nguyên Gia thứ 10 (4 3 3), đời tiền Tống, ngài trở lại kinh đô, dừng chân ở chùa dưới Định lâm tại Chung sơn. Ngài vốn thiên tánh lắng động trầm tónh thanh nhã, ưa thích sơn thủy. Nhân vì Chung sơn núi lớn mạch suối đẹp nhiều hoa, ngài thường than chùa dưới xây dựng khe suối thấp nghiêng, từ đó chở đất đắp ngang bằng, đo đốc thế núi. Năm Nguyên Gia thứ 12 (4 3 5) chặt cây phá đá xây dựng chùa trên. Nhân dân só thứ khâm phục phong quang nên phụng cúng chất chồng. Thiền phòng điện vũ xây dựng thành tầng. Từ đó những người muốn lắng lòng từ muôn dặm tìm đến. Phúng tụng túc ung trông dáng vẻ mà thành chuyển hóa. Thiền sư Đạt ở chùa Định lâm là đệ tử thần túc của ngài, xiển dương phong giáo của ngài, tiếng tăm chấn động cả kẻ Tăng người tục. Nên hay tịnh hóa lâu dài mà chẳng đổi, thấy nghiệp mãi tôn sùng mà không thay. Bởi vì di phong của ngài vô cùng mãnh liệt, nên từ Tây Vực cho đến đất Nam, phàm những chỗ đi qua không đâu mà chẳng tạo lập đàn hội, phu diễn giáo pháp. Xưa kia, lúc đầu, ngài khởi hành đi hoằng hóa là từ nước Kế Tân, có Thần vương Ca-tùy là hộ vệ đưa đường, giữa đường đến nước Quy Tư, thần muốn trở lại nên hiện hình cáo từ ngài, nói rằng: Ngài thần lực thông biến, tự tại đi lại mọi nơi. Đến lúc tôi không cùng với ngài đi tới phương Nam! Nói xong liền thâu ẩn hình dáng, xa theo đến thành đô. Tức nay ở chùa trên có bức tượng đắp họa ở tượng vách, đến ngày nay vẫn còn ứng nghiệm qua thanh cảnh. Những người thanh khiết chí thành cầu phước, không ai chẳng được hưởng như ý nguyện. Năm Nguyên Gia thứ 19 (4 4 2), đời Tiến Tống ngày mồng 6 tháng 7, ngài viên tịch tại chùa trên, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi. Thần tăng Cầu-na Bạt-đà-la Cầu-na Bạt-đà-la, Hán dịch là Công Đức Hiền, người xứ trung Ấn Độ. Vì ngài học giáo pháp Đại thừa nên thời bấy giờ tôn xưng ngài là Ma-ha diễn. Ngài vốn giòng dõi Bà-la-môn, thời thơ ấu tập học ngữ minh, và các luận, sau gặp được luận A-tỳ-đàm tạp tâm, vừa đọc bèn tỉnh ngộ, mới kính sùng Phật pháp. Gia đình ngài đời thờ phụng ngoại đạo, cấm tuyệt Sa-môn, ngài bèn bỏ nhà trốn đi phương xa tìm thầy học đạo, vứt bỏ trâm cài xuống tóc xuất gia, chuyên chí tinh học kịp đến lúc thọ giới Cụ túc, ngài thông suốt Tam tạng. Ngài đến các nước Sư tử… đếu có trạm dừng, tưa tiễn cúng dường tư lương. Ngài có duyên với phương Đông, theo thuyền nổi trôi giữa biển không một chút gió, đạm khí lặng im, mọi người trên thuyền đều lo sợ. Ngài bảo: Nên đồng tâm hiệp lực cầu niệm mười phương chư Phật, xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, đừng lo không cảm ứng! Rồi ngài mật tụng kinh chú chí thành lễ sám. Bỗng chốc có tin gió bão đến, mây nhóm rưới mưa, cả thuyền đều được cứu giúp. Thời tiền Tống, thừa tướng Tiêu Vương nghóa tuyên trấn tại Kinh châu, tạo dựng phòng điện, thỉnh ngài giảng các kinh Hoa Nghiêm… mà ngài tự nghó chưa thông, thạo tiếng Trung Hoa nên trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Ngài liền sớm tối lễ sám. Thỉnh Bồ-tát Quán Thế Âm cầu xin minh ứng, khi ấy liền mộng thấy có một người mặc áo trắng cầm kiếm vác đầu một người đi lại trước mặt ngài hỏi: Cớ sao lo buồn vậy? Ngài bèn thuật lại đầy đủ sự việc. Vị ấy bảo: Không gì phải lo lắm! Bèn dùng kiếm đổi đầu và thay lại đầu mới, bảo ngúc ngắc xoay chuyển rồi hỏi: Có đau không? Ngài đáp: Không đau! Bỗng nhiên ngài cảm thấy tâm thần vui mừng. Sáng sớm thức dậy ngài nói năng và hiểu nghóa tiếng Trung Hoa rành mạch. Từ đó ngài giảng nói các kinh. Đến cuối niên hiệu Nguyên Gia (4 5 9), đời tiền Tống, Tiêu vương thường mộng thấy điềm lạ, đem hỏi ngài, ngài đáp: Kinh đô sắp có họa hoạn, chưa đến một năm thì Nguyên Hung có ý đồ tạo phản, đến đầu niên hiệu Hiếu Kiến (4 5 4), Tiêu Vương âm mưu nghịch tiết. Ngài lộ vẻ buồn thảm chưa kịp mở lời, Tiêu Vương hỏi ngài về nguyên do. Ngài khẩn thiết can ngăn, mới rơi lệ mà nói rằng: –Hẳn không mong mỏi gì. Bần đạo chẳng thể đi theo! Tiêu Vương vì tình hình mọi sự vật nên ép bức ngài cùng đi theo. Tại Long sơn bị bại trận nên thuyền càng trở nên gấp rút, cách bờ càng lúc càng xa, lại bị phân chia hoàn toàn không được cứu giúp, ngài chỉ nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, tay nắm dây cung, gieo mình xuống dòng sông, nước ngang tới đầu gối, dùng gậy chích nước, nước chảy xiết. Thấy một đồng tử từ xa chạy lại đưa tay dẫn đi. Ngài ngoảnh lại nói với đồng tử rằng: Ông bé nhỏ làm sao cứu tôi được? Trong khoảnh khắc hốt hoảng tưởng chừng mới đi hơn mười bước nhưng phút chốc đã lên bờ. Ngài liền cởi áo nạp muốn thưởng cho đồng tử, quay lại tìm kiếm thì không thấy nữa, khắp mình ngài lông dựng đứng. Bấy giờ, Vương Hiền mô đóng quân tại Long sơn. Vua Thế Tổ ( 4 5 4-465, đời Tiền Tống) ban lệnh trong quân phải tìm được Ma-ha Diễn, khéo xử lý đưa tin về đài. Bỗng chốc triệu được ngài, liền bảo thuyền lớn đưa ngài về đô. Vua Thế Tổ liền ra diện kiến, vặn hỏi quanh co, bảo: Mong ngóng đã nhiều ngày, nay đay có tìm mới cùng gặp. Ngài bảo: Đã nhiễm máu lệ, phận đáng thành tro bụi, nay được tiếp kiến, thật đội ân! Sắùc lệnh hỏi đều chuẩn định ngài là giặc. Ngài bảo rằng: Người xuất gia không dự vào việc quân trận, song Trương Xương, Tống Linh Tú… đều là ép bức bần đạo, rõ ràng chẳng có mưu đồ chỉ bởi túc duyên mà gặp việc như thế! Nhà vua bảo: Không gì phải lo. Ngay ngày đó liền ban sắc ngài trú tại hậu đường, cùng dường các thứ y vật, cung cấp người hầu hạ, kịp đến lúc chùa Trung hưng xây dựng hoàn thành thì ban sắc ngài dời đổi nơi cư trú. Sau, ở tại biên giới Mạc lăng, phía Tây lầu phụng hoàng, ngài dựng lập ngôi chùa. Thường đến nữa đêm có tiếng gõ cửa kêu gọi, ra xem chẳng thấy có người, chúng Tăng thường thấy ác mộng. Ngài đốt hương chú nguyện rằng: Các người túc duyên ở tại đây, nay tôi tạo lập chùa, phàm hạnh đạo lễ sám, thường vì các người. Nếu ở thì phải thiện thần ủng hộ chùa chiền, nếu không thể thì mỗi vị hãy tùy tìm nơi an trú! Thế rồi kẻ tăng người tục đồng một đêm mộng thấy quỷ thần đông đến hàng ngàn đều khiên vác rời đi, từ đó chúng Tăng trong chùa được an ổn. Năm Đại Minh hứ 06 (4 6 3), tiết trời hạn hạn, cầu đảo khắp núi sông nhiều tháng mà chẳng ứng nghiệm. Vua Thế Tổ thỉnh ngài để để cầu mưa hẳn có cảm ứng nếu không được thì chẳng thấy nhau nữa. Ngài nói: Nương nhờ Tam bảo và y thiên của bệ hạ để mong cầu ắt hẳn sẽ ba giáng ân trạch. Nếu không thành tựu thì chẳng phải gặp nhau nữa. Ngài liền đến Bắc hồ điếu đài đốt hương cầu thỉnh, chẳng đoái hoài ăn uống, im lặng tụng kinh, gia trì mật chú, gặp ngày hôm sau, đến buổi quá trưa, từ phía Tây bắc mây nổi lên, ban đầu chỉ như lọng xe, đến lúc mặt trời xế bóng cành dâu thì gió chấn động, mây ùn kéo lại, liền ngày mưa đổ. Ngài vẫn cầm nắm lò hương chưa từng nghỉ tay. Mỗi lúc ngài thọ thực thì chim muôn bay nhóm nơi tay ngài mổ lấy thức ăn. Đến đời vua Thái Tông (Minh Đế, 4 6 5-473, đời tiền Tống), càng cúng dường lễ kính rất mực chí thành. Tháng giêng năm Thái Thỉ thứ 4 (4 6 8), ngài cảm thấy trong thân thể bất an, bèn cùng vua Thái Tông và các công khanh… cáo biệt. Trước lúc viên tịch ba ngày, ngài trì hoảng hồi lâu mà trông ngóng, bảo: Thấy hoa trời và Thánh tượng. Gần trưa thì tịch, ngài hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi. Thần tăng Tuệ Đạt Thích Tuệ Đạt, vốn dòng họ Lưu, tên là Tất Hòa. Vốn người xứ Định dương Khể Hồ phía Đông bắc ba thành Hàm dương. Đầu tiên, ngài không biết phụng thờ Phật pháp, sau nhân uống rượu mắc bệnh, chết ngất thấy đủ tướng các thứ khổ của chốn địa ngục, nhân đó mà xuất gia làm Tăng, trú tại Quận văn thành. Đến năm Thái Diên thứ nhất (4 3 5), đời vua Thái Vũ Đế; thuộc Bắc Ngụy, ngài du hóa sắp xong, tiện việc trở lại phương Tây, đi đến phía Đông bắc huyện Phan hòa; Lương châu, ngóng trông ngự cốc mà từ xa kính lễ. Mọi người chẳng ai hiểu gì cả, mới hỏi nguyên do. Ngài bảo: Núi này sẽ có tôn tượng xuất hiện. Nếu linh tướng viên mãn hoàn bị thì đời an lạc thời vận khương thái, còn như có bị sứt khuyết thì đời loạn lạc dân chúng thống khổ. Sau đó tám mươi bảy năm, đến đầu niên hiệu Chính quang (5 2 0), bỗng trời nổi gió mưa, sấm sét nổ vang chấn động khắp núi, tự nhiên xuất hiện một tượng đá toàn thân trượng tám, hình tướng đoan nghiêm chỉ không có đầu. Bèn leo lên chọn đá bảo thợ chạm trổ một đầu tượng riêng biệt, đem đặt lên rồi bèn rơi xuống. Nhân đó bèn để như vậy. Ngụy Đạo Lăng chờ đợi kiểm nghiệm lời ngài nói vậy. Đến thời Bắc Chu năm thứ nhất (5 5 7) thống trị Lương châu, tại một khe suối cách phía Đông thành bảy dặm tự nhiên có phát ra ánh sáng soi chiếu khắp cùng, mọi người trông thấy lấy làm lạ, thì ra đó là đầu tôn tượng, liền thỉnh đến đỉnh núi Nham an, quả thật rất phù hợp, tướng hảo tròn đầy. Kể từ đó nước nhà thái bình. Đến năm Bảo Định thứ nhất (5 6 1), đời Bắc Chu, đặt làm chùa Thụy tượng. Các hàng học giả tri thức mới biết sự soi xét trước của ngài. Sau, ngài đi đến huyện Tửu tuyền ở Túc châu, viên tịch trong một khe suối cách thành bảy dặm về hướng Tây. Hài cốt ngài đều nát vụng như Quý Tử Đại có thể xuyên thủng. Nay phía Tây thành trong một nơi chùa cổ, tôn tượng đắp vẽ về ngài hiện đang còn. Thần tăng Lặc-na-mạn-đề Ngài Lặc-na-mạn-đề là Tăng só Thiên Trúc, trú tại chùa Vónh ninh ở thành Lạc dương trong triều đại Bắc Ngụy ( 3 8 6- 534). Ngài tinh thông ngũ minh khéo biết đạo thuật. Bấy giờ, mẹ của Tín Châu thứ sử Kỳ là bà Hoài Văn khéo lo nghó hiểu biết nhiều, thiên trình lắm nghề, bà có quan hệ với quốc gia xây dựng cung thất khí giới, lợi ích công tư tối ưu một thời. Bà lại ban lệnh tu sửa chùa Vónh ninh, thấy ngài có dị thuật, thường đưa tặng cầu nương mong có tiếng tăm, mà ngài xem đó là bình thường, ban đầu không định tiếp nhận. Bà sinh lòng tức giận ngài. Bấy giờ, ở phía Nam Lạc dương tại quán Huyền vũ có một người khách tên Nhu Nhu, xưa đã từng ở với ngài tại Tây Vực trao đổi áo da ngựa. Đến lúc tạo dựng chùa, hai người cùng cười nói vỗ tay, ngày ngày không biếng lười. Bà Hoài Văn đứng bên cạnh nghe nói không hiểu nên đi lại, nói với ngài rằng: Đệ tử là người có việc tốt, gần lại cúng dường trông mong ngài ban ý mà toàn chẳng cho một lời. Đó là kẻ Bắc địch lòng thú mặt người, giết hại sinh mạng uống máu ăn thịt sao ngài lại mến chuộng? Bất kỳ lúc nào đối diện, liền thành bỉ thử. Ngài bảo: Nhà ngươi chớ khinh lờn người ấy. Giả sử có đọc muôn quyển sách để dùng việc chưa hẳn hơn được người ấy vậy. Hoài Văn nói: Nếu kẻ ấy có biết thì nên cùng so tài đánh ngựa. Ngài bảo: Ngươi có tài gì ư? Hoài Văn đáp: Khả năng toán thuật bất kể là nhìn núi, trông nước so lường cao sâu, đo bồ, đạp hố, chẳng lẫn lộn thăng hợp. Ngài cười mà nói: Đó là chỉ là trò đùa của trẻ thơ. Trước sân có một cây táo rất lớn, quả rất nhiều tróu cành, bấy giờ là đầu tháng bảy đều đã chín mùi. Ngài ngửa mặt nhìn lên cây táo, bảo: Ngươi biết trên cây có bao nhiêu trái táo ư? Hoài Văn lấy làm lạ, cười bảo: Chỗ biết của toán hẳn y cứ câu cổ làm tiêu chuẩn thì thiên văn địa lý cũng có thể suy lường. Cây có thêm bớt có hình tượng gì mà tính ư? Thật là lời nói khinh dối. Ngài đưa tay chỉ và Nhu Nhu bảo: Người này thì biết được điều đó. Hoài Văn càng tức giận không tin, liền lập khế ước đánh ngựa. Chư Tăng; các bậc lão túc trong chùa đều đến xem, đứng một bên làm chứng. Ngài nói rõ đầy đủ cùng Nhu Nhu rằng: Bà Hoài Văn cười mà nhận đó. Hoài Văn lại yêu cầu rằng: Hẳn là phải biết bao nhiêu để kết thành hạt, bao nhiêu bị ứ chết không thành hạt. Quyết định chấp thuận sẽ xong, Nhu Nhu lấy trong đảy da ở lưng ra một vật tợ như cái lân ngày nay, xâu chỉ ngũ sắc, chỉ xỏ riêng viên ngọc trắng, dùng nó mà ước tính về cây, hoặc trên hoặc dưới, hoặc bên cạnh hoặc độ nghiêng, kéo chỉ gần nhau xoay quanh hồi lâu rồi hướng về ngài Lặc-na-mạn-đề lay đầu mà cười, thuật lại số tính, mới sai người đập rơi trái thật xuống hết, mọi người đều xem qua. Bởi nghi ngờ nên Hoài Văn vạch ra tự xem kiểm hiệu số lượng trái có thật chăng. Cuối cùng không thiếu không dư. Nhân đó Nhu Nhu được thắng, lấy ngựa mà về. Mỗi lúc ngài thấy người từ dưới Lạc thành xa đến Thiếu Thất Cao tung chặt lấy củi, tự bảo rằng: Mọi người tợ như đất gánh chịu tất cả mọi sự khổ. Ta muốn dùng hai núi gối đầu xuống nước. Đợi người chặt đủ mới hoàn lại như cũ chẳng lấy làm khó. Đây chỉ là số thuật vậy. Chỉ bởi những người không biết mới cho ta là bậc Thánh. Vì vậy mà không dám! Đến lúc sắp tịch, ngài nói cùng đệ tử rằng: Ta chỉ trụ ở đây độ năm ba ngày nữa thôi rồi đi đến một xứ khác, các ông phải nghó nhớ tu tập chánh đạo, chớ ôm hoài quyến luyến! Bèn đóng cửa phòng đến giường mà nằm, đệ tử đứng ở cửa lén nhìn qua lỗ hỏng, thấy ngài thân chẳng đặt trên giường mà nằm ngửa lơ lửng giữa khoảng không, vội cùng bảo đồng bạo nhìn xem, bỗng nhiên một vị Tăng ho ra tiếng, ngài nằm lại xuống giường như cũ. Từ xa bảo rằng: lạ! Ai đang đứng ngoài cửa sao chẳng lại vào? Vì giường nóng nên ta cố tìm chút mát vậy, các ông chớ lấy làm Sau đó vài ngày, ngài thị tịch. Thần tăng Tăng Ý Thích Tăng Ý, không biết ngài là người ở đâu. Thần lực rất uy nghiêm, mỗi lúc ngài lên tòa giảng nói, liền có hoa trời rải xuống nơi pháp tòa. Trong thời Bắc Ngụy ( 3 8 6- 534), ngài trú tại chùa Cốc sơn của Lãng Công ở Thái sơn. Trong chùa có bảy tôn tượng Cao Ly… đều bằng vàng đồng, tôn trí tại pháp đường của chùa, cửa chùa thường mở và chim thú chẳng dám vào. Ngài phụng pháp tự nuôi dưỡng, kiểm thúc tự thân cúng dường. Trước khi viên tịch một đêm có một vị Sa-di qua đời đã lâu hiện hình về lễ bái, nói với ngài rằng: Con xa lìa phụng thờ ngài đến nay thường vì Thiên đế Khu Sử vội vàng không rãnh rỗi phế tu đạo nghiệp. Không bao lâu nữa, Thiên đế sẽ thỉnh ngài giảng kinh. Nguyên nhân một lời mà được khỏi hình khổ! Ngài liền tắm rửa đốt hương đoan tọa trong tỉnh thất, chờ đợi đến thời. Tới lúc đúng kỳ hạn quả thật có vị trời đến chùa vào phòng ngài, áo mũ bằng lông đẹp lạ đặc thù. Chư Tăng lúc đầu thấy thế chỉ cho rằng đó là người giàu sang quý phái ở đời vào núi tham yết, chẳng sinh kinh dị. Đến lúc, cũng ngay ngày ấy, ngài không bệnh mà thị tịch mới biết là linh cảm. Thần tăng Đạo Phong Thích Đạo Phong, chưa rõ ngài là người thuộc dòng tộc gì, người đời tôn xưng ngài là hàng đắc đạo. Ngài cùng ba người đệ tử sống trong núi cổ; Tương châu, chẳng cầu lợi dưỡng. Các thứ nghệ thuật ở đời, không thứ gì chẳng hiểu. Đời Nam Tề, vua Cao Đế ( 4 7 9- 483), tới lui đất Nghiệp thường qua hỏi thăm ngài, ngài ứng đối chẳng nghó ngợi, tùy sự mà nêu bày. Vua từng bảo mang rượu và chưng thịt để trước mặt ngài mời ăn dùng, ngài chẳng từ nhượng cứ ăn no, vua cười lớn cũng chẳng cùng nói với ngài một lời. Sau khi vua lên xa giá đi rồi, ngài bảo đệ tử: Vất bỏ vật ở đầu giường! Và lúc nhấc giường thì thấy chưng thịt vẫn còn đều chẳng như chỗ đã nhai cắn. Bấy giờ, tại chùa Thạch quật có một vị Tăng tọa thiền, mỗi ngày đến ở phía Tây trông nhìn về đỉnh núi phía Đông có một tượng vàng trượng tám hiển hiện. Vị Tăng đó vui mừng riêng cho đó là thấy được điềm linh nên ngày lễ bái, như vậy có thể trải qua hai tháng. Sau tại trong phòng nằm, bỗng nghe nơi gối có tiếng nói, hỏi vị Tăng đó rằng: Trong thiên hạ, ở đâu có Phật. Ông nay thành đạo tức là Phật. Ông phải khéo tạo thân Phật chớ tự khinh thoát. Vị Tăng đó nghe rồi, bèn khởi trì trọng, nhìn chư Tăng chung quanh còn như cỏ rác. Ở trước đại chúng, đưa tay chỉ vào ngực, bảo: Các ông có biết chân Phật chăng? Khám bùn họa tượng nói chẳng ra lời, biết nghó làm sao? Các ông thấy được chân Phật mà chẳng biết lễ kính, còn làm bổn mục khinh ta, thảy đều đọa địa ngục A-tỳ. Thêm nữa, tròng mắt đã đỏ ngầu kêu gọi thất thường. Cả chúng đều biết đó là kinh thiền, kịp trước lúc chưa phát, bèn khiêng đến chỗ ngài Đạo Phong. Ngài bèn đến hỏi: Hai tháng trở lại đây, ông thường thấy trên đỉnh núi phía Đông có hiện ra tượng vàng ư? Vị Tăng ấy đáp: Thật có thấy. Ngài lại hỏi: Ông nghe nơi gối có tiếng bảo khiến ông làm Phật ư? Đáp: Thật đúng vậy. Ngài bảo: Đó là gió động làm thất tâm, nếu chẳng sớm trừ, thì hoặc sẽ cuồng tẩu khó mà cấm chế. Ngài dùng kim châm ba nơi, nhân đó liền chẳng còn phát. Đến lúc sắp tịch, ngài bảo đệ tử rằng: Ta ở tại núi lâu nay, khiến các ông khổ nhọc múc nước hang đá. Nay ra đi không có gì để lại, nên sẽ để lại cho một dòng suối, các ông khỏi phải trèo lên tuột xuống khổ nhọc. Gắng nổ lực siêng tu đạo nghiệp. Liền ở bên cạnh khám các một thạch vuông bèn có dòng suối huyền, lắng ánh không đầy không giảm, đến nay hiện còn. Thần tăng Tăng Điều Thích Tăng Điều, ngài dòng họ Tôn, vốn xuất hiện cuối thời Xương lê(?), trú tại Anh đào; Cự lộc. Ngài có tánh độ lượng thuần hòa, mỗi lần xem qua kinh Phật tự nhiên thấu suốt mọi lý lẽ, ngài xuống tóc làm Sa-di từ tuổi bé thơ. Bây giờ, mỗi lúc nhàn rỗi, đồng bạn ngài thường so lực làm vui, mà ngài thì ốm yếu nên hay bị khinh thường, ngài sinh tâm hổ thẹn. Bèn vào trong điện, đóng cửa ôm chân tên tượng thần Kim Cang mà phát thệ nguyện rằng: “Tôi vì suy nhược nên bị đồng bạn thường khinh thường, nghe ngài có đại năng lực, nên giúp đỡ tôi. Tôi nguyện ôm bưng chân ngài bảy ngày thì ngài sẽ ban cho tôi sức lực. Nếu không ban cho thì chết chứ không thoái chí!” Như vậy, đến ngày thứ 6, lúc sắp mờ sáng, thần Kim Cang hiện hình, tay cầm một bát cân (gân cốt), nói với ngài rằng: Này ông nhỏ! Muốn có sức lực phải ăn bát cân này. Ngài khước từ, tự cho rằng mình giữ trai giới nên không muốn ăn. Thần bèn dùng chày mà khủng bố, ngài sợ mà ăn. Ăn xong, Thần bảo: Ông đã có sức lực, song, phải khéo gìn giữ; cố gắng đấy. Thần ẩn đi thế trời sáng. Ngài trở lại chỗ ở, đồng bạn lại cười đùa khinh thường, ngài bảo: Tôi đây đã có sức lực, sợ e các bạn không kham nỗi đó. Chúng bạn thử dắt cánh tay ngài, gân cốt cứng mạnh khác hẳn mọi người, mới sợ nghi, ngài bảo: Các bạn cùng tôi thử sức xem? Nhân đó, vào trong điện, đạp ngang vách tường mà đi từ Tây tới Đông khoảng vài trăm bước. Lại nhảy cao, đầu đến đòn tay thứ tư, nắm tay nhanh nhẹn; mạnh khỏe lay động mọi vật nghe. Nên chúng bạn đều kính phục. Chúng Tăng thường trú tại chùa Tung nhạc có đến trăm vị, nước suối chỉ mới vừa đủ dùng, bỗng thấy một phụ nữ mặc áo dơ xấu ôm chổi bỏ ngồi trên thềm cấp nghe chư Tăng tụng kinh, chúng không lường biết đó là thần nhân bên mắng trách đuổi đi. Phụ nữ trong lòng tức giận, đưa chân đạp lấy dòng suối, nước bèn khô kiệt và thân cũng chẳng hiện. Chúng Tăng đem việc đó báo cùng ngài, ngài gọi: Ưu-bà-di! Gọi ba lần mới hiện ra, ngài bảo: Chúng Tăng hành đạo, nên gia tâm ủng hộ! Phụ nữ đưa chân khêu nơi suối cũ, nước liền vọt ngược lên, chúng Tăng hết lời tán thán. Sau, ngài đến phía Tây Hoài châu ở núi Vương ốc, tu tập pháp trước, nghe hai con hổ giao đấu với nhau gầm thét cả núi non, ngài đưa tích trượng ra giữa để giải hòa, mỗi con tự tan ra mà đi. Một thời gian nọ, bỗng có hai quyển kinh Tiên nằm ở đầu giường, ngài tự nói: - Ta vốn tu theo Phật đạo, đâu bó buộc trong giới hạn trường sinh ư? Nói xong, trong khoảng khắc tự nhiên kinh biến mất. Sau đó, ngài lại dời đến ở núi Thanh la, thọ nhận sự cúng dường của các người bệnh dịch, thương tín; ngài chẳng sợ nó vỡ mũ lây lan, cam lòng chịu nhận như là vị thuốc. Ngài ngồi lâu đau mỏi nên duỗi chân trước giường, có vị thần nâng đỡ chân trở lại tư thế ngồi kiết già. Nhân đó, mà ngài thường nhập định, mỗi lần lấy bảy ngày làm kì hạn. Nghe có chiếu sắc thỉnh mời, ngài nhất quyết không vâng mạng, khổ cúng đôn đốc dẫn dụ, ngài mới hứa khả. Ngay ngày rũ áo sắp ra cửa núi, bỗng nhiên hai ngọn núi cao chấn động âm vang buồn thảm, rối nhiễu người vật, cầm thú bay chạy như thế suốt ba ngày. Ngài xoay lại bảo: Mộ Đạo, hoài nhân xúc chạm mọi loại loại ở đây như thế. Há chẳng ái tình dễ giữ, phóng đãng khó gìn ư! Mới không ước sự lưu lại gậy roi tại Chương phủ. Lại thường có khách Tăng mang tích trượng mới đến, sắp muốn có được chỗ ở, hỏi ngài về bổn hạ. Ngài đáp: Tôi thấy trong đây có ba ngôi Già-lam! Nói xong liền ẩn. Thế rồi, ngài đào đất làm giếng, quả thật được hai mép cú tai mèo. Thêm nữa, trước hang tọa thiền có một vực thẳm, thấy người khác lạ mình đầy lông lá, dáng mạo như người hồ đặt phủ đốt lửa, nước sắp tuôn vọt lên, bỗng chốc có một con trăn lớn từ trong nước bò ra, muốn vào trong phủ. Ngài đưa chân khều lấy, con trăn bèn trở lại trong nước và người đầy lông lá ấy cũng ẩn mất. Đêm đó, có một vị thần Nam tử lại lễ bái, thưa ngài rằng: Đệ tử có các con thơ, hàng năm bị ác thần ăn lấy, các con của đệ tử tiếc mạng chẳng dám đương đầu. Đệ tử nay đã già suy sắm chết, nên tự bày ăn, mong chờ sức lực của ngài để thoát khỏi nạn ấy! Ngài cầu nước rưới vào đó, bỗng thành sương mây. Bấy giờ có người dèm pha ngài, nhạo báng bất kính đối với vua Tuyên Đế *. Nhà vua rất tức giận đích thân đến gia hình. Ngài biết được điều đó, từ trước đến giờ chưa bao giờ ngài đến nhà trù, bỗng nhiên không duyên cớ gì mà đến bảo rằng: –Sáng mai có đại khách đến phải nên sắm dọn nhiều thức ăn để tiếp đãi. Đêm đó, khoảng canh năm, ngài chuẩn bị sẵn xe bò một mình đến cửa cốc, cách chùa hơn hai mươi dặm. Một mình ngài đứng bên vệ đường, giây lát sau, nhà vua đến, lấy làm lạ hỏi ngài về duyên cớ. Ngài đáp: Sợ thân thể máu thịt làm ô uế chốn Già-lam, nên đến đây đợi hầu bệ hạ! Văn Đế nói với thượng thư lệnh Dương Tuân Ngạn rằng: Người thật như thế, sao có thể phỉ báng ta. Nhân đó hỏi ngài rằng: Trẫm chưa thấy sự khác lạ phi thường của Phật. Vả lại có thể được thấy chăng? Ngài bảo: Đó không phải điều đáng làm của bậc Sa-môn. Văn đế vẫn cố cưỡng nài, ngài mới tung áo ca-sa xuống đất, Văn Đế bảo vài mươi người nâng nhấc lên mà chẳng thể lay động. Ngài bảo vị Sa-di nhặt lượm lại, vốn chẳng nặng nhọc gì. Tại Tung dương, người vợ của Đỗ Xương vốn dòng họ Liễu tánh rất tật đố ghét ganh. Có kẻ tớ là Kim Kinh, lúc Đỗ Xương tắm, bảo cắt tóc, Liễu bèn chặt hai tay của Kim Kinh, bỗng nhiên bất cứ việc gì Liễu làm cũng bị loài cáo đâm nọc độc rơi rụng hai tay. Lại có một kẻ tớ tên là Bảo Liên, có tài năng ca hát xướng vịnh, Đỗ Xương mến thương mà ngợi khen tài nghệ của Bảo Liên, Liễu bèn cắt lưỡi của Bảo Liên. Sau, Liễu bị thương bỏng lưỡi cấp sự, vội đến ngài cầu sám hối. Ngài trước đã biết việc đó, bèn nói với Liễu: Phàm người có tánh tật đố, trước kia chặt tay kẻ tớ, đã bị hậu quả mất cả hai tay, lại cắt lưỡi kẻ tớ, nay lại sắp bị đứt lưỡi vậy. Phải chí tâm ăn năn lỗi quá mới có thể khỏi được. Liễu đãnh lễ ai cầu khẩn thiết, qua sau bảy ngày, ngài bảo há miệng rộng ra và chú nguyện vào đó, có hai con rắn từ trong miệng Liễu bò ra dài hơn một thước, ngài liền chú nguyện, rắn bèn rơi xuống đất và lưỡi cũng bình phục lại được. Ngay giờ ngài viên tịch, hương lạ thoảng khắp chùa, người ngửi nghe sợ thần, thế rồi, định ngày, y theo lời dặn mọi người từ bốn phương đều đổ dồn về núi, người gần vài vạn, hương củi tính đến hàng ngàn. Đúng giữa trưa, dùng lửa để trà-tỳ. Không ai chẳng buồn thương rống khóc, lệ chảy thành dòng. Trong khoảnh khắc lại có chim trắng bồi hồi trên khói, kêu buồn thảm thiết, qua giờ mới bay đi. Thần tăng Bảo Công Sa-môn Bảo Công, người xứ Tung sơn Cao tế só. Một sáng sớm theo Lâm Lự đến núi Bạch lộc mãi nhìn cảnh nên lạc đường, mặt trời gần đứng bóng, bỗng nghe có tiếng chuông bèn tìm theo âm vang mà đến, núi cao hiểm trở leo trèo mà lên, mới thấy một ngôi chùa riêng lẻ trong rừng sâu, ba cửa xoay hướng chánh Nam sáng đỏ rực. Trước tiên, ngài đến chỗ cửa, xem biển ngạch đề là chùa Linh ẩn, phía ngoài cửa có năm, sáu con chó, thân hình lớn như bò, lông trắng mỏm đen, nhảy nhót hoặc nằm, đảo mắt lườm nhìn ngài. Ngài sợ, liền trở lui, trong phút chốc, thấy vị Tăng từ ngoài đi lại. Ngài gọi mà vị đó chẳng ứng đáp cũng chẳng quay lui, đi thẳng vào trong cửa, đàn chó cũng vào theo. Lát sau ngài thấy người lần lượt bước vào, cửa nhà bốn phía, cửa phòng đều đóng. Ngài đến giảng đường, chỉ thấy giường sập tòa cao nghiễm nhiên. Ngài vào gốc sáng ở phía Đông nam bước lên tòa, chốc lát bỗng nghe phía Đông có tiếng động, ngửa mặt nhìn lên thì thấy lỗ hỏng như giếng, có các vị đại Tỳ-kheo trước sau theo lỗ hỏng ấy mà bay xuống có đến năm, sáu mươi người, theo thứ lớp ngồi xong họ tự hỏi nhau: Hôm nay giờ thọ trai thức ăn từ đâu đến? Có người nói: Dự chương thành đô, Trường an, Lãng hữu, Kế bắc, Lãnh nam, năm xứ Thiên Trúc… xứ nào cũng đến. Động hơn muôn ngàn dặm. Cuối cùng có một vị Tăng từ không trung mà xuống, mọi người đua nhau hỏi: VÌ sao đến chậm vậy? Vị Tăng đó đáp rằng: Ngày nay tại chùa Bỉ ngạn ở phía Đông thành Tương châu, Thiền sư Giám đang giảng hội, mỗi câu đều thụ nghóa. Có một hậu sinh thông minh tuấn tú khó hỏi, ngôn từ nhạy bén rất là khả quan, tự nhiên lại đến trễ. Ngài Bảo Công vốn tôn sùng Thiền sư Giám làm hòa thượng, đã nghe lời ấy rồi, muốn cùng được đàm luận. Nhân đó, ngài chỉnh trang y phục, đứng dậy bạch cùng chư tăng rằng: Thiền Sư Giám là Hòa thượng của Bảo Công tôi. Chư Tăng nhìn thẳng về ngài. Trong khoảnh khắc chùa Linh ẩn biến mất. Ngài ngồi một mình dưới gốc cây tạc, không thấy gì cả, chỉ thấy toàn là núi non hang động, chim muông bay liệng náo động ồn ào. Vừa lúc ngài ra khỏi núi, đem sự việc ấy hỏi Pháp sư Thượng Thống. Ngài Thượng Thống bảo: Chùa đó là Pháp sư Phật Đồ Trừng tạo lập trong thời Thạch Triệu. Năm tháng đã lâu, chỉ có bậc Hiền thánh trú tại đó, chẳng phải chỗ ở của kẻ phàm. Hoặc trầm hoặc ẩn, dời đổi không nhất định. Ngày nay, người vào núi ấy vẫn còn được nghe tiếng chuông. Thần tăng A Ngốc Sư Thích A Ngốc Sư, không biết ngài xuất thân từ dòng họ nào, quê quán ở đâu. Bấy giờ, trước lúc nhà Chu chưa diệt, ngài đã từng ở Tấn dương chu du ở các quận ấp. Chẳng ở chùa xá, chỉ vào ra trong dân gian. Nói năng lung tung nhưng có chứng cứ. Mỗi lúc ngài đi vào chợ, dân chúng trong làng vây quanh ngài, nhân đó, ngài la lớn, đưa tay chỉ vào ngực bảo: Thật thương cho trăm họ các ngươi không chỗ biết. Không hay biết A Ngốc Sư ở Tinh châu! Mọi người đều lấy đó mà gọi tên ngài. Sau khi Tề Thần Vũ (?) dời nghiệp đô, lấy đất của binh mã Tấn dương làm cơ sở Vương Nghiệp. Bấy giờ, ngài đến Nghiệp đô. Phàm các việc binh dị quốc gia đại sự chưa nói ra ngoài màn trướng thì ngài trước đã tiếc lộ ngoài dân chúng. Đến cuối năm, sắp đặt trong thành sai người phòng giữ không cho ra vào thường xuyên. Nếu có người phạm tội trái vượt thì đưa đến cửa giam. Thường ngày ở ba cửa thành tại Tinh châu, mỗi nơi đều có một A Ngốc Sư ẩn hiện vào ra, ngăn bắt mà không thể nào được. Sau đó không lâu, có người từ Bắc châu đi lại, nói: Ngày mồng 8 tháng 4 A Ngốc Sư chết trong chợ ở quận Nhạn môn, gia đình Quách Hạ đem hương hoa đưa đến thi hài chôn tại ngoài thành. Có người ở Tinh châu nghe nói thế lấy làm lạ, cười nói: Ngày mồng 8 tháng 4 A Ngốc Sư từ cầu sông Phân đi về hướng Đông, một chân mang giầy một chân đi không, nhưng không biết đi vào ngõ tắt phương nào. Mọi người đều thấy như thế. Sao lại nói A Ngốc Sư chết ở Nhạn môn? Người đó trở lại Bắc châu nói cùng khắp xóm làng, mọi người cùng nhau đào mồ để xem, thì chỉ thấy một chiếc giày mà thôi, sau đó lại trở về Tinh châu. Tề Thần Vũ chẳng tin theo lời đồn đãi, chẳng dứt sự lo động dân chúng, bèn dùng yêu hoặc để trừ giết ngài, bằng cách thấy Sa-môn không có tóc* thì dùng dây móc đầu. Đến ngày hình phạt, dân chúng khắp Châu kéo nhau đến chợ xem. A Ngốc Sư mỉm cười chẳng nói năng gì. Sau sáu, bảy ngày xử hình, có người từ bộ lạc Hà tây đi lại Tinh châu, nói: Giữa đường gặp A Ngốc Sư hình trạng vẫn như cũ, chỉ khác là có mang sợi dây thong lòng ở đầu. Kêu gọi mà ngài chẳng ứng đáp, mà đi vội về hướng Tây. Thần tăng Tăng Lạt Thích Tăng Lạt, ngài dòng họ Lý, người xứ Thượng cốc. Xuất gia năm mười lăm tuổi, đến tham học ở Bắc đại, chuyên tinh thuật tập, đầu tiên ngài đến tạo lập chùa ở núi, sắp bước vào cửa hang, có hổ ngồi ở trước cản đường, ngài mới cầu chúc rằng: Ta muốn dựng lập một ngôi chùa, gieo nhân phước lợi khắp cả quần sinh. Nếu đồng ý thì nên vì tránh đường. Nói xong, hổ liền tránh đi. Đến lúc tạo dựng chùa hoàn thành, ngài trở lại Nghiệp kinh. Đêm đó có thần hiện đến thân mặt y phục màu vàng, vái lạy rồi quỳ xuống thưa: Đệ tử là Đái Sơn Hồ. Nhà vua và Tam Cốc đều cúng dường đủ thứ. Xin ngài hãy trở về. Ngài bảo: Ở tại núi lợi ít mà ở kinh đô thì lợi nhiều, bần đạo quán xét căn cơ mà khởi động, mong rằng chớ ngăn dừng ở. Lại trải qua ít đêm tónh lặng, có người đến gõ cửa xưng là vợ của thần núi, thưa với ngài rằng: Ban ngày không rảnh nên nay đến tham bái. Và dâng cúng gạo và một sọt bánh ngọt, đến mà thưa lại rằng: Ngài không riêng gì lúc lễ Phật, xin ngài gọi tên của đệ tử. Ngài bảo: Có thể mang bánh trở về, sau nay tôi sẽ xưng tên lúc lễ Phật. Nhân đó, thông thường lúc lễ Phật, thêm một bái kiêm xướng tên thần. Ngài bảo đệ tử là Đạo Sảng vì thần núi mà tụng kinh Kim Quang Minh. Hơn một tháng sau, hổ đến đánh cắp con chó đi mất, ngài nghe vậy, nói rằng: Đâu hẳn là do ông Đạo nhỏ này lười biếng chẳng vì đàn việt mà tụng kinh. Ngài bèn hỏi xem sao. Quả thật vị ấy đáp rằng: Từ ngày mồng một tết đến giờ chỉ tụng kinh Duy-ma. Ngài liền đốt hương lễ Phật, khẩn cáo rằng: Mấy hôm nay tuy tụng kinh khác, song, phước ấy cũng thuộc về Đàn-việt. Nếu có linh giám thì xin thả chó về lại. Đến sáng sớm thì chó trở về, xem trên đầu chó thì có dấu răng vấu lấy. Một ngày nọ, ngài biết thân thể không được khỏe. Ngài đoan tọa trên giường dây, tụng kinh Bát-nhã, hình khí điều hòa trầm lắng. Bèn viên tịch ở chùa núi Hồng cốc, ngài hưởng thọ tám mươi hai tuổi. Thần tăng Huyền Sướng Thích Huyền Sướng, ngài dòng họ Triệu, người ở Hà tây kim thành. Thuở thiếu thời, gia đình ngài bị giặc Rợ Hồ giết chết, họa sắp đến thân ngài, tên tù trưởng thấy ngài mà dừng tay, bảo: Đứa trẻ này mắt chiếu sáng ra bên ngoài hẳn không phải là trẻ con phàm tình. Nhân đó, ngài được thoát khỏi, mới đến Lương châu, phát tâm xuất gia. Sau đó, giặc thù bạo ngược phá diệt Phật pháp tàn sát Sa-môn, chỉ mình ngài chạy khỏi. Năm Nguyên Gia thứ 22 (4 4 5), đời tiền Tống, ngày 17 tháng 5 nhuận, xuất phát từ Bình thành, theo đường Thượng cốc quân đại, thẳng về hướng Đông. Ngài đến Thái hành, trên đường vượt qua U châu ký, ngài chuyển về hướng Nam đi gần tới Mạnh tân. Trên tay ngài chỉ nắm một bó dương chi kèm theo một số lá hành, giặc tù cỡi ngựa đuổi bắt muốn gần tới kịp, ngài mới dùng nhành dương phảy cát, cát tung tóe lên mịt trời, người ngựa bọn giặc không thể tiến lên được. Đến lúc cát lắng dứt, bọn giặc cưỡi ngựa đuổi gần đến sát. Khi ấy ngài lao mình xuống sông, đến ngày mồng một tháng 8 thì ngài tới Dương châu. Ngài rất thông hiểu kinh luật, thâm nhập thiền yếu, bói điềm tốt xấu, quả thật rất linh nghiệm. Mãi đến gần cuối thời tiền Tống (…- 4 7 9), ngài lên thuyền đi xa, đến thành đô, ngài dừng ở chùa Đại thạch, tự tay đắp họa mười sáu tượng thần Kim Cang Mật Tích… Năm Thăng Minh thứ 3, năm cuối cùng thời tiền Tống (4 7 9), ngài lại đi về phía Tây biên giới ngắm xem Mân Lãnh, thấy núi Tề hậu ở huyện Quảng dương thuộc Bắc bộ quận Mân sơn, ngài liền có ý định chung thân ở đó, nên dựa sườn núi cao kết cỏ làm thảo am. Đệ tử Pháp Kỳ thấy thần nhân mặc áo đơn màu xanh cỡi ngựa đi nhiễu quanh núi một vòng rồi trở lại chỉ chỗ tạo dựng tháp. Ngày 23 tháng 4 năm Kiến Nguyên thứ nhất (4 7 9), đời Nam Tề, dựng lập chùa đã xong, ngài đặt hiệu là Tề Hưng. Sau đó, thái tử Tuệ Sai sử đến nghênh đón ngài, ba phen ban sắc, ngài khước từ không khỏi, nên theo thuyền xuống hướng Đông, giữa đường mắc phải tật dịch, mang bệnh về tới kinh đô, mọi người lo liệu cản ngăn mong đợi, một thời gian ngắn thì ngài viên tịch, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi. Thần tăng Đàm Siêu Thích Đàm Siêu, ngài dòng họ Trương, người xứ Thanh hà, thân cao tám thước, dung mạo đoan chánh khả quan, ngài chỉ ăn dùng rau quả, thân mặc áo vải, giữa ngày một bữa mà thôi. Đầu tiên, ngài ở tại chùa Long hoa; thành đô, khoảng cuối niên hiệu Nguyên Gia (…- 4 5 4), đời tiền Tống, ngài đi về hướng Nam; đến Thỉ hưng, xem khắp núi sông, đêm đến ngủ dưới gốc cây tùng. Các loài hổ không làm tổn thương ngài. Niên hiệu Đại Minh ( 4 5 7- 465), đời tiền Tống, ngài trở lại thành đô. Đến sau khi vua Thái Tổ* lên ngôi (4 7 9), ban sắc ngài trú tại Hoằng tán thiền đạo ở Liên đông. Ngài dừng ở đó hai năm, xiển dương đại pháp. Cuối niên hiệu Kiến Nguyên (4 8 3), thời Nam Tề, ngài trở lại kinh đô. Bỗng chốc, ngài lại đến tiền đường núi Linh ẩn, ngài nhất định ở đó trong một thời gian dài. Bỗng thấy một người đến đảnh lễ và thưa rằng: Đệ tử ở xứ đất vui nước cách đây bảy dặm, vì người ở huyện Phú Dương đục đá dưới chân núi nên hư hại đến nhà của loài rồng. Đầu rồng cùng nhau tức giận, phát lời thề: Suốt ba trăm ngày không phun mưa. Đến nay đã hơn trăm ngày, đất ruộng đều khô cạn hết. Muốn nhờ đạo đức của ngài ban đến hẳn có thể cảm cách mà phun mưa, đượm nhuần cho muôn dân, công đức ấy có chỗ kết quy! Ngài bèn hứa khả, thần mới biến đi. Ngài đến phương Nam, đi năm ngày đường thì tới núi Xích thành, vì loài rồng mà chú nguyện. Đêm đến, loài rồng hóa làm người đến đảnh lễ ngài. Ngài lại vì nói pháp. Nhân đó, loài rồng cầu xin thọ trì Tam quy. Ngài bảo rồng nên ban giáng phun mưa. Loài rồng nhìn nhau không nói. Đêm đó, báo mộng, nói với ngài rằng: Nhân và tức giận mà phát lời thề. Ngài đã dùng Thiện pháp để chỉ dạy cho, chúng con không dám trái mạng. Ngày mai, qua khỏi giờ trưa sẽ giáng mưa cho đến lúc thấm nhuần đủ cả. Năm đó, nhân dân được mùa rất lớn. Đến năm Vónh Minh thứ 10 (4 9 3), đời Nam Tề, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi. Thần tăng Pháp Độ Ngài Pháp Độ, người xứ Hoàng long. Đầu thời Nam Tề (4 7 9), ngài đến Kim lăng. Có cao só ở quận Tề tên là Tăng Thiệu ẩn cư tại Nhiếp sơn; Lung Tà quan tâm đến ngài, cho là người thanh chân nên lấy tình thầy bạn mà tiếp đãi. Đến lúc Tăng Thiệu qua đời để lại chỗ trên núi cho ngài lập chùa Thê hà. Đầu tiên có vị Đạo só muốn lấy đất chùa làm quán. Vừa đến ở liền chết, sau làm chùa còn có nhiều sự việc rất kinh động. Từ lúc ngài đến ở, bầy yêu quái không đến nữa. Trải qua hơn một năm, bỗng nghe tiếng động của người ngựa trống nhạc, lát sau thấy có người quăng dao nhọn đến nơi ngài, xưng là “cận thượng.” Ngài bảo đến phía trước. Cận thượng hình rất đô, vũ vệ cũng đông, kính lễ xong mới thưa ngài rằng: Đệ tử làm vua ở núi này đã hơn bảy trăm năm. Thần đạo có pháp, vật chẳng thể được đến nương gá trước sau, bởi không chân trực nên bệnh chết triền miên và đó cũng là vận mạng của kẻ ấy. Pháp sư, bậc có đạo đức, chỗ đáng quy hướng, kính cẩn bỏ xả phụng cấp và nguyện xin thọ trì ngũ giới, kết duyên với tương lai. Ngài bảo: Người và thần khác loài không thể cùng khuất phục. Vả lại, Đàn-việt ăn dùng máu thịt, vật của người đời cúng tế. Đó là điều cấm đầu tiên trong ngũ giới.” Khi đó, Cận Thượng khước từ mà đi. Sáng ngày hôm sau, có người đem đến một vạn tiền và hương đèn… tấu sớ rằng: Đệ tử Cận Thượng cúi xin xin phụng cúng. Đến ngày rằm tháng đó, ngài nhân đó thiết hội, Cận Thượng lại đến cùng chúng lễ bái hành đạo thọ giới mà đi. Thế rồi, người thầy đồng bóng ở miếu Nhiếp sơn mộng thấy thần bảo rằng: Ta đã thọ giới ở Pháp sư Pháp Độ. Từ nay về sau, phàm khi cúng tế chớ có giết hại sinh mạng. Từ đó, trong miếu chỉ dâng cúng cơm rau mà thôi. Ngài thường rải rác để ngủ nơi đất, thấy Cận Thượng từ ngoài đi lại dùng tay xoa vào chân ngài rồi đi, giây lát trở lại mang theo một bình lưu ly trong như nước dùng dâng cúng ngài mùi vị ngọt mà lạnh. Ngài khổ tiết một thời gian mà chứng cảm như vậy. Thần tăng Tuệ Chấn Thích Tuệ Chấn, không biết ngài là người thuộc dòng tộc gì, trú tại chùa Nguyên môn; Thượng đảng. Ngài trì giới chân xác, tính duyên thiền hành bái sám. Sau gặp nạn quốc gia hủy diệt Tam bảo, ngài ân mang kinh tượng vào ẩn nơi thâm sơn. Gặp giặc muốn giết hại ngài lúc đầu chưa phát hiện được, bỗng nhiên ngài thấy một người hình cao hơn trượng dáng mạo râu ria, y phục đẹp đẽ cỡi ngựa trắng lông bờøm đỏ từ đỉnh núi xuống đến trước mặt ngài, xuống ngựa rồi nói cùng ngài rằng: Đêm nay, giặc đến, ngài có thể lánh ẩn. Ngài đang ẩn dưới sườn núi cao chót vót tuyệt không đường nào đi, nghi đây là thần núi, nên ngài nói rằng: Ngày nay, Phật pháp đã bị hủy diệt, bần đạo không đất dung thân, nên đến nương nhờ Đàn-việt. Nay lại có giặc tìm đến, vậy chỉ còn chuốc lấy cái chết chứ chẳng có đường nào để trốn thoát! Thần bảo: Ngài đã từ xa tìm đến nơi đệ tử, đệ tử cũng có thể bảo hộ ngài. Nói rồi bèn biến mất. Đêm đó, bỗng giáng tuyết lớn dày hơn một trượng, tuyết dày ngăn cách đường nên ngài thoát khỏi nạn giặc. Sáng hôm sau, sương tan mở đường, bọn giặc lại kéo đến, thần bèn mách bảo mọi người trong các thôn dưới núi rằng: Bọn giặc muốn giết hại ngài Tuệ Chấn, các ngươi hãy mau đến cùng cứu ngài! Khi đó mọi người đồng mang khí trượng gậy gộc vào núi, chống đánh bọn giặc. Bọn giặc bèn kinh sợ mà lui tan. Hằng ngày, ngài thường nương nhờ thần lực mà an nghiệp ở chốn núi rừng. Không biết cuối cùng ngài như thế nào. Thần tăng Tăng Quần Ngài Tăng Quần giữ tiết thanh bần, ăn dùng rau quả trì kinh, ngài trú tại Hoắc sơn thuộc huyện La giang, dựng lập một am tranh cô quạnh giữa biển. Phía trên có chén đá, nước sâu sáu thước, thường có dòng chảy trong mát. Các bậc Lão đức xưa kia tương truyền rằng: Đó là chỗ nhà ở của các vị Tiên. Nhân đó ngài dứt tuyệt không ăn dùng cơm gạo. Giữa am tranh của ngài và chén đá cách nhau một cái khe nhỏ, thường dùng gỗ làm đòn dong, do đó nước chảy từ nơi đó. Đến năm, ngài một trăm bao mươi tuổi, bỗng thấy một con vịt bị gãy cánh đứng ở đầu đòn dong, ngài sắp đưa gậy đánh nó, lại lo nó chuyển động mà có tổn thương. Nhân đó ngài trở lui và bèn không uống nước vài ngày thì viên tịch. Lúc sắp tịch, ngài nói với mọi người chung quanh rằng: Tôi thuở nhỏ từng bẻ gãy cánh một con vịt. Nghiệm đó lấy làm quả báo. <篇> TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 4 Thần tăng Tuệ Thông Thích Tuệ Thông, không biết ngài là người xứ nào. Khoảng trong niên hiệu Nguyên Gia ( 4 2 4- 454), đời tiền Tống, thấy ngài ở tại Thọ xuân. Đêm ngủ không nhất định, ngài thường đi trong xóm làng, ngài uống rượu ăn thịt chẳng khác mọi người thế tục. Ngài thường tự xưng là Trịnh Tán Kî. Nói việc chưa xảy ra thì một thời gian sau hẵn có chứng nghiệm. Ở Giang lăng có người tên là Tăng Quy đến buôn bán ở Thọ xuân. Lúc sắp trở về quê, trên đường đi gặp ngài bảo là muốn gởi một ít đồ vật. Bấy giờ, Tăng Quy mang vác nhiều vật nặng, nên cố khước từ, ngài bèn cưỡng đặt lên trên gánh mà Tăng Quy cảm thấy không nặng nề gì. Đi được vài dặm, liền từ biệt đi lối khác, ngài nói với Tăng Quy rằng: Tôi có người chị ở Giang lăng là Ni cô Tuệ Tự trú tại chùa Tam tầng. Ông có thể vì tôi mà hỏi giúp và bảo tôi muốn sang thăm! Nói xong, bỗng nhiên không thấy ngài nữa, ngoảy lại nhìn đồ vật gởi trên gánh thì cũng đã biến mất. Tăng Quy về đến Giang lăng, tìm gặp được Tuệ Tự kể lại sự việc đó. Tuệ Tự đã không có người em đó và cũng không biết tại sao như vậy, đích thân đến Thọ xuân tìm kiếm Tuệ Thông mà không hề gặp. Sau, ngài tự đến Giang lăng, Ni cô Tuệ Tự đã viên tịch. Ngài vào trong phòng cũ của Ni cô Tuệ Tự thăm hỏi Ủy Tất. Nhân đó, ngài ở lại Giang lăng một thời gian ngắn. Phần mộ người nhà Lộ Do ngài đều biết, thậm chí người chết là dòng họ gì và cả năm tháng qua đời. Mọi người rỉ tai nhau cùng đến hỏi, ngài đều nói như vậy. Hoặc có lúc ngài nêu chỉ bọn trộm cướp, nói về tội trạng của chúng. Từ đó, bọn trộm cướp, từ xa vừa trông thấy ngài liền chạy bạt mạng. Thêm nữa, tại Giang tân, trên đường đi, gặp một người, bỗng nhiên ngài lấy gậy đánh và bảo rằng: Sao chẳng về gấp xem thử nhà ngươi như thế nào? Người đó về đến nhà, quả thật lửa cháy nhà, mọi vật hết sạch. Đầu niên hiệu Vónh Nguyên (4 9 9), đời Nam Tề, bỗng nhiên ngài đến Nhâm Dạng là chỗ quen biết để kiếm xin rượu rất gấp, bảo rằng: –Vì phải đi xa, không còn gặp nhau nữa, vì thế nên từ tạ cùng các thiện tri thức. Đồng thời xin khuyên nên lấy việc tu phước thiện làm đầu. Uống rượu xong, ngài đến nằm giữa đất bên chân tường, đến xem thì đã chết. Sau đó vài mươi ngày, lại có người thấy ngài trong chợ, vội đến cùng nói chuyện, một hồi lâu thì biến mất. Thần tăng Thiệu Thạc Ngài Thiệu Thạc người nước Khương Cư, rất thân thiện với ngài Chí Công. Vào ra kinh thành chẳng kể tối sớm, ý muốn tìm đến tức liền đi. Ngài đến Ích châu nói chuyện khôi hài, khiến mọi người cười vui, nhân đó đem điều thiện để khuyên dạy, mọi nhà đều vui vẻ. Đến nhà mà ngài nằm ngủ giữa đất thì trong nhà ấy hẳn có người chết. Còn xin chiếc chiếu nhỏ thì hẳn là có trẻ con qua đời. Người thời bấy giờ đều lấy đó làm lời sấm. Đến ngày mồng tám tháng tư, khi hành hóa ở Thành đô, ngài ở giữa đại chúng làm hình sư tử. Ngày đó, tại huyện Bì triệu cũng nói thấy ngài làm hình sư tử, mới rõ rằng ngài phân thân như vậy. Thứ sử Tiêu Tuệ Khai và Lưu Mạnh Minh đều chú tâm phụng sự ngài. Mạnh Minh lấy áo của một gã nam tử và hai người thiếp để thử ngài, thưa rằng: Xin đem hai người này cung cấp ngài để hầu hạ hai bên có được chăng? Ngài là người am hảo vận ngữ, bèn nói với Mạnh Minh rằng: Thà tự đi khất thực để thanh tịnh an hưởng, chứ không thể cùng với A Phu sống trọn năm tàn. Sau, bỗng nhiên ngài mặc áo vải đội nón lá đến nhà Mạnh Minh, một thời gian ngắn thì Mạnh Minh qua đời. Trước đó là Mạnh Minh làm trưởng sử. Thẩm Trọng Ngọc đổi cách roi gậy thường khoa nghiêm trọng. Ngài nói với Trọng Ngọc rằng: Trời đất khóc gào từ đó mà ra, nếu trừ được cách roi thì được Thứ Sử. Trọng Ngọc trừ nó. Đến lúc Mạnh Minh qua đời, quả thật Trọng Ngọc là thứ sử Hành Châu. Tháng 9 năm đó, lúc sắp tịch, ngài nói với Sa-môn Pháp Tấn rằng: Xin được để thi hài dưới gốc tùng, nhưng chân phải mang guốc. Pháp Tấn vâng theo như vậy. Đến lúc ngài tịch rồi, khiêng thi hài ngài để lộ bày, sáng ngày hôm sau đến xem thì không còn thấy. Bỗng chốc có người từ huyện Bì triệu đi lại nói: Hôm qua thấy ngài Thiệu Thạc mang một chiếc guốc đi trong chợ, bảo rằng nên vì ta mà nói với Pháp Tấn là Tiểu Nhi khinh thường chỉ làm cho ta một chiếc guốc gỗ. Ngài Pháp Tấn kinh sợ hỏi đến vị Sa-di. Vị Sa-di ấy đáp: Lúc khiêng thi hài bị rơi mất một chiếc guốc, vì đi gấp nên không kịp lượm nhặt. Thần tăng Pháp Nguyện Ngài Pháp Nguyện vốn dòng họ Chung, tên là Vũ Lộ. Tổ tiên vốn người gốc ở Dónh xuyên Trường xã, đến đời ông nội ngài lánh nạn dời đến ở Ngô hưng, Trường thành. Gia đình vốn thờ thần, thân tập cổ vũ, các thứ tạp kỉ ở đời cũng như đoán tướng bói quẻ thi hào, ngài thảy đều thành đạt xảo diệu. Thường lấy kiếng soi mặt và tự bảo: Ta không bao lâu nữa sẽ thấy được thiên tử. Bấy giờ, ngài ra thành đô trú tại Thẩm kiều chuyên hành nghề đoán tướng. Thuở nhỏ, Tông Xác và Thẩm Khánh nhờ ngài đoán tướng. Ngài bảo: Tông Xác sẽ làm thứ sử ba châu, còn Thẩm Khánh sẽ ở địa vị cao cùng là tam công. Trải qua thời gian đoán tướng mọi người, ngài dự ghi những sự việc gần gũi có ứng nghiệm chẳng phải một. Bèn có tiếng đồn tới tai vua Thái Tổ thời Tiền Tống (Vũ Đế, 4 2 0- 423). Vua Thái tổ đòi ngài đến rồi đem một kẻ tù và một đứa tớ gái có nhan sắc xinh đẹp, cho mặc áo quan, bảo ngài đoán tướng. Ngài chỉ kẻ tù, bảo: Ông là người mắc nhiều ách nạn ở cấp dưới hiện bị gông cùm xiềng xích. Nói với tớ gái rằng: Còn ngươi là hạng người hạ tiện mới tạm được miễn ư? Nhà vua lấy làm lạ liền, ban sắc ngài ở tại Hậu đường để liệu biết mọi bí thuật âm dương. Sau một thời gian ngắn, ngài trình xin xuất gia, ba phen tấu trình mới được nhà vua chấp thuận, ngài bèn đến chùa Định lâm làm đệ tử ngài Tuệ Viễn. Đến thời Hiếu Vũ Đế ( 4 5 4- 465), đời tiền Tống, Tông Xác ra trấn tại Quảng châu, dẫn ngài cùng đi, kính phụng ngài là bậc thầy trao truyền ngũ giới. Gặp lúc Tiêu Vương phản nghịch, Tông Xác đem sự việc hỏi ngài, ngài bảo: Ông lại lầm giết hại người. Năm nay, Thái Bạch phạm nam Đẩu, pháp ứng hẳn giết đại thần. Ông nên mau đổi kế ắt được đại động. Quả thật đúng như lời ngài nói. Tông Xác dời đến làm thứ sử Dự Châu. Cũng lại dẫn ngài cùng đi. Khi gần Cảnh lăng vương dối bày mọi sự, phơi bày can gián cũng như vậy. Tề Cao Đế phụng thờ ấu chúa, thường có những nỗi lo bất trắc, mỗi lúc như vậy hay đem hỏi ngài. Ngài bảo: Sau bảy tháng sẽ yên định. Quả đúng như lời ngài nói, đến khi Cao Đế lên ngôi ( 4 7 9- 483), đời Nam Tề, Cao Đế giữ lễ tôn thờ ngài làm thầy, rồi vua Vũ Đế kế ngôi ( 4 8 3- 494) cũng rất mực chí kính. Đến năm Vónh Nguyên thứ nhất (4 9 9), đời Nam Tề, ngài viên tịch, thọ tám mươi hai tuổi. Thần tăng Bảo Chí Ngài Bảo Chí vốn dòng họ Chu, người xứ Kim thành. Đầu tiên, Người vợ của họ Chu nghe tiếng trẻ khóc trong ổ chim ưng, bèn leo lên cây mà được ngài, ẩm về làm con. Lên bảy tuổi, ngài nương theo ngài Tăng Kiệm ở Chung sơn xuất gia tu tập thiền pháp. Ngài thường qua lại dưới kiếm thủy Hoàn sơn, mặt vuông mà sáng ánh như kiến soi, tay chân đều như móng chim. Ngài dừng ở chùa Đạo lâm tại Giang đông. Đến đầu niên hiệu Thái Thỉ (4 6 5), đời tiền Tống, ngài bỗng nhiên rất kỳ lạ, đi ở không nhất định, uống ăn không giờ giấc, để tóc dài vài tấc, thường đi chân không giữa ngã tư đường cũng như trong các ngõ hẻm, tay nắm một tích trượng. Trên đầu tích trượng có treo dao kéo và gương soi, hoặc treo một vài sắp lụa. Niên hiệu Kiến Nguyên ( 4 7 9- 483), đời Nam Tề, ngài thường biểu hiện các điều lạ, như vài ngày không ăn cũng không tỏ vẻ đói khát. Cùng mọi người nói năng lúc đầu như khó hiểu, nhưng sau đều thông hiểu. Bấy giờ, các thứ thi phú của ngài nói như sấm kỷ, dân chúng ở Giang đông đều cùng nhau kính thờ. Vua Vũ Đế ( 4 8 3- 494), đời Nam Tề, cho ngài là người mê hoặc quần chúng, nên bắt giam tại Kiến khương. Vừa sáng sớm, có người thấy ngài trong chợ, khi trở về kiểm tra trong ngục thì ngài có ở đó. Ngài nói với người cai ngục rằng: Ngoài cửa có hai xe chở thức ăn lại, bát vàng đựng đầy cơm, ông có thể đến nhận lấy. Thế rồi, Thái tử Tề Văn Tuệ và Cánh lăng vương tử Lương đều đưa thức ăn đến dâng tặng ngài, quả thật đúng như lời ngài nói. Kiến Khương bảo Lã Văn Hiển đem việc ấy tấu trình cùng triều đình. Vua Vũ Đế liền nghênh đón ngài vào cung, ban ở nơi hậu đường. Một thời dứt trừ trong yên, ngài cũng theo chúng ra ngoài. Vậy mà trên núi Cảnh dương còn có một Bảo Chí cùng với bảy vị Tăng hội chung, Vũ Đế tức giận sai người đi kiểm tra xem ngài có ở trong cung các không. Sứ thần tấu trình: Ngài Bảo Chí đã ra sống ngoài tỉnh từ lâu, vừa mới dùng mực bôi mình. Bấy giờ, Sa-môn Tăng Chánh Pháp Hiến muốn dâng cúng ngài một chiếc y, sai sứ đến hai chùa Long quang và Kế tân tìm kiếm ngài, mà hai chỗ ấy đều bảo: Ngài đã rời khỏi nơi ấy từ hôm qua! Kẻ sứ lại đến nhà Lệ Hầu Bá là nơi thường lui tới của ngài. Hầu Bá bảo: Hôm qua ngài hành đạo tại đây, sáng nay ngủ chưa dậy. Kẻ sứ trở về nói cùng Pháp Hiến. Mới biết rằng trong một đêm mà ngài phân thân đến ba nơi. Giữa tiết đông giá lạnh, ngài thường để trần vai áo mà đi, Sa-môn Bảo Lượng muốn dâng áo nạp cúng ngài, chưa kịp mở lời, bỗng nhiên ngài đến lấy áo mà đi. Sau, ngài giúp thần lực cho vua Vũ Đế, đời Nam Tề, khiến thấy Cao Đế ( 4 7 9- 483), cha của Vũ Đế, ở dưới địa ngục thường chịu khổ bởi dao búa. Từ đó, Vũ đế vónh viễn phá bỏ hình luật bằng dao búa. Vua Vũ Đế lại thường mời ngài đến vườn hoa Lâm. Bỗng nhiên, một hôm, ngài mặc ba lớp áo vải bố đội nón mà đến. Sau đó không lâu, vua Vũ đế băng hà, rồi Thái tử Văn Tuệ cùng Dự Chương Vương cũng kế tiếp qua đời. Niên hiệu Vónh Minh ( 4 8 3- 494), đời Nam Tề, ngài thường ở tại hậu đường đông cung. Một sáng sớm nọ, từ cửa vào ra, bỗng nhiên ngài bảo: Trên cửa cổng huyết dơ áo. Ngài vén áo chạy qua. Kịp đến lúc Uất Lâm bị hại. Xe chở ra, đến đó, đầu nhà vua rơi máu nơi bậc thềm. Quan vệ úy thời Nam Tề là Hồ Hài mắc bệnh, đến cầu thỉnh ngài. Ngài chủ sớ rồi bảo ngày mai sẽ khuất, ngày mai trọn không qua, ngày đó Hồ Hài chết chở thi hài về nhà. Quan thái úy Tư Mã thời Nam Tề là Ân Tề Chi theo Trần Hiển đến trấn Giang châu, lúc đến từ tạ ngài, ngài lấy giấy vẽ một cây lớn, trên cây có chim. Ngài bảo: Lúc nạn cấp nạn có thể leo lên đó. Sau, Trần Hiển nghịch tiết để Tề Chi trấn tại châu. Đến lúc thất bại, Tề Chi trở về Lô sơn, bị người rượt đuổi sắp kịp, Tề Chi thấy trong rừng có một cây, trên cây có chim đậu như chỗ ngài vẽ, bèn tỏ ngộ mà leo lên, bầy chim vẫn tự nhiên không bay, nên kẻ đuổi theo thấy chim cho là không có người nên bỏ quay lại. Cuối cùng Tề Chi được thoát khỏi. Tề Truân Kî Tang Yểu sắp muốn mưu phản, tìm đến chỗ ngài. Ngài thấy từ xa mà vừa chạy vừa la lớn: Vi Đài Thánh muốn phản nghịch, chặt đầu mổ bụng. Sau đó hơn mười ngày sự việc xảy ra, Yểu trở lại chạy đến Chu Phương, bị bắt được, quả thật là chặt đầu mổ bụng. Thời Nam Lương, Đà Dương Trung Liệt Vương rất kính phục ngài. Bỗng nhiên, ngài bảo tìm gấp Kinh Tử, được rồi bèn đặt trên cửa, chẳng ai biết nguyên do gì, một thời gian ngắn sau, vương ra làm kinh châu thứ sử. Ngài dự định soi xét những việc như thế chẳng phải một. Ngài thường qua lại nơi chùa Hưng hoàng và Tịnh danh. Đến lúc vua Vũ Đế ( 5 0 2- 550), đời Nam Lương lên ngôi. Vũ Đế ban chiếu rằng: Hòa thượng Bảo Chí tông tích như trần cấu, thần đạo minh tịch, lửa không thể thiêu cháy, nước không thể nhận chìm, rắn hổ không thể xâm hại khiến khiếp sợ. Giảng nói Phật lý từ hàng Thanh Văn trở lên, bàn về ẩn luân thì độn ẩn cao siêu. Đâu có thể dùng không tướng tục só thường tình mà bó buộc thúc chế, sao có thể thô bỉ đồng một loạt như thế. Từ nay trở đi, mọi sự đi lại vào ra của ngài, mọi người đều không được cản ngăn cấm kî. Từ đó, ngài thường tới lui chốn cung cấm. Ngài từng ở Đài thành cùng vua Vũ Đế ăn tiệt nem thịt cá, kêu gọi các vương tử đều hầu hạ chung quanh. Ăn xong, Vũ Đế nói: Hơn hai mươi năm lại đây, trẫm ăn uống không phân biệt mùi vị. Còn ngài thì thế nào? Ngài liền nhả ói ra một con cá nhỏ đầy đủ đuôi vảy. Vũ Đế càng thêm kinh lạ. Hiện nay tại Mạc Lăng vẫn còn có nem cá. Mùa Đông năm Thiên Giám thứ 5 (5 0 6), hạn hán, tế cúng cầu mưa khắp nơi mà chưa có mưa. Bỗng nhiên, ngài tấu rằng: Bảo Chí tôi mắc bệnh chưa lành, nhờ quan cầu xin sự sống. Nếu chẳng tấu trình quan thì đáng bị tội roi trượng. Xin nên ở điện Hoa quang giảng kinh Thắng-man tạnh mưa. Vua Vũ Đế liền mời Sa-môn Pháp vân giảng Kinh Thắng Man. Trọn đêm bèn mưa lớn. Ngài lại bảo: Phải một bồn nước thêm con dao ở trên. Bỗng chốc mưa càng lớn nhiều, cao thấp đều thấm đủ. Tại Dã châu, núi Tiềm rất tuyệt đẹp, dưới chân núi cảnh trí rất xinh. Ngài Bảo Chí và Đạo Nhân Bạch Hạc đều muốn ở đó, năm Thiên Giám thứ 6 (5 0 7), hai vị đều tỏ ý với Vũ Đế. Vũ Đế cho rằng hai người đều có linh thông, nên bảo mỗi người tự dùng vật để ghi nhận chỗ đất được đâu thì ở đó. Đạo Nhân nói: Tôi sẽ dùng Hạc bay đến dừng ở đâu tức làm dấu ở đó. Ngài Bảo Chí nói: Tôi dựng đứng tích trượng để làm dấu vậy. Thế rồi, Hạc bay đi trước đến chân núi, sắp dừng lại, bỗng nghe tiếng bay của tích trượng trên không trung, Tích trượng của ngài Bảo Chí dựng đứng sừng sững ở chân núi và Hạc kinh sợ nên dừng đậu ở chỗ khác. Đạo Nhân chẳng vui lòng, nhưng vì không thể nuốt lời nói trước, nên đành chịu mỗi người theo chỗ ghi nhận làm dấu của mình mà tạo dựng am thất. Có gia đình Trần Chung Lỗ phụng sự ngài Bảo Chí rất thuần kính. Ngài thường vì Chinh Lỗ mà hiện hình thật, ánh sáng rạng ngời như tôn tượng Bồ-tát. Ngài biết thanh danh hiển trước đã hơn 40 năm. Các só nữ cúng dường thờ phụng không thể kể xiết. Nhưng ưa thích sử dụng tiểu tiện tẩy gội râu tóc như hàng tục Tăng mê muội, do đó có người chê trách. Ngài cũng biết trong lòng chúng Tăng có nhiều người chưa dứt bỏ rượu thịt mà chê trách đó, bỗng nhiên ngài bảo: Các người cười ta gội đầu bằng nước bùn dơ, vậy sao ngươi ăn đầy các thứ phân dãi? Từ đó, mọi người khiếp sợ mà khâm phục. Ngày chào đời của Tấn An Vương …, vua Vũ Đế sai xứ đến hỏi ngài. Ngài chắp tay bảo: Hoàng tử ra đời vận may đến, nhưng oan gia cũng lại đồng sinh! Sau đó, suy tầm lịch số thì Hầu Cảnh cũng sinh đồng ngày tháng năm với Tấn An Vương. Có vị đại đức Tăng ở chùa Lâm hải; Cối kê thường nghe tại quận hạ Dương châu có Chí Công nói năng điên cuồng, phóng túng tự tại, nên bảo rằng: Ấy hẳn là sự dối bày của Hồ Ly Nên nguyện đến quận hạ tìm chó săn lùng để đuổi bắt. Khi đó, bằng phương tiện đi thuyền vào biển, hướng cửa bến muốn tiến đến hướng Tây, bỗng nhiên gió lớn xoay đảo, trong ý cho là đang đi về hướng Đông nam suốt năm, sáu ngày. Ban đầu, đến trong một đảo nhỏ trông thấy Bảo tháp vàng rồng, ngàn mây xim đẹp xuất hiện, bèn ven theo mà qua tới một ngôi chùa. Trong đó, phòng viện trang nghiêm hoa cỏ thơm tho, có khoảng năm, sáu vị Tăng tuổi độ ba mươi, dáng vẻ uy dung đắp mặc ca-sa chống trượng nơi cửa, cùng nhau đàm đạo dưới gốc cây. Vị Tăng đó thưa rằng: Tôi muốn đi đến thành đô, bị gió dữ cuốn thổi phiêu bạc. Không biết các ngài ở đây là nơi chốn đất nước nào, nay xem thấy bốn bên hoàn toàn là biển, sợ rằng cố hương không còn trông thấy nữa! Các vị tăng ở đó đáp: Ông muốn đến Dương châu tức đến liền. Nay chúng tôi xin nhờ ông gửi một bức thư đến chùa Chung sơn, từ phía Tây đi sang phía Nam đến phòng thứ hai tìm gặp Hoàng Đầu mà giao giúp. Vị Tăng ấy nhân đó nhắm mắt ngồi vào thuyền, nghe tiếng gió, định mở mắt, như chỗ nói bỗng nhiên đã tới bờ Tây. Vào bến sông rồi đi chừng vài mươi dặm là tới thành đô, tìm đến chùa Chung sơn thăm hỏi, chư Tăng ở đó không có ai tên là Hoàng Đầu, chư Tăng đều nói quanh co bảo rằng: Từ phía Tây đi sang phía Nam đến phòng thứ hai tức là phòng của phương trượng đạo nhân. Ngài Bảo Chí tuy nói là trú tại chùa đó, nhưng thường ở trong tụ lạc dưới thành đô. Trăm ngày chưa chắc có một lần đến đó, phòng thường để trống không. Trong lúc hỏi đáp qua lại, chẳng ai biết ngài Chí Công. Tại nhà trú của chùa có người say mèm ăn xin, mọi người ở đó cho là đã chiều muộn nên không cho thức ăn. Giây lâu, người đó vung văng mắng chưởi. Tăng chúng trong chùa thử sai một vị Sa Di chạy quanh nhà trú kêu lớn hai chữ: Hoàng Đầu. Bỗng nhiên ngài bảo: A! Ai gọi tên ta vậy? Và liền theo vị Sa-di đi đến trong Tăng, ngài nói với vị Tăng ấy rằng: Ngươi đã muốn đem chó săn bắt ta, tại sao không lại? Vị Tăng ấy biết ngài là chẳng phải người thường, bèn đầu thành đảnh lễ sám hối, trao thư cho ngài. Ngài xem thư xong, bảo: Phương trượng đạo nhân muốn gọi ta. Không lâu nữa, ta tự trở về. Ngài bèn bấm tay, bảo: Ngày… tháng… năm là ta đi, tức không còn gặp lại. Chư Tăng nói cùng chúng ghi rõ ngày tháng đó. Đến mùa Đông năm Thiên Giám thứ 13 (5 1 4), tại hậu đường ở Đài thành, ngài nói với mọi người: Bồ-tát sắp đi. Sau đó chưa được mười ngày, tự nhiên không bệnh mà ngài viên tịch. Thi hài mềm mại thoảng hương thơm, hình mạo xinh đẹp. Lúc sắp tịch, ngài đốt một ngọn đuốc đưa cho Ngô Khánh là người nhà ở hậu các. Ngô Khánh bèn tâu trình cùng nhà vua. Vua Lương Vũ Đế than rằng: Đại sư chẳng còn lưu lại! Trao đuốc đem việc hậu sự mà giao phó ta ư? Nhân