<經 id="n2062">TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH (QUYỂN 1 ~ 8) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH Sa-môn Thích Như Tinh đời Minh ở chùa Từ Vân, núi Thiên Thai kính soạn. <詞>LỜI TỰA Từ năm Giáp dần thời vua Chu Chiêu Vương, Đức Thích-ca Thế Tôn đản sanh tại Tây Trúc, Thành đạo, nhập Niết-bàn, mãi hơn ngàn năm sau, đến thời vua Minh Đế; thời Hậu Hán, hai Tôn giả Ca-diếp- ma-đằng và Trúc-pháp-lan mới đến Trung Quốc. Vua Minh Đế lần đầu tiên xây dựng chùa Bạch Mã để các Ngài an trú. Từ đô, Phật pháp bắt đầu hưng khởi, Tăng đồ dần đông. Tiếp theo, đời Ngô có Ngài Khương Tăng Hội, đời Tấn có Thích Đạo An, Bảo Chí, Tăng Thích, Chi Tuần, Đàm-vô-sấm v.v… Tên họ các Thần tăng, ghi khắp khuôn linh, vết thơm vang khắp trong nước. Lời vàng Đạo nhã, luận cao chước khéo, biên chép đủ đầy. Nên, trong thời Lục Triều, Ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn, đời nhà Đường, luật sư Đạo Tuyên, đời Tống có ngài Tán Ninh, v.v… mới thỉnh tu Tăng sử và cao Tăng truyện, mỗi thứ có đến mấy quyển. Thêm nữa, Đại sư Đạt-ma từ xa dự biết cơ duyên ở đất Trung Hoa đã đến lúc chín muồi, nên chẳng ngại xa cả muôn dặm mà đến. Đặc biệt truyền trao diệu chỉ “truyền riêng ngoài giáo”. Trải qua sáu đời, đến Ngài Tuệ Năng thì Phật giáo phấân phát lớn mạnh. Lại bắt đầu truyền đến các Ngài Thanh Nguyên, Nam Nhạc, Mã Tổ, Thạch Đầu. Cành phân rễ bố, ngọn tràn nguồn sâu. Có thể gọi là: “Từ từ biến khắp mà đến nơi Đạo”. Sau đó, Bách Trượng xuất sanh ra phép tắc đầy đủ của tùøng lâm, có khai Đường, nhập Thất, dựng phất, niêm chùy, tất cả một ngàn bảy trăm tắc, như dây bìm dây sắn lan cùng vũ trụ. Đầu tiên do từ Thiền sư Đạo Nguyên, Học só Dương Đại Niên, Phụ mã Lý Tuân Úc v.v… soạn các bộ Truyền Đăng Lục, mỗi thứ có đến mấy quyển. Đến đời Minh chúng ta, vua Thành Tổ Văn Hoàng đế, nhân lúc nhàn rỗi mọi duyên, đọc xem Tăng sử Truyền Đăng Lục, dò xét các bậc có những điều linh dị, lại soạn riêng bộ truyện Thần tăng, có đến mấy quyển. Đối với sự vui chơi thì đáng gọi là quyển sách to lớn. Xưa kia, Khồng Tử soạn sách Xuân Thu mà loạn thần tặc tử lo sợ, Thái sử công viết sử truyện mà những kẻ chẳng ra gì trong nước xấu hổ. Nay, tôi con dòng họ Thích mà có sách này thì khiến các vị Sa-môn trong nước chẳng những không làm loài trùng trong thân sư tử ma sẽ thấy người hiền nghó làm sao mình phải có bằng. Im lặng mà khế hợp với lời nói, biểu lộ mà được khỏi mất, há có thể so lường ư! Nhưng Tăng sử bắt đầu từ đời vua Minh Đế thời Hậu Hán, truyền đăng khởi nguồn xa xưa từ bảy Đức Phật và đều kết thúc ở đời Tống, chỉ có Truyện Thần Tăng mãi đến thời Nguyên thuận mới thôi. Bắt đầu đời nhà Minh phát khởi, từ lúc Thái Tổ Cao Hoàng Đế mở nước trở lại, sự bình trị của nước nhà vượt hẳn cả thời Tam đại, sự hư người thạnh của Phật pháp đến đời Đường đời Tống, riêng chỉ Tăng sử, các sách Truyền Đăng còn lẻ tẻ không nghe thấy, thật đáng than buồn. Nhưng chúng ta, những người có khả năng chẳng lấy làm lo nghó, những người có chí chẳng lấy làm duyên, thì các nhân vật trong triều đại đất nước chúng ta há chẳng bằng đời Đường đời Tống ư! Vào năm Canh tý hiệu khắc bộ “Tiền đại kim Thang Biên”, năm nay lại biên tập bộ “Quốc triều Hộ pháp” để bổ túc thiếu sót. Nhân trong bộ “Sử Chí Văn tập” thường có ghi các bậc Danh tăng, do đó, tùy hỷ ghi lục lại. Từ đời Nam Tống cho đến nay sơ lược có được bao nhiêu vị, mạn phép đặt tên là “Đại Minh Cao Tăng truyện” ( Truyện các bậc Cao Tăng đời Minh) dành sẵn cho những người tu chỉnh văn sử chọn lựa chiêu tập, v.v…. Thời nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch, ngày tốt tháng 05 năm Đinh tî (1 6 1 7), viết tại Bát Nhã đường, chùa Lăng Nghiêm ở Gia Hưng. -------------------------------------- TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂN ĐỜI MINH Sa-môn Thích Như Tỉnh ở chùa Từ Vân, núi Thiên Thai kính soạn. <卷>QUYỂN 1 CHƯƠNG I: PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN (Chánh truyện có 1 vị, phụ có 2 vị). 1/. Truyện Sa-môn Thích Sa-la-ba trụ chùa Khánh Thọ ở yên đô đời Nguyên. (Thích ôn-bốc-ca-la-tư-ba). Thích Sa-la-ba người ở Tích Ninh thuộv Tây Quốc vừa đến tuổi búi tóc, Sư nương đế sư Bát-tư-ba-đế xuất gia, tập học các bộ giáo pháp Quán Đảnh. Sư lại theo Đại sư Trước-lặc-xích thọ học các kinh giáo Đại tiểu thừa. Bấy giơ,ø có ngài Thích-ôn-bốc khéo thông Diệm-man- đức-ca, Mật giáo được người đời tôn xưng trọng, Sư tìm đến học và thấu hiểu được cùng tận Đạo lý ấy. Do đó mà Sư tinh thông tiếng Thổ Phiên, giảng nói các thứ Diệu Pháp kiêm luôn giải rõ văn tự các nước. Sau, nhân ngài Ca-la-tư-ba-đế-sư đề cử Sư lên vua Thế Tổ và được ban sắc phiên dịch các kinh giáo Hiển-Mật ở Trung Quốc chưa được hoàn bị, mỗi thứ đến mấy bộ, trong đó từ chỉ rõ ràng. Vua Thế Tổ ban tặng hiệu “Đại biện Quảng trí”. Thời bấy giờ, tăng quan tuy đông mà phong thái kỷ cương suy đồi. Quan lại không thể giữ thành chống ngăn di pháp, bên ngoài khinh lờn, trở lại làm hại chư tăng. Vua Thế Tổ mỗi lúc bàn bạc đến việc ấy, vô cùng lo âu tha thiết! Bèn chọn người có khả năng chỉnh đốn lại mối mất mát đó, nên đặc trao Sư làm Thích giáo Đô Tổng thống ở các xứ Giang Triết, v.v… Nhà vua đích thân khổ nhọc đón đưa. Khi Sư đã đến Giang Nam, tước bỏ hết các phiền hà, mở lòng khoan đại, nên chư tăng các chùa xa gần nhờ đó mà an định. Theo đó thay đổi Thống phước quảng. Vì khí độ chánh đức trang nghiêm của Sư cao vợi nên không dám nương cậy vì vậy có lắm trái nghịch đồng phát sanh. Sư thường tự than rằng: “Dân chúng trong nước đâu việc gì ư? Chỉ bởi chúng ta tự khuấy nhiễu ấy! Triều đình bày ra lắm quan tước thì mọi việc trong nước càng thêm phiền toái. Nay, nỗi khổ của chư tăng không gì khác, chỉ bợi quan tước lắm sự phiền nhiễu. Đó là điều có thể gọi là mười con dê mà có đên chín người chăn, không là quá lời”. Ngài bèn tấu trình để triều đình xét biết và có được chiếu chỉ bãi bỏ hết các đường tổng thống. Khắp Dân chúng trong nước đều vui mừng. Từ đó, Sư liền ẩn tích về núi, lập thất trồng cây, muốn sống trọn tuổi già. Vào niên hiệu Chí Đại ( 1 3 0 8- 1312) đời Nguyên, Sư lại vâng chiếu đến yên kinh, bái Quan Lạc Đại phu Đại Tư Đồ, các vương Hoàng Thái tử thường thưa hỏi pháp yếu. Vua Vũ Tông - đời nhà Nguyên ban chiếu cấp lẫm quán ở chùa Khánh Thọ. Các kinh điển do Sư phiên dịch triều đình đều khắc in phát hành. Đến ngày mồng năm tháng mười năm Diên Hựu thứ nhất (1 3 1 4) đời Nguyên Sư thị hiện bệnh nhẹ. Vua Nhân Tông ban tặng muôn xâu bạc giấy, ban lệnh Thái úy Phan Vương trông nom thầy thuốc, Sư cảm tạ khước từ, cuối cùng Sư an tọa đối diện tôn tượng Đức Phật mà thị tịch. Nhà vua vô cùng thương tiếc, cấp tặng mọi thứ lo việc an táng, sai sứ nhanh chóng đưa về quê cũ, xây thap cúng dường. Liên quan thử bàn: Sự thạnh hành của việc phiên dịch kinh điển chẳng qua ở thời Lục triều, lớn mạnh như các ngài La-thập, Thật-xoa-nan-đà ở đời Đường. Đến thời Ngũ Đại, Bắc tống thì dần dần thôi nghỉ, huống gì từ khi Khương Vương vượt sông, Hồ Mã Nam ẩm, xe loan vội trốn. Sau niên hiệu thuần Huy ( 1 1 7 4- 1190) đời Nam Tống, tuy có chút ít nhàn rỗi, nhưng đâu thể từ đó ư? Đến đời vua Thế Tổ ( 1 2 6 0- 1280) đời Nguyên thì Hoa Di mới nhất thống, mới trở lại có ban sắc dịch kinh. Cho đến đời Minh chúng ta (1368…), từ các niên hiệu Hồng vũ ( 1 3 6 8- 1399), Kiến Nguyên (?) về sau, các vị tinh thông tam tạng không ít như Tôn giả Ca- Diếp-Ma-Đằng không đến nỗi nên chỉ liệt bày. Nay trên dòng sử Phật đời Nguyên, chỉ có có được một mình Sư, như chẳng luống dối là đứng đầu thì cũng là người ít có vậy. ---------------------------- <詞>CHƯƠNG II: GIẢI NGHÓA TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG II (chánh truyện có mười ba vị, phụ có chín vị). 1/. Truyện Sa-môn Thích Tịnh Chân trụ chùa Hưng Thánh ở Tùng Giang. Thích Tịnh Chân không rõ Sư họ gì. Sư nương Pháp sư Nhược Bình ở chùa Hưng Thánh, Tùng Giang xuất gia, tu tập theo Tông Hiền Thủ. Năm Gia Hy thứ ba (1 2 3 9) thời nam Tống, Ngài vân du khắp các chùa ở Triết Giang. Nhân ở Tiền Đường đê sông bị phá hủy, sóng nước tràn ngập bềnh bồng gây hại cho dân chúng, Sư viết kệ trình cùng An Phủ Sứ Triệu Đoan Minh rằng: “Biển tràn sông ngòi nước liền nhau Muôn dân man mác sợ ngập lâu, Ném mình thẳng hướng cung rồng đến Đòi dứt sóng gió vỗ ngập trời”. Rồi Sư bèn gieo mình xuống biển ba ngày, trở lại nói với dân chúng rằng: “Ta đến cung rồng nói pháp, các hàng rồng thần đều nghe nhận. Đường này từ đây không còn bị phá hủy nữa”. Nói xong, Sư lại gieo mình xuống biển. Triệu Đoan Minh cảm mộ ân đức của Ngài, nên tấu trình rõ ràng cùng với triều đình. Nhà vua sắc tặng hiệu là: “Hộ QuốcTịnh Chân Pháp sư” lập đền thờ tại hội từ ở đất Hàng. 2/. Truyện Sa-môn-Thích Tổ Giác ở chùa Trung Nghiêm thuộc My Châu. Thích Tổ Giác, Sư còn biệt hiệu là Si Am, con nhà họ Dương ở Gia Châu. Ngài thông minh dónh ngộ sớm phát, riêng chỉ ưa thích Phật thừa, siêng năng nghiên cứu yếu chỉ của Tông Hiền Thủ và thành đạt được nghóa mầu của Tông ấy. Sau, Ngài vâng chiếu ra trú chùa Trung Nghiêm ở My Châu. Các hàng học giả ở khắp bốn phương đua nhau kéo đến như mây nhóm. Thường ngày, Sư lên pháp đường giảng dạy chẳng lộ bày mỏi mệt, dốc hết tâm từ bi, dẫn dắt hậu học. Tông Phái Thanh lương đến thời Sư có thể gọi là đỉnh cao hưng thạnh. Ngoài việc niêm chùy ra, đối với các sách sử xưa nay, điển chương của các nhà hiền triết không thứ gì Sư chẳng nghiên cứu. Xem qua một lượt liền thuộc lòng. Sưcó sửa chữa Tăng sử thời Bắc Tống, cũng như các bộ “Hoa Nghiêm Tập Giải”, “Kim Cương kinh chú”, “Thủy Lục Trai Nghi” v.v… để lưu hành ở đời. 3/. Truyện Sa-môn Thích Nhược Nột ở Thượng Thiên Trúc thuộc Lâm An. Sa-môn Thích Nhược Nột, vâng chiếu vua trú tại Thượng thiên Trúc. Thường lãnh đồ chúng cả ngàn vị mở mang giáo nghóa Tam Quán, Thập thừa, Ngũ trùng, Lục tức. Sư biện luận ngôn từ như nước rót thác chảy, thật là nơi nương tựa của bốn chúng thời bấy giờ. Niên hiệu Thuần Hy thứ ba (1 1 7 6) thời nam Tống, vua Cao Tông (1) đến chùa thượng Thiên Trúc, muốn lễ bái tôn tượng Đại só. Sư đón rước vào. Vua Cao tông hỏi rằng: “Trẩm đối với Đại só, lễ bái có hợp hay không?” Sư đáp: “Không lễ bái thì mỗi người tự xưng tôn, lễ bái thì thay nhau cung kính”. Vua Cao tông vui mừng, lễ bái chí thành. Lại hỏi về thường năm tu trì sám pháp kim quang minh ý nghóa ấy như thế nào. Sư giải thích: “Xưa kia, Đức Phật vì Tứ Thiên Vương Thích Phạm nơi pháp Kim Quang Minh tam muội, phó chúc các vị ấy hộ Quốc an dân. Các vị Tổ sư đời sau soạn nên sám pháp để Chư tăng đến đầu năm phụng trì phàp ấy, cầu phước cho nước nhàø. Đó là một bộ sách rất hưng thạnh ở đời”. Nhà vua nói ban cho Sư tước phẩm “Hữu nhai Tăng lục” cấp tặng tiền, liền tu theo đạo ấy. Ngày mồng tám tháng tư năm sau (1 1 7 7), nhà vua mời Sư dẫn chúng tăng gồm năm mươi vị vào điện Nội Quán, hành trì pháp “Hộ Quốc kim Quang Minh Tam muội”. Ban tặng trai hội hoàn tất, Sư lên tòa giảng pháp. vua Cao Tông hỏi: “Trong Phật pháp có gì sâu mầu, sao được kinh quyển như thế? Ngài bảo: “Có, vốn như thế”. Vua Cao Tông rất vui mừng, lại ban cho Sư tước phẩm “Tả nhai Tăng lục”. Tặng hiệu là “Tuệ Quang Pháp Sư”. Từ đó, thường năm đến ngày ấy, Sư vào nội điện tu cử Phật sự. Nhà vua ban tặng Sư năm mươi xấp lụa. Đến tháng tám niên hiệu Thuần Hy thứ bảy (1 1 8 0), nhà vua mời Sư vào nội diện, thiết ban trai hội, Sư giảng pháp xứng hợp thánh chỉ, ân sủng thấm đượm, thêm nhiều đặc sắc. 4/. Truyện Sa-môn Thích Liễu Nhiên ở chùa Bạch Liên thuộc Đài Châu. Thích Liễu Nhiên, hiệu là Chí Dũng, Sư xuất gia tại chùa Ba- ïch Liên trong quận, diễn giảng Thiên thai giáo quán hơn 20 năm, Sư tinh cần khuyên răn hàng hậu học, ẩn tu bạch nghiệp, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, an tọa tới sáng. Một đêmï, Sư mộng thấy hai con rồng đùa giỡn với nhau trong mây giữa không trung, bỗng nhiên hóa thành Thần Nhân, từ giữa hư không mà xuống bái kiến Sư, lại lấy từ trong tay áo ra một phong thư, bảo rằng: “bảy ngày sau, Sư sẽ trở về phương Tây!” Đến lúc thức giấc, Sư biết đó là điềm ứng vãng sanh, bèn đánh trống nhóm chúng, lên tòa giảng pháp, giao phó việc hậu sự. Thế rồi, viết kệ khuyên răn rằng: “Tôi nhờ sức niệm Phật, được sanh nước an lạc. Vậy nên các người không nên buông lung!” Rồi liền bảo tắm gội thay y phục, bảo chúng đồng thanh tụng kinh Di đà, đến đoạn “…… Tây phương thế giới”, thì Sư an nhiên mà hoá. Cả chúng đều nghe âm vang nhạc trời khắp cùng giữa hư không, ánh sáng tốt lành tỏa chiếu cả bầu trời. 5/. Truyện Sa-môn Thích Liễu Tuyên ở chùa Bảo Lâm thuộc Minh Châu. Thích Liễu Tuyên, người ở xứ Tứ Minh, tập học ở Bảo Lâm. Nhân kính mến sự hưng thạnh của Nam hồ nên Sư bèn đến đó. Sư tinh cần nghiên cứu yếu nghóa Tam Quán, Thập thừa, xem đọc Đại tạng kinh giáo, không gì chẳng biết về đại nghóa. Sư hành trì Pháp Hoa Sám Pháp hơn hai mươi năm, cùng kết bạn với ngài Thích Thiện Vinh, đồng chí nguyện hành thiện. Về sự tu tiến thảy đều đồng nhau. Ngài Thiện Vinh thường viết chữ vàng các bộ kinh Pháp Hoa, Lăng-Nghiêm, Tịnh Danh, Viên Giác, v.v…, Sư cũng trợ gi- úpï. Hoặc gặp Tây tư hội thì giúp tay người họa vẽ thủy mặc tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. Hai người đồng kết thệ nguyện vãng sanh. Mỗi lúc nói pháp thì Sư chăm chăm khuyên mọi người đều cầu sanh về cõi An Dưỡng. Những người theo Sư niệm Phật rất đông. Một hôm, Sư đến thất của ngài Thiện Vinh, ngồi im lặng. Ngài Thiện Vinh cố hỏi nguyên cớ. Sư đáp: “Tôi về phương Tây đã đến lúc, khó quên như Đạo nghóa, cũng như gặp lại Tịnh Độ”. Ngài Thiện Vinh bảo: “Đó chính là chỗ mong ước”. Sư liền nhóm Chúng để từ biệt, bảo Chúng tụng kinh, xưng niệm danh hiệu Phật. Sư ngồi thẳng, viết kệ rằng: “Tánh tướng quên tình Một ba chẳng gá Gió dứt chẳng đi Là Đại Cát Tường” Sư chấp tay mà thị tịch. Bấy giờ, đang tiết trời nắng nóng, an trí nhục thân Sư trong khám bảy ngày mà nhan sắc vẫn hồng hào tươi nhuận, ở khóe miệng có nhiễu ít nước dãi, những người đến chiêm ngưỡng dùng khăn bọc lại thì có mùi thơm khác lạ phun vào người. Các hàng só thứ khắp cả thành đều đén nhóm bọc, mùi thơm nước dãi lại càng nhiều. Sau khi trà tỳ thâu nhặt được vô số xá lợi. Sư viên tịch được ba năm, bỗng nhiên ngài Thiện Vinh đem các thứ kinh tượng chia cho những người thân quen xưa cũ, rồi trì tụng kinh Phổ Hiền hạnh pháp, kinh tiểu bổn A-di-đà, bảo Chúng đồng giúp xưng niệm danh hiệu Phật. Sư ngồi kiết già, bảo rằng: “Ta đã đến thời hạn ước hẹn với ngài Liễu Tuyên!”, nói xong, Sư an nhiên thị tịch. 6/. Truyện Sa-môn Thích Tánh Trừng trụ chùa Thượng Thiên Trúc ở Hàng Châu, đời Nguyên. Thích Tánh Trừng, tự là Trạm Đường, hiệu là Việt Khê, Sư là con nhà họ Tôn ở Cối Ke thuộc Thiệu Hưng. Cha của Sư tên Mãn, mẹ của Sư họ Khương. Mẹ Sư mộng thấy mặt trời từ giữa hư không rơi xuống, đến lúc thức giấc mà ánh sáng mặt trời vẫn còn chiếu soi trên cạnh giường, liền sanh ra Sư. Lên bốn tuổi, Sư thường đùa vui cầm bút vẽ tượng Phật. Cha mẹ trao kinh Phật cho Sư thì liền tụng được như sớm đã học tập. Đến năm Bính Tý nhằm niên hiệu Chí Nguyên, đời Nguyên (1 2 7 6), Sư đến Luật sư Thạch Môn Thù xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Ngài Thạch Môn bảo: “Các Đức Phật ba đời đều lấy giới luật làm gốc”. Bèn dạy Sư tìm tòi học tập về Luật tạng. Do đó mà Sư thông rành nghóa lý của tánh giới, già giới, song đơn, và các pháp chỉ - trì - tác phạm, v.v… Đến năm Ất Dậu (1 2 8 5), Sư nương ngài Phật Giám Thiểm Công, tập học Thiên Thai giáo quán. Lại đến tham yết Pháp sư Vân Mộng Trạch ở phổ phước thuộc Nam trúc. Ngài Vân Mộng Trạch thấy sâu sắc bèn thêm khí trọng. Sư lại đến trụ thanh ban yếu chức. Vì chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai, xưa vốn là chùa giảng thuyết giáo nghóa tông Thiên thai, sau đổi thành thiền việnnên Sư chẳng ngại xa xôi mấy ngàn dặm đến kinh đô, tấu trình nguyên do sự tạo lập chùa và đầu đuôi thể chế cũ. Vua Thế Tổ ( 1 2 6 0- 1280) đời Nguyên ban chuẩn thư ấn hồi phục lại. Thế rồi, Sư muốn đi xuống phương Đông áp duyên, chu du đến Cao- Ly, tìm các thứ kinh sách của tông Thiên thai còn sót lại, nhưng nghe ở nước đó có việc bèn thôi. Đến năm Ất Tî (1 3 0 5) nhằm niên hiệu Đại Đức, Sư ra trụ tại Đông Trúc thuộc Hàng Châu. Trong năm Đinh mùi (1 3 0 7), ở Ngô Việt hạn hán, Sư dẫn Chúng nói pháp, cầu mưa, bèn có cảm ứng. Gặp năm đói kém, dân chúng chết không thể gom hết, Sư bèn vùi lấp hài cốt, lập đàn Đại hội thủy lục để phổ độ họ. Đến năm Mậu thân (1 3 0 8) nhằm niên hiệu Chí Đại, Sư dời sang Diễn Phước ở Nam Trúc. Đến năm Tân Dậu (1 3 2 1) thuộc niên hiệu Chí Trị, nhà vua dùng phương tiện đưa ngựa trạm mời Sư vào kinh đô, hỏi Đạo ở điện Minh nhân, ban sắc cho Sư trú tại chùa Thanh Tháp, hiệu chính Đại tạng. Nhà vua xa giá đến điện các Văn-thù, hướng dẫn thăm hỏi, ban tặng kinh Vô lượng thọ Phật, v.v…, mỗi thứ mấy quyển. Xong việc, tạ từ trở về, nhà vua lại đặc biệt ban tặng bộ phục xiêm liền nhau dệt bằng vàng. Sắp sửa phát hành, thì lại có chiếu chỉ mời Sư đến chùa Bạch Liên, thiết lập Đàn tràng thủy lục, thực hành pháp thí hội vô già. Khi ấy, Thừa tướng Đông Bình Trung dâng kế cùng nhà vua thỉnh Sư lên tòa nói pháp. hầu nghe xong rồi, nhà vua càng sủng ái thưởng tặng rất lớn. Ban tặng hiệu là “Phật Hải Đại sư”. Đến năm Giáp Tý (1 3 2 4) nhằm niên hiệu Thái Định, Sư đến trú tại chùa Thượng Thiên Trúc. Suốt chín năm, đến ngày rằm tháng sáu năm Nhâm ngọ( ) (1 3 3 2) - thuộc niên hiệu Chí Thuận, bỗng nhiên Ngài đánh trống, báo cùng chúng tăng rằng: “Ta trú tại ba danh sơn hơnba mươi năm, tự làm điều vô ích, duyên đời có hạn, hổ thẹn chẳng tỏ rõ các bậc cổ đức phong thái lẫm liệt đáng vịn nương”. Cuối cùng, Sư phẩy áo trở về Vân ngoại trai của Thiên Trúc. Trong những năm còn lại, Ngài vượt đến Phật quả, dốc chí chuyên tu Tịnh Độ, nhất tâm tam quán mỗi kỳ suốt bảy ngày đêm, thường cảm ứng điềm lành. Vào một ngày đầu tháng, đại chúng giữ lệ thường nghi vào thăm viếng, Sư vội vái chào, bảo: “Lão tăng vừa rồi chẳng phải gấp lui bước, suốt mười hai năm ròng chỉ ở nửa đường. Ngày nay thì có, ngày mai sợ rằng không. tất bóng ấy có thể ôm chầm vui đùa ư!”. Sư nhọcxét y bát, để biểu hiện vô thường. Đại chúng đồng vì Sư mà xưng niệm danh hiệu Phật. Ngài ngăn cản bảo họ: “Phật phải tự niệm. Sáng sớm mai hãy tới tống biệt!”. Vừa lúc mờ sáng, Đại chúng nhóm họp, Sư ngồi thẳng an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp. Lưu lại nhục- thân Sư trong khám bảy ngày, nhan sắc dáng mạo vẫn như lúc sống. An táng toàn thân ở tháp viện Thanh Thái. Sư có soạn các bộ: “Kim cương tạp chú”, “Tâm kinh”, “Tiêu Tai Kinh chú”, “Di-đà kinh cú giải” và “Nhân vương kinh”, “Như ý luân chú kinh khoa”, đều lưu hành ở đời. 7/. Truyện Sa-môn Thích Mộng Nhuận ở chùa Hạ Trúc thuộc Hàng Châu. Thích Mộng Nhuận, tự là Ngọc Cương, họ Cố, người ở xứ Hải Diêm thuộc Gia hòa. Cha của Sư là bậc quân tử thông minh ở ẩn, mẹ của Sư họ Tôn; là cháu ngoại gái của Pháp sư Cổ Nguyên Thanh. Mẹ Sư từ lúc mang thai đến khi sanh Sư, thường cảm những điều mộng khác lạ. Năm mười bốn tuổi, Sư nương theo Pháp sư Cổ Thanh ở chùa Bạch Liên trong quận. Sư mới lễ bái Thần già-lam thì đất đều đổ ngã, cả Chúng đều kinh lạ, ngài Cổ Nguyên trao kinh cho liền tụng rành, bèn bảo Sư nương theo Đại sư Tường Công xin xuất gia thọ giới Cụ túc. Ngài Cổ Thanh thấy Sư thông minh lanh lợi, nên trao cho các kinh sách “Thiên thai chỉ quán”, “Kim ương Ty Thập bất nhị môn”, Sư liền hiểu rõ được đại ý các kinh sách ấy. Gặp lúc ngài Cổ Thanh viên tịch, sư bèn thờ Pháp sư Trúc Đường Truyền để chọn pháp tu. Nhân vì khổ công học tập nên mắc phải bệnh lạ, Sư bèn trì hành sám pháp cầu thỉnh Bồ-tát Quán Thế Âm suốt bốn mươi ngày, liền cảm linh ứng, bệnh lành, và tâm càng thêm sáng tỏ nhanh nhẹn, bèn được phân tòa nói pháp ở Diễn Phước thuộc Nam Trúc. Ngài Trạm Đường Tánh Trừng lại tới pháp tịch ấy, thì Sư ở đệ nhất tòa. Vô Hà xuất thế là Đương chủ hồ Đức Tạng ở Hải Diêm, trong mùa hạ, Sư giảng kinh Pháp Hoa. Thính chúng thường có đến ngàn vị, người buôn bán rượu, vì đó mà đổi nghề. Các thứ vết tích điềm lành ứng hiện không thể ghi hết. Sửa đổi tông phong ở Diễn Phước càng phấn phát. Sáu năm sau Sư thôi việc ở viện, trở về ẩn tu tại am Bạch Liên trên đỉnh Phong Hoàng, thuộc Lonh Tỉnh, chuyên hành trì pháp niệm Phật tam-muội. Mọi người đến nương theo ngày một đông. Từ viện Tuyên Chính lấy làm pháp tịch Hạ Trúc phát khởi mạnh. Chùa mới bị tai họa, chỉ còn lại Điện Phổ Hiền trơ trọi, gai gốc níoi gạch đầy ở trong. Sư bùi ngùi nói với đại chúng rằng: “Chùa này thành tựu nhờ ở Từ Vân, nay chánh điện vẫn còn là nguyện lực của Tổ Sư còn đó!” lần lượt được sửa sang tu bổ thành mới. Sớm tối giảng nói không mệt mỏi, Sư dẫn chúng tu hạnh Pháp Hoa Tam-muội, cảm được Bồ-tát Phổ Hiền phát ra ánh sáng, hiện các điềm lành. Sư trú tại đó ba năm, một hôm, Sư gọi các đệ tử Thật pháp, Minh Sách v.v… chỉ dạy yếu chỉ của chỉ Quán An Tâm. Thế rồi, Sư bảo với chúng rằng: “Nhân duyên đời nay của tôi đến lúc đã hết”. Chợt Sư xưng niệm danh hiệu Phật vài trăm tiếng rồi an nhiên thị tịch. Lúc còn sống Sư dốc sức tu hành, ngày đêm không biếng trễ. Sư thường tu pháp Thường hành Tam-muội, mỗi lần là chín mươi ngày. Tu các pháp môn Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Đại Bi, Tịnh Độ, không biết bao nhiêu kỳ hạn bốn mươi chín ngày. Nên Đức ngầm, hạnh kín, Quả chứng sâu mầu của Sư có được, thì không dễ xét bằng cái nhìn thiển cận. 8/. Truyện Sa-môn Thích Chân Tịnh trụ chùa Thượng Thiên Trúc ở Hàng Châu. Thích Chân Tịnh, tự là Như Am, họ Chu, mẹ của Sư mộng thấy mặt trăng từ biển mọc lên rồi rơi xuống bụng, tỉnh giấc thì mang thai Sư. Đến lúc sanh Sư thì ánh sáng an lành soi khắp phòng. Có vị Tăng lạ đi ngang qua, chỉ và bảo với mẹ Sư rằng: “đứa trẻ này là Pháp sư Hải Nguyệt tái sanh”. Năm chín tuổi, Sư nương Pháp Sư Minh Tónh Chí ở chùa Hóa thành, pháp sư trao cho kinh Pháp Hoa, Sư nghe qua tai liền tụng thuộc. Năm mười sáu tuổi, Sư chính thức xuất gia, nghiên cứu khắp các kinh, trí tuệ sớm phát, tánh rất chăm học. Đầu tiên, Sư đến tham yết Pháp Sư Vân Mộng Trạch ở chùa Quảng Phước thuộc Hàng Châu. Nghe tiếng Pháp Sư Vô Cực Độ hành hóa rất hưng thạnh, Sư bèn tìm đến thất và thành đạt được giáo học của Ngài Vô Cực Độ. Vào niên hiệu Đại Đức ( 1 2 9 7- 1308) đời Nguyên, Sư đến trụ chùa Đức Tạng ở Hải Diêm. Đệ tử đông nhiều vô kể. Chùa đó vừa bị đổ nát, Sư ra sức tu bổ lại, chúng tan rã rồi nhóm họp lại, ruộng đất bị các nhà giàu chiếm đoạt thì hoàn trả. Chưa tới mấy năm, tự nhiên trở thành khuôn phép cũ. Đến niên hiệu Chí Trị ( 1 3 2 1- 1324), Sư dời đến Siêu Quả ở Tùng Giang Đến năm Ất sửu (1 3 2 5) nhằm niên hiệu Thái Định, tướng nhà Nguyên là Thoát Hoan cử Sư đến trụ tại chùa Hạ Trúc, Sư trụ tại đó bảy năm, giảng dạy chưa bao giờ tỏ vẻ mỏi mệt. Mở lớn cửa đi phía trước chùa, viết ba chữ “Phật Quốc Sơn” để nêu bày. Đến năm Tân mùi (1 3 3 1) nhằm niên hiệu Chí Thuận, Ngài Trạm Đường; Tánh Trừng ở chùa Thượng Trúc lấy cớ già nua nên cáo từ thôi nghỉ, đề cử Sư lên thay thế. Trước đó, Sư mắc chứng bệnh ngủ ngày, mộng thấy Bồ-tát Quán Thế Âm cầm bình nước cam lộ bằng vàng rưới vào miệng Sư và bảo: “Sư chớ nên âu lo, không bao lâu nữa sẽ lành bệnh”. Sư cúi đầu thưa hỏi về tương lai tốt xấu thế nào, Bồ-tát Quán Thế Âm chỉ dạy: “Hai năm sau, ông sẽ lánh ở dưới cây Đại thọ ồn ào”. Đến lúc tỉnh giấc, quả nhiên bệnh lành, Sư trộm nghó rằng: “Lánh ở dưới cây Đại thọ ồn ào há chẳng phải lời sấm nhập tịch ư?” Mãi đến lúc ngài Trạm Đường cử Sư đến chùa Thượng Trúc, tới nơi thấy ở phía Tây nhà ngủ có một cây Đại thọ, có tấm biển treo ở nhà đó đề hai chữ “Tónh xứ”, Sư mới rõ điềm ứng trong mộng. Từ đó, Sư hết lòng mở mang Phật pháp, học chúng thường có cả mấy ngàn vị nương tựa. Vua Văn Tông ( 1 3 3 0- 1333) mến mộ đạo hạnh của Sư, ban tặng hiệu là: “Phật Tâm Hoằng Biện”, và tặng y Tăng-già-lê viền dệt vàng. Ngài vốn sống giản dị, lại có phong thái của người xưa. Mọi cử chỉ, hành vi đều không nói cười sai quấy, thường ưa vắng lặng, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, chẳng màng mưa nắng nóng lạnh. Đến mùa Đông năm Quý dậu (1 3 3 3), Sư dự báo thời gian thị tịch. Bèn bảo đưa thuyền gấp trở về thọ nghiệp. Sau đó không bao lâu, Sư thị hiện bệnh nhẹ, viết kệ để lại mà thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi sáu hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, xương đảnh đầu và chiếc lưỡi không cháy, có nhiều xá lợi năm mầu. 9/. Truyện Sa-môn Thích Bàn Cốc trụ chùa Tuệ Nhân ở Hàng Châu. Thích Bàn Cốc, hiệu là Lệ Thủy, người ở xứ Hải Diêm. Dáng mạo Sư không cao trội mà chí khí vượt hẳn người thường, xem cùng các kinh sử, tánh vui thích sông núi. Vào niên hiệu Chí nguyên ( 1 3 3 5- 1341) đời Nguyên, Sư đến Thiếu Thất Phục Ngưu trên đảnh Nga my ở núi Ngũ Đài là nơi danh sơn thắng địa. Sư từng bảo rằng: “Vết chân nửa thiên hạ, danh thơ khắp thế gian”. Bấy giờ, Phụ Mã Phan Vương, người xứ Cao Ly nghe đức hạnh Sư vang xa, nên viết thư thỉnh Sư đến chùa Tuệ Nhân ở Hàng Châu giảng đại ý Kinh Hoa Nghiêm. Sư vận dụng bốn vô ngại biện, tất cả bảy hàng thính chúng đều khuynh phục, Phan Vương rất vui mừng, danh tiếng Sư càng vang xa. Sau, Sư đến Quận Tùng, xây dựng Tinh xá, siêng năng tu trì pháp môn Tịnh Độ, thời khóa thường ngày trì niệm danh hiệu Phật A- di-đà. Đến ngoài bảy mươi tuổi, không bệnh tật gì, Sư dự báo thời kỳ đã đến, an nhiên ngồi thẳng mà thị tịch. Sư có soạn “Du Sơn Tập” gồm ba quyển, truyền bá ở đời. 1 0/. Truyện Sa-môn Thích Doãn Nhược trụ chùa Vân Môn ở Thiệu Hưng. Thích Doãn Nhược, tự là Quý Hành, hiệu là Phù Hưu. Vì ở bên cạnh chùa Vân Môn có khe suối Nhược Da, nên sau còn gọi Sư là Nhược Da, người ở Tương Lý thuộc Quận chi. Năm chín tuổi, Sư thông hiểu đại nghóa sách Xuân Thu, cha mẹ rất thương mến Sư, hơi lớn chợt Sư có chí hướng dứt trần, bèn nương theo Hòa-thượng Nguyên chùa Vân Môn. Năm mười lăm tuổi, Sư xin xuất gia làm đại tăng, theo thầy vượt qua Đảo Giang, đầu tiên đến tham yết Pháp Sư Đại Sơn Khôi ở chùa Hưng Phước thuộc Hàng Châu. Ngài Đại Sơn trao cho các bộ sách: Thiên Thai Tứ giáo nghi, Kim Cương Ty, Thập Bất nhị môn, v.v…, Sư xem qua một lược mà rõ biết đại lược yếu chỉ. Nghe Ngài Trạm Đường đang là tọa chủ ở Nam Trúc, Sư bèn đến nương tựa. Phàm các thứ văn sách do Pháp Trí kiết lập như Âm Quán biệt lý, Tùy Duyên Lục Tức, Cát Khương Lý Độc Tánh cụ v.v… không thứ gì Sư chẳng nghiên cứu tinh tường. Cho đến Kiêm Nghiệp của Tư Thanh, Dị Thuyết của Chiêu Viên, Đảng Tà của Tề Nhuận, Bội Chánh của Nhân Nhạc, cũng đều xem xét mọi điều đúng sai trong đó. Từ đó, ngài Trạm Đường rất quý trọng, xem học trò tài giỏi như là tân khách. Đầu niên hiệu Chí Trị (1 3 2 1) đời Nguyên, ngài Trạm Đường vâng chiếu vào Yên Đô hiệu chính Đại tạng, nhân đó tấu trình về sự tu tập của Sư, nên được triều đình ban hiệu là “Từ Quang Viên Chiếu”. Đồng thời đề cử Sư ra trú tại viện Xương Nguyên Tịnh Thánh. Viện đó đã bị đổ nát hư hỏng, Sư bèn dốc sức sửa sang, ruộng đất hoang phế thì khai phá lại, phòng nhà đổ nát thì xây dựng lại, chỉ trong vòng ba năm bèn trở thành ngôi chùa lớn. Ngài Trạm Đường lại vời gọi Sư, khuyên đến quy mạng làm Đệ nhất tọa, làm khuôn phép nhiếp chúng. Vào niên hiệu Thái Định ( 1 3 2 4- 1328), Sư lại ra làm tự chủ chùa Hưng Hóa ở Hàng Châu. Bấy giờ, Sư cùng với Thiên Ngạn Tề, Ngã Am vô và Ngọc Đình Hãn, đạo đức ngang hàng nhau, người đương thời tôn xưng là “Bốn người đáng nương cậy của xứ Tiền Đường”. Sau đó không lâu, Sư lại lui về trú ở Vân môn thuộc Việt Chi. Lại cùng Đoạn Giang Ân và Hưu Cảnh Dật, gặp gió ngâm vịnh, không biết bóng xế ngọn cây, nên người đời gọi là: “Vân Môn Tam Cao”. Vào niên hiệu Chí Chánh ( 1 3 4 1- 1368), Sư trụ tại chùa Viên thông rồi lại dời lên chùa Thượng Trúc. Tại núi đó, xưa kia có dòng suối Anh Lạc đã khô cạn từ lâu, Sư đến, tay cầm tích trượng gõ vào đá khấn nguyện rằng: “Nếu tôi có duyên ở đây thì dòng suối có nước lại, còn bằng không thì cứ khô cạn”. Nói vừa xong, dòng suối nước tuôn trào dần dần đầy tràn. Bấy giờ, Hộ Bộ Thượng thư cống sư Thái khen ngợi sánh ví Sư như mây lành làm tốt tươi lại cây cối, và đặt tên là “Tái Lai Truyền” (Người làm cho dòng suối tuôn chảy trơ ûlại). Sư lại trở về ẩn cư tại Vân môn, xây dựng tinh xá, chuyên tu “Pháp Hoa Tam-muội”. Đến lúc tuổi già lại chuyên tâm tịnh nghiệp. Gặp lúc thiên hạ đại loạn, chiến tranh phân nhiễu, chúng tăng muốn dìu Sư lành nạn, Sư khoát tay bảo: “khó thoát khỏi được, những việc sắp đến, tôi phải đợi để đáp trả!” Cả chúng đều trốn đi, chỉ một mình Sư ngồi giữa hiểm nguy. Bọn giặc vào nhà Sư đang ở, Sư vẫn giữ chí kiên quyết không khuất phục, nói năng và sắc mặt rất nghiêm nghị. Tên dẫn đầu bọn giặc biết Sư là người có đạo hạnh, bèn định thối lui, riêng có một tên giặc tức giận, thẳng tới trước Sư đưa vung mũi nhận trúng vào Sư, tự nhiên một dòng sữa trắng tuôn đầy dưới đất. Lúc đó đúng vào ngày hai mươo chín tháng hai niên hiệu Chí Chánh thứ mười chín (1 3 6 0) đời Nguyên. Sư thọ tám mươi tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp. Sau khi bọn giặc rút lui, Tăng chúng trở về chùa, làm lễ trà-tỳ, thâu nhặt nhiều vô số xá-lợi như hạt đậu. Lúc bình sanh, phong độ Sư rất giản dị, không nói năng cười cượt. Triệu Mạnh Phủ tôn xưng Sư là: “Tăng Trung Ngự Sử”. Các đệ tử đắc pháp với Sư gồm có: ngài Hữu Khuê ở chùa Tập Phước, Lương Cẩn ở chùa Diễn Phước, Như Oánh ở chùa Diên Khánh, Pháp Nhượng ở chùa Long Đức, Viên Chứng ở chùa Tịnh Thánh, v.v… Sư có soạn bộ “Nội Ngoại tập”, do Hoàng Tiềm soạn lời tựa. 1 1/. Truyện Sa-môn Thích Tất Tài chùa Diễn Phước ở Hàng Châu. Thích Tất Tài tự xưng là Đại Dụng, họ Khuất, người ở xứ Lâm Hải thuộc Đài Châu. Cha của Sư là người Minh Triết, thấu rõ Đạo thường, là một nhà Nho đỗ đạt. Mẹ của Sư họ Triệu, ưa thích điều lành, kính mến Phật pháp, rất mực cung kính. Bà mang thai Sư đến mười tháng, một đêm bà nằm mộng thấy vị Phạm Tăng chống tích trượng bước vào phòng, tỉnh giấc thì sanh ra Sư. Đến lúc biết nói, Sư liền nhớ rõ một quyển Hiếu Kinh. Lên bảy tuổi, Sư đã khéo nối câu nói ra khỏi miệng thành lời, văn vẻ hợp nhau, bóng bẩy có ý tứ. Bấy giờ, ở Giang Tây, có pháp sư Cù trụ chùa Bảo Ân ở xứ Việt, đúng thật là Diệm Nguyên Xiêm Công Gia Tôn, tinh thông Thiên Thai Giáo Quán, vừa mới mười hai tuổi, Sư cắp sách đi theo, sau đó không lâu, cầu xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Năm mười sáu tuổi, Sư chu du đến xứ Hổ Lâm, tham yết Ngài Trạm Đường - Tánh Từng ở Nam Trúc. Ngài Trạm Đường và Sư trò chuyện, Sư đều nói đúng điểm trọng yếu, liền cho là bậc pháp khí, bảo Sư trông coi việc ở nhà khách. Bấy giờ, Pháp sư Ngọc Cương Mông Nhuận đang ở Đệ Nhất tọa, các hàng học giả quy về như mây nhóm, Sư cũng ôm kinh Nhập thất, tuy trời nắng nóng đến độ sắt chảy, đông lạnh đến mức keo sơn phải gãy, Sư vẫn không dẫm chân đến ngạch cửa, như vậy suốt mười năm. Sư cho rằng “Phàm Huyền Chỉ của người xuất gia, cốt yếu của Giáo Quán, chỉ trao ở một bộ kinh. Nếu tâm ý dung thông thì không gì chẳng đạt đến chỗ then chốt sâu mầu”. Pháp sư Ngọc Cương khen ngợi rằng: “Ông này nếu chẳng phải từng ở tại thánh hội Linh Sơn tu tập, thì sao có thể đạt đến như thế ư?” Bấy giờ, những vị đồng bạn như Ngã Am Vô, Tuyệt Tông Thiện Kế, đều là những vị tiếng tăm vang xa, vượt trội hơn tất cả, còn như mọi vật mở rẻ quyết đoán tông chỉ, bàn luận phân chiết Giáo Chương, đều suy tôn Sư làm Thượng thủ. Lúc Pháp sư Ngọc Cương ra làm tự chủ chùa Đức Tạng ở Hải Diêm, bảo Sư phân tòa giảng pháp. Sư giảng nói như mưa tuôn xối, thính chúng thảy đều ngợi khen. Đến niên hiệu Thái Định thứ nhất (1 3 2 4), đời Nguyên, Ngài Ngọc Cương dời đến chùa Diễn Phước, viện Tuyên Chính thỉnh Sư nối tiếp chùa Đức Tạng. Thời bấy giờ, tiếng tăm Ngài Trạm Đường vang xa khắp trong ngoài, tâm ý mọi người đều muốn xin làm đệ tử, đến lúc Ngài thăng tòa kính trọng nối tiếp Ngài Ngọc Cương, thì các bậc quân tử đều cho là Sư biết nghóa. Đến niên hiệu Chí Chánh thứ hai (1 3 4 2), Sư đổi sang chùa Hưng Phước ở Hàng Châu. Năm sau, Sư phụ giúp ở chùa Diễn Phước. Quan thần nhà Nguyên là Khương Lý Thường đến học hỏi “Quyết Tâm yếu”. Trước kia, chùa đó bị binh lửa hủy hoại hết, Sư lần lượt xây dựng mới lại, tạo lập lầu Vạn Phật, cao một trăm ba mươi thước, Sư là người trầm mặc, tinh chuyên quán hạnh, chăm chăm tấn tu, không phút giây trễ nãi. Dùng đức từ để tiếp người, dạy người không tỏ vẻ mỏi mệt. Đệ tử nương tựa dưới pháp tòa có đến trăm người. Vua Thuận Đế ( 1 3 3 3- 1368) đời Nguyên đặc biệt ban tặng Sư danh hiệu “Phật Giám Viên Chiếu”. Một hôm, bỗng nhiên Sư cảm thấy đầu mắt sa sầm, liền bảo với đại chúng rằng: “Nhân duyên tôi đã đến lúc hết”. Bèn đốt hương, ngồi xoay mặt về hướng Tây, lớn tiếng xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, trải qua một ngày một đêm, Sư lại bảo đại chúng rằng: “Các ông chớ cho rằng tu hành không ứng nghiệm. Tôi đối với nhân duyên tịnh độ đã chín muồi, Chánh Thọ đang hiển hiện”. Rồi, Sư đòi nước tắm gội thay y phục, viết thư từ biệt mọi người quen biết. Xong xuôi, Sư bèn chắp tay thị tịch, đón rước nhục thân Sư an trí vào trong khám để trà-tỳ, có ánh sáng năm mầu từ trong khám phát ra. Sau khi lửa tắt còn lại hai thứ không cháy đó là chiếc lưỡi đỏ thắm như sen hồng và chiếc răng ngà như ngọc kha bối. Xá lợi khắp cùng dưới đất, mọi người tranh nhau lượm nhặt, trong chốc lát đều hết, có người đến sau cùng, bèn đào bới dưới đất sâu đến cả thước tìm cầu vẫn còn có được. Tháp thờ Sư được xây dựng ở phía nam của chùa. Sư thọ sáu mươi tám tuổi, năm mươi sáu hạ lạp. Sư có soạn các văn như: Diệu Huyền Văn Cú, Chỉ Quán Tăng Trị trợ văn, Pháp Hoa Niết-Bàn giảng, Niết-bàn giảng nghóa, Chương An Kinh Khê Pháp Trí, Lễ Văn Thi Kệ ,v.v… đều lưu hành ở đời. Thai. 1 2/. Truyện Sa-môn Thích Thiện Kế trụ chùa Tiến Phước ở Thiên Thích Thiện Kế hiệu là Tuyệt Tông, họ Gia Kî Lâu ở đất Việt. Mẹ của Sư họ Vương, mộng thấy vị thần tăng trao cho hoa đoá sen trắng, bèn mang thai Sư. Vừa sanh ra, Sư liền biết nói. Hoặc thấy mẹ xướng danh hiệu Phật, Sư liền có thể chấp tay niệm hòa theo. Hơi lớn lên, Sư theo người chú đến chùa Linh Bí ở Sơn Âm, sửa truyện Xuân Thu. Nhân đó, Sư trộm đọc kinh Phật, mới bùi ngùi than rằng: “Xuân Thu là pháp tốt đẹp đặc biệt ở đời, nhưng chẳng bằng cầu pháp xuất thế. Huống hồ, thân mạng ta đây như bọt bóng nhóm họp, quan tước đâu làm gì ư?” Vào niên hiệu Đại Đức ( 1 2 9 7- 1308) đời Nguyên, Sư liền xin cha mẹ đến Hòa-thượng Cung, cầu xuất gia. Năm sau, đăng đàn thọ giới cụ túc, Sư tìm theo pháp sư Đại Sơn Khôi ở chùa Thiên Trúc tập học giáo nghóa Thiên Thai. Ngài Đại Sơn thấy Sư có năng lực tuệ giải vượt hẳn tầm thường, nên có phó chúc rằng: “Dưới pháp tòa ta có đến mấy trăm người, mà người thay thế gánh vác đại pháp, chỉ có một mình ông. Nên phải tự mừng vui mà cố gắng”. Gặp lúc Ngài Đại Sơn dời đến chùa Diên Khánh ở Vân Môn, Sư liền sang tham yết Ngài Trạm Đường Tánh Trừng ở Nam Trúc. Ngài Tánh Trừng vừa thấy Sư, liền hỏi: “Nhập Bất Nhị Môn thuộc Quán Pháp nào?” Sư đáp: “Ba thứ Quán Pháp, đối thuộc ba bộ. Văn nầy đã cùng với Chỉ Quán, đồng thành Quán Thể, chính là Tùng Ha- ïnh”. Ngài Tánh Trừng lại hỏi: “Thể của các kinh là mê hay ngộ?” Sư đáp: “Thể vốn không mê ngộ, mê ngộ chỉ do người. Cũng nhìn lại ý chỉ kinh được giải thích như thế nào ư?” Ngài Tánh Trừng sắc mặt tràn đầy mừng vui, nói với đại chúng rằng: “Ngày sau thay ta xoay bánh xe pháp, ta hy vọng ở người này!” Bèn cho Sư ở Đệ Nhất tọa. Đến lúc Ngài Tánh Trừng đổi đến chùa Thượng Trúc, Ngài Ngọc Cương Mông Nhuận hỗ trợ pháp tịch đó, cũng ở Đệ Nhất toạ. Đến năm Ất Tî (1) nhằm niên hiệu Thiên Lịch, Sư ra trú ở Lương Chữ, tiếp nối thanh danh của Ngài Trạm Đường. Ban ngày giảng kinh Kim Quang Minh, tối lại mộng thấy Ngài Pháp Trí người ở Tứ Minh bảo rằng: “Kinh điển mà ông giảng phù hợp như tôi!” Từ đó ngày càng thêm tinh tấn. Đến năm Nhâm Ngọ (1 3 4 2) nhằm niên hiệu Chí Chánh, Quan thần nhà Nguyên là Cao Nạp Lân thỉnh Sư làm tự chủ chùa Tiến Phước ở Thiên Thai, Sư không sao dời đến chùa Năng Nhân, mở mang Pháp Hoa Diệu huyền văn cú. Sư lại giải thích Ngũ Chương áo nghóa, thường chỉ bày cho đại chúng rằng: “Sư tổ của ta có dạy một bộ Chỉ Quán tức là giềng mối của Pháp Hoa Tam-muội, Nhất Thừa Thập Yếu tức là chánh thể của Pháp Hoa Tam-muội. Các ngươi phải hiểu và thực hành, đồng thời nhanh chóng vận dụng giúp sức lẫn nhau, thì quả vị tròn đầy sẽ thành đạt và chẳng cô phụ ý của thầy tổ lập Tông”. Đến cuối đời Nguyên, gặp lúc thiên hạ đại loạn, Sư bèn theo hướng đông trở lại Trung Hoa. Trải qua thời gian chuyên tu tịnh nghiệp, chú tâm buộc niệm nơi danh hiệu Phật A-di-đà, suốt ngày đêm Sư không ngừng nghỉ. Một hôm, bỗng nhiên Sư bảo với đại chúng rằng: “Phật Tổ mở mang quý trọng ở điểm thời tiết nhân duyên. Nhân duyên và thời tiết trái nghịch thì hoằng hóa làm sao phó thác được? Tôi sắp đi đây!” Ngài an nhiên ngồi thẳng mà thị tịch. Lúc đó là ngày hai mươi hai tháng bảy năm Đinh Dậu (1 3 5 7) thuộc niên hiệu Chí chánh, thọ bảy mươi hai tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, chiếc lưỡi vẫn còn không cháy, tháp thờ được xây dựng ở phía tây chùa Linh Bí. Ngài có các đệ tử đắc pháp như : Hoài Cổ chùa Linh Thọ, Tự Bằng chùa Diên Khánh, Thị Thừa chùa Sùng Thọ, Đại Chương chùa Quảng Phước, Tịnh Dục chùa Lôi Phong, Như Khởi chùa Diễn Phước, Tự Tấn chùa Báo Trung, Nhân Nhượng chùa Xa Khê, Đàm Trụ chùa Hương Tích v.v… 1 3/. Truyện Sa-môn Thích Tử Văn trụ chùa Đàm Vân ở Minh Châu. Thích Tử Văn tự là Tông Châu, người ở xứ Tượng Sơn thuộc Tứ Minh. Là đệ tử tài giỏi của Pháp sư Bắc Khê Văn, Sư ra làm tự chủ chùa Đàm Vân. Sư rất thông suốt giáo quán, giới luật nghiêm mật. Nói chuyện cùng người thì lếu láo chậm chạp không nên lời, nhưng đến lúc lên tòa thuyết giảng thì thao thao như nước chảy suối tuôn, chẳng thể kềm chế. Lúc sắp viên tịch, Sư giảng kinh Thập Lục Quán, đến cuối cùng, Sư muốn đến tòa, từ biệt đại chúng để nhập diệt. Có người thưa hỏi rằng: “Hòa-thượng chưa không hề giao việc hậu sự, sao vội nói tịch diệt?” Sư bảo: “Người tu hành, điều đáng làm thì nên làm, chớ làm theo thế tục kỹ lưỡng theo thói nữ nhi, mà có hậu sự”. Đại chúng khẩn cầu càng khẩn thiết, Sư bèn xuống tòa trở về phương trượng, phân vạch từng điều cho chúng, rồi liền chắp tay xưng niệm danh hiệu Tứ Thánh Tây Khương và hồi hướng phát nguyện xong, bèn thị tịch. Sau khi trà-tỳ có vô số xá lợi sáng đẹp, mùi hương thơm lạ nhóm tụ quanh người, đến ngày hôm sau mới hết. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH (QUYỂN 1 HẾT)  <卷>QUYỂN 2 CHƯƠNG II: GIẢI NGHÓA TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG II (chánh truyện có mười ba vị, phụ có chín vị) 1/. Truyện Sa-môn Thích Dung Chiếu trụ chùa Diên Khánh ở Tùng Giang. Thích Dung Chiếu, tự là Tuệ Quang, người ở Nam Minh đất Việt. Từ thuở nhỏ Sư đã thọ học ở Hoa Tạng, khắc ý tu tập Thiên Thai giáo Quán tại núi Quốc An ở Thiên Thai và chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu. Sau, Sư theo Pháp Sư Uyên Tẩu Trạm, mà trụ chùa Diên Khánh ở Hoa Đình nỗ lực tinh nghiên giáo thừa, chuyên cần tu tập thiền định, có ý nêu cao ý chí, sớm tối không xem hở, nên học do ý chí mà đạt đến đích, biểu lộ nơi tùng tịch, lên ulàm chức Chúng hữu, trong hơn bốn mươi năm. Tiếng tăm Sư vang vọng đến chốn Kinh đô. Triều đình ban chiếu mừng khen tặng danh hiệu cho Sư. Mỗi năm, vào ngày mồng một tết, Sư dẫn chúng tu sám Pháp Kim Quang Minh cầu phước cho Quân vương. Ngoài việc nói pháp, Sư còn dốc sức sám hối cùng chúng sanh quét trừ bụi mờ, dẫn nhiếp gốc lành. Về tuổi càng già Sư càng tinhtấn. Sư có ba vị đệ tử đắc pháp là: Cư Giản, Tông Củ và Tông Quyền, đều là những bậc long trượng của Pháp môn. 2/. Truyện Sa-môn Thích Hoằng Tế ở chùa Phổ Phước thuộc Hàng Châu. Thích Hoằng Tế, tự là Đồng Chu, Sư có biệt hiệu là Thiên Ngạn, họ Diêu, người ở xứ Dư Diêu đất Việt, mồ côi cha mẹ từ thuở bé. Từ chỗ ở, Sư xuất gia với Hòa-thượng Thuấn Điền Mãn chùa Bảo Tích trong lãng. Bấy giờ, chỉ đang độ tuổi búi tóc mà Sư nhanh nhẹn khác thường. Hòa-thượng Mãn trao cho kinh Pháp Hoa, liền thuộc lòng. Năm mười sáu tuổi, Sư thọ giới làm Đại tăng, thường ngày chuyên trì luật Tứ Phần, trong sinh hoạt hàng ngày Sư chẳng dám trái vượt khuôn phép, thế mà còn than rằng: “Giới luật cố nhiên không thể hoãn đãi, mà tinh nghiên giáo thừa để giúp cho hạnh giải lại có thể đặt ở sau ư?” Từ đó, Sư sang huyện Ngân, nương pháp sư Bán Sơn Toàn tập học giáo nghóa Thiên Thai. Một thời gian lâu thảy đều thông suốt yếu chỉ, Sư thường tu trì các sám pháp như Pháp hoa, Kim Quang Minh, Tịnh Độ v.v… Một hôm, Sư đang trú trong định, phảng phất thấy Tôn giả Pháp Trí ở Tứ Minh trao cho chiếc sừng tê giác như ý. Từ đó, Sư giảng nói luận bàn ngày một dâng tràn như suối tuôn, sông nước mênh mông không hề nghẽn tắt. Năm Thái Định thứ nhất (1 3 2 4) đời Nguyên, Sư ra trụ tại Vạn Thọ Viên Giác. Năm sau, bờ biển Diêm Quan bị hủy hoại. Dân chúng sớm tối lo sợ làm nhà của loài cá; ba ba. Thừa Tướng nhà Nguyên là Thoát Hoan rất lo sợ việc ấy, bèn lên khấn cầu Bồ tát Quán Thế Âm ở chùa Thượng Trúc, thỉnh Sư đến tại bờ biển thiết lập đại trai đàn thủy lục. Sư nhập từ Tâm Tam-muội, lấy cát dưới biển tụng trì thần chú Đại bi rồi dẫn chúng rải khắp xứ đó. Hễ dấu chân Sư bước tới đâu thì bờ cõi hoàn phục như cũ. Mọi người tôn xưng Sư là Thần. Vào niên hiệu Thiên Lịch ( 1 3 2 8- 1330), Sư dời đến trụ ở hai chùa Tập Khánh và Hiển Từ. Gặp năm khó khăn, Sư lui về ở thất riêng, đến lúc tạm thư thái, mọi người cúng dâng để Sư xây dựng chùa Đại Đức Vạn Thọ, suốt sáu năm mới hoàn thành. Đến niên hiệu Chí Chánh thứ năm (1 3 4 5), viện Tuyên Chính thỉnh Sư làm tự chủ chùa Viên Thông ở Cối Kê. Ngài ở đó được bốn năm, lại trở về chùa Bảo Tích, chuyên tu Niệm Phật Tam-muội. Đến niên hiệu Chí Chánh năm thứ bảy (1 3 4 7), vua Thuận Đế ban chiếu chỉ cho Sư làm Tự chủ chùa Phổ Tiến ở Hàng Châu. Sư bảo tuổi cao đã ngoài tám mươi nên cố nằm yên không chịu dậy. Các đệ tử như Pháp Hàng, v.v… đến thưa rằng: “Hòa-thượng tự cho là cố thiện, vậy đạo ấy thế nào”. Ngài bất đắc dó ngồi dậy, nhận lấy chiếu chỉ mà đến chùa Phổ Tiến, cuối cùng Sư trở về chỗ cũ. Mở lầu Thanh Cảnh để ở đó. Nhân các bản chú giải Kinh Lăng-nghiêm có rộng có lược không giống nhau. Sư muốn chiết trung các thuyết ấy mà làm sớ giải mới. Không bao lâu Sư bị bệnh, liền gọi các đệ tử đến bảo: “Lấy yếu chỉ của Duy Tâm Tịnh Độ, siêng năng cố gắng”. Suốt một thời gian, có người chưa hiểu được ý ấy, Sư bèn khuyên răn rằng: “Sanh tử khó ở! Sanh tử khó ở!” Rồi bèn viết kệ phó chúc mà thị tịch. Lúc đó là ngày mồng mười tháng ba niên hiệu Chí Chánh thứ mười sáu (1 3 5 6), thọ tám mươi sáu tuổi, bảy mươi tám hạ lạp. Nhục thân Sư để lại bảy ngày mà sắc mặt vẫn như còn sống. Đại chúng dùng kim quan bằng sành an táng tại gò Tùng Hoa ở núi Nga My, đó cũng chính là nơi Sư đã chọn lựa. Sư có năm vị đệ tử nối pháp, đó là: Đạo Trăn chùa Thượng Trúc, Tịnh Sâm chùa Ung Hy, Doãn Trung chùa Phổ Quang, Hữu Truyền chùa Viên Thông và Minh Tónh chùa Thiên Cung. Sư có soạn cácsách, như: “Tứ giáo nghi kỷ”, “Chánh Thiên Ngạn ngoại tập”. Mỗi bộ đều mấy quyển, được truyền bá ở đời. Liên quan thử bàn: Ngài Hoằng Tế có ba việc lớn vượt hơn mọi người: 1/ các thứ sách sử nội ngoại giáo điển đã qua mắt Sư thì trọn đời chẳng quên. 2/ có Sa-môn Bát-Nhã Thất-Lợi ở Cao Xương, học thông cả Hoa văn lẫn Phạn văn, ở đời không ai địch lại, thỉnh Sư dùng tiếng Cao Xương để dịch bộ Tiểu Chỉ Quán, Sư vừa xem qua, văn thể đã phát sáng. Ngài Thất-lợi cũng phải chịu thua. 3/ lúc bình sanh, Sư lấy việc lưu thông giáo pháp là việc chính của mình. Giảng kinh Pháp Hoa đến 110 hội, cảm trời mưa hoa báu rực rỡ đến đôi ba lần. Gọi Sư là người chỉ có một, thật chẳng thẹn ở đời. Sư có đủ ba điều đó có thể gọi là hoa Ưu-đàm ở đời. 3/. Truyện Sa-môn Thích Bổn Vô trụ chùa Diên Khánh ở Tứ Minh. Thích Bổn Vô, hiệu là Ngã Am, Sư người xứ Hoàng Nham thuộc Đài Châu. Thuở nhỏ Sư theo Thiền Sư Phương Sơn Bảo, cắt tóc xuất gia rồi tấn đàn thọ giới cụ túc tại chùa Thụy Nham. Tiếp đến, Sư nương theo Thiền sư Tịch Chiếu ở chùa Trung Thiên Trúc, lo việc giấy bút viết lách, Ngài Tịch Chiếu thường chỉ dạy sâu, Sư cũng có chỗ tỉnh. Sau, nhân có người cậu vốn tu tập theo giáo nghóa Thiên Thai, bèn dẫn Sư sang đó, Sư ở chùa Diễn Phước chỗ của Ngài Trạm Đường Tánh Trừng, tinh cần nghiên tầm giáo bộ. Ngài Tịch Chiếu mến tiếc Sư ra đi, bèn viết kệ gởi sang nói rằng: “Từ giáo vào thiền xưa nay có Từ thiền theo giáo hiếm xưa nay. Nhất Tâm Tam Quán tuy khác cửa Nước tràn sông bể, trăng cô đơn”. Sau, Sư nối pháp ngài Tánh Trừng, bèn đốt một cây hương tỏ lòng báo đáp ân sâu của ngài Tịch Chiếu. Bởi không do dấu vết khác mà sanh hai tâm! Lúc ngài Tịch Chiếu sắp viên tịch thì Sư vừa mới ra làm Tự chủ chùa Diên Khánh. Ngài Tịch Chiếu để lại chúc thư khuyên Sư gắng sứcmở mang hai Tông Đại Tô và Thiếu Lâm, ngoài ra không nói gì khác, Sư nhân đến tiến cúng ngài Tịch Chiếu bèn niêm hương rằng: “Diệu Hỷ năm đời sáng rực rỡ Tịch chiếu một đời môn cao lộ Bình thường chạm lấy vỡ tim mật Băng tuyết bỗng thành hơi ấm xuân. Con nghó ngày đánh mất lỗ mũi Cớ sao hơi thở nay vẫn còn. Trời gió bắc thổi nhiều năm muộn Chớp sét đánh vết giữa hư không!” Về già, Ngài dời đến ở chùa Thiên Trúc thượng rất lâu. Một hôm, không bệnh, Sư an nhiên ngồi thẳng thị tịch tại Bạch Vân Đường. Triều đình ban tặng thụy hiệu là “Phật Hộ Tuyên Giác Hiến Từ Khuông Đạo Đại Sư”. 4/. Truyện Sa-môn Thích Hạnh Khả trụ chùa Phật Lũng Tu Thiền ở núi Thiên Thai. Thích Hạnh Khả, hiệu là Nghi Hành, Ngài thông hiểu Tông Thiên Thai, tinh tu chỉ Quán, thực hành xác thật ngộ lý viên dung. Một đêm, nhân nghe tiếng mưa rơi, Sư bày tỏ tâm tư qua bài kệ rằng: “Trước hiên từng giọt khá rõ ràng Chốn mê chúng sanh thành tiếng Bao năm ta rong ruổi theo vật Đêm xuân một gối mộng khó thành”. Không biết về sau Sư thị tịch ở đâu. Đài. 5/. Truyện Sa-môn Thích Văn Tài trụ chùa Hữu Quốc ở núi Ngũ Thích Văn Tài, hiệu Trọng Hoa, họ Dương, người ở xứ thanh Thủy. Tổ tiên Sư là người Hoằng Nông, nhiều đời làm quan ở Lũng Để. Cha của Sư là Tỉnh Nghóa, làm chủ sổ bộ ở Thanh Thủy, bèn dời gia nghiệp đến đó. Ngài từ thuở thiếu thời đã mồ côi cha. Sư phụng thờ mẹ rất mực chí hiếu. Tánh tình Sư thông minh nhanh nhẹn, trí tuệ tỏ ngộ, sanh ra đã hiểu biết. Nhưng đối với các thứ sử sách phần điển xưa nay không thứ gì Sư chẳng tinh cần nghiên cứu. Sư rất thông thạo về học lý, ưa thích như người xưa làm lành, ngâm vịnh, nhưng bẩm chất thuần phát như không biết gì. Sư đối với khách thảo luận như sông Hán chẳng khuyết ven bờ. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư du phương tìm học khắp các trường giảng, thấu đạt được nghóa sâu kín của Tông Hiền Thủ. Sư thường bảo: “Học, quý ở chỗ thông Tông, nói phải hiểu, bởi ý nghịch với chí thì được, và nói năng văn tự như bã rượu đâu có thể khai mở mắt tuệ của người ?” Ban đầu, Sư ẩn cư tại Thành Kỷ, cất thất bên cạnh cây thông, như muốn trọn đời ở đó. Nên người đời gọi Sư là “Hòa-thượng Tùng Đường”. Vua Thế Tổ ( 1 2 6 0- 1280) đời Nguyên đặc biệt ban sắc cho Sư làm tự chủ chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, các hàng học giả tìm đến như nước dâng biển nhóm, tiếng tăm Sư ngày một vang xa. Vua Thành Tông ( 1 2 8 0- 1312), xây dựng chùa Vạn Thánh ở núi Ngũ Đài, ban chiếu thỉnh Sư làm Tổ Khai sơn trú trì đời thứ nhất. Bấy giờ, Đế Sư Ca-la-tư-ba tiến cử Sư, nên vua Thành Tông liền đúc ấn vàng ghi chữ “Chân Giác Quốc Sư Tổng Thích Nguyên Tông kiêm Hữu Quốc Trụ Trì sự”, ngài Ca-la- tư-ba mang chiếu chỉ đến Sư, Sư từ chối, bảo: “Kẻ sơn tăng tôi đội ân nước nhà ở tại chùa Bạch Mã đã là quá lắm. Đức hạnh đâu có mà dám ra làm Tự chủ chùa Hữu Quốc. Vượt quá thân phần mà ở là điều không tốt, chẳng xét kỹ mà làm tức là bất minh. Tôi bị hai điều này phiền nhiễu nên xin từ chối”. Ngài Ca-la-tư-ba bảo: “Đây là do Thánh thượng bảo ban, Thánh thượng đối với chùa ấy tâm ý cũng chuyên cần thẳng đến, nếu Ngài không chấp thuận thì ai có thể đương đầu? Đây thuộc về việc giáo môn, Ngài nên khéo vì đó!” Lúc ấy, Sư bất đắc dó phải bằng lòng. Vì vâng theo mệnh lệnh nên Sư mở mang giáo nghóa của Thanh Lương, tuy đến tuổi già nhưng Sư không hề trễ nãi. Đến niên hiệu Đại Đức thứ 06 (1 3 0 2) đời Nguyên, nhằm ngày rằm tháng chín năm Nhâm Dần, Sư thị hiện bị bịnh nhẹ. Sư giảng pháp rồi từ biệt đại chúng, an nhiên ngồi thẳng thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Sau khi trà-tỳ có khoảng mấy trăm viên xá-lợi, tháp thờ được xây dựng ở sườn núi của Đông Đài. Đệ tử nối pháp của Sư là có ngài Hoằng giáo chùa Phổ Ninh và Huyễn Đường chùa Phổ Am. 6/. Truyện Sa-môn Thích Anh Biện chùa Cảnh Phước ở Tần Châu. Thích Anh Biện, hiệu là Phổ Giác, họ Triệu, vừa đến tuổi rũ tóc trái đào, Sư đã xuất gia làm Sa-Di Khu Ô, năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Năm hai mươi lăm tuổi được bảo đến học với Pháp sư Bách Lâm Đàm. Chưa đầy ba năm, Sư ra trú chùa Cảnh Phước ở Tần Châu. Ngài mở mang giáo pháp, tiếng tăm vang khắp bốn phương, dẹp phá Dị kiến, dựng cờ chánh pháp. Tánh Sư vốn chân thuần như Ngọc chưa giũa mài, chẳng cần phải trau chuốt, được mọi người đều mến quý. Còn như hạng người hung tợn vũ phu cũng kính trọng cho rằng Sư là Phật ở đời không có Phật. Mỗi lúc có được sự cúng thí các vật đều đem về chùa viện cùng chúng tăng sử dụng hoặc bố thí cho kẻ thiếu thốn. Vua Thế Tổ ( 1 2 6 0- 1280) đời Nguyên nghe ngài có đạo hạnh cao quý, bèn ban chiếu chỉ biểu dương khác thường. Tháng sáu, năm canh tuất, nhằm niên hiệu Diên Hựu thứ nhất (1 3 1 4) đời vua Nhân Tông, Sư không bệnh hoạn gì mà từ biệt Đại chúng, ngồi thẳng thị tịch. Có ánh sáng rực rơ,õ cảnh vật khác lạ trong đêm Sư sắp tịch, nêu bày vết tích sau khi lửa tàn thừa, tháp thờ Sư được xây ở sau lưng chùa Phổ Giác, thọ sáu mươi tám tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp. Đô. 7/. Truyện Sa-môn Thích Đức Khiêm trụ chùa Sùng Ân ở Kinh Thích Đức Khiêm, hiệu là Phước Nguyên, họ Dương, người ở xứ Định Bình thuộc Minh Châu. Từ thuở nhỏ, Sư đã cần mãn siêng năng, hơi lớn lên Sư chu du khắp đất Tần, đến các xứ sông Lạc, sông Biện, sông Nhữ, vượt sang Hà Bắc tới các nước Tề, Ngụy, Yên, Triệu, thăm dò học hỏi với các bậc tiên đức cao nhân. Ban đầu, Sư thọ học Bát-Nhã với ngài Ninh Công ở Bân Châu, tu tập Thụy Ứng với ngài Trung Công ở Nguyên Châu, thọ pháp u tán với ngài Tiên Công ở Hảo Chỉ, Học Viên Giác với ngài Nhất Công ở Càn Lăng, tham cứu các luận Duy thức, Câu-xá v.v… với ngài Húc Công ở Thiểm Châu, nghe Kinh Lăng-nghiêm, luật Tứ Phần với ngài Văn Công ở Dương Hạ. Tất cả sáu bộ kinh, bốn bộ luận, 1 bộ luật, ngôn từ sâu rộng, yếu chỉ sâu mầu, chứa nhóm cả Tam tạng. Các Ngài đều do thông pháp rành nghóa, tiếng tăm vang xa, Sư đều gần gủi để hun đúc và đều thấu đạt đạo lý. Sau, Sư đến Kinh đô, thọ học kinh Hoa Nghiêm với ngài Đại Tư Đồ Vạn An Đàn Chủ. Trước tiên, Sư được chiếu chỉ ban trụ chùa Vạn Ninh, rồi đổi sang chùa Sùng Ân, trước sau cả thảy là 10 năm. Đạo Phong, Đức hạnh của Sư vang vọng tới trong cung, tiếng tăm phảng phất lan tràn đến nước ngoài. Nhưng Sư chưa từng vì sủng ái hay vinh hạnh hiển trước mà thay đổi chí khí. Sư từng nói: “Kẻ só mặc áo nạp, chống lại sự phô bày ở đời, nếu không thẹn với lời nói “sáng nghe đạo tối chết cũng yên thì còn gì mến mộ ư?” Sư tự cho rằng trở lại ở chùa lớn lâu ngày ân nghóa vinh hoa càng gấp bội, nên chỉ điềm nhiên thối lui làm người cao thượng, bèn nhường tòa tịch cho đệ tử. Tự một mình ẩn tu nơi chỗ vắng vẻ, ở trong một thất để sáng tỏ điều cần sáng tỏ, vui với điều đáng vui, Sư là người ở đời mà để lại cho đời. Ngày hai mươi sáu tháng một năm Diên Hựu thứ bốn (1 3 1 7) đời Nguyên, Sư thị tịch. Vua Nhân Tông ban cấp năm mươi xâu tiền đến viếng lễ tang, ban sắc quan Hữu ty lo đầy đủ nghi vệ, cờ phướn âm nhạc, đưa tiễn trà-tỳ. Có được mấy mươi viên xá-lợi, xây tháp thờ ở góc phía nam thành, Sư thọ năm mươi mốt tuổi, bốn mươi ba hạ lạp. Đô. 8/. Truyện Sa-môn Thích Đạt-ích-ba trụ chùa Khánh Thọ ở Kinh Thích Đạt-ích-ba, không biết Sư là người nước nào. Thuở thiếu thời Sư xuất gia làm Tỳ-kheo, thờ Đế Sư (có lẽ là Ngài Ca la tư ba). Năm mưới ba tuổi, Sư theo hầu nghe học ngôn luận, đúc nắn xông ướp lâu dần chứa thành mỹ khí. Phàm các bộ luật luận Đại tiểu thừa và Bí mật bộ, Sư đều thấu đạt chỗ quy kết nghóa lý. Lúc ngài Đế Sư trở về Tây Vực, Sư đưa đến Lâm Thao, ngài Đế Sư bảo Sư nương tựa Đại Só Xước-tư-Cát. Năm mưới chín tuổi, Sư nghe nhận những pháp vị chưa được nghe, đạo hạnh càng tinh túy. Dân chúng đất Tần thỉnh Sư trú tại chùa Cổ Phật. Đối với sáu pháp Ba-la-mật, không pháp nào Sư chẳng tu và thông hiểu cả giáo nghóa Tông Hiền Thủ. Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp bốn phương, đạo hạnh Sư trãi suốt ba triều vua. Trong thời nhà Nguyên, vua Vũ Tông ( 1 3 0 8- 1312), lúc mới lên ngôi, thỉnh Sư để thưa hỏi pháp yếu, sắc chỉ ban tặng tuy nồng hậu nhưng Sư khước từ chẳng nhận. Sau đó không lâu, Sư xin trở về chỗ ở cũ. Sư định ẩn tu trọn đời, không bao lâu lại có chiếu chỉ mời Sư trở lại kinh đô để tuyên dương giáo pháp, đích thân nhà vua đến đạo tràng nghe pháp, vua đặc biệt ban tặng Sư hiệu là “Hoằng Pháp Phổ Tế Tam Tạng”. Sai đúc ấn vàng và tặng y sắc tía để nói lên sự khác biệt. Nhà vua ban lệnh các hàng vương công đại thần đều tham học “Quyết tâm yếu”. Đến niên hiệu Diên Hiệu thứ năm (1 3 2 8) đời vua Nhân Tông, ngày mười sáu tháng tám, Sư không bệnh, an nhiên ngồi thẳng mà thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi. Vua Nhân Tông ban lệnh cho hai cung ban tiền để hỗ trợ tang lễ. Các Hoàng Thái tử, quan Tể phụ đến tiến cúng. Ban lệnh quan hữu ty vệ đón rước nhục thân Sư đi an táng, xây tháp để cúng dường. Vua tặng thụy hiệu là “Hựu Thánh Quốc Sư”. 9/- Truyện Sa-môn Thích Diệu Văn chùa Bảo Tập ở Kinh Đô. Thích Diệu Văn, họ Tôn, người ở xứ Úy Châu. Năm chín tuổi, Sư xuất gia, năm mười tám tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Thế rồi, Sư du học các xứ Vân, Sóc, Yên, Triệu. Năm hai mươi mốt tuổi, Sư đến chốn kinh đô, nương tựa Hoà-thượng Đại Đức Minh, tham học giáo nghóa Viên Đốn. Ngài ở ẩn trong chúng suốt mười một năm, tăng chúng thỉnh Sư ra mở mang Phật pháp. Lần đầu tiên Sư mặc y đỏ lên tòa sư tử, Ngài giảng nói vô ngại biện, như núi lở sông tràn, đến lúc nhàn cư, Sư xem xét ngôn từ chẳng nói bừa, trong đó chứa nhóm sự nuôi nấng, Sư không muốn nhanh, chẳng vội tiến v.v… đại loại như thế. Năm bốn mươi tám tuổi, Sư trú chùa Vân Tuyền ở đất Kế, siêng năng kiểm thúc tiết dụng. Người già mến đức hạnh của Sư, bọn trẻ ng- hiêm sợ sự giáo hóa của Sư, nên đại chúng hòa mục mà chùa bình yên. Trong kho còn thóc gạo thừa, Sư đem giúp đỡ người thiếu thốn. Dân chúng ở đất Kế khen ngợi đức hạnh Sư. Vua Thế Tổ ( 1 2 6 0- 1280) đời Nguyên mời Sư đến, vừa trông thấy, nhà vua liền nói với quan cận thần rằng: “Ngài là bậc Sa-môn phước đức”. Bèn ban chiếu thỉnh Sư đến ở chùa Bảo Tích. Từ đó, giáo thừa pháp tịch càng thạnh, Tánh tướng đều sử dụng, tăng tục đều độ khắp. Thời bấy giờ, khắp nơi trong nước, các trường giảng lăng xăng dính mắc, chấp chặt danh tướng, ngưng trệ ở khác đường. Riêng mình Sư mở mang Phương Đẳng, Chấn Phát Viên Tông, khiến những người ôm gốc được dung thông sự biểu hiện của tịch mặc. Các bậc Long Trượng giẫm đạp, tranh nhau cỡi xe nhất thừa. Tuổi ngoài tám mươi, Ngài càng chuyên tu “Niệm Phật Tam-muội”. Đến niên hiệu Diên Hựu thứ sáu (1 3 1 9) đời Nguyên, Sư dự biết thời gian ra đi đã đến, bèn dặn dò các đệ tử, rồi lớn tiếng xưng niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà, xoay mặt về phương Tây ngồi kiết già, tay kết ấn Tam-muội, an nhiên thị tịch. Tháp thờ Sư được xây dựng ở ngoài cửa Bình Tắc. 1 0/- truyện Sa-môn Thích Liễu Tánh trụ chùa Phổ Ninh ở núi Ngũ Đài. Sư húy là Liễu Tánh, hiệu là Đại Lâm, họ Vũ. Sau Tống Vũ Công lấy thụy hiệu làm họ. Thuở nhỏ Sư ham học, có bẩm chất thông minh. Đầu tiên, Sư nương tựa hòa-thượng An cạo tóc xuất gia, đăng đàn thọ giới cụ túc. Sư tham học khắp các pháp tịch, siêng năng nghiên cứu Tam Tạng. Sau gặp được Quốc sư Chân Giác khai mở quyết tâm. Thế rồi, Sư chu du vượt ải, đến khắp các xứ Thiểm, Hà, Lạc, Tương, Hán. Dò hỏi các bậc kỳ đức mà cầu học. Như các vị: Bách Lâm Đàm, Quan Phụ Hoài, Nam Dương Từ, đều do học giáo nghóa Tông Hiền Thủ mà nổi tiếng một thời. Sư đều đến pháp tòa của các vị ấy mà lãnh thọ Huyền chỉ. Đến lúc Sư trở về tham hầu Ngài Chân Giác ở Lũng Để, Ngài Chân Giác bảo: “Quan thự của Phật pháp là đây”. Sư theo Ngài Chân Giác đến núi Ngũ Đài, không bao lâu, Ngài Chân Giác viên tịch, Sư bèn vân du đến phương bắc, tới các xứ Yên, Kế, ẩn tích dưới cửa Ngụy, ưu du trên sông biển, đối với mọi chuyện trong thế tục như muốn quên bặt. Vua Thành Tông ( 1 2 9 1- 1391), thỉnh Sư đến trụ chùa Vạn Ninh, tiếng tăm Sư càng vang vọng khắp trong ngoài. Vào niên hiệu Chí Đại ( 1 3 0 8- 1312), Thái hậu xây chùa ở núi Ngũ Đài đặt hiệu là chùa Phổ Ninh, thỉnh Sư đến làm trụ trì đời thứ nhất. Sư là người rất tự tin khí tiết của mình, không thể luồn cúi để lấy lòng người, nên dấu chân chưa bao giờ dẫm đến chốn Thành hoàng, chẳng bái yết kẻ quyền quý. Có người ganh ghét Sư , Sư nghe được và thường bảo rằng: “Tôi vốn chỉ là một vị Tỳ-kheo, đội ân Thiên Tử bảo ban ở nơi chùa lớn, nhưng đêm trước hoằng pháp chẳng trễ nải, báo đáp ân đức nước nhà nhưng chẳng rảnh rỗi, đâu còn mong cầu gì? Tuy có lời nói tang thương hủy cách, ấy như ruồi xanh đậu quanh viền gai! Đoái mong tôi bảo chẳng gặp đạo, chẳng thực hành thì nhận lấy mà đi, và đi đâu mà không được!” Bấy giờ là đời Nguyên, do tôn sùng sủng ái một vị tăng người Tây Vực, Đồ chúng Vị đó rất đông, vào ra giá cỡi theo hầu tợ như Vương Công, hoặc thêm đầu đội mũ cao, lông đỏ rực rỡ, cao ngạo xấc láo, các bậc danh đức; chư sư trong nước không ai thèm kính lễ, hoặc là vén y nâng gót. Vị đó là xem xoa đầu, cho như thế là nhiếp thọ. Sư chỉ vái mà thôi, rồi ngoái lại bảo với chúng rằng: “Tôi dám khinh mạn đối với người ư! Tôi có nghe nói bậc quân tử lấy lễ mà mến thương người, sao lại có thể khuất phục khí tiết, tự chuốc lấy sự thấp hèn nhục nhã. Nếu vì người ấy mà khuất phục, đó như không phải a dua thì cũng là nịnh hót. Tôi tự làm đạo, đối với người ấy đâu mong cầu gì. Hàng thức giả cao thượng là ở ý nghóa ấy”. Đến năm thay đổi niên hiệu Chí Trị (1 3 2 1), ngày mồng ba tháng chín, Sư thị tịch. Tháp thờ được xây ở gò đất đen chùa Trúc Lâm, thụy hiệu là “Hoằng giáo”. Sơn. 1 1/- Truyện Sa-môn Thích Bảo Nghiêm trụ chùa Phổ An ở Ngọc Thích Bảo Nghiêm, tự là Só Oai, hiệu là Huyển Đường, Sư họ Khương, người ở xứ Thành Kỷ. Vì gặp tang loạn, Sư cùng người em đồng xuất gia làm tăng. Sau, Sư đến tham học với ngài Chân Giác và được truyền thọ yếu chỉ của Tông Hiền Thủ, và Sư được nối pháp. Ngài là người thuần phát không luống dối, vuông vắn như đất, lắng trong tợ nước đứng. Gặp được ba tòa đạo tràng của ngài Chân Giác, Sư cùng người em đều theo mà phụ giúp. Đến lúc ngài Chân Giác viên tịch, Sư bèn kế thừa pháp tịch đó. Sư lại vâng chiếu đến trụ hai chùa Phổ An và Hữu Quốc rất lâu, Sư và ngài Đại Lâm, Liễu Tánh mở mang giáo nghóa Thanh Lương khắp trong ngoài. Đến tháng bảy năm Chí Trị thứ hai (1 3 2 2) đời Nguyên, Sư thị tịch, thọ năm mươi mốt tuổi. Tháp thờ Sư được xây ở cửa khẩu Phong Cốc. 1 2/- Truyện Sa-môn Thích Chí Đức trụ chùa Thiên Hy ở Kim Lăng. Thích Chí Đức, hiệu là Vân Nham, họ Lưu, ở Đông Xương tỉnh Sơn Đông. Năm mười hai tuổi, Sư thọ học kinh với hoà-thượng Hải Văn ở chùa Khai Nguyên tại Thuận Đức. Nghe Pháp sư Chân Định Pháp Chiếu Hy mở mang tông chỉ Tông Từ Ân ( Pháp Tướng Duy Thức) ở chùa Long Hưng, Sư bèn đến đó theo học mà thành đạt thấu triệt nghóa lý sâu mầu. Niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi lăm (1 2 8 8) đời Nguyên, vua Thế Tổ ban chiếu cho Sư đến các xứ Giang, Hoài v.v… kiến lập giảng tịch gần ba mươi sáu nơi. Những người chuyên cầu chánh hạnh tu hành theo Tông Từ Ân thỉnh Sư làm chủ giảng. Sư được tuyển chọn, vua Thế Tổ mời vào diện kiến, ban tặng yến tiệc và y sắc tía, ban làm tự chủ hai chùa Thiên Hy và Tinh Trung. Thường ngày, Sư giảng các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Quang, Minh, Luận Duy Thức v.v… và sớ giải, suốt ba mươi mốt năm. Nhà vua đặc biệt ban tặng Sư hiệu là “Phật Quang Đại Sư”. Mỗi lúc Sư trao truyền giới pháp cho bảy chúng, đều dạy bảo cha mẹ anh em họ cùng chỉ dạy cho nhau không phạm. Đến lúc đốt hương đốt đều, đốt ngón tay chỉ vì thệ nguyện sống lâu trọn đời, Sư đều đem hết y bát đổi bán để xây dựng mới điệu vũ lâu các. Hoặc gặp năm đói kém Sư bèn nấu cháo nhừ cứu giúp đến vài muôn người. Các hàng lưu tục ở Kiến Khương ưa chuộng lao lễ ( rượu chè thù tạc), ham thích kết giao với quan lại. Riêng mình Sư lấy giới luật làm khuôn phép, đồ chúng cẩn trọng trang sức thì phải bỏ. Nếu những ai cùng nhau sử dụng vật của thường trụ, lầm một, phạt gấp trăm lần, nếu kẻ cố phạm thì đuổi đi. Sư trú tại chùa Thiên Hy hơn ba mươi năm chỉ một áo nạp và một đôi giày, trọn đời chẳng đổi, thường ngày quá ngọ thì chẳng ăn, đêm thì ngồi thẳng đến sáng, vì tụng niệm quá đỗi nên Sư bị mù. Một hôm, bỗng mộng thấy một vị phạm tăng mời đến trong tòa cao ở nội điện, giữa hư không hoa rải như mưa. Nhân đó Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, đến ngày mồng bảy tháng hai niên hiệu Chí Trị thứ hai (1 3 2 2), Sư vẫn còn tụng kinh chẳng thôi nghỉ. Trong khoảnh khắc từ biệt tăng chúng rồi ngồi mà thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi. Nhục thân Sư lưu lại trong khám hai mươi mốt ngày, sắc mặt vẫn hồng hào tươi nhuận như còn sống. Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt được vô số xá-lợi. Có vài muôn người đến kính viếng chiêm ngưỡng. Tháp thờ Sư được xây tại núi Trương Gia thuộc Giang Ninh, học só Triệu Mạnh Phủ soạn văn bia. 1 3/- Truyện Sa-môn Thích Phổ Hỷ trụ chùa Phổ Chiếu ở Trấn Giang. Thích Phổ Hỷ, hiệu là Cát Tường, người ở xứ Sơn Đông. Sư thân cao lớn mặt đen gầy nhưng lại giống Phạm Tăng. Thuở nhỏ Sư khẩn thiết xin cha mẹ cho xuất gia, nhưng cha mẹ Sư trách, cho rằng không con cháu nối dõi là tội rất lớn. Nhân đó Sư cưới vợ và sanh được hai người con. Thế rồi mới được xuất gia làm Sa-môn. Sư tinh cần nghiên cứu tông Từ Aân, tìm học các luận Duy Thức, Du-già-sư-địa, Nhân Minh, v.v… Niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi lăm (1 2 8 8) đời Nguyên, Tiết Thiền Hoàng đế thiết lập giảng tòa ở các xứ Giang, Hoài v. v… Sư đứng ở hàng thứ nhất, nhà vua ban chiếu thỉnh Sư làm chủ giảng. Ngoài nhữnglúc lên tòa thuyết giảng, hằng ngày Sư tụng kinh Hoa Nghiêm suốt mười quyển một thời. Ngài kết bạn thân với ngài Vân Nam Đoan, Vô Niệm. Ngài Vân Nam Đoan là bậc tài giỏi tinh thông Duy Thức, trong nước không ai vượt hơn. Mỗi lúc cùng Sư biện luận lý thú, hoặc có thiếu mất chút ít thì Sư dùng chánh ngôn chỉnh cứu đó. Ngài Vân Nam Đoan cũng thật tình kính phục mà ngợi khen. Đến lúc Sư thị tịch, trà-tỳ xong có rất nhiều xá-lợi. Đệ tử Sư lưu giữ linh cốt, cất giữ hơn hai mươi năm mới xây tháp thờ ở Vu Sơn thuộc Đôn Đồ. Đến lúc nhập tháp, mở ra xem chỉ thấy xá-lợi thấm dính khăn bộc chiếc hộp, như ong hợp kiến tụ, chạm vào thì sáng ngời lấp lánh. Dân chúng ở xứ Trấn Giang đắp họa rất nhiều tôn tượng Sư tùy nơi mà thờ cúng, tôn xưng Sư là “Cát Tường Phật”. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH (QUYỂN 2 HẾT)  <卷>QUYỂN 3 CHƯƠNG II: GIẢI NGHÓA TRONG PHẦN 3 CỦA CHƯƠNG II (chánh truyện có mười bốn vị, phụ thấy có mười bốn vị). 1/- Truyện Sa-môn Thích Tổ Nể trụ chùa Tịnh Tín ở Gia Định thuộc Tô Châu. Thích Tổ Nể tự là Nhật Chương, Sư có biệt hiệu là Dụng Nguyệt, họ Trương, người ở xứ Thường Thục thuộc Tô Châu. Sau khi cạo tóc xuất gia, Sư chu du về phương đông, đến xứ Tứ Minh. Bấy giờ, ngài Ngã Am Bổn Vô trú chùa Diên Khánh, ngài Thạch Thất Anh trú chùa Dục Vương, đối với hai vị ấy Sư đều theo hầu quên cả năm tháng. Sau, Sư nối pháp Pháp sư Trúc Ốc Tịnh, ra hoằng hóa, ra chùa Định Giáo ở Thế Vónh. Kế tiếp dời đến chùa Quảng Hiếu ở Côn Sơn, chùa Tịnh Tín ở Gia Định và làm chủ giáo ở Ngô Hạ suốt năm mươi năm. Đến đầu niên hiệu Hồng Vũ (1368…) đời Minh, Sư định chọn các bậc cao hạnh. Có thánh chỉ của vua Thái Tổ (Châu Nguyên Chương) mời Sư đến nói pháp tại chùa Thiên Giới. Qua vài lần nhà vua mời Sư vào cung cấm, Sư đối đáp tấu trình thích đáng, bèn được ban hiệu là: “Từ Nhẫn Pháp Sư”. Sau nhà vua ban sắc cho Sư trở về quê cũ, cuối cùng Sư thị tịch tại đó. Ba. 2/- Truyện Sa-môn Thích Hạnh Chi trụ chùa Phổ Đa øở Ninh Thích Hạnh Chi tự là Đại Cơ, Sư người ở huyện Ngân thuộc Ninh Ba. Tông thuyết Sư đều thông, hạnh giải thảy tương ưng. Sư là bậc danh tăng ởù đất Uất thời bấy giờ. Đầu tiên, từ Phật Lũng, Thiên Thai Sư lên làm tự chủ chùa Bảo Đà, giúp chúng nói pháp, khôi phục sản nghiệp, và mở mang chùa chiền. Mùa xuân năm Canh Tuất (1 3 7 0) đời Minh, chánh minh bộ sứ giả là Cám Châu Lưu Quân Thừa Thực cùng Sư chống trượng đi khắp đông tây. Sứ giả nói: “Đây là cảnh thanh tịnh, hãy nên làm đình”, Ngài bèn xây tạo dựng đình Thanh Tịnh Cảnh ở trên đảnh núi, thuộc phía Nam của chùa, các bề ngang dọc đều ba mươi thước, bên phải dựa vào núi, bên trái trải dài vào triều. Âm động học só Tống Cảnh Liêm soạn bia ký. 3/-Truyện Sa-môn Thích Nguyên Châu trụ chùa Hưng Thánh ở Tùng Giang. Thích Nguyên Châu hiệu là Dụng Tạng, họ Chu, ở Thượng Hải thuộc Tùng Giang. Sư xuất gia thọ giới cụ túc tại chùa Hưng Thánh, được truyền trao giáo quán Thiên Thai, Sư giới hạnh cao khiết, thông hiểu các thứ kinh sách, tinh cần tu tập Pháp Hoa, Di-đà sám pháp. Những lúc rảnh rỗi, thì viết chép kinh Pháp Hoa v.v…Sư tùy duyên giảng nói hằng đêm, ngồi thiền đến sáng. Đến năm Ất Sửu (1 3 8 5) đời Minh, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, đòi tắm gội rồi viết kệ bảo với tăng chúng rằng: “Bốn mươi hai năm Không làm không tu Có sanh có diệt Hòn Gợt trên biển. Thật về không về Tâm dạo không tónh” Rồi ngồi kiết già an nhiên thị tịch. 4/-Truyện Sa-môn Thích Tuệ Nhật ở chùa Thiên Trúc thượng, thuộc Hàng Châu. Thích Tuệ Nhật hiệu là Đông Minh, họ Giả, người ở xứ Thiên Thai, tức là con cháu của Tống Tướng Giả Tự Đạo. Lại Tự Đạo Trách Thú. Sư còn bé đã có chí nguyện mong cầu xuất gia, nương tựa Hòa- thượng Bình Sơn ở chùa Quảng Nghiêm trong huyện. Vài năm sau được cạo tóc, thọ giới cụ túc. Năm hai mốt tuổi, Sư nghe pháp sư Bách Tử Đình giảng giáo nghóa Thiên Thai ở Xích Thành, liền tìm đến dưới pháp tòa, sau đó không lâu, Sư lãnh thọ được Đại Nghóa, Ngài Tử Đình khen ngợi rằng: “Ném một hòn bi xuống sườn núi, cũng chẳng đủ để ví dụ sự nhanh chóng của căn cơ nơi ông. Đạo tịch của ta, ông là người mở mang rộng lớn!” Từ đó sự học của Sư trầm lắng mà vang danh một thời. Một hôm, Sư vừa ngũ, hoảng hốt thấy trúc mọc ngang dưới đất, và trên ngọn trúc ngưng đọng cháo trắng tinh, Sư nằm dưới đất mà ăn cháo. Sau khi tỉnh giấc Sư kể lại cho ngài Tử Đình nghe, ngài Tử Đình bảo: “Trúc và chúc ( cháo) là đồng âm, ông được từ đất mà ăn, há chẳng phải là duyên ở Thiên Trúc thượng và Thiên Trúc hạ ư?” Từ đó, Sư vượt đất Tiền Đường đến tham kiến Pháp sư Trúc Thất Tịnh ở Thượng Trúc, Sư được sắp xếp ở trong một phòng nhà thấp xấu, Sư bèn làm thơ mô tả. Ngài Trúc Thất thấy thơ bảo với chúng rằng: “Ông ấy không phải là người phàm phu tầm thường, ngày sau sẽ làm chủ núi này, không thể vì tuổi nhỏ mà xem thường”. Nên mới đãi ngộ như khách, bạn. Ngài bảo Sư trông coi công việc ở khách liêu, cai quản tăng tịch. Đến lúc ngài Trúc Thất thị tịch thì ngài Trạm Đường Tánh Trừng kế vị pháp tịch, Sư dời xuống ở hậu đường. Hơn năm sau, Sư ra làm chủ giảng chùa Thánh Thủy thuộc Ngô Sơn. Niên hiệu Chí Chánh thứ tư (1 3 4 4) đời Nguyên, Sư trú tại chùa Tiến Phước. Trải qua ba năm, tại chùa Thiên Trúc hạ gặp phải tai họa, quan nhà Nguyên là Cao Nạp Lân thỉnh Sư xây dựng mới lại, đến lúc chùa viện làm xong, Vương Tấn soạn bia ký. Cũng trong năm đó,Sư trở về lại chùa Thiên Trúc thượng, Sư biết duyên tại đó nên sớm tối chẳng biếng trễ. Tất cả mọi việcï chế định trong chùa đều được biên tập lại. Vua Thuận Đế ( 1 3 3 3- 1368) đời Nguyên nghe thế, đặc biệt ban hiệu là Từ Quang Diệu Ứng Phổ Tế” và y phục thêu dệt vàng để làm chứng cớù. Đến niên hiệu Chí Chánh thứ mười sáu (1 3 5 6) Sư trở về ẩn tu tại một hang núi cao ở Cối Kê, không người nào biết. Nguyên Tướng Đạt ghi thiếp, Mục Nhó sai sứ, trưng bày các vật sắc thỉnh Sư trở về lại chùa. Trước sau hai lần Sư trú tại chùa Thiên Trúc thượng cả thảy hai mươi lăm năm. Đến đời Minh của chúng ta, vào niên hiệu Hồng Vũ thứ hai (1 3 6 9), vua Thái Tổ ban chiếu mời Sư đến Tưởng Sơn Phật Hội, sai Lễ bộ cấp soạn trai cỗ. Sáng hôm sau, mời Sư đến điện Phụng Thiên, trăm hàng quan liêu đều nhóm họpï, chư tăng nối gót nhau tìm đến, chỉ một mình Sư niên cao lạp trưởng, nhan sắc hồng hào, lông mày bạc trắng ngồi ở hàng đầu. Đích thân nhà vua đến thưa hỏi đạo nghóa của “Thăng Tế Trầm Minh”. Sư trình bày đầy đủ thích đáng, vua Thái Tổ xoay lại nói với chúng tăng rằng: “Từ trước đến nay, các người học Phật chỉ biết ăn no cung dung nhởn nhơ cho qua ngày tháng. Đối với các bộ kinh Kim Cương, Lăng-già, Tâm Kinh, v.v… đều là bí yếu của việc nhiếp tâm, vì sao chẳng nghiên cứu tận cùng nghóa lý? Ngày nay những ai có điều không biết rõ nên thưa hỏi Pháp sư Bạch My!”