<經 id="n2060">TỤC CAO TĂNG TRUYỆN (QUYỂN 1 ~ 8) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LỜI TỰA TỤC CAO TĂNG TRUYỆN Sa-môn Thích Đạo Tuyên chùa Tây Minh Thời tiền Đường soạn. Chí Đạo vốn dứt bặt nói năng. Không nói năng thì lấy gì làm khuôn phép cho đời? Ngôn từ chỉ dẫn bày công hạnh, ngay công hạnh mà thành lập ngôn từ. Vì thế, lập bày ngũ vị để chọn lựa Thánh hiền, nêu Tứ y để tiếp thừa người, Pháp. Long Đồ thành sự dần dần của Thái Dịch, Quy Chương mở dụng của Phép thường. Đến khi Tổ Vương kế tiếp vết trước nửa nêu bốn Khoa, Ban sinh từ sau đến mở rộng chín đẳng. Đều là khôn phép thường của sự mở mang Đạo. phương tiện của ngôn từ và công hạnh đến như thế. chỉ vì sự soi sáng của Đấng Đại Giác mở mang giảng bày tại đất trời Tây Vức, dấu vết tiếp nối tới Đông Xuyên. Vượt Trung Cổ mà càng mới, trải qua các Anh hoa mà càng hưng thạnh. Tuy còn phải đổi dời còn mất, nguồn pháp đượm thấm khắp cùng. Aáy mới là mạnh khỏe ích lợi, hẳn có sự rộng lược. Nên khiến kẻ só hiểu Đạo Kính Phong, khiến khách nêu cao ảnh hưởng. Hiểu chánh giải mà dựng ngôn từ, gõ Huyền cơ mà đặt nêu danh hiệu. Đều là Đức đầy khắp vũ trụ, thấu suốt u minh.Ảnh tượng bày sáng ở Đan thanh, trí ngời nơi tăng tục. Hẳn là rõ ràng trong các kinh Bộ, thật chưa tiếp nối khoa điều. Trộm nghó vì sinh giới Thông Hà ở Diêm Châu, mà phong tục thì ở Đường Phạm. Hoa riêng chọn bày, chẳng phải Thánh thì không y cứ. Ở đó, thiên chương thì có hai mươi bốn, là theo Phó Pháp truyện. Thần Châu ghi chép hiền Ngu, chỉ dẫn thì sáu đời, rõ ràng tại các Ký lục. Nhưng bao gồm cả những điểm chung làm tinh hội chỉ quy, không gì chẳng đề khởi phát tâm, giêng mối chánh lý. Khiến chân ngựa hèn đến cửu đạt để dấu vết có thể tìm, dõi mắt theo xe ngựa bốn con nơi núi cao quanh co mà sự kính ngưỡng bị ngưng dứt. Xưa kia, vào đời Lương, Sa-môn Thích Bảo Chí ở Kim Lăng soạn “Danh Tăng Truyện”, Sa-môn Thích Tuệ Kiểu ở Cối kê soạn “Cao Tăng Truyện”. Mở phát Dị Bộ, phẩm tạo thường lưu, rõ ràng khơi động khả chất quán Hoa có y cứ, nhưng thêm bớt ở Ngô Việt, mở lược tại Ngụy Yên. Bởi xem rộng chưa cùng, được tùy điều nghe mà thành sắc thể. Thêm vì ở đời Lương hưng thạnh, các bậc Minh Đức đông nhiều, truyền rộng năm ba số chẳng phải thông minh. Đó đồng như thế tục cùng xem thường. Sự tích nguyên do; Trung nguyên ẩn hoạt chưa truyền giản lục. Khi ấy không can đảm cao cả, ai sẽ thêm vào. Cuối cùng khiên các bậc cao phong nhiêu đời suy sụp. Tôi, ở tuổi học trò có được đọc xem các bản văn ấy, bắt chước mới còn, kinh luân còn thiếu, là dùng nhờ các Danh khí, trông mong cùng hoàn thành tác phẩm, mà tình nghó nương gấp, các sư đều tranh nhau thiên chấp. Xa nghe thành giản ghi chép tìm kiếm, mà vật sợ kêu trước, giấu thuyền vội đến. Luống nhọc ôm chứa, trọn bỏ thời gian. Dám dùng sự bất tài trình bày bút ký, dẫn sơ sự thấy nghe, ngay nơi việc biên ghi. Xét được nhiều đời nhân đó lại làm mủ miện. Từ ngày vua Minh Đế (Lưu trang năm mươi tám-bảy mươi sáu) – đời Hậu Hán mộng thấy người vàng đến thời Hậu Lương Võ Quang Lưu (?) về trước, đời khác Thích môn, đều lưu lại truyện sử. Xét tư liệu ấy vốn giúp thật. Ấn hành những bài viết trước, bèn được nối nhau đều cho rằng vật báu lớn. Cuối đời tình buộc, lượng nặng tiếng văn hoa. Đến lúc nhóm tụ Phong du, lược không tiếp nối. Chỉ vào đầu đời Tùy, có sa-môn Thích Linh Hựu ở tại quận Ngụy, nghi biểu trình bày có ý mở rộng, soạn “Thập Đức Ký” 1 quyển. Riêng bắt đầu từ Chiêu Huyền Sư Bảo, chưa sâu rộng kế thừa Thông tông. Ngoài ra thì đơn lẻ trình bày Chi Văn, rộng bàn về hành trọng, cuối cùng cũng không rong ruổi theo cao quán, có thể còn thở dài. Nên khiến cho thấm đượm mảy may, không ai chẳng trông nhìn bến bờ mà xoay đầu trở lại. Hẳn là ấy vậy! Nay tôi soạn thuật, sợ rơi lạc tiếp theo mối trước, nên chẳng tự trình bày theo ý mình. Hoặc hỏi rộng ở những bậc tiên đạt, hoặc lấy từ hỏi han ở hành nhân, hoặc chính mắt được trông thấy, hoặc tìm xét ứng nghiệm ở tập truyền, Quốc sử khắp nam bắc, phụ vào tiếng tốt lời hay. Bi Việt Khắp trong ngoài thành quách nêu bày đức hạnh cao qúy. Đều rút lấy chỉ hạnh, nêu bày chí lược, lời tùy ít nhiều, sự trình bày chung. Đủ khiến tiếp nối giòng dõi trước, đáng làm thầy cho mai sau. Bắt đầu từ đầu thời vận của Cự Lương (năm trăm lẻ hai) và cuối cùng là vào niên hiệu Trinh Quán thứ mười chín (sáu trăm bốn mươi sáu) – thời Tiền Đường, suốt trong thời gian một trăm bốn mươi bốn năm, bao quát trùm khắp Khâu Đậu, phỏng hỏi khắp từ thành đô đến miền thôn dã. Ghi chép được Chánh Truyện có ba trăm bốn mươi vị, phụ có một trăm sáu mươi vị. Đây ngay lời tựa mà trình bày đó, đại khái chia thành mười chương: 1/ Là Dịch Kinh 2/ Là giải nghóa 3/ Là tu Thiền 4/ Là nói về Luật 5/ Là Hộ Pháp 6/ Là Cảm Thông 7/ Là Di Thân 8/ Là Đọc tụng 9/ Là Hưng Phước 1 0/ Là Tạp khoa. Với 10 chương nầy, ở đời ít có người tốt đẹp hoàn toàn. Ở đây dựa vào điểm ưu việt nhất, tùy theo Thiên chương mà so sánh bắt đầu từ truyện trước trình bày, thông lệ đã ban. Ức dương lẫn nhau, thật tuân theo hoằng kiểm. Vả lại, hai thuật Kinh Đạo che lấp sự soi chiếu nơi mầm mống tốt lành. Một Chương Hộ Pháp, giềng mối ở Chánh Cương, phải nhờ các truyền thuật, làm sao tiếp nối mà chẳng công lao. Lấy sự nhổ bỏ ngưng trệ mở rộng khuôn phép, cố nhân có thể nêu ở đẳng cấp. Ngoài ra thì tùy điều lành mà lập đề mục, chẳng đua tranh theo sự cần thiết của đương thời. Bố giáo thì nhiếp ở tình người, về cần mở giải rõ ràng, chương tiết đều quy về cuối khoa, phân biệt các việc đời. Đến như giấc Thao quang sùng nhạc, Triều tông Bách linh. Khi tốt lành buông thả nơi núi sông, khẳng khái trắng trong tiêu tan nơi rừng mỏng. Đến nỗi có tiếng ồn náo nơi Huyền Cốc, thầm du nơi khói tía. Cao tạ ở Tùng Kiêu, cúi nhìn nơi cùng vết. Aáy đều đủ ở các ghi chép, riêng đè nén có thể nói ư? Hoặc lại ẩn giấu vết tích nơi cửa núp trong thành, chìm nổi giữa thế tục. Nghiệp lớn có thể bày, mà xuy hư ít gặp. Nên góp nhặt kiến tích phong tố, vả lại, lập bày mười khoa, kết thành ba pho, lấy tên là “Tục Cao Tăng Truyện”. Hễ chỗ sưu tầm cất nhắc nguồn mạch, phân tích hiến chương, tổ chức từ lệnh, mài giũa hạnh nghiệp thì đầy đủ ở lời bàn luận phía sau, lại luận bàn trích dẫn. Hẳn việc nối tiếp các thiên chương, trọn thành từ phí, phân tách đồng như truyện trước. chỉ còn hận chậm mãi đến thời mạt pháp, ở đời nổi bậc các vị tăng có tiếng tăm, chưa có cách thức tốt, có nhiều Điển tịch, ngõ hầu tương lai đồng tốt đẹp, lại tỏ bày ý ấy. ----------------------------------------- TỤC CAO TĂNG TRUYỆN Sa-môn Thích Đạo Tuyên chùa Tây Minh Thời tiền Đường soạn <卷>QUYỂN 1 CHƯƠNG I - PHẦN 1: DỊCH KINH (Trong phần thứ nhất Chương Một Chánh Truyện có sáu vị, phụ có hai mươi bảy vị) 1/ Truyện Ngài Sa-môn Tăng-già-bà-la người nước Phù Nam, trụ chùa Chánh Quán ở Dương Đô, thời Nam Lương (Mạn-Đà-La, Mộc- Đạo-Hiền,Tăng Pháp, Đạo mạng) 2/ Truyện Ngài Thích Bảo Xương người xứ Kim Lăng, trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô, thời Nam Lương (Vua Võ Đế thời Nam Lương), Tăng Lãng; Tăng Thiệu đời vua Giản Văn Đế thời Nam Lương). 3/ Truyện Ngài Thích Đàm Diệu người xứ Hằng An, trụ chùa Thạch Quật ở Bắc Đài, thời Bắc Ngụy (Đàm Tónh). 4/ Truyện Sa-môn Bồ-Đề-Lưu-Chi người xứ Bắc Thiên Trúc, trụ chùa Vónh Ninh ở Nam Đài, thời Nguyên Ng ụy (Thường Cảnh, Lý Khuếch, Bảo Ý, Giác Định, Pháp Tràng, Trí Hy, Dương Huyễn Chi, Đàm Hiển, Trí Hiền, Pháp Hy, Tạng Xưng). 5/ Truyện Sa-môn Câu-Na-La-Đà người xứ Tây Thiên Trúc, ở Quận Nam Hải, đời Trần (Đàm Không, Đức Hiền, Thiện Cát). 6/ Thích Pháp Thái người xứ Kim Lăng, thuộc Dương Đô, thời nhà Trần (Trí Khải, Phổ Tỳ, Trí Phu, Đạo Ni). Xin ghi chú trước: 1/ “Tục Cao Tăng truyện” ở đây chữ “Tục” nghóa là “tiếp theo”. Và tựa đề phải là “Truyện Các Bậc Cao Tăng tiếp theo”. Tức vào thời Nam Lương Ngũ Tuệ Kiểu (bốn trăm chín mươi bảy- năm trăm năm mươi tư) đã soạn “Truyện các Bậc Cao Tăng” hoàn tất vào năm năm trăm mười chín, mà nay Ngài Đạo Tuyên lại viết tiếp, mặc dầu là bộ khác, song Ngài vẫn xem như là “tiếp theo” nên gọi là “Tục Cao Tăng Truyện”. Vì cảm thấy dịch nghóa không hay nên để nguyên tựa đề. 2/ Trong vòng một trăm bốn mươi bốn năm (năm trăm lẻ hai-sáu trăm bốn mươi lăm) đời Lương; có Nam Lương và Hậu Lương, Nhà Ngụy có Bắc Ngụy, Đông Ngụy và Tây Ngụy. Nên ở đây nói rõ như Nam Lương hay hậu Lương v.v.. là do y cứ Niên biểu trong nội dung truyện. Sa môn Tăng-Già-Bà-La tại chùa Chánh Quán ở Dương Đô, thời Nam Lương Tăng-Già-Bà-La; đời Lương dịch nghóa là Tăng Dưỡng, cũng dịch là Tăng Khải. Sư người nước Phù Nam. Từ thưở nhỏ, sư đã thông minh dónh ngộ, sớm nương tựa Pháp luật, xuất gia từ thuở trẻ, riêng học luận A-tỳ-đàm, tiếng tăm vang khắp Hải Nam. Sau khi thọ giới Cụ túc, sư lại học rộng Luật tạng. Tâm ý mạnh mẽ, thích muốn du phương, mở mang giáo hóa. Nghe tại nước tề đăng Phật pháp đượ mở mang hưng thạnh, Sư bèn theo thuyền tìm đến Kinh Đô, xin làm Đệ tử Sa-môn Cầu-Na-Bạt- Đà người Thiên Trúc đang trụ chùa Chánh Quán. Sư lại với thầy tập học các Kinh Phương Đẳng Bầu-Na-Bạt-Đà, chưa đầy một năm mà đã thông suốt nhiều, hiểu được thư ngữ của nhiều nước. Gặp lúc nước Tề suy bại, Đạo giáo lấn hiếp sư bèn tỉnh khiết thân tâm dứt bặt giao tiếp bên ngoài. Nên đóng cửa tónh cư, nuôi dưỡng tư nghiệp. Đến khi nhà Nam Lương có được thiên hạ, vua sưu tìm những bậc có tài năng nghệ thuật vào niên hiệu Thiên Giám thứ năm (năm trăm lẻ sáu), Sư được ban chiếu mới đến điện Thọ Quang, vườn Hoa Lâm, chùa Chánh Quán, Quán Chiêm Vân, Quán Phú Nam, tất cả năm nơi ở Dương Đô, phiên dịch kinh điển, trong suốt mười bảy năm, Sư dịch được mười một bộ, gồm bốn mươi tám quyền, tức Kinh Đại Dục Vương, luận Giải thoát Đạo v.v.. Ngày đầu, sư mới phiên dịch tại điện Thọ Quang, Vua Võ Đế (Tiêu Diễn năm trăm lẻ hai – năm trăm năm mươi) đích thân đến pháp tòa ghi chép văn nghóa của sư, nhưng sau thì giao cho người dịch làm hoàn thành Bổn kinh. Vua lại ban sắc cho các vị Bảo Xướng, Tuệ, Siêu, Tăng Trí, Pháp Vân và Viên Đàm Doãn v.v..cùng đối nhau lưu xuất, hoa chất có thứ lớp chẳng rơi vào Dịch Tông. Nhà vua kính lễ tiếp đãi rất nồng hậu. Dẫn làm Gia tăng, sở ty cung cấp, Tăng tục đổi cách trông nhìn. Sư chẳng chưa để của cải riêng, đem mọi sự cúng dường ấy tạo thành chùa Lập Trú. Thái úy Lâm Xuyên Vương Hoằng tiếp ngộ Sư rất long trọng. Đến niên hiệu Phổ Thông thứ năm (năm ngàn hai trăm bốn mươi vì bị Bệnh nên Sư thị tịch tại chùa Chánh Quán, thọ sáu mươi lăm tuổi. Đầu thời Nam Lương, lại có Sa-môn Mạn-Đà-La, người nước Phù Nam, đời Lương dịch là Hoằng Nhược. Sư mang nhiều Bản Phạm từ xứ xa đến cống hiến, vua Võ Đế, ban sắc cho Sư cùng Ngài Tăng-Già Bà- la đồng dịch Kinh Bảo Vân Pháp giới thể Tánh Văn Thù Bát-nhã gồm ba bộ mười một quyển. Tuy Sư truyền dịch, song vì chưa rành tiếng Hoa văn, nên văn Kinh lưu xuất phần nhiều bị ẩn chất. Bấy giờ, lại có Cư só Mộc Đạo Hiền. Vào niên hiệu Thiên Giám thứ mười lăm (năm trăm mười sáu) dâng kinh “Ưu-lâu-tần một quyển”. Văn rất đầy đủ, chẳng rõ từ đâu đến! Lại có Thái Học Bác Só Giang Bí nữ Tăng Pháp. Sư xuất gia từ thửo nhỏ, có thời gian ngồi tónh tọa, Sư nhắm mắt tụng ra Kinh “Tịnh Độ Diệu trang nghiêm,” v.v… Bắt đầu từ niên hiệu Thiên giám thứ tám (năm trăm lẻ chín) đến năm thứ mười sáu (năm trăm mười bảy). Sư tụng ra tất cả ba mươi lăm quyển. Cũng trong niên hiệu Thiên Giám (năm trăm lẻ hai-năm trăm hai mươi) tại điện Hoa Quang, Sư gần gũi vua Võ Đế tụng ra Dị Kinh, các hàng Đạo tục ở khắp Dương Đô đều gọi là Thần trao. Nếu xét theo kinh Phật thì đó chỉ do túc tập, chưa thể luận bàn trộm tìm Ngoại Điển. Sinh ra đã biết, đó là Thánh, Học mà được biết; đó là Hiền. Ở đây thì hạn cuộc chỉ bàn luận đời nay mà mịt mờ về Quá vãng. nếu chẳng như vậy, thì làm sao Biện rõ mọi sự thông suốt hay bế tắc cạn sâu của các Bậc Thánh Hiền trong ngoài được! Như truyện trước nói về sự ghi nhớ thư trấn của Ngài Đàm Đế, gần đây nhớ về Kim hoàn của Thôi Tử. Ở đời có lắm dấu vết như thế, chắc chắn chẳng phải bên ngoài nương gá. Mãi đến niên hiệu Thái thanh chín ngàn năm trăm bốn mươi bảy-năm trăm năm mươi), Tương Đông Vương ghi Thất Ngu hiếu kính giả, học khắp giáo điển trong ngoài, soạn “Nội Điển truyền yếu” ba mươi quyển, bao gồm các kinh luận, thông suốt Thích môn, tất cả mọi sự cốt yếu thảy đều ghi chép đầy đủ, rất giống như học phái của Hoàng Lãm Ngoại Uyển. Lúc Chữ Cung bị mất sự tiếp tục mặc y nhuộm, lại có Ngài Đạo Mạng, lìa dòng quan phụ, cũng có soạn thuật v.v.. Truyện Ngài Thích Bảo Xướng trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô, thời Nam Lương. Thích Bảo Xướng, họ Sầm, người ở Quận Ngô, tức là vùng đất cũ ở nước Ngô Kiến. thưở thiếu thời, Sư đã có sự thông minh lớn lao, trắng trong tự dưỡng. Nhưng chỉ một mình siêng năng làm ruộng, mọi chi phí nuôi sống trọn ở mười mẫu. Ai đến cầu xin thì liền lấy giúp, chỉ sơ qua mắt liền biết. Văn thể bày đủ, nghóa lý có nghe. Năm mười tám tuổi, Sư đến chỗ Luật sư Tăng Hựu, cầu xin xuất gia. Ngài Tăng Hựu là vị Tăng tiếng tăm ở Giang Biểu có nhiều tác phẩm. Đầy đủ như ở truyện trước đã ghi. Sư đã bắt đầu học tập, thưa hỏi Kinh Luật, nương đi phong mà lập Đức, có tiếng tăm với Tông Tự. Trụ tại chùa Trang Nghiêm Sư rộng thâu thập các lời, chiết lấy tinh nghóa. Lại chỉ khai ngộ người thế tục, cần cứu giúp cùng khắp làm đầu. Sư bèn theo xử só Cố Đậo khoáng, Lã Tăng Trí v.v… tập học lắng nghe kinh sử, trang, Dịch, lược thông Đại nghóa. Bấy giờ, vì Sư chỉ rong ruổi theo việc đời, nghóa là có chỉ thế tục, nên lập gia đình, chấp nhặt chẳng xoay lại. Sắp đến tuổi ba mươi, việc gia đình gãy đổ, việc tang xong xuôi. Niên hiệu Kiến Võ thứ hai (bốn trăm chín mươi lăm) thời Nam Tề Sư phế bỏ việc thường học tập, ngoài thành đô, chuyên lắng nghe, qua mất năm năm, Sư lại bị bệnh phong. Vào cuối đời Tề, tao loạn xâm nhập Đông thành. Sư đi xa đến tận Mân Việt, thảo luận nghiệp cũ. Đến niên hiệu Thiên Giám thứ tư (năm trăm lẻ năm) –đời Nam Lương, Sư trở về lại dưới thành Đô, vua Võ Đế (Tiêu Biểu) ban sắc cho Sư trú trì chùa Tân An. Lúc bấy giờ nhà vua như gặp được mây sấm, xa gần đều tónh lặng. Gió mưa điều hòa, lúa thóc thảy đều được mùa. Há chẳng phải trên nhờ ân Tam Bảo, giữa cậy Phước trí thiên vương, dưới gá nhờ thần long. U linh hợp tán, ấy mới là phước trùm muôn dân cùng hưởng đức sâu dày đô. Nhưng các Bộ Văn tản mác, khó có thể tìm đủ. Vua Võ đế bèn thỉnh Sư tổng soạn tập lục để dùng cho lúc cần. Hoặc lập phước cúng tế trừ tai, hoặc lễ sám trừ chướng, hoặc cúng thí qủy thần, hoặc cúng tế long vương. Bộ loại sắp xếp gần cả trăm quyển. Tên các vị thần thuộc tám bộ có đến ba quyển, bao gồm chỗ sâu xa, thấu suốt xưa nay. Nên mọi sự cúng cầu, vua Võ Đế đầu đến trông xem, sự cầu cúng lắm cảm oai linh. Do đó, suốt năm mươi năm, khắp vùng Giang Biểu thảy đều vô sự, triệu dân cậy nhờ. Niên hiệu Thiên Giám thứ bảy (năm trăm lẻ tám) Vua Võ Đế cho rằng biên Pháp mênh mông, hạng hiểu biết thấp kém khó nhận tìm. Nên ban sắc cho Ngài Tăng Mân ở chùa Trang Nghiêm đến chùa Định Lâm tiếp nối biên tập các kinh quan trọng, sao chép gồm tám mươi tám quyển. Lại ban sắc cho ngài Trú Tạng chùa Khai Thiện tiếp nối làm theo nghóa lý các kinh, đặt tên là “Nghóa Lâm” gồm tám mươi quyển. Lại ban sắc cho ngài Tăng Lãng chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn bảy mươi hai quyển. Tất cả đều do Sư vâng phụng biệt sắc và gồm tán dương công đức ấy. Luân tông đầu đuôi sắp xếp thành Bộ Pho. Và lúc vua Giản Văn Đế (Tiêu Cương) đang ở tại Xuân Phường, rất đam mê Nội Giáo, soạn “Pháp Bảo Liên Bích” 200 quyển, riêng thỉnh Sư so sánh phân biệt, loại ấy lưu hành cùng khắp. Vua cho rằng “Phật Pháp cao vợi sâu mầu, kẻ hiểu biết cạn cợt khó thể thông hiểu.” nếu chẳng có tài học thì không do đâu để thấu đạt đến cùng. Nên lại ban sắc thỉnh Sư, bắt đầu từ Đại giáo lưu truyền đến Đông độ, tục só nơi cửa Đạo có khơi dậy Phật Lý, biên soạn bày nghóa, đều gồm thông nhóm tụ, đặt tên là “Tông Pháp Luân Luận” gồm hơn bảy mươi quyển, khiến các hạng người mê ngộ trông thấy thảy đều Quy tín rất giúp ích cho Đạo pháp, không cho là thêm. lại soạn pháp tập một trăm bốn mươi quyển, đều chỉ mình Sư riêng chuyên lo liệu tiếp nối kết thành Bộ, nhà vua đích thân xem đọc, lưu hành khắp trong ngoài. Đến niên hiệu Thiên giám thứ mười bốn (năm trăm mười lăm) Vua Võ Đế ban sắc cho Sa-môn Tăng Thiệu chùa An Lạc, soạn thuật “Hoa Lâm Phật Điện Kinh mục lục”. Tuy đã khắc thành, nhưng chưa thỏa hợp ý chỉ vua, nên vua ban sắc cho Sư soạn thuật lại. Sư bèn nhân bản biên lục trước của Ngài Tăng Thiệu mà chú thuật ly hợp, rất có khoa mục chứng cứ, gồm một pho bốn quyển, rất hợp ý vua, vua bèn ban sắc cho Sư trông coi “Hoa Lâm Viên Bảo Vân Kinh Tạng” và ngài nêu tra tìm kiếm những sai sót thất lạc đều làm cho được đầy đủ. Soạn thành đủ ba Bổn để dâng lên nhà Vua. Vì nhân duyên đó, Vua lại ban sắc cho Sư soạn tập “Kinh Luật Dị tướng” gồm năm mươi lăm quyển. “Phạm Thánh Tăng Pháp” năm quyển. Vua Võ Đế lại chú giải Kinh “Đại Phẩm” năm mươi quyển. Bấy giờ, Phật Pháp rất hưng thạnh, không lúc nào bằng. Nên các hàng đạo tục tài hoa cùng nhau phô bày văn lý. Năm ba mươi bảy tuổi, vua Võ Đế mới lên ngôi (năm trăm lẻ hai) và ở ngôi vua suốt bốn mươi chín năm (năm trăm năm mươi), nhưng vì Đình âm sớm nghiêng đổ nên vua thường có tâm buồn cảm, từng than rằng: “tuy có chỗ Qúy trọng khắp bốn bể, mà không do đâu được tỏ bày võng cực. Nên để tâm nơi kinh Phật, lấy tám bộ Bát-nhã làm ruộng tâm tốt lành, vì đó là nơi sinh ra các Đức Phật!” Lại vì đã trừ tai ương nhiều lần, nhà vua góp nhặt các kinh, đích thân soạn thuật chú giải. Từng đến nơi Pháp tòa giảng đọc tuyên dương, dùng nhân lành ấy mà sùng trọng, đượm nhuần linh thức. Vua Võ Đế từng vì Hoàng Phụ, Hoàng mẫu mà xả thân làm người cấp sử cho chúng tăng, giặt rửa tẩy trừ nhơ bẩn, kính tạo phước thầm, mỗi lúc xả thân thì mặt đất rung chuyển. Vua thường thiết trai cúng dường, tuyên giảng Phật pháp. Không để bánh xe chánh pháp ngừng quay. Vua vì Thái Tổ Văn Hoàng mà đến Bắc giản ở Chung Sơn xây dựng chùa Đại Ái Kính, củ phân hợp nhật, ghé mắt trông nhìn Bách trượng, xanh đẹp cao vợi, dùng mối rưới chảy, rồng lớn khắp đảnh núi, phụng đẹp cưỡi không trung. Xây tháp bao quanh, đẹp khắp núi hang. Nhà vua đến yến tọa tận núi rừng sâu xa. Ở đó, xây một ngôi già lam, dồng như Tôn Viên Tẩm, lang vũ gá nhau, mái rót lâm thuộc, bên cạnh thiết đặt ba mươi phòng viện, đều tạo lập ao đài bao quanh, cúng dường cung cấp bốn thứ cần dùng cho hơn ngàn vị tăng. Chánh điện ở trung viện có một pho tượng bằng Chiên Đàn, cao một trượng tám. Các người thợ định làm sáng sớm làm chiều tối nghỉ, hằng đêm thường nghe có tiếng. Sáng sớm trông nhìn liền cảm thấy tượng lớn thêm. Sau khi hoàn thành, thì Tôn tượng cao đến hai trượng hai, tướng tốt trang nghiêm, sắc tướng vòi vọi. Nghi ngờ đó là do thần tạo tác, thường có những điềm cảm ứng. Vua Võ Đế lại riêng tạo dựng tôn tượng đồng mạ vàng cao trượng tám ở biệt điện Long Uyên trong chùa. Đích thân vua dâng lễ cúng dường trong mỗi lần vào đảnh lễ. Vua sùi sụt nghẹn nghèo chẳng thể tự kiềm chế. Mọi người chung quanh cùng tham dự không ai chẳng khóc! Vua lại vì Hiến Thái Hậu mà đến đường phía đông cửa thành Kiến Dương; tức bờ phía tây Thanh Khê xây dựng chùa Đại Trí Độ. Gần kinh đô chừng một dặm đường, chỗ đất sáng đẹp cao ráo rộng rãi. Giữa đường rộng rãi tráng lệ, có ngôi tháp báu bảy tầng, phòng nhà hành lang nối tiếp nhau bao quanh, hoa quả luôn tươi tốt. Trong chánh điện cũng tạo tôn tượng cao trượng tám bằng vàng, dùng để cầu phước. Có năm trăm vị Ni suốt bốn thời giảng tụng. Ngày xây dựng chùa hoàn tất, vua Võ Đế ngoái nhìn lại bảo với các Hậu phi rằng: “Ta xây dựng hai ngôi chùa này, dâng phụng phước đối với Hoàng phụ và Hoàng Hậu, để tỏ bày tình đất trời, để thấu suốt ân đức sinh thành, mà chưa thể xua đi sự buồn thương của Lục nga!” Ngay ở trong cung, vua lại dựng điện chính kinh, Đài Cảnh Dương, lập nhà Thất miếu, đường vũ trang nghiêm, xinh đẹp dường như mây, xen lẫn châu ngọc trên các trụ giao nhau, ánh sáng rực rỡ. Lập tòa thờ Hoàng phụ và Hoàng hậu, đầy đủ các lễ, quan uẩn tráp rương, mở mắt kính mến, sớm tối như hiện còn, y phục ấm nhẹ tùy thời đổi thay, phương chỉ mới lạ, đúng lúc cúng dâng. Vua Võ Đế lại nói: “tuy đã tận cùng sự khéo léo của thầy thơ, hết mức kỳ đặc trong thế tục. Nước đá chảy quanh, hoa cây chất chồng. Thế nhưng, vì việc nước nhà không được rảnh rỗi để sớm tối hầu dâng, chỉ mỗi tháng hay ngày và ngày rằm có cúng tiến mà không được chiêm ngưỡng, trong lòng tan tác như thiêu như đốt!” Nhà vua lại soạn “Liên châu” gồm năm mươi bài để tỏ rõ hiếu đạo, lại soạn “Hiếu tư Phú” bao gồm cả gốc hiếu. Còn như việc an quốc trị dân, đổi thay phong tục, vượt qua xưa nay, không được mà xưng, nên Nguyên Đế nói: “Kính vì lòng hiếu của hoàng phụ ta, đổi thay bốn vận, chẳng vì tươi khô lẫn lộn, lại dùng năm Đức, chẳng vì sang hèn đổi lòng. Lúc lâm triều trang nghiêm trầm mặc, suy nghó quá khích càng quanh co, duỗi khoanh tay nơi nham lang, buồn cây gió càng tha thiết. Khiết trai nơi Tông lang, bền việc giao tế. Miệng chưa mở lời mà lệ tuôn rơi, dung nhan chưa biến đổi mà lòng thường quặn thắt. Đó chỗ gọi là trọn đời lo lắng! Bởi vì Ngu Thuấn, Hạ Võ, Chu Văn Vương, Lương Võ Đế. Muôn đời luận bàn về hiếu, chỉ bốn vị đó mà thôi. Rộng như trong Kim Lâu tử thuật có nói. Lại đến niên hiệu Đạo Thông thứ nhất (năm trăm hai mươi bảy), ở phía bắc Đài Thành, Vua Võ Đế mở cửa Đại Thông, xây dựng chùa Đồng Thái. Lầu các Điện đài đều làm phỏng theo như nội cung, có tháp báu cao chín tầng, xoay quanh trang bày mây biểu, cây núi bao quanh, ao cong chứa đầy. Ngày mồng sáu tháng ba năm đó, Vua Võ đế đích thân đến chùa, lễ sám cung kính, đó là lệ thường, là nơi xả thân. tuy ức triệu việc cần kíp, mà kinh sách chẳng lìa khỏi tay, đọc xem khắp cùng kinh luận nội ngoại điển phần, thường lấy sự thông đạt làm chuẩn tắc. Từ Lễ Ký Cổ Văn, Chu thư Tả truyện, Trang Lão Chư Tử, Luận ngữ Hiếu Kinh. Các triết thuyết xưa chưa rõ ràng nay đều giải thích. Lại lấy Quốc học viên làm giới hạn, ngăn cách giữa sang hèn, bèn lập ra năm Quán, chiêu dẫn hàn Tuấn, nên khiến Phật giáo và Khổng giáo đều hưng thạnh cao xa. Vua Võ Đế trước sau nhóm tập hơn cả trăm quyển, soạn “Thông Sử Thư uyển” đến mấy ngàn quyển. Đang lúc thời thế hưng thạnh như vậy, Sư từng vâng phụng thư ấn tham dự công việc phiên dịch, có nói rõ như ở biệt truyện. Ban đầu, vào niên hiệu Thiên giám thứ chín (năm trăm mười), bệnh trước lại tái phát, Sư bèn phát hai lời nguyện: “Tìm khắp kinh luận không để sót mất. sưu tầm tất cả Tăng lục, nhiều đời sắp xếp thành từng loại, soạn tập thành Pho Bộ, đặt tên là “Danh Tăng Truyện” ba mươi mốt quyển. Đến niên hiệu Thiên giám thứ mười ba (năm trăm mười bốn) mới y cứ vào điều lệ. Trong đó, lời tựa lược nói: “Phàm người mong cầu vắng lặng thì ở ngoài sự thấy nghe. Xét về tâm hạnh thì phải khéo léo như Đan thanh. Vậy đủ biết muôn tượng sum la lập ngôn không thể vì đã như thế. Đại Lương (tức chỉ Lương Võ Đế) có được thiên hạ, uy lực càng thêm to lớn, công lao cứu giúp chúng sinh. Phạm vi giáo hóa của khắp chín cõi Hoàng thượng, thần thức dạo chơi trong tám chánh, đầu đội cầu Pháp, được uống Cam lồ. Trộm vì ngoại điển, văn rộng lưu bố nơi phương sách, chín phẩm sáu nghề thước tấc chẳng để sót. Mà Sa-môn tịnh hạnh không riêng ghi chép, đức thông minh của vua Huyền thông cao tột xưa nay! Ôm giữ thở than, chẳng phải mãi mãi. Luật sư Thích Tăng Hựu là bậc Đạo tâm vững chắc, hạnh cao vời vợi, soạn thuật các ký, mở mang chỗ trọng yếu. Bảo Xướng chẳng thông minh, dự ban nơi Nhị Lạc, ngoài thời giờ lễ tụng ra góp nhặt chỗ còn sót, văn rộng chẳng ghi. Ban đầu vì khí chân phát ra liên tục, nên vào Đông chữa trị. Sau đó có sắc lệnh truy tìm, nhân vậy phạm tội bị khiển trách, đày đến Việt Châu, sau lại có lệnh y luật dùng pháp mà xử đoán. Sa-môn Tăng Chính, Tuệ Siêu mặc tình trái lại lệch chỉ bị đuổi dời đến Quảng Châu. Trước sám hối tại chùa Đại Tăng ở kinh đô. Bèn có lệnh nhóm họp làm nhiều việc còn thiếu sót. Ban ngày thì Phục Sám, đêm đến thì ghi lục. Lại thêm vì Quan tư thúc giục, nên suốt ngày chẳng rãnh. Trung Chân điều lưu, văn từ rơi rớt, sắp đến ngày phát hành, bèn đem tấu trình. Khi đó có sắc lệnh đình chỉ việc tẩn đuổi mà vời đến phiên dịch. Nhưng ở đây Tăng Sử mới sắp phán định, sửa đổi lắm điều ở trước, lại thêm cho đủ. Nên sau truyện đó trong lời tựa của chính tác giả chép: Đâu dám cho Tăng là chồn cáo, ngõ hầu mới chẳng cong bút!” Nhưng các tác phẩm của Sư, Văn Chương vượt hẳn thực chất, Người sau y cứ so lường mà dùng. Ở đây chỉ nêu vài lời trình bày thường yếu về đương thời. Không biết về sau, sư tịch ở đâu! Truyện Sa-môn Thích Đàm Diệu trụ chùa Thạch Quật ở Hằng An; thuộc Bắc Đài, thời Nguyên (Bắc) Ngụy. Thích Đàm Diệu, không rõ Sư là người xứ nào, xuất gia từ thiếu thời. Sư giữ hạnh vững chắc, Phong cách đơn giản. Trong khoảng niên hiệu Hòa Bình (bốn trăm sáu mươi-bốn trăm sáu mươi sáu), Sư làm chức Chiêu Huyền Thống ở Bắc Đài, sau đó trở về suất lãnh tăng chúng khéo được tên họ. Sư trú tại chùa Thông Lạc Thạch Quật ở Hằng An. Chùa ấy do vua Ngụy Đế xây dựng cách Hằng An về phía Tây Bắc chừng ba mươi dặm, trên sườn núi phía bắc hang núi Võ Chu, Sư đến đó, xây dựng ngôi chùa Phật, đặt tên là “Linh Nham “, dựng khám rất lớn, cao hơn hai mươi trượng, có thể chứa đến ba ngàn người. Mặt riêng khắc tượng, cùng các hình tượng khéo léo xinh đẹp, khám có hình dáng riêng biệt làm kinh động đến người và thần. Bia trụ đá mốc hiện còn, chưa bị phá bỏ. Nguyên trước kia, vào niên hiệu Thái Bình Chân Quân thứ bảy (bốn trăm bốn mươi sáu) dưới thời Thái Võ Hoàng Đế (Thát Bạt Đào), Có quan Tư Đồ Thôi Hạo tà ngụy khéo dùng văn từ dua nịnh khiến Vua (Thái Võ Đế) tôn sùng kính trọng Đạo só khấu Khiêm Chi, lễ bái tôn làm Thiên Sư, càng kính trọng Lão Giáo thì càng xem thường Phật giáo, thiêu đốt chùa tháp. Đến năm Canh Dần (4 5 0), Vua Thái Võ Đế bị bệnh dịch lệ, mới bắt đầu tỏ ngộ. Bên cạnh đó, có được Thiền Sư Bạch Túc đến cùng khai phát. Khi tâm vua đã hối hận, bèn giết giòng họ Thôi Hạo sự việc như có nói ở các truyện. Đến năm Nhâm Thìn (bốn trăm năm mươi hai), Thái Võ Đế băng, con là Văn Thành Đế (Thúc Bạt Duệ) lên ngôi, bèn xây dựng chùa tháp, tìm kiếm kinh điển. Suốt bảy năm Đạo Pháp bị phá hủy, đến đó Tam Bảo trở lại hưng thạnh. Ngài (Đàm Diệu), bùi ngùi về việc trước kia bị khi thường phá hủy, vui mừng nay được phục hưng, nên vua mời các vị Tăng Cao Đức đến tại hang đá ở Bắc Đài, đối với các Sa-môn Thiên trúc phiên dịch Phó Pháp Tạng truyện và các kinh Tịnh Độ, lưu thông mở mang cho các bậc Hậu Hiền, ý mãi chẳng dứt tuyệt. Bấy giờ, có Sa-môn Đàm Tónh vì mở sáng mặt trời Phật, các kinh điển cựu dịch đều bị thiêu hủy và thất lạc, trong nhân gian muốn dẫn dắt dựa nương mà không có nhân duyên, Sư bèn dịch ra Kinh Đề-vị Ba-lợi hai quyển. Ý thì thông ngộ mà lời văn có nhiều vọng tập. Nên trong văn kinh có nói như: “Núi Thái ở phương đông”. Hán dịch là: “Đại Nhạc” là nơi Âm dương giao nhau. Có nghóa là “Đại nhạc” xuất phát từ thời Nguyên Ngụy, mới nói là “Hán dịch”, thật không rõ về thời đại. Đó là điều vọng thứ nhất. bởi vì “Núi Thái” là phương ngôn của Trung Quốc mà lại dùng dịch thay cho tên núi, không rõ biết Phạm Văn và Ngụy Văn, đó là điều vọng thứ hai. nếu nêu bày ra thì có rất nhiều, đủ cả trong văn kinh, tìm đọc thì liền nhận biết. Xưa ghi lục riêng có kinh “Đề-vị” một quyển, ngôn ngữ đồng như các kinh, chỉ có thêm Ngũ phương, ngũ hành như vàng Đá lẫn lộn, nên xếp vào Ngụy biện, và không lường biết về sau như thế nào. Đến đầu đời Tùy, vào khoảng niên hiệu Khai Hoàng (năm trăm tám mươi mốt-năm trăm chín mươi) tại Quan nhưỡng thỉnh thoảng Dân gian còn tụng tập Kinh Đề-vị, Ấp nghóa đều tự giữ gìn y bát. Đến tháng thiết trai, nghi phạm theo chánh luật, thay nhau xem xét, rất đầy đủ trong Tường tập. Truyện Sa-môn Bồ-Đề-Lưu-Chi người xứ Bắc Thiên Trúc trụ chùa Vónh Ninh ở Nam Đài, thời Nguyên Ngụy. Bồ-Đề-Lưu-Chi, đời Ngụy dịch là Đạo Hy. Sư người xứ Bắc Thiên Trúc, tinh thông ba tạng, khéo nhập Tổng trì, chí muốn mở mang thật pháp, rộng lưu truyền rộng sự thấy nghe. Bèn mang Đạo một mình đi, xa đến tận Thông Tả. Đầu niên hiệu Vónh Bình (năm), Sư tới Đông Hạ, Tuyên Võ Hoàng Đế (Nguyên Khác) Ban sắc dẫn nhọc, cung phỏng ân hoa, thỉnh Sư trụ ở chùa Vónh Ninh, thường cung cấp cúng dường bốnt thứ cần dùng cho bảy trăm vị Phạm Tăng. Sắc phong Sư là người đứng đầu trong giới Phiên kịch kinh điển. Ngôi chùa ấy vốn do Linh Thái Hậu họ Hồ xây dựng vào niên hiệu Hy Bình thứ nhất (năm trăm mười sáu) dưới thời Hiếu Minh Hoàng Đế (Nguyên Hủ), Cửa Chính trước cung thuộc phía Đông của Nam môn Ngự Đạo. Ở giữa có Bảo ngôi tháp cao chín tầng, làm bằng gỗ, cao hơn chín mươi trượng. Phía trên lại có kim sát cao đến mười trượng, cách mặt đất cả ngàn thước. Đứng xa cách Đài cả trăm dặm vẫn trông thấy. Ban đầu, ngày xây dựng nền móng đào bới đến suối vàng, có được ba mươi hai pho trượng bằng vàng ròng, Thái Võ cho đó là điềm lành, do tâm kính tín chánh pháp nên bày hiện chứng minh như thế. Vì vậy dựng xây trang trí đẹp đẽ tuyệt trần. Phía ngoài chùa có đặt chiếc bình báu bằng vàng sức chứa đến hai mươi lăm hộc, lộ ra mâm vàng có mười một lớp, khóa sắt bày góc, trên mâm và khóa đều có chuông vàng, giống như cái vò lớn. Các góc của chín tầng đều có chuông vàng, mỗi chuông đều như cái vò lớn. Các góc của chín tầng đều treo chuông lớn, trên dưới tất cả một trăm ba mươi cái. Bốn mặt tháp đó có chín gian, sáu cửa sổ ba cửa lớn, cánh cửa đều bằng Chu tất, rũ các chiếc linh vàng, mỗi tầng có năm ngàn bốn trăm chiếc, lại treo chuông vàng bày ở trên đầu, Phật sự tinh diệu, dốc hết sự khéo léo của gỗ đất, trụ màu lác vàng kinh hãi cả tâm mắt, gió cao suốt đêm thổi lay, linh khánh cùng vang động, âm thanh leng keng vang xa hơn mười dặm. Phía bắc có chánh điện, xây dựng hình trạng phỏng theo Thái cực, bên trong các tôn tượng đều thiết bày bằng sắc mầu vàng ngọc, tạo tác rất khéo léo, tuyệt đẹp ở đương thời. Tăng phòng bao quanh tiếp nối có hơn ngàn gian. Đài diện tinh la khác nhau hiển bày, chạm trổ chưng bày đỏ tím lẫn lộn cùng xen nhau, có các giống cây quát, Bách, Trinh, tùng, cỏ lạ mọc nhiều, Tường viện chung quanh đều lợp bằng ngói. Ba cửa ở phía nam lầu, mở ba đường ba lớp, cách đất hơn hai trăm trước, hình dáng như của trời,đẹp đẽ rực rỡ. Ở góc cạnh cửa có bày bốn vị lực só và bốn con sử tử, dùng vàng ngọc trang sức rất sáng ngời, hai cửa ở phía đông và tây cũng sắp bày như hế. Chỗ có thể xem là khác lạ là chỉ hai lớp lầu ở cửa phía bắc thông đường thẳng lới mà an trí. Phía ngoài bốn cửa trồng cây hoè xanh, xung quanh viền tướng nước trong veo. Những người đi xa đến chốn kinh đô, phần nhiều dừng nghỉ ở dưới đó. Đường đi không có bụi bay, chẳng do đượm nhuần bởi mây đùn, gió trong lành thổi mát, đâu không phát xuất từ sự mừng vui. Vua Hiếu Minh Đế ban sắc cho trung thư xá nhân là Thường cảnh soạn Văn Bia chùa. Thường Cảnh vốn người xứ Hà Nội, hiểu thông học rộng, biết khắp trong ngoài. Vào niên hiệu Thái Hòa thứ mười chín (bốn trăm chín mươi lăm), Cao Tổ (Tức Hiếu Văn Đế-Nguyên Hoành) chọn ông làm Tu Luật Bác Só, có chiếu chỉ phán định Luật cách, trở thành thông lệ mãi mãi. Thường cảnh bèn thương xác xưa nay, điều suốt khoa du, tức Bộ Ngụy luật gồm hai mươi thiên. Thường Cảnh đã trải qua các chức quan Trung Thư Xá nhân, Hoàng Môn Thị Lang, Bí thư Giám, U Châu thứ sử, trong nhà rất nghèo nàn, tiết kiệm mọi việc như nhà nông. Chỉ có kinh sử đầy xe, trước có soạn văn tập hơn cả trăm chương. Vua Hiếu Minh Đế và Thái hậu đồng lên trên tháp, trông xem mọi việc trong cung như trông vào lòng bàn tay, dưới đến mây mưa, trên dưới đều trong sáng. Vì thấy rõ mọi việc trong Nội cung nên cấm bặt không cho mọi người lên đó. Những người từ Tây Hạ đến Đông Hoa đi khắp các nước, đều bảo rằng: “Ngôi tháp như thế, không nơi đâu có!” Niên hiệu Hiếu Xương thứ hai (năm trăm hai mươi sáu), có gió lớn thổi nhổ bứt cột cây, bình báu trên tháp theo gió rơi xuống đất, cao lớn hơn cả trượng. Nhà vua lại bảo các thợ làm lại bình báu mới khác. Đến tháng hai niên hiệu Vónh Hy thứ ba (năm trăm ba mươi bốn) trời chấn động, vua Hiếu Vũ Đế (Nguyên Tu) lên đài Lăng Vân nhìn thấy lửa, bèn sai Nam Dương Vương Bảo Cự Lạc, Thượng Thư Trưởng Tôn Trỉ đem một ngàn vũ lâm đến cứu. Khi đó mưa sấm mịt mù, sương tuyết thay nhau đổ xuống. Trong tầng tháp thứ tám tự nhiên bốc lửa, có hai Đạo nhân không nỡ nhìn tháp bị thiêu đốt bèn gieo mình vào lửa mà chết. Aùnh lửa ấy tiếp tục cháy suốt hơn ba tháng, nhập vào trụ chùa trên mặt đất thì đến cả năm vẫn còn hơi khói. Tháng năm năm đó, có người từ Quận Đông Lai đến nói rằng: “Thấy tháp đang ở dưới biển, sáng sủa nghiễm nhiên, mọi người cùng trông thấy chẳng phải một”. Bỗng chốc mây mù nổi lên, không còn biết nơi chốn. Đến tháng bảy Bình Dương Vương bị Thụ Trung Đẩu Tư Xuân rượt đuổi, chạy đến phía Tây tới Trường An. Đến tháng mười thì lại từ Lạc Kinh dời đến Chương Nghiệp. Trước đó, Sư vâng sắc phiên dịch Kinh Thập Địa. Tuyên Vũ Đế (Nguyên Khác) trong một ngày đích thân đến đối chiếu ghi chép, nhưng sau đó mới giao cho các Sa-môn Tăng Biện, v.v..làm hoàn tất Luận Văn. Phật Pháp hưng thạnh, các bậc tài giỏi đông nhiều truyền trao cho nhau, chỉ chăm chăm như vậy. Vua lại ban sắc cho Thanh tín (cư só) Lý Khuếch soạn mục lục các kinh. Lý khuếch học thông Huyền tố, hiểu suốt kinh luận, nhã có nêu bày việc tốt, nên trong mục lục có ghi rằng: “Tam Tạng Pháp Sư Bồ-Đề-Lưu-Chi, từ Lạc Kinh cho đến Chương Ng- hiệp, bèn làm cho đất trời bình lắng hơn hai mươi năm, đã dịch ra các kinh gồm ba mươi chín bộ, một trăm hai mươi bảy quyển, tức các kinh Phật Danh, Lăng-già, Pháp Tập, Thâm mật v.v…và các Luận Thắng Tư Duy, Đại Bảo Tích, Pháp Hoa, Kiết-bàn v.v.., đồng thời các Sa-môn Tăng Lãng, Đạo Trạm và Thị Trung Thôi Quang v.v…ghi chép. Có ghi chép đầy đủ ở “Đường Trinh Quán nội Điển Lục”. Lý Khuếch lại nói: “Trong phòng Pháp Sư Bồ-Đề-Lưu-Chi các Kinh Luận bản Phạm có thể nhiều đến cả muôn quyển. Các văn mới do Sư phiên dịch được ghi chép xếp thành từng loại, đầy cả một gian phòng.” Nhưng tuệ giải của Sư so với Ngài Lặc-ma thì có phần thua một bậc, mà thần ngộ thông minh khéo thấu suốt phương ngôn, tài giỏi cả về chủ thuật thì không ai sánh bằng. Sư từng ngồi nơi miệng giếng, tẩy rửa trong không, đệ tử chưa đến nên không người múc nước. Sư bèn nắm lấy cành liễu quấy động quanh trong giếng, thầm trì tụng chú, chỉ mới vài biến mà nước đã suối dâng lên tràn cả thành giếng, bèn lấy bát múc vào chậu để tắm gội. Các vị Tăng bên cạnh, thấy rõ ràng việc ấy. Chẳng thể lường biết năng lực thần diệu của Sư, đều cùng nhau vui mừng ngợi khen Sư là bậc Đại Thánh. Sư bảo: Chớ vọng khen thưởng như thế, pháp thuật ấy người Ấn-độ đều cùng thực hành, chỉ do ở trong guốc không tập theo, nên cho đó là Thánh mà thôi. sợ rằng mê hoặc người đời, nên kín đáo không được tuyên truyền.” Bấy giờ, lại có Sa-môn Lặc-Na-Ma-Đề, đời Ngụy dịch là Bảo Ý. Sư người nước Trung Thiên Trúc, sự thấy biết dồi dào, Lý Sự đều thông. Sư tụng đến một ức bài kệ, mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ. Lại rất thấu suốt pháp thiền, ý chí luôn muốn du hóa. Niên hiệu Chánh Thỉ thứ năm (năm trăm lẻ tám) Sư đến Lạc Aáp, phiên dịch các Bộ Luận lớn như: Thập Địa, Bảo Tích v.v…tất cả có hai mươi bốn quyển. Lại có Sa-môn Phật-Đà-Phiến-Đa, Hán dịch là Giác Định. Sư người xứ Bắc Thiên-trúc. Từ niên hiệu Chánh quang thứ nhất (năm trăm hai mươi) đến niên hiệu Nguyên Tượng thứ hai (năm trăm ba mươi chín), Sư trụ chùa Bạch Mã ở Lạc Dương và chùa Kim Hoa ở Nghiệp Đô, phiên dịch các Kinh Kim Cương Thượng Vị v.v..tất cả có mười bộ. Lúc bấy giờ, vào ngày dịch kinh, Ngài Bồ-đề-lưu-chi truyền Bổn, các vị tăng khác tham dự. Sau đó, ba vị Đại Đức bèn nói lần lượt, mỗi vị tự truyền lời Thầy tập, chẳng hỏi han nhau. Nhà vua vì sự hưng thạnh của hoằng pháp, hơi có sự buồn phiền, nên bèn ban sắc ở ba nơi, mỗi nơi tự phiên dịch xong mới cùng dự tham hiệu đính. Thời gian đó ẩn một đến nỗi có sự bất đồng dẫn đến có Văn Chỉ. Bấy giờ kiêm luôn dị xuyết, người đời sau hợp lại chung lại thành Thông bộ. Có thể thấy ở ghi lục của Sa-môn Bảo xướng v.v.. Ban đầu, Ngài Bảo Ý thần lý tiêu dị, lãnh điệp Ngụy từ riêng thấu suốt chỗ sâu xa. Nhà vua thường thỉnh Sư giảng kinh Hoa Nghiêm, giải thích khai ngộ, tinh nghóa thường phát. Một hôm, Sư đang ngồi trên tòa cao, bỗng nhiên có một người cầm hốt ghi danh, hình tướng như Đại Quan đến thưa rằng: “Vâng lệnh Thiên Đế đến thảnh Pháp sư giảng Kinh Hoa Nghiêm”. Sư bảo: “Nay, ở pháp tịch này còn chưa thể dừng nghỉ, đợi xong văn kinh sẽ vâng lệnh cùng đi Tuy nhiên việc Pháp sư vốn một mình không thể kiến lập, nên Chư Tăng Đô Giảng, Hương Hỏa, Duy-ma, Phạm Bối đều cũng phải đợi vì vậy hãy thỉnh để các vị ấy định liệu. Sứ giả liền như lời thỉnh đến thỉnh Chư tăng. Thế rồi Pháp sự sắp viên mãn, lại thấy người sứ trước đến thưa rằng: “Vâng lệnh Thiên Đế nên xuống đón rước!” Sư bèn mỉm cười an nhiên vui vẻ, cáo biệt tăng chúng, nghiễm nhiên thị thịch ngay trên Pháp tòa, các vị Tăng Đô giảng v.v….cũng đồng thời thị tịch, khắp nơi trên đất Ngụy mọi người nghe thấy không ai chẳng ngợi khen điều tốt. Bấy giờ, lại có Sa-môn Pháp Tràng ở tại Lạc Dương, phiên dịch kinh “Biện Ý Tưởng Giả Vấn” một quyển, tuy thiếu truyện đối mà là Chánh Văn. Thấy trong lục của ngài Pháp Thượng. Lại có Ngài Bát- Nhã-Lưu-Chi, Hán dịch là Trí Hy, Sư vốn họ Cù-đàm, thuộc chủng tộc Bà-la-môn, người ở thành Ba-la-nại; Nam Thiên-trúc. Từ niên hiệu Nguyên Tượng thứ nhất (năm trăm ba mươi tám) đến cuối niên hiệu Hưng Hoà (năm trăm bốn mươi ba)(thuộc thời Đông Ngụy, Bắc Triều) Sư trụ ở Nghiệp thành, phiên dịch các Kinh luận như: Chánh Pháp niệm Thánh Thiện Trụ Hồi Tránh Duy Thức, v.v…gồm mười bốn bộ, tám mươi lăm quyển. Có các Sa-môn Đàm Lâm, Tăng Phưởng v.v.. ghi chép. Nhìn lại thời bấy giờ có hai ngài Bồ-Đề-Lưu-Chi và Bát-Nhã- Lưu-Chi trước sau cùng phiên dịch kinh luận, mà các ghi lục truyện ghi chép phần nhiều xem thường, bỏ hẳn hai chữ trước của tên, chỉ đề là “Lưu-chỉ” mà không biết là lưu-chi gì. Mãi đến nay, trong các ghi lục phiên dịch danh mục lẫn lộn lẫn nhau, khó xác định để biết rõ ràng. Lại có quan Quận Thủ Tư Thành là Dương Huyễn Chi soạn “Lạc Dương Già-lam ký” năm quyển, trong lời tựa có lược ghi rằng: “Thuyết của Tam phần (sách của Tam Hoàng) Ngũ Điển (sách của Ngũ Đế), ngôn ngữ của chín học phái trong trăm Dân, lý ở trong loài người, nghóa chẳng vượt thoát ngoài trời. Còn như ngôn từ của Nhất thừa; Nhị Đế, Diệu Chỉ của sáu Thông, ba Đạt ở tại Tây Vức đầy đủ rõ ràng mà ở Đông Độ chẳng ghi chép. Nếu như thời gian khoảnh khắc trong ngày, cảm mộng trăng tròn đầy tỏa sáng, ảnh tượng nghiêm sức Hào my nơi Dương môn, hình bóng đồ họa tóc xanh tại Dạ Đài. Từ đó đua nhau cạnh tranh phong hóa càng rộng rãi. Còn như chùa Vónh Gia đời Tấn Chỉ có bốn mươi hai, mãi đến các Hoàng Ngụy thọ nhận từ chùa Lạc Kinh ở Đồ Tung xuất ra hơn ngàn bản đều do các Đế vương só thứ dốc lòng kính tin xây dựng nên. Các bậc Danh tăng điềm dị phân luân cùng hiện khởi. Nay góp nhặt trích ra những điều khác lạ tốt lành đầy đủ để chú giải. Văn rườm rà nên chẳng ghi chép.” Bấy giờ, vào khoảng niên hiệu Đại Thống (năm trăm ba mươi lăm-năm trăm năm mươi hai) dưới thời vua Văn Đế, thuộc Tây Ngụy, Có Thừa Tướng Vũ Văn Hắc tấu trình xin hưng long Phật giáo, xem trọng Đại thừa. Tuy gồm nhiếp muôn vật mà thường mở mang Tam Bảo. Lần lượt trong Nội cung thường cúng dường cả trăm vị Pháp sư, tiếp theo bàn thảo kinh luận, giảng giải Đại thừa. Lại thỉnh các Sa- môn Đàm Hiển, v.v..y cứ kinh điển Đại thừa, soạn tập các Kinh cốt yếu trong Bồ-tát tạng và một trăm hai mươi pháp môn. Bắt đầu từ Phật tánh, đến cùng tận Dung môn, hằng ngày giảng nói, tức luôn tuyên bày để thay thế trước kia. Năm thời giáo tích đến nay hiện lưu hành, Hương hỏa, Phạm âm, lễ bái, xướng Đạo đều vâng thừa theo phép tắc. Tuy tại Giang Biểu thuộc Sơn Đông mà xưng là học hải, nghóa biểu có chỗ kết quy mà chưa thể vượt qua. Đến thời vua Văn Đế nhà Bắc Chu năm thứ hai, có Luật sư người nước Ba-đầu-ma là Nhương-Na-Bạt-Đà-La, đời Bắc chu dịch là “Trí Hiền”, cùng ngài Da-Xá-Quật-Đa v.v… dịch luận Ngũ Minh đều do Sa Môn Trí Tiên ghi chép. Đến niên hiệu Thiên Hoà thứ hai (năm trăm sáu mươi bảy) thời vua Kiến Võ Đế (Vũ Văn Ung) có sa-môn người nước Ma-lặc là Đạt-Ma-Lưu-Chi, đời Bắc chu dịch là “Pháp Hy”. Vâng sắc làm Đại Thoán Tể Tấn Dương Công Vũ Văn Hộ dịch “Bà La Môn Thiên Văn”, hai mươi quyển. Lại thỉnh Thiền sư người nước Ma-già-đà là Xà-na-da-xá, đời Bắc chu dịch là “Tạng Xưng”, cùng các đệ tử Xà- na-Quật-Đa v.v..đến trụ chùa Tứ Thiên Vương ở Cổ thành thuộc Trường An, phiên dịch “Kinh Định ý Thiên tử Vấn” sáu bộ. Các Sa-môn Viên Minh, Đạo Biện và Thành Dương Công Tiêu Cát v.v…ghi chépï. Truyện Sa-môn Câu-Na-La-Đà người xứ Tây Thiên-trúc, trụ Quận Nam Hải, thời nhà Trần. Câu-Na-La-Đà, đời Trần dịch là Thân Y. hoặc gọi là Ba-La-Mạt- đà, dịch nghóa là Chân Đế, đều là Tên Chữ của tiếng Phạm. Ngài vốn người nước Ưu-Thiền-Ni thuộc xứ Tây Thiên-trúc. Sư là người cảnh hạnh lắng sáng, khí vũ thanh tú, phong cách sáng trội cao xa. Các Bộ Tạng rộng lớn, không gì sư chẳng ôm hòai, các nghệ thuật dị năng sư đều thành thục lão luyện. Tuy vâng theo Phật lý mà vì thông Đạo biết danh, vượt xa gian nan không sợ nguy hiểm, Sư vân du khắp các nước, tùy cơ duyên mà đem lại lợi ích. Vào thời Nam Lương, Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) đức trọng vang khắp bốn phương, mở mang hưng thạnh Tam Bảo. Vào niên hiệu Đại Đồng (năm trăm ba mươi lăm-năm trăm bốn mươi sáu) vua ban sắc cho Trực Hậu, Trương Phiếm, v.v..đưa Phù Nam hiến sử trở về nước. Vua bèn thỉnh các bậc Danh Đức thông hiểu Tam tạng, các Luận Đại thừa, Kinh Tạp Hoa v.v..Sư từ xa nghe hành hóa, khuôn phép Thánh Hiền, tìm chọn các danh tượng tài đức như ngài Tuệ ích Dân phẩm, nước đó mới chịu để ngài cùng mang kinh luận vào cung ứng Thánh chỉ của Vua Võ Đế. Đã vốn nuôi dưỡng trong tâm, sáng rõ văn mạng, ngày mười lăm tháng tám niên hiệu Đại đồng thứ mười hai (năm trăm bốn mươi sáu). Sư đến thấu Nam Hải, men theo đường đi qua, mới dừng ở hai năm. Đến tháng tám nhuận niên hiệu Thái Thanh thứ hai (năm trăm bốn mươi tám), Sư bắt đầu tới Kinh Aáp. Vua Võ Đế đối mặt đảnh lễ thỉnh Sư trụ ở Điện Bảo Vân, hết sức thành kính cúng dường. Sư mở mang phiên dịch kinh giáo, chẳng ham thích thời Tần, lại xuất ra Tân Văn, có vượt hơn nhà Tề. Gặp lúc Đạo tiêu, cuối thời Nam Lương Giặc cướp Yết Phùng Lăn, khi đó Phật pháp bị sụp đổ không được truyền bá, Sư bèn lần bước đến Đông Độ. Lại sang Phú Xuân, bảo Lục Nguyên Triết mở đầu công việc truyền dịch, mời Diên Anh Tú, Sa-môn Bảo Quỳnh v.v..hơn hai mươi vị cùng phiên dịch luận Thập thất Địa, vừa mới được năm quyển mà vận nước chưa tónh lắng. Bên cạnh nương gá truyền thông. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ ba (năm trăm sáu mươi bốn) đời Hậu Lương, (có lẽ là niên hiệu Thái Bảo thời Nam Lương, vì Thái Bảo chỉ có hai năm: năm trăm năm mươi-năm trăm năm mươi mốt), vì Hầu Cảnh thỉnh mời, nên sư trở về lại Đài cúng dường. Lúc bấy giờ, giặc giã đói kém liên tiếp, Phật pháp cũng theo thời mà suy đồi. Đến lúc vua Nguyên Đế mở thời vận, nương thừa thánh thanh di, Sư bèn dừng ở chùa Chánh Quán ở Kim Lăng, cùng Thiền sư Nguyện v.v…hơn hai mươi vị phiên dịch Kinh Kim Quang Minh. Qua ba năm hai tháng, Ngài lại trở về Dự Chương, sau lại đến thỉ Hưng ở Tân Ngô. Sư lại theo Tiêu Thái Bảo vượt núi đến Nam Khương, đều tùy theo ngôn ngữ địa phương mà phiên dịch. Vì dừng ở vội vàng, chẳng chỗ cậy nhờ, nên đến tháng bảy niên hiệu Vónh Định thứ hai (năm trăm năm mươi tám) thời vua Võ Đế (Trần Bá Tiên) nhà Trần, Sư lại trở về Dự Chương, lại đến các Quận Lâm Xuyên, Tấn An. Sư tuy truyền Kinh Luận, mà Đạo khuyết tình lìa, bổn ý chẳng bày. Lại quán xét căn cơ người địa phương, bèn muốn theo thuyền đến nước Lăng-già-tu. Kẻ tăng, người tục kính thành cầu thỉnh thệ nguyện muốn giữ Sư ở lại. Chẳng khỏi vật bàn, Sư bèn dừng ở tại Nam Việt, cùng cựu xỉ thời Tiền lương xét xem lại các bản dịch, trong đó như có văn chỉ sai trái, thảy đều dủa gọt nắn đúc thành khuôn, trước sau thông xuôi. Đến niên hiệu Thiên gia thứ tư (năm trăm sáu mươi ba) thời Vua Văn Đế (Trần Xuyến), các Sa-môn Tăng sùng, Pháp Chuẩn, Luật Sư Tăng Nhẫn v.v…trụ chùa Kiến Nguyên ở Dương Đô cùng dựng nghiệp nêu lãnh, khâm phục được nghe đọc Tân Văn. Nên khiến cho Viễn Phù, Giang Biểu cùng nương gần nhọc hỏi. Sư mừng vui vì các vị ấy đến, bèn phiên dịch Luận Nhiếp Đại Thừa, v.v…Sư lại theo thuyền đến quận Lương An. Lại sửa sang thuyền lớn muốn trở về Tây Vức. Đồ chúng đuổi tìm, lưu luyến nhau, Thái Thú Vương Phương trình bày tình cảnh của Đồ chúng, nên cố thỉnh mời. Sư lại thuận theo việc người, tạm dừng ở tại góc biển, dò xét người đi đường mà chỉnh trang buộc thúc, chưa nghó vững yên. Đến tháng chín niên hiệu thứ ba, phát xuất từ Quận Lương An, sư theo thuyền hướng về phía Tây, bị gió thổi bạt trở lại Quảng Châu. Trong tháng mười hai, sư lên bờ Nam Hải. Thứ Sử Âu Dương Mục Công Quy thỉnh Sư trụ tại chùa Chế Chỉ, thỉnh sư phiên dịch Tân Văn. Sư nhìn lại nghiệp duyên ấy, muốn trở về tây Vực mà không phương chỉ, bèn cùng Sa-môn Tuệ Khải v.v.. phiên dịch các Kinh Quảng Nghóa Sa-môn, Luận Duy Thức v.v… Sau đó, Mục Công qua đời, Thế tử Hột lại về làm Đàn Việt, khai mờ truyền kinh luận. Lúc đó, sư lại hứa khả, mà Thần nghó thấu suốt sâu xa, lượng chẳng thể bằng tình mà xét biết. Sư thường ở chỗ riêng, bốn mặt đều là nước ngân cách. Thế tử Hột đến đó, bởi thấy sóng gió dữ dội nên chưa dám xâm phạm vào. Ngài bèn trải đồ ngồi trên mặt nước, ngồi kiết già trên đó như đang ngồi trên thuyền, do sóng gió đẩy đưa đến bờ, thế rồi Sư bước lên cùng đối tiếp, mà đồ ngồi chẳng thấm ướt, lại y như thường mà trải ra. Có lúc Sư đặt lá sen trên nước rồi đi qua. Những điều thần dị như thế của sư nếu nêu bày đủ thì có rất nhiều. Đến tháng sáu niên hiệu Quang Thái thứ hai (năm trăm sáu mươi tám), Sư nhàm chán cuộc đời phù tạp, hình hài tệ bạc, chưa thể mang lý giúp thần sớm sinh về thắng nhưỡng. Sư bèn đến Bắc Sơn thuộc Nam Hải, sắp muốn xả bỏ thân mạng. Bấy giờ, ngài Trí Khải đang giảng Luận Câu-xá, nghe nói bèn vội đến, kẻ tăng người tục đua nhau tìm đến đông đúc khắp núi sông. Thứ Sử lại sai kẻ sứ dò xét phòng vệ, đích thân tự đến cúi đầu lễ bái dừng ở suốt ba ngày. Mới quanh co tình cảm, nhân đó đón rước sư về trụ chùa Vương Viên. Bấy giờ, các vị Sa môn Tăng Tông, Tuệ Khải v.v.. muốn thỉnh Sư trở về kiến nghiệp, gặp lúc Dương Liễn có danh dự lớn lao, sợ đoạt mất thời buổi vinh hạnh, mới tấu trình rằng: “Các bộ phiên dịch từ Lãnh Biểu, thường nói về Vô Trần Duy Thức, lời trái với trị thuật, có tệ hại cho Phong hóa của nước nhà. Chẳng thuộc Chư Hoa có thể lưu truyền hoang phục!” Vua Lâm hải Vương (Trần Bá Tông) chấp thuận. Nên Hải Nam Tân Văn có tạng lưư truyền ở đời. Đến niên hiệu Thái Kiến thứ nhất (năm trăm sáu mươi chín), Sư bị bệnh, chỉ một thời gian ngắn, ngài để lại Di quyết. Nghiêm Chánh gắng chỉ bày nhân quả, viết truyền nhiều trang. Bản văn ấy giao cho Đệ tử là Trí Hưu. Đến giờ ngọ ngày mười một tháng giêng Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi. Qua ngày hôm sau, triều đình cũng cử hành lễ trà-tỳ, xây tháp cúng dường. Tới ngày mười ba, các Sa-môn Tăng Tôn, pháp Chuẩn v.v.. mỗi vị tự mang kinh luận trở về Khuông Sơn. Từ lúc Sư (Chân Đế) đến Đông Hạ, tuy phiên dịch lưu thông rộng các kinh, nhưng riêng coi trọng Nhiếp Luận, nên thảo tìm giáo chỉ, xem suốt các bản dịch thì kia đây cùng giúp bày lẫn nhau. Nên tùy nơi mà phiên dịch truyền bá, đích thân sớ giải. Nương tâm dứt tướng, các sở giải sau đều do ngài Tăng Tông trình bày, đích thân cùng thầy lại về giải thích ý chỉ thêm bớt hoặc khác, nhưng Đại nghóa chẳng thiếu sót. Ngài Tăng Tông soạn riêng hành trạng của thầy (Chân Đế) lưu truyền rộng ở đời. Vả lại, dưới đời Lương, Sư (Chân Đế) gặp phải tang loạn, cảm hết liền trọn, bờ Đạo lắng giúp, lìa dòng hoằng hóa, tùy phương thực hành. Còn như Pho Bộ, hoặc lúc phân người phiên dịch riêng. Nay gồm tất cả trải qua hai thời Đại cùng thông số ấy. Nên bắt đầu từ cuối đời Vua Võ Đế (Tiêu Diễn –năm trăm năm mươi) thời Nam Lương và cuối cùng là đến lúc Vua Tuyên Đế (Trần Húc) đời Trần mới lên ngôi (năm trăm sáu mươi chín) tất cả chỉ có hai mươi ba năm. Sư đã dịch ra kinh luận ký truyện có đến sáu mươi bốn bộ hai trăm bảy mươi tám quyển. Tinh diệu nương gá, hoa sức hưng thạnh, hiển bày ở đời Tùy, đời Đường, thấy ở “Tào Tỳ Biệt Lịch” và “Đường Trinh Quán Nội Điển Lục”. Nay còn có các bản Phạm chưa phiên dịch đều viết trên lá cây Đa-la. Có tới hai trăm bốn mươi giáp. Nếu căn cứ theo trang giấy ở đời Trần đã phiên dịch thì trình bày hơn hai muôn quyển. Nay thấy dịch xong chỉ là văn bản của vài giáp mà thôi. Đều hiện còn tại hai chùa Chế Chỉ và Vương Viên ở Quảng Châu. Vậy đủ biết Pháp Bảo rộng lớn hẳn định tại Cảnh trời Trung Hoa. Thức lượng gồm lại, thật quy về ở Đông Hạ. Lấy gì làm sáng tỏ vấn đề đó? Hiện phiên dịch Tạng kinh giảm dưới ba ngàn quyển. Sinh thì phế bỏ, tập học hoàn toàn ít có. Lấy đó lường xét về tình thế có thể biết! Ban đầu, Sư (Chân Đế) truyền đạt Nhiếp Luận, các ngài Tăng Tông, Tư Khải quy tâm, đích thân bao gồm nguồn giáo, giải thích Nghóa Chỉ của đề, du tâm đã lâu, hoài bão mở rộng tương thừa. Sư lại đối mặt mở mang, tình lý đều kính phục. Một hôm, tiết trời đang lạnh rét, y phục chỉ đơn sơ, nhẫn chịu qua đêm, môn nhân đều đứng bên cạnh giường. Các ngài Tuệ Khải v.v..trong đêm lắng đứng phụng trì, thưa hỏi giây lâu, tình huyên động có lúc ngủ gục. Ngài Tuệ Khải kín dùng y chăn che phủ lên, Sư (Chân Đế) dần tỉnh biết, bèn kéo để xuống đất. Ngài tiết kiệm biết đủ đến như thế! Ngài Tuệ Khải lại vâng giữ như trước, càng dài lâu càng gần gũi. Một hôm khác, Sư bùi ngùi, hơi khí tức giận xông lên nơi miệng đến ba lần. Ngài Tuệ Khải hỏi về nguyên do. Sư đáp: “Ta thiết thực hành chánh pháp, thật lòng tham truyền, chỉ hận mở mang Phật pháp chẳng phải lúc, nên có trở ngại bổn ý từ trước đến!” Ngài Tuệ Khải nghe nói mà như nghẹn, giây lâu tiếng lời cùng lệ đồng tuôn phát. Ngài Tuệ Khải qùy gối mà thưa rằng: “ Đại pháp tuyệt trần, xa thông rộng lớn, chúng sinh chẳng cảm, đâu thể liền bị chôn vùi ư?” Sư đưa tay chỉ về hướng Tây Bắc, bảo rằng: “Ở phương ấy có một nước lớn, chẳng gần chẳng xa, sau khi ta qua đời sẽ thạnh hành mở mang ở đó, nhưng không thấy được sự hưng thạnh ấy, cho là đã dứt, liền xét sự xa cách, nay gồm phu dương Hữu Tông, người truyền cho là Thần dụng khác nhau, vọng sinh Dị chấp. Chỉ biết điều không biết, thức ấy không gì chẳng bùi ngùi!” Bấy giờ, có vương tử nước Ưu-Thiền-Ni thuộc Trung Thiên-trúc tên là Nguyệt-Bà-Thủ-Na, dời Trần dịch là “Cao Không”. Sư du hóa ở vùng Đông Ngụy, bình sinh Sư hiểu biết của Sư tỏ sáng, thể ngộ đến chỗ sâu mầu. Chuyên học kinh Phật, rất tinh thông nghóa lý, thấu hiểu Âm vận, lại khéo giỏi Phương ngôn. Sư dịch Kinh “Tăng-già-sất”, v.v.. gồm ba bộ bảy quyển. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Tượng (năm tăm ba mươi tám- năm trăm ba mươi chín) thời Bắc ngụy, ở Nghiệp thành, do quan Tư Đồ Công Tôn Đằng đưa ra, Sa-môn Tăng Phưởng ghi chép. Gặp lúc nhà Tề thay ngôi nhà Ngụy, khách phiên nước mặc tình, Sư cầu xin trở về quê cũ. Sự việc lưu truyền rộng thấy, Sư nương ở kim lăng mở mang đạo pháp, Đạo thanh vang xa. Vào niên hiệu Đại Thông (năm trăm ba mươi lăm-năm trăm bốn mươi sáu) dưới thời vua Võ Đế (Tiêu Diễn) thuộc Nam Lương. Sư từ giã đất Tề đi về phương Nam. Khi đến nước ấy thì bị lưu giữ lại. Nhân đó, Sư phiên dịch Kinh Đại Thừa Đảnh Vương, một bộ. Lại có sắc chiếu ban Sư trông coi tất cả các sứ mạng người ngoại quốc qua lại. Đến niên hiệu Thái Thánh thứ hai (năm trăm bốn mươi tám) thời Nam Lương, bỗng nhiên gặp được Sa- môn Cầu-na-bạt-đà, đời Trần dịch là Đức Hiền, người nước Vu-điền, mang bản Phạm Kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã, Sư (-Cao không) nhân đó cầu xin phát nguyện mở mang truyền bá lưu thông. Ngài Đức Hiền vui mừng tiết tháo cao nhã ấy bèn liền trao cho. Sư (Cao không) cầu thỉnh được bên giữ gìn cho là ít gặp được. song, gặp lúc Hầu Cảnh làm loạn, chưa rảnh mà phiên dịch mở mang truyền bá, Sư bèn mang đi khắp đông tây trì tụng cúng dường. Đến năm Aát Dậu (năm trăm sáu mươi lăm) thuộc niên hiệu Thiên Gia đời Trần, Sư bèn đến trụ chùa Hưng Nghiệp ở Giang Châu mà phiên dịch, và do sa-môn Trí Hân ghi chép thành Văn Kinh đời Trần, chỉ trải qua trong vòng sáu mươi ngày, Sư tra xét sơ lược đào luyện xem xét đều đủ. Thứ sử Giang Châu là Hoàng Pháp v.v….làm Đàn Việt, Tăng Chính Thích Tuệ Cung v.v..làm giám chưởng, có ghi chép đầy đủ ở lời bạt của kinh. Về sau, không biết Sư tịch ở đâu. Bấy giờ, lại có Sa-môn Tu-Bồ-Đề, đời Trần dịch là “Thiện Cát”. Ngài người nước Phù-nam, đến trụ chùa Chí Kính ở Dương Châu. Sư vì Trần Chúa mà phiên dịch kinh “Đại thừa Bảo Vân” tám quyển. So với bộ bảy quyển do ngài Mạn-đà-la phiên dịch vào đời Lương thì có sự tương đồng, chỉ sai khác chút ít. Đều thấy ghi chép ở “Tùy Đại Tam Bảo Lục”. Truyện Sa-môn Thích Pháp Thái ở Kim Lăng; thuộc Dương Độ, đời Trần. Thích Pháp Thái, không rõ Sư là người xứ nào, học đạt Thích Tông, dẫm vết Hoài Hải. Sư trụ nơi chùa lớn ở Dương Đô, cùng các Sa-môn Tuệ Khải, Tăng Tông, Pháp Nhẫn v.v.. đều là những bậc nổi tiếng đời Lương, đồng thời có Nghóa thanh cao xa, là bậc Tông tượng ở đương thời. Có Sa-môn Chân Đế, người xứ Thiên-trúc mang Đạo một mình vân du hoằng hóa phương xa đến tận Đông Bỉ, gặp phải Lỗ Quang xâm lấn, Sư bèn ở tạm tại lưu ly hơn mười năm, hoàn toàn không Trần dịch. Lúc sắp muốn trở về nước cũ, trên đường đến Lãnh Nam, vì Thứ Sử Quảng Châu là Âu Dương Quy cố lưu giữ. Nhân đó, Sư muốn truyền trao, phỏng hỏi khắp các Nghóa lữ, phỏng duyệt xem Tân Văn. Sư bèn cùng các ngài Tuệ Khải, Tăng Tông v.v..chẳng sợ khó khổ gian nguy, xa tìm Tam Tạng. Đến trụ chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu, ghi chép Văn Nghóa suốt hai mươi năm. Trước sau xuất ra hơn năm mươi bộ, và biên soạn Nghóa Ký, đều là những thứ ở Trung Quốc không có. Sư tuy không rành giáo chỉ, mà chỉ riêng chú trọng con đường thực hành, còn như những gì thuộc Luật Nghi và tánh đều không trái vượt. Ngài Chân Đế lại cùng Sư phiên dịch Luận Minh Liễu, giải thích luật gồm hai mươi hai đại nghóa, đồng thời sớ giải được năm quyển, viết khắc vào phía hữu của toà để vâng phụng hành trì. Đến niên hiệu Thái Kiến thứ ba (năm trăm bảy mươi mốt) đời Trần, Sư trở về Kiến Nghiệp, đều mang theo các kinh luận mới phiên dịch, bắt đầu khai mở Nghóa Chỉ, thật là khác thường ở đương thời! Trong các bộ ấy có Luận Nhiếp Đại Thừa, Câu-xá; Văn từ bao gồm dồi dào, lý nghóa sâu xa, nghó vượt thường tình, khéo được thú hướng. Nguyên trước kia Lương Võ Tông xem trọng Đại Luận, ưa thích cả Thành Thật, người học Thanh vọng, theo phong cách mà quy về. Đến thời Trần Võ sự ưa thích lại khác với tiền Triều, rộng lưu bố Đại phẩm rất dốc tín Tam Luận. Nên Sư tuy thường giảng nói mà kẻ tăng, người tục không thọ nhận, khiến nơi Pháp tòa dứt bặt tiếp nối không còn lắng nghe. Gặp lúc Sa-môn Tónh Tung ở Bành Thánh, lánh đất ở Kim Lăng, tiếng tăm học vấn trùm khắp riêng trội vượt cả ngàn trùng. Thật chánh lý ít có. Ngày thì đàm đạo thường giảng, đêm lại cầu thỉnh tân tông. Nhân đó dần dà mới trải qua sự thay đổi. Sư chấn phát huyền môn, thấu trọn Hoằng Chỉ, khơi tháo nghóa nghi, thường thấu tối huyền cực, đều tùy cơ mà y cứ diệu chỉ, giải vạch không sót. Sự việc có xuất ra ở truyện ngài Tónh Tung. Sự thưa hỏi sâu rộng với ngài Chân Đế, lưu truyền Đạo nghiệp cho ngài Tỉnh Tung. Kẻ biết được mình là ít có. Lời tương truyền đến đó, không biết về sau, Sư thị tịch ở đâu! Ngài Trí Khải. Ngài vốn họ Tào, trụ chùa Dương Đô. Ban đầu, Sư cùng các vị như Pháp Thái v.v.. trước sau dị phát, đồng đến Lãnh Biểu Kính cầu Ngài Chân Đế. Sư vốn chứa nhóm Đạo phong, từ lực ân giúp, bèn cùng phiên dịch Nhiếp Luận, tự thân nhận lãnh văn bản ấy, trong vòng bảy tháng làm văn sớ đều hoàn thành, tất cả gồm hai mươi lăm quyển. Sau, Sư lại cùng phiên dịch Luận Câu-xá, chỉ mười tháng là xong, Văn sớ tất cả có tám mươi ba quyển. Ngài Chân Đế bảo rằng: “Ta sớm gặp được ông, góp nhặt các kinh luận, tổng kết những bàn phiên dịch trước không nên để thiếu sót. Nay phiên dịch được hai bộ luận, văn từ nghóa lý đều hoàn bị. Ta không còn phải ân hận!” Sau, Sư thỉnh Ngài Chân Đế trở về chùa Hiển Minh ở Quảng Châu, tại trong bổn phòng, Sư thỉnh ngài Chân Đế giảng lại Luận Câu-xá, vừa mới được một biến. Đến niên hiệu Quang Thái (năm trăm sáu mươi bảy-năm trăm sáu mươi chín) đời Trần, có các Sa-môn Tăng Tông, Pháp Chuẩn, Tuệ Nhẫn v.v.. vượt núi tìm đến chỗ Ngài Chân Đế cầu học, vì chưa được nghe giảng Nhiếp Luận. Ngài Chân Đế lại giảng cho nghe, bắt đầu từ đầu tháng bốn đến ngày mồng tám tháng mười hai mới xong một biến. Qua năm sau, các ngài Tăng Tông v.v.. lại thỉnh Sư đến chùa Trí Tuệ giảng luận Câu-xá. Các bậc thành danh học só có hơn bảy mươi vị cùng đồng kính phục thưa hỏi: Sư giảng đến phẩm Nghiệp sở quyển chín, Văn còn chưa hết. Tới ngày hai mươi tháng tám, Sư bị bệnh, tự xét biết không thể chữa khỏi, bèn lấy giấy bút đề thơ rằng: “Ngàn thu vốn khó đủ Ba thời Lý dễ nghiêng Lửa đá không thường chiếu Ánh chớp chẳng sáng lâu. Di Văn không đầy tráp Từ Đó tối lại sinh, Đường suối mới tối nghẽn Hàng lạnh hướng mát trong Một mai theo Đường hết Chỉ còn tiếng thông đêm!” Đến đó, Sư để bút xuống, cùng các bậc Danh Đức nắm tay nói lời giã biệt, rồi ngồi thẳng an nhiên trầm tư mà thị tịch, thọ năm mươi mốt tuổi. Lúc đó là niên hiệu Quang Thái thứ hai vậy (năm trăm sáu mươi tám). An táng tại sườn núi phía Nam chùa Tây Âm. Phần văn luận còn lại, Ngài Chân Đế tiếp tục giảng thay. Đến phẩm Hoặc quyển ba, nhân đó bị trái dự, bèn phế bỏ Pháp sự. Năm sau, Triệu Xuân Tam tạng lại giáo hóa. Ngài Chân Đế có vị Đệ tử thọ giới Bồ-tát là Tào Tỳ tức con người chủ của Ngài Trí Khải, rất thông minh mà trầm lắng sâu xa, nhã có xa độ. Thưở nhỏ có dẫn đến Nam Trung, thọ học Nhiếp Luận, thưa hỏi các Bộ, đều có công đức. Vào niên hiệu Thái kiến thứ ba (năm trăm bảy mươi mốt), Tào Tỳ thỉnh Tăng Chánh Pháp Sư Minh Dũng. Chùa Kiến Hưng tiếp tục giảng Nhiếp Luận. Các bậc thành học Danh tăng có hơn năm mươi vị. Về già, Tào Tỳ về ở Giang Đô, tổng tập nghiệp trước, thường đến các chùa Bạch Tháp v.v.. giảng các bộ luận. Các bậc Nho só mão hài cùng mặc y phục đồng như các Hiền só, lên tòa bàn luận thường phát đến chỗ cực sâu. Học só tịch đoan đều là khách mới, Thiền Định, Tăng Nghiêm, Pháp Khản v.v…đều nhờ học đó. Bấy giờ, có Sa-môn Trí Phu trụ chùa Bình Đẳng ở Tuần Châu. Từ thưở nhỏ, Sư đã nghe hai vị Pháp Sư Đạo, và Duyên ở chùa Diên Tộ giảng Luận Thành Thật, và có sang chỗ pháp sư Pháp Minh ở đất bắc nghe giảng Luận Kim Cương Bát-nhã. Lại sang ở hai vị Danh Đức Hy và Kiên nghe giảng Bà-sa và Trung Luận, đều thấu suốt tinh vi, nghiên tầm khảo xét Tông Chỉ, hẳn được Bổn sư cho nghe, nói năng không lẫn lộn, nghóa lý thấu đạt rõ ràng, mới bắt đầu lìa bỏ. Những trường hợp khác y cứ theo đây. Đến lúc phiên dịch Nhiếp Luận, bèn vì thứ sử Quảng Châu, An nam tướng Quân Dương Sơn Công Quy thỉnh Sư an cư tại vườn nhà, nên không được chuyên trọ. Về sau, lúc phiên dịch Luận Câu-xá mới dự pháp tịch đó. Và lúc ngài Trí Khải giảng luận ấy, Sư cùng hai mươi vị Như Đạo Ni v.v.. đều cùng góp nhật văn sớ, ở tại Pháp Đường nghe thọ. Và đến lúc ngài Trí Khải thị tịch, ngài Chân Đế vỗ về an ủi bèn lại phòng của Ngài Pháp Chuẩn dẫn dắt Đạo Ni,… Trí Phu v.v.. tất cả thảy mười hai vị cùng truyền hương hỏa, khiến mở mang truyền bá hai Bộ Nhiếp luận và Luận Câu-xá, thệ nguyện không để dứt mất. Các vị đều cùng kính vâng ý chỉ không dám để rơi mất. sau sau khi Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế thị tịch, các Đạo bạn dần tan, cuối cùng sự tiếp nối bị thiếu sót. Đến niên hiệu Thái Kiến thứ chín (năm trăm bảy mươi bảy), Ngài Trí Phu tiếp tục mở mang truyền bá, rất nhiều liên loại đã đồng được nghe ở pháp tịch của ngài Chân Đế, mà chưa có được bậc cao minh. Tháng hai niên hiệu Thái Kiến thứ mười một (năm trăm bảy mươi chín) có Sa-môn Tuệ Khả là Đệ tử của Tam Tạng Pháp Sư Bạt-Ma-Lợi vốn ở tại Trung Nguyên, gặp lúc vua Võ Đế (Võ Văn Ung, năm trăm sáu mươi mốt-năm trăm sáu mươi chín ) thời Bắc Chu phá hủy Phật pháp, Sư bèn trốn lánh trở về đất Trần. Sau đó lại theo sứ Lưu Chương đến Nam Hải mà có được Luận Niết-bàn. Sư từng giảng kinh ấy, mừng vui lúc thấy được bản luận đó nên nghiên cứu tu tập để đáp ứng sự thỉnh cầu. Bèn vì chúng khai giảng, chỉ được phần tựa và phần chủng tánh; huyền nghóa của mười ba chương đầu. Sau, Sư trở lại núi Hạc Lãnh ở Dự Chương, theo hầu Pháp sư cơ, Sư lại tiếp tục giảng chương thứ ba, đầy đủ Thập Hải Thập Đạo. Ngài Tuệ Phả vì bị bệnh nên không đảm nhiệm việc truyền trao, bèn bảo Sư xuống thành đô tìm Thiền sư Hải Triều đang nghiên cứu với Luận Chủ. Đến niên hiệu Thái Kiến thứ mười bốn (năm trăm tám mươi hai), Sư đến Kiến Nghiệp tìm cầu mà không gặp, lại gặp được Thiền Sư Hiểu ở chùa Thê Huyền ban tặng cho Bộ Niết-bàn Sớ thích kinh. Hậu phần do ngài Đàm Lâm giảng giải. Văn và Luận ý đều chẳng đầy đủ. Sư bèn trở về chùa cũ, thường giảng Tân Văn, Huyền Nghóa của mười ba chương, gần hai mươi biến. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai (năm trăm năm mươi hai) đời Tùy, có Vương Trọng Tuyên khởi nghịch, thiêu đốt khắp châu cảnh và phòng chùa của Sư, các bản văn sớ đều cháy tiêu cả. Năm đó, lệnh cho sư lãnh nhậm việc chúng tăng ở Quảng Châu và Tuần Châu. suốt trong năm năm thiếu sót Pháp sự, sau nghỉ làm việc tăng, sư ở chùa Đạo tràng trong bổn châu, chỉ giảng Nhiếp luận, có hơn mười lần. Những bậc thấu đạt ngay nơi pháp tòa có đến hai lăm vị như các ngài, Cơ, Sơn, Khám v.v..đều kham lãnh tài giỏi. Đến niên hiệu Nhân thọ thứ nhất (sáu trăm lẻ một) đời Tùy, Sư bị bệnh mà thị tịch tại Bổn tự. Sư có soạn lịch trình phiên dịch của ngài Chân Đế, Đầu cuối chỉ định và Quyển Bộ thời tiết người đời rõ đầy đủ, rộng có thành lời tựa. Ngài Đạo Ni vốn ở tại Cửu Giang, tầm tông huấn chủ, hưng khởi giảng Nhiếp Luận, danh tiếng vang khắp chốn kinh đô. Niên hiệu Khai Hoàng thứ mười (năm trăm chín mươi) Vua Văn Đế (Dương Khiêm) đời Tùy ban sắc mời vào, sư liền vào cung, khai ngộ rộng nhiều. Từ đó ở Nam Trung không còn có Giảng chủ, tuy rằng do Ngài Trí Phu giảng thuyết, vì không chấp vậy.  TỤC CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 2 CHƯƠNG I - PHẦN 2: DỊCH KINH (Trong phần hai của Chương Một, Chánh truyện có bốn vị, phụ có tám vị) 1/- Truyện Sa-môn Na-Liên-Đề-Lê-Da-Xá người xứ Bắc Thiên Trúc, trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Tây Kinh, đời Tùy (Vạn Nhất Ý). 2/- Truyện Sa-môn Xà-Na-Quật-Đa người xứ Bắc Hiền đậu, trụ chùa Đại Hưng Thiện, ở Tây Kinh, đời Tùy (Tăng Tựu, Pháp Trí) 3/- Truyện Sa-môn Đạt-Ma-Cấp-Đa người xứ Nam Hiền Đậu, trụ Lạc Tân Thượng Lâm Viên Phiên Kinh Quán ở Đông Đô, đời Tùy (Hầu Quân Tố, Từ Đồng Khanh, Lưu Bằng, Bí Đồng Phòng). 4/- Truyện Sa-môn Ngạn Tông trụ Thượng Lâm Viên Phiên Kinh quán, ở Đông Đô, đời Tùy (Hạnh lự). 1/- Truyện Sa-môn Na-Liên-Đề-Lê –Da-Xá trụ chùa Đại Hưng Thiện, ở Tây Kinh, đời Tùy Na-Liên-Đề-Lê-Da-Xá, Hán dịch là “Tôn xưng”. Ngài người nước Ô trường thuộc Bắc Thiên trúc. Chánh âm phải nói là “Ô-trà”. Vì chư “Trà” là âm láy của “Trì-da”. Vua nước đó cùng họ với Phật, đó là giòng họ Thích-ca, thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi. Hán dịch là “Thổ Điền Chủ”. Bởi vào thời kiếp Sơ, Tiên tổ làm Phân Điền Chủ, nhân đó mà xưng hiệu như thế, nay gọi là “Quốc vương”. Năm mười bảy tuổi, Sư phát tâm xuất gia, tìm thẳng đến danh sư Cầu học chánh giáo. Năm hai mươi mốt tuổi, sư được thọ giới Cụ túc. Nghe các bậc Lão túc khen ngợi các di tích Phật Cảnh. Hoặc có người nói ở nước này có bình bát của Phật, ở nước kia có Pháp y của Phật. Có xương đảnh, xương răng v.v..lắm thứ thần biến chẳng phải một. Sư bèn khởi tâm nguyện muốn được chiêm lễ phụng thờ, vì mới thọ giới phải thông biết luật tướng, nên mãi đến lúc mãn năm hạ ngài mới bắt đầu du phương. Do đó các danh tích ở Thiên Thê Thạch Đài, các nơi chốn của tháp báu Long Miếu, các nước Quảng Châu, sư đều đích thân đến lễ bái kính cẩn không để sót nơi nào. Sư từng trụ ở tại chùa Trúc Viên suốt mười năm, thông rành các tăng phường, gặp được nhiều bậc minh đức. Có một Tôn giả nhận biết rất sâu sắc về căn cơ của mọi người, thấy vậy nên nói với Sư rằng: “Nếu tónh tu thì sẽ thành tựu quả Thánh. Sợ ông đi qua mà không thành tựu được gì. Thường ngày tuy được nghe mà thật tình không lãnh ngộ. Về sau từ bỏ ý tưởng, hối hận làm sao kịp?” Sư đã đi, phía Bắc đến khắp Tuyết Sơn, phía nam thấu cùng nước Sư Tử, trải qua xem khắp các Thánh tích, bèn trở về chốn cũ. Mới thấy được Quốc chúa nước Ô-trường thật là bậc Đại só, từ những nơi đã trông thấy thật ít có hạng người như thế. Ở đây thử nói sơ lược: Quốc Chúa trị dân để an dân, thương dân như người thân. Đến canh năm cuối đêm, trước tiên là kính lễ Tam Bảo, hương hoa kỹ nhạc dốc hết lòng thành mà cúng dường. Lúc mặt trời ló dạng, bèn lên điện mới xem xét muôn cơ, tiếp theo đến giờ thìn, dùng nước thơm tắm gội các tôn tượng. Ở trong cung thường thiết trai mỗi ngày cúng dường trăm vị tăng. Quốc chúa cùng phu nhân tự tay làm thức ăn. Sau khi thọ trai xong, tiêu thực thì tập các võ nghệ. Đến lúc mặt trời xế bóng thì viết mười hàng văn kinh, cùng chư tăng Cao Đức đồng bàn luận pháp nghóa. Lại cùng các quan bàn luận Chánh trị. Tới tối, vào trong Phật đường tự đốt đèn đuốc, lễ bái đọc tụng, thường có hằng điều, xong thời khóa mới trở về phòng vắng yên nghỉ. Hơn ba mươi năm công phu như thế không hề phế bỏ. Quốc chúa có trăm người con, thật ôm hoài hiếu hạnh để sống. Phong thái còn lại của họ Thích tiếp nối lưu ở lại nước ấy. Chỉ vì chùa sư ở tiếp cận nơi gò núi, bị lửa đồng hoang thiêu đốt, bèn cùng nhau đi khắp bốn phương xa. Có sáu người kết bạn, hành hóa đến phía Bắc núi Tuyết. Đến nơi đảnh núi cao, thấy có hai con đường của Người và qủy. Đường người hoang vắng nguy hiểm, đường qủy rỗng rang thuận tiện. Hành khách tâm mê mờ phần nhiều lần theo đường qủy. Tạm vào trong cảnh ấy, thì gặp phải sự giết hại. Xưa kia, có vị Thánh Vương đến nơi đầu đường, xây dựng tượng đá Thiên Vương Tỳ-sa-môn đưa tay chỉ đường cho Người. Có một vị tăng đồng bọn, mê lầm đi vào đường qủy, Ngài đã tỉnh biết, bèn trì tụng thần chú Quán Âm, đi được trăm bước thì đuổi theo kịp, Vị tăng ấy đã bị qủy hại, nhưng nhờ năng lực của thần chú mà nên thoát khỏi nguy ách ấy. Nhân đó trở lại đường trước, lại gặp phải giặc núi. Sư chuyên niệm thần chú trước, bèn được oai linh hộ vệ, giặc đến đối mặt tự nhiên không thấy. Theo đường phía đông chỉ đến nước Nhuế Nhuế, gặp phải nước Đột-quyết làm loạn. Con đường phía Tây chẳng thông, trở về chốn cũ thì ý bặt dứt, mới theo sự lưu chuyển, phía bắc đến bên cạnh Biển Bùn, phía Nam cách Đột-quyết hơn bảy ngàn dặm, xứ ấy chẳng an cho nên đến đất Tề! Vào niên hiệu Thiên Bảo thứ bảy (năm trăm năm mươi sáu), Sư đến Kinh Nghiệp, Vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương) thời Bắc Tề thấy sự khác lạ bèn kính lễ đặc biệt khác với bình thường. Sư lúc đó đã bốn mươi tuổi, cốt cách hùng nhã, mọi người nể sợ, do duyên như thế nên vua Văn Tuyên đế lễ ngộ rất tôn trọng, thỉnh Sư đến trụ trong chùa Thiên Bình, và thỉnh Sư phiên dịch Kinhluận. Tam Tạng thánh điển ở Nội Biện bằng bản phạm có đến hơn ngàn giáp, vua ban sắc đem vào chùa, tôn trí ở phòng trên, xây dựng đạo tràng, cung cấp cúng dường các thứ quý giá, riêng xây dựng nhà trù, nhà kho để nói lên sự tôn trọng. Nhà vua lại ban sắc cho hơn hai mươi vị như Chiêu Huyền Đại Thống Sa-môn Pháp Thượng v.v.. trông coi việc phiên dịch. Sa-môn Pháp Trí, cư só Vạn Thiên Ý đọc lời dịch, vạn Thiên ý vốn là Tiên tỳ, vốn là họ Vạn Só, thưở thiếu thời xuất gia với thầy Bà-la-môn, mà thông tuệ, có chí lực, giỏi về tiếng Phạm, công chú phù thuật, do đó nên tiếng tăm vang xa. Ban đầu phiên dịch các kinh hơn năm mươi quyển, phát khởi làm hưng thạnh chánh pháp, mở mang tâm đại chúng. Vua Văn Tuyên Đế kính trọng pháp rất khác thường, đích thân kính lễ bản Phạm, ngoái lại bảo với các quan rằng: “Đây mới là nền tảng lớn lao của Tam Bảo, nên ta phải kính trọng!” Nhà vua tôn kính, tin tưởng tha thiết đến như thế. Những lúc rãnh rỗi công việc phiên dịch, Sư trì tụng bày thần chú, thầm được hiển hiện giúp đỡ, lập công đức rất nhiều. Không bao lâu, Vua bèn trao cho Sư làm chức Chiêu Huyền Đô, không bao lâu chuyển làm Thống. Sư có được các bổng lộc, chẳng tự dùng riêng, thường khởi tâm làm các phước nghiệp, thiết cúng phạn tăng, bố thí cho mọi người nghèo khó. Những kẻ ở trong ngục tù trói buộc đều được cứu giúp. Ở chốn đô thị đông đúc, sự cho đào nhiều giếng, rồi đến tự thân lọc nước cung cấp cho chúng sinh. Lại ở Tây Sơn thuộc Quận Cấp, sư xây dựng ba ngôi chùa, men theo bên cạnh dòng suối, hang cốc chế tạo rất xinh đẹp. Sư lại thâu nhận nuôi dưỡng những người mắc phải dịch bịnh, nam nữ ở phòng riêng. Từ sự cung thừa, Sư lại chuyên việc chu cấp. Sư lại sang khách quán ở Đột-quyết khuyến hóa mọi người thọ trì mỗi tháng sáu ngày trai, Dương liệu phóng sinh, thọ hành ăn chay. Sư từng bị bệnh, suốt trăm ngày chẳng dậy nổi. Thiên Tử và Hoàng hậu đích thân đến thăm hỏi, Sư than rằng: “Tôi vốn là khách nước ngoài, đức hạnh không lớn lao, nay thọ nhận kiệu cán ban cho, vì trọng pháp cho nên như thế!” Bên trong Sư an ủi tự tâm, hổ thẹn sợ giao tập. Đến cuối niên hiệu Kiến Đức (năm trăm bảy mươi tám) thời bắc Chu, Vua Võ Đế(Vũ Văn Ung) chế phục nhà Tề, nên Phật giáo cùng với nước nhà đồng một lúc đều bình diệt. Sư bên ngoài giả mặc trang phục thế tục, bên trong vẫn lót ba y, lánh đất Đông Tây, chẳng nhàn rỗi yên nghỉ. Năm chúng tàn tác cùng quẩn, không chỗ nương thân, thiếu đói khắp cùng hang hóc, Sư bèn giảm bớt phần ăn cấp thí cho họ. Với những người già bịnh thì giúp đỡ sức cho, tùy duyên giúp ích. Tuy sức lực mỏi mòn mà chống cự cản ngăn, thực hành như thế với tất cả thần khí mạnh mẽ. Sư giảng nói dẫn dắt không hề mỏi mệt, gian nan gánh vác lưu nạn, trải qua bốn năm, mới được nhà Tùy lưu tâm, mà trùng hưng Tam Bảo. Đầu niên hiệu Khai Hoàng (năm trăm tám mươi mốt) kinh Phạm từ xa ứng lại, vua Văn Đế (Dương Khiêm) bèn ban thư ấn thỉnh mời Sư đến mở rộng việc phiên dịch. Tháng bảy niên hiệu Khai Hoàng thứ hai (năm trăm tám mươi hai) các Đệ tử như Đạo Mật v.v.. hầu đưa Sư vào kinh đô, trụ chùa Đại Hưng Thiện. Đến tháng mười hai năm đó, phát thảo bắt đầu phiên dịch. Vua ban sắc cho hơn ba mươi vị Chiêu Huyền thống Sa-môn Đàm Diên v.v…, cùng phiên dịch truyền bá. Chúa thượng lễ hỏi rất ân cần, cúng dường nồng hậu. Tuy tuổi tác già nua, mà sự tu hành càng tinh cần, từng y cứ Xá-lợi-phất Đà-la-ni, đầy đủ y cứ tu ng- hiệp, mộng được cảnh giới, tự thân thành Phật. Nhưng điềm ứng tốt lành như thế có rất nhiều chẳng phải một. Sau, Sư dời sang trụ chùa Quảng tế, làm Ngoại Quốc tăng chủ, Ngài luôn vỗ về yên ủi khách đến ở nhờ, khéo được tâm người. Bỗng một hôm, Sư bảo Đệ tử rằng: “Nay tôi tuổi già sức yếu, không lâu nữa sẽ qua đời. Và nay thấy rõ nên khuyên răn cùng qúy vị nên biết là Phật Pháp khó gặp nên siêng năng tu học, thân người khó được phải cẩn thận chớ để luống qua không!” Nói xong, Sư bèn gối nằm, an nhiên thị tịch. Lúc đó Sư đã trăm tuổi, nhằm ngày hai mươi chín tháng tám niên hiệu Khai Hoàng thứ chín (năm trăm tám mươi chín) Trước kia, Sư gặp người giỏi xem tướng bảo rằng: Sư sống chắc chắn đến trăm tuổi, cũng sẽ đăng tiên, trung thọ quả chung” lời đón ấy thật ứng nghiệm. Đăng tiên thầm hợp với lý còn khó lường biết, nhưng đầu mặt của Sư thật kỳ đặc khác thường. Đảnh nổi nhục kế cao như Vân Phong, mắt ngay ở giữa, trên dưới cân bằng. Tai cao mà dài, vòng rủ thành cụ, người có tướng sang trọng cũng không thể so sánh với Sư, nên thật là bậc thạc đức truyền pháp. Khi Sư đã viên tịch, buồn thương kinh động cả kẻ tăng, người tục. Sự nghiệp tiếp nối làm hưng thạnh Tam Bảo dần dần sa sút. Kinh luận do sư phiên dịch trước sau có đến mười lăm bộ, hơn chín mươi quyển. Trong đó như Bồ-tát hiện thật, Nhật Tạng, Nguyệt Tạng, Pháp Thắng, Tỳ-đàm v.v.. các sa-môn Tăng Thâm, Minh Phân, cấp sự Lý Đạo Bảo v.. ghi chép. Chiêu Huyền thống Sa-môn Đàm Diên, Chiêu Huyền Đô Sa-môn Đàm Tạng v.v.. hơn hai mươi vị giám hộ trước sau, đến mùa đông năm thứ năm. Kiểm xét đều rõ ràng, Sa-môn Ngạn Tông soạn các bài tựa, hiện thấy ở “Tề Chu Tùy tam đại Kinh lục”. Nhìn lại, Sư đi qua hơn bốn mươi năm, trải khắp hơn năm mươi nước, đường dài đến mười lăm muôn dặm, những cảnh trí tốt lành danh tích lành dị, chùa Cổ Cao Tăng, ngựa nước rừng sâu thần núi thú biển, không gì chẳng phụng kính và hiển dự chứng ban. Mọi việc đã rộng khắp, chưa rảnh để trình bày tường tận. Sa môn Ngạn Tông soạn bổn truyện nói về hành trạng của Sư lưu truyền ở đời. Bấy giờ, lại có Sa-môn Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, đời Tuỳ dịch là Diệt Hỷ. Bấy giờ, có Sa-môn người cùng nước là Na-Liên-Tỳ-Lê-Da-Xá, cách xa cả năm trăm do-tuần, đến xem xét sự hoằng hóa hưng thạnh. Niên hiệu khai Hoàng thứ hai (năm trăm tám mươi hai), Sư trụ chùa Đại Hưng Thiện, phiên dịch hai bộ Kinh Tượng Đầu Tinh Xá và Đại Thừa Tổng Trì. Cấp Sự Lý Đạo Bảo đọc lời dịch, Sa môn Pháp Toản ghi chép, Sa môn Ngạn Tông soạn lời tựa. 2/- Truyện Sa-môn Xà-Na-Quật-Đa trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Tây Kinh, đời Tùy. Xà-Na-Quật-Na, Hán dịch là Đức Chí. Sư ở Bắc Hiền Đậu. Hiền Đậu vốn âm là Nhân-Đà-La-Bà-Đà-Na, Hán dịch là Chủ xứ, tức là chỗ được Thiên Đế che chở. Âm Hiền Đậu là do nước ấy gọi lược sai lầm, Thân Độc Tây Vức là do ở xứ này lược gọi lầm, mà người nước ấy đều gọi chung là Hiền Đậu mà thôi, thành thử mới chia làm năm phương. Ngài người nước Kiền-Đà-La. Kiền-Đà-La, Hán dịch là nước Hương Hạnh, ở thành Phú-Lâu-sa-Phủ-La, Hán dịch là Cung Trượng Phu. Sư thuộc giai cấp Sát-Đế-lợi, giòng họ Kim Bộ, Hán dịch là Hạng, nghóa là như Cổ của chim Công, ở nước ấy lấy làm giòng họ quý tộc. Cha của Sư tên là Bạt-Xà-La-Bà-La, Hán dịch là Kim Cương Kiên, thưởng thiếu thời có khí lượng cao xa, lúc lớn lên thừa nghiệp. thanh Phạm. Ở địa vị Tể phụ tiếp lý Quốc chín, anh em sư gồm có năm vị, Sư là con út. Vốn đã gieo trồng gốc đức, sớm phát tâm Đạo, vừa đến tuổi bưới tóc, Sư bèn nguyện xuất gia. Cha mẹ xét biết khí đạt của Sư nên chẳng trái lời cầu xin. Tại nước đó có chùa Đại Lâm, Sư bèn tìm đến, nhân đó được độ thoát. Ô-Ba-Để-Ca, Hán dịch là Thường Cận thọ trì, nay gọi là Hoàn Thượng, đó là do sự gọi lược sai lầm của người nước Vu-điền, tên là Xà-Na-Da-Xá, Hán dịch là Thắng Danh, chuyên tu tónh tọa, khéo thấu cùng Định nghiệp. A-già-lê-da, Hán dịch là Truyền thọ, hoặc là Chánh Hạnh, tức A-xà-lê, đó cũng do gọi lược sai lầm của các nước gần, tên là A-Nhã-Na-Bạt-Đạt-La, Hán dịch là Trí Hiền, thông đạt ba học, riêng thấu suốt Luật tạng. Sau khi xuất gia, Sư khéo hiếu kính chuyên thành, dạy răn qua mấy năm, chỉ lối kết quy thông quán. Vì ở Hiền Đậu các Thánh Cảnh Linh tích hiện còn, nên Sư tiện theo Bổn sư mà được chiêm lễ khắp tất cả. Năm hai mươi bảy tuổi, Sư đã thọ giới cụ túc được ba hạ, thầy trò cùng nhau kết nguyện phát chí du phương mở mang đạo pháp, lúc khởi đầu có được mười vị là đồng bạn xuất cảnh. Trên đường đi, do từ nước Ca-Tý-Thi, lưu lại chừng một năm, quốc vương nước đó rất tôn kính cầu thỉnh Sư, tôn thời làm Pháp Chủ. Khi mọi việc ích lợi được chu toàn, Sư lại tiếp tục vân du, bèn vượt đi từ phía Tây chân núi Đại Tuyết, băng qua núi cao nguy hiểm đến nước Yểm-bát. Ban đầu mới đến dừng ở chốn hoang vắng ít người, mọi thứ cần dùng như ăn uống, không có người hộ trì, Sư bèn xả giới cụ túc; dốc hết sức lực lo việc cung cấp hầu hạ. Trải qua thời gian khó khổ, có được minh linh ủng hộ, may thoát khỏi tai hoạnh. Sư lại vượt qua Khát-La-Bàng-Đà đến các nước Vu- điền, v.v.. từng gặp mùa mưa hạ, tuyết đóng mùa Đông nên đành tạm thời dừng ở. Đã không hoằng hóa, diễn giải nên dừng ở chẳng lâu. Lại đến nước Thổ-cốc-hồn, bèn tới Thiệm Châu. Bấy giờ, đã là niên hiệu Đại Thống thứ nhất (năm trăm ba mươi lăm) đời Tây Ngụy. Tuy trải qua gian nan nguy hiểm, nhưng tâm Sư càng mạnh mẽ cố gắng. Bước chân trải khắp đến đây đã ba năm, trong mười người đã qua đời hơn một nửa, chỉ còn lại có bốn người tới đó. Đến khoảng niên hiệu Võ Thành (năm trăm năm mươi chín-năm trăm sáu mươi mốt) ban đầu mới đến Trường An, thầy trò du hóa đã vừa tâm nguyện, Sư bèn đăng tịnh đàm, thọ lại giới cụ túc, tinh thành theo Đạo còn hơn trước nay, lần tham dự đến chốn kinh đô, dần thông tiếng Hoa, bỗng nhiên, Sư theo thầy- tức ngài Thắng Danh được vua Minh Đế (Vũ Văn Dục- thời Tây Ngụy) ban sắc thỉnh vào hậu viên, cùng luận bàn đàm Phật Pháp, lễ cúng đặc biệt, sung vào trong các cấm cung. Nghó rằng muốn hoằng thông giáo pháp không do tự xiay chuyển. Vì vậy tình thật trình bày. Liền được sắc ban riêng, vì xây dựng chùa Tứ Thiên Vương, Sư bèn an trú tại đó. Từ đó về sau mới phiên dịch tân kinh, đã chẳng phải là Hoằng thái chỉ là sự ràng buộc mà thôi. Sư bèn căn cứ các bản khuyết sót trước kia mà truyền đạt Văn Phạm, tức như các Kinh Thập nhất diện Quán Âm, Kim Tiên vấn v.v… gặp Tiêu Vương Vũ Văn Kiệm trấn tại đất Thục lại thỉnh đồng hành, đến ở đó ba năm. Sư từng làm chức Tăng Chủ Ích Châu, trụ chùa Long Uyên, lại phiên dịch Kinh Quán Âm kệ phật ngữ. Đến niên hiệu Kiến Đức(năm trăm bảy mươi hai-năm trăm bảy mươi tám) thời Bắc Chu, là lúc thời vận đổ nát, tượng giáo chẳng được hoằng hóa, năm chúng xuất gia đồng một lúc bị hoàn phục. Vua Võ Đế (Võ Văn Ung) ban sắc truy tìm vào kinh đô, tăng trọng chức, tước bổng lộc, ép buộc theo Nho lễ. Sư giữ lấy tiết tháo cứng rắn chấp nhận lấy cái chết mà không tỏ vẻ lo sợ. Vua kính Sư ngài trở về. Trên bước đường đi, xuất phát từ Cam Châu thuộc phía Bắc đến Đột-quyết. Đại sư Xà-lê Trí Hiền trở về Tây vực mà thị tịch. Sư và Hoà-thượng Thắng Danh bị Đột-quyết lưu giữ lại. Không bao lâu thì Hoà-thượng Thắng danh viên tịch, Sư một mình lẽ bóng nương gá, chẳng biết chốn nào yên ổn. May nhờ Quân dân xứ bắc Địch rất muốn mở mang phước lợi. Nhân đó, Sư đến sang ngục ở, tùy phương tiện làm lợi ích chúng sinh. Có các sa-môn ở đất Tề như Bảo Xiêm, Đạo Thúy, Tăng Đàm v.v… tất cả mười vị. Trong niên hiệu Võ Bình thứ sáu (năm trăm bảy mươi lăm) cùng kết bạn đồng hành đến Tây vực tìm cầu kinh pháp, qua bảy năm sau, xong việc bèn trở về phương đông, thỉnh được các văn kinh bản Phạm tất cả hai trăm sáu mươi bộ, vừa về đến Đột-quyết, bỗng nhiên nhà Tề mất, nên bèn cùng ở lại nước ấy (Đột-quyết). Nhân cùng xứ giảng đạo gặp gỡ mừng vui, Sư mang theo tân kinh cầu thỉnh phiên dịch đặt tên, xem xét các mục lục cũ, chuyển đổi khéo léo, tiện lợi, có khác với người trước, không hề làm suông. Bèn đồng thệ nguyện đốt hương, cùng khế hợp truyền bá. Gặp lúc nhà Tùy tiếp nhận Phật pháp rất hưng thạnh, nên các ngài Bảo Xiêm, v.v.. mang kinh trước đến đó ứng vận. Vào cuối mùa Đông niên hiệu Khai Hoàng thứ nhất (năm trăm tám mươi mốt) đời Tùy, các ngài đến dừng ở tại Kinh Aáp, Vua Văn Đế (Dương Khiêm) ban sắc giao cho sở ti tìm thỉnh người phiên dịch. Qua tháng hai năm sau (năm trăm tám mươi hai) bèn đến truyền thuật. Trong mùa hạ, vua có ban Chiếu rằng: “Năm thứ đổi thay lớn, lo sợ dân chúng đều chết hết, vì thế ở chỗ đất tốt xấu, hạn chế mạng sống ngắn dài, mưu tìm cái mới bỏ cái xưa cũ, nên như nhà nông trông mong mùa Thu. Núi Đầu rồng, sông gò xinh đẹp, cây cỏ tốt tươi, nên dựng lập Đô Aáp, định nền tảng cao xa, nghiệp mãi bền vững vô cùng. Ở đó có thể đặt tên Thành là Đại Hưng, tên Điện là Đại Hưng, Cửa là Đại Hưng, Huyện là Đại Hưng. Vườn uyển ao hồ đều cùng đặt hiệu ấy. Xây dựng ngôi chùa đặt tên là chùa Đại Hưng. Ở trong chùa ấy truyền đạt Pháp bổn”. Bấy giờ, Sư đang ở tại Bắc Địch. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ năm (năm trăm tám mươi lăm) hơn ba mươi vị Sa-môn như ngài Đàm Diên v.v.. trụ tại chùa Đại Hưng Thiện, cùng nhau đang phiên dịch, Âm nghóa trái vượt, biết Sư đang ở tại đất Bắc, bèn tấu trình cầu thỉnh Sư đến. Vua Văn Đế bèn sắc ban riêng truy tìm cầu thỉnh, khi ấy Sư i đã trở về Tây vực, ở đó đến mười năm. Sư nghó suy sâu sắc gặp thời thế trong sáng lại gặp được Tam Bảo, bỗng được tìm hỏi từ phương xa đến, Sư mừng vui, phát nguyện cùng giao hảo, bèn cùng kẻ sứ đồng đến nước Tùy. Bây giờ, Vua Văn Đế tuần du đến Lạc Dương, ở đó kính phụng bái yết, vua rất mừng vui, thường ban tặng thăm hỏi. Chưa trở về kinh quyết, vua đã ban sắc mở bày phiên dịch. Các Bộ Kinh bản Phạm mới mang đến càng nhiều, hoặc là kinh, hoặc là sách, vừa Nội giáo vừa ngoại điển. Các sách được phiên dịch lưu truyền, phần lớn đền do Ngài làm chủ. Thêm về ngôn ngữ và nhận thức của ngài khác địa phương, chữ nghóa và hiểu biết khác nhau, nên được tuyên lưu trình bày tự vận hành, chẳng nhọc truyền đạt. Lý hợp nghóa môn, câu tròn từ thể, văn ý định sơ, chọn bản bèn thành, các vị làm việc ghi chép chẳng khổ nhọc sắc lực. Thử so với các bậc tiên đạt, thì cũng là tiếp nối. Bấy giờ, Sư đã thị tịch, vị chuyên trách đứng đầu công việc tại chùa Đại Hưng Thiện lại thỉnh Bà-la-môn Tăng-Đạt-Cấp-Đa, đồng thời ban sắc cho anh em Cư só Cao Thiên Nô và Cao Hòa Nhân v.v.. đồng truyền tiếng Phạm. Và đặc trách mười vị Đại Đức sa-môn Tăng Hưu, Pháp xán, Pháp Kinh, Tuệ Tạng, Hồng Tuân, Tuệ Viễn, Pháp Toản, Tăng Huy, Minh Mục, Đàm Thiên v.v.. trông coi việc phiên dịch, chọn lọc phân định Tông chỉ. Sa môn Minh Mục, Ngạn Tông lại đối chiếu bản Phạm dò xét sửa chữa Văn nghóa. Xưa kia, các đại tập do các ngài Chi-đàm, La-thập vv… phiên dịch ra, pho quyển phần nhiều lấy số ba mươi làm thành bộ. Và đến lúc Ngài Da-xá ở thời Cao Tề dịch ra Kinh Nguyệt Tạng mười hai quyền, tới đầu đời Tùy lại dịch ra Kinh Nhật Tạng, chia thành mười lăm quyển, tức là Đại Tập quảng bộ mà trước sau phiên dịch chia thành, cho nên rất Chi ly, pho bộ rộng lớn. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ sáu (năm trăm tám mươi sáu) có sa môn Tăng Tựu ở chùa Chiêu Đề, nhóm họp lại làm thành sáu mươi quyển. Ngài Tăng Tựu xuất gia từ thưở thiếu niên, chuyên Bảo Phường học. Tuy thêm hận Tuyên Đạo, Văn tướng chưa dung thông, bèn lê theo bao quát theo nhau, phụ vào Đại Bộ. Còn như ngôn từ ý chỉ thích đáng, chưa khéo tinh yếu cùng tận. May nhờ có Sa-môn Hồng Khánh ở chùa Đại Hưng Thiện, với kiến thức trình độ minh đạt về nước nhà trông coi việc biên chép tạng kinh, lại sửa đổi sự tập hợp của Ngài Tăng Tựu, đặt tên trước sau rất được hợp lý. Vả lại, nay hiện thấy phiên dịch các kinh có lắm phần dư thừa của Đại Tập, lược mà hợp lại có đến cả trăm quyển. Nếu căn cứ theo bản Phạm thì kinh ấy có đến mười muôn bài kệ. Và nếu căn cứ theo văn đời Tùy thì có thể đến ba trăm quyển. Sư đã từng mở mang truyền bá, về phía Đông nam nước Vu-điền cách hơn hai ngàn dặm, có nước Già-câu-ca, Vua nước ấy thuần tin kính trọng Đại thừa. Trong cung có ba bộ Kinh Ma-ha Bát-nhã, Đại Tập và Hoa Nghiêm. Đích thân nhà vua thọ trì và cất giữ chìa khóa, lúc đọc tụng trì mở lấy, đốt hương dâng hoa cúng dường, hoặc dùng các thứ bánh quả dẫn dụ các Tiểu vương, khiến họ biết kính trọng lễ bái. Ở phía đông nam nước ấy cách hơn hai mươi dặm có ngọn núi cao vót rất nguy hiểm. Ở đó lại có hang động sâu lắng, tôn trí các Bộ Kinh Hoa Nghiêm, Đại Tập, Phương Đẳng, Bảo Tích, Lăng-già, Phương Quảng, Xá-lợi- phất Hoa Tụ nhị Đà-la-ni, Đô-tát-la Tạng, Ma-ha Bát-nhã tám Bộ, Bát- nhã, kinh Đại Tập v.v.. gồm mười hai bộ, khoảng dưới mười muôn bài tụng. Theo phép nước tương truyền, phải phòng vệ gìn giữ. Lại có ba vị La-hán Nhập Diệt Định thiền định ở trong hang, thường mỗi nửa tháng, chư Tăng đến núi cạo tóc tắm gội cho ba vị đó. Đó là Nhân Pháp Trụ trì, là nơi nương tựa của chúng sinh. Sư có Đạo tánh thuần hậu, thần chí cương chánh, mến đức không nhàm chán, cầu pháp chẳng mỏi mệt, rộng nghe ba Tạng, nghiên cứu Chân tông xa vợi, học khắp năm minh, thông cả Thế luận, Kinh hành thành đạt thú hướng của đạo tràng, tổng trì thông lý của Thần chú. Thân mặc ba y, ngày ăn một bữa, giữ trọn bền bỉ, trải lòng nhân cứu giúp, dẫn dắt rộng rãi, chẳng cần phải khuyên thỉnh. Sư chuyên cần trì tụng kinh Phật, càng già càng khẩn thiết. Các bậc tài thức tiên xa xưa mà càng đến, Quan dân khâm phục kính trọng, kẻ tăng người tục tôn sùng. Tùy Tất Vương kính ngưỡng giới phạm, tôn thờ Sư làm thầy, vì nhiễm việc trần nên bị lưu đày đến Đông Việt. Lại ở Âu Mân, tiếng tăm đạo hạnh của Sư lan tràn, cứu giúp thân tâm làm lợi ích rộng lớn. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ hai mươi (sáu trăm) Sư tùy duyên thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi. Từ lúc ở Tây Vực đi đến Đông Hoa, Sư lần lượt phiên dịch Kinh điển tất cả ba mươi bảy bộ, một trăm bảy mươi sáu quyển, như các Kinh Phật Bản hạnh tập, Pháp cự oai Đức Hộ niệm, Hiền Hộ v.v.. đều rõ ràng bao gồm luyện trị, lý giáo viên thông, văn rõ nghóa kết, đều lưu hành ở đời, thấy trong Phí Trường Phòng Tam Bảo Lục”. Lại, đầu đời Tùy, Vua Cao Tổ (Văn Đế-Dương Khiêm) ban sắc cho Sư cùng Sa-Môn Nhã-Na-Kiệt-Da người Xứ Tây vức khai mở phủ Cao Cung. Cung tức Độ Đốc Thiên Nô Hóa nhân và Bà-la-môn, Tỳ-xá-đạt v.v.. ở nội sử nội tỉnh phiên dịch Phạm Cổ thư và Càn Văn. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai (năm trăm tám mươi hai) sách đã so sánh phiên dịch xong, tất cả hơn hai trăm quyển Tấu trình thỉnh đưa vào nội cung, thấy trong Đường Trinh Quán Nội Điển lục.” Bấy giờ, lại có Ưu-bà-tắc, người họ Cù-đàm, tên là Đạt-Ma-Bát- Nhã, Hán dịch là Pháp Trí. Cha của ông là Bát-Nhã-Lưu-Chi, có nói rõ ở các truyện khác. Ông vốn người Trung Thiên trúc, lưu lạc đến Đông Xuyên, cho nên ảnh hưởng bởi phong tục Trung Hoa, mà môn phong đời đời tương truyền tổ tập truyền dịch. Vào cuối thời Cao Tề, ông làm Chiêu Huyền Đô nước Tề lúc đã thanh bình, Phật giáo đồng bị xâm hủy, nhân đó từ tăng chức, ông chuyển sang làm tục quan. Lại trao cho Quận thú Dương Xuyên ở Dương Châu. Đến lúc nhà Tùy lên ngôi, các Kinh điển Phạm bản được thỉnh lại, có chiếu ban sắc thỉnh ông trở lại trông coi việc phiên dịch. Ông khéo giỏi phương ngôn, cầm bản tự truyền, chẳng nhọc xét ngữ. Ông phiên dịch các như Kinh Nghiệp Báo sai biệt, v.v.. Sa-môn Thích Trí Huyễn ở Thành Đô ghi chép văn từ, sửa tựa ngữ thể. Sa-môn Ngạn Tông ở chùa Nhật Nghiêm soạn lời tựa, thấy ở “Tùy Đại Kinh lục.” 3/- Truyện Sa-môn Đạt-Ma-Cấp-Đa. Đạt-Ma-Cấp-Đa, đời Tuỳ dịch là Pháp Mật. Ngài người nước La-la thuộc Nam Hiền Đậu, chủng tộc Sát-đế-lợi, giòng họ Tệ-la-già- la, Hán dịch là Hổ Thị. Trong gia đình có bốn anh em, sư là con trai trưởng. Cha mẹ ân rất mến thương không chấp thuận cho sư xuất gia, nhưng vì sư rất dốc lòng kính tín Pháp môn, chí nguyện thoát tục sâu xa. Nên năm mười ba tuổi, Sư đến thành Giới-Kiện-Noa-Cứu-Bát-Xà ở trung Hiền Đậu, Hán dịch là Nhó xuất, ở Cứu-mâu-địa, có nghóa là Hoa mầu vàng, nhân lấy vườn hoa mà đặt tên. Tăng-già-la-ma, Hán dịch là Chúng viên, xưa dịch là Tăng-già-lam, đó là lược sai lầm. Sư đến trong chùa đó cầu được xuất gia và đổi tên là Pháp Mật. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Ở đó có Uùc-Ba-Để-Da- Phật-đà-Cấp-Đa, Hán dịch là Giác Mật. Vị A-già-lê-dạ tên là Phấn- Noa-Đạt-Đa, Hán dịch là Đức Thí. Lại có một vị A-già-lê-da tên là Phổ Chiếu, thông hiểu kinh luận Đại Tiểu thừa, thường hay tụng đọc giảng nói, hành trì Pháp Tân-trà-dạ, nghóa là thực hành hạnh khất thực, xưa dịch là Phân Vệ. Nhập Đề-Da-Na, Hán dịch là Niệm Tu, xưa dịch là Thiền-Na-Thủ-Trì-Ha-Na, đều là sai lầm hạn hẹp. Thường nhập pháp Quán nầy lấy đó làm việc thường. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư trụ tại chùa ấy ba năm, theo thầy tham học. Các Pháp sở đắc của thầy, Sư đều thấu suốt. Sau, nhân Ngài Phổ Chiếu được Quốc Vương nước Tra-ca thỉnh mời, Sư bèn theo thầy (Phổ Chiếu) đến nước ấy, trụ ở đó một năm. Sau, ngài Phổ Chiếu về lại Bổn Quốc, Sư bèn lưu lại bốn năm, trú tại Ư- Đề-Bà-Tỷ-Hà-La, Hán dịch là Thiên Du. Thiên nghóa là Quốc Vương, Du nghóa là Tăng Xứ. chỗ đó do Vua ra lập nên gọi là Thiên Du. Xưa lấy Tự (chùa) để thay thế, còn Tự ở đây là Tên của Viên Thổ Công, có nghóa là Ty, là Đình. Lại còn gọi là Chiêu Đề, cũng là sai lầm. Người đời y cứ vào chữ mà hiểu cho rằng Chiêu là Chiêu Dẫn, Đề là đề huề, đều là nói theo tánh cách mông lung. Đó là tiếng Tây Vực, Chánh Âm là Chiêu-đấu-đề-xa, Hán dịch là Tứ Phương, nghóa là trụ xứ, nơi nương trú của Chúng tăng Tứ Phương. Từ đó Sư trải qua các nước Đại tiểu thừa Phật giáo, đến các chùa Tăng, tiếng tăm càng vang xa. Các thương nhân đi theo đường phương Bắc thường đến ở đó. Xa truyền về phía Đông thành có Nước Đại Chi- Na, Xưa gọi là Chân Đan, Chấn Đán, đều chẳng phải Âm đúng, không có nghóa để dịch, chỉ biết đó là tên chung của Thần Châu, ban đầu tuy truyền dịch mà chẳng minh tín lắm, chưa làm đựơc mục đích muốn đến, nhưng vì chí muốn du phương, tình không ràng buộc. Sư bèn đến nước Ca-tý-thí. Có sáu người cùng kết làm bạn trụ lại hai năm trong Quốc thành, đi khắp các Chùa, quán xét các điều học, tâm đi xa còn chưa yên ở. Ở nước đó là thế, gặp được phương bắc, khách thương lữ hành ở phía Bắc núi Tuyết đều đến cảnh ấy. Ở chỗ thương khách, sư lại nghe tại nước lớn Chi-na Tam bảo hưng thịnh, các vị Đồng bạn nhất tâm nhất ý đến đó, không chỉ đến xem xét phong hóa, mà muốn đến đó để làm lợi ích chúng sinh, truyền bá kinh pháp, bèn bắt đầu vượt từ phía tây chân núi Tuyết trải qua các nước Khư-la, nước Ba-Đà-Xoa-Noa, nước Đạt-Ma-Tất Tân-đa, trong các nước đó, đều chẳng dừng lại lâu, chỉ đủ để biết phong tục của các nước ấy và nghi thức tại các chùa. Sư lại đến nước Kiệt-La-Bàng-Đà dừng ở một năm, chưa khai dẫn nhiều, lại đi đến nước Sa-lặc, có một đồng bạn trở về lại bổn ấp, nên chỉ còn có ba người, và cũng dừng ở tại chùa Vua, tức là nơi do vua nước Sa-lặc xây dựng. Sư trải qua hai năm dừng ở, giảng dạy Luận Niệm Phá cho chư tăng ở đó nghe, có đến hai ngàn bài kệ. Ý chỉ tỏ rõ nhị bộ, phần nhiều là khai phá ngoại đạo, Sư lại giảng nói Luận Như Thật, cũng có đến hai ngàn bài kệ, về Văn lý mới chỉ là Pháp luận nghóa thế gian. Sư lại đến nước Quy-tư, cũng dừng ở tại chùa Vua, và trụ ở đó hai năm, giảng Thích luận trước cho Chư tăng ở đó nghe. Vua nước đó rất ưa thích Pháp Đại Thừa, có lắm điều khai ngộ. Tâm ý khai dẫn, sớm tối đều đến. Ngài buộc tâm muốn đến Đông hạ (Trung hoa) chẳng có chí niệm tạm dừng ở. Bèn thầm dẫn một vị tăng cùng đến nước Ô-kỳ, ở tại chùa A-lan-noa, giảng thông luận trước. lại trãi qua hai năm dần đến Cao Xương, làm du khách đi khắp các chùa, chư Tăng ở nước đó phần nhiều học tiếng Hán, tuy dừng ở hai năm, mà không nơi giảng dạy, Sư lại đến y Ngô, bèn dừng ở một năm. Gặp nạn, lánh đến đất Tây Nam, đường đi toàn là sạn sỏi, nước uống thiếu thốn. Đồng bạn cùng đoái hoài tánh mạng chẳng tiến tới, Sư bèn đem các kinh luận mang theo tạm để bên lề đường. Sư vượt núi tìm cầu được mà khổ nhục, tệ hại càng tăng thêm. Sư lại chuyên trì tụng thần chú Quán Thế Âm. Đêm đó, bỗng nhiên mưa rưới xuống, thân tâm đều thấm ướt, tươi vui. Sư bèn tìm lại đường cũ, ngoái nhìn bốn phía đều mịt mờ, mê lạc phương hướng, lần lữa tới lui, mới mặc tình cứ đi tới trước, bèn đến Châu Vu Qua. Mới biết quanh co y cứ theo đường phương Bắc. Sư từ xa kính mến nước lớn, trải qua nhiều năm. Những người bạn cùng chí hướng hoặc ở lại, hoặc đã qua đời, ngoái nhìn lại chỉ một mình một bóng, đi đến đất nước ưu việt (Trung Hoa) ấy. Lắng lời tư duy, buồn vui lẫn lộn, bỗng may được Thánh chỉ nhà vua mời vào kinh thành, an trí Sư dừng ở tại chùa nổi tiếng, cúng dường tiếp đãi nồng hậu. Lúc đó là tháng mười niên hiệu Khai Hoàng thứ mười (năm trăm chín mươi). Sư dừng ở chưa bao lâu, thì tiếng Trung Hoa đều đã biết rõ. Sư lại vâng sắc đến phiên dịch kinh, Sư dời sang chùa Đại Hưng Thiện, cầm bổn đối dịch, đáng chánh thật phiền. Sư tụng ra các luân Đại Tiểu thừa đều sâu xa quan trọng, đến lúc tuyên giải hoằng dương Diệu Chỉ sâu mầu, ở đó các bậc cựu học luôn để lại lắm điều nghi, nhưng sư lập thân với hạnh từ bi hỷ xả, thành tánh nhu hòa. Tâm chẳng vượt ngoài Đạo, hạnh ở trước lời, đất giới bằng mà tónh lắng, nước trí sâu mà trong ngần. Kinh suốt nguồn chữ, luận cùng lời ý. Lại thêm oai nghi dung mạo tuấn tú, tiết tháo chuyên cần cao mạnh. Âm hưởng tụng đọc tiếp nối sớm tối, lời pháp thấu suốt trong ngoài. Thêm nữa, tánh Sư khéo thích an nhiên, dứt tiệt tình chuyên, ít ham muốn, bặt mong cầu. Không mỏi mệt trong việc dạy người, có vượt xa hơn lợi mình thì không hề tỏ vẻ nghịch với phẩm tặc, tâm cẩn thận đối với loài nhỏ, bèn khiến những người chưa từng trông thấy mong mỏi phong hóa, những người đã từng tham yết thì khâm trọng kính phục. Tự Sư đứng đầu trong các người phiên dịch, chỉ còn việc truyền trao, tất cả việc đều xét lại, chuyên giữ lấy giềng mối. Vua Dương Đế định ngôi ở Đông Đô, kính trọng lớn lao nồng hậu. Đến lúc Phật Pháp càng thêm hưng thạnh, mới ban sắc đặt Phiên Kinh Quán trong vườn Thượng Lâm ở phía Nam bến Lạc Thủy, tìm cầu đề cử các bậc tài giỏi ở trong đó thường luôn truyền pháp. Vua liền ban chiếu thỉnh Sư cùng các vị học só cùng dự nhóm tập, cung cấp cúng dường bốn thứ cần dùng, vâng thừa theo thường độ. Đến nỗi khiến người phiên dịch chẳng rơi vào đầu mối, thành đơn giản không thay thế cho thời gian. Đến lúc giềng mối nhà Tùy có thể nói là ngoài thành lũy sụp đổ, mây khói chồng chất tạo dựng thành. Các kinh mới bản Phạm đồng một lúc quyết đoán. Sư chứa nhóm hiểu sâu, bên quyết trình bày, mở mang. Bắt đầu từ khoảng niên hiệu Khai Hoàng (năm trăm chín mươi) đến cuối niên hiệu Đại Nghiệp (sáu trăm mười bảy) tất cả là hai mươi tám năm, Sư phiên dịch Kinh luận gồm bảy bộ, tất cả ba mươi hai quyển, trong đó như là Khởi Thế Duyên sinh, Dược sư Bổn nguyện, luận Nhiếp Đại Thừa, Bồ-đề Tư lương v.v… đều là Văn nghóa lắng trong, Hoa chất hiển bày, thấy đầy đủ trong “Đường Trinh Quán nội Điển lục.” Đến niên hiệu Võ Đức thứ hai (sáu trăm mười chín) – thời Tiền Đường, Sư thị tịch tại Lạc Nhuế. Ban đầu, Sư dịch Kinh Phổ Lạc, gồm mười lăm quyển, chưa kịp xem xét lại, gặp lúc Ngụy Trịnh lưu lạc hoang phế, chẳng rảnh mà sữa chữa lại, nay Quyển bộ hiện còn tại kinh đô, phần nhiều nói rõ về các việc của như tám tướng v.v.. có sa môn Ngạn Tông thông hiểu Nội Ngoại, tiếng Hoa tiếng Phạm đều tinh rành, cùng tham dự truyền dịch, riêng vâng thừa dẫn dụ. Vì Sư vân du khắp các nước, trình bày mọi sự thấy nghe vượt quá truyện trước. Nhân đó soạn thuật “Đại Tùy Tây Quốc Truyện” một bộ, gồm mười chương, bổn truyện phân rõ: 1/ Vật của Phật 2/ Thời gian 3/ Chỗ ở 4/ Địa chính 5/ Học giáo 6/ Lễ nghi 7/ Ăn uống 8/ Trang phục 9/ Bảo Hóa 1 0/ Rộng nêu bày núi sông, Quốc ấp, người vật. Đó là một bộ sử tốt của Ngũ Thiên, cũng là Đồ Biểu rộng lớn của Tam Thánh. Nên trong “Hậu Hán Tây Vực Truyện” nói rằng: “Nói nhóm tụ của Linh thánh, chỗ trội sinh của Hiền ý”, chính là đó. Từ ngữ suốt cùng luân Tông, rộng như đã trình bày. Vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười ba (năm trăm chín mươi ba) tại Quảng Châu có vị Sa-môn hành trì Pháp Tháp sám, dùng Da làm hai cái thiếp, viết hai chữ: “Thiện” và “Aùc” và khiến bảo người ném chọn, nếu người được thiếp đề “Thiện” thì tốt. Lại thực hành Pháp tự đánh, cho đó đó là cách diệt tội, mà kẻ nam người nữ tập hợp, vọng vâng thừa mật hạnh, các cư só ở Thanh Châu tiếp hưởng đồng hành. Quan đi xem xét cho đó là yêu dị, nói rằng: “Pháp Tháp Sám là y cứ theo Kinh Chiêm Sát, Pháp sám hối tự phốc tự đánh là y cứ theo tinh thần Ngũ thể đầu địa như núi lớn sụp đổ nói trong các kinh”, khi đó, bèn tấu trình cùng triều đình, nhà vua bèn ban sắc cho quan Nội Sử thị Lang Lý nguyên Thảo đến chùa Đại Hưng Thiện hỏi các Đại đức. Các Sa-môn Pháp Kinh, Ngạn Tông v… đáp rằng: “Kinh Chiêm Sát thấy có hai quyển, đầu đề là do ngài Bồ-đề-ngạn phiên dịch từ tiếng Phạn, Văn thể dường như dịch ra trong thời gian gần đây. Trong các tạng kinh cũng có ghi chép mà truyền bá, song, tra xét lại các bản ghi lục đều không có Chánh Danh và người Phiên dịch cũng như thời gian, nơi chốn. Pháp Tháp sám so với các kinh có sự trái khác, do đó không thể y cứ mà hành trì. Nhà vua nhân đó ban sắc cấm tuyệt. Bấy giờ, có Tú Tài Nho Lâm Lang Hầu Bạch vâng sắc soạn tập “Tinh Dị Truyện” một bộ hai mươi quyển, phần nhiều nói về cảm ứng, ngay nơi sự rất hợp, mở mang giảng nói về Thích Môn. Bạch tự Quân Tố, vốn người ở Tướng Nghiệp, thông minh đối cơ, tổn sùng Đài Tỉnh. Nhà vua dùng sự học rộng trước kia để viện dẫn, Tân Vương Quán Quốc trình khí rốt cuộc là sự ở nhận biết đó. Lại có Tấn Phủ tế Tửu là Từ Đồng Khanh soạn “Thông mạng Luận” gồm hai quyển. Từ Đồng Khanh là người giỏi về văn học, suốt thấu giáo nghóa của Huyền nho v.v.. cũng thông rõ nhân quả ba đời, chỉ vì lời văn ẩn mật. Vì đối lại với các chỗ chưa được biện luận rõ ràng của các bậc Tiêu hiền, nên dẫn chánh văn trong các kinh Sử để hội thông vận mạng, kết quy về Nhân Quả. Ý là hiển phát Nho Tông, giúp cho Phật giáo tuyên dương, dẫn dắt quần phẩm đều theo một đường. Bởi vì Từ Đồng Khanh hiểu biết sâu rộng có chứng cứ, nên thấu suốt được sự tìm cầu sâu kín ấy. Lại có Phiên Kinh Học Só là Dương Lưu Bằng soạn bộ “Nội Ngoài Bàng Thông Tỷ Giảo Số Pháp” một quyển. Lưu Bằng học thông Huyền Tố, giỏi về số thuật, từng đem các sự phiên đạt của người đời trước so sánh với số pháp, nêu bày thường trái qua mọi sự bất đồng, nên diễn đạt đến cùng. Ngay trong lời tựa có nói lược rằng: “Đạo nghiệp ở đời có cạn có sâu, sự bẩm học của con người có thô sơ, có kín mật, nên tầm tính trù lượng mà dùng thì gồm cả Đại thuật, điều ấy chẳng thể suy nghó, thì đưa đến sự lầm hoặc Tam ngung. Nhưng số Pháp ở Đông Hạ (Trung Hoa) có sai khác về Tam Đẳng. Với sự trình bày của Tây thiên sao không có nêu bày của đầu mối khác, mà các bậc tiên đức phiên dịch các kinh, đều cho rằng “Đại Thiên” gọi là trăm ức. Và nói một do-tuần là bốn mươi dặm. Theo các sự tính toán đều không phù hợp. Trộm nghó rằng thời gian phiên dịch để truyền bá ở đây và kia có ý khác. Trong thời gian ngắn mà mắc lỗi nên pháp toán số trong các kinh, tham chiếu với ở Đông hạ, mỗi mỗi đều biến cải bàn thông với đối thuật, ngõ hầu phỏng theo sự lần lượt của phiên dịch, chấp thì lầm hoặc, đã tham chiếu kinh cáo, nên tức là trình bày. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười lăm (năm trăm chín mươi lăm) Vua Văn Đế (Dương Khiêm) ban Chiếu báo cùng Chư tăng phiên dịch kinh điển, soạn tập “Chúng kinh pháp thức”. Bấy giờ, có Sa-môn Ngạn Tông, v.v.. y cứ theo các Bộ ghi lục trước kết hợp mà thành một Bộ, gồm mười quyển, tấu trình đưa vào cung nội, thấy ở “Tùy Đại Phí thị Chư Lục”. Bấy giờ, lại có Phiên Kinh học só là Phí Trường Phòng, vốn tham dự trong chúng xuất gia, dưới thời Bắc Chu theo sự phế hoại mà hoàn tục. Phí Trường Phòng thông hiểu nhiệm mầu, tinh tường huyền lý. Trong sự nghiệp Phiên dịch ở thời gian thuộc niên hiệu Khai Hoàng (năm trăm tám mươi mốt-sáu trăm lẻ một) đời Tùy, ông tham dự sưu tầm mở mang, được ban sắc mời vào kinh đô, làm việc sửa chữa. Vì kinh lục nhiều đời bị thất lạc niên đại lẫn lộn, bèn soạn tập “Tam Bảo lục” gồm mười lăm quyền. Bắt đầu từ đầu thời vua Trang Vương nhà Chu. Trên ghi Giáp tý, dưới ghi niên hiệu, đều là mục lục về Bộ quyển các kinh đã phiên dịch qua các thời đại. Pho bộ riêng biệt trình bày từ đầu mối, rất nhiều điều mục, nhưng Ngọc sạn lẫn lộn, chân ngụy khó phân, hiện tại được lưu hành, thiếu sự phân biệt, ghi lục thành để trình tấu. Nhà vua ban sắc chiếu lưu truyền nơi sở tại, rất bao gồm phong phú. 4/- Truyện Sa-môn Thích Ngạn Tông. Thích Ngạn Tông, Sư họ Lý, người xứ Bá nhân thuộc Quận Triệu ở đời gọi hiệu là Y Quan, môn phong xứng đáng đứng đầu giòng tộc. Thưở thiếu thời, Sư thông minh tài giỏi dáng vẻ thanh tâm. Ban đầu, Sư đến chỗ Pháp sư Tăng Biên ở Tín Đô. Nhân đó thử bảo Sư tụng đọc kinh Tu-Đại-Noa gần bảy ngàn lời, chỉ trong một ngày đã xong. Sư lại tụng đọc Kinh phương Đẳng, chỉ trong vài ngày cũng hết. Ngài Tăng Biên lấy đó làm lạ. Đến năm mười tuổi, Sư mới được phép xuất gia, đổi tên là Đạo Giang. Bởi tiếng tăm mẫn tuệ của Sư tràn ngập như sự lai láng của sông biển. Sư nghe giảng Luận Thập Địa, vinh dự được lưu truyền phấn phát, khắp châu ấp đều suy tôn. Năm mười hai tuổi, ở tại núi Quyền Vụ Sư tụng kinh Pháp Hoa, sau đó không lâu tìm tòi nghiên cứu, bèn đến Nghiệp Hạ, trải qua các trường giảng, bèn trở về chùa cũ, giảng Kinh Vô lượng thọ. Bấy giờ, Thái Nguyên Vương Thiệu đang nhậm giữ, Triệu Quận Tá cư ngụ tại chùa, nhân nghe giảng mà kính ngưỡng. Các bạn Đạo Kính trọng càng tìm đến. Đầu niên hiệu Võ Bình (năm trăm bảy mươi) thời Bắc Tề, khi đó, Sư mới mười bốn tuổi, đi đến xứ Tấn Dương vừa giảng đạo, vừa nghe học. Bấy giờ, Đạo bày khắp Phần sóc, danh tiếng lan truyền cùng cả Đạo giáo, nho gia, Thượng thư Kính Trường Du cùng Triều Qúy lô Cư Đạo Nguyên Hành cung Hình thứ v.v.. đều đều là những bậc Kinh vọng Cao tề, khâm phục kính tập phong du, cùng nhau dựng lập trai đàn, giảng Luận Đại Trí Độ, đích thân gần gũi lãnh thọ bày tỏ dẫn dắt, ngợi khen là được điều chưa từng nghe. Và đến lúc Tề Hậu từ hướng Tây đến Tấn Dương, bèn thỉnh Sư vào điện Tuyên Đức giảng kinh Nhân Vương. Quốc thống Tăng Đô rất kính phụng vâng thừa, Thính chúng có đến hai trăm vị đều là những vị tài giỏi. Vua Ôn Cung (Cao Vu) đích thân đến nơi Pháp tịch, các hàng văn võ đều theo hầu. Hoàng Thái hậu cho đến lục cung, đồng đến trong Pháp hội. Nhà vua ban sắc cho Thị Trung Cao Nguyên Hải nâng đỡ Sư lên Pháp toà, tiếp hầu trên dưới, mà thần khí Sư tỏ vẻ mạnh mẽ tỏa sáng. Thật đáng ngợi khen ít có trên đời, Sư phân tích lý, khai mở thần đều vâng theo cảnh ngưỡng. Năm mười sáu tuổi, Sư thọ tang cha, từ đó nhàm chán tiếng tăm, trải khắp các Thiên chương, tất cả tử Sử thảy đều xem khắp. Hữu Bộc Xạ Dương Hưu Chi cùng lập lâm quán, các bậc Hiền giả giao tiếp thường quen với thành thật, tánh ưa thích điềm nhiên tónh lặng, thỉnh mời mới đến. Cho tới lúc mới thọ giới Cụ túc, đến buổi chiều ngày hôm sau, với Giới Bổn Cả muôn lời tụng thử đều xong. Từ đó, Sư chuyên học luật, rất khế hợp tâm Vua, bèn ban sắc mời Sư cùng dự vào Thông Đạo Quán học só. Lúc đó, Sư mới hai mươi mốt tuổi. Cùng với Vũ Văn Khởi v.. v đều là các Bậc Hiền ở triều đại Bắc Chu đem đại Dịch, Lão Trang thay giảng luận. Sư bên ngoài thì giả gá tục y, trong thì hành trì Pháp Phục, đổi tên là Ngạn Tông. Vua Võ Đế (vũ Văn Ung năm trăm sáu mươi mốt-năm trăm bảy mươi chín thời Bắc Chu) tự ban Đạo thư, hiệu là Vô thượng Bí yếu. Bấy giờ, thấm nhuần luân tông, đặc biệt được thâu thải. Đến lúc Vua Tuyên Đế (Vũ Văn Huân) lên ngôi (năm trăm bảy mươi chín) có thù đáp suốt nhiều ngày thâu đêm, trọn thời gian đàm luận, nhờ đó mà đượm nhuần chánh pháp, bấy giờ dần khoan dung mở rộng, lại có tâm mừng vui tưởng thưởng trao cho, các Quan Lễ Bộ v.v.. đều chẳng đến. Sư bèn cùng Triều só Vương Thiệu, Tân Đức, Nguyên Lục, Khai Minh, Đường Di v… tình đồng như cầm sắt, goi là Văn ngoại huyền hữu (bạn thân ngoài văn). Đến niên hiệu Đại Tượng thứ hai (năm trăm tám mươi) thời Bắc Chu, Tùy Văn (Dương Khiêm) làm tướng, Phật Pháp hơi có phần hưng thạnh, Sư bèn giảng nói Bát-nhã cho bậc Hiền giả nghe. Tháng Giêng năm Đại Định thứ nhất (năm trăm tám mươi mốt) các Sa-môn Đàm Diên v.v.. cùng đề cử tấu đạt, Sư mới được xuống tóc. Bấy giờ, Sư đã hai mươi lăm tuổi. Đến ngày mười ba tháng hai năm đó (năm trăm tám mươi mốt) Vua Văn Đế (Dương Khiêm) đời Tùy thay ngôi nhà Bắc Chu, đổi niên hiệu là Khai Hoàng. Sư liền đến tòa giảng, suốt bốn mùa tiếp tục. Kẻ tăng người tục ở Trường An đều nhóm tụ như mây bụi. Nhân đó liền thông hội lý Phật, Tà chánh thấm đượm, người tắm gội Đạo có đến hàng muôn. Sư lại cùng Lục Ngạn Sư, Tiết Đạo Hành, Lưu Thiệu Kinh, Tôn Vạn Thọ v.v… một đời Văn Tông, soạn “Nội Điển Văn Hội Tập”. Sư lại vì các sa-môn soạn “Xướng Đạo Pháp” đều sửa đổi Chánh Cựu Thể, một nửa phiền tạp và giản lược, tức bộ sách hiện tại lưu truyền học tập thực hành. Vào niên hiệu Khai Hoàng thứ ba (năm trăm tám mươi ba) Vua Văn Đế đến đạo tràng, thấy họa hình tượng Lão tử hóa Hồ, rất lấy làm quái lạ, bèn ban sắc nhóm họp các vị Sa-môn và đạo só cùng luận bàn về gốc gác. Vua lại ban sắc cho Triều Qúy Tô uy, Dương Tố, Hà Thỏa, Trương Tân, v.v.. các vị có tham dự huyền lý tính toán tấu trình rõ ràng. Bấy giờ, Sư đang làm việc tại toà giảng đó, thử nêu lên đại cương, chưa kịp đến ngày khảo xét thì các Đạo só tự trình bày sự dối trá. Sư đó ngài soạn “Biện giáo luận” nói rõ sự yêu dị luống dối của Đạo Giáo.Tất cả có hai mươi lăm điều, từ lý có dẫn chứng. Tể phụ khen thưởng. Năm đó, Từ Tây Vực có kinh điển thỉnh đến, Vua liền ban sắc phiên dịch, đã hợp với sinh nguyện, mừng đến Thái nhiên. Sư theo giá tuần du về hướng Đông, trở lại đường Tinh Bộ. Bấy giờ, Dương Đế (Dương Quảng) đang tại phiên nhậm Tổng Hà Bắc, vâng thừa phong hóa, thỉnh cầu tham yết mời vào Cao Đệ, cùng gần gũi luận bàn qua lại xứng thỏa hợp lòng.Vua bèn thỉnh Sư ở tại Nội Đường truyền giảng các kinh Kim Quang Minh, Thắng-man, Bát-nhã, v.v… Sư lại vâng phụng Biệt giáo, soạn “Tu văn sớ” khế hợp huyền chỉ, ý nhã xứng thủ. Vua lại thỉnh Sư đến trụ chùa Đại Hưng Quốc, từ đó về sau, với các thứ tân vịnh cựu thuật của vua thường bảo sư họa lại. Vua lại sai các bậc Hiền giả Tiêu Ý, Gia Cát Dónh v.v.. thay đổi đến tham vấn, luận bàn danh lý, Tông sư có chỗ kết quy. Đời Tùy, Tần Vương Tuấn ra trấn giữ Thái Nguyên, lại mong thỉnh mời Sư vào an cư tại Nội Đế, hỏi thăm ân cần, Sư ban đêm riêng mộng thấy một người thân mầu vàng cao đến ba trượng, tay cầm cái bát bằng pha-lê trao cho Sư và bảo rằng: “Trong bát này là Rượu”! Sư đang trong cơn mộng qùy gối mà thọ nhận và thưa rằng: “Được ban vật báu, chẳng phải là ân bình thường!” Chỉ vì Rượu giới luật vốn cấm, chưa dám uống ngay. Đến lúc thức giấc chẳng hề biết nguyên do. Về sau, nhà vua đích thân tạo tôn tượng vẽ hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, thiết trí tại Nội Để, cái bát mà tượng cầm đồng như Sư thấy trong mộng. Khi đó, sự thầm an ủi buồn vui lẫn lộn. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai (năm trăm chín mươi hai) Vua Văn Đế ban sắc mời Sư vào nội kinh, sau, Sư trông coi việc phiên dịch và thường ở tại chùa Đại Hưng Thiện, mọi sự cúng dường rất nồng hậu. Bấy giờ, Vua Văn Đế đang ở ngôi, rất dốc lòng mở mang Tam Bảo, mỗi lúc thiết lập đại trai hội đều bày sám hối. Nhà vua đích thân bưng đội lò hương. Còn Sư vì tuyên xướng dẫn dắt, sướng dẫn tình nước, khơi bày để nhà vua xem. Nhà vua liền đổi sắc mặt tónh lắng đoái hoài, mừng vui lòng tận, sâu lắng hết lòng thành. Sư có những ngôn từ thành thật cảm thấu đến như vậy. Lúc Dương Đế(Dương Quảng) đang là Tấn Vương, ở tại ao cong nơi kinh đô xây dựng đệ lâm, tạo chùa Nhật Nghiêm, ban lễ thỉnh Sư trụ ở đó. Do vậy, các hàng Triều Qúy hiền minh ngày một đông nhiều đến tham yết, bày hợp truyền chỉ, thường phát tín tâm. Nhưng chỗ qúy ở Đông hạ lấy văn tụng làm đầu, bậc thầy tiêu biểu ở Trung thiên lấy lấy âm Phạm làm gốc. Sư bèn chuyên tầm giáo điển, thường ngày tụng đọc đến muôn lời, nên các thứ kinh luận như Đại Phẩm, Pháp Hoa, Duy-ma, Lăng-già, nhiếp luận, Thập Địa, v.v.. đều truyền bá bằng sách Phạm để thọ trì đọc tụng. Mỗi ngày xem thuộc đến cùng mới thôi. Niên hiệu Nhâm Thọ thứ nhất (sáu trăm lẻ một) Vua Văn Đế (Dương Khiêm) ban sắc cho Sư thỉnh Xá-lợi đến Tinh Châu. Bấy giờ, Hán Vương kính tin, trong thành cai trị, cách nội xây chùa, bèn đặt tháp báu, nay chính là chùa Khai Nghóa. Lúc ban đầu Sư mới đến chỗ tháp, trải qua nhiều ngày mây móc tu tập mờ tối, đến lúc Hạ thần, đang lúc giữa ngọ, mây tan, mặt trời tỏa rạng, trời đất trong sáng, Sư bèn hạ xá- lợi xuống mà cất giấu. Lại cảm có mây lành suốt ngày rũ tỏa năm mầu. Đến cuối niên hiệu Nhân Thọ (sáu trăm lẻ năm) Vua lại ban sắc thỉnh xá-lợi đến Phục Châu tôn thờ trị chùa Phương Lạc, nay là chùa Long Cái. Vốn nền móng hoang phế hư hoại, được xây dựng từ đầu thời Nam Tề (bốn trăm chín mươi bảy). Đến thời Bắc Chu phá hủy đổ nát, chỉ còn lại nền đất, và chỗ thoáng mát rộng rãi, có thể thiết lập dựng xây linh tháp. Sư bảo người sửa phá, bỗng thấy trên đầu bị ngứa ngáy, nhân đó xem xét trong tóc, thì có được một Viên xá-lợi, hình như hạt gạo phát ra mầu sắc tươi sáng. Dùng hai cái búa để đập thử, cái trên cái dưới đều hư hoại mà viên xá-lợi chẳng tổn hại gì. Lại dùng cái chày để đánh thì mầu sắc viên xá-lợi càng rực rỡ hơn. Đào đất sâu đến bảy thước, lại có được viên gạch cất giấu, các hộp Đồng Bạc, bùn thơm rõ ràng, chỉ thấy nước trong đầy hộp. Dấu vết ở đáy dường như có xá-lợi, song tìm kiếm thì không thấy, mới biết là Xá-lợi có được từ trong tóc, bèn đựng đầy hộp Bạc. Sư lại tìm đá để làm hòm, tìm khắp nơi mà không có được, thì ở ranh giới huyện Cánh Lăng, cảm có được tảng đá, mài rửa đã xong, bèn biến thành ngọc, năm mầu sáng đẹp, trong ngoài chiếu suốt thấy rõ người bên cạnh. Lại ngay trong đá hiện ra các thứ sắc tượng. Bèn đem đá đến tháp. Lại cảm có con ngỗng bay đến chỗ hòm đá, tự nhiên quen thuần, tùy theo đá mà di ở, ban đầu không xa cách, tuy thấy đồng loại thì bay đi rồi trở lại, trước sau cả mười ngày thường ở chỗ kiệu, có người bắt đưa đến chỗ khác, nó bèn liền kêu gào bay liệng, vượt viện mà vào. Mãi đến lúc chôn cất xong, thì chỉ có mình nó giữ tháp nhiễu quanh mà thôi. Lại cảm nơi ao trước tháp có các loài Cá, Ba Ba đều ngẩng đầu lên khỏi nước, xoay mặt hướng Bắc trông ngóng về xá-lợi. Sư bèn vì các loài ấy mà giảng pháp suốt ngày mới ẩn mất. lại cảm cái giếng nước chỗ tháp, suốt mười lăm ngày tự nhiên nước tràn đầy. Sau khi chôn cất xong mới thôi. Ngày mồng tám tháng tư, mây bủa giăng đầy trên không, giữa trưa lúc sắp hạ, mây mới tan hết, chỉ còn lại một đốm tròn trên đỉnh tháp, hình như dù che, năm mầu xen lẫn chiếu soi như mặt trời đến lúc chôn cất Xá-lợi xong, mây ấy mới tan. Sư mừng vui cảm được điềm tốt lành ấy, bèn viết trạng văn mà tấu trình. Vua Văn Đế vui mừng ghi chép thành Văn lục, cất vào Bí Các. Niên hiệu Nhân Thọ thứ hai (sáu trăm lẻ hai) Vua Văn Đế ban sắc cho Sư soạn “Chúng Kinh mục lục”. Sư bèn phân làm năm thể lệ: Dịch một lần dịch lại, biệt sinh, nghi và ngụy. Tùy theo quyển bộ có thứ vị. Đời vua thạnh hành. Sau đó, Vua lại ban sắc cho Sư soạn Tây Vực Truyện, những điều mờ tối như thấy khắp trước mắt. Sư phân rành khác lạ sai lầm có nêu bày sâu, nên các bậc danh đạt ở kinh thành phần nhiều tìm đến nẻo chánh. Có vị sa-môn ở thành Vương-xá, từ xa đến yết kiến nhà vua. Sự việc sẽ nói ở truyện sau. Lúc sắp trở về Bổn Quốc, vị ấy xin thỉnh “Kinh Xá lợi Thụy Đồ” và “Quốc Gia tường thụy lục”. Vua Văn Đế lại ban sắc cho Sư phiên dịch các bản bằng tiếng Hoa thành tiếng Phạm, hợp thành mười quyển. Sư do học rộng, vốn là chỗ quan tâm, văn Chương cao vút nên khắp kinh thành đều suy chuộng. Và thấy Sư giảng Luận Đại trí Độ, Thích Luận, v.v.. đều vì soạn lời tựa dẫn. Sư lại soạn bộ “Sa-môn Danh Nghóa luận biệt Tập” năm quyển, từ lý đều trong sáng đơn giản, các sư hậu học đều khâm phục kính trọng. Vào niên hiệu Đại nghiệp thứ hai (sáu trăm lẻ sáu) tại Đông Đô mới sửa sang, Sư cùng các vị Sa-môn vào cung ra mắt vua, đặc biệt được mời vào Nội Cấm, bắt đầu trải qua nhiều đêm bàn luận cách thức sửa sang, chỉ bày Văn tụng, bởi vì Thời chủ thấy biết như thế, nhân đó liền ban sắc tại vườn Thượng lâm ở Lục Dương xây dựng Phiên Kinh Quán để Sư ở đó. Nhà vua cúng dường cung cấp mọi sự nồng hậu gấp bội quan phủ. Tại ấp Tân Bình Lâm có được kinh Phật tất cả năm trăm sáu mươi bốn giáp, gồm hơn một ngàn ba trăm năm mươi bộ, đều là sách Côn Lôn bằng lá cây Đa-lê. Nhà vua có ban sắc đưa vào viện phiên dịch, giao cho Sư xem đọc, và bảo Sư biên tập tựa đề mục lục để lần lượt phiên dịch. Sư bèn soạn tập làm thành năm quyển, chia ra bảy thể lệ, đó là: kinh, luật, tán, luân, phương, tự và tạp thư, dùng tiếng Hoa để phiên dịch, thành hơn hai ngàn hai trăm quyển. Vua Dương Đế lại ban sắc bảo Bùi Cự cùng với Sư chỉnh sửa “Toản Thiên Trúc Ký”, văn nghóa rõ ràng hợp điều xuyên suốt có nghi thức. Sư trước sau phiên dịch các kinh tất cả hai mươi ba bộ, một trăm quyển, soạn lời tựa, thuật bày mọi sự đều đủ ở đầu kinh. Sư vốn bị chứng bệnh lạnh, phát lî bất thường, nhân đó mà thị tịch tại phiên kinh quán, thọ năm mươi bốn tuổi. Lúc đó là ngày hai mươi bốn tháng bảy năm Đại Nghiệp thứ sáu (sáu trăm mười). Mọi người theo tục duyên, buồn thương kính viếng, đón rước về an táng tại đất Bá Nhân. Ban đầu lúc sáng sớm Đại liệm, Sư tuy hình thể suy yếu mà thần thức tỏ sáng, hỏi đệ tử rằng: “Đã đến giờ thọ trai chưa?” Đệ tử đáp: “Chưa!” Sư lại nằm nhắm mắt, như vậy đến mấy phen. Sư mới xoay mình ngẩng cổ hướng ra cửa nhìn trời, bảo rằng: “Giờ thọ trai đã đến, ta đi đây! “ Và bảo lấy nước rửa tay, đốt hương, thỉnh tượng Đức Di-lặc đến trước mặt, Sư chắp tay trông nhìn chăm chú, Sư mở mắt, nhắm mắt, qua ba bốn lượt, như vào thiền định hồi lâu mới tịch. Đệ tử dùng bông tơ đặt để thử mới biết là Sư đã tịch. Sư thần tuệ sớm thành, tỏa phát từ thưở tấm bé, vâng phụng kính tin trong trắng, tâm như thông bách. Bổn sư của Sư là Sa-môn Đạo Tối ở núi Ngũ Đài. Phong thái ngài Đạo Tối cũng cao vời trong sáng, nên chẳng rơi lạc vào môn phong. Hễ nơi Sư đến tu tập đều điềm nhiên tónh lặng. Tuy trải qua nhiều chướng vật ngang ngược mà Sư không hề mở lời đề cập đến, bị ức hiếp đạo tình theo tục, sắc lệnh phụ thuộc nơi văn quán, thường gặp phải Quang giá không hợp với tình. Từ đó, Sư bèn lập tiết tháo hư tông, buông tình chẳng so lường, duyên theo giảng tụng, ban đầu chưa nghỉ bỏ, Sư từng mộng thấy vào địa Ngục, thấy các khổ duyên, do xưng niệm danh hiệu các kinh Phật, mà được giải thoát, đưa lên trên sơn lâu, bỗng chốc lại xem qua các ngục, thấy đủ các vị Danh tăng đồng giảng giáo pháp, bị năm thứ khổ gia hình, nói đủ các thảm trạng. Sư lại giảng nói cho nghe Thập Thiện, Lâu sau mới tỉnh. Sau đó vài năm lại mộng thấy những việc trước, do xưng niệm danh hiệu chư Phật, Bồ-tát, lại mong được thả khỏi. Vua Cao Tổ nghe được các việc ấy, ban sắc cho Sư ghi lại lưu xuất ban tặng cho kẻ Tăng người tục, trọn để cảnh tỉnh ngăn ngừa. Từ đó, Sư chuyên tư duy về tội nghiệp chất chồng, lắng dứt việc người, bặt ý ngậm lời, hành trì pháp sám Phương Đẳng, cung cấp cho những người nghèo khổ bệnh tật. Về sau, Sư thường tụng kinh điển bằng tiếng Phạm, hơn bốn ngàn bài kệ gồm mười ba muôn lời, cứ bảy ngày một biến làm lệ thường. Sư từ lâu đã tham cứu sự truyền dịch, khéo thấu suốt tiếng Phạm, nhưng các Đại sư ở Trung Hoa đều là giòng phái “Dấu Chân Chim”. Đến khi dùng chữ âm để chú giải nghóa văn thì ít được chỗ phù hợp. Sư bèn soạn “Luận Biện Chánh” để sắp đặt thể thức của việc phiên dịch. Trong đó có từ nói rằng: “Di Thiên Thích Đạo An có nói phiên dịch tiếng Hồ (ngôn ngữ Ấn-độ) thành Tần ngữ (tiếng Trung Hoa thời nhà Tần). Có năm điều mất gốc và ba điểm chẳng dễ, đó là: Điều mất gốc thứ nhất là ngôn ngữ phải đảo ngược hoàn toàn để theo tiếng nhà Tần. Điều mất gốc thứ hai là kinh điển bằng tiếng Hồ Kính chuộng thật chất mà người Tần ưa khéo Văn hoa, lưu truyền các tâm, không văn thì chẳng hợp. Điều mất gốc thứ ba là kinh điển bằng tiếng Hồ uỷ tất, còn như thán vịnh đinh ninh lập đi lập lại hoặc ba hoặc bốn chẳng nệ sự rườm rà, mà nay lại cắt xén gạt bỏ. Điều mất gốc thứ tư là tiếng Hồ có nghóa thuyết, chánh tợ loạn từ, tìm xét về ngôn ngữ thì văn không lấy làm khác, hoặc một ngàn hoặc năm trăm mà nay đều cắt bỏ chẳng còn. Điều mất gốc thứ năm là sự do hợp thành, lại đề cập theo, trái vượt từ trước, đến sau mới nói mà đều trừ. Nhưng trí thì trải qua tâm ba đạt, úp mặt mà diễn bày. Thánh ắt nhân nơi thời, thời và tục có khác, và san lượt nhã cổ để hợp với thời nay. Đó là điều chẳng dễ thứ nhất. Người ngu kẻ trí cách nhau như trời vực, bậc Thánh bèn có giai vị, mới muốn đem những ngôn từ vi diệu trên cả ngàn năm lưu truyền khiến hợp hàng mạt tục dưới trăm vua. Đó là điều chẳng dễ thứ hai. Tôn giả A-nan tụng ra kinh pháp cách Phật diệt độ không bao lâu, tôn xưng ngài Đại Ca-diếp thống lãnh năm trăm vị đã chứng đắc sáu thần thông thay nhau xem xét ghi nhận. Nay cách xa cả ngàn năm, lấy ý gần mà lường xét các bậc A-la-hán kia mới tranh nhau như thế, người sinh tử đây bình bình như vậy, há khôngn hco rằng Pháp là mạnh ư? Đó là điều chẳng dễ thứ ba. Qua năm điểm mất gốc nơi kinh điển và ba điểm chẳng dễ ấy, mà phiên dịch tiếng Hồ thành tiếng Tần, há có thể chẳng cẩn trọng ư? Chánh đang vì chẳng liên quan ở ngôn ngữ khác nhau mà truyền bá khiến biết hội thông. Sao lại hiềm tật nơi được mất ư? Đó là chỗ chưa dám biết. Tôi thấy Pháp sư Đạo An, riêng mình bẩm thọ thần tuệ, nhấc cao Thiên tài, lãnh tụ các bậc tiên hiền, mở thông nơi hàng hậu học. Sửa kinh lục thì Pháp tạng vượt xa, mở mang chỉnh lý các oai nghi thì Tăng bảo càng hưng thạnh. Ở đời tôn xưng là Bồ-rát Ấn thủ há là luống dối ư? Thông rành mọi sự khó dễ của kinh điển tiếng Phạm, giải thích chỗ được mất của người dịch. Có thể được gọi là thấu suốt vào chỗ sâu mầu, hay cứu xét đến nơi sâu ẩn. Còn như thể chữ Thiên-trúc đều liệt vào Đàm thanh, tìm xét nhã luận cũng dường như Nhân minh, xưa gọi chung phương ấy là nước Hồ. Ngài Đạo An tuy biết xa, nhưng chưa biến đổi thành ngôn ngữ thường. Người xứ Hồ vốn là con cháu của tạp nhung. Phạm Chỉ là mầm móng của chân thánh. Gốc rễ đã khác nhau, lý không xen lẫn, nếu chẳng khéo am tường thì thường hòa theo. Thấy có dáng mạo người Hồ liền cho đó là Phạm chủng. Thật là người thuộc Phạm chủng thì bảo quàng là sắc tộc người Hồ, chẳng phân biệt được giả thật, thật đáng buồn thay! Nói là Phạm, tuy lầm lẫn so với người Hồ, còn khác biệt, sửa đổi thành Phạm học, biết chẳng phải là Hồ. Trộm cho rằng sự hưng thịnh của kinh điển Phật Giáo, xưa nay vốn ở Tây vực, khởi xướng việc phiên dịch kinh, phát xuất ở Đông kinh. Trải qua nhiều đời lưu chuyển mở mang, mãi đến ngày nay không hề bị trụy lạc. Từ lâu, cho là dòng biến chuyển hơi nghi là thiếu sót. Dao động đua tranh nhiễu sóng ít khi hồi tỉnh, bàn về cố sự ấy, lỗi ở người xưa. Còn như thuận theo năm dục, tin là khó bỏ, thường hành ba y, khổ hạnh tiết chế, nhất định chẳng dễ nhẫn. Cắt đứt tình ái của Di thể (mẹ cha) đó là cửa cốt yếu để vào Đạo, xả bỏ tình thân của Thiên tánh, ấy là việc thường của hạnh xuất gia. Thế tục có thể trái lại bỗng nhiên đã trái lại. Phạm có lý đáng học, vì sao chẳng học? Lại nữa, mở sáng cho người mới học, cần phải đơn giản, đồng như tiếng chim oanh vũ, phỏng bước của Hàm Đan. Kinh doanh một chữ, dốc sức rất nhiều, trải qua nhiều năm, Đạo ấy mới rộng, mới có thể bao trùm trời đất lồng lộng xưa nay. Nghiệp tợ núi đồi, Văn loại như biển sâu. Khuôn phép của bậc Đại thánh xưa kia, lược được chương bổn, biết chung thể thức, nếu nghiên cứu có công phu thì sự nhận hiểu không ngưng trệ. So với phương này, thì cố nhiên chẳng phải khó, khó mà còn phải cầu huống gì là dễ. Hoặc vì trong chấp nhân ngã, ngoài thẹn thưa hỏi, uổng khiến bí thuật, rộng cách thần châu, lắng lời suy nghó đó, thương xót mà rơi lệ, xưa kia khiến ngài Trúc-pháp-lan trở về Đất Hán, Ngài Khương Tăng hội đến xứ Ngô, đồng bạn của Chu Só Thành đến Phật Niệm, cuối cùng của ngài Trí Nghiêm Bảo Vân, mới bỏ y phục thế tục, tìm dạy chữ Phạm cũng thấm đượm Tăng số, trước giở xem kinh điển lá bối, cho nên chánh ngữ của Ngũ Thiên lưu bố khắp Diêm-phù, ba lần chuyển vận diệu âm đều đưa đến Chấn Đán (Trung Hoa) người người cùng hiểu. Xét về công khó của phiên dịch, đời đời đều sáng tỏ, xé tan lỗi của lưới nghi. Từ đó, Thiệt căn thườngthanh tịnh, gương tâm càng trong sáng. Nương gá đó mà nghe nghó, mãi mãi là chủng tánh. Điều thuật lại của ngài Đạo An là mở lớn Huyền môn. Ở đó, những điểm quanh co nhỏ bé, các hoặc chưa hết, còn phải cậy vào chánh văn hỗ trợ làm sáng tỏ, Di thức, thô sơ mở bày yếu lệ thì có mười điều chữ thanh đó là: 1/ cú vận. 2/ Hỏi đáp. 3/ ø Danh nghóa. 4/ Kinh luận. 5/ Ca tụng. 6/ Chú công. 7/ Phẩm đề 8/ chuyên nghiệp. 9/ Dị Bổn. 1 0/ Mỗi tự sơ lược về tướng trạng, văn rộng như trong luận. Ngài Đạo An lại nói người trước truyền ra các kinh như ngài Chi- lâu-ca-sấm, ngài An Thế Cao, xét được bản kinh bằng tiếng Hồ, khó có người tiếp nối, ngài La-xoa-chi-việt; là người khéo đục đẽo, trộm nghó vì được bổn mở chất, khéo đục đẽo là do ở Văn. Xưa dùng làm đục đẽo, nay chắc chắn chẳng dò xét, nắm lấy sự rảnh rỗi của Quan, thử lại luận bàn. Các bậc tiên giác tiền Hiền Cao danh tham thánh, tuệ giải sâu phát, công nghiệp mở rộng, khai phát đường Huyền, sớm vào cửa không, rõ chẳng rỗng bày, nghóa nên nhã hợp. Chỉ vì Phật giáo ban đầu lúc mới truyền bá, phương âm ít hiểu, do đó, việc phiên dịch ấy bèn sợ khó sáng tỏ. Chẳng phế bỏ hàng Hậu sinh đã tiếp nối các bậc tiền triết. Sách bằng tiếng Phạm dần dần truyền bá, Chân Tông có phần diễn bày. Sự tuyên dương lưu xuất ấy, trộm nghó có thể gọi là rõ ràng. Nhờ lời ấy mà liền giải nghóa văn dịch khi xưa, đời Hán giả sử giữ lấy Bổn còn dám xa bàn nghó, đời Ngụy tuy xưa cũ còn muốn dự ghi thảo luận, hoặc rườm rà, hoặc đơn giản, lý hàm dung chứa còn chưa thích hợp. Lúc quê mùa lúc văn hoa nêu bày thật bất định. Vào đời Tấn, đời Tống chuộng sự luận bàn, bày nói tranh điều trần thuật, ở đời Tần, đời Lương trọng ở Văn tài, không theo thực chất. Chẳng phải không có bốn, năm vị Cao Đức biên tập đó lấy làm Đạo, tám, chín Đại Kinh ghi lục đó lấy làm chánh. Từ đó trở về sau đắp đổi nhau cùng làm theo. Sách xưa thành Pháp, có thể là hiến chương, xoay vần đồng thấy, nhân theo cùng biên chép, bất luận phải quấy, ai suốt cùng đầu cuối. Tăng man chỉ là vật đối diện, mới làm ra Hoa man. An Thiền vốn là tên của chắp tay, xếp bày làm thiền định. Các loại như thế hẳn cũng lắm nhiều. ngài Lưu-chi ở nơi Lục ấp, nghóa ít thêm mới. Ngài Chân Đế đời Trần nơi có lắm sự trang sức khác lạ. Nếu khiến các bậc Phạm Sư riêng đoán định thì lời huyền ít sửa đổi. Có người nắm bút cùng tham dự sửa chữa thì những ngôn từ khác sẽ xen lẫn vào. Ý là thà quý ở chất phác mà gần với lý, chẳng dùng sự khéo giỏi mà trái với cội nguồn. Nếu như chỉ thấy thuần chất, xin chớ ghét rườm rà. Ngày xưa, kính ngưỡng đối diện Tôn nhan đức Từ Phụ, trông nhìn còn chẳng đồng nhất, e gần gũi thừa hưởng dòng sữa pháp mầu, nghe nhận còn khác nhau. Tranh luận khởi nên mê mờ. Được thọ ký Niết -bàn, Bộ đảng khởi chấp. Chấp trước phép của Văn-thù, tuy nghóa hai bên nhưng Phật cũng hứa khả. Mà Đạo của hai cõi, Tỳ-khưu chưa được đến cùng, song lâm sớm ẩn, nhất vị mới tổn. ngàn vị Thánh đồng chí nguyện suốt chín tuần (03 tháng) cùng kết tập. Những điều tạp toái tìm sai lầm vốn răn dạy loài Thủy Hộc. Sai lầm chút ít với kinh xưa. Một vị Thánh vừa mới mất, Pháp môn liền giảm. Ngàn năm đã xa, tâm người thành ngụy. Đã thiếu nghe của nước lụt, lại ít nói của dòng thác, muốn cầu thầm hiểu đâu có thể được? Vả lại, Nho học Cổ Văn biến đổi còn xằng bậy, người đời nay nói truyền còn sai lầm. Huống gì Phàm Thánh khác bực, đông tây cách xứ. Khó lại càng khó, luận bàn chẳng thể hết. Phải ân cần ba lần nghiêm xét, chớ vội vã ở một lời. Xét năm thì lợi có dư, tính ngày thì công chẳng đủ. Mở sáng tỏ mà lưu bố khuôn phép, chong đuốt đêm dài mà thành việc thường chuyên. Sự nghiệp tuyên dương phiên dịch chưa thể thêm. Kinh chẳng dễ dàng, lý nhờ ở Danh hiền, thường nghó Phẩm vị tiết tháo trọn thẹn với nước gương, muốn gồm lấy, phải có đủ tám điểm: 1/ thành tâm kính mến Pháp, chí nguyện làm lợi ích cho người chẳng sợ trải qua thời gian lâu dài. 2/ sắp bước chân lên trường giác ngộ, trước hết phải gông cùm buộc chân, chẳng nhiễm sự cơ hiềm xấu ác. 3/ Giải thích thông hiểu nghóa Tam Tạng thấu suốt hai thừa, chẳng khổ mịt mờ u trệ. 4/ Trải qua các Phần Sử, khéo nối Điển từ, chẳng quá đần độn vụng về. 5/ có tâm bình đẳng dung thứ, khí lượng rỗng rang bao dung, chẳng thích chuyên chấp. 6/ đắm nơi Đạo thuật, tẻ nhạt với lợi danh, chẳng muốn cao huyễn. 7/ Phải biết tiếng Phạm mới dịch đúng được, chẳng rơi vào cái học ấy. 8/ Rộng xem thương nhã, am tường lối chữ lệ chữ triện, chẳng mờ tối ở văn ấy. Người đầy đủ tám điểm ấy mới là người được, Ba nghiệp chắc chắn lâu dài, phong hóa chẳng dứt. Nếu lại tinh chuyên nghiên cứu mười bước đáng thấy cỏ thơm, khéo léo thâu nhặt một để dùng lúc gặp được gỗ tốt. Tuy xưa khó trù tính, ngõ hầu ở tương lai có thể tiếp nối. Cầu Pháp chưa gẫy có gì phải nói, những người của Diên Khải chẳng trở lại lớn mạnh nơi Ngụy thất, các vị của Hộ Hiển đâu chỉ hưng thạnh ở đời Tấn? Có người nói rằng: Một lời xa nói, cả bốn loài đều tự hiểu, rải khắp tâm Đại từ đều mong nhờ xa tỏ ngộ. Còn như mở nguồn Bạch Mã thì nói theo Lạc Dương, phát lời tựa xích ô, thì lời tùy ở kiến nghiệp. Không nên gượng dời âm vận ấy mới phù hợp cực chỉ, phải khéo mở đọc, mới cứu xét huyền Tông, gặp bổn thì nương vào chân làm dốc tin. Xét thường không đổi, ở đời gọi là kính thuật. Thật tại nơi tâm chẳng liên quan Biện, hẳn khiến còn Phạm, há là thông phương? Đáp rằng: Bàn luận mà chẳng kinh nương tựa, xấu hổ sự biết rộng, học hành mà không bè bạn, thối lui thẹn vì ít nghe. Chỉ cần chùy quan chưa bao gồm đất rộng, lý dứt bặt Danh tướng, càng khó xuyên tạc. Xưa kia, dưới Viên Âm, thần lực thầm che chở. Khoảng nơi mãn tự, lợi căn chóng khế hội. nhưng nay, đất khác với Vương Xá, người khác miệng vàng, tức khiến cho khéo hiểu, nhất định biết khó hiểu. Kinh âm như viên nhã, có tâm ứng hợp. Thưởng thức thẳng vào Phạm Văn, đâu đợi gì lời dịch, vốn còn thiếu viên, dịch há là thuần thật. Đều chẳng phải viên thật, chẳng có xa gần. Vốn cố giữ âm dịch, nghi biến đổi ý. Một bề hay giữ mười điểm nêu bày có thể rõ. Duyên nơi tình mà phán nghóa, thật là chỗ chưa dám. Như Hiếu thỉ hiếu chung an nhà trị nước đủ nêu cao Chí Đức, có thể mở mang yếu Đạo, huống gì là khuyên phát tâm Tịnh Danh, quy hướng Diệu giác của Thiện Sinh, đâu nhờ xuống tóc cạo râu, khổ trái sự răn dạy ở thế tục, mang y bưng bát, vội sửa đổi nghi thức thế gian, ngồi nhận tăng hiệu, rõ cho đó là Lý. Xa học Phạm Chương thì thà dung túng phi pháp, tôn sùng Phật làm chính, cốt yếu thảo luận cội nguồn của chữ Phật. Tiếp nối giòng họ Thích làm chính, xấu hổ tìm con đường của chữ Thích. Không trông thấy kinh nghiệp thì chẳng khởi kính ngưỡng, bỗng thấy Phạm Tăng, bèn sinh tâm xem thường, bỏ gốc tìm ngọn, thật đúng chê cười! Tượng vận sắp cùng, pháp ấy hiện tiếp tục, dùng đó để tiếp nối thật đáng buồn thay! Ơû đây Văn rườm rà chẳng ghi chép. Ngài Ngạn Tông kính chuộng tông, y cứ nghiên cứu sâu nguồn giáo, nên các loại chương, sao, sớ, ký, không ai có thể sánh kịp. Sư soạn sách luận chẳng trình bày khô khan, sọan luận Phước Điền, luận Tăng quan, luận Từ Bi, luận Mặc ngữ, Quỷ thần lục, luận thông cực, luận Biện Thánh, luận Thông học, Thiện Tri Thức lục v.v.. đều ban từ rộng thấy, tinh lý đều hiển bày. Mới đầu, Sư soạn luận “Thông Cực” là phá các thuật thế gian và các nhà Nho không tin Nhân quả, chấp chặt nơi giáo tích, khéo sinh dị đoan. Điểm chính của luận ấy là lấy lý phật làm cùng cực. Nói “Biện Thánh” là nói về giáo nghóa nhà Phật, tuyên dương Khổng giáo, mở mang thế tục, bàn luận về giáo điển của Lão tử chẳng khác tục Nho, như các Kinh Linh Bảo chẳng thuộc về Nho giáo. Nói là “Thông Học” tức khuyên dần khắp cùng các hàng Nho só bắt chước Khổng Tử, Thích Tử, khiến cho biết nội ngoại, đầy đủ sự nhận thức về Chân, về tục. Nói là “Thiện Tri Thức” là nhân duyên lớn lên Thánh vượt phàm, nếu chẳng nhờ bạn lành thì chẳng có người nào đạt được. Trong các môn nhân của Sư có Hạnh Củ, là con của anh Sư, chẳng lập hạnh ký lưu truyền ở đời. Ngài Hạnh Củ ở thưở thiếu thời theo học với Ngài Ngạn Tông, thưa hỏi dạy răn kinh điển. Hai nhà dịch ở Đông Tây đều tham dự, vì tánh rất giỏi Văn Hàn, xem thông các sách. Sớm bị Tả Bộc Xạ Phòng Huyền Lính biết được nên rất kính lễ nồng hậu. Khoảng đầu niên hiệu Trinh Quán (sáu trăm hai mươi bảy) đời Tiền Đường, tấu trình lên Vua Thái Tông ban sắc mời đến. Khi đã đến kinh thất, Sư sắp xếp việc phiên dịch truyền bá, nhưng bị bệnh nên thị tịch, không diễn giải được, các hàng Hương tộc buồn thương tiếp rước linh cữu. Các kinh do Sư phiên dịch ở Triệu Châu, hiện còn đủ ở các bộ lục khác. <篇> TỤC CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 3 CHƯƠNG I - PHẦN 3: DỊCH KINH. (Chánh truyện có ba vị). 1/ Truyện Sa-môn Bà-phả, người xứ Trung Thiên-trúc, trụ chùa Thắng Quang ở Kinh Đô thời Tiền Đường. 2/ Truyện Sa-môn Thích Tuệ Trách trụ chùa Thanh Thiền ở Kinh Đô. 3/ Sa-môn Thích Tuệ Tịnh trụ chùa Kỷ Quốc ở Kinh Đô. 1/ Sa-môn Bà-phả, người xứ Trung Thiên Trúc, trụ chùa Thắng Qung ở Kinh Đô, thời tiền Đường. Ba-La-Phả-Ca-La-Mật-Đa-La, đời Đường dịch là Tác Minh Tri Thức, thuyết khác nói Bà-phả, Hán dịch là Quang Trí. Sư người xứ Trung Thiên-trúc, vốn chủng tộc sát-lợi vương, giòng họ Sát-lợi Đế. Năm mười tuổi, Sư xuất gia, theo thầy học tập, tụng Kinh Nhất Lạc-xoa Đại thừa, kinh có đến mười muôn bài kệ. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư bèn học Luật tạng, hiểu rộng giềng mối giới luật, tâm ưa thích thiền định, nên Sư lại theo Đại sư Thắng Đức tu tập Định Nghiệp. Sư tu tập chẳng xả bỏ, suồt trong hai mươi năm. Sau cùng, Sư đi về phương nam, đến chùa Na-lan-đà ở nước Ma-già-đà, gặp lúc Luận sư Giới Hiền đang truyền bá thạnh hành “Luận Thập Thất Địa”, nhân đó, Sư đến nghe học. Vì trong luận ấy có nêu cả Tiểu giáo, lại đọc tụng các Luận như: Nhất lạc xoa Tiểu thừa. Sư có sự nhận biết thông minh, khí tiết cao sâu, thông suốt Nội ngoại, nghiêm tinh Đại tiểu. Các bậc Giáo thọ truyền đăng cũng như đồng bạn suy tôn Sư tiếp nối giáo hóa môn nhân. Bát-nhã nhân Đà-la-bạt-ma, v.v.. Học Công dựng xét thấu đạt giềng mối nghóa lý, nay hiện thống lãnh đồ chúng tại Bổn Quốc giúp hoằng hóa, được các bậc vương thần ở đó khâm phục kính trọng, chỉ vì hàng Thích tử xuất gia chẳng vướng mắc tại một phương. Cứ sáu tháng có một lần đời đổi, tùy duyên chẳng cố định. Thừa lúc Bắc Địch tham tàn hung hãn, chưa biết được nghóa phương. Pháp tịch đông người, định sắp hoằng hóa, Sư bèn cùng gần mười vị kẻ tăng người tục lần lượt đi đến phương Bắc, tới nha sở của Tây Diện. Khả Hãn Diệp hộ, dùng giáo pháp mà khuyên dạy, chưa được mười ngày mà đặc biệt được. Nhung chúa rất tin phục. Mỗi ngày sai hai mươi người lo liệu sớm tối, kính cầu phụng dâng. Các vị tăng tục đồng bạn đều được đãi ngộ kính qúy, sinh phước thêm cung kính, mỗi ngày gấp bội hơn trước. Niên hiệu Võ Đức thứ chín (sáu trăm hai mươi sáu) Cao Bình Vương ra làm sứ Phiên, do đó gặp gỡ ngài. Cảm kính phong hóa ấy, sắp đặt việc trở về phương Đông mà vua quan Diệp hộ lưu luyến chẳng ưng thuận. Cao Bình Vương bèn tấu trình. Nhà vua ban sắc, Sư bèn cùng Cao Bình Vương đồng đến yết kiến vua. Tháng mười hai năm đó, Sư đến kinh đô, vua Cao Tổ (Lý Uyên) ban sắc Sư trụ chùa hưng Thiện. Các bậc tài giỏi thông đạt trong Thích môn không ai chẳng tìm đến. Từ xưa, giáo điển truyền bá Từ Chỉ, có những chỗ chưa ví dụ, đều giao phó tông tự, Sư bèn vạch chỉ sự Đồng Dị, Nội chấp ngoại chấp rõ ràng như chỉ tay trong lòng bàn tay. Bày hỏi cùng thù đáp, Sư phân tích giải nghóa không đuối lý, mới dâng thẻ tấu trình, mong dẫn vào nội kiến, Sư đích thân truyền trao Pháp lý, không lầm lẫn đối dương. Vua ban tặng Sư bốn mươi xấp lụa mầu, và một y nạp mới nơi cung cấm. Sắp đặt thêm năm vị tăng lo liệu cung cấp. Lại thường hỏi han an ủi, Sư phải nhọc tiếp đáp khác thường. Đến tháng ba niên hiệu Trinh Quán thứ ba (sáu trăm hai mươi chín) Vua Thái Tông (Lý Thế Dân) cho rằng các pháp hữu vi đều chẳng thật vui, xem lại lời chân thật cần yếu không gì hơn kinh sách nhà Phật, và điểm cùng cực của việc lưu thông chẳng gì trên sự phiên dịch và truyền bá, bèn ban chiếu cho các ty sở tìm tòi suy cử các bậc thạc đức, đầy đủ kinh luận Tam giáo, có được 19 vị, cùng đến chùa Đại Hưng Thiện, mở bày truyền dịch. Trong đó, các Sa-môn Tuệ Thừa v.v.. lo việc chứng ng- hóa, sa-môn Huyền mô, v.v.. lo việc dịch ngữ. Sa-môn Tuệ Trách, Tuệ, Tịnh, Tuệ Minh, Pháp Lâm v.v.. lo việc sửa Văn. Vua lại ban sắc cho Thượng-Trụ-Quốc-Thượng-Thư-Tả-Bộc-Xạ-Phòng-Huyền-Lónh, Tán- Kî-Thường-thị-Thái-Tử-Chiêm-Sự-Đổ-Chánh luân tham dự hỗ trợ xét định, Quan-lục-Đại-Phu-Thái-Phủ-Phanh Tiêu Cảnh, trông coi xem xét tổng quát. Cả trăm ty sở dâng cúng bốn thứ cần dùng nồng hậu. Ban đầu, dịch Kinh Bảo Tinh, sau dời đến chùa Thắng Quang, lại dịch luận Bát-nhã Đăng, Luận Đại Trang Nghiêm, tất cả được ba Bộ; ba mươi lăm quyển. Đến mùa Đông niên hiệu Trinh Quán thứ sáu (sáu trăm ba mươi hai) xét duyệt tất cả và biên chép hoàn tất. Các sở ty đọc rõ mới dâng tấu trình. Nhà vua ban sắc mỗi thứ viết thành mười Bộ, lưu truyền trong nước. Và vua ban tặng Sư trăm thứ vật dụng, ngoài ra, các vị tăng cùng vâng thừa phiên dịch có khác là bó lụa. Vua lại ban sắc Thái tử Thứ tư là Lý Bách Dược soạn lời tựa. Đầy đủ như ở đầu luận. Với chí nguyện truyền pháp của Sư, tâm tình hoài vọng như tơ, nhưng các bậc Thạnh Đức ở đương thời chỉ biết lo riêng cho chính mình. Có người cho rằng: “Bà-phả kiêu hãnh rong ruổi còn sau. Nên nhóm họp các vị danh đạt, phế bỏ giảng dạy kinh luận. Việc đó nay chưa phải lúc hoằng truyền lưu thông.” Có Sa-môn Linh Khuê là người trội vượt khác thường, khéo thấu suốt cơ hội, đối đáp hỗ trợ khiến đầy đủ sự lý rằng Ngài (Bà Phả) từ xa đến Đông hạ (Trung Hoa) tình trái với lợi danh, chỉ muốn làm cho Đạo Pháp lưu truyền đến ngàn năm, tiếng tăm vang dội suốt thời thượng cổ. Xưa kia dưới hai triều đại Phù Kiên, và Diêu Tần, các bậc Học só phiên dịch kinh điển có đến ba ngàn vị, nay đây, dưới thời Đại Đường, người phiên dịch kinh chẳng quá số hai mươi vị! Ý là mong các bậc minh Đức đồng chứng biết, phải tin chẳng phải nói suông, đời sau rõ ràng phụng vâng chẳng nghi ở ngày nay. Các bậc thức giả cùng bàn luận thêm cũng đồng, sau đó chẳng thạnh hành! Bấy giờ, Thái tử bị bệnh, các nơi cứu chữa đều không hiệu quả. Vua ban sắc đón rước Sư vào nội cung. chỉ hơn trăm ngày, gần gủi hỏi han, Thái tử vâng thừa đối đáp không thiếu ý chỉ của vua, khi Thái tử bệnh đã dần đỡ, Sư bèn từ giã trở về bổn tự. Nhà vua ban tặng ngài lụa nhiễu v.v… sáu mươi xấp và mười bộ y phục. Sư thệ nguyện hoằng truyền giáo hóa, chẳng sợ nguy nan. Từ xa đến thông lãnh lưu hà, qua lại Chấn Đán, đường đi dài hơn bốn muôn dặm, tự thân mang theo kinh điển bằng tiếng Phạm, với hoài vọng đều phiên dịch hết, bất luận Anh ngạn có rơi lạc lời tơ. Vốn chỉ nguyện cao vợi, nhã hoài chẳng thể gièm chê. Nhân bị mắc bệnh, Sư tự biết không thể cứu khỏi bèn phân tán các thứ y phục, vật dụng đến các bạn tu Tịnh nghiệp, rồi đoan nhiên an tọa quán tưởng Di biểu thi thân của Phật. Nhà vua ban sắc đặc biệt chấp thuận. Sau đó, Sư thị tịch tại chùa Thắng Quang, thọ sáu mươi chín tuổi. Thái tử Đông Cung ban lệnh chu cấp hai mươi người đón rước nhục thân Sư về núi. Sau khi trà-tỳ xung, sa-môn Huyền mô thâu nhặt Di thể Sư, xây tháp tại chùa Thắng Quang, ở phía Đông tháp ngài Tuệ Thừa. Lúc đó là ngày mồng sáu tháng bốn niên hiệu Trinh quán thứ bảy (sáu trăm ba mươi ba). Những người có sự nhận biết đồng than rằng “Bánh Xe chánh pháp chợt không còn xoay nữa!” Trong bốn năm, Sư hiến dâng công sức dịch ba Bộ kinh luận, cốt cho đuốc tuệ trông mong soi chiếu mê hoặc lâu dài. Dùng đó để mở mang Đạo pháp, mà chưa dám có tiếng tăm. Thế rồi, người mất Pháp tàn, kết quy sai lầm đến thế. Đó là sự xấu xa nơi Đông độ (Trung Hoa) chúng ta, chẳng phải là lỗi bởi Hiền giả ở Tây Vực. thật đáng buồn thương thay! đô. 2/ Truyện Ngài Thích Tuệ Trách trụ chùa Thanh Thiền ở kinh Thích Tuệ Trách, ngài giòng họ Lý, người xứ Giang Lăng thuộc Kinh Châu. Sớm tỏ ngộ khác thường, thần thái tư duy bén nhạy xa vời. Năm chín tuổi, Sư đến chỗ Pháp Sư Ẩn ở trong Bổn ấp xin xuất gia. Pháp Sư Ẩn thấu hiểu Sư sáng suốt khác thường, liền độ cho xuất gia làm Sa-di. Ngoài những lúc giảng dạy rảnh rỗi, Pháp Sư Aån chỉ bảo cho những điều sâu mầu. Sư lãnh nhập Lý mầu không hề phải suy nghó lại. Cầm quyển kinh đọc tụng văn đầy cả bốn mươi trang giấy. Các bậc tài giỏi ở Kinh sở đều khâm phục khen ngợi. Ban đầu, Sư theo Pháp Sư Ẩn, nghe giảng các Kinh Niết-bàn, Pháp Hoa. Sau, chỉ nghe giảng về Tam luận, đều phân tích mới lạ, rất mau lãnh hội. Vào niên hiệu Khai Hoàng (năm trăm tám mươi mốt-sáu trăm lẻ một) đời Tùy, Sư trụ tại Chùa Giang Lăng. Lúc ấy đang khai mở pháp tịch, chư Tăng nhóm họp, kẻ tăng người tục đều cho rằng Sư là người tốt lành, công phu sớm thành, nên đều muốn xét xem khí lực nơi Sư nên cùng nhau thỉnh ngài làm Pháp Chủ, Sư chỉ bày hướng dẫn có ý chỉ, nhân đó mà thực hành. Năm mười hai tuổi, Sư bắt đầu khai giảng kinh Niết-bàn, so sánh việc mà xướng từ, nghóa cao thường bá, luận khó nối nhau, biện luận rành rỏi. Mọi người lớn nhỏ không ai chẳng ngậm lòng. Tiếng ngợi khen vang khắp nẻo đường. Thứ Sử Kinh Châu là Nghi Long Công Nguyên Thọ nghe tiếng tăm của kẻ bé thơ, kinh hãi trội vượt khác thường nên đích thân xa giá đến ra mắt, lại thấy gấp bội hơn điều nghe trước, nên khen thưởng lớn lao nồng hậu. Đem sự việc ấy mà tấu trình lên vua rằng “Sư là bậc Tài tú cao vợi ít có ở đời!” Thế rối, liền có chiếu ban bảo trong bổn châu lo đầy đủ lễ nghi đón rước tiễn đưa. Khi đã đến kinh đô, rất được sự hỏi han an ủi. Nhà vua ban tặng Sư áo nạp; y tăng-già-lê và một bộ y phục, và ban Sư trụ tại chùa Thanh Thiền. Ngài thư thái cùng Bạn đạo mến chuộng ưa thích huyền Nho, tài tuấn luôn nêu cao trích dẫn không cạn kiệt. Cùng tham dự có các hàng áo mão só tộc đều thay nhau tìm đến cửa sân, không ai chẳng ngợi khen Sư hiệp văn bác đạt, khéo léo nhanh nhẹn. Cuối cùng, Sư nhàm chán sự đua tranh phiền toái ấy, nghó muốn tự cứu giúp lắng thần, mới theo Thiền Sư Ứng, bẩm thọ tâm học, đóng cửa thất suốt hai năm. Tình dẫm qua các cửa, nói nín ở nơi Hiền Thánh, bàn luận trao lý ở Kinh Vó. Gặp lúc nhà Tùy vùi chôn Đạo pháp, phụng sự mất thường, đạo quan năm ấy tình vui dừng ở tónh lặng. Đến cuối niên hiệu Đại nghiệp (sáu trăm mười bảy) –đời Tùy, Sư dời đến đỉnh núi Cao Quan ở Chung Nam. Nhân trên đỉnh cao, xây dựng am thất đơn sơ để lộ bày Tâm hình. Gặp lúc thời vận nhà Tiền Đường bộc phát hưng khởi, trăm họ được cứu giúp. Sư chẳng kẹt bởi ta và chúng sinh, bèn đến thành vua, giảng dạy dần nâng cao, khắp thành đô đều xin thỉnh giảng. Vào niên hiệu Võ Đức (sáu trăm mười tám-sáu trăm hai mươi bảy) thời Tiền Đường, Chư Tăng đông nhiều, thường thiết lập Pháp diên, đều trình bày khí vũ. Bấy giờ, tại chùa Diên Hưng đang an cư kiết hạ, Sư giảng kinh Nhân Vương. Các hàng Vương Công só tướng đều đến nghe đông nhiều. Sa-môn Cát Tạng bèn dựng lập Luận Tông, Thanh Biện từ Thiên-trúc đến, các hàng qúy tiện đều chú ý. Sư bèn thi thiết sự bén nhạy, lời trong trẻo, lý hài hòa, tư duy máy động đến Thần kinh chuyển, vượt bốn Bộ sợ hải lòng trăm chúa, ngài Cát tạng ngoái trông xem mà ngợi khen rằng: “Chẳng những luận Biện khó kế thừa mà ức chế cũng móc bạc ít theo được. nay nhà vua bị đất Phiên đích thân xét xin luận phủ, sâu cùng kết nạp, định kết làm thầy bạn.” Sáu người Sư đến thỉnh mời, khiến đến biệt đệ. Sư cho rằng danh tiếng một đời giết chết nhiều thân, trước kia có người từ chối bổng lộc, tất cả đều chẳng nghe ban mạng. Vào niên hiệu Trinh Quán (sáu trăm hai mươi bảy-sáu trăm năm mươi) Vua Thái Tông (Lý Thế Dân) mở bày việc phiên dịch, ban chiếu chọn các bậc Danh tăng sử dụng văn bút có tiếng tăm và rõ biết cảluận chỉ, mới đảm cầm nắm bút dịch Luận. Dịch xong, đem tấu trình. Nhà vua ban tặng một trăm xấp lụa, mỗi vị một bộ y phục. Sư lại trước thuật lời tựa của bộ luận, đề là “Luận Bát-nhã Đăng”. Một tên là “Trung Luận” vốn có năm trăm bài kệ tụng, dùng đèn (Đăng) để đặt tên. Trí Vô phân biệt có công năng Tịch chiếu. Nêu mục Trung tiêu, gương mất thì duyên quán v.v.. lìa hai bên. Song, Đăng vốn vô tâm trí, mất sự soi chiếu thì Pháp tánh Bình Đẳng. Nghóa “Trung” ở tại đó, nên mượn luận để làm sáng tỏ ý ấy. Hễ luận, để giải thích ý chỉ, chấp theo tục thì mê ở chân, điên đảo giữa khoảng Đoạn và Thường, thảng thốt giữa Hữu và Vô, giữ lấy cái Danh vùi lấp cái thật, vịn theo cành lá bỏ mất cội rễ. Há muốn vậy ư? bởi có nguyên do nên thử nêu bày đó. Như gây nhân Phân biệt thì vời lấy Quả luống dối, mê hoặc lâu dài đã un đúc bởi nội thức, bạn xấu ác kết làm duyên bên ngoài. Đến nỗi khiến khinh mạn rung động, tôn trọng núi nên thấy biển cả rộng sâu, lửa phẫn hận khó xúc chạm, từ bén nhọn ít thích đáng. Nghe nói “Hữu” tâm ưa thích, nghe bàn “Không” sinh phỉ báng. Với sáu thứ thiên chấp, đều tự cho là chẳng thiên chấp. Năm trăm luận sư tranh cãi trình bày Dị Luận, hoặc đem Tà nhiễu loạn Chánh, hoặc lấy Ngụy để ngang bằng chân. Nhận biết dường như ngộ mà thật lại mê, giáo điển tuy thông mà lại càng bít lấp, có thể gọi đó mà mất châu ngọc mua vui cùng sỏi đá, bỏ vật báu mà mang vác củi mục. Ngắm nhìn tranh vẽ mà sợ rồng, tìm dấu vết mà khiếp sợ Voi. Yêu thích như thế, thật đáng thương thay! Bồ-tát Long Thọ vì cứu đời mà xuất hiện ở đời, chê trách sự đam mê Dục lạc mà phát tâm, đọc kinh sâu xa mà tự mình hẹp hòi, được sự huyền lý của Đấng Độc Tôn. Đốt đuốc Pháp ở Diêm-phù, Địa vị đó vượt cả Sơ Y. Công phu vượt quá Phục vị, đã tận cùng Nhất thật lại ng- hiên cứu hai năng, mang hai ấn mà định trăm nhà, lẫn lộn ba không mà ngang bằng muôn vật, điểm số kiếp như cấm bụi để thử mọi khó khăn, thương các loài mê muội mà soạn ra luận ấy. Văn nghóa sâu mầu, ý chỉ huyền diệu, khéo phá bày công. Khắp khiến các hàng Độn Căn phần nhiều khiếp sợ lui sụt. Có Bồ-tát phân biệt rõ ràng đối với Pháp Đại thừa thể nhân đại Đạo, xa xem đọc chân ngôn, vì đó mà giải thích Luận bàn, mở kho Bí mật, ban tặng Châu ngọc Như Ý. Sơ lược và sâu rộng cùng thành, thầy trò hiển bày lẫn nhau. Còn như tự thừa Dị chấp tích chứa khởi sinh ngàn mối. Ngoại Đạo khác chấp lăng xăng muôn mối. Cưỡi xe lừa đua trang với xe ngựa bốn con, lửa đom đóm tranh sáng với đuốc rồng. Không ai chẳng nêu phẩm lại ấy, hiển bày sư Tông. Ngọc và Đá đã phân, đen và vàng cũng rõ. Tại Tây Vực nhiễm bút mới có vài nhà, khảo xét sự thật, chia chẻ huyền vi, đó là tinh nghệ. Nếu thông suốt gốc ngọn có sáu ngàn bài kệ, ngay bản bằng tiếng Phạm như vậy, nhưng ở phần phiên dịch thì có giảm bớt. Hoàng Đế ta Thần Đạo xa sánh với Hy Hoàng, đào luyện thì ngang bằng cùng tạo hóa. Sùng trọng gốc, dứt bỏ ngọn, không làm gì mà thái bình. Giữ mẹ còn con, chẳng nói năng mà yên trị. Cho rằng Thánh giao lưu truyền đến phương Đông đã trong thời gian lâu mấy trăm năm, mà chỗ trái với ước tượng hẳn còn nhiều lắm, ít thấy chưa nghe, nhọc trong thức ngủ. Có Pháp Sư-Bà-Phả-Mật-Đa-La; người xứ Trung Thiên-trúc, học gồm báu mãn, thông rộng các giải thích, vùi mất cái ta, vui vẻ tinh thần sưu tìm huyền diệu mà dưỡng tánh. Cất bước du phương, có tâm niệm vì lợi ích chúng sánh, nên có khả năng mang cột móc truyền thân, nêu ráng bảo bạn, mạo hiểm giữa sương tuyết mà vượt qua Thông lãnh, xâm phạm cùng gió lửa mà dẫm bước giữa sa mạc. Thời gian suốt năm năm và đường dài hơn bốn muôn dặm. Vào niên hiệu Trinh Quán thứ nhất (sáu trăm hai mươi bảy) thời tiền Đường. Đầu đội mong Kinh điển bằng Phạm Văn đến dừng ở nói kinh đô. Xưa kia, Diêu Tần muốn có được Đồng thọ (ngài Cưu-ma-la-thập) phải khổ nhọc dùng đến binh lính. Hán Minh Đế thỉnh cầu ngài Ca-diếp-ma-đằng phải xa nhọc Phiên Sứ, ở đây nên cảm ứng đạo bạn thầm phù hợp, nước nhà an lành, người tài đức sẽ đến. Quan ty trình tấu, rất vui thỏa lòng vua. Nên vua bèn ban sắc mời Sư (Bà-phả) trụ chùa Hưng Thiện và chùa Thắng Quang, mở đầu việc truyền dịch tân kinh. Và mời các bậc Sa-môn Nghóa học cùng Vương Công Tể phụ đối xét phiên dịch luận ấy, nghiên cứu kỹ càng diệu chỉ sâu mầu, bỏ văn hoa, giữ lấy thực chất, tự thấy mừng vui hiểu được lý ấy. Cực văm thệ nghiên cứu rõ điều đúng sai. Văn tuy nhất định mà che lấp rõ ràng, nghóa tuy sáng mà phải tra xét lại. Đến niên hiệu Thọ Tinh xem xét hoàn tất, thành tựu luận ấy. Quán rõ Trung Đạo mà còn “Trung” mất “Quán”, “Không” hiển bày Đệ nhất nghóa mà được Nhất thừa không. Nhưng, xe của ty Nam vốn chỉ bày cho kẻ mê, kiếng của Chiếu Đảm để soi xét người tà. Không tà thì kiếng không cần phải thi vi, chẳng mê thì xe chẳng cần phải dùng tới. Luận ấy phá bày, đó còn như thế. Tuy chê trách nội mà ngăn bít ngoại, dứt hết vọng, suốt cùng chân mà chỉ còn điều huyền diệu. Phá tận cùng chỗ có thể phá, thênh thang thay! Lớn lao thay! Đón rước mà chẳng lượng xét được cội nguồn, thuận theo đó mà chẳng biết tới ngành ngọn. Tin đó thì cùng mài giũa sáng sủa tâm thần, là thuyền xe vượt bể mênh mông, là sấm sét kinh hãi hôn mê tỉnh thần thức, là nhật nguyệt soi chiếu con đường tối tăm. Tại Trung Hoa, trước kia vốn có bộ Trung Luận bốn quyển, với số kệ tụng phần lớn giống nhau, do ngài Tân-đầu-lộ-già chú giải có phần tối nghóa nơi Bộ Chấp, nên các học giả mịt mờ. Nay luận này đã khởi dậy, có thể làm khuôn phép soi sáng, ngõ hầu các bậc Quân tử Minh đạt thấu rõ pháp vị ấy. Lời tựa, Sư (Tuệ Trách) đã soạn xong mà chưa trình tấu ngay. Nhà vua ban sắc Bí Thư Giám Lư Thế Nam soạn lời tựa. Lư Thế Nam thấy lời tựa do Sư soạn liền khen ngợi, không lấy gì để thêm bớt. Nhân đó mà tấu trình lên Vua. Bèn đặt lời tựa ấy ở đầu quyển, truyền chép vào tạng kinh. Đến ngày mồng sáu tháng bốn niên hiệu Trinh Quán thứ mười (sáu trăm ba mươi sáu) Sư thị tịch tại chùa Thanh Thiền, thọ năm mươi bảy tuổi. An táng tại phía Đông Kinh Giao. Liệt Toại lập bia ca tụng hương thơm đức hạnh Sư. Thái Thường Bát Só Trữ Lượng soạn lời văn. Từ lúc biết Đạo của Sư, thường luôn tôn sùng sự biện nhã nhanh nhẹn của Sư, người đương thời cho là phỏng theo ngài Tuệ Thừa, hẳn là dốc lòng bàn luận, ngôn từ chú giải khó hiểu cho cùng, không thi vi nào chẳng thành đạt. Sư giảng các kinh luận, như Hoa nghiêm, Đại Phẩm, Niết-bàn, Đại Trí Độ, Nhiếp Đại Thừa, Trung luận, Bách luận v.v… đều giải thích chương bộ, quét sạch các thứ ngưng trệ. Sư lại đọc tụng các Kinh Niết-bàn, Pháp Hoa, âm văn thuần tốt. Lúc thuật lại cho chúng nghe thì lời tiếng trong trẻo, trầm bổng đến nỗi nhập thần. Sư lại tiết giảm các vật, dùng để viết tạng kinh, xét duyệt vừa xong bèn sửa sang kính cẩn. Sư lại giỏi hướng dẫn, đứng đầu đại chúng, thư thả vui thích vật tình, được các bậc văn hùng ngợi khen, Sư đặc biệt rõ suốt cổ tích, riêng hiểu về thư họa. Các hàng Só tử nơi chốn KinhHoa thường tỏ bày điều chân ngụy, Sư đều giúp họ thật định rõ về người đời. Sư, với căn chương từ thể nổi bật chốn năng lưu, nét bút Thảo, lệ tên nêu nơi Đài phủ. Mỗi lúc có Quan cung thắng tập, hẳn mời Sư đến dự cùng. Các vị công khanh cầm giấy cầu xin Sư viết điền phó. Ngài tùy theo giấy mà phóng bút, bay nhanh như gió. Tảo úy hùng thư dệt hoa ở đương thời rất phong phú, nên lưu lại các thứ vui chơi rất nhiều, treo ở những nơi khuất chướng, hoặc khắc ghi bên phải chỗ ngồi. Sư soạn Vịnh tập tám quyển, lưu hành ở đời. 3/-Truyện ngài Thích Tuệ Tịnh trụ chùa Kỷ Quốc ở Kinh Đô. Thích Tuệ Tịnh, họ Phòng, người ở xứ Chân Định thuộc Thường Sơn. Gia đình nhiều đời nối nghiệp Nho Tông nên trong làng đều kính chuộng. Ngài giống như con của Tùy-Triều-Quốc-Tử-bác-só Huy Viễn. Vừa mới sinh ra thiên tánh đã vượt trội, nhã hoài thiên thập, phong cách cao vời, khí mạo rộng lớn. Ở độ tuổi bé thơ mà sớm tập học sách vở