đó, Vũ Đế gia tâm thiết lễ, an táng ở đồi Độc long ở Chung sơn. Và ở bên cạnh phần mộ, dựng chùa Khai thiện, ban sắc Lục thùy, chế khắc bài minh tại trong phần mộ. Nhà vua đều khắc chạm văn bia ở cổng chùa, ban truyền di tượng của ngài, ở mọi nơi vẫn còn vậy. Thần tăng Hương Xà-lê Thần tăng Hương Xà-lê, không biết ngài từ đâu lại, dừng ở chùa núi tại Ích châu Thanh thành. Người thời bấy giờ, cứ mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba đều rủ nhau lên núi thưởng ngọn vui chơi, phần nhiều là mang theo rượu thịt để mua vui. Ngài thường khuyên răn mà họ không bỏ. Sau, một năm nọ, cũng vào dịp ấy, mọi người nhóm tụ như trước, ngài bảo mọi người vượt qua hầm đi vào phương trượng để cùng hưởng vui. Bỗng nhiên, ngài bảo: Quý vị Đàn-việt thường tự ăn uống với nhau, chưa từng cùng chung vui với Hương tôi, ngay nay phải cùng chung vui một bữa. Mọi người đua nhau kính dâng rượu thịt, nhận bao nhiêu, ngài ăn uống hết bấy nhiêu như trút vào lỗ hỏng lớn. Đến chiều, ngài bảo: Ta no say quá, nên dìu ta đến hầm. Bỗng chốc mồ hôi đổ vãi giữa đất, kịp khi tới hầm, ngài há miệng lớn ẩu nhả, thịt chim sẻ từ miệng tuông ra tức liền bay hót, thịt dê từ miệng tuông ra liền chạy nhanh. Rượu thịt lẫn lộn ào ra sắp muốn đầy hầm, cá hộp ngỗng vịt bơi lội đụng nhau. Mọi người đều kinh sợ thán phục, thệ nguyện dứt bỏ nghiệp giết hại. Từ đó về sau, việc mua vui bằng rượu thịt tại trên núi dứt hẳn. Đó là phong đức của ngài Hương Xà-lê. Sau, nhân ngài Chí Công gởi thư đến, ngài bèn viên tịch tại chùa. Các đệ tử tạo dựng phần mộ, lúc sắp an táng lấy làm lạ không biết tại sao kim quan nhẹ bổng, bèn mở nắp quan xem thì chỉ thấy ghế và trượng của ngài mà thôi! Thần tăng Đạo Lâm Ngài Thích Đạo Lâm vốn người ở Sơn âm, Cối kê. Xuất gia từ thuở thiếu thời, ngài rất có giới hạnh, khéo giảng nói các kinh Niết-bàn; Pháp Hoa, thường trì tụng kinh Tịnh Danh. Trương Tự ở nước Ngô luôn kính lễ phụng sự ngài. Sau, ngài trú tại chùa Lâm tuyền huyện Phú dương, trước kia ở đó thường có quỷ quái, từ lúc ngài đến ở thì tiêu mất. Đệ tử của ngài là Tuệ Thiều làm nhà bị sập đè vùi lấp đầu tới ngực, ngài về cầu nguyện, đến tối, Tuệ Thiều thấy hai đạo nhân người nước Hồ đến kéo đầu ra, sáng sớm thức dậy liền được bình phục. Lúc đó, ngài thiết trai cúng dường Thánh tăng, rải một tấm lụa mới trên sàn, sau khi trai hợi hoàn tất có dấu chân người dài hơn ba thước. Mọi người đều kính phục sự chứng cảm ấy. Và dân chúng ở Phú dương mới bắt đầu lập tòa Thánh tăng để cúng dường trai phạn. Đến đầu thời Nam Lương (khoảng năm 5 0 2), ngài ra trú tại chùa Tề hy. Năm Thiên Giám thứ 18 (5 1 9), ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi. Thần tăng Tung Đầu-đà Pháp sư Tung Đầu-đà ở cách Vụ Châu, Song lâm bốn mươi dặm nơi một ngọn núi cao tạo lập chùa Hương sơn. Đến lúc tạo lập chùa Linh xong, kẻ Tăng người tục dẫn cây ma cây tạc lên trồng khắp chùa. Cây tạc bỗng nhiên gãy ngang và đều ngã nhào, ngài mới nói: Có ma quái gì mà khiến như vậy? Nhân đó, lấy bình bát dựng đầy nước, khuấy quanh cả trong ngoài rồi chú nguyện mà tác lễ, ngài bưng bình bát đi nhiễu quanh chùa khắp một lượt, vậy mà các cây chẳng nhờ công sức người, tự nhiên dựng dậy. Sau, ngài lại đến Lai sơn tạo lập chùa, ngài thường nói: Lai sơn có vua mà chẳng lâu. Hương sơn lâu mà chẳng có vua. Sau, quả thật đúng như lời ngài nói. Không biết cuộc đời của ngài về sau như thế nào! Thần tăng A Chuyên Sư Thần tăng A Chuyên Sư, không biết ngài là người thuộc dòng tộc gì. Ngài vân du ở Định châu. Bấy giờ ở trong Châu lý nghe người có hội xả trai cúng bao quát cả gia thú và tang lễ. Hoặc ít năm thả chim săn chó săn lùng đuổi mọi chỗ an tập chưa từng chẳng tại. Lúc ấy, đấu tranh huyên thuyên cũng yểm trợ thành bè đảng, như vậy nhiều năm. Sau, vào đêm rằm tháng giêng năm nọ, gặp phải mọi người lớn nhỏ ngồi cùng chung chiếu tụ miệng mắng chưởi, người chủ muốn đánh giết họ, thì bọn chợ đường cứu giải dẫn đi. Sáng sớm, anh em nhà đó tìm bắt, thấy ngài ngồi trên đường bị hư phá vui cười. Ngài bảo với họ: Các ngươi lúc này làm sao có thể yểm tàn ta được? Ta bỏ các ngươi mà đi đây. Kẻ đuổi bắt lại rung gậy muốn đánh, người phía trước lại ngăn ước lấy ngài. Ngài bảo: Định yểm tàn ta thì ta đi! Ngài dùng gậy đánh vào tường và quát lớn. Đoạn tường ngài ngồi, khoảng một đổ, tự nhiên bay bổng khoảng vài mươi nhận. Ngài đưa tay từ tạ cố hương, bảo: Hãy sống trong tốt đẹp an lành. Mọi người trông thấy không ai chẳng lễ bái ăn năn lỗi cũ, phút chốc, sáng ngời mây tan mà diệt mất. Qua một năm sau, tại Trường an, ngài trở lại hình thái như xưa. Từ đó về sau, không biết cuộc đời ngài như thế nào. Thần tăng Đạt-ma Ngài Bồ-đề Đạt-ma, người xứ Nam Thiên Trúc, thuộc chủng tộc Bà-la-môn. Thần tuệ thông suốt, nghe qua đều liền hiểu ngộ. Chí giữ Đại thừa minh Tâm hư tịch, thông triệt vi số, định học cao thâm. Đầu niên hiệu Phổ Thông (5 2 0), đời vua Vũ Đế; Nam lương, ngài đến Quảng châu. Thứ sử dâng biểu tấu trình lên, vua Vũ Đế sai sứ mang chiếu nghênh đón ngài đến Kim lăng. Đích thân vua Vũ Đế hỏi ngài: Từ ngày lên ngôi đến nay, trẫm đã tạo lập chùa viện trải qua mấy lược tiếp Tăng độ chúng số không xiết kể. Vậy có công đức gì? Ngài đáp: Đều không công đức gì cả. Vũ Đế hỏi: Tại sao đều là không công đức gì cả? Ngài đáp: Đó chỉ là tiểu quả của trời, người, thuộc nhân hữu lậu, tuy là có nhưng chẳng phải thật. Vũ Đế hỏi: Vậy thế nào là công đức chân thật? Ngài đáp: Tịnh trí Diệu viên, thể tự không tịch. Công đức như vậy, không thể tìm cầu tại thế gian. Vũ Đế hỏi: Thế nào là Thánh đế Đệ nhất nghóa? Ngài đáp: Khoách nhiên vô thánh. Vũ Đế hỏi: Vậy, người đối diện với trẫm là ai? Ngài đáp: Không biết. Vua Vũ Đế không tỏ rõ huyền chỉ. Ngài biết căn cơ chưa khế hội. Ngày 19 (?) năm ấy ngài rời bỏ đất Nam lương, bẻ một cành lau làm bè vượt qua sông, đến ngày 23, thẳng hướng Bắc, ngài đến đất Ngụy, tìm tới Lạc ấp, ban đầu, ngài dừng ở tại chùa Thiếu lâm; Trung sơn. Trọn ngày xoay mặt vào tường ngồi suốt chín năm rồi thị tịch tại đó, an táng tại núi Hùng nhó. Ngụy Tống Vân vâng phụng sứ đi Tây Vực trở về, gặp ngài tại Thông lãnh, thấy tay ngài xách một chiếc giày còn một chiếc đã mất. Tống Vân hỏi ngài đi đâu. Ngài bảo: Đi về Tây Trúc. Ngài lại bảoTống Vân rằng: Chúa nhà ngươi đã băng hà! Tống Vân nghe thế, hoảng hốt vội từ biệt ngài trở về phương Đông xa để kịp phục mạng thì Hiếu Minh Đế ( 5 1 6- 528), đời Bắc Ngụy, quả thật đã băng hà. Đợi đến khi Hiếu Trang Đế tức vị (5 2 8), Tống Vân mới tấu trình cụ thể sự việc gặp ngài. Trang Đế bảo quật đao phần mộ, chỉ còn cổ quan tài rỗng không và một chiếc giày hiện còn ở đó. Thần tăng Thông Công Đạo nhân Thông Công, không biết ngài là người dòng tộc gì, cư xử bất thường, nói năng cuồng dối nhưng lại có ứng nghiệm, ngài thường uống rượu ăn thịt, lui tới trong dân gian. Hầu Cảnh rất kính tin ngài. Ngày chưa vùi dập Dương châu, vất bỏ vô số đầu cá chết chất đầy ngoài cửa Tây minh, lại nhổ cỏ xanh gai gốc trồng trong chợ, khi Hầu Cảnh sang sông, trước tiên giết chết một Thánh Đông Phủ nghiêng ngả giữa đường, đem đầu số người chết đó để ngoài cửa Tây minh làm thành Kinh quán. Chợ đông tan rã trở thành hoang vu. Ngài Thông Công nói chuyện được mất đối với Hầu Cảnh không tiện, nên Hầu Cảnh sinh ác ý ghét tức ngài. Lại sợ ngài là người phi thường nên Hầu Cảnh không dám mưu hại, lén sai tiểu tướng Vu Tử Duyệt dẫn bốn võ só đến hầu cận ngài. Hầu Cảnh nói cùng Tử Duyệt: Nếu ngài biết đến giết thì chớ nên hại. Còn như không biết thì kín bắt lấy ngài. Tử Duyệt dẫn bốn người đến, bảo đứng ngoài cửa, riêng một mình Tử Duyệt đi vào thấy ngài đang cởi áo hơ lửa. Ngài hỏi ngược lại Tử Duyệt: Ngươi đến giết ta. Ta là người gì? Ngươi dám thì nên liền giết. Tử Duyệt lễ bái, nói: Không dám! Khi đó, liền vội trở về báo cùng Hầu Cảnh. Hầu Cảnh lễ bái cảm tạ, cuối cùng không dám giết hại ngài. Sau, nhân Hầu Cảnh thỉnh mời ngài, ngài đem thịt đè ướp muối đến dâng Hầu Cảnh, và hỏi: “Có ngon chăng? Hầu Cảnh nói: Quá mặn! Ngài bảo: Không mặn thì thối. Đến khi Hầu Cảnh chết khoảng vài ngày, người ta dùng năm thạch muối đổ vào trong bụng, đưa thi hài đến chợ Kiến khương, mọi người tranh nhau mổ nem canh ăn đều hết. Về sau, không biết ngài Thông Công đi về hướng nào! Thần tăng Tăng Lâm Ngài Tăng Lâm vốn người đất Ngô, đức sâu dày hay cảm hóa đến mọi vật. Trong niên hiệu Đại Đồng ( 5 3 5- 546), đời Nam Lương, ngài đến đất Thục. Phía Tây Bắc thành Chương châu cách một trăm bốn mươi dặm có núi Đậu đồ, trên núi có miếu thờ thần, dân chúng ở đó rất sùng kính thường luôn cúng tế, ngài đến an trú tại đó, thiền định nhiều ngày, bỗng nhiên có một con trăn lớn đến quấn quanh trước sàng tòa, ngẩn đầu như vái chào. Ngài vì nó mà truyền trao pháp Tam quy, lãnh thọ xong, trăn bèn bỏ đi. Từ đó an định không xảy ra bất cứ điều gì. Ở phía Bắc núi đó, trên dòng sông Phổ vốn không có vượn, từ khi ngài đến dừng ở trở lại, bèn có hai con nương vượn ngài mà ở. Có người mới thấy cho rằng nó lội sông mà lại. Về sau, khi ngài ra khỏi cửa núi vượn lại bơi lội qua, như vậy chẳng phải một lần, trải qua năm tháng lâu dài, chúng ấp ủ sản sinh đến vài mươi con, có khi vượn đưa ngài đến cửa Long môn đứng trông đợi ngài về. Sau, ngài lại dừng ở lại trong chùa Cổ xích thủy nham, phòng nhà đều phá hết, chỉ còn lại rừng tùng, ngài bày sàng tòa, có con hổ đến ngồi trước mặt, đưa mắt trông nhìn ngài, ngài mới vì nó nói pháp, giây lâu, hổ đứng dậy bỏ đi. Từ đó về sau, một mình ngài lui tới trong dáng vẻ oai hùng không tránh né ác thú. Ngài thường dùng đức nhân tế độ, nên cảm hóa rất nhiều, cuối cùng, ngài viên tịch ở quận Chương. Thần tăng Tuệ Ước Thích Tuệ Ước tự là Đức Tố, ngài vốn dòng họ Lâu, người xứ Đông dương ô thương. Đời ông nội ngài làm quan Đông Nam só tộc. Có người bói đoán phần mộ của ông mà bảo rằng: –Đời sau sẽ có người tu hành khổ hạnh đắc đạo, làm thầy của Đế vương. Thân mẫu ngài dòng họ Lưu, mộng thấy một người to lớn nắm tượng vàng đưa bảo nuốt lấy, lại thấy ánh sáng sắc tía vây quanh thân, nhân đó mà có thai ngài. Và bà ta cảm thấy tinh thần sảng khoái, nghó lý tỏ ngộ, đến ngày hạ sinh ngài, ánh sáng mùi thơm xông khắp cùng, thân ngài trắng như tuyết, người đời nhân đó gọi tên ngài là Linh Sản. Ở tuổi nhi đồng, ngài thường lấy cát tạo làm tháp Phật, chất đá làm tòa cao. Năm lên bảy tuổi, ngài cầu xin vào Đạo. Ngài liền tụng đọc các sách Hiếu Kinh, Luận Ngữ, cho đến sử truyện, xem qua văn ngài đều hiểu ý. Ở phía Nam nhà ngài, có một vườn cây trái, trẻ nhỏ chung quanh hay đua nhau hái phá, ngài cho đó là tai họa, bèn bỏ tất cả những gì có được, ngài trở về nhà với hai bàn tay không. Dân chúng trong xóm làng lấy việc nuôi tằm làm sự sống, ngài thường luôn bùi ngùi buồn thương. Từ đó, ngài không chụi ươm tơ. Người chú út của ngài ưa vui thích săn bắn, ngài khuyên hóa mà chẳng sửa đổi. Ngài thường than rằng: Loài chim bay thú chạy, cách người rất xa. Song tánh thức ham sống sợ chết đâu có khác gì! Ngài liền đoạn tuyệt các thứ thịt máu tanh hôi, người chú ngài trốn tìm đến ở làng khác, phóng túng vui thú chặn giết, ông ta mộng thấy sứ giả mặc áo đỏ, tay nắm mâu kích đến bảo rằng: Ông suốt ngày sống với sự sát sinh, Bồ-tát chỉ bảo mà không thôi bỏ, bắt lại đến chết. Ông ta kinh sợ đến nỗi toát mồ hôi, đến sáng sớm bèn phá bỏ tất cả dụng cụ săn bắn, ăn năng hối cải lỗi trước nhưng sai lầm. Ngài lại đến chỗ chú ngài thường săn bắn, thấy các loài mể lộc đến vài mươi con nhảy nhót nương theo thuyền, như có sự quý chuộng cảm tạ ngài. Tại chỗ ở hẹp hôi nên chẳng thường thấy chùa, bỗng nhiên gặp được một vị Tăng, ngài liền thăm hỏi đến sự truyền giáo. Vị đó bèn đưa tay chỉ về hướng Đông, bảo: Trong đất Diệm, Phật sự rất thạnh hành. Sau đó, không thấy vị Tăng ấy nữa, ngài mới ngộ rằng ấy là Thần nhân. Năm mười hai tuổi, ngài bắt đầu đến đất Diệm tham lễ khắp mọi tháp miếu, tứ ý đi cùng sông núi xa xăm, với tâm trong sáng ngài muốn tham cứu nhiều kinh điển. Năm Thái Thỉ thứ 4 (4 6 8), đời tiền Tống, ngài đến chùa Đông sơn ở Thượng ngu, giả từ song thân, xuống tóc xuất gia. Bấy giờ ngài đã mười bảy tuổi, ngài theo hầu Sa-môn Tuệ Tỉnh ở chùa Nam lâm, ngài theo ngài Tuệ Tónh đến ở chùa Phạm cư tại đất Diệm. Ngài chuyên cần kính dưỡng thầy suốt mười hai năm. Đến lúc ngài Tuệ Tỉnh viên tịch, ngài lại tận tâm lễ phục tang lễ. Sau khi mãn tang, ngài dứt bỏ dùng gạo cơm, gá mình trên đỉnh non cao, chỉ dùng củ thuật củ tùng để trừ tật bệnh, nhiều năm liền đều có hiệu quả. Tề thái tể Văn Giản Công Trử Uyên thường thỉnh ngài giảng kinh Tịnh Danh, Thắng-man. Trử Uyên mắc bệnh ngủ ngày, thấy một vị Phạn Tăng bảo: Bồ-tát sẽ đến, bỗng nhiên có đạo nhân đến. Trong chốc lát, ngài đến, liền khiến bệnh liền tiêu dứt và lập tức xin thọ ngũ giới. Tề cấp sự Trung Lâu Ấu Du, thuở thiếu thời có học thuật, cùng dòng tộc với ngài, mỗi lúc thấy ngài liền đứng dậy kính lễ, ngài bảo: Tôi đây là lớp dưới của ông, cớ sao lại cung kính? Ấu Du nói: Bồ-tát xuất thế là bậc thầy của thiên hạ, đâu phải chỉ một mình lão phu kính lễ mà thôi. Mọi người thời bấy giờ đều không hiểu được ý chỉ đó, chỉ một mình Vương Văn Hiến là hiểu nghóa thú. Sau, trở về kinh đô ngài trú tại thảo đường. Trong niên hiệu Long Xuân (4 9 4), đời Nam Tề, thiếu phó Thẩm Ước ra trấn nhậm bên ngoài, dẫn ngài cùng đến ở quận, ngài chỉ lấy sự tónh mặc, vui với thiền tụng, hương thơm khác lạ ngát thất, thú dữ dần đến bậc thềm, ngài thường vào núi Kim hoa hái kết, hoặc dừng nghỉ dưới khe suối Xích tùng. Có Đạo só Đinh Đức Tỉnh ở quán mộ qua đời. Mọi người truyền rao rằng: Chỗ Sơn tinh chết mới cần đại trị dùng rượu cúng tế chỗ ấy, yêu tinh còn dòm ngó khắp cùng. Trường Sơn Linh, Từ Bá Siêu lập bàn thỉnh ngài dời đến ở, chưa đầy mười ngày mà thần mî tiêu dứt. Sau, giữa ban ngày, ngài nằm thấy hai người nữ mặc áo xanh từ trong khe suối ra, đảnh lễ sám hối rằng: Do túc chướng sâu nặng nên đọa làm thủy tinh ở đó, ngày đêm thường sinh phiền não. Ngài liền trao truyền cho tam giới, từ đó tai ương yêu quái dứt tuyệt. Năm Thiên Giám thứ 18 (5 1 9), đời Nam Lương; nhằm ngày mồng tám tháng tư năm Kỷ Hợi, vua Vũ Đế phát tâm hoằng thệ thọ giới Bồ- tát, ngài mới đến điện Đẳng Giác. Từ Hoàng Trử trở xuống cho đến kẻ Tăng người tục só thứ, đều mong được độ thoát. Hàng đệ tử có ghi chép lại gồm bốn mươi tám ngàn người. Đương lúc thọ giới có một con Càn thứu bước qua từng bậc thềm mà lên, tướng trạng như được hưởng thọ thức ăn ngon. Đến lúc thuyết giới xong, sau đó mới bay đi. Lại, đang lúc thuyết giới, có hai con chim Khổng tước, đuổi nó chẳng đi, ngài bảo cho nó đến nghe, dần dần nó tìm đến nơi đàn cuối đầu nghe pháp. Ngài bảo: khác. Hai con chim này hẳn muốn trút bỏ báo thân để thọ quả báo Ngài khuyên nó nên chí thành, lại vì nó mà nói pháp. Tự nhiên, hai con chim cùng xả bỏ báo thân. Sau, ngài an trú tại một tónh thất, có một bà già mang đến vài quyển sách đặt trên án kinh, không nói lời nào mà đi, rồi mang đến một cây khác lạ trồng tại giữa sân và nói: Đây là cây Thanh đình. Ngài bảo: Sách này đẹp thật, không đợi phải xem nó, còn như nó xấu cũng chẳng nhọc trông nhìn. Sau đó bảy ngày, lại thấy một ông già đến xin sách mà đi. Cây ấy lá xanh hoa hồng phù sơ hiện còn. Ngài lại chiêu cảm hoài chim khác thân đỏ môi dài hình như Phỉ Thúy, cùng theo vào ra đậu nghỉ ở cây ấy. Năm Đại Thông thứ 4 (?), ngài mộng thấy ngôi nhà cũ vách tường trắng cửa đỏ rực tráng lệ, ngài bèn phát nguyện lập chùa, ban chiếu đề hiệu là Bổn Sinh, lại sắc cải đổi làng đang ở là Trúc Sơn thành làng Trí giả. Tháng tám năm Đại Đồng thứ nhất (5 3 5), đời Nam Lương, ngài sai người chặt cành cây ngoài cửa, bảo rằng: Kiệu giá sắp đến, chớ nên để ngăn cản đường. Mọi người chưa suy tính được. Đến ngày mồng sáu tháng chín, ngài ngã bệnh, đầu xoay về hướng Bắc, nghiêng phía phải mà nằm, thần thức ngài vẫn an nhiên không biểu hiện thống khổ, ngài bảo các đệ tử: Ta mộng thấy bốn bộ đại chúng cầm nắm tràng phan hoa lọng khắp đầy giữa không trung đến nghênh đón ta lướt mây mà đi. Phước bảo sẽ xong. Đến ngày 16, sai người nhà là Từ Nghiễm thăm bệnh. Đáp rằng: Đêm nay sẽ đi. Đến canh năm hai xướng, hương lạ thơm ngát thất, chung quanh đều nghiêm túc, ngài mới nói rằng: Phàm có sinh ắt có tử, ấy là số thường tự nhiên, phải siêng năng tu tập niệm tuệ, chớ khởi loạn tưởng. Nói xong, ngài liền chắp tay thệ tịch, hưởng thọ tám mươi bốn tuổi; sáu mươi ba hạ lạp. Lúc ngài mới hiện bệnh, thấy một ông già nắm tích trượng lại, và đổi ngày thị tịch, chư Tăng đều bói là Đông Nham của chùa, vua Vũ Đế mới cải táng ở Độc long, ước đoán ông già thấy trước kia thì là ngài Chí Công nên đến cùng nghênh đón. Lại đêm ngài sắp tịch thì có con bò xanh, bỗng nhiên kêu rống rơi lệ thành dòng. Đến ngày an táng, sai sử dẫn đồ Bộ ngũ. Cả chùa đến núi rống khóc rơi lệ không thôi. Lại nữa, khi mới khởi công xây dựng tháp, có hai con hạc trắng liệng quanh phần mộ kêu thương thảm thiết. Sau ba ngày an táng, tự nhiên đi mất. Thần tăng Đàn Đặc Sư Ngài Đàn Đặc còn có một tên gọi là Tuệ Phong, là Tỳ-kheo, không biết ngài là người xứ nào, ngài uống rượu ăn thịt, nói năng bất thường. Ngài luận nói sự việc sắp đến đều trái nghịch, nhưng sau ng- hiệm lại đúng với sự việc. Ngài đến Lương châu, Vũ Văn Trọng Hòa làm thứ sử thỉnh ngài đến Châu nội, xem qua cứu xá một lượt, ngài nói: Ý nghó sao mà tích chứa ngựa và vật của quan khác? Trọng Hòa không hiểu ý chỉ đó, tức giận không để ngài ở Lương châu. Sau đó không bao lâu, Trọng Hòa chống cự không chịu thay, Triều Đình bảo Độc Cô Tín bắt lấy, Trọng Hòa thân chết, tất cả của cải đều mất xung vào của quan. Chu Văn đưa thư mời ngài, ngài đến Kỳ Châu, gặp Tề Thần Vũ đến cướp Ngọc Bích, ngài bảo Chó đâu có thể đến Long môn. Thần Vũ quả thật không đến được Long môn đành phải trở lui. Trước khi Hầu Cảnh chưa tạo phản lại Đông Ngụy, nhặt lượm được một cây gậy, trên đầu gậy khắc chạm hình con Nhó hầu, khiến nó mặt thường xoay về hướng Tây, ngày đêm mân mê ngấm nghía nó. Lại tìm cầu được một khúc cung khiên kéo nó. Bỗng chốc mà Hầu Cảnh khải giáng, tầm lại bối phản, mọi người đều lấy đó làm điều lạ. Đến mùa Xuân năm Đại Thống thứ 17 (5 5 2), đời Tây Ngụy, đầu tiên bỗng ngài đội mũ vải, Chu Văn và mọi người kinh sợ hỏi ngài, ngài bảo: Ông cũng phải đội và vua cũng phải đội. Đến tháng ba thì vua Văn Đế, đời Tây Ngụy băng hà. Sau đó, ngài lại dùng mảnh lụa trắng quấn mũ mà đội, mọi người lại hỏi ngài, ngài lại bảo: Các ông cũng phải đội và vua cũng phải đội. Sau đó không lâu thì phu nhân của Quan thừa tướng qua đời. Thêm một lần nữa, ngài lại đội mũ lụa trắng, mọi người lại hỏi. Ngài cũng bảo: Các ngươi cũng phải đội, vua cũng phải đội. Bỗng chốc người con thứ hai của thừa tướng là Vũ Ấp Công qua đời. Những sự kiện như thế ngài biết rất nhiều. Bỗng nhiên, ngài thị tịch, Chu Văn ban mạng lo lễ an táng. Thần tăng Thực Tướng Thích Thực Tướng, ngài vốn dòng họ Hác, người xứ Tử đồng phù. Ngài đã từng nhậm chức Ba tây quận Sứ, quan thái thú Trịnh Trinh bảo ngài mang vật hiến cống, đến Dương đô, ngài thấy vua Vũ Đế, thời Nam Lương và các Vương Công sùng kính Phật giáo, nên ngài bèn phát nguyện xuất gia. Trở về đất Thục, ngài quyết thực hiện chí nguyện, quyến thuộc và vợ con đều đồng chí nguyện của ngài cùng một lúc xuống tóc xuất gia. Từ sau khi xuất gia, ngài chuyên tập khổ hạnh, ngày ăn một bữa thường ngồi ít nằm, đặt tâm nói Phật lý, lấy mạng sống làm kỳ hạn. Bấy giờ ở quận Nam vẽ, có Đạo nhân Pháp Ái khoe khoang đạo thuật, ngài đến đó xem sao. Đến nửa đêm, Pháp Ái dùng chú lực hiện hình một thần lớn, thân mặc áo đội mũ, dung mạo khôi vó, đến nâng giường dây cách đất bốn, năm thước. Ngài trì tụng giới bổn, thần liền vội bỏ chạy, lát sau trở lại nâng giường, cẩn trọng động đến một gốc, ngài lại tụng giới và thần cũng bỏ đi như trước. Sau đó, thần lại đến đứng trước mặt ngài, ngài giữ ý chánh niệm thanh bạch không mảy may lay động, bỗng chốc thần lại bỏ đi. Ở nóc nhà, thần hiện đầu mặt chạm đòn dong, tiếng va chạm rất lớn, ngài cũng không tỏ vẻ lo sợ. Thần thấy không thể làm lay động, bèn lại lễ bái cầu xin sám hối. Đến sáng sớm, ngài nói với Pháp Ái rằng: - Chỗ quý trọng của ông đó chỉ là tà thuật, chẳng phải là chánh pháp. Ông nên bỏ đi. Nhân đó, mà ngài đi đường thường ghé nghỉ qua đêm ở đạo quán. Đạo só Hữu Tố nghe thanh danh ngài, sợ ngài giáo hóa đồ chúng quyến thuộc của mình nên chẳng chịu mời đón ngài. Đêm đó, bầy hổ chạy rảo quanh quán viện cùng nhau gầm thét. Các đạo só thâu đêm không an ổn, đến sáng sớm tìm đuổi theo ngài cầu xin thọ giới Bồ-tát. Ngài lại đã từng hành hóa nơi vùng làm nông, thấy người câu cá, ngài đến khuyên răn nên bỏ, người đó không nghe theo lời ngài, ngài liền thóa nhổ vào trong nước, bỗng nhiên có một con rắn lớn ngẩng đầu nhìn quanh bốn phía rồi hướng đến người câu cá. Nhân đó người câu cá liền quy mạng tìm đến ngài cầu xin xuất gia. Sau, cuối thời Nam Lương (…- 5 5 7) binh lính nổi loạn, ngài vào núi Thanh thành, nhóm chúng tập nghiệp. Chưa rảnh rỗi kinh qua, ngài bèn thị tịch. Đầu tiên, ngài đặt chân đến chùa Bá lâm ở phía Tây thành Niên châu, chùa viện tạo lập thành tựu. Ở đầu giảng đường, ngài trồng một cây ngô đồng rất xanh tốt. Bỗng nhiên mùa Hạ, không nguyên cớ gì mà lá rơi rụng. Lại nữa, vào sáng sớm, vị Duy Na thỉnh kinh không kêu, mọi người lớn nhỏ đều nghi ngờ điềm lạ, song, chẳng biết được được nguyên nhân. Thượng tọa Tăng cho là có biến động lớn bèn chống tích trượng lánh đi, bỗng chốc có tin báo ngài đã thị tịch, mới biết rằng cây khô chuông câm là ứng hiện điềm trong sáng sớm ngài thị tịch. Đệ tử ngài mạng để lộ nhục thể ngài dưới cây Tùng. Thần tăng Lục Pháp Hòa Lục Pháp Hòa, không biết ngài là người ở xứ nào. Ngài ẩn cư tại Giang lăng, Bách lý châu, ngài ăn mặc cư xử một mực, mỗi một cử chỉ đồng như Sa-môn giới hạnh. Các bậc kỳ lão từ nhỏ thấy ngài dung mạo nghi sắc thường an định, mọi người đều kính phục. Hoặc có người cho rằng ngài xuất hiện từ Tung sơn đi khắp mọi nơi xa gần rồi vào kinh châu ở quận Vấn dương. Ngài ở tại núi Tử thạch huyện Cao yếu, vô cớ, tự nhiên ngài bỏ chỗ ở, bỗng chốc có loạn của rợ man giặc Văn Đạo Kỳ, người thời bấy giờ cho rằng ngài dự biết được điềm chưa xảy ra. Đến lúc Hầu Cảnh mới cho biết đánh phá Nam lương, ngài nói với Nam quận Chu Nguyên Anh rằng: Đàn-việt cùng bần đạo đánh Hầu Cảnh. Nguyên Anh nói: Hầu Cảnh vì nước nhà lập công hiệu. Ngài bảo đánh đi nghóa là sao? Ngài bảo: Chính vì như vậy. Khi Hầu Cảnh vượt qua sông, ngài đã ở tại núi Thanh khê, Nguyên Anh đến hỏi ngài: Nay Hầu Cảnh vây quanh thành, việc ấy thế nào? Ngài bảo: Phàm người hái trái cây phải đợi đến khi chín. Nguyên Anh cố nằn nì hỏi, ngài bảo: Cũng có thể khắc phục cũng không thể khắc phục. Hầu Cảnh sai tướng Nhậm Ước đánh dẹp Lương Tương Đông vương ở Giang lăng, ngài mới đến Tương đông xin đánh dẹp Nhậm Ước, chiêu tập tám trăm đệ tử người rợ man ở Giang tân, chỉ hai ngày liền phát khởi ở Tương đông. Ngài sai Hồ Tăng giúp thống lãnh hơn ngàn người đồng hành. Ngài leo lên thuyền hạm, cười lớn bảo: Vô lượng binh ngựa. Tại Giang lăng có nhiều miếu Thần là chỗ người đời thường cầu đảo, quân của ngài ra vào không một chứng nghiệm gì, mọi người cho đó là thần, nên đều đi theo. Đến hồ Xích sa cùng đối đầu với Nhậm Ước. Ngài cởi thuyền nhẹ không mang mặc áo dày mũ trụ, ven theo dòng mà xuống, cách quân của Nhậm Ước độ chừng một dặm, ngài trở lại nói với tướng só rằng: –Hãy lại quan sát ngựa của kia ngủ say bất động, còn ngựa của quân ta rất dõng dước, nên liền công kích đến. Nếu đánh được nó, thề sáng mai sẽ chẳng tổn thương một người khách hay chủ mà đánh bại được quân giặc. Nhưng có chỗ xấu, phải phóng lửa đốt thuyền mà gió ngược chẳng tiện, ngài liền nắm quạt lông trắng vẫy gió, gió liền xoay trở về hướng quân Nhậm Ước. Mọi người đều thấy binh lính nhà Lương chạy bộ trên sông. Khi đó, vở lỡ lớn đều nhào xuống nước, Nhậm Ước trốn chạy, không biết ở đâu. Ngài bảo: Ngày mai vào giờ ngọ, sẽ bắt được nó. Đến kỳ hạn mà chưa thấy Nhậm Ước, mọi người hỏi ngài. Ngài bảo: Trước kia, ta ở tại châu này, trong thời gian nước khô cạn có xây dựng một ngôi chùa. Nói cùng với các Đàn-việt… Đây tuy là làm chùa nhưng kỳ thật là tiêu điểm của giặc. Nay sao không đến tiêu điểm đó mà tìm giặc? Đúng như lời ngài nói, đến trong nước thấy Nhậm Ước ôm lấy chùa ngưỡng đầu lên để hở lỗ mũi, bèn bắt lấy Nhậm Ước. Nhậm Ước nói: Xin được chết trước mặt ngài. Đưa đến nơi ngài, ngài bảo cùng Nhậm Ước: Đàn-việt có chung cùng thì hẳn sẽ không chết mất binh lính. Vả lại, Tương Đông vương có duyên, nhất định không phải lo lắng gì. Về sau, Tương Đông vương sẽ được Đàn-việt giúp sức. Quả thật, Tương Đông vương tha cho Nhậm Ước mà dùng làm quận thú. Đến khi quân Ngụy vây quanh Giang lăng, Nhậm Ước viện binh giúp lực đánh chiến. Ngài đã bình trị được Nhậm Ước, lại tiến tới thấy Tương Đông vương làm thêm ở Ba lăng, ngài bảo: Bần đạo đã trừ bỏ một cánh tay của Hầu Cảnh, Hầu Cảnh sao còn có thể đánh phá. Đàn-việt nên mau bắt lấy. Và xin trở lui. Ngài nói cùng Tương Đông vương rằng: Hầu Cảnh tự nhiên sẽ yên định vậy không có gì phải lo lắng. Quân giặc Thục sắp kéo đến, ngài xin nên giữ ở Vu hạp để đợi nó. Và dốc hết sức lực binh lính để chuyển đá chấn sông, ba ngày nước nghẽn không chảy, cùng gông sắt, Võ Lăng Vương nhóm tụ quân Thục đến Hạp Khẩu, gặp thế bức bách tiến thoái đều không được. Vương Lâm cùng ngài kinh lược một trận đế tiêu diệt hết. Quân lính lần lượt trở về tấu trình cùng Đế Vương: Có người nói Gia Cát Lượng; Khổng Minh đáng gọi là danh tướng, ta tự thấy như thế, ở bên cạnh thành này có vùi chôn một hộc nỏ tên thốc. Nhân đó, cắm dấu, bảo người đào bới lên, quả thật đúng như lời nói. Lại nữa, ngài từng đến phía Bắc thàng Tương dương, dưới một gốc cây lớn, ngài vẽ ô vuông hai thước giữa đất, bảo đệ tử đào lên có được con rùa lớn mét rưỡi. Ngài dùng gậy gõ vào rùa, bảo: Nhà ngươi muốn ra mà không thể được đã vài trăm năm. Nếu không gặp ta thì đâu thấy được mặt trời? Ngài vì rùa mà trao truyền pháp Tam quy, rồi rùa mới bò vào cỏ. Đầu tiên, tại núi Bát điệp, có nhiều người mắc bệnh hiểm ác, ngài vì họ mà hái thuốc điều trị, uống không quá ba lần bệnh đều lành hẳn. Họ liền xin làm đệ tử. Trong núi có nhiều trùng độc thú dữ, ngài trao cho nó cấm giới, từ đó không còn cắn chích nọc độc. Tại ngọn núi cao bên cạnh hồ Bạc giang, ngài treo biểu rằng: Đây là chỗ phóng sinh. Các ngư phủ đều không được đánh bắt cá, có người vừa mới đánh bắt được ít con, liền có sấm sét gió lớn nổi lên, người ngồi trên thuyền lo sợ nên liền thả và gió mưa yên định liền. Chiều tối tuy có quân lính chiếm đóng nhưng còn cấm quân lính không được bắt cá, có người lén trộm làm trái, nửa đêm thú dữ đua nhau kéo đến muốn cắn xé kẻ đó hoặc đánh mất neo thuyền. Có vị đệ tử nhỏ vui đùa, chặt đầu rắn, đi đến nơi ngài, ngài bảo: Sao ngươi dám giết hại? Nhân đó mà ngài chỉ cho thấy, vị đệ tử nhìn thấy đầu rắn cắn mắc nơi trên quần chưa rơi. Ngài bảo đệ tử sám hối, phải vì rắn mà tu tạo công đức. Lại có người dùng dao chặt thử đầu trâu, chỉ chặt một dát thì đầu trâu dứt lìa. Người đó đến chỗ ngài, ngài bảo: Ngươi chặt đứt đầu trâu, hẳn nó lấy mạng ngươi rất mau, nếu không tu tạo công đức thì nội trong một tháng quả báo sẽ đến. Người đó không tin, quả thật ít ngày sau người đó chết. Ngài lại vì người mà đặt để hướng nhà bói xem phần mộ để tránh họa cầu phước. Ngài từng bảo người ấy rằng: Chớ nên buộc ngựa nơi trụ đá. Người ấy đi đến Hương khúc, bên cạnh cửa có trụ, nên bèn buộc ngựa vào đó. Đi vào trong cửa rồi bỗng nhớ lời ngài răn bảo, vội chạy ra để mở thì ngựa đã ngã lăn chết vậy. Vua Nguyên Đế ( 5 5 2- 555), đời Nam Lương tôn xưng ngài là Đô Đốc, Dónh Châu thứ sử Phong Giang Thừa huyện Công. Ngài chẳng xưng thần (Bề tôi), các bản văn khải của ngài trên ấn đỏ đề danh ngài tự xưng là cư só. Sau xưng là Tư đồ. Vua Nguyên Đế nói với Bậc Xạ Vương Bao rằng: Trẫm chưa từng có ý dùng Lạc Pháp Hòa làm Tam công. Người tự xưng, vậy là sao? Vương Bao nói: Ngài Pháp Hòa tự dùng đạo thuật tự ban dung là biết trước. Vua Nguyên Đế cho rằng công nghiệp của ngài có phần quan trọng, bèn thêm tước Tư đồ; đô đốc thứ sử như cũ. Các bộ khúc đến vài ngàn người đều tự xưng với ngài là đệ tử. Ngài chỉ dùng đạo thuật mà giáo hóa, không dùng pháp luật tù ngục mà hình xử đối với người. Lại bày chỗ hàng buôn bán không lập người trông coi giúp chợ, cách thức thâu giúp không người lãnh nhận. Chỉ đặt một cái củi không khóa lại tại giữa đường, mặt trên mở một lỗ nhỏ để nhận tiền, khách thương buôn bán tùy vật ít nhiều tính theo cổ hạn mà bỏ phiếu vào trong cũi. Người có chức trách cai quản nhận lấy thì tối đến mới mở lấy, điều chỉnh lỗ mục thâu nạp vào kho. Bình thường, ngài nói như không mở lời, đến lúc luận bàn thì hùng biện không ai bằng, nhưng vẫn còn sót lại âm ba dân tộc man. Ngài giỏi bày thế kích trận, cụ thể là tại Giang hạ, nhóm tụ binh hạm muốn đánh vào Tương dương mà lại vào võ quan, vua Nguyên Đế, Nam Lương sai sứ đến đình chỉ, ngài bảo: Bần đạo là người cầu làm Phật, còn không mong cầu chỗ ngồi của Đế Thích Phạm vương, há Khuy Truất ngôi vị của chủ? Chỉ bởi tại thời Đức Phật không vương, bần đạo với chúa thượng có nhân duyên hương hỏa, nay thấy chúa thượng cần phải có sự báo đáp nên cứu viện như thế. Vậy mà, nay lại bị nghi ngờ, ấy là nghiệp định không thể mở giải! Khi đó, ngài bày cúng các vật thực đủ cả bánh nướng. Đến lúc quân Ngụy dấy binh, ngài từ Dónh châu vào Hán khẩu, sắp đến Giang lăng, vua Nguyên Đế sai người đi ngược lại bảo: Ở đây tự đủ khả năng phá giặc, ngài nên trấn tại Dónh châu chẳng cần nên lo động. Ngài bèn trở về Dónh châu, trát bít cửa thàng mặc áo quần vải bố sắc trắng bịt khăn, dùng dây lớn thắt co lưng ngồi trên chiếu cỏ trọn ngày mới cởi ra. Đến lúc được tin vua Nguyên Đế bại trận chết mất, ngài lại lấy hung phục trước đó mặc vào, khóc than thọ điếu. Người xứ Nam Lương vào đất Ngụy quả thật thấy có bánh nướng. Khi đó, ngài mới bắt đầu ở bách lý châu tạo lập chùa Thọ vương, đã giá điện Phật rồi, ngài lại khắc vào trụ và đòn dong rằng: Hơn bốn mươi năm sau, Phật pháp sẽ gặp phải sấm sét bão bùng, chùa này ở nơi u tịch, có thể được thoát nạn. Kịp đến lúc nhà Ngụy bình trị được kinh châu, tất cả các cung thất đều bị thiêu hủy, quan tổng quản muốn chiếm lấy điện Phật chùa Thọ vương, hiềm nổi gỗ ngắn nên thôi. Sau, nhà Chu hoại diệt Phật pháp, vì chùa này cách xa trần cảnh nên thoát khỏi nạn. Mùa xuân năm Thiên Bảo thứ 6 (5 5 5), đời Bắc Tề, Thanh Hà Vương Nhạc tiến quân đến Lâm giang, ngài đưa cả Dónh châu vào nhà Bắc Tề, vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương, Bắc Tề) dùng ngài làm đại đô đốc, mười châu các quân phụng sự Thái úy công, phía Tây nam đại đô đốc năm châu các quân phụng sự Kinh châu thứ sử. An Tương quận công Tống Lî sai làm Tán kî thường theo hầu Nghi Đồng Tam Ty Tương Châu thứ sử Nghóa Hưng huyện Công. Tướng của Nam Lương là Hầu Chấn đến bức chiếm Giang hạ, quân của Bắc Tề bỏ thành mà chạy. Ngài cùng với anh em Tống Lî vào chầu. Vua Văn Tuyên Đế nghe ngài có đạo thuật kỳ lạ, nên hư tâm tưởng muốn được thấy, bèn cùng đầy đủ Tam công lỗ bộ, đến phía Nam thành cách 12 dặm, nhằng trướng đợi đón ngài. Ngài từ thấy Nghiệp Đô bèn xuống ngựa đi bộ. Tân Thuật nói với ngài: Ngài từ xứ xa vạn dặm về thành, chúa thượng đang nóng lòng trông đợi, sao lại bày thuật như thế? Ngài trên tay bưng lò hương đi bộ từ đường xe đến quán, sáng sớm mai dẫn thấy cấp thông… dầu lạc võng xa, đến cung quyết, thông danh ngài chẳng xưng quan tước, chẳng xưng thần, chỉ tự xưng là Kinh Sơn Cư só. Vua Văn Tuyên Đế sắp đặt ngài và tùng chúng ở điện Chiêu dương. Ban tặng ngài trăm vạn tiền, vạn đoạn vật, đệ nhất giáp, khu đất ruộng trăm khoảng, hai trăm nô tỳ. Tư sinh kế vật xứng vậy. Các nô tỳ được ngài cho miễn hết, bảo rằng: Mỗi người nên tùy duyên phận mà đi. Tiền bạc, ngài ban thí trong một ngày bèn hết sạch, dùng các nhà quan tặng tạo lập thành chùa thờ Phật. Ngài tự sống ở một phòng chẳng khác người thường. Trong vòng ba năm, ngài lại làm thái úy, người đời bấy giờ còn gọi ngài là cư só. Tự nhiên không bệnh mà ngài nói với đệ tử về ngày ngài tịch. Đến thời hạn, ngài đốt hương lễ bái Phật, rồi ngồi trên giường dây mà thị tịch, mọi người tắm rửa xong, đến lúc sắp tẩm liệm thi hài tự nhiên bé nhỏ lại chỉ ba thước. Vua Văn Tuyên Đế bảo mở nắp quan tài ra xem thì quan rỗng không mà thôi. Ngài viết chỗ ở trên tường vách mà bôi xóa, đến lúc bóc rơi có đoạn văn viết: Mười năm Thiên tử đáng chuộng thay, Trăm ngày Thiên tử nhanh như lửa Quanh năm Thiên tử đổi thay tòa … Lại viết: “Một người mẹ sinh ra ba vị vua, trong đó hai vua chỉ được năm năm.” Có thuyết cho rằng: Lâu Thái Hậu sinh ra ba Thiên Tử (có lẽ ba vị thiên tử là: - Phế Đế (Cao ân, 5 6 0- 560) Hiếu Chiêu Đế (Cao Diễn, 5 6 0- 561) Vũ Thành Đế (Cao Chạm, 5 6 1- 565) Đều là con của Văn Tuyên Đế (Cao dương, 5 5 0- 560) và bà hoàng hậu dòng họ Lâu (?), thuộc thời Bắc Tề. Từ Hiếu Chiêu Đế lên ngôi (5 6 0) đến Vũ Thành Đế được truyền ngôi (5 6 1). Vị chúa sau tổng cộng chỉ có năm năm ( 5 6 1- 565). Thần tăng Thượng Viên Thích Thượng Viên, ngài vốn dòng họ Trần, sau khi xuất gia, ngài chuyên dùng chú thuật cứu giúp mọi vật. Thời nhà Lương (?), Võ Lăng Vương ở trong cung Tiêu kỷ, quỷ quái hay quấy rối, hoặc ca hát, hoặc khóc lóc, phân vân tạp loạn khắp cùng. Lăng Vương mới sai người có tài nghệ giỏi bắn dương cung đón bắn. Quỷ mới hiện hình, liền phóng tên bắn, quỷ bèn từ xa tiếp nhận trở lại ném vào người, suốt một thời gian lâu dài mà không chấm dứt. Nghe ngài trì chú, Lăng Vương thỉnh ngài vào trong cung, các loại quỷ lại đua nhau biến hiện các thứ thân hình rồng rắn, bỗng chốc trên không giữa đất biến hiện lắm thứ quái lạ. Ngài ngồi yên, bảo rằng: Này các quỷ nhỏ kia! Cớ sao dám vào trong cung vua? Nếu có khả năng biến hóa thân ta thì có thể biến ra muôn thứ. Chỉ là các ngươi dừng lại nghe ta nói một lời! Các quỷ bèn chắp tay đứng yên. Ngài bắt đầu phát ra lời: Nam- mô Phật-đà. Các quỷ đều biến mất ngay lập tức. Từ đó mọi người được yên tỉnh. Vua Vũ Đế (Tiêu Diễn, 5 0 2- 550), đời Nam Lương nghe thế bèn mời ngài thết tiệc thưởng đãi lớn. Ngài hưởng thọ tám mươi mốt tuổi, viên tịch ở tại Đô thành. Thần tăng Pháp Thông Thích Pháp Thông, ngài vốn dòng họ Mai, người ở Nam dương, Tân dã. Năm tám tuổi, ngài xuất gia, Trác nhiên thần tú, tánh ngay thẳng trinh khiết, thân hình như ngọc. Chỉ ăn dùng rau lá sơ sài, không mong cầu cao lương mó vị. Nhân đến Tương dương, ở suối Bạch mã, núi Tản cái tạo lập phương trượng, nương vào nơi đó làm nhà mà ở, giữa thung lũng đặt hai cơ sở Lan-nhã xá. Nay những người tuần du núi đó vẫn còn biết những sự kiện này. Vào thời nhà Lương, (?) Tấn An Vương đến Đô tương ung, thừa lúc gió thổi đến nên lại hỏi. Khi sắp đến thiền thất, cỡi ngựa đi theo, bỗng nhiên vô cớ, ngựa khựng lại thoái lui. An Vương hổ thẹn mà trở về, đêm đó cảm thấy ác mộng. Sau, đi đến một lần nữa, ngựa cũng tho- ái lui như trước, An Vương mới khiết trai rất mực thành kính mới được đến thấy. Lúc mới đến bên cạnh chùa, chỉ thấy một hang lửa dữ sáng rực, đứng nhìn giây lâu bỗng nhiên thấy lửa biến thành nước, phút chốc, nhìn lại trong nước thấy nhà hiện ra. An Vương đem việc ấy hỏi mới biết lúc đó là ngài đang nhập định Thủy hỏa. Trong nhà nơi tòa ngồi, ở hai đầu giường dây có hai con hổ, An Vương không dám bước đến. Ngài liền đưa tay đè đầu hổ xuống đất bịt hai mắt hổ lại rồi bảo An Vương đến trước, mới được hành lễ. Nhân đó, An Vương báo với ngài là ở nơi đây thường xuyên xảy ra tai nạn vì hổ, cầu xin ngài cứu giúp. Ngài liền nhập định, bỗng chốc có mười bảy con hổ lớn cùng nhau kéo đến, ngài trao truyền cho hổ pháp Tam quy giới, dạy răn chớ can phạm hại đến trăm họ. Ngài lại bảo đệ tử lấy vải y cũ buộc vào nơi cổ hổ. Ngài hẹn sau bảy ngày hãy lại đây. Đến kỳ hạn, An Vương tập chúng thiết trai và các con hổ cũng đến, liền cùng ăn và mở vải ở cổ hổ ra. Từ đó không còn có tai hại gì. Cũng trong ngày đó, ngài dẫn An Vương đến suối Ba- ïch mã, trong suối có con rùa trắng lội đến trong tay ngài để lấy thức ăn. Ngài nói với An Vương rằng: Đó là Hùng Long. Hơn nữa, ở suối Lâm linh có con cá chép năm sắc cũng đến nơi tay ngài lấy thức ăn, ngài bảo: Đó là Thư Long. An Vương cùng với các kẻ sứ đều tán thưởng điều đó, cùng ban thí cho cả hai loại vật đó. Có bạo hung đảng vây quanh khoảng vài mươi người, ban đêm đến muốn cướp trộm vật của người cúng thí, gặp hổ gầm thét ngăn chặn đường đi. Lại có một người lớn đứng dựa ở thiền thất, bên cạnh có cây tùng chỉ cao tới đầu gối, người ấy cầm chày vàng thủ hộ. Cuối cùng đêm cũng qua mau, đến trưa mai mới trở về. An Vương lấy làm quái lạ sự việc từ chiều hôm qua trở lại, mới đem mọi sự viết thành bài văn, bèn tấu trình triều đình xét biết. Triều đình ban chiếu tạo chùa Thiền cư, ngài không đến ở, mà cho người đến đó ở. Ngài ở tại thiền đường, thường có con nai trắng, chim tước trắng dần dần thuần phục đến nương ở. Ngài đi đứng luôn lấy tâm từ cứu hộ làm đầu. Có lần ngài gặp các người đồ tể trói buộc hơn trăm con heo, ngài ba phen trì tụng Thủ-lăng-nghiêm để cởi mở cho dân chúng, đàn heo đều bỏ chạy xa, các người đồ tể tức giận muốn hành hung, song, cả thảy đều cứng đờ bất động, bèn xoay về lỗi quá sám hối tội lỗi, nhân đó mà bỏ nghiệp sát sinh. Thêm nữa, ngài đến sông Hán, thấy các ngư phủ kéo lưới giăng cá, ngài cũng trì chú như trước, các ngư phủ kéo lưới không được cá, mới lại quy tâm mang lưới không mà trở về. Tại Kinh châu gặp nạn khổ hạn hán, chùa Trường sa sai Tăng đến chỗ ngài cầu mưa, ngài bảo trở về, thì mưa lớn, nước đầy ngập cả bờ hồ. Tương Đông vương nhân nghe thế, vội xa giá đến cửa núi bày lễ tương sư thỉnh ngài xuống thành đô, nhưng ngài khước từ không chấp nhận. Tương Đông vương mới rủ bỏ cung các tạo lập chùa Thiên cung. Rồi thỉnh đón ngài. Ngài mãi trú trên Ba Hạp Không Tấn Hồng. Tương Đông vương dùng gỗ bách làm chánh điện. Đến lúc cảm ứng phóng ánh sáng hơn mười ngày chẳng hết. Bên cạnh chánh điện, Tương Đông vương lại dựng lập bảo tháp, tăng phòng, giảng đường và dùng các thứ vương thục quý báu làm lộ bàn. Lập chùa Bảo quang, thỉnh ngài đến đó ở. Tương Đông vương thuật nghóa Bát-nhã, mỗi sáng mai sắp dựng nghóa, trong chánh điện thì ban đêm phóng ánh sáng chiếu soi đến vài dặm, không cần dùng đến đèn đuốc. Mọi người bàn luận đó là ánh sáng đại Trí tuệ Bát-nhã chiếu soi đến chốn u tối. Tháng 9 năm Đại Định thứ 5 (5 6 1), đời Hậu Lương, ngài bỗng nhiên không bệnh mà ngài thị tịch, ngài đoan tọa như lúc sinh tiền, thân hình mềm mại, trên đỉnh đầu ấm nóng, tay cong lại, hai ngón tay có hương thơm lạ phảng phất không thôi. Ngài hưởng thọ chín mươi hai tuổi. Thần tăng Tăng An Thích Tăng An, ngài vốn người ở đâu không được rõ, ngài rất tinh chuyên giới nghiệp khổ hạnh, khéo hay tọa thiền giảng giải. Người thời bấy giờ tôn xưng ngài là Bậc Đa năng. Trong thời vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương, 5 5 0- 560), đời Bắc Tề, ngài đến núi Vương ốc, nhóm chúng khoảng hai mươi người giảng kinh Niết-bàn. Ban đầu mới khai đề, có con chim tró mái (thư tró) đến bên tòa lắng nghe. Đến giờ chư Tăng thọ thực thì lại ra ngoài uống ăn, buổi chiều, ngài lên tòa giảng thì chim tró lại đúng giờ tìm tới. Ngài giảng chưa hết quyển ba thì tuyệt nhiên chim tró không đến nữa, chư Tăng đều lấy làm điều lạ. Ngài bảo: Con chim tró ngày nay đã sinh trong loài người, không có gì phải lấy làm lạ. Đến năm Vũ Bình thứ tư (5 7 3), đời Bắc Tề, ngài dẫn chúng đến Việt châu hành hạnh Đầu-đà, bỗng nhiên ngài bảo: Chim tró mái năm xưa ứng sinh tại vùng này. Đi đến một nhà nọ, từ xa, ngài gọi: “Thư tró”, có một bé gái chạy ra mừng rỡ như gặp gỡ người quen biết từ xưa, lễ bái hoan hỷ. Cha mẹ của bé gái lấy làm lạ, mới vào thiết trai cúng dường, ngài bảo: Cớ sao bé gái này đặt tên là Thư Tró? Đáp: Vì thấy bé lúc mới sinh, tóc trên đầu như lông chim tró, vì thế nên đặt tên bé là Thư Tró. Ngài cười lớn, thuật lại duyên xưa. Bé gái nghe xong, rơi lệ khóc lóc cầu xin xuất gia. Song thân vui vẻ liền chấp thuận. Ngài nhân đó mà giảng kinh Niết-bàn cho bén gái nghe, bé liền lãnh hội hiểu hết, không một sai lầm sót mất, đến cuối quyển ba thì mịt mờ không hiểu gì nữa. Thần tăng Phó Hoằng Đại só Phó Hoằng, ngài trú tại chùa Song lâm, huyện Ô thương quận Đông dương, thể quyền ứng đạo, tiếp nối Duy-ma, thời bấy giờ, ngài phân thân thường chuyên tế độ, ngài trú tại chùa Song lâm hoằng đạo giáo hóa, hoặc hiện ánh sáng vàng rồng phóng ra từ trước ngực, hương thơm khác lạ phảng phất từ trong lòng bàn tay. Hoặc hiện thân hình cao lớn hơn một trượng, tay dài quá gối, gót chân dài hai thước, ngón tay dài sáu tất. Hai mắt ngời sáng tỏ rạng như mặt trời mới mọc, sắc mạo đoan trang súc tích, có tướng Đại nhân. Lương Hiếu Vũ* nghe thế, mời ngài đến ở Kiến nghiệp. Ngài mới đến ở chùa Định lâm phía dưới Chung sơn, ngồi dưới bóng cây tùng cao, nằm trên bàn thạch, bốn bên thông suốt, sáu phía rộng thênh thang, hoa trời cam lồ thường rải nơi đất. Tại điện Trùng vân trong vườn Hoa lâm, nhà vua mở hội giảng kinh Bát-nhã, bày một giường tòa cùng với Thiên chỉ đối dương. Đến lúc xe ngọc lên điện mà ngài vẫn an nhiên tại tòa. Hiến Tư Nghị hỏi, ngài bảo: Pháp địa bất động, nếu động thì tất cả không an. Vả lại, ngài biết thời vận nhà Lương sắp hết nên thương xót cứu hộ binh tai, mới đốt cánh tay làm đốt mang tế xua họa đến. Đến năm Đại Kiến thứ nhất (5 6 9), đời nhà Trần, giữa mùa hạ, ở tại Bổn châu, ngài nghiêng về phía hữu mà nằm, bỗng nhiên thị tịch. Bấy giờ, mặt trời hừng đỏ, thân thể ngài ấm nóng, sắc vẻ tươi vui, dáng hình sáng sạch, có hương thơm thoảng cùng, tay chân co duỗi như thường, mọi người trông thấy, đều tán phục. Liền an trí ngài vào trong khám, trong suốt vài tuần, hương hoa tam tụ. Sau, bỗng nhiên biến mất, mọi người đều chiêm ngưỡng không thấy, bèn gào khóc kính mộ càng sâu xa, tiếng ngất buồn thương nghẹn cả hang núi. Đầu tiên, ngày ngài còn tại thế, thường vì kinh mục phiền nhiều, mọi người không thể đọc xem hết, mới đến trong núi tạo lập một khám lớn chỉ một cột trụ, có tám mặt, bởi kinh vận hành không trở ngại, nên gọi khám đó là Luân Tạng và ngài có lời nguyện rằng: “Nếu ai lên đến nơi cửa Luân Tạng của tôi thì đời đời kiếp kiếp chẳng mất thân người.” Ngài từng khuyên người đời, nếu ai phát tâm Bồ-đề hay đến Luân Tạng thì cũng giống như đã trì tụng các kinh công đức rồi. Ngày nay, trong thiên hạ kiến lập Luân Tạng cũng đều thiết trí tượng Đại só. Trong núi có cây tùng xưa, ngài từng trú tại cây tùng ấy, nguyện độ chúng sinh, dùng búa bặt mà phát lời thề, đến nay vết dấu búa vẫn còn. Ngài đem cơm thừa thí cho hổ ăn quăng vải giữa rừng đều hóa thành đá xanh trắng hổn tạp có thể dùng làm hạt tràng, gọi đó là cơm đá, đến nay hãy còn, những vết tích linh dị, không thể ghi hết. Thần tăng Tuệ Tư Thích Tuệ Tư, ngài vốn dòng họ Lý, người xứ Võ tân. Thuở thiếu thời, tâm ngài rộng lượng bao dung có tiếng trong xóm làng, ngài thường mộng thấy có vị Phạm Tăng khuyên ngài xuất tục. Ngài thức giấc tỉnh ngộ điềm lành đó, bèn từ thân nhập đạo. Một vài lần, ngài mộng thấy Thần tăng khuyên nên hành trì trai giới. Ngài chỉ ăn mỗi ngày một bữa, không thọ biệt cúng, ngài nương ở nơi một am cốc, có kẻ dã nhân thiêu đốt chỗ ngài ở bèn bị bệnh dịch lệ, cầu khẩn chí thành sám hối, bệnh hoạn tiêu trừ nên được bình phục. Ngài lại mộng thấy vài trăm vị Phạm Tăng thân hình trang phục khắc viền khác lạ lên tòa, bảo ngài rằng: Ông trước kia thọ giới luật nghi chẳng phải ưu việt, làm sao có thể khai mở chánh đạo? Nay đã gặp được thánh chúng thanh tịnh nên lại lập đàn, thỉnh cầu sư Tăng bốn mươi hai vị tác pháp Yết-ma. Sau khi thành tựu giới cụ túc bỗng nhiên ngài đại ngộ mới biết rằng thọ giới trong giấc mộng. Ngài lại mộng thấy Đức Di-lặc, được Đức Di-lặc nói pháp khai ngộ, nên ngài tạo hai tôn tượng và đều cúng dường. Ngài lại mộng thấy được theo Đức Di-lặc cùng các quyến thuộc đồng hội Pháp hoa. Trong tâm ngài tự suy nghó rằng: “Ta ở trong thời mạt pháp của Đức Thích-ca thọ trì kinh Pháp Hoa, nay gặp được Đức Di-lặc Từ Tôn bỗng nhiên khai ngộ.” Ngài lại càng tinh tấn. Các điềm linh dị lại chồng chất như trong bình nước thường đầy, cúng dường nghiêm trang hoàn bị như có Thiên đồng đến hầu vệ. Từ núi Đại tô, ngài dẫn hơn bốn mươi vị Tăng đi đến Nam nhạc. Đã tới nơi rồi, ngài nói với đồ chúng: Ta nương náu núi này với kỳ hạn mười năm, từ đó về sau ắt sẽ viễn du. Ngài nói: Ta đời trước từng ở nơi đây nhiếp lãnh đồ chúng. Leo lên một đỉnh núi thấy có Lâm Tuyền thắng dị, ngài bảo: Đó là chùa xưa. Xưa kia ta ở tại đó! Mọi người đào bới đất lên, quả thật thấy có các thứ khỉ mảnh vật dụng của Tăng và nền móng điện vũ. Ngài lại chỉ dưới hai tảng đá đào lên nhặt được hài cốt, bèn xây dựng tháp. Nay là tháp Tam sinh. Lại ở phía Đông bờ bên cạnh của Linh nham, xây dựng đài. Ngài vì chúng giảng pháp Bát-nhã. Ngay giữa tim của đại nhạc, nay là chùa Bát-nhã. Bấy giờ, học chúng khắp cả Nam bắc tụ hội, ngài sợ lo không có nước, bỗng thấy dưới lớp đá nham có ẩm ướt, ngài dùng gậy thọc xuống, quả thật có được khe suối, song, vẫn chưa nhiều nước. Có hai con hổ dẫn ngài lên đỉnh núi, nhảy cẫn giữa đất gầm gừ, nước suối tuông chảy tán loạn, nay là suối Hổ bào. Có người hỏi: Sao ngài không xuống núi để giáo hóa chúng sinh mà mãi ngắm nhìn mây nước lững lờ làm gì? Ngài bảo: Ba đời chư Phật, ta đều ngậm nuốt hết trong miệng, làm gì còn có chúng sinh đáng độ ư?” Tại Giang đông, Phật học rất thạnh môn học nghóa. Từ lâu ngài đến Nam nhạc thì Định Tuệ đều song hành, Đạo Phong đã thạnh, tiếng tăm vang cùng. Có vị đạo só sinh tâm ganh tî muốn hại, kính báo cùng Trần chúa vu khống về ngài là chúng Tăng phương Bắc nhận khoáng nước Tề chặt đẽo trên núi đóng đá dựng yêu. Trần Chúa mới sai sứ lùng đuổi bắt ngài, kẻ sứ vừa đến cầu Đá, bị hai con hổ tức giận và rắn lớn ngăn chận đường. Kẻ sứ kinh sợ mới lập lời thề rằng: Ta được thấy Thiền sư Tuệ Tư thì cứ tưởng như là Phật, nếu ta khởi tâm ác thì tùy ý các ngươi làm hại thương tổn. Hổ và rắn bèn lui nhường đường. Kẻ sứ đến được thấy ngài, liền đảnh lễ và đem sự việc trình thưa. Trước lúc kẻ sứ chưa đến, ngài thấy một con ông nhỏ đến đốt ngay mặt ngài, bị một con ông lớn cắn giết nuốt ngay trước mặt ngài. Ngài bèn nhập định để quán chiểu, nên biết đó là oan khiên đời trước muốn cùng nhiễu hại. Ngài bảo kẻ sứ rằng: Sứ giả nên đi về trước, bần đạo sẽ theo sau. Bảy ngày sau, ngay nay tích trượng rảo quanh bốn cửa, sứ thần trông coi các cửa đều vào tấu trình ngài vào. Trần Chúa đã kinh dị, đến lúc ngài đến ra mắt, Trần Chúa bèn xuống nghênh đón. Trần Chúa hỏi quần thần: Các khanh, thấy vị Tăng này là người như thế nào? Tâu rằng: Tăng bình thường. Trần Chúa bảo: Trẫm thấy ngài đạp hoa báu cởi giữa khoảng không mà đến. Trần Chúa bèn nghênh đón ngài vào điện và cúng dường. Vị Đạo só kia bởi tội khi dối nên Trần chúa muốn giết, ngài khẩn cầu, nói với Trần Chúa rằng: Đây là oan khiên đời trước, mong bệ hạ tha cho. Trần Chúa bèn ban lệnh đạo só ấy lo cung cấp hầu hạ ngài. Ngài tâu khước từ trở về lại núi. Trần Chúa dùng lễ đặc thù tiễn đưa ngài. Sau đó không lâu, đạo só đó lại vu khống ngài là “Một người bạo tử, là một người bị chó cắn mà chết nên có điềm ông chính như.” Từ đó, mỗi năm, Trần Chúa ba lần thăm hỏi, sự vinh thạnh chẳng thêm mà thần dị khó thể lường. Ngài đi trong mưa chẳng ướt, lội giữa bùn sình chẳng dơ, hoặc hiện hình lớn nhỏ, hoặc vắng lặng ẩn tàng thân…. Tháng sáu năm đó, trước lúc viên tịch, ngài nói pháp liên tục ngày nay sang ngày khác, đinh ninh tha thiết ha trách, người nghe đến nỗi lạnh tim. Đến ngày 22, giữa chúng bình lặng, ngài thị tịch, ngài Linh Biện khóc gào, ngài mở mắt ra bảo: Cớ sao kinh động ta? Kẻ si sống ngoài chánh pháp! Nói xong, ngài viên tịch. <篇> TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 5 Thần tăng Phổ Minh Ngài Phổ Minh vốn tên là Pháp Minh, dòng họ Chu, người xứ Cối kê. Thuở thiếu thời, ngài đã có một ít chí khí tiết tháo khác thường. Có vị Tăng đến nhà khất thực, nhân đó khuyên ngài rằng: Ông đã có thiện tánh, có thể đến núi Thiên thai xuất gia. Tại đó, có bậc Bồ-tát sơ địa hiện đang thường trú giảng pháp. Năm Thái Kiến thứ 14 (5 8 3), đời nhà Trần, ngài vượt rừng băng suối tìm đến Thiên thai, gặp được Đại sư Trí Giả đang giảng pháp. Ngài Trí giả cười, nói: Do nguyện lực xưa kia, nay được cùng gặp. Ngài theo ngài Trí Giả đến chùa Ngọc tuyền ở Kinh châu. Ngài thường ở bên dòng suối khổ luyện chuyên chú tư duy. Ngài Trí Giả trở lại núi Thiên thai, tạo một đại hồng chung để cúng dường tại núi Thiên thai, kẻ tăng người tục ở Giang lăng tranh nhau cúng dường để đúc chuông. Đương lúc gần rát đồng, có một người mù đến xem, ngài xem xét cơ duyên biết được tướng không thành tựu. Quả thật đúng vậy, khi đập vỡ khuông thì chuông bị phá sứt khuyết. Sau ngài trở về phòng riêng ở tịnh xá Quốc thanh, ở đó cách nước hơi xa, tại đầu phòng một khoảng đất trống thuần toàn đá cứng. Ngài hoài niệm rằng: Nếu như ở khoảnh đá này có dòng suối chảy ra thì còn gì khoái hơn bằng ư? Nói xong, sau vài ngày sau đó, từ trong đá bỗng nhiên có dòng nước tuôn chảy khắp cùng Đông tây chùa Quốc thanh. Trong khoảng thời nhà Tùy, vua Cao Đế trị vì ( 5 8 1- 618), ngài cảm thấy giảng đường nhỏ hẹp nên muốn phá để xây rộng lớn hơn. Ngài cùng thương lượng với Thiền sư Đảnh. Thiền Sư Đảnh khuyên ngài chớ sửa lại. Có Hoạt Châu Đô Đốc Chu Hiếu Tiết từ xa nghe việc đó, nên đem cúng dường gỗ sam làm cột trụ bềnh bồng bằng đường biển đưa đến. Thiền sư Đảnh hướng về Xích thành cảm thấy ngài Phổ Minh thân cao hơn mười trượng, cao vượt trên rừng tùng. Có khoảng hai mươi người theo phụ giúp nói với Thiền sư Đảnh rằng: - Huynh chớ khổ công cản ngăn, sự việc ước nguyện ắt sẽ thành tựu! Thiền sư Đảnh biết đó là Thần Dị, bèn chắp tay đáp rằng: Không dám còn can gián, mỗi một đều y theo nhân giả. Ngày dựng giảng đường cảm động đến Sơn vương, từ sáng sớm ẩn chẩn loáng thoáng, hình trạng tợ như sấm động, xô cây nghiêng cành mở rộng cả trăm bước từ nơi bệ Phật thẳng xuống đến chùa. Đến chiều tối thì hoàn phục lại vết tích y như cũ, âm Ba của đá văng rơi loảng xoảng tựa thế như mới đến. Ngài lại nguyện cùng kẻ tăng người tục tạo lập điện đường, chú nguyện đúc tôn tượng Đức Tỳ-lô-xá-na, thân ngồi cao trượng sáu bằng vàng đồng. Bấy giờ có một người tự xưng là ở thôn Tào khê đến, đem cúng thí mười một lượng vàng để vào chú tượng. Hỏi đến họ tên thì không chịu nói, người đó lễ bái rồi từ biệt thoái lui. Sau, đi hỏi khắp thôn Tào khê, không ai biết người đó. Lại nữa, thị giả ở cạnh phòng thường nghe trong phòng ngài có tiếng nói chuyện với người khác, nhưng đến xem thì không thấy hình bóng ai khác. Và những tiếng được nghe toàn là khuyên tu thiện. Thế rồi, hóa duyên sắp mãn, thời gian cũng đến, vào một sáng sớm, ngài gọi các đệ tử đến bảo: Phàm thọ mạng của người không thể trường tồn, khuyên cùng các vị nên khéo biết như thế! Nói xong, ngài tự cởi bỏ chiếc áo mới sạch mà mặc vào chiếc áo cũ rách. Thay đổi mới xong, bỗng nhiên, ngài thị tịch. Thần tăng Huyền Quang Ngài Huyền Quang, người ở Hùng châu; Hải đông, tuy tuổi trẻ mà ngài đã thông minh đỉnh đạt, ngài đến Hành sơn, được gặp Hòa thượng Tư Đại. Sau, ngài chống tích trượng trở lại Giang nam thuộc bổn quốc, ngài nương thuyền lớn nhờ chở mới rời bờ. Khi đó, mây tơ loạn mắt, nhã nhạc vang giữa không trung ráng tiết cầu vồng. Giữa không trung có tiếng truyền hô rằng: Thiên Đế thỉnh mời Thiền sư Huyền Quang ở Hải đông. Ngài khoanh tay lánh nhường, chỉ thấy một thanh y (kẻ tớ) dẫn đường, bỗng chốc vào cung thánh. Thả nhìn ở đó khác hẳn cung phi ở dân gian, bày thiết vũ vệ không khác gì các loài có vảy có vỏ, xen tạp cả quỷ thần. Có người bảo: Ngày nay Thiên Đế xuống cung Long vương, thỉnh ngài nói pháp môn thân chứng. Bọn chúng tôi ở thủy phủ, mong ngài làm lợi ích! Ngài đã lên bảo điện, kế đến là lên trên đài cao, tùy như điều mà luận bàn, sơ lược trải qua bảy ngày. Sau đó, Long vương đích thân tiễn biệt ngài. Thuyền lớn cứ bồng bềnh giữa bể khơi không đi, khi ngài bước lên thuyền rồi, mọi người trong thuyền cứ tưởng rằng chỉ mới được nửa ngày, ngài về lại Hùng châu, tại Công sơn dựng tích kết am mới thành Phạm vũ. Về sau, không biết ngài đi đâu! Thần tăng Minh Đạt Thích Minh Đạt, ngài vốn dòng họ Khương, tổ tiên ngài là người nước Khương Cư. Ngài xuất gia từ tuổi thơ bé, nghiêm trì trai giới, đến năm thọ giới cụ túc thì hạnh nghiệp đã cao xa. Hông ngài chưa đặt dính chiếu, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngoài thì biểu lộ nghi quỷ, trong chứa nhân đạo thọ, thường ôm hoài cứu tế, chuyên hành du hóa. Khoảng đầu niên hiệu Thiên Giám (5 0 2), đời Nam Lương, từ Tây nhung, ngài đến Ích quận, bấy giờ tại Ba lăng, Man Di Cổ Xúy đánh cướp, khắp châu quận chúng binh định kỳ đánh giết. Ngài thương họ sắp phải chịu khổ nạn nên ý chỉ muốn cứu giúp, một mình ngài đến trong giặc leo lên trên thành lũy, an ủi khuyên răn chiêu dẫn chưa quen tình ý. Bỗng chốc, gió mưa úp tới tối mù, sấm sét chấn động nổ vang. Bọn giặc kinh hãi, xót xa ẩn cầu ai thiết. Ngài bèn dạy sắm đủ ngàn ngọn đèn, chí thành cầu nguyện Tam bảo. Sắm tạo lập xong thì trời tối dần dần, tan mưa, núi đầm thông khí, đất trời sáng rạng, hợp nhau trông nhìn lại nước nhà và mọi người đều theo Vương Hóa, các đường giao thông sông bộ qua lại thông thương không cản trở. Sau, nhân đi thú, giữa đường gặp một người trói buộc con heo con giữa đất, con heo gọi tiếng người: Cầu xin thượng chánh cứu tôi! Ngài liền cởi áo để chuộc lấy nó và thả ra. Ngài thường trong đêm đòi lấy nước rửa chân, đệ tử vâng làm, mà bùn dơ trọn chẳng sạch, lấy nướn nóng để rửa cũng không đi như trước, ngài bèn tự lấy nước dội rửa đi thì chân liền sạch. Ngài bảo đó là cá. Lại cũng chẳng biết từ đâu có. Đến núi Ngưu đầu ở Tử châu, ngài muốn tạo dựng bảo tháp và tinh xá, không vì đó hỏi gỗ đá mà tìm ngay công thợ. Kẻ Tăng người tục đều lấy làm lạ điều ngài nói. Đến tháng 3, nước khô cạn liền xuống tìm cầu gỗ, mới ở trong nước có được một cây gỗ dài lớn, chính đáng làm cột trụ chùa, dài ngắn đều hợp độ, thêm dùng vui mừng, ngài bèn kéo lên dựng đứng dậy. Đến giữa tháng tư, sông Phù nước đầy tràn, gỗ trôi về ứ nghẹn cả dòng, tự cặp vào bờ thôn, đều không trôi chảy. Ngài dẫn cả kẻ tăng người tục cùng đến tiếp lấy dựng chất đầy núi, tạo dựng đường vũ giá tháp ba tầng, mọi người xa gần đều hợp lực tu tạo, khiến chẳng quá thời hạn mà tự nhiên thành tựu. Ngài thường mặc ba y đều là vải bố thô xấu, rách thì liền vá, nóng lạnh chẳng đổi. Có lần, ngài đang nhập định tại thằng sàng, bỗng nhiên nổi lửa, Tăng chúng đến dập tắt, ngài chỉ cảm thấy trong mát. Sa-môn Tăng cứu trước kia bị hoạn tật co quắp đến xin cứu chữa, ngài bèn trao cho tích trượng vào bảo chống đi, chẳng rời tất bóng, thốt nhiên trở lại. Lại nữa, trong lúc cử hành lễ Bồ-tát, ngài ngồi trước chúng, nhân có kẻ trộm khoét tường vào lấy đồ vật đã mang ra ngoài, bèn liền mê loạn phương hướng nên mang trả lại chùa. Ngài bèn khuyên dụ rồi cho đi. Đến năm Thiên Giám thứ 15 (5 1 6), ngài theo Thỉ Hưng Vương trở về lại Kinh châu. Qua mùa Đông tháng chạp, ngài viên tịch tại Giang lăng. Thần tăng Đạo Thuấn Thích Đạo Thuấn, không biết ngài la người xứ nào. Ở chốn suối rừng thanh vắng Vương đạo tự ẩn. Ngài nói năng thường hay mỉm cười, bàn thuật cao xa. Ngài thường dừng ở núi Dương đầu, Trạch châu, chỗ thần nông định dược, dựng nhà bằng cỏ tranh, ngoài ra không tích chứa gì khác. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngài thường ngồi trọn năm, cảm đến răn chuột đồng ở chung tại giường dây, mỗi loài tự ấp ủ sản sinh, chẳng hề làm não loạn nhau. Lại có hổ đến ngồi quỳ bên cạnh, ngài nhân đó nói pháp. Có người đến dừng ở, ngài bảo hổ đi, hoặc ngài nói với nó rằng: Ngày mai có người lại, ngươi khỏi phải đến. Hổ liền theo lời ngài mà không đến. Các người cung cấp hầu cận ngài ở chung với hổ, thân thiết như chó với người trong nhà, chẳng lo sợ gì. Ngài thường mặc áo nạp thô xấu, chẳng hề chọn lựa, đi chân trần giữa núi rừng hay đồng nội, chẳng hề sớm tối. Đầu niên hiệu Khai Hoàng (5 8 1), đời nhà Tùy, bỗng nhiên ngài đến trong tụ lạc nói pháp giáo hóa, dân chúng trong các thôn đều đến thọ pháp. Riêng chẳng vì một người nữ thọ giới, ngài bảo rằng: Ngươi sẽ sinh trong loài bò, tướng đó đã hiện, giới không thể cứu ngươi được, nghiệp bất định mới có thể cứu giúp. Bấy giờ có người không tin, cho rằng ngài mê hoặc quần chúng và mọi người đều có sự nghi ngờ. Ngài muốn quyết dứt mọi mối luận bàn, bảo với mọi người rằng: Nếu không tin, hãy thử đạp vào đuôi bò, ảnh nghiệp hẳn sẽ chẳng khởi dậy. Liền đưa chưng đá ra phía sau quần người nữ giữa khoảng đất trống, bảo: Đó là ảnh đuôi bò. Người nữ ấy y theo lời nói, đứng dậy không được. Bấy giờ, mọi người đều kinh sợ tin nghe và cầu thỉnh ngài: Vậy làm sao đoạn trừ nghiệp báo ấy? Nhà người nữ ấy cất chứa cả vài muôn thạch lúa thóc, do đã sợ nghiệp xấu ác nên đã xả bỏ, ngài đều vì tu tạo phước đức, bảo người nữ ấy sám hối, như vậy nghiệp ác chất chứa tạo tác bấy lâu, thảy đều tiêu hết, ngài nhân đó mà cho thọ giới. Ngài đến trong các xóm làng có người bị bệnh dịch lệ, thọ nhận sự cúng dường của họ, hoặc thấy có người bị máu mủ ràng rụa chạy tràn, đều đưa miệng mà hút lấy. Tâm tình ngài không khởi niệm ác, hoặc giặt rửa y phục cho người bệnh, hoặc điều trị yên tịnh tâm nghiệp của họ, làm như cho chính tự mình, biểu lộ tình cảm vui vẻ không có gì phiền muộn. Sau, ngài đến các nơi Lâm Lự Hồng Cốc, phía Bắc đến đình Tấn bàng… các chùa núi ẩn, hợp cả thiền định tinh chuyên. Không biết cuối cùng ngài thế nào! Thần tăng Đạo Tiên Thích Đạo Tiên, ngài còn có một tên là Tăng Tiên. Vốn người nước Khương Cư. Đầu tiên, ngài lấy việc buôn bán làm nghiệp sống. Sau, ngài gặp được Thiền sư Tăng Đạt vì ngài mà giảng pháp, ngài bèn nhận chìm thuyền báu giữa dòng sông, giả từ vợ con, đến chùa Trúc lâm; Quán khẩu cầu xin xuất gia. Trong ngày xuống tóc, ngài đối trước đại chúng, phát nguyện rằng: Nếu không đắc đạo thì không ra khỏi núi này. Liền vội dứt tuyệt vết trần, lập am nơi đỉnh non cao khúc khuỷu, các bạn đồng học thuyền lần lượt khó khăn. Mỗi lần xem kinh, vừa mới mở quyển, ngài liền thấy Phật tại chỗ ấy, không lúc nào chẳng nghẹn ngào thầm trách: Con sao không được gặp Phật mà chỉ được thấy Di Văn! Song, ngài trội vượt cao vót hơn hẳn, chẳng cùng cầm thú nương náu trong đồng nội. Có người mới đến học hỏi, ngài đều khéo léo dẫn đáp hợp cùng chánh pháp. Ngài từ lúc mới nhập định, mỗi lúc tọa thiền thường là bốn, năm ngày. Định biết có khách đến ngoài cửa, ngài điềm nhiên liền xả và ra cùng tiếp đón. Nếu không người đến, ngài đoan tọa trong tónh thất, vắng lặng như hư không. Có lúc ngài dự báo ngày mai có khách đến, cho đến cả trăm ngàn người đều đúng số lượng như ngài nói; không thiếu không thừa. Thời Nam Lương, Thỉ Hưng Vương lặng lẽ vén màn Tam Thục, dùng lễ kính ngài dẫn đến Thiểm tây. Đến lúc, Đạo quán sùng mở khăn vải phân lớn; thuộc cùng bái kích rất là khổ tâm, mà ngài vẫn an nhiên như từng không gì khinh thường. Một đêm nọ, các Đạo só bỗng thấy ở sườn núi phía Đông có lửa cháy, sợ rằng lửa trong đồng nội thiêu hại đến ngài, mỗi người vội mang bình nước đến cứu, thấy ngài ngồi ngay ngắn trong lửa dữ chói lọi sáng suốt, đều tán thán ngài là Hỏa Quang Thần Đức. Các Đạo Só Lý Học Tổ… xả bỏ ruộng vườn tạo lập tôn tượng chùa tháp hoàn thành, mọi người xa gần quay về kính tin, trong mười nhà có hết chín nhà. Châu thứ sử Bà Dương Vương khôi cung kính lễ thọ pháp. Cuối niên hiệu Thiên Giám (5 2 0), Thỉ Hưng Vương minh cảm, tạo tượng Tứ Thiên vương ở chùa Long thái, mỗi tháng cứ sáu ngày trai thiết bày tịnh cúng. Sau, ngài phó hội, trên đảnh tượng trí thiên vương tỏa phóng ánh sáng năm sắc. Lò hương ngài đang nắm trong tay, tự nhiên phát lửa. Xưa kia, trong những tháng ngày vi tiện, thái úy Lục Pháp Hòa từng ở tại núi vài năm cúng dường cung cấp hầu hạ ngài, có vị Tăng tứ ý trách móc: Đó là Tam Đài Quý Công, duyên cớ gì mà mắng nhục? Bây giờ không thể lường nhưng về sau là quý! Quả thật, Pháp Hòa bèn thăng Cổn Phục. Mỗi lúc, ngài bị lao nhọc tật bệnh, thấy có đồng tử mặc áo lụa từ trong nước khe xanh ra, bưng đầy bát diệu dược quỳ mà dâng ngài uống, không bao lâu liền khỏe mạnh. Ngài sống trong núi hai mươi tám năm, sau đến các tỉnh lạc, đại hành hóa đạo. Bấy giờ gặp lúc hạn hán, trăm họ đều thỉnh cầu, ngài liền đến hang rồng, dùng gậy gõ cửa, gọi vài tiếng: Chúng sinh ơi! Sao ham ngủ vậy? Nói rồi trở lên, bỗng nhiên mây phủ tứ phía, mưa tuông khắp nơi. Dân chúng thấm đượm ân trạch ấy, đếu đến cúng lễ đáp đền, khâm kính như thiên thần. Có pháp sự cần đến xá-lợi, ngài liền vì cầu thỉnh, ứng niệm liền đến như sự mong cầu. Thời nhà Tùy, Thục Vương Tú trấn tại Môn lạc có nghe đến thanh danh ngài, liền sai sứ đến tìm mời. Ngài đến nhưng không vâng mạng, Thục Vương bỗng nhiên tức giận đổi sắc mặt, đích thân thống lãnh binh trượng đến núi tìm bắt ngài, hẳn nếu cố ý tức là gia hình. Ngài nghe binh lính đến, đều không tỏ ra lo sợ. Ngài lấy y Tăng-già lê đắp vào, đoan tọa niệm Phật. Thục Vương đến chân núi, bỗng nhiên mây mưa tụ tập, bảo tuyết đùng đùng lăn xuống, nước dâng tràn sông khỏa lấp xe cộ, vô phương kế tính, sự việc đã quẩn bách, Thục Vương mới từ xa hướng vọng lễ sám. Nhân đó, trời quang mây tạnh, mưa dứt, đường núi sạch sẽ thênh thang, nên đến được chỗ ngài cư trú. Thục Vương đích thân tận kính, ngài nhân đó nói pháp. Thục Vương lại phát khởi tín tâm, mới thỉnh đón ngài về thành đô, trú tại chùa tónh chúng, Thục Vương sùng ngưỡng lễ hậu, cả nước đều tôn kính, tôn xưng hiệu ngài là: Đạo Tiên Xà-lê. Niên hiệu Khai Hoàng ( 5 9 0- 601), ngài trở về chùa núi, đường sá sạch sẽ do thần núi quét dọn trước. Ngài thọ hơn trăm tuổi, ngài đoan tọa mà thị tịch. Thần tăng Pháp An Ngài Thích Pháp An, dòng họ Bành, người xứ Thuần cô; An định. Xuất gia từ thuở thiếu thời tại tinh xá Cửu lủng, núi Thái bạch. Ngài kính mộ chuyên tu thiền pháp, thường ăn mặc thô sơ chó đến tuổi già. Niên hiệu Khai Hoàng ( 5 9 0- 601) thời nhà Tùy, ngài đến Giang đô lệnh Thông Tấn Vương. Bấy giờ, vì tướng mạo ngài thấp xấu, nói cười khinh cử, chẳng tỏ vẻ thông minh. Ngày mới đến cửa, dụ khiến chẳng đi, thử bày thần thông. Nhà vua nghe vậy mời vào, cũng thấy như cũ, ngài bèn trú tại chùa Tuệ nhật, mỗi lần nhà vua du lý hẳn mang theo tùy tùng và xa giá, khi đến núi Thái, gặp phải khát nước nhìn xem bốn phía thảy đều núi cao, chẳng do đâu mà tìm nước, ngài dùng dao mổ đa dẫn nước đổ xuống để cấp dùng. Nhà vua lúc ấy vô cùng khen ngợi, hỏi ngài đó là thần lực gì. Ngài đáp: Đó là sức lực của nhà vua vậy! Đến lúc ngài theo nhà vua vào sa mạc, đến trong biển bèn gặp phải biến loạn, ngài đều dự liệu lánh khỏi, không tổn hại gì. Sau, ngài đến chùa Thần thông ở núi Thái, có vị Tăng lại thỉnh bố thí, ngài vì đến đó, tự tay nhà vua viết lên vách chùa để ủng hộ. Lúc đầu cùng nhà vua mới vào hang, thấy một vị Tăng mặc áo xấu cởi con lừa trắng mà lại, nhà vua hỏi ngài: Đó là người nào? Ngài đáp: Đó chính là Lãng Công, người sáng lập chùa Thần thông, nên lại đón dẫn. Đến lúc vào tới trong chùa lại thấy một thần trạng rất vó đại, tại trên giảng đường, tay tựa vào mép chim cú tai mèo nhìn xuống mọi người. Nhà vua lại hỏi, ngài lại đáp: Đó là thần núi Thái bạch, người từng theo nhà vua. Từ đó về sau, ngài có rất điều khác lạ không thể ghi chép hết. Đến năm Khai Hoàng thứ 11 (6 0 1), đời nhà Tùy, khắp bốn phương có lắm biến nạn. Ngài không bệnh, tự nhiên viên tịch tại chỗ ngài ở, hưởng thọ chín mươi tám tuổi. Thần tăng Trí Khải Thích Trí Khải, ngài tự là Đức An, dòng họ Trần, người xứ Dónh xuyên. Thân mẫu của ngài dòng họ từ, mộng thấy khói hương năm sắc vầng quanh bào thai, nên muốn phá bỏ. Nghe người nói rằng: Do nhân duyên đời trước nương gá đường sinh, phước đức tự có, cớ sao muốn phá bỏ? lại mộng thấy ngậm nuốt chuột trắng, như vậy hai ba lần, bà lấy làm lạ nên đi bói xem, thầy bói đáp: Đó là điềm Bạch Long. Đến đêm ngài chào đời, trong nhà sáng rực, suốt hai đêm sau, ánh sáng ấy mới hết. Bỗng nhiên có hai vị Tăng đến gõ cửa, bảo: Lành thay! đứa trẻ đức trọng hẳn sẽ xuất gia. Nói xong, liền ẩn mất. Năm mười tám tuổi, ngài đến chùa Quả nguyện ở Tương châu cầu xin Sa-môn Pháp Tự xuất gia. Một hôm, nhân nói về Thiền môn dùng biểu tâm thanh tịnh, trong khoảnh khắc mỗi mỗi tự nghó đến rừng đầm, ngài mộng thấy trên đỉnh núi cao vời muôn trùng, mây rủ nữa bóng mặt nhật, bên cạnh biển cả không bờ sâu lắng, ngài đến bên dưới đó. Lại thấy một vị Tăng vẫy tay duỗi cánh đến sườn núi kỳ kéo ngài lên. Ngài đem mọi điều thấy biết trong mộng nói cùng mọi người. Mọi người đều bảo: Đó là núi Thiên thai ở Cối kê, là chỗ các bậc Thánh hiền nương trú. Trước kia có ngài Định Quang, người xứ Thanh châu ở tại núi đó lâu bốn mươi năm, gồm thông định tuệ. Đó là thần nhân. Sau đó, chưa tới hai năm, ngài dự báo với dân núi rằng: Có vị đại Thiện tri thức sắp đến đây, nên trồng đậu làm tương bện cỏ làm chiếu, xây dựng thêm phòng nhà để chuẩn bị tiếp đón.” Ngài đến núi Thiên thai, lên đến núi, được gặp ngài Định Quang liền tỏ bày thường yếu. Ngài Định Quang bảo: Đại Thiện tri thức! ngài còn nhớ tôi năm trước đứng trên núi đưa tay vẫy gọi ngài chăng? Ngài Trí Khải vô cùng ngạc nhiên, biết rõ có thật trong mộng. Lại nghe tiếng chuông vang khắp thung lũng, mọi người đều lấy làm lạ, ngài Định Quang bảo: Tiếng chuông là chiêu tập những ai hữu duyên. Các ngươi đã đắc trú. Ngài bây giờ mới là đang ở thắng địa. Phía Bắc chỗ ở của ngài Định Quang là núi Phật lũng, phía Nam là dòng Loa khê. Ở chốn cao nhàn dễ được tầm chân, đất bằng suốt trong, bồi hồi dừng nghỉ qua đêm. Bỗng chốc thấy ba người chít khăn đen mặc áo khảm, đội sớ thỉnh rằng: Ngài có thể trú tại xứ này hành đạo. Sau, ngài Trí lưu tại ngọn núi Hoa đảnh phía Bắc chùa, hành ha- ïnh Đầu-đà. Gió lớn thổi lay nhổ cây, sấm sét rống động, ly mî ngàn đàn một hình trăm trạng, nhổ khạc phun lửa, tiếng kêu hãi hùng khó tả. Ngài mới nén tâm an nhẫn, điềm nhiên tự mất. Lại mắc phải bệnh hoạn, thân tâm thống não như bị lửa đốt. Lại thấy song thân đều qua đời kê đầu trên đầu gối, tỏ bày khốn khổ, ai cầu cứu giúp. Ngài lại y nương pháp. Nhẫn chẳng động như núi, nên khiến hai duyên cương như chiêu cảm đều diệt. Bỗng nhiên đến Tây Vực, có vị Thần tăng bảo rằng: Chế phục thắng oán ấy mới là dũng. Mỗi năm đến mùa Hạ, ngài thường giảng kinh Tịnh Danh, bỗng thấy ba đạo thềm báu từ không trung giáng xuống, có vài mươi vị Phạm Tăng nương thềm mà đến, vào trong giảng đường lễ bái, tay bưng lò hương đi nhiễu quanh ngài ba vòng, lâu sau mới biến mất. Ngài đến núi Ngọc tuyền, huyện Đang dương dựng lập tinh xá, triều đình sắc cấp biển ngạch chùa đề hiệu là Nhất âm. Chỗ đất đó xưa kia chỉ là hoang vắng nguy hiểm, thần chú rắn bạo. Từ sau khi tạo lập chùa trở lại, an lạc không ưu hoạn. Mùa xuân năm đó trời nắng hạn, mọi người đều cho là bởi thần tức giận, ngài đến nguồn suối dẫn chúng tụng kinh, liền cảm mây nhóm mưa tuông. Các lời hư cuống tự diệt. Tấn Vương Tiêu Phi bị bệnh khổ, các thầy thuốc hết phương chữa trị. Tấn Vương sai khai phủ Liễu cố ngôn… mang thư đến cầu thỉnh xin ngài cứu giúp bệnh khổ. Ngài lại dẫn chúng thiết lập trai pháp bảy ngày, hành trì sám pháp kim quang minh. Đến hôm thứ sáu, bỗng có con chim khác lạ bay đến trai đàn, uyển chuyển mà chết, phút chốc lại bay đi. Lại nghe tiếng heo ngâm. Cả chúng đều đưa mắt chăm chú nhìn. Ngài bảo: Tướng ấy hiện tức Tiêu Phi sẽ lành bệnh vậy. Chim chết mà sống lại tức biểu thị nắp quan tài mở lại, heo ngâm ra tiếng nói tối tăm tức hiển bày trai phước tương thừa. Đến ngày hôm sau quả nhiên bệnh tật lành hẳn. Năm Khai Hoàng thứ 17*, đời nhà Tùy, ngày 24 tháng 11, ngài an nhiên đoan tọa như nhập định mà thị tịch trước tượng đá lớn ở núi Thiên thai, hưởng thọ sáu mươi bảy tuổi. Thần tăng Trí Khoáng Thích Trí Khoáng, ngài dòng họ Vương. Đầu tiên, thân mẫu ngài sắp mang thai, mộng thấy tắm giữa dòng sông, có một đồng tử cởi thuyền báu lại lao đầu, liền tỉnh giấc mà có thai ngài. Đến lúc sinh trưởng, ngài thông mẫn mà chuộng thực hành. Cuối thời nhà Lương*, ngài làm tráng só. Sau lìa tục theo đạo học thuật trường sinh, kịp đến lúc gặp được vị cao tăng trao truyền giới pháp làm đệ tử Phật. Ngài, mỗi lúc đức hạnh vang động đến người tạm bày liền vội tiềm ẩn vết tích. Tại Giang lăng, có gia đình Trương Thuyên hai đời mù mắt, ngài bảo: Phần mộ người thân trong nhà ngươi gối đầu trên giếng xưa, dời phần mộ đạp phá thành giếng thì hẳn được khỏi tai ương. Nhân đó, Trương Thuyên liền làm theo lời ngài nói, người mù bèn thấy đường đi. Và cầu xin ngài xuống tóc xuất gia. Mọi người thảy đều kinh sợ về ngài, ngài thường chặt củi cúng thí chư Tăng, ngài trú nơi không nhàn tónh lự. Ngài lại bảo: Trong khe suối có tiếng chuông xưa, nên đã đào bới lên đem treo ở chùa. Nhân Châu thứ sử cho rằng ngài dối hoặc, bèn đánh lưng trăm gậy rồi thả xuống, ngài không tỏ vẻ thảm khốc, không bị tàn phá thân hình, liền đưa ra khỏi đài, câu thúc ở Thượng phương. Bảo người có sức mạnh dùng dây xiềng xích dài 8 thước kéo treo lên; đấm gối. Những người đứng xem chung quanh đều cho là nát nhừ. Song, dung mạo ngài đã không nhiễu loạn và thân thịt cũng không vết sẹo gì. Quan cai ngục bảo: Thừa lúc cư só hay nhẫn chịu đót khát. Liền bắt tuyệt thực bảy ngày, nhưng thân sắc ngài vẫn như cũ. Ở ngoài chợ, nơi đường cái, thấy ngài đi lại nhưng xem xét trong ngục thì vẫn còn có, mới tin là ngài phân thân. Năm Đại Định thứ 3*, ngài xin giày cỏ, bảo là đêm này đi gấp. Đêm đó, đến canh ba, khắp thành bốc lửa, ở bốn cửa, người ra không lọt nên bị chết thiêu đến bảy ngàn người. Ngài ở tại trong ngục dẫn hai trăm kẻ tù an ổn đi bộ mà ra. Tuổi gần bốn mươi, ngài mới mong xuống tóc, sau khi tấn đàn thọ giới, ngài chuyên tu hạnh Đầu-đà, có rắn ở nghỉ bên cạnh giường nằm, mỗi đêm, ở bốn góc núi có bốn ngọn đèn đồng soi chiếu. Các hàng só tục tụ hội bỗng chốc biến thành chùa hoa. Có người làm thịt vịt mà thiết trai, tối đến thần vịt bảo rằng: Cớ sao có sự sát sinh mà sung vào tịnh cúng? Từ đó liền chấm dứt, mùa Hạ ngài từng qua sông cùng với đồ chúng khoảng vài mươi người ở không được, không muốn đi theo, bờ phía trước có hai con thuyền không có người sắp đến, ngài cười mà cất tiếng gọi nó, thuyền tự cắt dòng tới thẳng, nhân đó mà ngài đưa tất cả qua sông. Ngài căn dặn chớ được loan truyền. Hơn nữa, ngài đến Hàm dương tạo lập chùa Phật tích, có một con trâu mẹ sinh con trâu nghé mà đầu vẫn núp ẩn đã qua hai hôm, trâu mẹ sắp chết, có vị Tăng đến bảo cùng ngài. Ngài biết mà xót xa, bảo: Trâu nghé đó là cư só ở trong chùa, lạm dụng vật của Tăng chúng, nay lại đền trả quả báo. Nó xấu hổ mà không chịu ra khỏi bụng mẹ vậy. Nhân đó, ngài nắm hương răn trâu nghé rằng: Mau phải đến trả quả báo sao lại xấu hổ chẳng chịu sinh ư? Trâu nghé liền ứng lại lời ngài nên chui ra. Những điều thần dị minh vi của ngài không thể viết chép đầy đủ. Năm Khai Hoàng thứ 29 (?), ngày 24 tháng 9, ngài thị tịch ở chùa Tứ Vọng Khai Thánh. Ngài tự định biết thời kỳ thị tịch, hương trời phảng phất đầy thất, khắp chùa âm nhạc nổi vang. Ngài xoay về hướng Tây nam mà tịch. Thần tăng Pháp Sung Thích Pháp Sung, ngài vốn dòng họ Tất, người xứ Cửu giang. Ngài thường tụng kinh Pháp Hoa và đọc kinh Đại Phẩm khó nhớ rõ là bao nhiêu biến, kiêm chuyên tu sửa chùa viện, tính ở trú trì. Cuối cùng ngài trú tại chùa Hóa thành khoảng lưng chừng đảnh Lô sơn. Những vị Phi Tăng chưa từng vọng tạo. Ngài thường khuyên Tăng chúng không nên để người nữ vào chùa. Bởi vì trên thì tổn hại Phật hóa, dưới thì rơi lạc trong lời bịa đặt của người đời. Nhưng ở đời bởi vì có nghiệp sự trọng có những kẻ chẳng vâng theo. Ngài thường than rằng: Sinh ra không gặp Phật, ấy là tội duyên của chính mình, chẳng hành trì chánh pháp, thì nghóa phải sớm diệt. Sao lo ở phương này chẳng kính phụng giới! Ngài bèn lên đỉnh Hương lô trong núi ấy, tự gieo mình xuống thệ nguyện phân toái thân cốt này để cầu sinh Tịnh độ. Những ở giữa khoảng không bỗng nhiên đầu ngài xoay dựng lại từ từ mà xuống chỗ hang sâu, chẳng tổn hại một mảy lông. Đầu tiên, Tăng chúng trong chùa không ai biết, sau có người lên đỉnh núi, giữa đường nhìn xuống hơn ngàn nhận nghe tiếng người nói, bèn đến mà tìm, mới chính là ngài, thân mạng vẫn còn, miệng tụng niệm như cũ, thỉnh đón ngài trở về chùa. Chư Tăng cảm động nghóa khí lấy cái chết để can gián của ngài nên đoạn tuyệt người nữ đến chùa. Trải qua sáu năm sau, ngài mới thị tịch, bấy giờ thời tiết đang lúc nắng nóng gay gắt mà nhục thể ngài chẳng hôi thối mà có mùi thơm tợ như dưa chín quá. Lúc đó là cuối niên hiệu Khai Hoàng. Thần tăng Tuệ Khản Thích Tuệ Khản, ngài vốn người xứ Khúc a, trú tại chùa Đại quy thiện ở Tương châu. Ngài linh thông u hiển, người đời chẳng thể suy lường, mà ngài vô cùng sùng kính tôn tượng phụng thờ như Phật thật. Mỗi lúc ngài thấy tượng đứng, thì chẳng dám liền ngồi. Ngài khuyên người tạo tượng chỉ nên tạo tượng ngồi. Sau, ngài đến Lãnh nam, chuyên tu thiền pháp, thành đạt sự tỏ ngộ. Lúc trú tại Thê hà, ngài thường qua yết kiến Pháp sư Tư. Pháp sư Tư thấy làm lạ giử lễ tiếp đón ngài. Đến lúc sắp trở về lại núi, Pháp sư Tư thỉnh ngài biểu hiện thần lực, ngài liền từ trong cửa sổ đưa tay duổi đến trên biển ngạch điện Phật chùa Tề hy. Nhân đó, ngài nói với Pháp sư Tư rằng: Người đời chẳng biết xa thấy nhiều nên kinh dị. Vì thế, tôi chẳng thi vi vậy”. Năm Đại Nghiệp thứ nhất (6 0 5), thời nhà Tùy, ngài thị tịch tại chùa Đại quy thiện. Trước ngày viên tịch, ngài đem ba y hoàn lại chúng Tăng, nói: Nay tôi xả báo thân này, đồ chúng hãy khéo chung sống! Nói xong bèn trở vào trong phòng. Đại chúng kinh sợ, mở cửa tìm ngài, mới thấy trong phòng hài cốt trắng tinh trong tư thế ngồi kiết già trên giường, đến lay động thì vang tiếng bong bong tự nhiên chẳng rời rả. Thần tăng Pháp Hỷ Thích Pháp Hỷ, ngài người xứ Nam hải. Tướng mạo lùn thấp xấu xí yếu đuối. Năm ngài bốn mươi tuổi mà các bậc già lão thông hiểu nhiều điều nói thời họ còn bé thơ đều đã thấy biết ngài hình dáng dung mạo vẫn như nay không khác. Ở Máng diện tương truyền là ngài đã ba trăm tuổi. Và ngài cũng tự nói xưa kia có biết Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, ngài nói về mọi sự trong triều Tấn Tống đều rõ ràng lớp lang như tin hôm trước vậy. Lúc bình thường, ngài lặng yên không nói, nhưng khi nói thì hàm ý sâu sắc, nên bày tốt xấu như có ảnh hưởng mọi người cũng ít muốn gặp ngài, vì sợ ngài nói thẳng có các ý tai ác ngỗ nghịch. Trong thời nhà Trần ( 5 5 7-589, thuộc Nam Triều), Mã Tónh làm Quảng châu thứ sử, mới lên nhậm chức, ngài đi thẳng vào châu, lại sinh sự vẽ giữa đất hình đầu ngựa, để chỉ bày cho ông ta mà đi. Mã Tónh vốn có tiếng là dòng họ có nhiều võ lược, đến nơi đó hành bộ tùng giáp só vài vạn, dùng cờ xí kiếm kích ra oai chiếm mốc giới. Mã Tónh xa xỉ quá độ, bị người vu cáo là mưu phản. Nhà vua sai Lâm Nhữ Hầu xét án, tha lợi tài sản, bắt mà chém giết. Đó là chứng minh hiệu nghiệm về việc họa vẽ đầu ngựa giữa đất của ngài. Vua Dương Đế (Dương Quảng 6 0 5- 617) đời nhà Tùy nghe đến ngài, nên mới đến Dương châu, an trú trong cung. Đến lúc trong cung tạo dựng một ngôi nhà vừa mới hoàn tất, bỗng nhiên ngài lên ngôi nhà ấy xem xét rồi kinh hãi chạy xuống bậc thềm, xoay ngược lại bảo: Ấy yểm hại ta. Trong đêm đó tự nhiên trời mưa lớn, ngôi nhà ấy sụp đổ đè chết vài mươi người. Sau, cũng tại trong cung, ngài chạy quanh tìm kiếm đầu dê, vua nghe mà giận ghét, cho là ngài nói cuồng, bảo xiềng xích ngài trong một cái thất. Vài ngày sau, có ba thị vệ thấy ngài bình hảng đi giữa chợ, trở về trình tấu là “Ngài Pháp Hỷ hiện tại ở trong chợ.” Vua liền khiển trách Quang Ty, xem xét lại chỗ cấm chế thì cửa vẫn khóa như cũ. Người giữ cửa cũng bảo: –Ngài ở trong thất. Lúc ấy mở cửa vào thất, thấy chiếc y ca-sa phủ trên một tụ cốt trắng, xiềng xích ở trên cổ. Bèn viết văn trạng trình tấu, Dương Đế sai Trưởng Sứ Vương Hằng kiểm nghiệm xem cũng vậy. Dương Đế do đó mới tin ngài là người phi thường, ban lệnh chớ nên kinh động. Đến chiều tối, ngài trở về trong thất, hoặc nói, hoặc cười. Người giữ lại tấu trình, Dương Đế sai Quang ty Sở cởi mở xiềng xích phóng thả tự do ngài ra vào. Sau Dương Đế bị giết hại tại Giang đô, mọi người mới tỏ ngộ kiểm nghiệm việc tìm kiếm đầu dê của ngài. Có một lúc, trong một ngày, vài mươi nơi thiết trai cúng dường, ngài đều đến dự, mọi nơi đều thấy ngài, thời gian đó, ngài cũng uống rượu ăn thịt. Bỗng chốc, ngài hiện thân có bệnh, nằm trên giường cách chiếu, bảo người đổ chất tro lửa rất nóng ơ dưới giường. Vài ngày sau, ngài viên tịch, tro lửa cháy xém hết nữa thân mình, an táng tại chùa Hương sơn. Đến năm Đại Nghiệp thứ 4 (6 0 8), thời nhà Tùy, ở quận Nam Hải tấu trình là “Ngài Pháp Hỷ hiện đã trở về ở quận”, vua Dương Đế ban sắc quật mở quang tài xem thì không thấy gì cả. Thần tăng Phổ An Thích Phổ An, ngài vốn dòng họ Quách, người xứ Kinh triệu, Kinh dương. Thuở nhỏ, ngài theo Thiền sư Viên xuất gia, khổ hạnh Đầu-đà. Sau, ngài đến Pháp sư Yết, ngài thông rành Tam tạng, thương chuyên về kinh Hoa Nghiêm, tụng đọc thiền quán tư duy, chuẩn làm phiếu nghỉ. Trong thời Bắc Chu, Phật pháp bị tiêu diệt ngài ẩn trú tại trong hang Tiện tử ở núi Trung nam. Bấy giờ có trọng chiêu mộ những ai bắt được một vị Tăng thì được thưởng mười đoan vật, có người ứng sự chiêu mộ, đến muốn bắt ngài. Ngài liền an ủy dẫn dụ rằng: Ta xem ông có phần nghèo khó, đang muốn cấp giúp đây! Ngài vì bày cho ăn rồi cùng đến kinh đô, Chu Vũ Đế nói cùng người ấy rằng: Luật pháp nước ta đang gấp không cho đạo nhân ở trong dân chúng. Người lại giúp gấp không cho đạo nhân ở trong núi. Nếu người bảo những kẻ đấy đến xứ khác thì được sống. Nên thả người này vào núi chẳng phải kiển hiệu. Khi đó, ngài an nhiên được trở về. Qua thời nhà Tùy, vua Văn Đế ( 5 8 1- 605) lên ngôi, Phật giáo trở lại hưng thạnh, rộng chiêu mộ các vị Tăng còn sống sót ẩn dật, mà an trí chỗ ở. Lúc ấy, chỉ trong một hang Tiện tử có hơn ba mươi vị Tăng ứng đáp chiếu dụ xuất gia đều ra trú ở chùa Quan. Riêng mình ngài vẫn nương chỗ cũ giữ hang Tố lâm. Ngài thường đi trong thôn ấp tụ lạc Hoằng hóa làm lợi ích quần sinh. Cuối cùng có người ở rừng Ngọ hổ đến bên cạnh hai hang hợp khe đục khám làm am thỉnh ngài an trú tại đó. Ngày ngài mới đến, thấy trên khám có tảng đá lớn sợ rơi lấp bít khám, ngài liền niệm rằng: Nguyện dời tảng đá này sang nơi khác chớ khiến sụp nát hang khám. Tảng đá bèn y theo lời nói, xoay lánh nơi khác. Mọi người đều cho là quái lạ. Ngài bảo: Đó là thần lực của Hoa Nghiêm! Như vậy nhưng chưa phải là kỳ lạ. Ở phía Đông khám bên trái khe tường đá có Sách Đà, tung hoành dọc ngang khắp xóm làng chẳng phải một, lại âm thầm ganh ghét đức hạnh của ngài, thường nghó cách giết hại, Sách Đà cùng ba người bạn mang cung cầm nhận, dương tay kéo dây cung muốn phóng tên, mũi tên chẳng lìa khỏi dây và tay trương ra cũng không dừng nghó, găng mắt cứng lưởi đứng yên suốt đêm, tiếng đồn vang động, mọi người xa gần đua nhau kéo đến. Những người trong làng cúi đầu chí thành cầu xin ngài cứu giúp. Ngài bảo: Bởi vốn không biết, chứ đâu chẳng phải thần lực của Hoa Ng- hiêm? Nếu muốn giải trừ an khiên, chỉ nên sám hối, như lời tôi chỉ dạy mới mong giải thoát. Lại ở phía Tây khám, thôn Ngụy, có Trương Huy, trước kia vô cùng hung ác, chuyên lấy sự trộm cướp làm nghề sinh sống. Ban đêm đến chỗ ngài lén lấy dầu thắp Phật, một bình đến năm thăng, mang trên lưng mà ra, đã đến cửa viện, bèn hôn mê mất cả tâm tánh, như có sự buộc ràng không thể chuyển động. Bà con ở thôn xóm đều đến vì sám tạ. Ngài bảo: Tôi không biết. Đó là bởi thần lực của Hoa Nghiêm! Nói bảo sám hối giúp lấy lại bình dầu. Mọi người làm theo như lời ngài dạy, liền được. Thêm nữa, ở phía Nam khám, có Trương Khanh, đến trộm tiền trong tay áo ngài, lấy đi về đến trong nhà, tháo không ra, cứng miệng không nói được, liền tìm đến sám hối rồi theo đường mà trở về. Có Trình Huy Hóa ở thôn Trình Quách, rất sùng mộ kính tín, thường đến chỗ ngài nghe thọ pháp yếu. Nhân bị bệnh hoạn, thân chết đã trải qua hai đêm, buộc thi hài để nơi đất chuẩn bị nhập liệm. Trước đó, ngài đến huyện Ngạc, trở về giữa đường đi tới chùa Đức hạnh ở phía Tây nam, phía Đông cách thôn Huy Hòa ở đến năm dặm. Từ xa, ngài cứ gọi: “Trình Huy Hòa cớ sao không thấy ngươi đến đón? Gọi luôn không dứt. Có người làm ruộng bảo rằng: Huy Hòa chết đã lâu, còn đâu mà đến đón? Ngài bảo: Đó là lời đồn nhảm ta không tin! Ngài lại đến thôn đó, gắng tiếng gọi lớn. Huy Hòa bèn chuyển động thân mình. Các người thân đang ở bên cạnh cắt bỏ các dây ràng buộc quanh thân. Ngài vào tới trong sân, lại gọi lớn tên Hòa. Huy Hòa liền vùng dậy lăn lóc đến bên ngài. Ngài bảo dẹp bỏ rương hòm, mọi vật vào một cái sọt, ngài dẫn Huy Hòa đến bàn thờ Phật, bảo đi nhiễu quanh, sau đó bình phục lại như cũ, sống thọ thêm hai mươi năm. Sau, mắc phải trọng bệnh, lại đến cầu xin ngài cứu giúp, ngài bảo: Thả cho ngươi du đảng, ngoài điều ta xét biết! Huy Hòa liền qua đời! Ở phía Bắc hồ Côn minh, tại Thôn bạch, có bà già bị bệnh nằm liệt giường gối mất tiếng đã trăm ngày, đưa tay chỉ đập con trai con gái tỏ ý muốn thấy được ngài. Các người con hiểu được ý mẹ nên thỉnh ngài lại nhà. Người mẹ đang bệnh đã thấy được ngài, thốt nhiên xuống giường nghênh đón, ngài hỏi han rất dắt dậy, bỗng chốc trở nên bình thường như mọi ngày, tật bệnh lành hẳn. Từ đó, thanh danh ngài càng vang dội, khắp thôn ấp tụ lạc đều nhóm hội, thiết lễ lớn âm nhạc hòa vang đi vòng quanh nhà. Trong thôn Đại Khường, có Điền Di Sinh, nhà không tường vách mà có bốn người con gái, người vợ chỉ mặc tấm vải xấu ngang gối mà thôi, bốn người con gái đều để trần truồng. Người con gái lớn tên là Hoa Nghiêm chỉ có tấm vải thô hai thước, trộm nghó muốn bố thí. Ngài dẫn chúng vào thôn, lần lượt đến cửa nhà Di Sinh, thương xót sự bần khổ ấy đến đi qua không ghé vào. Hoa Nghiêm suy nghó rằng: “Do ta bần tiện, chưa từng tạo phước, nay lại chẳng tu, tương lai sẽ khổ gấp bội bây giờ.” Bèn tìm chung quanh chẳng thấy vật gì, nên ngửa mặt buồn khóc, thấy trên rui nhà một nắm rơm vụng dùng bịt lỗ hỏng, bèn kéo xuống tung rủ nhặt lượm được hơn mười hạt thóc, bóc làm thành gạo, và đem tấm vải trước, nghó dùng tùy hỷ. Bởi thân hình không y phục nên đợi đến đêm tối lăn lóc mà đến chỗ trai hội, đứng xa ném vật vào trong chúng, còn hơn mười hạt gạo riêng dâng nấu cơm. Nhân đó phát nguyện rằng: “Thân nữ bần cùng bởi nghiệp xa xưa tự gieo lấy, nay khốn khổ nghèo khó thực hành bố thí dùng làm hy vọng phước báo tương lai. Và nay đem mười hạt gạo vàng này để vào rồi nấu cơm, hẳn như sự chí thành thì nghiệp bần khổ sẽ hết, đồng thời nguyện rằng cơm nấu trong nồi đều biến thành sắc vàng. Như không ứng cảm, mạng biết làm sao!” Phát lời nguyện xong, gạt lệ mà trở về. Khi ấy, năm thạch gạo trong nồi nấu cơm chin đều biến thành sắc vàng. Đại chúng kinh ngạc tán thán mà chưa biết nguyên nhân nên tìm hiểu nhân duyên. Ngài bảo: Đó là do nguyện lực của con gái Điền Di Sinh! Cả trai hội đều đem mười hộc thóc tìm đến nhà Di Sinh mà gi- úp đỡ, còn ngài thì đem pháp y mà cho Hoa Nghiêm và đưa vào chùa Kinh. Trong thôn bên cạnh khám, có người trói buộc ba con heo, sắp giết hại chúng, ngài nghe biết, bèn đến chuộc. Người trong xã sợ không được giết nên đòi tăng tiền đến mười ngàn, ngài bảo: Bần đạo hiện tại chỉ có được ba ngàn, đã gấp bội giá gốc cả mười lần, có thể cùng cho bần đạo xin chuộc! Mọi người đều không chấp nhận lại cùng nhau phẩn hận tranh giành, nhân đó theo xin rượu cùng uống ca múa xoay chuyển rực rỡ khắp cùng, thế rồi cả già trẻ mắt đều hết thấy, bỗng chốc tự ẩn chẳng biết ở đâu. Ngài liền dùng dao tự cắt thịt ở đùi vế, bảo: Đây và kia đều là thịt, nhưng heo ăn các loại phẩn uế mà ngươi lại ăn thịt nó. Huống hồ con người ăn cơm gạo, đúng lý là đủ quý. Mọi người trong xã nghe thấy, một lúc đồng phóng thả. Heo đã được thoát chết, đi nhiểu quanh ngài ba vòng, đưa mũi mõm xúc chạm vào ngài như tỏ sự kính ái. Nên khiến phía Tây nam của ban giao trong vòng năm mươi dặm dứt tuyệt heo gà cho đến ngày nay. Sự cảm phát từ thiện ấy đều là loại này. Đến năm Đại Nghiệp thứ 5 (6 0 9), đời nhà Tùy, ngài thị tịch tại thiền viện tónh pháp, hưởng thọ tám mươi tuổi. Thần tăng Đạo Anh Thích Đạo Anh, ngài dòng họ Trần, người xứ Kỳ thị, Bồ châu. Thuở ấu thơ, ngài theo luật sư Thúc Hưu xuất gia. Ngài đến Tinh châu nương Pháp sư Cự học đạo. Sau, ngài nhập thiền định, hiển bày dị tích. Niên hiệu Đại Nghiệp ( 6 0 5- 617), đời nhà Tùy, ngài thường nhậm Trực ruế, cùng người đời tranh giành đất đai, đấu tranh hoài không dứt, ngài bèn nói với kẻ kia rằng: Ta hẳn chết vậy. Bỗng nhiên, ngài ngã lăn cứng đờ như chết, người đời cùng nhau bình phẩm cho rằng: Đạo nhân lắm điều luống dối. Dùng kim châm chích vào mai, tuy rất đau nhưng ngài vẫn bất động, hơi thở ngừng dứt, sắc da biến đổi sắp muốn trướng phình, bên cạnh có bậc trí giả khiến ngài quy mạng, thề không dám tranh giành nữa, xin ngài sống lại vậy. Vừa dứt lời, ngài ngồi dậy, nói cười như cũ. Lại nữa, ngài đến đầm hồ Long đài, đứng trên bờ, thấy cá bơi lội, ngài bảo: Tôi cùng ngươi tranh nhau xem thử ai thắng. Ngươi không kịp ta, ta có thể không kịp ngươi. Ngài liền cởi áo nhảy xuống nước. Đệ tử ôm giữ áo ngài đứng đợi trải qua mười sáu ngày đêm. Ngài từ trong nước ra, bảo rằng: Trong nước chỉ có đất dơ làm lấm bụi ta. Thêm nữa, đang lúc mùa Đông tuyết trời giá lạnh, băng đóng tuyết rơi, ngài bảo: Đây là chỗ yên tỉnh vắng vẻ, sao bị mất ngủ. Ngài bèn cởi áo nằm ngửa trải qua ba đêm, vừa dậy, liền nói rằng: Bấy lâu bị than lửa thiêu hại ta. Sau, ngài trở lại Bồ châu, trú tại chùa Phổ cứu, ngày thì khuyên chúng Tăng chuyên cần mọi sự, đêm thì trải tòa ngồi kiết già vì nói giảng thiền quán. Bấy giờ, hoặc xử đoán người lao nhọc, ngồi nghe pháp chẳng biết mỏi mệt. Một ngày nọ, đang giảng nói luận khởi tín, bỗng nhiên ngài ním lặng. Đại chúng lấy làm lạ đem xem thì hơi thở ngài đã dứt thân lạnh ngắt, mọi người biết ngài diệt tưởng, liền tự nhậm ý. Trải qua nhiều đêm, ngài mới từ trong định dậy. Bấy giờ, tại Hà đông, có danh tăng Đạo Tốn Cao Thế là bạn đồng học của ngài, đến khi Đạo Tốn xả bỏ báo thân, ở cách xa ngài một trăm năm mươi dặm, chưa kịp đến báo. Đêm cuối, ngài biết Đạo Tốn đã mạng chung, ngài biết sự cảm thông vi diệu như thế đó. Đến lúc trước đêm thị tịch, ngài nhóm chúng, bảo rằng: Sớm phải thu gọn, ngày mai có nhiều người đến, cần nên chuẩn bị thóc gạo rau quả lương thực. Cả chúng chẳng ai lường được lời ngài dạy. Và ngài cũng tự điều vận thúc dục rất gấp, đến tối mọi việc đều xong, ngài tìm cầu nước cạo tóc tắm rửa, về lại chỗ ngồi lấy đại y đắp lên mình, bỗng nhiên thâu thần thị tịch. Thần tăng Pháp Tấn Thích Pháp Tấn, không biết ngài là người thuộc dòng tộc gì. Ngài trú tại chùa Ngọc Nữ, núi Hưởng ứng, huyện Miên trúc, Ích châu làm đệ tử của Thiền sư Huy. Sau, ngài đến Pháp sư Định cầu thọ giới Sa-di, ngài thường chuyên cẩn trọng chí thành cung kính, chỉ hành trì thiền tọa. Ngài thường tọa thiền nơi rừng Trúc sau chùa, có bốn con hổ vây quanh, ngài bảo chớ có tiết lộ sự tướng. Sau ngài dạy Thủy quán, có người đi hái củi, thấy trên giường dây có nước trong sạch, bèn lấy hai viên đá trắng bỏ vào trong nước. Đến chiều tối, ngài trở về chùa, người ấy cảm thấy sau lưng thốn đau, ngài hỏi thì trả lời là có bỏ đá vậy, ngài bảo ngày mai phải vất bỏ đi. Đến sáng sớm, ngài tọa thiền, người ấy trở lại thấy nước trong như lúc đầu, liền nhặt bỏ đá ra, chỗ đau liền hết. Nhân đó chuyên tập thiền định, chẳng ra khỏi núi ấy. Niên hiệu Khai Hoàng ( 5 8 1- 601), đời nhà Tùy, Thục Vương Tú đến Ích châu, bà phi mắc bệnh trong tim bụng, các thầy thuốc chữa trị đều không lành. Có Đạo só Văn Phổ Thiện ở núi Xương long bạch nhai; Miên Châu hay đi trên dao vào trong lửa cháy. Chim ngỗng trời kêu trên núi có hai Đạo só có khả năng gọi bảo quỷ thần, tế chương phù ấn, vào nước không chìm, cùng đến chữa trị đều không hiệu nghiệm, Thục Vương mới sai Trưởng sứ Trương Anh… đến núi thỉnh ra vì bà phi mà chữa trị, báo rằng: Tôi sống ở núi đã tám mươi năm, tánh đồng như nước. Từ từ lại khổ cầu thỉnh mời. Ngài đáp: Mạng tận như thế, có thể tự sớm trở về. Tin đưa về báo lại đầy đủ, Thục Vương sai quan nhân sáu ty đem xe bốn trâu nghé và trăm người tùy tùng đến nghinh thỉnh. Ngài bảo: Thục Vương tuy quý hơn nhưng mạng có sở thuộc. Ngài vẫn giữ chí như lúc đầu. Tin lại đưa về, Thục Vương vô cùng tức giận, đích thân vào núi muốn ra tay xử tội, nhưng khi đã đến núi, vào chùa lễ Phật, thấy ngài thì bất chợt thân đổ mồ hôi, Thục Vương nói: Kính thỉnh thiền sư vì phi thiếp mà trị bệnh. Thiền Sư từ bi nguyện xin cứu khổ này! Ngài đáp: Giết hại dê ăn thịt, tâm há chẳng thống khổ ư? Hết thảy chúng sinh đều là con Phật, cớ sao bà phi riêng mến tiếc sự sống của chính mình? Thục Vương hổ thẹn sám hối, rồi thỉnh ngài xuống núi. Ngài bảo: Vương mạng đã quý trọng, không thể không thực hành, song bệ hạ tự đi về trước, Bần Đạo sống chẳng quen nương cởi sẽ có thể đi sau. Thục Vương thưa: Đệ tử đi bộ theo cùng ngài đồng đi. Ngài bảo: Người gia khác với người thế tục, nên bệ hạ cử đi trước, hẳn sẽ cùng đến. Thục Vương đi suốt hai ngày mới về đến, ngài chỉ đi trong buổi sáng liền tới. Ngài đi qua phòng bà phi, bà phi thấy ngài đổ mồ hôi, nhân đó lành bệnh. Cúng dường ngài năm trăm đoạn vải lụa, cùng các vật áo nạp ca-sa… Ngài bảo Thục Vương và bà phi lấy nước rửa tay, bưng nắm mọi vật mà chú nguyện, đều dùng đưa vào làm cơ nghiệp ở chùa pháp tụ. Và ngài liền từ tạ trở về núi. Thục Vương và bà phi thấy chân ngài đi cách đất khoảng bốn, năm tất. Năm Đại Nghiệp thứ 13 (6 1 7), đời nhà Tùy, ngày mồng tám tháng giêng, ngài thị tịch tại trong núi, rồng ngâm vượn hú suốt ba ngày mới thôi. Thần tăng Tăng Lãng Thích Tăng Lãng, ngài còn có một tên là Pháp Lãng, ngài dòng họ Hứa, người xứ Nam dương. Hơn hai mươi tuổi, ngài vui thích muốn xuất gia, dự tầm xuống tóc. Ngài nương ở bất định phần nhiều là hay trú tại Ngạc châu. Ngài ăn uống đồng như người đời, bị người thời bấy giờ cùng khinh. Ngài thường nuôi một con khỉ và một con chó, thân hình nó rất lớn đều màu vàng đỏ, chẳng đùa bởn với người khác, chỉ gần quanh ngài, người ngày đêm cùng theo, chưa từng rời bỏ. Đến giờ ăn thì dùng chén gỗ để ăn, ngài ăn no rồi, thức ăn còn thừa đưa cho chúng nó, và cùng đồng ăn trong chén bát của ngài. Ăn xong, con khỉ đem chén đeo mang trên lưng con chó mà đi trước ngài. Như có ai cướp lấy thì nó liền lên tiếng. Ngài để tùy con chó chạy quanh, lược không thường độ. Khoảng cuối thời nhà Trần, đầu thời nhà Tùy ( 5 8 0- 590), ngài đến ngoài Giang lãnh, ăn mặc thô xấu, oai nghi trác tuyệt tường tự, mang roi gậy đi theo hộ dưỡng sinh mạng. Bấy giờ ngài lại tụng đọc các Kinh, riêng lấy kinh Pháp Hoa làm chí nguyện chính, nhân vì thiếu hơi tiếng ít trong chẳng đầy, ngài mới mỗi một lần ngồi trì tụng đến bảy biến, như vậy, chẳng bao lâu, âm thanh ngài như sấm động. Biết được phước lực đã có sự tiến triển, ngài hẳn lấy số bảy làm kỳ hạn, cho đến bảy mươi, bảy trăm, bảy ngàn, rồi đến bảy vạn. Thanh vận hài hóa điều xướng tùy ý mà khởi tợ như tiếng đàn tranh tiếng sáo tùy phát rõ ràng. Nên lúc ngài tụng kinh, những bên cạnh quán xét xem đều nghe. Môi miệng ngài chẳng động mà chuyển khởi tù trong cổ họng. Xa gần đều thấu rõ, nhân đó mà hiển danh. Nhưng cánh tay, cẳng chân và tay ngài co duỗi tùy ý có như rùa rút ẩn. có lúc như ngài chứa thịt hoặc đến quán rượu cùng mọi người yến ẩm, mà cắn nhai thịt heo chẳng lường từ đâu lại. Nên người đời nói rằng: Ngài tăng lãng tụng kinh Pháp Hoa, năm nơi đồng một lúc rúc thịt heo đầy miệng trán. Những lúc ngài tuần du trên sông, đi ngược dòng nước, ngài chỉ khoanh tay trong thuyền, khỉ và chó đều ngồi bên cạnh, đều không ghé bến nào không có mái chèo, tùy ý mà qua, tuy lướt trên sóng gió nhưng chỉ trong nháy mắt tức liền tới nơi. Có vị Tỳ-kheo-ni bị quỷ dựa nhập, siêu ngộ huyền giải, biện luận giảng nói kinh pháp, dựa tông giảng dẫn, thính chúng tụ hội, đều chẳng thể lường, không ai chẳng tán thán sự thông minh đạt ngộ của Tỳ-kheo- ni ấy. Ngài nghe vậy, tự bảo: Ấy là tà quỷ gia nhập đâu có chánh lý, phải đến kiểm hiệu. Vào một sáng sớm nọ, khỉ và chó đi đến chùa Ni trước, ngài đi sau, tới nơi, ngài lễ Phật đi nhiễu quanh tháp rồi đến trước giảng đường, vị Ni đó đang còn giảng nói, ngài gắng tiếng quở mắng: Tiểu yêu, ta nay đã đến, sao không xuống tòa? Vị Ni ấy nghe tiếng ngài nói, liền xuống chạy ra đứng trước giảng đường đối diện với ngài từ giờ mão cho đến giờ thân, sững sờ chẳng đổi chỗ, mồ hôi tuông đổ giữa đất, nín lặng chẳng nói năng gì, nghe tuệ giải ấy bỗng nhiên như điếc như ngay, sau trăm ngày mới hồi phục bổn tánh. Ngài giáng hành cảm thông đều cùng loại như thế. Đến cuối niên hiệu Đại Nghiệp (…- 6 1 7), đời nhà Tùy, ngài thị tịch. Thần tăng Tuệ Tường Thích Tuệ Tường, ngài dòng họ Chu. Năm mười lăm tuổi, ngài xuất gia, tu hạnh Đầu-đà thường đi khất thực. Ngài tự nhiên tọa thiền tụng kinh chẳng đồng chúng. Năm mười chín tuổi, ngài bị nhiễm bệnh, cứu chữa suốt ba tháng chẳng lành. Một đêm nọ, đang yên tọa, ngài tự than rằng: Là đại trượng phu muốn dùng thân theo đạo ở trong đời mạt pháp mà phá dẹp phi pháp. Cớ sao chí nguyện ấy chưa đạt mà bệnh hoạn làm khốn khổ! Đến lúc gần sáng, có một người thân cao hơn một trượng đến nói với ngài rằng: Chí nên trì tụng kinh Niết-bàn chớ lo buồn không lành. Đến sáng sớm, ngài liền phát nguyện trì tụng, ba ngày sau bệnh bèn lành hẳn. Khoảng cuối niên hiệu Đại Nghiệp (…- 6 1 7), đời nhà Tùy, giữa mùa Hạ, nhân lúc đang thọ thực, trong miệng có được xá-lợi, ngài không biết, bèn quăng bỏ ra đất, thì liền trở lại trong miệng, cứ như thế đến mấy lần, ngài nghi là chân thân, dùng chày đá đập không vỡ nát. Bèn gióng chuông báo cùng đại chúng, kẻ Tăng người tục đều nhóm tụ, ngài rơi lệ đốt hương nguyện cầu ban giảng uy thần, bỗng chốc, xá-lợi phóng tỏa ánh sáng năm sắc, hương thơm phảng phất khắp thành. Đại chúng thấy điều hy hữu, tự nhiên thân thể ngài mập trắng cao hơn tám thước. Những người đi đường không biết, không ai chẳng lấy làm lạ mà chiêm ngưỡng. Quan thứ sử Lý Thăng Minh đến chùa, cho là điều lạ, nói cùng các quan rằng: Dung mạo da dẻ của Đạo nhân ấy như vậy, có thể một ngày ăn hết con dê. Nói xong, cảm thấy tay chân rã rời, cỡi ngựa tự mất sự chế phục. Các quan đem sự thật chỉ bảo, Thăng Minh bèn sám tạ nên được hoàn phục. Đại sứ Quyền Mậu đi đến Đặng châu lại sinh quái lạ, Thăng Minh nói rằng: Vị đại đức đó là người phi phàm, có nói đủ duyên trước kia. Quyền Mậu không tin, xin bảy ngày đem thức ăn không ngon để ngài ăn, mà sắc da càng tươi nhuận sáng đẹp. Quyền Mậu hổ thẹn phủ phục sám hối tội không tin trước kia. Đến lúc sắp tịch, tay ngài bưng kinh, quỳ nói cùng các đệ tử: Nay, tôi đi đây, các vị hãy khéo gìn giữ chớ để dứt mất. Lại cảm dị hương khắp thành. Lúc đó là tháng tám năm Đại Ng- hiệp cuối cùng (6 1 7), đời nhà Tùy, ngài thị tịch, hưởng thọ bảy mươi tuổi, khí mạng tuy dứt tuyệt mà ngài vẫn quỳ, tay bưng kinh như lúc ban đầu, mọi người xa gần đua nhau đến chiêm ngưỡng sự vượt hẳn bình thường ấy và đều tán thán. Thần tăng Vô Tướng Thiền sư Vô Tướng ở chùa Tướng trung, Phi châu, ngài không phải là người xứ Ba thục, chẳng biết ngài từ đâu lại. Bỗng nhiên thấy ngài đến chùa Núi theo chúng mà thôi, ngài chẳng khác người thường. Chùa đó ở thượng lưu Phù châu, phía Bắc dòng sông lớn. Bên ca- ïnh sườn núi có một bia Minh lớn vuông năm thước, chữ lớn như bàn tay, mọi người không ai biết, phía dưới có dấu chân Phật, cách chừng chín thước dài ba thước. Ngài đạp đá như bùn, kẻ Tăng người tục đều kính trọng. Nhân một lúc nọ, ngài qua sông Tề trở về không có thuyền, ngài đưa bình bát bỏ xuống nước và nói: Cớ sao ta phải thường ôm lấy ngươi, ngươi có thể tự vượt qua sông vậy. Ngài bèn lấy lá chuối đặt trên nước và đứng lên trên mà qua sông, bình bát cũng theo sau mà lại, trong khoảng khắc liền tới bờ. Khi đó, có người lượm củi thấy vậy. Ngài cho rằng đã có người hiểu biết về mình bèn từ biệt mà đi. Đồ chúng khổ thiết lưu giữ mà ngài không ở lại. Xuống sông, ngài vào thuyền, mọi người lễ thỉnh chẳng đưa cho sào chống. Ngài nắm lấy mạn thuyền thẳng theo dòng nước, chẳng nhìn lại mà đi. Mọi người liền đuổi theo, song chẳng lường biết ngài ở đâu. Thần tăng Minh Cung Thích Minh Cung, ngài trú tại chùa Hội thiện ở Trịnh châu. Sức lực của ngài như thần, ngài từng đi trong núi, thấy hổ và heo giao đấu với nhau. Heo gần như chẳng ngang sức, ngài bảo hổ rằng: Có thể tha nó đi. Hổ không chịu. Ngài dùng một tay nắm lấy đầu một tay tóm lấy đuôi ném hổ xuống núi. Thêm nữa, ngài đem y của chư Tăng để dưới tảng đá. Chư Tăng lấy làm lạ, ngài cười, bưng cột trụ mà lấy y ra. Cuối niên hiệu Đại Ng- hiệp (…- 6 1 7), đời nhà Tùy, giặc nổi dậy bắt cướp, buộc trong chùa làm thịt heo lớn đủ cho vài mươi người ăn. Ngài mời giặc ăn, giặc nhường ngài ăn trước. Ngài mới bày vài mươi chiếc bánh đặt thịt heo vào mà ăn, bỗng chốc ăn hết. Bọn giặc vô cùng kinh phục, ngài với bọn giặc làm Đàn-việt ủng hộ chùa. Bọn giặc chấp nhận. Nên trong thời nhà Tùy nhà Đường giao quân tranh đấu, tại địa phận đó dứt tuyệt không có giặc tới lui. Đó là do sức lực của ngài. Thần tăng Đàm Tuân Thích Đàm Tuân, ngài dòng họ Dương, người xứ Hoằng nông, Hoa âm, sau dời nhà đến quận Hà đông. Năm hai mươi hai tuổi, ngài mới xả bỏ việc đời, tham vấn phương xa ẩn cư non cao. Ngài đến chùa Lạc tuyền ở cánh rừng phía Bắc núi Bạch lộc, gặp được Thiền sư Đàm Chuẩn, xin xuống tóc xuất gia. Sau ba mùa Hạ, ngài dời đến ở cốc Lộc thổ tu thiền, vừa gặp lúc suối khô cạn có nước lại nên loài Nai mi đi nhiễu quanh viện. Có được dòng nước trong lành, dần dần loài thú ngày một đến gần bên đường. Chúng Tăng cùng học cùng nhau vui mừng điềm lành ấy. Có lần nọ, nhân thỉnh pháp tạm qua Vân môn, đi giữa đường gặp phải sương phủ mờ nên lạc mất đường, nhờ thần núi chỉ dẫn mới gặp được đường chính. Có lần kẻ trộm vào trộm rau quả, sắp muốn ra khỏi vườn, bị đàn ong chích nọc độc, ngài nghe vậy bèn đến cứu, với tâm từ đem ra chữa trị mà được toán mạng thừa. Có người xứ Triệu từ xa đến, ân cần thiết lễ trình bày rằng: Nhân bị bệnh chết mà sống lại. Được thấy vua Diêm vương cật vấn tội trạng, đáng để cửa ngục may nhờ Thiền sư Đàm Tuân đến vì xin tha mạng. Diêm vương nhân đó tha cho. Được thoát khỏi nên nay đến lễ tạ! Ngài đi trên núi gặp hai con hổ giao đấu với nhau thời gian lâu không dứt, ngài bèn nắm tích trượng phân ra, dùng thân ngăn chận, nói rằng: Đồng sinh sống trong rừng chầm, tính làm điều đại trái ngược, mong rằng mỗi mỗi hãy tự chia đường. Hai con hổ cúi đầu vâng mạng, bèn hớp hơn mà phân tán. Ngài thường gặp gấu hổ giao tranh, sự việc đại lược đồng như thế. Và hoặc mở ở nơi bụi cây rậm rạp um tùm, chỉ có vết chân ngài vào mà chim muông chẳng bay loạn, loài thú thấy như ngẫu nhiên. Mỗi lần ngài nhập định thường lấy bảy ngày làm kỳ hạn. Có con hổ trắng vào phòng bèn làm hang ổ, riêng mình con hổ sống trong tỉnh viện suốt mười năm chẳng ra. Từ khi có dấu vết thiền, người ở đó ít bắt chước làm theo, lúc ban đầu mới gặp, tật bệnh càng đình trệ. Bỗng nhiên có thần quang chiếu rọi hương đèn gió thoảng phất phới, hoặc cảm loài chim khác lạ cổ trắng mình đỏ, nhiểu quanh viện bay liệng giữa không trung, tiếng kêu bi thương buồn thiết. Khi đến lớn dần, chim đậu nơi nền giảng đường. Từ đó về sau quen nương tựa, không còn sợ hãi người vật. Hoặc đến trên cửa phòng hay vào trong chiếu nằm, kêu buồn càng rất thảm thiết đến nỗi máu xông lên trong mắt. Ngài bèn sang giáo hóa, chim liền bay ra ngoài xoay chuyển giữa không trung, bỗng nhiên liệng đi mất. Lại cảm hổ dữ nhiễu quanh viện, kêu rống buồn thương suốt hai đêm, mây mù phủ tối ba ngày, trời đất kết thảm lại thân, mù lở đá rơi, cây rừng gãy khe suối đều khô… Những ai cảm những linh tướng của ngài vẫn chưa thể ghi chép hết được. Sau, đến năm Vũ Đức thứ 5 (6 2 2), đời tiền Đường, ngài thị tịch. Các vị đệ tử như Tónh Hưu, Đạo Nguyện, Tuệ Phương…, cử hành lễ trà- tỳ, nhặc lượm di cốt tạo tháp dựng bia. Thần tăng Trí Mãn Thích Trí Mãn, ngài dòng họ Giả, không biết là người xứ nào, giới hạnh cao thâm thanh khiết, ngài trú tại chùa An lạc. Thời nhà Đường, Thái Tông ( 6 2 7- 650), khi ở tại Tấn dương cùng với Lưu Văn Tỉnh. Đêm thủ mưu, vua Cao Tổ ( 6 1 8- 627), mộng thấy từ trên giường rơi xuống, lại thấy trùng giòi nhóm ăn. Trong ý cho đó là rất xấu ác nên đem hỏi đến ngài. Ngài đáp: Đó nên lễ mừng. Phàm trên giường xuống, đó gọi là bệ hạ, đàn giòi rúc tụ nhóm ăn tức là quần sinh cùng nhau ngưỡng một một người mà sống. Cao Tổ vui mừng với lời nói ấy. Ngài lại bảo: Bần đạo cũng có biết về dịch học. Dùng tượng quái để thấy rõ điềm công bằng, căn cứ theo dịch học nói: Tồn tại dưới giường phân như không lỗi mà trước cát sau hung. Đó hẳn là thể đại không thể dùng tiểu, dùng tiểu thì thất bại, dùng đại thì tế giúp. Nên cần làm việc lớn để cứu giúp quần sinh, không qua chẳng thông mới thành! Cao Tổ đổi sắc mặt, nói: Chỉ mong nhờ khéo dụ, chưa dám đáng nhân! Ngài liếc nhìn Thái Tông, bảo: Lang Quân cùng với đại nhân đều hiệp điềm mộng. Đó đáng gọi là làm lại được việc người trước đã làm hỏng, khảo dùng không lỗi. Phàm, lý trời sự người rõ ràng đáng biết, không thể cố chống cự điều trời ban cho vậy. Trời ban cho mà không nhận lấy, hẳn phải chịu lỗi ấy. Không là chẳng thể vậy. Vua Cao Tổ lễ bái mà cảm tạ rằng: Đệ tử sao mong lại phiền ý trinh trọng đinh ninh mà dám chẳng kính vâng! Về sau, không biết cuộc đời của ngài như thế nào! Thần tăng Trí Hy Thích Trí Hy, ngài dòng họ Trần, người xứ Dónh xuyên. Năm hai mươi tuổi mới được theo nguyện, một lần được phụng gặp liền định thầy trò, luật nghi đầy đủ, bẩm thọ thiền quyết, thân tu tịch định. Ngài thường trú tại Phật lũng tu thiền đạo tràng. Những hành giả ưa thích Tam-muội đều cùng quy ngưỡng. Đến lúc nhàn rỗi yên tọa ngài lại chỉ huy tạo dựng già-lam, điện, đường, phòng nhà, đều nghiêm chỉnh. Chỉ còn kinh đài chưa tạo lập được, ban đầu muốn thuê công. Có đảnh hương lô, núi cao nguy hiểm cây rừng tú dị, nhưng thần kỳ ở đó rất có linh nghiệm, từ xưa trở lại không ai dám ngửa mặt trông nhìn đến ven sườn đỉnh núi huống gì là leo lên lượm củi chặt cây. Lúc ấy, Đại chúng cùng bàn luận với nhau rằng: Nay đã tạo lập kinh đài cúng dường Pháp bảo, chỉ chuộng sự tinh hoa đâu có thể khinh suốt vậy mà thôi. Ở trong đảnh núi Hương lô có các thứ cây bách cây sinh rất là tinh khiết ưu việt, có thể cùng lấy để đủ tạo lập cúng dường. Bàn luận tường tất, rồi đến hỏi ngài, trình bày rõ ràng sự việc như trên. Giây lát lâu, ngài đáp: Thần núi giữ gìn mến tiếc, không thể tháo! Mọi người không dám nói lại một lời nào, mỗi người tự về chổ cũ. Đêm đó, ngài mộng thấy có người đưa sớ tấu rằng: - Các thứ cây sinh cây bách trong đảnh núi Hương lô đều có thể xả thí cung cấp để tạo lập kinh đài. Thời đó, có vị Tăng tên là Pháp Vân muốn vào đảnh núi Hương lô tu hạnh Đầu-đà, ngài can ngăn, bảo: - Thần núi ấy kiên cường, ông đạo lực còn yếu kém, nếu đến đó ắc không được an, cẩn thận mà qua vậy. Pháp Vân không nghe theo, bèn đến núi đó, chưa tròn hai đêm, thần núi liền hiện hình đuổi bảo trở về. Pháp Vân tự bày việc ấy mới nhớ lời dạy trước kia của ngài, rất sinh kính ngưỡng. Có vị đệ tử tên là Đạo Tuyên tụng kinh tại phòng, ngài tự qua gọi, bảo: Chiều nay sẽ có vị Tăng đến. Nói xong, bèn nhìn xuống cửa liền thấy một vị Tăng đắp mặc áo nạp, tay nắm tích trượng, ôm bình bát, hình thần sáng rỡ tài tuấn, có tướng dị thường, từ ngoài đi lại, cách khoảng hơn hai mươi bước mới đi về con đường phía Đông và ẩn mà chẳng hiện. Chỉ trong chốc lát liền nghe ở phía Đông núi có tiếng chuông trống nỗi vang chấn động cả hang cốc. Ngài bèn nói: Ôi! Gọi ta. Trước khi viên tịch vài ngày, ngài nói cùng đệ tử: Thọ mạng ta không còn bao lâu nữa, nên tạo cho ít nước ấm nóng hương thơm để tắm rửa. Vừa xong, từ trong núi, các loài cầm thú hình sắc khác lạ thường ngày chẳng từng thấy đều cùng nhau tụ hội bên cạnh phòng, đạp nhảy giữa đất, phóng vọt trên không, buồn thương kêu gào, trãi qua ngày sau mới tan. Bấy giờ là ngày 18 tháng12 năm Trinh Quán thứ nhất (6 2 7), thời tiền Đường, vào giờ ngọ, ngài ngồi kiết già ngay thẳng nghiểm nhiên, hơi dứt nhẹ dần như nhập thiền định, nhân đó thị tịch, chẳng còn trở lại. Khi ấy giữa không trung có tiếng đàn sáo, cả chúng đều nghe, lâu sau mới dứt. Để yên như thế trải qua vài ngày mới nhập vào khám đá, nhan sắc vẫn đầy đủ hòa duyệt, tay chân mềm mại chẳng khác gì lúc bình sinh. Ngài hưởng thọ bảy mươi hai tuổi. Thần tăng Tuệ Chủ Thích Tuệ Chủ, ngài dòng họ Giả, người huyện Vónh quy, Thỉ châu. Lên sáu tuổi, ngài xuất gia làm đệ tử của Pháp sư Bân. Ở tại huyện Hoàng an, ngài tạo dựng bảy ngôi chùa, ở huyện Tử đồng mười ngôi chùa, ở huyện Vũ liên ba ngôi chùa. Năm hai mươi tuổi, muốn thọ giới Cụ túc, ở tại bổn xứ không có người mới vào kinh đô chọn mời tăng đức, ở chùa Cam lồ thọ giới, ngài chỉ nghe Tứ phần luật, còn lại các nghóa đều thông qua. Ngài mộng thấy ba ngày ba đêm trời đất tối tăm mịt mù, chúng sinh không có mắt, qua thời gian đó, bỗng nhiên có mắt sáng trở lại sáng sạch. Tỉnh giấc thì mồ hôi đã đổ, trăm ngày sau thì khắp nơi hủy bỏ kinh đạo, mới biết đó là điềm ứng chứng nghiệm. Ngài bèn trở về cố hương tại Nam sơn sống ẩn dật chỉ ăn lá tùng. Có các loài cầm thú khác nhau cùng đồng tụ tập không phát tiếng động. Lại có thần núi đưa phục linh cam tùng hương lại, ngài nhận sự cúng dường đó mà sáu thời hành đạo. Cầm thú đi theo lễ Phật tụng kinh, tợ như thính ngưỡng. Ngài mới vì các loài u hiển cho thọ giới Bồ-tát. Sau, có bầy My hầu cùng nhau sửa đường. Ngài hỏi: Các ngươi tánh tình nóng nảy nhiễu loạn, làm vậy để làm gì? Đáp rằng: Thời ngài khác, ngày nay thời hưng thịnh Phật! Ngài rất lấy làm lạ lời nói đó, bỗng nhiên lại có điềm lành khác lạ, rồng bay, thú nhóm, hương thơm đầy núi, các loại như thế rất nhiều. Sau, có tám người cầm nắm cung gỗ, ngài rất kinh hãi. Các người đó liền an ủi ngài rằng: Thánh giả! Có bậc quân vương xuất thế hiệu là Khai Hoàng*. Liền cùng xuống núi, đem sự việc tấu trình triều đình, mong dự phận xuất gia. Niên hiệu Đại Nghiệp ( 6 0 5- 617), đời nhà Tùy, vua Dương Đế (Dương Quảng) ban sắc ngài về bổn châu trú tại chùa Trúc lâm. Ngài thường xiển dương Tứ phần luật; lấy đó làm việc chính. Niên hiệu Vũ Đức ( 6 1 8- 627), đời tiền Đường, Thể Lăng, Dương, Công Lâm, Ích Châu, vốn ít có tín tâm, đem hơn trăm con lạc đà cùng mọi vật đến Thỉ châu, bảo an trí trong chùa, giảng đường, điện Phật, tăng phòng. Không ai dám chống trái, ngài từ trang trại trở về, thấy mọi thứ uế tạp như thế, liền vào trong phòng lấy tích trượng và ba chiếc y ra, than rằng: Sống chết là ngay ngày nay! Ngài đưa tích trượng chỉ, cả đàn lừa loa đồng một lúc ngã dào như chết. Hai tay ngài mỗi tay nắm một con lạc đà ném xuống dưới hố. Quan dân khắp châu huyện rất kinh hãi nhớ in phong thái của ngài. Lăng Dương rất mừng không một gì lấy làm lạ, viết thư gởi đến ngài: “Đệ tử mắc vài bệnh, chẳng gặp, hại quỷ, may nhờ luật sư phá cho cái đãy xan tham, rất là lợi lớn. Nay gởi mười cây trầm hương và mười đoạn lụa mỏng kính tặng.” Sau, trở về kinh đô, bèn theo thọ giới Bồ-tát. Năm Trinh Quán thứ 3 (6 2 9), đời tiền Đường, trong chùa, có Thiền sư Minh, thanh tịnh cao vượt khác chúng, giữa ban ngày ngồi một mình không thấy nửa thân hình, hướng cùng Đại chúng thuật lại rằng: Tôi cùng với Luật sư tạo dựng chùa này, hai người đồng một tâm chí, bỗng nhiên mất hết nửa thân hình, Luật sư Tương Bất đi trước. Tương Bất tức là Thiền sư Minh ấy mất. Bỗng nhiên, đến giờ Ngọ, ngài không bệnh hoạn gì mà thị tịch, hưởng thọ tám mươi chín tuổi. Thần tăng Minh Tịnh Thích Minh Tịnh, ngài người xứ Cao mật, xuất gia từ thuở thíếu thời, chuyên tu thiền định. Sau, đi đến phương nam vượt qua phương Đông đến các núi Thiên thai… Ngài ôm hoài Thiền quán, chẳng tập học thế pháp và thường ăn mặc lam lũ, động chỉ đúng thời. Các bạn đồng tu thiền pháp chưa biết ngưỡng vọng cao xa của ngài đến nỗi gạo thóc trên núi đều hết sạch, hằng ngày ngài đến trong thôn xóm khất thực. Lúc mang trở về gặp bầy hổ đều nhắm mắt há mồm như tưởng đói khát. Ngài bảo: Ta kinh hành trong núi đầm đã lâu, gặp các loài hổ hủy lòng đều không sợ hãi. Nay bày liệt bên cạnh đường, hà chẳng là vì cầu ăn? Ngài bèn dùng thìa xớt cơm vào miệng nó, phần còn lại thì ngài đối mặt với chúng nó mà ăn hết. Ngài bảo: Biết các ngươi lại, mà thức ăn ít, ta và các ngươi khác nhau thật chẳng xứng, ta rất lấy làm hổ thẹn! Ngày hôm sau, ngài đi khất thực, hổ lại đến như trước. Ngài đã từng gặp năm hạn hán lúa mà đều khô. Các loại dâm từ vọng cầu mời thỉnh, tuy thêm sự khẩn thiết ẩn trắc mà trọn chẳng được gì. Ngài bảo: Nên bãi bỏ các thứ cầu đảo tà ngụy, riêng mình tôi có thể cầu nguyện ban giáng. Ngài bèn kết trai ở trong tónh thất bảy ngày, bỗng một sáng sớm mây nhóm mưa tuôn, khắp nơi cao thấp đều ngập tràn, trăm họ được lợi lớn. Từ mùa Đông năm Trinh Quán thứ 3 (6 2 9) đến mùa Hạ năm sau, đời tiền Đường, suốt sáu tháng không có mưa. Vua Thái Tông ban chiếu cúng tế cầu mưa ở các đền miếu khắp mọi nơi sông ngòi non núi. Thời gian đó, trong khắp muôn dặm đều làm cho mọi người lo sợ và toàn không có ứng nghiệm gì. Có Phan Thị Lang, từng trấn nhậm ở mật châu, bíết ngài có khả năng chiêu cảm, bèn viết trạng văn tấu trình. Vua Thái Tông liền ban chiếu mời ngài đến ở trong kinh đô để cầu mưa. Ngài bảo: Điều cần có là không một tổn phí, chỉ nguyện tỉnh niệm Tam bảo từ bi tế độ tứ sinh. Sau bảy ngày hẳn sẽ ban giáng mưa móc cam lộ. Ngài bèn đến chùa Trang nghiêm, trú tại một phòng tónh lặng thiền quán. Đến ngày thứ bảy, lúc trời sắp sáng, ngài hỏi người giữ gìn rằng: Ở phía Tây bắc giữa bầu trời đang ứng có vầng cầu vồng, nên ra xem thử. Bỗng theo lời ngài ra xem thì có thật. Ngài bảo: Mưa đến! Bỗng chốc mây nhóm tụ, chợt nhiên mưa lác đác, ngày đó đến trưa chiều trong biển cũng đều thông thấm, nên năm đó được mùa. Vua Thái Tông bèn ban sắc độ ba trăm vị Tăng để báo đáp ân đức của ngài. Những điều cảm ứng chứng nghiệm của ngài khó nghó nghì quyết tưởng không thể suy lường. Chỉ vì ở tại kinh thành xe cộ ồn náo huyên tạp mà tánh ngài thì không quen như thế, nên xin trở về chùa Nghóa thắng ở quê hương, sống ở đó tiếp tục sự nghiệp hàng đạo. Cuối cùng không biết ngài còn mất như thế nào. Thần tăng Trí Tảo Thích Trí Tảo, ngài dòng họ Trương, người xứ Thanh hà. Năm ngài hai mươi tuổi, song thân đều qua đời, tang buồn vừa mới mãn, bèn nhiễm bệnh tật, trải qua nhiều năm tháng, thầy thuốc chạy chữa đều không hiệu nghiệm. Trong một đêm vắng, ngài nương roi gậy với thế mệt nhọc ra giữa sân ngước nhìn ánh trăng mà nằm, chỉ tâm chuyên niệm danh hiệu Bồ-tát Nguyệt Quang, chỉ nguyện đại bi cứu giúp nỗi khổ trầm kha của con. Ngài buộc niệm như thế, trải qua tuần đầu, nửa đêm, ngài bỗng mộng thấy một người hình sắc khác thường từ phương Đông đi đến, nói với ngài rằng: Ta nay đến đây vì ngươi mà chữa trị. Bèn đưa miệng đến thân mình ngài lần lược hút nhổ, như vậy ba đêm liền, nhân vậy mà bệnh được lành. Ngài bèn phát nguyện lìa tục, đến chùa An tỉnh làm đệ tử Pháp sư Tuệ Bằng. Nghe ngài Trí Giả Đạo hạnh nghi tắc vượt hẳn mọi người, ngài theo thuyền mành bềnh bồng thẳng đến Thiên thai, phủ phục cầu xin thọ đạo. Ngài Trí Giả bảo ngài hành trì Pháp Hoa để sám hối. Đến tuần thứ hai, đầu đêm mới lễ sám xong, đến thiền sáng như muốn an tọa, bèn thấy chín con rồng từ dưới đất vọt lên vượt thẳng giữa không trung. Sáng sớm mai, ngài đem thưa hỏi, ngài Trí Giả bảo: Đó là biểu tượng chúng sinh trong chín đường nghe kinh Pháp Hoa, ở đời vị lai sẽ phá trừ vô minh trú địa mà chứng nhập pháp tánh không. Thời nhà Trần, năm Pháp Đức thứ 4 (?), Vónh Dương, Vương Bá Trí làm thâu tiên đô, thỉnh mời ngài Trí Giả đến chỗ trấn nhậm, ngài bèn theo thầy thọ thỉnh, đồng đến núi Cối kê. Sau chín tuần xong pháp sự, ngài từ biệt Vương Bá Trí, về trú tại chùa núi Bảo lâm, hành trì Tam-muội Pháp hoa. Đầu đêm của ngày thứ nhất, như có người đến lay động cánh cửa, ngài bảo: Ngươi là ai mà nửa đêm đến lay cửa? Liền có tiếng nói to lớn đáp rằng: Ta lại trông xem đèn. Trải qua vài lần hỏi và đáp đều như vậy. Trong chùa đó trước đây có vị đại đức Thiền sư Tuệ Thành ban đêm đều nghe đủ như thế. Bèn nói với đệ tử rằng: Ở trong nhà đó từ trước đến giờ có đại ác quỷ, nay nghe tiếng nói ấy, hẳn là quỷ đến lấy mạng người. Trời gần sáng, Tuệ Thành đến gõ cửa và gọi ngài. Ngài chưa kịp đáp lời lại thì Tuệ Thành đi nhiễu quanh nhà đó, xướng rằng: Khổ thay! Khổ thay! Người ấy xong rồi!