<經 id="n2059">CAO TĂNG TRUYỆN (QUYỂN 1 ~ 1 4) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN CAO TĂNG TRUYỆN Sa-môn Thích Tuệ Kiểu ở chùa Gia Tường, Cối Kê, soạn vào đời nhà Lương tuyên dịch từ kinh điển. <卷>QUYỂN 1 NHIẾP-MA-ĐẰNG Ngài vốn là người Thiên-trúc, giỏi việc phong nghi, tỏ thông các kinh đại tiểu thừa, thường lấy việc du hoá làm nhiệm vụ. Ngày xưa Ngài từng đến nước Phụ Dung ở Thiên-trúc giảng kinh Kim Quang Minh. Sau đó đất nước bị xâm lăng, Ngài chỉ nói: “Trong kinh có nói: nên hay thuyết kinh pháp này sẽ được địa thần hộ vệ, khiến cho nơi ở đều được an ổn. Hiện nay chiến tranh đang bộc phát, thật tương phản với việc trên không. Suy nghó thế nên quên cả sự hiểm nguy, đi lại hai nước kêu gọi giảng hoà. Cuối cùng thì hai nước giao hiếu trở lại, nhờ vậy mà danh Ngài được vang xa. Đời Hán Minh đế, niên hiệu Vónh Bình, một đêm vua nằm mơ thấy người vàng bay từ hư không đến. Khi thức dậy vua triệu tập quần thần cùng đoán mộng. Thông nhân Phó Nghị tâu rằng:- thần nghe Thiên-trúc có vị thần gọi là Phật. Điều bệ hạ nằm mộng chắùc ứng vào vị này. Vua cho là đúng. Sau đó sai đoàn sứ giả mười tám người là các quan Lang trung như Tần Cảnh, Thái Âm, Bác só, Vương Tuân… do Đậu Cố dẫn đầu qua nước đại Nhục-vhi ở Thiên-trúc để tầm cầu Phật pháp. Trên đường đi họ gặp được ngài Ma Đằng nên thỉnh Ngài về đất Hán. Tôn giả vốn có đại nguyện hoằng pháp nên bằng lòng. Trải qua bao chặng đường gian nan hiểm trở cuối cùng Ngài đến được Lạc dương. Vua vui vẻ đón tiếp và xây tinh xá cho Ngài trụ trì. Hán thổ bắt đầu có Sa-môn. Khi mới truyền đạo, Ngài chưa có uy tín nên kiến giải thông tuệ chưa thể hiển bày ngay. Sau đó không lâu, Ngài tịch ở Lạc dương. Có bài kí rằng: Ngài Ma-đằng dịch bộ kinh Tứ thập nhị chương, đầu tiên Ngài ở tại Lan Đài Thạch Thất, nay là chùa Bạch Mã. Ngoài cửa Tây Ung thành Lạc dương. Có bài tương truyền rằng: ở nước ngoài có vị quốc vương ra lệnh phá hoại hết chùa tháp. Duy có chùa Chiêu Đề là chưa phá. Một đêm có con bạch mã đi quanh tháp kêu la rất là bi thiết- có người tâu với vua, vua cho ngưng việc phá hoại chùa chiền. Từ đó chùa Chiêu Đề được đổi tên thành Bạch Mã tự. ------------------------------------- <詞>TRÚC-PHÁP-LAN Ngài Trúc-pháp-lan cũng là người Thiên-trúc, tự nói mình tụng kinh luận số cả vạn chương, là thầy của các bậc học giả Thiên-trúc. Bây giờ, Thái Âm đã đến nước kia, Trúc-pháp-lan cùng Ma-đằng cùng muốn đi du hoá, nên cùng nhau đến. Gặp lúc học trò ngăn trở nên Ngài Pháp-lan đến sau, khi đến Lạc dương thì cũng dừng lại với ngài Ma- đằng, không bao lâu thì rành rẽ tiếng Hán. Hâm ở Tây vực có được kinh thì phiên dịch ra. Năm bộ kinh gồm Tứ thập nhị chương, Phật Bổn Hạnh, Pháp Hải Tạng, Phật Bổn Sanh, Thập địa đoạn kết, do loạn lạc mất hết bốn bộ không còn lưu truyền- Vùng Giang tả duy còn bộ Tứ Thập Nhị chương, nay vẫn còn gồm hơn hai ngàn lời nói. Đất Hán thấy còn các bộ kinh, duy ở đây là mới bắt đầu. Âm lại ở bên Tây vực gặp được: Thích-ca ỷ tượng thứ tư, thứ tư do tượng sư Chiêu-đàn của vua Ưu Điền làm ra. Khi truyền đến Lạc dương, Minh đế liền sai họa công vẽ lại tượng đặt trong Thanh Lương đài và trên lăng Hiển Tiết. Tượng cũ nay không còn. Lại xưa kia Hán Vũ đào ao Côn Minh, bên dưới đáy có tro đen liền hỏi Đông Phương Sóc, Đông Phương Sóc nói: -Không biết có thể hỏi người Tây Vực. Sau Ngài pháp-lan đến, mọi người tìm Ngài hỏi- Ngài bảo: - Thế giới cuối cùng bị kiếp hỏa thiêu đốt, chính là tro này vậy. Sóc nói: có chứng cớ thì người tin mới đông. Ngài mất tại Lạc dương, hưởng thọ hơn sáu mươi tuổi. -------------------------------- <詞>AN THANH Ngài An Thanh tự là Thế Cao, là Thái tử con chánh hậu vua nước An Tức. Thuở nhỏ Ngài lấy hiếu hạnh làm đầu, lại thêm chí nghiệp rất thông minh mẫn tụê. Ngài khắc ý hiếu học. Những điển tích nước ngoài và ngũ hành, thất diệu, y phương diệu thuật cho đến tiếng cầm thú Ngài đều thấu đạt. Ngài từng trông thấy bầy yến nói với bạn rằng: Yến nói: “ sẽ có người đưa thức ăn đến” không bao lâu quả đúng vậy. Mọi người đều lấy làm lạ nên Ngài có tiếng tài trí khác thường. Hồi nhỏ Ngài đến Tây vực, Cao tuy ở nhà mà giữ giới rất tinh nghiêm. Khi vua mất ngài kế tự đại vị, lại tư duy về khổ không, nhàm chán hình khí thế gian. Lễ hành phục vừa xong, bèn nhường ngôi cho chú rồi đi xuất gia học đạo. Ngài thông suốt kinh tạng, càng tinh thuần A-tỳ-đàm, lại phúng trì Thiền kinh, thông suốt sự vi diệu của nó. Rồi đó Ngài du phương hoằng hoá đi khắp các nước. Đầu nhà Hán ngài mới đến Trung Hạ, tài ngộ cơ mẫn, một lần nghe liền thông đạt. Ở đây chưa bao lâu, Ngài đã thông thạo Hoa ngữ. Thế là Ngài dừng lại đó phiên dịch kinh điển. Cải người Hồ Thành Hán, Ngài dịch bộ An Ban thủ ý, Âm trì cùng mười hai môn Đại Tiểu và một trăm sáu mươi phẩm, là Tam tạng đầu tiên ở nước ngoài. Đại chúng cùng giúp đỡ Ngài tuyển thuật kinh yếu thành hai mươi bảy chương, cao cắt bớt tập hợp lại thành bảy chương dịch ra Hán văn, tức Đạo Địa kinh. Trước sau Ngài dịch tổng số kinh luận gồm ba mươi chín bộ, nghóa lí rất rõ ràng, văn tự chính xác. Biện bác mà không hoa mỹ, chân chất mà không quê mùa, làm cho người đọc chuyên chú mà không mỏi mệt. Ngài Thế-cao là người cùng lí tận tánh, tự biết được duyên ng- hiệp, có nhiều thần tích người đời không thể biết hết được. Đầu tiên Cao tự nói thân trước đã từng xuất gia. Có người đồng học rất đa sân. Mỗi khi gặp thí chủ cúng không xứng thì liền nổi giận. Ngài Thế Cao khuyên can quở trách mà không sửa đổi. Như thế trải qua hai mươi năm, bèn cùng bạn đồng học tạ quyết rằng: - Tôi sẽ đến Quãng Châu để hoàn trả nghiệp đời trước. Ông thông kinh tạng lại chuyên cần mà tánh lại nhiều sân hận, sau này sợ thọ ác hình. Ta nếu đắc đạo ắt sẽ độ ông. Nói rồi thì đi qua Qủang Châu, gặp lúc đạo tặc hoành hành dữ dội. Trên đường một thanh niên tay cầm đao bảo: Ta gặp được ông rồi vậy. Cao cười nói: Ta đời trước có thiếu nợ ông nên tìm đến để trả. Bèn đưa đầu đón nhận lưỡi đao mà mặt không biến sắc. Giặc bèn chém lấy. Người đến xem đầy đường không ai mà không kinh hãi cho là kì dị. Ngài chết rồi thần thức quay trở về nước An Tức làm thái tử của Vua, tức là thân Thế Cao bấy giờ. Cao du hoá vào Trung Quốc tuyên giảng kinh xong rồi. Gặp vào cuối đời Linh-đề, quán lạc nhiễu loạn bèn chấn tích đi về Giang nam và nghó: Ta nên qua Lô Sơn độ cho bạn đồng môn xưa. Đến nơi miếu hồ cung đình. Miếu này xưa có uy linh. Hàng thương lữ qua lại vùng này phải cầu khẩn cúng bái thì mới bình yên vô sự. Từng có người đến xin Trúc của thần. Thần chưa hứa người ấy lấy về liền bị nạn, trúc hoàn lại chỗ cũ. Từ đó người đi thuyền rất kính sợ. Cao cùng đồng lữ hơn ba mươi người đến phóng sanh cầu thuỷ. Thần bèn giáng chú rằng: Trên thuyền có Sa-môn hãy mau lên đây. Khách lữ kinh ngạc, thỉnh Cao vào miếu. Thần bảo với Cao:- Ta xưa với ông cùng xuất gia học đạo, thích làm bố thí mà tánh thường sân giận nay làm thần ở hồ cung đình. Trong khoản chu vi ngàn lí đều do ta cai trị. Vì có bố thí nên trân báu đầy đủ phong phú.Vì sân giận nên đoạ làm thần. Nay gặp lại bạn đồng học vui buồn lẫn lộn. Thọ tận nay mai mà hình hài to lớn xấu xa. Nếu xả bỏ mạng này thì thân làm ô uế sông hồ, nên phải qua bên đầm ở Sơn Tây. Thân này diệt sau đó sợ đoạ vào địa ngục. Tôi có ngàn tấm lụa cùng nhiều bảo vật, có thể lập pháp xây tháp làm phước sanh về cõi thiện. Cao nói: Cố ý đến độ ngươi sao không hiện hình. Thần nói: Thân hình vô cùng xấu xí mọi người sẽ sợ. Cao đáp: Cứ hiện ra không sợ. Thần phía sau xuất đầu ra đó là con trăn lớn, không biết đuôi dài ngắn bao nhiêu. Trăn đến quỳ bên ngài Thế Cao. Cao dùng tiếng Phạm tán tụng khế hợp. Trăn nghe rơi lệ như mưa, trong giây lát thì biến mất. Cao bèn lấy lụa và báu vật từ biệt ra đi. Người trên thuyền căng buồm, trăn lại hiện thân lên núi nhìn theo, mọi người vẫy tay hồi lâu mới mất. Không bao lâu thuyền đi đến Dự Chương. Ngài đem lụa của thần lập ra chùa Đông. Sau khi Cao đi thì thần mạng chung. Tối đó có một thiếu niên lên thuyền quì dài trước mặt Cao để thọ lời chú nguyện, rồi tự nhiên biến mất. Cao nói với người trong thuyền: Thiếu niên này là thần ở miếu Cung đình, nay lìa được ác hình. Từ đó miếu thần hết còn linh ứng. Sau đó người ta thấy ở đầm Sơn Tây có một con trăn đã chết, đuôi đầu dài cở vài lý. Nay ở quận Tầm Dương có thôn Xà chính là đây vậy. Cao sau đó lại đến Quảng Châu tìm người thiếu niên đã hại mình khi trước. Người thiếu niên vẫn còn đó, Cao đến nhà nói việc vay trả đời trước cùng cacù túc duyên. Ngài hoan hỷ nói: Ta còn có dư báo, nay sẽ trụ lại Cối Kê để trả báo. Ở Quảng Châu khách biết ngài không phải người phàm ý bỗng thông tỏ nên lòng hối hận việc xưa, cùng nhau hậu đãi. Rồi sau đó theo ngài An Thế Cao đông du về Cối kê. Đến nơi đi vào chợ, gặp lúc trong chợ có loạn đánh đấm nhau rồi đánh nhầm vào đầu Cao nên mạng chung. Khách nghiệm thấy hai việc quả báo, từ đó tinh cần tu trì Phật pháp, nói rõ các duyên sự. Mọi người nghe biết không ai mà không thương cảm, rõ được chứng cớ trong ba đời. Cao có dòng giống vua, đã làm khách lữ cho vua Tây vực, gọi là An Hầu, đến nay còn gọi như vậy. Nước Thiên-trúc gọi sách là Thiên thư, lời là Thiên ngữ, âm huấn kì dị rất khác với sách Hán. Trước sau truyền dịch rất nhiều sai lầm. Duy có sách của Cao viết dịch thì đứng đầu các sách dịch. Gặp được An Hầu khó không khác gì được gặp Thánh, liệt đại minh đức đều nêu ra rõ ràng. Tôi tìm trong các sách đều ghi nhiều điều về Cao công, đem những quyền tích ẩn hiển phế bỏ rất nhiều đoạn. Hoặc do truyền lưu có lầm lẫn thành ra sai lạc. Xét trong Thích Đạo An kinh lục có ghi: Ngài An Thế Cao từ hai năm Kiến Hoà của Hán Hằng đế cho đến niên hiệu Linh đế Kiến Ninh, hơn hai mươi năm dịch ra hơn ba mươi bộ kinh. Lại biệt truyền rằng: cuối đời Tấn Thái Khang có Đạo nhơn An Hầu đến Tang Thản dịch. Dịch xong viết một lá thư để ở chùa bảo sau bốn năm mới mở ra. Cuối nhà Ngô Ngài đi đến Dương Châu, nhờ người đem một rương đồ đạc đổi lấy một người nô bộc đặt tên Phước Thiện, nói là Thiện tri thức của ta. Cùng đem người nô bộc đi đến Dự Chương, đến miếu hồ công đình, làm chùa xong Phước Thiện dùng dao chém vào lưng An Hầu chết. Người ở Tang Thản mở thư ra, trong đó có dòng chữ ghi: Tôn sùng đạo của ta là cư só Trần Tuệ, truyền thiền kinh là Tỳ-kheo Tăng Hội, ngày đó vừa đúng bốn năm. Lại Dữu Trọng Ung, Hình châu ghi rằng: Đầu nhà Tấn có Sa-môn An Thế Cao độ cho thần miếu, được tài vật đem về cất chùa Bạch Mã ở hướng góc Đông Nam của Hình thành. Đời nhà Tống, Khang Vương Tuyên ở Lâm Xuyên có ghi: Trăn chết vào cuối đời nhà Ngô. Trong Đàm Tông tháp tự ghi: chùa Ngoã Quan ở Đan Dương thời Tấn Ai đế Sa-môn Tuệ Lực lập ra. Sau có Sa-môn An Thế Cao, đem tài vật từ miếu Cung Đình về sửa sang tu bổ lại. Nhưng Pháp sư Đạo An, xem qua các kinh, so sánh các bản dịch thuật, thấy không có sai khác, từ năm thứ hai Kiến Hoà cho đến cuối đời Tần Thái Khang, trải qua một trăm bốn mươi năm. Nếu Cao công trường thọ hoặc có thể như thế, mà việc không đúng như vậy. Vì sao, xét ở Khang-tăng-hội chú giải kinh An Ban Thủ Ý, bài tựa có ghi: Kinh này do An-thế-cao viết ra, lâu ngày bị thất lạc. Lại có Hàn Lâm ở Nam Dương, Văn Nghiệp ở Dónh Xuyên, Trần Tuệ ở Cối Kê. Đây là ba bậc hiền giả, có lòng tin đạo sâu xa. Khương-tăng-hội đều mời thỉnh hợp tác. Trần Tuệ chú nghiã, tôi phụ châm trước vào. Tăng-hội mất vào năm Tấn Thái Khang nguyên niên và nói kinh này không bao lâu sẽ bị quên mất. Lại trong thư ngài Thế Cao có ghi: “ Tôn sùng Đạo ta có Cư só Trần Tuệ, truyền thiền kinh là Tỳ-kheo Tăng Hội. Nhưng An Ban nói rõ ràng về thuyết Thiền nghiệp, biết là lời ghi trong thư đó là lời thật. Đã gọi là hai người thì mới truyền là” Đạo ta”, há là dung hoà cùng đồng thế. Vả lại trong Biệt truyện tự nói: Truyền Thiền kinh đó là Tỳ- kheo Tăng-hội. Ngài Tăng-hội đã tịch vào đầu niên hiệu Thái Khang, sao lại dung hợp với An Hầu Đạo nhơn vào cuối Thái Khang. Đầu đuôi đã tự mâu thuẫn, chỉ do một lá thư lầm nói vào đầu nhà Tấn. Các tác giả về sau hoặc nói Thái Khang hoặc là nói Ngô mạt. Thuyết nói đầu nhà Tấn đã khó thật, mà Đàm Tông Ký còn ghi: Thời Tấn Ai Đế, An- thế-cao mới sửa chùa. Thật là nói lại lệch quá lắm vậy. ------------------------------------- <詞>CHI LÂU CA SẤM Ngài Chi-lâu-ca-sấm cũng gọi là Chi-sấm. Vốn là người Nguyệt- chi, đức hạnh thì là thuần thâm, tánh ý thông mẫn. Bẩm trì giới pháp thì tinh cần gìn giữ, tụng tập các kinh, chí cầu nơi sự pháp hóa. Thời Hán Linh đế, Ngài đến Lạc Dương trong niên hiệu Quang Hoà, dịch kinh từ Phạm văn ra. Xuất bản ba kinh” Bát-nhã, Đạo Hạnh, Ban-chu, Thủ- lăng-nghiêm”, lại có hơn mười bộ kinh A-xà-thế Vương, Bảo Tích …Về già Ngài không dịch nữa. An công hiệu đính lại từ cổ đến kim, tìm trong văn thể nói: _ Tự như của Sấm viết ra, các kinh này đều đều đắc bổn chỉ, rõ ràng không thêm bớt. Có thể nói là người khéo tuyên pháp yếu, hoằng dương đạo pháp. Sau không biết Ngài mất ở đâu. Bấy giờ có Sa-môn Thiên-trúc là Trúc Phật Sóc, cũng vào thời Hán Linh đế đem kinh Đạo Hạnh đến Lạc Dương dịch ra Hán ngữ. Người dịch kinh thời này ngưng trệ tuy là có thất chỉ. Nhưng bỏ văn vẫn còn chất, đắc được kinh ý sâu xa. Niên hiệu Quang Hoà năm thứ hai, ở Lạc Dương xuất bản kinh “ Ban-chu Tam-muội” Ngài Ca-sấm làm truyện ngôn. Ở Hà Nam, Lạc Dương, Mạnh Phước, Trương Liên bút thọ. Bấy giờ lại có ưu-bà-tắc An Huyền, người nước An Tức, tánh tình rất trinh bạch, thâm trần có lý chí. Ngài bát thông kinh điển, tụng đọc nhiều. Cũng vào cuối đời Hán Linh đế, đi đến Lạc Dương. Do công lao mà có hiệu là kî đô uý, tánh tình trong sạch khiêm cung, thường xem Pháp sự là nhiệm vụ của bản thân. Dần dà hiểu được tiếng Hán, chí muốn tuyên bày kinh điển, thường cùng Sa-môn luận bàn đạo nghóa. Đời gọi là Đô uý Huyền. Huyền cùng Sa-môn Nghiêm Phật Điều cùng xuất bản kinh pháp cảnh. Huyền dịch miệng bằng Phạm văn - Ngài Phật Điều ghi lại, lý đạt đến chỗ vi diệu tận cùng của Kinh. Cái đẹp Dỉnh Tượng kiến thuật đời sau. Ngài Phật Điều vốn là người Lâm Hoài, tuổi nhỏ đã khác thường, thông minh mà hiếu học. Đời xưng là An Hầu, cùng Đô úy, Phật Điều ba người truyền dịch, hiệu là Nan Kế. Điều lại soạn ra Thập Tuệ cũng lưu truyền ở đời. An công nói Phật Điều soạn kinh tỉnh lược mà không rườm rà, toàn bản đều xảo diệu. Lại có Sa-môn Chi Diệu, Khang Cự, Khang Mạnh Tường… Đều ở niên hiệu Hán Linh Hiến, có tiếng là bậc tuệ học đến ở Kinh Lạc. Chi Diệu dịch các bản kinh “ Thành Cụ định ý tiểu bản khởi”… Khang Cư dịch: “ Vấn Địa Ngục Sự kinh”. Đều nói thẳng yếu chỉ không thêm bớt. Khang Mạnh Tường dịch:” Trung Bổn Khởi “ và “ Tu Hành Bổn Khởi” Trước có Sa-môn Đàm Quả, ở nước Ca-duy-la-vệ có được Phạm bổn. Mạnh Tường cùng Trúc Đại Lực dịch ra Hán văn. An công nói: Mạnh Tường dịch sáng sủa lưu loát như vó ngựa. ----------------------------- <詞>ĐÀM-KHA CA-LA Đàm-kha Ca-la dịch là Pháp Thời, vốn là người Trung Thiên-trúc, thuộc dòng đại thế phú gia, thường tu Phạm hạnh tô bồi phước đức. Ca- la khi tuổi còn nhỏ mà tài ngộ phẩm chất đã hơn người, đọc sách qua một lần là thông suốt hết văn nghiã. Khéo học bốn bộ luận Vệ-đà, các sự vận biến về gió mây tinh tú đồ sấm ngài đều biết qua. Tự nói là: tất cả văn lý trong thiên hạ đều nằm trong bụng ta. Đến năm hai mươi lăm tuổi Ngài vào Tăng phường, thấy Pháp thắng Tỳ-đàm vội lấy xem nhưng mờ mịt chẳng hiểu. Ân cần suy sét lại càng hôn trầm, bèn than rằng: - Ta vốn học nhiều năm, chí suốt hết các phần điển. Nay xem kinh Phật nghóa lại không hiểu, văn không thông suốt. Đây tất lý nghóa sâu thẳm, tinh yếu nhiệm mầu. Thế là Ngài đem kinh vào phòng, thỉnh một vị Tỳ-kheo giải thích lược nói. Từ đó thâm ngộ được nhơn quả, diệu đạt ba đời, mới biết Phật giáo sâu xa, sách thế gian không thể sánh bằng. Rồi từ bỏ hết vinh hoa thế gian, xuất gia tinh cần tu đạo. Tụng đọc các kinh Đại, Tiểu thừa và các bộ Tỳ-ni. Thường đi du hoá chứ không thích chuyên một chỗ. Vào niên hiệu Gia Bình nhà Nguî, Ngài đến Lạc Dương. Bấy giờ đất Ngụy tuy có Phật pháp mà đạo phong còn mờ mịt, cũng có chúng tăng chưa lãnh thọ quy giới dễ lạc vào duyên thế tục, làm các việc cúng tế trai sám. Ngài Ca-la đến hoằng đương Phật pháp. Bấy giờ chư Tăng thỉnh Ngài cùng dịch giới luật. Ngài Ca-la thấy bộ luật điển chế bằng văn ngôn rất rườm ra vì Phật giáo ở đây chưa xương minh tất là không phổ cập theo đó, Ngài bèn dịch “ Tăng-kì Giới tâm “ chỉ trong sớm tối. Ngài lại thỉnh Phạm tăng lập ra pháp yết-ma thọ giới. Giới luật ở vùng Trung Hạ từ đó mới có. Ngài Ca-la sau đó không biết tịch ở đâu. Bây giờ lại có Sa-môn ngoại quốc Tăng Khải, cũng vào cuối đời Gia Bình đến Lạc Dương, dịch bốn bộ: Uất-già Trưởng giả…. Lại có Sa-môn nước An Tức là Đàm Đế cũng giỏi luật học. Trong niên hiệu chánh nguyên nhà Ngụy, Ngài đến Lạc Dương dịch bộ Đàm Vô Đức Yết-ma. Lại có Sa-môn là Bạch Diên, không biết người ở đâu, cũng tài trí cao thâm, trong niên hiệu Nguî Cam lồ, Ngài dịch các kinh: Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác Kinh … gồm sáu bộ. Sau không biết Ngài tịch ở đâu. ---------------------------- <詞>KHƯƠNG TĂNG-HỘI Tổ tiên là người Khương-cư, sau định cư ở Thiên-trúc. Cha ngài do buôn bán mới đến ở Giao Chỉ. Khi ngài hơn mười tuổi thì cha mẹ đều mất. tang chế xong ngài xuất gia tinh cần tu tập. Ngài là người hòa nhã sâu xa, có thức lượng, dốc chí hiếu học, khéo giải Tam tạng, bác lãm cả lục kinh. Các môn thiên văn, đồ sấm đều thông suốt, biện luận nơi chỗ thiên cơ, lại thuộc văn hàn. Bấy giờ Tôn Quyền nắm giữ vùng Giang Tả mà Phật pháp chưa lưu hành. Trước có Ưu-bà-tắc là Chi Khiêm, tự là Cung Minh. Vốn là người nước Nguyệt Chi đi vào đất Hán. Vào đầu niên hiệu Hằng Linh có Chi Sấm dịch kinh xuất chúng. Có Chi Lượng tự là Kí Minh theo học nơi Sấm. Khiêm lại thọ nghiệp với Lượng, tinh nghiêm hết kinh điển, không có kinh nào mà không thông suốt. Các môn kỹ nghệ của thế gian cũng đều học qua. Lại hoc loại dị điển, thông ngôn ngữ cả sáu nước. Từ nhỏ đến lớn đều gầy đen, mắt nhiều tròng trắng mà con người lại vàng. Người bây giờ gọi ngài là” Chi Lan nhãn trung hoàng”. Thân hình tuy nhỏ bé mà trí lại thâm sâu. Cuối đời Hán Hiến Đế có loạn lạc nên ngài phải tránh vào đất Ngô. Tôn Quyền nghe nói Ngài là bậc tài tuệ mới triệu vào thăm hỏi, bái làm bác só, lại làm phụ đạo cho đông cung, cùng các vị như Vi Diệu… tận lòng khuôn phò. Chỉ vì sanh ở Tây vực, cho nên chí Hán không mang. Lúc này đại giáo tuy thông hành mà kinh điển vẫn là Phạm văn chưa được dịch ra Hán ngữ. Ngài vốn đã giỏi về phương ngôn thuật ngữ nên thâu thập các bản kinh dịch ra Hán ngữ. Từ niên hiệu Hoàng Vũ nguyên niên, cho đến Kiến Hưng, Ngài dịch các bổn như: Duy-ma, Đại Bát, Nê-hoàn, Pháp Cú, Thụy Ứng, Bổn khởi…gồm bốn mươi chín bộ kinh. Về khúc thì đắc được Thánh nghóa. Về từ chỉ văn nhã lại y vào trong Vô Lượng Thọ Bổn khởi, chế ra Bồ-đề liên cú Phạm vận tam khế cùng chú giải Liễu bổn sanh tử kinh … đều lưu hành ở đời. Đầu nhà Ngô đất này đã nhiễm đại pháp, phong hoá chưa nhuần khắp. Ngài Tăng-hội muốn đem đạo chấn tích vùng Giang Tả, hưng lập đồ tự, bèn chân tích về Đông Du. Đời Ngô xích ô năm thứ mười, đầu tiên ngài đến Kiến Nghiệp lập chùa tranh, đắp tượng hành đạo. Bấy giờ đất Ngô mới thấy Sa-môn. Thấy hình chưa bằng thấy đạo, nghi là yêu dị. Có quan Ty tâu: - có người Hồ vào đất này tự xưng là Sa-môn dung phục chẳng phải thường về sự nên nghiệm xét. Quyền nói: Xưa Hán Minh đế mộng thấy thần gọi là Phật. Việc đó há chẳng phải là di phong sao? Vua liền cho mời ngài Tăng-hội vào thăm hỏi có kinh nghiệm gì? Tăng Hội đáp: Thánh tích Như Lai lưu thế cả ngàn năm, di cốt xá- lợi thần minh thật là vô phương. Xưa vua A-dục xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, phàm việc xây tháp tự là tiêu biểu cho sự di hoá. Quyền cho là khoa trương, nên nói: - Ngài nếu tìm được xá-lợi thì ta sẽ xây tháp. Nếu hư ngụy thì nước có pháp hình. Tăng-hội xin kì hạn bảy ngày, rồi Ngài nói với người tuỳ thuộc: Đạo pháp hưng phế là chính lúc này. Nay không chí thành về sau sẽ không kịp. Liền đóng cửa tịnh thất trì trai tinh khiết. Lấy bình đồng cho vào lửa hương đốt và lễ thỉnh. Bảy ngày trôi qua tịch nhiên không có linh ứng. Cầu thêm bảy ngày nữa cũng không được. Tôn Quyền nói: Đây thật là khi cuống. Ý vua muốn trị tội. Khương Tăng-hội lại xin thêm bảy ngày nữa. Ngài nói với pháp thuộc. Tuyên Ni có nói: “ Văn Vương đã chết thì Văn không còn ở đây nữa sao?”. Pháp linh ứng giáng mà chúng ta không cảm. Vì sao lại mượn vào phép vua. Vậy nên thề chết để hạn kỳ vậy. Đêm thứ bảy trôi qua vẫn không thấy gì? Ngài vẫn không sợ. Đã qua canh năm, chợt nghe trong bình có tiếng. Ngài Tăng-hội đến xem quả nhiên thấy có xá-lợi. Sáng hôm sau đem dâng cho Tôn Quyền. Cả triều đến xem, ánh sáng năm màu chói lọi nơi miệng bình. Quyền tự tay cầm bình rót vào trong chậu đồng. Xá-lợi rót ra làm cho chậu vỡ nát. Tôn Quyền cung kính đứng dậy nói: Thật là điềm ít có. Ngài Tăn-hội nói: uy thần của xá-lợi há chẳng phải có tướng quang minh mà thôi. Mà có bị kiếp thiêu đốt vẫn không bị cháy, chày kim cang đập cũng không vỡ. Tôn Quyền cho thử nghiệm _ Tăng-hội thề rằng: pháp vân mới được che chở, trăm họ ngưỡng vọng. Nguyện Phật hiển linh thần tích để rộng khai thị uy linh. Ngài bèn đặt xá-lợi trên chày thiết, bảo lực só đập. Dù bị đập bằng chày mạnh mà xá-lợi vẫn không bị sứt mẻ. Tôn Quyền rất vui vẻ thần phục, liền cho xây tháp. Từ đó mới có chùa Phật nên gọi chùa là “ Kiến Sơ Tự”, nhơn đó gọi tên đất là Phật- đà lý. Từ đây đại pháp hưng khởi nơi vùng Giang Tả. Đến khi Tôn Hạo tức vị thì chiùnh sách hà khắc bạo ngược phế bỏ hết dâm tự, cho đến chùa Phật cũng muốn phế bỏ. Hạo nói: Đây do đâu mà hưng khởi. Nếu là giáo lý chơn chánh, và cùng Thánh điển tương ưng, thì nên giữ lại. Còn như không được như thế thì nên đốt đi. Chư quần thần can: uy lực của Phật không giống như các vị thần khác. Ngài Tăng-hội cảm điềm lành, Đại Hoàng xây chùa. Nay nếu coi thường phá hủy sau ắt là hối tiếc. Hạo sai Trương Lập đến hỏi Tăn-hội, Lập có tài biện luận hỏi nhiều câu hóc búa. Ngài Tăng-hội ứng cơ diễn đáp trôi chảy, văn lý đều thông suốt. Từ sáng đến tối Lập không thể bẻ gãy. Khi ra về ngài Tăng- hội đưa ra tới cửa. Bên chùa có ngôi dâm tự ( miếu). Lập nói: Huyền hoá đã rõ ràng vì sao gần đây có dâm tự mà không hoán cải. Ngài nói: Lôi đình đánh bên tai còn không nghe. Nếu lí đã thông thì vạn lý đều huyền ứng. Còn như ngăn trở thì gan ruột đều rõ ràng. Lập lại khen Tăng-hội tài minh không ai sánh kịp. Nguyện thiên địa xét soi. Tôn Hạo chiêu tập triều thần, đem xa mã đến đón Ngài. Ngài an toạ thì Tôn Hạo hỏi: - Pháp Phật minh bạch, thiện ác đều có báo ứng, là sao? Ngài đáp: phàm bậc minh chủ, đem lòng từ hiếu để dạy người thì đó là điềm xích ô mà lão nhân thấy. Đem nhơn đức để nuôi vật thì nước suối tuôn ra, làm cho mầm lúa mọc. Thiện đã có điềm, ác thì cũng vậy. Cho nên làm ác mà giấu kín thì bị quỷ giết đi làm ác mà phơi bày thì bị người giết. Kinh dịch có nói: Tích thiện thì nhiều vui- Thi vịnh cầu phước không trở lại. Tuy là cách ngôn của Nho điển nhưng là minh huấn của Phật giáo. Tôn Hạo nói: Nếu như vậy thì Chu Khổng đã rõ ràng, cần gì đến Phật giáo. Ngài đáp: lời Chu Khổng nói là trình bày những điển tích gần. Còn như Thích giáo thì Phật đạt đến chỗ huyền vi. Cho nên hành ác thì có địa ngục thống khổ. Tu thiện thì có thiên cung vónh lạc. Nêu ra đây để thấy rõ rằng không đó thật là to lớn vậy. Bấy giờ Tôn Hạo không có lời gì để bẻ gãy lời người, tuy có nghe chánh pháp mà tánh hung bạo không bỏ. Sau đó vua sai túc vệ binh vào hậu cung tu sửa vườn tược. Họ đào đất gặp một tượng vàng cao vài thước đem dâng cho Hạo. Hạo liền cho đặt vào chỗ bất tịnh, dùng nước dơ uế dội lên, rồi cùng quần thần vui cười lấy thế làm thích thú. Sau đó vua bị bịnh đại thũng (Sưng nhọt), nơi chỗ kín càng đau đớn, kêu la thấu trời. Quan thái sư bói quẻ nói: Do phạm vào đại thần nên vậy, liền đi cầu lễ các miếu mà vẫn không giảm. Thể nữ trước đây có phụng trì pháp nhơn đó mới hỏi: Bệ hạ có đến chùa cầu phước hay không? Hạo ngước đầu hỏi: _ Phật thần lớn ra sao? Thể nữ nói: Phật là đại thần. Tâm Hạo chợt hiểu đầy đủ ý. Thể nữ liền thỉnh tượng đặt trên điện, lấy nước thơm rửa qua mấy chục lần, đốt hương sám hối. Tôn Hạo khấu đầu trên gối tự trình bày ra tội trạng. Có lúc đau chút ít. Vua sai người đến chùa hỏi đạo nhơn thỉnh ngài Tăng-hội đến thuyết pháp. Ngài Tăng-hội liền vào cung. Hạo hỏi các nguyên do tội phước. Ngài Tăng-hội diễn nói khúc triết, từ ý thật tinh yếu. Tôn Hạo lúc này mới hiểu rõ, rất là vui mừng nhơn đó cầu được xem giới của Sa-môn. Vì giới văn n bí truyền không thể khinh thường nói ra, bèn lấy bổn nghiệp gồm một trăm ba mươi lăm nguyện, phân ra làm hai trăm năm mươi việc, đi đứng nằm ngồi đều cầu nguyện cho chúng sanh. Tôn Hạo thấy từ nguyện rộng khắp càng tăng thêm thiện ý, liền xin Ngài thọ năm giới, tuần sau thì hết bịnh. Từ đó nơi ngài Khương Tăng-hội ở vua càng thêm tu sức sửa sang, và ra lệnh cho tôn thất đều phải phụng trì. Ngài ở lại triều Ngô cực lực tuyên nói chánh pháp. Vì tánh Tôn Hạo bạo ngược không rõ diệu nghóa, duy chỉ nói các việc báo ứng gần để khai tâm vua. Ngài Tăng-hội ở chùa Kiến Sơ dịch một số kinh. Đó là: A-nan niệm Di-đà, Kính diện vương, Sát Vi Vương, Phạm Hoàng kinh … lại dịch kinh tiểu phẩm và lục độ tập, tạp thí dụ …Kinh thể đều diệu đắc, văn nghóa đầy đủ chánh lý. Ngài lại truyền” Nê-hoàn Bái Thanh” và chú giải kinh An Ban Thủ Ý, Pháp cảnh, Đạo thọ … và viết lời tựa. Từ ý rất nhã nhặn mà nghóa lý yếu chỉ lại vi mật. Các bộ này nay vẫn còn lưu truyền ở đời. Đến tháng bốn năm Thiên tự thứ tư Tôn Hạo hàng nhà Tấn. Tháng chín ngài Tăng-hội bị bệnh rồi tịch, là vào năm Vũ Thái Khang nhà Tấn năm đầu. Đến nay Tấn Thành Hàm Hoà, vì Tô Tuấn làm loạn, đốt hết tháp do Ngài lập. Quan Ty không Hà Sung lại tu tạo. Bình Tây tướng quân là Triệu Dụ, vốn không tôn phụng pháp, ngạo mạn Tam bảo, vào chùa này nói với các Đạo nhân. Lâu nay nghe trong tháp này phóng ánh sáng rực rỡ. Bọn hư đảng không ở đó nên không tin, cho nên phải tận mắt thấy điều ấy. Nói xong tháp liền xuất ra năm sắc quang chiếu sáng cả chùa tháp. Dụ do đây mà kính tín. Ở phía Đông chùa có một tiểu tháp, xa là do Đại Thánh thần cảm, gần cũng nhờ lực của ngài Tăng-hội - cho nên có họa vẽ khắc tượng truyền tại đây- Tôn Trác có làm bài tán. Hội công tiêu sắt Thật là bày chất Tâm không luî gần Tình có vui khác U tối do đây Chấn kia càng bỏ Siêu nhiên đến xa Trác thì cao xuất. Có bài ký ghi: Tôn Hạo đánh thử vào xá-lợi- cho là chẳng phải xá-lợi thời Tôn Quyền. Tôi xét Tôn Hạo lúc sắp phá chùa, quần thần đều đáp: Khang Tăng-hội cảm điềm, Đại Hoàng sáng lập chùa. Vậy thì biết đầu tiên cảm xá-lợi tức cũng từ thời của Tôn Quyền. Thế nên các nhà truyền ký đều nói: Tôn Quyền cảm xá-lợi nơi cung Ngô. Về sau lại thử thần nghiệm. ----------------------------------- <詞>DUY KÌ NAN Duy Kì Nan vốn là người Thiên-trúc. Tổ tiên thờ dị đạo, dùng lửa cúng tế là chính. Bấy giờ có Sa-môn Thiên-trúc tập học pháp tiểu thừa, hành nhiều đạo thuật. Khi đi xa gặp trời tối, muốn ngủ nhờ nhà Kỳ Nan. Nhà Kì Nan thờ dị đạo, khinh thị Thích tử bèn chỉ cho Ngài tá túc bên ngoài cửa. Đêm ấy Sa-môn mật trì chú thuật khiến cho nhà Nan các ngọn lửa đều biến mất. Thế là cả nhà đều chạy ra, khể thỉnh Sa-môn vào nhà cúng dường. Sa-môn dùng chú thuật khiến cho lửa hoàn trở lại. Kì Nan thấy Sa-môn thần lực thù thắng, liền sanh tin ưa đối với Phật pháp. Từ đó bỏ hết bổn sự xuất gia học đạo, nương vào Sa-môn tôn làm Hoà thượng. Thọ học tam tạng diệu thiện tứ hàm, du hoá các nước, nơi nơi đều phụng trì. Năm thứ ba đời Ngô Hoàng Vũ, ngài cùng đồng bạn là Trúc Luật Viêm, cùng đến Vũ Xương mang Đàm-bát kinh Phạm bổn. Đàm-bát đó tức là kinh Pháp cú vậy. Bấy giờ học só đất Ngô cùng thỉnh Ngài dịch kinh. Kì Nan chưa thông suốt quốc ngữ, bèn cùng bạn Luật Viêm dịch ra Hán văn. Viêm cũng chưa giỏi Hán ngữ, lại có chỗ chưa thấu triệt, chí còn nơi bổn nghóa, từ ngữ còn chất phác. Đến cuối đời Tán Tuệ, có Sa- môn Pháp Lập, dịch ra làm năm quyển. Sa-môn Pháp Cự chấp bút, từ ngữ ít sai sót. Pháp Cự còn dịch một tiểu kinh, gồm bốn đầu sách. Cuối năm Vónh Gia có loạn lạc, nên phần nhiều không còn. <詞>TRÚC ĐÀM-MA LA-SÁT Dịch là Pháp Hộ, tổ tiên là người nước Nguyệt Chi. Vốn là họ Chi. Gia đình trụ ở Quận Đôn Hoàng, năm tám tuổi xuất gia. Nương Sa-môn ngoại quốc là Trúc Cao Toạ làm thầy. Ngài tụng Kinh ngày cả vạn lời, qua mắt là hiểu. Thiên tánh thuần ý, tu hành tân khổ, dốc chí hiếu học, nên vạn lý tầm sư. Thế nên ngài bác lãm cả sáu kinh, du tâm nơi bảy sách, việc đời buông bỏ chưa từng ôm ấp. Cho nên đời Tấn Vũ Đế, chùa chiền kinh tượng tuy tôn kính tin khắp nơi mà kinh Phương Đẳng vẫn chưa truyền đến. Ngài Pháp Hộ liền than thở phát nguyện, chí hoằng dương đại đạo, bèn theo thầy đến Tây Vức, du lịch qua các nước. Dị ngôn nước ngoài có ba mươi hai loại,, sách cũng vậy. Pháp Hộ đều học hết, quán tông kết huấn, ẩm nghóa tự thể đều tỏ thông tất cả. Sau đó mang tất cả Phạm bổn trở về Trung Hạ. Từ Đôn Hoàng đến Trường An, dọc đường đều dịch ra Tấn văn. Kinh Ngài dịch gồm một trăm sáu mươi lăm bộ tức: Chánh Pháp Hoa Quang Tán…. Ngài tinh tấn chuyên cần duy lấy việc hoằng thông chánh pháp làm sự nghiệp. Trọn đời dịch kinh không mỏi mệt. Kinh điển do đó mà lưu bố rộng khắp Hoa Hạ là nhờ công của Ngài vậy. Vào cuối đời Tấn Vũ Đế, Ngài ẩn cư ở núi sâu. Núi có dòng suối trong, Ngài thường lấy nước súc miệng. Sau có người hái củi làm ô uế nước, không bao lâu dòng nước khô cạn. Ngài Pháp Hộ bồi hồi than thở: - Ngài không có đức làm cho dòng nước trong suốt lưu chảy bỗng trở nên khô cạn. Thật không còn nước để sử dụng, cần phải dời đi vậy. Ngài nói xong thì dòng suối lại tuôn chảy. Do lòng u thành mà cảm ra như vậy. Cho nên Chi Độn làm tượng cho Ngài có bài tán rằng: Hộ công ngưng trong lặng Đạo đức sâu xa Vi ngâm cùng cốc Suối khô lại có Dâng đến Hộ công. Trời thật đức rộng. Lưư sa rửa chân. Nhận lãnh huyền chí. Sau đó Ngài lập chùa ở ngoài Thanh môn Trường An, tinh cần hành đạo, đức hoá được lưu bố khắp nơi, âm thanh lan xa bốn biển. Tăng chúng vài ngàn đều ở chỗ Tông sự. Vào đời Tấn Tuệ Đế giặc giả bốn phương nhiễu loạn, bá tánh dời đổi. Pháp Hộ cùng môn đồ cũng đi tránh. Từ phía Đông dời đến sông Thằng, Ngài thọ bịnh rồi mất, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi, sau Tôn Xước chế ra đạo Hiền luận do bảy vị Tăng Thiên Trúc gọi là Trúc lâm thất hiền. Vì pháp hộ ở trên Thất sơn bên nguồn lớn, cho nên luận rằng: _ Hộ công đức ở nơi vật tông, Cự Nguyên nối tiếp việc luận đạo. Hai ông phong tư đức độ cao xa, đủ để lưu hậu bối. Đời sau thấy được điều tốt đẹp như thế. Bấy giờ có thanh tín só là Nhiếp Thừa Viễn, là người có trí có tài dốc hết lòng vì Phật đạo. Hộ công dịch kinh rất nhiều. Tham chánh văn cú, soát lại những dịch lúc ban đầu phần nhiều đều rườm rà. Thừa Viễn san định lại đến nay được hai quyển, định loại rõ ràng đều như đây. Con của Thừa Viễn là Đạo Chơn cũng giỏi Phạm văn. Cha con cùng so từ nhã mà không luî nơi văn cổ. Lại có các vị Trúc Pháp Thủ, Trần Só Luân, Tôn Bá Hổ, Ngu Thế Nhã… đều nương vào yếu chỉ của Pháp Hộ, chấp bút ghi chép hiệu đính rõ ràng. An công nói: Sách Hộ công viết ra, nếu xét về công thủ mục, cương lãnh tất là chánh. Phàm chỗ dịch kinh, tuy không biện diệu rõ ràng, mà sâu xa đạt đến chỗvui thích, chú vào thiện thì vô sanh, y vào Tuệ thì không phải văn. Chất phát thì gần với nguyên bản, chỗ thấy xưng là như thế. Pháp Hộ cư trú ở Đôn Hoàng mà hoá đạo khắp nơi. Người bấy giờ gọi ngài là Đôn Hoàng Bồ-tát. ---------------------------- <詞>BẠCH VIỄN Bạch Viễn tự là Pháp Tổ, vốn họ Vạn, người Hà Nội. Cha là Uy Đạt, bậc nho nhã tri thức có danh, những nơi châu phủ đều không đến. Pháp Tổ từ nhỏ đã phát đạo tâm, bỏ cha mẹ đi xuất gia. Từ lý cho đến ý chí cha đều không bằng, bèn cải phục theo đạo. Pháp Tổ tư dung mẫn tiệp, tài trí tuyệt luân, tụng kinh một ngày tám chín ngàn lời, nghiên cứu Phương đẳng diệu nhập u vi. Sách vở ngoại điển phần nhiều đều nắm bắt. Ngài ở Trường An lập ra một ngôi tịnh xá, lấy việc thuyết giảng làm sự nghiệp. Tăng tục theo học có cả ngàn người. Cuối đời Tấn Tuệ đế quan thái tuể Hà giang là Vương Ngung đến trấn thủ ở Quan Trung rất đem lòng kính trọng Ngài, đãi như thầy bạn, mỗi khi rãnh rỗi thường tìm đến cùng đàm giảng đạo đức, bấy giờ Tây phủ mới kiến lập về sau lại rất thạnh. Có thể nói kẻ só, đều phục nơi viễn đạt, Pháp Tổ thấy quần hùng có thể xảy ra giao chiến, chí muốn lánh thân vào Lũng Thạch để bảo tồn nhã tháo. Gặp lúc Trương Phủ là Thứ sử ở Tần Châu đến trấn ở Lũng Thượng, nên Tổ cùng đi chung. Trương Phủ thấy danh đức của Người ai cũng trọng vọng quay về, nên muốn bảo Ngài hoàn tục về làm bạn đồng liêu. Tổ quyết chí không dời do đó mà kết oán. Ở châu cũng có Quan Thẩm cùng luận nghị với Tổ bị thua. Thẩm rất xấu hổ và giận. Khi Tổ đến Hình huyện thì chợt nói với đạo nhân và đệ tử rằng: Ta vài ngày nữa trả túc nghiệp oán đối. Sau đó từ biệt mọi người. Đem sách và kinh tượng phân bố ra cùng tài vật đều cho hết. Sáng sớm Ngài đến chỗ Trương Phủ cùng nói chuyện. Chợt có lời trái với Phủ nên bị bắt lại để hành tội. Mọi người đều kinh ngạc - Tổ nói: Ta đến đây là để trả túc nghiệp- Đây là việc đời trước chẳng phải bây giờ. Nói xong Ngài niệm Thập phương Phật. Vì tội duyên kíêp trước nên hoan hỷ trả, nguyện từ đây về sau cùng Phủ làm thiện tri thức, không bị tội giết người. Ngài bị trị phạt năm mươi roi sau đó thì mạng chung. Trương Phủ nghe điều này rất lấy làm ân hận. Đầu tiên Pháp Tổ hoằng hoá ở Quan lũng ở vùng núi Hào, người tôn phụng như thần. Binh Tấn náo động, người đi đường đều rơi lệ. Quân Khương Nhung ở Lũng Thượng đem năm ngàn tinh binh muốn đón Ngài về Tây, giữa đường nghe tin Ngài bị hại, khóc hận không cùng, chúng đều thương tiếc phẩn hận muốn báo thù cho Tổ. Trương Phủ đem quân lên Lũng Thượng. Khương Hồ độc xuất kî binh nghinh chiến. Bấy giờ môn hạ tức giận liền chém Phủ. Quân Hồ thấy vậy cho là đã rửa được hận rồi kéo binh về, cùng phân xá-lợi của Tổ và xây tháp cúng dường. Trương Phủ tự là Thế Vó, người Nam Dương, là hậu duệ của Trương Vệ- Tuy có tài nhưng lại tàn ác không rõ lý. Vì giết Thiên Thuỷ là Thái thú Phong Thượng làm cho bá tánh nghi hãi nhơn đó làm loạn mà giết Phủ. Quản Thẩm sau đó cũng chết. Ít lâu sau đó có một người họ Lý tên Thông, chết đi sống lại và nói: - Thấy Tổ Pháp sư ở chỗ Diêm-la vương đang giảng kinh Lăng- nghiêm và nói:Giảng xong kinh này sẽ lên cung trời Đao-lợi, lại thấy Thái Tửu Vương Phù đến tổ cầu xin Sám hối. Xưa Tổ thường ngày cùng với Phù tranh luận về tà chánh luận, bị thua nên sân giận không nhẫn được mới làm ra kinh “ Lão tử hoá Hồ” để huỷ báng Phật pháp. Vì gây ra tai ương đó nên chết, đi nay mới suy nghó hối hận. Tôn Trác viết Đạo Hiền luận cho Pháp Tổ là Thất Kế Khang, luận rằng: Bạch Tổ gây thù với Quản Thẩm, ở trong thì tác hoạ đối với Chung Hội. Hai vị cũng vì khí tài hoa, mê muội nơi thân, đem tâm để ngoài kinh nên chiêu lấy hoạ ở đời thật không khác vậy. Chỗ thấy xưng như thế. Tổ là người bác thiệp đa nhàn, thông cả ngôn ngữ Phạm và Hán thường dịch các bộ kinh như “ Duy kiếp, đệ tử bổn khởi và Ngũ bộ tăng…lại chú giải kinh Thủ-lăng-nghiệm, lại dịch riêng vài bộ về kinh tiểu thừa, gặp lúc loạn lạc nên không còn. Pháp Tạc là sư đệ của Pháp Tổ, tuổi nhỏ cũng có tiếng tăm, học thông hiểu rộng. Năm hai mươi lăm tuổi thì xuất gia, thâm nhập Phật lý. Ở Quan Lũng đều biết danh- Bấy giờ Thứ sử Lương Châu là Trương Quang. Vì anh tạc không chịu làm phản mà bị giết. Trương Quang lại bức bách Pháp Tạc bỏ Đạo. Tạc giữ chí kiên cố không chịu nghe nên bị Quang hại, năm đó Ngài năm mươi bảy tuổi. Ngài chú thích bộ Phóng Quang kinh, Bát-nhã và trước tác bộ Hiển tông luận …Trương Quang tự là Cảnh Vũ người Giang Hạ, sau bị địch vây, phát giận mà chết, bấy giờ là đời Tấn Tuệ. Lại có Ưu-bà-tắc tên là Vệ Só Độ, dịch ra hai bộ kinh: Đạo Hạnh, Bát-nhã. Só Độ vốn là ngươi Ti châu, Hấp quận, ông sống đời ẩn dật an bần thủ đạo. Tâm chỉ nghó đến Phật đạo. Khi gần tịch thì tắm rửa súc miệng sạch sẽ, tụng hơn một ngàn lời, sau đó cởi y ngồi an nhiên thị tịch. ----------------------------------------- <詞>BẠCH THI-LỢI MẬT-ĐA-LA Dịch là Kiết Hữu, người Tây Vực- Đương thời gọi là Cao toạ Pháp sư, Ngài là hoàng tử Tây Vực nhưng nhường ngôi lại cho em là Ám Quỹ Thái Bá, rồi giác ngộ đi tu làm Sa-môn. Ngài có tư chất sáng suốt, thần trí siêu phàm. Khi gặp việc đối đáp thì siêu việt hơn người. Niên hiệu Tấn Vónh Gia Ngài đến Trung Quốc gặp lúc loạn lạc nên lánh qua vùng Giang Tả, ở chùa Kiến Sơ. Thừa tướng Vương Đạo một lần gặp liền ngưỡng mộ, xin làm học trò do đó mà danh Ngài vang dội. Các vị như Thái uý Dữu Nguyên, Khuy Quang Lộc, Chu Bá Nhân, Thái Thường, Tạ Aáu, cùng Đình uý Hoàn Mậu Lu- ân, là những bậc danh só đương thời gặp ngài đều ca ngợi. Vương Đạo thường đến thăm ngài. Ngài cỡi đai quăng xuống đất rồi nói chuyện với ông ta. Không lâu sau thì Thượng thư lệnh Biện Vọng cũng đến thăm. Khi ấy Ngài sửa sang dung nghi, ngồi ngay thẳng đón tiếp. Có người hỏi tại sao? Ngài bảo: - Vương Đạo thì thích phong trần siêu dật. Biện Vọng thì xem dung nghi mà phán đóan người, cho nên ta mới như vậy. Chư công đều khen ngợi Ngài biết dụng pháp thích hợp để đối với người. Hoàn Đình uý thừơng muốn làm bài tụng ca ngợi Ngài mà chưa được. Có nói: ngài Mật-đa là bậc siêu tuyệt ở thế gian, đại tướng quân Vương Xử Xung ở Nam Hạ, nghe các vị tán thán Ngài thì muốn bái kiến. Vừa gặp mặt liền khởi tâm cung kính. Chu Di là quan Bộc xạ, thường tuyển chọn nhân tài đưa vào làm quan- Khi gặp ngài Chu Di bảo: - Nếu là thời thái bình thạnh trị, thì phải tuyển chọn vị hiền nhân này, mà chẳng ân hận gì. Không bao lâu Chu Di bị người hại chết- Ngài đến nhà phúng điếu tụng kinh. Ngài ngồi đối diện với người nhà, tụng kinh tiếng Phạm, âm thanh trong trẻo vang xa, mà thần khí vẫn tự nhiên, không lệ buồn thương, việc phế hưng cũng chẳng để trong tâm. Vương Đạo thường nói: Ngoại quốc chỉ có một hiền tài này mà thôi. Ngài cười nói: Nếu ta như các ông thì đương thời đâu ở đây. Tánh tình Ngài rộng rãi bao dung, nhưng không chịu học tiếng Hán. Chư công muốn nói chuyện với Ngài đều nhờ người dịch lại. Nhưng Ngài không đợi người dịch cũng có thể hiểu được lời- Mọi người đều khen Ngài có sự ngộ đắc phi thường. Ngài trì chú rất có linh nghiệm - Trước ở vùng Giang Đông chưa có chú pháp - Ngài có dịch ra quyển “ Khổng Tước Vương Kinh” và làm sáng tỏ các thần chú truyền cho đệ tử phải tìm các Phạm chú nhờ vậy còn truyền đến nay- Ngài mất vào đời Tấn Hàm Khang thọ hơn tám mươi tuổi - Mọi người nghe Ngài nhập tịch đều rơi lệ buồn thương. Hằng Tuyên Vũ thường nói: hiếm thấy bậc cao đức siêu thế như vậy. Đây là khen ngợi tinh thần Ngài. Lang Da Vương vâng thờ Ngài làm thầy đã biết bài tựa rằng: Xuân thu Ngô Sở khen ngợi Ngài, Ngài đã lưu truyền lại nơi Trung quốc và các dân tộc khác. Ngài hành lễ khác tục, do nhung địch tham lam vô nhân nên ngài bảo hộ tánh mình. Là bậc ưu tú xuất thế đương thời sinh ra nơi đó. Tài siêu quần hoặc gần như vậy. Nên biết trời trao cho bậc anh tài vó đại há chỉ trong bình bị. Từ xưa đến nay chỉ đời Hán mới có mặt trời vàng, bậc hiền đếu có lòng nhân, hiếu, trung, thành, đức, tín, thuần khiết, cao tột chứ chẳng phải chỉ có minh đạt mà thôi. Ngài tâm lượng cao như núi, tài giỏi như thần, phong độ, lãnh ngộ còn vuợt đây xa. Vì Ngài thường tu hạnh đầu-đà ở Thạch tử võng nên thi thể an táng tại đây. Vua Thành đế thương tiếc ngài nên cho dựng tràng phan nơi mộ phần. Sau này có Sa-môn nước ngoài đến kinh sử, dựng chùa ngay nơi phần mộ của Ngài- Tạ Côn ở Trần quận hỗ trợ tiền của để xây chùa - Vì muốn ghi nhớ công nghiệp của Ngài nên gọi là chùa Cao Tọa. --------------------------------- <詞>TĂNG-GIÀ BẠT-TRỪNG Tăng-già Bạt-trừng dịch là Chúng Hiện, người nước Kế Tân, là người cương nghị, tánh ý sâu xa. Tầm bực minh sư học thông cả tam tạng, bác lãm cả chúng điển - Ngài tinh tường quán thông yếu chỉ của bộ A-tỳ-đàm, Tỳ-bà-sa. Thường có chí du phương quán xét để hoá độ- Năm Kiến Nguyên đời Phù Kiên thứ mười bảy, Ngài đến Quan Trung - Từ trước kinh điển đại thừa chưa phổ cập, người học về Thiền số lại càng thạnh. Khi ngài đến Trường An thì mọi người đều cho là pháp tượng. Quan bí thư lang Triệu Chánh rất sùng ngưỡng đại pháp, thường nghe ở nước ngoài có Ngài Bạt-trừng thông thuộc các bộ A-tỳ-đàm, Tỳ- bà-sa bèn tìm đến tứ sự lễ kính cúng dường, thỉnh Ngài phiên dịch. Ngài cùng các vị danh đức như: Pháp sư Thích Đạo An, Đàm-ma Nan-đề …cùng chiêu tập chư tăng lại phiên dịch. Ngài đọc Phạm bổn. Sa-môn Đàm-ma Nan-đề…ghi chép tiếng Phạm, Phật-đồ la-sát tuyên dịch. Sa-môn Mẫn Trí ghi chép Tấn văn - dịch từ đời Tần Kiến Nguyên năm thứ mười chín, từ mùa hạ sang mùa thu thì xong. Trước kia, Ngài có mang theo bộ Bà-tu-mật tiếng Phạm-Sang năm sau Triệu Chánh lại thỉnh Ngài dịch ra Tấn văn. Ngài cùng Đàm-ma Nan-đề và Tăng-già Đề-bà cùng viết và đọc bản Phạm. Sa-môn Phật Niệm tuyên dịch, Tuệ Cao ghi chép. An công, Pháp Hòa cùng hiệu đính. Hai bản này còn lưu truyền đến nay-Ngài có giới đức ngay thẳng cao vời lìa tục, tăng chúng quan trung đều vẽ hình Ngài. Sau không biết Ngài mất ở đâu. Phạât-đồ La-sát không biết là người nước nào. Ngài bát thông kinh điển lại có đức nghiệp thuần tuý. Sau đó Ngài đến Hán thổ khéo thông thạo Hán ngữ, nên cùng phiên dịch. <詞>ĐÀM MA NAN ĐỀ Trung Hoa dịch là Pháp Hỷ, người ở Đâu-khiếp-lặc. Tuổi nhỏ đã sớm lìa tục, là bậc thông minh túc trí, lấy việc chuyên nghiên cứu kinh điển làm sự nghiệp, xem khắp tam tạng, tụng kinh Tăng-nhất A-hàm, bác học đa văn không có môn nào mà không thông suốt, cho nên trong nước xa gần đều thần phục. Còn nhỏ mà đã đi khắp các nơi, thường cho đó là việc hoằng pháp, tuyên bố học điều chưa nghe. Cho nên hoài bão mong đến phương Đông. Năm Kiến Nguyên Trúc Thị Ngài đến Trường An- Học nghiệp của Nan-đề đã có tiếng, Phù Kiên trông thấy liền đảnh lễ tiếp đón. Vùng Trung thổ trước đây các kinh chưa có tứ Hàm Đại thần của Kiên Vũ Uy Thái thú Triệu Chánh muốn thỉnh Ngài dịch kinh. Bấy giờ Mộ Dung Xung đã khởi binh đánh Kiên. Vùng Quan Trung nhiễu động. Triệu Chánh vì tình thâm mộ pháp nên quên thân vì đạo, bèn mời An công và chư vị đi vào Trường An. Tụ tập chúng tăng nghóa học, thỉnh ngài Nan-đề dịch Tăng-nhất A-hàm cùng với A-tỳ-đàm tam pháp độ gồm một trăm lẻ sáu quyển. Ngài Phật Niệm truyền dịch, Tuệ Cao ghi lại từ mùa hạ đến mùa xuân trải qua hai năm văn nghóa mới hoàn thành. Rồi khi giặc Diêu Tràng bức bách ở nội quan, nhơn tình nguy ách. Nan-đề bèn từ biệt trở về Tây Vức không biết về sau thế nào. Đương thời, Phù Kiên bị bại trận. Giặc Dung nô bạo tàn làm cho dân lưu tán tứ phương mà còn được truyền dịch đại bộ. Đây là do lực của Triệu Chánh. Triệu Chánh tên tự là Văn Nghiệp, người ở Thanh Thuỷ, Lạc dương. Hoặc có người cho là người ở Tề Âm. Năm mười tám tuổi làm Nguî Tần trước tác lang. Sau dời đến Hoàng Môn làm Thị lang Vũ Uy Thái thú. Không để râu mà người gầy nhỏ, có vợ mà không con, người bây giờ đều gọi là hoạn. Nhưng tánh tình ông độ lượng cao minh học rộng thông cả nội ngoại. Tánh thích can gián không hề né tránh- Cuối đời Phù Kiên sủng hoặc kẻ ty tiện vào việc trị nước- Triệu Chánh nhơn đó can ngăn: - Xưa nghe Mạnh đào sông, cứ một ngàn lý làm một khúc. Nước sông này vốn rất trong, nay vì ai làm khiến cho đục. Kiên biến sắc nói: Là trẩm vậy. Lại can rằng: phía Bắc vườn có một cây táo, lá cây rậm rạp. Tuy nhiều gai gốc mà bên trong thật đỏ lòng. Phù Kiên cười: tưởng chẳng phải Triệu Văn Nghiệp sao? Sau nhơn ở Quan Trung Phật pháp thạnh hành, ông nguyện xuất gia- Phù Kiên còn thương tiếc nên chưa cho, rồi khi Kiên chết mới được toại chí. Còn được gọi là Đạo Chỉnh. Nhơn đó làm bài tụng rằng: Phật sanh gì là muộn Nê-hoàn vì sao sớm Quy mạng Thích-ca Văn Nay đầu về đại đạo. Sau đó Ngài ẩn tích ở núi Thương Lạc, chuyên tinh kinh luật. Thứ sử Ung Châu nhà Tấn là Khích Khôi, vì khâm phục phong thái của Ngài nên bức cùng đi. Sau Ngài mất ở Tương Dương, hưởng thọ hơn sáu mươi tuổi. ---------------------------------------- <詞>TĂNG-GIÀ ĐỀ-BÀ Trung Hoa dịch là Chúng Thiên, hoặc gọi là Đề Hoà đó là âm sai vậy. Họ ngài là Cù -đàm. Người nước Kế Tân. Ngài vào đạo tu học, xa cầu đấng minh sư, học thông cả tam tạng, lại khéo nhập tâm nơi A- tỳ-đàm, thông hết yếu chỉ, thường tụng tam pháp độ luận, ngày đêm thường ca vịnh cho là đã nhập đạo, là người tuấn tú hiểu biết sâu xa, mà dung nghi khiêm cung ẩn kính, chỉ chuyên việc dạy dỗ người không biết mỏi mệt. Trong niên hiệu Trúc Thị Kiến nguyên, Ngài vào đến Trường An, tuyên lưu Pháp Hoá. Đầu tiên ngài Tăng-già Bạt-trừng dịch bộ Bà-tu- mật và Đàm-ma Nan-đề dịch nhị A-hàm, Tỳ-đàm Quảng Thuyết và Tam Pháp Độ gồm hơn một trăm vạn lời. Gặp lúc binh loạn của Mộ Dung nên bị thất tán, nên người dịch thứ tự chưa được rõ ràng, yếu ng- hóa chỉ cú chưa được tường tận. Bỗng chốc mà An công tạ thế vẫn chưa được cải chính. Sau ở Sơn Đông thanh bình Đề-bà cùng với Sa-môn Pháp Hòa ở Quảng châu đều đến Lạc Dương. Trong bốn năm năm cùng nghiên cứu giảng dạy các bộ kinh trước. Ở đây lâu ngày thông đạt được Hán ngữ, mới biết các kinh dịch trước phần nhiều đều sai. Pháp Hoà than thở chưa định được, bèn bảo Đề-bà dịch A-tỳ-đàm và rộng giảng các bộ kinh. Trong khoảng đời vua Dao Hưng Vương Tần, Pháp sự rất thạnh - Thế rồi Pháp Hoà đi vào Quan Trung, còn Đề-bà qua vùng Giang Tả. Trước kia có Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn, mở mang diệu điển rộng sưu tập kinh tạng. Ngài đem hư tâm độ lượng, trông mong khách phương xa, nghe Ngài đến đây liền vào Lô Sơn. Vào đời Tấn Thái Nguyên thỉnh Ngài dịch bộ A-tỳ-đàm tâm và Tam pháp độ vv… Đề-bà đến ở nơi đài Bát-nhã tay cầm phạm văn miệng dịch ra Tấn ngữ, bỏ hết nghóa rườm rà chỉ giữ nguyên bản. Nay còn truyền lại là từ nơi văn này vậy. Năm Long An nguyên niên, Ngài đến kinh sư, các vương công Tấn triều và danh só phong lưu không ai mà không chí kính. Bây giờ Vệ Quân Đông đình hầu Lang Da, Vương Tuân, Uyên Ý, đều là người có thâm tín thọ trì chánh pháp, kiến lập ra tính xá, rộng độ học chúng. Khi Đề Bà đến, Tuân liền mới thỉnh. Ngài vẫn ở tại tinh xá giảng A-tỳ-đàm, các bậc danh tăng đều tập đến. Tông chí của Đề-bà đã tinh tường, từ chỉ lại khúc chiết sáng sủa, chấn phát được nghóa lý, đại chúng nghe xong cùng vui ngộ. Lúc này Vương Di cũng ngồi nghe, sau ở trong biệt thất tự mình giảng dạy. Tuân hỏi: pháp cương đạo nhơn, sở đắc Di-đà gọi là gì? Đáp: phần lớn hoàn toàn là tiểu chưa phải là tinh yếu vậy. Cần phải giải thích rõ ràng để thâm nhập vào nhân tâm ở đây. Cuối cùng Tuân tụ tập hơn bốn mươi vị sa-môn nghóa học ở kinh đô như Thích Tuệ Trì vv… và thỉnh Đề-bà trùng dịch lại kinh A-hàm. Sa-môn nước Kế Tân là Tăng-già La-xoa đọc Phạm bổn, Đề -bà dịch ra Tấn văn, cho đến mùa hạ mới xong. Ở các vùng Giang Lạc đều có xuất bản kinh hơn cả trăm vạn lời. trải qua các vùng Hoa Hạ, Tây Vực, Ngài đều hiểu rõ các phong tục tuỳ theo cơ dung, khéo ở nơi đàm tiếu âm thanh đạo hoá của Ngài không ai mà không nghe. Sau không biết ngài thế nào. ------------------------------------------ <詞>TRÚC PHẬT NIỆM Ngài Trúc Phật Niệm là người Cương Châu. Tuổi nhỏ xuâát gia, chí nghiệp thanh tịnh cứng cỏi. Ngoài thì hoà, trong thì sáng, trí tuệ lại thông mẫn. Ngài phúng tụng các kinh, thô thiệp ngoại điển. Các sách cở huấn càng tỏ đạt, nhỏ thích du phương, xem đủ các phong tục. Gia thế ở Tây Hà, thông suốt các phương ngôn. Hoa Phạm âm nghóa đều hiểu rõ. Về nghóa học tuy có khiếm khuyết, hợp âm thanh nghe càng chấp trước. Trong niên hiệu Trúc Thị Kiến Nguyên, các vị như Tăng-già Bạt- trừng, Đàm-ma Nan-đề vào Trường An. Triệu Chánh thỉnh chư vị dịch kinh. Các vị danh đức đương thời không ai truyền dịch, chúng đến mời Ngài. Thế là ngài Bạt-trừng cầm Phạm văn. Ngài Phật Niệm dịch ra Tấn ngữ, chất đoán lại các nghóa nghi ngờ, âm tự mới rõ ràng - Đến tháng giêng năm Kiến Nguyên thứ hai mươi chúng lại thỉnh ngài Đàm- ma Nan-đề dịch Tăng-nhất A-hàm và Trung A-hàm. Sa-môn nghóa học ở trong thành Trường An thỉnh ngài Trúc Phật Niệm dịch, nghiên cứu khúc chiết hai năm mới xong hai bộ A-hàm, đây là do công của ngài Phật Niệm. Từ Thế Cao Chi Khiêm về sau không ai dịch hơn Ngài. Trong hai thời Phù – Diêu, Ngài đứng đầu các dịch giả. Cho nên tăng chúng ở Quan Trung thảy đều vui mừng. Sau đó Ngài tiếp tục dịch: “ Bồ-tát Anh Lạc thập trụ đoạn kết và kinh Diệu Thai, kinh Trung Aám vv… Đây chỉ là mới dịch, ý phần nhiều chưa tận thì Ngài mang bịnh mất ở Trường An - chúng tăng tục ai cũng than thở thương tiếc. --------------------------------------------- <詞>ĐÀM MA DA XÁ Đàm-ma Da-xá Trung Hoa dịch là Pháp Minh, là người nước Kế Tân, tuổi nhỏ mà hiếu học. Năm mười bốn tuổi Phất-nhã Đa-la đã biết, lớn lên khí càng cao nhã thần tuệ, thông suốt các kinh luật, minh ngộ xuất chúng, chuyên ý nơi bát thiền, du tâm vào thất giác. Người bây giờ gọi Ngài là Phù-đầu Bà-đà. Ngài cô thân ở chốn núi non đầm trạch, không tránh gặp hổ báo. Nơi vắng lặng tư duy động dời cả ngày, thường ở gốc cây mỗi ngày để tự khắc trách mình. Năm ba mươi tuổi còn chưa đắc quả, huống chi là giải đãi. Thế là trải qua nhiều ngày không ngủ không ăn, chuyên cần tinh tấn sám hối tội trước. Rồi Ngài nằm mộng thấy Bác-xoa Thiên Vương nói: Sa-môn nên quán rộng xa hoá tất cả làm hoài bão, sao chỉ giữ tiểu tiết chỉ có điều thiện thôi sao? Đạo mượn các duyên, lại cần phải chờ thời cơ đến, chẳng phải mạnh cầu chết mà không chứng. Tỉnh dậy Ngài suy nghó muốn du phương thọ đạo. Sau đó Ngài trải qua các nước lân bang. Vào những năm Long An nhà Tấn Ngài đến Quảng Châu trụ ở chùa Bạch Sa. Ngài rất khéo tụng “ Tỳ-bà- sa-luật “ người đều gọi ngài là Đại Tỳ-bà-sa. Bấy giờ Ngài đã tám mươi lăm tuổi, độ chúng tám mươi lăm người - Khi ấy có một nữ thanh tín tên là Trương Phổ Minh, hỏi về Phật pháp- Ngài Da Xá liền nói về “phật sanh duyên khởi”. Ngài cùng lúc dịch bộ Xoa-ma kinh một quyển. Đến niên hiệu Nghóa Hy rất tôn sùng Phật pháp. Ngài Da-xá đã đi đến chỗ tham gia lễ dị. Gặp lúc có Sa-môn Thiên-trúc là Đàm-ma Khất-đa cũng đến Quan Trung. Đồng khí tương cầu, bỗng nhiên như người cũ. Nhân đó cùng với Da-xá dịch: Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm – Vào đời Tần Hoàng Thỉ năm thứ chín, Ngài bắt đầu dịch Phạm thư cho đến năm thứ mười sáu mới xong, gồm hai mươi hai quyển. Thái tử là Diêu Hoằng đích thân xem xét, Sa-môn Đạo Tiêu làm lời tựa. Sau đó ngài Da-xá nam đu đến Giang Lăng dừng lại chùa Vu Tân hoằng dương Thiền pháp. Ở đây có bọn khách đều là dân lữ thứ gồm hơn ba trăm người. Trước kia không có tín tâm mà gặp Ngài đều vui kính, tự nói có một thầy, một đệ tử. Cả hai tu nghiệp đều đắc La-hán, truyền đến đây thì hết. Ngài lại từng ở ngoại môn đóng cửa toạ thiền, chợt có năm sáu vị Sa-môn đi vào thất -Lúc ấy thấy một Sa-môn bay lên ngọn cây, qua lại nhiều lần. Ngài thuờng giao tiếp thần minh mà phủ đồng như thế tục. Tuy đạo tích chưa hiển bày, Người bấy giờ đều cho Ngài là đã đắc Thánh quả. Đến đời Tống Nguyên Gia, Ngài trở lại Tây Vức, không biết về sau thế nào. Ngài Da-xá có đệ tử là Pháp Độ, giỏi cả Phạm văn, Hán ngữ, thường phiên dịch. Độ vốn là con của Trúc Bà Lặc- Lặc qua lại Quảng châu nhiều ngày mưu cầu lợi lộc giữa đường đến Nam Khang. Lớn lên lấy tên là Kim Ca, xuất gia có pháp danh là Pháp Độ, lúc đầu làm đệ tử ngài Da-xá thừa thọ kinh pháp - Khi Da-xá trở về nước. Pháp độ tự mình lập ra quy cũ dị kỳ để nhiếp chúng, bèn nói: chuyên học Tiểu thừa cấm học Phương Đẳng. Duy chỉ lễ Thích-ca, không lễ mười phương Phật- Ăn chỉ dùng bát đồng không dùng các chén bát khác, lại bảo chư ni cùng nắm tay đi. Ngày sám hối chỉ cùng quỳ lạy nhau. Đời nhà Tống ở Đan Dương, có con gái của Duẫn Nhan Viện là ni Pháp Hoằng, con gái Trương Mục Quan Thứ sử Giao Châu là ni Phổ Minh đầu tiên đều thọ pháp này. Ngày nay chư ni nối nghiệp như Hoằng quang… đều noi theo di phong này. Ni chúng Đông thổ cũng có thời theo đây.  CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 2 CƯU-MA LA-THẬP Cưu-ma La-thập dịch là Đồng Thọ. Ngài là người Thiên-trúc- Gia thế làm tướng quốc. Tổ phụ là người thành đạt cao nhưng thong dong không màng danh trọng trong nước. Cha là Cưu-ma Viêm là người thông minh có chí tiết, thừa tự ngôi vị tướng quốc, bèn từ bỏ mà đi xuất gia lên ngọn núi Thông lãnh ở Đông độ. Vua Quy Tư nghe nói ông bỏvinh hoa thì rất kính mộ, tự lên nghinh thỉnh về làm Quốc sư. Vua có người em gái mới hai mươi tuổi, vốn thông minh tài tuệ, điều gi qua mắt đều thông hiểu, một lần nghe đều thuộc hết, lại có trên thân một nốt ruồi son sẽ sanh con tài trí. Các nước đem sính lễ tới hỏi nhưng bà không chịu, khi thấy Cưu-ma Viêm lòng liền ưa thích, mới bức làm chồng. Từ đó hoài thai La-thập. La-thập khi còn trong thai người mẹ tự biết thần ngộ thông suốt hơn ngày thường. Nghe nói chùa Tước-lợi-đại bậc danh đức rất nhiều, lại có tăng đắc đạo.. Bà liền cùng quí nữ trong vương tộc cùng chư ni đức hạnh, trọn ngày thiết lễ cúng dường thính pháp. Người mẹ hốt nhiên thông thuộc tiếng Thiên-trúc, những từ khó hỏi tự nhiên uyên bác. Mọi người đều khen ngợi. Có vị La-hán tên Đạt-ma Cù-sa nói: - đây là do hoài thai được trí tử. Rồi Ngài nói mẹ Xá-lợi-phất lúc mang thai cũng tự nhiên thông minh như vậy. Sau khi ngài La-thập sanh ra thì mẹ không còn như trước. Không bao lâu người mẹ muốn xuất gia. Người chồng không cho. Sau đó bà sanh thêm người con trai nữa đặt tên là Phất-sa Đề-bà. Nhơn một hôm ra khỏi thành chơi trông thấy nơi gò mả hoang xương cốt nằm vương vãi khắp nơi. Thấy vậy càng tư duy về gốc khổ nên nhất định thệ nguyện xuất gia, nếu không được thì không ăn uống. Cho đến đêm thứ sáu hơi thở gần dứt, sợ không đến sáng mai, người chồng bèn cho. Vì chưa cạo tóc nên không chịu dậy. Thế là bèn sai người cạo tóc rồi mới dậy ăn uống. Hôm sau thọ giới lại ưa thích thiền pháp, chuyên tinh không giải đãi học đắc đến sơ quả. La-thập lên bảy tuổi cũng đều xuất gia. Theo thầy học kinh ngày tụng một vạn bài kệ, một kệ có ba mươi hai chữ gồm ba vạn hai ngàn chữ. Ngài tụng qua Tỳ-đàm thầy nói nghóa tức liền thông thuộc. Người dân Quy Tư lúc bấy giờ, vì mẹ Ngài là em vua nên lợi dưỡng rất nhiều. Thế là bà dắt La-thập trốn đi. Năm đó La- thập lên chín tuổi. Ngài theo mẹ vượt qua sông Tân-đầu đến nước Kế Tân, gặp được Pháp sư danh đức là Bàn-đầu Đạt-đa tức là em vua Kế Tân, là người uyên bác lại có đại lượng, tài trí, bác thông ít có đương thời. Tam tạng chín bộ Ngài đều thông suốt. Từ sáng tới trưa tay viết ngàn bài kệ. Từ trưa đến tối cũng tụng ngàn bài kệ, là bực danh sư nổi tiếng khắp các nước xa gần. La-thập đến gặp liền tôn trọng Ngài, lễ Ngài làm thầy theo học tạp tạng trung trường a-hàm gồm bốn trăm vạn lời. Đạt-đa thấy La-thập thông tuệ như vậy bèn tâu lên vua. Vua liền thỉnh vào cung, và cho tụ tập ngọai đạo lại để cùng vấn nạn. Cuộc luận nghị vừa bắt đầu, ngoại đạo xem thường Ngài tuổi nhỏ nhưng khi Ngài đem lý luận ra bẻ gãy, ngoại đạo thua lý xấu hổ không biết nói gì. Vua càng kinh dị, bèn cúng dường cho Ngài các thứ vật thực như đã cúng cho ngoại đạo trước kia. Chư tăng ở chùa bèn sai năm đại tăng và mười Sa-di lo việc quét dọn giặt giũ như đệ tử, mới thấy Ngài được tôn sùng như thế. Đến năm mười hai tuổi người mẹ lại dắt trở về nước Quy Tư. Các nước đều đem lễ vật đến hỏi thăm và muốn trọng dụng, nhưng La- thập không thuận. Bấy giờ người mẹ đem ngài đến núi Nguyệt Thị bắc. Có vị La-hán lấy làm lạ, nói với người mẹ: phải nên giữ lấy vị sa-di này cho đến năm ba mươi lăm tuổi không được phá giới thì làm cho Phật pháp đại hưng độ, chúng sanh vô lượng cũng giống như Ưu-ba Cúc-đa vậy. Nếu giơí pháp không hoàn toàn thì không được vậy, chỉ có thể làm bực tài minh giữ chức Pháp sư mà thôi. La-thập đến nước Sa-lặc đảnh lễ bát Phật, trong tâm tự nghó: bát này quá lớn làm sao lại nhẹ vậy”. Nghó thế thì bát trở nên nặng không thể bưng nỗi bèn thất thanh hạ xuống. Mẹ hỏi ra bèn Vì tâm con có sự phân biệt cho nên bát có nặng nhẹ. Ngài dừng lại Sa-lặc một năm, thông hết A-tỳ-đàm. Các phẩm tu trí trong thập môn đều học cả và thông đạt đến chỗ kỳ diệu. Lại đối với các câu hỏi lục túc không có điều gì ngăn ngại. Nước Sa-lặc có Sa-môn tam tạng tên là Hỷ Kiến, bạch với vua rằng: - vị sa-di này không thể xem thường. Vua nên thỉnh về để Ngài khai pháp môn sẽ có hai điều lợi ích: một là Sa-môn trong nước thấy xấu hổ tất sẽ nỗ lực tu, hai là vua Quy-tư thấy La-thập ở đây ắt sẽ đến hoà hiếu, tôn trọng La-thập cũng sẽ tôn trọng ta. Vua ưng thuận, liền cho thiết bày đại hội mời La-thập thăng tòa thuyết pháp. Vua Quy-tư quả có đem lễ vật giao hiếu. Ngài La-thập khi rãnh rỗi liền tìm đọc các sách của ngoại đạo, lại khéo học về luận Vi-đà hàm-đa, hiểu rõ văn từ. Ngài làm các câu vấn đáp, lại thông lãm tứ Vệ-đà và các luận ngũ minh, âm dương tinh tú đều biết qua. Nói những lời kiết hung diệu đạt đều phù hợp. Tính lại thông thoáng không chấp vào tiểu tiết. Người tu có người nghi nhưng ngài La-thập tự biết tâm mình chưa từng trái ý. Bấy giờ có hai anh em là Vương tử Thảo Sa và Vương tử Tham Quân, bỏ việc quốc sự quyết chí làm Sa-môn. Người anh tự là Tu-lợi-da Đạt-đà, em là Tu-da-lợi Tô- ma. Tô-ma tài nghệ tuyệt luân chuyên đem pháp đại thừa để giáo hoá người. Người anh và các học giả đều tôn trọng. Ngài La-thập cũng kính phục, mời đến. Tô-ma thuyết kinh A-nậu-đạt cho La-thập nghe. Thập nghe các nhập ấm giới đều không vô tướng, lấy làm lạ hỏi: - Kinh đây sao lại có nghóa này, như thế sẽ phá hoại hết các pháp. Đáp: - các pháp nhãn nhó… chẳng phải là thất có. Thập đã chấp vào nhãn căn, nhơn đó mà thành ra không thật. Thế là nghiên cứu cùng tận các kinh đại tiểu thừa lúc đó mới biết có chỗ sở quy, bèn chuyên tinh vào Phương đẳng rồi than rằng: ta xưa học tiểu thừa như người không biết vàng cho đá là diệu. Nhơn đó cùng rộng cầu nghóa yếu thọ tụng hai bộ luận là Bách luận và Trung luận cùng mười hai môn. Không bao lâu lại theo mẹ đến nước Ôn Túc, tức nằm phía bắc nước Quy-tư. Ở nước Ôn Túc có một đạo só, thần biện luận thật anh tú, danh vang các cõi. Vị này tự thệ rằng: ai biện luận thắng tasẽ tự chặt đầu. Khi La-thập đến thì cả hai cùng biện luận tranh tài. Đạo só đuối lý cúi đầu quy y. Thế là danh tiếng ngài La-thập vang xa ra ngoài khu vực các nước. Vua Quy Tư đích thân đến nước Ôn Túc đón Ngài trở về nước để rộng giảng kinh pháp, bốn phương đều tôn sùng quy kính. Bấy giờ có một vị vương nữ xuất gia làm ni tên là A-kiệt-da Mạt- đế, rất thông suốt kinh tạng, hiểu sâu thiền yếu, cho rằng mình đã chứng nhị quả, nghe pháp thì lòng vui vẻ hẳn lên. Sau đó lại thiết lập đại hội thỉnh khai giảng kinh Phương đẳng. Ngài La-thập lại biện luận các pháp đều là không vô ngã, phân biệt các ấm giới giả danh phi thật. Bấy giờ trong hội thính ai cũng bi cảm, chỉ hận mình ngộ quá chậm. Đến năm hai mươi tuổi Ngài thọ giới ở Vương cung, theo Tỳ-ma La-xoa học luật thập tụng. Không bao lâu lại theo mẹ về Thiên-trúc, Ngài thưa với vua nước Quy Tư là Bạch Thuần rằng: nước sắp suy vua nên lánh đi. Khi đến Thiên-trúc ngài chứng tam quả. Người mẹ sắp lâm chung nói với La-thập: - kinh Phương đẳng sâu xa con nên truyền rộng sang Đông độ. Duy chỉ lực của con, chỉ vì tự thân không được lợi thì biết làm thế nào? Ngài nói: đạo xuất thế lấy việc làm lợi cho người mà quên thân. Nếu có thể đem đại đạo lưu truyền rộng khắp thì thân này nhảy vào chảo lửa cũng không tiếc. Thế rồi Ngài lưu lại nước Quy-tư, ở chùa Vu Tân, về sau dời vào chùa trong cung. Đầu tiên Ngài có được kinh Phóng Quang mới mở ra xem. Nhưng quỷ ám che văn chỉ thấy sách không, ngài La-thập biết nên phát nguyện càng kiên cố. Quỷ đi chữ lại hiện ra. Khi tụng đọc lại nghe trên hư không có tiếng nói: - ông là người trí sao lại đọc kinh này? La-thập nói: ngươi là tiểu quỷ thì nên tránh xa. Tâm ta như đất không thể lay chuyển. Ngài dừng lại đó hai năm, rộng giảng các kinh luận đại thừa, thấu rõ chỗ bí áo. Vua nước Quy-tư, tạo toà sư tử vàng, bao bọc bằng lụa gấm, mời ngài La-thập lên đó thuyết pháp. Ngài nói: gia sư còn chưa ngộ đại thừa muốn đi du hóa khắp nơi không thể dừng lại lâu dài. Không bao lâu Đại sư Bàn-đầu Đạt-đa đến, vua nói: - Đại sư vì sao lại đến đây? Đáp: một là, nghe đệ tử có chỗ sở ngộ phi thường. Hai là, đại vương hoằng hoá Phật đạo. Cho nên không quản ngại xa xôi nguy hiểm tìm đến chốn này. Ngài La-thập thấy thầy đến vui vẻ, xin thầy nói kinh Đức Nữ Vấn, rõ được nhơn duyên không giả. Xưa cùng thầy đều có chỗ không tin, cho nên trước nói ra vậy. Thầy bảo La-thập: - ông đối với Đại thừa thấy được dị tướng nào mà hướng theo? Đáp: pháp đại thừa rất sâu xa thanh tịnh nói rõ các pháp là không, tiểu thừa nhiều hạn cuộc nơi lậu thất. Thầy nói: ông nói tất cả đều không thật là đáng sợ. Vì sao bỏ hữu pháp mà chấp vào không. Như xưa có kẻ cuồng nhơn nhờ thầy dạy cho xe chỉ thật nhỏ. Người thầy gia ý bảo xe nhỏ như vi trần. Cuồng nhơn không hiểu, vị thầy giận dữ mới chỉ vào chỗ không bảo: - Đây là chỉ nhuyễn. Cuồng nhân hỏi: sao không thấy? Thầy đáp: thợ khéo như ta còn không thấy huống gì là người khác. Cuồng nhơn vui mừng giao chỉ cho thầy. Thầy cũng nỗ lực để có được lời khen thưởng mà thật không có vật gì. Pháp không của ông cũng giống đây vậy. Ngài La-thập bèn trình bày rõ ràng ra. Qua lại khổ chí trải qua hơn một tháng, thầy mới tin phục và khen rằng: thầy không thể phản bác chí này, nghiệm ra là đây vậy. Thế rồi lễ La-thập làm thầy và nói: Hoà thượng là thầy đại thừa của ta. Ta là thầy tiểu thừa của hoà thượng. Các xứ Tây đều phục tài trí của ngài La-thập, mỗi năm Ngài thuyết giảng kinh, các vua đều quỳ một bên nghe, đủ thấy sự kính trọng như thế. Ngài La-thập đem đại đạo truyền khắp xứ Tây vực, danh chấn cả Đông Xuyên. Bấy giờ Phù Kiên tiếm hiệu ở Quan Trung. Ngoại quốc có Tiền Bộ vương và vua Quy Tư đều đến triều cống. Khi ra mắt các vua nói với Kiên: Tây vực rất nhiều sản vật trân kỳ, xin dâng lên quý quốc để làm phụ thuộc. Năm Kiến Nguyên mười ba đời Phù Kiên, nhằm tháng giêng năm Đinh Sửu, - quan Thái sử tâu: Thấy có sao mọc nơi hướng ngoại quốc, chắc là có bậc đại đức trí nhân đã vào Trung Quốc phụ trợ. Kiên nói: trẫm nghe bên Tây vực có Sa-môn Cưu-ma La-thập. Tương Dương có Sa-môn Thích Đạo An, chẳng phải là đây sao? Vua liền cho sứ đi mời. Đến tháng 2 năm thứ bốn mươi bảy, có Tiền Bộ Vương, Thiện Bộ Vương v.v… lại nói Kiên xin đem binh Tây phạt. Tháng 9 năm thứ mười tám, Kiên sai Kiêu Kî tướng quân là Lữ Quang, Lăng Giang tướng quân Khương Phi đem Tiền Bộ Vương và Xa Sư Vương vvv… đem bảy vạn binh chinh phạt nước Quy Tư và các nước Ô Kỳ. Lúc sắp xuất phát, Phù Kiên tiễn Quang ở cung Kiến Chương và nói với Quang: phàm bậc đế vương nên theo ý trời mà trị, lấy sự yêu thương nhân dân làm căn bản, há vì tham đất đai mà chinh chiến sao? chính vì lòng mong muốn người biết đạo cho nên vậy. Trẫm nghe bên Tây Vực có ngài L-thập uyên hiểu pháp tướng học, khéo việc âm dương làm tông yếu cho hậu học. Trẫm rất suy nghó việc đó. bậc hiền triết trong nước là đại bảo. Nếu chiếm nước Quy Tư, phải đưa La-thập về. Quân của Lữ Quang chưa đến nơi, Thập nói với vua Bạch Thuần nước Quy Tư rằng: Vận nước sắp suy rồi, nên lo tính trước. Ngày đó nếu có người từ phương Đông đến nên cung đón thừa mang chớ có chống cự. Bạch Thuần không theo mà lo nghinh chiến, Lữ Quang tàn phá nước Quy Tư, giết Bạch Thuần, lập em Thuần lên ngôi. Quang bắt được La-thập chưa biết đó là bậc trí lượng, thấy còn trẻ tuổi bèn chê cười, sau đó cưỡng bức lấy vợ là con gái của vua Quy Tư, La-thập cự tuyệt không chịu. Lữ Quang nói: - Tiết tháo đạo só không qua được tiên phụ, sao lại cố từ? Thế rồi ép La-thập uống rượu sau đó đưa vào mật thất. Ngài bị cưỡng bức phải phạm khí tiết. Lữ quang còn bắt ngài cưỡi trâu và ngựa dữ, muốn cho ngài bị té. La-thập nhẫn nhục mặt không hề đổi sắc. Quang xấu hổ đành thôi. Khi trở về Quang dừng quân dưới một ngọn núi, tướng só đã nghỉ ngơi, Thập bảo: - không thể ở đây, sẽ có tai hoạ nên dời quân lên cao. Quang không nghe, đến nữa đêm quả nhiên có mưa lớn, nước chảy xiết dâng cao đến mấy trượng. quân chết đến mấy ngàn. Quang mới lấy làm lạ hỏi thì Ngài bảo: Đây là đất hung hiểm không nên lưu lại lâu, suy vận số ứng nên nói mau quay về, giữa đường ắt có đất lành có thể lưu lại. Quang nghe theo, về đến Lương châu nghe tin Phù Kiên đã bị Dao Trường hại. Quang kéo tam quân đến đóng ở thành Nam. Thế là tiếm hiệu ở Quan ngoại xưng là năm Thái An. Tháng giêng năm Thái An nguyên niên có trận gió to nổi lên. La-thập nói: Đây là ngọn gió bất tường, sẽ có gian phản. Nhưng không sao sẽ tự yên định. Không bao