của Khổng Tử, hiểu suốt văn tụng, vẻ vang cho xóm làng. Năm mười bốn tuổi, Sư xuất gia. Chí nghiệp tỏa phát rộng xa, mỗi ngày đọc tụng hơn tám ngàn lời, nắm rõ các từ nghóa, ít có người sánh bằng. Sư đến các trường giảng để nghe giảng, dò hỏi chất vấn các điều thắc mắc, nêu bày nghiên cứu những điểm sâu mầu thường đạt đến chỗ cùng cực. Sư nghe giảng Luận Đại Trí Độ và các bộ kinh khác mà thần thái vượt trội riêng mình, thấy nghe đều khác thường. Có Luận sư Chí Niệm, tiếng tăm vang xa ở Đông Hạ, người thời bấy giờ gọi là “Hang núi suốt cùng giáo nghóa Tiểu Thừa”. Sư (Tuệ Tịnh) bèn tìm đến theo nghe giảng các Luận Tạp Tâm và Bà-sa, học được hai biến đã tinh thông đại nghóa. Sư sưu tìm gốc rễ cành lá, chuyên vạch bày thấu suốt đến cùng. Do đó mà tiếng tăm tốt lành vang tỏa, học chúng kính trọng khâm phục. Cuối niên hiệu Khai Hoàng (sáu trăm lẻ một) đời Tùy, Sư đến trụ thành Nghi đế, thường phân tích trùng quan, tiếng tăm lại vang xa. Đầu niên hiệu Đại nghiệp (sáu trăm lẻ năm) đời Tùy, nhân tìm theo vết xưa, Sư đến Hoè lý. Gặp lúc Thỉ Bình Lưu Dương Hoằng nhóm họp các Đạo tục đến chùa Trí Nghiêm, muốn yêu cầu các Đạo só trước mở Đạo Kinh. Khi đó, bạn Đạo tuy đông đầy, nhưng không ai dám chống đối, Sư nghe bèn bảo rằng: “Ở cõi U minh kết tập được bốn Bộ, cân nhắc hai tông giáo, trộm có điều chưa hiểu, xin hỏi điều nghi. Thế nào là lễ của chủ khách tự có thường luân, giống như giày và mũ, không thể điên đảo, đâu thể ở nơi chùa Phật mà bảo Đạo só trước làm chủ ư? Giáo nghóa Minh Phủ có thứ tự, xin chớ để rơi vào công tích! Lệnh có ý chỉ ư? Bao nhiêu lầm lẫn ở sau tức khiến tăng só ngồi ở trước. Chẳng nhục nhã được ư?” Có Đạo só Vu Vónh Thông, rất được người đời khen ngợi, là chỗ mến trọng của Linh Hoài, lần lượt lập nghóa rằng: “Có vật hỗn độn hình thành trước lúc trời đất sinh ra. Tôi không biết tên nó là gì, theo chữ thì gọi là “Đạo” khiến liền nói bày, và liền bảo: “Pháp sư chắc phải dùng từ ngữ nghóa lý thích đáng mà đối đáp, không được phạm ngang đầu lên đuôi, khi đó khiến mũ bằng khăn.” Sư nhân đó, cười và Bảo: “Bần đạo đã không có mũ và khăn, vậy đâu thể phạm ngang đầu?” Linh bảo: “Nếu chẳng phạm ngang đầu thì phải phạm lên đuôi. Sư bảo: “Bần đạo cởi giày lên tòa tự có thể lên mà không đuôi. Minh Phủ mở đai mũ khăn thì có thể gọi là đuôi mà không đầu!” Linh tỏ vẻ bẻn lẻn, Sư nhân đó hỏi Vu vónh Thông rằng: “có vật hỗn độn hình thành. Vì thể nó là một nên hỗn độn hay Thể nó khác mà hỗn độn? Nếu thể nó một mà hỗn độn thì ngay lúc hỗn độn đã tự thành một thì một chẳng phải Đạo sinh. Còn nếu thể nó khác nên hỗn độn thì lúc chưa hỗn độn đã tự thành hai, thì hai chẳng phải do một khởi trước sinh ra Đạo, cầm đầu xếp bày các thứ khác. Xin vì xét điều nghi!” Khi đó, Vu Vónh Thông mịt mờ, thẹn thùng không đáp được. Sư lại bảo: “Ông đã mở cửa tiếp đãi kẻ địch, đúng là phải cổ vũ dung thứ cho sự mạnh mẽ khác, chứ đâu được như cây Đào Cây mận mà lại mọc gai gốc ư?” Rồi, Sư ngoái trông Linh, bảo rằng: “Minh phủ đã vì Đạo mà giúp đỡ lấy gì mà cứu giúp?” Linh bèn tỏ vẻ mỏi mệt. Từ đó về sau, thường có sự cứu giúp, Sư đều ứng phó mà bẻ ngã, không gì chẳng che vết. Từ đó, đối với giáo nghóa Đại tiểu thừa, ngài đều vui thưởng cả hai, nghiên tầm pháp vị càng sâu. Ngoài việc chủ thuật, Sư còn tìm dịch, không nhàn rỗi. Bỏ quét nhà trống, tổng lược tông xưa, Sư tiếp nối soạn Tạp Tâm Huyền Văn, thành ba mươi quyển, bao gồm các sách vở, gồm thâu xưa nay. Các bậc tài giỏi đều tham dự trầm ẩn. Sau cùng, lại dùng luận Câu-xá phiên dịch ngôn từ ý chỉ dồi dào rộng sâu, tuy có trình bày vết tích mà chưa hết sự tìm cầu nghiên cứu. Mới là không thầy chỉ dạy, tự ngộ riêng mình, Sư nghó chọn danh lý, bèn soạn văn sớ hơn ba mươi quyển, khiến cho diệu nghóa của Bộ kinh nối liền mấu chốt, sáng tỏ ở đương thời. Kế-tân Chánh Tông truyền phương Quý Tự, học só Dónh Xuyên Dũ Sơ Tôn thỉnh Sư chú giải Kim Cương Bát-nhã, Sư bèn soạn thích văn nêu nghóa, chứa nhóm làm thành hưng thạnh, thấu cùng nguồn giáo của chân tục, suốt tận bí yếu của Đại thừa, lưu bố xa gần, viết chép tụng trì. Rừng từ ngữ Văn học truyền đến các tâm miệng, tiếng tăm chứa nhóm cùng tốt lành, tiếp nối kề vai thường nghe. Thái Thường Bác só Trữ Lượng, Anh Tảo trong sáng vượt trội, danh dự sớm vang xa, khâm phục đức hạnh tài giỏi ấy, vì soạn lời tựa dẫn. Trong đó, từ ngữ viết rằng: “Nếu khối lớn đều có hình tướng, đối trí theo vật. Tình do tập quán sửa đổi, tánh và lo nghó thay đổi. Cho nên xem xét thấu cùng, sáng soi Tiên giác, chong đuốc tuệ đã ra khỏi tối tăm lâu dài, vượt sông ái mà lên đến bờ kia. Cùng phàm trôi lăn muôn kiếp. Bởi nhiễm sáu trần, theo dòng vì không bờ mé, sai lầm rong ruổi mà đi vào đường hẹp. Chẳng đồng ngày mà nói. Dữu Sơ Tôn ở Dónh Xuyên sớm kính tin rộng lớn, cho rằng Bát-nhã là chỗ sáng soi kết quy về Chánh đạo, hiển bày danh tướng của Đại thừa, nêu chỉ Tông cực của Bất trụ, vượt khỏi tâm lo nghó, dứt bặt ngoài niệm tượng nói năng. Do đó, mà kết tóc thọ trì qua nhiều năm. Tuy Diệu âm giảng nói thành văn tụng chẳng thiếu sót, mà nguồn kinh sâu vợi có chỗ chưa tỏ ngộ. Ôi! Mê lầm phương hướng ấy chẳng xa, ngoái nhìn đường giũa mài mà rộng dứt. Gặp được Pháp Sư Tuệ Tịnh thông rành nghóa sâu kín, biện luận đồng như nước chảy, lý nghiên cứu, suốt liên hoàn. Dữu Sơ Tôn vào thất nghiên cứu, ứng phục khéo léo dẫn dụ, nương thệ nguyện ấy, vẫn cầu xin chú giải. Pháp sư (Tuệ Tịnh) treo kiếng xét soi quên mỏi mệt, chén Cù tự đầy. Trên nhờ Đạo của Thần ứng, bên cạnh dùng hết cơ tâm, bày xướng lời nhiệm mầu, tuyên dương chí lý. Nghi cũ ngày trước tiêu mất như băng tan. Nghóa mầu nay đây sáng ráng như mây vẹt mở, làm rường cột của thời tượng pháp, biến đổi mắt tai của loài chúng sinh. Núi Từ xinh đẹp rọi ánh linh thứu mà cùng cao, suối lời khơi mạnh đến long cung mà tranh xa. Vả lại, Đạo Phật hưng khởi ở trời Tây, nguồn Đạo truyền rót đến phương Đông. Vui đời Hiền Trí, tài hiệp với ưu, tinh gồm Duệ Chỉ, ít thấy hạng người ấy. Nay thì Diệu Môn mở mang lại, có tiếng ở đương đời, Tưởng rằng huyền tông ấy un đúc làm xứng thủ. Năm chỉ hưng thịnh tốt tươi, mở đầu cho Hoài tụ, tháng dâm trọng lã, nhân đó bặt bút. Các hàng tăng tục kính ngưỡng, mái che thành bóng mát, gõ chuông, tùy theo tiếng lớn nhỏ, huơ kiếm phát ra sắc thái sáng lòa. Đồng một thời, học chúng chuyên môn thọ nghiệp, cùng vượt sóng cả, xa cùng truyền trao. Mới lại ngoái trông nhìn rừng xa, cúi nhìn an sinh. Riêng bước trên đường cao, đối dương với Chánh Pháp, Liêu đông chân Bổn. Trông mong theo vàng mà chẳng bỏ, nơi Chỉ Nam gửi gắm, cất giấu các thứ ngọc mà không hư mục. Há chẳng hưng thạnh sao, há chẳng hưng thạnh sao! Vào đầu niên hiệu Võ Đức (sáu trăm mười tám) - thời Tiền Đường, bấy giờ Sư vì các vị Quan liêu trong Tam phủ trên dưới đều nhóm họp ở Diên hưng, các vị Đại Đức khắp kinh thành đua nhau trình bày ngôn luận. Có Pháp sư Thanh Thiền (có lẽ là ngài Tuệ Trách?) lập Phá nghóa không, tiếng tăm vang dội rực rỡ ở đương thời. Tướng Phủ ký thất vương kính nghiệp thưa rằng: “Pháp Sư (Thanh Thiền) lên pháp tòa giảng bày nghóa lý, khó đối đáp. Nếu chẳng phải sa môn Tuệ Tịnh ở chùa Kỷ Quốc thì không ai có thể bẽ gãy được sự sắc bén ấy! Bèn báo cho Sư (Tuệ Tịnh) cùng luận đối. Sư bảo rằng: “Nay ở bên cạnh Người Anh hùng, có xen bậc long tượng, kính vâng đối đáp cùng với Thượng nhân khó thành cao luận. Tuy nhiên, dám nhờ uy đức thâu góp sương thu, ân tuệ ban rải như mưa xuân, khiến Tuệ Tịnh tôi thưa hỏi chất vấn thắc mắc nhỏ, để Pháp sư khen ngợi Đại tuệ, há chẳng phải là sự hưng thạnh của Phật Pháp ư?” Nhân đó, Sư hỏi rằng: “Chưa xét về Phá “không”, “không có” gì mà phải phá?” Đáp rằng: “Dùng “không” phá “không”, chẳng phải lấy “Hữu” để phá”. Hỏi vặn rằng: “Chấp “không” là bịnh, lại dùng “không” để phá. Thế thì, chấp “Hữu” là bệnh, lại lấy “Hữu” để trừ. Khước bỏ qua lại, nên không lấy gì để giải.” Niên hiệu Trinh Quán thứ hai (sáu trăm hai mươi tám), tân kinh đã được truyền đến, sửa soạn việc truyền dịch. Vua Thái Tông (Lý Thế dân) ban sắc cho các Quan ty tìm chọn các bậc Danh đức. Sư cùng dự nhóm họp, lo việc ghi chép luận “Đại trang nghiêm”, ngôn từ ý chỉ sâu mầu suốt tận lời Phạm. Bổn tông đã thành, đồng thời soạn văn sở thành ba mươi quyển, nghóa suốt xưa nay, lời hay tiếng tốt. Tam Tạng Pháp sư cùng Bộc xạ phòng Huyền Linh, Hồng Lô Đường Kiệm Thức Tử Đổ chánh luân, Vu Chí Ninh vỗ vào lưng Sư ngợi khen rằng: “Đây là vị Bồ-tát ở phương Đông. Nếu tự chẳng phải thiên chất tinh sáng thì đâu thể dùng đến cùng cực lời ấy ư?” Đó là khác vực được khâm phục như thế. Đến niên hiệu Trinh Quán thứ mười (sáu trăm ba mươi sáu), khai giảng tại Bổn Tự, các hàng vương công tể phụ tài biện có tiếng tăm không ai chẳng tụ hội. Bấy giờ cho là vẻ vang lắm. Kinh phụ dừng xoay, lớn lời trình bày, chống đối đều xứng Cơ, giao phó thư thả có thừa, Thái tử Hoàng Cân hoãng là người tài giỏi ở đương thời, là người khuôn phép trong Đạo môn. Mới bày luận hệ, nhân đó bèn trưng cầu, tự che lấp đầu mối ý nghóa, lạc mất mạch lạc bổn tông. Sư bèn đặt từ điều dẫn, Thái Tử Hoãng v.v… mới uống khí mà trở lại. Cùng ngồi mở núp, quý thức đều tốt đẹp. Từ đó về sau, Sư gánh vác pháp tượng, kết chúng hội giảng dạy mở mang. Nên khởi hòa mục, hưng thạnh Đài phủ. Lương Quốc Công phòng Huyền Linh cầu xin làm Bạn Đạo với Sư, kết nghóa làm Anh em. Sớm tối đến tham yết, tự thân dốc hết sự chí thành, cung cấp bốn việc cần dùng, với tâm kính thành. Sư tự hiểu rõ vinh hiển ấy, quên cả thân mạng vì Đạo Pháp. Sư lại soạn Pháp Hoa Kinh Toản Thuật, mười quyển. Và các Kinh Thắng-man, Nhân Vương, Bát-nhã, Ôn thất, Vu-lan-bồn, Thượng Sinh, Hạ sinh v.v.. mỗi kinh đều nêu bày yếu toản, lưu hành hưng thạnh ở đời, đều là văn nghóa chặt chẽ hay khéo, suy tôn lên cao. Nên mỗi lúc có mở mang rộng rãi làm tỏa sáng mặt trời Phật. Các hàng tăng tục tụ hội vui mừng hòa hợp cùng nghe. Bấy giờ, Đại Pháp được truyền bá khắp nơi, phần lớn cũng do công lao của Sư. Nhưng sở học ở cuối đời có lắm người nhận thức thấp cạn, nếu chẳng liên quan bên ngoài thì lời nói không được giũamài. Như muốn phá dẹp được hàng Dị Đạo thì phải lấy sở học nầy để làm đầu. Sư thường dùng một phần công phu đặt tâm vào Văn Sử, ngợi khen dẫn thành việc chuyên, bổ ích cả tinh thần, mà tánh người ưa thích phong lưu, tình gửi gắm nhân hậu. Tâm tư tràn đầy niềm thương mến, quên mình tiếp vật, thư thả viết lời sáng sủa, suốt ngày không mỏi mệt, nên khiến mọi người xa gần nghe được đạo phong của Sư đều đến tham thỉnh rất đông, Sư đều ứng biến tiếp bày. Tinh thần mọi người vui thích mà trở về. Hoặc dùng bút làm thi phú, duyên tình cảm hứng mà nêu bày, suốt trong mười ngày, tác động thành văn hội. Pháp Sư Hòa Lâm ban đầu soạn “Xuân Pháp Tập”, viết rằng: “Non Thứu sáng chọn trước Kỳ viên bày kính xưa Triết nhân trọng gót võ Hoằng Đạo gặp bầy Rồng Tòa cao hoa sen mọc Mãy trần rung thông sương Bụi bay nâng nhã Phạm Gió đến dẫn sơ chung. Lời tónh lặng Biển nghóa Luận bày cao từ bén, Tâm rỗng, Đạo dễ hợp Vết rộng đạo khó bày, Gió động lay khí tốt Ngày đẹp mở giờ êm. Tài cao ví Nhã Thập Trông mình lắm bạn theo Dùng đây kính chứa lành Ngõ hầu gặp Linh hoa.” Sư lại cùng các bậc anh tài gom góp ngôn từ làm bài Phú “Đắc thăng Thiên hành” (Được đi lên trời) với lời thơ rằng: “Đón gió qua Lang uyển, Vỗ hạc xuống Doanh Châu Muốn ngắt cỏ chi đẹp, Trước theo ngàn hận đi Cưỡi Phụng ngâm sáo rỗng, Gá bè thả dòng trôi, Tuổi già một lần dừng, Mới nghiệm thu Đại thung” Sư lại cùng Lô Tán Phủ đi đến Đạo tràng chùa Kỷ Quốc làm bài thơ rằng: Mặt trời soi nhà Hán Sao chiếu tối triều Chu Thành pháp từ đây dựng Gác hương vốn cao vời Mâm Châu hứng sương mốc Chùa Phụng rủ khí lành Rơi chiếu vào cửa trống Ráng hồng kéo qua cầu. Tài cao tạm nhìn thẳng Giải mây nhẹ nhàng trôi Muốn tìm ngựa hay giỏi Trọn là Tạ Liên Lộc” Lại, một ngày giữa đông tại Chùa Phổ Quang, đang bị bệnh, thấy tuyết rơi trên những con đường cũ, Sư làm bài thơ rằng: “Ốm bệnh khổ lâu ngày Mở cửa nhìn trời xa Mây lạnh duỗi lại cuốn Tuyết rơi dứt lại liền Hoa lạnh soi gác sách Trắng bay theo đàn cầm Xoay nhẹ rơi thơ thần Sáng ánh như dãi lụa Quanh thềm như hạc múa Cây rung tợ Hoa tươi Luống thưởng điềm hụng thạnh, Lo lắng, tự thương xót!” Lúc ấy, các bậc Đế triều Tế qúy, Triệu Công, yên công trở xuống các bậc Danh thần cùng hòa xướng, có đến cả trăm bài. Trung Thư Xá nhân Lý nghóa Phủ là bậc tài giỏi của Văn uyển khen ngợi mãi không thôi. Và viết lời tựa của tập thơ, v.v.. do đó, lời xướng càng cao, các bậc Huyền nho đều ghé mắt đọc xem. Hàm lâm văn só suy thừa quán tuyệt, tranh nhau soạn tân chế, thỉnh cầu Sư vạch chỉ vết sai. Sư cho rằng việc làm của người sai chẳng có gì lạ. Rồi mới tìm tòi góp nhặt những hay đẹp ở cận đại, soạn “Thi Anh Hoa” một pho mười quyển. Các hàng thức giả ưa thích noi theo xem xét chỗ hay ho. Ngô Vương hỏi bàn cùng Lưu Hiếu Tôn là bậc Văn tài cao trội, vì soạn lời tựa, viết rằng: “Văn là nghóa của Phật giáo lớn rộng thay! Chỗ trí thức chẳng thể đặt để Danh ngôn. Chỗ xem nghe chẳng được thấy biết. Các ngài Mã Minh, Long Thọ mở mang Thánh chỉ ở trước, các ngài Tuệ Viễn, Đạo An rộng hóa lời nhiệm mầu ở sau. Còn như tiếp nối dấu vết cao mà dắt dẫn, nhảy vượt khuôn phép mà đi xa. Như vậy, ai là người có khả năng? Chỉ có Pháp sư Tuệ Tịnh. Pháp sư bản tánh thuần hòa, bẩm chất do núi sông ban giáng tinh thể. Thần cởi mở bên trong dung lượng, tâm tỏa sáng rỡ bên ngoài. Ở tuổi tóc để trái đào mà đối nhật, tóc vừa bới chỏm lại tham huyền, ngẩng lên cao tới ngọn cây, đến tận thềm mây bằng thước mộc, nước lớn dâng tràn. Tắm gội mặt trời, dẫn ở suối đầy mà đuốc tuệ sớm tỏ. Thiền trượng sớm hưng thạnh, đến duyệt xuyên mà dứt tư lự, nhìn nước Định mà vui vẻ tâm thần. Bùi ngùi kia luống sống, tỏ ngộ thường vui đây. Ba thừa áo nghóa vỡ lỡ như băng tan, Pháp môn Nhị Đế mừng vui thuận lý. Bỗng chốc bắt đầu từ Đông Hạ, Trượng tích tại Tây Tần. Đến chỗ trường giảng lãnh hội lời hay mà ảnh hưởng. Vạch nghi bỏ trệ, nghó nhớ nghóa cao mà ảnh hưởng theo, gương sáng thường soi chiếu không mệt nhọc, hồng chung đợi gõ mà ngân vang. Cùng Bờ đầy lượng, dối đi thật về. Thật là rường cột của Phật Pháp, lãnh tụ của Tăng đồ! Trước kia, tôi đến chốn kinh đô, được tỏ bày cảnh một, lặng lẽ chốn tịnh vạch mây mà trông thấy quang cảnh. Vắng vẻ an nhàn vào thất mà sinh hư bạch. Pháp sư đem thực tế mà chỉ bày tôi, lấy chân như mà dẫn dắt tôi. Trút vào Biển, chẳng biết nó cạn sâu. Núi học luống trông sự cao vợi. Vì những lúc Pháp sư nhàn rỗi việc giảng diễn, đến xin chỉ dẫn Hàn lâm, như là bài “vườn liễu cây Du trời”, Vịnh “A các tựa song”. Ngụy vương ở Bắc Sơn bày nghó Nam Quốc, bài Phú “Tự trông như trăng sáng”, “Trời mưa nhỏ” của Bành Trạch. Đến khi Nhan Tạ duỗi vẻ đẹp, Nhậm Thẩm góp nhặt Văn, đủ để lý hội tám âm, lời hợp bốn thỉ, đều lần lượt noi theo, tích chứa làm thành khuôn phép, há riêng ngời sáng ở ngày trước mà không người tiếp nối thước mực hay sao? Ở đời gần đây các bậc Văn nhân tài hoa xuất hiện. Vua Võ Đế (năm trăm sáu mươi mốt-năm trăm bảy mươi chín) thời Bắc Chu chấn chỉnh Hùng Đồ, sửa sang Chương Phủ. Vua Cao Tổ (Dương Khiêm năm trăm tám mươi mốt-sáu trăm lẻ năm)- đời Tùy cất giấu anh lược, dẹp định Giang Hoài. Đầy một xe sách, mở lớn trường học. Ôn hình danh dự vang xa nơi Đông Hạ. Từ Dữu giá được xem trọng ở Nam Kinh, Vương Tư không đơn lẻ xinh đẹp một thời, Thẩm Cung Tử nêu kỳ đặc trọn đời. Tất cả những kẻ só tài đức ấy đâu thể thiếu sót ư? Tự xen vào thành cũ mở vận khơi tỏa cảnh sáng, mở lớn Văn Đức, đạo thông suốt Tiền Vương. Kẻ só xa trục theo gió đến, hang rừng, khách mời như mây nhóm. Nên có thể đè nén hay nâng cao Hán Triệt, mang thai nuôi dưỡng Tào Phi, Văn nhã chứa nhóm phát khởi từ đó mà thạnh hành. Tôi tuy chẳng thông minh nhưng trộm có ý chí, hang son ngầm đổi, tiếc Lăng Cốc mà dời thay. Ở đó dễ muộn, so thường sự khó thường người đời. Nên thỉnh Pháp sư tạm trở về Thanh Giám, góp nhặt từ thập, cắt bỏ phiền tạp, vì Quân tử không khoe khoang, chọn lọc thơ chưa làm vết ấy. Sau khi Lưu Đình Uý chọn chỗ vườn thơ, biên chép mà tiếp tục. có Dữu Sơ Tôn ở Dónh Xuyên, sức học suốt bao trùm Phần Tố, hạnh ngang bằng Nham Mẫn, và Phủ Vi Sơn ở Kinh Triệu, sáng rỡ có tiết tháo đặc biệt, sau bắt thâu gồm các lời, cùng Pháp sư chu toàn, tình vượt keo sơn, thấy sự hưng thạnh ấy đều cùng tán thành. Mạng sống con người có giới hạn, Dữu sơ Tôn chợt qua đời. Lời vónh biệt xót xa biến đổi. Trong khoảnh khắc trông xem Di Văn ấy, lâu ngày bày dấu vết. Nay cũng lần lượt vấy bẩn đến người sau! Pháp sư vâng theo chương cũ biên soạn Hồng liệt ấy. Tôi nhân những ngày nhàn rỗi kính thuật lại những phương pháp tốt đẹp đó, khiến cho Dónh xướng sở về với đàn sáo mà phát ra âm hưởng. Xuân hoa thu thật cùng với đất trời còn mãi lâu dài. Bèn sai bảy chúng ghi chép phương pháp tốt đẹp ấy. Năm chúng cùng mừng vui được trí tuệ nhận biết đó. Tất cả những người có tham dự hay lưu lại trong nhà cất lấy một bản. Từ đó, Nước nhà thường luôn nhóm họp đông đảo, Sư hẳn là người dẫn đầu. Mỗi lúc vào cung vua, Sư có lên Thượng tịch, kén chọn hợp với tâm Vua, các cung đều kính trọng. Từ lâu, Hoàng Trữ hưởng bổng lộc đức tố, nên đến niên hiệu Trinh Quán thứ mười ba (sáu trăm ba mươi chín) ông nhóm họp các Quan cùng các bậc Học só trung Tam Giáo (Thích, Nho, Lão) đến điện Hoằng Văn, và thỉnh Sư (Tuệ Tịnh) khai giảng Kinh Pháp Hoa. Đạo só Thái Hoãng giảng về Đạo (Lão) luận, rất khéo léo tốt đẹp. Vua Cao Tông (Lý Thế Dân) ban lệnh cho cùng nhau đối Kháng luận. Khi đó, Thái Hoãng sửa sang dung nghi hỏi rằng: “Kinh gọi là “Phẩm Tựa thứ nhất” chẳng hay biết Tựa và thứ là thuộc phần nào?” Sư bảo: “Đức Như Lai nhập định bày hiện điềm lành, phát ra ánh sáng khác lạ chuyển động Đất trời, hoa rưới xuống như mưa, mượn xa để phá gần, vì phá hai nền tảng lớn làm sáng tỏ một Do tiệm, nên làm “tựa”. “Đệ” là Cư ( ở), Nhất là Thỉ ( đầu). Phẩm Tựa là ở trước hết, nên gọi là “Thứ Nhất”. Thái Hoãng nói: thứ ( thứ tự) tức là em. Đã là Đệ thì không thể gọi là Nhất( Một). Nói là Nhất thì không thể gọi là Đệ. Hai chữ ấy mâu thuẫn, làm sao hiểu được? “Sư bảo” Ngày xưa chẳng gọi Đệ tức là Cư, và Nhất là thể ư? Vì ông đã không lãnh hội được ý chính ở trước, mà sai lầm trình bày vấn nạn ở sau, khiến trở thành làm khó cho tự mình, đâu thể làm khó người khác được.” Thái Hoãng bảo: “cho rằng tôi không lãnh hội, thì xin giải thích lại..” Sư bèn mở lệnh bảo: “xưa kia có hai người, một người tên là Xà-noa, hễ nói chổi thì quên quét. Còn một người tên là Thân Tử, nghe một mà hiểu đến ngàn. Thế thì, Xà-noa nghe lại mà chẳng ngộ, còn Thân Tử chỉ vừa mới xướng đã được thông hiểu. Đó chẳng phải do người truyền đạo không rõ, mà chỉ là bởi người nhận lãnh Pháp không có tài trí. Thái Hoãng nói: “ Pháp Sư nói tiếng chẳng ra khỏi môi làm sao nghe nhận được?” Sư bảo: “Bồ-tát giảng pháp, âm thanh rung chuyển cả mười phương. Đạo Só ngồi tại chỗ mà như mê như say, đâu hay hình thể điếc mù, trí ấy có lẽ cũng có.” Thái Hoãng nói: “ Dã can nói pháp làm sao nghe được?” Sư bảo: “ cõi trời trang nghiêm hùng vó, lí bặt vết thú. Đạo só hồn mê nên cho người là súc vật.” Khi ấy, có Khổng Dónh Đạt giữ chức Quan cúng rượu lên Quốc Tử, tâm còn a dua theo Đạo Só, giấu quạt ruồi mà bảo rằng: “Nhà Phật vốn không tranh cãi. Cớ sao Pháp sư lại gây nên như thế” Sư bảo: lúc Đức Thế tôn còn ở đời, việc ấy đã xảy ra, Phật phá hàng ngoại đạo, ngoại đạo không thấu suốt, trở lại nói Phật rằng: “ông thường tự nói bình đẳng. Nay đã dùng cực nạn mà phá ta, tức là bất bình, vậy đâu gọi là bình đẳng” Phật trả lời “ lấy bất bình nơi ta để phá cái bất bình nơi các ông, nếu các ông được bình tức là ta bình. Và, nay đây cũng như thế. Lấy sự tranh cãi của Tuệ Tịnh tôi để phá sự tranh cãi của Đạo Só kia. Đạo Só ấy được không tranh cãi tức Tuệ Tịnh tôi không tranh cãi” Lúc đó, Hoàng Trữ bảo Khổng Dónh Đạt rằng: “Ông đã nói hết lời, tức thật là a dua với Đạo Só. Sư bảo: Tuệ Tịnh tôi có nghe. Người Quân tử phải biết không a dua. Khổng Dónh Đạt đây cũng a dua ư?” Hoàng Trữ tự nhiên vui vẻ cười lớn. Cả pháp hội tưng bừng hớn hở. Nhà vua ra lệnh bảo: “Chẳng những pháp lạc dẫn đến như thế.” Nên mục đích của Pháp sư Tuệ Tịnh là muốn cả Tam giáo đồng phát ngộ cùng lúc. Sư đã từng vào nội cung cùng các Đạo Só kháng luận, bàn nói quyền bính tạm thời chỉ huy, khiến mọi người ngồi chung quanh đều kinh sợ. Thái Hoãng, v.v… là những bậc tài giỏi thống lãnh trong đạo môn mà gặp phải trường hợp bị đốn phá như thế, tiếng tăm đều mất. Hoàng Trữ mắt chăm nhìn thần thái bén nhạy của Sư mà khó nói thêm gì được, bèn thỉnh Sư làm chủ chùa Phổ quang. Ban hạ lệnh viết rằng: “Pháp Sư Tuệ Tịnh là bậc Thượng toạ ở chùa Kỉ Quốc, thật đáng danh xứng cao xa, hạnh nghiệp nổi bật. Nếu làm khuôn phép trong chốn già-lam thì sẽ có lợi ích lớn.Nay xin mời trông coi đảm nhận chùa Phổ Quang” Sư lấy việc mở mang tuyên giảng làm chính, thích ở chỗ vắng vẻ. Tuy đội ân vinh hạnh mà tâm chưa an, mới quanh co cao từ, song không được chấp thuận.Bùi ngùi cảm khái ân sủng ấy, bèn vội viết khải văn cảm tạ rằng: “ Cúi vâng ân lệnh cho Tuệ Tịnh tôi làm chủ chùa Phổ Quang, nhưng trông coi việc Thượng tọa ở bổn tự (tức chùa Kỷ Quốc). Kính vâng lệnh chỉ, sợ sệt chẳng biết liệu tính thế nào! Chỉ vì Tuệ Tịnh tôi chẳng toan lường được sự vụng về dốt nát, ít chuyên kinh luận, dụng tâm vượt quá khả năng, nhân đó mắc bệnh lâu ngày khó chữa khỏi. Cứng cõi tợ chó ngựa, tuổi già suy tệ ngày một rất lắm. May nhờ còn được mạng sống mà nạp dưỡng. Ít khi giảng nói, gọt mài ngu độn, khuyên răn lếu láo, hỗn tạp đủ thứ xuy hư. Còn như cầm nắm lấy giếng mối, từ trước đến nay không hề rõ biết, sửa sang tăng chúng vốn việc chẳng quen. Ân sủng khiến kéo lôi kẻ ngu dốt suy yếu này đều là việc ân kia. Trộm nghó buồn thương rằng: “Cá nai đổi chỗ, mất sự thích nghi của khô ướt. Tròn vuông thay chất, trái với tánh nhậm vật. Tình đã chẳng bằng, sự thật bức bách cõi lòng. Vỗ mình kinh sợ, chẳng rảnh yên nghỉ. Nhưng ân chỉ to lớn, không dám từ nhượng. Kính cẩn dâng khải văn cảm tạ tấu trình, càng thêm lo sợ.” Hoàng Trữ ban lệnh đáp rằng: “Chợt thẹn nhục đón thư đem đến, rất lấy làm khoảnh khắc an ủi. Sau ba lần đọc kỹ, bất giác mừng vui! Trộm nghe rằng: Đức Như Lai tuy dấu vết khởi tại nhân gian, mà Đạo trùm ngoài trời. Thần Công Diệu lực chẳng thể suy nghó bàn luận, vắng lặng vô vi thì đường ngôn ngữ dứt, trạm nhiên thường trú thì chỗ tâm hành diệt. Chỉ vì chúng sinh tràn đầy phiền não, chìm nổi nơi sông ái, không thể không cứu vớt chúng sinh thoát ra dòng sông rộng lớn, kh- iến đưa lên đến bờ kia. Nên vào ra trong ba cõi, lên xuống ở sáu loài, rão khắp mười phương, chỉ vì như thế. Như ở đất phước Vườn Nai, non Thứu linh sơn, rưới Cam lồ ở rừng thiền, quay bánh xe pháp nơi cõi tịnh, căn dặn các Bồ-tát cứu độ muôn loài. Sau đó, phát ánh sáng trên khuôn mặt, diệt ảnh ở Song thọ. Thuyền báu tuy mất mà Di giáo hiện còn. Đó là Pháp thân Đức Như Lai không khác. Nhưng người có khả năng mở rộng Đạo, Đạo chẳng mở rộng người. Xa thì có các ngài Di- lặc, Văn-thù, gần gũi vâng thừa âm chỉ, gần thì có các vị như Phật-đồ -trừng, La-thập mở sáng kinh giáo, năm trăm lẻ một bậc Hiền, tin tưởng chẳng phải nói suông, ngàn dặm một lần gặp bởi chẳng phải lời luống dối. Pháp sư trước kia đang ở thế tục, môn xứng Đức chung, bay dãi mũ nơi trường Đông, nhã lời ngọc trên trường học, nên được bao dung hậu còn, truyền tốt đẹp giống như con. Thường dùng thơ xưng ba trăm, chẳng lìa khổ không. Điển lễ ba ngàn chưa khỏi nơi sinh diệt. Nên phát thệ nguyện lớn, hồi hướng đạo Bồ-đề, cắt bỏ hai búi tóc, đắp mặc ba pháp y, còn như kệ tụng của Đại thừa, tiểu thừa, Văn nghóa của Quảng thuyết, lược thuyết. Hay những Bộ Thập tụng, Tăng-kỳ, Tám bộ Bát- nhã là luận của hai ngài Vô trước, Thiên Thân, đàm lý của Pháp môn cú nghóa, đều vạch trần bụng ngực, khơi tháo đục trong. Còn như lên giảng toà, mở ra trường giảng. Tinh nghóa nhập thần, tùy loại đều hiểu. Tả viết biện của dòng thác, khơi động từ của Liên Hoàn, Bích khê vinh dự ở Hán Thần, Bạch Mã ngợi khen nơi Ngao lại. So sánh điều ngày nay với ngày xưa. Ấy lại phải người nào? Do đó kính ngưỡng thỉnh cầu Pháp sư làm chủ chùa Phổ Quang, kiêm trông coi việc Thượng tòa ở Chùa Kỷ Quốc. Lại nghe rằng: “Nếu Tâm riêng lành có hạn thì lý cứu giúp chúng sinh chẳng rộng, ý phân biệt ta và người chưa mất, thì tình giữa ta và người chưa bằng phẳng. Vả lại, chùa Phổ Quang và chùa Kỷ Quốc đều là Đạo tràng, xưa trụ nay ở đâu có gì khác nhau mà Pháp sư lại viết trong Trạng Văn là Cá Nai đổi chỗ, mất thích nghi của khô ướt. Đó là ý còn nơi khiêm nhường, giả gọi là trân lạ. Xưa nghe rằng: Trưởng giả Lưu Thủy cứu được mười ngàn con cá. Thợ săn nơi hoang vắng đâu hại được nai ba quy y, chỉ khiến lưới bẫy không dùng thì ngôn tượng tự quên!” Sư lại cảm tạ rằng: “Lại mong đợi lệnh chỉ, ân đượm nhuần càng lớn, tìm sâu thêm lo sợ. Chỉ vì Tuệ Tịnh tôi, Học hổ thẹn soi chiếu tuyết, hiểu thẹn thùng với truyền đăng. Lạm chịu vinh hạnh được đến chỗ chẳng hoài mong. Lại được nhờ ban rủ thần bút ấy, ban khắp dẫn dụ rộng lớn ấy. Văn sáng rỡ thần tượng, điều hợp với đá vàng. Thêm nữa ân bao gồm cả Đạo tục, thấm nhuần cả còn mất. Khen đến cao sâu, thí vượt núi biển, tuần hoàn trăm biến, buồn vui lẫn lộn. Luống biết thầm cảm, há bày đóm sương, từng phiền khúc giáng. Trông lại mình có lắm hổ thẹn. Kính cẩn dâng trạng văn cảm tạ tấu trình, lại càng thêm run sợ!” Lúc Sư đến thì Hoàng trữ lại hạ lệnh ban cùng chúng tăng ở chùa Phổ Quang rằng: nghe rằng: chánh pháp ẩn mất ở Tây vực, Tượng giáo lưu truyền đến Đông Hoa, xưa qua nay lại trải nhiều tháng năm, mà các ngài Nan-đà, Ca-diếp, Mã Minh, Long Thọ đã đồng như Bình tả, nếu có Đăng truyền nên được Diệu Chỉ vi ngôn, rủ văn thấy ý. Cho nên, ba mươi hai tướng tốt khắp đầy trời người, mười hai thể loại kinh truyền bá khắp các cõi. Người do từ đường ấy thì cao thẳng trên đường cái thông bốn hướng, kẻ mê lạc lối thì trôi lăn trong sáu thú. Hang lý pháp môn, Huyền tông mật tạng. Nếu chẳng phải là bậc sâu sắc rộng lớn trong thiên hạ thì ai có thể cùng như thế ư? Hoàng Đế đem Thần đạo thiết giáo lợi ích chúng sinh, nên xây dựng Nhân từ khắp nơi, tiếp nối làm hưng thạnh Chánh giác. Chọn đất tốt ấy, xây già-lam này. Thỉnh mời Danh tăng đứng đầu nước nhà, trưng nêu Thượng Thủ của đế Thành. Các kẻ só nơi núi rừng chống gậy đi đến, tân khách chốn triều đình mặc áo rão đến tòa. Nghóa Diên đông đúc, Bạn Pháp đông đầy. Thật là ruộng phước của xóm làng, là cõi thọ của muôn dân. Lại thêm, tùng doanh điệp cán, Tháp báu đài hoa, đánh gõ Hồng chung mà chẳng huyên náo, xướng cao Thanh Phạm mà càng tónh lặng. Như Đức Phật Lô-xá Na an tọa nơi Pháp Đường Phổ Quang, linh tướng tốt tươi, thần biến vang hưởng. Lấy nay để so sánh xưa, tối cùng thầm hợp, giữa khoảng Danh và khí đâu chấp nhận lập suông. Nhưng mà tăng đồ kết tập phải có kỷ cương. Hỏi các đại chúng ít gặp được người ấy. Nhiều ngày tìm kiếm nêu bày lại thêm bàn luận, đều nói rằng: Thượng tọa Tuệ Tịnh ở chùa Kỷ Quốc, tự tánh thanh tịnh, chẳng phải nay mới có. Phong thần tuấn tú tài giỏi, thấu mất chẳng thích hợp nay. Còn như tạng báu nơi cung rồng, tôn kinh tượng lực, đều vượt trội tự sinh nhận biết, không thầy chỉ dạy, riêng mình tự ngộ. Đâu chỉ có thuyết Tứ Đế; Nhất thừa, sự luận bàn Bảy chỗ tám hội, muốn cầu lấy chỉ quy, được hướng đến chân thật mà thôi. Nên cũng tẩy trừ huyền yếu, đọc xem chí ngôn của họ Lão, lọc sạch tinh vi, tuyên bày Nghóa mầu của Trọng Ni. Không gì chẳng hết lý cùng tánh, tìm gốc bày nguồn. Đức hạnh Sư đến như thế. Học thức Sư cũng đạt như vậy. Nay thỉnh Sư làm Tự chủ chùa Phổ Quang, trông coi cả việc tại chùa Kỷ Quốc. Song, Ngài nghó ngợi rút lại muốn sống tónh lặng chẳng chịu đảm nhận phải ân cần tha thiết thỉnh cầu mới chịu chấp nhận. Chỉ vì gia nghiệp của Bồ-tát, thể chuộng hòa hợp. Nếu đắc Vô Tránh tam-muội, tự nhiên dứt hẳn đoạn mười triền, cũng nguyện cầu tất cả chư tăng trong bổn tự cùng nhau mở rộng ý này.” Và với lễ nghi trong việc kính thỉnh đều y cứ làm theo tăng pháp. Lại bảo ban sở ty kiến tập giảng hội, thiết trai cúng dường, tất cả đều thỉnh Sư rộng khai giảng nghóa lý. Sư cho rằng các hàng quan liêu tụ tập đông nhiều, vinh quang một thưở, nếu không phải do năng lực của Kinh pháp thì làm sao có được vậy? Nên mới khai giảng Kinh Pháp Hoa, sau cùng giảng về đại luận. Các bậc tài giỏi cao quý tìm đến tấp nập cả Pháp hội. Nên hay tiếp nối, dẫn dắt tăng tục, vỗ về truyền trao học thức, dạy cúng tế, ruổi rong luận bàn làm ảnh hưởng rất lớn về kế hoạch tốt, đếm mức thấu đạt thanh ngôn, rạng ngời trước, dứt bặt sau. Có Thái tử Trung Xá Tân Tứ, với học thức thông cả Văn sử, mà ngạo dối tự khoe, đề chương đặt bút, không ai dám đương đầu đối lại có soạn viết xong được gì thì Tân Tứ đều sắp bày ra đất. Cho rằng trong chúng Tăng không có người nào được cả. Ngài tức giận sự khinh thường ấy, mới soạn luận để phảng kháng. Với lời Văn rằng: “Thích Tuệ Tịnh tôi ở chùa Kỷ Quốc kính đáp lại với Đông cung Tân Trung Xá rằng: Bày đọc xem cao luận, rộng nghiên cứu tinh vi, ý chỉ dồi dào, văn từ hoa nhã đến nỗi kinh tâm lòa mắt. Biện suốt sáng tỏ, lý vượt liên hoàn. sâu khó thốt nhiên ngang dọc, buông vẻ đẹp hay nối tiếp, ánh ngời ráng mây sánh cùng rực rỡ. Hợp vàng đá để cùng hài hòa, Văn chương rực rỡ. Khơi thấu sâu mầu, nếu chẳng là kẻ só anh triết thì ai có được tâm trần đầy như thế. Dồi dào thay của bậc Thượng nhân, nên khó cùng đối mặt. Tôi nhẹ đem trí không thông minh, dám soạn viết dâng tấu bày, đâu thể bảo rằng: xét nghi thà đáp khách hỏi vặn. Luận chép rằng: “Một lời diễn xướng mỗi một tùy loại mà nhận biết. Các loài chúng sinh nhỏ bé máy động đều có tánh Phật. Vậy thì Phật-đà cùng Tiên giác, nói theo tục khác. Trí tuệ và Bát-nhã nghóa vốn huyền đồng. Tập trí giác như chẳng là Thắng nhân, niệm Phật tuệ há lên quả mầu?” Xin đáp rằng: “Lớn thay điều nêu lên ấy! Xa kín sâu mầu, mịt mờ khó lường biết. Chúng ta có thể tin ư? Hay là nghi ngờ? Nếu tin thì chẳng lẽ không như thế, còn nếu không tin thì chẳng lẽ chẳng sâu vậy ư? nhưng mà, hàng hạ só chẳng cười. Vì chẳng đủ lấy làm Đạo. hàng Trí cạn chẳng nhạo báng. Vì chẳng đủ lấy làm sâu. Hàng kính đạt cao minh, chắc chắn không cười hay nhạo báng. Chỉ bởi lời nói ấy lăng lạc, lý đắm trong hiềm nghi. Nay tôi nói lược đại khái cho nghe, như là hỏi Đồng mà đáp khác. Văn rực rỡ nơi sách Khổng, Danh một mà nghóa trái. Lý rõ ràng trong kinh Phật. Như tên gọi đồng thì chẳng chấp nhận nghóa khác, thì hỏi một chẳng được đáp khác. Thể lệ này đã lên thì kia đồng đều tự xuống. Nếu ông chưa thấu hiểu thì sẽ chỉ bày lại. Hễ trụ vào không chỗ trụ thì muôn điều lành do đó mà gồm tu. Làm không gì chẳng làm, một lời do đó mà đều ứng. Đâu chỉ dứt bặt thánh, xả bỏ trí, ôm lấy một, giữ lấy mềm yếu, lạnh nhạt riêng mình tốt, nghóa không gồm giúp. So sánh lời hơn kém, đó có thể thường ư? Hai Tông đã trình bày, trăm nạn ngừng dứt.” Luận chép rằng: “Chắc chắn cho rằng Danh ngôn kia đây có thể phân biệt, một lời mà mỗi mỗi tự hiểu, là thường quen không bàn luận.” Xin đáp: “Thật ý chỉ của Như Lai cũng phải phân biệt. Trộm về tiêu dao nơi một. Chim Bằng, chim yến chẳng thể ngang bằng chín muôn. Tốt tươi hay khô héo là đồng. Cây xuân cây nấm chẳng thể ngang đến tám ngàn năm, huống là lửa bó đuốc mà ngang bằng mặt trời, mặt trăng. Phương của ngâm tưới lúc mưa, thà đem phân đồng làm sáng tỏ thấm nhuần, mà bèn quân bình sự tươi sáng thấm nhuần. Còn như một sơn hào, lớn hay nhỏ, Bành Thương đều là thọ yểu. Cột đình loạn ngang dọc, thi lệ lẫn lộn sự đẹp xấu. Ấy đều do cùng đãi ngộ nhau chẳng nhất định, xâm đoạt lẫn nhau có thể quên. Trang Sinh do đó dứt bặt chỗ có bít lấp, chẳng thể cho là ban đầu không vật. Đó là vì tôi phân biệt, thì ông phân biệt, ông quên phân biệt thì tôi quên phân biệt. Quân tử bàn dữ may không luận cợt bỡn, một lời dễ mất, dẫu xe ngựa bốn con cũng khó đuổi tìm. Văn ấy dạy răn, sâu sắc đáng thận trọng thay!” Luận chép rằng: “Các Hành vô thường, xúc loại duyên khởi, lại tâm có đối đãi, giúp ý vượt tìm cầu. Vậy thì ta thanh tịnh thọ ở huân tu, tuệ định thành do khéo khắc”. Xin đáp: “Có vô thường nên ta đi, có duyên khởi mới có ta đến, cho nên ta đi. Ta há là thường ư? Mới có Ta đến, ta há là đoạn ư? Mới nên tương truyền, nhờ huân tu để thành tịnh. Tốt Xấu cùng thay nhau, chẳng phải khéo khắc mà khó công, cho nên sinh diệt phá bỏ Đoạn Thường, Nhân quả hiển bày Trung quán. Tốt tươi thay, là tông bàn luận ư, là Diệu vậy! Đó thật là Trang Thích Huyền Đồng, Đông Tây lý hội, mà chúng ta bỏ kia lấy đây, vậy không sai lầm hay sao?” Luận chép rằng: “Tiếp tục nuôi sống Chim le, giết tiệt chim Hạc dang thường há là chân như. Cò hóa Ong bay, ở đâu yếu mất?” Xin đáp rằng: “Tự nhiên tức là Báo phần, huân tu tức là Nghiệp lý. Báo phần đã định, hai chim kia chẳng ham muốn ở mạng sống ngắn dài, Nghiệp lý vốn duyên, hai chim đều đợi chờ mà bay hóa. Nhưng mà sự vật hiện tượng dễ nghi, thầm hợp khó hiểu. Kẻ só cầu vẫn lầm hoặc không dứt, còn như những vị Đạo chứng được bốn quả còn mê mờ hạt châu trong túi áo, Bồ-tát hàng Thập Địa, còn mịt mờ la hộc. Các bậc Thánh Hiền còn như thế, huống gì hạng tầm thường ư? Tự chẳng soi kiến ba minh, hùng bay bảy biện tài, đâu có thể khéo khế hợp huyền cực, phu diễn nghiên cứu sâu mầu? Bần đạo nhờ vị thọ nghiệp cửa nhà, bè bạn theo đó gởi. Nguyện có thể chọn tốt lành, dám dâng có sô củi rạc. Nếu như khua đánh, xin nguyện rõ điệp vàng vậy!” Khi ấy, những người Qúy đạt ở khắp cả lang miếu đều kính ngưỡng cao phong, mỗi người cất giữ một Bổn đeo ở cổ áo, cùng nhau tụ bàn vui lấy làm lời trước tiên. Tân Tứ ngay khi ấy mang đội trên đảnh đầu, chóng bỏ lưới tà. Chốn đế đô vinh hiển, vạch mây trông nhìn mặt trời. Mỗi tự thấu triệt vàng lụa, tạo dựng phước đức lớn. Có Sa-môn Pháp Lâm là người bao gồm kinh sử, nắm bắt mọi điều, thấy biết những điều xưa trước. Nhân phá tà nghi mới gởi thư đến, thư viết rằng: “Gần đây được đọc xem luận Chiết Nghi đáp lời Tân trung Xá, từ nghóa bao trùm, nêu bày tỷ dụ siêu tuyệt. Ánh sáng ngọc làm mờ mắt của Ly Chu. Tiếng khua vang làm nhức óc Sư khoáng. Hẳn về Diệu lý cùng trong Hoàn Vũ, sự tận cùng vườn biện luận. Thí như ngọc hành ngang bằng Tuất mai, như biển cả mênh mông gồm thâu nước trăm sông. Rực rỡ thay! Cao vợi thay! Lời vượt quá sự thấy nghe, lý thoát ngoài sự nghó bàn, đủ có thể lấp cửa các sự thấy biết, mở đường đắc ý. Còn như Trú không chỗ trú, nghóa của gồm tu ở đó. Làm không gì chẳng làm, công tề ứng lớn. Đem lệnh giữ mềm yếu, Nhan hậu khéo léo bẻn lẻn hình dung. Mới hiển bày lý khác, há Huyền đồng có thể được hay sao? Hễ lập tượng để bày ý, được ý thì tượng quên mất, nếu quên được điều đáng quên thì tình của đây kia đều hết. Chẳng phải quên cái chẳng đáng quên thì tình của đây kia đều hết. Chẳng phải quên cái chẳng đáng quên thì cái khác của Đại Tiểu có khác. Vậy đủ biết, mặt trời mặt trăng đã lớn dụng thì không dùng ánh sáng của bó đuốc. Lúc mưa đã tuôn, há nhọc phiền sự đượm nhuần của ngâm tưới. Nên nói đây kia có thể quên, chẳng phải là không đây, cho nên ta đi, vì cố đi mà biện luận vô thường, Ta mới đến, gá mới đến mà bàn về Duyên khởi. Chẳng phải mới, chẳng phải cũ, nghóa của huân tu chẳng thành, không sửa không khắc thì công tốt xấu ai mang lấy. Bởi lấy sinh diệt để phá cái mê đoạn thường kia, gá nhân quả mà nêu bày đường của Trung Quán ấy. Chấm dứt Đoạn kiến, thường kiến thì yếu mất đồng quy, lý Trung Quán dung thông thì chân như tự bày. Hoặc bàn về ng- hiệp lý để làm rõ huân tập, chợt mở Báo phần để giải thích tự nhiên. Ý vượt ra đầu mối tình cảm, chỉ quá ngoài văn. Báo phần có đó, le hạc tự quên mất mạng sống ngắn dài. Nghiệp và lý làm nhân cho nhau thì cỏ, ong mỗi thứ tự chịu bay hóa. Có thể gọi đó là ở trong không danh tướng mượn danh tướng để nói, hiểu chân hội tục, há chẳng vậy ư? Tân Trung Xá có thì Thiên bẩm chưa ngang bằng người có thuyết tận lý. Ông ấy có thể xấu hổ với tang ngẫu. Nhan sinh có thẹn thì ngồi mà mất. Có thể dứt hai thứ lấy, bỏ, hết nhất trí của điên đảo. Sở đã được đó, Tề cũng chưa là mất, Pháp sư thông hiểu chúng sinh chẳng ai bằng, Trí nghó vô hạn. Ngay đây riêng bước một mình, và ngay đây làm rường cột. Đã là chỗ mọi người cùng nhận biết, thật cũng Danh xứng vang khắp. Thêm vì nhiều lần ra mắt nơi cửa vàng, từng lên chỗ ngồi trên, quạt gió huyền nơi áo hạc, đánh trống pháp ở lầu rồng, bảy thứ quý trút rót vào sống mòi, Ngũ sư suy cử Thần tuấn. Đã tung cánh che, lại vung vãi bể rộng. Ngang hàng cùng Chi tuần, Vương Hà đâu kham cùng sánh. Phương của Miên Tổ, kê nguyễn chưa đủ liên hành.lấy xưa liệu nay. Sư có đủ như thế! Pháp Lâm tôi bị bệnh ở Nam Sơn, gá tâm nơi hang sâu, chẳng ra chẳng ở, mênh mang nghó ngợi với gió mây, chẳng thấy chẳng nghe, gởi tình cùng suối đá. Tình cờ xem đọc Danh tác, thật dứt ưu phiền, chợt đọc Huyền chương, thì dứt bệnh tử xưa. Bồi hồi ngâm đọc, xoay quanh quấn mở, cất giữ ôm hoài trong tay áo. Bất giác lấy giấy viết chữ lược bày mãnh ý, kính cẩn bộc bạch thư này!” Ngài soạn Phú Từ vì các Đạo Hiền khen ngợi như thế. Đến niên hiệu Trinh Quán thứ mười chín (sáu trăm bốn mươi lăm) cũng còn xem trọng việc Phiên dịch, quan sở ty phân biệt, lại không liên loại. Nhà vua ban chiếu thỉnh Sư đến, Sư cáo bệnh bèn thôi. Nay Sư đã sáu mươi tám tuổi, tiếng tăm vang vọng càng cao. Tâm bệnh có lúc phát động, hoặc dừng mưa Pháp, tạm có lúc đăng lâm đến nơi học quán. Bạn nghóa thì tiếp nối mũ miện Sư, văn cú thì định phân dài ngắn, từ thể thì nêu bày tinh hoa, âm vận thì hòa cùng hài điệu, thần khí Sư cao sáng đủ dẫn những lẻ yếu hèn, nghi dụng Sư sâu sắc càng mở Liên só. Đó đều là tự bắt đầu mà liền viết. Nên không thể hết những tiêm ẩn, v.v.. của Sư. <篇> TỤC CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 4 CHƯƠNG I - PHẦN 4: DỊCH KINH (Chánh truyện có hai vị) 1/ Truyện ngài Thích Huyền Trang chùa Đại Từ Ân ở kinh đô. 2/ Phạm Tăng Na-đề chùa Đại Từ Ân ở kinh đô. đô. 1/ Truyện Ngài Thích Huyền Trang trụ chùa Đại Từ Ân ở kinh Thích Huyền Trang, ngài vốn tên Vó, họ Trần, là con cháu của Hán Thái Khâutrọng cung.Con cháu dời đến ở Hà Nam, nên là người họ Hầu ở thị, Lạc Châu. Ông nội Sư là Khương Bắc Tề Quốc tử bác só, Cha của ông mẫn tuệ, sớm thông kinh thuật, thân cao 08 thước, mặt mắt sáng trong, được phong làm Giang Lăng lệnh, nhưng từ chức mà lui về. Lúc ấy là khoảng niên hiệu Đại nghiệp (sáu trăm lẻ năm- sáu trăm lẻ bảy) đời Tuỳ. Các vị thức giả lấy làm khắc trọn. Đợi chờ ẩn trầm nên thế. Ngài có người Anh vốn xuất gia trước, tức là Pháp sư Trưởng Tiệp, dung mạo rực rỡ, hình nghi khí cục khôi ngô anh tú. giảng nói giải thích nghóa kinh, người học rất đông.Hiện trụ chùa Tịnh Độ ở Đông Đô. Nhân thuở thiếu thời, Sư bị khốn khổ nên anh Sư vì thế mà dắt. Thường ngày giao cho tinh lý, cạnh đó kiêm xảo luận. Năm mười một tuổi, Sư đọc tụng các Kinh Duy-ma, Pháp Hoa. Tại Đông Đô thường độ tăng, Sư bèn dự cùng xuất gia. Từ đô, Sư là bậc phát chánh chân cao vợi, đồng bạn chẳng sánh bằng, Sư miệng đọc mắt lược xem qua không thiếu sót. Thấy các vị Sa-di đùa bỡn quá lắm, Sư bảo rằng: “ Trong kinh chẳng dạy răn ư? Hễ là người xuất gia thì thực hành theo Pháp vô vi, chứ đâu lại thường làm trẻ con đùa bỡn? Đáng gọi là luống không một đời”. Sư nghó suy ôm hoài nghiêm chỉnh, còn xem thường mà chẳng chọn lựa. Sư vượt hẳn mọi người,, nên để lại hình nghi trước lời nói. Bấy giờ, ở Đông Đô, pháp sư Tuệ Nhật đang mở rộng Pháp tịch, thường giảng nói các Kinh luận như Niết-bàn, Nhiếp Luận, Luân trì. v.v….Sư đến nghe thọ, sớm tối tư duy chọn lựa. Tăng chúng lấy làm lạ, mừng vui kính phụng, ngợi khen phong thái của Sư. Mến kính Sư như thầy bạn cùng dự vinh hạnh. Đại chúng trọng chuộng công phu học hành, mở lớn việc làm. Lúc ấy, Sư vừa mới mười lăm tuổi. Do đó, Sư chuyên môn thọ nghiệp mà tiếng tốt vang xa. Trong những năm còn lại của niên hiệu Đại nghiệp (…sáu trăm hai mươi bảy), giặc giã đói kém, hai duyên pháp và thực không ai cứu giúp. Nhờ có Sa-môn Đạo Cơ cởi khai hóa, dẫn dắt pháp tục. Tăng tục đều khâm phục kính trọng. Sư và anh bèn cùng theo, đi đến Trường An trụ chùa Trang Nghiêm. Lại chẳng phải chỗ vốn hoài mong của Sư, nên đi về hướng Tây, vượt gác kiếm. Khi đã đến Thục đô, Sư liền thọ học Luân A-tỳ-đàm. Chỉ một lần nghe qua liền nhớ ghi, thấy xưng với người xưa, tùy lời xét lý lại cao trội khác thường v.v… Còn như các Bộ Tỳ-bà Quảng Luận, Tạp Tâm huyền nghóa, không thứ nào Sư chẳng nghiên cưú đến tận cùng ngõ ngách, ngọn ngành vóc dáng. Nhưng các bộ luận ấy tại Trung Hoa đã truyền bá, giảng diễn rất nhiều, các bản chương sao đồng dị tính ra có hơn hai mươi thứ đều kết tập, cất trong tứ phủ, văn trì tự nhiên. Còn như đối với thuyên chỉ được mất, mà Sư hay dẫn dùng không mắc kẹt, người đương thời đều sinh ngờ vực về sức ghi nhớ của Sư thật từ xưa ít có. Sa-môn Đạo Cơ thường ngoài trông nhiều mà khen ngợi Sư rằng: “Từ lúc trẻ, tôi đã đến nhiều trường giảng, song, chưa từng thấy vị thiếu niên nào thần ngộ như người này!” Bạn Đạo nghe học ở torng Pháp tịch đều gọi Sư là “Anh hùng”. Bốn phương nhiều vấn nạn, tất cả đều trở về thưa hỏi. Sư cùng xưng tán, qua miệng truyền lời. Có Pháp Sư Tăng Cảnh là người giảng về Nhiếp Luận, tiếng tăm vang vọng cả Ca Diên. Người đời cho là khó có thêm được người nào nữa tìm tòi được tinh xét. Tất cả đều do Pháp Sư theo tông chỉ, y cứ góc cạnh sâu sắc, cân nhắc rõ ràng. Xưa nay, Nhiếp luận có mười hai trụ nghóa, trong ngoài gồm có mười hai nhà giải thích vạch bày, giảng truyền trì tụng, dần hồi dẫn đến có lắm mịt mờ. Mà Sư (Huyền Trang) ban đầu mới nghe qua, ghi nhớ không sai lầm mảy may. Lên pháp toà lần lượt trình bày, chẳng cần nương theo nữa. Bèn giải thích lại, hình trạng vượt cả sự đã thành trước. cùng loại như thế có rất nhiều, không thể nói hết được. Niên hiệu Võ Đức thứ năm (sáu trăm hai mươi hai)- thời tiền Đường, lúc đó Sư mới hai mươi mốt tuổi, vì các Học phủ, Sa-môn Hùng Bá mà giảng “Luận Dương Tâm”, chẳng nhìn lời văn mà đọc giảng trôi chảy khôn cùng. Người đương thời xem Sư như là vị “Thần”. Nếu chẳng phải thần làm sao có khả năng như thế? Sau đó, Sư cùng anh cùng trụ tại Chùa Không Tuệ ở Ích Nam. Sư tự riêng suy nghó rằng: “Học qúy ở chỗ kinh xa nghóa trọng, sơ thông xét ngưỡng một phương, chưa thể thành sâu sắc!” Có Sa-môn Đạo Thâm thể ngộ Thành Thật, sức học dồi dào, đang nắm quyền hoằng hóa, chấn chỉnh giềng mối ở Triệu bang Sư phấn phát từ nội tâm, sắp bỏ Ba Thục. Pháp Sư Trưởng Tiệp rất biết Sư suy lường xa xăm. Với tình cảm đoái hoài thường xuyên khuyên lơn cố gắng, mà chính ý Sư đã đi, thề không trở lại. Nên Sư bèn cáo biệt giả duyên, đi đến Giang Hiệp. Trên đường trải qua các Châu Kinh, Dương v.v.. hỏi thăm những người bên cạnh đi chung đường, chẳng ai biết về đến chỗ nào. Sư bèn theo hướng Bắc đi đến nơi tham cùng dũng khởi, vốn noi theo mừng hỏi khắp nơi không bỏ sót, trước sau ròng rã suốt mười tháng, nương nhờ sắp hết. Bấy giờ, học chúng ở Yên Triệu cùng nhìn nhau như gặp thu, đi sau mà đến trước, chỉ có người ấy. Có Sa-môn Tuệ Lâm, tiếng tăm đạo hạnh cao xa, hành giải tương ưng, khoa tráo xưa nay, riêng một mình ở trong đất Nghiệp, xướng dạy truyền trao, ngôn từ ý chỉ sắc bén, cả nước đều đề cao kính trọng. Sư lại tìm đến theo học, đối với người từ khi mới sinh đến giờ chưa biết mặt, nhưng vừa mới gặp thì như thân quen xưa cũ, bỏ hết lễ nghi thầy trò, mọi sự đều bình đẳng như bạn đạo. riêng vì một mình Sư mà giảng Tạp Tâm, nhiếp Luận, chỉ vạch chỗ sâu ẩn, vẽ bày giềng mối. Liên tục suốt tám tháng Sư nhận lành thù đáp không nhàm chán. Sa-môn Tuệ Lâm kinh lạ hết lời khen ngợi, vỗ tay mà ca ngợi Sư rằng: “Người ít có ở đời chính là Ông!” Sa môn Đạo Nhạc là bậc Tông sư về luận Câu-xá, chuyên mở mang Hữu Bộ, bao trùm các lãnh tụ, nuốt nạp vào lòng, dấy sự nghiệp ở chốn kinh kỳ, bày khuôn phép cho cùng học chúng, Sư bèn lại theo. Mở dấu vết nơi kinh đô, vạch đường ở nghóa uyển. Sa-môn Đạo Thường là bậc lừng danh một thời, sửa sang sắp đặt giáo ngộ, đồ chúng đông đúc như rừng. Sư vừa mới nêu một hỏi mười, đều được trình bày đến chỗ sâu kín. Ngồi trong kỷ tử, nghó những điều chưa nghe, do đó mà Danh tiếng vang khắp Đạo lưu, tiếng thơm ngày một lan tỏa! Có Sa-môn Tăng Biện là bậc Luận só Pháp Luân, đứng đầu các bậc căn cơ lanh lợi, bảo Sư cùng đến chung tòa và nói là đệ tử của tôi chỉ vì một Bộ Luận Câu- xá, từ kia chưa từng được nghe.” Nhân đó mà đáp lại, sớm tối thưa hỏi. Ngài Đạo Nhạc xét nghó tình cảm đậm đà đến như tuệ ngộ, vạch bày sáng tỏ, nhạc thuyết khôn cùng. Tùy sự lục loại sâu ẩn, nghiên cùng gặt hái, thử nếm khắp cùng rốt ráo. Sa-môn Huyền Hội là bậc tông tượng phân tích Niết-bàn, san bổ các bản cựu sớ, lại trương bày cầm sắc, Sư trước tiên nương tựa đó mà thưa hỏi, gần bên cạnh đầu mối pháp tịch dò hỏi chất vấn hồi lâu, tự nhiên bừng sáng dứt hết mọi vướng mắc. Bộc-Xạ-Tống-Công Tiêu Vũ kính trọng khả năng dónh ngộ vượt thoát của Sư, bèn trình tấu thỉnh Sư trụ tại chùa Trang Nghiêm. Nhưng đó chẳng phải bổn hoài ý chí của Sư, Sư lại suy nghó rằng: “Ta đi khắp các xứ Ngô Thục, rão cùng Triệu, Ngụy, cuối cùng lại đến Chu Tần, đến dự các thường giảng, dẫn tới đều dẫm lên. Ngôn lệnh đã bày bố dù chứa nhóm trong ngực trong bụng. Từ Tông chưa tuôn trào, chẳng chỗ mở thêm. Nếu chẳng xem nhẹ coi thường mạng sống phát thệ nguyện đi đến Hoa Tư, làm sao có thể đủ lễ thành lời, dụng thông thần giải? Một khi đã thấy được Minh Pháp, rõ nghóa chân Văn, cần trở lại Đông Hoa để truyền bá mở mang Thánh Hoá. Thi các bậc Tiên Hiền cao thắng đâu quyết nghi đối với Đức Di-lặc. Các hàng Hậu tấn dónh ngộ bén nhạy làm sao tiếp nối ý tưởng đối với Luận Du-già ư?” Lúc đó, Sư vừa tròn hai mươi chín tuổi, Sư bèn cố gắng một mình riêng nêu, tự đi đến cung quyết, lấn dâng Biểu văn trình bày, mà quan hữu Ty chẳng vì đưa đến. Sư đành dừng vết ở chốn kinh đô và các xứ vùng ven, rộng ra đến các chốn Phiên ngung, học khắp các Thư ngữ, đi và ngồi đều tìm xét, chỉ vài ngày đã thông. Bên cạnh chỗ ngồi, Sư thường xoay mặt về hướng Tây vực mà nghó ngợi lắng nghe cơ hội và thời gian. Đến niên hiệu Trinh Quán thứ ba (sáu trăm hai mươi chín) gặp thời thế đói kém Vua Thái Tông (Lý Thế dân) ban sắc cho các hàng Đạo tục, tuỳ đến các nơi. May nhân thời gian đó, Sư bèn sang Cô Tàng rồi dần đến Đôn Hoàng. Đường đi từ Thiên Tải, mang theo lương thực chiếc bóng, trông nhìn phía trước mà lo lắng, chỉ thấy bãi cát bằng phẳng, không dấu chân người đi qua. Sư bèn bồi hồi phó mặc thân ma- ïng, tùy nghiệp mà dấn thân bước tới trước, lần lượt men dò, Sư đi đến đất Cao Xương. Ban đầu, Sư trụ tại Lương Châu, giảng nói kinh luận, các hàng só thứ ở Trung Hoa và các nơi đến nhóm họp quy tông rất động, thương khách lan truyền vang vọng đến các vùng ven. Vua nước Cao Xương là Khúc Văn Thái rất kính tin kinh Phật. Lại nhân nghe Sư sắp đi về hướng Tây, nên luôn đặt các nhà trạm dùng ngựa đưa tin khắp nơi trong nước cùng đón rước. Bỗng nghe tin Sư đến, bèn đứng đợi thâu đêm. Vương mẫu phi cầm đuốc đứng trước Điện. Thấy Sư trải qua lắm thứ khó khổ, Bà dùng đủ lời nói về ý ấ, cả cung đều rơi lệ, kinh lạ cho là ít có. Nên thỉnh Sư ở dừng lại kiết hạ an cư. Đồng thời thỉnh Sư khai giảng mở mang. Nhà vua kết nghóa với Sư, Sư làm Em, làm con Vương Mẫu, cúng dường cung cấp mọi thế lễ rất nồng hậu. Mỗi ngày thường đến. Nhân đó, Sư bèn khai giảng các Kinh Nhân Vương, v.v… và các thứ cơ giáo. Đạo tục thảy đều quyến luyến, đều cầu mong Sư ở lại lâu dài. Sư bảo rằng: “Tôi vốn muốn mở mang Đại hóa, xa khắp nước nhà, chẳng từ mạng hèn nhận chịu sự chết mà tìm đến Tây Vực. Nếu như lại dừng ở đây thì chẳng những. Không chỉ tự thiếu tâm chí phát túc, mà còn sợ đều là Pháp Chướng!” Sư bèn bỏ ăn ba ngày, thấy ý chí Sư cùng cực như thế bèn không ai còn dám mở lời. Vương Mẫu bảo rằng: “Nay cùng Pháp sư một lần gặp gỡ đều là nghiệp nhân duyên xưa. Nếu lúc đã đạt được thành quả thỏa lòng mà trở về phương Đông, xin nguyện lại nên rủ lời răn bảo!” Và bèn cùng nắm tay Sư truyền Hương tín, thề làm mẹ con. Khúc Văn Thái rơi lệ nắm tay mà từ biệt. Và bèn ban sắc cho Điện Trung Thị Lang mang năm trăm xấp vải, hai mươi bốn phong thư, và cấp cho sáu mươi người cùng cưỡi ngựa đi theo, tiễn đưa Sư đến Đột- quyết Diệp hộ Nha Sở. Vì có hơn sáu mươi nước ở phía Bắc núi Tuyết đều do Khúc Văn Thái làm Bộ thống nên như thế. Lại sai bảo truyền đạt tin Sư tới nên mở đường trước. Ban đầu, Sư đến Nha Sở, tín vật gấp bội lắm lạ khác với lệ thường, cho đó là Em và Con. Sư bảo cho biết rõ sự tình. Cuối cùng có sự không tin. Khả-hàn (vợ vua Đột-quyết) mến trọng các của vật đút lót ấy, sai sứ cưỡi ngựa báo cùng sở bộ ở các nước. Chỉ nơi nào có Danh tăng Thắng địa thì phải đưa Sư đi đến. Khi đó các đoàn cỡi ngựa liền nhau có đến hai mươi người, lớn mạnh như Hoàng Hoa. Trên đường đi trải qua các nước lần lượt tham hầu, cung cấp mọi thứ gấp bội, ưu việt hơn trước. từ Cao Xương đến Thiết Môn trải qua tất cả mười sáu nước, người vật hơn kém, kính phụng tin trọng thuần thục, đều có nói đủ trong các Đồ truyện. Thiết Môn tức là Thiết Môn quan, thuộc phía Tây Bình của Đất Hán. Vào núi sâu năm trăm dặm, bên cạnh không có con đường nào khác, chỉ có một con đường đi ra theo hướng Nam rất nguy hiểm, bặt bóng dáng người vật. Hai bên vách đá đứng sững cao vút ngàn nhận, mầu như sắt, nhân đó mà gọi tên. Thấy cánh cửa Hán-môn một đứng một nằm, ngoài sắt trong gỗ, lại treo thêm các thứ chuông linh, hẳn là để ngăn che ải ấy, thật chỉ có trời xanh. Từ phía Nam đi ra cửa ấy, đất ruộng ấm áp, hoa quả tốt tươi. Xứ đó tên là “Đổ-hoá-la” bề ngang hơn ngàn dặm, bề rộng hơn ba trăm dặm, phía Đông xa tận đến Thông Lãnh, phía Tây tiếp giáp với Ba-tư. Phía Nam là núi Tuyết lớn và phía bắc là điểm cứ từ Thiết môn, quấn quanh trong dòng sông lớn phát xuất dòng chảy từ phía Tây, tức trong các kinh thường gọi là sông “Bạt-xoa”. Ở Địa vực ấy tự chia thành hai mươi bảy nước. Mỗi nước đều có vị Quân trưởng tin trọng Phật giáo. Chư Tăng ở xứ đó lấy ngày mười sáu tháng mười hai bắt đầu an cư cấm túc theo tiết xuân phân, vì vào thời gian đó thời tiết ấm nóng nhiều mưa. Lại đi thẳng tới trước, trải qua mười ba nước, đến nước Phược-hát, đất đai xa rộng bát ngát. Bấy giờ theo tập tục gọi đó là Xá thành Tiểu Vương. Nước ấy gần với Diệp Hộ nam nha. Theo phép thông thường tại xứ Đột-quyết thì mùa Hạ ở chốn đồng trống phía Bắc hoa cỏ tốt tươi, thả súc mọi vật là tốt hết. Mùa đông thì ở trong núi, vì để ngăn bớt giá lạnh. Nên có hai chỗ Vương Đô. Về phía Tây nam ở ngoài thành có một ngôi chùa, trong chùa ấy có cái bồn Phật tắm có thể dung chứa một hộc và cái chổi Phật quét, và có răng phật. Giữ gìn rất trang nghiêm, sợ khó cho trông thấy, Sư là Quốc sứ nên đích thân được mang đội trên đảnh đầu. Cách phía Tây bắc không xa có hai thành Đề-vị, Bà-lợi, có ngôi tháp cao tận đến hư không tức là nơi bổn Ấp của Trưởng giả cúng dâng bột gạo rang lúc Đức Phật mới Thành Đạo đó là ngôi tháp tôn thờ tóc và móng tay Phật. Lại theo hướng Đông Nam đi đến trong Núi Tuyết cách hơn bảy trăm dặm, tới nước Phạm Diễn. Ở đó, Tăng chúng có vài ngàn vị, chuyên tu theo Xuất Thế Bộ. Tại núi thuộc phía Bắc vương thành có xây dựng pho tượng đá cao năm trăm thước. Ở phía Đông thành có tượng Phật nằm dài hơn ngàn thước và xây dựng với hình thức các tinh xá nối tiếp nhau, dùng vàng và các vật báu trang nghiêm loé sáng mắt người. Những ai trông thấy thảy đều ngợi khen. Lại có Xá-lợi răng Phật, răng của vị Duyên giác ở thời kiếp Sơ, dài đến năm tấc,răng của Kim Luân Vương dài ba tấc. Và bình bát, pháp y chín điều mầu đỏ của Tổ sư Thương-na-hòa-tu vẫn hiện còn. Lại từ phía Đông núi đi đến nước Ca-tất-thí. Ởđó, sự kính tin tôn trọng Phật pháp càng cao sâu, chư tăng có sáu ngàn vị, phần nhiều là tu theo kinh Pháp Đại thừa. Vua nước ấy tạo lập tôn tượng bằng bạc cao trượng tám, mời thỉnh khắp cả xa gần, rộng dựng lập Danh đàn. Ở nước đó có chiếc răng của Đức Phật ở kiếp đang tu Đạo Bồ-tát, dài một tấc. Lại có tóc dài hơn cả thước, kéo dài ra và buông ra thì thun lại theo hình xoắn ốc. Phía Bắc xứ đó, Dân chúng lẫn lộn giữa chủng tộc người Hồ và rợ Nhưng. Chế độ ăn mặc, cử chỉ không giống như ở Đại Hạ (Trung Hoa) gọi đó là “Biên Quốc Mật-lợi- xa loại” Hán dịch là “Chủng tộc cấu trược”. Tiếp đi đến phía Đông khoảng bảy trăm dặm là nước Lạm-ba, đó tức là phía Bắc Ấn-độ. nói Ấn-độ tức là từ gọi đúng của Thiên-trúc. Còn nói là “Thân-độc” hay “Hiền-đậu” đều là gọi sai. Nói về xứ đó thì lưng phía Bắc là núi tuyết, ba phía còn lại giáp với biển lớn. Địa hình ở phía nam hẹp như vầng trăng thượng huyền ( mồng bảy tháng tám) sông bằng rộng trải dài hơn chín muôn dặm. Có hơn bảy mươi nước ở trong đó. Bấy giờhoặc do trái phânlược Địa Vực là Nước, nay thì khắp cả vùng ven cả ba biển cùng đồng một lệnh vua. Ở phía đông núi tuyết, đến nước Na-già-la-hạt, là nói xưa kia khi Đức Phật tu hạnh Bồ-tát trải tóc phủ bùn, nói rõ trong các kinh, ý có nghi ngờ thì tìm xét khảo bàn về Bổn sự, tức từ Hiền kiếp trở về trước, 03 Đức Phật Liên Hoa, Định Quang và Danh Thù đã chẳng đồng trong một kiếp lại thường bị Hỏa tai, vì sao ở chỗ xưa đến nay vẫn còn đất bùn ướt? Nếu cho là luống dối, thì Phật chẳng nói dối. Như các Luận sư mỗi vị tự bày nêu kiến giải khác nhau, có luận sư nói rằng: “Đó thật là Bổn địa, Phật không nói dối, truy trải qua kiếp hoại, nhưng do chỗ Bổn không, do nguyện lực trang nghiêm như Nhân sự. Đó đều là do Đức Như Lai lưu hóa, vết tích ấy vẫn thường còn, chẳng đáng lấy làm lạ. Nên tại thắng địa ấy ở phía trái có xây các ngôi tháp; tức là tên gọi đúng của linh tháp. Còn nói Thâu-bà-đẩu-sát-bà là gọi sai. Vua A-dục, Hán dịch là Vô Ưu, ông hậu không được thấy Phật, khởi các cảm luyến, nên khắp các Thánh tích đều dựng có lập Minh ký. Vì vậy ngay tại chỗ đó xây ngôi tháp đá cao hơn ba mươi trượng. Lại có ảnh Phật trên vách đá ẩn giấu các tướng, đều dựng nêu ghi, đồng thời giống như trước. Cách phía Nam Thành không xa, trong thành Hê-la có xương đảnh của Đức Phật, chu vi to lớn một thước hai tấc, tướng trạng cao bằng hình dáng như lọng Trời, đầu Phật phủ đậy như mâm lá sen.mắt Phật tròn, tròng mắt hình trạng như lý, lắng trong sáng ngoài. Có Đại y của Phật mầu vàng đỏ. Tích trượng của Phật, dùng sắt làm vòng, dùng gỗ Đàn hương mầu tím làm thân cán. Năm Thánh tích này đồng ở trong một thành. Việc giữ gìn bảo trọng được coi như là Di sản vật báu của nước nhà. Phía bắc thì gần nước Đột-quyết, xưa kia đã từng có lần xâm chiếm cướp đoạt. Tuy nhiên, đến nơi thì chỗ ấy biến mất, đó là tùy duyên ẩn hiện, không hề bị uy phong binh lính cướp phá. Sư kính cẩn được trông thấy linh tướng mà buồn cảm lệ trào hoen my. Tự tay bốc vung bột hương đích thân trông thấy thể trạng, lại càng vui mừng gấp bội. Liền lấy hoà hương ấn vào xương đảnh, trông thấy có điềm lành, lại càng vui buồn lẫn lộn. Gần đó, có vua xứ Bắc Địch Đại nguyệt Chi muốn biết quả báo ở tương lai, bèn dùng Hương để xem tướng, thì hiện bày ra hình tướng con ngựa,rất trái với sự mong cầu.Vua bèn tu tạo các việc bố thí, tích công sám hối, lại dùng hương để lấy tướng thì hiện ra hình sư tử, tuy ở địa vị chúa tể muôn thú nhưng vẫn thuộc loại súc sinh. Vua lại tinh thành quy hướng nương tựa gấp bội, bèn hiện hình người, trời. Khi ấy, vua mới trở về nước cũ.Thấy năm tướng và một đồng tiền vàng, người lấy bảy tướng trả bảy tiền vàng. Vật báu do lợi thế tục ấy được sung vào Vật Phước. Đã chẳng phải do chư tăng trông coi, thì giữ gìn càng tôn trọng. Không luận là kẻ đạo người tục đều phải trả giá trước. Sư được lệnh vua nên trông xem khắp cùng. Chư tăng các nnước bên cạnh nương vinh hạnh trọng vọng ấy đồng đến lễ yết. Từ phía đông núi, đi đến nước Ma-kiệt-đà, ở đó có hơn ngàn ngôi chùa Phật giáo, Dân chúng tín ngưỡng xen lẫn. Trong thành vốn có miếu thờ bình bát đủ mọi thứ trang nghiêm. Xưa kia, Đức Như Lai mang Bình Bát đến miếu ấy. Mới mấy trăm năm, nay dời đến trong cung vua nước Ba-tư để cúng dường.Phía đông thành có ngôi tháp lớn của vua Ca-ni-sắc-ca, chu vi nền tháp rộng một dặm rưỡi. Xá-lợi Cốt Phật có đến một Hộc được cất ở trong. Tháp cao hơn năm trăm thước, tướngluân trên dưới có hai mươi lăm lớp, bị tai hoạ lửa trời, nay được xây dựng lại. Đô là nơi mà trong đời gọi là “Tước-ly phú-đồ. Vào thời Nguyên Ngụy (ba trăm tám mươi lăm-năm trăm ba mươi bốn), Linh Thái Hậu họ Hồ rất Kính tin, bảo ra môn đạo Sinh.v.v… mang phướn lớn dài hơn bảy trăm thước sang đó để treo lên, thì chân mới tới đất, tức là tháp ấy. Và cũng không biết danh từ “Tước-ly” phát xuất từ nguyên do nào. Các di tích bên cạnh phía trái, có nhiều tướng trạng, gần là chỗ Các Ngài Thế Thân soạn luận Như ý, xa thì xả bỏ ngàn mắt đẹp Kính thờ cha mẹ, Danh sơn Đàn-đặc, bổn tích Đạt-noa, Tiên làm nữ loạn, Phật hoá quỷ mẫu đều ở trong cảnh vực ấy, và vua vô ựu đều vì xây dựng tháp đá, cao hơn mấy trăm thước, lập nên bia ký. Từ phía Bắc núi đi đến nước Ô-trường-nạ, tức người đời gọi là nước Ô-trường thuộc Bắc Thiên trúc, chu vi xứ đó hơn năm trăm dặm, quả thật là hoàn bị, xứng đáng là nơi các nước trọng vọng. Theo truyện tích ghi chép thì đó là khu vườn xưa kia của Luân vương. Chư tăng có hơn muôn vị, đều học giáo điển Đại thừa, khắp bốn phía vương đô có lắm di tích của như: nhẫn Tiên Phật Chích, nửa kệ lánh đáp, chẻ xương viết kinh, cắt thịt cho chim cắt ăn, thuốc rắn hộ mạng, uống huyết Dạ- xoa, các hình tướng ấy đều có trình bày đủ trong cảnh vực đó. Mỗi hình tướng đều đáng chiêm ngưỡng kính phụng, trong lòng Sư dâng tràn gấp bội nỗi niềm vui sướng. Về phía Đông bắc của thành cách gần ba trăm dặm có ngọn núi lớn suối rồng tên là A-ba-la, tức nguồn gốc sông Tín-độ, chảy theo hướng Tây Nam, trong kinh gọi đó là sông Tân-đầu. Vương Đô ở phía Đông nam vượt núi ngược lại dòng sông, có cầu sắt đường sạn đạo rất nguy hiểm. Đi hơn ngàn dặm thế đến dòng sông rất lớn, tức xưa kia là Vương Đô của Ô-trượng. bên trong có tôn tượng Bồ- tát Từ Thị bằng gỗ cao hơn trăm thước, do La-hán Mạc-điền-địa ba lần dẫn các người thợ lên cung trời trông xem trở về khắc tạo mới được hoàn thành, thân tướng tôn tượng trang nghiêm đặc biệt khó trình bày diễn tả. Trở ngược lại xứ Ô-trượng, theo phía Nam đến nước Đát Xoa Thỉ- la, lại thấy Hồ của nầy Y-la-bát ở, chỗ Nguyệt Quang móc mắt, Vua Vô Ưu xây dựng ngôi tháp cao mười trượng. Phía bắc có Cửa Đá rất cao lớn, sừng sững như núi chồng lên nhau, đường đi từ bên trong mà qua. Đó lại là nơi Bồ-tát xả thân. Từ đó đi về hướng Đông nam theo đường núi rất hiểm trở, qua một nước nhỏ, vượt vài chiếc cầu sắt, gần hai ngàn dặm là đến nước Ca-thấp-di-la. Đó là nơi người đời thường gọi là nước Kế-tân, chẳng rõ danh từ Kế-tân do đâu mà có xem xét về địa vực nước ấy đồng như ở Kế-tân. Vốn là do La-hán Long Hải lấy đó, dẫn chúng mà trụ thông ba tạng, nên cảnh trí nước ấy bốn phía đều tựa vào núi, chu vi rộng hơn bảy ngàn dặm, cửa đi rất hẹp. Tăng chúng có đến năm ngàn vị, phần nhiều là tu học theo phái Tiểu thừa. Tại nước ấy có vị Đại Đức tên là Tăng Thắng, Sư đến cầu học các bộ Luận Câu Xá, Thuận Chánh lý, Nhân minh, Thanh minh và Đại Tỳ-Bà-Sa, v.v.. Vua nước đó rất kính thương Sư từ xa đến, nên cấp ban người viết tay cung cấp việc viết chép. Ở đó có Xá-lợi răng Phật dài hơn một tấc, sáng sạch như tuyết. Từ nước Lạm-ba đến đó, các nước bao quanh núi, hình thể thô xấu, phong tục theo lối sống của người Hồ phiên. Tuy đi cùng khắp năm xứ, chẳng nơi nào bằng cảnh vực chính của Ấn-độ. về ở nơi hang núi, phong tục xen tạp các bên. Từ đây đi xuống phương Nam, nhìn suốt không có dãy núi nào, gần tới ngàn dặm thì đến nước Trách-ca, cảnh đất gắn liền Bình xuyên, Chu vi hơn muôn dặm, có hai dòng sông phân rẽ tuôn chảy, cây cỏ tươi tốt. Lúc đó, Sư cùng đồng bạn có hơn hai mươi vị đi đến trong Đại lâm, gặp phải bọn cướp, nên phải đánh trả mới được toàn mạng, vào trong xóm ấy cầu xin mới tới được Đông Cảnh. Ở Đại Lâm có vị Bà-la-môn, đã bảy trăm tuổi mà dung mạo như mới 30, thông rành các Bộ Trung Luận, Bách Luận và các thứ sách vở của ngoại đạo, nói là Đệ tử của Ngài Long Mãnh. Sư bèn dừng ở đó một tháng mà thọ học. Thẳng xuống hướng đông đến nước Na-bộc-đế, Sư đến chỗ Pháp sư Điều Phục Quang cầu học các Luận Đối Pháp, Hiển Tông, Lý Môn. Lại tiếp đi xuống hướng Đông, đến chùa Na-bà-la, Sư đến chỗ Luận sư Nguyệt Trụ, thọ học Chúng sự phân Bà Sa. Lại đi tiếp xuống hướng Đông đến nước Lộc-lặc-na, Sư tới chỗ Đại đức Xà-na-quật-đa, thọ học Kinh Bộ Bà-sa. Sư lại đến chỗ Luận Sư Mật-đa-tê-na, thọ học Bộ Biện Chân Luận của Tát-bà-đa. Dần dần đi theo hướng Đông nam, trải qua sáu nước, phần nhiều đều có các di tích. Vua Vô Ưu xây dựng ngôi tháp cao hai mươi trượng, số lượng ấy chẳng phải ít. Trong đó, có nước Mạt- miễn-la rất nhiều dấu vết manh mối. Về phía Đông thành cách chừng sáu dặm có một ngôi chùa núi. Xưa kia, Tổ sư Ưu-Ba-Cúc-Đa, Hán dịch là Cận Hộ, tức là một trong năm vị Tổ sư đầu tiên, tạo dựng nên và ở tại đó. Phía Bắc có thất Nham Thạch cao hơn hai mươi trượng, rộng ba mươi bộ. Bên cạnh đó không xa có cái hố mà con Di hầu bị rơi xuống, chỗ bốn Đức Phật đi kinh hành, chỗ các vị Hiền thánh thường y cứ an trú, có rất nhiều điềm lành. Lại cũng theo hướng Đông nam, đi qua bảy nước thì tới nước Kiếp-tỷ-tha, phong tục ở đó kính thờ trời Đại Tự Tại. Các tịnh Xá ở đó cao hơn trước, bên trong thờ Thiên Căn, hình dáng rất to lớn. Mọi người cho rằng các loài đều từ đó mà sinh ra, Vua dân thảy đều kính trọng, không lấy làm xấu hổ. Thiên từ ở các nước đều noi theo mà thiết trí hình tượng ấy. Ở Đại đô, các hàng di đạo có đến số trăm, trong đó, bậc tối cao phần nhiều là Tự Tại. Có một ngôi chùa lớn, tăng chúng có năm trăm vị, các hàng tịnh nhân làm công quả có tới vài muôn người, đều cất nhà ở bên cạnh chùa. Trong đó lại có ba đường thềm cấp, sắp bày theo hướng Nam Bắc. Tức nơi Đức Phật vì Thánh mẫu mà lên an cư kiết hạ tại cung trời Đạo-lợi và giảng pháp, sau khi hoàn mãn trở về, do Trời Đế-thích tạo lập nên. Nền móng thềm báu đều đã bị khỏa lấp hết. Về sau, vua phỏng theo chỗ nền đất cũ, cao hơn bảy mươi thước. Vua Vô Ưu đến dựng xây trụ đá cao hơn bảy trượng, sáng sạch chiếu ngời. Tùy người có tội phước mà ảnh hiện trong đó. Bên cạnh có nền đá cũ, chỗ bốn Đức Phật thời kiếp Hiền đi kinh hành, dài hơn năm mươi bộ, cao bảy thước, chỗ dấu chân dẫm lên đều có vân hoa sen. Cách nước ấy không xa, về hướng Tây Bắc chừng hai trăm dặm là đến nước Yết-nhã-cúc-xà, Hán dịch là “Khúc nữ thành”. Vương Đô đến tận sông Căng-già, tức là tên chính của sông Hằng. Nguồn gốc từ phía Bắc chảy đến, phát xuất tại núi Tuyết. Ở đó, Tà Chánh đều xen tạp kính ngưỡng, Tăng chúng đông đến hàng muôn vị, có lắm Thánh tích. Chỗ bốn Đức Phật kinh hành, ngồi thiền chỗ bảy ngày đức Phật giảng pháp, tháp thờ răng, tóc, móng tay v.v.. Đức Phật. Tinh xá có hơn ngàn ngôi, các chùa nổi tiếng dị tướng phần nhiều đến tận phía Bắc dòng sông. Sư ở tại nước đó thọ học Phật Sứ Nhật Trụ nhị Tỳ-bà-sa với Tam Tạng Pháp Sư Tỳ-da-tê-na, suốt trong ba tháng. Vua nước đó hiệu là Giới Nhật. Dùng Chánh Pháp trị nước hơn năm mươi năm. Nói Giới Nhật tức là tên Thụy. Tại xứ đó, người sau khi chết, lường xét về đức hạnh mà phong tặng. Tại xứ đó, ban đầu mới đến tức trước là dâng hiệu, sau khi chết mới ngợi ca xưng tán hư danh. Nay vẫn hiện còn ở thế gian bao gồm cả năm xứ Ấn-độ. ban đầu, vua Giới Nhật trị vì một nước nhỏ ở vùng ven. Trước đó có vua Thất-khương-khư, uy hành trong nước, bạo ngược vô đạo, giết hại giòng họ Thích, nhổ gốc cây Bồ-đề, phá tiệt mầm rễ, lựa các bậc danh đức hơn ba trăm vị mà chôn sống, ngoài ra, còn lại đều sung vào làm nô lệ. Vua Giới Nhật biết rõ gieo trồng mối họa, bèn cùng các quan đi đến nơi hố cây Bồ-đề, lại phát Đại thệ nguyện rằng: “Nếu tôi quả thật có Phước, thống trị cả nước, có thể dựng xây lại ngôi nhà Phật Pháp, thì nguyện cây Bồ-đề từ đất mà mọc lên”. Nói vừa xong, bỗng thấy mầm cây Bồ-đề từ trong hố mọc ra lớn nhanh như thổi. Vua bèn trở về chiêu tập Binh mã, đến chỗ vua Thương-khư. Do năng lực uy phước nên liền trừ diệt. Do đó, ôm giữ tâm tín thành, dốc lòng gấp bội so với lúc mới phát tâm. Vua Giới Nhật hoàn toàn thống trị cả năm phương. Tượng binh có đến tám muôn, Quân uy đến đâu đều cậy nhờ sức lực. Và vốn không ăn dùng các thứ máu thịt, nơi nào có Dê, vua đều đem tiền mua chuộc, thí xả vào chư tăng, dùng để cung cấp sữa Lạc. Cứ năm năm, một lần trút hết kho tàng mà bố thí, kho tàng hết thì lại chứa để, đến thời lại thực hành Bố thí. Cứ lấy như thế làm lệ thường. Nếu có người trái phạm phép vua, cho đến kẻ tạo tội phản nghịch đáng xử chết, thì vua đưa đến vùng đất xa xôi hẻo lánh, ngoài ra, tội nhẹ thì trừng phạt, thật chẳng thể đủ lời để nói. Nên trong các nước thường xảy ra trộm cướp, chẳng nhờ bạn cứu giúp, không thể vọng tiến. Lại theo hướng Đông nam, đi hơn hai ngàn dặm, trải qua bốn nước thuận theo bên cạnh dòng sông Căng-già. Bỗng nhiên gặp phải giặc Thu cần người để cúng tế trời. Trong thuyền cùng đi với Sư có đến tám mươi người đều bị bắt trói. Và Chỉ chọn Sư là người rất đáng dâng cúng tế trời thọ hưởng. Nhân đó, bọn chúng kết đàn trên bờ sông, dẫn Sư đến để trong đàn. Ban đầu, mới thiết lễ, lại đem đến thêm một cái vạc, ngay lúc ấy, không cách gì để cầu cứu, Sư bèn chuyên chú quán tưởng Đức Từ Tôn Di-lặc Như Lai và Đông hạ Trụ trì Tam Bảo. Riêng phát thệ nguyện rằng: “Những người kia vận mạng chưa dứt, họp nhau mong được thả, nếu họ không nộp mạng thì thế nào?” Khi ấy cả thuyền đồng một lúc buồn thương gào khóc. Bỗng nhiên gió dữ nổi lên khắp bốn phía. Thuyền giặc lật úp đắm chìm, cát bụi tung bay, bẻ gãy cầu gỗ, tất cả đều khiếp sợ. Mọi người lại bảo với bọn giặc rằng: “Người ấy (tức chỉ Sư) thật đáng thương, chẳng chối từ nguy nan, chuyên tâm về Pháp. Làm việc lợi ích cho khắp biên thùy. Nếu các ông giết người ấy thì tội không gì lớn bằng. Thà giết chết chúng tôi, chớ nên giết người ấy!” Bọn giặc nghe thế, bèn ném mũi nhọn, đảnh lễ hổ thẹn, cầu xin thọ giới, ăn nă tội lỗi. Và thả tất cả, tùy mọi người đi đâu thì đi. Ngài bèn đến xứ Kiều-thưởng-di, ở đó các hàng ngoại đạo rất hưng thạnh. Trong thành Vương Đô có tinh xá thờ Phật cao sáu mươi thước, ở trong có tôn tượng bằng gỗ Đàn hương, tức là pho tượng mà xưa kia do Vua Ưu-điền phỏng theo hình ảnh trên cõi trời mà tạo nên. Bên cạnh đó có hang rồng, và nhiều Thánh tích. Sư lại theo hướng Đông Bắc, đi hơn ngàn dặm, đến nước Thất-La-Phạt-tất-để, tức là tên gọi đúng của Xá-Vệ-Xá-Bà-Đề. Sư đưa mắt nhìn quanh thảy đều đã hoang tàn hủy hoại, chỉ còn lại nền móng cũ. Cung vua Ba-tư-nặc, nhà cũ của Cư só Tu-đạt, nền đất vẫn còn. Cách phía nam thành chừng năm dặm có rừng Thệ-đa, tức vườn Kỳ-hoàn, do Thắng quân vương thần Thiện thí xây dựng nên. Nay chùa đã đổ nát chỉ còn có trụ đá cao bảy trượng do vua Vô ưu xây dựng. Bên cạnh có ngôi thất xây dựng bằng gạch. Ở trong an trí tôn tượng đức Như Lai vì Thánh mẫu mà nói pháp. Ngoài ra, các viện vũ đều bị vùi lấp mất hết. Chỉ có chỗ Đức Phật tắm gội cho vị Tỳ-khưu bị bệnh. Chỗ Ngài Mục-kiền-liên nâng y của ngài Thân Tử. chỗ Phật Dị Luận, chỗ ngài Thân Tử tranh tài, chỗ vua Lưu Ly qua đời, chỗ Đắc Nhãn lâm. Chỗ Bổn sinh địa của Đức Phật Ca-diếp-ba. Các chỗ như trên đều có dựng tháp đá, và đều do Vua Vô ưu tạo lập nên. Cách phía Đông chùa không xa, có ba cái hố rất sâu và lớn, tức là chỗ Điều-đạt, Cù-ba, cô gái Chiến-già bị đất rút. Hố ấy rất sâu tối, nhìn không thấy đáy. Từ xưa tới nay những trận mưa lớn trút nước mà không bị tràn đầy. Lại đi về hướng Đông gần bảy trăm dặm, là đến nước Kiếp-tỳ-la Phạt-tốt-đổ, tức là thành đô Ca-tỳ-la-vệ, nơi vua Tịnh Phạn trị vì. Ở đó, chỉ còn lại tòa thành cũ trống rỗng không người ở. Thành xây bằng gạch và cung điện xưa cũ chu vi rộng mười lăm dặm. Có cả ngàn ngôi chùa hoang phế. Trong cung chỉ có một ngôi chùa hiện còn. Trên nền móng cung điện vương tẩm, còn có bài minh tháp, tức là chỗ Đức Như Lai Giáng thần. Ở đó, có thuyết nói là “Ngày mồng tám tháng năm là Thần lai giáng”. Theo Thượng Tọa Bộ nói là “ngày mười lăm”. Khác với sự thuật nêu của xứ này. Há có khác ư? Còn như tại Đông Hạ (Trung Hoa) kính chuộng Tố Vương là bậc Thánh, cùng định về niên toán, trước đạt còn mê lầm. Huống gì lịch có ba đời, lúc thuật ghi hiệu còn tự sai lỗi. Trông lại, chỉ lý vượt tình, cầu đến căn cơ mà ứng cảm, đều nương Quyền Đạo, thích hợp với biến làm trước. Đâu thể lấy mắt tai của người thường mà dùng thông đến chỗ cùng cực. Ở hai phía nam bắc của thành có các ngôi tháp thờ nơi hai Đức Phật ở thời quá khứ đản sinh. Trụ đá bia minh của vua Vô ưu xây dựng rất nhiều. Ở phía Tây bắc thành đô có đến mấy trăm ngàn ngôi Tháp đều là các người trong giòng họ Thích đã chứng quả Thánh bị vuaTỳ- lưu-ly giết hại, do người sau dựng nên để phụng thờ. Lúc bấygiờ, có bốn người trong giòng họThích phẩn uất trông thấy sự bức hại ấy,không nghó tới sự phạm giới, bèn ra ngoài chống lại quân giặc. Vua Tỳ-lưu-ly bèn rút lui. Sau đó, bốn vị ấy trở về lại bổn quốc, mọi người trung thành không công nhận, bảo rằng: “Ta là Pháp chủng, thề không làm quân, các ngươi đánh lùi quân vua, chẳng phải là người trong chủng tộc của ta” Đã bị ruồng bỏ, bốn vị ấy bèn đến các nước xa khác. Vốn là giòng giống bậc Thánh, nên đua nhau lập Tông, nay tức là vua ở các nước Ô- trượng, Phạm-diễn.v.v…đều là con cháu đời sau. Hoặc có thuyết nói về Đức Phật đảm sinh là ngày mồng tám tháng ba. Theo Thượng Toạ bộ thì nói là ngày rằm. Các kinh điển ở Trung Hoa đều nói là ngày mồng tám tháng bốn. đó cũng là căn cơ cảm thấy, di kế có nhiều. Lại theo hướng Đông cách chừng bảy dặm, mới đến Câu-thi, giữa đường có những điều khác lạ, lược không ghi lại. Ban đầu, Sư mới đến thành đô, bất chợt năm căn không giữ bị ngã xuống đất, chỉ khoảnh khắc nhìn lại chỉ thấy một ngôi thành hoang phế sụp đổ. Nền nhà cư só Thuần-đà có nêu dựng Bi chí. Về phía Tây bắc cách chừng bốn dặm, ở phía Tây bờ sông tức là rừng Sa-la, chu vi bao quanh hơn bốn mươi dặm, ở chính giữa đất nổi lên cao, tức là chỗ Đức Phật nhập Niết-bàn. Có một ngôi thất xây bằng gạch, trong đô có tôn tượng Đức Phật nằm gối đầu về hướng Bắc. Bên cạnh các trụ tháp đều có ghi bài minh mà các thuyết nói lẫn lộn như đã trình bày ở trên, có thuyết nói Đức Phật nhập Niết-bàn ngáy mười lăm tháng hai, có thuyết nói là ngày mồng tám tháng chín, Có thuyết nói từ ngày đô đến nay đã qua một ngàn năm trăm năm, có thuyết nói là qua chín trăm năm. Phía Bắc thành qua bên kia sông tức là nơi thiêu thân, diện tích hơn hai dặm vuông, và sâu hơn ba trượng. Đất mầu vàng đen, hình dạng giống như than cháy. Người có bệnh ở các nước mà uống lấy đất đó, thì bệnh nào cũng lành. Nên đến nỗi chỗ đó biến thành hố. Bên cạnh đô lại có các ngôi tháp Đức Phật hiện phân thân làm chim Tró, thân Nai. Sư đều đến chiêm lễ cả. Lại theo hướng Tây nam đi vào trong rừng sâu hơn bảy trăm dặm, đến nước Ba-la-niệt-tư, tức chỗ thường gọilà Ba-la-nại. Thành đô đến tận sông Tăng-già, Ngoại đạo rất hưng thạnh đông đảo, Sư bèn đến chùa Phương kế, Thiên có hơn trăm pho tượng trời Tự Tại. Tăng chúng ở đó chỉ có ba trăm vị, đều tu học theo giáo nghóa Kinh Lương Bộ của Tiểu Thừa. Phía Đông bắc vương đô, tức phía Tây sông Ba-la-nại. Tháp trụ xây dựng song song, đều do vua Vô ưu xây dựng, ảnh hiện tượng phật người trông thấy càng thêm kính ngưỡng. Vượt qua bên kia sông chừng mười dặm tức là chùa Lộc Dã. Khắp làng trùng các nhìn như cung tiên, Chư tăng chỉ có dưới hai ngàn vị, đều học theo Kinh Lượng Bộ. Phụng thờ tôn tượng phật cao đẹp hơn hẳn ở các nước, ở giữa có tôn tượng Đức Phật xoay bánh xe pháp, dáng vẻ như đang giảng nói. Bên cạnh chùa, có dựng trụ đá cao hơn bảy mươi thước, trong ảnh ngoài hiện các tướng đều đầy đủ. Đó là nơi Đức Phật xoay bánh xe chánh Pháp lần đầu tiên. Bên cạnh đó lại có năm trăm ngôi tháp thờ các vị Độc giác, chỗ ba Đức Phật kinh hành ngồi thiền trong chùa, các thứ bia minh, tháp báu, rất nhiều thánh tích, có đến vài trăm. Lại có chỗ ao Phật tắm, chỗ giặt y, tẩy rửa các thứ đồ vật, đều có rồng giữ gìn, chỗ tảng đá vuông phơi y, chỗ nai chúa đón rước Phật, đều dựng xây tháp đá cao hơn ba trăm thước, tướng trạng rất rộng lớn hùng vó, nên chỉ lược nêu bày. Thuận theo dòng sông đi xuống hướng Đông, đến Phệ-xá-ly, tức Tỳ-xá-ly, bày hình dị thuật, riêng chỗ dồi dào. Nền cũ xưa của Quốc thành chu vi đến bảy mươi dặm. Người vật không mấy tốt đẹp, chỉ là Danh Địa,Trang đô, chỗ Phật nói Kinh Tịnh Danh, chỗ các ngôi nhà cũ của Bảo Tích, Tịnh Danh. Chỗ ngài thân Tử chứng quả. Chỗ Bà-di mẫu Kiều-đàm-di diệt độ. Chỗ bảy trăm vị A-la-hán Kiết tập kinh điển, chỗ ngài A-nan phân thân, năm chỗ đó, mỗi chỗ đều có xây dựng tháp báu xinh đẹp, nêu bày cho đời sau. Từ đó, đi về hướng Đông Bắc hơn hai ngàn dặm, vào núi Tuyết, tới nước Ni-ba-la. Dân chúng tại đó thuần tín Phật Pháp. Chư Tăng có khoảng hai ngàn vị, tu học theo giáo nghóa Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Phía Đông thành có một cái hồ, trong đó có vàng cõi trời nổi trên mặt nước. Theo các bậc kỳ túc lão thành ngày xưa tương truyền rằng: “Đức Di- lặc hạ sinh lấy chất vàng ấy làm vật trang sức trên đầu”. Có người nói rằng có kẻ tham lợi vật báu ấy, ban đêm đến đó muốn lấy trộm, nhưng chỉ thấy lửa nhóm tụ bắn toé chiếu sáng, không thể đến gần được. nay thì lắng chìm sâu, không thể dò đến tận đáy hồ. Và nước ở đó rất nóng, không thể nhúng tay chân xuống được. Có sứ giả ở Trung Hoa đời Tiền Đường thử ném lửa vào trong ánh lửa ấy thì liền bắn toé, nhân đó dùng để nấu gạo thì liền thành cơm. Phía Bắc ranh giới xứ đó tức là nước Đông Nữ và Thổ Phiên tiếp giáp liền nhau. Gần đây lệnh nước qua lại quản lý, do từ xứ ấ, Nếu ước tính để nói thì giữa Trung Hoa và Ấn- độ cách hơn muôn dặm. Từ xưa đến nay đã vướng