… Ngài liền mở cửa, hỏi ý nói điều gì. Tuệ Thành đáp: Ông còn đó ư? Tôi nghó rằng đêm hôm qua quỷ đã làm hại ông, nên than như thế. Qua đêm thứ hai, quỷ vào thẳng trong nhà vác chày vồ đập tường đánh cột khắp cả Đông tây. Trong nhà có sáu cây đèn, ngài tắt hết năm cây chỉ để lại một cây, mà hành đạo. Ngài tọa thiền tụng kinh thảng nhiên không khiếp sợ. Trong vòng ba tuần sự việc xảy ra thường như thế. Hành pháp sắp xong, ngài thấy một đồng tử mặc áo xanh, đến khen ngợi: Lành thay! Nói xong bèn không thấy. Ngài lại nhân có Phật sự nên ra qua đường Cối kê, vào khất thực trong thôn Hiếu hạnh, Huyện diệm, người chủ lầm nấu nấm độc thiết cúng, thọ thực xong ngài thẳng đường trước mà đi. Sau đó người chủ ăn thức ăn còn lại, tất cả đều bị khổ oái lî như chết. Người hàng xóm thấy thế liền mang thuốc tìm đuổi theo ngài, đi hơn mười dặm mới kịp, thấy ngài đi khoan khoái không việc gì. Ngài hỏi: Cớ gì mà tìm kiếm ngài? Người đó trình bày đầy đủ việc trên, ngài cười, đáp: Bần đạo không sao, có thể đổ bỏ thuốc đi mà trở về chẳng cần phải đuổi theo. Năm Trinh Quán thứ 12 (6 3 8), đời tiền Đường, ngài thị tịch ở chùa, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. Thần tăng Tri Uyển Sa-môn Tri Uyển ở U châu, ngài khổ công tinh luyện rất có học thức. Niên hiệu Đại Nghiệp ( 6 0 5- 617), đời nhà Tùy, ngài phát tâm tạo hết kinh tạng bằng cách khắc viết chữ trên đá để phòng bị Pháp diệt. Ngài đã ở tại Tây sơn, U châu đục đá làm thạch thất, mài bốn phía tường dùng để tả kinh. Lại dùng đá riêng từng tấm vuông mài láng viết khắc kinh, cất chứa đầy trong mật thất rồi dùng đá lấp bịt cửa, nấu sắt chảy mà hàn lại. Bấy giờ vua Dương Đế ( 6 0 5- 617), đời nhà Tùy đang yên ở Sông trác (xứ Trực Lệ), nội sứ thị lang Tiêu Vũ là em của hoàng hậu, tâm tánh rất kính tin Phật pháp, đem sự việc của ngài nói cùng hoàng hậu. Hoàng hậu bèn cúng dường một ngàn xấp lụa, Tiêu Vũ cúng dường năm trăm xấp lụa. Mọi người từ chốn cung đình cho đến vùng quê nghe thế, cùng đua nhau xả thí cúng dường, nên công việc của ngài được hoàn thành. Ngài thường vì công thợ đã đông mà kẻ tăng người tục cũng hay tụ hội, nên muốn ở phía trước núi, tạo lập ngôi nhà bằng gỗ để thờ Phật, cũng như trai đường, nhà nghó mà nghó rằng cây gỗ ngói gạch khó có đủ sợ tốn kém nhiều kinh phí nên chưa thể khởi công. Bỗng một đêm nọ mưa lớn, sấm sét chấn động cả núi. Sáng sớm mai trời đã tạnh, nhìn xuống dưới núi thấy có cả ngàn muôn cây tùng lớn bị nước cuốn trôi tấp bên đường, kẻ Tăng người tục kinh hãi không biết từ đâu lại. Từ đó xa gần mọi người đều thán phục, ngài bèn bảo thợ chọn lọc gỗ đó, còn lại đều phân chia cho thôn ấp. Mọi người trong thôn ấp mừng thẹn mà hổ trợ ngài tạo dựng nhà cửa điện đường, chỉ trong thời gian ngắn thì hoàn thành như chí nguyện của ngài. Ngài khắc kinh trên đá chứa đầy bảy thất. Đến năm Trinh Quán thứ 13 (6 3 9), đời tiền Đường, ngài thị tịch, các vị đệ tử tiếp nối sự nghiệp của ngài. Thần tăng Đại Chí Ngài Đại Chí dòng họ Cố người ở Cối kê, xuất gia từ thuở bé, phụng thờ ngài Trí Giả làm thầy. Ngài Trí Giả thấy ngài hình thần phóng khoáng cao vượt bình thường, nhân đó mà đặt cho tên là Đại Chí. Ngài trì tụng kinh Pháp Hoa sách nhiên nhân tónh, âm thanh trong suốt, người nghe quên cả mỏi mệt. Sau, ngài trú tại chùa Cam lồ ở Lô sơn hành hạnh Đầu-đà, có lúc ngài lao mình đến loài thú dữ nhưng chúng nó né tránh. Gạo thóc nếu hết thì ngài chỉ ăn dùng bánh trái để kéo dài sự sống mà thôi. Suốt bảy năm, ngài hành trì thiền tụng như thế không ngừng nghỉ. Về sau, ngài trú trì chùa Phước lâm. Gặp thời gian trong niên hiệu Đại Nghiệp ( 6 0 5- 617), đời nhà Tùy, phá hoại Phật pháp, ngài bùi ngùi vì Đại pháp đang bị tàn khốc, bèn đắp mặc áo hiếu đến trong Phật đường gào khóc thảm thiết cả ba ngày, phát nguyện xả bỏ hình hài để thân minh Phật pháp. Ngài liến đến Đông đô, dâng biểu tấu trình: “Nguyện xin bệ hạ hưng long Tam bảo, bần đạo sẽ đốt cánh tay để báo đáp ân trạch của nước nhà!” Vua Dương Đế chấp thuận. Ngài bèn thiết đại trai hội, thất chúng đều tu hội, ngài tuyệt thực ba ngày leo lên trong một rạp lớn, lấy vải bố quấn cánh tay dùng sáp rát vào như một bó đuốc, ánh sáng chiếu soi khắp cả núi hang lung lay tỏa sáng. Đại chúng thấy ngài hành khổ, đau xót tận tim tủy, mà ngài hình sắc vẫn không đổi thay, hoặc là tụng đọc kinh văn, hoặc là tán thán công đức chư Phật, hoặc vì đại chúng nói pháp…, tiếng tiếng chẳng dứt. Thiêu xong, ngài xuống khỏi rạp, ngồi kiết già nhập định, bảy ngày sau ngài thị tịch. Thần tăng Trí Thông Ngài Trí Thông trú tại chùa Bạch mã, ở Dương châu. Chuyên tu tập Tam luận. Ngài lại vượt sông qua trú tại chùa An lạc, gặp lúc nhà Tùy mất ngài muốn trở về nhưng không phương kế, bèn ẩn trong cỏ lau ở bờ sông, trù tụng kinh Pháp Hoa, suốt bảy ngày chẳng biết đói, thường có bốn con hổ đi nhiểu quanh ngài. Ngài bảo: Ta đã mười ngày không ăn, mạng sống chỉ còn trong hơi thở, các ngươi có thể cứ ăn lấy. Hổ liền nói tiếng người rằng: Từ lúc tạo lập đất trời không có lý ấy. Bỗng thấy một ông già kẹp dưới nách một chiếc thuyền nhỏ, đi đến bảo: Ngài muốn qua sông hãy mau lên thuyền. Bốn con hổ thấy thế mà rơi lệ. Ngài bảo: Giữ nguy nhổ nạn chính ở ngày nay! Liền cùng bốn con hổ nhanh nhẹn vượt đến bờ nam. Thuyền vừa cập bờ thì ông ấy bỗng nhiên không thấy nữa. Ngài dẫn bốn con hổ đến dừng nghỉ ở phía Tây tháp Thê hà, kinh hành thiền tụng, thề chẳng nằm ngủ. Đại chúng an trú hơn tám mươi người. Bỗng nhiên như có hung sự, hổ lại gầm thét lớn, do đó mà cảnh giác. Trong niên hiệu Trinh Quán 99 (?), nhân ngày Phật Đản sinh, ngài đốt hương đãnh lễ khắp các thánh tượng rồi trở về tónh thất đoan tọa thị tịch. Thần tăng Thiện Đạo Pháp Sư Thiện Đạo, ngài người xứ Lâm Chuy. Với tín tâm vào nơi Đại tạng tự tay chọn lấy được quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, ngài bèn chuyên tâm niệm Phật, tu pháp Thập lục diệu quán. Kịp đến khi ngài đến trú tại Lô sơn, đọc xem Di trục của ngài Tuệ Viễn, bỗng nhiên tăng trưởng tư duy. Sau ngài ẩn tích tại Chung nam tu pháp Ban châu Tam-muội vài năm, ngài thấy rõ các báu Hồ ngọc hiện ngay trước mắt. Ngài lại đến Tấn dương trao cho Thiền sư Đạo Xước kinh Vô Lượng Thọ. Ngài nhập định bảy ngày, Đạo Xước thỉnh ngài quán chiếu về chỗ sinh. Ngài đáp rằng: Sư phải sám hối ba tội mới có thể được vãng sinh, đó là: Sư thường an trí tượng Phật dưới diềm cửa sổ mà tự ở chỗ phòng sâu kín. Đang tại trước Phật lễ sám lại thường sai sứ người xuất gia. Đang tại trước tứ phương tăng lễ sám. Lại nhân đó làm nhà tổn hại sinh mạng côn trùng rất nhiều. Sư phải đối trước hết thảy chúng sinh mà sám hối. Ngài Đạo Xước tónh tọa tư duy những lỗi lầm xưa trước bèn tẩy tâm sám tạ. Thời gian lâu sau, ngài Thiện Đạo xuất định nói cùng Đạo Xước rằng: Tội sư đã tiêu diệt. Sau này, lúc có ánh sáng sắc trắng soi chiếu thì đó là tướng vãng sinh. Ngài Thiện Đạo hoằng hóa tại chốn kinh đô, mọi người quy tụ đông như chợ. Bỗng nhiên, ngài hiện chút bệnh, bèn đóng thất, an nhiên niệm Phật mà thị tịch, có hương thơm khác lạ, tiếng nhạc cõi trời hướng về phía Tây mà ẩn. <篇> TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 6 Thần tăng Pháp Thuận Thích Pháp Thuận, ngài dòng họ Đỗ, người ở huyện Vạn niên, Ung châu. Bẩm tánh ngài thường luôn nhu hòa. Năm mười tám tuổi, xả tục xuất gia, ngài phụng thờ Thiền sư Tăng Trân ở chùa Nhân thánh, thọ trì định học. Ngài từng đến Khánh châu hoằng hóa, khuyên người thiết trai hội cúng dường năm trăm vị Tăng. Đến lúc vào trai đường thọ thực, số người lại gấp bội, người chủ cúng dường lo sợ, ngài bảo: Không có gì phải sợ. Chỉ nên chuyền khắp chu cấp chớ going cúng dường thì đến cả ngàn vị cũng đều đủ. Có Trương Hà Giang và Trương Hoằng Sướng, trong nhà chăn nu- ôi trâu ngựa, tánh vốn tệ ác, mọi người đều mắc hoạn với nhà đó là bán mà không lấy lại được tiền. Ngài bày lời từ thiện thì như có chỗ vâng theo, từ đó về sau không còn xúc chạm ăn mòn nữa. Ngài từng dẫn chúng lên núi Ly nương náu tịnh tu trong mùa hạ. Ngoài đất có nhiều trùng kiến, không do đâu mà gieo trồng rau quả. Ngài sợ làm tổn hại đến chúng, liến đến ngoài đất như chỉ bày khiến các côn trùng dời nơi cư ngụ. Sau đó không lâu, ra xem lại, như có sự phân tề tự nhiên không còn có côn trùng. Thời bấy giờ, ngài mắc bệnh phù thủng, máu mủ vỡ chảy ra ngoài. Có người kính trọng mà mổ lấy, hoặc dùng bông để lau, bỗng nhiên bệnh ngài lành hẳn. Số mủ còn lại phát ra mùi hương thơm khó mà sánh được, nơi bông lau chùi còn mang lại mùi thơm chẳng mất. Dân ở Tam nguyên, có Điền-tát-đỏa, từ lúc mới sinh bị mắc bệnh điếc. Lại có Trương Tô cũng bị bệnh câm ngọng, ngài nghe thế, bèn cùng ngài bàn luận và bệnh tình cũng dứt hẳn. Tại huyện Võ công có vị Tăng bị độc long làm mê hoặc, mọi người dẫn đem đến ngài, ngài bảo khoanh tay ngồi đối diện với ngài. Độc long gá vị Tăng bệnh nói rằng: - Thiền sư đã lại, nghóa không ở lâu. Cực tướng nhọc nhiễu, bỗng nhiên liền cởi mở. Nên mọi người xa gần bị độc chướng dịch lệ ai cũng tìm đến ngài để giải bày mọi khổ não. Ngài không dùng pháp thuật gì cả, chỉ ngồi đối diện với ngài thôi mà mọi bệnh đều lành. Nhân có Phật sự, ngài đi đến Nam dã, sắp qua sông Hoàng cừ. Nước ở sông ấy đầy tràn, mọi người gắng gỏi mà vượt qua, bờ đá đã cao lại trơn nhẵn, tuy có leo lên nhưng cũng bị rơi lại xuống nước, bỗng nhiên nghó liền đến theo đường đất liền mà qua. Kịp đến lúc ngài lên tới bờ thì nước trở lại như cũ, môn nhân chớ thấy mà chẳng lường được sự việc ấy. Đến năm Trinh Quán thứ 14 (6 4 0), đời tiền Đường, ngài không bệnh khổ gì, bỗng nhiên gọi đồ chúng đến mà chúc lụy rằng: - Hành pháp của đời tôi để lại cần nên tiếp nối trường tồn! Nói xong, ngài vẫn như thường an tọa thiền định mà thị tịch ở chùa Nghóa thiện tại Nam giao. Thần tăng Chí Khoan Thích Chí Khoan, ngài dòng họ Diêu, người xứ Hà đông, Bồ châu. Xem qua các kinh, ngài liền lấy kinh Niết-bàn và Địa luận làm tông chỉ nương tựa. Tại phòng ngài ở mỗi đêm thường có âm hưởng của áo dày mũ trụ chấn động. Mọi người lén trộm mà nhìn đều thấy thần nhân phi thường đi nhiễu quanh phòng. Bấy giờ ở Xuyên ấp có hổ bạo hành khiến mọi người bị cắt đứt đường đi. Chúng nó hợp đàn cả vài trăm con đi qua thôn xóm thành ấp làm tổn hại người và vật. Trong đàn có con thú chúa, đầu nó rất lớn có đủ năm sắc, rất oai phong điều khiển các con thú khác. Toại châu đô đốc Trương Tốn, từ xa nghe được đức hạnh từ bi của ngài, bèn sai người đến thỉnh mời. Ngài bèn bảo khắp trong châu huyện thiết lập trai pháp hành đạo, mỗi người tự thọ tám giới. Từ đó, không còn bị hổ quấy nhiễu nữa, chẳng biết chúng nó đi về đâu. Người thời bấy giờ cảm kích việc ấy bèn tôn thờ ngài như Thần thánh. Đầu niên hiệu Trinh Quán ( 6 2 7-…), ngài trở về Bồ tấn, bấy giờ khắp châu quận gặp phải hạn hán, cầu đảo mọi nơi đều không toại nguyện. Cả thảy quan dân mới đến thỉnh mời ngài. Ngài bèn thiết lập đàn tràng, đem thân mình ra tự lập lời thề: Nếu chẳng ban giáng mưa móc thì chẳng trở lại phòng nhà. Ngài phơi hình hai ngày, mây rủ kín khắp nơi, ba ngày về sau, khắp nơi mưa ngập tràn, dân chúng nhờ đó mà được mùa. Trước lúc viên tịch, ngài nghiêng về phía hữu mà nằm, gối đầu lên tay phải, bảo cùng môn đồ rằng: Sinh tử dài lâu, người có đợi chờ cũng thế. Các ngươi chỉ nên tự quán thân như huyễn, tức không có ái kết tự buộc. Mạng ta cũng dứt, nên dùng hai cái đòn tay một tấm chiếu trúc bó lại mà khiêng đưa, không được theo thế tục phân vân làm điều chẳng ích lợi gì! Nói xong, ngài liền thị tịch. Thần tăng Thế Du Thích Thế Du, ngài dòng họ Trần, trú tại Đài châu. Năm Đại Ng- hiệp thứ 12 (6 1 6), đời nhà Tùy, ngài đến chùa Chấn hưởng ở Miên châu theo Pháp sư Luân, cầu xin xuất gia. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, cần khổ tương tục. Ngài lại vào chùa Tịch trú ở Lợi châu. Sau, ngài lại vào núi hưởng ứng ở huyện Miên trúc; Ích châu ở riêng một mình nhiều năm. Có bốn con vượn cúng cấp trái cây rừng… để ăn. Có tín só mẫu gia sinh mang có tấm lòng cúng dường, thường vào trong rừng sâu thường đốt hương huân lục trầm thủy… Thế rồi từ núi trở về, đến nửa đường, thấy hai người hình rất sắc xanh dáng mạo ít có ở đời, mỗi người tự nắm hoa sen, mía, khoai, đi lên, bảo rằng: Chúng tôi đến cúng cho Thiền sư. Nhưng ngài ở tại núi trong ba năm chỉ ăn một thạch bảy thăng gạo, thường ngày sáu thời hành đạo, làm bạn với chim muông khỉ vượn. Đầu tiên chỉ có một dòng suối, sau có ba dòng sinh ra ở dưới. Trong năm Trinh Quán thứ nhất (6 2 7), đời tiền Đường, ngài mộng thấy có bốn con rồng đến, vào trong tràng mắt ngài, thế rồi, tỉnh giấc, ngài đại ngộ tông chỉ Tam luận. Ngài đến giảng tòa của Pháp sư Linh Duệ, được nghe ngôn từ nghóa lý uyển chuyển như tìm lại vết xưa. Ngài lại trở về Miên châu, trú tại chùa Đại thí. Đến năm Trinh Quán thứ 19 (6 4 5), đời tiền Đường, ngày mồng tám tháng tư, ngài sang chùa Sùng Lạc, nói rằng “muốn du phương”, có người dụ bảo: Chỉ ở chùa này là Các khương. Nhân đó, ngài liền trở về phòng cũ ở chùa Đại thí, mùi hương thơm lạ phảng phất khắp thất, trong lòng đất ngay dưới tòa của ngài vọt lên ba đồng tiền vàng. Cả chúng theo mùi hương mà biết được từ trong phòng ngài thoảng ra, mới thấy ngài ngồi kiết già trên tòa, tay ngài còn bưng lấy lò hương, bỗng nhiên ngài thị tịch, hưởng thọ sáu mươi ba tuổi. Thần tăng Huyền Trang Thích Huyền Trang, ngài vốn tên Y, dòng họ Trần, người xứ Câu thị; Lạc châu. Thuở thiếu thời, gặp phải cùng khốc, ngài theo người anh cả là Pháp sư Tiệp trú ở chùa Tịnh độ. Anh ngài trao cho tinh lý gồm thêm các xảo luận. Năm mười một tuổi, ngài tụng kinh Duy-ma, Pháp Hoa… Tại Đông đô thường độ Tăng và cùng Tăng chúng bàn luận kinh điển. Từ đó, ngài vượt hẳn tự nhiên ngay thẳng chẳng hẹn mà ham muốn hâm mộ đại pháp. Sau, ngài đến Trường an, trú tại chùa Trang nghiêm, lại chẳng phải là ước vọng chính đáng, ngài đi về hướng Tây vượt qua Kiếm các, tới Thục đô, ngài thọ học các kinh luận, nghe qua một lần tức nhớ mãi không quên. Năm Vũ Đức thứ 5 (6 2 2), đời tiền Đường, ngài hai mươi mốt tuổi, vì các học chúng. Ngài phụ giúp Sa-môn Hùng Bá xiển dương Tam luận, thấu đạt văn tướng mà chuyên tụng chú. Người thời bấy giờ tôn xưng ngài là Thần nhân. Sau, ngài lại đi khắp các xứ Kinh châu, Dương châu…, tham vấn các bậc Đạo nhân lân cận. Ngài lại trở về Kinh liễn đến nhiều nơi, biến học Thư Ngữ hành tọa tầm trao chỉ vài ngày là thông suốt và chờ cơ hội đến. Năm Trinh Quán thứ 3 (6 2 9), đời tiền Đường, gặp lúc ban sắc kẻ tăng người tục tùy sự lớn thịnh đi ra mọi nơi. Do đó, ngài được sang Tây Vực thỉnh cầu các Kinh Tượng. Ngài đi đến nước Kế Tân, đường đi hiểm trở, hổ báo cản ngăn không thể vượt qua. Ngài chưa tìm ra phương kế bèn đóng cửa phòng mà ngồi. Đêm đến, mở cửa ra bỗng thấy một vị lão Tăng đầu mặt lở loét, thân thể đầy máu mủ một mình ngồi trên giường, chẳng biết từ đâu lại. Ngài mới lễ bái cần cầu. Vị Tăng đó, từ miệng đọc trao cho ngài một quyển Tâm kinh và bảo ngài trì tụng. Từ đó, bèn được sông núi bình dị, đường sá mở thông, hổ báo ẩn hình, ma quỷ lắng vết. Ngài liền đến nước Nhật, thỉnh cầu các bộ kinh hơn sáu trăm bộ. Năm Trinh Quán thứ 19 (2 4 5), ngài trở về kinh đô, vua Thái Tông ban sắc ngài trú tại chùa Ngọc hoa phiên dịch kinh tạng. Từ thuở bình sinh trở lại, ngài thường nguyện sinh về cung trời Đâu-suất trú xứ của Đức Phật Di-lặc. Đến lúc ngài sang Tây Vực, lại được nghe hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân đều sinh ở cung trời đó, lại thường cầu thỉnh đều có hiển thể. Sau ngài đến chùa Ngọc hoa, trong những lúc nhàn rỗi, khi nào ngài cũng nguyện. Đến năm Lân Đức thứ nhất (6 6 4), đời tiền Đường, ngài bảo các vị Tăng cùng phiên dịch và môn nhân rằng: Phàm các pháp hữu vi đều kết quy về hoại diệt. Hình chất bọt bóng đâu có thể trường tồn! Năm sáu mươi lăm tuổi, tôi sẽ tịch tại chùa Ngọc hoa. Đối với các kinh luận, những ai có nghi gì, nay có thể mau hỏi! Mọi người nghe thế, lấy làm lạ. Ngài bảo: Việc đó hãy tự biết. Ngài bèn đến điện lễ tạ Phật rồi từ biệt chư Tăng. Thế rồi, ngài mang bệnh, thường thấy hoa sen lớn trắng đẹp hiện lại, lại thấy tướng Phật. Ngài bảo chư Tăng đọc lại danh mục các kinh luận đã phiên dịch. Tổng cộng có bảy mươi ba bộ, một ngàn ba trăm ba mươi quyển, ngài tự ôm lòng mừng vui. Ngài gọi tất cả đệ tử và những vị hữu duyên đều nhóm tụ, ngài bảo: Vô thường sắp đến, hãy nhanh cùng gặp! Ở tại điện Gia thọ, ngài đem tượng cốt bằng hương mộc cây Bồ- đề, đối trước chúng tăng trong chùa Từ quyết và để lại di biểu xong, ngài bèn mặc niệm danh hiệu Đức Di-lặc, nghiêng về phía hữu duỗi xếp hai chân, dùng tay phải gối đầu, tay trái đặt trên đùi vế, bền vững an nhiên bất động, hơi thở ngừng dứt thâu thần thị tịch. Trải qua hai tháng mà sắc mạo vẫn như thường, mới an táng tại gò đồi Bạch lộc. Trước kia, lúc sắp đi Tây Vực, tại chùa Linh nham, thấy có một cây tùng, ngài đứng giữa sân, đưa tay xoa vuốt các cành tùng, bảo: Tôi đi Tây phương cầu thỉnh Phật giáo, người nên lớn mạnh về hướng Tây. nếu ta trở về thì ngước xoay về hướng Đông, khiến cho đệ tử tôi được biết! Khi ngài đi thì hằng năm cành tùng ấy chỉ về hướng Tây dài lớn độ vài trượng. Một năm nọ, bỗng nhiên tự xoay về hướng Đông, môn nhân đệ tử ngài bảo nhau rằng: Đức giáo chủ sắp trở về. Bèn đến phương Tây để nghênh đón, quả thật là ngài trở về. Đến nay, mọi người đều gọi cây tùng đó là Ma đảnh tùng. Thần tăng Pháp Mẫn Thích Pháp Mẫn, ngài dòng họ Tôn, người xứ Đơn dương. Năm lên tám tuổi, ngài xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Anh, ngài đến Mao sơn, nghe Pháp sư Minh giảng Tam luận, tỏ ngộ được tông chỉ. Năm Trinh Quán thứ nhất (6 2 7), đời tiền Đường, ngài ra khỏi núi, trở về Đơn dương, giảng các kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn. Qua năm sau, Việt châu Điền đô đốc đuổi tìm thỉnh ngài về chùa Nhất âm tiếp tục chuyển vận xe pháp. Đến lúc đại chúng tụ hội, các bậc Sa-môn nghóa học hơn tám trăm người ở các nơi hơn bảy mươi châu, chư Tăng tại bổn xứ một ngàn hai trăm vị, chư Ni ba trăm vị, còn hàng cư só không thể tính kể. Đến năm Kinh Quán thứ 19 (6 4 5), đời tiền Đường, các hàng só tục ở Cối kê thỉnh ngài đến trú tại Tónh lâm giảng kinh Hoa Nghiêm. Đến cuối tháng sáu, trong lúc đang giảng, có con rắn quấn nửa thân hình trên cổ ngài dài đến bảy thước, nhả ra vàng ròng phóng ánh sáng năm sắc, tới lúc giảng xong mới ẩn. Đến hết mùa Hạ, ngài trở về chùa Nhất âm, ban đêm có hai người mặc áo đỏ đến lễ bái, thưa rằng: Pháp sư giảng bốn bộ kinh lớn công đức khó lường. Phải qua phương khác giáo hóa, nên chúng tôi từ phương Đông đến đây nghênh đón Pháp sư. Đệ tử của ngài vài mươi người đều thấy tướng đó. Đến ngày 17 tháng 8, trước đó suốt ba ngày ba đêm, vô cớ bỗng nhiên tối tăm, vừa đến ngày 23 sắp qua, bỗng nhiên phóng ánh sáng lớn, ban đêm sáng tỏ như ngày. Nhân đó, ngài thị tịch, hưởng thọ sáu mươi bảy tuổi. Thân ngài cao bảy thước sáu tấc. Đình lại tang lễ bảy ngày, ngoài tháp phóng ánh sáng, giữa đất chấn động có hương lạ bay khắp. Ai cũng sinh tâm ngợi ca và đưa đến an táng tại núi Long an. Thần tăng Tuệ Cừ Thích Tuệ Cừ, ngài dòng họ Đổng, xuất gia từ thuở thiếu thời tại Tương xuyên. Trong thời Bắc Chu phá diệt Phật pháp, sau đó xoay qua Trần triều thuộc Nam triều, ngài vào Mao sơn, nghe Pháp sư Huyền Bố giảng Tứ Luận, Đại Phẩm, Niết-bàn,… Sau nữa, ngài lại đến chùa Đại lâm ở An châu nghe Pháp sư Viên giảng Thích luận. Phàm chỗ du nhận đều khế hợp sâu mầu. Ngài lại trở về Hương tử trú tại chùa Quang phước trên đỉnh núi. Vì không thuận duyên nên sắp dời đến chùa khác, ban đêm ngài thấy Thần nhân thân cao một trượng mặc áo bào tía, đến đảnh lễ thưa rằng: Phụng thỉnh Pháp sư trú tại xứ này thường giảng kinh giáo Đại thừa, chớ nghó về Tiểu thừa. Kinh giáo Tiểu thừa cũng như trên núi cao không có nước không thể làm lợi ích mọi người. Còn kinh giáo Đại thừa tợ như biển lớn. Tại núi này có nhiều Đức Phật xuất thế, một người đọc tụng giảng nói kinh giáo Đại thừa, hay khiến tại chỗ ở các thứ trân báu phát sáng, mọi phẩm vật ẩm thực đều được sung túc, nếu trước đó có các sự thuộc Tiểu thừa thì thảy đều tiêu mất. Cúi mong ngài hoằng trì chớ có phụ lòng mong ước. Pháp sư cần nước, việc ấy không khó, đến ngày mồng tám tháng sau hẳn sẽ có. Tôi tự sang Kiến nam tại núi Từ mẫu có dòng suối lớn xin một Long vương đến! Nói xong thì không thấy nữa. Vừa đến đầu đêm mồng bảy tháng sau, có gió lớn thổi gấp từ phía Tây nam lại, sấm sét chấn động mưa tuôn ở phía Bắc chùa dưới miếu Hán cao, cách sau Phật đường trăm bộ, suốt đêm tương tục đến sáng mới dừng. Chỉ thấy một dòng suối trong, thơm mát lại đẹp. Cả chúng đồng được may mắn, kịp chỉ long tuyền tạm bèn khô kiệt. Trong năm Trinh Quán thứ 23 (6 4 9), đời tiền Đường, ngài giảng kinh Niết-bàn. Đêm mồng tám tháng tư, thần núi đến bảo ngài rằng: Pháp sư hãy mau xây dựng phòng nhà, không lâu nữa, ngài sẽ sinh về Tây phương. Đến ngày 14 tháng 7, ngài giảng kinh Vu Lan xong, ngài đưa tay bảo: Đời nay thường thọ dụng của tín thí, nay đều ban trải khắp. Mọi vật từ một hào trở lên đều xả thế vào thập phương chúng Tăng và những người khốn cùng hành khất cũng như bao loài vật khác. Nói xong, ngài bèn thị tịch ngay trên Pháp tòa, hưởng thọ bảy mươi chín tuổi. Thần tăng Phong Can Ngài Phong Can trú tại chùa Quốc thanh ở Thiên thai. Cắt tóc ngang mày, vải cừu che thân, thân cao hơn bảy thước. Có người mượn hỏi, ngài chỉ trả lời bằng hai chữ Tùy Quyên mà thôi, ngoài ra không lời gì khác. Sớm đi khắp thành kế đến vào trai trù nấu thổi. Ngài từng cỡi hổ đi vào trùng môn, chúng Tăng kinh sợ, miệng xướng đạo ca. Ngài cùng hai vị Thập Đắc và Hàn Sơn Tử rất tương đắc vui vẻ. Ngài cất bước vân du, vừa lúc quan Diêm Khâu muốn ra trấn thủ Đài Châu, bỗng dưng bị bệnh đầu phong, mời các thầy thuốc chữa trị đều chẳng lành. Tình cờ, ngài đến nhà ông ta, tự bảo là sẽ trị khỏi bệnh ấy. Diêm Khâu nghe mà cầu thỉnh, ngài bèn trì tịnh thủy phun vào, trong khoảng khắc dứt lành. Nhân đó, càng thêm kính ngưỡng, Diêm Khâu hỏi ngài từ đâu đến, ngài bảo: Ở tại chùa Quốc thanh, núi Thiên thai. Lại hỏi: Ở đó có các bậc Hiền đạt chăng? Ngài đáp: Hàn Sơn là Văn-thù, Thập Đắc là Phổ Hiền, hai vị đó đang ở đó nên đến mà bái kiến. Diêm Khâu rất kính tin, ba ngày sau liền đến chùa, hỏi: Ở đây từng có Thiền sư Phong Can chăng? Chư Tăng ở chùa đáp: Có. Hỏi: Phòng ngài ở đâu? Hàn Sơn và Thập Đắc là người nào? Khi đó có Sa-môn Đạo Kiều đáp: Phòng cũ của Phong Can tức ở sau kinh tạng. Nay vắng teo không người chỉ có hổ báo, khi đến đó chỉ nghe tiếng gầm gừ. Còn Hàn Sơn và Thập Đắc, hai người hiện đang lao tác trong nhà trù. Diêm Khâu đến phòng của ngài chỉ thấy dấu vết của hổ báo ngang dọc. Lại hỏi: Khi người ở đó thường làm nghề gì? Đáp: Chỉ chuyên việc giả gạo cúng dường cơm cháo cho chúng tăng. Tối đến thì xướng ca phúng tụng không thôi. Ta thán như thếâ đến hai ba lần, Diêm Khâu lại đến nhà trù, thấy hai ngài Thập Đắc và Hàn Sơn, liền lễ bái. Hai ngài đứng dậy bỏ chạy bảo: biết. Ông Phong Can thật lắm lời, đó là Di-đà mà các người không Bèn nắm tay dẫn nhau ra Trùng môn không trở vào chùa nữa. Sau, cuộc đời của ngài Phong Can như thế nào không được biết! Thần tăng Hàn Sơn Tử Hàn Sơn Tử, người đời gọi ngài là Bần Tử, là kẻ só cuồng phong, không thể diễn đạt được. Ngài ẩn cư tại Thiên Thai phía Tây huyện Thỉ Phong, cách bảy mươi dặm, với danh hiệu là Hàn Ám nhị nham. Ngài thường ở trong núi hang lạnh kín, lấy thiền định làm tông chỉ. Lúc ngài đến chùa Quốc thanh, ở đó có ngài Thập Đắc, chư Tăng trong chùa cắt cử ngài Thập Đắc coi sóc việc ăn uống ở Trai đường. Thường ngày lượm nhặt các thức ăn rau quả cặn bả của chúng Tăng ăn thừa, chặt đốt tre lớn làm ống bỏ vào trong đó, đợi Hàn Sơn lại mang đi. Hoặc có lúc dưới hàng hiên, ngài đi chậm rãi; có lúc kêu réo hơn người; có lúc nhìn trời chửi mắng, chư Tăng trong chùa nhẫn nhìn không nỗi dùng gậy xua đuổi đi, ngài liền nhào lộn thân vỗ tay cười ha ha rồi bỏ đi. Có lúc, ngài chỉ mặc chiếc áo cánh, linh lạc, diện mạo khô gầy mỏi mệt, dùng da gỗ hoa làm mũ, mang đôi guốc gỗ lớn. Hoặc có lúc phát ngôn từ có chỗ kết quy, đó là quy về Phật lý. Đầu tiên, khi Diêm Khâu đến chùa Phỏng hỏi về Hàn sơn, Sa- môn Đạo Kiều trả lời: - Đó là người mắc bệnh cuồng, vốn cư trú tại chùa Hàn nham, hay ngâm nga từ kệ, nói năng bất thường. Hoặc ẩn tàng hoặc không, trọn chẳng thể biết được. Ông ấy cùng với hành giả Thập Đắc trong chùa này kết bạn tương giao. Những lúc gặp nhau, họ nói năng không thể rõ ràng. bảo: Chư Tăng trong chùa thấy quan thái thú đến lễ bái ngài, kinh lạ, Quan lớn cớ sao lễ bái kẻ phong cuồng ấy? Hai người cùng nắm tay nhau cười ngạo bước ra khỏi chùa. Diêm Khâu lại đến Hàn nham dò hỏi và mang theo xiêm y thuốc thang vật thực đến cúng dường, mà ngài lớn lời xướng rằng: Giặc ta, giặc lui đi! Rồi bèn rút mình vào trong núi, bít hang đá lại. Ở trong đó, ngài lại nói: Báo cho các ngươi biết, các ngươi mỗi người phải tự mình nỗ lực! Hang đá đó bít hết, tự nhiên tra tìm không có dấu vết, mới trở về, nói Sa-môn Đạo Kiều tìm lại di vật của ngài, chỉ thấy ở trong rừng, ngài khâu lá viết nên những bài từ bái tụng, cũng như ở ruộng nhà trong thôn, vách tường nhà người, sao chép được hơn hai trăm bài, biên thành một tập. Nhiều người đọc tụng, thậm chí có câu: “Khoảng sân sao có mây trắng ôm phủ đá mờ”… Thần tăng Thập Đắc Ngài Thập Đắc, là do Thiền sư Phong Can tình cờ đi trên núi đến Xích thành, nghe tiếng đứa trẻ khóc, bèn tìm lại thì thấy đứa trẻ độ vài tuổi. Đầu tiên ngài Phong Can cho rằng đứa trẻ đứng chăn trâu, nhưng vỗ về dò hỏi đầu mối, thì đứa trẻ đáp rằng: Không có nhà cửa riêng một mình bị bỏ ở đây. Ngài Phong Can bèn dẫn đến chùa Quốc thanh, giao cho vị tăng Điển Tòa ở đó và bảo: Nếu có người đến nhận thì cứ giao trả lại. Sau, Sa-môn Linh Dập nhận lấy và bảo ngài coi sóc việc hương đăng tại trai đường. Một hôm thấy ngài leo lên trên tòa cùng bàn đối diện với tôn tượng mà ăn. Lại kêu Kiều-trần-như là Tiểu quả Thanh văn! Bên cạnh như không có người nắm đưa cười lớn. Chư Tăng mới xua đuổi ngài, còn ngài Linh Dập thì trình hỏi các bậc Tôn túc, đều bảo chớ để ngài làm việc tại trai đường, lại bảo ngài vào nhà trù lo việc sửa dọn nồi niêu chén bát. Tẩy rửa xong, ngài lắng lại những cặn bã thức ăn còn lại để vào trong một ống tre, ngài Hàn Sơn lại thì mang đi. Thần miếu hộ trì già-lam thường ngày vào nhà trù để ăn, bị chim quạ mổ gắp rơi vãi, ngài dùng gậy đánh vào tượng đất vài ba cái, bảo: Ngươi ăn uống còn không thể giữ gìn, vậy làm sao giữ già-lam? Đêm đó, gá mộng cùng khắp chư tăng trong chùa, bảo: Thập Đắc đánh tôi! Sáng sớm chư Tăng kể lại giấc mộng đều giống nhau. Cả chùa đều phân vân, mới biết ngài là người phi thường. Bấy giờ, Diệp Thân châu huyện quận có lời phú rằng: Hiền só ẩn đạo, Bồ-tát ứng thân. Nên dùng cờ tiêu biểu đề hiệu Thập Đắc là Hiền só. Ngài lại ở ngoài trang trại của chùa để chăn giữ trâu, ngài ca vịnh khắp trời. Đương lúc chúng tăng trong chùa hành lễ Bồ-tát, ngài lùa trâu đến trước pháp đường nơi chúng tăng đang tụ hội, ngài dựa cửa vỗ tay cười lớn, bảo: Rằn rặc là nhóm đầu. Khi đó, vị Thủ tòa đang tụng luật quát rằng: Kẻ phong cuồng cớ sao ồn náo làm chướng việc thuyết giới vậy? Ngài bảo: Tôi đâu có thả trâu. Đàn trâu này phần nhiều là những người làm tri sự Tăng trong chùa. Ngài bèn gọi pháp hiệu của các vị Tăng đã tịch, thì đàn trâu mỗi con tự ứng thanh mà qua. Cả chúng đều thảng thốt, suy nghó mà cải vãng tu lai. Cảm ân Bồ-tát rủ lòng từ ứng tích độ thoát. Bấy giờ, Sa-môn Đạo Kiều đang soạn lục văn cú của ngài Hàn Sơn. Thấy nơi vách tường thần miếu Thổ địa của chùa có các bài kệ bài từ của ngài Thập Đắc, bèn đưa vào trong tập văn lục của ngài Hàn Sơn. Thần tăng Pháp Xung Thích Pháp Xung, ngài tự là Giáo Đôn, dòng họ Lý, người xứ Thành kỷ, Lũng tây. Từ thuở ấu thơ mà cao ngạo xấc láo với người đời. Đến năm hai mươi bốn tuổi, bèn phát tâm xuất gia, ngài nghe giảng kinh Niết-bàn hơn ba mươi biến, lại đến Pháp sư Hạo ở An châu nghe giảng các kinh Đại Phẩm, Tam Luận, Lăng-già… ngài vào núi Võ đô tu tập đạo nghiệp. Năm ba mươi tuổi, ngài đến Ký châu. Năm Trinh Quán thứ nhất (6 2 7), đời tiền Đường, ban sắc hữu tư độ dùng cực hình đối xử, ngài phát nguyện vong thân, bèn liền cắt tóc. Bấy giờ tại núi Dịch dương có nhiều vị Tăng tìm đến lánh nạn, tín thí cung cấp lương thực báo đã cạn dần, ngài bèn đến quan tể tướng trong châu bảo: Nếu phải chết, thì xác thân tôi cũng chịu. Chỉ mong cầu cúng thí lương thực cho chúng Tăng thì sẽ hưởng phước lành. Các quan thái thú châu tể mừng nghóa khí cao đẹp của ngài, liền cứu giúp cùng khắp, ngài liền phân chia chư Tăng ở hai nơi, mỗi nơi đặt nơi chứa gạo khoảng mười hộc. Trong đó, mỗi nơi, đồ chúng hơn bốn mươi người thuần học kinh giáo Đại thừa đồng thời chuyên tu thiền nghiệp, trải qua một ngày dùng ăn mà gạo vẫn vơi dần. Còn một nơi, cả thảy có năm mươi sáu người, vừa mới qua hai ngày, ăn bịch gạo đã hết sạch. Bởi do chẳng lo tu thiền mà tu theo ngoại học. Ngài bảo: Rất lạ, sao vẫn không đủ! Người hay tu hành đạo thì bạch hào đến cung cấp giúp. Bấy giờ, người lánh nạn càng đông, không có nơi trú ở. Trong núi có hang hổ, ngài đến bảo rằng: Nay khách cũng khốn đến đây, có thể được dung chứa chăng? Hổ liền dẫn nhau đi. Đến lúc ương nạn cởi mở, ngài mới tùy xứ hoằng pháp. Tuy tuyên dương diễn giảng nhiều kinh thuật, nhưng ngài chuyên lấy kinh Lăng-già làm tông chỉ. Trung thư Đỗ Chánh Luân thường đến thưa hỏi xin thọ giáo nơi ngài. Lúc ấy, Pháp sư Tam tạng Huyền Trang không đồng ý giảng dạy kinh cũ chỉ sử dụng kinh mới phiên dịch. Ngài bảo: Ông y cứ kinh cũ mà xuất gia, nếu không chấp thuận hoằng dương kinh cũ, xin ông nên hoàn tục, rồi lại y cứ kinh điển mới phiên dịch. Tôi mới chấp thuận ý ấy của ông. Ngài Huyền Trang mới nghe theo liền tạm dừng. Ngài cũng bảo thay thế gánh vác hoằng dương kinh điển làm hộ pháp. Những kẻ só cứng cỏi cầm ngự không thể nào sánh kịp. Nên quan Bộc Xạ Vu Chí Ninh nói rằng: Pháp sư ấy là Sa-môn Pháp giới Đầu-đà, không thể nào câu thúc ngài. Thần tăng Thông Đạt Thích Thông Đạt, ngài người xứ Ung châu. Năm ba mươi tuổi, phát tâm xuất gia, ngài dừng ở bất định. Thường uống nước, ăn rau trái, tánh tình thong dong, hoặc cầm bẻ cỏ ngải lá đậu sống chết mà ăn, đến nỗi đào, hạnh, dưa, quả đều ăn sống cả vỏ hạt. Có người hỏi ngài về lý do. Ngài bảo: Của tín thí khó bỏ. Khoảng niên hiệu Trinh Quán trở lại, thường hiển thần dị. Ngài đến nhà người, nếu vui cười thì là điềm tốt, còn buồn thảm tức có điềm xấu. Hoặc cầu xin của cải, hay cầu xin công sức, tùy ngài bảo ít nhiều liền y theo đó mà cúng dường, nếu trái với lời ngài, sau hẳn mất nhiều hơn thế. Có người cỡi lừa đến chùa tham quan, ngài bèn xin con lừa, người ấy tiếc không cho, con lừa ấy bỗng nhiên chết mất. Mọi nhà ở kinh đô dù giàu sang hay nghèo khó đều tôn sùng điều đó. Họa phước chỉ do một lời nói của ngài. Ngài nói bảo dẫn dắt chỉ là lìa chấp trước. Tài lợi có được đều sung vào tạo lập chùa viện. Đại tướng quân Tiết Vạn Quân, ban đầu nghe là lạ, bèn đến thỉnh đón ngài về nhà cúng dường, hơn một trăm ngày chẳng trái khuôn phép. Bỗng một đêm, ngài đòi thực phẩm để ăn, lúc đầu không cho, nhưng ngài cố khổ cầu không thôi, thì thử cho, ngài liền ăn. Từ đó về sau có phần cải tiến, chuyên bày các biến ứng hành tung có nhiều hẹp tệ, ngài muốn vào bên trong để ngủ. Anh em của Đại tướng quân quá tức giận đánh ngài đến nỗi gần chết. Ngài ngửa mặt bảo rằng: Các ngươi đã đánh ta thân thịt đều hủy hoại, máu huyết bất định, nên nấu nước nóng ấm để tẩy rửa đi. Đợi đến lúc nước sôi sùng sục, ngài cởi áo nhảy vào trong chảo, dường như chỉ là nước lạnh. Những người đứng bên cạnh khiếp sợ vô cùng. Ngài lại đòi thêm lửa. Cả nhà đều kinh sợ, vâng phụng tùy ý ngài thích ngủ đâu thì ngủ. Ngài từng mắc nợ tiền người hơn trăm quan, sau mới trả xong, nhưng không thấy người để trả, ngài bèn đem tiền đến cửa chùa, dò tìm tung tích, tùy mắc nợ ít nhiều mà đến bù, ngài đi đến cả chợ Tây, mọi người đều dừng ở đó mà ngài thì tìm vẫn không thấy. Đến lúc xem xét lại sự đền bù chẳng mất một đồng. Bấy giờ, gặp lúc gạo thóc khan hiếm, ngài muốn thiết trai hội lớn, mới bảo mọi người trong chùa đưa sớ thỉnh mời. Đến sáng sớm, các vị phó trai đến cả vài ngàn, mà tín cúng vắng hoe, chẳng biết dò phỏng nơi nào. Tăng chúng lấy làm xấu hổ. Ngài bảo: - Người kia hứa dâng cúng, tính chẳng nói vọng. Gần đến giờ thọ trai, chư Tăng muốn giải tán ra về, bỗng thấy xe cộ đầy đường tải chở các thức ăn đã nấu chín ngon lành đi lại, liền lấy đó thiết trai cúng dường, các thứ thừa lại rất nhiều đều cúng vào kho của chúng Tăng, chẳng giao cho người mang lại. Thọ trai xong, bỗng chốc người và xe đều không thấy nữa. Về sau, không biết ngài đi về hướng nào. Thần tăng Cảnh Sầm* Ngài Cảnh Sầm là bậc thầy A-xà-lê trú tại chùa Thiền cư, Tương châu, không rõ ngài là người xứ nào. Ngài ở tại chùa chuyên hành trì thiền niệm, có trí sáng thấy biết trước, mà chùa đó ở trong núi chầm, việc tư cấp vốn ít nên gạo thóc lương thực chẳng được dồi dào. Thường ngày, ngài mang vò đất vào trong thành xin rượu mà uống, lại xin đầy vò khoảng ba đấu đem theo giữa đường để uống, về đến chùa thì rượu trong vò cùng hết sạch. Ngày mai lại cũng như thế. Ở tại chùa mở trai, ngài mang nồi vào nhà trú xin cháo khoảng chừng ba thăng rồi buộc nồi trên đầu gậy, đi vào trong chúng, ngài dùng gậy đánh vào đầu chư Tăng, từ trên xuống dưới mỗi người một gậy. Ngày ngày đều như vậy. Mọi người cho rằng ngài là người trác việt phi thường, hoặc nghi ngài đánh như thế tức đã tan mất tai ương, nên chẳng từ nhận chịu. Ngài đem cháo vào phòng, trước cấp dưỡng cho một con chó lông màu đem xám. Và trong chùa, chuột có đến vài ngàn con, mỗi sớm mai tụ họp lại, chó và chuột cùng ăn đầy khắp sân. Kẻ tăng người tục cùng nhìn xem. Có một lúc, mất đi một con chuột, ngài buồn thương không thôi và hẳn cho là chó cắn giết, bèn bảo trách chó, chó liền cắn mang con chuột lại, ngài trông thấy mà áo não, dùng gậy đánh chó, đem xác con chuột đi chôn, ngài buồn thương khóc gào. Chư Tăng trong chùa bị chuột cắn rách y và rương hòm, liền mách ngài. Ngài liền tập họp tất cả đàn chuột lại và bảo mỗi con phải tự gìn giữ lấy. Có một con chuột không chịu gìn giữ. Ngài bảo nó: Cớ sao ngươi cắn phá y áo của người? Rồi dùng gậy đánh nó, nó không dám động. Ngài nhân vì chùa nghèo khó, bèn tại phía Đông giảng đường dưới suối Bạch mã, trong hồ mời ghi, chỗ này làm kho bếp, chỗ kia làm kho chứa lương thực… mọi người đều cười. Trải qua đêm, chùa rút đất lồi, liền làm khiến có phần thấm đượm đầy đủ. Ngài lại dư ghi việc lâu xa rằng: “Sau này khoảng sáu mươi năm, sẽ có một người ngu đến phía Nam chùa dựng lập một Trùng các. Nhưng cơ nghiệp chùa không thiếu sự đấu tố tranh tụng, nên không thể ở được. Quả thật, khoảng niên hiệu Vónh Huy ( 6 5 0- 656), đời tiền Đường, vừa có người đến dựng lập Trùng các, do đó cùng nhau kiện tụng như lời ngài nói. Thần tăng Tuệ Ngộ Thích Tuệ Ngộ, không rõ ngài là người thuộc dòng họ gì. Ngài thường ẩn trong núi Thái bạch, trì tụng kinh Hoa Nghiêm, ăn dùng bột củ tùng củ truật. Có một lúc nọ, bỗng thấy một cư só đến nói: Xin thỉnh ngài cùng cư só phân thân vào giữa không trung! Nói ngài ngồi trong đai áo, giữ lấy mà bay đi đến một đạo tràng, thấy có năm trăm vị Tăng khác lạ liệng quanh giữa không trung mà đến. Bỗng nhiên ngài vào đứng cuối hàng, cư só ấy nói: Ngài thọ trì kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới chư Phật, sao được ngồi dưới hàng tiểu Thánh? Liền dẫn ngài lên trước năm trăm vị mà ngồi. Thọ trai xong, vị cư só nói với ngài: Sở dó thiết trai, trong ý chỉ vì một mình ngài. Tuy có năm trăm vị La-hán đến thọ thực đều lâm thời cùng thỉnh. Bèn đưa ngài trở về trú xứ cũ. Có sự thật như trong mộng tỉnh giấc vậy. Lúc ấy trong khoảng niên hiệu Vónh Huy, thời vua Cao Tông nhà Đường. Thần tăng Pháp Dung Thích Pháp Dung người dòng họ Vi, người xứ Diên lăng, Nhuận châu. Năm mười chín tuổi ngài vào Mao sơn nương Pháp sư Quỳnh xuống tóc xuất gia. Ngài cầu khổ học đạo. Năm Trinh Quán thứ 17 (6 4 3), đời tiền Đường, ngài đến phía Bắc chùa U thê, núi Ngưu đầu, xuống dưới núi lập riêng một thiền thất bằng cỏ tranh. Ngài đem tư duy trạch pháp, không để luống qua tắt bóng. Trong núi có thất đá sâu chừng mười bộ, ngài vào trong đó ngồi, bỗng có thần rắn thân dài hơn trượng, mắt sáng như sao hỏa, ngẩn đầu dương oai, đứng ở cửa thất liền đêm, thấy ngài không dao động nên bèn bỏ đi. Ngài nhân đó mà trú ở cả trăm ngày. Tại núi đó, vốn có nhiều hổ, những người lượm củi bứt cỏ thường bị mất mạng. Từ khi ngài đến ở trở về sau không còn có trở ngại gì nữa. Lại cảm kích đàn nai nương thất lắng nghe và ẩn núp không có dáng vẻ lo sợ. Có hai con nai lớn đi thẳng vào cùng chư Tăng nghe pháp suốt ba năm mới bỏ đi. Chỗ ngài ở, nền nhà trú, trai đường gần nơi chứa nước đến đó soi nước không thể khảm thềm, ngài mới ngoải đi bồi hồi chỉ về ngọn núi phía Đông bảo: - Ngày xưa, Hòa thượng Tuệ Viễn chống gậy già yếu khảm kinh tiền. Nếu ở đây có thể ở thì sẽ gặp được suối trong mát tự tràn đầy. Trải qua một đêm, từ ngọn núi phía Đông bỗng tuôn vọt lên dòng suối, nước trong trắng ngọt đẹp, mùa đông ấm mùa hạ lạnh mát, nên liền soi dẫn lên ngọn núi đưa vào phủ xuyên qua mái hiên. Đã đến tháng 11 năm Trinh Quán thứ 21 (6 4 7), đời tiền Đường, tại dưới núi, ngài giảng kinh Pháp Hoa, lúc đó tuyết phủ trắng đầy thềm, dòng pháp bất tuyệt, ngay trong băng đóng tự nhiên có hai cành hoa, hình trạng như phù dung sáng ngọc đồng màu vàng rồng, trải qua bảy ngày tự nhiên biến mất. Năm Vónh Huy thứ 3 (6 5 2), đời tiền Đường, trưởng ấp mời ngài ra chùa Kiến sơ giảng kinh Đại Phẩm, Tăng chúng đông đến ngàn vị. Giảng đến phẩm Diệt Tránh, ngài bèn tuôn phóng thiên biện. Do bẻ nghóa lý, bỗng nhiên đất chuyển động lớn, những người nghe kinh hỏi, chuông khánh hương sàn thảy đều lay động. Nhưng kẻ tăng người tục ở ngoài chùa đều an nhiên không hay biết. Đến năm Hiển Khánh thứ nhất (6 5 6), đời tiền Đường, ty công tiêu Nguyên Thiện hai ba lần mời thỉnh ngài ra trú tại chùa Kiến sơ. Ngài nói cùng chư Tăng rằng: - Nay, một lần đi, chẳng hẹn ngày trở lại. Đạo lý là quy luật thường niên, từ mà chẳng khỏi! Ngài bèn ra khỏi cửa núi, cầm thú kêu buồn qua tháng mới thôi, núi khe suối hồ đá văng cát bọt chỉ một lúc lấp đầy. Trước phòng ngài có bốn cây ngô đồng lớn, đang lúc tháng năm tươi tốt, bỗng một sáng mai tự nhiên tàn tạ. Qua năm sau (6 5 7), vào ngày 23 tháng giêng nhuận, ngài thị tịch tại chùa Kiến sơn, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi. Thần tăng Trí Cần Thích Trí Cần, ngài vốn dòng họ Chu. Trong niên hiệu Nhân Thọ ( 6 0 1- 605), đời nhà Tùy, nhân nhà ngài ở tại Lợi châu riêng đặt dựng chùa Đại hưng quốc. Thuở thiếu thời ngài ít lấy sự cứu giúp làm tâm, mỗi lúc đối xử với chúng phát ngôn đều thành thật hòa mạc, ngài luôn tin thành dõng mãnh, mọi sự đều được âm thầm giúp đỡ. Đầu tiên, mẹ ngài bị bệnh hoạn, bảo ngài xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế âm. Trên cây lá trong vườn nhà đều hiện hóa Phật, cả nhà đều thấy, mẹ ngài liền lành bệnh. Cuối đời nhà Tùy (…- 6 1 8), các nơi hoang loạn giặc giã nổi dậyy, riêng một mình ngài giữ gìn ngôi chùa đó, giặc không dám chiếm lấn, nên kinh tượng chùa viện không tổn hại một gì. Các chùa khác bị phá diệt nhưng cũng không thể đưa mắt nhìn. Lại một thời nọ, ngài vì phương tiện nên đã mặc y phục thế tục để lánh giặc loạn, bị giặc vây quanh, muốn giết hại, bỗng nhiên ngài nghe giữa không trung có tiếng bảo: - Ngài nên bỏ y phục thế tục. Ngài liền cởi bỏ, giặc thấy ngài là vị Sa-môn nên liền đảnh lễ, thỉnh mời về cúng dường cũng được vài tháng. Sau, ngài đến đất Thục, nghe Pháp sư Hạo Giảng, thính chúng cả ba ngàn vị, Pháp sư Hạo đều giao phó ngài coi sóc, đều được thông suốt. Trong ngoài không xảy ra việc gì, tất cả đều do một mình ngài. Đến đầu đời nhà Đường ( 6 1 8-…), ngài trở về Đặng châu, giảng kinh Duy- ma; Tam luận hơn mười biến. Sau ngài lại ẩn tại Bắc sơn, dựa đứng hơn mười năm. Ba chỗ ngài đã ở, đến nay hiện vẫn còn. Ngài thường nghe trong thung lũng có tiếng chuông vang vọng, sau đó ngài tìm đến, bỗng thấy một ngôi chùa, uyển chuyển đẹp đẽ lạ thường, ngài bèn vào trong lễ bái, tợ như có người ở. Sau tìm kiếm lại không biết tiếng chuông ấy vọng từ đâu. Thêm nữa, ở trong núi sắp hết lương thực, tại chỗ ngài hành đạo tự nhiên đất nổi, ngài bèn trừ bỏ đi, sáng mai lại nổi lên như vậy. Cứ như thế vài ba lần, sau đó lại có lúa thóc hiện ra. Nhân đó, đào xuống sâu, được hơn hai mươi thạc lúa tẻ, lúa ấy hạt lớn sắc đỏ hơi khác lúa thường. Bấy giờ, tại Đặng Châu, Phật pháp bị tàn phá, kẻ Tăng người tục cả châu đều vào núi thỉnh mời ngài, nguyện xin ngài ra chủ trì. Ngài nhân cảm mộng mà ra, mộng đó không được rõ tường tận, sau khi mang tượng xuống núi, giữa đường bỗng nhiên tối mịt, không biết đường lối nên không thể đi tới được. Bỗng chốc có hai cây đuốc ánh lửa khác thường soi chiếu giữa đường rất sáng. Nhân đó, thấy được đường đi đến trong thôn, lửa mới tắt. Mọi người trong thôn đều thấy, ai cũng kính phục. Đến năm Vịnh Huy thứ nhất (6 5 0), đời tiền Đường, vì thấy thời sự phiền toái, ngài bèn đóng phòng không ra, lâu đến ba năm, xem đọc kinh thảy đến hai lần. Mỗi lúc ngài đọc thường thấy có thần đến nghe. Đầu đêm, giữa đêm cũng như cuối đêm thường nghe tiếng cười nói khảy móng tay. Đến tháng 5 năm Hiển Khánh thứ tư (6 5 9), đời tiền Đường. Trước lúc thị tịch, có những việc làm tạo công đức chưa châu toàn, sớm tối, ngài lo vun bồi cho toàn tất. Có người hỏi: Cớ sao gấp vội như thế? Ngài đáp: Các Pháp vô thường, lẽ nào không dè dặt ư? Đến ngày rằm, cành lá cây cối trong chùa tự nhiên khô héo đổ gãy, chim muôn kêu buồn khắp nơi trong chùa, chúng Tăng kinh ngạc hỏi nhau, chẳng ai biết nguyên nhân. Qua sáng sớm ngày 16, bỗng nhiên thấy vị thần nghe kinh trước kia đến lễ bái, ngài bảo: Chớ nên đảnh lễ. Mọi người đứng chung quanh không ai thấy. Khi đó, ngài liền cạo tóc, đắp mắc pháp ý, ở tại thằng sàng, tay bưng lò hương, kiết già mà ngồi. Ngài bảo các đệ tử: Các ông nên thỉnh kinh Đại Phẩm để đọc tụng! Đến lúc tụng xong phẩm Vãng Sinh ngài bèn chắp tay an tọa thị tịch, để lại vài ngày, nhan sắc nhục thể ngài vẫn như cũ. Thường có hương thơm khác lạ thoảng nghe trong chùa. Ngài hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi. Thần tăng Đạo Tuyên Thích Đạo Tuyên, ngài dòng họ Tiền, người xứ Đơn đồ. Đầu tiên, thân mẫu ngài mang thai mà mộng thấy ánh nguyệt xuyên suốt qua bào thai. Lại mộng thấy có vị Phạm Tăng nói với bà rằng: Bào thai ngươi đang mang chính là luật sư Tăng Hựu thời nhà Lương! Ngài Tăng Hựu thì thuộc Nam Tề ở xứ Diệm khê, là tăng hộ ở chùa Ẩn nhạc. Ngài Đạo Tuyên theo đó xuất gia. Đến hai mươi tuổi, ngài nổ lực hộ trì, chuyên tinh khắc niệm, cảm được xá-lợi hiện trong hộp báu, ngài ẩn náu ở Trung nam tại hang Phỏng chưởng. Nước ở chỗ ngài ở là do thần nhân chỉ cho. Đào xuyên đất hơn một thước, dòng suối ấy tuôn vọt lên. Thời bấy giờ chỗ ấy là chùa Bạch tuyền, thú dữ thuần phục thường tới nương tựa, các thứ hoa thơm cỏ lạ mọc lan tràn ra. Đến cuối thời nhà Tùy (…- 6 1 8), ngài dời đến chùa Phong đức, nhân ngài thường ngồi một mình, thần hộ pháp đến báo rằng: Ở thôn Thanh quan có chùa Tịch nghiệp đã cũ, đất ở đó là thế quý báu, nên đạo có thể tập thành. Nghe lới đoán bói ấy rồi, ngài bèn đốt hương công đức, hành thiền Bát-nhã định. Bấy giờ có đàn rồng đến lễ bái tham yết, vừa nam vừa nữ đều hóa hình người. Có vị Sa-di tán tâm, ngó liết tà vạy, rồng đùng đùng nổi giận sắp tóm lấy, bỗng tìm lại hối quá, nhổ độc vào trong giếng, rồng bày tỏ sự việc như vậy rồi đi. Ngài mới bảo lấp bịt miệng giếng lại, có người lén mở ra xem, thỉnh thoảng khói lại bốc lên. Xét về thần biến của ngài, như là hoặc đưa một hộp hoa lạ, hình tợ hoa táo, lớn tợ quả du, hương thơm kỳ lạ. Vài năm sau bỗng nhiên lại cúng quả lạ như lý, hạnh, lê, thị, như mùi vị ngon ngọt sắc da thanh khiết khác với thường thấy trong nhân gian. Môn đồ của ngài thường muốn nêu bày việc anh, trước là tiềm thông, dùng định lực để quán căn cơ tùy bệnh mà cho thuốc, đều đồng một loại như vậy. Ngài đã từng thiết lập một đàn tràng, bỗng nhiên có vị Tăng lông mi rất dài luận bàn biết đạo. Lại có vị Phạm tăng đã chứng Tam quả đến lễ bái đàn, tán thán rằng: Từ sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, ma hưng phát trong thời tượng pháp chỉ có một mình Sư Đạo Tuyên. Mùa Xuân năm Càn Phong thứ 02 (6 6 7), đời tiền Đường, thấu rõ trời, người đến cùng ngài nói bàn về luật tướng. Nói về sự ghi chép sao văn lẫn lộn khinh trọng trong nghi đều bởi lỗi của người dịch, chẳng phải tội của ngài. Xin thỉnh ngài cải chính lại. Nên nay bản bản trước thuật của ngài hiện lưu hành đều là bản trùng tu. Lại có người trời nói rằng: Ngài đã từng soạn bộ kinh Kỳ Hoàn Đồ tính theo giấy lụa ở dân gian, khoảng trăm quyển. Niên hiệu Trinh Quán ( 6 2 7- 650), đời tiền Đường, ngài từng ẩn tại núi Vân thất ở Thẩm bộ, có người thấy có Thiên Đồng cung cấp hầu hạ hai bên ngài. Ở tại chùa Tây ninh, ban đêm ngài hành đạo chỉ đi chân không, trước thềm có vật phù trì nhưng không quấy nhiễu ai, ngoản nhìn kỹ đó chỉ là gã thiếu niên. Ngài vội hỏi: Người nào trong đêm ở tại đây? Gả thiếu niên đáp: Đó là người phi thường, chính là Na Tra con của Tỳ-sa-môn Thiên vương. Vì muốn hộ pháp nên đến ủng hộ Hòa thượng với thời gian đã lâu vậy. Ngài bảo: Bần đạo tu hành vô sự phiền đến Thái tử. Thái tử có sức oai thần tự tại. Ở Tây Vực có thể làm nên việc Phật, nguyện xin đem đến. Thái tử nói: -Tôi có răng Phật bàn tay báu. Từ lâu tuy đầu mắt có thể xả bỏ, thì bây giờ đâu dám chẳng kính dâng? Bỗng chốc trao, đến cho ngài, ngài giữ gìn trong cầu để cúng dường. Thêm nữa, tại trước thềm sân lại có một vị trời đến bái yết, thưa cùng ngài rằng: Luật sư sẽ sinh lên cung trời Đố-sử (Đâu-suất), mang theo một bao đồ vật, nói đó là hương táo lâm. Sau đó mười tuần, ngài an tọa mà thị tịch, nhằm ngày mồng ba tháng 10, năm Càn Phong thứ 2 (6 6 7), đời tiền Đường, ngài hưởng thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai tăng lạp. Thần tăng Thiền sư Anh Thiền sư Anh, ngài trú tại chùa Pháp hải ở Tây kinh. Có một người khác lạ đến yết kiến, nói với ngài rằng: Đệ tử biết có trai pháp thủy lục có thể dùng làm lợi ích cho cả kẻ còn người mất. Từ sau khi vua Vũ Đế thời Nam Lượng băng hà (5 5 0). Từ đó dần dần bị quên lãng. Nay ở chùa Đại giác có Sa-môn Nghóa Tế, người xứ Ngô còn cất giữ nghi văn đó. Xin ngài đến thỉnh cầu để ngày rằm tháng sau đúng như pháp mà tu thiết ở chùa Bắc sơn, tạm mở cửa tù dám chẳng tri báo. Ngài tìm đến Sa-môn Nghóa Tế thỉnh được Nghi văn đem về, đến ngày đã hạn định lập đàn Tu thiết tại chùa Sơn bắc. Ngày hôm sau, lúc trời mờ tối, Người khác lạ đó lại cùng với khoảng hai mươi người bạn lại đến cảm tạ, nói: Đệ tử chính là Trang Tương Vương ( 2 4 9-246 trước Tây Lịch) đời nhà Trần. Lại chỉ những người gần bên cạnh như đây là Phạm Huy Nhưỡng hầu Bạch Khởi Vương Tiễn, Trần Chẩn, Trương Nghi… là các quan thần thời nhà Tần, đều bị bẩn tội nơi tù tối âm phủ, suốt đêm dài tối mịt không thể cứu hộ. Ngày trước vua Vũ Đế thời Nam Lương ( 5 0 2- 5 5 0) tại chùa Kim sơn, lúc thiết tu trai pháp này, các thần trời Trụ vương thời trước ( 1 0 9 9-1066 trước Tây lịch) đều được miễn khỏi tội khổ. Đệ tử lúc bấy giờ cũng tạm dứt khổ, nhưng ngục tình chưa phán quyết nên không được thoát ra. Nay mong nhờ ngài thiết lập trai pháp, đệ tử cùng với đồng bạn và các người trong các nương chư hầu đều nương nhờ đức oai lực, sắp được sinh trong loài người, nhưng sợ sinh vào nước khác thời nên hôm nay cùng đến lễ tạ! Nói xong thì biến mất. Từ đó Nghi văn thủy lục lưu bố rộng rãi làm lợi ích cho quần sinh. Thần tăng Khuy Cơ Thích Khuy Cơ, ngài tự là Hồng Đạo, dòng họ Uất Trì, người xứ Trường an, Kinh triệu. Lúc đầu, thân mẫu của ngài vốn dòng họ Bùi Mộng có vầng nguyệt trong lòng bàn tay bèn ngậm nuốt lấy, tỉnh mộng thì thấy có thai ngài. Kịp đến lúc ngài vừa đầy tháng đã khác hẳn với bao trẻ khác, mới hai năm, ngài tụng tập thần ngộ tinh sáng. Đến năm mười bảy tuổi, ngài được dự phần xuất gia. Đến lúc vào đạo, ngài vâng phụng sắc làm đệ tử của Pháp sư Huyền Trang. Đầu tiên, ngài trú tại chùa Quảng phước, bỗng vâng phụng sắc chọn lựa những người thông tuệ dónh ngộ vào chùa Đại từ ân đích thân phụng thờ ngài Huyền Trang học tập kinh pháp. Sau ngài đến núi Ngũ đài, lên Thái hành, đến Hà tây dừng nghó qua đêm trong một ngôi chùa cổ, mộng thấy thân mình đang ở tại giữa lưng chừng núi, nghe dưới núi có tiếng kêu gào thống khổ của vô số người. Mới đầu trong lúc đang mờ tối không nhẫn lắng nghe, ngài rảo bộ lên trên tầng đảnh núi, ở đó thuần là sắc màu là lưu ly, thấy rõ tất cả cõi nước. Ngài ngưỡng mặt trông nhìn về một thành. Trong thành đó, có tiếng bảo: Dừng, dừng, ôi, Khuy Cơ! Người chưa hợp đến đây. Trong chốc lát, có hai Thiên đồng từ trong thành đi ra, hỏi rằng: Ông có thấy chúng sinh tội khổ dưới núi chăng? Ngài đáp: Tôi có nghe tiếng mà không thấy hình! Thiên Đồng bèn đưa ngài một cây kiếm, bảo: Hãy mổ bụng sẽ thấy. Ngài liền tự mổ bụng. Từ trong bụng ngài phóng ra hai nguồn ánh sáng đẹp lạ soi chiếu khắp dưới núi, thấy vô số người chịu khổ. Khi đó, Thiên đồng vào trong thành đem ra hai tờ giấy và bút, hai tay dâng đưa ngài rồi đi. Ngài vô cùng ngạc nhiên. Đến sáng sớm mai, ở tại trong chùa ngài được bộ kinh Di-lặc Thượng Sinh, ngài cho là do ngài Di-lặc hóa hiện, muốn mở rộng tầm nhìn, bèn kéo bút mà viết, đầu bút xá-lợi lớp lớp rạng ngời. Ngài thường chú tạo tôn tượng Đức Bồ-tát Văn-thù bằng ngọc, và tả kinh Đại Bát-nhã bằng vàng. Tất cả đều được ứng điềm. Lúc đầu, luật sư Đạo Tuyên xiển dương luật tạng, ứng cảm Thiên trú cúng dường phẩm thực. Đạo Tuyên đãi sơ tặng ngài ba xe vật báu, không lấy gì lễ mấy. Ngài đến tận nơi để dò xét. Ngày đó quá ngọ mà người trời chẳng mang phẩm thực đến. Đến lúc ngài từ biệt đi rồi, thiên thần mới dáng xuống, ngài Đạo Tuyên trách cớ sao đến trễ, Thiên thần bảo: Vừa mới đến, thấy có Bồ-tát Đại thừa. Ở đây, rất trang nghiêm nên chẳng dám tự vào. Ngài Đạo Thuyên nghe thế mà kinh sợ. Từ đó xa gần càng thêm kính ngưỡng về ngài. Trước kia, Pháp sư Huyền Trang đích thân suy tìm Du-già Sư Địa Luận; Duy thức tông của ngài Giới Hiền ở Tây Vực, mà ngài Khuy Cơ lãnh thọ hết diệu nghóa đó. Nên người đời gọi đó là Từ ân giáo. Đến năm Vónh Thuần thứ nhất (6 8 2), đời tiền Đường, ngày 13 tháng 11, ngài thị tịch tại chùa Đại từ ân trong viện phiên dịch kinh, hưởng thọ năm mươi mốt tuổi. Thần tăng Hồng Phưởng Thích Hồng Phưởng, ngài người xứ kinh Triệu, xuất gia từ thuở bé thơ, tu hành chứng đắc đạo quả. Chí nguyện của ngài là đặt để ở Thiền tịch mà cũng chuyên diễn giảng kinh pháp. Đệ tử thường có đến vài trăm vị. Một ngày nọ, trời vừa mới tối, ngài an tọa một mình, có bốn người đến trước ngài, thưa: Ngày nay, quỷ vương Diêm-la nhân vì con gái vừa mới hết bệnh, nên thiết trai cúng dường, xin cung thỉnh ngài phó trai. Ngài bảo: Tôi đây thuộc loài người các ngươi thuộc loài quỷ, làm sao có thể đến được? Bốn người thưa: Xin Pháp sư chấp thuận, đệ tử có thể đưa ngài đến được. Ngài liền chấp thuận, bốn người đó cỡi ngựa, mỗi người nắm giữ lấy một chân giường của ngài, bèn đi về hướng Bắc, khoảng độ vài trăm dặm. Đến một quả núi, núi đó lại có một cửa màu đỏ, bốn người đó xin ngài nhắm mắt lại, trong khoảng chưa xong bữa ăn, một người nói: Xin ngài mở mắt, đã đến vương đình. Tại đó, cung quyết nhà cửa cao vợi khác thường, các người thị vệ nghiêm sức như chúa ở cõi người. Quỷ vương chỉnh áo mão xuống thềm cấp nghênh đón ngài, thưa rằng: Đệ tử có đứa con gái nhỏ bị bệnh từ lâu, nay mới được lành. Vì muốn tạo ít phước đức nên sắm sinh một trai hội. Vì vậy, xin