. Từ đó về sau, mỗi lúc thỉnh Sư, vua Thái Tổ chỉ dùng hai chữ “Bạch My” (vì lông mày của Sư bạc trắng) để gọi chứ không dùng danh hiệu của Sư. Sư từng cùng với Pháp sư Biệt Phong Đồng, Thiền sư Kim Bích Phong đồng thọ trai tại cung cấm, nhân đó tấu trình sự việc chùa Ngõa Quan là chỗ mà đại sư Trí giả đời Tùy thích giảng kinh Pháp Hoa, nên không thể phế bỏ. Vua Thái Tổ ban sắc đến chùa Thiên giới lập riêng một ngôi thất để bảo tồn vết tích đó. Ban chiếu cho khai sơn nói pháp. Đến mùa Xuân niên hiệu Hồng Vũ thứ năm (1 3 7 2) Sư lại đến Chung Sơn, kiến lập đại trai đàn thủy lục, nhà vua ban cho Sư thuyết giới Tỳ-Ni. Vua Thái Tổ đích thân dẫn trăm hàng quan liêu đến nghe nhậnï. Xong việc, Sư cáo từ trở về chùa Thiên Trúc thượng, thôi nghó mọi việc tại viện, thường ngày chuyên tu Di-đà sám Pháp dẫn đến tịnh nghiệp. Đến niên hiệu Hồng Vũ thứ mười hai (1 3 7 9), đêm mồng một tháng bảy, Sư mộng thấy hoa sen xanh nổi lên trên bờ vuông bọc lấy người. Đến lúc tỉnh giấc, Sư bảo với chúng rằng: “Điềm lành của tôi vãng sanh tịnh độ đã được thấy, đối với người đời sợ chẳng còn xa”. Qua ngày mồng bốn, Sư ngồi kiết già chắp tay thị tịch, thọ tám mươi chín tuổi, bảy mươi ba hạ lạp. Qua hơn mười ngày mới đón rước nhục thân Sư vào tôn trí tại tháp viện Diệu Ứng ở ngọn núi phía Tây chùa. Lúc sanh tiền, vóc dáng Sư cao lớn, mày dài hơn cả tấc, tròng mắt lấp lánh nhìn thẳng vào người. Và mọi người chẳng kể là già hay trẻ, hễ thấy Sư vào thành đều nói rằng: “Hoà-thượng Bạch My đến!” Họ đua nhau nắm lấy hương hoa tung rải từ trước. Nét mặt Sư nghiêm nghị, không nói lời luống dối. Đối với các hàng vương công đại thầni5 Sư Ngài không một lần mở lời mềm mỏng nịnh hót. Còn như việc dẫn dụ hàng hậu học, sắc thái ngôn từ của Sư ấm áo như ánh nắng mùa xuân. Nên, mọi người phần nhiều là ưa thích theo Sư cầu học. Sư có các đệ tử nối pháp như là: Tư Tế, Hạnh Xu, Doãn Giám, Doãn Trung, Lương Cẩn, Phổ Trí, Văn Hội, Nguyên Tú, Cánh Phạm v.v… 5/- Truyện Sa-môn Thích Só Chương chùa Tập Khánh ở Hàng Châu. Thích Só Chương tự là Nguyên Phát, họ Vương người ở xứ Hải Ninh thuộc Quận Chi. Vừa mới sanh đảnh đầu Sư đã nhô cao, mắt sáng ngời, tròng đen như chấm sơn. Sư từ thuở bé đã không ăn các thứ tanh nồng, cha mẹ Sư có lúc cũng ngầm thử, Sư liền ói mửa không thôi. Sư ưa thích đọc kinh sách Phật, ở gần nhà có ngôi chùa tăng, Sư thưavới cha rằng: “Họ Thích nầy Thích, xin cho làm thầy của con”. Cha của Sư giận bảo: “Con ta như hoa Phân-đà ( sen trắng) chẳng như người thường loài!” Sư bèn bỏ nhà, đến chùa Truyền Pháp thọ năm giới. Bấy giơ,ø Hàn Lâm thị chế Liễu Quán thường ở nghỉ tại chùa, mến thương Sư nên trao cho các kinh sử và đích thân giải thích cho Sư nghe. Sư nghe đón nhận liền hiểu. Năm mười chín tuổi, Ngài cạo tóc xuất gia làm Đại Tăng. Bấy giờ, pháp sư Ngã Am Bổn Vô đang làm chủ giảng tại chùa Thiên Trúc thượng. Sư sắp tìm đến hầu học, bỗng nhiên mộng thấy đi đến Bảo Sở, có vị Đại Bồ-tát dạy Sư quỳ theo cách người Hồ, tác lễ, miệng tuyên đọc sám văn. Đến khi tỉnh giấc suy nghó đó là kệ văn trong phẩm Phổ Hiền Tịnh Hạnh. Quả nhiên được pháp sư Ngã Am Bổn Vô khai mở mắt tuệ để thấy biết. Tất cả các chương nghóa của giáo quán Thiên Thai đều lần lượt truyền trao cho Sư. Và Sư luôn giữ chí chăm lo chuyên nhất gắng sức cầu học, không hề biếng lười đến nỗi quên cả ăn ngủ. Ngài Ngã Am Bổn Vô có những lúc ngầm dò xét sự siêng năng của Sư, thường đem những việcrộng lớn mong mỏi ở nơi Sư. Bấy giờ có ngài Thiện Tâm Oánh vốn cao ngạo chẳng biết nể phục người, nên người đời gọi tên là Nghóa Hổ, nhưng cũng kính mến đạo hạnh của Sư hẹn cùng đèn sách, thường ngày cùng mài cắt cho đến bén nhọn. Tăng chúng đều tôn xưng là “Hai viên ngọc bích”. Thời gian sau, ngài Ngã Am Bổn Vô viên tịch, ngài Đông Minh Tuệ Nhật, tiếp nối pháp tịch, đào luyện học giỏi, chọn Sư làm Khai Khoa, bảo trông coi tiếp đón tân khách, kiêm việc lãnh chúng sám ma. Vào niên hiệu Chí Chánh thứ mười ba (1 3 5 3) đời Nguyên, Sư vâng lệnh đến trụ trì chùa Thê Chân. Chùa đó rất gần gũi hai chùa Nam Trúc và Diễn Phước. Bấy giơ,ø có hai vị hoà-thượng Đại Dụng-Tất Tài và Tuyệt Tông-Thiện Kế ở tại đó, Sư rất vì sự học nên đến chùa chưa đầy một ngày đã sang tham vấn. Tất cả áo nghóa thiên viên của Giáo Quán, mảy may Bổn tích, không gì mà chẳng phân tích. Do đó Sư thường đối với chúng than rằng: “Phật pháp Giáo Tạng man mác như mây khói biển khơi, hẳn chẳng riêng một mình mà có thể nghiên cứu đến cùng tận, khiến ta được tự họa mà không tiến tới. Như vậy đâu thể khỏi sự cười chê của hàng cô lậu ư!” Niên hiệu Chí Chánh thứ hai mươi (1 3 6 0), Ngài dời đến làm tự chủ chùa Tinh Đức. Cuối đời Nguyên, trong nước binh đao đại loạn, mọi người đều mưu tính tự ẩn núp, chỉ còn mình Sư chuyên tâm lo việc chùa, chẳng vì sự khó khăn trong đời, mà đổi thay chí khí, Sư phô bày điều tlành, dẹp bỏ điều xấu, do đó phong thái dần dần sửa đổi. Thường ngày, Sư thâu nhận tịnh chúng, giảng nói kinh sớ, chẳng đểà thời gian luống qua. Đến đời Minh, vào niên hiệu Hồng Vũ ( 1 3 6 8- 1399) Pháp tòa ở chùa Tập Khánh hoang vắng, nên Quận Thú Lý Công thỉnh Sư đến đó mở mang giáo thừa. Sau đó không lâu, trung thư bị chỉ, khiến tất cả các vị trụ trì ở các chùa lớn trong năm phủ khắp đông tây vùng Chiết Giang đều nhóm họp về Kinh Đô. Tại chùa Cộïng Bích Thiên Giới, lập viện Thiện Thế, để quản lý tăng chúng, cùng giám xét các việc nặng nhọc. Các bậc Túc Đức Kỳ Tài ở mọi nơi đều chẳng ai biết đó là muốn làm gì. Riêng mình Sư lược ra có đủ điều tự. Bấy giờ, có cả mười muôn chúng đều đến thưa hỏi pháp với Sư. Ngày mười sáu tháng sáu , Sư biết trước thời hạn đã đến, bèn gọi các đệ tử giao phó mọi việc hậu sự, qua ngày mười bảy Sư an nhiên ngồi thẳng thị tịch, thọ bốn sáu tuổi, hai tám hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, các vị như Viên Giác, Nhất Aán, Thăng Nguyên, Khắc Cần v.v… là đệ tử của Sư, thâu nhặt di cốt, xây tháp thờ ở phía Nam Bảo tháp Pháp sư Biện Tài tại Long Tỉnh. Sư mang khí tiết tiêu lệ, luận bàn khẳng khái. Căn cứ thẳng theo đạo mà không kiêng dè theo thế tục, trong những lúc chỉ bày về các chùa, mà những người súc dưỡng đồ đảng đều cho là Oán Phủ thì Sư bèn phát lời thề chẳng cạotóc cho ai và không nuôi đệ tử. Các vị học giả đến tham yết muốn nương tựa đều khích lệ, Sư bèn từ chối, chẳng luống chọn một người. 6/- Truyện Sa-môn Thích Như Di chùa Diễn Phước ở Hùng Châu. Thích Như Di tự là cụ Am, biệt hiệu là Thái Phác, Sư đắc pháp với Ngài Văn Minh Hải Tuệ Thiện Kế Tuyệt Tông. Sư học đứng đầu các vị tài giỏi, vượt cả Tam Giáo, chẳng phải chỉ Thập Thừa, Tam Quán, Cửu Kinh, Thất Sử, mà các thứ danh ngôn bí điển có ra ở trong đời, Sư cũng đều thông hiểu. Vua Thái Tổ Cao Hoàng đế ( 1 3 6 8- 1399) đời Minh ban chiếu chỉ mời Sư trụ chùa Thiên Giới, thường ngày cùng các bậc Kỳ Đức mở mang giáo thừa, để hoàn bị vua vời Sư đến thưa hỏi, Bảo Đồng Tông lặc hiệu đính giải thích các bộ Tâm Kinh, Lăng-già, Kim Cang v.v…, vâng theo thánh chỉ, lưu hành ở đời. 7/- Truyện Sa-môn Thích Đại Đồng chùa Bảo Lâm ở Thiệu Hưng. Thích Đại Đồng, tự là Nhất Vân, biệt hiệu là Biệt Phong, họ Vương ở Thượng Ngô, đất Việt. Cha Sư là Hữu Tiều, mẹ Sư họ Trần, bà mang thai Sư đến mười tháng. Một hôm, cha Sư đang ngồi tại nhà trên, bỗng nhiên thấy một vị Tăng lạ khuôn mặt đầy đặn, chống tích trượng đi vào. Cha Sư đứng dậy xá chào, hỏi: “Hòa-thượng từ đâu đến?” Đáp: “Ở núi Côn Lôn!” xong, mở cửa đi vào thật gấp, nghe tiếng trẻ thơ khóc trong phòng, cha Sư cười, bảo: “Con tachẳng phải tái lai ư?”. Sư từ thuở bé đã sáng suốt nhanh nhẹn, đọc sách liền hiểu được ý sâu, ban đầu tập học từ chương, hớn hở rất có khả quan. Từ đó cha của Sư đem Tán Thừa gia học giao phó cho Sư. Riêng mẹ Sư than rằng: “Đứa bé này có giống trí tuệ, há để buộc ràng chìm đắm trong bụi trần ư?” Bèn cho phép Sư đến chùa Sùng Thắng ở Cối Kê xuất gia. Nghe pháp sư Xuân Cốc giảng giáo nghóa Tông Thanh Lương ở chùa Cảnh Đức trong Quận, Sư bèn đến đó nương tựa cầu học và được truyền trao. Sư lại đến tham yết ngài Cổ Hoài Triệu Công là bậc tinh thông Tứ pháp giới Quán. Nhân ngài Xuân Cốc ra làm tự chủ chùa Bảo Lâm bèn bảo Sư rằng: “Sở học của ông đã tinh thông lại rộng rãi, sợ e ngưng trệ tâm nơi thô chấp, chỉ càng thêm học rộng mà bó buộc ở tri kiến, thật chẳng phải cội gốc của kiến tánh. Nên cần phải chuyên tu mà xoá bỏ nó đi, ngõ hầu mới là điều may mắn của tông ta!” và bèn bảo Sư đến xứ Tiền Đường tham kiến Thiền sư Hối Cơ Hy, được ngài Hối Cơ Hy phẩy bụi một thời gian thì mọi kiến văn chứa nhóm của Sư thảy đều tan biến, chỉ còn lại ánh sáng lấp lánh tự chiếu. Như vậy trải qua 6 mùa mưa nắng. Ngài Hối Cơ rất vui mừng đối với ý chí của Sư. Lại nghe sự hưng thạnh của ngài Trung Phong Pháp Đạo ở Thiên Mục, Sư bèn đến tham yết, và liền có ý trọn đời ở đó. Một hômï, ngài Trung Phong gọi Sư đến khuyên rằng: “Giáo nghóa của Tông Hiền Thủ ngày một xa dần và kém ít, khí lượng của ông đã đủ để mở mang không nên dính mắc ở đó!”, bèn viết kệ khen ngợi Tôn tượng Thanh Lương để lại cho Sư. Sư rất vui mừng bảo: “Ngày nay tôi mới biết muôn pháp vốn ở Nhất tâm, chẳng biết ai là thiền, ai là giáo”. Rồi Sư về lại chùa Bảo Lâm hầu ngài Xuân Cốc và đem ý của ngài Trung Phong mà thưa với ngài Xuân Cốc, ngài Xuân Cốc liền phân tòa giảng kinh Tạp Hoa. Bấy giờ, Tống Cố Quan Từ Thiên Hựu Vương dị giản tướng cùng Sùng Tưởùng tiếng tăm rạng ngời hiển trước, Quận Thú Phạm Công kính mến ngài Xuân Cốc niên cao lạp trưởng, muốn phong nhường pháp tịch, mới bày y Bồ, đích thân nói với Sư. Sư nghiêm nghị đổi sắc mặt: “Kia quý ở đạo, là do phận thầy trò. Rõ ràng có thể dạy chỉ cho hàng hậu học. Nếu nương sự già lão mà dám rối loạn ngôi vị, thì đâu phải là việc đáng làm của người ư? Minh Công kính mến ta, khiến ta giẫm đạp lên danh nghóa, như thế thật là thương tổ!” Phạm Công bất chợt đứng dậy, bái tạ rằng: “Thầy ta thật là người phi thường. Con không đủ sức để nhận biết!” Vào đầu niên hiệu Diên Hựu (1 3 1 4) đời Nguyên, Sư đến làm tự chủ chùa Tịnh Độ ở Tiêu Sơn, kế là dời đến chùa Cảnh Đức. Vào niên hiệu Chí Nguyên ( 1 3 3 5- 1341), Sư được ban sắc đến trụ chùa Đông Tháp ở Gia Hòa, đổi hiệu chùa là Bảo Lâm. Nhưng Bảo Lâm vốn là chỗ của Quốc sư Thanh Lương học tập. Mọi người đều tôn vinh Sư, mà Sư vẫn ẩn tu chẳng đến. Khi đó, khắp các quận ấp liên tiếp dâng sớ hai ba lần thỉnh Sư đến. Sư bèn rũ áo mà đi. Bèn phỏng theo việc xưa của thảo đường Chung Nam, mở mang các phòng nhà u tối, mời gọi khuyến khích những người tài giỏi. Nên các hàng học giả khắp trong nước đều đến tìm đến cầu học dưới pháp tòa của Sư. Đầu niên hiệu Chí Chánh (1 3 4 1), Sư được vua Thuận Đế đời Nguyên ban tặng hiệu là “Phật Tâm Từ Tế Diệu Biện”, và y tăng-già-lê dệt bằng sợi vàng. Nguyên thần Trung Giới Thái Bất Hoa Tuần thú ở xứ Việt bị khổ hạn hán, bèn thỉnh Sư cầu mưa. Ngài đốt tý hương ở dưới tháp Huyền Độ, trời liền đổ mưa lớn. Cuối đời Nguyên, trong nước đại loạn, chùa bị tai họa, Sư vui vẻ trù tính sửa sang xây dựng mới lại. Đời Minh, lúc Thái Tổ Cao Hoàng đế lên ngôi (1 3 6 8), thết đại hội Vô Già ở Chung Sơn, mời Sư đến chứng kiến vũ lâu, bấy giờ Sư đã tám mươi tuổi nên khỏi bái quỳ. Ngày hôm sau thiết đãi trong cung cấm. Xong việc, nhà vua bảo người giữ kho đem các vật bằng bạch kim và các vật quý báu biếu tặng đưa Sư trở về. Lúc sanh tiền, tinh thần Sư vượt xa Phục Tê Quán Đảnh, thân sừng sững cao lớn như ngọc đứng mà đẹp, khéo giỏi luận đàm. Như bị các hàng vương công quý nhân có người bài bác hỏi vặn giáo môn, thì Sư nói pháp như nước chảy cuồn cuộn. Nếu có các nghóa lý không ngay thẳng, tuy có gông cùm gậy búa trước mắt, cũng không ít kẻ bẻ gẫy chí khí của Sư . nếu gia hại bằng pháp nguy ách thì Sư cũng chẳng màng. Sư chỉ giữ thường thời khóa tụng kinh Hoa Nghiêm, thế mà chẳng dời sang ngày khác thì người ấy tự khuất phục. Những lúc, Sư giúp tra xét những tông khác thì không mảy may sai sót, như Đoán Giang Ân là một học giả của Thiếu Lâm bèn dâng mời Sư làm chủ Thiên Y. Thiên Ngạn Tế là học trò của Thai Giáo, mời Sư đến trụ chùa Viên Thông. Sư đến đất Mân, bấy giờ có Cổ Lâm Mậu làm tự chủ chùa Bảo Ninh ở Phúc Kiến, người lính điều khiển xe ngựa quá nghiêm. Các hàng sở tăng vô lại đem tố cáo nơi công phủ, Sư tình cờ gặp ở nhà khách trọ, mới dọn bày thức ăn, ung dung mời đãi, Sư nói rằng: “Tôi thật chẳng biết Cổ Lâm, nghe nói vị ấy là bậc danh đức của thiền lâm. Nếu bọn đó sắp làm điều bất lợi, người quân tử cho bọn đó làm hạng người nào, chẳng bằng thôi nghỉ, không thì sợ e gặp phải lỗi lầm lớn”. Sự việc bèn thôi. Tánh Sư rất mực hiếu hạnh, luôn buồn về cha mất sớm. Mỗi năm đến ngày giỗ kî là rơi lệ không thôi. Sư muốn dưỡng mẹ hết sức thuần thành, không chỉ thuận theo sắc phục ấm lạnh mà thôi, Sư còn khuyên nhủ tâm thần thọ hưởng pháp vị giải thoát. Đến lúc qua đời, Sư cúng tế các lễ không thiếu, lại nhờ các bậc danh Nho soạn viết hạnh thật, dựng lập bia đá bên cạnh mộ. Sư hành trì luật rất trang nghiêm, chỉ một bình bát, ngoài ra không chứa để vật gì, Sư có chỉ khoảng hơn năm trăm quyển sách sử. Trong thángmười hai niên hiệu Hồng Vũ thứ hai (1 3 6 9) thời vua Thái Tổ, nhà Minh, Sư thị hiện bệnh nhẹ. Đến ngày mồng mười tháng ba năm sau (1 3 7 0), Sư lên tòa nói pháp, từ biệt đại chúng rồi trở về phương trượng an nhiên ngồi thẳng thị tịch, thọ tám hai tuổi, sáu lăm hạ lạp. Lúc trà-tỳ có hiển bày nhiều điều lạ. Tháp thờ Sư được xây dựng tại Trúc Sơn. Sư có soạn “Thiên Trụ Cảo”, “Bảo Lâm loại biên” mỗi thứ có đến mấy quyển. Đệ tử nối pháp của Sư có các vị như: Đại Diễn chùa Diệu Tâm, Thiện Hiện chùa Cao Đình, Nhã Lan chùa Cao-ly, Nhân Tónh chùa Cảnh Đức, Minh Thiện chùa Khương Sơn, Sư Khải chùa Diên Thọ, Quốc Sâm chùa Nam Tháp, Đại Tuệ chùa Phước Thành, Tánh Trừng chùa Cảnh Phước, Đạo Nể chùa Diệu Tướng, Đạo Nguyệt chùa Pháp Vân, Phạm Cao chùa Tịnh Độ, Nhật Ích chùa Bảo Lâm, v.v… 8/- Truyện Sa-môn Thích Thiệu Tông trụ chùa An Quốc ở Thượng Hải thuộc Tùng Giang. Thích Thiện Tông, biệt hiệu là Toại Sơ, họ Trần, người ở xứ Thượng Hải. Năm mười ba tuổi, Sư được cha mẹ đưa đến chùa An Quốc trong làng xuất gia. Sư đắc pháp với Pháp sư Tónh Am Trấn. Bẩm Sư thông minh dónh ngộ, giới hạnh tinh nghiêm. Ban đầu Sư ra nói pháp tại chùa Trường Khánh ở Hàng Châu, Chấn Khởi Huyền Phong, kẻ tăng người tục đều ảnh hưởng nhuần hóa. Kế đến, Sư dời đến chùa Từ Cảm ở Ngô Hưng. Bấy giờ, Pháp sư Trường Can Thú Nhân ở Kim Lăng mời Sư trụ Đệ Nhất tòa, cả chúng đều kính phục. Năm Quý Dậu (1 3 9 3) thuộc niên hiệu Hồng Vũ, đời Nguyên, Sư đáp lại lời mời đến có Phật sự tại Lô Sơn, Sư tấu trình ứng đối thích đáng. Vua Thái Tổ ban sắc tặng y tăng-già-lê bằng tơ sợi vàng, cốt nhắc Sư lên ngồi bên phải giảng kinh, nhưng không làm sao thăng Hữu Thiện Thế. Đến ngày mồng năm tháng giêng năm Đinh Sửu (1 3 9 7), Sư thị hiện bệnh nhẹ, an nhiên ngồi thẳng thị tịch. Vua Thái Tổ nghe thế liền sai bảo Trung Sứ đến cúng tế. Ngày trà-tỳ có đến mấy ngàn người cùng chiem bái, đồ chúng đón rước, thâu nhặt xá-lợi di cốt về xây tháp tại chùa An Quốc. 9/-Ttruyện Sa-môn Thích Cư Kính trụ chùa Phổ Chiếu ở Tùng Giang. Thích Cư Kính, tự là Tâm Uyên, biệt hiệu là Lan u5 Sư Ngài học thông nội ngoại kinh sử, khéo thuộc văn chương, tinh nghiêm luật bộ. Sư đến tham lễ Hòa-thượng Nhất Vũ chùa Đại Báo Ân ở Kim Lăng. Ở đó, Sư giữ chức Tri Khách. Sau Sư đến tham yết pháp sư Đông Nguyên chùa Tập Khánh ở Hàng Châu tại Sám Ma Đường, Sư ở Đệ Nhất Tọa, theo giảng Chu Dịch. Đầu niên hiệu Vónh Lạc (1 4 0 8) đời Minh, Sư vâng chiếu hiệu đính Đaị Tạng Kinh, tham dự việc tu chỉnh Hội Điển. Thế rồi Sư ra trú trì chùa Quảng Phước ở Thượng Hải. Kế đến dời sang chùa Phổ Chiếu ở Tùng Giang, mở rộng Pháp tịch. Suốt muời ba năm, xây dựng Điện Đại Hùng, nhà Giải Thoát, ba cửa Giải Thoát, sửa sang mái hiên, tinh xá Hương Tích, được làm mới sáng rỡ , bảy chúng chiêm ngưỡng, Đạo phong thổi mạnh. 1 0/- Truyện Sa-môn Thích Phổ Trí trụ chùa Long Tỉnh ở Hàng Châu. Thích Phổ Trí tự là Vô Nghó, biệt hiệu là Nhất Chi Tẩu. Sư vốn dòng họ Thử, người ở xứ Lâm Bình thuộc Triết Giang. Sư xuất gia tại chùa Long Tỉnh ở Tiền Đường, đến nương tựa Pháp sư Tuệ Nhật ở Đông Minh, được trao truyền pháp tánh cụ của Tông Thiên Thai. Sư có ưu điểm ở việc giảng nói, trải qua bốn đạo tràng lớn, phấn phát ngọn gió pháp môn. Đến tuổi về già, Sư Khai diễn chùa Diên Khánh tại Trùng Giang, bèn suốt đời chuyên tu tịnh nghiệp, dẫu gặp phải mưa hay nắng đều chẳng ngơi nghỉ. Ngày mồng hai tháng giêng năm Mậu Tý (1 4 0 8) nhằm niên hiệu Vónh Lạc, đời Minh. Sư thị hiện bệnh nhẹ, nhóm chúng lại, Sư an nhiên ngồi thẳng xoay mặt về hướng Tây, xưng niệm danh hiệu Phật mà thị tịch, Sư có soạn Tập chú A-di-đà kinh một quyển. 1 1/- Truyện Sa-môn Thích Thiện Khải trụ chùa Diên Khánh ở Tô Châu. Thích Thiện Khải tự là Đông Bạch, biệt hiệu là Hiểu Am, họ Dương, người ở xứ Trường Châu thuộc Cô Tô. Gia đình nhiều đời làm quan. Ngài vừa biết nói đã thông hiểu kinh Phật như đã học chín muồi từ trước. Cha mẹ thấy lạ như thế, biết Sư là bậc pháp khí, nên dẫn đến viện Vónh Mâu xin cho Sư xuất gia. Sau đó không lâu, Sư cạo tóc, đăng đàn thọ giới cụ túc. Ẩn tu dưới Long Sơn, nghiên cứu cùng tận Đại Ta- ïng. Sách sử của trăm nhà Hiền triết, không thứ gì Sư chẳng tinh chuyên nghiên cứu. Năm Mậu Tý (1 4 0 8) nhằm niên hiệu Vónh Lạc, đời Minh, Sư ra hoằng hóa, trú tại chùa Diên Khánh ởq Chi. Năm sau, Ngài đáp lại lời mời lo việc biên tập sửa chữa Vónh Lạc Đại Điển và hiệu đính Đại Tạng Kinh, Sư được ban tặng y tăng-già-lê dệt bằng sợi vàng. Một thời, Sư cùng các bậc danh nhân như: Thẩm Dân Vọng, Vương Nhữ Ngọc, Tiền Nguyên Đoàn đều là bạn giao kết phương ngoài, hoặc có lúc biện luận sự khác nhau giữa Nho giáo và Phật giáo, Sư bảo: “Bất luận là lý của các bậc thánh đồng hay chăng, mỗi người tự thực hành theo giáo nghóa của đạo mình”. Sư lại bảo: “Đông Lỗ thùy đạo, Tây Vức kiến tánh đều chẳng gì bằng trước ở gốc sâu dày. Nên chúng ta tuy lìa cha mẹ mà dưỡng sanh tống tử, nhất định đều theo sự sâu dày!” Sư cùng với huynh đệ rất là bạn thân. Năm Quý Hợi (1 4 4 3) nhằm niên hiệu Chánh Thống, đời Minh, Sư thị tịch, tháp thờ được xây dựng ở Long Sơn. 1 2/- Truyện Sa-môn Thích Ứng Năng chùa Thọ Phật ở Hoành Châu thuộc Quảng Tây. Thích Ứng Năng giả lấy họ Dương, kỳ thật là Kiến Văn Quân. Sư là con lớn của Thái tử Ý Văn, là cháu đích tôn của vua Thái Tổ đời Nguyên, được phong là Hoàng Thái Tôn. Húy là Doãn Văn. Lúc mới sinh, đỉnh đầu Sư nghiêng lệch, vua Thái Tổ vỗ vào đầu Sư, bảo: “Đứa bé nửa vầng trăng”. Đến tuổi biết đọc sách, Sư rất thông minh dónh ngộ. Một đêm nọ, Thái tử Ý Văn vào hầu, vua Thái Tổ bảo ngâm vịnh bài thơ “Tân Nguyệt” (vầng trăng mới, Thái tử Ý Văn ngâm rằng: “Nghiêm Lăng ngày trước mất móc câu, Ai người dời để án mây đầu, Tuy rằng chưa được Đoàn viên tướng, Ấy cũng sáng suốt trong chín châu”. Còn Sư ngâm rằng: “Ai đem móng tay ngọc, Móc vết sẹo giữa trời Bóng rơi trong sông bể Văn Long chẳng dám nuốt!” Vua Thái Tổ nghe xong, tỏ ý chẳng vui, bởi những từ “Chưa được đoàn viên”, bóng rơi, sông bể, đều chẳng phải điềm tốt lành. Niên hiệu Hồng Vũ thứ ba mươi mốt (1 3 9 9) vua Thái Tổ già yếu, bèn trao cho Sư một cái tráp nhỏ, khóa lại rất kín, và căn dặn đến lúc nào rất bức ngặt mới mở ra. Ngày mười sáu tháng năm năm (1 3 9 9), Sư lên ngôi (tức là vua Tuệ Đế) chỉ mới hai mươi ba tuổi. Năm sau (1) đổi niên hiệu là Kiến Văn, mời Phương Lão Nhụ làm Hàn Lâm thị giảng, trực Văn Uyên Các hằng ngày giảng Chu Quan Lễ, sửa đổi các chế định cũ của vua Thái Tổ. Từ đó, các vương tôn phần nhiều chẳng vâng phục, mới quanh co thêm ân lễ. Thị Độc Thái Thường Khanh Hoàng tử Trừng, Binh bộ thượng thư Tề Thái Nghị tước quyền của các vương tôn. Người chủ mưu là do Tiên Yên. Bảo Thị lang Trương Bính Đô chỉ huy Sử Tạ Quý giám sát mọi động tónh, bèn áp bức Tiên Yên khởi dậy, hỏi vận Sư. Ở phía Nam, đánh giết Hoàng Tề. Ngày mười ba tháng sáu năm Kiến Văn thứ đến (1 4 0 3), phá cửa Kim Xuyên, nhà vua phóng lửa đốt cung điện. Lúc đó mở tráp mà ngày trước vua Thái Tổ để lại ra xem, Sư thấy được Độ Diệp Dương Ứng Năng, Thế Dao, áo ca-sa, y phục của người xuất gia. Sư bèn cạo tóc, lánh theo đường sông ra ngoài, vân du khắp nơi. Từ sông Tương, Hồ Nam đi vào đất Thục, lại từ Vân Nam trở lại đất Mân, vào cửa Nam chùa Thọ Phật ở Hoành Châu thuộc Quảng Tây. Sư trú tại đó mười lăm năm, thường ngày lên tòa giảng pháp, người nghe quy tụ rất đông, dần dần trở thành một pháp tịch lớn. Mọi người đều chẳng biết Sư là bậc Đế vương. Sư lại đến Nam Kinh, trú tại chùa Nhất Tiên, chư tăng nhóm họp, Sư bèn tùy duyên khai thị, cả chúng thảy đều vui mừng. Lâu sau, Sư đến Châu Tư Ân, đang đứng ở giữa đường, gặp Quan Tri Châu ra, những kẻ theo hầu quở trách. Sư bèn nói: “Ta chính thực là Hoàng đế Kiến Văn, Từ Tónh Điền ( Vân Nam) trải qua đất Mân rồi mới đến. Ngày nay đã già yếu, muốn đưa hài cốt trở về quê cũ nơi chốn đô thành”. Quan Tuần án Ngự sử tấu trình ở triều đình ban tặng hiệu Sư là “Lão Phật”. Và ban lệnh các trạm đón rước Sư về kinh đô, và tặng bài thơ rằng: “Đó đây lưu lạc bốn mươi năm Ngày về bất chợt bạc trăng đầu Trời đất có hận nhà đâu nhỉ Sông Hán vô tình nước tự trôi Trong cung trường lạc bóng mây ám Giữa điện chiếu dương tiếng mưa sầu Phố mới liễu mềm luôn xanh biếc Già quê nuốt tiếng khóc chưa thôi!” Đến lúc về tới kinh đô, triều đình chưa xét biết được là thật hư, mới bảo Quan Thái giám Ngô Lượng từng trải qua thời gian hầu cận nấu ăn nên xét xem. Sư vừa thấy Ngô Lượng, liền gọi rằng: “Ông chẳng phải là Ngô Lượng ư?” Ngô Lượng đáp: “Không phải”. Sư bảo: “Ngày trước ta ở trong cung, từng quăng bỏ lát thịt dưới đất, ngươi phủ phục mà liếm ăn, làm sao ta quên được”. Ngô Lượng cúi đầu rất run sợ. Thế rồi thỉnh Sư vào nhà phía Tây nội cung mà cúng dường. Cuối cùng, Sư thị tịch trong cung. Liên quan thử bàn: Kiến Văn Quân là người thứ hai tiếp nối ngôi vua, đáng cùng các thần hiền hết lòng giữ gìn, thạnh pháp của vua Thái Tổ mà phụ giúp còn chưa kịp, thì Văn Hoàng đế cũng an phận ở phiên để. Sao có mưu tính bày nạn binh lính phá cửa Kim Xuyên ư? Đó là bởi vì một lúc lầm dùng bọn Phương Hoàng, giảng Chu Quan, thực hiện chính sách tỉnh điền, sửa đổi định chế cũ, dùng uy quyền ép bức thân vương. Văn Hoàng đâu thể ngồi nhìn Đại Bảo đổ nát bởi tay mặt mũi tủn mủn, khoanh tay đợi trói buộc ư? Đến nay đã cách mấy trăm năm, sự lớn mạnh của nước nhà, sự bình trị trong thiên hạ thật là nhờ một dòng họ tónh lặng. Việc Kiến Văn trùm núi nhóm tập lời sâu sắc, đó đã mắc nạn, không có lý xuất gia, đã xuất gia thì không có sự trở về kinh đô. Cho nên Độ Diệp Dương Ứng Năng là giả mạo. Nay, căn cứ vào các thuyết của “Quốc Triều Điển Cố”, “Hoàng Minh Thông Tải”, “Hiến Chương Lục”, “Từ Ân Chí” v.v… mà ghi chép, hẳn ở tăng truyện là không thể thiếu sót, nên các bậc quân tử rõ. 1 3/- Truyện Sa-môn Thích Viên Cảnh trụ chùa Thạch Thất ở Thấp Châu. Thích Viên Cảnh là người ở Lâm Huyện thuộc Phầân Châu. Sớm được xuất gia, đặt tâm nơi các trường giảng của Tông Hiền Thủ, ngộ được mật chỉ của các kinh. Sư thường đến chùa Thạch Thất ở núi Diệu Lâu thuộc Thấp Châu ở phủ Bình Dương, tùy duyên nói pháp cho chúng nghe. Một hôm, Sư đến sườn núi nơi một lò gốm ở Bắc Môn, lấy đấy làm am như cái khám rồi lẳng lặng ở trong đó. Bỗng nhiên Sư gọi đệ tử bảo rằng: “Ta sắp quy tịch!” Cả chúng hỏi Sư lúc nào. Sư bảo: “Hôm sau”. Đến sáng hôm sau, Sư dậy tắm gội thay ba pháp y, đốt hương ngồi kiết già, nói kệ mà thị tịch. 1 4/- Truyện Sa-môn Thích Tổ Trú ở Hoa Sơn thuộc Tô Châu. Thích Tổ Trú tự là Huyễn Y, hiệu là Lộc Đình, họ Dương, người ở xứ Đơn Đồ. Mẹ của Sư họ Chu, mộng thấy vị Phạm Tăng đến nhà, tỉnh giấc liền sanh ra Sư. Thuở thiếu thời, Sư thường trầm mặc, chẳng tham luyến duyên đời, ưa thích làm việc Phật. Năm lên mười ba tuổi, Sư được cha mẹ đưa đến núi Long Bàng nương tựa Hoà-thượng Triệu Dương, thọ học các bộ kinh lớn như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. Năm mười bảy tuổi, Sư xuống tóc. Năm mười chín tuổi đăng đàn thọ giới cụ túc. Sư thông hiểu đại nghóa các bộ kinh, tự bảo rằng: “Nhận biết được chỗ nương tựa chẳng liên quan đến mé Chân”, Sư bèn tìm đến Thiếu thất, nương tựa Hòa-thượng Đại Chương năm năm. Lại đến Phục Ngưu nương tựa ngài Cao An mười hai mùa hạ. Mọi sở đắc trước sau của Sư đều do hai vị này ấn chứng. Kế đến, Sư xuống dưới thành đô tham yết hai Pháp sư Tùng và Tú thấu triệt được yếu chỉ Tông Thanh Lương. Hoài An Hồ Cấp Sự thỉnh Sư đến trụ núi Bát Trì, làm Đại Tạng Kinh, và thiết lập Đàn Thủy Lục, hội thí Vô Già. Sư đến Nam Kinh tham phỏng Pháp sư Vô Cực và ở Đệ Nhị Tòa. Khi tiếng kiền-chùy vừa dứt Sư vào chúng lao tác. Xong việc, Sư sang chùa Vạn Thọ ở Kinh Khẩu, giảng Hoa Nghiêm Đại Sao, đến phẩm Nhập Pháp Giới, tự nhiên mặt đất rung chuyển, trời mưa rải cam lồ hoa báu. Bấy giơ,ø Pháp sư Vô Cực dẫn đồ chúng cùng đến đó. Hai Thiền sư Diệu Phong và Thừa Ấn cũng ngồi dưới tòa. Từ đó, tiếng tăm đạo hạnh của Sư lan tỏa khắp các tòng lâm. Trí Sư tôn sùng kính lễ như Thường Bất Khinh, Sư đề dẫn xướng dụ, hết lòng chẳng tỏ vẻ mỏi mệt. Những nơi Sư đến đều biến thành bảo phường. Lúc Sư diễn giảng bốn mươi tám đại nguyện, có một người lạ trên đầu đội mũ trắng, trên mũ có con rắn, bốn chân đến nghe pháp, mọi người lấy làm lạ hỏi. Người ấy đáp: “Tôi là Pháp Quan mà là Cảnh Quán”. Bỗng nhiên biến mất. Đến năm Giáp Thân (1 5 8 4) nhằm niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, Sư Chấn tích đến dừng nghỉ ở dưới ngọn núi Liên Hoa thuộc Tô Châu. Sư dựng lập tịnh xá và ở đó. Đến tháng chín năm Đinh hợi (1 5 8 7), bỗng nhiên Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, nói với tăng chúng rằng: “Ngày hai hai, nếu không có sự việc ly tán, thì sẽ lại mở mang giáo nghóa Hoa Nghiêm, chỉ bởi Lão Tăng chẳng thể chạy theo nhân tình”. Đến sáng sớm ngày đó, Sư dậy tắm gội, ngồi kiết già, nói kệ rằng: “Hư không chẳng mặt mắt Vô vị gượng an bài Câu nói không câu nói Chốn chốn là Như Lai”. Ngài lại bảo: “Năm nay sáu sáu tuổi (6 6) Chẳng biết làm việc chi Ôi! Mọi người nhìn xem Thấy đó dứt hơi rồi Phật tổ đã đến rồi. Dùng chẳng thể hết được”. Nói xong, Sư thị tịch, có mùi hương thơm lạ một thời gian chẳng tan. Lưu giữ toàn nhục thân của Sư ba ngày để cúng dường chiêm ngưỡng mà nhan sắc vẫn y nhiên như lúc sống. Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt di cốt, xây tháp thờ ở phía Nam đỉnh núi Liên Hoa. Sư thọ sáu sáu tuổi, năm tư hạ lạp. Vương Thế Trinh soạn khắc bài bia minh. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG THỜI NHÀ MINH (QUYỂN 3 HẾT)  TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH <卷>QUYỂN 4 CHƯƠNG II: GIẢI NGHÓA TRONG PHẦN 3 CỦA CHƯƠNG II (chánh truyện có bốn vị, phụ có sáu vị). 1/. Truyện Sa-môn Thích Minh Long trụ Am Tú Phong ở Dương Sơn thuộc Bắc Trực. Thích Minh Long, họ Diêu, người ở xứ Tú Thiên thuộc Hoài Nam, húy là Đông Dương. Sư thường giúp đỡ các học trò ở trường ấp, Sư sống thường thích tu, đam mê nội điển. Năm hai mươi tuổi, Sư chẳng kể gia nhân sản nghiệp, thanh thản cùng các bậc thiện tri thức vân du. Khoảng đầu niên hiệu Long Khánh (1 5 6 7) đời Minh, Sư lặng lẽ đạm bạc làm người cư só, đi đến phương Bắc tìm các chùa lớn cảnh đẹp, thăm viếng các bậc kỳ đức cao tăng. Sư ngụ tại Thang uyển trong ba năm, lên Ngân Sơn tìm đến chùa Pháp Hoa, nương tựa Hòa-thượng Đại Quang, xin xuất gia thọ giới cụ túc. Rồi Sư tìm đến am Tú Phong ở Dương Sơn, danh đức Sư một lan tỏa, Sư thuần dùng một áo nạp, chẳng áo lót chẳng cánh tay, chẳng giày. Ở Gia lăng, các hàng trung lưu quý nhân có nhiều thí chủ Sư chẳng đoái hoài, Sư an định nhóm chúng bảy mươi hai vị, lập kỳ hạn ngàn ngày, đích thân Sư nói pháp cho nghe, mở rộng tông chỉ của Tam giáo. Bấy giờ, Hưu Ninh Uông, Tư Mã Đạo vâng chiếu hành biên, Tư Mã Đạo đến Gia Lăng, hẹn cùng Đốc phủ chùa Pháp Hoa, nghe Sư là bậc Cao Đức nên tìm đến, bỗng có vị Sa-di đi ngược chiều, thấy Sư mở bày áo nạp, chẳng hề che đùi vế, rất lạnh rét nà chẳng bị xâm hại. Hưu Ninh Uông cùng Đốc phủ lãnh chiếu kính lễ Sư. Dẫn vào trong động, ngồi trên thạch vàng, cùng nói chuyện. Sư lược nêu ý nghóa của Tổ sư Đạt-ma từ Tây Trúc đến Trung Hoa. Đốc phủ tỏ vẻ sợ hãi tin phục. Hưu Ninh Uông hỏi Sư: “Sau khi mãn ngàn ngày có thể làm thường trú chăng?” Ngài đáp: “không thường, không trú”. Sáng hôm sau, Sư từ tạ trở về. Trước nửa tháng đến ngày lập xuân,ở Dương Sơn, phát ra ánh sáng năm mầu. Lại trước bảy ngày đến đêm trừ tịch (đêm 3 0) Sư nhóm chúng, bảo rằng: “Ngày đầu năm mới, tôi sẽ đi. Các ngươi, những người biết chữ thì dùng tai nghe kinh, người không biết chữ thì dùng tâm niệm Phật, chuyên việc thiền định trí tuệ, chuyên tâm cứu giúp mọi vật. Đó tức là tâm Phật, cẩn thận chớ mong cầu gì khác. Các ông phải tự cố gắng!” Đã nửa đêm trừ tịch, Sư bảo đệ tử ra xem sao giữa trời và hỏi: “Đã nửa đêm chưa?” Đệ tử đáp: “Đã nửa đêm. Sư bảo: “Chưa phải, đến giữa trưa ta mới đi”. Sáng mồng một tết, tại Dương Sơn lại phát ra ánh sáng năm mầu như xoay về. Đến giữa trưa, Sư từ biệt đại chúng, an nhiên ngồi thẳng thị tịch. Qua bảy ngày, cử hành lễ trà, lại phát ra ánh sáng như xoay về, đại chúng cùng các hàng trung lưu, quý nhân nhìn thấy ánh sáng, đổi hướng về Sư, la liệt bái lạy, xưng hô: “Phật! Phật! Nguyện đem ánh sáng này soi chiếu khắp thiên hạ”. Thế rồi, xá-lợi xếp đặt tự nhiên, Đốc phủ xây tháp để an trí, Hưu Ninh Uông soạn bài minh. Lúc đó là tháng giêng niên hiệu Vạn Lịch thứ nhất (1 5 7 3). 