lâu có Lương khiêm, Bành Quang liên tục làm phản, đều bị tiêu diệt. Cho đến năm Quang Long phi thứ hai có Trương Dạ, Lâm Tùng, Lô Thuỷ… và tùng đệ Mông Tốn làm phản, suy tôn thái thú Kiến Khang là Đoạn Nghiệp làm chủ. Quang sai thứ sử Tân Châu- thứ sử Thái Nguyên Công Toản, đem năm vạn binh đi thảo phạt. Đời luận về việc này gọi là Quân Ô hợp. Toản có uy thanh, thế lực tất sẽ toàn thắng. Quan hỏi Thập, Thập nói:Quán xét chuyến đi này chưa thấy có lợi. Quả nhiên Toản bị bại trận đành lui quân về Hợp Lợi. Không bao lâu lại có Quách Hương làm loạn. Toản đem quân trở về đánh bại Quách Hương. Quang xem sách của Trương Tư thấy văn từ nhã nhặn ôn hoà, rất lấy làm thích, Tư bịnh, Quang hết lòng chạy chữa. Có đạo só nước ngoài tên là La-xoa nói có thể trị hết bịnh Tư, Quang hoan hỷ ban ơn rất trọng. La-thập biết đạo só dối trá bảo với Tư rằng: Đạo só không thể trị hết bịnh, chỉ làm tốn kém, âm vận tuy ẩn mà việc này có thể thử. Nói rồi Ngài dùng chỉ năm sắc kết thành dây, đốt thành tro rồi ném vào nước. Tro nếura khỏi nước hoàn lại thành dây thì bịnh không thể bớt. Trong khoảnh khắc tro tụ lại thành dây như cũ- Đã vậy thì trị không công hiệu. Ít ngày sau thì Tư mất. Không bao lâu Quang lại mất. Còn lại Thiệu được kế vị, qua vài ngày thì con thứ của Quang lại giết Thiệu để lên ngôi, xưng hiệu là Hàm Ninh, năm Hàm Ninh thứ hai có con heo sanh con có ba đầu. Rồng xuất hiện bên giếng phía đông rồi đến nằm trước điện tới sáng thì mất. Toản cho là điềm tốt, gọi đại điện là điện Long Tường. Không bao lâu lại có rồng đen bay đến Cửu Cung Môn. Toản đổi Cửu cung môn thành Long hưng môn. La-thập tâu: Đây đều là loại tiếm long xuất ra từ loài heo yêu quái. Rồng là loại âm xuất nhập có lúc, mà nay thấy mấy lần đó là điều tai hoạ, tất sẽ có hạ nhơn mưu biến loạn. Vua nên lo tu đức để trừ hoạn. Toản không nghe lại nói: - Chém đầu Hồ nô. Thập bảo: không thể chém đầu Hồ Nô, mà Hồ nô sẽ chém đầu người. Lời nói đây ám chỉ mà Toản không hiểu. Em của Lữ Quang có con tên Triệu- Triệu hồi nhỏ tên tự Hồ Nô, sau quả nhiên Hồ Nô chém đầu Toản, lập anh là Long lên làm vua. Người bấy giờ mới nghiệm lời của Thập là đúng vậy. Ngài La-thập ở lại kinh vài năm, cha con Lữ Quang đã không còn ý hoằng đạo, cho nên không thể tuyên hoá đạo mầu ở đây được. Phù Kiênï đã mất. Dao Tràng tiếm vị ở Quan Trung, cũng có tâm cầu thỉnh bậc cao danh thạc đức. Họ Lữ thấy ngài La-thập đa mưu túc trí sợ họ Diệu trọng dụng nên không cho đi, sau khi Dao Tràng mất, Dao Hưng lên nối ngôi lại cho người sang thỉnh Ngài. Tháng 3 năm Hoằng Thỉ thứ 3 có cây sen mọc trong đình. Vườn Tiêu diêu hốt nhiên biến thành cỏ chỉ- Mọi người cho là điềm lành, sẽ có bậc trí nhơn đến. Đến tháng 5 Dao Hưng sai Lũng Tây cùng Thạc Đức đem binh đánh Lữ Long. Quân Long đại bại. Tháng 10 Long dâng biểu quy hàng. Lúc này mới cung đón ngài La-thập vào Quan Trung -Đến ngày 20 tháng 12 Ngài mới đến Trường An- Dao đãi Ngài theo lễ Quốc sư. Từ khi Đại pháp truyền sang Đông độ bắt đầu từ Hán Minh Đế, trải qua các đời Ngụy, Tấn, kinh luận dần dần nhiều lên. Mà chư sư Thiên-trúc dịch ra phần nhiều đều trệ văn cách nghóa- Dao Hưng tôn sùng Tam bảo, có chí giảng tập. Khi ngài La-thập đến, vua thỉnh Ngài ở gác Tây Minh và vườn Tiêu Dao để dịch kinh. Ngài La-thập biết nhiều ngôn ngữ lại nghiên cứu sâu rộng, chuyển thành Hán ngữ rất lưu loát. Ngài xem qua các kinh cựu bản, nghóa phần nhiều đều sai lầm. Đây do người dịch trước không theo tôn chỉ, không tưng ứng với văn Phạm. Thế là Dao Hưng khiến cho các vị Tăng Như, Tăng Bích, Tăng Thiên, Pháp Khâm, Đạo lưu, Đạo Hằng, Đạo Tiêuv. v… gồm tám trăm vị đến học theo giáo với La-thập và cùng dịch đại phẩm. Ngài La-thập cầm phạm bổn, Hưng cầm kinh xưa để cùng so sánh-Khi tân văn dị cựu nghóa đều viên thông, tâm mọi người khen ngợi kính phục. Vua Dao Hưng đem Phật đạo sâu xa, hành đạo chí thiện. Tín là bến bờ tốt đẹp đưa người ra khỏi bờ bến khổ sanh tử ở đời cho nên vua thác ý vào chín kinh du tâm vào 12 bộ, bèn trước cả tam thế luận, khai tỏ lý nhân quả. Từ hàng vương công trở xuống đều khâm phục noi theo. Các quan đại tướng quân, tả hửu tướng quân đều dốc lòng tin theo duyên nghiệp. Tất cả đều thỉnh Ngài ở lại chùa Đại ở Trường An giảng thuyết tân kinh. Ngài tiếp tục dịch các bộ như: tiểu phẩm Kim Cang Bát-nhã, Thập Trụ Pháp Hoa, Duy-ma Tư Ích, Thủ-lăng-nghiêm Trì Thế, Phật Tạng, Bồ-tát Tạng, Di Giáo, Bồ-đề, Vô Hạnh, Ha Dục, Tự Tại Vương nhân duyên, Quán tiểu Vô Lượng Thọ, Tân Hiền Kiếp Thiền kinh, Thiền pháp yếu, Thiền yếu giải, Di-lặc thành Phật, Di-lặc hạ sanh, Thập tụng luật, Thập tụng giới bổn, Bồ-tát giới bổn, Thích lu- ận, Thành Thật, Thập trụ, Trung bách thập nhị môn luận …gồm hơn ba trăm quyển. Tất cả đều hiển bày thần nguyên, phát sáng đến chỗ u chí. Bấy giờ hàng nghóa só ở trong bốn phương từ xa vạn lý đều cùng vân tập đến, trở thành một hội trường phiên dịch rộng lớn lâu dài đến nay vẫn còn tôn ngưỡng. Ngài Long Quang Thích Đạo Sanh là bậc tuệ giải nhập vào chỗ huyền vi cấu thành văn ngoại. Mỗi khi dịch sợ lầm lộn đều vào Quan Trung thỉnh giáo. Lô Sơn Thích Tuệ Viễn học thông quán các kinh, là bậc đống lương di hoá, mà vì đời nay cách Thánh lâu xa, nghóa lý còn lâu chưa quyết, cũng tìm đến hỏi ngài La-thập những yếu lý sâu xa. Sa- môn mới vào đạo là Tăng Duệ là người tài đức cao minh, thường theo ngài La-thập truyền tả. Ngài vì Tăng Duệ mà luận về từ thể của Tây phương, lược giải những chỗ dị đồng rằng: Nước Thiên-trúc, phong tục rất chú trọng văn chế. Các cung thương thể vận đều nhập vào chỗ thiện. Phàm triều bái bậc Quốc Vương tất có chỗ tán đức, thấy rõ nghi của Phật, dùng ngâm nga là quý. Trong phần kệ tụng của kinh đều là nghi thức vậy. Khi dịch từ Phạm ra Tần cũng làm mất đi chỗ văn vẻ hoa mỹ. Tuy đắc đại ý mà cách xa với văn thể, cũnh như nhai cơm cho người không chỉ mất đi chất vị, mà còn khiến cho nôn mửa ra. Ngài cũng từng làm bài tụng tặng Sa-môn Pháp Hoà: Núi tâm dưỡng minh đức Lưu chảy vạn do-diên Tiếng chim kêu đau thương Trên ngô đồng côi cút Thanh âm thấu cữu thiên Gồm có mười bài kệ, từ dụ đều như vậy. Ngài vốn yêu thích pháp Đại thừa, chí tồn ở nơi phu diễn rộng rãi, thường than rằng: Ta nếu chấp bút viết A-tỳ-đàm Đại thừa thì Ca-chiên-diên tử chẳng thể so được. Nay ở đất Tần này có ít người thâm thuý. Triết lý ở đây sẽ luận ở chỗ nào. Nghó vậy nên không viết ra. Duy chỉ vì Dao Hưng mà trước thu- ật hai quyển Thật tướng luận, cùng chú thích kinh Duy-ma, lời nói ra đều thành chương không có chỗ nào để san cải, từ ngữ rõ ràng đạt đến chỗ huyền ảo. Ngài La-thập là người thần tình tỏ sáng, thanh cao xuất quần, người ứng cơ lãnh hội đều dốc lòng. Tánh Ngài nhơn hậu, lấy vịêc phiếm ái làm tâm, làm thiện trọn ngày không mệt mỏi. Vua Diêu thường nói với La-thập rằng: Đại sư thông minh siêu ngộ khắp thiên hạ. Nếu một mai tạ thế, chẳng phải làm cho pháp chủng vô tự sao? Thế là vua đem mười thể nữ, bức bách Ngài nhận lấy. Từ đó về sau không trụ trong tăng phường, biệt lập ra doanh sở, cung cấp mọi thứ đầy đủ. Mỗi khi đến giảng thuyết trước thường tự nói: Ví dụ như hoa sen sanh trong chốn bùn nhơ, chỉ hái hoa mà không đụng đến bùn. Ngày trước Ngài ở tại nước Quy Tư, theo học luật với ngài Tỳ-ma La-xoa. La- xoa sau vào Quan Trung. La-thập nghe tin rất vui mừng hết lòng cung kính thầy. Tỳ-ma chưa biết việc bức bách kia, hơn đó hỏi La-thập: ông ở đất Hán rất có trọng duyên - Đệ tử thọ pháp có được bao nhiêu? La- thập đáp: đất Hán này kinh luật chưa đầy đủ - Kinh mới và các bộ luận phần nhiều do tôi dịch ra. Ba ngàn đồ chúng đều thọ pháp của Thập. Chỉ do Thập này nghiệp duyên sâu nặng, cho nên không thọ lời dạy của thầy. Lại có Bôi-độ Tỳ-kheo ở tại Bành Thành, nghe ngài L-thập ở Trường An, bèn than rằng: Ngài với ông cách biệt đã hơn ba trăm năm, tra ra thì chưa đến hạn kỳ, chắc đợi gặp ở đời sau vậy. Ngày ngài La-thập sắp lâm chung, biết là tứ đại không ổn, tự mình nói ra ba câu thần chú, bảo đệ tử tụng để tự cứu. Khi sức khoẻ đã suy yếu, mới từ biệt chúng tăng rằng: Nhơn chỗ ngộ của pháp tướng tâm chưa đạt đến chỗ kì diệu. Thương cho hậu thế chẳng biết làm sao? phàm chỗ kinh dịch hơn ba trăm quyển, còn một bộ thập tụng là chưa san định, còn các bổn chỉ chắc không sai sót, xin chư vị tuyên dịch truyền lưu cho hậu thế. Nay ở trước chúng phát nguyện thành thật: Nếu chỗ kinh dịch không có sai lầm xin khiến cho sau khi thiêu thân này lưỡi không bị cháy. Đến ngày 20 tháng 8 năm Hoằng Thỉ thứ mười một, Ngài tịch ở Trường An, tức đời Tấn Nghóa Hy năm thứ năm vậy, y vào Pháp Hoả thiêu như bên Thiên-trúc để trà tỳ thi thể Ngài tại vườn Tiêu Diêu. Thân bị thiêu cháy hết duy chỉ còn lại lưỡi. Sau có Sa-môn ngoại quốc đến nói rằng: Ngài La-thập sự hiểu của Ngài mười chỉ nói ra có một. Ngài tên là Cưu-ma-la Kỳ-bà. Xứ Thiên-trúc đặt tên phần nhiều lấy theo tên cha mẹ. Cha Ngài là Cưu-ma- viêm, mẹ tên là Kỳ-bà, gom chung lại đặt tên cho Ngài. Nhưng về ngày mất có chỗ ghi không đồng. Hoặc ghi năm Hoằng Thuỷ thứ bảy - Hoặc nói thứ tám. Hoặc ghi năm thứ mười một. ----------------------------------------- <詞>PHẤT-NHà ĐA-LA Phất-nhã Đa-la dịch là Công Đức Hoa, là người nước Kế Tân vậy. Tuổi nhỏ xuất gia lấy giới tiết để tự xưng. Thông cả tam tạng mà chuyên vào Thập tụng luật bộ, làm sư tông ở Thiên-trúc. Người đời đều gọi là bậc Thánh quả. Trong đời Tần Hoằng Thỉ Ngài đến Quan Trung. Vua Dao Hưng đãi theo bậc thượng khách. Ngài La-thập cũng trọng giới phạm Ngài thâm hậu nên rất tôn kính. Trước đây kinh luật tuy được lưu truyền nhưng luật tạng chưa xiển dương. Mọi người đều biết Ngài khéo trì luật nên đều kính mộ. Ngày 17 tháng 10 năm Hoằng thỉ thứ sáu, chúng tập hợp nghóa học tăng vài trăm vị ở chùa tại Trường An, thỉnh ngài Đa-la tụng Thập tụng bằng tiếng Phạm, ngài La-thập dịch ra Tấn ngữ. Ba phần đạt được hai thì Ngài thọ bịnh rồi mất. Đại chúng thấy đại nghịêp chưa thành mà tượng nhơn đã ra đi nên rất tỏ lòng bi ai thương tiếc. -------------------------------------- <詞>ĐÀM-MA LƯU-CHI Đàm-ma Lưu-chi dịch là Pháp Lạc, là người xứ Tây Vực. Ngài bỏ tục xuất gia chuyên trì luật tạng. Mùa thu năm Hoằng thỉ thứ bảy Ngài đến Trường An. Thấy ngài Phất-nhã tụng Thập tụng chưa xong đã tịch. Ngài Lô Sơn Tuệ Viễn nghe biết ngài khéo giải luật Tỳ-ni, đạt được chút ít cứu cánh luật bộ, bèn gửi thơ đến nói: Phật giáo hưng khởi trước tiên ở thượng quốc, từ đó lưu truyền đến nay đã hơn bốn trăm năm. Sa-môn thiếu về giới luật cũng nhiều. Như đạo só Tây Vức là ngài Phất-nhã Đa-la là người ở Kế Tân rất giỏi Thập tụng Phạm văn. Có ngài La-thập thông lãm bác học phiên dịch lại. Thập tụng dịch ra hơn quá nửa, ngài Đa-la lại thọ bịnh thị tịch nên đại nghiệp chưa thành. Thật đáng thương tiếc. Nghe nói nhơn giả thông suốt các kinh luật, lòng những mong được gặp, âm vận đến há chỉ nhơn sự mà thôi đâu? Tưởng đến việc hoằng đạo vì thời vật cảm mà phải động. Người đây khấu đầu kính lễ tất tình Ngài không nỡ tiếc. Nếu có thể vì đồ chúng luật học, hoàn tất bổn kinh này, khai thị Phạm hạnh để rửa tai này khiến cho đạo mầu không thất truyền, thắng nghiệp có ngày sáng tỏ. Ngài là bực tuệ thâm đức dày, người thần đều cảm kích, may mắn được Ngài đáp lời không trái với bổn hoài, một hai tất chư đạo nhơn sẽ đầy đủ. Ngài Lưu-chi nhận được thư của vua và ngài Tuệ Viễn, bèn tìm đến Trường An dịch phần ngài La-thập tụng cho xong. Nghiên cứu thẩm định rõ ràng khúc chiếc mà ngài La-thập còn hận chưa hoàn thiện. Ngài Lưu-chi đến ở chùa Trường An, Tuệ Quán muốn thỉnh Ngài xuống kinh sư. Chi nói: Đất kia có đủ pháp để lợi ích cho đời, tôi phải đi đến nơi luật học chưa có. Thế rồi Ngài du hoá đến phương khác, không biết Ngài mất ở đâu. ----------------------------------- <詞>TỲ- MA LA XOA Tỳ-ma La-xoa dịch là Vô Cấu Nhãn, người nước Kế Tân. Ngài là người trầm tỉnh có chí lực. Xuất gia lấy việc cần tu khổ hạnh làm nguyện. Trước Ngài ở tại Quy Tư xiển dương luật tạng. Ngài La-thập cũng có dự học. Khi nước Quy Tư bị đánh bại bèn tránh sang đất này. Không lâu sau ngài La-thập hoằng dương kinh tạng tại Trường An. Ngài những muốn đem theo Tỳ-ni thắng pháp đến Đông độ cho nên tìm đến. Năm Tần Hoằng Thỉ thứ tám Ngài đến Quan Trung. Thập đãi Người như tình thầy trò. Và khi ngài La-thập thị tịch, ngài liền xuất du qua vùng Quan tả, Ngài dừng lại ở Thọ Xuân nơi chùa Thạch Giản. Luật chúng tụ tập lại, luật tỳ-ni càng hưng thạnh. Ngài La-thập dịch Thập tụng gồm năm mươi tám quyển. Lần tụng cuối cùng gọi là: thọ giới pháp và chư thành thiện Pháp sự, rồi theo yếu nghóa mà gọi là Thiện Tụng. Ngài La-xoa sau khi đến Thạch Giản, khai ra sáu mươi quyển. Lần tụng cuối cùng gọi là tỳ-ni tụng. Hai tên gọi này vẫn còn. Không bao lâu Ngài đi đến Giang Lăng ở chùa Tân. Mùa hạ khai giảng Thập tụng. Những ai đã thông thạo tiếng Hán đều khéo lãnh nạp, đương thời xiển dương vô tác diệu bổn. Người từ văn hiểu lý tụ lại học như rừng. Người hiểu điều biết cấm số cũng không đông. Đây là do sức hoằng dương luật tạng của ngài La-xoa. Tuệ Quán nơi đạo tràng hiểu rất sâu rộng các tôn chỉ. Trước tác của Ngài ghi chép về nội cấm khinh trọng tuyển ra được hai quyển, đều đưa về kinh sư. Tăng ni tu tập theo rồi cùng lưu truyền ra lúc này có câu ngạn ngữ nói: Tỳ-la giỏi ngữ Tuệ Quán khéo ghi. Các Ngài là người khéo viết, xem giấy mực quý như ngọc. nay vẫn còn lưu hành ở đời, là pháp cho hậu sanh vậy. Ngài La-xoa là người dưỡng đức hiếu nhàn bỏ hết tục huyên náo. Mùa đông năm ấy Ngài lại trở về Thạch Giản, Thọ Xuân và mất tại chùa này, hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi. Mắt Ngài màu xanh nên người bây giờ gọi Thanh nhãn Luật sư. ---------------------------------------- <詞>PHẬT-ĐÀ DA-XÁ Phật-đà Da-xá đây dịch là Giác Minh, người Kế Tân, dòng dõi Bà-la- môn, gia đình theo ngoại đạo. Có một Sa-môn đến nhà khất thực. Người cha nổi giận bảo người đánh- Sau đó ông bị co quắp chân tay lại không thể đi được, bèn hỏi thầy bói. Thầy nói: vi phạm vào thánh nhân quỷ thần khiến cho như vậy. Thế là gia đình liền đến thỉnh vị Sa-môn này sám hối, vài ngày sau thì hết bịnh. Nhơn đó Da-xá xin xuất gia làm đệ tử, lúc này Ngài mới mười ba tuổi. Da-xá thường theo thầy đi xa ở những nơi đồng trống gặp cọp. Thầy bảo tránh đi, Da-xá thưa: Hổ này đã no tất không ăn thịt người. Một lúc thì hổ bỏ đi, ở phía trước quả nhiên thấy có thịt dư của hổ để lại. Người thầy thầm cho là kỳ dị. Năm Da-xá mười lăm tuổi, tụng kinh ngày dến hai ba vạn lời. Khi ở chùa thường ra ngoài làm việc nên phế bỏ việc tụng đọc. Có vị L-hán thấy Ngài thông tuệ, thường khất thực về cho Ngài. Đến năm mười chín tuổi Ngài tụng kinh Đại tiểu thừa, số cả trăm vạn lời. Nhưng tánh độ cao ngạo, do tri kiến mà tự kiêu, cho rằng ít kẻ nào có thể làm thầy mình cho nên không được chúng tăng kính trọng, nhưng chỉ dùng sự khéo léo để mà đàm tiếu nên người biết mà quên cả hận. Năm tiến giới không cho lên đàn. Thế nên khi tuổi đã lớn vẫn còn là Sa-di. Ngài theo cựu học, các luận ngũ minh, các học thuật thế gian đều luận tập. Năm hai mươi bảy tuổi Ngài mới thọ cụ túc. Thường lấy việc đọc tụng làm nguyện hạnh, tay không rời kinh điển. Mỗi khi ngồi yên lặng suy nghó còn nói là không biết những việc hư giả ở đời. Ngài chuyên tinh đến như thế. Sau đến nước Sa-lặc, quốc vương nước này thỉnh ba ngàn tăng, Da-xá cũng có dự. Lúc ấy thái tử Đạt-ma Phất-đa, đây dịch là Pháp tử. Thấy ngài Da-xá dung phục đoan nhã, hỏi Ngài từ đâu đến. Da Xá đối đáp trôi chảy. Thái tử vui vẻ lưu lại nội cung cúng dường, tiếp đãi thật trọng hậu, sau lại thọ học với ngài nên càng tôn kính Da-xá. Sau đó La-thập theo mẹ trở về nước Quy Tư, Da-xá vẫn lưu lại. Không bao lâu vua chết, thái tử lên ngôi. Bấy giờ Phù Kiên sai Lữ Quang chinh phạt Quy-tư. Vua Quy-tư cầu cứu Sa-lặc. Vua Sa-lặc tự xu- ất binh cứu viện, uỷ thác thái tử lại cho ngài Da-xá. Cứu binh chưa đến mà vua nước Quy Tư đã bại trận, vua quay về nói với ngài rằng La-thập đã bị Lữ Quang bắt rồi. Ngài Da-xá than: Ta và La-thập gặp nhau tuy lâu, mà hoài bão chưa tận. Bỗng nhiên ngăn trở biết bao giờ gặp lại. Ngài dừng lại đó hơn mười năm. Rồi Ngài đi về hướng Đông nước Quy Tư. Ở đây việc hoằng hoá rất mạnh. Bây giờ ngài La-thập ở Cô Tạng có gởi thơ đến mời. Ngài muốn đi nhưng trong nước giữ lại. Năm sau lại bảo đệ tử: Ta muốn đến chỗ La-thập có thể ban đêm trốn đi chớ để cho người biết. Đệ tử thưa: - Sợ sáng mai có người biết được đuổi theo bắt trở lại thôi. Ngài Da-xá bèn lấy một bát nước trong ném một viên thuốc vào đó chú nguyện rồi cùng đệ tử rửa chân. Đêm đó trốn đi đến sáng đi được vài lý thì hỏi đệ tử rằng: Cảm gíac như thế nào? Đáp: Duy chỉ nghe tiếng gió thổi nhanh, khiến cho nước mắt chảy ra. Ngài liền dùng thần chú rửa chân dừng lại nghỉ. Sáng hôm sau người trong nước truy đuổi, nhưng Ngài đã đi xa không còn theo kịp. Khi Ngài đến Cô Tạng thì La-thập đã vào Trường An. Nghe vua Dao Hưng bắt ngài La-thập lấy thê thiếp, Ngài than rằng: - La-thập như lụa đẹp, sao lại bỏ vào rừng gai. Ngài La-thập nghe tin ngài Da-xá đã đến Cô Tạng, Ngài khuyên vua Dao Hưng hãy mời về Trường An. Nhưng Vua chưa nghe theo, nhưng không bao lâu vâng lệnh vua dịch kinh, ngài La-thập nói: phàm người hoằng tuyên pháp giáo thì phải có tài thông suốt văn nghóa. Bần đạo tuy thông văn tự, nhưng chưa thấu suốt lý kinh. Duy có Phật-đà Da- xá là người đã thâm đạt nghóa lý sâu xa vi huyền. Hiện nay Ngài vẫn còn ở Cô Tạng, xin bệ hạ hãy thỉnh rước về Trường An. Vua ưng thuận sai sứ đi thỉnh Ngài về và ban tặng lễ vật rất thâm hậu. Ngài không nhận lễ vật chỉ cười nói: chiếu chỉ đã ban xuống thì phải tuân theo. Nhà vua đãi kẻ só thâm hậu, nhưng nếu không có ngài La-thập ở đó thì cũng không dám vâng mạng. Sứ về tâu lại. Sau đó Ngài đến Trường An. Vua Dao Hưng đích thân thăm hỏi sắp đặt cho Ngài biệt trụ tại vườn Tiêu Diêu, tứ sự cúng dường. Nhưng Ngài không thọ nhận, Ngài chỉ ăn một lần mà thôi. Khi ấy ngài La-thập dịch Thập Trụ Kinh, hơn một tháng vẫn còn do dự mà chưa dám thảo bút. Ngài Da-xá đến, cả hai cùng thảo luận quyết định nghóa lý đạo tục hơn ba ngàn người đều khen ngợi. Ngài Da- xá có râu mép đỏ, khéo diễn giải luận Tỳ-bà-sa, cho nên người đời gọi ngài là” Xích tư Tỳ-bà-sa”. Ngài là thầy của ngài La-thập nên chúng cũng gọi là Đại Tỳ-bà-sa. Tuy được tứ sự cúng dường, y bát ngoạ cụ đầy cả ba gian nhà mà Ngài vẫn không màng tới - Thấy vậy vua sai người đổi hết các vật này, đổi lấy tiền đem về xây chùa ở phía Nam Thành Trường An cho Ngài cư trú. Trước kia Dao Sảng có thỉnh Ngài tung bộ luật Đàm Vô Đức, gồm hơn năm ngàn lời- Vua Dao Hưng nghi có chỗ sai lầm nên bảo Ngài tụng lại _ Suốt hai ngày vua tìm trong bản văn mà không thấy một chỗ sai lầm, nên càng kính phục trí nhớ của Ngài. Năm Hoằng thỉ thứ mười hai ( bốn trăm mười ) Ngài dịch Tứ phần luật gồm bốn mươi bốn quyển cùng với kinh trường A-hàm…Sa-môn Trúc Phật Niệm ở Lương châu dịch ra Tần Văn, Sa-môn Đạo Hàm ghi chép. Đến năm thứ mười lăm thì Ngài ngưng thuyết giảng, dịch kinh rồi từ biệt trở về cố quốc. Vua ban tặng cả ngàn xấp lụa, Ngài đều không nhận. Ngài Đạo Hàm và Phật Niệm cũng đem cúng cho Ngài ngàn xấp lụa. Hơn năm trăm Sa-môn danh đức cũng dâng cúng Ngài nhiều lễ vật. Sau khi trở về nước, Ngài có được quyển kinh Hư không Tạng, đều gởi cho khách buôn đem đến cho chư Tăng ở Lương châu. Sau không biết Ngài mất ở đâu. ------------------------------- <詞>PHẬT-ĐÀ BẠT-ĐÀ-LA Phật-đà Bạt-đà-la dịch là Giác Hiền- vốn dòng họ Thích-ca, người nước Ca-duy La-vệ con cháu Cam Lồ Phạn vương. Tổ phụ là Đạt-ma Đề-bà, dịch là Pháp Thiên, thường sang Bắc Thiên-trúc buôn bán, nhơn đó mà di cư sang ở đó. Cha là Đạt-ma Tu-da-lợi, đây dịch là Pháp Nhật, mất sớm. Ngài lúc ba tuổi mồ côi cha, năm tuổi lại mồ côi mẹ, được người trong dòng họ nuôi dưỡng. Tổ Cưu-bà-lợi thấy Bạt-đà-la thông minh mẫn tiệp nên đem về cho xuất gia làm Sa-di. Đến năm mười bảy tuổi cùng với vài người bạn đồng học lấy việc tụng kinh làm hạnh nguyện. Đại chúng học thuộc các bài kinh kệ trong vòng một tháng, nhưng ngài Giác Hiền chỉ trong một ngày là thuộc làu. Vị thầy khen rằng: - Giác Hiền trong một ngày đối lại với ba mươi người vậy. Thọ giới Cụ túc xong, Ngài càng tinh tấn tu thiền định và giới luật. Ngài học rộng thông đạt các kinh điển. Ngài cùng bạn học là Tăng-già Đạt-đa sang du học tại nước Kế Tân. Tuy đồng lứa tuổi mà Đạt-đa lại rất kính phục tài trí của Giác Hiền, mà vẫn chưa biết ngài thế nào. Một lần đóng cửa mật thất ngồi thiền, chợt thấy ngài Giác Hiền, kinh ngạc liền hỏi từ đâu đến. Ngài đáp:- Tôi vừa lên cung trời Đâu-suất lễ lạy Bồ-tát Di-lặc về. Nói xong thì ngài Giác Hiền liền biến mất. Sa-môn Tăng-già Đạt- đa mới biết Ngài là bậc thánh nhơn hoá thân, nhưng chưa biết quả vị sâu cạn. Sau này vì thường thấy những điều thần biến của Ngài, Tăng-già hỏi mới biết ngài Giác Hiền chứng qủa Bất Hoàn. Ngài thường đi chu du giáo hoá khắp nơi để hoằng pháp và xem phong tục các miền, gặp Sa-môn Trí Nghiêm người Hán sang nước Kế Tân. Trí Nghiêm thấy chúng Tăng ở đây thanh tịnh, liền muốn thỉnh mời về Trung Quốc. Nên nói: chúng tăng ở nước chúng tôi đều có tâm cầu Phật pháp mà chưa gặp được các bậc đạo sư chơn chánh, nên chưa lãnh hội được chánh pháp. Ngài Trí Nghiêm thăm hỏi dân chúng trong nước rằng ai là người có đủ oai đức đạo hạnh để hoằng pháp ở Đông độ. Mọi người đều nói: có Sa-môn Phật-đà Bạt-đà-la, Người thành N-ha-lợi ở Thiên-trúc. Gia thế nhiều đời tin phụng phật pháp. Tuổi nhỏ xuất gia, tinh thông kinh luận, lại từng thọ nghiệp với đại Thiền sư Phật Đại Tiên cũng bảo Trí Nghiêm: - Người có khả năng tuyên dương phật pháp và làm cho tăng chúng Đông độ được cảm hoá, chỉ có Phật-đà Bạt-đà-la. Do Trí Nghiêm thành tâm thỉnh cầu, Ngài bằng lòng sang hoằng pháp tại Trung thổ. Lễ bái từ tạ ân sư và đại chúng đi sang Đông đô. Sau ba năm trải ra mấy lần nóng lạnh, Ngài vượt qua ngọn Thông lãnh, du hành vượt bao núi sông sa mạc, qua sáu quốc gia. Quốc vương các nơi đều có cúng dường thâm hậu khi biết được trí nguyện hoằng dương Phật pháp của Ngài. Khi đến Giao Chỉ Ngài lại lên thuyền, khi đi qua một hòn đảo, Ngài bảo chủ thuyền. Có thể dừng lại nơi hòn đảo này. Chủ thuyền nói: hành khách tiếc thời gian, thuyền lại đang thuận gió không thể dừng lại. Đi được hơn hai trăm dặm, chợt gặp trận dông bão thổi thuyền trở lại hòn đảo đó. Mọi người trên thuyền mới biết sự thần biến của Ngài, đều cúng dường tôn kính. Sau đó gặp gió thuận, chủ thuyền định cho thuyền chạy, Ngài bảo: Không thể chạy. Chủ thuyền cho dừng lại, không bao lâu có tin đến bảo các thuyền đi trứơc đã bị chìm hết. Đêm kia, Ngài bảo chủ thuyền nên khởi hành nhưng ông không nghe. Ngài Giác Hiền tự trương buồm, cho thuyền chạy ra khơi. Bỗng chốc bọn hải tặc đến cướp bóc làm hại những chiếc thuyền còn lại. Không bao lâu thuyền đến Thanh châu ở quận Lai. Nghe tin ngài La-thập đã đến Trường An, ngài tức tốc đến đó bái kiến. Gặp ngài Đà-la, Ngài La-thập rất vui mừng, rồi cùng đàm luận về pháp tướng, những chỗ huyền vi phần nhiều cùng sở ngộ. Ngài hỏi Ngài La- thập rằng: Chỗ giải thích kinh điển của ông chẳng phải khác lạ, mà được nổi danh là sao? Ngài La-thập đáp: - Tôi có duyên với họ nên được vậy, chứ không thật xứng với danh xưng. Mỗi khi có điều nghi ngờ, ngài La-thập đều thảo luận với Ngài. Một hôm Thái tử Dao Hoằng thỉnh Ngài đến thuyết pháp, bèn mời chúng tăng đến đông đủ tại Đông cung. Hai ngài La-thập và Giác Hiền cùng thảo luận ua lại. Ngài La-thập hỏi: Pháp không là gì? - Đáp: các cực vi hợp thành sắc, sắc không có tự tánh. Cho nên sắc là thường không Lại hỏi: - đã dùng cực vi phá sắc không, lại nói làm sao mà phá cực vi. Đáp: - các thầy thường phá một cực vi. Ýù tôi thì không cho như vậy. Lại hỏi: cực vi là thường sao? Đáp: vì một cực vi cho nên nhiều cực vi là không - vì có các cực vi cho nên một cực vi là không. Khi đó Sa-môn Bảo Vân dịch ra lời này mà không giải thích ý. Cho nên tăng tục đều cho ngài Giác Hiền chấp cho vi trần là thường. Ít lâu sau tăng chúng ở Trường An thỉnh Ngài giải thích, Ngài bảo: - phàm các pháp đều không có tự sanh, duyên hợp cho nên sanh. Duyên vào một vi trần cho nên có các vi trần. Vi trần không có tự tánh thì đều là không vậy. Sao có thể nói không phá một vi trần thường mà là bất không sao? Đây là những đại ý của những lời hỏi đáp vậy. Vua Dao Hưng chuyên tâm vào việc chấn hưng đại pháp, cúng dường hơn ba ngàn vị tăng, các vị thường qua lại cung khuyết, làm các việc nhơn sự. Duy có ngài Giác Hiền an phận tónh tu, sống đạm bạc không đồng với chúng. Có lần Ngài bảo với đệ tử rằng: Ta thấy có năm chiếc thuyền từ quê hương xuất phát rồi sẽ đến đây. Chúng đệ tử truyền báo lời này ra ngoài, tăng chúng ở Quan Trung đều cho lời này là hiển dị mê hoặc chúng. Ngài ở tại Trường An hoằng tuyên thiền pháp, chư thiền gia ở các phương đều nghe danh tìm đến. Nhưng người nhiễm học có sâu cạn, người đắc pháp có cao thấp. Do đó mà đồ chúng dối trá giả danh Ngài mà làm những điều xằng bậy. Có một đệ tử nhơn có chút quán hạnh, tự nói mình đã chứng quả A-na- hàm mà chưa được Ngài chứng nghiệm. Điều này đưa đến sự huỷ báng Ngài không ngớt. Đồ chúng của Ngài vì lo hoạ lây nên bỏ trốn chỉ trong nửa ngày mà ly tán gần hết. Nhưng Ngài vẫn ung dung mà không chút động tâm. Lúc này có các vị tăng như Tăng Bích, Đạo Hằng nói với Ngài rằng: Phật còn không nói mình đã đắc pháp. Trước đã nói có năm thuyền đến là điều không thật. Nay môn đồ Ngài lại làm điên đảo mê hoặc lòng chúng, như vậy là trái với lý của luật nên đi chỗ khác chớ lưu lại đây. Ngài bảo: - thân ta nhỏ bé tầm thường, đi ở đều dễ dàng, chỉ tiếc hoài bão hoằng pháp chưa thành tựu. Ngài cùng với bốn mươi đệ tử như Tuệ Quán v.v… rời khỏi Trường An, thần trí đều ung dung tự tại không hề biến khác. Những người hiểu biết đều thương tiếc, đến đưa tiễn cả ngàn người. Vua Dao Hưng nghe Ngài đi lòng rất thương tiếc, bèn nói với Đạo Hằng: Ngài Giác Hiền vì trọng trách hoằng dương Phật pháp mà đến Trung thổ. Lời dạy của Ngài ai cũng tán dương cảm kích. Há vì một lời lầm lẫn mà làm cho mất đi một đấng tôn sư. Vua cho sứ đuổi theo thỉnh cầu Ngài trở lại, Ngài bảo với sứ giả: Ta rõ ân tình của vua, nhưng không thể tuân theo lệnh. Ngài dẫn tăng chúng đi vào Nam đến núi Lô Sơn, Sa-môn Tuệ Viễn lâu nay từng nghe danh Ngài nên vui mừng tiếp rước. Ngài Tuệ Viễn biết là do lỗi của các môn đồ mà ngài Giác Hiền bị huỷ báng. Nói về năm chiếc thuyền sẽ đến Trung thổ chỉ là ý cá nhân chứ không phạm vào giới luật. Do đó ngài Tuệ Viễn bảo đệ tử đem thư đến cho vua và tăng chúng ở Quan Trung để nói rõ việc này. Rồi thỉnh Ngài về núi để phiên dịch kinh điển thiền pháp. Nhưng chí ngài Giác Hiền là muốn du hoá, không mong cầu an cư, nên chỉ dừng lại vài năm rồi lại đi qua vùng Giang Lăng ở miền Tây. Trên đường gặp một chiếc thuyền ngoại quốc, hỏi thăm thì quả là có năm chiếc thuyền từ Thiên-trúc sang. Không bao lâu hàng só thứ ở Giang Lăng đều tìm đến lễ bái cúng dường. Nhưng ngài không thọ nhận các phẩm vật, đến bữa Ngài chỉ mang bình bát đi khất thực mà không phân biệt giàu nghèo. Lúc này có Viên Báo ở Trần quận là quan trưởng sử thái uý của Tống Vũ Đế, kéo quân đến Giang Lăng. Ngài Giác Hiền cùng đệ tử là Tuệ Quán đến dinh thự của Viên Báo đi khất thực. Viên Báo vì chưa tin kính Phật pháp nên đối đãi tệ bạc. Aên chưa no Ngài và Tuệ Quán đứng dậy cáo từ. Viên Báo nói: chưa ăn xong sao lại cáo từ? Ngài bảo: đàn việt cúng thí tâm có hạn. Nhưng ta đã dùng hết thức ăn rồi. Viên Báo liền kêu người dọn thêm, cơm quả nhiên đã hết. Viên Báo cảm thấy thật xấu hổ, sau đó hỏi Tuệ Quán: Vị Sa-môn này là người thế nào? Tuệ Quán đáp: ngài là vị đức lượng cao xa hàng phàm phu không thể hiểu nổi. Viên Báo cảm kích thần dị của Ngài nên thưa với thái thú Lưu Dự, Lưu Dự bèn sai thỉnh Ngài đến. Lưu Dự cung kính cúng dường chu đáo, sau đó Lưu Dự trở về kinh đô mời Ngài theo về Trường An, cư trú ở chùa Đạo Tràng, nghi dung mô phạm của Ngài đều khác phàm nhân mà chí nguyện cũng thanh cao hoà nhã và uyên thâm. Pháp sư Tăng Bật và sa-môn Bảo Lâm ở kinh đô thường nói: Ngài Giác Hiền ở Đạo Tràng có đại tâm thật giống như một vị vua ở Thiên Trúc thật là người phong lưu”. Mọi người đều tôn xưng ngài như thế. Trước kia Sa-môn Chi Pháp Lãnh ở tại Vu Điền thỉnh được phần trước kinh Hoa Nghiêm có ba mươi sáu ngàn bài kệ chưa dịch ra. Đến năm Nghóa hy thứ mười bốn ( bốn trăm mười tám), quan nội sử Ngô quân là Mạnh Tiên, tả vệ quân Trử Thúc Độ, liền cầu thỉnh Ngài phiên dịch. Ngài cùng với các Sa-môn Pháp Nghiệp, Tuệ Nghiêm hơn một trăm vị, ở chùa Đạo Tràng cùng phiên dịch thuyên định văn chương yếu chỉ, thông cả Hoa Phạm, đắc được diệu ý của kinh. Cho nên ở chùa Đạo Tràng còn gọi là Điện đường Hoa Nghiêm. Lại có Sa-môn Pháp Hiển ở bên Tây Vực có được quyển Tăng-kỳ luật bằng tiếng Phạm, cũng thỉnh Ngài dịch ra Tấn văn. Trước sau kinh điển Ngài dịch gồm: Quán Phật Tam-muội Hải sáu quyển kinh Niết- bàn, Tu hành phương tiện luận v. v… tất cả là mười lăm bộ, một trăm mười quyển. Tất cả đều hợp với yếu chỉ kinh bổn, văn ý đều lưu loát rõ ràng. Ngài mất vào năm Nguyên gia thứ sáu (bốn trăm hai mươi chín) thọ bảy mươi mốt tuổi. ----------------------------------- <詞>ĐÀM VÔ SẤM Đàm Vô Sấm hoặc gọi là Đàm Ma Sấm hoặc gọi là Đàm Vô Sấm. Bởi theo Phạm âm không đồng. Ngài người nước Trung Thiên-trúc. Sáu tuổi đã mồ côi cha, theo mẹ đi dệt vải các nơi để sinh sống, gặp được ngài Đạt-ma Da-xá (Pháp Minh) rất được chúng tăng kính trọng. Bà mẹ hâm mộ Ngài nên cho Vô Sấm theo làm đệ tử. Năm mười tuổi Ngài cùng bạn đồng học tụng kinh chú rất là thông minh kiệt xuất. Tụng một ngày thuộc cả vạn lời của kinh Đại thừa sơ học, kiêm cả các luận ngũ minh. Các việc giảng thuyết đối đáp Ngài cũng rất lưu loát. Sau gặp Bạch Đầu Thiền sư, cùng luận nghị với Vô Sấm. Về học nghiệp đã khác, tranh luận được mười tuần ( một trăm ngày ) lời của Vô Sấm tuy sắt bén đúng lý mà Thiền sư không chịu thua. Vô Sấm rất bội phục tinh lý của Ngài, liền thưa: Thiền sư có kinh điển gì, có thể cho tôi xem chăng? Thiền sư đem kinh Niết-bàn được viết trên vỏ cây cho Vô Sấm xem- Sấm đọc xong hổ thẹn, cho mình lâu nay mê mờ không biết đến pháp đạo Đại thừa. Từ đó Ngài vân tập đại chúng để cầu xin sám hối và phát nguyện chuyên học Đại thừa. Đến năm hai mươi tuổi Ngài tụng thuộc hơn hai trăm vạn chữ các kinh đại, tiểu thừa. Ngài có người anh chuyên huấn luyện voi cho vua. Một hôm con voi tai trắng của vua bị chết, vua nổi giận hạ lệnh giết chết, rồi ra chiếu chỉ: - ai dám nhìn sẽ tru di tam tộc. Thân tộc không ai dám đến, chỉ có ngài Vô Sấm khóc đem nhặt thi thể về táng. Vua giận định giết, Ngài nói: Vua đem pháp lệnh mà giết anh tôi. Tôi theo mối quan hệ cốt nhục mà đem táng. Hành động đều không trái với đại nghóa đâu có gì sai trái mà phải bực tức. Thấy tâm chí thanh cao của Ngài, vua tha tội chết và lưu lại cung cúng dường. Ngài rất thông thạo chú thuật, thường hiển bày năng lực thần dị rất linh nghiệm. Người Tây Vực gọi Ngài là “Đại Chú sư”. Một lần Ngài theo vua vào núi, vua khát nước sai người tìm mà không được. Ngài bèn tụng chú vào tảng đá làm nước vọt ra. Nhơn đó Ngài tán thán: - Do ân đức của đại vương mà cảm đến hòn đá phun ra nước. Các nước lân bang nghe chuyện đều khen ngợi công đức của vua. Lúc này mưa tuôn xuống khắp nơi làm cho dân chúng mừng vui ca tụng. Vua thấy đạo thuật của Ngài càng thêm ân sủng. Không bao lâu vua lại hậu bạc. Thấy vậy Ngài cáo từ đi đến Kế Tân, mang theo kinh Đại Niết-bàn gồm mười quyển và kinh Bồ-tát Giới v. v… nước này đều học theo Tiểu thừa, không tin Niết-bàn. Ngài lại đi đến nước Quy Tư, sau đó lại đến Cô Tạng - khi nghỉ tại một quán xá, sợ kinh bị thất lạc Ngài bỏ vào gối nằm. Khi ngủ Ngài thấy dường như có người xô xuống đất. Ngài kinh hãi tỉnh dậy cho là có trộm. Như thế trong ba đêm, ngài nghe trên hư không có tiếng nói: Đây là pháp tạng giải thoát của Như Lai, sao lại nằm trên đó. Nghe vậy Ngài tỉnh ngộ sám hối cung kính đem để kinh trên cao- đêm đó có ăn trộm đến định lấy kinh điển nhưng nặng quá không kh- iêng nổi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Ngài mang kinh rời khỏi nơi đó. Thấy Ngài ung dung mang kinh, bọn trộm thấy vậy thì sửng sốt, cho Ngài là thánh nhơn, chạy đến lạy tạ. Lúc này, Hà Tây vương Mông Tốn cát cứ vùng Đôn Hoàng tự xưng là vua. Nghe danh ngài Vô Sấm thì mời đến tham kiến, tiếp đãi nồng hậu. Mông Tốn vốn tin phụng Phật pháp có chí muốn hoằng hoá, nên thỉnh Ngài dịch kinh. Nhưng Ngài chưa thông Hán ngữ nên không thể dịch. Thế là Ngài ở lại học tiếng Hán ba năm rồi mới phiên dịch phần đầu mười quyển. Bấy giờ có Sa-môn Tuệ Cao, Đạo Lãng đến Hà Tây, gặp lúc Ngài đang dịch kinh nên cùng ở lại. Ngài dịch Phạm văn. Cao ghi chép. Hàng tăng tục mấy trăm người còn nghi ngờ chưa tỏ. Ngài Vô Sấm bèn giải thích rõ ràng khúc chiết văn chương dồi dào, ý tứ cũng miên mật. Hai vị Cao, Lãng lại thỉnh Ngài dịch rộng các kinh. Kế đến dịch các bộ Đại Tập, Đại Vân, Bi Hoa, Địa Trì, Ưu-bà-tắc Giới, Kim Quang Minh, Hải Long Vương, Bồ-tát Giới v. v… hơn sáu mươi vạn từ. Do vì Niết-bàn bổn phẩm số chưa đầy đủ nên trở về nước tìm, gặp lúc mẹ mất nên lưu lại cả năm. Sau đến Vu Điền tìm được phần trung kinh thì trở về Cô Tạng dịch tiếp. Rồi lại trở lại Vu Điền tìm được phần sau bộ kinh, Ngài tiếp tục dịch ba mươi ba quyển, dịch từ năm thứ ba Huyền Thỉ cho đến ngày 23 tháng 10 năm Huyền Thỉ thứ mười thì xong. Tức là năm Vónh Sơ thứ hai đời Tống Vũ Đế. Ngài nói: kinh này theo Phạm bổn thì ba vạn năm ngàn bài kệ, ở đây còn thiếu trăm vạn lời, nay chỉ nói ra hơn một vạn bài kệ. Ngài cũng thường bảo với Mông Tốn: có quỷ vào tụ lạc, ắt sẽ có nhiều tai hoạ. Tốn không tin, muốn thấy tận mắt, Ngài liền tụng chú gia trì, kh- iến cho quỷ hiện ra. Tốn nhìn thấy rất kinh hãi - Ngài nói: Nên thành tâm chuyên trì trai giới rồi tụng thần chú thì quỷ mới bỏ đi. rồi. Ngài tụng chú trong ba ngày rồi bảo với Mông Tốn: quỷ đã đi Mông Tốn càng thêm kính phục Ngài. Từ đó trong nước được bình an. Đến năm Thừa Huyền thứ hai, Mông Tốn vượt sông Hoàng Hà chinh phạt nước Khất Phật Mộ Mạt. Có thái tử Hưng Quốc đi tiền phong nhưng bị đánh bại, Hưng Quốc bị bắt. Sau Khất Đột thất thủ. Mộ Mạt cùng Hưng Quốc liên tục hiển hách, sau bị Thổ Cốc Hồn phá vỡ. Thái tử Hưng Quốc bị loạn quân giết. Mông Tốn giận dữ cho là phụng sự Phật pháp không có linh ứng. Từ đó bắt những Sa-môn dưới năm mươi tuổi phải hoàn tục. Mông Tốn trước kia có cho xây tượng của mẹ cao một trượng sáu bằng đá. Khi Mông Tốn ra lịnh như vậy thì tượng đá chợt rơi nước mắt. Vô Sấm lại dùng lời khuyên can, Mông Tốn từ từ cải tâm sám hối, bãi bỏ lệnh trên. Vì vậy Phật pháp nơi đây lại phát triển lại. Thác Bạt Đảo ở Bắc Nguî, nghe Ngài có đạo thuật nên cho sứ sang cung thỉnh Ngài, bảo Mông Tốn: Nếu không cho thỉnh ngài Vô Sấm sẽ khởi binh đánh. Nhưng Mông Tốn không nỡ lòng để Ngài đi. Bắc nguî lại sai Bình công Lý Thuận mang lễ vật sang cầu xin Mông Tốn cho thỉnh Ngài và sắc cho Tốn làm sứ cầm tiết, thị trung đô đốc lương châu, Tây vức, thái truyền phiêu kî đại tướng quân coi việc quân, Mục Lương vương của Lương châu, lại thêm lễ cửu tích và lệnh cho Tốn rằng: nghe đây có Pháp sư Đàm Vô Sấm, là bực bác thông đa thức như ngài La-thập, lại giỏi về bí chú thần nghiệm như trừng công. Trẫm muốn thỉnh Ngài về bổn quốc để thuyết giảng Phật pháp, xin hãy thuận lòng. Mông Tốn bày yến tiệc đãi sứ giả và nói: Lão thần Tây Phiên Mông Tốn phụng sự triều đình Bắc Nguî không dám trái nghịch, mà Thiên tử lại tin lời người nên đến bức bách tôi. Trước đã sai quan đến cầu ngài Vô Sấm, nay lại sai sứ sang nữa. Ngài Vô Sấm là bực tôn sư nên chúng tôi cùng sống chết. Đời người sống chết như thế nào biết được bao lâu. Lý Thuận nói: Vua tôi sai đem phẩm vật sang dâng tặng, là đã quý trọng quốc thể lắm. Sao ngài vì một vị tăng Thiên trúc này mà bỏ đi công nghiệp bấy lâu sao? Chúa Thượng nên suy nghó kỹ. Vua tôi thật chí thành thật ý. Mông Tốn nói: lời của ông xảo diệu chẳng khác nào như Tô Tần- chẳng phải là lời chân thật vậy. Mông Tốn vì tiếc ngài Vô Sấm nên quyết không cho đi. Đến tháng 3 năm Nghóa Hoà thứ ba, Ngài muốn trở về Tây Vực để thỉnh phần cuối kinh Niết-bàn. Mông Tốn giận Ngài muốn bỏ đi, bèn mật sai người ám sát. Khi sắp đi Ngài rơi lệ từ biệt chúng: - Nay nghiệp ta sắp đến, dù Thánh nhơn cũng không cứu được, nhưng vì bổn nguyện nên không thể ở lại. Mông Tốn quả sai thích khách giết Ngài ở dọc đường. Ngài thọ bốn mươi chín tuổi, tức vào năm Nguyên Gia thứ mười. Tin tức lan truyền, ai cũng đều thương xót. Sau này các quan tả hữu đều thấy giữa ban ngày quỷ mang gươm đến đâm Tốn. Đến tháng 4 thì Mông Tốn bị bệnh chết. Lúc Ngài mới đến Cô Tạng có Sa-môn Đạo Tấn ở Trừơng Tịch, muốn theo Ngài thọ Bồ tát giới. Ngài bảo: - Hãy sám hối bảy ngày bảy đêm, đến ngày thứ tám, Đạo Tấn đến cầu thọ giới- Vô Sấm nổi giận. Đạo Tấn suy nghó: - Chắc tại ta nghiệp chướng chưa tiêu vậy. Đạo Tấn lại dốc toàn tâm lực chuyên tinh Thiền định suốt ba năm liền, vừa Thiền vừa sám hối. Một đêm Đạo Tấn mơ thấy Phật Thích-ca cùng chư Bồ-tát đến ban cho giới pháp. Đêm đó có khoảng mười vị đều cảm mộng như vậy. Hôm sau lại đến ngài Vô Sấm cầu thọ giới. Thấy Đạo Tấn từ xa, Ngài nói: - Lành thay! lành thay! ông đã cảm được giới rồi. Hôm nay ta sẽ tắc chứng cho ông. Ở trước bàn Phật, Ngài lần lượt thuyết giới tướng. Lại có Sa-môn Đạo Lãng, đêm hôm Đạo Tấn nằm mộng, Lãng cũng mộng như vậy. Vì tự ty giới lạp nên cầu làm pháp đệ của Đạo Tấn. Thế là có một ngàn vị cùng với Đạo Tấn có hơn một ngàn người theo Ngài thọ giới, pháp này truyền thọ cho đến ngày nay đều từ ngài Vô Sấm mà ra. Có lời biệt ký ghi rằng: kinh Bồ-tát Địa Trì do ngài y-bà truyền đến đây. Sau quả do ngài Vô Sấm truyền dịch, nên có người cho Ngài không phải là phàm. Mông Tốn có người em tên An Dương hầu là người có chí mạnh mẽ. Ông tụng đọc nhiều kinh điển, và giữ năm giới cẩn mật - khi Ngài Vô Sấm vào Hà Tây xiển dương Phật pháp, An Dương bèn xem kinh điển thọ năm giới. Thuở nhỏ Ngài cầu pháp với Sa-môn Thiên Trúc là Phật-đà Tư-na ở chùa Cù-ma-đế tại nước Vu Điền. Tư-na vốn học Đại thừa, có thiên tài tú phát thông cả nửa ức bài kệ, lại thông suốt Thiền pháp, cho nên các nước Tây phương gọi Ngài là Nhơn trung Sư tử. An Dương theo Ngài học Thiền bí yếu trị bịnh kinh. Sau này Ngài đến Cao Xương thỉnh được kinh Quán Aâm và Di-lặc rồi trở về Hà Tây dịch bộ thiền yếu ra Tấn ngữ. Rồi khi nhà Ngụy đánh chiếm Tây Lương, ông lánh nạn sang Giang Nam và không giao tiếp với ai, chỉ tham quan các cảnh chùa chiền tự tháp. Đầu tiên ông dịch hai bộ kinh Quan Âm và Di-lặc. Sau sư cô Tuệ Tuấn ở chùa Trúc Viên lại thỉnh Ngài dịch Thiền kinh- An Dương thông cả Hán lẫn Phạm nên dịch kinh rất trôi chảy. Trong bảy ngày dịch ra năm quyển- không bao lâu lại đến chùa Định Lâm ở Chung Sơn dịch kinh Phật phụ Bát-nê-hoàn kinh một quyển. An Dương cự tuyệt chuyện thê tử nô bộc, không muốn điều danh lợi, theo các pháp lữ tuyên thông chánh pháp, nên người người đều cảm kích. Sau bị bịnh rồi mất. Ngài Vô Sấm dịch ra các bộ kinh đến niên hiệu Nguyên Gia mới truyền đến Đạo Tràng, Kiến Nghiệp. Pháp sư Tuệ Quán chỉ muốn tìm phần cuối bộ kinh Niết-bàn, bèn tâu với Tống Thái Tổ tư cấp cho Sa-môn Đạo Phổ cùng mười vị sang Tây Vực thỉnh kinh về. Khi thuyền đến Quảng quận, thuyền bị sóng, Đạo Phổ bị thương nơi chân bị bịnh rồi mất. Lúc sắp lâm chung Ngài than: - Đất Tống không có duyên với kinh Niết-bàn phần sau. Đạo Phổ vốn người Cao Xương, đi sang Tây Vực và chu du các nước, cúng dường tôn ảnh đảnh lễ bát Phật, hình tượng dấu chân, tứ tháp đạo thọ, không đâu mà Ngài không chiêm ngưỡng. Ngài khéo về Phạm thư, giỏi ngôn ngữ nhiều nước, du hoá khắp nơi. Cuộc đời Ngài riêng có phần đại truyện. Bấy giờ ở Cao Xương lại có Sa-môn Pháp Thạnh, cũng đến các xứ ngoại quốc lập truyện, gồm có bốn quyển lại có Trúc Pháp Duy, Thích Tăng Biểu đem kinh đến nước Phật…  <卷>QUYỂN 3 THÍCH PHÁP HIỂN Ngài Thích Pháp Hiển vốn họ Cung, người ở Vũ dương, Bình dương. Có ba người anh đều chết lúc còn nhỏ. Người cha sợ đến Hiển, nên ba tuổi liền cho làm Sa-di. Ở nhà vài năm thì bị bịnh nặng gần chết. Do đó mà đưa vào chùa thì bịnh liền khỏi, nhưng không chịu về nhà nữa. Người mẹ muốn gặp mà không thể được. Sau đó cất một căn nhà nhỏ để ở ngoài cửa để nghỉ khi qua lại. Mười tuổi thì cha mất, thúc phụ vì thấy mẹ cô độc, bức Pháp Hiển trở về nhưng Ngài nói: vốn không phải vì có cha mà xuất gia vậy, chỉ vì muốn xa lìa trần tục mà vào đạo thôi. Thúc phụ thấy nói vậy nên thôi. Không bao lâu thì mẹ mất. Lo đám mẹ xong Ngài lại vào chùa. Ngài cùng theo bạn đồng học khoảng mười người đi vào ruộng cắt lúa, gặp bọn giặc đói muốn đoạt lúa. Bọn trẻ Sa-di đều bỏ chạy hết chỉ Pháp Hiển đứng lại nói với giặc: Cần bao nhiêu lúa tùy ý lấy. Các ông xưa không chịu bố thí nay phải chịu đói khổ. Nay lại cườp đoạt của người e rằng đời sau chỉ càng đói khổ, bần đạo thật lo cho các ông. Nói xong liền trở về, giặc cũng bỏ lúa mà đi. Chúng tăng mấy trăm vị đều kính phục. Đến khi Ngài thọ đại giới, thì chí hạnh đều minh tuệ, nghi dung chỉnh tề. Lại thường than kinh luật khiếm khuyết, thệ chí tìm cầu. Vào năm Tấn Long An thứ ba, cùng đồng học là: Tuệ Cảnh, Đạo Chỉnh, Tuệ Ứng v.v…….. xuất phát từ Trường An, vượt qua sa mạc phía Tây. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, bốn mặt mênh mông không biết đâu mà lần. Duy chỉ hướng mặt trời để làm chuẩn hướng Đông Tây, trông theo xương cốt người trên đường mà tìm đường đi. Nếu có gặp gió độc, ác quỷ thì chắc phải chết. Pháp Hiển tùy duyên uỷ thác mạng mình, vượt qua mọi sự hiểm nạn, không bao lâu thì đến Thông Lảnh. Ngọn núi này đông hạ đều có tuyết. Có ác long làm ra gió độc mưa cát. Đường núi hiểm trở, vách núi đứng cả ngàn nhận. Xưa có người đục đá, thông đường cho người đi, gồm hơn cả bảy trăm chỗ, lại bắt hơn mười cây cầu qua sông cho người, đều là chỗ mà cha con Trương Khiên Cam nhà Hán không đến. Kế đến ông vượt qua ngọn núi tuyết nhỏ gặp phải cơn gió lạnh dữ dội. Tuệ Cảnh run rẩy không thể tiến bước nói với Pháp Hiển: tôi chắc phải chết, ông cứ đi đi đừng chần chờ mà cùng bị nạn. Nói rồi thì chết. Pháp Hiển khóc và bảo: Mưu đồ không qua mạng số sao lại tự lực đi một mình. Thế rồi Ngài vượt qua ngọn núi hiểm trở, trải qua hơn ba mươi nước mới đến Thiên Trúc. Cách Vương Xá thành hơn ba mươi lý có một ngôi chùa, Ngài vào đó nghỉ đêm. Sáng lại muốn đi đến núi Kỳ-xà- quật. Vị tăng trong chùa can: đường đi rất hiểm trở, lại nhiều loài sư tử lông đen ăn thịt người làm sao đi được. Pháp Hiển nói: dù đường xa vạn dặm cũng quyết đến được Linh Thứu. thân mạng không kỳ hạn, hơi thở ra vào khó bảo tồn. Há vì lòng chân thành bao nhiêu năm nay đã đến đây rồi bỏ sao? Tuy là có hiểm trở nhưng tôi không sợ. Đại chúng không thể lưu Ngài lại được bèn bảo hai vị tăng đưa đi. Khi vừa đến chân núi, mặt trời vừa xuống Ngài muốn dừng lại nghỉ đêm. Hai vị tăng sợ hãi liền bỏ ra về. Pháp Hiển một mình lên núi thắp hương lễ bái, chiêm nghiệm thánh tích cũ như thấy được Thánh nghi. đến đêm có ba con sư tử đen đến quỳ trước Hiển, liếm môi quẫy đuôi. Pháp Hiển tụng kinh niệm Phật không dứt. Sư tử bèn cúi đầu phủ phục xuống chân Hiển. Hiển dùng tay xoa đầu nó và chú nguyện: Nếu muốn làm hại thì đợi ta tụng xong. Nếu chỉ thử thì nên đi. Hồi lâu thì sư tử bèn bỏ đi. Đến sáng Ngài đi trở lại con đường cũ, đường cùng lối chỉ có một đường đi nhỏ. Chưa được một lý chợt gặp một vị Đạo só, tuổi đã chín mươi, dung phục thô sơ mà thần khí tuấn tú sâu xa. Pháp Hiển tuy biết vận cao mà không ngộ được thần nhân. Sau đó lại gặp vị thiếu tăng. Pháp Hiển hỏi: Lão niên phía trước là ai? Đáp: Đầu-đa Ca-diếp đại đệ tử của Phật đó. Pháp Hiển nuối tiếc, quay trở lại núi tìm thì thấy tảng đá nằm chắn ở trước thất nên không vào được. Hiển rơi lệ rồi đi, tiến bước đến nước Ca-thi. Nước này có con rồng tai trắng, mỗi khi cùng chúng tăng ước hẹn tụ tập thì trong nước trở nên phong túc dồi dào, nên tất cả đều tin tưởng. Sa-môn dựng cho rồng một ngôi nhà và cho thức ăn đầy đủ. Mỗi khi đến mùa hạ, ngồi thiền xong liền hoá thành một tiểu xà, hai tai đều trắng. Đại chúng đều biết đó là rồng, đem sữa đựng trong bát đồng đem đến cho rồng. Rồng bò từ thượng toà vòng xuống hạ tòa rồi biến mất. Năm sau lại xuất hiện, Pháp Hiển cũng thấy, Ngài lại đến Trung Thiên-trúc ở chùa Nam Thiên Vương tháp A-dục Vương, ấp Ba-liên-phất, Thành Ma Kiệt-đề, được bộ luận Ma-ha Tăng-kỳ. Lại được bộ luật Tát-bà-đa, Sao tạp A-tỳ-đàm Tâm, Phương Đẳng, Niết-bàn. Ngài lưu lại đó ba năm học sách Phạm văn, rồi tự mình ghi chép. Sau đó Ngài đem kinh tượng gởi khách buôn đem đến nước Sư Tử. Đồng lữ của Ngài có mười người, hoặc lưu lại hoặc mất. Nay chỉ còn mình Ngài nên lòng thường thương cảm bi hoài. Bỗng ở trước tượng vua thấy khách buôn cúng dường một quát lục trắng của đất Tấn. Ngài bất gíac buồn và toi lệ. Ngài dừng lại đó hai năm lại được bộ luật Di-sa-tắc và hai bộ trường A-hàm, Tạp A-hàm và Tạp Tạng, đều là những bộ bên đất Hán chưa có. Ngài theo thương nhơn đi tàu lớn trở về. Thuyền có hai trăm người, gặp gió lớn mọi người đều sợ, đem bỏ hết đồ vật xuống biển. Pháp Hiển sợ họ đem bỏ kinh tượng nên nhất tâm niệm Quan Thế Âm, và quy mạng chúng tăng Hán thổ. Thuyền lại gặp gió thuận đi không bị nguy hại gì. Trải qua mười ngày thì đến nước Đạt-đa Bà-đề, dừng lại năm tháng, lại theo đoàn thương nhơn khác đi hướng Đông về Quảng châu. Đi hơn hai mươi ngày, ban đêm chợt gió nổi lên làm thuyền chấn động, mọi người cùng bàn luận: vì thuyền chở Sa-môn này nên chúng tôi mới bị nạn. Không thể vì một người mà làm cả đoàn phải chết. Ai cũng muốn đẩy Ngài xuống biển. Đàn-việt của ngài Pháp Hiển kêu to: Các ông nếu đẩy vị Sa-môn này thì cũng phải đẩy cả tôi. Nếu không thì sẽ cùng chết cả. Vua nước Hán rất tôn sùng Phật pháp tăng. Ta sẽ tâu lại với vua bắt tội các ngươi. Bọn thương nhơn nghe nói vậy thì sợ không dám làm gì. Dù nước hết lương cạn mà thuyền theo con nước đi nhanh, chợt đến thấy rau lê, rau hoắc biết là đất Hán. Nhưng chưa biết phương nào. Khi lên bờ gặp hai người thợ săn, Pháp Hiển hỏi: Đây là đâu? Người kia đáp: là bờ nam núi Lao, quận Trường Quảng, Thanh châu. Người thợ săn quay trở về thưa với Thái thú Lý Nghi. Nghi có lòng kính tín, nghe có Sa-môn từ xa đến liền ra đón tiếp. Pháp Hiển mang kinh điển đi theo về phủ. Không bao lâu Ngài lại muốn về Nam. Thứ sử Thanh châu thỉnh Ngài lưu lại qua mùa đông. Pháp Hiển nói: _ Bần đạo quên thân chí cầu hoằng thông đạo pháp, sở kỳ chưa đạt thì không thể dừng lâu. Rồi ngài theo hướng nam đi về kinh sư, gặp Thiền sư ngoại quốc là Phật-đà Bạt-đà ở chùa Đạo Tràng, dịch các kinh Phương đẳng, Niết- bàn, Ma-ha Tăng-kỳ luật, Tạp A-tỳ-đàm, hơn một trăm vạn lời. Pháp Hiển đã dịch bộ Đại Nê-hoàn rồi, đem lưu bố truyền bá rộng. Có một người không rõ họ tên, nhà ở gần cửa Chu Tước, nhiều đời phụng trì chánh pháp tự đọc viết một bộ để cúng dường, không phân biệt kinh thất hay tạp thư. Sau gặp lửa cháy nhà, đồ đạt đều sạch trụi, duy chỉ còn bộ kinh Niết-bàn, màu sắc chữ viết không hề thay đổi. Đất kinh sư đều truyền nói về câu chuyện thần dị này. Khi đến Kinh châu ngài Pháp Hiển mất ở chùa Tân, thọ tám mươi sáu tuổi. Còn nhiều bộ kinh luật khác Ngài chưa kịp dịch ra. Đại chúng đều tiếc thương. Việc của Ngài có ghi trong đại truyện. -------------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM VÔ KIỆT Thích Đàm Vô Kiệt dịch là Pháp Dũng. Họ Lý, người Quảng Long U châu, tuổi nhỏ thọ Sa-di đã tu khổ hạnh, trì giới tụng kinh, rất trọng sư tăng. Từng nghe ngài Pháp Hiển đi qua nước Phật bèn khẳng khái thệ nguyện quên thân. Đến đầu năm Tống Vónh Sơ, Ngài chiêu tập các vị tăng đồng chí gồm hai mươi lăm người đồ đệ của Mãnh Đàm Lãng, cùng mang tràng cái dụng cụ cúng dường, nhắm hướng Bắc đi về Tây phương. Đầu tiên đến nước Hà Nam, xuất phát đến quận Hải Tây, tiến vào dòng lưu xa đến quận Cao xương, trải qua các nước Quy Tư, Sa-lặc, lên ngọn Thông lảnh, vượt qua núi tuyết. Chướng khí ngàn trùng, băng đóng cả vạn lý. Ở phía dưới có một con sông lớn nước chảy mạnh xiết, bên cạnh sườn Đông nam của ngọn núi, mọi người buộc dây lại làm cầu. Mười một người qua bờ bên kia đốt khói làm hiệu. Người sau thấy khói biết người trước đã qua được nên càng đi tới. Nếu lâu mà không thấy khói thì biết đã bị gió cuốn rớt xuống sông. Trải qua ba ngày lại vượt qua ngọn đại tuyết. Ngọn núi thẳng đứng không có chỗ để bước chân. Vách đá đều có lỗ cọc cách đều nhau. Mọi người nắm bốn cái cọc bước lần xuống. Một ngày trời mới qua được chỗ đó và khi xuống đất bằng thì kiểm lạc mất mười hai đồng lữ. Mọi người cùng tiếp tục đi đến nước Kế Tân, lễ lạy bát Phật, dừng lại đó hơn năm, Ngài học tiếng Phạm, cầu được một bộ Quan Âm Thọ Ký kinh thuộc Phạm bổn. Lại đi về hướng Tây đến sông Tân-đầu Na-đề (dịch là Sư Tử) vào nước Nguyệt Thị, lễ bái xương nhục kế của Phật và xem Tự-phất-thủy hàng (thuyền hơi nước tự đi). Sau đến núi Đàn Đặc, Thạch Lưu ở phía Nam, tăng thường trụ ở đây có hơn ba trăm người, học tạp tam thừa. Vô Kiệt dừng lại ở chùa này thọ đại giới. Thiền sư Thiên-trúc là Phật-đà Đa-la (Giác Cứu) người nước kia đều cho Ngài đã chứng đạo. Vô Kiệt thỉnh Ngài làm Hoà thượng _ Sa-môn Chí Định người Hán làm A-xà-lê. Ở đó ba tháng hạ, lại đi về Trung Thiên-trúc. Trên đường đi cảnh vật hoang tàn vắng vẻ duy chỉ có thạch mật làm lương ăn. Lúc này đồng lữ chỉ có mười ba người. Tám người mất trên đường, chỉ còn năm người đồng hành. Vô Kiệt tuy mấy lần trải qua nguy ách, nhưng chí buộc niệm và mang theo bên mình kinh Quan Thế Âm chưa từng rời bỏ. Một lần đến nước Xá-vệ gặp một bầy voi núi. Vô Kiệt xưng danh quy mạng. Ngay khi đó có sư tử từ trong rừng đi ra. Voi kinh hãi bỏ chạy. Sau đó đoàn người vượt qua sông Hằng lại gặp một bầy trâu rừng đi tới muốn làm hại. Vô Kiệt cũng quy mạng niệm Quan Âm như trước, bỗng có con chim thứu bay đến, bầy trâu kinh hãi bỏ chạy, thế là thoát nạn. Sau Ngài từ Nam Thiên-trúc theo thuyền về lại Quảng châu, cũng trải qua các sự tích đều có ghi chép truyền lại. Ngài dịch bộ Quan Thế Âm thọ ký, nay còn truyền ở kinh sư. Không biết ngày sau của Ngài thế nào. ----------------------------------- <詞>PHẬT ĐÀ THẬP Đây dịch là Giác Thọ người Kế Tân. Tuổi nhỏ xuất gia Ngài đã thọ nghiệp ở Di-sa-tắc bộ tăng, chuyên tinh luật phẩm, kiêm thông đạt cả Thiền yếu. Tháng bảy năm đầu Tống Cảnh Bình Ngài đến Dương châu. Trước kia có Sa-môn Pháp Hiển, ở nước Sư Tử có bộ luật Di-sa- tắc bằng Phạm bổn mà chưa phiên dịch thì Ngài đã viên tịch. Chư tăng ở kinh ấp nghe Phật-đà Thập rất giỏi về môn học này. Thế là thỉnh Ngài dịch ra. Tháng 11 năm đó chúng tăng vân tấp ở chùa Long Quang, dịch ra ba mươi bốn quyển, gọi là ngũ phần luật. Thập cầm Phạm bổn, sa-môn Trí Thắng người Vu Điền dịch, ở Long Quang, Đạo Sinh, Đông An, Tuệ Nghiêm cùng chấp bút tham chánh. Quan thị trung Lang Da Vương Luyện làm đàn việt., đến tháng 4 năm sau mới xong. Từ bộ đại luật sao ra giới tâm và văn yết-ma, đều lưu hành ở đời. Sau không biết Ngài thế nào. <詞>PHÙ-ĐÀ BẠT-MA Phù-đà Bạt-ma dịch là Giác Khải là người Tây Vức. Tuổi nhỏ đã thông minh tuyệt xuất, học tập tam tạng lại giỏi luận Tỳ-bà-sa, thường trì tụng bộ này cho là tâm yếu. Trong niên hiệu Tống Nguyên Gia Ngài đến Tây Lương. Trước đây có Sa-môn Đạo Thái, có chí mạnh mẽ, tuổi trẻ đã đi qua các nước, được bộ kinh phạm bổn Tỳ-bà-sa hơn mười vạn lời kệ. Khi trở về nước Cô Tạng nghe có ngài Bạt-ma ở đây bèn tìm Ngài phiên dịch ra. Bây giờ Mông Tốn đã chết, con là Mậu Kiền lên nối ngôi. Ngày 8 tháng 4 năm Đinh sửu, tức Tống Nguyên Gia năm thứ mười bốn, vua thỉnh Ngài dịch kinh ở trong cung Nhàn Dự thành Lương châu. Đạo Thái ghi chép lại, Sa-môn Tuệ Cao, Đạo lãng cùng tăng nghóa học hơn ba trăm người cùng khảo chánh văn nghóa gần mười bốn ngày mới xong, gồm một trăm quyển. Sa-môn Đạo Diên ghi lời tựa. Không lâu sau nhà Ngụy đánh chiếm Cô Tạng. Đất Lương loạn lạc điêu tàn. Kinh sách các vật bị đốt cháy mất hết bốn mươi quyển. Nay chỉ còn sáu mươi quyển. Ngài Bạt-ma tránh nạn trở về Tây Trúc. Sau không biết thế nào. ------------------------------------ <詞>THÍCH TRÍ NGHIÊM Ngài người Tây Lương châu, tuổi nhỏ xuất gia đã nổi tiếng tinh cần tu tập. Suốt năm Ngài mặc áo nạp ăn rau quả mà an nhiên toạ thiền. Mỗi khi tụng đọc kinh điển chí lại muốn đi tìm bậc danh sư để rộng học kinh yếu. Thế là Ngài chu du sang Tây vực đến nước Kế Tân, vào tinh xá Ma-thiên-đà-la theo tỳ-kheo Phật-đà thọ học Thiền pháp. Học đạo chỉ ba năm hơn người học mười năm. Ngài Phật-đà thấy Trí Nghiêm có thể là người kế thừa thiền pháp, cho là bậc pháp khí khác thường. Hàng tăng tục nghe biết đều tán thán đất Tần mới có Sa-môn cầu đạo vậy, từ đó không còn xem thường người đất Tần nữa. Bấy giờ có tỳ-kheo Phật-đà Bạt-đà-la cũng là bậc thiền tượng của nước kia. Ngài Trí Nghiêm bèn cầu thỉnh Ngài sang Đông độ truyền pháp. Bạt-đà hoan hỷ nhận lời. Thế rồi trải qua bao đường xa hiểm trở Ngài đến Quan Trung, theo ngài Bạt-đà đến ở chùa Đại Trường An. Không bao lâu ngài Bạt-đà bị tăng chúng đất Tần đuổi ra đi. Trí Ngiêm cũng về tịnh xá Sơn Đông ở Khế Vu, toạ thiền tụng kinh ra sưc tu học. Năm ba mươi đời Tống Nghóa Hy, Tống Vũ Đế tây chinh, toàn thắng trở về Trường An đi qua Sơn Đông. Lúc này Hưng công Vương Khôi, theo ngự giá vua đi ngắm xem sông núi và đến tịnh xá của ngài Trí Nghiêm. Đến nơi thấy ba vị tăng ngồi toạ thiền trên giường giây. Khôi đến hồi lâu, bất giác bèn đàn chỉ (gõ cửa). Ba người mở mắt ra nhưng nhắm lại ngay, hỏi cũng không nói. Tâm Khôi vừa kính vừa lạ mới tìm các bậc kỳ lão, mọi người đều nói: đây là ba vị tăng ẩn cư cầu chí, là bậc Pháp sư cao khiết. Khôi tâu lại với vua, thỉnh ba vị về kinh đô nhưng không chịu đi. Vua khẩn cầu khẩn thiết mấy lần thì hai vị kia bảo Trí Nghiêm đi. Vương Khôi chí cầu đạo sâu xa cúng lễ thật ân cần. Về kinh đô ngài trụ ở chùa Thỉ Hưng. Tánh ngài Trí Nghiêm vốn thích nơi yên tịnh vắng lặng. Vương Khôi xây cho Ngài một ngôi tịnh xá ở Đông Giao, tức là chùa Chỉ Viên. Ngài có một số kinh tiếng Phạm chưa dịch ra. Đến năm Nguyên Gia thứ tư, cùng với Sa-môn Bảo Vân dịch ra tiếng Tấn như Diệu Quảng Bác Nghiêm Tịnh Tứ Thiên Vương. Ngài ở chùa không thọ thỉnh riêng, thường đi khất thực để sống, hàng tăng tục đều kính phục tôn ngưỡng. Có người trông thấy quỷ bảo: khi Nghiêm công đến tránh đi.Người kia chưa hiểu, không bao lâu thì Ngài đến. Người kia hỏi tên họ thì biết đó là ngài Trí Nghiêm. Người ấy thầm lặng cho là kỳ dị. Có người phụ nữ họ Lưu bị bịnh thường thấy quỷ đến kêu gào rất là sợ hãi. Gia đình đi mời Ngài về thuyết pháp. Nghiêm vừa đến, Lưu thị đã thấy bầy quỷ chạy tán loạn. Khi Ngài thuyết kinh xong thì bịnh liền hết. nhơn đó Lưu thị thọ ngũ giới, nhất tâm tôn kính phụng thờ. Ngài Trí Nghiêm vốn thích sống đời sống thanh tịnh ít muốn. Các vật thọ nhận đều bố thí hết. Tánh Ngài thích ẩn kính sâu xa chớ không phơi bày. Cho nên tuy có hạnh tốt ở đời mà không được lưu truyền. Xưa khi Ngài chưa xuất gia, thọ ngũ giới còn có nhiều khiếm khuyết, sau vào đạo thọ cụ túc, thường nghi là không được đắc giới. Mỗi lần nghó vậy thì lo sợ, nhiều năm thiền quán mà không liễu ngộ, bèn vượt biển đến Thiên-trúc hỏi chư minh đức, gặp một vị tỳ-kheo La-hán, ngài đem việc mình trình bày cho La-hán nghe. La-hán không dám phán quyết. Ngài Trí Nghiêm bèn nhập định đến cung Đâu-suất hỏi ngài Di-lặc. Bồ- tát Di-lặc đáp: Đắc giới Ngài Trí Nghiêm rất mừng, liền trở về nước Kế Tân, không bịnh mà viên tịch hưởng thọ bảy mươi tám tuổi. Ơû nước này có chỗ trà tỳ thân phàm Thánh riêng biệt. Trí Nghiêm tuy giới đức cao minh mà hạnh đức thật chưa rõ ràng, nên đem thiêu Ngài nơi đất phàm tăng. Nhưng thây bỗng trở nên nặng không khiêng nổi, khi đem thiêu nơi đất Thánh thì nhẹ bổng khiêng nhẹ nhàng. Đệ tử của Ngài là Trí Vũ, Trí Viễn từ phía Tây đến báo rõ các điềm chứng này. Từ đây suy ra Ngài quả là người đắc đạo vậy, nhưng chưa biết được quả vị sâu cạn. --------------------------------------- <詞>THÍCH BẢO VÂN Chưa rõ Ngài tánh danh là gì. Tương truyền rằng ngài là người Lương châu. Tuổi nhỏ xuất gia chuyên cần có học hạnh. Chí khí lại trong sáng cứng rắn ít gặp ở đời. Cho nên từ nhỏ đã có tên là thẳng thắng thuần hậu. Vì có chí cầu pháp quên thân, muốn đi sang các nơi linh tích để cầu kinh pháp. Thế rồi vào đầu nhà Tấn Long An, Ngài khởi hành sang Tây vực. Cùng đi có Pháp Hiển, Trí Nghiêm. Trải qua bao chặng đường nguy hiểm gian khổ, hết băng qua chặng đường nguy hiểm gian khổ, sa mạc hoang vu thì lại trèo lên ngọn Tuyết lảnh, gian nguy cực nhọc Ngài đến được các nước Vu Điền, Thiên-trúc…, thấy hết các nơi linh dị. Các nơi thánh tích của Phật Ngài đều chiêm bái. Ở đó Ngài học âm tự của các nước Tây vực, đọc hiểu hết các cổ huấn. Sau đó trở về Trường An, theo Thiền sư Phật-đà Bạt-đà tu tập thiền đạo. Không bao lâu Thiền sư bị chúng tăng nhà Hán đuổi đi, đồ chúng cũng đồng có lỗi, Pháp Vân cũng đi. Gặp ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn giải tỏa được sự diệt tẩn này, rồi cùng trở về kinh sư, trú ở chùa Đạo Tràng. Chúng tăng thấy Ngài chí lực kiên cố, hoằng đạo sâu dày, thảy đều đến học hỏi cung kính. Ngài dịch bộ kinh Tân Vô Lượng Thọ đa phẩn các kinh dịch ra sau này đều do Ngài làm. Ngài thông thạo cả Hoa, Phạm, âm huấn đều đúng. Chỗ dịch của Ngài đại chúng đều tin phục. Trước có Sa-môn Trúc Phật Niệm khéo việc tuyên dịch. Trong hai đời Phù và Dao đều do Pháp Hiển dịch ra kinh điển. Ở vùng Giang Tả thì không ai dịch hơn ngài Bảo Vân. Thế nên giữa ranh giới Tống, Tấn truyền thông pháp tạng thì có Sa-môn Tuệ Quán … đều là bạn lành với nhau. Tánh Ngài thích ở chỗ vắng vẻ u nhàn, nên đến ở chùa Lục Hợp Sơn. Ngài dịch bộ: Phật bổn hạnh tán kinh. Dân trí còn sơ khai ưa trộm cắp, Ngài nói pháp giáo hoá, phần nhiều đều hối cải, lễ sự cúng dường. Không bao lâu Tuệ Quán ở Đạo Tràng mất. Mọi người thỉnh Pháp Vân trở về kinh đô quản lý chùa. Ngài bất đắc dó trở về chùa Đạo Tràng, được gần một năm rồi lại trở về Lục Hợp. Năm Nguyên Gia hai mươi sáu thì ở đây Ngài viên tịch thọ bảy mươi bốn tuổi. ---------------------------------- <詞>CẦU-NA BẠT-MA Dịch là Công Đức Khải, dòng dõi Sát-đế-lợi. Gia thế nhiều đời làm vua cai trị nước Kế Tân. Tổ phụ tên là Ha-lợi Bạt-đà, dịch là Sư Tử Hiền, tánh tình rất thẳng thắng cương trực. Cha tên Tăng-già A-nan, dịch là Chúng Hỉ, nhơn ngài thường ẩn cư tại sông ngòi rừng núi. Bạt- ma năm mười bốn tuổi căn cơ đã thâm đạt xuất chúng. Ngài sống nhơn hậu, tôn sùng đạo đức làm thêm việc thiện. Người mẹ thường làm thịt loài dã thú cho ăn. Bạt-ma thưa: - Loài có sanh mạng đều ham sống, vậy đừng nên ăn chúng Mẹ giận nói: nếu có tội mẹ sẽ chịu thế. Một hôm Bạt-ma chiên dầu sôi, lỡ làm đổ phỏng tay, bèn nói với mẹ. Xin hãy chịu đau thế con. Mẹ nói: Thân con bị đau, mẹ đâu thay thế được. Bạt-ma nói: việc khổ trước mắt còn không thể thay thế, huống chi khổ trong tam đồ. Mẹ bèn hối hận, trọn đời không còn sát sanh nữa. Đến năm mười tám tuổi Ngài gặp một tướng sư bảo: năm ba mươi tuổi, ông đến một nước lớn ở phương Nam và được tôn xưng. Nếu không vui hưởng vinh hoa ở đời thì sẽ chứng đạo quả. Hai mươi tuổi ngài xuất gia thọ giới, thông suốt chín bộ kinh, hiểu tỏ bốn bộ A-hàm, tụng đọc kinh điển hơn trăm vạn lời. Lại thâm đạt luật học, diệu nhập yếu chỉ Thiền môn. Đời bấy giờ gọi Ngài là Tam tạng Pháp sư. Năm ba mươi tuổi Ngài đến nước Kế Tân. Vua nước này băng hà không con nối dõi. Quần thần thương nghị với nhau: ngày Bạt-ma vốn dòng dõi đế vương, lại có tài trí sâu dày, đức cao vọng trọng. Vậy chúng ta hãy thỉnh Ngài hoàn tục lên ngôi vua. Hơn một trăm vị đại thần đến cầu thỉnh Ngài ba lần mà Ngài đều không ưng thuận. Ngài từ biệt thầy lìa đại chúng vào rừng sống đời tu hành đạm bạc, xa lánh thế tục, sau đó Ngài đi đến nước Sư Tử hoằng hoá chánh pháp. Người có kiến thức hiểu rõ đều cho Ngài đã chứng sơ quả. Oai nghi đoan chánh của ngài khiến cho loài vật cũng phát tâm tu hành. Kế đến Ngài qua nước Xà-ba. Đêm trước hoàng thái hậu mơ thấy một vị đạo só nương theo thuyền vào vương quốc. Hôm sau quả có ngài đến. Vương mẫu cung kính thánh thể xin thọ năm giới. Bà nói với vua: do nhân duyên nhiều đời mà ta được làm mẹ vua. Ta thọ giới rồi mà con không tin, sợ nhân đời sau sẽ không còn quả này. Vua đành phải nghe lời mẹ mà thọ giới, lâu ngày thì cũng tín phụng Phật pháp. Một hôm nước lân bang cất quân xâm chiếm biên ải. Quốc vương nói với Ngài: giặc dựa vào sức mạnh muốn xâm chiếm bờ cõi. Nếu cùng chúng nghinh chiến thì tổn hại sanh mạng rất nhiều. Nếu không chiến đấu thì hoạ mất nước sẽ đến. Nay chỉ quy mạng nơi tôn sư không biết Ngài có diệu kế gì? Bạt-ma nói: bọn giặc khởi binh chiếm đất, ắt rất hung hãn. Nhưng đại vương cứ khởi tâm từ bi, chớ có ý sát hại. Vua lãnh đại binh ra bày thế trận. Nổi trống giăng cờ giao chiến với địch, chúng thua bỏ chạy. Quốc vương bị thương nơi chân. Ngài đọc thần chú vào ly nước, đưa cho vua rửa thương. Hôm sau vua bình phục nên càng thâm tín và biết ơn Ngài. Quốc vương lại muốn xuất gia tu đạo, nên bảo với quần thần: Trẫm muốn xuất gia làm Sa-môn, chư khanh hãy tìm vị minh quân khác. Quần thần đều thành khẩn van nài ba lần nên quốc vương không nỡ bỏ đi nhưng bảo họ: Trẫm có ba ước nguyện, nếu các quan làm được thì trẫm sẽ ở lại trị nước: một là, người trong nước phải tin theo Phật pháp. Thứ hai, đoạn trừ tất cả sự giết hại. Ba là, tài sản trong nhà bố thí cho người nghèo. Quần thần vui vẻ theo lời vua dạy đều tin phụng Phật pháp, mọi người đều thọ ngũ giới. Vua xây tịnh xá cho ngài Bạt-ma. Khi đang đốc xuất việc xây dựng. Vua bị thương nơi ngón tay, Ngài tụng chú gia nguyện, không bao lâu thì vua bình phục. Đạo hoá danh đức của Ngài vang danh khắp nơi. Các nước lân bang đều gởi sứ thần sang thỉnh Ngài hoằng dương chánh giáo. Bấy giờ tại kinh sư, có Sa-môn Tuệ Quán, Tuệ Thông v.v… nghe danh đức Ngài bèn viết sớ dâng lên triều đình. Năm Nguyên gia nguyên niên. Họ lại tâu với Văn Đế xin cầu thỉnh Ngài. Văn Đế ra chiếu lịnh cho thứ sử Giao châu, sửa soạn tàu thuyền, cùng Sa-môn pháp Trường, Đạo Sung, đi sang nước Xa-bà cầu thỉnh và viết thư cho Bạt-ma, vua Xà-bà là Bà-đa-già Ngài Bạt-ma muốn hoằng pháp rộng ra nên bằng lòng. Ngài không quản đường xá xa xôi tìm đến đất Tống. Ngài theo thuyền của thương nhơn Trúc Nan-đề đi đến một tiểu quốc, thuận theo gió thuyền đến Quảng châu. Ngài gởi thư cho Văn Đế nói: Gió hạnh nghiệp đã đến đây. Nay xin báo tin văn đế biết ngài Bạt- ma đã đến Nam Hải, liền ra lệnh cho các thứ sử châu quận cung nghinh Ngài về kinh. Trên đường Ngài dừng lại ở Thuỷ Hưng. Vùng này có Hổ thị sơn, hình thế núi non lại cao vót đầy hiểm trở, Ngài thấy nơi đây phảng phất như núi Kỳ-xà-quật nên đổi tên là Linh Thứu. Ngoài sơn tự Ngài cho cất một thiền thất. Thất cách chùa vài dặm mà âm thanh ở chùa không thể vang đến đó. Nhưng khi có tiếng kiểng đánh Ngài đều nghe và trở về chùa, dầm mưa mà không ướt áo, bùn đất không dính chân. Chư tăng thảy đều tôn kính Ngài. Trong chùa có điện Bảo Nguyệt. Nơi phía Bắc của điện Ngài tự vẽ hình tôn giả La Vân và tượng Phật Định Quang và Nho đồng xõa tóc. Vẽ xong, mỗi buổi tối tướng đều phóng quang ánh sáng tỏ chiếu không dứt. Quan thái thú Thuỷ Hưng là Thái Mậu lại càng tôn trọng cung kính. Sau này thái thú Thái Mậu mất, Ngài tự thân đến gia quyến an ủi. Người nhà mộng thấy Mậu cùng chúng tăng thuyết pháp trong chùa, tất cả đều do thần lực của Ngài gia hộ. Vùng này vốn nhiều hổ báo, nhưng từ khi có Ngài về lưu trú, ngày đêm đi kinh hành, có khi gặp hổ sói, thì Ngài dùng tích trượng gõ lên đầu chúng nhè nhẹ chúng bèn bỏ đi hết. Từ đó lữ khách qua lại không còn e sợ, ai cũng được cảm hoá tin phụng Phật pháp. Ngài thường ở trong biệt thất nhập thiền, nhiều ngày liền không ra. Tăng chúng ở chùa sai một sa-di ra đó hầu hạ. Sa-di đến trông thấy một sư tử trắng đứng trên nóc am thất và trên hư không hoa sen bày đầy khắp. Chú tiểu kinh hoàng la lên, thì hiện cảnh đều biến mất. Những điều linh ứng đa phần là như thế. sau đó Văn Đế ban sắc lệnh đôn đốc Ngài về kinh đô. Tháng giêng năm Nguyên Gia thứ tám Ngài về đến Kiến Nghiệp. Vua Văn Đế đích thân ra nghinh đón, ân cần vấn an. Vua hỏi: đệ tử thường muốn trì trai, không giết hại nhưng thường thân không theo ý. Pháp sư từ xa đến vậy Ngài dạy pháp gì? Bạt-ma đáp: phàm đạo ở nơi tâm chứ không ở nơi vật, pháp do mình chứ không do người. Vả lại sự tu trì của đại vương cùng chúng có sự khác biệt. Thứ dân thân kém danh liệt, lời nói không oai. Nếu họ không khắc kỷ khổ tu thì làm sao trở thành người hiền lương. Còn đối với hoàng thượng, vạn dân làm con. Một lời lành của Ngài nói ra thì dân chúng vui vẻ hân hoan. Nếu người ban bố chính sách thiện lương thì chư dân đều hoan hỷ. Còn như không hình phạt lương dân vô tội không bắt dân lao dịch, thì sẽ khiến cho mưa thuận gió hoà, thời tiết ôn hoà làm cho trăm thứ lúa gạo và cây cỏ được tốt đẹp tươi xanh. Trì trai như thế mới thật rộng lớn. Đức không sát bao trùm như thế. Sao lại cho rằng trong nửa ngày không giết hại con vật nào thì gọi là trì trai. Văn Đế vỗ ghế than rằng: phàm tục mê mờ xa cách đạo lý cho nên thường bảo rằng giáo lý của Đạo là lời hư vọng. Còn hàng Sa-môn thì chấp vào chương cú câu kệ. Những lời của Pháp sư thật là khai ngộ sáng tâm, và hợp với lời lẽ trời người. Vua mời Ngài ở chùa Kỳ Hoàn, cúng dường tôn kính rất hậu. Các hàng vương tôn danh só đều tôn sùng. Không lâu sau Ngài khai đàn giảng Pháp Hoa và kinh Thập Địa tại chùa. Người đến nghe pháp rất đông. Sau có ngài Tuệ Nghóa cung thỉnh Ngài dịch bộ Bồtáùt Thiện Giới gồm hai mươi tám phẩm. Đệ tử về sau dịch thêm hai phẩm nữa. Gồm ba mươi phẩm, phần chưa dịch bị mất phẩm tựa và phẩm giới, nên ngày nay thành hai bản, hoặc còn gọi là Bồ-tát giới địa. Đầu năm Nguyên Gia thứ ba, thứ sử Từ châu là Vương Trung Đức ở Bành Thành thỉnh Sa-môn Thiên-trúc là ngài Y-diệp Ba-la dịch kinh Tạp Tâm. Vì trở ngại nên ngài Y-diệp dịch đến phẩm trạch thì ngưng lại. Do đấy mà Vương Trung Đức thỉnh Ngài dịch tiếp phẩm hậu, đầy đủ mười ba phẩm. Ngài lại dịch Tứ Phần Yết-ma, Ưu-bà-tắc ngũ giới, lược luận Ưu-bà-tắc nhị thập tứ giới. Tổng cộng hai mươi sáu quyển. Văn nghóa rõ ràng không sai Phạm văn. Bấy giờ chư ni chùa Aûnh Phước như Tuệ Quả, Tịnh Âm v.v… đến bạch với Ngài: Sáu năm trước có tám sư cô từ nước Sư Tử qua kinh sư bảo đất Tống chưa có ni giới. Sao có thể ni tăng cùng thọ giới, sợ rằng giới phẩm chưa trọn vẹn. Ngài bảo: giới pháp xuất pháp từ chư đại tăng. Nếu không theo bổn sự mà hành pháp yết-ma thì không đắc giới. Hãy xem lại duyên xuất gia của Bà Đại Ái đạo thì rõ. Chư ni sợ giới phẩm chưa đầy đủ nên cầu thỉnh Ngài ban giới pháp. Bạt-ma đáp: lành thay, nếu muốn giới phẩm thêm sáng tỏ thì ta rất tuỳ hỷ giúp đỡ. Nhưng ni chúng đất Tây vức chưa đủ niên lạp, lại chưa đủ mười người, nên để học Tống ngữ và nhờ cư só Tây vức thỉnh thêm chư ni nước ngoài về cho đủ mười người. Mùa hạ năm đó ở chùa Định Lâm Hạ, bấy giờ có tín thí đem hoa quả đến cúng dường. Những cánh hoa đặt cạnh toà ngồi của Ngài thì còn tươi, làm cho đại chúng tôn sùng Thánh thể. Sau hạ Ngài trở về chùa Kỳ Hoàn. Ngày 28 tháng 9 năm đó dùng trai chưa xong, thì Ngài trở về điện các. Sau có người đệ tử đến thấy Ngài an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi lăm tuổi. Trước khi nhập tịch, Ngài có viết ba mươi sáu bài kệ, tự bảo đã chứng nhị quả Tư-đà-hàm, rồi đưa thư cho đệ tử A-sa-la bảo: Sau khi ta mất đưa thư này cho tăng chúng Thiên-trúc và chư tăng ở đây xem qua. Lúc nhập diệt, Ngài ngồi xếp bằng đoan toạ trên sàng thiền, gương mặt vẫn toả sáng hồng hào như nhập định. Hàng ngàn chư tăng ni và cư só đến dự lễ an táng. Mọi người đều ngửi mùi hương lạ xông lên cùng thấy một con rồng dài khoảng một trượng từ nhục thân của Ngài bay lên hư không. Lúc này bốn bộ chúng đều vân tập. Trước giới đàn Nam Lâm y theo phong tục Thiên-trúc mà làm lễ trà-tỳ. Lúc ấy mây ngũ sắc chợt xuất hiện trên bầu trời xanh trong, khiến đạo tục ai nấy đều buồn thương. Nơi đó chúng tăng bèn lập bạch tháp thờ Xá-lợi của Ngài Cầu-na Bạt-ma. Chư ni muốn thọ giới đều thương khóc không ngớt. Lúc Ngài đến kinh sư, Tống Văn Đế muốn theo Ngài thọ giới Bồ- tát. Vì phải lo chống giặc ngoại xâm, nên Tống Văn Đế chưa kịp cầu thỉnh, mà Ngài đã viên tịch, khiến vua đau lòng nuối tiếc. Tống Văn Đế ra lệnh cho chư tăng đọc bài kệ di chúc của Ngài. Kệ viết: Trước đảnh lễ tam bảo Chư thượng toạ tịnh giới Cõi trược nhiều xiểm khúc Hư nguî không tín thành Mê hoặc không biết rõ Khinh chê người đức hạnh Thế nên chư Hiền Thánh Hiện thân mà ẩn tích Ta Cầu-na Bạt-ma Vận mạng thời đã đến Chỗ đạt được công đức Nay nói lời chân thật Chẳng đem tâm tà vạy Hy vọng cầu danh lợi Khuyên những người giải đãi Tăng trưởng các pháp Phật Đại pháp lực như thế Nhân giả hãy lắng nghe Xưa ở nơi rừng hoang Thấy được các tử thi Ruột gan trùng ăn hại Máu mủ chảy hôi hám Buộc tâm duyên nơi đó Biết thân vốn là vậy Thường thấy thân tướng này Xan tham không sợ lửa Vô số loài như thế Tu tập quán tử thi Xả bỏ điều nghe biết Y chỉ nơi rừng sâu Ngày đêm chuyên tinh tấn Chánh quán không hề quên Cảnh giới hiện trước mắt Cũng như xem mặt gương Người và ta đồng nhau Do đó tâm tịch tónh Thân nhẹ rất tịnh minh Trong sáng tâm an lạc Tăng trưởng đại hoan hỷ Tức không sanh chấp trước Biến thành cốt tiêu tướng Bạch cốt hiện trước mắt Huỷ hoại chân tay rụng Bạch cốt tất cũng diệt Vô cấu trí sáng ngời Điều phục pháp tướng tư (suy nghó) Bây giờ đắc như thế Thân an rất nhu nhuyến Phương tiện tu như thế Tiến đến chuyển tăng trưởng Vi trần niệm niệm diệt Hoại sắc chánh niệm pháp Đó là thân cứu cánh Sao duyên khởi tham dục Biết nhân của thọ sanh Như cá tham mồi câu Nó thọ vô lượng khổ Niệm quán sát na diệt Biết rõ chỗ nương kia Do tâm vượn khỉ khởi Nghiệp cùng nghiệp quả báo Theo duyên niệm niệm diệt Tâm sở biết bao loại Gọi là pháp sai biệt Tức là niệm tư tuệ Từng bước tu trọn vẹn Quán bao loại pháp tướng Tâm này chuyển rõ ràng Ta ở trong ngọn lửa Thấy rõ bốn niệm sứ Luật hạnh khởi từ đó Nhiếp tâm duyên trụ lại Khổ như kiếm lửa nóng Vì do khát ái chuyển Ái tận đạt Niết-bàn Thấy rõ khắp ba cõi Lửa cháy thiêu tử thi Hình thể thật nhỏ nhoi Hỷ hết, lạc phương tiện Thân từ từ sung mãn Thắng diệu tướng chúng sanh Đảnh, nhẫn cũng như vậy Là do tâm mình khởi Chân thật tánh phương tiện Từ từ lược cảnh giới Tịch diệt lạc tăng trưởng Đắc pháp thế đệ nhất Một niệm duyên chân đế Từng bậc pháp nhẫn sanh Gọi là đạo vô lậu Vọng tưởng cùng trần cảnh Danh tự tất xa rời Cảnh giới nghóa chân đế Trừ não được trong sáng Thành tựu quả tam-muội Rời cấu duyên trong sạch Không bổng cũng không trầm Tuệ tịnh như trăng sáng Lặng lẽ chánh an trụ Thuần nhất tướng tịch diệt Chẳng phải nơi tuyên thuyết Chỉ phật năng chứng biết Na-ba A-tỳ-đàm Thuyết năm quả nhân duyên Thật nghóa biết tu hành Chấp danh không thể thấy Chư luận bao loại khác Tu hành lý không hai Thiên chấp có thị phi Người đạt không tranh cãi Tu hành các diệu tướng Nay ta không tuyên thuyết Sợ người khởi vọng tưởng Cuồng hoặc mê thế gian Nơi kia tu lợi tướng Ta đã thuyết ít phần Nếu người có Tuệ sáng Biết là do duyên khởi Nơi nước Ma-la-bà Đắc được sơ quả Thánh A-lan-nhã sơn tự Đạo tích tu viễn ly Sau ở nước Sư Tử Nơi thôn Kiếp-ba-lợi Tấn tu đắc nhị quả Gọi là Tư-đà-hàm Từ đó nhiều lưu nạn Chướng tu đạo ly dục Thấy ta tu viễn ly Biết là nơi không nhàn Đều sanh tâm hy hữu Lợi dưỡng liên tiếp đến Ta thấy như lửa độc Tâm sanh thật nhàm chán Lánh loạn biển phù du Xà-bà cùng Lâm Aáp Nghiệp hành gió đẩy đưa Tuỳ duyên nơi đất Tống Vì vậy trong các nước Tuỳ lực hưng Phật pháp Chẳng hỏi chẳng nên hỏi Hãy thật chân thật quán Nay thân này diệt tận Tịch như ngọn lửa tắt -------------------------------------- <詞>TĂNG-GIÀ BẠT-MA Tăng-già Bạt-ma dịch là Chúng Khải. Vốn người nước Thiên- trúc, xuất gia từ nhỏ, anh tuấn lại có giới đức, khéo giải tam tạng, lại tinh thông Tạp tâm luận. Đời Tống Nguyên Gia năm thứ mười. Ngài đơn thân vượt qua các bãi sa mạc mênh mông để đến Kiến Nghiệp. Tánh khí của Ngài rất ng- hiêm túc, ngôn hạnh y theo giới luật, hàng đạo tục đều tôn kính và gọi Ngài là “Tam tạng Pháp sư”. Năm đầu niên hiệu Cảnh Bình Ngài trụ ở chùa Bình Lăng. Nghe danh đạo hạnh tinh thuần của Ngài, Tuệ Quán ở chùa Đạo Tràng bèn cùng Thỉnh Ngài về chùa Bình Lăng này và hết lòng tôn sùng cúng dường để biểu thị sự kính trọng giới đức. Bạt-ma và Quán cùng xây thêm tháp ba tầng, nay là tháp (chùa? ) Phụng Thành. Ngày đêm, Ngài hành đạo đọc tụng kinh điển không thấy mệt mỏi. Tăng chúng tu tập được Ngài đạo hoá rồi lưu bố ra khắp nơi. Đầu tiên Ngài thuyết giới phẩm cho ni chúng chùa Aûnh Phước. Như ni sư Tuệ Quả thọ lại cụ túc giới. Bấy giờ chưa đủ hai chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Nhờ Tam tạng khuyến hoá, không bao lâu chư Tỳ-kheo ni từ nước Sư Tử, Thiết-tát-la đều đến. Chúng bèn cung thỉnh Ngài truyền giới pháp lại. Đại chúng đồng tôn Ngài làm bậc Tam tạng. Tuệ Nghóa ở chùa Kỳ-hoàn đến kinh ấp, cùng Ngài tranh luận. Ngài đem tôn giáo mà hiển bày chứng minh lý pháp. Trở về, Tuệ Nghóa mới hội phục đức hạnh của Ngài, sai đệ tử Tuệ Cơ đem lễ vật cúng dường. Tăng ni theo Ngài tu học có hàng trăm người. Tống Bành Thành Vương Nghóa Khang sùng kính giới đức của Ngài nên thường thiết lễ trai tăng cúng dường. Ở kinh ấp tăng chúng rất thạnh hành. Ngài thông giải bộ kinh Tạp tâm, đọc tụng thông suốt. Ba tạng kinh điển tuy được dịch nhưng chưa nhuận sắc hiệu định lại. Vào tháng chín năm đó, ở chùa Trường can, Ngài Tuệ Quán triệu tập các học giả, đồng đến cung thỉnh ngài Tăng-già Bạt-ma dịch kinh Tạp tâm. Bảo Vân chuyển ngữ, Quán tự ghi chép. Khảo chứng tra cứu chu toàn rồi mới hoàn tất. Kế đến Ngài dịch bộ Ma-đắc Lặc-già phân biệt nghiệp báo, lược khuyến chư vương yếu kệ, và thỉnh Thánh tăng tục văn. Chí nguyện giáo hoá của Ngài không nhất định một nơi nào. Dịch kinh truyền pháp xong, Ngài từ biệt trở về bổn quốc. Đại chúng cố nài thỉnh Ngài lưu lại nhưng không được. Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín. Ngài theo thương thuyền trở về Tây vực, không biết Ngài tịch ở đâu. --------------------------------- <詞>ĐÀM-MA MẬT-ĐA Đàm-ma Mậ-đa dịch là Pháp Tú. Người nước Kế Tân. Lên bảy tuổi Ngài đã thông minh trong sáng, đoan chánh rất mực. Mỗi khi thấy chư tăng làm Phật sự Ngài vui mừng vô hạn. Cha mẹ rất thương con nhưng thấy con lạ lùng bèn cho phép xuất gia. Nước Kế Tân khi ấy có nhiều vị Thánh giả đạt đạo. Ngài liền tham phương cầu học minh sư, quán thông hết tất cả kinh điển và đặc biệt thâm nhập pháp thiền, liền bước vào cửa thiền nơi chốn cực vị áo diệu. Tánh Ngài trầm tónh thâm thuý mà tuệ giải sâu xa. Nghi dung lại đoan chánh rõ ràng. Khi mới sanh hai đôi mi liền với nhau. Vì vậy người đương thời gọi là Liên mi Thiền sư. Ngài thích đi du lịch chư phương vì có chí nguyện hoằng hoá. Sau đó đến nước Quy Tư. Đêm trước nhà vua mơ thấy thần nhân bảo: ngày mai sẽ có một vị đại phước đức vào nước này, đại vương nên cúng dường hậu đãi. Hôm sau vua ra lệnh cho các quan ngoài biên ải, có dị nhân vào nước thì mau bẩm báo lại. Quả nhiên hôm đó ngài Đàm-ma Mật-đa đến. Quốc vương ra tận biên thuỳ đón tiếp, rước về hoàng cung. Vua xin Ngài thọ ngũ giới và hết lòng cúng dường tứ sự. Tuy an cư nhưng Ngài không màng lợi dưỡng. Ơû đó ít lâu Ngài định sang nước khác. Thần nhân lại báo mộng cho vua: người phước đức sắp rời bỏ đại vương rồi. Tỉnh dậy nhà vua kinh hoàng, buồn bã cùng quần thần cố nài thỉnh Ngài lưu lại, nhưng không được. Sau đó Ngài vượt qua các bãi sa mạc đi đến Đôn Hoàng lập một tịnh xá nơi vùng đất hoang vu này, trồng cây khai khẩn vườn tược cả trăm mẫu, xây phòng xá thật trang nghiêm. Kế đến Ngài đến Lương châu. Nơi đền công phủ cũ Ngài xây Thiền đường, cùng thu nhận đồ chúng theo học thiền pháp. Chúng tu Thiền kéo đến rất đông. Ngài muốn đến vùng Giang tả truyền pháp. Niên hiệu Nguyên gia năm đầu, từ Lương châu Ngài đi đến đất Thục, dừng ở Kinh châu, cất thiền đường ở chùa Trường Sa. Do lòng thỉnh cầu thành khẩn của Ngài, qua vài ngày thì có được xá-lợi, toả ánh sáng chiếu đầy cả am thất, kh- iến cho hàng tăng tục đều phát tâm dõng mãnh tu hành. Không bao lâu Ngài lại theo thuyền đến kinh sư. Đầu tiên Ngài ở chùa Trung Hưng. Sau đó dời về chùa Kỳ-hoàn. Đạo phong của Ngài vang xa các vùng lân bang, truyền vào kinh đô, ai ai cũng đều sùng kính. Từ vua hoàng hậu cho đến thái tử công chúa, đều thiết trai tại cung thỉnh cầu cúng dường Ngài. Do lời thỉnh cầu, Ngài dịch kinh, tại chùa Kỳ hoàn. Ngài dịch các bộ Thiền kinh, Thiền pháp yếu, Phổ Hiền quán, Hư không tạng quán v.v… Ngài đem thiền đạo ra để giáo hoá. Tăng tục từ ngàn dặm xa xôi đều về thọ thiền học. Mọi người đều gọi ngài là “Đại Thiền sư”. Quan thái thú Bình Xương Mãnh Nghị ở Cối Kê, rất thâm tín chánh pháp, xem Phật sự là nhiệm vụ của mình. Nhờ nếm được Thiền vị, nên tâm càng cung kính ân trọng của Ngài. Một lần ngài cùng thái thú đi du hoá đến Ngân huyện ở Chiết Giang và xây dựng chùa tháp tại đó. Dân chúng vùng này tin theo bùa chú đồng bóng. Ngài ở đó giáo hoá cho họ sửa đổi tín ngưỡng, quy y Tam bảo. Từ Đông sang Tây ai ai cũng kính phục. Năm Nguyên Gia thứ mười Ngài trở về kinh đô, ở chùa Định Lâm hạ núi Chung Sơn. Ngài Mật-đa tánh tình rất điềm đạm, trầm tónh, thích cảnh non nước. Vì thế mà Ngài chọn nơi núi cao. Trên Chung sơn Ngài lập chùa Kiến Thượng vào năm mười hai niên hiệu Nguyên Gia. Só thứ nghe tin Ngài xây chùa, bèn cúng dường tịnh thí. Thiền đường tịnh xá vừa được xây cất xong, Tăng chúng từ muôn dặm hội tụ về tu tập thiền định, đọc tụng kinh điển làm cho đạo phong Ngài vang xa. Đạt Thiền sư là đệ tử thần túc của Ngài, cũng hoằng hoá truyền đạt đạo mầu làm cho thanh âm vang xa khắp nơi. Từ Tây vực sang phương Nam, những nơi Ngài đến đều lập ra đàn hội phu diễn giáo pháp như ở nước Kế tân vậy. Ngài được thần vương Ca-tỳ-la theo hộ vệ. Khi đến nước Quy Tư, thần vương hiện nguyên hình ngay giữa đường cáo từ Ngài trở về và thưa: Thần lực của Ngài biến thông khắp nơi nên không cần có con theo hộ vệ về Nam. Nói xong thì thần biến mất. Do vậy khi lập xong chùa trên Chung sơn Ngài bèn hoạ lại tượng của thần vương Ca-tỳ-la, treo trên vách tường. Tượng này hiển hiện ra nhiều điều linh dị. Ai chí thành cầu phước đều được như ý nguyện. Ngày mùng 6 tháng 7, niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín (4 4 2) Ngài viên tịch ở Kiến thượng, thọ tám mươi bảy tuổi. Tăng tục bốn phương đều thương tiếc. Phần mộ của Ngài được xây ở chùa Tống Hy trước Chung Sơn. --------------------------------------- <詞>THÍCH TRÍ MÃNH Ngài ở Tân Phong, Kinh Triệu, Ung châu. Bẩm tánh đoan minh, lực hạnh đều minh bạch. Thuở nhỏ đã may pháp tục, tu nghiệp rất chuyên cần, tiếng tụng kinh vang cả ngày đêm. Mỗi khi nghe đạo nhơn nói ở Thiên-trúc có di tích Phật Thích-ca và các kinh Phương đẳng. Ngài thấy lòng cảm khái sâu xa muốn hành hoá phương xa. Vào năm Giáp Thìn, Hoằng Thuỷ thứ sáu (nhà Tần) Ngài chiêu mộ Sa-môn đồng chí hướng được mười lăm người, phát tích từ Trường An, qua sông vượt suối đến ba mươi sáu chỗ. Đến thành Lương châu, từ Dương Quan theo hướng Tây đến vùng lưu sa (sa mạc). Trải qua bao gian nguy hiểm trở ngài đến các nước Quy Tư, Vu Điền. Từ Vu Điền đi hướng Tây nam hai ngàn lý, mới lên ngọn Thông lãnh, chín người đã quay trở về. Trí Mãnh cùng bạn lữ còn lại đi thêm một ngàn bảy trăm lý thì đến nước Bà-luân. Đồng bạn Trúc Đạo Cao lại mất. Trí Mãnh muốn trà-tỳ cho bạn, chợt thi thể biến mất, Ngài thương tiếc than thở không nguôi. Thế rồi người tự lực một mình tiến bước cùng bốn người vượt qua núi tuyết. Qua sông Tân-đầu đến nước Kế Tân. Trong nước có năm trăm vị La-ján thường qua lại ao A-nậu-đạt có vị đại đức La-hán thấy Trí Mãnh đến thì vui mừng. Mãnh hỏi thăm phương hướng. La-hán nói các việc của tứ thiên tử. Việc này có ghi đầy đủ trong bổn truyện. Ngài ở nước Kỳ-sa thấy văn bia đá của Phật bị xoá mờ. Lại thấy được bát Phật, màu sắc rõ ràng rực rỡ bốn bên. Ngài dùng hương hoa cúng dường, đảnh lễ phát nguyện. Nếu bát có linh ứng thì có thể nhẹ nặng. Bát liền nặng lên phải dùng sức mới có thể khiên nổi. Khi hạ xuống thì không có cảm giác nặng nữa. Đây là do đạo tâm cảm nên ứng như thế. Ngài lại đi về hướng Tây nam hơn mật ngàn ba trăm lý đến nước Ca-tỳ-la-vệ chiêm ngưỡng tóc, răng và xương nhục kế của Phật. Những di tích của Phật vẫn còn đầy đủ rõ ràng. Lại trông thấy rừng Kỳ-hoàn kiên cố và cây Bồ-đề hàng phục ma vương. Trí Mãnh rất vui mừng ở lại cúng dường đảnh lễ một ngày, lại đem đại y bảo cái che tượng hàng ma. Ngài đi chiêm ngưỡng quán sát các sự linh biến, mà dẫu ao trời Thiên-thệ cũng không thể hơn được. Sau đó Ngài đến nước Hoa Thị là kinh đô cũ của vua A-dục. Có vị đại trí Bà-la-môn là La-duyệt Tông rất được nhà vua nước này tôn trọng. Sa-môn xây pháp tòa bằng bạc cao ba trượng. Khi thấy Trí Mãnh đến Ngài hỏi: đất Tần có học đại thừa không? Đáp: đều học theo đại thừa cả. La-duyệt kinh ngạc khen rằng: hy hữu, hy hữu. Đó chẳng phải nơi Bồ-tát đạo hoá sao? Trí Mãnh ở đây có được bộ kinh Đại Niết-bàn Phạm bổn, lại được bộ tăng-kỳ luật và các kinh tiếng Phạm khác. Ngài phát nguyện lưu hành, sau đó Ngài trở về. Năm Giáp tý Ngài đi từ Thiên-trúc, ba người bạn đồng hành giữa đường đều tịch cả. Chỉ còn Ngài và Đàm Soạn trở về tới Lương châu. Ở đây Ngài dịch kinh Niết-bàn được hai mươi quyển. Năm Nguyên gia thứ mười bốn Ngài vào đất Thục, tháng 7 năm mười sáu Ngài viết lại truyện ký về chuyến du lịch của mình. Cuối năm đó Ngài mất ở thành đô. ------------------------------------- <詞>CƯƠNG-LƯƠNG DA-XÁ Dịch là Thời Xưng, người Tây Vực. Tánh Ngài cương trực ít ham muốn, thường đọc tụng A-tỳ-đàm, tinh tường luật tạng, nhưng chỉ chuyên về Thiền pháp. Mỗi lần nhập thiền Ngài ngồi suốt tuần chưa dậy. Ngài đem chánh thọ tam-muội để đi giáo hoá dân chúng ở các nước lân cận. Đầu niên hiệu Nguyên gia Ngài ra đi vượt bao núi non đến Kinh Ấp. Thái tổ Văn Đế rất tán thán vui mừng. Đầu tiên Ngài trụ tại tịnh xá Đạo Lâm ở Chung Sơn. Sa-môn Bảo Chí hết lòng tin phụng tôn sùng pháp thiền của ngài, do chư Sa-môn khẩn thỉnh Ngài dịch kinh Dược Vương, Dược Thượng quán và Vô Lượng Thọ quán hai bộ. Kinh này xiển dương bí quyết Tịnh độ, cho nên kinh dịch ra bèn được lưu truyền khắp nước Tống. Thái thú Bình Xương là Mãnh Nghị nghe tiếng Ngài rất khâm phục và đem lễ vật đến cúng dường. Nghị ra làm thái thú ở Cối Kê thỉnh Ngài xuống núi mà không được. Sau đó Ngài đến Giang Lăng. Niên hiệu Nguyên gia thứ mười chín ngài theo hướng Tây đi đến đất Thục. Nơi nơi Ngài đều hoằng hoá Thiền pháp. Về sau Ngài thị tịch ở Giang Lăng thọ sáu mươi tuổi. Đương thời có hai vị Sa-môn Thiên-trúc là Tăng-già Đạt-đa và Tăng-già La-đa cũng thâm nhập pháp thiền và du hoá sang Tống. Ngài Đạt-đa thường ngồi thiền ở trong núi. Một hôm đến giờ ngọ, Ngài xả thiền để dùng cơm, chợt có bầy chim mang trái cây đến để trước mặt Ngài. Ngài nghó ngày xưa khỉ vượn dâng mật ong Phật thọ nhận, nay chim mang trái cây đến sao ta không thọ. Nghó xong Ngài nhận trái cây và dùng. Nguyên gia mười tám, Vương Khang ở Lâm Tuyền thỉnh Ngài đến Giang Lăng kiết hạ an cư. Sau Ngài tịch ở Kiến Nghiệp. Tăng-già La-đa dịch là Chúng Tế. Cuối đời Tống Cảnh Bình, Ngài đến kinh sư (Kiến Nghiệp), thường đi khất thực ở trong nhân gian, và vào rừng toạ thiền, ở nơi vắng vẻ xa lánh trần tục. Năm Nguyên gia thứ mười, Ngài đến Chung Phụ an cư, chặt cỏ gai xây tịnh xá, tức tịnh xá Tống Hi. ----------------------------------- <詞>CẦU-NA BẠT-ĐÀ-LA Cầu-na Bạt-đà-la dịch là Công Đức Hiền. Là người Trung Thiên Trúc. Ngài học theo đại thừa nên đời gọi ngài là Ma-ha-diễn. Ngài thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Tuổi nhỏ đã học các bộ luận Ngũ minh, các môn thiên văn, ngôn ngữ, toán thuật v.v…..ngài đều uyên bác tinh thông. Một hôm xem quyển A-tỳ-đàm Tạp Tâm Luận, Ngài khâm phục yếu chỉ đại đạo, mới bắt đầu nghiên cứu Phật pháp. Song vì gia đình vốn ngoại đạo nên cấm chỉ việc học Phật. Ngài bèn bỏ nhà đi khắp nơi, để tầm cầu minh sư học đạo. Rồi Ngài xuống tóc xuất gia, chuyên tâm nghiên cứu học Phật. Sau khi thọ cụ túc Ngài bác thông cả tam tạng. Đối với người Ngài luôn có tâm từ bi nhu hoà, kính cẩn. Với thầy hết lòng kính lễ hầu hạ. Không bao lâu Ngài từ biệt thầy học tiểu thừa để tiến học pháp đại thừa. Một hôm thầy đại thừa bảo Ngài đem kinh trong rương ra. Ngài liền lấy bộ Đại Phẩm Hoa Nghiêm, rồi đem đến cho thầy. Thầy bảo: con cùng pháp đại thừa thật có duyên sâu xa. Sau đó ngài tụng đọc giảng, nói bộ kinh này không ai có thể chất vấn lại. Khi thọ giới Bồ-tát, Ngài trở về nhà khuyên nhủ cha mẹ quy y Phật pháp: “Nếu cha mẹ cứ giữ theo pháp ngoại đạo, thì con sẽ không trở về nữa. Nếu quy y Tam bảo thì sẽ thường trở về”. Nghe vậy cha mẹ liền bỏ tà theo chánh. Rồi Ngài đi đến nước Sư Tử truyền pháp. Nhưng thấy mình có duyên với phương Đông. Một hôm gió ngừng thổi làm cho thuyền không thể chạy. Người trên thuyền âu sầu lo lắng vì nước dự trữ đã hết. Ngài bảo: chúng ta hãy đồng tâm hiệp lực, chí thành niệm danh hiệu chư Phật, ắt sẽ được cảm ứng. Nói xong mọi người thầm đọc kinh chú cho đến lễ sám không ngừng. Không bao lâu gió thổi đến, mây đen vần vũ trên bầu trời, mưa đổ xuống để cho mọi người có nước uống. Nhờ tâm trí thành mà có cảm ứng như thế. Năm Nguyên gia thứ mười hai Ngài đến Quảng châu. Thứ sử Xa Lãng dâng biểu lên vua Tống Văn Đế liền sai sứ đi cung nghinh. Khi Ngài đến kinh sư vua bảo các danh tăng đương thời như Tuệ Quán, Tuệ Nghiêm v.v… tới lui thăm hỏi. Thấy tinh thần thanh thoát của Ngài, quý vị đều chân thành kính ngưỡng và giao tiếp học tập. Đầu tiên Ngài ở chùa Kỳ-hoàn, rồi bắt tay ngay vào việc hoằng dương Phật pháp. Vua Thái Tổ rất cung kính khâm phục Ngài. Một danh só tài ba đương thời là Nhan Diên Chi, cũng đến lễ bái. Thế là các danh só ở kinh sư đồng tới tham bái Ngài tấp nập. Đại tướng quân ở Bành Thành là Vương Nghóa Khang, thừa tướngVương Nghóa Tuyên, đồng tôn Ngài làm bậc thầy. Không bao lâu tăng chúng thỉnh cầu Ngài phiên dịch kinh điển. Vì vậy Ngài vân tập các danh tăng ng- hóa học dịch bộ Tạp A-hàm tại chùa Kỳ-hoàn và kinh pháp cổ tại chùa Đông An. Sau đó ở quận Đan Dương Ngài dịch bộ Thắng-man, Lăng- già. Đồ chúng vân tập hợp bảy trăm người phụ trợ trong công tác phiên dịch đều thâm sâu nhưng lưu loát, hiển bày rõ tâm chỉ. Sau Tiều Vương trấn ở Kinh châu thỉnh Ngài cùng đi theo. Đến nơi ông hỗ trợ Ngài trong việc xây cất tăng phòng, đắp tô tượng Phật v.v……..tại Tân tự. Ở đây Ngài dịch kinh Vô Ưu Vương, kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, kinh Vô Lượng Thọ, Niết-bàn, Ương-quật-ma-la, Tương tục giải thoát, Ba-la-mật liễu nghóa, Hiện tại Phật danh, Đệ nhất nghóa ngũ tướng lược, Bát kiết tường,… tổng cộng hơn một trăm bộ. Ngài bảo đệ tử là Pháp Dũng truyền dịch tiếng Ấn Độ. Tiếu Vương lại thỉnh Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm. Nhưng Ngài nghó mình chưa thông thạo tiếng Hán nên hổ thẹn vô cùng. Do đó Ngài ngày đêm lễ cầu sám hối, cầu Quan Âm gia hộ, một hôm Ngài mộng thấy một vị mặc y phục trắng, lưng đeo kiếm, tay cầm một đầu người, đến trước mặt Ngài hỏi: - Sao thầy ưu sầu. Ngài thuật lại các việc. Người kia bảo: không có gì phải lo. Người ấy bèn rút gươm ra chém đứt đầu Ngài, thay vào cái đầu khác đang cầm trong tay vào cổ. Cái cổ mới tự nhiên chuyển động như thường, rồi hỏi: _ Có đau không? Ngài đáp: không đau! Khi tỉnh dậy, lòng Ngài vui vô cùng. Hôm sau Ngài thông thạo tiếng Hoa. Thế là Ngài đăng đàn giảng kinh. Cuối niên hiệu Nguyên gia, Nam Tiều thường thấy những điềm mộng quái dị, có đến hỏi Ngài. Ngài bảo: Kinh sư sẽ có hoạ loạn phát sanh. Chưa đầy một năm, quả nhiên giặc Nguyên hung phản nghịch. Đầu năm Hiếu Kiến, Nam Tiều có âm mưu phản loạn, Ngài tỏ vẻ lo âu, nhưng chưa tìm được cơ hội cản trở. Tiều Vương hỏi duyên cớ, Ngài ân cần khuyên nhủ, nhưng Nam Tiều không nghe. Ngài rơi lệ nói: nếu Ngài không hồi tâm chuyển ý, bần đạo sẽ không lưu lại. Tiều Vương vì muốn có Ngài làm tin nên bức bách Ngài theo phản loạn. Tại Lương Sơn quân của Nam Tiều bị bại, thuyền của Ngài bị cháy rụi. Lúc này thuyền ở giữa dòng sâu, rất cách xa bờ, Ngài nghó khó thoát đại nạn. Ngài nhất tâm xưng danh hiệu Bồ- tát Quan Âm, rồi cầm một cây gậy trúc nhảy xuống dòng sông nước chỉ đến gối, lấy gậy dò thì nước chảy sâu và mạnh. Chợt có một đứa bé kéo Ngài vào bờ Ngài hỏi: - Người chỉ là một đứa bé sao vớt ta được. Hốt nhiên Ngài thấy mình ở trên cách bờ biển hơn mười bước. Ngài cởi áo choàng tính cho đứa bé, song Ngài không còn thấy đâu cả, nên biết mình đã được thần linh cứu mạng. Vua ra lệnh cho Vương Huyền Mô rằng nếu bắt được Ma-ha Diễn thì phải báo tin và giải về kinh đô. Tìm bắt được Ngài, Vương Huyền Mô bèn giải về kinh. Khi vào triều, Tống Hiếu Đế liền đến vấn an, ân cần hỏi han, biểu lộ tình cảm ngưỡng mộ và bảo: trẫm ngưỡng mộ từ lâu, nay mới gặp. Ngài bảo: thân nạn binh đao tưởng là nát thây. Nay được tiếp kiến không hiềm nghi, ấy là công tái tạo. Vua hỏi: ai đồng mưu làm phản? Ngài đáp: người xuất gia vốn không tham dự vào cuộc binh biến, nên tôi không biết những ai đồng mưu phản loạn. Nhưng tôi cùng Trương Sướng, Tống Linh Tú… Đều bị ép bức tham gia… thật không ngờ do túc duyên nên mới gặp nạn này. Vua nói: Ngài chớ lo. Vua sai người đưa Ngài trú ở hậu đường cúng dường y vật, cung cấp người xe hầu hạ. Khi Bạt-đà ở tại Kinh châu, mười năm thường viết thư, sớ qua lại với Nam Tiều. Sau khi đại bại, quân của Hiếu Đế tìm được lá thư đó dâng cho vua. Hiếu Đế thấy không dính dáng gì đến quân binh, nên càng tin tưởng. Một hôm vua hỏi: có nhớ thừa tướng không? Ngài đáp: tôi thọ sự cúng dường của ông ấy trong mười năm, sao lại quên được ân đức. Nay xin điện hạ cho tôi được dâng hương cầu siêu độ cho ông ta ba năm. Vua cảm động vì ân nghóa đó nên bằng lòng. Khi chùa Trung Hưng xây xong, vua mời Ngài sang đó cư trú. Trong một bữa tiệc, các vương công đại thần đều đầy đủ. Khi đó Ngài chưa kịp cạo tóc, nên mang đầu tóc bạc trắng đi đến. Vua ngước nhìn từ xa rồi bảo quan thượng thơ Tạ Trang: Vị Ma-ha Diễn này thật thông minh tài trí. Song việc sống chết của Ngài không còn bao lâu. Trẫm sẽ thử thách. Nhất định Ngài sẽ biết ý trẫm. Ngài vừa bước lên các bậc thang của cung điện. Vua bước ra ng- hinh đón nói: Ngài không cô phụ từ xa đến đây, nhưng còn một việc chưa làm xong. Ngài bảo: tôi từ xa đến kinh đô này gần ba mươi năm. Vua đối đãi với tôi thật rất ân cần thâm hậu. Tôi thật xấu hổ không đáng để thọ ân trọng. Tôi nay đã bảy mươi tuổi. Bây giờ chỉ còn cái chết chưa làm xong. Thấy ngài biện tài vô ngại, vua càng khâm phục và bảo Ngài ngồi kề bên vua. Quân thần đều ghé mắt nhìn. Chùa Tây Khởi ở lầu Phụng Hoàng tại Mạt Lăng vào mỗi giữa đêm, cánh cửa chùa thường phát ra âm thanh mà không thấy bóng người nào. Vài tăng só cũng thường giật mình, khiến tâm thần đại chúng cũng không an, nên đến cầu Ngài. Ngài bèn dâng hương khấn nguyện: túc duyên của quý vị vốn ở đây. Nay tôi xây cất chùa tại đây. Cũng thường thay quý vị mà hành đạo lễ bái. Quý vị muốn trụ lại đây, thì nên trở thành thiện thần hộ pháp. Nếu không trụ đây, thì xin đi nơi khác. Tối hôm đó nhiều người mộng thấy quỷ thần bay lên trời biến mất, từ ấy chúng tăng không còn bị quỷ thần quấy nhiễu. Niên hiệu Đại minh thứ sáu, các nơi bị hạn hán. Cầu đảo thần núi sông nhiều tháng mà không được bèn thỉnh Ngài cầu mưa. Nếu không được thì chớ gặp vua nữa. Ngài bảo: - Nương tựa Phật pháp lại nhờ oai lực của vua, thì nhất định trời sẽ mưa. Nếu không thành công thì tôi cũng không mặt mũi nào để nhìn vua. Ngài đến Điếu Đài ở Bắc Hồ. Chẳng màng ăn uống, Ngài dâng hương cầu mưa, âm thầm tụng kinh, đọc chú không ngừng. Sáng thứ hai, vào giờ thân, từ phía Tây bắc quả có mây hội tụ, trong khoảnh khắc gió thổi đến, mưa tuôn ào ạt. Hôm sau các quan đều đến chúc mừng. Vua triệu Ngài vào kinh tưởng thưởng. Ngài trường trai từ nhỏ đến cuối đời. Tay thường cầm theo bình hương. Mỗi khi thọ trai xong, lấy thức ăn dư thừa phân phát cho chim, chim chóc cũng thường đến đậu trên tay Ngài, không có chút sợ hãi. Tháng giêng năm Thái Thỉ thứ tư, ngài cảm thấy thân thể bất an, bèn cáo từ Tống Minh Đế và các quan. Ngày lâm chung ngắm mãi lên trời thấy chúng thánh và thiên hoa. Gần giờ ngọ thì tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Vua đau đớn vô cùng, nên phúng điếu thâm hậu. Các quan ai cũng buồn bã thương tiếc. Lại có Sa-môn Bảo Ý, tên tiếng Phạm là A-na Ma-đễ, họ Khang. Người Khang Cư gia thế ở Thiên Trúc. Trong niên hiệu Tống Hiếu Kiên Ngài đến kinh sư. Ngài thường toạ thiền ở dưới gốc cây, lại thông hiểu kinh luật. Mọi người đều gọi thầy là Tam tạng. Ngài giỏi về thần chú, biết việc kiết hung, lấy hương chà trên tay, cũng thấy việc trước kia của người. Tống thế tổ có cúng dường cho Ngài một ống nhổ cao hai thước thường đặt trước giường, rồi ăn trộm đến lấy đi, dùng chiếu quấn lại Ngài chú nguyện trong ba đêm liền thì ống đồng hoàn lại chỗ cũ. Tăng tục bốn phương đều kính mộ cho là thần dị. Tề Văn Tuệ, Văn Tuyên và Lương Thái Tổ đều hành kính lễ như bậc thầy. Cuối năm Vónh minh Ngài mất ở nơi sở trụ. ------------------------------------ <詞>CẦU-NA TỲ-ĐỊA Dịch là An Tiến, người Trung Thiên-trúc, xuất gia từ thuở nhỏ. Bổn sư là Pháp sư đại thừa người Thiên Trúc tên Tăng già Tư. Ngài là người thông minh nhớ lâu, chuyên cần đọc tụng kinh kệ. Hiểu biết thông suốt hơn hai vạn lời các kinh đại tiểu thừa. Lại học cả ngoại điển khéo giải âm dương, việc chứng nghiệm đương thời chẳng phải một lần. Đời Kiến Nguyên Sơ nhà Tề Ngài đến kinh sư ở chùa Tỳ-da-ly. Ngài cầm tích trượng theo đồ chúng uy nghi thật nghiêm túc. Các hàng vương công đại thần đều cung thỉnh. Đầu tiên Ngài Tăng-già Tư ở nước Thiên Trúc, sao chép kinh tạng những bài thí dụ thiết yếu soạn ra trong kinh tạng được một bộ, gồm có Bách sự (một trăm việc) để dạy cho người mới học. Tỳ-địa học thông cả nghóa lý yếu chỉ. Mùa thu năm Vónh Bình thứ mười Ngài dịch ra Tề văn, gồm có mười quyển, gọi là kinh Bách Dụ. Ngài cũng dịch kinh Thập nhị nhân duyên và kinh Trưởng giả Tu- đạt, mỗi bộ một quyển. Từ Đại Minh về sau mới hết dịch kinh, và việc lưu truyền đều tốt đẹp. Tỳ-địa là người sâu xa rộng thoáng nên người người từ vạn lý đều quy tập về. Bọn thương nhân ở Nam Hải thường đến cúng dường. Ngài thọ nhận hết để làm Pháp sự. Ngài xây chùa Chánh Quán ở Kiến Nghiệp, có đầy đủ lầu cát điện đường trang hoàng lịch sự. Năm Trung Hưng thứ hai Ngài mất ở nơi cư trú. Đầu nhà Lương có Ngài Tăng-già Bà-la, cũng là học tăng từ nước ngoài đến. Dung nghi đoan chánh, Ngài giỏi về đàm luận. Khi đến kinh sư cũng dừng lại ở chùa Chánh Quán. Vua tiếp đãi ân cần sắc cho Ngài ở chùa Chánh Quán nơi điện Thọ Quang. Ngài dịch các bộ: Đại Dục Vương Kinh, Giải Thoát Đạo Luận v.v… các vị Thích Bảo Xương, Viên Đàm v.v… ghi chép lại. Luận rằng: công của việc truyền dịch thật to lớn vậy. Chẳng phải không được mà tự xưng lên vậy. Đức Như Lai sau khi diệt độ, các vị trưởng lão như Ca-diếp, A-nan, Mạt-điền-địa cũng trụ trì đầy đủ tám vạn pháp môn. Việc truyền đạo cũng có nhiều vị đầy đủ trí tuệ công đức. Thánh tuệ vẫn tỏ soi rực rỡ. Về sau có các ngài Ca-chiên-diên-tử, Đạt-ma Đa-la, Đạt-ma Thi-lợi Đế v.v… cùng bác thông các bộ luận, các vị đều có trước tác giảng thuyết. Đều là tổ thuật của tứ hàm, tông quỹ của tam tạng. Đến thời Long Thọ, Mã Minh, Bà-tẩu Bàn-đậu, đã làm cho các bộ Phương đẳng thâm kinh càng bao quát ý nghóa. Phát nguyên từ bộ kinh Bát-nhã lưu quán khắp song lâm, tuy gọi là hoá hợp xương long mà cũng đắc được bổn tánh, nhờ vậy mà Tam bảo pháp luân không đoạn tuyệt. Trong năm trăm năm đầu còn gọi là thời kỳ chánh pháp tại thế. Phàm các việc thần hoá đến các việc xa gần này, một âm thanh, một ánh sáng làm chấn động cả nơi khác. Một điện đài một bảo cái che phủ các nước, thẳng đến vùng Ca-tỳ. Cho dù đường xa trắc trở sông núi chập chùng, dùng thần lực của thánh nhơn thì vượt qua dễ dàng không còn ngăn trở. Rồi khi duyên vận đồng cảm, danh giáo dần dần khế hợp. Hoặc xưng là chủ Phù-đồ. Hoặc gọi là đại thần Tây Vực. Cho nên đời Hán Minh Đế, sắc chiếu cho Sở Vương Anh rằng: vương tụng vi ngôn của Hoàng lão hơn là nhân tự của Phù-đồ và mộng thấy người nên sai sứ sang Tây vực. Từ đó có ngài Ma-đằng Trúc Pháp Lan hoằng hoá đạo pháp. Trải thân ngàn dặm gian khổ rồi cũng đến. Nhưng Di, Hạ không đồng, âm vận ngăn cách, tự chẳng phải là tịnh quát, lời di ngôn lãnh hội thật khó khăn, lại có các vị Chi Khiêm, Nhiếp Thừa Viễn, Trúc Phật Niệm, Thích Bảo Vân, Trúc Thúc Lan, Vô-la-xoa v.v… cùng giỏi cả Hán lẫn Phạm, nên cùng tận lực phiên dịch. nhất ngôn tam từ yếu chỉ phân minh. Về sau lại dùng cung thương xứ này để tô sức thành chế. Luận rằng: tuỳ phương tục ngữ có thể khai thị chánh nghóa. Trong chánh nghóa, tuỳ theo chánh nghóa mà gọi như thế. Về sau có ngài Cưu-ma La-thập, là bậc uyên bác thần học sâu xa. Ngài chu du khắp vùng châu thổ hiểu hết các phương ngôn. Lại hận văn dịch xưa chưa thoát ra hết những lời tốt đẹp. Ngài liền đem các bổn chữ Phạm ra dịch lại. Cho nên hai bản dịch kim cổ đều khác nghóa. Bây giờ có các vị học giả Sanh, Dung, Ảnh, Duệ… cùng phiên dịch giải nghóa hiệu đính với Ngài. Ở Trường An phiên dịch Ngài được xưng đầu. Khi đó ở Dao Hưng có Hoàng Kỳ, sùng kính Tam bảo, sai người cầu thỉnh pháp tạng. Pháp môn tam tạng có duyên ắt sẽ gặp. Từ cuộc Đông du mà Phật đạo trở nên hưng thạnh tại đây. Phật Hiền Tỳ-kheo ở Giang Đống dịch bộ Hoa Nghiêm. Đàm Vô Sấm ở Hà Tây dịch bộ Niết-bàn diệu giáo và chư sư dịch ra bốn bộ A-hàm, năm bộ Kiền-độ Bà-sa….đều đem pháp bổn lý hợp với tam ấn. Mà Đồng Thọ có sám hối ở biệt thất. Phật Hiền có di tích tẩn xuất. Sự thật khảo cứu ghi chép rõ ràng. Hoặc vì thời vận kiêu bạc đạo mất người lìa. Cho nên cảm ứng thấy được ở đây. Nếu dùng tích gần mà mong cầu, thì cũng là một loại ngọc khuê chương. Lại từ ngài An Thế Cao, Vô Sấm, Pháp Tổ, Pháp Tạc v.v……. cùng am thông lý lẽ, giàu nhân nghóa mà thành. Sự nghiệp chưa được mà mất đi do nghiệp có truyền cảm, mà nghóa không trái xa, cho nên La-hán tuy các lậu đã tận vẫn còn chướng nạn. Tỷ Can tuy lòng chung trí thành mà còn chiêu lấy hoạ mổ bụng chẳng phải là như vậy sao? có ngài Pháp Độ ở Thiên Trúc, tự nói: chuyên vào tiểu thừa và cùng trái xa tam tạng. Aên dùng bình bát vốn chẳng phải chỗ uy nghi, phục đất cùng hướng, lại là chỗ không sám pháp. Vả lại Pháp Độ sanh ở Nam Khang không từng qua Thiên Trúc. Cuối đời gặp ngài Đàm-ma Da-xá, lại là thầy Đại thừa, muốn dầm thân nơi khe rạch Ngài ra khác lạ. Nhưng mà người đạt đến lượng quân tử chưa từng né tránh. Ni chúng từ đầu đã được Ngài đạo hoá. Phàm người nữ lý giáo thì khó thông mà sự tích thì dễ làu. Nghe nhân quả thì lo sợ, thấy biến thuật thì bôn ba, tuỳ nghóa rơi vào đó tức là đây vậy. Thiết nghó chánh pháp sâu xa đầy cả tám vạn ức đem phiên dịch ra chỉ có hơn ngàn quyển, cũng bởi xa xôi ngăn trở nên sự lưu bố khó khăn. Những vị đi lưu hoá tìm cầu kinh điển, trong mười người thì mất hết tám chín. Đó là các vị Pháp Hiển, Trí Mãnh, Trí Nghiêm, Pháp Dũng v.v… Khi đi thì kết bạn thành đoàn, trở về thì chỉ còn có một. Thật là thương tiếc! Nên biết một bộ kinh đạt đuợc như vậy, há chẳng phải là ban cho thọ mạng mà học đồ khuynh thế duy chỉ cầu một bộ. Cho là nói nhiều thì đa hoặc. Đây bởi rơi vào cái học từ chương, chẳng thể nói là đã thông lời di huấn. Vì sao? Phàm muốn khảo cứu lý vị, quyết đoán chánh pháp, há có thể đoạn lòng mà không rộng cầu kinh điển, dịch trở thành mai một. Cam lộ chánh pháp nên tìm cầu, vô lượng bảo châu ẩn mà không dùng, thật là đáng tiếc lắm! Nếu quán xét thiền luật, dung nhiếp các kinh luận, tuy là dứt ấm mà huyền phong còn lay động. Ta-la biến diệt Phật tánh còn rõ ràng, ân đức Năng nhơn còn xa, đức truyền dịch còn gần, đạt được thân mạng chẳng rõ ràng sao?  CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 4 CHU SÓ HÀNH Chu Só Hành là người Dónh Xuyên. Chí nghiệp muốn hoằng hoá du phương dù khó khăn cũng không thay đổi tiết tháo. Tuổi nhỏ đã mong cầu thoát tục. Từ khi xuất gia về sau chỉ chuyên việc kinh điển. Xưa thời Hán Linh Đế, có ngài Trúc Phật Sóc dịch kinh Đạo hành, tức cựu bổn tiểu phẩm.Văn cú giản lược, ý nghóa chưa đầy đủ. Só Hành thường đến Lạc Đương giảng kinh Đạo Hành, biết rõ văn chương ẩn chất chưa được rõ ràng. Mỗi lần như vậy thường than rằng: yếu chỉ Đại thừa của bộ kinh này, về dịch lý chưa đủ đầy, nên lập chí quên thân tìm cầu đại bổn. Thế rồi vào năm thứ năm đời Cam Lộ nhà Nguî, Ngài phát tích từ Ung châu, đi hướng Tây vượt qua các vùng sa mạc thì đến Vu Điền. Quả là đắc được chánh bổn Phạm thư gồm chín mươi chương, bảo đệ tử là Phí Như Đàn, đem kinh trở về Lạc dương. Ít lâu sau thì chư học chúng Tiểu thừa bèn tâu với vua rằng: - Sa-môn đất Hán muốn dùng sách Bà- la-môn làm mê hoặc chánh điển. Vua là bậc minh chủ nếu không cấm đoán để mang sang làm mê mờ đất Hán là có lỗi. Vua liền ra lệnh cấm không cho mang kinh đi. Só Hành rất buồn bã bèn cầu đốt kinh để làm chứng, vua bằng lòng. Thế là Ngài cho đốt củi trước điện để đốt lửa. Só Hành đến bên ngọn lửa phát nguyện rằng: - Nếu đại pháp được truyền sang đất Hán thì kinh này đốt không cháy. Nói xong thì ném kinh vào lửa, lửa tắt mà kinh không bị cháy một chữ, bìa da như cũ. Đại chúng rất kinh ngạc cảm phục, cho là thần cảm, bèn đưa tiễn đem kinh đến chùa Thuỷ Nam ở Trần Lưu Thương Viên. Bấy giờ cư só ở Hà Nam là Trúc Thúc Lan vốn là người Thiên Trúc. Người cha sang tî nạn ở Hà Nam. Thúc Lan từ nhỏ rất thích săn bắn. Sau có lần chết giả thấy đủ các nghiệp quả, nhơn đó cải hối tôn sùng chánh đạo. ông nghiên cứu học thông các kinh điển, khéo nơi Phạm, Hán. Lại có tỳ-kheo Vô-la-xoa,là đạo só Tây vực. Ngài đọc bản văn Phạm, Thúc Lan dịch ra Hán đó là bộ Phóng Quang Bát-nhã, bổn này vẫn còn tại Dự chương. Niên hiệu Thái An thứ hai có Chi Hiếu Long cùng Thúc Lan viết năm bộ, so sánh làm định bổn, lúc này chưa có phẩm mục. Cựu bản có mười bốn, viết lại thành hai mươi quyển. Só Hành mất ở Vu Điền thọ tám mươi tuổi. Khi làm lễ trà-tỳ lửa cháy hết củi mà thân vẫn còn nguyên, đại chúng đều kinh dị bèn chú nguyện rằng: nếu thật đắc đạo pháp thì nên tan huỷ. Ưùng nghiệm như lời nguyện. Sau đó xây tháp cúng dường. Đệ tử của Ngài là Pháp Ích trở về đã thuật lại sự việc này. -------------------------------------- <詞>CHI HIẾU LONG Chi Hiếu Long là người Hoài Dương. Thuở nhỏ mà phong thái đã đáng trọng, lại thêm thần khí sáng suốt rõ ràng cao luận đương thời. Ngài học các kinh điển tiểu phẩm cho là tâm yếu. Trần Lưu, Nguyễn Chiêm ở Dónh Xuyên, cùng kết giao tri âm, đời gọi là bát đạt, có lúc diễu cợt nói rằng: Đại Tấn Long Hưng lấy thiên hạ làm nhà. Sa-môn vì sao không bỏ hết cà-sa để tóc mặc pháp phục Hán Hồ. Hiếu Long nói: Hoài bão tiêu diêu, duy chỉ lấy sự yên tịnh làm chí thành. Cạo tóc huỷ hình, cải phục biến hình, kia cho thì ta nhục, ta bỏ thì kia vinh. Cho nên vô tâm là quý mà còn hơn cả quý. Vô tâm mà đủ thì còn hơn là đủ. Người biết cơ biện thích thời đều như vậy cả. Bấy giờ Trúc Thúc Lang đầu tiên dịch kinh Phóng Quang. Hiếu Long lúc này đã ưa thích vô tướng, được bộ kinh kia liền duyệt xem qua hơn mười ngày, liền đem ra giảng dạy. Sau không biết Ngài mất ở đâu. --------------------------------- <詞>KHANG TĂNG UYÊN Là người Tây Vực, sanh ở Trường An. Dung mạo là người Thiên Trúc, mà ngôn ngữ là Trung Quốc. Ngài hình dung đoan chánh chí ng- hiệp sâu xa. Tụng hai bộ Bá- nhã, Đạo hạnh, Phóng quang, tức đại tiểu phẩm vậy. Đời Tấn Thành Ngài cùng Khang Pháp sướng, Chí Mẫn Độ…….. đều qua sông. Sướng có tài khéo qua lại chấp vào nhân vật ng- hóa thỉ luận. Xướng thường cầm phất trần, khi gặp khách thì đàm luận cả ngày. Dữu Nguyên Quy nói với Sướng rằng: Phất trần này làm sao để thường tại. Sướng đáp: người ngay thì không giữ, người tham thì không cho, cho nên được thường tại. Mẫn Độ cũng thông minh bác học có tiếng. Như dịch kinh luật nay vẫn còn lưu hành ở đời. Tăng Uyên tuy có đức hơn Sướng và Độ nhưng cuộc sống thanh bạch tự đủ. Ngài đi khất thực để sống mà mọi người không biết. Sau đó nhơn một lần đi khất thực gặp được Trần Quận Aân Hạo. Hạo mới hỏi lý thâm diệu của kinh Phật mà Ngài kại biện giải nghóa lý của tục thư. Uyên không thể luận lại nên thay đổi quan điểm. Lang Da Vương Mậu Hoằng chê cười Ngài mắt sâu mũi cao. Ngài bảo: mũi là núi của mắt. Mắt là vực thẳm của mặt. Núi không cao thì không linh. Vực không sâu thì không trong. Người bấy giờ cho đó là câu đối đáp hay. Sau Ngài đến núi Dự Chương lập chùa, cách ấp vài mươi lý, nằm cạnh bên sông núi, có rừng cây sum suê. Bậc danh tăng thắng đức quy tụ lại rất đông. Vì Ngài thường để tâm vào kinh Phạm, cho nên lý không thật sâu xa. Lại thêm giảng thuyết, quần chúng qua lại rất đông. Sau Ngài mất tại chùa. ------------------------------------------ <詞>PHÁP NHà Ngài là người Hà Giang, đoan chính có khí độ. Thuở nhỏ giỏi các môn ngoại điển lại thông kinh điển, y mạo só tử đều dựa vào tư bẩm. Lúc này nương vào đồ chúng có công mà lý Phật chưa thông. Pháp Nhã bèn cùng các bạn là Khang Pháp Lãng v.v……….đem một số kinh điển phối hợp với ngoại thư, trình bày giảng dạy ra. Đem cách nghóa là bộ Tỳ Phù Đàm Tướng v.v… Cũng biện cách nghóa để dạy đồ chúng. Pháp Nhã có phong thái chững chạc giỏi về quy củ. Kinh Phật ngoại điển đều giảng nói thông suốt. Ngài cùng với Đạo An, Pháp Thái mỗi vị đều giải thích lý kinh đến chỗ cùng tận. Sau Ngài lập chùa ở Cao Aáp, tăng chúng cả trăm nghe lời huấn dụ không biết mỏi mệt. Đệ tử của Ngài là Đàm Tập ghi chép lại lời tiên sư, khéo nơi ngôn luận, nên được Triệu thái tử rất kính trọng. <詞>KHANG PHÁP LÃNG Ngài là người Trung Sơn, tuổi nhỏ xuất gia khéo giữ gìn giới tiết. Thường khi tụng kinh ngài nhìn thấy vườn cây lộc uyển, và than rằng: ta đã không gặp được Thánh nhân, thà không thấy vùng đất Thánh này. Thế rồi Ngài thệ nguyện sẽ đến thành Ca-di chiêm ngưỡng di tích. Sau đó cùng bốn vị đồng học xuất phát từ Trương Dạ, đi hướng Tây qua vùng sa mạc. Trải qua ba ngày, đường đi tuyệt mất dấu chân người. Chợt thấy bên đường có một ngôi chùa. Cây cỏ cao hơn đầu người. Có ngôi nhà nát hơn hai gian. Mỗi gian đều có một người. Một người tụng kinh một người đang bị bịnh lị. Hai người cách phòng không lo liệu cho nhau, phân dãi khắp phòng thật là hôi thối. Pháp lãng nói với Pháp Đạo: người xuất gia đồng đạo, lấy pháp làm thân, không thấy thì thôi, đã nhìn thấy sao nỡ bỏ đi. Ngài dừng lại đó sáu ngày, lo tắm rửa cúng dường than thuốc cho người bị bịnh. Đến ngày thứ bảy thì thấy trong phòng đầy hương hoa. Lúc này mới hiểu rõ đây là thần nhân. Vị kia nói với Pháp Lãng: vị ở phòng bên là hoà thượng của ta. Người đã đắc vô học, người có thể qua đó thăm hỏi. Pháp Lãng qua thăm hỏi, nhơn đó nói với Lãng: các vị đều là người nhập đạo thành tín không nên đi sang nước khác làm gì vô ích. Duy nên tự lực hành đạo nhưng Pháp Lãng công nghiệp còn ít chưa đắc sở nguyện nên trở về nước Chấn Đan làm đại Pháp sư. Thế là bốn người bạn kia không đi sang Tây vực nữa, mà ở lại đây chuyên tinh nghiệp đạo. Một mình Pháp Lãng đi qua các nước nghiên tầm kinh luận. Sau đó trở về Trung Sơn, môn đồ cả trăm đến nghe giảng pháp. Sau không biết ngài tịch lúc nào. Đệ tử Lãng là lệnh Thiều, người ở Nhạn môn, họ Lữ, thuở nhỏ đi đây kia săn bắn, sau phát tâm xuất gia thờ Lãng làm thầy, siêng năng tu học, đặc biệt giỏi về Thiền số, mỗi lần nhập định mấy ngày chưa xuất, sau đến núi Liễu Tuyền, hang Tạc vui tu. Sau khi Lãng mất thì khắc mộc làm tượng, sớm tối lễ thờ. ------------------------------------- <詞>TRÚC PHÁP THỪA Chưa rõ Ngài là người ở đâu. Tuổi nhỏ mà thần ngộ siêu tuyệt, thông lãm hơn người. Ngài nương vào Trúc Pháp Hộ làm sa-di. Có chí khí lại thuần chơn trong sạch. Ngài Pháp Hộ rất khen ngợi, Pháp Hộ đi hoá đạo Quan Trung được tài vật dồi dào. Bấy giờ ở Trường An có nhà quý tộc nọ muốn phụng trì đại pháp, muốn thử đạo đức của ngài Pháp Hộ, đến thưa với Ngài cần gấp hai mươi vạn. Pháp Hộ chưa trả lời. Pháp Thừa mới mười ba tuổi đứng hầu bên thầy liền nói: Ý hoà thượng bằng lòng rồi đấy. Khi khách lui ra, Pháp Thừa thưa với thầy: Xét thần sắc của người này chẳng phải cầu tiền, chỉ là thử xem đạo đức của hoà thượng thôi. Pháp Hộ nói: ta cũng cho như vậy. Sáng hôm sau vị khách này đem bà con hơn trăm người, đến chỗ Pháp Hộ xin thọ giới. Xin lỗi vì ý hỏi tiền hôm qua. Thế là danh tiếng của thầy lưu truyền khắp nơi. Pháp Thừa sau đó đến Đôn Hoàng lập chùa, quên thân vì đạo, dạy học không mỏi mệt, khiến cho các loài vật hung dữ cũng biết lễ lạy. Sau Ngài mất tại bổn tự. Tôn Xước trong Đạo Hiền luận đã so sánh thừa với Vương Tuấn Xung rằng: Pháp Thừa phong tư hiếm có, cơ ngộ sáng tỏ, tuy đạo tục khác nhau mà tiết tháo ngang dọc tương đương. Cao só Khỏa có viết truyện khen ngợi. Trúc Pháp Hạnh, Trúc Pháp Tồn đồng học của Thừa đều ẩn cư núi rừng, phẩm chất vang danh đương thời. ----------------------------------- <詞>TRÚC TIỀM Trúc Tiềm tự là Pháp Thâm, họ Vương, người Lang Da. Ngài là em của thừa tướng nhà Tấn là Công Quách ở Vũ Sương. Năm mười tám tuổi xuất gia, thờ ngài Lưu Nguyên Chơn ở Trung châu làm thầy. Nguyên Chơn có tài đã sớm nổi tiếng. Tôn Xước khen rằng: Trong sạch thanh bần, ẩn chỗ an nhàn. Pháp thể này là do Lưu công. Luận nói việc trạm trổ trang sức, khai nhãn chiếu đu, hoài bão trong lòng, hốt nhiên rõ ràng như thế. Tiềm rất cảm phục. Từ đó về sau xa lánh phù hoa, chuyên sùng học Phật. Mỗi lời của Ngài nói ra đều phù hợp với đạo lý, phong thái tư dung đều rõ ràng như thế. Đến năm hai mươi bốn tuổi Ngài khai đàn giảng Đại Phẩm Pháp Hoa. Đã uẩn kín sâu xa lại khéo ăn nói. Vậy nên người quán thông ý đạo số cả năm trăm. Năm Vónh gia nhà Tấn Ngài lánh nạn qua vùng Giang Tả. Trung Tôn Nguyên Hoàng và Tiêu Tổ Minh Đế, thừa tướng Vương Mậu Hoằng, thái uý Dữu Nguyên Quy, nghe danh đức của ngài đều kính phục. Trong năm Kiến Vũ Thái Ninh. Trúc Tiềm thường mang giày vào trong điện, người bấy giờ đều gọi ngài là kẻ só phương ngoài, vì trọng đức vậy. Trung Tông, Tiêu Tổ băng hà, không bao lâu Vương Dữu lại mất. Ngài bèn ẩn tích lên núi để tránh việc thế sự. Người tìm đến Ngài hỏi đạo lại kết thành bạn ở Sơn Môn. Ngài nhàn nhã giảng pháp hơn ba mươi năm, hoặc giảng Phương đẳng, hoặc nói Thích, Lão Trang. Cho đến khi Ai Đế hiếu trọng Phật pháp, sai sứ hai lần lên ân cần thỉnh Ngài. Trúc Tiềm tiếp chiếu chỉ nên phải về cung khuyết, ở nơi Ngự Diên Ngài khai giảng Đại phẩm. Vua và triều thần đều khen ngợi. Ơû nơi chỗ giảng văn tác tướng. Triều đình cho đến bậc dân dã đều cho là bậc chí đức. Nhờ Ngài mà hàng tăng tục đều thông suốt, tiên triều lại hết lòng kính trọng. Có lần Trúc Tiềm ở chỗ giảng văn gặp Lưu Khôi người nước Phái hỏi rằng: đạo só vì sao lại thường đến cửa vua (cửa son) Tiềm đáp: ông thấy đó là cửa son còn bần đạo thì thấy đó là cửa bồng (cỏ). Quan tư không thấy Ngài đạo đức thuần phát lòng càng kính trọng, lấy lễ thầy trò tiếp đãi, vài lần mời thỉnh Ngài vào cung. Ngài tuy theo thời vận Đông Tây mà lòng cảm thấy không vui, bèn xin trở về núi để toại với tiên chí. Tiêu dao nơi cảnh núi non vài năm. Chi Độn sai sứ đến muốn mua một ngọn núi nhỏ ở Ốc châu bên cạnh Ngưỡng sơn để làm chỗ ở ẩn. Tiềm đáp: Muốn đến mua cho sao không nghe Sào Trung mua núi mà ở ẩn trốn. Sau đó có đạo só người Cao Ly viết thư nói với Ngài rằng: Thượng Toạ Trúc Pháp Thâm, đệ tử của Lưu Công ở Trung châu, thể đức trinh bạch cao lớn, đạo tục đều noi theo. Trú tại kinh ấp duy trì pháp tạng. Trong ngoài đều chiêm ngưỡng vị thầy hoằng đạo. Không bao lâu đạo nghiệp tinh cần không ngại trần tục khảo. Am thất bên Sơn Trạch, tu đức nơi chốn thanh nhàn. Hiện nay ở bên núi ngưỡng cùng nhóm họp bạn đồng du luận đạo thuyết nghóa. Ơû nơi cao mà đều có ngâm vịnh xa gần. Ngài mất vào năm Tấn Ninh Khang thứ hai ở Sơn Quán. Thọ tám mươi chín tuổi. Vua Hiếu Vũ Liệt Tông có chiếu lệnh ghi: “Pháp sư Trúc Tiềm lý ngộ sâu xa, phong lãm thanh thoát. Từ bỏ vinh hoa, sống đời thanh bạch. Sống ở núi non tinh cần tu tập. Lại nói pháp cứu độ chúng sanh, an nhiên thị hoá làm ta thống khổ ở trong lòng, đem tiền mười vạn cùng ngựa xe đưa tiễn”. Tôn Trác đem Ngài so sánh với Lưu Bá Luân. Luận rằng: Pháp Thâm đạo đức uyên thâm tiếng đồn xa khắp. Lưu Linh tánh tình phóng khoáng lấy vũ trụ làm nhỏ. Tuy công nghiệp của Lưu không cao lớn bằng mà thể sâu rộng thì đồng. Bấy giờ ở Ngưỡng Sơn lại có Trúc Pháp Hữu, chí nghiệp mạnh mẽ, bác thông cả tam tạng. Thường theo Pháp Thâm thọ học A-tỳ-đàm. Năm hai mươi bốn tuổi có thể giảng thuyết. Sau Ngài lập chùa Nam Đài ở thành Diệm huyện. Trúc Pháp Uẩn ngộ giải nhập huyền, càng khéo Phóng Quang, Bát-nhã. Khang Pháp Thức cũng có công nghóa học. Ngài thường gặp Khang Hân. Hân thường cho mình bút đạo thì hơn cả Thức. Pháp Thức và Khang Hân, mỗi bên lập Vương Hữu quân thảo. Người bàng quan trộm lấy cho là tài vật không thể phân biệt. Lại xem các bộ kinh xem qua rất trọng vọng. Trúc Pháp Tề từ nhỏ đã có tài, viết “Cao Dật Sa- môn truyện”. Chư vị đây đều là thần túc của Trúc Tiềm. Tôn Xước đều có làm những bài tán khen ngợi. ---------------------------------- <詞>CHI ĐẠO LÂM Chi Độn tự là Đạo Lâm, họ Quan, người ở Trần Lưu, hoặc ở Lâm Lư Hà Đông. Tuổi nhỏ đã thông minh mẫn tuệ. Đầu tiên Ngài đến kinh sư. Thái Nguyên Vương rất tôn trọng và bảo rằng: Lập công ít mà không giảm. Phụ từ Ân Dung ở Trần quận thường giao tiếp với Ngài, cho là thần thái cao minh, sau không có ai tiếp nối. Gia thế Ngài thờ Phật, nhỏ đã ngộ được lý vô thường. Ngài ẩn cư trên Du Hàng sơn, hiểu sâu lý phẩm đạo hạnh, tâm tư tỏ sáng có trí tuệ. Năm hai mươi lăm thì xuất gia. Mỗi khi giảng kinh Ngài nêu bày được tôn chỉ, chương cú đều rõ ràng. Người thời bấy giờ chấp theo văn tự hẹp hòi. Tạ An nghe tiếng Ngài thì khen ngợi và nói: Đây là tướng mã lấp núi trong chín phương đây! Ngài cùng Vương Hợp, Lưu Khôi, Âm Hạo, … là bậc danh tiếng một thời, đều là những kẻ só thoát tục. Ngài ở chùa Bạch Mã thường cùng bọn Lưu Hệ đàm luận về Trang tử, ở thiên Tiêu dao các vị hỏi: Đạt được tánh cho là tiêu dao sao? Chi Độn nói: Không phải như vậy. Phàm chặt chân để tàn hại là tánh. Nếu thích tánh là đắc vậy, theo đó cũng là tiêu dao. Sau đó trở về Ngài chuyên nghiên cứu về thiên Tiêu dao. Hàng Nho gia cực học đều thần phục Ngài, rồi Ngài trở về Ngô lập chùa Chi Sơn. Về già Ngài muốn về Diệm, Tạ An làm thái thú đất Ngô có viết thư cho Ngài rằng: Nghe ông muốn trở về Diệm, thật là đáng buồn. Nhân sanh biết nương về đâu đây. Không bao lâu phong lưu đắc ý thì cũng hết đời, trọn ngày đau đáu gặp việc lại lo buồn. Duy muốn giữ ông lại một ngày bằng cả ngàn năm vậy. Ở đây phần nhiều là núi non yên tịnh có thể dưỡng bịnh-Công việc không khác gì Diệm mà việc trị thuốc bất đồng- Nghó đến duyên này xin Ngài tính lại. Lúc Vương Hy còn ở tại Cối Kê, có nghe danh Ngài mà chưa tin, nói với người rằng: Tiếng tăm đó đâu đáng nói. Sau đó Ngài trở về Diệm đi ngang nơi này, Vương có đến thăm. Khi đến Vương nói với ngài: Thiên Tiêu dao có thể được nghe chăng? Ngài nói cho Vương nghe cả ngàn lời, nêu rõ các lý lẽ mới, văn tài rất đáng kinh ngạc, Vương bèn cởi đai bỏ mũ, lưu luyến kính trọng không rời, bèn thỉnh Ngài đến chùa Linh Gia. Không bao lâu Ngài lại đi về Ốc châu lập chùa hành đạo. Tăng chúng cả trăm thường theo Ngài thọ học. Cũng có người sa đoạ, Ngài ngồi thiền làm bài minh để sách tấn: Chuyên cần, chuyên cần chí đạo phi thường. Chớ nên chìm đắm, nhược táng thần kỳ, mang mang tam giới, mờ mịt trường canh, phiền lao bên ngoài hợp lại, nhơn sanh một đời, mau như nước dốc. Thân chẳng phải ta, lấy gì nương gá, người đạt hoài đức, biết an tất nguy, tịch liêu thanh tịnh, rửa sạch ao thiền, giữ gìn minh cấm, nhã ngoan huyền quy, tâm yên thần đạo, hàng chí vô vi, soi sáng tam tế, dung trị sáu cõi, không đồng ngũ ấm, rỗng không tứ chi, không tay dụ tay, tuyệt mà không lìa, diệu giác đã bày, lại biết chỗ huyền, uyển chuyển bình nhậm, cùng vật thay đổi, quá khứ đã qua, chớ nghó chớ bàn, thuần là bậc giác ngộ, chí ở tại anh nhi!” Bài luận này thấy rõ tài trí của Ngài lúc bấy giờ rất thanh tịnh bạt tục. Ngài lại làm bài “thích mông luận”. Cuối đời Ngài dời về núi Thạch Thành, lại lập chùa Thê Quang, an toạ nơi cửa núi, du tâm thiền uyển, uống nước suối ăn cây rừng, lập chí vô sanh. Ngài chú thích bộ “An ban tứ thiền” và các bộ Sắc du huyền luận, Thánh bất biện tríluận, Đạo hạnh chỉ quy, Học đạo giới. v.v… Học hạnh của Ngài có thể sánh với Mã Minh, Long Thọ. Về ng- hóa thì ứng với pháp bổn, không trái với thật tướng. Sau này Ngài ra khỏi Sơn Âm giảng kinh Duy-ma, Ngài làm Pháp sư, Hứa Tuần làm đô giảng, Ngài thông nhất nghóa. Mọi người đều gọi Ngài là người không thể vấn nạn, Tuần đưa ra vấn nạn, Ngài đều giảng thông suốt, hai bên vấn đáp mãi không dứt. Người nghe đều nói thông suốt được yếu chỉ của Ngài, nhưng khi tự nói lại chỉ được hai ba lần liền rối loạn. Khi Tấn Ai Đế lên ngôi, có hạ chiếu mời Ngài về kinh đô- Ngài ở chùa Đông An giảng Đạo Hạnh, Bát-nhã- Tăng tục đều cung kính ngưỡng phục- Thái Nguyên Vuơng Mông, có tài soạn ra bài từ gồm vài trăm lời đem đến chỗ Ngài tự cho là Ngài không thể bác được- Ngài từ chối nói: Bần đạo cùng ông biệt ly đã nhiều năm, lời của ông rõ ràng là không tiến dài đựơc. Vương Mông hỗ thẹn trở lui, bèn than rằng: Thật là vua của hàng tăng tục. Khích Siêu hỏi Tạ An: Lâm công đàm luận thật lưu loát. An nói: Do nổ lực mới được vậy. Lại hỏi: Làm thế nào như Ân Hạo. An nói: Biện luận thì sợ Ân chế chỉ, Khích Siêu thẳng đến chỗ sâu xa, Hạo thật là có chỗ hẹn đức. Khích Siêu viết thư cho thân hữu có nói: Lâm Pháp sư thần lý thông bác ngộ đạt sâu xa. Vài trăm năm nay người tỏ thông đạo pháp khiến cho chánh giáo được lưu truyền duy chỉ một người này mà thôi. Ngài lưư lại kinh sư lần lựa đến ba năm mới trở về Đông Sơn. Trong thư cáo từ Ngài có nói: Dám đem chỗ bất tài mà thổi gió đạo đến cho đời, chưa để lại đời sau dụng khiển việc linh hoá. Bởi nghóa sa-môn xuất ra từ Phật, Thánh, hình thể đều khác tục, tuyệt dục quy tông, dù ở nơi chốn hư huyền, giữ quy tắc của nội Thánh- Giữ gìn ngũ giới, hoá đạo ngoại vương, đều là an lạc vô thanh, lấy tự đắc làm hòa, đem lòng từ ái, hàng nhuyễn động không làm tổn hại, thương xót kẻ cô bần đơn độc, xa lìa kẻ bất nhơn, phòng hộ túc mạng, giữ khí tiết bậc vô vị, bước đi không hối hận, là do bậc triết vương ngự ở đời, xem trọng hướng Nam, mọi người đều khâm phục thời thượng, an tâm với quy tắc siêu xuất, thăm dò sự vừa ý, kính trọng sự qua loa hình thức, khiến hco nhiều đời càng thêm mới mẻ. Bệ hạ thiên chung bực thánh đức, nhã thượng không mỏi mệt. Đúng là bực khuôn mẫu, sớm chiều không quên việc ngự triều. Có thể gọi là tiếng tăm vang dội khắp thiên hạ. Trên thì nguyện bệ hạ tế độ hàm linh, hoằng thâm chí đạo, bỏ hết tập tục yêu mị tà kiên. Được vậy thì vua không cần dấy binh mà dân vẫn yên. Được một điều thì vónh viễn đều tốt đẹp. Nếu khiến trinh linh tướng người thần mỗi người đều quên, vua trở xuống không gần gũi. Thần thần hướng chi không thêm linh, huyền đức giao che chở thì dân được che chở. Lục hợp rộng lớn thành ngôi nhà kiết tường. Đại Tấn rỡ ràng là ngôi nhà hưởng thụ căn bản, thường vô vi mà vạn vật đều quy tông. Nắm đại tượng mà thiên hạ tự đến. Quốc điển hình sát thì có ty tồn vậy. Nếu sống mà không có ân Tuệ thì phần thưởng tự đắc. Chết mà không giận dữ thì hình pháp tự phạt. Khí của Hoằng công vì chán thần ý, đề cử kẻ hiền thì cần dùng minh lượng. Cái gọi là thiên là sao? Bốn thời đi đứng, bần đạo ẩn dật ở Đông Sơn cùng thế sự khác xa. Quanh năm rau trái nước trong, trọn đời tuyệt hết trần lụy-Nhưng rồi chưa ngộ pháp đạo đã được chiếu mời về kinh sư, tiến thoái chẳng biết thế nào đây. Tự đến thiên đình còn mong sự dẫn kiến, sách thì dùng tân lễ, sở thì dùng vi ngôn. Mỗi lần như vậy xấu hỗ tài hèn, lý không có gì mới, không đủ để đối với người lại ngăn mất sự nghe thấy, lật đật đợi người mồ hôi chảy nơi chiếu. Nay đức chẳng bằng người xưa, động tónh đều bi thiết. Du hồn nơi cấm tỉnh, lời nói suy lường, bị vây vào chỗ không căn cứ thì làm sao có thể làm. Vả lại năm tháng qua nhanh nên cảm lời than thở này, huống chi lại là đồng chí ở nơi chốn tịch liêu vắng vẻ xa xôi nào ai có thể không hoài vọng. Trên thì nguyện bệ hạ cho trở về nơi chốn lâm bạc, đem chim nuôi chim việc gáng vác càng ưu phiền. Chợt nghe có chiếu chỉ vua đưa tới triệu hồi và bảo sẽ tư cấp vật thực đầy đủ. Nhất thời lưu danh và tiễn biệt, tránh khỏi cảnh tội tù. Thái tử Thúc đền gần phía trước Độn ngồi, Tạ An Thạch sau thẳng đến, thái đứng dậy, tạ bèn rời khỏi chỗ đó, thái bèn trở về đem cả tấm lẫn tạ vứt xuống đất mà tạ chẳng lưu tâm. Đó là bậc thần được ưa thích như thế. Ngài ẩn dật ở Diệm Sơn, suốt đời cùng cây cối am đầm. Có người đem cho Ngài con ngựa, Ngài thương và nuôi nó. Bấy giờ có người cơ hiềm, Ngài nói: Thương vì nó là loài thần mã, lại là loài súc sanh. Sau có người đem cho con hạc. Ngài bảo với hạc: Ngươi là vật xung thiên, sao lại làm vui cho tai mắt. Bèn thả nó bay đi. Ngài lúc nhỏ thường cùng thầy luận về vật loại, cho dùng loại trứng gà sống không phải là sát. Thầy không thể khuất phục được Ngài. Thầy khi sắp mất, chợt thấy thân hình chui vào quả trứng ở dưới đất, đập vỏ trứng ra có con gà đi, trong khoảnh khắc đều tan biến hết. Từ đó Ngài cảm ngộ ra được, do vậy mà trọn đời chỉ ăn rau cải. Trước kia Ngài từng ở núi Dao Ô, đến khi nổi tiếng Ngài lại trở về đó. Có người hỏi, Ngài đáp: Tạ An xưa mấy lần liền dời về ở. Nay xúa tình mở mắt nhìn đều khởi tưởng. Sau đó Ngài bịnh nặng lại trở về Dao Ô. Năm Tấn Thái hoà nguyên niên, ngày 4 tháng 4 nhuần Ngài mất tại đó, thọ năm mươi ba tuổi. Táng ở núi Dao đến nay mộ phần vẫn còn. Hoặc gọi là núi Chung Diệm vẫn chưa rõ ràng. Khích Siêu có viết bài tựa truyện Viên Hoằng làm bài minh khen ngợi, Đàm Bảo viết điều văn. Tôn Xước có bài Đạo Hiền luận rằng: Chi Độn dáng người tao nhã còn hơn cả Trang, Lão. Cả hai khác thời mà sự ưa thích huyền đều đồng vậy. Lại có bài dụ đạo luận rằng: Chi Đạo Lâm đó thức thanh thể thuận mà không đối với vật, huyền đạo sâu xa đồng với thần tình. Chỗ sâu xa mà dẫn đến quy tông, ròng rã mà chưa tỏ ngộ vậy. Về sau có cao só Đái Quỳ đi qua mộ của Ngài, bèn than thở: Đức âm chưa xa mà cây cối đã sum xuê, mong mõi thần lý miên miên không cùng khí vận đều tận. Ngài có bạn đồng học là Pháp Khấu, người rất tinh lý nhập thần, lại mất trước Ngài. Ngài than rằng: Xưa thợ đã phế bỏ cũng do người đất Dónh, Nha sanh ngừng đàn ở nơi chung tử, suy ra việc cầu người hiền là không hư dối vậy. Bảo Khế đã lần lần phát lời nói chẳng khen thưởng, lòng ta đau xót vì mất người. Rồi Ngài trước tác tập “Thiết ngộ chương” đến khi mất mới xong. Ngài trước tác các sách văn hàn có mười quyển, còn thạnh hành ở đời. Bấy giờ ở Đông độ lại có: Trúc Pháp Ngưỡng, là bậc đa văn tuệ giải, được vua rất trọng vọng, khi Ngài mất còn hiện hình đến Vương Úc để hành nghiệp. <詞>VU PHÁP LANG Ngài là người Cao Dương, tuổi nhỏ đã tiết tháo khác thường, xuất gia năm mười lăm tuổi. Lấy sự tinh cần làm sự nghiệp - chuyên tụng kinh điển suốt ngày đêm, cầu pháp hỏi đạo đều xuất chúng. Đến tuổi trưởng thành thì thần trí thông minh rạng rỡ, đạo đức chấn cả vùng Tam hà, danh lưu cả bốn cõi. Tánh thích ở chốn núi non xa lánh cảnh phồn hoa. Mùa đông tuyết thường phủ đầy núi, bấy giờ có con hổ vào phòng Ngài- Ngài thần sắc không biến đổi, cọp cũng trở nên thuần thiện, khi tuyết tan thì bỏ đi. Thần núi cũng thường đến nghe pháp. Sau Ngài nghe ở núi Giang Đông huyện Thủy Diệm có sự linh kỳ bèn tìm đến đó ở chân núi Thạch Thành - Nay là chùa Nguyên Hoa. Người đương thời do phong độ của Ngài mà đem so với Dũ Nguyên Quy; Tôn Xước trong Đạo Huyền luận thì so Ngài với Nguyễn Tự Tông, Ngài từng ở Diệm một thời gian ngắn, không bao lâu ngài than rằng: Đạo Phật tuy hưng thịnh mà kinh sách phần nhiều khiếm khuyết. Nếu được nghe kinh giáo thì có chết cũng cam. Rồi Ngài đi sang Tây vực cầu học kinh pháp, khi đến Giao Châu bị bịnh nên mất ở Tượng Lâm. Sa-môn Chi Độn lập tượng Ngài có bài tán rằng: Họ Vu siêu thế tông thể huyền chỉ, vui cùng sơn trạch tuần hợp hang hổ. Trong biệt truyện có nói: Pháp Lang cũng cảm ứng được việc suối khô thành nước, cũng như việc của ngài Trúc Pháp Hộ vậy. Lại có các vị Trúc Pháp Hưng, Chi Pháp Uyên, Vu Pháp Đạo đều là bậc kỳ đức. Pháp Hưng sống hài hoà mà người biết danh, Pháp Uyên tài hoa mà được nổi tiếng, Pháp Đạo thì thông nghóa mà được tiếng vang. ---------------------------------- <詞>VU PHÁP KHAI Không biết ngài ở đâu, theo ngài Pháp Lang làm đệ tử, là bậc thâm tư bác lãm, nghi dung đều biểu hiện. Giỏi về Phóng Quang và Pháp Hoa. Lại tổ thuật Kỳ-bà-sa, diệu thông y pháp. Ngài thường khất thực ở nhà chủ nhân, gặp một phụ nữ đang bị nguy kịch, mọi người điều trị đều không hiệu nghiệm, cả nhà đều lo lắng. Pháp khai nói: Bịnh này dễ trị. Chủ nhân đang thịt dê muốn cúng tế. Ngài bảo lấy một ít thịt nấu canh xong rồi dùng khí châm, không bao lâu thì màng bụng dê bao bọc đứa con lọt ra ngoài. Năm Thăng Bình thứ năm, vua Hiếu Tông có bịnh. Pháp khai xem mạch biết không khỏi nên không vào. Khang Hiến Hậu bảo vua không khoẻ gọi Ngài vào xem mạch. Ngài đến cửa nhưng không vào chỉ nói với quan đình úy. Không lâu sau vua băng hà. Ngài trở về thành Diệm Thạch tu ở chùa Nguyên Hoa, sau đó dời về chùa Linh Thứu ở Bạch Sơn - mỗi khi cùng Chi Đạo Lâm tranh luận về nghóa sắc không, Ngài đều thông suốt rõ ràng khúc chiết. Cao Bình Khích Siêu tuyên thuật lại lời Lâm giải, đều có truyền lại ở đời. Ngài có đệ tử là Pháp Uy, rất tinh ngộ khu biện, nên Tôn Xước có làm bài tán rằng: Dễ gọi là hàng bạch, thi thơ hay đẹp tiết tháo, rộng lớn mà lại sâu xa, danh tiếng thì trong sáng rỡ ràng, không xấu hỗ với hoài bảo. Ngài thường sai Pháp Uy đi qua Sơn Âm, ngài Chi Độn giảng kinh tiểu phẩm. Ngài bảo Pháp Uy: Ông đến nghe Đạo Lâm giảng phần trung phẩm, ông nên nạn vấn lại hơn mười lần, thì đây cái khó cũ mới thông. Khi Pháp Uy đến gặp lúc ngài Pháp Độn đang giảng, quả như ngài nói. Qua lại nhiều lần Pháp Độn mới chịu thua, nhơn đó rất cảm phục. Ai Đế mấy lần hạ chiếu mời, Ngài bèn xuất kinh giảng kinh Phóng Quang- Phàm các bộ kinh cũ có nghi sai sót Ngài đều giải thích lại- Giảng xong Ngài từ biệt trở về Đông Sơn. Nhà vua mến đức ân cần cúng dường tiền bạc lụa là và xe ngựa y phục đông hạ. Tạ An, Vương Văn Độ thảy đều là bực hiền thiện. Họ đều nói Pháp sư là bậc cao minh cương giảng như vậy là dụng y thuật gì? Đáp: Thấu suốt lục độ để trừ tứ ma. Điều hoà cửu hầu để trị bịnh phong hàn. Tự lợi lợi người không được thế sao? Năm sáu mươi tuổi Ngài mất ở chùa núi. Tôn Xước nói: Tài đức ngang dọc, đem số thuật để hoằng giáo đều ở nơi Ngài Pháp Khai vậy. ------------------------------------------ <詞>VU ĐẠO THÚY Ngài là người Đôn Hoàng, tuổi nhỏ sớm mất cha được thúc phụ nuôi dưỡng- Đạo Thuý rất hiếu kính phụng thờ mẹ. Đến năm mười sáu tuổi Ngài xuất gia thờ Lang công làm thầy. Ngài học nghiệp rất cao minh nội ngoại đều thông suốt, khéo dùng phương dược lại thích đọc sách vở, trí Tuệ khác tục lại khéo việc đàm luận. Hộ công thường bảo Ngài là bực thông tuệ tao nhã như người xưa. Nếu không vô phương làm đống lương cho đại pháp. Sau cùng Giảng công qua Giang đông. Tánh Ngài thích chốn núi non ao đầm nên thường tìm đến các ngọn danh sơn, không màng đến việc khen chê, chưa từng vương vấn trần hoặc. Sau Ngài theo Pháp Lang đi đến Tây Vực, đến Giao Chỉ thọ bịnh rồi mất, thọ ba mươi mốt tuổi. Khích Siêu hoạ vẽ hình Ngài, Chi Độn viết bài minh, tán thán rằng: Anh anh thượng nhơn, thức thông lý thanh, trong sáng như ngọc, đức âm vang dội. Tôn Xước đem ngài so sánh với Nguyễn Hàm. Hoặc nói Hàm thì có nhiều kỳ cơ, Đạo Thuý thì có tiếng tăm. Trong dụ đạo luận nói: Gần Lạc trung có Trúc Pháp Hành nói về các phương dược. Giang Nam có Vu Đạo Thuý về thức thì dùng đối thắng lưu, người đương thời đều nghe biết đến, chẳng phải là danh tiếng rộng lớn của kẻ đồng chí. -------------------------------- <詞>TRÚC PHÁP SÙNG Chưa rõ Ngài là người ở đâu. Thuở nhỏ vào đạo đã có giới tiết, lại cần mẫn và hiếu học. Dốc chí tụng kinh chú mà lại chuyên trì Pháp Hoa. Ngài thường đến chân núi Tương châu-Tinh núi hoá ra một phụ nữ đến xin thỉnh giới với Ngài. Ngài cất chùa bên chân núi. Ngài ở đó một thời gian ngắn giáo hoá cả vùng hợp tướng. Sau đó Ngài trở về núi Cát Hiện, ăn rau rừng uống nước suối vui sống thiền tuệ. Học giả ở Đông Ngoã tranh nhau đến hỏi đạo, cùng gặp gỡ với ẩn só nước Lỗ là Khổng Thuần, mỗi lần đến thì nói chuyện cả ngày quên cả đường về, tự cho là rất đắc ý. Pháp Sùng bèn than rằng: Tưởng nghó người ngoài hơn ba mươi năm, ở đây không biết được tuổi già sắp đến. Khi từ biệt với Khổng Thuần Ngài có ngâm rằng: Khí hạo nhiên có ở trong tâm, kẻ só sơn lâm đến mà không trở về, đó chính là người vậy. Sau Ngài mất ở trong núi. Ngài trước tác bộ Pháp Hoa nghóa sớ bốn quyển và nhiều kinh khác. Bấy giờ ở Ngưỡng sơn Diệm Đông lại có Thích Đạo Bảo, vốn là họ Vương, người Lang Da, là em của Tấn thừa tướng. Tuổi nhỏ đã có lòng tín ngộ từ bỏ vinh hoa tránh xa trần thế. Có lời vịnh rằng: An chi vạn lý thuỷ, Lúc bắt đầu phát tâm Sau dùng học hạnh nguyện. --------------------------------------- <詞>TRÚC PHÁP NGHÓA. Chưa rõ người ở đâu -Năm mười ba gặp ngài Pháp Thâm liền hỏi: Nhân lợi là việc làm của người quân tử, Khổng Khâu vì sao lại ít nói. Pháp Thâm nói: Vật ít có thể làm cho nên ít nói. Ngài Pháp Thâm thấy tuổi nhỏ mà đã dónh ngộ, bèn khuyến hoá cho xuất gia. Sau đó nguyện học pháp môn theo ngài Pháp Thâm thọ học. Thông hết kinh pháp lại làu Pháp Hoa. Sau đó từ biệt thầy về kinh lại đại khai giảng đạo. Vương Đạo, Khổng Phu đều cung kính học đạo. Đến đời Tấn Hưng Ninh, ngài trở về Giang Tả ở núi Thỉ Ninh, đệ tử theo thọ nghiệp có hơn trăm vị. Đến đời Hàm An năm thứ hai, Ngài bị bạo bịnh, thường niệm phật Quan Âm bèn thấy một người mổ bụng rửa ruột mình, thức dậy thì hết bịnh. Năm Tấn Ninh Khang thứ ba, Hiếu Vũ Hoàng đế sai sứ giả thỉnh Ngài về kinh đô. Năm Tấn Thái Nguyên thứ năm Ngài tịch tại kinh hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi. Vua đem mười vạn tiền đến phúng điếu xây mộ, lập tháp ba tầng. Đệ tử của Ngài là Đàm Sản, ở bên mộ lập chùa, đặt tên là tinh xá Tân Đình. Sau vua Tống Hiếu Vũ đi chinh phạt hung nô ở Nam Hạ, xa giá có dừng lại chùa này, có lên chốn thiền đường, có mở tháp ra nhơn đó đặt tên là Trung Hưng. Thế nên cuối đời Nguyên gia có lời đồng dao nói: - Tiền Đường xuất thiên tử. Gọi đó là thiền đường. Ở thiền phòng Trung Hưng còn có rồng bay ở trên điện, nay là Thiên An vậy. <詞>TRÚC TĂNG ĐỘ Ngài họ Vương tên Hy, tự là Huyền Tông, người ở Đông Hoàng. Tuy còn nhỏ tuổi mà thiên tư đã bộc phát. Đến năm mười sáu tuổi thần tình tỏ sáng thông minh khác người, tánh tình Ngài ôn hoà độ lượng với tất cả mọi người. Ngài ở với mẹ hết lòng hiếu sự kính lễ. Người mẹ dạm hỏi một người con gái trong quận tên là Thiều Hoa vốn người nết na xinh đẹp lại giỏi ruộng vườn. Lúc chưa thành hôn thì mẹ Thiều Hoa mất, không bao lâu người cha cũng mất kế đến mẹ Ngài cũng mất. Nhìn thấy thế sự vô thường Ngài cảm ngộ được lý vô thường liền xả tục xuất gia học đạo đổi tên là Tăng Độ. Từ đó tránh xa trần duyên du phương học đạo. Thiều Hoa khi tang phục xong, tự nghó nghóa tam tùng, không có đạo độc lập nên viết thư cho Tăng Độ nói: - Da tóc không thể làm thương huỷ, tông tự không thể bỏ phế Khiến nhìn lại thế giáo của người, bỏ hết mọi chí khí hình dung tốt đẹp, xa thì điều tốt lành linh ứng cho tổ khảo, gần thì nguyện an ủi cho người thần. Lại tặng cho Ngài năm bài thơ, có một thiên nói: - Đại đạo tự vô cùng Thiên địa lại dài lâu Đá lớn không thể tiêu Hạt cải cũng khó đếm Thế gian một đời người Bỗng chốc lại qua mau Vinh hoa há không thạnh Sớm tối ắt điêu tàn Tăng Độ đáp thư rằng: Phàm việc của nhà vua là để trị một nước. Nếu chưa thành đạo để tế độ vạn bang thì an thân để thành một gia đình. Nếu chưa hoằng đạo để tế độ tam giới, thì thịt da này nói gần thì chưa huỷ được trong thế tục, xa thì do đức người không bằng, chưa thể tế độ, lấy đây làm hỗ thẹn. Nhưng dù có tích đá thành núi cũng mong học đạo. Vả lại thân mặc cà-sa, tay cầm tích trượng, uống nước suối, vịnh bát-nhã, thì dù Vương công mặc trân báu toàn mỹ cũng không thể thay đổi. Nếu khế hợp thì cùng đến chốn nê-hoàn vậy. Vả lại tâm người mỗi khác. Người thì không thích vui theo chí đạo, ta thì không ham chuyện đời, cho nên càng biệt ly lâu dài vậy, nhơn duyên vạn thế từ nay xin tuyệt. Việc đời đã không cùng ta chung bước, thì sự học đạo nên bồi chí. Người xử thế phải kịp thời nghó đến. Nay người niên đứùc còn thạnh, phải mau có sở mộ, chớ vì kinh tâm đạo só mà năm tháng thoáng qua. Lại làm bài thơ ngũ thiên trong có đoạn nói: Cơ vận không dừng lại Bỗng chốc năm tháng qua Đá lớn rồi cũng cạn Hạt cải há là nhiều Một hơi thở dứt đi Thì đã qua đời khác. Chẳng nghe Vinh Khải Kỳ Đầu bạc cất lời ca Aùo vải vẫn ấm thân Đâo cần mặc tơ lụa Đời nay tuy nói sướng Còn đời sau thế nào Tợi phước đều do mình Thà tự lợi lợi tha Chí của Ngài đã quyết thì không gì thay đổi được-Thiều Hoa cảm ngộ càng khởi tâm kính tin. Từ đó Ngài chuyên tinh Phật pháp, tham luận kinh điển và trước tác bộ “Tỳ-đàm chỉ quy” còn lưu hành ở đời. Sau không biết Ngài tịch ở đâu. Bấy giờ ở Hà Nội có ngài Trúc Tuệ Siêu, cũng là người hạnh giải kiêm ưu cùng làm bạn thiện với cao só Nhạn Môn là Chu Tục, chú giải bộ kinh Thắng Man vậy. <篇> <卷>QUYỂN 5 THÍCH ĐẠO AN Ngài họ Vệ, người ở Phù Liễu Thường Sơn. Gia thế vào hàng Nho gia só thứ. Cha mẹ mất sớm Ngài được ngoại huynh Khổng Để nuôi dưỡng. Bảy tuổi đã đọc làu ngũ kinh và thông suốt văn nghóa, mọi người đều cho là lạ. Đến năm mười hai tuổi xuất gia, thần trí đã thông tuệ, nhưng dung mạo xấu xí nên không được thầy coi trọng, bảo ra đồng làm ruộng trong ba năm. Ngài cần cù làm việc không chút oán hờn, lại nghiêm trì giới luật không hề khiếm khuyết. Vài năm sau mới cầu thầy học kinh. Thầy trao cho quyển kinh Biện Ý gồm năm ngàn lời. Ngài mang bộ kinh ra ngoài đồng. Nhơn lúc nghỉ ngơi Ngài xem qua. Chiều tối trở về thì đưa cho thầy, lại xin quyển kinh khác. Thầy bảo: Kinh hôm qua chưa đọc hết, sao lại xin kinh khác. Ngài đáp: Hôm qua con đã xem bộ kinh đó hết rồi và đã thuộc làu. Thầy tuy lấy làm lạ mà chưa tin, lại đưa cho quyển kinh “Thành Cụ Quang Minh” gồm một vạn lời. Cũng như hôm trước, tối Ngài lại mang trả cho thầy. Thầy cầm kinh bảo Ngài đọc lại. Ngài đọc thuộc lòng không thiếu một chữ. Vị thầy rất kinh ngạc và biết rõ tài năng của đệ tử. Sau đó Ngài thọ cụ túc và được thầy cho đi tham học. Ngài đến Nghiệp vào chùa gặp được ngài Phật Đồ Trừng-Ngài Đồ Trừng thấy Ngài thì khen ngợi nói chuyện cả ngày. Chúng thấy dung mạo không xứng nên tỏ vẻ xem thường. Ngài Phật Đồ Trừng bảo: Người này kiến thức sâu xa chẳng phải thường đâu. Ngài tín phụng theo làm đệ tử Phật Đồ Trừng-Thầy giảng kinh xong đều bảo Ngài giảng lại, nhưng chúng không tin phục, cùng bảo: Đợi gã Côn Lôn này giảng xong, ta nên chất vấn. Thế rồi khi bị đại chúng đồng học chất vấn Ngài đều giải thích rành rẽ, mọi người đều kính phục bảo: Vị tất đạo nhơn này làm kinh hoàng cả bốn lăng. Người học đạo đương thời chỉ chấp vào những điều nghe thấy. Ngài than thở: Đạo pháp tuy thâm sâu mà huyền chỉ vẫn có thể truy tìm học hỏi. Nên tìm đến nơi thâm u để tham khảo chỗ vi diệu uyên áo. Như vậy thì lý duyên sanh mới được tuyên dương tận cùng, và hàng môn đồ có chỗ quy hướng. Sau đó Ngài du phương đạo tham vấn kinh luật. Sau tî nạn tạm lánh vào chốn núi non đầm rạch -Trúc Pháp Tề Thái Dương cùng Châu Chi Đàm giảng kinh Âm Trì nhập đạo An theo Ngài thọ nghiệp. Không bao lâu thì cùng bạn đồng học lên núi Phi Long. Sa-môn Đạo Hộ trước đã ở núi này, gặp nhau thì vui mừng khôn xiết, bèn cùng xem văn học đạo, nói ra những lời thần tình vi diệu. Khi đến Hằng Sơn ở Thái Hành, Ngài cho xây chùa viện và sửa đổi y phục thế tục thành pháp phục xuất gia, giáo hoá vùng trung phần Hà Bắc. Bấy giờ thái thú Lô Hâm ở Vũ Ba nghe danh tiếng của Ngài liền nhờ Sa-môn Mẫn Kiến mời Ngài về. Ngài từ chối không được bèn nhận lời về giảng kinh, danh tiếng của Ngài khiến cho hàng đạo tục đều mến mộ-Đến năm bốn mươi lăm Ngài lại trở về chùa Thọ Độ ở Ký Bộ. Đồ chúng khoảng vài trăm vị thường tuyên Pháp Hoá. Thạch Hổ mất, Bành Thành Vương lên kế vị, vua phái Sa-môn Trúc Xương Bồ đi thỉnh Ngài về Hoa Lâm Viên và cho xây dựng phòng xá tại đây. Ngài thấy họ Thạch đến hồi mạt vận bèn dẫn đồ chúng về núi Khiên Khẩu. Sau Nhiễm Mẫn nổi loạn, nhân tình ly tán. Ngài Đạo An nói với đồ chúng rằng: Ngày nay thiên tai hạn hán, sâu bọ hoành hành, giặc cướp nổi dậy khắp nơi. Chúng ta đồng tụ hội tại đây thì khó khăn mà ly tán cũng không được, thật là nan giải. Ngài dẫn đồ chúng đến Vương Ốc ở núi Nữ Lâm. Không bao lâu lại vượt Hoàng Hà đến Lục Hồn, ở trong núi hái rau quả sinh sống tu học. Nhưng Mộ Dung Tuấn lại đem binh đến đánh Nhiễm Mẫn, vây kín Lục Hồn -Ngài lánh nạn xuống miền Nam ở Tương Dương, đến tại Tân Dã, Ngài bảo đồ chúng: Ta gặp thời vận xấu, không nương vào quốc chủ thì Pháp sự khó lập, vả lại việc giáo hoá cần phải rộng khắp. Chúng đều nói: Xin y lời thầy dạy. Ngài bảo Trúc Pháp Thái đến Dương châu và nói: Ở đó có nhiều hiền nhân quân tử, họ đều tôn sùng Phật pháp. Ngài bảo Pháp Hoà vào đất Thục, ở đây chốn núi non sơn thuỷ để tu nhàn. Ngài Đạo An cùng với Tuệ Viễn và hơn bốn trăm đồ chúng đến Tương Dương-Khi đến trước nhà một người thấy ngoài cửa có hai chữ Mã chính giữa treo một bồn cỏ khoảng một đấu. Thấy vậy ngài kêu lên: Lâm Bá Thăng. Chủ nhân kinh ngạc bước ra quả đúng là họ Lâm tên Bá Thăng- cho ngài là thần nhân nên mời vào tiếp đãi nồng hậu. Chúng đệ tử hỏi vì sao lại biết tên họ người, Ngài bảo: Hai cột trụ họp lại thành chữ Lâm- chính giữa treo một bồn cỏ dung lượng khoảng một đấu tức là Bá Thăng-hợp cả lại thành Lâm Bá Thăng. Đến Tương Dương Ngài bắt tay vào việc tuyên dương Phật pháp. Những bộ kinh dịch trước đã lâu, mà bảng cựu dịch có sai sót khiến cho giáo điển thâm tạng chưa tỏ thông được-Mỗi khi Ngài giảng thuyết duy chỉ nêu đại ý chuyển đọc mà thôi. Ngài xem hết kinh điển lại thông hiểu sâu xa ý nghóa. Do đó Ngài chú giải bộ Bát-nhã đạo hạnh, Mật Tích, An Ban thủ ý kinh.v.v…So sánh văn nghóa cùng tận, rồi giải thích triết nghi rõ ràng, gồm hai mươi hai quyển-Kinh nghóa đầy đủ khúc chiết bắt đầu từ ngài Đạo An mà có. Từ thời Hán Ngụy cho đến đời Tấn, kinh điển truyền sang rất nhiều. Mà người truyền kinh lại không nói rõ danh tự, người đời sau truy tìm không xét được niên đại, ngài Đạo An tổng tập hết danh mục tiêu biểu mỗi thời-Các bản tân cựu tuyển thành kinh lục. Các bộ kinh đều căn cứ vào thật công của người truyền dịch. Học só trong bốn phương đều đến học Ngài. Bấy giờ tướng công chinh tây là Hoàng Lãng Tử đang trấn nhậm Giang Lăng có sai người mời Ngài tạm qua bên đó. Châu Tự ở Tây Trấn cũng thỉnh Ngài đến Tương Dương. Mỗi lần trò chuyện với Ngài, Châu Tự khen rằng: An Pháp sư là bực thầy đống lương cho người học đạo. Ngài thấy chùa Bạch Mã quá chật hẹp, nên lập một ngôi chùa khác lấy tên là Đàn Khê. Liền có nhà Trương Ân ở Thanh Hà, là một trưởng giả đại phú cùng tài trợ giúp đỡ xây chùa. Ngài còn xây tháp năm tầng, khởi xây bốn trăm phòng tăng-Quan thứ sử Lương châu là Dương Hoằng Trung gởi vạn cân đồng đến cho Ngài đúc. Đạo An nói: Lộ Bàn đã xong, Thái công đã tạo –Nay muốn đem số đồng này đúc tượng Phật được chăng? Quan thứ sử vui mừng, bằng lòng. Thế là do nhiều người tương trợ mà thành ra có tượng Phật thần thái sáng ngời, tượng cao mười sáu thước, mỗi đêm toả hào quang rực sáng mặt sau điện đường tượng Phật. Khi đắp tượng xong, thì từ Hành Sơn cho đến Vạn Sơn cả ấp đều đến chiêm lễ. Đến đây nguyện của Ngài đã thành. Vua Phù Kim cũng phái người mua kim bạc để tạo một tôn tượng Phật nằm cao bảy thước- Ngoài ra còn một tượng Phật bằng vàng, phật Di-lặc bằng ngọc châu, một tượng Phật bằng vải kim tuyến, một tượng Phật bằng gấm. Mỗi lần có pháp hội giảng kinh, các tôn tượng Phật được đặt trong hội trường giảng kinh, bố trí tràng phan bảo cái, các hạt châu nơi tượng chiếu sáng long lanh, khiến cho người đến tham dự pháp hội giảng kinh, đều khởi tâm thành cung kính, lễ bái. Có một tượng mang từ nước ngoài về, hình chất rất là cổ dị. Đại chúng xem thấy nên không tỏ lòng cung kính tôn trọng. Ngài nói: Tôn tượng này thật trang nghiêm, nhưng búi tóc trên đầu chưa tương xứng. Ngài bảo đệ tử mang tượng này đến lò rèn sửa lại-Sửa một lát, chợt có ánh sáng loé lên khắp phòng. Xem lại kỹ trong búi tóc thấy viên xá-lợi nằm trong đó. Đại chúng đều chứng kiến việc này đều tỏ lòng sám hối và cung kính. Đạo An nói: Tượng này đã có sự linh ứng, không nên sửa nữa. Ngài cho đình chỉ việc sửa búi tóc Phật lại. Người biết chuyện thì cho rằng Ngài biết trong búi tóc có xá-lợi nên cố ý bảo đi sửa lại để huấn thị đệ tử. Bấy giờ ở Tương Dương là con đường nối liền Hoa Bắc, Hoa Trung, là một nơi chiến lược quan trọng. Các vị danh só đương thời nghe danh Ngài liền quy tụ về. Có vị viết thư đến thông hiếu nói: Nương vào sự ứng lý chơn chánh, minh bạch rõ ràng, từ huấn chiếu soi. Đạo tục đều huấn tập-Từ lúc Đại giáo truyền sang Đông độ đã hơn bốn trăm năm. Tuy vua chúa, cư só mỗi thời đều phụng trì mà đạo vận chưa tỏ ngộ, không bao lâu do Ngài chấn hưng mà đạo nghiệp hưng sùng không mất. Đó chính là nguyệt quang xuất hiện, cùng linh bát ứng giáng. Pháp sư đúng là bậc mô phạm xuất phàm, hoá hợp sâu xa. Chư tăng phương này đều hết lòng kính mộ. Có người từ Tương Dương đến bái kiến, vừa ngồi xuống bèn tự xưng là: “Tứ Hải Tập Tạc Só”. Ngài cũng đáp lại: “Di Thiên Thích Đạo An” (khắp thiên hạ chỉ có một Đạo An) (người đều cho là câu đáp có tiếng). Tập Tạc Só đến chùa mang theo mười quả lê gặp chúng đang thọ trai. Ngài liền tự tay cắt lê chia từng chúng dùng. Cao Bình Khích Siêu có mang tặng Ngài mười thăng gạo, lại viết thư thăm hỏi ân cần-Tập Tạc Só có viết thư cho Tạ An nói rằng: Nơi đây có đạo sư Thích Đạo An, là một đạo só Phật giáo phi thường, là tai mắt cho chúng thường nhân-Không trọng uy lớn mà vẫn chỉnh tề những điều nhỏ nhặt. Đồ chúng đều tôn trọng hỗ trợ, luôn tuân theo giới luật quy củ tu học. Một giáo đoàn chưa từng thấy-Pháp sư này thông đạt kinh thư nội ngoại, lại tinh thuần toán số âm dương, về diệu lý Phật pháp thì ung dung tự tại. Thật tiếc là tể tướng chưa từng gặp qua Ngài. Ngài trú tại Tương Dương trong mười lăm năm. Mỗi năm đều có giảng kinh Kim Cương, Bát-nhã. Tấn Hiếu Vũ Hoàng đế nghe danh Ngài liền hạ chiếu thư khen ngợi: Đạo An Pháp sư thức khí thông đạt, phong vận toả sáng. Ngài có công giáo hoá đạo tục, cứu tế quần sanh và làm gương sáng cho hậu thế. Rồi nhà vua hết lòng cung phụng, cúng dường đầy đủ vật phẩm, đối xử ngang hàng vương công. Vua Phù Kiên cũng nghe danh Ngài, và từng bảo rằng: Tương Dương có Thích Đạo An là một thần khí hiếm có. Ta muốn đến đó triệu Ngài về. Sau đó Phù Kiên đánh chiếm Tương Dương bắt được Đạo An cùng Châu Tư. Phù Kiên nói với bộc xạ Quyền Dực rằng: Trẩm đem mười vạn binh đánh chiếm Tương Dương mà chỉ đựoc một người rưỡi. Dực hỏi: Là ai? Kiên đáp: Đạo An được một người-Tập Tạc Só được nửa người. Khi về Trường An Ngài ngụ ở chùa Ngũ Trọng, đồ chúng theo về học đạo cả mấy ngàn người, Pháp Hoá trở nên rộng khắp. Vào đời Nguî Tấn, Sa-môn nương vào vị thầy lấy họ thầy nên phần nhiều pháp danh không đồng. Ngài cho rằng đấng đại sư chính là Phật Thích-ca nên lấy họThích làm họ. Sau Ngài có bộ tăng nhất A- hàm, quả có nói về bốn biển cùng đổ ra biển cả, không còn là tên sông. Bốn họ Sa-môn đều xưng là Thích chủng. Ngài Đạo An ngoài việc thông hiểu nghóa lý văn chương, y mạo của chúng đệ tử ở Trường An là hạng thi phú, đều vào phụ chánh cả. Khi ấy ở huyện Lam Điền có người được một cái đảnh có thể dung chứa hai mươi bảy đấu. Một bên đảnh có khắc triện bài minh mà không ai hiểu,mới đến cho Ngài xem. Đạo An bảo rằng: Đây là cổ triện thư do Lỗ Tương đúc-Ngài bèn viết lại thành bài Lệ văn. Ngài đa văn quảng kiến như vậy, nên vua Phù Kiên ra lệnh cho các học só trong ngoài nếu ai có nghi ngờ điều gì thì lại hỏi ngài Đạo An. Thế nên ở kinh triệu có lời nói: Học không có thầy Đạo An thì nghóa không thông. Đầu tiên, Phù Kiên từ loạn họ Thạch mà được nước, cho đến khi dân tình sung túc, bốn phương đều được định-Biên cương phía Đông ra tận Thương Hải, phía Tây giáp nước Quy Tư, Nam tới Tương Dương, Bắc ra tận Sa mạc Duy có Kiến Nghiệp là chưa thần phục. Mỗi khi cùng quần thần đàm luận, Phù Kiên đều nói rõ ý định muốn thống nhất vùng Giang Tả. Em vua là Bình Dương Công Dung và triều thần như Thạch Việt, Nguyên Thiện đều hết sức can gián mà không được. Mọi người biết vua rất kính tin Đạo An bèn đến thỉnh Ngài: Chúa thượng muốn dụng binh đánh ĐôngTấn. Sao Ngài không vì chúng sanh mà khuyên vua một lời. Có lần Phù Kiên ra Đông Uyển, mời Ngài cùng lên xa giá với vua. Quan bộc xạ Quyền Dực thưa rằng: Thần nghe khi thiên tử xa giá, chỉ có quan hầu mới được theo. Ngài Đạo An là người xuất gia, sao lại cùng thiên tử lên xa giá. Phù Kiên nổi giận bảo: Ngài Đạo An đạo đức thật là đáng tôn kính. Trẫm và thiên hạ đều không bằng Ngài, việc lên xa giá này nào có tương xứng với đạo đức của Pháp sư. Liền sai quan bộc xạ thỉnh Ngài lên xa giá. Không lâu sau vua Phù Kiên nói với ngài: Trẫm cùng ngài đi Nam du, đem Ngô Việt chỉnh lục sư mà tuần thú đến Cối Kê để xem Thương Hải, không phải là trọn vui sao? Ngài đáp: Bệ hạ thay trời ngự thế. Có tám châu cống hiến dồi dào, ở Trung thổ mà ngự chế cả bốn biển. Nên giữ lẽ vô vi để sánh cùng Nghiêu Thuấn. Muốn đem thầy Bách Vạn cầu lấy thửa ruộng trên cái hạ hạ-vả lại vùng Đông Nam ở nơi khí chướng đất xấu, xưa Thuấn Vũ đi không được phải trở về-Tần Hoàng Đế cũng phải thối lui. Bần đạo xem nơi đó chẳng phải là chỗ ngu tâm. Nhưng Phù Kiên không nghe lời ngài can gián, sai Bình Dương Công Dung thống lãnh hai mươi lăm vạn tinh binh đi tiên phong. Vua tự dẫn sáu mươi vạn đi hậu tiến. Vua Tấn sai chinh lỗ tướng quân Tạ Thạch, thứ sử Tứ châu là Tạ Huyền đem quân chống cự. Quân của Phù Kiên đại bại ở núi Bát Công-Quân của Tây Tấn truy kích hơn ba mươi lý chém giết vô số- Dung tử trận-Phù Kiên một mình cưỡi ngựa bỏ trốn. Ngài Đạo An thường chú giải các kinh điển. Ngài lo sợ không hợp với lý Phật, nên phát nguyện rằng: Nếu lời chú thích của con không trái lý Phật, nguyện xin hiển hiện điềm lành để minh chứng. Một đêm ngài mộng thấy nột một Phạm tăng, tóc trắng lông mi dài bảo rằng: Những lời chú thích của ông đều hợp đạo lý. Ta là tăng ở Tây Vực không nhập Niết-bàn. Ta sẽ hổ trợ cho ông hoằng dương chánh giáo, ông hãy thiết lễ cúng dường. Sau này khi bộ Thập tụng luật được truyền đến, Viễn công mới biết vị hoà thượng thầy mình nằm mộng trước kia là Tân-đầu-lô. Từ đó có thông lệ cúng dường cho Tân-đầu-lô. Ngài Đạo An đạo đức cao dày lại thông suốt cả tam tạng-Ngài viết những điều luật cho tăng ni, tức nghi thức tu hành theo hiến chương quỷ phạm Phật pháp, gồm có ba điều: 1-Pháp hành hương toạ, pháp thượng toạ giảng kinh. 2-Pháp sáu thời hành đạo ẩm thực xướng thời. 3-Hành các pháp Bồ-tát, sai sử hối quá. Chùa chiền trong nước đều tuân theo pháp thức này. Ngài Đạo An thường cùng với chúng đệ tử như Pháp Ngộ.v.v… quỳ trước tượng Phật Di-lặc, đồng phát nguyện vãng sanh lên cung trời Đâu-suất. Vào ngày 27 tháng giêng năm kiến nguyên thứ hai mươi mốt, đột nhiên có vị tăng hình thù xấu xa đến chùa xin ngủ lại qua đêm. Chùa không có phòng dư nên vị tăng phải nghỉ ngơi tại giảng đường- Khi đó thầy Duy-na trực ở điện, đêm thấy vị tăng này bay ngang qua lại cửa sổ. Vị Duy-na kinh hoàng đến bạch với thầy Đạo An. Ngài liền ra lễ lạy thưa hỏi thỉnh an. Dị tăng nói: Vì muốn độ thầy nên đến đây. Đạo An thưa: Tội nghiệp con rất nặng, ngài không thể độ được đâu. Vị tăng đáp: Có thể độ được. Nhưng trước phải tắm rửa tượng thánh tăng đã, thì mới được như nguyện. Vị tăng chỉ bày pháp tắm rửa-Ngài Đạo An hỏi về trụ xứ của vị tăng. Dị tăng lấy tay chỉ lên trời về hướng Tây bắc-Nơi ấy mây mù tự nhiên tan mất, và thắng cảnh trang nghiêm vi diệu nơi cung trời Đâu- suất lộ hiện ra-Đêm ấy vài mươi vị tăng đồng thấy thắng cảnh nơi cung trời Đâu Suất thật rõ ràng. Ngài Đạo An theo pháp tắm rửa thánh tượng đầy đủ, chợt thấy có vài mươi tiểu đồng dị thường đi vào chùa đùa giỡn -Trong phút chốc tự làm lễ mộc dục. Đây chính là điềm Thánh ứng. Ngày mùng 8 tháng 2 năm 385 Ngài bảo đại chúng: - Ta sắp đi đây. Trong ngày đó Ngài không bịnh chi mà thị tịch –Linh cửu chôn ở chùa Ngũ Cấp tại Trường An. Đó là vào năm Tấn Thái Nguyên năm thứ mười vậy, Ngài thọ bảy mươi hai tuổi. Trước khi tịch, có vị ẩn só là Vương Gia thường qua lại vấn an. Ngài bảo: Thế sự loạn ly như vậy, ông nên theo ta. Vương Gia đáp: Thật đúng như lời Ngài nói. Song tôi còn chút nợ duyên chưa trả, không thể đi bây giờ. Khi ấy Dao Trường đem quân đánh Trường An Dao Trường và Phù Đăng giao chiến đã lâu mà bất phân thắng bại. Vương Gia lúc ấy ở trong thành, Dao Trường cho vời đến hỏi: Ta có thắng được không? Vương Gia đáp: Lược thì được. Dao Trường nổi giận: Được thì nói được, sao còn bảo là lược. Vua bèn ra lệnh chém Vương Gia. Đây là món nợ mà Vương Gia đã nói. Dao Trường sau đó mất, con là Dao Hưng lên thay đánh bại được Phù Đăng. Tên tự của Dao Hưng là Lược-Đó là ý của Vương Gia nói “lược đắc” vậy. Vương Gia tên tự là Tử Niên, là người Lạc Dương, hình dáng rất xấu xa. Oâng vốn có tánh hài hước hay chọc cười, nhưng không ăn ngũ cốc, ăn mặc giản dị thanh thoát, mọi người đều tôn trọng học theo. Nếu ai hỏi về việc xấu tốt, Ngài tuỳ theo đó mà ứng đáp, ngôn ngữ đều làm cho người cười, giống như hý luận, mà tương tự như lời sấm ký, khó lãnh hội được, mọi việc đều có linh nghiệm. Ban đầu nuôi đệ tử nơi hang Gia Mi, Phù Kiên sai Đại Hồng Lô mời mà không đến. Khi Phù Kiên muốn Nam chinh có hỏi Vương Gia có đựơc không? Vương Gia không nói, chỉ cưỡi ngựa đi theo hướng Đông-được vài trăm bước thì bị rớt giày, bèn cởi áo bỏ mũ mà quay về. Đó là biểu hiện cho việc chinh phạt bị thất bại của Phù Kiên. Ngày Dao Trường hại Gia, có người ở Lũng thượng thấy gửi thư về Trường An cho Ngài, Ngài dần hiểu bậc thầy nhân đều như thế cả. Khi nghe ngài La-thập ở bên Tây Vực, ngài Đạo An ân cần khuyên Phù Kiên nên qua thỉnh về Trung thổ để biên dịch kinh điển. Ngài La-thập cũng nghe thịnh danh oai đức của Đạo An, cho rằng đây là bậc Thánh ở phương Đông, hằng lễ kính từ xa. Khi Ngài mới sanh ra, trên trái có một miếng da rộng khoảng một thốn, lấy tay vê có thể chạy lên, xuống nhưng không kéo ra được. Sau khi ngài Đạo An thị tịch khoảng mười sáu năm thì ngài La-thập mới đến, hận vì không gặp nhau nên lòng bi thương vô hạn. Ngài Đạo An dốc lòng muốn tuyên hoá kinh điển chánh đạo, nên ngài mời thỉnh nhiều vị Sa-môn ngoại quốc như Tăng-gìa Đề-bà, Đàm- ma-nan-đề và Tăng-gìa Bạt-trừng.v.v… dịch kinh điển hơn một trăm vạn lời. Ngài cùng Sa-môn Pháp Hoà hiệu đính lại âm tự, sửa lại yếu chỉ câu văn, dịch lại đầy đủ yếu nghóa. Tôn Xước làm bài Danh đức Sa-môn luận: - Thích Đạo An là vị bác học đa tài, thông suốt danh lý kinh điển. Lại có bài tán rằng: Vật thì có rộng lớn, người có đa năng -Đạo An uyên thâm, tài năng gấp bội, danh tiếng vang dội. Hình tuy cỏ hoa, giống như thường tại. Trong Hữu biệt ký có nói: Ở Hà Bắc có ngài Trúc Đạo An cùng Thích Đạo An là một người. Trong Tập Tạc Só nói: Trúc Đạo An là theo họ thầy mà nói sau cải lại họ Thích. Người đời thấy hai họ nên nghó hai người là sai lầm vậy. ------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP HÒA Ngài là người Vinh Dương, thuở nhỏ là bạn đồng học với An công. Tánh tình Ngài cung kính nhường nhịn, khéo luận nghị, giải ngộ nghi tình. Khi loạn họ Thạch Ngài đem đồ chúng vào đất Thục nhà Hán. Kẻ só mộ đức tụ tập lại rất đông. Nghe Tương Dương bị vây hãm, Ngài từ Thục đi vào Quan Trung ở chùa Dương Bình, sau ở cốc Kim Dư thiết hội, Ngài cùng An công lên núi đưa mắt nhìn bao quát thì lòng lại bi thương và nói: –Núi này cao lớn có nhiều người tìm đến -Nếu lỡ không may trượt chân thì biết đi về đâu? Đạo An nói: –Pháp sư trì tâm như thế thì lo gì hậu sanh. Nếu tuệ tâm không có thì mới thật đáng xót thương. Sau đó Ngài cùng An công giám định rõ ràng các kinh điển mới dịch, tham chánh lại văn nghóa -Không bao lâu thì Tấn Vương thỉnh Ngài đến Bồ Bản giảng kinh. Ít lâu sau Ngài bảo với đệ tử: –Sự khổ não lụy phiền ở thế gian chẳng phải một. Nói rồi Ngài sửa sang y phục chỉnh tề, nhiễu Phật lễ bái, rồi trở lại chỗ ngồi, lấy y che lên đầu rồi an nhiên thị tịch. Bấy giờ Ngài đã tám mươi tuổi. ----------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG LÃNG Ngài là người ở kinh triệu. Thuở nhỏ thường đi du phương học đạo. Lớn lên trở về Quan Trung chuyên về giảng thuyết. Có lần cùng đi với mấy người pháp hữu trên đường, Ngài chợt bảo họ: –Trong chùa các vị, hình như có người đang trộm đồ vật. Mọi người trở về chùa, bắt được kẻ trộm, chưa bị mất gì cả. Ngài giữ gìn trai giới, thân mặc áo vải thô, chí hướng vượt ngoài thế tục, bác học uyên thâm, chiêm nghiệm những việc tốt xấu. Năm Hoàng thỉ nguyên niên đời Tần 351, Ngài dời về núi Thái. Ngài cùng ẩn só Trương Trung lập am tranh dưới chân núi, mỗi ngày cùng dạo cảnh. Trương Trung sau được Phù Kiên mời đi đến núi Hoa Âm thì mất. Pháp Lãng lên cốc Kim dư trên núi Côn Lôn, lập một tinh xá, nằm phía Tây bắc của núi Thái vậy. Núi này cao lớn mà phong cảnh suối nguồn chung quanh rất là hùng vó. Ngài lập am tranh giữa chốn núi non. Nghe thanh danh Ngài, có hơn trăm người lũ lượt kéo đến cầu học đạo. Ngài vì họ đối đáp không mỏi mệt. Vua tiền Tần Phù Kiên rất khâm phục, sai sứ đến thỉnh Ngài về triều, nhưng Ngài viện cớ lão bịnh mà từ chối mãi. Vua sau đó chỉnh đốn tăng đoàn, lại ban sắc lịnh riêng: –Lãng Pháp sư giới đức cao tốt, chúng tăng cũng trì giới luật thanh tịnh. Vì vậy giáo đoàn ở Côn Lôn không cần tra xét. Vua Dao Hưng nhà hậu Tần cũng rất khâm trọng Ngài. Mộ Dung ở nước Yên nghe danh ngài cũng đến mời thỉnh, hiệu Đông Tề Vương mang lễ vật và cung cấp tô thuế của hai huyện cho Ngài. Ngài từ chối và xin miễn thuế cho hai huyện để tạo phước đức. Vua Tấn Hiếu Vũ cũng từng gửi thư đến thăm hỏi. Ngụy chủ Thác Bạt Khuê cũng sai sứ mang thư và lễ vật đến cúng dường thăm hỏi Ngài. Người đương thời đều cung kính Ngài như thế. Ở trong tịnh cốc Ngài ở có nhiều hổ báo. Ngài thường cầm tích trượng đi, bầy hổ đi theo sau và Ngài hàng phục hết các loài mãnh thú, làm cho dân chúng an ổn không còn lo sợ, ai ai cũng kính phục Ngài, gọi Kim Dự cốc của ngài là Lãng công cốc. Phàm những người đi đến chỗ Ngài, số người bao nhiêu Ngài thường biết trước một ngày, nên bảo đệ tử làm thức ăn đầy đủ. Hôm sau số người đến đúng như lời Ngài nói. Sau Ngài mất ở trong núi, thọ tám mươi lăm tuổi. Bấy giờ ở Thái Sơn lại có Chi Tăng Thuần là người ở Ký châu -lúc nhỏ từng qua Hình Lũng, lớn lên qua Kinh Ưng -Ngài diệu thông đại thừa lại giỏi số luận. Trước tác “Nhân vật thỉ nghóa luận” cũng lưu hành ở đời. TRÚC PHÁP THÁI. Là người Đông Hoàng, là bạn đồng học của ngài Đạo An. Tuy tài biện không bằng mà tướng dung lại vượt hơn. Ngài cùng với Đạo An tránh nạn đi đến Tân Dã. Ngài Đạo An phân đồ chúng bảo Ngài dẫn về kinh -Khi từ biệt Ngài nói với Đạo An: –Pháp sư nghi quỹ đầy cả vùng Tây bắc. Hoằng giáo khắp cả Đông nam, đạo thuật thì cả vùng Giang Hồ này đều trông vọng nơi Ngài. Đối với cao hội tịnh nhơn, kỳ hạn tới mùa đông vậy. Từ biệt chia tay, Ngài cùng đệ tử là Đàm Nhất, Đàm Nhị cùng hơn bốn mươi người đi về Giang Đông, giữa đường gặp bịnh phải dừng lại ở Dương Khẩu. Bấy giờ Hằng Uẩn đang trấn thủ Kinh châu, sai sứ đến cúng dường thang thuốc cho Ngài. Ngài Đạo An lại bảo đệ tử là Tuệ Viễn, xuống kinh thăm bịnh. Pháp Thái vừa hết bịnh thì đến thăm Hằng Uẩn, Uẩn muốn Ngài lưu lại nói chuyện lâu dài, nên còn nói chuyện khách. Ngài vì bịnh chưa khỏi hẳn nên không thể ngồi lâu, mới lên xe trở ra và bảo người lên nói với Uẩn rằng: Vì bịnh mới bớt không thể ngồi lâu, sau này sẽ đến. Uẩn liền đứng dậy chạy ra mời Ngài trở lại. Pháp Thái thân cao tám thước, phong tư tuấn tú, lời lẽ sâu xa, ngôn từ nhã nhặn. Bấy giờ Sa-môn Đạo Hằng lại có tài lực, thường chấp tâm vô ng- hóa, đại hành nơi Kinh đô? Pháp Thái nói: Đây là tà thuyết nên cần phá trừ. Thế rồi Ngài tập họp các bậc danh tăng lại và sai đệ tử là Đàm Nhất ra vấn nạn. Căn cứ vào kinh luận và dẫn chứng ra để triết lý. Hằng dựa vào luận biện bằng miệng không chịu khuất. Hết ngày đó, đến sáng hôm sau lại có ngài Tuệ Viễn đến vấn nạn vài câu lý lẽ đều sắc bén. Đạo Hằng tự biết nghóa đồ sai khác, thần sắc hơi giao động, chưa biết phải đáp ra sao thì ngài Tuệ Viễn lại nói: Không nhanh mà mau, vì sao lại dùng cái thoi. Mọi người đều cười lên. Nghóa vô tâm từ đây bị phá. Ngài Pháp Thái trụ ở chùa Ngoã Quan. Năm Tấn Thái Tông Hoàng Đế Giản Văn rất kính ngưỡng, mấy lần cầu Ngài giảng kinh Phóng Quang, mở ra đại hội. Vua tự thân đến, các quan văn võ đều đầy đủ. Ngài Pháp Thái về hình vóc thì vượt hơn người, lưu danh bốn cõi. Ngày khai giảng tăng tục só thứ đều tụ lại, cùng chư môn đồ đều đến. Các quan khanh cả ngàn vị. Chùa Ngoã Quan vốn là nơi lò đúc của Ngoạn công Mộ vương ở núi Hà Nội. Trong đời Tấn Hưng Ninh Sa-môn Tuệ Lực cải làm tự, lúc ấy chỉ có tháp đường mà thôi. Và khi ngài Pháp Thái ở thì sửa sang phòng ốc lại, tu lập chúng nghiệp. Vài ngày trước khi mất, ngài bỗng thấy không khỏe liền nói với đệ tử rằng: Ta sắp đi đây! Năm Tấn Thái nguyên thứ mười hai Ngài tịch, thọ sáu mươi tám. Vua Tống Hiếu Vũ sắc chiếu chỉ nói: Thái Pháp sư đạo cao đức trọng, pháp truyền lưư cả tám phương, Ngài mất đi thật là để lại bao sự luyến tiếc thương xót. Nay đem mười vạn tiền lo tống táng và lo liệu các việc đầy đủ. Đệ tử của ngài là Đàm Nhất, Đàm Nhị cùng bác thông kinh nghóa, lại giỏi về Lão dịch, phong lưu cùng nổi tiếng đương thời với ngài Tuệ Viễn. Đàm Nhị chết sớm. Ngài Pháp Thái khóc và nói: Trời táng Nhan Hồi vậy. Ngài trước tác các phần Nghóa sớ, cùng với Khích Siêu luận về Bản vô nghóa, đều lưu hành ở đời. Hoặc có người nói: Thái là đệ tử của ngài Đạo An là chẳng đúng. <詞>THÍCH TĂNG QUANG Ngài là người Ký châu, đệ tử của Thường Sơn Uyên công. Tánh tình thuần khiết lại có tiết tháo, lúc còn sa-di có gặp ngài Đạo An ở Ng- hịch Lữ. Đạo An lúc này cũng chưa thọ cụ túc. Nhơn cùng có chí khảng khái lại có thần khí. Khi lâm biệt có nói: Sau này trưởng thành chớ quên những ngày đồng du. Sau khi Tăng Quang thọ giới lại cần tu khổ hạnh, học thông kinh luận. Lúc loạn Thạch thị về ẩn ở núi Phi Long.Ởû chốn non cao đắc chí thiền tuệ. Ngài Đạo An khi ấy tìm đến, gặp nhau rất là mừng vui nói ngày trước giao ước nay mới tìm đến. Nhơn cùng chắp văn mặc ý, sự tân ngộ lại càng nhiều. An nói: Tăng Quang trước kia cắt nghóa lý phần nhiều đều trái. Ngài nói: - Phải nên phân tích đến chỗ tiêu diêu, làm sao dung phải trái tiên đạt. Ngài Đạo An: - Lý giáo sâu xa nên có rộng hẹp. Pháp cổ đã vang thì làm gì có trước sau. Thế rồi Ngài nam du cùng Đạo An giảng đạo hoằng hoá, sau trở về Tương Dương bị bịnh rồi tịch. Lại có Sa-môn Đạo Hộ cũng là người Ký Châu. Ngài là người trinh tiết có tuệ giải, cũng ẩn trên núi Phi Long, cùng gặp ngài Đạo An và cùng nói: - Ở chốn thanh tịnh lìa tục là muốn khuôn phò đại pháp, há chỉ riêng ở nơi sơn môn. Muốn cho pháp luân thường chuyển, mỗi người tuỳ lực mới mong báo Phật ân. Mọi người cho là phải, chia nhau đi các nơi hành hoá. Sau không biết Ngài tịch ở đâu. ----------------------------------- <詞>TRÚC TĂNG PHỤ Là người đất Nghiệp -Tuổi nhỏ là người trì giới, giữ trí hạnh thật trinh khổ. Học thông các bộ luận lại giỏi kinh pháp, cùng đạo chấn Phật pháp một thời. Gặp lúc loạn lạc đói kém vào thời Tây Tấn. Ngài cùng Đạo An ẩn cư ở Sơn Trạch nghiên tinh biện luận đều đạt đến chỗ sâu xa. Sau Ngài ở chùa Thượng Minh ở Kinh châu, chuyên tu lễ sám rất chuyên cần lại thệ nguyện sanh về cung trời Đâu-suất, yết kiến ngài Từ thị. Bấy giờ Vương Khảng ở Lang Da làm thứ sử Kinh châu, vì thấy Ngài đạo hạnh thanh bạch nên thỉnh làm giới sư, hết lòng tôn phụng. Hai ngày trước khi tịch Ngài chợt nói: –Ngày mai ta sẽ đi. Đến lúc lâm chung, có mùi hương lạ bay khắp phòng, tiếng Phạm âm liên tục. Tăng tục kéo đến cả vạn người. Năm đó Ngài sáu mươi tuổi, táng trong chùa, chúng tăng xây tháp thờ cúng. -------------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG PHU Chưa rõ Ngài họ gì. Ngài học thông các kinh luận lại giỏi về kinh Phóng Quang và Bát-nhã Đạo Hạnh. Vào đời Tây Tấn loạn lạc xảy ra, Ngài về ẩn nơi vùng Giang Tả, trú tại chùa Ngoã Quan ở kinh sư. Sau đó khai giảng kinh pháp tại Kiến Nghiệp, tăng tục đều rất kính phục. Bấy giờ Sa-môn Đạo Sùng cũng có tài biện giải. Ngài Đạo An có viết thư nói: - Phu công nghiên kinh cứu điển sâu xa chúng tôi không thể so bì. Bấy giờ đồ chúng dự học đều cho rằng tâm thần hữu hình, chỉ diệu ở nơi vạn vật. Từ đó mà nhàm chán. Tăng Phu bèn trước tác luận: - Thần vô hình, vì có hình nên có số. Có số thì có tận. Thần đã vô tận, cho nên biết là vô hình. Bấy giờ đồ chúng phân vân cùng tranh biện. Vì lý đã có chỗ quy nên càng tin phục. Sau Ngài trước tác nghóa sớ kinh Phóng Quang, Đạo Hạnh. Sau Ngài lâm chung ở tại chùa, thọ bảy mươi tuổi. Ngài Đạo An và Trúc Pháp Thái có viết thư cho Ngài: - Mỗi khi nhớ đến Phu thượng nhơn vẫn còn như hôm qua. Xa cách đã nhiều năm, mà mỗi khi đàm luận thanh biện đều nhớ đến Ngài, tưởng cùng người đang luận bàn sớ giải những điều hay đẹp. Há đâu một sớm vónh viễn đã ra đời khác. Thống hận sâu xa nào đã quên tình. Nghóa lý của người gia công tìm hiểu, người tín khó thể tường tận. Ngài Pháp Thái và Đạo An có mấy tập sách diễn giải nghóa lý, nhưng nay đều thất lạc hết, thật đáng tiếc. ---------------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM DỰC Họ Diêu là người Khương, hoặc nói là Ký châu. Xuất gia năm mười sáu tuổi, thờ Đạo An làm thầy. Tuổi nhỏ đã có luật hạnh đáng khen, học thông cả tam tạng, được môn nhơn khâm phục. Ngài đi đến đất Thục, được quan thứ sử là Mao Cừ rất trọng vọng, cúng dường thức ăn. Một lần thấy trong cơm có trứng gà, Ngài gạt ra rồi mới ăn. Mao Cừ càng thêm kính trọng, biết vị này tất không cô phụ tín thí. Sau đó đem cúng dường cả ngàn đấu gạo cho ngài Đàm Dực. Ngài thọ nhận rồi đem cúng dường bố thí hết. Ngài từng theo ngài Đạo An ở chùa Đàn Khê. Thái thú Trường Sa là Đằng Hàm Chi lập chùa ở Giang Lăng, nhờ ngài Đạo An cho một vị đến trụ trì. Ngài Đạo An bảo Đàm Dực: Kinh châu đất Sở vừa muốn có bực sư tông. Người đến đó giáo hoá chẳng phải ông thì còn ai? Đàm Dực liền cầm tích trượng đi về Nam trụ trì chùa Đề Cấu, tức là chùa Trường Sa. Khi bọn cuồng khấu vào cướp phá Giang Lăng, Ngài lánh nạn qua Thượng Minh rồi lập ra chùa Thượng Minh ở đó. Khi Giang Lăng bình yên Ngài trở về Trường Sa. Do lòng tinh thành tu niệm của Ngài mà cảm được xá-lợi. Ngài dùng bình vàng đựng xá-lợi đem đặt ở trai đường. Ngài đảnh lễ và lập thệ nguyện: Nếu đây là Kim Cang nguyện xin cho phát quang chiếu sáng. Trong đêm đó có năm sắc hào quang phát sáng, màu sắc từ bình phát ra đầy khắp phòng. Đại chúng đều kinh ngạc, cho là Ngài có thần cảm. Sau Ngài vào núi Lăng Quân ở đất Thục để đốn cây, núi biển nối liền nhau nên gọi đây là Động Đình Sơn. Trên núi có hang thông với Bao Sơn của đất Ngô. Núi đã linh dị làm cho người thêm kinh sợ. Ngài đưa người vào núi, giữa đường gặp bạch xà và vài mươi con rắn dài trên đường, Ngài trở lui cầu lễ sơn thần xin sám hối và nói với thần rằng: Con xin chặt cây làm chùa, công đức này xin hồi hướng tất cả. Đêm ấy liền thấy thần nhân đến bảo rằng: –Pháp sư đã vì Tam bảo mà cần dùng, tôi xin tuỳ hỷ, nhưng chớ để cho người khác chặt phá. Sáng hôm sau Ngài cho người chặt cây thả trôi dòng nước đem về. Khi chặt phá có người trộm riêng. Khi làm chùa đủ số lượng xong, những người kia đều bị quan bắt giữ. Sự chí thành được cảm ứng như thế. Ngài Đàm Dực thường than: Chùa đã lập, tăng đã đủ mà hình tượng còn thiếu. Vua A-dục khi tạo dung nghi thần tượng, phần nhiều đều bố cáo khắp các phương, vì sao không cảm ứng đến. Ngài bèn cầu thỉnh rất ân cần chí thiết -Ngày mùng 8 tháng 02 năm Gíap ngọ, năm Tấn nguyên thứ mười chín, chợt có tượng Phật hiện ra ở phía Bắc thành, toả ánh hào quang chiếu khắp trời. Bấy giờ tăng chúng chùa Bạch Mã đến cung nghinh khiêng đi nhưng không lay động. Ngài đến cầu thỉnh lễ lạy và nói với chúng nhơn rằng: Đây là tượng của vua A-dục cho chùa Trường Sa chúng ta. Ngài bảo ba vị đệ tử khiêng đi, quả nhiên khiêng được về bổn tự. Sau có Thiền sư nước Kế Tân là Thiền sư Tăng-gìa Nan-đà, đến đất Thục vào chùa lễ bái, thấy tượng chiếu hào quang có chữ Phạm, liền nói: - Đây là tượng của A-dục Vương, vì sao lại đến đây. Mọi người nghe vậy thì biết lời Đàm Dực nói không sai. Ngài mất năm tám mươi hai tuổi. Ngày Ngài tịch tượng chiếu sáng linh hoá rõ ràng, chẳng biết là nghóa gì. Ai cũng cho Ngài là người có thần cảm. Bấy giờ ở chùa Trường Sa có Sa-môn Tăng Huy. Ngài học nghiệp sâu rộng rất được kính trọng, lại khéo thập trụ, nên chú giải rất rõ ràng. <詞>THÍCH PHÁP NGỘ Không biết Ngài là người ở đâu -Tuổi nhỏ đã hiếu học dốc chí tinh cần nhưng tánh khoa trương dưới mắt không người. Sau gặp Ngài Đạo An lòng tự nhiên tin phục nên thờ Ngài làm thầy. Ngài vốn huyền hoá ngộ giải phi thường, khắc kỷ bổn tâm, khiêm cung mà thành đức hạnh. Thái thú Nghóa Dương là Nguyễn Bảo nghe tiếng Ngài nên rất ngưỡng mộ. Ngài kết thiện hữu viết thư thông hiếu, qua lại giao tiếp. Lúc Tương Dương bị loạn, Ngài tránh về Đông hạ dừng ở chùa Trường Sa tại Giang Lăng, giảng thuyết kinh điển, người theo thọ học lên đến hơn bốn trăm vị. Bấy giờ có vị tăng uống rượu phế bỏ việc đốt hương. Ngài chỉ phạt mà không khiển trách -Ngài Đạo An nghe biết, đem ống trúc đồng đựng một cây roi, tay tự gói lại bảo gởi cho ngài Pháp Ngộ. Ngài mở ra thấy cây roi liền nói: Đây là dành cho vị tăng uống rượu đây. Ta dạy chúng không nghiêm nên phiền đến Ngài. Rồi Ngài bảo duy-na đánh kiền chuỳ tập chúng, đem gậy trúc đặt trên bàn hương án. Hành hương xong rồi, Ngài mới đứng dậy đến trước chúng, hướng lòng chí kính về cây trúc đồng rồi phục xuống đất, bảo duy-na hành lễ trượng ba lần -Ngài tuôn lệ như để tự trách -Tăng tục nhìn thấy đều khen ngợi không dứt. Nhân đó mà cùng khuyến tấn tự tu nghiệp cho đại chúng. Rồi ngài viết thư cho ngài Tuệ Viễn thưa rằng: Con chướng ám đoản sự không thể lãnh chúng. Hoà thượng tuy ở xa xôi mà còn tỏ lòng nghó đến, tội của con thật nặng vậy. Sau Ngài mất ở Giang Lăng, thọ sáu mươi tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM HUY Là người Hà Nội, năm mười hai tuổi theo ngài Đạo An xuất gia. Ngài Đạo An chuộng về thần thái của Ngài lại bảo đọc sách. Trong hai ba năm Ngài học kiêm hết kinh sử. Đến mười sáu tuổi mới thế phát. Từ đó Ngài chuyên tinh học Phật lý, chưa đến tuổi trưởng thành đã giảng pháp. Tuy chí nghiệp sâu xa mà sự khiêm cung cũng đáng trọng. Sau theo ngài Đạo An đến Tương Dương, gặp lúc chiến loạn mới tránh sang Kinh châu, dừng tại chùa Thượng Minh. Mỗi khi pháp luân chuyển hoá thì tăng tục đều kéo đến. Ngài vẽ chân dung của ngài Đạo An để lễ bái. Chư tín đồ ở Giang Lăng thường hướng về Tây để kính lạy Bồ-tát Ấn Thủ (Đạo An). Hoặc có người hỏi: Pháp sư đạo hoá làm sao bằng được hoà thượng? Ngài bảo: Nội hành của Hoà thượng sâu cạn không dễ gì suy lường. Do nhiều ngoại duyên nên sự ứng nghiệm của ta không thể bằng. Ngài mất năm thứ hai mươi hai đời Tấn Thái nguyên. Ngày lâm chung Ngài không có bịnh hoạn gì. Khi lên giảng đường cùng chúng thọ thực, nhơn đó mà từ biệt chúng. Ăn xong trở về phòng nằm hướng tay mặt rồi tịch hoá, thọ bảy mươi ba tuổi. Ngài trước tác “Lập bổn luận” gồm chín thiên sáu thức chỉ quy mười hai bài, đều còn lưu hành ở đời. ------------------------------------ <詞>THÍCH ĐẠO LẬP Không biết Ngài là người ở đâu, tuổi nhỏ xuất gia thờ ngài Đạo An làm thầy. Ngài thông hiểu kinh Phóng Quang, lại đem tam huyền của Trang Lão ứng với lý phật, lại thuộc cả ý. Tánh Ngài ưa tịnh không ham chuyện thế sự -Sau Ngài theo Đạo An ẩn cư trên núi Phú Chu. Ngài ở chốn non cao không cầu sự cúng dường. Mỗi khi suy tư thập thiền, liên tiếp bảy ngày không khởi dậy. Một ngày đầu hạ Ngài chợt xuống núi, vân tập đại chúng lại, rồi giảng phần Đại Phẩm, có hỏi lý do thì Ngài nói: - Ta chỉ ở đây đến mùa thu. Vì muốn làm xong hoài bảo của tổ vậy. Vài ngày sau Ngài không bị bịnh mà tịch. ------------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM GIỚI Ngài có tên là Tuệ Tinh. Họ Trác. Người Nam Dương, là em của binh bộ Cức Dương. Ngài an bần học đạo du tâm nơi nội điển. Sau nghe ngài Vu Pháp Đạo giảng kinh Phóng Quang bèn đến nghe, từ đó tâm ngộ Phật lý, phế tục theo đạo, thờ ngài Đạo An làm thầy, bác thông tam tạng, tụng kinh hơn năm mươi vạn lời. Hằng ngày lễ sám năm trăm lạy. Vương Khang ở Lâm Xuyên rất kính trọng. Sau Ngài bị bịnh càng chuyên tâm tụng danh hiệu Phật Di-lặc không dứt -Đệ tử là Trí Sanh hầu bịnh hỏi Ngài vì sao không nguyện sanh về nước An dưỡng. Ngài nói: - Ta cùng Hoà thượng và tám người đồng nguyện sanh về cung trời Đâu-suất-Hoà thượng và bạn đạo đều vãng sanh về đó mà ta chưa sanh về, cho nên mới nguyện. Ngài nói xong thì có hào quang chiếu khắp thân, trông dung mạo thật vui vẻ, rồi an nhiên thị tịch thọ bảy mươi tuổi. Mộ phần nằm bên phải mộ của ngài Đạo An. ------------------------------------- <詞>TRÚC PHÁP KHOÁNG Ngài họ Cao. Người ở Hạ Phi (Giang Tô), ngụ cư ở Ngô Hưng, sớm mất cha mẹ, thờ mẹ kế rất có hiếu. Nhà nghèo không có của cải thường cày ruộng để nuôi mẹ già. Rồi khi mẹ mất lại hết lòng hiếu lễ. Tang phục xong thì lại đi xuất gia, thờ ngài Trúc Đàm Ấn làm thầy - Ngài Đàm Ấn là người thông tuệ có đạo hạnh, Ngài thờ thầy hết lòng chí thành. Sau khi thọ giới cụ túc xong, Ngài giữ gìn đạo hạnh tiết tháo hơn người, thanh tịnh an nghiệp chí hạnh sâu xa. Ngài Đàm Ấn một lần bị bạo bịnh. Pháp Khoáng chí thành cầu lễ sám trong bảy ngày bảy đêm. Đến ngày thứ bảy hốt nhiên thấy năm sắc hào quang sáng rực trong phòng thầy. Ngài Đàm Ấn như biết có người dùng tay đè vào mình, bịnh hoạn đều tiêu hết. Sau đó ngài từ biệt thầy đi du hoá xa. Ngài tìm các kinh luận yếu chỉ đem về nơi thạch thất trên núi Tiệm Thanh. Mỗi ngày lấy yếu chỉ Pháp Hoa làm hội tam, lấy Vô lượng thọ làm nhân Tịnh độ. Thường tụng trì hai bộ kinh này. Khi có chúng học thì giảng dạy, một mình thì đọc tụng. Tạ An trấn thủ ở Ngô Hưng thường cung kính qua lại, mà núi cao hiểm trở xe ngựa không thể đi được. Thế là bỏ xe leo bộ lên -Giản Văn Hoàng Đế nhà Tấn, sai thái thú Đường Ấp là Khúc An đến vấn an thăm hỏi, cùng thỉnh Ngài dùng lực trừ sao yêu mị. Ngài đáp: - Xưa Tống Cảnh tu phước mà sao yêu dời chỗ. Bệ hạ từ lúc lên ngôi đến nay việc hình pháp đều nghiêm chỉnh, thiên hạ bình an vạn sự đều yên ổn -Bần đạo ắt phải tận lòng thù đáp, chỉ sợ có tâm mà vô lực thôi. Rồi Ngài cùng đệ tử hết lòng trai sám không bao lâu thì tai ách tiêu trừ. Đời Tấn Hưng Ninh Ngài Đông du quán xem sơn thuỷ, muốn ở nơi núi non yên tónh để dưỡng tâm trí -Bấy giờ ở Đông gặp nhiều tai dịch. Ngài từ nhỏ đã tu tập từ bi lại khéo chú nguyện nên thường đến thôn ấp trừ tai nạn cho dân -Ngài trụ trì chùa Xương Nguyên, bá tánh có bịnh nhờ Ngài chú nguyện đều công hiệu. Có người thấy quỷ nói là khi Ngài đi đứng thường có vài chục quỷ thần theo hộ vệ trước sau. Bấy giờ có Sa-môn Trúc Đạo Lân tạo ra tượng Vô Lượng Thọ. Ngài bèn tìm người hữu duyên, khởi lập đại điện và tương truyền rằng: Chặt cây gặp hạn. Ngài chú nguyện khiến cho có nước. Đời Tấn, Hiếu Vũ Đế nghe tiếng Ngài bèn cầu thỉnh về kinh sư làm lễ thờ Ngài làm thầy. Ngài trú tại chùa Trường Can. Ngài tịch năm đầu Nguyên Hưng thọ bảy mươi sáu tuổi. ---------------------------------- <詞>TRÚC ĐẠO NHẤT Ngài họ Lăng, người đất Ngô. Tuổi nhỏ xuất gia, hết lòng trinh chánh có học nghiệp, mà lại mai danh ẩn trí, không ai biết đến. Người quen lâu mới biết chỗ thần xuất của Ngài. Anh em Vương Tuần ở Lang Da rất cung kính. Ngài đến trụ tại chùa Ngoã Quang trong niên hiệu Thái Hoà nhà Tấn, theo thọ học với Thái công. Trong mấy năm tư tưởng đã uyên thâm đi giảng dạy cho cả thôn ấp. Đàm Nhất đệ tử của ngài Pháp Thái cũng thanh nhã đầy phong thái. Bấy giờ đều gọi Đàm Nhất là Đại Nhất. Đạo Nhất là Tiểu Nhất. Danh tiếng vang xa một thời. Hoàng đế Tấn Giản Văn rất kính trọng và khi vua băng hà và ngài Pháp Thái mất, ngài Đạo Nhất trở về núi Hổ Khâu ở phương Đông. Học trò cố giữ Ngài lại mà không được lại lệnh cho Y Di người Đan Dương mời Nhất trở lại kinh. Ngài đáp: bởi nghe sự thực hành của đại đạo tốt đẹp rồi thì nên lánh đi để chí được tự do không ràng buộc, chư hầu nhà Đường được hưng thạnh vui sướng thì dân không có tánh cướp đoạt, do đây mà mở rộng bờ cõi. Nhà đại Tấn Quang Hy, đức trùm khắp, tôn sùng Phật pháp ngày càng mở rộng, do đây người các nơi khác ngoài muôn dặm đều đắp y chấn tích đến đầy thiên ấp, đều cắt bỏ ái dục, rửa tâm trong sạch, mầu nhiệm lâu dài không gì bì được. Do đó đạo sâu thường ở ẩn, vì có chí từ bi cứu độ nên đi khắp nơi từ Đông sang Tây chỉ lấy đạo làm nhiệm vụ. Tuy vạn vật làm mê hoặc kế một ngày nhưng kẻ hiểu biết thì hiểu được công của một năm. Nay nếu là trách móc, bắt lệ thuộc và biên soạn thì e kẻ só du phương luôn hướng đến đời Thánh cao vời, thì kẻ khinh cử một đi không trở lại, làm mất đi phong độ hưng thạnh, sáng tỏ, lầm lạc ý chỉ của chủ tướng, vả lại khách hành cước, thiên đài không có cửa, đông đảo người không ghi chép vương phủ. May thay đương thời biết rõ mà sau tập hợp lại. Nhất do đây nhàn cư ần tích nơi núi hang. Bấy giờ ở Da Sơn có ngài Bạch Đạo Hiến, vốn người họ Phùng, người ở Sơn Âm. Thuở nhỏ đã thông tuệ có tiếng, tánh ưa chỗ thanh tịnh vắng lặng, khi ngâm vịnh đều có hào khí. Ông cùng Đạo Nhất có duyên giảng dạy nên gặp nhau. Sau cùng Đạo Nhất có viết thư qua lại nói: –Vừa được ưu du nơi miền sơn cước, đọc sách Thích, Khổng, hứng thú thì làm thơ, lên non hái thuốc trị bịnh cũng là vui. Nhưng không cùng túc hạ đồng nhật cũng lấy làm hận vậy. Không lâu sau có quận thú Lang Da là Vương Hội lập chùa Gía Tường ở Ấp Tây. Thấy ngày phong đức cao xa thỉnh về làm tăng thủ. Ngài bèn dời sáu vật ở chùa, tạo ra kim bài thiên tượng. Ngài đã bát thông nội ngoại, lại giữ gìn luật hạnh tinh nghiêm cho nên tăng ni khắp nơi đều nương về theo học hỏi. Người bấy giờ đều gọi là: “cữu châu bộ duy na”. Sau ngài dời về núi Hổ Khâu ở đất Ngô. Vào đời Tấn Long An thọ bịnh thị tịch. Táng ở phía nam ngọn núi này, thọ bảy mươi mốt tuổi. Đệ tử Ngài là Đạo Bảo, họ Trương cũng là người Ngô. Bẩm tánh thông tuệ, giỏi về thuyết pháp. Trương Bành Tổ, Vương Tú Diễm đều xem trọng. ------------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ KIỀN Họ Hoàng Phủ, người đất Bắc. Tuổi nhỏ xuất gia phụng trì giới hạnh, có chí lực tiết tháo. Ngài trụ ở Lô Sơn hơn mười năm. Hàng đạo tục có chí nghiệp thù thắng đều noi theo ngià mà tu tập. Ngài La-thật dịch lại các bộ kinh. Ngài Tuệ Kiền chí muốn phu diễn ra để tuyên dương đức giáo. Vì có ngài Tuệ Viễn ở tại núi để tuyên hoá đạo mầu. Tuệ Kiền bèn chu du về Đông Ngô để hoằng thông đạo pháp. Đầu nhà Tấn Nghóa Hy, Ngài về chùa Gia Tường ở Sơn Âm, tu tập và giáo hoá người, ra sức dạy chúng. Phàm các tân kinh đều biên chép giảng thyết. Trải qua năm năm, chợt một hôm Ngài bị bạo bịnh, tự biết khó qua khỏi, bèn quán tưởng cõi An dưỡng, chí thành niệm Quan Âm Bồ-tát. Phía Bắc chùa Sơn Âm có ni sư Tịnh Nghiêm, người có túc đức giới hạnh. Ban đêm vị ni này thấy Quan Âm Bồ-tát từ cửa Tây quách đi vào, diệu trạng sáng rực tỏ sáng như nhật nguyệt, tràng phan bảo cái đều có trang nghiêm thất bảo. Ni sư thấy liền làm lễ và hỏi: Đại só vì sao lại đến đây? Đáp rằng: Đến chùa Gia Tường cung nghinh Sa-môn Thích Tuệ Kiền. Khi sắp lâm chung, Ngài tuy đang bịnh nặng, mà thần sắc vẫn tươi sáng như mọi ngày. Thị giả hầu Ngài nghe có mùi hương lạ, hồi lâu mới hết. Ngài tự biết phút lâm chung, lại thấy hiện ra điềm tốt. Tăng tục nghe thấy đều khen ngợi.  <卷>QUYỂN 6 THÍCH TUỆ VIỄN Ngài Tuệ Viễn họ Giả, người ở Lâu Phiền, Nhạn Môn, thuở nhỏ thích đọc sách, năm mười ba tuổi theo cậu Lệnh Hồ đến học ở Hứa Lạc. Vì vậy nên tuổi nhỏ mà đã vì chúng sanh. Thông suốt lục kinh, giỏi nhất về Lão, Trang. Bổn tánh siêu phàm trác tuyệt, tư chất thông minh hơn người. Dù là bậc túc Nho lão luyện, tài ba cũng đều khâm phục chỗ thông đạt của Ngài. Năm hai mươi mốt tuổi Ngài muốn sang Giang Đông gặp Phạm Tuyên Tử để cùng an cư. Nhưng gặp lúc Thạch Hổ đã chết nên vùng Trung Nguyên giặc dã nổi loạn, đường về phương Nam bị bế tắc, chí nguyện không thành. Khi ấy Ngài Đạo An lập chùa ở Hằng Sơn, Thái Hành, hoằng dương giáo pháp, tiếng tăm lừng lẫy. Ngài Tuệ Viễn bèn tìm đến nương ở. Vừa gặp mặt thì hết lòng cung kính, cho rằng đây là vị chân sư của mình. Sau đó nghe Ngài Đạo An giảng kinh Bát-nhã, Ngài có chỗ sở ngộ. Bèn than rằng: chín phái Nho, Đạo đều là trấu cám mà thôi. Rồi cùng với em mình là Tuệ Trì xuất gia làm Sa-môn quên thân học đạo. Khi đã nhập đạo thì nổ lực siêng năng vượt trội hơn chúng. Ngài luôn có tâm niệm muốn thâu tóm các cương yếu của kinh điển, lấy việc hoằng dương đại pháp làm nhiệm vụ của mình, đêm ngày siêng năng hành trì tham cứu, sống một cuộc đời vô sản, y áo thô sơ, mà anh em vẫn một mực kính nhường, trước sau không dám giải đãi. Có Sa-môn Đàm Dực thường cung cấp chi phí hương đèn. Ngài Đạo An biết vậy vui vẻ nói rằng: “Đạo Só thật là biết người”. Viễn tịch tuệ giải nơi nhân đời trước, phát tâm từ nhiều kiếp mới thông minh, cơ trí, trác tuyệt như vậy. Ngài Đạo An thường khen: kẻ khiến cho đạo hưng thạnh ở nước ta là Viễn vậy. Năm hai mươi bốn tuổi Ngài bèn thăng toà thuyết pháp, có lần vị khách nghe ngài giảng, than rằng nghóa thật tướng Ngài giảng tới lui nhiều lần càng tăng thêm sự ngờ vực. Ngài Tuệ Viễn liền dẫn nghóa Trang Tử có liên hệ đến đề tài này làm cho những người chưa hiểu được tỏ tường. Sau đó ngài Đạo An đặc biệt cho phép Ngài được nghiên cứu ngoại điển. Ngài Đạo An có hai vị đệ tử là Pháp Ngộ và Đàm Huy. Đều là những bậc tài năng sáng lạng, đạo hạnh xuất chúng, cả hai đều bội phục ngài Tuệ Viễn. Sau đó Ngài theo thầy về phương Nam đến Phiền Miện. Lúc đó vào niên hiệu Kiến Nguyên thứ chín đời Nguî Tần, có vị tướng tên Phù Bình nổi loạn cướp phá Tương Dương, ngài Đạo An bị Chu Tự quản thúc nên không thể đi được. Ngài phân chia đồ chúng mổi người mỗi ngã theo sở thích của họ, cả đồ chúng đều được thầy dặn bảo cặn kẻ, chỉ riêng ngài Tuệ Viễn là thầy không nói lời nào, Ngài quỳ xuống thưa rằng: “ Chỉ mình con không được dạy bảo, e rằng sau này con chẳng làm bậc mô phạm cho người”. Ngài Đạo An nói:” Là con thì ta còn lo gì”. Thế rồi, ngài Tuệ Viễn cùng với mấy mươi người đệ tử đi về phương Nam, qua Kinh châu trú tại chùa Thượng Minh. Sau đó lại muốn sang núi La-phù, vừa đến Tầm Dương thấy Lô Sơn là một ngọn núi yên tónh để tu hành. Ban đầu Ngài ở tịnh xá Long tuyền, nơi đây cách nước khá xa, Ngài bèn chống tích trượng xuống đất khấn rằng:”nếu nơi này có thể ở được thì hãy kh- iến cho vùng đất khô cằn này thành dòng nước” Ngài vừa dứt lời bổng nhiên có một dòng nước trong xanh vọt ra và biến thành suối. Sau đó không lâu ở Tầm Dương nắng hạn, Ngài đến bờ ao đọc kinh Hải Long Vương, chợt có một con rồng từ ao vọt lên hư không, lát sau trời đổ mưa lớn. Năm ấy mùa màng trúng vụ, nhân đó Ngài đổi tên tịnh xá thành chùa Long tuyền. Lúc ấy có vị Sa-môn tên là Tuệ Vónh ở chùa Tây Lâm đồng thời là đồng môn với ngài Tuệ Viễn, thuở xưa thích ở chung với Ngài. Tuệ Vónh bảo thứ sử Hoàn Y rằng:”Ngài Tuệ Viễn mới đúng là bậc hoằng đạo. Nay đồ chúng đã đông mà người tin đến học đạo càng nhiều, bần đạo ở chỗ chật hẹp không đủ để ở chung. Hoàn Y đáp: Thế sao? Rồi ông bèn xây dựng Đông Lâm cho ngài Tuệ Viễn ở, tức là chùa Đông Lâm vậy. Ngài Tuệ Viễn lập một ngôi tịnh xá, động nhiều suốt cả núi, lại dựa vào đỉnh Hương Lư, bên cạnh vắt ngang một dòng thác, đá chồng lên nhau, lại trồng thành những rặng tùng. Suối trong, thềm ngọc, mây trắn đầy thất. Ở trong lại đặc biệt cất một ngôi Thiền Lâm, cây cối rậm rợp, sương khói bao phủ, rêu mọc trên phiến đá, hễ ai đến đây tham viếng đều cảm thấy thần thanh khí tú. Ngài Tuệ Viễn nghe nói ở Thiên Trúc có tượng Phật, đức Phật này thuở xưa hàng phục độc long, hình ảnh ấy còn lưu truyền lại. Trong thất đá của một vị tiên phía Nam thành Na-biệt Ha nước Nguyệt Thị thuộc vùng bắc Thiên Trúc, hành đạo trên sa mạc, cách phía Tây một vạn năm ngàn tám trăm năm mươi dặm. Mỗi lúc cảm giao thì trong lòng muốn chiêm bái. Lần nọ có vị Sa-môn Thiên-trúc miêu tả tượng Phật độ rồng độc, ngài Tuệ Viễn bèn ra đằng sau lưng núi kế bên dòng suối chọn một địa điểm để xây am thất. Rồi theo sự diễn tả ấy vẽ ra một bức tượng Phật, nhìn xa xa giống như tượng Phật lúc ẩn lúc hiện trong mây khói. Ngài bèn trước tác một bài minh: Vó đại thay! Tượng lớn lý huyền mà không tên, thể thần nhơn hoá, để lại bóng mà lìa hình. Aùnh sáng vờn trên đỉnh, bóng sáng ngưng tụ không trung. Ơû trong tối mà không mờ, ở trong mờ mà càng sáng, uyển chuyển tinh tế, triều tông bách linh, ứng không cùng phương, vết bặt mà sâu mầu, cõi giới mênh mông, chẳng khuyến chẳng khích, theo lời kể mà vẽ thành dung nhan, tưởng tượng lại mà họa thành hình, tưởng vẹn thể nầy, dung nghi ngời sáng, lông trắng phóng hào quang chiếu sáng trong đêm tăm tối, cảm thấu thì liền ứng, khấu thành phát thệ, để lại tiếng tăm trên ngọn núi thiêng, say sưa thưởng thức tham viếng sẽ gặp, công chẳng do xưa, quay lưng quên kính, chẳng suy chẳng xét. Tam quang( ánh sáng mặt trăng, mặt trời, sao) chiếu soi nhau, vạn lượng một màu, nhà cửa san sát, đường về chẳng ngờ trước. Ngộ thí được tónh lặng, duy có cảnh trần tạm nghỉ, chẳng phải bậc thánh siêu phàm suốt thấu thì ai có thể suốt thấu chỗ cùng tột của nó. Cầu mong tiếng tăm ấy được vang vọng mãi, luôn luôn ngóng về Thích đạo mầu, nhỏ nhiệm như đầu sợi lông, vận vi khinh tố, nương vào chút sắc ảo ẩn hiện ở hư không, chó in bóng giữa tầng mây, bóng dáng tợ hình tượng. Chân lý ấy thật sâu mầu, vô cùng sảng khoái, ngọn gió lành mở đường, thanh khí vần vũ, hoàng hôn giao tiếp với bình minh phảng phát thần dung mang máng kính gặp. Khắc chữ vẽ tượng đâu mong đâu cầu, cảm nhận nghe thấy, để lại tấm gương cho các ông thực hành theo, ngỏ hầu làm phép tắc trong chốn hồng trần, soi sáng pháp huyền kia, súc sạch nơi ao linh, uống vào thêm tươi nhuận, chiếu soi đều hư rỗng ứng thích với lẽ thực. Trí rộng lớn mới trùm khắp, âm thầm tưởng niệm tiêu tưởng thần du, cái chết đối đầu, trăm mối lo âu. Lại, thuở xưa ở Tầm Dương, Đào Khản đến trấn nhậm Quảng châu, một ngư dân thường thấy trên mặt biển có ánh sáng thần dị phóng quang liên tiếp cả mười ngày. Ông đem chuyện kỳ lạ ấy tâu với Đào Khản. Đào Khản nghe vậy, bèn đích thân đến đó xem xét thì đúng là tượng Phật do vua A-dực tạo ra. Ông cho cung thỉnh về chùa Hàn Khê ở Vũ Xương để thờ. Có lần thầy Tăng Trân là trụ trì của chùa này đi qua Hạ Khẩu, ban đêm thầy mơ thấy chùa bị thiêu rụi, mà chỉ có gian thất thờ tượng nhờ long thần vây quanh mà vẫn còn nguyên vẹn. Tỉnh dậy thầy Tăng Trân vội trở về chùa thì thấy xung quanh chùa đều bị cháy rụi mà chỉ còn một gian thất thờ tượng Phật. Đào Khản sau này đi nhậm chức tỉnh khác, vì biết tượng này linh dị nên cho người đến thỉnh về. Khoảng vài mươi người khiêng đến bờ sông rồi đưa lên thuyền, thuyền bị chao đảo. Sứ giả hoảng sợ đem trả lại chùa, rốt cuộc không đem theo được. Đào Khản thuở niên thiếu đã nổi danh là tài ba, nhưng vì thiếu tâm thành tín, cho nên trong kinh sở có lời đồn rằng:” Đào Khản chỉ dùng uy lực, tượng biểu thị cho thần linh, mây lượn rồi ngưng lại, thăm thẳm xa xôi. Có thể đem hết lòng thành kính, khó thể cậy lực chiêu vời. Cho đến khi ngài Tuệ Viễn dựng chùa xong, ông hết lòng phụng thỉnh thì bổng nhiên bức tượng nhẹ nhàng, quay về không ngăn ngại, điều đó đủ biết oai lực của ngài Tuệ Viễn sâu nhiệm biết dường nào. Thế rồi Ngài dẫn chúng hành đạo sớm hôm không nghó. Giáo pháp của Đức Thích-ca đến thời nay được phục hưng. Chẳng bao lâu những bậc kỳ đức trì luật tu thiền, những kẻ dứt trần thành tín không hẹn mà đến, mong mỏi tìm về. Những vị như Lưu Di Dân người Bành Thành, Lôi Thứ Tông ở Dự Chương, Châu Tục Chi người Nhạn Môn. Tất Dónh Chi ở Tân Thái, Tông Bính, Trương Lai Dân, Trương Tú Thạc, người Nam Dương cùng bỏ phú quý vinh hoa ở đời mà theo Ngài cầu pháp. Ngài Tuệ Viễn bèn ở trước tượng Phật Di-đà trong tịnh xá lập trai đàn phát thệ cùng với những vị này hẹn về Tây phương, rồi bảo Lưu Di Dân sáng tác bài văn: Vào năm ấy chính là ngày 28 Aát Mùi, tháng 7 Mậu dần mùa thu nhiếp đề. Pháp sư Thích Tuệ Viễn tinh thành cảm thấu lẻ huyền mầu, mong mỏi cùng phát nguyện thù thắng, cùng với những bậc chí só đồng lòng tụ tập tinh chuyên. Trong số ấy có hai mươi ba vị, vân tập ở trước tượng Di-đà trong tịnh xá trong đài Bát-nhã dưới Lư Sơn. Tất cả đều dâng hương hoa Cùng với tất cả tấc lòng thành kính mà phát thệ. Suy ra chúng trong hội nầy, tỏ rõ là cùng có nhân duyên với nhau, thì chuyện trong ba đời là rõ ràng vậy. Tính thiện cảm đã phù hợp thì báo thiện ác hẳn là điều tất nhiên. Suy ra sự ngầm gia hộ, ngộ được sự bức thiết của vô thường, thấy được tướng sanh diệt của tam báo, biết được sự khó khăn để vượt qua con đường hiểm. Những kẻ hiền cùng chí nguyện này. Cho nên những vị này đêm ngày tinh cần, ngưỡng vọng sự tế độ. Bởi lẽ thần là do cảm được chứ không phải theo dấu vết tìm cầu, có vật ắt cảm, thì đường tăm tối ngay trước mặt, nếu không chủ để cầu thì mênh mông biết đâu là bến bờ. Nay may mắn không mưu tính mà Tây cảnh đều là tâm khấu thành, thiên thì niềm tin là thiên phát, mà cơ tượng thông với tẩm mộng. Vui mừng bởi cả trăm hiền só tụ hội, thế nên ở trên mây bức tranh lộ rõ. Ảnh đều là thần tạo, công do lý hoà hợp, sự chẳng phải nhơn vật, đây quả thật là do trời tạo một cơ hội, hợp với vận ngầm. Đâu không thể khắc lòng tinh chuyên thêm suy tư để lắng bớt lo nghó của mình. Song cảnh tích ấy sai biệt và công đức cũng không giống nhau, tuy buổi sáng rộng cầu nguyện bảo là giống, song buổi chiều trở về thì là cách biệt. Chính là điều mà pháp hữu thầy thiền của ta lấy làm việc đáng thương. Thế nên thật là chạnh lòng, đợi chỉnh sửa lại vạt áo lên pháp đường. Cùng một lòng thực hành, những nguyện vọng thầm kín đều tốt đẹp. Thệ cùng với những pháp hữu đồng hạnh này vượt lên tuyệt cảnh. Chốn có sự linh xuất tuyệt luân đi đầu trong thần cảnh thì không chỉ có riêng ở Vân Kiệu, chẳng gồm cả U Cốc, trước tiến sau thăng. Sách tấn khích lệ trên đường đạo, lại khéo quán tưởng đại nghi, trình bày rõ ràng. Biết là nhờ sự nhận thức mới, hình là do sự thay đổi. Nương phù dung ở trung lưu, nhờ quỳnh kha để ngăm vịnh, phấp phới áo mây nơi bát cực, bồng bềnh gió thơm đến tận năm. Thể chẳng an mà càng vui nhộn, tâm sảng khoái để thêm đắc ý. Vào tam đồ mà hoằng tạ biệt, ngao du nơi cung trời mà mãi từ biệt. Làm hưng thạnh chúng linh để nối tiếp quy củ, đề ra một hơi thở dài để làm kỳ hạn. Đấy chính là đạo vậy, há không rộng ư! Tuệ Viễn có tư chất nghiêm túc, dáng vẻ đạo mạo. Phàm hễ ai trông thấy cũng sanh tâm nể phục. Từng có một vị Sa-môn chọn trúc như ý muốn để biếu Ngài, không dám tỏ bày, xin ở lại một chỗ kín rồi âm thầm ra đi. Có một vị Tăng hiệu là Tuệ Nghóa, mạnh dạn không ngần ngại, lúc đến núi bèn bảo đệ tử của ngài Tuệ Viễn rằng: Các ông tài hèn đức mọn, ta nghe danh đồn chiết phục giỏi. Ta nay đến xem thử thật sự ra sao? Rồi ông đến núi gặp ngài Tuệ Viễn giảng kinh Pháp Hoa. Mỗi lần muốn cật vấn, thì trong lòng run sợ toát mồ hôi rốt cuộc không dám hé nửa lời. Ông lui ra nói với Tuệ Bảo rằng: Sức định của Ngài quả đáng kính sợ, Ngài đây là bậc siêu xuất trong chúng như vậy. Có lần Ân Trọng Kham đến Kinh châu ghé qua núi viếng thăm Ngài, cả hai cùng đến Bắc giản luận về chuyện “thay đổi thể thì phải chuyển cảnh”. Một lát than rằng: Bậc thức tín thâm minh thật khó đo lường. Tư Đồ Vương ích, hộ quân vương Mặc v.v…đều khâm phục oai đức và từ xa viếng thăm Ngài. Vương Ích biên thư nói rằng: Tuổi tác ông mới bốn mươi mà sức khoẻ đã yếu ớt và lãng tai. Ngài Tuệ Viễn nói: Người xưa không yêu tiếc tấc ngọc, mà chỉ quý trọng tấc thời gian. Xem ông đang sống đây cũng tợ như không phải lớn tuổi. Đàn việt đã thực hành đúng lời dạy mà dưỡng tánh cho thoải mái. Nương giáo lý của Phật để ngự tâm. Từ đó suy ra còn ưa thích răng long đầu bạc làm gì. Thiết nghó lẽ này, Ngài đã đạt từ lâu rồi. Song vì muốn đáp lại bức thư ông gởi đến thôi. Lư Tuần vừa xuống thành Giang châu liền vào núi thăm ngài Tuệ Viễn. Thuở nhỏ cha ông ta và Ngài từng là bạn học cũ, nên vừa thấy Tuần Ngài hết sức vui mừng sớm tối thăm hỏi chuyện trò, tăng chúng có vị nhắc Ngài: Tuần là tên giặc của nước nhà, Ngài xã giao nồng hậu thế không nghi ngờ gì sao. Tuệ Viễn đáp: trong Phật pháp ta tình nghóa vốn không lấy bỏ, há không được kẻ thức giả hiểu biết tỏ tường, điều này không gì đáng lo cả. Đến khi Tống Vũ tìm bắt Lô Tuần bèn lập mạng lưới để theo dõi. Tả hữu vua nói: Ngài Tuệ Viễn làm chủ ở Lô Sơn mà cùng giao thiệp thân mật với Tuần. Tống Vũ nói: Tuệ Viễn là bậc mô phạm cho nhân thế, nhất định không thị phi bèn sai người mang thư đến viếng thăm, đồng thời cúng dường tiền bạc gạo thóc. Lúc bấy giờ xa gần đều cảm phục cái thấy sáng suốt của Ngài. Ban đầu kinh điển truyền đến Giang Đông còn khan hiếm, Thiền pháp chưa thịnh hành, luật tạng suy đồi. Ngài than thở vì đạo pháp ở vùng này còn lu mờ. Ngài bảo hai vị Pháp Tịnh, Pháp lãnh đi đến xứ Tây Vực tìm những bộ kinh điển. Các vị ấy băng đèo vượt qua sa mạc, núi truyết, qua nhiều năm mới trở về. Ngài đều đem những Phạm bổn có được ra truyền dịch. Trước đây ngài Đạo An đã có các dịch giải, song chưa hoàn chỉnh. Nay ngài Tuệ Viễn muốn thỉnh ngài Đàm-ma Nan-đề dịch bộ A-tỳ-đàm Tâm luận. Vì người thời ấy ít người giỏi, ngôn ngữ đời Tấn lại khúc mắc. Sau này có vị Sa-môn tăng-già Đề-bà người nước Kế Tân, thông suốt các bộ kinh điển, Ngài đến Tầm Dương vào năm thứ 16 niên hiệu Thái nguyên nhà Tấn. Ngài Tuệ Viễn thỉnh Ngài dịch lại bộ A-tỳ-đàm Tâm và Tam pháp độ Luận. Lúc ấy hai học thuyết này mới phát triển, đồng thời Ngài còn viết bài tựa, để chỉ rõ tông chỉ, khiến học giả giảm bớt phiền toái. Ngài đối việc hoằng pháp luôn canh cánh bên lòng, mỗi khi gặp vị khách Tây Vực bèn khẩn mời lại để tham vấn. Nghe tin Ngài La-thập vào Quan Trung, liền cho người mang thư tham viếng rằn: Thích Tuệ Viễn cúi đầu lễ Ngài, năm ngoái được thư Diêu tả tướng quân, đều nương đức hỏi: Nhơn giả đường xá ngàn dặm cách trở, từ ngoại quốc đến, lúc bấy giờ ngôn ngữ chưa được giao lưu. Nay tin Ngài đến lòng hết sức vui mừng. Nhưng sông ngòi cách trở, chỉ biểu lộ sự kính ngưỡng mà thôi, phải biết trong hội thừa, phủ Thông, trong lòng mong mỏi muốn đến nương ở. Có hỏi thì mới biết xa được, chỉ có tấm lòng hưng phấn tận hưởng mà không thể nói hết. Vọng ngắm con đường phía trước ắt tăng thêm sự vất vả cho Ngài. Song vui mừng vì đại pháp đã được truyền bá khắp nơi. Mặc dù gióng tiếng chuông trong đời mạt pháp, nhưng chỉ thú vẫn mang dấu xưa. Quả thật chưa thể( thức tỉnh) chấn hưng diệu môn, để cảm thấy đến di linh. Đến mỗi bạn bè thân thiết không ngày nào mong mỏi. Luận về Chiên-đàn dời trồng ở đâu thì các cây khác xung quanh đều thơm lây. Ma-ni toả sáng thì các thứ trân bảo tự tụ lại. Đây là lẽ hợp với đạo, giống như đi hư mà về thật. Huống chi tông phong hoàn toàn không có hình tướng mà ứng không vì tình. Vì vậy người đảm nhiệm việc hoằng pháp phải lấy sự vô chấp làm tâm, giao thiệp bạn hữu bằng người nhân đức khiến cho công mình không lãng phí. Nếu khiến cho bánh xe pháp không ngừng quay nơi đường bát chánh, pháp âm Tam Bảo không ngừng vang mãi đời Mạt pháp thì lòng đã mãn nguyện, tài hoa không ai bằng. Long Thọ đâu chỉ khéo theo nơi vết trước. Từ nay tỷ lượng y tài, nguyện lên toà cao để trước thuật, đồng thời bình đựng nước trong cửa trời đã đây là pháp vật, tạm dùng nó để bày tỏ tấm lòng. Ngài La-thật hồi âm. Cưu-ma La-thập đáp lời: Tôi với Ngài chưa từng gặp mặt hàn huyên, lại văn từ cách biệt, nẻo lòng không thông, cơ duyên đặng ý đã tuyệt dứt, chỉ chuyển lời đến tạm tỏ lòng kính ngưỡng. Bởi chẳng biết phải làm gì mới phải. Một con đường có thể ngăn cả tră. Kinh nói: Đời sau ở phương Đông sẽ có một vị Bồ-tát hộ pháp khích lệ nhơn giả khéo hoằng truyền Phật sự của Ngài. Luận về tài có đủ năm món, đó là phước đức, giới hạnh, học rộng, biện tài, trí tuệ, Ngài có đủ cả những tiêu chuẩn đó thì sẽ khiến cho đạo hưng thịnh, chưa đủ thì bị nghi trệ. Nhân giả là người hoàn hảo vẹn đủ cả vậy. Cho nên muốn gởi lòng đến thăm hỏi, nhờ người dịch truyền ý, đâu thể thấy hết được, chỉ tạm đáp lại lòng mong mỏi của Ngài đã chiếu cố. Muốn khi lên pháp toà để trước tác phải là ý của Như Lai. Nhưng sức người không xứng vật nên lấy làm hổ thẹn. Xưa nay thường dùng chậu rửa bằng đồng, đá song khẩu” có thể dự bị số pháp vật. Đồng thời làm một bài kệ rằng: Đã xả nhiễm lạc, tâm đặng thiện nhiếp chăng. Nếu được sự yên định, thâm nhập thật tướng không. Rốt ráo trong tướng không. Tâm mình không có gì để thích, nếu vui thiền trí tuệ là pháp tánh vô chiếu, hư cuồng v.v… đều không thật, cũng không chỗ dừng tâm, pháp ấy nhân giả đã đắc. Mong cầu mở bày chỗ cốt yếu. Ngài Tuệ Viễn viết thư hồi âm rằng: Hôm nay có khí tốt so ra như thế nào, tháng trước pháp thức đạo nhơn đến. Nghe Ngài muốn về bổn quốc, lòng vô cùng buồn bã. Trước đây hay tin Ngài sẽ soạn thảo ra các kinh, cho nên chưa muốn đến tham vấn. Nếu lời này đúng như tin đồn thì thật đáng tiếc, nay lược hỏi mấy mươi điều. Mong Ngài lúc rỗi rải thì chuyển dịch giùm. Điều này tuy chẳng mấy khó khăn gì đối với kinh điển, nhưng muốn lấy quyết định ở nơi Ngài thôi. Và đáp lại một chương kệ: Đầu mối rốt cuộc do đâu Một mảy trần liền động cảnh Thành ra sức núi lỡ này Xúc lý tự