thỉnh ngài chứng minh cho. Trai pháp hoàn mãn, đệ tử sẽ bảo người hầu đưa ngài trở về, không gì phải lo. Khi đó, Quỷ vương thỉnh ngài vào trong cung. Tại đó, một trai đàn nghiêm sức hoa lệ. Chư Tăng đến cả muôn vị, Phật tượng rất nhiều, mỗi mỗi sự việc đều giống như ở cõi người. Ngài đưa mắt nhìn lên khoảng không chẳng thấy mặt nhật như dân gian, thuần là âm trạng. Chốc lát, phu nhân của quỷ vương ở sau hậu cung cùng với vài trăm người đồng đảnh lễ bái kiến ngài. Con gái Quỷ vương tuổi độ mười bốn, mười lăm, sắc mạo riêng bệnh. Ngài vì nó mà táng lễ. Nguyện cầu xong, thấy mọi người bưng hơn ngàn mâm ngà thức ăn đến lần lượt thiết bày trước tòa chư Tăng. Ngài đang ở nơi một sàn lớn, thiết bày thức ăn thịnh soạn hương thơm thanh khiết, ngài vừa muốn ăn đó, Quỷ vương liền thưa: Ngài dừng giây lát. Đó là thức ăn của quỷ ăn, không dám để lại ngài. Xin ngài chớ dùng. Thọ trai xong, thức ăn còn thừa vài trăm mâm. Ngài nói Quỷ vương ban tặng cho họ ăn. Quỷ vương nói: Thúc giúp đi cho đó. Các quan bái tạ quay lại nhìn nhau mừng cười, miệng há mở tới hai tai. Nhân đó, Quỷ vương quỳ, thưa: Ngài đã ân ban nhìn lại, không có gì khác để cúng dường, chỉ có năm trăm sấp lụa xin kính dâng ngài. Xin ngài vì cho chúng con thọ giới Bát quan trai. Ngài bảo: Lụa của quỷ tức là giấy. Tôi không dùng đó! Quỷ vương thưa: Chúng con tự có lụa của cõi người để dâng tặng ngài. Nhân đó, ngài vì họ mà cho thọ giới Bát quan trai. Thọ giới xong, Quỷ vương lại bảo bốn người trước đó y như trước đưa tiễn ngài về. Bỗng nhiên ngài mở mắt là đã về tới chỗ ở. Trời còn chưa sáng. Môn nhân chỉ cho là ngài nhập định, không ngờ chỗ đến, ngài chợt mở mắt, bảo mang đèn đóm soi rọi ở giường, trước mặt có năm trăm sấp lụa nhân ở đó. Các đệ tử thưa hỏi. Ngài liền kể lại sự việc vừa xảy ra. Ngài đã hành thiền vốn cao cả, tiếng tăm giá trị ngày một càng lớn, khuynh đảo đến chỗ Quỷ vương, chỉ thần thức đến đó mà thân hình ngài vẫn bất động. Sau đó không lâu, một sáng mai ngài đang an tọa, có hai người trời hình chất xinh đẹp khác thường, đến lễ bái thỉnh mời, thưa rằng: Vua trời Phương nam là Đề-đầu-lại-tra xin thỉnh ngài đến cõi trời để cúng dường! Ngài liền hứa khả. Nhân đó, trải y trời để ngài ngồi, hai người liền nắm y nâng lên mà vọt bay giữ không trung, chỉ trong phút chốc đó đã tới trời nam. Vua trời dẫn cả thị tùng ra quỳ sát đất đảnh lễ, thưa: Đạo hạnh của ngài cao xa, các vị trời muốn được thấy ngài giảng tụng. Vì thế nên con kính thỉnh mời ngài. Và liền thiết lập một tòa cao thỉnh ngài an tọa. Tại đạo tràng đó nghiêm sùng tráng lệ khác hẳn ở cõi người gấp trăm nghìn lần. Người trời thân đều cao lớn và có ánh sáng. Điện đường cây rừng ở đó, thuần là bảy báu, hình thể đều có ánh sáng chói lòa mắt người. Lúc đầu, ngài mới tới cõi trời, hình chất của ngài còn là loài người, sau khi thấy vua trời thì thân hình ngài cao lớn như người trời. Người trời thiết bày các thức ăn trân quý đều là hương vị tự nhiên nhưng ngon ngọt phi thường. Thọ thực xong, vua trời thỉnh ngài vào cung, lại thiết cúng các thứ, nói bàn cung kính. Các thị vệ ở cung trời cũng như chúng quỷ thần rất đông. Sau đó, bỗng nhiên vua trời nói: Đệ tử có công việc cần phải đến cõi trời Tam thập tam để bàn bạc, xin thỉnh ngài ở lại mộ thời gian ngắn! Lại căn dặn các người chung quanh rằng: Ngài muốn đi tham quan đâu đó thì cứ tùy ý ngài. Nhưng chớ để ngài đến nơi hậu viên. Căn dặn hai ba lần như thế. Sau khi vua trời đi rồi ngài suy nghó: “Nơi hậu viên có gì bất lợi mà không muốn ta đến đó ư?” Ngài bèn dò xét nhân lúc không người, lúc đến hậu viên. Khu vườn đó rất lớn có ao, hồ, suối chảy, cây cối, hoa nhạc có khắp mọi nơi, người đời không sao biết được. Đi sâu vào, xa nghe tiếng rên rỉ kêu gào, không nhẫn nghe, ngài liền đi đến đó. Thấy một trụ đồng, đường kính khoảng vài trăm mét, cao ngàn trượng, cột trụ có các lỗ xuyên hai bên thấu suốt, hoặc dùng khóa xích lấy đảnh đầu, hoặc xuyên thủng ngực, có đến vài vạn đầu đều là Dạ-xoa, răng của móng câu, thân lớn gấp bội người trời. Thấy ngài đến, những kẻ đó vội dập đầu nói đang đói khát, thưa rằng: Chúng tôi vì ăn thịt người đến bị vua trời xích trói, nay xin ngài thả cho chúng tôi! Nếu chúng tôi được ra khỏi nơi này. Nguyện xin ở nhân gian tìm cầu việc khác để kiếm sống, hẳn không dám làm hại ăn thịt người nữa. Vì đói khát bức bách nên lúc nói ra lời ấy, trong miệng lửa dữ tuôn ra. Ngài hỏi bị xích trói đã bao lâu rồi. Hoặc có kẻ đáp: Từ thuở Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, tức trải qua đã vài ngàn vạn năm. Cũng có vài ba người già, nói rất chí thành khẩn thiết, ngài hứa vì họ cởi trói xích. Ngài vội trở lúc, bỗng chốc vua trời đã trở về. Trước tiên là hỏi về việc ngài có đến hậu viên không? Mọi người chung quanh bảo: Không! Vua trời vui vẻ ngồi yên. Ngài hỏi rằng: Tôi đến nơi hậu viên thấy chúng sinh bị xích trói cả vài vạn. Những kẻ đó bị tội gì vậy? Vua trời bùi ngùi đáp: Vậy, quả thật, ngài có đến hậu viên, nhưng lòng từ nhỏ sẽ là giặc của tâm từ lớn! Ngài khỏi cần phải hỏi. Nhưng ngài vẫn cố hỏi, vua trời đành phải nói: Đó là các ác quỷ thường làm hại người. Các trời chẳng thể phòng hộ nổi. Người đời đã bị bọn chúng ăn hết. Chúng nó đều là đại ác quỷ, không thể dùng lý mà đối đãi, nên phải xích trói lấy nó. Ngài nói: Tôi vừa thấy các lão già đó nói rất thành khẩn, chỉ xin trở lại nhân gian tìm cầu vật khác để ăn thôi. Tôi xin ngài tha thứ cho họ. Nếu bọn ấy không còn ăn hại đến người, thì các kẻ còn lại cũng nên tha cho chúng nó. Vua trời nói: Bọn quỷ nói, đâu có thể tin được! Ngài cố xin, vua trời bèn đưa mắt nhìn chung quanh, rồi ban lệnh mở trói các lão già lại, trong phút chốc họ được giải đến; bọn họ khấu đầu, thưa: Nhờ ân ngài đã tha cho, tuổi đã già suy. Nay được đi, hẳn không dám nhiễu hại người nữa. Vua trời bảo: Vì Thiền sư, nên ta thả các ngươi. Nếu còn hại ăn thịt người thì lần này bắt lại hẳn phải chịu khổ chết. Chúng nó đều nói: Dạ! Không dám. Khi ấy liền thả cho họ đi. Sau đó không lâu, bỗng thấy trước sân vua trời có vị thần đến, tự xưng là Thần ở sông ngòi núi Nhạc, mặt giáp mặt sắc vàng, vội vã nói thưa: Không biết từ đâu, bỗng có bốn, năm quỷ Dạ-xoa đến nhân gian giết hại ăn thịt người rất nhiều, không thể nào cấm chế nổi. Nên tấu trình cùng vua trời hay! Vua trời nói với ngài rằng: Lời của đệ tử nói như thế nào? Vừa mới nói với ngài là lòng từ nhỏ tức là giặc của tâm từ lớn. Lời bọn quỷ ấy nói không thể tin được. Và vua trời bảo cùng các thần rằng: Hãy gấp bắt chúng nó lại. Giây lác sau, các thần bắt các quỷ Dạ-xoa đến. Vua trời tức giận phán: Cớ sao làm trái lời cầu xin? Bảo chặt tay chân chúng nó, dùng sợi xích sắt xâu suốt ngực nó, kéo dắt khóa lại. Lúc đó, ngài xin vua trời trở về, vua trời bảo hai người khi trước đưa ngài trở về chùa. Ở chùa đã mất ngài qua mười bốn ngày, mà tại cõi trời chỉ khoảng thời gian ngắn. Trong thành Xiểm tây, ngài chọn chỗ đất rộng rãi tạo dựng chùa Long quang, lại xây dựng phòng bệnh, thường nuôi dưỡng vài trăm bệnh nhân. Chùa rất nghiêm sùng tráng lệ, kẻ tăng người tục quy tụ như mây nhóm, thì là do Thích Đề-hoàn Nhân thỉnh mời. Một sáng nọ, ngài mới súc miệng, có Dạ-xoa đến trước ngài, trên đầu vai trái trải đệm lông năm sắc, thưa rằng: Vua trời Thích-ca muốn thỉnh ngài giảng kinh Đại Niết-bàn. Ngài im lặng trở về lại tòa. Dạ-xoa giảng thằng sàng đặt lên đùi vế trái, thưa: Ngài nhắm mắt lại. Nhân đó, nâng tay trái lên và bày chân phải ra, thưa: Xin ngài mở mắt. Nhìn xem thì đã tới Thiện pháp đường. Ngài đã đến Thiên đường, ánh sáng cõi trời chói lòa mắt không thể mở được. Thiên đế thưa: Ngài nên xưng niệm danh hiệu Đức Di-lặc! Ngài bèn xưng niệm, khi ấy mở mắt không còn bị chói lòa nữa. Nhưng thân hình ở cõi người nhỏ bé, ngưỡng nhìn thân hình người trời, không thấy cùng khắp, Thiên đế lại thưa: Ngài lại nên xưng niệm danh hiệu Đức Phật Di-lặc, thì thân hình sẽ lớn ra. Y theo lời nói, ngài liền xưng niệm. Vừa niệm ba lần mà thân lớn gấp ba giống như thân trời, người… Thiên đế cùng các chúng trời kính lễ, thưa ngài rằng: Đệ tử chúng con nghe ngài giỏi khéo giảng nói kinh Đại Niết- bàn đã lâu ngày rồi vậy. Nay các trời khâm phục kính ngưỡng thiết lập đạo tràng. Nhân đó, kính thỉnh Đại sư giảng kinh cho chúng con được nghe nhận. Ngài bảo: Việc giảng kinh quả thật không khổ nhọc, nhưng trong phòng bệnh của tôi có cả vài trăm bệnh nhân cậy nhờ tôi bảo ban mạng sống. Tôi thường hành khất thực để cung cấp cho họ. Nay nếu ở lại để giảng kinh, thì ở cõi người trải qua năm tháng lâu dài sợ rằng các nhân đói chết. Nay tôi nên xin khước từ! Thiên đế nói: Đạo tràng đã lập thành, ước nguyện ấy đã từ lâu. Nhân vậy kính thỉnh Đại sư chớ khước từ! Ngài không thể từ chối bỗng giữa không trung có người trời lớn, thân lại lớn gấp bội người trời, Thiên đế đứng dậy kính ngưỡng nghênh đón. Người trời lớn ấy nói rằng: Đại Phạm Thiên vương có ban sắc, người trời đã đi. Thiên đế bùi ngùi nói: Vốn muốn lưu giữ ngài ở lại giảng kinh nay Phạm thiên có ban sắc không hứa khả, nhưng ngài đã đến nên không thể tạm mở kinh quyển giảng sơ qua tông chỉ khiến người trời tin họ? Ngài liền hứa khả. Khi ấy thiết bày các thức ăn, đồ chứa đựng thức ăn đều bằng bảy báu. Mùi vị của các thức ăn uống đều là tinh diệu gấp bội bình thường. Ngài thọ thực rồi, khắp các lỗ chân lông trong thân đều phóng ánh sáng khác lạ. Ngay trong lỗ chân lông thảy đều thấy các vật, ngài mới hiểu rằng thân của người trời quả thật rất thắng diệu. Sau khi thọ thực, các trời thiết bày một tòa cao bằng vàng, dùng y trời trải trên. Ngài lên trên tòa an tọa. Trong Thiện pháp đường, có đến vài trăm ngàn vạn vị trời, cũng như Tứ Thiên vương dắt dẫn đồ chúng cùng đến nghe pháp. Chung quanh dưới thềm thì có Long vương, Dạ-xoa, các quỷ, các Thần, người và phi nhân… đều chắp tay lắng nghe. Nhân đó ngài khai kinh Niết-bàn, đầu giảng mới hơn một trang, ngôn từ điển xướng đủ nêu bày tông chỉ. Thiên đế tán thán công đức vô cùng. Khai kinh vừa xong, Thiên đế lại bảo Dạ-xoa trước kia đưa tiễn ngài trở về lại chùa. Các đệ tử đã bị vắng ngài hai mươi bảy ngày. Thần tăng Hòa thượng Hoa Nghiêm Hòa thượng Hoa Nghiêm học ở Tổ sư Thần Tú, phái Thiền tông gọi đó là Bắc Tổ. Ngài thường trú tại chùa Thiên quang ở thành Lạc dương, đệ tử ngài hơn ba trăm vị. Mỗi ngày vào trai đường thọ thực, Hòa thượng, đều trang nghiêm, bình bát đầy đủ. Ngài có một vị đệ tử có hạ lạp và đạo nghiệp cao vượt so với đồng bạn, nhưng tánh thường phiền muộn hẹp hòi, nóng nảy, lúc ấy nhân vì bị bệnh nên chẳng theo chúng phó trai. Có một vị Sa-di chưa có bình bát, đến vị Tăng đó đảnh lễ, thưa rằng: Con muốn đến trai trường nhưng chưa có bình bát, thầy có thể cho con mượn tạm, sáng mai sẽ hoàn trả. Vị Tăng ấy không cho bảo: Bình bát ta thọ trì đã vài chục năm, cho ông hẳn sợ hư tổn nó. Vị Sa-di khẩn thiết thưa: Con chỉ thỉnh đến trai trường trong khoảng thời gian thọ thực, xong rồi thỉnh trả lại sao lại hư hoại? Nói như vậy đến hai ba lần, vị Tăng ấy mới cho mượn, bảo rằng: Tôi quý mến bình bát như mạng sống của tôi, như có sự tổ hại tức đồng giết tôi vậy. Vị Sa-di đó thỉnh mượn được bình bát, hai tay bưng lấy trong lo sợ. Thọ thực xong, vị Tăng ấy đã thúc giục, vị Sa-di bưng bình bát xuống khỏi trai đường, không để ý nền gạch bị hư phá, nên bước xéo gót vấp ngã, bình bát bể vở. Chốc lát vị Tăng ấy lại thôi thúc. Lo sợ quá, nên vị Sa-di đó đến chỗ vị Tăng ấy tác lễ vâng chịu lỗi lầm và lạy cả trăm ngàn lạy, vị Tăng ấy la lớn tiếng: Ông đã giết tôi rồi! Tức giận mắng nhiếc rất thậm tệ. Nhân đó, bệnh càng trầm trọng chỉ một đêm thì tịch. Sau đó một thời gian, ngài đang trú tại chùa Sơn nhạc trên núi chúng có hơn trăm đệ tử, ngài giảng kinh Hoa Nghiêm. Vị Sa-di đó cũng có mặt trong hội chúng. Bỗng nhiên nghe trong hang núi như có tiếng gió mưa, ngài bèn gọi vị Sa-di ấy, đứng sau lưng ngài. Trong chốc lát thấy một con rắn lớn dài khoảng bảy, tám trượng, lớn khoảng bốn, năm vi hướng thẳng vào chùa, ánh mắt tức giận há mồm. Mọi người đều muốn bỏ chạy, ngài bảo không được giao động. Con rắn dần đến nơi giảng đường lên bậc thềm đưa mắt liếc nhìn như có sự mong cầu. Ngài dùng tích trượng ngăn bảo dừng lại. Con rắn muốn đến nơi tòa bèn cúi đầu nhắm mắt, ngài răn bảo nó, dùng gậy gõ vào đầu rắn, bảo: Đã rõ được hạnh nghiệp, nay phải hồi hướng về Tam bảo! Ngài bảo chúng Tăng vì con rắn mà cùng nhau niệm Phật, trao cho nó pháp Tam quy ngũ giới, con rắn bèn uyển chuyển bỏ đi. Lúc đó, đệ tử của vị Tăng đã tịch trước kia cũng có mặt ở đó, ngài gọi tới bảo: Con rắn này chính là thầy của ông, tu hành nhiều năm nay đã chứng quả vị. Chỉ vì lúc lâm chung tiếc cái bình bát mà tức giận vị Sa-di ấy, bèn thọ nghiệp làm thân rắn, sở dó đến đây là muốn giết hại vị Sa-di ấy. Nếu lại còn sát hại tức sẽ đọa vào đại địa ngục không kỳ hạn thoát ra, may nhờ ta ngăn cản và cho thọ giới cấm. Nay xả bỏ thân rắn ấy, ông nên đến tìm xem. Vị đệ tử đó vâng mạng mà ra. Chỗ con rắn đi qua, cây cỏ đều mở rạp như đường xe đi. Đi khoảng mười bốn, mười lăm dặm đến một cái hang sâu, con rắn tự đập đầu vào đá mà chết. Vị đệ tử đó trở về bạch lại cùng ngài, ngài bảo: Rắn đó nay đã thọ sinh tại nhà Bùi Lang Trung làm thân người nữ, cũng rất thông tuệ, năm mười tám tuổi sẽ qua đời, liền thọ nghiệp thân người nam. Sau đó xuất gia tu đạo. Bùi Lang trung tức là môn đồ của ta. Ông có thể vì ta mà vào thành dò xét hỏi thăm nó. Người nữ đó hiện nay muốn sinh con nhưng rất khó khăn, ông tiện thể cứu hộ nó. Bấy giờ, Bùi Khoan làm binh bộ Lang Trung, tức là môn nhân của ngài. Vị đệ tử đó vâng mạng vào thành, xa chỉ đến nhà Bùi Khoan. Gặp lúc Bùi Khoan xin nghỉ ở nhà, nên cho người báo rằng: Hòa thượng Hoa Nghiêm chuyển lời thăm hỏi. Bùi Khoan bước ra, thấy thần sắc rất lo âu, vị Tăng đó hỏi về nguyên nhân, Bùi Khoan nói: Người vợ muốn sinh đã sáu bảy ngày, đèn đuốc giữ luôn rất là nguy khốn vậy. Vị Tăng bảo: Tôi có thể giúp đỡ. Liền sai bảo ở ngoài cửa nhà nên thiết bày giường chiếu sạch sẽ, vị Tăng đó đốt hương đánh khánh. Xưng gọi pháp hiệu Hòa thượng ba lần. Phu nhân của Bùi Khoan an nhiên mà sinh một bé gái, sau, đến mười tám tuổi, quả thật bé gái ấy qua đời. Thần tăng Thanh Hư Thiên Thanh hư, ngài dòng họ Đường, người xứ Tử châu. Lập tánh cương quyết, tài giỏi thông suốt khó bì, bỗng nhiên hồi tâm, tụng lớn kinh Kim Cang Bát-nhã, ba nghiệp đều không biếng lười. Ngài thường ở nơi núi rừng trì tụng, có bảy con nai thuần nhiễu quanh như nghiêng mình lắng nghe, ngài dứt tiếng thì nó đi, lại có người ở gần bị lửa thiêu chết thành tro tàn, chỉ có ngài lửa dữ bay qua nhưng không thiêu cháy được. Năm Trường An thứ hai (7 0 2) đời tiền Đường, một mình ngài đi đến nơi tự viện thuộc phương Bắc phái trên chùa Ngộ chân, Lam điền. Trước kia tại đó không có suối giếng, sức người không xoay kịp, phải đi lấy nước ở khe suối, kéo bình gánh hủ vận chuyển đến rất cực nhọc. Đại sư Pháp Tạng ở chùa Hoa nghiêm nghe tiếng ngài trì kinh có linh nghiệm, mới thỉnh ngài đến cầu tìm suối nước, ngài bèn vào trong điện các Di-lặc, đốt hương trì niệm liên tục đến sáng thứ ba, bỗng nhiên trong tâm dường như trong lòng núi ở phía Tây bắc dùng dao khoét đất, nước từ đó mà phun ra, ngài ghi nhớ kỹ nơi đó, bèn đến đó xới đào, quả thật có được dòng suối mát ngọt, sử dụng không khô thiếu. Đến năm Trường An thứ tư (7 0 4) ngài đến kiết hạ tại chùa Thiếu lâm. Trên đỉnh núi có một cái thất thờ Phật rất rộng rãi, không ai dám đến đó, người ta cho rằng đó là nhà của quỷ thần ở. Có một vị Luật sư cậy mình có giới hạnh, ban đêm đến đó, trì tụng luật, thấy một người lớn dùng nêu đâm vào mình, rất đau đớn liền xuống núi rụt lại dứt hơi. Lại có một vị Sa-môn chuyên trì chú: “Hỏa Đầu Kim Cang” là bậc đáng tôn trọng. Mọi người nói với vị ấy rằng: Năng lực trì chú của ngài không ai bằng vậy có thể trú lại nơi đó qua đêm được chăng? Đáp: Đó có gì đáng sợ. Khi ấy bèn mang hương lữa đến an tọa trì chú, chỉ trong chốc lát, Thần hiện ra dùng tay nắm lấy chân quăng xuống dưới, suốt bảy ngày vị Tăng đó không nói được tinh thần hôn mê đảo loạn. Ngài nghe vậy bảo rằng: Loài quỷ vật hạng dưới dám vậy ư? Liền đến đó, như thường trì tụng kinh, nữa đêm nghe trong thất tợ như có tiếng rất dữ mạnh, ngài liền trì niệm thần chú “Thập Nhất Điện Quan Âm”, lại nghe trong thất dương như có hai con trâu đang đấu nhau, tượng Phật thảy đều lay động. Trì chú đã mất hiệu nghiệm, ngài lại trì tụng bản kinh Nhất Khế, lần lượt yên tịnh, từ đó người ở không gặp phải tai hoạn gì. Thần liền dời đi chỗ khác. Năm Thần Long thứ hai (7 0 6) đời tiền Đường, vua Trung Tôn ban sắc chiếu chỉ thỉnh ngài vào nội cung cầu mưa, hai mươi bảy ngày sau có tuyết, nhà vua cho rằng: “Chưa cứu giúp đủ với sự mong ước của đương thời”, bèn thỉnh ngài đến chùa đến chùa lại tiếp tục thỉnh cầu, ngài bèn ở trong điện Phật tinh thành cầu đảo và luyện nhất chỉ, mới đến một đêm mà mưa đủ cả ngàn dặm, chỉ hoàn phục như cũ mới gặp nước lớn, phòng nhà trong đều thấp xuống chìm ngập, chỉ riêng ở viện đó không khổ như không bị chần mất. Phàm mọi sự linh nghiệm dị thường của ngài đều là như vậy. Thần tăng Kim Sư Sa-môn Kim Sư, ngài người xứ Tân la. Lúc ngài ở tại Huy dương, nói lục sự tham quân Phòng Uyển rằng: Thái thú Bùi Khoan sẽ đổi. Phòng Uyển hỏi: Bao giờ? Ngài bảo: Sáng mai sắc thư hẳn sẽ đến và sẽ gặp ông ở gốc Tây nam quận. Phòng Uyển chuyên hầu chờ đợi. Hôm sau trước giờ ngọ, Dịch Sứ mang hai bức điện văn đến. Chẳng là Phòng Uyển cho là xằng bậy vậy. Đến giờ Ngọ, lại có Dịch Sứ đưa đến một bức điệp văn, nói: Bùi Khoan đổi làm An lục biệt giá. Phòng Uyển đích thân nghênh đón vị Tăng kinh sư, thân lại tự đi. Quả thật đến gốc Tây nam quận cùng gặp Bùi Khoan. Bèn liền gọi hỏi ngài, ngài bảo: Quan chức tuy đổi, nhưng quan phục chẳng đổi, mà các con cháu ngoại, rễ của ông mỗi người đều phải phân tán. Sau khi sắc chiếu ban đến, trừ biệt giá, áo bào tím giây thao buộc ấn vẫn còn, bọn con cháu ngoại, rễ mỗi người đều đi mỗi nơi. <篇> TRUYỆN THẦN TĂNG <卷>QUYỂN 7 Thần tăng Tuệ An Thích Tuệ An, ngài dòng họ Vệ, người xứ Chu giang, Kinh châu. Dung mạo ngài đoan trang thanh nhã, mắt xanh da biếc, tu tập các pháp môn không gì không thông suốt. Trong niên hiệu Đại Nghiệp (605 – 6 1 7) đời nhà Tùy, ngài mở rộng cứu giúp lớn, tìm nhóm các hàng phu đinh. Bao kẻ đói chết đều cùng nhau trông mong. Ngài lần lượt khất xin nhiều bát thức ăn để cứu giúp người bệnh thiếu thốn ấy, còn thừa mới giúp cho đồ chúng. Đến năm Lân Đức thứ nhất (6 6 4) đời tiền Đường, ngài đến núi Chung nam dừng ở bên vách đá. Bấy giờ chung quanh cao ngyên thung lũng, sớm bị sương làm hư hại lúa mạ, riêng chỗ ngài ở không bị. Tháng tư năm Thánh lịch thứ hai (6 9 8) đời tiền Đường, bảo môn nhân học chúng rằng: Mỗi người hãy trở về đóng cửa phòng nhà. Đến canh ba có Thần đến, hỗ vệ nghiêm chỉnh hòa cùng linh kiếm, gió mưa đều có. Thần ấy đi nhiễu quanh viện mấy lượt. Thần lại lễ bái mà đi. Có người hỏi về nguyên cớ. Ngài bảo: Lúc ta ở núi Trung thần đến đó đều thọ giới Bồ-tát. Thiên Hậu* thường hỏi ngài về tuổi tác, ngài đáp: Không ghi nhớ. Vũ Hậu hỏi: Tại sao không nhớ. Ngài bảo: Thân sinh tử như vòng tròn! Không khởi đầu và điểm cùng tận, lấy gì mà nhớ? Thêm nữa tâm này xuôi chảy không gián cách ở giữa, thấy giọt nước khởi diệt cũng là vọng tưởng vậy. Từ sơ thích cho đến tướng Động diệt cũng chỉ như thế, làm sao năm tháng có thể ghi nhớ ư? Vũ Hậu dập đầu bái lễ. Nghe chỗ ngài ở thiếu giếng nước, ban săn người đến đục đá đào giếng, ngài bảo: Dưới đây có xích tường cẩn thận tổn hại đến vật, gần đến suối thấy tôm sắc vàng khuấy động trong đất bùn, hợp với sự huyền ký của ngài vậy. Vũ Hậu càng thêm khâm phục kính trọng ngài. Đến mùng ba tháng ba năm Cảnh Long thứ ba (7 1 0) đời tiền Đường, ngài căn dặn môn nhân rằng: Ta sắp tịch đây, nên đêm nhục thể vào để trong rừng, đợi lửa chất phát tự thiêu đốt cháy, chớ trái ước nguyện của ta. Bổng chốc có Hòa thượng Vạn Hồi lại, thấy ngài càn rở chắp tay bàn luận phút chốc. Thị giả đứng hầu bên cạnh, nghiêng tai lăng nghe đều không hiểu biết gì. Đến ngày mồng tám, ngài đóng cửa phòng, xếp mình lại mà tịch, hưởng thọ một trăm ba mươi tuổi. Thần tăng Tăng-già Đại Sư Tăng-già vốn người Tây Vực, ngài dòng họ Hà. Đầu niên hiệu Long Sóc (6 6 1) đời tiền Đường, ngài đến Trung Quốc thuộc danh ở chùa Long hưng, Sở châu. Từ đó mới phát thần dị. Đầu tiên ngài dẫn đệ tử Tuệ Nghiễm đến huyện Lâm hoài, Tử châu, tại phường Tín nghóa xin đất đóng nêu, lúc sắp xây dựng chùa, ở dưới cột nêu đào được bia ký chùa cổ Hương tích và một pho tượng bằng vàng, trên đầu tượng có đề chữ “Phổ Chiếu Vương Phật”, dân chúng ở đó vô cùng thán dị, bảo rằng: Mắt trời biết trước, chúng tôi làm sao không cúng thí? Từ đó, đua nhau cầu xin cúng thí, ngài từng trụ ở nhà Hạ Bạt, tự nhiên hóa hiện thân lớn, sàng giường mỗi bề đến ba thước, không người nào mà không kinh ngạc, kế đến hóa hiện tôn tượng Quán Thế Âm Bồ-tát mười một mặt, cả dòng tộc gia đình đều vui mừng gấp bội càng tăng sự tin tưởng kính trọng, liền cải gia vi tự. Từ đó viết tích kỳ dị biến hiện chẳng phải một. Ban đầu, ngài đến hành hóa ở Giang biểu, dừng lại ở chùa Linh quang; Gia hòa. Đó là vùng đất nhiều sông ngòi ao hồ, người dân đắp hồ bắt cá, săn bắn giao ngọ để mưu sinh, ngài đôn đốc khuyên răn, không nên tạo nghiệp giết hại những con vật ấy, nên dứt bỏ nhưng việc ác để nhằm mưu kế sinh nhai ấy. Nhân đó mà có nhiều người xé lưới bẻ câu, ngài tạm nhàn rổi mà yên nghỉ, thấy Thần mách bảo rằng: Trời quá nắng hạn, lúa non của dân chúng đều chết, thân sao chứa lại, ghét rồng? Ngài bảo: Vậy thì làm sao? Thần hỏi: Như đêm nay đưa ngón tay hỏng ra ngoài cửa, xem nó thế nào. Ngài bèn y theo làm. Đêm đó sét đánh khác thường, thật rõ thấy có mạch chỉ màu đỏ rất nhỏ, ngài tự bảo: Ta vô duyên với vùng đất này. Bèn đến Tấn dương. Thấy chùa Quốc tướng bị hoang phế, ngài để lại chiếc y trên đòn dong chánh điện mà đi. Sau đó, có người nghe mùi hương lạ phảng phất. Ngài dự ký ở đó rằng: Chùa ấy sẽ có Nhân vương trùng hưng lại. Hơn ba mươi năm sau, quả thật có vị Tăng, người dòng họ Toàn làm thí chủ. Trong niên hiệu Thông Thiên Vạn Tuế (697– 6 9 8) đời Võ Tắc Thiên, ở lại Sơn dương giữa chúng đông. Ngài biết trước có kẻ hiềm tật ganh ghét ngài. Kẻ đó xướng lời rằng: Tôi có năm mươi vạn tiền, kính dâng hổ trợ tu đạo công đức. Ngài đứng trên bờ sông Hoài, kêu gọi một chiếc thuyền, bảo: Ngươi có của cải cúng thí, ta sẽ khoan tha ngục tù, vật ngươi đang tải chở sẽ được nhẹ nhàng. Kẻ trộm nghe lời nói ấy đều xả thí hết. Do đó mà điện Phật dựng lập sớm hoàn tất, không bao lâu sau, kẻ trôm bai lộ bị bắt giam trong ngục ở huyện Dương tử, ngài cỡi mây xuống ủy dụ nói không đến nổi phải chịu khổ. Quả thật không qua ngày ấy có văn bản tha cho nữa tội chết vậy. Xưa kia, tại Trường an, phụ mã đô úy Võ An bị bệnh, ngài dùng lọ nước tắm phun rãy vào mình nên được lành. Tiếng tăm chấn động khắp trời. Sau đó. Những người mắc bệnh tật đến ngài, ngài bèn dùng nhánh dương đề phẩy nước, hoặc bảo tẩy rửa sư tử đá mà lành. Hoặc ném bình nước, hoặc bảo sám tạ lỗi quá. Linh nghiệm chẳng phải là hư bày, Phước chẳng luống mất, ngài dứt trừ tai ương thân bệnh cho kẻ kia thì cầu xin ngựa, cảnh giác phong ách thì đòi quạt, hoặc nhận tiền của kẻ trộm cướp, hoặc cắn chặt cây cỏ đen, hoặc tìm giếng của La-hán, hoặc tỏ rõ sự chìm ngập của họ Bùi, hoặc dự biết có tuyết lớn, hoặc cứu hạn hay mưa. Thần biến vô phương, chẳng thể lường thường độ. Năm Cảnh Long thứ hai (7 0 8) đời tiền Đường, vua Trung Tông sai sứ nghênh đón vào nội đạo tràng, tôn làm Quốc sư. Ngài ra trú tại chùa Tiền phước, thường ở riêng trong một cái thất. Trên đảnh đầu ngài có lỗ huyệt, thường dùng bông bít lại, ban đêm gở tấm bông, hương thơm từ trong lỗ huyệt trên đảnh phát ra, khắp phòng mùi hương khác thường, đến sáng hương thơm tụ lại ở trong lỗ huyệt, lại dùng bông bít lại, ngài thường rửa chân, mọi người lấy nước đó để uống thì bệnh vốn có lâu ngày đều lành. Một ngày nọ, vua Trung Tông ở tại nội điện nói với ngài rằng: Khắp kinh đô cho đến thôn ấp không có một giọt nước mưa đã vài tháng, xin ngài mở lòng từ bi cởi mở sự lo toan của trẫm! Ngài bèn dùng bình nước ra phù rải, bỗng chốc âm u mây nhóm mưa tuông. Vua Trung Tôn rất vui mừng, ban chiếu sắc tăng biển ngạch chùa ngài ở đặt hiệu là chùa Lâm hoài. Ngài xin lấy hiệu chùa là Phổ chiếu vương, vì muốn y theo chữ trên tượng vàng. Vua Trung Tôn cho rằng chữ Chiếu là húy miếu Thiên hậu (Vũ Tắc Thiên), mới đổi là chùa Phổ quang vương. Đích thân nhà vua ngự đề biển ngạch để ban tặng. Đến ngày mùng hai tháng ba năm Cảnh Long thứ tư (7 1 0), ngài an nhiên đoan tọa thị tịch tại chùa Tiến phước, Trường An. Vua Trung Tôn lệnh xây Tháp tại chùa Tiến Phước, sơn thếp thân để cúng dường, bỗng nhiên gió lớn thổi xào xạc, mùi hôi tràn khắp, vua Trung Tôn hỏi mọi người: Đó là điềm gì? Quan cận thần tấu rằng: Đại sư Tăng-già hóa duyên tại Lâm hoài, e rằng ngài muốn trở về xứ đó, nên hiện biến dị ấy. Vua Trung Tôn yên lặng bằng lòng. Mùi hôi ấy liền dứt, chỉ trong mùi hương lạ ngạt ngào bốc tỏa. Đến tháng năm năm đó đưa nhục thể ngài đến Lâm hoài dựng tháp cúng dường. Tháp đó hiện nay vẫn còn. Sau, vua Trung Tôn hỏi Hòa thượng Vạn Hồi: Đại sư Tăng-già là người gì? Ngài Vạn Hồi đáp: Đó là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong phẫm Phổ Môn kinh Pháp Hoa nói: “Người đáng dùng các thứ thân hình Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni… được độ thoát, Bồ-tát liền vì hiện ra mà nói pháp. Tức là điều này. Trước kia, lúc ngài Tăng-già đến Trường an, ngài Vạn Hồi đến tham lễ yết kiến rất cung kính. Ngài vỗ vào đầu Vạn Hồi bảo: Này ông nhỏ! Cớ sao lưu ở lâu thế? Có thể đi đi! Sau khi ngài thị tich chưa được vài tháng thì ngài Vạn Hồi cũng viên tịch. Thần tăng Tuệ An Thích Tuệ An, không rõ ngài là người ở đâu, ngài nói năng phần nhiều đầy đủ các thuật ưu việt. Bấy giờ, Đường Hưu Canh đã lập công, giàu sang không ai bằng. Một ngày nọ, bỗng nhiên ngài đến nói với Hưu Cảnh rằng: Tướng quốc sắp có họa lớn. Và cũng không cách xa đến vài tháng, nhưng có thể khử trừ được! Hưu Cảnh rất lo sợ, liền lễ bái thưa hỏi ngài, ngài bảo: Tôi không có thuật gì khác, chỉ bày cùng tướng quốc một kế sách, mong rằng tướng quốc nghe cho! Hưu Cảnh nói: Xin ngài dạy cho con! Ngài bảo: Thiên hạ quận thú chẳng phải là do tướng quốc bảo ban đó ư! Hưu Cảnh đáp: Đúng vậy. Ngài bảo: Tướng quốc nên đến quan thấp hèn hỏi một người nhà nghèo khó đói lạnh có người tài giỏi chọn làm tào châu thứ sử. Người đó rất cảm ân của tướng quốc mà có thể chỉ vẻ. Đã tìm được nên báo lại cùng ta. Hưu Cảnh vừa mừng vừa tạ, bèn hỏi ở bạn thân tìm được Trương Quân, nhà rất nghèo. Làm quan thấp hèn ở kinh, ngay ngày đó liền bái yết ca ngợi là Thiên đoại phu. Lại chỉ trong mười ngày dùng làm Tào châu thứ sử. Thế rồi, vời đến ngài thưa rằng: Đã theo kế lược của Đại sư và tìm được trương quân. Thế thì có thể chỉ dạy thế nào? Ngài bảo: Trương quân lúc vào quận, nên tìm kiếm hai con chó cao vài thước mà tài giỏi. Trương quân mang ân đặt chỉ của Đường Hưu Cảnh, nhưng lại chẳng hiểu được ý ấy. Đến lúc sắp vào trong quận, tới cáo từ Hưu Cảnh, Hưu Cảnh bảo: Nghe nói quý quận khéo giỏi luyện chó, tôi muốn xin được hai con có khả năng tài giỏi phi thường. Trương quân nói: Kính cẩn vâng lời chỉ bảo. Đến quận được vài ngày, liền mời các vị quận lai đến và nói với họ rằng: Tôi nhận ân sân của đại thừa tướng Đường Hưu Cảnh. Nay Đường Công cần kiếm hai con chó tài giỏi. Vậy các vị có thể kiếm được chăng? Có một quan lại nói trước rằng: Ở nhà tôi có nuôi được một con, tướng mạo khác thường nguyện xin hiến tặng. Trương Quan rất mừng, liền nhận lấy, khi đã đến thấy con chó ấy cao đến vài thước, tài giỏi khác thường mà lại đã được nuôi thuần phục. Trương Quân nói: Tướng quốc cần đến hai con như thế, giờ biết làm sao? Quan lại thưa rằng: Trong quận đây chỉ có một con này, ngoài ra đều là bình thường cả. Nhưng ở phía Nam quận cách hơn mười dặm tại thôn đó, nhà có nuôi một con, mà người đó rất mến tiếc nó. Nếu quan lớn không đích thân đến đó thì không có cách gì lấy được. Trương Quân liền bảo chuẩn bị xa giá, mang nhiều vật nòng hậu mà đến hỏi, quả thật có được, tướng trạng của con chó ấy cùng với con chó quan lại hiến tặng trước không khác, mà bộ diện sắc thần tinh xảo hơn. Trương Quân rất mừng, liền mời vị quan lại thân thiết và đem con chó đến hiến tặng, Hưu Cảnh rất vui mừng và rất lấy làm lạ về tướng mạo ấy, cho rằng điều chưa từng thấy. Bèn thỉnh mời ngài đến xét xem, ngài bảo: Thật khó nuôi dưỡng nó! Tướng Quân thoát khỏi đại họa là do nhờ hai con chó này đây. Sau hơn mười ngày, ngài lại đến bảo Hưu Cảnh rằng: Sự tình sẽ xảy ra trong đêm nay, xin tướng quân nghiêm chỉnh phòng bị, Hưu Cảnh bèn lưu giữ ngài dừng nghỉ ở nhà người em. Hôm đó Hưu Cảnh ngồi tại trước hiên nhà, bảo thị vệ hơn mười người cầm nhắm cung tên đứng quanh các gốc giường. Hưu Cảnh cùng ngồi tại một giường. Đến nửa đêm, ngài cười, bảo: Họa của tướng quân đã khỏi, chúng ta có thể đi ngủ được! Hưu Cảnh rất mừng mà lễ tạ, bèn cùng các thị vệ và ngài cùng đi ngủ. Đến sáng sớm ngài gọi Hưu Cảnh: Nên thức dậy! Hưu Cảnh liền dậy, nói với ngài: Họa thật đã khỏi, nhưng hai con chó dùng để làm gì? Ngài bảo: Chúng ta đều nên đến xem thử sao? Bèn cùng hưu Cảnh đều tìm theo dấu vết, đến trong khu vườn sau, thấy một người ngã lăn giữa đất mà chết, thấy ở cổ người đó có vấy máu bởi bị loài vật cắn, lại thấy hai con chó đang ngồi dưới một gốc cây lớn, ngước mắt nhìn lên thì thấy một người trạc áo núp trên cây. Hưu Cảnh kinh hãi mà hỏi người đó rằng: Ngươi là ai? Người đó khóc, chỉ người đã chết bảo: Tôi và kẻ đó đều là giặc, đêm hôm qua cùng đến và sắp muốn vào hại tướng quân, bởi gặp hai con chó vay quanh và sủa. Kẻ đó bị chó cắn mà chết. Còn tôi sợ quá nên nép mình ở đây. Hai con chó nhìn thấy nên ngồi xổm dưới gốc cây. Tôi đợi nó đi nơi khác thì sẽ chạy trốn, nhưng mãi đến sáng, chó chẳng chịu đi, nay tức phải chịu chết. Hưu Cảnh bèn gọi thị vệ bắt trói kẻ đó lại, ngài bảo: Tội ấy thật là đáng chết, nhưng không phải do chính tâm nó. Bởi vì nó chỉ thọ chế ở người khác mà thôi. Xin nên tha cho nó! Hưu Cảnh bảo mở trói, kẻ giặc đó lay khóc mà đi. Hưu Cảnh cảm tạ ngài mà thưa rằng: May nhờ có ngài! Không thì con đã chết bởi hai người ấy. Ngài bảo: Đó là phước của tướng quốc, chứ đâu phải tôi có thể làm được đâu! Hưu Cảnh có người em là Lư Chẩn ở tại Kinh môn. Có một thuật só bảo rằng: Ông sắp có tai họa, phải tìm cầu một người hiền thiện khử trừ mới có thể qua. Lư Chẩn vốn có biết ngài, nên viết thư gởi đến Hưu Cảnh, nhờ Cảnh thỉnh mời, ngài liền đưa cho Hưu Cảnh một bức thư, bảo: Sự tình như trong thư. Lúc thư đưa tới Kinh châu thì Lư Chẩn đã chết, người nhà Lư Chẩn mở thư xem, chỉ một tờ giấy không văn tự gì. Hưu Cảnh càng lấy làm lạ. Sau đó vài năm, ngài bỏ đi nhưng không biết đi về đâu. Thần tăng Tú Sư Sa-môn Tú Sư, vốn dòng họ Lý, người xứ Trần lưu, Biện châu, hành thiền tinh khổ. Đầu tiên ngài đến Kinh châu, sau dời đến chùa Thiên cung ở Lạc đô. Vũ Hậu (Vũ Tắc thiên 690– 7 0 5) rất kính trọng ngài, ngài thường biết những việc sắp xảy ra nên ứng xử rất chân toàn. Trong niên hiệu Trường An (701– 7 0 5) đời tiền Đường, ngài vào kinh đô, trú tại chùa Tư thánh. Một hôm, tự nhiên ngài bảo các đệ tử tắt hết đèn trong thiền viện, đệ tử chỉ để lại một cái đèn lớn, ngài cũng bảo tắt luôn. Nhân đó, ngài nói về tai nạn của lữa không thể lường hết. Có chùa bất cẩn đèn đuốc nên điện Phật bị tai họa, lại có chùa lầu chuông gặp phải lửa hại, lại có một chùa Kinh tạng bị lửa thiêu nướng. Rất đáng tiếc, chúng Tăng trong chùa đều không biết được ý ngài vừa nói. Đến đêm tối mất lửa, quả nhiên điện Phật, lầu chuông và kinh tạng ba cơ sở bị lửa đốt hại. Thời tiền Đường, lúc Huyền Tông đang chấn phiên, thường cùng các Vương tử đến lễ bái ngài, cúng dường ngài một ống sáo. Sau khi Huyền Tông đi rồi, ngài bảo phải cẩn thận giữ lấy nó, sau, có lúc cần hẳn dâng lên. Năm một trăm tuổi, ngài thị tịch tại chùa Tư thánh, an táng tại núi Long môn, kẻ Tăng người tục đua nhau tìm đến vài ngàn người. Yên quốc Trương Thuyết viết văn bia dựng ở tháp ngài. Thần tăng Vạn Hồi Sa-môn Vạn Hồi người xứ Văn hương, vốn dòng họ Trương. Thân mẫu ngài trước kia cầu nguyện ở tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, nhân đó mang thai ngài. Sau khi ngài đã chào đời rất ngu dốt; lên tám, chín tuổi mới biết nói. Song thân ngài dùng thịt lợn con chó con nuôi dưỡng ngài. Đến lúc trưởng thành, thân phụ bảo ngài cày ruộng, ngài cày thẳng tới một đường không quay lại, miệng chỉ thường nói “Bình đẳng.” Nhân đó cày một gò dài vài mươi dặm, gặp phải ngòi hầm, bị cản trở ngài mới dừng lại. Thân phụ ngài tức giận bèn đánh. Ngài bảo: Cày chúng tất cả chớ sau lại phân biệt đây kia? Thân phụ mới thôi đánh, nhưng không cho ngài cày nữa. Anh trai ngài đi lính ở An tây, vắng bặt tâm tính, song thân ngài cho rằng đã chết, ngày đêm khóc buồn rầu lo nghỉ không thôi. Ngài nhìn song thân vô cùng cảm thông, bèn quỳ mà nói rằng: Khóc lóc há chẳng phải làm cho anh con ưu phiền? Song thân ngài vừa tin vừa nghi, hỏi: Vậy phải làm sao? Ngài bảo: Nghó rõ anh con đang cần là y phục và lương thực, xin đều chuẩn bị, con sắp đi thăm anh đây. Bỗng một sáng sớm mai, ngài mang các thứ đã chuẩn bị mà đi, chiều tối thì trở về lại nhà, nói cùng song thân rằng: Anh vẫn mạnh khỏe tốt lành. Đưa thư ra xem mới thật là dấu bút của người anh, cả nhà đều lấy làm lạ. Hoằng Nông đến Tây an, bởi xa hơn vạn dặm, vì ngài đi vạn dặm và trở về nên gọi tên ngài là Vạn Hồi. Trước kia Pháp sư Huyền Trang đến nước Phật thỉnh cầu kinh pháp, thấy trong khảm Phật có ghi: “Bồ-tát Vạn Hồi giáng đến đất văn hương để giáo hóa.” Ngài Huyền Trang vội cỡi ngựa đến Văn hương, hỏi ở đó có Vạn Hồi không, bảo kêu gọi Vạn Hồi, ngài đến, ngài Huyền Trang liền đảnh lễ, để lại cúng dường ba y, Bình bát rồi đi. Sau, Thiên đế đi tìm thỉnh ngài vào trong cung và bàn nói mọi sự rất có ứng ng- hiệm. Bấy giờ, có Trương Dị Chi làm lớn một ngôi nhà thứ hai, ngài từng chỉ ngôi nhà đó bảo: Tướng tác. Mọi người không ai hiểu ngài muốn nói gì. Đến lúc Trương Dị Chi chiếm lấy ngôi nhà đó làm tướng tác giam. Ngài thường nói với Vó Thứ Nhân và công chúa An Lạc rằng: Tam lang sẽ lầy đầu ngươi. Vó Thứ Nhân cho rằng: “Trung Tôn là con thứ ba”, sợ rằng Trung Tôn sinh biến nên thuốc độc nó, mà không biết rằng do Huyền Tông giết. Thời Thiên Hậu (690– 7 0 5) trị vì, các quan lại tàn khóc làm những chuyện đặt điều, nên các quan có phần cao trọng sáng suốt ngày một từ biệt vợ con. Bấy giờ Thôi Nhật Dụng, Võ Bình Nhất Tống đến hỏi Thẩm Thuyên Kỳ, Sầm Hỳ, Tiết Tắc, mọi người thấy ngài đều nghiêm túc trịnh trọng thăm hỏi. Các người ấy nói rằng: Tất cả chúng tôi đều muốn Thánh Nhân nói cho một lời để định tốt xấu! Ngài vỗ vai Thẩm Thuyên Kỳ bảo: Ông thật là giỏi. Thẩm Thuyên Kỳ vui mừng không gì hơn nói: Thánh nhân thọ ký cho ta, các đệ tử không thể tranh đua. Ngài lại nói với Võ Bình rằng: Cho ông lấy tên là Phật Đồng, sẽ không còn gì phải lo ngại. Trong ánh mắt của Sầm Hy, Tiết Tắc có ẩn điều bất thiện, Sầm dùng ngựa lánh đi. Ngài đưa mắt nhìn Tiết Tắc bảo: Đó là chồn cáo. Nói thế đâu đủ sợ. Ngài lại quay lại bảo: Ngươi cũng không bị giết cùng với Hy Tắc. Mọi người càng thêm quý trọng. Lúc Huyền Tông đang còn ẩn náu cùng với môn nhân như Trương Vó… đồng đến bái yết, ngài thấy tướng quá ư bẩn thỉu quấy nhiễu, bèn dùng gậy sơn gọi mà đuổi đi, những người đồng đến đều bị xua đuổi. Lúc Duệ Đế vào, ngài trở lại cài then cửa phòng, vỗ vai Duệ Đế bảo: Năm mươi năm thái bình, Thiên tử hãy tự vui mừng! Sau đó không biết thế nào. Trương Vó… đứng ngoài cửa nghe rõ ràng lời đó, nên khuynh tâm phò tá, năm mươi năm sau là chỉ họa của Lộc sơn. Lúc Duệ Tông đang ở Phiên để, hoặc là du hành trong dân gian, nghe rõ ràng lời đó, nên dốc lòng phò tá, năm mươi năm sau là chỉ họa của Lộc sơn. Lúc Duệ Tông đang ở Phiên để, hoặc là du hành trong dân gian, ngài đi trong tụ lạc, hoặc đi giữa đường cái, lớn tiếng gọi: “Thiên tử đến.”, hoặc “ Thánh nhân đến.” Các xứ đô kính tin vốn có sẵn từ trước, Duệ Tông không sao bồi hồi xúc động. Thái tử Tuệ Trang là con thứ hai của Duệ Tông. Lúc đầu Võ Tắc Thiên đem đến hỏi ngài, ngài bảo: - Đứa trẻ này là do Đại Thọ Tịnh ở Tây Vực nuôi dưỡng nó, nên làm anh em về sau sinh thân vương, hình nghi khảm vó rất khéo việc ăn uống. Niên hiệu Cảnh Long (707– 7 1 0) đời tiền Đường ngài thường luôn ra vào. Các hàng só thứ quý tiện tranh nhau vào lễ bái. Ngài mặc áo bào bằng gấm, hoặc cười, la mắng hoặc đánh trống, nhưng sau tùy việc mà ứng nghiệm. Công chúa Thái Bình vì ngài tạo dựng một căn nhà ở bên phải ngôi nhà của công chúa. Trong niên hiệu Cảnh Vân (710– 7 1 2) đời tiền Đường, ngài thị tịch tại ngôi nhà đó. Trước lúc thị tịch, ngài gọi lớn, bảo tìm cầu nước vốn từ dòng sông, đệ tử đồng bạn tìm kiếm đều không có, ngài bảo: Trước mặt nhà là nước sông đó! Bèn đào dưới bậc thềm, nước sông tự nhiên tuôn vọt. Uống nước xong ngài liền thị tịch. Nước giếng nơi đó đến nay vẫn mát ngọt. Thần tăng Xử Tịch Thích Xử Tịch, ngài dòng họ Chu, người ở xứ Thục, ngài phụng thờ Thiền sư Bảo Tu, bình dị không tham cầu, không tranh giành mọi vật, thanh nhã, thông suốt sâu mầu. Thiên Hậu (Vũ Tắc Thiên 690– 7 0 5) nghe thế, ban chiếu thỉnh ngài vào cung ban tặng áo nạp y Tăng- già-lê. Ngài xin từ tạ trở về núi, trải qua bốn mươi năm, chân không in dấu trong các tụ lạc. Ngài ngồi trên chiếc giường theo kiểu người Hồ, điềm nhiên yên lặng không ngủ, thường có hổ ngồi dưới tòa như vật nuôi trong nhà. Dân chúng kính trọng, những người học đạo đua nhau tìm đến đông đúc. Do vậy có những điều rất lạ. Như Đại sư Vô Tướng từ nước Tân La đến tham yết Thiền sư, ngài dự biết, răn bảo đồ chúng: Ngày mai sẽ có khách Tăng từ nước khác đến, nên quét dọn sạch sẽ để tiếp đãi. Quả thật, sáng mai ngài Vô Tướng từ Hải đông tới. Đầu niên hiệu Khai Nguyên (7 1 3) đời tiền Đường. Tân Trừ Thái Thú Vương Diệp lên nhận chức, xử phân trong địa phận ứng thị, các vị Sa-môn tìm đến chúc mừng, duy chỉ có mình ngài từ lâu chẳng xuống núi. Có người khuyên ngài nên đến tham yết để tránh sự nghiêm ngặt. Ngài nói với đệ tử: Ngươi tuy xuất gia, còn chưa biết nghiệp. Ta chưa chết thì Vương Diệp làm sao như ta được? Lúc Vương Diệp lên nhậm chức quan tước mới ba ngày, các vị Sa-môn đều đến, có người bảo: Sa-môn Xử Tịch khi tới phiên hầu chẳng đến chúc mừng. Vương Diệp có phần tức giận. Khi chư Tăng lên sảnh đường an tọa rồi đem mở đầu mối giận, hỏi nguyên do mà ngài lại không đến. Bỗng nhiên sắc mặt bừng bừng, chư Tăng đều run sợ, bỗng chốc Vương Diệp bỗng ngã lăn xuống đất, mọi người khiêng về nhà đến bàn làm việc, sau bức chắn như có tiếng đánh tát vào má, chốc lát thì Vương Diệp dứt hơi thở qua đời. Đến năm tám mươi bảy tuổi, ngài thị tịch, đến nay vẫn tôn sùng kính ngưỡng. Thần tăng Nguyên Khuê Thích Nguyên Khuê, ngài dòng họ Lý, nười xứ Y khuyết. Tỏ ngộ được Thiền sư ở chùa Thiếu lâm, ngài rất thông tam yếu, thâm nhập huyền vi, bèn chọn nơi bàng ổ làm nhà tranh ở trong ngục. Nói với người học trò của mình là Nhân Tố rằng: Ta mới vào chùa Đông nham, sau khi Ta tịch ngươi hãy nên xây tháp an táng hài cốt ta ở chốn này. Ngài xuống Nham A an nhiên tạo thiền. Bấy giờ, có người đội mũ cao mặc quần xếp gấp, bộ khúc lắm nhiều, tự xưng là đến tham yết Đại sư. Ngài thấy người ấy dáng dấp cao lớn sáng suốt khác thường, bèn gọi: Lành thay! Nhân giả! Có việc gì đến đây? Người ấy bảo: Ngài sao biết tôi ư? Ngài bảo: Tôi thấy Phật và chúng sinh đều bình đẳng, là một, đâu có khởi thức phân biệt. Người ấy bảo: Ta là Thần núi đây. Ta có thể tạo tác mọi sự lợi hại sống chết đối với mọi người. Ngài đâu có thể xem tôi với mọi người đồng là như một ư? Ngài bảo: Ông có thể tạo tác mọi việc sống chết đối với mọi người. Còn ta vốn bất sinh, ngươi làm sao có thể làm ta chết được? Ta xem thân hình cùng với hư không đều là bình đẳng, xem ta và ngươi cùng đều bình đẳng. Ngươi có thể hủy hoại hư không cùng với ngươi chăng? Giả sử ngươi có thể hủy hoại hư không cùng với ngươi. Ta đây đã không sinh không diệt. Ngươi còn chưa được như thế làm sao có thể tạo tác mọi sự sống chết đối với ta ư? Thần cúi đầu lạy nói rằng: Tôi cũng là thông minh chánh trực so với các Thần khác, nhưng đâu biết trí tuệ biện tài của ngài rộng lớn như thế. Xin ngài trao truyền cho con chánh giới. Nay con độ đời trợ giúp oai phúc ấy. Ngài bảo: Thần đã khất cầu giới tức là đã đắc giới. Vì sao? Ngoài giới không có giới thì đâu là giới? Thần nói: Với lý ấy, con nghe hơi mịt mờ mông lung. Chỉ xin cầu ngài trao truyền giới cho con. Con nay là đệ tử của ngài! Ngài khước từ không được, bèn bày tòa đốt hương, cầm lò ở chánh án, bảo: Trao truyền ngũ giới cho ông, ông có thể tự hành trì. Và ngài xoay về Thần bảo: Được hay không được tức liền nên đáp! Thần nói: Rửa tay lắng nghe, tâm rỗng xin nhận sự chỉ giáo! Ngài bảo: Ông có thể giữ được việc không dâm dục ư? Thần đáp: Con có lấy vợ. Ngài bảo: Không phải vậy đây có nghóa là không có lưới dục. Thần đáp: Có thể được. Ngài bảo: Ông có thể giữ không trộm cướp? Thần đáp: Tôi đâu thiếu gì sao có chuyện trộm cướp ư? Ngài bảo: Không phải thế. Đây có nghóa là hưởng mà quá phước, chẳng cúng mà họa thiện vậy! Thần đáp: Có thể được. Ngài bảo: Ông có thể giữ không giết hại? Thần bảo: Có quyền nắm trong tay sao bảo không giết hại được? Ngài bảo: Không phải thế. Đây có nghóa là có sự lạm dụng lầm lẫn nghi ngờ hỗn tạp. Thần đáp: Có thể được. Ngài bảo: Ông có thể giữ sự không hư dối chăng? Thần bảo: Tôi vấn chánh trực sao có thể hư dối được? Ngài bảo: Không phải thế. Đây có nghóa là trước sau chăng hợp với lòng trời. Thần đáp: Có thể được. Ngài bảo: Ông có thể giữ sự chẳng gặp phải rượu chè say sưa hư bại chăng? Thần đáp: Có thể được. Ngài bảo: Trên đây là giới của chư Phật cấm chế. Ngài lại bảo: Dùng hữu tâm để phục trì mà không có tâm câu chấp, dùng hữu tâm vì mọi vật mà không có tâm suy tưởng tự thân. Nếu được như vậy thì trước lúc trời đất chưa sinh chẳng làm tónh, sau khi trời đất diệt chẳng là lão. Chọn ngày biến hóa mà chẳng lấy làm động. Vắng lặng mà chẳng lấy làm thể. Tỏ ngộ được như vậy thì tuy có lấy vợ cũng chẳng phải là vợ, tuy có hưởng thụ cũng chẳng phải là lấy, tuy có nắm cầm cũng chăng phải quyền uy, tuy có tạo tác cũng chẳng nên vậy, tuy có say cũng chẳng phải hôn mê vậy. Nếu vô tâm đối với vạn vật thì tuy có lưới dục cũng chẳng là dâm, phước hóa họa thiện chẳng phải là trộm, lạm lầm hỗn nghi chẳng phải là sát hại, trước sau đối với trời cũng chẳng phải là vọng, hôn mê hoang đảng đảo điên cũng chẳng phải là say. Đó gọi là vô tâm, vô tâm thì vô giới, vô giới thì vô tâm. Không Phật, không chúng sinh, không ngươi và không ta, không ta và không ngươi, vậy ai có thể giữ giới ư? Thần nói: Thần thông của tôi sau Phật một bậc. Ngài bảo: Thần thông của ông, năm cú có thể được, năm cú không thể được. Phật thì mười cái được bảy còn ba không? Thần khiếp sợ, liền trải chiếu quỳ dài rất cung kính thưa: Tôi có thể nghe được chăng? Ngài bảo: Ông có thể xoay Thượng đế từ trời Đông hướng mặt đến thất diệu ở trời Tây chăng? Thần đáp: Không thể được. Ngài lại hỏi: Ngươi có thể chiếm đoạt Địa kỳ dung thông năm núi và kết cả bốn biển chăng? Thần đáp: Không thể được. Ngài bảo: Đó là năm sự không thể được. Ngài lại bảo: Phật có thể không tất cả tướng thành trí muôn pháp, mà không thể tức diệt định nghiệp. Phật có thể biết mọi việc trong muôn ức kiếp của các loài tánh mà không thể hóa độ dẫn đạo đối với lẽ vô duyên. Phật có thể cứu độ vô lượng hữu tình mà không thể cùng tận chúng sinh giới. Đó là ba điều không thể được của Phật. Vậy Định nghiệp cũng chẳng là lao ngục lâu dài, vô duyên cũng có nghóa là nhất kỳ và chúng sanh giới vốn không tăng giảm. Phơi bày không một người hay làm chủ hữu pháp. Hữu pháp vô chủ, đó gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ nghóa là vô tâm. Như ta nay giải nghóa về Phật cũng chẳng phải là Thần thông, mà chỉ có thể dùng vô tâm để thông đạt hết thảy các pháp. Đó là điều thầm hiện trước đây. Nếu hữu tâm hữu tác, hẳn không thể cùng khắp được. Thần núi thưa: Con thật có thiển cận ám muội, chưa từng được nghe nghóa Không. Xin ngài trao truyền giới cho con, con sẽ phụng hành. Trọn không nghiệp nhân gì có thể bó buộc trong cõi trần. Con xin nguyện báo đáp ân từ đức! Ngài bảo: Ta quán nói thân không vật, quán khắp vô thường rỗng không hiển lộ vậy, đâu có ham muốn gì? Thần thưa: –Ngài hẳn ban bảo cho con làm việc thế gian. Mở mang thần công bé bỏng nơi con, khiến năm hạng người: Đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm, không cótín tâm ắt có tín tâm nhìn thấy vết thần của con mà biết được có Phật, có Thần, có người có khả năng, có người không có khả năng, có tự nhiên và có chẳng phải tự nhiên. Ngài bảo: Không làm vậy! Không làm thế! Thần nói: Phật cũng sai bảo thần hộ trì Phật pháp, sao ngài lại hủy phá lời Phật ư? Tùy ý ngài rủ lòng răn dạy! Bất đắc dó mà ngài nói rằng: Chướng ngại ở chùa Đông nham là rậm rạp mà không cây cối. Tại Bắc tụ có cây ổi mà chẳng ngăn chắn ưng che. Ông sau này có thể trồng trọt cây cối ở Đông nham ư? Thần đáp: Con đã nghe sự chỉ dạy của ngài vậy! Thần lại nói tiếp: Trong đêm tối, hẳn con sẽ lay động bày gió mưa chấn động liên tục, xin ngài chớ hải sợ! Thần liền đảnh lễ mà khước từ. Ngài tiễn đưa Thần ra cửa mà quán sát, thấy nghi vệ như hình tượng của Vương giả. Đêm đó quả thật có gió bão, sấm sét vang rền may mưa chấn động. Nóc nhà trang vũ lớn cao ngấp nghễnh dáng đá sắp đổ nát. Các vị Tăng định tónh vẫn động lòng, tiếng chim kêu trong đêm như cuồng dại, cùng nhau đấp đá loảng soảng, mọi vật chẳng an chỗ… Ngài mới bảo chúng Tăng rằng: Không nên khiếp sợ! Không nên khiếp sợ thần núi cùng với Ta đã bàn tính! Đến sáng sớm mai, trời đã tạnh mưa, thì các thứ cây tùng cây ở núi phía Bắc đều dời đến đỉnh núi phía Đông trồng tỉa ngay hàng thẳng lối rậm rạp. Ngài bảo cùng đệ tử rằng: Sau khi ta tịch chớ cho người ngoài biết, nếu vì lở miệng, thật là người hại ta! Năm Khai Nguyên thứ tư (7 1 6) đời tiền Đường, ngài thị tịch, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi. Thần tăng Thông Huyền Ngài Thông Huyền dòng họ Lý, người xứ Đông Bắc Thái Nguyên. Những lúc ngài làm việc chẳng thể sánh bì. Thân ngài cao hơn bảy thước, dung mạo màu đỏ tía lông mi dài quá mắt, râu mép tóc mai như họa vẽ, tóc màu xanh mà xoắn ốc, môi đỏ nhuận, răng kín khít, mang da cây gỗ hoa, áo mão thuần vải bố lớn, may vá tự chế, lưng không thắt đai, chân chẳng giày dép nhẹ. Tuy giữa mùa đông lạnh nhưng không bị bệnh hoạn tay chân nức nẻ, mùa Hạ nắng gắt không cấu bẩn hay mồ hôi xâm bám. Ngài rất phóng khoáng tự tại chẳng bị gì bó buộc. Song, thông bác cổ kim cho đến Nho thích, mỗi lúc phát ngôn từ khí như chuông lớn khua động. Ngài luôn chú tâm về Hoa Tạng, chưa từng ngủ yên. Mùa Xuân năm Khai Nguyên thứ bảy (7 1 6) đời tiền Đường, ngài mang kinh Hoa Nghiêm, bản Tân dịch, kéo lê gậy trúc từ Định Tương đến nhà Cao Sơn Nô ở thôn Đại hiền, Hương Đồng Dónh, thuộc phái Tây nam của Huyện vu, Tinh bộ, ngài dừng nghỉ trong một phòng bên cạnh, tạo luận diễn xướng kinh Hoa Nghiêm. Suốt ba năm ngài không bước ra cửa sân. Cao Sơn Nô và mọi người chung quanh lân cận trong thôn lấy làm lạ mà chẳng thể lường biết. Mỗi ngày, ngài chỉ ăn mười quả táo và một cái bánh lá bách, ngoài ra không cần gì thêm. Sau, ngài lại dời đến Nam cốc ở nhà họ Mã bên cạnh một ngôi nhà thời xưa, làm một ngôi nhà bằng đất nhỏ, ngài yên nghỉ ở đó. Gia đình họ Cao vẫn thường dân cúng táo và bánh. Ngài cũng thường mang bản kinh luận, của ngài viết đến Hàn Thị Trang. Giữa đường gặp một con hổ, ngài đưa tay vỗ vào lưng nó. Vì thế mà nó mang kinh luận phụ giúp ngài chuyển tải đến trong một cái khám bằng đất. Hổ chuôi tai đi trước. Tại xứ đó không có suối để lấy nước dùng. Gặp một trận bão, mưa gió nhổ trốc gốc một cây tùng già kéo vất cả trăm thước, ngoài ra đều trở thành hồ, sâu chừng một trượng, nước ở đó có mùi vị ngạt thơm. Đến nay gọi là suối Trưởng giả. Dân chúng ở trong thôn phần nhiều bị nắng hạn, ngài luôn đến cầu mưa, rất có ứng nghiệm. Trong thời gian ngài viết luận, trong thất không có dầu đèn. Mỗi đêm, đến lúc ngài nắm bút thì từ hai gốc khóe miệng phóng ra luồn ánh sáng màu trắng dài hơn thước sáng rực soi chiếu thường luôn như thế. Từ khi ngài đến trong Khám đất, bỗng chốc có hai người con giái nhan sắc xinh đẹp thanh nhã, thường ngày mang một hộp thức ăn đến trước Khám sắp bày thức ăn rồi lấy đồ mà đi. Trải qua năm năm như vậy. Đến như các thứ giấy mực thảy đều cúng tặng không thiếu. Đến lúc ngài viết hoàn tất các Luận, tự nhiên không hiện đến nữa. Ngài tạo lu- ận được bốn mươi quyển, bao quát văn nghóa cả thảy cả thảy tám mươi quyển kinh, kế đến là bộ Quyết nghi luận bốn quyển. Ngày nọ, dân chúng trong thôn nhóm họp để lấy nước uống dùng, ngài đến nói với mọi người rằng: Các ngươi khéo ở sống vui vẻ, nay tôi đi đây! Mọi người kinh ngạc hỏi ngài đi đâu, ngài bảo: Tôi xả báo thân này! Mọi người đều buồn khóc luyến mộ đưa người đến khám đất. Ngài bảo: Đi ở thường! Mọi người xuống núi trở về nhà mình. Từ đó mây nhóm tụ tối tăm. Đến giờ Tý, ngài an nhiên thị tịch trong khám. Ánh sáng sắc trắng từ trên đảnh đầu ngài phóng ra xuyên suốt giữa không trung. Hôm đó là ngày 28 tháng 3 năm Khai Nguyên thứ 18 (7 3 0) đời tiền Đường, ngài hưởng thọ chín mươi sáu tuổi. Đến sáng sớm mai, có vài người lên núi, thấy trong khám đất đó có rắn hổ rất nhiều, chẳng thể bước tới, bèn cùng nhau khởi cáo, rắn hổ liền tản mác. Kẻ lớn người nhỏ đều tìm đến vô cùng xúc động, kết kiệu nghinh thỉnh nhục thể ngài đến phía Bắc núi Thái, dùng gạch đá xây dựng bảo tháp mà an táng. Trong ngày cử hành lễ an táng có hai con nai đón, một đôi hạc trắng và nhiều loài chim thú khác tụ hội trong tướng trạng buồn thương và quyến luyến. Thần tăng Nhất Hạnh Thích Nhất Hạnh, ngài dòng họ Trương, người xứ Cự lộc, vốn tên là Toại, tuy tuổi nhỏ mà ngài chẳng như cùng trang lứa, mà thông tuệ minh lợi có phong thái của người già. Đọc sách chỉ qua một lần không phải đọc lại là đã thuộc lòng, ngài phụng thờ Thiền sư Phổ Tịch, được xuất gia xuống tóc tại Trung sơn. Ngài từng thiết trai tại chùa, Tăng chúng và Sa-môn ở chung qua- nh trong vòng vài trăm dặm đều đúng như thời hạn mà đến. Vả lại, vừa mới đến vài người, bấy giờ có ngài Lư Hồng đạo cao học rộng, ẩn cư tại Trung sơn, nhân đó thỉnh ngài viết bài văn tán thánh trai hội đó. Đến ngày đó, ngài Lư Hồng mang bài văn tới chùa và trao đặt trên bàn án. Chung phạm đã làm, ngài Lư Hồng nói với ngài Phổ tịch rằng: Bài văn tôi viết có tới vài ngàn từ, huống gì trong đó chữ hẹp mà lời mắc mỏ, bởi thế cần chọn người thông ngộ trong chúng Tăng, Hồng tôi sẽ đích thân trao truyền cho. Ngài Phổ Tịch mới gọi ngài. Đến nơi, ngài bày giấy ra, mỉm cười xem qua một lượt rồi đặt lên Án, ngài Lư Hồng khinh ngài sơ thoát lấy làm lạ. Bỗng chốc, chư Tăng đã tụ hội trong trai đường, ngài đẩy tay áo mà đến, cất giấu bài văn, chỉ đọc trầm, nhưng dò xét chẳng quên sót một từ. Ngài Lư Hồng kinh ngạc giây lâu rồi nói với ngài Phổ Tịch rằng: Với Nhất hạnh thì khả năng của ngài Phổ Tịch không thể dạy bảo dẫn dắt nỗi, nên để cho được du phương tham học. Ngài nhân cúng Đại điển, từ đó tìm hỏi thầy lành chẳng quản xa vài ngàn dặm. Ngài từng đến chùa Quốc thanh ở núi Thiên thai, thấy một viện sở có vài mươi gốc tùng già, trước cửa có dòng nước chảy. Ngài đến đứng ở chắn cửa, lắng nghe trong viện có tiếng chư Tăng tại giữa sân đang biện bày toán số, âm thanh… Thế rồi nói học trò rằng: Ngày nay sẽ có đệ tử đến cầu ta về toán pháp, đã đến cửa, sao không người dẫn đến? Liền trừ một toán, lai bảo rằng: Dòng nước trước cửa chảy theo dòng về hướng Tây, đệ tử nên đến! Ngài vâng theo lời mà vào, cúi đầu cầu thỉnh pháp thế được trao truyền đạo thuật, và dòng nước chảy trước cửa lại chảy về hướng Đông. Từ đó, tiếng tăm ngài vang vọng khắp gần xa. Vua Huyền Tông (712– 7 5 6) đời tiền Đường nghe thế mời gọi ngài vào trong cung, hỏi: Khanh có tài năng gì? Ngài đáp: Khéo xem qua liền ghi nhớ. Nhân đó, vua Huyền Tông vời ngài đến bên sân, đem sách vở của mọi người trong cung để bày đó. Đọc qua một lượt rồi cất bản văn, ngài ghi nhớ chính chắn như vốn chỗ tập đọc, sau khi đọc vài bức, bất chợt vua Huyền Tông bước xuống khỏi giường đảnh lễ ngài, tôn xưng là Thánh nhân. Khen ngợi giây lâu mới chiếu đối không thường. Ngài chiêm đoán mọi sự họa phước như chỉ vật trong lòng bàn tay, nói rất nhiều điều bổ ích. Hình Hòa Khát nói với Doãn Ân rằng: Nhất Hạnh! Ngài quả thật là Thánh nhân. Thời nhà Hán, có Lạc Họa Hoành tạo lịch Đại diễn, nói sau tám trăm năm sẽ có sai một ngày, thì có bậc Thánh nhân chế định lại và Nhất Hạnh tạo lịch Đại diễn sửa lại sai lầm đó. Vậy lời nói của Lạc Họa Hoành đáng tin cậy. Ngài từng đến Đạo só Doãn Sùng, mượn Dương Hùng Thái Huyền kinh, vài ngày sau bèn đem sách trả lại. Doãn Sùng bảo: Sách ấy ý chỉ sâu xa, tôi tìm đọc đã nhiều năm còn chưa hiểu. Ông thử mượn nghiên cứu sao vội trả? Ngài bảo: Tôi hiểu rốt ráo nghóa ý trong ấy. Nhân đó ngài soạn thuật Đại Diễn Huyền Đồ và Nghóa Quyết một quyển đưa đến cho Doãn Sùng, Doãn Sùng ngợi khen và khâm phục, nói với mọi người rằng: Nhất Hạnh là Nhan Tử tái sinh! Thuở bé thơ nhà ngài nghèo khổ, bên cạnh nhà có Vương Mỗ trước sau đã giúp đỡ ngài khoảng vài chục ngàn, ngài thường nghỉ cách báo đáp ân nghóa đó. Trong niên hiệu Khai Nguyên (713– 7 4 2) đời tiền Đường, ngài thừa cơ hội sự kính ngộ của vua Huyền Tông nên nói gì cũng được, gặp lúc con của Vương Mỗ tội giết người, bị giam tù chưa đủ, Vương Mỗ đến xin ngài cầu cứu, ngài bảo: Người cần vàng bạc, tôi hẳng đáp đền gấp bội mười lần, còn quân thượng nắm giữ luật pháp khó thể cầu xin, biết làm sao! Vương Mỗ nắm tay só mắng ngài, bảo rằng: Đâu dùng được gì ở sự hiểu biết của vị Tăng này? Ngài từ đó mà tạ biệt chọn chẳng nhìn lui. Trong tâm ngài tính ở chùa Hồn thiên, lao công phục dịch có đến vài trăm người, liền sai người đem vào đó một cái chum lớn để trong thất ngài để rỗng không, chọn hai kẻ tớ thường ở, trao cho nó cái đãi vải bố, bảo rằng: Tại hướng đó, góc đó có một cái vườn hoang phế, hai người lẫn trốn vào đó, dò xét từ buổi trưa giờ Ngọ cho đến chiều tối, sẽ có loài vật vào nó thuộc số bảy thì bắt lấy cả, nếu mất một thì bị đánh gậy đánh. Hai người theo lời ngài chỉ dẫn mà đi. Đến sau giờ Dậu, quả thật có bầy lợn tìm tới và đều bắt gọn đem về, ngài rất vui mừng, bảo thả vào trong chum, dùng nắp gỗ đậy lại và lấy bùn sình bồi trét lại, dùng mực đỏ viết vài mươi chữ Phạn. Bọn tớ ấy đều chẳng biết. Sáng sớm mai, Trung Sứ gõ cửa, vội vời đến điện, đích thân vua Huyền Tông ra nghênh đón hỏi. Thái Sứ tâu: Đêm qua sao Bắc đẩu không hiện đó là điềm