2/.Truyện Sa-môn Thích Chân Tiết chùa Thê Hà, Ứng Thiên. Thích Chân Tiết, hiệu là Tố Am, Sư người xứ Tương Dương. Thuở thiếu thời, Sư là học trò trong Quận, bỗng nhiên gốc lành từ trước bên trong nảy nở, liền từ biệt cha mẹ, tìm đến đảnh lễ Hòa-thượng Minh Hưu xin xuất gia. Thế rồi, Sư vân du đến phương Bắc tìm đến Kinh đô, tham vấn khắp các trường giảng rồi nương ở dưới pháp tòa của Pháp sư Tú, Sư thọ hưởng pháp hỷ, thành đạt sâu sắc ấn pháp của Tông Hiền Thủ. Sở học của Sư dồi dào cả nội lẫn ngoại điển. Chư Tăng các nơi thường suy tôn Sư là bậc long tượng. Trải qua thời gian lâu, Sư mang tích trượng trở về phương Nam. Đến Kim Lăng, Sư ra làm tự chủ chùa Thêâ Hà ở Nhiếp Sơn. Tăng chúng hơn ba trăm vị, Sư giảng dạy đủ cả năm thừa. Sư ngồi tòa sư tử gióng trống pháp lớn hơn ba mươi năm. Đàn việt có thừa, nâng đất làm lò. Bấy giơ,ø Ân Tông Bá có tôn tượng Đại só Lang Da, Ngũ Đài Lục Công cũng đúc tượng vàng, thảy đều đem đến dâng cúng Sư. La Tham tri thự gọi là: “Viên thông tinh xá”. Cú Điển Lý Thạch Lộc học só nguyện kết bạn phương ngoài. Sư mở mang đại pháp chẳng kỳ hạn thời gian. Sư từng giảng Kinh Pháp Hoa, đến Phẩm Tháp Phật Đa Bảo, bỗng nhiên giữa hư không hiện lên tháp báu, dần đến trước tòa, mỗi đặc điểm đều như trong kinh nói. Bốn chúng kiền thành chiêm ngưỡng, tỏ vẻ sợ sệt, ít thấy. Trung Sứ Trương Mưu vâng lệnh của Từ Thánh Hoàng Thái hậu đến, cùng thấy được điềm lành thánh thiện. Bèn mang một bộ y Tăng- già-lê dệt bằng sợi vàng, và tuyên đọc chiếu chỉ của Từ Thánh Hoàng Thái hậu ban tặng Sư. Sau đó xây dựng giảng đường ở phía Tây chùa, Xây dựng một ngôi tháp để làm chứng tích thần hóa. Các vị Hưu Ninh Uông và Tư Mã Đạo ghi lại việc ấy. 3/.Truyện Sa-môn Thích Minh Đắc trụ chùa Đông Thiền,ở Gia Hưng. Thích Minh Đắc, hiệu là Nguyệt Đình, vì Sư nối pháp Thiền Sư Vạn Tùng Lâm, nên còn có hiệu là Thiên Tùng. Sư họ Chu, người ở xứ Ô Trình, thuộc Hồ Châu. Sư vừa mới chào đời đã biểu hiện sự dónh ngộ cao vời khác với người thường. Đến tuổi búi tóc, Sư theo cha đến Đạo tràng Tây Tư. Sư bèn chỉ lên vách tường chỗ họa đắp tôn tượng A-la hán, mà hỏi cha rằng: “Đó là tăng hay tục?” cha Sư đáp: “Đó là tăng”. Ngài bùi ngùi bảo: “Con nguyện được làm như thế!” Từ đó, Sư ra sức xin xuất gia, nhưng cha mẹ Sư không chấp thuận. Năm muời ba tuổi, Sư đến am Song Lâm Khánh Thiện trong quận, theo Sa-môn Chân Tường, học tập giáo điển Du-già, được bốn năm, thì xuất gia. Nghe có vịêc hướng thượng, bèn trước đến tham yết ngài Bách Xuyên Hải Công, nhưng không khế hội. Nhân đó, Sư chỉ mang y đơn, giày gai, vân du khắp các tòng lâm pháp tịch, lăn lội cầu thỉnh, trải qua đủ thứ gian truân khổ cực. Sư tự nghó rằng: “Chính mình thiếu duyên với Bát-nhã!” Bèn nghó muốn đến chùa Thiên Trúc, khẩn thiết ai cầu Đại só Quán Thế Âm, mong được gặp Minh sư. Giữa đường đi đến chùa Thiên Trúc, sư nghe Hòa-thượng Vạn Tùng nói pháp, nên trước vào lễ bái tham yết. Hòa-thượng Vạn Tùng hỏi: “Đại đức từ đâu đến, muốn cầu việc gì?” Sư đáp: “Muốn khấu bái lễ thỉnh Phổ Môn, cầu được gặp Lương Đạo!” Hòa-thượng Vạn Tùng dựng đứng một ngón tay, bảo: “Vậy, ngươi hãy đi lễ cầu đại só, xong rồi trở lại gặp ta”. Sư ứa nước mắt mà lại đi lễ báo, ai cầu quyết định sanh tử việc lớn, Hòa-thượng Vạn Tùng bảo: “Ông muốn thoát sanh tử, phải biết sanh tử không dính mắc mới được”. Sư nghe mà chẳng hiểu gì cả, bèn nương thọ giới cụ túc. Từ đó, sớm tối tham cầu khấn bái, lâu ngày nhưng không chỗ vào, bất đắc dó Hòa-thượng Vạn Tùng bèn trao cho Đại chỉ Kinh Lăng-nghiêm, Sư bắt đầu khổ tâm nghiên cứu, đến chỗ thanh tịnh Bổn nhiên vì sao bỗng sanh ra núi sông đất đai”. Sư hốt nhiên như mây tan giữa trời, trăng soi đầm lạnh. Bèn làm kệ trình rằng: “Trong kinh Lăng-Nghiêm vốn vô kinh Thấy mặt cần gì hỏi họ tên Tháng sáu trời nóng nóng tợ lửa Tháng chạp rét lạnh lạnh như băng”. Hòa-thượng Vạn Tùng gật đầu phó chúc rằng: “Ông đã tỏ ngộ được giáo thừa. Ngày sau, tại các trường giảng ở Giang Nam không ai hơn ông, việc hướng thượng nhờ đó mà rõ được”. Hòa-thượng Vạn Tùng trú ở Kinh Sơn, Sư vì chúng vác gạo hái củi, chẳng sợ khổ nhọc. Tình cờ đến Lâm Lộc, bỗng gặp con hổ ngồi giữa đường, Sư giơ cao tích trượng mà đi tới, con hổ liền chạy tránh. Sư từng xem Tảo Bá Hợp Chủ, đến phẩm Thập Địa, nửa đêm ẩn ghế mà ngồi, mộng thấy đến thế giới Đâu-La-miên, lên tòa mở rộng ý chỉ sâu xa của chỉ Kinh Hoa Nghiêm. Đến lúc kết tòa, mới nói kệ rằng: “Từ xưa đến vốn không, Ngày nay đâu hề có Trên đầu mảy lông hiện Hư không cười hé môi Ôi! Chao ôi!” Rồi xuống tòa. Đến lúc thức giấc Sư bạch với Hòa-thượng Vạn Tùng, Hòa-thượng bảo: “Đó là năng lực thánh thầm che chở, chẳng phải chỉ đạo ta sắp hưng hành mà cả một Tông Thanh lương cũng phấn phát lớn lao”. Tự nhiên, Hòa-thượng Vạn Tùng thị tịch, Sư treo khóa giữ tháp ba năm. Nghe sự hưng thịnh của pháp tịch Pháp Sư Phật Tuệ Kỳ Viên, Sư bèn tìm đến. Ngài Kỳ Viên thầm biết mà mến trọng. Nhưng, đệ tử của Ngài là Sa Truyền rất tự phụ, chẳng ghi tên Sư, Sư bèn vác gậy đến chùa Bảo Tiên, chùa Bảo Tiên và chùa Phật Tuệ chỉ cách nhau mấy thước, nên sáng sớm thì trì bát, trưa thì nghe giảng, tối thì cùng đồng tham, độ hơn mười người phô bày nghóa thú. Từ đó, chúng mỗi ngày dần đông, mà gạo cơm chẳng đủ. Sư thầm cầu khấn với thần Già-lam rằng: “Nếu tôi có duyên với Thánh Giáo thì thần không tiếc lận ủng hộ”. Qua thời gian, có người ngoại đạo từ Vân Nam đến cúng trăm thạch gạo. Do vậy sự lớn mạnh của chùa Báo Tiên vượt quá chùa Phật Tuệ, Sư mở pháp đường, Ngài Kỳ Viên bảo vị tăng thị giả phẩy y mà bái tạ trở về, biện hương làm niêm xuất Vạn Tùng. Thế rồi một mình Sư trở lại Kinh Sơn. Tại đỉnh Lăng Tiêu, vì nghi ngại chưa phá, nên lại gắng sưc tham cứu ba năm. Một đêm, mới đầu hôm, Sư ngồi kiết già, bỗng nhiên tâm cảnh thầm hiểu, gút mắc tan biến, Ngài hớn hở nói kệ rằng: “Ngàn năm trúc biếc, vạn niên tùng Cành cành lá lá ấy Tổ Phong Núi mây cao vót nơi ẩn dấu Vô ngôn tỏ rạng thảy đều đồng”. Sư đến đảnh lễ tháp thờ ngài Vạn Tùng nói: “Thầy khéo chẳng lừa dối con”. Từ đó, đạo hạnh tiếng tăm Sư càng vang xa. Các hàng học giả nhóm họp đông đúc, bốn phương giao hảo tán thưởng suốt năm không ngày nào thiếu sót. Sư khai đường ở Linh Ẩn, môn đình tráng nghiêm không dựa nương, các vị Tăng Triệt, Không Thiên chỉ ghé mặt trông nhìn chẳng dám đến gần. Cuối cùng đem việc bất trắc mà vu cáo Sư, chưa trọn một ngày mà sự việc sáng tỏ, kẻ vu cáo lẫn trốn, đồng bọn còn lại bị đánh chết khoảng hai mươi người. Sư vân du tới phương Nam, đến Xích Thành. Các hàng ngoại đạo quy tụ, được Sư giáo hóa đông không xiết kể. Sự hoàn bị giáo thừa ở Đài Quận thật là bắt đầu từ Sư. Sư mở rộng Huyền Đàm ở am Đại Trung. Ba ngày sau am bị tai hoạn, riêng trượng thất của Sư vẫn y nguyên không hại gì. Lúc Sư giảng kinh Viên Giác Sớ Sao tại chùa Pháp Hải, tự nhiên từ đất mọc lên hoa sen trắng, cỏ chi mầu tía mọc bên cạnh. Cư só Ngũ Đài nhân đó viết biển hiệu ở giảng đường là “Dõũng Liên”. Lúc Sư ở tại chùa Đông Thiền, ban đêm mộng thấy Bố-tát Văn- thù-sư-lợi cưỡi sư tử đi ra, bèn để sư tử lại, nương hư không mà đi. Sư tử bỗng nhiên hóa thành đồng tử, Sư cố hỏi rằng: “Ngươi mới là sư tử giờ lại là Đồng tử ư? Thử mở miệng nói xem?” Đồng tử há miệng, miệng như son đỏ. Sư vỗ vào lưng đồng tử bảo: “Ngươi còn là sư tử!” Đồng tử hỏi: “Vậy miệng Sư thế nào?” Sư liền há miệng cho xem, bỗng nhiên Đồng tử nhảy lọt vào trong cổ họng Sư , Sư kinh hãi tỉnh giấc mà đổ mồ hôi, rồi vui mừng bảo rằng: “Đại Trí Văn-thù ở trong bụng ta!” Sau đó chưa đầy vài tháng, Ngũ Đài Lăng Công dẫn chúng đến d9 Sư Ngài giảng kinh “Hoa Nghiêm Đại Sao”. Chúng thường đông đến ngàn người, chỉ Pháp Sư Diệu Phong Giác là đệ tử thập thất. Diêu Tông Tứ Minh mở rộng đạo lý giáo quán Thiên Thai. Vì Sư mở rộng giáo nghóa Tông Hiền Thủ, chưa am tường hành tung của Thiên Thai, nên mới vặn hỏi Sư về nghóa của Lục tức Bọ hung. Ngài bảo: “Lụùc tức của Tông Thiên Thai là đối với sự mê ngộ của hành nhân mà giả phân lập, như ta đây đối với danh tự thì mười giới đều là danh tự. Ta chứng cứu cánh thì mười giới đều cứu cánh. Nếu ta là bọ hung thì mười đều là bọ hung. Chẳng phải bọ hung trên, mà có Lục tức riêng”. Pháp Sư Phong Giác bảo: “không phải như vậy. Lục tức của Tông Thiên thai tức là bất luận thế gian hay xuất thế gian, hữu tình hay vô tình, mỗi vật đều có đủ, tùy nêu một pháp thì Lục tức đã đủ trong đó. Đâu cần phải đem sự mê ngộ của ta mà quán xét sự hơn kém kia ư?” Sư bảo: “Các Bậc Thánh lập giáo thật để dắt dẫn đường mê. Nếu bảo hễ nêu một pháp thì Lục Tức có đủ trong đó, vậy thì chỉ đàm luận về thế tục đế thành ra hý luận. Người học biết làm sao vậy ư? Năm tức trước đặt chỗ chẳng bàn, như nói cứu cánh; một cứu cánh thì tất cả đều cứu cánh. Như vàng ra khỏi quặng, ngọc bích ra khỏi đá. Cho nên Đức Như Lai lúc mới thành Chánh Giác, quán sát khắp chín cõi, tất cả chúng sanh đồng thời thành Phật. Chẳng phải chỉ có chín cõi là chánh báo, toàn thể Lô-Xa- Na thì chín cõi y báo không gì chẳng là Tịch Quang. Do đó, Ngài khen rằng: “Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ như Như Lai, chỉ vì vọng tưởng nên chẳng tự chứng đắc”. Chẳng phải vì ta thành Phật mà xem kìa đều thành Phật. Quả thật đúng như lời ông nói thì kia cứu cánh rốt ráo đã là bọ hung thì vónh viễn không có ngày thành Phật vậy. Tất cả chúng sanh không một người phát tâm Bồ-đề. Cái gọi là muời pháp giới đều là một đội không dùi sắt lỗ thủng. Nếu nói cứu cánh bọ hung dung thông có thành Phật. thì Đức Như Lai chừng nào trở lại mê mờ mà làm chúng sanh? Vàng trở lại thành quặng, sự mất mát ấy cái nào lớn?” Pháp Sư Phong Giác bảo: “Cứu cánh bọ hung chẳng phải thuyết ấy, bởi ngay nơi tâm thể nó vốn sẵn có nên gọi là Lý Cụ. Khi sắc tướng đã thành mới gọi là cứu cánh. Một giới (cõi) đã vậy thì các giới kia đều như vậy. Ngay nơi cõi này mà luận thì lục tức đã tự hoàn bị, đâu cần lấy sự đã thành Phật hay chưa thành Phật mà vặn hỏi “.Sư cười bảo: “Ông bỏ làm một cái cứu cánh bọ hung” Ngưỡi nghe không ai chẳng quý kính sự biện luận của Sư. Thông tục ở xứ Ngô kính chuộng Huyền Vũ. Tỳ-kheo cũng có vị đắp y Tăng-già-lê mà lễ bái . Sư thấy vậy nên hỏi ngược lại vị ấy rằng: “Ông làm gì mà đến đó?” Vị ấy đáp: “Đến lễ bái Tổ Sư”. Sư quát mắng rằng: “Ông hình tướng là vị Tỳ-kheo mà tâm thật là ngoại đạo, Huyền Vũ là một vị thần ở sông phương Bắc. Trong kinh giáo gọi đó là Thiên Vương Tỳ-Sa-môn. Vị ấy dùng thần lực mà ngoại hộ Phật pháp, Ông tôn xưng vị ấy là Tổ Sư mới đắp mặc y áo của các Đức Phật bảy đời mà lễ bái đó. Chẳng chỉ sai lầm mà còn trái ngược”. Bèn hủy dẹp tượng đó mà đổi thờ tượng Tổ sư Đạt-ma, Sư nói với vị tăng ấy rằng: “Đây mới thật là Tổ sư của ông”. Phàm, Sư đi qua các danh lam tinh xá, nơi nào có thờ Huyễn Vũ Tam Quan, Sư đều hủy bỏ hết, khiến hàng học giả chuyên tâm về Chánh Đạo, Ngài hộ trì chánh giáo, đại khái như thế. Sư là người tu hành cao vời, tánh độ cương nghị. Lấy sự truyền pháp làm việc chính của mình. Nên họa hoạn, Sư chẳng lánh thân, và mừng lo cũøng chẳng hiện rõ nơi sắc mặt. Đến lúc Sư lên tòa nói pháp thì mây lành cuồn cuộn, bảy chúng không ai chẳng đượm nhuận ân trạch. Bạch chùy có đến ba ngàn, sáng rỡ hiển rõ tám vạn sâm nghiêm. Trong thất tuy chẳng thực hành đánh hét, nhưng người nghe tiếng trống độc mà tử tâm thì đông nhiều. Mùa thu năm Đinh Hợi (1 5 8 7) nhằm niên hiệu Vạn Lịch, Sư bảo đại chúng rằng: “Nay ta vì các ông mà giảng Đại Pháp Thủ-lăng-Ng- hiêm để về sau này chỉ bày, ta không còn vì các ông mà giảng lại nữa!” Mùa đông năm đó, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, luôn dặn dò việc giáo thừa. Đến ngày mười bảy tháng giêng năm sau (1 5 8 8), Sư nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch, thọ năm tám tuổi, bốn sáu hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, xây lập tháp thờ tại Kính Sơn. Thai. 4/. Truyện Sa-môn Thích Chân Thanh trụ chùa Từ Vân ở Thiên Thích Chân Thanh, hiệu là Tượng Tiên, họ La, người ở xứ Tương Đầm thuộc Trường Sa. Sư vừa mới chào đời mà dónh ngộ khác thường, cao ráo như ngọc lập, oai nghi nghiêm túc, chẳng nói cười bậy bạ. Thường ngày, Sư đọc kinh sử đến mấy ngàn lời mà trọn đời chẳng quên một chữ. Cha của Sư làm Quan huyện Hà Nam, thường dùng đại khí tiếp đãi người khách đó. Năm mười lăm tuổi, Sư được bổ sung vào các đệ tử trong ấp, tình cờ thấy vị tăng lạ đi ngang qua, Sư đưa mắt chăm nhìn, tự bảo rằng: “pháp môn này là rất tốt”. Năm mười chín tuổi, vì gia đình gặp phải hoạn nạn, Sư bèn tìm đến đỉnh núi Phục Hổ ở Nam Nhạc, nương tựa Hòa-thượng Bảo Châu, xin xuất gia thọ giới cụ túc. Hòa-thượng bảo Sư khán câu thoại đầu“vô tự”. Từ đó, Sư nhất tâm tham cứu, chẳng màng nắng mưa. Đến năm hai lăm tuổi, Sư theo Hòa-thượng Bảo Châu đi đến Kim Lăng thăm dò Võ Huyệt. Nhân thuyền va chạm vào bờ có tiếng phát ra mà Sư tỉnh ngộ. Hòa-thượng Bảo Châu rất vui mừng, bảo: “May cho ông việc lớn đã rõ, hãy khéo giữ gìn”. Hòa-thượng vì tuổi cao nên từ chùa Phổ Đà bèn đến ẩn dấu nơi chùa Thiên Trúc hạ. Bấy giơ,ø nội thần Trương Công Vónh rất kính mến đạo hạnh của Hòa-thượng Bảo Châu, nên thầm tấu với Trương Thái Hậu, ban tặng y Tăng-già-lê sắc tía để tán thưởng đức hạnh của Hòa-thượng. Một hôm, Hòa-thượng bảo Sư rằng: “Ta muốn quán xét việc thệ hóa (-viên tịch), không cho người vào, khi nào nghe ta đánh tiếng khánh thì hãy mở cửa”. Trải qua mấy ngày, mà chẳng nghe động tịnh gì, Sư lén nhìn qua lỗ hổng ở ngạch cửa, thấy Hòa-thượng Bảo Châu mũi rũ xuống đất. Lại trải qua một ngày nữa, bỗng nghe tiếng khánh, Sư bèn mở cửa hông bước vào, thì Hòa-thượng Bảo Châu đã an nhiên thị tịch. Hòa thượng Bảo Châu thị tịch rồi, Sư bèn phỏng hỏi Vết Xưa Diệm Quan, Giác Hoàng trụ tích, bỗng nhiên, sau lưng phát sanh bệnh tật, Sư chiêu cảm Vân Trường vào mộng trao thuốc cho mà lành bệnh. Bấy giờ, Pháp sư Nguyệt Khê ở chùa Phật Tuệ giảng Luận khởi Tín ở Cát tường. Do kính mến Sư, bèn dẫn chúng đến mời Sư giảng nói yếu chỉ Tông Lâm Tế. Chúng gõ cửa thất Sư . Sư ung dung bảo rằng: “viên Tông không hình tượng, mãn giáo khó nghó bàn. Nếu ta có yếu chỉ để giảng thì không chỉ cỏ ở trước pháp đường mọc vào sâu hơn cả trượng, mà ngay cả chân không cũng là trường duyên lự. Ông mà có pháp để nghe, thì há là trên đầu đặt thêm đầu? Thật tế bỏ đi cái cảnh của thanh danh. Các Đức Phật trong ba đời, nhiều thế hệ Tổ sư chẳng qua lấy nêm ra nêm, tùy mê mà khiên mê. Cho nên, người hiểu được ý chỉ thì núi non vẫn dễ dời, người trái với tông thú dẫn chỉ sơ sài cũng khó vào. Huống gì yếu chỉ của Luận Khởi Tín thấu suốt tông thừa cần gì phải nhọc phiền gắng gỏi vậy?” Cả chúng đều cúi đầu rút lui. Sư vân du đến phương Nam, tìm tới Thiên Thai, sưu tìm khắp cùng thắng tuyệt, chỉ tiếc không thấy được Cao Phong, bèn diệt cỏ tranh ở trước tháp suốt ba năm. Có Pháp sư Kính Sơn đến xã Thạch Lương, đều cùng Sư đi đến Vónh Khánh ở Tỳ Lăng, hai người chung cùng hỗ trợ tham cứu kinh Lăng-nghiêm. Ngài Kính Sơn than rằng: “Điều tôi giảng kinh chỉ tinh vi như lời Phật, còn nghe chỗ đàm luận của Sư thật vượt ngoài kinh quyển tợ trong bụi trần”. Sư muốn trở lại sơ phục, mà Lễ Bộ Đường Công kinh Xuyên lưu giữ Ngài lại với kỳ trong ngàn ngày. Thế rồi Sư trở về lại Thiên Thai, trụ chùa Bình Điền xưa cổ. Lúc đó, Lâm Hải Vương Tư Khấu Kính vào núi hỏi Đạo, kết bạn phương ngoại với Sư. Thế rồi, Sư lại dời đến ngọn Thiên Tru thuộc núi Hoa Đảnh, tu trì sám pháp đại bổn và tiểu bổn Di-đà, trong suốt sáu năm. Những lúc rảnh rỗi thì giảng nói thập thừa, mở rộng Tam Quán. Nên các hàng học giả ở khắp mọi nơi men vịn cây rêu tìm đến, ngoại hộ dâng cấp thường đầy đủ. Một đêm, Sư mộng thấy lâm cung đẹp rực rỡ, cây báu thấp cao, thấy Di-đà Tam Thánh, Sư bèn lễ bái. Bên cạnh có vị Sa dị trao cho Sư phong thư ghi rằng: “Giới hương huân tu”. Khi tỉnh giấc, Sư biết đó là điềm trung phẩm vãng sanh. Bởi vì hằng ngày Sư thường siêng năng thực hành Ngũ hối, mật trì phẩm Tâm Địa trong kinh Phạm Võng và kinh Thập Lục Quán, làm thường khóa, đó cũng là cảm ứng sự tinh thành. Sư thường chỉ dạy tăng chúng rằng: “Đại thừa có tám muôn, tiểu thừa có ba ngàn, thật là khuôn phép của lục hòa, là thềm thang và thuyền bè vượt ra ba cõi. Hàng cao lưu đời nay xem thường luật nghi, chỉ ỷ vào kiến giải, khiến cho các hàng hậu học chẳng vâng theo lời Phật chế định, thường trái phạm khuôn phép, vốn tự không tội lỗi, lầm tạo tội sâu xa. Những kẻ lắm tài hơn bảy bước, biện luận như thác đỗ nhưng tâm thức chưa khỏi rơi vào thành sắt, chưa thể nào giải thoát. Các ông nên cố gắng”. Tháng tám năm Đinh Hợi (1 5 8 7) nhằm niên hiệu Vạn Lịch, Sư được Từ Thánh Tuyên Văn Minh Túc Hoàng Thái hậu sai sứ ban chiếu chỉ khen ngợi tôn sùng và ban tặng y phục sắc tía dệt bằng sợi vàng để nói lên sự sủng ái. Đến tháng mười, cư só Vương Thái Sơ nhân đang khó khăn bên trong (có lẽ có tang người thân), nên thỉnh Sư đến thiền thất Vónh Minh, mở bày “Diệu Tông Sao”, trong một trăm ngày. Bấy giờ, Đài Quận Vương Lý Hình Mổ đích thân lên Vân kiểu thiết cúng. Qua năm Mậu tý (1 5 8 8) là năm mất mùa đói kém giặc cướp nổi dậy như ong, chúng cùng răn bảo nhau chẳng dám đến thất của Sư. Tuy Lý Ngũ Đài cư só Lục Quang Tổ hư bày chiếu của Phù Dong thỉnh mời nhưng Sư từ chối không đến, bỗng nhiên Sư bảo với Tăng chúng rằng: “Từ Vân ở Đào Nguyên thật là cháu bốn đời của Lại Dung làm khai sơn. Vào niên hiệu Thiên Bảo ( 7 4 2- 756) đời Tiền Đường, vua Huyền Tông ban tặng biển ngạch chùa là “Vân cư” gọi tên núi là “An Quốc”. Trong thời Ngũ Đại, Quốc Sư Đức Thiều trùng hưng thành đạo tràng thứ hai. Đó là nơi Thiền Sư Vónh Minh Diên Thọ xuống tóc xuất gia, nay tảng đá của Ngài Vónh Minh ngồi thiền vẫn hiện còn. Ngài Đức Thiều từng lãnh chúng hơn năm trăm vị nói pháp tại chỗ đó. Ngày xưa, Pháp sư Loa Khê Tịch, cầu thỉnh phục hưng lại Thai Giáo, Đế Quán, cũng gần gũi đảnh lễ dưới chân, đều ở tại chùa ấy. Ngày nay bị các nhà giàu sang quyền quý chiếm đoạt lấy sắp làm nơi chôn vùi hài cốt. Trộm nghó rằng: “Suốt khoảng ngàn mấy trăm năm, triều đình chăm lo hương hỏa, chỉ một ngày biến thành đất chôn kẻ tục tử. Ai người chịu tội ư?” Sư bèn mang khánh, y bát đến để chuộc lại. Đến lúc sắp xây dựng mới lại, thì không bao lâu Vân Gian, Lục Túc Bá Bình Tuyền mời Sư đến nói pháp tại viện Bổn Nhất. Lý Phương Bá Xung Hàm mời giảng ở Đồng Xuyên. Hai nơi xong rồi, Sư lại trở thuyền về Long Uyên ở Gia Hòa. Sư mắc bệnh, bảo với môn nhân đệ tử rằng: “Đêm đến, có vị Thần bảo ta là con của Ngụy Phủ, nhưng sự giàu sang đó chẳng phải là chí nguyện ta muốn!” Ngài bèn giao phó y bát, dặn dò đệ tử về việc hậu sự, đúng như pháp mà trà-tỳ. Phát hết các vật dư, cúng dường chúng tăng ở các nơi như Ngũ Đài, Vân Thê, Tây Hưng v.v… Có người khuyên Sư nên uống dược thạch. Sư cảm tạ bảo: “Việc sanh tử, thuốc đâu chống cự được. Duyên tịnh độ của tôi đã chín muồi, cảnh thánh đã thầm hiện. Đây là cõi đời nhân gian chẳng lâu bền! Ngày mồng bảy tháng giêng năm đó, Sư bỏ ăn, chỉ uống nước đàn hương mà thôi. Sư hẹn đến ngày hai chín sẽ cáo chung, mỗi ngày dù là nước gạo Sư cũng chẳng thấm vào môi. Đối với tăng chúng, Ngài giảng pháp vô sanh, dặn dò nhắc nhở tiến tu, khẩn thiết chẳng mỏi mệt. Đến tối, Sư mới đứng dậy từ biệt tăng chúng, bảo rằng: “Tôi sắp viên tịch, xin chớ đem việc thế tục làm phiền lụy tôi”. Tăng chúng hỏi rằng : “Hòa-thượng vãng sanh Tịnh độ trong chín phẩm sen vàng, ở tại phẩm nào?” Sư đáp: “Trung phẩm trung sanh”. Chúng thưa: “Sao chẳng sanh thượng phẩm ư?” Sư đáp: “Tôi huân tu giới hương, quả vị chỉ ở trung phẩm”. Nói xong, Sư an nhiên thị tịch. Lưu nhục thân Sư lại năm ngày mà sắc mặt vẫn hồng hào tươi nhuận như lúc còn sống, tay chân ấm mềm, thư thái có thể co duỗi được. Những người đến điếu viếng không dám bái cúi. Ngày cử hành lễ trà tỳ, sắc trời tạnh ráo quang đảng không một vết mờ. Đến lúc châm lửa, bỗng nhiên có một vầng mây như chiếc lọng che phủ phía trên, rưới vài giọt mưa nhỏ, khi khói sáng bốc lên thì hương thơm lạ xông khắp cùng, trong từ điện các; tăng phòng, ngoài tới các nẻo đường đi, cả dưới thuyền bè, người nghe nhận biết tùy năng lực khác nhau. Sau khi lửa tắt, thâu lượm xá-lợi có ba màu màu có tiếng boong boong như tiếng đánh chuông, mầøu hồng như đào, mầøu trắng như ngọc, mầøu xanh tươi nhuận tợ lan can, còn mùi thơm sực nức. Sư chào đời ngày hai sáu tháng mười hai năm Đinh dậu (1 3 3 7) nhằm niên hiệu Gia Tónh, thị tịch ngày hai chín tháng giêng năm Quý tî (1 5 9 3) nhằm niên hiệu Vạn Lịch. Đời Minh, thọ năm bảy tuổi, ba tám hạ lạp. Như Tinh giữ di cốt, ban đầu xây tháp thờ ở sườn núi phía nam chùa Từ Vân. Đến năm Nhâm Dần (1 6 0 2), dời lên phía trên khe suối Tú Văn, phía hữu núi Loa Sư, thuộc hướng Tây chùa. Vũ Đường Liễu phàm cư só Viên Hoàng soạn bài minh. <卷>QUYỂN 5 CHƯƠNG III: TU TẬP THIỀN ĐỊNH TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG III (chánh truyện có muời sáu vị, phụ có bảy vị). 1/. Truyện Sa-môn Thích Chánh Giác chùa Thiên Đồng ở Minh Châu. Thích Chánh Giác, họ Lý, người ở xứ Thấp Châu. Cha của Sư húy là Tông Đạo, mẹ của Sư họ Triệu. Đêm Sư chào đời, có ánh sáng soi chiếu khắp phòng, mọi người đều lấy làm lạ. Năm lên bảy tuổi, mỗi ngày Sư đọc sách mấy ngàn lời. Năm mười ba tuổi, Sư thông rành năm kinh, bảy sử. Một hôm, Sư xin theo dòng họ Thích, cầu học pháp vô Sanh, nương Hòa-thượng Bổn Tông chùa Tịnh Minh, ở trong quận cạo tóc xuất gia, cầu thọ giới cụ túc với Hòa-thượng Trí Quỳnh chùa Từ Vân ở Tấn Châu. Năm mười tám tuổi, Sư bắt đầu du phương, nhân đó tự quyết thề rằng: “Nếu chẳng tỏ rõ được đại sự, thề chẳng trở về”. Từ đó, Sư vượt sông, ban đầu đến bái yết ngài Khô Mộc Thành ở Nhữ Châu, tuy nương ở trong thời gian lâu nhưng không có chỗ nhập. Bấy giờ, tiếng tăm đạo hạnh của Thiền sư Đơn Hà Tử Thuần đang phấn phát rất mạnh, Sư bèn tìm đến. Vừa vào cửa, ngài Đơn Hà hỏi: “Thế nào là mắt mũi của chính mình từ kiếp không về trước?” Sư đáp: “Ếch ngồi đáy giếng hớp vầng trăng Ba canh chẳng gá ánh rèm soi!” Ngài Đơn Hà bảo: “Chẳng phải ơ lời nói”. Sư đang suy nghó thì Ngài Đơn Hà đánh cho một cán phất trần, hỏi: “Hãy nói chỗ chẳng gá xem?” Sư bỗng nhiên đại ngộ, đảnh lễ, Ngài Đơn Hà bảo: “Sao chẳng nói lấy một câu xem?” Sư nói: “Nay con mất tiền lại mắc tội”. Ngài Đơn Hà bảo: “Ta chưa rảnh để đánh ngươi, nghỉ đi thôi”. Gặp lúc ngài Đơn Hà trụ tại chùa Đại thừa thuộc Đường Châu, Sư cũng đi theo. Niên hiệu Tuyên Hòa thứ hai (1 1 2 0) thời Bắc Tống, ngài Đơn Hà dời đến chùa Đại Hồng, bảo Sư coi sóc Ký thất. Năm sau (1 1 2 1), Sư đổi làm Thủ tọa. Bấy giờ, các vị Kim Lật Trí, Tuyết Đậu, Tông Bối thảy đều tham tùy. Ngài Chân Hiết Liễu Công trú tại Trường Lô mời Sư đến làm Thủ chúng. Sau đó không lâu, Sư ra làm tự chủ chùa Phổ Chiếu ở Tứ Châu. Vào niên hiệu Kiến Viêm ( 1 1 2 7- 1131) thời vua Cao Tông, đầu đời Nam Tống, Sư trú tại chùa Thái Bình ở Dã Châu, rồi dời đến chùa Viên Thông, Năng Nhân trong vùng ven sông. Kế đến, Sư lại được bổ đến Trường Lô. Bấy giờ, tên tù trưởng giặc cướp Lý Tại đang dẫn đầu cướp bóc nơi nơi, bèn vào chùa. Chư Tăng khiếp sợ chạy tán loạn, riêng mình Sư ngồi trang nghiêm trong phòng, chỉ dùng lời lành mà khuyên nhủ . Lý Tại cúi đầu đưa tặng vàng bạc cấp giúp chúng tăng. Từ đó, khắp một vùng được yên tónh không còn bị giặc cướp. Lại qua hai năm nữa, Sư mới vượt Triết Giang đến Tiền Đường, tới Minh Châu, lễ yết Đại Só Phổ Đà. Bấy giờ, tại chùa Thiên Đồng, Pháp tịch để trống, Quận thú vội viết hịch thỉnh Sư làm trú trì. Rợ Hồ xâm chiếm biên giới, giặc leo lên đảnh, nhìn xa trên đảnh như có thần hộ vệ, bèn thâu hồi binh lính mà thối lui. Kế đến năm sau, Sư lại có Thánh chỉ đến làm tự chủ chùa Linh Ẩn, khi sắp ra đi thì bốn chúng khóc gào cản trở, muông thú kêu tiếng buồn thương! Sư ở tại chùa Thiên Đồng ba mươi năm, điện đường phòng nhà, Sư đều xây dựng mới lại. Ngày mồng một tháng chín niên hiệu Thiệu Hưng thứ hai bảy (1 1 5 7) thời Nam Tống, Sư đến từ biệt các vị Quận Súy, Đàn Việt, v.v… Đến ngày mồng năm, Sư trở về núi dùng cơm với khách như thường. Sáng sớm hôm sau (ngày mồng tám), Sư bảo tắm gội, thay đổi y phục rồi ngồi thẳng, viết thư giao phó việc hậu sự, Sư nói kệ rằng: “Mộng huyễn không hoa Sáu mươi bảy năm (6 7) Chim trắng khói chìm Nước thu suối biếc”. Rồi Ngài buông bút, thị tịch. Vua Hiếu Tông, thời Nam Tống ban thụy hiệu là Hoằng Trí Thiền Sư, tháp tên là Diệu Quang. 2/. Truyện Sa-môn Thích Giáo Hanh chùa Khánh Thọ ở Yên Đô. Thích Giáo Hanh, tự là Hư Minh, họ Vương, người ở xứ Nhâm Thành, Tế Châu. Trước kia, tại chùa Từ Tế ở Biện Kinh có Sa-môn Phước An đến trụ tại Nhâm Thành mấy năm, tinh tu bạch nghiệp, kẻ tăng người tục đều kính trọng. Một hôm, Ngài ứng phó trai diên, đến thôn mang sơn bèn tựa gốc cây mà thị tịch. Đêm đó, Ngài đến báo mộng cho Nữ Đệ Bằng ở thôn Tự Bành. Thấy Ngài (Phước An) cưỡi con ngựa trắng, mà xuống ngựa bảo rằng: “Ta sanh trong nhà Vương Quang Đạo ở làng Tây Trần”. Đến lúc Bằng thức giấc, nói với với mẹ và đứa con nghe, cả ba người thảy đều mộng thấy như nhau. Sáng sớm, Bằng đến nhà Quang Đạo thăm hỏi, mẹ của Quang Đạo, người họ Lưu đêm trước cũng có mộng thấy ngài Phước An đến xin nghỉ nhờ qua đêm. Ngày đó, quả nhiên sanh ra Ngài , nhưng ngón tay cái của tay phải dường như không co duỗi được. Sư chỉ nháy mắt mà chưa cười được. Ngày hôm sau có hai vị Sa-môn Phước Quảng và Phước Kiên, nghe nên đến thăm, vừa thấy liền gọi rằng: “Sư huynh Phước An không sao chứ?” Sư nhìn kỹ rồi duỗi ngón tay chỉ mà cười. Mẹ Sư để Sư nằm ở trong phòng, như có tiếng người tụng Ma-ha Bát-nhã, Sư liền chăm nhìn ngay ngắn, có người đem quyển kinh Phật và chén rượu để thử Sư, cuối cùng Sư vớ lấy quyển kinh. Sư vốn không ăn các thứ cá thịt tanh nồng, thấy chư tăng liền vui mừng muốn đi theo. Mọi người đều gọi Sư là “An Sơn Chúa”. Nên trong thôn Mang Sơn bèn khắc những việc lạ của Sư vào bia đá. Năm lên bảy tuổi, Sư đến nương tựa Hòa thượng Viên chùa Sùng Giác ở trong châu mà cạo tóc xuất gia. Năm mười ba tuổi, Sư họ giới cụ túc. Gặp tiên sinh Khổ Qua đoán tướng, bảo rằng: “Đứa trẻ này (tức chỉ Ngài Giáo Hanh), ngày sau ngồi nơi Đạo tràng thống lãnh tăng chúng đến cả muôn người”. Năm mười lăm tuổi, Sư bắt đầu du phương, nghe sự hưng thịnh nơi pháp tịch của Hòa-thượng Bảo chùa Phổ Chiếu ở Trịnh Châu, Sư liền mang tích trượng, phát xuất cất bước tại sông Biện. Hòa-thượng Bảo đêm đó mộng thấy mây lành như hoa sen vàng lăng xăng rơi loạn xạ. Nhân đó, Sư nói với chúng tăng rằng: “Đã mười năm, ta không mộng mî, mà nay nằm mộng. Đó là điềm lành gì thế?” Sáng hôm sau thì Sư (Giáo Hanh) vừa tới. Hòa-thượng Bảo riêng một mình lấy làm lạ. Còn Ngài thì sớm tối tham cầu khấu lễ, Hòa thượng Bảo cũng hết sức trả lờiù. Một hôm, Sư đến Huy Dương, bỗng nhiên đang ngồi trên ngựa, Sư nhớ đến nhân duyên… trúc, bèn lắng tình không tán loạn tợ như đang nhập định. Sắp đến Hà Tân, Sư vẫn không hề hay biết. Khi đó, có Đức Mãn là người cùng đi, bảo rằng: “Đây là Hà Tân”. Sư giật mình, xuống ngựa, vừa vui vừa buồn. Đến lúc trở về, Sư rơi nước mắt, nói lại với Hòa-thượng Bảo, Hòa-thượng nói rằng: “Đây là cương nhân cần phải làm chuyển động sống lại mới được. Đã từng khán công án Nhật diện Phật rồi chứ?” Sư đáp: “Lúc còn bé đã niệm được”. Hòa-thượng Bảo cười, nói: “Ta chỉ dạy ngươi tham Chư Phương trạo hạ để thiền. Chỉ nên tự về tham lại đi thì tự có chỗ đắc lực”. Một hôm, ở tại Vân Đường, Sư đang tónh tọa, bỗng nghe tiếng đánh bảng mà Sư hoát nhiên chứng nhập, bèn trình kệ rằng: “Mặt trời mặt trăng Muôn sao chớp lòe Nếu lại đợi nghi Khuôn mặt bị tên. Ôi! Hòa-thượng Bảo nói: Ta lừa dối ngươi chẳng được!”. Sau, Sư ra hoằng hóa, an tọa ở năm đạo tràng như: Giới đàn ở Tung Sơn, Vân Môn ở Thiều Sơn, Phổ Chiếu ở Trịnh Châu, Đại giác ở Lâm Khê và Pháp Vương ở Tung Sơn. Kế đến, nhân thừa tướng nước Kim là Giáp Cốc Thanh Thần thỉnh Sư ra làm tự chủ chùa Đầm Giá ở Trung Đô, rồi dời đến chùa Phổ Chiếu ở Tế Châu. Sau đó không bao lâu, bỗng nhiên trong vườn thông sau phương trượng, có một cây sừng sững cao hơn trượng, bầy chim quạ lần lượt đến làm tổ, hình dạng như ngôi tháp, trên dưới cả thảy mười hai tầng. Tăng chúng chúc tụng rằng: “Có Hòa-thượng đến là Phật pháp càng hưng thạnh”. Sau đó, chưa đầy mười ngày, bỗng có chiếu ban sắc Sư ra trụ chùa Khánh Thọ. Tăng chúng thường đông cả muôn người. Ba năm sau, Sư lại ra làm tự chủ chùa Thiếu Lâm, pháp tịch thường đông đảo lớn mạnh. Tự nhiên, Sư dẫn đi bèn đùa giỡn giữa khoảng Tung Sơn Thiếu Lâm, hoặctha hồ hát ca, hoặc reo hò vui thú, như thế đến mấy năm. Bỗng một hôm, Sư cảm thấy bốn đại huyền hoãn, ngay nơi ngạch cửa, ngồi yên từ giã tất cả tân khách. Đến ngày mồng mười tháng bảy năm Kỷ Mão (1 2 1 9) nhằm niên hiệu Hưng Định, đời Kim, Sư răn bảo các đệ tử rằng: “Các ông mỗi người tự siêng năng tu hành!” Rồi bảo tắm gội, xong Sư nói kệ từ biệt, an nhiên ngồi thẳng thị tịch, thọ bảy mươi tuổi, năm tám hạ lạp. Lúc trà-tỳ, ánh lửa đỏ hừng như hoa sen hé nở, răng hàm tròng mắt chẳng rã hoại, có vô số xá-lợi. Lúc sống, từ thuở bé trên trán Sư có viên ngọc nổi hiện ở da, đến lúc lửa bốc tự nhiên bay mất. Đệ tử là phân thiết lợi la xây tháp thờ. 3/. Truyện Sa-môn Thích Tông Cảo ở Kính Sơn, phủ Lâm An. Thích Tông Cảo hiệu là Đại Tuệ, vì trú tại am Diệu Hỷ nên còn gọi là Diệu Hỷ. Ngài vốn họ Hề ở Tuyên Châu, là thân sau của Vân Phong Duyệt. Linh Căn sớm đủ, tuệ tánh sanh ra đã hiểu biết. Năm mười hai tuổi, Sư liền tìm đến chỗ ngài Vô Vân Tề. Đến năm mười bảy tuổi cạo tóc. Ban đầu Sư đến cửa Động Tông, Động Tông kỳ túc nhân Sư hỏi cơ phong bén nhạy, bèn bảo đất hương trên cánh tay, mới trao truyền tâm ấn. Sư không chịu nên bỏ đi. Đến nương tựa Ngài Trạm Đường Chuẩn, suốt thời gian dài nhưng không khế hội. Ngài Trạm Đường nhân bị bệnh bèn bảo Sư đến tham kiến ngài Viên Ngộ, Ngài Viên Ngộ trụ chùa Chiếu Giác tại đất Thục, Sư lần lựa chưa đến. Một hôm, nghe ngài Viên Ngộ có chiếu chỉ đến trụ chùa Thiên Ninh ở Sông Biện, Sư tự mừng, bảo: “Thiên đế ban tặng lão Tăng ấy cho ta!” Bèn đến trước một ngày ở chùa Thiên Ninh để đón rước ngài Viên Ngộ và tự suy tính rằng: “Sẽ ở trọn chín năm, nếu đồng chư vớ các nơi vọng cho ta là đúng thì ta nên mang “Vô Thiền Luận” mà đi”. Đến lúc gặp ngài Viên Ngộ khai đường nêu: “Có vị tăng hỏi Vân Môn “Thế nào là chỗ xuất thân của các Đức Phật?”, Vân Môn bảo: “Đông Sơn đi trên nước”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Thiên Ninh thì không như vậy, chỉ hướng về đạo khác, un đúc gió từ phương nam thổi đến thì Điện các sanh ra chút mát dịu”. Sư nghe thế, bỗng nhiên mé trước sau đoạn dứt, Ngài Viên Ngộ bảo: “Cũng chẳng dễ, ông đến đất ruộng ấy, nhưng đáng tiếc chết rồi không thể sống lại. Không nghi ngôn cú, đó là đại bệnh, há chẳng thấy đạo”. Hố thẳm buông tay, tự chịu gánh vác, chết đi sống lại, lừa ông không được”, Ông phải tin có thứ đạo lý ấy”. Từ đó, ngài Viên Ngộ bảo Sư ở tại Trạch Mộc Đường, làm thị giả không đắm việc. Một hôm, trong lúc ngài Viên Ngộ thọ trai với khách, bất chợt Sư đưa thìa cơm đều chẳng vào miệng, ngài Viên Ngộ cười, bảo: “Gã này tham Hoàng Dương Mộc Thiền đến độ ấy ư?” Sư bảo: “Như chó liếm chảo dầu sôi”. Sau đó, nghe ngài Viên Ngộ ở trong thất hỏi vị tăng về câu thoại “ hữu cú vô cú, như dây leo nương vào cây. Sư bèn hỏi rằng: Nghe Hoà-thượng đương thời ở chỗ Ngã Tổ có hỏi câu thoại nầy, không biết Ngũ Tổ nói thế nào?” Ngài Viên Ngộ chỉ cười mà không trả lời. Sư nói: “Hòa-thượng bấy giờ đã đối chúng mà hỏi, nay nói có ngại gì?” Bất đắc dó, ngài Viên Ngộ bảo: “Ta hỏi Ngũ Tổ về Hữu Cú Vô Cú như dây leo nương cây, ý chỉ ấy như thế nào? Ngũ Tổ bảo “Chỉ là phỏng vẽ, mà đã là phỏng vẽ thì tranh chẳng thành”. Ta lại hỏi: “Vậy khi cây ngã, dây leo khô thì thế nào?” Ngũ Tổ bảo “theo nhau mà đến”. Ngay lúc đó, Sư hoát nhiên đại ngộ, bảo: “Con đã hiểu”. Ngài Viên Ngộ lại nêu vài đoạn nhân duyên hỏi vặn, Sư trả lời thông suốt không ngưng trệ. Ngài Viên Ngộ mừng, nói với Sư rằng: “Vậy mới biết ta không khi dối ngươi ư?” rồi đem bộ “Lâm Tế Chánh Tông Ký” trao cho Sư và bảo trông coi Ký Thất. Sau đó không bao lâu, ngài Viên Ngộ trở về đất Thục. Sư nhân đó bèn ẩn dấu, kết sau để ở. Sau lại đến Hạ Hổ Khâu, xem kinh Hoa Ng- hiêm, đến chỗ “Hàng Bồ-tát ở quả vị Đệ Thất đưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn”, bỗng nhiên tỏ rõ nhân duyên Ương-Quật-Ma-La trì bát cứu người sản phụ do ngài Trạm Đường chỉ bày. Đến niên hiệu Thiệu Hưng thứ bảy (1 1 3 7) thời Nam Tốâng, vua Hiếu Tông ban chiếu Sư đến trụ Song Kinh. Một hôm, Sư được tin báo là ngài Viên Ngộ thị tịch, Sư bèn tự viết văn đến cúng tế. Ngay chiều hôm đó, Sư cử tiểu tham: có vị tăng hỏi Ngài Trường Sa: “Ngài Nam Tuyền thị tịch thác sanh đến cõi nào?” Ngài Trường Sa đáp: “Ở phía Đông thôn thì làm, lừa, ở phía Tây thôn thì làm ngựa”. Vị tăng ấy lại hỏi: “Ý chỉ ấy thế nào?” Ngài Trường Sa đáp: “Cần cưỡi thì cưỡi, cần xuống thì xuống”. Nếu thế thì Kinh Sơn không phải như vậy. Nếu có vị tăng hỏi “Ngài Viên Ngộ thị tịch thác sanh cõi nào, nếu sanh vào đường khác, thì đọa vào địa ngục A-tỳ. Ý chỉ ấy thế nào? Đáp: đói thì ăn hòn sắt nóng, khát thì uống nước đồng sôi”. Hỏi: “Có người nào cứu được không?” Đáp: “Không ngừoi nào cứu được.” Hỏi: “Vì sao kh6ng cứu được?” Đáp: “Vì đó chỉ là vịêc bình thường như ăn cơm uống trà của lão này”. Tháng năm năm Thiệu Hưng thứ mười một (1 1 4 1), Tần Cối cho Sư là Trưởng Cửu hun đúc thành, bèn hủy bỏ y bát độ Điệp, đuổi đến Hành Châu. Đến tháng mười niên hiệu Thiệu Hưng thứ ba sáu (1 1 6 6), lại có chiếu dời Sư đến Mai Dương, sau đó không lâu hoàn phục hình phục và thả về. Qua tháng mười một, Sư lại có chiếu chỉ ban đến trụ chùa A-dục Vương. Đến năm Thiệu Hưng thứ hai tám (1 1 5 8), triều đình lại ban lệnh cho Sư trở lại trú ở Kính Sơn, mở mang tông chỉ của ngài Viên Ngộ. Mùa xuân năm Tân Tî (1 1 6 1), Sư rút lui về ở Minh Nguyệt Đường. Một đêm, tăng chúng thấy một ngôi sao rơi xuống phía Tây chùa sáng rực. Sau đó Sư thị hiện bị bệnh nhẹ. Đến ngày mồng chín tháng tám, Sư nói với chúng rằng: “Ngày mai tôi mới đi!” Canh năm đêm đo, Sư viết di biểu và dặn dò việc hậu sự. Có Sa-môn Liễu Hiền thỉnh Ngài để lại kệ văn, Sư bèn viết lớn mấy chữ: “Sanh lớn ư? Tử lớn ư? Có kệ, không kệ là gì mà sốt sắng thế!” Rồi an nhiên thị tịch, thọ bảy lăm tuổi, năm tám hạ lạp. Thụy hiệu là Phổ Giác, tháp tên là Bảo Quang. 