vít đến nỗi đường đi dài xa hiểm trở. Sư lại từ phía Nam Phạm-phệ-xá, men theo dòng sông Tăng-già đi đến nước Ma-yết-đà; tức tên gọi đúng của Ma-kiệt- đề. nước đó nằm tại xứ Trung Ấn-độ. nay Vương tổ nối dõi tiếp giòng vua Vô Ưu. Vua Vô Ưu tức là tằng tôn của Tầng Tỳ-bà-la. Vua tức là con rể của vua Giới Nhật. Nay chỗ cung thành được xây dựng tu sửa, chẳng phải theo kiến trúc xưa. Phía Nam bờ sông Tăng-già có thành Ba-tra-ly, chu vị rộng bảy mươi dặm, tức là nơi mà trong các kinh gọi là thành Hoa Thị. Vì ở cung vua có lắm loại hoa, nhân đó mà đặt tên như thế. Xưa kia, vua Vô Ưu từ khi lìa Vương Xá dời đô đến đó. Bên cạnh phía trái, các thánh tích có rất nhiều. Về phía Tây nam cách thành hơn bốn trăm dặm, vượt qua sông Ni-liên-thuyền là đến thành Già-da. Ở đó, người vật rất ít, chỉ có chừng hơn ngàn ngôi nhà. Lại đi thêm khoảng sáu dặm là có núi Già- da, là nơi xưa kia các Vua làm lễ lên ngôi ở tại đó. Nên chỉ tại một ngọn núi ấy mà người đời xưng gọi là danh địa. Đức Như lai xuất hiện ở đời, thành tựu đạo quả ở tại xứ ấy. Trên đảnh núi có ngôi tháp đá cao hơn trăm thước, tức là chỗ mà các Kinh Bảo Vân v.v.. nói. Đi khắp vòng bốn mươi dặm, phía trong các thánh tích đều đầy đủ. Phía Tây nam của núi tức là nơi Phật thành đạo. Có tòa Kim cương chu vi hơn trăm bộ, tại chỗ đó nay gọi là chùa Bồ-đề. phía Nam chùa có Cây Bồ-đề cao chừng năm trượng và chung quanh có xây dựng thành lũy bằng gạch để bao bọc theo vòng tròn khoảng năm trăm bộ. Cửa phía Đông đối mặt với dòng sông, cửa phía Bắc tiếp thông với chùa, ngôi linh tháp ở trong viện có nhiều điều lạ. Về ngày Đức Như lai thành đạo có nhiều Thuyết khác nhau. Có thuyết nói là ngày mồng tám tháng ba, có thuyết là ngày mười lăm. Ở ngoài tường ven cửa phía Bắc có chùa Đại Bồ-đề. Chùa đó có sáu viện ba tầng, tường cao đến bốn trượng, đều được xây dựng bằng gạch. Do vua nước Sư Tử mua chỗ đất đó và xây dựng nên ngôi chùa đó. Tăng chúng chỉ có ngàn vị. đó là nơi trụ trì của Đại thừa Thượng tọa Bộ, có Di Cốt Xá-lợi hình dáng như đốt ngón tay người. Nhu Xá-lợi lớn như hạt chân châu. Tại xứ đó vào ngày ba mươi tháng mười hai thì tương đương với ngàng mười lăm tháng giêng ở Trung Hoa, người đời gọi thời gian đó là Tháng Đại Thần biến. Nếu đến đó vào buổi tối thì có phát ra ánh sáng tốt lành, trời rải hoa như mưa kỳ lạ, khắp đầy nơi cây viện. Lúc ban đầu, Sư mới đến đó, bất chợt ngất xỉu, giây lát tỉnh lại. Sư đi chiêm ngưỡng khắp các linh tướng. Trước kia nghe nói trong kinh, nay thấy ở nước mắt, Sư tự hận trách mình ở chốn biên địa xấu xa, sinh vào thời mạt thế, không thấy được tôn dung Đức Như Lai, lại càng gấp bội sự buồn xót. Bên cạnh đó, có vị Phạm Tăng đến thấy thế bèn vỗ về an ủi. Vị ấy tuy đầy đủ mọi lễ nghi để bái yết, nhưng hận không có điềm ánh sáng, Sư bèn dừng ở lại đó an cư đến ngày mãn hạ. Tại xứ đó, có lệ thường, đến thời gian ấy. Kẻ tăng người tục có đến ngàn muôn người đua nhau trưng bày mọi thứ để cúng dường suốt bảy ngày bảy đêm. Bởi có hai ý nghóa là để được trông thấy ánh sáng và lá cây ít có. Hằng năm đến cuối mùa Hạ thì lá cây ở đó cùng một lúc rơi xuống, rồi suốt đêm lá mới mọc ra nhiều như cũ. Bấy giờ, có Cư só Đại Thừa giải thích Luận Du-già-sư-địa cho Sư nghe. Đêm đó, đang đối giảng bỗng nhiên đèn bị tắt, lại nhìn ở chỗ đeo các thứ châu ngọc anh lạc thì không thấy sắc thái ánh sáng, chỉ có ánh sáng chiếu suốt trong ngoài rỗng rang và Sư chẳng lường biết được nguyên do vì sao. Sư lấy làm lạ nên cùng đi ra ngoài am tranh ngắm cây Bồ-đề, bèn thấy có vị tăng trên tay cầm xá-lợi lớn như ngón tay người đang đứng trên nền cây chỉ bày cho khắp cùng đại chúng. Chỗ phát ra ánh sáng chiếu suốt khắp đất trời. Bấy giờ, đại chúng ồn náo, chỉ được từ xa kính lễ. Tuy mắt trông thấy điềm ánh sáng lành mà trong tâm nghi đó là lửa, bên cùng chắp tay chí thành qùy thẳng cho đến sáng ngày hôm sau. Tâm nghi ngờ dần chấm dứt và ánh sáng cũng giảm mất. vị Cư Só ấy hỏi Sư rằng: “Đã thấy được điềm tướng linh hiển, tâm không nghi ngờ chứ?” Sư bèn nói hết ý mình. Vị Cư Só ấy bảo: “Điều nghi ngờ xưa kia của tôi cũng đồng như Sư ngày nay. Nhưng khi điềm lành đã hiển hiện thì mối nghi ngờ tự thông suốt. Tôi thấy lá cây Bồ-đề như Bạch Dương”. –Vị cư só ấy hỏi lý do, Sư đáp: “Hình dáng thì hơi giống nhau, mà suốt cùng tươi tốt ít có khác”. từ chùa ấy nhìn về phía Đông là núi Quật-Tra-Bá-Đà, tức trong các kinh gọi đó là núi Kê Túc, ba ngọn núi thẳng đứng, hình dáng giống như chân gà, nhân đó mà gọi như vậy. Cách chùa Bồ Đề hơn trăm dặm, trên đảnh núi có một ngôi tháp lớn, ban đêm tỏa sáng như đuốc thần. Ánh sáng soi khắp cùng, đó chính là nơi Ngài Đại Ca-diếp-ba nhập tịch Định. Đường đi khó khăn, có lắm rừng trúc. Các loài sư tử, hổ, voi đua nhau tung hoành ngang dọc, mỗi lúc nghó muốn bước lên tiến tới thì không do đâu mà được. Sư bèn tấu với vua xin được Sư phòng vệ giúp đỡ, được cấp ứng hơn ba trăm binh lính, mỗi người lính đều có đầy đủ các dụng cụ như mũi nhận để chặt trúc làm thông đường. Mỗi ngày đi được mười dặm. Bấy giờ, tại nước ấy nghe Sư đi sang núi, các hàng só nữ lớn nhỏ có cả mười muôn người đua nhau tiếp nối cùng đến núi Kê Túc. Đã đến bên bờ sườn núi, vách đá thẳng đứng, không có đường đi, bèn cùng kết bện trúc làm thang nối liền nhau mà leo lên. Lên được trên đảnh núi có hơn ba ngàn người. Đưa mắt nhìn khắp bốn phía, vui mừng càng thêm hớn hở, thấy được chỗ đá nứt nẻ, bèn cùng rải hoa để cúng dường. Từ núi ấy, đi theo hướng Đông bắc hơn trăm dặm là đến núi Phật Đà-phạt-na. Tại đó, có hang đá rất lớn. Xưa kia, Đức Phật từng đến đó, trời Đế-thích cùng đến hang đá xoa hương để cúng dường. Nay đi đến xứ ấy, vẫn còn mùi hương thơm phảng phất. Cách núi không xa, có ngôi thất có thể chứa khoảng ngàn người. Đức Như Lai đã an cư suốt ba tháng tại đó. Và đường đi do chất đá làm thành, rộng hơn hai mươi bộ, dài tới năm dặm, do vua Tần-tỳ-bà-la xây dựng nên, đường lên núi có được là do đó. Lại đi về hướng Đông hơn sáu mươi dặm là đến ngôi thành xưa Cự-Xà-Yết-La-Bổ-La, đời Đường dịch là Mao Thành, vì có nhiều cỏ tranh thơm, nên do vậy mà đặt tên. Thành ấy là trung tâm của Ma- kiệt-đà mà trong các kinh gọi đó là Thành Vương Xá. Bốn phía là núi bao bọc bên ngoài, bên trên như tường thấp đều được xây dựng bằng gạch. Phía Tây thông suốt đến tiểu kinh, phía bắc mở mang tới cửa núi, rộng dài theo hẹp bao bọc chung quanh đến một trăm năm mươi dặm. Trong đó, chu vi cung thành rộng hơn ba mươi dặm. Các vết tích xưa ở bên trong thì số lượng lại rất nhiều. Đi về hướng Đông bắc của cung thành khoảng mười lăm dặm, có núi Cật-Lật-Đà-La-Củ-tra; tức trong các kinh gọi đó là núi Kỳ-Xà-Quật, đời Đường dịch là Đài Thứu Phong. So với các núi thì ở đó rất cao lộ bày ngời sáng. Tại phía nam tiếp liền với núi là nơi xưa kia Đức Phật thường cư trú. Từ chân núi đến đảnh núi đều do sắp đá làm thành bực thềm, rộng hơn mười bộ, dài tới sáu dặm. Phật thường qua lại trên con đường ấy. Sư đi xem khắp các sườn núi, các hang núi, đầy đủ các dấu vết xưa không thể ghi nhận hết, rộng như trong Đồ Truyện. Theo cửa phía bắc thành núi đi chừng một dặm thì đến nền móng đá xưa cũ của tinh xá Ca-Lan-Đà-Trúc-Viên. Ở cửa phía Đông có ngôi thất bằng gạch nay vẫn hiện còn. Từ Trúc Viên theo hướng Tây Nam đi chừng sáu dặm, tức phía bắc của Nam Sơn, trong rừng trúc lớn, có hang đá, đó là nơi mà Ngài Đại Ca Diếp Ba cùng ngàn vị tăng Vô Học kiết tập kinh điển. lại theo hướng Tây, đi hơn mười dặm, tức là nơi Đại chúng Bộ Kiết tập. Theo hướng Bắc của Sơn thành đi khoảng năm dặm là đến Thành Hát-La-Xà-Cật-Lợi-Tứ; đời Đường dịch là Tân Vương Xá, ngoài ra các truyện khác nói cũng giống như thế. Lại theo hướng Bắc, đi hơn ba mươi dặm thì đến chùa Na-lan-đà, đời Đường dịch là Thí Vô Yểm. Đó là một ngôi chùa rất lớn ở châu Thiệm-bộ ở phía Nam, không nơi nào cao lớn bằng. Ngôi chùa ấy do năm vị Vua cùng đến cung cấp cúng dường gấp bội lớn lao, nên nhân đó mà gọi tên như vậy. Tại chùa đó, có năm Viện, cùng đi chung một cửa lớn, chung quanh có bốn lớp cổng cao tám trượng, đều được xây dựng bằng gạch. Nơi vách tường cao nhất còn dày đến sáu thước. Ngoài quách có ba lớp, và tường cũng xây dựng bằng gạch cao năm trượng. Khoảng giữa có nước vây quanh, ao hào rất sâu. Và có đủ các thứ hoa xinh đẹp đáng yêu. Từ lúc tạo dựng đến nay luôn được phòng vệ ng- hiêm mật, người nữ chẳng được xem lạm vào, không hề dung chứa ẩn dật. Tăng Chúng thường trụ có hơn bốn ngàn vị. ngoài ra, tân khách tăng tục chung cho cả Tà Chánh vượt ngoài hàng vạn, đều được chu cấp các thứ ăn mặc không hề thiếu thốn, nên còn gọi tên chùa là Thí Vô Yểm. Trong đó, có Phật viện, đầy đủ các Thánh Tích. Tinh Xá cao hơn hai mươi trượng. Xưa kia, Đức Phật từng ở trong đó đó nói pháp suốt bốn tháng. Lại có ngôi Tinh Xá cao hơn ba mươi trượng, bên trong các hình thái biến đổi không thể nói hết. Có tôn trí tên pho tượng bằng Đồng cao hơn tám trượng. Lầu các sáu tầng được trang nghiêm xinh đẹp. Đó là do vua Mãn trụ – anh của vua giới Nhật –xây dựng nên. Lại có tinh xá Hầu Thạch, do vua Giới Nhật xây dựng nên. Chạm trổ trang hoàng chưa đầy một ngày vì có cả ngàn người thợ làm. Theo thường pháp nước ấy thì khâm phục kính trọng các vị có Đức hạnh cao cả. Có các Luận sư trí thức cao xa, Vua ban cấp phong hộ đến cả mười thành, dần ban lượng thưởng chẳng dưới ba thành. Ở chùa ấy, hiện tại các vị Đại đức được thọ nhận ban phong có hơn ba trăm vị. Những vị tinh thông kinh điển trở lên, chẳng còn phải trông coi mọi việc tăng chúng, rất được kính trọng mến qúy sự học vấn, thưa hỏi các dị pháp. Nên từ Ô-Kỳ trở về phía Tây thì trùm khắp trong nước. Các vị xuất gia phần nhiều đều là Nghóa học, cảm kích nước ấy qua lại không ngăn cách trở ngại. Vua chỉ giữ gìn đất nước, không dám ngăn cản chướng ngại, nên ở đó học chúng thông hiểu rộng rãi sâu sắc. Sư đi qua các nước, tiếng tăm đạo hạnh vang khắp, khi sắp đến chùa ấy, trong chúng sai bốn mươi vị Đại đức đến Trang đón rước Sư. Trang là thôn gốc của Ngài Mục-liên. qua bữa ăn ngày hôm sau, chư tăng có đến hơn hai trăm vị, người thế tục có hơn ngàn vị đều cầm nắm kiệu rước, phướn lọng, hương, hoa đến đón rước Sư dẫn vào Đô hội. Sư cùng chúng Tăng an ủi thăm hỏi xong, bèn xướng lời thỉnh Sư trụ lại chùa, tất cả đều đồng lòng. Lại sai cử hai mươi vị hướng dẫn Sư đến chỗ ngài Chánh Pháp Tạng, tức là Luận Sư Giới Hiền, Lúc đó, Ngài Giới Hiền đã một trăm sáu mươi tuổi, là nơi kính ngưỡng trọng vọng của chúng tăng nên tôn xưng hiệu Ngài là “Chánh Pháp Tạng”. Ngài Giới Hiền nghe rộng hiểu biết nhiều. với tất cả kinh sách Đại thừa, Tiểu thừa Nội ngoại Giáo điển không thứ gì Ngài chẳng thông đạt. Ở đó là nơi xưa kia có các hầm hố của vua Thất Thương-khư, bị giặc mang ra nhận chìm nước, cỏ rác. Về sau, phục hưng Phật Pháp, kẻ tăng người tục đồng suy cử cúng dường. Vua Giới Nhật lại tăng thêm một Aáp có đến mười thành. Sung nhập các thứ thuế khoá. Ngài Giới Hiền sử dụng thuế vật ấy xậy dựng chùa miếu. Sư đến đảnh lễ khen ngợi xong, đồng thời được mời ngồi. Ngài Giới hiền hỏi Sư từ đâu đến. Sư đáp: “Từ nước Chi-na đến đây, vì muốn cầu học các Luận Du-già-sư-địa, v.v..!” Nghe xong, Ngài Giới Hiền ng- hẹn ngào rơi lệ khóc thương, bảo Đệ tử Giác Hiền kể lại sự việc trước kia đã xảy ra. Ngài Giác Hiền kể rằng: “Ba năm trước, Hoà-thượng (tức chỉ Ngài Giới Hiền) gặp phải chứng bệnh khốn đốn đau nhức như dao đâm chít, muốn bỏ ăn để được chết. Bỗng mộng thấy có một người thân mầu vàng ròng đến bảo rằng “ Ông chớ nhàm chán thân hình, bởi vì ngày trước làm Quốc Vương đã tổn hại lắm vật mạng, cần phải tự hối trách, đâu thể tự tử được? Có vị Tăng từ xứ Chi-na đến đây cầu học, đang trên đường đi, ba năm sau sẽ đến, Ông nên đem giáo pháp ban dạy cho vị tăng ấy, vị tăng ấy lại hoằng truyền lưu thông thì tội xưa của Ông sẽ tự tiêu diệt. Ta là Mạn-thù-thất-lợi (tức Văn-thù-sư-lợi) đây, đến khuyên nhủ Ông!” Hoà-thượng nay đã có phần bớt”. Chánh Pháp Tạng hỏi Sư rằng: “Ông bắt đầu lên đường từ bao giờ?” Sư đáp: “Đã ngoài ba năm!” đã cùng hợp với giấc mộng, nên cả hai vị vừa buồn vừa vui, Sư bèn lễ tạ. Tại chùa ấy vốn lập Pháp thông Tam Tạng, đặt ra mười vị. từ trước đến nay còn thiếu một người. Vì tiếng tăm Đạo hạnh của Sư vang vọng như thế, nên mời Sư dự vào ngôi vị ấy. Thường ngày cung cấp các thứ thức ăn ngon hai mươi bàn, một thăng gạo Đại nhân, tân lang (cau), Đậu khấu, Long não, hương nhũ, Tô mật v.v.. Tịnh nhân bốn Ba-la, hai hàng cưỡi kiệu voi có ba mươi người theo. Gạo Đại nhân tức gạo tẻ, lớn như hạt đậu đen, cơm có mùi thơm bay xa cả trăm bộ, chỉ có ở nước ấy. Vua cùng các vị biết pháp cùng tham dự. nên tại chùa ấy những bậc thông hiểu ba Tạng được cung cấp hai mươi mâm, tức hai mươi ngày. Dần giảm xuống người chỉ thông hiểu một kinh thì được cung cấp năm mâm, qua năm ngày ấy rồi, sau đó bèn y theo tăng vị. Nhân đó, bèn thỉnh ngài Giới hiền giảng luận Du-già. Thính chúng có đến mấy ngàn vị, suốt mười lăm tháng mới được một biến, lại vì giảng lại, thì thêm chín tháng mới hoàn tất. Ngoài ra, với Các Luận Thuận Lý, Hiển Dương, Đối Pháp v.v.. Sư đều được thưa hỏi hỏi bẩm thọ. Nhưng đối với Luận Du-già riêng được khen ngợi thì phải trải qua năm năm, suốt sớm tối không dừng nghỉ, đem sự bàn luận rộng rãi. Sư chưa chịu trở về phía Đông (tức Trung Hoa). Ngài Giới Hiền bảo rằng: “Tôi già yếu, thấy ông xem thường tánh mạng vì cầu pháp, trên đường đi trải qua mười năm mới đến đây. Ngày nay chẳng nệ già yếu, dốc sức vì chỉ bày rõ. Pháp qúy trọng ở chỗ được mở mang, đâu mong chỉ riêng mình tài giỏi! Lại tham cứu các bộ khác, sợ mất thời cơ nhân duyên, trí tuệ thì không ngằn mé, chỉ có Phật mới thấu cùng, Mạng người như sương móc không sớm thì tối. Nên hãy trở về!” Và bèn sắm sửa cho các thứ hành lý, ban cho các Kinh Luận. Sư bèn thưa rằng: “con xin vâng theo lời chỉ bảo. Nhưng trong ý muốn đi quanh các nước ở phương Nam rồi trở lại đường hướng phía Bắc. Vì lời hứa trước kia ở Cao Xương không được làm trái.” Từ đó, Sư bèn đi theo hướng Đông đến trong núi rừng lớn, tới nước Y-lan-noa, thấy dấu vết chỗ Đức Phật ngồi in sâu trên đá một tấc, dài năm thước hai tấc, rộng hai thước một tấc. Bên cạnh có dấu vết bình bát in sâu trên đá một tấc, tám phía hiển hiện hoa văn dường như mới đặt để. Có dấu vết Đức Phật đứng cao một thước tám tấc, năm nước, gần bốn ngàn dặm là đến nước Tam-ma-đát-tra, là bãi đất mặn của biển lớn, nơi bốn Đức Phật xưa kia từng đi qua, thấy có tôn tượng Phật bằng ngọc xanh cao tám thước. Từ đó đi theo hướng Đông Bắc, trong khoảng giữa núi và biển, trải qua sáu nước thì đến Lâm ấp. Đường đi vừa hiểm trở lại dài xa, có lắm khí độc dịch lệ nên Sư chẳng dấn bước, mà lại theo hướng Tây, đi gần hai ngàn dặm là đến nước Yết –la-noa. Tại đó, Tà chánh đều được phụng thờ. Riêng có ba ngôi chùa chẳng ăn dùng các thứ sữa lạc, bởi theo bộ phái Điều Đạt. Sư lại theo hướng Tây nam, đi hơn bảy trăm dặm đến nước Ô-trà, ranh giới phía Đông nước ấy tiếp cận với biển cả. Ở nước ấy có ngôi thành Phát Hành, khách đi buôn dừng ở lần lượt theo mé biển. Ở phía Nam biển lớn có nước Tăng-già-la, nghóa là Chấp sư tử. cùng cách xa chừng hơn hai muôn dặm, ban đêm nhìn về phía Nam, trong nước đó có ngôi tháp thờ răng Phật, trên ngọc báu tỏa phát ánh sáng rực rỡ hiện lên giữa khoảng hư không. Lại theo hướng Tây nam, trải qua các nước đều có các Di tích kỳ lạ. Đi tới năm ngàn dặm là đến nước Kiều-tát-la. Đó là địa vực chính giữa của Nam Ấn-độ. mọi người rất kính tin Phật Pháp. Tăng chúng có tới muôn người. Đất đại ở đó rộng rãi thông thoáng, rừng đồng nối tiếp nhau. Về phía Tây Nam của thành đô cách hơn ba trăm dặm có núi Hắc Phong. Có vị Đại Vương xưa kia vì Bồ-tát Long Mãnh mà xây dựng ngôi chùa đó, tức là ngài Long Thọ. Chùa ấy trên dưới có năm lớp được đục đá mà làm thành dẫn nước rót chảy chung quanh, có lắm sự biến dị, men theo làn sóng mới đến được. Hiện nay, được các tịnh nhân giữ gìn, ít có người đến. Trong khám thờ có pho tượng bằng đá, hình dáng rất vó đại. Ngày chùa xây dựng xong, Bồ-tát Long Mãnh đến núi bôi thuốc vào đó, biến thành mầu vàng tía. Ở đời không nơi nào sánh bằng. Lại có kinh tạng chồng chất vô số. Các bậc Lão đức ngày trước tương truyền là từ lần kiết tập đầu tiên tất cả đều hiện còn ở đó. Tuy ở bên ngoài Phật pháp đã từng bị phá hoại mà riêng ở núi đó vẫn mãi được gìn giữ không thay đổi. Gần đây, có vị tăng đến đó an cư kiết hạ, mà chỉ được đọc tụng chứ không thỉnh mang ra được. trình bày rõ ràng về việc đó, chỉ vì đường đi khó khăn hiểm trở nên khó có thể tìm hỏi. Sư lại theo hướng Nam, đi hơn bảy ngàn dặm, trên đường trải qua năm nước, đều có các Linh tích, rồi đến nước Mạt-la-củ-tra, đó là cảnh bãi biển ở tận cùng phía nam của Châu Thiện-bộ. Trên núi thoảng ra mùi hương Long não. Bên cạnh có đảnh núi cao vót, có dòng nước chảy trong ngần, xoay quanh hơn hai mươi vòng theo hướng Nam chảy ra biển. Bên trong có cung trời, nơi thường cư trú của Bồ-tát Quán Tự Tại; là tên gọi đúng của Quán Thế Âm. Gần biển có ngôi thành, xưa kia là nước Sư Tử, nay xoáy vào trong biển có thểhơn ba trăm dặm. Nếu chẳng cùng kết bạn thì không thể đến, nên Sư chẳng đi. Từ đó ngài theo hướng Tây Bắc, đi hơn bốn trăm dặm, trên đường trải qua các nước đều có lắm thứ thần dị. Sư đến nước Ma-ha-lạt-tha, vua nước ấy quả thật uy phong oai hùng tự tại, không phục Vua Giới Nhật. Chùa viện có hơn trăm ngôi, Tăng Chúng có khoảng năm ngàn vị, học gồm cả giáo điển Đại thừa, Tiểu thừa. Chùa núi ở phía đông nước ấy do một vị La-hán tạo nên. Có một ngôi tịnh Xá lớn cao hơn trăm thước, bên trong có pho yượng đá cao tám trượng. Phía trên thiết bày các lọng đá có đến bảy lớp, treo lơ lửng giữa hư không, mỗi lọng cách nhau khoảng ba thước. Những người đến lễ bái tham yết, không ai chẳng khen ngợi sức thần ấy. Từ đó, nhân rảo bước rộng tìm khắp các Thánh tích, Sư đến nước Bạt-phạt-đa. Có mấy vị hạnh đức, học nghiệp thật đáng tôn kính. Sư bèn dừng ở lại hai năm cầu học Chánh lượng Bộ luận Căn Bản, luận Nhiếp Chánh, luận Thành Thật v.v.. Rồi Sư lại theo hướng Đông Nam trở về Na-lan-đà. Tham lễ luận sư giới Hiền xong, Sư lại sang núi Trượng Lâm, chỗ Cư só Luận sư Thắng Quân. Luận sư ấy là người thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi, học thông nội ngoại, ngũ minh số thuật, thường cư trú trong rừng, nuôi dưỡng Đồ chúng, giảng dạy nghóa kinh Phật. Kẻ tăng người tục quy hướng có mấy trăm vị. các vị Quốc Vương v.v.. cũng đến chiêm ngưỡng lễ bái, rửa chân, cúng dường, ban phong tưởng thưởng Thành ấp. Sư bèn nương tựa ở đó, cầu học luận Duy Thức quyết trạch, luận ý nghóa, luận Thành Vô uý, v.v.. trước sau tất cả được hai năm. Một đêm, Sư mộng thấy từ trong chùa ra đến ngoài rừng ấp, lửa tràn lan thiêu đốt thành tro than. Thấy một người thân mầu vàng bảo với Sư rằng: “Về sau, khoảng mười năm, khi vua Giới Nhật băng, thì Ấn-độ sẽ bị nổi loạn, như lửa đang thiêu đốt cây cỏ.” Đến lúc tỉnh mộng, ngài kể lại với Luận sư Thắng Quân. Và trong ý Sư mới quyết định mọi sự để trở về Trung Hoa. Mãi đến cuối niên hiệu Vónh Huy (…sáu trăm năm mươi chín) –đời Tiền Đường, quả nhiên vua Giới Nhật băng. Đến nay ở xứ đó thảy đều đói kém hoang tàn, như trong giấc mộng của Sư vậy. Ban đầu, ở tại chùa Na-lan-đà, các vị Đại đức Sư Tử Quang v.v.. lập tông Trung Bách Luận, muốn dẹp phá giao nghóa của Luận Du-già v.v… Sư bảo rằng: “Các bậc Thánh soạn luận không bao giờ trái nhau. Chỉ người học có khuynh hướng trái lại mà thôi.” Nhân đó, Sư soạn Luận Hội Tông gần ba ngàn bài kệ, đem trình các Luận Sư Giới Hiền, v.v…. các Luận sư đều ngợi khen ngài khéo giỏi. Trước kia ở Nam Ấn Độ có vị sư Quán Đảnh tên là Bát-nhã-cúc-đa hiểu rành Chánh lượng Bộ, soạn luận phá Đại thừa gồm bảy trăm bài kệ. Bấy giờ, vua Giới Nhật đánh dẹp đến nước Ô-trà, Các luận sư Tiểu thừa bảo trọng luận đó, bèn đem dâng lên Vua và xin vua đề cử cho các Luận sư Đại thừa cùng đối luận quyết trạch sự hơn kém. Vua Giới Nhật biên thư gởi đến chùa Na-lan-đà đề nghị hãy sai cử bốn vị tăng khéo thông hiểu Giáo điển Đại, Tiểu thừa và Nội ngoại cùng đến hành cung, sẽ có luận nghóa. Luận sư Giới Hiền bèn sai cử bốn vị, đó là Hải Tuệ, Trí Quang, Sư Tử Quang và Sư cung vâng mạng lệnh. Lúc sắp sữa ra đi, có vị Thuận Thế ngoại đạo đến xin luận nạn, viết bốn mươi điều nghóa đem treo dán ở cửa chùa, nếu có người nào lý luận bẻ gãy thề sẽ chém đầu để tạ tội, vị ngoại đạo ấy chấp rằng “Bốn đại là nhân của người và vật, ý chỉ nghóa lý sâu xa, rất khó mà bày xét. Âm dương như thế ai có thể thấu cùng vận số” Do chấp như thế nên đến cầu quyết đấu. Tại nước ấy có lệ thường là đấu luận với nhau mà bị thua thì trước tiên bắt cưỡi lừa, đem bình nước phẩn rót lên đảnh đầu. Ông ở trong chúng, thân tâm đều chiết phục, sau đó làm kẻ thấp hèn, Chư Tăng cùng nghi ngờ sợ cái ách thua kém, nên im lặng chẳng bày đối luận. Sư đình chỉ đã lâu, nghiên cứu đến Luận Đạo, Bảo cùng Chư tăng xin được đối luận, chứ không thể chấp nhận cùng xấu hổ. Mỗi bên đều có người đứng bên cạnh làm chứng, qua lại mấy lần xem xét, không lối mở thông, thần lý đều tan mất, bỗng nhiên thầm phục. Dự ở cửa Phật cùng một lúc thắng vượt. Vị ngoại đạo kia đã bị bẻ gãy rồi bèn xin y theo điều hứa trước. Sư bảo: Trong giáo pháp của ta mở rộng sự tha thứ khoang dung, chẳng đặt nặng hình phật, người bẩm thọ Pháp ta như kẻ tợ kính thờ chủ.” Nhân đó, vị ngoại đạo ấy theo đến chỗ phòng Sư, vâng thờ Chánh Pháp yếu. Các Luận sư ở nước Ô-trà lại riêng thưa hỏi, tìm chọn trong đó lại có điều sai lầm. Sư bảo vị ngoại Đạo đã vâng phục ấy rằng: “Ông có nghe chỗ lập nghóa của Luận sư nước Ô-trà chăng?” đáp: “Nghóa ấy đã từng nghe và hiểu rất rõ ý thú.” Sư liền bảo nói bày điều đó. Và thấu suốt được cốt yếu, bèn nêu chỉ những điểm vụn vặt, trình bày nghóa lý Đại thừa mà phá dẹp. Sư soạn luận lấy tên là Luận Chế ác Kiến gồm một ngàn sáu trăm bài kệ, đem trình lên các Luận sư Giới hiền, v.v.. Các Luận sư đều bảo: “Luận ấy thấu cùng kình khấu của thiên hạ, ai có thể đối dịch được!” Ý Sư muốn lưu truyền, mở mang giáo bổn mới buông duyên khai mở chánh pháp, bèn sang nước Ca-Ma-Lâu-Đa thuộc xứ Đông Ấn Độ. Vì phong tục ở xứ ấy đều tin theo dị đạo, nên Bộ chúng dị đạo ấy có mấy muôn người. Phật pháp tuy được hoằng truyền mà chưa đến xứ ấy. Vua nước ấy kính thờ Thiên thần, rất mến trọng giáo nghóa. Chỉ nghe là người trí, bất luận là Chánh tà, đều kính phụng mọi người. Mới tiêm nhiễm Phật Pháp, dùng sự để mở mang nên sang đó khai hóa. Khi đã đến nơi, Vua nước ấy khen ngợi Sư thắng đạt, thần tư trong sáng xa vời. Vua Đồng Tử nghe thế mừng vui muốn được gặp mặt, bèn sai sứ đôi ba phen đến thỉnh Sư mới sang. Sư đã đến nơi cùng thấy nhau, dường như giao du với nhau đã lâu, bèn nói, tiếp đãi trải qua cả tháng. Bấy giờ, các hàng Dị thuật cùng nhóm họp cầu xin Vua cho quyết luận, ngôn từ vừa giao thì bọn tà bị xô ngã như cỏ rạp, vua càng thêm tôn sùng kính trọng, mới mở cửa kính tin thưa hỏi Sư về Chư Phật do đâu mà có được Công Đức. Sư bèn khen ngợi ba Thân Như Lai làm lợi ích cho muôn vật. Nhân đó mà soạn luận tam thân gồm ba trăm bài kệ để hiến tặng. Vua ấy bảo: “Thật chưa từng có!”, bèn đảnh lễ kính cẩn quy y. Phía Đông nước ấy tiếp giáp với Tây Man của đất Thục, nghe đường xá đó phải mất suốt hai tháng mới đi đến. Bấy giờ, các quan của Vua Giới Nhật mách bảo nhau rằng: “Tại Đông phiên, Vua Đồng tử có được mặt trời Đại thừa của nước Chi-na, Đạo Đức rộng lớn trùm khắp. Vua nước ấy rất kính trọng, cầu thỉnh đến đó”, mặt trời Đại thừa ấy tức là tên gọi mà Chư Tăng ở Ấn-độ ngợi khen Sư. Vua Giới Nhật bảo: “Ta đã từng thỉnh cầu, mà khước từ chẳng đến. Do nhân gì mà Sư đến ở nước ấy?” Liền sai bảo Vua Câu-ma-la hãy đưa Pháp sư người nước Chi-na (tức chỉ Huyền Trang) đến gặp tại nước Kỳ-la. Vua Đồng Tử ra lệnh đem hai muôn con voi, ba muôn chiếc thuyền và cùng Sư đồng đi ngược dòng nước sông Căng-già để đến chỗ vua Giới Nhật. Vua Giới Nhật cùng các quan thuộc hơn trăm muôn người thuận theo dòng nước đi về hướng Đông cùng nhóm họp tại nước Yết-thù-kỳ-la. Ban đầu mới trông thấy Sư, vua bèn đảnh lễ, dốc hết sự kính trọng, rải hoa, xướng đọc kệ tụng, cúng dường, rồi thưa rằng: “đệ tử trước kia đã cầu thỉnh, nhưng vì sao Sư không đến?” Ngài đáp: “Vì nghe pháp chưa xong, nên bay vâng lệnh!” Vua Giới Nhật lại hỏi: “Tại nước Chi-na có Vua Tần đánh trận mà trỗi nhạc ca múa. Vậy Vua Tần là nước nào mà Ca Vịnh như thế?” Sư bảo: “Đó chính là Thiên tử của Chánh Quốc hiện nay. Vua ấy là bậc Đại Thánh đánh dẹp giặc loạn, sửa đổi chính sách, ân đức thấm đượm khắp đất trời, nên có lời ca vịnh như thế!” Vua Giới Nhật bảo: “Nên trời mặc tình để vị vua ấy làm chủ muôn vật.” rồi mới thỉnh Sư vào hành cung thiết bày các thứ cúng dường. Sư bèn soạn Luận Chế ác Kiến. Ngoái nhìn Chư tăng mà bảo rằng: “Aùnh sáng mặt trời đã xuất hiện thì ánh đuốc bị mất sức sáng. Chỗ qúy báu của các sư, kia đều đã phá xong. Thử nghiên cứu lấy mà xem!” Chư Tăng thuộc khuynh hướng Tiểu thừa không ai dám nói một lời nào. Vua Giới Nhật bảo rằng: “Luận này tuy cao siêu nhưng chưa được truyền bá rộng rãi. Ta muốn đến Thành Khúc nữ thiết lập Đại hội, bảo những bậc tài só khắp năm xứ Ấn-độ có khả năng giảng nói, đối trước chúng đông mà hiển bày, giúp mọi người bỏ tà theo chánh, bỏ Tiểu hướng về Đại. Như vậy, há chẳng hay ư?” Ngày đó, Vua Giới Nhật liền ban phát chiếu lệnh bảo khắp trong nước, nhóm họp tất cả các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả các hàng Dị Đạo đồng đến thành Khúc nữ. Bắt đầu từ mùa đông, ban đầu ngược theo dòng nước, tới tháng chạp mới đến nơi. Bấy giờ, mọi người khắp bốn phương nhóm họp có tới mấy muôn người, người có khả năng luận nghóa có cả mấy ngàn vị. mỗi vị giỏi hùng biện đều xưng là khắc địch. Việc trước tiên là nhà vua dựng lập hành điện, mỗi nơi dung chứa ngàn người, thờ tôn trượng, cúng dường hoa hương âm nhạc. Thỉnh Sư lên Pháp toà, Sư liền nêu Luận Tông và bảo mọi người nêu bày hạch xét. Qua hết mười tám ngày mà không ai dám hỏi. Vua Giới Nhật hết lời ngợi khen tán thưởng, ban tặng Sư ba muôn đồng tiền bạc, một muôn đồng tiền vàng, một trăm bộ y phục bằng bông tơ. Vua bảo Quan Đại thần bưng nắm áo Ca-sa của Sư đi quanh khắp chúng mà nói như vầy: “Phá Sư người Chi- na biện luận đã thắng, suốt mười tám ngày cho đến nay không một ai dám hỏi. Mọi người đều phải nên biết như thế.” Bấy giờ tăng chúng rất vui mừng bảo rằng: “Phật Pháp trùng hưng, mới khiến ngươi kia (-=tức Huyền Trang) có được Quyền trí như vậy!”. Sư muốn giả từ để trở về Trung Hoa. Vua Giới Nhật lại thỉnh Sư ở lại thêm bảy mươi lăm ngày, thiết lập Đàn tướng Bố thí lớn. Đến lúc sự việc hoàn tất, Sư giã từ để trở về. Vua Giới Nhật ban sắc cho các Sở bộ lần lượt thay nhau đưa tiễn Sư ra khỏi nước. Đồng thời ban tặng Sư một con thanh tượng (voi xanh) tiền vàng, tiền bạc mỗi thứ mấy muôn. Vua Giới Nhật, vua Câu-ma-la, v.v.. tất cả mười tám vị Đại Quốc vương đều rơi lệ từ biệt Sư. Sư bèn từ chối không nhận. Vì coi thân hình rất lớn, mỗi ngày phải cần đến hơn bốn mươi vi cỏ, các thứ thức ăn phải dùng tới ba đấu. Vua Giới Nhật lại ban sắc cho các nước phụ cận tùy thuộc, hễ nơi nào Sư đi ngang qua đều nên cung cấp cúng dường Chư tăng, khuyên Sư nhận lấy con voi. Mọi người đều bảo: “Đó là tướng thù thắng! Từ lúc Đức Phật diệt độ đến nay, các vị vua tuy rất tôn sùng kính trọng đem các thứ bố thí cúng dường, nhưng không hề nghe đem voi để dâng cúng cửa Phật. Vì Voi là vật báu của đất nước. Nay đã thấy ban tặng như thế, thật là đức tin đã đến độ cùng cực!” Nhân đó, Sư nhận lấy voi mà trả lại tiền và vật báu. Con voi ấy thân hình tròn lớn, cao một trượng ba, dài hai trượng, trên lưng có thể chở tám người ngồi và các thứ kinh tượng, v.v.. đều đặt để lên trên, hình trạng như bức tường thấp, tướng tự như không hành, tuy gặp những lúc vôi tuôn chạy mau lẹ nhưng đều an ổn không rơi rớt, bình nước không nghiêng đổ. Sư men theo phía Bắc trở lại ra khỏi ranh giới nước Ấn-độ. vua Giới Nhật oai phong trùm khắp, nên Sư đều được cúng cấp hầu đãi. Sư đến nước Tỳ-lợi, ở đó nửa núi nửa sông tưới rót làm đất đai tươi tốt. Tăng chúng có đến mấy muôn vị, đều học theo Giáo Nghóa Đại thừa. Sư theo hướng Đông bắc đi bằng đường núi, trải qua các thành ấp, lên đến núi tuyết. Và tới trên đảnh thì các ngọn núi khác đều thấp. Sư lại đi lên thêm ba ngày nữa, là tới đảnh núi rất cao, trông nhìn thấy suốt cả Nam bắc, chỉ thấy núi Hoành có chín lớp, vượt qua đó rồi thì đều là đất bằng, tuy có các ngọn núi nhỏ nhưng cách xa không nối liền nhau. Chỉ một đảnh núi ấy sừng sững cao xa, ước lược mà nói thì núi Chầm của châu Thiệm-bộ ở phía Nam chính là ở đó. Làm sao biết được? Vì như cảnh giới ở phía Tây là vùng Ba Tư Bình xuyên mênh mông, phía Đông là đến Ngôi ngạc, chẳng có dấu vết cùng tận. Phía Bắc thì đồng trống tiêu điều, phía nam thì Ấn-độ cao ráo. Tức nơi mà trong các kinh gọi là Núi Hương. Đến nơi ao hồ sâu thẩm, chưa thể tìm tới cội nguồn. Nơi nương tựa của bốn dòng sông lớn đều xuất phát từ đó. Chỗ Nhó Nhã gọi là vùng Côn Lôn, há chẳng phải là đó ư? Căn cứ theo Gia Vũ Công thì sông chảy ra từ bãi đá, bởi hạn cuộc nói bàn về chỗ xuất xứ. Trương Khiên tìm theo đó mà đi đến Đại Hạ (Trung Hoa), hẳn là đã vượt chỗ đã trải qua, vẫn chẳng nói chỗ bắt đầu phát nguồn, nên đoán mà có thể biết. Sư dẫn theo trước sau, mọi người đi men theo đảnh núi mà xuống, suốt ba ngày thì tới đất bằng, đến Đổ- hóa-la; các đô cấp xưa cũ. Đi núi có tám trăm con đường rất khó khăn hiểm trở, gió lạnh buốt xương. Sư đến nước Ủ Hoạt, trên đường đi qua đều thuộc Bắc Định mà Vua Xứ đó là nối tiếp giòng dõi của Đột-quyết, thống lãnh các giống người Hồ, coi sóc chung các thiết môn cho đến các nước nhỏ phía Nam. Từ đó thẳng xuống hướng Đông mới đi vào Thông lãnh. Thông lãnh chiếm cứ ngay giữa Châu Thiệm-bộ, phía Nam tiếp liền với núi Tuyết, phía Bắc đến tận Biển nóng, phía Đông dẫn vào Ô Sái, phía tây đến tận Ba-tư, ngang rộng tất cả mỗi phía đến mấy ngàn dặm, quanh năm đều đóng băng tuyết. Từ trên đảnh và men theo sườn núi nguy hiểm, hơn nửa lưng chừng núi trở xuống thường có mọc hành núi, nên nhân đó mà gọi tên là Thông Lãnh. Người xưa nói rằng: “Thông lãnh dừng tuyết, tức là núi Tuyết”. Nay đích thân xem xét thì biết không phải. Vì núi Tuyết nằm ở phía Nam Thông Lãnh. Ở hai phía Đông Tây phô bày biển cả, phía Nam thì trông tới đồng trống bằng phẳng, phía Bắc thì tới Tùng sơn, nên gọi là Thông lãnh. Sư lại theo đường núi thẳng về hướng Đông, đi qua mười nước hơn hai ngàn dặm, là đến nước Đạt-ma-tất-thiết. Cảnh trí ấy nằm giữa khoảng núi, hai phía Đông tây rộng một ngàn sáu trăm dặm, hai phía Nam bắc nơi rộng nhất chẳng quá bốn, năm dặm, tới sông Phược-sô, từ phía nam mà đến, chẳng lường biết được cội nguồn của nó, chùa tăng có hơn mười ngôi, có một pho tượng bằng đá, phía trên đặt cái lọng tròn bằng đồng mạ vàng, nếu có người đi nhiễu quanh thì lọng cũng tùy theo đó mà xoay chuyển, không do máy móc khéo léo, chẳng thể lường biết được điều tự nhiên đó. Lại theo đường núi đi về hướng Đông gần một ngàn dặm là tới nước Thương-di, phía Đông đến giòng sông lớn, rộng hơn ngàn dặm. Ở phía phía Nam bắc hơn một trăm dặm tuyệt nhiên không có người ở. Tại dòng sông có ao rồng, hai phía Đông Tây rộng ba trăm dặm, và Nam bắc rộng năm mươi dặm. Ao ấy nằm trong Đại Thông Lãnh, là chỗ đất rất cao trong Châu Thiệm-bộ. Làm sao biết được? Vì ao đó lưu xuất ra hai dòng sông đều chảy về hướng Tây đến nước Đạt-ma-tất-thiết, hợp cùng với sông Phược-sô. Từ đó trở về hướng Tây đều là dòng chảy về Tây, còn dòng ở phía Đông chảy đến ranh giới phía Tây của Khư-sa, hợp với sông Tỷ-đa. Từ đó trở về phía đông, các dòng sông đều chảy về hướng Đông, nên chia thành hai dòng sông, đều chảy vào Biển Tây nên biết nó là Cao. Trong ao ấy có xuất hiện trứng chim rất lớn như cái đấu, theo nước Điều-chi thì trứng lớn như cái vò, há chẳng phải đó ư? Lại đi về hướng Đông khoảng năm trăm dặm là đến nước Yết- đàn-bà, phía bắc gối lưng với sông Tỷ-đa, tức là chỗ mà trong các kinh gọi là sông Tất-đà, theo hướng Đông chảy vào đầm muối rồi ngầm vào trong lòng đất, tuôn trào ra bãi đá làm thành sông Đông Hạ. Nước đó rất sùng tín Phật Pháp. Về phía Đông nam của thành hơn ba trăm dặm, có sườn lớn của hai ngôi thất, mỗi nơi có một vị La-hán hiện nhập Diệt định đã hơn bảy trăm năm, râu tóc dần dần dài ra, Chư Tăng ở gần đó hằng năm đều đến cắt tỉa. Sư lại đi về hướng Đông hơn ngàn dặm nữa mới ra khỏi Thông lãnh, đến nước Ô Sái. Thành gần với sông Tỷ-đa. Ở phía Tây có ngọn núi lớn, ven sườn núi tự sụp đổ, bên trong có vị tăng thầm lặng ngồi nhắm mắt, hình dáng rất kỳ vó, râu tóc rủ xuống tới tận vai, hỏi nguyên do mới biết đó là người ở thời Phật Ca-diếp, gần đây sườn núi sụp đổ vùi lấp trong lòng núi. Khi đến nước đó, Sư chẳng đi bằng voi, mà đến trước để đo sông Tuyết tới chiều, voi mới đến, nước sông dần dâng lên, chẳng rõ biết đường núi, tìm theo núi mà xuống thẳng. Ngà voi vướng vào cây ven bờ núi, tánh voi hung dữ trở lại nhổ vất nhanh, do đó mà bị chết. Sư buồn hận con đường đi qua đã vượt núi nguy hiểm, sắp đến miền đất bằng phẳng, mà chẳng thành đạt sự mong cầu! Từ đó, lại tiếp theo hướng Đông, đi qua Sơ-lặc mới đến Trở-cừ, đường dài hơn ngàn dặm. Trong đồng bạn có năm trăm người đều cùng nhau suy cử Sư làm Đại Thương Chủ và đặt Sư ở giữa doanh trại, bốn phía canh phòng gìn giữ. Vả lại, từ nước Trở-cừ, từ trước đến nay thường gìn giữ mười bộ kinh lớn, mỗi bộ có tới mười muôn bài kệ. Như trước đây tương truyền đó là Quốc bảo nên giữ gìn không cho phân tán. Nay thuộc về xứ Đột-quyết. Ở phía nam có ngọn núi lớn, hiện tại có ba vị La-hán nhập định Diệt Tận. Lại theo đường hướng Đông đi khoảng tám trăm dặm là đến nước Vu-độn. Đất ở đó toàn là Cát và đất mềm. Chùa Phật có hơn trăm ngôi, Tăng chúng khoảng năm ngàn vị, đều tu học giáo nghóa Đại thừa. Chùa ở núi nằm về phía Tây của thành là nơi xưa kia Đức Phật từng đi đến. Có hang đá rất lớn, có vị La-hán đang nhập định, cửa hang đóng bít. Ban đầu, khi đã đến Thông Lãnh, Sư bảo người hầu mang Biểu Văn đi về trước tấu trình với triều đình. Vua Thái Tông (Lý Thế Dân – thời tiền Đường) ban sắc thăm hỏi, bảo nên sớm cùng gặp gỡ. Song đến nước Vu-độn, vì voi chết nên kinh tượng đang giữa đường đi, không có phương tiện vận chuyển, Sư lại dâng biểu cầu xin, sau đó, Vua Thái Tông có ban biệt sắc cho vua nước Vu-độn cung cấp các phương tiện để chuyên chở. Vua nước Vu-độn đã vâng theo nghiêm sắc cho Lạc-đà, ngựa cùng vận chuyển đến Sa Châu. Lại nhờ biệt sắc, tính liệu hành trình thù đáp, giá trị thuê mướn, ngay đó chuyên chở theo từng trạm có đến hai mươi trạm. Đến ngày hai mươi bốn tháng giêng niên hiệu Trinh Quán thứ mười chín (sáu trăm bốn mươi lăm), Sư mới về tới phía Tây của Kinh Giao. Kẻ tăng người tục cùng nhau đổ xô ra các cửa đầy ních có đến mấy mươi muôn người, như gặp được Đức Phật hạ sinh. Sắp vào kinh đô, người vật tung hô ủng hộ, xô đẩy không thể tiến tới được, nên phải dừng ở tại biệt Quán, suốt đêm canh cấm gìn giữ, vì bị cản ngăn dừng nghỉ bên đường. Từ phía Tây Nam thành cũ đến kinh đô, đường chu tước đều dừng trạm dài xa hơn hai mươi dặm. Mọi người kính lễ bái yết, không được xoay quanh. Bấy giờ, xa giá về đến lạc Dương, Sư bèn để các thứ kinh tượng vào chùa Hoằng phúc. Tăng chúng ở kinh ấp đua nhau giăng bày phan phướn hỗ trợ đón rước trang nghiêm. Bốn bộ rầm ró lại gấp bội so với lúc mới đến. Ngay lúc ấy lại cảm điềm mây hiện giữa trời phía Bắc xoay tròn như cái lọng. Các mầu sắc hồng trắng soi chiếu lẫn nhau. Và ngay trên tượng phát ra tướng vòng tròn sáng, chẳng xoay quanh mặt trời. Mọi người cùng nhau khen ngợi kính ngưỡng từ giữa trưa cho đến chiều. Khi vào tới chùa Hoằng Phúc mới bắt đầu hết diệt. Đến nỗi khiến khắp kinh đô, bốn hạng dân chúng đều bỏ công việc, bảy chúng Đệ tử Phật đều quy hướng vâng thừa. Đương thời kỳ ấy, Sư kính ngưỡng cao độ từ xa xưa thật chưa từng có. Sư tuy gặp phải lắm sự hỏi han, song riêng giữ mình nơi Quán Vũ, ngồi giữ sự thanh nhàn, sợ vùi lấp trong mọi sự bàn luận nên chẳng đến đối đáp. Lúc đến bên bờ sông Lạc, đặc biệt nhờ sự an ủi thăm hỏi và dâng hiến các vật báu lạ của các nước, dùng ngựa cõng chờ đó, và Biệt sắc dẫn vào Nội Điện của cung sâu, tận mặt ra mắt tôn nhan Vua Thái Tông, cùng bàn luận chân tục, chẳng sai lầm ý chỉ của nhà vua, suốt thời gian từ giờ mão đến giờ Dậu, mà chẳng biết thời gian dài lâu. Mãi đến lúc tiếng trống tắc lấp, nhà vua liền sự việc Nhung Chiên, hỏi Tội Liêu Tả, sáng sớm hôm sau lúc sắp xuất phát, lại ban sắc đồng đi. Sư viện cớ Bệnh khổ nên cố từ, đồng thời trình bày việc phiên dịch. Nhà vua chẳng trái lời thỉnh nguyện của Sư, bèn ban sắc tại kinh đô lưu giữ Lương Quốc Công Phòng Huyền Lónh chuyên việc trông coi xem xét, giúp đầy đủ mọi thứ cần dùng, mỗi thứ đều vâng theo Thiên Phủ. Ban đầu, lúc Sư đang ở tại Ấn-độ. tiếng tăm Đạo phong đã vang động khắp năm xứ, khen ngợi người vật xứ Chi-na là lớn mạnh. Vua Giới Nhật và Chư tăng chùa Bồ-đề nghó nghe về nước này đã lâu ngày, chỉ cản trở bởi không có kẻ sứ truyền đạt tin tức nên chưa thể y cứ bằng chứng. Ở nước đó (Ấn-độ) thường truyền rằng: Tại Châu Thiệm-bộ có bốn vua thống trị. Ở phía Đông là Chi-na; là vua làm chủ cõi người, phía Tây là Ba-tư; là vua đứng đần về vật báu, phía Nam là Ấn-độ; là vua đứng đầu về voi, và phía Bắc là Hiểm Duẩn; là vua đứng đầu về ngựa. Đều có nghóa là cả bốn nước nhờ đó mà thống trị, tức là nói theo nhân thì Sư đã yên đến phù hợp với thuật đồng. Vua giới Nhật và Chư tăng mỗi mỗi đều sai Trung Sứ mang các kinh báu đến dâng hiến Đông Hạ (Trung Hoa) thì tín mạng Thiên-trúc do từ Sư mà thông, chỗ cùng cực của Tuyên thuật Hoàng Du. khi các Trung sứ đã trở về Tây Trúc, Vua Giới Nhật lại ban sắc Vương Huyền sách v.v.. tất cả hơn hai mươi người theo sang Đại Hạ và đều ban tặng các thứ tơ lụa có hơn ngàn xấp. Vua và Chư Tăng số lượng mỗi người có khác nhau, đều đến chùa Bồ- đề, Chư tăng mời thợ đường phèn, bèn sai bảo hai người thợ và tám vị tăng đều đến Đông Hạ. Sau đó ban sắc sang Việt Châu đến Cam-giá tạo lập, đều được thành tựu. Trước tiên, ba vị tăng ở chùa Bồ-đề mang kinh đến trước. Nhà vua ban sắc thỉnh chư Tăng ở khắp Kinh thành để thiết trai cúng dường, rồi đến ở chùa Hoằng Phúc, phiên dịch các Kinh Đại Trang Nghiêm, v.v.. sau đó không lâu thì có tin Sư sắp về đến. Vua Thái Tông bèn ban sắc ngừng nghỉ, chờ đợi Sư về đến nơi Phiên dịch. Chúa Thượng trong lòng mong ngóng kính ngưỡng, có ban sắc chiếu rõ ràng mời Sư chóng đến, chỉ vì sự cố liên miên chẳng sớm trình đạt. Khi Sư đã nhìn thấy lạc cung thì tư tưởng càng sâu rỗng, liền bày việc phiên dịch, tìm chọn các bậc hiền minh. Nhà vua bảo: “Pháp Sư (Huyền Trang) đối với hai thứ ngôn ngữ Đường (Trung Hoa) Phạm (Ấn-độ) đều đọc xem thấu cùng, từ lý thông suốt, e sợ luống mở mang, nơi trắc lậu trọn thiếu sót Thánh Điển!” Sư bảo rằng: “Xưa kia nơi chốn phiên dịch của hai thời Nhà Tần, đồ chúng có đến ba ngàn vị. Tuy phiên dịch lưu truyền, còn sợ người đời sau không nghe, có tâm nghi ngờ trái với niềm tin, nếu chẳng tìm nêu đồng kính phụng khuôn phép huyền vi, chẳng lẽ dùng khả năng riêng mà vọng tham dự triều ủy?” Sư từng cố nài thỉnh mới được ban giáng hứa khả. Vua Thái Tông bảo: “Từ sau khi Pháp sư cất bước ra đi, Ta xây dựng chùa Hoằng Phúc. Ở đó tuy thiền viện nhỏ hổ nhưng tónh lặng có thể làm nơi phiên dịch. Mọi thứ cần dùng người vật sức lực phụ thuộc đều giao cho Huyền Lónh thương lượng chuyên lo chu cấp ưu đãi”. Sư đã vâng lệnh vua trở lại chốn kinh đô, bèn thỉnh các Sa-môn Tuệ Minh, Linh Nhuận, v.v… đảm nhậm việc chứng nghóa, Sa- môn Hành Hữu, Huyền Trách, v.v… đảm nhận việc biên tập. Sa-môn Trí Chứng, Biện Cơ, v.v.. đảm nhận việc ghi chép Văn. Sa-môn Huyền Mô Kiểm chứng Phạm ngữ. Sa môn Huyền ứng hiệu đính chữ sai. Vào tháng năm năm đó (sáu trăm bốn mươi lăm) bắt đầu công việc Phiên Dịch Đại Bồ-tát Kinh tạng gồm hai mươi quyển. Sư đảm nhậm việc cầm bút và san lọc từ lý. Kinh ấy giải thích rộng về các Pháp sáu Độ, bốn nhiếp, mười lực, bốn Vô Uùy, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, các Bồ-tát hạnh, hợp tất cả mười hai phẩm, gần bấn trăm trang giấy. Bên cạnh lại phiên dịch luận Hiển Dương Thánh giáo gồm hai mươi quyển. Sa-môn Trí chứng, v.v… thay đổi nhau ghi chép văn. Sa-môn Hành Hữu rõ lý Văn cú. Còn Sư lại gia công đào luyện. Tiếp đến lại phiên dịch Luận Đại thừa Đối Pháp gồm mười lăm quyển. Sa-môn Huyền Trách ghi chép, không có thiếu sót. Sư lại soạn Tây vực truyện, gồm mười hai quyển. Sa-môn Biện Cơ đích thân tiếp nhận sự chỉnh trang trước sau. Và kiêm luôn phiên dịch các kinh như Phật Địa lục môn Thần chú v.v.., tất cả khoảng tám mươi quyển. Các bản kinh giáo được phiên dịch từ trước đến nay, ban đầu theo tiếng Phạm viết ngược lại Bổn văn, kế đó mới trở lại thuận theo tục lệ này. Sau đó mới sửa lý Văn cú, khoảng giữa thêm bớt, phần nhiều rơi rớt toàn lời. Bản dịch truyền ngày nay đều do ý chỉ của Sư, ý nghó độc đoán, mở lời thành chương, từ do người tùy viết thì có thể bày xem. Các bản văn do các vị Thượng Hiền ở Thời Ngô Ngụy phiên dịch đều qúy trọng câu văn của tiếng Phạm Tây Vực, ràng rịt liên loại chồng chất bày bố. Văn nghóa thời tiền Đường lại lắm phiền phức nên khiến những người giỏi chuyên coi vị trí ấy. Do đó, Sư xem suốt từ nghóa, thêm qua phần giản tiết, đánh dấu văn bản để khắc thành, ghi chép khéo léo. Bấy giờ, Vua Thái Tông chuẩn bị xa giá trở lại Tây Kinh, Sư bèn soạn Biểu Văn tấu trình, và cầu xin đề lời tựa ở các bản kinh luận vừa mới phiên dịch. Nhà vua ban sắc chiếu viết tay rằng: “Pháp Sư từ trước đã nêu cao hạnh, sớm vượt ngoài cảnh trần, nỗi thả thuyền báu mà đến bờ kia, tìm nghóa mầu để mở pháp môn, mở mang truyền bá Đại pháp mà gạn lọc quét tẩy các phiền lụy. Do đó, mây lành như muốn cuộn, duỗi ra đó mà che khắp bốn Không, mặt trời tuệ sắp tắt, khêu sáng lên để chiếu soi Bát Cực. Người duỗi mây khơi sáng đèn ấy chỉ có mình Pháp sư? Trẫm sở học cạn cợt, tâm ý vụng về. Đối với mọi vật còn mê lầm huống gì là Phật pháp sâu xa mầu nhiệm, đâu dám ngưỡng trông lường xét. Mà Pháp sư xin ta viết lời tựa các kinh, thật chẳng phải điều thấy biết của Trẫm!” Sư soạn “Tây Vức truyện”, nhà vua tự xem đọc. Và lúc Sứ giả Tây vực trở về Ấn-độ. Vua ban sắc hơn hai mươi vị, cùng theo sang Ấn-độ. Từ trước đến nay Quốc mạng thông nghị trung thư ban sắc dùng phương ngôn của cõi khác, mục đích là phù hợp, mới phiên dịch thành tiếng Hoa nương tựa theo tiếng Phạm Tây Vực, văn từ nặng nhẹ khiến cho người đọc tôn sùng Đông hạ. Nhà vua lại ban sắc cho Sư phiên dịch năm ngàn văn bản của Lão Tử từ tiếng Hoa thành tiếng Phạm để đưa tặng sang Tây Vực. Sư bèn mời các Đạo só Hoàng Cân nói về nghóa mầu sâu xa của Đạo giáo để Sư thu thập nhận rõ từ chỉ, mới bắt đầu phiên dịch. Các Đạo Só Thái Hoãng, Thành Anh, v.v.. đua nhau dẫn nêu Thích luận, huyền ý trong Trung Luận Bách luận dùng để tương thông với Đạo kinh. Sư bảo: “chỗ đến cùng của Phật giáo và Đạo Giáo khác nhau như trời vực, đâu thể lấy lời Phật để tương thông với nghóa Đạo?” cuối cùng tra xét gốc tích ngôn ngữ vốn không có chỗ để theo, Đạo só Thái Hoãng mới dùng tình cảm nói rằng: “từ xưa tương truyền là nhờ Phật giáo, còn như Tam luận, Hoãng tôi bắt chước vâng theo chuẩn nghóa u thông không gì chẳng đồng hội nên mới dẫn giải. Như Luận do Sa-môn Tăng Triệu soạn, trích dẫn Lão Trang rất nhiều. Còn tự trình bày rõ ràng, chẳng lấy làm quái lạ. Lời Phật tợ như Đạo, đâu có sai lầm luân ngôn.” Sư bảo: “Lúc Phật giáo mới mở bày giáo hoá, ngôn ngữ sâu mầu còn phải giữ lại. Lão giáo bàn nói về huyền lý, phải nương gá vào lời Phật. Luận của Sa-môn Tăng Triệu hiện đang lưu truyền trích dẫn là liên loại. Đâu thể dùng từ dụ để thành thông cực. Nay, kinh luận rất dồi dào, tất cả đều có Tư Nam. Đạo Lão chỉ có năm ngàn luận mà không Văn giải. Ngoài ra còn có cả ngàn quyển phần nhiều là y phương. Còn như ở xứ này còn có các vị như Hiền Minh, Hà Yên, Vương bật, Chu Ngung, Tiêu Thích, Dịch Cố Hoan v.v.. có tới vài mươi nhà chú giải về Lão Tử sao chẳng dẫn dùng, mà lại bàng thông đến Phật Giáo. Ấy chẳng là đẩy bước vượt dấu vết ư?” Thế rồi, Sư căn cứ văn bản để phiên dịch xong, sắp muốn phong lặc, Đạo só Thành Anh bảo rằng: “Kinh điển của Lão giáo rất sâu kín, nếu chẳng bày dẫn, đâu có thể cùng thông? Nên xin phiên dịch cho”. Sư bảo: “Đọc xem văn sửa thân, trị nước của Lão giáo văn từ đầy đủ, mà lời tựa dẫn như gõ răng nuốt nước bọt, ngôn từ thấp hèn, e sợ người Tây Vực nghe biết về Dị Quốc, thật thẹn thùng với nước nhà!” Đạo só Thành Anh v.v.. đem việc ấy tấu trình lên các quan Tể phụ. Sư lại vì phô bày tình tiết. Trung Thư Mã Châu hỏi rằng: “Ở Tây Vực có Đạo nào như Lão Trang chăng? Sư đáp: “Ba mươi sáu đạo giáo ở Tây Vực đều muốn siêu sinh. Các Sư tiếp thừa có sự vướng mắc cuối cùng chìm đắm trong các Hữu. Còn như phương thuật Thuận Thế tứ đại, Tông chỉ Minh sơ lục Đế, ở Đông Hạ thấy nói bày. Nếu phiên dịch về lời tựa Đạo Lão thì sợ kia cho là chuyện tiếu lâm mà chẳng phiên dịch.” Sư cho rằng điểm rốt cùng của việc mở mang khen ngợi, chớ chuộng theo đế vương. Mở mang khai hóa lưu bố đó là điều qúy trọng từ xưa. Sư lại dâng Biểu Văn rằng: “Kính vâng mặc sắc, ban rủ giúp bày. Cầu vâng phụng luân ngôn, tinh thành giữ sự chấn vượt. Huyền Trang tôi nghiệp còn luống sợ, lầm tham pháp lữ, may thuộc cửu doanh, có dứt bến biểu không lo. Nhờ Hoàng linh mà đi xa, cậy uy nước mà hỏi Đạo. cuối cùng, từ xa mạo hiểm, chỉ dốc hết sự ngu thành, biên soạn đặc dị, ôm giữ trống không, thật là nhờ triều hóa. Các Kinh luận thỉnh cầu được đã vâng sắc phiên dịch, hiện tại đã thành pho quyển mà chưa có lời tựa giải thích, cúi xin Bệ hạ thấu hiểu suy tư như mây bủa, hoa trời ngời sáng cảnh, lý trùm muôn tượng, điều vượt hàm anh, hơn ngàn xưa vì lên tiếng, bít trăm vua mà lên thật. Trộm nghó rằng: Thần lực vô phương, nếu chẳng phải Thần Tư thì chẳng đủ để giải thích lý ấy. Thánh giáo mầu nhiệm xa vời, nếu chẳng phải bút Thánh, làm sao có thể giải bày ngọn nguồn! Nên mới mạo muội phạm đến oai nghiêm, dám mong xin đề mục Thần quyến xung mạo chẳng rũ lòng xót thương, vỗ về tự thân chẳng dám lên hơi tiếng, đoái hoài nhau thì mất mưu kế. Huyền Trang tôi nghe “Mặt trời, mặt trăng rực rỡ khắp trời đã chiếu soi nơi nhà cửa, sông rạch khắp đất, cũng chảy đầy bến bờ hang hóc. Mây hoà nhạc rộng, chẳng giấu ảnh hưởng đối với người mù điếc.” Dám noi theo lý ấy mà xem trọng việc mong cầu. Cúi xin sấm mưa tuôn rũ, Thiên Văn soi chiếu, phối lưỡng nghi cùng lâu dài, cùng trời trăng mà đều cao xa. Nhưng lời mầu nhiệm nơi non Thứu, gá thần bút mà vang rộng xa. Nghóa sâu mầu ở kê viên, nương anh từ mà tuyên xướng. Đâu chỉ nhỏ nhen với hàng Phạm chúng, riêng đội nhờ ân vinh, cũng khiến cho các loài mê muội nhung nhúc vượt thoát trần lụy mà thôi!” Ngày, Sư dâng Biểu Văn tấu trình, nhà vua bèn ban sắc cho phép, nói cùng Phò Mã Cao Lý Hạnh rằng: “Ngày trước, con xin Trẫm vì cha của con mà làm văn bia. Nay, khí lực chẳng còn như xưa, nên Trẫm phát nguyện làm các công đức vì Pháp Sư (Huyền Trang) mà soạn lời tựa các kinh, chứ không thể làm Văn bia, con biết cho ta điều đó!” Niên hiệu Trinh quán thứ hai mươi hai (sáu trăm bốn mươi tám) Vua Thái Tông đến cung Ngọc Hoa, tìm Sư đến. Nhà vua hỏi Sư: “Phiên dịch các kinh luận gì?” Sư đáp: “Đang dịch Luận Du-già.” Vua hỏi: “Luận đó do vị Thánh nào soạn, và nói về nghóa lý gì?” Sư trả lời đầy đủ mọi vấn đề, nhà vua bảo mang luận đến và tự xem đọc, rồi ban sắc kinh luân mới phiên dịch được viết thành chín bản rồi ban cho chín Châu lớn như Châu ung, Châu Lạc, châu Tương, Châu Duyện, Châu Kinh, Châu Dương v.v… Sư lại cầu thỉnh vua viết lời tựa kinh.vua bèn soạn, đề tên là “Đại Đường Tam Tạng Thánh giáo tựa”. Và ở tại điện Minh Nguyệt, Vua bảo Hoằng Văn Quán Học Só Thượng Quan Nghi đối trước các Quan liêu mà xướng đọc. Lời tựa ấy, Vua viết rằng: “Nghe rằng: Nhị nghi có tượng, hiển bày sự chở che muôn loại, bốn thời vô hình, thầm nóng lạnh để biến hóa muôn vật. Cho nên, nhìn trời xét đất, kẻ tầm thường đều biết được đầu mối. Rõ thấu âm dương, bậc Hiền triết có ít người rõ được số ấy. Nhưng mà trời đất bao trùm âm dương mà dễ biết, bởi vì có tượng. Âm Dương ở nơi Đất trời mà khó cùng, vì vô hình. Nên biết tượng hiển hiện có thể bày, tuy Ngu mà chẳng lầm hoặc. Hình ngầm ẩn chẳng thấy, người trí còn mê mờ, huống gì Phật Đạo rỗng lặng, hoàn toàn sâu kín, cứu tế khắp muôn loại, phép thống ngự mười phương. Nêu oai linh mà không trên, nén Thần lực mà chẳng dưới. Lớn thì cùng khắp cả vũ trụ, nhỏ thì chỉ nằm trong mảy bụi. Không diệt không sinh. Trải qua ngàn kiếp mà chẳng xưa. Như ẩn như hiện. Chuyển vận trăm phước mà lâu dài. Nay, Đạo mầu bất động nhiệm mầu, noi theo đó mà không biết ngằn mé. Dòng Pháp Trạm nhiên, rót đi đó mà chẳng đo lường nguồn cội. Nên biết hàng phàm ngu máy động, tầm thường, nhỏ mọn nương nhờ chỉ thú có thể không nghi hoặc ư? Cho nên, Đại Giáo hưng khởi, nền tảng ở Tây Vực. Vượt tới đất Hán mà sáng tỏ mộng, chiếu soi Đông Độ mà tuôn rải Đạo từ. Xưa kia, lúc phân hình phân vết, ngôn từ chưa đuổi theo mà thành hóa. Ngay trong đời thường mà hiện thường, muôn dân kính ngưỡng đức mà noi theo. Đến lúc mất ảnh về chân, đời đổi nghi, vượt phàm thế. Kim Dung che lấp sắc màu, chẳng chiếu soi ba ngàn tương sáng. Tượng đẹp lạ mở khai Đồ, không đầu mối ba mươi hai tướng tốt. Khi ấy, lời nhiệm mầu rộng vang khắp, cứu giúp muôn loài trong ba cõi. Lời di huấn, xa tuyên xướng dắt dẫn chúng sinh lên Thập Địa. Nhưng chân giáo khó kính ngưỡng, chẳng thể một ở chỉ quy. Phép học dễ noi theo, tà chánh rối loạn. Do đó, luận về Không Hữu, hoặc theo thế tục mà đúng sai, Đại Thừa Tiểu thừa, chợt theo thời mà thạnh suy. Có Pháp Sư Huyền Trang là bậc lãnh tụ pháp môn. Từ thưở ấu thơ đã có tâm trắng trong thông minh, sớm tỏ ngộ tâm ba không. Lúc lớn lên khế hợp với thần tình, trước ôm hạnh bốn nhẫn. Như thông gió, nước trăng không đủ để sánh với hoa trong sạch. Sương Tiên châu sáng, há có thể ví cùng sự đượm nhuần sáng sạch của Sư. Cho nên dùng trí thông chẳng lụy, thần xét vô hình. Vượt sáu trần mà chóng ra, riêng ngàn xưa mà không đối. Tâm bất động đối với cảnh, buồn thương sự tàn lụi của Chánh Pháp, gá lo toan về Huyền môn, bùi ngùi sự sai lầm của Văn sâu. Nghó muốn phân Điều chiết lý, mở rộng sự thấy nghe từ trước. Dứt bỏ tà ngụy, tiếp nối nguồn chân, mở mang từ nay cho hậu học. Vì thế dốc tâm hướng về Tịnh Độ, đi sang Tây Vực. Nương nguy ách xa dài, roi trượng một mình đi đến. Chứa tuyết sớm bay, đường đi mất lối. Kinh hãi cát bụi đêm đêm cuộn lên giữa hư không, khỏa lấp mờ trời. Muôn dặm núi sông, xua ráng mây mà tiến bước. Trăm lớp lạnh nóng, đạp mưa sương để cất bước. Thật qúy trọng xem thường lao nhọc, cầu thành đạt nguyện sâu. Đi cùng khắp trời Tây tất cả mười bảy năm, đi khắp các nước, hỏi cầu Chánh giáo. Tám thứ nước Song lâm, nếm Đạo ăn phong. Lộc uyển Thứu phong, chiêm ngưỡng khác lạ. Thọ học chí ngôn nơi Chân thánh, nhận lãnh chân giáo ở Thượng Hiền. Tham cứu Diệu môn sâu kín, tinh chuyên thấu cùng nghiệp mầu. Giáo pháp nhất thừa ngũ luật chợt đến nơi ruộng tâm. Văn Tám tạng ba tráp, sóng cuộn ở cửa biển, bèn từ các nước trải qua, đem tất cả yếu văn trong Ba tạng gồm tất cả sáu trăm năm mươi bảy bộ, phiên dịch lưu bố ở Trung Hạ, tuyên dương nghiệp cao quý, dẫn mây lành ở trời tây, rưới mưa pháp tại đất Đông, Thánh giáo thiếu sót mà lại vẹn toàn. Chúng sinh tội lỗi mà lại được phước. Dập tắt nóng bức nơi nhà lửa, cùng quét sạch bụi mê, soi sáng sóng hôn mê trên sông ái, để đồng đến bờ kia. Vậy đủ biết nhân xấu ác là nghiệp rơi đọa, khéo dùng duyên để đi lên. Đầu mối của đi lên hay rơi đọa, chỉ là chỗ con người nương gá. Thí như cây Quế sống ở đỉnh núi cao, mây móc mới được nở hoa, hoa sen mọc từ sóng biếc, bụi bay chẳng thể làm dơ bẩn lá. Chẳng riêng tánh hoa sen tự thanh khiết mà chất cây quế vốn trắng trong. Vì chỗ nương gá cao thì vật nhỏ nhệm chẳng thể nhiễm lụy. Nơi cây trông sạch thì loại dơ bẩn chẳng thể thấm bám. Thế nên,cỏ cây là vật vô tri còn nhờ duyên tốt mà được tốt. Huống gì con người có sự nhận biết, chẳng duyên nơi mừng vui mà cầu mừng vui, mới có thể mong mỏi. Kinh ấy lưu truyền ban trải, cùng mặt trời mặt trăng mà chẳng cùng tận. Phước ấy bày xa cùng đất trời mà mãi mãi rộng lớn!” Trăm Quan đều khen ngợi vui mừng. Sư lại dâng tấu Biểu Văn cảm tạ rằng: “Huyền Trang tôi trộm nghe rằng: Sáu Hào sâu sắc chỉ hạn cục ở nơi sinh diệt, tên gọi đúng của trăm vật chẳng liên quan tới Cảnh chân Như. Như hãy xa nêu bày sách vở của Thần Hy, thấy sâu kín mà chẳng lường được sức thần. Xa tưởng đến Đồ Kế của Hiên Viên, trải qua chọn lựa đều kết quy về sự tốt lành ấy! Cúi mong Hoàng Đế Bệ Hạ từ Ngọc hào giáng chất, Kim Luân ngự trị đất trời, mở rộng chín châu của Tiên Vương, che lấp mặt trăng của trăm ngàn. Xét xem khu vực của nhiều đời, thâu nạp Pháp giới như Hằng sa, bèn khiến tinh xá Cấp Viên đều nhập vào Đề Phong, Linh Văn Bối diệp thảy kết quy về san phủ. Nhân xưa của Huyền Trang chấn tích cũng tham yết núi Kỳ-xà-quật, đường đi trải qua muôn dặm, cậy uy trời mà chỉ như thước tấc. Chẳng ngồi ngàn cánh mà đến Song Lâm chỉ chừng như bữa ăn. Sưu tìm ba Tạng, đến tận chỗ cất chứa của cung rồng, nghiên cứu Nhất thừa, thấu cùng Di Chỉ ở Thứu Lãnh, đều đã chuyển chở đến Bạch mã, lại dâng hiến tới triều đình. Bỗng nhiên được hạ chiếu bảo ban phiên dịch. Huyền Trang tôi sự nhận biết trái với Long Thọ, sai lầm làm nhục vinh hạnh của Truyền đăng. Tài khác với Mã minh, thẹn sâu sự Thông minh của Tả Bình. Các kinh luận đã phiên dịch rất nhiều sai lầm, cho nên đội ân trời lưu thần đề tựa. Văn vượt ngoài tượng hệ, như nhóm mặt trời mà phát ra ngàn tia sáng. Lý bao gồm các môn huyền diệu, đồng mây trí tuệ đượm thắm trăm cây cỏ. Một lời giảng nói đến muôn ức kiếp ít được gặp. Bỗng nhiên vì bé nhỏ sống gần được vâng thừa Phạm hưởng. Thật hớn hở vui mừng như nghe thọ ký!” Ngày Sư tấu dâng Biểu Văn cảm tạ, sau đó, Vua Thái Tông liền ban sắc rằng: “Trẫm tài năng kém với Khúc Chương, ngôn từ hổ thẹn cùng Bát Đạt. Còn như đối với Nội Điển là chỗ chưa được nhàn rỗi mà đọc xem. Hôm qua soạn bản văn lời tựa rất quê kịch vụng về, chỉ sợ vậy do bút mực nơi thẻ vàng, nêu bày ngói sỏi nơi rừng châu ngọc. Bỗng được thư đưa đến lầm vâng thừa ngợi khen. Trẫm vỗ mình xét nghó càng thêm dày mặt. Khéo chẳng xứng đáng, không nhọc đến cùng cảm tạ!” Sư lại dâng biểu văn cảm tạ. Vua Thái Tông lại ban sắc viết rằng: “Lúc xưa, trẫm chẳng từng đọc xem kinh, lại thêm không tài trí, bỗng nhiên soạn lời tựa bộ luận, lại ô uế văn kinh. Xem lời thư gởi đến, uổng được ngợi khen, thẹn gặp khen luống, chỉ thêm xấu hổ!” Từ đó, các bậc Anh đạt trong triều đình đều bày tỏ sự khen ngợi. Phật giáo mở mang hưng thạnh, khí tiếp thành bóng che. Hoàng Thái tử thuật lại “Tam Tạng Thánh giáo tựa” do Vua Thái Tông soạn, viết rằng: “Hễ mở mang Thánh giáo, nếu chẳng phải người trí thì không thể mở rộng Văn Kinh, nêu cao lời mầu, mà không phải bậc Hiền thì chẳng thể định được Tông chỉ. Bởi vì chân như Thánh Giáo là Huyền tông của các Pháp, là khuôn phép của các kinh, bao gồm lớn lao, yếu chỉ sâu xa. Cùng tận tinh vi của Không Hữu, thấu suốt cơ yếu của sinh diệt. Văn từ hay đẹp, Đạo ý sáng sủa, nghiêm tầm chẳng thể tận cùng nguồn gốc. Văn ngôn hiển bày, nghóa lý sâu xa, người trải qua không thể lường biết được ngằn mé. Nên biết, Thánh từ trùm khắp, nghiệp không thiện thì chẳng thể đến, Diệu hoá trải bày, duyên chẳng ác thì không cắt đứt. Khai mở giềng mối của lưới pháp, hoằng hóa Chánh giáo của sáu Độ, cứu vớt mọi than thở của muôn loài, mở mang Bí cục của ba tạng. Vì vậy, Danh không chắp cánh mà bay xa, Đạo chẳng cội rễ mà mãi vững bền. Đạo Danh thường lưu, trải suốt từ xa xưa mà giữ thường. Đến thân cảm ứng, qua nhiều kiếp mà không hủ mục. Sáng chung tối phạm, giao hưởng hai âm ở non Thứu, Tuệt nhật Pháp lưu, quay hai bánh xe ở Lộc uyển. Bày lọng báu trên hư không, tiếp mây lành mà cùng bay. Vườn trang rừng xuân cùng hoa trời hợp sắc thái. Cúi mong Hoàng Đế bệ hạ Thượng huyền giúp phước, duỗi tay khoanh tay mà sửa trị tám hoang, đức trùm khắp muôn dân, lạy mà chầu muôn nước, ân thêm gánh nặng, hang đá kết quy văn lá Bối, thấm đượm côn trùng. Rương báu lưu giữ kệ Phạm thuyết. Bèn khiến nước sông A- nậu-đạt chung cho cả tám dòng sông của Thần Điện. Núi Kỳ-xà-quật nối liền với non biếc của Tung Hoa. Trộm nghó: Pháp tánh bất động vắng lặng, không quy tâm thì chẳng thông. Trí Địa sâu mầu, cảm sự khẩn thành mà hiển hiện. Đâu có nghóa là đêm dài tăm tối chập chùng mà đốt sáng đuốc tuệ, chiếu sáng nơi nhà lửa, ban rưới mưa pháp. Do đó, trăm sông tuy khác dòng mà đồng gặp ở biển cả. Muôn khu phân nghóa, nhưng tất cả thành ở sự thật. Há cùng Thang Võ so sánh kém hơn, Nghiêu Thuấn ví cùng Thánh Đức hay sao? Pháp sư Huyền Trang vốn là người thông minh, lập chí đơn giản Thần tình trong sáng từ tuổi bé thơ. Thể thức vượt trội cuộc đời phù hoa. Lắng tình ở Định thất, giấu vết nơi hang sâu. Dừng nghỉ ở Tam Thiền vân dụ khắp mười Địa. Vượt cảnh sáu trần, riêng bước Ca-duy. Gặp được yếu chỉ Nhất thừa, tùy cơ duyên khai hóa chúng sinh. Vì ở Trung Hoa không chất nên tìm chân văn ở Ấn-độ. xa vượt Hằng sa trọn mong cầu mãn tự. Từng lên núi Tuyết, lại đi suốt nửa trái đất. Qua lại hỏi Đạo ròng rã suốt mười bảy năm. Hoàn bị thấu suốt kinh điển nhà Phật, lấy việc lợi vật làm tâm. Đến ngày mồng sáu tháng hai niên hiệu Trinh Quán thứ mười chín (sáu trăm bốn mươi lăm) Sư vâng sắc trụ chùa Hoằng Phúc phiên dịch Thánh giáo, khai mở dắt dẫn dòng Pháp của biển lớn, tẩy rửa trần lao mà chẳng cạn, truyền ánh sáng dài của đèn trí, soi sáng tối tăm mà thường tỏ. Nếu chẳng gieo trồng duyên tốt từ lâu xa thì sao có thể hiển dương ý chỉ ấy? Cái gọi là Pháp Tánh thường trú ngang bằng ánh sáng của Tam quang. Hoàng Đế Bệ Hạ phước đến đồng như sự bền bỉ của nhị nghi! Cúi đầu trông xem Ngự chế lời tựa của các kinh luận, soi xưa vượt nay, lý ngậm cùng âm vang của vàng đá, Văn bao gồm đượm nhuần của gió mây. So sánh như dùng lấy mảy bụi đủ khiến cho núi non sụp đổ, sương móc thêm lan tỏa. Lược nêu đại cương để làm lời ký này!” Từ đó, Sư thường ra vào nơi Nội cấm, thưa hỏi trầm ẩn, phiên dịch nối nhau chẳng sai trái với cơ pháp. Vua ban tặng một bộ pháp phục vân nạp, xinh đẹp tuyệt diệu xưa nay. Vua lại ban sắc cho trong nước mỗi chùa chọn năm vị tăng duy trì hạt giống Thánh. Đó đều do năng lực của Sư. đến tháng mười. Sư theo xa giá vào kinh, ở tại Bắc quyết, xây dựng Viện Hoằng Pháp. Và Sư thường ở tại đó. Ban đầu, ở Khúc Trì, nhà vua vì hoàng hậu Văn Đức mà xây dựng chùa Từ Ân, thỉnh Sư ở đó độ ba trăm người. Và có ban lệnh ở phía Tây bắc chùa xây dựng viện Phiên dịch kinh, đồng thời cung cấp cho mười lăm vị đệ tử mới độ. Ở chùa Hoằng Phúc chỗ Sư ở cũ cũng ban cấp mười vị. nay Hoàng Thượng tiếp nối ghi chép vốn được trân kính. Tìm Sư vào lo hỏi giữ lễ cung kính khác thường. Đến niên hiệu Vónh Huy thứ hai (sáu trăm năm mươi mốt), Sư xin xây dựng Phạm Bản kinh Đài, nhờ được sắc chiếu ban tặng mọi vật nên chóng được thành tựu. Nhà vua lại tìm mời Sư vào nội cung, ở điện Tu Văn, phiên dịch các Luận Phát Trí, v.v.. Nhà Vua ban sắc chiếu viết tay Phi bạch thư, an ủi hỏi han rất ưu hợp. Tháng giêng niên hiệu Hiển Khánh thứ nhất (sáu trăm năm muơi sáu), Sư vì Hoàng Thái tử mà thiết đại trai hội ở chùa Từ Ân. Các hàng Triều thái đều đến. Hoàng Môn thị lang Tiết Nguyên Siêu, Trung thư lang Lý nghóa Phủ hỏi rằng: “Phiên dịch kinh là việc lớn của Phật Pháp, chẳng hay Sư đức hạnh gì mà mở mang tỏ sáng ư?” Sư đáp: “Câu hỏi ấy của ông, là điều tôi thường ôm ấp! Phiên dịch kinh điển tuy địa vị thuộc ở chư tăng, nhưng giá trị sáng tỏ là đều nhờ ở Triều Qúy. Còn như Ngài Cưu-ma-la-thập ở thời Diêu Tần thì An Thành Hầu Diêu Tung ghi chép, Ngài Bồ-đề-lưu-chi ở thời Nguyên ngụy thì Thị Trung Thôi Quan ghi chép văn, vào đầu niên hiệu TrinhQuán (sáu trăm hai mươi bảy…), Ngài Ba-phả khi mới phiên dịch, thì Bộc Xạ Tiêu Võ, Thái Phủ Tiêu Cảnh, Hứ tử Đỗ Chánh Luân v.v.. trông coi xem xét định đoạt, nay thì không có được như thế, nên chẳng đủ để sáng tỏ rộng xa! Lại nữa, tại chùa Đại Từ Ân, Thánh thượng tha thiết lo bồn đối với Phong thọ, xây dựng rất tráng lệ, vượt sự tốt lành của sự thật, không gì hơn bia tụng. Nếu nhờ được hai vị đặt để ngôn từ cho thì thật là vết tích bất hủ, tự mình ở xưa nay!” Tiết nguyên Siêu và Lý Nghóa Phủ bèn hứa nhận. Sáng hôm sau, Vua sai bảo cấp sự tuyên đọc sắc chiếu rằng: “Chỗ cần các Quan nhân hỗ trợ việc phiên dịch đã phân xử xong, Văn bia ấy do trẫm tự soạn!” Sau đó, Vua lại ban sắc viết rằng: “Việc phiên dịch Kinh điển ở chùa Từ Ân, Văn nghóa cần phải khéo léo. Nên bảo Tả Bộc Xạ Vu Chí Ninh, Trung Thư lệnh Lai Tế, Lễ Bộ Hứa Kính Tông, Hoàng Môn thị lang Tiết Nguyên Siêu, Trung thư Lang Lý Nghóa Phủ v.v… nếu có chỗ không được ổn thì tùy việc nhuận sắc. Nếu cần học só đảm nhận thì tìm cầu vài ba người.” Đến lúc bia làm hoàn thành, thỉnh thần bút tự viết, được đặc biệt hứa khả. Ngày khắc đưa đến chùa. Tại chùa ở kinh đều dựng lập cờ phướn. Nhà vua lại ban sắc từ các hàng vương công trở xuống Thái Trường chín bộ và kỹ nhạc cả hai huyện. Xe đi theo hơn ngàn chiếc chuyên chở đến chùa Hoằng Phúc, đem lên đặt trên cửa An Phúc. Phủ lâm cùng đưa đến, các hàng só nữ khắp kinh ấp đều dàn trải bên lề đường, từ bắc đến nam dài hơn hai mươi dặm, đầy cả đường cái, làm sáng tục lệ hưng Pháp không gì so sánh. Nhà vua lại sắc tặng áo nạp Sơn Thủy đẹp đẽ hơn trước, đều đầy ắp mặc có hơn trăm kiện. Niên hiệu Hiển Khánh thứ hai (sáu trăm năm mươi bảy) Nhà Vua xa giá đến Lạc Dương dự theo an trí cung Thích Thúy ở Đông Đô, mời Sư vào Đại Nội, trụ tại viện Lệ Nhật, phiên dịch các Luận Quán Sở Duyên, v.v.. Sư lại ở tại cung Minh Đức, phiên dịch Luận Đại Tỳ-bà-sa, v.v.. Từ thưở thiếu thời, Sư đã xa quê cha đất tổ, tới lúc bạc đầu, Sư nói muốn trở về thăm hỏi bà con, nhưng đều đã lệch lạc qua đời hết, chỉ còn một người chị gái, Sư bèn đón rước để cùng gặp gỡ. Sư hỏi về mồ mả thì đều là an táng chưa cải táng, Sư bèn chọn chỗ đất tốt đẹp, để cải táng. Phía Tây Bắc núi Thiếu Thất; phía Đông Bắc huyện cũ Hầu thị, hang Phụng Hoàng, xóm Khống Hạc, làng Du Tiên là nơi ngài chào đời, cách không xa chùa Thiếu Lâm – do vua Hiếu Văn thời Bắc Ngụy (Thác Bạt Hoãnh bốn trăm bảy mươi mốt-năm trăm) xây dựng. Đó là nơi Sư phiên dịch luận Thập Địa. Ý nguyện Sư muốn nương gá vì nước nhà mà phiên dịch. Sư lại được nhận sắc viết tay của vua ban rằng: “Trẫm xét vốn biết Pháp Sư muốn ẩn vết tích nơi suối hang, tìm rừng xa mà đi đến, gá lo toan nơi thiền tịch, nương theo các ngài Phật-đồ-trừng, Cưu-ma-la- thập để nêu gương cho ngày nay. Kính ngưỡng phong hóa tốt lành, thật là điều rất đáng khâm phục kính chuộng. Song, trẫm đây, nghiệp lanh vốn không, thiếu kém sở học, chẳng được nghiên cứu cao sâu, chỉ được sự biết cạn nghe sơ sài, chưa thấy biết được điều đáng thấy biết. Pháp Sư là bến bờ của ba cõi, cấp dẫn bốn loài. Trí sáng ngời đèn tâm, định ngưng lắng nước Ý. Chẳng phải chỗ tình trần xao động đâu biết sóng mà có thể kinh. Dùng đạo đức có thể yên, đâu phải ở Thái Hoa điệp lãnh. Vắng lặng có thể xả, đâu riêng Thiếu thất trùng loan. Mong cắt lời đưa đến, chớ lại trình bày cầu thỉnh, tức là chợ sớm Đại ẩn, chẳng riêng qúy ở Hiền xưa. Thấy nghe mở rộng lợi ích, lại có thể qúy giá ngay đời nay!” Nhân đó, bèn thôi nói năng. Niên hiệu Hiển Khánh thứ ba (sáu trăm năm mươi tám) Vua Cao Tông (Lý Trị) ban sắc vì Hoàng Thái tử mà xây dựng chùa Tây Minh. Khi hoàn thành ban lệnh mười vị tăng thượng phòng để sung cấp hầu việc. Có Kinh Đại Bát-nhã gồm hai mươi muôn bài kệ, mà tám Bộ ở tại Trung Hoa đều nằm trong đó. Sau đó không lâu, Vua ban sắc Sư ở tại cung Ngọc Hoa, phiên dịch kinh ấy, mọi sự cung cấp đều y cứ theo Chùa ở Kinh. Sư bèn được ở chỗ tónh lặng mà chẳng trái công việc phiên dịch. Vào ngày mồng một tháng giêng niên hiệu Hiển Khánh thứ năm (sáu trăm sáu mươi) Sư bắt đầu phiên dịch Đại bổn, đến cuối tháng mười niên hiệu Long sóc thứ ba (sáu trăm sáu mươi ba) gồm bốn chỗ mười sáu hội, gồm tất cả sáu trăm quyển, Bát-nhã Không Tông đến đây đã hết trọn. Tiếp theo thời gian đó, Sư lại phiên dịch các luận Thành Duy Thức, Biện Trung Biên, Duy Thức nhị thập tụng, phẩm loại Túc luận v.v… Qua tháng mười một, Sư tấu trình Biểu văn dâng kinh ấy, cầu xin vua soạn lời tựa cho bộ kinh. Ở tại cung Bồng Lai, Thông Sự Xá nhân Phùng nghóa tuyên đọc sắc chiếu chấp thuận. Thưở Bình sinh, Sư thường nguyện tương lai sinh về cõi nước của Đức Phật Di-lặc, đến lúc sang Tây vực, lại nghe hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thâm đều sinh về cõi trời ấy, Sư lại từng cầu thỉnh và đều có hiển chứng. Sư có tâm chuyên chí càng thêm sự kính cầu cố gắng. Sau, khi đến cung Ngọc Hoa, chỉ có lúc nhàn rỗi, không khi nào Sư chẳng phát nguyện sinh về cõi trời Đổ-Sử-Đa (Đâu-suất-đà) để được thấy đức Phật Di-lặc. Từ khi phiên dịch xong Kinh Bát-nhã, Sư chỉ tự cố gắng tinh cần, hành đạo lễ sám. Quan niên hiệu Lân Đức thứ nhất (sáu trăm sáu mươi bốn), Sư bảo chư tăng phiên dịch kinh điển và môn nhân đệ tử rằng: “Các Pháp hữu vi đều quy kết về hoại diệt. Hình chất bọt bóng đâu thể gìn giữ được lâu dài. Tôi năm nay đã sáu mươi lăm tuổi, chắc chắn mất tại cung Ngọc Hoa. Đối với các kinh luận, ai có nghi ngờ điều gì thì nay nên mau thưa hỏi”. Mọi người nghe vậy lấy làm lạ, nói rằng “ Tuổi Sư chưa đến đổi già suy sao lại nói ra điều ấy?” Sư bảo rằng: “Việc ấy hẳn tự biết lấy!” Rồi Sư bèn sang lễ từ Phật, trước hết Sư đến nơi thờ mười ức tôn tượng Câu-chi, lễ sám từ biệt. Có Các môn nhân hành giả, Sư đều bảo sẽ đi, nay từ biệt các ông cũng chẳng còn trở lại, trở lại cũng không được!” Đến ngày mồng chín tháng giêng Sư bảo chư tăng trong chùa rằng: “Huyền Trang tôi đây chắc chắn sẽ chết. Trong kinh Đức Phật dạy.” Thân này đáng chán ghét, giống như chó chết.” nên sau khi tôi chết, chớ để gần nơi cung hoặc chùa, hãy đem đến chỗ núi vắng mà chôn đi.” Nhân đó, Sư hiện tướng bệnh, mở mắt nhắm mắt đều trông thấy hoa sen lớn mầu trắng xinh đẹp hiện đến, Sư lại trông thấy tướng kỳ vó, biết hẳn là sinh về trước Phật. Sư bảo chư tăng đọc lại danh mục các kinh luận đã phiên dịch, tất cả có bảy mươi ba bộ, một ngàn ba trăm ba mươi quyển. Trong lòng Sư tự vui mừng. Sư bèn gọi tất cả môn nhân và những người có duyên đều cùng nhóm họp. Sư bảo rằng: “Vô thường sắp đến, hãy mau lại cùng xem!” Sư đến điện Gia thọ, rưới nước thơm lên tượng bằng cốt cây Bồ-đề, đối trước chư tăng trong chùa và môn nhân mà từ biệt. Đồng thời, để lại Di Biểu xong, Sư bèn thầm niệm danh hiệu Phật Di-lặc. Sư bảo những người bên cạnh xưng niệm rằng: “Nam-mô-di-lặc Như lai Ứng chánh Đẳng giác, nguyện cùng hàm thức chóng được kính thờ Từ nhan.” Nam-mô-di-lặc Như Lai trú về chúng. Nguyện khi xả bỏ thân mạng rồi được sinh vào trong đó.” Đến ngày mồng bốn tháng hai, Sư nằm xếp chân nghiêng về phía phải, tay phải kê dưới đầu, tay trái duỗi theo mình, mọi âm thanh đều lắng động. Có người hỏi: “Đó là tướng gì?” Sư bảo: “Chớ hỏi, làm ngăn ngại chánh niệm của tôi.” Đến nửa đêm mồng năm, Đệ tử hỏi Sư rằng: “Hòa- thượng có chắc chắn vãng sinh trước Đức Phật Di-lặc chăng?” Sư đáp: “Chắc chắn được sinh”. Nói xong, Sư bèn dứt hơi thở, thần thức thoát đi, mãi đến hai tháng sau, nhan sắc dung mạo vẫn như thường. Lại có nhiều điều thầm cảm ứng, ở đây lược qua nên chẳng nói rõ. Vua Cao Tông ban sắc chiếu ngày an táng, tất cả tăng ni ở kinh thành đều mang phướn lọng đến đưa tiễn. Do đó, lọng trắng phan trắng nỗi khắp giữa hư không như mây nhóm. Kèn buồn, tiếng phúng tụng u buồn, hơi khí át cả nhân thần, bốn loại người thế tục cho đó là bi lương. Bảy chúng Đệ tử Phật tiếc mến vì Sư thị tịch. Và an táng trong bốn mươi dặm tại gò Bạch Lộc, các hàng tăng tục cùng về dự đông đầy. Phần tháp Sư cũng gần tháp của Sư Trường Tiệp – anh Sư. Hoa lau bỗng nhiên nở trắng cả tháp, soi chiếu vào Đế thành. Sau đó,Vua ban biệt sắc cho cải táng tại Phần Xuyên để các Châu Huyện cùng biết, cung cấp lại lực, bèn khai quật khởi lên. Mọi người đều lấy làm lạ khen ngợi. Vì trải qua thời gian an táng đã lâu mà sắc tướng Sư vẫn như lúc đầu. Nếu chẳng do nguyện lực gìn giữ thì đâu thể được như thế? Tôi (Đạo Tuyên) vì ám muội, lạm thấm đượm nơi pháp tịch của Sư gặp gỡ Sư, thường mở bày các việc. Nghe lời xem xét hạnh, Danh thật cùng giữ. Sư tinh cần cố gắng, sớm tối tính thời phân việc, bền chặt chẳng biếng lười, chuyên lo toan việc Phật pháp. Nói năng không danh lợi, thực hành dứt bặt luống dối. Phép biết cơ duyên, khéo thông vật tánh, chẳng ngông láo, chẳng dua nịnh, hạnh ẩn tàng đúng lúc. Nói ra Đạo vị sâu mầu, biên giải mở nghi luận, thật là bậc anh hiền ở thời Mạt Pháp! Là pháp tướng của Phật Tông! Vả lại, Sư vào đạo từ tuổi bé thơ. Bẩm tánh đặc biệt khác thường. Nghe xem kinh luận, dùng đó làm việc thường. Đã đi khắp Đông Hạ, rót chước ở các bậc thầy, phơi bày can đảm, hết cả tinh nghóa. Không ai chẳng điên đảo, rừng chầm càng sửa mới Học phủ. Bèn có thể cách chẳng xa vài muôn, hỏi cầu thắng pháp. Thệ xả hình mạng, mong cầu sẽ gặp được, phát khởi bày giúp đường lần lượt đến Long Sa, giữa đường gian nan nguy hiểm, thân tâm gần chết, khi đã đến Cao Xương, sáng lại gấp bội, truyền Quốc Tổ đón rước, đầy đủ Linh nghi. Trên đường đi đến thiết môn, thạch môn, đích thân Sư đi qua núi cát, núi tuyết. Trải qua nguy hiểm mà chí vẫn khảng khái, gặp phải giặc hung hữ mà tinh thần càng cố gắng mạnh mẽ, đầu vì kết quy, bẩm thọ chánh giáo. Nương thừa Luận sư Giới Hiền, Lý được nói bày, nghóa chẳng cần lại trao, mở rộng Dị Luận, gói trọn trong lòng ngực, đến nỗi khiến các Phạm lữ khuynh tâm mà chẳng sót pháp. Lại nữa, Khởi Tín là một bộ luận xuất xứ từ ngài Mã minh, Chư tăng ở Tây Vực nghó muốn tiếp thừa bản luận ấy. Sư bèn vì phiên dịch tiếng Hoa thành tiếng Phạm, lưu thông khắp năm xứ Ấn-độ. vậy thì duyên của Pháp Hoá đông tây cùng nêu. Lại các luận khác ở Tây vực và Trung Hoa rất chuộng Thanh minh, Sư bèn quyết lòng thỉnh cầu quyết đoán, hễ trao liền hiểu. Còn như có bảy biến thế lực phát động khác vết, tam tuần quảng luận, khôi phục bày hoài bão, cho nên được chùa Trí Vô yểm, ba ngàn học tăng đều gọi Sư là Đãy Trí gìn giữ thành hào. Hễ ai trông thấy môi mép của Sư, nghe được văn từ nghóa lý của Sư thì đều búng ngón tay khen ngợi. Sư là người thành đạt đến như vậy! Tùy chỗ đi qua ngoài bờ cõi Biển đông tất cả một trăm ba mươi nước, các hàng đạo tục chánh tà biết tiếng tăm Sư không ai chẳng kính đức hạnh quy y, càng khai mở niềm tin, có thể lấy làm sự vinh ha- ïnh cho nước nhà, Quang trạch chiếu xa, kính dâng đến hằng năm đều do công sức của Sư. Nếu Sư chẳng phải là bậc Thiên đỉnh trội vượt anh linh, mới sinh đã biết được Thánh truyền trao, thì làm sao có thể mở rộng mối mang ấy, dẫn dắt dấu vết để lại. Trước sau tăng truyện đến Thiên-trúc, đầu tiên là ngài Pháp Hiển, Pháp Dũng, cuối cùng là đến ngài đạo Thúy, đạo Sinh cùng nhau tiếp nối, nửa đường có mười bảy trở lại. Được sự tỏ thông ngôn ngữ Hoa phạm, khéo đạt thể Văn, mở mang dẫn dắt phong hoá nước nhà, mở ngộ tà chánh. Không ai cao vượt hơn Sư. Chỉ tiếc hận các bộ kinh chưa được Sư phiên dịch còn hơn một nửa. Tuổi Sư thật chưa xế chiều, đủ để phiên dịch ra, nhưng vô thường chợt đến. Thật đáng tiếc thay!. 2/- Truyện Tam tạng Na-đề trụ chùa Đại Từ Ân ở kinh đô. Tam Tạng Na-đề, đời Đường dịch là Phước Sinh. Nếu nói đủ theo tiếng Phạm thì phải là “ Bố-Như-Ô-Phạt-Tà” nhưng vì ngôn từ dài dòng nên ở đây chỉ lược sai lầm mà gọi là Na-đề. Sư vốn là người xứ Trung Ấn-độ, xuất gia từ thưở thiếu thời, được danh sư khai ngộ. Chí khí Sư oai hùng xa xăm, luôn có tâm mở mang Đạo pháp. Sư vân du ở các nước chỉ chuyên lo khai hóa chúng sinh, mà lại khéo thấu đạt Thanh minh, thông các Cổ huấn. Ở Đại Hạ gọi Sư là Văn Só. Phỏng theo các tác phẩm Lan đài ở xứ nầy, tánh thích hiếu kỳ, thích nghe những bậc có sự tỏ ngộ, chẳng nệ xa xôi. Sư từng đến nước Chấp Sư Tử. lại theo hướng Đông Nam lên núi Lăng-già. Các nước ở Nam Hải, Sư tùy duyên mà đến khai hóa. Khéo hiểu thư ngữ. Sư đến đó tức liền diễn giải. Sư độ người, xây dựng chùa chiền, ở tại Trường Phiến. Sư vâng thừa đến nước Chỉ-na (Trung Hoa) ở phương Đông. Tại đó đang thạnh hành truyền bá Đại thừa, Phật Pháp hưng thạnh, là nơi tốt nhất của Châu Thiệm-bộ. Sư bèn sưu tập các thứ kinh luận luận Đại thừa, Tiểu Thừa hơn năm trăm giáp, tất cả hơn một ngàn năm trăm Bộ. Vào niên hiệu Vónh Huy thứ sáu (sáu trăm năm mươi lăm) Sư mới đến kinh đô. Vua Cao Tông (Lý Trị) ban sắc cho Sư chuyển đến trụ tại chùa Từ Ân do sở ty cung cấp. Bấy giờ, Pháp Sư Huyền Trang đang làm việc phiên dịch, tiếng tốt vang xa, không có pho tượng, giữ sự tiêu điều. Bát-nhã là khó, đã chẳng nhờ dẫn, trở lại sung vào cấp sứ. Niên hiệu Hiển Khánh thứ nhất (sáu trăm năm mươi sáu) vua Cao Tông ban sắc Sư đến các nước Côn Lôn tìm hái thuốc lạ. Khi đã đến Nam Hải, các vua đều quy kính Sư mà xây dựng riêng chùa độ người, truyền Pháp. Mở mang hoằng hóa gấp bội hơn trước. Trước kia, Sư được sắc ban đến, đúng lý là phải trở về lại. Tại chùa Từ Ân, các Kinh điển bản Phạm được nghiên tầm lại. Niên hiệu Long Sóc thứ ba (sáu trăm sáu mươi ba) Sư trở về chùa cũ, các kinh điển Sư mang theo đều được Pháp Sư Huyền Trang mang ra đất Bắc, ý Sư muốn phiên dịch so sánh nhưng không có bằng chứng y cứ, nên chỉ phiên dịch được ba bộ kinh Bát Mạn-trà-lam Lễ Phật Pháp, A-sất-na Trí v.v.. yếu ước rất tinh vị có thể thường tu học. Năm đó, nước Chân Lạp ở Nam Hải vốn là nơi Hoằng Hoá của Sư rất kính phụng không thôi, nghó mong được có Sư, nên các bậc Tông sư cả nước vượt đường xa đến cầu thỉnh. Và nói rằng: ”Ở nước ấy có thứ thuốc tốt mà chỉ có Sư là người biết được, nên xin tự hái lấy.” Vua Cao Tông bèn ban sắc chấp thuận để Sư sang nước đó, song vết tích trở về thì chẳng biết! Tôi tự hỏi khắp các hành nhân ở Đại Hạ rằng: “Tam Tạng Na- đề là môn nhân của Ngài Long Thọ, nhưng sự nhận hiểu của Sư so với Pháp Sư Huyền Trang rất trái ngược.” Có vị Phạm Tăng Tây Vực bảo rằng: “Sau khi Đại Sư (Long Thọ) qua đời, người ấy (Na-đề) là bậc nhất hiểu sâu về Thật tướng, khéo thấu đạt phương tiện. Với năm Bộ Tỳ-ni của Tiểu Thừa, bốn Bộ Vệ-đà của Ngoại Đạo. không thứ gì ngài chẳng thấu đạt nguồn đáy, suốt rõ ngôn nghóa. Văn từ tuôn ra như các hạt Châu liền nhau, lý sướng như ráng chiều nổi, Sư soạn Bổ Đại thừa Tập nghóa Luận” có hơn bốn mươi quyển, sắp sửa phiên dịch thì bị sai nên thiếu sót. Phàm vì ôm ấp sự khen ngợi của lân. Đời có vết tích ấy, biết được người thật khó thay! Ngàn năm ít gặp. Sư mạng Đạo từ xa đến thầm giúp cho đất bắc, đã không nơi tiếp đãi, ba lần bị độc hại, sung vào Nam làm việc nặng nhọc, đường núi gập ghềnh mấy muôn dặm, Sư nhiều lần trải qua chướng khí, bèn phó mặc thân mạng ở đó. Than ôi! Thật đáng tiếc thay! Luận rằng: Xét về công việc phiên dịch thật là to lớn. Các Bản Văn lục trước ghi chép không được xứng đáng lắm. Vì sao? Vì lời truyện lý đã lầm, hoặc khiến Đạo Thanh có nguyên do khác lạ. Do đó đối với các bậc Hiền Thánh nhiều đời thì Phong hoá Tố thuật hoằng Đạo là kính tin hiền minh, ý vị hiến chương phiên dịch thì noi theo vết cũ, rất thấy ở ngôn từ người ấy. Giúp ích đã tròn hơi khéo thú hướng. Đến như tiếng Phạm là ngôn ngữ của Phạm Thiên, khai mở quê hương Đại Hạ, dấu chim mới vận ra khỏi phong tục của Thần Châu. Đầy đủ như ở Biệt Truyện. Đầy đủ khuôn phép tốt lành nên có kiêu hãnh, bấy giờ, vinh dự lạm đến truyền thuật, noi theo chuyển bày văn từ trái lại âm liệt dụ phiền lược khoa đoán nghó việc. Dấu vết ngôn ngữ tuy đồng, song, xét lý thì thành khác. Tự chẳng sáng tỏ hơn Tiên Thánh, Đức xa cả Hiền Xưa, mới có thể ẩn phát khác phương, dùng thông rộng cùng. Ngài Đạo An soạn luận có năm điểm thất lý dễ trông thấy. Ngài Ngạn Tông soạn chúc Văn đưa ra tám trường hợp khó liên quan. Đó đều là người xưa thông suốt đầu mối, đâu vọng đăng lâm. Như các truyện trong chín đời hiện còn có giản lục. Thời Hán Nguî giữ gốc, gốc hẳn cách phù hoa, thời Tấn, Tống truyền bá thì mở bày nghóa cử. Văn chất lớn lao, phúng vị dư dật. Thưở ấy vì giáng nhẹ một thời, vượt thật chưa nghe giảng ít ngộ. Đều do văn từ chuyển nghóa ghi chép tình tâm, cùng khơi sóng cả mãi thành thể thức thông thường, đầy xe tròn tạng. Pháp bảo trường tồn được là ở dòng phước, mất là bởi sai lầm đua tranh. Nên mạnh mẽ trình bày cầu thỉnh văn từ đồng như cái đẹp ở đời. Chế Bản nhận hành chẳng chỉ ở chuốt văn. Còn như Thánh Ân đục sâu cũng có nguyên do. Nên các sách vở lưu truyền là diệt Pháp vậy. Tức là việc có thể mặc tình, huống gì trí thức ư? Nhưng vì tập tục sinh thường biết lỗi lầm mà khó sửa đổi, tuy muốn dời bước nhưng vẫn vùi lấp theo vết cũ. Kể, từ lúc Vua Minh Đế thời Hậu Hán, và cuối cùng là đời Đường, hễ phiên dịch truyền bá bản Phạm, phần nhiều tin ở người dịch. Sự việc nói thì dễ nhưng rõ nghóa mong cầu thì ít thấy. Để tình độc đoán chỉ đảm nhận việc viết lách. Nếu như có xét sơ trở lại cũng vâng theo đầu mối cũ. Phạm Tăng chấp nghiệp tướng v.v.. thì trái tình, âm ngữ chẳng thông, đúng sai đều lạm. Còn như ba học thạnh điển cũng chỉ giải thích hạnh chỉ. Lời mầu của tám tạng mở khai từ nghóa. Trước phiên dịch sau truyền bá chẳng rơi vào phong du. Xưa Triết nay Hiền Đức khác luật thường. Há chẳng phải Phương ngôn trở lại cản trở ức đoán là trao. Đời chuyển tươi sáng chợt đồng phù tục. Xưa kia, nghe Thuần phong nhã sướng đã ở tại Hoàng Đường, trau chuốt lầm tạp thật như lá cuối thu. Chẳng nghó vốn thật vọng tiếp nối văn từ bén nhọn, đua tranh góp nhặt sô nhiêu, lời trịnh trọng khó xếp đặt. Đại giáo ít lời vượt thế đặc biệt. Tám âm bốn biện diễn sướng không ngằn. Đâu được như kẻ phàm có tâm hư tham, Bậc thánh nghó toan dùng làm nêu phỏng. Tuy chỉ là nhạo thuyết chẳng cùng nhưng tùy loại tự hiểu. Lý mở ngoài tình, từ vượt trong Hoàn vũ. Hẳn phải sửa chuốt tốt lành nêu văn, đặc biệt nơi vàng ngọc cao, mới có thể tiếng tăm thông với nhạc trời, âm vận vượt quá lẽ thường. Gần thì Văn của Nhan Tạ đời Tấn Tống, ở đời ngóng chuộng mà không sánh bằng, huống là trái lại thì làm sao nói được? ắt dẫm theo vết đó thì thành tục biến. Trong đó lầm loạn thì làm sao đủ lời liên quan. Thuở xưa thì có ngài Pháp Sấm ở Tây Kinh, hiệu là Thông nhân. Ngài Đồng thọ (La-thập) ở thời Hậu Tần, người đương thời tôn xưng là Tăng kiệt, giỏi bày Văn ý, khéo nêu Kinh Tâm, thấu đạt ngôn phương, phong mạo cốt cách lưu tiện. Mở mang ở đời, chẳng thiếu truyền thuật. Vào thời Tiền Tống thì có khai só Tuệ Nghiêm Bảo Vân, thuộc hạng Hiền minh, chợt hưng khởi những việc làm trước, truyền đạt bộ lớn nối liền sáng tỏ dứt bặt dấu vết, e rằng gần gũi Hoa Tư, thừa tiếp Cổ huấn, khiến cho tiếng tăm lưu truyền ngàn năm. Cho nên như thế! Ngoài ra thì sự nghóa tương truyền, đủ để khai mở thần phủ, đâu thể như bình dốc ngược mà nước chẳng chảy. Dụ như váng sữa mỏng lại còn đến ngày nay, hoàn toàn thiếu sót thọ tụng, đủ định tưới thấm. Ở đời, có Pháp Sư Huyền Trang riêng một mình cao vượt đồng loại, qua lại chấn động đủ khắp quán phương, có hơn trăm nước mà các bậc vua quan đều bái yết cung kính, nói bàn tiếp đối chẳng cần người phiên dịch, bày vạch ý chỉ sâu mầu, rất là hay ho. Nên dưới đời Đường, những người phiên dịch sau chẳng dám xem thường người trước. Cầm bản bày khám từng mở lỗi trước, đã thiếu toàn trái, chưa vội sửa chánh, liền lược bày đây lại có lời nào!.  