gì? Ngài có phương pháp gì để cầu đảo chăng? Ngài bảo: Từ sau thời nhà Nguî mất đi sự huyền hoặc đến nay Đế Xa chẳng hiện, xưa vốn không như vậy. Đó là trời cảnh tỉnh lớn đối với bệ hạ, sẽ không có được cái hàng thất phu phụ thì sương rơi quanh và nắng hạn. Chỉ có đức lớn mới cảm kích và có thể thoái xả. Sự thực có sự cảm kích ấy là ở chỗ chôn vùi trói buộc. Hàng Thích tử vì sân tâm mà phá hoại tất cả công đức Thánh thiện, do Tâm từ mà hàng phục tất cả quân ma. Theo sự thấy biết vụn vặt của hạ thần không gì hơn đại xá cho thiên hạ. Vua Huyền Tọng bèn vâng theo đó, quan thái sử lại tâu: Trong chùm sao Bắc đẩu đã hiện lên một ngôi, sau bảy ngày thì sẽ hoàn toàn đầy đủ. Nhà vua cũng thường bảo ngài về vận nước được bao lâu và có để lại gì khó khăn không ngài bảo: Xe loan đi đến muôn dặm, xã tắc chung cùng ở cát. Nhà vua kinh hãi hỏi nguyên do, ngài không đáp, ngài dùng một hộp bằng vàng nhỏ dâng vua rồi cáo từ, ngài bảo đi đến vạn dặm hãy mở ra xem. Một ngày nọ, nhà vua mở hộp xem, kịp đến lúc Lộc sơn dấy loạn, xa giá rảo chơi thành đô, đến cầu Vạn lý tự nhiên tỏ ngộ. Sau đó không lâu thì trở về. Vua Chiêu Tông ( 8 8 9 - 904) lúc đầu được phong là Cát vương. Đời tiền Đường đến thời vua Chiêu tông là sắp bại hoại nên ngài trước nói là chung cùng với cát. Cuối niên hiệu Khai Nguyên (…- 7 4 2) đời thời tiền Đường có Bùi Khoan chấp chính tại Hà nam. Bùi Khoan rất kính tin Phật pháp, dốc lòng phụng sự Thiền sư Phổ Tịch, sớm tối thường lui tới. Một ngày nọ Bùi Khoan tới, ngài Phổ Tịch bảo: - Có việc nhỏ chưa rảnh để nói cùng ông. Vả lại thôi xin đợi dùng nghỉ! Bùi Khoan mới lặng đứng yên ở nhà trống, thấy ngài Phổ Tịch chùi dọn chánh đường rồi đốt hương an tọa, ngài ngồi chưa bao lâu, bỗng nghe tiếng gõ cửa liên tiếp bảo: Thiên sư Nhất Hạnh, Hòa thượng đến! Ngài Nhất Hạnh bước vào đến chỗ ngài Phổ Tịch, đảnh lễ. Đảnh lễ xong, kề tai nói nhỏ, dáng vẻ rất cung kính cẩn trọng. Ngài Phổ Tịch chỉ gật đầu bảo: Gì chẳng được! Nói xong rồi đảnh lễ, đảnh lễ rồi lại nói, như vậy đến ba lần, ngài Phổ Tịch chỉ bảo: Gì chẳng được! Ngài Nhất Hạnh nói rồi, bước xuống cấp thềm vào phía Nam đường tự đóng cửa phòng thị tịch, ngài Phổ Tịch mới từ từ bảo đệ tử, sai đánh chuông khánh báo cùng chúng biết rằng: Hòa thượng Nhất Hạnh đã diệt độ. Mọi người vội chạy đến xem, qua thật đúng như lời nói ấy, ngài đã viên tịch. Sau đó, Bùi Khoan vận mặc tang phục, ngày an táng đi bộ ra thành tiễn đưa. Ngài hưởng thọ bốn mươi lăm tuổi, vua Huyền Tông buồn khóc rất thảm thiết, bãi triều ba ngày, lưu để nhục thể ngài trong khám hai mươi mốt ngày, dung mạo vẫn như lúc sinh tiền. Nhà vua đích than ngự chế văn bia viết vào đá, xuất kho năm trăm vạn tiền xây dựng tháp gò Đồng nhân, đề thụy hiệu là Đại Tuệ Thiền sư Thiền Sư Vô Úy Ngài Tam tạng Pháp sư Vô Úy vốn người Thiên Trúc, ngài thoái vị xuất gia học đạo, đạo đức danh xưng đứng đầu ở Thiên Trúc, giảng pháp có nhiều dị tướng. Trước tiên, ngài từ Thiên Trúc đến, các quan dẫn ngài đến yết kiến vua Huyền Tông (712– 7 5 6) đời tiền Đường, vua Huyền Tông vừa thấy ngài liền kính tin, nhân đó thưa rằng: Ngài từ xa đến chắc là rất mệt, vậy muốn nghỉ ở đâu? Ngài bước đến bảo: Lúc ở Thiên Trúc, thần thường nghe nước Đại Đường ở chùa Tây minh có Luật sư Đạo Tuyên là bậc trì luật đệ nhất, nên xin được đến đó để nương tựa. Vua Huyền Tông liền chấp thuận theo. Luật sư Đạo Tuyên nghiêm trì giới luật rất nghiêm minh, khổ phần tu tính khiết, mà ngài thì uống rượu thịt, nói năng thô kệt, thường luôn say sưa ồn náo, đến nỗi làm dơ bẩn cả đệm chiếu, nên ngài Đạo Tuyên rất khó nhẫn chịu. Một hôm, ngài Đạo Tuyên vỗ đánh con rận rớt xuống đất, ngài nữa say nữa tỉnh luôn miệng bảo: Luật sư! Luật sư đánh chết Phật tử ư? Ngài Đạo Tuyên mới biết ngài là người khác thường, bèn chỉnh trang y phục đảnh lễ, cung phụng như bậc thầy. Lúc đầu ở Lạc thành, có một con rắn lớn cao hơn một trượng dài cả trăm thước, hình dáng rất khác lạ, chiếm cứ nhiễu quanh dưới núi, dân chúng ở Lạc thành đều thấy, ngài bảo rằng: Con rắn này muốn tháo ngòi nước chứa ở Lạc thành. Liền nói nghóa trong sách Phật. Đến đêm đó, con rắn cỡi mây sương mà lại, hình dạng như nghiêng mình lắng nghe. Ngài trách nó rằng: Ngươi là loài rắn, nên ở trong rừng sâu để yên ổn, cớ sao lại muốn nhả độc trong đời ư? Hãy mau đi đi, chớ gây tai họa cho mọi người! Rắn nghe thế, tỏ ra hổ thẹn, liền cúi đầu xuống đất, lát sau thì chết. Sau đó, An Lộc Sơn phá hủy hết Tông miếu, quả thật đúng như lời ngài nói. Tháng bảy năm Khai Nguyên thứ 10 (7 2 2) đời tiền Đường, đang lúc nắng hạn, vua Huyền Tông sai sứ mang chiếu đến thỉnh ngài cầu mưa, ngài bưng một bát nước đầy, dùng con dao nhỏ khuấy động, tụng chú vài biến, liền có loài vật hình như nòng nọc ở trong bát ngoảnh đầu lên mặt nước, ngài chú nguyện sai khiến nó được, có luồng khí màu trắng từ trong bát tuôn vọt lên, ngài nói với kẻ sứ mang chiếu đến rằng: Hãy về gấp, mưa sắp ập đến. Kẻ sứ liền vội bước ra, chỉ trong khoảnh khắc gió thổi, sấm sét nổ vang chấn động, Kẻ sứ bước vào trình tấu thì áo mão đã thấm ướt, mưa liền nhiều ngày mới dứt. Lại cũng đã từng bị mưa gió thời tiết làm hư hoại nên vua Huyền Tông lại ban chiếu thỉnh ngài làm ngưng dứt, ngài nắn đất bùn làm hình năm bà già rồi nhìn thẳng vào đó quát mắng bằng tiếng Phạm, tức khắc liền tạnh mưa. Ngài từng qua Long hà, dùng một con Thác đà mang chở kinh, chìm trong nước, ngài sợ mất kinh vội theo đó vào trong dòng nước. Khi đó, Long vương thỉnh mời ngài đến Long cung giảng kinh, ngài dừng ở lại ba đêm mới ra. Các kinh sách mang theo chẳng ướt một chữ. Những sự kiện thần dị của ngài phần nhiều đại loại như thế. Thần tăng Kim Cang Trí Ngài Kim Cang Trí vốn tên tiếng Phạm là Bạt-nhật-la Bồ-đề, người nước Ma-lại-da thuộc Nam Ấn Độ. Vừa mới vài tuổi, hằng ngày ngài đã đọc tụng đến vạn lời, mắt xem qua, tâm ghi nhớ trọn đời không quên, năm lên mười sáu tuổi, tỏ ngộ được lý Phật, ngài bèn xa bỏ thế tục mà xuất gia theo thầy đi khắp các nước. Niên hiệu Khai Nguyên (713– 7 4 2) đời tiền Đường, ngài đến Quảng phủ, sau xa giá đến Lạc dương. Từ tháng giêng đến tháng năm năm đó, trời hạn hán không mưa. Mọi người cầu đảo khắp các núi non sông rạch đều không ứng nghiệm gì, nhà vua mới ban chiếu thỉnh ngài kết đàn cầu mưa. Khi đó, ngài dùng móc câu Bất không, y pháp Bồ-tát lập đàn ngay chỗ ở, sâu bốn khủy tay, đích thân họa vẽ tôn tượng Bồ- tát Thất-câu-chi, lập kỳ hạn khai quang minh nhật định tùy mưa. Vua Huyền Tông bảo Thiền sư Nhất Hạnh cẩn trọng kính hầu. Đến ngày thứ bảy, hơi nóng bừng bừng trời không ván mờ, sau giờ Ngọ mới khai điểm mày mắt, gió từ phía Tây gió nổi dậy, thổi lật ngoái tấm, cây cối đổ ngã, mấy tụ phát mưa, xa gần đều kinh hãi. Ở tại chỗ đất mà Kết đàn xuyên thủng cả mái nhà, nước tuôn mạnh xuống đạo tràng. Chất Minh kinh sư nhất thứ đều nói là: “Ngài được một con Rồng xuyên thủng mái nhà mà bay đi.” Ngày ấy, mọi người đến xem rất đông. Lúc đầu công chúa thứ hai mươi lăm của vua Huyền Tông, rất được bổng lộc và sự mến thương của nhà vua, mắc bệnh từ lâu mà không cứu chữa được, bèn dời đến nằm ở ngoại quán Hàm nghi, nhắm mắt không nói đã trải qua mười ngày, vua có ban sắc thỉnh ngài trao truyền giới pháp cho công chúa, bởi nghó liệu công chúa ắt qua đời nên làm như vậy. Ngài đến đó chọn lấy hai bé gái độ bảy tuổi ở trong cung, dùng phấn tô vẽ mặt mày, bảo nằm giữa đất, sai Ngưu tiên đồng viết một bức sắc đem đốt ở chỗ khác, ngài dùng mật ngữ chú nguyện, hai đứa bé tự nhiên đọc được không sót một lời. Ngài nhập Tam-ma-địa, dùng lực bất tư nghì khiến hai đứa bé mang sắc đến Diêm-ma vương. Chỉ trong khoảng bữa ăn, vua Diêm-ma sai công chúa mất bảo mẫu họ Lưu hộ đưa hồn công chúa theo hai đứa bé đến. Khi đó, công chúa bật người ngồi dậy mở mắt, nói năng như thường. Vua Huyền Tông nghe vậy, chẳng đợi trương vệ, vội đi thẳng đến ngoại quán, công chúa tâu rằng: Minh số khó đổi, nay vua Diêm-ma sai hồi phục kính cẩn chiêm ngưỡng dung nhan Thánh thượng mà thôi, có thể chỉ đến nửa ngày, sau đó đi khỏi. Từ đó nhà vua càng thêm quy hướng kính ngưỡng về ngài. Võ Quý Phi rất mến quý Lục cang, đem cúng dân vật báu, ngài khuyên Quý phi hãy gấp tạo tượng Bồ-tát Kim Cang thọ mạng. Lại khuyên Hà Đông quận vương nên họa vẽ tượng ở trong tháp Tỳ-bà-giá- na. Ngài nói cùng môn nhân rằng: Thọ mạng hai người ấy không được lâu dài. Chỉ trong vài tháng, quả thật đúng như lời ngài nói. Đến ngày mười sáu tháng năm Nhâm Thân, tức năm Khai Nguyên thứ 20 (7 3 2) đời tiền Đường, đang ở chùa Quảng khước tại Lạc dương, ngài bảo môn nhân rằng: Đến lúc trăng sáng tỏ tròn đấy là ta sẽ đi. Ngài đến đảnh lễ Tôn Tượng Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, đi nhiễu quanh bảy vòng rồi trở về bổn viện, đốt hương đảnh lễ phát nguyện, trên đảnh đầu ngài đội kinh điển mà giáo pháp mới dịch, phó chúc xong, ngài lặng lẽ thị tịch. Thần tăng Giám Nguyên Thích Giám Nguyên, không biết ngài là người ở đâu, đức hạnh soi sáng rõ ràng. Sau, ngài giảng kinh Hoa Nghiêm, hiệu là Thắng Tập. Hằng ngày cúng dường cơm cháo cho cả ngàn vị, mà gạo thốc trong bịch đệm chỉ khoảng vài trăm hộc, song lấy không hết. Từ mùa Hạ sang mùa Thu, chưa từng báo hết, ngài có sự minh cảm như thế. Về sau lại có nhiều điều ứng nghiệm, có Thiền sư Tuệ Quán thấy hơn ba trăm vị Tăng nắm đèn hoa lướt giữa không trung mà đến, lần lượt như dòng sao chảy. Niên hiệu Khai Nguyên (713– 7 4 2) đời tiền Đường, Thôi Ký Công thăm dò nghi ngài yêu quặc, đích thân tự vào núi dừng ở qua đêm, dự cấm quanh bốn phía núi ngoài ba mươi dặm đều không có ánh lửa. Đến đêm thứ ba có hơn trăm ngàn ngọn đèn tỏa ánh áng sắc hồng cao hơn ngàn thước, Ký Công thốt nhiên đảnh lễ ngợi ca chưa từng có. Bấy giờ, giữa khoảng các cây tùng hiện ra hai cánh tay mà sắc vàng rồng dài độ bảy thước. Có hai vị Bồ-tát phóng sáng các sắc màu vàng trắng… sau đó, trên cây bách ở trước sân hiện lên một ngọn đèn sáng tỏ như ban ngày, chung quanh đều trang bày pha lê, phía dưới núi trong vòng ba dặm, các viên ngọc báu trọn độ một trượng lấp lánh thật đáng thích. Ở cửa núi Tây lãnh hiện trên cầu vồng lớn, trên cầu có các vị Phạm Tăng già có trẻ có, lại xuất hiện hai ngọn đuốc lớn soi sáng giữa không trung, phía dưới có bốn vị Bồ-tát hai đôi đối lập nhau phóng ánh sáng soi suốt tự thân cao đến bảy tám mươi thước. Lại thấy ở sau rừng tùng lớn, bỗng nhiên có biển nghạch chùa viết theo lối chữ triện hai chữ Tam Tuệ. Thêm nữa, phía dưới ngọn đèn rủ hai dãi vải lụa. Ở phía Đông lâm nửa đêm xuất hiện ra núi vàng, bấy giờ đang là tháng năm, vòng bạc màu nhăng đèn bên cạnh bảo tháp ngài Ngộ Đạt Quốc sư. Có Vó Nam Khương Cao mỗi ba tháng đến chùa thiết Đại trai hội cúng dường ba trăm vị Bồ-tát, ngài quả thật là Bồ-tát hiện tướng thân. Thần tăng Nghóa Phước Sa-môn Nghóa Phước, ngài người xứ Thượng đảng, phạm hạnh tinh tu, tướng đảo đoan nghiêm thanh khiết. Các hàng quan thần dân thứ đều rất quy ngưỡng. Ngài từng theo xa giá đến Đông đô, mọi người ở các quận huyện khi thấy ngài đi ngang qua đều nghiêng mình quy hướng, các nhà Đàn-việt thí chủ giàu có ngàn vạn đều giao phó mà đi. Bỗng một sáng sớm, ngài gọi học chúng lại bảo là sắp thị tịch. Các quan thần binh bộ thị lang Trương Quân, trung thư thị lang Nghiêm Đónh Chi, hình bộ thị lang Phòng Quan, lễ bộ thị lang Vó Thiệp theo lệ thường đến tham yết. Ngày đó ngài cũng cho biết, ngài thăng tòa vì tất cả môn đồ mà nói pháp, ta sắp tịch nên nay quyết định từ biệt! Trong giây lâu, Trương Quân nói với Phòng Quan rằng: Năm xưa, từ ngày ăn kim đơn đến nay chưa từng bất an. Nói xong Trương Quân bèn lẫn trốn đi. Ngài nói cùng Phòng Quan rằng: Ta cùng với Trương Quân đi có vài năm, ông ấy có các lỗi khác thường, danh tiết đều khuyết thiếu. Từ trước đến nay nếu trọn pháp hội, thì đủ để miễn nạn, tiếc thay! Rồi ngài bèn nắm tay Phòng Quan, bảo: Hẳn sẽ là Trung Hưng danh thần, ông nên cố gắng đó! Nói xong, ngài liền thị tịch. Lúc An Lộc Sơn tạo loạn, Trương Quân vùi lấp sân giặc trao thừa ngụy thụ, con Phòng Quan phò tá hai triều cuối cùng lập nên đại tiết. 1 3 6. Thần tăng Chân Biểu Ngài Chân Biểu vốn người xứ Bách tế, nhà ở Kim sơn, đời đời theo nghề săn bắn. Sau, ngài vào núi sâu dùng dao cắt tóc, cần khổ sám hối, đem thân mình đập xuống đất, chì cầu giới pháp, lập nghiệp mong cầu Bồ-tát Di-lặc trao cho mình giới pháp. Đêm ngày hạ thủ công phu, đi nhiễu quanh khấu đầu vào một chiếc cốc, tâm niệm tương tục, trải qua bảy đêm, đến sáng sớm thấy Bồ-tát Địa Tạng, tay cầm gậy vàng, vì ngài khuyên hóa giáo phát giới duyên tác thọ tiền phương tiện. Cảm ứng được điềm ứng ấy, ngài càng dũng mãnh hơn trước. Đến hết ngày thứ mười bốn, có một con quỷ lớn hiện tướng đáng sợ, xô đẩy ngài rơi xuống dưới núi, nhưng thân mình không thương tổn gì, ngài lăn lóc bò lên trên một đàn đá, lại thêm nhiều tướng ma hiện, thôi dứt trăm ngàn manh mối. Đến gần sáng ngày thứ hai mươi mốt, có tiếng chim Cát tường hát lời nói: Bồ-tát đến! Ngài bỗng thấy mây trắng dường như dần dần lẫn lộn, không còn có cao thấp, núi sông đều bằng đầy, toàn thành thế giới màu bạc. Thiên chủ cung trời Đâu-suất suốt quanh tự tại, nghi vệ sánh nhau vây cùng đàn đá, gió hương mưa hoa cùng lúc hòa reo. Bỗng chốc Đức Di-lặc Từ Thị từ từ bước đến chỗ đàn, đưa tay xoa đảnh đầu ngài, bảo rằng: Lành thay, Đại trượng phu! Cầu giới như thế. Đến lần thứ hai, đến lần thứ ba, sống mê khác rõ, tay đẩy mà khước từ. Song, tâm ngươi chọn chẳng thoái! Ngài Di-lặc vì đó mà trao truyền pháp, thân tâm ngài hòa duyệt như đang trú tại Đệ tam thiền, Ý thức và Lạc căn tương ưng. Bốn vạn hai ngàn dòng sông phước thường lưu chảy khắp tất cả các thứ công đức. Bỗng nhiên phát sáng Thiên nhãn, Đức Di-lặc Từ Thị đích thân trao cho ba pháp y và bình bát, lại ban tặng ngài tên gọi là “Chân Biểu.” Và dưới gối chân Đức Từ Thị lưu xuất ra hai vật, không phải mà cũng chẳng phải ngọc, dùng chế làm thể kiểm, một cái đề là “Bát giả” và một cái đề là “Cửu giả” mỗi cái chỉ có hai chữ. Đức Di-lặc trao cho ngài và bảo: Nếu người cầu giới, trước phải sám hối, tội phước thì trì phạm tánh. Lại thêm một trăm lẻ tám cái thẻ, trên thể ghi danh mục một trăm lẻ tám phiền não, Đức Như Lai rắn dạy mọi người là hoặc ba mươi ngày hay bốn mươi ngày hay hai mươi mốt ngày, hành trì sám hối, rất mực tinh tấn, đến lúc mãn hạn, đem hai cái thẻ kiểm trước ra tham hợp với một trăm lẻ tám thẻ, đối trước Phật nhìn giữa không trung mà ném thẻ đó rơi xuống đất, dùng để kiểm tướng nó diệt tội hay không diệt tội. Nếu một trăm lẻ tám thẻ đó bay vòng quanh bên gốc, chỉ có hai cái thẻ tám, chín (Bát–Cửu giả) sừng sững đứng giữa tim đàn, tức là đắc Thượng thượng phẩm giới. Nếu các thẻ tuy văng xa mà lại có vài thẻ xúc chạm cùng với hai thẻ tám chín, thì nên nhón lấy xem nó là tên phiền não gì, tức khiến người nên sám hối. Chính lúc đem các thẻ có tên phiền não sám hối lại ấy hợp cùng hai thẻ tám, chín để ném các thẻ phiền não, nó văng đi mất gọi là Trung phẩm giới. Nếu các thẻ phiền não đó vùi lấp hai thẻ tám, chín, thì tội chẳng diệt và chẳng đắc giới. Nếu lại thêm một lần thiết Đàn sám hối nữa trải qua chín chục ngày thì đắc Hạ phẩm giới. Đức Di-lặc Từ Thị lại răn dạy ngài rằng: Bát giả–tám tức là Tân Huân và Cửu giả–chín tức là bổn hữu. Chúc lụy xong, Đại trượng đã trở lui, núi sông mây tạnh. Từ đó, ngài mang y trời, ôm bình bát trời, giống như vị Tỳ-kheo năm hạ, vì đạo quên mình mà xuống núi hằng hóa. Cây rừng rủ che đường, rất khác lạ không riêng có khe hang cao thấp, chim bay thú ma- ïnh thuần phục đi trước. Lai nghe giữa không trung có tiếng xướng bảo mọi người trong thôn ấp tụ lạc lại rằng: Bồ-tát xuống núi, sao chẳng nghênh đón ngài? Mọi nười nam nữ trải tóc lấp bùn sình, cởi áo phủ đường, dùng các thứ dạ len lông đệm nối tiếp gót chân. Đệm đẹp nhiều hoa che lấp hầm hố, ngài cảm nhân tình cảm sâu đậm ấy nên từng bước đi qua để san sẻ những tấm lòng ấy. Có một người nữ bay nữa tấm bạch điệp trải ngay giữa đường, bỗng nhiên ngài có sắc thái rất kinh sợ, lánh bước mà đi. Người nữ lấy làm lạ cho rằng ngài không bình đẳng, ngài bảo: Tôi không có tâm từ chẳng bình đẳng đâu! Chỉ vừa thấy ngay tấm bạch điệp đều là lợn con, tôi ngại tổn thương chúng sinh nên tránh sự lầm phạm ấy. Bình sinh nhà người nữ đó làm nghề giết hại, buôn bán nên cô mới có tấm bố ấy. Từ đó về sau, thường có hai con hổ đi theo hai bên ngài, ngài nói với nó rằng: Tôi không vào thành quách, các ngươi có thể dẫn đường, đến nơi có thể tu hành thì mới hoảng bộ mà đi. Đi chừng ba mươi dặm, đến một sườn núi, hai con hổ quỳ dài hướng tới trước, khi đó, ngài treo bát lên cành cây, trải cỏ làm tòa an tọa. Các tín só khắp nơi tự đến cùng xây dựng một ngôi già-lam đặt hiệu là chùa Kim sơn. Thần tăng Minh Đạt Sa-môn Thích Minh Đạt, không biết ngài từ đâu đến, ngài trú tại ngôi chùa cổ Vạn hồi ở huyện Văn hương. Khách qua lại thường đến tham yết ngài để hỏi mọi sự tốt xấu, ngài không đáp, mọi người chỉ thấy được chỉ thú của ngài mà thôi. Có người đến tham yết, hỏi ngài rằng: Tôi muốn lên kinh đô để thăm người thân, không biết người thân của tôi hiện có bình an không? Ngài trao cho một cành trúc. Đến kinh đô, thì người thân của người đó đã qua đời. Lại có người đến hỏi ngài, ngài đem con ngựa nhà chùa trao cho bảo cỡi lấy nó rong ruổi khắp Nam bắc, xong rồi buộc nó lại. Người đó kinh đô trao cho Phán quan, cỡi ngựa đi khắp nơi. Lại có người đến tham yết ngài, ngài dùng cây gậy đang nắm trong tay vẽ xuống đất làm thành ụ gò cao rồi dùng gậy đánh xuống ụ đất ấy. Nhân đó, đất lõm thành hình cái cối. Người ấy không hiểu gì, đi đến kinh đô thì sau lưng nổi ung nhọt sưng đau, cắt bỏ nó đi máu chảy tới đất. Lý Lâm Phụ làm hoàng môn thị lang, Hồ Tùng từ phương Tây trở về đến tham yết ngài, ngài đeo thêm cái cân lên vai ông ta. Lâm Phụ về đến kinh đô thì làm tướng. Có Lý Ung Môn làm hồ thành lệnh, ngài bỗng nhiên xin lấy con ngựa nhỏ của ông ta, Ung Môn không cho, sau đó một ngày khi ông cỡi ngựa đi ra, ngựa còn ở trong sân, người đứng ở cửa chùa té xuống ngựa mà chết. Các thứ tương tợ như thế rất nhiều. Ngài thường đứng ở cửa chùa nhìn về hướng Bắc, nói rằng: Trong sông này binh mã sao lắm thế! Lại than dài rằng: –Trong đây xuất xứ toàn quân đội. Kịp đến lúc Ca Dã Hàn ưng binh ở ải chương chống cự nghịch Hồ, dưới ải Văn hương hết thảy đều là chiến trường. Thần tăng Pháp Tú Thích Pháp Tú, chưa rõ ngài là người xứ nào, ngài đến trú tại kinh đô, khi ngài đến Hàm hạo khuyên dẫn mọi người làm việc thiện, cho đến tuổi già, bận rộn ngài không có thời gian nghỉ ngơi. Cuối niên hiệu Khai Nguyên (…– 7 4 2) đời tiền Đường, vua Huyền Tông mộng thấy có người bảo rằng: Đem năm trăm khăn tay và năm trăm chiếc áo ca-sa đến chùa Hồi hướng để cúng thí. Đến lúc tỉnh giấc hỏi mọi người chung quanh, đều bảo không biết chùa Hồi hướng. Nhà Vua mới tìm đến dò hỏi các bậc Sa-môn đạo cao, ngài liền bảo: Tôi biết chỗ chùa Hồi hướng. Nhà vua hỏi ngài cần bao nhiêu người cùng đi. Ngài đáp: Chỉ cần được mang các vật đi và một cân danh hương là đủ. Nhà vua bèn trao cho ngài, ngài đi vào Trung nam, trải qua hai ngày, đến chỗ núi hiểm hóc sâu thẳm đều không thấy gì. Bỗng nhiên gặp một con lăn bằng đá, ngài kinh ngạc bảo: Ở đây không có người đến thì làm gì có vật này. Khi ấy ngài lên đó, đốt hương đang mang theo, lễ bái chúc tụng ai cầu khẩn thiết từ buổi trưa giờ Ngọ cho đến tối. Giây lát từ trong hang sương mù tỏa ra xa xa không được rõ, gần lại thì dần tan. Ở giữa lưng chừng núi có cột trụ màu đỏ vách tường phấn bóng lộ như họa, chỉ trong khoảnh khắc dường như rõ hẳn. Thấy một ngôi chùa như tại giữa mây, ba cửa ngạch lớn. Đến xem kỹ thì chính là chùa Hồi hướng. Ngài rất mừng, liền đến đó. Bấy giờ đã là hoàng hôn, nghe tiếng chuông và tiếng lễ Phật. Có người đứng ở cửa hỏi ngài từ đâu đến, liền dẫn vào, thấy một vị Lão tăng bảo rằng: Đại vương ở thời Đại Đường vạn phước, ban bảo người đi theo qua các phòng ban rải khăn tay…, chỉ thừa lại một phần. Có một phòng chỉ có giường trống chẳng có người, có một bộ y phục tòa chiếu, tợ như để chỗ cho người đến, liền đi qua thấy vị Lão tăng. Vị Tăng bảo: Qua canh sẽ lại. Ngài muốn trở lại để trao khăn tay nhưng lại là một phòng rỗng không, giường và người đều không có, ngài bèn đi lui nói cùng vị Lão tăng. Lão Tăng cười bảo: Ngài ngồi. Rồi xoay lại bảo thị giả rằng: Đi đến phòng kia lấy chỉ bát lại. Vị thị giả đem đến là chỉ bát bằng ngọc, Lão tăng bảo ngài: Ông có thấy vị Phạm tăng kia chăng? Ngài đáp: Có thấy. Lão tăng bảo: Vị đó thay chủ của ông. Trong nước nhà sắp có biến loạn, người chết vô số, đó gọi là vua Ma diệt. Ngôi thất kia là phòng của chủ ông vậy. Chủ của ông ở tại chùa vì ưa thích thổi chỉ bát, nên biến khí ở nhân gian. Ở đây thường làm như thế. Nay hạn cũng đã mãn, nên phải khước về. Sáng ngày mai dẫn đến trai đường thọ thực, xong rồi bảo: Ông nên trở về và có thể đem chỉ bát này trả lại cho chủ của ông và áo ca-sa khăn tay, bảo tự giữ lấy! Ngài vái lạy rồi trở lui, có một Đồng tử đưa tiễn ngài đi ra chỉ mới vài bước lại thấy mây sương khắp bốn phía. Đến lúc tan hết thì không còn thấy chùa nữa. Ngài mang khăn tay, áo ca-sa, chỉ bát… về kính dâng lại vua Huyền Tông và đem tất cả những gì thấy biết thuật lại từ đầu đến cuối. Vua Huyền Tông rất cảm kích vui mừng, nắm lấy chỉ bát mà thổi, y nhiên như chỗ trước kia chấn ngụ vậy. Sau hơn mười năm có họa của Lộc Sơn, chỗ thấy vị Phạm Tăng tức là Lộc Sơn, ngài cảm chỗ gặp nên càng tinh tấn gấp bội thiết tha. Không biết cuối cùng ngài thế nào. Thần tăng Lãn Tàn Sa-môn Lãn Tàn, khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (7 4 2) đời tiền Đường, ngài đến chùa Hành nhạc chấp lao phục dịch chư Tăng. Mỗi lúc chúng Tăng thọ thực xong, ngài lượm nhặt lấy các thức ăn thừa mà ăn. Bởi tánh lười biếng nên hay ăn vật dư thừa nên gọi là Lãn Tàn. Ban ngày ngài chuyên lo công việc trong mật thất, tối lại nắm ngũ với đàn trâu, thường không tỏ vẻ mệt mõi, như vậy suốt hai năm. Bấy giờ có Nghiệp Hầu Lý Sa ở trong chùa đọc sách, đến xem ngài quả thật là phi phàm, nghe ngài trong đêm xướng tụng lời kinh âm vang thấu suốt núi rừng, Lý Sa có biết được âm thanh rõ ngộ được mừng buồn cho rằng: Tiếng ngài tụng kinh trước buồn thảm mà sau thì vui vẻ, hẳn là người biến khí rơi đọa, thời sắp đi. Nên trong đêm Lý Sa Lẫn đến tham yết, trông vào cửa chiếu thông danh mà lạy. Ngài tức giận mắng lớn, ngửa lên mặt giữa trời mắng rằng: Đó là sắp hại ta. Lý Sa càng thêm cẩn tụng cung kính, chỉ lạy mà thôi, ngài khêu lấy phẩn trâu trong lửa ra, ăn khoai hồi lâu mới bảo: Có thể lấy chiếu mà trải đất. Và đem nửa phần khoai ăn còn thừa trao cho Lý Sa. Lý Sa nhận lấy ăn hết rồi từ tạ. Ngài nói cùng Lý Sa rằng: Cẩn thận chớ lắm lời, hẳng nhận lãnh mười năm làm tể tướng! Lý Sa bái lạy mà lui về. Ở đó một tháng thì Tứ Sử Thái Nhạc sửa chữa đường rất nghiêm chỉnh, bỗng trong một đêm gió thổi, sấm nổ chấn động làm sụp đổ một ngọn núi, bởi thế nên bậc thềm đường lên núi bị tảng đá lớn làm cản trở liền dùng mười con trâu lấy dây buộc lại để kéo đi, lại dùng vài trăm người cổ vũ mạnh mẽ để đẩy đi, sức lực của vật đã cạn kiệt mà tản đá càng kiên cố, không còn con đường nào khác để tiếp tục công việc tu sửa đường đi. Ngài bảo rằng: Chẳng cần nhờ vã đến sức người để ta thử trừ nó đi. Mọi người đều cười lớn, cho ngài là người điên cuồng. Ngài bảo: Đâu đã thấy mà cười, thử đã mới có thể biết! Chư Tăng trong chùa cười mà chấp thuận để ngài làm, ngài bèn đạp đá lay động rồi bỗng nhiên chuyển quanh mà lăn xuống, tiếng va chạm như sấm chấn động. Đường núi đã mở thông, chư Tăng trong chùa đều chí thiết bái lạy ngài, khắp cả một quận đều tôn xưng ngài là bậc Chí thánh, Thới Sử kính phụng ngài như thần. Ngài lặng yên mà ý muốn ra đi, phía ngoài chùa tự nhiên hổ báo tụ họp thành bầy, hằng ngày có sự sát hại thương tổn không gì có thể cấm ngăn, ngài bảo: Đưa cho ta cái giỏ, ta sẽ vì các ngươi mà đuổi bỏ nó đi. Mọi người đều nói: Đá lớn còn có thể đẩy ngăn, hổ báo sẽ dễ chế ngự. Bèn trao cho ngài cây gai thẳng và đều men theo và quán xét, vừa mới ra cửa, thấy một con hổ ngậm lấy mà đi, ngài đi thì dấu vết của hổ báo cũng mất theo. Về sau quả thật Lý Sa làm tướng đến mười năm. Thần tăng Người Xứ Tây Vức Sa-môn người nước Tây Vực không nhớ rõ tên và chưa rõ ngài là người xứ nào ở Ấn Độ, diện mạo của ngài rất xấu xí, sắc da như người xứ Càn Đà, mặc y phục man điều, chân đi giầy da, kéo lê tích trượng bằng sắc. Ngài đến hoằng hóa ở kinh điển, đương lúc Vó Cao chào đời, vừa mới ba ngày mà trong gia đình có thỉnh mời chư Tăng thiết trai cúng dường, ngài là vị Tăng không mời mà tự đến, trong nhà họ Vó, từ thằng nhỏ cho đến người lớn thảy đều tức giận, đem chiếc chiếu rách trải giữa sân cho ngài. Sau khi thọ trai xong, nhà họ Vó bảo bà vú nuôi bồng ẩm đứa bé tức Vó Cao ra, thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cầu cho nó được thọ. Bỗng nhiên ngài bước lên thềm cấp, nói với đứa bé rằng: –Xa cách từ lâu không thấy tăm dạng! Đứa bé dường như rất vui mừng, mọi người đều lấy làm lạ. Có một người lớn t rong nhà họ Vó bảo: - Đứa bé này vừa mới sinh ba ngày, cớ sao ngài bảo là xa cách từ lâu? Ngài bảo: Việc ấy không phải là chỗ biết của thí chủ đâu. Mọi người trong nhà họ Vó cố nài nỉ hỏi, ngài mới nói rằng: Đứa trẻ này là hậu thân của Gia cát Võ Hầu. Võ Hầu ở cuối đời Đông Hán làm thừa tướng đất Thục. Người dân đất Thục thọ nhận sự ban tặng của Võ Hầu rất lâu. Nay sinh ra ở đời hẳn sẽ làm thục môn Soái và thọ nhận phước của người xứ Thục, ta năm xưa ở tại Kiếm môn cùng với đứa bé này là bạn thân thiện. Nay nghe ra đời ở nhà họ Vó, nên chẳng vì xa xôi mà lại đến thăm. Người nhà họ Vó lấy làm lạ lời nói đó, nhân đó, lấy chữ Võ Hầu mà đặt tên tự cho đứa bé. Sau này, Vó Cao tuy từ thiếu thời đã là Kim Ngô thống lãnh Kiến nam quân nhiều năm rồi dời đổi làm thái úy kiêm trung thư lệnh, ở tại Thục môn mười tám năm. Quả thật khế hợp như lời của ngài nói. Thần tăng Bổn Tịnh Thích Bổn Tịnh, chưa rõ ngài là người ở đâu. Đạo khí cao kháng, nghe nói tại Mân lãnh có nhiều vị tri thức thiền Tông nên tìm đến tham yết. Lại nghe ở núi Hoắc đồng, Trường khê có nhiều động phủ Thần tiên, nhưng trong núi không dung chứa người phàm tục, ngài mới vào núi kết cỏ tranh làm thất, bên cạnh thất có hang đá của rồng độc. Con rồng ấy thường giả dạng mà ra, biến hiện chẳng thường, ngài bèn gọi nó lại nuôi dạy cho thuần. Lại có các con hổ mạnh dữ, ngang dọc giữa đường làm hại, các người lượm củi chẳng dám vào sâu, ngài đưa tay vỗ lên đầu hổ răn dạy đinh minh, hổ liền chuôi tai mà đi. Có lần, giữa đêm thanh vắng, có chín người đều đội mũ quấn khăn vén tóc, áo quần xếp lớp đến xin nương ngủ qua đêm. Ngài đều chấp thuận vào ở trong am thất. Đến sáng mai, cáo từ, đều hóa thành chim Hạc kêu hót giữa không trung mà đi. Không biết cuộc đời của ngài cuối cùng như thế nào. Thần tăng Hoài Ngọc Thích Hoài Ngọc, ngài dòng họ Cao, người xứ Đơn khưu, ngài giữ gìn luật pháp, danh tiết cao vời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngồi hoài nên chấy rận tự ý sản sinh, ngài chỉ mặc một áo vải, hành trì pháp sám hối. Thời khóa ước định mỗi ngày xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà mỗi ngày năm vạn biến, tụng kinh Di-đà suốt ba mươi vạn quyển. Này hôm sau bỗng nhiên thấy Thánh tượng Tây phương nhiều đến vô số. Có người cầm đài bạc màu trắng từ cửa sổ mà vào. Ngài bảo: Tôi đáng được đài vàng. Đài bạc liền lui ra. Ngài càng chí thành gấp bội. Sau, tự nhiên giữa không trung có tiếng báo rằng: Trên đầu đã có ánh sáng soi chiếu, thỉnh ngài kiết già kết ấn Phật A-di-đà. Khi đó, ánh sáng soi chiếu khắp thất. Ngài đưa tay hạn chế người thoái lui, bảo rằng: Chớ nên xúc phạm đến ánh sáng ấy. Vài ngày sau, lại có sánh sáng bạch hào hiện, Thánh chúng đông đầy giữa không gian, ngài bảo: Nếu nghe được mùi hương khác lạ tức là hiện báo của tôi sắp hết. Bỗng chốc có hơi thơm đầy giữa không trung và khắp cùng Thánh chúng. Thấy Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí thân sắc màu vàng cùng ngự trên đài Kim Cang đến nghênh đón. Ngài mỉm cười an nhiên thị tịch. Thần Tằng Vô Tướng Thích Vô Tướng, ngài là người con thứ ba của vua nước Tân La, vua Huyền Tông vời thỉnh ngài ở chùa Thiền định, hiệu là Vô tướng, ngài vào trong khe sâu dưới hang núi tọa thiền. Có hai con trâu màu đen húc nhau phía dưới tòa, gần sát thân rất nguy cấp, lông tay rơi rụng trong tay áo, nó lạnh như băng sờ mó đến trong bụng, ngài vẫn bình thảng không giao động. Mỗi lần nhâp định, phần nhiều là năm ngày một lượt, bỗng từ trong tuyết sâu có hai con thú dữ lại, ngài tự tẩy rửa lau chùi chỗ mình nằm trước nó, phát nguyện đem thân thí cho nó ăn, hai con thú ngửi quanh một vòng từ đầu đến chân rồi bỏ đi. Thường thường trong đêm ở dưới giường ngồi có lượm nhặt được râu lông của hổ. Thế rồi, ngài sống trong núi rừng khá lâu, nên áo rách nát, tóc dài ra, các người thợ săn nghi là thú lạ, muốn dương cung bắn, rồi lại dừng thôi. Ngài lại dựng lập tinh xá ở chỗ mồ loạn, thành đô. Huyện lệnh Dương nghi ngài huyễn hoặc mới tìm đến, bảo hơn hai mươi lính bắt dắt ngài về, bọn lính đi gần tới ngài thì thân đều run sợ tâm thần bấn loạn, bỗng chốc gió lớn nổi dậy, cát đá tung bay thẳng vào quan sảnh, thổi rèm quấn màn. Dương Dực khấu đầu bái phục, gằn thở không dám nói. Sám lễ xong, gió liền ngừng hẳn, bèn cung kính đưa ngài trở về chỗ cũ. Cùng đến thành đô, bỗng có một lực só nói là bỏ sức chặt củi cúng dường nhà trù chư Tăng sử dụng. Bấy giờ, em của ngài là vị Tân Vương ở Tân La, sợ người ấy trở về nước mình hẳn khốn nguy ách nạn, nên sai thích khách đến giết trừ đi. Ngài đã thầm biết điều đó, bèn bảo rằng: Này thiền giả tạm ở lại đây, ta nói là tối nay có khách nói là đất nướng! Ngài lại bảo: Chớ làm tổn thương đến Phật tử! Đến tối, kẻ thích khách cầm dao cặp chiếu đến bên cạnh tòa tọa thiền, vừa mon men đến gần, liền cảm thấy tợ như từ trên tường vách có vật rơi xuống, bèn nhảy dậy vung dao, cự hồ thân đều văng rơi giữa đất, cảm thấy sau cửa có một cái hầm lớn muốn bị kéo đến đó chôn lấp đi, dùng đất bôi xóa các dấu vết rồi bỏ đi. Đến sáng mai, ngài gọi người chặt củi đến mà cảm tạ thì lại không thấy. Ngài chỉ ngôi tháp ở trước cây bách và nói rằng: Cây bách và tháp ấy đồng thời với nhau, nhưng ngôi tháp ấy sẽ bị hủy diệt. Đến trong những năm thuộc niên hiệu Hội Xương (841– 8 4 7) đời tiền Đường, phá hủy chánh đường lúc với ngôi Tháp ấy. Ngài lại nói: Trước chùa có hai cái hồ nhỏ, hồ bên trái là canh, hồ bên phải là cơm. Những lúc ít có trai hội thì khơi đào nó lên, quả nhiên có người đến thiết trai cúng dường. Các sự thần diệu của ngài hầu như đều như vậy. Đến năm Trí Đức thứ nhất (7 5 6)thời Tiền Đường, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi. Thần tăng Tung Nhạc Hòa thượng Tung Nhạc đập phá Táo thần ẩn cư, ngài ở ẩn tại núi Tung, trong núi có ngôi miếu rất linh, chỉ an trí một tượng Thần Táo, cúng tế không ngày nào ngơi nghỉ, ngài đến miếu ấy, dùng gậy đập tượng Thần táo, bảo: Đồ đất ngói hợp thành, Thánh từ đâu lại. Linh từ đâu khởi? Lại dộng xuống ba cái, tượng Thần Táo nghiêng ngã rơi rớt. Bỗng chốc có ngưới mặc áo xanh thiết lễ kính bái trước ngài thưa rằng: Con vốn là Thần táo đây, từ lâu nhận chịu nghiệp báo, may nhờ ngài nói pháp vô sinh mà thoát được kiếp này. Vì vậy, nay con đến lễ tạ. Nói rồi bèn lễ bái mà đi. Giây lát sau đồ chúng hỏi ngài: Thần táo được ý chỉ kinh gì mà bèn được sinh lên cõi trời? Ngài bảo: –Ta chỉ hướng Thần táo mà nói là chỉ có bùn đất nói gạch hợp thành, riêng không đạo lý gì khác. Mọi người im lặng không nói. Giây lâu ngài bảo: Hiểu chăng? Chúng nói: Không hiểu! Ngài bảo: Tánh bổn hữu là gì mà không hiểu? Chúng Tăng bèn cùng nhau lễ bái. Ngài bảo: Phá ấy, đọa vậy! Khi ấy, cả đại chúng tỏ ngộ được huyền chỉ. Thần tăng Nghi Quang Thiền sư Nghi Quang, ngài trú tại chùa Thanh long. Hạnh nghiệp rất cao. Nhà triều só có tang người vợ nên thỉnh ngài đến nhà thiết trai cúng dường tu phước. Ngài đến nhà đó ở lại vài ngày, dừng nghỉ ở trước phòng nhà, trong nhà thiết bày lễ cúng dường. Có tục lệ, mỗi lúc trong nhà có người qua đời, thì đến thầy bói hộ đồng. Thầy đồng bảo: Người ấy chết phạm phải ngày sát, ắt gây tai họa, những người trong nhà tốt nhất phải tránh ra ngoài. Đêm đó cả nhà triều só đều ra ngoài phía Bắc cửa, lẫn trốn đi không báo với ngài. Ngài chỉ ở trước phòng nhà dưới ánh đèn sáng tụng đọc kinh văn, đệ tử ngài cả thảy có mười một người theo hầu. Đến gần nửa đêm, nghe trong nhà có tiếng người dậy lấy y phục mở cửa, có một người phụ nữ bước ra, đi đến nhà trù thổi lửa nấu nước làm thức ăn, ngài chỉ cho là người trong nhà không biết ấy là điều lạ. Đến lúc gần sáng, Người phụ nữ ấy bưng mâm thứa ăn đến trước ngài, còn mang áo mật để chân trần, bái lạy thưa: Nhọc phiền ngài giáng lâm, nay người trong nhà đều ra ngoài hết, sợ cúng dường cháo không đúng thời, nên đệ tử cố dậy để sắm sửa. Ngài biết đó là người chết, liền nhận sự biếu cúng ấy mà cầu chúc, chúc chưa xong, nghe có tiếng mở cửa phòng nhà ở phía Bắc, người phụ nữ vội nói: Các con của con đến vậy! Nhân đó vội chạy vào trong nhà, thì ngài nghe có tiếng khóc. Khóc xong, người nhà ra tham yết, hỏi ngài có an không, thấy cháo trong mâm, bèn hỏi ngài rằng: Chúng con trong đêm qua thật là trốn lánh ương họa, vậy ai sắm sửa cháo này vậy? Ngài chỉ cười không đáp. Đứa tớ trong nhà kinh sợ bảo: Người chết đêm qua nằm ngang, tay còn dính bùn, chân vấy bùn dơ, ấy là cổ sao? Ngài mới chỉ cháo ấy là do người chết nấu vậy. Cả nhà thảy đều thất kinh. Thần tăng Tuệ Nhân Ngài Tuệ Nhân thông suốt Tam luận và các bộ kinh Pháp Hoa, Kim Cang, ngài thường về giảng nói. Niên hiệu Trí Đức (756– 7 5 8) đời tiền Đường, vào một chiều hoàng hôn, có người vào cửa phòng ngài nói: Đại Vương kính thỉnh Pháp sư! Nhân đó ngài liền ngã lăn ra chết, chỉ ở tim và trên đỉnh đầu còn nóng ấm, bảy ngày sau sống lại, ngài kể: Theo kẻ sứ đi đến một thành, thành ấy rất rộng lớn tráng lệ, vào thấy nhà vua có vài trăm người tùy tùng, từ dưới Điện ra ngoài cửa các, bái lại thưa rằng: “Đệ tử bất hạnh, làm chư danh lục ở đời kiêm việc tụ tội, thường kham khổ, nghe nói ở trên cõi người, ngài thường giảng kinh Kim Cang, mong ngài vì chúng con mà thuyết diễn!”. Khi ấy ngài thăng tòa, giảng kinh xong, nhà vua cúng dường ngài ba trăm xấp lụa, bèn bảo kẻ sứ đưa về. Kế đến thấy có một giảng đường, trong đó có hơn trăm vị Tăng, lúc đầu thì cùng nhau đàm luận, rất giữ lễ pháp, chỉ khoảng khắc thì lại tranh cãi, khi ấy trên tay của mỗi vị móng tay bằng sắt mọc dài ra họ cấu cào lẫn nhau, máu thịt đổ rơi giữa đất. Có lính lớn đầu trâu dùng lửa thiêu đốt các vị Tăng đều cháy thành tro bụi. Phút chốc thì hoàn phục thân hình như cũ.” Nhân đó mà kinh sợ khước từ sống lai, tự nhiên tuôn đạp mà dậy, số lụa đã có ở hòm, kiểm lại đúng như số nói trước. Ngài bèn lấy đó bố thí tu tạo phước đức. Từ đó, ngài trọn không còn giảng nói, chỉ thường trì kinh mà thôi. Thần tăng Phổ Mãn Sa-môn Phỗ Mãn, ngài thường tùy hỷ, chẳng câu nệ Tăng tướng, hoặc ca hát, hoặc cười nói, chẳng hiểu ý chỉ ngài thế nào. Nhưng lời nói việc làm cua ngài thường có ứng nghiệm, nên người thời bấy giờ tiếp đãi ngài như ngài Vạn Hồi. Sau, tại trong một ngôi nhà thờ Phật, ngài đề thơ được vài thiên rồi tịch. Trong đó, ngài ghi rằng: Nước này liền nước kinh Hai châu huyết đầy sông Trâu xanh đến hổ đỏ Gọi niên hiệu Thái bình. Thơ ngài để, người sau chẳng hiểu gì cả. Kịp đến lúc giặc Thử dấy binh, mọi người mới tỏ rõ. Nước Thử là chỉ cho chữ cho chữ Thử. Nước Kinh, tức binh giặc dấy kởi từ Châu kinh. Hai Châu tức là chỉ cho “Thử” và “Thao”. Trâu xanh tức chỉ năm Hưng Nguyên thứ hai là năm Ất Sửu (7 8 5) Ất thuộc Mộc, Sửu tức là trâu. Năm sau, đổi niên hiệu là Trinh Nguyên, tức năm Bính Dần (7 8 6) Bính thuộc Hỏa, Dần tức là Hổ. Đến đó thì giặc đã lắng yên bình trị, nên nói là Trâu xanh đến Hổ đỏ, lại gọi năm thái bình. <篇> <卷>QUYỂN 8 Thần tăng Địa Tạng Thích Địa Tang, ngài dòng họ Kim, thuộc giòng dõi của Quốc vương nước Tân La. Tâm ngài hiền từ mà dáng mạo xấu ác, ngài thông minh dónh đạt. Đến lúc ngài xuống tóc xuất gia, bèn vượt biển du hành, chấn tích tham phương. Đến Trì dương thấy núi Cửu tử, lòng ngài rất vui thích ở đó, bèn trèo lên trên đỉnh mà dừng ở, ngài từng bị nọc độc của rắn rít, nhưng vẫn an nhiên đoan tọa không khởi niệm gì. Bỗng chốc có người phụ nữ đẹp đến lễ bái kính dâng thức ăn và thuốc chữa trị, thưa rằng: Con vì thơ dại không biết nay xin nguyện lưu xuất dòng suối để bù đấp lại lỗi lầm ấy. Nói xong bèn không thấy nữa. Nhìn xem chung quanh tòa thì nước tuôn chảy tràn trề. Người thời bấy giờ gọi đó là Thần Núi Cửu Tử vì ngài mà khơi tuôn dòng suối để giúp ích cho mọi người. Trong năm Chí Đức thứ nhất (7 5 6) đời tiền Đường có Gia Cát Tiết dẫn thân phụ từ chân núi lên cao đến chỗ cùng tột không có người, chỉ một mình ngài an nhiên nhắm mắt ngồi trong thạch thất. Trong Thất đó có chiếc đãnh gảy chân, trong đãnh có đất màu trắng hòa cùng một ít gạo rang mà ăn. Các lão già đều kinh hãi tán thán rằng: Hòa thượng khổ hạnh như thế. Bọn chúng ta có lỗi phơi bày dưới núi. Bèn cùng nhau tạo dựng một thiền viện, không bao lâu đã thành một đại Già-lam. Trong nước nghe thế bèn cùng nhau vượt biển tìm đến. Đồ chúng rất đông, không lấy gì để chu cấp quanh năm. Ngài bèn phá đá, được đất sắc màu trắng sạch, không có sạn, chỉ như bột gạo, mà cung cấp cho chúng ăn. Đại chúng thỉnh ngài giảng pháp đề trấn tỉnh tinh thần, chứ không vì cầu ăn để nuôi mạng sống. Nam phương gọi đó là chúng khô cảo, mọi người đều tín ngưỡng tôn sùng. Ở bên cạnh Long đàm có hòn núi Mai bạch thiện, lấy nó không hết. Một ngày nọ, bỗng nhiên ngài gọi chúng vào để cáo biệt. Chẳng biết vụt qua, chỉ nghe đá rơi hang núi gõ vào chuông vèo vèo, ngài ngồi kiết già mà thị tịch, hưởng thọ chín mươi chín tuổi. An trí nhục thể ngài trong cái hòm, ba năm sau mở ra thỉnh đi nhập tháp, dáng mạo nhan sắc vẫn như lúc sinh tiền, lúc nâng lên cốt tiết như dính liền với vàng xiềng xích. Thần tăng Giám Châu Sa-môn Giám Chân, ngài dòng họ Thuần Vu, người huyện Giang dương, Quảng lang. Thuở nhỏ, ngài theo thân phụ đến chùa Đại vân, thấy tôn tượng Phật mà cảm động tâm niệm xa xưa, nhân đó, ngài xin phép thân phụ được xuất gia. Thân phụ ngài lấy làm lạ với ý chí ấy, liền hứa thuận. Sau, ngài đứng đầu làm Tông chủ ở một phương. Bấy giờ, có các vị Sa-môn Vinh Duệ, Khổ Chiếu… ở nước Nhật Bản, từ phương Đông đến thỉnh bởi kính mộ chánh pháp, ngài hưa sẽ sang, bèn mua thuyền, từ Quảng lăng, mang chở kinh Luật Pháp lìa bờ đến Việt châu dừng bến nghỉ lại Phong sơn. Đến tối, ngài mộng thấy rất khác thường, vừa mới ra bể cả, gặp phải sóng gió dữ dội, người trên thuyền nghoảnh nhìn lại thấy sự ngập chìm, có người ném bỏ cây gỗ Tiên hương, bỗng nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng: Chớ nên vất bỏ. Khi ấy thấy đầu đuôi nối liền nhau mỗi thứ có thần đem áo giáp lớn tháo trượng, bỗng chốc gió ngừng, thuyền trôi vào biển rắn. Loài rắn ở đó dài hơn ba trượng sắc màu gấm hoa. Sau, lại trôi vào biển cá, cá ở đó thân dài hơn cả thước, bay nhảy đầy giữa không trung. Kế nữa, đến một bể cả, toàn là chim bay nhóm tụ đậu trên lưng thuyền đè nặng dường như muốn chìm. Khi xa khỏi biển chim thì thiếu nước, trong chốc lát ghé vào một đảo nhỏ, ở đó có hồ nước sâu lắng trong, mọi người uống cảm thấy mát ngọt. Rồi cùng nhau tới được nước Nhật Bản. Nhà vua nước đó vui mừng nghênh đón ngài vào thành, thỉnh ngài an nghỉ trong một ngôi chùa lớn, tôn xưng là đại Hòa thượng. Đến năm Quảng Đức thứ nhất (7 6 3) dưới thời vua Đại Tông, nhà Đường, không bệnh tật gì, tự nhiên ngài từ biệt chúng mà an tọa thị tịch, thân chẳng nghiêng ngửa mục rả, đến nay nhục thân ấy chẳng dùng chất hóa học để sơn phết. Bấy giờ, nhà vua và các nhà giàu sang các hàng tín só ở nước Nhật Bản dùng các thứ hương báu thoa phết vào nhục thân ngài. Thần tăng Vô Lậu Thích Vô Lậu, ngài dòng họ Kim, là con thứ của Quốc vương nước Tân La. Thuở thiếu thời, ngài đi thuyền biển tới Trung Hoa, ngài lại muốn đến thăm xứ Ấn Độ, lễ bái tám vượt ngôi tháp thờ Đức Phật. Băng qua bãi sa mạc, vượt đến phía Tây nước Vu Điền, tới Thông lãnh vào trong một đại Già-lam. Các vị Tỳ-kheo ở đó không sao biết ngài là một vị Tăng, nên hỏi ngài về ý muốn vượt xa, sao chưa có kỳ tiết mà đến Thiên Trúc, có một vị Tăng bảo ngài: Trước chưa biết danh nên chưa thể đi liền, ở đây có hồ có rồng độc, nên đến giáo hóa, như có linh nghiệm, mới có thể đi được. Ngài theo lời yêu cầu ấy, bèn lên bờ hồ. Ở đó chỉ thấy một chiếc giường của người Hồ, ngài bèn ngồi lên đó. Đến đêm, bỗng nhiên sấm sét đùng đùng, quái vật nhả khí, bồng bột các thứ biến hiện huyền diệu không thường, ngài mở mắt không giao động, giây lâu, có một con rắn lớn cất đầu tới gối chân ngài. Ngài thương xót, trao cho nó thọ pháp Tam quy rồi nó bỏ đi. Sau, lại hiện hình một người già đến bái tạ, thưa rằng: May nhờ ngài độ thoát, kiếp này không con sống lâu, ba ngày sau con sẽ xả bỏ loài vi vảy, nương đây được sinh về cõi tốt lành. Từ đây xoay về hướng Nam, có một tảng đá, đó là nơi đệ tử xả bỏ thân hình. Cũng mong ngài có thể dự tầm di cốt. Ngài im lặng chấp thuận. Lại nói rằng: Hẳn phải nguyện đến Thiên Trúc ở đây có Thánh tướng Bồ-tát Quán Thế Âm, cầu nguyện hẳn thành tựu không hư đối. Nên ngài có thể khấn cầu đó, có được điềm tốt lành thì ngài có thể đi, chớ nên nghi ngại! Ngài bèn đứng trước Thánh tượng nhập đại Thiền định, như vậy trải qua bốn mươi chín ngày, thân mắc bệnh phù thủng, chung quanh có đàn chuột còn rút rỉa, cẳng chân trái nhiễu nước sắc vàng, mủ chảy tràn ra nhiều chén mới lành. Mãn hạn ngài có được ứng điềm. Chư Tăng nói với ngài rằng: Xét thấy sư Vô Lậu hợp duyên ở đất Đại Đường, định tâm hóa vật nhiều lợi ích, mỏi chân du phương chẳng để tâm, không thể cưỡng hóa. Sư có biết vậy chăng? Trong tâm ý ngài cho đó là lời nói của Thánh hiền hẳn không phải nói rỗng, nên bèn khước từ. Lúc sắp lên đường, chư Tăng lại nói với ngài rằng: Gặp Lan tức dừng ở. Trên đường trở về có ngọn núi tên Lan, nhớ lại lời nói trước, ngài bèn vào đó, có hang Bạch thảo, ngài liền kết cỏ tranh làm am mà nương náu, không sao an ổn vì sứ binh loạn. Vua Túc Tông (758– 7 6 3), đời tiền Đường huấn binh Linh Vu, thường mộng thấy có người sắc da vàng ròng xưng danh hiệu Đức Phật Bảo Thắng ở trước cổ xe, sang ngày đem việc trong mộng hỏi các cận thần. Có người trả lời rằng: Có vị Sa-môn hành tích khác thường cư trú ở trong núi này, thường trì tụng danh hiệu Phật. Túc Tông bèn dời đến và đích thân trông thấy, nói rằng: Thật là người đã thấy trong mộng! Đến lúc thỉnh ngài về an trú tại chùa trong nội để cúng dường, qua nhiều lần dâng biểu chương xin trở về chỗ ẩn cũ. Song tâm ý nhà vua rất quý trọng ngài, nên ba cho ngài được toại ngyện trở về núi, bỗng nhiên ngài bảo là sắp viên tịch, một ngày nọ, bỗng ở trong cửa phía phải đóng lại, ở trên hóa thành hai chân, thân hình cách đất cả vài thước. Tên lính canh cửa thấy vậy báo trình vua Túc Tông nương kiệu bộ đích thân đến chỗ đó, thấy có di biểu của ngài xin được trở về an táng dưới chân núi mà ngài ẩn cư trước kia. Vua Túc Tông liền chấp thuận ý theo, bèn sai Trung sứ giám hộ dẫn đường tiễn đưa. Trước kia, ngài hoằng hóa phần nhiều là ở huyện Hoài viễn, nhân đó thiết lập một dinh sở gọi là hạ viện dưa tang đến đó, thần tòa không thể nâng cử liền, mọi người bàn luận dời vào lập ngôi nhà riêng để an trí. Đến nay, chân thể của ngài vẫn đoan niên không biến hoại. Thần tăng Bất Không Thích Bất Không, ngài vốn tên tiếng Phạm là A-mục-khư-bạt- chiếc-la, Hán dịch là Bất Không Kim Cang và chỉ xưng gọi đơn giản là Bất Không. Ngài vốn giòng dõi Bà-la-môn ở Bắc Ấn Độ, từ thuở bé thơ đã xa cách trời Ấn, theo người chú ruột Quán quan ở nước phương Đông, năm lên mười lăm tuổi, ngài phụng thờ ngài Kim Cang Tam tạng. Ban đầu, ngài Kim Cang dùng các bộ Tất-đàm chương và thanh Minh Luận bằng bản Phạm chỉ dạy cho ngài, chỉ trong vòng mười hai ngày, ngài đều thông suốt. Sau, ngài cùng các đệ tử Xá Quang, Tuệ Biện… cả thảy ba mươi bảy người, từ Côn lôn, lên thuyền lìa biển Nam, đến biên giới nước Ha Lăng, gặp phải gió lớn, mọi người thương buôn lo sợ, mỗi tự hành trì theo Pháp của nước mình mà cầu đảo. Song, đều không ứng nghiệm. Họ lạy dài ai cầu khổ thiết, nguyện xin sự cứu hộ, các vị như Tuệ Biện… khóc oà, ngài bảo: Nay, tôi có pháp này, các ngươi chớ nên sầu lo! Ngài liền dùng tay phải cầm lấy năm cổ Bồ-đề Tâm xử, tay trái năm lấy bản kinh Bát-nhã Phật Mẫu, tác pháp trì tụng kinh Đại Tùy Cầu một biến, tức thời gió dứt biển lặng. Lại gặp một con cá Kình lớn từ biển cả vọt lên, phun sóng cao như núi, nguy khốn hơn cả họa trước, các người thương buôn đều đành lòng phó mạng. Ngài lại tác Pháp như trước, bảo ngài Tuệ Biện trì tụng kinh Ta-kiệt-la Vương, dần dần các nạn lùi lại rồi đều chấm dứt. Thế rồi, tới được nước Sư Tử, Quốc vương nước ấy sai sứ nghênh đón ngài, cúng dường đủ thứ. Một ngày nọ, nhà vua mua vui bày trò điều phục voi dữ, mọi người đều leo lên chỗ cao để trông nhìn không ai dám đến gần, ngài đứng giữa ngã tư đường, miệng niệm tụng, tay bắt quyết ấn, tâm trú trong định. Vài con voi điên vội đều khều đá nơi chân. Cả nước đều lấy làm lạ. Tiếp đến ngài đi hết năm xứ Ấn độ, thường hiển hiện các điềm tốt lành. Đến năm Thiên Bảo thứ năm (7 4 6) đời tiền Đường, ngài trở lại kinh đô nước Trung Hoa. Cuối mùa Hạ năm đó, trời nắng hạn gay gắt, vua Huyền Tông ban chiếu thỉnh ngài cầu mưa. Trong lời chế văn viết rằng: Thời gian không được lâu dài và mưa không nên quá lớn. Ngài tấu trình nên lập đàn Khổng tước vương chưa đầy ba ngày mà mưa đã thấm khắp, nhà vua rất vui mừng. Sau, nhân có một ngày, gió lớn nổi dậy, Huyền Tông lại ban chiếu thỉnh ngài cầu dứt, ngài thỉnh một cái bình bạc, tác pháp gia trì, bỗng chốc đều yên tónh. Bỗng nhiên con ngỗng trong hồ nghiêng bình, gió lớn lại nổi dậy mạnh dữ hơn trước, vua Huyền Tông lại ban sắc thỉnh ngài cầu ngừng dứt, tùy ngừng nghỉ, tùy hiệu nghiệm, nên vua Huyền Tông ban tặng ngài với hiệu là “Trì Tạng”. Đến năm Thiên Bảo thứ tám (7 4 9) vua Huyền Tông chấp thuận sự cầu xin trở về bổn quốc của ngài, ngài nương ngựa trạm năm đôi cỡi đến quận Nam hải, lại có chiếc sắc lưu giữ ngài lại. Đầu niên hiệu Trí Đức (7 5 6) đời tiền Đường, loan giá dừng ở Linh vũ, tiếng tăm vang khắp. Ngài thường kính phụng dâng biểu an trú bình thường. Vua Túc Tông (756– 7 6 3) thường kín sai sứ đến cầu thỉnh pháp bí mật, gần đến ngày lấy lại kinh đô để tạo lập lại chính sự, mọi việc đều như điều đã định liệu. Cuối niên hiệu Thượng Nguyên (7 6 2) vua Túc Tông chẳng được yên, ngài dùng chân ngôn: Đại Tùy Cầu, để dứt trừ bảy lỗi, qua ngày hôm sau liền khỏi, nhà vua càng thêm kinh lễ khác thường. Vua Túc Tông băng hà, vua Đại Tông lên ngôi kế vị, kính trọng sùng mộ ngài càng thêm nồng hậu. Nhân vì ở kinh đô từ mùa Xuân đến mùa Hạ không có mưa, nhà Vua ban chiếu thỉnh ngài cầu mưa. Và nếu như chỉ trong ba ngày mà có mưa thì đó là pháp lực của Hòa thượng. còn qua sau ba ngày mới mưa thì không phải là pháp lực vậy. Ngài vâng nhận sắc chỉ lập đàn, đến ngày thứ hai có mưa lớn, bảo là đã đủ. Lại một năm nắng hạn gay gắt. kinh triệu Y Tiên Hân đến chùa thỉnh ngài vì kết đàn cầu mưa, ngài bào đệ tử lấy vỏ cây hoa chỉ hơn một thước, họa vẽ hình con rồng nhỏ lên trên, lấy một bát hương thau nước đặt ở trước, chuyển thổi, chấn lưỡi, gọi sứ chú nguyện, chỉ trong khoảng bữa ăn, xong rồi đem con rồng vẽ ấy trao cho Tiên Hân, bảo rằng: - Nên đem rồng vẽ này ném vào trong khúc sông, ném xong phải kịp gấp trở về, không thì mạo hiểm bởi gió mưa! Tiên Hân y theo lời ngài chỉ bảo mà ném vào sông. Vụt chốc có con rồng trắng dài hơn thước, vùng vẫy từ nước tuôn nhảy lên, chỉ chốc lát mà rồng dài vài trượng, tướng trạng như kéo tơ, bỗng nhiên phô bày đầy trời. Tiên Hân vội đánh ngựa chạy chưa được vài mươi thước, mây vật động mờ, mưa bảo tuôn xuống. Về đến Lý Vónh Sùng, nước ở trong Đệ Cù đã ngập lớn. Niên hiệu Vónh Thái (765– 7 6 6) đời tiền Đường, ngài tắm gội bằng nước hương, gối đầu về hướng Đông mà nằm, xoay mặt chiêm lễ hướng về cung quyết dùng Đại Ấn Thân trong định mà thị tịch. Sau khi trà-tỳ xong lửa tắt, thâu lượm xá-lợi vài trăm viên, cốt đảnh đầu không cháy, ở trong có một viên xá-lợi nữa ẩn nữa hiện. Vua Đại Tông ban sắc tại bổn viện dựng một bảo tháp riêng để phụng thờ. Trước kia, vua Huyền Tông mời Thuật só La Công Viễn cùng đấu pháp ở tại Tiện điện, La Công Viễn thường đưa tay xoay về trái để gãi lưng, ngài bảo: Giá mượn Tôn sư như ý. Bấy giờ ở trên điện có một hoa đá, ngài khua đánh nát như ý trước, La Công Viễn hai ba lần muốn lấy như ý mà không được. Yù vua Huyền Tông muốn đứng dậy lấy, ngài bảo: Hoàng thượng chớ đứng dậy. Ngài liền đưa tay chỉ cho La Công Viễn, thì như ý hoàn phục như cũ ở trong tay. Lại nữa, ở phía Bắc núi Mang có một con rắn lớn, những người lượm củi thấy nó ngẩn đầu nơi gò đồi, ban đêm thường hấp sương khí. Thấy ngài vào, con rắn nói với ngài rằng: Đệ tử chịu phải ác báo, Hòa thượng làm thế nào để được độ? Và muốn vượt sông nước đến thành Lạc Dương để khoái hưởng sự hoài mong. Ngài vì con rắn mà lãnh thọ các pháp quy giới, nói cho biết rõ nhân quả. Lại dạy thêm rằng: Ngươi vì sân tâm nên thọ quả báo như vậy. Đã thế sao lại còn phẩn hận, sức ta làm sao làm được? Phải như lời của thầy ta dạy bảo thì thân này chắc chắn sẽ xả bỏ được! Về sau, có người lượm củi thấy rắn chết dưới khe suối, mùi hôi lan tỏa cả ngàn dặm. Lại có một ngày mưa gió liên tục, ở trong phường chợ có những người trôi dạt hoặc đắm chìm, cay cối thì gãy ngã. Dân chúng vội thỉnh ngài cầu ngừng mưa, ngài ở trong sân chùa, nắn đất bùn làm hình năm sáu bà lão thả trôi trong dòng nước dùng tiếng Phạn mà thóa mạ nó, chỉ trong khoảnh khắc trời lại ngừng tạnh gió mưa. Ngài từng ở Tây Thiên đại thạch khương tam quốc, binh lính vây quanh phía Tây vương phủ, nhà vua ban chiếu thỉnh ngài vào, đích thân nhà vua đến đạo tràng, ngài cầm nắm lò hương trì tụng mật ngữ Nhân vương mười bốn biến. Nhà vua thấy lính thần cả năm trăm người đến dưới sân điện, nên kinh ngạc thưa hỏi ngài, ngài bảo: Con của Tỳ Sa-môn Thiên vương thống lãnh binh lính đến cứu An tây, hãy nên dọn bày thức ăn gấp để phát khiển. Đến ngày hai mươi tháng tư, quả thật có lời tấu rằng: Ngày mười một tháng hai ở phía Đông bắc thành cách ba mươi dặm, giữa khoảng sương mây thấy có lính thần lớn mạnh, trống nhạc đánh thổi rân trời, núi đất chấn động sụp đổ. Phiên bộ kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Trong doanh trại có một con chuột sắc màu vàng ròng gặp dấm cung tên dây đều đứt hết. Ở cửa lầu phía Bắc thành có tôn tượng Quanh Minh Thiên vương, tức giận trông nhìn lính soái Phiên bộ tuông chạy. Nhà vua xem xét rồi tấu trình cảm tạ ngài. Nhân đó, ban sắc các đường thành trên lầu cửu, an trí tôn tượng Thiên vương bắt đầu từ đó. Thần tăng Đạo Chiêu Sa-môn Đạo Chiêu, ngài tự xưng là người xứ Hàng châu, vốn dòng họ Khương. Thuở thiếu thời bị bệnh nên không được thông suốt, nói rằng: Đến Minh ty thấy việc Thiện ác báo ứng nên bèn phát nguyện xuất gia. Ngài trú tại núi Thái hành bốn chục năm, giới hạnh rất tinh ng- hiêm khổ thiết. Ngài thường nói việc sắp xảy ra của người đời, ban đầu như mờ ẩn nhưng sau thì rõ ràng ứng nghiệm. Có hai người khách đến, một người xưng là Diêu mạc, nêu rõ kinh, một người xưng là Trương Thị, dùng tư âm, ngài bảo Trương Thị rằng: Ông trao quan Tứ Chính phải thận trọng không nên ăn lộc của Phạm Dương. Ngày mùng tám tháng tư mà mắc bệnh thì sẽ không cứu được. Kế đến, ngài nói với Diêu Mạc rằng: Ông không có lợi Trâm hất, nếu tòng quân thì sẽ ba mươi năm không thiếu, như có bệnh chớ bảo người Hồ trị liệu. Năm đó, Trương Quan ở tại quận Tương, sau nhiều lần chọn lọc, thường cầu đến Nam châu, cũng đều như thế, sau lại tuyển chọn, quả thật được trao chức… Châu Lư thị huyện lệnh, đến nhậm chức mới hai ngày thì qua đời. Ngày mất đúng là ngày mồng tám tháng tư. Và sau đó mới biết rõ Phạm Dương chính là Lư Thị Vọng. Còn Diêu Mạc cử chẳng đệ tòng biết ở Dung châu gá danh quân thú ba mươi năm, nhiều lần chuyển đổi chức, sau lấy vợ cũng chỉ cầu sự giúp đỡ. Khi bị bệnh nên uống thuốc của Hoàng Thị chính là kẻ nô tỳ của động chủ thả ra vốn là người nữ họ Hồ. Thần tăng Huyền Tông Thích Huyền Tông, ngài dòng họ Ngô, người xứ Vónh Gia. Thuở thiếu thời, ngài đã xuất trần, khí đạt khoan dụ ở tại viện Bảo thọ, núi Vinh định trong bổn bộ, nương ngài Thường Tónh tôn xưng làm thầy. Sau khi đắc giới, ngài bèn du phương tham học. Đến Giang lăng, tham yết Thiền sư Lãng, để hiểu rõ mối nghi ngờ, ngài lại chống tích trượng đến phương khác. Thấy xứ Tử Kim trong lòng vui vẻ, ngài bèn lưu lại tại đó hành trì thiền quán. Núi ấy trước kia có nhiều hổ dữ, hoặc giết người đi buôn, hoặc tổn thương kẻ lượm củi. Từ khi ngài đến dừng ở đó, thì âm ba gầm gừ dường như mất hết. Người vào núi không còn phải lo sợ nữa. Một ngày nọ những người tham học thiền pháp tụ hội, thấy một người già đến trước tòa của ngài, quỳ lạy kính cẩn, ngài hỏi: Ông là người gì? Đáp: Tôi vốn là hổ ở trong núi này, ăn nuốt chúng sinh, nhân Đại sư đến giáo hóa ở đây, âm thầm hồi phục tâm tôi, nên được thoát nghiệp thân hổ đã sinh lên cõi trời, nên lại đây báo tạ. Trong khoảnh khắc không còn thấy người già nữa. Năm Đại Lịch thứ 2 (7 6 7) đời tiền Đường, ngài phó chúc từ biệt môn đồ, bỗng chốc an nhiên thị tịch, hưởng thọ tám mươi sáu tuổi. Trong hai tháng cử hành lễ nhập tháp và lập văn bia phụng thờ, nay vẫn còn. Thần tăng Tuệ Trung Thích Tuệ Trung, ngài dòng họ Vương, người xứ Thượng nguyên, Nhuận châu. Ban đầu, thân mẫu mang thai ngài, bỗng gặp một vị Tăng khác lạ bảo rằng: Bà hẳn sinh quý tử và sẽ làm thầy của trời, người! Từ sau khi sinh ra, nuôi dưỡng trở lại, ngài chẳng ăn dùng các thứ tanh nồng. Có tướng người già khác thường, bẩm tánh đôn hậu, năm hai mươi ba tuổi, ngài đem tất cả sự nghiệp để cứu giúp. Năm đó tức năm Thần Long thứ nhất (7 0 5) đời tiền Đường, ngài bèn đến chùa Trang ng- hiêm, nghe ở núi Ngưu đầu có Thiền sư Oai, ngài liền tìm đến núi tham yết. Thiền sư Oai thấy ngài, liền bảo: Chủ núi đã đến! Nhân đó vì ngài mà giảng pháp, ngài thường sớm tối tinh cần, hành hạnh Đầu-đà, ở nơi rừng đầm, uống nước suối, nằm chiếu cỏ, ăn ngày một bữa suốt thời gian dài, thường dùng một cái chỏ cho các thứ vào nấu, dùng xong treo móc trên cành cây, rồi ngồi trên giường dây trọn ngày như chiếc ghế, y phục chẳng thay đổi, nóng lạnh chỉ có một áo nạp. Suốt bốn mươi năm bèn hiển hiện linh ứng. Châu mục Minh Hiền từng đến núi tham lễ yết kiến. Lại thỉnh ngài đến quận thí pháp giáo hóa kẻ Tăng người tục. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (7 4 2) ngài đến trú tại chùa Trang ng- hiêm, ngài cho rằng: Trong thời nhà Lương xưa kia chùa Trang nghiêm rất thạnh, nay trải qua năm tháng đã phai mờ nên muốn tu sửa lại. Bèn ở phía Đông điện, ngài phỏng nghó tạo dựng một ngôi Pháp Đường. Tại đó có cây cổ thọ, trên đỉnh có ổ chim Thước, các người làm công thợ muốn chặt đốn, ngài bảo: Hãy dừng đã, đợi chim Thước dời đi mới nên chặt! Nhân đó ngài đến nơi gốc cây cầu chúc rằng: Chỗ đất này tạo dựng Pháp đường, nên mau dời đi chỗ khác! Nói xong, chim Thước ấy liền chuyển sang ở cây khác, kẻ Tăng người tục thấy thế thảy đều thán phục. Thêm nữa, đổ móng chưa quyết định chỗ dựng lập, bỗng nhiên có hai vị Thần nhân chỉ cho địa điểm, nhân đó mới quyết định. Tuy cấp không phế, thần khoáng chẳng nhiểu. Đạo bạn bốn phương nương nhau ngày một kéo đến đông nhiều. Năm Đại Lịch thứ ba (7 6 8) đời tiền Đường, trước thạch thất ở cửa núi có treo dãi áo của ngài, đến tháng nhất trong mùa Hạ năm đó bỗng nhiên khô rụi, Linh Chi Tiên khuân không sinh tự nhiên mọc lại. Đến tháng chín, ngài đang giảng Pháp trên tòa cao, vô cớ nước tuôn chảy chung quanh tòa. Đến ngày rằm tháng sáu năm sau (7 6 9) nhóm chúng bố tát. Chiều tối, ngài bảo thị giả cạo tóc rồi tắm rửa thân mình. Đêm đó mây lành phủ khắp chùa, nhạc trời vang vọng giữa không trung, tới sáng sớm ngày mười sáu, ngài an nhiên đoan tọa thị tịch. Khi ấy, gió mưa chấn động, cây cối đổ ngã, chim thú trong núi kêu tiếng buồn thương, khắp trong xó rừng trong hóc núi, vang rền tiếng khóc gào vài ngày mới thôi dứt, ngài hưởng thọ tám mươi bảy tuổi. Thần tăng Sùng Tuệ Thích Sùng Tuệ, ngài dòng họ Chương, người xứ Hàng châu, từ tuổi bé thơ, ngài đến núi lễ kinh làm đệ tử Thiền sư Quốc Nhất. Lại phát thệ nguyện nên trốn đến chùa Lạc vân ẩn giấu vết tích. Trong một thời gian có vị Thần đến nói với ngài rằng: Sư hành trì Phật đảnh mà tóm kết hai chữ Sa-ha, khiến mật ngữ không được viên mãn. Sa-ha có nghóa là thành tựu. Nay tại kinh thất, Phật pháp bị ngoại đạo lăng nhục chèn ép, nguy ách ấy tợ như ngăn cấm cờ đầu, đang chờ đợi Sư giải cứu đó. Ngài bèn rảo bước đến trình Tây thượng. Năm Đại Lịch thứ ba (7 6 8) đời tiền Đường, Thái thanh cung Đạo só Sử Hoa trình tấu triều đình, xin cùng các bậc danh Tăng nổi tiếng ở đương thời trong nhà Phật so tài Phật lực và Đạo pháp xem thử ai hơn ai kém. Bởi thời bấy giờ, vua Đại tông khâm phục kính ngưỡng Phật giáo, nên hàng dị đạo tức giận sự thiên trạng ấy mà sinh tâm cầu thỉnh như thế. Ở Đông minh quán, tại trước đàn giá đao thành tầng ấp, Đạo só Sử Hoa dẫm bước lên đi trên từng cấp như bình thường. Bấy giờ, chư Tăng cùng nhau đưa đẩy không ai dám bước lên, ngài nghe thế đến tham yết cùng khai phủ Ngư Triều Tư, Ngư Triều Tư tấu trình xin dựng rộng tầng cấp giá mũi nhận nhọn như sương tuyết tại chùa Chương tín, cao đến trăm thước, tầng cấp ở Đông Minh Quán rất thấp và bé nhỏ. Bấy giờ cả triều đình Công Quý, cho đến dân chúng ở chợ phường đều cùng nhau chen chân kề vai mà trông ngóng, ngài đi chân không, lên cấp xuống tầng như trên đường bằng phẳng, không biểu lộ khó khăn gì, lại đạp lên trên lữa dữ, đưa tay thử vào dầu sôi nóng, ăn lá sắt mà gọi là bánh bột, cắn đinh sài bảo là giòn ngọt… Đạo só Sử Hoa khiếp sợ, xấu hổ kinh hoàng, che tay áo màt rốn lui. Khi đó mọi người khảy móng tay tán thán tiếng vang như sấm nổ. Vua Đại Tông sai Trung Quan cùng Đình Ngọc tuyên ủy hai ba lần, bèn mang tặng một bức tử bào phương. Thần tăng Linh Thản Thích Linh Thản, ngài dòng họ Vũ, người xứ Văn thủy, Thái nguyên, là cháu chắc của thái hậu Võ Tắc Thiên. Thân phụ ngài là Tuyên lạc dương lệnh, thân mẫu ngài dòng họ Hạ Hầu. Ban đầu, lúc mang thai ngài, thân mẫu ngài mộng thấy vị Thần tăng trao cho gươm báu trong ngoài đều sáng ngời, và bảo rằng: Tôi gởi người vật này, khéo giữ gìn đó. Đến lúc ngài trưởng thành, đến tham yết Thiền sư Thần Hội. Năm Đại Lịch thứ tám (7 7 3) đời tiền Đường, ngài hành hóa lên Lương Viên, bấy giờ Tướng Quốc Điền Công Thần Công men theo bên vệ cúng dường, đến Duy dương lục hợp ngài mới than Đại pháp khóc liệt, bổng nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng: Mở tâm địa tức thấy Bồ-tát như tượng Văn-thù nói trao cho ngươi ấn nghiệm. Trên đảnh đầu, dùng tay mà đè xuống, bỗng xem thấy có sẹo bốn ngón tay đỏ bừng, dấu ấn đó thường hiện. Ngài lại dừng ở núi vàng tại Nhuận châu, phía Bắc núi đó có hang rồng, thường nhả khí độc như mây, những người ở gần phần nhiều mắc bệnh hoặc đến nổi chết, ngài đến đó ở, mây độc liền mất dấu. Ngài lại dựng am ở Giang âm, Định sơn, bỗng có tiếng tán thán, đến xem thì là hai con rùa màu trắng, ngài vì nó mà cho thọ Tam quy. Lại thấy hai con rắn sắc trắng thân lớn dài đến vài trượng, ngài cũng vì nó mà cho thọ giới, sám hối. Cứ như thế, ngài lại đi đến đất Thục dựng lập một A-lan- nhã, có ba bậc trượng phu mặc áo kim tử từ từ đi bộ đến xưng tán đạo tràng. Đến năm Nguyên Hòa thứ 5 (8 1 0) đời tiền Đường ngài trú tại chùa Hoa lâm. Trong đất chùa có phần mộ đại tướng quân Trương Liêu, chư Tăng trong chùa hay bị quỷ vật hoặc loạn, ngài đến chùa thì không thấy gì. Lại ở tại Dương châu, dân chúng thường bị Sơn yêu mộc quái làm mê hoặc, ngài đều ngăn cấm cả. Đến năm Nguyên Hòa thứ mười (8 1 5), bỗng nhiên có hai người Hồ tự xưng là ở nước Quy Tư lại, ở nước đó không có người hoằng giáo nên từ xa đến thỉnh ngài phu diễn. Đến ngày mười ba tháng năm sau (8 1 6), ngài báo cùng chúng Tăng biết là ngài sắp đap lại sự thỉnh cầu ở phương xa. Đến ngày mồng tám tháng chín, ngài thị tịch, hưởng thọ một trăm lẻ tám tuổi, tám mươi bốn Tăng lạp. Thần tăng Tuệ Văn Thích Tuệ Văn, ngài người xứ Tín an, ngài thường khuyên dạy Đàn-việt tu tạo phước nghiệp là hơn cả, ngài từng ở tại ??? Giang, chú đúc tôn tượng kim thân cao trượng tám. Cả châu chưa ai đoán định được đồng từ đâu đến. Ngài bảo: Đợi đại thí chủ. Bỗng nhiên có hai vợ chồng người nọ từ huyện Thanh khê mang tấm kiếng vốn liếng lúc lấy chồng đến thí xả, ngài vì họ lập nguyện cầu chúc rằng: Tấm kiếng này bỏ vào khuôn đúc, nếu sẽ nằm ngay trước tim Phật, đó mới là sự phát tâm rất mực chí thành của hai vợ chồng. Khi phá vỡ khuôn lộ bày tôn tượng thì tấm kiếng nắm ngay trước tim Phật. Ngài từng đến Dự chương khuyên hóa, được vài giậu vàng rồng, bỗng chốc gặp giặc muốn cướp lấy. Sự việc nguy cấp, ngài bèn xuống nước bảo: Lo mất phước điền quân tử, xin tự lặn lọc lấy. Ngài đi rồi, bọn giặc bèn xuống nước tìm kiếm mà không được. Kịp đến lúc ngài về tới châu thì số vàng ấy đã âm thầm nằm ở viện. Bấy giờ đường núi có loài hổ báo, ngài gặp nó, bèn dùng gậy gõ lên đầu, bảo: Các ngươi chớ hại đến người, ta tạo công đức, cớ sao không kết duyên? Ngày hôm sau, hổ ngậm con heo rừng đến để trước mặt ngài rồi chuôi đuôi mà đi. Phàm ngài muốn làm mọi việc đều thành, mọi người quy hướng như dòng nước chảy, có làm sự khác lạ. Thần tăng Nan-đà Thích Nan-đà, vốn là tiếng Phạm, Hán dịch là Hỹ, không rõ ngài thuộc dòng tộc gì, người ở nước nào, ngài là người lạ lùng khác thường, cung kính có, khinh mạn có, bất định. Niên hiệu Kiến Trung (780– 7 8 4) đời tiền Đường, không thể nào đến đất Mân thục, Trương Nguî Công mời rước ngài đến Thành đô, ngài tự nói: Ta đắc pháp Như huyễn Tam-muội, vào được trong nước lửa xuyên qua cả vàng đá, biến hiện không cùng. Ban đầu mới đến đất Thục, ngài đi cùng ba cô Ni trẻ tuổi, hoặc có lúc say sưa hát cuồng, tướng lính sắp cấm đoán, kịp lúc ngài đến, lại nói: Ta gởi vết ở tạng môn riêng có dược thuật. Nhân đó, chỉ ba cô Ni, bảo đó là những người khéo tài ca nhạc, tướng lính trở lại kính ngưỡng, bèn quyến luyến không nở dứt đi. Bày tiệc rượu thịt, ban đêm nhóm tụ khách lại chung cùng ngài uống quá lắm. Kịp lúc ba cô Ni đến ngồi, mọi người đưa mắt trông nhìn, tỏ vẻ tuyệt đời, uống sắp hết, ngài bảo cô Ni rằng: Có thể làm, sở đạp khúc ta. Nhân đó, từ từ đến cùng đội múa kéo bày hồi tuyết, nhanh chóng chạy đến xoa mài mu chân lại là nghề nghiệp tuyệt luân. Giây lâu, khúc nhạc đã mà đội mà múa vũ chưa dừng. Ngài hét: Phụ nữ phong ư? Bỗng đứng dậy bắt lấy tướng lính, cầm dao dọa, mọi người cho rằng ngài cuồng say nên kinh hãi bỏ chạy, ngài bèn đặt dao chặt vào lưng, ngã chết giữa đất, máu me lai láng cả vài thước. Tướng lính khiếp sợ, bảo mọi người chung quanh bắt trói ngài lại. Ngài cười, bảo: Không sao! Từ từ cử cô Ni ba cây gậy mà chống đỡ, máu huyết đó là rượu. Ngài lại từng đang trong cuộc hội uống rượu, bảo người chặt đứt đầu mình, đỉnh tai vào trụ cột mà không chảy máu. Thân ngồi trên chiếu, rượu mang đến thì chốc vào dưới cổ trong vết sẹo, mặt đỏ bừng mà ca hát, tay lại tự để tiết. Tiệc bãi thì tự đứng dậy lấy đầu gắn liền lại như lúc đầu không vết sẹo gì cả. Ngài thường nói việc hung suy của người đời, đều như là câu đố, sự việc qua rồi mới hiểu. Tại Thành đô, bá tánh phát tâm cúng dường vài ngày, ngài không muốn ở lại. Song, mọi người đóng cửa ải cố lưu giữ ngài. Nhân đó ngài chạy vào vách tường rồi trám bịt lại. Mọi người dẫn nhau vội tìm vào thì chỉ sót lại góc áo ca-sa, trong khoảnh khoắc cũng không còn thấy nữa. Ngày hôm sau, trên tường vách có bức họa hình của ngài, tướng tương tự như sắc màu nhật nguyệt, dần dần mờ tản đến bảy ngày giữa không có dấu vết đen, qua ngày thứ tám, vết đen cung biến mất. Ngài đã ở lại Bành châu. Về sau, không biết ngài như thế nào. Thần tăng Hòa Hòa Ngài Hòa Hòa, không rõ là người thuộc dòng tộc gì, ngài là một vị Tăng có vẻ cuồng loạn, phát ngôn có nhiều điều trúng, nên người thời ấy gọi ngài là Thánh. Có công chúa nước Việt là vợ cả của vinh dương Trịnh Vạn Quân, đã vài năm mà không có con, Vạn Quân đến cầu thỉnh, thưa ngài rằng: Tôi không người nối dõi, muốn xin có được một đứa con. Chỉ có ngài là ban ân, có được chăng? Ngài bảo: Mang đến cho ta ba trăm xấp lụa, công chúa sẽ sinh hạ hai trai. Vạn Quân y theo lời ngài dạy mà cúng thí, ngài đem lụa đến chùa nói tu tạo công đức và nói với Vạn Quân rằng: Công chúa có thai. Ta bảo hai người trời xuống làm con công chúa. Ngài lại nói: Công chúa bụng nhỏ có thể cùng lúc mang hai trai chăng? Ta sẽ khiến nó cùng một năm nhưng mà đứa trước đứa sau vậy! Công chúa liền mang thai, đầu năm và cuối năm mỗi lần sinh một người con. Đứa lớn đặt tên là Tiền Diệu, đứa bé đặt tên là Hối Minh, đếu xinh đẹp đủ tướng trượng phu, hiểu biết thông bác. Thần tăng Nghóa Sư Thích Nghóa Sư, không biết ngài là người xứ nào. Tướng tạnh như phong cuồng, nói năng đảo loạn. Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (7 8 5) đời tiền Đường, ngài qua lại Ngô Uyển làm kẻ ăn xin, mọi việc phần nhiều biết trước. Người thời bấy giờ rất nghi ngờ ngài. Trong chợ quán có vài gian nhà của bá tánh, ngài nắm lấy búa phát tề mái hiên, ngăn cấm vẫn không dừng. Trong đó có số người biết ngài là Thần dị, bèn kính lễ mà thưa ngài rằng: Đệ tử nương giá sinh sống ở đây, xin ngài chớ hủy hoại nhà con! Ngài xoay lại bảo: - Ngươi tiếc ư? Rồi ném búa, bỏ đi. Đêm đó, trong chợ bỗng nhiên lửa kéo dài cháy lan, chỉ có vài gian nhà ngài cắt phá mái hiên còn lại. Trong chùa, bất kể mùa Đông hay mùa Hạ, ngài thường phế bỏ tích chứa các thứ pha, lọng, tượng Phật… bằng gỗ, dùng thay cho than củi. Lại ở trong lò lửa, ngài nướng cá Lý, mà phần nhiều nó tuôn nhảy trong tro bụi càng luông tuồng, ngài vỗ tay cười lớn nói cười đủ bảy sọt mà ăn, mặt mày nhơ bẩn mà không rửa thì liền có mưa phủ. Dân chúng đất Ngô cho là chiêm hầu. Đến lúc sắp tịch, ngài uống vài mươi hộc nước hòa với bụi tro, nèn niệm Phật mà ngồi, các hàng Só thứ cùng đến trông xem, mãn bảy ngày thì ngài thị tịch. Khi đó, đang lúc nắng nóng gay gắt, mà nhan sắc không biến đổi, các chi vẫn không thương tổn, bá tánh nghinh thỉnh ra ngoài bang giao mà trà-tỳ. Thần tăng Đại Bệnh Thích Đại Bệnh, ngài dòng họ Trần, người xứ Thiên thai. Trong buổi sáng ngài chào đời có ánh sáng tốt lành soi chiếu khắp nhà, mọi người trong thôn xóm vô cùng kinh dị. Năm lên bảy tuổi, ngài chịu tang thân phụ, buồn hủy diệt tánh, ngài bèn xin phép thân mẫu cho xuất gia, mẹ ngài vừa mới bày điều khó khăn mà cản trở, ngài liền chặt một ngón tay. Bà con thân thích đôn đốc khuyên hóa riêng thân mẫu ngài và liền đưa ngài đến chùa Quốc thanh. Sau khi đã đăng đàn thọ giới viên mãn, ngài bèn phát chí nguyện tham phương du quán. Ban đầu, ngài đến dừng ờ tại Đông kinh, kế tiếp, ngài đến Hà dương vì dân chúng cứu giúp nắng hạn. Ngài căn cứ theo kinh điển mà học vẽ tượng tám Long vương, thiết lập đạo tràng, khải chúc xong, ngài ném tất cả xuống sông, mọi người đều thấy các tượng họa vẽ hoặc lặng chìm hoặc nhảy vọt khác nhau. Bỗng chốc mây nổi lờ mờ cả tấc, sấm sét tuôn mưa ngoài ngàn dặm đều báo đã đủ. Từ đó, mọi người hướng tâm nương tựa về ngài rất nhiều. Trước kia, khoảng ba thành phần nhiều hay bị gió bão mưa đá, tổn hại lúa mạ non trên tường thành, mọi người cho đó là do rồng độc làm hại. Ngài vì thế, trì tụng mật ngữ, sau trải qua nhiều năm tường tự đều không còn tai hoạn ấy, mọi người cùng nhau tạo lập Đường vũ như sinh từ. Năm Đại Lịch thứ nhất (7 6 6), đời tiền Đường, ngài leo lên Thái hành, tham quan núi Hoắc, bèn vào chỗ sâu xa dựng lập am tranh mà ở. Có kẻ trộm chén bát của ngài, bỗng chốc bị hai con hổ ngăn chặn đường, gặp được ngài, kẻ trộm liền cúi đầu tỏ bày hối quá, ngài ủy dụ xong, nhân đó đưa tay xoa đầu hổ, nhiều lần ngài đã nhiếp phục thú dữ như thế. Trong núi đó, có miếu thần, có lúc bị truyền bệnh sâu độc dưới bẹn háng. Ngài vào miếu khuyên thần thọ trì quy giới, dứt tuyệt sự nấu nướng sinh lao. Tượng đá thần miếu luôn luôn gật đầu vâng mạng theo sự khuyên dạy của ngài. Do đó, Đàn-việt tín thí kề vai chen chân tìm đến. Có người bỏ chất độc vào trong rượu rồi đút lót người nữ nghèo khổ mang đến cúng thí ngài. Ngài đã dự biết trước. người nữ mang đến thưa rằng: Nhà con ủ rượu thấy men tốt lành, nên chiết lấy đem đến cúng dâng Hòa thượng để cầu phước, huống gì Phật chẳng trái ngược ý nguyện của chúng sinh! Ngài bảo: Ngươi cũng là Phật. Người nữ khốn khổ ấy sợ lại phải uống, nên đem tình thật mà tỏ bày. Ngài bưng lấy chén nếm thử, bỗng chốc hơi rượu bốc cùng hai cẳng chân, đất vì thế mà phân biệt. Mọi người nghe vậy đều kinh lạ. Và rượu được cúng dường từ đó. Tại sông phần ẩm thấp xứ Hà tây, có người mắc bệnh, ngài chỉ cấp cho nước sạch, người đó uống vào, bệnh lành hẳn. Khoảng niện hiệu Trinh Nguyên ( 7 8 5- 805), đời tiền Đường, ngài an nhiên ngồi kiết già mà thị tịch. Thần tăng Quảng Lăng Đại Sư Ngài là một vị khách Tăng lãng quên tên ở Quảng lăng, tự gọi là Đại sư, mọi người ở Quảng lăng nhân đó dùng hai chữ Đại sư mà kêu gọi ngài. Dung mạo của ngài rất là xấu xí, ưa thích ăn uống rượu thịt, thường mặc áo vải thưa lông cừu, mùa nắng nóng vẫn không cởi ra. Các loài rệp kiến nhỏ bé thường tụ nương náu. Ngài đến ở nhờ tại chùa Hiếu cảm, riêng trong một căn phòng, thường đêm đóng cửa mà ngủ, khinh suất là thường. Ngài sống với tánh cuồng điên trái ngược, ưa thích giết hại chó, heo nái, thường ngày cùng đấu ẩu với tiếu niên ở Quảng lăng, hoặc say nằm bên vệ đường. Dân chúng ở Quảng lăng do vậy mà chán ghét ngài. Có một gã thiếu niên cậy ỷ sức lực, có ngày, thiếu niên ấy cùng đánh cờ với người, ngài tức giận, dùng tay đập nát hết quân cờ. Gả thiếu niên ấy cười bảo: Con nít lần thần sao dám trái ngược với tráng só? Ngài lại mắng nhục, thóa nhổ lên mặt nó. Khi đó, ngài cùng gả thiếu niên ấy đánh đấu, người xem có đến vài ngàn. Cuối cùng gả thiếu niên ấy không thắng được ngài bèn trốn đi. Từ đó, dân chúng Quảng lăng cho rằng ngài có sức thần. Ngài cũng tự phụ sức lực đó, thường luôn vào trong chợ cướp bóc vàng tiền y vật, mọi người ở đều sợ dũng khí của ngài nên không ai dám chống cự lại. Sau, có một vị lão Tăng kêu gọi ngài đến mà bảo rằng: - Phàm người xuất gia làm Tăng phải nên Từ tâm vâng phụng giáo giới, cớ sao lại ăn uống rượu thịt giết hại chó heo, cướp bóc tiền vật của người trong chợ, lại cùng bọn thiếu niên đánh đấu. Vậy đâu là đạo lý của kẻ Tăng? Một sáng sớm, quan lại bắt đem ngài đến cửa quan mắng nhục rằng: Ông chẳng xấu hổ với trời ư? Ngài tức giận quát mắng lại: Bọn ve ruồi ham thích mùi tanh hôi, sao có thể biết được tâm của Rồng hạc ư? Nhưng mà, ta nói cũng chẳng phải chỗ ngươi biết vậy. Vả lại, ta bên trong thanh tịnh mà hỗn tạp bên ngoài, đâu như các ông hẹp hòi không độ lượng ư?. Lão Tăng cuối cùng không thể chiết phục lời ngài. Sau, một ngày nọ, ngài từ đâu bên ngoài trở về chùa, vào phòng đóng cửa. Qua lỗ hỏng có người trông nhìn vào, thấy ngài ngồi trên chiếu, có ánh sáng kì lạ từ chân mây phóng ra soi chiếu khắp cùng cả Thất, người trông xem thấy kì lạ báo cùng chư Tăng cùng lại trông xem ánh sáng ở chân mày của ngài. Cùng chỉ mà nói rằng: –Tôi nghe giữa chân mày của Phật có bạch hào tướng quang, nay ngài cũng có như thế tức quả thật là Phật vậy. Liền cùng nhau kéo đến lễ bái. Đến sáng sớm hôm sau, chư Tăng đều nhóm tụ nơi sân, đợi hầu tham yết ngài, tới lúc mở cửa thì ngài đã thi tịch. Mọi người lại càng kinh lạ sự việc ấy, nhân đó tôn xưng ngài là Đại sư Phật. Thần tăng Linh Mặc Thích Linh Mặc, ngài dòng họ Tuyên, người xứ Tỳ lăng. Ban đầu, ngài đến Dự chương tham yết Đại sư Mã… nhân đó, ngài ở lại đạo tràng Bạch sa, trải qua hai năm, Hổ dữ quen thuần, sinh con gần bên cạnh rừng, tùy ý nương náu. Sau ngài lại trú tại Đông đạo tràng, đất hẹp người hiếm. Thần núi mỗi đêm làm chấn động sấm sét mưa bão. Sướn núi cao dốc đều sụp đổ, vứt bỏ cây lớn đến sát bên cạnh am. Cành cây xen quấn lẫn nhau, các loài cỏ mao Thiêm, gây không ít tổn hại. Mọi người xa gần nghe thế, đều lại trông xem ca ngợi. Sau, ngài đến núi Đông bạch, bỗng nhiên trúng độc mà không tìm cầu thầy thuốc chữa trị, đóng cửa yên tọa, sau đó không lâu chất độc hòa thành mồ hôi nhỏ đổ mới bình phục lại. Đầu niên hiệu Nguyên Hòa ( 8 0 6-…), đời tiền Đường, trời nắng hạn lâu ngày, dân chúng đều khiếp sợ, ngài men theo khe suối, thấy một con yêu Thanh xà ngẩn đầu trừng mắt như nhìn người đi lại không giao động. Ngài quát la nó rằng: - Thiên hạ khô khát, lúa mạ đều chết, sao ngươi không làm mưa để cứu dân chúng? Đến đêm đó quả thật có mưa lớn, khắp nơi đều bảo đã đủ, dân chúng mong đợi ân ngài ban tặng như thế. Sau đó, ngài tắm rửa rồi đốt hương, đoan tọa trên thằng sàn mà thị tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi mốt pháp lạp. Thần tăng Trừng Quán Thích Trừng Quán, ngài dòng họ Hạ hầu, người xứ Sơn âm, Việt châu. Năm vừa mới mười một tuổi ngài nương theo Thiền sư Bái ở chùa Bảo lâm mà xuất gia, trì tụng kinh Pháp Hoa. Năm mười bốn tuổi, ngài gặp ân được độ, bèn nương ở chùa ấy. Ngài thông minh siêu tuyệt, không thể đem việc thường của người xuất gia để bó buộc ngài. Sau, lúc sắp soạn sở giải kinh Hoa Nghiêm, trong lúc ngủ mộng thấy một người vàng, đang đứng tên đỉnh đưa tay đón lấy, không thể nào nắm bắt được, tỉnh giấc, mồ hôi tuông chảy, tự mừng, ánh sáng chiếu soi khắp cùng. Ngài khởi sự từ tháng giêng năm Hưng Nguyên thứ nhất (7 8 4) đến tháng 12 năm Trinh Nguyên thứ 3 (7 8 7), đời tiền Đường là hoàn thành xong sở nguyện, cả thảy hai mươi quyển, ngài liền thiết trai cúng dường ngàn vị Tăng để lạc thành bộ sớ giải ấy. Bấy giờ, ở trước giảng đường, trong hồ mọc lên một hoa sen năm cánh hiệp hoan, đều có ba đốt, mọi người trông thấy đều thán phục. Ngài thường lo nghó đến việc trao truyền phú chúc, bỗng một đêm nọ, mộng thấy thân hóa thành rồng, đầu ngẩn cao đến năm đài, đuôi cuộn tới Bắc sơn, ép tháp ngọc bích rãi rác, râu vẫy sáng ánh như mặt nhật, bỗng chốc rắn bò ngoằn ngèo hóa làm hàng ngàn con rồng nhỏ vọt nhảy thanh minh phân tán mà đi. Chuộng lấy cảnh tượng ấy, giáo pháp phân phái lưu bổ vậy. Ngài bèn đến trú tại chùa Thê nham ở trong núi Trung điều. Trong chùa ấy có một thiền khách cuộn lông mày, cắt tóc, tự là “si nhân”, mặc áo vải thô ngắn, tay cầm cây roi dài, cuồng hát nói tạp. Phàm những gì mà si nhân chỉ trích bài bác phần nhiều có ứng nghiệm. Trước lúc, ngài (Từng Quán) chưa đến đó, si nhân thúc dục Tăng chúng trong chùa lo quét dọn, bảo rằng: Không bao lâu nữa, có vị Bồ-tát đến sứ này. Niên hiệu Nguyên Hòa ( 8 0 6- 821), đời tiền Đường, ngài thị tịch, hưởng thọ trên bảy mươi tuổi. 1 6 5. Thần tăng Ẩn Phong Thích Ẩn Phong, người dòng họ Đặng, xứ Thiệu võ, Kiến châu. Từ thuở thơ bé, ngài như ngu cuồng không vâng lời song thân, mà xuất gia thọ pháp. Niên hiệu Nguyên Hòa ( 8 0 6- 821), đời tiền Đường, ngài nói đi đến núi Ngũ đài. Giữa đường đi ra Hoài tây, trông thấy Ngô Nguyên Tế cậy binh lính chống cự Vương mạng. Quan quân cùng giặc giao đánh lẫn nhau chưa quyết định hơn thua. Ngài bảo: Ta phải đến giải trừ sự giết hại này. Bèn nắm lấy tích trượng, bay mình giữa không trung từ từ mà đi, quanh qua giữa ra quân trận. Chiến só mọi người đều thấy vị Tăng bay vọt, bất giác rút mác hộp giao. Thế rồi, ngài đi khắp các linh tích, bỗng nhiên đến trước hang Kim cang xoay người mà tịch, sừng sững thẳng đứng như trồng. Mọi người thời bấy giờ bàn với nhau đào một linh huyệt trước rồi sẽ khiêng đến để thiêu, song nhục thân ngài cao vút cứng định như núi, hợp lực vẫn không lay động, mọi người xa gần đến chiêm ngưỡng kinh hãi thán phục. Ngài có một người em gái xuất gia làm cô ni. Cô đến Ngũ đài trừng mắt quát rằng: Lão huynh ngày trước chẳng tuân theo pháp luật, nay chết lại huyền hoặc mọi người. Bây giờ mọi người đã biết. Em tuy cùng cốt nhục, đâu dám sai lầm, xin lão huynh nên theo độ! Bèn đưa tay đẩy nhẹ, tự nhiên ngã nằm, rồi cử hành lễ trà-tỳ, thâu lượm xá-lợi nhập tháp, đề hiệu là Đặng Ẩn Phong. Để lại một bài tụng rằng: Độc Huyền Cầm, gãy tiếng vì anh Tùng Bách đông lạnh mãi thường xanh Vàng quặng hòa chung, tánh tự khác Tùy ý cùng anh thử lấy xem! Thần tăng Viên Quán Thích Viên Quán, không biết ngài là người xứ nào, ngài cư trú tại Lạc đô, bản tánh sơ sài đơn giản. Bấy giờ, ngài cùng Lý Nguyên kết bạn quên mình cùng nương tựa tại chùa Tuệ lâm, chỉ thường ngày cung cấp vật dụng, theo chúng Tăng ẩm thực mà thôi, như vậy suốt ba năm. Một ngày nọ, bỗng nhiên Lý Nguyên hẹn cùng ngài đi đến thành Thục thanh, núi Nga my… vào các hang động tìm cây thuốc. Ngài muốn đi đến Trường an theo đường Gia cốc, còn Lý Nguyên muốn từ Kinh châu vào Hạp châu, phân tranh hai đường suốt nữa năm mà chưa quyết định, Lý Nguyên nói rằng: Tôi đã chẳng thờ Vương hầu, hạnh chẳng muốn. Ngài bảo: Hạnh vô cố, hẳn xin theo lời bạn! Bèn từ Kinh châu lên Hạp châu, đi đến Nam Phổ, ghé thuyền. Thấy vài người phụ nữ điều đạt quần gấm, mang bình mà múc nước, ngài cúi đầu khóc, bảo: Tôi không muốn đi qua nơi này, sợ thấy phụ nữ ấy! Lý Nguyên hỏi về nguyên cớ, ngài nói rằng: Người phụ nữ đang mang thai đó, người giáng họ vương, là chỗ tôi gá thân. Đã trải qua ba năm mà chưa sinh nở, chỉ vì tôi chưa lại. Nay đã thấy vậy, mạng có chỗ tựa. Trong đạo Phật gọi đó là tuần hoàn. Xin bạn hãy dùng phá chủ khiến người ấy giáng sinh, vả lại, xuôi thuyền trở về thì đem thân xác tôi vùi chôn trong hang núi. Người nhà phụ nữ ấy khi tắm rửa cho đứa bé cũng mang bạn nên đến viếng thăm, nếu cùng xoay lại mỉm cười tức là còn biết về bạn vậy. Sau hai mươi năm, vào đêm trăng sáng giữa mùa thu, riêng ở ngoài chùa Thiên trú tại tiền Đường, đó là kì hạn gặp lại bạn! Lý Nguyên hối hận một chuyến đi ấy, bèn gọi người phụ nữ mang thai ấy đến nói rõ sự việc này. Người phụ nữ ấy vui mừng nhảy nhót trở về. Chỉ trong khoảng khắc, Lý Nguyên đi sang trao cho phù thủy. Còn ngài thề tắm rửa mà tịch! Người phụ nữ ấy sinh một bé trai, ba ngày sau Lý Nguyên sang thăm xem, quả nhiên vừa mới đến, đứa bé liền mỉn cười. Ngày sau, Lý Nguyên trở thuyền xoay về chùa Tuệ lâm, dò hỏi các đệ tử mới biết là đã an táng nhục thân ngài rồi. Lý Nguyên thường nghó nhớ ước hẹn đến Hàn châu. Đến kỳ hạn thì đến chùa Thiên trúc. Đêm đó trăng sáng tỏ, bỗng nghe bên bờ giếng cát hồng có tiếng mục đồng ca hát khúc nhạc Trúc chi, đang cỡi trâu gõ sừng, trên đầu lọn hai búi tóc, mặc áo ngắn, từ từ đi đến trước chùa trông xem. Lý Nguyên chạy lại bái chào, hỏi: Quan Công mạnh khỏe chăng? Mục Đồng đáp lại: Lý Công kẻ só thật tin! Tôi cùng bạn khác đường, cẩn thận xin chớ cùng gần. Bạn bận bịu duyên trần chưa hết, chỉ nên chuyên cần tu trì, không sa đọa tức bèn cùng gặp nhau. Lý Nguyên chẳng do đâu để nói năng rõ lời, chỉ trông nhìn mà rơi nước mắt. Mục đồng (Hậu thân của ngài Viên Quán) lại tiếp tục ca hát khúc Trúc chi trước mà đi. Ngôn từ tha thiết, âm điệu cao vời! Không biết cuối cùng như thế nào. Thần tăng Trí Biện Thích Trí Biện, không rõ ngài là người xứ nào. Thuở nhỏ đã anh minh tuấn tú, đến lúc trưởng thành lại chuyên cần tập học Phạm ngữ. Ngài mang hòm sách đi khắp các danh sơn, đến chùa Hoành nhạc dừng nghỉ hơn một tháng, thường ở chùa Nhàn trai, riêng tự tìm dịch giải ng- hóa sớ. Lại tự trách lầm lỗi của mình rằng: Chỗ giải nghóa lý chẳng trái ý? Ngài đang trầm tư suy nghó, bỗng nhiên ngẩn đầu, thấy một vị lão Tăng chống tích trượng vào, bảo rằng: Sư tụng đọc kinh gì? Luận cùng nghóa lý gì? Ngài nghi vị lão Tăng ấy là bậc khác thường, bèn tự thuật lại bổn duyên, nhân đó lại thêm sự hối trách. Lại nói rằng: Mong hiền đạt chỉ nam, xin cam tâm nhận lãnh, khóa miệng cứng lưỡi, không còn trở lại mở bày diễn giảng! Lão Tăng cười, bảo: Sự hiểu biết của sư rộng rãi, há không biết nghóa ấy? Các bậc Đại thánh còn không thể cứu độ người vô duyên, huống gì là người sơ tâm ư? Sư chỉ vì vô duyên với chúng sinh vậy! Ngài hỏi: Há trọn đời này như vậy hay sao? Vị Tăng ấy nói: Tôi thử vì Sư mà kết duyên! Bèn hỏi ngài rằng: Nay, sư hiện có được bao nhiêu tiền của lương thực? Ngài nói: Từ Nam đến Bắc, rách cả quần bọc chân. Đã trải qua vạn dặm, các vật mang theo đều hết sạch. Hiện tại chỉ đang thọ trì pháp y cửu điều mà thôi! Lão Tăng bảo: Vậy được rồi, hẳn nên đem bán hoặc đổi lấy trị giá rồi đều sắm các vật cháo nhừ, bánh bột, dầu ăn… Ngài bèn y theo lời dạy mà làm, ứơc chừng đủ hai mươi người ăn, rồi cùng lão Tăng đến trong đồng trống, rải nhặt bột bánh, đốt hương, ngài quỳ dái, cầu chúc rằng: Ngày nay những ai thọ thực vật tôi cúng thí, nguyện ở đời sau cùng tôi làm pháp thuộc. Tôi sẽ chỉ dạy, được đến Bồ-đề! Ngài nói xong, bỗng nhiên chim quạ bay xà tán loạn xuống mổ lượm trên đất, các loài ếch, kiến, ve, chấy rận chẳng biết số lượng đến là bao nhiêu … Lão Tăng bảo: Hai mươi năm sau, Sư mới có thể trở về khai mở giảng tịch, nay nên đi lại đó đây khắp mọi nơi, chưa nên giảng nói! Nói xong bèn bỏ đi. Từ đó, ngài chuyên cần miệt mài cùng sách đèn, nghó vị thấm đượm cành nhiều, chỉ nguyện vẫn ôm hoài truyền giáo. Đến hai mươi năm, ngài khước bỏ, trở về Hà bắc, mở mang hoằng hóa thạch hành trong Nghiệp đô. Chúng đông đến số ngàn người đều là độ tuổi dưới hai mươi còn người già chỉ vài ba người thôi. Thần tăng Tố Công Hòa thượng Tố, ngài ở chùa Hưng thiện tại Trường an. Trong sân viện có bốn cây ngô đồng xanh tốt, đều do chính tay ngài trồng. Trong niên hiệu Nguyên Hòa ( 8 0 6- 821), đời tiền Đường, các quang thần khanh tướng phần nhiều hay đến viện ấy. Vào mùa hạ, các cây ngô đồng nhỏ mồ hôi dơ áo người tợ như dầu mỡ, không thể tẩy giặt, chiêu quốc Trịnh Tướng đã cùng với Thừa Lang và vài người khác tránh nắng, ghét cái mồ hôi làm dơ bẩn đó, nên nói với ngài rằng: Đệ tử xin Hòa thượng cho chặt các cây ngô đồng này và mỗi nơi trồng lại một cây tùng. Đến chiều ngài đi dạo, đến bên cạnh cầu chúc các cây ngô đồng rằng: Ta gieo trồng các người đã hơn hai mươi năm, chỉ vì các ngươi mà mồ hôi dơ bẩn nên mọi người không ưa thích, năm tới nếu còn có mồ hôi. Ta hẳn chặt các ngươi mà làm củi vậy. Từ đó về sau các cây ngô đồng không còn đổ mồ hôi nữa. Ngài không bao giờ ra khỏi viện, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa đến ba vạn bảy ngàn bộ, ban đêm thường có con Hạc (tợ như con chó) đến nghe kinh. đến lúc thọ trai thì có chim quạ sà vào lòng bàn tay ngài lấy thức ăn. Đầu niên hiệu Trường Khánh ( 8 2 1-…) đời tiền Đường, có Sa-môn Huyền U đề thơ kệ tại viện ấy rằng: Ba mươi năm tụng trì Diệu pháp Nửa đời chẳng dẫm mấy trần dơ. Người thời bấy giờ lấy đó làm những câu hay đẹp. Thần tăng Hoằng Đạo Thích Hoằng Đạo không biêt ngài là người xứ nào, ngài trú tại chùa Thiên phước. Mọi người nói ban ngày đóng cửa để ngủ, đêm thì trông coi việc ở âm phủ. Mười sự khẩn cầu thì hết tám, chín sự cự tuyệt. Bấy giờ, Hà Trung Thiếu y Trịnh Phục lễ, ban đầu ứng thi Tiến só mười lần cất nhắc chẳng đậu, mới cho là khó khăn nên tức giận hãi hùng, bèn chọn ngày thiết trai tắm gội mong hầu. Bất giác rất tỏ vẽ hòa nhã, thủ bảo: Ta chưa từng quên giờ thẩm đối với người, nay người tài giỏi lại tán thán ôm chất củi. Vả lại từ lâu không thể nhẫn. Gắng nên tiến thủ, trọn thành mỹ danh. Nhưng sự việc ấy rất lạ thường nên không thể vậy. Trịnh bái xin ước mong ấy. Ngài bảo: Ước mong của ông phải hội đủ bốn sự kiện sau đó mới toại chí. Trong bốn kiện mà thiếu một thì trở lại mang oan. Như vậy tức là trong cốt nhục phải tương tục tiếp nối ba bảng yết thị, trước ba bảng còn khó như thang cấp lên trời, sau ba bảng thì dễ như trở tay. Trịnh ngạc nhiên trông nhìn mà không thể hiểu, thì lại bái xin danh mục của bốn sự kiện. Ngài chần chù giây lâu rồi bảo: Phải cẩn thận, chớ nói với mọi người về vấn đề thành danh của ông có bốn sự kiện, cũng có thể lấy làm lạ. Phải lúc quốc gia cải đổi niên hiệu qua năm thứ hai. Lễ bộ Thị Lang phải trở lại trong việc xem tiến cử. Phải là người thứ hai thuộc dòng họ Trương. Đầu năm đó phải có Quách Bất Lang. Trong bốn sự kiện mà khuyết một thì công thiếu một sọt. Như thế tức Hiền đệ, cháu chắt ba bảng yết thị nhất định phải y như vậy. Trịnh tuy rất nghi lời nói ấy, nhưng chỉ tỏ vẽ bực bội không vui, vì cho là không còn có hi vọng gì nữa, ben kính lễ bái tạ mà lui. Năm Trường Khánh thứ 2 (8 2 2) đời tiền Đường, có người nói tên họ ở Chu Văn, Trịnh cho đó chẳng phải là người trở lại trông coi việc tiến cử, trong ý rất nghi ngờ, quả thật không đỗ đạt. Cho đến lúc cải đổi niên lịch năm thứ 2 (8 2 6), mới đề xướng Dương Công trở lại Ty văn Bính. Trịnh riêng tự mừng sự việc ấy, nhưng chưa dám tiết lộ một lời, qua mùa Xuân năm sau, quả thật là đỗ đạt. Và người thứ hai dòng họ Trương tên là Tri. Thật là đồng năm đó Quách Bát Lang danh tiếng lừng lẫy. Trịnh lấy làm kỳ lạ, than thời gian lâu dài. Nhân đó ghi sao vào sách nhỏ. Riêng tự cho rằng: - Ngài nói ba bảng yết thị nhất định phải như vậy. Một đây đã khác lạ, có thể dẫn đến thứ hai, thứ ba chăng? Kế đến, nhân Thượng thư Hữu Thừa húy là Hiến ứng cử trong năm Thái Hòa thứ hai (8 2 8) đều có sổ sách danh dự ghi đầy đủ. Về chủ Văn chẳng trở lại trông coi việc tiến cử, nên ngày thi quả thật có sự giúp đỡ khắp cùng. từ đó ứng đến năm Thái Hòa thứ 9 (8 3 6) cử bại ở Thùy Thành. Cho đến lúc đổi niên hiệu Khai Thành năm thứ 2 (8 3 7), Cao khai trở lại Ty Văn Bính Hữu Hạt. Trịnh riêng lấy làm lạ việc ấy, quả thật năm sau đỗ đạt cao. Người thứ hai tên dòng họ Trương tên là Đường, đồng năm đó Quách Bát Lang tên là Thực, nhân đó lại phụ ở cuối sách nhỏ. Ba bảng yết thị tuy khuyết một, hai bảng vả lại không ít sai. Tại trong khúc môn, riêng tự nói rằng “Há ấy vậy ư”. Bấy giờ, không biết ngài đã đi đến xứ nào. Năm sau, nhân phụ Mã đô úy cảnh ứng cử, bấy giờ danh dự càng chuyển hợp. Đến khi đổi niên hiệu Hội Xương năm thứ 2 (8 4 2), lễ bộ liễu thị lang Hoàn trở lại ty Văn Bính, đô úy đỗ đầu Trạng nguyên, người thứ hai dòng họ Trương, tên là kinh. tật điều nói của ngài không sai. Thần tăng Thanh Công Thích Thanh Công, không biết ngài là người xứ nào, trú tại góc eo của Ba sơn. Ngài thường im lặng không nói, bỗng nhiên mà nói thì lúc nào cũng trúng. Bấy giờ ở Tây xuyên, Tiết soái đoàn Văn Xương phụ ngạc làm làm Chi giang Tể tướng, sau nhận làm đốc trách ở Giang lăng. Thuở thiếu thời Văn xương khéo tiếp nối văn chương, lúc trưởng thành tự chử cung khốn khổ nơi bụi đất. Khách đến thành đô thăm hỏi Vó Nam Khang Cao, Cao cùng tấu Thích họa, đạo không được lưu hành rộng. Thường vì sự nghiệp mà tự phụ, những người cùng đi đều là các kẻ só cao minh bèn bỏ phủ của Nam Khang. Kim Ngô tướng quân Bùi Bân đến trấn Lương xuyên, vời làm tùng sự, chuyển mượn đình bình phẩm Bùi Công phủ xong, Bùi Công từ phủ đi, nghe ngoài có các sự kỳ đặc bèn sang cầu dừng ở qua đêm, xin biết được mọi việc đã qua trước kia. Từ đầu đêm cho đến sáng sớm, ngài không nói một lời bỗng nhiên hỏi: Khoảng giữa rất thạnh cờ rủ xuống mà đến là ai? Bùi Công đáp: Há chẳng phải là Cao Sùng Văn? Ngài bảo: Không phải, nói lại đi! Bùi Công đáp: Đại Tông Văn là Vũ Hoàng Môn. Ngài bảo: Đoàn thập cửu Lang Phi Nhật tức là người ấy. Rất thạnh, rất thạnh. Bùi công tìm chứng cứ đó, bèn nói: Hại Phong hư dối, A sư chẳng biết. Nhân đó cười mà lớn. Do vậy càng thêm tự phụ. Hộ bộ viên ngoại Vó Xử Hậu ra nhậm khai châu Thứ Sử, bấy giờ đoàn Văn Xương nhận việc đô quan viên ngoại Phản Cổ Thiết án công đưa ra Đô môn. Vó Xử Hâu vốn thân tín Phật giáo, thừa lúc đến Hộc Minh thăm hỏi trước. Ngài vui mừng đón tiếp Xử Hậu. Xử Hậu nhân đó hỏi về thời gian trở lại. Ngài bảo: Một năm rưỡi, một năm rưỡi! Lại hỏi: Cuối cùng dừng nghỉ ở chỗ nào? Ngài đáp: Tể tướng phải là Giang biên đắc? Lại hỏi: Cuối cùng dừng nghỉ ở xứ nào? Ngài không đáp. Lại hỏi: Đoàn thập cửu lang thế nào? Ngài bảo: Đã nói rồi, gần đấy, gần đấy. Kịp đến lúc Vó Xử Hậu trở về triều chính lại nói điều nghiệm về một năm rưỡi. Đầu niên hiệu Trường Khánh ( 8 2 1-…) đời tiền Đường, đoàn Văn Xương tự cùng vị tiết chế Tây Xuyên, quả phù hợp lời nói của ngài. Vó Xử Hậu chỉ không hiểu Giang Biên đắc làm Tể tướng, nên rộng cầu hỏi các bậc trí giả giải chỉ, hoặc có người nương tựa chứng nghóa cho rằng Vó Xử Hậu hẳn từ Chiết tây, Hạ khẩu mà vào bái. Kịp đến lúc Văn Tông Hoàng đế lên ngôi ( 8 2 6- 836), Tự Giang để thủ mạng Vó Xử Hậu làm tướng, đến đó mới chứng nghiệm, cùng Châu Bình Công Đồng sai sứ đi sửa bảo tháp của thanh công, nhân khắc bia đá ghi lại việc ấy, liền lấy giấy viết ghi lại hai câu thơ: Hoa lê mới nở, đầu hoa hạnh Phương Nam điện ấp mừng có thừa. Tông nho vội khảo cứu đó, ngài chỉ nói là: Hại Phong A sư lấy câu kế. Tháng hai năm sau trừ kiểm hiệu, Hữu Bộc Xạ Trịnh Dư Khánh thay tước vị đó. Thần Tăng Duy Anh Sa-môn Duy Anh không rõ là người xứ nào, đã hay khéo thanh sắc lại hay biêt thuật số. Só nhân Lục Vân Ngô ứng cử tiến só, tại kinh đô thường qua lại. Mỗi lúc ngài thường nói về các việc nhỏ, không điều gì chẳng ứng nghiệm. Mùa Xuân năm Bảo Lịch thứ hai (8 2 6), đời tiền Đường, Tân Ngô muốn ngừng thi cử để trở về đất Ngô, bảo cùng ngài để thực hành kế sách. Ngài giữ lại một đêm sáng sớm mai ngài bảo với Tân Ngô rằng: Năm sau ông sẽ thành danh, chẳng cần phải trở về, chỉ lấy Kinh Triệu tiến đưa, hẳn ở thứ bậc cao. Tân Ngô nói: Tôi từng ba lần đến kinh Triệu chưa bao giờ được vị. Việc năm nay cảm thấy rất khó! Ngài bảo: Không hẳn vậy, việc thành danh của ông hẳn do từ Kinh Triệu tiến đưa, những xứ khác không thể được. Đến ngày mồng sáu tháng bảy, nếu ăn loài thủy tộc thì đỗ đạt và ở thứ bậc đặc thù. Tân Ngô bèn viết lên khung cửa sổ Tấn Xướng Lý để hằng ngày trông xét. Vài tháng sau, nhân đến cửa Bắc tónh cung thăm quan Nhất lang. Vừa gặp Triều khách bèn trở về dừng nghỉ qua đêm ở nhà người cháu là Nhân Lễ. Vừa mới vào, Văn Lễ mừng đón nói: Nhân có người mới cho cặp cá Lý, bèn muốn nấu đãi ông. Tân Ngô vốn ưa thích cá, chỉ bảo làm canh thôi và người nhà bưng lên đều ăn hết. Ngày hôm sau nhân nhìn lên khung cửa thì thấy ghi là ngày mồng sáu tháng bảy. Vội xa giá tìm đến ngài, bày chuyện lừa dối nói rằng: Sắp đến Bồ quan nên đến từ biệt. Ngài bảo: Đã ăn loài thủy tộc rồi, còn đi Bồ quan làm gì. Tân Ngô bèn tin tưởng sâu đậm thêm. Nhân lấy kinh triệu phủ, quả nhiên được cấp bậc đặc thù. Năm sau vào thi tuyển hoàn tất, lại đến hỏi ngài. Ngài bảo: Ông đã có tên trong sổ thi đậu rất cao, đang ở tại hạng ngoài mười lăm người trạng nguyên dòng họ Lý tên Cáp Dục Cước. Bấy giờ có quảng văn sinh Chu Cầu. Khi bàn luận đáng đỗ đạt, Quan Giám Ty đưa tên chưa đăng khoa. Tân Ngô nhân đó hỏi: Người ấy không phải là dòng họ Chu ư? Ngài bảo: Trong ba mươi ba người không có ai là dòng họ Chu. Đến ngày 24 tháng giêng, Tân Ngô nói đến Tùng phủ. Phủ chỉ cho bảng thạch chúc mừng viết ở vách tường. Hơn tháng sau treo bảng, thì người đỗ đầu trạng nguyên là Lý cáp, tên của Tân Ngô ở thứ 16, tức ba mươi người. Ngài lại nói với Tân Ngô rằng: Sau khi ông thành đạt danh vọng, sẽ ăn lộc thuộc phần ở Ngô việt, có một việc rất nhanh chóng. Sau, Tân Ngô đến làm việc tại xứ Việt, được nửa năm thì đột nhiên qua đời. Thần tăng Văn Sảng Thích Văn Sảng, không biết ngài là người xứ nào, sớm mở giải bụi trần phá bỏ lưới ái, theo thầy học đạo. Tự nhiên chẳng ngủ, những lúc mỏi mệt khốn cùng chỉ ngồi kiết già. Sau riêng một mình, ngài đến dừng ở tại Khâu Lũng, gặp lúc mưa dầm cả tuần, bên cạnh không người hầu hạ. Có một con rắn vào cuộn nằm trong tay ngài. Bấy giờ có người thỉnh ngài để thiết trai cúng dường, người ấy lấy làm lạ đã đến giờ mà người không tới, bèn lại sang cầu thỉnh. Thấy con rắn nên kinh hãi la thất thanh, con rắn mới từ từ bò xuống. Người ấy cố thỉnh ngài sang thọ thực, nhưng ngài khước từ cho rằng đã quá giờ trưa nên không ăn. Ngày hôm sau, có con chó sói nhe răng há mồm, nhảy cắn đôi ba lần như muốn nhai cắn. Ngài thương nó đói khát, lại tự suy nghó rằng: Hình hài ta là một đãy dơ uế không nên lẫn tiếc, ta sẽ thí xả cho ngươi một bữa ăn, cầu nguyện sớm được thành tựu thân hình kiên cố, còn ngươi thọ nhận sự cúng thí của ta đồng được trở về thiện hội. Bỗng chốc, con chó sói chuôi tai mà đi. Đến ngày ngài thị tịch, giữa không trung có tiếng chung khánh giao hòa lẫn nhau, kéo dài một thời gian lâu mới dứt. Thần tăng Giám Không Thích Giám Không, ngài dòng họ Tề, người xứ Ngô quận, thuở thiếu thời ít nghèo khổ, tuy siêng năng học tập mà ít ghi nhớ. Đến lúc tráng niên, thường luôn khốn khổ, ngài đi khắp các xứ Ngô việt và tuổi đã bốn mươi lăm. Niên hiệu Nguyên Hòa ( 8 0 6-…)thời tiền Đường, gặp lúc tiền Đường hoang sơ thiếu thốn, ngài bèn nghó đến chùa Thiên trúc cầu xin thọ thực. Vừa đến phía Tây chùa Cô sơn, đói quá không thể đi tới nữa, bèn dựa bên dòng tuyết, buồn khóc rên ró mới vài lời, bỗng có một vị Phạm tăng cũng ghé vào bên dòng mà ngồi, ngoái nhìn ngài cười bảo rằng: Pháp sư tú tài trải qua vị ngon nào chưa? Ngài đáp: Trải qua vị ngon thì có, nhưng tiếng gọi Pháp sư nghe sao trái ngược sai lầm quá. Vị Phạm Tăng bảo: Ngài không nhớ giảng kinh Pháp hoa ở chùa Đồng đức? Ngài nói: Đời nay tôi đã bốn mươi lăm tuổi, chỉ vòng quanh xứ Ngô sở, chưa từng ngẫm đến kinh khẩu, sao lại nói ở Lạc trung ư? Phạm Tăng bảo: Ngài đang bị lửa đói thiêu đốt chưa rảnh để nhớ lại việc xưa. Bèn lấy từ trong đẫy ra một quả táo lớn bằng nắm tay, bảo: Quả này trồng ở xứ đất nước tôi, vậy ngài ăn nó, nếu bậc thượng trí thì biết được mọi sự ở quá khứ và tương lai. còn kẻ hạ trí thì chỉ biết việc trước mắt mà thôi. Người quá đói, bèn ăn quả táo, vốc nước suối mà uống, bỗng ng- hiêng mình nằm trên phiến đá mà ngủ, khoảnh khắc tỉnh giấc nhớ lại việc giảng kinh ở chùa Đồng đức như là mới ngày hôm qua. nhân đó càng thêm gào khóc hỏi vị Phạm Tăng rằng: Hòa thượng Chấn hiện tại ở đâu? Đáp: Ngài chuyên tính chưa đến, lại là Sa-môn đất Thục, nay thì đoạn tuyệt phan duyên vậy. Lại hỏi: Pháp sư ngộ ở đâu? Đáp: Há không nhớ đùa phát đại nguyện tại trước tượng đá ở Hương sơn sao? Nếu chẳng chứng Vô thượng Bồ-đề, hẳn nguyện làm quỷ thần hùng dũng. Hôm qua, nghe đã đạt được đại tướng quân. Năm người mây nước thời bấy giờ, nay chỉ một mình tôi được người giải thoát, Riêng ông là kẻ só đói lạnh. Người khóc bảo: Tôi bốn mươi năm nay. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, hơn ba mươi năm chỉ mặc một chiếc áo vải thô mọi việc phù phiếm ở thế gian đều quyết dứt tuyệt cội nguồn, cớ sao cầu mong phước không hoàn bị ư? Mãi bị đói lạnh! Vị Phạm bảo: Do ngài ngồi trên tòa sư tử, rộng giảng lắm điều lạ lùng khiến những người học sinh tâm nghi hoặc. Giới châu từng khuyết mẻ, mùi tanh hôi còn sót lại, tiếng hỗn độn, âm hưởng trong trọn không có được, hình cong bóng vẹo, báo ứng hẳn nhiều. Ngài hỏi: Vậy làm sao giờ? Vị Phạm tăng bảo: Sự việc đời nay thì tôi không cùng tính, song việc đời khác thì cũng cảnh tỉnh với ông. Bèn dò tìm trong bình bát lấy ra một gương soi, trước mặt sau lưng thảy đều sáng suốt, nói với ngài rằng: Cần biết được phần sang hèn tu sửa trong thời hạn dài ngắn. Phật pháp hưng tán, đạo tu thạnh hay suy, nên xem qua gương này. Ngài soi nhìn giây lâu rồi cảm tạ rằng: Mọi việc báo ứng với lý thạnh suy, chỉ biết như thế vậy. Vị Phạm tăng nhận lấy lại gương bỏ vào trong đấy, bèn mang mà đi. Đi chừng mười bước liền không thấy đâu nữa. Đêm đó, ngài vào chùa Linh ẩn cầu xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Sau, ngài đi khắp các danh sơn, càng cao tiết khí khổ hạnh. đầu niên hiệu Thái hòa ( 8 2 7-…) đời tiền Đường, ngài đến Lạc dương. Tại Long môn chùa Thiên trúc gặp Liễu Trình người ở Hà đông bèn cùng tỏ bày nguyên do ấy. Liễu Trình nghe điều ngài nói đều là khác thường, vả lại rất khác lạ. Ngài bảo: Đời này tôi sống được bảy mươi bảy tuổi, ba mươi hai hạ lạp, như vậy là còn mang bình bát khất thực ở đời chín nữa. Ngày tôi xả bỏ báo thân là lúc Phật pháp suy khốn. Liễu Trình hỏi vặn lại, ngài im lặng không đáp bèn đòi mượn bút nghiên đề vài hàng lên phía Bắc tường kinh tạng mà đi. Ngài biết rằng: Hưng dấy một hạt cát, suy bại như số cát sông Hằng, thỏ mà giăng lưới, chó mà đuổi bắt, trâu hổ đấu nhau cùng sừng răng, Hoa đàm báu trọn không thể phá diệt hoa ấy. Thần tăng Vô Trước Thiền sư Vô Trước Văn Hỷ vào núi Ngũ đài mong cầu được thấy Bồ-tát Văn-thù bỗng thấy ông núi. Ngài ghi lại rằng: Nguyện muốn được thấy Đại só Văn-thù. Ông núi nói: Đại só chưa thể thấy được. Ông đã ăn cơm chưa? Ngài đáp: Chưa. Ông núi bèn dẫn vào trong một ngôi chùa đến trong nhà bảo ngài ngồi. Có một đồng tử bưng dâng một cái chén bằng đồi mồi, vật đựng trong chén tợ như Tô lạc, ngài uống vào, cảm thấy tâm thần trong lắng sáng suốt. Ông núi bảo: Ở phương Nam, Phật pháp hiện tại như thế nào? Ngài đáp: Các Tỳ-kheo trong thời mạt pháp ít phụng trì giới luật. Lại hỏi: Chúng Tăng có được bao nhiêu? Ngài đáp: Khoảng ba trăm đến năm trăm vị. Ngài lại hỏi: Ở đây Phật pháp hiện nay như thế nào? Ông núi đáp: Rồng rắn hỗn tạp, Thánh phám đồng ở với nhau. Ngài lại hỏi: Chúng được bao nhiêu? Ông núi đáp: Trước ba ba sau cũng ba ba. Bèn cùng nhau bàn luận đến chiều, ông núi bảo đồng tử dẫn đưa ngài ra. Đi chưa bao xa, ngài xót thương tỏ ngộ ông núi tức là Bồ-tát Văn-thù, không thể trông thấy lại được, bèn cuối đầu bái chào đồng tử xin một lời từ biệt. Đồng tử nói: Vô cấu vô nhiễm tức là chân thường. Nói xong, đồng tử và ngôi chùa đều ẩn mất, chỉ còn thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi con sư tử lông vàng qua lại trong ráng mây năm sắc rồi tự nhiên mây trắng phủ khắp không còn thấy nữa. Thần tăng Tri Huyền Ngài Tri Huyền, Ngộ Đạt quốc sư tình cờ gặp một vị Tăng ở tại chốn kinh đô. Bấy giờ, vị Tăng ấy mắc bệnh Ca-la-ma. Mọi người không biết ấy là Thần dị nên đều nhàm gớm, chỉ mình ngài chăm sóc hầu hạ không tỏ vẻ mệt mỏi. Sau, đến lúc từ biệt, vị Tăng ấy nói với ngài rằng: Ông sau này gặp nạn, nên đến núi Trà lũng, Bành thành, Tây thục đế cùng gặp, nơi có hai cây tùng làm dấu. Sau đó, ngài trở lại chùa An quốc, vua ý Tông thời tiền Đường đích thân đến nơi Pháp tịnh nghe ngài giảng pháp ban tặng ngài một Pháp tòa bằng gỗ trầm hương, ân sủng sâu đậm. Bỗng nhiên trên đầu gối ngài sinh ra mụt nhọt mặt người có đủ mắt mày răng miệng, mỗi lúc đút thức ăn thì mở miệng nuốt lấy như người thật không khác. tìm cầu các danh y trị liệu song không hiệu nghiệm gì. Nhân đó, nhớ lại lời nói năm xưa, ngài bèn vào núi cùng tìm thấy hai cây tùng ở giữa khoảng mây khói, ngài tin điều ước hẹn không sai, liền đi đến đó, thấy chùa Phật sáng ngời nghiêm lệ, vị Tăng trước kia đang đứng ở cửa, ngoái trông tiếp đón ngài rất vui vẻ. Trời đã sẫm tối, nên dừng ở qua đêm, ngài đem tất cả nỗi thống khổ nói cùng vị Tăng ấy. Vị Tăng ấy bảo: Không thương hại gì. Tại núi này có dòng suối, sáng sớm mai ra tẩy rửa hẳn sẽ lành. Đến sáng, có đồng tử dẫn người đến chỗ suối, vừa mới vốc nước, bỗng nhiên mụt nhọt nói tiếng người, bảo rằng: Xin khoan tẩy rửa. Ngài đã từng đọc bộ Tây hán thư chưa? Ngài đáp: Đã từng đọc. Mụt nhọt lại hỏi: Đã từng đọc sao không biết Viên án giết Triệu Thố ư? Ngài chính là Viên án, tôi đây tức là Triệu thố. Triệu thố bị chém ở phía Đông chợ. Nỗi oan ấy biết làm sao ư? đã nhiều đời, tôi cố tìm ngài để báo thù, mà ngài đã mười đời xuất gia làm Tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi không tiện báo thù. Nay ngài thọ dụng sự ban tặng quá sức xa xỉ. Tâm danh lợi mong khởi, nên tôi mới có thể đến hại may nhờ Tôn giả Ca-nặc-ca dùng nước pháp Tam-muội để tẩy rửa cho tôi, từ đây không còn phải bị oan nữa. Khi ấy, tâm thần ngài không trú tại thể vội vốc nước để tẩy rửa đi, nỗi đau nhức thấu cả cốt tủy, ngài ngất đi rồi sống lại, mụt nhọt ất cũng liền lành hẳn. Ngoáy đầu nhìn lại thì chùa Vũ tự nhiên không thấy, nhân đó, ngài dựng am tranh tại đó rồi biến thành ngôi Đại tự. Ngài cảm sự kỳ dị ấy nghó rằng oan khiêng nhiều kiếp, nếu không gặp được Thánh hiền thì chẳng do đâu mà được cởi mở. Nhân đó thuật lại sáu văn ba quyển. Bởi lấy nghóa dùng nước Tam-muội để tẩy rửa oan nghiệp nên gọi là Thủy Sám.  <卷>QUYỂN 9 Thần tăng Kim Cang Tiên Sa-môn Kim Cang Tiên, ngài người xứ Tây Vực. Ngài đến trú tại chùa Hạp sơn xa vắng, rất tài giỏi Phạm âm, khảy lưỡi, lạy động tích trượng vào các vật, không vật gì chẳng ứng nghiệm. Ngài khéo giam tà ủy mî, bó buộc muỗi lằn, động tích trượng một tiếng với nhóm sấm sét chấn động. Một ngày nọ, tại chùa Hạp sơn có Lý phác mang búa chặt đốn cây lớn để xẻ làm thuyền. Bỗng nhiên lên núi thấy một tảng đá lớn, trên mặt có một lỗ hang, thấy một con nhện rất lớn, chân rộng hơn cả trượng, có bốn con rắn quấn cỏ lấp hang ấy mà đi. Bỗng chốc nghe trong rừng cây có tiếng rống mạnh dữ, các người thợ lo sợ nương theo cây mà xem xét, quả nhiên thấy con rắn Hổ chỉ cầu, lớn đến vài mươi trượng cong vây quanh hang nhện. Đầu của nó khắp cả Đông tây, bỗng nhiên đầu ở phía Tây nhảy cẩng lên hút nhiều cỏ trong hang ấy mà bay ra nhả đổ ra ngoài hết, sau đó lại đầu phía Đông họa mắt nó há mồm lớn, hút lấy con nhện. Con nhện theo ra, dùng chân bắt lấy miệng hang, ép chất độc đó cháy như lửa thiêu đốt cổ họng và khử trừ mặt của rắn hổ, rắn hổ lờ đờ rồi sống lại, ngẩn đầu hút lấy, nhện không thấy lại càng sửa độc hại rắn. Rắn bèn lật đá mà chết. Con nhện men theo đó nếm thử ruột của rắn hổ. Bên trong gãy mất hai chiếc răng đều kéo ra theo tơ mà bỏ vào trong túi, nhảy đạp ra khỏi hang mà đi. Lý Phác ngờ lạ trở về lại chùa Lạp sơn nói lại cùng ngài. Ngài bèn cầu Lý Phác chỉ nghiệm ở hang rồi lắc vòng tích trượng mà chú nguyện. Con nhện liền ra trước mặt ngài nghiêm chỉnh như Thần thánh. Đến lúc ngài đưa tích trượng xúc chạm đến nó, con nhện bèn ngã chết bên cạnh hang. Đến tối, ngài mộng thấy một ông già bưng xấp lụa đến trước mặt ngài, thưa rằng: Tôi là con nhện đây, lại hay dệt được lụa này. Kính lạy ngài và nói tiếp: Nguyện muốn làm y phước điền. Nói xong bèn biến mất. Ngài tỉnh giấc thì xấp vải đã ở bên cạnh mình, nó tinh diệu kỹ xảo khác hẳn sợi tơ của người thường làm. Ngài dùng đó để may y, bụi dơ không dính bám. Sau vài năm ngài muốn sang Phiên ngung rồi lên thuyền vượt biển trở về Thiên Trúc và ở tại bờ đầm Kim tỏa nơi Hạp sơn, chấn động tích trượng hô lớn mà chú nguyện vào nước, bỗng chốc nước mở thấy tới đáy, ngài dùng bình tắm trương ra, trong bùn có một con cá thu dài độ ba tấc nhảy vào trong bình. Ngài nói cùng chúng Tăng rằng: Đây là rồng. Tôi sắp đến cửa biển lấy thuốc nấu làm cao xoa chân thì được qua biển như đi trên đất bằng phẳng. Đêm đó có một người già mặc áo trắng mang khạp chuyển quang đến chùa, có người nhà truyền kinh nói rằng: Biết ngài ưa thích rượu, trong khạp này một bên để rượu ngon, một bên để rượu nồng độc. Khạp ấy là của vua Tuệ đế từng dùng với đam ngưu tướng quân, nay có trăm lượng vàng rồng phụng dâng ông hãy vì mang rượu độc này đưa đến vị Tăng ấy, vị Tăng ấy không sao lấy con ta làm cao, hận ấy thống đau suốt cả cốt tủy, chỉ vì không biết tính làm sao. Truyền kinh mừng nhận lấy vàng và rượu, được phép của chuyển quan đi đến chỗ ngài. Ngài bưng lấy chén muốn đưa vào miệng, bỗng nhiên có đứa bé độ vài tuổi nhảy ra đến tay che bịt lại, bảo rằng: Rượu ấy là chỗ rồng tương lai làm độc hại ngài đó. Ngài kinh hãi hỏi truyền kinh. Truyền kinh bèn không dám che dấu. Ngài mới hỏi đến bé rằng: Ngươi là người gì mà lại cứu giúp vậy? Đứa bé đáp: Con là nhện năm xưa đây. Nay đã lìa khỏi ác nghiệp mà thác sinh làm người đã được bảy năm. Hồn tôi có phần linh hiển so với người thường, biết ngài có nạn nên xuất hồn bay đến để cứu hộ. Nói xong liền ẩn mất. Chúng Tăng nghe nói vậy rồi thì đều cùng nhau lễ bái, cầu xin ngài thả con rồng ấy. Ngài bất đắc dó bèn tha cho nó. Sau đó, quả thật ngài nương thuyền trở về Thiên Trúc. Thần tăng Hoài Tín Thích Hoài Tín, ngài ở tận Quảng lăng, không có kỳ tích gì đặc biệt. Năm Hội Xương thứ 3 (8 4 3), đời tiền Đường, vua Vũ Tông vì Triệu Quy Chân bài hủy Phật giáo, muốn tiêu diệt giáo pháp. Ở Hoài nam có từ khách Lưu Ẩn Chi bạc du Tứ minh. Trong đêm thuyền ghé nghỉ mộng thấy như đang trôi nổi giữa biển. Xoay đầu nhìn lại thấy một ngôi tháp ở Đông đô. Đó là tháp ở chùa Tây linh, Hoài nam. Tháp đó cao vút không ít so với tháp Vónh ninh của Hồ Thái Hậu. Ở tầng thứ ba của tháp, thấy Tín Bằng Lăng cùng Ẩn Chi giao đàm, Thả nói: Tạm đưa tháp qua Đông hải, khoảng một tuần thì hoàn trả lại. Vài ngày sau, Ẩn Chi trở về Dương châu liền đến tham yết ngài. Ngài hỏi: Có nhớ lúc gặp nhau trên biển chăng? Ẩn Chi hoát nhiên tỉnh ngộ. Sau đó vài ngày, lửa trời thiêu đốt tháp cháy rụi hết, mưa trắng nghiêng tưới mát. Bên cạnh có ngôi nhà cỏ tranh không tổn hại gì. Do đó mà quán xét, mọi người ở Đông hải đều có thấy tháp Vónh ninh. Thần tăng Trí Quảng Thích Trí Quảng, ngài dòng họ Thôi, không biết là người ở xứ nào, oai đức hoàn bị, căn đạo bền bỉ, hóa hành rộng lớn thanh nhã, đặc hiển kỳ tích. Phàm trăm loại bệnh nhân tìm đến ngài, thì ngài hoặc dùng phiến trúc hay gậy chỉ vào chỗ đau, đánh một cái, tức khắc không bệnh gì cũng lành. Hoặc người bị co quắp liền khỏi, người quê liền chạy đi được. Từ đó về sau càng thêm thần nghiệm. Khi gặp người bệnh thì hoặïc đánh hoặc quát mắng liền khỏi. Hoặc bảo đốt giấy tiền nhặc tán để uống. Hoặc gặp người bệnh rất thống não, vấn giấy thấm nước dán vào cũng lành. Ngài từng ẩn độn dưới sông ngòi hồ chủ nguyện nuôi dưỡng cá, trải qua một đêm thì cá ấy lớn dài vài thước trở lên. Có đến ức vạn con đều nổi lên trên mặt nước mà chết, nhờ nép theo dòng nước mà cả mười ngàn con cá sinh lên cung trời Đao-lợi. Đầu niên hiệu Hàm Thông, thời tiền Đường, ngài đến núi Cửu tòa, bỗng gặp một con trăn lớn đến nuốt chẩn người, ngài quăng tích trượng bay lại làm trụ chống ngăn miệng nó rồi ngài ngồi trong miệng nó kiết già nhập định. Thần đến xin tạ tội ngài chẳng đoái hoài, đến lúc ngài xuất định thì con trăn đã hóa thành đá. Kế tiếp sấm sét chấn động mưa lớn làm cát xoáy trào thành đất, Sơn thần dời núi tám phương đều râm mát chiếu sáng lại. Đến năm Càn Phù thứ 3 (8 7 6) ngài thị tịch. Thần tăng Tùng Gián Thích Tùng Gián, ngài dòng họ Trương, người xứ Nam dương, theo đến ở Quảng lăng, làm họ Thổ trước. Ngài thân cao tám thước, mắt mày kỳ khôi, qua khỏi độ tuổi tráng niên, bỗng nhiên ngộ chân lý, bèn xả bỏ vợ con cắt tóc xuất gia. Từ đó tinh nghiên thiền quán tâm cảnh rõ ràng, chưa đến mười năm mà các bậc Tuệ đức lão thành thảy đều kính phục. Đến lúc ngài đến kinh đô Lạc dương, dừng ở tại chùa kinh ái, với tuổi tác đức hạnh của ngài đều đã trở thành nơi quy hướng của cả tăng só lẫn đạo só. Mỗi lần phó trai ứng cúng, ngài đến đối diện tôn giả Tân-đầu-lô mà thọ trai. Ngài được cả trời người kính phục khâm phục như thế. Vua Võ Tông ( 8 4 1- 860) đời tiền Đường kế thừa vương vị đổi niên hiệu Hội Xương ( 8 4 1-…), mến mộ hình nghi ngự phượng tham hạt, lạnh nhạt với giáo nghóa điểm hắc giáng long, bèn phá hủy tất cả tháp miếu khắp trong nước nhà, buộc các hàng Sa-môn hoàn tục. Ban đầu, ngài bèn mặc áo thô gai chít khăn mỏ quạ tiềm ẩn nơi dòng suối của Hoàng Phủ Mai hành riêng biệt nghiệp. Sau ngài lên sườn núi giữa cây cao sầm uất mài bằng mặt đá lớn. Những ngày mùa hạ, ngài thường nhập định ở trong hoặc chuyên việc vá may nhỏ nhiệm. Bỗng một ngày nọ, mây đổ mưa tuôn sấm chớp nổ vang bên cạnh đá mọi người chạy vào trong rừng, ngài vẫn điềm nhiên ngồi kiết già như không nghe biết gì mọi người đến hỏi ngài từ từ bảo: Ổ súc sinh mà thôi. Đến đầu niên hiệu Đại Trung (8 6 0), vua Tuyên Tông ( 8 6 0- 874) đời tiền Đường, phục hưng Phật giáo, ngài trở về Đông đô ở chỗ cũ. Các người con của ngài từ Quảng lăng tìm đến hầu thăm, gặp ngài ở ngay cửa huyện, do oai nghi dung mạo nghiêm trang nên không nhận biết ra ngài. Mới lễ bái và hỏi chỗ ngài ở, ngài chỉ và bảo: Ở gần đầu đông. Các người con đi rồi ngài liền đóng cửa không bước ra, vì ngài đã cắt tiệt lưới dây luyến ái. Trong tháng năm năm Bính Tuất (8 6 6) thuộc niên hiệu Hàm Thông ( 8 6 0- 874), bỗng nhiên ngài đến khắp các nhà tín chủ và đều bảo rằng: Hãy khéo tu phước nghiệp, đầu mùa thu năm nay bần đạo sẽ đi xa nên nay đến cúng từ biệt. Đến ngày rằm tháng bảy, đang lúc sáng sớm ngài tẩy rửa tay chân, đốt hương xưng niệm danh hiệu Đức Từ Thị Như Lai, nghiêng phía hữu mà nằm, gọi các vị đệ tử như Huyền Chương… vào răn dạy: Sinh làm người khó được, các đường xấu ác dễ trầm luân chỉ có quy mạng Thích Tôn gắng tinh tu phạm hạnh, thắng hội Long hoa sẽ cùng gặp lại. Đời này đã đến bờ bến, nên cùng từ biệt các ông. Ngày đó, ngài không bệnh tật gì, an nhiên thị tịch hưởng thọ hơn tám mươi tuổi. Các đệ tử Huyền Chương… vâng phụng di chỉ đưa nhục thể ngài vào rừng Thi-đà ngoài cửa Kiến xuân cấp thí cho các loài chim thú. Ba ngày sau trở lại xem dung mạo ngài vẫn như lúc sống, không vật gì dám lại gần, bèn lại dùng bột bánh rải lên. Trải qua một đêm thì có vết chân của chồn chó và chỉ ăn bột bánh, da dẻ ngài vẫn y nguyên. Khi đó mới theo pháp ở Thiên Trúc cử hành lễ trà-tỳ, song thu nhặt hài cốt còn lại xây dựng một ngôi tháp màu trắng ở bên cạnh đường đi, quanh năm dâng cúng hương hoa. Thần tăng Phổ Văn Thích Phổ Văn, ngài là con thứ ba của Huy Tông đời tiền Đường. Ngài sinh ra mà có tướng cát tường, mặt mày phong cốt thanh chân như họa vẽ, tánh không ưa thích cay nồng. Vua Huy Tông rất mến yêu nhưng ngài không có ý sửa trị việc đời, vua tính trăm kế ung đúc luyện đạo mà không xoay chuyển. Đến năm Trung Hòa thứ nhất (8 8 1), thiên hạ tạo loạn vua Huy Tông chạy đến đất Thục, các hàng thân vương tôn thất thảy đều trốn mất, ngài bèn cắt tóc vượt tìm đến tham yết Thạch Sương gia. Thạch Sương gia tiếp đón vô cùng thán phục, nói với ngài rằng: Ông