4/- Truyện Sa-môn Thích Thiệu Long ở Hổ Khẩu, phủ Bình Giang. Thích Thiệu Long, là người xứ Hàm Sơn ở Hòa Châu. Năm chín tuổi, Ngài từ giã cha mẹ, đến viện Phật Tuệ. Sáu năm sau, được độ xuất gia thọ giới cụ túc. Ngài tinh chuyên nghiên cứu luật bộ. Sau năm hạ, Sư bắt đầu du phương, đầu tiên Sư đến tham yết Hoà-thượng Tín ở Trường Lô và chỉ đắc được đại lược mà thôi. Một hôm, Sư thấy có vị tăng mang đến quyển “Viên Ngộ Thiền sư Ngữ”, Sư liền đọc xem, khen ngợi rằng: “Tưởng như miệng sanh nước bọt, tuy chưa thấm vào bụng dạ, chỉ cần khiến người mừng vui sảng khoái, nhưng tiếc là chưa lãnh hội được tiếng tằng hắn!” Sư bèn đến Bảo Phong, nương tựa ngài Trạm Đường, kế đến tham kiến ngài Hoàng Long Tử Tâm, nhưng sau lại đến tham học với Ngài Viên Ngộ. Một hôm, Sư vào thất, ngài Viên Ngộ hỏi: “Lúc thấy được thấy, Kiền còn là Kiến, Kiến không thể bằng”. Bỗng nhiên, ngài Viên Ngộ đưa nắm tay bảo: “Lại còn thấy cái gì?” Ngài đáp: “thấy”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Trên đầu lại gắn thêm đầu”. Nghe thế bỗng nhiên Sư khế hội chứng ngộ. Ngài Viên Ngộ hỏi: “Thấy cái gì?” Sư đáp: “Trúc kín chẳng ngại nước chảy qua”. Ngài Viên Ngộ gật đầu, bảo Sư trông coi khóa tạng. Có vị tăng hỏi ngài Viên Ngộ rằng: “Ngài Thiệu Long làm Tạng chủ mà mềm yếu như vậy. Thì sao làm được ư?” Ngài Viên Ngộ cười đáp: “Hổ ngủ gật đó!” Sau, vì tuổi già nên ngài Viên Ngộ nên trở về đất Thục, Sư bèn trú tại phía Tây thành Khai Thánh của ấp. Vào niên hiệu Kiến Viên ( 1 1 2 7- 1131) thời Nam Tống, Sư dựng am tranh dưới Đồng Phong. Quận thú Lý Quang mời Sư đến ở chùa Chương Giáo, kế là dời đến Hổ Khâu, ở đó đạo hạnh Sư hiển rõ. Nhân đó, Ngài truy tìm cố sự của Thích Bạch Vân Đoan lập Tổ Đường và bảo rằng: “Làm người hậu học không thể thực hành hết di huấn. Vậy đối với nghóa sao an được ưD9 Sư bèn đắp họa các tôn trượng an trí tôn thờ và đề kệ khen ngợi ở trên. Sư khen ngợi Tổ sư Đạt-ma rằng: “Lấp nước người khó giữ Giày lẻ quảy về Tây. Chỉ thích trăng Hùng nhó Ngàn xưa lạnh sáng ngời”. Sư khen ngợi Ngài Bách Trượng rằng: “Sét ầm rống phá đầm trăng lắng Ba ngày kinh hoảng choáng ù tai Vẹt bỏ màng mắt; Bệnh sẽ chết Tòng lâm từ đó rạng Gia Phong”. Sư khen ngợi đại sư Minh Giáo khai sơn rằng: “Xuân đến trăm hoa đua nở bày Hương mầu mở thắm người tiếp tay Gặp gió không hạn tình sâu sắc Trong gò thanh sắc dứt mảy may”. Bởi vì ngài Bạch Văn cho rằng công khó sáng lập thiền quy của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải nên phối với Tổ sư Đạt-ma, có thể gọi là biết được cội nguồn. Nên Ngài (Thiệu Long) tuân hành mà làm kệ khen ngợi. Lại còn khơi sáng nguồn đạo ấy, đó cũng là người biết lễ. Năm Bính Thìn (1 1 3 6) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng, thời Nam Tống, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, ngồi kiết già mà thị tịch. Tăng chúng xây tháp an trí toàn thân Sư ở góc Tây nam chùa. Liên quan thử bàn: Ba Phật trong thời Bắc Tống đều đề xướng đạo của Diễn Công, chỉ có Phật quả đạt được cốt tủy đó. Mà vào thất của Phật Quả, ngồi giường vô úy, rống tiếng sư tử lại chẳng dưới mười người, sau đó nối pháp mãi đến khoảng niên hiệu Gia Long (1) đời Minh, còn có hơi hám, chỉ người Ba Tỷ là Diệu Hỷ và con cháu của Hổ Ngủ Gật. Ngoài ra ba- bốn truyện thì vắng lặng không tiếng tăm. Nhưng hai vị lão tăng này có thể gọi là nguồn xa dòng dài. Đương thời tôn xưng là “Hai môn Cam Lổ”, cũng thích đáng. 5/- Truyện Sa-môn Thích Đoan Dụ ở núi A Dục thuộc Khánh Nguyên. Thích Đoan Dụ, hiệu là Phật Trí, Sư là con cháu của Ngô Việt Tiền Dương, sáu đời tổ tiên làm quan thú Nhân Gia ở Cối Kê. Sư vừa mới sanh mà quắt thước, mắt mày khôi ngô. Năm mười bốn tuổi, Sư xuất gia làm Sa-Di khu Ô ở chùa Đại Thiện. Năm mười tám tuổi được độ thọ giới cụ túc. Sư sang nương tựa Thiền sư Tịnh Từ Nhất. Sau đó không lâu, tình cờ nghe vị tăng Hệ Lô Trụ nói: “Sao ông chẳng nói thiền?” Bỗng nhiên Sư có chút tỉnh ngộ, bèn đến tìm cầu tham yết Viễn Cam Lộ ở Long Môn Đầm Tường ở Trác Lặc , các vị đó đều cho là dónh ngộ nên đều suy tôn. Về sau, Sư gặp được ngài Viên Ngộ ở Chung Phụ. Một hôm, ngài Viên Ngộ hỏi rằng: “Chánh pháp nhãn Tạng hướng đến bên con lừa mù thì diệt, vậy nay là diệt hay chẳng diệt?” Sư thưa: “Xin Hòa-thượng hợp lấy miệng là tốt”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Đó còn chưa vượt khỏi thường tình”. Ngài suy nghó định đáp lại, ngài Viên Ngộ liền đánh, và Sư chóng dứt trừ sự ngăn ngại. Sư theo hầu ngài Viên Ngộ ở chùa Thiên Ninh và được bảo trông coi Ký thất, sau đó được phân tòa giảng pháp, từ đó, đạo hạnh Sư lan xa đến Kinh Tây, Hiến thỉnh Sư mở pháp ở Đơn Đà. Tiếp theo, Sư dời đến Hổ Khâu ở Kính Sơn. Ngài từ chối sự cầu thỉnh của kẻ tăng, người tục ở Bình Giang, mà đến dựng thảo am ở Tây Hoa. Trải qua được vài năm, Ngài có được sắc chỉ đến ở chùa Bảo ninh, Kiến Khương. Sau đó, Sư lại dời đến trụ chùa Vạn Thọ ở Tô Thành và Huyền Diệu Thọ Sơn Tây thiền ở xứ Mân. Sư lại có chiếu chỉ dời đến ở chùa Từ Ninh ở Linh Ẩn. Hoàng Thái hậu kính mến Vó Vương Đệ, mời Sư giảng pháp, ban tặng áo nạp ca-sa dệt bằng sợi vàng. Sư xin trở về ẩn tu tại Tây Hoa chốn cũ. Mùa Thu năm Mậu Thìn (1 1 4 8) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng, đời Nam Tống, Sư vâng chiếu đến trụ chùa A-dục Vương. Lúc thượng đường, Ngài bảo: “Ngài Đức Sơn có người vừa vào cửa thì liền đánh. Nên nhiều người đến mang trong đãy vải để che lấp dấu vết. Còn ngài Lâm Tế, có người vào cửa thì liền quát mắng. Tất cả chỉ là vào ra chìm nổi trong thanh trần. Nếu là bậc Thích Tử anh linh, thì phong thái ngay dưới chân phải vượt khỏi mọi lằn vết xưa nay. Đón nhận nắm lấy gậy, sừng sửng bỗng chốc quát mắng một tiếng. Quát mắng là chỉ cho cái ấy sao còn tương tự sanh. Nếu quát mắng làm gậy đánh quát mắng là ngủ gật chưa tỉnh, không quát mắng làm gậy đánh quát mắng là chưa biết Đức Sơn Lâm Tế rốt ráo như thế nào? Sừng sững bỗng chốc bảo: “Tất cả chẳng đều động trước”. Có vị tăng hỏi: “Thế nào là khách trong khách?” Sư bảo: “Ấy là đứa ở coi ruộng kho”. Vị tăng hỏi: “Thế nào là chủ trong khách?” Sư bảo: “Cùng gặp còn lỗ mãng”. Vị tăng hỏi: “Thế nào là khách trong chủ?” Sư bảo: “Hỏi kiếm xán lạn mây sầu”. Vị tăng hỏi: “Thế nào là chủ trong chủ?” Sư bảo: “Đập xương đánh tủy”. Sư đến với chúng, uy sắc trang nghiêm, ăn ngủ chẳng trái thời, vì chúng xướng Đạo không lúc nào mỏi mệt. Đầu tháng mười năm Canh Ngọ (1 1 5 0) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng, Sư thị hiện chút bệnh. Đến ngày mười tám, Sa-môn Pháp Toàn là vị Thủ tọa thỉnh Sư để lại di huấn. Sư bảo: “Dốc hết tâm ý này vì đạo, giúp đỡ lẫn nhau!” nói xong Sư thị tịch. Sau khi trà-tỳ, tròng mắt răng hàm, chiếc lưỡi của Sư vẫn còn không bị cháy, ngay chỗ đất đó phát sáng suốt đêm. Có được vô số Xá- Lợi, hơn một tháng sau vẫn chưa hết. Đạo só La Triệu thường ngày đến hỏi đạo với Sư, vừa từ bên ngoài về còn chưa được gì, La Triệu nghó tưởng ân cần tha thiết, cùng khách dùng cơm, đang lúc nhấm nháp thì, trong miệng như có vật lạ, nhả ra thì là xá-lợi, lớn như hạt đậu mầøu như hổ phách. Được việc tốt, liền mang đến lễ bái nơi chỗ trà-tỳ, nghe trong hộp hương có tiếng động, vội mở ra xem thì cũng được xá-lợi như trước mà sắc mầu hồng đượm. Đệ tử môn nhân đón rước di cốt, phân chia xây tháp ở Mậu Phong thuộc Tây Hoa. Thụy hiệu Sư là Đại Ngộ thiền sư. 6/ Truyện Sa-môn Thích Pháp Thái ở núi Đại Quy thuộc Đàm Châu. Thích Pháp Thái hiệu là Phật tánh, họ Lý, người ở Hán Châu. Có vị tăng hỏi Sư rằng: “Lý tùy sự biến bao gồm muôn vật mà một mảnh Hư ngưng. Sự theo Lý dung, bình đẳng ngàn sai biệt mà đều quy về thực tế. Vậy thế nào là Lý Pháp Giới? Sư đáp: “Núi sông đất liền”. Vị tăng hỏi: “Thế nào là sự Pháp Giới?” Ngài đáp: “Muôn ngàn hình tượng”. Vị tăng hỏi: “Thế nào là Lý sự vô ngại Pháp Giới?” Sư đáp: “Đông tây nam bắc”. Vị tăng hỏi: “Thế nào là Sự Sự vô ngại Pháp Giới?” Ngài đáp: “Trên dưới bốn góc, Thượng Đường man mác, xa tít bao gồm mười phương, phẳng lặng mênh mông dứt mọi hình tướng. Miệng muốn nói mà từ tan mất, mắt muốn trông nhìn mà con ngươi khô mờ. Văn-thù, Phổ Hiền hoàn toàn không có thuật gì hay khéo. Lâm Tế Đức Sơn chẳng ngại đề xướng: rùa nuốt trâu sắt ở thiểm phủ, rắn nhai voi lớn ở Gia Châu. Dọa nạt được cá Lý ở biển đông, cho đến bụng trương như nay. Thượng Đường nhớ xưa kia, ngày du phương có được hai vật đó là Chày Kim Cương và Cốt Ngàn Thánh, mang đi trong vũ trụ, bờ khí cao sừng sững, như vậy suốt ba mươi năm lấy đó làm phép tắc, năm nay đã già. Một vật biết vật gì ném dưới chày Kim Cương đập nát xương Ngàn Thánh, quăng bỏ ở ngã tư đường, không thể nàotiết được. Tùy ý qua phù sanh, chỉ nam đem làm bắc. Gọi rùa là ba ba, kêu đậu là lúa thóc. Theo kẻ kia, người sáng suốt cười ta không dây mực. 7/- Truyện Sa-môn Thích Cảnh Nguyên trụ chùa Hộ Quốc ở Thiên Thai. Thích Cảnh Nguyên, hiệu là Thử Am, họ Trương, người ở xứ Vónh Gia thuộc Ôn Châu. Năm mười tám tuổi, Sư đến nương tựa Hòa-thượng Hy Củng ở chùa Linh Sơn, được xuất gia, thọ giới cụ túc. Tập học Thai Giáo được ba năm, bèn bỏ, đi đến tham yết Thiền sư Viên Ngộ Khắc cần ở Chung Phụ. Nghe vị tăng đọc lời tiểu tham của Hoà-thượng Tử Tâm là: “Đã mê phải được cái ngộ, đã ngộ thì phải biết cái mê trong ngộ và ngộ trong mê. Mê ngộ cả hai đều bỏ, từ chỗ không mê ngộ mà kiến lập tất cả Pháp”. Sư bỗng sanh nghi ngờ, liền đến Điện Phật, đưa tay mở rộng cánh cửa, hoát nhiên triệt ngộ, cơ biện chợt phát. Ngài Viên Ngộ chọn làm Ngao Đầu Nguyên thị giả. Ngài Viên Ngộ tự soạn bài khen ngợi chân dung giao cho Sư, viết rằng: “Bình sanh chỉ nói Ngao đầu thiền Khua trước Ngao đầu như vách sắt Thoát kiếp lưới lồng chặt chân cẳng Đại địa dúm lại sơn mực đen Về già chuyển lại hết dao dao Rung động Kim Cương đập nát hang lỗ Lúc khác cần biết mặt Viên Ngộ Một làm cừ nông đều đếm ra”. Từ đó, Sư ẩn dấu vết tích, chẳng cầu tiếng tăm. Sau vì Quát Thương Thái Thủ Cảnh Diên Hy kính mến đạo hạnh, muốn thỉnh Sư đền khai pháp ở Nam Minh, vật sắc bắt nguồn từ sự báo ân ở Thiên Thai. Khi sắp nhận mạng thì có vị tăng hỏi: “Tam Thánh nói “Ta gặp người liền ra, ra thì không vì người” Ý chỉ ấy thế nào?” Sư bảo: “ông lão tám mươi nhai sắt sống”. Vị tăng lại hỏi: “Hưng Hóa nói “ta gặp người thì chẳng ra, ra thì liền vì người, vậy làm sao sanh?” Sư bảo: “Trên đảnh Tu-di sóng vọt lên hư không”. Sau, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, mời Ứng Am Hoa ở Tây Đường đến phó chúc mọi việc ở Bổn viện, răn dạy đồ chúng như lúc bình thường, không bao lâu nắm tay mà thị tịch. Sau khi trà-tỳ, có được xá-lợi năm mầu, răng, lưỡi và nắm tay phải chẳng bị cháy. Tháp thờ Sư được xây dựng ở phía Đông bắc chùa, trước động Lưu Nguyễn, Sư thọ năm ba tuổi. Liên quan thử bàn: Đại Tuệ là sự tái lai của Vân Phong Duyệt, có thể gọi là bậc đầy đủ Đại căn khí, còn bị Trạm Đường xô đẩy chẳng vào được. Đến ngoài ba mươi tuổi mới va chạm kiền-chuỳ của Viên Ngộ, mới được đại ngộ. Nay đây, Ngài Cảnh Nguyên vừa mới hai mốt tuổi, nghe vị tăng bên cạnh đọc lời của Hòa-thượng Tử Tâm, bèn liền chứng ngộ thấu triệt. Vậy, căn khí nhạy bén của Sư, đại khái có thể tự hiểu. Lúc ra hoằng hóa, ban đầu Sư trú tại Nam Minh, sau cùng ở chùa Hộ Quốc. Khắp chốn Tòng lâm tôn xưng Sư là “Nguyên Bố Đại”, bởi Sư có phong thái của bậc Thánh. Ấy là chọn đường cơ đi ra cửa. Sư giảng pháp, niêm chùy, từ khí hùng vó, cơ phong tròn đầy nhanh chóng, càng thấy rõ tường thành của Sư. 8/ Truyện Sa-môn Thích Tuệ Viễn trụ chùa Linh Ẩn ở Lâm An. Thích Tuệ Viễn, họ Bành, người ở My Sơn. Năm mười ba tuổi, Sư đến nương tựa Hòa-thượng Tông Biện ở viện Dược Sư, xin xuất gia. Ban đầu, Sư tìm đến pháp tịch của ngài Đại Tuệ, kế là tham yết Thiền sư Linh Nham Huy, hơi có chỗ vào. Gặp lúc ngài Viên Ngộ Cảnh chiếu chỉ đến trụ chùa Chiếu Giác, Sư liền tìm đến đó, lại gặp ngài Viên Ngộ giảng nói nêu bày về vấn đề cư só Bàng Uẩn hỏi ngài Mã Tổ về nhân duyên chẳng cùng làm bạn với muôn pháp. Bỗng nhiên, Sư đốn ngộ, ngã té giữa chúng, đại chúng nâng Sư dậy, Sư bèn nói: “Mộng tôi đã tỉnh”. Đến tối, lúc tiểu tham, Sư bước ra hỏi rằng: “Sạch làu bàu không hề có một vật, xương đỏ sức yếu không có một tiền. Nhà tan cửa nát, xin thầy cứu giúp!” Ngài Viên Ngộ bảo: “Bảy trân tám báu một lúc dẫn bắt”. Sư nói: “Họa chẳng vào, cẩn thận cửa của nhà”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Cỏ chẳng lìa vị, rơi trong biển độc”. Ngài liền quát hét. Ngài Viên Ngộ cầm gậy gõ vào giường thiền, bảo: “Ăn được gậy chưa?” Ngài lại quát hét. Ngài Viên Ngộ liền hét liên tiếp hai tiếng, Sư liền đảnh lễ. Từ đó cỏ phong cao phát, không gì chẳng thấu suốt. Sư ra hoằng hóa, ban đầu trụ chùa Hiển Hiếu ở núi Cao Đình. Đến ngày rằm tháng mười niên hiệu Càn Đạo thứ sáu (1 1 7 0) thời Nam Tống. Sư vâng chiếu, dời đến chùa Linh Ẩn. Lúc Thượng đường, có vị tăng hỏi: “Tức tâm tức Phật, thì như thế nào?” Sư bảo: “Hết sừng trên đầu”. Vị tăng lại hỏi: “Phi tâm phi Phật, lúc ấy thế nào?” Ngài bảo: “Vòng vàng ở tai rớt”. Vị tăng lại hỏi: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, cũng chẳng là vật, vậy thì làm sao?” Sư bảo: “Đổ nát đảnh Tu La múa điệu Chá Chi”. Ngày rằm tháng hai niên hiệu Càn Đạo thứ bảy (1 1 7 4), Sư được mời vào điện Tuyển Đức. Sau khi an tọa, vua Hiếu Tông ( 1 1 6 3- 1190) hỏi: “Làm thế nào để thoát khỏi sanh tử?” Sư đáp: “Chưa ngộ đại đạo thí không bao giờ thoát”. Vua hỏi: “Thế nào là được ngộ?” Sư đáp: “Tánh sẵn có rốt ráo không ai chẳng ngộ”. Nhà vua hỏi: “Sau khi ngộ thì thế nào?” Sư đáp: “Sau khi ngộ mới biết thoát thể hiện tiền không hề có tướng mẩy lông để thấy”. Nhà vua gật đầu chấp nhận . Vua lại hỏi: “Thế nào là tức tâm tức Phật?” Sư đáp: “Trước mắt không một pháp, vậy bệ hạ gọi lấy cái gì làm tâm?” Nhà vua hỏi: “Thế nào là tâm?” Sư sửa mình xoa tay đứng dậy đáp: “Chỉ là cái ấy”. Vua rất vui mừng. Ngày mồng bảy tháng tám niên hiệu Càn Đạo thứ tám (1 1 7 2), vua Hiếu Tông lại mời Sư vào Đông Các. Sau khi an tọa, nhà vua hỏi: “Ngày trước trong mộng bỗng nghe tiếng chuông, bèn có cảm giác không biết là mộng hay thức. Ấy là thế nào?” Sư bảo: “Bệ hạ hỏi về mộng hay về tỉnh? Nếu hỏi về tỉnh thì nay chính là nói mớ. Nếu hỏi về mộng, thì mộng và thức không khác. Vậy dạy ai phân biệt? Mộng tức là huyễn, biết huyễn tức lìa, giác tâm bất động. Nên nói: “Nếu chuyển được vật tức đồng với Như Lai”. Nhà vua hỏi: “Mộng huyễn đã chẳng phải thật, vậy tiếng chuông từ chỗ nào mà khởi?” Sư đáp: “Từ chỗ hỏi mà khởi”. Nhà vua lại hỏi: “Ngày trước, trẫm ngồi tại Đông Các này, bỗng tư duy về chẳng cùng muôn pháp làm bạn, mà có cái thấy”. Sư nói: “Xin được nghe!” Nhà vua nói: “Bốn biển chẳng là nhiều”. Sư bảo: “Một người hớp hết nước ở Tây Giang thì như thế nào?” nhà vua nói: “Cũng kghông hề giảm thiếu”. Sư bảo: “Mới trải qua tư duy, bèn thành thừa pháp, chính là như đoạn luân, như ánh chớp không hề liên quan gì. Vì sao? Vì pháp không hai. Kiến không hai Kiến, tâm không khác tâm, như bầu trời không hai mặt trời”. Nhà vua vô cùng vui vẻ, ban tặng Sư hiệu là “Phật Hải Đại Sư”. Mùa thu năm Ất Mùi, nhằm niên hiệu Thuần Hy năm thứ hai (1 1 7 5) thời Nam Tống, Ngài dạy chúng, nói kệ rằng: Một buổi sáng tháng chín nhuần, năm Thuần Hy thứ hai (1 1 7 5) Chỗ ồn chớ xuất đầu Nơi lạnh để mắt nhìn, Tối sáng chẳng liên can Đây kia chia một nửa Một giống làm Quý nhân Bảo ai bán củi than Đạo nầy chẳng thể hủy, chẳng thể nào ngợi ca Thể dường như hư không Hết ven bờ cùng gọi, cùng kêu hãy trở về Thượng Nguyên định là rằm tháng giêng”. Đến tháng giêng năm sau (1 1 7 6), bỗng nhiên Sư bị bệnh nhẹ, quả thật đến ngày rằm, Sư nói kệ rằng: “Bẻ gãy dùi cân Xốc nhanh lộ bày Đột xuất cỏ trước Quạ bay chẳng qua”. Xong, Sư ngồi thẳng an nhiên thị tịch. Nhục thân lưu lại bảy ngày mà sắc mặt chẳng đổi mầu. Xây tháp thờ toàn thân. 9/- Truyện Sa-môn Thích Tâm Đạo trụ chùa Văn thù ở phủ Thường Đức. Thích Tâm Đạo họ Từ, người ở xứ My Châu. Năm ba mươi tuổi, Sư xuất gia, tìm đến thành đô, học tập Duy Thức, tự cho là đến. Có vị tăng chung liêu hỏi Sư rằng: “Ba cõi chỉ do tâm, muôn pháp chỉ có thức. Nay trước mắt muôn hình vạn tượng như vậy, Tâm thức ở đâu?” Sư mịt mờ chẳng hiểu gì cả, bèn vượt ải chu du khắp vùng Giang Hoài. Đã tới Thái Bình thuộc Dã Châu, nghe ngài Phật giám ban đêm tham cử câu thoại đầu cây bách của Triệu Châu. Đến lúc Giác Thiết Thuỷ bảo: “Tiên sư không nói lời đó, chớ nên phỉ báng tiên sư là tốt”. Nhân đó đại nghi nêu lên đã lâu. Một đêm, hoát nhiên Sư chạy đến trượng thất, tìm manh mối sở ngộ. Ngài Phật Giám thấy vậy bèn đóng cửa. Sư liền gọi: “Hòa-thượng, chớ lừa dối con”. Ngài Phật Giám bảo: “mười phương không tường vách, sao chẳng đi vào cửa?” Sư liền đưa nắm tay phá rách giấy trên cửa sở. Ngài Phật Giám liền mở cửa, túm ngực áo, bảo: “nói ! nói !” Sư liền đưa hai tay bưng lấy đầu Ngài Phật Giám, miệng hét, rồi ra trình kệ rằng: “Triệu Châu có thoại đầu cây Bách Thiền khách truyền nhau khắp mọi nơi. Thường là vạch lá và tìm cành Chẳng thể ngay đó thấu nguồi cội. Giác công nói đạo không lời ấy Chính lời xấu ác, nên mắng thẳng Nếu Thiền giả mắt sáng suốt Khéo hướng vào đây biện giả chân”. Ngài Phật Giám cho là đúng. Thái thú Tương Châu thỉnh Sư ra giảng pháp ở chùa Thiên Ninh, cất lớn riêng Văn-thù. Năm đổi niên hiệu Tuyên Hòa (1 1 1 9) đời Bắc Tống, vua Huy Tông ban chiếu sửa đổi chư Tăng gọi là “Đức Só”. Nhân đó, lúc Thượng đường, Ngài bảo rằng: “Ý Tổ Đạt-ma từ Tây vực đến, sự việc triều chính đời nay đặt địa mới, xưa là tướng Tỳ-kheo, nay là hình Lão Quân mặc áo bạc, cầm lông hạc, đều quấn khăn lá chuối. Lâm tuyền vô sự khách, hai lượt đội ân vua. Do đó, Đạo muốn biết được nghóa của Phật tánh, cần phải quán xét thời tiết nhân duyên. Vả lại đạo tức nay là thời tiết gì? Tỳ-Lô-giá-na đầu đội mũ bán, lão già Văn Thù thân mặc áo lông hạc. Cần phải phủ phục tùy thuận thời nghi. Một người đã vậy, nhiều người cũng vậy, tất cả mọi người thành lập tòng lâm. Vui được các tiên tụ hội, cùng rót rượu mê tiên, đồng xướng bước Hư từ, hoặc xem Linh Bảo độ nhân Kinh, hoặc nói thuốc sống mãi không chết. Đàn cầm dưới trăng, đầu ngón tay phát âm thái cổ, bày cờ trước hiên, khéo ra ngoài thần cơ. Tiến một bước bèn đến trên trời Đại La, lùi một bước thì rơi vào thành Cửu u. Chỉ như một câu chẳng tiến chẳng lùi, thì làm thế nào? Đạo thẳng nhiều lông hóa thành đường tam thanh, rốt cùng là một huyễn thân luân hồi”. Đến tháng chín niên nhiệu Tuyên Hòa thứ hai (1 1 2 0), vua lại ban chiếu khôi phục chư Tăng. Sư Thượng đường, dạy rằng: “Trong nửa năm nghó tưởng đại để hưng suy đều tự có thời. Đức Phật Như Lai, có dự ký thời kỳ pháp nạn, trong kinh giáo có ghi rõ không ai chẳng biết, so sánh về niên đại thì chính là lúc này. Ma được dịp hoặc loạn chánh Tông, Tăng đổi hình tục, Phật chỉ còn danh tự, vọng sanh tà giải, trích xén văn kinh. Náo Bạt định âm, chén bát thêm chân. Phần nhiều kiêu hãnh lừa dối kinh lờn thánh quân. May thay, thánh chúa của chúng ta sáng suốt chẳng quên phó chúc, chẳng phế bỏ giáo lý. Đặc tặng thần chương, mới cho phép tăng ni lại được đắp mặc pháp y, cạo bỏ râu tóc. Thật có thể gọi là: tro lạnh ấm nóng lại, cây khô trở đâm chồi, rượu nặng mê tiên biến thành cam lồ. Bộ Hư từ phiên thành khúc nhạc về quê, buông thả thẻ bạc gỗ, nắm dậy Ni-Sư-Đàn, hôm qua cúi đầu chấp tay, hôm nay Hòa-nam. Chẳng xem xét, chỉ đổi tướng thời xưa, chẳng đổi người thời cũ, xin hỏi đại chúng người thời cũ là một hay là hai?” Ngừng giây lát, Sư lại nói: “Gió thu cũng mở e lộn xộn Thổi sạch bụi đạo giáo năm nay”. Mùa xuân niên hiệu Kiến Viêm thứ ba (1 1 2 9)đời Nam Tống, Sư dạy tăng chúng, nêu lên về nhân duyên “Lâm Tế phó chúc tam thánh lúc thị tịch”. Sư bảo: “Chánh pháp Nhãn tạng lừa mù hủy diệt. Lâm Tế đâu từng nói lời ấy, mà xưa nay mọi người đều vọng truyền. Nếu không tin thì chỉ xem sau tháng ba, đến tháng ba nhuần sẽ có giặc làm loạn, Tăng chúng thỉnh Sư lánh giặc về phương Nam. Sư bảo: “Sở dó học đạo là vì dứt hết sanh tử, sao lại có sự trốn lánh?” Giặc đến , Sư bảo: “Hãy mau giết ta để làm vui thích tâm các ngươi”. Giặc đưa giáo dài giết Sư, tự nhiên một dòng sữa trắng vọt lên, giặc khiếp sợ, lấy chiếu đậy lại, bỏ đi. 1 0/. Truyện Sa-môn Thích Trí Tài trụ chùa Long Nha ở Đàm Châu. Thích Trí Tài, họ Thi, người ở xứ Dã Châu. Từ tuổi nhỏ. Ngài đã siêng năng theo hầu bên cạnh Ngài Phật Giám. Đến lúc du phương, Sư đến tham yết Ngài Hoàng Long Tử Tâm. Hôm sau, Sư vào thất, Ngài Tử Tâm hỏi rằng: “Hiểu được câu đầu tiên tức là hiểu được câu cuối cùng. Hiểu được câu cuối cùng thì hiểu được câu đầu tiên. Đầu tiên cuối cùng gác qua một bên, vậy câu thoại đầu con chồn hoan của Bách Trượng làm sao hiểu?” Sư nói: “Vào cửa đã biết lại kiến giải, đâu cần phải nêu bùn trong bánh xe”. Ngài Tử Tâm bảo: “Tân trưởng lão chết trong tay trên tòa vậy”. Ngài nói: “Ngôn ngữ tuy có khác, chí lý đều không sai”. Ngài Tử Tâm bảo: “Thế nào là việc không khác?” Sư nói: “Chẳng gõ sừng rồng vàng (Hoàng Long), làm sao biết có ngọc dưới cằm”. Ngài Tử Tâm liền đánh. Sư ra hoằng hóa, đầu tiên trụ tại chùa Nhạc Lộc, kế tiếp dời đến chùa Long Nha. Suốt ba mươi năm, Sư lấy sự thanh bạch khổ tiết đối với chúng Tăng, nên chư Tăng rất kính sợ Sư. Sư lại dời đến chùa Vân Khê. Ngày rằm tháng tám năm Mậu ngọ (1 1 3 8) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng; thời Nam Tống, bỗng nhiên Sư nhóm chúng giao phó việc chùa và viết kệ rằng: “Trung thu Mậu Ngọ năm nay Xuất gia trú trì xong việc Sắp đi tự mình còn không có Huống gì hư không có thể tìm!” Mỗi ngày, Sư vẫn dạy chúng như thường. Đến ngày hai ba, Sư lại chỉ bày với chúng rằng: “Niết-bàn, sanh tử đều là hoa đốm giữa hư không. Phật và chúng sinh tất cả là lời nói thêm. Các vị hợp lại phải làm thế nào?” Đại chúng đều nói chẳng khế hợp, Sư quát hét: “Khổ! Khổ!” Lại nói: “Mây trắng từ đất tuôn vọt, trăng sáng lơ lửng giữa trời”. Nói xong, Sư mỉm cười mà thị tịch. Sau khi trà tỳ có xá lợi năm mầu, xây tháp thờ Sư ở phía Tây bắc chùa. 1 1/. Truyện Sa-môn Thích Só Khuê ở chùa Long Tường thuộc Ôn Châu. Thích Só Khuê, hiệu là Trúc Am, họ Sử, ở thành đô. Đầu tiên, Sư nương tựa Hòa-thượng Tông Nhã chùa Đại Từ xin xuất gia. Tâm Sư mê say kinh Lăng-nghiêm. Sau chu du phương Nam, đến tham yết các bậc Tôn túc. Lúc đầu, Sư đến tham yết Thiền sư Hoàng Môn Viễn, đem sở đắc ở lúc đó bạch với Thiền sư Viễn. Thiền sư Viễn bảo: “Ông hiểu tâm đã đến cùng cực, chỉ thiếu năng lực khai mở tai mắt”. Một hôm, đang đứng hầu, Sư lại hỏi: “Tuyệt đối đợi thời như thế nào?” Thiền sư Viễn bảo: “Tương tợ như ông bạch chuỳ ở trong Tăng đường”. Sư chẳng thôi nghó. Tới chiều, Thiền sư Viễn đến Đường Ty, Sư lại đem lý trước ra hỏi, Thiền sư Viễn bảo: “Lời nói nhàn rỗi”. Nghe lời nói ấy, Sư liền đại ngộ. Cuối niên hiệu Chánh Hòa thời Bắc Tống, Sư trú tại chùa Thiên Ninh ở Hòa Châu, đến niên hiệu Thiệu Hưng ( 1 1 3 1- 1163) thời Nam Tống, Sư vâng chiếu ra khai sơn chùa Năng Nhân ở nhạn đảng. Bấy giờ, Chân Hiết Liễu Công ở tại Giang Tâm, sợ Sư duyên chưa chín muồi nên đón đến phương trượng, Sư lễ chín lạy, để dẫn dụ dân chúng Ôn Châu. Do đó, mọi người đều quy kính. Lúc Sư Thượng đường, rõ rõ vô ngộ, có pháp tức mê. Mọi người hướng vào trong đó, không được trụ, không được bất trụ. Nếu đứng thì nguy, nếu trụ thì mù. Phải thẳng ý chẳng dừng, huyền cú chẳng dừng, ý dụng chẳng dừng cơ. Ba thứ đó đã rõ, tất cả chỗ chẳng cần phải thắt mang, tự nhiên hiện tiền. Chẳng cần phải soi chiếu lại tự nhiên sáng tỏ. Tuy là như vậy, nhưng còn phải biết có việc hướng thượng. Sư dựng phất trần, nói: “Ôi! Mưa lâu chẳng tạnh”. Đến ngày mười tám tháng bảy năm Bính dần (1 1 4 6), Sư mời Trưởng lão Tông Phạm đến phó chúc hậu sự. Ngày hôm sau, tắm gội xong, đánh chuông nhóm chúng đến tòa, Sư tự nhiên thị tịch. Lúc cử hành lễ tra- tỳ , tất cả mọi người tiễn đưa đều có được xá-lợi. Tháp thờ Sư được xây dựng ở Cổ Sơn. 1 2/. Truyện Sa-môn Thích An Dân trụ chùa Hoa Tạn ở Kiến Khương. Thích An Dân, tự là Mật Ấn, họ Chu, người ở phủ Gia Định. Lúc đầu, Sư giảng kinh Hoa Nghiêm ở thành đô rất nổi tiếng. Bấy giờ, Ngài Viên Ngộ ở chùa Chiếu Giác. Nhân vậy, Sư đến đó, gặp lúc Ngài Viên Ngộ tiểu tham nêu nhân duyên Quốc sư ba lần gọi thị giả, ngài Triệu Châu niêm rằng: “Như người vào trong chỗ tối viết chữ, chữ tuy chẳng thành, văn thể đã rõ ràng. Vậy đâu là chỗ văn thể rõ ràng?” Sư nghe mà tâm khởi nghi, bèn cáo hương nhập thất. Ngài Viên Ngộ hỏi: “Toạ chủ thường giảng kinh gì?” Sư đáp: “Kinh Lăng- nghiêm”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Trong kinh Lăng-nghiêm có bảy chỗ bày tâm, tám chỗ lại phân biệt rõ cái thấy. Vậy, rốt ráo tâm ở chỗ nào?” Sư liền trình nhiều nghóa, nhưng Ngài Viên Ngộ đều khôngchịu. Sư lại xin Ngài Viên Ngộ chỉ bày cho, Ngài Viên Ngộ khiến cho Sư hiểu được tất cả mọi chỗ làm văn thể đã rõ ràng. Tình cờ gặp vị Tăng đến cầu thỉnh chỉ dạy Thập Huyền Đàm, bèn nêu hỏi vị tăng ấy rằng “Tâm ấn có hình sắc gì?” Ngài Viên Ngộ bèn nói lời nghiêm khắc rằng: “Văn thể đã rõ ràng”. Sư nghe mà mừng vui, tự cho rằng “Đến rồi”, Ngài Viên Ngộ chỉ bày then chốt không sai”. Một hôm, Sư thưa với Ngài Viên Ngộ rằng: “Xin thầy chớ nêu câu thoại, đợi con nói xem”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Được”. Sư nói: “Bình thường cầm, chuỳ dựng phất trần trong kinh, há chẳng nói tất cả các tướng trong tất cả thế giới đều tức là Bồ đề Diệu Minh chân tâm”. Ngài Viên Ngộ cười bảo: “Trước giờ, đối với điều đó ông làm sao”. Sư lại nói: “Lúc xuống gõ giường, há chẳng phải là nghe trở lại tánh nghe, tánh thành vô thượng đạo?”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Ông há không thấy trong kính nói: “Diệu tánh Viên Minh lìa các danh tướng?” Nhân câu nói đó, mà Sư tỏ rõ. Từ đó, Sư bỏ giảng theo hầu Ngài Viên Ngộ. Nhân Ngài Viên Ngộ đến đất Thục, trú ở Giáp Sơn, Sư bèn đi theo. Ngài Viên Ngộ vì chúng tiểu tham nêu: “Nhân duyên buồm xưa chưa treo”, Sư nghe mà chưa lãnh hội, bèn cầu quyết trạch. Ngài Viên Ngộ bảo: “Ông hỏi tôi?” Sư liền nêu câu thoại trước. Ngài Viên Ngộ bảo: “Cây bách trước sân”. Sư liền rõ suốt, bèn thưa với Ngài Viên Ngộ rằng: “Người xưa nói” như một giọt nước nhỏ rơi vào trong biển lớn, thật không biết cả biển lớn nằm trong một giọt”. Ngài Viên Ngộ cười, bảo: “Gã nầy làm sao!” Sư nói kệ rằng: “Thôi khoe Tứ phần, bỏ Lăng-nghiêm Đè xuống vân đầu triệt để tham Chớ học Lượng Công gần Mã Tổ Lại như Đức Kiệu hỏi Long Đàm. Bảy năm qua lại tìm Chiếu Giác Ba thu rong ruổi đến Bích Nham Ngày nay phiền sung Đệ nhất tọa Trăm hoa rừng nội hiện Ưu-đàm”. Sau đó không lâu, Sư khai hội giảng pháp ở chùa Bảo Ninh, rồi dời đến chùa Hoa Tạng, rộng mở mang đạo lý của ngài Viên Ngộ. Sau, Sư thị tịch tại Bổn Sơn, trà-tỳ có rất nhiều xá-lợi. Có người đào huyệt ở đất sâu cả thước cũng có được, xá-lợi rất sáng sạch, trái tim và chiếc lưỡi không tiêu hoại, tất cả đều được xây tháp thờ. 1 3.Truyện Sa-môn Thích Đạo Nguyên trụ chùa Chiếu Giác, ở Thành đô. Thích Đạo Nguyên, hiệu là Triệt Am, họ Đặng, ở Miên Châu. Thuở nhỏ, Sư đến chùa Giáng Tịch xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Sau, Sư đến tham yết Ngài Đại Biệt Đạo, Ngài bảo khán câu thoại đầu “Rỗng không chẳng thánh”. Bỗng nhiên Sư cười nói: “Tổ sư Đạt-ma xưa nay ở trong đó”. Ngài Đại Biệt Đạo bảo Sư tham “Phật Giám, Phật Nhãn đều được thường thức”. Sư lại đến Kim Sơn, gặp ngài Viên Ngộ, bèn trình bày chỗ thấy của mình, ngài Viên Ngộ không chấp nhận. Gặp lúc ngài Viên Ngộ nhận chiếu chỉ đến trụ chùa Vân Cư, Sư bèn theo hầu. Tuy Sư có chỗ vào, nhưng vì vật trong xương ngực chưa tan. Nhân Ngài Viên Ngộ hỏi một vị tăng rằng: “Lúc sanh tử đến thì thế nào?” Vị tăng ấy đáp: “Cái đài hương cười Hòa-thượng!” Ngài Viên Ngộ kế hỏi Sư: “Ông làm thế nào?” Sư đáp: “Giặc cỏ đại bại”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Có người hỏi ông lúc đó thế nào?” Sư nghó định đáp, Ngài Viên Ngộ nói lại, y như cũ: “Giặc cỏ đại bại”. Sư liền thấu triệt, Ngài Viên Ngộ đưa nắm tay đánh Sư, Sư vỗ tay cười lớn. Viên Ngộ bảo: “Ông thấy thế nào, bèn là như vậy”. Sư nói: “Nắm tay độc chưa báo trả, nhiều kiếp chẳng quên”. 1 4/. Truyện Sa-môn Thích Vân Biện ở Nam Phong, thuộc phủ Bình Giang. Thích Vân Biện, người xứ Cô Tô. Đầu tiên, Sư xuất gia với ngài Đoan Phong Chương. Sau, Sư đến tham yết Hòa thượng Khung Lung Viên, Bỗng nhiên có sở đắc bèn thông sở kiến. Hòa-rhượng Viên bảo: “Con tuy được vào mà chưa đến nơi thích đáng, thiết tưởng nên mang lấy roi”. Sư bèn từ bỏ đó, tìm đến khấu bái Ngài Viên Ngộ, gặp lúc nhập thất, vừa đặt chân đến cửa, Ngài Viên Ngộ vội bảo: “Ông xem dưới chân kìa”. Sư đánh cây cột một cái, ngài Viên Ngộ bảo: “Sao chẳng mang thật đạo lấy một câu?” Sư nói: “Nếu thầy lắc đầu, con liền bày đuôi”. Ngài Viên Ngộ bảo: “Ông thử bày đuôi xem”. Sư liền phiên cân đẩu mà ra, ngài Viên Ngộ cười lớn. Do đó mà mọi người biết tiếng Sư. Sau, Sư ra ở Nam Phong, có vị Tăng hỏi: “Thế nào là đoạt người chẳng đoạt cảnh?” Sư đáp: “Bá Vương đến Ô giang”. Vị tăng lại hỏi: “Thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt người?” Sư đáp: “Trúc Đàn bái tướng”. Vị Tăng lại hỏi: “Thế nào là người và cảnh đều đoạt?” Sư đáp: “Muôn dặm núi sông được thái bình”. Vị tăng lại hỏi: “Thế nào là người và cảnh đều chẳng đoạt?” Sư đáp: “Rồng ngâm sương móc khởi, hổ gầm gió sanh”. Vị tăng lại hỏi: “Việc hướng thượng còn có gì nữa chăng?” Sư bảo: “Đích đáng mà sai quá!” Vị tăng ấy nói: “Thật là tác gia”. Sư bảo: “Người hôn mê giữa ban ngày!” 1 5/. Truyện Sa-môn Thích Thiện Ngộ chùa Vân Cư ở Nam Khương. Thích Thiện Ngộ, hiệu là Cao Am, họ Lý, người ở Dương Châu. Năm mười một tuổi Sư xuất gia, sớm có trí tuệ, linh căn tự phát. Nghe Thiền sư Xung nêu câu thoại “Nhân duyên vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Sư Đạt-ma”, Sư như được lại vật xưa cũ, vội nói: “Con đã rỗng không, đâu có thánh nào”. Thiền sư Xung lấy làm lạ về lời Sư nói, bèn khuyên Sư đến phương Nam tìm học. Sư liền đến tham yết ngài Phật Nhãn ở Long Môn. Một hôm, có vị tăng bị rắn cắn, ngài Phật Nhãn hỏi Tăng chúng rằng: “Đã là Long Môn, sao lại còn bị rắn cắn!” Sư liền nói: “Quả nhiên hiện tướng Đại nhân”, ngài Phật Nhãn rất khì trọng. Sau, rao truyền lời đó đến ngài Phật Quả, ngài Phật Quả bảo: “Long môn có vị tăng đó, đạo pháp Đông Sơn chưa lặng lẽ. Ông (Thiện Ngộ) Thượng đường thì tâm sanh các thứ pháp sanh, muôn hình vạn trạng tung hoành. Người tin đưa tay niêm lại, bèn dùng nhật luân canh ba sau giờ ngọ. Tâm diệt thì các pháp diệt, bốn cú trăm phi dứt nẻo, ngay cả Tổ sư Đạt-ma xuất đầu lộ diện cũng chỉ là mạt vàng trong mắt. Vậy tâm sanh tâm diệt, ai là người gốc?” Bèn dắt tay nhau cùng trở về, về đến ruộng đất quê nhà vẫn còn gặp một dùi trên đảnh. 1 6/. Truyện Sa-môn Thích Pháp Trung chùa Hoàng Long ở Long Hưng. Thích Pháp Trung, hiệu là Mục Am, họ Diêu, người ở xứ Tứ Minh. Năm mười chín tuổi, Sư đọc thử kinh mà được xuất gia, học tập giáo ng- hóa Thiên Thai, ngộ được yếu chỉ Nhất Tâm Tam Quán, nhưng chưa hết sạch dấu vết, nên đến tham yết các bậc danh đức. Sau Sư tới chỗ Ngài Hoàng Long, quán sát nước mài xoay chuyển, liền phát sáng. Ngài nói kệ trình với Ngài Phật Nhãn: “Quay bánh xe Đại Pháp, ôm trọn trong mắt”. Sư lại hỏi ngài Phật Nhãn rằng: “Thế nào là nước chảy đá mòn?” Ngài Phật Nhãn bảo: “Đối với việc ấy ông làm thế nào?” Sư nói: “Trong khe nước chảy mãi”. Ngài Phật Nhãn nói: “Ta còn có câu cuối cùng, đợi phân giao cho ông”. Sư liền bịt tai mà đi. Sau, Sư đến Lô Sơn, ở trong Đồng An cây khô, tuyệt thực an tọa thanh tịnh. Vào niên hiệu Tuyên Hoà ( 1 1 1 9- 1126) thời Bắc Tống, ở Tương Đàm hạn hán, cầu đảo chẳng ứng nghiệm, Sư nhảy xuống vực rồng, gọi rằng: “Nghiệp súc sanh phải mưa một thước”. Nước mưa liền theo đến. Ngài thường ở tại Nam Nhạc, luôn cỡi hổ ra đi, các hàng đạo só và Thích tử đều trông theo vết bụi mà bái lạy. Lúc Thượng đường, Sư nói: “Ta có một câu chẳng phải vay mượn từ miệng các bậc thánh, chẳng động đến chiếc lưỡi của chính ta, chẳng phải tiếng hít thở, cũng chẳng phải tình thức phân biệt. Giả sử Tịnh Danh lấp miệng thành Tỳ-da-ly, Phật Thích-ca đóng cửa Thất-ma-kiệt- đà, giống như bít tai trộm linh, không tránh khỏi thiên tai lậu lọt. Ngay như Đức Sơn Lâm Tế đánh hét, nếu đến dưới cửa Mục Am ta thì chỉ được một cây cọc. Ngàn lời, muôn thuyết chỉ cần dạy tự nhà ông hết. Một khi đã dốc lòng thì đất đai hư không có đến bảy lối tám lõm”. Liên quan thử bàn: Ngài Mục Am đã ngộ Nhất Tâm Tam Quán tức đáng tung bụi, vì Thai Giáo mà nhả khí, vì chưa thể sạch hết dấu vết, nên mới du phương gõ cửa các học trò của Tổ sư Đạt-ma. Chính như hương tượng lội qua sông là muốn đạp chân tới đáy. Sở dó như vậy, mới vượt qua long môn, bèn có khả năng nghiêng ao đổ núi. Lớn lao thay! Đời có người học tập Tam Quán mà chỉ tỏ ngộ được một chữ, không biết đó là vật gì, lầm nhận bả rượu là Đề Hồ, chê Bích Quán là hộ giáo. Đó há chẳng phải là con giòi trong thân sư tử ư? Nên Yểm Sơn Tập bác bỏ sách Phật Tâm Ấn của Thai Giáo, quyển sau nên cắt bỏ, vì khiến cho người học bị chướng ngại cửa ngộ, gây nghiệp địa ngục chẳng ít. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH, (QUYỂN 5 HẾT).  <卷>QUYỂN 6 CHƯƠNG III: TU TẬP THIỀN ĐỊNH TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG III (chánh truyện có mười bảy vị, phụ có mười vị). Truyện ngài Sa-môn Thích Pháp Ninh chùa Diên Khánh ở Hoa Đình. Thích Pháp Ninh, vì Sư ở núi Mã Kỳ thuộc Nghi Châu, nên hiệu là Mã Kỳ Sơn. Sư họ Lý, người ở huyện Cử thuộc Mật Châu. Đầu tiên, Sư đến xuất gia với Hoà-thượng Diệu Không Minh ở chùa Thiên Minh thuộc Nghi Châu. Sư được tham yết theo hầu rất lâu và thành đạt tất cả Tông Chỉ của Vân Môn. Khi ra hoằng hóa, Sư trú tại chùa Tịnh Cư ở Nghi Châu, mở rộng đạo lý của Ngài Tuyết Đậu. Vào niên hiệu Thiệu Hưng ( 1 1 3 1- 1163) thời Nam Tống, Sư đến trụ chùa Thanh Long ở Hoa Đình. Mẹ của Trấn Sát Phán Chương Cổn, họ Cao nằm mộng thấy vị trời mách bảo rằng: “Cổ Phật đến”. Ngày hôm sau thì Sư đến, đón rước Sư dừng ở vườn nhà họ Tiền, mới xây dựng tịnh xá. Lúc đào đất có điềm lành gặp được chiếc khánh sắt, đoạn văn bia và tôn tượng Phật. Khi ấy, Hoa Đình Lệnh Liễu ước trình tấu lên triều đình, nên chỗ xây dựng chùa được ban tặng biển ngạch hiệu là “Tịnh Cư”, nhân đó xét Minh Công đến Minh Châu Tuyết Đậu. Bấy giờ, Quận Thú Mạc Tương thỉnh Sư làm tự chủ chùa Cát Tường. Triết Tông Nguyên Phù Dư Sơn có tịnh xá hiệu là Linh Phong. Quận Phù đổi hiệu là “Chiêu Khánh thiền Viện”. Quan Hữu Thừa Chu Ngạc thỉnh Sư làm Khai Sơn, đời thứ nhất. Tự nhiên, Sư dời đến chùa Quảng Tuệ ở Minh Châu, rồi trở về lại chùa Chiêu Khánh. Ngày mồng tám tháng giêng năm Bính Tý (1 1 5 6) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng, Sư tắm gội xong, ngồi thẳng nói pháp rồi từ biệt đại chúng mà thị tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Tháp an trí toàn thân S7 được xây ở phía đông chùa. Truyện ngài Sa-môn Thích Đạo Thành trụ núi Ô Cự ở Cù Châu. Thích Đạo Hành hiệu là Tuyết Đường, họ Diệp, ở Xử Châu. Đầu tiên, Sư xuất gia với Hòa-thượng Anh chùa Phổ Chiếu. Đến lúc du phương, Sư tới tham yết ngài Phật Nhãn. Một hôm, nghe Ngài Phật Nhãn nêu câu thoại đầu “Trúc Huyền Sa vướng ngón chân”, Sư liền đại ngộ, trụ tại Nam Minh, lúc thượng đường gặp ngọc Tiện hội không tỳ vết. Nếu nói chẳng gặp đối chủy sanh hoa, thử hỏi Tổ sư Đạt-ma chín năm xoay mặt vào vách thì làm sao như đại hội niêm hoa? Nam Minh làm thế nào mà chính xác? Đó chính là thuận gió tung cát. Kế đó, Sư dời đến Ô cự, lúc dạy chúng, Sư nêu “Hoà-thượng Ky hỏi một vị tăng rằng “Thiền lấy gì làm nghóa?” Trong chúng tuy trình bày nhưng chưa khế hợp quyết tâm, nên chúng tăng cầu thỉnh Hòa thượng Ky chỉ bày. Hoà-thượng Ky liền đáp thay rằng: “Lấy hủy báng làm nghóa”. Sư bảo: “Các Đức Phật trong ba đời là báng, hai mươi tám vị Tổ ở Tây Vực là báng. Lục tổ ở đất nhà Đường là báng, tất cả các lão Hòa-thượng trong nước là báng, các người là báng, sơn tăng là báng. Vậy ở trong đó còn có ai không phải là báng chăng? Nói huyền nói diệu nhiều như số cát sông Hằng, tranh nhau tợ như hai đỉnh núi cao, báng được gần gũi”. Bỗng nhiên, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, đệ tử là Giáo thọ Uông Kiêu Niên đến thăm, Sư bèn giao phó cho hậu sự và nói kệ rằng: “Biết thì biết sự Bổn tâm Thấy thì thấy sự Bổn tánh Biết được Bổn tâm Bổn tánh Chính là bệnh lớn Tông môn”. Sư lại chú thích rằng: “Trong bùn vữa có gai, chớ nói không nghi là tốt”. Ngày hôm sau, Sư tắm gội, thay y phục, ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Trà-tỳ có được xá-lợi năm mầu. Những nơi hơi khói quyện tới đều có xá-lợi vấn quanh. Răng và lưỡi không cháy, Tháp thờ Sư được xây ở phía Tây chùa. Truyện Sa-môn Thích Thủ Tuần ở núi Hà, châu An Cát. Thích Thủ Tuần, hiệu là Phật Đăng, họ Thi, ở Quận Chi. Ban đầu, Sư tham yết ở Hoà-thượng Anh ở chùa Quảng Giám, nhưng không khế hội, bèn đến tham yết ngài Phật Giám, theo chúng thưa hỏi cầu thỉnh, nhưng không nhập được, bèn phong bít khăn trùm, và tự nói rằng: “Đời này nếu chẳng thấu triệt đi thì chẳng mở khăn này”. Từ đó, suốt ngày liền đêm, Sư đứng như chịu tang cha mẹ, suốt bốn mươi chín ngày. Bỗng nhiên Ngài Phật Giám thượng đường, dạy rằng: “Sâm la và muôn tượng là chỗ ấn của một pháp”, Sư nghe thế liền đốn ngộ, Ngài Phật Giám bảo: “Thật đáng tiếc một viên ngọc sáng bị gả điên khùng kia nhặt được, bèn hỏi vặn rằng: “Linh Vân nói kể từ khi thấy được hoa đào nở cho đến sau này không bao giờ còn nghi ngờ, vậy thế nào là chỗ ông ta không nghi ngờ?”