TỤC CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 5 CHƯƠNG II - PHẦN ĐẦU: GIẢI NGHÓA Trong phần một của chương hai Chánh truyện có mười hai vị, phụ có mười chín vị 1/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Thân trụ chùa An Lạc ở Dương Đô, thời Nam Lương (Đạo Đạt, Tuệ Mạng) 2/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Thiều trụ chùa Kiến Nguyên ở Dương Đô, thời Nam Lương (Pháp Lãng, Pháp Lượng) 3/- Truyện Sa-môn Thích Pháp hộ trụ chùa Kiến Nguyên ở Dương Đô thời Nam Lương (Trí Viễn, Tăng Đạt) 4/- Truyện Sa-môn Thích Trí Hân trụ chùa Tống Hy ở Chung Sơn, thời Nam Lương. 5/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Nhã ở núi Hổ Khâu, thuộc Quận Ngô thời Nam Lương (Tăng Linh, Pháp Độ) Tuệ Phạm, Tuệ Lãng. 6/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Sủng trụ chùa Tuyên Võ ở Dương Đô, thời Nam Lương (Trí Quả, Tăng Thục) 7/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Thiên trụ chùa Linh Căn ở Dương Đô, thời Nam Lương 8/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Mân trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô, thời Nam Lương (Đạo Siêu) 9/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Vân trụ chùa Quang Trạch ở Dương Đô, thời Nam Lương. 1 0/- Truyện Sa-môn Thích Tuệ Trừng trụ chùa Tùy Hỷ ở Hải Nam, thời Nam Lương (Tuệ Lãng, Tuệ Lược, Pháp Sinh, Tuệ Võ). 1 1/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Linh trụ chùa Định Lâm ở Chung Sơn, thời Nam Lương (Tuệ Thái, Tuệ Toản). 1 2/- Truyện Sa-môn Thích Trí Tạng trụ chùa Khai Thiện ở Chung Sơn, thời Nam Lương. 1/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Thân trụ chùa An Lạc ở Dương Đô. Thích Pháp Thân, vốn họ Lã, người ở Xứ Nhâm Thành. Ông nội Sư dời đến ngụ ở Thanh Châu. Sư xuất gia thuở nhỏ. Sớm có chí học Nho, rộng học các kinh luận, khéo suy nghó cao xa, tuổi càng lớn, Sư càng lo Không lo Hữu, đêm ngày buồn bã. Có Aån Só Bình Nguyên Minh Đàm Liêu chế diễu Sư rằng: “Ba Dương tại tiết, sáng sớm cảnh trong. Sao chẳng uống rượu ngon, ngâm vịnh thơ mới, mà suốt năm suốt tháng, trợn mắt chăm nhìn bốn vách tường. Trăm năm chỉ trong khoảng khắc, biết được thành nho tố hay chăng?” Sư đáp: “bởi Bình sinh xấu tốt, đâu thể nói là được mất.” Nên chỉ trong thời gian ngắn mà Đại Minh thành luận, tiếng tốt của Sư vang khắp làng quận. Khoảng đầu niên hiệu Thái Thỉ (bốn trăm sáu mươi lăm) thời Tiền Tống, chùa Trang Nghiêm nhóm pháp tập, Vua Minh Đế (Lưu Úc) ban sắc thỉnh Sư qua sông đến trụ chùa An lạc. Trải qua thời gian, Sư đáng là Bậc sư tượng, Tăng tục đều kính trọng. Đến khoảng niên hiệu Kiến Nguyên (bốn trăm bảy mươi chín-bốn trăm tám mươi ba) thời Nam Tề, Sư gặp phải việc tang của người thân ở quê xa, trên đường trở về gặp phải chướng ngại, Sư bèn trở lại đất Bắc. Nhân đó Sư sống tónh lặng, dứt bặt việc người, bỏ cả giảng nói. Mãi đến khoảng niên hiệu Vónh Minh (bốn trăm tám mươi ba-bốn trăm chín mươi bốn) thời Nam Tề, Tề kính Lăng Vương Tiêu Tử Lương thỉnh hai mươi vị Pháp sư giảng nói truyền trao, tha thiết thỉnh Sư đến, Sư cố khước từ, song không thể được. đang trong thời gian ấy, sự hưng thạnh của Sư, không Đạo bạn nào có thể ngang bằng. Thêm nữa, Sư là bậc Thuần hậu nhân tuệ, không nói lời cố gắng. Sư an nhàn, giữ sự trong trắng, chẳng khinh thường người đời. Đến niên hiệu Thiên giám thứ hai (năm trăm lẻ ba) – thời Nam Lương Sư thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi. Bấy giờ, lại có Sa-môn Thích Đạo Đạt, Thích Tuệ Mạng, đều là các bậc tinh cần tu học nổi tiếng. Ngài Đạo Đạt vốn họ Bùi, người xứ Văn Hỷ, thuộc Hà Đông. Sư trú tại Tinh Xá Vónh Phước ở Quảng Lăng, thửơ thiếu thời Sư giữ hiếu hạnh mọi người đều biết tiếng, cứu giúp nguy hiểm. Đạo hạnh thấm nhuần khắp cả bến sông. Vào niên hiệu Vónh Minh(bốn trăm tám mươi ba-bốn trăm chín mươi bốn) – thời Nam Tề, Sư giữ chức Tăng chánh ở Châu Nam Duyện, luôn luôn liêm khiết trinh bạch thanh nhã, có tài cai trị. Ngày Sư thôi nghỉ việc, chỉ còn có năm bó giấy cũ mà thôi. Ngài Tuệ Mạng, người xứ Quảng Lăng. Sư trụ tại chùa An Lạc, vốn dốc lòng mở mang cứu giúp, chuyên dùng sự thấy biết thành thật. 2/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Thiều trụ chùa Kiến Nguyên ở Dương Đô. Thích Tăng Thiều, họ Vương, người xứ Cao An; nước Tề. Từ thưở bé, Sư đã nguyện muốn thoát tục. Đến tuổi hai mươi mới thật sự xuất gia. Đạo tục thảy đều tôn kính tông sư. Sư có dáng vẻ khôi ngô, khéo giữ cử chỉ, tánh tình ôn hòa, vận điệu thanh nhã, khéo giỏi mở mang kinh giáo. Tiếng tăm vang khắp châu Nhưỡng. Sư chuyên lấy bộ Tỳ- đàm làm sự nghiệp. Khoảng đầu niên hiệu Nguyên Huy (bốn trăm bảy mươi ba)- thời Tiền Tống, Sư đến Hoàng Aáp, trụ tại chùa Kiến Nguyên. Sư khoan hậu nhàn đạm, chẳng vọng giao du. Cuối thời Tiền Tống, mọi sự đều khinh bạc, thể tài không chuẩn mực, mọi vật đua tranh trước mắt, vinh nhục chỉ trong khoảnh khắc. Sư vẫn an nhàn riêng tự giữ gìn, tướng trạng như vô nhân. Mãi đến lúc nhà Tề mở vận, lễ giáo sớm hoàn bị. Các hàng tăng tục đều kính ngưỡng, Sư trở lại giảng nói như cũ. Hàng hậu học biết điều chính là trước phải sửa đổi sự trông nhìn. Chỉ một bộ Tỳ-đàm mà Sư mở mang truyền bá khắp mọi miền đất nước. Đồ chúng đến học hỏi nghe giảng thường có hàng trăm vị. tề Văn Tuệ và Tề Cánh Lăng Vương Tiêu Tử Lương nhã cùng khâm phục kính lễ. Thôi Tuệ ở Thanh Hà đích thân theo đến đất Bắc đến yết kiến thưa hỏi, vâng thừa dạy răn. Đến niên hiệu Thiên giám thứ ba (năm trăm lẻ bốn) thời Nam tề, Sư thị tịch tại chùa Kiến Nguyên, thọ năm mươi tám tuổi. Bấy giờ, tại chùa Kiến Nguyên lại có Sa môn Pháp Lãng, là bậc kiêm thông tuệ học nổi tiếng. Sư vốn họ Thẩm, người xứ Võ Khương ở Ngô Hưng. Gia đình Sư gặp phải tai họa ở đời, nhân đó Sư đến ở xứ Kiến nghiệp. Niên hiệu Đại Minh thứ bảy (bốn trăm sáu mươi ba) thời Tiền Tống, Sư cùng anh ruột là Sa-môn Pháp Lượng được vua Hiếu Vũ Đế (Lưu Tuấn) ban sắc tiếp nối ngài Tuệ Ích xuất gia. Lúc đầu, trụ tại chùa Dược Vương. Ngài Pháp Lượng luôn có đạo hạnh cao khiết, trí tuệ thường sáng. Còn Sư bẩm tánh sơ suất, chẳng chuyên oai nghi, nhưng tiếng tăm lại vang vọng khắp nơi, nghóa giải nổi tiếng. Sư nhóm họp chú giải Kinh Niết-bàn, khắc thành pho bộ mà ngôn ngữ hài hước. Chẳng chọn giao du với những người cao kiến hơn mình, hễ thấy thì ghi chép, cả hai ngài đều thị tịch vào niên hiệu Thiên Giám (năm trăm lẻ hai-năm trăm hai mươi) thời Nam Lương. Đô. 3/- Truyện Ngài Thích Pháp hộ trụ chùa Kiến Nguyên ở Dương Thích Pháp hộ, họ Trương, người xứ Đông Bình. Ban đầu, Sư giữ tánh liêm trực, chẳng chịu tham lạm. Mới mười ba tuổi, mà Sư khéo giỏi các lối viết chữ Thảo chữ lệ. Thầy Sư là Sa-môn Đạo Ung cũng có phong tháo trong lành, xoa đầu Sư mà bảo rằng: “Ý khí của ông thì ông có khả năng chấn phát di Pháp!” Đến lúc thọ giới cụ túc, thì Sư gặp phải tăng buồn của cha. Sư chịu tang ở suốt trong phòng trải qua bốn năm. Chẳng can dự đến mọi pháp sự. Lễ xong, Sư gầy ốm đến nỗi chẳng thể theo chúng tăng làm mọi việc. Vào niên hiệu Hiếu Kiến (bốn trăm năm mươi bốn-bốn trăm năm mươi bảy) thời Tiền Tống, Sư đến Dương Đô du quán rồi trụ chùa Kiến Nguyên. Khéo léo bát cổ, thường giảng các kinh luận, song Sư thường lấy bộ Tỳ-đàm làm mạng gia. Chẳng hề ưa chuộng theo thế tục, nói năng bỏ hết mọi phù hoa, chẳng cầu thích hợp, chỉ mong thông suốt văn lý. Học giả theo Sư hơn cả ngàn vị. Tề Cánh Lăng Vương xem trọn bộ Huyền Thích, định ra hư thật, bèn thiết lập nghóa trai tại chùa Pháp Vân và mời Sư lam Tiêu lãnh. Sư giải thích giao kết thường không bị sai sót vướng mắc. Sư luôn có tâm làm lợi ích mọi vật. Có chí khoáng đạt cao xa, chẳng giao kết với thế tục. Tất cả những nơi Sư qua lại đều là những bậc có tiếng tăm. Tề Thị Trung Trần Lưu Nguyễn Thao, Quang Lục Nguyễn Hối, Trung Thư Thị Lang Nhữ Nam Chu Ngung đều giữ tâm niệm rỗng không mà kính lễ tiếp đãi, không hề bỏ phế. Từ trên ngôi Vua cho đến các bậc Hầu Bá, Sư chẳng cùng một người hết giao quen lờn. Sư luôn sáng sạch riêng một mình, khuyên gắng môn Đồ, chẳng mưu lợi không chính đáng. Chỉ lấy Kinh giáo nhân nghóa làm hoài bão. Đến niên hiệu Thiên giám thứ sáu (năm trăm lẻ bảy) thời Nam Lương, Sư thị tịch tại chùa Kiến Nguyên, thọ sáu mươi chín tuổi. Bấy giờ, có Các Sa-môn Trí Viễn chùa Tân An, Sa-môn Tăng đạt chùa Thiên Bảo, đều là những bậc có công siêng năng tập học. Từ thưở bé, Sư Trí Viễn đã có tâm thanh tịnh giữ chí không đưa tranh. Sư chuyên giảng nói kinh giáo Đại thừa, khéo tu việc phước. Còn ngài Tăng Đạt bình hòa phóng khoáng, rất tự kính chuộng. Sơn. 4/- Truyện Sa-môn Thích Trí Hân trụ chùa Tống Hy ở Chung Thích Trí Hân, họ Phan, người xứ Kiến Khương thuộc Đơn Dương. Từ thưở bé, Sư đã thông minh, có chí tiết tháo giữ gìn hình nghi, sửa đổi mọi lỗi lầm. Mới bảy, tám tuổi, mà mọi việc trong đời nghe qua tai thì không quên lãng. Sư từng đến chùa Thê Tónh, gặp lúc đang giảng Pháp, Nghe qua nghóa lý mười hai nhân duyên, Sư bèn tự bảo rằng: “Sinh tử trôi lăn không có cùng tận!” Rồi bùi ngùi, bèn có chí muốn lìa tục. Một hôm, Sư đến chỗ Thiền Sư Tăng Thẩm chùa Thê Tỉnh, cầu xin xuất gia, dốc lòng học rộng, siêng tập hạnh cận sự. Ngài Tăng Thẩm bảo rằng: “Ta trông xem thần minh ở Ông, người khác khó noi theo. Mọi điều đáng tập học đều chẳng phải là sâu xa. Vì sao?” Sư đáp: “Muốn mở rộng tiết tháo tai mắt vậy!” Sau khi thọ giới cụ túc, Sư theo Sa-môn Đạo Mãnh chùa Đông An nghe giảng Luận Thành Thật. Được bốn biến mà Sư không hề ghi chú. Lúc kết pho thì Sư lại rõ ràng riêng tỏ ngộ chẳng cùng đồng bạn. Sư chẳng kết giao với mọi người ở đương thời. Người nào cũng cố được tham dự vào môn tịch của Sư. Lúc Sư giảng nói, văn nghóa đều tinh tường tách bạch, bốn chúng đều quy phục, thính giả có hơn tám trăm người, Sư bày tỏ tâm tình, qúy chuộng ở chỗ có thể thấu hiểu, chẳng chuyên tài hoa, khác với hàng lưu tục. Khách hỏi, Sư chưa bày thù đáp đã thôi, đều khen ngợi phong cách ấy, tiếng tăm Sư vang vọng khắp bốn biển. Khoảng cuối niên hiệu Vónh Minh (bốn trăm chín mươi bốn) thời Nam Tề, Thái Tử (?) vào lần đến Đông Điền, dẫn các Nội thị đến Chùa. Sư nhân đó cáo bệnh từ tạ, trở về chùa Tống Hy ở Chung Sơn. An nhiên tự tại, chẳng qua lại với các hàng giàu sang. Hạnh Sư chẳng hợp với không chánh, giao du Sư chẳng quên thân. Mọi vật của đàn việt cúng thí, Sư đều đem ra xây dựng sửa sang nơi chùa Sư ở. Đến niên hiệu Thiên giám thứ năm (năm trăm lẻ sáu) Sư thị tịch, thọ sáu mươi mốt tuổi. An táng nơi tháp mộ ở tại múi. 5/- Truyện ngài Thích Tăng Nhã trụ núi Hổ Khâu ở Quận Ngô. Thích Tăng Nhã, ngài là Con người Anh của sa-môn Tăng Cừ ở chùa Trang Nghiêm. Ngài Tăng Cừ là người luật hạnh thanh nghiêm, thấy ở truyện trước. từ thưở thiếu thời, Sư ngay thẳng tónh lặng, khắp xóm làng đều nhận biết. Năm mười lăm tuổi, Sư xuất gia tại tinh xá Đông Sơn ở Hổ Khâu. Sư lấy sự cung kính hiếu hạnh để kính thờ thầy, dùng điều tốt lành để giao tiếp với bè bạn. Tánh Sư ưa thích siêng năng học tập. Sư đến kinh đô trụ tại chùa Trị Thành hơn hai mươi năm. Thông rành kinh giáo, kẻ tăng người tục đều kính trọng khen ngợi. Thái Thường Khanh Ngô Quận lục Huệ Hiểu, Tả Thị Thượng Thư Lục Trừng Thâm đều tiếp đãi. Năm ba mươi hai tuổi, chí ngài dứt tuyệt phong trần, cuối cùng đi khắp phương đông rồi trở lại Hổ Khâu, gá thân nơi thất vắng, thoát hẳn người đời, xem đọc văn cổ, tự đủ với ráng mây, tuy là rau lá chẳng đầy đủ, áo đơn kép chẳng có nhưng tùy nghi nhậm vận, tâm ít nghó ngợi. Lang Da Vương Bân Thú Ngô thường mời Sư nhóm tập Pháp. Liêu Đô cho là Tri kỷ, nói rằng: “Tại quận nhờ có được ngài tăng Nhã không nói năng đùa cợt luống dối nhưng đã già yếu, thấy Sư suốt năm phóng sinh làm việc chính, trãi lòng nhân đối với các loàng trùng cá, ban đức ái, khắp thú bay chạy. Giảng nói tuy sơ sài mà bến bờ chẳng dứt bặt. Đâu phải xoá vết ẩn cư nơi núi non hiểm trở mới gọi là Đạo. chỉ cần xuất xứ chẳng mất cái quan trọng, càng thấy được cao Đức!” Niên hiệu Thiên Giám thứ tám (năm trăm lẻ chín) thời Nam Lương, Vua Vũ Đế (Tiêu Diễn) ban sắc cho Sư làm Tăng Chánh ở quận ấy. Gần gũi nguyên soái mà còn buông lung tâm ý như trong núi rừng, nên mất sự tốt đẹp của khuôn phép sửa đổi. Đến nỗi có sự phỉ báng của những kẻ tham mạn, chưa hẳn thêm ở nơi mình mà lại chê bai tuổi già. Đến niên hiệu Phổ Thông thứ nhất (năm trăm hai mươi) – thời Nam Lương, Sư thị tịch, thọ bảy mươi tuổi. Lại có Sa-môn Thích Tăng Linh, là anh của ngài Tăng Nhã, cũng là bậc thạc học nổi tiếng. Thưở còn trẻ, Sư là người tuấn tú, kính cẩn, lúc lớn lên lại ngay thẳng nhường nhịn, kinh luật thông rõ chẳng trọn sớm đời. Lại có sa-môn Thích Pháp Độ ở chùa Định Lâm. Tánh Sư lắng xét, nói năng chẳng vội vàng hung bạo, trước thực hành sao có người theo. Bấy giờ, ở chùa Trang Nghiêm lại có các sa-môn Tuệ Phạm, Tuệ Lãng, đều là những bậc thông hiểu giáo điển nội ngoại, nổi tiếng một thời. Sư họ Ngô, người ở đất Diệm, tánh tình quyết đoán, chẳng theo hình danh. Sư Tuệ Lãng da trắng sạch như sương tuyết, người thời bấy giờ xưng gọi ngài là Bạch Lãng. Sư thường giảng các kinh rất có tài năng. Đô. 6/- Truyện ngài Thích Pháp Sủng trụ chùa Tuyên Võ ở Dương Thích Pháp Sủng, họ Phùng, người ở xứ Quán Quân thuộc Nam Dương. Sau gặp đời loạn nạn nên dời đến ở xứ Hải Diêm. Thưở thiếu thời, Sư đã có chí muốn thoát tục. Cha mẹ Sư rất thương con nên chẳng chấp thuận. Ngài giữ chí khí cố cầu xin. Cha mẹ Sư bảo rằng: Hãy đợi cha mẹ cưới vợ cho con xong rồi con tùy ý xuất gia. Năm mười tám tuổi, cưới vợ, mới được nửa năm, Sư bèn bỏ tục xuất gia, đến trụ chùa Quang Hưng, thành tựu pháp thức, tập học oai nghi. Sau đó, Sư đến kinh đô, trụ chùa Hưng Hoàng. Sư lại nương theo hai ngài Đạo Mãnh, Đàm Tế học luận Thành Thật. Cả hai vị thầy đều nhã ý cùng khen ngợi. Sư suốt ngày đêm siêng năng, chẳng vì nóng lạnh mà xao động tâm ý. Ngô Quận Trương Dung và Chu Ngung có viết thư nói rằng: “Người xưa muốn nối dòng nên để lại con cái, nay Pháp sư Pháp Sủng, tuyệt dứt trần lụy như nhổ bỏ đàm dãi, chí khí như thế, thật lớn thay, cao xa thay!” Sư lại theo sa-môn Tăng Châu ở chùa Trường lạc, học thông Lu- ận Tạp Tâm và Pháp Thắng Tỳ-đàm. Rồi lại theo sa-môn Đàm Bân ở chùa Trang Nghiêm nghe giảng các kinh, mà tham cứu chỗ sâu xa, khéo đến tận chỗ sâu cùng. Ý chỉ cao xa, không có trái ngược, văn vẻ xa xưa, phong thần đẹp đẽ. Tề Cánh Lăng Vương Tử Lương rất đãi ngộ. Thường trụ ở Tây Để, nghóa tập soạn các Danh học. Công việc giao cho Ngài Trí Tú ở Trị Thành nên có lắm tranh giành. Ngài Trí Tú nói với Sư rằng: “Ngay việc ứng đối này, làm sao ông bằng Tôi!” Sư bảo: “Xem trước chống sau thì tôi chẳng bằng ông, nhưng giải danh định thật thì ông chẳng thể bằng tôi!” Ngài Trí Tú tỏ vẻ hổ thẹn. Sư ngài ba mươi tám tuổi, có Đạo nhân Pháp Nguyện ở chùa Chánh Thắng khéo thông hiểu thuật của Phàm Hứa, nói với Sư rằng: “Năm ông mãn bốn mươi tuổi sẽ chết, không nơi nào tránh được, chỉ có việc cầu nguyện chư Phật, lễ sám những tội lỗi vượt thoát mới có thể hy vọng khỏi chết!” Sư nhân đó, lấy gương soi mặt để xem xét, thấy trên khuôn mặt mình có hắc khí. Khi đó, Sư bèn bán hết y bát và mọi vật dụng, đồng thời mua hương cúng dường. Sư đi thuyền về hướng đông, đến thẳng Hải Diêm trụ tại chùa Quang Hưng, đóng phòng lễ sám, dứt bặt mọi sự người vật. Ngày quên ăn nghỉ, đêm chẳng cởi y pháp, đến năm bốn mươi tuổi, trong một đêm cuối năm, bỗng cảm thấy hai tai sưng đau, càng sinh lòng khiếp sợ. Đêm đó, lễ sám rồi, đến canh tư, bỗng nhiên Sư nghe ngoài cửa phòng có tiếng người bảo rằng: “Nghiệp chết của ông đã hết!” Sư vội mở cửa ra xem thì đều không thấy ai cả. Đến sáng xem lại thì “Hắc khí đều đã tan sạch, hai tai mới sinh cốt. Đó thật là nền tảng của sám đảng. Công phu chẳng luống uỗng.” Sau cùng, Sư lại theo Sa-môn Tuệ Cơ ở Đông Hạ nghe giảng dạy dẫn dắt. Ngôn luận qua lại với thời gian chừng mười ngày thì Văn nghi lý lẽ vướng mắc lại mở mang chí ngài. Sư Tuệ Cơ lại cổ vũ Sư trở thuyền về lại trời Tây. Sư đến ở chùa Đạo Lâm, mở Vũ Lâm giản, mở hiên ách nước. Sư mở pho tìm kinh và thường tự bực bội mà chẳng thôi được. Mãi đến lúc Đông Hôn tại vị, thường thỉnh Sư đến Bắc sơn. Nhân đó nên Sư dời đến trụ chùa Thiên Bảo. Niên hiệu Thiên giám thứ bảy (năm trăm lẻ tám)- thời Nam Lương, Sa-môn Pháp Cảnh chùa Tề Long thị tịch. Sa-môn Tăng Chánh Tuệ Siêu tấu trình khải văn thỉnh Sư đến trụ ở đó. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) ban sắc rằng: “mọi việc hành vị việc làm của Pháp sư Pháp Sủng chẳng trái với luật nghi, chẳng ham mê tánh dục, chẳng coi trọng hình thế, nhân từ vui vẻ, nhã có phong thái của bậc Quân tử, đáng làm khuôn phép kính tin, rất được lòng người!” Nhà vua mỗi lần nghóa tập đều dùng lễ nghi mà đối đãi với Sư. Lược qua niên lạp của Sư nên vua ban sắc thường ngồi ở đâu. Thường chẳng kêu gọi tên Sư, mà tôn xưng là Thượng Tọa Pháp Sư. Thỉnh Sư làm “Gia tăng”, ban sắc dâng thí xe bò, sức người, mọi thứ ăn uống, quanh năm chẳng ngớt. Chùa ấy vốn nhỏ hẹp. Vua Võ Đế lại vì Tuyên Võ Vương mà tạo phước, ban sắc người thợ sửa chữa chỉnh trang lại để tiếp đãi Sư. Nhân đó mà đổi tên là chùa Tuyên Võ. Sư có các môn đồ đệ tử thuần hậu thường đến cả trăm người. Đến niên hiệu Phổ thông thứ tư (năm trăm hai mươi ba) bỗng nhiên Sư bị bệnh phong, không thể cầm nắm. Sư ở trên gác kinh suốt ngày đêm chẳng nghỉ. Hễ có các Pháp sự thì Sư ngồi trên kiệu mà giảng nói. Khi chưa bị bệnh, Sư lễ Phật, thường lấy trăm lạy làm hạn định. Sau Sư không thể dậy nổi, sang vẫn ở trên giường, cứ y theo thời khóa mà qua trăm lần cúi đầu, ngẩng đầu rất mực chính thành. Điều gì sám, điều gì nguyện không khác với trước. Về sau, căn bệnh càng dữ dội. Sư bèn tham hầu, trông mong nơi Đạo! Đến ngày mười sáu tháng ba niên hiệu Phổ thông thứ năm (năm trăm hai mươi bốn) Sư thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi. Vua Võ Đế thương tiếc đến viếng điếu, kẻ tăng người tục buồn thương kính mến. Vua ban sắc an táng xây tháp mộ tại chùa Định Lâm. Mọi chi phí trong tang lễ đều do Thiên Phủ cung cấp. Xá nhân Chủ Thư trông coi mọi việc. Lại có Sa-môn Trí Quả. Vốn họ Quản, người ở đất Ngô, trụ chùa Quang Hưng ở Hải Diêm. Sư là người thanh bạch ngay thẳng bình thường giản dị, khéo giỏi tinh thông các kinh thuật. Lại có Sa-môn Tăng Thục trụ chùa Công Xa ở huyện Diệm. Ngài nhặt nhạnh việc của chúng tăng đều lấy làm việc của chính mình. Hễ hỏi liền đáp, nghó lường khắp rộng. Tuy có người nêu bày xét khảo mà chưa thể cùng tận chỗ yếu diệu của Sư. Đô. 7/- Truyện ngài Thích Tăng Thiên trụ chùa Linh Căn ở Dương Thích Tăng Thiên, họ Lạc, người ở xứ Đổ thuộc Tương Dương, xuất gia từ thưở thiếu thời. Sư là người trung thật, cần kiệm, sớm hợp với làng quận. Về sau, Sư đến Đô ấp, trụ chùa Linh Căn, quét dọn một căn phòng sạch như Tiên quán, thanh khiết, sửa sang y phục, nước bụi chẳng dính. Sư theo Sa-môn Bảo Lượng chùa Linh vị học hỏi các kinh luận. Văn lý thông đạt, rất nổi tiếng. Tánh Sư oai linh chẳng nhiễu, riêng tự tôn sùng, nếu chẳng đắc ý, thì ít tiếp xúc. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) lấy phép nhà tăng mà trọng đãi, Ngô Bình Hầu Tiếu Bính cùng dùng lễ mà tiếp đãi Sư. Trong mùa hạ niên hiệu Thiên giám thứ mười sáu (năm trăm mười bảy) Vua Võ Đế thường đêm gặp gỡ Sa-môn Tuệ Hủ. Ngày sau, nhân đến nơi Pháp hội. Sư hỏi ngài Tuệ Hủ rằng: “Đêm trước nhà vua nói gì?” Ngài Tuệ Hủ bảo Sư: “Ông sao vội hỏi vậy?”- mà lời tiếng rất hung dữ. Sư bèn thẳng tiếng mà bảo rằng: “Tôi và ông đồng đến Tây châu đều làm Sa-môn. Ông chỉ một lúc được mời gặp vua tiếp đãi liền muốn lấn bước đồng bạn. Tôi chỉ kính thờ Phật, xem các ông khinh thường như vậy.” mọi người trong pháp hội đều thấy ngài Tuệ Hủ tỏ vẻ hổ thẹn. Tánh Sư thẳng thắn đều đại loại như thế. Đến niên hiệu Phổ thông thứ tụ (năm trăm hai mươi ba) Sư thị tịch, thọ năm mươi chín tuổi. Đô. 8/- Truyện Thích Tăng Mân trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Thích Tăng Mân, họ Tôn, gia đình ở tại Phú Xuân thuộc Quận Ngô. Có Ngô Khai Quốc Đại Hoàng Đế là tổ tiên của Sư. Thưở bé, Sư mồ côi, không được chăm sóc, Sư vừa biết nói đã ưa thích đối với Đạo. Năm bảy tuổi, ngài xuất gia, tại chùa Tây Sơn ở Hổ Khâu, làm đệ tử Sa-môn Tăng Hồi. Sư theo thầy thọ học năm bộ kinh. Chỉ nghe qua một lần là ghi nhớ. Tinh thần Sư thấu suốt vượt ngoài đồng bạn, vượt lên mọi người. Thường cùng đồng bạn nói đùa về các Điển lễ, trong lòng Sư không sao khỏi sự bùi ngùi, muốn lấy làm trách nhiệm của chính mình. Tống Lại Bộ Lang Ngô Quận Trương Biện hỏi Sư rằng: “Sa-di, họ gì? nhà ở đâu?” Ngài đáp: “Bần đạo họ Thích, nhà ở tại núi này.” Trương Biện rất lấy làm lạ, đặc biệt dẫn đến Trương tự, Trương tự trông thấy bèn ngợi khen rằng: “Cây thông cây bách tuy nhỏ mà đã có khí phách cao đến tận mây”. Do đó mà tiếng tăm Sư vang xa. Năm mười ba tuổi, Sư theo thầy đến đô thành, trụ chùa Bạch Mã. Chư Tăng trong chùa phần nhiều lấy việc chuyển đọc xướng đạo làm chuyên, mà phong vận Sư trông xa, song không hề để ý. Năm Sư mười sáu tuổi thì Sa-môn Tăng Hồi thị tịch. Ngài buồn thương kính tiếc. Sau khi tang lễ hoàn tất, Sư dời đến trụ chùa Trang Nghiêm, kính ngưỡng tôn thờ Ngài Đàm Cảnh. Ngài Đàm Cảnh vốn trụ chùa ấy đã lâu, nên có phong hoá phép tắc. Lớn nhỏ đền hòa theo. Chùa cung cấp cho chư tăng đầy đủ. Sư an bần khéo học, cùng các vị Pháp Vân, Thiền Cương, Pháp Khai là bạn cùng ở trong chùa bẩm học kinh luận ở bốn Ngài Tăng Nhu, Tăng Thứ, Đạo đạt, Pháp lượng, ban đêm thì ngủ chung chăn, ban ngày thì mượn y áo của nhau để mặc, thăm hỏi qua lại, chẳng trốn lánh nóng lạnh. Sư dốc sức tinh thần quả thật như thế! Sư rất thấu suốt Số luận, nghiên cứu tất cả các kinh luật. Nhìn đầu rõ cuối, xem ngoài biết trong. Nội xét chính mình, bên cạnh lại mở mang cho đồng bạn. Nghi trước, kết xưa, không gì chẳng tan lở. Tuy mạng thế thạc học có biện luận đúng sai, nhưng Sư ở ngay trong trong đó mở mang không hề bưng bít. Mối sáng đã hiển trước, phong du càng rộng xa. Tề Văn Tuệ Đế Cánh Lăng Vương Tử Lương, rất qúy kính, thỉnh mời liên tiếp. Thượng Thư Linh Vương Kiện thỉnh Sa-môn Tăng Tông giảng kinh Niết-bàn. Sư thưa hỏi liên tục, mọi lời đều bẻ gãy người vấn nạn. Vương Kiệm nói rằng: “xưa kia, ngài Trúc Đạo sinh vào đến Trường An. Diêu Hưng đến vườn Tiêu Dao cùng diện kiến, bèn hỏi vặn Đạo Dung nghóa qua lại hơn trăm phen, mỗi lời đều cần kíp. Mọi người đều thấy được phong thần ấy. Và đều kính phục năng lực tài giỏi của Ngài Đạo sinh. Nay đây, Pháp sư Tăng Mân vượt ngộ Thiên thể, tánh cực chiếu cùng, mỗi lời hẳn qua khuôn phép. Khiến cho trước không thể dàn trận, nên bèn vượt qua!” Văn Tuyên thường thỉnh hai Pháp sư Tăng Nhu và Tăng Thứ đến chùa Phổ Hoằng cùng giảng Luận Thành Thật. Lớn cùng thông thắng, mũ lọng che thành bóng râm. Sư ngồi ở cuối pháp tịch, luận bàn, từ chỉ trong mới, đặt lời rộng xa, qua lại thần ứng, khiến thính chúng lắng tâm chăm chú. Ngài Tăng Thứ Công bèn buông cây phất trần mà than rằng: “Lão phu thọ nghiệp ở Bành Thành, nghó đến năm tụ ở đây. có mười lăm lần lấy làm quật nạn. Thường hận chẳng gặp được kình địch, ắt muốn nghiên cứu đến cùng. Từ lúc đến Kinh Lăng tới nay đã nhiều năm, mới thấy hết ở ngày nay. Vả lại, để thử nghó đó, đến buổi giảng sau sẽ đáp? Đến chiều lên giảng, mới đáp vài giao từ, nghóa bị ngăn bít. Ngài tăng Thứ công đổi sắc mặt, nhìn thính chủng khắp pháp hội mà nói rằng: “Người sinh sau đáng sợ! Lời nói ấy đáng tin!” Đến niên hiệu Vónh Minh thứ mười (bốn trăm chín mươi hai)- thời Nam Tề, lúc đó, Sư mới hai mươi sáu tuổi. Lần đầu tiên đến chùa Hưng Phước, Sư giảng Luận Thành Thật. Các bậc Luận sư tiền bối có sự nhận biết cao xa ở thời bấy giờ đều ngồi dưới chiếu. Pháp hội ấy, thỉnh chúng đông như chợ, chùa núi khắp nơi trong ấp không đâu chẳng đóng cửa để nhóm họp. Các hàng áo mão só tử khắp bốn phương đua nhau kéo đến, ngồi xếp đầu gối lên nhau mà chẳng cho là chật. Sư giảng nói tuy suốt ngày, nhưng không tỏ vẻ mệt nhọc. Mọi người đều kính ngưỡng Sư như Nhật Nguyệt. Những người mong mỏi Đạo phong kính mến Đức hạnh của Sư, chẳng ngại xa muôn dặm cùng đến. Từ thời nhà Tấn, nhà Tống tiếp nối các bậc Luận nghị phần nhiều chỉ bàn cao nói lớn, đua tranh cùng khoa trương. Đến lúc Sư giảng nói mới thật là bậc thầy khuôn phép. Oai linh lạc tú, thượng cơ biến hóa như Thần. Lời tiếng nghe nói đúng khuôn phép. Trong pháp hội không bạn lớn tiếng. Kế nữa, tánh tình Sư rất nhường nhịn, chưa từng dùng lý hơn bắt ép người khác. Sư đối xử với chúng lắng mắt như nhập thiền định. Đó là các hàng Đạo tục cùng suy tôn Sư như thế. Người đương thời khen ngợi Sư rằng: “ Sư giải thích nghóa sâu, thông xưa không ai bằng, điều suốt thể chung, người nghe nhận dễ tỏ ngộ, ngõ hầu mới rộng các Dị Luận, đại đồng với chánh pháp!”. từ đó, tiếng tăm Sư chấn động khắp dưới trời, thính chúng đông hơn ngàn người. Sư chăm chăm khéo dẫn dụ, không hề bảo là mệt nhọc! Tấn An Thái Thú Bành Thành Lưu nghiệp từng nói với Sư rằng: “Pháp sư thông hiểi kinh luận. Cớ sao lập nghóa có lắm Nho?” Sư đáp: “Đời Tống mến qúy ngài Đạo Sinh mở Đốn Ngộ để thông kinh. Ở đời Tề kính trọng Ngài Tăng Nhu ảnh hưởng Tỳ Đàm để giảng luận. Còn Bần Đạo Chỉ y cứ Văn Kinh, Văn Huyền thì Huyền, Văn Nho thì Nho.” Bấy giờ, Cảnh Lăng Vương Thế Tử Tha Chiêu. Trụ ra trấn giữ Cối kê, cần Sư cùng đi, Sư bảo: “Tôi chỉ giảng tịch cùng biết chưa từng tu qua. Nghe kia được quận, bèn là lang bái xa cách!” Trong ý không muốn. Mọi người nhân đó cũng bèn thôi. Niên hiệu Vónh Nguyên thứ nhất (bốn trăm chín mươi chín) thời Nam Tề, Vua Đôn Hôn Hầu (Túc bảo Quyền ) ban sắc cho tăng cục thỉnh ba vị tăng vào vườn Hoa lâm để giảng hạ. Tăng Chánh suy tôn Sư làm Pháp Chủ, ngài từ chối. Có người hỏi vì sao? Sư đáp: “Đó là đượm nhuần pháp sư bên trong, chẳng ích lợi Học só bên ngài. Nên không thể gọi đó là giảng.” Từ đó tiếng tăm Sư lan truyền khắp xa gần. Tên tuổi vang động khắp chốn kinh đô. Lang Da Vương Trọng Bảo, Ngô nhân Trương Tư Quang là những bậc có sức học thấu suốt ở đương thời, thanh bạch trong sạch riêng tuyệt, đều đến phân thỉnh, dùng dải the mộc để giao bày. Từ sau năm thành lập từng chuyên sự mở giải, phát triển thành Tông Tượng. Chín bộ loại, năm thời giáo đều như các ngón tay trên bàn tay. Lý mầu phục nạn thản nhiên dễ dàng. Nên các hàng tăng tục đều nối nhau thỉnh mời khó nhọc. Bấy giờ, linh văn sớm thành, mang phong khí từ trước đến, các bậc kỳ túc tố vọng, có tâm hổ thẹn về mới cũ. Bày phục thì sánh vai, kiều quan thì thỉnh thoảng xuất hiện. Sư tùy phương lãnh hội, mở rộng lượng có thừa, đều ngậm kiệu ngọc, gác vánh đi mau, đâu phải chỉ một người mà thôi. Gặp lúc nhà Tề trải qua sự giữ gìn đạo pháp thuộc loại tối cao. Bấy giờ, có ngài Pháp Sủng, kẻ tiểu nhân ở đời ganh ghét Quân tử. nhân lánh đất Từ Bộ, bèn nhận lời thỉnh đến đất ngô. Bánh xe Chánh Pháp tiếp tục xoay chuyển. Cờ đẹp thường luôn dựng lập, đều tuy căn cơ mà được đượm nhuần, có tiếng vang vọng khắp Bắc Nam. Đến thời Hoàng Lương ứng vận mới lắm nhiều, từ xa noi theo nhà vua. Niên hiệu Thiên Giám thứ năm (năm trăm lẻ sáu) thời Nam Lương, Sư đến kinh đô, Thiên hạ lễ tiếp dưới chiếu, rất đỗi mừng vui. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) ban sắc cho tăng Chánh Tuệ Siêu mang chiếu chỉ đến phòng, muốn khuất phục các vị Pháp Sung, Pháp Vân, Nhữ Nam, Chu Xả, v.v.v. bấy giờ Sư vào vườn Hoa lâm, giảng luận đạo nghóa. Từ đó về sau vị trí ưu việt của Sư ngày càng rực sáng. Niên hiệu Thiên giám thứ sáu (năm trăm lẻ bảy) Vua Võ Đế ban chế văn cho Sư chú giải Kinh Bát-nhã, để thông khắp đại huấn. Khắp cả triều qúy đều nghó mở rộng quyết điển. Vua lại thỉnh năm vị Đại Pháp sư ở trong kinh ấp đến trụ năm chùa giữ việc giảng pháp. Và Vua mời Sư ở bên phải nhà vua. Sư mới trông nhìn thấu rõ thâm tình nhà vua rất vui vẻ. Nhân đó, Vua thỉnh Sư làm Gia tăng, luôn cung cấp đầy đủ bốn thứ cần dùng. Vua Võ Đế lại ban sắc thỉnh Sư đến Điện Tuệ Luân, giảng Kinh Thắng-man. Và Vua đích thân đến nghe. Đồng thời vua chọn các vị Tăng tục có tài học như Ngài Thích Tăng Trí, Tăng Hoãng, Lâm Xuyên Vương Kỷ Thất, Đông Hoàng Lưu, v.v…. Sao lục tất cả các kinh luận, xếp loại thứ tự, tất cả có tám mươi quyển, đều bảo lấy sự phán quyết ở Sư. Đến niên hiệu Thiên giám thứ mười một (năm trăm mười hai) bỗng nhiên Sư bị bệnh phong. Sau đó tuy có giảm nhẹ song tâm ý còn quên lầm, nói năng chậm chạp vấp váp. Sư bảo: “Từ lúc lên tòa giảng nói đến nay đã hai mươi năm. Như thấy bịnh hiện tại là thuộc loại không thể bình phục, nên việc giảng nói đến đây là hết!” Sư bèn sửa sang trong phòng, lập đạo tràng riêng, đêm ngày lễ sám. Sau đó, Ngô Quận Thái Thú Trương Sung, Ngô Hưng Thái Thú Tạ Lã, mỗi vị đều sai Liêu Tả đến đô dâng biểu để phát khiển, hai Quận đón rước, thuyền chật cả bến sông. Các vị học só ở kinh đô nhóm họp như sương mốc nhóm đọng. Trên đường đi ngang qua các bậc Thú Tể không ai chẳng đón chào. Tấn Lăng Thái Thú Thái Tỗn ra hầu ở cửa đón rước Sư mà khen ngợi rằng: “Xưa kia, Trọng Ni có đức làm vua ở thời nhà Chu, nay đây, Bân Công lại có đức làm vua ở thời nhà Lương!” Đến những năm cuối niên hiệu Thiên giám (năm trăm hai mươi) Vua Võ Đế ban sắc Sư trụ chùa Trang Nghiêm, thiết lập tám tòa Pháp luân. Năm vị tăng giảng Pháp, lấy niên lạp mà sắp xếp thứ tự. Sư được ở sau cùng. Đồ chúng rất nhiều, giảng đường chùa Trang Nghiêm là do Vua Thế Tổ thời nhà Tống xây dựng, loan lô thêm bóng, diên nhâm lâu xa, đến mãi ngày ấy, chẳng chứa thính chúng. Vị tăng chấp sự dâng Khải văn tấu trình. Vua Võ Đế có ban sắc đình chỉ việc giảng pháp năm ngày, tháo dời vách cửa khắp bốn phía ra khỏi ngoài mái tranh, lại đưa đến cung cấp năm mươi chiếc giường, vẫn còn chật chội. Các thứ quán trình bẻ phá, mỗi ngày có đến mười mấy người đến đông đảo đều thuộc loại ấy. Nhân đó, Sư xả thí tất cả mọi vật đã thọ nhận để lập giảng đường lớn. Sư bèn truyền giao cho các vị tăng sau. Sư lại đến chùa Giảng Tỉnh để giảng Kinh Thập Địa. Nhà cửa trước kia chỉ có năm gian, Sư lo bị chật chội nên ngay trước giảng đường tạm dựng thêm năm gian, hợp lại thành một nhà. Song, tới lúc giảng thì trong chùa đều đông chật. Sự cảm hóa động đến như thế ý chẳng phải lường được. Thưở thiếu thời, Sư cùng Tề nhân Trương Dung Tạ Thiếu kết bạn lành. Các bậc tài học thông nhân trong nước không ai chẳng đến lễ. Ngài tuy ở danh vị Qúy trọng nhưng chẳng mừng vui vinh hiển, chỉ an nhàn ở một ngôi thất, kén chọn các bậc hào hữu. Mọi người thường trách hận như thế, chỉ có Ngô Quân Lục Thụy là người học rộng tự xử, danh vị hiển thông, sớm sùng lễ kính. Sư cũng rất kính trọng mến qúy. Bấy giờ, Thái tử Tung Thứ Liêu Tùng đến phòng, Sư cáo bệnh chẳng ra tiếp. Lục Thụy mừng vui tự nhiên nói rằng: “Đó thật là điều hoài mong của đệ tử!” Mọi người đều suy tôn sự mến qúy danh đức của Lục Thụy và càng qúy trọng sự chẳng hướng đến nơi đời của Sư. Mãi đến cuối niên hiệu Phổ Thông (năm trăm hai mươi bảy) về sau, bệnh trước của Sư liên tục hoành hành. Sư muốn trở lui để yên tónh. Giữa đêm ngài bỏ về Hổ Khâu, không người nào biết. Bấy giờ, Tiêu Ngang ra trấn thú ở Ngô Hưng, muốn đi ngang qua núi để kính lễ Sư. Sơn Chủ Trí Thiền đã biết trước nên mách bảo cùng Sư, Sư bảo: “Tôi là người bệnh ở chốn núi chầm, không việc mà tiếp kiến như qúy hai ngàn thạch. Xưa Đới Ngung ẩn cư tại Bắc lãnh. Tống Giang hạ Vương vào núi muốn đến đó. Đới Ngung nằm dưới cửa sổ chẳng chịu tiếp xúc. Tôi tuy đức mỏng, xin nương cậy vào sự việc của Đái Công!”Tới lúc Tiêu Ngung đến, Sư bèn theo cửa sau mà trốn. Năm đó, Hoàng Thái tử sai Thông sự xá nhân Hà Tư Trừng vâng lệnh đến lễ. Đem các thứ kỷ trượng, lò hợp, chăn chiếu, chổi, quạt v.v.. đến tặng. Đến niên hiệu Đại Thông thứ năm (năm trăm ba mươi mốt) vua Võ Đế ban sắc thỉnh Sư dời về trụ chùa Khai Thiện. Và sai quan sở tại lo đủ lễ để phát dẫn, không trốn được, Sư thường ngẩng đầu trông ngóng nhìn trời. Đang trên đường đi, cơn bệnh tăng lên dữ dội, không kham nổi tới chùa, nhân đó tạm dừng ở chùa Trang Nghiêm. Sư bèn lưu ở mãi đến Đại tiệm. Các thứ lương y, thượng dược luôn đầy đủ trong chùa. Trung sứ Tham hầu cùng ngóng trông săn sóc. Đến sáng sớm ngày mồng một tháng hai niên hiệu Đại Thông thứ tám (năm trăm ba mươi bốn) Sư thị tịch tại phòng ở trong chùa, thọ sáu mươi mốt tuổi. Vua Võ Đế buồn tiếc, Trữ quân than oán. Vua ban sắc đến ngày mồng sáu tháng hai, an táng xây dựng tháp mộ tại chùa Khai Thiện ở Chung Sơn. Mọi sự lớn nhỏ trong lễ tang đều tùy sắp đặt đầy đủ. Aån só Trần Lưu Nguyễn Hiếu Tự soạn bia chế nơi tháp mộ. Các Đệ tử như Trí Học, Trí Khánh, v.v.. lập ba văn bia. Trong đó, có hai văn bia do Hoàng Thái tử Tương Đông Vương soạn chế văn, dựng ở bên cạnh tháp mộ, còn một văn bia do Trương Só Hà Dận soạn văn dựng ở tại chùa. Ban đầu, Sư thường ưa thích Thiền mặc, bèn y theo chỗ lập nghóa mà khắp an tâm, qua thời gian khoảng mười ngày đã nhập định được. Sư đem hỏi, và các Thiền sư đều bảo rằng: “Nhà cửa tuy có khác, song sự vắng lặng thì không khác.” Sư đã từng trong những ngày giảng pháp mà nói với đại chúng rằng: “Xưa kia, Di Thiên Thích Đạo An thường giảng, sau khi ngồi thiền, thường bảo Đô giảng v.v.. vì các loài tụng đọc kinh ba lần. Ấy là trước đã tu nghiệp hạnh thù thắng.” Sư muốn đến nơi đại chúng, mỗi người trì tụng Kinh Quán thế Âm một biến, khi ấy cả pháp hội đều vui mừng, xa gần đều cùng thực hành. Về sau các hàng Đạo tục xả thí mọi vật cầu xin giảng trước lúc tụng kinh. Do đó mới bắt đầu. Bấy giờ, tại chùa Linh Căn có Tỷ-khưu Thích Đạo Siêu chuyên cần tự gắng tập học, ý nguyện muốn được hiểu rõ như Sư. Ban đầu nằm mộng, thấy một người bảo rằng: “Pháp Sư Tăng Bân ở thời Phật Tỳ-bà- thi đã có giảng nói. Nay ông mới tu tập làm sao sinh bằng được! Nhưng chỉ tự gắng công, chớ lo không thành đạt, tùy phần được giải ngộ”. Về sau, Ngài Đạo Siêu thật sự đại lãnh ngộ. Sư thường tu tạo tượng Phật Di-lặc và các pháp cụ cúng dường, sớm tối lễ bái tham yết, mộng thấy Phật Di-lặc sai Bồ-tát hoá hiện đưa cây bồ-đề đến cho Sư. Vị Bồ-tát ấy bảo: “Cây Bồ-đề, đời Lương dịch là cây Đạo tràng. Đệ tử phải nói lời ấy.” Sư nghe nên cố gắng, bảo rằng: “Lễ có sáu giấc mộng, chánh mộng chỉ có một, mới là trước bày tốt xấu. Nên khắp nơi dựng lập cung chiêm mộng. Đời sau bèn phế bỏ. Vì người đời bạc bẽo, rất lắm giả trá. Điềm mộng trước của tôi là do tâm tưởng, các ông chớ nên rao truyền.” Vì Trang Nghiêm cửa chùa và các tường vách xưa làm thợ không khéo léo. Thêm nữa, chùa Sơn Tây tại Hổ Khâu xây dựng vào đời Ngô đã rã mục hư hoại vì quá lâu ngày. Sư đều sửa sang thay đổi, mọi việc hoàn thành rất rộng đẹp. Sư tu tạo kinh tượng, toàn chẳng cất giấu, hễ người nào cần thì Sư dâng cấp, với việc phóng sinh bố thí, Sư không hề mỏi mệt phế bỏ. Có vị Đệ tử hỏi Sư rằng: “Hòa-thượng tu tạo Công đức thật nhiều, nhưng chưa khai mở dựng lập Đại trai hội, sợ e việc phước chưa viên mãn”. Ngài Bảo: “Đại trai hội là có ích lợi của một thời phát khởi, tôi ít thiếu nhân lực, khó được hết lý. Vả lại, gạo rau tương dấm củi nước than tro, dẫm đạp… làm thương hại với số lượng vi trùng rất nhiều. Tôi chỉ lo sợ có chừng ấy việc nên chẳng dám làm. Như lại, cầu gởi nơi cung vua, Quan phủ, những nhà có thế lực, bảo làm tuy nhiều mà lại càng khó hết ý. Kẻ nhận thức gần trông thấy, nhờ đó mà được khai ngộ. Còn người trí nhìn người có cái cười cầu danh. Cầu xin pháp tục xâm tinh sớm đến. Nếu không chuyên chí thì sẽ trái với tâm trắng trong. Như hiện ngay lời này còn phải đi qua sự chê cười, nên tôi chẳng làm.” Ngài nói năng khéo léo, cử chỉ tốt lành, thốt ra lời cao quý, tự sinh nhìn ngắm, gió thoảng đầy nhà. Phàm mọi việc làm, Sư chẳng vì danh lợi, chuyên cần chú giải kinh giáp, cố gắng ở lời tỏ ngộ. Người trước mình sau, thường như chẳng bằng. Thường có những vị thầy khác nói đệ tử chẳng cung kính. Sư bèn gọi đến để gặp gỡ, vì lập bày các thứ ăn uống rồi dùng các phương tiện để dẫn dụ, bèn thành Thiện Só. Sư sống không Tả đạo bói toán, chẳng có vọng hoặc phàm phu. Lại chẳng giả trá kỳ quái tể dối gạt những người nhận thức cạn cợt. Các hàng Qúy nhân Quân tử đều ảnh hưởng kính mến đến Sư, những người thương nhân buôn bán cũng nhìn đạo phong mà sợ kính. Hễ nghe đến tên Sư thì kẻ tà ngụy thành chánh, lẻ thô bị thành ngay. Ngài soạn các bộ: Luận Sớ tạp tập, Tứ Thanh Chỉ Quy, Thi Phổ quyết nghi v.v.. có hơn trăm quyển lưu truyền ở đời. Đô. 9/- Truyện ngài Thích Pháp Vân trụ chùa Quang Trạch ở Dương Thích Pháp Vân, họ Chu, người ở xứ Dương Tiện thuộc Nghi Hưng, là con cháu bảy đời của Tấn Bình Tây Tướng Quân Xứ. Mẹ của Sư họ Ngô. Lúc mới sinh Sư, thấy khí mây đầy phòng. Nhân lấy đó mà đặt tên là Pháp Vân. Năm lên bảy tuổi, Sư xuất gia, lại pháp danh là Pháp Vân. Sư theo thầy ở chùa Trang Nghiêm làm Đệ tử ngài Tăng Thành Huyền Thú Bảo Lượng, Sư là người tài gioải, vượt lên mọi người ở đương thời. Năm mười ba tuổi, Sư mới bắt đầu thọ nghiệp, rất được Ngài Tăng Tông ở chùa Đại Xương, Ngài Tăng Đạt ở chùa Trang Nghiêm khen ngợi. Ngài Bảo Lượng từng nói: “Thần minh của ta thù đặc chẳng ai sánh bằng. Tương lai hẳn làm rường cột cho Đại Pháp!” Vào niên hiệu Vónh Minh (bốn trăm tám mươi ba-bốn trăm chín mươi bốn) thời Nam Tề, Pháp Sư Tăng Nhu trở về phương Đông, đến chùa Đạo Lâm khai mở giảng Pháp. Sư đến dò hỏi quyết trạch nhiều ngày, văn từ ý chỉ khơi phát. Đại chúng đều khen lạ, Sư tuổi nhỏ ngồi xa, tiếng hỏi khó rõ manh mối. Ngài Tăng Nhu bảo chiếc ghế nhỏ ở ngay trước, để cùng nhau hỏi đáp qua lại. Do đó mà Sư nổi tiếng. Sư và sa-môn Tăng Bân cùng ở chung chùa, tuổi tác ngang nhau, danh tiếng ngang bằng, hai vị cùng trải qua gặt hái ở các vị thầy hoặc kinh, hoặc luận, suốt bốn mùa đi nghe giảng pháp, thời tiết nóng lạnh chẳng thôi nghỉ. Hai vị hoặc giảng trước, giảng sau, đầu đêm cuối đêm xét thuật văn nghóa. Những lúc nhàn rỗi, đi trên đường nghó suy nghóa lý, nên chẳng tự biết đã đi quá chỗ đến, hai vị chuyên cần cố gắng đến nỗi như thế. Sư từng xem sa-môn Pháp Điều ở chùa Trường lạc giảng luận. Khi ra mà ngoái lại bảo rằng: “Thành đô của Thiên tử xứ Chấn Đán (Trung Hoa) thật giàu có áo mão, cử chỉ oai nghi chớ cho là dễ làm. các vị Pháp sư trước sau, hoặc có từ không nghóa, hoặc có nghóa không từ, hoặc có cả từ lẫn nghóa, mà luống qua không oai nghi. Ngày nay Pháp tọa đều đã khuyết thiếu. Tất cả đều do tập học chưa tốt, chưa nên giảng nói!” Mùa Hạ niên hiệu Kiến Võ thứ tư (bốn trăm chín mươi bảy) thời Nam tề, lúc đó, Sư ba mươi tuổi, bắt đầu ở chùa Diệu Âm, khai giảng hai bộ kinh Pháp Hoa và Tịnh Danh. Mở đầu, phần chánh, nguồn, ngọn, các phần danh loại, người học đến đông như biển, bốn chúng đầy chật giảng đường, đều cho rằng Lý nhờ lời mà được diễn tả cùng tận. Trang quyển còn không, đến lúc Sư vì khách lập bày ngang dọc, so sánh phân loại, Sư có biện tài như gió nhanh, ứng biến dường mưa chạy. Đáng sự bén nhọn ấy ít người chuyên tâm, khách chủ đều than thở, đồng liêu đều vui mừng. Người đương thời gọi Sư là “Tác Huyễn Pháp Sư”. Sư khéo giỏi giảng kinh riêng bước một mình ở đương thời. Tề Trung Thư Chu Ngung, Lang Da Vương Dung, Bành Thành Lưu Hội, Đông Hoàn Từ Hiếu Từ v.v… là những vị nổi riếng một đời, đều đến chẳng kết giao trái nghịch. Hiếu Từ thường ngày trông thấy Sư tuấn phát, tự nhìn lại sự khiếm khuyết nơi mình, mà tánh linh thành hiếu, nhọc nơi sắc dưỡng. Đến lúc Sư chịu tang mẹ, hủy hoại suy gầy quá lễ, qua nhiều ngày chẳng ăn, nguy ách chẳng hơn tang. Ngài Tăng Bân thấy vậy bảo rằng: “Các bậc Thánh đặt ra lễ pháp. Các Hiền giả noi theo, những kẻ chẳng Hiền mong ngóng, hủy hoại chẳng diệt, tánh còn ra khỏi Nho Tông. Huống gì Phật có lời rất chí thiết là muốn báo đáp ân đức sinh thành, gần thì ngay đời nầy hiếu dưỡng nuôi nấng cha mẹ, khiến mọi vật sinh vui. Xa thì khai mở tâm Bồ-đề để dẫn dắt thần thức.” Ngài Tăng Bân lại bảo: “Ân ái là thứ giặc quan trọng, không thể xem thường, xem thường ân ái là việc khiến người thân quyến luyến mà đọa vào đường ác. chỉ có người trí vận dụng sức phương tiện, khéo léo chế ngự thì ngõ hầu người còn kẻ mất đều hướng về con đường tốt lành. Cần phải nghó đến lý xa để khiến có thành bến bờ, đâu thể dung tình đồng như gần vậy ư?” Nghe vậy, Sư bèn cắt bỏ tình cảm u buồn nhỏ nhặt, đến ăn chút cháo. Niên hiệu Vónh Nguyên thứ nhất (bốn trăm chín mươi chín) thời Nam Tề, Sư có nhận lời thỉnh của quận Tỳ Lăng, các hàng Đạo tục cùng cả nhà, các hàng dị đạo cũng nhóm họp, Sư chấp pháp mở mang Phong du, Đạo tỏa khắp kinh thành. Cổ vũ mọi người biết quay về, các hàng cân đai biết trở lại. Đến lúc nhà Lương lên ngôi, cũng rất khâm trọng kính lễ. Niên hiệu Thiên Giám thứ hai (năm trăm lẻ ba) thời Nam Lương, Vua Võ Đế ban sắc thỉnh Sư vào ra các điện, ảnh hưởng mở mang, dần dần tán dương lợi ích. Hoàng Cao vội mời nghóa tập, không hề chưa ban sắc mà Sư vào trước, sau đó mới hạ chiếu lệnh. Bấy giờ các bậc danh đức, mỗi người tự soạn luận Thành Thật nghóa sớ. Sư bèn gom nhóm các kinh luận hợp soạn, có bốn mươi khoa, làm thành bốn mươi hai quyển. Không bao lâu đã nghiên cứu xong. Vua Võ Đế lại ban sắc ở tại chùa ba lần giảng nói, rộng mời các bậc nghóa học sung bổ vào các Đường Vũ. Vua ban sắc truyền Chiếu, các thứ xe, bò, lại lực đều chuẩn bị đầy đủ. Đến niên hiệu Thiên Giám thứ bảy (năm trăm lẻ tám) Vua Võ Đế ban chế văn chú giải Kinh Đại Phẩm. Các hàng Triều qúy thỉnh Sư giảng giải. Sư cáo bệnh khước từ chẳng đến. Vua Võ Đế nói: “Đệ tử đã đang ở ngôi ngày nay, Pháp Sư là bậc Danh Đức hậu lai, lưu thông không chỗ nương tựa, không thể chẳng tự lực mà giảng nói?” Nhân đó mà Sư theo đến. Sau đó, Vua lại ban sách chiếu thi lễ thỉnh Sư làm Gia tăng. Tư cấp rất ưu đãi nồng hậu. Vua ban sắc Sư làm chủ chùa Quang Trạch. Mở đầu lập ra Tăng chế, để làm khuôn phép cho đời sau. Hoàng thái tử lưu tình trong ngoài, chọn mời mười vị tăng vào nơi Hoàng Phố. Trải qua hai mùa hạ chẳng ngừng giảng kinh mà cũng huyền đàm ngoài văn. Sư ở địa vị Thượng thủ, riêng thêm cúng thí. Từ các bậc Vương Hầu cho đến những người giàu sang vinh hiển. Không ai chẳng khâm phục kính trọng. Còn như đối với các việc tốt xấu vui buồn, Sư chẳng hề tránh né thời tiết nóng lạnh. Người đương thời gọi đó là giao du hào hiệp, nhưng Sư vẫn liền hoằng pháp, chẳng vì lời nói ấy mà Sư lo toan. Trung Thư Lang Thuận Dương Phạm Chẩn soạn “Thần Diệt Lu- ận.” Các hàng quan liêu chưa hiểu rõ lý ấy, nên trước tiên đem tấu trình, Vua Võ Đế ban sắc bảo Sư giảng giải luận ấy để tuyên bày cho các hàng Thần hạ. Sư bèn bảo khắp cùng các hàng triều só viết chép lu- ận ấy. Lời văn tuy khác lạ mà lý nghóa thông thường. Sư lại cùng Thiếu phó thẩm ước viết rằng: “Chúa thượng bảo xét Thần Diệt Luận, nay khiến cùng trình. Phàm Thần diệu vắng lặng, có thể biết mà không thể nói. Nghóa kinh hợp mà chưa rõ, lý đã đến sáng mà còn mịt mờ, bậc chí nhân thì bất động chiếu soi, vốn có theo Đạo, đến cơ thì rũ xét. Thần hạ thì chỉ huấn kín khắp. Cúng tế hiếu hưởng đã rõ ràng. Có tâm kính mến Tăng sử, lời của ba đời lại mở mang. Trụ trong tình của Ba-luân. Dự chẳng là cây cỏ, ai chẳng thở than, đồng nén đi phong du; cùng thêm mở mang khen ngợi.” Thẩm Ước đáp rằng: “Thần vốn chẳng diệt, là việc đáng theo. Bàn nói về Thần diệt, khéo dụng kinh sợ. Gần Ước Pháp Sư, trong điện cũng được sắc đáp một bản, vui mừng nhận lấy cung kính tìm xem quên cả nhọc mệt. Đâu nhọc nép phục ngoại đạo ấy để lìa hẳn các thứ ma. Khổng Giáo, Thính Giáo đều mở mang ở đó. thật là Hoằng chỉ chẳng khắc, thuyền bè của tram đời. Đệ tử cũng ngay nơi luận ấy hơi để chút nghi xét, so sánh triển bày đầy đủ để tấu trình.” Đến khoảng cuối niên hiệu Thiên Giám (năm trăm hai mươi) Sư muốn đền đáp ân của Thí chủ, nên đến trong làng Đồng Hạ thuộc huyện Mạt Lăng xây dựng một ngôi chùa. Vua Võ Đế ban sắc cho rằng Pháp Sư xây dựng chùa, có thể lấy tên của Pháp sư để đặt hiệu. tức là núi ở phía Tây của Thiền Cương. Giao quách nội địa, thật cao ráo sáng sủa, xây nhà chót vót trên đảnh núi, xoay mặt hướng Bắc thành thị, là nơi khe suối ẩn non, nơi tận cùng hoang dã. Suốt ngày Sư luận bàn, không hề nghỉ bỏ. Đến những năm gần cuối niên hiệu Thiên giám (năm trăm hai mươi), nước Phù Nam đem đến dâng tặng ba Bộ Kinh. Vua Võ Đế ban sắc cho Sư phiên dịch. Sư quyết trạch rõ ràng ngôn ngữ Hoa Phạm, đều lý sáng ý bày, tướng trạng như đích thân vâng thừa. Vua sao chép các kinh Phương Đẳng, soạn tập Pháp thức thọ giới Bồ-tát, xây dựng đạo tràng Đẳng giác. Thỉnh Pháp Sư Tuệ ước chùa Thảo Đường làm Trí Giả, đích thân nhà vua cầu thọ Đại giới để tự trang nghiêm. Từ đó về sau, các hàng Vương hầu Triều só Pháp tục khắp thành đô hoặc có người tuổi tác lớn hơn Trí Giả, đều kính vọng Đạo phong bao la, đến thưa hỏi Pháp thức thọ giới. Sư bảo: “Giới Ước là một, trước đã đồng bẩm, nay lại lãnh thọ, thật không điều gì khác.” Có lúc như thú hướng, cố chấp ở đó. Vua nhiều lần khuyên giúp, thường nói bày dẫn dụ thêm. Sư bảo rằng: “Trước tiên phải phát nguyện, nếu được tương ưng, sau mới thọ”. Ý ngài muốn tâm Bồ-đề trong ngoài khắp đủ. Bỏ những gì ngoài mình để thí cho chúng sinh. Mở thông điện Quang Hoa ở vườn Hoa Lâm, thiết lập Đại hội cúng dường ngàn vị tăng, phân các vật ấy thành năm thứ công đức. Thượng Đế tùy hỷ cảnh phạm theo thời, vàng ngọc sáng chói, trăm khí chan hòa, các thứ kỹ nhạc rất nhiều, người trôg xem nghiêng thành, không ai chẳng khen ngợi. Đến niên hiệu Phổ Thông thứ sáu (năm trăm hai mươi lăm) Vua Võ Đế ban sắc Sư làm Đại Tăng Chánh, thiết lễ Đại hội cúng dường ngàn vị tăng tại chùa Đồng Thái, rộng chiêu tập các vị Tri Sự và các bậc học hạnh Cao Tăng ở các chùa, yết-ma bái trao đặt vị Vũ Nghi. Mọi người thấy nghe điều chưa từng thấy nghe, được điều chưa từng có. Từ đó về sau, Sư bị bệnh đã tới lúc nặng, nhưng việc giảng nói không hề phế bỏ. Mãi đến lúc phải nâng đỡ Sư lên pháp tòa, quá tệ hại. Sư mới thôi nghỉ. Đến lúc Vua Võ Đế đến chùa Đồng Thái, giảng kinh Đại Niết-bàn, ban sắc khiêng kiệu đưa Sư lên điện, dựa ghế nghe giảng. Mãi đến lúc chịu tang cha, cơn bệnh càng dữ dội và đến lúc Đại tiệm. Đến đầu đêm hai mươi bảy tháng ba niên hiệu Đại Thông thứ ba (năm trăm hai mươi chín) Sư thị tịch tại phòng Sư ở, thọ sáu mươi ba tuổi. Cả hai cung đều kính tiếc, vì thế mà khóc gào thảm thiết. Vua Võ Đế ban cấp Đông Viên Bí Khí, tất cả mọi việc trong lễ tang đều do Vương phủ cung cấp. Vua lại ban sắc bảo an táng Sư bên cạnh chùa Định Lâm. Thái tử Trung thứ Lang Da Vương Quân soạn Minh Chí. Đệ tử Chu Trường Dận, v.v.. có sự luyến mộ như con, lập hai văn bia dựng ở tháp mộ. Tương Đông Vương Tiêu Dịch mỗi mỗi đều vì soạn Văn. Ban đầu, ở tuổi vừa thọ giới Sa-di, Sư rất chuộng kinh thuật. Đối với Kinh Diệu Pháp liên hoa, Sư nghiên cùng tinh yếu, có lắm suy tư. Phẩm chước lý nghóa đầu cuối xét xem, rồi mới đến u nham, giảng nói kinh ấy. Chất đá làm người, nghe bẻ lá thông làm phất, tự xướng tự dẫn, gồm thông khó hiểu. Do đó vang danh ở thời Nam Lương, thật chứa nhóm học rộng, mà Văn Sớ điều điệp, trước sau nhiều sáng rõ. Cuối cùng y cứ giảng tụng có nhiều cản trở công phu. Sư từng ở tại một ngôi chùa giảng nói kinh ấy. Bỗng chiêu cảm hoa trời hình dạng như tuyết bay khắp giữa hư không rải xuống trong giảng đường rồi bay bỗng lên giữa hư không chẳng rơi rớt, mãi đến lúc giảng xong mới tan đi. Có Thần Tăng Bảo Chí là bậc đạo vượt phương ngoại, ít người có được cảm tình, nhưng đối với Sư thì kính mến lẫn nhau, gọi Ngài là “Đại Lâm Pháp Sư”, từng đến chỗ Sư dừng ở qua đêm, và nói là muốn hiểu Sư tử hống, xin Pháp Sư nói cho nghe!” Sư liền vì phân chiết. Ngài Bảo Chí bèn búng ngón tay ngợi khen rằng: “Lành thay! Vi diệu, vi diệu!” Nghi Đồng Trần Quận Viên Ngang nói rằng: “Có vị Tăng thường cúng dường, cầu học kinh Pháp Hoa với Sư. Bỗng mộng thấy có vị tăng lạ bảo rằng: “Ở thời đức Phật Đăng Minh, Pháp sư Pháp Vân đã từng giảng kinh ấy, đâu thể đối địch.” Mỗi lúc Sư giảng giải, người đưa các thứ tiền vật, cầu xin tụng kinh, thì có được lắm điều điềm ứng, Và được mộng lành như đã có nói”. Có người đánh cá ở huyện Di Lăng nhặt được quyển kinh trong mảng lưới, đó là phẩm Tứ Tướng Niết-bàn. Và ở cuối quyển đề là “Niên hiệu Nguyên Huy thứ hai (bốn trăm bảy mươi bốn) thời Tiền Tống, Vương Bảo Thắng kính tạo dâng lên Pháp Sư Pháp Vân ở chùa Quang Trạch”. Đem việc ấy để so sánh thì lúc ấy Sư chỉ mới mười tuổi. Tiếng tăm chưa vang xa, và không nghe biết chùa Quang Trạch, mà Phẩm kinh ấy là phép tắc chân chánh, ban đầu ghi là “Hoằng Pháp dần dần bỏ cá thịt”. Nghiệm xét ý hạnh hiện nay rất phù hợp. Sư có cơ thần biến hóa, mọi người chẳng dám đua tranh sánh ví. Sư có được điều ấy, càng thêm mở mang giảng nói. 1 0/- Truyện ngài Thích Tuệ Trừng trụ chùa Tùy Hỷ ở Nam Hải. Thích Tuệ Trừng, họ Lan, người ở xứ Cao Yêu thuộc Phiên Ngung, năm mười bốn tuổi, Sư xuất gia, nương tựa Hoà-thượng Đạo Đạt ở chùa Tùy Hỷ. Tánh Sư trong sáng khổ tiết, giữ vững trai giới, với các thứ cá thịt tanh nồng, trọn đời Sư chẳng hề gần gũi. Vào cuối thời Nam Tề, trăm thứ đều thôi nghỉ, Sư đóng cửa lễ Phật tụng kinh, chẳng tu học rộng, đầu niên hiệu Thiên Giám (năm trăm lẻ hai) thời Nam Lương, Sư mở trường học. Các hàng tăng tục ưa thích mong cầu đều đạt như chí nguyện. Sư ôm giữ nguyện vọng, lấy ngày làm năm. Giữa thời thế vừa mới mở mang, đường đi về hướng Nam còn bị tắt nghẽn. Sư mang vác hầm sách lần lữa muốn đi mà chưa cất bước. Và còn bè bạn can ngăn, bảo Sư rằng: “Sao chẳng chuẩn bị tư lương mọi vật, đợi đường sá mở thông rồi hãy đi, mà vội vàng để sinh ra lo khổ như vậy?” Sư bảo: “Vinh hoa mọi vật đâu có liên quan gì, ngày tháng như điện chớp, thời gian đâu đợi chờ con người?” Từ đó, Sư dò hỏi đường sá gởi gắm, bèn đến kinh thất, dừng nghỉ tại chùa Trang Nghiêm và nương tựa Pháp sư Tăng Mân, ngồi thẳng mặt hướng về phía Bắc. Sư chuyên cần khổ tiết, buông màn chuyên nghiên cứu một việc, vừa kinh vừa luật, hoặc số hoặc luận, trong thời gian hơn mười năm câu thúc sâu xa, tìm cầu bí ẩn, Sư còn giấu vết dưới chiếu mà tiếng tăm đã vang vọng ngày một xa. Quế Dương Vương Tiêu Tượng, nghe Đạo phong của Sư mà khâm phục mừng vui, thỉnh Sư đến nhà, đảnh lễ quy y, cầu xin giảng nói. Gần gũi tự hưởng tốt lành, bèn khiến xa gần đều tìm đến người nghe văn vẽ rõ ràng. Sau, Quế Dương ra trấn giữ Nam Nhạc, thỉnh Sư cùng đi. Các hàng Đạo tục khắp vùng Tiêu Tương càng thêm quy y kính ngưỡng. Pháp tịch thường luôn hưng thịnh, Sư khéo léo dẫn dụ, quên cả mỏi mệt. Ngài trái nghịch với Bà con đã lâu năm, thề tạm định tỉnh, mà bốn chúng ở Phiên Ngung, hướng trông Đạo phong kính trọng đức hạnh của Sư, thường đến muốn thỉnh, mỗi năm càng gấp bội. Nên đến niên hiệu Phổ Thông thứ tư (năm trăm hai mươi ba). Sư theo Sứ đi ngược lại phương Nam, giữa đường gặp phải nguy ách hiểm trở, Sư vốn tình chẳng sợ, ăn gặp khách đói, Sư nghiêng bát mà ban thí. Mọi người trong thuyền bày biện, Sư chẳng chịu nhận lại. Như thấy người đơn bạc thì Sư cởi áo ban cho. Khi đến Nam Hải, Sư dừng ở tại chùa Tùy Hỷ. Bảy chúng đua nhau tìm đến nhóm họp đông đảo như rừng, hken ngợi cầu thỉnh pháp thí, nhưng Sư vẫn thường lụy tích. Sư lý dụ tinh vi, cạn sâu đều không ẩn giấu. Các hàng tân học, cựu học trông mong như cỏ nép mình. Sư ở tại đó suốt năm năm, nói pháp lợi sinh không hạn lượng. Chưa kịp trở lại đô thành thì Sư đã bị bệnh mà thị tịch, thọ năm mươi hai tuổi. Lúc đó nhằm niên hiệu Đại Thông thứ nhất (năm trăm hai mươi bảy). Bấy giờ, lại có các Sa-môn Tuệ Lãng, Tuệ Lược, Pháp Sinh, Tuệ Võ, v.v.. đều là những vị nương tựa thọ học với Pháp Sư Tăng Mân. Tuy thông hiểu rộng các bộ mà đều chỉ lấy Luận Thành Thật làm chuyên danh. Sư Tuệ Lãng an bần ham học, thông hiểu rộng rãi, trải qua thời gian lâu dài đáng là bậc Sư Tượng khéo giỏi việc truyền thuật. Ngài Tuệ Lược thông minh tuấn tú, tuyên giảng có khuôn phép, riêng từng điều phẩm, rất được khen ngợi tán thưởng. Ngài Pháp sinh tìm hỏi Dị Văn, rộng bày kinh luận, giải thích chỗ sâu kín, lợi vật rất đặc thù. Ngài Tuệ Võ giải thích văn nghóa, tỉnh lược chỗ rườm rà, tuyên lưu những điều chưa rộng rãi, hương thơm, trong lá. Năm ngoài ba mươi tuổi Sư thị tịch. 1 1/- Truyện ngài Thích Pháp Linh trụ chùa Thương Định Lâm ở Chung Sơn. Thích Pháp Linh, họ Đổng, không rõ Sư là người xứ nào. Gia đình gặp phải biến họa trong thế sự, nhân đó dời đến ngụ tại Kiến Khương. Sư xuất gia từ thưở thiếu thời, trụ chùa Định Lâm thượng, lập chí khí tiết tháo trong trắng bền bỉ, khiêm hòa ít muốn. Sư xem rộng các kinh luận có lắm điều thông đạt, rất giỏi các Kinh Niết-bàn, Đại Phẩm, Tiểu Phẩm, tinh thông Pháp Hoa Tỳ-đàm tâm luận. Sư lên pháp toà Sư tử, phát ngôn biện giải không sợ hãi. Trước tiên Sư nêu bày cương yếu, kế đến khai dẫn nguồn mạch điều lưu, nói năng tuy ước lược mà ý chỉ sâu sắc, tiếng tăm vang dội khắp kinh học. Sư lại khéo tu thiền định để dứt mọi phan duyên. Chỉ khổ nỗi thường bị bệnh tật, nên Sư chóng bỏ sự nghiệp giảng dạy. Sư tự trách mình do đời trước chấp tướng Phân biệt dẫn đến tạo nên những điều trái nghịch tai hại nên nay phải chịu sự ương trái. Nhân đó, Sư trì tụng một bộ kinh Đại phẩm để dứt hết mọi bít nghẽn, thanh tịnh điều hòa, tùy theo Phạm hạnh. Suốt ba mươi năm, chân Sư chẳng bước xuống núi, không ăn các thứ có mùi vị tanh nồng, thân mặc áo vải xấu trọn đời. Đến niên hiệu Thiên Giám thứ năm (năm trăm lẻ sáu) thời Nam Lương, Sư thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi. Bấy giờ, tại chùa Định Lâm thượng cũng có các Sa-môn Tuệ Thái, Tuệ Toản đều là những bậc nổi tiếng về Thông học. Ngài Tuệ Thái tự khắc kỷ tu thân, dốc chí siêng năng về thiền trí, giỏi về nói bàn, truyền đạt. Ngài Tuệ Toản tâm tánh trắng trong, chẳng cần cung phụng hình hài. Trinh thật có tâm trong trắng, có khí tháo của bậc Quốc Só. Sơn. 1 2/- Truyện ngài Thích Trí Tạng trụ chùa Khai Thiện ở Chung Thích Trí Tạng, họ Cố, vốn tên là Tịnh Tạng. Người xứ ở Quận Ngô, là con cháu đời thứ tám của Ngô Thiếu Phó Diệu. Cao Tổ của Sư là Bành niên làm Tư Nông Khanh, Tằng Tổ của Sư là Thuần, làm Tiền Đường lệnh. Ông nội của Sư là Diêu Chi làm Viên Ngoại Lang, cha của Sư là Ánh. Vâng phụng triều thỉnh, đã mất sớm, mẹ của Sư có lần mộng thấy nhiễu quanh Ngô thành một vòng, mây mù phủ khắp bốn phía mà giữa khoảng trời trong sáng tỏ, các vì sao rơi rụng dưới đất, bèn bốc lấy mà nuốt, nhân đó mà mang thai Sư. Đến lúc sinh Sư, tuy bé nhỏ mà Sư thông minh, thường có tâm nhường nhịn. Từ mọi sự ăn mặc cho đến cung cách oai nghi đều như hoa mới nở. Sư luôn nhường trước mà ở chỗ sau cùng. Do đó tiếng tăm Sư vang vọng nên khắp xóm làng đều kính mến và quý chuộng. Năm mười sáu tuổi, Sư xuất gia, thuộc đời Vua Minh Đế (Lưu Úc (bốn trăm sáu mươi lăm-bốn trămbảy mươi ba) thời tiền Tống). Niên hiệu Thái Sơ thứ sáu, Vua ban sắc cho Sư trụ tại chùa Hưng Hoàng, phụng thờ các Sa môn Tăng Viễn, Tăng Hựu chùa Định Lâm thượng, sa-môn Hoằng Tông ở chùa Thiên An làm thầy, danh đức các Sa môn ấy đã nêu như các truyện trước. Sư nương tựa bẩm thọ mọi sự chỉ dạy trong khuôn phép, kính nghóa cao lớn. Thầy Sư từng có lúc bị bệnh rất nặng không ăn uống nhiều ngày, Sư cũng theo thế đợi đến lúc thầy ăn uống trở lại Sư mới ăn uống. Từ đó, Sư giữ vững giới đức, học nghiệp thông suốt sâu sắc. Thời bấy giờ, có hai pháp sư Tăng Nhu, Tăng Thứ là những bậc huyền tông ở đời. Ban đầu, Sư tìm đến theo học, được chỉ dạy kinh luận, biện chung tinh lý. Đến lúc các vị ấy mở hội dịch luận pháp, chẳng thể vượt qua được bến bờ của Sư. Sư thông hiểu như thần. Mỗi lúc nghe trình bày Vi ngôn, Sư liền dự phần so sánh dấu vết, không gì chẳng chiết phục. Do đó, hai Pháp sư ấy đều khen ngợi, bởi vì chẳng bì kịp Sư. Tề Thái uý Văn Hiến Vương Công rất lấy làm khâm phục nể trọng, bèn thỉnh Sư an cư, thường than trách là được gặp quá muộn! Thái Tể Văn Tuyên Vương kiếp lập chánh điển để tiếp nối làm ngời sáng Đạo Phật, sắp giảng Kinh Tịnh Danh, cùng chọn lựa các bậc Thượng Thủ, bèn thỉnh được hơn hai mươi vị tăng tinh thông giảng giải. Thăm dò, tìm kiếm mới tìm được Tạng. Sư tuổi tác trẻ nhỏ nên dự ở cuối tòa. Sư tuyên dương truyền thuật nghóa lý, không ai cân nhắc chống kháng, nên các hàng đạo tục tự nhiên càng thêm tôn sùng kính trọng. Vốn trước đó, có Pháp Sư Thận ở Cối kê, chỉ muốn tuyên thông pháp mầu bèn thỉnh văn tuyên, tìm cầu giảng Tượng, vì tiếng tăm Sư vang vọng khắp cùng, thêm thuộc quyến thuộc, bèn lưu liên Cối kê trải qua nhiều năm tháng, lại ứng theo cổ xúy nhiều người học. Chỉ vì luật bộ chưa tinh thông nên lại tìm đến chốn kinh kỳ. Đức tin đồng như thí dụ chiếc bình, dường như truyền đăng, không bao lâu Sư đã thấu suốt luật Thập tụng và nghiên cùng các Bộ. Cuối cùng trở lại Quận Ngô, Đạo vung khắp sinh địa, người học mang lương thực tìm theo chẳng ít. Đến niên hiệu Vónh Nguyên thứ hai (năm trăm) thời Nam Tề, Sư lại đến Võ Đột, ở tại núi Pháp Hoa, nhóm họp chúng mà mở mang sự nghiệp giáo hóa. Đến lúc đức nhà Tề sắp suy sụp, Vương thất có lắm nhiễu loạn. Khắp trong nước đã đóng bế kinh tịch, đạo bị bỏ phế, Sư nhiều lần nêu cao, muốn suốt đời ở tại Võ Đột. Mãi đến lúc nhà Lương thay đổi mở mang Chánh Pháp. Hoàng hoa tiếp đến, Sư bèn đi tới chốn kinh đô, vua Võ Đế (Tiêu Diễn) xuống kính lễ vâng tu. Những người giàu sang vinh hiển, không ai chẳng cung kính. Bấy giờ, gặp lúc Thánh Tăng Bảo Chí thị tịch, an táng tại Chung Sơn, phía trước phần mộ xây dựng tháp báu. Chùa ở đó tên là Khai Thiện. Vua bèn ban sắc mời Sư ở đó. Trước kia, lúc chưa thọ giới cụ túc, Sư có gặp ngài Bảo Chí tại chùa Định Lâm thượng, bèn suy cử Sư ở trước. Ngài duỗi bày sự sùng kính, nhận biết đức vọng có chỗ quy về, thấy trước sự kết quy tốt lành. Bấy giờ, Vua Võ Đế rất tôn kính Phật giáo, khắp nơi trong cung Sư ra vào tự nhiên. Vua bảo một người mang cánh cửa chắn mặt phía Nam trong vực, bàn bạc cho rằng Pháp của vua ngồi chỉ là chỗ lên của Thiên tử, các Sa-môn không thể xen dự vào. Sư nghe thế tự nhiên đổi sắc mặt, liền vào Kim môn đến nơi Chánh điện. Ngồi xôm trên pháp tòa, cất tiếng bảo rằng: “Bần đạo xưa kia là Ngô trung Cố Lang còng chăng tủi thẹn giường Vua, huống gì mới lập lại Định Quang Kinh luân Thích Tử, nếu đàn việt muốn giết bần đạo thì nên giết ngay. Chẳng sợ không có chỗ thọ sinh. Nếu giao ở phương trên hay trong tù ngục, chẳng chướng ngại hành đạo!” Sư liền rũ áo đứng dậy. Vua bèn bỏ sắc lệnh mà vâng theo pháp tắc trước. Sư lược qua Thiên tử, đề cao Phật giáo đều đại loại như vậy. Có Bà lão miền quê, giỏi đoán tướng người, nói với Sư rằng: “Pháp sư thông minh tài biện giỏi nhất trên đời, khắp trong nước đều biết tiếng, nhưng thọ mạng không lâu dài, chỉ có thể sống đến năm ba mươi mốt tuổi thôi!” Năm đó, Sư đã hai mươi chín tuổi nghe lời nói ấy, Sư liền bỏ mọi việc giảng giải, dốc hết tinh thần tấn tu đạo nghiệp, phát thệ nguyện lớn, chân chẳng bước ra khỏi cửa. Và Sư xét tìm trong Kinh tạng, bèn có được Kinh Kim cương Bát-nhã. Sư thọ trì đọc tụng, dốc chí phụng hành. Đến chiều hôm cuối năm nguy ách, Sư dùng nước ấm thơm tắm gội, trang nghiêm tịnh thất để chờ đợi sự chết đến. Bỗng nhiên nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Này người Thiện Nam! Ông qua tuổi ba mươi mốt, đó là thời kỳ bảo tận. Nhưng do năng lực của Kinh Kim Cương Bát-nhã, nên tuổi thọ được kéo dài gấp bội!” Sau đó, Sư ra khỏi núi, thử đến chỗ Bà lão đoán tướng trước kia. Bà lão ấy kinh hãi bật dậy hỏi rằng: “Do nhân gì mà ông sống ở đời vậy? Trước kia thấy tướng mạng sống ngắn ngủi, nay hoàn toàn không còn nữa. Đối với Sa-môn tôi thật không thể đoán biết tướng!” Sư hỏi: “Vậy nay tướng thọ mạng tôi đến bao nhiêu?” Bà lão đáp: “Xem hình dung sắc tướng cốt pháp của Ngài thì tuổi thọ sẽ ngoài sáu mươi.” Sư bảo: “Người năm mươi tuổi biết được mạng đã chẳng phải là yểu, huống gì quá hơn như thế!” Sư bèn đem nguyên do nhân duyên mà nói cho Bà lão nghe, và cả hai người cùng mừng vui. Và sau này đến lúc Sư tịch, quả đúng như lời Bà lão đoán tướng nói. Do đó, các hàng đạo tục khắp xứ giang tả đua nhau trì tụng kinh ấy và có lắm điều ứng nghiệm, mãi cho đến ngày nay có những sáng tỏ lớn, thường kết cảm thông. Đến niên hiệu Đại Đồng (năm trăm ba mươi lăm-năm trăm bốn mươi bảy) vì vua Võ Đế kính trọng Tam Bảo. Danh lợi làm động hoạn mờ tối tâm, các hàng kiêu căng, tình tứ hạ đạt, tăng chính hiến cương không thi hành qua cửa. Vua Võ Đế muốn nắm lấy Tăng Quan, đảm nhận giềng mối Pháp lữ. Ban sắc chủ thư, cho phép đặt tên các danh thự. Bấy giờ các bậc thanh triết, không một ai dám chống đối, đều nép mình ném bút. Sau, sắc sớ đưa tới Sư. Sư liền cầm bút chẹt ngang đó viết rằng: “Phật Pháp như biển lớn, người phàm tục chẳng nhận biết được. Vua đọc xem đó mà không hề để ý. Đó cũng là sơ lược muôn thừa một người ở cuối đời, mà ý vua càng mạnh.” Sự việc sắp được thi hành ở đời, tuy Sư sau chưa đồng ý mà sắc chiếu của Vua đã ban trải khắp nơi. Về sau thiết bày đại hội ở điện Hoa Quang, Chư tăng tụ hội rất đông, sau đó Sư mới đến. Vua Võ Đế bảo rằng: “Xét thấy tăng ni phần nhiều chưa tụng tập. Hàng Bạch y làm Tăng Chánh chưa hiểu rõ khoa điều, nếu dùng pháp luật thế tục mà sửa trị thì thương tổn quá nặng. Đệ tử nhân ngày rãnh rỗi, muốn tự làm Bạch y Tăng Chánh, cũng y theo luật mà lập Pháp. Đây tuy là việc của Pháp sư, nhưng Đức Phật cũng lại phó chúc cho các hàng Quốc Vương. Từ trước đến giờ bàn luận với chư Tăng, mọi người đều nói là không khác, còn ý chỉ của Pháp Sư thì thế nào?” Sư bảo: “Bệ hạ muốn tham dự vào tăng sự, thật là làm người sáng tỏ Chánh Pháp. Chỉ vì tăng ni thường chẳng y cứ theo luật. Nên cúi mong Bệ hạ rũ lòng từ khoan thứ việc ấy làm sau!” Vua Võ Đế bảo: “Ý này Đệ tử đâu muốn làm khổ chúng tăng, chính vì tục ngu quá trọng, nên tự có thể y cứ luật mà xét định. Pháp sư bảo nên khoan thứ, ý ấy là thế nào? Sư đáp: “Bệ hạ thật muốn bỏ nặng theo nhẹ, chỉ vì chúng tăng trong thời mạt pháp phần nhiều đều chẳng sống đúng như luật. Nên dám xin khoan thứ!” Vua Võ Đế hỏi: “Xin hỏi Chư tăng Phạm tội, với Phật Pháp có nên sửa trị hay không?” Sư đáp: “Trộm dùng lý Phật sâu xa, giáo có thay đổi.” Ý Sư cho rằng vừa sửa trị vừa chẳng sửa trị. Vua Võ Đế bảo: “Chỉ thấy phó chúc cho các hàng Quốc vương sửa trị. Nơi nào có thuyết chẳng sửa trị ư?” Sư đáp: “Điều-đạt quen thân là việc ấy. Đức Như Lai đặt để đó chẳng sửa trị!” Vua bảo: “Ý Pháp Sư cho rằng Điều-đạt là người thế nào?” Sư đáp: “Điều-đạt mới thật chẳng thể lường biết, hễ nêu bày gốc tích thì chính là chánh muốn hiển bày giáo. Nếu không thể trị thì bậc Thánh sao dung thứ nêu bày? Còn nếu một bề sửa trị thì chúng tăng chẳng lập, và một bề chẳng sửa trị thì cũng chẳng lập.” Vua Võ Đế đổi sắc mặt tìm bảo đình chỉ sắc chiếu ban trước. Chư Tăng chấn động lo sợ cùng dẫn nhau đến thưa hỏi. Vua Võ Đế bảo: “Pháp Sư Trí Tạng là người có tâm lượng Đại Trượng Phu. Nghóa là với điều phải thì nói phải, với việc sai thì nói sai, từ ngữ rất rộng. Chẳng thể dùng hình mạng mà làm luî nhau. Còn các Pháp sư chẳng phải là bậc Trượng Phu, ý thật chẳng đồng, lời thì không khác. Vừa rồi đệ tử tranh cãi dữ dội với Pháp Sư Trí Tạng mà các Pháp Sư vẫn im lặng, không thấy vị nào giúp đỡ, đó há chẳng phải là ý bất đồng ư?” Sự việc ấy bèn được đình bỏ. Sư ra bảo với đồ chúng tùy thuộc rằng: “Quốc Vương muốn đem Phật Pháp làm trách nhiệm của mình. Đó thật là sự dụng tâm của bậc Đại só. Nhưng áo mão một nhà, con em có đến hàng chục người, chưa chắc đã vừa ý. Huống gì tăng chúng khắp năm phương lẫn lộn hỗn tập chưa dễ dàng biện minh. Chính là cần phải bỏ cái rất rộng lớn ấy. Vả lại, giới luật của Đức Như Lai truyền bá ở Thế gian. Nếu vâng dùng đầy đủ cương lý thì Tăng chánh chỉ không ích lợi mà còn tổn hại rất lắm. Thường muốn khuyên bảo bãi bỏ việc ấy, đâu có tán thành”. Hoặc có người nói: “Lý cùng cực như thế, đáng là khoan thứ muôn thừa, làm sao có thể dời đổi được? “Sư cười đáp: “Đó thật là đáng sợ, chỉ vì tôi tuổi già, dù cho phải mang tội ý chỉ a dua cũng chẳng thể sống hoài. Nhưng việc chết vốn là việc chẳng tiếc, nên an bài việc ấy.” Về sau, Pháp sư Pháp vân nói với chúng tăng rằng: “Nhà vua đối với nghóa lý chưa thể thấu hiểu sự việc trong một ngày thật đáng thẹn phục vậy!” Sau đó, không lâu, Vua Võ Đế ban sắc thỉnh mời Sư đến chùa Bành Thành, giảng Luận Thành Thật. Thính chúng có hơn ngàn vị, đều là những bậc giỏi giảng một thời, Học Quán rất vinh hạnh. Vua lại ban sắc thỉnh Sư đến Điện Tuệ Luân, giảng Kinh Bát-nhã. Vua ban sắc riêng cho ba mươi vị Đại đức cùng dự tòa. Ngài khai mở giải thích phát thú, mỗi vị có sự thanh bạch cao trội đều được soạn ký riêng, phỏng sau truyền tập. Đến mùa Xuân niên hiệu Thiên giám cuối cùng (năm trăm hai mươi) Sư xả thân Đại sám, mời nhóm các hàng Đạo tục, đều tự giảng Kinh Kim Cương Bát-nhã, lấy làm sự sám hối cùng cực. Sư chỉ giữ lại y bát, ngoài ra đều xả thí hết không để lại vật gì. Trần Quận tạ Cơ Khanh chỉ vào nơi treo y tượng mà nói đùa rằng: “Còn giữ lại một vật này là còn có ý gì ư? “Sư đáp: “Thân còn chưa hoại diệt, ý làm sao mất hết được? và vẫn có tâm mến chuộng chốn tónh lặng, gá ý nơi núi rừng!” Rồi ngài bèn trở về ở chùa Khai Thiện, nhân đó chẳng màng đến việc đời. Hoặc có lúc Vua ban sắc chiếu thỉnh, Sư bèn dâng trình khải Văn khước từ rằng: “Thưở trước đoái hoài sự tónh tâm lầm hoặc chẳng điều. Muốn nương một lời Phật dạy ở nơi không nhàn tự chế phục, theo duyên hơn hai mươi năm, còn lúc tuổi trẻ nên có thể nâng đầy đuổi gạt. Nay đã già bệnh, thân tâm đều suy giảm. Nếu lại thối lùi một mảy may đều chẳng kham với tự khoá. Nên nguyện nói chỗ tónh lắng, ít tự ồn ào, chẳng phải dám ngạo đời cầu danh,chẳng phải muốn theo nhàn tự dối. Đó là tình gần của người thường, sợ đã bức bách đường trước!” Vua lại ban sắc viết tay khuyên dụ rằng: “Cầu không tự nhàn, nương không vào tuệ, ẩn cao dưỡng thần thật là thắng lạc, chẳng trái với ba Thừa, cũng là tùy hỷ. Chỉ riêng khoảnh khắc này có thể không buồn bã. Đường khúc khỉu tặng lời được người xưa qúy trọng. Như khuyên Pháp sư thực hành Tâm vô ngại, lấy Đại Bi làm đầu, phương tiện làm lợi ích. Tùy thời dùng xả, không nên chóng dứt. Vì tâm cách ngại mà thực hành đạo Bồ-tát thì không có việc ấy!” Vua ban sắc qua lại nhiều lần và dài lâu, nhưng Sư vẫn giữ tiết tháo không sửa đổi. Vua Võ Đế sắp thọ giới Bồ-tát, ban sắc Tăng chánh điệp cho các vị Lão túc đức vọng. Bấy giờ Siêu Chánh lược điệp cho ba vị Pháp Thâm, Tuệ Ước và Trí Tạng, mà ý vua là đặt trọng nơi Sư. và bèn chọn Sư. Hoàng Thái tử rất cùng kính tiếp, sắp đặt kính lễ của Bắc diện, cung kính đi đến xe Du từ động trống kèn, mở lối, giáng tôn hạ lễ đi đến bái yết, vâng theo quy giới, mãi vì Sư truyền. Vua Võ Đế lại thỉnh Sư giảng Kinh Đại-biết Bàn ở tại chùa, đích thân nhà vua đến ngồi trước màn, viên mạng thưa hỏi, Triều Hiền thời ngạn, Đạo tục đông đầy giảng đường. Pháp hội hưng thạnh như thế từ trước chưa từng thấy nghe. Lại nữa, ở tại Bắc Các, thỉnh Sư cùng đàm luận, mọi người đều ngợi khen rằng: “Gấp bội tham dự thắng tịch, thật chưa từng có.” Sư vẫn mặc tình suy hư, thật hành bình đẳng, che khen chẳng động tâm, vinh lợi không liên can. Sư yên tọa không nhàn, nghị lực như ngọn núi đứng. Tuy thần ngụ ngưng cách mà phong vận thanh cao. Sư ứng vật miệt mài nhưng như chẳng đủ. Có thể gọi đó là vọng trông nghiêm trang tức đủ. Đó là sự biến hoá của Quân tử. Sư tự hiện ở chỗ núi non hiểm trở mà ẩn hình người đời. Lại ở phía ngoài chùa, Sư xây dựng riêng sáu ngôi nhà để tu hạnh Đầu-đà, đều sử dụng bằng các vật cỏ tranh dung-tất mà thôi. Hoàng Thái tử nghe thế nên đến xem, mỗi nơi đều có viết tặng thơ, sau đó trở về. Và ở cuối chương viết rằng: “Chẳng thể gọi là vui thích chơi bời!” Ý muốn đánh thức tâm người Sư kết tâm vượt ngoài thế tục, thường thực hành sám hối. Mỗi ngày sáu thời chí thành kính ngưỡng linh tướng. Miệng Sư thường nói: “Lý vị sâu mầu, nghó cạn châm chước tự ôm lấy nghi ngại, sợ trái với Thánh ý có nhiều hẹp hòi.” Nhân đó mà Sư tha thiết cung kính. Lệ từ đều phát. Sư thường ở qua đêm tại chùa Linh Diệu. Ban đêm thực hành dần dụng tâm, thấy có ánh sáng mầu vàng ròng soi chiếu, khắp phòng nhà đều tỏa sáng. Có người hỏi về nguyên do. Sư đáp: “Sự kỳ diệu nầy chưa thể nói được.” Sáng hôm sau, Sư thị hiện bị bệnh cho đến lúc Đại tiệm. Vua Võ Đế và Trữ Quân Trung sứ cùng trông ngóng. Bốn chúng Tăng tục suốt đêm ngày cùng tham hầu. Vua ban sắc thiết lập trai hội, tự tay soạn văn cầu nguyện. Và tiếp tục cung cấp thuốc thang, mà trời sao chẳng thay đổi, chỉ thêm chẳng bớt. Lúc sắp qua đời, ngôn từ nhan sắc Sư bình tónh, lời căn dặn chỉ chú trọng vào việc mở mang chánh Pháp. Đến ngày mười lăm tháng chín niên hiệu Phổ Thông thứ ba (năm trăm hai mươi hai) Sư thị tịch tại phòng nơi chùa Sư ở, thọ sáu mươi lăm tuổi. Vua Võ Đế ban sắc an táng tại núi Độc Long, mọi người đến tiễn đưa đông đầy đường. Bạn đồng đạo dựng lập bia, tại tháp mộ và ở trong chùa mỗi nơi có một văn bia. Tân An Thái Thú Tiêu Cơ soạn văn bia. Tương Đông Vương Dịch soạn thuật bài Minh. Thái tử trung thứ tử Trần Quận Ân quân dựng lập mộ chí. Xưa, Sư thường mộng thấy Kim Túc Như Lai vào phòng thất cùng bàn nói mà trong tay cầm hai mảy trần, trong đó một bên là vật báu trang sức, và một bên là tơ trắng. Và để lại tơ trắng ấy cho Sư. Lại nữa, Trưng Só Lư Giang Hà Dận khi ở tại Hổ Khâu thuộc Quận Ngô gặp một vị Thần Tăng ôm một hòm sách bảo rằng: “có người gởi”. Nói xong chỉ khoảnh khắc liền biến mất. Đến lúc mở hòm sách ra xem đều chẳng biết văn từ trong đó viết điều gì. Sau đó mới đem hỏi một vị tăng đời Ngụy. Vị tăng ấy bảo: “Đó là hai trang khoảng giữa của Luận Đại Trang Nghiêm”. Người đương thời đều cho đó là chỗ đến của Sư. Lại nữa, tội của Lưu Hỗn ở Bành Thành đáng phải bị giết chết. Khi đó, Sư đang cùng Vua Võ Đế ở tại nhà sau bàn luận về nghóa bốn thứ bình đẳng. Bên ngoài tấu trình vào. Vua bảo: “Nay vì việc nước, chẳng được nói nghóa Tứ Đẳng là tại sao?” Sư bảo: “Lời nói và việc làm phải nương căn cơ. nay có phát mà chẳng trúng. Mất ở người nào. Nêu nghóa của bốn thứ bình đẳng chẳng nhọc lập bày.” Vua bèn bỏ qua chẳng hỏi, cuối cùng vì thế mà Lưu Hỗn được thoát khỏi. Nhà họ Lưu cũng chẳng hề hiểu biết nguyên do. Sư ngầm làm điều lợi ích cứu độ khắp cùng, có lắm việc như thế. Sư giảng các bộ kinh luận như Đại phẩm, Tiểu Phẩm, Niết-bàn, Bát-nhã, Pháp Hoa, Thập Địa, Kim Quang Minh, Thành Thật, Bách Luận, luận A-tỳ-đàm Tâm v.v.. mỗi tác phẩm đều có soạn nghóa sớ lưu Hành ở đời. <篇> <卷>QUYỂN 6 CHƯƠNG II - PHẦN 2: GIẢI NGHÓA vị) (Trong phần hai của Chương II, Chánh truyện có 21 vị, phụ có 16 1/- Tuyện Sa-môn Thích Tuệ Siêu, Đại Tăng Chánh chùa Nam Giản đời Nam Lương. 