nương nguyện lực sinh trong nhà vua chúa lại thoát thân theo ta, thật là hoa sen trong lửa. Tối đến ngài vào thất hỏi Tổ sư về việc biệt truyền, Thạch Sương gia bảo rằng: Đợi điểm đầu núi tức sẽ nói cùng ông. Ngài nhân đó khế ngộ nương tựa vài năm mới xin tham quan khắp các danh sơn. Thạch Sương gia bảo: Gặp càn thì dừng, gặp trần thì ở. Từ đó ngài đi xa qua Chiêu Võ đến đại Càn, xa trông thấy đỉnh núi quả nhiên thanh tú bèn hỏi một cụ già rằng: Tại đó có người ở chăng. Cụ già bảo: Có Trần Tự bấy lâu nay ẩn cư tại đó. Nhân đó ngài ngộ được lời của thầy liền phát cỏ đi đến chân núi. Trần tự chỉ một lần gặp liền chia tòa ngài cùng ngồi. Nhân sinh ra quả để trồng nguyện cầu đấu hộc. Trần tự bảo: –Đâu có đấu hộc, chỉ do một hộp, ngài bèn vào núi phá vỡ đất gieo trồng. Sau, mọi người ở cửa hang cùng nói với nhau rằng: Ngày trước có vị Tăng vào núi đến nay chẳng ra hẳn là bị hổ ăn thịt rồi. Bèn cùng nhau vào xem xét thấy một mái nhà tranh với vài hành giả, chỉ một tiếng hô trăm tiếng vâng dạ mà chung quang sườn núi rau quả xanh bít. Bởi cày trồng rau là do thần núi gieo rắc, hành giả là hổ. Trần tự biết sự ưu việt của ngài bèn nói: Tôi ở đây thường bị nhiều nỗi khỏ bởi ác thú độc trùng, ngài lại thì đều lặn hết. Đạo đức của ngài tôi không thể kịp, duyên tôi gieo trồng ấy thuộc về ngài. Thế rồi tiếng tăm đạo đức vang xa, các hàng kẻ tăng người tục cùng nhau tụ hội, bèn trở thành một ngôi chùa lớn. Bỗng nhiên có một ông già đến quỳ lạy cầu xin rằng: Tôi là thuộc loài rồng, nhà ở tại núi này để lo việc cấp mưa. Do không chuyên chú nên bị trời trách phạt tôi chết. Xin ngài ban ân cứu hộ. Ngài bảo: Ông đắc tội với thượng đế, ta làm sao có thể dốc lực. Tuy nhiên ông có thể cải đổi thân hình khác mà lại thì có thể. Bỗng chốc ông già hóa làm con rắn nhỏ, ngài dùng tích trượng dẫn vào Tịnh bình. Giây lâu sau, sấm gió cắp xốc giường ngồi, núi non lay động. Ngài vẫn an nhiên ngồi đến sáng, trời trong mưa tạnh, con rắn từ trong bình bò ra, lát sau hiện lại hình ông già đến cảm tạ, thưa rằng: Nếu không nhờ pháp lực của ngài thì máu thịt tanh hôi khắp cả vùng đất này. Không biết lấy gì để đáp đền ân đức, nay trong núi này vốn không có nước biết lấy gì để an ổn chúng Tăng, tôi sẽ dẫn nước đến kính dâng ngài và cả đạo tràng vậy. Liền ở trên hang cao cùng nguồn, mổ thành hang đá nước suối tuôn trào trong veo, lúc đầu chỉ là dòng nhỏ sau tràn lớn bèn thành hồ. Nay ở lưng chừng núi còn gọi là Long hồ, tức phát xuất từ đó. Lúc đông lạnh không đóng băng, giữa nắng nóng chẳng khô kiệt. Dòng nước ấy tuôn chảy bốn hướng tưới tẩm cho vài trăm khoảng ruộng, cả nước bèn cho là thành nhân, bèn tạo dựng nhà thờ ở trên quanh năm hưởng sự cúng tế. Nay gặp tiết thượng nguyên là ngày hạ sinh của ngài, rồng hẳn đến chầu tạ có ứng hiện mây khí tốt lành. Ở bên phải của viện, cách mười lăm dặm có miếu của tùy nghóa Ninh Âu Dương thái thú, tức nay là Phước Thiện vương. Miếu đó dựng lập đến nay là đã hơn hai trăm bảy mươi năm. Vị thần thờ ở đó rất linh hiển, ban giáng họa phước khắp cả nước này. Dân chúng kinh sợ cúng tế muôn sinh không này trống. Ngài thấy vậy mà xót thương. Một ngày nọ, ngài cầm roi gậy đến dưới đền thờ nói kệ thấy ý, lại ban cho lời ước hẹn rằng: Nếu có thể ăn chay trì giới không giết hại, thì cò thể gần gũi. Đêm đó trong thôn xóm có ông gìa mộng thấy thần bảo rằng: Ngày nay ta thọ giới pháp của Thiền sư, không còn hưởng dụng máu huyết nữa. Nên cúng tế ta như cúng dường các vị Tỳ-kheo là đủ. Việc cải đổi cúng tế máu thịt thay vì chay tịnh từ đó đến nay vẫn tuân theo như thế, người thần đều an. Thần hiển linh dị hộ độ trì núi ấy, người nói rằng: Ngài đã cùng với thần dùng đạo lực để so kém hơn thấp. Bên cạnh miếu có cây tùng lớn vóc dáng xen trời, ngài đưa tay đè xuống quét đất ba vòng, mà Thần chỉ quét đất hai vòng, bèn khuất phục mà theo ngài. Một ngày nọ, ngài nhóm họp đồ chúng, bảo rằng: Ta sắp đến nơi khác, mọi việc tại viện đều giao phó cho hai vị Thông, Giáo. Bèn nói kệ rằng: Ta lánh đời khó cầu xuất gia Thầy tổ chỉ bày chỗ nghỉ thôi Ba mươi năm rừng sâu nhân chúng Đời người chẳng muổn xem thường giao Ngày nay tỏ rõ nói cùng cả Ta nháy mắt thời đều lắng nghe. Chúng tăng trong chùa buồn thương cố thỉnh vì Phật pháp mà trụ lại ở đời. Ngài bảo: Các ngươi há không biết ý chỉ của Tổ sư Đạt-ma mang một chiếc giầy trở về trời Tây, khắp hóa toàn thân thoát bỏ? Cố sao lấy sự khứ lai sinh diệt mà trông nhìn ta. Thế rồi ngài cỡi hổ lúc sáng sớm đến Tín châu ứng cúng. Đến đó, vào trong phòng Tăng nhóm tập trai cúng dường. Ngài đến vị trưởng giả lại xin thêm một phần cho hàng giả, ông trưởng giả bảo rằng ngài dến một mình nên không chấp thuận sự cầu xin của ngài, bèn tìm một chén nước phun và gậy hóa thành hổ cỡi cao mà đi đến chùa Khai nguyên mà Tăng chúng ở hồ Long hồ đến đó tìm ngài, ngài phú chúc rằng: Ta không trở về trong núi, ở đó đã có Thiền sư Thông rồi. Nên tại chùa Long hồ không có tháp của Tổ sư Khai Sơn, chỉ có ngài cỡi hổ. Đó là chứng tích xưa nay. Lại có Thiền sư Thủy Chiếu tự tả chân tượng của ngài, đến nay vẫn còn, ban sắc Thụy hiệu là Viên Giác Thiền sư. Phàm những ai cầu đảo gì đều cảm ứng như hưởng. Và trước viện có cây sam nơi tòa ngài ngồi, đến thời gian này thường trổ hoa lạ. Thần tăng Hoài Tuấn Thích Hoài Tuấn không biết ngài là người xứ nào, vừa quả quyết mà lại ngông cuồng. Ngài ngược biết mọi việc ở tương lai và nó ứng cảm như thần. Khoảng niên hiệu Càn Ninh ( 8 9 4- 898) đời tiền Đường, chẳng rõ từ đâu, ngài đến Ba đông, ngài lại có tài năng tự nhiên về bút Pháp viết chữ thảo, hoặc trên vách tường Chùa quán, tiệm, chợ viết lên những lời trong kinh Phật, những bài pháp của đạo giáo, cho đến những ngôn từ thi ca quê kịch thô bỉ, không lời nào mà ngọn bút của ngài không viết được. Đồng thời ngài chỉ nói A Duy mà thôi. Dân chúng trong làng cho là Thần thánh nên tiếp đãi. Thứ sử Vu Công lo sợ đó là cuồng hoặc chúng, bèn bắt giam tù ngục cật vấn nạn ngài, ngài liền cùng thi từ nói rõ tình trạng, từ ý toàn tại Đông tây của Mân xuyên, chương cú hay đẹp. Tướng châu lấy làm kì dị mà thả ngài ra. Ngài lại nói rõ ý chỉ đó là nghe ở trong biển, nghe làm cái chén để vượt qua dòng sông. Lữ hành trải qua chỉ một chiếc thuyền mà đến tham yết. Ngài biện rõ mọi chuyện cát hung trên dưới đỉnh núi, mọi chuyện lận đận của việc buôn bán kinh cầu, các người khách đến khẩn cầu, ngài chỉ viết năm, ba hàng trọn không nói rõ mà sau mọi việc xảy ra có nhiều ứng nghiệm. Bấy giờ, kinh Nam đại Hiệu Chu Sùng Tân đến tham yết ngài, ngài viết thư rằng: - Giao phó Hoành đô khám xét ngươi. Sau Sùng Tân vào triều cống nhân vương Sủy Nam dò xét, bèn bị bắt trói tại Nam Phủ, cuối cùng bị giết chết. Áp Nha Tôn đạo năng đến thăm ngài, ngài viết chữ giao phó chùa Trúc lâm. Năm đó vật vã, xây mồ an tán ở nền chùa Trúc lâm cổ xưa. Hoàng Phủ Huyễn Tri Châu, ngài mới họa vẽ một người mang cùm bên cạnh có một người nữ, tầm lấy vợ ở nhà người, người nữ sai tố tụng bèn bị giam cầm thân vào phủ vậy. Có Mục Chiên Tự, thuộc chủng tộc Ba tư, thuở thơ ấu rất ham thích dược thuật, theo phụ thân đến tham yết ngài, ngài họa vẽ một vị đạo só cỡi mây, nâng giắt một bầu hồ, viết rằng: “Chỉ huy sứ Cao Mỗ Điệp Nha, nâng đẩy mục sinh sau dùng y thuật có hiệu nghiệm. Nam bình vương Cao Tùng Hổi sai Sử Mục Chiêu Tự bỏ đạo theo Nho, giản nhiếp phủ Nha, nâng đẩy Thuộc Vương Súy đánh kinh Châu, ngài viết thơ đưa dâng Nam Bình Vương rằng: Dấu ngựa dần vào lối Dương châu Thân quyến phải nên rửa mắt nhìn. Năm đó dòng họ Cao dốc lòng thành thật ở Hoài nam, bèn mở vòng vây lớn. Ngoài ra những vết tích kỳ lạ phần nhiều cùng loại như thế. rằng: Bỗng một ngày nọ, ở trước sân, ngài viết trên ngọn lá chuối Ngày nay đã trả nghiệp oan trái. Khắp châu huyện lại không dò xét đến cùng, mọi người qua lại thấy kỳ lạ, không ai chẳng để ý, bỗng có một người đến giết hại ngài, thân đầu lìa nhau. Quan thứ sử vì thế lo việc cử hành lễ trà-tỳ./. Thần tăng Tân Thất Sư Tân Thất Sư, ngài người xứ Thiểm tây, Tân là họ của ngài. Từ bé thơ, ngài rất cẩn trọng nghiêm túc, chưa từng làm việc gì cẩu thả khinh thường. Song thân ngài đều lấy làm lạ mà vô cùng thương mến. Năm lên mười tuổi, ngài rất ham thích Phật pháp, thường ngày xem đọc sách Phật, lại có khả năng tự học thông Phạm ngữ chẳng do thầy dạy dỗ. Sau, thân phụ ngài làm Thiểm tây quận thú, trước là ở phía Nam quận có làm bảy cái lò nung ngói. Kịp đến lúc thân phụ ngài qua đời, ngài thương buồn sinh hư hỏng. Một ngày nọ phát cuồng bỏ chạy trốn. Có thằng bé trong nhà men theo vết chân ngài mà sang phía Nam quận, thấy ngài an nhiên đoan tọa trong một cái lò nung ngói, từ thân ngài có ánh sáng khác lạ tỏa chiếu nhưng luyện sắc màu vàng ráng. Thằng bé ấy vô cùng kinh ngạc, kế tiếp đến một lò khác, lại thấy ngài an tọa trong đó, suốt cả bảy lò đều có bảy ngài an nhiên đoan tọa ở trong. Do đó, dân chúng ở Thiểm tây gọi ngài là Tân Thất Sư*. Thần tăng Đạo Giản Thiền sư Đạo Giản, ngài trú tại Thất của Tiên Vân Cư từ lâu và là bậc đệ nhất tòa trong môn đường. Vừa lúc Tiên Vân Cư sắp thị tịch, vị chủ Sư thỉnh hỏi Thiền sư Nam có thể tiếp nối sự nghiệp chăng? Tiên Vân Cư bảo: Trong môn đường có đạo giản! Ý của vị chư sư cho là khiến ngài lựa chọn người xứng đáng, nên nói thêm: Vị đệ nhị tòa cũng được. Vả lại sắm sửa đủ lể để cầu thỉnh, nếu ngài khiêm nhường từ chối thì kiên quyết thỉnh vị Đệ nhị tào. ngài đã kính vân phụ thọ ký lược chẳng miễn từ, liền tự cù đạo cụ vào phương trượng, nhiếp chúng, giảng phát, các vụ chủ sự…, chẳng thỏa lòng ước muốn ban đầu, nên không tuân theo quy thức. Ngài thấy rõ tình trạng như thế, bèn trốn bỏ đi. Đêm đó thần cây An lạc gào khóc. Đến sáng sớm, vị chư sư…cả thảy Đại chúng vội chạy đến trang trại trồng lúa, sám hối lỗi quá, ai cầu thỉnh ngài trở về bổn viện. Đại chúng liên tiêp nghe giữa không trung có tiếng xướng tụng là: Hòa thượng xin hãy trở lại! Thần tăng Khế Thử Thích Khế Thử, không rõ ngài là dòng tộc gì. Có thuyết nói ngài có thuyết nói Tây ninh, Thân hình ốm yếu, tráng dẹp bụng lớn, nói năng chẳng thường ngủ nằm tùy chỗ. Ngài thương dùng gậy mang đẫy vải vào đất Ly (nước Lỗ), đến các quán chợ, thấy vật thì xin, đến chỗ tương giấm cá muối, liền nhận lấy bỏ vào miệng, phần ít thì bỏ vào đây, nên ngài có tên gọi là Trường Đinh Tử Bố Đại Sự. Vậy ngài thường nằm trong tuyết mà trên thân không có tuyết. Mọi người lấy đó làm kỳ lạ. Ngài lại thường đến chỗ người thì mếu máo cầu xin, đến quán tiệm thì báu vật. Trong túi đẫy lúc nào cũng có một vật đầy đủ cung cấp thân. Ngài chỉ bày mọi sự tất xấu của người thảy dều hiện tướng bày điềm. Như trời nắng hạn thì ngài kéo cao guốc gỗ vào chợ hay lên trên cầu dựng đầu gối mà ngủ, trời mưa lớn thì mang giày cỏ vào chỗ ẩm thấp, mọi người lấy đó mà nghiệm biết. Khoảng niên hiệu Thiên Phục ( 9 0 1- 904), đời tiền Đường, ngài thị tịch tại làng Phụng xuyên, dân chúng trong làng xóm cùng nhau làm lễ an táng. Sau, ở những châu huyện khác lại thấy ngài cũng mang đảy vải mà đi. Ở vùng Giáng chiết có nhiều người đắp họa hình tượng ngài. Thần tăng A Túc Ngài A Túc, không biết từ đâu lại, bản chất như ngu si dơ bẩn, tinh thần chẳng có gì tỏ ra mẩn tuệ. Bấy giờ, phàm nói điều gì thảy đều là biết trước, tuy sống bất định nhưng thường cư ngụ tại Văn hương. Mông lung qua lại tranh đường yết lễ. Ở núi non Đàn thệ từng chẳng đoái hoài. Mọi người hoặc lo hoặc bệnh, mà nhận được phương hướng của ngài thì ứng nghiệm mau như thần tốc. Bấy giờ, tại Thiểm châu có một nhà giáo có tên là Trương Trăn, của cải chất chứa cả ngàn vạn, chỉ có được một đứa con trai độ mười bảy tuổi, từ thuở mới sinh đã ngu dốt lẩn thẩn, tay chân co quắp, nói năng lúng túng, chỉ ưa thích ăn uống, miệng như khe suối lỗ hỏng, cha mẹ vô cùng mến thương, hết phương cấp dưỡng, tìm thầy cầu thuốc, xa chẳng ngàn dặm. Suốt mười mấy năm, sau đó gia nghiệp gần hết sạch. Có người bảo rằng: Ngài A Túc là bậc Hiền thánh là chư Phật hiện ở đời, sao chẳng đến khẩn cầu, may thay dứt trừ bệnh ấy? Trương Trăn cùng với vợ tìm đến Văn hương, khấn đầu rơi lệ khẩn cầu ngài cứu giúp. Giây lâu, ngài nói cùng Trương Trăn: Oan nghiệp nhà ngươi chưa hết, còn phải cả mười năm. Ta thương xót nhà ngươi kính cẩn chí thành nên dứt trừ cho. Liền bảo chọn ngày đến trên dòng sông, thiết đặt trai hội rất lớn, mời chúng đông nhiều để xem độ thoát. Và bảo ngày đó cũng đem người con trai ấy đến đạo tràng. Mọi người thời bấy giờ gọi đó là thần thông mà người đến xem như bức tường chắn đứng trong tư thế kính cẩn. Ngài bảo ba, bốn người mạnh mẽ, kéo đứa con ấy ném xuống dưới dòng sông. Trương Trăn cùng mọi người cả hội chẳng ai lường biết việc làm của ngài. Ngài xoay lại nói với Trương Trăn rằng: Ta vì nhà ngươi mà trừ tai họa. Giây lâu, đứa con ấy từ dưới dòng, cách ngoài mười bước nổi lên đứng trên mặt nước, chỏ tay nói với cha mẹ nó rằng: Ta cùng nhà ngươi có duyên nghiệp cừu oán từ nhiều đời trước. May gặp được Thánh giả vội cởi mở cho. Không vậy thì ngày kết thúc hẳn chưa đến. Nó đứng thẳng thân hô cao, đều chẳng ngu si, bỗng chốc trầm mình xuống nước, không biết đi đâu. Thần tăng Duy Tỉnh Thích Duy Tỉnh, ngài người xứ Ngô môn. Năm ba mươi tuổi, vào chùa Quốc ninh, đi rảo các phòng tăng, xướng rằng: Cần người xuất gia xin lưu lại. Xuống đến viện kinh Tạng, thấy đại đức Tuệ Chánh là bậc Xà-lê của hai chúng, ngài liền quỳ lạy thành khẩn xin dung nạp chấp trì. Ngài Tuệ Chánh chấp thuận cho xuống tóc thay đổi pháp phục, đến Thiên thai thọ giới Cụ túc. Ngài từng đến chùa Thiền lâm dùng cháo lúc sáng sớm mà có nhiều hổ báo theo sau ngài đến cửa chùa, hổ ngồi giữa đất như dò xét chờ hầu, ngài ra thì lại đi theo. Trời sáng tỏ thấy dấu vết rất nhiều, ngài sợ mọi người biết nên dùng bừa xóa tan dấu chân hổ, bỗng dưng sau lưng ngài bị mụt nhọt sưng, nằm ngủ đau nhứt, có phấn chim chậm bôi vào vết thẹo nên chẳng bao lâu thì lành hẳn. Ngài lại tính liệu thời tiết băng tuyết nên chuẩn bị gạo thóc nửa đấu, mỗi ngày dùng xoang bỏ thêm rau vào nấu ăn. Ngài để gạo thóc vùi vào trong đất, quá thời kỳ dùng mà gạo vẫn thường đầy chẳng hết. Ngài bèn đắp nó lại mà nói rằng: Ta bị vật này biết, thật phi lý. Hơn bảy mươi tuổi, ngài mới thị tịch. Thần tăng Tề Châu Tăng Sử Luận lúc ở tại Tề châu, đi săn thú, đến biên giới một huyện nọ vào dừng nghỉ trong một An nhã, cảm nghe có mùi thơm của đào khác thường, bèn hỏi vị Tăng ở đó. Ngài không kịp dấu bèn nói: Gần đây có người cúng thí cho hai quả. Nhân đó, ngài đến Án kinh lấy ra dâng tặng sử luận. Đang lúc đói bụng, nên Sử Luận ăn hết, hạt nó lớn như trứng gà. Tiện đó Sử Luận hỏi về nguồn gốc của quả đào. Ngài cười bảo: –Nảy giờ thật là nói bậy. Giống Đào này cách đây hơn mười dặm, đang đi trên đường nguy hiểm, bần đạo gặp một vị hành cước thấy nó, cảm thấy khác lạ, nhân đó bèn lấy vài quả. Sử Luận nói: Xin bỏ kî, theo cùng Hòa thượng đồng đi. Ngài bất đắc dó mà dẫn Sử Luận ra đi hướng Bắc chống gậy đi trong hoang mạc trải qua năm dặm, đến một dòng nước, ngài bảo: Sợ rằng trung thừa không thể vượt qua đây! Sử Luận quyết chí vượt qua, bèn y theo ngài cởi áo chở nó nổi vượt qua bờ bên kia. Lại đi về phía Tây bắc, vượt qua thêm hai dòng nước, leo lên núi vượt qua khe suối vài dặm, đến một chỗ có dòng suối dữ dội, đá nước quái lạ chẳng phải cảnh ở cõi người. Ở đó có vài trăm cây đào, cành nhánh xà quét đất, cao độ vài ba thước, mùi thơm của đào ác cả mùi hôi. Sử Luận cùng ngài mỗi người ăn một ngọn lá mà bụng đã no vậy. Sử Luận cỡi áo muốn dùng hết sức lực để lấy. Ngài bảo: –Đây là cảnh linh không thể lấy nhiều, bần đạo thường nghe các bậc trưởng lão nói ngày xưa có người cũng từng đến đây. Ôm láy năm, sáu quả bèn mê lại không ra được. Sử Luận cũng nghi ngài là bậc phi thường, nên chỉ lấy hai quả mà trở về. Ngài tha thiết răn dặn Sử Luận chớ nói với mọi người. Sử Luận về đến Châu, sai sứ đến với ngài thì ngài đã thị tịch. Thần tăng Hiện Tử Sự tích Hòa thượng Hiện Tử ở Kinh tiệu rất là đặc biệt, ngài cư trú không nơi nào nhất định, tự ẩn tâm ở động sơn, hỗn tục tại Mân xuyên, chẳng tích chứa các thứ đạo cụ, chẳng vâng giữ luật nghi, dù mùa Đông hay mùa Hạ cũng chỉ biết tiếp nạp. Thường ngày, ngài ven theo bờ sông, bắt nhặt tôm, hến ăn cho no bụng, chiều tối đến dừng nghó trong đống tiền giấy ở miếu Bạch mã, Đông sơn. Từ đo dân chúng gọi ngài là Hiện Tử*. Thần sư Tónh ở chùa Hoa Nghiêm nghe vậy, muốn quyết rõ là giả hay thật. Đầu tiên tìm ẩn vào trong đống tiền giấy. Đến đêm khuya thì ngài trở về, Thiền sư Tónh nắm lấy trụ hỏi: Thế nào là ý nghóa của Tổ sư Đạt-ma từ Tây Trúc lại? Ngài vội đáp: Mâm đài rượu trước Thần. Thiền sư Tónh buông tay ra, bảo: Chẳng dối cùng ta đồng căn sinh. Sau, Thiền sư Tónh đáp lại chiếu mời của vua Trang Tông (923– 9 2 6), đời hậu Đường, vào Trường an, thì ngài đã đến trước đó. Mỗi ngày ca xướng tự vỗ, cho đến giã vờ cuồng ngông. Ngài đi lại trên bùn tuyết, đều không có dấu vết sau đó, không biết ngài thế nào. Thần tăng Khấu Băng Cổ Phật Ngài Thấu Băng Tháo Quan Cổ Phật, ban đầu đến tham yết ngài Tuyết Phong. Ngài Tuyết Phong bảo: Ngày sau ông hẳn làm thầy của bậc Đế vương. Sau, ngài từ Nga hồ trở về Ôn lãnh, lập am ở trên đỉnh núi Tướng quân, có hai con hổ theo hầu bên cạnh, có thần nhân hiến cúng đấy dựng lập viện Thụy nham, các học giả đua nhau nhóm tụ. Ngài thường nói cùng chúng Tăng rằng: Ngày xưa, các bậc Thánh hiền tu hành phải cậy nhờ tiết chế khổ hạnh. Tôi nay mùa Hạ thì chỉ một chiếc áo bông, mùa Đông gõ băng mà tắm, nên người đời gọi tôi là Khấu Băng Cổ Phật! Sau, ngài trú tại Linh diệu. Đến năm Thiên thánh thứ 3 (9 2 8), ngài đáp lại lời mời của Môn vương (Môn Tông, Lý tự Nguyên, đời hậu Đường) mà đến ở trong nội đường. Mân Vương Kính bái thưa rằng: Cảm ơn ngài từ xa giáng lâm. Và ban tặng trà vật. Tiếp đó, ngài giất chiếc đẩy, hỏi: Đại vương biết cái gì chăng? Đáp: Không biết. Ngài bảo: Nhân vương pháp vương mỗi tự chiếu rõ. Ngài dừng ở khoảng mười ngày, lấy cớ có bệnh nên cáo từ. Đến ngày mồng hai tháng chạp, ngài tắm rửa rồi lên Pháp đường bảo cùng chúng Tăng mà thị tịch. Nhà vua cùng với kẻ Tăng người tục sắm đủ củi hương cử hành lễ trà-tỳ. Ánh sáng chiếu tốt lành chiếu soi khắp cả núi, thâu nhặt xá-lợi, xây dựng bảo tháp ngay giữa viện Thụy nham để cúng dường, ban sắc thụy hiệu là Diệu ứng pháp uy từ tế thiền sư. Từ đó đến nay, mọi người xa gần đến cầu đảo gì đều được cảm ứng linh dị chẳng phải một lần. Thần tăng Toàn Tể Thích Toàn Tể, ngài dòng họ Trầm, người xứ Tiền đường. Thời gian còn tấm bé bồng ẵm, ngài đã chẳng vui thích cá thịt tanh nồng. Thân mẫu ngài nhiều lần phô bày việc thiện, nên khuyên ngài đến Đại sư Pháp Tế ở Kinh sơn, cầu xin xuống tóc xuất gia. Kịp đến lúc ngài tu pháp Thiền quán, dong dõng cao kính, chẳng xen tạp phong trần. Ngài kính mộ mười hai pháp hạnh Đầu-đà dùng để tự tiết chế trong công hạnh tu hành. Ngạn ngữ nói rằng: Chủ Đạo ấy. Đến lúc du phương tham vấn, ngài được Thiền sư Thạch Sương ẩn chứng thầm gia hộ bảo nhận. Ngài vào núi Thiên thai nơi đỉnh núi u tối để giữ trọn ý chí. Y Nham và Hàn Sơn Tử ẩn cư nơi ngọn núi cao vót đối diện. Tại đó đều có lắm thứ ly mî mộc quái tụ tập thành đàn. Tại chỗ ngài ở, hơn hai mươi năm, tiếng chim xấu ác bặt dứt, Sơn Tinh nhường hang. Các đường lối vào ra kinh hành, quỷ thần tự lo tu sửa, hoặc đứng hầu bên cạnh, hoặc thay lấy nước suối, hoặc cúng dường rau quả. Không lúc nào mọi người thấy nghe ngài nói một lời nào. Sau, ngài thị tịch tại viện Trấn quốc. Thần tăng Diên Thọ Sa-môn Diên Thọ, tự là Xung Huyền. Ở độ tuổi bé thơ, ngài tụng đọc kinh Pháp Hoa, nhìn suất một lược năm hàng, qua sáu tuần thì hoàn tất. Ngài đến Thiền sư Thúy Nham ở Tứ minh cầu xin xuất gia, ngài thường mặc áo chẳng bông tơ thêu thùa, ăn không thức vị sang trọng. Ngài lại đến tham yết Quốc sư Thiều, bèn được tỏ rõ tâm yếu. Quốc sư Thiều từng nói cùng ngài rằng: Ông có duyên với Nguyên Súy, ngày sau hẳn làm được Phật sự lớn. Tiếc rằng ta không còn kịp thấy điều đó! Đầu tiên ngài đến trú tại Thiên thai chỗ đỉnh núi của ngài trí giả, suốt chín tuần thực tập thiền định, có làm chim yến nhỏ vào làm ổ trong vạt áo. Sau, ngài đến chùa Quốc thanh hành trì sám pháp “Pháp Hoa.” Ban đêm, thấy Thần nhân mang kích đi vào, ngài quở trách Thần rằng: Có sao tự tiện vào đây như thế? Thần đáp: Từ lâu tích chứa thiện nghiệp mới được vào tới đây! Nửa đêm, ngài đi nhiễu quanh tượng, thấy Bồ-tát Phổ Hiền phía trước, trong tay nắm cành hoa sen. Ngài liền lên đỉnh núi của ngài Trí giả, làm hai phương án: Một là suốt một đời tu tập thiền định; hai là tụng kinh Vạn Thiện trang nghiêm tịnh độ. Rồi âm thầm chuyên tâm cầu khẩn bèn được tụng kinh Vạn Thiện, cho đến bảy lược như thế. Từ đó, ngài một lòng chuyên tu tịnh nghiệp, chấn tích đến đỉnh Kim hoa thiên trụ, tụng kinh suốt ba năm. Trong lúc thiền quán, ngài được Bồ-tát Quan Thế Âm rưới nước Cam lồ vào trong miệng ngài, bèn được thành tựu Biện tài. Ban đầu, ngài diễn giảng Pháp tại Tuyết đậu. Đến năm Kiến Long thứ nhất (9 6 0), đời Bắc Tống, Trung ý Vương thỉnh ngài đến trú tại chùa Linh ẩn. Năm sau, ngài dời sang chùa Vónh minh, thời khóa hằng ngày có đến một trăm lẻ tám sự việc, ngài chưa từng tạm phế bỏ. Các hàng học giả đến tham vấn, ngài lấy việc “Chỉ tâm làm tông, chứng ngộ mới thôi.” Chiều tối ngài đến một ngọn núi riêng để hành đạo niệm Phật, mọi người bên cạnh phòng nghe tiếng loa bối nhạc trời. Trung ý Vương tán thán rằng: “Từ xưa, những người cầu sinh Tây phương chưa có ai chuyên tâm công phu như vậy! Bèn vì ngài mà dựng lập bảo điện Tây phương hương nghiêm để thành tựu chí nguyện của ngài. Ngài trú tại chùa Vónh Minh mười lăm năm, đệ tử có đến một ngàn bảy trăm vị, ngài từng cùng chúng Tăng thọ giới Bồ-tát. Ban đêm cúng thí cho quỷ ăn, ban ngày phóng thả sinh mạng, thảy đều hồi hướng Trang nghiêm tịnh độ. Người thời bấy giờ gọi ngài là Từ Thị hạ sinh. Đến năm Khai Bảo thứ 8 (9 7 6), đời Bắc Tống, vào lúc sáng sớm ngày 26 tháng 2, ngài dậy đốt hương, bảo cùng Tăng chúng rồi ngồi kiết già mà thị tịch. Thần tăng Toàn Thanh Thích Toàn Thanh, ngài người đất Việt, ngài thành tựu pháp mật tạng cấm chú, hay yểm hặc quỷ thần. Bấy giờ có người phụ nữ trong nhà Thị Tăng Vương bị mắc bệnh tà khí, nói năng ngông cuồng ngược ngạo, hoặc khóc hoặc cười bất thường, như vậy cả vài năm, trong nhà mời ngài trị liệu. Ngài bèn bện cỏ làm hình người cao lớn hơn một thước, dùng lụa năm màu làm áo mặc, an trí ở tại đàn tràng. Ngài gia trì chú giây lâu, người phụ nữ nói: Xin tha mạng! Ngài bèn ghi dặn rõ rằng: Khoảng đến ngày xuân năm đến, ở trước Võ Từ sẽ cùng phụ giúp cho. Như sư Không bị giết hại thì thả nó đi xa. Ngài dùng một cái phểu, lấy roi đánh đuổi cỏ, linh nhập vào trong phểu, mà có tiếng u u như hươu kêu, phong bít miệng lại, dùng bùn đất làm dấu 6 chữ ất, dùng mực đỏ viết phù ấn lên trên rồi đem chôn dưới rừng cây dâu. Ngài răn bảo người nhà không được đá đụng đến. Người phụ nữ ấy bệnh liền lành hẳn. Trải qua năm năm sau, gặp lúc Lưu Hán Công cùng Đổng Xướng, tuy cách dòng sông mà cùng trì hãm Việt Thành. Có người cho đó là giáo tạng, bèn đào bới đập vỡ cái phểu, thấy một con quạ nhô đầu ra, bỗng nhiên bay lên đậu ở trên cành cây dâu mà nói tiếng người rằng: Ngày nay mới thấy được ánh sáng mặt trời! Lúc ấy, ngài đã thị tịch rồi. Thần tăng Tự Tân Thích Tự Tân, ngài dòng họ Tôn, người xứ Lâm truy. Ngài tự tìm minh sư, chưa từng lười biếng phế bỏ. Nghe Thiền sư ứng hoằng hóa ở Chung lăng, bèn đến tham vấn, theo trưởng lão Vân Cư qua lại chốn tích ẩn cư trong núi Quảng đức. Vừa lúc Lưỡng Triết Văn Mục Vương thuộc dòng họ Tiền, dẫn sứ só thân chinh uyển lăng, vào nơi chùa núi Quảng đức. Chư Tăng đều chạy trốn, chỉ một mình ngài vẫn an nhiên. Mục Vương hỏi: Tại sao ngài không trốn lánh? Ngài bảo: Các phía Đông, Tây thảy đều là giặc, bảo lão Tăng trốn lánh ở xứ nào? Mục Vương kinh hãi sự bươi móc thẳng thắn của ngài, bèn xoay mác trở về, thấy Võ Túc Vương hỏi đến, thì nói không thể khuất phục mà càng thêm cao hạnh. Bèn tạo lập viện Ứng Thụy để ngài an trú, đề xưng hiệu là Quảng Hiện Đại Sư. Ban đầu, ngài thường vào núi Tuyên thành hái cây thuốc, đi xuyên qua một hang động sâu. Lúc đầu thì mờ tối, dần dần thấy được mặt nhật rõ ràng, đi chỉ vài dặm, bên cạnh động có một hang riêng, có khe nước chảy bồng bềnh. Nơi góc cong dưới một cây Tùng lớn có một thảo am, ở đó có một vị Tăng, lông mày trắng như tuyết, đang ôm che áo nạp toạ thiền. Bên cạnh có một chiếc khánh và đồ lửa, ngài đánh khánh, vị tăng bèn mở mắt, kinh hãi bảo: Y! Sư có duyên sự gì mà đến đây? Bèn bày hành chỉ và mời ngồi, lấy đá đánh lửa nấu nước trà, hương vị rất dễ mến. Trời sắp tối, vị Tăng ấy nhường am để ngài dừng nghỉ qua đêm, ngài ngoảy nhìn vị Tăng leo lên trên chóp cây tùng vào trong ổ chim lớn. Nghe tiếng tụng niệm kinh Pháp Hoa tiếng rất trong trẻo, giây lát lại nghe tiếng than trách rằng: Chủng loại súc sinh lông cánh này sao khổ sợ loài người khủng bố. Hãy mau trở về rừng rậm, không nên ra ngoài kêu la!. Ngài lén nhìn thì thấy hổ báo chuôi tai mà đi. Đến sáng sớm hôm sau, ngài nói với vị tăng ấy rằng: Xin nguyện được ở đây lo việc hầu hạ khăn giày của ngài! Vị Tăng ấy bảo: Từ đây trăm ngày cỏ cây bốn bề đều khô tuyệt không có khói lửa như ở cõi người, chẳng phải chỗ ngài dừng ở! Lại hỏi ngài rằng: Có đói chăng? Rồi cùng dẫn đến bên bờ khe suối, có lúa hơn cả trăm bông, nhặt lấy hạt gạo và lựa ba hạt kê vàng, chọn hái ít rau ở đồng trống để chung lại nấu mà ăn. Sau đó bảo ngài trở về, đưa ra đến cửa Động, vị Tăng ấy bảo: Sự gặp gỡ này chẳng phải là ngẫu nhiên! Với các thứ ăn uống rau cháo nước trà, bình sinh ngài chẳng thiếu. Ngài bèn tuân theo đường trở về bổn viện, thì thời gian đã trải qua hơn một tháng trời. Ngài bảo những người cùng đồng hảo tâm trở lại tìm thì dấu vết hang động đều mất dạng không còn. Sau, tại Triết trung, thỉnh ngài làm chủ chùa Bảo tháp. Trong niên hiệu Thiên Phước ( 9 4 3- 944), đời Hậu Tấn, Ngũ Đại, ngài thị tịch tại chùa Bảo tháp, hưởng thọ hơn tám mươi tuổi. Đến nay di ảnh của ngài, trong một viện nhỏ trước Vịnh Lãnh Thủy hiện đang còn. Thần tăng Pháp Bổn Thích Pháp Bổn, không biết ngài là người ở xứ nào, ngài thuần long giữ pháp, đi đứng tường tự, nói năng có lắm điều lạ lùng cảm kích. Trong niên hiệu Thiên Phước ( 9 4 3- 944), đời Hậu Tấn, Ngũ Đại, ngài đến Thiền viện Tương Châu, cúng một vị Tăng đồng qua mùa Hạ, sớm tối cùng ở một nơi, tâm địa giống nhau. Ngài nói với vị Tăng ấy rằng: Bần đạo trụ trì chùa Trúc lâm ở trong núi thuộc phía Tây Tương châu. Tại trước chùa có một trụ đá. Ngày sau, lúc nhàn rỗi xin thỉnh ngài đến thăm. Vị Tăng ấy tung niệm lời ấy. Nhân sang đó tìm thăm, kịp đến trong thôn dưới chân núi, vị Tăng ấy vào dừng nghỉ qua đêm trong một Lan-nhã hỏi chư Tăng ở đó rằng: Ở đây cách chùa Trúc lâm khoảng bao xa? Vị Tăng ở đó đưa tay chỉ vào bên cạnh đỉnh núi trơ trọi, bảo: Chùa Trúc lâm ở phía ấy. Các bậc lão túc ngày xưa tương truyền với nhau rằng: Đó là chỗ xưa kia các vị thánh hiền an trú. Nay chỉ còn có tên gọi mà thôi các phòng viện không còn nữa! Vị Tăng ấy liền nghi ngờ, đợi đến sáng liền đi. Đã đến trong rừng trúc rậm, quả thật thấy có một trụ đá, song mịt mờ chẳng rõ biết ven bờ. Đương lúc trước kia sắp từ biệt ngài có bảo rằng: Chỉ gõ vào trụ đá thì sẽ thấy người ra đón. Vị Tăng ấy liền dùng cành cây nhỏ gõ vào trụ đá vài tiếng, tự nhiên gió mây bốn bề nổi dậy, trong khoảng một thước chẳng thể nhìn thấy. Bỗng chốc mắt tai mở bừng, thấy lâu đài cao vút, thân mình đứng rụt lại dưới Tam môn. Ngài từ trong đi ra, thấy được rất vui mừng, hỏi việc xưa ở trong Nam, ngài bèn dẫn vị Tăng ấy đi qua mấy lớp cửa lên trên điện kính tham yết các bậc Tôn túc. Vị Tôn túc ấy hỏi về nguyên do. Ngài đáp: Năm trước tại Tương châu cùng vị Tăng ấy sống qua mùa Hạ, có hẹn cùng đến đây thăm, nên đến Sơn môn. Vị Tôn túc ấy bảo: Sau khi trai phạn xong thì xin mời ra, ở đây không có tòa vị. Thọ trai xong, ngài đưa vị Tăng ấy đến Tam môn thì cùng nhau từ biệt. Thế rồi trời đất mịt mờ, vị Tăng ấy chẳng biết đi đến đâu, trong khoảnh khắc thì đã đến trong rừng trúc đứng bên cạnh trụ đá. Ngoài ra chẳng thấy gì nữa cả. Vị Tăng ấy liền biết các bậc Thánh hiền ở trong cõi đời ẩn hiện khó lường, kim yếu của Đức Như Lai riêng hay hóa hiện. Thần tăng Điểm Điểm Sư Điểm Điểm, không biết ngài là người ở xứ nào. Tuy cắt tóc nhuộm y mà thường như phong cuồng. Có ai mời ngài trai thực, chẳng xen lẫn rượu thịt. Mỗi ngày lúc trời sắp tối, ngài liền mua giấy gai màu vàng màu trắng và bút mực bỏ vào tay áo rồi trở về thất chỗ ngài ở. Tuy có cửa ngoài mà không tường vách ở bốn phía, sau khi vào liền đóng cánh cửa người không thể đến được. Có vị Tăng trẻ nhỏ ở gần men theo vết chân ngài mà dò xét. Thấy ngài cầm đèn ngông ngáo, bày giấy bút ra trước mặt, quở trách viết lớn. Chẳng hiểu ngài viết loại văn tự gì, thường thường chỉ giây lát, như quyết đoán đặt để. Giây lâu, từ giữa khoảng tối sáng nhìn kó vào đó trong nhấp nháy như có người ngan ngát, hình trạng như Tào Sử, áo xiêm đều chẳng phải như phục sức của người đời. Người trông nhìn kinh sợ mà thoái lui. Hỏi ngài về nguyên cớ thì ngài tức giận mà chẳng đáp. Ngài sống ở đó vài năm. Dân chúng đều cho ngài là Thần dị. Sau, không biết ngài thế nào. Thần tăng Hạnh Tuân Thích Hạnh Tuân, ngài là con thứ hai của Mân Vương, thuộc dòng họ Vương ở Phước châu. Niên hiệu Khai Vận ( 9 4 4- 947), đời Hậu Tấn, Ngũ Đại, dáng mạo ngài như người hơn bảy mươi tuổi, nhưng sức lực chẳng suy kém. Có người hỏi về tuổi tác, ngài chỉ im lặng. Ngài đến Lãng trung trú tại Thiền viện Quang Quốc. Đồ chúng trong viện đều dựa trên pháp luật mà chung sống, mọi người ngại lo ngài không có khả năng kham nhận. Có người nhà Họ Lý Thiết trai cúng dường, lần lượt ăn uống, bỗng nhiên ngài sầm sập chạy ra cửa, kêu gọi đứt khoản, như có điều oán trách, ngài bảo với người họ Lý rằng: Đêm nay có nạn lửa cháy từ phía Đông Nam đến suốt cả Tây Bắc. Mọi người ở gần chung quanh đều nên bảo họ lo dự phòng. Quả nhiên đêm đó lửa bốc cháy hết không sót lại vật gì. Mọi người hỏi ngài về nguyên do. Ngài bảo: Hôm qua có một người nữ mặc áo màu hồng cầm đuốc ngang qua, ta đây ân hận là đuổi theo mà không kịp! Thêm nữa, ngài đến nhà Triệu Pháp Tào, chỉ dưới gốc cây đào và bảo: Ở dưới đó có tiền. Nhưng không nói số lượng là bao nhiêu. Triệu Pháp Tào liền kêu người đến phá xem, vừa mới xúc đất bày cái mai thì có khách đến, vì các đứa trẻ trong nhà mà lấy cho. Hàn huyên trong chốc lát, cả thảy đều biến thành bình xanh. Hoặc ngài đi qua gõ mã phần mộ của người thì biết rõ mọi sự cát hung của nhà người ấy. Đến như lúc thấy nghe tiếng gió nhạc hay chim thú, ngài dự báo tai họa, sau hẳn y như lời ngài nói. Nên khắp nơi châu huyện thôn xóm xa gần đều lấy lời dự báo của ngài dùng làm thực khẩu. Sau, ngài thị tịch tại núi Ngọc tấn an, chư Tăng chung cùng cử hành lễ trà-tỳ. Thần tăng Tăng Giam Thích Tăng Giam, ngài dòng họ Vương, người xứ Kinh triệu, thường trú tại chùa Tịnh chúng. Râu tóc ngài bạc trắng mà sắc mặt hồng hào tươi nhuận. Mọi người chẳng lường biết được sự tình giả thật của ngài. Bấy ,giờ có Hoa dương Tiến só Vương Sử Hậu ở Ngụy Thục chẳng đỗ đạt, đi vào chùa với dung mạo buồn tẻ. Tại giữa vườn Tùng Trúc gặp được ngài, ngài bảo: Há chẳng là Vương Xử Hậu ư? Xử Hậu kinh ngạc hỏi: Chưa từng cùng gặp sao vội kêu tên ư! Ngài bảo: Ngẫu nhiên! Trong tâm Xử Hậu biết ngài là bậc Kỳ đặc, bèn hỏi rằng: Hòa thượng! Dấu vết tự thân của tôi như thế nào ư?. Ngài bảo: Việc tương lai của ông cùng lắm là ở năm sau. Song việc hiện nay và ngày sau nên biết vậy. Ý nói là Thục sắp mất, dặn bảo chớ nên tiết lộ. Một ngày nọ, ngài đến kệ sách nhón lấy một quyển đọc xem thì ra các bản Phú cảo (bản thảo văn thơ) của Xử Hậu góp nhặt tích tập. Ngài bảo: Xem thử là thật hay hư. Thật chẳng phải tác văn của ông dưới ánh đèn, sao lắm luống dối thế? Ngài bèn dò tìm mang trong tay áo mà chỉ bảo: Đây há chẳng phải là thật bản của Trình Thí ư? Xử Hậu kinh sợ chẳng ngớt, bèn nói: Kẻ hèn tôi sau gặp thêm nhuận sắc, dùng làm chắp vá thêm dưới ánh đèn, thật có lỗi quá vội vàng hấp tấp! ngài từ đâu có được bản ấy vậy? Ngài bảo: Không phải chỉ một bài, mà những gì trong đời ông làm ra thảy đều tích trữ lại cả. Ngày hôm sau, thăm hỏi rồi ngài dẫn Xử Hậu vào chùa, đến bái yết bàn thờ của Thái Úy Bân Công Đỗ Tông. Đang ngồi dưới hiên nhà phía Tây, bỗng nhiên có vài quan lại ăn mặc sắc phục lẫn lộn từ trong đường củ tiếp nối nhau đi ra, bước xuống tầng cấp bái lại. Ngài bảo: Tân Quan ở tại đây, nên vào trong sâu để tham kiến! Xử Hậu kinh sợ mà làm. Ngài bảo: Những người ấy sắp làm các kẻ sai sử của ông, có gì phải sợ ư? Đâu biết Thái Sơn cử ông làm Tư mạng chăng? Bèn dùng nợ củ trang đồ chưa đáp chỉ trước, xin đợi thành đạt, sau ắc thi hành. Ngài lại dò xét sở bộ của Quan Lục thấy một bản nhân số mùa xuân năm tới đã định, bảo rằng: Ông cũng có dự phần trong đó. Đây mới là âm chú Dương Thụ vậy. Xét tên người đời ghi vào u lục. Ấy mới là Dương chú Âm thụ vậy. Xử Hậu chấn động kinh hãi. Chẳng biết lường xét thế nào, chỉ xin hỏi họ tên của những người đỗ đạt ở mùa Xuân năm tới. Ngài bảo lấy giấy bút, viết một đoạn thơ ngắn rồi phong kín lại, đưa cho Xử Hậu, căn dặn phải nghiêm mật cất giấu, nếu để tiết lộ thì họa đến chẳng kịp trở chân. Đến ngày Xuân, sau kì thi đã bãi, ngài đến nhà Xử Hậu, để lại chiếc thẻ ghi rằng: Không lâu nữa tôi sẽ trở về Tệ Lư, không còn gặp lại nữa! Sau đó, Xử Hậu đến chùa tìm kiếm ngài, thì ngài đã đến nơi khác, bèn bóc thư ra xem, ngài chỉ viết bốn câu: Chu thành cùng thành Vương thù hai tên Cùng ở một nơi Hành trình trăm ngày. Kịp đến lúc bảng vàng được công bố thì có tám tiến só, trong đó, Vương Thân Ngôn và Vương Xử Hậu là hai người họ Vương, cùng ở một nơi, song chán sự “hành trình trăm ngày” Xử hậu chỉ quen lờn đồng niên, thết bày tiệc rượu, vui theo tánh đến cùng cực, hoang loạn phát lớn, đêm đó bèn chết mất. Năm tháng đều mộng thấy Xử Hậu mặc áo bào lam cầm hất xua điện mà đi. Xét nghiệm về vinh danh của Xử Hậu chỉ được một trăm hai mươi ngày. Rõ ràng năm sinh của ngài là khoảng đầu niên hiệu Thái Hòa (8 2 7), đời vua Văn Tông, thành danh trong năm Đại trung (8 4 7), đời vua Tuyên Tông; đều thuộc thời tiền Đường. Vương Xử Hậu gặp ngài đã hơn một trăm ba mươi năm. Thần tăng Trí Huy Thích Trí Huy, ngài dòng họ Cao, người xứ Hàm tần. Từ tuổi bé thơ, ngài đến tịnh xá ở cũng xem là như chính nhà mình. Thiền sư Khuê Phong Ôn lấy mà làm lạ bèn cho xuống tóc. Đến năm hai mươi tuổi, ngài thọ giới Cụ túc. Ngài theo phụng thờ Thiền sư Cao An Bạch Thủy Bổn nhân suốt mười năm, sau đó trở về Lạc kinh. Ngài thích cảnh núi sông xin đẹp ở Trung Than nên dựng thất tại đó để ở, hiệu là: Ôn Thất Viện thường ngày chuyên làm việc thí nước cấp thuốc, mọi người đều chẳng biết đến chỗ sâu cạn của ngài. Năm Khai Bình thứ 5 (9 1 1), đời Hậu Lương, Ngũ Đại, bỗng nhiên ngài muốn lên núi Khai phong, vội vã đi vào trong sâu, ngồi trên khoảng thạch nham như chỗ từng ngủ. Ngài ngoảy nhìn thấy y ma nạp, chuỗi hạt,… đồng, áo choàng đi mưa, nón lá, cất giấu trong vách đá. Ngài đụng chạm đến, thảy đều hư hoại. Ngài gom mắt giây lâu rồi bảo: - Đây là các thứ đạo cụ của tôi trong đời trước. Nhân đó, ngài bèn đến chỗ ấy tạo dựng chùa viện để báo đáp tâm nguyện xưa kia. Vừa mới phát cỏ thì có mây lành tỏa khắp cả ngọn núi, nên ngài bèn đặt tên là “Trung Vân.” Hổ báo dẫn nhau bỏ đi, có ao rồng rất hiểm ác, không thể xâm phạm, ngài đích thân đúc thúc những người làm lấp để làm đường đi, rồng vì thế mà dời đến chỗ khác, chỉ thấy mây sấm kéo đi theo. Vua Minh Tông ( 9 2 6- 934), đời hậu Đường; Ngũ Đại nghe thế mà ngợi khen, liền ban tặng biển ngạch là Trường Hưng. Ngài trụ trì tại đó hơn bốn mươi năm. Tiết Độ Sứ Vương Ngạn Siêu, thời bé nhỏ thường theo ngài chu du, muốn làm Sa-môn. Ngài chăm chú quán xét kỹ càng rồi bảo: Ông duyên đời còn sâu nặng, cần nên ủng hộ cho ta. Sau, Vương Ngạn Siêu quả thật ra trấn nhậm ở Vónh hưng, tự thân kính lễ làm đệ tử của ngài. Mùa hạ năm Hiển Đức thứ 3 (9 5 6), đời Hậu Chu, Ngũ Đại, ngài đến Vónh hưng, từ biệt Ngạn Siêu và căn dặn nên hộ trì chánh pháp. Vương Ngạn Siêu khóc, bảo: Lẽ nào ngài đành lòng bỏ đệ tử ư? Ngài cười bảo: Xưa kia, hơn ngàn năm đã một lần từ biệt vậy. Đến ngày 24 tháng 7, ngài viết một bài kệ rồi ngồi kiết già thị tịch, hưởng thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp. Lúc ban đầu, khi ngài ở tại Trung than, có vị Tỳ-kheo mắc bệnh, Tăng chúng đều gớm nhờm bỏ bê. Vị Tỳ-kheo ấy buồn nói với ngài: Tôi bởi nghiệp đời trước nên mắc bệnh bạch lại, sư có thể giúp tôi tắm rửa tẩy trừ ư! Ngài vì vị Tỳ-kheo ấy mà chữa trị, không tỏ vẻ khó khăn. Chợt nhiên có ánh sáng thần có hương thơm khác lạ, ngài vừa mới ngờ lạ, bỗng không thấy vị Tỳ-kheo ấy nữa, nhìn lại đó ung nhọt cũng đều có mùi hương khác lạ. Thần tăng Cốc Tuyền Thích Cốc Tuyền, chưa rõ ngài thuộc dòng họ gì, ngài là người xứ Tuyền nam. Thuở nhỏ, ngài thông mẫn nhẫn chịu mọi thứ ô uế, nói năng lớn tiếng chẳng tránh thế tục ghét ganh, ngài bỏ mà xuất gia làm Sa-môn, theo giới luật tùy tâm mà hành. Ngài đến phía Bắc sông Phần tham yết Thiền sư Chiêu. Thiền sư Chiêu gặp ngài lấy làm lạ, ngài âm thầm được nhận ký biệt. Trở về phương Nam, ngài phóng lãng trong vùng sông Tương. Nghe ngài Từ Minh đang giảng đạo, ngài tự bảo ta nên đến dò xét mà hậu cận. Ngài Từ Minh hỏi rằng: Mây trắng ngang miệng hang, đạo nhân từ đâu lại? Ngài ngoảy nhìn xung quanh, nói: Tối lại lửa ở đâu, đất ru mộ người xưa. Ngài liền làm tiếng hổ gầm gừ. Ngài Từ Minh nắm lấy tọa cụ phẩy quẳng, ngài liền tiếp nhận đứng đẩy thẳng trên giường dây, ngài Từ Minh cũng làm tiếng hổ gầm gừ, ngài bèn cười lớn. Tại trong núi có các ao nơi rồng độc tàng ẩn, chỉ cần chiếc lá rơi xúc chạm đến sóng nước thì mưa gió sấm sét liền ngay, mọi người đi ngang qua đó không dám thở ra hơi, ngài với ngài Từ Minh chiều tối trở về, bấy giờ đang tiết trời thu nắng nóng. Ngài Từ Minh nắm lấy áo, bảo: Có thể cùng tắm cho mát. Ngài Từ Minh kéo tay đi qua. Khi đó, ngài liền cởi bỏ y áo, nhảy vào trong sấm sét theo đó mà đi, có múi tanh thối cuốn thổi trong gió mưa, cây rừng lay động. Ngài Từ Minh ngồi xoạt trong cỏ, trong ý cho rằng ngài đã chết. Bỗng chốc tạnh mưa, chợt nhiên ngài dẫn cổ ra ngoài lán sóng, bảo: Họa! Sau, ngài lên chùa Linh phong ở đỉnh Hành nhạc, trú tại ngọn núi Lại toản, ngài lại dời đến trú tại Ba tiêu. Lúc sắp dời đến ở tại Bảo chân, ngài viết chữ lớn trên tường vách rằng: “Ta ở tại am tối Ba tiêu này chiếm đống mây ụ, quanh co cảnh lạ chưa có dịp trông nhìn, chỉ thấy được ba bốn gốc tùng thấp lơ thơ. Mùa lạnh đến, đất cây khô cằn, đói ăn củ khoai nước lớn màu tía, mà nay bỏ lại ra đi, chẳng biết ai là người đến ở!” Ngài ở tại am Bảo chân là chỗ nguy hiểm sâu cùng của sông Tương, Hành nhạc, ban đêm ngồi dưới ngọn Chúc dung, có con trăn lớn đến cuộn nhiểu quanh, ngài cởi áo đai buộc vào eo bụng nó, đến nửa đêm bèn không thấy nữa, sáng ngày mai, ngài chống gậy cầm roi đi quanh núi để tìm thì áo đai vắt ngang trên cây tùng khô, bởi vì cây tùng ấy chính là yêu quái. Thêm nữa, từ sau động, ngài mang vác tượng đá cỡ vài trăm cân đến để ở Nam đài. Chúng Tăng kinh hãi chẳng biết tại sao tượng đến đó, và chúng Tăng ở sau động cũng không biết cớ sao tượng ra đi? Bèn truyền miệng với nhau là La-hán bay lại. Ngài thường qua huyện Hành sơn, thấy kẻ đồ tể mổ thịt, đến đứng bên cạnh tỏ vẻ đáng thương, đưa tay chỉ vào thịt rồi lại chỉ vào miệng. Người mổ thịt hỏi: Ông câm ư? Ngài liền gật đầu, kẻ đồ tể thương tình mà cắt thái cho một miếng lớn bỏ vào trong bồn. Cả chợ mọi người đều cười lớn, mà ngài vẫn tự nhiên. Ngài tịch ngày mồng 6 tháng 6 năm Gia Hựu thứ 15 (niên hiệu Gia Hựu trong thời bắc Tống chỉ có tám năm ( 1 0 5 6- 1064)), thọ chín mươi hai tuổi, sáu mươi bốn Hạ Lạp. Dân chúng huyện Xâm Lập Tháp, đến nay vẫn còn phụng thờ. Thần tăng Khoáng Sư Ngài Khoáng Sư là con út của Hải Đàm Thú. Từ bảy, tám tuổi, ngài đã không ưa cá thịt, chỉ thích rau cỏ đồng nội. Mỗi lúc thấy trong nhà bếp nấu nướng các loài lông vảy, ngài đưa tay bốc lấy cát bụi ném vào nồi chảo. Quý điểm chẳng ăn. Ngài tự nói: Tháp ở chùa Khai nguyên trong thời nhà Tùy trước kia do người tạo dựng. Có nhiều sự việc ngài nói, lúc đầu như không rõ nhưng sao đều khế hợp. Tiện xin xuất gia, nhân đó đắp mặc pháp phục. Trên đỉnh đầu có mùi hương thơm, như xông đất trầm thủy, Chiên-đàn. Người thời bấy giờ gọi ngài là Thánh tăng. Thị ngự sử Hoàng Phủ Chính thỉnh ngài vào phủ thự nhân đó đãi tiệc làm cả hàng trăm cân thịt mà chỉ một thức ăn chay, mâm bàn bày la liệt xen tạp trước mặt, bởi trong ý muốn kiểm nghiệm về ngài là phàm hay Thánh. Ngài vào ngồi trong chiếu chỉ nhón lấy thức chay tịnh mà ăn, ngoài ra thảy đều phảy tay phớt qua. Hoàng Phủ Bộ Khúc, mỗi mỗi đều kinh sợ tán thán. Ngài tự nói chỉ sống đến năm mười ba tuổi là sẽ quy diệt. Quả thật đến đó ngài thị tịch. Thần tăng Chí Ngôn Sa-môn Chí Ngôn, ngài tự nói là vốn dòng họ Hứa, người xứ Thọ Xuân. Ngài xuống tóc xuất gia tại viện Thất-câu-chi, chùa Cảnh đức ở Đông kinh, phụng thờ ngài Thanh Toại làm thầy. Ngài Thanh Toại thấy ngài xưa nay tướng mạo khác thường, mắt trong nhìn thẳng chẳng nhấp nháy, trong tâm lấy làm lạ nên trao truyền cho thọ giới Cụ túc. Song, cử chỉ của ngài hiên ngang tự đắc, nói năng vô độ. Ngài hay đi trong xóm chợ, vén quần bước nhanh, cử chỉ họa không, chẳng hề đứng yên lâu. Bấy giờ, ngài hay đi theo những người buôn rượu bán thịt, ăn uống chẳng hề lựa chọn. Mọi người cho ngài là người cuồng. Riêng mình ngài Thanh Toại bảo: Ngài khác người thường. Có người muốn thiết trai cúng dường thì ngài đã biết trước mà đến. Tại Ôn Châu, có Lâm Trọng Phương từ nhà ông ta mang y ma nạp đến để hiến dâng, thuyền vừa cập bến, ngài đã vội lại lấy đi. Vua Nhân tông ( 1 0 2 3- 1064), đời Bắc Tống mỗi lúc mời ngài vào cung cấm. Ngài đến liền lên tòa ngồi kiết già, thọ trai xong vội đi ra, chưa lúc nào vái chào. Ngài bói âm nghó lỗi múa bút viết chữ rất nhanh, ban đầu không thể hiểu gì nhưng sau có lắm ứng nghiệm. Vua Nhân Tông tuổi tác già nua, mà chưa lập người kế vị. Kín sai nội thị đến hỏi ngài, ngài nắm bút chỉ viết mười một chữ Lang. Mọi người chẳng hiểu ngài muốn nói điều gì. Sau, Anh Tông làm Bộc vương là con thứ mười một vào kế vị mọi người mới tỏ ngộ. Tại viện Phổ tịnh cấp thí nước tắm, chỉ mới đầu đêm chảy hết cả, cửa chưa mở, chỉ mới nghinh thỉnh Phật lại, mà trong nhà tắm nghe có tiếng người, đến xem thì ra ngài đang ở đó. Tại đó thiết trai bày cúng có đủ thứ nem chả. Ngài đều ăn cả, xong rồi đi ra dòng nước cái mửa ra hóa thành bày cá tươi bơi lội mà đi. Có khách đi biển gặp gió sắp chìm đắm, thấy có vị Tăng vội dẫn thuyền đến cứu giúp. Người khách đi biển ấy tới dưới thành đô, gặp ngài. Bỗng nhiên ngài nói với người ấy rằng: Nếu không có ta thì nhà ngươi biết làm sao? Người khách ấy nhớ kó lại dáng mạo, ngài chính thực là người dẫn thuyền đến cứu giúp mình. Đến lúc tịch, ngài làm một bài tụng không ai hiểu gì cả. Thế rồi ngài bảo: Ta từ xưa lại thành tựu trốn lánh nhiều đất nước, nay đến nước Nam. Vua Nhân Tông sai nội thị dựa hình thật để đắp họa tôn tượng của ngài, an trú trong chùa. Đề bảng yết thị là “Hiển Hóa Thiền sư.” Sau, có các thiện nam tín nữ đến lễ bái, trông nhìn bức biển ngạch bóng ngời như có ánh sáng, bèn đến xem thì được xá-lợi. Thần tăng Tông Bổn Thích Viên Chiếu húy là Tông Bổn, ngài ra đời trong nhà dòng họ Quản, người xứ Thường châu, Vô tích. Ngài tánh tình chất trực, ít duyên tiết, dung mạo đầy đặn to lớn, nói năng không rườm rà. Năm mười chín tuổi, ngài theo phụng thờ Thiền sư Đạo Thăng ở Vỉnh an, Thừa thiên, Tô châu. Lúc ngài trú tại Thụy quang dân chúng ở đó có người làm nghề giết trâu. Trâu tuông chạy tới nói với ngài như tự than trách, ngài bèn mua và nuôi lấy nó. Lúc ngài trú tại Tịnh từ, năm đó nắng hạn, hồ giếng đều khô kiệt, ở góc phía Tây chùa có một dòng suối tuôn chảy, có một con cá Kim man, nhân đó khơi đào làm giếng và thả con cá vào đó, Tăng chúng trong chùa hơn cả ngàn người cung cấp chẳng thiếu. Tại nhà họ Trương có người con gái bị chết, về báo mộng cho người mẹ, bảo rằng: Con vì tội nghiệp nên làm thân rắn. Người mẹ thấy con rắn dưới quan tài bèn bắt đem đến chỗ ngài, ngài bèn vì rắn mà giảng pháp và bảo đem về để lại chỗ củ. Bỗng chốc lại có con ve màu đen bay liệng quanh quan tài mà con rắn thì không còn thấy nữa. Người mẹ liền cầu chúc rằng: Nếu thật là con gái của ta, nên vào trong lồng, ta sẽ đem ngươi đến chùa Tịnh từ. Con ve liền theo như lời cầu chúc, ngài lại vì nó nói pháp. Đêm ấy, người mẹ nằm mộng thấy con gái bảo: Hai quả báo đều đã được giải thoát. Các thứ hiển hóa của ngài phần nhiều như thế. Đến năm Nguyên Phù thứ 2 (1 0 9 9), đời Bắc Tống, nhằm ngày Giáp Tý tháng 12, lúc gần thị tịch, ngài tắm rửa rồi nằm. Các đệ tử Hoàn Ủng… cầu thỉnh rằng: Hòa thượng giáo hóa khắp thiên hạ, ngày nay không thể chẳng để lại kệ. Ngài gượng dậy ngồi yên, bảo lấy giấy bút viết lớn năm chữ: “Hậu sự giao giữ vinh” quẳng bút quả quyết nằm như ngũ rồi say, đến lay động thì ngài đã tịch. Các đệ tử xây tháp cúng dường toàn thân tại chùa Linh nham, ngài hưởng thọ tám mươi tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Thần tăng Ngộ Tân Thích Ngộ Tân, ngài vốn dòng họ Vương, người xứ Khúc giang, Thiều châu. Dáng mạo phương phi mặt đen, hình trạng như Phạm Tăng. Ngài nương ở viện Phật-đà, xuống tóc xuất gia, do khí tiết xuất chúng biểu lộ khuôn mặt chiếc phục người đời. Đầu tiên, ngài trú tại Linh nham, thế rồi đến Thúy nham. Xưa kia tại đó có Dâm từ, dân chúng trong vùng cầu cúng rượu thịt, ô uế không ngày nào ngừng nghỉ. Ngài khuyên vị tri sự nên phá hủy đi. Vị Tri sự khước từ cho rằng không dám rước lấy họa. Ngài tức giận bảo: Nếu như có tai họa, tôi đây sẽ gánh chịu. Đích thân ngài phá hủy. Bỗng chốc có con trăn lớn cuộn mình nằm ở trong, đưa đầu ra làm bộ dạng như muốn ăn nuốt, ngài quát mắng nó trốn đi. Rồi ngủ yên không điều gì xảy ra. Sau đó không lâu, ngài lại lãnh chúng ở Linh nham tạo dựng kinh tạng. Có thái sử hoàng công Đình Kiên vì làm bài ký. Lại có sự nghiệp vì mộ người thân mà tạc đục ghi chép âm vào bia văn, ngài tức giận bảo: Lấn hiếp chẳng lánh họa như thế ư. Nói chưa dứt lời bỗng có ánh sáng linh hiển soi chiếu lật tốc nhà, sấm sét đánh từ cửa vào, bẻ gãy phân nát tấm bia, trong nhìn lại thì đã cháy rụi, mà Tạng ký vẫn an nhiên không tổn hại gì. Đến lúc về già, ngài trở về trú tại Hoàng long, học giả đua nhau nhóm tụ, ngài cáo bệnh rút lui về trú tại Hối đường. Đến năm Chính Hòa thứ năm (1 1 1 5), đời Bắc Tống, ngày rằm tháng chạp, ngài an nhiên thị tịch. Cáo phó khắp nơi, các hàng đệ tử vì thế khóc gào rơi lệ, cử hành lễ trà-tỳ, thâu nhặc xá-lợi năm sắc. Ngài trụ thế bảy mươi hai năm, bốn mươi hai Hạ Lạp, bảo tháp dựng lập tại sau Hối đường. Thần tăng Tịnh Phạn Sa-môn Tịnh Phạn, ngài vốn dòng họ Đát, người xứ Gia hòa. Thân mẫu ngài nằm mộng thấy ánh sáng soi chiếu khắp nhà, có vị thần nhân tợ như Phật, nhân đó mà mang thai ngài. Sau khi sinh ngài, nuôi nấng đến năm mười tuổi, ngài nương tựa chùa Thắng quả xuống tóc xuất gia, ngài theo hai vị Pháp sư Trạm, Khiêm thọ học giáo pháp và được các ngài tận tình truyền trao. Ban đầu, ngài trú tại viện Vô lượng thọ, giảng kinh Pháp Hoa qua hơn mười lần. Trong niên hiệu Đại quán ( 1 1 0 7- 1111), đời Bắc Tống, ngài cùng hai mươi bảy vị Tăng kết hội tu sám pháp “Pháp Hoa.” Mỗi kỳ phương tiện chánh tu, trong hai mươi tám ngày thiết lập ba hội. Tin cầu kính cẩn tiên cảm thông đến Đức Bồ-tát Phổ Hiền nên được thọ pháp Yết-ma, gọi tên Tỳ-kheo Tịnh Phạn, âm thanh như động chuông. Bấy giờ, Tể Vương Công ở Trường châu huyện đích thân đến xem xét việc đó và đề bia đá làm văn kỷ. Ngài lại mộng thấy có người mặc áo màu vàng thỉnh đến Minh phủ thấy được Minh vương, bảo người kiểm tra sổ bộ rồi bảo: Tỳ-kheo Tịnh Phạn đã trải qua nhiều kiếp giảng kinh Pháp Hoa! Rồi sai sứ đưa ngài trở về. Một ngày nọ, đang lúc thiền quán cả chúng đều thấy có Thần nhân mặc áo giáp sắc quỳ trước mặt ngài. Lại ở chỗ khác, trong lúc sám nguyện cầu Vi-đà Thiên tướng điểm kiểm, trong đại chúng có người giới pháp không được nghiêm tịnh, trước do dự định, sau quả thật sám pháp không chu toàn. Bấy giờ có Cô tô Thư ứng công có kẻ tớ bị vua nhiễu não, nên thỉnh ngài trao truyền giới pháp, yêu ma ấy liền biến diệt. Có người dòng họ Cát thỉnh ngài thí giới để cúng tiễn cho chồng, thì thấy người chồng đi nhiều quanh ngài ba vòng mà đi. Đãi Chế Giả Công thấy ngài hành đạo liền giúp làm Quản nội Pháp chủ, ngài trụ trì tại đó hơn mười năm. Sau khi ngài thị tịch, hành lễ trà-tỳ có xá-lợi năm sắc. Thần tăng Đạo Long Sa-môn Đạo Long ở Vụ châu, ngài vân du khắp mọi nơi rồi đến ở ngụ tại chùa Năng nhân, Giang châu. Bởi vì không thường nên chỉ gọi là Hòa thượng Phong. Năm Thiệu Hưng thứ nhất (1 1 3 1), đời Nam Tống, ngài đến hoằng hóa ở Thụy xương, dừng nghỉ qua đêm tại chùa Thiên hoa. Đêm đó có một gã nam tử đến cúi khóc thưa rằng: Đệ tử bất hạnh, lúc sinh tiền tạo nhiều nghiệp ác, hiện tại bị đọa làm thân trâu, có một cái đuôi mọc ở trên đầu, hình trạng xấu xí khác lạ. Xin ngài từ bi vì con mà sám hối để giải thoát nỗi khổ này! Sáng hôm sau, ngài đến nhà họ Thang ở Nhược sơn. Mọi người trong nhà đều chạy ra đảnh lễ ngài, thưa rằng: Hôm qua con trâu mẹ sinh một con nghé rất quái lạ, đuôi mọc ở trên đầu. Sợ rằng, nhà chúng con cùng khốn nên sinh ra tai ương. Xin Hòa thượng xét suốt nhân duyên để tẩy trừ nghiệp trái xưa kia! Phút chốc, trong nhà dẫn con trâu nghé đến trước ngài. Nó lắc đầu vẫy đuôi, hình trạng như khẩn cầu tha thiết. Ngài quát rằng: Ngươi, ngày trước tạo nghiệp, nay khó trốn thoát, tuy phải nhận chịu hình hài ấy nhưng bổn tánh đâu khác. Há không nghe Hòa thượng Quy Sơn dạy chúng rằng: Trong có âm hương trong tàng có căn.” Nếu ngươi thấu hiểu được như thế tức thấy linh quang chiếu suốt mười phương, chư Phật và chúng sinh vốn đồng mật thể. Nếu chưa được vậy ta sẽ vì ngươi nói kệ. Trâu nghé nhận lời dự ký xong bèn theo ngài trở về chùa, có đến hàng ngàn người trông xem. Trâu nghé thấy người nên cúi đầu mà không ăn, biểu lộ trạng thái như xấu hổ. Đến đêm 30 tết, bỗng nhiên nó chết, ngài mộng thấy nó đến tạ ân, bèn dẫn chúng nhóm lửa mà thiêu đốt. Thần tăng Linh Chi Luật sư Linh Chi, ngài là người trùng tạo Minh châu, Ngũ đài giới đàn thành, có một ông già thần khí cao vời, mày tóc bạc trắng, đi đến thưa rằng: Đệ tử có ba viên ngọc xin kính dâng chúc mừng đàn thành. Nói xong, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Nhân đó, ngài đặt ba viên ngọc vào giữa đàn, luôn hiện tướng ánh sáng. Sau đó, vị đàn chủ cùng Thập sư khai đại giới pháp, trải qua hai ngày đến nửa đêm, có một vị Tăng đăng đàn, bỗng thấy ánh sánh viên ngọc chiếu suốt bên ngoài, bên trong hiển hiện Thiện Tài Đồng tử. Vị Tăng ấy mới kinh hãi kêu chúng đồng dậy chiêm ngưỡng và thảy đều kính lễ. Từ đó, mỗi đêm Tăng chúng càng tỏ vẻ kiền thành khẩn thiết. Và chỗ hiện của viên ngọc, hoặc là Đức Phật thân sắc vàng ròng, hoặc là Bồ-tát Quán Thế Âm thân tướng sáu tay, hoặc là trúc xanh liễu biếc, hoặc là gỗ đá kì lạ, hoặc chim Ca-lăng-tần-già bay múa chung quanh, hoặc là Trưởng giả nguyệt cái, hoặc là rồng thần dâng cúng châu ngọc… thần biến chẳng phải một. Mọi người thấy nghe đều cho là hiếm có. Thần tăng Thường La-hán Sa-môn Thường La-hán ở Gia châu, người khác lạ vậy. Ngài thích khuyên người thiết trai hội cúng dường các vị La-hán, nên có được tên gọi như thế. Có bà già họ Dương thích ăn thịt gà, lúc bình sinh giết hại không biết mấy trăm ngàn con gà. Sau khi bà qua đời, người nhà làm sáu bảy trai hội cúng tế Hoàng Lục. Vị đạo só vừa mới bái chương, bỗng nhiên ngài đến, bảo cùng con bà già ấy rằng: Ta sẽ vì các ngươi mà sám hối. Người nhà họ Dương vui mừng thiết tòa thỉnh mời ngài vào. Ngài ngoảy nhìn đứa tớ trong nhà và bảo: Ngươi đi đến nhà thứ… ở phía Đông ngã tư, mua một con gà mái lông hoa đốm về đây. Đứa tớ vâng lời tìm mua được đem về, ngài bảo giết để làm cỗ. Người nhà họ Dương khóc, thưa rằng: Tôn giả đến đây mà chẳng có chút gì mến tiếc. Ngày nay bày sự cúng tế, cả nhà trong ngoài từ lâu đã dứt bỏ soạn cỗ tanh nồng. Xin ngài vì thương giúp cho gia đình. Ngài không hứa khả mà hẳn muốn nấu lấy. Các thức ăn đã nấu chín, thiết đặt tại bàn, ngài ngồi xoạt chân, xé thịt chia đầy mâm và an trí trên chân cửu vị, rồi ăn lấy số còn thừa. Sau khi cúng trai xong, ngài chẳng vái chào mà đi. Đêm đó, người nhà bán gà và trong nhà họ Dương đều mộng thấy bà già đến tạ ân, nói rằng: Lúc sinh tiền tạo các tội nghiệp, bị trách phạt làm gà, may nhờ sự ban ân của La-hán sám tạ, nên nay được giải thoát. Từ đó, mọi người trong quận huyện làm việc Phật cầu tiến cúng người mất, thường mong cầu ngài lại để vì trợ giúp cho Minh đồ. Đến cuối niên hiệu Thiệu Hưng (…- 1 1 6 3), đời Nam Tống, ngài thị tịch. Nhục thân để lâu ngày mà chẳng rã hoại. Thần tăng Đảm Ba Quốc sư Đảm Ba, ngài còn có tên gọi là Công Gia. Người xứ Cam-lợi-tây-phiên-đột-cam-tư-đát-ma. Thuở nhỏ, ngài theo ngài Đạt- ma Thất-lợi người xứ Tây Thiên Trúc truyền trao tập học Phạm bỉ và thành tựu được pháp yếu đó. Trong niên hiệu Trung Thống ( 1 2 6 0- 1264), đời vua Thế tổ, nhà Nguyên, Bát-tư-ba bậc thầy của vua tiến cử ngài. Bấy giờ nhà vua đang lo nắng hạn dữ dội, vua Thế Tổ bảo ngài lập đàn cầu mưa. Ngài đã từng chú nguyện trong thức ăn rồi quăng ném xuống ao rồng, trong khoảng khắc có hoa trái khác lạ xuất hiện trên mặt sóng nước, nhặt lấy đem dâng lên vua. Vua Thế Tổ rất vui mừng. Xu Mật phó sứ Nguyệt đích mê thất trấn nhậm ở Triều, mà người vợ mắc bệnh kì lạ, ngài dùng pháp trì Sổ Châu Gia Trì vào thân bà ấy liền lành hẳn. Ngài thường vì Nguyệt Đích mê thất nói các điềm mộng khác lạ. Kịp đến lúc trở lại Triều kỳ sau đều có ứng nghiệm. Trong niên hiệu Nguyên Trinh ( 1 2 9 5- 1297), đời nhà Nguyên, Hải Đô chiếm phạm biên giới Tây Phiên, vua Thành Tông bảo ngài cầu đảo thần Ma-ha Cát Thích. Thế mà ngài nhanh đưa thư quả thật đến. Ngài lại vì vua Thành Tông cầu đảo bệnh rất nhanh lành. Nhà vua ban tặng ngài rất nồng hậu. Lại ban chiếu phân làm ngự tiền hiệu úy vì đó mà dẫn theo. Vua Thành Tông đi tuần ở phương Bắc, bảo ngài dùng xa giá cỡi voi dẫn trước. Đi qua Vân châu, ngài nói cùng các đệ tử rằng: - Tại xứ này có linh quái khủng bố kinh hãi nương theo kiệu giá, phải nên mật trì thần chú để yểm trừ nó đi. Sau đó không lâu, gió mưa lớn đến, mọi người đều kinh sợ, chỉ có màn điện không sao. Nhà vua lại ban tặng ngài một cái chén khảm ngọc. Mùa Hạ năm Đại Đức thứ bảy (1 3 0 3), đời nhà Nguyên, ngài thị tịch. Đến khoảng niện hiệu Hoàng Khánh ( 1 3 1 2- 1314), đời nhà Nguyên, vua Nhân Tông truy tặng thụy hiệu Đại Giác Phổ Tuệ Quảng Chiếu Vô Thượng Đảm Ba Đế Sư.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 186