. Sư nói: “Chớ bảo rằng Linh Vân không nghi ngờ, chỉ vì nay tìm chỗ nghi ngờ ấy không bao giờ được!”. Giám nói: “Đạo Đế của Huyền Sa phải xét kỷ, dám bảo lão huynh chưa triệt ngộ, vậy đâu là chỗ ông ta chưa triệt ngộ?”. Sư nói: “Biết tâm từ bi của Hòa-thượng rất tha thiết”. Phật Giám cho là đúng. Sư bái lạy rồi trình kệ rằng: “Trọn ngày nhìn trời đầu chẳng ngẩng Hoa đào nở rực mới nhướng mày Nhiều kẻ còn cho lưới trời bủa Thấu được Lao quan liền thôi nghỉ!” Đại Giám ngợi khen, bảo nên hộ trì. Đêm đó vén chăn đắp nói rằng: “Nãy giờ Thượng tọa Tuân đã yên ổn ngủ rồi, Viên Ngộ tôi nghe trộm nghi ông ấy chưa được”. Bèn nghó: Ta phải khám nghiệm qua mới được, “bèn bảo người vời Sư đến, nhân đó cùng dạo núi, tình cờ đến một đầm nước, Viên Ngộ xô Sư ngã xuống nước và vội hỏi rằng: “Ngưu Đầu lúc chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào?”. Sư nói: “Đầm sâu cá tụ hội”. Hỏi: “Sau khi thấy rồi thì thế nào?”. Sư nói: “Cây cao vời gió thổi”. Hỏi: “Lúc thấy và lúc chưa thấy thì thế nào?”. Sư nói: “Duỗi chân đứng, co chân trong”. Viên Ngộ rất khen ngợi. Về sau, Sư ra hoằng hóa, đầu tiên đứng đầu ở Hòa Sơn, kế đến là Thiên Thánh, rồi dời đến núi Hà, và Thiên Minh. Đến năm Giáp dần (1 1 3 4) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng, Sư nói với Cư só Trịnh Tích rằng: “Ngày mồng tám tháng mười là ngày húy kî Ngài Phật Giám, lúc ấy ta sẽ đến”. Nói rồi trở về Chướng Nam. Đến ngày mồng bốn tháng mười, Trịnh Tích sai em là tăng Đạo Như đến thăm hỏi, Sư nói: “Ngươi tới đúng lúc. Tôi tuy cùng Phật Giám đồng điều sanh, nhưng chẳng đồng điều Tử. Sáng sớm ngày mai, ngươi hãy tìm một chiếc thuyền nhỏ đem đến cho ta”. Đạo Như nói: “Cần dài bao nhiêu, cao bao nhiêu?”. Sư nói: “Cao khoảng năm thước”. Trải qua ba ngày đến lúc gà gáy, Sư ngồi thẳng như lúc bình thường, Thị giả xin kệ, Sư nói: “Chưa từng làm kệ”. Nói xong bèn thị tịch, sau khi trà-tỳ, chiếc lưỡi không cháy. Truyện Sa-môn Thích Viên Giác ở núi Tượng Nhó thụôc My Châu (Phật Tánh) Thích Viên Giác là con nhà họ Viên ở trong Quận, xuất gia tại chùa Truyền Đăng, vốn tên là Viên Giác, Quận Thú điền vào Từ Điệp ghi nhầm chữ “Viên”. Thú nghi ngờ, nhân đó nói đùa rằng: “Gọi một chữ có được không?”. Đáp rằng: “Một chữ đã là nhiều”. Quận Thú lấy làm lạ. Rồi Sư đến Đại Quy, nương Hòa-Thượng Phật Tánh nhập thất, trình bày sở kiến, Phật Tánh nói: “Ông sai lầm còn xa”. Rồi cho sung vào thị ty, coi về tân khách. Phật Tánh thường nêu bốn chữ “Khai thị ngộ nhập” của Kinh Pháp Hoa, bảo Sư hãy nói. Lại bảo, đến lúc đầu ta đen, lý của ông mới đúng. Tình cờ mất chức bị đuổi, trong chế định không nơi nương tựa, bèn đến ngụ tại nhà thế tục. Một hôm, tụng Kinh Pháp Hoa đến câu “Chẳng biết thế nào là lửa, thế nào là nhà” Sư bỗng có tỉnh ngộ, trở lại chùa thưa với ngài Phật Tánh, ban đầu ngài chấp nhận, sau Sư đến chỗ Vân cư thấy Viên Ngộ bèn thuật lại sở đắc. Viên Ngộ chê trách rằng: “Vốn là Đất sạch, vậy cứt đái là gì?”. Ngay đó Sở nghi liền tan biến. Năm Đinh mão, nhằm niên hiệu Thiệu Hưng (1 1 4 7) Quận Thú mời Sư đến ở núi Tượng Nhó, Đạo pháp phát huy mạnh mẽ. Các bậc anh tuấn túc đức Hồng Nho nghe được phong cách Sư bèn đến lễ yết. Thất không chỗ chứa, mở giảng đường từ biện, nghiêng sông Hạp tích, tòng lâm thật xứng, không rõ về sau Sư thị tịch ở đâu! Châu Truyện Sa-môn Thích Đàm Hoa ở Thiền Đồng thuộc Minh Thích Đàm Hoa tự là Ứng Am, vốn con nhà họ Uông ở Kỳ Châu, vừa mới sanh mà Sư đã khác thường, chẳng giống như những đứa trẻ bình thường khác. Năm mười bảy tuổi, Sư xuất gia với ngài Đông Thiền, đầu tiên yết kiến Hòa thượng Toại, hơi được nhiễm chỉ pháp vị. Từ đó tham vấn các vị tri thức, không được khế ngộ. Nghe Viên Ngộ trụ ở Vân cư giáo hoá người học, Sư tìm đến tham lễ nương tựa. Viên Ngộ bèn cho một chuỳ thật đau. Gặp Viên Ngộ trở lại đất Thục, chỉ thấy Thiền sư Long ở Hổ khâu, Sư hầu ở đó một năm, chóng tỏ rõ đại sự, rồi phỏng hỏi Am nguyên nầy vốn bảo phân tòa, từ đó mở Đường Diệu Nghiêm, dời Qui tông. Bấy giờ, Đại Tuệ ở Mai Dương, có vị tăng truyền lời Đàm Hoa để dạy chúng. Đại Tuệ thấy vậy hết lời khen ngợi, lại gởi một bài kệ rằng: “Ngồi dứt Kim Luân ngọn thứ nhất Trăm yêu ngàn quái đều ẩn dấu Năm đến lại được tin tức thật Báo Đạo Dương Kỳ chánh mạch thông” Ngày húy kî Hổ Khâu, niệm hương rằng: “Lúc bình sanh chìm nổi khua động lão hán vô ý trí ấy, làm hết tài năng, thấu bạc chẳng được, từ đó chấm dứt chiến tranh, tùy phận mặc áo uống ăn, hai mươi năm nay ngồi giường khúc lục, treo đầu dê bán thịt chó, rất có bằng chứng để biết điều đó. Tuy nhiên mỗi năm một lần có ngày đốt hương, Ngàn xưa khiến người hận càng sâu!” Ở đời tôn xưng Đàm Hoa và Am Cảo là hai cửa cam lồ. Thường răn bảo đồ chúng rằng: “Nạp tăng mang giầy cỏ, ở tại viện, có sự gì mà miệng như Rùa, rắn, ghét hang ư?”. Ngày mười ba tháng sáu niên hiệu Long Hưng thứ nhất (1 1 6 3) đời Tống, Sư an nhiên viên tịch. Xây tháp an táng toàn thân ở Đông sơn. Truyện Sa-môn Thích Đức Quang ở chùa Linh Aån thuộc phủ Lâm An (Quang hóa cát nguyệt am cảo bách trượng chấn) Thích Đức Quang, được ban hiệu là Phật Chiếu, vốn con nhà họ Quân Bành ở Lâm Giang. Tuổi có chí học đến nương Hòa-thượng Cát chùa Quang Hóa ở bổn quận, cạo tóc thọ giới Cụ túc. Một hôm Sư vào thất, Hòa-thượng Cát hỏi rằng: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, lại chẳng phải là vật, thì là cái gì?”. Đức Quang mịt mờ suốt đêm không ngủ. Ngày sau lại đến Phương trượng thưa rằng: “Hôm qua Hòa-thượng rũ hỏi: Đã là chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, lại chẳng phải là vật, vậy rốt cuộc là cái gì?, cúi mong từ bi chỉ dạy cho con!”. Hoà-thượng bèn chấn uy hét rằng: “Sa-di này lại muốn ta cùng ông cúi xuống chỉ bày dưới chân sao?”. Bèn cầm gậy đánh vào lưng đuổi ra. Từ đó có chút tỉnh ngộ. Kế đến lần lượt yết kiến Nguyệt Am Cảo, Ứng Am Hoa Bách Trượng Chấn, đều không có chỗ vào. Vừa lúc Đại Tuệ vâng theo Thánh chỉ trụ tại chùa A Dục Vương ở Minh Châu, anh tài bốn biển đều nhóm họp, Đức Quang cũng vội vào thất, Đại Tuệ giơ cao trúc bề hỏi rằng: “Gọi là trúc bề thì xúc, không gọi là trúc bề thì trái, không được nói, không được không nói”. Đức Quang suy nghó định đáp. Đại Tuệ bèn dùng gậy đánh. Đức Quang hoát nhiên Đại ngộ. Tất cả sở đắc từ trước đến nay thảy đều như ngói vỡ băng tan. Sư hầu ở đó trong thời gian lâu. Vua Hiếu Tông, đời Tống ( 1 1 6 3- 1190) cảm mến đạo hạnh của Đức Quang, bèn ban chiếu cho Sư trụ chùa Linh Aån. Một hôm, vua vời Sư đến thưa hỏi, đối đáp rất xứng ý chỉ, bèn lưu giữ ở tại Nội Quán Đường. Về sau Sư thị tịch, xây tháp an tán toàn thân ở Đông am. Truyện ngài Sa-môn Thích Tổ Giác chùa Trung Nham ở My châu (Tuệ nhật năng nam đường tỉnh) Thích Tổ Giác người họ Dương ở Gia Châu. Từ nhỏ đã thông minh mẫn tuệ, sách sử qua mắt một lần là thuộc lòng, bèn viết sách bài xích Phật giáo, bổng nhiên cảnh xấu ác hiện ngay trước mắt, vô cùng kinh sợ ăn năn lỗi lầm. Sao đó Sư xuất gia nương theo Hòa-thượng Tuệ Nhật Năng, không bao lâu bị mụn nhọt mọc ở đầu gối, suốt năm năm thầy thuốc chữa trị chẳng lành, nhân đó soạn “Hoa Nghiêm Hiệp Luận” xong, đêm đó bèn chiêu cảm mộng lạ, sáng sớm bèn bỏ gậy đi giầy. Vì trước đó một ngày tụng đến “Phẩm Hiện Tướng”, trang đó nói rằng: “Thân Phật không có sanh mà có khả năng thị hiện xuất sanh, pháp tánh như hư không, các Đức Phật an trụ trong đó, không trụ cũng không đi, nơi nơi đều thấy Phật”. Bèn ngộ được Tông chỉ của Hoa Nghiêm, đến đó mới đăng vào tăng tịch. Phủ soái thỉnh giảng ở Thiên Bộ Đường, mà từ biện rộng lớn, đại chúng đều khâm phục. Vừa lúc Thiền sư Tỉnh ở Nam Đường qua cửa ấy bảo rằng: “Xem ông giảng nói riêng một mình rảo bước khắp Tây Nam, chỉ tiếc chưa hiểu lìa tướng văn tự, thảng có thể hỏi đạo phương ngoại, tức Chu Kim Cương hiện nay”. Tổ Giác vui mừng bỏ giảng, đi về phía Nam đến Thiền xã, bèn nương tựa Viên Ngộ ở Chung phụ. Một hôm, Sư vào thất, Viên Ngộ nêu rằng: “La sơn bảo lúc có nói thì đạp đầu hổ nắm đuôi hổ, dưới câu thứ nhất rõ được Tông chỉ, lúc không nói thì đi thấy lộ cơ phong, đồng như điện chớp, làm sao hội”. Tổ Giác không trả lại được, sớm hôm tham cứu, chợt có tỉnh ngộ, làm kệ trình rằng: “Nhà ở đảnh núi cao Quanh năm khép cửa hờ Tự than thân đã già Kế sống đợi cháu con!” Viên Ngộ chưa chấp nhận. Ngày khác Sư lại vào thất, Viên Ngộ hỏi Công án hôm qua làm như thế nào, Tổ Giác suy nghó định đáp, Viên Ngộ bèn quát: “Phật pháp đâu phải thứ đạo lý ấy”. Tổ Giác ở lại đó năm năm, càng thêm mê muội. Sau đến gần gũi ngài Thê Hiền ở Lô sơn, xem “Phù sơn viễn tước chấp luận”, rằng: “Nếu nói Viên Ngộ có ý niệm thân sơ thì làm sao có Chiên đàn trong rừng lại mọc cỏ hôi ?” mới hoát nhiên đại ngộ, bèn làm kệ gởi cho Viên Ngộ rằng: “Ra rừng y cũ vào Bồng hao Lưới trời lồng lộng thoát được nào Ai tin duyên nghiệp không chỗ tránh Trở về chẳng sợ tiếng nói cao!” Đại Tuệ vui mừng, lấy đó để dạy chúng, bảo rằng: “Tổ Giác đã triệt ngộ Hoa Nghiêm”. Từ đó mọi nơi đều tôn xưng Sư là “Giác Hoa Nghiêm”. Sư lên pháp đường, có vị tăng hỏi: “Trước lúc Phật Oai Âm Vương và sau cùng Phật Lâu Chí chưa ra đời thì tham kiến ở người nào?”. Tổ Giác nói: “Nhà ở thành Đại Lương, lại hỏi đường ở Trường An!”. Vị tăng lại hỏi: “Thế nào là một tiếng hét như kiếm báu Kim Cương vương?”. Sư nói: “Máu chảy khắp cõi Phạm Thiên,”, hỏi:”Thế nào là một tiếng hét như sư tử ngồi ổm trên đất? Tổ Giác nói: “Sợ giết chồn hoang!”. Vị tăng lại hỏi: “Thế nào là một tiếng hét như dò tìm báng cỏ?”. Tổ Giác nói: “Nghiệm được từ xương của ông ra!”. Hỏi: “Thế nào là một tiếng hét không có công dụng của một tiếng quát hét?”. Tổ Giác nói: “Phải ngay biết nắm lấy ngay kim khâu người chớ nói uyên ương có lông cánh đẹp”. Liên hệ thử bàn: Tổ Giác Hoa Nghiêm đã có tiếng ở Giảng Tịch, Nam đường qua đó mà hỏi bày cố gắng, Sư liền bỏ giảng, đi về phía Nam. Đó chính chỗ gọi là thấy bóng roi liền đi, há chẳng là tài giỏi ư? Còn như bị Viên Ngộ đánh dùi vào cổ. Tuy hồn bay mà mạng căn chưa dứt, còn nương thức kiến. Trình kệ lại bị Viên Ngộ hét, ngay như bị khí sách, năm năm mới đại triệt ngộ. Ôi! Những bậc làm thầy của người ngày xưa, đợi học trò chín muồi như trong tro lạnh phát lửa, chết rồi sống lại, mới chịu điểm đầu. Không hề khinh suất mà hại đến người! Người đời nay, mới thấy kẻ hậu sanh có chút lanh lợi bèn tự tiện bảo chọn Công án, làm được bài kệ liền khen thưởng thì chẳng những đây kia đều mù mà! Tội ác giết người thì nhỏ, tội ác hại người rất lớn. Ai là người khéo giỏi diễn giảng, thì phải lấy gương của Tổ Giác Hoa Nghiêm đây để làm khuôn phép! Châu Truyện Sa-môn Thích Tự Hồi ở Đài Điếu Ngư thuộc Thai Thích Tự Hồi hiệu là Thạch Đầu, vốn người ở Lâm Hải, ở đời làm nghề đục đá. Người đời gọi là Hòa-thượng Thạch Đầu. Mắt như rùa mù, không biết một chữ. Gốc lành từ trong khởi phát, chí kính mến Không tông, nhờ người khẩu truyền cho Kinh Pháp Hoa mà tụng thuộc lòng. Sư bèn bỏ nhà đến chỗ Hòa-thượng Đại Tùy làm việc quét tước. Trong chùa bảo lấy đá ở sườn núi để làm việc công, tự hồi tay chẳng lìa dùi đục, miệng đọc kinh không dứt. Hòa thượng Đại Tùy thấy thế nói: “Ngày nay soang soảng, ngày mai cũng soang soảng, sanh tử đến thì làm sao để chiết hợp?”. Tự Hồi ngạc nhiên làm lễ, nguyện xin được nghe Pháp rốt ráo. Hòa-thượng Đại Tùy bảo bỏ việc tụng kinh, khán nhân duyên Triệu châu khám bà tử. Từ đó niệm niệm tham cứu lâu ngày, một hôm đục đá, đá cứng bèn vận dụng sức lực đập mạnh một dùi, tia lửa phát ra, bỗng nhiên triệt ngộ, liền chạy mau đến phương trượng lễ bái trình kệ rằng: “Dụng hết công phu rõ ràng không lỗ mũi Tia lửa vụt choé vốn ở trong đó!” Hòa thượng Đại Tùy vui mừng bảo: “Ông đã triệt ngộ”. Tự Hồi lại thuật kệ khám bà: “Ba quân chẳng động cờ sáng loáng Lão bà chính là chân ma vương Triệu châu không chuôi sắt chổi quét Quét rộng khói bụi không tiêu sạch” Hòa thượng Đại Tùy chấp nhận, bèn cạo tóc, trao truyền tăng phục. Sau, Sư ra hoằng hóa, trú tại Đài Điếu Ngư, thượng đường dạy rằng: “Tham thiền học đạo phần nhiều vì như ngồi đáy giếng kêu vang khát nước, lấp tai, bít mắt, trốn lánh không kịp. Vả lại, một ngày trong suốt mười hai tiếng đồng hồ đi đứng nằm ngồi, tới lui làm các việc là do ai sai làm, mắt các ông thấy, tai các ông nghe chỗ nào chẳng phải là lộ đầu. Nếu biết được lộ đầu tức là chỗ Đại giải thoát, mới biết Lão Hán cùng các ông chứng minh, núi sông đại địa chứng minh cho các ông. Do đó, nói rằng các Đức Phật mười phương chỉ một đường hướng đến cửa Niết-bàn. Các nhân giả! Hễ có một vật ngay đường thì phải thấy cội gốc của một vật ngay đường, một vật không nơi chốn thì phải thấy cội gốc của một vật không nơi chốn. Thấy được cội gốc, vốn không chỗ cội nguồn, chỗ cội nguồn đã chẳng có thì nơi nào chẳng viên mãn. Các vị Thiền đức các ông, xem Lão Tăng có chỗ rất hơn các ông. Các ông có chỗ rất chẳng bằng Lão Hán. Hiểu được hồ rộng ba mươi sáu ngàn khoảnh, bóng trăng ở tại tâm sóng, nói xoay về ai? Liên hệ thử bàn: Xem Đại sư Tự Hồi vốn nghiệp sanh ra đã tầm thường lại vụng về, với chí học Phật thì đã nhạy bén lại siêng năng. Ban đầu còn mê thì tròng có mắt như mù, sau ngộ thì toàn thân tức là nhãn (mắt). Còn như nói kệ bàn thiền, phần nhiều có phong cách vượt hẳn xưa nay. Được cái không thể có lại khởi chăng? Giả sử Tự Hồi ngồi đọc hết năm xe, xuất cùng ba tạng, lại không có hiện tượng của một chùy mà té lửa phát sáng ư? Tất cả thiên hạ hễ trị càng thịnh thì loạn càng khởi, học càng rộng thì chấp càng chặt. Nên người xưa bác bỏ cho đó là tạp độc nhập tâm, thật có việc ấy. Đối với những kẻ só lòng gấm miệng thêu, những vị tăng văn rồng nghóa hổ, cười đời hay vì đề xướng hư tâm khắp thường dân, đầu tự trái với kim cương. Sao lo dầu không sanh ra mì, đạo không có người thân của ta ư? Do đó những kẻ tìm gió đuổi bóng chẳng đáng ngu dốt, chê Phật mắng Tổ, đâu là kẻ thấp hèn. Hoặc chấp chặt với sự thấy biết, chỉ rối loạn so lường, lại chẳng như ngọc cứng dễ mài giũa. châu Truyện Sa-môn Thích Cư Tónh trụ chùa Hộ Thánh ở Đồng Thích Cư Tónh hiệu là Ngu Khâu, con nhà họ Dương ở thành đô, năm mười bốn tuổi Sư theo sa-môn An Tuệ chùa Bạch Mã xuất gia. Nghe Thiền sư Nam Đường Đạo phong vang xa nên Sư đến yết kiến. Nam Đường nêu thoại đầu “Rồng kêu trong cây khô” của Hương Ng- hiêm để vặn hỏi. Cư Tónh nhân nơi lời nói ấy mà đại ngộ. Một hôm, Nam Đường hỏi rằng: “Chớ giữ non lạnh khác cỏ xanh, ngồi ngây mây trắng Tông chẳng diệu. Ông phải làm sao?”. Cư Tỉnh nói: “Phải lưu kiếm ngay, nếu chẳng lưu kiếm thì Ngư phủ sẽ nương bến”. Nam Đường chợt bảo: “Đứa tớ ấy Cư Tónh trân trọng thực hành”. Về sau Sư ra hoằng hóa, trú tại Đông nham, thường vì chúng dạy rằng: “Tham học chí yếu không vượt ngoài câu nói đầu tiên và câu nói cuối cùng của tiên sư Nam Đường, thấu vượt qua đó thì mọi việc của một đời được hoàn tất. Nếu chưa được như vậy thì lại cùng các ông chia làm mười môn, mỗi môn đều ấn chứng tự tâm, lại được ổn đáng: 1/ Phải tin có truyền riêng ngoài giáo. 2/ Biết có truyền riêng ngoài giáo. 3/ Phải hiểu vô tình nói Pháp và hữu tình nói pháp vốn không hai 4/ Phải thấy tánh như thấy vật trong lòng bàn tay, rõ ràng phân minh, mỗi mỗi điền địa ổn mật. 5/ Phải có mắt chọn pháp. 6/ Phải thực hành đường chia là đường mầu nhiệm. 7/ Phải văn võ đều cứu giúp. 8/ Phải tồi tà hiển chánh. 9/ Phải Đại có Đại dụng. 1 0/ Phải hướng về Dị loại mà thực hành. Hễ muốn tiếp nối làm sáng ngời dòng dõi giáo phá thì phải đủ hết các môn cương yếu ấy mới ngồi được ở giường khúc lục, nhận sự lễ bái của mọi người trong thiên hạ, dám làm thầy của Phật Tổ. Nếu chẳng đạt đến điền địa nào, chỉ một hướng hư đầu thì một ngày nào đó Diêm- ma Lão tử cũng chưa tha các ông. Lại nói kệ rằng: “Mười môn cương yếu tay Ta ban Hiểu được sau nầy tự có làm Đã làm, chẳng cần bày vị thứ Đầu đuôi thảy đều là nền tảng” Châu Truyện Sa-môn Thích Di Quang chùa Giáo Trung ở Tuyền Thích Di Quang hiệu là Hối Am, là con út trong nhà họ Mân, sanh ra ít nói cười, nghe Tăng bối Phạm thì vui mừng. Năm mười lăm tuổi Sư xuất gia với Thiền sư Văn Tuệ. Chưa nghiên cùng các sách trong Hải tạng. Một hôm Sư nghó rằng: “Cạo tóc nhuộm áo, phải kỳ hẹn triệt ngộ mà lại say mê sách vở thế tục ư?” , bèn đầu thành yết kiến Đại sư Viên Ngộ, kế đến tham vấn Hoàng Bá, rõ ngộ Cao Am, cơ ngữ đều khế hợp. Vì hoài sở thầm khởi quy y Phật tâm. Gặp lúc Đại Tuệ trú tại xứ Quảng, nhân đó bèn theo. Đại Tuệ bảo: “Ông ở chỗ Phật tâm thành đạt được gì, thử nêu một vài điều xem”. Sư nói: “Phật tâm thượng đường, niêm công án của khổ hóa rằng, nói “Phật tâm tức chẳng phải thế”. Đều chẳng lúc nào đến, cớ sao bày cột sống liền đánh, theo giáo phân thân khắp các cõi”. Đại Tuệ hỏi: “Ý ông thế nào?”. Sư đáp: “Tôi không chấp nhận”. Về sau, dưới đầu có cước chú, Đại Tuệ nói: : “Đó chính là vì bịnh mà bỏ Pháp”. Sư vẫn cương quyết không tin vừa ý. Đại Tuệ nói: “Ông hãy đoán xem”. Sư vẫn cho rằng chẳng phải như thế. Trải qua một tuần, nhân ghi Hải ấn Tín công niêm rằng: “Tiếng sấm vang, mưa lớn rơi hoàn toàn vô”. Sư mới không mắc kẹt, chạy đến bảo với Đại Tuệ khắp Đạo giả thấy lang da đều là Huyền sa chưa thấu triệt. Đại Tuệ hỏi vặn lại, Sư đối đáp xong. Đại Tuệ cười nói: “Tuy có tiến một bước, chỉ chẳng chấp sở tại. Như người chặt rễ cây, một lát dao bủa xuống thì mạng căn không còn. Ông chỉ chặt trên cành, nó có thể đoạn mạng căn được ư? Nay khắp nơi mênh mông nói Thiền, chỗ thấy đều là như vậy. Đâu ích lợi gì đến sự! Chánh truyền của Dương kỳ chỉ ba bốn vị mà thôi”. Sư suy nghó bỏ đi. Hôm sau, Đại Tuệ hỏi: “Ông còn nghi chăng?”. Đáp: “Không còn nghi”. Đại Tuệ nói: “Chỉ như Người xưa thấy nhau, chưa đợi nghe miệng nói đã biết được hư thật. Hoặc nghe lời người nói liền biết cạn sâu. Lý ấy thế nào?”. Sư hoảng sợ tự nhiên đổ mồ hôi, chẳng biết chỗ đến. Đại Tuệ bảo tham câu thoại “Hữu cú vô cú”. Đại Tuệ đến am Vân môn, Sư cũng đi theo hầu. Một hôm, Sư hỏi rằng: “Tôi đến trong đó chẳng thể được thấu triệt, bệnh ở chỗ nào?”. Đại Tuệ nói: “Bệnh ông rất nặng, thầy thuốc ở đời đều bó tay. Sao kẻ khác chết rồi chẳng được sống, nay ông toàn sống chưa từng chết, cần đến Điền địa an vui hoàn toàn, phải là một lần chết rồi sống lại mới được”. Nghi tình trong Sư càng thêm sâu nặng. Về sau vào thất, Đại Tuệ hỏi: “Ăn cháo rồi, rửa chén bát rồi, bỏ ngay thuốc kî đạo, đem một câu đến”. Sư nói: “Xé rách”. Đại Tuệ liền nghiễm giọng hét: “Ông lại nói thiền”. Sư liền đại ngộ. Đại Tuệ liền đánh trống bảo với đại chúng rằng: “Lông rùa nắm được cười nức nở Một chạm muôn trùng cửa ải mở Mừng quýnh bình sanh ở ngày nay Ai bảo ngàn dặm bán Ta đến” Sư cũng trình kệ rằng: “Bức bách đương cơ giận sấm vang Sợ dấy Tu-di dìm Bắc Đẩu Sóng lớn mênh mông vỗ ngợp trời Nắm ngay lỗ mũi bỏ mất mồm” Từ đó, danh tiếng vang khắp nơi, đạo thấm nhuần kẻ tăng người tục. Khi Sư ra hoằng hóa, trú tại chùa Giáo Trung. Biện hương vì Diệu hỷ niêm xuất. Đó là biết vốn vậy ư? Liên hệ thử bàn: Hễ là bậc thầy người phải có hai Pháp mới có khả năng ngồi giường khúc lục: 1/ Rõ biết kỹ nhãn (nắm bặt được tầm nhận biết của chính mình) 2/ Xem xét gốc bịnh. Nếu chính mình còn chưa tự rõ, đang phải kéo gông mang cùm, thì làm sao có thể vì người mà tháo niêm mở trói? Chẳng biết được gốc bệnh là chưa khỏi thấp hèn xấu xa giết người. Do đó phải nương gá lâu dài ở lò rèn, chưa thể thoát thai làm thành vật dụng. Đó chẳng phải tội của người học. Hễ là người học Đạo cũng phải có hai Pháp mới có thể nghiệm chứng được thoại đầu của Thiện trí thức trong thiên hạ: 1/ Tự chẳng biết đủ 2/ Chết đi sống lại. Nếu dễ biết đủ thì cho mắt cá là châu ngọc. Còn nếu chẳng chết đi sống lại thì mạng căn sanh tử chưa dứt. Do đó phải lâu dài vào nơi “Trường chọn người làm Phật”, chẳng thể tâm không mà thi đậu. Đó chẳng phải tội của bậc Thầy. Cho nên Diệu Hỷ một đời chẳng chịu, về già đến thất của Xuyên cần, thẳng lên thềm Thất địa Hoa Nghiêm, có đúng thế không? Nay Hối Am đem khôi hài để tham Thiền, chưa từng một phen Đại tử. Nếu chẳng phải tay mổ rồng của Diệu Hỷ mà chẳng quý mắt cá, hiếm thay! Nên bị Đại Tuệ hét cho một tiếng, ngay đó táng thân mất mạng, bèn có thể đối trước chúng làm con trùng Oách Minh rống lớn tiếng, há không sung sướng ư? Than ôi! Ở đời những kẻ ngang bướng lanh lợi, không ai chẳng mắc bệnh nguy nan như Hối Am, như kẻ cuồng điên mất tâm chẳng thể trị liệu rất nhiều, từng chưa uống chén thuốc của người cha làm thầy thuốc giả chết. Vả lại gấp muốn vì người chỉ lối mê chẳng cũng sai lầm ư? Châu Truyện Sa-môn Thích Đạo Nhan trụ chùa Đông Lâm ở Giang Thích Đạo Nhan hiệu là Vạn Am, vốn con nhà họ Tiên Vu, ở Đồng xuyên. Ban đầu, tham học với Đại sư Viên Ngộ chỉ Đăng đường chưa thể tạo huyền ảo. Viên Ngộ sắp về xứ Thục, gởi thư cho Đại Tuệ rằng: “Đạo Nhan vẽ xong rồi, chỉ chưa vẽ tai mắt. Ngày khác nối pháp rồi chưa thể lường được? Từ đó sớm tối chất nghi nơi Đại Tuệ, mới Đại triệt ngộ. Từ đó, tiếng tăm vang khắp xa gần, kẻ tăng người tục đều được giáo hóa. Có vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?”. Đạo Nhan đáp: “Hòa-thượng Chí công”. Hỏi: “Có người học hỏi Phật, sao đáp Chí công”. Đạo Nhan nói: “Chí công chẳng phải Hòa thượng nhàn rỗi”. Hỏi: “Thế nào là Pháp?”. Đạo Nhan nói: “Lụa vàng ấu phụ ngoại tôn Tẩn cối”. Vị tăng nói: “Rất là chương cú”. Đạo Nhan nói: “Câu cá trên thuyền, cảm tạ Tam lang”. Hỏi: “Thế nào là nói thẳng?”. Đạo Nhan nói: “Hòa-thượng Huyền sa”. Đạo Nhan hễ có nói Pháp đại khái đều giản dị như thế. Châu Truyện Sa-môn Thích Đỉnh Nhu chùa Tây Thiền ở Phúc Thích Đỉnh Nhu hiệu là Lại Am, vốn con nhà họ Lâm, ở Quận Chi. Thuở nhỏ theo nghiệp Nho học, thi đậu Tiến só, tới cửa quan có tiếng. Năm hai mươi lăm tuổi, nhân đọc kinh Di giáo, chợt tỉnh, liền nói:”Dường như Nho quan là sai lầm!”. Liền muốn bỏ tục, người mẹ khó đích thân đón rước đúng lúc. Đỉnh Nhu mỉm cười dứt tuyệt, nói rằng: “Đào tươi mận đỏ một thời đón gió xuân, trúc xanh hoa vàng từ đây trở đi vónh viễn làm bạn Đạo”. Bèn nương theo Bảo Thọ Lạc Công làm Đại tăng, tham vấn khắp các bậc Danh túc, trở về làng kết am Khương Phong ba năm, thường đem câu thoại đầu “Tức tâm tức Phật” hỏi cùng học giả. Bấy giờ, am Diệu Hỷ ở Dương tự, Hối Am có Di Quang hầu. Riêng đưa thư vời Đỉnh Nhu nói rằng: “Chủ am này thủ đoạn cùng các nơi khác nhau, hãy đến thiếu sót như thế nào?”. Đỉnh Nhu chẳng đáp. Di Quang dùng kế mời đến, gặp lúc Diệu Hỷ vì chúng nhập thất. Đỉnh Nhu muốn theo Diệu Hỷ mà thôi. Diệu Hỷ nhân đó nêu: “Có vị Tăng hỏi Mã Tổ: “Thế nào là Phật?”. Mã Tổ nói: “Tức tâm là Phật”. Vậy ông làm sao?”. Đỉnh Nhu nói, Diệu Hỷ mắng rằng: “Kiến giải của ông như vậy, mà dám vọng làm thầy người ư?”. Mới đánh trống cho đó là tà giải. Đỉnh Nhu rơi lệ hai bên má chẳng dám ngước nhìn lên, tự im lặng nghó rằng: “Ta đã vì chỗ bày nhưng ý chỉ từ Tây đến chẳng truyền, đâu chỉ vậy ư?” bèn xin được xếp vào hàng đệ tử. Một hôm, Diệu Hỷ hỏi rằng: “Trong không thả ra, ngoài không thả vào. Ngay lúc ấy thế nào?”. Đỉnh Nhu định mở miệng. Diệu Hỷ cầm trúc bề đánh vào lưng liên tiếp ba cái. Đỉnh Nhu đại ngộ, gắng nói rằng: “Hòa thượng đã nhiều rồi!”. Diệu Hỷ lại đánh thêm một cái. Đỉnh Nhu liền lễ bái, Diệu Hỷ cười nói: “Ngày nay mới biết ta chẳng lừa dối ngươi”. Và Ấn chứng bằng lời kệ rằng: “Đảnh môn dựng mắt A-ma-hê Khủyu tay đeo lệch bùa đoạt mạng Mù mất mắt, tháo mất bùa Triệu Châu tường đông treo Hồ Lô” Từ đó, tiếng tăm vang vọng, pháp tích đông đúc, Đạo trùm phương xa. Từ đó về sau Sư khai mở Pháp đường, mới xứng là bậc tài giỏi có mắt sáng. Truyện Sa-môn Thích Đạo Khiêm ở phủ Kiến Ninh Thích Đạo Khiêm, người ở Bổn Quận, không rõ Sư họ gì. Đầu tiên nương theo Đại sư Phật Quả nhưng không chỗ vào. Bấy giờ, Diệu Hỷ vâng Thánh chỉ trú tại Kính sơn, Đạo Khiêm cũng ở đó theo hầu. Ngài sai đến Trường sa đưa thư cho Trương tử Nham, mới tự nghó rằng: “Tham thiền hai mươi năm vẫn chưa có chỗ vào, lại có hành vi này, đâu chẳng hoang phí ư!”. Lúc sắp từ biệt, có người bạn tên là Tông Nguyên quát rằng: “Không được, há đang đi trên đường tham thiền không được sao? Huynh hãy đi tôi sẽ cùng theo”. Một hôm, đang trên đường đi, Đạo Khiêm khóc và nói rằng: “Một đời tham thiền không chỗ đắc lực, nay bôn ba thế này, làm sao tương ưng được. Tông Nguyên nói: Ông chỉ đến các nơi tham vấn được, ngộ được, là do Viên Ngộ Diệu Hỷ nói cho huynh nghe hết, đều không cần lý hội. Giữa đường những gì ta có thể giúp đều giúp hết, huynh chỉ có năm việc giúp không được, phải tự nhận đó!”. Đạo Khiêm hỏi: “Năm việc ấy là gì?”. Tông Nguyên nói: Đó là “Mặc áo, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện, vác thây chết đi trên đường”. Đạo Khiêm ngay lời nói ấy đại triệt ngộ, bất chợt tay vỗ chân nhảy. Tông Nguyên nói: “Nay đây huynh trở về mới có thể thông sách, Ta về trước vậy.”. Nửa năm sau, trở lại Song Kính, Diệu Hỷ đến ngồi ở đình ngoài Sơn môn, vừa thấy vậy bèn nói: “Kiến châu ông ấy trở về tự riêng biệt”. Truyện Sa-môn Thích Thanh Đán ở Đàm Châu Thích Thanh Đán hiệu là Tuệ Thông, con nhà họ Nghiêm, ở Bồng Châu. Đầu tiên giã từ cha mẹ ân ái, ưa thích Không tông, nghe có đạo truyền riêng ngoài giáo, bèn chú ý nghó ngợi ngày một tha thiết, bèn ra khỏi cửa ải định đến chỗ các tùng tịch. Bấy giờ, Hòa-thượng Đại Quy Thái trụ tại Đức Sơn, bèn đến đó tham yết, gặp ngay lúc Hòa-thượng Đại Quy Thái thăng đường, nêu: “Triệu Châu nói: Đài Sơn Bà Tử đã vì ông khám phá xong rồi ý đạo ở chỗ nào?”. Ngừng giây lâu lại nói: “Ngay đất dúm lấy lá vàng đi Vào núi đẩy ra mây trắng đến” Sư nghe vậy bao nhiêu nghi ngại bình sanh tự nhiên tan biến. Ngày sau vào thất, Hòa-thượng Đại Quy Thái hỏi rằng: “Thế nào là trước Bách trượng chẳng lạc rơi vào Nhân quả, rất dễ đọa loài chồn cáo. Sau Bách trượng nhân chẳng mê muội Nhân quả, rất dễ thoát loài chồn cáo?”. Sư nói: “Tốt nhất hãy cùng một hố mà chôn đi”. Sư trụ lại, về sau thượng đường dạy rằng: “Lừa ba chân lộng tha hồ bước đi Bước bước theo nhau không trái ngược Đầu cây kinh khởi Hai cá chép niêm đến Một già một trẻ Vì thương tùng trúc dẫn gió lành Vì sao ra cửa bèn là cỏ Nhân gọi Đàn lang biết được hắn Đại cơ Đại dụng đều xô ngã Đốt hương khám chứng thấy cội nguồn Phấn tảo đắp đầu lượm được báu Tòng lâm mênh mông thương lượng rộng Khuyên người chớ báng Tiên sư tốt!” Môn đình của Sư rất nghiêm túc, cơ ngữ bén nhạy cho nên người học phần nhiều theo kịp. Thai Truyện Sa-môn Thích Hạnh Cơ chùa Quốc Thanh ở Thiên Thích Hạnh Cơ, tự lấy hiệu là Giản Đường, con nhà họ Dương ở trong Quận. Mới sanh Sư đã sớm biết phát thú hướng cao xa, phong thái dáng dấp tónh ngộ khác thường, tài năng che lấp Nho lâm, từ tuổi trẻ đã bỏ vợ con tôi tớ, siêng học xuất thế, xem nhiều sách vở tiếng Phạn, vượt suốt ba thừa. Nghó muốn lìa lời nói, đơn cầu trực chỉ. Từ đó, kính mến giá trị đạo đức của Hộ Quốc Nguyên Công, nên cùng nương theo, hơi va chạm kìm chùy, thầm có khế chứng. Nhân trú tại núi Hoan mà dao cày thần lửa một mình suốt mười bảy năm, thường có bài kệ rằng: “Đất lò chẳng lửa khách đãy không Tuyết tợ Hoa dương rơi suốt năm Lượm được đoạn gai khâu khố rách Chẳng biết thân ở chốn vắng không” Thường nghó: “Hãy còn chưa ổn định, đâu thể trụ ở núi vui việc ta ư?”. Một hôm, Sư tình cờ thấy chặt cây ngã xuống đất có tiếng động, bỗng nhiên Đại ngộ. Bình thường nghi ngại xưa kia là ứng theo vật tan biến như băng tiêu, chưa có cơ hội đến, bèn có mạng lệnh của Viên thông ở Giang châu, Sư bèn nghó rằng: “Ta nói là làm”. Bèn vui mừng kéo gậy ứng lại liền. Lúc lên pháp tòa Sư dạy rằng: “Viên thông chẳng mở bày thuốc sanh Đơn đơn chỉ bán chết loài mèo Chẳng biết nơi nao không tính toán Ăn mặc toàn thân lạnh mồ hôi” Người nghe không ai chẳng tuyệt đảo, tòng lâm đến nay vẫn xưng tụng. Truyện Sa-môn Thích Ngưỡng An ở chùa Linh Nham thuộc Lễ Châu Thích Ngưỡng An, không biết Sư họ gì, dónh ngộ khác thường, vượt hơn mọi người. Từ tuổi thơ đã bỏ tục, vào chùa xuất gia, kính mến tối thượng thừa, tinh cần cẩn trọng đối với luật nghi, ưa thích đến các nơi giảng Pháp, thời gian lâu bèn bỏ, đến thất của Phật quả Khắc Cần. Bấy giờ, Hòa-thượng Đại Quy Thái làm tòa, vốn sớm tối khấu tham, mau lãnh hội. Về sau Hòa-thượng Đại Quy Thái trụ trì ở Đức Sơn, bảo Ngưỡng An đến Phật Quả dâng lên Pháp thư. Phật Quả thấy thế liền hỏi: “Ngàn dặm rong ruổi chẳng nhục tông phong, Công án hiện thành cớ sao thông tin?”. Sư nói: “Thấy mặt trình nhau, không còn giúp nhau”. Phật quả nói: “Đó là Đức Sơn đặt hay là Hòa-thượng đặt?”. Đáp: “Đâu có người thứ hai”. Phật Quả nói: “Sau lưng đặt”. Ngưỡng An liền dâng thư, Phật Quả cười, khen là “tác gia”. Tiếp theo, Sư đến trước tăng đường dâng thư thăm hỏi Thủ tòa. Thủ tòa hỏi: “Huyền sa giấy trắng, ấy từ đâu đến?”. Ngưỡng An nói: “Từ lâu im lặng ấy là cốt yếu, chẳng chuyên nói mau, ngày nay bái trình, mong xem qua một lượt!”. Thủ tòa liền hét. Ngưỡng An nói: “Thủ tọa là Tác gia”. Thủ tọa lại hét, Ngưỡng An dâng thư liền đánh, Thủ Tọa suy nghó định trả lời. Ngưỡng An nói: “chưa rõ ba tám chín, chẳng khỏi tư trầm ngâm”. Lại đánh một cái nói: “Tiếp thời Phật Quả Phật Nhãn đồng thấy”. Phật Quả nói: “Đánh Thủ Tọa chết rồi!”. Phật Nhãn nói: “Quan Mã Tư Dương rất có bằng cứ”. Ngưỡng An nói: “Nói rất phải, Quan Mã Tư Dương chính là Long Tượng Xúc Đạp”. Phật Quả gọi Ngưỡng An đến trước nói: “Ta là Thủ Tọa của năm trăm người, cớ sao ông đánh kẻ khác?”. Ngưỡng An nói: “Hòa- thượng phải cắn một cái”. Phật Quả quay lại thấy Phật Nhãn lè lưỡi. Phật Nhãn nói: “Chưa có. Hỏi rằng: “Tay không nắm chiếc cày, ý câu thoại ấy làm thế nào?”. Ngưỡng An cúi mình nói: “Chỗ cung đều đến thật”. Phật Nhãn cười nói: “Vốn là người trong nhà”. Lại đến núi Ngũ Tổ trao thư lên Hòa-thượng Biểu Tự. Biểu Tự nói: “Trong thư nói cái gì vậy?”. Ngưỡng An nói: “Văn thể đã rõ”. Biểu Tự nói: “Vậy rốt ráo nói cái gì?”. Ngưỡng An nói: “Đang huơ kiếm báu”. Biểu Tự nói: “Gần trước nay, ta không biết trong đó là cái gì?”. Ngưỡng An nói: “Chớ lùa dối tốt lành”. Biểu Tự quay lại hỏi thị giả: “Vị tăng ấy ở đâu vậy?”. Thị giả đáp: “Đã từng ở trong Pháp hội của Hòa-thượng mà đi”. Biểu Tự nói: “Làm sao được hoạt đầu?”. Ngưỡng An nói: “Bi Hòa-thượng độn đặt lại”. Biểu Tự đem thư đến trước lò xông đọc: “Nam-mô-tam-mạn- đa”. Ngưỡng An ở gần trước búng ngón tay, Biểu Tự bèn mở thư. Từ đó tiếng tăm vang khắp bốn phương mà chẳng chịu làm sứ mạng của Hòa-thượng Đại Quy Thái. Không bao lâu, Sư ra hoằng hóa trú tại Linh Nham, tăng chúng nhóm họp, niêm truy dựng phất, rất có phong cách của cổ người xưa nhân. Truyện Sa-môn Thích Bảo Ấn ở Kính Sơn thuộc phủ Lâm An Thích Bảo Ấn hiệu là Biệt Phong, con nhà họ Lý ở Gia Châu. Thuở nhỏ tinh thông sáu kinh, lớn lên suốt cùng bảy sử Sư bỗng nhàm chán trần tục, có chí kính mến trúc phần (kinh điển văn Phạn) bèn theo Hòa-thượng Thanh Tố ở Đức Sơn và được độ. Thường nghe giảng Kinh Hoa Nghiêm, Luận Khởi Tín, thảy đều thấu suốt được ý chỉ, biết rằng nhọc công đếm cát, rốt cuộc chẳng được giải thoát, Sư bèn nương theo Thiền sư Trung Phong Mật Ấn. Mất Ấn nêu: “Có vị tăng hỏi Nham Đầu: “Khởi diệt không ngừng, lúc ấy là thế nào?”. Nham Đầu quát: Vậy ai khởi diệt? Sư nghe liền đại ngộ. Gặp Viên Ngộ trở về chùa Chiêu Giác, sai sư Sư đến thăm, Viên Ngộ hỏi: “Từ trước các bậc Thánh lấy gì tiếp người? Sư giơ nắm tay lên, Viên Ngộ nói: Đó là Lão tăng, dùng để làm gì, là từ trước các Thánh dùng đặt. Sư huơ nắm tay, Viên Ngộ cũng đưa nắm tay, cùng giao tiếp và cười lớn rồi thôi. Lại đến tham yết Đại Tuệ ở Kính Sơn. Đại Tuệ hỏi: từ nơi nào đến?-Đáp: Tây Xuyên. Đại Tuệ nói: Chưa ra khỏi ải kiếm môn. Đánh cho ngươi ba mươi gậy. Nói: Hòa- thượng khởi động chẳng hợp. Đại Tuệ vui mừng. Về sau, Sư vâng chiếu trú tại Tuyết Bảo. Niên hiệu Thuần Hy thứ bảy (1 1 8 0) mùa thu có chiếu mời Sư để hỏi Đạo, ban vào Điện Tuyển Đức. Hoàng đế Hiếu Tông hỏi: “Các bậc Thánh trong Tam giáo vốn đồng nhau, lý ấy phải chăng?”