2/- Truyện Sa-môn Trí Giả Thích Tuệ Ước, Quốc Sư chùa Thảo Đường thời Nam Lương 3/- Truyện Sa-môn Thích Đàm Loan trụ chùa Huyền Trung ở động Thạch Bích thuộc Hà Tây, thời Đông Ngụy. 4/- Truyện Sa-môn Thích Tuệ Thiều trụ chùa Long Uyên ở Thục Quận, thời Nam Lương 5/- Truyện Sa-môn Thích Tuệ Kiểu trụ chùa Gia Tường ở Cối Kê, thời Nam Lương 6/- Truyện Sa-môn Thích Đạo Biện ở Lạc Dương, thời Nguyên Ngụy,(Đàm Vónh, Vong Danh) 7/- Truyện Sa-môn Thích Đạo Đăng trụ chùa Báo Đức ở Hằng Châu, thời Bắc Ngụy 8/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Mật trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô, thời Nam Lương 9/- Truyện Sa-môn Thích Đàm Chuẩn trụ chùa Tương cung ở Dương Đô, thời Nam Lương (Trí Thâm) 1 0/- Truyện Sa-môn Thích Đạo Siêu trụ chùa Linh Cơ ở Dương Đô, thời Nam Lương (Tuệ An) 1 1/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Kiều trụ chùa Long Quang ở Dương Đô, thời Nam Lương (Tuệ Sinh, Tăng Chỉnh, Bảo Uyên, Tuệ Tế, Tuệ Thiệu) 1 2/- Truyện Sa-môn Thích Tuệ Khai trụ chùa Bành Thành ở Dương Đô, thời Nam Lương (Đàm Tuấn, Tuệ Văn) 1 3/- Truyện Sa-môn Thích Minh Triệt trụ chùa Kiến Sơ ở Dương Đô, thời Nam Lương 1 4/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Khai trụ chùa Tây ở Dư Hàng thời Nam Lương 1 5/- Truyện Sa-môn Thích Đạo Tông trụ chùa Ngõa Quan ở Dương Đô, thời Nam Lương (Pháp Sưởng) 1 6/- Truyện Sa-môn Thích Pháp Trinh trụ chùa Quảng Đức ở Lạc Hạ, thời Bắc Ngụy (Tăng Kiến, Tuệ Thông, Đạo Tịch) 1 7/- Truyện Sa-môn Thích Bảo Uyên trụ chùa La Thiên cung ở Ích Châu, thời Nam Lương (Pháp Văn, Pháp Độ, Pháp Hộ, Bổn Quyết). 1 8/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Tuân trụ chùa Trị Thành ở Dương Đô, thời Nam Lương (Đạo Toại, Đạo Tiêu) 1 9/- Truyện Sa-môn Thích Tuệ Siêu trụ chùa Linh Căn ở Dương Đô, thời Nam Lương 2 0/- Truyện Sa-môn Thích Chân Ngọc trụ chùa Thiên Bình ở Ng- hiệp Trung, thời Bắc Tề 2 1/- Truyện Sa-môn Thích Tăng Thiên, Đại Tăng Chánh ở Kinh châu, thời Hậu Lương. 1/- Truyện Sa-môn Thích Tuệ Siêu; Đại Tăng Chánh ở chùa Nam Giản. Thích Tuệ Siêu, họ Liêm, người ở xứ Bình Dương, thuộc Quận Triệu. Lúc ở Trung Nguyên bị loạn lạc, gia đình Sư lánh nạn nên dời đến ở huyện Triêu Kha thuộc Chung Ly. Đêm mới sinh Sư có ánh sáng Thần soi chiếu khắp phòng nhà, còn bé mà Sư đã sống đơn giản ít muốn, đã có điềm tướng thành người. Năm tám tuổi, Sư xuất gia, nương Sa-môn Tuệ Thông chùa Kiến An ở huyện Lâm Truy. Ngài Tuệ Thông vốn không có nghiệp thuật, chỉ lập hạnh chất phác. Sư chỉ giữ tâm ngay thẳng thuận theo vâng kính không biếng trễ, ngoài thì lắng nghe các Pháp sư giảng dạy, trong chuyên tinh học nghiệp. Bấy giờ, gặp lúc mưa gió khó khăn, đường xá lầy lội nghẽn tắt, Sư chẳng vì thế mà từ nan. Thường ngụ tại tòa có một vị Phạm Tăng, bởi người không thể lường biết được nên vừa trông thấy. Liền ngợi khen Sư một cách lạ lùng rằng: “Người này (Tuệ Siêu) nếu chẳng làm bậc tài giỏi của năm chúng đệ tử Phật thì sẽ làm Thứ sử trong tám châu!” Gần với điềm phát ánh sáng thần lúc mới sinh thật là khế hợp. Sư bèn tìm tòi nghiên cứu các bộ kinh cho đến Số luận, thảy đều thấu suốt nghóa lý sâu mầu, sáng tỏ như xâu chuỗi có nhiều hạt. Các bậc danh tăng ưu thắng nhóm họp rất đông khắp tòa. Sư lăng xăng nép phục, ung dung theo khuôn phép, nên sớm vì các hàng tăng tục mà đúc nắn khuôn phép cao đẹp. Sau, Sư vân đu theo hướng Nam, đến Giang tả, dừng ở chùa Nam Giản. Sa-môn Tăng Tông trông thấy lấy làm vui thích, thọ nhận các kinh Lược Bàn v.v.. khai giá điều tự, lược thông đến chỗ sâu mầu. Ngài tham duyệt qua các Pháp sư, có lắm chỗ tham cứu liên quan, nhưng Sư chỉ lấy Kinh Vô Lượng Thọ làm gia nghiệp. Lại Bộ Tạ có khen ngợi Sư rằng: “Người này thật đáng bậc Quân tử!” Sư lại khéo sử dụng bài hài (lối hát phường chèo), rất có kỷ năng về lỗi chữ Thảo, chữ Lệ, kiêm tập rành Chu hứa, lại giỏi việc xem tướng. Từ khi trang sử nhà Tề xếp lại, Nhà Nam Lương bắt đầu lên ngôi (năm trăm lẻ hai). Sư thị hiện bị bịnh ở Tân lâm, tình còn muốn cứu vớt chúng sinh đắm chìm, khoảng thời gian tín thứ, tiếng tăm Sư vang vọng khắp nơi. Bỗng nhiên có biệt sắc mới trao Sư chức Tăng Chánh. Sư trong tu giới đức, Sư oai nghi sáng sạch. Các hàng tăng chúng đều vâng thọ dạy răn. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) ban cấp truyền Chiếu, Xe Dê Cục túc Kiện bộ y phục v.v… cúng dường Sư. Từ lúc Thanh giáo tỏa khắp, năm bộ hiến chương đều ảnh hưởng phong hóa, Vua lấy nghóa Bát-nhã làm chỗ y cứ của Chân Đế, riêng bảo Sư mở mang dẫn dắt, dò hỏi chất vấn, Sư bèn sắc biện giải như dòng chảy. Sư lại nhóm họp đồ chúng, giảng nghóa tâm Bồ-đề. Những lúc rảnh rỗi bàn luận đến nữa đêm chưa nghỉ. Bỗng nhiên Sư thấy vị thiện thần có sức lực mạnh mẽ, thân tướng rất cao đẹp, nói với Sư rằng: “Sẽ nhóm họp những người cùng duyên cùng đến hưởng thọ!” Chẳng nói rõ tên tuổi, và ngay lúc ấy liền cáo từ. Đến sáng sớm, Sư lên giảng đường chợt trông thấy khắp tòa đều là những dung mạo xinh đẹp khác lạ, chẳng có ai biết. Đến lúc giảng xong thì tan. Sư có các gốc tích cảm kích khác lạ như thế. Thêm nữa, tánh Sư rất ưa thích chốn núi non rất u tầm, tiếng tăm vang xa đến vài dặm. Người ở trong núi lấy làm lạ trông nhìn thì chỉ thấy thân Sư. Những người sống nghề săn bắn thảy đều bỏ nghề. Vào niên hiệu Thiên giám (năm trăm lẻ hai-năm trăm hai mươi) thời Nam Lương, Vua Võ Đế thỉnh Sư làm Gia tăng, lễ hỏi rất đặc biệt. Ban đầu, giới điển mới đến Đông Độ (Trung Hoa), người mỗi tự truyền thọ nên sự nhận biết có sự thiên chấp. Pháp mầu còn hữu lậu. Khi Vua Võ Đế lên ngôi bèn them cứu các kinh. Viên đàn lại tạo văn nghóa dẫn dắt. Các sự loại nhân quả từ đó được ghi chép sáng tỏ. Vua có ban chiếu bảo Sư thọ giới Bồ-tát. Sư bèn cung kính đảnh lễ đúng như Pháp mà siêng năng tu tập. Vua Võ Đế lại thiết trai ở Tuyên thất, mộng thấy Sư siêng năng hành trì giới phẩm, đích thân vua ra mắt khen ngợi mừng vui. Bấy giờ, cùng thỉnh mời tốt đẹp, mà Sư bảo nhún nhường giấu lễ ưa thích tónh lặng dốc lòng chăm học. Theo Sư đến các nơi, chưa từng tỏ dáng vẻ vui buồn. Thêm nữa, thân Sư cao hơn tám thước, eo mang mười vi, ung dung cao bước, tiếng tăm vang vọng đương thời. Vua Võ Đế lại thỉnh Sư đến điện Tuệ Luân giảng Kinh Tịnh Danh, Vua đích thân đến nghe. Sau cùng mở tại chùa Trang Nghiêm, vườn nối liền với chùa Nam Giản, nhân đó xây dựng nhiều lớp phòng, như lân đuổi kịp nhau. Gác cao to lớn, tuôn rải mây móc, đào thông ao ngọc bích để trồng sen nuôi cá, đắp tạo núi xanh để cho các loài chim nương ở. Bày trồng tre trúc cây trái khắp bốn phía tỏa bóng râm, cây chim đá thú giao nhau ngang dọc ra vào. Lại liệt bày trẻ nhỏ đứng hầu, xinh đẹp hơn Vương Hầu, phân quyết các tình. Bấy giờ, tiếng tăm Sư vang xa, Sư ở đó hơn hai mươi năm. Về sau, vì Lăng cốc cùng đổi dời, tướng đời khó nương cậy. Do đó, Sư tự mở khỏi, đóng cửa dưỡng tánh. Đến ngày mười sáu tháng năm niên hiệu Phổ Thông thứ bảy (năm trăm hai mươi sáu), Sư thị tịch tại phòng Sư ở. Đường đi rơi lệ, người học đua nhau tìm đến. mọi Tất cả mọi việc trong lễ tang đều xuất từ Thiên phủ. Môn nhân Đệ tử nghó tưởng ân đức đượm nhuần, bèn cùng nhau xây dựng văn bia. Tương Đông Vương Dịch, Trần Quận Tạ Cơ Khanh mỗi người đều soạn lời văn nơi tháp mộ thờ Sư. 2/- Truyện ngài Thích Tuệ Ước ở chùa Thảo Đường. Thích Tuệ Ước, tự là Đức Tố, họ Lưu, người ở xứ Ô Tràng thuộc Đông Dương. Đời ông nội Sư nối liền với Đông Nam Quán tộc. Có ngươi chiêm đoán phần mộ ấy mà bảo rằng: “Đời sau sẽ có người tu hành khổ hạnh đắc đạo, làm nơi quy hướng của các vị Đế Vương!” Mẹ của Sư họ Lưu, mộng thấy một người cao lớn cầm pho tượng bằng vàng trao cho Sư và bảo nuốt, lại thấy ánh sáng mầu tím nhiễu quanh thân, nhân đó mà mang thai Sư. Bèn cảm thấy tinh thần sảng khoái, tư lý tỏ ngộ. Đến lúc sinh Sư, có ánh sáng mùi hương tỏa khắp, thân hình Sư trắng như tuyết. Người đương thời nhân đó đặt tên Sư là Linh Sán. Sư có phong cách đơn giản, thần chí yên tónh, bất động. Đến tuổi phủi bụi, Sư khác những đứa trẻ thường, chỉ nhóm cát làm tháp Phật, chất đá làm tòa cao. Năm bảy tuổi, Sư bèn cầu xin vào học, và liền đọc tụng Hiếu Kinh luận ngữ. Cho đến các bộ sử truyện, mở văn liền thấy ý. Ở phía Nam nhà Sư có vườn cây trái, những đứa trẻ ở gần đua nhau tìm hái nên thường xảy ra tai nạn. Sư bèn xả bỏ những trái cây mà mình có được, chỉ phủi tay không mà trở về. Dân chúng trong xóm sống bằng nghề tơ tằm. Sư thường có tâm buồn thương, do đó mà không chịu mặc các thứ tơ lụa. Sư có người chú ruột ưa thích sống với nghề săn bắn, Sư cố chuyển hóa mà chẳng đổi nghề. Sư thường than rằng: “Tất cả các loài vật bay chạy cách người rất xa, nhưng ham sống sợ chết, tình cảm ấy đâu khác nhau!” Ngài dứt bỏ không ăn các vật máu thịt tanh nồng. Người chú của Sư bèn lánh đến ở làng khác tiếp tục việc săn bắn. Bỗng mộng thấy một người sứ mặc áo đỏ, tay nắm mâu Kích, bảo rằng: “Ông suốt ngày giết hại sinh mạng, được Bồ-tát giáo hóa mà chẳng chịu bỏ nghề.” Bèn bắt đến chết, tới lúc tỉnh dậy khắp mình toát mồ hôi. Sáng hôm sau bèn hủy bỏ các dụng cụ săn bắn, sửa đổi lỗi lầm khi xưa. Sư lại đến nơi chú Sư thường săn bắn, thấy có vài con Hươu nai nhảy nhót chạy theo Sư như tỏ vẻ cảm tạ. Tại chỗ Sư ở nhỏ hẹp, phía trái không thấy chùa, gia đình Sư vốn theo đạo Hoàng Lão, chưa từng nghe tới Phật pháp. Mà Sư đã sớm tập minh cảm, có tâm lìa tục. Bỗng gặp một vị tăng, Sư bèn hỏi về chí giáo. Vị tăng ấy bèn đưa tay chỉ về hướng Đông mà bảo rằng: “Trong đất Diệm, Phật sự rất hưng thạnh!” Liền đó không còn thấy vị tăng ấy, Sư mới biết đó là vị thần. Năm mười hai tuổi, Sư mới tìm đến đất Điện, đãnh lễ khắp các tháp miếu, phóng ý rão cùng núi sông. Xa gặp được Tổ tâm, Sư thường nghiên tầm về kinh điển. Nên tại Đông Cảnh (đất Diệu) có lời đồn rằng: “Với tuổi thiếu thời mà khéo thấu đạt lý mầu, ấy là Cư só họ Lâu!” Đến niên hiệu Thái Thỉ thứ tư (bốn trăm sáu mươi tám) thời Tiền Tống, Sư đến chùa Đông Sơn ở Thượng Ngô, từ giã cha mẹ xuống tóc xuất gia, lúc đó, Sư mười bảy tuổi. Sư kính thờ sa-môn Tuệ Tónh chùa Nam Lâm. Ngài Tuệ Tónh đứng đầu trong các vị tăng vọng thời Tiền Tống. Luật hạnh đều giữ gìn. Là nơi trọng vọng của Đặc tấn ngạn Diên niên Tư Không Hà Thượng Chi. Sư theo thầy Tuệ Tónh trụ chùa Phạm Cư ở đất Diệm, Sư siêng năng hầu hạ được hơn bốn năm. Đến lúc ngài Tuệ Tónh thị tịch, Sư hết lòng giữ lễ chịu tăng. Sau khi mãn tang, Sư bèn bỏ ăn cơm cháo, chỉ dùng bột cây thông củ truật, dứt hết tật bệnh, kéo dài tuổi thọ, rất có thành ích. Tề cánh Lăng Vương đang trấn giữ tại Võ Đột, nghe Đạo phong đức hạnh của Sư cũng ngợi khen chúc tụng. Bấy giờ, có các Sa-môn Thích TRí Tú, Thích Đàm Tiêm, Thích Tuệ Thứ, v.v.. đều là những bậc danh trọng ở đương thời, đều nhóm họp nơi vương tọa, còn Sư đã đến sau, lại tuổi tác chưa lớn, mà Cảnh Lăng Vương cũng hết lòng tận kính. Mọi người đều có tâm tỏ vẻ chẳng vui. Tánh Lăng Vương nói rằng: “Thượng nhân (tức chỉ ngài Tuệ ước) đây mới là bậc Lãnh tụ trong họ Thích. Há ngày nay mà tiếp đãi bình thường ư?” Nên Sư tuy trẻ tuổi mà được mến qúy tên sùng ưu đãi hơn đến như thế. Tề Trung Thư Lạng Nhữ Nam Chu Ngung làm Diệm Lịnh, rất tôn trọng kính phục đạo tố nên đến bên cạnh pháp tịch mà làm lễ. Ở nơi Quán xưa của Lôi Thứ Tông ở Chung Sơn, xây dựng chùa Thảo Đường, cũng lấy hiệu là Sơn Tỳ. Sư đến trông coi sóc việc chùa. Chùa ấy kết Vũ sơn tiêu xung quanh mát mẻ. Tuy ấp ở chẳng xa mà tiêu điều ngoài vật, đã âm thầm tưởng thưởng sự chân thành, cho nên suốt đời mương gá. Chu ngung khen ngợi rằng: “Sơn Tỳ mà Ngài Tuệ ước đến thì thạnh váng trọn đời!” Tề Thái Tể Văn giản Công Trữ Uyên, Thái Uùy Văn Hiến Công Vương Kiệm giúp mạng một thời mà công cao trăm đời. Khâm phục Đạo phong, thường mùi vị Đạo mà cùng mở mang Pháp giáo. Trữ Uyên thường thỉnh Sư giảng các Kinh Tịnh Danh, Thắng-man, Vương Kiệm cũng thỉnh Sư mở giảng các Kinh Pháp Hoa, Đại Phẩm. Trữ Uyên bị bệnh ngủ ngày, thấy vị Phạm tăng bảo rằng: “Bồ-tát đang đến, sau đó có Đạo nhân cùng đến”. Trong giây lát thì Sư đến và bèn tự nhiên lành bệnh. Trữ Uyên liền cầu thỉnh xin thọ năm giới. Tề Cấp Sự Trung Lâu Ấu Du; thưở thiếu thời có tộc tổ học thuật với Sư. Mỗi lúc thấy Sư liền hướng về các lễ, có người hỏi rằng: “Vị này là người thuộc hàng dưới trong giòng tộc. Sao ông lại cung kính như thế?” Lâu Ấu Dụ đáp rằng: “Bồ-tát xuất thế là bậc thầy khắp Thiên hại, đâu chỉ lão phu kính lễ mà thôi!” Người đương thời không ai hiểu được ý chỉ ấy, chỉ có Vương Văn Hiến rất hiểu. Vã lại, tâm hiếu hạnh của Sư thầm thông minh cảm, nghó trở về rất nhanh mà cha mẹ của Sư đã qua đời. Sư như đứa trẻ nhổ khóc, chẳng sánh như người đời. Sư dừng ở tại quê hương một thời gian để mở mang Từ đạo. Sau, Sư lại đến thành đô, trụ chùa Thảo Đường. Thiếu Phó Thẩm Ước, với chức Long Xương Trung ngoại nhậm dẫn Sư cùng đi. Tại quận chỉ lấy sự tónh lặng tự vui, thiền trọng làm thú. Có mùi hương thơm khác lạ bay vào phòng thất, thú dữ dần dần thuần thục đi quanh. Sư thường vào núi Kim Hoa lượm hái củi khô, hoặc dừng bên khe suối thông đỏ thưởng ngoạn. Bấy giờ, gặp Túc hỏa chợt thuộc Thần quang, khuôn phép khác thường chẳng nghó, nên lược qua việc ấy. Có Đạo Só Định Đức Tónh ở tại Quán bỗng nhiên bị chết, truyền rằng đó là do Sơn tinh làm hại mới cần có Đại trị cúng rượu ở đó. Yêu quái vẫn còn đông đảo. Trưỡng Sơn Lệnh Từ Bá Siêu lập nghi thỉnh Sư dời đến ở, chưa được mười ngày mà mọi thứ thần mî đều dứt mất. sau, đang lúc nằm nghỉ ban ngày, Sư thấy có hai người nữ mặc áo xanh từ khe suối đi ra đãnh lễ sám hối rằng: “Chúng con vì nghiệp chướng xưa trước sâu nặng nên đọa làm loài Thủy tinh ở đây, đêm ngày gây ra phiền não. Nay cầu xin ngài trao cho giới pháp!” Từ đó, các thứ tai quái đều dứt bặt. Mãi đến lúc Thẩm Ước thôi việc tại quận, cùng dẫn Sư ra thành đô trở về ở chùa cũ (chùa Thảo Đường) mọi sự cung cầu lễ kính càng lớn hơn. Văn Chương qua lại nối nhau, vì Thẩm ước rất thạnh từ tảo, tài giỏi ở đương thời. Đến Quan tới chức đồng như ở Phủ Xá, dẫn ý qua lại không hề vì cửa son mà ngăn cách. Vào niên hiệu Kiến Võ (bốn trăm chín mươi bốn-bốn trăm chín mươi tám) thời Nam Tề. Sư nói cùng Thẩm ước rằng: “Ngày trước, bần đạo vì hai Ông Trữ Uyên và Vương Kiệm cúng dường nên bèn ở tỉnh của lệnh bộc. Đàn việt vì đó sẽ lại nhập địa!” Đến niên hiệu Thiên Giám thứ nhất (năm trăm lẻ hai) thời Nam Lương, Thẩm Ước làm Thượng Thư Bộc Xạ, có khải sắc mời vảo tỉnh trụ. Được mười một năm, đến Đan dương duẫn, không sao khen ngợi, có sinh than thở Sư báo rằng: “Đàn việt phước báo đã hết, bần đạo chưa được diệt độ!” Nói năng ngôn từ ý chỉ rất thương xót. Không bao lâu Thẩm ước qua đời, nên Sư dự khế chưa vậy, nên đều đồng như thế. Thế rồi, Sư lưu tâm các Kinh Phương đẳng, nghiên cứu tinh nghóa trong chín Bộ, đều chứa nhóm trong rương hòm, ôm ấp trong lòng ngực, nói bày mở mang, đáng nhân chẳng nhường. Khó nhọc cấp dẫn, ích lợi chúng sinh. Hoàng Đế kỳ điêu Văn Phác, tin đạo Vô vi, phát tâm Bồ-đề. Xây dựng Điện Trùng Vân. Về giới nghiệp tinh vi công đức sâu rộng. Đã là gốc của muôn điều lành, thật cũng là đứng đầu các hạnh. Thí như biển cả, lớn trong của trăm sông, Núi Tu-di là tối cao trong các núi. Ba quả bốn Hướng duyên theo đó mà thành. Mười lực ba minh nhân đó mà lập. Vua (Võ Đế) bèn góp nhặt rộng sâu khắp các kinh giáo, soạn lập giới phẩm, Điều Chương nêu hết, nghi thức đủ bày. Chế tạo viên đàn để làm sáng tỏ Quả Cực. Vả lại, Đế Hoàng có thầy Thần, Đại Thánh có thầy bạn. Từ xưa đến nay, Đạo ấy không hề suy phế. Thần Nông, Hiên Viên, Chu Khổng đề cao nhân nghóa. Huống gì Lý vượt ngoài trời người, Nghóa Siêu quá danh khí. Vua cho rằng Sư đức cao hơn người đời, đạo thấy khắp u hiển. Đáng nên suy tôn địa vị Xà-lê, chúc tụng hiệu đáng là Trí Giả. Sư thùi thụt thối nhượng, tình còn cố chấp, Vua ân cần khuyên thỉnh, nên Sư khước từ không được. Niên hiệu Thiên giám thứ mười một (năm trăm mười hai) Vua Võ Đế bèn ban sắc dẫn kiến. Sự hợp với tâm hoài mong, Đạo vẫn còn với mục đích. Từ đó, Sư tới lui nơi cấm tỉnh, Vua lễ kính cúng dường ưu trọng. Đến ngày mồng tám tháng tư năm Kỷ Hợi, nhằm niên hiệu Thiên giám thứ mười tám (Nếu năm Kỷ Hợi thì là bốn trăm năm mươi chín – tức niên hiệu Thiên giám thứ tám, còn niên hiệu Thiên Giám mười tám thì phải là năm Kỷ Dậu bốn trăm sáu mươi chín mới đúng). Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) phát tâm Bồ-đề, thọ giới Bồ-tát Sư mới đến điện Đẳng Giác, giáng điều ngọc liễn, rất tôn của muôn thừ, bày kính ở tại Tam, tạm lấp suy phục, cung kính thọ y phước điền, tuyên độ Tịnh nghi. Vua rất kính cẩn trang nghiêm. Bấy giờ, nhật nguyệt trong lành xinh đẹp, đất trời mở rộng sáng trong. Vua đại xá khắp thiên hạ, khắp nước nhà cùng mừng vui. Từ đó, Sư vào thiết riêng, Vua làm lễ trước, sau mới đến ngồi. Từ Hoàng Trữ trở xuống cho đến Vương Cơ, các hàng Đạo tục só thứ đều mong độ thoát. Đệ tử có ghi chép của Sư có đến tám mươi bốn ngàn vị. thường những lúc Sư truyền giới, có một con chim càn thước, lần lượt theo từng thềm bậc mà nhảy lên, dáng vẻ như muốn thọ giới. Mãi đến lúc Sư thuyết giới xong, sau đó chim mới bay đi. Lại thường những lúc Sư thuật giới, có hai con chim công tìm đến, ruồng đuổi vẫn không đi, Sư bèn bảo để cho nó đến. Nó từ từ đi đến chỗ đàn, ngoảnh cổ nghe pháp. Vua Võ Đế bảo: hai con chim này chắc chắn muốn diệt độ, sẽ thọ quả báo khác!” Sư ngợi khen sự chí thành của chim, nên lại nói pháp cho nó nghe. Sau đó vài ngày, hai con chim tự nhiên đều chết. Lại nữa, lúc đầu Sư trao truyền giới, ban đêm nằm mộng thấy từ chùa Thảo Đường trải lụa thẳng đến đài Môn, tự ngài trên giường thiền cách đất khoảng mấy trượng, có trời người vây quanh, Sư nói pháp cho chúng nghe. Do việc ấy mà rõ đồng với mộng đến Hoa Tư của vua Hoàng Đế, như thần thông lên cung trời Đâu-suất của Ngài Mục-Kiều- Liên. Mọi sự đi ở của các bậc chí nhân, ai có thể bàn luận được? Sư ưa thích vui sống nhàn tónh, hoa tốt lành, thất rỗng rang. Bên cạnh chùa nương gá đều sinh Từ Đạo nên khiến các loài hươu nai, quây quần cùng với cọp beo, chim Cưu, Chim Vụ, thuần quen với chim ưng, chim chiên. Bay chạy nhảy núp tự cùng thuần thục. Nếu chẳng phải đức nhân đượm nhuần hóa thì ai có thể được như vậy ư? Sau, Sư đang tónh cư nơi nhàn thất, bỗng có một Bà lão người miền quê mang mấy quyển sách đặt trên án kinh của Sư, không nói gì mà đi ra, rồi mang đến một cây khác lạ trồng ở sân, nói đó là cây Thanh Đình. Sư bảo: “Sách ấy có tốt chăng? Đợi ta xem đọc, nếu nó không được tốt thì cũng chẳng nhọc xem. Qua bảy ngày sau, lại thấy một ông lão đến thỉnh sách mà đi. Cây ấy lá xanh, hoa hồng, đài hoa vẫn còn. Sư lại ứng cảm có loài chim lạ, thân mầu đỏ, đuôi dài, hình dáng như Phỉ Thúy, cùng đến nương tựa ngủ nghỉ nơi lầu, vào ra nơi cây ấy. Đến niên hiệu Đại Thông thứ tư (năm trăm ba mươi hai) Sư mộng thấy ngôi nhà cũ vách tường mầu trắng, cửa mầu đỏ, ngời sáng tráng lệ tự nhiên. Sư bèn phát nguyện xây dựng chùa. Vua Võ Đế ban chiếu gọi đó là Bổn sinh. Đến niên hiệu Đại Đồng thứ nhất (năm trăm ba mươi lăm), Vua Võ Đế lại ban sắc chiếu đổi tên làng Sư ở là làng Trúc sơn thành làng Trí Giả. Tấn Vân cựu nhượng truyền phương đồ điệp. Núi sông linh dị, đổi thay khác lạ. Đất phước làng tiên tự nhiên thành lập mà Sư chỉ ăn dùng bột củ tùng củ truật hơn ba mươi năm, dùng vải gai xấu may áo mặc hơn bảy mươi năm, Minh Khiêm lập tiết tháo, chuyên cao vọng ở đương thời. Đến tháng tám niên hiệu Đại Đồng thứ nhất (năm trăm ba mươi lăm), Sư bảo người đốn chặt cây cành ngoài cửa, và bảo là “ Kiệu giá sẽ đến, chớ để tắt nghẽn đường đi”, mọi người chưa lường biết được việc gì. Tới ngày mồng sáu tháng chín, Sư thị hiện bị bệnh, xoay đầu về hướng Bắc, nằm nghiêng về phía hông bên phải. Thần thức Sư vẫn điềm nhiên, không hề tỏ vẻ đau khổ. Sư bảo với đệ tử rằng: “Ta mộng thấy bốn Bộ Đại chúng cầm nắm phướn hoa, sắp bày giữa hư không đến đón rước ta, cưỡi mây mà đi, phước báo ta đã sắp hết! “ Đến ngày mười sáu, Vua Võ Đế ban sắc sai xá nhân Từ nghiễm đến thăm bệnh Sư. Sư bảo: “Đêm nay ta sẽ đi!” Đến canh năm, Sư lại nói hai lần, có mùi thơm lạ thoảng khắp phòng nhà, mọi người chung quanh đều cung kính. Sư bèn bảo rằng: “Hễ sống thì có chết, ấy là số thường, phải siêng năng tu tập niệm tuệ, chớ khởi loạn tưởng!” Nói xong, Sư bèn chắp tay nhập Niết-bàn, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. Vua Võ Đế đến viếng điếu buồn thương than khóc. Các hàng quan liêu, tể phụ thôi nghỉ xem nghe, trong hai tuần có một. Đến ngày hai mươi chín tháng chín, an táng ở phía bên trái tháp mộ của Thần Tăng Bảo Chí tại núi Độc Long. Lúc đầu, khi Sư mới thị hiện Bệnh, thấy một ông lão chống gậy đi vào, và ngày thị tịch Chư tăng đều đoán là sườn núi phía Đông của chùa. Vua Võ Đế bèn đổi an táng tại Độc Long, nghó về ông lão thấy trước thì đó là Chí Công cùng đến đón rước! Đến đêm Sư thị tịch, con trâu xanh thường cưỡi”. Bỗng nhiên gào rống tuôn lệ thành dòng. Đến ngày an táng, Vua Võ Đế ban sắc dẫn theo bộ ngũ phát xuất từ chùa đến núi, nó gào rống tuôn lệ chẳng dứt. Lại nữa, lúc mới xây tháp, có con hạc trắng bay đến nhiễu quanh nơi phần mộ, rơi lệ kêu thương vang tiếng buồn thảm. Sau khi an táng được ba ngày, nó chợt bay đi thẳng. Vua Võ Đế ban sắc dựng lập Bia phía bên trái tháp mộ, ban chiếu cho Vương Quân soạn văn bia. 3/- Truyện ngài Thích Đàm Loan trụ chùa Huyền Trung ở động Thạch Bích. Thích Đàm Loan, không rõ Sư họ gì, Người ở xứ Nhạn Môn, gia đình Sư ở gần núi Ngũ Đài. Sư có Thần tích linh quái, vượt cả sự thấy nghe của người đương thời, bấy giờ chưa là Chí học, Sư bèn đến tìm, đi trông xem khắp các di tích, tâm thần Sư bèn vui vẻ, liền đó xuất gia. Với các thứ kinh sách nội ngoại giáo điển, Sư đều tôi luyện đầy đủ văn lý. Đối với bốn bộ luận về Phật tánh, cũng là chỗ nghiên cứu đến cùng. Sư đọc Kinh Đại Tập, buồn vì kinh ấy văn từ nghóa lý sâu mầu khó lấy làm tỏ ngộ. Nhân đó, Sư chú giải, văn ngôn được hơn nửa bộ, thì bị bệnh khí, Sư tạm dừng bút, rão đi khắp nơi tìm cầu phương thuốc để trị liệu. Sư đi đến thành cũ Tần Lăng ở Phân Châu, vào cửa phía đông thành, ngửa mặt nhìn trời xanh, bỗng thấy cửa trời mở rộng sáu từng trời cõi Dục giai vị trên dưới chập chồng, rõ ràng Sư trông thấy cả, do đó bệnh lành. Sư muốn tiếp tục làm công việc trước. Song, ngoái nhìn lại mà nói rằng: “Mạng sống thật mỏng manh chẳng nhất định được thường còn, bản thảo các kinh đều nói rõ về con đường đúng. Những bậc thần tiên tuổi lớn luôn luôn xuất hiện, chỗ tâm nguyện là chỉ tu tập pháp ấy. Khi đã gặt hái thành quả mới trở lại tôn kính Phật giáo, ấy cũng chẳng tốt lành ư?” Sư kế thừa phương thuật mà Đào Aån Cư ở Giang Nam quy kết truyền bá rộng khắp Thiệm-bộ, cả nước đều tôn sùng kính trọng, Sư bèn đến học theo. Khi đã đến triều Lương, bấy giờ khoảng niên hiệu Đại Thông (năm trăm hai mươi bảy-năm trăm hai mươi chín), Sư được gọi bằng tên chung là “Lỗ Tăng Đàm Loan ở nước Bắc nên đến vâng phụng tham yết.” Khi đó, quan sở ty nghi ngờ là gián điệp, bèn khám xét, không thấy có văn từ gì khác, nên đem sự việc ấy tấu trình. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) bảo: “Người ấy (tức chỉ Đàm Loan) chẳng phải dòm ngó nước nhà, hãy dẫn vào điện Trùng Vân.” Sư bèn theo Thiên Mê Đạo. Lúc đầu Vua Võ Đế ở nơi góc điện ngồi trên giường dây, mặc áo ca-sa, quấn khăn nạp. Sư đến trước điện, ngoái nhìn mà không người vâng thừa đối tiếp. Thấy có bày một tòa cao, Sư bèn lên ngồi yên trên ghế chánh ở trong điện, bên cạnh không có tòa nào khác, Sư đến và lên đó, dựng lập nghóa Phật tánh, ba lần bảo vua rằng: “Đại Đàn Việt! Nghóa Phật tánh sâu mầu, lược đã nêu bày đầu mối. Nếu có gì thắc mắc cứ hỏi.” Vua Võ Đế cởi bỏ áo nạp, bèn thưa hỏi qua lại vài điểm then chốt, nhân đó nói rằng: “Từ bây giờ đến xế chiều phải gặp nhau.” Sư liền từ tòa bước xuống, ra thẳng phía trước, cật Khúc trùng đạp hơn hai mươi cửa mà không một cửa nào lầm. Vua Võ Đế rất mực ngợi khen rằng: “Thiên mê Đạo nầy, từ thời cũ đến, qua lại nghi trở. Vì sao một lần đến thì không mê!” Sáng hôm sau, dẫn Sư vào điện Thái Cực. Vua Võ Đế bước xuống thềm mà lễ tiếp, hỏi về nguyên do. Sư đáp: “Muốn học Phật Pháp, chỉ buồn nỗi tuổi thọ bị sút, nên từ xa tìm đến Đào ẩn Cư cầu học các tiên thuật.” Vua Võ Đế bảo: “Đó là người ngạo đời trốn ẩn, đã từng vời gọi mà chẳng đến. Ông phải chịu trách nhiệm đến đó.” Sư bèn tìm đưa thư đến thăm hỏi. Đào Aån Cư bèn đáp rằng: “Tháng trước tai nghe âm thanh, giờ đây mắt trông thấy văn tự, cùng do đã đảnh lễ nhiều năm, nên khiến ứng chân lai nghi.” Ngay lúc ấy chỉnh phất Đằng bồ, bày đủ hoa nước, sửa cổ áo, thúc liễm nghó suy, đứng đợi lắng nghe tiếng rung tích trượng. Đến lúc tới núi thì tiếp đối mừng vui. Bèn đem mười quyển kinh tiên để thù đáp ý xa. Khi trở về đến Chiết Giang, có Thần Bào Lang Tử, mỗi lần quẩy động sóng gió suốt bảy ngày mới ngưng. Gặp lúc sóng vừa mới dậy nên không thể nào qua được, Sư bèn đến chỗ miếu, tự tình bày tỏ cầu cáo, nếu được như sự mong cầu thì sẽ về xây dựng ngôi miếu. Chỉ trong khoảnh khắc, thần liền hiện hình, dáng vẻ như người mới hai mươi tuổi, đến bảo với Sư rằng: “Nếu muốn qua sông thì sáng mai mới qua được! Xin chớ nuốt lời. “Tới lúc sáng sớm, sóng gió đang còn dữ dội. Sư vừa mới bước xuống thuyền tự nhiên yên tónh. Sư y theo sự mong cầu, về đến chỗ Vua, nói lại nguyên do. Vua Võ Đế bèn ban sắc vì Thần sông mà xây dựng lại linh miếu. Nhân đó, Sư từ giả, trở về lại đất Ngụy, muốn đến các danh sơn, y theo phương thuốc mà tu trị, vừa đi đến Lạc Hạ, bỗng gặp Trung Quốc Tam tạng Bồ-Đề-Lưu-Chi. Sư bèn hỏi rằng: “Trong Phật Pháp có pháp sống lâu không chết hơn kinh tiên ở phương này hay chăng?” Ngài Bồ- Đề-Lưu-Chi nhổ nước dãi xuống đất mà bảo rằng: “Ông nói gì ư? Làm sao so sánh được. Ở đây hay nơi nào mà có pháp sốnglâu không chết? Giả sử như có được sống lâu dài hay chết trong ngắn ngủi, ruốt cuộc cũng chưa thoát khỏi luân hồi trong ba cõi!” Và liền trao Quán Kinh (Kinh Quán Vô lượng thọ) cho Sư mà bảo rằng: “Đây là phương thuốc Đại tiên. Y theo đó mà tu hành sẽ được giải thoát sinh tử.” Sư liền đảnh lễ mà nhận lấy. Các phương thuốc tiên đang mang theo, Sư đều đem đốt bỏ hết. Rồi Sư tự thực hành, chỉ dạy người khác thực hành, lưu truyền cùng khắp. Ngụy Chúa kính trọng Sư nên gọi Sư là Thần loan. Và ban sắc mời Sư trụ ngôi chùa lớn ở Tinh Châu. Sau, Sư lại đến trụ chùa Huyền Trung ở động Thạch Bích thuộc núi phía bắc của Phân Châu. Bấy giờ, Sư lại đến phía bắc của Giới Sơn, nhóm họp đồ chúng hướng về đạo nghiệp. Nay gọi chỗ đó là “Loan Công Nham” (ngọn núi Ngài Đàm Loan). Đến niên hiệu Hưng Hòa thứ tư (năm trăm bốn mươi hai) thời Đông Ngụy, vì bị bệnh nên Sư thị tịch tại chùa núi Bình Diêu, thọ sáu mươi bảy tuổi. Đến ngày Sư thị tịch, có các thứ phướn hoa cờ lọng cao sáng khắp viện vũ, mùi hương xông ngát, lắm âm thanh ồn náo. Mọi người cùng dự ở núi đều trông thấy. Đem việc ấy tấu trình lên triều đình. Vua Hiếu Tónh Đế (Nguyên Thiện Hiện) ban sắc an táng tại Thái Lăng Văn Cốc ở phía Tây Phân châu. Xây dựng tháp gặch và dựng lập bia, đến nay hiện còn. Nhưng, Sư có thần vũ cao xa, cơ biến vô phương, Sư nói năng chẳng nghó ngợi, động hợp với sự. Sư điều tâm luyện khí, đối bịnh biết duyên. Tiếng tăm vang xa khắp Ngụy độ, dùng đó làm phương thức khuôn phép. Nhân đó, Sư có soạn luận Điều khí. Lại soạn Vương Thiệu, tùy văn mà chú giải. Sư lại soạn mười hai bài kệ tụng Lễ sám Tịnh Độ tiếp tục sau kệ tụng của Ngài Long Thọ. Sư lại soạn An lạc tập, hai quyển v.v.. lưu hành khắp ở đời. Bèn tự lấy hiệu là Ngụy Huyền giản Đại Só, v.v.. 4/- Truyện ngài Thích Tuệ Thiều trụ chùa Long Uyên ở Thục Quận. Thích Tuệ Thiều, họ Trần, vốn là con cháu của Thái Khâu ở Dónh Xuyên. Nhân lánh nạn nên đến ở Điền Lý của Đan Dương. Tánh Sư điềm nhiên rỗng rang, ít ham thích, trầm lắng nghiêm nghị mà ít nói. Thưở bé, Sư sớm mất cả cha mẹ nên nương tựa người anh để sống. Ngài rất mực kính mến bạn bè, có tiếng khắp xóm làng. Năm mười hai tuổi, nhàm chán thế tục, Sư bèn xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư đến Kinh Dương, nghe sa-môn Tăng Mân trụ chùa Trang Nghiêm giảng Luận Thành Thật. Vừa mới được hai biến mà ngài ghi chú gần hết. Sư nói với bạn đồng học là Sư Tuệ Phong rằng: “Tôi vừa gội mình trong đạo mới ít ngày mà nhận biết được chỉ thú. Ấy là vì sao? Vì e chẳng phải những điều đã nghe có ý nghóa cạn hay là khéo dạy mà khiến như vậy ư?” Sư bèn thử đến nghe pháp sư Trí Tạng ở chùa Khai Thiện giảng dạy, bèn cảm thấy nghóa lý ngôn từ huyền diệu nên liền tận tâm kính ngưỡng. Đang đêm ngủ, Sư cảm mộng đến chùa Khai Thiện hái vài hộc mận muốn lấy ăn thì trước được cành lá. Lúc tỉnh giấc, Sư tỏ ngộ rằng: “Ta chánh nên theo học sẽ dẫm đạp được chỗ rất sâu.” sau đó, Ngài Trí Tạng thị tịch, có Xước công (Đạo Xước?) ở chùa Long Quang nối gót truyền nghiệp, Sư bèn trở lại đó nghe học. Đã thiếu bản luận, mà quy chế lại chẳng cho ở. Sư chỉ có một tấm chăn lại gặp lúc trời đông giá lạnh, bèn ném bỏ sung vào việc chép luận. Chịu lạnh đến cứng miệng, mới được dự nghe văn nghóa. Sư lại khéo xem đọc, sáng tỏ cao trội vượt cả chúng. Sư biện giải Diệt Đế là bổn hữu, dùng thô tế mà chiết bỏ tâm. Bấy giờ xuyên tạc cho là có Thần tư. Vua Võ Lăng đời Lương ra trốn ở Dong Thục, nghe ở nơi đó có nhiều người tham dự Nghóa học, thì phải những bậc tài đức cao xa mới có thể khai mở tuyên dương. Mọi người bàn luận tiến cử đều chẳng hợp ý. Vua Võ Lăng bảo rằng: “Nhớ Pháp tập năm trước. Có Pháp Sư Tuệ Thiều mới có thể làm được việc chọn lựa này. Nếu được cùng đi, thể chấn khởi được biên phục”. Bèn tìm đến đất Thục. Ở các chùa, Sư giảng luận khai đạo như nước chảy. Sư đang ở chùa Long Uyên giảng nói sắp xong, thì ngồi tónh tọa trong phòng, thấy một vị thần mặc áo xanh, vận mũ phục đến kính lễ, thưa với Sư rằng: “Nguyện xin Pháp sư thường ở tại đây mà mở mang đạo Pháp. Con sẽ ủng hộ giữ gìn!” Nói xong liền biến mất. Sư bèn lên Pháp tịch mấy lần, Thanh ngộ phiền kết. Xưa kia, khi đang ở tại Dương Đô, Sư thường khổ vì Bệnh khí, luôn luôn lo nghó, đến lúc Sư giảng tại đất Thục thì mọi bệnh tật đều dứt trừ. Các hàng thức giả cho đó là sự hộ trì của vị thần ở nơi chùa. Bấy giờ, Pháp tịch ở Thành Đô thường có đặt ba, bốn chiếc trống Pháp, luôn đua nhau gióng nổi, tỏ rõ nơi Huyền môn. Sư nghe đồ chúng đông đúc chẳng lấy đó làm lớn. Sư lại dẫn chúng tụng kinh Niết-bàn, Đại Phẩm. Mỗi người một quyển, hợp lại thành Bộ. Hằng năm, mấy lần nhóm họp theo thứ lớp mà tụng. Nếu có người sai quên hay nghe giảng mà ngủ gục thì Sư đều thay thế chịu phạt. Sư đối trước chúng mà hối tạ rằng: “Đó là do người chỉ dạy dẫn dắt khong sáng suốt!” Nên tự thân Sư giúp vật, ân cần đến như thế. Võ Lăng Vương bố chính ở đất Thục thường giảng các Luận Đại thừa cho đến ba Tạng v.v.. các sa-môn Bảo Thoán, Bảo Cai, Trí Không v.v.. đều đến sau như phong tụ, tham dự tuyển tập, khắc quyển đã thành. Võ Lăng Vương ban tặng cho người học. Võ Lăng Vương từng thỉnh Sư trông coi Tăng Đô. Sư tha thiết khước từ nhưng chẳng được. Tánh Sư chẳng ưa nương cậy, tuy các nơi qúy trọng thỉnh giảng, gặp lúc mưa sình, Sư bèn tự chuẩn bị roi trượng, đội nón mang giày cỏ mà đến pháp hội. Từ thưở thiếu thời mà Sư đã ăn uống thanh trai, chẳng hề dùng đến các vật ngon lạ. Sau, trong lúc bệnh, uống thuốc có lẫn mỡ, Sư cố cự tuyệt chẳng uống, lúc phi thời nước cơm Sư cũng không hề uống. Người săn sóc bệnh, nhìn thấy Sư nhan sắc vẫn vui vẻ. Sư lễ bái trì tụng chẳng bỏ. Đến lúc suy kém lắm, Sư mới bảo: “Nay tôi không chỗ nào chẳng đau nhức như chiếc xe hư hoại đi đường, thường muốn dẹp bỏ, nhưng chỉ tự gắng gượng. Tôi chỉ tiếc chỗ tạo dựng tôn tượng mà chưa đến được. Tôi sắp đi đây!” Sư căn dặn các hàng tăng tục, nhờ trang nghiêm dùm. Sư bèn bảo tắm gội, cạo đầu, cắt móng tay, súc miệng, lễ bái. Sư ngồi trong Ma-ha, đường ở chùa Long Uyên, lặng lẽ thị tịch, thọ năm mươi bốn tuổi. Lúc đó là ngày mồng ba tháng bảy niên hiệu Thiên giám thứ bảy (năm trăm lẻ tám) thời Nam Lương. Bấy giờ, có người dân ở thành đô, tên là Ưng thỉ Phong, vì bệnh khí mà chết giấc, nhưng chỗ quả tim vẫn còn ấm nóng, năm ngày sau mới tỉnh lại, kể rằng: “Bị bắt đến chỗ Diêm Vương, nghe xử phân rằng” đón rước Pháp Sư Tuệ Thiều”. Chỉ chốc lát, Sư liền đến, Diêm Vương bước xuống điện, chắp tay đảnh lễ, không hề nói năng gì, chỉ viết chữ “Đại Chính”. Sư bèn đi ra ngoài, ngồi dưới bóng cây bên cạnh thiền đường rộng lớn thấy có một Tiểu đồng dùng cái sọt bằng Tất-liễu bưng y ca-sa đi đến thỉnh Sư đắp mặc. Có mấy mươi vị tăng đến đón rước Sư. Trong đó, ứng thỉ Phong chỉ biết hai vị Thiền Sư Trí và Từ, có hoa phướn bày khắp khắp đường, cùng bay bỗng giữa hư không mà đi”. Lại, ngay trong đêm đó Sư thị tịch, có Cô Ni ở chùa An Phố, mắc bệnh chết giấc rất lâu, sau khi tỉnh lại kể rằng: “Đưa Pháp Sư Tuệ Thiều và năm trăm vị tăng lên thềm thang bảy báu, đến trong giảng đường điện Thiên Cung, đất ở đó trong suốt như thủy tinh, giường chiếu toàn hoa, cũng có kỷ án. Hoa sen mọc khắp đất, Sư đến chỗ tòa mà giảng nói. Chỉ trong thời gian ngắn bèn đứng dậy. Những người theo đưa tiễn, Sư bảo về.” Sự sinh diệt của Sư âm thầm tốt lành cảm được thấy như thế. 5/- Truyện ngài Thích Tuệ Kiểu trụ chùa Gia Tường ở Cối Kê. Thích Tuệ Kiểu, không biết Sư họ gì. Sư người xứ Thượng Ngô thuộc Cối Kê. Sư học thông nội ngoại giáo điển, giảng dạy thông suốt các kinh luận. Sư trụ tại chùa Gia Tường. Mùa xuân mùa Hạ, Sư hoằng pháp, mùa thu mùa đông thì Sư soạn sách. Sư soạn kinh Niết-bàn Nghóa Sớ, mười quyển. Và Phạm Võng Kinh Sớ lưu hành ở đời. Lại về Xướng Công soạn tập Danh tăng có rất nhiều nổi chìm, do đó, Sư bèn mở bày thành rộng. Sư soạn “Cao Tăng Truyện”, mười bốn quyển. Trong lời tựa, có lược ghi rằng: “Các tác giả trước kia, hoặc là đem nhiều rộng cắt giảm các việc, mà cất giấu vết tích có rất nhiều điều bị cắt xén. Nghóa là người xuất gia ở nước Tân Vương chẳng nên gắng gỏi nhưng tự cao xa, vùi chôn riêng tuyệt, sau đó từ Vinh bỏ ái vốn vì khác tục làm bậc Hiền giả. Nếu vậy mà chẳng luận thì cuối cùng làm sao ghi chép.” Lại có đoạn viết rằng: “Các tác phẩm đời trước, phần nhiều đề là Danh tăng. Nhưng danh vốn là khách chẳng thật. Nếu thật hành thì dần sáng tỏ, cao mà chẳng có danh. Nếu ít Đức mà đến thời, thì có Danh mà chẳng cao, Danh mà chẳng cao vốn chẳng phải điều được ghi chép. Cao mà chẳng danh thì đầy đủ các lục ngày nay. Nên bỏ âm Danh thay cho chữ Cao. Truyền thành truyện cả nước”. Thật đáng là khuôn phép sáng soi, văn nghóa rõ ràng, tức là chỗ tôn qúy sùng trọng của đời! Không biết về sau Sư tịch ở đâu. Ở Giang Biểu có nhiều Bùi Tử Dã Cao Tăng Truyện một bộ mười quyển. Văn rất dón gọn, chưa xem xét kỹ cho nên bị sai thiếu. 6/- Truyện ngài Thích Đạo Biện ở Lạc Dương. Thích Đạo Biện, họ Điền, người ở xứ Phạm Dương. Có Biệt Ký ghi là Sư mặc áo nạp, cầm tích trượng đi vào thai mẹ, nhân đó mà sinh ra Sư. Sư bẩm tánh sáng suốt, tài thuật cao vượt người đời. Tuy nói là tai điếc, nhưng lúc đối đáp với Vua Hiếu Văn Đế (Thác Bạc Hoành bốn trăm bảy mươi mốt-năm trăm) thời Nguyên Ngụy, chẳng hề sai trái Đế Chỉ. Do đó mà Vinh hoa tốt đẹp, xa gần đều kính trọng. Sư phân định tà chánh, mở giải bế tắc, đó là sở trường. Ban đầu, Sư ở tại Bắc Đài, sau theo hướng Nam, dời đến Hà Lạc ở Đạo Quang. Ở nước Ngụy có bộ kinh tên là “Đại Pháp Tôn Vương” hơn tám mươi quyển, đang truyền bá hưng thạnh ở đời. Sư cầm lấy đọc xem biết là hư ngụy, bèn góp nhặt đem đốt. Sư rắp muốn rộng chú giải các kinh, dùng thông sách Phật, nhưng bút vừa đặt trên giá, thì có con chim đến ngậm lấy bay đi. Sư thấy điềm hiện khác lạ ấy bèn thôi nghỉ việc ấy, mà chỉ chú giải được các Kinh Duy-ma, Thắng-man, Kim Cương Bát-nhã, Tiểu Thừa Nghóa Chương sáu quyển, Đại Thừa nghóa Ngũ thập chương và trình bày Huyền Chiếu v.v.. lưu hành ở đời. Ngài có hai người đệ tử là Đàm Vónh và Vong Danh. Ngài Đàm Vónh ngầm ở ẩn tự giữ, ẩn tại núi Hoàng Long, trước soạn Sưu Thần Lu- ận, Aån Só Nghi Thức. Ngài Vong Danh văn bút mạnh mẽ, cậy tài ngạo tục, bị thầy đánh nên dời đến ở núi Hoàng Long, ban đầu không có ý tưởng giận mà sớm tối vẫn lễ kính từ xa. 7/- Truyện ngài Thích Đạo Đăng trụ chùa Báo Đức ở Hằng Châu. Thích Đạo Đăng, họ Nhuế, người ở xứ Đông Hoàn. Sư thông minh cảnh ngộ, rất khác người thường, rất có tín lực. Nghe ở Từ Châu có Sa- môn Tăng Dược thông hiểu kinh luận, Sư liền cắp roi trượng đến nương tựa, nghiên tầm cầu học các kinh Niết-bàn, Pháp Hoa, Thắng-man. Sau, Sư theo sa-môn Tăng Uyên, thọ học Luận Cứu Thành. Đến tuổi năm mươi, tiếng tăm Sư vang vọng khắp Ngụy đô, tại đất Bắc rất kính trọng, nhiều lần gởi thư đến thỉnh. Sư hỏi bạn đồng học là Ngài Pháp Độ rằng: “Việc mời thỉnh ấy có đáng đi chăng?” Pháp Độ đáp: “Xứ ấy người có Đạo học đông như rừng, các hàng Sư tượng có đến số trăm, đời nào mà không hành tàng, thời nào mà không thông bít. Hàm Linh mười phương đều nên độ thoát, đâu cho có lúc cùng tận, tại nước Nam cùng khuyên thực hành. như Ngài Tuệ Viễn phất áo mà ở Lô Sơn, Ngài Đàm Đế dứt vết ở Côn Sơn. Lưu Di Thị ở Bành thành từ bỏ mọi việc mà trở về nhàn tónh. Đó đều tự là Nhất phương. Đâu cần gì tận mạng hư tưởng nơi núi hang, xa tìm Sào hứa? Dù cho như thế cũng chẳng bao giờ lìa được căn cơ Tiểu Thừa, há là muốn cho người đối với ta trước nói chẳng ích lợi cho đời ư! Tùy phương mà đến cảm hóa, vì vật mà làm bến bờ, đó cũng chẳng lấy làm vui ư?” Sư bèn nhận lời thỉnh và Ngài Pháp Độ cũng tùy hỷ cùng đi, khi đến lạc dương, thì vua quan, Tăng Ni đều giữ lễ tiếp đãi khách. Ngụy Chúa thỉnh Sư, con cháu được trao vinh hiển chức tước, vì họ của Sư không đẹp lắp nên đổi chữ “ Nhuế” thành “Nại”. Sư giảng thuyết rất thạnh hành, bốn mùa chẳng ngưng nghỉ. Chưa đến Hằng Nhạc để dứt nghỉ đua tranh, người học truy tìm cùng theo, đến núi chẳng khỏi luận bàn, truyền trao. Sư bèn thị tịch tại chùa Báo Đức, thọ tám mươi lăm tuổi. Lúc đó nhằm niên hiệu Cảnh Minh (năm trăm-năm trăm lẻ bốn) thời Bắc Ngụy. Đô. 8/- Truyện ngài Thích Tăng Mật trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Thích Tăng Mật, chưa rõ Sư họ gì. Sư người xứ Lạc An. Sư từng chưa có áo mà đã cạo tóc xuất gia. Tuy nhỏ mà Sư dễ tỏ ngộ, tỏ ngộ hơn người. Năm ngài mười sáu tuổi Bạn học đông như rừng. Sư lại cùng khai mở dẫn dắt, tiếng tăm vang cả xóm làng. Sư sắp muốn mở rộng sự thấy nghe mà không được thầy chấp thuận. Sư bèn ngầm trốn ra khỏi chùa, theo thọ học với Sa-môn Đạo Minh. Chỉ trong thời gian một vài năm mà tiếng tăm tốt đẹp đã vang khắp nơi. Đầu niên hiệu Thái Thỉ (bốn trăm sáu mươi lăm) thời Tiền Tống. Sư vượt qua sông, đến trụ chùa Trang Nghiêm. Khí vọng Sư ngưng luyện, Phong Nghi cao nhã. Năm chúng đồng suy tôn, bảy qúy cùng kính lạy, Sư lắng sâu rõ chánh, chẳng bị lợi hại làm chằng chịt tâm. Tuy là đồng ở trong chúng đông mà không có ai lường biết tâm lượng Sư. Người đương thời dùng phương pháp gạt bỏ, rất cho là xác thực. Ở lâu tại phía Nam, đồ chúng đông nhiều không kinh nào Sư chẳng giảng. Chuyên lấy thành thật, sửa đổi lỗi lầm. Cao luận ít chỗ suy hạ. Các hàng hạ tài đối với việc chưa thể thường trọng, ngầm cùng nhau sàm tấu đến tai Lăng Cánh Vương. Sư chẳng phân bua trong đục, mặc tình họ viết tội, bèn khải tấu tẫn xuất Sư đến Hoài Nam. Các hàng học só đi theo Sư hơn ba mươi người, Sư6 bèn giảng dạy giáo hóa họ. Đến niên hiệu Thiên Giám thứ bốn (năm trăm lẻ năm) thời Nam Lương, Sư thị tịch tại Giang Bắc, thọ bảy mươi ba tuổi. Đô. 9/-Truyện Ngài Thích Đàm Chuẩn trụ chùa Tương Cung ở Dương Thích Đàm Chuẩn, họ Hoằng, người ở xứ Thang Âm; thuộc Quận Ngụy. Sư xuất gia tại chùa Xướng Dược Vương, theo Pháp sư Trí Đản thọ học. Sư nghiên cứu siêng năng, mọi người chẳng sánh bằng. Sư ở chốn nhàn tónh, vui hưởng vị Đạo, không có chí phong trần, giỏi về các Kinh Pháp Hoa, Niết-bàn, tiếng tăm vang đến Lạc Đô. Ngài nhàn cư suy tư, chẳng giao thiệp việc đời. Ngài thừa tiếp Tề Cánh Lăng Vương rộng thỉnh mời các vị Thắng đạo, mở rộng việc giảng nói, nên bèn theo về hướng Nam, đến trụ chùa Tương Cung. nơi nơi tìm cầu nghe học, tùy từng Pháp tịch mà đàm lu- ận. Tuy gặp phải đường sá hiểm trở nhưng Sư chưa từng có lời than thở nhọc mệt. Thứ Công ngợi khen Sư rằng: “Đây, Đạo nhân ở đất Bắc, chẳng những dung mạo khôi ngô mà còn hay khéo nói cười, xán lạn tho- áng rộng, có khí độ. Còn như ngôn luận rất có chí tình!” Tề Lâm Xuyên Vương Tiêu Aùnh, Trường Sa Vương Tiêu Hoãng rất nồng hậu cùng kính trọng lễ tiếp. Hà Điểm ở Lô Giang, Lưu Hội ở Bành thành đều đến tận phòng, đảnh lễ sát đất, tỏ bày cung kính. Những vị giảng dương tiếp nối thành tựu Đạo nghiệp của Sư có hơn hai trăm vị. Đến niên hiệu Thiên giám thứ mười bốn (năm trăm mười lăm) thời Nam Lương. Sư thị tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi. Bấy giờ, tại chùa Tương Cung lại có Tỷ-khưu Trí Thâm thông minh biết rộng, rất có công phu nghiên cứu suy tầm các kinh luận. Các hàng Thiên tử vương hầu, phần nhiều giữ lễ tiếp đãi như khách. Tánh Sư ưa nói thẳng, không tìm tòi vụn vặt, thường đắn đo mọi việc, không có bất bình, do vậy mà sự hoằng tuyên càng rộng lớn. 1 0/-Truyện ngài Thích Đạo Siêu trụ chùa Linh cơ ở Dương Đô. Thích Đạo Siêu, họ Lục, người ở Quận Ngô, là con cháu sáu đời của Ngô thừa tướng Kính Phong. Ông nội Sư tên là Chiêu, làm Thượng Thư Kim Bộ, cha của Sư tên là Tuân làm Tán Kî thị lang. Thưở thiếu thời, Sư do sự siêng năng dốc sức mà nổi tiếng. Cùng trong huyện có Ngài Tuệ An sớm hợp chẳng nghịch, đều đi đến Thượng Kinh cùng nhau thỉnh nghiệp. Bấy giờ, Sa-môn Tăng Mân ở chùa Linh Cơ, Sư gặp Ngài Tăng Mân đang giảng tại phương Đông, nhân cùng nghe Sa-môn Pháp Trân giảng Thành luận, đến Diệt Đế, ban đầu nghe ba tâm đều diệt, không có trước sau, Sư nói: “Lời nói sai lầm này chẳng phải là thầy ta vậy”. Sư thấy Ngài Tăng Mân mở suốt một phương, khắp cả nước đều đến thưa hỏi kính ngưỡng. Bỏ ngủ quên ăn từ tối đến sáng. Chỉ vì tánh riêng tháo nhuệ chẳng đoái hoài công ít, nguyện mong đã lắm. Sư thường đánh vào vế mà than rằng: “Vì mày mờ mịt nên các ngài Đạo Sinh, Tăng Triệu cười cho.” Lại nghe sa-môn Tăng Chỉnh ở chùa Long Quang mới đến giảng nói, Sư bèn mạnh dạn than rằng: “Mới có thể không đầy bảy thước. Việc nào ở người sau!” Sư buồn bã bệnh tâm trải qua nhiều ngày bèn bỏ sự nghiệp. Nhân đó mà tự sám hối, nguyện cầu chư Phật, Bồ-tát xin che chở oai thần khiến được Tuệ ngộ như ngài Tăng Mân. Sự việc có ở truyện ngài Tăng Mân. Bèn siêng năng khổ chí, chỉ thời gian ngắn mà thấu suốt, suốt ngày vui vẻ riêng nói riêng cười. Sư thường nói “Châu báu vô giá, nay ta đã được!” Sư ung dung cao bước, cậy oai khí xem thường thế tục. Các hàng tăng tục đổi cách nhìn Danh giá ở đương thời. Đến lúc giảng nói, Sư giải chiết nghi phục, thường không để lại u ẩn. Như lại vì khách, ý khí nhã phục, cầu chống đối lẫn nhau. Nếu gặp cơ địch, không gì Sư chẳng ứng đối. Cũng ở trong chùa, có sa-môn Đạo Bí, tuổi tác đã lớn, cũng khéo hướng học phương mà tánh lắm biếng lười, chưa thể tự khắc phục được, ngang tàn lăng mạ người khác mà Sư cũng liếc ngang kêu réo om sòm, đó cũng chưa phải là nhiều vậy. Một hôm, ngài Đạo Bí nói với Sư rằng: “Ta và ông, ai hơn ai kém?” Sư bảo: “Nếu luận về tuổi tác, xin vì cùng cậy, lường về tấm lòng thì không luận trước sau.” Bấy giờ, cho đó là nói thẳng. Từ lúc Sư ở riêng nơi phòng vắng, bặt dứt khách khứa. Nội ngoại phần điển thường bưng bít trước gối mà tay chẳng rời quyển sách. Lại thêm bụi bặm đầy phòng nhà. Dế mèn kêu cùng vách. Trung Thư Lang Ngô Quận Trương Suất bảo với Sư rằng: “Trùng loại kêu réo om sòm cả tai, bụi đất lấp vùi tới đầu gối, đâu thể đối với đây mà không ngang ngược ư? “Sư đáp: “Lúc nghe các âm thanh ấy đủ để thay tiếng tiêu sáo. Bụi theo gió cuốn đến, ta chưa rảnh để quét. Còn như ngang ngược, danh thật là thẹn lắm.” Người đương thời cho đó là cao vời phóng đạt. Đến năm ba mươi sáu tuổi thì Sư thị tịch, lúc đó nhằm niên hiệu Thiên giám (năm trăm lẻ hai) thời Nam Lương. Lại có Đạo Nhân Tuệ An cũng ở chùa Tương Cung, nghiên cứu tìm tòi sâu xa, phân tích chỗ sâu kín, rất có tinh lý. Năm ba mươi hai tuổi, Sư thị tịch tại chùa. Lúc đó vì các ngài đều đang tuổi mạnh khoẻ mà thị tịch, nên Dương Liễu cũng đồng buồn thương. Đô. 1 1/-Truyện ngài Thích Tăng Kiều trụ chùa Long Quang ở Dương Thích Tăng Kiều, họ Hoa, người ở xứ Đông Thiên, thuộc Ngô Hưng. Sư xuất gia tại chùa Long Quang, nghe Sa-môn Tăng Mân giảng dạy. Trước phải lập nghóa, có các Đồng dị, thì Sư quên cả ngủ nghỉ, chí muốn bẩm thọ. Lại nghe giảng luận mà dần chuyển mạnh, thì vỗ tay nhiều lần ngợi khen, nghó cùng là đều. Vào niên hiệu Long Xương (bốn trăm chín mươi bốn-bốn trăm chín mươi bốn) thời Nam Tề, các pháp diên dần giảm ít, sư bèn cùng các bạn Đạo như Sa-môn Tăng Chỉnh, Bảo Uyên, Tuệ Tế, Tuệ Thiệu, v.v.. đồng cầu thỉnh Sư Tăng Mân dời chỗ ở. Từ đó suốt ngày liền nhất tâm thưa hỏi. Mền vải chống lạnh mùa đông, ít tương giúp thân, chút cháo dính miệng, rau lá đủ để dứt đói, mà không hề vì nghèo khổ đói lạnh mà biến đổi tiết tháo, chỉ tự chuyên cần cố gắng suốt ngày chẳng đủ. Nghiên cứu sâu sắc, lý ngộ sáng sâu. Trong vòng ba, bốn năm mà thông đạt các kinh luận. Sau, Ngài Tăng Mân trở về chùa Trang Ng- hiêm, có sa-môn Tuệ Anh ở chùa Long Quang hỏi rằng: “Các vị thiếu niên, Sư cùng dẫn theo đều đã thành khí. Trong thời gian qua mọi sự hơn kém có thể nghe biết được chăng?” Ngài Tăng Mân đáp rằng: “Ngài Tăng Kiều nho nhã thanh hư, dùng xưa đáp nay. Mở quyển văn nghóa, luôn ưu du nơi giáo lý, móc sâu đến xa, khéo hay thù đáp. Nhưng vì nhún nhường mà chưa giảng, chẳng cùng tranh giành trước. Đó mới thật là chỗ đáng gởi gắm Di Pháp! –Chỉnh công siêng năng kinh luận, thông suốt rành rỏi. Những người đồng nghiệp đều quý trọng tánh tình của ông – Uyên Công không gì chẳng là Thần minh, mà tâm tánh riêng nhanh nhẹn, trái với lễ độ. từ lâu theo Di Tập, không thể lường biết nơi ông ta được ít nhiều- Tế Công thần thức trong sáng, kinh vốn có công phu, Luận văn chưa thành thục. Vì ông ta thể suy, chẳng kham được khó khổ nên vậy. vả lại đối với nghóa lý đủ để rõ Đạo. chí hạnh đủ để khuyên tục. Thiệu Công tánh tình biết lý, rất có chí hạnh. Nghèo khổ mà có lắm học chẳng được thường. Hướng không phòng ngại, không lo sợ chẳng thành pháp khí tốt!” Từ lúc Sư thành đạt sở học, chẳng sửa việc đời, chẳng cậy tiếng tăm, luôn đóng cửa ở nơi nhàn tónh, ngồi một mình không khách tạp. Ngài lắng lòng ngầm tỏ ngộ riêng thành đạt mà thôi. Năm ba mươi sáu tuổi, Sư thị tịch, lúc đó nhằm niên hiệu Thiên Giám (năm trăm lẻ hai) thời Nam Lương. Ngài Tuệ Sinh vốn ở tại Tương Châu, học thông kinh số, từng lên Pháp tòa. Thưở thiếu thời nắm giữ tiết tháo cao vời, kính mến phong thái phép tắc của ngài An Thải. Sư mặc áo vải xấu, ăn rau trái trọn đời chẳng đổi thay. Rất giỏi các lối chữ thảo, chữ lệ. Ngài Tăng Chỉnh ở tại Tương Dương, sau cùng dời đến Hạ Thủ. Sư hóa đạo rất thạnh hành. Ngài Tuệ Tế là người ở xứ Phiêng ngung, sau cùng trở về Lãnh Biểu. Đức hạnh Sư vang cùng Nam Việt. Văn nghóa phong tuyên được truyền bá rộng khắp. Các Sư đều thị tịch trong khoảng niên hiệu Thiên Giám (năm trăm lẻ hai - năm trăm hai mươi) thời Nam Lương. 1 2-Thích Tuệ Khai trụ chùa Bành Thành ở Dương Đô. Thích Tuệ Khai, họ Viên, người ở xứ Hải Diêm thuộc Quận Ngô. Lúc đầu, Sư xuất gia làm Đệ tử sa-môn Pháp Sủng chùa Tuyên Võ, bèn theo thầy thọ học A-tỳ-đàm và Luận Thành Thật. Trong khoảng niên hiệu Kiến Võ (bốn trăm chín mươi bốn – bốn trăm chín mươi tám) thời Nam Tề, Sư đến Thượng Kinh để cầu học, ở chùa Đạo Lâm, trải qua thời gian thọ học kinh luận với hai Sa-môn Tăng Mân và Trí Tạng, sau đó, Sư dời đến trụ chùa Bành Thành. Sư học mà không thời gian ôn tập, chỉ nghe qua tai liền chẳng quên. Sư thường ưa thích rượu trà, đùa bởn bài cờ tự vui. Nhưng gặp người tánh tình hấp tấp thì quyết không đối biện, người đời trên chiếu mà chậm chạp văn từ. Sau, bỗng nhiên Sư cắt đứt các thói quen trước, chuyên nghiên cứu Danh giáo, ở trong chúng giảng bày chỉ dạy, đều mừng mới nghe. Đến lúc Sư giải thích danh từ, phân tích nghóa lý thì ứng biến khôn cùng. Tuy gặp kẻ kình địch khôn khéo luận đàm, song, ít ai bẻ gãy được sự bén nhạy của Sư. Nơi giảng tịch luôn bày cờ nên người học tìm đến. Bèn khiến tiếng tăm ngài vang xa khắp cùng, mọi người đều biết. Trần Quận Tạ Tuệ nhã cũng khâm phục kính trọng, ra trấn thủ tại Dự Chương, thỉnh Sư giảng nói, cúng dường tưởng thưởng rất nồng hậu. Sư trở về chưa tới thành đô thì phân tán đã hết. Lưu Nghiệp ở Bành Thành ra trấn thủ tại Tấn An, biết chỗ Sư ở thường không, do đó tặng Sư một muôn đồng tiền. Sư liền ban tặng cung cấp cho những người đói lạnh, chẳng trọn một ngày. Sư lập tánh rỗng rang, không chứa để của cải, đều đồng loại như vậy, mà tánh Sư luôn sơ suất, chẳng để ý đến hình nghi: áo quần dơ bẩn, Sư không hề để ý tẩy giặt. Đồng bạn có người không chịu nổi, đều thay đó mà giặt giạ. Lạnh thì Sư mặc áo bông tơ đợi thành, nóng thì Sư ẩn nơi giường chiếu đến ấm nóng. Đến niên hiệu Thiên giám thứ sáu (năm trăm lẻ bảy) thời Nam Lương, Sư thị tịch, thọ ba mươi chín tuổi. Cùng ở trong chùa Bành Thành lại có Sa-môn Đàm Tuấn, cũng là người do sự cầu học mà danh tiếng. Ngài thông suốt các kinh lại siêng năng lễ tụng. Đạo phong vốn chỉ một khí khái, nóng lạnh cũng thực hành. Thị Trung Vương Từ Côn Qúy, Tư Đồ Trưởng lại Giang Cách Hữu Vu đều kết bạn giao du với Sư. Đô. 1 3/- Truyện ngài Thích Minh Triệt trụ chùa Kiến Sơ ở Dương Thích Minh Triết, họ Hạ, người ở xứ Tiền Đường thuộc Quận Ngô. Năm sáu tuổi, Sư chịu tang cha, bèn phát nguyện xuất gia, trụ chùa Vương Viên ở Thượng Ngu. Sư học không từ thầy bạn, chỉ tự tâm mà quyết đoán. Mỗi lúc thấy việc tốt, Sư đều lưu tâm xét kỹ. Sư gặp người khách đọc truyện Sa-môn Thích Đạo An, nói rằng: “Nghe Ngài Đạo An thưở nhỏ mồ côi cha mẹ, nhờ người Anh bà con bên ngoại nu- ôi dưỡng.” Sư bèn nghẹn ngào sụt sùi giây lâu mới hết. Ngày sau, Sư mượn truyện ấy để nghiên tầm, thấy được những sự tốt đẹp trong việc hoằng Pháp của Ngài Đạo An. Nhân đó, Sư vỗ gối than rằng: “Người sống ở đời, sao lại có thể chẳng như vậy ư?” Từ đó Sư chuyên tâm học Đạo, công phu chẳng bỏ luống qua. Sư thường cùng vài người bạn đồng học ở sau phòng thầy. Phòng ấy vốn đã quá cũ mục, bỗng gặp cơn gió thổi tốc vào nhà gần như muốn đổ sụp. Thầy đi chẳng có nhà, không cây vật chống đỡ, mọi người đều bỏ chạy. Sư vẫn tập nghiệp như cũ. Khổng Quảng ở Cối kê nghe như thế nên ngợi khen rằng: “Phong thái trẻ nhỏ rất xinh đẹp, tương lai sẽ thành danh khí!” Người đương thời nhân việc ấy mà kính phục, Sư bèn nổi tiếng khắp Đông Việt. Niên hiệu Vónh Minh thứ mười (bốn trăm chín mươi hai) thời Nam Tề, Cánh Lăng Vương thỉnh Sa-môn Tăng Hựu, Tam Ngô giảng Luật. Giữa đường gặp nhau, tuy là tuổi tác cách nhau xa mà tình chẳng trái nghịch. Nhân đó, Sư theo ngài Tăng Hựu thọ học Luật Thập Tụng, và cùng theo ra Dương Đô, trụ chùa Kiến Sơ. Sư tự cho rằng: “Luật là mực thước, là hiến chương, là nghi thể”. Nên bèn nghiên cứu cùng khắp cả bốn bộ, xét xem mọi sự hưng phế. Các bậc Luật sư thời bấy giờ biện giải chẳng ai có thể bẻ gãy được Sư. Vào niên hiệu Kiến Võ (bốn trăm chín mươi bốn – bốn trăm chín mươi tám) thời Nam Tề, Sư lại chuyển sang cầu học kinh luận, trải qua thời gian tham cứu với các bậc thầy, nếm đủ các nghóa lý sâu mầu, Sư bèn tôn xưng Pháp sư Tăng Mân là bậc nêu chánh kinh luận, khéo rõ thần cơ, bàn nghóa thông suốt sâu kín, dễ khơi dậy sự thâm áo. Sư bèn theo Ngài Tăng Mân mà thành đạo nghiệp. Tề Thái Phó Tiêu Dónh Trụ rất khâm phục chúc tụng. Đến lúc ra trấn lãnh ở Kinh Châu, ông dẫn Sư đi khắp bảy đầm, thỉnh Sư đến Nội Để khai giảng Kinh Tịnh Danh. Thường ngày, đối với Văn cú các kinh, đã là chỗ nói ứng cơ. Hoặc gặp phải các chỗ quanh co sâu sắc, hoặc lại chỉ bó buộc nơi Văn tự, mà trước nay các bậc anh tài cựu nhân mỗi người tự lưu tâm, sai lầm ngay ngày nay trông vào huyền tông nầy xa không phảng phất. Sư có tâm thẹn thùng xót xa sâu sắc. Người đương thời đều qúy trọng sự nhường nhịn của Sư. Mãi đến lúc Tiêu Dónh Trụ qua đời, tặng riêng ngài chiếc ghế rất êm. Sư do Di mạng nên bị lưu lại, nhờ vỗ về để hết thọ mạng. Đến đầu niên hiệu Thiên giám (năm trăm lẻ hai) thời Nam Lương, Sư mới trở lại Đô ấp, lại theo Ngài Tăng Mân mà thọ nghiệp. Mọi người lớn nhỏ đều cầu thỉnh, Sư thường vì đáp lại. Sư nghiên cứu rộng văn sâu, thấu suốt ý chỉ sâu kín, gốc rễ giao kết không bao giờ để ngưng trệ. Sư xa gieo trồng tiếng tăm, bày khuất nhiều lớp, chợt kinh chợt luận, bốn mùa không ngừng nghỉ. Những người nghe học, không nơi xa nào mà chẳng đến. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) kính trọng tiếp đãi chẳng theo thứ lớp lớn danh. Sư vào nơi Nội điện, Gia Tăng cung phụng mọi vật theo từng năm chẳng sai lầm. Vua dùng luật để thấu suốt muôn hạnh, điều chương dồi dào rộng rãi, xin Sư nắm lấy giản yếu, cùng loại thì theo nhau. Đến cuối niên hiệu Thiên Giám (5 2 0) Vua Võ Đế ban sắc mời Sư vào vườn Hoa Lâm, đến chỗ các Sa Môn Bảo Vân, Tăng Tỉnh, chuyên nghiên cứu sao soạn. Sư cố khước từ mà chẳng khỏi. Sư thường hầu Vua ngự diên, đối đáp nêu bày điều sâu kín. Hoàng Trữ thường tiếp đãi Sư luôn đặc biệt hơn lễ thường, đều khiến cả hai cung đều cúng dường rất ưu ái nồng hậu. Các bậc Danh bối đương thời đều nhờ ứng đối, chưa có ân tuệ đượm nhuần lớn lao như thế. Sư nhóm họp xếp đặt sắp thành, bỗng nhiên bị bệnh trầm tích, nên từ điện Thọ Quang dời về chùa cũ. Vua Võ Đế đến gần tự tỏ bày vui vẻ, đích thân nói lời ấm áp an ủi. Vua biết sẽ không thể cứu nổi nên lui về mà rơi lệ. Trung sứ tham hầu sớm tối chẳng dứt. Sư tự nghó mình sắp chết nên dâng tấu khải văn để cáo từ. Lòng vua Võ Đế đầy rẫy nhớ nhung ở điện Vạn Thọ, khi đó các quan chức xu qủy trong ngoài đồng một lúc xót thương, vì trình Biểu văn của Sư nên vậy, trong Biểu văn, Sư viết rằng: “Nhân Quả rất sáng tỏ nhân nép phục làm sao trốn tránh. Minh Triệt tôi tuy là Ngu đoản, nhục trông xem chí tịch. Lúc sắp lìa đời đâu còn Di lậm. Chỉ biết ân biết ái, nên vì nói cho nghe. Nhưng Triệt tôi vốn xuất thân từ Đông Hoang, là Dân thấp hèn mà thôi. Hơi có chút khéo biết, lại lạm ở trong cửa Phật, thời thiếu niên phóng khoáng, ràng buộc Huyền giác. Tuy chưa thể rõ Đạo, nhưng hơi được chút tánh lành, nên chuyển đến chẳng nghỉ. Gặp thời Hội xương, bèn gần gũi kính vâng ngự diên, nâng đỡ mở mang pháp tịch. Vừa có đức Nhân, vừa dẫn dạy, gội đủ ân giúp. Thường nguyện buông duỗi kính một đơn thành, phụng vâng mở mang từ hóa, đâu để ý phước báo đã đến cùng, bèn quy kết về đất bụi. Kính ngưỡng luyến mến đức Thánh ở đời, sao có thể nói. Đặc biệt kích mong Bệ hạ trọn kiếp vónh tru,ï ích lợi làm bóng mát không ngằn mé, đầy đủ trang nghiêm đạo tràng, dẫn dắt mọi vật. Trời rũ khắp nước ngoài, đồng thành tịnh độ. Quả thắng trôi chảy xa, ung dung xa nhóm họp. Minh triệt tôi vì kính gặp, mừng khéo luận Đạo, thoát khỏi muôn đời trở lại sống còn đợi vâng hầu. Dù sống dù chết đều trông mong cứu giúp. Đến lúc sắp tận hoảng hốt như mộng. Tuy muốn bày tâm, tâm đâu chịu hết. Không cầm nổi sự thật của buồn thương, kính cẩn dâng biểu văn tấu trình để Bệ hạ cùng biết!” Vua Võ Đế lại ban sắc đáp xét tỉnh sớ thêm thắc mắc lo âu. Sắc viết: “Người đời ai không bệnh, cớ sao vội chung biệt quá mau! Pháp Sư Chí tánh sáng bền, đạo hạnh thuần đủ. Qua lại cõi tịnh, đến miền An dưỡng. Mới trừ được bốn ma, Lý không có năm sợ. Chỉ ứng chánh niệm các Đức Phật, chẳng xả bỏ Đại nguyện, tương ưng với trí Bát-nhã, thẳng đến chủng trí, phát tâm Bồ-đề. Kia đây tiếp nối mới kết duyên lai sinh. Cung kính như người ngang bằng. Hạnh nghiệp Bồ-tát chẳng chỉ trăm ngàn năm. Khéo nghó chí lý, chở khởi loạn tưởng. Xem thủ bút mà buồn bã, chẳng còn lắm lời….!” Vua Võ Đế nhân đó đến chùa thiết lập trai hội cúng dường ba trăm vị Tăng, khuyên bảo Sư sám hối. Tự vận thần bút soạn bài văn sám nguyện. Sự việc xong xuôi. Sư bèn thị tịch tại phòng ở chùa. Lúc đó nhằm ngày mồng bảy tháng mười hai niên hiệu Phổ Thông thứ ba (năm trăm hai mươi hai) thời Nam Lương. An táng tại phần mộ cũ ở chùa Định Lâm. Vua Võ Đế sắc cấp Đông Viên Bí Khí. Mọi sự trong lễ tang bày biện đầy đủ. Chủ giả Giám hộ có sự sùng kính. 1 4/- Truyện ngài Thích Pháp Khai trụ chùa Tây ở Dư Hàng. Thích Pháp Khai, họ Du, người ở xứ Dư Hàng thuộc Ngô Hưng, Sư xuất gia từ thưở nhỏ tại chùa Bắc Thương, làm đệ tử sa môn Đàm Trinh. Ngài Đàm Trinh thanh bạch lắng nghiêm, rất có giải hạnh. Thưở thiếu thời Sư rất thông minh, vì gia nghiệp khốn khó, do đó thân áo mặc không kín, ăn chỉ sơ sài thô sáp. Bạn đồng học của ngài như Tăng Lưu, Đàm Đản, gia đình có của cải nên ăn mặc xa hoa, nhưng đều theo ngài Đàm Trinh thọ học. Thường có năm lao nhọc và tìm xét sâu xa đến kia mà chưa có ai sánh bằng Sư mà các vị Tăng Lưu, Đàm Đản tự ỷ mình giàu có nên rất khinh người. Sư chỉ có tâm vui vẻ, bèn mang sách đi về hướng Tây đi đến chùa Thiền Cương và nương tựa hai Pháp Sư Tăng Nhu, Tăng Thứ để học luận Thành Thật. Áo chẳng che kín thân, ăn chỉ giữ mạng sống. Mà Sư chẳng tránh được lạnh gió nắng mưa, hết đêm là ngày. Trải qua thời gian học nghiệp đã giỏi, tinh giải vô ngại. Suốt ngày đi giảng nói không hề tạm nghỉ. Tâm Sư bén nhạy, việc không có ích thì chẳng nghiên cứu. Có lúc Sư trộm nghó ngầm phát lên để cản ngăn chẳng đủ, đang cùng những kẻ bén nhọn ấy, ít người không cứng lưỡi. Do đó mà Sư nổi tiếng. Lại Bộ Thượng Thư Lang Da Vương Tuấn, Vónh Gia Thái thú Ngô Hưng Khâu Trì đều nhường kính suy tôn, thường cầu xin Sư dạy răn. Sau, Sư trở về lại Dư Hàng, ở tại chùa Tây. Những vị trước kia cung lăng giá, nay trông nhìn đạo phong nhuốm khí trọn cùng trốn lánh cho đến lúc qua đời. Sư nhân đó mà Giảng đạo nối nhau, kẻ tăng người tục thảy đều thán phục. Có Sa-môn Trí Tạng sau ra ở Võ huyệt, giảng luận Hoá thành. Sư sang xem nghe, thẳng thắn cật nạn qua nhiều ngày, khiến các khách liêu đều hưởng vui vẻ. Ngài Trí Tạng nói rằng: “Pháp Sư Pháp Khai nói luận đã nhiều, tự có thể đi!” Tôi muốn vào Văn.” Sư bảo: “Đức Thích-ca Thế tôn giảng pháp, Phật Đa Bảo vọt lên hiện hình tháp. Pháp Sư Chỉ Nam răn dạy chúng đuổi khách là lý do tại sao?” Ngài Trí Tạng có vẻ hổ thẹn. Đến niên hiệu Phổ Thông thứ tư (năm trăm hai mươi ba)- thời Nam Lương, Sư thị tịch, thọ sáu mươi lăm tuổi. Đô. 1 5/- Truyện ngài Thích Đạo Tông trụ chùa Ngỏa quan ở Dương Thích Đạo Tông, không biết Sư họ gì. Sư là người xứ Giang Lăng thuộc Kinh Châu. Sư xuất gia rất sớm, trụ chùa Ngõa Quan. Tánh tình Sư chân chất thẳng thắn, chẳng việc đua tranh, tai chẳng vọng nghe lời chúc tụng, miệng không nói lời dua nịnh. Sư tu thân giữ mình thanh khiết, động tónh có độ lượng. Sư học qua các kinh, đều chẳng do thầy. Trọn ngày ở nơi nhà nghỉ vắng, chỉ vui cùng quyển bộ kinh sách mà thôi, thanh đàm cao luận, khiến người nghe quên cả mỏi mệt. Sư chỉ mặc áo quần thô xấu, ăn uống sơ sài tiết kiệm. Gặp năm đói kém vào trong thôn xóm chẳng ai cúng dường, Sư bèn theo hướng Nam đi đến Lãnh Biểu mở mang đại đạo. Sư tự thệ nguyện cho đến lúc chết luôn giữ việc dẫn dắt hoằng hóa không dừng nghỉ. Năm ngoài năm mươi tuổi, Sư thị tịch tại xứ ấy. Lại có Sa-môn Pháp Sưởng ở chùa Diên Hiền. Thưở thiếu thời, ngài nghiên cứu kính số, lúc trưởng thành lại thường giảng nói. Vào cuối đời Nam Tề có năm đói kém, Sư cố cùng quyết giữ tiết tháo thanh bần. Chuyên giữ việc, chẳng đua tranh tham lam chứa để đầu niên hiệu Thiên Giám (năm trăm lẻ hai) thời Hậu Lương, Sư theo hướng Tây đến Lục Hải rồi trở về hướng Đông đến Linh Sở. Sư rất có công mở mang Phật Pháp. Hạ: 1 6/- Truyện ngài Thích Pháp Trinh trụ chùa Quảng Đức ở Lạc Thích Pháp Trinh, không biết Sư họ gì. Sư là người xứ Đông Quang thuộc Bột Hải. Năm chín tuổi Sư xuất gia, tiếng tăm thanh tú nơi Sư, chẳng phải như hàng phàm tình. Ngài trụ chùa Quảng Đức ở Lạc Hạ làm đệ tử sa-môn Đạo Ký. Năm mười một tuổi, Sư tụng thông rành Kinh Pháp Hoa. Trong ý nếu có chỗ không hiểu thì tùy mê lầm mà đến hỏi. Ngài Đạo Ký bảo Sư rằng: “Người nắm giữ ở tương lai, đó chính là ông!” đến lúc Sư trưởng thành lại Sư ngài siêu vượt cao kỳ. Ở tại Lạc Hạ không ai có thể lấn át. Sư nổi tiếng ngang hàng với Sa-môn Tăng Kiến. Người đương thời cho rằng: “Ngài Tăng Kiến câu văn không hơn trước, còn Sư thì vào chỗ vi diệu bước riêng một mình!” Sư bèn cùng ngài Tăng Kiến kết bạn Nghóa hội. Kẻ tăng, người tục đến nương tựa thọ học đông cả ngàn vị. Sư tùy có được các sự cúng dường bèn tu tạo cả ngàn tôn tượng mà bố thí cúng dường. Ngụy Thanh Hà Vương Nguyên Dịch, Nhữ Nam Vương Nguyên Duyệt đều mở đai đảnh lễ thưa hỏi, và kính vâng sự dạy răn. Gặp lúc nhà Bắc Ngụy Đạo đức suy thoái, người nữ dẫn đầu, hủy luận ngày một lớn lao, nghi kî càng chứa nhóm, ganh ghét những bậc đức hạnh, thường cho là mình hơn, khó tránh khỏi ở đời nay. Sư bèn nói với Ngài Tăng Kiến rằng: “Triều đại (Nam) Lương là đất nước có lễ nghóa, lại có Bồ-tát ứng hiện hành hoá Phong giáo, tuyên lưu đạo Pháp, Có nên cùng đến đó chăng? Nay tuổi đã trên sáu mươi, buổi sáng sớm nghe Đạo, chiều tối chết tôi cũng không hận!” Ngài Tăng Kiến nói rằng: “Thời gian không nên để luống mất, trước kia tôi cũng có hoài vọng đó!” Vào niên hiệu Phổ Thông thứ hai (năm trăm hai mươi mốt) thời Nam Lương, hai Ngài (Tăng Kiến, Pháp Trinh) cùng nhau tìm đến đất phương Nam xa thẳm. Sư bị ruổi ngựa bắt kịp nên mang họa diệt thân, Sư thọ sáu mươi mốt tuổi! Ngài Tăng Kiến vốn người đất Thanh Hà. Lúc còn là Sa-di. Sư là người thông minh tài giỏi, lúc thành người lại giỏi đàm nói Danh lý. Sư cùng các vị Tuệ Thông, Đạo Tịch, Pháp Trinh v.v.vv cùng học một thầy, tức sa-môn Đạo Ký. Lớn nhỏ cùng dắt dẫn nhau nghiên cứu Số Luận, bèn thấu suốt năm tụ, mở khắp một phương. Thường ngày giảng nói, thính chúng đông hơn ngàn người. Các bậc Thạc học thông suốt đều mừng vui sự thành đạt mới ấy. Sư đến các Pháp diên giảng nói thường liên tiếp đêm ngày. Tuy mục đích là dạy thành người nhưng lại vào làng giáo hóa hóa. Ngụy Cao Dương Vương Nguyên Ung cùng mời thỉnh, nhiều lần thâu đêm đàm luận. Hoặc dùng tay áo khỏa bít chỗ thấp hèn, hoặc sáng trong mừng gặp, không một ai bằng Sư. Sư liền bảo rằng: “Rất hận chẳng đồng đầu mối ấy!” Nên những người nghe Đạo phong Sư mà dốc lòng khát ngưỡng, xa kính phục Pháp vị. Sau, Theo hướng Nam Sư đi đến Đế thất, tới dòng sông phía Nam chùa Hà Viên, Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) khéo luận nghóa chỉ, ban sắc nhóm họp học tăng đến điện Lạc Thọ để thứ lớp lập nghóa. Mỗi lúc Sư ở chùa giảng, thành giúp sự nghiệp sau vượt hơn trước. Ngài Tuệ Thông lập tâm nhàn dự, giải hạnh vang xa. Ngài Đạo Tịch học rộng nghe nhiều truyền bá sự nghiệp của thầy. Các Ngài đều thị tịch tại đất Bắc Ngụy. 1 7/- Truyện ngài Thích Bảo Uyên trụ chùa La Thiên Cung ở Ích Châu. Thích Bảo Uyên, họ Trần, Người ở xứ Lang Trung thuộc Ba Tây. Năm hai mươi ba tuổi, Sư đến thành đô xuất gia, trụ chùa La Thiên Cung. muốn học Luận Thành Thật, là người đứng đầu mở mang. Tại trong làng quận, thuật cạn chẳng thoả ý bằng lòng. Niên hiệu Kiến Võ thứ nhất (bốn trăm chín mươi bốn) thời Nam Tề, Sư xuống đô thành ở chùa Long Quang, theo Pháp sư Tăng Mân thọ học năm Tụ. Trải qua mấy năm mà nghóa lý rất nhập thần. Ngài Tăng Mân bảo: “Ông này có tánh tài tuấn cảnh tỉnh, trí tuệ nghó suy vượt hơn người. Chỉ tiếc là hấp tấp chẳng thường, động tónh luôn hiểm nguy. Nếu gặp được người thông hiểu ưu đãi cùng tiếp nhận thì sẽ thành bậc Danh só một đời. Nếu không gặp thời thì chẳng được chết, chắc chắn sẽ tổn nhục cho Đại Pháp!” Sư rất ưa thích Bồ phốc, khiến rượu cậy hơi, suốt ngày loay hoay không chỗ buông xuống. Ngài Tăng Mân phải nhiều lần can răn dẫn dụ, trở lại thành thù. Nhân đó Ngài (Bảo Uyên) đổi đường, lại đi theo Ngài Trí Tạng tìm tòi nghe nhận sự nghiệp trước. tự kiến lập giảng diên, của cải ban tặng khắp nơi. Ngài lại dốc sức cố gắng siêng năng gấp bội ngày thường. Sư từng bảo: “Bậc Đại Trượng phu phải sai người phụng sự ta, làm sao ta hầu người dài lâu được?” Sư bèn soạn nghóa sớ rộng ra. Qúy Thị Vương đi đến Phương Nam, gói một sọt sách để gởi, Sư có ý như muốn trở về Tây. Đồng ở trong chùa có Sa-môn Tuệ Tế đùa cợt bảo Sư rằng: “Xưa kia, giòng họ Tạ một hòm xanh, chẳng đến chẳng được làm văn chương. Nay ông bụi trần chưa đến lại phán không giảng lý”. Sư bảo: “Khác, chẳng phải như. Đây mới là gậy đánh chó vậy.” Nhân đó, Sư mang pho sách trở về phương Tây, lại ở nơi chùa cũ, nêu định nghóa phủ. Các hàng tăng tục kính phục. Từ đó Sư thường thiết lập pháp luận, thính chúng có đến mấy trăm. Sư tự trọng Danh hạnh, ít khách biết mình. Có Sa-môn Trí huấn du học ở Kinh Hoa rất thông hiểu về Số Lu- ận, đồng trở về Bổn nhưỡng, đến cùng phân giao. Sư không cho phép. Về sau, kho lẫm của chùa phạm phải luật quan. Sư tự ỷ mình danh tiếng vang cả một châu, vì vật mà nhường, Sư dùng thân mà thay, ngang bướng không thôi. Đến lúc sự việc hoàn thành, biết sẽ bị bại, nhân đó, Sư ra khỏi thành, đến giữa đường, dùng mũi nhận tự đâm vào mình. Lúc đó Sư sáu mươi mốt tuổi, nhằm niên hiệu Phổ thông thứ bảy (năm trăm hai mươi sáu) thời Nam Lương. Bấy giờ, ở Bành Môn lại có các Sa-môn, Pháp Văn, Pháp Độ, Pháp Hộ, Đạo Hưng v.v.. đều là những bậc học rộng mà nổi tiếng. Ngài Pháp Văn trong trắng liêm khiết khéo chuộng, rất có phong thái, Ngài Pháp Độ thông hiểu Đại thừa, trang nghiêm có khuôn phép. Ngài Pháp Hộ ngay thẳng thuần tín, chẳng giao thiệp việc đời. Ngài Đạo Hưng luôn giữ cõi lòng trong trắng chân chánh, hiếu nhân, phụng nghóa. Các ngài đều hạ đô trụ ở chùa, chẳng rơi lạc Học tông là chỗ thấy biết tôn sùng kính ngưỡng của các bậc Hùng Biện. Đô. 1 8/- Truyện ngài Thích Tăng Tuân trụ chùa Trị Thành ở Dương Thích Tăng Tuân, họ Minh, là con của anh Thái tử Trung Thứ Sơn Tân. Năm mới vào Lễ, có lần Sư nghe Sơn Tân đàm luận với khách, tìm nhận qua lại hoàn toàn không để lọt mất. Sơn Tân vỗ vào đầu Sư bảo rằng: “Người mà ngày nay làm cho nhà ta chẳng đi xuống, đó chính là ông!” Cha của Sư kính vâng lời Bác của Sư nên rất kính tín Đại thừa, biết Sư thông minh tài tuấn có thể hy vọng tinh thần sâu sắc, lớn lên kham nhận cứu vớt biển ái sông mê. Năm mười hai tuổi, Sư được lệnh cho xuất gia, làm đệ tử Luật Sư Tăng Biện chùa Phụng Thành. Ngài Tăng Biện tánh tình liêm khiết thẳng thắng, giới phẩm thanh tịnh trang nghiêm, khéo nhân trọng tín, tinh tấn siêng năng, thường giảng Luật Thập Tụng. Sau, Sư đến ở chùa Trị Thành, giữ gìn tiết tháo cao thượng, cố gắng ham học. Sư theo Sa-môn Pháp Vân trụ chùa Quang Trạch cầu thưa hỏi kinh luận. Khắp chốn Già-lam không làm các tạp sự. Các bậc Danh đức đương thời đều ngợi Sư. Điều gì Sư nghe qua tai thì chẳng quên, nhìn qua mắt liền ghi nhớ, thường hay giải đáp như nước bình nầy rót qua bình khác. Người đương thời mừng sự biện giải thanh rành của Sư. Các hàng tăng tục lại mến trọng sự không nhọc mệt của Sư. Mọi điều thấy nghe, Sư đều ghi chú. Tuy không tài lớn mà tổ chức việc làm sâu cùng. Các bạn bè đồng học không ai chẳng ghi truyền. Đến niên hiệu Thiên giám thứ mười sáu (năm trăm mười bảy) thời Nam lương, Sư thị tịch, thọ ba mươi lăm tuổi. Bấy giờ, lại có các Sa-môn Đạo Toại, Đạo Tiêu, đều là người xứ Hải Lăng, đồng theo Sa-môn Pháp Vân để thọ học. Kinh luận đều nghe, đều có thứ lớp. 1 9/- Truyện ngài Thích Tuệ Siêu ở chùa Linh Căn ở Dương Đô. Thích Tuệ Siêu, họ Vương, người ở xứ Thái Nguyên. Duới thời biến loạn của Vónh Gia nên gia đình Sư dời đến ngụ ở Tương Dương. Năm bảy tuổi, Sư xuất gia tại chùa Đàm Khê, làm đệ tử Sa-môn Tuệ Cảnh. Ngài Tuệ Cảnh thanh thản bình giản, rất có khí cục. Đầu niên hiệu Phổ thông (năm trăm hai mươi) thời Nam Lương, Ngài Tuệ Cảnh làm Tổng Châu Tăng Chánh, do sự tiết kiệm mà nổi tiếng. Sư tuy bé nhỏ mà trong sáng, cử chỉ rõ ràng dễ mến, tiến lùi hợp độ. Sư thờ ngài Tuệ Canh một năm, vì chúng rất phức tạp nên Sư xin dời thiền phòng, đến nương tựa Thiền sư Tăng Tông tập học Định Nghiệp. Năm mười hai tuổi, Sư lại theo Ngài Tăng thọ cùng ở chung chùa học thông Tam Huyền. Trong khoảng niên hiệu Vónh Minh (bốn trăm tám mươi ba- bốn trăm chín mươi bốn) thời Nam Tề, Cánh Lăng Vương thỉnh Pháp Sư Trí Tú cùng các Học só tùy phương giảng pháp truyền trao theo hướng Tây đến Phàn Đăng. Sư nhờ thọ học, đồng thời hợp Pháp tịch đều cùng đượm nhuần lãnh hội. Sư theo Pháp sư trí Tư trở về lại thánh đô trụ chùa Linh Căn. Và bèn xin thọ giới cụ túc với ngài Pháp Thường. Tụng giới chưa tròn hai ngày, nghe luật chưa xong hai biến mà đều biết văn hiểu nghóa, sáng soi đến tận sự nhỏ nhiệm. Sư vâng thừa sự chỉ dạy của thầy, không hổ thẹn. Đến lúc thầy thị tịch, sau đó Sư lại theo nương tựa Sa-môn Trí Tạng tham tìm tập học kinh luận. Ngài Trí Tạng bảo rằng: “Ông này tú phát, sẽ thành pháp khí tốt!” Hễ nhưng nơi nào Ngài Trí Tạng đến, Sư đều được cùng theo. Sư thông rành các bộ, tiếng tăm vang khắp kinh ấp. Sau đó, Sư lại theo Luật sư Tuệ Tập thọ học Tỳ-ni, vừa mới được vài biến, ngài Tuệ Tập ngợi khen rằng: “Chẳng thể gọi là mới hóc mà đã thành băng giá so với nước!” Sau, Sư trở về quê hương định tỉnh, khắp nơi đều nhớ tưởng. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) ban sắc mời Sư trở lại làm Thọ Quang Học Só. Lại ban sắc cho sa-môn Tăng-già-Bà-la ở chùa Chánh Quán truyền dịch Kinh A-dục Vương, và nhờ Sư ghi chép. Sư chia thành mười quyển, mà Sư ẩn vùi đức hạnh mình đề đạt đến người, chẳng chuyên khoe khoang công khó của mình. Nên hễ có cầu thỉnh thì Sư thường suy đặt ở các bậc cựu đức. Về sau, ngài Trí Tạng bảo Sư thay thế để giảng thuyết nhưng Sư cố từ chối, chẳng chịu đảm đang. Hoặc gặp các bậc Hiền giả luận bàn sâu rộng, Sư đều tham dự biện giải thông bít. Còn như chống đối các người vấn nạn trước thì Sư biết lý sắp cùng mà chùng xuống. Hoặc gặp khi cơ hỏng cũng nên đuổi theo mà im lặng. Nhưng kia cũng bẩm nhận biết đồng chỗ an và chẳng an, mà Sư hay nhún nhường chùng xuống như vậy. Thức ăn áo mặc Sư luôn đem cứu giúp. Các hàng giàu sang thỉnh mời mà Sư không chứa để riêng. An Thành Khương Vương Tiêu Nhã Tú khâm phục kính trọng giới đức của Sư, ra đất Phồn cần thỉnh cùng dẫn Sư đến nơi trấn nhậm. Ngài giảng nói Đạo phong tỏa khắp, xa gần đều đượm nhuần, ngợi khen tán thán. An Thành Khương Vương qua đời, Ngô Bình Hậu Tiêu Bính đến Hạ Khẩu, Sư lại chịu cùng đi, pháp diên lại phô bày, người học xưng tán ngợi ca. rồi Sư trở lại thành đô tiếp tục giảng nói, đồng bạn thính chúng cùng nhau tìm đến có hơn hai trăm vị tăng, suốt bốn mùa tu tập đạo nghiệp. Đến niên hiệu Phổ Thông thứ bảy (năm trăm hai mươi sáu) thời Nam Lương, Sư thị tịch, lúc đó Sư mới năm mươi hai tuổi. 2 0/- Truyện ngài Thích Chân Ngọc trụ chùa Thiên Bình ở Ng- hiệp Trung Thích Chân Ngọc họ Đổng, người ở xứ Ích Đô thuộc Thanh Châu. Lúc vừa mới sinh, Sư không có mắt, mẹ của Sư rất buồn thương! Năm Sư bảy tuổi, Bà dạy cho Sư tập học đàn sắc, đàn cầm, cho đó là phương kế cuối cùng, mà bẩm tánh Sư tài giỏi, thông minh, hiểu xét như kinh, chưa đầy mười ngày, Sư đã thấu suốt âm khúc. Sau, trong xóm ấp nhóm họp đông đúc thiết lập trai hội giảng pháp, mẹ của Sư dẫn Sư đến dự pháp hội, chỉ một lần nghe qua, Sư mừng vui nhận biết mà nói rằng: “Nếu thường được dự nghe, cuối cùng sẽ thành Pháp Sư chẳng lo sợ nghèo đói!” Mẹ của Sư nghe thế, Bà muốn Sư thành đạt nghiệp lớn ấy, bèn bỏ hết việc nhà, chuyên dẫn Sư đi nghe giảng, chẳng kể gió mưa khó khổ, chỉ cầu mong nối nhau. Ngài bao gồm lược từ chỉ, khí nhiếp đang nhạy bén. Sắp đến tuổi tráng niên mà tiếng tăm đã rung chuyển cả núi sông. Sau, gặp lúc phải chịu tang mẹ, Sư bèn xả pháp phục trở về nhà, làm chòi bên cạnh mộ, buồn bã quá lẽ, rau trái dâng cúng thanh trai, nép mình xuống đất, gìn giữ tiết tháo, suốt ba năm ngủ ngoài đồng ho- ang. Bà con làng xóm rất qúy trọng. Sau khi mãn tang, Sư nương tựa Đạo, tu chỉnh nghiệp trước, xem sách liền giảng, không hề vướng mắc, đồng bạn dự nghe lần lượt cùng quy hướng. Vào niên hiệu Thiên Bảo (năm trăm năm mươi –năm trăm sáu mươi) thời Bắc Tề, Văn Tuyên Hoàng Đế (Cao Dương) mở mang giảng tịch, các hàng già trẻ khắp trong nước đều nhóm họp về chùa Thiên Bình. Khi ấy, các hàng nghóa học như Tinh La chen nhau cùng đến. Sư riêng nêu xưng thủ lên tòa bàn nói đầu mối, không ai chẳng quy tông. Hết Đế cùng thần, khai phát sáng rỡ. Các bậc lão niên tiên đạt thảy đều cúi đầu kính ngưỡng, bèn khiến các hàng tăng tục chạy rão theo rót chén cù mà chẳng cạn. Một lần qua lại riêng trải qua mười năm, nghe tiếng Sư liền nhớ được danh nghóa. Ấy là công phu của tổng trì chẳng còn được ưa chuộng. Thường thường đồ Chúng học só có đến trăm ngàn người. Tai nghe đi ngang qua, Sư liền rõ biết được tâm tánh. Sư răn dạy sự siêng năng còn lớn hơn các triết khác. Từ khi sinh ra về sau, Sư kết lập thệ nguyện khi qua đời sẽ sinh về An dưỡng. Sư thường bảo thị giả đọc tụng kinh, còn chính mình qùy hoặc ngồi chắp tay mà nghe. Bỗng nghe trong kinh có câu: “Ở phương Đông có cõi nước Phật Tịnh Liên Hoa, thế giới trang nghiêm, so với cõi kia (cực lạc) chẳng khác”. Sư bèn suy nghó sâu xa rằng: “Tịnh Độ của các Đức Phật đâu hạn cục mến kính mộ phương Đông, lấy đó mà giữ tâm khó thành hồi hướng!” Nhân đó, Sư liền phát nguyện sinh về cõi Phật Liên Hoa. Sớm tối siêng năng đến thệ nguyện. Sau đó không lâu, thân không bệnh tật gì, mà Sư đến sau trao cho các đệ tử những thứ y phục, kỷ trượng, phất trần, chuổi châu như ý, phân bộ Di Cáo mỗi thứ có sai khác. Ban đầu, Đại chúng không nhận biết được điều gì, đều cùng nhau lấy làm lạ. Sư bảo: “Nguyện cùng chuyển vận khắp trong đời chẳng có thể vui. Các ông cùng giúp tôi xưng niệm danh hiệu Phật Liên Hoa, khiến tôi được sinh về cõi nước ấy!” Sau khi Bồ-tát, Sư bị bệnh tại nhà Họ Vương ở phía Bắc Nghiệp Thành, thần khí không mê mờ, âm thanh tướng mạo vẫn như thường. Các vị Đại đức khắp kinh đô đều đến thăm hỏi bệnh. Sau giờ Ngọ, bỗng nhiên thấy khói mây từ hướng Đông nhóm lại, mùi hương thơm khác lạ lan tỏa khắp đầy cả sân nhà. Giữa hư không vang vọng âm thanh như âm hưởng của tán vịnh, trong sáng rõ ràng. Ngay lúc bấy giờ, chân Sư dần dần lạnh lên mà miệng vẫn còn niệm tụng. Chỉ thời gian ngắn thì Sư thị tịch. Sau mười ngày Sư thị tịch, mùi hương mới hết, Đại chúng buồn thương kính ngưỡng như đến rừng Sa-la. Con cháu giòng họ Vương đều chế tang phục cùng các môn nhân đệ tử Sư, đón rước nhục thân Sư mà an táng. 2 1/- Truyện Sa môn Thích Tăng Thiên là Đại Tăng Chánh ở Kinh Châu. Thích Tăng Thiên họ Nghiêm, người ở Quận Ngô. Hiếu Kính sớm tỏ sáng. Thị Trung Vương Tích trông thấy mà kinh lạ. Sư chỉ một mặt Định giao, kính thờ Pháp Sư Đạo Tắc chùa Linh Diệu ở Chung Sơn. Ngài Đạo Tắc cũng quyền hành ngoài tỏ sáng mà cùng rất suy trọng Sư. Sau Sư vân du khắp các trường giảng, Túng Biện Thiên Thùy từng cật nạn nghóa Thiền Phẩm của Chiêu Đề Tuệ Diễm. Tinh nghóa tư duy lưu xuất, khắp trong tòa đều khen ngợi. Chiêu Đề nhân đó sửa đổi làm mới lại Chương Cú. Lương Cao có ban sắc ở điện Hưng Thiện nghóa tập, Sư bước lên liền biện luận bén nhọn như nước chảy. Vua rất mừng vui, bèn xuống giữ lễ kính Sư như là Gia Tăng. Vua ban chế soạn kinh Thắng-man nghóa sớ, ban phát ở điện Thọ Quang, Chư tăng đều có tâm tự xấu hổ. Sư thấu cùng hang Lý. Vua đặc ban chiếu trình bày. Hoàng Trữ Thượng thư lệnh Hà Kính Dung được thỉnh cùng đối luận. Kẻ tăng người tục mừng vui với thời luận đề ấy. Trung Hưng Kinh Nghiệp, Chánh vị Tăng Đoan, nhậm chức vào tháng giêng, Đạo Phong trùm khắp, chắc chắn bảy chúng chẳng cung kính mà thành. Xưa kia, vào đời Tấn mới đặt ra Tăng y. mãi đến nay trải qua bốn đời, tìm cầu nghiệp hoàn bị mà ít được như ngày nay. Sau khi tìm tòi u cầu, kinh cáo bàn kết đều như câm như mù, dựng lại sự phế bỏ, vui vẻ theo chánh. Đến ngày mười bảy tháng tư niên hiệu Thiên Bảo thứ mười hai (năm trăm bảy mươi ba) thời Hậu Lương, Sư thị tịch tại tinh xá Đại Bảo, thọ bảy mươi chín tuổi. Đến ngày hai mươi an táng tại phía Bắc núi Trung Hoa ở Giang Lăng. Lúc xưa, vào thời niên thiếu, Sư hiếu kính tự nhiên, gia đình ng- hèo khó, cha mẹ già yếu nên sự nuôi dưỡng các thức ngon có khi thiếu sót. Về sau, khi danh đức Sư đã lập nên thì Sư cung phụng các thức béo tốt kính dâng đầy đủ. Cho đến lúc chịu tang Sư buồn lo đến gần chết. Năm mới hai mươi tuổi, Sư tụng Kinh Pháp Hoa đã hơn sáu ngàn biến. Ngồi mà dường như ngủ, đích thân trông thấy Bồ-tát Phổ Hiền, có hương thơm đuốc sáng chiếu soi, Bồ-tát đến xoa đảnh đầu Sư. Viết mà chẳng truyền. Chỉ có Đại tiệm, Sư mới tỏ bày cùng các bạn đồng ý chí. Sư giảng tất cả mười tám Bộ Kinh như Niết-bàn, Đại Phẩm v.v…. Mỗi bộ đều đến mười biến, và đều có soạn nghóa sớ lưu truyền cho hàng hậu học, Đẳng giác là Pháp danh của Vua Minh Đế (Tiêu Quy năm trăm sáu mươi hai-năm trăm tám mươi sáu) thời Hậu Lương. Nên tự nói rằng: “Chọn mặt quy y lúc ngoài ba mươi tuổi. Ôm kinh hỏi đạo khi tuổi mới mười ba, cuối cùng biết đuợc khổ không, công do khéo dẫn dắt, huống gì ruộng phước năm đời, thầy trò hai thế hệ, nhân đã dày mà nghóa cũng sâu!” Bèn khắc văn bia nơi tháp, thuật lại đức hạnh của Sư ở dưới.  TỤC CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 7 CHƯƠNG II - PHẦN 3: GIẢI NGHÓA (Trong phần ba của chương II, Chánh truyện có mười vị, Phụ có bốn vị) 1/- Truyện ngài Thích Hồng Yển trụ chùa Tuyên Võ ở Dương Đô, đời Trần. 2/- Truyện ngài Thích Pháp Lãng trụ chùa Hưng Hoàng ở Dương Đô, đời Trần. 3/- Truyện ngài Thích Tuệ Dũng trụ chùa Đại Thiền chúng ở Dương Đô đời Trần. 4/- Truyện ngài Thích Bảo Quỳnh trụ chùa Bành Thành ở Dương Đô đời Trần (Minh Giải) 5/- Truyện ngài Thích Cảnh Thiều trụ chùa Bạch Mã ở Dương Đô đời Trần. 6/- Truyện ngài Thích An Lẫm trụ chùa Kỳ Xà ở Chung Sơn đời Trần. 7/- Truyện ngài Thích Tuệ Bố trụ chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn đời Trần (Tăng Thuyên, Huyền Biện) 8/- Truyện ngài Thích Vong Danh ở Vị Tân thời bắc Chu (Tăng Côn) 9/- Truyện ngài Thích Đạo Sủng ở Nghiệp Hạ, thời Nguyên Ngụy. 1 0/- Truyện ngài Thích Tuệ Tung ở Bành Thành, thời Bắc Tề. Đô. 1/- Truyện ngài Thích Hồng Yển trụ chùa Tuyên Võ ở Dương Thích Hồng Yển họ Tạ, người ở xứ Sơn Âm thuộc Cối Kê. Ông nội Sư tên Mậu, là người khiêm cung hòa mục, lắng đọng cẩn trọng, chẳng giao tiếp với thế tục. Cha của Sư tên Tạng, thông rành kinh sử, giỏi về văn tảo. Lương Hành Dương Vương nghe mà mến trọng nên xin làm quan liêu kết bạn. Sư là người phong thần dónh tú, mới hai mươi tuổi mà ngộ đạo, ban ngày đọc tụng kinh luận, ban đêm ngân vịnh thi thư. Giờ tốt cảnh đẹp, không hề phế bỏ học. Do vậy, Sư tuy nhỏ mà thông minh, khắp làng quận đều ngợi khen. Đến lúc trưởng thành. Sư vân du kinh ấp nghe khắp Số luận. Sau, gặp được Pháp Sư Đạo xước ở chùa Long Quang, Sư bèn hết lòng thọ học. Đặc biệt được thêm thường tiếp, lấy đó làm tuyệt luân. Do đó, các bạn đồng học đổi cách nhìn, lại cùng suy tôn kính phục. Chỉ trong vài ba năm bèn hiểu hết chỗ sâu mầu. Mới khai mở Pháp diên, nhóm tụ đồ chúng, mở rộng Luận Thành Thật. Nêu để nhàn nhã, văn từ trào tuôn trầm bổng. Các hàng hậu học, tuổi cao xét nghi rõ ng- hóa. Cầm kinh đội tráp, bỏ dối giữ thật. Do đó, kính ứng Pháp luân tổng trì các bộ. Ngài có dũng khí không ai hơn được, tùy chỗ bày giải. Sớm hy vọng rộng lượng, nhân đó mà theo chương cũ. Sư chăm nhìn nghó suy về mây khí, không hề tiếp đối, thấy trái ngược với bậc tiên đạt, không thể ban tình. Do đó những người lại học có sự cách ngăn, người nghe không hiểu. Sư bèn giữ chí, đóng cửa ở phòng nhàn, cao chuộng đạo ấy, suốt thời gian tìm kinh xem sử, cầu rộng thấy nhiều. Nước thu đài xuân, văn trong hướng xuất, người giỏi nghó mây bay, người tài thì từ ngữ đẹp đẽ, Sư lại giỏi các lối chữ Thảo chữ Lệ, xứng đáng thời tục, nhỏ nhiệm hơn cả cành lá cỏ chi, đẹp xinh cùng tộ ngân câu. Nên dung mạo, oai nghi, thi, thơ nơi Sư được gọi là tứ tuyệt. Những bậc tài giỏi đương thời đều suy tôn khen ngợi. Vua Thái Tông đời Lương lúc ở Đông Triều, cảm mến sự tài giỏi của Sư, muốn Sư hoàn tọc để dẫn làm Học só. Sư giữ chí bền bỉ chẳng hoàn tục, nên không thể đặt để. Gặp lúc vua Võ Đế (Tiêu Diễn năm trăm lẻ hai-năm trăm năm mươi thời Nam Lương) khai mở giảng diên, thỉnh các bậc Danh đức bày hỏi, mà Sư tuổi tác chưa phải thuộc hàng lão túc, nên chỗ ngồi theo thứ lớp cách rất xa, mở lời chống kháng cao luận, tinh lý nhập thần. Vua mừng vui, ngợi khen. Sư rất lâu, mọi người ai cũng chăm chú nhìn. Hình nghi Sư vẫn tự nhiên, tinh thần vẫn giữ như ban đầu, khiến mọi người càng thêm đượm nhuần sự cao sáng nơi Sư. Và lúc mời Sư vào hậu đường lại càng thêm lễ tiếp ưu đãi. Gặp lúc rợ Nhung yết hoành hành, đói kém liên miên, nhân đó, Sư bèn lánh đến Tấn Vân, lắng nhìn suối đá, giặc lại ruồng đuổi dân chúng ở núi, Sư liền vượt non lánh nạn, trôi dạt rong ruổi, không hề được yên ổn. Lương Trường Sa Vương Thiều trấn nhậm ở Dónh Đô, nghe đạo phong Sư mà phăng mối tìm đến, bỗng chốc khắp chữ cung đều bị vùi lấp. Ở thượng lưu đã ngăn trở loạn lạc. Sư bèn tùy việc trở về phương Đông. Nhân đó tâm giữ trong sự tónh lắng, nhìn lại suối rừng, mới mang roi trượng nhã da đến tinh xá Vân môn, trải qua khắp các núi sông đẹp xinh, dừng ở dài lâu. Sư lên Đình Thăng Bình ở đất Ngô làm bài thơ rằng: “Tịch mịch vật chiều xế Trang nghiêm trời lắng trong. Lữ hành nương roi gậy Lên cao thoáng khách tình. Suối gò lắm vết cũ Làng xưa hoặc tên mới, Khói đêm xông mờ sáng Mặt trời soi tinh sương, Riêng đi thiếu bè bạn Nhẹ bước ít đón nghinh. Tin chẳng chỗ ta nương Tâm thưởng vật nào sánh?” Rồi Sư bèn rão khắp các núi non, có ý chí muốn ở trọn tại đó, góp nhặt sửa sang chùa vũ, nhóm chúng giũa mài đạo nghiệp. Mãi đến lúc Vua Võ Đế (Trần Bá Tiên) đời Trần mở mang hoạch định, thay đổi cơ ngơi (năm trăm năm mươi bảy) Chư tăng xưa cũ ở Kinh Phụ nhiều lần cùng thỉnh mời, Sư nhìn chúng tăng ở núi mà nói rằng: “Tôi khổ nhọc chứa nhóm sở học hơn năm mươi năm, sự tình gặp phải ly loạn nên chưa nhàn rỗi để giảng nói. Nay thời cơ đã đến mà chẳng thực hiện, thì sao gọi là vì Pháp mà quên thân ư?” Nên đầu niên hiệu Thiên gia (năm trăm sáu mươi) đời Trần, Sư mới ra thành đô, giảng ở chùa Tuyên Võ. Học chúng lại nhóm họp, ai cũng trang nghiêm. Tuy Sư nhạo thuyết chẳng mệt nhọc mà tâm thường kết nơi chốn thâm u, nhân những lúc rảnh rỗi nghỉ giảng, Sư thường đến các chùa Khai Thiện, Định Lâm ở Chung Sơn để lắng bặt tâm ư yên ngồi. Khi đó, Sư lại cầm bút đề thơ rằng: “Roi gậy lên non trước Vén xiêm ra ngoài cửa, Lưới mỏng xoay che kín Tối hẹp lại quoanh oai Cây cao cành bóng nhỏ Núi ngày ít tiếng chim Thạch đài lúc trợt dép Lưới trùng chợt thấm y. Bên khe hoa tím nở Trên non mây trắng bày Gốc thông tỏa khói bay Nhà vắng lặng chẳng về Hang cùng không qua lại Quế rậm riêng tựa nương.” Gặp Sứ nước Tề đến, xe thuyền cùng tiếp, Thôi Tử Võ, v.v.. là những người có tài xuất cảnh, cùng bàn luận về chiêm đối. Mọi người không thể nêu cử. Thế Tổ Văn Hoàng (tức vua Văn Đế-Trần Xuyến năm trăm sáu mươi-năm trăm sáu mươi bảy) cho rằng Sư là người Nội ngoại đều tài giỏi. Có thể cùng kháng ngôn, bèn ban sắc mời Sư đảm nhận giữ lễ tiếp khách. Sư nắm giữ then chốt ôn nhã, dung nghi khôi ngô, khuôn phép oai linh, giảng nói đạo vua, tỏ rạng đức hạnh của Tuyên Đế, tài năng ngôn từ rộng vượt, biện luận nhanh nhẹn, dùng văn thật để đượm nhuần, lấy từ tâm mà dẫn dắt. Thôi Tử Võ, v.v.. đảnh lễ nhận lãnh cáo mạng, ngậm bội bắc Phiên. Vua Văn Đế ngợi khen, tán thưởng nồng hậu, ban tặng gấp bội lệ thường. Sư đều đưa sung vào của công, không nhận lấy một vật. Năm đó, bệnh cũ của Sư tái phát, người nghe thưa dần. Sư bèn ở nghỉ trong một ngôi thất nhỏ, hứa cho mọi người han hỏi. Sư có tâm nghó rằng chẳng thể để một mình mình biết, bèn soạn Thành Luận sớ mấy mươi quyển, phân tích mở mang tinh lý, dựng lập tư tưởng sâu sắc. Bệnh tình càng trở nên trầm trọng, sự việc chưa được hoàn thành. Đến ngày hai mươi mốt tháng chín niên hiệu Thiên gia thứ năm (năm trăm sáu mươi bốn) đời Trần, là đến lúc bệnh nặng quá lắm, nhưng thần khí Sư vẫn không mờ tối. Sư bảo với đệ tử rằng: “Chúng sinh vì tâm tham khiến cho mờ tối, tham cái ta thì rơi một mảy lông cũng tiếc, tham của người thì không bao giờ nhàm chán biết đủ. Sau khi thân đã chết, mà còn phải xây dựng mộ cao, coi trọng cái quách, cho rằng dưới chín suối lại kết bốn bên gần giữ làm sao có thể than vãn! Hoàng Phủ Mật Dương Vương Tôn hơi được ý ta, tuy biết nhóm về nơi gò đất tốt đẹp, mà chưa biết được tâm ở độ ban đầu. Nay, sau khi ta nhắm mắt qua đời, hãy đem thân hình xấu xa khô khan này mà bố thí cho các loài tất cả chúng sinh bay trên chạy dưới. Nếu ở đời trước có mắc nợ oan trái nhau thì nhờ đây mà đền trả. Nếu không cùng đối nhận thì đời sống ta hoàn toàn được tốt lành. Đó là tâm nguyện bé nhỏ cũng là thú hướng Bồ-đề. Mọi vật đều như thế!” Nói xong, Sư bèn chấp tay thị tịch tại chùa Tuyên Võ, thọ sáu mươi mốt tuổi. Mọi người biết hay không biết thảy đều sinh tâm thương tiếc. Ngày hôm sau (hai mươi hai tháng chín) đón rước nhục thân Sư đến tôn trí tại sườn núi phía đông chùa Khai Thiện ở Chung Sơn. Nhưng Sư từ lúc lìa xa thế tục cho đến khi thị tịch, chỉ lấy việc học làm chính, tháo tiết cần kiệm, chỉ đắp mặc y phẩn tảo chẳng dùng tới gấm hoa, mỗi lúc duyên tình xúc khởi liền ngay đó đặt để, mà văn thể Sư trôi chảy, ít có người tiếp nối. Sư soạn thuật thiên chương thọ tay bị tán mất. Người sau góp nhặt biên chép thành tập được hơn hai mươi quyển, gặp lúc giặt loạn thất lạc mất chỉ còn được tám quyển. Đến khoảng niên hiệu Thái Kiến ( 5 6 9- 583) đời Trần, Học só Hà Tuấn rất mến chuộng, bèn cất vào trong Bí tạng. Đô. 2/- Truyện ngài Thích Pháp Lãng trụ chùa Hưng Hoàng ở Dương Thích Pháp Lãng, họ Chu, người ở Quận Bái thuộc Từ Châu. Ông nội Sư hầu quan Tề cấp sự Hoàng Môn Thị Lang Thứ Sử Thanh Châu. Cha của Sư Thần quy Lương Viên Ngoại Tán Kî Thường thị Thái Thú quận Bái. Sư, thưở mới gá thai, theo lời mẹ Sư kể; vốn giòng họ Lưu, mộng thấy một vị thần cưỡi lầu điện vào bụng. Trong mộng như nói thân đồng với hư không. Thế rồi tỉnh thức khắp thân thể đều nhẹ nhàng, có khác ngày thường. Nhân đó dứt bặt các thức ăn tạp có mùi vị tanh nồng. Đến lúc Sư vừa mới độ tuổi búi tóc mà vượt trội khác bao nhiêu đứa trẻ bình thường. Hiếu kính thuần đủ, tiết tháo chí khí bền vững trắng trong. Nhà vang khắp sáu quận, khí trùm khắp ba biên. Thưở thiếu thời, Sư học tập binh lữ, sớm kinh hành trận, kiệm ước sửa thân, vinh nhục chẳng đổi thay, bỗng chốc mà gá Tiết Ninh Viễn tướng quân Từ Tử Ngạn đi đánh chiếm phương Bắc. Nơi cửa bày kích dài, ngồi nghỉ dưới cây lớn. Sư suy nghó rằng: “Binh là hung khí, thân là nhân khổ, biển dục rừng tà, làm sao nhận biết được!” Đến ngày mồng hai tháng hai niên hiệu Đại Thông thứ hai (năm trăm hai mươi tám) thời Nam Lương, lúc ấy Sư hai mươi mốt tuổi, bèn đến Thanh châu xuất gia nhập đạo. Sư vân du đến Dương Đô cầu học, đến chỗ Thiền sư Bảo Chí chùa Đại Minh thọ học các thiền pháp. Lại nghe Luật sư Thoán ở chùa ấy giảng văn luật bổn. Sư lại đến thọ học Thành Luận ở Pháp sư…Tiên ở chùa Nam Giản, học Tỳ-đàm với Tỉnh Công ở chùa Trúc Giản. Bấy giờ tiếng tăm Sư đã vang dội khắp kinh điện, thần cao trong học chúng, do đó, bạn miệng trời che bít tai khách, tâm nghó mắt nhìn, không đâu chẳng đua chạy cạnh tranh. Chỉ vì Pháp mầu xưa kia nơi non thứu những người truyền xướng ít rộng rãi. Đạo phong của Ngài Long thọ, các bậc Tông sư chẳng tiếp nối. Truyện trước ghi chép Ngài Pháp Lãng ở Nhiếp Sơn, mở huyền xét vi, những việc đời ưa chuộng. Đời người lâu dài nối nhau tồn tại. Sư mới đến núi ấy dừng ở chùa chánh quán. Có Pháp Sư Tăng Thuyên thọ học các Luận Đại Trí Độ, Trung Luận, Bách Luận, Luận Thập nhị môn, và các Kinh Hoa Nghiêm, Đại Phẩm, v.v.. ấy tức Di luân tạng bộ, nghiên tầm sâu mầu, nhả nghóa mới tinh, ngôn từ bao hàm hoa quan, chuyên môn gượng học, thời khóa đốc thúc thân tâm. Có thể gọi là công thầy gấp bội, lấy đó làm chứng. Đến tháng mười một niên hiệu Vónh Định thứ hai (năm trăm năm mươi sáu) đời Trần, Sư vâng sắc chiếu vào kinh đô, trụ chùa Hưng Hoàng, trấn giảng nối nhau. Do đó các Kinh Hoa Nghiêm, Đại Phẩm, Tứ luận văn ngôn mà các bậc hiền triết trước kia chưa giảng nói, chỗ mất dần của hàng hậu tấn, Sư đều chỉ trích nghóa lý, nêu phát văn từ đến cùng, nên có thể lời nói khí độ trong sáng dễ hiểu, chúng thường đông hơn ngàn người, phước tuệ càng rộng lớn. Do đó, người nghe nhóm họp, co đầu gối rẫy mồ hôi. Pháp y có hơn ngàn bộ cất chứa ban cho thường kết, mỗi lần lên pháp tòa thì một lần thay đổi y áo. Giảng nói các kinh luận trước mỗi thứ hơn hai mươi biến. Suốt hai lăm năm lưu nhuận chẳng dứt. Thời gian ấy dựng khởi bốn Bộ. Hoa Pháp Luân của hai cung, đương thời chẳng sánh lường. Đến nửa đêm ngày hai mươi lăm tháng chín năm Tân Sửu, nhằm niên hiệu Thái Kiến thứ mười ba (năm trăm tám mươi mốt) đời Trần, Sư thị tịch tại phòng ở chùa, thọ bảy mươi lăm tuổi. Qua ngày hai mươi tám tháng chín, an táng tại đỉnh núi phía Tây Nhiếp Sơn trong làng La Lạc, huyện Giang thừa. Ban đầu, Pháp Sư Tăng Thuyên cùng thọ học với Sư. Huyền Chỉ tỏ sáng, chỉ còn lại Trung Quán. Vì nếu chẳng phải tâm hội triết lý, thì làm sao có thể khế với thanh ngôn ấy, mà dấu vết rừng sâu vị Thiền cùng được. Mãi đến sau này bốn vị ra ứng phó, ba nghiệp giúp thừa. Xin theo thệ nguyện ban đầu, chẳng trải qua lời, mãi lâu sau mới giảng nói. Nên ngài Tăng Thuyên nói rằng: “Pháp này nhiệm mầu, hàng thức giả hãy thực hành, không để ra khỏi phòng mà liền có mở bày. Nên trong kinh có dạy: Người chấp ngã kiến, chớ nói kinh này. Người rất ưa thích pháp cũng chẳng vì nói nhiều. Bởi vì thuốc bệnh có, nhưng không thể luống thực hành. Sư vâng phụng ý chỉ chẳng dám nói gì. Đến lúc ngài Tăng Thuyên thị tịch, bốn vị mới dám nói, đều tự chuyên oai dung, đều bẩm thọ thần lược. Ngài Tuệ Dũng ở chùa Thiền Chúng, ngài Huyền Biện ở chùa Trường Can, Sư ở chùa Hưng Hoàng. Ngài Tuệ Bố trụ chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn, cửa thiền mở rộng, tiếng tuệ vang xa, nhưng tất cả đều chẳng cao hơn Sư. Ngài Tăng Biện thắng nghiệp sáng trong. Định tuệ đều nổi bật, nên Ngài giảng xướng gồm cả chùa Thiền Chúng, đó cũng lo sự dốc lòng mài giũa của ngài Tăng Thuyên. Nhưng về nghóa thể thì có trái ngược so với Sư nên khiến bác bỏ trong pháp tòa ở chùa Hưng Hoàng, nương vào đó mà đàm tiếu. Còn hai ngài Tuệ Bố, Tuệ Dũng thì nên đọc xem ở biệt kỷ (Truyện riêng). Xưa kia, ngày mồng bảy tháng sáu niên hiệu Thiên giám thứ mười sáu (năm trăm mười bảy) thời Nam Lương, Thần Tăng Bảo Chí có dự ghi tại chùa Hưng Hoàng rằng: “Chùa này sẽ có bậc khai só mặc áo xanh mở mang giáo hóa giáo Pháp Đại thừa.” Và khi Sư du học thì ban đầu mặc áo nạp màu xanh. Khi lên nguyên tịch mới cùng phù hợp. Lại nữa, Nam Mạch cư só Đỗ Pháp Xán lúc tuổi ngoài tám muơi rất biết quy tâm, lúc xưa mộng thấy trong chùa có phướn hoa nhạc trời lấp cả điện đường. Pháp chúng tăng tục đông đầy cả diên tịch, đến lúc Sư đến mở hội. Ông (Đỗ Pháp Xán) riêng thiết trai giảng, lại rất phù hợp. Lại nữa, Ngày mồng bảy tháng năm niên hiệu Thái Kiến thứ mười hai (năm trăm tám mươi), Tịnh nhân Trướng Hạ mở trai mất rõ. Ban đêm, Sư gõ cửa thúc giục, mà tiếng hồng chung tự ngân vang hồi lâu mới dứt, nên điềm tốt lành ấy sớm hiện rõ. Các trường hợp được nêu bày như thế. Đông Triều ở điện Trường Xuân, nghóa tập Phó Quân Thân Diêu Ngọc Bính, thuật lại sự dựng lập nghóa giả danh của các Sư, lấy đó làm vinh xứng. Đâu chỉ là các bậc Tông tượng của họ Thích, mà cũng là nghi biểu của trời người. Nên những gì Sư có được do đàn việt cúng dường đều sung vào việc tu tạo kinh tượng, sửa sang chùa tháp, cứu gi- úp kẻ cùng khốn nguy ách. Do đó, trong phòng Sư nuôi các loài ngỗng vịt, gà chó, v.v.. rất nhiều loài. Sư đi đến đâu hễ trông thấy thì không loài gì chẳng đem về nuôi. Đến lúc Sư bắt đầu ngủ nghỉ thì đều im lặng không một tiếng động. Lúc Sư dạo chơi thì chúng kêu sủa om sòm ồn náo. Đó cũng là do sự hoài cảm mà nên! Thị Trung Lãnh Quân Lô Lăng Vương tiếng tăm hưng thạnh, quyền hành nhờ nương giới ước, bèn ngưỡng tâu trình thừa hoa làm bài Minh tụng, Văn chí nơi mộ tháp Sư. Thái tử chiêm Sự Tế Dương Giang Tổng, nên Trần chúa có viết bài minh rằng: “Nguồn lớn từ xa đến, truyền cỏ thơm phảng phất mùi hoa Huệ. Quân tử, triết nhân, anh phân là tiếp nối. Cờ đỏ đã nắm, dây thao xanh bèn kéo dài. Tâm phục hổ nhung ấn đính nhị điêu địch chế. Công đã bao gồm quân, nghiệp chẳng phải xuất thế. Giã từ thanh sắc kia, vượt khỏi bến bờ này. Bến bờ ấy sao xé phá rách võng lưới. Áo Nhẫn sớm ghi nương gá lầu qua đêm. Thuyền qua biển khổ ấy, cạn hết sông ái nầy. Nếu chẳng phải bậc Trí só nầy thì ai có thể gởi cậy tuyên dương? Mây pháp trùm khắp, mặt trời tuệ soi sáng cùng. Đã quẩy ngang mái chèo tự mở vàng nóng, mộng bằng trống nói, ứng dị chung sương. Biết cơ biết mạng, đồng kia hiện bệnh, tâm sớm gá theo, độ thoát khó xong, hoá duyên đã vậy mới yên định nơi khâu tỉnh. Đuốc trí chợt tắt, núi đổ xa ở Liêu hạ. Liêu hạ không nhỏ vẫy rơi ngấm lạnh. Tiếng đàn thừa dưới ánh trăng mờ, sương mốc phủ mờ gốc thông sâu. Hương tán cùng phần mộ cuộn quanh rừng ngủ. Thiết tha tiếng sáo trong, xa xa vọng tiếng trống, khói miền quê phủ bốn phía, cùng tiếng chim đơn lẻ gọi kêu. Gió thê lương rít lên dứt dòng vội phát lạnh. Thần thức về cõi tịnh, hình hài trầm lắng trọn ngàn xưa. Khắc chút hương thơm này lên phần mộ, để tiêu biểu cho lan xã. 3/- Truyện ngài Thích Tuệ Dũng trụ chùa Đại Thiền Chúng, ở Dương Đô. Thích Tuệ Dũng, họ Hoàn thị. Tổ tiên Sư là người Long Kháng thuộc Tiều Quốc. Ông nội Sư làm Pháp Thức Thượng thư Ngoại Binh Tiền Đường Lệnh. Nhân đó ẩn vết ở núi Hổ Khâu, sau đó lại dời đến ngụ ở làng Hoàn; làng Đông, huyện Ngô, quận Ngô. Cha của Sư dâng hiến tuổi trẻ sớm qua đời. Mẹ của Sư họ Trương, Bà nằm mộng thấy đích thân đến chỗ tháp Phật, được hai pho tượng Bồ-tát bằng vàng. Bỗng nhiên Bà sinh được hai người con trai, và đều xuất gia nhập Đạo từ thưở bé. Người con lớn tức là sa-môn Tuệ Thông, còn Sư là con thứ. Ban đầu, Ngài ra Dương Đô, nương tựa Pháp Sư Tắc chùa Linh Diệu làm Hòa-thượng, nhuệ chí thiền tụng, nuôi thân bằng rau cải. Tùy phương thọ học, chẳng việc chuyên môn. Há chẳng phải Bảng vàng thành vật báu, gang sắt ngọc bích có đẹp hẳn phải đợi do công giũa mài. Năm Sư thọ giới cụ túc, bèn nương tựa Luật Sư Phong ở chùa Tónh Chúng, học Luật Thập Tụng. Có các Sa-môn Tăng xước ở chùa Long Quang, Pháp Sủng ở chùa Kiến Nguyên đều là những bậc đạo hạnh thanh tú, trong nước, tiếng tăm vang xa, phạm hạnh khuôn mẫu, Ngài nương tựa thọ học Tông Thành Thật. Khắc tình mài giũa, bỏ ăn quên mệt nhọc. Khổ nghó đến hầm hố đắm chìm, lo rơi lạc vào đó. Trải qua thời gian không kể nóng lạnh, tập học rộng khắp mà thành đạt. Đến năm ba mươi tuổi, Sư bắt đầu xoay bánh xe chánh pháp. Từ đó, mọi người khắp nơi xa gần tìm đến rất đông, mở lớn trường giảng. Cao gần Thượng kinh, người nhóm họp rất đông. Sư chuyên giảng luận văn gần cả mười Biến. Không bao lâu cuối thời Nam Lương sụp đổ, mọi người có trăm thứ biến đổi. Sư thường nghó muốn trốn lánh cuộc đời nhưng chẳng biết về đâu! Bấy giờ tại Nhiếp Sơn, Pháp Sư Tăng Thuyên đang nắm thẳng Nhất thừa hoành hành xuất thế. Tùy có dẫn ngộ, Sư có nguyện muốn nương theo đó. Sư đến trước chùa Báo Ân, bỗng nhiên thấy một ngưởi bảo là từ Nhiếp Sơn đến và trao cho Sư gậy trúc Như Ý rồi nói rằng: “Sau này sẽ được như ý!” bỗng chốc biến mất. Vài ngày sau lại có một chiếc hòm sơn đựng một bộ Tam luận đặt ở trước cửa sổ phòng Sư. Sư tìm xem chẳng biết từ đâu đưa đến. Sư vui mừng có được điềm tốt lành ấy, xét soi mạnh dạn cảm thấy khó kham nhận, nhân đó, Sư phẩy áo bỏ xóm làng, gá lời cùng suối đá, mong Thần thầm hợp, chẳng ngóng bạn cầm đài. Tu tập không tuệ, thật truy tìm gió của rừng xa, bèn đến dừng ở tại chùa Chỉ Quán, sớm tối khẳng khái như vậy. Pháp sư Thuyên quên cả phân biệt tuổi tác, nghóa gồm thầy bạn. Đó cũng là cung và vũ cùng hài hòa nhau, là chí Ngoại lam đãi ích. Từ đó, Ngôn Văn Chương Cú, hái gặt những điều nhiệm mầu ít có. Hễ giải thích kinh, thì không gì chẳng bao gồm nêu bày. Đại Pháp được truyền rộng thật là nhờ đó. Đến niên hiệu Thiên Gia thứ năm (năm trăm sáu mươi bốn) đời Trần, Thế Tổ Văn Hoàng (Trần Xuyến) thỉnh Sư đến giảng ở điện Thái Cực. Trăm phép đều bày, bảy chúng đều hợp, mọi người đều kính ngưỡng trông xem đạo phong, tiếp gót cùng đến theo hàng lớp, cùng nghỉ gá bóng thành đông. Từ đó, tiếng tăm Sư vang vọng rất xa. Sư trụ chùa Đại Thiền Chúng suốt mười tám năm. Đến lúc Sư xây dựng giảng đường, môn nhân thính chúng cùng dựng xây không mấy ngày. Sư xây dựng mái cao, mở mang rộng lớn sáng sủa. Đề hiệu là “Bát-nhã Đường.” Đến ngày hai mươi tám tháng năm niên hiệu Chí Đức thứ nhất (năm trăm tám mươi ba) đời Trần, Sư bị bệnh, qua thời gian ngắn, vào một buổi sớm mai, Sư thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi. Lúc Sư tịch, thần sắc không đổi khác, trải qua một đêm mà trên đảnh đầu vẫn còn ấm. Đại chúng đều lấy làm lạ. Qua ngày mồng sáu tháng sáu, an táng tại đảnh núi ở phía Tây Nhiếp Sơn. Lúc còn sống Sư giảng các Kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Phương Đẳng, Đại Tập, Đại Phẩm, v.v.. mỗi thứ hai mươi biến. Các luận Đại Trí Độ, Trung Luận, Bách Luận, Luận Thập nhị Môn. Mỗi thứ ba mươi lăm biến. Ngoài ra còn có các Kinh Pháp Hoa, Tư Ích, v.v… vài bộ nhưng không ghi chép. Lại nữa, Sư sớm xả bỏ thân ái, ốm yếu mà trong sạch tiết chế. Văn chương thanh biện cao vợi ở đương thời. Đến nỗi mở tay mở chân mà chẳng đen chẳng thâm, thật là rường cột của thời Tượng giáo, là rừng rậm tinh nghóa. Các Đệ tử nhớ nghó lễ thầy trò, bèn khắc bia đá tưởng niệm. Văn bia đó do Trung Thượng thư lệnh Tế Dương giang Tổng soạn. 4/-Truyện ngài Thích Bảo Qùynh trụ chùa Đại Bành thành ở Dương Đô. Thích Bảo Quỳnh, họ Từ, vốn người xứ Đông Hoàn, vì lánh nạn nên giã từ đất Cử, sau đến ở huyện Tỳ Lăng Khúc A. Ông nội Sư tên là Ung; làm Hữu Quân thời nhà Tề. Cha của Sư là Tăng Đạt; làm Lâm Xuyên Vương Tư Nghị, đời Lương. Đều là những vị khí cục cao vợi, kính vâng Nho tố. Sư thân cao bảy thước năm tấc, trên vai có dấu vân rồng, miệng có ba mươi chín chiếc răng. Dị tướng kỳ lạ vượt trội khác thường, nên hay suốt kinh phong thái, chứa đủ oai dung, không áo quần xiêm gấm, mừng vui với y phục đơn sơ. Ngài xuất gia từ thưở nhỏ, kímh thờ sa-môn Pháp Thông làm thầy. Ngài Pháp Thông lúc mới gặp đã liền ngợi khen mến qúy, rất cho là Đạo khí. Chẳng sai sứ hầu phục ân cần. Năm qua Chí học, Sư muốn bẩm học giáo nghóa với Pháp Sư Pháp Vân ở chùa Quang Trạch, chỉ vì kinh tạng vụt cao, lời tiếng thật vọt nhảy, mà Sư không ngại, chạy nhảy nhả dàm rộng xa, trộm nghi văn từ dồi dào, kiêm đề xướng cao vời. Sư lại dời đến nghe Pháp sư Tiên ở chùa Nam giản giảng dạy, nghiên cứu tinh yếu số vận, danh mở sáng suốt, thấu cùng nghóa sâu, Pháp Sư Tiên có lần nhìn Sư mà riêng dự nghi ba lần tán thưởng. Sau đó, đang lúc trên tòa cao khuyên khắp mọi người cùng biên chép, từ đó môn đồ đệ tử truyền nhau biên chép sớ ấy. Năm mới thọ giới cụ túc, Sư đã có tài năng đáp thuật. Chưa tới năm năm đã được làm Pháp Chủ. Sư cùng với Pháp Sư Tiên mở mang giáo hóa thạnh hành. Vua Võ Đế (năm trăm lẻ hai-năm trăm năm mươi–Tiêu Diễn) thời Nam Lương là người thông suốt tất cả Diệu Chỉ của Tam Giáo, Vua chọn thỉnh các bậc Danh đức phân ra đi mở mang Đạo pháp khắp các nơi. Với Cao nghóa của Sư bèn được chọn ở tâm Vua. Vua ban sắc luân chỉ mời Sư vào điện Thọ Quan. Nhưng vì lời trọng rừng tốt, lại xem nhẹ mây các, tiện đó, Sư khước từ trở về quê hương trụ chùa Kiến An. Thượng Hoàng Hầu Hoa phân trúc bang ấy thường rất tôn kính Sư, lại gồm cả tình thầy bạn. Một buổi sáng tại quận ấy mọi người già trẻ cùng ồn ào đua nhau bảo rằng: “Tại chùa Kiến An có rồng trắng xuất hiện”. Bèn đua nhau tìm đến chùa thì chỉ trông thấy Sư đang giảng. Có những kẻ só nhận biết lấy làm lạ mà nhắm vào Sư, bảo là “Bạch Quỳnh”. Vốn cùng giản tử Chu Hoằng Chánh sớm tỏ bày chẳng nghịch. Ông ấy chợt thốt lời rằng: “Thật là bậc tài tuấn ít có trên đời mà chẳng ở chốn kinh đô mở bày dẫn dắt, cưỡi bè than thở, khiến người an ủi lớn!” Sư vì Học chúng thỉnh nên trở lại chốn kinh đô, khai giảng Đề luận Thành Thật. Có sa-môn Tăng Chánh Tuệ Linh thiết nạn liên hòan. Sư bèn từ từ phẩy phất trần thong dong mà đáp. Ngài Tuệ Linh mới dẫn lời hỏi lỗi khi xưa của Viễn Công rằng: “Chẳng nhanh mà chóng, cái thoi làm sao?” Sư đáp: “Chẳng nghó tạo nghiệp, đâu được tinh chắc. Ngài Tăng Linh nhẹ bớt cử chỉ, nhã nhặn ngôn từ, khách chủ cùng mừng vui rất thêm xưng thưởng. Lúc tuổi về già, Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) chỉ chuyên việc huân tu. Các hàng Thần hạ nép mình theo phong hóa, lời chân tình quạt mát thế tục. Tấn thân người học thảy gồm cả văn nghóa. Do đó, thường khai giảng giáo lý các kinh Duy-ma; Niết-bàn, Đạo trùm cả dưới tòa, ân đượm cùng thượng tịch, mở gò má, răng bén nhọn, lưỡi gỗ, ngà nhọn sắc. Tài Tuấn bao la, khỏi theo sương mốc bốc lên, cũng có ngọc sáng, gió điêu cuộn xanh, kéo xe ngựa tía tràn ngập đường chùa, áo mão trâm cài đầy khắp pháp tòa. Sự hưng thạnh cảm vật của Vua Võ Đế ít người có được như thế. Còn như Mậu Quán Dân vinh dự rất trọng, Nhâm Hiếu cung phong phú bút từ mà đều tay cầm quyển xét nghóa nên thỉnh nghiệp. Nhâm hiếu cung nghỉ bỏ mưu sống ở đời, chỉ rau cải tham học. Về sau, Tấn Anh Hoa cũng theo cha đến nghe giảng, riêng khéo hiểu sâu huyền nghóa, nên Sư bèn vì giảng Kinh Niết-bàn, truyền bình chẳng mất. khi ấy mới chứng nghiệm. Vẫn chưa nhập đạo mà vô thường đã đến. Vài hôm sau, trên đỉnh đầu vẫn còn ấm, ba ngón tay co quắp lại, lại cùng các vị trời bay đến nơi nhà ở, cùng với cha đàm nói rõ ràng như còn sống, ngợi khen công hạnh xuất gia, xưng dương Pháp lợi. Không bao lâu thì bay bổng lên hư không mà biến mất. Còn lưu lại mùi hương ở nhà qua ngày sau mới hết. Nên biết kia đây khác người mà cùng làm học chúng. Thật khó lường biết bổn lượng ấy. Đến lúc nhà (Hậu) Lương sụp đổ, nhà Trần dựng xây cơ nghiệp. Vua Võ Đế (Trần Bả Tiên năm trăm năm mươi bảy-năm trăm sáu mươi) tôn sùng Chánh pháp, thưởng thức Đạo vị sâu xa. Nhiều lần dẫn lời vàng từng mở ngọc điệp ban lời nói cười thuần quen tìm hỏi danh lý. Mùa Hạ niên hiệu Vónh Định thứ ba (năm trăm năm mươi chín) đời Trần, ở tại Điện Các Trùng Vân, Sư giảng rộng Kinh Đại phẩm, mộng thấy vị thần mặc áo đỏ đến lễ bái mà can ngăn rằng: “Bát-nhã rất khó, kính mong giảng nhanh. Nhiều lần, chuyển giảng vài từ vượt đến.” Tới ngày mồng mười tháng bảy, Sư mới bạch với chúng tăng rằng: “Đêm trước có vị thần đến thúc giục kinh giảng còn lại một quyển. Năm trước lấy xin giảng xong, vừa ra cung điện sấm bão đã vang ầm. Lại trở về vừa mới đến chùa thì mưa chợt lạnh. Mây sấm chấn động cùng một lúc đều tan biến. Há chẳng phải người tốt giảng pháp, u minh kính trọng?” Đến lúc Vua Võ Đế băng mới biết lời cảnh báo trước. Vua Văn Đế (Trần Xuyến năm trăm sáu mươi-năm trăm sáu mươi bảy) soạn lịch, lễ khác càng sâu xa, ban sắc ty luân thỉnh Sư làm kinh ấp Đại Tăng Chánh. Sư hết lòng khước từ mà đôn đốc khuyên dụ càng lớn. Sư bèn nhìn lại đức Nhân giúp cho khuôn phép mọi vật, bèn về đảm nhận lấy, nhưng vì Kim Lăng là chốn đô hội, là nơi y cứ các Triều tông, chùa chiền nhiều như rừng, nghóa diên dường chợ. Năm Bộ sáu quận quả thật tập hợp xen tạp, chỉ điều nước sữa, hòa ít muối mơ, phần nhiều là voi sa lầy, rốt cuộc làm cây khô. Sư bèn trấn giữ, đem vô vi mà an ngự. Chương Cấm chẳng phiền mà ngăn phạt thường tỉnh xét. Nên Tăng ni kính ngưỡng đó mà tự trang nghiêm. Đạo tục khen ngợi mà càng thêm cung kính. Nhật dụng thường ngày của bảy chúng mà chẳng biết, bốn phương xa xôi kính trọng đạo phong mà chẳng đủ. Nên được Pháp vị làm chủ lâu dài, tìm dấu mà không vết. Sư từng tấu trình Biểu Văn xin thối chức nhưng lại càng thăng. Trước sau chỉ khiến ở tại ấy. Từ đời Lương về sau, Sư là vị tăng đảm nhận trách nhiệm un đúc oai nghi. Phụ giúp giữ gìn bảo vệ các bậc Vương Công. Đượm nhuần tốt đẹp bày khắp cả Trịnh Sở, nên khiến cho nước chảy soi chiếu trên đường cái. Lại tốt tuyên bày ở Đường vũ. Từ lúc Sư đến chóng bỏ thể thức trước, tự tạo dựng linh thọ chỉ theo Tức từ, Pháp phục hoại sắc che thân, đồ ngồi ni-sư-đàn nâng gối. Lặng lẽ như vậy, dẫu có Địa vị vẫn như không, từ chốn triều đình đến vùng dân dã đều mừng vui sự trong trắng của Sư. Những người đồng bạn ngợi khen Sư sống đúng như Pháp. Các nước ở hải Đông đồ vẽ hình tượng Sư đem về rất nhiều, tôn thờ lễ bái kính ngưỡng từ xa. Người xưa có nói: “chẳng phải nổi tiếng để được khen, ai động đến phương khác?” Sư đối đãi với người Hiền như thế. Đến ngày hai mươi tháng hai năm Giáp Thìn, nhằm niên hiệu Chí Đức thứ hai (năm trăm tám mươi bốn)- đời Trần, mới biết không yên vui. Pháp Sư Bảo Qùynh ở chùa Kiến Sơ là bậc ngẫu đối của đương thời, ít người cùng học, tiếng tăm đức hạnh đều vang xa. Đêm đó, vị Thần bỗng đến báo với Sư rằng: “Sa-môn Tăng Chánh (Bảo Quỳnh) ở Chùa Bành Thành nay đã Vô thường!” ban ngày, Sư mộng thấy trên trời có đưa sớ đến thỉnh giảng. Đến ngày hai mươi tháng ba, Sư giữ chánh niệm mà cáo chung, răn dạy việc hậu sự an táng chớ bày phiền toái, dựng lập Bia Văn Minh Chí. Sư thọ tám mươi mốt tuổi. Hậu Chúa (Trần Thúc Bảo) có ban sắc viếng điếu an ủi. Mọi sự cần dùng trong lễ tang thảy đều cung cấp. Bèn đem các thứ nghi vệ của nhà vua đẻ làm trang hoàng nghiêm sức, thật là điều ít có từ xưa đến nay! qua ngày mồng năm tháng bốn, an táng tại phía nam Chung Sơn; nơi tháp mộ xưa của các bậc Danh tăng. Bấy giờ, khắp các nẻo đường mọi người nghẹn ngào khóc thương, cùng đua nhau tìm đến, các hàng tăng tục kinh ngờ than tiếc, nơi vùng biên ải đồng quê đều biến sắc! Ban đầu, Sư mới đến kinh đô, cùng vào Pháp tịch, đã không ai biết, nên chẳng có được phòng ở. Sư bèn cầu xin Sa-môn Tăng Chánh Tuệ Siêu gởi cho ở chùa Nam Giản. Khi mới nghe, ngài Tuệ Siêu chưa chấp nhận, nhưng khi trông thấy Sư thì liền kinh lạ bảo rằng: “Gã thiếu niên này về sau sẽ tiếp nối ngôi vị hiện nay của ta, là nơi giao phó pháp-môn, sao lại lo không phòng ở? “Bèn bảo Sư làm giềng mối trong chùa, vui vẻ sắp đặt. Đến lúc Hiếu Tuyên Văn Đế (Trần Xuyến năm trăm sáu mươi-năm trăm sáu mươi bảy) thỉnh giảng, Thái tử thường đón rước, thường thấy vị thần hình tướng cao lớn hùng vó, âm thầm theo phụ giúp. Và lúc cuối cùng Sư vì Đại tướng Quân Chương Chiếu Đạt mà giảng pháp, cảm thông cũng như vậy, lại chẳng thể lường biết được! Nhưng Sư đức hạnh nồng hậu dung thứ mọi người, kêu gọi nhún nhường kiệm ước, đi ở không trái nghịch, lời nói việc làm không phải chọn lựa, khắc trang chẳng nghỉ, chăm chăm giảng đạo, nói lời xa lớn, phát nghóa rõ ràng. Hoặc lúc gặp tay kình địch là gặp chính mạng, vẫy cánh quạt mỏng rưới đã tiêu tan. Nên Sư thật có lắm Đồ chúng mà đều vâng thuần không đánh đấu. Đến lúc về già, tăng chúng trông mong càng trọng, Sư cư xử càng nhẹ, chỉ ở nơi vắng lặng không thiết bày, chẳng đặt để các thứ nghiêm sức, những vị có tuổi tác đến tham yết, tăng tục đông nhiều kề sát vai. Sư tìm phương tiện đi nơi khác để lánh sự cung phụng vinh hạnh ấy. Đó có thể gọi là quen lờn với người đời mà vẫn nhàm không, bó buộc hiện còn mà vô sự. Lại là chỗ chí lý của bậc Thánh, lời nhiệm mầu của khai só. Trăng rơi tham hoành, thanh tụng không buông lung, Sư lại phải đốt đuốc chong nhang phảng phất lễ sám mới tiêu. Vết tích biếng lười, tâm siêng năng, ngoài hòa đồng, trong bí nhiệm. Những lúc rảnh việc tuyên dương, Sư chậm rãi nhàn rỗi. Sư tham cứu Huyền nho, thấu suốt cùng tử sử. Giỏi viết chữ Triện chữ lệ, hiểu rõ mọi vật, nắm bắt cao huyên, đều vào tánh linh tất cả cùng gồm hợp. Lại có thể gọi là quấy nhiễu mưu lớn mà không bỏ sót Đạo nhỏ. Sư giảng các kinh luận như: Luận Thành Thật, gồm chín mươi mốt biến, soạn Huyền nghóa hai mươi quyển, giảng Văn ha mươi biến, soạn văn sớ mười sáu quyển, giảng Kinh Niết-bàn ba mươi biến, chú sớ mười bảy quyển. Giảng kinh Đại Phẩm năm biến, soạn sớ mười ba quyển. Ngoài ra, còn có Đại thừa Nghóa, mười quyển, Pháp Hoa, Duy-ma v.v.. các kinh đều có soạn Văn sớ, ở đây không ghi đủ, truyền bá ở châu ấp. Có Sa môn Phổ Quang là cháu con người anh của Sư nương nhờ Phong huấn, bày nêu việc làm rõ ràng xác thực, nghó mến mộ thưở bình thường xưa kia của Sư, nên tìm xin theo Sư vónh viễn, bèn cùng bạn đồng học là Sa-môn Đạo Trang và Minh Giải lập văn bia tại Thành cũ ở Kim Lăng. Văn bia ấy do Sa-môn Thích Pháp Luận ở Đạo tràng Tuệ Nhật soạn. Sa-môn Đạo Trang nhập thất mà nổi tiếng, việc nầy thấy trong biệt ký, sa-môn Minh Giải lên giảng đường để lại vinh dự, tiếng tăm, Vương Lãnh Giang Đô, đến cuối đời Tùy, an nguy thế nào không biết. Đô. 5/- Truyện ngài Thích Cảnh Thiều trụ chùa Bạch Mã ở Dương Thích Cảnh Thiều, họ Nhan, người ở xứ Thượng Ngô thuộc Cối Kê. Vừa năm đi học thì Sư xuất gia vào Đạo, tôn thờ Sa-môn Tăng Quảng, là người chú của Sư làm thầy. Ngài Tăng Quảng luật hạnh tinh nghiêm, là bậc lãnh tụ của đương thời. Bau đầu, Sư đi đến thành đô nghe giảng, nhờ đó có được khả năng đàm luận. Đến năm hai mươi tuổi, Sư bèn trở về quê thọ giới cụ túc. Ngài giữ gìn kính tin như tay bưng bát dầu, có sa-môn đạo Lâm thỉnh Sư ở lại quê nhà, bỗng nhiên mộng thấy tướng lưỡi Sư rộng dài, mà lại như muốn sắp đứt. Đến lúc thức giấc mới suy nghó sâu xa. Lưu luyến ấy trở thành rơi mất, bèn hổ thẹn sám hối lời thỉnh trước mà trở lại khuyên Sư đến thành đô để mở rộng Pháp hóa, truyền nối ngọn đèn sáng không để dứt. Sư bèn đến chùa Trang Nghiêm kế thừa Đạo nghiệp của Sa-môn Tăng Mân. Kế đến, Sư thọ học với Sa-môn Tăng xước ở chùa Long Quang, đó mới là chi nhánh của Sa-môn bảo Quỳnh ở chùa Khai Thiện. Sư lại tham tầm học tập ba Tạng, bao gồm các tông phái. Năm hai mươi ba tuổi, Sư giảng kinh Đại Phẩm, Pháp vị đượm nhuần đương thời, mọi người kề vai chen chân đầy đường tìm đến. Sau đó, Sư trở lại các chùa Kiến nguyên, Tấn Lăng v.v.. giảng nói Kinh Luận, gồm cả các tông. Sư lại phát nguyện. Năm bốn mươi tuổi mới trở lại giảng dạy, mà học chúng cùng nhau đoái hoài, Sư không giữ nỗi sự kính chuộng ấy. Năm ba mươi chín tuổi, Sư về làm giảng chủ ở chùa Kiến nguyên, lúc sắp thị tịch có để lại Di chúc truyền pháp, nên nên Sư phải vâng theo sự sắp bày khác mà ngồi diễn giảng. Thính chúng đến thọ học đông vượt cả hoài bảo của thầy. Lương Giản Văn Thiệu Lăng và Nhạc Dương v.v.. rất khâm phục kính trọng, quy hướng vâng thừa sự dạy răn của Sư. Vì theo ách nạn, đời sau đổi tình nổi trôi, Sư bèn dời sang ở Dự Chương, cùng thông đạo nghiệp. Bấy giờ, gặp Hoàng Tư Không ở Dự Châu v.v.. vốn có tâm kính ngưỡng, nên cầu thỉnh Sư làm Giới sư. Ngài gặp được Sa-môn Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế; người Ấn-độ, là bậc thấu suốt bao gồm giáo điển Đại thừa, Tiểu thừa, vừa tự thực hành lại vừa nhiếp hóa người khác. Mới gặp một lần mà mừng vui đàm luận với nhau. Ngài Chân Đế ngợi khen rằng: “Tôi đã đến nhiều nước, mà ít được gặp người như vậy!”. Bèn dừng ở tại đô thành Dự chương, phiên dịch Tân Kim Quang Minh, và Luận Duy thức, kinh Niết-bàn, Trung Luận Bách Cú, Trường giải thoát thập tứ âm, v.v.. Sáng trao chiều truyền, tối nghe sớm lại giảng nói, nên người đời có lời trao truyền rằng: “rót vào bình rồi lại trút ra”. Coi Sư như Ngài La-thập tái sinh. Nhạc Dương Vương lập ngôi tại Kinh Châu, sai sứ đưa thư xa đến muốn đưa rước Sư đến Sở Đô hoằng pháp. Vì nghó nhớ sự sâu nặng của Báo Địa, lại ban sắc thỉnh mời, Sư bèn trái ngược. Đến đời Trần, Vua Võ Đế (Trần Bá Tiên năm trăm năm mươi bảy- năm trăm sáu mươi bảy) kế thừa sự nghiệp, đều kính chuộng chánh pháp, ban sắc thỉnh Sư trở về lại thành đô, vâng thừa kính ngưỡng phép tắc giới luật, giữ lễ ưu hậu càng lớn. Niên hiệu Thiên gia thứ tư (năm trăm sáu mươi ba) đời Trần, tại Cối kê có các sa-môn Tuệ Tảo, Đồng Thái, Tuệ Luân v.v… hơn hai trăm vị, liền thỉnh Sư đến giảng Đạo tại chùa Bạch mã. Sư mở mang, truyền trao giáo hóa có hơn mười năm. Đã lên đó là thuận, Sư bèn bảo Sa-môn Tuệ Tảo tiếp tục giảng nghiệp. Tự thân Sư sang Ngõa Quan yên tọa một thời gian ngắn, thực hành pháp môn sâu mầu. Bấy giờ, có Sa-môn Trí Khải là bậc có đình tuệ khó ai vượt hơn, nhân thần rất liều lượng, tónh thán bén nhạy mọi việc v.v.. Túc thành, cùng các người học trước từng thỉnh Sư giảng lại, Sư lưu ý lâu dài, bèn lấy cớ bệnh mà từ chối Sư. Ngài lại vì Tâm An Điện Hạ Hoàng Tư Không v.v.. cùng chư tăng ba lần thỉnh mời chẳng từ chối được, ân cần chuyên chú. Nên Sư đến Vương phủ lược giảng Kinh Duy-ma, đến chùa Long Quang giảng rộng luận Thành thật, cũng chỉ được vài năm bèn đều thành các trường học. Sư chưa già suy mà đã có ý chí muốn trở về với núi rừng, bèn vào u nham để sống với sự yên tónh hơn mười năm. Đến giữa trưa ngày mười một tháng mười niên hiệu Chí Đức thứ nhất (năm trăm tám mươi ba) đời Trần. Sư nằm nghiêng hông bên phải, thần lự lắng đọng an nhiên, Sư thị tịch tại chùa Khai Thiện, thọ bảy mươi sáu tuổi. Qua ngày mười sáu, an táng tại núi Độc Long thuộc Chung Sơn. Ngài giảng Luận Thành thật hơn năm mươi biến, giảng Kinh Niết- bàn ba mươi biến, giảng Kinh Đại Tập mười biến, Giảng Kinh Kim Quang Minh tân dịch hơn ba mươi biến. Giảng các Kinh Duy-ma, Thiên Vương, Nhân Vương, v.v.. rất nhiều biến, bởi rườm rà nên ở đây chẳng ghi chép nhiều. 6/- Truyện ngài Thích An Lẫm trụ chùa Kỳ Xà ở Chung Sơn. Thích An Lẫm, họ Tần, là con cháu đời thứ bảy của Tấn Trung Thư lệnh Tónh. Gia đình Sư ngụ tại Huyện Lợi Thành thuộc Giang Âm. Cha của Sư là Chánh, khéo nghó theo huyền, vui tâm vắng lặng, bèn soạn sách “Nhập Thần” ba quyển. Đạo Thanh Ô không gì chẳng truyền tốt lành. Sư tuy bé nhỏ mà thông minh dónh ngộ, khác đồng bạn. Năm Sư mười ba tuổi, riêng gặp khó khăn, hiếu biết xa gần, dứt nước xương đứng. Mọi người nghe mà rơi nước mắt! Người xưa có nói “Biết con chính là cha” Sư mới nắm lấy Điểm giáo, học nghiệp rất thông, mà tánh lại ưa thích Lão Trang, sớm thông đạt các kinh sử. Lại khéo giỏi kỹ năng của Thái nhất, hiểu suốt thuật của Tôn ngô. Do đó tài nghệ Sư rất lắm công phu, văn võ đã trong sáng, Sư bèn muốn vạch bày rậm rạp. Hỏi ẩn cửa tất, lỗ hỏng ngọc khuê, mà Sư có tâm rỗng rang cơ phát, hiểu ngộ quyền thật. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư cầu xin xuất gia, làm du phương tìm Đạo. Theo hướng Bắc, Sư đến nước Ngụy, tới chỗ Dung Công chùa Quang Dung ở Tư Châu, nghiên cứu tập học kinh luận. Dung Công dạy răn giới Luật, nghiêm trang bất đọng tạo thành pháp khí. Sư lại nghe Quang công trụ chùa Thiếu Lâm ở Tung Cao giảng Kinh Thập Địa. Nghe qua một lần, Sư lãnh hội chóng hết lời trước, vị sâu danh tượng đều hết ý nghóa. Sư lại thọ học Pháp thiền, thảy đều nghiên cứu Huyền Môn. Những người thỉnh nghiệp thường tỏ bày lợi ích rộng lớn. Sư ở tại đất Ngụy mười hai năm, giảng Luật Tứ Phần gần hai mươi biến, các kinh luận Đại thừa đều được trích dẫn. Đến niên hiệu Thái Thanh thứ nhất (năm trăm bốn mươi bảy) thời Nam Lương, Sư mới đến Bành Bái, môn nhân ủng hộ đi theo về đến Dương Đô. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn) kính lễ cúng dường đón rước, ban sắc mời Sư trụ tại chùa Thiên An. Sư giảng Kinh Hoa Nghiêm, nêu đặt giềng mối rộng lớn, diệu chỉ cơ hội. gặp lúc thời vận nhà (Nam+Hậu) Lương sắp hết, nên bánh xe Chánh Pháp tạm dừng xoay. Mãi đến lúc Nhà Trần trị vì đất nước, mùa xuân niên hiệu Vónh Định thứ nhất (năm trăm năm mươi bảy) Vua Võ Đế (Trần Bá Tiên) ban sắc thỉnh Sư vào Nội Điện, tự tay vua trao đưa hương hỏa, nâng chân rất mực chí thành, lớn nương thừa giới Phạm. Vua lại ban sắc thỉnh Sư trụ tại chùa Kỳ-xà, cấp giảng nối nhau. Đã hợp tâm xưa trước, Sư bèn vui vẻ ở đó lâu. Thế Tổ Văn Tuyên Hoàng Đế (Trần Xuyến 5 6 0- 567) lại thỉnh Sư vào điện Chiêu Đức, khai giảng Kinh Đại Tập. Sư nhạo thuyết chẳng cùng, lại thiết lập Pháp hội. Vua Văn Đế cùng đến dự nghe. Lại đến trong vườn Hoa Lâm, vua giữ lễ thầy trò mà học đạo. Sư xiển hóa thấm nhọc, nhân đó mà bị bệnh. Đến tháng giêng niên hiệu Chí Đức thứ nhất (năm trăm tám mươi ba) đời Trần, Sư thị tịch tại phòng, thọ bảy mươi bảy tuổi. Hậu Chúa (Trần Thúc Bảo) buồn thương kính điếu, ban cấp mọi sự. Và cũng trong tháng giêng an táng tại núi phía Tây chùa Khai Thiện. Môn nhân Đệ tử thống thiết sự buông xả của Sư, các hàng só thứ mất nơi nương tựa. 7/- Truyện ngài Thích Tuệ Bố trụ chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn. Thích Tuệ Bố, họ Hác, người ở xứ Quảng Lăng. Thưở thiếu thời, Sư đã có chí tiết cao xa, tánh độ ngang rỗng. Năm Sư mười lăm tuổi, lúc ấy đang ở Giang Nam, nơi nhà cửa Tướng Quân. Bấy giờ, có Binh dịch, Sư bèn thề nguyện dẫn đầu năm ngàn người, làm Tướng thanh bình khấu tái. Đâu chẳng quả quyết thế ư? Mọi người đều thấy lạ với lời nói lớn lao ấy. Sau đó không lâu, người anh ruột Sư qua đời. Nhân đó, Sư tỏ rõ cuộc đời chẳng thường, nghó muốn cởi mở lưới tục. Thân Quyết biết Sư có võ lược nên tất cả đều không chấp thuận. Năm hai mươi tuổi, Sư mới được toại nguyện. Đã được xuống tóc xuất gia. Sư bèn đến Dương Đô, đến chùa Kiến Sơ, học Luận Thành Thật với Pháp Sư Bảo Quỳnh. Hiểu thông được yếu chỉ giả thật, chỗ kết quy của vật nghị mà Sư hận chí lý ấy chưa trọn hoài bảo. Vì tại Chùa Chỉ Quán ở Nhiếp Sơn có Pháp Sư Tăng Thuyên là bậc thông hiểu cao xa giáo nghóa Đại thừa. Tiếng tăm vang vọng khắp gần xa, Sư bèn đến nương tựa nghe giảng Tam Luận. Học chúng ở đó có đến mấy trăm vị, đều là những vị tài giỏi, còn như thấu đạt thanh huyền, khéo biết luận chỉ đều không ai cao trội bằng Sư. Nên người đương thời gọi Sư là “Đắc Ý Bô” hay “Tư Huyền Bố”. Nên những điều nạn cật của ngài Tăng Thuyên, người nghe dường như hiểu mà lãnh hội thì còn mịt mờ. Và y lời nguyện thông mà gây cật nạn sơ lược. Đến nỗi, những lúc đàm luận thường có khách hỏi phải đợi có Sư để giải đáp. Người đương thời vì thế mà nói rằng: “Thuyên Công có bốn người bạn, đó là: Thấu suốt bốn câu có ngài Pháp Lãng, lãnh hội lời giảng có ngài Huyền Biện, tài giỏi Văn chương có ngài Tuệ Dũng. Còn Đắc ý là ngài Tuệ Bố.” Sư thật xứng đáng đắc ý rất cao vời. Sau, trong Chương Thiện Đạt của Kinh Đại Phẩm, Sư ngộ giải pháp Đại thừa, phiền não điều thuận, nhiếp tâm giữ luật, oai nghi không bị dấu vết. Sư thường ưa thích ngồi thiền, xa lìa ồn ào náo nhiệt, thề không giảng nói, chỉ chuyên hộ trì. Cuối cùng Sư đến Bắc Nghiệp lại dẫm qua điều chưa nghe, nên ở chỗ Thiền Sư Khả mà tạm thông được Danh Kiến. Bèn dùng lời nghịch ý ấy. Thiền Sư Khả bảo Sư rằng: “Pháp Sư đàm thuật, có thể gọi đó là phá trừ ngã kiến, chẳng qua là đây.” Sư bèn để tâm đến các giảng tịch, đầy đủ thấy biết Tông lãnh, trông xem khắp các văn chương đều đủ trong tay áo lồng ngực. Sư lại viết chương sớ sáu đà, mang trở về Giang Biểu đều giao cho ngài Pháp Lãng và bảo giảng nói. Nhân có sai sót, Sư lại sang nước Tề rộng biên chép sự thiếu sót ấy mang về giao cho ngài Pháp Lãng, riêng Sư không chứa để. Sư chỉ gìn giữ y bát mà thôi, chuyên tu niệm tuệ, riêng ở nơi tòng lâm, lặng lẽ vượt ngoài đời, các người học đều khâm phục kính mến. Sư thường đến chỗ Thiền sư Tư cùng bàn luận Đại thừa, suốt ngày liền đêm thấy chẳng ăn nghỉ, lý đặt càng sâu, lời thể chẳng dừng. Thiền Sư Tư đánh gậy sắt Như Ý lên bàn, bảo rằng: “Muôn dặm là không, không kẻ trí này!” Trong pháp tòa có hơn ngàn người đồng cất tiếng ngợi khen vui mừng. Sư lại cùng Thiền sư Mạc luận nghóa, tức thầy của Mạng Công, qua lại suốt ba ngày chẳng dứt. Thiền sư Mạc dừng lại, ngợi khen Tuệ Ngộ của Sư xa khắp, khiến thân tiết hạnh hiển bày tốt đẹp. Đến cuối niên hiệu Thái Thanh (năm trăm năm mươi) thời Nam Lương, Hầu Cảnh làm loạn, khắp nơi đói kém trải qua nhiều năm. Sư đã suốt ba ngày không ăn, qua ngày thứ bốn,có người đem cơm tới dâng cho mà dường như có mùi thịt heo. Tuy trong lòng dạ như lửa đốt mà Sư buộc tâm chẳng chịu ăn. Nên gặp phải khốn ách ấy mà Sư chẳng dẫm vào phi lạm. Sư lại bị chứng bệnh khí ở chân, thầy thuốc bảo uống củ kiệu, từ đó cho đến lúc thị tịch Sư thường bày tỏ tội ấy. Hoặc thấy mọi người thích sinh về thế giới Cực lạc ở Tây phương. Sư bảo rằng: “Phương cõi mới tịnh, chẳng phải nguyện của ta. Như điều nguyện hóa độ chúng sinh nay nay đâu giống như ở trong Hoa sen mười kiếp hưởng vui, chẳng bằng ở trong khổ ba đường để cứu giúp!” Trong khoảng niên hiệu Chí Đức (năm trăm tám mươi ba-năm trăm tám mươi bảy) đời Trần. Sư thỉnh Thiền Sư Cung xây dựng chùa thê Hà ở Nhiếp Sơn, kết tịnh nghiệp đào luyện chúng tăng. Khắp giang biểu đều suy tôn. Các bậc Danh Đức từ nơi xa tìm đến thọ bẩm luận chỉ. Bấy giờ, Sư vì khai mở thắc mắc, nghóa lý tư tưởng sâu mầu. Chẳng làm thầy của tăng chẳng sai bảo những người ở địa vị dưới. Sư thường tự may vá giặt giũ. Ngày đêm sáu thời không thiếu sót, vừa mới gõ kiền-chùy. Sư đã ở đầu chúng, ngồi thẳng như cây đứng, ngưởi thấy mà ưa thích, tiếng tăm Sư sáng rỡ vang xa, người đến thỉnh cầu bái yết đông như chợ. Trần Chúa cùng các Vương hầu đều thọ giới với Sư, kính thờ Sư như Phật. Cuối cùng, vì tuổi gì suy yếu, Sư chẳng thọ trai chung với chúng. Vua ban sắc cấp sữa bò để Sư dùng, mà Sư lại ban bố sung vào chúng tăng. Sư lo lắng cẩn thận, thật là bậc Cao tăng! Đến năm bảy mươi tuổi. Sư giã biệt chúng Tăng rằng: “Tuệ Bố tôi mạng sống còn đến ba năm, năm năm ở đời, đều là già suy khốn đốn chẳng thể hành đạo. vậy sống ở đời đâu ích lợi gì? Tôi thường nguyện được sinh vào chốn biên địa; nơi không có Tam Bảo, để làm mọi Phật sự, mong các vị mỗi tự khéo sống và nguyện dốc hết sức lực mình!” Từ đó, Sư bỏ không ăn, lúc ma- ïng sống sắp dứt, Hậu Chúa (Trần thúc Bảo) ban sắc bảo thầy thuốc vào chẩn bịnh. Sư rút tay không chấp thuận. Thẩm Hoàng hậu muốn truyền hương tín, Sư lại cũng không chấp thuận. Lúc sắp tịch, Sư di chúc rằng: “Sống hoài không mừng vui, tối chết chẳng âu lo. Vì sinh không thật sinh, diệt không thật diệt! Với các Học só, đồ chúng tôi đều giao phó cho Thiền sư Cung, nên tôi không còn lo ngại gì nữa.” Đến ngày hai mươi ba tháng mười một niên hiệu Trinh Minh thứ nhất (năm trăm tám mươi bảy) đời nhà Trần, Sư thị tịch tại chùa Thê Hà. Sau khi thị tịch, ba ngón tay của Sư co quắp lại, nắm kéo tuy có duỗi ra nhưng rồi vẫn co lại. Đến nỗi ở trong rừng một tháng sau vẫn còn như vậy. Trước lúc Sư thị tịch trái đất rung chuyển liên tục. Sau đó bảy ngày Sư thị tịch. Lại nữa, lúc đưa nhục thân Sư vào rừng, đất núi lại rung chuyển. Thái Sử tâu rằng: “Ngôi sao của người đắc đạo diệt mất, đã đúng lúc.” ban đầu, lúc sắp tịch, Sư ở trước chúng bảo rằng: “Hôm qua có hai vị Bồ-tát đến đón rước tôi, một vị tên là sinh thân, một vị tên là Pháp thân, tôi đã chấp nhận. Không lâu sau đó có các vị trời lại đến đón rước, vì không nguyện sinh về cõi trời nên tôi chẳng chấp nhận.” Có luồng ánh sáng soi chiếu đến nơi phòng thất của Thiền Sư Khản. Thiền Sư Khản lấy làm lạ về ánh sáng rực rỡ ấy nên bước ra cửa trông xem, thấy có 2 người huớng vào trong phòng Sư mà không biết đó là bậc Thánh. Sáng hôm sau bèn đến kể lại, tự nhiên phù hợp. Nói xong, ngài ngồi thẳng mà thị tịch. Lại có người thấy qủy, trông thấy phướn đẹp đầy khắp chùa, ánh sáng soi chiếu. Chẳng thể lường biết, bèn vào trong núi xem mới hay là Sư đã thị tịch. 8/- Truyện ngài Thích Vong Danh ở vị Tân. Thích Vong Danh, họ Tông, người ở Quận Nam. Sư vốn tên là Khuyết Đãi, ở đời nối dõi áo mão xứng làm vọng tộc. Năm hai mươi tuổi, Sư lánh đời, dứt bỏ vợ con tỳ thiếp. Luôn ngâm vịnh tiêu sáo nơi hõm núi, tùy tình vui thú. Hễ chỗ cậy nhờ thì làm người của Nguyễn Từ Tông. Lúc trưởng thành, Sư phong phú tài hoa, nức tiếng vinh dự với người làng, Sư làm việc, mà Vua Nguyên Đế (Tiêu Dịch năm trăm năm mươi hai-năm trăm năm mươi lăm) thời Nam Lương rất dùng lễ tiếp đãi. Sư có soạn Tân Văn, vua rất khen ngợi. Song, Sư vẫn giữ sự cung thận, từ kính liêm chính làm tâm. Sư thường theo Vua ngự diên ban hỏi ưu dị. Đến lúc nhà Lương không thể tiếp nối ngôi vị, Sư bèn ngầm chí nơi huyền môn. Xa gá xứ Mân Thục, thoát bỏ trần lụy. Đầu tiên, Sư đến chỗ Thiền sư Đoái. Thiền sư Đoái cũng là bậc Định tuệ lắng sáng, tiếng tăm vang khắp quan nghiệp. Sư, dốc cả ba nghiệp mà nương tựa. Và bốn oai nghi cung thừa kính ngưỡng. Sư khắc chí gá nơi Thiền tụng, lo lắng đặt ở Thiên Thập. Có Học chúng tham dự hỏi Đạo, Sư chẳng hề mỏi mệt. Gặp lúc nhà (Bắc) Chu có được cơ nghiệp nước nhà, thiếu Bảo Thục Quốc Công Vũ Văn Tuấn trấn ở đó, trước mến Sư hiền tài, trọng qúy đức hạnh trắng trong nên lễ cúng khác thường, tiếng tăm vang khắp Đài Tỉnh. Sau đó, Tề Vương nối tiếp Bộ, cung kính ngày càng thêm. Mãn nhậm trở về đất Ung, bèn khắc quy yết. Vua nhọc đưa sai đã sâu, mới đặt Sư làm Hạ Châu Tam Tạng. Triều Tỉnh cho rằng Sư là người Văn bút đáng noi theo. Vốn chẳng phải Huyền Lữ, mà thầm hợp với đức ở đời, sắp bày cao trội, xét về khí vũ nơi Sư thật có độ lượng của Kinh Quốc. Triều Tỉnh đều bàn nghị, hoặc đem oai ân mà thêm đó, hoặc dùng tình khác để xoay chuyển. Nhưng Sư tao nhã sáng suốt vượt hơn mọi người, không hề đổi thay tiết tháo. Tháng năm, niên hiệu Thiên Hoà thứ hai (năm trăm sáu mươi bảy) thời Bắc Chu, Đại Chủng Vũ Văn Hộ gởi thư đến Sư, viết rằng: “Nói nghó kính chúc chưa bắt đầu ngóng tích. Đạo thể thôi dự không thiếu lo ư? Bởi vì đấng Năng Nhân (Thích-ca Thế Tôn) xuất hiện ở đời là với chí nguyện cứu giúp. Chẳng phải trước luân hồi riêng chuộng tốt lành. Đã là Đạo thứ bậc, vừa sinh đã biết tài cao bảy bộ, đâu luống nhuộm đen, ngầm chảy theo đường. Chỉ là Linh quách Diệu lý, ba ng- hiệp đồng đến. Mong nghó không hai. Tăng tục chẳng cảm, ít có khai mở thiên chấp, ngợi khen triều đại thời của chúng ta. Chẳng phải chỉ chân tục đều nhổ sạch, cũng là đây kia đồng nhất quán. Nên bảo đến thưa trình, nhớ nghó báo đáp công ơn!” Sư đáp rằng: “Thẹn nhục đầy đủ hoài bảo, nóng lạnh khác chỗ, vui khổ khác tâm. Thôi lược thường bàn nói, vả lại, muốn trình bày sự thật: bần đạo bẩm chất hèn kém, thường mắc bệnh đầu não, do đó cong lưng mà thành cung kính. Chí Đạo là chuyên, không hề dừng nghỉ. Nay năm mươi hai tuổi, từ khi xả bỏ tục duyên đến nay đã được mười lăm năm. Muôn dân trở về nước đều dừng nghỉ tại Đô ấp. Một vị tăng gầy bệnh riêng dòng chốn hoang vắng. Không có tội để phạt, không khả năng để sai. Trăm (có lẽ là mười) lo, chín nghó là chỗ chưa dụ được. Văn nhiều chẳng viết, lại bày sáu điều không thể, mười điều thôi nghỉ. Xin y cứ vào đầu mối sự tình mà xuyên suốt đuôi đầu. Lược bớt thư phần giữa, đến đoạn kết nói. Sa-môn giữ giới, tâm miệng tương ưng. Chỗ nêu bày sáu điều, như có một điều sai dối thì khi sống đây, trời xanh chán ghét, lúc chết thì kẹp sắt nhổ lên, nấu nước đồng sôi rưới vào đó. Kính mong ba thứ ánh sáng soi chiếu đến năm tôi sáu mươi tuổi, chẳng xem thường nhà tối huống gì đời sáng rỡ. Vả lại, quê hương nước nhà tan tác dứt mất, bà con thân thích suy mất, bần đạo là hạng người gì mà riêng kham chịu lâu dài? Thật may được thâu nhặt dấu vết trong núi non, nhiếp tâm gạt bỏ bụi trần bên ngoài, nuôi dưỡng mạng sống dư thừa, thuần tu tuệ nghiệp. Đó là Bổn ý của bần đạo! Gởi hình hài nơi tinh xá, đi khất thực ở Vương thành, tùy sức hành đạo, tùy duyên cảm hóa chúng sinh. Đó là chí nguyện kế tiếp. Nếu chẳng được như thế thì riêng ở nơi hõm hốc, làm sao có thể ở lâu hơn cõi Diêm-phù ư?” Vũ Văn Hộ nhận được thư, hiểu được khó cất nhắc Sư, bèn gởi thư đón rước trở về, viết rằng: “Pháp Sư giữ tâm bền chặt, ở đi vượt ngoài đời. Huyền Khuê mở vận chẳng quật nổi tiết tháo của Bá Di, Thương Tinh được trải qua đâu tổn chí của Gia Tuần. Nay sai người sang đón rước Sư về đến Hàm Dương. Các hàng qúy trọng đến yết kiến. Lễ lớn long trọng, phẩm vị nồng hậu càng thêm khác người thường. Để xứng chỗ gọi là rộng lưu tàng cảnh khó điều phục. Thề sẽ gá nghỉ gá huyền hậu Đức, tiện nhàn phóng không lụy phiền!” Do đó, Sư bèn soạn bài minh “ Người Báu” rằng: “Tôi năm 15 tuổi mà mến chuộng Chúc Văn. Năm ba mươi tuổi lại qúy trọng thế vị, gặp lúc chốn kinh đô rối loạn. Mủ miện nổi chìm, các hàng tri thức trong nước trôi nổi mất hết, bèn bùi ngùi than rằng: Hễ dùng sức lực để làm đảo lộn mặt trời, một sáng may đục suốt được sự bền bỉ của núi Đại Đá Bàn, bỗng lửa tắt mất, nên xét. Định biết tướng Đời là vô thường, sống nổi trôi luống dối. Thí như sương móc ban mai dừng đọng được bao lâu? Bậc Đại trượng phu lúc sống phải dẹp phục được ma, khi chết sẽ bố thí cho cọp đói. Nếu chẳng như vậy thì tu thiền đủ để dưỡng chỉ, tụng đọc kinh đủ để tự vui. Giàu sang danh dự khiến người khổ nhọc! Bèn vất bỏ mũ trâm, cạo sạch râu tóc, mặc áo nạp, chống tích trượng nghe giảng đàm huyền. Nước nhà chiến tranh chưa thanh bình, ẩn thân không nơi chốn. Tự nhàm chán hình hài rất là trói buộc, nghó muốn dứt bặt gốc khổ, chẳng biết đâu là bến bờ! Trong các Kinh Đại thừa nói: “Người đúng như lời nói mà thực hành, ấy gọi là Thánh. Chẳng nên chỉ nói ở miệng!” Trong các Kinh Tiểu thừa có bài kệ rằng: “Làm được nói là chánh, Không làm, làm sao nói? Nói được chẳng làm được, Chẳng phải là người trí.” Đến như Nhan Hồi ham học, siêng năng sửa đổi lỗi trước, Tử Lộ chưa tu sợ nghe lời sau. Công lao trí nhiễu làm một tâm, thương tổn mạng. Vì Đạo ngày một mất, đâu cần biết nhiều, thệ muốn như cây khô, thân chết thành tro than, giáng họa hoạn nạn ấy vì cầu vắng lặng.” Sư bèn soạn lời châm “Tuyệt Học”, đề tên là “Tức Tâm”, phỏng theo Triều đại Bắc Chu. Trong đó bài Minh đề rằng: “Pháp giới có người báu như ý, chín giam thân ấy, bài minh ấy nên viết: người nhiếp tâm xưa kia, răn đó ư? dạy đó ư? không lo nhiều, không biết nhiều. Biết nhiều thì nhiều việc không như ý, lo nhiều thì mất nhiều chẳng bằng giữ lấy một. Lo nhiều chí tán, biết nhiều tâm loạn. Tâm loạn sinh phiền não, Chí tán chướng ngại Đạo. Chớ cho là không thương tổn, khổ ấy dằn vặt lâu dài. Chớ bảo là không sợ họa ấy, như chiếc đảnh nước sôi! Nước sôi trào chẳng ngừng, bốn Biển tràn đầy, mảy bụi chẳng phủ, năm núi sẽ thành. Phòng ngọn tại gốc, tuy nhỏ chớ xem thường. Đóng ngay bảy lỗ, bít cả sáu căn. Chớ nhìn ngắm sắc, chớ lắng nghe thanh. Nghe thanh thì điếc, thấy sắc thì mù. Một văn một nghệ như con ong nhỏ giữa hư không, một kỷ một năng như ánh đèn đơn lẻ giữa ban ngày. Anh hiền tài nghệ thật là ngu tệ. Xảù bỏ thuần phác, đắm chìm hoang dâm. Thức dường như ngựa để rong chạy, tâm như vượn khó chế phục. Thần đã nhọc sai, hình hài hẳn chết mất, tà kinh trọn mê, đường tu lấp hẳn. Chẳng qúy tài năng thì gọi là mờ tối, trác vụng tham khéo, đức ấy chẳng lớn. Danh dầy hạnh mỏng thì cao ấy chóng đổ, bày sạch mà cuộn bẩn dụng ấy chẳng thường, trong lòng kiêu căng, ngoài hiện oán tắng. Hoặc nói ở miệng hoặc viết ở tay. Mời người khiến vinh dự cũng là dơ bẩn cửa Khổng. Kẻ phàm cho đó là tốt lành, bậc Thánh cho đó là lầm lỗi. Thưởng vui tạm thời, buồn lo lâu dài. Sợ bóng hình, sợ vết tích, càng chạy thì càng dữ dội. Ngồi yên dưới tàng cây, vết tích mất bóng hình lặng. Chán sinh lo già, hễ nghó liền tạo. Nếu diệt tâm tưởng, sinh tử dứt bặt. Chẳng sinh chẳng tử, không tướng không danh. Một Đạo rỗng rang tónh lặng, muôn vật ngang bằng. Đâu hơn, đâu kém, đâu nặng, đâu nhẹ. Đâu tiện, đâu nhục, đâu qúy, đâu vinh. Lắng trời thẹn sạch, ánh mặt trời hổ sáng, hẳn kia là tòa thành bằng vàng ròng. Kính tặng cùng các Hiền Triết. Đạo nầy Lợi lớn!” Sư lại soạn “Luận Chí Đạo”, “Luận Thuần Đức”, “Luận Khử Thị Phi”, “Luận Ảnh dụ”, “Luận Tu không”, “Luận Bất sát”, v.v.. văn đều lắm trong sáng, lời thường khuyên thiện. Chỉ chuyên giữ thực chất, bỏ văn hoa, chẳng còn lại phấn mực. Có nhóm họp lại thành mười quyển, lưu hành hưng thạnh ở đời. Về sau Sư thị tịch không được rõ. Sư có vị Đệ tử là Sa-môn Tăng Côn, tánh trầm lắng, giỏi về âm điệu, là Pháp Chủ của hai mươi lăm chúng tụng đọc kinh dưới thời nhà Tùy. Sư sưu tầm các sách vở, tham cứu qua các bậc Hiền thánh, biên soạn các luận, nhóm họp thành một bộ, gọi là “Luận Tràng”, gồm ba mươi quyển. Mở quyển một lần xem được cả trăm nhà hiền triết. Sư cũng là bậc Tông trượng của tâm học. Sau, ở tại Khúc Trì, Sư xây dựng chùa Tónh Giác, thường gần nước rọi bóng tre, hiểu vật làm thơ, có soạn Thiên Thập, v.v.. 9/-Truyện ngài Thích Đạo Sủng ở Nghiệp Hạ. Thích Đạo Sủng, họ Trương, tên Tân. Sống giữa thời Cao Tề và Nguyên Ngụy. Có Quốc Học Đại Nho Hùng An sinh, là người được liên bang qúy trọng. Bấy giờ có Lý Phạm, Trương Tân (Đạo Sủng), Tề Cao, An tịch. Tài nghệ không ai chẳng quy Tông, sau đều gánh vác An hạ làm phó. Sắp đến tuổi Tráng thất, Sư dẫn học trò hơn ngàn người đến huyện Nguyên Thị thuộc Triệu Châu, bên cạnh chùa Yển Giác, tức nay gọi là chùa Ứng Giác. Sư vào chùa xin nước. Có vị Sa-di đem nước ra cho, hỏi rõ sạch dơ mới uống. Sư vốn bên trong chẳng liên quan, mờ mịt chẳng đối đáp. Vị Sa-di ấy rưới nước vào mặt. Sư rất lấy làm hổ thẹn bảo những học trò tùy thuộc rằng: “Chẳng là đem nước làm nhục ta, thẳng chỉ bày Phật Pháp khó suy nghó, luận bàn. Nay ta gá tâm vào đạo này, nên các ông đều tự giải tán.” Liền ngay ngày đó, Sư vào chùa ấy xin xuất gia. Theo phép của chùa, người vào Đạo phải trải qua ba năm thử thách. Nhưng vì Sư quá thông minh không thể bó buộc theo thể chế thường, nên ngay ngày ấy cho Sư thọ giới cụ túc. Ngài bèn đến Tây Sơn, rộng tìm Tạng Bộ. Thần dụng sâu trội, Sư bùi ngùi than tự biết muộn. Vua Tuyên Võ Đế (Nguyên Khác năm trăm-năm trăm mười sáu) thời Bắc Ngụy rất kính chuộng Phật Pháp. Có vị tăng người Ấn-độ tên Bồ-đề-lưu-chi; người Thiên-trúc, mới đầu phiên dịch Kinh Thập Địa tại điện Tử Cực. Có Sa-môn Lặc-na-ma-đề ở điện Thái Cực. Mỗi một vị đều có cấm vệ, chẳng nói chuyện qua lại, khảo xét các bản dịch, sợ có phù lạm. Bắt đầu từ niên hiệu Vónh Bình thứ nhất (năm trăm lẻ tám) đến năm thứ bốn (năm trăm mười một) mới hoàn tất. Đến lúc xét đáp, Sư chỉ nói: “Có Bất Nhị và Bất tận” (Không hai và Không cùng tận). Ngài Lặc-na-ma-đề bảo rằng: “Định có Bất nhị và bất tận”. Một chữ thành khác, đều cùng kinh hãi khen ngợi như kính phụng Thánh tâm.” Sư nhân câu hỏi ấy bèn đến chỗ Ngài Bồ-Đề-Lưu-Chi thưa hỏi chỗ sâu cực. Ngài Bồ-đề-lưu-chi bèn trao cho Sư Kinh Thập Địa và chỉ dạy ba năm. Sư tùy chỗ nghe mà soạn ra nghóa sớ, tức vì khai học. Tiếng xướng to lớn, khắp Nghiệp hạ đều vinh hạnh suy tôn. Bấy giờ, các Văn Hùng nơi Triều đình như Ngụy Thâu, Hình Tử Tài, Dương Hưu, v.v.. kinh xưa mến tịch Quan học do thành, tự để lại giềng mối cho đời, hình danh chẳng nương gởi, cùng theo đến nghe mà đều chẳng hiểu. Sư im lặng nhận biết, bèn bảo rằng: “CHư Hiền các ông đã xưng là Vinh Quốc, đã từng thọ nghiệp mà có chỗ đến ư?” Mọi người đều đáp: “Vốn thực là giòng họ Trương nhàm chán thế tục mà xuất gia.” Sư bảo: “Thầy trò có nguyên do, nay được như thế” mới bảo: “Mắc tội rất lớn!” Ban đầu nghe nhận biết tiếng đều là thật v.v.. Thầy xưa, dung nghi chóng đổi, đến đây không tỏ ngộ. Khi đó đồng thức giục đánh ba tiếng khánh lớn, nhất tâm đây, buồn vui cùng theo nhau. Bèn vì tấu trình, đức hạnh tỏa khắp đương thời, mạng nghóa lại tiêu biểu lớn, thường ngày ban tặng ba lượng vàng ròng, cùng tận nơi thân, tượng thành học só, có khả năng truyền Đạo có hơn ngàn người. Trong đó các vị cao trội như là: Sa-môn Tăng Hưu, Pháp kế, Đản Lễ, Lao Nghi, Nho quả v.v… Có thuyết khác nói rằng: Ban đầu Tam Tạng Pháp Sư Lặc-Na- Ma-Đề- chỉ dạy cho ba người. Với hai kẻ só Phòng, Định thì chỉ trao cho Tâm Pháp. Còn ngài Tuệ Quang được dạy cho Pháp luật. Còn Tam Ta- ïng Pháp Sư Bồ-đề-lưu-chi chỉ dạy cho Sư, Sư theo hướng Bắc mà hoằng Đạo, chỉ dạy bốn người như Lao nghi, v.v… Còn Ngài Tuệ Quang theo hướng Nam mà hoằng Đạo, chỉ dạy cho mười vị như Phùng Phạm v.v… Nên khiến ở Lạc Hạ có hai Đường Nam Bắc. Hiện tại đang có hai chủ thuyết do từ đó mà khởi đầu, và bốn Tông, năm Tông cũng xuất phát từ đó, nay đều đã mất, chẳng phiền phải ghi. 1 0/-Truyện ngài Thích Tuệ Tung ở Bành Thành. Thích Tuệ Tung, không rõ Sư họ gì, vốn là người nước Cao Xương. Nước ấy tức là nơi Trở Cừ Lương Vương lánh đất, nên các dòng họ đều thông với Văn qủy của Hoa Hạ. Sư xuất gia từ thưở thiếu thời, rất thông minh lanh lợi, mở quyển liền tìm, bèn rõ nghóa ở trong. Sư ngầm tích chứa nhóm Huyền tứ, rất đùa cợt tạp tâm. Sư được nước ấy qúy trọng vào thời bấy giờ. Anh ngài là Bác Só, Vương tộc rất kính chuộng, nhã trong rừng Nho không tôn kính Phật Lý. Thấy Sư tài giỏi nên khuyên hoàn tục, dùng nghóa phương mà chỉ bảo. Sư nói: “Hủ Nho trí mọn, chưa đáng quy thưởng, đó chỉ đáng đông như bã rươụ. Ngoài ra sao đâu thể cùng luận nói?” Anh Sư cố ngăn ngại, mới đem Dịch lâm bí ẩn hỏi Sư. Ban đầu, Sư chẳng đọc sách thế tục, cầm quyển mở bày trội ra nghe trước. Anh ngài tuy lấy làm kinh lạ, song, rất chẳng tin sự rộng lớn quan trọng của Phật Pháp. Sư bèn đem một bài kệ của Tỳ-đàm để khai hóa giúp anh Sư hiểu. Bị đình trệ hai tháng, lăng xăng quên giải thích, mới có lời ấy toàn trái với nghóa lý. Sư có nói ra hoàn toàn trái với nghóa lý, nhờ được khai mở nên lãnh nhiên thần ngộ. Anh Sư rất kính tin Phật Pháp, thông suốt chỗ nhiệm mầu kín đáo để Sư được tự ý du thiệp. Bấy giờ, vào cuối thời Nguyên Ngụy, Phật Pháp đang truyền bá rộng. Vua nước Cao Xương lại muốn giòng họ Thích trở lại mở mang, mới hiến Sư và người Em theo sứ vào triều, giòng họ cao làm tướng sâu cũng mến trọng. Bấy giờ, có Luận Sư Trí Du là bậc tài giỏi ở đương thời. Sư bèn đến nương tựa, nghe học các Luận Tỳ-đàm, Thành Thật. Sư lãnh điệp văn chỉ tín trọng ở đương thời, mà ngôi vị chỉ mới là Sa-di nên tiếng càng vang xa. Sau khi thọ giới cụ túc, bèn lên đầu tòa, mở giảng kinh luận, tạo ra cơ duyên. Mới khiến cho mọi bén nhọn, đối địch đều quay về nương tựa tiếp chân. Khi Sư học đã thành đạt, xa trông Bổn Quốc muốn xin về. Sư bảo: “Đem sự thành đạt sâu rộng của tôi, nghóa lý chẳng phải là cái giúp đỡ cho Biên bỉ!” Nên Sư trở lại Nghiệp Lạc mà mở mang Đạo pháp làm chính. Sau đó lại có sự thỉnh mời trở về nữa, Sư vẫn cố giữ như cũ. Vua Cao Xương bèn giết chế cả ba giòng tộc của Sư. Sư nghe thế bèn nói với thân thuộc của mình rằng: “Trong Kinh đã chẳng nói ư? Ba cõi Vô thường, các Hữu chẳng phải vui, huống gì ba đường tám khổ, điều kinh nói đâu đáng lấy làm lạ ư?” Mãi đến lúc giòng họ Cao, thời Bắc Tề cải đổi cơ nghiệp nước nhà từ niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (năm trăm năm mươi) lên thống quán vinh vọng, được sự trọng vọng của Vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương năm trăm năm mươi-năm trăm sáu mươi). Sư dùng tuệ học mà vinh dự lên cao; vì từng dùng Pháp nghóa mà lấn lướt nên dời đến ở Từ Châu làm Trưởng niên Tăng Thống, và ở tại Bách Bái mở mang đạo rộng lớn. Khắp Giang Biểu, Giang Nam đều dẫn đến vâng theo thanh giáo. Ngài là vị Tổ, có người kế thừa tức Luận Sư Chí Niệm ở đầu đời Tề. Sư thị tịch vào khoảng niên hiệu Thiên Bảo (năm trăm năm mươi-năm trăm sáu mươi) thời Bắc Tề, tại Từ Châu. <篇> <卷>QUYỂN 8 CHƯƠNG II - PHẦN 4: GIẢI NGHÓA (Trong phần bốn của chương II, chánh truyện có mười bốn vị, phụ có hai vị) 1/-Truyện Sa môn Thích Tăng Phạm trụ chùa Đại Giác ở Nghiệp Đông, thời Bắc Tề 2/-Truyện ngài Thích Đàm Tuân ở Nghiệp Trung thời Bắc Tề 3/-Truyện ngài Thích Tuệ Thuận trụ chùa Tổng Trì ở Nghiệp Hạ, thời Bắc Tề 4/-Truyện ngài Thích Bảo Phùng trụ chùa Bảo Sơn ở Nghiệp Tây, thời Bắc Tề 5/-Truyện Tăng thống Thích Linh Tuân ở Tinh Châu, thời Bắc Tề 6/-Truyện Đại Thống Thích Pháp Thượng ở chùa Hợp thủy, thời Bắc Tề (Pháp Tồn) 7/-Truyện ngài Thích Đạo Thận trụ chùa Định Quốc ở Nghiệp Hạ, thời Bắc Tề 8/-Truyện ngài Thích Tăng Diệu trụ chùa Nhân thọ, ở Phố Châu, thời Bắc Chu 9/-Truyện ngài Thích Tuệ Thiện trụ chùa Sùng Hoa ở Trường An, thời Bắc Chu. 1 0/-Truyện ngài Thích Bảo Thoán trụ chùa Quang Hưng ở Đồng Châu, thời Bắc Chu. 1 1/-Truyện ngài Thích Đàm Diễn ở Lạc Châu, thời Bắc Tề 1 2/-Truyện ngài Thích Tuệ Vinh trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô, đời Trần 1 3/-Truyện ngài Thích Đàm Diên trụ chùa Diên Hưng ở Kinh Sư, đời Tùy 1 4/-Truyện ngài Thích Tuệ Viễn trụ chùa Tịnh Ảnh ở Kinh Sư đời Tùy (Tăng Mãnh). 