. Sư đáp: “Thể như hư không, bốn hướng Đông Tây Nam Bắc ban đầu vốn không hai”. Hoàng đế nói: “Song, các bậc Thánh dựng lập môn hộ thì chẳng đồng nhau, Như Khổng Tử dùng tánh trung dung để thiết giáo”. Bảo Ấn nói: “Nếu chẳng là trung dung thì lấy gì để an lập thế gian, nên trong Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Chẳng hoại tướng thế gian mà thành Pháp xuất thế gian”. Hoàng đế nói: “Ngày nay các bậc só đại phu học theo Khổng tử phần nhiều chỉ chú trọng vào văn tự ngữ ngôn, chẳng thấy được Đạo của Khổng tử! Không biết tâm của Khổng Tử. Chỉ có Thiền tông của Phật giáo chẳng dùng văn tự dạy người, chỉ thẳng nguồn tâm khiến mau ngộ nhập. Chẳng nhiễu loạn mé sanh tử. Đó là thù thắng”. Bảo Ấn nói: “Chẳng phải chỉ có hàng hậu thế chẳng thấy tâm của Khổng tử, từng thấy Nhan tử trong cửa Khổng gọi là cụ thể, là dốc hết sức lực của một đời người chỉ nói được cái nhìn trước mắt, bỏ quên phía sau, rốt cùng bắt chước chẳng được, mà Khổng tử có tám chữ rõ ràng là: “Đánh mở chỉ đạo cho các đệ tử”. Hai ba ông cho ta là an ổn ư? Ta không an ổn, ta không hành mà chẳng cùng hai ba ông là khâu! Lấy đó mà quán xét thì Khổng tử không hề tránh né Đệ tử mà Đệ tử tự sai lầm! Ngày xưa Trương Thương Anh nói: “Tôi nhờ học Phật mà sau đó rõ biết về Nho! Lời nói ấy thật xác đáng”. Hoàng đế nói: “Ý trẫm cũng như vậy!”. Lại hỏi rằng: “Trang tử là người như thế nào?”. Bảo Ấn nói: “Chỉ là Thanh văn Tiểu thừa trong Phật giáo vì thuộc hạng hạ nhân. Bởi vì Tiểu thừa nhàm chán thân như gông cùm, bỏ trí như tạp độc, hóa lửa đốt thân, nhập vào cảnh giới vô vi, tức như chỗ nói của Trang tử là “Hình có thể sai sử như cây gỗ, tâm có thể sai sử như tro lạnh”. Còn đối với hạng người Đại thừa thì không phải như vậy, chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề, chính như Y Doãn nói ta là bậc tiên giác của Dân, phải đem Đạo ấy để giác ngộ Dân. Có kẻ không thấm nhuận ân đức đó, nên đã đẩy vào trong ao hồ”. Hoàng đế vô cùng vui vẻ, ban chiếu trú tại Kính Sơn. Đến lúc khai mở Pháp hội Sư dạy rằng: “Các Đức Phật Ba đời dùng một câu mà diễn giảng trăm ngàn muôn ức câu. Thâu trăm ngàn muôn ức câu chỉ còn lại một câu. Học trò Tổ sư nửa câu cũng không, chỉ nghó làm sao khế hợp, ít nhiều bị đau vì đánh. Các nhân giả chớ nói chư Phật đúng, Tổ sư đúng, nếu nói Phật đúng, Tổ chẳng đúng, Tổ đúng Phật chẳng đúng thì lấy bỏ chưa quên. Nếu nói Phật Tổ một lúc đều đúng, một lúc đều chẳng đúng, mập mờ chẳng ít, hãy cắt đoạn dây bìm dây sắn, một câu làm sao nói?”. Dừng lại giây lâu Sư dạy tiếp: “Như trùng lớn nằm trong giấy, thích cười lại sợ người”. Tháng hai niên hiệu Thuần Hy thứ mười (1 1 8 3), Hoàng đế chú giải Kinh Viên Giác, ban chiếu vời Sư bảo viết lời tựa để lưu hành. Tháng mười một niên hiệu Thiệu Hy thứ nhất (1 1 9 0) Thiền sư Trí Sách quyết định từ biệt, Trí Sách hỏi ngày đi, Sư nói: “Nước đến cừ thành”. Bèn lấy giấy viết chín chữ: “Lúc gà gáy đêm mùng bảy tháng mười hai”. Quả thật đến ngày thì Sư viên tịch, lưu lại bảy ngày mà sắc mat vẫn tươi nhuận sáng sạch, tóc dài, trên đỉnh đầu ấm nóng, an táng toàn thân ở Tây Cương, vua ban thụy hiệu là “Từ Biện”, tháp hiệu “Trí Quang”. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH (Quyển sáu hết)  <卷>QUYỂN 7 CHƯƠNG III: TU TẬP THIỀN ĐỊNH TRONG PHẦN 3 CỦA CHƯƠNG III (Chánh truyện có mười bảy vị, phụ có bảy vị) 1/ Truyện Sa-môn Thích Húy Tài ở chùa Thượng Phong thuộc Đàm Châu Thích Húy Tài hiệu là Phật Tâm, con nhà họ Diêu ở Phước Châu. Thuở nhỏ làm khu ô (đuổi quạ), đến hai mươi tuổi được độ, tinh cầu Luật Bộ, trì phạm trong sạch như sương tuyết, kính mến tối thượng thừa, chẳng nệï khấu kiến phương xa, nhọc mệt chẳng ngại một niêm gắng sức tham cầu. Đầu tiên yết kiến Hải Ấn Long Công ở Đại Trung, chợt thấy Lão túc Đạt Đạo xem Kinh, đến câu “Đầu một cọng lông sư tử, trăm ức đầu lông cùng lúc hiện?”. Húy Tài hỏi rằng: “Một cọng lông sư tử làm sao sanh được trăm ức cọng lông đồng thời hiện ở một nơi?”. Lão túc Đạt Đạo nói: “Ông mới vào tòng lâm chưa thể lý hội được việc ấy”. Húy Tài thắc mắc. Gặp lúc Hải Ấn ban đêm đang tham, đến chỗ tòa, ngồi bỏ gậy nói: “Rõ ngay đầu cọng lông nuốt cả biển lớn mới rõ mặt đất chỉ như một hạt bụi”. Húy Tài hoát nhiên có chút tỉnh ngộ. Kế đến tham yết ngài Hoàng Long Tử Tâm mà chưa khế hội, bèn đến tham yết Linh Nguyên. Hễ mỗi lúc vào thất ra thì lệ ngấn tràn nói: “Việc ấy tôi thấy rất rõ ràng, chỉ có cái đó chẳng ra, biết làm sao”. Linh Nguyên nói: “Phải là Đại triệt mới được tự tại”. Một hôm, trộm xem vị tăng bên cạnh đang đọc “Tào Động Quảng Lục”, đến chỗ Dược Sơn lượm củi trở về, có vị Tăng hỏi ở đâu đến? Dược Sơn nói kiếm củi về, vị tăng chỉ con dao ở thắt lưng nói: “Ô! Bóc, bóc, là cái gì?”. Dược Sơn rút dao làm thế đang chặt. Sư hốt nhiên Đại ngộ, bạt tai vị Tăng bên cạnh, vén sáo (rèm thả) chạy ra nói kệ rằng: “Triệt, triệt biển cả ráo khô Hư không rách nát Bốn phương tám hướng dứt che ngăn Muôn tượng sum la đều rỉ chảy”. Ban đầu Sư trụ tại chùa Thượng Phong, thường dời đến các chùa nổi tiếng, từ sông biện hải triều tuôn sóng vọt. Người học không thể ghé vào được ven bờ ấy. Đình 2/ Truyện Sa-môn Thích Diệu Phổ ở Am Thanh Long thuộc Hoa Thích Diệu Phổ hiệu là Tánh Không, người ở Hán Xuyên, không biết Sư họ gì. Từ lâu nương tựa Hoàng Long Tử Tâm, thầm được Tâm ấn, phẩm cách cao xa, khí vũ rộng lớn. Vì kính mến Di phong của Thuyền tử nên Sư đến Tú thủy kết am ở rừng Thanh Long, không có nhiều vật dư, chỉ thích thổi ống tiêu sắt để tự vui, ưa thích ngâm vịnh, thường làm thơ “Sơn Cư” rằng: “Tâm Pháp đều quên còn cách dối Sắc trần không hai, còn dư trần Trăm chim không đến xuân lại qua Không biết ai là người ở am” Và dạy chúng bằng bài kệ rằng: “Học Đạo giống như giữ cấm thành Ngày phòng sáu giặc, đêm tónh lặng Trong quân chủ tướng hay hành lệnh Chẳng động chiến tranh trị thái bình” Đầu niên hiệu Kiến Viêm (1 1 2 7) đời Tống, giặc Từ Minh làm phản. Đạo kinh ô trấn tha hồ giết hại, dân chúng sợ trốn mất. Sư nghe vậy than rằng: “ Chúng sanh đồ thán, Ta làm sao cứu?”. Bèn mang sách đi thẳng đến chỗ giặc, giặc thấy hùng vó khác thường nghi là gian trá, hỏi từ đâu đến. Sư đáp: “Từ Thiền đến”. Hỏi: “Đi đến đâu?”. Đáp: “Qua chùa Mật ấn”. Giặc tức giận định chém. Sư nói: “Nếu quí vị cần đầu thì cứ lấy, sao tức giận làm gì? Tôi chết là hẳn rồi, xong xin được một bữa cơm để gọi là Tống chung”. Giặc đem thịt ra, Sư cúng Phật xuất sanh như nghi thức thường lệ nói: “Ai sẽ viết văn để tế ta?”. Giặc cười chẳng đáp. Diệu Phổ xin giấy bút viết lớn rằng: “Than ôi! Duy Linh nhọc ta nếu sống thì mắc lỗi lớn, sai ta để thọ thì lỗi của âm dương, thiếu ta để nghèo khó thì ngũ hành bất chánh, khốn đốn ta vì mạng thì ngày giờ không tốt. Chao ôi! Rất lắm! May có Đạo xuất trần, tỏ ngộ được tánh của ta cùng Diệu tâm đó, thì Diệu tâm đó ai cùng gần gũi? Trên đồng với chân hóa của các Đức Phật, dưới hợp với vô minh của phàm phu, mảy trần chẳng động, vốn tự viên thành. Huyền diệu thay! Huyền diệu thay! Mặt trời mặt trăng không đủ để làm sáng tỏ. Trời đất không đủ lớn lao, rõ rõ ràng ràng không quái không ngại! Hơn sáu mươi năm hòa nhập vào cuộc đời, bốn mươi hai tăng lạp tự tại tiêu dao, gặp người thì vui, thấy Phật chẳng lạy, đáng cười ư? Tiếc thay! Thiếu thời lang phong lưu khắp vẻ sáng ngời, thản nhiên lui tới mặc tình gió xuân, thể dường hư không chẳng bao giờ hoại, vẫn còn thọ hưởng!”. Bèn cầm đũa gắp thịt ăn. Bọn giặc cười lớn. Ăn xong Sư nói: “Kiếp số đã gặp ly loạn, Ta là kẻ rất thích sống, bây giờ chính đã phải lúc, xin cho một dao đứt làm hai đoạn”. Và hô lớn: “Chém, chém!”. Bọn giặc hốt hoảng kinh dị, dập đầu lạy tạ lỗi lầm, sai người bảo vệ đưa Sư ra. Từ đó dân trong lô xá, mọi người lớn nhỏ đều được ân huệ của Sư. Có vị tăng hỏi: “Đã thấy Phật cớ sao chẳng lạy?”. Sư bèn tát, hỏi rằng: “Hiểu chăng?”. Đáp: “Chẳng hiểu”. Lại tát, rồi nói: “Nhà không hai chủ”. Mùa đông niên hiệu Thiệu Hưng Sư dự làm một cái bồn lớn, đục lỗ rồi bít lại, viết thư gửi cho Thiền sư Tuyết Bảo trì rằng: “Tôi sắp thủy táng!”. Năm Nhâm tuất (1 1 4 2) Tuyết Bảo trì đến, Sư vẫn còn, bèn làm kệ diễu cợt rằng: “Ô hay lão tánh không Cần yếu cho cá ăn Sao chẳng tìm tánh đi Chỉ nhọc nói với người?” Sư cười nói: “Vì đợi Sư huynh đến chứng minh!”. Rồi bố cáo khắp xa gần, mọi người nhóm họp. Sư chỉ bày Pháp yếu nói kệ rằng: “Chết ngồi, chết đứng Chẳng bằng thủy táng Một khỏi tốn củi Hai khỏi đào mồ Buông tay là đi Chẳng vui sướng sao? Vậy ai biết tiếng Hòa-thượng Thuyền Tử Cao Phong khó tiếp nối Trăm ngàn năm một khúc Ngư phủ ca, ít người xướng kịp” Bèn xếp chân ngồi trong bồn, miệng thổi ống tiêu sắt, theo nước rút mà xuống, mọi người đều theo đến bờ biển. Sư bỏ đồ bít lỗ, dòng nước xoáy quanh, cả chúng đều nhìn theo dòng nước, một giọt không vào, bèn theo dòng mà an trụ ca rằng: “Hơn sáu mươi năm về quê cũ Xóa tan dấu vết diệu khó lường Chân phong gởi khắp biết âm hưởng Tiếng tiêu sắt khua động tán trường” Mọi người nhìn khỏi tầm mắt thấy, vẫn còn nghe tiếng tiêu vang vọng trong khoảng mênh mông. Xa thấy Sư quăng ống tiêu lên giữa hư không mà ẩn mất. Mọi người gào khóc đua nhau họa vẽ hình tượng để phụng thờ, sau đó ba ngày thấy Sư ở trên cát ngồi kiết già như đang còn sống. Kẻ tăng người tục đón rước về lưu lại năm ngày. Khi trà-tỳ Xá lợi lớn như hạt đậu, có hai con hạc lượn vòng giữa hư không đến lúc lửa tàn mới bay đi. Xây tháp thờ tại am Thanh Long. Châu 3/ Truyện Sa-môn Thích Ứng Đoan trụ chùa Pháp Luân ở Đàm Thích Ứng Đoan con nhà họ Từ ở Nam Xương. Vừa mới sanh mà lông mày dài như hình nghi quắc thước, từ nhỏ đã nhàm chán trần uế, đến tuổi thiếu thời bước vào không môn, nương theo Đại sư Thiện Nguyệt chùa Hóa Độ ở trong Quận được độ làm Đại tăng, đến tham yết ngài Châu Tịnh Văn nhưng chẳng hợp cơ. Bấy giờ Linh Nguyên phân tòa, Vân Cư khấu hợp. Linh Nguyên hơi thêm nhọc đáp, Ứng Đoan tự phụ kiến giải của mình khéo vào kinh luận, bèn biện dẫn cơ ngữ của Mã Tổ Bách Trượng cũng như ý chỉ Kinh Hoa Nghiêm cùng phô bày đối đáp. Linh Nguyên cười nói: “Ông nêu Bách Trượng Mã Tổ hẳn nhiên là sai lầm. Và Tông chỉ của Hoa Nghiêm cùng với sự vui mừng ấy chẳng có quan hệ gì”. Ứng Đoan tức giận muốn bỏ đi, nhân lúc từ biệt, vừa vén rèm thì hoát nhiên Đại ngộ, mồ hôi tuôn ướt cả lưng. Linh Nguyên thấy vậy mừng nói: “ Ông mới biết tốt xấu!” Mã Tổ, Bách Trượng, Văn-thù Phổ Hiền đâu bị ông làm lụy!”. Do đó, tiếng tăm vang khắp bốn phương, bảy chúng khâm phục Đạo hạnh. Khoảng cuối niên hịêu Chính Hòa (1 1 1 8) Thái sư Trương Tư Thành hư Bách Trượng Kiên mạng khai đường, cử câu thoại: “Có vị tăng hỏi ngài Đại Tùy: Lúc kiếp hỏa cháy bừng, cái ấy hoại hay chẳng hoại?, Đại Tùy đáp: “Lục hợp khuynh nghiêng từ mặt đến Tạm mặc áo vải dính bụi trần Nhân gió thổi lửa vấy việc nhàn Dẫn được người đi chẳng chịu về Hoại, chẳng hoại, tùy hay chẳng tùy Luống đem kiến văn gượng bít chùy Hồ rộng ba ngàn sáu vạn khoảnh Nguyệt tại sóng lòng nói với ai” 4/ Truyện Sa-môn Thích Đạo Chấn ở chùa Hoàng Long thuộc phủ Long Hưng Thích Đạo Chấn hiệu là Sơn Đường, con nhà họ Triệu ở Kim Lăng. Từ tuổi tóc búi trái đào Sư đã nương Thiền sư Giác Ấn Anh làm đồng tử, từ Giác Ấn Anh dời đến chỗ Phổ Chiếu ở đất Tứ được độ, lâu sau đến tham yết Đơn Hà Tử thuần, cùng luận bàn Tông chỉ Tào Động. Đạo Chấn trình kệ rằng: “Mây trắng che dầy núi lạnh xưa Cỏ lạ hoa linh sắc phụng hàm Nửa đêm trời sáng như giữa ngọ Cỡi bò quay mặt buột áo giấy” Sau đó nương theo Đại sư Thảo Đường, ngày đêm đọc học kinh ta- ïng, một đêm vẳng nghe tiếng trống tham buổi chiều bèn đi kinh đường, ngẩng đầu thấy trăng, bỗng nhiên Đại ngộ, liền chạy đến Phương trượng, Thảo Đường thấy vậy bèn nói: “Ông đã thấu triệt” bèn ấn chứng cho. Tìm ra ba dời mà đến Bách Trượng, đạo phong hiển bày. Vào năm Kỷ tî (1 1 4 9) thuộc niên hiệu Thiệu Hưng, có vị Luật sư ở Hoàng Long, các nạp tử tán tử tan đi, chủ sự đến tiền đường, cầu Hoàng đế thừa tuyên kế thừa sách, trước. Đề đạt đến Hồng sư Trương như Oánh, Oánh bảo Sư vì đồ chúng trông mong, mà chủ sự xin gửi thư cảm tạ Hoàng đế. Đạo Chấn trách rằng: “Vương công là người hộ trì Phật Pháp, sao lại có sự cảm tạ? Huống gì ta và ông vốn mê muội bình sanh”. Từ đó, chủ Sự hổ thẹn, thối lui, nên Trọng Ôn nói rằng: “Kia giao kết với quyền quí, cậy làm tường vách che chở. Những ai nghe đến chuyện ấy mồ hôi đều tươm ướt mặt. Ôi! Từ niên hiệu Thiệu Hưng về sau, Tôn sư ngôn hạnh tương ưng cùng sương thu tranh cạnh sự trang nghiêm. Nếu bỏ Đạo chấn thì đó là ai ư? 5/ Truyện Sa-môn Thích Pháp Nhất trụ chùa Vạn Niên ở núi Thiên Thai Thích Pháp Nhất hiệu là Tuyết Sào, tức là huyền tôn của Vương phụ mã Lý Tuân Úc ở quận Tương Dương. Gia đình sinh sống tại huyện Tường phù thuộc Khai phong. Mẹ của Sư mộng thấy một lão tăng đến nhà mà sinh ra Sư, tiếng nói lớn khí chất mạnh mẽ, có tướng Đại nhân. Năm mười bảy tuổi thi Thượng tường, theo ông nội làm quan ở Hoài Nam, muốn làm quan ở đó, nhưng xin bỏ gia nghiệp, theo phụng thờ Thiền sư Từ Giác có ở Trường lô, ông nội không chấp thuận. Mẹ Sư nói rằng: “Đứa trẻ này đời trước chắc là sa-môn, xin chớ đoạt mất chí khí ấy”. Sau đó không lâu, Thiền sư Từ Giác viên tịch, Sư bèn đến đảnh lễ Thiền sư Thông Chiếu Nguyện ở Linh Nham, được cạo tóc theo hầu một năm. Tâm giác mê muội, đạo không lối vào, Sư bèn đến Tương Sơn tham yết Đại sư Viên Ngộ, Pháp Nhất thấy khí thế nên vô cùng kính trọng, vừa lúc Viên Ngộ vâng Thánh chỉ đến trú tại chùa Thiên Ninh, Pháp Nhất cũng đến đó theo hầu mà chẳng khế hội, kế đến chỗ Đại sư Thảo Đường ở Sơ Sơn chỉ nói một lời mà bỗng nhiên thấu suốt đáy nguồn. Niên hiệu Thiệu Hưng thứ bảy (1 1 3 7) Tuyền Thú Lưu Ngạn Tu thỉnh Sư đến trụ tại Diên Phước, qua bốn lần dời đến chùa lớn, cuối cùng trú tại Trường lô. Nhân kính mến cảnh đẹp của Thiên thai, sớm tối nghó tưởng, từ đó xin được về trụ tại Viện Quán Âm ở Bình Điền là vùng núi non nằm cao trên ráng mây, sáo dài sâu xa, ở thế mà quên bẵng thế tục. Một hôm, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, viết kệ rằng: “Nay tuổi đà bảy lăm Vềlàm chủ am tranh Trân trọng Quán Thế Âm Rắn bùn nuốt hổ đá” Rồi vào khám ngồi kiết già từ biệt Đại chúng mà hoá, tháp thờ Sư được xây dựng tại bổn sơn. 6/ Truyện Sa-môn Thích Phổ Giao trụ chùa Thiên Đồng ở phủ Khánh Nguyên Thích Phổ Giao họ Tất, ở Vạn Linh trong quận. Thuở nhỏ dónh ngộ hơn người, chẳng nhiễm vướng bùn nhơ, ghét ồn ào, trong sạch nghiêm khiết như tu só, chưa đến tuổi trưởng thành đã được độ, năm hạ chẳng thiếu. Đầu tiên tham yết Đại Minh, nghe tập Thai giáo. Tình cờ có vị thí chủ phụng tu Bái sám, có người hỏi: “Việc sám hối tội lỗi của sư là tự sám hay là Tha sám? Nếu nói là tự sám thì tội tánh từ đâu đến? Còn nếu Tha sám thì tha tức chẳng phải sư, vậy làm sao mà sám?. Phổ Giao trả lời không được, vô cùng hổ thẹn, bèn tìm đến chỗ ngài Lặc Đàm. Vừa bước chân đến cừa, Lặc Đàm liền mắng đuổi, Phổ Giao suy nghó định hỏi, Lặc Đàm liền đánh đuổi đi. Một hôm, Lặc Đàm bỗng nhiên gọi Phổ Giao đến phương trượng nói rằng: “Ta có công án của người xưa, sẽ cho ông thương lượng”. Phổ Giao suy nghó định nói, Lặc Đàm liền hét, Phổ Giao hoát nhiên đốn ngộ, ngoái đầu lại cười lớn. Lặc Đàm bước xuống giường dây nắm tay Phổ Giao nói: “Ông hiểu được Phật Pháp ư?”. Phổ Giao liền hét, gạt ra, Lặc Đàm cũng cười lớn. Từ đó nổi tiếng khắp bốn phương, được người học nói theo. Sau trở về quê nhà ở Thiên Đồng, đóng cửa tám năm, chùa Pháp tịc trống vắng, Quận Liêu ban bảo khai Pháp, sợ Phổ Giao trốn đi nên sai sứ hầu ở đạo tràng, nên không thể từ chối. Lúc lên Pháp đường, Sư dạy rằng: “Chao ôi! Lão mặt vàng, Phật Pháp giao phó vương thần, khách vô tình dưới núi, quan sai giết hại, người chẳng biết đáy tâm, vì ta miễn được điều đó. Nếu không được miễn là đem sai lầm đến sai lầm đi!”. Hễ thấy có vị Tăng nào đến thì quát rằng: “Ông là loài lang lật, chưa phải lúc gánh vác, ta đã nói cho ông nghe rồi. Vả lại, Đạo là nói cái gì? Vẫy tay rửa bát, nắm quạt giương cung, Triệu Châu bách thọ tử, Linh Nguyên thấy hoa đào mà không buông qua một bên, Sơn tăng không biết làm sao rảnh rang môi mép để cùng ông đánh dây bìm dây sắn? Sao không nghỉ đi, thôi đi?”. Bỗng cầm gậy đuổi đi. Đến ni6n hiệu Tuyên Hòa thứ sáu (1 1 2 4) ngày hai mươi tháng ba, Sư tắm rửa xong, lên tòa nói bài kệ rằng: “Gậy báu gõ không gặp chỗ xuân Trong cái tiêu tức đặc Di luân Đêm qua gió động đảnh non lạnh Sợ dấy bò đất cày mây trắng!” Nói xong, an nhiên viên tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Tháp thờ Sư được xây dựng tại bổn sơn. 7/ Truyện Sa-môn Thích Đạo Mân ở chùa Viên Thông thuộc Giang Châu Thích Đạo Mân được vua ban hiệu là Viên Cơ, người đời tôn xưng là Cổ Phật, con nhà họ Tế ở Hưng Hóa. Mẹ Sư nằm mộng thấy nuốt ngọc Ma-ni mà mang thai Sư, sanh đã năm năm, mà chưa biết đi, biết nói. Một hôm, mẹ Sư bồng đến chùa Tây Minh, thấy tôn tượng Đức Phật, Sư vội chạy đến chắp tay làm lễ, xưng niệm “Nam-mô Phật”. Mọi người thấy vậy rất lấy làm lạ. Lớn lên làm quan cho học Đại lương, bèn bỏ nương theo Đại sư Đức Tường chùa Cảnh Đức để xuất gia và được độ. Sư đến tham yết khắp chốn rừng thiền, đều được tiêm nhiễm ý chỉ. Sau gần gũi Thiền sư Triết ở Quy sơn mà không chỗ vào, bèn đến tham yết Lặc Đàm Càn Công, trình bày rõ sở đắc, Lặc Đàm chẳng ấn chứng cho. Một hôm, Lặc Đàm nêu câu thoại Đức Thế Tôn giơ cành hoa sen, Tôn giả Ca-diếp mỉm cười để hỏi, Sư chẳng khế hội. Theo hầu Lặc Đàm mà đi, đến lúc Lặc Đàm đưa gậy gác lên vai, thở dài hỏi: “Hiểu không?”. Đạo Mân suy nghó định đáp, Lặc Đàm liền đánh. Có một lúc nọ, ngài Lặc Đàm lại cầm một bó củi đưa cho Sư xem, hỏi: “Là vật gì?”. Đạo Mân cũng suy nghó định đáp, Lặc Đàm liền hét ngay lúc đó Sư đến ngộ huyền chỉ, bèn làm thế giơ cành hoa lên nói: “Vừa rồi định lừa dối Thượng tọa Mân mà không được!”. Lặc Đàm bảo: “ Hãy nói”. Đạo Mân nói: “Phía nam núi mây nổi, phía bắc núi mưa tuôn” rồi đảnh lễ ba lạy. Lặc Đàm gật đầu ấn chứng cho. Về sau Sư mở Pháp hội ở Quán Khê, dời đến Viên Thông để hợp với dự ký của Đạo Tế. Người học đông như sông tuôn về biển. Triếu đình nghe được Đạo hạnh của Sư, các quan đến thỉnh, biếu tặng y phục, ban hiệu là Viên Cơ, tôn kính sủng ái. Từ đó xa gần đều khâm phục phong hóa của Sư, lớn nhỏ thảy đượm nhuần ân pháp trạch, không rõ về sau Sư tịch ở đâu. 8/ Truyện Sa-môn Thích Thụy Tiên trụ Viện Từ Thị ở Thiệu Hưng Thích Thụy Tiên người ở Cối Kê. Thuở nhỏ bị buộc ràng trong lưới trần, trầm mình trong sông ái. Năm hai mươi tự nhiên Sư bỏ nhà, đi thi kinh, được xuất gia, tinh chuyên học tập luật Tạng Đại thừa, Tiểu thừa đến câu “Giới tánh như hư không, người hành trì mê mờ điên đảo ”bỗng nhiên tự tỉnh ngộ, nghó rằng: “Giới là Pháp thúc liễm thân tâm, sao tự bó buộc ư?”. Bèn nghiên cứu giáo nghóa Thiên thai. Một hôm, xem đến chỗ: “Các Pháp chẳng tự sanh, cũng không từ tha sanh, chẳng cộng, chẳng vô nhân, nên nói là vô sanh”, bèn nghi rằng: “Đã chẳng tự lại chẳng tha, chẳng cộng chẳng vô nhân. Vậy rốt ráo do từ đâu mà sanh?”. Khen ngợi rằng: “Pháp nhân duyên sanh tuy chiếu dùng không giả tam quán, chẳng quá đè ép hay tân bốc biển tánh, Tâm, Phật, chúng sanh, tên gọi tuy khác nhưng thể đồng là một. Mười cảnh mười thừa, Diệu tâm thành trí. Cảnh chẳng thể suy nghó bàn luận, trí chiếu mới sáng tỏ, lời nói chẳng thể đến được”. Bèn lại tham yết các vị Ký túc, sau lên núi Đầu tử, gặp Thiền sư Quảng Giám, Thiền sư hỏi: “Từ đâu đến?”-Đáp: “Từ lưỡng triết đông việt đến”. Quảng Giám hỏi: “Việc ở Đông việt phải làm sao?”. Thụy Tiên đáp: “Tần trông núi cao, xem hồ nước rộng”. Quảng Giám hỏi: “Tần trông núi cùng với chính mình là đồng hay khác?”. Thụy Tiên đáp: “Lời Phạn tiếng Đường”. Quảng Giám nói: “Giống như rừng nghiệp, chỉ đối với rốt cuộc là đồng hay khác?”. Thụy Tiên bèn hét, Quảng Giám liền đánh, bỗng có chút tỉnh ngộ, đảnh lễ nói rằng: “Ân lớn khó đáp đền”. Về sau, khai Pháp ở Từ thị, Sư thường hỏi chư tăng rằng: “Ba con Lạc đà, hai con què mất một chân, một ngày đi đến muôn dặm, rong ruổi chẳng trước, mà nay thâu bắt tại núi Ngọc Tuyền, chẳng cho người đương thời loạn châm chước, các ông hướng về nơi nào, mà thấy Thượng toạ Thụy Tiên”. Cả chúng không một ai có thể mở lời, cho hợp cơ. Về sau, Sư thị tịch ở bổn sơn. 9/ Truyện Sa-môn Thích Thiên Du ở chùa Vân Nham thuộc phủ Long Hưng Thích Thiên Du tự lấy hiệu là Điển Ngưu, con nhà họ Trịnh ở Thành đô. Thuở nhỏ theo Nho học, dónh ngộ tuấn tú khác thường, đồng bạn đều tôn trọng. Ban đầu thi trường quận, lại thi ở Tử châu, hai nơi đều tiến cử, sợ chẳng dám đảm nhận, bèn đổi tên vượt ải, gặp lúc Vương sơn cốc từ hướng Tây trở về, thấy Thiên Du phong cốt khác phàm, đàm luận siêu trác, mời ngồi cùng thuyền, khuyên đến Lô sơn cạo tóc. Đầu tiên, Sư tham yết Tử tâm nhưng chẳng khế hội, nên nương theo Trạm Đường Chuẩn ở Lặc Đàm. Một hôm, Trạm đường thuyết giảng chung rằng: “Các ông khổ khổ nhọc đến chỗ Thượng tọa Chuẩn tôi tìm hỏi Phật Pháp”. Bèn vỗ đầu gối hỏi: “Hiểu chăng? Trên tuyết thêm sương”. Lại vỗ đầu gối nói: “Nếu cũng không hiểu, há chẳng thấy Càn phong dạy chúng rằng “Nêu một chẳng được nêu hai, bỏ qua một, chấp rơi vào thứ hai”, Thiên Du nghe, thoát nhiên ngộ nhập. Sau ra hoằng hóa trụ ở Vân cái, dời đến Linh Nham, lúc nói Pháp, phần lớn có phong thái của Trạm Đường, thường hòa trung đạo, tụng Mục Ngưu (chăn trâu) rằng: “Hai sừng chỉ trời Bốn chân đạp đất Dắt đứt dây mũi Chăn rất nhiều phân. Trương Vô Tận thấy vậy rất kính tiết, nhân trở về Vân Nham, ngang qua Lô sơn, mà dừng nơi hiền chủ, ý chẳng muốn nhận, bèn cố nói rằng: “Lão lão, Đại đại! Chính là Điển Ngưu trong kho chất chăng?” Thiên Du nghe vậy nói kệ rằng: “Kho chất đêu từng hiểu Điển Ngưu Chỉ do giá mắc thật khó đền Tưởng ông bản lãnh không nhiều con Rốt cùng khó cấm một đầu ấy!” Cuối cùng bỏ am đến Võ Ninh, đề tấm biển “Điển Ngưu” và suốt đời chẳng ra. Năm gần trăm tuổi mới cáo tịch. Lúc thấy ở Đồ Độc thuộc Kính Sơn thì Sư đã chín mươi ba tuổi. 1 0/ Truyện Sa-môn Thích Pháp Nhân trụ chùa Giác Hải, phủ Bình Giang Thích Pháp Nhân con nhà họ Chu ở Cô Tô thuộc Ngu Sơn, thuở nhỏ chìm đắm trần tục, không có ý vượt khỏi buộc ràng. Năm 24 tuổi mới đắp mặc tăng phục, chẳng đến năm năm đã du phương, tham yết Thiền sư Tuệ Nhật Nhã ở Đông Lâm. Tuệ Nhật nêu nhân duyên Linh Vân thấy Hoa đào mà ngộ đạo để hỏi. Pháp Nhân suy nghó định đáp Tuệ Nhật nói: “Không đúng, không đúng”. Bỗng có chỗ khế hội, trình kệ rằng: “Đầu non hoa đào nở Hoa đào từ đâu đến Linh Vân mới vừa thấy Quay đầu mua ba đài” Tuệ Nhật răn rằng: “Tuy cái thấy của ông đã nhỏ nhiệm, nhưgn phải nương vào phương tiện để rõ được Đại Pháp”. Từ đó thường trụ tại Lô phụ ba mươi năm, chẳng giao tiếp với người đời, người học ở bốn phương vô cùng kính mến, vượt sông trèo đồi tìm đến lò rèn. Pháp Nhân cũng chẳng từ chối đào luyện, tùy căn cơ mà nói Pháp. Cuối niên hiệu Kiến Viêm (1 1 3 1) đời Tống, giặc cướp nổi dậy ở Giang Tả, Pháp Nhân bèn thuận dòng đi về phương đông. Nơi biển Giác kẻ tăng người tục nối nhau tìm đến hỏi đạo. Pháp Nhân thường vì chúng dạy rằng: “Các ông phải giữ gìn Định lực, chớ lo sớm tối cầu việc bên ngoài!”. Đến tuổi về nhà phóng lãng, tự nhiên xưng là “Ngũ tùng tán nhân”. Châu 1 1/ Truyện Sa-môn Thích Uẩn Năng trụ chùa Trung Nham ở My Thích Uẩn Năng hiệu là Tuệ Mục, con nhà họ Lã ở trong Quận. Thuở rẻ học theo Nho, nghiên cứu rộng Kinh sử. Năm hai mươi hai tuổi ở thôn lục khảo xét sách vở, tình cờ đến chùa núi, thấy sách Thiền để trên bàn, lấy xem đọc, dường như có sở đắc, bèn bỏ áo mão, làm tăng thọ giới cụ túc, một bình bát vân du. Đầu tiên, tham kiến Thiền sư Bảo Thắng Trừng Phủ, hỏi đáp qua lại chỗ thú hướng rất khác lạ, thẳng đến Kinh Hồ bèn tham yết các vị Vónh An Hỷ Chân, Như Triết Đức Sơn Hội, trình độ càng vượt xa, kế đến Đại Quy tham yết Thiền sư Xuân. Xuân, hỏi: “Quê nhà ở đâu?”-Đáp: “Nghe nói ở Tây Xuyên”. Xuân nói: “Ở Tây Xuyên có Bồ Tát Phổ Hiền thị hiện phải không?”-Đáp: “Ngày ngày đích thân chiêm ngưỡng từ tướng”. Xuân hỏi: “Voi trắng ở đâu?”. Uẩn năng nói: Móng ngà đã đủ. Xuân nói: “Hiểu chuyển thân chăng ?”.Uẩn Năng cầm toạ cụ nhiễu quanh giường thiền một vòng. Xuân nói: “Không đúng”. Uẩn Năng bỏ đi ra. Một hôm, Thiền sư Xuân hỏi một vị tăng: “Hoàng sào qua rồi sau đó có ai thâu được kiếm báu chăng?”. Vị tăng ấy giơ nắm tay lên. Xuân nói: “Con dao cắt rau”. Vị tăng nói: “Vì sao thọ dụng chẳng cùng”. Xuân hét rồi đi ra, kế đến hỏi Uẩn Năng, Uẩn Năng cũng giơ nắm tay. Xuân nói: “Cũng là con dao cắt rau”. Uẩn Năng liền đến gần túm ngực áo dựng nói: “Giết được người mới thôi”. Thiền sư Xuân cười nói: “Ba mươi năm cưỡi ngựa, hôm nay bị lừa đá”. Từ đó tiếng tăm vang dội khắp nơi. Trở lại đất Thục, đầu tiên làm chủ chùa Báo Ân, kế đến trụ ở Trung Nham, ở trong thất thường hỏi Sùng Chân Chiên Đầu rằng: “Thế nào là mặt mắt của ngươi ở trước kiếp Không?”. Sùng Chân bổng nhiên lãnh hội đáp rằng: “Hòa-thượng hãy nói khẽ”. Liền trình kệ rằng: “Muôn năm giữa bể từng đói kém Ở trong biển lớn thường hết khát Thuở ấy, khi tìm, tìm chẳng thấy Ngày nay lúc tránh, tránh không xong”. Uẩn Năng liền được ấn chứng hứa khả, Uẩn Năng trú trì hơn ba mươi năm, nói pháp chẳng cho người ghi chép, đến lúc sắp qua đời viết kệ từ biệt chúng, ngồi thẳng thị tịch. Lúc trà-tỳ, gió dữ bỗng nhiên nổi dậy, khói bay tới đâu đều mưa rơi xá-lợi ở đó, những người Đạo tục cuốc đất cũng lượm nhặt được. Còn quả tim, chiếc lưỡi không bị cháy, nên xây tháp thờ. Liên quan thử bàn: Sa-môn Uẩn Năng chẳng qua một lần xem thư lang, vừa thấy sách Thiền liền biết chỗ rơi, há chẳng phải là người tái lại ư? Huống chi ngao du đến cửa các vị Thiền sư, không đâu chẳng chịu khít. Mới tiếp cận Đại Quy liền hiểu chuyển thân. Lợi khí ở Uẩn Năng có thể biết rõ là như thế nào. Đại Quy rất chưa thể, đến lúc hỏi nhân duyên thâu nhận kiếm, đã là tiền tăng thì sao không chỗ vào, mà cúi cuàng huơ xuống. Đến lượt Uẩn Năng thì riêng có một đường thấu suốt trời mây, mới nắm cành cỏ mà làm thổi lông. Đại Quy chẳng khỏi gần gửi vướng víu một lỗ mũi con Ngao. Ông đáng gọi là có cơ dụng lớn lao. Đại Quy khéo làm thầy người, Uẩn Năng cũng chẳng thẹn làm học trò của người. Than ôi! Thầy trò, chủ bạn ở đời vừa thấy nhau mà có phong thái tác lược như vậy, mới không uổng dạo trong biển Pháp. Cả hai đều không để lại ăn năn. Nếu không như thế thì đều là dùi sắt không lỗ, phụ lòng người mặt vàng chẳng ít, hãy cố gắng! 1 2/ Truyện Sa-môn Thích Tông Hiển trụ chùa Tín Tướng ở phủ Thành Đô Thích Tông Hiển hiệu là Chánh Giác con nhà họ Vương ở Đồng Xuyên. Thuở thiếu thời, Sư được chọn làm Tiến só có tiếng, thường mỗi buổi sáng múc nước suối làm vui. Đến tối suy nghó bèn thấy nước lạnh tự nhiên đầy nhà, muốn múc ra không thể được. Bổng nhiên ngay cảnh trần ấy tự không than rằng: “Đời tôi như lưới rách vậy!”. Bèn đến nương tựa Chiếu Giác Bạch Công và được độ. An nhiên một chiếc áo nạp theo chúng thưa hỏi tham cứu. Một hôm, Bạch Công hỏi rằng: “Vòi vọi đứng đảnh non cao, thẩm sâu đi trong đáy bể, làm sao hiểu?”. Bổng dưng ngay lời nói ấy, Tông Hiển đốn ngộ đáp rằng: “Đinh sắt hại gót chân”. Chiếu Giác lại lấy cây phất trần hỏi: “Vậy cái này lại thế nào?”. Tông Hiển mỉm cười rồi đi ra. Khắc phục huyên cần suốt 07 năm, ra đến kinh đô Hoài Xế, đi khắp các chốn tòng lâm. Về già, Sư lên Ngũ Tổ, gặp Hòa-thượng Diễn hỏi: “Chưa biết ải Lệ Tử, khó qua cầu Triệu Châu, vậy thế nào là ải Lệ Tử?”. Tổ nói: “Ông còn đứng ngoài cửa!”. Tông Hiển đạp tới một bước rồi thối lui. Ngũ Tổ nói: “Rất nhiều thời gian uống trà, ăn cơm, xưa nay cũng có người biết được mùi vị đó”. Sáng hôm sau vào thất, Ngũ Tổ thấy Tông Hiển bèn hỏi: “Ông có phải là vị tăng hôm qua hỏi Câu thoại chăng? Ta đã biết chỗ thấy của ông, chỉ chưa qua được ải Bạch Vân”. Tông Hiển trân trọng lui ra. Bấy giờ, Viên Ngộ đang làm thị giả, Tông Hiển bèn đem ý ải Bạch Vân hỏi Viên Ngộ, Ngộ nói: “Hiểu lấy ngay đó”. Tông Hiển cười nói: “Tôi không phải không hiểu, mà chỉ là chưa am tường. Đợi thấy ông già ấy cùng với lý nầy hiểu làm một”. Hôm sau, Ngũ Tổ đến Dã thành, Tông Hiển cùng Viên Ngộ kế đó cũng đến, vừa gặp ở Hưng Hóa, Ngũ Tổ hỏi: “Có nhớ từng ở chỗ nào gặp nhau chăng?”. Tông Hiển nói: “Toàn lửa chỉ chờ”. Ngũ Tổ xoay qua Viên Ngộ nói: “Gã ấy lắm lời”. Sau, đến Lô sơn lại nêu ý sở đắc câu thoại “Vòi vọi đứng đảnh non cao” để hỏi Ngũ Tổ, Tổ nói: “Ta thường đem việc ấy hỏi Tiên sư, Tiên sư cũng có hỏi Hòa thượng Viễn, Hòa thượng Viễn nói: “Mèo có Công mềm huyết, Hổ có Đức dựng thây, chẳng cầu đạt cội nguồn thì không thể đến!”. Tông Hiển theo hầu ở đó rất lâu, Tổ cũng rất mến thương, lúc từ biệt trở lại đất Thục, Tổ làm Tiểu Tham, lại dùng kệ tiễn đưa rằng: “Xa quê hơn bốn mươi năm Một thời quên ngay tiếng Thục Thiền nhân trở về Thành Đô Thì phải nhớ lấy lời Tổ” Tông Hiển về thì Chiếu Giác Bạch Công vẫn mạnh khoẻ, nên lại theo hầu đó, tiếng tăm vang xa. Đầu tiên, Sư ra hoằng hóa trú tại Trường Tùng, kế đến làm Tự chủ Bảo Phước. Bày rộng là bệ, đào luyện người học khắp bốn phương, nên các bậc long tượng phần nhiều xuất phát từ dưới sự chuyển hóa của Tông Hiển. 1 3/ Truyện Sa-môn Thích Pháp Thường trụ chùa Báo Aân ở Gia Hưng Thích Pháp Thường người ở Khai Phong, là con cháu của Thừa tướng Tiết Cư Chánh. Niên hiệu Tuyên Hòa thứ bảy (1 1 2 5) bèn hiểu được trần ai buộc ràng, nghó tưởng cao xa, bèn nương tựa Trường Sa Ích Dương Hoa Nghiêm Thức Công, được cạo bỏ râu tóc, đắp mặc y ruộng phước, người nhìn thấy như Sư tử đầu đàn. Ở thì là Bảo xã, lời không đúng pháp chẳng nói, trái phép chẳng đoái hoài, kính mến sâu sắc Đại thừa, chẳng bác bỏ Tiểu thừa. Một hôm, xem Kinh Thủ-lăng-nghiêm, mới mở toang nghóa lý như trời vực, thấu suốt cả biển Pháp. Từ đó, phiêu du Hoài tứ, phóng lãng Hồ tương, sau đến tham yết Đại sư Tuyết Sào chùa Vạn Niên ở Thiên Thai, mới một lần gặp mà cơ ngữ khế hội, bảo chấp chướng Hàn Tiêu, sau đó không lâu Sư được thỉnh làm thủ chúng, vì Tăng nhập thất, rất có phong thái, điềm nhiên xử thế, chẳng trau chuốt mọi duyên. Trong thất chỉ có một chiếc giường thấp nhỏ, ngoài ra không vật dư. Ngày rằm tháng chín năm Canh Tý, nhằm niên hiệu Thiệu Hưng, Sư nói với đại chúng rằng: “Tôi nội trong một tháng sau không còn lưu trú nữa!”. Đến ngày hai mươi mốt tháng mười, Sư viết bài Từ Ngư Phụ ở cửa Thất rằng: “Việc này Lăng nghiêm thường lộ bày Hoa đào trăng tuyết giao ánh sáng Khẽ cười vắng vẻ không muôn xưa Gió âu nói khác xa Ngân Hán tung khắp trời Bướm mộng Nam hoa vừa tung tăng Lớp lớp ai vượt tràn can hổ Mà nay quên ngay đường lúc trở lại, Giang sơn trời chiều Bờ mắt đưa chim hồng bay đi!” Viết xong, Sư đến giường xếp chân mà hóa, tháp thờ Sư được đặt ở phía Tây nam cửa chùa. 1 4/ Truyện Sa-môn Thích Trí Sách ở Kính Sơn thuộc phủ Lâm An Thích Trí Sách hiệu là Đồ Độc, con nhà họ Trần ở Thiên thai, vừa mới sanh mà Sư thông minh khác xa bọn trẻ, chẳng ưa thích vinh hoa thế tục, trầm tư vắng lặng. Từ nhỏ nương tựa Hộ Quốc Sở Quang được cạo tóc và được trao cho tăng nghi, chỉ một bình bát, an nhiên, nghiên cứu suốt cùng ba tạng. Đầu tiên, Sư đến Quốc Thanh Tịch Thất Quang Công, bỗng nhiên mình có tỉnh. Kế đến qua Minh Châu tham yết Thiền sư Đại Viên ở chùa Vạn Thọ. Đại Viên hỏi: “Từ đâu đến?”-Đáp: “Thiên Thai”. Đại Viên hỏi: “Có thấy Đại Sư Trí Giả chăng?”-Đáp: “Ngay đây cũng không ít”. Đại Viên nói: “Nhân rất ở dưới gót chân ông”-Đáp: “Ngay mặt sai quá”. Đại Viên nói: “Chuộng người chẳng làm cỏ nên lúa không nâng mà đứng thẳng!”. Một hôm, từ biệt cửa Đại Viên, lúc tiễn đưa Đại Viên vỗ vào lưng Trí Sách nói: “Đảo châu báu ở gần, thành này chẳng thật”. Trí Sách kính vâng. Muốn đến Dự Chương tham yết Hòa thượng Điển Ngưu Du, Đạo do Vân cư, gió do tuyết lấp, đường không khách tiến bước, trải qua bốn mươi hai ngày, vào buổi trưa giờ Ngọ, nghe tiếng bảng mà hoát nhiên Đại ngộ. Lúc đến cửa Điển Ngưu. Điển Ngưu riêng chỉ Trí Sách nói: “Ở đâu mà thấy thần, thấy quỷ đến?”-Đáp: “Ở tại Vân Cư, nghe tiếng bảng mà lại”. Điển Ngưu nói: “Vậy là thế nào?”. Trí Sách nói: “Đánh phá hư không, toàn không cương cán”. Điển Ngưu nói: “Việc hướng thiện chưa có”. Trí Sách nói: “Nhà Đông bị tối, nhà Tây mắng nhiếc”. Điển Ngưu nói: “Cao ngất vượt quá Phật Tổ, ngày sau dựng nhà, một con lân đầy đủ”. Về sau, vâng phụng Thánh chỉ trú tại Song Kinh, mở mang rộng lớn Đạo của Điển Ngưu. Người học bốn phương tìm đến rất đông. Lúc sắp thị tịch làm văn để tế, Sư tự ngồi thẳng mà nghe đến chữ: “Còn hưởng”. Bèn mỉm cười. Sau đó, hai ngày Sư tắm gội, thay đổi y phục nhóm chúng nói kệ rằng: “Bốn đại đã ly tán Trời thu sương đêm Nguyệt mây khói tùy ý về Muôn dặm chuyển sáng ngời” Rồi an nhiên thị tịch. Xây tháp an táng toàn thân dưới chân núi phía Đông chùa. 1 5/ Truyện Sa-môn Thích Đạo Xu trụ chùa Linh Aån ở phủ Lâm An Thích Đạo Xu hiệu là Lại Am, con nhà họ Từ ở An thuộc Ngô Hưng, thường tham học tại đạo tràng Thiền sư Tuệ, được truyền Tâm ấn, đạo nghiệp ngày một hưng long. Đầu tiên, trú tại Hà sơn, sau dời đến Hoa tạng. Đến đầu niên hiệu Long Hưng (1 1 6 3) có chiếu dời đến chùa Linh Ẩn. Vua Hiếu Tông đời Tống vời Sư vào Nội điện ban tòa, hỏi rằng: “Yếu chỉ của Thiền đạo, có thể nghe được chăng?”. Đạo Xu trả lời: “Việc ấy là chỗ ứng cơ trong công dụng thường ngày của Bệ hạ. Vốn không phân Tri kiến khởi diệt, chia ra Thánh phàm mê muội, lần lượt giữ gìn chánh niệm thì cùng tương ứng với đạo, quên tình bỏ vật thì Nghiệp không thể buộc ràng. Dứt sạch hai bệnh Hôn trầm và trạo cử, tự quên ý hỏi đáp, huống gì ngày nay cái thấy nằm trong Bát-nhã thì việc gì mà chẳng thành kiến?”. Hoàng đế Hiếu Tông lấy làm vừa ý gật đầu. Về sau, vì già yếu, nên Sư xin cáo lui về ở tại Vónh An của Minh Giáo, tiêu dao thích thú. Thường đề kệ ở trên vách rằng: “Trong tuyết hoa mai báo tin xuân Giữa hồ trăng tỏ rọi tinh thần Năm đến hẳn không điều tốt lại, Chớ bắt nếp nhà khắp tợ người!” Tháng tám năm Bính Thân (1 1 7 6) nhằm niên hiệu Thuần Hy, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, viết kệ rồi thị tịch. Xây tháp tại Vónh An. Kinh 1 6/ Truyện Sa-môn Thích Hải Tuệ chùa Đại Trữ Khánh ở Thượng Thích Hải Tuệ người ở Kim Quốc. Thuở nhỏ khôi ngô thông minh, học chẳng nhờ thầy. Văn cáo xứ Lỗ, sách vở đất Trúc, hễ qua mắt thì Sư đều thuộc lòng. Đầu tiên, Sư đến các trường giảng như đến cung rồng, đối với tánh tướng huyền đồ, đều nắm được cốt yếu và hiểu được tinh túy. Do đó, vui Pháp mừng Thiền mà tự no đủ, dấu vết ở Ngũ đài, dao cày giống lửa, đến non cao dựng thất, một chiếc giường an nhiên, như vậy suốt mười lăm năm. Một hôm, Sư than rằng: “Hễ là bậc trượng phu thì phải vì chúng sanh là việc gấp, yếu hèn thì làm sao?”. Bèn chống gậy đến Yên Đô, đi khắp các thiền tự tùy duyên giảng nói, bảy chúng nhóm họp. Từ đó, tiếng tăm vang khắp mọi nơi, Hương Đạo thoảng vào cung cấm. Tháng sáu niên hiệu Hoàng Thống thứ ba (1 1 4 3) đời Kim, Thái tử Anh Điệu xây dựng chùa Đại Trữ Khánh ở Thượng kinh bên cạnh cung cấm, khi xây xong rất tinh xảo trên đời, đẹp như Thiên cung. Do kính mến đạo hạnh của Sư nên vua ban chiếu thỉnh Sư làm khai sơn đời thứ nhất, nói pháp ban Điệp, độ khắp dân chúng trong nước, đồng hành có trăm muôn quan thần làm tăng ni. Năm sau (1 1 4 4) vua ban chiếu đón rước thụy tượng bằng chiên đàn để cúng dường tại lầu Tích Khánh của chùa. Đến niên hiệu Hoàng Thống thứ năm (1 1 4 5) Ngài Hải Tuệ viên tịch, trà-tỳ thâu nhặt xá-lợi năm mầu nhiều vô số, sáng ngời suốt tận hư không, phô bày mùi hương lạ bay xa cả tuần, Kim chúa (Hy Tông), Giai Hậu, Thái Tử, thân vương trăm quan thiết cúng năm ngày, chia ra năm nơi xây tháp để cúng dường. Tặng huy hiệu “Phật Giác Hựu Quốc Đại Sư”. Tháng giêng năm sau (1 1 4 6) ban chiếu thỉnh Thiền sư Thanh Tuệ trú trì chùa Đại Trữ Khánh, tặng hiệu “Phật Trí Hộ Quốc Đại Sư” ban lên tòa Quốc sư, đặc biệt ban y tăng-già-lê dệt bằng sợi vàng, và bình bát quí lạ cùng các vật báu. Kim chúa, Hậu phi, Thái tử đảnh lễ hai chân, kính dâng Pháp y. Vua nước Chấn Đán cung kính sa- môn, xưa nay chưa từng có như thời ấy. 1 7/ Truyện Sa-môn Thích Hữu Quyền trụ chùa Hoa Tạng ở Thường Châu Thích Hữu Quyền hiệu là Y An, con nhà họ Kỳ ở Xương Hóa thuộc Lâm An. Thuở tóc để búi đào đã xuất gia, năm mười bốn tuổi Sư được độ, dốc chỉ siêng năng, cố gắng tham cứu rộng các thứ Điển chương. Năm 18 tuổi biết có chí hướng thượng bèn ra sức tham cầu. Đầu tiên đến tham lễ Ngài Phật Trí Dụ Công chùa Linh Ẩn, bấy giờ Hòa- thượng Vô Am sung chức Đệ nhất tọa. Hữu Quyền vào thất thưa hỏi, Vô Am đem từ gốc vô trụ dựng lập tất cả pháp để hỏi Sư, Sư với thời gian lâu nên có sự tỉnh ngộ đáp rằng: “Trong tối xỏ chỉ qua kim, trong tai ra khí”. Vô Am chấp nhận bèn thầm truyền tâm ấn. Đã có sở đắc, tinh tấn càng vững chắc. Một đêm, Sư ngồi thẳng thiền tọa, đến sáng ngày tuy cùng chúng đi dùng cháo mà quên mở bát, vị tăng bên cạnh đưa tay khều, bỗng nhiên đại ngộ, nói kệ rằng: “ Sơn đen Côn lôn nắm cần câu Buồm xưa cao cột lo nước xiết Hoa lau trong bóng lộng trăng sáng Dẫn được rùa mù lên thuyền câu” Phật Trí càng thêm khen thưởng. Một hôm, Ngài hỏi Sư rằng: “Tâm trùm thái hư, lượng khắp sa giới, lúc ấy thế nào?”-Đáp: “Biển lớn không giữ thây chết”. Phật Trí vỗ vào tòa ngồi nói: “Ông này ngày sau sẽ nương vào đó mà chê Phật mắng Tổ”. Từ đó, Hữu Quyền rất tự giấu kín tông tích ở giữa vùng Hồ Tương và Giang Triết suốt mười năm, sau đó hoặc nương theo Ứng Am hay Đại Tuệ. Hễ nghe cá các bậc Minh Nhãn túc đức thì liền đến đảnh lễ tham yết. Vô Am ra hoằng hóa làm chủ một đạo tràng, vời Sư về chia tòa nói pháp. Từ đó tiếng tăm vang khắp các nơi, không bao lâu có lệnh của Hoa Tạng, khai đường dạy rằng: “Thiền, thiền không a dua, chẳng thiên lệch Lúc mê cách xa ngàn dặm Khi ngộ chỉ cạnh bờ môi” Do đó, có vị tăng hỏi Thạch Sương rằng: “Thế nào là Thiền?”. Thạch Sương đáp: “Thợ đúc gạch”. Có vị tăng hỏi Mục Châu rằng: “Thế nào là Thiền?”. Mục Châu đáp: “Lửa dữ đổ dầu dữ để nấu”. Có vị tăng hỏi Thủ Sơn rằng: “Thế nào là Thiền?”. Thủ Sơn đáp: “Con khỉ leo lên cây, đuôi liền với đầu”. Sư nói: “Đạo không ngang dọc, đứng chỗ trơ trọi, nhưng ba vị Đại lão ấy mà thực hành thì đường trước mở rộng, dụng bỏ ngoài Linh cơ. Nên căn cứ chính phục của nạp tăng mà xem xét tương lai có sự hơn kém. Một người thì như Trương Lương vào trận, một người như Hạng Vũ dụng binh, một người như Khổng Minh liệu giặc. Nếu người biện bạch được thì có thể ngang hàng với Phật Tổ. Tuy như vậy, nhưng bỗng xuất lai nói lời thoại của Trưởng lão có hai cây cọc rồi. Vừa đến nói Đạo, Đạo không ngang dọc, không a dua, không thiên lệch, mà nay lại có chia ra nhiều hơn kém. Vả lại làm sao chỉ đáp, lại giao tất cả mà nắm tay lên núi, đồng dốc sức từ cổ họng xuất khí, tự nhà mình biết”. Đến mùa Thu năm Canh Tý (1 1 8 0) nhằm niên hiệu Thuần Hy, Sư thị hiện bị bệnh nhẹ, viết kệ để lại rồi hóa. Trà-tỳ xong răng và lưỡi không bị cháy và xá-lợi năm mầu nhiều vô số. Xây tháp thờ Sư. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH (Quyển bảy hết)  <卷>QUYỂN 8 CHƯƠNG BA: TU TẬP THIỀN ĐỊNH TRONG PHẦN THỨ 4 CHƯƠNG III (Chánh truyện có mười bảy vị, phụ có sáu vị) Truyện Sa-môn Thích Đức Thăng trụ chùa Vân Cư ở Quân Nam Khương. Thích Đức Thăng hiệu là Ngoan Am, con nhà họ Hà ở Hán Châu. Thuở nhỏ chìm đắm trong bụi trần, hơi lớn lên mới tỉnh mộng, năm hai mươi tuổi được độ, tâm đặt nơi các trường giảng, đối với ba học bp61n chúng, dùng nghóa hổ để suy ra, bỗng nhiên chi giải tự hiềm nên phiên nhiên dễ thường, lại đến tham yết Hòa-thượng Văn-thù Đạo xin chỉ bày yếu chỉ quan trọng của Phật Pháp, Hòa-thượng Đạo nói kệ rằng: “Khiết đan đánh phá trại Ba-tư Cướp được châu báu trong làng Khất thực đứng ở ngã tư đường Trên lưng đeo cái Đãy phong lưu!” Đức Thăng suy nghó định đáp, Hòa-thượng Đạo liền quát rằng: “Chớ lầm”. Từ đó Sư lui về tham cứu ba năm mới lãnh hội được ý chỉ trước. Sư vào núi Mân Cổ, lễ hầu Ngài Trúc Am, hỏi rằng: “Quốc sư chưa vượt Thạch môn, ý câu ấy thế nào?”. Trúc Am ứng thanh đáp: “Ngôn ngữ nhàn”. Đức Thăng ngay lời nói đó được đốn ngộ. Về sau có vị tăng hỏi: “Thế nào là vô vị chân nhân?”. Đức Thăng đáp: “Lúc nghe thì giàu sang mà sau thì thấy nghèo hèn”. Thích Tuệ Ôn hiệu là La Am, con nhà họ Trịnh, sanh ở Phước châu, cùng với Đức Thăng cùng nương Ngài Trúc Am ở phía đông. Không bao lâu vì việc gì Ngài Trúc Am qua đời nên tự trong lòng chưa an nhiên, lại tham yết Cao Am tỏ ngộ Nam Hoa, rõ Thảo Đường, trong các bậc Kỳ Túc, đều được ban lời. Gặp Trúc Am dời đến Mân Càn Nguyên, Tuệ Ôn lại trở về, Tỉnh Am nói: “Tình sanh thì trí cách, tưởng biến thì thể khác thường, chẳng dùng dừng tù nuôi lớn trí, Đạo đem một câu đến”. Tuệ Ôn hốt nhiên đại ngộ, vào trình kệ rằng: “Bức ra toàn thân là miệng, đâu ngại mắng gió chửi mưa? Đêm qua thôn trước, hổ dữ giết chết con trùng lớn ở Đại nam” Trúc Am chấp nhận. Về sau trú tại Lang sơn thuộc Thông châu, Tuệ Ôn cùng Đức Thăng xây dựng Trúc Am thành một nơi dẫn đạo tốt. Truyện ngài Sa-môn Thích Tự Viên trụ chùa Vân Cư ở Nam Khang Quân Thích Tự Viên hiệu là Phổ Vân con nhà họ Ung ở Miên Châu. Từ kiếp trước vốn có linh căn nên còn tuổi nhỏ đã cắt ái. Tham dục khô như cá thoát lưới, vào vườn Đạo tợ gió vờn ngô đồng. Năm mười chín tuổi, thi Kinh được khen tặng từ điệp. Sau khi xuất gia, trước tiên tham tầm Luật tông, tác phạm chỉ trì đều sáng trong như ngọc, suốt năm năm ròng trầm ngâm trong biển Pháp, sau mới vượt ải đi xuống phương nam tham yết, khắp bốn chúng đều suy tôn là anh tuấn, khấu lễ tất cả các vị tôn túc. Mới đến Long môn, tình cờ rảo bước dưới hành lang, thấy tượng vẽ Người Hồ trên vách, bỗng nhiên có sự tỉnh ngộ, đến tối bạch cùng ngài Cao Am, Cao Am nêu kệ Pháp Nhãn rằng: “Đầu đội mão chuột mèo Nói chẳng cho người hiểu lưng đeo dùi sừng dê Phải có người dịch ra” Cao Am liền gắp lửa chỉ bày cho, nói rằng: “Ta dịch cho ông rồi!”. Tự Viên ngay lời nói đó đại ngộ, trình kệ rằng: “Ngôn ngữ nước ngoài chẳng thể cùng Mây nổi dưới đình cùng lúc thông Cửa miệng rộng lớn không ngằn mé Nuốt hết Dương kỳ cỏ gai bồng!” Cao Am gởi Tự Viên đến hầu Phật Nhãn, Phật Nhãn nói: “Đạo ta truyền về phương rồi”. Thích Thiện Năng cũng là người kế thừa Pháp môn của Cao Am, vốn dòng họ Nghiêm Lăng, không rõ họ tên. Một hôm, Cao Am rao khắp để chọn rau, kế đến Cao Am biết duyên của Thiện Năng đã chín muồi, bỗng ném con mèo vào bụng Thiện Năng, Thiện Năng suy nghó để trả lời, bị Cao Am túm ngựa áo xô té, hoát nhiên Đại ngộ, đứng dậy chỉ mỉm cười mà thôi. Trải qua thời gian lâu dài theo hầu Cao Am nên hương Đức lan xa, kẻ tăng người tục đều khuynh tâm, trời người đều ủng hộ. Sư ra hoằng hóa trú trì chùa Trung tế ở Phước châu. Người đời tôn xưng Tự Viên và Thiện Năng là hai cây cờ Pháp. Truyện Sa-môn Thích Ngạn Sung ở chùa Tịnh Từ phủ Lâm An Thích Ngạn Sung hiệu là Khẳng Đường, con nhà họ Hàng ở Tiềm Thạnh, khi còn nhỏ tuệ tánh Sư đã sáng ngời, gốc lành sẵn có bên trong, mới sanh mà biết có chí nguyện thoát khỏi sự ràng buộc của trần ai, bèn nương theo Thích Nghóa Kham ở viện Minh Không, cạo tóc xuất gia, suốt năm hạ học luật, chỉ một bình bát thân hành tìm đến chỗ Ngài Đại Ngu Hoằng Trí, Chánh Đường Đại Viên, sau đó nghe một vị tăng nêu lời Đông Lâm Nhan dạy chúng rằng: “Ta đây không có gì huyền diệu, chỉ có trát gỗ canh sắt cơm đinh, giao cho các ông nhai ăn!”. Ngạn Sung thầm vui mừng thẳng đến tham yết trình bày chỗ thấy biết. Đông Lâm dạy rằng: “Xét theo chỗ thấy của ông chính là bị giam giữ trong hiểu biết”. Ngạn Sung đem tất cả sở đắc từ trước đồng một lúc buông bỏ, chuyên chú nhất tân tinh cần tham cứu. Một hôm, nghe vị tăng bên cạnh nêu: “Lúc Nam Tuyền dạy đạo, người đương thời thấy một gốc hoa này tương tợ như mộng”. Bèn im lặng tự hiểu rằng: “Đánh cỏ chỉ cần rắn làm cho kinh sợ”. Hôm sau vào thất, Đông Lâm hỏi: “Đâu là chỗ của Nham Đầu thầm khải ý ấy?”. Ngạn Sung nói: “Hôm nay đánh bại lão giặc đó”. Đông Lâm nói: “Tánh mạng Đại sư Đạt-ma ở trong tay ông”. Ngạn Sung suy nghó định mở miệng, bỗng nhiên bị Đông Lâm cho một thoi vào ngực, liền Đại ngộ, mồ hôi tuôn ướt lưng, cúi đầu nói rằng: “Lâm Tế dạy Hoàng Bá Phật Pháp không nhiều người, đâu phải là lời nói luống dối ư!”. Bèn trình kệ rằng: “Vì người phải thấu triệt Giết người phải thấy máu Đức Sơn cùng Nham Đầu Muôn dặm một roi sắt” Đông Lâm rất hài lòng về Ngạn Sung. 4/ Truyện Sa-môn Thích Chân Từ trụ chùa Trí Giả ở Vụ Châu Thích Chân Từ hiệu là Nguyên Am, con nhà họ Lý ở Đồng Xuyê. Vừa tuổi búi tóc đã kính mến sự không tịch, thích đến cảnh già-lam, khẩn cầu cha mẹ, nương theo Đại sư Viên Đảnh Viện Chánh Pháp ở Thành đô, thọ đầy đủ giới Pháp Đại thừa Tiểu thừa, thanh tịnh như băng tuyết, tuệ giải tợ mặt nhật chói sáng, ham thích bối văn, đến khắp các trường giảng, nghe giảng “Kinh Viên Giác” đến câu: “Bốn đại đều lìa, nay đây thân vọng sẽ đi về đâu? Nên rốt ráo là vô thể, thật đồng như huyễn hóa”. Nhân đó, có sự tỉnh ngộ, làm bài tụng rằng: “Một hạt ngọc sáng Nằm ở trong ta Khều đến, đụng đến Phát sáng khắp nơi” Đem trình cùng các giảng sư, không một ai biết được, bèn trở về trình với thầy thọ nghiệp, thầy dùng câu thoại: “Con chó không có Phật tánh” để hỏi, Chân Từ liền đáp: “Trăm ngàn công án không ngoài bài tụng này”. Thầy bèn quét rồi đuổi ra. Nhân đó đi về phương Nam đến Lô Phụ, trụ ở Viên Thông. Bấy giờ, Vạn Am vì Tây đường, vì chúng mà nhập thất nêu: Có vị tăng hỏi Vân Môn: “Tung bụi thấy Phật, lúc ấy thế nào?”. Vân Môn đáp: “Phật cũng là bụi”. Chân Từ nghe hoát nhiên liền quát, đưa tay chỉ ngực nói: “Phật cũng là bụi?”. Lại trình bài tụng rằng: thổi” “Tung bụi thấy Phật Phật cũng là bụi Hỏi xong đáp xong Ngay đó xoay mình Khuyên anh lại cạn một chén rượu Tìm đến phương tây qua ải Dương, không người xưa!”. Lại làm bài tụng “Trần trần tam-muội rằng: “Cơm trong bát, nước trong thùng Riêng báu côn luân chìm đáy đầm Một mảy bụi, trên mảy bụi mọc núi Diệu Cao Mắt sáng Ba-tư cười búng ngón tay Cười búng ngón tay, trên cành san hô gió trong lành Vạn Am gật đầu. Từ đó tiếng tăm vang bốn phương, Đạo thấm nhuần các đường, ra hoằng hóa, trú tại chùa Trí Giả. Khuyên dạy dắt dẫn người học là một tay Đại Đồ Long. 5/ Truyện Sa-môn Thích An Vónh ở Cổ Sơn thuộc Phước châu Thích An Vónh hiệu là Mộc Am, con nhà họ Ngô ở huyện Mân. Khi sanh ra, Sư đã có Đạo chất, đi đứng trang nghiêm, thân lạnh nhạc ái triền, có tâm cao xa. Năm hai mươi tuổi cạo tóc, nêu cao vật ngoại, nghe có Đạo Truyền riêng bèn đến tham yết Thiền sư Lại am ở Vân Môn. Lúc nhập thất, Lại Am xoay lại hỏi rằng: “Bất luận hữu ngôn, bất luận vô ngôn, Đức Thế Tôn im lặng hồi lâu, không được hướng về chỗ Đức Thế Tôn hồi lâu, để hội?”. Sau đó liền hét, An Vónh đột nhiên khế ngộ. “Mọi người chưa được chỗ vào phải được chỗ vào, đã được chỗ vào thì không được quên lão tăng”. An Vónh nói: “Vì sao nói da mặt dày bao nhiêu, Mộc Am thì chẳng phải như vậy, mọi người chưa được chỗ vào, phải được chỗ vào, đã được chỗ vào, ngay đó phải buông bỏ chỗ vào mới được”. Hễ pháp nói ra đều đơn giản rõ ràng như thế. Bấy giờ, có am chủ là An phần, ít cùng An Vónh cộng nghiệp ở An Quốc. Sau An Vónh đều nương Lại Am mà không khế hội, nên từ biệt đến tham yết ngài Đại Tuệ ở Kính sơn, kế là đến Giang can ở Tiền Đường, chiêm ngưỡng cung khuyết, bỗng nghe Nhai Ty hét Thị Lang đến, hốt nhiên Đại ngộ, nói kệ rằng: “Bao năm việc ấy mãi ôm hoài Hỏi khắp các nơi mắt chẳng mở Can đảm lúc này đều tan nát Một tiếng trên sông Thị lang đến” Cuối cùng trở lại Tây thiền. Lại Am đón rước, truyền y tăng-già- lê cho An Vónh. Từ đó chẳng phân chỗ ở, sau Mộc Am trụ tại Kiếm môn, giáo hóa trùm khắp lãnh biểu, các người học theo về. Truyện Sa-môn Thích Đàm Mật trụ chùa Tịnh Từ ở phủ Lâm An Thích Đàm Mật hiệu là Hỗn Nguyên, con nhà họ Lô ở Thiên Tha. Vừa mới sanh ra, Sư đã khôi ngô thông minh dónh ngộ khác phàm. Từ thuở nhỏ nhờ âm đức che chở,Sư có chí cao xa. Đầu tiên nương Đại sư Đạo Vinh chùa Tư Phước ở trong ấp Chi, nghiên cứu sâu kinh giáo tiếng Phạn. Năm mười sáu tuổi đầy đủ giới Pháp cụ túc vào hàng Đại tăng, các thứ luật Bộ Đại Thừa, Tiểu thừa đều sáng trong, không tỳ vết, siêng năng tu tập Giáo Quán Thiên thai, đối với tánh Đốn Tiệm, Thiên viên đều có yếu chỉ của Lý Độc, như thấy chỉ tay trong lòng bàn tay. Một hôm, Sư than rằng: “Cái Diệu của Giáo thừa là Vô Đắc mà gọi, chỉ vì chưa lìa Danh ngôn, nên không thể thấy tánh, chẳng bằng mang y theo học “Biệt truyền”, nếu có sở kiến thì sung sướng một đời”. Nghe Đại Tuệ xướng Đạo ở Kính Sơn, Sư bèn đến tham yết. Lại thưa hỏi các vị Tuyết Sào, Am nguyên, Nhất Thử, nhưng đều không tỉnh phát. Bấy giờ từ đất Mân mà đến chỗ nam Tuyền, đầu thành tham yết Hòa thượng Giáo Trung Quang, được cử giữ chức Duy Na, nghe Giáo Trung nêu: “Nhân duyên Hương Nghiêm quẳng cục đá vào gốc tre” mà hốt nhiên Đại ngộ và trình kệ. Giáo Trung hỏi vặn những lời huyền diệu chưa thấu triết, đối đáp không dính mắc, bèn phó chúc rằng: “Từ nay về sau ông mới có thể thấy được Đại Tuệ”. Từ đó, vâng giáo, từ biệt đi đến Mai Dương, khắc phục chuyên cần suốt bốn năm, Đại Huệ thường lên Pháp tòa. Sau ra hoằng hóa vâng chiếu trú trì chùa Tịnh Từ, mở mang Đạo của Giáo Trung. Ngoại hộ giúp đỡ thường đầy đủ. Sau khi Sư viên tịch, tháp thờ Sư được xây dựng ở góc Tây bắc bổn sơn. Châu Truyện Sa-môn Thích Hàm Kiệt chùa Thiên Đồng ở Minh Thích Hàm Kiệt hiệu là Mật Am, con nhà họ Trịnh ở Phước Châu. Mẹ của Sư mộng thấy vị Lão tăng ở Lô sơn vào nhà, bèn sanh ra Sư. Từ nhỏ đã Sư dónh ngộ khác người, đến tuổi tráng niên được cạo tóc tấn đàn thọ giới cụ túc, tham vấn khắp các vị Thiện tri thức, cuối cùng đến tham yết Hòa-thượng Ứng Am Hoa ở am Minh Quả thuộc Cù Châu. Một hôm, hỏi rằng: “Thế nào là Chánh Pháp Nhãn?”-Đáp: “Phá bồn cát”. Ứng Am gật đầu hài lòng. Liền nói kệ rằng: “Câu đại triệt hợp cơ Đáng tỏ rộng cửa Đảnh Theo hầu bốn năm nay Bày hỏi suốt không vết” Tuy chưa được trao truyền y bát, nhưng khí lực như bao gồm trời đất, nắm lấy chánh pháp nhãn gọi làm phá bồn cát. Về sau Sư ra hoằng hóa trú tại am Ô Cự ở Cù Châu. Kế đến dời tới Hoa tạng ở Tương sơn thuộc Trường phù. Sau đó không lâu, Sư vâng chiếu trụ tại Kính sơn và Linh Ẩn. Lúc thượng đường, Ngưu Đầu nói ngang nói dọc, chẳng biết có quan Lệ Tử hướng thượng, có bọn thùng sơn lủng đáy, Đông Tây không phân biệt, nam bắc chẳng chia phân. Thế nào là quan Lệ Tử hướng thượng khác gì mở mắt thấy nước đái đầy giường. Ta có một chuyển ngữ, chẳng tại hướng thượng, hướng hạ. Ngàn tay Đại Bi sờ tìm chẳng dính mắc. Lão tăng ngày nay hãy bố thí đại chúng đi. Một hồi lâu lại nói: “Đại sư Đạt-ma không đáng môn xỉ”. Thượng đường nắm lấy tích trượng dộng nói: “Lúc mê chỉ mê cái ấy”. Lại dộng một cái nữa nói: “Lúc ngộ chỉ ngộ cái ấy, mê ngộ cả hai đều quên mất, phẩn tảo đắp đầu lại thêm đè nén, chẳng có đông nổi tây lặn, toàn cơ riêng chỗ thoát, nói được một câu thôi. Nếu nói không được lão tăng tự nói đi”. Ném tích trượng bảo: “Ba mươi năm sau lại nêu: Hòa-thượng Kim Phong dạy chúng rằng: “Lão tăng hai mươi năm trước có tâm lão bà (tâm từ bi), hai mươi năm sau không có tâm lão bà, có vị tăng hỏi:Thế nào là Hòa- thượng có tâm lão bà? Kim Phong đáp: Hỏi phàm đáp phàm, hỏi thánh đáp thánh. Vị tăng lại hỏi: Thế nào là Hòa-thượng không có tâm lão bà? Kim Phong đáp: Hỏi phàm không đáp phàm, hỏi thánh không đáp thánh”. Hàm Kiệt nói: “Nếu lúc bấy giờ ta thấy người khác nói gì thì sẽ nói với họ rằng: “Ông hãy tự nhìn đất đi”. Tự nhiên chẳng lạc vào hang động Thánh phàm ấy”. Lại nêu câu thoại Bà lão đốt am xong, Hàm Kiệt nói: “Công án ấy trong các tòng lâm có nhiều người niêm đề, Lão tăng ngày này rạch nát da mặt, chẳng khỏi đối chúng nạp bại khuyết một trở lên, định cần các phương xem xét rõ ràng”. Bèn gọi chúng lại bảo: “Chỗ ở của Bà lão ấy sâu ẩn, nước chảy không thông, riêng hướng leo lên cây khô tàm hoa, trong núi non lạnh ngắt phát nóng, vị tăng ấy một mình xa chót vót quen vào sóng lớn, rảnh rỗi dứt sạch đầu ngọc sóng, đến đáy tự không một giọt, phải xem xét kỷ lưỡng, tương lai đập gông đánh cùm thì chẳng không. Nếu bảo rằngPhật Pháp hai người đều chưa mộng thấy thì nay Lão tăng cùng ai nêu lên rốr ráo ý quy về đâu?”. Dừng giây lát lại nói: “Một nắm liễu tơ thâu chẳng được Quyện khói vin cùng ngọc lan can” Sư thượng đường, dộng tích trượng nói: “Khắp cả mặt đất gọi làm một câu mang gông đội cùm, chẳng gọi là một câu Nghiệp thức mênh mang, hai đầu đều thấu thoát, đạt được thanh tịnh sạch sẽ sáng loáng. Không thể nắm một Tông của Đạt-ma quét đất mà khắp cùng. Do đó, Đại sư Vân Môn nói rằng: “Khắp trời, khắp đất chẳng mảy may quá hoạn, vẫn là chuyển câu chẳng thấy một Pháp, mới là nửa đề lại phải biết có ở toàn đề”. Hàm Kiệt nói: “Kiếm rơi đã lâu, mới khắc dấu vào thuyền!”. Nắm tích trượng dộng một cái rồi xuống tòa. châu Truyện Sa-môn Thích Tổ Tiên ở núi Ngọa Long thuộc Quỳ Thích Tổ Tiên tự là Phá Âm, con nhà họ Vương ở Quảng An, xuất gia từ thuở nhỏ, gắng sức tham học tổ đạo, đêm ngủ chẳng yên giấc, chỉ một áo nạp tùy thân, nghe Đại sư Mật Am mở mang tông chỉ Lâm tế, Sư bèn đến tham kiến, Mật Am biết Sư là bậc Đại căn khí nên gia tâm rèn luyện. Một hôm, Mật Am thượng đường dạy chúng, bỗng nhiên có chút tỉnh ngộ. Về sau, Mật Am trú tại Linh Ẩn bảo Sư phân tòa, chợt có vị Đạo giả hỏi rằng: “Hồ tôn lúc nắm bắt chẳng trụ thì thế nào?”. Sư bảo: “Nắm bắt làm cái gì, như gió thổi nước tự nhiên gợn sóng”. Có vị Tòa chủ giảng Kinh Lăng-nghiêm cầu xin chỉ dạy, Sư nói kệ rằng: “Kiến còn lìa kiến chẳng thật kiến Trả hết tám chỗ, chẳng thể trả Cây trụi mùa thu bày núi trọc Chẳng biết ai hay Lão Cù-đàm!” Bấy giờ, có Thạch Điền Pháp Huân đến tham vấn, Sư nêu hỏi câu thoại về “Đức Thế Tôn giơ cành hoa sen, Tôn giả Ca-diếp mỉm cười”, Pháp Huân đáp rằng: “Nung gạch đập phá luôn đáy mỏ Mắt đỏ khua vung đầu củi lửa!” Sư gật đầu, sau ra hoằng hóa làm đệ tử nối pháp. Truyện Sa-môn Thích Sùng Nhạc trụ chùa Linh Aån ở phủ Lâm An Thích Sùng Nhạc tự là Tùng Nguyên, con nhà họ Ngô ở Long Tuyền thuộc Xửù Châu. Vào niên hiệu Long Hưng thứ hai (1 1 6 5) Sư được độ ở Tịnh xá Bạch Liên ở Tây Hồ thuộc đất Hàng. Tham phương rất lâu, sau đến tham yết Hòa-thượng Mật Am Hàm Kiệt, nghe trong thất hỏi vị tăng câu thoại: “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật”, Sư bỗng nhiên Đại ngộ đạt được tâm ấn. Nhân Mật Am trở lại Linh Ẩn, bảo Sư trú ở Đệ nhất tọa, sau Sư ra hoằng hóa, đầu tiên trú tại Trừng Chiếu thuộc Bình Giang, kế là đến trú ở Giang Âm, Quang Hiếu, Nhiêu Chi, Tiến Phước, Minh Chi, Hương Sơn. Khánh Nguyên thứ ba (1 1 9 7) thời vua Ninh Tông, Sư vâng chiếu trú tại Linh Ẩn suốt ba năm, rồi cáo lão xin lui về trụ ở am phía Đông chùa. Đến niên hiệu Gia thái thứ hai (1 2 0 2) ngày mồng bốn tháng tám, Sư viết thư tay từ biệt các Công khanh, rũ lòng chỉ dạy các người học rằng: “Có Người rất mạnh mẽ, do mang vật quá nặng mà chân buớc không nổi”. Lại dạy rằng: “Mở miệng chẳng ở trên đầu lưỡi”. Đem sự việc mở mang Chánh Pháp là điều chính ban chúc cho đệ tử, bèn viết kệ rằng: “Đến không chỗ đến Đi chẳng chỗ đi Liếc chuyển huyền quan Phật Tổ chẳng lầm” Rồi Sư ngồi kiết già mà hóa, thọ bảy mươi mốt tuổi, bốn mươi hạ lạp, xây tháp an táng toàn thân Sư tại khu tháp mộ ở phía bắc Cao Phong, Đệ tử đắc Pháp có Quang Mục ở Hương Sơn và Thiệu Khai ở Vân Cư. Truyện Sa-môn Thích Sư Phạm ở Kính Sơn thuộc phủ Lâm An Thích Sư Phạm tự là Vô Chuẩn, con nhà họ Ung ở Tử Đồng thuộc đất Thục. Năm lên chín tuổi Sư nương Hòa-thượng Đạo Khâm ở núi Am Bình xuất gia, sách đọc qua mắt liền thuộc lòng. Niên hiệu Thiệu Hy thứ sáu (1 1 9 5) thời Nam Tống Sư bèn đến chùa Chánh Pháp ở Thành Đô, thưa hỏi Hòa thượng Nhiêu về công phu ngồi thiền. Hòa-thượng Nhiêu hỏi: “Thiền là vật gì? Ngồi là ai?”. Sư Phạm từ đó ngày đêm thể nghiệm tham cứu. Một hôm, đi nhà xí, nhân đề khởi câu thoại đầu trước bèn có tỉnh ngộ. Năm sau Sư đến Quảng Triết, tham yết ngài Phật Chiếu ở Dục Vương. Phật Chiếu hỏi: “Ông là người xứ nào?”-Đáp: “Ở Kiếm Châu”. Phật Chiếu lại hỏi: “Có mang được kiếm đến chăng?”. Sư liền hét. Phật Chiếu cười bảo: “Gã đầu quạ nầy làm loạn!”. Sư nghèo vốn không cạo tóc nên mọi người gọi Sư là “Gã đầu quạ”. Lúc Phá Am trụ tại Linh Ẩn, Sư theo hầu ở đó, về sau có vị Đạo giả hỏi Phá Am: “Con khỉ nắm bắt chẳng dừng là thế nào?”. Phá Am bảo: “Dùng nắm bắt làm gì? Như gió thổi nước tự nhiên nổi sóng”. Sư nhân ngay lời nói ấy mà đại ngộ, sau đó không lâu, Sư cùng Nguyệt Thạch Khê Công đi đến Nhạn Đãng ở Thiên Thai. Bấy giờ, Hòa-thượng Tuyết Phong Vân trú tại Thụy Nham lưu giữ Sư để phân tòa. Ban đêm, Sư mộng thấy một vó nhân tay cầm một bó cỏ tranh trao cho Sư, qua hôm sau chuyên sứ chùa Thanh Lương ở Minh Châu đến đón rước Sư, mới bước vào viện thấy thần bia ở Già-lam viết là Họ “Mao”, Vì người ấy cùng với áo mão giống như thấy trong mộng không khác. Trú tại đó ba năm rồi dời đến Tiêu Sơn, kế nữa là Tuyết Đậu. Sư lại vâng chiếu làm lãnh chủ A-dục Vương, một thời gian lâu nữa lại bổ đến Song Kính. Vua vời Sư vào. Đại nội ở điện Tu Chính, nói Pháp xứng với Thanh chỉ, nên ban tặng y Kim Lan, ban thêm hiệu “Phật giám thiền sư”. Sư trú tại Kính Sơn, Điện Vũ ở đó hai lần gặp phải hồi lục, đều hai lần làm mới lại. Lại cách chùa ấy khoảng bốn mươi dặm, có xây dựng một cái thất trăm gian tiếp đãi mây nước, biển ngạch đề là “Vạn niên Chánh tục”. Kế nữa ở phía Tây chùa ấy khoảng trăm bước có xây dựng am thất làm nơi quy tàng. Lại xây lầu nhiều tầng, ở phía trên cất giữ Ngự Hàn do triều đình ban tặng. Tổ tiên nhiều đời của Sư sống ở đất Thục, gặp phải biến loạn nên bị tuyệt tự, mới vào trong núi bày cúng lễ tế cầu nối dõi. Sự việc ấy vang đến cung triều nên ban biển ngạch là “Viên Chiếu” để nói lên sự hiếu tư ấy. Đến năm Mậu Thân (1 2 4 8) nhằm niên hiệu Thuần Hựu đời Tống, xây dựng thất Minh Nguyệt trên hồ, bên cạnh đề là “Thối canh”. Ngày mồng một tháng ba năm đó Sư bị bệnh bèn lên tòa vì chúng dạy rằng: “Sơn tăng tôi đã già lại bệnh, không còn sức lực để cùng các vị bàn nói mọi điều, hôm nay gắng gượng lên đây, sắp theo trước nói chẳng đến đích, tận tình hướng đến các vị xin phủi dũ cho”. Bèn đứng dậy, phủi y nói: “Là bao nhiêu?”. Rồi trở về phương trượng. Đến ngày rằm nhóm chúng, đích thân viết Di biểu Di thư khoảng mấy mươi lời và cùng khách cười nói, hài hước như bình thường, đến tối viết kệ rằng: “Khi đến không buộc ràng Đi cũng rất nhẹ nhàng Lại cần hỏi đầu mối Thiên thai có cầu Đá” Dừng lại giây lát rồi hóa, kim quan để lại đến hai tuần, Di biểu được trình lên triều đình xét biết. Hoàng đế bèn sai Trung sứ Giáng hương tặng gấm lụa. Kính phụng toàn thân xây tháp ở Viên Chiếu. Châu Truyện Sa-môn Thích Đạo Ngộ trụ chùa Phổ Chiếu ở Trịnh Thích Đạo Ngộ hiệu la Phật Quang, con nhà họ Quan ở Lan Châu thuộc Thiểm Tây. Đạo Ngộ vừa mới ra đời mà răng tóc đều ngọc, có đủ tướng Đại nhân. Năm 16 tuổi cố xin xuất gia mà cha mẹ không cho, bèn tuyệt thực chờ chết, bèn cho vào chùa trong làng xuống tóc. Hai năm sau, tình cờ một hôm Sư vào Thao loan tử điểm mộng thấy vị Phạn tăng, lớn tiếng gọi Giác, bổng nghe tiếng ngựa hý, hốt nhiên đại ngộ, vui mừng chẳng gì hơn, bèn nói kệ rằng: “Thấy vậy, lưới thấy vậy Lưới trùm hư không chỉ cái ấy!” Bèn trở về mách với mẹ rằng: “Con lượm được một vật ở đoạn đường ấy”. Bà mẹ hỏi: “Vật gì?”. Đạo Ngộ đáp: “Từ vô thỉ đến nay chưa từng thấy!”. Bà mẹ nắm tay bảo: “Có gì mừng thế?”. Bèn từ tạ muốn đi tham phương, Bà mẹ hỏi: “Con sắp đi đâu?”. Đạo Ngộ đáp: “Nước chảy phải ra biển, nhạn bay trên mây trắng”. Đầu tiên, ở núi Hùng Nhó có Thiền sư Bạch Vân Hải tuy ở chùa đã lâu mà chẳng nu- ôi một đệ tử. Có người hỏi: “Hòa thượng sao chẳng chọn một người nối Pháp”. Hòa-thượng Hải đáp: “Lan hương tú phát riêng xuất từ Tây tần!”. Hỏi: “Bao giờ đến?”. Hòa-thượng Hải đáp: “Hành cước rồi”. Sư sắp đến, Hòa-thượng Hải bảo thị giả đánh chuông nhóm chúng bảo: “Đệ tử của ta từ phía Tây đến, nhưng chùa này vốn do Quách Tử Nghi xây dựng, nay ai tự đến trú trì, các ông phải đón rước. Sư vừa mới bước vào cửa, Hòa-thượng Hải xa thấy bèn gọi: “Tướng công đến sao tối vậy?”. Đạo Ngộ đến trước mặt thưa: “Dạ vâng”. Hòa-thượng Hải cười lớn, cuối cùng trao cho y pháp bảo nối tiếp Pháp tịch, ngay đó bèn lui ẩn bên cạnh chùa. Trước đó có bọn trộm cướp chiếm đoạt, khiến dân phải nhận chịu tai hoạ do chúng gây ra. Hoặc có người xin Hòa-thượng Hải bắt nó. Hòa-thượng Hải bảo: “Tôi đây không có khả năng làm việc ấy, không lâu nữa Quách Công đến sẽ tự bắt”. Mọi người chẳng hiểu lời nói đó, đến khi Sư mới ở tại chùa ba ngày, bèn dẫn chúng lùng bắt trói hết, phá hủy hang ổ bọn cướp, sắp muốn giết hết thì bọn giặc ai cầu xin tha mạng, Sư ung dung dạy rằng: “Các ngươi cướp bóc của cải làm thương tổn mạng người thật đáng chết. Nay các ngươi xin tha mạng, chẳng nghó đến mạng những người kia sao?”. Bọn giặc cướp dập đầu tuôn máu, nguyện xin quay về nương tựa Tam bảo thọ trì giới Pháp, thề chẳng làm trái. Đạo Ngộ bèn nói kệ cho nghe, cạo tóc và mở trói. Từ đó trên đường chẳng có người lượm vật rơi suốt mấy mươi năm. Mọi người mới tin Đạo Ngộ chính thực là Quách Tử Nghi tái sanh. Đến niên hiệu Đại Định thứ hai mươi bốn (1 1 8 4) đời Tống, Hòa thượng Hải viên tịch. Đạo Ngộ bèn ra làm chủ ở Phổ Chiếu ở Trịnh Châu. Lại dời đến lầu Tam hương trúc, thường mặc áo trắng cỡi trâu ng- hé màu vầng, thổi ống tiêu ngắn, đi trong xóm làng và thường nói rằng: “Bảo ta là phàm ư? Từng ở trong Thánh vị mà đế, bảo ta là Thánh ư? Lại đi vào trong Phàm vị. Bảo ta chẳng phải Phàm chẳng phải Thánh ư? Lại hướng trên đảnh Tỳ-lô có hành xứ riêng”. Niên hiệu Thái Hòa thứ năm (1 2 0 5) Sư kiết hạ tại chùa Đại Khế ở Lâm Thao, giảng Kinh Viên Giác, vì chúng dạy rằng: “Pháp tịch này gần một nửa, ta sắp đi!”. Đến ngày mười hai tháng năm, tiểu tham buổi chiều vì chúng đàm luận Đệ nhất nghóa Đế, sáng sớm vừa mới dậy, gọi vị tăng thị giả bảo rằng: “Ta đang bệnh hãy tìm thầy thuốc đi”. Thị giả sắp bước ra cửa, Đạo Ngộ đã viên tịch. Phía trên có mây lành năm mầu rũ kết như cái lọng, ánh sáng hồng như mặt trời cao xa khỏa lấp bốn phía, ba ngày chẳng tan. Đạo Ngộ thọ năm mươi lăm tuổi, ba mươi chín tăng lạp. Các đệ tử rước toàn thân xây tháp cúng dường. Liên hệ thử bàn: Tôn giả Ca-diếp nghe Na La Vương ba lần tấu nhạc thì ba lần nhảy múa, nếu chẳng phải thói quen của Ca-diếp thì ai ư? Ngày xưa, Quách Bân Dương hay vì nước nhà diệt giặc cứu giúp dân chúng lầm than, nay là Phật Quang ở chùa vừa mới ba ngày bèn bắt bọn giặc cướp, há chẳng phải thói quen khiến nên vậy ư? Xem Phật Quang mặc áo trắng cỡi trâu nghé mầu vàng và thổi ống tiêu ngắn đi trong xóm làng, tự nói trên đảnh Tỳ-lô có Hành xứ riêng. Đó lại chẳng thể suy nghó bàn luận. Truyện Sa-môn Thích Hiểu Oánh ở La Hồ thuộc Giang Tây Thích Hiểu Oánh tự là Trọng Ôn, không biết Sư họ gì, từng tham vấn khắp các trường giảng, sớm tỏ rõ Đại sự, bốn chúng đều tôn trọng, đến tuổi già trở về trên La Hồ, đóng cửa quét sạch, chẳng giao tiếp với người đời, chỉ lấy sự thấy nghe lời Đề xướng của các bậc Tôn túc mọi nơi cũng như lời Đàm luận bàn nói Tôn giáo của các bạn hữu trong bình sanh, hoặc thâu thập được ở các văn Bia có các thuyết về Điển mô, đều góp nhặt biên thành sách gọi là “La Hồ dã lục”. Những điều ghi chép trong đó đều là lời nói việc làm tốt đẹp của các bậc Mạng thế tông tượng Hiền só Đại phu, cơ phong bén nhạy, thù tạc rộng lớn, khí cách rộng rãi, có thể phụ giúp Tông thừa, dạy bảo hậu học, phát khởi giúp người đạt đến chí thiện. Cho nên người xem chẳng nỡ rời tay. Sơn Truyện Sa-môn Thích Thiền Tuệ chùa Thiên Ninh ở Danh Thích Thiền Tuệ là người Danh Sơn. Gia đình nhiều đời theo Nho giáo, thường thi chẳng đậu, vào niên hiệu Nguyên Phù ( 1 0 9 8- 1101) Quận thú Lã do thật bị vị tăng chọc cười, bèn bỏ Nho theo Phật, gắng sức tham học Tổ Đạo được khai ngộ rộg lớn. Ban đầu, ra hoằng hóa trú tại chùa Thiên Ninh trong ấp, ra vào thường cỡi xe đánh ngựa, các bậc Lão túc nói “Vì Phật Pháp quí là khổ hạnh, không nên cỡi xe ngựa”. Thiền Tuệ liền dùng kệ đáp rằng: “Văn Thù cỡi Sư tử Phổ Hiền ngồi voi chúa Một vị Phật mới đến Cỡi ngựa cũng chẳng ngại”. Pháp do Sư nói có cơ phong rất nhạy bén. Có bộ “Ngữ lục” lưu hành ở đời. Truyện Sa-môn Thích Hiển Tung trụ Viện Tuyên Mật ở Ba Xuyên Thích Hiển Tung con nhà họ Lý ở Đồng Lương thuộc Trùng Khánh thuộc Tây thục. Tham vấn mỏi mệt, Sư ra hoằng hóa, bèn trú tại Viện Tuyên Mật ở Ba Xuyên, ba mươi năm ẩn tích chẳng ra ngoài cổng. Vào niên hiệu Thiệu Hưng ( 1 1 3 1- 1163) Sư nhóm chúng nói kệ rằng: “Trong tám mươi năm thường sống động Mở mang trường giảng báu Ma-ni Không một cái gì cùng thương lượng Chẳng là sơn tăng thâu sớm quá!” Nói xong, Sư an nhiên ngồi thị tịch, sau khi trà-tỳ thâu nhặt vô số xá-lợi. Bầy giờ, có Hòa-thượng Tịnh Nghiệp Thạch Chiếu họ Văn, thuở nhỏ làm nghề Đồ tể, có con dê vừa mới sanh hai con nhỏ, sắp giết con dê mẹ, hai con dê con ngậm dao quỳ ở cửa như cầu xin tha mạng cho mẹ. Tịnh Nghiệp cảm thán bèn bỏ nhà xuất gia làm tăng, gắng sức tham học với các bậc long tượng, bỗng nhiên Đại ngộ, làm kệ rằng: “Hôm qua tâm la-sát Ngày nay mặt Bồ-tát La-sát cùng Bồ-tát Chẳng cách một đường tơ” Truyện Sa-môn Thích Pháp Toàn ở Tónh Tề thuộc Bình Giang. Thích Pháp Toàn tự là Vô Am, họ Trần ở Côn Sơn. Khi mới sanh Sư đã có tính chất vó đại không như người phàm. Thuở nhỏ xin cha mẹ xuất gia với Thiền sư Đạo Xuyên, tham thỉnh tinh tấn, chí rõ việc lớn. Một hôm, Sư đến trước điện chùaTónh Tế, tình cờ đầu va vào cây cột bỗng đại ngộ. Những người đứng chung quanh thấy vẻ bất động của Sư mà không biết. Từ đó, Sư đi khắp các danh sơn pháp tịch, đạo đức ngày một tăng. Vào niên hiệu Càn Đạo, Sư sắp thị tịch, đại chúng xin Sư để lại kệ, Sư nhắm mắt nhìn xuống. Đại chúng lại thỉnh, Sư bèn cầm bút viết hai chữ Vô Vô, rồi bỏ bút mà hoá. Khi thiên nhục thân Sư được xá- lợi năm mầu, tháp thờ Sư được xây ở núi Kim Đẩu. Truyện Sa-môn Thích Đạo Xung ở Kính Sơn thuộc Lâm An: Thích Đạo Xung tự là Si Tuyệt, là con nhà họ Trần ở Trường Giang thuộc Vũ Tín. Trước hết Sư tham vấn ngài Diệu Quả Tào Nguyên ở đất Hàng, phát sanh đại ngộ đối với huyền chỉ của Hoà-thượng. Khi ra hoằng hoá, Sư trụ chùa Thiên Ninh ở Gia Hoà, kế dời đến Tuyết Phong thuộc Tưởng Sơn. Sư vâng chiếu trụ ở Thiên Đồng thuộc Tư Minh ba năm. Vua ban chiếu bổ Sư về Linh Aån. Bấy giờ chùa Pháp Hoa ở Duẫn Kiến thuộc Kinh Triệu đặc biệt tấu thỉnh Sư làm vị khai sơn đời thứ nhất, Sư vâng mạng nhưng chưa đến thì vua Lý Tông đời Tống đã ban sắc cho Sư về chủ trì Song Kính ở Hàng Châu. Sư bảo chúng rằng: ” Không đến chùa Pháp Hoa thì bất tín, bằng trái mạng đến Kính Sơn thì bất cung, đã mất cung và mất tín thì lấy gì để làm phép tắc cho học hậu”. Sư bèn đến chùa Pháp Hoa khai đường, hơn tháng liền vâng chỉ lên Kính Sơn. Bấy giờ, cả chúng vui mừng hưởng ứng như sấm. Khi sắp nhật diệt, Sư bèn tự tay viết nguyên do đắc pháp, thượng đường nói pháp từ biệt chúng, vào phương trượng dặn dò hậu sự, đến tối Sư cúng đại chúng luận đạo, sau đó thị tịch, lúc đó là ngày mười lăm tháng ba đời vua Lý Tông năm thứ ba. Sư thọ tám hai tuổi, sáu mốt tăng lạp. Lúc trà-tỳ xá-lợi sáng rực. Các đệ tử chia ra hai nơi xây tháp thơ ø: một là am Ngọc Chi ở ruộng Xương Bồ của bản sơn, hai là am Ngọc Sơn ở Kim Lăng. Truyện Sa-môn Thích Đức Phú trụ chùa Hưng Thánh ở Bảo Định: Thích Đức Phú là con nhà họ Tạ, ở huyện Dị thuộc Bảo Định. Năm lêm bảy tuổi Sư đã xin xuất gia. Cha mẹ cảm điều mộng lạ, Sư bèn bỏ nhà đến chùa Hưng Thánh xuất gia thọ giới cụ túc với hoá- thựơng Chân Không. Sư gắng sức nghiên cứu đại pháp. Một hôm, đang đi kinh hành chợt đại ngộ, từ đó nổi tiếng khắp tùng lâm. Đầu niên hiệu Hoàng Khánh đời Tống, Hoá-thượng Vạn Sơn Thọ vâng chỉ mở mang giáo pháp, trai hội Thuỷ lục thình Sư khai đường nói pháp. Bảy chúng đều nhóm họp. Sư bèn lên toà nói kệ, bỗng ở trên toà phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp hư không, hiện các điềm lành, hồi lâu mới biến mất. Triều đình nghe biết việc ấy bèn ban cho Sư danh hiệu Thông Biện Đại sư và y tăng già-lê dệt bằng sợi vàng. Sau khi Sư thị tịch, có ánh sáng trắng từ tên đảnh đầu Sư chiếu ra soi sáng khắp bốn phía. Trà-tỳ thâu được mấy mươi hạt xá-lợi, xây tháp cúng đường. TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI MINH (QUYỂN TÁM HẾT)  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 186