1/-Truyện ngài Thích Tăng Phạm trụ chùa Đại Giác, ở Nghiệp Đông. Thích Tăng Phạm, họ Lý, người ở xứ Bình Hương. Thưở nhỏ, Sư tìm đọc học các sách. Năm hai mươi ba tuổi, Sư đã gần thông sớ lược. Đến như Thất diệu, cửu chương, chú thuật của Thiên-trúc, dò hỏi không cần phải tỏ ngộ lại. Đồng bạn có muôn ngàn chỉ tay mở má khoe kho- ang Sư đều bẻ sừng, nên người đương thời nói là “Tương Châu có Lý Hồng Phạm mở suốt nghóa sâu, Nghiệp Hạ có Trương Tân vừa mới sinh mà lãnh ngộ không sai sót. Lời nói ấy thật có ý chỉ. lại thêm vì tuổi trẻ sắc đẹp đều không tâm sánh đôi. Sư nghó nương tựa pháp môn thiêu đốt ngón tay mà tu cúng dường. Năm hai mươi chín tuổi, Sư đến dừng ở tại ấp Trì Hạ, nghe giảng Kinh Niết-bàn, ngay một lần nghe mà khai ngộ thần phủ. Nghóa lý tư tưởng đều thông, Sư mới biết Bí cực của Kinh Phật. Và Sư bèn đến chỗ Sa-môn Tăng Thỉ ở Nghiệp Thành xin xuất gia. Ban đầu, Sư học Kinh Niết-bàn, chóng hết sự cùng cực. Sư lại gá tâm nơi núi rừng lắng tỉnh tình vọng nổi trôi. Sau đó, Sư lại đến Lạc Hạ theo Hiến Công, nghe giảng các Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. Các bậc tông tượng, trước tu mọi đúng sai đều tỏ bày. Sau, Sư lại dời vết tích đến chỗ Quang Sư mà học đạo. Đắm mê vị, lo Tông chỉ, tuổi tác đổi thay. Đã cùng tận tướng nôm, chỉ học chẳng tạp. Sư mới đi Vân du khai hóa làm lợi an ủi Tề Ngụy. Mỗi Pháp Diên dựng lập, thính chúng đông hơn ngàn người. Đến lúc Sư trở lại dừng ở tại nghiệp Đô, có thể gọi Sư là bậc minh tượng của đương thời. Bèn khiến cho Thôi Cận chú Dịch thưa hỏi nơi Sư mà lấy sở trường, Tông Cảnh làm lịch tìm cầu nơi Sư mà bỏ đoản. Các bậc Đại nho như Từ Tuân Minh, Lý Bảo Đảnh, v.v.. chỉ một lần thấy mà tin ở lời trước. Sư bèn trao truyền giới Pháp Bồ-tát cho năm chúng quy hướng về Sư rất đông. Ngài giảng các Kinh Hoa Nghiêm, Thập Địa, Địa Trì, Duy ma, Thắng-man mỗi kinh đều có sớ ký. Sư lại biến kinh sở dẫn thành luận, nên các Kinh Niết-bàn, Đại Phẩm, v.v.. đều gọi là luận, còn một bộ Kinh Địa Trì gọi riêng là Thuật vậy. Nhưng thuộc từ phiền tráng, chẳng sánh với thế tình, cũng là chỗ làm của một nhà. Nên có thể xem xét mà gặt hái. Song, ngôn hạnh nơi Sư cùng giúp, điềm tốt lành thường ứng hiện. Từng có Thứ Sử Giao Châu là Đỗ Bật đến chùa Hiển Nghóa ở nghiệp đô, thỉnh Sư giảng kinh vào mùa Đông. Sư giảng đến chỗ nói về Lục Địa trong Kinh Hoa Nghiêm. Bỗng nhiên có một con chim nhạn bay xuống, theo phía Đông tháp đi thuận chiều mà vào giảng đường, thẳng đối tòa cao, nép mình dưới đất mà nghe pháp. Đến lúc giảng xong, chim nhạn lại từ từ đi ra, lại thuận theo phía Tây tháp mà bay đi. Lại cũng ở ngay chùa ấy, Sư giảng kinh trong mùa Hạ, cũng có chim Tước bay đến ở phía Tây Nam của tòa nép mình lắng nghe suốt trong chín tuần (ba tháng). Lại nữa, Sư có giảng pháp ở Tế Châu, cũng có một con quạ bay đến nghe, lúc giảng xong thì bay đi. Những cảm ứng tốt lành như thế rất nhiều, nếu chẳng phải do thầm hợp với đạo thì đâu thể được như vậy. Sư thường giảng Kinh Hoa Nghiêm, có một vị tăng đến hủy nhục Sư, bảo rằng: “Aáy chỉ là Già-đẩu, rốt cuộc phải hiểu thế nào?” ngay đêm đó có vị thần đến đánh vị tăng ấy, chết đi sống lại. Những người nghe thấy như thế vô cùng kính trọng kinh lạ. Sư từng ở lại qua đêm tại một ngôi chùa khác. Trong ý muốn nghe giới. Có vị tăng lên Pháp tòa, sắp muốn dựng nghóa: bèn nói: “Dựng Luận Pháp tướng rất phù hợp với lời Thánh, đâu nhọc Bồ-tát? Chư tăng thường nghe.” Bỗng nhiên thấy một vị thần thân hình cao hơn trượng, dáng mạo rất mạnh mẽ, đến trước tòa hỏi vị tăng lập nghóa ấy rằng: “Nay là ngày gì?” Đáp: “Là ngày Bồ- tát”, vị thần liền dùng tay kéo. Vị Tăng ấy xuống tòa, lê lết gần chết. Kế đó Thần lại hỏi vị Thượng tọa và cũng kéo giống như trước. Do vậy mà Sư tự cố gắng, đến cuối cùng mọi việc duyên riêng của Tăng, không hề nói Dục. Cho đến bệnh nặng thì khiêng vào trong tăng. Khi sắp thị tịch, Sư bảo thỉnh tượng vào phòng, tự mình xuống giường, qùy gối dưới đất, chỉ sám hối điều gặp phải xưa trước mà thôi. Bấy giờ đang lúc đúng ngọ, Sư dặn dò dạy răn và thị tịch tại chùa Đại Giác ở Nghiệp Đông, thọ tám mươi tuổi. Lúc đó là ngày mồng hai tháng ba niên hiệu Thiên Bảo thứ sáu (năm trăm năm mươi lăm) thời Bắc Tề. Ban đầu, Sư bỏ Nho tìm đến Phật, ngày một kính tín thêm, vắng lặng chuyên tưởng không môn, chẳng duyên việc đời. Miệng không nói lời vô nghóa, thân tuyệt đối không đến nơi trái Pháp, hễ có được các vật dụng gì đều ban cấp cho môn nhân Đệ tử. Ăn mặc có hay không chẳng hề mở miệng nơi ra, an nhẫn mọi điều thiện ác, mừng giận chẳng lộ vẻ nơi vẻ mặt, giặt rửa tẩy uế luôn kính vâng giới cấm, trước sau như một. Mà Sư thường lưu ý nơi Kinh Hoa Nghiêm làm nghiệp phước báu lai sinh. Ban đêm, đảnh lễ ngàn danh hiệu Phật, trọn một đời Sư thường thực hành như vậy. Đến lúc tuổi tác xế chiều mọi sự đã lớn thịnh, sức khoẻ không cho phép, mà Sư vẫn còn y cứ ngày đêm sáu thời khấu đầu trên gối. Sư tự có năng lượng anh ngộ, ít ai có thể tiếp nối, còn cảm thông linh dị thì mọi việc toàn khó y cứ biết vậy. 2/- Truyện ngài Thích Đàm Tuân ở Nghiệp Trung. Thích Đàm Tuân, họ Trình, người ở xứ Hà Bắc. Thưở thiếu thời, nhàm chán vòng lưới thế tục, Sư bèn vào chùa Pháp Quang xin xuất gia. Dung mạo Sư rất khôi ngô, Sư sợ nhiễm bẩn tịnh giới mà hoàn tục. Vốn học của Sư sáng tỏ đáng làm nơi nhờ cậy của người đương thời. Có người họ Ngụy nâng đỡ Sư làm Viên Ngoại lang. Năm hai mươi ba tuổi, Sư bỏ làm quan ở triều, lại thỉnh Ngài Pháp Quang vì làm Sư Bảo. Ngài Pháp Quang vì việc xưa nên bỏ mặc không độ, Sư bèn qùy thưa rằng: “Nay con dốc mạng quy y, xa kính sùng chí đạo. Nếu chẳng được chấp thuận thì sẽ theo tà kiến, làm hư hoại Tam Bảo!” Ngài Pháp Quang xét thấy Sư rất mực chí tình, bèn độ cho xuất gia và truyền cho giới Pháp. Nhân đó, Sư theo thọ học, qua hơn một năm công phu miệt mài, với các giáo nghóa Đại thừa đốn giáo, nguồn tâm Tháp giới v.v.. Sư đều phân vạch nghóa lý, vượt trội các bậc Tông tượng ở đương thời. Tay Sư không cầm Dị bút, mà biến của kẻ khác thành của mình, nên đàm thuật thì có tiếp tục mà chương sớ thì khuyết thiếu. Ban đầu, Sư ra hoằng hóa tại Lạc Hạ, rồi dần giảng đến các xứ Tề, Sở, Tần, Ngụy, cho đến Yên Triệu. Sư truyền thông Đạo ngihệp, dẫn nhiếp sửa trị tiếp nối. Thừa Tướng Hoài Âm Vương Quăng rất qúy trọng Sư. Đức hạnh Sư cảm động đến các hàng Qúy trọng, đều có tâm kính lễ. Năm ngoài bảy mươi tuổi, Sư được suy cử làm Quốc Đô, sau đó lại chuyển làm Thống. Sau một thời gian ngắn, ngài nhận biết trong mình bị bệnh, bèn ngồi trì tụng các Kinh Duy-ma, Thắng-man, vừa xong quyển thì Sư thị tịch tại Nghiệp Hạ, thọ tám mươi lăm tuổi. Các hàng được nương thừa hóa độ, cũng như môn nhân Đệ tử ít người tiếp nối được sau Sư! Ban đầu, Sư giữ chí thanh cao, dùng Pháp vô vi lập tánh, vén màn mở cửa, nêu dựng phương xa. Thân chẳng vọng can thiệp, miệng không nói chuyện thế tục. Động tónh tự trang nghiêm, chẳng nương gá phương tiện, mà kính ái Tôn sư có ít người được như Sư. Ngày ngài Pháp Quang – là thầy của Sư thị tịch, ngài đang ở tại Tề châu, ban đầu mới nghe, ngài buồn mà hỏi, bất chợt từ trên giường té xuống, trong miệng máu tuôn trào. Sư thật hiếu kính, xúc động đến lòng người như thế! Sư thường vân du, niệm tuệ có được cơ duyên, ôn giảng mà trọn nghiệp. Hạ. 3/- Truyện ngài Thích Tuệ Thuận trụ chùa Tổng Trì ở Nghiệp Thích Tuệ Thuận, họ Thôi, người đất Tề, là con của Thị Trung Thôi Quang. Thửơ thiếu thời, Sư mến Nho Tông, biết hết Nhã Thú. Lúc lớn lên, Sư nhàm chán lưới trần, mà làm người Cư só. Ban đầu, Sư nghe giảng Kinh Niết-bàn, lược không để sót nghóa. nhân lúc đang giảng mà Sư ngủ, bỗng nghe có tiếng bảo rằng: “Hiểu đây mới là sáng, ngoài ra vẫn chưa cùng cực!” Tâm Sư bèn đợi nghi, dò xét giải quyết bệnh ấy. Nhân tại Đô Hạ có Luật Sư Quang là người hiểu rộng Giáo nghóa Đại thừa, không văn gì chẳng hiểu. Sư bèn đến Lạc Dương, đến chỗ Luật sư Quang xin xuất gia. Lúc ấy Sư hai mươi lăm tuổi. Sư ngụ ở dưới cửa, tập tu địa chỉ, mệt cũng không ăn no. Tuổi tác dần dà, chứng giáo hai đường, gương sáng soi trong tâm, ba trì ba tụ, ảnh hiện ở ngoài thần. Thấy rộng dung hợp, đào huyện có thừa. Sư giảng Kinh Thập Địa, Địa Trì, Hoa Nghiêm, Duy-ma, đều có soạn Ng- hóa ký. Năm gần năm mươi tuổi, Sư muốn mở mang Đại Pháp làm lợi ích cho quê nhà, bèn truyền quy giới, không tình nào chẳng thích ý. Hễ nơi nào có Pháp hội Giảng đạo thì thính chúng đều đông hơn ngàn người. Ảnh hưởng tinh thành rộng lưu đến Đông Hạ. Nên các xứ Tề Triệu Do- anh Ký, những người có tâm kính tin đều bẩm thọ Đạo phong của Sư. bộc Xạ Tổ Hiếu Trưng, Khâm chuộng Quyết đức, nên tấu trình thỉnh Sư làm Quốc Đô. Năm bảy mươi hai tuổi, Sư thị tịch tại chùa Tổng Trì ở Nghiệp Hạ. Ngay ngày Sư thị tịch, thân tâm thanh tịnh cao vượt, chuyên niệm Bình đẳng làm tâm ấn. Nhưng giòng họ Sư trụ thanh hoa ngôn, thật là khuôn phép cho đời. Tuệ giải của Sư vượt quá vinh dự, sự nghóa trầm lắng, chỉ thuận theo Pháp, chẳng bó buộc ở một phương. Ăn mặc đẹp xinh, ăn không gồm vị, thọ thí rồi liền ban tán, tình chẳng yêu ghét, hình gá ở tùy duyên, không hề y cứ hạ lạp. Đi ở đều vì lợi ích, chẳng trông lại sự mất mát nơi mình, nói làm đúng lúc, chẳng đấu tranh với mọi vật. Nên người viết truyện phải ghi chép đủ, chẳng dám bỏ sót mọi việc làm của Sư. Tây. 4/- Truyện ngài Thích Đạo Phùng trụ chùa Bảo Sơn ở Nghiệp Thích Đạo Phùng, ngài giòng họ Hàn, người ở xứ Bình Aân. Năm mười hai tuổi, Sư đến chùa Qúy Hương Thiệu, xin xuất gia. Ban đầu, tụng Kinh Duy-ma. Tự chỉ trải qua xem đọc một ngày, tính ra có đến bốn ngàn bốn trăm lời, chỉ một lần nghe mà không quên, bèn thông được mấy bộ. Sau đó, Sư học Kinh Niết-bàn, lược xem tiết xa, lại tìm Luận Thành Thật, mới nghe hơn nửa quyển phần văn, bèn dựng lập Đại nghóa. Vinh dự thông minh nơi Sư không tham muốn ở người xưa. Cuối cùng khiến mọi người xa gần nghe Đạo phong của Sư đều muốn đến đảnh lễ tham yết. Năm được bảy hạ, Sư muốn giảng Kinh Niết-bàn. Sư tự tư duy “Văn chỉ một mà giải thích có khác, tình lý khó giúp nhau, sợ gồm thời khoá hư rỗng, báng Pháp thành tội trọng!” Năm sau, Sư đã lên pháp toà, Sư bèn thực hành Thiền Cảnh. Chương Phủ Y Lạc tìm khắp Gia du. Sau đó, Sư đến chùa Thiếu Lâm, nhiếp tâm an cư kiết hạ. Chư Tăng hỏi đạo vạch rừng rậm mà đến. Nghe Luật Sư Quang mở mang giới bổn, nhân đó, Sư đến nghe giải. Trải qua thời gian, tỏ ngộ Đại thừa, sâu đến chỗ tình nguyện. Sư dừng ở mười năm, tiếng tăm dần cao. Sư bèn giã từ Luật Sư Quang, hoằng hóa chánh Pháp, khắp các xứ Triệu Ngụy, Sư truyền đăng rất tốt đẹp, có ít người được vậy! Sư giảng các Kinh luận, như: Địa Luận, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, luật Tứ Phần, đều xem Quyển mà bàn giảng, mắt chẳng tìm Văn chương sớ Bổn. Tay chẳng nhấc bút mà đóng mở tùy duyên, nhả nạp trong sáng, suốt hội thuyên chỉ, như có sở chứng. Nên ở kinh đô nói rằng: “Phùng Sư Pháp tướng Thượng Công, Văn cú một đời hiếm qúy!” Lời nói ấy thật đáng tin. Người đương thời cho rằng “Miệng Sư biện luận sinh như Thân Tứ (Xá Lợi Phất)!” Đến ngày mồng bảy tháng ba niên hiệu Thiên Bảo thứ mười (năm trăm năm mươi chín) thời Bắc Tề, Sư i thị tịch tại chùa Bảo Sơn ở phía Tây nam Nghiệp Thành, thọ bảy mươi hai tuổi. Trước lúc Sư sắp thị tịch. Hai quả chuông lớn chỉ va chạm chút ít mà bị vỡ. Ngày Sư còn mạnh khoẻ, thường nguyện sinh về An dưỡng. Nên lúc ngài sắp tịch có ánh sáng soi chiếu khắp phòng, chỉ một mình Sư thấy, có mùi hương thơm lạ khắp sân, Đại chúng đều nhận biết. Ban đầu, việc hành Đạo của Sư là rộng gìn giữ ở tâm, kinh luật vội giảng, phước tín đều tu tập song hành. Bà con thân thích qua lại chóng dứt. Các nơi quyền qúy giàu sang, Sư toàn không bước đến, mà chỉ đi khất thực để tự nuôi sống, ít chỗ thường quen. Đắp y bày vai, tẩy tịnh mọi việc, đến tuổi già càng bền bỉ. Cổ tay không mặc, sinh tử ngang vậy. Sư dùng tâm duyên miệng, trao đổ nơi Văn tướng, xưa nay dứt bặt. 5/- Truyện Tăng Thống Thích Đàm Tuân ở Tinh Châu. Thích Đàm Tuân, họ Phó, người ở xứ Ngư Dương. Sư xuất gia vào Đạo từ thưở thiếu thời, học luận Thành Thật và Kinh Niết-bàn, thấu cùng chỗ sâu kín. Lại ngay trong luận, Sư soạn yếu thành hai quyển, chú giải và thích nghóa rồi lưu hành ở đời. Sau, ngài bỏ Tiểu Đạo, tôn sùng Quang Công, sớm tối nghiên tầm suốt hơn mười năm, mảy may yếu chỉ lý giáo bí mật. Sư đều biết rành thông bít. Tuy biết rộng các thứ kinh sách, mà Sư chuyên truyền bá xuất Kinh Duy-ma và gồm có Sở Ký. Đến khi Sư dời Chương nghiệp vân du các xứ Yên Triệu, hoằng hóa thấm đượm khắp bốn chúng. Tà chánh phân rành. Mà Sư rất có công phu viết lách họa vẽ, lại rất ưa thích Thiên Thập. Cái đẹp Văn bút của Sư là sự suy cử của đương thời, đẹp khách dáng lành phong nghi, từ biện nhã tịnh, người nghe không khó chịu. Ban đầu, Sư làm Quốc đô, đến cuối thời Ngụy, Sư làm Tăng Thống Tinh Châu. Đến đầu thời Bắc Tề (năm trăm năm mươi….) Sư thị tịch tại Tấn Dương, lúc đó, Sư sáu mươi chín tuổi. 6/- Truyện Đại Thống Thích Pháp Thượng ở chùa Hợp Thủy Thích Pháp Thượng, họ Lưu, người xứ Triều Ca. Năm tuổi, Sư bắt đầu nhập Đạo, qua bảy ngày đã thông chương. Năm sáu tuổi, theo người chú vào trong chùa, thấy mọi người đùa cợt mà Sư không khởi tình cổ vũ. Chỉ lễ Phật tụng kinh mà hơi tiếng rõ trội, mọi người đua nhau vây quanh nghiêng mình khát ngưỡng xem nghe. Năm tám tuổi, Sư lược xem qua kinh sách, hiểu suốt được nghóa lý. Năm chín tuổi, có được Kinh Niết-bàn, Sư bèn mở bày mà tụng đọc liền khởi sinh ý niệm nhàm chán thế tục. Năm mười hai tuổi, Sư đến chỗ Thiền SƯ Đạo Dược xin xuất gia. Nhân đi đến đất tương, sau đó trở về lại làng cấp, Sư lại sang Đông đô nương tựa và chuyên học Đạo. Thần khí Sư cao sáng thấu suốt Từ luận. Người đương thời đều tôn sùng kính trọng và gọi Sư là “Thánh Sa-di”. Sau, Sư ngầm ở Lâm Lự, lên chùa Hồ Sơn, tụng kinh Duy-ma và Pháp Hoa, vừa mới hai tuần mà cả hai bộ kinh Sư đều thấu đạt. Nhân tụng, cầu hiểu, Sư trở vào Lạc Dương, tỏ rộng thấu suốt Thanh huyền, tiếng tăm vang khắp xứ đó. Đến năm vào học, Sư bắt đầu giảng Kinh Pháp Hoa. Sư đáp kháng nghi nạn không ai chẳng ngợi khen thán phục. Sư khéo tùy cơ nêu hỏi, hay bày hạch xét, quyết thông, chẳng y cứ vào lời nói hơn kém. Dung mạo sắc tướng Sư không mấy xinh đẹp, nên người thời bấy giờ thường nói rằng: “Hắc Sa-di (Sa-di da đen) đến, thì tòa cao bị tai nạn!” Sau, gặp lúc khó khăn, thức ăn áo mặc đều thiếu thốn, Sư đặt tâm để ý vào Kinh Niết-bàn, không màng đến đói lạnh, ăn chỉ hạt gạo; thêm ít rau lá, mặc chỉ mảnh áo thêm cỏ che thân. Hình hài mạng sống như sắp dứt mà tinh thần ngày một lớn mạnh. Sư bèn đến chỗ Luật Sư Quang mà xin thọ giới cụ túc. Tánh giới Sư sớm thành, chẳng nhọc sức thầy dắt dẫn. Sư siêng năng chăm chú vào Đế lý, không để mất tấc bóng thời gian. Bỗng nhiên nghe tin cha bị bệnh nặng, bèn tìm trở về hầu thăm, khi người đã qua đời, chỉ một đêm ở lại, sáng hôm sau, Sư liền trở lại Lạc Đô. Sư dẫn dắt chuyển hóa cho mẹ và người chị cùng vào Nghiệp Đô. Bấy giờ, gặp lúc hoang tàn không nơi nhờ cậy và gởi gắm. Sư có tâm muốn nghe Pháp mạnh mẽ, nên đành phó mặc mà trở vào phương Nam. Mùa Hạ, Sư nghe giảng Pháp ở chùa Thiếu Lâm, mùa thu về lại Chương Ngạn, mẹ con vừa trông thấy nhau, bất chợt rơi nước mắt. Đến lúc tuệ nghiệp Sư đã cao vợi, mọi người đều tỏ bày cầu thỉnh. Sư bèn giảng các Kinh Thập Địa, Địa Trì, Lăng-già, Niết-bàn v.v.. lần lượt nối nhau và đều có soạn Văn sớ. Sư lại riêng thấu suốt toán số, thông rành cơ điệu. Giềng mối pháp hóa ít có người tiếp nối được nơi Sư, nên người đương thời có nói rằng: “Tại kinh đô rất mong Đạo tràng Sa-môn Pháp Thượng!” Lời nói ấy thật rất đúng. Năm bốn mươi tuổi, Sư du hóa ở Hoài Vệ, được Ngụy Đại tướng Quân Cao Trừng thỉnh Sư vào Nghiệp Đô. Lời nhiệm mầu mỗi lúc Sư vừa khởi xướng thì thính chúng cùng nhau tìm đến, chỉ lên núi giới cao vời hiểm nguy, biển tuệ sâu lắng. Đức hạnh Sư có khả năng làm khuôn phép cho người, cai nghi của Sư làm trang nghiêm mọi vật. Nên trải qua hai triều đại Ngụy và Tề, Sư đều làm “Thống Sư”. Chiêu Huyền Nhất Tào Thuần nắm giữ Tăng Lục, bảo Sử viên đặt năm mươi người. Sở bộ Tăng Ni hơn hai trăm vạn, mà Sư làm cương lãnh gần bốn mươi năm. Các hàng tăng tục đều vui mừng, khắp triều đình đều thỏa ý vui lòng. Do đó, các chùa khắp bốn phương đều ảnh hưởng đạo phong của Sư. Nền tảng tôn sùng ủng hộ ít có người tiếp nối được sắc thái, mà ánh sáng đạo hạnh của Sư soi chiếu xa khắp, nên Vua bèn ban chiếu thỉnh Sư làm Giới sư. Văn Tuyên Hoàng Đế (Cao Dương-năm trăm năm mươi-năm trăm sáu mươi) thời Bắc Tề từng trải tóc dưới đất mời Sư bước qua. Niên hiệu Thiên Bảo thứ hai (năm trăm năm mươi mốt) thời Bắc Tề, Vua Văn Tuyên Đế ban sắc rằng: “Cúi mong ánh sáng Đức từ tiếp nối làm thanh bình bốn biển. Muốn báp đáp âm đức, Chánh Giác là chỗ nương nhơ, các loại thứu điểu thương sinh đều nên thả chúng vào rừng núi, lấy chỗ đất này làm nơi cho Thái Hoàng Thái Hậu xây dựng Tháp báu, phế bỏ nơi những người nuôi chim săn để xây dựng chùa Báo Đức”. Đó tức là nghiền nát tà đạo, chuyển tải qua biển Phật trong ngần. Sự hưng thạnh ở đương thời, từ xưa đều suy tôn. Mà Sư đều gánh vác tất cả và kết hợp rất hài hòa, mở mang Nội Ngoại, Tăng tục đều vâng theo. Nếu chẳng phải thạch trụ thì ai có thể làm rường cột ư! Bởi cảnh hạnh của Sư tuyên bày cao vợi, chóng ảnh hưởng khắp xa, đến nỗi có Đại Thừa tướng Vương Cao Đức ở nước Cao-câu-ly là bậc rất kính tin Chánh Pháp, kính trọng Đại Thừa, muốn truyền bá Phong hóa Phật pháp đến Hải Khúc mà chẳng nhận biết nguyên do nhân duyên đầu đuôi của Pháp Giáo hưng hoại ở Đông Tây như thế nào, niên đại và qua các đời vua chúa như thế nào? Nên ghi chép đủ mọi sự, mọi điều thắc mắc. Và sai một vị tăng mang đến Nghiệp Đô trình bày điều chưa được nghe biết ấy. Mở đầu lược hỏi rằng: “ĐứcPhật Thích-ca từ lúc nhập Niết-bàn đến nay đã bao nhiêu năm? Lại Phật Pháp có ở tại Thiên-trúc bao nhiêu năm mới truyền bá tới đất Hán (Trung Hoa). Ban đầu, đến dưới đời Vua nào và niên hiệu là gì? Lại, Phật Pháp dưới các triều đại nhà Tề nhà Trần ai là người dẫn đầu truyền bá? Từ đó đến nay trải qua bao nhiêu niên đại đời vua?” Xin ghi chú đầy đủ, và hỏi về sở truyền nhân pháp của kinh Thập Địa, Luận Trí Độ, v.v.. Sư đáp sơ lược rằng: “Đức Phật đản sinh năm Giáp dần, tức năm thứ hai mươi bốn thời vua Chiêu Vương nhà Chu. Xuất gia năm mười chín tuổi, thành đạo năm ba mươi tuổi, lúc đó là năm Quý mùi, tức năm thứ hai mươi bốn thời Vua Mục Vương (Cơ Mãn) thời Tây Chu. Vua Mục Vương nghi ở Tây phương (tức Ấn-độ) có hóa nhân xuất hiện, liền sai người đi đến trời Tây dò xem, song, các đoàn người đi không một ai trở về báo lại. Vua lấy đó làm ứng nghiệm. Đức Phật trụ thế hoằng pháp suốt bốn mươi chín năm. Từ ngày Đức Phật nhập Niết-bàn đến nay- năm Bính thân, nhằm niên hiệu Võ Bình thứ bảy (năm trăm bảy mươi sáu) thời Bắc Tề-là đã trải qua một ngàn bốn trăm sáu mươi lăm năm. Niên hiệu Vónh Bình thứ mười (sáu mươi bảy) đời Vua Minh Đế (Lưu Trang) thời Hậu (Đông) Hán, Kinh Pháp Phật giáo mới truyền đến Trung Hoa. Trải qua các triều dặi nhà Ngụy, nhà Tấn truyền bá nối nhau mãi đến ngày nay.” Sư rộng đáp đầu mối duyên do văn từ rất đích xác. Ở đây chỉ nêu bày chung, để nói về truyền bá. Cuối cùng Vua Văn Tuyên Đế ban sắc thỉnh Sư trụ chùa Định Quốc ở Tương Châu. Dung nghi đức hạnh Sư rỡ ràng, cảm kích đàn việt cung kính cúng dường rất nhiều. Sư có được các vật do mọi người cúng thí, bèn tạo lập một ngôi chùa trên núi, lấy tên là “Hợp Thủy”, ở tại núi Phía Tây của Nghiệp Đô, nay gọi đó là chùa Tu Định. Trên đảnh cao nhất của núi, Sư xây dựng Di-lặc Đường, các thứ trang nghiêm đầy đủ rất tráng lệ. Đàn Việt cúng dường bốn thứ cần dùng cho cả một trăm năm mươi vị Tăng đang tu tại đó. Đến lúc gặp thời Phá Pháp hủy hoại chúng tăng mà chẳng hại đến chùa núi. Sư riêng ẩn dạng, hình phục như người thế tục mà đạo nghiệp tu tập vẫn như thường. Sư phát thệ nguyện sau khi qua đời mong được hầu thấy đấng Từ Tôn, những năm tháng còn lại, Sư nguyện mong thấy sự hưng thạnh trở lại của Phật Pháp. Sư chỉ chuyên nhất đảnh lễ Đức Từ Thị Như Lai, mà nghiệp hạnh siêng năng, tối sáng đều cảm vời như ý. Gặp lúc thời vận nhà Tùy sắp lay động, mặt trời Phật ngầm lìa, quả sâu tâm mừng khắp cả tâm Phủ. Lúc đã quá già yếu Sư bảo làm kiệu và ngồi vào đó, mặc phủ Pháp Phục ca-sa lên đầu. Các Đệ tử cùng nhau nâng đỡ khiêng Sư lên chùa núi. Ngài chắp tay lễ bái ba lần và nhiễu quanh phía bên phải ba vòng, bèn trở về lại phòng nhà ở núi, tụng kinh Duy-ma, Thắng-man, vừa hết quyển thì thị tịch tại phòng cũ ở chùa Hợp Thủy, thọ tám mươi sáu tuổi. Lúc đó là ngày mười tám tháng bảy niên hiệu Đại Tượng thứ hai (năm trăm tám mươi) thời Bắc Chu. Thân lượng Sư cao lớn hơn người, cao vời vượt ngoài chúng. Dẫu đứng trong chúng đông trăm ngàn vị mà Sư vẫn cao riêng một mình trội bày từ đầu cổ trở lên. Y phục Sư mặc y theo chuẩn mực, áo nạp vá chằm là chính. Y năm điều bằng vải bố. Ngoài Pháp phục, bình bát ra Sư không chứa để bất cứ tài vật gì. Trọn đời không mang giày dép hay cưỡi thú, chỉ đi bộ suốt đời. Môn nhân thành đạt sự nghiệp, mặc tình theo sở học, chẳng riêng vì nghiệp mình, ngài khắp dùng chỉ dạy người. Nói năng Sư thường mỉm cười, với người có tội, không hình phạt bằng roi gậy. Từ khi Sư chưa đảm nhậm công việc về trước, mọi thứ nghi phục rất hỗn tạp. Khi Sư đã nắm giữ cương thống thì đặt ra cách thức thực hành riêng, khiến cả hai giới tăng tục đều vâng làm. Đó là do công lao rất lớn của Sư. Cho đến xây dựng chùa, tạo tịnh xá cũng phát xuất từ đó. Nên Phật giáo mở mang ở phương Đông, có khả năng quạt lồng ngọn gió trong mát, chẳng giống như trước. Vào niên hiệu Thiên Bảo (năm trăm năm mươi-năm trăm sáu mươi) thời Bắc Tề, trong nước có đặt ra chức vị Thập Thống. Hữu Ty tấu trình việc ấy phải soi xét khác. Vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương) bèn tự tay ghi chú vào trạng văn rằng: “Pháp Sư Pháp Thượng có khả năng làm Đại Thống, ngoài ra những vị khác đều làm Thông thống.” Nên sự đãi ngộ của vua đối với Sư như kính thờ Phật. Tất cả những lời Sư nói ra, đều được vâng thừa tiếp dụng. Sư lại rất mực tôn trọng giới pháp, nguyện thương giảng nói và hành trì trọn đời. Mỗi lúc đến sáng sớm ngày Bố-tát, Sư thiết lễ rất nồng hậu, thỉnh tăng để cúng dường. Đến lúc tuổi cao tiếng tăm vang khắp, Sư sợ phiền nhọc đại chúng, đến đêm của năm cuối vẫn còn vâng theo Pháp thức đó. Sư kính thờ tin tưởng như vậy. Sư có soạn “Tăng nhất số pháp” bốn mươi quyển, đều là lược ghi danh số trong các kinh luận. Ban đầu từ một pháp, dần đến mười, một trăm, một ngàn, mười ngàn, có số như rừng. Thật là yếu thuật để truyền trì. Sư lại soạn “Luận Phật Tánh” hai quyển, “Đại thừa Nghóa Chương” sáu quyển, Văn lý xung hợp rõ ràng sơ lược. Sư lại soạn “Chúng Kinh Lục” một quyển, bao gồm các phẩm loại, đều lưu hành ở đời. Sư có đệ tử là Sa-môn Pháp Tồn, vốn theo Lý Lão (Đạo Giáo). Đến niên hiệu Thiên Bảo (năm trăm năm mươi-năm trăm sáu mươi) thời bắc Tề thì xả bỏ hết mà trở về nương tựa Thích Chủng. Ngài (Pháp Tồn) rất thấu suốt thời sự, phân lược có y cứ. Sư bèn cất nhắc chọn làm Đô Duy Ma chùa Hợp Thủy. Đương lúc nhà Tề hưng thạnh, mỗi năm có Tam giá đều đến chùa núi hầu thăm kính lễ. Lục Quân đã đến, cúng ra Tăng trù. Còn lại tùy sự chỉ huy trước sau cung cấp cho ba cung đều đủ. Sau, ngài (Pháp Tồn) thị tịch khoảng đầu đời Tùy. Pháp sư Linh Dụ vốn học tiếp thừa có soạn bổn truyện về Sư. Hạ. 7/-Truyện ngài Thích Đạo Thận trụ chùa Định Quốc ở Nghiệp Thích Đạo Thận, họ Sử, người xứ Cao Dương. Năm mười bốn tuổi, Sư xuất gia, tụng đọc nghe giảng y theo học nghiệp. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư đến Lạc Đô, nương tựa Pháp Sư Quang để học Địa Luận. Sau đó, Sư bẩm thọ ở Thượng Thống mà chuyên chí học Kinh Niết-Bàn. Tánh tình Sư độ lượng, rộng rãi đơn giản, phong thái an nhiên. Ngài làm giềng mối cho Môn đồ, chỉ chuyên nhiếp Đại Pháp lấy làm việc chính của mình. Mỗi lúc tham dự Bố-tát thuyết giới, Sư qùy nghe đến hoàn mãn. Sư giảng giải khai ngộ cho kẻ mê, ngôn từ không phiền toái dài dòng. Người trí sợ lời nói ấy là ít, kẻ ngu lo đó chẳng nhiều. Năm chúng đều rất mến trọng. Nên Vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương năm trăm năm mươi-năm trăm sáu mươi) thời bắc Tề thỉnh Sư làm Quốc Độ dẫn dắt vỗ về an ủi Di Pháp được không thiếu sót, các bậc Thiền tượng Tăng Đạt, Luận Só, Pháp Linhđều phục tài biện giải đối đáp của Sư. Còn như cuồn cuộn gió nước, xem khắp thời tục thì Sư vượt quá xa. Sau cùng, Sư cưỡi xe đưa vua rồi trở về chùa, hai càng xe đều bị gẫy, không bao lâu thì Sư thị tịch tại chùa Định Quốc ở Nghiệp thành, thọ sáu mươi lăm tuổi. 8/-Truyện ngài Thích Tăng Diệu trụ chùa Nhân thọ ở Phổ Châu Thích Tăng Diệu, Sư còn một tên khác là Đạo Diệu, vốn ở tại Ký Châu, sau đến trụ Tinh Xá Cấm hạnh ở Phổ Pha thuộc Hà Đông, Sư vốn Thông tuệ, đọc xem khắp các sách vở, rất tinh thông giảng luận, nhưng bẩm tánh Sư luôn khiêm nhường, mừng giận chẳng liên can đến hoài bão của Sư. Nên thường những lúc giảng, Sư xuống dưới tòa, thảy chắp tay sám hối rằng: “Ý Phật rất khó biết, kẻ phàm chẳng lường được. Nay những điều tôi nói ra là do những bậc thầy trước truyền trao mà lãnh thọ, chưa dám tự chuyên, nên xin đại chúng đối với Pháp nghóa ấy nếu là đúng hay là sai cũng nên ban bố cho sự hoan hỷ!” Bấy giờ, vì Sư mở hiểu khắp cùng trước hạnh lớn đoan đạt, trông xem sự rỗng rang ở chính mình nên đều đượm nhuần đức nghóa, chúng càng nương theo. Sau, Sư trụ chùa Thường Niệm, tức chùa Nhân Thọ ở quê nhà, nhóm chúng tu nghiệp để hoằng pháp lập công. Đánh vang ảnh hưởng khắp cả Chu Tề, rất cao Danh vọng. Vua Thái Tổ thời nhà Chu đặc biệt rất tôn kính Sư. Trong khoảng niên hiệu Đại Thống ở Tây vực có đưa sang dâng tặng xá-lợi Phật, Vua Thái Tổ bèn bảo Sư kính phụng trên đảnh đầu, sớm tối xoay quanh kính ngưỡng, trải qua một năm, bỗng nhiên trong một đêm nọ ánh sáng chiếu khắp phòng nhà, xoay quanh rồi ra cửa, dần kéo ra ngoài, phút chốc soi chiếu khắp 4 phương xa, vọt tỏa sáng khắp cả đất trời. Đang lúc ấy, có người trông thấy cho là Chùa bị cháy nên cùng nhau chạy đến cứu lửa. Khi tới nơi thì thấy ánh sáng thần từ trong bình vàng phát ra. Mọi người đều khen ngợi là việc chưa từng có! Sư kính ngưỡng chăm nhìn linh tướng mà lệ trào hoen my, bèn đốt hương và qùy mà bạch rằng: “Chúng sinh trong Pháp giới đều đã thông thấy được Thánh tích, cúi xin linh cảnh ngầm bí trở về lại vắng lặng rỗng không.” Khi đó, ánh sáng lại xoay tròn cuộn vào trong bình. Đêm đó, âm thanh hken ngợi đốt hương của các hàng só nữ ở Châu Trị, nghe vang xa hơn đến mấy dặm. Trong chùa có một vị tăng ngự trong phòng, đại chúng cùng gọi dậy, nhưng mê man chẳng hay biết, nên cuối cùng không trông thấy được điềm tướng ánh sáng. Sau đó không lâu, vị Tăng ấy bị bệnh dịch lệ, mọi người đều cho đó là do nghiệp đời trước mà ra! Nên bèn có sự cảm thấy khác nhau. Từ lúc Sư nói ánh sáng ấy mất thì không còn thấy hiện lại nữa, Ngọc Xá-lợi Phật ấy đến nay vẫn còn. Xưa kia, vào những năm cuối niên hiệu Võ Bình (năm trăm bảy mươi sáu) thời Bắc Tề, tại trong thành cổ Nghiệp Đô có chùa Bạch Mã, đó là thuộc thời Thạch Triệu, do Ngài Phật-đồ-trừng xây dựng. Vốn có ngôi tháp gỗ, vì năm tháng quá lâu dài nên rã mục hư hoại. Vua Ôn Cung (Cao Vó) ban sắc bảo sửa chữa lại, lúc đào bới lên, có được ba viên Xá-lợi; một viên màu đỏ, một viên màu trắng và một viên màu xanh, bèn để vào bình báu. Các hàng sang hèn khắp trong kinh ấp đều cùng nhau đến ngắm nhìn chiêm ngưỡng. Với người có tâm chí thành thì Xá-lợi ấy tự nhiên vọt lên. Còn với hạng người không tin đùa cười khinh mân thì có nghiêng bình đổ cũng không ra. Nên người thế tục thời ấy xả bỏ tà đạo rất nhiều. Cậu của vua Tề là Quảng Lăng Vương Hồ Trường Ung từng đượm nhuần Phật tông, khuyên Sư hoàn tục. Tuy ở địa vị qúy vọng mà chẳng xả giới cụ túc. Khi gặp xá-lợi trong bình nước, thỉnh xin hành đạo, liền thấy ba viên cũng nổi trên nước xoay quanh theo phía bên phải bảy vòng rồi cùng một lúc chìm xuống. Hồ Trường Ung cùng con em càng thêm tin tưởng sâu sắc. Và Sư giảng Kinh Niết-bàn là việc chuyên môn của Sư. Ban đầu lược giềng mối đến cùng, những người học lâu dài được hiểu rất sâu về nguồn cội. Phân vạch văn cú đều đến chỗ cơ ước, mỗi lượt đều khác, do đó Học chúng ít thành mà được các vị tài giỏi ngợi khen. Sư hành hóa ở Giang Biểu thì kính trọng chẳng cao, mà lan dần đến làng quê thì rượu thịt đều dứt bặt. Các thứ hành kiệu đang sống đều dùng đất lấp vùi lên, tất cả đều chẳng do dạy bảo mà mọi người tự đổi thay cuộc sống xấu ác. Có Học só Đàm Diên Thừa soạn Tông bổn, lại rộng đến cùng, xem đầy đủ ở Biệt truyện. An. 9/-Truyện ngài Thích Tuệ Thiện trụ chùa Sùng Hoa ở Trường Thích Tuệ Thiện, xuất gia từ thưở bé, giỏi về Pháp Thắng Tỳ- đàm. Sư trụ chùa Thê Huyền ở Dương Đô. Nêu bày luận đạo, khắp bốn phía tòa đều kinh hãi sự thần sáng của Sư. Vào cuối thời Nam Lương, Sư từng lánh nạn ở Giang Lăng, vào những năm cuối niên hiệu Thừa Thánh (năm trăm năm mươi lăm) thời Nam Lương, vì bắt được Tần Nhượng, Sư trụ tại chùa Sùng Hoa ở Trường An, học nghóa rất tốt lành. Vì Chu Trủng tể nhận biết được Sư, nên riêng tu cúng dường. Sư giảng Pháp đến lúc tuổi già. Vào khoảng niên hiệu Thiên Hòa (năm trăm sáu mươi sáu-năm trăm bảy mươi hai) thời bắc Chu, Sư thị tịch tại Trường An, thọ sáu mươi tuổi. Ngài khéo dùng Luận Đại Trí Độ, thường trích dẫn Tiểu thừa cùng chứng thành nghóa, nên y cứ theo văn mà lần lượt tán thích tinh lý, thí dụ như các ngôi sao và mặt trăng giúp cho sự sáng bừng của mặt trời, giống như các thứ hoa lăng xăng rơi xuống nên Sư soạn văn ấy, đề tên là “Luận Tán hoa”. Trong lời tựa, lược ghi rằng: thể thức của việc soạn văn qúy ở chỗ văn từ dón gọn mà nghóa lý dồi dào. Tất cả tác phẩm của tôi mà nay không lường biết hết được, chính do từ dấu vết ấy, ít người am tường đào luyện, vì thế xúc nghóa ân cần, gặp văn thấy rõ như thấy chỉ tay trong lòng bàn tay. Có người xem đọc rõ ràng, tưởng như soi vào đó, văn nhiều chẳng cùng tận. 1 0/-Truyện ngài Thích Bảo Thoán trụ chùa Quang Hưng ở Đồng Châu. Thích Bảo Thoán, họ Triệu, vốn người An Hán. Sau, ngài trụ tại Tô Khê ở Xứng Lon thuộc Miên Châu. Sư bẩm tánh nhân nhượng, tuệ tâm sáng suốt. Thưở bé đã có tướng khác thường, cha mẹ muốn thử khí độ của Sư, bèn đem các thứ gấm lụa, hoa, quả, cung, tên, sách vở để quanh trước mặt Sư, Sư bèn gạt bỏ các thứ bánh quả v.v…chỉ ôm chầm lấy sách vở. Mọi người đồng ngợi khen và lấy làm lạ, đều biết Sư sẽ thành người cứu giúp kẻ khác. Năm bảy tuổi, Sư có duyên sự đi đến Quận Ba Tây, Thái Thủ Dương Thiếu hỏi ngài rằng: “Nghe ông đọc sách nhiều, vậy vì sao gọi là Lão Tử?” Sư đáp: “Vừa mới sinh mà đầu bạc trắng nên được gọi như vậy!” Dương Thiếu thầm lấy làm lạ. Năm mười sáu tuổi, Sư phụng thờ Lương Bình Tây Vương. Ban đầu, làm Đạo só Đồng tử, Sư chưa học Phật Pháp. Bình Tây Vương biết căn cơ sáng lán của Sư, nên chỉ bảo Sư biết làm việc công đức. Nhờ đọc được kinh Phật, nên Sư mừng vui về Danh Văn, qúy trọng nghóa chỉ. Sư xem xét đọc tụng, mê ngộ càng phân rõ, thường cầu Phật Pháp dùng để dứt trừ tăm tối. Năm hai mươi bốn tuổi, Sư mới được xuất gia và liền thọ giới Cụ túc. Đầu tiên Sư nghe học luật điển, trước sau được vài năm, lược thông trì phạm. Sư trở lại nghe học Luận Thành Thật, truyền trao quên cả nhọc mệt. Sư chẳng tiếc riêng Tư Ký, ai cần Sư liền ban cấp. Sư nghiên cái mà tâm chỉ ra, từng khoa riêng đến cùng. Cuối cùng Sư lại nghe Pháp Sư Thiều giảng, thấu cùng chỉ thú. Võ Lăng Vương hỏi rằng: “Sư đại tập ma-ha Đường, bảo giảng kinh thỉnh Quán Thế Âm”. Ban đầu chưa nối liền tâm, vốn không Văn sớ. Mới làm tình tư rút ra thiếp cú lý, Từ nghóa suốt hợp, người nghe đầy cả nhà giảng. Ngài riêng ghi lời ấy, nhân thành sớ bản, rộng lưu hành ở dời. Sau, Sư trở về Phù Xuyên, mở mang Giáo hóa. Tăng tục ngoại điển, kinh Phật lần lượt chỉ dạy dẫn dắt. Sư hướng dẫn người Tà về Chánh, mười nhà được chín. Sư lại gom chép các phương thuốc trị liệu các thứ bệnh khổ. Hoặc có người đem vàng lụa để đáp đền công lao, nhưng Sư không nhận một vật gì, khiến cho có người mang nghóa nhớ đức của Sư mà bỏ tục xuất gia. Hoặc có người bị chướng duyên chưa thể hòa hợp thì phát nguyện trọn đời thọ trì tám giới. Ngài tuy đạo hạnh lan tràn khắp tỉnh lạc, phong hóa tỏa cùng xứ Mân Nga, nhưng chí khí Sư chỉ ở việc mở mang giáo pháp. Tâm thành nêu dựng, chẳng tranh đua cùng người vật. Sư thấy Kinh Đại Tập chưa được truyền bá ở đất Thục, nên muốn soạn sớ ký để giúp cho hàng hậu học có chỗ quay về. Sư bèn giao phó các kinh luật, đến núi mà soạn tập, nhưng đại chúng lại tìm đến, khiến có điều phiền nhiễu. Mãi tới năm sau mới được thành tựu không một lưu nạn. Ban đầu, lúc soạn sớ đến phẩm “Hư Không Tạng”, đối với Nghóa lý chưa được thông đạt. Sư bèn nhắm mắt để suy nghó, bất chợt thân bật lên giữa hư không, cách đất chừng ba, bốn thước, rồi bỗng nhiên Sư đại ngộ. Cuối cùng văn tuệ tỏa phát, Sư soạn viết không giảng nói, căn cứ vào đó làm lời, chí lực khó phỏng theo. Bấy giờ có Sa-môn Bảo Nguyện trụ chùa Võ Thệ ở Ích Châu, là người đầu tiên thỉnh Sư giảng. Đại chúng nhóm họp lắng nghe những điều chưa từng được nghe, không ai chẳng khen ngợi mừng vui. Lại gặp được Bồ-tát Tăng Ngạn, ra đời vì tạo kinh bản, nhân đó mà truyền trì mãi đến ngày nay chẳng dứt. Nên chỉ một học tại Bảo Phường mà trùm khắp cả Kiếm Nam. Sau, Sư lại soạn sớ giải các Kinh Niết-bàn, Pháp Hoa, v.v.. đều cắt bỏ rườm rà để dễ hiểu, người nghe không bị rối rắm, tăng tục khắp châu cảnh đều sinh ý tưởng là điều khó gặp. Sư thường nói: “Thân mạng tôi không được lâu dài, chỉ phải tự cố gắng, thân tâm giảm bớt sự ăn mặc mong kéo dài mạng sống thừa! Nên mọi sự thô xấu chỉ để dắt dẫn báu thân, hoằng pháp dẫn dụ làm tâm, Hộ sinh an chúng là việc thường đáng làm!” Bỗng nhiên, Sư bị bệnh phong, không thể nói lâu được. Khi mạng sắp dứt, tâm Sư riêng phát thệ nguyện cầu mong Chư Phật che chở để được phân giao mọi vật. Sư khởi niệm ấy rồi, bỗng nhiên nói được, Sư ngoái nhìn lại các đệ tử dạy răn chỉ chỉ bày mọi điều họa phước, Sư bảo “ta sắp đi đây” và thúc giục làm di sớ phân xử các thứ y vật, cúng dường Tam Bảo. Sư hạ bút viết xong, trở lại không nói được nữa. Người thị giả vội đem nước cơm để dâng nhưng Sư ngậm miệng cự tuyệt. Khi cơn bệnh đã quá nặng. Sư chỉ xưng danh hiệu Phật, chắp tay ngang trán, an nhiên thị tịch tại chùa Quang Hưng ở Đồng Châu. Nay gọi là Chùa Đại Chấn Hưởng, thuộc Miên Châu. Sư thọ năm mươi tuổi, lúc đó là ngày hai mươi ba tháng mười một niên hiệu Bảo Định thứ nhất (năm trăm sáu mươi mốt) thời Bắc Chu. Trước lúc Sư thị tịch, vốn ở tại núi. Vào khoảng tháng năm, tự nhiên vô cớ mà núi sụp lở, bụi bay tối cả bầu trời. Cả chúng đều kinh hãi mà không ai lường biết được điều lạ lùng ấy. Đến khoảng tháng tám, mọi người trong ngôi làng phía Bắc núi đều thấy một pho tượng từ chùa núi đến nương giữa hư không mà đi về phía Bắc. Có phướn d0ẹp sắp bày phía trước, tăng chúng đi theo sau, mọi người bèn đến chùa hỏi thì không một ai thấy biết. Đúng ngay lúc đó là Sư đến giảng tại chùa Quang Hưng, có người đem điều đó thưa hỏi. Sư bảo: “Đó là điềm ứng của ta, không liên can đến người khác!” Đến khi Sư thị tịch tại chùa ấy, quả nhiên y như những điều đã thấy!. 1 1/- Truyện ngài Thích Đàm Diễn ở Lạc Châu. Thích Đàm Diễn, họ Hạ Hầu, người ở châu Nam Duyện Châu. Lúc mới sinh, Sư đã mọc răng đầy đủ, người đời lấy làm lạ. Năm bảy tuổi, Sư đi học, rất thông minh khác thường. Năm mười lăm tuổi, Sư được đề cử làm Châu Đô Công Sự. Có những lúc rảnh rỗi, Sư bèn dự nghe Thích giảng. Năm mười tám tuổi, Sư đỗ Tú tài cống lên Nghiệp Đô, đến nghe giảng ở Pháp tịch của Pháp Sư Quang, Sư liền bẩm thọ quy giới, xả bỏ việc thế tục chuyên nghiên cứu Phật Lý, ở lại học ba năm, lần lượt gần đạt đến trước. Năm hai mươi ba tuổi, Sư xuất gia với Luật Sư Quang, liền được thọ giới. Nghe không có lúc nhàn rỗi, Sư bỏ cả ăn ngủ, nhưng đối với Tạng Chỉ, còn có điều nghi, Sư đi hỏi khắp các bậc thạc học, nhưng đều bị khước từ khi họ không hiểu. Sư bèn khai thác Hoàn Vũ, lập ra khuôn phép. Sư bảo đồ chúng rằng: “Ta theo thầy nhiều năm học đạo mà tâm ngộ chưa quyết, lại do ý tham cứu nhiều ngày, bỗng nhiên có chỗ y cứ. Ấy giống như mắt tiếp xúc với mặt vách tường thì tối tăm không thấy biết gì, nhưng kéo cổ ra khỏi cửa thì xa gần đều thấy.” Do đó mà việc giảng Pháp, Sư không hề phế bỏ. Khen ngợi Huyền lý, thanh biện hùng sáng, lời hợp thời cơ. Từ các xứ Tề, Trịnh, Yên, Triệu đều ảnh hưởng thần hóa của Sư. Tuy gặp phải chuyên trở ngại, Sư vẫn an nhiên chịu khổ không hề mỏi mệt. Chư tăng nghóa học có hơn ngàn vị, xuất gia, cư só gần đến năm trăm, đều mở mang Đạo Chí, giới cấm luôn giữ tại tâm. Triệu Quận Vương Cao Duệ, Thượng Lạc Vương Cao Nguyên Hải. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Bật đều là những bậc ý thích trọng thần dưới triều đại nhà Tề mà đều có tâm kính trọng Sư. Bộc Xạ Tổ Hiếu bày tấu thỉnh Sư làm Quốc Đô, tiếp nối hòa hợp Đạo Chính chẳng rơi lạc lưới Huyền, mà bày rải Từ lý, lời chuộng không quan trọng. Nên đối với văn kinh rườm rà dồi dào thì Sư chỉ trích lấy một câu, để bao gồm văn rộng. Người đương thời qúy trọng Sư ở điểm văn từ dồi dào có khuôn phép mà lại đơn giản. Thường những ngày rảnh rỗi, Sư tự lấy làm buồn, bảo rằng: “Ngày trước, khi còn ở thế tục, không thấy được giới qúy báu, nên khiến người đời không biết mà làm dơ bẩn tịnh giới của ta. Nếu không như vậy thì lẽ ra đã có sở đắc!” Đến ngày mười tám tháng ba niên hiệu Khai Hoàng thứ nhất (năm trăm tám mươi mốt) đời Tùy, bỗng nhiên Sư bảo thị giả là “Vô thường đã đến” và liền xưng niện Danh hiệu Phật Di-lặc. Hơi tiếng đều dứt. Khi đó vào lúc giữa trưa, Chư tăng trong phòng đều thấy khuôn mặt Sư vẫn tươi tắn vui vẻ. Lúc ấy Sư đã bảy mươi chín tuổi, Sư thị tịch tại nhà Họ Lư ở Lạc Châu. Lúc Sư mới sinh tướng tốt đã cảm kích đến người, Sư lập tiết tháo trinh thuần thẳng thắn, tâm dụng duệ ước, tình luôn cứu giúp đời, nên cất giữ các vật để cứu giúp kẻ nghèo bệnh là việc trước tiên của Sư. Pháp lợi trùm khắp, Sư thực hành trước khi truyền trao, chỉ trông thấy kinh tượng thì kính phụng đảnh lễ đón rước, đi trên đường gặp người nghèo khổ thì ngài xót thương rơi lệ. Sự kính cẩn chân chất tin tưởng sâu sắc của Sư đến như vậy. Sư lại thường thích nghe giới. Đời Sư có hai lần không nghe giới, Kinh Duy-ma và Kinh Thắng Man mỗi ngày trì tụng một biến. Các vật tanh nồng, Sư không hề để mắt nhìn. Mỗi lúc hạ khí Sư ráng giữ trong thân ra khỏi cửa mới xả, để thanh tịnh Tăng Phòng, chẳng làm xông hôi. Lúc chưa thị tịch, Sư có mộng thấy mặc áo đỏ, búi tóc nơi lưng, có hai đồng tử hầu Sư rồi bay lên giữa hư không theo hướng Tây bắc, chốc lát sau đó, Sư liền thị tịch. Mọi người lúc ấy cùng cho là Sư sinh về cõi trời. 1 2/- Truyện ngài Thích Tuệ Vinh trụ chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô. Thích Tuệ Vinh, họ Cố, người ở xứ Sơn Âm thuộc Cối Kê. Vào niên hiệu Đại Thông (năm trăm hai mươi-năm trăm hai mươi bảy) thời Nam Lương, Sư giã từ cha mẹ, cầu xin xuất gia. Bấy giờ tại các chùa Kiến Sơ, Bành Thành đang truyền bá hưng thạnh Luận Thành Thật. Sư vốn chưa hề nghe qua mà đã biện rõ khắp cùng, cả chúng đồng ngợi khen, bèn mở bảo đọc xem. Bẩm tánh Sư rỗng sáng, chẳng màng việc thế tục, chỉ chuyên làm Pháp sự, ngoài ra hoàn toàn không để ý. Cha mẹ ở quê nhà buồn mất Sư sớm, nhân đó bèn gởi thư và một số hành lý. Sư nhận được bèn liền đốt bỏ, nói với các bạn đạo rằng: “Đâu hai chữ, cần gì phải mở xem?” Có người hỏi chữ gì? Ngài đáp: “Đó là lành và giữ”. Sư chứa nhóm công phu như thế hơn ba mươi năm. Chẳng gọi là Nghóa long thì thề không trở về lại. Từ đó, Sư chuyên nghiệp mạnh mẽ bền bỉ. Tiếng tăm khen ngợi vang xa, Sư vì giảng ngộ, học chúng thảy về nương. Đến năm năm mươi tuổi, môn nhân cũng vậy, Sư bèn mở rộng Pháp tịch, rộng mời khắp các hàng tăng tục. Bấy giờ, Lương Trữ đang ngồi dưới tòa mà vốn không biết Sư, mới hỏi người giảng tên gì, Sư bèn ứng tiếng đáp rằng: “Tuệ Vinh Tôi ở Vũ Huyệt, một mình bước đến Giang Đông, Thái tử còn không biết thì làm sao gọi là Trữ Quân?” Cả Pháp hội mọi người đều bịt tai, vì cho như vậy là rất trái le,õ nhưng Sư vẫn thong dong như cũ, dường như bên cạnh không có ai. Sau, Sư cùng các đồ chúng đồng trở về ấp cũ, mẹ của Sư vẫn hiện còn, và mọi vật đều như cũ, Sư bùi ngùi than rằng: “Mười lăm tuổi, ta giã từ quê nhà, năm mươi tuổi mới có dịp quay trở lại, những người trẻ tuổi không hề biết ta, người tuổi già không còn một người!” Các hàng Tăng tục trong ấp ấy muốn tự làm sáng ngời mình, nhưng kî nói lời ấy, bèn nhóm họp các hạng người, bảo Sư lập nghóa, Sư bảo: “Tôi học rộng, nếu dựng lập ngay, sợ sẽ thừa từ, nên tùy mọi người nêu lên Nghóa môn, sau đó tôi sẽ nêu có bằng cứ!” Mọi người cho đó là bác đạt khoe khoang, bèn bảo dựng lập nghó a“ tám mươi vẻ đẹp” vì cho là chắc chắn chẳng thể tụng trì. Sư bảo: “Cả chúng không có một người. Đây mới là văn rườm rà, mà nghóa có thể biết.” Sư liền phân bộ trên dưới, dùng giây Pháp để giữ, chỉ trong khoảnh khắc, điệp số bày danh xuất thể. Đều tuy khó bàn bạc, bởi không Thành cứu giúp. Sau, già ngài lại ra thành đô, bèn cùng giảng trao. Đến cuối niên hiệu Chí Đức (năm trăm tám mươi bảy) thời Nam Tề, Sư thị tịch tại Dương Đô. đô. 1 3/- Truyện ngài Thích Đàm Diên trụ chùa Diên Hưng, ở Kinh Thích Đàm Diên, họ Vương, người xứ Tang Tuyền thuộc Phổ Châu. Gia đình Sư thuộc hạng hào tộc, làm quan qua các triều đại nhà Tề, nhà Chu, nhưng tánh Sư chỉ thích hợp với sách vở, khắp làng nước đều ngợi khen. Năm mười sáu tuổi, nhân được đi đến chùa, Sư nghe Pháp Sư Tăng Diệu giảng Kinh Niết-bàn, bèn tham cứu mà tỏ ngộ được yếu chỉ. Sư bèn xả tục, xuất gia, tìm xét sự sâu mầu đến cùng. Sư mở lời trong sáng cao vượt khác thường. Lúc vừa hai mươi tuổi, Sư đã giảng nói. Từ ngữ biện luận dồi dào rộng rãi. Sư thường nói rằng: “Diệu Lý Phật tánh là Tông cực Niết-bàn. Ấy đủ làm chỗ Du ngoạn cho tâm thần!” Thân Sư cao chín thước năm tấc, tay duỗi dài quá gối, mắt sáng phát ra ngoài dài hơn cả thước, dáng vẻ trang nghiêm, từ dụ rộng khắp, đáng gọi là đường đường. Sư đi nhìn thẳng tới trước, nếu cần ngoái nhìn chung quanh, thì xoay cả mình lại. Phong cách khoan thai. Bấy giờ đức hạnh Sư truyền xa. Sau khi thọ giới cụ túc, khí độ Sư ngày một mới thêm, sáng soi mạnh mẽ, mọi người xa gần đều ghé mắt trông nhìn. Tuy xem đọc các kinh sách sâu mầu nhưng Sư sợ Lý nghóa còn ở dạ bên ngoài. Sư bèn nghe lại các bộ Hoa Nghiêm, Đại Luận, Thập Địa, Địa Trì, Phật Tánh, Bảo Tánh, v.v.. và đều vượt qua người dẫn trước, bao gồm bến bờ chuẩn đích. Sư tự nhìn lại bóng mình mà nói rằng: “Ta và ngươi đắm chìm đã lâu ngày, phiêu bạc, quay về đâu? Nay có thể nương nhờ vào Đạo, ngầm lắng hình mà tinh cần tư duy về điều kiện quan trọng để thoát ra.” Sư bèn đến ẩn tại chùa Bách Thê ở núi Thánh Hành, thuộc Nam Bộ. Tức nay gọi là núi Trung Triều. Bấy giờ, trong núi ấy có cư só Triết, học thức bao gồm huyền nho, có lắm điều được trông xem, nghe Sư tuổi trẻ mà biết Đạo, sớm tỏ ngộ vượt hẳn người thường, bèn tìm đến tham yết nói cười, đùa vui cùng cao, chưa vái chào mà cư só Tiết đùa vui đề bốn chữ “Viên, Phương, Động, Tónh” và bảo Sư giải thích. Sư liền đáp rằng: “Phương (Vuông) như ngôi Thành Phương đẳng. Viên(tròn) như mặt trời trí tuệ. động thì biết làn sóng. Tịnh giống như nhà Niết-bàn: “Cư só Tiết Kinh lạ hết lời ngợi khen rằng: “Từ trước đến nay chưa từng được thấy, thật là ít có, nổi bật ở đời, chính là người này!” Sau đó, cư só Tiếp thường luôn lui tới thưa hỏi điều nghi, cầu xin giải nghóa. Sư ở nơi thanh vắng, lắng tónh ý chí. Muốn soạn Niết-bàn Đại sớ, nhưng ngại sợ có chỗ vướng mắc nơi phàm tình, nên thường chí thành cầu nguyện suốt cả lúc thức hoặc ngủ. Ban đêm Sư mộng thấy có một người mặc áo mầu trắng, cưỡi con ngựa trắng, lông bờm và đuôi phẩy tới đất mà nói trao cho ý chỉ kinh. Sư đưa tay nắm lấy bờm ngựa và cùng bàn rõ. Sau khi tỉnh giấc, Sư suy nghó rằng: Đó chắc chắn là Đại Só Mã Minh đến trao cho ta đầu mối nghóa lý, nắm lấy bờm ngựa mà biết được Tông Chỉ, nói việc thì có thể biết!” Sư bèn soạn Đại sớ, nói bài kệ rằng: “Quy mạng Như Lai Tạng, Pháp chẳng thể nghó bàn, v.v.. Lúc biên soạn xong, Sư còn sợ không hợp với chánh lý bèn mang kinh và sớ đến bày trước tháp Xá-lợi của chùa Nhân thọ, ở châu Trị, đốt hương và phát lời thệ rằng: “Đàm Diên con với khí độ phàm tình kính ngưỡng lường xét thánh tâm, thuyên giải chú thích đã xong, đầy đủ như quyển riêng, nếu thấu đạt được chỗ sâu xa mầu nhiệm, nguyện xin hiển bày điềm sáng linh thiêng, còn như không được điềm cảm thì xin chẳng truyền trao.” Sư nói vừa xong, cả Pho quyển Niết-bàn đều phát ra ánh sáng, suốt đêm hiển bày điềm lành, kẻ tăng người tục khen ngợi mừng vui. Xá-lợi trong tháp lại phát ra ánh sáng thần suốt ba ngày ba đêm, soi chiếu rực rỡ không dứt, trên rọi tới trời xanh, dưới chiếu khắp núi sông. Mọi người khắp nơi trông thấy ánh sáng đều đến bái yết. Chỗ ánh sáng ấy soi chiếu rất giống như ánh sáng soi chiếu của Pháp sư Tăng Diệu. Như thế tức là thầy trò có sự cảm thông, Sư bèn viết Biểu văn tấu trình, Vua rất vui mừng ban sắc thỉnh Sư đến giảng. Đã cảm được điềm lành, Sư bèn giảng rộng. Những văn sớ do Sư soạn đều được truyền bá ở đời. Những vị Anh đạt thông suốt nghóa ở đương thời đem so sánh với các tác phẩm của Viễn Công, thì Văn cú của Viễn Công thật rất thỏa đáng, ở đời thật ít có. Nhưng nêu rộng rãi, soi chiếu lộng lên thì văn sớ của Sư rất vượt hơn! Vua Thái Tổ thời Bắc Chu vốn tôn sùng đạo Thanh, cũng rất khâm phục kính trọng Sư, đích thân kính thờ Giảng chủ, tự mình đến dự nghe thanh ngôn. Mọi người xa gần đua nhau tìm đến chiêm ngưỡng đông như chợ. Sư có được các vật do mọi người cúng dường đều chẳng chứa để riêng. Tánh Sư ưa thích đạm bạc rỗng rang, không can hệ đến thời sự, chính trị. Vua Thái Tổ cho rằng chùa Bách Thê quá xa, hỏi xét đường đi khó khăn, bèn ở phía Tây núi Trung Triều; nơi có địa thế tốt đẹp. Vì Ngài mà xây dựng ngôi chùa lấy tên là Văn Cư. Quốc gia cung cấp, chung cho thính chúng. Có Trần Cung sai Chu Hoằng Chính, là người khảo xét rộng về các kinh sách, biện luận như thác đổ, du thuyết khắp ba nước, kháng tự không ngại. Vào niên hiệu Kiến Đức ( 5 7 2- 578) thời Bắc Chu, Sư mang sứ mạng đến đất Tần. Vua rất ngợ tài năng bén nhạy của Hoàng Chánh. Cả triều đình đều hỗ phục sắc thể. Vua ban sắc khắp trong nước những kẻ só nào có khả năng ăn nói, không phân biệt là đạo hay tục, hoặc tìm tòi những người mang tánh cao đời, ẩn dật nơi núi hang, có khả năng đối luận với Hoằng chánh, không được rơi lạc nơi Quốc phong. Bấy giờ, thứ sử Phổ Châu là Trung Sơn Công Vũ Văn Thị sớm thừa lệnh phạm (pháp lệnh) bèn dâng Biểu Văn trình tấu rằng: “Có Pháp Sư Đàm Diên là bậc khí thức sâu rộng, phong thần sáng trội, tuy chưa đến ba mươi tuổi mà anh tài hùng biện khó có người nối tiếp!” Vua bèn mời nhóm tất cả các bậc Hiền tài có khả năng, mong tới ngày Thích điện. Đích thân nhà vua đến dự pháp diên, các hàng Triều Tể đều đến dự. Khi đó nước Chu (Bắc Chu) có hai người làTăng và vọng lần lượt lên toà, phát ngôn sắp xong, liền bị Hoằng Chánh hỏi vặn, nên bày y cứ lắp bắp, vạch giải chẳng thông. Vua và các quan liêu cả triều đình đều đổi sắc mặt. Theo thứ lớp thì Sư ngồi ở sau cuối, chẳng chịu nổi sự xấu hổ ấy, bèn chẳng theo thứ lớp mà tự đứng dậy. Vua hỏi: “Chưa đến phận vị mình có việc gì mà đứng dậy ngay như thế?” Ngài Sư đáp: “Nếu là Đại Só ở phương khác thì có thể nhờ cậy các đại đức cùng đến. Nay đây chỉ là vị thần nhỏ ở nước ta, Tiểu tăng tôi có khả năng đối địch.” Sư liền bước lên tòa Cao. Vua lại hỏi: “Vì sao không lễ bái Tam Bảo?” Sư đáp: “Tự lực mình có thể đủ nghó phỏng, chưa cần phải nhờ vào Thánh Hiền giúp sức thêm.” Vua rất vui mừng. Hoằng Chánh liền nêu lời vặn hỏi, Sư bèn dẫn nghóa mở ải, Hoằng Chánh rất cậy cơ điệu, dùng trước để bẻ sau, Sư thừa thế bẻ gẫy mọi sự v.v.., đều khuất phục. Nhân đó Hoằng Chánh liền đảnh lễ chịu thua, bùi ngùi biết quay về muộn. Tự tỏ bày rằng: “Đệ tử đi khắp ba nước, hỏi phỏng đáng là thầy trong các thầy, chẳng nói, ngày nay mới gặp ở đây.” Liền xin thọ giới. Ngày đêm thưa hỏi, trọn dùng làm tông. Đến lúc trở về đất Trần, các nghóa môn do Sư soạn đều là Nghi Mạo, Hoằng Chánh đều ghi chép đem về nước, thường đêm xoay mặt về hướng Bắc đảnh lễ tôn xưng “Đàm Diên Bồ Tát”. Ban đầu, ngài Hoằng Chánh giã từ Sư, dự làm bốn mươi bài thơ nói về gió mây núi biển, đều trích dẫn để nêu cao tư tưởng đặc biệt, dùng để dâng lên để Sư lưu lại từ biệt sau nầy, và một kinh mục chẳng hề tìm lại. Sư bèn cầm bút họa lại, đề như đã tụng trước, đáp đồng với âm vận gốc, ý rất thông rộng. Hoằng Chánh rất thán phục, không còn đối lại nữa, bèn qùy xuống thưa rằng: “Nguyện xin nói một lời đã giam trong cõi lòng. Sư bảo: “Vì khách mà trải tòa, khách chẳng ngồ, lìa người rất xa nóng như lửa, cái dụng của khuôn phép là ở trong da.” Hoằng Chánh nói: “Đó là ý thường còn.” Vua cho rằng Sư ngộ phát từ Thiên chất, đáng làm phép tắc cho cả năm chúng, bèn phong cho Sư làm Quốc Thống, khiến khắp đất Chu được dẫn dắt. Ngài rất có công lao. Đến lúc Vua Võ Đế (Võ Văn Ung) sắp phế bỏ cả hai giáo, Sư rất mực cản ngăn mà Vua chẳng nghe theo, Sư bèn vào ẩn tại núi Thái Hành, lặng vết giữa người đời. Sau đó, Vua mời Sư ra phụ giúp Trung Sứ Lũ Đạt, thật ra Sư ẩn vùi tiết tháo vào trong hang núi sâu, nhiều lần tìm cầu không được. Đến Thiên Nguyên bị bệnh. Vua bèn hối hận lỗi lầm ngày trước, khai lập Tôn tượng. Và độ một trăm hai mươi vị làm Bồ-tát tăng. Sư dự tại Thượng Ban, nhưng vẫn còn buồn vì đồng như tướng thế tục, nên bèn trở lại ẩn tu nơi rừng rậm. Đến lúc Nhà Tùy bắt đầu sáng lập cơ nghiệp, chưa lần lượt độ tăng. Ban đầu Sư nghe thay đổi chính trị liền cạo tóc mặc pháp phục, cầm tích trượng đến nơi Vương đình, đối mặt tỏ bày với Hoằng lý. Vua chưa kịp ban sắc an ủi, Sư liền trước tỏ bày rằng: “Kính hỏi Hoàng Đế làm việc lớn cả bốn bể không đến nỗi nhọc thần chăng?” Vua Văn Đế (Dương Khiêm năm trăm tám mươi mốt-sáu trăm lẻ năm) đời Tùy bảo rằng: “Đệ tử từ lâu đã suy nghó ý ấy, chỉ tiếc là chưa khắp.” Sư nói: “Bần đạo nghe thuở xưa có thời nhà Nghiêu, ngày nay mới gặp, v.v..!” Vua Văn Đế nghe, mừng vui với bổn hoài, cùng bàn khuôn mẫu của khai pháp, nguồn gốc của giáo hóa. Sư cho rằng chùa chiền chưa rộng lớn, giáo pháp mới hưng thạnh. Bèn tấu trình xin độ tăng để ứng với số một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-khưu, năm trăm Đồng tử. Vua ban sắc bèn độ chung hơn ngàn vị để xứng với sự cầu xin của Sư. Đó là khai nghiệp trong sự giáo hóa của Đạo Phật đời Tùy. Và từ đó về thì phát triển rất nhiều. Trước sau riêng thỉnh độ, gồm có hơn bốn ngàn vị tăng. Những ngôi Già-lam bị Vua Võ Đế (Võ Văn Ung ) dưới thời Bắc Chu phá hủy, Sư đều xin xây dựng lại. Tam bảo trở lại hoằng hóa, công gồm vận đầu ấy đều là do công sức của Sư. Khi dời đô Long Thủ, Vua Văn Đế có ban sắc tại phường Quảng Ân để dựng lập “Diên Pháp Sư Chúng”. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ bốn (năm trăm tám mươi tư) đời Tùy, vua lại ban sắc đổi Diên chúng thành chùa Diên Hưng, mặt đối với đường cái thông suốt, hai cửa Đông Tây của kinh thành cũng có thể lấy tên Diên để làm Diên Hưng, Diên Bình, nhưng tên gọi ấy được đời qúy trọng. Đạo là Đế Sư, mà kính phục vâng thừa như thế. Trọn từ xưa ít ai bằng. Xưa kia cửa của Trung Thiên Phật lý, bèn gọi hiệu là Cù-đàm, nay Quốc thành phụng thờ huý của Sư, kế đó là Luận. Lại đổi chỗ vốn ở của Sư là chùa Vân Cư thành chùa Thê Nham. Vua ban sắc Thái nhạc Lệnh là Tề Thọ Đề tạo Phật điển ở núi Trung Triều, hiện truyền cúng dường. Sư trụ chùa ấy kết chúng thành nghiệp. Vua ban sắc mang đèn sáp, chưa đến nơi đã phát nóng và tự nhiên cháy sáng. Sư lấy làm lạ, đem sự việc ấy tấu trình lên vua. Nhân đó mà đổi tên chùa Sư ở gọi là chùa Quang Minh. Sư bảo: “Hoằng hóa cần phải rộng, chưa thể tự chuyên lấy tên biển ngạch”. Nên Sư lại tấu trình lập riêng một ngôi chùa khác, được Vua chấp thuận, nay chính là chùa Quang Minh. Sư có lắm điều u hiển hiện điềm lành đại loại như thế. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ sáu (năm trăm tám mươi sáu) đời Tùy, trời hạn hán, từ triều đình cho đến Đồng nội thảy đều hoang tàn. Vua Văn Đế ban sắc thỉnh ba trăm vị tăng đến chánh điện thiết lễ cầu mưa, qua nhiều ngày mà không được cảm ứng. Vua bảo: “trời không ban mưa là co nguyên do gì đây?” Sư tấu trình: “Sự việc nguyên do có một vài điều.” Vua lại cùng các Liêu tể bàn bạc việc ấy mà không đạt được ý nên vua ban sắc cho Kinh Triệu Thái Thú Tô Oai hỏi Sư về một vài nguyên do ấy. Sư đáp: “Bệ hạ là chúa của Vạn Cơ, các quan là quan của Tỳ Tán, đều trái với trị thuật, đều lỗi hẹn với huyền hóa, nên mưa và không mưa là có một vài nguyên do” Vua bèn đích thân lo việc cầu mưa, thỉnh Sư đến Đại điện, lên ngồi trên tòa, xoay mặt về hướng Nam mà truyền Pháp. Vua cùng triều tể từ Quan Ngũ Phẩm trở lên đều ngồi dưới đất xoay mặt về hướng Bắc mà thọ tám giới. Giới trao vừa xong, lúc ấy ngay giữa trưa, giữa trời có một tảng mây, chỉ phút chốc đã trải khắp và liền rưới mưa cam lộ, xa gần đều được cảm. Vua rất vui mừng, ban tặng ba trăm xấp lụa, mà Sư rỗng không, không có tâm chấp ngã, chẳng vướng mắc nơi khách chủ làm Tâm. Hễ có của cải gì Sư đều gieo vào hai ruộng phước Bi và Kính. Nên khắp bốn phương xa mọi người tìm đến rất đông. Có một lúc gạo thóc sắp hết. Vị tăng chủ chùa là Sa- môn Đạo Mục báo rằng: “Lương thực chỉ còn cung cấp được hai ngày ăn” trong ý muốn giải tán chúng tăng. Sư bảo: “Phải lúc nào thật sự hết sạch mới giải tán chúng tăng.” Sáng hôm sau, vua Văn Đế tự nhiên đưa lên hai mươi xe gạo. Đại chúng nhờ đó được yên ổn. Có người cho là Sư có sự sáng suốt thấy biết trước, cho nên dừng cầm giữa chúng tăng đãi cúng. Sau đó không lâu, vua lại đưa lên năm trăm thạch gạo. Năm đó gặp lúc đói kém, tăng chúng nhờ vậy mà không đổi dời. Vua đã coi Sư làm Sư Phụ, lại ban sắc cho các hàng mật thích ý thân đều thọ quy giới. Đến lúc thọ thực xong, tự thân vua phụng dâng nước uống, tay cầm lấy xiêm y, dùng thuần lễ nghi của đệ tử đối với thầy, thêm sự kính trọng, tình chẳng thể thôi. Lúc bấy giờ, Ngài rất được Vua lễ trọng, tình chẳng thể thôi, đại loại như thế. Vua ban sắc lại bái làm Bình Đệ sa-môn. Nếu có người phạm phải lưới hình, đều đối với việc ấy mà rơi lệ, khiến kẻ ấy chiết phục theo, hoặc dấn vết vào núi rừng, chẳng dám dung thứ ở đời. Đến ngày mười ba tháng tám niên hiệu Khai Hoàng thứ tám (năm trăm tám mươi tám) đời Tùy, Sư thị tịch tại chỗ Sư ở, thọ bảy mươi ba tuổi. Lúc sắp tịch, Sư để lại di văn khải trình vua Văn Đế rằng: “Đàm Diên tôi gặp được Vua Pháp ở đời, riêng đội ân sâu. Duyên xưa nghiệp cạn nên sớm trái nhau. Kính mong Chí Tôn hộ trì Tam Bảo, đầu cuối không hai chỉ vì trong thời mạt Pháp, Phàm tăng tuy không đúng như Pháp, nhưng chọn người lành mà độ họ thì tự nhiên chiêu cảm phước báo tốt đẹp!” Vua nghe thế, buồn thương gào khóc, ban sắc các hàng vương công trở xuống đều đến kính điếu. Và Vua bãi triều ba ngày, tặng vật năm trăm món, thiết trai cúng dường ngàn vị tăng. Ngày trước, lúc Sư đang khoẻ mạnh, bảo với môn nhân, đệ tử rằng: “Sau khi ta qua đời thì bố thí thân ta cho các loài cầm thú, xương cốt còn lại thì y theo pháp mà thiêu đốt tung vãi, không nên giữ lại cốt tàn khiến nhọc công người trông coi gìn giữ!” Sư có các đệ tử như Sa- môn Đồng Chân, Hồng Nghóa, Thông U, Giác Lãng, Đạo Tấn, Huyền Uyển, Pháp Thường, v.v.. là những bậc một đời lưu danh. Và các Văn Võ Chức liêu như Đằng Vương, v.v.. tất cả đều trùm tóc, đi chân không mà đưa tang đến nơi rừng. Khi đã đến, Vua lại ban sắc cử hành lễ thiêu tại Chung Nam, thiết trai cúng dường ba ngàn vị tăng. Sau khi lễ trai tăng hoàn mãn thì cử hành lễ thiêu. Khi đó, sắc trời trong sáng không mây mà rưới mưa nhỏ, tướng trạng như lúc xưa kia trà-tỳ Đức Như Lai, đại chúng lấy làm lạ ngợi khen được điều chưa từng có. Lại nữa, Tùy Văn Học Lã thức Đónh rất buồn thương, lập Bia nêu bày cảnh hạnh của Sư, văn như ở biệt tập. Sư thường lấy nguyện sinh Tây phương làm việc chánh, giữa khoảng thời gian nói nín, Sư trụ trong tưởng không đổi dời. Thị giả hầu trông thấy Sư như ở trong định sâu. Lúc Sư mới thị tịch, ở cạnh chùa có Nhâm Kim Bảo, cả cha con nghe tin mà đến, nói rằng: “Thấy giữa hư không, phướn lọng sắp bày trước Kim quan hai hàng mà dẫn từ phía nam chùa Diên Hưng đi đến phía Tây núi.” Đó cũng là u minh hợp tán, xét chẳng luống nghó. Từ khi Sư mới đến với Đạo, thế lực gồm cả quyền hành, mà giúp cho tự sống, khắc niệm thành trị, thấu suốt các học thuật, hành động vật tình, nên làm thầy tâm của bảy chúng, đâu chỉ bó buộc thân thêm kính. Đến lúc nghe Sư thị tịch, không ai chẳng rơi nước mắt, mỗi người tự soạn bài minh đến viếng điếu,tán dương nghiệp lớn. Bấy giờ, Nội Sứ Tiết Đạo Hành dâng đọc lời điếu rằng: “Phá y, Sư Diên Xả tục từ tuổi trẻ, cao dẫn ngoài trần, chí độ rộng lớn. Lý thức tinh ngộ, Thần ở linh đài có thể kính ngưỡng mà không thể nhìn. Biển Pháp nguồn trí, có thể lội qua mà không thể lường biết. Đồng như chiếc gương sáng lớn soi chẳng nhọc mệt. Ví như Hồng chung kia có lại ứng kia. Xưa gặp lúc Đạo mất, duyên huyền rơi rụng, Sư ẩn chí nơi non cao, bền bỉ chẳng thể cất nhắc. Lúc ở vị Cao Lễ hậu, cũng chẳng thể chuyển xoay mối nghó suy. Trang nghiêm núi Pháp, chưa đáng sợ tâm ấy. Kinh hành tónh tọa, dẫu hiểm nạn cũng chẳng hai, giới đức luật nghi trước sau chỉ một, lúc Thánh hoàng mở vận, tượng pháp phục hưng, cao việt trong hàng tăng chúng, un đúc xứng đầu. Vua tôi rất mực kính trọng, bày tỏ tình nghóa thầy trò. Tam bảo nhờ đó được mở mang. Nhị Đế nhờ vậy mà tuyên dương. Tin tưởng đủ để tìm theo dấu vết của các Ngài Trừng Quán, La-thập, Siêu Công, Mại Công, Đạo An, Tuệ Viễn. Không để ý cột trụ Pháp bỗng nhiên nghiêng đổ, thuyền nhân từ chìm đắm xa. Chẳng là buồn thẳng buộc ràng bốn bộ, hẳn cũng chưa xót cảm ở một người. Các ngài chống tích, ôm bình bát tiếp thừa đạo phong dạy răn dẫn dắt, lên giảng đường vào thiền thất cụ thể nhiệm mầu, ở tại ba tình, lý trăm thường động!” Sư thị tịch, vì sao các bậc Hiền tài ở đương thời trân kính như vậy? Sư soạn Niết-bàn nghóa sớ mười lăm quyển, các Kinh Bảo Tánh, Thắng-man, Nhân Vương, v.v… đều có sở giải nhưng đều có sai khác. Môn nhân Đệ tử Sư tiếp nối làm sáng ngời tông Phong, đầy đủ như ở biệt truyện. 1 4/- Truyện ngài Thích Tuệ Viễn trụ chùa Tịnh ảnh ở Kinh đô. Thích Tuệ Viễn, họ Lý, người xứ Đôn Hoàng. Sau, dời đến ở Cao Đô thuộc Thượng Đãng. Sư bẩm tánh rỗng sáng, nghi chỉ xung hòa. Khí cục phong độ thông thái đơn giản, sùng tín cao xa. Sư chịu tang cha từ thưở bé, nên cùng sống ở với người chú, riêng được dẫn dụ chỉ bày cho nhân hiếu. Năm ba tuổi tâm khởi ý niệm ưa thích xuất gia. Mỗi khi trông thấy các vị Sa-môn thì Sư mến trọng sùng kính, bảy tuổi ở trường học, công Sư thường vượt cả trăm, Thần chí cao rộng, sự thấy biết xứng với trí sáng. Năm mười ba tuổi, Sư giã từ người chú, sang trụ chùa Cổ Hiền Cốc ở Sơn Đông; thuộc Trạch Châu. Bấy giờ, có Sa-môn Thiền sư Hoa Âm, Tăng Tư trông thấy Sư bèn độ cho. Ngài Tăng Tư hạnh nguyện cao vượt trong đời, mọi người đều tôn sùng kính ngưỡng, Ngài nói với Sư rằng: “Ông có tướng xuất gia, hãy khéo tự vui mừng!” Ban đầu, bảo Sư tụng kinh, tùy việc dạy răn. Sư siêng năng ngày đêm đủ sáu thời, khỏi phải nhọc công kêu khuyên. Đến lúc gặp bạo ngược không yên, Ngài Tăng Tư dẫn Sư theo hướng nam, đi đến Đan Cốc ở Bắc Sơn, Sư thường hỏi thầy về Đại nghóa trong kinh, đều là những điều huyền ẩn. Ngài Tăng Tư biết lớn lên, Sư sẽ thành pháp khí. Năm ngài mười sáu tuổi, thầy Sư bèn bảo ngài theo A-xà-lê Luật sư Trạm đi đến đất Nghiệp. Các kinh luận Đại tiểu, Sư đều thông hiểu, Sư tuy nghe điều sâu mầu bí ẩn, đặc biệt khác thường nhưng Sư riêng trọng về Đại thừa, lấy làm gốc Đạo. Năm đủ tuổi, Sư tấn đàn thọ giới cụ túc, lại nương ngài Thượng Thống làm Hòa-thượng. Ngài Thuận Đô làm A-xà-lê. Luật Sư Quang và mười vị Đại đệ tử làm Tôn chứng giới đàn. Bấy giờ là rất tiếng tăm vinh hạnh. Sư lại đến chỗ luật sư Đại Aån nghe giảng luật Tứ Phần. Lưu ly thỉnh Sư chỉ dạy năm mùa Hạ tịch đoan, lựa chọn tinh thô, sai phân dấu vết. Diệt tránh, Kiền-độ, trước sau lẫn lộn, từ xưa tương truyền chẳng hiểu xuất xứ, Sư bèn phân tích ước đoán, xếp đặt đơn phức, soi gốc đầu cuối, ngay nơi phân tích liền lìa, đều lý hội văn hợp, hiện nay đang lưu hành trì tụng. Sau cùng, Sư chuyên bắt chước ngài Thượng Thống, liên tiếp dốc lòng suốt bảy năm, nên thấu suốt được chí lý, sáng bật cả sâu mầu. Học chúng mang vác hòm rương cùng tuyên dương phô bày đạo, giảng ngộ nối nhau chẳng lược thứ còn lại, hạng gội mình trong Đạo thành khí, lượng chẳng thể tính hết. Sư bèn dẫn dắt đồ chúng Đồng bạn trở lại chùa Thanh Hóa ở Cao Đô. Chúng nương nhau mừng vui khen ngợi điều chưa từng nghe, đều tự xuất ra vàng lụa vì đó mà dựng hội, giảng đường chùa chiền cùng một lúc được dựng xây rộng lớn. Các Hàng Só thứ khắp vùng Hàn Ngụy đều cùng vinh hạnh. Đến mùa xuân niên hiệu Thừa Quang thứ hai (năm trăm bảy mươi tám)- thời Bắc Tề (tương đương với niên hiệu Tuyên Chính thứ nhất thời Bắc Chu), Vua Võ Đế (Võ Văn Ung) nhà Bắc Chu hàng phục nhà (Bắc) Tề, thực hành phế bỏ Phật giáo Đạo giáo, ban sắc các vị Đại đức tu hành từ trước đều nhóm họp vào điện. Vua Võ Đế tự lên tòa cao, theo thứ lớp lập nghóa Phế giáo, mạng chương rằng: “Trẫm vâng mạng trời, nuôi dưỡng triệu dân, nhưng ở đời mở mang Tam giáo, phong hóa đó càng xa, xét định về chí lý thì phần nhiều đều lỗi với hóa tục. Nay phải phế bỏ, nhưng với sáu Kinh Nho giáo văn rộng trị thuật, lễ nghóa trung hiếu ở đời rất cần có nên phải giữ gìn. Vả lại, tự chân Phật không có tượng, thái hư xa kính biểu lộ ở tâm. Kinh Phật rộng khen ngợi mà có tháp báu trang nghiêm rực rỡ, tạo dựng như thế để mong cầu phước báo, đó thật là vô tình, sao có thể ân tuệ. Dân ngu kính ngưỡng tin tưởng dốc hết của cải vật báu xây dựng chùa tháp. Đã không dẫn hao phí, chẳng đủ để lưu giữ nên tất cả các thứ kinh tượng thảy đều đập phá. Cha mẹ ân đức sâu nặng mà Sa-môn chẳng kính thờ, rất lắm bội nghịch, phép nước đâu thể dung tha, nên đều phải hoàn tục để tôn sùng hiếu kính từ đầu, ý trẫm như thế. Các Đại đức cho lý ấy thế nào?” Bấy giờ, các Sa-môn Đại Thống, Pháp Thượng, v.v.. có hơn năm trăm vị đều cho rằng vua Võ Đế dùng vương quyền, dẫu có can ngăn ắt cũng không nghe theo, nên tất cả đều im lặng. Vua lại ban sắc luôn thúc giục đáp chiếu, cùng đọc xem thảy đều thất sắc, không một người nào đáp. Sư nhìn lại nhờ cậy vào Phật Pháp, tựa nương ở bốn chúng, đâu thể dùng lời bít lấp mà cho là lý phục, bèn bước ra giữa chúng đáp rằng: “Bệ hạ là bậc thống quản địa vực lớn, được một ở ngôi vị tôn qúy, tùy hóa tục mà đặt để văn từ hiến chương cho cả Tam giáo. Sắc chiếu bảo rằng: “Chân Phật không có tượng” tin như là yếu chỉ thật. Nhưng vì tai mắt của sinh linh phải nhờ kinh mà nghe Phật, nhờ tượng mà bày chân thật. Nếu phế bỏ hết cả thì không lấy gì để dựng lập kính tin.” Vua Võ Đế bảo: “Hư không là chân Phật, mọi người đều tự biết. Không cần phải nhờ kinh tượng”. Sư nói: “Từ thời vua Minh Đế (Lưu Trang năm mươi tám-bảy mươi sáu) thời Hậu Hán về trước, khi đó kinh tượng chưa truyền đến, chúng sinh ở tại cõi nước này (Trung Hoa) cớ sao không biết hư không là chân Phật?” Khi đó, Vua Võ Đế không đáp được. Sư nói tiếp: “Nếu chẳng nhờ kinh giáo mà tự biết có Pháp, tại sao từ thời Tam Hoàng về trước chưa có văn tự, mọi người đáng lẽ phải tự biết các Pháp Ngũ thường, v.v… mọi người thời đó cớ sao chỉ biết mẹ mình mà không biết cha mình, đồng như cầm thú?” Vua Võ Đế cũng không đáp được. Sư lại nói tiếp: “Nếu cho là hình tượng không có tình thức, phụng thờ đó chẳng có phước nên phải phá bỏ, vậy Tôn tượng của bảy triều đại của nước nhà đâu phải là tượng có tình thức mà lòng chúng ta tôn kính phụng thờ?” Vua Võ Đế không thể đáp những lời hỏi vặn ấy của Sư, bèn bảo rằng: “Kinh Phật là pháp của nước ngoài, ơ ûnước này không cần nên phế bỏ chẳng dùng. Còn chỗ lập thờ tôn tượng bảy triều đại trước, đối với trẫm cũng chẳng cho là đúng, nên cũng đồng phế bỏ!” Sư nói: “Nếu bảo kinh Phật là Pháp của nước ngoài, ở nước này không cần dùng thì các điều Trọng Ni nói ra đều phất xuất từ nước Lỗ, đất của nhà Tần, nhà Tấn lẽ ra cũng nên phế bỏ chẳng hành hóa. Lại cho rằng bảy triều đại trước là sai, cũng muốn phế bỏ, vậy tức là chẳng tôn kính cha ông, cha ông đã không tôn kính thì Chiêu Vương, Mục Vương mất hết thứ lớp, Chiêu Vương, Mục Vương đã mất thứ lớp thì Ngũ kinh không dùng. Trước nói Nho Giáo nên giữ lại, nghóa đó ở đâu? Nếu vậy thì Tam giáo đều phế bỏ thì lấy gì để trị nước?” Vua Võ Đế nói: “Nước Lỗ cùng với Tần, Tấn chỉ đối vực mới khác, chẳng phải không do một vị vua cảm hóa, nên chẳng cùng loại như Kinh Phật. Còn cái khó của bảy triều đại, Đế (Vua) không cho là chung. Sư nói: “Nếu cho rằng Tần, Lỗ đồng vâng theo một cảm hóa, nên kinh giáo thông hành. Vậy thì Chấn Đán (Trung Hoa) cùng Thiên-trúc, ranh giới cõi nước tuy khác, nhưng không phải chẳng đồng ở Diêm-phù-đề, ở trong bốn biển, do một Luân vương cảm hóa, sao chẳng đồng vâng theo Kinh Phật, mà khiến riêng phế bỏ?” Vua Võ Đế lại không đáp được. Sư lại hỏi tiếp: “Trong chiếu có nói: “Chư Tăng hoàn tục để tôn sùng hiếu dưỡng”. Vậy trong Khổng kinh cũng nói “Lập thân hành đạo để làm hiển vinh cha mẹ tức là hiếu hạnh.” thì sao phải hoàn tục mới là Hiếu?” Vua Võ Đế nói: “Mẹ cha ân nặng, thay nhau nuôi dưỡng, bỏ gần hướng xa, không thành chí hiếu”. Sư nói: “Nếu nói như vậy thì mọi người chung quanh Bệ hạ đều có cha mẹ, cớ sao chẳng buông thả họ, mà buộc phải làm việc lâu dài tới năm năm để họ không được trông thấy mẹ cha?” Vua Võ Đế nói: “Trẫm cũng có điều xét ấy, nên trên dưới đều được trở về hầu phụng”. Sư nói: “Phật cũng chấp thuận cho chư Tăng mùa Đông, mùa Hạ tùy duyên tu đạo, mùa xuân mùa thu trở về nhà hầu dưỡng. Nên Tôn giả Mục-kiều- liên đi khất thực đem cơm dâng mẹ, Đức Như Lai trở về kề vai khiêng vác quan tài lúc vua cha qua đời. Lúc đó rất đồng, không thể riêng phá hủy Phật giáo.” Vua Võ Đế cũng không đáp lời nào. Ngài khẳng giọng mà bảo rằng: “Bệ Hạ nay cậy quyền vương lực, tự do phá diệt Tam Bảo, đó là người tà kiến, địa ngục A-tỳ không phân biệt người sang kẻ hèn. Bệ hạ làm sao chẳng sợ ư?” Vua Võ Đế bỗng dưng đổi sắc mặt rất tức giận, chăm chăm nhìn thẳng mặt Sư, bảo rằng: “Ta chỉ khiến cho trăm họ được vui, còn ta đây không từ các khổ địa ngục”. Sư nói: “Bệ hạ đem tà Pháp chỉ dạy cho người, hiện tại gieo nghiệp khổ, sẽ cùng Bệ hạ đồng đọa địa ngục A-tỳ, nơi nào có vui để được?” Vua cũng không đáp được chỉ bảo rằng: “Chư Tăng hãy trở về, hôm sau nhóm họp lại, hữu ty hãy ghi lấy họ tên vị tăng vừa biện luận.” Đương lúc đó là nước Tề vừa mới mất, binh lính của Bắc Chu dường như sấm chớp, trông thấy Sư chống lại sắc chiếu của vua, không ai chẳng đổ mồ hôi, đều cho là Sư ắt bị phân thịt chẻ xương, dùng đảnh vạc để nấu, nhưng thần khí Sư vẫn cao vợi, ngôn từ thần sắc không nhiểu động, các Pháp Sư Thượng Thống, Đàm Diễn, v.v.. nắm tay Sư, khóc mà cảm tạ rằng: “Oai quyền của Thiên tử như rồng lửa, khó bề xúc phạm, ông có khả năng tận cùng như thế. Theo trong Đại kinh gọi đó là “Bồ-tát Hộ Pháp” nên phải như vậy. Người ấy không sửa đổi, ấy chẳng phải lỗi của ông!” Sư bảo: “Chánh lý phải nêu bày, đâu chỉ đoái hoài thân mạng này!” Lúc từ biệt các Đại đức, Sư nói: “Thời vận như thế, Thánh cũng chẳng thể sai khiến sửa đổi. Chỉ lo là không được phụng hầu dưới mắt, đó là nỗi lo buồn lớn, pháp chẳng thể diệt. Các Đại đức cần phải hiểu, mong chớ lấy làm buồn!” Sư bèn ngầm đến trụ núi phía Tây Quận cấp, siêng năng hành đạo không nhọc mệt, trong thời gian ba năm, Sư trì tụng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, v.v.. mỗi bộ một ngàn biến, dùng thông cả di pháp. Đã là nương gá núi hang, uống thiền tụng không cạn, hang lý càng sâu, phao nổi chẳng xả bỏ. Đến niên hiệu Đại Tượng thứ hai (năm trăm tám mươi) thời Bắc Chu, vua Tỉnh Đế (Võ Văn Diễn) hỏi khai mở Phật hoá, Đông Kinh và Tây Kinh, mỗi nơi đều xây dựng chùa lớn Trắc Cô, đặt Bồ-tát tăng, ban cáo Tiền Đức, chiếu lệnh an trí. Từ đó, Sư thường giảng tại chùa Thiếu Lâm. Đến lúc nhà Tùy lên ngôi, mở mang thời vận, đầu niên hiệu Khai Hoàng (năm trăm tám mươi mốt) đời Tùy, nhờ dự lạc thải, các vị tuổi già cùng đến quanh Lạc Aáp. Pháp môn mới khai, mà xa gần đua nhau tìm về. Trông khí thành bến bờ, chợt thành chợ Học. Do đó, tiếng tăm Sư vang vọng đến triều đình. Vua Văn Đế (Dương Khiêm năm trăm tám mươi mốt-sáu trăm lẻ năm) nghe thế bèn ban sắc trao Sư nhậm chức Lạc Châu Sa-môn Đô, để giúp gánh vác Phật Pháp, Sư từ chối mà không được, nên phải nhận ngôi ấy. Ngài lập tánh chân chất thẳng thắn, vinh nhục tùy duyên, chẳng thể dùng oai quyền mà Sư khiếp sợ, không thể vì lợi mà Sư nhiễm ô, khí thẳng hùng cao. Đạo phong nghiêm túc, kính mến điều nhu, chẳng dung kẻ phi lạm. Còn như xử trị phạm pháp, chẳng kiêng nể cường quyền. Với điều giảng dạy dẫn dắt đều toan liệu theo Đạo Cụ. Hoặc đặt để cấp giúp có thiếu, hoặc chẳng lượt nước hộ tịch, hoặc khất thực trái phép, hoặc oai nghi thất thường, đều chẳng được dự vào thính chúng. Ngoài ra, như ngủ nghỉ trái thời, hoặc sau đến Pháp tịch, đều y theo thể thức của chúng, có phạt không tha. Nên Đồ chúng Đồng bạn nghiêm túc, oai nghi dễ mến. Niên hiệu Khai Hoàng thứ năm (năm trăm tám mươi lăm) đời Tùy, vì Thứ Sử Trạch Châu là Thiên Kim Công thỉnh Sư đến Bổn Hương. Đó là Tượng Pháp trở lại mở mang, Tang Tử lại nhóm họp. Xa gần đều mừng vui, chẳng cần gì thêm. Mùa xuân niên hiệu Khai Hoàng thứ bảy (năm trăm tám mươi bảy) đời Tùy, Sư sang Định Châu, đường đi từ Thượng Đảng, lưu ở lại giảng mùa Hạ, bèn quyết truyền về hướng Đông. Bỗng nhiên Vua Văn Đế ban gởi ấn thư, ân cần mời thỉnh. Sư cố khước từ mà không được, nên phải đến Tây kinh. Khi đó, vua ban sắc mời sáu vị Đại đức, trong đó có Sư, cùng các học só thường tùy hơn hai trăm vị, mở đạt Đế thất, đích thân đến Ngự diên mở bày Thánh hóa, thông suốt khắp nước nhà. Vua rất vui lòng ban sắc cho Sư trụ chùa Hưng Thiện, nhọc hỏi phong hoa, cúng sự lớn bội. Lại vì tại chùa Hưng Thiện nhóm tập đông đảo, Pháp hội rất nhiều, tuy có mở mang giáo hóa nhưng đều là sự ước. Sư bèn chọn bên phải đường lớn của phía nam Thiên môn, là nơi đường thông suốt cả Đông, Tây, người đến nghe giảng chẳng nhọc mệt, nhân đó mà xây ngôi chùa lấy tên là Tịnh Cảnh. Sư thường ở đó giảng nói, mở giảng huyền áo, biện xướng như dòng chảy, nhả nạp sâu xa, tuyên đàm hết vướng mắc. Khi đó, khắp bốn phương tìm đến học có hơn bảy trăm vị, đều là những người tài giỏi khắp trong nước. Vết trước của bánh xe Pháp trông tới kinh đô, hướng đến chùa làm Pháp đạo tràng. Chỉ vì phòng nhà chưa được hoàn thành, đều lộ bày giữa chỗ trống, dùng cỏ v.v… làm am xá, chia ra ngỏ châu bộ, ngày đêm tổ tập thành khí tìm nhau. Tuy là các bậc tài đức anh danh một thời. Còn như những vị về học thầy, tìm xa ngàn dặm kế tiếp, thì chẳng ai cao xa hơn Sư. Thân hình Sư cao tám thước năm tấc, mắt dài ba tấc, eo có chín vòng, quần mười ba bức làm thường phục. Sư lên Pháp tòa, âm thanh vang dội như sấm động loài sâu cũng kinh hãi, thật đáng thích ý cho mọi người trông nhìn. Đó là sự hưng thạnh. Đến mùa xuân niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai (năm trăm chín mươi hai) Vua Văn Đế ban sắc cho Sư trông coi việc phiên dịch, sau định từ nghóa. Sư tịch trong năm đó tại chùa Tịnh Ảnh, thọ bảy mươi tuổi. Vua Văn Đế buồn cảm vì thế mà bãi triều. Vua khóc than “nước mất hai vật báu”. Vì lúc đó, Sư cùng Lý Đức Lâm đồng qua đời trong một tháng, nên động đến lòng vua như vậy. Từ lúc Sư búi tóc tìm thầy, vốn âm thầm muốn truyền trao. Trãi qua hai đời vua thời Bắc Chu, Sư hoằng hóa khắp tám phương. Soạn sớ thuộc từ, giải thích đầu cuối, thừa tập khai ngộ, trải sánh như bụi liên tiếp, đồng với khuôn phép trong triều đại ở đương thời, được xứng phương giá. Ban đầu, Sư bị bệnh mấy ngày. Đòn dong giữa giảng đường vô cớ tự gãy, quay nhìn lại thấy gió thổi mạnh, biết hẳn bệnh không bớt. Đến ngày thị tịch, Sư an nhiên ngồi thẳng chánh niệm, tướng như đang nhập định. Vị thị giả không biết Sư tịch, bỗng nhiên nghe trong phòng có mùi thơm lạ, đều sinh nghi ngờ, bèn dùng vải để thử, mới biết Sư đã tắt hơi! Xưa kia, lúc ở tại Thanh Hoá, Sư có nuôi một con ngỗng chuyên nghe giảng Pháp, từng trải qua mưa nắng. Sau khi Sư vào ải, con ngỗng đó ở lại tại bổn tự, ở ngoài hàng hiên, đêm ngày kêu nghe buồn. Tăng chúng lo ngại, bèn đem nó đến kinh đô, tới cổng lớn chùa Tịnh Ảnh mà thả. Nó liền cất tiếng kêu mừng hớn hở tìm vào trong phòng Sư. Từ đó về sau, nó ý như trước thuần nghe giảng pháp. Chỉ nghe tiếng chuông báo nhóm chúng, bất kể sớm tối, đáp giảng dựng nghóa, nó đều vào trong giảng đường nằm nghe, Tăng chúng phạm tán ra cửa, nó liền bay liệng và kêu, nếu gặp ngày hắc bạch (mười bốn-ba mươi) chư Tăng Bố- tát, tuy nghe tiếng chuông nhóm chúng nhưng nó không hề vào nghe. Mọi người đương thời lấy làm lạ. Nếu Sư đi đường xa giảng giải, nó nương theo pháp thầm nghe. Giữa chừng nghe đã đủ hoặc nói thừa, nó liền bay liệng kêu mà chạy ra. Cứ như thế trải qua sáu năm, nó vui thích nghe giảng pháp không thiếu một thời. Sau, bỗng nhiên nó kêu buồn nơi sân viện chẳng chịu vào phòng. Từ đó về sau khoảng hai tuần thì Sư thị tịch. Lúc đó nhằm ngày hai mươi bốn tháng sáu niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai (năm trăm chín mươi hai) đời Tùy, Sư thọ bảy mươi tuổi, năm mươi hạ lạp. Lại nữa, trong ngày Sư thị tịch, tại Bổn tự ở Trạch châu, các cột trụ nơi giảng đường và bốn chân của tòa cao đồng một lúc bị lún, mọi người bàn với nhau cho đó là cảm thông u hiển. Cả hai chùa cùng lập bia. Tiết Đạo Hành soạn văn bia, Ngô Thế Cơ viết, và Đinh thị khắc văn. Thời bấy giờ gọi là Tam Tuyệt. Ban đầu, Sư nghe khắp kinh giáo Đại thừa có chừng sáu, bảy năm, thấu suốt nghóa sâu, thần giải lại mới. Sư thường ở tại kinh đô Kiến Ng- hiệp, nhóm họp lập nghóa vấn nạn, mà ít người đối địch, do đó nên tiếng tăm vang khắp xa gần. Dị luận đã sợ kính, thế mà Sư siêng năng hạnh nghiệp sớm tối dụng tâm rất tha thiết nên bị bệnh lao. Trong mười lăm này, ngài Giác Quán nối nhau, không hề ngủ nghỉ, khí xông lên, tim đau nhói như dao cắt, ăn uống sơ sài, thân hình gầy suy, gần như muốn chết. Sư nhớ xưa kia Lâm Bị đi khắp các Danh sơn, thấy các Thiền phủ, đủ được truyền Pháp, nên bèn học pháp Quán sổ tức, dừng tâm nơi Cảnh. Khắc ý tầm dịch, qua chừng nửa tháng, liền cảm thấy dần đỡ, ít được ngủ nghỉ, mới biết ứng nghiệm tốt lành của việc đối trị. Nhân mùa Hạ đầu tiên, Sư học tập Pháp Định, rất được tónh lạc, thân tâm vui vẻ thư thái, liền hỏi sa-môn Tăng Điều về điều chứng đạt của mình. Ngài Tăng Điều bảo: “Tâm đó trụ trong cảnh giới của lợi căn. Nếu khéo điều nhiếp có thể thực hành Quán hạnh. Thường những lúc giảng, Sư rất chú trọng đến Định tông, chưa lúc nào không khen ngợi Thiền-ma. Bàn hoàn nhiều câu, tin nghó lo tìm cầu thì có thể được. Sư tự buồn phải theo việc chúng, không rảnh để định tâm. Do đó nên bị mật. Đến mùa Hạ thứ bảy, ở tại Nghiệp Đô, Sư bắt đầu giảng Kinh Thập Địa, một lần nêu hỏi, chúng nghiêng về pháp tịch khác. Từ đó Sư luôn chăm ở trường giảng, nhiếp phục thính chúng hơn cả ngàn người. Trong ý Sư còn muốn rộng mở. Hễ giảng kinh nào thì đều có soạn sớ giải kinh ấy, như: Kinh Địa Trì sớ, năm quyển, Kinh Thập Địa sơ,ù mười quyển, Kinh Hoa Nghiêm sớ, bảy quyển, Kinh Niết Bàn sớ, mười quyển. Các Kinh Duy-ma, Thắng-man, Thọ Quán, Ôn Thất, v.v… đều khắc thành quyển bộ, cứ bốn chữ thành một câu, cương mục đủ cả, Văn từ ý chủ rất xác đáng, ít dùng theo lệ thường. Sư lại soạn Đại Thừa Nghóa Chương mười bốn quyển, hợp cả hai trăm bốn mươi chín khoa, chia thành năm tụ tức là Giáo Pháp; Nghóa Pháp; Nhiễm; Tịnh và Tạp, đều trình bày gồm cả nghóa sai. Mới đầu gần, sau cùng xa. Tất cả cương yếu Phật Pháp đều đầy đủ trong đó. Các học giả Định tông không thể không biết. Từ lúc Sư thông đạt Pháp, tình thú hướng về Từ tâm đến Văn sâu nghóa ẩn. Sư thường đinh ninh, lại thường nêu lên. Chỉ lo người học thọ nhận chẳng được nhanh chóng, người đọc xem nghe không hết. Ngoài ra, Sư không tiếc một điều gì. Do đó, từ nơi Tề triều cho đến Quan phụ và cả yếu hoang điện ngoại lưu hành chương sớ của ngài có hơn năm mươi quyển, hơn hai ngàn ba trăm trang giấy. Mỗi trang giấy có chín trăm bốn mươi lăm chữ. Suốt thời gian bốn mươi năm, Sư không hề ốm sưởi. Truyền trì giáo đạo là ở hoằng tuyên, đồng thời thành tụng ở tâm, đến nay vẫn chưa bặt dứt, vốn ở tại Thanh Hóa Tổ tập Kinh Niết-bàn. Chúng Tăng trong chùa có hơn trăm vị, ba mươi vị lãnh chúng đều là những vị đứng đầu của thời Đại (Tiền) Đường. Sư mạnh mẽ đối với Pháp nghóa, từ tâm chăm độ sinh, giới thừa chẳng ràng buộc, thực hành cứu vớt mọi loài chìm đắm. Các thứ lợi dưỡng có được, Sư đều cúng dường học chúng. Ngoài Pháp y, bình bát ra, Sư không tiếc giữ một vật gì. Khi Sư soạn sớ Kinh Địa Trì xong, mộng thấy lên đảnh núi Tu- di, nhìn khắp bốn phía chỉ thấy nước biển, lại thấy pho tượng một đức Phật thân mầu vàng tím ở dưới cây báu, nằm đầu xoay về hướng Bắc, hình thể không một mảy bụi. Ban đầu thì Sư lễ kính, sau lại dùng y mà phất, khắp cùng sáng sạch. Đến lúc tỉnh giấc, Sư bèn cho là Văn sớ do Sư soạn rất có lợi ích về thuận hóa, nên vì đó mà phô bày. Sư lại tự nói rằng: “Ban đầu, lúc soạn sớ Kinh Niết-bàn mới xong, chưa dám y cứ vào đó để giảng. Sư phát nguyện cầu xin điềm lành. Bỗng mộng thấy tự tay Sư tạo tượng bảy Đức Phật, tám vị Bồ-tát, thân hình đều khôi ngô cao vời, Sư tự họa vẽ điểm tô. Họa vẽ đã xong thì các pho tượng đều lần lượt khởi hành. Tôn tượng sau cùng họa vẽ sắp xong, bên cạnh có người đi lại tìm bút thay thế Sư để làm cho hoàn thành. Sau khi tỉnh giấc, Sư suy nghó rằng: “Tượng này có lưu lại cảnh của thời mạt thế!” Sư bèn khai giảng rộng phô bày như trong giấc mộng. Lại, trước khi thị tịch mười một năm, Sư mộng thấy cây tre dài lớn tại chùa Tịnh Ảnh tự nhiên bị đổ, đèn sáng tự tắt mất. Đến ngày tháng, Sư bèn sai hai đứa trẻ tịnh nhân, tay buông sự tốt lành, phân xử các vật đều làm công đức. Lại bảo với thời gian của hai thời giảng trước đại chúng nên trì tụng Chú Bát-nhã Ba-la-mật, hạn định năm mươi biến trong một thời, để báo đáp bốn ân, ban đầu giữa chẳng được biếng trễ. Lại thương học chúng không đủ sức đúng khóa. Thường nhân những ngày giảng, nghóa chánh như thế, trong khoảnh khắc không nghe. Các vị thức giả cho là Sư đã thấu đạt túc mạng. Và lúc cảm thấy nhẹ bớt, ở phía ngoài phòng, Sư dùng nước thơm ấm để tắm gội. Và ngủ tại phía ngoài đến sáng sớm mới vào phòng, ăn cháo, nằm tựa giường. Sư hỏi “bây giờ là mấy giờ?”. Đáp: “Lúc này khoảng giờ mão”. Sư bảo: “Nay tôi cảm thấy khí lạnh đến rốn, cách sự chết còn chừng hai, ba tấc, hãy bỏ giường tựa đi.” Sư tự bắt lấy chân mình ngồi ngay thẳng, giữ mắt, không cho nâng đỡ. Chưa nói là tịch, nhưng xem xét, mới biết là Sư tịch, mùi hương thơm như chiên đàn, lâu sau mới tan hết. Sau, Sư mới nằm xuống, tay chân mềm mại, thân phần đều lạnh, chỉ còn ấm trên đảnh đầu. Có Sa-môn Tró Mãnh là người biết đoán tướng, lại hiểu giáo pháp, thường được mời đến, nên có làm sớ về hành trạng. Phỏng theo sự tiếp thừa của người Học. Và Ngài (Trí Mãnh) giảng nói có riêng cơ hội tốt đẹp. Tiếng tăm vang vọng khắp Đông Hạ.