sanh tuệ. Nhân duyên tuy vô chủ Mở lối chẳng một kiếp Khi không ngộ lý mầu Ai rõ nắm huyền khế Chẳng hỏi thứ hoang đường Cùng nhau hẹn bóng xế Sau đó có phất-nhã Đa-la vừa đến Quan Trung đọc bộ Thập tụng bằng tiếng Phạm. Ngài La-tThập theo văn Tấn chia làm ba phần, mới được hai phần thì ngài Đa-la qua đời. Tuệ Viễn thường luôn buồn bã vì bộ sách chưa hoàn chỉnh. Cho đến lúc hay tin Đàm-ma Lưu-chi vào Tần lại thông thạo bộ này, nên Ngài sai đệ tử là Đàm Ung đem thư đến khẩn thỉnh mời Ngài vào Quan Trung để dịch tiếp phần còn lại. Cho nên toàn bộ Thập tụng đầy đủ. Đời nhà Tấn soạn thuật được bộ đó và lưu truyền cho đến ngày nay. Những người thông suốt nội ngoại điển ở Quan Trung đều đến tụ hội nơi này là do oai lực của ngài Tuệ Viễn. Tăng chúng ngoại quốc đều gọi đất Hán có đạo só đại thừa. Mỗi lần đốt hương lễ bái đều hướng về hướng Đông đảnh lễ tưởng niệm Lô Sơn, Ngài là dấu tích của thần lý, cho nên chẳng thể lường được. Trước kia ở Trung Quốc chưa có thuyết Niết-bàn thường trụ, chỉ thảo luận về vấn đề thọ mạng dài ngắn mà thôi. Ngài Tuệ Viễn bèn nói: Phật là đấng tối cực, tối cực thì không biến chuyển, lý bất biến đâu có chỗ cùng tận ư. Nhân đó Ngài trước tác quyển Pháp tánh luận rằng: chí cực lấy bất biến làm tánh. Đạt tánh lấy thể cực làm tông. Ngài Cưu-ma La-thập khen rằng: người nơi biên địa chưa có kinh, lại am hiểu và hợp lý, há không tuyệt diệu ư. Vua Diêu Tần khâm phục oai phong tài đức tài trí của Ngài, nên thường viết thư thỉnh vấn, cúng dường liên tiếp. Tặng cho Ngài một tượng thêu lụa tạp sắc ở nước Quy Tư để tỏ lòng kính mến. Còn sai Diêu Sùng tặng cho Ngài một pho tượng bằng ngọc thạch. Khi vừa dịch xong bộ luận Trí Độ, vua sai người đem di thư đến thưa: Bộ luận Trí Độ này vừa dịch xong, đây là trước tác của ngài Long Thọ, lại thuộc chỉ thú Phương đẳng. Viết lời tựa để bày tỏ ý tác giả, nhưng các đạo só ở đây đều từ chối không dám hạ bút, Pháp sư nên đề vào đây ít dòng làm lời tựa để người học đời sau không phải nghi ngờ. Ngài Tuệ Viễn đáp thư: Muốn tạo bài tựa Đại Trí Độ để làm sáng tỏ ý tác giả, bần đạo lấy làm áy náy trong lòng. Bởi lớn thì chẳng phải nhỏ có thể dung chứa được, tài hèn đức mọn chẳng thể đo lường được. Vạch ra thấy mặt trời, hổ thẹn vì tuổi đã cao, thân thể ốm yếu nhiều bệnh tật, đụng chuyện thì trở ngại, không như ý mình, mặt trời ấy cũng đã che phủ. Do đó mong Ngài bảo trọng, bèn tạm dứt hoài bảo, còn nghiên cứu cho mỹ mãn thì sẽ trông mong bậc cao đức, tiếng tăm của Ngài vang xa như vậy. Tuệ Viễn thường nói: Văn từ trong Đại Trí Độ Luận dài dòng, kẻ mới học khó nắm bắt được, nên Ngài viết thêm yếu nghóa, soạn thành hai mươi quyển. Bài văn của sách này ý nghóa thâm sâu khiến cho học giả bớt phiền toái. Sau này Hoàn Huyền chinh phạt Ân Trọng Kham. Lúc đại quân đi ngang qua Lô Sơn. Oâng muốn mời ngài Tuệ Viễn xuống Hổ khê, Ngài từ chối vì bịnh duyên, Huyền đích thân vào núi. Tả hữu của ông tâu: Trước kia Ân Trọng Kham vào núi đảnh lễ ngài Tuệ Viễn. Hy vọng sau khi vào núi Ngài đừng lễ bái Tuệ Viễn. Huyền đáp: Sao lại có lẽ này, Ân Trọng Kham là người đã chết rồi. Cho đến khi vừa gặp ngài Tuệ Viễn ông vội vàng thi lễ và hỏi Ngài. Thân cha mẹ sanh không dám làm tổn thương, sao Đại sư cạo bỏ râu tóc. Ngài đáp: Nhà Nho lập thân nên phải bảo toàn hình tướng, hành đạo trong nhà Phật chỉ bảo toàn tâm tánh. Hoàn Huyền nghe vậy không ngớt khen ngợi. Những điều muốn vấn nạn đang ôm ấp trong lòng nhưng không dám nói gì thêm nữa. Lát sau ông nói về chuyện chinh phạt, ngài Tuệ Viễn không đáp. Hoàn Huyền lại hỏi Ngài có lời chúc phước nào không? Ngài nói: cầu mong cho đàn việt và đối thủ của Ngài bình an vô sự. Hoàn Huyền xuống khỏi núi bảo tả hữu rằng: Thật sự trong đời ta chưa từng gặp ai như vậy. Sau khi củng cố được quyền thế xong, Hoàn Huyền muốn kéo Ngài vào để thêm vây cánh, nên viết thư khuyên Ngài phò chánh mà ra làm quan. Song Ngài viết thư từ chối, quả là không thể kéo Ngài ra được, chí muốn vượt lên Đan Thạch song cuối cùng chẳng thể được. Chẳng bao lâu, Hoàn Huyền muốn sa thải tăng chúng. Bảo Liêu thuộc rằng: Trừ những vị Sa-môn có khả năng hoằng dương Phật pháp, trước thuật kinh điển, giảng giải nghóa lý hoặc giới hạnh nghiêm mật, tu hành nghiêm túc để tuyên dương đạo hoá. Còn những ai trái phạm điều này thì bắt hoàn tục hết. Chỉ trừ Lô Sơn là nơi cư trú của các bậc tu hành, nên không cần kiểm tra. Tuệ Viễn viết thư cho Hoàn Huyền.:Phật giáo suy đồi, bị ô uế đã lâu. Mỗi lần nghó đến điều này khiến tâm tôi bứt rứt vô cùng. Tôi thường nghó chẳng phải là ý trời mà do con người gây nên việc trầm luân. Thiết nghó thanh lọc những kẻ ấy thật đúng với bổn tâm. Luận về việc thanh trừ Sa-môn tạp nhạp thì cần phải rõ ràng. Người chánh trực sửa đổi còn kẻ bất nhân tự lánh xa. Nếu được như thế thì mệnh lệnh sa thải tăng chúng bê tha sẽ có hiệu lực. Sau đó mới uốn nắn được kẻ tà nguî, khiến họ không có cơ hội làm việc cẩu thả mê muội. Những người chân tu cũng không còn bị thế tục hiềm nghi. Từ đó đạo đời được hưng thịnh, ngôi Tam bảo cũng hưng long. Vì văn bản pháp lệnh chưa hoàn chỉnh nên Hoàn Huyền vui mừng tiếp nhậm ý kiến của Ngài. Xưa Tấn Thành Đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, nên Xung Dữu Băng phụ chánh. Ông cho rằng Sa-môn phải lễ kính nhà vua. Mà quan thượng thư Lịnh Hà Sung, quan bộc xạ Trử Dực, v.v… đều tâu là không nên kính lễ. Lúc ấy, quan ngự sử trong triều đều tán thành ý kiến Lịnh Hà Sung, v.v… Môn hạ thừa lệnh của Băng mà bác bỏ, phải trái lẫn lộn rốt cuộc chưa phân định được. Cho đến khi Hoàn Huyền trấn thủ tại Cô Thục, muốn lệng cho Sa-môn phải kính lễ hoàng đế nên viết thư gởi Ngài: Sa-môn không kính lễ hoàng đế thì chẳng hợp với thế tình. Đối với lý này lẽ nào chưa rõ. việc lớn của một thời đại không thể khiến cho thể ấy thiếu sót. Hậu cận trao cho tám pho sách, nay trao cho Ngài. Ngài có thể thuật rõ lý do không kính vương giả. Hãy trình bày từng việc làm cho rõ ràng, thiết tưởng Ngài sẽ có cách giải thích để trừ mối nghi của tôi. Tuệ Viễn viết thư trả lời: Tại sao xưng là Sa-môn? Vì Sa-môn khai mở cho người mê mờ con đường giải thoát, phải quên đi nhân ngã thì sẽ cùng người trong thiên hạ đắc giải thoát. Khiến cho bậc cao minh cũng như hàng phàm phu đều hy vọng được hương vị đó. Thoảng hoặc, tuy việc lớn chưa thành tựu song xem dấu vết của họ cũng tuyệt đỉnh, sở ngộ của họ ắt cũng to lớn rồi. Lại nữa y ca-sa vốn chẳng phải pháp phục của triều đình, bình bát cũng chẳng phải vật của cung cấm. Sa-môn là bậc xuất trần nên không thể lễ bái bậc vua chúa. Hoàn Huyền tuy kiên giữ ý kiến của mình, nhưng sau khi xem xong thư của Ngài đành phải nhượng bộ. Thời gian sau Hoàn Huyền soán ngôi, lập tức hạ lệnh: pháp Phật sâu rộng nhiệm mầu chẳng thể lường được. Suy ra sự tình mà phụng chủ thì phải khởi lòng tôn kính. Nay sự việc ấy đã ở trong ta, để biểu thị sự khiêm nhường cung kính từ nay hàng Sa-môn không cần lễ bái quốc vương nữa. Ngài bèn viết một quyển luận Sa-môn bất kính vưong giả, gồm có năm thiên. Thiên thứ nhất nói về tại gia: Ở tại gia người dân phụng hành lễ pháp đó chính là thuận với lễ giáo thế gian. Tình thì chưa có phong cách thế tục giống như cách thức trong nước, cho nên có sự ái kính của thiên thuộc, lễ bái của việc phụng chủ. Lễ kính có cội nguồn nên nhân đó mà thành lễ giáo. Thứ hai xuất gia: Người xuất gia là người đi ngược dòng đời để theo duổi chí nguyện của mình, biến đổi thói tục để đạt được đạo, thay đổi thế tục thì phải theo kinh điển, không được lễ bái theo sách vở thế tục chỉ dạy. Ngược dòng đời thì phải làm phong cách của mình trở nên cao thượng. Những bậc đạo cao đức trọng thì có khả năng cứu bạt, còn những hạng yếu thì sẽ rơi vào dòng nước xoáy. Chọn lọc huyền căn ở trong nhiều kiếp. Xa thì thông suốt bến tam thừa, gần thì mở con đường cho thiên nhơn. Nếu muốn làm một người đủ vẹn đức, thì đạo hợp lục thân, thấm nhuần thiên hạ. Tuy không ở trong địa vị vương hầu, nhưng đã khế hợp với hoàng cực trong việc nuôi nấng muôn dân. Cho nên trong thì trái với ân trọng của đạo trời, mà không nghịch với đạo hiếu. Ngoài thì thiếu sự cung kính phụng chúa nhưng không mất lòng tôn kính của mình. Ba là cầu tông chỉ: không thuận phong tục cho là phản bổn. Người cầu tông chỉ không để sự sống làm luî đến tinh thần. Người thoát vòng tục luî tuy không để tình cảm luî đến sự sống của mình. Không để tình làm luî đến sự sống thì sự sống ấy cũng có thể diệt. Không để sự sống luî đến tinh thần thì tinh thần ấy có thể sáng suốt. Tinh thần sáng suốt siêu tuyệt cảnh trần gọi đó là Niết-bàn. Cho nên Sa-môn tuy chẳng lễ song mọi sự việc cao cả đều không mong chức tước vương hầu, mà thấm nhuần ơn Tuệ của nước nhà. Thứ tư: Lễ cực không bao giờ ứng: Nghóa là Như Lai cùng với Chu công, Khổng tử, chỗ mở đầu tuy khác song tướng tiềm tàng thì ảnh hưởng lẫn nhau. Chỗ xuất xứ thì khác, chỗ quy về thì giống nhau. Cho nên nói đạo tuy khác mà chỗ quy thú là một vậy. Điều không nên đó là: Không thể yêu thương tất cả mọi vật. Thứ năm là: thân hình có tàn hoại song thần thức không mất. Nghóa là thần thức long đong dong ruổi theo Đông Tây. Đây là đại ý của luận. Từ đó các vị Sa-môn được tự do du hoá khắp nơi. Cho đến khi Hoàn Huyền kéo binh về phương Tây. Tấn An Đế từ Giang Lăng trở về kinh sư, quan phụ trách Hà Vô Kî khuyên ngài Tuệ Viễn đến tiếp kiến vua. Song Ngài bảo có bịnh không thể đi được. Vua sai sứ giả đến hỏi, Ngài viết thư đáp: Thích Tuệ Viễn kính lễ. Thời tiết ôn hoà, cầu mong đức vua được thuận nghi. Bần đạo thuở nhỏ mắc bịnh nặng, nay quá niên bịnh càng nguy cấp. Ngưỡng mong từ chiếu rủ lòng xót thương. Cảm được tấm lòng sâu sắc thì thật lấy làm biết ơn. May mắn gặp được khánh hội mà lực bất tòng tâm. Tình này, sự chiếu cố này không biết lấy gì để bày tỏ. Chiếu đáp: “Dương Trung cảm được sự bệnh hoạn của Ngài chưa khỏi, thâm tình ấy vẫn canh cánh trong lòng. Tháng trước, ở Giang Lăng phát khởi rất nhiều chuyện không tốt trong đạo. Trong lòng luôn day dứt muốn qua đây để cùng gặp nhau. Pháp sư đã an cư nơi núi rừng, bệnh hoạn lại chưa được thuyên giảm. Xa xăm không trở lại được nữa do đó tăng thêm sự tủi hận trong tôi”. Tạ Linh Vận ở Trần quận cậy tài kiêu ngạo ít ai tôn sùng. Cho đến khi được gặp cung kính bái phục. Ngài Tuệ Viễn trong thông lý Phật, ngoài giỏi thơ văn, phàm những môn đồ theo cầu học vị nào cũng tuân hành. Khi Ngài giảng kinh Tang Phục, Lôi Thứ Tông, Tông Bỉnh, v.v… đều chấp quyển thừa chỉ. Thứ Tông sau đó đặc biệt soạn thuật nghóa sớ. Đầu tiên xưng là họ Lôi, Tông Bỉnh nhân đó gởi thư đến nói rằng: trước kia tôi và túc hạ cùng thọ nghóa này ở chỗ ngài Tuệ Viễn. Nay lại để ở đầu quyển là Lôi thị. Cách giảng dạy ấy bao gồm cả đạo tục, loại này chẳng phải một. Từ khi ngài Tuệ Viễn dựng chùa dưới chân Lô Sơn cho đến nay hơn ba mươi năm bóng chẳng rời khỏi núi. Vết chẳng vào nhà thế tục. Mỗi khi tiễn khách đi đến Hổ khê thì trở lại. Lúc bấy giờ vào tháng 8 năm thứ 12 Nghóa hy đời Tấn, thì bắt đầu trở bệnh, đến ngày thứ sáu thì nguy cấp. Chư trưởng lão đại đức đều cầu thỉnh Ngài uống”cổ tửu” Ngài không chịu. Lại thỉnh Ngài uống nước cháo, Ngài lắc đầu. Lại lấy mật hoà với nước để làm tương thỉnh Ngài uống, Ngài bèn bảo luật sư giở sách ra đọc có được uống không, chưa được nửa quyển thì Ngài thọ tịch. Thọ tám mươi ba tuổi. Môn đồ buồn bả than khóc như đưa tang cha mẹ. Đạo tục lần lượt rủ nhau về. Đối với tình cảm thế gian khó đoạn tuyệt, bèn chế bảy ngày, kéo dài sự thương nhớ. Di chúc dặn rằng hãy phơi xương cốt dứoi gốc tùng, chẳng bao lâu thì đệ tử gom lại đem chôn. Thái thú quận Tầm Dương là Đào Khản, xây một ngôi mộ ở phía Tây ngọn núi ấy. Tạ Linh Vận khắc bia nêu di đức của Ngài. Nam Dương Tông Bỉnh lại dựng bia ở cổng chùa. Tuệ Viễn thuở nhỏ rất giỏi văn chương, lời lẽ tao nhã, khi lên pháp toà luận thuyết những nghóa lý tinh tuý. Thêm vào đó là Ngài có phong cách đoan chánh, thần thái điềm đạm. Cho nên hoạ tượng trong chùa cho khách gần xa chiêm ngưỡng. Những cống hiến của Ngài đủ cả thể loại nào là trước tác, luận, đề tựa, minh, tán, thi, thơ. Kết tập lại khoảng hơn năm mươi thiên, mười quyển. Lưu truyền ở đời vậy. ---------------------------------- <詞>NGÀI THÍCH TUỆ TRÌ Chính là em của ngài Tuệ Viễn. Tính cách tựa như ngài Tuệ Viễn. Năm mười bốn tuổi đi học, một ngày học tương đương với người khác mười ngày. Giỏi văn sử, khéo về đồ học. Năm mười tám tuổi xuất gia với anh mình, cả hai đều thờ Pháp sư Đạo An làm thầy. Tham học tất cả kinh điển, bác thông tam tạng. Cùng ở với Đạo An ở Tương Dương, sau đó theo ngài Tuệ Viễn về phương Đông. Ban đầu nghỉ tại chùa Thượng Minh Kinh châu. Sau đó đến Lô Sơn, cũng ở chung với ngài Tuệ Viễn. Thân cao tám thước phong thái ung dung, chân mang dép cỏ, mặc áo nạp. Môn đồ của ngài Tuệ Viễn đều là những bậc anh tài kiệt xuất. Tới lui ba ngàn người đều tôn ngài Tuệ Trì làm bậc Thượng thủ. Ngài có một người cô xuất gia gọi là Đạo Nghi, ở vùng Giang Hạ. Sư cô nghe ở kinh sư Phật pháp hưng thịnh, muốn đến đó để chiêm bái. Ngài Tuệ Trì bèn đưa cô đến kinh đô ở chùa Đông An. Vệ quân Lang Da nhà Tấn là Vương Tuần xem trọng. Lúc bấy giờ có sa-môn Tây vực tên là tăng- già La-xoa, đọc thuộc làu bốn bộ A-hàm. Vương Tuần thỉnh Ngài đọc bộ Trung A-hàm. Ngài Tuệ Trì liền chỉnh sửa lại lời văn. Xét duyệt rõ ràng. Sau này trở về lại Lô Sơn, chẳng bao lâu sau thái thú Phạm Ninh ở Dự Chương thỉnh Ngài giảng Pháp Hoa, Tỳ-đàm. Lúc ấy ở hướng Tây, mây từng lớp vần vũ cả ngàn dặm. Vương Tuần viết thư cho Phạm Ninh nói rằng: Ngài Tuệ Viễn, Tuệ Trì ai hơn. Phạm Ninh đáp thư rằng: Quả là Thánh huynh Hiền đệ vậy. Vương Tuần lại viết thư nói: Tìm một người anh như vậy quả thật không dễ huống chi lại có được một người em như thế. Vương Cung là thứ sử Lang Da ở Duyệt châu. Viết thư gởi Sa-môn Tăng Kiểm nói rằng: Hai anh em Tuệ Viễn và Tuệ Trì đức độ thâm hậu thế nào? Tăng Kiểm đáp: Hai huynh đệ Ngài vẹn toàn mọi mặt từ phong cách đến đạo hạnh. La-thập ở Quan Trung luôn ngưỡng vọng tôn kính. Gởi thư thăm viếng, kết làm thiện hữu. Tuệ Trì sau khi nghe nói ở thành đô đất rộng người đông, Ngài muốn đến đó để truyền bá và giáo hoá đồng thời chiêm bái Nga My, chống tích nơi ngọn Mân Sơn. Lúc ấy vào niên hiệu Long An thứ 3 nhà Tấn, Ngài từ giả Tuệ Viễn vào đất Thục. Ngài Tuệ Viễn tha thiết khuyên Ngài ở lại nhưng Ngài từ chối, Tuệ Viễn than rằng: Con người ai cũng thích sum họp đoàn tụ còn ông thích ở riêng một mình là sao? Tuệ Trì cũng buồn bả đáp: Như người quyến luyến trong cảnh sum vầy thì không phải là người xuất gia. Nay em đã cắt ái tìm đạo, phải lấy Tây phương làm điểm hẹn. Thế rồi anh em gạt lệ bùi ngùi chia tay. Ngài đi đến Kinh châu. Thứ sử Ân Trọng Kham tiếp đãi ân cần. Lúc đó Hoàn Huyền cũng ở đó, ông ta tuy là người thiệp học gặp chuyện thì xuất thần. Thấy ngài Tuệ Trì có những phẩm chất siêu tuyệt như vậy bèn khen rằng: là bậc vô song xưa nay, rất muốn kết giao với Ngài nhưng Tuệ Trì nghi ông ta là người toại ý rồi thì bỏ nên không kết giao. Ân và Hoàn cả hai đều tha thiết giữ Ngài ở lại, nhưng Ngài nhất quyết không đổi ý, gởi thư đến nói với Huyền rằng: tôi muốn ở dưỡng bịnh trên đỉnh Nga My quán sát sự biểu lộ của lưu sa. Không thể cô phụ hoài bảo xuất gia của mình. Rồi bèn gói gém hành trang để lên đường. Hoàn Huyền nhận được thư trong lòng buồn rượi. Biết là kkông thể giữ chân ngài được. Ngài đến nước Thục ở tịnh xá Long Uyên hoằng dương Phật pháp. Cùng kết giao huynh đệ bốn phương làm bạn pháp. Thái sử Mao Cừ hết lòng khâm phục kính nể. Khi ấy Sa-môn Tuệ Nghiễm, Tăng Cung, truớc kia được người dân đất Mân Thục kính phục, cho đến khi ngài Tuệ Trì đến thì họ cũng mến mộ, tôn sùng cả hai. Hễ ai lên pháp đường của Ngài Tuệ Trì đều gọi là lên cửa rồng. Tăng Cung thuở nhỏ có khả năng làm tăng chánh ở Thục quận. Ngài Tuệ Nghiễm thông suốt cả ngoại điển lẫn nội kinh nên Mao Cừ rất mực kính trọng. Sau đó ở đất thục, Tiều Túng nhân khởi binh đánh Mao Cừ, chiếm đất Thục của Mao Cừ, rồi xưng là Thành Đô Vương. Bèn triệu tập tăng chúng lập hội ép thỉnh cho được Tuệ Nghiễm. Ngài bất đắc dó phải tới. Mao Cừ vốn là người đàn việt lão thành, bổng gặp binh nạn. Ngài thấy thế sự mà tăng thêm nỗi buồn bả, thế là liền bị Tiều Túng nghi ngờ. Nhơn đó mà Ngài bị hại, cả ấp rối ren, phập phồng lo sợ. Ngài Tuệ Trì lánh nạn ở Bi Trung tự. Túng có người hầu là Đạo Phước, thì hung tàn bạo ngược cùng lắm. Binh tướng lúc vào chùa sách phạt, thì những ai vào đó kể cả người lẫn ngựa đều đẩm máu. Chúng tăng hoảng sợ cùng loạt bỏ chạy. Ngài Tuệ Trì ở trước buồng rửa mặt, thần sắc không đổi. Đạo Phước đi thẳng đến bên ngài Tuệ Trì, Tuệ Trì gảy ngón tay vào chậu nước tỏ vẻ tự nhiên, Đạo Phước hổ thẹn, hoảng toát mồ hôi. Khi ra khỏi cổng chùa ông ta bảo với tả hữu rằng: Là bậc đại nhơn nên khác với chúng. Sau đó nước nhà bình yên, Ngài trở về tịnh xá Long Uyên. Thuyết giảng trai sám, tuổi già mà không biết mỏi mệt. Nhằm niên hiệu Nghóa hy thứ 8 đời Tấn thì Ngài thọ tịch ở trong chùa. Thọ bảy mươi sáu tuổi. Lúc lâm chung Ngài căn dặn hãy tuân thủ luật nghi và bảo đệ tử: Kinh nói: giới như đất bằng, các điều thiện đều sanh ra từ đó. Các ông trong bốn oai nghi phải hết sức cẩn thận. Lấy kinh sách ở Giang đông trao cho đệ tử Đạo hoằng, lấy pháp điển ở Giang tây phó chúc cho đệ tử Đàm Lang. Hạnh nguyện của Đạo Hoằng thanh cao. Thần ngộ của Đàm Lang do thiên phát. Cả hai vị đều nối gót thầy xiển dương giáo pháp. ---------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ VÓNH Ngài vốn họ phan người Hà Nội, năm 12 tuổi xuất gia thờ Sa-môn Trúc Đàm Hiện làm thầy. Sau đó tôn thờ Pháp sư Đạo An. Ngài vốn hẹn với Tuệ Viễn xây chùa trên đỉnh La Phù. Song Tuệ Viễn vì ngài Đạo An mà ở lại. Tuệ Vónh bèn muốn vân du trên ngũ lãnh trước. Khi Ngài đi qua Tầm Dương, người trong quận là Đào Phạm tha thiết thỉnh Ngài ở lại, thế là Ngài tạm ở lại nơi chùa Tây Lâm ở Lô Sơn. Môn đồ Ngài ngày càng đông. Lại ngài Tuệ Viễn đồng có văn tài. Tuệ Vónh là một người liêm khiết, tự tại, lòng ngay thẳng. Lời nói luôn mang tính hàm tiếu và không tổn thương người, đam mê kinh điển, giảng thuyết giỏi giang. Tương rau đạm bạc, áo vải thô sơ trọn cả đời, còn lập riêng một ngôi thảo am trên đỉnh núi. Mỗi khi muốn toạ thiền bèn lên đấy ở. Một hôm có người lên thất Ngài, bèn nghe mùi hương đặc biệt. Trong thất của Ngài thường có một con hổ, có kẻ sợ bèn đuổi nó lên núi. Người kia đi rồi, cọp sau đó trở lại như cũ. Ngài Tuệ Vónh có lần ra khỏi ấp gần hoàng hôn mới trở về núi đến Ô Kiều, doanh chủ Ô Kiều cởi ngựa mà đang say rượu bèn đón đường không cho Ngài đi. Khi ấy trời sắp tối, Ngài từ xa lấy cây trượng chỉ về hướng con ngựa, ngựa hoảng chạy, doanh chủ té xuống đất. Ngài Tuệ Vónh đỡ dậy, an ủi và đưa ông ta về doanh trại, nhân đó mà ông phát bịnh. Sáng hôm sau ông đến chùa sám hối, Ngài Tuệ Vónh nói: Đó chẳng phải chủ ý của bần đạo, sợ rằng đó là do thần hộ giới làm thôi. Tăng tục hay tin ấy quy tâm rất nhiều. Sau đó Trấn nam tướng quân Hà Vô Kî làm trấn thủ Tầm Dương Thích đến Hổ Khê thỉnh ngài Tuệ Vónh và Tuệ Viễn. Ngài Tuệ Viễn từ lâu vốn nổi tiếng là bậc anh tài phong nhã. Học chúng theo Ngài hơn cả trăm vị, đều là những bậc đoan chánh có phong độ, đồng thời có tài văn chương hoa mỹ, cử động khả quan. Ngài Tuệ Vónh điềm nhiên trở về rồi vội vả ra đi, áo vải, dép cỏ, cầm tích trượng, ôm bình bát mà thần khí ung dung, thanh thản. Chúng tăng đều kính trọng tính liêm khiết của Ngài, nên họ sửa đổi tánh tình rất nhiều. Ngài Tuệ Viễn thuở nhỏ đối với cao hạnh của ngài Tuệ Vónh đã nhường cho Ngài mà tự mình lui về phía sau. Điều đó thể hiện sự khiêm nhường, cung kính để mong phước ngầm. Tuệ Vónh chuyên tinh tu niệm, cầu sanh Tây phương. Lúc ấy nhằm niên hiệu Nghóa Hy thứ 10 đời Tấn, Ngài lâm trọng bịnh, mà vẫn nghiêm trì giới luật, ý chí càng kiên cố. Tuy thân xác đau đớn vì bịnh nặng nhưng nét mặt vẫn vui vẻ. Chẳng bao lâu sau Ngài vội sửa y chắp tay, tìm dép muốn đứng dậy, dường như nhìn thấy điều gì, đại chúng ngạc nhiên hỏi Ngài, Ngài đáp: Phật đến, nói xong liền thác hoá. Thọ tám mươi ba tuổi, kẻ tục người đạo ở trong núi đều ngửi thấy mùi thơm lạ, bảy ngày sau mới hết. Khi ấy trên Lô Sơn có một vị tăng hiệu Thích Tăng Dũng cũng siêng năng khổ luyện có thể hàng phục được ma quỷ. -------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG TẾ Chưa rõ người xứ nào, vào đời Tấn niên hiệu Thái nguyên Ngài đến Lô Sơn theo ngài Tuệ Viễn cầu học. Các kinh đại tiểu thừa và những sách vở ngoại điển đều thành thạo. Thông suốt và nắm vững yếu nghóa của nó. Đầu năm đến đây nhân tiện ra khỏi ấp mở lịch giảng mà chẳng thấy ai là người kiệt xuất. Ngài Tuệ Viễn thường nói: Người cùng hoằng dương Phật pháp với tôi chính là ông. Về sau Ngài trụ tại núi không bao lâu sau thì gặp phải bạo bệnh. Lúc ấy Ngài muốn biết Tây phương nên quán tưởng Phật Di-đà. Ngài Tuệ Viễn bèn trao cho ngài Tăng Tế một cây đuốc và nói: Ông có thể lập tâm nơi an dưỡng, tranh thủ trong từng thời khắc. Ngài Tăng Tế cầm cây đuốc nhân cơ hội này mà vọng tưởng bất loạn. Lại thỉnh chúng tăng ban đêm vân tập lại đọc kinh Di-đà, đến giữa canh năm thì Ngài lấy đuốc trao cho bạn đồng học, bảo tăng chúng đi ra, Ngài tạm nghỉ, mộng thấy mình cầm cây đuốc nương hư không mà đi. Thấy Phật Di-đà nắm tay mình dắt đến khắp cõi nước mười phương, bất giác tỉnh dậy kể tường tận cho người thị giả nuôi bịnh, rồi bảo thôi đừng buồn đừng an ủi, hãy tự quán sát tứ đại hoàn toàn không có bịnh khổ, đến đêm sau thì bổng nhiên tìm dép đứng dậy, mắt ngước nhìn hư không như thấy một điều gì, giây lát trở vào phòng nằm, nhan sắc vẫn tươi tỉnh. Nhân đó bảo người bên cạnh rằng: Ta đi đây! Thế rồi Ngài trở mình xoay qua bên phải đồng thời trút hơi thở cuối cùng, thọ bốn mươi lăm tuổi. --------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP AN Ngài tên làTừ Khâm, chưa rõ người thuộc xứ nào, là đệ tử của tổ Tuệ Viễn. Khéo trì giới luật, giảng nói các kinh đồng thời tu tập thiền định. Có tài giáo hoá kẻ mê muội khiến họ dứt tà quay về nẻo chánh. Vào niêu hiệu Nghóa hy đời Tấn ở huyện Tân Dương có nạn hổ. Trong huyện có lập một miếu thờ thần dưới gốc đại thọ. Cư dân ở quanh đó vài trăm. Mỗi đêm có vài ba người chết vì nạn hổ. Có lần Ngài đi du hoá đến huyện ấy gặp lúc trời về chiều tối, Ngài đành tá túc dưới gốc cây này. Vì cư dân trong lòng sợ hổ nên họ đóng cửa sớm. Ngài Pháp An toạ thiền suốt đêm dưới gốc cây. Lúc đó khoảng chạng vạng Ngài nghe tiếng hổ vác xác người đến để ở hướng Bắc của gốc cây. Nó thấy Ngài vừa mừng vừa sợ rồi chạy đến phủ phục trước Ngài. Ngài thuyết pháp và truyền giới xong, nó bèn quỳ im nơi đó, lát sau thì bỏ đi. Sáng hôm sau người trong làng theo dấu hổ tìm đến gốc cây thấy ngài Pháp An thì hết sức kinh ngạc, cho rằng đây là thần. Bèn truyền chuyện này khắp cả huyện, quan dân đều tôn sùng Ngài. Từ đấy trở đi nạn hổ chấm dứt. Nhân đó đổi miếu thần, cho Ngài làm chùa. Ruộng đất quang vùng đều bỏ ra làm ruộng chùa. Sau đó Ngài muốn họa một bức tượng bằng đồng xanh nhưng ngặt nổi không có đồng. Trong đêm Ngài mộng thấy có người đến bên giường Ngài nói: Dưới đây có chuông đồng. Tỉnh dậy Ngài đào lên được hai cái, Ngài lấy chất màu xanh hoạ tượng và lấy đồng cho ngài Tuệ Viễn đúc tượng Phật. Còn một cái sau này quan thái thú ở Vũ Xương tên là Năng Vô Hoạn mượn xem rồi giữ luôn. Ngài Pháp An sau này không biết thị tịch ở đâu. --------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM UNG Ngài họ Dương người ở Quan Trung, thiếu thời làm vệ tướng quân cho Nguî Tần Vương. Thân cao tám thước, uy vũ hơn người. Vào niên hiệu Thái Nguyên thứ 8 Ngài theo Phù Kiên đi chinh chiến ở phương Nam. Vì quân Tấn thất bại nên trở về Trường An. Từ đó theo ngài Đạo An xuất gia. Khi ngài Đạo An qua đời, Ngài tìm đến Lô Sơn bái Tổ Tuệ Viễn làm thầy. Nội kinh ngoại điển Ngài đều thông suốt. Chí nguyện hoằng pháp không nại lao khổ. Sau đó giúp Ngài Tuệ Viễn vào Quan Trung gởi thư cho ngài La-thập. Ngài làm sứ giả hơn mười mấy năm. Làm vang dội muôn nơi, làm chấn động núi rừng, dũng mãnh quả cảm, ngay thẳng không khuất. Ơû kinh sư lập đạo tràng, Tăng Giám chọn ra những vị có đức độ, tài năng. Ngài được thỉnh về Dương châu. Ngài không chịu đi vì tuổi của thầy đã cao. Song những bậc kỳ túc bên cạnh ngài Tuệ Viễn còn rất nhiều. Sợ sau này không còn từ tạ nhau nữa, vì một chút cớ nhỏ mà đuổi Ngài đi. Đàm Ung vâng lời ra khỏi núi mà lòng không hề oán giận. Ngài đi về hướng Tây nam của núi lập một ngôi thảo am. Cùng với đệ tử Đàm Quả tu tập thiền định. Có lần Đàm Quả mộng thấy một vị thần núi đến cầu thọ ngũ giới. Quả nói: Thầy ta ở đây có thể đến chỗ Ngài cầu thọ. Ít lâu sau Ngài thấy một người mặc áo đơn đội mũ, tư thái phong nhã, có khoảng hai mươi người tuỳ tùng đến thỉnh Ngài truyền năm giới. Ngài Đàm Ung đoán mộng trước biết được đó là thần núi. Bèn truyền giới thuyết pháp cho họ. Thần tặng cho Ngài một chiếc muỗng ngoại quốc, lễ bái rồi cáo từ. Thoáng chốc biến mất. Đến ngày ngài Tuệ Viễn thị tịch, Ngài vội vã trở về, đau buồn thống thiết làm cảm động trời xanh. Sau đó về Kinh châu và thị tịch ở chùa Trúc Lâm. -------------------------------------- <詞>NGÀI ĐẠO TỔ Ngài là người nước Ngô, thiếu thời xuất gia làm đệ tử của Chi Pháp Tế chùa Đài. Tuy tuổi còn nhỏ mà đã có tài năng, chăm học. Sau đó cùng với những người cùng chí nguyện như Tăng Thiên, Đạo Lưu, v.v… vào Lô Sơn, bảy năm ở trong núi thọ trì học giới, tuỳ theo khả năng hành trì của mỗi người mà ngày càng tiến bộ. Ngài Tuệ Viễn nói với các vị ấy có sở ngộ dị thường. Nếu như ai cũng được như các ông này thì hậu sanh không còn gì lo nữa. Tăng Thiên và Đạo Lưu, v.v… cùng với hai mươi tám người đều qua đời. Ngài Tuệ Viễn than rằng: các ông này đều là những kẻ tài ba xuất chúng, đỉnh ngộ hơn người, ta cứ dằng dặc thương nhớ không nguôi. Đạo Lưu lúc soạn lại các mục lục các kinh chưa xong, thì ngài Đạo Tổ đã làm xong rồi. Nay lưu hành ở đời. Đạo Tổ sau đó trở về kinh sư ở chùa Ngoã Cung giảng thuyết chánh pháp, Hoàn Huyền thường đến đó xem nghe, rồi nói với mọi người rằng: Đạo Tổ sau này sẽ phát hơn ngài Tuệ Viễn nhưng tài hiểu biết sâu rộng về đạo nho thì không bằng. Cho đến khi Hoàn Huyền làm phụ chánh muốn khiến các vị Sa-môn phải kính vua chúa. Đạo Tổ bèn từ giả trở về Đài Tự ở nước Ngô. Chẳng bao lâu Hoàn Huyền soán ngôi, ra lệnh đưa Ngài về kinh sư. Đạo Tổ mượn cớ bịnh không chịu đi. Thế là Ngài bắt đầu dứt hẳn mối quan hệ với thế sự, thuyết pháp giảng đạo trọn ngày. Ngài thị tịch vào năm đầu niên hiệu Nguyên hy đời Tấn, thọ bảy mươi hai tuổi. Ngài Tuệ Viễn có người đệ tử tên là Tuệ Yếu, cũng giỏi kinh luật và khéo léo, tuyệt luân. Ơû trong núi không có đồng hồ cát, Ngài bèn đến bờ suối lặt mười hai chiếc lá phù dung. Vì để chúng trôi theo dòng sông để định mười hai giờ. Đồng hồ đo bóng mặt trời đúng y như thế. Ngài cũng từng làm con Mộc Diên(diều hâu gỗ) bay mấy trăm bước. Ngài Tuệ Viễn cũng có vị đệ tử Đàm Thuận, Đàm Tiên đều là bậc tài cao học giỏi. Đàm Thuận vốn là người Huỳnh Long, thuở nhỏ theo cầu học nơi ngài La-thập, sau đó đến y chỉ ngài Tuệ Viễn làm thầy, sư vốn là bậc thiểu dục có đức hạnh. Lưu Tuân làm hiệu uý xứ Nam Loan lập chùa Trúc Lâm ở Giang Lăng. Thỉnh kinh về trước, Tổ Tuệ Viễn phái Ngài đi theo. Đàm Tiên cũng là bậc thanh nhã có phong độ, chú giải kinh Duy- ma và trước tác bộ cùng thông luận, v.v… còn có hơn cả trăm vị như Pháp U, Đạo Hằng, Đạo Thọ….hoặc nghóa giải thâm minh, hoặc cứu giúp các vật, hoặc giới hạnh thanh cao, hoặc thiền định cao siêu đều là những bậc làm nổi tiếng đương thời, truyền mãi đến hôm nay. <詞>THÍCH TĂNG KHẾ Ngài vốn họ Phó, người xứ Tầm Dương đất Bắc. Là con trưởng của Lệnh Hà Chi làm lang trung ở Hà Giang đời Tấn. Thuở thiếu thời đi xuất gia làm đệ tử của Pháp sư Hoằng Giác ở chùa Trường An Đại. Hoằng Giác cũng một thời là bậc kiệt xuất trong Phật pháp. Tăng Khế ban đầu theo Ngài thọ học. Sau đó đến Thanh Ty, Phiền Miện học thông lục kinh vàtam tạng. Giới lục hành trì rất nghiêm mật, có khả năng làm chấn hưng Phật pháp. Diêu Tràng, Diêu Hưng ban đầu còn làm kẻ bình thường vốn đã tôn kính Ngài. Cho đến khi chiếm được Quan Trung càng tỏ lòng tôn kính sâu hơn. Diêu Hưng đã sùng tín Tam bảo lại càng nổ lực xiển dương hoằng hoá, lập hội thiết trai, hương khói tầng tầng lớp lớp, khiến cho những bậc mộ đạo xuất gia phân nửa. Từ khi ngài La- thập vào Quan Trung, những học tăng theo ngài Tuệ Viễn đã tụ tập lại, hoặc có những vị còn vướng nhiều lầm lỗi. Diêu Hưng nói: Những học tăng còn là phàm phu chưa chứng quả, gặp cảnh trái nghịch sao không mắc lỗi được, đã có lỗi mà không biết khắc phục thì lỗi ấy càng nhiều, phải lập Tăng chủ để thanh trừ những tệ nạn đó. Nhân sự kiện ấy ông ban chiếu rằng: Từ khi Phật pháp truyền sang Trung Quốc đến nay, các vị tăng theo học càng nhiều. Cần phải có kỷ cương và truyền trao quy luật để cứu lấy mầm mống suy đồi. Pháp sư Tăng Khế tuổi nhỏ tài cao, mà lão luyện về giới đức, có thể làm Tăng chủ trong nước. Pháp sư Tăng Thiên thiền tuệ song tu có thể làm Duyệt chúng. Pháp Khâm, Tuệ Bân cùng giữ chức Tăng lục, cấp cho xa dư sứ lực. Tăng Khê thì ban thị trung trật truyền chiếu dương xa, mỗi vị hai người. Tăng Thiên, v.v… đều có sự trợ cấp hậu hỉ. Những người cộng sự trung thực, tiết kiệm rất hài lòng Ngài. Năm chúng trang nghiêm, sáu thời không mỏi mệt, đến niên hiệu Hoằng thỉ thứ bảy sắc phong thêm những người thân tín để theo phụ tá, mỗi vị có ba mươi người. Tăng Chánh chấn hưng, Tăng Khê là người khởi đầu. Ngài Tăng Khế đích thân đi bộ còn xe kiệu được dành cho người già yếu tật bịnh. Những chỗ được cung cấp thường dùng rất nhiều. Tuy tuổi đã cao mà Ngài giảng thuyết kinh luật không biết mệt mỏi. Vào cuối niên hiệu Hoằng thỉ thì Ngài qua đời ở Trường An đại tự. Thọ bảy mươi ba tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO DUNG Ngài ở vùng Lâm Lự Cấp Quận, mười hai tuổi xuất gia. Vì được thầy yêu mến phong cách của Ngài nên cho phép ra ngoài đi học. Có lần Ngài vào xóm mượn quyển Luận ngữ, song cuối cùng không đem về, vì Ngài đã đọc thuộc tại nhà họ rồi. Vị thầy mượn lại quyển đó rồi úp lại bắt Ngài đọc không sót một chữ. Thầy khen và rất yêu mến. Bấy giờ Ngài được phép tuỳ tiện du học. Cho đến lúc trưởng thành thì thành người tài ba lỗi lạc. Ngoại điển nội kinh đều am hiểu tường tận. Khi hay tin ngài La-thập ở Quan Trung thì Ngài tìm đến đó để cầu học. La-thập thấy được con người lạ thường ấy bèn bảo vua Diêu Hưng rằng: Hôm qua tôi gặp Đạo Dung, ông ta là một Thích tử thông minh, kỳ đặc. Diêu Hưng đến thăm và hết sức kính trọng đồng thời cho mời Ngài vào vườn Tiêu Dao để tham chánh việc phiên dịch. Nhân đó thỉnh ngài La-thập dịch bộ Bồ-tát giới bổn đến nay còn lưu hành ở đời. Sau khi Ngài dịch Trung luận mới được hai quyển. Đạo Dung bèn giảng giải, phân tích văn ngôn để cho ý văn xuyên suốt và thâu tóm trọn bộ. Thầy La-thật bảo Đạo Dung giảng Tân Pháp Hoa. Thầy La-thập đích thân nghe giảng rồi khen rằng: Sự hưng thịnh của Phật pháp là ở chính con người này. Thời gian sau đó không lâu ở nước Sư Tử có một vị Bà-la-môn thông minh bác học. Sách vở ở phía Tây khan hiếm không đủ để đọc tụng. Và ông làm giáo chủ của ngoại đạo ở nước kia. Nghe tin ngài La-thập hoằng bá Phật pháp ở Quan Trung. Ông bảo với đồ chúng của mình rằng: Đâu thể để tiếng tăm của họ Thích độc truyền ở Chấn Đán. Mà chánh hoá của đạo chúng ta lẽ nào không thích ứng với nước ấy sao. Thế là ông cưỡi lạc đà cõng sách vở vào Trường An. Vua Diêu Hưng thấy bộ dạng của ông bèn lánh mặt, song cũng hơi nghi ngờ về con người ấy. Bà-la-môn bèn tâu vua Diêu Hưng rằng: Đạo lớn của tôi nơi nào cũng phục tùng. Hôm nay xin cùng tranh biện với chư tăng nước Tần để so tài, hễ bên nào thắng thì được quyền truyền bá. Vua Diêu Hưng bằng lòng. Lúc bấy giờ tăng chúng ở Quan Trung tự xét thấy sở đoản của mình nên chẳng ai dám đảm đương. Ngài La-thập bảo Đạo Dung rằng: Tên ngoại đạo này là người thông minh tuyệt luân, đấu khẩu ắt sẽ thắng. Nếu để đạo cả vô thượng bị khất phục bởi những môn đồ ta thì quả đáng thương, còn nếu để cho ngoại đạo đắc chí thì bánh xe pháp sẽ ngừng quay, đâu thể như vậy. Theo ta thấy thì ông là duy nhất làm người người được, Đạo Dung tự xét tài năng của ngoại đạo Ngài chưa đọc hết. Ngài liền mật sai người ghi lại những mục kinh mà Bà-la-môn đã đọc. Khi Ngài được tư liệu ấy thì đọc thuộc làu. Vài hôm sau đến ngày nghị luận. Vua Diêu Hưng đích thân ra đề. Công hầu, khanh tướng đều tề tựu trong phủ. Tăng chúng Quan Trung xa gần đều câu hội về đông đủ. Ngài Đạo Dung tranh biện với Bà-la-môn. Với những ngôn từ sắc bén lời lẽ đầy sức thuyết phục, nhà ngoại đạo kia không biện nổi. Ông ta tự biết tài năng của mình không so nổi, mà còn đem sở học ra khoe khoang. Đạo Dung bèn liệt kê những sách vở mà ông đã học đồng thời kể những bộ loại, danh mục sử sách nước Tần, nhiều gấp bội so với ông. La-thập nhân cười nhạo rằng: Ông không nghe sở học uyên bác của Đại Tần mà khinh suất từ xa đến đây. Bà-la-môn cảm thấy hối hận và quỳ lạy ngài Đạo Dung. Trong mấy ngày sau không ai biết ông ta đi đâu. Câu chuyện này, hiển bày tài năng tuyệt quần của Đạo Dung vậy. Sau đó Ngài trở về Bành Thành và giảng thuyết liên tục. Có cả ngàn người đến nghe Ngài giảng pháp. Môn đồ theo Ngài học khoảng vài ba trăm. Tánh không suồng sã, bởn cợt, Ngài thường lên lầu để vui đùa ân cần chỉ dạy xong thì bảo họ hoằng pháp. Sau đó Ngài mất ở Bành Thành. Thọ bảy mươi bốn tuổi. Những trước tác của Ngài gồm có: Ngiã sớ Pháp Hoa Đại phẩm Duy-ma v.v… những tác phẩm ấy còn lưu truyền ở đời. --------------------------------- <詞>NGÀI ĐÀM ẢNH Có thuyết nói Ngài là người phương Bắc nhưng không rõ thuộc quận huyện nào. Tánh tình trầm lặng không thích giao du, mà an bần chịu khó học tập, cử chỉ thanh thoát, cử chỉ dường như chậm chạp mà thần khí nhạy bén. Tính trái với tướng. Có tài giảng kinh Pháp Hoa và Quang Tán Bát-nhã. Mỗi khi bánh xe pháp chuyển thì đạo tục kéo đến cả ngàn người. Sau đó Ngài vào Quan Trung, vua Diêu Hưng tiếp đãi long trọng. Cho đến khi ngài La-thập đến Trường An thì ngài Đàm Ảnh đến y chỉ. Ngài La-thập bảo Diêu Hưng rằng: Tôi xem Đàm Ảnh là một vị tăng có đạo hạnh chuẩn mực. Diêu Hưng, do đó mời Ngài vào Tiêu Diêu viên hỗ trợ việc dịch kinh với ngài La-thập. Lúc vừa dịch xong bộ Thành Thật luận thì Ngài vấn đáp thứ tự lặp đi lặp lại. Đàm Ảnh hận vì lời văn rời rạc của mình, bèn viết thành năm phen, cuối cùng đem trình ngài La-thập. La-thập nói: tốt lắm, thật đúng ý ta. Sau đó ngài La-thập dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì ngài Đàm Ảnh tận tâm hiệu đính bộ này, và viết bốn quyển nghóa sớ kinh Pháp Hoa, đồng thời chú thích bộ Trung Luận. Sau đó, Ngài đến sơn lâm ẩn tu, hầu mong giữ gìn khí tiết, nỗ lực tu hành, càng già tinh thần càng sung súc. Ngài thị tịch vào năm bảy mươi tuổi nhằm niên hiệu Nghóa hy đời Tấn. ------------------------------------ <詞>NGÀI TĂNG DUỆ Ngài ở Trường Lạc, Ngụy quận, xuất gia từ thuở nhỏ. Đến năm mười tám tuổi làm đệ tử của Pháp sư Tăng Hiền, bản tính khiêm tốn, thật thà, hiếu học và biết quý thời giờ. Nên đến năm hai mươi hai tu- ổi bác thông kinh luận. Có lần Pháp sư Tăng Lãng giảng kinh Phóng Quang, Tăng Duệ thường nêu câu hỏi để chất vấn. Vì vậy Tăng Lãng bảo Tăng Hiền: Tăng Duệ đồ đệ của huynh thật thông minh. Chú ấy đặt ra nhiều câu chất vấn, tôi suy nghó nhiều lần mà vẫn không thông, có thể gọi đệ tử bậc hiền của huynh vậy. Đến năm hai mươi bốn tuổi, xuất ngoại du phương cầu đạo, đi khắp nơi giảng thuyết. Kết bạn tri âm nhiều vô số. Và thường than rằng: Phật pháp tuy ít nhưng đủ biết nhân quả. Thiền pháp chưa truyền thì không có đất để gởi tâm. Sau này Ngài La-thập vào Quan Trung. Nhân đó Ngài thỉnh thầy La-thập dịch ba quyển Thiền pháp yếu. Đầu tiên do ngài Cưu-ma La-đà trước tác. Sau cùng là do ngài Mã Minh giảng thuyết. Bộ giữa là do các vị Thánh tăng ngoại quốc cùng soạn. Cũng gọi là Bồ-tát Thiền. Khi Ngài được sách ấy, đêm ngày nỗ lực tu tập, tinh luyện năm môn, khéo vào lục tịnh. Ngụy tư đồ công Diêu Hưng càng tỏ lòng quý kính ngài. Diêu Hưng hỏi Sùng rằng Tăng Duệ là người thế nào? Sùng đáp: Tăng Duệ là bậc tùng bá của Nghiệp Vệ. Dao Hưng cho mời đến yết kiến. Công khanh đều vân tập vì muốn nhìn thấy tài khí của Ngài. Phong cách lịch sự, nói năng nhã nhặn. Vua Dao Hưng rất đổi vui mừng, bèn ban cho kẻ hầu cận và xe cộ. Sau đó ông còn nói với Dao Sùng rằng Ngài là vị thủ lãnh đồng thời là ngọn cờ tiêu biểu của bốn bể, đâu chỉ là tùng bá của đất Nghiệp Vệ. Bấy giờ thanh danh của Ngài vang khắp nơi. Đạo tục xa gần quy về nương tựa oai đức của Ngài. Những kinh điển ngài La-thập dịch, Ngài đều nhuận sắc. Thuở xưa, ngài Trúc Pháp Hộ soạn quyển Chánh Pháp Hoa Kinh, phẩm Thọ Quyết nói: Trời thấy người, người thấy trời. La-thập dịch đến câu này bèn nói: Lời này giống với nghóa ở Tây Vực, nhưng lời này quá mộc mạc. Ngài Tăng Duệ nói: Há chẳng phải trời người giao tiếp mà cả hai cùng thấy nhau? La-thập vui mừng nói: Thật vậy! Điều ông lãnh ngộ nêu ra chính là ý này vậy. Sau khi dịch xong quyển Thành Thật Luận, Ngài bảo Tăng Duệ giảng và nói rằng: Luận này có bảy chỗ để bẻ gãy lời văn Tỳ-đàm, mà chỉ tại văn luận phân biệt không rõ. Nếu không cần hỏi ta mà có thể phân biệt được bảy chỗ đó thì mới gọi là anh tài. Đến khi ngài Tăng Duệ đề xuất ra bảy chỗ vi tế đó quả đúng như điều ngài La-thập nói, đồng thời khế hợp huyền mệnh nên ngài La-thập khen rằng: Ta chuyên dịch kinh điển, được gặp gỡ ông quả thật không còn gì hối hận. Ngài Tăng Duệ viết rất nhiều bài tựa cho các bộ kinh luận do ngài La-thập dịch như Đại Tiểu Phẩm Pháp Hoa, Duy-ma, Tư Ích, Tự Tại Vương, Thiền Kinh, những tác phẩm đó đều truyền ở đời. Ngài lúc đầu khéo nhiếp oai nghi, hoằng dương kinh pháp, thường luôn hướng về pháp môn cầu vãng sanh Tây Phương. Mỗi khi đi đứng nằm ngồi không dám xoay lưng về Tây phương. Khi biết mạng sắp tận, Ngài nhóm chúng cáo biệt và bảo rằng: Bình sanh ta thệ nguyện vãng sanh Tây phương. Như những điều ta đã thấy thì đáng được sanh Tây phương, biết chắc chắn tránh khỏi sự hồ nghi vì ba nghiệp của ta không trái pha- ïm giới luật. Nguyện đức Đại Từ dũ lòng thương xót làm bạn pháp muôn kiếp. Thế rồi Ngài vào phòng tắm rửa, rồi dâng hương lễ bái, chắp tay hướng về Tây mà thị tịch. Ngày đó, cả chùa đều thấy khói hương năm sắc xông lên từ phòng Ngài. Thọ sáu mươi bảy tuổi. Khi ấy có Sa-môn Tăng Khải là bạn học của Ngài cũng đang nổi tiếng. ----------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO HẰNG Ngài là người Lam Điền. Lúc chín tuổi khi đang vui chơi ở giữa đường, được đạo só Trương Trung tiên đoán rằng: Chú bé này có tướng của bậc đại nhân. Ở thế tục thì sẽ làm đến bậc tể tướng, còn xuất gia là sẽ làm bậc cao tăng làm Phật pháp xán lạn, hận vì ta đã già, không còn thấy được cậu nữa. Đạo Hằng mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ, phụng dưỡng mẹ kế bằng lòng chí hiếu, nhà nghèo không cơm gạo, Ngài thường vẽ tranh bán để phụng dưỡng mẹ. Đồng thời hiếu học kinh điển. Đến năm hai mươi tuổi mẹ kế qua đời. Ngài lo ma chay và chịu tang xong thì xuất gia. Ngài nghiên tầm trong lý Phật và thông suốt rất nhiều bộ. Thông thạo cả nội lẫn ngoại điển. Khi ngài La-thập vào Quan Trung, Ngài liền đến tham vấn và tham gia phiên dịch. Ngài La-thập rất mến Ngài. Cho đến khi dịch ra các bộ kinh và trợ giúp phán định rõ ràng. Lúc ấy Đạo Hằng có bạn học là Đạo Tiêu cũng có tài năng, nổi danh một thời, ngang hàng với Đạo Hằng. Tần chủ Diêu Hưng biết hai vị này tài trí hơn người nên danh vang khắp Trường An. Bèn ra lệnh Ngụy thượng thư sai Dao Hiển tìm cách ép hai vị hoàn tục để phò trợ vương nghiệp. Vua cũng thường viết thư cho hai Ngài và nói: Các khanh rõ ràng là bậc tiết tháo, thật sự đáng mừng. Nhưng vua trị vì thiên hạ cần phải có người tài. Nay ra lệnh thượng thư Dao Hiển đến bắt các Ngài bỏ pháp phục để phò tá, cứu vãn thời thế. Nếu tâm còn giữ đạo vị thì đâu lẫn lộn phải trái. Các Ngài đừng vì thủ tiết mà từ chối. Hai Ngài đáp thư: Tôi phụng chiếu ngày hai mươi tháng trước, bảo tước lấy pháp phục của huynh đệ tôi, vâng mệnh thương xót năm tình thất thủ. Tài trí của tôi hèn mọn, nhiễm pháp chưa sâu, nguyện giữ mãi pháp phục này cho đến trọn đời, để tu học Phật pháp không dám bàn đến thế sự. Chỉ phế bỏ nghiệp vô thường, không bao giờ có công gì đặc biệt. Thuở xưa Quan Vũ còn mặc tình đối xử khắc khe. Ngụy Văn Dung thao túng Quản Ninh. Hoặc cao tâm chí trọng, cũng chỉ là chí mọn của kẻ tầm thường, huống chi bệ hạ là bậc lấy đạo an dân và hoằng dương Tam bảo. Nguyện nhỏ nhoi này mong thánh thượng rủ lòng thương xót cho. Dao Hưng lại viết thư nhờ ngài La-thập và Tăng Khế rằng: Từ lúc giả biệt hai thầy đã mấy tuần, mà lúc nào cũng hoài tưởng, sức khoẻ các Ngài dạo này tốt cả chứ? Bọn giặc dã ở phương xa nổi loạn khắp nơi, vạn chuyện cấp bách cần phải có bậc tài giỏi để lo liệu. Mới đây trẫm hạ chiếu mời hai vị Đạo Hằng và Đạo Tiêu, khiến Thích La-hán mang pháp phục theo vết của đại só thì đạo nơi nào chẳng tồn tại, mong Pháp sư giúp trẫm khuyên dùm. La-thập, Tăng Khế đáp: Bởi nghe Thánh thượng chăn dân bằng đạo, nhưng muốn trọn vẹn thì Ngài phải lấy đức của mình để trị thiên hạ. Bởi những bậc minh chủ thuở xưa xét thấy nếu trái tánh thì khó mà ngự vững. Hiểu được việc nhậm vật có nhiều nhân. Cho nên vua Nghiêu thả Hứa Do nơi Kỳ Sơn, Lăng Nhượng bẻ gậy nơi nước Ngụy. Cao Tổ thả Tứ Hạo ở Chung Nam. Thúc Độ từ giả Bồ Luân nơi Hán Khâu. Bởi theo lẽ phóng thích hiền để được hiền. Hôm nay Đạo Hằng và Đạo Tiêu tài đức chẳng trọn vẹn, bổn phận phải thủ tiết, học thêm pháp mầu để phục hưng Phật pháp. Còn phải phô diễn diệu điển nghiên cứu lý nhiệm màu. Tài đức ấy đủ để khai ngộ kẻ đồng ấu trợ hóa công đức. Ngưỡng mong bệ hạ thi ân bỏ chuyện đã qua, để họ tự do với nguyện vọng sau cùng của mình vậy. Dao Hưng nhiều lần gởi thư nói, cả nước cứu giúp cuối cùng hai Ngài cũng được tránh khỏi. Ngài Đạo Hằng bèn than rằng: Người xưa có câu: Người cầu tài để lợi mình thì tổn thần khí của mình. Người cầu nổi tiếng cho mình tự giết thân mình. Thế là Ngài vào sơn cốc ẩn tu, ăn rau dại uống nước suối, mặc áo đơn sơ, tuyệt giao với đời chuyên tu thiền định. Rồi nhập tịch ở trong núi vào niên hiệu Nghóa hy thứ 30 đời Tấn thọ bảy mươi hai tuổi. Ngài Đạo Hằng có trước tác bộ Thích Báo Luận và Bách Hành Châm. Ngài Đạo Tiêu viết hai quyển Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm và Điếu Vương Kiều Văn, đều còn lưu hành ở đời. ------------------------------------ <詞>NGÀI TĂNG TRIỆU Ngài vốn là người Kinh Triệu, vì nhà nghèo nên Ngài thuở nhỏ phải đi viết mướn để sinh sống. Vì có tài viết lách rất giỏi nên đã xem duyệt đọc hết mọi kinh sử, thông hiểu kinh thư cổ điển, ái mộ huyền vi học thuật. Thường lấy Lão Trang làm tâm yếu. Có lần đọc chương Đạo Đức Kinh của Lão Trang bèn khen rằng hay thì hay thật nhưng mong tìm chỗ để tấm thân nương tựa thì mờ mịt. Như thế thì chưa gọi là toàn mỹ. Sau đó xem quyển Cựu Duy-ma kinh vui mừng biểu lộ sự hài lòng. Bèn nói: Mới biết đây là chỗ quay về, nhân đó liền xuất gia. Học thạo các bộ Phương Đẳng và thông cả ba tạng. Cho dù tuổi mới hai mươi mà danh tiếng vang dội vùng Quan Trung. Vì tuổi còn nhỏ mà danh tiếng đã vang lừng nên có kẻ ganh tị tìm đến Trường An cùng tranh biện với Ngài. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng tư tưởng lại cao thâm cùng biện tài hùng hồn, thừa cơ hội đó Ngài làm tinh thần họ nhụt chí. Lúc ấy Trường An là chốn anh tài hội tụ, điều đó đã giúp thêm cho sự hùng biện của mình đã làm họ thất bại xiểng liểng. Sau đó ngài La-thập đến Cô Tạng, ngài Tăng Triệu không quản đường xá xa xôi mà lặn lội tìm đến đó tu học. Ngài La-thập thường khen ngợi là bậc tuyệt vời. Đến lúc La-thập vào Trường An, Tăng Triệu cùng theo Ngài về. Dao Hưng ra lệnh mời Tăng Triệu và Tăng Duệ vào Tiêu Diêu Viên phụ giúp ngài La-thập trong việc phiên dịch kinh luận. Vì văn nghóa của các bậc Thánh thuở xưa rất tối nghóa đồng thời những bản dịch cũ có nhiều chỗ sai lầm, nên Ngài tham vấn ngài La- thập, nhờ đó mà Ngài hiểu ra rất nhiều vấn đề. Sau khi dịch xong bộ Đại Phẩm Bát-nhã, bèn trước tác bộ Bát-nhã Vô Tri Luận hơn hai ngàn lời, dịch xong đem trình ngài La-thập. Ngài đọc xong khen rất hay. Rồi nói với Tăng Triệu rằng: Ta hiểu không bằng ông, lời lẽ thật tuyệt vời. Thời đó ẩn só ở Lô Sơn là Lưu Di Dân xem bộ luận này bèn khen rằng: Nào ngờ phương Bào lại có người như Bình Thúc. Nhân đó đem trình ngài Tuệ Viễn. Ngài bèn vỗ ghế khen rằng: Chưa từng có vậy. Nhân đó Ngài cùng Lưu Di Dân nghiên cứu tường tận. Từ đó, Lưu Di Dân thường viết thư gởi đến ngài Tăng Triệu: Con vừa thưởng thức tác phẩm nhiệm màu của Ngài nên trong lòng vô cùng ngưỡng vọng đồng thời viết thư đến thăm hỏi. Trời lúc này vào cuối đông, rét buốt không biết sức khoẻ Thầy thế nào. Thư gởi đến gặp phải sự cách trở nên càng cảm thấy áy náy. Đệ tử lún sâu trong bùn lầy, thường có những điều hủ bại. Cầu mong đại chúng ở đó được mạnh khoẻ và Pháp sư ngoại quốc được bình an. Cuối hạ năm ngoái con xem quyển luận Bát-nhã Vô Tri của thượng nhơn. Trong những lời lẽ thanh thoát mang ý nghóa sâu sắc, suy xét Thánh ý rõ ràng có chỗ nương về. Dốc cạn nỗi lòng con cũng không dịch nỗi. Quả thật đáng gọi là ao sâu Phương đẳng để gội tâm, cảm nhận được chỗ nhiệm mầu, vô cùng tinh xảo, không có chút sơ hở vậy. Song kẻ mê muội khó hiểu được lại còn sanh nghi ngờ. Nay mong Ngài phân tích tỉ mỉ, và những lúc rỗi rãnh hãy vì con mà giải thích. Ngài Tăng Triệu hồi âm: Từ lâu không gặp mặt đã làm nhọc lòng đến sự mong đợi của Ngài, nhận được thư cùng với lời thăm hỏi, bần đạo giở ra xem tới xem lui cảm thấy rất vui mừng nên giờ thay lời hồi âm vậy: Khí hậu thời tiết ở đó lúc này như thế nào. Bần đạo ở đây thường bịnh hoạn mệt mỏi. Tăng chúng ở đây vẫn bình thường chỉ có Pháp sư La- thập là tốt hơn thôi. Tánh tình của Tần chủ tự nhiên, thiên cơ hơn người. Lấy việc hộ trì Tam bảo, hoằng pháp lợi sinh làm nhiệm vụ của mình. Bởi kinh điển thần diệu và Thánh tăng từ xa đến đây. Tiếng tăm nơi non Thứu đều tập trung ở chốn này chính là bến đò ngàn năm. Ở Tây Vực còn được hơn hai trăm bộ kinh Phương Đẳng, thầy La-thập ở Đại Thạch Tự dịch ra những bộ kinh ấy. Pháp tạng sâu rộng ngày nào cũng có những điều lạ tai. Thiền sư giảng đạo tu thiền ở chùa Ngỏa Quan, môn đồ mấy trăm đêm ngày tinh tấn tu tập, hài hòa trang nghiêm khiến tôi rất đỗi vui mừng. Tam tạng Pháp sư ở Trung Tự dịch ra bộ luật, đầu đuôi gãy gọn như vừa mới chế. Tỳ-bà-sa. Pháp sư ở chùa Thạch Dương soạn bộ Xá-lợi-phất Tỳ-đàm. Phạm bổn tuy chưa được dịch ra, nhưng bấy giờ có người hỏi thì nói ra những lời mới lạ. Bần đạo một đời hèn mọn được vận may gặp thời hưng thịnh này. Tự hận không thấy được cảnh Thích-ca nhập Niết-bàn, những chuyện khác đâu có gì đáng hận. Chỉ trộm nghó không được bàn đạo với quân tử và cùng tụ hội trong pháp này thôi. Lời tán thưởng đã tỏ lòng kính mến sâu sắc lại còn ủy thác cho. Nhưng thư gởi đến hỏi một cách khéo léo thì quả thật đã gây khó cho Dónh nhơn. Bần đạo tư duy không thấu đáo và còn viết ra những lời bóng bẩy. Bởi nghóa thú tột cùng là vô ngôn. Nói ra thì trái ý. Rốt cuộc thì chẳng biết biện ở chỗ nào. Thiết nghó tạm lấy lời sám để đáp lại yếu chỉ của Ngài vậy. Sau này Ngài soạn các bộ Bất chơn không luận và Bất thiên luận, đồng thời chú giải kinh Duy-ma và viết tựa cho các bộ kinh luận, những tác phẩm ấy vẫn còn truyền bá ở đời. Sau khi ngài La-thập qua đời, làm lễ truy điệu xong, Ngài càng nỗ lực hơn xưa. Rồi trước tác Niết-bàn Vô Danh luận. Ý trong bộ ấy nói: Kinh gọi Hữu Dư, Vô Dư Niết-bàn. Niết-bàn, tiếng Tần gọi là vô vi cũng gọi là diệt độ. Vô vi là nắm lấy cái rỗng rang không tịch, tuyệt diệu hơn hữu vi. Người diệt độ là nói người đối với hoạn lớn đã dứt hẳn siêu thoát khỏi bốn dòng. Ý này giống như chỗ bóng quay về gương. Tuyệt xương U trạch. Mà nói: Hữu dư vô dư là bởi chỗ xuất xứ gọi khác, vắng vẻ rỗng rang không thể dùng hình tướng danh ngôn để hình dung được. Vi diệu vô tướng không thể dùng tâm chấp có để biết được. Vượt bậc các thứ có để thầm siêu thăng. Lượng bằng thái hư mà mãi đuổi theo dấu vết cũng chẳng được. Ngữa nhìn mà cũng chẳng thấy được đầu. Lục thú cũng không thể nhiếp được sự sanh ấy. Mờ mịt phảng phất như còn như mất. Năm mắt chẳng thấy được dung mạo của nó. Sức gánh cũng không được thể của nó, hai tai cũng không nghe được tiếng vang của nó. Thăm thẳm xa xăm ai thấy ai biết. Rối rắm không chỗ nào không có. Mà chỉ dẫn đến nơi hữu vô. Thế thì nói là đánh mất sự chân thật. Biết thì trái lại cái ngu kia. Có thì trái với tính ấy. Không thì tổn thương thân mình. Cho nên Đức Thích-ca đóng thất nơi thành Ma-kiệt. Tịnh Danh ngậm miệng nơi thành Tỳ-da. Tu-bồ-đề xướng “Vô thuyết” để hiển bày đạo. Thích Phạm tuyệt âm thanh mà mưa hoa. Đây cũng là lý để thần ngự. Cho nên miệng ngậm bít thì đâu nói: Vô biện. Biện mà không thể nói. Kinh nói người thật sự giải thoát là lìa ngôn ngữ, số lượng. Tịch diệt an trụ không đầu không cuối. Không sáng, không tối, không lạnh không nóng. Lặng lẽ như hư không, vô danh, vô chứng. Luận nói: Niết-bàn Phi hữu cũng phi vô, tuyệt đường ngôn ngữ, bặt vết tâm hành. Thì sẽ tìm ra người trước tác kinh luận vậy, đâu gọi là hư cấu ư? Nếu có cái ấy thì không có. Cho nên không thể được mà có. Cái có ấy thì không thể không. Cho nên không thể được mà chính là không. Vì sao? Vì có cảnh thì năm ấm diệt hẳn. Suy không chốn u linh không dứt thì nó bao trùm cả bầu trời tịch lặng. Năm ấm dứt hẳn thì vạn lụy tiêu sạch. Vạn lụy tiêu hết cho nên thông suốt mối đạo. Bao trùm cả vùng tịch lặng. Cho nên thần mà không vô công. Thần mà không công cho nên công tuyệt vời ấy luôn tồn tại và thông suốt với đạo. Cho nên pha lộn mà không biến đổi, pha lộn mà không biến đổi thì không thể là có. Công tột cùng luôn tồn tại thì không thể bảo là không. Vậy thì Hữu, Vô bặt dứt bên trong. Mà gọi là chìm mất ở ngoài. Chỗ thấy nghe hoàn toàn không lường được hôn mê bốn không. Điềm nhiên mà yên tónh, sợ hãi mà thái bình. Chín phái bấy giờ cùng quay về, chúng Thánh do đây được thầm hội. Đây chính là cảnh mà ta hoài mong. Ở chốn cực mầu mà muốn lấy có không đề bảng. Người ở bờ cõi ấy gọi là thần đạo mà cũng chẳng xa xôi. Sau này Ngài mười lần diễn chiết phục được chín gồm mấy ngàn lời. Văn cú nhiều không đếm xiết. Luận viết xong đem dâng vua Dao Hưng và nói: Triệu nghe nói Trời được một để “thanh”, đất được một để “nịnh”, quân vương được một để trị thiên hạ. Phục duy, bệ hạ là bậc vua thấu suốt, thông tuệ, anh minh hợp với thần đạo. Khế hợp mầu nhiệm còn hợp với lý thì không gì không hiểu. Cho nên thành thạo vạn cơ, hoằng đạo trọn ngày. Uy trùm cả muôn sanh, rủ lòng viết ít lời làm mô phạm. Cho nên trong vũ trụ có bốn cái cao cả. Vua chiếm lónh hết một rồi. Nói đạo là Niết-bàn vì nó là chỗ quay về của hàng tam thừa, là uyên phủ của Phương Đẳng. Mênh mông thăm thẳm, dứt nẻo thấy nghe, sâu mầu huyền nhiệm. chẳng phải hàng phàm tình lường được. Triệu đem tấm thân hèn mọn này thừa ân quốc gia, được rảnh rang học hành thoải mái ở dưới cửa của ngài La-thập hơn mười năm. Tuy các kinh nghóa thú sâu mầu, huyền nhiệm khác nhau, nhưng một nghóa Niết-bàn luôn là trên hết, là lấy việc tu tập làm trước nhất. Nhưng tài năng của Triệu kém cỏi, cạn cợt. Tuy nhiều lần được dạy dỗ, nhưng vẫn cảm thấy mờ mịt, bởi sự ngu dốt quá nhiều. Tuy cũng hơi có chút kiến giải song chưa từng trải qua cuộc vấn đáp hùng biện. Cho nên không dám tự quyết. Bất hạnh, thầy La-thập đã thị tịch, không biết phải tham học nơi nào, điều đó khiến thần tiếc mãi. Mà bệ hạ thì Thánh đức sâu dày, rất khế hợp với thầy La-thập, chính mắt trông thấy đạo hưng tồn. Vui sướng từng tấc lòng, cho nên có thể giương ngọn huyền phong kia để cởi mở đường mê cho đời mạt pháp. Có lần gặp lời đáp về tông cực vô vi của An Thành Hầu Sùng hỏi cũng đề cập đến nghóa vô danh của Niết-bàn. Nay đem trước tác bộ Niết-bàn Vô Danh Luận, có thập diễn cửu chiết. Thu thập toàn bộ kinh để chứng minh cho thí dụ, ngưỡng trình bày lại chỗ cùng tột của Vô Danh cho bệ hạ biết, đâu dám gọi là khai mở thần tâm, truy tầm cao xa. Tạm đem huyền môn đã phác thảo ra để chiêu dụ đồ chúng thôi. Nếu tiểu tham Thánh chỉ thì nghiệp khắc lòng ghi nhớ. Nếu ngài có trao cho thì xin phục thừa ý chỉ. Vua Dao Hưng đáp chỉ rất ân cần, đầy đủ như tán thuật. Vua liền ban sắc lệnh sao chép đầy đủ để dạy bảo hàng con cháu. Điều đó đủ biết Ngài được tôn trọng như thế nào. Ngài thị tịch vào năm thứ mười Nghóa hy nhà Tấn, ở Trường An, thọ ba mươi mốt tuổi.  <卷>QUYỂN 7 TRÚC ĐẠO SANH Ngài Đạo Sanh họ Ngụy người Cự Lộc, cư ngụ tại Bành Thành, gia tộc trải qua bao đời làm quan trong triều. Cha làm quan huyện Quảng Thích, được người dân trong làng tôn xưng là thiện nhân. Đạo Sanh thuở nhỏ thông minh đỉnh ngộ, tuệ giải như thần. Cha Ngài biết con mình là bậc phi phàm nên rất mực thương yêu và quý trọng. Sau này gặp được Trúc Pháp Thái liền bỏ tục quy y, xuất gia học Phật pháp, làm một bậc Sa-môn lỗi lạc, kỳ diệu, nghiên tầm sâu sắc, nghóa câu thì tự khai mở. Cho nên trong những năm còn đi học mà đã thăng tòa thuyết pháp. Những lời vấn đáp biện luận trong sáng như ngọc châu. Dẫu cho những bậc học tăng và danh só lỗi lạc đương thời cũng cùng lý hết lời nên không ai dám đối đáp. Đến tuổi thọ giới cụ túc thì kiến giải càng thâm thúy hơn. Tánh tình trầm tónh, thần khí thanh cao hơn. Ban đầu vào Lô Sơn ở ẩn bảy năm để tìm lại chí mình. Thường cho rằng chỗ cốt yếu của việc nhập đạo, tuệ giải là chính. Cho nên học hỏi xem xét tường tận các kinh điển. Vạn dặm theo thầy không nài khổ nhọc. Sau này cùng Tuệ Duệ, Tuệ Nghiêm cùng đến Trường An tham học, thọ giáo ngài La-thập. Tăng chúng trong vùng Quan Trung đều tôn xưng Ngài là bậc thần ngộ. Sau trở về chùa Thanh Viên. Ngôi chùa này vốn là hoa viên của hoàng hậu Trứ thị vào đời Tấn lập nên, cây cối trồng trong vườn xanh tốt nên đặt là thanh viên. Đạo Sanh đương thời là bậc pháp tượng cho nên được vua thỉnh về chùa ấy. Thái tổ hoàng đế nhà Tống càng tỏ lòng tôn kính hơn. Thái tổ mở tiệc mời đích thân ông dự tiệc cùng chúng tăng ở sân đình. Thức ăn đã dọn ra một hồi lâu, chúng tăng đều nghó rằng giờ đã quá ngọ. Hoàng đế nói: Mới vừa đúng giữa trưa thôi. Đạo Sanh nói: Mặt trời đang đứng bóng, vua nói mới trưa thì đúng như vậy. Nói xong Đạo Sanh bèn bưng bát ăn, thế là đại chúng cùng ăn theo. Ai cũng khen Ngài cơ cảnh mẫn tiệp, thích ứng thời cơ mà xử lý sự tình. Các đạo só như Vương Hoằng, Phạm Thái, Nhan Diên Cji đều kính ngưỡng phong thái của Ngài nên thường đến thỉnh vấn Phật pháp. Ngài quán xét yếu đạo đã lâu, cuối cùng triệt ngộ được yếu chỉ kinh điển vượt ngoài ngôn ngữ nên tự than: Hình tượng nhờ biểu đạt tâm ý, được ý thì hình tượng không còn tồn tại. Ngôn ngữ dùng để diễn giải nghóa lý, thể hội được nghóa lý rồi thời cần gì hình thức câu nệ vào ngôn ngữ nữa. Từ khi Phật giáo được truyền vào Trung Quốc, kinh điển được phiên dịch rất nhiều, mà phần nhiều các nhà dịch thuật đa phần ngăn trệ nơi văn tự, nên ít ai thấy rõ nghóa lý viên dung của Phật pháp, được cá quên nơm thì mới có thể khế hội liễu ngộ thật lý của Phật pháp. Do đó sau khi duyệt xem tất cả nội kinh ngoại điển, nghiên cứu kiểm thảo quan hệ nhân quả, ngài viết bộ Lập thiện không thọ nhận quả báo đốn ngộ thành Phật. Và trước tác các bộ luận Nhị Đế Luận, Phật Tánh Đương Hữu Luận, Pháp Thân Vô Sắc Luận, Phật Vô Tịnh Độ Luận, Ứng Hữu Duyên Luận v.v… đều tràn đầy bao lý lẽ và tuôn trào những ý chỉ thâm sâu. Song việc này dẫn đến sự chống đối, công kích liên tục của những người bảo thủ văn tự, vì hiềm rằng ngài Đạo Sanh sửa đổi nghóa lý kinh điển. Đương thời kinh Đại Niết-bàn chưa được truyền đến mà chỉ có sáu quyển Nê-hoàn kinh được truyền đến kinh sư. Ngài Đạo Sanh nghiên cứu tinh tường, phân tích tìm tòi trong các nghóa lý của kinh văn, thâm nhập lý mầu, bèn đề xướng chủ trương “Người nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh”. Thuyết này bị các người theo phái cựu học chỉ trích vì cho rằng đó là tà thuyết làm mê hoặc lòng người, càng ngày càng có nhiều người chê bai và phẫn nộ. Bèn tỏ ra thái độ tẩn xuất Ngài. Ngài ở trước đại chúng nghiêm chỉnh thần sắc, dỏng dạc tuyên bố: Nếu những lời tôi nói phản nghóa kinh, thì tôi nguyện hiện thân này ngay tức khắc cảm bịnh hủi bịnh cùi. Thuyết của tôi nếu tương ưng với thật tướng thì xin nguyện lúc xả báo thân này sẽ thăng lên tòa sư tử. Nói xong Ngài bèn rủ áo ra đi. Ban đầu Ngài đến núi Hổ Khâu ở Đông Ngô, trong mười ngày thâu nạp hàng trăm đồ chúng. Mùa hạ năm ấy sấm chớp nổi lên chánh điện Thanh viên, rồng bay lên trời, nhưng bóng nó vẫn lưu lại vách tường phía Tây. Do đó tăng chúng đổi tên là Long Quang. Người bấy giờ than rằng: Rồng đã bay đi rồi thì nhất định ngài Đạo Sanh sẽ đi xa. Chẳng bao lâu, đến Lô Sơn ẩn tích trong hang động, chúng tăng trong đó đều kính phục Ngài. Sau đó toàn bộ kinh Niết-bàn đều được truyền đến Nam Kinh. Đúng như lời nói: “Nhất-xiển-đề đều có Phật tánh”, lý này khế hợp với lời khi xưa Đạo Sanh nói. Ngài được kinh này rồi bèn đem ra giảng thuyết. Đến niên hiệu Nguyên Gia thứ 11 đời Tống nhằm tháng 11 cuối đông Ngài thăng tòa thuyết pháp ở tinh xá Lô Sơn, thần sắc sáng rỡ, đức âm vang dội, Ngài lần lượt luận nghị lý lẽ tuyệt diệu, khiến thính giả đều được pháp hỷ. Thuyết pháp vừa xong, đại chúng chợt thấy cây phất tử rơi xuống đất. Ngài ngồi ngay ngắn trên tòa mà sắc mặt an nhiên tựa kỷ thị tịch. Thần sắc bình thường như cảnh nhập định. Tin Ngài thị tịch, bất luận đạo tục xa gần đều than khóc ai bi. Bấy giờ tăng chúng ở kinh sư trong lòng hỗ thẹn, đau đớn và rất tín phục. Uy thần của Ngài hiển hiện ra những điềm lành như vậy. Sau đó đệ tử an táng nhục thể Ngài ở Lô Sơn. Thuở nhỏ Đạo Sanh, Tăng Duệ và Tuệ Nghiêm Tuệ Quán là những người bạn học đều nổi danh. Cho nên người thời ấy đều bình rằng: Sanh, Duệ phát thiên chơn, Nghiêm Quán thông suốt, Tuệ Nghóa, Bành Hưởng tiến Khấu, Uyên bế tắc nơi im lặng. Đạo Sanh và Tăng Duệ nổi thật là thiên chơn. Vì thế tài năng xuất quần. Ban đầu ở Quan Trung Tăng Triệu mới chú thích kinh Duy Ma, cả nước đều thưởng vị. Đạo Sanh bèn chỉnh lại ý chỉ thâm sâu để hiển bày thông suốt kinh điển mới, đồng thời sớ giải nghóa các kinh; thời ấy đều quý trọng. Vương Vi sánh Ngài như Quách Lâm Tôn, bèn truyền bá để lưu đức Ngài ở đời. Người thời ấy suy ra chủ thuyết xiển-đề được thành Phật là chính xác. Đốn ngộ không chịu quả báo cũng trở thành hiến chương thời đó. Thái tổ nhà Tống thường thuật lại nghóa đốn ngộ của ngài Đạo Sanh. Sa-môn Tăng Bậc v.v… cũng đặt ra câu hỏi để chất vấn. Vua nói: Dẫu cho người chết cũng có thể làm đạo hưng thịnh, đâu thể bị các ông khuất phục. Sau này ở chùa Long Quang cũng có vị Sa- môn tên là Bảo Lâm, ban đầu đến Trường An cầu học. Sau đó Thái Tổ thuật lại các nghóa của ngài Đạo Sanh. Người thời đó xưng là Du Huyền Sanh. Trước tác Niết-bàn Ký và Dị Tông Luận, Hịch Ma Văn v.v… Pháp Bảo là đệ tử của Bảo Lâm cũng học thông nội ngoại điển. Trước tác Kim Cang Hậu Tâm Luận. Cũng là nghóa do vua Thái Tổ đã thuật lại của Đạo Sanh. Vào thời cận đại cũng có vị gọi là Thích Tuệ Sinh ở chùa Long Quang. Sống đạm bạc, giản dị, học giỏi kinh điển và công thảo lệ (học tập). Thời bấy giờ người ta lấy việc cùng nối nhau ở một chùa nên đặt là Sanh lớn và nhỏ. --------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ DUỆ Ngài là người Dực châu, tuổi nhỏ xuất gia giữ trọn giới hạnh thanh bạch, thường đi du phương học kinh, đến miền Tây đất Thục bị người khám bắt và cưỡng bắt chăn dê. Có người khách buôn tin kính Tam bảo, thấy dáng dấp kỳ lạ bèn nghi là Sa-môn, tra hỏi nghóa kinh điển Ngài trả lời thông suốt. Thương buôn đem vàng biếu cho Ngài. Khi Ngài được mặc lại áo tu thì càng dốc chí học đạo, vân du khắp các nước, đi đến Nam Thiên Trúc. Nhờ vậy mà khả năng tri thức về tiếng Phạm rất kiệt xuất. Sau này trở về lánh nạn ở Lô Sơn không lâu sau lại đến Quan Trung thọ giáo ngài La-thập, rồi đến kinh sư ở chùa Ô Y, giảng thuyết các kinh, tư tưởng thông suốt, lời nói tỏ rõ, lý khế hợp với hoàn cảnh. Vương Nghóa Khang ở Bành Thành làm đại tướng quân nhà Tống thỉnh Ngài làm thầy, đôi ba lần Ngài mới hứa khả. Vương thỉnh Ngài vào phủ đệ truyền giới cho ông. Ngài đáp: Theo lễ thì chỉ nghe người đến đây để học chứ không nghe qua đó để dạy. Ông ta nghe vậy lấy làm hỗ thẹn bèn vào chùa chí thành đảnh lễ cầu thọ giới, rồi đem áo lông chồn cúng dường Ngài. Ngài không mặc mà thường ngồi. Vương mật sai tả hữu lại, trả giá mua ba mươi vạn. Tuệ Duệ nói: Tuy tôi không mặc nhưng là vật kỷ niệm của Vương tướng quân tặng, tùy theo chuyện mà dùng thôi. Trần quận Tạ Linh Vận rất thích nghiên cứu lý Phật pháp, ông thông thạo về nhiều thể loại ngôn ngữ thế tục, muốn đến tham vấn nghóa kinh điển và các âm vận cùng những ý chỉ đặc thù. Thế rồi Ngài soạn mười bốn âm huấn, điều lệ Hồ Hán rõ ràng mạch lạc, khiến văn tự có căn cứ. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên gia đời Tống. Thọ tám mươi lăm tuổi. ------------------------------------ <詞>NGÀI THÍCH TUỆ NGHIÊM Ngài vốn họ Phạm, người Dự châu, năm mười hai tuổi làm một người học trò hiểu rộng thi thơ. Mười sáu tuổi xuất gia, lại lão luyện lý Phật. Vừa mới hai mươi tuổi thì đã học thông suốt các sách vở. Tin đồn vang khắp nơi, truyền ra các nước lân bang. Hay tin ngài La-thập ở Quan Trung, Ngài đến đó cầu học. Tham vấn nghóa âm chánh pháp và được nghe rất nhiều điều đặc biệt. Sau đó trở về kinh sư ở chùa Đông An. Tống Cao Tổ vốn đã kính trọng. Khi Ông đến chinh phạt ở Trường An muốn Ngài đi chung. Ngài nói: Bệ hạ đi chuyến này tuy là phạt kẻ tội cứu dân lành nhưng bần đạo là người ngoại cuộc không dám vâng lệnh. Vua tha thiết mời Ngài đi thế là Ngài đành chấp thuận. Cho đến khi Văn Thành Đế lên ngôi. Tình cảm càng khắn khít hơn. Thường tham kiến hỏi đáp Phật pháp. Vì trước đây vị vua này chưa sùng tín lắm. Đến niên hiệu Nguyên gia thứ 12, Y Tiêu Mô ở kinh đô dâng sớ xin vua cho xây chùa và đúc tượng. Vua bèn cho thị trung Hà Thượng Chi, sử bộ lang trung Dương Huyền Bảo v.v… cùng bàn bạc. Rồi vua bảo Thượng Chi rằng: Trẩm từ bé tới giờ đọc kinh chưa nhiều, so với hôm nay thì càng không rảnh, nhân quả ba đời chưa hiểu rõ ràng, mà lại không dám lập dị. Chính vì các khanh khởi lòng tôn kính vậy. Phạm Thái, Tạ Linh Vận thường nói: Văn nghóa của lục kinh vốn để cứu đời, nhất định phải tìm tánh linh chân áo. Đâu không lấy kinh Phật để làm kim chỉ nam ư. Gần đây thấy Tánh Luận của Thôi Đạt Nhan Diên, khen Bạch Hắc Luận của Tông Bỉnh, nói toàn về Phật pháp càng làm rõ danh từ nghóa lý, đồng thời thấy rõ ý khuyến khích người. Giả sử dân trong cả nước đều chủ trương sự giáo hóa này thì trẫm ngồi yên thái bình, đâu còn lo việc gì nữa. Gần đây Tiêu Mô thỉnh chế chưa thông hết kinh, bèn cho là rõ, nếu giao cho khanh thì càng tổn thêm và nhất định sẽ có sự ngăn trệ. Giới chế ra để cứu đời không làm tổn thương họ. Các khanh hãy chấp lệnh. Thượng Chi đáp: Kẻ hoang đường phần đông không tin Phật pháp. Đem tài mọn của thần mà khai sáng sự ngu mê ấy e rằng đem các thiếu sót cạn cợt gán thêm vào đại giáo. Nay lại đảm đương việc xiển dương ấy thì thật chẳng dám. Chí như những bậc anh hào đời trước thì không phụ minh chiếu. Những người trung của triều đình đã xa thì khó biết được. Từ khi sang sông đến đây thì Vương Đạo, Chu Ký, Dữu Lượng, Vương Mông, Tạ Thượng, Khích Siêu, Vương Đán, Vương Cung, Vương Mật, Quách Văn, Tạ Ân, Đới Quỳ, Hứa Tuân và anh em của Cao Tổ đã mất như Vương Nguyên, Lâm Côn, Lý Phạm Chú, Tôn Xước, Trương Huyền, Ân Ký, có người khoác áo mão làm quan tể tướng, có người làm vũ nghi cho nhân luân, có người đặt mối quan hệ tình thân giữa Thiên nhơn. Hoặc có người xóa vết xấu nhơ của đời, đều bẩm thọ quy y, một mực sùng tín. So sánh với những người đó thì Lan, Hộ, Khai, Tiềm Uyên, Độn, Sùng, Thúy đều là bậc thấp hơn một bực, hoặc người không ngờ đến được. Thời này đạo tục so biện hơn thua. Như muốn đưa Di Hạ để thay thế Hán Ngụy. Những bậc kỳ tài dị đức đâu thể luận nổi. Pháp sư Tuệ Viễn có lần nói: Sự giáo hóa của đạo Phật điều gì cũng làm được. Nói về đạo ắt phải từ nguồn giáo, đổi mới phong tục cũng là việc cần thiết. Trộm tìm những lời này có phù hợp với lý mầu vậy. Vì sao? Giả sử nhà nào cũng trì giới thì cả nước dứt hình phạt, cho nên Phật Đồ Trừng đến nước Triệu thì hai nhà họ Thạch bớt sự tàn bạo. Tháp linh phóng quang thì Phù Kiên giảm bạo ngược. Cho nên Thần Đạo trợ giáo có từ xưa nay mà sự khải thỉnh của Tiêu Mô cũng không thể cho là sai hết. Nhưng đều gọi là làm tổn thương côn trùng đạo tục là do nơi tăng sư vô hạnh. Vả lại tâm tướng khó phân, lấy bỏ cũng không dễ. Vàng đồng cát gỗ tuy chẳng hao tổn gì cho lắm mà phước nghiệp gởi vào đó lại khó thể đốn tuyệt. Thần canh cánh trong lòng và đắn đo tiến thối không an. Hôm nay đích thân phụng thừa đức âm thật cũng nhờ di thái (sự bình yên). Dương Huyền Bảo tiến lên nói: Lời này bao trùm cõi thiên nhơn. Đâu phải điều thần dự định. E rằng Tần Sở luận về thuật cường binh. Tôn Ngô bàn kế thôn tính. Đâu không áp dụng những điều này ư? Vua nói: Đây chẳng phải khí cụ thời chiến quốc, đúng như lời khanh nói. Thượng Chi nói: Luận về ẩn dật thì chiến só biếng nhác, quý nhân đức thì binh khí suy. Nếu lấy việc Tôn Ngô làm chí thì trong chuyện thôn tính cũng không áp dụng đạo của Nghiêu Thuấn. Đâu chỉ giáo pháp của Thích-ca mà thôi. Vua rạng rỡ nói: Thích môn có khanh cũng như Khổng tử có Quý, Lộ vậy. Đó gọi là lời xấu không để tai. Từ đó vua bắt đầu tạo dựng niềm tin, và để tâm đến kinh Phật. Cho đến khi gặp Nghiêm, Quán, và chư tăng thì liền đàm luận nghóa lý kinh điển. Khi ấy Nhan Diên soạn bộ Ly Thức Quán và Luận Kiểm. Vua mời ngài Tuệ Nghiêm biện biệt về điểm dị đồng trong luận đó. Biện tới lui cả ngày vua cười nói: Các khanh hôm nay không lấy làm hỗ thẹn với Chi Khiêm. Sau đó ngài Tuệ Nghiêm trước tác bộ Vô Sanh Diệt Luận và Lão tử Lược Chú. Hà Thừa Thiên ở Đông Hải là người tài cao, tăm tiếng. Ông hỏi ngài Tuệ Nghiêm rằng: Phật quốc sẽ dùng lịch gì. Ngài đáp: Ngày hạ chí ở Thiên Trúc vừa đúng ngọ thì không thấy bóng. Đó gọi là Thiên trung. Trong ngũ hành màu sắc đức của đất là màu vàng. Tám tấc làm một thước, một lượng tương đương với xứ này mười hai lượng. Tính tháng ba làm đầu năm. Và tra xét, nghiên cứu phân tích, hiệu đính sự kém yếu của nó. Chiếu cố đến quang cảnh pháp ấy càng rõ ràng. Túc độ niên kỷ đều có điều lệ. Thừa Thiên không còn chỗ nào cật vấn nữa. Sau đó có người từ nước Bà-lợi đến quả đúng như lời ngài Tuệ Nghiêm nói. Vua sắc lệnh mời ông tham dự. Kinh Niết-bàn vừa đến đất Tống. Văn từ rất hay song phẩm số còn sơ sài đơn giản, kẻ sơ học khó phân định. Ngài cùng Tuệ Quán, Tạ Linh Vận, v.v… căn cứ vào các phẩm mục của bổn Nê-hoàn, văn tuy có thừa ra nhưng cũng có phần thay đổi cho hoàn chỉnh. Ban đầu có mấy quyển lưu hành. Ngài Tuệ Nghiêm một hôm nằm mộng thấy một người dáng vẻ lạ lùng. Ng- hiêm giọng bảo Ngài rằng: Niết-bàn Tôn kinh cớ sao lại châm chước thêm vào. Ngài giật mình tỉnh dậy: Bèn nhóm chúng tăng lại và muốn thu lại những bản trước. Khi ấy những bậc thức giả đều nói: Điều nầy chắc có lẽ muốn răn đe người đời sau thôi. Nếu không thích ứng thì làm sao cho phép mộng tức thời. Tuệ Nghiêm cũng cho là như vậy. Chẳng bao lâu thấy thần đến bảo: Ông nhờ công lao hoằng kinh nhất định được thấy Phật. Ngài thị tịch nhằm niên hiệu nguyên gia thứ 12 đời Tống, ở nơi chùa Đông An. Thọ tám mươi mốt tuổi. Vua ban chiếu: Nghiêm Pháp sư khí thức uyên viễn, học đạo an tượng. Vua tỏ lòng thương tiếc, quyến luyến trước sự ra đi của Ngài. Còn cấp cho năm vạn tiền, vải năm mươi xấp. Ngài Pháp Trí là đệ tử của ngài Tuệ Nghiêm thuở nhỏ có thần lý, đến năm hai mươi bốn tuổi qua Giang Lăng gặp Pháp Nhã giảng pháp, cùng luận nghị mấy phen. Ngài Pháp Nhã không hiểu suốt, rồi ngoái nhìn tứ chúng nói: chú nhỏ này văn tài nổi bật. Pháp Trí cười nói làm cho Nhã quay cuồng. Thế là tiếng tăm của ông lan khắp Sở Trịnh, danh truyền đến kinh Ngô. Rất giỏi về Thành Thật luận và Đại Tiểu phẩm. --------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ QUÁN Ngài họ Thôi người Thanh Hà, mười tuổi đã nổi tiếng học giỏi. Thuở thiếu thời xuất gia du phương tham học, lúc xế bóng về tu tại Lô Sơn thọ pháp ngài Tuệ Viễn, sau đó nghe ngài La-thập vào Quan Trung, Ngài lặn lội từ miền Nam xuống miền Bắc, phỏng vấn những điểm dị đồng, biện rõ quan điểm tân cựu, phong cách khí khái, thanh nhã khéo quán sâu lẽ huyền vi. Người thời ấy bảo rằng: thông tình thì Đạo Sanh, đúng là thượng thủ, thâm thuý thì Quán, Triệu là bậc nhất. Sau đó Ngài soạn Pháp Hoa Tông yếu tự để trao cho ngài La-thập xét, ngài La-thật nói: Thiện nam tử, Ông luận hay lắm. Ông còn nhỏ mà từ phương Nam lặn lội đến Giang Hán, lấy việc hoằng thông làm nhiệm vụ. Sau khi La-thập thị tịch Ngài lại đi đến Kinh châu. Tướng Tư Mã Hưu ở Kinh châu càng kính trọng Ngài hơn. Ngài ở xứ ấy lập chùa Cao Lý, khiến dân chúng đất Sở quay tà về chánh khoảng phân nửa. Tống Vũ ở phương Nam kéo binh đến thảo phạt Hưu Chi, khi đến Giang Lăng gặp ngài Tuệ Quán. Vẫn hết lòng tiếp đãi như xưa. Nhân đó mời Ngài giao du với Tây Trung lang, tức Văn Đế vậy. Thời gian không lâu sau đó Ngài trở về kinh đô ở chùa Đạo Tràng. Ngài vốn đã thâm diệu Phật lý lại nghiên cứu sâu Lão Trang, đã tinh thông Thập tụng lại lão luyện các bộ. Cho nên người tham vấn cầu đạo ngày càng đông. Vào tháng 3 đầu niên hiệu Nguyên Gia vua xa giá xuống miền Uyên Hội, Khúc Thuỷ, ra lệnh mời Tuệ Quán cùng các quan văn võ trong triều. Ngài vào chỗ ngồi và hiến kế trước. Lời lẽ thanh nhã, đối đáp đúng thời. Lang Da Vương Tăng Đạt Lô Giang Hà Thượng Chi đều dùng những ngôn từ thanh nhã, chí kính để ban tặng bậc xuất trần. Ngài thị tịch nhằm giữa niên hiệu Nguyên Hy đời Tống. Thọ bảy mươi mốt tuổi. Trước tác bộ luận Biện Tông, luận về nghóa đốn ngộ tiệm ngộ và Thập Dụ Tự là bài tựa tán thán các kinh. Đều còn lưu truyền ở đời. Lúc ấy ở chùa cũng có một vị tăng hiệu Tăng Phúc người ở Lễ Tuyền, chuyên tinh nghóa học, chú giải kinh Thắng Man. Lại có vị hiệu Pháp Nghiệp người Trường An. Thông thạo về các bộ Đại Tiểu Phẩm và Tạp Tâm, tam thường bất túc. Cho nên được công chúa Tấn Lăng làm chùa Nam Lâm mời Ngài về đó ở. -------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ NGHÓA Ngài là người phương Bắc vốn họ Lương, phong cách thanh cao, chí khí dũng mãnh. Ban đầu du học ở vùng đất giữa Bành Tống, thông suốt nghóa kinh, sau đó đến kinh sư, có người nói rằng: Ở Dực châu có đạo nhơn Pháp Xứng khi sắp lâm chung bảo đệ tử Phổ Nghiêm rằng: Sùng cao linh thần nói miền Giang Đông có Lưu tướng quân lúc sắp thọ thiên mệnh ta lấy ba mươi hai viên ngọc bích trấn kim một chiếc bình làm tin. Chuyện đó thấu đến vua Tống. Vua nói với ngài Tuệ Nghóa: Điềm phi thường ắt cũng là người phi thường, rốt cuộc rồi Ngài cũng đến. Nếu chẳng phải Pháp sư đích thân đi thì e rằng không lấy được. Ngài Tuệ Nghóa liền ra đi. Lúc ấy nhằm tháng 7 niên hiệu Nghóa hy thứ 13 đời Tấn, Ngài đến núi Sùng Cao nhưng tìm chưa thấy. Ngài bèn chí tâm thắp nhang cầu nguyện đến đêm thứ bảy thì mộng thấy một ông lão râu dài cầm chiếc gậy chỉ chỗ của viên ngọc và nói rằng: Ở dưới tảng đá này. Sáng thức dậy Ngài dạo quanh núi thấy một chỗ rõ ràng như trong mộng. Ở ngay dưới tảng đá trong miếu Ngài tìm được ngọc gồm ba mươi hai viên hoàng kim. Điều này được ghi chép rõ ràng trong sử nhà Tống. Sau đó Ngài trở về kinh sư. Tống Vũ càng thêm cung kính, cho đến khi lên ngôi vua thì đãi ngộ càng tử tế hơn. Năm đầu Vónh Sơ nhà Tống xa kî Phạm Thái xây dựng chùa Kỳ-hoàn. Cho rằng đức độ của Ngài đáng làm mô phạm cho mọi người cho nên trước tiên ông đến thỉnh giáo Ngài. Vì lòng chí thành của ông nên Ngài bằng lòng chỉ bày những phép tắc nghi lễ. Người thời ấy so sánh Phạm Thái như Tu-đạt. Cho nên tên Kỳ-hoàn thì thiếu mà hiệu thì còn. Sau này nhiều vị danh tăng ở Tây Vực đều đến ở chùa này. Có vị truyền dịch kinh điển, có vị truyền trao thiền pháp. Năm đầu Nguyên gia đời Tống Từ Tiễn, Chi Đàn, Đạo Tế v.v… chuyên quyền triều chánh. Phạm Thái tỏ vẻ bất bình. Có lần buông lời mắng nhiếc họ, Từ Tiễn v.v… rất căm giận ông, ai nghe cũng buồn. Sự việc xảy ra ngoài ý muốn, ông rất lo lắng đến nổi phát bịnh. Rồi tìm đến Tuệ Nghóa hỏi về thuật an thân. Ngài nói: trung, thuận không mất lấy sự việc ấy làm đầu, vì vậy trên dưới mới có thể thân nhau, đâu có gì đáng để lo lắng. Phạm Thái nhờ lời khuyên đó mà đem sáu mươi mẫu đất hoa màu ở Trúc Viên cúng cho chùa, để làm phước sâu mầu. Từ đó trở đi Phạm Thái hưởng trọn phước ấy. Cho đến khi ông mất người con thứ ba của ông nói với ngài Tuệ Nghóa rằng: ngày trước thừa dịp cha tôi mắc nạn mà được đất đai, tôi lấy làm hối tiếc nên nay đoạt lại. Tuệ Nghóa vẫn cầm tờ sớ di chúc của Phạm Thái để lại mà thế sự phiền loạn hiển hiện ra như thế Ngài đành dời về Ô Y, ở chung với ngài Nghóa, Duệ. Vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 21 đời Tống, Ngài tịch ở Ô y, thọ bảy mươi ba tuổi. Công tử Yến chẳng bao lâu cũng chết, em trai của ông là công tử Tất bắt chước Khổng Hi mưu nghịch, tổ tông họ hàng đều tan tác. Sau này chùa Kỳ-hoàn lại có Thích Tăng Duệ giỏi về Tam Luận, được Tống Văn tôn trọng. ----------------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO UYÊN Ngài vốn họ Quán, người ở xứ nào không rõ, xuất gia tại chùa Đông An ở kinh sư. Thuở nhỏ nghiêm trì giới luật, nghiêm tầm tra xét nghóa tông nên ông thông đạt từ các bộ kinh điển cho đến sớ luận. Song lại che dấu tài đức của mình nên người đời chẳng ai biết. Sau đó giảng pháp tại chùa Đông An, Ngài đã phân tích mổ xẻ tận tường những lý lẽ huyền vi. Khiến cho những điều nghi trệ xưa nay bổng chốc tiêu tan. Thế là những môn đồ học chúng thay đổi hẳn cách nhìn trước đây, họ một lòng một dạ quay về nương cậy đức của Ngài. Sau đó Ngài dời về ở chùa Bành Thành. Tống Văn Đế lấy hạnh của Ngài làm mô phạm cho dân chúng. Mời Ngài ở chùa Bành Thành và sau đó Ngài cũng mất tại đây. Thọ bảy mươi tám tuổi. Đệ tử của Ngài là Tuệ Lâm, họ Lưu người Tần quận, giỏi kinh điển lẫn Lão Trang. Ngài có tánh hài hước, ưa sáng tác truyện cười gồm mười quyển. Song lại hay ngạo mạn và tự kiêu. Lúc ngài Đạo Uyên đến thăm Phó Lượng, Tuệ Lâm đã ngồi trước đó, cho đến khi Ngài đến Lâm cũng không đứng dậy chào. Ngài Đạo uyên tỏ vẻ không hài lòng. Lượng phạt ông hai mươi trượng. Tống Thế Tổ rất tôn trọng ông, nên thường tiếp ông trên chiếc giường riêng. Nhan Diên Chi mỗi lần đến đó thì tỏ thái độ cơ hiềm. Vua vì chuyện đó mà không hài lòng. Sau đó ông sáng tác bộ Bạch Hắc luận trái với lý Phật. Thái Thú Hà Thừa Thiên ở Hành Dương sáng tác bộ Đạt Tánh Luận để phản bác lại ý cợt nhã của Lâm, đồng thời trên chỗ sơ hở của đối phương để bôi nhọ Phật giáo. Nhan Diên Chi và Tông Bỉnh soạn hai quyển Kiểm Bác, mỗi bộ hơn vạn lời. Tuệ Lâm đã tự huỷ giáo pháp của mình nên bị biếm đi Giao châu. Người đương thời nói rằng, ông Lưu thấy ma tinh, chính là người này vậy. ----------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG BẬT Ngài vốn người nước Ngô, tánh tình giản dị, cử chỉ trang nghiêm. Thuở nhỏ cùng với Long Quang, Đàm Can đến Trường An, theo học ngài La-thập. Ra sức phấn đấu tài bồi công phu nên tư duy sâu sắc. Ngài La-thập hết sức khen ngợi đồng thời bảo Ngài tham gia hội phiên dịch. Sau đó Ngài đi chu du các nước nổi tiếng để tìm hiểu phong tục tập quán xứ người. Lúc ấy có người thỉnh Ngài trụ trì một ngôi chùa nọ. Ngài trả lời: Đạo cả không hoằng thì ngày càng xa cách, bản thân không đủ định tuệ thì không thể giữ gìn được phong hoá. Hơn nữa phải tuỳ duyên thì mới có kết quả, đâu được độc thiện tại một ngôi chùa. Sau đó Ngài về phương nam ở Sở Dónh hơn mười năm chuyên giảng dạy kinh điển và giới luật. Giáo hoá khắp vùng Giang Biểu, Hà tây. Vương Thư Cừ, Mông Tốn từ xa nghe tiếng tăm của Ngài bèn sai người mang thư đến kính lễ liên tục. Sau đó Ngài xuống thành đô ở chùa Bành Thành. Văn Hoàng hết mực kính trọng và thường đến nghe Ngài giảng pháp. Niên hiệu Nguyên gia thứ 19 đời Tống Ngài thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi. ------------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ TÓNH Ngài họ Vương, người Hà Đông, thuở thiếu thời đến vùng Y Lạc du học, đến lúc xế bóng lại chu du miền Từ Duyện. Ngài có dung mạo thật đen, mà tinh thần uyên viễn thanh tao. Lúc ở Y Lạc có vị Sa-môn Đạo Kinh, kiến giải của Ngài cũng nổi tiếng như Tuệ Tónh. Tai Ngài dài rộng. Cho nên người thời ấy gọi là người ở Lạc Hạ tai to lớn, người Hà Đông đen như mực. Bất cứ ai hỏi Ngài cũng trả lời được. Câu trả lời ấy không hề bế tắc chỗ nào. Ngài Tuệ Tónh bản tánh thanh thoát tư duy sâu mầu và có định lực. Mỗi lần giảng pháp giáo hoá cả ngàn người. Những bậc học giả trong nước lần lượt quay về. Ngài tụng tiểu phẩm Pháp Hoa. Chú giải Duy Ma Tư Ích, trước tác Niết-bàn Lược Ký Đại phẩm chỉ quy và Đạt mệnh luận và những hành trạng của các Pháp sư. Nhiều bổn còn lưu truyền ở xứ Bắc không qua nổi Giang Đông. Ngài tịch vào giữa niên hiệu Nguyên gia đời Tống, thọ trên sáu mươi tuổi. --------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG BAO Ngài là người Kinh Triệu, thuở nhỏ theo học với ngài La-thập ở Quan Trung. Vào khoảng giữa niên hiệu Vónh Sơ nhà Tống, Ngài đến Bắc Từ, vào ở tịnh xá Hoàng Sơn nối nghiệp hai thầy Tónh, Định, cũng ở tại chùa này lập đàn hai mươi mốt ngày trai sám Phổ Hiền, đến ngày thứ bảy thì có một con ngỗng trời trắng bay đến đậu trước toà Phổ Hiền, đi đến giữa đàn lễ hương xong rồi bay đi. Đến xế chiều ngày thứ hai mươi mốt lại có bốn người mặc áo vàng đến nhiễu tháp mấy vòng rồi biến mất. Ngài thuở nhỏ đã có chí khí lại nhạy cảm, cho nên rất nghiêm ngặt đối với nhân tình. Mỗi ngày tụng hơn cả vạn câu kinh, lễ mấy trăm vị Phật, sau đó xuống kinh sư. Vừa gặp chùa Kỳ Hoàn đang giảng pháp, thính chúng vân tập từ quan chức đến thứ dân cùng ngồi vào toà. Ngài Tăng Bao lúc mới đến có người chưa biết. Ngài cỡi lừa đến xem, y áo dơ bẩn, dạng mạo có vẻ phong trần, lúc đó trong giảng đường đã chật, Ngài bèn ngồi trên lưng lừa ở ngoài cửa. Cao toà vừa đề ra một câu xong. Ngài ban đầu muốn ra thi thố. Pháp sư liền hỏi. Khách tăng tên gì, Ngài đáp tôi là Tăng Bao. Pháp sư lại hỏi: bao hết những gì, đáp rằng: Người trên toà cao cũng bao hết. Pháp sư hỏi tới hỏi lui mấy phen Ngài cũng đáp trôi chảy và rất sâu sắc, Pháp sư không còn lời lẽ nào chiết phục được nữa, bèn nhường nhịn khiêm tốn rút lui. Bấy giờ Vương Hoằng, Phạm Thái nghe tin về sự luận nghị tài giỏi của Ngài hết lòng khen ngợi, thỉnh Ngài đàm đạo, song vẫn bị Ngài khuất phục. Ngài ở chùa Kỳ-hoàn giảng kinh điển, bánh xe chánh pháp luôn xoay chuyển. Tạ Linh Vận ở Trần quận nghe tiếng tăm của Ngài mà tìm đến. Khi thấy được diện mạo của Ngài thì càng tỏ lòng khâm phục. Có người hỏi: Ông Tạ như thế nào? Ngài đáp: Tạ Linh Vận tài trí tuyệt vời mà có điều không biết hết. Song không tránh được thân mình. Ngài có lần thấy bọn cướp bị cột trói giữa đường, Ngài thuyết pháp cho họ nghe đồng thời khuyên họ niệm Bồ-tát Quan Âm. Bọn cướp trong lúc gặp phải hiểm nguy, niệm niệm khẩn thiết, chẳng bao lâu khiến số người sai nha ăn uống no say, bọn giặc được thoát khỏi kiềm kẹp tù đày. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên gia đời Tống. Khi đó chùa Ngoã Quan lại có vị tăng Thích Pháp Hoà, cũng tinh thông Sớ luận, nổi tiếng một thời, được Tống Cao Tổ kính trọng, sắc phong làm tăng chủ. ------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG THUYÊN Ngài họ Trương người Hải Dương Liêu Tây. Thuở nhỏ đến nước Yên Tề học sách vở ngoại điển. Hai mươi tuổi mới xuất gia nhưng lại tinh luyện tam tạng. Được các học giả phương Bắc tôn sùng. Sau đó qua sông ở kinh sư lập đàn giảng pháp, sự giáo hoá ấy thích hợp với xứ Giang Nam. Trương Cung ở Ngô quận thỉnh Ngài về nước Ngô giảng pháp. Những kẻ só ở Cô Tô đều hâm mộ đức hạnh và hướng tâm về Ngài. Lúc đầu Ngài ở chùa Nhàn Cư, sau quay về núi Hổ Khâu cư ngụ. Trước đây Ngài ở nước Hoàng Long tạo bức tượng Phật một trượng sáu. khi vào đất Ngô lại đắp một tượng Phật cở con người, đặt ở chùa Đông Lâm núi Hổ Khâu. Tánh Ngài thích bố thí, giúp đỡ nhường người nghèo thiếu, vốn là người thanh bần, tiết kiệm, không thích lụa là. Sau đó Mạnh Hác Bình Xương lập chùa Phương Hiển ở Dư Hàng, thỉnh Ngài trụ trì. Cả chúng tu tập, hành thiền lễ bái không ngớt, miệt mài lao nhọc đến nỗi mờ cả mắt. Ngài khích lệ họ càng thêm tinh tấn mà không bỏ phế việc tu tập. Trương Sướng, Trương Phu nước Ngô, cùng với Đái Ngung, Đái Bột, Tiều Quốc, đều mến mộ đức của Ngài nên cùng kết giao đồng thời tôn Ngài làm thầy. Sau đó Ngài tạm trú huyện Lâm An ở nhà Đổng Công Tào. Công Tào là đệ tử thân tín. Ngài ở đó một thời gian ngắn ngủi thì mắc phải trọng bịnh. Lại thường thấy những tượng Phật mà Ngài tạo lúc trước hiện trên bức tường phía Tây, lại thấy các đồng tử cõi trời đến hầu bệnh mình. Đệ tử Pháp Lãng mộng thấy một cái đài có mấy người khiên, ông hỏi họ đi đâu, họ bảo rằng đến rước Pháp sư Tăng Thuyên. Sáng hôm sau thì Ngài mất. Huyện lệnh Nguyễn Thượng Chi sai người mai táng Ngài ở bên phải mộ của Quách Văn Cử ở Bạch Thổ. Thiết nghó vận hết ắt phải ly biệt. Đặc Tấn Vương Dụ và Cao Só Đái Ngung đến mộ Ngài khắc bia. Đường Tư Hiền viết văn. Trương Phổ soạn hành trạng. ------------------------------------ <詞>THÍCH ĐÀM GIÁM Ngài họ Triệu, người Dực châu. Thuở nhỏ xuất gia thờ Trúc Đạo Tổ làm thầy ăn bận giản dị hành luật tinh nghiêm. Học thấu các bộ kinh và giỏi Số luận. Nghe tin ngài La-thập ở Quan Trung, ông lặn lội sang đó cầu học. Ngài La-thập thường bảo Đàm Giám là một người tài giỏi. Sau đó Ngài đi khắp nơi để hoằng hoá. Ngài đi từ Kinh châu đến ở chùa Hạnh, xứ Giang Lăng đến lúc tuổi cao Ngài càng dốc lòng tu tập, đức hạnh càng thanh khiết hơn. Thường nguyện sanh về An dưỡng thấy Phật Di-đà. Sau đó đệ tử Tăng Tế từ giả Ngài đến chùa Thượng Minh. Ngài nói: Ông ra đi rồi e rằng chúng ta không còn cơ hội gặp nhau nữa. Vì phương tiện Ngài đành từ giả và nhận lời dặn dò của thầy mình. Đến tối Ngài cùng chư trưởng lão bàn luận vô thường, lời lẽ thật thâm thuý, nửa đêm mỗi người trở về phòng nghỉ của mình. Giám công ở lại đi bộ dưới hành lang đến canh ba. Sa-di Tăng Nguyện thấy vậy thỉnh Ngài về phòng nghỉ. Ngài nói: Ông trở về nghỉ đừng đến đây nữa. Đến sáng hôm sau đệ tử Tuệ Nghiêm theo thường lệ vào thăm viếng. Thấy Ngài chắp tay ngồi xếp bằng mà chẳng nói năng gì, ông vội đến xem xét thì quả nhiên Ngài đã thị tịch rồi, thi thể mềm mại thơm phức. Sau đó đỡ Ngài nằm xuống cho thân thể duỗi ra và nhập liệm. Ngài thọ bảy mươi tuổi. Trương Biện ở Ngô quận ghi tiểu sử và viết bài tán để khen ngợi Ngài: Bổ quả đào thì vướng mùi thơm, cầm viên ngọc lộ ra sự trong sạch, hồn phách của Pháp sư không đen không trắng, sáng tỏ như ban mai, tỏ rõ lúc chiều tà, thần trí siêu thăng sao Ngài vónh quyết. Lúc ấy ở vùng Giang Lăng lại có vị tăng hiệu Thích Đạo Hải ở Bắc châu, Thích Tuệ Khám ở Đông châu, Thích Đạo Quảng ở Hoằng Nông. Thích Đạo Quang v.v… đều nguyện sanh về Tây phương, lúc lâm chung hiện điềm lành…. --------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ AN Ngài là người xứ nào không rõ, tương chay đạm bạc cần khổ, học thông nghóa kinh và khéo nói năng. Lại chuyên về giới luật, tương xứng kiến giải, tụng kinh hơn bốn mươi vạn lời, ở chùa Lăng Vân, Lô Sơn, học đồ vân tập từ ngàn dặm kéo về. Ngài thường cầm một cây trượng nói rằng: Đây là do vị tăng ở Tây Vực tặng cho. Cây gậy sáng láng bóng ngời lại có mùi thơm. Oå trên có chữ Phạm chẳng ai biết gì. Sau này Ngài đến Quan Trung tham vấn ngài La-thập cũng đem trượng theo. Thầy La-thập thấy trượng ngạc nhiên hỏi: chiếc gậy này sao ở đây? Nhân đó Ngài giải thích những chữ viết trên trượng xuất xứ từ Thiên-trúc của Bà-la-lâm. Khi phương Nam khởi loạn thảo phạt Diêu Hưng. Sau đó được La-thập đạo giáo long. Sau này Ngài Tuệ An đem tích trượng biếu cho vị tăng ngoại quốc là Bà-sa-na. Ngài Sa-na đem về lại Tây Vực. Ngài mất trong một ngôi chùa trên núi vào, giữa niên hiệu Nguyên gia đời Tống. <詞>THÍCH ĐÀM VÔ THÀNH Ngài họ Mã người xứ Phù Phong, gia thể lánh nạn dời về ở Hoàng Long, mười ba tuổi xuất gia, hành nghiệp trong sáng, thần ngộ tuyệt luân. Chưa đến tuổi thọ cụ túc lại tinh thông cả. Nghe ngài La-thập ở Quan Trung ông cắp cặp đến đó. Ngài hỏi: Sa-di làm sao có thể đi từ chốn xa xôi đến được vậy. Ông đáp: Con vì muốn học đạo mà đến. Ngài La-thập rất vui. Thế rồi Ngài chuyên tâm học kinh điển và tuệ nghiệp càng sâu dày. Vua Diêu Hưng nói rằng Mã Quý Trưởng là bậc thạc học cao minh vốn lấy làm kiêu hãnh với đương thời, song Pháp sư ắt sẽ không như vậy. Ngài đáp: Lấy đạo hàng phục tâm và để trừ lỗi này. Vua Diêu Hưng càng kính phục Ngài, cúng dường phụng sự rất nồng hậu. Khi vua Diêu Hưng sắp mất thì ở Quan Trung bị loạn lạc, ngài bèn về trú tại Trung tự ở Hoài Nam. Đại phẩm Niết-bàn Ngài thường đem ra giảng thuyết, học chúng có hơn hai trăm vị. Ngài cùng Nhan Diên Chi, Hà Thượng Chi luận Thật tướng qua lại nhiều phen thì lý càng tỏ thêm. Ngài có trước tác bộ Thật Tướng luận và Minh Tiệm luận. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên gia nhà Tống, thọ sáu mươi bốn tuổi. Lúc ấy ở Trung tự cũng có một vị tăng hiệu Đàm Quýnh cùng bạn đồng học nổi tiếng như ngài Đàm Thành. Được Lâm Xuyên Khang Vương Nghóa Khánh đời Tống tôn trọng. ------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG HÀM Ngài là người xứ nào không rõ, thuở niên thiếu rất hiếu học, dốc chí dồi mài kinh sử và thiên văn toán thuật. Khi trưởng thành học thông nghóa lý trong kinh Phật và Số luận, rất thích bộ Đại Niết-bàn và giảng thuyết liên tục. Vào niên hiệu Nguyên gia thứ 7 Thái thú Đào Trọng Tổ ở Tân Hưng lập chùa Linh Vị. Vì kính mến đức độ và phong cách nên thỉnh Ngài về ở. Ngài dạy dỗ chúng sống nề nếp, tam nghiệp không thiếu sót. Sau đó Ngài đi về hướng Tây hoằng dương chánh pháp. Kẻ tục người đạo vùng Giang Tả kéo nhau về nương tựa rất đông. Khi ấy người trấn nhậm Bành Thành sáng tác bộ Vô Tam Thế Luận, Ngài liền soạn bộ Thần Bất diệt luận để phản kháng lại. Để khiến cho những ai nghe thấy đều không đoạ lạc mà lại thăng tiến. Ngài lại trước tác bộ Thánh Trí Viên Giám Luận, Vô Sanh Luận, Pháp Thân Luận, Nghiệp Báo Luận và Pháp Hoa Tông Luận v.v… đều còn lưu truyền ở đời. Chẳng bao lâu sau Ngài vân du phương Nam để xiển bày rộng rãi về kinh điển ở Cửu Giang. Lang Da Nhan Tuấn thời làm Nam trung lang ký thất tham quân theo đến trấn nhậm ở Tầm Dương cùng với ngài Tăng Hàm bàn luận với nhau cả ngày. Có lần Ngài thầm bảo Nhan Tuấn rằng: như nay theo Chức Vó không hư, kinh sư ắt xảy ra hoạ hoạn, người ứng phó là thuộc về điện hạ, đàn việt khéo giữ kín nó. Chẳng bao lâu thì thủ phạm tạo nghịch. Thế Tổ Long Phi quả đúng như lời Ngài nói. Sau đó bình an không bịnh tật gì, Ngài bỗng nhiên cáo biệt đại chúng, đến sáng hôm sau thì lặng lẽ thác hoá. Người thời ấy bảo rằng Ngài là người “tri mệnh” Lúc ấy cũng có vị tăng hiệu Thích Đạo Hàm cũng là bậc học giả thông suốt, Ngài trước tác bộ Thích Dị Thập Luận. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG TRIỆT Ngài họ Vương, vốn người xứ Phổ Dương, Thái Nguyên. Thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, hai anh em cư ngụ tại Tương Dương. Năm mười sáu tuổi Ngài vào Lô Sơn tìm ngài Tuệ Viễn. Tuệ Viễn thấy Ngài lạ lùng nên hỏi rằng: sao có ý xuất gia. Đáp: Xa trần lánh tục là bổn tâm con. Dây mực, cán cân chỉ dành cho thợ mộc. Tuệ Viễn nói: Ông có thể tu đạo và đắc pháp môn vô uý. Thế là ông nương ở rồi xuất gia theo ngài Tuệ Viễn thọ học. Học hết mọi kinh điển, rất thông thạo Bát-nhã. Lại có lúc nhàn rỗi vấn đạo Ngài cũng để tâm vào bài giảng, đến nỗi một bài phú, bài vịnh hễ đặt bút xuống thì thành câu. Có lần Ngài đến hướng Nam ngọn núi vịn cây tùng huýt sáo, do đó gió mát xa bay đến, chim hòa ca, siêu thoát tuyệt trần. Lúc trở về đến tham bái Tổ Tuệ Viễn thưa: Luật cấm khảy đàn, giới tuyệt ca xướng, con vừa ngâm vừa huýt sáo có được chăng? Ngài Tuệ Viễn đáp: Những gì làm tâm tán loạn đều là trái pháp, vì vậy nên cấm ngăn. Đến năm hai mươi bốn tuổi Tổ Tuệ Viễn bảo Ngài giảng Tiểu Phẩm. Khi ấy những bậc tiền bối chưa cho phép. Cho đến khi Ngài thăng toà thuyết pháp lời lẽ, ý chỉ rõ ràng khúc chiết. Người nghe không thể bác bỏ được tài hùng biện sắc sảo của Ngài. Ngài Tuệ Viễn nói với Ngài: Người xưa gặp kình địch không tiếc sức. Kẻ tấn công thành hoàng nghiêm mật của ông làm chết thầy ông rồi lại thương xót ông, thật là khó vậy. Từ đó môn nhân rất kính phục. Sau khi Tổ Tuệ Viễn mất, Ngài về phương Nam đến Kinh Châu ở chùa Ngũ Tầng trong thành Giang Lăng. Cuối cùng dời về ở chùa Tỳ Bà. Vương Nghóa, Khang Nghi, Đồng Tú, Tư Cổ v.v… ở Bành Thành đều theo thọ học giới pháp. Nhan Diên đến thỉnh Ngài thiết trai đích thân ông nấu thức ăn đãi Ngài. Ngài thị tịch vào niên hiệu Nguyên gia thứ 29 đời Tống, thọ bảy mươi tuổi. Thứ sử Vương Lưu Nghóa Tuyên của Nam Tiều xây tháp an táng Ngài. Trong lúc đó chùa Thượng Minh ở Kinh châu lại có vị tăng hiệu Thích Tăng Trang cũng giỏi Niết-bàn và Số luận. Tống Hiếu Võ ban đầu ra lệnh Ngài hạ đô nhưng Ngài cáo bệnh không đến. -------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM ĐẾ Ngài họ Khang, tổ tiên Ngài là người nước Khang Cư, vào thời Hán Linh Đế dời đô về Trung Quốc, cuối đời Hiến Đế bị loạn nên gia đình Ngài dời về Ngô Hưng ở. Cha ngài là Đồng từng làm chức biệt giá ở Ký châu. Bà Huỳnh mẹ Ngài một hôm nghỉ trưa mộng thấy một vị tăng gọi bà bằng mẹ rồi gởi một chiếc phất trần và hai thỏi sắt chặn giấy. Tỉnh giấc bà vẫn thấy hai vật đó còn nguyên, nhân đó mang thai Ngài. Lúc Đàm Đế lên năm tuổi mẹ lấy hai báu vật đó đưa cho ngài. Ngài nói: Vật này vua Tần ban cho con. Mẹ hỏi: Con để nó ở đâu? Đáp: Con không nhớ Đến năm mười tuổi Ngài xuất gia, sở học không do thầy dạy, tánh tự phát ngộ. Sau đó theo cha đến Phiền Đặng. Bổng gặp đạo nhơn Tăng Lược ở Quan Trung, Ngài liền gọi: Lược ơi. Tăng Lược nói: Chú nhóc kia sao dám gọi tên bậc lão túc vậy. Ngài nói: Khi nãy tôi chợt kêu như thế là vì trước kia Ngài là sa-di của tôi. Thuở xưa ngài Đàm Đế hái rau cho chúng tăng bị heo rừng cắn trọng thương bất giác la lớn. Tăng Lược từng làm đệ tử của Pháp sư Hoằng Giác và hái rau cho chúng tăng bị heo rừng cắn trọng thương nhưng Tăng Lược chẳng nhớ mảy may nào. Thế là ông tìm đến hỏi cha của Đàm Đế, cha Ngài kể rõ đầu đuôi sự việc đồng thời đưa phất trần cùng hai thỏi sắt. Tăng Lược nhận ra vật này nhớ lại rồi khóc than: Chú sa-di này là Pháp sư Hoằng Giác, thầy trước đây của tôi vậy. Thầy đã từng giảng kinh Pháp Hoa cho vua Diêu Tràng, bần đạo làm người phụ giảng. Diêu Tràng ban cho Ngài hai vật này, nay lại gặp nó ở đây. Tính lại lúc thầy xả báo thân cũng chính là ngày gởi vật này, rồi nhớ lại lúc hái rau càng buồn bả hơn. Đàm Đế sau này xem xét kinh sách, nhìn qua liền nhớ. Sau đó Ngài vào nước Ngô ở chùa Hổ Khâu. Giảng giải Lễ, Dịch, Xuân Thu mỗi bộ bảy lần. Đại Phẩm Pháp Hoa, Duy-ma mỗi bộ mười lăm lần. Lại có sở trường về văn hàn, soạn tập sáu quyển, cũng lưu hành ở đời. Tánh Ngài thích ở chốn núi rừng. Sau đó trở về Ngô Hưng vào Côn Sơn ở Cố Chương sống đạm bạc nơi thanh vắng hơn hai mươi năm. Ngài mất vào cuối niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, thọ hơn sáu mươi tuổi. ----------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG ĐẠO Ngài là người Kinh Triệu, một tuổi theo thầy xuất gia học đạo. Thầy trao cho Ngài một quyển kinh Quán Thế Âm, Ngài đọc xong bèn hỏi thầy, kinh này có mấy quyển. Vị thầy muốn thử Ngài bèn nói chỉ có quyển này. Ngài nói: Đoạn đầu nói: Nhó thời Vô Tận Ý, cho nên biết trước đó đã có chuyện, thầy Ngài rất vui rồi trao cho Ngài một bộ Pháp Hoa. Thế là đêm ngày Pháp sư xem xét nghiêm tầm văn hiểu sơ nghóa. Vì hoàn cảnh nghèo thiếu đến nỗi không đủ đèn dầu, thường hái củi để đốt sáng mà đọc sách. Đến năm mười tám tuổi học rộng nhớ nhiều, khí phách anh hào, thần cơ linh mẫn, cử chỉ nho nhã, hài hoà không ngỗ nghịch. Ngài Tăng Duệ thấy vậy rất mến phục và hỏi rằng: Trong Phật pháp ông còn muốn nguyện gì nữa không. Tăng Đạo nói: Con còn muốn làm phó giảng cho Pháp sư. Tăng Duệ nói: Ông mới đáng làm pháp chủ cho vạn người, đâu thể thay thế mà làm tiểu sư? Cho đến khi thọ giới cụ túc thì sự hiểu biết của Ngài càng sâu sắc. Thiền, luật, kinh, luận đều thấu trọn tâm Ngài. Diêu Hưng kính trọng đức hạnh của Ngài kết làm bạn mà rất yêu kính. Thỉnh Ngài vào chùa ở chung với nhau, cho đến cùng ngồi chung xe về cung. Và dịch thuật kinh luận với ngài La-thập, đồng thời tham cứu nghóa lý tường tận. Tăng Đạo vốn có sẳn phong thần lại gặp hội phiên dịch ở Quan Trung. Thế là cùng nhau thảo luận kinh điển, chọn lựa chơn tục rạch ròi. Đồng thời trước tác bộ Thành Thật Tam Luận Nghóa Sớ và Không Hữu Nhị Đế Luận v.v… sau đó Tống Cao Tổ kéo quân về Tây chinh phạt Trường An. Bắt được quân chủ Đãng Thanh ở Quan Trung, ông đã biết danh của Tăng Đạo nên muốn gặp Ngài, đồng thời nói rằng: tôi đã trông vọng Ngài đã lâu. Sao Ngài lưu lạc nơi xứ người. Ngài đáp: Minh công rung từ một đến chín cái có tiếng kêu như lục lạc. Lúc này gặp nhau không tốt sao. Cao tổ phất cờ trở về Đông. Lưu Tử, Quế Dương Công, Nghóa Chơn trấn nhậm Quan Trung. Lúc sắp chia tay vua nói vói ngài Tăng Đạo rằng: Lưu còn nhỏ tuổi lại nhậm chức. Mong Pháp sư khéo giúp đỡ. Nghóa Chơn sau đó bị Bột Bột Hách Liên người Tây Lỗ bức hại. Ông chạy ra cửa nam thành Quan Trung, nửa đường bị loạn lạc, Xú Lỗ nhân đó đuổi ngựa theo sắp kịp. Ngài Tăng Đạo dẫn theo mấy trăm vị đệ tử chặn đường lại. Nói với kẻ đuổi theo rằng: Lưu công đem chú này giao cho bần đạo trông nom. Nay sẽ lấy cái chết để tiễn đưa, mong đừng nhọc lòng đuổi theo bắt. Bọn giặc sợ cái phong thái của Ngài, bèn quay ngọn giáo trở lại. Nghóa Chơn chạy trốn dưới lùm cỏ, ở trong đó không bị binh lính phát hiện và thoát nạn chết, bởi do công lao của ngài Tăng Đạo. Cao Tổ rất cảm kích. Nhân đó lệnh cho con cháu nội ngoại của vua tôn trọng sư. Sau này lập chùa ở Thọ Xuân, tức chùa Đông Sơn vậy. Thường giảng thuyết kinh luận. Học chúng hơn cả ngàn vị. Hội Lỗ khoảng thời gian không lâu sau thì huỷ diệt Phật pháp. Tăng ni lánh nạn vào đó cả mấy trăm vị. Ông đều cung cấp cơm ăn áo mặc, có vị nào mất tại đất Lỗ, ông cũng thiết hội lập đàn cầu siêu, xót thương than thở. Đến khi Hiếu Vũ Đế lên ngôi, sai sứ đến thỉnh cầu, Ngài vội vàng tiếp chiếu chỉ ở chùa Trung Hưng kinh sư, xa giá của vua đích thân đến đón rước Ngài. Ngài Tăng Đạo giúp Hiếu Vũ Đế đổi lại ba giềng mối ban đầu. Ngài cảm động nhớ lại chuyện xưa, bùi ngùi khôn xiết. Vua cũng ngậm ngùi rất lâu, bèn sắc lệng ở chùa Ngoã Quan khai đàn giảng kinh Duy-ma, vua đích thân đến dự cùng với khanh tướng. Ngài Tăng Đạo bước lên toà cao nói: thuở xưa Phật thác sanh ở vương cung và thị hiện diệt độ ở song thọ, từ đó đến nay trải qua ngàn năm, nguồn sâu đã cạn hẳn, gió Nghiêu không thổi, Cấp việc điêu tàn, Lộc uyển hoang vu, chín mươi sáu phái ngoại đạo từ thấp vượt lên cao, chúng sanh trong tam giới cho nhà lửa là cõi nước bình yên. Đâu ai biết rằng bậc thượng thánh rơi lệ, hàng đại só bàng hoàng ư. Vì thế ta ngậm ngùi rơi lệ. Tứ chúng thấy vậy biến sắc. Rồi Ngài lại bảo vua rằng: Hộ Pháp Hoằng đạo chẳng phải trên đế vương, bệ hạ nếu có thể vận dụng bốn tâm bình đẳng ngăn chặn hiểm nguy, phát triển điều lành, thì đất cát ngói đá ở đây đều biến thành cung trời tự tại. Vua tán thán thật lâu, thính giả đều vui mừng. Sau đó Ngài cáo biệt vua về Thọ Xuân mất ở Thạch Gian, thọ chín mươi sáu tuổi. Lúc ấy có vị Sa-môn Tăng Nhân cũng là bậc thầy nổi tiếng đương thời, sánh cùng với ngài Tăng Đạo. Có người hỏi ngài Tăng Nhân rằng: Pháp sư với ngài tăng Đạo có quen không? Ngài đáp: Vị ấy với tôi cùng tôn Ngài La-thập làm thầy, khi chuẩn bị khai đàn giảng pháp thì ngài Tăng Đạo nhập thất, tôi phải thăng đường. Tăng Đạo có các vị đệ tử Tăng Uy, Tăng Âm v.v… đều giỏi Thành Thật Luận. ----------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO UÔNG Ngài họ Phan người ở Trường Lạc, thuở nhỏ theo chú đến kinh sư. Năm mười ba tuổi vào Lô Sơn xuất gia với Tổ Tuệ Viễn. Nghiên cứu kinh luật, rất thích Niết-bàn. Sống cuộc đời đạm bạc hơn mấy mươi năm. Có lần Ngài đến Lương châu, bị bọn rợ Khương vây khốn mất cả y bát. Ngài cùng với vài người đệ tử phát nguyện niệm Bồ-tát Quan Âm, phút chốc Ngài cảm thấy một lùm mây che toàn thân Ngài, lũ giặc cướp tìm không thấy. Thế là Ngài được thoát nạn. Sau đó hay tin ở Hà giang có Pháp sư Huyền Cao thiền tuệ sâu rộng. Ngài muốn đến tham học, giữa đường gặp nạn Thổ Cốc Hồn, rốt cuộc không đi được, thế là Ngài đành phải quay về thành đô. Trưng só Phí Văn Uyên bắt đầu theo Ngài thọ học, rồi lập chùa ở Tây bắc Châu Thành, gọi là chùa Kỳ-hoàn. Ngài đến Ba Thục hoằng hoá nổi tiếng khắp trong ngoài thành. Thứ sử Thân Thản ở Lương châu có mối thâm giao với Ngài, Thân Thản sau đó đến xứ này, Ngài đến thăm ông và ở lại đó. Phí Văn Uyên bèn dâng thư cho Thứ sử Trương Duyệt rằng: Pháp sư Đạo Uông thức hạnh trong sạch, phong độ cao vời, trác tuyệt hơn người, thật ít ai sánh kịp. Hay tin ấy Thứ sử Lương châu sai người đến tiếp đón giáo chỉ và mời đến để luận bàn việc quốc gia. Ngài bảo: chẳng phải lúc. Bởi nơi biên giới của Lương châu, Tăng Ni xuất gia cả vạn, tất cả đều nương vào thiền, giới. Nước sông đâu thể dìm mất châu báu, núi kia đâu thể làm mất ngọc quý. Mong Ngài soi xét mối đạo để cho tứ chúng được nương nhờ. Trương Duyệt vội vã giữ Ngài lại nhưng chẳng kết quả gì. Ông bèn trở lại kinh đô thuật lại đức hạnh vủa ngài Đạo Uông cho Tống Hiếu Vũ nghe. Vua bèn ban chiếu đến thỉnh Ngài về làm trụ trì chùa Trung Hưng. Ngài Đạo Uông cố chối từ với Duyệt là mình bị bịnh, sau đó thì được khỏi. Bấy giờ Ngài thối thác vì bịnh dứt bặc với thế sự. Sau này Lưu Tư Khảo mở cuộc đại hội thuyết pháp mời Ngài làm chủ tọa. Ngài đáp thỉnh, có người hỏi: Pháp sư thường thề giữ sự yên tịnh, cớ sao phụ lòng. Ngài đáp: Lưu công có niềm tin chánh pháp sâu dày mới muốn mở hội pháp thí để nương cậy vất vả chút ít đâu có gì chối từ. Trước kia người Hiệp Trung thường thấy bên ngạch đá có thần quang phát sáng ban đêm. Tư Khảo căn cứ vào đại minh đó mà thỉnh Ngài dựng chùa chỗ phát sáng. Ngài bèn an trí tượng trên vách đá, dựng chùa chỗ yếu hiểm cheo leo kia. Người đi đường đều phát tâm trong sạch. Sau này Vương Cảnh Mậu thỉnh Ngài về ở chùa Võ Đảm làm tăng chủ. Khuyến khích chúng thanh cẩn, tăng tục quy y. Ngài mất ở chùa đang ở nhằm Thái thỉ nguyên niên đời Tống. Lại ra lệnh hoả táng Ngài, Lưu Tư Khảo xây một ngôi tháp bên phải chùa Võ Đảm để an táng Ngài. Niên hiệu Cảnh Hoà đầu tiên Tú Tuệ trấn cửa Tây thành đô. Hay tin ngài Đạo Uông là một vị tăng giảng đạo nổi tiếng, ông đi đến nửa đường thì hay tin Đạo Uông đã thị tịch. Ông bèn than rằng: Tiếc thay tôi không kịp gặp Ngài, nên chi Ngài được những bậc hiền đương thời kính mến như vậy. Đương thời ở nước Thục có ngài Thích Phổ Minh chùa Giang Dương. Thích Đạo Khuê ở chùa Trường Lạc. Đều là những bậc giới đức cao minh, sống đời giản dị, siêng năng đọc tụng kinh điển, sở học của ngài Đạo Khuê kiêm nội ngoại kinh điển, rất giỏi đối đáp. Trương Dụ người nước Ngô thỉnh Ngài làm giới sư… ---------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ TÓNH Ngài vốn họ Thiệu, người ở xứ Dư Hàng, Ngô Hưng, gia cảnh bần song Ngài có chí khí, là người siêng năng chăm chỉ, phong thái tuấn tú, dung nghi lịch lãm. Ban đầu Ngài đi du học ở Lô Sơn. Sau này trở về kinh đô tu tập. Thông thạo cả nội ngoại điển, tâm đắc nhất là Niết-bàn. Lúc đầu ở chùa Trị Thành, Nhan Diên Chi và Hà Thượng Chi đều kính mến phong cách và đức độ của Ngài. Nhan Diên Chi thường khen rằng: Viên ngọc của Kinh Sơn chính là ngài Tuệ Tónh vậy. Cho đến khi Tử Tuấn ra trấn nhậm Đông châu, cả hai cùng nhau đến đó. Ơû chùa Thiên Trụ Sơn và trong năm Đại minh lại dời về Pháp Hoa đài ở Diệm, sau đó trú tại Đông Ngưỡng SƠn, chu du khắp nơi Ngài cũng lấy việc hoằng pháp làm nhiệm vụ chính. Tuổi tác đã cao Ngài biết trước được thọ mệnh của mình nên quyết chí mạnh hơn. Ngài mất vào giữa niên hiệu Thái thỉ nhà Tống. Thọ năm mươi tám tuổi. Văn hàn mà Ngài trước tác gồm mười quyển. ----------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP MẪN Ngài là người phương Bắc, thuở niên thiếu Ngài rất mộ đạo và dốc chí học kinh sách. Năm mười tuổi xuất gia. Rồi đi đến Châu Quốc thưởng thức đạo vị. Bát-nhã, Số luận và những bộ kinh luật khác Ngài đều rất thành thạo. Sau đó đến nương ở chùa Ngũ Tầng ở quận Giang Hạ. Lúc bấy giờ Sa-môn Táng Dương lập tháp trong thành Giang Lăng, Thứ sử Tạ Hối muốn phá bỏ, ngài Pháp Mẫn thấy vậy mới đến khuyên ngăn ông, nhưng tâm ông không phục. Thế là Ngài đến ẩn tích tại Lộc Sơn, Trường Sa. Trọn đời không ra khỏi. Tạ Hối xem thường quy củ kéo nhau đến chùa đãi đằng rượi thịt, thúc trống ra oai, đập phá hình tượng, thoáng chốc thì mây đen, gió lốc ùn ùn nổi dậy khắp nơi. Tạ Hối kinh hải bỏ đi. Sau đó vì tội phản nghịch mà bị tru diệt. Toán người Đinh Pháp Thành, Sử Tăng Song toàn thân bị bịnh hủi, số ngừoi còn lại do phạm pháp mà chết. Ngài Pháp Mẫn bèn soạn quyển luận Hiển Ng- hiệm để nói rõ nhân quả. Và chú giải kinh Đại Đạo Địa. Sau này mất ở trong núi, thọ tám mươi ba tuổi. Đệ tử Tăng Đạo lập bia để ca ngợi đức hạnh của Ngài. lúc bấy giờ trong chùa Linh Hoá quận Thỉ Hưng có vị tỳ kheo Tăng Tông cũng là bậc lỗi lạc về kinh luận, trước tác hai bộ Pháp Tánh và Giác Tánh. ---------------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO LƯỢNG Không rõ Ngài là người xứ nào, ở chùa Đa Bảo phía bắc Kinh sư. Thần ngộ siêu tuyệt, tướng mạo khả quan, tính cách cứng rắn, là người nổi bật trong chúng. Cuối niên hiệu Nguyên gia Ngài bị đày đến Nam Việt. Người thời ấy có kẻ chê ngài không giữ được thân. Đạo Lượng nói: Việc làm của ta chẳng phải là chuyện của người. Thế rồi Ngài bảo bạn cùng đi về phương Nam đến Quảng châu, mười hai vị tăng đi theo như đệ tử Trí Lâm v.v… ở miền Nam sáu năm. Ngài giảng dạy dẫn dắt đồ chúng, giáo hoá Đào Linh Ngoại. Trong năm Đại Minh Ngài trở về ở Kinh Triệu, mở đại hội thuyết pháp. Trước tác Thành Thật Luận Nghóa sớ tám quyển. Ngài mất vào giữa niên hiệu Thái thỉ nhà Tống thọ sáu mươi chín tuổi, lúc bấy giờ chùa Đa Bảo cũng có các vị Tónh Tâm, Tuệ Long. Ngài Tónh Lâm rất giỏi về kinh Niết- bàn, được vua nhà Tống kính trọng. Ngài Tuệ Long cũng là bậc thông thạo kinh điển và số luận. Lại gắng sức phi thường, lúc Ngài bịnh thần khí mệt mỏi, giữa đêm có phi nhân đem thuốc đến nói rằng: thuốc này của Mạt Lăng gởi đến cho Ngài. Trao xong thì bổng nhiên biến mất, Ngài uống một thang cảm thấy đắng song liền khỏi bệnh. ------------------------------------------- <詞>THÍCH PHẠM MẪN Ngài họ Lý, người Hà Đông. Thuở nhỏ du học ở Quan Lũng, lớn lên đi sang Bành Tứ. Tất cả kinh điển sách vở nội ngoại đều chứa cả bụng. Đến tuổi lão thành thì Ngài ở Đan Dương nhiều lần mở hội thuyết pháp. Tạ Trang, Trương Vónh, Lưu Cầu. Lữ Đạo Tuệ đều tiếp đãi niềm nở, lịch sự và tôn kính. Ngài giảng Pháp Hoa, Thành Thật nhiều phen. Lại đề tựa quyển Yếu nghóa bách khoa lược tiêu cương võng. Cổ Văn chỉ có một quyển. Trình độ học thuật của Ngài được đương thời rất tôn trọng. Sau này Ngài mất ở Đan Dương. Thọ bảy mươi mấy tuổi. Khi ấy lại có vị tăng hiệu Thích Tăng Dương người Thượng Đảng rất giỏi kinh Niết-bàn được Trương Sướng vô cùng kính trọng. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO ÔN Ngài tên là Hoàng Phổ, người Triều Na, An Định. Sau này là Cao Só Ích Chi vậy. Thuở nhỏ thích đàn và sách, thờ phụng cha mẹ bằng tấm lòng chí hiếu. Năm mười sáu tuổi vào Lô Sơn học đạo với tổ Tuệ Viễn. Sau đó vân du sang Trường An gặp ngài La-thập. Vào giữa niên hiệu Nguyên gia thì Ngài trở về chùa Đàn Khê ở Tương Dương. Ngài thông thạo kinh điển Đại thừa và thấu suốt Số luận, những học chúng Phiền Miện đều tôn Ngài làm thầy. Khi ấy Trương Thiệu trấn nhậm Tương Dương nước Ngô. Tử Phu là phụ tá của ông, song Phu nghe ngài Đạo Ôn giảng kinh bèn quay về. Trương Thiệu hỏi: Đạo Ôn là người thế nào? Phu đáp: Kiến giải của Ngài đủ để biện thuyết chánh giáo. Đạo tâm thật khó suy lường. Trương Thiệu đích thân đến đó tham kiến, mới biết được Ngài là bậc thần tuấn, rồi ông từ tốn thưa ngài Đạo Ôn rằng: Giả như Pháp sư có thể hoàn tục thì tôi sẽ cho Ngài làm Biệt giá. Đạo Ôn nói: Ông đem xiềng xích và gông cùm để dụ ta, như mặt trời lặn về Giang Lăng. Trương Thiệu ăn năn hối hận không kịp. Niên hiệu Hiếu Kiến Sơ Ngài được mời về kinh đô ở chùa Trung Hưng. Trong năm Đại Minh phong Ngài làm tăng chủ của đồ ấp. Vào ngày 8 tháng 10 năm thứ 4 hoàng thái hậu Lộ Chiêu đắp xong tượng Phổ Hiền trong năm Đại Minh. Thiền đường ở Trung Hưng thiết trai thỉnh hai trăm vị tăng, các vị lần lượt vân tập, số người đã định. Lúc ấy ở chùa đã sắp đặt, bố trí trang nghiêm. Chợt có một vị tăng đến trễ, song phong thái, nghi dung đạo mạo. Cả trai đường đều chăm chú nhìn Ngài. rồi Ngài cùng với trai chủ chuyện trò một hồi rất lâu, sau đó bổng nhiên biến mất. Có vị tăng tra hỏi người giữ cửa thì ông nói chẳng thấy ai ra vào. Đại chúng chợt hiểu ra đó là vị thần tăng. Bấy giờ Đạo Ôn đã làm tăng chủ, Ngài kể lại đầu đuôi với Mạt Lăng rồi nói rằng: Hoàng thái hậu là người đoan chính, nghiêm minh đã hợp với thánh ứng của thần. Gọt sạch tịnh tràng tư tưởng, mài nhẵn chí cảnh ý niệm, hẳn lẽ tiếng tăm vang dội khắp cung đình, sự việc loan khắp ngoại bang. Chính là sáng tạo ra một lò đúc tư tưởng, để rút ra một dụng cụ tinh xảo. Phóng tạo tượng Phổ Hiền để tỏ lòng tôn kính, quý báu như vũ trân, giá trị như thiên sức. Hôm đó ngày mùng tám trai nghi đã lập, hội giảng đã bày. Tiệc hội có hạn, danh bạ đã định. Tăng chúng lần lựơt theo thứ tự vào toà, vừa vặn chỗ ngồi. Chuyền kinh sắp đến bán cảnh và sư đệ ta bổng thấy một vị tăng lạ chuẩn bị bước vào toà. Dung mạo đoan nghiêm, nghi biểu đáng kính. Đại chúng kinh ngạc, chẳng ai biết Ngài. Trai chủ hỏi: Thượng nhơn tên gì? Đáp: Tôi là Tuệ Minh Hỏi: Ngài ở chùa nào Đáp: Từ Thiên An đến. Trong lúc đối đáp qua lại bổng nhiên biến mất. Cả hội rởn tóc gáy, toàn trai đường đều đau đáu, cho rằng điềm lành ẩn hiện trong tích tắc, Tử sơn có thể chiêm ngưỡng, hoa đài gần trong tấc gan. Bởi từng nghe hễ hết lòng thành thì sẽ cảm hoá cảnh vật, xoay chuyển điềm gở. Lóng tâm đã yên thì khoét núi đào sông. Huống chi bao dung, độ lượng của đế vương, công cần mẫn, tận tuî của hoàng thượng. Nhân thấu suốt càn khôn, nghóa bao trùm nội ngoại. Cho nên bậc minh quân, công thần là biểu trưng cho triều đại “Đại Minh” (hưng thạnh) khuyến phát diệu thân chính mắt thấy rồng bay ra khỏi thất. Nó ví như ngọn đuốc Tuệ của bệ hạ, là vầng nhật nguyệt của nước nhà. Cho nên lấy Tuệ Minh đặt tên cho người, để thay trời làm vương vị hưng thịnh. Quý hoá vô cùng. Nên lấy Thiên An đặt tên chùa. Thần cơ càng rộng chánh đạo mới tụ. Thiên hạ thái bình nhân dân đều yên vui. Kính trình những lời này cho chúa thượng để làm tỏ thiên hưu, huyện lệnh bèn nói với quận. lúc bấy giờ Kinh Triệu Y Khổng, Linh Phù đem việc đó để biểu dương. Hạ chiếu đổi thiền phòng làm chùa Thiên An, để kỷ niệm điềm lành kia. Sau đó ngài Đạo Ôn đảm nhiệm chức vụ thuyết giảng nhiều lần. Tinh cần nhiều lần cảm ứng thần linh. Vua rất mến Ngài, đồng thời ban thưởng năm mươi vạn tiền. Người thời ấy bảo rằng: Đế chủ khuynh tài, Ôn công suất tắc. Cảm ứng thiên đế, thần linh ban đức. Ngài mất vào đầu niên hiệu Thái thỉ đời Tống, thọ sáu mươi chín tuổi, vào thời đó tại chùa Trung Hưng lại có những vị tăng đều là những bậc nổi tiếng về nghóa học. Ngài Tăng Khánh giỏi về Tam Luận, được những học giả đương thời kính trọng. Tuệ Định có sở trường về kinh Niết-bàn và Tỳ-đàm cũng đáng gọi là bậc nguyên tượng. Tăng Tung thông thạo cả Số luận. Mạt Niên Tích chấp rằng Phật không nên thường trụ, lúc lâm chung cuốn lưỡi hoại trước. ----------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM BÂN Ngài họ Tô, người Nam Dương. Năm lên mười tuổi thờ ngài Đạo y làm thầy xuất gia. Ban đầu ở Tân tự Giang Lăng, nghe kinh luận học thiền đạo. Tư duy sâu sắc nhưng lòng chưa thông suốt. Đêm nọ mộng thấy có vị thần đến bảo với Ngài rằng: Ngài hãy du phương tham vấn thì sẽ giải quyết những mối nghi trong lòng. Thế là Ngài chống gậy quảy y mang bát sang nước khác tham vấn đạo lý. Lúc đầu Ngài đến kinh sư, rồi lại qua Ngô quận. Gặp ngài Tăng Nghiệp giảng Thập Tụng. Lắng nghe trong phút chốc mà ngộ giải sâu sắc. Sau đó Ngài trở về kinh đô tham vấn kinh Niết-bàn nơi Pháp sư Tónh Lâm. Rồi lại đến chỗ Pháp Trân, Tiểu Sơn ở Ngô Hưng. Nghiên tầm, tìm tòi kinh Nê-hoàn, Thắng- nan. Sau đó đến chỗ ngài Pháp Nghiệp ở Nam Lâm học Hoa Nghiêm Tạp Tâm. Ngài đã tham vấn khắp mọi nơi, tất cả bậc tôn túc, nghe đủ dị thích, suy nghó sâu xa, để thấy tận lý huyền diệu của nó. Dung hợp trăm nhà đào tạo un đúc thấu các bộ. Bấy giờ Ngài trở về ở Phiền Miện khai hội thuyết pháp. Những bậc danh só nổi tiếng, phụ tá khắp nơi đều đến. Cho đến đầu niên hiệu Hiếu Kiến. Vua bảo Vương Huyền Mô phụ giúp đưa Ngài về kinh. Ban đầu ở chùa Tân An, giảng Tiểu Phẩm Thập Địa, đồng thời trình bày ý nghóa đốn ngộ tiệm ngộ. Bấy giờ những người tâm ý hùng mạnh vất vả kéo đến so tài với Ngài. lời lẽ, lý luận của Ngài không ai bẻ được. Đương thời Ngài được Viên Xán ở quận Trần rất trọng vọng và khen ngợi hạnh giải của Ngài. Có lần ông bảo trung thư xá nhân Sào Thượng Giới, ý muốn thử Ngài, nhưng không có kết quả. Viên Xán đích thân đến thăm Ngài, đồng thời nhiều lần khuyên Ngài hầu cận thiên tử. Ngài Đàm Bân nói: Bần đạo là người ngoại bang, giao du với vua đâu thích hợp. Viên Xán càng tôn trọng Ngài. Sau đó thỉnh Ngài làm thầy cho mẹ ông. Vương Cảnh Tố, Tống Kiến Bình cũng tham vấn học hỏi nghi tắc của Ngài. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên Huy nhà Tống, ở chùa Trang Nghiêm, thọ sáu mươi bảy tuổi. Vào thời đó chùa Trang Nghiêm cũng có các vị Đàm tế, Đàm tông, đều là những bậc tài cao học rộng, được tôn trọng một thời. ngài Đàm tế trước thuật Thất Tông Luận. Đàm Tông soạn bộ kinh mục và Số Lâm. ------------------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ LƯỢNG Ngài họ Đổng, cha đặt tên cho Ngài là Hiển Lượng, làm đệ tử của ngài Tuệ Tónh ở Đông A(Hà Đông). Thuở nhỏ đã nổi tiếng. Người đương thời bảo rằng Tuệ Tónh là đại sư, Tuệ Lượng là Tiểu sư. Mặc dầu Ngài còn ở tuổi vị thành niên nhưng rất chuẩn mực, đáng để người noi theo. Sau đó Ngài lập chùa ở Lâm Truy, giảng các bộ Pháp Hoa, Đại Phẩm, Tiểu Phẩm, Thập Địa v.v… học đồ vân tập ngàn dặm kéo nhau về. Sau đó Ngài qua sông ở chùa Hà Viên. Nhan Diên, Trương Chữ, Quyến Đức, Lưu Liên, đều khen rằng: An, Thái tuôn châu ngọc ở trước. Bân, Lượng rung chuông vàng ở sau. Ngôn từ thanh nhã, lời lẽ khéo léo, tuyệt diệu ít ai sánh bằng. Vào đầu niên hiệu Thái thỉ ở chùa Trang Nghiêm mở hội tuyển chọn nghóa só. Bậc thượng thủ cả một ngàn người. Vua ban chiếu cho ngài Tuệ Lượng và Đàm Bân thay nhau làm pháp chủ. Đương thời những bậc thầy tăm tiếng cũng không sánh nổi. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên huy nhà Tống, thọ sáu mươi ba tuổi. Soạn bộ Huyền Thông Luận, tới nay vẫn còn lưu truyền ở đời. -------------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG CẢNH Ngài họ Tiêu, người Lủng Tây, sau đó dời về ở đất Ngô, hiếu thảo hơn người. Xem nhẹ tiền tài, ưa thích bố thí. Nhà nghèo, mẹ mất. Thái Thú cho năm ngàn nhưng Ngài cố chối từ không chịu nhận. Mà tự thân lo chăm nom đất đai trồng tùng bách, ở nơi mộ mẹ thương nhớ ba năm, mãn tang mới xuất gia, ở chùa Hoa Sơn huyện Ngô. Sau đó vào Lủng Tây, Quan Trung tìm thầy học đạo, trải qua nhiều năm mới trở về. Dừng chân ở kinh sư, xiển dương kinh luận. Tư Không, Đông Hải, Từ Kham rất kính trọng phong cách của Ngài. Thỉnh Ngài làm thầy của cả môn phái. Sau đó Đông Hải trở lại Cô Tô, lại chuyên làm Pháp sư, Sa-môn Đạo Lưu ở Đài tự thỉnh Ngài ở lại đó mấy năm, sau đó Đông Hải lại đến Thượng Ngu, Từ Sơn. Đồ chúng hơn cả trăm vân tập lại cầu học. Sự giáo hoá của Ngài vang khắp tam Ngô, tiếng tăm dội đến thượng quốc. Tạ Linh Vận ở Trần quận vì đức âm của Ngài mà tiếp đãi rất chân thiết. Tống Thái Tổ căn cứ vào phong thái của Ngài mà hạ chiếu mời Ngài về kinh sư ở chùa Định Lâm Hạ. Nhiều phen mở pháp hội, thính chúng vân tập rất nhiều. Ngài trước tác các bộ nghóa sớ như Pháp Hoa, Duy-ma, Niết-bàn và Tỳ-đàm Huyền Luận. Phân biệt nghóa lý, có mạch lạc rõ ràng. Ngài thị tịch vào giữa niên hiệu Nguyên huy đời Tống, thọ sáu mươi bảy tuổi. Vùng Thượng Ngu, Từ Sơn trước đây có vị Đàm Long thuở nhỏ rất giỏi thuyết pháp, về già khổ hạnh hơn người, cũng được Tạ Linh Vận tôn trọng. Ngài và ông ta thường ngao du ở Thặng. Sau khi Ngài mất Tạ Linh Vận bèn ghi lại hành trạng của Ngài để tỏ lòng thương kính. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG CẨN Ngài họ Chu, người nước Phái, là người con thứ tư của ẩn só Kiến. Thuở nhỏ rất giỏi về Lão Trang và thi lễ. Sau đó đến Quảng Lăng tham kiến Pháp sư Đàm Nhân, rồi đảnh lễ bái thỉnh Ngài học đạo. Học tất cả các môn nội ngoại điển và thông thạo tam tạng. Sau đó đến kinh sư gặp Long Quang, Đạo Sinh lại y chỉ vị này để thọ giáo. Lúc đầu ở chùa Dã Thành. Tống Hiếu Vũ sắc phong Ngài làm thầy của Tương Đông Vương. Ngài một mực từ chối vì bịnh duyên, nhưng không tránh được. Vương thỉnh Ngài truyền năm giới và càng kính mến Ngài hơn. Trước là Sa-môn Trí Bân, lúc đầu thay thế Đàm Nhạc làm tăng chánh. Trí Bân cũng là người có đức hạnh được mọi người tôn trọng, rất giỏi Tam Luận Duy-ma, Tư Ích, Thi, Trang, Lão v.v… Sau đó Nghóa Gia tạo phản và soán ngôi. Lúc đó có người gièm siểm Ngài: Ngài dạy học cho Nghóa Gia nên lập tức bị tẩn xuất khỏi Giao châu. Khi ấy Tương Đông lên ngôi, là một vị hoàng đế anh minh. Sắc phong Ngài làm Tăng Thống(quốc sư). Ban cho Ngài một bộ pháp chi, hai mươi người hầu hạ thân tín, mỗi tháng phát lương ba vạn, quanh năm đều có xe kiệu và người cận vệ. Hễ ai ở ngoài trấn thỉnh thì cũng sắc phong để Ngài đến. Ngài từ chối sự cúng dường, phụng sự của tứ phương, đồng thời hỏi tăng chánh là đắc chưa mà được người xem trọng như vậy. Tính Ngài không thích chứa vàng bạc, hễ có ai cúng thì đều sung vào công quỷ làm việc phước. Ngài xây hai ngôi chùa Linh Căn và Linh Cơ. Cho là chỗ nương náu của thiền Tuệ. Cho đến cuối năm Minh Đế, lại xảy ra nhiều điều cấm kî, cho nên những tư tưởng Niết- bàn, diệt độ bấy giờ tạm ngưng. Tất cả những câu tử vong, hung hoạ, suy bạch v.v… đều không được bàn đến. Vì những kẻ không tuân lệnh phạm phải dẫn đến bị phanh thây, mười người thì hết bảy, tám. Ngài Tăng Cẩn thường khuyên can song sự kính nể của vua đã cạn. Bấy giờ Chu Ngung ở Nhữ Nam vào hầu duy ác (chỗ bàn việc quân cơ). Ngài Tăng Cẩn nói với ông rằng: Việc làm của bệ hạ ngày càng chẳng phải hành động của bậc nhân quân. Người đời khuyên can mà chẳng được lợi ích gì. Cùng lời cạn lý chỉ thêm uổng phí. Mặc dù khổ báo trong ba đời nhưng cần thiết nhất là cận tình. Đàn việt chỉ có nhân cơ hội hầu hạ mà chánh đáng giải bày những điều này mà thôi. Sau đó vua bị bệnh thấp khớp, nhiều lần châm cứu đau đớn vô cùng, bèn gọi Chu Ngung và Ân Hồng v.v…Nói về những chuyện linh tinh làm tâm thần tán loạn. Chu Ngung bèn đọc thuộc bộ kinh Pháp cú và Hiền ngu, mỗi lần nói chuyện với vua thì liền đem những lời trong hai kinh đó mở đề. Vua cứ ngạc nhiên và nói: Báo ứng thật đúng như thế và đâu thể không sợ. Vì thế những người phạm nghịch đều lần lượt được khoan hồng. Bởi lẽ ngài Tăng Cẩn đã làm người ta được như vậy. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên huy nhà Tống. Thọ bảy mươi chín tuổi. Lại có một vị Sa-môn là Đàm Độ, thế ngôi làm tăng chủ, Ngài vốn là người xứ Lang Da. Thông suốt tam tạng và Xuân thu, Lão, Trang, Dịch học. Thế Tổ, Thái Tông nhà Tống đều rất kính trọng Ngài. Cho đến thiếu đế trái lễ Ngài cũng dấu kín sở đắc. Nhứt cử nhất động không trái nghịch. Ngài ở chùa Tân An, tại chùa này lại có vị Tăng hiệu Thích Huyền Vận cũng tinh thông hai thừa. Trương Vónh, Trương Dung đều đến giảng đường vấn đạo. <詞>THÍCH ĐẠO MÃNH Vốn là người Lương châu, tuổi tuy còn nhỏ nhưng đã vân du khắp nước Yên Triệu, tham quan hết mọi phong tục tập quán của xứ người. Sau đó dừng ở Thọ Xuân, siêng năng chăm học. Ba tạng, chín bộ, đại tiểu số luận đều thông suốt đến chỗ thâm áo. Mà đặc biệt nhất là bộ Thành Thật Luận. Thế là Ngài đến giáo hoá cả vùng Giang Tây, học chúng kéo nhau về Đông nghịch. Đến niên hiệu Nguyên gia thứ hai mươi sáu Ngài về phương Đông ở chùa Đông An kinh sư, lại tiếp tục khai đàn thuyết pháp. Lúc đó Tống Thái Tông làm Tương Đông Vương rất tôn kính sùng phụng Ngài. Cho đến khi ông đăng ngôi càng đối đãi hậu hỷ hơn. Vua tặng cho Ngài ba mươi vạn đồng, để giúp Ngài làm tư lương. Đầu niên hiệu Thái thỉ vua cho xây chùa ở ngoài thành Kiến Dương. Sắc phong Ngài làm Cương Lãnh. Vua nói: Luận về người có thể hoằng đạo đồng thời đạo do người hoằng. Nay được Pháp sư chẳng phải trực đạo lợi ích nhơn sanh. Cũng có uy danh làm rạng đời. Nên đặt tên chùa là Hưng Hoàng. Do đó mà thành hiệu. Cho đến khi xây cất xong. Vua hạ chiếu thỉnh Ngài ở chùa đó mở hội giảng Thành Thật Lu- ận. Ngày giảng tựa đề, vua đích thân đến nghe pháp, công hầu, khách thương, phụ trật khắp nơi đều đến. Lời lẽ, ngôn từ hoà nhã, đối đáp rành mạch. Vua khen ngợi rất lâu. Vì vậy mà có chiếu rằng: Pháp sư Đạo Mãnh phong cách đạo đức rất tuyệt, trẫm muốn kết bạn. Mỗi tháng cấp cho Ngài ba vạn, bốn người hầu cận, hai mươi người ghi chép, xe và kiệu mỗi thứ một chiếc. Xe kiệu đến tỉnh khác Ngài bố thí, ban phát tất cả những gì mình cho kẻ nghèo cùng, xây dựng nhiều chùa đền. Ngài thị tịch nhằm niên hiệu Nguyên huy thứ 3 đời Tống tại chùa Đông An, thọ sáu mươi lăm tuổi. Sau này có các vị Đạo Kiên, Tuệ Loan, Tuệ Phu, Tăng Huấn, Đạo Minh đều ở chùa Hưng Hoàng, tiếng tăm về nghóa học các vị ấy cũng tương đương như ngài Đạo Mãnh. ------------------------------------ <詞>THÍCH SIÊU TẤN Ngài vốn họ là Chương Húc người Trường An. Vì bản tính siêng năng chuyên chú nên mặc dù còn nhỏ mà trở thành một người lão luyện. Các kinh Đại tiểu thừa đều nắm bắt tổng quát. Tánh tình hoà ái, giới hạnh nghiêm mật. Cho nên chưa đến tuổi trưởng thành mà tiếng tăm đã vang khắp Quan Trung. Cho đến khi Tây Lỗ rầm rộ kéo quân vây hãm Trường An. Lòng người bấn loạn, Pháp sự suy vi. Ngài lánh nạn ở miền Đông hạ rồi đến ở kinh sư. Ngài càng siêng năng truy cứu nghóa văn, mỡ đạo tràng giảng pháp. Chẳng bao lâu Ngài đến Cô Tô cũng hoằng duơng Phật pháp. Bấy giờ Mạnh Nghó người Bình Xương trấn thủ ở Cối Kê, muốn nương tựa đức độ của Ngài mà phái người đến đón Ngài. Sắp đặt lại chùa Linh Gia, Sơn Âm. Thế là Ngài ở lại Chiết Đông giảng luận liên tục. Tăng Ni ở tỉnh thành và Thiện nam tín nữ cùng Ngài kết nhân duyên Bồ-tát, và kính phục con người chuẩn mực của Ngài. Đến giữa niên hiệu Thái thỉ nhà Tống Ngài được thỉnh về kinh đô để giảng kinh Đại Pháp Cổ. Chẳng bao lâu Ngài trở lại Cối Kê vẫn tiếp tục hoằng dương chánh pháp, hoá độ chúng sanh. Cho rằng kinh Đại Niết- bàn là kinh có lý tột cùng. Thường canh cánh do dự làm luî thêm cho việc giảng thuyết. Hễ ai mở trai hội phải thỉnh Ngài. Nếu gặp lúc Ngài không rảnh thì đổi ngày. Đến những năm cuối đời, chân đau yếu không ra phó hội. Họ đem thức ăn đến phòng Ngài để mong cầu phước ngầm. Tánh Ngài thích xem kinh, nên miệt mài nghien cứu. Đến lúc tuổi cao mắt mờ vẫn còn bảo đệ tử đọc kinh Niết-bàn, trong mười ngày hết một thiên. Ngài đam mê kinh điển đến như vậy. Ngài tịch vào giữa niên hiệu Nguyên Huy nhà Tống. Thọ chín mươi bốn tuổi. Lúc ấy có Pháp sư Đàm Cơ, họ Triệu cũng là người Trường An, gặp lúc giặc dã nổi loạn ở Quan Trung. Ngài lánh nạn sang miền Đông rồi vân du ngắm sơn thuỷ,sau đó đến Cối Kê, ngài rất giỏi Pháp Hoa và Tỳ-đàm. Bấy giờ Thế Tông phụng cúng cho Ngài cũng tương đương như ngài Siêu Tiến. Vương Côn làm quận thú Lang Nha thỉnh Ngài về ở chùa Gia Tường ấp Tây. Chùa này vốn do tổ tiên của Vương Côn xây dựng. Thời đó cũng có ngài Thích Đạo Bằng là vị thầy nổi tiếng đương thời. Tánh cứng rắn, cương quyết ít ai luận được. ------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP TRÂN Ngài họ Dương, người Hà Đông, tuổi nhỏ mà đã hiếu học, tìm cầu học hỏi cả vạn dặm. Vào giữa niên hiệu Cảnh Bình nhà Tống, Ngài vân du Duyện Dự quán triệt các kinh, thông thạo dị bộ. Sau đó nghe xứ Đông A có Pháp sư Tónh giảng kinh. Chúng nhiều lần thỉnh Ngài thuật lại, song Ngài bảo ta không thể. Giữa niên hiệu Nguyên gia Ngài sang sông, Ngô Hưng thầm tỏ lòng kính trọng đặc biệt. Thỉnh Ngài về ở chùa Tiểu Sơn, Vũ Khang ở Ngô Hưng. Từ đầu đến cuối, khoảng mười chín năm, ngoại trừ người khác cầu thỉnh Pháp sự thì Ngài chưa từng ra khỏi chùa. Mỗi năm ở Vũ Khang mở hội giảng pháp học giả xứ tam Ngô khăn túi chật đường. Ngài trước tác những bộ nghóa sớ như Niết-bàn, Pháp Hoa Đại Phẩm, Thắng-man v.v… ngài ở Đại Minh sáu năm thì được quận Ngô Hưng thỉnh lên kinh sư ở chung với ngài Đạo Du chùa Tân An. Bấy giờ hai nghóa đốn tiệm đều có tông riêng, Ngài đến thì liền lập đàn giảng pháp. Xa giá quang lâm, thính chúng chật hội. Tuổi Ngài lúc này tuy đã cao nhưng khổ hạnh không đổi, giới tiết trong sạch. Tăng tục kéo về nương tựa. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên huy nhà Tống, thọ bảy mươi sáu tuổi. Bấy giờ Tống Hi có vị tăng hiệu Đàm Dao rất có sở trường về Tịnh danh, Thập Trụ và Lão Trang. Lại khéo về thảo, lệ, được Kiến Bình Tuyên Giảng Vương Hoằng nhà Tống kính trọng. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO DU Ngài là người nước Ngô, lúc đầu làm đệ tử của ngài Đạo Sinh, theo thầy đến Lô Sơn. Sau khi thầy tịch Ngài đến núi Lâm Xuyên, núi Quận, bèn gặp quyển kinh Thắng Man mới xuất bản. Ngài lật sách xem và khen rằng: Nghóa trước đây của thầy giống với kinh này. Nhưng thời gian không đợi người. Sau khi kinh đã tập nghóa thì thật đáng buồn thay. Nhân đó mà Ngài chú giải kinh Thắng Man để tỏ lòng tôn kính với di huấn của thầy, tất cả có năm quyển, văn từ chưa chuẩn. Tống Văn Giản hỏi ngài Tuệ Quán nghóa đốn ngộ ai là người thông thạo. Đáp: Đó là Đạo Du đệ tử của ngài Đạo Sinh. Vua ban chiếu cho thái thú quận Lâm Xuyên thỉnh Ngài về kinh, khi đến nơi thì rước vào nội cung, triệu tập đông đảo tăng chúng và thỉnh Ngài trình bày nghóa lý đốn ngộ. Khi ấy những kẻ tranh luận cùng nhau khởi lên. Ngài tra cứu kỷ lưỡng những lẽ mầu nhiệm lại còn tìm tòi nguồn cội của nó(có chứng cứ) nhân cơ hội đó Ngài dùng lời lẽ sắc bén đánh đổ mọi lý lẽ. Vua vỗ ghế khen hay. Cho đến khi Hiếu Vũ lên ngôi thì càng tỏ lòng kính trọng Ngài hơn. Vua liền sắc phong Ngài trụ trì chùa Tân An và làm pháp chủ ở Trấn tự. Vua thường khen rằng: Đạo Sanh cô tình tuyệt chiếu (tài ba xuất chúng), Đạo Du trực bí độc thượng( trác tuyệt hơn người), đáng gọi là bậc thầy tuyệt luân, không hổ tiếng thơm. Ngài mất vào giữa niên hiệu Nguyên huy nhà Tống, thọ bảy mươi mốt tuổi. Sau này có Sa-môn Đạo Từ ở Dự châu rất giỏi các kinh Duy-ma, Pháp Hoa. Noi theo nghóa của ngài Đạo Du sữa chữa lại bộ chú giải Thắng-man của Ngài làm hai quyển, đến nay vẫn còn lưu hành ở đời. Đương thời có các vị Tuệ Chỉnh ở Đa Bảo, Giác Thế ở Trường Lạc đều là những bậc tài ba đức hạnh như Ngài. Tuệ Chỉnh rất thông thạo tam luận, được các học giả sùng phụng. Giác Thế có sở trường về Đại Phẩm và kinh Niết-bàn. Đề ra nghóa không, giả, danh. ---------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ THÔNG Ngài họ Lưu người nước Phái, tuy còn nhỏ mà thần tuệ minh mẫn, khí khái cao vợi. Ngài ở chùa Trị Thành. Mỗi khi phất trần vừa phẩy lên thì xe lọng đầy đường. Viên Xán ở Trần Quận và Từ Trạm chi ở Đông Hải kính lễ Ngài bằng tình sư hữu. Hiếu Võ Hoàng đế càng tỏ ra sủng kính hơn. Đồng thời sắc phong làm bạn với nhị vương Hải Lăng Tiểu Kiến Bình. Viên Xán soạn quyển Cừ Nhan Luận để tỏ bày với Thông. Tuệ Thông cật vấn nhiều lần. Quyển ấy còn truyền ở đời. Lại còn soạn quyển nghóa sớ Đại Phẩm Thắng-man, Tạp Tâm Tỳ-đàm và Tuấn Di Hạ Luận. Chứng Luận, Pháp Tánh Luận còn lưu hành ở đời. Ngài tịch vào khoảng niên hiệu Thăng MInh nhà Tống, thọ sáu mươi ba tuổi. <卷>QUYỂN 8 THÍCH TĂNG UYÊN Ngài vốn họ Triệu người Dónh Xuyên, sau đó đổi thành Nguî Tư Không Nghiễm. Hiếu học từ nhỏ, tinh tấn trì giới, chuyên cần học giáo nghóa kinh điển. Ban đầu đến Từ châu ở chùa Bạch Tháp. Theo ngài Tăng Tung học Thành Thật, Tỳ-đàm. Học chưa đầy ba năm mà sức vượt mười năm. Tiếng tăm tuệ giải vang khắp xa gần. Tướng mạo của Ngài to lớn, thắt lưng mười ôm. Thần khí phóng khoáng, nói năng tự tại. Aån só Lưu vì thế mà sửa chỗ ở của mình làm tịnh xá. Các vị Đàm Độ, Tuệ Ký, Đạo Đăng, đều theo Ngài học đạo. Tuệ Ký tinh thông cả Số luận. Đạo Đăng giỏi Niết-bàn và Pháp Hoa. Đều là những vị được Nguî chủ Nguyên Hoằng kính trọng, nổi tiếng nước Nguî. Ngài Tăng Uyên mất vào niên hiệu Thái hoà thứ năm nhà Nguî. Thọ sáu mươi tám tuổi, nhằm niên Kiến Nguyên thứ 3 nhà Tề. ------------------------------------ <詞>THÍCH ĐÀM ĐỘ Ngài họ Thái, người Giang Lăng. Tuổi tuy nhỏ mà tỏ ra nết na chững chạc, vốn lấy pháp tắc làm chuẩn. Thần khí mẫn ngộ, thông suốt hơn người. Sau đó đến kinh sư du học. Thông suốt các sách vở, kinh điển như Niết-bàn, Pháp Hoa, Duy-ma, Đại Phẩm và tham cứu đến chỗ sâu kín nhiệm mầu, ý tưởng vượt ngoài ngôn ngữ. Ngài định về hướng Tây nhưng chân bị đau nên bèn ở lại Từ Châu. Cầu Pháp sư Tăng Uyên học thêm Thành Thật Luận, vì vậy mà Ngài thông thạo luôn bộ nầy. Đương thời là bậc trác tuyệt. Nguî chủ Nguyên Hoằng nghe tin Ngài ở Xan Ấp sai người đến trưng thỉnh. Ngài đến Bình Thành mở đại hội thuyết giảng. Nguyên Hoằng tỏ lòng tôn kính nên mở tiệc đích thân ông sắm sửa thức ăn. Bấy giờ Ngài ở lại Nguî đô tiếp tục hoằng hoá. Học chúng từ xa kéo về hơn một ngàn người. Ngài tịch vào niên hiệu Thái Hoà thứ mười ba nhà Nguî ở nước Nguî. Tức niên hiệu Vónh Minh thứ 6 nhà Tề. Ngài soạn Thành Thật Luận Đại Nghóa sớ, tám quyển, truyền bá rộng rãi ở phương Bắc. ------------------------------------ <詞>THÍCH ĐẠO TUỆ Ngài họ Vương, người Dư Dao, ngụ ở Kiến Nghiệp, mười một tuổi xuất gia làm đệ tử ngài Tăng Viễn ở chùa Linh Diệu. Đến năm mười bốn tuổi đọc quyển Lư Sơn Tuệ Viễn Tập, bèn buồn bả than rằng mình sinh ra đời quá muộn. Rồi cùng các bạn là Trí Thuận ngược dòng cả một ngàn dặm đến thăm di tích của Tổ Tuệ Viễn. Thế là Ngài ở lại chùa Tây Lô Sơn qua ba năm, sau đó lại trở về kinh đô. Lúc đó vua cho biện về nghóa của tam tướng nên nhóm họp các học tăng đông đủ. Lúc đó Ngài mới mười bảy tuổi, mấy phen Ngài đặt câu hỏi, lời nói hàm ẩn lý lẽ sâu xa có thứ tự. Mọi người đều lấy làm lạ. Sau đó Ngài theo thọ giáo nơi hai Pháp sư Mãnh, Bân. Tăng Mãnh thường giảng Thành Thật Luận, Trương Dung lập hội tranh luận nhiều lần đến mời Ngài nhưng Ngài cáo bệnh không kham nổi bèn sai Đạo Tuệ đến đáp lời. Trương tỏ ra xem thường. Nhân cơ hội đó Ngài dùng những lý lẽ ngôn từ sắc bén chiết phục họ. Thừa sức đối đáp với chúng. Ngài am tường Đại Thừa và giỏi Số Luận. Giảng thuyết liên tục, học chúng vô số, phân biệt rõ nghóa, loại mới xếp thành chương đoạn. Chữ Trừng và Tạ Siêu Tôn là những người tiếng tăm đương thời mà cũng bái phục vị nể Ngài. vì tuổi mẹ Ngài đã lớn nên Ngài muốn về phụng dưỡng mẹ già. Thế là Ngài dời về ở chùa Trang Nghiêm, mẹ tiếc cho chí nguyện của Ngài nên xu- ất gia tu đạo, đổi nhà thành tinh xá Bất Viễn, ngài mất niên hiệu kiến Nguyên thứ 3 nhà Tề. Thọ ba mươi mốt tuổi. Lúc lâm chung Ngài bảo lấy phất trần trao cho bạn là Trí Thuận. Trí Thuận buồn than: Đáng tiếc cho người như vậy mà tuổi không đến bốn mươi. Vì thế ông đem phất trần bỏ vào quan tài để liệm theo Ngài. Rồi an táng Ngài ở hướng mặt trời mọc trên núi Chung Nam. Trần Quận Tạ Siêu Tôn lập văn bia. Bấy giờ chùa Trang Nghiêm lại có các vị Huyền Thú, Tăng Đạt đều là những bậc học thức uyên thâm. Huyền Thú thông suốt các kinh, và thành thạo nội ngoại điển, rất giỏi thuyết pháp, phong cách dễ mến. Ngài Tăng Đạt tuổi ít mà đầu bạc trắng, nên người thời ấy bảo rằng Đạt đầu bạc. Cũng thông suốt các sách vở, kinh điển nhưng tính tình ngang ngạnh nên bị tẩn xuất đến Trường Sa. ------------------------------------ <詞>THÍCH TĂNG CHUNG Ngài họ Tôn người quận Lỗ, xuất gia năm mười sáu tuổi. Thiểu dục tu đạo. Có lần đến Thọ Xuân. Ngài Tăng Đạo thấy được rất ngạc nhiên. Vương Nghiệp ở quận Tiều rất quý trọng chí khí và tiết tháo của Ngài nên cúng dường bốn món cần dùng. Sau đó sang thỉnh Ngài giảng Bách Luận, ngài Tăng Đạo đến dự thính rồi nói với người khác rằng: Hậu sanh khả uý thật đúng như vậy. Ngài Tăng Chung có sở trường về Thành Thật, Tam Luận, Niết-bàn, Thập Địa v.v… sau đó Ngài về phương Nam đến kinh sư ở chùa Trung Hưng. Đầu niên hiệu Vónh minh, Nguî chủ sai Lý Đạo Cố đến dự hội ở chùa. Vua cho rằng Ngài là người có tiếng tăm về đức độ nên thỉnh Ngài làm chủ buổi đối đáp. Trò chuyện qua lại trải qua mấy tiếng đồng hồ mà nói vẫn chưa cạn lời, lúc này trời đã xế bóng. Ngài Đạo Chung không thọ thực. Cố hỏi: Sao Ngài không dùng cơm. Ngài đáp: Đạo pháp cũa chư Phật dạy hễ quá ngọ không được ăn. Đạo Cố nói: Thế nào gọi là Thanh văn. Ngài đáp: là người ứng theo âm thanh mà được độ nên hiệu làm Thanh văn. Người thời ấy cho rằng đó là trả lời theo tên. Về sau nhiều lần giảng thuyết, người dự nghe vô số. Thái tử Văn Huệ nhà Tề, Văn Tuyên Vương Cánh Lăng nhiều lần thỉnh Ngài về phương Nam. Ngài thị tịch vào niên hiệu Vónh minh thứ 7 nhà Tề, thọ sáu mươi tuổi. Thời ấy những bậc tiếng tăm đức độ sánh cùng Ngài có Sấm Đàm Thiên, Đàm Diên, Tăng Biểu, Tăng Tối, Mẫn Đạt, Tăng Bảo v.v… vị nào cũng thông thạo kinh luận, đều được Văn Tuyên kính trọng, luôn phiên nhau thăng toà thuyết pháp. --------------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO THẠNH Ngài họ Chu người nước Phái, xuất gia từ lúc còn nhỏ mà rất chăm học. Rất giỏi kinh Niết-bàn, Duy-ma và thông thạo cả Chu, Dịch. Lúc đầu ở Tương châu, Tống Minh hay tin ra lệnh thỉnh Ngài về kinh đô, ở chùa Bành Thành. Tạ Siêu Tôn vừa gặp bèn đảnh lễ Ngài làm thầy. Ngài trước thuật Giao luận và Sanh tử bổn vô nguyên luận v.v… Sau đó ở chùa Thiên Bảo. Cao Đế nhà Tề sắc phong Ngài làm tăng chủ thay ngài Đàm Độ. Đan Dương Y Thẩm Văn Quý vốn phụng kính Hoàng lão, bài bác Phật tổ. Bèn lập tăng cục nghóa phù để trách phạt tăng thuộc tịch. Muốn sa thải bớt tăng ni. Do Ngài là người đầy đủ bản lãnh và có công nên vô sự. Sau này Thẩm Văn Quý thiết hội ở chùa Thiên Bảo để cho Lục Tu Tỉnh luận nghị với Ngài Đạo Thanh. Ngài Đạo Thạnh lý lẽ vốn đã rành rõ, lại thêm ngôn từ sắc sảo thần xuất. Còn ông ta chế nhạo giễu cợt mấy phen cũng không khuất phục được. Lục Tu Tỉnh không còn gì biện bạch nên đành rút lui… Ngài mất vào giữa niên hiệu Vónh minh nhà Tề, thọ trên sáu mươi tuổi. -------------------------------- <詞>THÍCH HOẰNG SUNG Ngài là người Lương châu, tuổi nhỏ mà có chí khí, thông thạo kinh luật và Lão trang. Cuối niên hiệu đại minh, Ngài sang Giang châu ở chùa Đa Bảo, có tài vấn nạn. Đầu tiên chiết phục được Đạt-đa, sau đó mở hội giảng thuyết, tranh biện theo nhau nổi lên. Tư duy của Ngài đã thẩm thấu lẽ huyền vi, khẩu hí lại sắc bén. Thông mối nghi tháo mọi ngăn trệ. Nên mỗi lần giảng Pháp Hoa Thập Địa thì thính giả chật giảng đường. Văn Hiến Vương ở Giang Hạ là Thái Tể nhà Tống, rất cung kính và tôn trọng Ngài. Khi Minh Đế lên ngôi liền khởi công xây chùa Tương Cung, thỉnh Ngài làm Cương lãnh, thế là Ngài dời về đó ở. Vào thời ấy chùa Tương Cung lại có vị tỳ-kheo Pháp Tiên cũng là bậc thông triệt có chí khí, nổi tiếng ngang hàng như ngài Hoằng Sung. Hoằng Sung thị tịch vào giữa niên hiệu Vónh minh nhà Tề, thọ bảy mươi hai tuổi, chú giải kinh Văn-thù vấn Bồ-đề và Thủ Lăng-nghiêm. ---------------------------------- <詞>THÍCH TRÍ LÂM Ngài là người Cao Xương, lúc mới xuất gia làm đệ tử ngài Tăng Lượng. Tuổi tuy còn nhỏ mà đã sùng lý và hiếu học. Lúc đầu khăn gói sang Trường An rồi chống tích đến Giang Dự. Tóm thâu tất cả kinh sách, rất giỏi về Tạp Tâm. Cho đến khi Ngài Tăng Lượng bị tẩn xuất, hai mươi vị đệ tử đều theo Ngài đến Thông Lónh, bèn ở trọ tại Chủng Phiên, hoá đạo ở eo biển. Đến đầu niên hiệu Tống minh, vua sắc lệnh người bản xứ ấy cung cấp lương thực cho người rước Ngài về kinh sư ở chùa Linh Cơ thuyết pháp liên tục, thính chúng cảm phục rất đông. Ngài nói rõ nghóa nhị đế có ba tông không đồng. Lúc đó Nhữ Nam Chu Ngung cũng trước tác bộ Tam Tông Luận, và rất phù hợp với ý của ngài Trí Lâm nên Ngài rất vui mừng đồng thời gởi thư đến nói với Chu Ngung rằng: Dạo này nghe tin đàn việt trình bày ý mới của nhị đế, tường thuật vấn đề thủ xả của tam tông. Tuy sự thăng tiến không nhanh, như thiển ý của bần đạo, là lý lẽ của thiên hạ, chỉ có như vậy mới được, còn không thì trái lý. Vì vậy chúng ta cùng khuyến khích hãy sớm cầm bút mực để sáng tác. Tỷ như người qua lại hay tin bộ luận này đã hoàn thành thì họ đều phấn khởi tràn đầy và vô cùng kính trọng. Còn như đàn việt sợ lập dị và can phạm tới học giả đương thời mà chế luận thì tuy thành công mà không cần xuất bản. Nghe vậy hoảng sợ giật mình thức giấc. Chí thú này dường như chẳng phải mới đặt ra. Trong diệu âm tuyệt cả sáu mươi bảy năm. Lý Cao thường vận chẳng thể truyền. Lúc bần đạo hai mươi tuổi đã hiểu sơ được nghóa này, luôn cho rằng nhờ vào ý mầu nhiệm đó mà có thể đắc đạo. Thật mừng thầm mà không biết hỏi han ai. Thời niên thiếu đến tham bái bậc lão túc ở Trường An, nhiều vị nói ở Quan Trung có rất nhiều bậc cao tăng kiệt xuất đã thành thạo những nghóa này. Cho nên đạo pháp đương thời thật hưng thạnh. Ai có thể thấu đạt được nghóa này thì chẳng bao nhiêu người phạm phải thường tình. Hàng hậu tấn lãnh thọ được thật ít. Truyền sang Giang Đông thì con đường này chẳng có ai. Bần đạo cầm phất trần đã hơn bốn mươi năm. Đông Tây giảng thuyết được khen tặng một thời. Những nghóa còn lại thì hãy tìm kiếm trong tông lục. Nẻo đường sáng tối này chẳng người nào được, bần đạo nhiều năn nghiên cứu đến nỗi phát bịnh. Sức khoẻ suy yếu, thọ mạng gần kề, lại thêm đêm ngày ngóng tưởng về tây. Song chỉ có con đường này từ xưa nay bặt dứt ngôn ngữ. Đàn việt là bậc thiên cơ phát siêu tuyệt không ai bằng. Vô ý những tiếng tạp nhạp này lọt vào tai thì vừa vui mừng vừa tủi, thật không có gì để thí dụ. Ngài phát minh ra nghóa này khiến cho ngọn đèn chánh pháp không bao giờ tắt. Đó mới đúng thật là công đức hành đạo bậc nhất. Tuy đem quốc thành thê tử cúng cho Phật và tăng thì cũng không sánh được với phước đức giải nghóa kinh. May mắn thay Ngài đã trình bày rõ ràng. Tôi khỏi phải đem diễn bày rộng khắp để khiến cho người biết đánh giá, thấy được lu- ận rõ về lý pháp thì sẽ không còn nhân nhượng. Đâu được nuối tiếc rồi trong lòng nghó rằng mất đi điều kỳ thú ư. Nếu như luận này hoàn thành rồi thì cứ ngủ yên. Ngại rằng đàn việt mới đến hoặc cho rằng ở đây là chướng ngại lớn, những lời gởi đến bằng lòng thành khẩn và chẳng phải là hý luận cậy. Mong Ngài viết thêm một quyển để làm lợi ích cho mọi người. Bần đạo mang về Tây để truyền bá khắp nơi, ít nhất thì cũng lay chuyển được lòng người. Cho nên khi vào núi sẽ lấy những điều hằng mong mỏi trao cho. Chu Ngung nhân đó mà cho xuất bản luận. Cho nên yếu chỉ tam tông được truyền đến hôm nay. Ngài Trí Lâm thân cao tám thước, dáng vẻ nho nhã đạo mạo. Khi đăng đàn lời lẽ hùng hồn, đối đáp trôi chảy. Sau đó từ giả về Cao Xương Ngài thị tịch vào niên hiệu Vónh Minh thứ 5 nhà Tề, thọ bảy mươi chín tuổi. Trước tác Nhị Đế Luận và A-tỳ-đàm Tạp Tâm Ký, đồng thời chú giải Thập Nhị Môn Luận, Trung Luận v.v… --------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP VIỆN Ngài họ Tân người Lũng Tây là hậu duệ của Tân Tỳ. Anh cả là Nguyên Minh Só làm quan đại thượng thư cho nhà Nguî. Người anh hai là Pháp Ái cũng làm Sa-môn, là người thông đạt kinh luận và số thuật, làm quốc sư của nước Nhuế nhuế. Hưởng bổng lộc đến ba ngàn hộ. Ngài tuy tuổi còn nhỏ mà có những cử chỉ khoáng đạt, lỗi lạc hơn người. Giữa đường gặp người đói rét Ngài bèn cởi áo cho họ. Ban đầu xuất gia thờ Sa-môn Trúc Tuệ Khai ở Lương châu làm thầy. Ngài Tuệ Khai là một bậc đức tốt, thông thái. Người bấy giờ cho rằng Ngài đã chứng sơ quả. Ngài bảo Pháp Viện rằng: Con thần ngộ như vậy, nhất định sẽ làm bậc mô phạm cho hậu lai. Con hãy cố gắng học rộng, nghe nhiều đừng tự thoả mãn với hiểu biết sẳn có của mình. Thế là Ngài từ giả thầy đi du học. Trải qua các nước Yên, Triệu rồi đến Nghiệp Lạc gặp phải giặc HỒ tung hoành, Quan Lũng rối loạn. Ngài Pháp Viện vượt qua mọi nguy hiểm gian nan để tôi luyện đạo nghiệp không phút lười mỏi. Vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 15 Ngài trở về Lương châu để đến thành đô. Sau đó về phương Đông đến Kiến Nghiệp, y chỉ Đạo Tràng Tuệ Quán làm thầy. Chuyên lòng học Đại Thừa, nghiên tầm Số luận, ngoại điển, sách vở cũng lật xem. Sau đó vào Lô Sơn chuyên tu thiền, chuyên lòng nơi ngũ môn, chú tâm vào tam quán. Chẳng bao lâu thứ sử Dữu Đăng Chi thỉnh xuống núi giảng nói. Văn Đế phỏng tìm người kể về nghóa đốn ngộ của Đạo Sinh. Bèn ban chiếu thỉnh Ngài về thành đô. Ý chỉ đốn ngộ này khẳng định lại triều đại nhà Tống. Hà Thượng Chi biết vậy bèn khen rằng: Tôi cứ nghó ngài Đạo Sanh diệt độ thì những lời mầu này sẽ vónh viễn mất đi. Vậy mà hôm nay lại nghe được những lời này thật ngoài sức tưởng tượng. Có thể nói trời chưa chôn đi những bậc tài hoa kia. Vua sắc phong Ngài làm thầy năm giới cho Nam Bình Mục Vương Lạc. Cho đến khi Hiếu Vũ đăng vị, phong Ngài kết bạn với Tây Dương Vương Tử Thượng, Ngài từ chối vì bịnh không kham được, rốt cuộc cũng được khỏi. Nhân đó ở trên Lư Sơn, Ngài chú giải các kinh Thắng Man và Vi Mật Trì. Lúc rảnh rỗi thì luận bàn về việc tang phục trong Hiếu kinh. Sau này chùa Thiên Bảo được sữa chữa lại và thỉnh Ngài về ở. Ngài đành từ giả núi rừng về Ấp để gìn giữ kỷ cương của chùa. Thứ sử Vương Cảnh Văn đến thăm gặp ngay lúc Ngài đang giảng về việc tang phục. Ôâng hỏi đáp mấy phen và còn khen ngợi Ngài giảng rất hay. Cho đến khi Minh Đế cho xây chùa Tương Cung vừa xong thì liền mở một đại hội giảng pháp có tính quy mô để tinh chọn những bậc tăng anh tài. Vua mời Ngài làm pháp chủ, đồng thời đích thân vua giáng lâm đến pháp hội. Công khanh cũng tụ họp, nhất thời người xem ngồi chật giảng đường. Sau này Tề Văn Tuệ lại thỉnh Ngài ở chùa Linh Căn. Vì chuyển đến chùa kia nên thái uý Vương Kiệm Môn không giao tiếp với ai, chỉ tiếp đãi Ngài như thầy. Nói năng cũng rất kính trọng. Ngài thị tịch vào niên hiệu Vónh minh thứ 7 nhà Tề, thọ tám mươi mốt tuổi. Thời đó tại chùa Linh Căn cũng có hai vị Pháp Thường, Trí Hưng đều là những vị bác thông kinh luận, mấy lần chủ trì buổi thuyết giảng. Ngài Pháp Thường có sở trường về kịch nói, làm cho những người nổi tiếng đương thời nể sợ, song tánh tình rất ương ngạch, không thích giao du với thế tục. ----------------------------------- <詞>THÍCH HUYỀN SƯỚNG Ngài họ Triệu người Kim Thành, Hà Tây. Thuở nhỏ gia đình Ngài bị Hồ Lỗ chém giết, tai hoạ sắp ập đến Ngài, chủ soái của Lỗ thấy Huyền Sướng mà dừng lại nói với ông rằng: Cậu bé này ánh mắt sắc bén như bậc phi phàm. Nên Ngài khỏi mắc hoạ. Sau đó Ngài đến Lương châu xuất gia. Pháp danh đầu tiên là Tuệ trí. Sau đó gặp ngài Huyền Cao và thờ Ngài làm thầy. Huyền Cao rất mến trọng Ngài nên có Pháp sự gì cũng thảo luận với Ngài. nhân đó mà đổi tên là Huyền Sướng, để biểu thị ý chỉ phó chúc. Sau này bọn rợ địch bạo ngược huỷ diệt Phật pháp. Chỉ có ngài Huyền Sướng được thoát khỏi. Vào ngày 17 tháng 5 nhuận năm 22 Nguyên Gia. Bắt đầu từ Bình Thành, đường men theo Đại quận, Thựơng Cốc, từ miền Đông vượt qua Thái Hành, đường đi qua U Ký. Từ miền Nam đi dần lên Mạnh Tân. Tay chỉ cành mầm một cành dương và một cọng lá hành. Hồ Lỗ cỡi ngựa theo sắp kịp Ngài. Ngài bèn lấy cành dương chọc xuống cát, cát tung lên tối trời, thế là cả người lẫn ngựa không thể chạy được. Chốc lát cát hết thì Hô Tỗ cỡi ngựa đi nữa. Ngài bèn nhảy xuống sông chỉ lấy cọng hành đút vào mũi để thở và lội qua sông. Vào mùng 1 tháng 8 Ngài đến Dương châu. Thấu suốt kinh luật, thâm nhập thiền yếu. Chiêm bói kiết hung đều thật linh nghiệm. Ngài còn thông thạo mọi kinh điển của Khổng tử. Những tuyệt kỹ ở thế gian thật hiếm có điều nào Ngài không biết. Ban đầu đại bộ Hoa Nghiêm văn nghóa dài dòng rộng nhiều bởi từ xưa đến nay chưa ai diễn giải cho cô động. Ngài Huyền Sướng bèn dốc lòng nghiên tầm để trình bày rõ ràng từng chương, so sánh câu rồi chuyền giảng cho đến nay, mà người đầu tiên là ngài Huyền Sướng vậy. Ngài còn rất giỏi về Tam luận, được học giả tôn sùng. Tống Văn Đế càng tỏ ra tôn trọng sâu sắc hơn, thỉnh Ngài làm thầy cho thái tử. Ngài từ chối đôi ba lần, đệ tử Ngài nói: Điều mà Pháp sư muốn là hoằng đạo, cứu người, rộâng tuyên danh giáo. Nay Đế Vương đã quên mình mà thỉnh cầu, Hoàng Thượng tích chứa lễ nghóa trong tâm, nếu đạo được xiển dương, thánh được ân sủng thì khắp nơi quay về nương đức độ. Nay tướng Kiểu Nhiên Cao Hộ chẳng phải Thanh văn sao. Ngài Huyền Sướng nói: Điều này có thể nói với người trí chứ không nói với kẻ phàm phu. Đến niên hiệu Thái Sơ xảy ra chuyện thì mới biết bậc tiên giác vốn như vậy. Ngài bèn dời về ở Kinh châu trong chùa Trường Sa. Bấy giờ Sa-môn Công Đức cho xuất bản ngay bản kinh Niệm Phật Tam-muội. Ngài Huyền Sướng chỉnh sửa lại văn tự, nghóa từ cho lưu loát. Ngài duỗi tay thì có mùi thơm bay ra, trong bàn tay có nước chảy ra nữa, chẳng ai đoán nổi. Cho đến năm cuối đời nhà Tống, Ngài bèn cưỡi thuyền vượt muôn ngàn đặm đến thành đô. Lúc đầu ở chùa Đại Thạch, rồi vẽ mười sáu tượng thần như Kim Cương, Mật tích v.v… Đến niên hiệu Thăng Minh thứ 3 Ngài lại về phương Tây chiêm ngưỡng Mân Lónh. Rồi đến huyện Quảng Dương miền bắc quận Mân Sơn để xem núi Tề Hậu. Và bèn có ý muốn ở lại đó đến cuối đời. Thế là Ngài bèn tựa vào vách núi kết cỏ làm am. Đệ tử Pháp Kỳ thấy vị thần cỡi ngựa mặc áo đơn màu xanh, đi vòng núi một bận rồi trở lại chỉ chỗ để xây tháp. Vào ngày 23 tháng 4 năm đầu Kiến Nguyên nhà Tề, Ngài xây dựng chùa đặt tên là Tề Hưng. Chính là Tề Thái Tổ nhận được thần”tích mạng”. Người thời ấy cho rằng sự việc vạn dặm huyền hợp. Khi ấy Phó Đàm Tây trấn thủ Thành đô kính trọng phong cách đạo đức của Ngài, tiếp đãi kính trọng như thầy. Sau khi ngài Huyền Sướng xây chùa, Ngài bèn gởi thư đến nói với Đàm rằng: Bần đạo ở Kinh châu nhiều năm suy yếu, bệnh sởi phát khởi hoành hành làm chết nhiều người. Cho nên từ nơi xa xôi đến nương xứ Mân Sơn để chọn mảnh đất này. Ơû miền đông Quảng dương cách kinh thành ngàn dặm. Băng ngàn vượt núi quanh năm suốt tháng, từng dãy núi điệp điệp trùng trùng, thương nước nhớ thành vọng về tam phương. Băng núi trèo đèo vượt qua khắp nơi ngắm nhìn cửu lưu. Vào ngày 23 tháng 2 năm ngoái khởi công thật nhiều. Mùa đông năm trước đến nay tìm kiếm được ngày này, chính là giờ thìn Long phi của Bệ Hạ. Từng nghe: Đạo phối hợp với thái cực thì điềm lành tự hiển hiện. Đức đồng với nhị nghi thì thần ứng ắt tỏ lộ. Cho nên ở Hà Lạc sáng rực điềm nhà Chu. Linh Thạch biểu trưng điềm nhà Đại Tấn. Aån phục những điều linh nghiệm trong núi này. Há chẳng phải điềm linh ứng của vua Tề sao. Tấm lòng Đàn việt phụng thờ đất nước thật sâu xa, cho dù thời thế đổi thay cũng không thể nào quên được, đâu thể bỏ xót việc lơ là núi non. Khen ngợi một phen để tỏ lòng của ngu bào. Tán rằng: Núi Nga Mi ở Tề. To lớn lại thâm u. Aån tàng điềm lành bao đời, đế hiệu vẫn sáng. Non sơn đội chữ thánh. Triệu làm vua hưu danh, núi đỡ vầng mây. Phong nhạc xa xăm. Quy nham nghó sát, băng qua phong lãnh để sáng lập kinh, ngày khởi công. Rồng bay lên tử đình, làm bạn với trời đất, bốn biển đều yên bình, trọn ngày an vui, đức cả biểu lộ, Phó Đàm liền thuật đủ lên vua. Vua sắc lệnh thưởng cho Ngài hưởng lộc trăm hộ. Vương Nghi ở Dự Chương là quan võ vua Tề trấn nhậm Kinh Hiệp sai người đến nghinh thỉnh Ngài. Bang chủ Thổ Cốc Hồn ở Hà Nam đoái lòng kính mến, từ nơi xa xôi cỡi ngựa mấy trăm dặm đến Tề Sơn. Gặp lúc Ngài đi phó hội ở Ba Đông nên không gặp được. Cho đến khi Tề Vũ lên ngôi, quan tư đồ Văn Tuyên Vương khải thỉnh Ngài từ Giang Lăng trở về kinh sư. Văn Tuệ thái tử lại sai người đến nghinh đón. Vua sắc lệnh nhiều lần, Ngài cố từ chối vẫn không khỏi. Bấy giờ du thuyền xuôi về đông. Giữa đường phát bệnh nên phải mang bệnh về kinh. Chẳng bao lâu mọi chướng ngại tiêu tan. Ngài ở tại chùa Linh Căn một thời gian ngắn ngủi thì viên tịch. Thọ sáu mươi chín tuổi, vào nagỳ 16 tháng 11 niên hiệu Vónh Minh thứ 2 nhà Tề. Sau đó an táng tại gò Chung phía trước núi Độc Long, Hiến Vương ở Lâm Xuyên lập bia. Chu Ngung ở Nhữ Nam chế văn. --------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG VIỄN Ngài họ Hoàng, người ở Trùng Hợp, Bột Hải. Trước đây Ngài là Hoàng Phổ ở phương Bắc. Sau này lánh nạn ở Hải Ngung cho nên bỏ chữ Phổ giữ lại chữ Hoàng. Thuở nhỏ Ngài rất mộ đạo. Năm lên 16 tuổi thì xuất gia, cha mẹ không cho phép. Vì thế Ngài bèn ăn chay sám hối tụng kinh đêm ngày liên tục. Năm mười tám tuổi mới được nhập đạo. Thời ấy có vị Sa-môn Đạo Tuệ là một bậc tài cao đức trọng, vang dội khắp thiên hạ. Tăng Viễn theo Ngài tu học, thông suốt số luận, thấu triệt kinh Đại Tiểu Thừa. Vào giữa niên hiệu Đại Minh nhà Tống, Ngài sang sông ở chùa Bành Thành. Vào khoảng giữa niên hiệu Thăng Minh, Ngài ở Tiểu Đan Dương Ngưu Lạc Sơn lập tịnh xá Long Uyên, năm đó Ngài ba mươi mốt tuổi. Lúc đầu Ngài ở chùa Tôn Thái Thanh châu. Khi đến miền Nam giảng pháp, nói năng lưu loát, phong cách ng- hiêm chỉnh. Thính chúng hơn bốn trăm người ai cũng hoan hỷ tin phục. Vương Tăng Đạt người Lang Da vốn là bậc sang trọng tài ba đương thời. Vậy mà khâm phục phong cách của Ngài nên thỉnh về ở chùa Chúng Tạo. Ngài hay cứu kẻ nghèo, giúp người thiếu thốn, thân không tích chứa tài sản. Bấy giờ, có tỳ-kheo Huyền Thiệu, thường cung cấp tiền bạc Ngài từ chối không nhận, có lần Ngài đi Thanh viên, ở đó có người mắc bệnh đậu mùa, người thương cảm và đến đó thăm. Ngài thấy thi thể người bệnh nằm la liệt, chẳng ai dám gần. Ngài càng thương xót hơn và không nỡ bỏ đi. Đồng thời bảo người tẩn liệm người chết và an ủi người sống, Ngài biểu hiện ân cần như người thân của Ngài. Tống Tân An Hiếu Kính Vương Tử Loan bị mất mẹ đẻ, nên ông kính trọng quý phi và lập chùa Tân An. Ôâng ra lệnh chọn ba châu chiêu tập bậc anh tài thông triết. Ngài Tăng Viễn cùng với Pháp Dao ở Tiểu sơn, Hiển Lượng ở Nam Nhàn đều được triệu tập. Các vị ấy đều thỉnh ngài Tăng Viễn làm nguyên thủ. Vào tháng 9 niên hiệu Đại Minh thứ 6 hữu ty tâu rằng: Thần nghe thuý cung ngưng cư há chẳng to lớn, chắp tay quỳ lạy há chỉ cung kính. Hãy đặt tứ duy để chế ra tám quy ước. Cho nên pháp, Nho tuy chia phe phái, Danh Mặc phân dòng, phái, đến nổi sùng bái một cách mù quáng. Thiếu văn minh mất thẩm mỹ. Chỉ có Phật giáo là giáo pháp truyền đến phương xa, xuất phát từ hoàng cung(dòng dõi vua chúa) tông chỉ sâu mầu, lời nhẹ nghóa sâu xa. Chấp văn thì ngăn đạo, đời mạt thế càng thêm nhiều. Đến nỗi vượt qua kinh điển, coi thường tôn thích. Làm mất đi dấu vết kỳ diệu của nhiều phương, mê mờ vẻ đẹp kín đáo của chế hóa. Luận về Phật pháp thì lấy sự khiêm nhường, kính trọng, tôn trọng người để nuôi lớn đức minh, trung thành, bền chí làm đạo. Bất Khinh tỳ-kheo gặp ai cũng lễ bái. Mục Liên tang môn gặp bậc trưởng thượng thì lễ lạy. Đâu có kẻ nào quỳ gối lễ bậc tứ bối mà lơ là với song thân. Đảnh lễ bậc kỳ túc mà thẳng lưng với vua chư hầu. Cho nên việc đó Hàm Khang khai sáng bàn bạc, Nguyên Hưng chế dịch ra. Sự thì làm khuất phục kẻ thiên kiến. Đạo thì thanh trừ những phần dư thừa. Nay nguồn cả tẩy sạch các dòng cho lưu thông, trong trẻo Cửu tiên hiến vật báu, bách thần theo trông nom. Mà trong chốn kinh kỳ cũng dung chứa bọn lưu manh. Giữa thần toà lại tiếp khách để đối lễ. Sợ rằng chẳng thể thanh trừng một phong phạm để làm sáng tỏ cảnh quang vậy. Chúng thần tham luận cho rằng Sa-môn y theo luật lệ của thế gian thì triều huy mới có trật tự từ chốn gần đến xa. Vua tuy hỏi tín pháp nhưng trong lòng vốn sẳn ngạo nghễ. Cho nên ngày nhận được tấu sớ ông liền cho ban hành và áp dụng. Ngài Tăng Viễn than rằng: Tôi cạo tóc làm Sa-môn là vì việc xuất gia cầu đạo, đâu có can dự gì đến đế vương. Bắt đầu từ hôm đó Ngài cáo bệnh mà ở ẩn trên Định Lâm Sơn. Đến giữa niên hiệu Cảnh Hoà thì pháp chế này được bãi bỏ. Vẫn thực hành hiến chương cũ. Sau đó Tống Minh lên ngôi thỉnh ngài Tăng Viễn làm thầy. Nhưng rốt cuộc cũng không được, những ngày cuối đời Ngài làm khách ở ẩn cư núi rừng. Những kẻ cao ngạo chọc trời cũng nối nhau tìm về sơn môn, tỏ lòng sùng kính thiền thất. Hà Mặc ở Lô Sơn, Chu Ngung ở Nhữ Nam, Minh Tăng Thiệu ở Tề quận. Ngô Bao ở Bộc Dương, Trương Dung ở nước Ngô đều quên thân quỳ lạy Ngài và tham vấn về giới phạm của Ngài. Sau này Vương Cảnh Tố Tống Kiến Bình đặt tên chùa là Tướng Huyền Tự, là bước mở đầu của Tiên Vương Kinh, đó đều là những việc ngoài sự tưởng tượng của con người. Vua muốn thỉnh Ngài về ở, ông tha thiết khẩn cầu đôi ba lần nhưng Ngài không xuống núi. Khi Tề Thái Tổ sắp đăng vị vào núi tìm Ngài, nhưng Ngài cáo bịnh không tiếp. Thái Tổ đích thân đến đảnh lễ, thăm hỏi và an ủi. Và cho đến khi lên ngôi lại xa giá đến phòng Ngài, song vì phòng chật hẹp không chứa kiệu cán. Thái Tổ sắp chạm mặt Ngài nhưng Ngài vẫn ngồi yên không động. Thái Tổ tới thăm hỏi làm cho Ngài ngồi dạy rồi sau quay gót mà đi. Ngài Tăng Viễn vẫn luôn không màn đến điều đó. Cho đến khi Ngài hết bịnh, Văn Tuệ, Văn Tuyên đều quy phục lễ Ngài làm thầy, thường xuyên lui tới thăm viếng. Thế là công khanh só thứ tới lui không ngớt. Ngài Tăng Viễn ăn chay hơn năm mươi năm, uống nước suối hơn hai mươi năm. Rong chơi trong vườn pháp, hoài tưởng thế giới xa xăm, dấn bước lên sơn môn, lộ rõ nét vắng vẻ… Ngài thị tịch ở chùa Định Lâm Thượng vào tháng giêng năm thứ hai Vónh Minh nhà Tề, thọ bảy mươi mốt tuổi. Vua gởi thư cho Sa-môn Pháp Hiến và nói rằng: Hay tin ngài Tăng Viễn trở về vô thường trong đêm đệ tử đã biết. Ngài ra đi như vậy nhất định sẽ đến chốn lành. Chư vị bất nhất đừng nên đau buồn nữa. Đợi vài ba hôm tôi đến thăm Pháp sư mới có thể kể rõ điềm lành trong mộng. Nay việc làm là tạo công đức để trợ giúp Ngài ra đi thảnh thơi hơn. Rồi kế đó Lăng Văn Tuyên Vương cũng gởi thư đến nói: Pháp sư Tăng Viễn nổi tiếng đức độ một thời, chí tiết thanh cao. Aån cư trong núi rừng mà tiếng tăm, vang lừng bốn bể. Đệ tử mê mờ, lầm lẫn đối với bậc thầy mô phạm. Vừa muốn đến kính phụng nhân hoá để gột sạch phiền lo, không ngờ bịnh này phút chốc đã cướp đi thầy. Nỗi thương tâm không gì tả xiết. Ngài ra đi bằng hạnh nghiệp tròn sáng, ắt cũng nhờ nhiều kiếp huân tu. Ýù đệ tử không muốn di hình ảng tích của Ngài nằm chung trong phần mộ của chư tăng. Mà ý muốn chọn một phần đất đặc biệt khác để dựng tháp thờ Ngài. Rồi ứng theo cây cối, đất đai để biểu trưng sự kỳ vó đó, đồng thời khắc bia để ghi công đức của Ngài. Mộ phần được xây ở hướng Nam quả núi, đồng thời lập bia ca tụng đức hạnh. Thái uý Lang Da là Vương Kiêm viết văn. Lúc đó tại chùa Định Lâm Thượng lại có các vị Pháp Lệnh, Tuệ Thái đều là những bậc thông thạo kinh luận, và kế tục tiếng tăm của Ngài. <詞>THÍCH TĂNG TUỆ Tục danh của Ngài là Hoàng Phủ, người Triều Na, An Định. Con cháu của Cao só Mật, trước đây lánh nạn rồi ngụ ở Tương Dương, dòng dõi đời đời làm quan. Ngài Tăng Tuệ thuở nhỏ xuất gia thờ ngài Đàm Thuận làm thầy. Ngài Đàm Thuận là đệ tử của Tổ Tuệ Viễn ở Lô Sơn. Vốn đã có tiếng tăm nên ngài Tăng Tuệ từ lúc vào nương náu thầy bắt đầu chuyên tâm đến nghóa học. Đến năm hai mươi lăm tuổi có thể giảng Niết-bàn, Pháp Hoa, Thập Trụ, Tịnh Danh, Tạp tâm…. Ngài có một trí nhớ rất tốt, không phiền đến phó giảng. Hơn nữa văn cú, biện chiết lưu loát, trôi chảy. Ngài còn tinh thông Lão Trang và làm thầy của tây học. Ngài Tông Bỉnh, Lưu Cù … la bạn hữu của Ngài. Tông Bính luôn khen rằng: Pháp luân ở Tây Hạ không ngừng chuyển là do ngài Tăng Tuệ vậy. Trương Sướng người nước Ngô đi về phương Tây bèn đến thăm ngài Tăng Tuệ và thỉnh Ngài kết giao với mình. Nhà Tề đầu tiên sắc phong Ngài làm tăng chủ ở Kinh châu, phong thái nho nhã thuận đạo hợp đời. Công lao giúp ích ngày một vang xa. Đến tuổi xế bóng Ngài thường đi xe kiệu để phó giảng. Người xem đều gọi là quan gia trọc đầu. Ngài cùng thời với Huyền Sướng, thời đó người ta hay gọi là hai vị hào kiệt áo đen. Ngài mất vào năm thứ 4 Vónh Minh nhà Tề thọ bảy mươi chín tuổi. Sau này có vị tăng Thích Tuệ Sương cũng là người ngay thẳng, liêm khiết tiếp tục phát huy sự nghiệp của ngài. Đệ tử của Ngài Tăng Tuệ là Tăng Tụ cũng là người nổi tiếng về học thuật, nỗ lực chuyên cần đến nổi phát bịnh huyết rồi mất đi. ----------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG NHU Ngài họ Đào người Đan Dương, tuổi còn nhỏ đã sẳn có tính liêm khiết ngay thẳng, và có chí xuất trần. Năm lên chín tuổi theo chú du học, gia cảnh nghèo túng, rau lê rau hoắc không đủ no lòng. Mà sự dốc chí khó khăn tột cùng vẫn không đổi. Sau đó xuất gia làm đệ tử của Ngài Hoằng Xưng. Ngài Hoằng Xưng họ Lữ, người Lâm Vị, Lạc dương. Học thông kinh luận, nổi tiếng rất sớm. Từ khi Tăng Nhu kính phục Ngài trở về sau thì càng tinh nghiêm giới phẩm, chuyên tâm nơi thiền tuệ. Các bộ kinh Đại Tiểu Thừa phương đẳng Ngài đều thông suốt đến chỗ huyền vi, quán triệt mọi tông yếu. Tuổi vừa đến hai mươi đã có khả năng thăng toà thuyết pháp. Những bậc danh só nổi tiếng đương thời đều đổ xô về phương Bắc. Sau đó Ngài về phương Đông đến Vũ Huyệt gặp Pháp sư Tuệ Cơ mời về thành Bàng tự giảng luận suốt mùa hạ. Sau đó đến núi Bạch, ở Diệm nơi chùa Linh Thứu. Trong đêm Ngài chưa đến, Sa-môn Tăng Trữ mộng thấy thần nhơn cầm cờ đỏ giáp trắng đi ra đầy cả núi. Tăng Trữ hỏi vị ấy thì họ bảo: Pháp sư sắp vào cho nên tôi đến nghinh tiếp. Sáng hôm sau thị giả vào báo quả đúng là Tăng Nhu đến. Sau đó Ngài tu bổ sơn lại sơn môn và có ý ở đó suốt đời. Những kẻ Phu kinh học đạo ngày càng đông đảo. Lúc Tề Thái Tổ mới khai sáng cơ nghiệp, cho đến ngày Thế Tổ nối tiếp cơ đồ đều kiến lập chiêu đề. Khắp cầu nghóa só, vì Ngài tăng Nhu vốn có danh tiếng, cho nên Ngài được gởi thư đến thỉnh. Văn Tuyên Đế và các vương hầu đến triệu thỉnh đôi ba lần Ngài mới ra kinh sư ở chùa Định Lâm. Ngài là một bậc thầy siêu quần nên khắp nơi xa gần đều kính phục nhơn thần và tán thán mỹ đức của Ngài. Văn Tuệ, Văn Tuyên đều khâm phục và vào thất Ngài tham kiến. Ngài Tăng Nhu là một vị mô phạm về giới đức mà trong tông môn chẳng ai sánh nổi. Ngài thường thệ sanh về nước An dưỡng. Mỗi khi thấy vầng hào quang hiện ở hướng Tây thì Ngài bèn đoan nghiêm chắp tay lại. Đến ngày lâm chung, thân thể không hề bệnh tật, chỉ bảo với đệ tử rằng: ta phải đi thôi. Ngài vẫn trải chiếu trên đất một lòng thành khẩn hướng về Tây, rồi lặng lẽ thị tịch. Năm ấy vào niên hiệu đầu Diên Hưng, thọ sáu mươi bốn tuổi. Chúng an táng Ngài ở Sơn Nam. Sa-môn Thích Tăng Hựu cùng với Ngài từ nhỏ lớn lên ở Sơn Thê. Ơû chung nhiều năm để trưởng dưỡng đạo tâm, dự nghe pháp vị. Ngài được lập mộ bia, Đông Hoàn, Lưu Lệ chế văn. Ngài Tăng Nhu có đệ tử là Tăng Thiệu cũng là bậc chánh trực có học thức. Lúc đó ở Chung Sơn có tịnh xá Sơn Tỳ cũng có các vị Tăng Hiệu, Tuệ Hi đều là những bậc trẻ tuổi tài cao, ấu niên anh tài. Và cũng là những vị mỹ nghiệp chưa thành tựu mà đã mất sớm. Ngài Tăng Hiệu soạn Thất Huyền Luận. Nay còn lưu hành ở đời. ------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ CƠ Ngài họ Lữ người Tiều Đường nước Ngô. Thuở nhỏ đã thần khí thoát tục, cơ ngộ hơn người. Lúc đầu theo Pháp sư Tuệ Nghóa ở Kỳ- hoàn. Đến năm mười lăm tuổi, thầy rất mến thần thái của Ngài nên khẩn cầu Tống Văn Đế cho Ngài xuất gia. Văn Đế tiếp kiến và chấp nhận lời thỉnh cầu. Vua liền sắc lệnh lập hội xuất gia ở chùa Kỳ-hoàn, đồng thời ngày đó cũng xa giá cùng với quan khanh só thứ dự hội. Ngài Tuệ Cơ đã dốc lòng vào pháp nên chuyên tinh cần mẫn. Học suốt đêm ngày, thông suốt các kinh. Sau đó có Pháp sư ở Tây Vực tên là Tăng-già Bạt-ma đến nước Tống để hoằng dương Thiền Luật. Ngài Tuệ Nghóa bảo Tuệ Cơ vào thất vị Tăng ấy để làm thị giả. Năm tròn hai mươi tuổi Ngài qua Thái châu thọ đại giới. Ngài Bạt-ma bảo Tuệ Cơ rằng: Ông sẽ là Đạo Vương ở Giang Đông không nên ở lâu nơi kinh ấp. Thế là trong bốn năm năm Ngài vân du khắp nơi để tầm sư học đạo. Ngài rất tinh thông các bộ tiểu phẩm Pháp Hoa, Tư Ích, Duy-ma, Kim Cang, Bát-nhã, Thắng Man v.v… những bộ này Ngài đều nghiêm cứu sâu xa lẽ nhiệm màu và thấu tột chỗ tinh vi sâu kín. Đặt chương so sánh câu làm tỏ rõ ý kinh từ xa xưa. Thầy của Tuệ Cơ là Tuệ Nghóa, đức hạnh nhiếp cả tông vật, đạo nghóa bao trùm kinh đô. Thế nên công khanh só thứ quay về nương tựa, tứ sự dồi dào. Vì đức hạnh của Tuệ cơ rất xứng nên Ngài bắt về ở chung. Cho đến khi Ngài mất tư sản, vật chất còn nhiều vô số. Theo pháp chế Ngài được phân nửa, thế là Ngài đem ra làm việc phước thiện hết. Chỉ lấy bộ y bát thô củ, đem về phương Đông ở Tiền Đường trong chùa Hiển Minh. Chẳng bao lâu thì Ngài đến Cối Kê, vẫn ở chùa Pháp Hoa, Sơn Âm. Những kẻ chuộng học lần lượt tìm về vấn đạo. Bấy giờ Ngài vân du khắp vùng Tam Ngô để tuyên dương giáo pháp. Học đồ tìm về cả ngàn người. Tống Thái Tông phái người đến nghinh thỉnh nhưng Ngài cáo bệnh không đi. Vào giữa niên hiệu Nguyên Huy vua lại hạ chiếu trưng thỉnh. Ngài mới đi đến Chiết thuỷ thì lại phát bịnh nên phải trở về. Lúc này Ngài cho lập tịnh xá Bảo Lâm ở Quy Sơn Ấp Hội. Tay xếp gạch đá, đích thân chỉ huy. Bắt giáo, lập đàn trên vách cheo leo, Ngài tạo mẫu giống hình núi. Ban đầu xây ba tầng nhưng vì thợ xây vụng về nên sau đó trời sấm sét làm đổ hết, thế là phải tu bổ lại. Cho đến lúc lúc thành vô cùng mỹ lệ. Ngài Tuệ Cơ có lần mộng thấy Phổ Hiền, nhân đó Ngài thỉnh hỏi Bồ-tát làm hoà thựơng. Cho đến sau khi xây dựng xong chùa Ngài cho tạc một tượng Phổ Hiền và voi trắng sáu ngà đồng thời lập hai đàn sám hối hai mươi mốt ngày ở chùa Bảo Lâm. Quan dân lần lựơt kéo về, phụng cúng vô số. Sau đó Chu Ngung Vó Diệm thỉnh Ngài giảng pháp. Chu Ngung vốn là người có học thức lại thâm thuý Phật lý. Cho đến khi tham kiến ngài Tuệ Cơ thì cầu tìm học hỏi nên ngày càng có nhiều đổi mới. Lưu Hiến, Trương Dung đều bày tỏ ý định lễ Ngài làm thầy, tôn sùng lời chỉ huấn của Ngài. Tư Đồ Văn Tuyên Vương khâm phục phong cách và mến mộ đức hạnh của Ngài, gởi thư đến thăm hỏi một cách ân cần, phỏng cầu tông chỉ Pháp Hoa. Ngài bèn soạn bộ Pháp Hoa Nghóa sớ, gồm ba quyển, và chế tác môn huống nghóa tự ba mươi ba khoa. Đồng thời lược giải phương tiện chỉ thú. Hội thông hai câu không, hữu. Chú giải kinh Di giáo, các bộ này vẫn lưu thông ở đời. Đức độ của Ngài trùm khắp Tam Ngô. Tiếng tăm vang lừng khắp tổ quốc. Chính vì vậy mà hoàng đế sắc phong Ngài làm tăng chủ, đảm nhiệm mười thành thành. Bởi lẽ lúc đầu Ngài làm tăng chánh ở miền Đông vậy. Bấy giờ Ngài tự do giảng đạo, dạy tu thiền tuệ. Tứ Viễn tuân theo, ngũ chúng quy phục. Tánh Ngài cương nghị mà ôn hoà, khí độ thanh nhã và hoà thuận. Cho nên những bạn đồng tu trong thiền môn chẳng hề tranh cạnh. Ngài tịch ở chùa Thành Bàng vào mùa đông tháng 11 năm thứ 3 Kiến Vũ nhà Tề. Lúc Ngài mới tẩm bịnh, đệ tử mộng thấy Phạm Tăng có mấy vị đều ngồi xếp bằng trước thềm. Oâng hỏi các vị ấy từ đâu đến và làm gì. Các vị ấy đáp: Chúng tôi từ nước Đại Thừa đến để đón rước Hoà thượng Tuệ Cơ. Mấy hôm sau thì Ngài mất. Vì thế mà an táng Ngài hướng Nam của núi trong chùa Pháp Hoa. Hà Dận là bậc đặc tấn ở Lô Giang lập văn bia ở chùa Bảo Lâm, để ca tụng đức hạnh của Ngài. Đệ tử của Tuệ Cơ là Tăng Hạnh, Tuệ Húc, Đạo Khôi đều là những vị học thức uyên thâm. Lần lượt phô giảng. Mỗi vị đều lãnh đạo môn đồ để tiếp nối bánh xe pháp. Sau này có Sa-môn Tuệ Lượng tiếp nối đảm nhiệm chức tăng chủ. Khi Ngài Tuệ Lượng thị tịch, tiếp tục có Sa-môn Tuệ Vónh. Vị này phong thái đạo mạo, thanh nhã, đức hạnh thanh cao nghiêm cẩn, cũng thành thạo kinh điển, và giảng thuyết rất hay. Kế tiếp Tuệ Vónh có Sa-môn Tuệ Thâm cũng là đệ tử của Tổ Tuệ Cơ, là bạn đồng học với Pháp Hồng, các vị này đều xem trọng giới hạnh, kế ngài Tuệ Thâm có Sa-môn Đàm Hưng cũng là người sâu sắc và có phong độ. -------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ THỨ Ngài mang họ Duẫn, người ở Ký châu. Ban đầu xuất gia làm đệ tử ngài Chí Khâm. Sau đó gặp ngài Thích Pháp Thiên ở Từ châu là bậc thông triết đương thời, ngài Chí Khâm bảo Tuệ Thứ hãy đến y chỉ ngài Pháp Thiên. Thế là thầy về Nam đến Kinh Khẩu ở chùa Trúc Lâm. Trải qua năm năm sau Ngài theo Pháp Thiên trở về Bành Thành. Tuy nhiều năm ở trong địa vị Sa-di nhưng chí học không lui sụt. Thanh giám luân thông, siêu nhiên bạt thiệp. Đến năm mười tám tuổi giải thông kinh điển, tiếng tăm vang khắp Từ Châu. Cho đến lúc thọ đại giới thì giới nghiệp càng thâm sâu. Nhiều lần lên pháp tòa giảng Thành Thật và Tam Luận. Giữa niên hiệu Đại minh Ngài ra kinh đô ở chùa Vu Tạ. Đến cuối đời Tống, đầu Tề thì Ngài trở về Đức Sảo Quảng. Mỗi khi đăng tòa thuyết pháp thì đạo tục rầm rộ kéo về. Sa-môn Trí Tạng, Tăng Mân, Pháp Vân v.v… đều là những vị tuổi trẻ thông minh, trí tuệ bẩm sinh, đồng thời tìm đến tòa Tuệ Thứ để cầu đạo. Văn Tuệ, Văn Tuyên đều kính Ngài như thầy, cúng dường tứ sự. Niên hiệu Vónh Minh thứ 8 Ngài giảng Bách Luận, đến phẩm Phá Trần thì bỗng nhiên hóa thác, thọ năm nươi bảy tuổi. Thời đó tại chùa Tạ cũng có các vị Tăng Bảo, Tăng Trí. Chùa Trừơng Lạc có Pháp Trân, Pháp Hưởng. Tăng Mãnh, Pháp Bảo, Tuệ Uyên đều là những bậc thông triết một thời, được những bậc học giả đương thời tôn trọng. -------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ LONG Ngài họ Thành, người Dương Bình. Thuở nhỏ nhà nghèo, học hành không có thầy bạn, mà thành tích xuất sắc rõ rệt. Năm lên hai mươi ba tuổi mới xuất gia. Trong thời gian hơn mười năm chuyên tâm nơi Phật pháp, quán triệt thông suốt các bộ kinh. Vào giữa niên hiệu Thái Thuỷ, Ngài đến kinh đô ở chùa Hà Viên. Ngài đã thông thạo nơi thuyên biểu lại giỏi thanh luận. Nhân vậy mà đối kháng, nghị biện rất xuất sắc. Tống Minh Đế thỉnh Ngài về chùa Tương Cung giảng Thành Thật Luận. Thính giả nghe pháp hơn tám trăm người. Sau đó vương hầu Quý thắng lần lượt triệu thỉnh Ngài giảng pháp. Phàm những chỗ khúc mắc, rườm rà, tối nghóa trước đây, Ngài đều đem ra phân tích rạch ròi khiến người dễ hiểu. Bèn lập nghóa Thật Pháp đoạn kết. Chu Ngung ở Nhữ Nam bảo rằng: Long công tiêu điều quạnh quẽ như tùng trúc trong sương móc. Ngài mất vào niên hiệu Vónh Minh thứ 8, thọ sáu mươi hai tuổi. Thời ấy ở Giang Tây có ngài Thích Trí Đản cũng giỏi kinh luận, đồng thời là vị nổi tiếng đức độ ngang hàng với ngài Tuệ Long, tiếng tăm của mỗi vị vang khắp vùng Lưỡng Ngạn. Khi đó chùa Hà Viên lại có Tăng Biện, Tăng Hiền, Đạo Tuệ, Pháp Độ đều là những bậc tinh nghiên kinh luận, sự nghiệp rạng rỡ. -------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG TÔNG Ngài họ Nghiêm, vốn là người Bằng Dực Ung châu. Vào đời Tấn gặp lúc hỗn loạn, tổ tiên bốn đời của Ngài dời về ở Tần quận. Năm lên chín tuổi làm đệ tử ngài Tăng Viên, tham vấn tuệ nghiệp. Sau đó lại thọ học nơi hai vị Đạo Bân, Tăng Tế. Sư rất thành thạo kinh Đại Niết- bàn và Thắng Man, Duy-ma. Mỗi lần thăng tòa thuyết pháp, thính giả tụ hội hơn cả ngàn người, diệu biện bất cùng, ứng biến vô tận, mà tùy tánh khai phóng để thích ứng với nghi tắc, đắc ý tiện hành mà không ngăn ngại. Ngài thủ kiệm, chuyên tiết. Có chuyện thị phi về Ngài, Thái tử Văn Tuệ muốn bắt tội để lưu đày Ngài đi, song trong mộng có sự linh cảm, thế là ông bèn đổi ý quy y. Ngụy chủ Nguyên Hoằng từ xa trông vọng oai đức, phong cách của Ngài, nhiều lần gởi thư đến thỉnh Ngài giảng pháp. Thế Tổ nhà Tề không bằng lòng cho Ngài đến nước Ngụy. Ngài đã giảng các bộ Niết-bàn, Duy-ma, Thắng Man v.v… gần đầy trăm biến. Các tín thí cùng nhau xây chùa Thái Xương để thỉnh Ngài về ở. Ngài tịch năm Kiến Vũ thứ 3, thọ năm mươi chín tuổi. Trước đó Pháp sư Đàm Chuẩn ở phương Bắc nghe Ngài rất giỏi kinh Niết-bàn bèn tìm về phương nam để dự thính. Tư tưởng, tình cảm của hai miền Nam Bắc không đồng nhau nên Ngài Đàm Chuẩn, đặc biệt giảng lại, phần đông là các vị sư phương Bắc tham dự. Sau đó Đàm Chuẩn ở chùa Tương Cung. Các vị Pháp Chân, Pháp Thân cùng chùa là những vị thầy kiệt xuất đương thời. Thời ấy ở chùa An Lạc có các vị Tuệ Lịnh, Pháp Tiên, Pháp Tối, chùa Trung Hưng có ngài Tăng Kỉnh, Đạo Văn. Chùa Thiên Trúc có ngài Tăng Hiền đều là những vị giỏi về Số luận, tiếng tăm truyền khắp cả nước. ------------------------------------ <詞>THÍCH PHÁP AN Ngài họ Tất, người ở Đông Bình, là hậu duệ của Ngụy Tư Tứ hiệu úy Quỷ. Năm lên bảy Ngài thờ Pháp sư Tuệ Quang chùa Bạch Mã làm thầy xuất gia. Tuổi tuy còn nhỏ mà đã thông suốt, các kinh sách, ngoại điển phần nhiều đều tham cứu và hiểu biết. Ngài tuy ở trong độ tuổi làm sa-di mà tinh thần lại rất nhạy bén và tinh anh. Khi ấy Trương Vónh thỉnh ngài Tăng Bân giảng đều làm cho những bậc học giả nổi tiếng khuất phục. Trương Vónh hỏi Tăng Bân rằng: Ở kinh hạ có người tuổi trẻ tài cao không? Ngài đáp: ở đó có sa di Đạo Tuệ, Pháp An, Tăng Bạt, Tuệ Hi. Trương Vónh muốn thỉnh ngài Đạo Tuệ trình bày kinh Niết-bàn, Pháp An thuật lại Phật tánh. Thần sắc Ngài ung dung trình bày rõ ràng không sót. Trương Vónh hỏi hai vị bao nhiêu tuổi. Đạo Tuệ đáp mười chín tuổi, Pháp An bảo là mười tám tuổi. Trương Vónh khen: Xưa kia Phù Phong Chu Bột mới muời hai tuổi đã giỏi đọc thơ, vịnh thi. Thời đó người ta gọi là “thần đồng”. Nay hai vị đạo só này có thể gọi là “nghóa thiếu” các vị đã làm rạng rỡ chốn kinh kỳ, vang khắp bốn bể. Cho đến tuổi thành niên thì đảm đương trọng trách của bậc thầy. Vương Tăng Mân ra trấn nhậm Dương châu, bèn thỉnh Ngài cùng đi chung. Sau đó về phương Nam đến Phiên Ngụ. Gặp ngay lúc Kính công giảng Niết-bàn, Pháp An vấn luận mấy phen. Kính Công giật mình, nhường tòa. Ngài ở đó hai tuần mà Pháp sự liên tục. Giữa năm Vónh Minh ngài trở về kinh đô ở chùa Trung. Giảng Niết-bàn, Duy-ma, Thập Địa, Thành Thật Luận. Tư Đồ Văn Tuyên Vương, Trương Dung, Hà Dận, Lưu Hội, Lưu Hiến v.v… đều bẩm phục văn nghóa và kết làm pháp hữu. Ngài tịch năm đầu Vónh Thái ở chùa Trung. Thọ bốn mươi lăm tuổi. Ngài trước tác Tịnh Danh, Thập Địa nghóa sớ và năm quyển Tăng Truyện. Lúc ấy có các vị Kính Di, Quang Tán, Tuệ Thao ở chùa Linh Cơ, Đạo Tông chùa Ngõa Quan cũng là những bậc lưu danh đương thời. Được giới học giả hâm mộ. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG ẤN Ngài họ Chu, người Thọ Xuân. Tuổi nhỏ mà có suy nghó sâu sắc, chịu khó học tập. Ban đầu đến Bành Thành theo ngài Đàm Độ thọ giáo môn Tam Luận. Thầy Độ đã là một bậc trác tuyệt một thời, ba phương bốn hướng quay về nương tựa. Cho nên Tăng Ấn bẩm thọ nỗ lực nghiên cứu đến tận cùng lẽ thâm áo. Sau đó Ngài đến ở Lô Sơn, bẩm thọ Pháp Hoa nơi ngài Tuệ Long. Tuệ Long cũng là bậc trứ danh thời ấy, truyền bá tông chỉ Pháp Hoa. Tăng Ấn tận lực nghiên cứu thấu triệt tông chỉ Pháp Hoa bằng những tư tưởng mới lạ. Thế rồi chẳng bao lâu Ngài về miền Đông đến kinh sư ở chùa Trung Hưng. Lại còn tham cứu tư tưởng Niết-bàn và những kinh điển khác. Vào giữa niên hiệu Đại Minh nhà Tống, Trưng Cư Hà Mặc triệu tập tăng chúng thỉnh Ngài làm pháp tượng, thính giả khoảng trên bảy trăm người. Tư Đồ Văn Tuyên Vương, Đông Hải Từ Hiếu Tự, đều kính phục phong cách đạo đức của Ngài nên nhiều lần đến thỉnh thuyết pháp giới hạnh của Ngài trong sạch, nghiêm mật, bẩm tánh nhu thuận, bao dung tha thứ, vui buồn không lộ ra bên ngoài. Lúc ấy bọn rắc rối, ưa vấn luận hoặc cố tìm cách để xoi mói, nhục mạ. Nhưng thần sắc của Ngài vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì. Tuy Ngài thông suốt các kinh nhưng đặc biệt nổi tiếng nhất là bộ Pháp Hoa. Ngài giảng Pháp Hoa tổng cộng hai trăm năm mươi hai lần. Sau đó Ngài tịch vào năm đầu Vónh Nguyên nhà Tề, thọ sáu mươi lăm tuổi. ------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP ĐỘ Ngài là người Hoàng Long, xuất gia từ lúc còn nhỏ, du học phương Bắc, học đủ các loại kinh. Nhưng lấy việc khổ hạnh làm đề mục. Vào cuối đời Tống ngài đến kinh sư. Cao Só Minh Tăng Thiệu ở Tề quận chống lại người ngoại quốc nên ông đành ở ẩn Nhiếp Sơn huyện Lang Da. Vì mến phục phong độ của Ngài nên lấy lễ thầy bạn để tiếp đãi Ngài. Cho đến khi ông sắp mất thì bỏ chỗ ở trên núi làm Tinh xá Thê Hà, thỉnh Ngài về ở đó. Trước kia có đạo só muốn lấy đất chùa làm môn quán. Người ở đó đã chết và sau đó muốn làm chùa. Vẫn còn rất nhiều chuyện kinh động. Song từ lúc ngài Pháp Độ về đó ở thì bọn yêu quái bặt dứt. Ngài ở đó nhiều năm, một hôm chợt nghe tiếng người, ngựa, trống, tù. Phút chốc thấy một người cầm tờ giấy thông báo cho Ngài biết rằng: Cận Thượng ở trước Độ. Thượng hình thật trang nhã vũ vệ cũng uy nghiêm. Bèn nói ra những lời rất kính trọng: đệ tử là vua núi này hơn bảy trăm năm. Thần đạo có pháp vật không được can phạm. Trước kia có những người nương ở đây có kẻ không chơn chánh. Cho nên bịnh, tử nối nhau qua đời, âu cũng là số mệnh. Pháp sư là chỗ đạo đức quy tụ, nên tôi thành khẩn xả bỏ để phụng cấp, và nguyện thọ năm giới, mãi kết duyên từ đây. Độ nói: Đạo của người, thần không thể cùng nhau dung hợp, vả lại đàn việt hưởng đồ cúng bằng huyết thịt của thế gian. Đây là điều tối kî của năm giới. Thượng nói: Nếu tôi dự vào môn đồ thì trước tiên là bỏ việc sát sanh. Thế rồi ông ta từ giả ra đi. Đến sáng hôm sau Ngài thấy một người đem một vạn đồng, hương đèn, dao v.v… Sớ nói: đệ tử Cận Thượng phụng cúng. Đến ngày 15 tháng đó ngài Pháp Độ thiết hội. Cận Thượng lại đến cùng chúng, lễ bái, hành đạo thọ giới rồi đi. Chủ miếu ở Nhiếp Sơn mộng thấy thần đến bảo rằng: Tôi đã thọ giới ở nơi thầy Pháp Độ, cúng tế chớ nên giết hại loài vật. Do đó miếu chủ mỗi lần dâng cúng chỉ dùng rau quả mà thôi. Ngài Pháp Độ có lần đập xuống đất rồi nằm nghỉ trên đó. Thấy Cận Thượng từ ngoài đến lấy tay xoa đầu chân rồi đi. Vài phút sau trở lại cầm một chiếc bình lưu ly, trong bình đựng nước để dâng cho Ngài, nước ấy có vị ngọt và lạnh. Vì Ngài đã sống cuộc đời thanh bần cho nên mới cảm ứng như vậy. Lúc ấy có Sa-môn Pháp Thiệu hạnh nghiệp thanh bần khổ hạnh, tiếng tăm ngang hàng với ngài Pháp Độ nhưng học vấn thì uyên bác hơn, người thời ấy gọi: Hai vị thánh ở Bắc Sơn. Ngài Pháp Thiệu vốn là người Ba Tây. Nhưng khi Chu Ngung ở Nhữ Nam đến thành đô nên mời Ngài cùng đi xuống ở tinh xá Sơn Thứ. Ngài Pháp Độ cùng Pháp Thiệu đều được các vị vương tử Tề Cánh Lăng, Lương Thỉ An, Vương Diêu Quang cung kính như thầy, cúng dường tứ sự. Pháp Độ luôn nguyện vãng sanh Tây phương cho nên giảng rộng về kinh Vô Lượng Thọ, tổng cộng không biết bao nhiêu lần. Ngài tịch ở trong núi vào niên hiệu Vónh Nguyên thứ 2 nhà Tề. Thọ sáu mươi bốn tuổi. Ngài có vị đệ tử là Tăng Lãng nối gót theo thầy làm cương lãnh ở chùa núi. Tăng Lãng gốc người Liêu Đông, là một người tánh tình phóng khoáng, học rộng tư duy bao trùm tất cả. Phàm những kinh luật khiếm khuyết Ngài đều đem thuyết giảng. Hoa Nghiêm Tam Luận là điều tối cần thiết cho mọi người. Hôm nay trở lại càng xem trọng hơn đồng thời khuyên răn những học só thọ nghiệp ở núi. Thời đó chùa Bành Thành có ngài Tuệ Khai, thần khí cao minh từ nhỏ, chí học uyên thâm, cho nên đã nổi danh từ nhỏ, đến tuổi trưởng thành lại thuyết pháp. Ở Từ Hàng có ngài Pháp Khai cũng là bậc phong thái đỉnh đạc, rất giỏi đàm luận, đến Kinh châu ở chùa Thiền Cương, và cũng là vị pháp hữu đồng ở chung chùa và nổi tiếng như ngài Tăng Thiệu. <詞>THÍCH TRÌ TÚ Ngài vốn là họ Cừu, người kinh Triệu, ngụ ở Kiến Nghiệp, đỉnh ngộ từ nhỏ. Ngài có chí xuất gia từ sớm nhưng vì song thân quá yêu mến nên không bằng lòng. Ông bà lên cầu hôn và định ngày đám cưới. Trí Tú nghe được điều đó bèn trốn đi vào ở chùa Linh Diệu, Tưởng Sơn, cạo tóc xuất gia. Cho đến năm đủ tuổi thọ cụ túc thì hạnh nghiệp càng vững chắc hơn, phỏng cầu tất cả chư sư, chắc lọc, học hỏi nhiều điều mới lạ. Thế là các bộ đại tiểu rõ hiểu và số luận đều thông làu. Song giỏi nhất là bộ Đại Tiểu Niết-bàn, Tịnh Danh, Bát-nhã. Và cho đến lúc hội giảng vừa lập thì vương hầu tiếp giá, khanh tước theo hầu, những lời lẽ tinh tế, tư tưởng thâm áo, văn cú sâu sắc đều biểu lộ ra như lời của nhơn thần. Ngài tịch vào đầu niên hiệu Thiên Giám ở chùa Trị Thành. Thọ sáu mươi ba tuổi. Ngày sắp an táng Ngài, tăng tục đông đảo. Khắp hang cùng ngỏ hẻm cùng lê dân só thứ ngậm ngùi xót thương. Thời ấy chùa Trị Thành lại có vị Tăng Nhã, Đạo Thừa đều là những vị danh tăng đương thời. Ngài Tăng Nhã cùng với anh mình là Tăng Tuyền đều rất thành thạo các kinh và sách vở ngoại điển. Tăng Nhã tụng Pháp Hoa và phân chia ra bộ loại, sau đó làm Tăng Chánh ở nước Ngô. Chí nghiệp của Đạo Thừa cũng minh mẫn mà giỏi nhất là Tỳ-đàm. ---------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ CẦU Ngài họ Mã, người quận Phù Phong, dòng dõi làm quan. Năm lên mười sáu tuổi thì xuất gia, ở chùa Trúc Lâm Kinh châu, thờ Đạo Hinh làm thầy. Khi lãnh thọ giới huấn thì hành một cách thanh tịnh. Sau đó vào chùa Lộc Sơn ở Tương châu chuyên tâm tu thiền. Chẳng bao lâu thì cùng bạn học là Tuệ Độ đến kinh sư sưu tầm học hỏi kinh điển. Sau nữa lại đến Bành Thành theo ngài Tăng Uyên thọ giáo môn Thành Thật Lu- ận. Đến năm ba mươi hai tuổi mới trở về Kinh châu chuyên đảm trách việc giảng dạy. Hội giảng liên tục, học chúng vô số. Ngài là bậc tài ba nhất từ xưa đến giờ ở miền Kinh Sở, cho nên khiến cho bậc nghóa tăng ở Tây Hạ được cùng một phen tranh tài đọ sức với kinh ấp đó là nhờ tài sức của Tuệ Cầu vậy. Năm đầu Trung Hưng vua sắc phong Ngài làm tăng chủ ở Kinh châu. Công lao dạy dỗ của Ngài được lưu danh đương thời. Ngài tịch vào năm thứ 3 Thiên Giám thọ bảy mươi bốn tuổi. Trong di chúc Ngài dặn phơi xương cốt dưới gốc tùng, nhưng đệ tử không nở làm như vậy. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG THẠNH Ngài họ Hà người Kiến Nghiệp. Là một người thông minh, cơ mẫn từ nhỏ. Lại thêm siêng năng chuyên tâm học hành. Cho nên hiểu rất rõ Số luận và thành thạo các kinh. Là một Pháp sư uyên bác đương thời, đồng thời còn lão luyện các môn ngoại điển, khiến cho các Nho só nể phục, cho nên các môn sinh trong học quán thường cận kề ngài Tăng Thạnh. Ngài tịch vào giữa năm Thiên Giám, ở chùa Linh Diệu, thọ trên năm mươi tuổi. Thời đó có ngài Pháp Hân ở chùa Tống Hi, Trí Sưởng, Pháp Quýnh chùa Diên Hiền, Tăng Hộ, Tăng Thiều chùa Kiến Nguyên đều là những bậc nổi tiếng đức độ như nhau. Ngài Pháp Hân, Trí Sưởng đều giỏi kinh luận, Pháp Quýnh tinh thông luật tạng. Tăng Thiều, Tăng Hộ là bậc trứ danh về Tỳ-đàm. ------------------------------------ <詞>THÍCH TRÍ THUẬN Ngài họ Từ người ở Lâm Nghi, Lang Da. Năm mười lăm tuổi thì xuất gia. Thờ Ngài Trí Độ chùa Diên Hiền ở Chung Sơn làm thầy. Tuổi nhỏ mà đã thông minh đỉnh ngộ, dốc chí hơn người. Tuy còn ở trong địa vị sa-di mà học lực có nhiều thành tích xuất sắc. Cho đến tuổi thọ cụ túc thì giới hạnh càng tỏ rạng. Ngài trở thành bậc lão luyện kinh điển và giỏi nhất là Niết-bàn, Thành Thật. Mỗi hội thuyết giảng thì đồ chúng vân tập trên vài trăm người. Có lần xảy ra chuyện nhưng Ngài không lo lắng, cho dù đó là chuyện trắc trở Ngài vẫn một lòng ngay thẳng trong sạch, chân chất không có một mảy may tỳ vết. Thế nên Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương đặc biệt kính phục và thương mến. Ôâng tu bổ lại chùa Trị Thành rồi thỉnh Ngài về ở. Tư Không Từ Hiếu Tự cũng tôn sùng hạnh giải của Ngài kính Ngài bằng lễ của người thầy. Và cho đến đông cung hôn muội, thất đức Hiếu Tự bị tru di, Tử Côn bỏ trốn và lánh hoạ ở bên ngài Trí Thuận nên tội chết được khỏi. Tử Côn từ đó về sau càng cúng dường trọng hậu hơn, nhưng Ngài chẳng nhận bất cứ vật gì. Một đêm có bọn cướp đến thất, tịnh nhơn đuổi theo bắt chúng. Trí Thuận giữ lại ngủ qua đêm trong thất, sáng hôm sau lấy tiền cho họ rồi dụ họ đi. Lòng nhân ái bao dung như vậy. Sau đó Ngài về miền Đông đến Vũ Huyệt ở tịnh xá Vân Môn, bánh xe chánh pháp nhờ đó mà hưng thịnh lại nơi vùng Giang Tả. Ngài là người khiêm tốn, nhã nhặn, hình tướng như thần, phong độ trang nghiêm, cử chỉ không thất thố. Cho nên quan dân đều kính phụng, và nể vì. Ngài tịch vào niên hiệu Thiên Giám thứ sáu ở chùa trên núi, thọ sáu mươi mốt tuổi. Lúc mới phát bịnh thậm chí nhiều ngày không ăn uống. Bổng một lúc Ngài tìm đồ ăn uống. Đệ tử Đàm Hoà biết thầy lâu ngày không ăn ngũ cốc nên ông lén lấy nửa cốc gạo nấu nhừ để dâng cho thầy nhưng Ngài nuốt vào thì ói ra lại. Ngài tìm nước súc miệng và nói với đệ tử rằng: Ông hãy ra khỏi chùa này và đừng bao giờ quay trở lại nữa. Ngài giữ chặt khí tiết và tinh khổ đến như vậy. Ngày lâm chung trong phòng Ngài thoảng mùi thơm đặc biệt. Có người thấy hoa trời và bảo cái. Ngài di chúc dặn đệ tử phơi hình hài ra đất trống để bố thí cho côn trùng. Song môn nhơn không nỡ làm như vậy, mà an táng thi hài bên cạnh chùa. Các vị đệ tử lập bia để lưu truyền đức hạnh của Ngài. Viên Ngang ở quận Trần soạn văn. Ngài Tuệ Cử chùa Pháp Hoa lại làm văn mộ chí. Những trước tác văn ký như: Pháp sự tán và Thọ giới, Hoằng pháp, đều lưu hành ở đời. -------------------------------- <詞>THÍCH BẢO LƯỢNG Ngài họ Từ, tổ tiên Ngài vốn ở Vị Tộc Đông Hoàn. Sau đó nhà Tấn thì xuất gia, thờ Pháp sư Đạo Minh ở Thanh châu. Thầy Minh cũng là vị tăng nghóa học, nổi tiếng đương thời. Ngài Bảo Lượng vào thọ học chuyên tinh, nhớ kỹ không sót. Đến sau khi thọ cụ túc bèn muốn du phương hoằng hoá. Hễ dạy bảo điều gì đều có căn cứ, chưa thể vượt khỏi sự hệ luî của cảnh duyên. Thầy Minh bảo: Sa-môn bỏ tục phải lấy việc tuyên thông làm lý, đâu thể vướng mắc lưới ái này, khiến cho đạo của ta không thông được, Bảo Lượng ngộ ra lẽ đó vì thế mà làm khách du hoá. Năm hai mươi tuổi đến kinh sư ở chùa Trung Hưng. Viên Xán vừa gặp thì rất mực kính trọng. Sau này ông viết thư cho ngài Đạo Minh và nói rằng: Con đã từng gặp ngài Bảo Lượng. Vị ấy là bậc phi thường. Trước đây đến giờ nghe điều chưa từng nghe, bất giác tuổi đã xế chiều. Như Châu sanh về Hợp phố, người nước Nguî lấy để chiếu xe. Ngọc bích ở Hàm Đan Tần Vương thỉnh về Hoa quốc. Bảo bối của thiên hạ thì hãy cho thiên hạ cùng hưởng. Chẳng phải thứ mà bậc thượng nhơn ở Quý châu cần vậy. Từ đó tiếng tăm của Ngài càng vang rộng. Cho đến khi song thân Ngài mất, đường sá hiểm trở không về đất Bắc được. Vì thế Ngài chuyên tâm thiền định và dứt bặc chuyện đời. Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương đích thân đến phòng Ngài thỉnh làm Pháp sư. Ngài bất đắc dó phải đi. Văn Tuyên quỳ lạy cung kính để kết nhân duyên bồ- đề với bốn chúng. Sau đó Ngài dời về ở chùa Linh Vị. Thế rồi Ngài tiếp tục giảng pháp, kinh điển lưu truyền rộng rãi ở kinh ấp. Ngài giảng bộ Niết-bàn tổng cộng tám mươi bốn lần. Thành Thật luận mười bốn lần, Thắng Man bốn mươi hai lượt, Duy-ma hai mươi biến, Đại Tiểu Phẩm mười lần, Pháp Hoa, Thập Địa, Ưu-bà-tắc giới, Vô Lượng Thọ, Thủ- lăng-nghiêm, Di giáo, Di Lặc Hạ Sanh v.v… cũng gần mười lượt. Đệ tử tại gia, xuất gia hơn ba ngàn người. Môn đồ tham kiến vấn đạo đến mấy trăm. Bảo Lượng là một người tính tình phóng khoáng độ lượng. Phong thái khí khái, anh tuấn. Và khi khai chương mệnh cú thì lời lẽ sắc bén, phóng khoáng. Hễ ai vấn luận hoặc nghi nan chất vấn, đồng tìm đến Ngài thì mọi thứ mổ xẻ tách bạch liền tỏ rõ tông chỉ, mối nghi ngờ tiêu tan, bao nhiêu điều nghi trệ đều quên hết. Cho nên hoàng thượng đương triều tôn sùng chánh đạo. Và lúc nào cũng hoài vọng đức của Ngài, nhiều lần đến đàm đạo. Tánh Ngài rất cương trực, lần nào nói chuyện cũng xưng hai chữ bần đạo. Hoàng thượng tuy có ý nghó phóng khoáng nhưng lại rất khâm phục phong thái thần xuất của Ngài. Năm Thiên Giám thứ 8 bèn sắc phong Ngài soạn Niết-bàn Nghóa Sớ hơn mười vạn lời, đích thân ông đề tựa: không có ngôn ngữ thì không do đâu để gởi gấm lời nói. Nói ra thì hệ lụy đến vô ngôn. Lụy đến ngôn ngữ thì có thể dứt nói. Ngôn ngữ ngừng thì các kiến chấp tranh nhau khởi. Cho nên Như Lai nương vào bổn nguyện mà thác sanh, hiện sức từ để ứng hóa, ly văn tự để lập giáo, quên tâm tướng để thông đạo. Muốn khiến cho ngọc quý, đá mân khác giá, sông kinh, vị phân dòng. Lập ra lục sư mà dứt tứ đảo. Trái ngược bát tà để quy về một vị. Bẻ sừng thế trí, bịt miệng dị nhơn. Hướng dẫn tâm tìm châu, mở mắt xem voi. Cứu sự thiêu đốt trong nhà lửa, vớt kẻ đắm chìm trong biển sáng. Cho nên mưa pháp tưới tẩm để giống khô được nảy mầm. Mặt trời trí tuệ xuất hiện để xóa tan đêm trường tăm tối. Khởi lòng căm phẫn Ca-diếp, thốt ra lời lẽ chân thật. Tuy hai món này thì bằng với trước. Năm đại trình bày ở sau. Ba mươi bốn câu luận bàn sai khác. Phương tiện khuyến dẫn tùy ý đáp đối. Toàn bộ yếu nghóa kinh điển không ngoài hai đường, khơi nguồn sẵn có của Phật tánh mình. Phát minh tông chỉ quy cực của Niết-bàn, chẳng nhân chẳng quả, không khởi niệm, không tạo tác. Nghóa cao đến vạn thiện, sự tuyệt cả bách phi. Không không, không thể lường được bờ chân, huyền huyền không thể tận cùng diệu môn, trừ phi đức bình đẳng, tâm hợp với vô sanh, còn không thì tường vàng vách ngọc đâu dễ vào. Có vị Sa-môn Thích Bảo Lượng ở Thanh châu phong thái điềm đạm phóng khoáng, tinh thần minh mẫn, lỗi lạc. Thiếu thời đã liêm khiết, tiết kiệm giản dị, lớn lên an bần trong pháp nhẫn, tuổi cao chí khí càng vững, tướng tá quắc thước, thung dung như tiên giác, rắn rỏi khoẻ mạnh. Cho đến tuổi xế bóng cũng an nhiên như vậy. Ngày mồng 8 tháng 5 năm Thiên Giám thứ 8, vua sắc phong Ngài soạn Đại Bát Niết-bàn nghóa sớ, đến ngày 20 tháng 9 thì hoàn thành. Làm sáng tỏ lời mầu nhiệm, tán dương chánh đạo, những gút mắc đã tháo gỡ, lưới nghi đã trừ, rõ ràng mạch lạc, chỉ nói sơ lược thôi. Trẫm lúc rảnh rỗi sẽ xem xét bộ này. Nương vào mấy dòng sách để ghi riêng như vậy. Nhờ phước đức của Ngài mà chiêu cảm đến sự cúng dường của tín thí. Song tánh Ngài không thích tích trữ tiền bạc. Mà có được gì thì đem kinh doanh phước nghiệp. Sau khi Ngài tịch trong phòng Ngài chẳng chứa vật gì. Ngài tịch vào ngày mồng 4 tháng 10 năm Thiên Giám thứ 8 ở chùa Linh Vị. Thọ sáu mươi sáu tuổi, an táng Ngài ở phía nam Chung Sơn, lập bia mộ. Các nghóa só ở Trần quận như Chu Hưng Tự Quảng Lăng Cao Sảng cùng nhau viết văn, khắc vào hai mặt. Đệ tử Pháp Vân lại lập bia trong chùa. Văn Tuyên họa tượng Ngài thờ ở chùa Phổ Hoằng. Lúc ấy chùa Cao Tòa có ngài Tăng Thành. Chùa Khoáng Dã có ngài Tăng Bảo đều là bậc thầy kiệt xuất của Tề triều. Tăng Bảo rất thạo Tam Huyền. Được Di Du tôn trọng. ----------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP THÔNG Ngài họ Chử, người Dương Địch Hà Nam, là cháu tám đời của An Đông tướng quân châu đô đốc Khế nhà Tấn. Dòng tộc nhà Ngài áo mão lễ nghóa thay nhau. Ngài vốn là con người thông minh, đónh ngộ tuyệt luân. Năm mười một tuổi xuất gia, học các kinh luật luận, chuyên tinh Phương Đẳng, Đại Phẩm, Pháp Hoa những bộ này nghiên cứu rất tỉ mỉ. Năm chưa đến tuổi thọ tỳ-kheo đã làm Pháp sư. Thính chúng quy tụ đông đảo. Sau đó Ngài dời gót đến kinh sư. Lúc đầu ở chùa Trang Ng- hiêm sau trú ở chùa Định Lâm Thượng. Tịnh dưỡng tâm thần, chuyên cần hành đạo. Những kẻ ngưỡng vọng quay về nương tựa dường như đầy cả thất núi. Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương, Thừa tướng Văn Hiến Vương đều quý kính đức hạnh của Ngài nên đích thân đến đảnh lễ. Tạ Cử ở Trần quận, Lục Quả ở nước Ngô, Trương Hiếu Tú ở Tầm Dương đều khích lệ nhau đến sơn môn để bẩm thọ giới pháp. Đệ tử xu- ất gia, tại gia hơn bảy ngàn người. Ẩn tích nơi Chung Sơn hơn ba mươi năm. Ngồi thiền, tụng niệm, lễ sám tinh cần. Đến ngày 10 – 6 năm Thiên Giám 11, bỗng nhiên không bệnh tật mà bèn nói với đệ tử rằng: Ta chỉ có thể sống đến ngày 20 tháng 9 thôi. Thế là đến 14 tháng 9 thấy hai cư só đều cầm phất trắng đến trước giường Ngài. Rồi lần lượt ra đi, đến ngày 17 Ngài bỗng chậm rãi nói: Đàn việt không quen biết, người từ đâu đến? Đệ tử Đàm Trí hỏi nguyên do. Ngài đáp: Có một người mặc y đỏ, đội mũ vén tóc, khiêng một chiếc hòm gỗ đặt trước giường. Đến ngày 20 thì thấy hình Phật xếp thành hai hàng đi đến. Ngài Pháp Thông chắp tay rất lâu. Người thị giả chăm sóc bệnh chỉ ngửi thấy mùi hương lạ, hoàn toàn không đoán được ý Ngài. Ngài bèn thầm biểu lộ cử chỉ đồng ý lời Tuệ Trân nói. Đến ngày 21 thì Ngài lấy nước thơm tắm rửa sạch sẽ xong, lễ Phật rồi nằm lại, chắp tay để trước ngực mà tịch đúng mười hai giờ. Thọ bảy mươi tuổi, sau đó an táng thi hài của Ngài ở phía Nam của chùa. Các vị đệ tử như Tónh Thâm v.v… lập mộ bia. Tạ Cử Lan, Lăng Tiêu, Tử Vân cùng nhau soạn văn để khắc hai bên mộ. Thời đó tại chùa Định Lâm Thượng lại có sa-di TríTấn người Bản Am, thanh tín dốc chí xuất gia khổ luyện, từng hành hạnh đầu-đà ở Đông Sơn, ngủ dưới gốc cây, một lần nọ có chú hổ đến xoa đầu. Thấy Trí Tấn ngồi thiền, nó không dám làm ồn náo mà lại quỳ xuống một lát rồi đi. Từ đó về sau Ngài ngồi một mình, đi một mình thường thấy một con ngựa xanh hộ vệ bên mình. ------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ TẬP Ngài họ Tiền ở đất Tiềm Ngô Hưng. Năm mười tám tuổi đến Cối Kê, núi Lạc Lâm xuất gia. Theo Pháp sư Tuệ Cơ thọ học. Ngài là người có tánh thật thà, không nói lời hoa mỹ và chăm chỉ học hành đêm ngày không biết mệt mỏi. Sau đó ra kinh sư ở chùa Chiêu Đề, đồng thời chu du khắp nơi tham kiến học hỏi các sư, dung nạp mọi dị thuyết. Tam Tạng, Phương Đẳng đều thông đạt. Lại còn tham vấn rộng rãi về Đại Tỳ-bà-sa và Tạp Tâm Kiền-độ. Vì cùng đối biện, tranh luận nên Ngài đã nổi tiếng về bộ Tỳ-đàm đương thời. Phàm gặp những nghi nan to lớn Ngài đều mổ xẻ một phen. Các học giả trong nước đều kéo nhau về. Mỗi lần khai tòa thuyết giảng phụ trật cả ngàn người. Sa-môn Tăng Mân, Pháp Vân đều nổi danh một thời. Cũng theo lệ thỉnh ích. Hoàng đế đương kim luôn tiếp đãi nồng hậu sau mỗi lần thỉnh Ngài thuyết giảng. Năm Thiên Giám thứ 14 Ngài trở về Ô Trình, sau đó phát bịnh rồi mất. Thọ sáu mươi tuổi. Trước tác Tỳ-đàm Đại Nghóa sớ hơn mười vạn lời, đến nay còn lưu hành rộng rãi ở đời. ----------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM PHỈ Ngài họ Vương, người xứ Diệm, Cối Kê. Thuở nhỏ xuất gia thọ giáo nơi Pháp sư Tuệ Cơ. Tính thông minh, mẫn tiệp vốn mang danh bác học. Ngài tham cứu các kinh Phương Đẳng một cách triệt để. Cho đến Lão, Trang, Nho, Mặc đều thành thạo. Sau đó chu du khắp Đông Tây để tham vấn học hỏi. Thấu tột yếu chỉ của kinh luận, Ngài ở chùa Pháp Hoa Đài ở Hương ấp, giảng dạy thuyết pháp liên tục, học chúng vô số. Ngài là một người tính tình phóng khoáng, chí dụng thanh huyền cho nên trở thành bậc kiệt xuất đối với Tiểu phẩm và Tịnh Danh. Lại còn có tài vấn đáp, biện thuyết sắc bén, linh động, lời lẽ hoa mỹ. Phong cách trên tòa rất được xem trọng. Hoành Dương Hiếu Vương Nguyên Giản nhà Lương và Ẩn só Lô Giang Hà Dận đều ngưỡng vọng đức độ của Ngài nên từ xa triệu thỉnh về giảng thuyết. Trương Dung ở nước Ngô và Chu Ngung, con của ông là Xá ở Nhữ Nam cùng nhau kết Tam Thi Âm. Ngài tịch ở chùa vào năm Thiên Giám thứ 17, thọ bảy mươi sáu tuổi. Những tác phẩm văn chương của Ngài cũng còn truyền ở đời. Ngài nổi tiếng vùng Giang Đông nên được phong làm tăng chủ mười thành. Thánh chỉ vừa ban hành Ngài chưa tiếp kiến thì đã thác hóa. Tăng ni vùng ấy vô cùng kính tiếc, lưu luyến đức độ của Ngài. ngài Đàm Phỉ ở chùa Nam Nham trong huyện đó có Sa-môn Pháp Tạng cũng là người giới đức trong sạch. Rất thích phóng sanh, cứu mạng, xây dựng chùa chiền, họa vẽ tượng Phật. Thời đó ở Du Diêu Huyện có tỳ-kheo Minh Khánh cũng nổi tiếng đồng thời với ngài Đàm Phỉ. Ngài Minh Khánh là người họ Tịnh, giới hạnh nghiêm mật thanh khiết, học vấn ưu tú, thờ ngài Viêm làm bổn sư, còn làm đệ tử của Hoằng Thật. Thầy trò 3 đời đều được xem trọng ở Đông Nam. Luận nói: Luận về lý cùng tột thì vô ngôn, sâu mầu vắng lặng. Vì sâu lặng nên tâm hành xứ đoạn. Vì vô ngôn nên bặt đường ngôn ngữ. Bặt đường ngôn ngữ thì có ngôn ngữ tổn thương ý chỉ của nó. Tâm hành xứ đoạn thì tác ý mất đi sự chân thật của nó. Cho nên Tịnh Danh im lặng ở phương trượng. Thích-ca mặc niệm nơi sa-la. Điều đó đủ biết lý cùng tột đến chỗ sâu lắng vắng bặt. Cho nên gọi là vô ngôn. Chỉ vì bồng bềnh trong cảnh mộng thì cách xa lý này, bọn ngu xuẩn không giáo huấn thì làm sao khải sáng. Vì thế thánh nhơn chuẩn bị linh diệu để ứng vật. Thể hội cái lắng bặt sâu mầu để thông thần. Mượn lời mầu để trợ đạo, vay hình tướng để truyền chân. Cho nên nói: Binh khí là vật bất tường, không được dùng nó một cách tùy tiện. Lời lẽ là thứ bất chơn không được nói năng một cách vô ích. Cho nên ban đầu từ Lộc Uyển lấy Tứ đế làm lời đầu tiên. Rốt cùng đến vườn hộc lấy ba điểm làm viên cực. Trong khoảng thời gian chặn giữa nói ra những văn cú hơn tám ức. Voi chở không hết. Long cung chật mà không hết. Điều đó giống như theo dấu mà được thỏ. Nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng. Biết được trăng thì dẹp ngón tay, được thỏ thì quên dấu. Kinh nói: Y nghóa không y theo lời nói. Đây là ý này vậy. Mà kẻ trệ nơi giáo cho rằng đạo nằm trọn trong thiên chương. Kẻ chấp tướng cho rằng pháp thân được định bởi trượng sáu. Cho nên phải thông đạt ý chỉ sâu mầu, diệu đắc ngoài lời. Tứ biện trang nghiêm vì người nói cặn kẽ. Thị biện giáo thuyết làm lợi ích là trách nhiệm của Pháp sư. Cho nên Chu Só Hành tìm kinh ở Vu Điền, thệ nguyện là diệt hỏa. Rốt cuộc khiến cho Bát-nhã thịnh hành ở Đông Xuyên. Tư tưởng vong tướng được truyền đến đời Tú mạt. Viên Thứ, Trúc Tiềm, Chi Độn, Vu Lan, Pháp Khai v.v… đều là người tính khí phóng khoáng, phong cách nho nhã. Công lao truyền hóa cũng đã khép lại. Vào thời kỳ giữa thời có Thích Đạo An, cầu học ở Thánh sư Trúc Phật Đồ Trừng. Ngài lại truyền nghiệp cho đệ tử Tuệ Viễn. Giá như ba dòng này lưu truyền ở đời thì không thiếu thánh hiền, bởi các vị đều là bậc thầy giới đức tinh nghiêm, trí Tuệ ngời sáng. Khiến cho mặt trời trí tuệ chói lọi hơn, ngàn năm nay tỏa hương khắp chốn, lại huân ướp cõi diêm-phù, mạch suối vẫn trào tuôn, thực phải nương cậy người ấy. Ngài Tuệ Viễn đã ngăn ranh ở Hổ Khê. Đạo An lại đổi càng xe. Luận về bậc có đạo hạnh cao thượng như làm điều ngược lại. Vậy thì nói, nín, động, tónh tùy thời thích ứng. Kinh nói: Nếu muốn kiến lập chánh pháp thì phải thân cận quốc vương và cầm cương. Đạo An tuy nhứt thời cùng xa giá nhưng để khuyên can dùm bách dân. Cho nên có thể toàn cảm thì ứng chơn, vạch mây hiển báo. Từ đó về sau bậc trứ danh ở Kinh Hiệp thì Dực, Ngộ là nói đến trước tiên, bậc thanh cao trong sạch ở Lô Sơn thì lấy Trì, Vónh làm hàng đầu. Dung, Hằng, Ảnh, Triệu là bậc đạo cao đức trọng ở Quan Trung. Sanh, Duệ, Sướng, Viễn, Lãnh là bậc có đạo nghiệp thật khả kính. Đàm, Độ, Tăng, Uyên trở thành bậc trác tuyệt ở Giang Tây. Siêu, Tấn, Tuệ, Cơ làm sáng lạn ở Triết Đông. Tuy những bậc này kế thừa làm hưng long Phật pháp ở thế gian mà đạo thuật cũng huyền hội. Cho nên khiến cho thời tượng pháp hưng thạnh hơn năm trăm năm nữa. Công hiệu đã rạng ngời lại càng tỏa sáng hơn. Tán rằng: Di phong dằng dặc Kết sóng cuồn cuộn Chẳng phải Thích Triết Ai chấn chỉnh suy đồi Tiềm, An Tỷ Diệu Viễn Duệ liên hoàn Chỉnh đốn sự cong vạy Gột sạch bụi tà Tơ trắng đã nhuộm Biến hẳn phương này.  <卷>QUYỂN 9 TRÚC PHẬT ĐỒ TRỪNG Ngài là người Tây Vức họ Bạch, thuở nhỏ xuất gia tánh thanh bạch, chất phác, chăm học. Tụng kinh đến mấy trăm vạn lời, giỏi hiểu nghóa văn. Tuy chưa đọc sử nho của Trung Quốc nhưng cùng với các học só luận biện những điều nghi trệ, Ngài am hiểu y như thật, và không ai khuất phục Ngài được. Ngài tự nói mình phải đến Kế Tân để tham vấn các bậc danh sư. Ở Tây Vực ai cũng bảo rằng Ngài đã đắc đạo. Vào niên hiệu Vónh Gia thứ 4 Tấn Hoài Đế, Ngài đến Lạc dương. Với tâm nguyện hoằng dương đại pháp, giỏi niệm thần chú, có khả năng sai khiến quỷ thần. Ngài lấy dầu mè trộn lẫn với bột phấn thoa vào lòng bàn tay, cho nên những việc ngoài ngàn dặm Ngài đều biết rõ như trong bàn tay để trước mặt vậy. Cũng có thể khiến cho người tịnh trai thấy được. Nghe tiếng linh đoán việc thì không gì không linh nghiệm. Ngài định xây chùa ở Lạc dương nhưng gặp lúc Lưu Diệu cướp phá Lạc Đài khiến kinh đô loạn lạc. Ý nguyện xây chùa không thực hiện được. Ngài đành ẩn thân nơi thôn dã để quan sát sự biến đổi của thế sự. Lúc ấy Thạch Lặc đóng binh ở Cát Pha, chỉ lấy việc sát hại để thị uy. Những vị Sa-môn bị ông làm hại rất nhiều. Ngài thương xót cho sinh linh và muốn đem Phật pháp cảm hóa Thạch Lặc. Thế rồi Ngài chống tích trượng đến quân môn. Quách Hắc Lược là một đại tướng quân của Thạch Lặc, ông này rất mến mộ Phật pháp. Ngài Đồ Trừng bèn đến nhà ông ở lại. Ông theo Ngài thọ năm giới và kính Ngài với lễ của người đệ tử. Sau đó Hắc Lược theo Thạch Lặc chinh phạt. Thường dự đoán mọi lẽ thắng bại. Thạch Lặc nghi ngờ nên hỏi ông: Ta chẳng thấy khanh có mưu trí siêu việt gì, mà sao mỗi lần xuất binh lại biết được sự kiết hung vậy. Hắc Lược nói: Tướng quân có thần vũ trời ban nên những bậc thần linh giúp đỡ. Có vị Sa-môn trí thuật phi thường bảo rằng tướng quân sẽ chiếm được khu Hạ. Ngài đã làm thấy của thần rồi, những gì xưa nay thần tâu rõ đều là lời của Ngài. Thạch Lặc vui mừng nói: Trời ban cho ta đây. Rồi cho người thỉnh Ngài vào hỏi: Đạo Phật có gì linh nghiệm ư? Ngài biết Thạch Lặc không đạt lý sâu mầu của Phật pháp nên chỉ có thể dùng đạo thuật để giáo hóa. Nhân đó Ngài bảo: Chí đạo tuy xa nhưng cũng có thể dùng việc trước mắt để làm chứng. Ngài liền lấy chiếc bình đựng đầy nước đốt hương, chú nguyện vào đó. Trong nháy mắt mọc lên một đóa sen xanh tỏa ánh sáng rực rỡ. Thạch Lặc do việc đó mà tín phục. Phật Đồ Trừng cũng nhân đây mà can vua: Bậc đế vương lấy đức để cai trị thiên hạ thì tứ linh sẽ hiển bày. Còn như chánh trị suy đồi, đạo đức lụn bại thì sao xấu sẽ mọc trên trời, những hiện tượng đó thường xuất hiện theo những việc làm tốt xấu. Đó là lý hiển nhiên từ xưa tới nay vậy và cũng là lời răn nhắc rõ ràng cho các bậc đế vương. Thạch Lặc quá đổi vui mừng. Lẽ ra những kẻ đáng bị giết đến mười thì tha được tám, chín. Từ đó, bọn rợ Hồ ở Trung Châu đều tín phụng Phật pháp. Lúc đó có bịnh dịch lan tràn, các thầy thuốc thế gian đều bó tay, Ngài bèn chữa bệnh cho họ, tức thời căn bịnh được thuyên giảm. Thạch Lặc đem binh từ Cát Pha trở về Hà Bắc trú quân ở Phương Đầu. Ban đêm có người muốn đến cướp phá doanh trại. Ngài bèn mật báo cho Hắc Lược: lát nữa sẽ có giặc cướp đến nên báo cho tướng quân biết. Quả đúng như lời nói đó. Vì có sự phòng bị nên giặc không hoành hành được. Thạch Lặc muốn thử Phật Đồ Trừng, ban đêm đội mão, mặc giáp, cầm đao ngồi trong doanh trại rồi sai người báo cho Đồ Trừng biết: Đêm đến mà không biết đại tướng quân đi đâu. Khi sứ giả vừa đến chưa kịp nói lời nào thì Ngài hỏi ngược lại: Chỗ ở yên ổn không có giặc tại sao đêm đến lại trang bị nghiêm ngặt thế. Thạch Lặc càng bội phục Ngài. Sau đó vì giận tức, Thạch Lặc sắp hại các đạo só và làm khổ nhục Ngài. Ngài bèn lánh đến nhà Hắc Lược và bảo ông rằng: Nếu tướng quân cho người đến tìm ta thì cứ bảo rằng không biết ta ở đâu. Sứ giả đến tìm Ngài không được, liền trở về báo lại cho Thạch Lặc, ông kinh hồn nói: Ta có ý ác đối với Thánh nhân, nên Ngài đã bỏ ta đi rồi. Suốt đêm không chợp mắt, trong lòng muốn gặp Ngài. Ngài biết ông ta có ý hối cải, sáng sớm hôm sau Ngài đến chỗ Thạch Lặc. Ông hỏi đêm qua Ngài đi đâu. Ngài nói: Tướng quân nổi giận nên đêm qua tôi lánh mặt, hôm nay tướng quân đổi ý nên tôi mới dám trở về. Thạch Lặc cười lớn nói: Đạo nhơn nhầm rồi. Nguồn nước của con hào trong thành Tương Quốc bắt nguồn từ miếu Vì Hoàn cách thành năm dặm về phía tây bắc, lâu nay đã khô cạn. Thạch Lặc hỏi Ngài: Làm sao dẫn nước về. Ngài nói: Nay nên sai rồng phun nước. Lặc tự Thế Long nên cho rằng Đồ Trừng chế nhạo mình. Đáp rằng: Chính vì rồng không thể dẫn nước được nên cố hỏi Ngài. Đồ Trừng nói: Đây là lời thật chẳng phải đùa đâu. Sông suối ắt có rồng ở, nay đến đó bảo nó chắc có thể được. Thế là Ngài cùng với mấy vị đệ tử như Pháp Thủ v.v… đến đầu nguồn, chỗ cũ của dòng nước ấy xưa nay khô cạn, đất nứt nẻ như vết xe. Những người đi theo Ngài sanh lòng nghi ngờ sợ rằng khó tìm được nước. Ngài ngồi trên giường dây xếp, đốt hương An Tức. Chú nguyện mấy trăm lời, ba ngày như vậy, bỗng nhiên một dòng nước nhỏ vọt ra, có một con rồng nhỏ dài khoảng năm, sáu tấc, theo dòng nước hiện ra, các đạo só tranh nhau đến xem. Ngài bảo: Loài rồng có khí độc chớ lên trên đó. Lát sau nước cuồn cuộn chảy ra đến nổi đầy các con hào, rạch trong thành. Ngài ngồi yên rồi than rằng: Hai hôm nữa sẽ có một kẻ tiểu nhân quấy phá nơi này. Chẳng bao lâu ở thành Tương Quốc có người tên là Tiết Hợp có hai người con, chúng còn nhỏ dại lại kiêu ngạo, kh- inh khi một tên nô bộc thuộc tộc Tiên Ty. Tên này nổi giận rút dao giết người con, bắt người anh vào phòng dí dao vào ngực rồi nghó rằng: Nếu có ai vào ta hạ thủ ngay. Ông bảo Tiết Hợp rằng: Đưa ta về nước thì ta và con ông đều được sống, không như vậy thì cả hai cùng chết. Vì thế người trong ngoài đều hoảng sợ, chẳng ai dám đến xem. Thạch Lặc đích thân đến xem rồi bảo Tiết Hợp rằng: Để cho tên nô bộc đó trở về nước là bảo toàn mạng sống cho con ngươi, thật là việc tốt. Pháp này một khi truyền ra thì sẽ hại cho đời sau, khanh hãy lượng thứ. Nước có pháp luật, để ta sai người giết tên nô này. Tên nô bộc bèn giết người con lớn của ông ta rồi cùng chết. Đoạn Ba thuộc tộc Tiên Ti nổi dậy đánh Thạch Lặc, quân ông rất đông. Thạch Lặc hoảng sợ hỏi ngài Đồ Trừng. Ngài đáp: Hôm qua tiếng linh trong chùa báo: Sáng mai đến giờ ăn sẽ bắt được Đoạn Ba. Thạch Lặc leo lên thành nhìn thấy quân của Đoạn Ba trùng trùng điệp điệp, bèn thất sắc nói: Quân đi dậy đất, làm sao bắt được Đoạn Ba. Chẳng qua là Ngài trấn an ta thôi. Bèn sai Quý An sang hỏi ngài Đồ Trừng. Ngài đáp: Đã bắt được Đoạn Ba rồi. Bấy giờ đội quân mai phục ở thành Bắc đi ra tha Đoạn Ba và bắt được ông. Ngài Đồ Trừng khuyên Thạch Lặc cho Đoạn Ba để ông trở về nước. Thạch Lặc tuân theo lời khuyên ấy, rốt cuộc có chỗ dùng. Lúc này Lưu Tải đã chết, em họ của ông Lưu Diệu soán ngôi Ngụy vị. Xưng hiệu Quang Sơ. Quang Sơ năm thứ 8, Lưu Diệu phái em họ mình là Trung Sơn Vương Nhạc đem binh đánh Thạch Lặc. Thạch Lặc sai Thạch Hổ thống lãnh bộ kî đánh lại. Đại chiến xảy ra ở Lạc Tây. Lưu Nhạc đại bại lui về trấn thủ đồn Thạch Lương, Thạch Hổ dựng rào ngăn chặn. Ngài Đồ Trừng cùng với đệ tử từ Quan tự đến Trung tự, lúc mới vào cổng chùa than rằng: “Lưu Nhạc đáng thương”. Đệ tử Pháp Tộ hỏi nguyên do. Ngài Đồ Trừng nói: Giờ hợi hôm qua Lưu Nhạc đã bị bắt. Quả đúng như lời ấy. Niên hiệu Quang Sơ thứ 11, Lưu Diệu dẫn binh công phá Lạc dương. Thạch Lặc định đích thân đến phạt Lưu Diệu, quan lại trong triều đều can ông. Thạch Lặc đến hỏi ý kiến ngài Đồ Trừng. Ngài đáp: Tiếng linh tương luân báo rằng: Tú Chi Thế Lệ cương bộc Cốc Câu Ngóc Đang. Đây là lời của dân tộc Yết. Tú Chi Thế Lệ Cương nghóa là xuất. Bộc Cốc là địa vị của Lưu Diệu ở dân tộc Hồ. Câu Ngốc Đương là bắt. Câu này nghóa là khi quân xuất binh thì bắt được Lưu Diệu. Khi đó Từ Quang nghe Phật Đồ Trừng nói vậy gắng khuyên Thạch Lặc đi. Thạch Lặc bèn để con trưởng là Thạch Hoằng ở lại trấn thủ thành Tương Quốc với ngài Phật Đồ Trừng. Ông đích thân thống lãnh trung quân bộ kî kéo thẳng đến thành Lạc dương. Khi hai quân vừa giao chiến, quân Lưu Diệu tan vỡ, người ngựa rơi xuống sông. Thạch Kham bắt sống ông ta giao cho Thạch Lặc. Lúc ấy ngài Đồ Trừng lấy dầu xoa vào lòng bàn tay, nhìn thấy trong đám đông có một người bị trói, sợi dây buộc vào cổ tay, nhân đó Ngài báo cho Thạch Hoằng biết: Đúng lúc này bắt sống Lưu Diệu. Sau khi bình định được loạn Lưu Diệu. Thạch Lặc tiếm xưng Triệu Thiên Vương, nghi lễ pháp phục đều theo phong cách của hoàng đế, đổi niên hiệu Kiến Bình. Năm đó nhằm niên hiệu Hàm Hòa thứ 5 nhà Tấn. Sau khi Thạch Lặc lên ngôi ông hết lòng cung kính Phật Đồ Trừng. Lúc ấy Thạch Thông tạo phản. Ngài Đồ Trừng răn Thạch Lặc rằng: “Năm nay hành bị sâu, ăn vào ắt gây nguy hại người ta. Hãy hạ chiếu chỉ cho muôn dân, dù gì đi nữa cũng không được ăn hành. Đến tháng 8 quả nhiên Thạch Thông bỏ trốn, Thạch Lặc càng tôn kính Ngài hơn. Từ đó mỗi khi có hữu sự ông đều tham vấn Ngài trước rồi sau đó mới thi hành, còn ban cho Ngài mỹ danh Đại Hòa thượng. Thạch Hổ có người con tên là Thạch Bân, sau này Thạch Lặc coi như con, yêu thương hết mực, người này đột nhiên bị bệnh rồi chết. Trải qua hai ngày, Thạch Lặc nói: Trẩm nghe Thái tử nước Quắc chết rồi mà nhờ thần y Biển Thước cứu sống được. Đại hòa thượng là thần nhơn của nước ta, hãy mau đến đó mời Ngài, may ra có thể ban phước. Ngài Đồ Trừng bèn lấy nhành dương chú nguyện, lát sau ông ta tỉnh lại, rồi chẳng mấy chốc thì hồi phục. Do vậy mà Thạch Lặc đem mấy đứa trẻ gởi vào chùa nuôi. Mỗi năm đến mồng 8 tháng 4 Thạch Lặc đích thân đến chùa dự lễ tắm Phật, vì con mà phát nguyện. Đến tháng 4 niên hiệu Kiến Bình thứ 4 trời yên gió lặng mà trên tháp chỉ có một cái linh reo. Ngài Đồ Trừng bảo đại chúng rằng: Tiếng linh báo: Nội trong năm nay nước có tang lớn. Đúng tháng 7 năm ấy Thạch Lặc băng hà. Thái tử Hoằng lên kế vị, nhưng chẳng bao lâu sau Thạch Hổ phế ngôi và tự lập, dời đô về đất Nghiệp, lập niên hiệu Kiến Vũ, dốc lòng phụng thờ Phật Đồ Trừng còn hơn cả Thạch Lặc. Ông bèn dâng thư nói rằng: Hòa thượng là của báu lớn của đất nước, tước vị không màng, lộc cả không nhận. Vinh lộc không đoái hoài thì tại sao không lấy đức hạnh để biểu dương. Từ nay trở đi phải mặc y kim tuyến, đi xa giá chạm trổ. Ngày triều hội và thăng điện. Pháp Thường cúi xuống đỡ giúp Ngài lên kiệu. Thái tử và chư công tử đỡ Ngài lên. Tọa chủ xướng rằng: Đại hòa thượng đến, chúng đang ngồi đều đứng dậy để tỏ lòng tôn kính. Vua lại sai Ngụy tư không Lý Nông đêm ngày thăm viếng vấn an. Thái tử, công tử năm ngày đến tham kiến một lần. Bấy giờ ngài Đồ Trừng ở trong ngôi chùa nội thành đất Nghiệp, bảo đệ tử Pháp Thường về phía Bắc đến thành Tương Quốc. Lại có một người đệ tử là Pháp Tá từ Tương Quốc trở về. Hai vị gặp nhau ở thành Lương Cơ và cùng ngủ qua đêm ở đó. Hai xe đối nhau trong đêm mà bàn về thầy mình. Sáng hôm sau mỗi người đi một hướng. Pháp Tá lúc trở về vừa vào tham kiến Phật Đồ Trừng. Ngài cười khẩy nói rằng: Hôm qua ông và Pháp Thường kề xe nhau mà bàn về thầy ông hả. Người xưa có câu: Ở nơi vắng vẻ mà không đổi lòng thì chẳng phải là cung kính sao? Một mình mà hết sức cẩn trọng thì chẳng phải không biếng nhác ư! Ở một mình nơi vắng vẻ là việc gốc của sự kính trọng và cẩn thận, ông không biết chăng? Pháp Tá ngạc nhiên cảm thấy xấu hổ rồi xin sám hối thầy. Từ đó người dân trong nước đều bảo với nhau rằng: Chớ khởi tâm ác, hòa thượng sẽ biết ý ông đấy. Rồi từ đó Ngài ở đâu họ cũng không dám hướng về đó khạc nhổ và đại tiểu tiện. Lúc đó thái tử Thạch Thúy có hai người con ở Tương Quốc. Ngài Đồ Trừng bảo Thạch Thúy rằng: Tiểu A di mấy hôm nay bị bịnh Thái tử hãy đến đón về. Thạch Thúy cấp tốc cho người mang thư qua thăm, quả nhiên con ông bị bịnh rồi. Thái y Ân Đằng và đạo só nước ngoài bảo rằng họ có thể trị được. Ngài Đồ Trừng bảo đệ tử Pháp Nha rằng: Dẫu cho các bậc thánh xuất hiện cũng không trị khỏi bịnh này, huống gì các người này ư? Ba hôm sau quả nhiên Tiểu A di chết. Thạch Thúy say sưa trong men rượu, mưu toan tạo nghịch, rồi bảo hoạn quan rằng: Hòa thượng có thần thông có thể phát giác được âm mưu của ta, ngày mai ngươi vào hãy sớm trừ đi. Rằm tháng đó, trước khi vào cung triều kiến Thạch Hổ, ngài dặn Tăng Tuệ rằng: Tối qua thiên thần báo với ta: Nếu ngày mai Ngài vào cung xong rồi trở về chớ ghé qua chỗ của Thạch Thúy. Nếu ta có qua đó ngươi hãy ngăn ta lại. Ngài Đồ Trừng theo lệ thường, mỗi khi vào cung đều ghé qua chỗ Thạch Thúy. Ông ta biết Ngài vào nên đón đường ng- hênh thỉnh rất ân cần. Khi Ngài sắp đến Nam đài, Tăng Tuệ kéo áo lại. Ngài nói: Sự việc đến nước này không thể dừng được. Ngài lên đài ngồi chưa yên thì đứng dậy. Thạch Thúy cố giữ lại nhưng không được, mưu kế không thành. Ngài trở về chùa than rằng: Thái tử tạo phản đã lộ chân tướng, muốn tố giác cũng khó, muốn bỏ qua không đành. Nhân một chuyện đùa Ngài khuyên Thạch Hổ. Nhưng ông chẳng hiểu gì. Chẳng bao lâu sự việc ấy phát khởi. Thạch Hổ mới hiểu ra lời Ngài nói. Sau đó đại tướng Quách Hắc Lược cử binh sang Bắc Trừơng An chinh phục rợ Khương, nhưng bị rơi vào vòng vây của địch. Lúc bấy giờ ngài Đồ Trừng ngồi trong tăng đường, đệ tử Pháp Thường hầu bên ca- ïnh, chợt Ngài lộ nét buồn và nói: Quách công bị rơi vào tay giặc. Ngài bảo chúng cùng nhau chú nguyện, lát sau lại nói: Nếu thoát ra từ hướng Đông nam thì sống, hướng khác thì khốn, rồi lại chú nguyện tiếp, bỗng chốc nói rằng: thoát rồi. Vào tháng sau Hắc Lược trở về kể lại: Lúc rơi vào vòng vây của rợ Khương, đang lúc chạy về hướng Đông nam thì ngựa kiệt sức. Ngay lúc đó gặp một người dưới trướng nhường ngựa cho và nói: Tướng quân cỡi ngựa này còn tiểu nhân cưỡi ngựa của Ngài. thoát được hay không còn tùy vào vận mệnh. Hắc Lược nhờ con ngựa ấy nên được thoát. Ng- hiệm lại ngày đó chính là lúc ngài Đồ Trừng chú nguyện. Tư mã Yến Công Thạch Bân được Thạch Hổ cho làm quan trấn nhậm ở U Châu. Ông này kết bè đảng làm điều bạo ngược, ngài Đồ Trừng khuyên Thạch Hổ. Tối qua thiên thần báo: Hãy mau bắt “mã” về, đến mùa thu thảy “Tề” đều chết cóng. Thạch Hổ không hiểu lời ấy, liền ra lệnh khắp nơi bắt ngựa nộp về cung. Mùa thu năm ấy có người lén tâu việc nổi loạn của Thạch Bân cho Hổ nghe. Thạch Hổ triệu Tha- ïch Bân về phạt ba trăm roi, giết luôn mẹ ông ta là Tề thị. Thạch Hổ giương cung gắn tên vào, thấy người phạt Bân đánh quá nhẹ, ông tính ra tay giết luôn năm trăm người. Ngài Đồ Trừng can rằng: Tâm không được tùy tiện giết người, bởi khi họ chết rồi thì không sống lại được. Theo phép tắc thì vua không được đích thân sát hại mà tổn đức. Bởi đâu có vị vua nào mà đích thân sát phạt ư. Thạch Hổ nghe lời khuyên nên ngừng tay. Về sau quân Tấn khởi binh ở vùng Hoài Tứ, Lũng Bắc, Ngõa Thành, những nơi đó đều bị xâm chiếm, bức bách. Ba phương cấp báo, tình thế rối ren Thạch Hổ nổi giận nói: Ta phụng thờ Phật pháp mà lại bị giặc dã xâm lăng, Phật không linh nghiệm ư? Sáng hôm sau ngài Đồ Trừng vào cung sớm. Thạch Hổ đem sự tình ấy hỏi Ngài. Nhân đó Ngài khuyên Thạch Hổ: Trong quá khứ, Đại vương từng làm một thương chủ, thường đến chùa Kế Tân để cúng dường, trong đại hội có sáu mươi vị A-la-hán, tiền thân của tôi cũng ở trong hội ấy. Lúc đó có vị nói với tôi rằng: Vị thân chủ này sau khi chết sẽ trở lại làm thân gà, rồi kế tiếp làm vua ở đất Tấn. Hôm nay đại vương lên làm vua há chẳng phải là phước đất sao. Giặc dã nơi biên cương là chuyện thường tình của đất nước, đâu vì sự tức giận mà khởi tâm hủy báng Phật pháp. Thạch Hổ tin hiểu lời khuyên ấy nên qùy xuống sám hối. Có lần ông hỏi ngài Đồ Trừng: Phật dạy không được sát sanh, trẫm là vua của muôn dân nếu không dùng hình phạt thì chẳng biết lấy gì để an dân, định bình đất nước, vậy phải phạm giới sát sanh sao? Dù có phụng sự Phật pháp đâu có ích gì. Ngài Đồ Trừng khuyên: Đế vương thờ Phật cốt ở việc thân phải cung kính, tâm phải tín thuận để xiển dương Tam bảo, không làm điều bạo ngược và giết hại người vô tội. Giả như có kẻ hung bạo, vô lại không thể cải hóa, sửa đổi được. Có tội thì không thể không giết, làm ác không thể không gia hình. Nhưng chỉ giết những người đáng chết, hãy phạt những kẻ không thể tha thôi. Nếu bạo ngược tùy tình giết hại người vô tội thì dẫu dốc hết tài sản phụng sự Phật pháp cũng không thoát được tai họa, xin bệ hạ bớt lòng ham muốn, khởi lòng thương xót khắp đến tất cả, thì Phật pháp mãi được hưng thịnh, vương vị mới được lâu bền. Thạch Hổ tuy không thực hành theo hết những lời Ngài khuyên, nhưng làm rất nhiều lợi ích. Quan thượng thư của Thạch Hổ như Trương Ly, Trương Lương là những phú gia phụng thờ Phật pháp, mỗi người xây một tháp lớn. Ngài Đồ Trừng nói: Thờ Phật cốt ở lòng thanh tịnh, tâm vô dục, thương xót muôn loài. Thí chủ dẫu bên ngoài phụng sự Phật pháp mà trong lòng tham lam chưa dứt, săn bắn vô độ, tích chứa không nhàm chán thì hiện đời sẽ mắc tội, phước báo nào mà mong mỏi. Các người trong bọn Trương Ly… sau này đều bị mưu sát. Lúc bấy giờ hạn hán kéo dài, từ tháng giêng đến tháng 6.Thạch Hổ sai thái tử đến cửa sông phủ ở phía tây thành Lâm Chương cầu mưa, lâu lắm mà trời thần vẫn không mưa. Thạch Hổ mời Phật Đồ Trừng cầu mưa, tức thời có con rồng trắng hai đầu giáng xuống. Hôm ấy trời mưa to, khắp cả vài ngàn dặm vuông, năm đó trúng mùa. Những người thổ dân vùng biên địa xưa nay không biết Phật pháp, nghe ngài Đồ Trừng có thần thông linh nghiệm, đều từ xa hướng về lễ bái. Ngài tuy chẳng nói lời nào mà thảy được cảm hóa. Có lần ngài Đồ Trừng bảo đệ tử về Tây Vức mua hương, khi vị kia đi rồi, Ngài bảo với các vị còn lại: Xoa hai bàn tay ta thấy người mua hương ở xứ ấy bị giặc cướp sắp hại chết. Do đó mà Ngài đốt hương chú nguyện trợ cứu đệ tử. Sau này vị ấy trở về kể lại, vào ngày đó, tháng đó, ở nơi đó, con sắp bị giặc cướp giết. Nhưng bỗng nhiên họ ngửi thấy mùi hương. Bọn họ vô cớ hoảng sợ bảo nhau rằng: “Cứu binh đến rồi” thế là họ cùng nhau tháo chạy. Thạch Hổ sửa sang những ngôi tháp cũ ở Lâm Chương nhưng thiếu thừa lộ bàn. Ngài Đồ Trừng bảo: nội thành Lâm Truy có ngôi tháp cũ do vua A Dục tạo. Dưới lòng đất có thừa lộ bàn và tượng Phật, phía trên cây cối mọc um tùm, hãy đến đó đào lên đem về. Rồi Ngài vẽ bản đồ đưa cho sứ giả. Sứ giả theo lời chỉ bảo đến đó khai quật, quả được thừa lộ bàn và tượng Phật. Thạch Hổ từng đem binh chinh phạt dân tộc Yên. Ngài Đồ Trừng khuyên rằng vận mệnh nước Yên chưa hết, khó mà thắng được. Thạch Hổ không nghe, mấy lần xuất binh đều bị bại trận nên mới nghe lời khuyên này. Ngài Đồ Trừng giáo hóa cùng khắp, dân chúng phần đông phụng thờ Phật pháp, và đều xây dựng chùa chiền, tranh nhau xuất gia. Ngụy dân hỗn loạn phát sinh nhiều tội lỗi. Thạch Hổ viết thư hỏi trung thư rằng: Phật hiệu Thế Tôn, quốc gia phụng sự, thôn ấp xóm làng người nào cũng hưởng bổng lộc, đều ứng với sự việc của Phật chăng. Lại nữa, Sa-môn đều phải thanh cao, chánh trực, tinh tấn, mới có thể làm đạo só. Nay Sa-môn rất nhiều, hoặc có kẻ trộm cướp, trốn dịch, làm việc phi pháp. Có thể thanh lọc bớt những kẻ giả mạo. Trung thư viết Lang vương Độ tấu: Luận về đế vương tế lễ thiên địa, phụng cúng trăm thần. Ghi chép trong sách lễ, cúng thì có thưởng thức. Phật ra đời ở Tây Vức là thần thánh của ngoại quốc. Công không thí dân, chẳng phải thiên tử của các nước Trung Hoa nên phụng cúng. Xưa kia Hán Minh đế cảm mộng mới cho truyền đạo này, chỉ cho phép người Tây Vực được lập chùa, khắp đô ấp phụng thờ vị thánh ấy. Người Hán thì không được phép xuất gia. Ngụy căn cứ pháp chế của Hán đế cũng thi hành theo pháp ấy. Nay đại Triệu vâng mệnh, tuân theo chương cũ. Hoa, Nhung chế khác. Người thần truyền riêng. Ngoại không giống nội. Hưởng tế khác biệt. Hoa Hạ phục lễ không nên lầm lẫn, lộn xộn, quốc gia nên cấm, người nước Triệu tất không được phép đến chùa đốt hương lễ bái, vì tuân theo điển lễ thì bách tính khanh só cho đến dân chúng đều phải cấm kî. Hễ ai phạm thì xử tội đồng như dâm tế. Người nước Triệu làm Sa-môn trở lại phục tùng tứ dân. Ngụy trung thư lệnh Vương Ba cùng Độ khấu bái. Thạch Hổ viết thư nói rằng: Độ cho rằng: Phật là vị Thánh ở nước ngoài, thiên tử của các dân tộc Trung Hoa không nên phụng thờ. Trẫm sinh ra từ biên địa Nhưỡng Thiểm, đảm đương trách nhiệm của bậc quân chủ, đến nước Hoa Hạ, tận hưởng bổng lộc nên phải tuân theo phong tục ở đây. Phật là vị Thánh ở Nhung nên phải phụng kỉnh. Hễ ban hành pháp chế từ vua thì pháp ấy lưu mãi ở đời, nếu sự không khuyết thì đâu cần câu nệ đời trước. Các bộ tộc Di, Triệu, Mà có ai bỏ dâm tế mà phụng sự Phật pháp thì ta cho phép họ tu đạo. Thế là những kẻ xem thường giới luật nhân đó được khích lệ. Hoàng Hà lâu nay không có ba ba sinh sống. Bỗng nhiên có người bắt được một con đem dâng cho Thạch Hổ. Phật Đồ Trừng thấy vậy than rằng: “Hoàn Ôn sắp vào khu vực Hoàng Hà rồi” Ôn tự là Nguyên tử. Sau này quả đúng như lời nói ấy. Lúc bấy giờ ở Ngụy huyện có một lưu dân chẳng rõ họ tên, quê quán, ông ta thường mặc quần bố, áo gai, đi xin ăn trong chợ huyện Ngụy. Cho nên người thời ấy gọi là Ma nhu. Ngôn ngữ trác việt, hình dạng tợ người cuồng. Xin được lương thực nhưng không ăn mà đem rải khắp đường xá và nói rằng cho ngựa trời ăn. Thái thú trong phủ Triệu Hưng là Tạ Bạt bắt ông đem giao cho Thạch Hổ. Trước kia Phật Đồ Trừng bảo Thạch Hổ: Vào ngày đó tháng đó cách hai trăm dặm về phía Đông có người đem hiến cho bệ hạ một kẻ phi thường, chớ giết ông ta. Đúng thời gian đó, ông ta được đem đến. Thạch Hổ đàm luận với ông chẳng thấy gì kỳ bí, chỉ nói một câu: “Bệ hạ cuối cùng sẽ mất dưới trụ cầu”. Thạch Hổ không hiểu lời này, nên dẫn đến gặp ngài Phật Đồ Trừng. Ma Nhu nói với Ngài: Ngày xưa gặp nhau trong hội Quang Hòa, lặng bặt đến hôm nay. Vào năm Dậu, Tuất sẽ chịu mệnh trời, tuyệt chẳng thể kỳ vọng nữa, vàng tan hoại trong đất (tức một thời hoàng kim rồi cũng tan hoại), nơi biên địa hoang vu sẽ không còn tôn quý, xua đuổi những dấu vết kỳ bí, chẳng còn những điều tốt đẹp nữa. Con cháu đời sau đông đúc, họ kéo nhau về một nơi để đoàn tụ an sống đến kỳ nào mà cứ khen tặng thời đó. Ngài Đồ Trừng nói: Vận trời xoay vần đến chỗ cực bỉ, lẽ nào không còn con cháu nối dõi sao? Nước xảy ra họa hoạn mà không thể dùng pháp thuật an định được nữa. Bậc hiền triết tuy còn ở đời vẫn không thể cứu được, nhưng đời không hay, nền móng ắt sẽ suy sụp, từ lâu dạo chơi trong chốn Diêm-phù, phần nhiều họa hoạn sanh ra từ lợi lộc, vọt lên mây xanh mà đi, dạo chơi trong chốn vũ hội. Hai vị cùng đàm luận suốt ngày đêm. Mọi người chẳng ai hiểu được gì, có vị lén nghe chỉ hiểu được đôi ba lời. Suy ra giống như bàn về chuyện mấy trăm năm. Sau đó Thạch Hổ cho quân đưa người ấy trở về Ngụy huyện. Xe vừa ra khỏi thành, người đó bèn xuống xe đi bộ và bảo rằng: Tôi đi bộ được và có chỗ cần ghé qua nên không đi chung được. Đến cầu Hợp Khẩu hãy dừng lại đợi tôi. Quan quân đánh xe ngựa chưa đến cầu Hợp Khẩu thì đã thấy người đó đứng trên cầu. Xét lại con đường ấy dường như chim bay. Ngài Đồ Trừng có đệ tử là Đạo Tấn uyên bác thông suốt ngoại điển nội thư, được sự kính trọng tột bậc của Thạch Hổ. Có lần nói chuyện với ẩn só. Thạch Hổ nói với Đạo Tấn rằng: Có người ở Dương Kha là dân của trẫm. Hơn mười năm nay ông ta không tuân kính vương mệnh. Cho nên trẫm đến đó xem thử. Khi trẫm đến ông ta ngang nhiên nằm trên giường. Trẫm tuy không có đức nhưng là một ông vua ban truyền khắp vạn bang. Vua chúa xưa nay làm long trời dậy đất. Tuy không thể khiến gỗ đá khuất phục nhưng đâu có kẻ thất phu nào mà kiêu ngạo mãi ư! Thuở xưa Thái Công nhà Tề, trước tiên tru di Hoa só. Thái công hiền triết đâu thể nhầm người ấy ư. Đạo Tấn đáp: Xưa, Thuấn ưa mặc áo bố, Vũ tạo Bá Thành. Ngụy trang sức can mộc, Hán tô điểm Chu Đảng. Quản Ninh không phải Tào thị. Hoàng Phổ không khuất phục Tấn Thế. Hai thánh, bốn vua cùng nhau tạo thêm vẻ đẹp. Nếu muốn khích lệ dân cùng nhau tô điểm giang sơn thì mong bệ hạ noi theo đức của Thuấn Vũ, chớ bắt chước Thái công dùng hình phạt. Vua đã xem mọi sách, đâu thể khiến Triệu Sử không truyền chuyện ẩn dấu. Thạch Hổ rất vui khi nghe lời khuyên này, bèn sai Dương Kha về chỗ mình ở. Bảo mười gia đình cung cấp cho ông. Đạo Tấn trở về trình bày đầy đủ sự việc đó với thầy. Ngài mỉm cười nói: Ông nói hay lắm! Nhưng mạng của Kha nguy hiểm đấy. Sau đó Tần châu nổi loạn, đệ tử của Kha dùng trâu chở Kha chạy trốn. Quân Nhung đuổi theo bắt và bức hại ông. Thạch Hổ một hôm nghỉ trưa mộng thấy bầy dê cõng cá từ hướng Đông bắc đến. Tỉnh dậy ông đem điềm mộng ấy hỏi ngài Đồ Trừng. Ngài đáp: đó là điềm bất tường. Bộ tộc Tiên Ti chiếm Trung Nguyên chăng? Quả nhiên sau đó Mộ Dung đến Đất Nghiệp. Hôm nọ, ngài Đồ Trừng cùng Thạch Hổ ngồi trên sảnh đường. Ngài hốt hoảng nói: U châu đang bị hỏa tai, rồi Ngài lấy rượu rưới về hướng đó, lát sau cười nói rằng: “Cứu được rồi”. Thạch Hổ cho người đến U châu kiểm nghiệm, rồi trở về báo lại, ngày đó lửa dữ từ bốn phía thành bốc cháy. Ở phía Tây nam có đám mây đen kéo đến, tụ lại rồi mưa xuống diệt tắt. Trong nước mưa bốc mùi rượu. Đến tháng 7 niên hiệu Kiến Vũ thứ 14, Thạch Thao và Thạch Tuyên mưu toan sát hại lẫn nhau. Lúc Thạch Tuyên đến chùa, cùng ngồi đàm đạo với ngài Đồ Trừng trên tháp. Bỗng nhiên có tiếng linh reo. Ngài Đồ Trừng hỏi Thạch Tuyên: Thái tử hiểu tiếng linh này không. Tiếng linh báo rằng Hồ Tử Lạc Độ. Thạch Tuyên biến sắc nói: Đó là nghóa gì vậy. Ngài nói lánh sang chuyện khác: Ta đây hành đạo đáng ra phải ở nơi thâm sơn cùng cốc mà ngược lại mặc áo lụa, ăn đồ cao sang. Đây có phải là việc hưởng thụ sung sướng không (lạc độ). Sau đó Thạch Thao cũng đến chùa. Vừa gặp, Ngài nhìn trừng trừng, Thạch Thao hoảng sợ hỏi ngài Đồ Trừng. Ngài nói: Ta thấy trên thân người có mùi máu tanh nồng nặc. Đến tháng 8 Ngài bảo mười vị đệ tử trì trai ở thất riêng. Bấy giờ Ngài tạm vào Đông báo cáo cho Thạch Hổ và Đổ Hậu biết bên hông có giặc, nội trong mười ngày, từ chánh điện đến phía Tây, từ cung này đến phía Đông sẽ có máu rơi. Dù thế nào cũng không được đi về phía Đông. Đổ Hậu nói: Hòa thượng lẩm cẩm thôi, giặc đâu mà giặc. Ngài Đồ Trừng nói lảng sang chuyện khác: chỗ thọ nhận của sáu căn đều là giặc. Lão tăng đây đúng là già rồi, nhưng muốn khiến cho người trẻ không nhầm lẫn. Ngài dùng lời ngụ ý mà không nói rõ lại chuyện đó nữa. Hai hôm sau quả nhiên Thạch Tuyên sai lính đến giết Thạch Thao ở trong chùa. Định nhân cơ hội Thạch Hổ đến điếu tang thì ra tay tạo nghịch. Nhưng Thạch Hổ nhờ lời khuyên trước kia của ngài Đồ Trừng nên thoát nạn. Sự việc của Thạch Tuyên bị bại lộ và ông bị bắt. Ngài Đồ Trừng can Thạch Hổ “Đã là con của bệ hạ sao lại gia hình nặng được! Nếu bệ hạ nén giận khởi lòng thương xót thì triều đại của bệ hạ kéo dài hơn sáu mươi năm. Nếu như quyết định phải trừng phạt thì Thạch Tuyên sẽ làm ngôi sao chổi quét sạch nghiệp cung. Thạch Hổ không nghe lời can gián, dùng móc sắt móc cổ Thạch Tuyên kéo lên đống củi mà đốt đi. Bắt hết thuộc hạ hơn ba trăm người ở trong cung Thạch Tuyên cho xe kéo phanh thây rồi ném xuống sông Chương. Ngài Đồ Trừng bảo các đệ tử trì trai hãy thôi không cần ở thất nữa. Tháng sau, có con quái mã, lông bờm và đuôi có dạng bị cháy. Vào cửa Trung Dương ra cửa Hiển Dương không vào được Đông cung. Nó chạy về hướng Đông bắc, lát sau biến mất. Ngài Đồ Trừng hay tin ấy than rằng: Tai họa đến rồi. Đến tháng 11 Thạch Hổ mở tiệc đãi quần thần ở trước điện Thái Vũ, Ngài ngâm: Điện hỡi, điện hỡi! Cức tử (gai góc) mọc thành rừng, sẽ làm rách áo người. Thạch Hổ ra lệnh cho lật những tảng đá dưới sân điện lên xem, quả nhiên có gai mọc. Ngài Đồ Trừng trở về nhìn tượng Phật nói: Buồn thay! Không còn trang nghiêm nữa. Rồi Ngài nói một mình: Được ba năm chăng! Tự đáp: Không được, không được. Lại nói: Được hai năm chăng, hay một năm một trăm ngày, hoặc một tháng. Tự đáp: Không được. Rồi Ngài im lặng trở về phòng bảo đệ tử Pháp Tộ: Năm Mậu Thân họa hoạn sẽ manh nha. Sang năm Kỷ Dậu thì toàn bộ họ Thạch bị tiêu diệt. Ta sẽ ra đi trước lúc loạn lạc xảy ra. Ngài bèn sai đệ tử đến từ biệt Thạch Hổ: “Định luật của muôn vật ắt có đổi thay. Thân mạng con người cũng không thể bảo tồn. Thân vô thường biến diệt này gánh vác đạo pháp đã đến lúc phải buông xả rồi. Nhưng bấy lâu nay mang ơn của bệ hạ rất sâu nặng, nên hôm nay kính tâu trình trước”. Thạch Hổ ngậm ngùi nói: “Trẫm không nghe hòa thượng mắc bịnh, sao bỗng nhiên lại đến cáo chung. Rồi ông đích thân đến chùa an ủi, thăm hỏi. Ngài Đồ Trừng nói: Vào sanh ra tử là lẽ thường tình số mệnh dài ngắn đã phân định chẳng phải là điều có thể kéo dài được. Luận về đạo thì trọng nơi việc làm tròn đủ, về đức thì quý ở sự siêng năng. Nếu đức hạnh được viên mãn thì dẫu mất cũng như còn. Ngược lại mà sống lâu thì chẳng phải sở nguyện của người tu đạo. Nay ý tôi chưa nói hết, đại vương đem tâm quốc gia mà thờ Phật, phụng pháp không xan tiếc. Như xây dựng chùa chiền trang nghiêm tráng lệ, tương xứng với công đức này đáng ra phải hưởng phước lợi. Mà lại cai trị bạo ngược, hình phạt tàn khốc. Đối với thế gian là trái kinh điển của thánh hiền. Đối với cõi âm thì trái phép tắc, nếu không tự răn mình, sửa đổi thì trọn chẳng được mảy phước nào cả. Nếu hồi tâm chuyển ý, ban bố ân Tuệ cho muôn dân thì vương vị sẽ được bền vững, đạo tục cũng được nương nhờ. Mãn thọ thì an nhiên ra đi mà không còn gì phải hối hận. Thạch Hổ đau xót, nghẹn ngào biết rằng Ngài sẽ ra đi, liền cho người đào huyệt xây tháp. Đến ngày mồng tám tháng 12, Ngài thị tịch ở chùa trong Diệp Cung. Năm ấy nhằm niên hiệu Vónh Hòa thứ 4 đời Tấn Mục Đế, quan dân, binh lính xót thương, than khóc chấn động cả nước. Ngài thọ một trăm mười bảy tuổi. Vẫn hạ huyệt ở phía Tây thành Lâm Chương, tức là ngôi tháp mà Thạch Hổ mới xây. Chẳng bao lâu sau, Lương Độc nổi loạn, sang năm sau Thạch Hổ mất. Nhiễm Mẫn soán ngôi, sát hại cả tộc họ Thạch. Nhũ danh của Mẫn là Cức Nô. Đúng như lời đoán trước đây của Ngài Đồ Trừng. “Cức tử thành rừng vậy”. Thuở sinh thời bên cạnh ngực trái của Ngài có một lổ hổng, chu vi khoảng bốn, năm tấc, thông suốt vào trong ruột. Có khi ruột lòi ra thì Ngài lấy bông nhét lại. Ban đêm muốn đọc sách, Ngài lôi bông ra ngoài thì ánh sáng tỏa khắp phòng. Hễ đến ngày trai thì Ngài ra sông kéo ruột ra để rửa, xong rồi nhét trở vào. Ngài cao tám thước, nghi dung tuấn tú, thâm giải kinh điển, thông suốt thế luận. Lúc giảng kinh Ngài chỉ đề xuất tông chí, khiến thính giả tự nhiên quán thông đầu đuôi và hiểu rõ nghóa lý. Lại thêm vào đó là lòng từ bi vô hạn, thương xót quần sanh và cứu vớt hoạn nạn cho muôn dân. Chính như hai vua họ Thạch hung hãn, bạo ngược, vô đạo. Nếu không có Ngài xuất hiện cùng thời thì ai có thể khuyên can được. Chỉ vì muôn dân được thừa hưởng ân đức trong cuộc sống hằng ngày mà không biết đó thôi. Mấy mươi vị danh tăng như Trúc Phật Điều, Tu-bồ-đề v.v…. đều xuất thân từ Tây Trúc, Khang Cư, không ngại đường xa mấy ngàn dặm, lặn lội qua sa mạc đến thọ giáo ngài Đồ Trừng. Hay ngài Thích Đạo An ở phiền Miện, Trúc Pháp Nhã ở Trung Sơn, đều băng đèo vượt ải đến nghe Ngài thuyết pháp. Tất cả đều tinh thông diệu lý, nghiên cứu tột cùng mọi lẽ mầu nhiệm của kinh điển. Có lần, Ngài tự nói: Quê hương ta cách kinh đô Nghiệp hơn chín vạn dặm, ta bỏ tục xuất gia một trăm lẻ chín năm, rượu chưa từng thấm vào môi, quá ngọ không ăn, không phạm giới luật, vô dục, vô cầu. Những bậc danh tăng thọ pháp thường ở bên Ngài có khoảng mấy trăm. Còn môn đồ trước sau cả thảy một vạn. Những châu quận mà Ngài dấn thân đến, chùa chiền được xây khoảng tám trăm chín mươi ba ngôi. Sự nghiệp hoằng pháp rất hưng thịnh, không ai hơn Ngài. Lúc Thạch Hổ mới tẩn liệm Ngài, ông lấy tích trượng và bát thuở sanh thời đặt vào kim quan. Sau này Nhiễm Mẫn soán ngôi, cho người mở quan tài ra chỉ còn tích trượng và bát không thấy thi hài đâu cả. Có thuyết cho rằng vào tháng Ngài mất, có người thấy Ngài ở sa mạc. Thạch Hổ nghi ngài chưa mất, cho người quật mồ mở nắp quan tài ra thi không thi hài. Sau này Mộ Dung Tuấn đặt kinh đô ở đất Nghiệp và ở trong cung Thạch Hổ. Một hôm chợt mộng thấy hổ (cọp) cắn tay mình, ý ông cho rằng đó là oan hồn Thạch Hổ. Ông cho người tìm khắp các nơi, tìm thấy thi hài của Thạch Hổ được chôn ở Đông Minh Quán. Thế là họ quật lên nhưng thi hài khô quá mà không bị băng hoại, Dung Tuấn đạp lên xác Thạch Hổ mắng rằng: “Chết rồi sao dám dọa vua sống, ông tạo lập cơ nghiệp mà con ông mưu phản, cướp đoạt, huống chi là người khác ư. Rồi lấy roi quất vào thi hài lăng nhục và ném xuống sông Chương. Thi hài mắc vào tụ cầu không trôi đi. Tướng nhà Tần là Vương Mãnh vớt lên đem chôn. Đây chính là câu “điện một trụ” của Ma Nhu nói. Sau này Phù Kiên chinh phạt kinh đô Nghiệp. Con của Tuấn là Dung Vó bị đại tướng của Phù Kiên là Quách Thần Hổ bắt sống. Ng- hiệm lại đúng là giấc mộng trước kia Dung Tuấn thấy cọp vậy. Điền Dung Triệu ghi rằng: Trước mấy năm Ngài tịch, tự cho xây mộ. Không thấy thi thể, sau Mộ Dung Tuấn đến Nghiệp, ở trong cung của Thạch Hổ …Ngài biết rằng mộ này ắt có người khai quật. Hơn nữa thi hài không có trong đó đâu có sự chuẩn bị trước, e rằng mộ Dung nhầm. Ngài còn có tên Phật Đồ Đặng, hoặc Phật Đồ Tranh, hoặc Phật Đồ Đăng, đều phiên âm Phạm nên khác nhau thôi. ------------------------------------ <詞>ĐƠN ĐẠO KHAI Ngài họ Mạnh, người Đôn Hoàng. Thuở nhỏ đã có hoài bảo ẩn cư. Tụng kinh một ngày hơn bốn mươi vạn lời. Không ăn loại ngũ cốc mà chỉ dùng “Bách thật” (hạt cây bách). Bách thật khó kiếm được nên ăn mủ thông (tùng chỉ). Sau đó ăn sỏi. Một lần nuốt mấy hòn, mấy ngày nuốt một lần. Hoặc nhiều lúc ăn ớt nghệ (khương thúc). Cứ như vậy bảy năm, từ đó trở đi không ngại nóng lạnh. Mùa đông cơ thể ấm áp, mùa hạ thì mát mẻ. Đêm ngày không nằm, Ngài cùng với mười người bạn học cùng sống chung. Hơn mười năm có người chết, có người thối sụt. Chỉ mình Ngài giữ vững toàn chí. Thái thú Phụ Lăng đem ngựa đến đón Ngài. Ngài từ chối vì có thể đi bộ được ba trăm dặm đường. Một buổi sáng nọ Ngài đến dưới một gốc cây, có vị thần hiện thành hình kỳ dị để thử Ngài, Ngài vẫn thản nhiên. Vào năm thứ 12 Kiến Vũ nhà Thạch Hổ, Ngài từ Tây Bình, đi một ngày đi được bảy trăm dặm đến Nam An độ một cậu bé nhỏ làm sa-di. Năm đó chú mười bốn tuổi bẩm thọ giáo pháp, hạnh giải có khả năng bằng thầy mình. Khi ấy thái sử tâu với Thạch Hổ rằng: Có một ngôi sao tiên nhơn hiện ra, chắc sẽ có bậc cao só vào nước ta. Thạch Hổ ra lệnh khắp châu huyện hễ thấy ai lạ thì đến khải báo liền. Vào tháng 11 mùa đông năm ấy, thứ sử Tần châu dâng biểu về ngài Đạo Khai cho Thạch Hổ. Ban đầu Ngài ở trong miếu Pháp Lâm ở phía tây Nghiệp thành, sau này Ngài được mời về ở chùa Chiêu Đức Lâm Chương. Ngài tạo lại phòng ốc cao khoảng tám, chín trượng. Trên tấm biển ghi là Thiền Thất, như một cái rá mười hộc. Ngài thường ngồi ở trong đó, Thạch Hổ cúng dường tứ sự rất chu đáo. Nhưng Ngài đều lấy vật đó bố thí. Khi đó những người thích tu tiên kéo đến chất vấn Ngài nhưng Ngài không trả lời. Mà nói kệ rằng: Tôi chuộng tất cả khổ Xuất gia làm lợi ích Lợi thế phải học sâu Học sâu mới đoạn ác Núi xa lương thực hiếm Thực hiện kế nghỉ ăn Chẳng phải cầu tiên lữ Chớ truyền nhau lời ấy Khai có thể trị bệnh mắt. Thế là Tần Công, Thạch Thao đến đó nhờ Ngài trị bịnh mắt. Thuốc hay nên không làm đau nhiều, Thạch Thao rất bội phục Ngài, và rốt cuộc rất có hiệu quả. Ngài Phật Đồ Trừng nói: Vị đạo só này thấy được lẽ hưng suy của quốc gia. Nếu bỏ đi thì sẽ có tai họa lớn. Đến năm đầu Thái Ninh của Thạch Hổ, Ngài cùng đệ tử về phương Nam đến Hứa Xương. Con cháu Thạch Hổ sát hại lẫn nhau, kinh đô Nghiệp đại loạn. Đến năm thứ 3 Thăng Bình nhà Tấn, Ngài đến Kiến Nghiệp, không lâu sau thì đến Nam Hải. Sau đó vào núi La Phù, một mình nơi chòi tranh tiêu diêu với ngoại cảnh. Ngài tịch trong ngôi thất trên núi, thọ trên một trăm tuổi. Trước khi mất, Ngài dặn đệ tử đem thi hài đặt trong hang đá. Đệ tử dời Ngài về thất đó. Có người tên Khang Hoằng xưa kia ở miền bắc, nghe đệ tử kể ngài Đạo Khai ngày xưa ở torng núi thường có thần tiên tới lui. Ông ở nơi xa luôn tỏ lòng kính ngưỡng. Có lần đi dịch theo về Nam Hải, đích thân đến xem, hết lòng tôn sùng, thấy nghe đầy đủ, bèn làm kệ tán thán rằng: Lặng lẽ như người Phiêu nhiên tuyệt trần Ngoài theo Tiểu thừa Trong rỗng không thân Huyền tượng rạng ngời Bước cao đến đỉnh Ăn nấm, rau, cải Ngao du sông núi. Vào năm đầu Hưng Ninh nhà Tấn, Viên Hoằng ở Trần quận làm thái thú Nam Hải, cùng với em là Dónh Thúc, với bạn là Sa-môn Pháp Phòng lên núi La Phù, đến thất đá thấy hài cốt của Đạo Khai cùng khói hương bình hoa vẫn còn. Viên Hoằg nói: Đạo hạnh của Pháp sư quả tuyệt vời, giống như ve lột xác. Nói rồi làm bài kệ tán rằng: Người linh chiêu dị Đức rộng mênh mông Thăm thẳm u nhơn Vọng núi trong đồi Phiêu diêu linh tiên Từ đây tụ hội Lưu dấu ở rừng Ngàn năm noi theo. Sau này Sa-môn Tăng Cảnh, Đạo Tiệm đều muốn lên núi La-phù, nhưng rốt cuộc không đến đỉnh được. --------------------------------------- <詞>TRÚC PHẬT ĐIỀU Ngài là một vị danh tăng không rõ họ tên. Có người cho rằng Ngài là người Thiên Trúc. Thờ Phật Đồ Trừng làm thầy. Ở chùa Thường Sơn nhiều năm, tánh tình thuần phác, không thích nói lời hoa hoè. Thời đó đều cho rằng mẫu người như vậy là cao thượng. Chùa Thường Sơn có hai anh em phụng pháp, ở cách chùa trăm dặm. Vợ người anh bịnh nặng nên chở đến cạnh chùa để trị bịnh. Người anh thờ ngài Phật Điều làm thầy, sớm chiều ở trong chùa tham vấn học hỏi và tu đạo. Một hôm nọ ngài Phật Điều đến nhà ông. Người em hỏi thăm về bịnh tình của chị dâu và anh mình có bình an không. Ngài nói: Người chị dâu bịnh đỡ nhiều còn anh ngươi như thường. Khi Trúc Phật Điều đi rồi, sau đó người em cũng giục ngựa đến thăm và nói với anh lúc sáng ngài Phật Điều đến thăm. Người anh kinh ngạc nói: Hòa thượng lúc sáng không hề ra khỏi chùa mà. Làm sao ông thấy được Ngài. Anh em cùng nhau đến hỏi ngài Phật Điều. Ngài cười nhưng không đáp, cả hai đều cảm thấy kỳ lạ. Ngài Phật Điều có lúc một mình vào núi, một năm rưỡi mà mang theo chỉ mấy đấu cơm khô, lúc trở về vẫn còn dư. Có người từng theo Ngài đi mấy mươi dặm vào núi, trời sắp tối mà tuyết phủ đầy đường, Ngài vào trong hang đá của hổ ở nghỉ qua đêm, Hổ lại nằm trước hang. Ngài nói với hổ rằng: Ta chiếm chỗ ở của ngươi thật tủi thẹn biết bao. Hổ bèn vẩy tai xuống núi. Người đi theo hết sức kinh hãi. Từ đó về sau Ngài quên đi ngày tháng, xa gần đều đến, đều nói rằng: Trời đất trường tồn còn có ngày băng hoại, huống chi con người và muôn vật mà tìm cầu bất diệt. Nếu có thể tẩy trừ tam cấu chuyên tâm chơn tịnh, hình tướng số mạng tuy trái nhưng nhất định đồng nhau. Cả chúng đều rơi lệ cố thỉnh Ngài. Song Ngài nói: Sống chết có mệnh, các ông có thể thỉnh ư. Ngài bèn trở vào phòng ngồi kiết-già. Lấy y trùm lên đầu lẳng lặng thị tịch. Sau này tám người đệ tử tại gia cùng vào Tây Sơn kiếm củi, bỗng thấy Ngài ở trên ngọn núi cao, y phục trang nghiêm, nghi dung thông thái. Họ hết sức kinh ngạc và vui mừng làm lễ rồi nói Hòa thượng vẫn còn sống ư! Ngài đáp: Ta vẫn sống chứ. Họ hỏi đủ chuyện xưa xem Ngài biết không. Chẳng bao lâu thì ra đi. Tám người đó xong chuyện trở về nhà, nói lại với các bạn đồng đạo. Mọi người không có gì làm bằng, thế là cùng nhau quật mộ mở quan tài nhưng chẳng thấy thi hài. Chỉ còn y, dép thôi. Có chỗ ghi rằng: Ngài Trúc Phật Điều này dịch ra pháp Cảnh kinh và Thập Tuệ v.v… căn cứ theo kinh của ngài Đạo An chép rằng: Vào giữa niên hiệu Quang Hòa Hán Linh Đế có Sa-môn Nghiêm Phật Điều cùng với đô úy An Huyền dịch ra pháp Cảnh kinh và Thập Tuệ, lời đó ở trong kinh truyện. Mà trong kinh này ngài Phật Điều ở giữa triều đại Đông Tấn. Thời ấy người ta thấy tên chữ giống nhau nên gọi nhầm như vậy. ------------------------------------ <詞>KỲ VỰC Ngài là người Thiên Trúc. Ngài vân du khắp miền Hoa Hạ, Nhung Địch, chẳng có chỗ nào là cố định. Mà tánh tiêu dao thần dị tùy ý nhập tục, hành tung cũng luôn biến đổi, chẳng ai đủ khả năng suy lường được việc làm của Ngài. Ngài xuất phát từ Thiên Trúc đến Phù Nam. Băng qua những vùng ven biển rồi men theo vực vào khắp mọi miền, đều tỏ ra sự linh dị. Khi Ngài đã đến Tương Dương muốn đi thuyền qua sông. Song chủ thuyền thấy trang phục của vị Sa-môn Phạm quốc xấu xí thô lậu nên không muốn cho qua. Nhưng khi thuyền vừa cập bến Bắc thì mọi người thấy Ngài đã đứng ở đó rồi. Ở phía trước thấy hai con hổ, nó khảy tai vẫy đuôi. Ngài Kỳ Vực xoa đầu nó, chú hổ lặng lẽ ra đi. Người hai ven bờ thấy vậy xúm lại thành rừng. Vào cuối đời Tấn Tuệ Đế, Ngài đến Lạc dương, các đạo nhân ở đấy đều làm lễ. Ngài vẫn thản nhiên bất động. Lúc đó có kẻ bảo nhau rằng tiền thân Ngài đã đổi. Nghóa là Chi Pháp Uyên từ Dương Trung đến. Trúc Pháp Hưng từ Nhơn Trung đến, lại cơ hiềm chúng tăng, họ bảo rằng y phục hoa hoè không thích hợp với pháp chính. Thấy cung thành ở Lạc dương tựa như cung trời Đao- lợi. Chỉ việc tự nhiên của con người là khác thôi. Ngài Kỳ Vực nói với Sa-môn Kỳ-xà-mật rằng: Người xây cung này từ trời Đao-lợi đến. Khi xây xong liền trở về trời. Dưới nóc nhà phải có một ngàn năm trăm cái làm bằng kim khí. Người thời ấy đều nói: Thuở xưa nghe người thợ này quả có làm kim khí đặt dưới mái ngói. Lại nói: Sau khi cung điện hoàn thành thì người đó bị giết. Lúc đó thái thú Hoành Dương là Tất Vónh Văn người Nam Dương đang ở trọ chùa Mãn Thủy, ông mắc bịnh trải qua thời gian cả năm không bớt. Hai chân rút lại không khởi động được. Ngài Kỳ Vực đến thăm ông và nói rằng: Ông muốn bịnh thuyên giảm không. Nhân đó lấy một bình nước sạch và một cành dương liễu. Thế rồi Ngài cầm cành dương vừa rải nước vừa chắp tay niệm chú hướng về phía Vónh Văn, cứ như vậy đúng ba lần, đồng thời dùng tay xoa bóp hai đầu gối của Vónh Văn khiến ông đứng dậy, chốc lát thì đi bộ được như cũ. Lúc đó trong chùa này có vài chục gốc cây Tư duy khô chết. Ngài Kỳ Vực hỏi Vónh Văn cây này chết tự bao giờ. Vónh Văn đáp: Nhiều năm rồi. Ngài liền chú nguyện cho cây kia như cách chú nguyện Vónh Văn vậy. Thế là gốc cây từ từ nhú mầm đâm chồi ra lá xanh um. Vừa đến giữa hạ thì có một người bịnh bón sắp chết, Ngài liền đem một cái bình để trên bụng của người bịnh, lấy vải trắng phủ lên trên, chú nguyện mấy ngàn tiếng, bỗng nghe mùi hôi nực nồng xông khắp cả phòng. Người bịnh nói: tôi sống lại rồi. Ngài bảo bịnh nhân giở tấm vải lên, trong cái bình có mấy thăng chứa một đống sình hôi thối không ai dám đến gần. Thế là người bịnh thoát chết. Bấy giờ Lạc dương binh biến loạn lạc, Ngài giả từ nơi này trở về Thiên Trúc. Ở vùng Lạc dương có Sa-môn Trúc Pháp Hành là một bậc cao tăng. Bấy giờ có người đến Lạc Kim nhân đó thỉnh ngài Kỳ Vực rằng: Thượng nhơn là vị tăng đã đắc đạo, xin Ngài để lại một câu để làm lời răn muôn đời. Ngài nói: Hãy nhóm chúng đi, khi mọi người tề tựu đông đủ rồi, Ngài thăng tòa giảng: Giữ miệng nhiếp thân ý, cẩn thận đừng phạm các điều ác, thực hành tất cả các điều lành, như vậy thì thoát được thế gian. Nói xong Ngài bèn nhập định. Ngài Pháp Hành lại thỉnh thêm: Nguyện thượng nhơn hãy truyền trao cho chúng con những điều chưa nghe biết. Nghóa bài kệ này đứa bé tám tuổi cũng đọc thuộc làu đâu cần gì người đắc đạo. Ngài Kỳ Vực cười nói: Đứa bé tám tuổi tuy đọc thuộc nhưng ông già một trăm tuổi không thực hành được, thì thuộc đâu có ích gì. Người ta ai cũng biết kính người đắc đạo chứ không biết tự tu để đắc đạo, thật đáng thương thay. Tôi chỉ nói ít lời nhưng người thực hành thì lợi ích rất nhiều. Thế là Ngài giả từ ra đi. Mấy trăm người đều thỉnh Ngài dùng cơm trưa. Ngài đều hứa đến. Sáng hôm sau năm trăm nhà Ngài đều có mặt. Ban đầu ai cũng cho rằng Ngài đến một nhà mình, sau đó hỏi thăm nhau mới biết Ngài phân thân đến dự cơm trưa vậy. Khi quyết định ra đi, các đạo nhơn tiễn Ngài đến thành Hà Nam. Ngài đi từ từ mà người đuổi theo không kịp. Ngài bèn lấy gậy vẽ xuống đất nói rằng: Tạm biệt ở đây nhé. Ngày đó có người từ Trường An đến, thấy ngài Kỳ Vực ở trong chùa kia. Lại có một khách buôn tên là Hồ Thấp Đăng cũng vào một buổi chiều hôm ấy gặp Ngài ở Lưu Sa. Tính ra Ngài đã đi hơn chín ngàn dặm, khi Ngài đã về đến Tây Vức không biết mất khi nào.  CAO TĂNG TRUYỆN <卷>QUYỂN 10 KIỀN - ĐÀ LẶC Kiền-đà-lặc vốn là người ở Tây Vực, sau đến Lạc dương ở rất nhiều năm. Mọi người tuy tôn kính Ngài có phong thái mà cuối cùng không thể lường biết được. Về sau Ngài nói với chúng tăng rằng: Ở Đông nam Lạc dương có núi Bàn Điểu. Núi này từng có một ngôi chùa cổ nền móng hiện vẫn còn, có thể đến đó tu sửa lại. Mọi người chưa tin bèn đến thử xem. Khi vào núi tìm đến một nơi thấy bốn mặt đều bằng phẳng ngài Kiền lặc bảo: Đây chính là nền chùa. Khi đào lên thì bên dưới quả là nền chùa cổ đá, phía sau là tăng xá giảng đường như lời Ngài nói không sai. Đại chúng đều kinh ngạc thán phục. Nhơn đó mà cùng tu sửa lập lại. Tôn ngài Kiền-đà-lặc làm trụ trì. Chùa này cách Lạc thành hơn một trăm lý. Sáng sáng Ngài đi đến những ngôi chùa ở Lạc dương xin một bát dầu đem về thắp sáng trong chùa. Việc này thường thường chưa hề sai trái. Có một người đi khoẻ định đi theo Ngài để xem, nhưng đi đổ mồ hôi vẫn không theo kịp. Ngài bảo người kia nắm chéo góc Ca-sa. Người ấy duy chỉ nghe tiếng gió mà không thấy mệt giây lát thì đến chùa. Sau này không biết Ngài thị tịch ở đâu. (A-la-kiệt): Ngài vốn là người Phàn Dương, xuất gia từ nhỏ, tụng kinh được hai trăm vạn lời. Tánh trầm lặng hư huyền, giữ giới tiết. Khéo léo công việc, sắc vóc lại đẹp, phần nhiều tu hạnh đầu-đà ở một mình trong núi. Vào niên hiệu Thái Khang đời Tấn Vũ Đế Ngài tạm đến Lạc dương. Bây giờ dịch bịnh lan khắp nơi, người chết vô số. Ngài tận lực tụng chú trị bệnh, mười người thì tám chín người bớt. Năm đầu Nguyên Khang Tấn Tuệ Đế, ngài đi về hướng Tây dừng lại toạ thiền trong một thạch thất ở núi Lũ Chí. Thất này cách dòng nước rất xa, lúc này có người muốn đào ao khai rạch. Ngài nói: Không cần phí sức. Rối ngài dơ chân trái lên giẩm vào bốn bức tường đá. Tường trủng xuống và nước từ chân chảy vọt ra. Giòng nước này thơm ngọt trong lành, bốn mùa không cạn, khi uống vào thì trừ hết bịnh tật đói khát. Đến năm Nguyên Khang thứ 8 ngài đoan toạ thị tịch. Chúng tệ tử y vào pháp trà-tỳ của Tây Vực, lửa cháy mấy ngày mà thi thể vẫn ngồi trong lửa, rưới nước vào không thể dập tắc. Mọi người liền dời trở lại vào thạch thất. Sau đó có người Tây Vực tên là Trúc Định, tự là An Thế đến Trung Quốc vào năm Tấn Hàm Hoà. Người này thấy thi thể thầy nghiễm nhiên đã trải qua ba mươi năm rồi. Trúc Định về sau đến kinh đô truyền lại cho cả đạo tục biết. (Trúc Pháp Tuệ): Vốn là người Quan Trung. Người ngay thẳng lại có giới hạnh. Ngài đến núi Tung Cao thờ ngài Phù Đô Mật làm thầy. Năm đầu Kiến Nguyên đời Tấn Khang Đế, ngài đến Tương Dương ở chùa Dương Thúc Tử. Ngài không chịu thọ thỉnh riêng. Mỗi khi khất thực liền để thức ăn trên giường dây, rồi mang ra đường ngồi đó bố thí hết cho mọi người. Có khi gặp mưa thì tự đắp áo mưa ở trên, hết mưa thì chỉ thấy giường. Không biết Ngài ở đâu. Người hỏi chưa dứt câu thì đã thấy Ngài ở trên giường. Ngài thường nói với đệ tử là Pháp Chiếu rằng: Đời trước ông có chặt chân một con gà, ương báo ắt sẽ tìm đến. Không lâu sau đó Pháp Chiếu bị người ném vào chân phải bị tật suốt đời. Sau đó ngài nói với đệ tử rằng: Ở Tân Giả có một người sắp chết, ta muốn đến đó để độ. Khi đến đồng trống, quả nhiên thấy một lão ông đang đưa trâu xuống cày ruộng. Ngài theo xin con trâu, ông không cho. Ngài bước đến trước nắm mũi con trâu. Oâng già sợ hãi dị kỳ bèn cho con trâu. Ngài dẫn trâu đi bảy bước chú nguyện cho nó rồi đem trâu trả lại cho chủ. Lão ông ít ngày sau thì mất. Chinh Tây tướng quân là Dữu Nha Cung trấn tại Tương Dương. Đã không tín phụng Phật pháp, nghe Ngài có những sự tích phi thường thì sinh lòng ganh ngét. Ngài dự báo cùng đệ tử rằng: oán đối với đời trước của ta tìm đến. Rồi ngài khuyên quyến thuộc lo siêng tu phước thiện. Hai ngày sau quả nhiên bị thọ hình, thọ năm mươi tám tuổi, lúc sắp mất nói với mọi người rằng: ta mất ba ngày thì trời sẽ mưa to. Đến ngày quả nhiên mưa to ngập cổng thành sâu cả trượng, cư dân chết rất nhiều. Bây giờ có người tên Phạm Tài, người ở Mân Trung Ba Tây. Đầu tiên làm Sa-môn ở Giang Đông, đi dép cỏ, đông hạ chỉ mặc một bộ đồ, nói ra điều gì cũng có ứng nghiệm, về sau bèn thối đạo mà hoàn tục, học theo Trương lăng. An Tuệ Tắc: Chưa rõ tên họ thị tộc của Ngài, tuổi thơ đã là một người trác việt khác thường mà khéo đàm luận về sách công chánh. Đời Tấn Vónh gia, dân chúng bị dịch bịnh hoành hành. Ngày đêm Ngài chí thành cầu nguyện xin thiên thần ban thuốc để cứu dân chúng. Một hôm Ngài ra cửa chùa thấy hai viên đá có hình dáng như cái hũ thì nghi là dị vật bèn lấy xem quả là có nước thần ở trong. Ngài đem cho người bịnh uống xong thì khỏi hẳn. Về sau Ngài đến Lạc dương ở chùa Đại Thị. Ngài tự tay viết một bộ kinh Đại Phẩm, hợp thành một quyển, chữ nhỏ như hạt đậu mà rõ ràng có thể nhận biết. Được hơn mười bản. Lấy một bản đem cho vợ của Trọng Trí ở Nam Chu là Hồ Mẫu, bà qua sông đem kinh theo, về sau nhà bị cháy không rảnh lấy ra được nên buồn rầu khóc lóc. Lửa tắt thì tìm thấy kinh trong đống tro tàn, gáy sách vẫn còn nguyên vẹn không bị hư tổn. Bây giờ, những người nhìn thấy đều tin tưởng bỏ hết tà đạo. Bộ kinh này hiện vẫn còn lưu giữ ở chùa Giản Tinh là một chùa Ni. Bấy giờ, ở Lạc dương lại có Khang Tuệ Trì, cũng là bậc thần dị thông linh. Thiệp công: Là người Tây Vực, Ngài sống đời an bần tịch lạc, không ăn ngũ cốc. Một ngày có thể đi năm trăm dặm. Nói chưa mà sự việc đã rõ ràng. Sự ứng nghiệm như ngón tay đưa ra. Năm Kiến Nguyên 12 đời Phù Kiên ngài đến Trường An có thể dùng bí chú để chú nguyện thần long. Mỗi sáng vua Phù Kiên thường thỉnh Ngài chú nguyện. Không bao lâu rồng hiện vào trong bát, trời liền đổ mưa lớn. Vua và quần thần thấy rồng hiện trong bát thì đều khen Ngài cho là kỳ dị. VUA tôn ngài làm quốc thần, dân chúng quần thần đều đảnh lễ dưới chân Ngài. Từ đó không còn lo hạn hán nữa. Đến tháng 12 năm thứ 16, Ngài không bịnh mà tịch. Vua Phù Kiên khóc thương rất cảm động. Qua ngày thứ 7, Vua muốn thấy sự thần dị của Ngài, mới cho mở quan tài ra xem. Không thấy thi hài trong đó, duy chỉ còn vải liệm. Đến năm thứ 17, từ tháng giêng đến tháng 6 trời không đổ mưa, Vua bỏ hết đồ trang sức để cầu hoà khí, đến tháng 7 thì trời mưa. Vua Phù Kiên nói với quan trung thư Chu Đồng rằng: Thiệp công nếu còn ở đây thì trẩm há lo chuyện mưa nắng, Ngài quả là bậc Đại Thánh. Chu Đồng nói: Đây là việc sâu xa u huyền, thật cũng là việc thần kỳ từ xưa đến nay. Thích Đàm Hoắc: chưa rõ Ngài người ở đâu. Ngài tu hành khổ hạnh rau dưa, thường ở gò mả, gốc cây, chuyên dùng thần lực để hóa đạo. Bây giờ ở Hà Tây có Thâu-phát-lợi-lộc cô là người Tiên-ty nổi lên chiếm vùng Tây Bình, tự xưng là vua, lấy niên hiệu là Kiến Hoà vào tháng 11 năm Kiến Hoà thứ 2.Ngài Đàm Hoắc từ Hà Nam đến Tây Bình, cầm tích trượng khiến người qùy xuống và nói: Đây là mắt Bát- nhã, nếu phụng trì có thể đắc đạo. Có người ghét đem y áo vật dụng của Ngài ném xuống hoặc quăng xuống sông. Một lúc sau thì y phục đồ đạt quay về chỗ chủ cũ không có chút ố uế nào. Ngài đi nhanh như gió, người có sức lực đuổi theo đến vất vả mà cũng không kịp. Còn nói về việc sống chết quý tiện của người thì không sai một ly. Có người dấu tích trượng của Ngài. Ngài nhắm mắt ít phút tìm ra được chỗ dấu. Còn nhiều điều thần dị khác không thể suy lường được. Lộc cô có người em là Nậu-đàn làm xa kî, quyền khuynh cả Nguî quốc mà tánh nhiều nghi kî thường làm hại người. Ngài thường nói với Đàn: ngài nên hành đạo tu thiện để phước đời sau. Đàn bảo: “Tổ tiên nhiều đời đều phụng thờ thiên địa quỷ thần. Nay lại thờ Phật sợ là trái với tôn chỉ của tiên nhơn. Ông: nếu như bảy ngày không ăn mà nhan sắc vẫn bình thường thì đó là thần minh của Phật đạo, như vậy tôi mới tin theo”. Nậu-đàn sai người bắt ngài nhốt lại bảy ngày, canh giữ không cho ăn uống mà Ngài vẫn không lộ sắc đói khát. Đàn bảo Sa-môn Trí Hạnh bí mật đem bánh đến cho Ngài. Ngài bảo: tôi chưa từng lừa dối ai, lẽ nào lại lừa dối vua? Đàn càng khâm phục kính ngưỡng, nhơn đây mà khởi lòng từ cải đổi lòng tin, giảm sát. Người trong nước mong nhờ ân Ngài đều gọi là Đại sư. Khi Ngài ra vào các nơi trăm họ đều lễ lạy cung nghinh. Đàn có con gái bị bịnh rất nặng, xin Ngài cứu mạng. Đàm Hoắc nói: sống chết có mạng, dù Thánh cũng không thể chuyển, Tôi làm sao kéo dài mạng sống, chính là biết việc sớm tối vậy. Đàn cố cầu thỉnh Ngài. Bấy giờ cửa sau hậu cung đóng kính. Ngài nói: hãy mau mở cửa sau. Mở thì sống không kịp thì chết. Đàn bảo người mở cửa nhưng không kịp nên con gái chết. Đến niên hiệu Tấn nghóa chiếu năm thứ 3, Nậu-đàn ùn ùn đem quân đánh Lương, trong cơn binh loạn không biết Ngài như thế nào. Sử Tông: không biết Ngài là người ở đâu? Thươing đắp vải gai hoặc y bá nạp hai lớp nên đời gọi là Đạo sỹ ma y. Thân nhiều ghẻ lở, tánh điệu không thường. Hay ở trên gò cao đồng vắng ca xướng, ngâm vịnh mà tự lấy làm vui thích, nếu có được của cúng dường thì cũng đem thí hết cho người. Nơi ở thì bất định, hoặc ẩn hoặc hiện. Bấy giờ ở Cao Bình có Giang đô lệnh là Đàn Kỳ nghe danh bèn triệu đến ứng đối, Ngài ứng đáp mau lẹ không chút vương vấn, thông đạt cả kim cổ, biện thuyết huyền Nho có làm một bài thi phú rằng: ham muốn khổ dãy đầy, không muốn cũng không lo. Chưa bằng ở nơi thanh hư, vai mang bị huyền lý, phù du một đời ở thế gian. Trôi nổi như thuyền không buộc, mới đến chỗ trần luî, chí lại ở nơi núi non, Đàn Kì biết là người phi thường, bèn mời về chỗ mình, cúng dường Ngài hai mươi tấm vải, Ngài đều đem cho hết, về sau có một đạo só không biết tên họ là gì, thường mang một gậy một đãy bên mình. Một chiều tối, ngài đi đến quan coi về biển muối nói rằng: Tôi muốn đi một vài ngày, tạm xin cho một người đi theo có thể được không? Quan muối đáp: Tuỳ ngài muốn ai thì dẫn đi. Ngài bèn dẫn theo một đứa bé chăn vịt có hình dáng rất xấu xí. Không bao lâu thì họ lên ngọn núi. Trên núi có một gian nhà. Trong nhà có ba đạo nhơn. Khi gặp nhau mọi người vui mừng cùng trò chuyện, đứa bé không hiểu. Đạo nhơn chủ nhà mang thức ăn ra. Đó là một bát nhỏ tợ hồ như ngãi chín ăn vào thì hết đói. Đến tối đạo nhơn từ biệt trở về thì nghe trong nhà có người hỏi: - Oâng biết Sử Tông ở đâu không? Việc bị đày đi của ông ta khi nào mới chấm dứt? Đạo nhơn nói: Ở trên Quảng Lăng, Bạch Thổ Giang Bắc Từ châu chẳng bao lân nữa thì việc đày đi sẽ chấm dứt. Người trong nhà đưa phong thư và nói: Phiền ông đưa cho Sử Tông. Đạo nhơn đưa thư lại cho đứa bé. Đến tối thì tới gặp quan muối nói. Muốn dừng lại đây ít ngày. Vị quan kia nói: Rất tốt, và hỏi: Trong hòm có những gì? Đáp: có sách, sớ. Đạo nhơn ngủ tại đại sảnh, rương đồ thì để trên đầu nằm. Vị quan sai người muốn trộm lấy xem. Đạo nhơn biết liền treo rương đồ lên cao mà nằm, nên người kia không thể lấy được. Hôm sau từ biệt nói với quan muối rằng: - Tôi muốn dừng lại vài hôm,mà ông cứ muốn cho người trộm lấy đồ, cho nên nay phải đi vậy. Trước quan muối đã gọi đứa bé đến nói: Gần đây đã đi những đâu? Đứa bé nói: Đạo nhơn bảo tôi cầm trượng rồi cứ phiêu diêu mà đi. Hoặc nghe dưới chân như tiếng sóng, và nói chuyện cùng các vị đạo nhơn trong núi, hiện lá thư gửi đi, đứa bé vẫn còn mang bên mình. Mọi người bảo mở thư ra xem thì không hiểu gì cả, bèn viết một phong thư bảo người đưa thằng bé đến Bạch Thổ gặp Sử Tông. Sử Tông mở thư ra kinh hãi nói: - Các ông được thư của Đạo nhơn Bồng Lai sao? Sau đó, Sử Tông Nam du đến đất Ngô, thường qua lại Ngư Lương. Thấy ngư dân đây đánh bắt, Ngài bèn tắm rửa trên dòng nước, bầy cá bèn tản đi hết. Ngài dần dần bày cách cứu vật thể như thế. Về sau Ngài nghỉ tại chùa núi Thượng Ngu Long, khéo đàm luận về luận sách cứu minh của Lão Trang, dấu mình ẩn tích ở đời chẳng ai biết. Có vị Sa-môn nghỉ lại đêm nghe ngài Sử Tông nói chuyện cùng người, đa phần nói đến các việc trên cõi Bồng Lai, sáng ngày không biết ngài Sử Tông ở đâu. Đào Uyên Minh ghi: lên Bạch Thổ gặp ba vị Pháp sư lạ kỳ. Đây là điều này vậy. Hoặc nói rằng: có một thương nhơn đi trên biển Cô châu gặp một vị Sa-môn xin đưa thư cho Sử Tông. Nói rồi để thư ở dưới thuyền, đồng lữ muốn xem thư, nhưng lá thư dính vào thuyền không thể lấy được. Rồi khi đến Bạch Thổ lục, lá thư bay lên đến chỗ Sử Tông. Ngài nhận thư và bỏ đi. Bôi Độ: Không biết Ngài tên họ là gì mà thường uống nước bằng chén cây, nhơn đó mà gọi tên. Đầu tiên thấy Ngài ở Ký châu, không tu tế hạnh, thần lực thì trác việt. Do đó, mà không biết ngài từ đâu đến. Ngài thường đến phương Bắc nghỉ đêm trong nhà một người. Trong nhà có một kim tượng. Bôi Độ trộm lấy đem đi. Chủ nhà biết liền đuổi theo. Thấy Ngài đi từ từ mà ngựa đuổi theo vẫn không kịp. Khi đến sông Mạnh Tân, Ngài quăng chén nổi lên mặt nước, rồi nương theo đó mà qua sông, không cần gió mà nhẹ nhàng đi như bay. Không bao lâu đã qua bờ bên kia, đến kinh sư. Bây giờ, ngài đã bốn mươi, ăn bận rách rưới không đủ che thân. Nói năng ra vào, hỷ nộ không quân bằng. Hoặc trời lạnh giá, nước đóng băng mà tắm giặt, hoặc mang giầy lên giường, hoặc chạy vào chợ, duy chỉ mang một lô thùy mà không có gì khác. Sau đó lại đến chùa Diên Hiền của Đại sư Pháp ý. Đại sư Pháp Ý đãi Ngài ở biệt phòng. Rồi Ngài lại muốn qua sông. Ơû bên sông người chèo thuyền không cho Ngài qua. Ngài buộc chén vào chân mà ngâm vịnh, rồi tự nhiên đi trên sông qua bên bờ Bắc. Đi vào Quảng Lăng, gặp thôn xá có Lý gia thọ Bát quan trai. Trước Ngài không quen biết mà bước vào trai đường ngồi, đặt lô thuỳ trong sân. Chúng thấy hình mạo của ngài thì không có tâm kính phục. Họ Lý thấy chiếu lau muốn dời sang một bên, mà mấy người nhắc vẫn không cử động. Bôi Độ ăn xong, từ biệt đi và cười nói: Tứ thiên vương ở trong nhà họ Lý. Bấy giờ có một trẻ hầu nhìn trộm vào trong thùy thấy có bốn đứa trẻ chỉ dài mấy thốn mà mặt mũi đoan chánj, y phục trắng tinh mới mẻ. Mọi người đi tìm Ngài mà không thấy ở đâu. Sau ba ngày thì thấy ngồi bốn góc dưới cây long thọ nhà họ Lý lạy thỉnh trở về nhà. Thế là ngày tháng lo cung dưỡng các thứ, nhưng Ngài không ăn chay, chỉ uống rượu ăn thịt. Cho đến các thứ giống như thế tục không khác. Trăm họ đem đến cung phụng hoặc thọ hoặc không thọ. Bái Quốc Lưu Hưng Bá là thứ sử Duyệt châu sai người mời Ngài. Ngài mang thuỳ đến. Hưng Bá sai người ra giở xem thấy có không hơn mười người. Bá tự ra xem chỉ thấy một y nạp cũ rách và một chén cây. Sau đó trở lại nhà họ Lý lưu hơn ba mươi ngày. Một sáng sớm chợt nói: muốn có một chiếc Cà-sa, trong ngày phải có, Lý cho may đến giữa ngày mà chưa xong. Độ bèn nói: Tạm ra ngoài. Rồi đi không trở lại. Khắp nơi đều nghe có mùi hương lạ, mọi người cho là quái lạ, đi các nơi tìm bèn thấy Ngài ở dưới ngọn núi phía Bắc, Ngài trải tấm cà- sa rách dưới đất mà nằm thị tịch. Trên đầu dưới chân đều có sinh hoa sen. Hoa thật là tươi thơm đến tối mới héo. Người trong ấp lo việc tẩn táng cho Ngài. Sau đó có người từ phương Bắc đến nói thấy Ngài mang lô thuỳ đi về hướng Bành Thành. Khi đó mọi người mở quan tài ra duy nhất chỉ có một đôi giầy. Khi ngài đi đấn Bành Thành gặp cư só bạch y là Hoàng hân thâm tín Phật pháp, lễ bái thỉnh Ngài về nhà. Nhà ông rất nghèo chỉ có cơm lúa mạch mà thôi. Nhưng Ngài vui vẻ ở đây trong nửa năm. Một hôm chợt nói với Hân: Làm sao kiếm cho tôi ba mươi lô thùy. Tôi muốn dùng Hân đáp: Ở đây tôi có thể tìm được mười cây. Nhà nghèo không có tiền mua, e sẽ không đủ. Độ nói: Oâng cứ kiếm trong nhà ắt sẽ có. Hân kiếm khắp nhà thì quả nhiên có ba mươi sáu cây, đem bày ra ngoài sân. Tuy có đủ số mà phần nhiều bị hư gảy. Khi Hân nhìn kỹ lại thì lại còn mới nguyên. Độ gói kín lại rồi bảo Hân mở ra thì thấy đầy vàng lụa ước cả trăm vạn. Người biết chuyện cho rằng ngài Bôi Độ phân thân đi các nơi được rồi đem cho nhà Hân. Hân nhận của đó thì đem cho công đức hết. Trải qua hơn một năm thì Độ từ biệt ra đi. Hnâ lo chuẩn bị thức ăn, sáng sớm thức ăn vẫn còn đó mà Ngài không thấy đâu. Một tháng sau Ngài lại đến kinh sư. Bây giờ ở Hồ Cân có người tên Chu Văn thù thuở nhỏ đã phụng thờ Phật pháp. Độ nhiều lần đến nhà ông. Văn Thù nói rằng: Đệ tử thoát bỏ thân nơi chỗ khổ, nguyện xin cứu độ, sinh về nơi an lành hơn để làm pháp lữ. Độ không đáp, Văn thù vui vẻ nói: trong Phật pháp mặc nhiên chính là hứa khả vậy. Sau đó, Ngài đông du, vào ngô quận. Trên đường thấy có người câu cá, nhơn đó đến xin cá. Ngài câu bèn cho một con cá nhỏ. Độ cầm chơi rồi nén trở lại ra sông, rồi bơiqua sông. Ngài lại thấy người giăng lưới bắt đánh cá cũng theo xin cá. Người đánh cá giận mắng không cho. Độ bèn cầm lấy hai viên đá ném xuống sông, bỗng nhiên có hai con trâu đánh nhau trong lưới. Khi lưới rách toang thì không thấy trâu đâu nữa. Độ cũng biến mất. Ngài đi đến Tùng Giang, ngửa mặt trên nước mà bơi qua sông, đi qua Huyện Diệm Cối Kê, lên núi Thiên Thai. Mấy tháng sau thì trở lại kinh sư. Bấy giờ có đạo nhơn nước ngoài tên là Tăng Khư Sất, ở chùa Trường Can tại kinh đô. Có vị khách tăng tên là Tăng Ngộ cùng ngủ một phòng với Khư Sất. Nhìn qua khe cửa sổ thấy Khư Sất bưng ngôi chùa bỏ vào mây rồi sau đó đem xuống. Ngộ không dám nói chỉ kinh hãi kính sợ sâu xa. Bấy giờ có người họ Trương tên Nô, không biết người ở đâu. Mọi người thấy ông không hề ăn uống mà vẫn khỏe mập vui vẻ. Trải qua các mùa đông hạ vẫn mặc áo đơn vải bố và Khư Sất gặp Trương Nô giữa đường vui vẻ cười. Khư Sất nói: Tôi về Đông đã gặp Thái Thuần, Nam gặp Mã Sinh, Bắc gặp Vương Niên, nay thì muốn gặp Bôi Độ để cùng tương kiến được không? Trương Nô bèn đề dưới góc cây hòe lời ca rằng: Mênh mông trong đại tượng Chiếu diệu cảnh thật hiện Người vì sao mê muội Để tự chiêu tai ương Chỗ vui ít người đến Khổ đạo lại mong vào Không tiết tháo tùng bá Sao lại trải gió sương Nhàn dự ngoài khói tía Tiếng ca khỏi trời xanh Ngoài vô sắc trừng hư Nên thấy có chốn duyên Năm chiếu Tỳ Hán Hậu Ngày đẹp truyền Aân vương Ta, người chẳng hai tiên Qua lại trong chín phương Cũng thấy kẻ phàm phu Chạm mắt vào núi cao Xa quán trong hữu niệm Thà rằng tận khâm chương Khư Sất nói: Trước thấy tiên sinh thiền tư ở chốn hang động thâm u một khi ngồi cả đến trăm năm, lòng đại bi thống thiết, tinh niệm cả cốt xương, cũng đề bài tụng rằng: Mênh mông sự đời Hoặc tăng giảm đây Nếu muốn thần trần Sinh đời vui vẻ Duy triết nhơn này Sâu xa thấy trước Nghó hình bèo bọt Nhìn ảnh điện chớp Lụy như hoa, tiếng Đẹp khoe xấu che. Thấy sắc ngộ không Sự đời tang thương Xả phần tuyệt hữu Đoạn tập trừ luyến Rõ điều khúc âm Bạch mao để dâng Nương ruộng ăn gai Gần bờ uống nước Tuệ định soi sáng Diệu chơn là thân Càng tăng từ bi Thâm tưởng không chán Nói xong thì bỏ đi, về sau không còn ai thấy hai vị này nữa. Tương truyền rằng: đem Tăng Ngộ cùng đi đến Nam Nhạc rồi không trở lại nữa. Trương Nô cùng Bôi Độ gặp nhau đều có trình bày nhưng người đời không hiểu. Độ còn dừng lại kinh đô một thời gian, đi dừng vô định, thỉnh mời có khi đến khi không. Bấy giờ, ở Nam châu có nhà họ Trần giàu có đầy đủ y thực. Độ đi đến nhà này, thấy rất là lo liệu. Nghe người nói lại có Bôi Độ ở kinh đô. Năm cha con nhà họ Trần đều không tin, cho nên xuống xem. Quả nhiên cùng một hình dạng Ngài ở nhà. Trần dọn cho Độ chén mật gừng, một con dao, khăn tay ướp hương..v.v.. Ngài Bôi Độ ăn hết chén mật, còn các vật khác thì để trên gối. Mấy cha con họ Trần e rằng đây là Bôi Độ ở trong nhà mình, bèn để lại hai người trông chừng ở kinh đô còn ba người trở về nhà. Bôi Độ ở nhà vẫn như thường, các vật khác vẫn để trên gối, chỉ không ăn mật gừng nữa, bèn nói với Trần rằng: - Dao này lụt lắm nên mài lại đi. Hai người con từ kinh đô về nhà nói: - Vị kia đã dời vào chùa Linh Thứu. Người nhà họ Trần liền xin ngài hai bức giấy vàng viết thư. Nhưng thư không thành chữ, như mặt sau vậy. Trần hỏi: - Quyển sách của Thượng nhơn viết những gì. Độ không đáp. Cuối cùng không biết ngài như thế nào. Bấy giờ dân ở Ngô quận là Chu Linh Kỳ, đi sứ ở Cao Ly đi về gặp gió, đi thuyền trải qua chín ngày đến bên một đảo. Trên đảo này có núi rất cao lớn. Vào núi đốn củi thấy có con đường Linh Kỳ mới đem mấy người đi vào. Đi được hơn mười lý nghe mùi hương và tiếng khánh kêu. Thế là mọi người cùng xưng Phật lễ bái. Không bao lâu thấy một ngôi chùa rất tráng lệ có nhiều báu báu trang hoàng rực rỡ, lại thấy có hơn mười vị tăng bằng người đá bất động. Mọi người lễ, lạy rồi trở về. Đi được mấy bước lại nghe tiếng xướng lễ trở lại nhìn thì vẫn thấy người đá. Linh Kỳ và mọi người cho rằng đây là thánh Tăng, chúng ta là người có tội không thể nhìn thấy. Do đó, mà mọi người cùng chí thành sám hối, sau đó trở lại thì thấy người thật đãi bọn Kỳ dùng cơm. Mùi vị cơm rau có hương thơm ngọt ngào không giống như thế gian. Aên xong, mọi người đều khấu đấu đảnh lễ xin mau được trở về quê. Có một vị tăng nói: Nghe nói từ đây về kinh đô hơn hai mươi vạn lý, nhưng nếu chí tâm thì lo gì không nhanh tới. Nhân đó hỏi Kỳ: Có biết đạo nhơn Bôi Độ không? Đáp: Rất biết. Vị tăng đó chỉ vào bức vách ở phía Bắc có một túi treo đựng bình bát và tích trượng rồi nói: Đây là vật của ngài Bôi Độ, nay nhờ ông đưa lại, cùng một phong thư trong đó. Rồi chỉ một gậy trúc xanh và nói: Đem gậy này đặt trước thuyền trong nước rồi che thuyền tỉnh tọa thì không cần dùng sức mà lại mau đến. Thế rồi mọi người từ biệt trở về. Tăng sai một Sa-di đưa ra cửa, nói rằng: Đi theo đường này khoảng bảy lý sẽ có thuyền. Không cần đi theo đường cũ. Quả đúng như đã nói. Mọi người y theo lời dạy duy chỉ nghe thuyền vượt qua cây cối trên đỉnh núi mà không thấy nước. Trải qua ba ngày thì đến Thạch Đầu sông Hoài và ở lại đó. Nhưng cũng không thấy cây gậy trúc ở đó. Khi thuyền theo sông Hoài đi đến Chu Tước Môn, đã thấy ngài Bôi Độ đứng trên lan can thuyền cầm roi phất rồi nói: “Ngựa ngựa vì sao không đi”. Người đứng xem rất đông. Bọn Linh kỳ đứng trên thuyền đảnh lễ ngài từ xa. Bôi Độ tự bước xuống thuyền lấy thư và bát. Khi mở ra đọc thư, nét chữ trong đó không ai hiểu được. Bôi Độ cười nói: - Để ta trở lại nơi đó. Rồi lấy bát ném lên trên mây xong đón lấy và nói: - Ta chưa thấy bát này đã bốn ngàn năm rồi. Ngài Bôi Độ phần nhiều ở nơi Pháp Ý chùa Diên Hiền. Bấy giờ người đời cho bát này vật kỳ dị nên tranh nhau đến xem. Có một người nói: Thuyền Linh Kỳ bay đến một hốc núi, thấy vị tăng đến nói rằng:- Ta là đệ tử cả của Độ, xưa giữ bát này mà mất ở Trị thành. Nay nhờ ông đưa bát trở lại cho thầy. Nhưng chỉ để cho một người cầm bát đứng trước bánh lái thuyền thì sẽ an ổn đến. Mọi người y theo lời người đó quả nhiên được an ổn. Bấy giờ, ở Nam châu đương là ngày kî lan (?) của ngài Bôi Độ. Hôm ấy Ngài sáng sớm ra đi không thấy trở lại nữa. Sớm hôm sau nhà họ Trần thấy ở trước cửa có bài thơ sáu chữ ghi: “Cửa phước đức thì linh nhân đến.” Nhìn nét chữ đủ biết ngài Bôi Độ đã tuyệt tích ở nhà này rồi. Ngài Bôi Độ ở kinh đô tới lui sớm ấp đều đi bằng thần chú. Bấy giờ có Dũ Thường Tỳ làm phản ăn trộm vật, mọi người truy tìm mà không bắt được, bèn hỏi Độ: Độ, nói người ấy đã chết ở ngoài đồng trống bên bờ sông Kim Thành. Mọi người tìm đến quả đúng như vậy. Khổng Ninh Tử bấy giờ làm thị lang Hoàng Môn. Khi ở công sở bị bịnh ngặt mới viết thư mời Ngài. Ngài chú nguyện rồi nói: khó bớt. Thấy có bốn con quỷ đều bị thương, Ninh Tử khóc nói: Xưa nhà Tôn Ân tác loạn bị quân nhân đánh tan, hai thân và thúc phụ đều bị thống khổ. Ninh Tử quả nhiên chết. Lại có Hồ Mẫu thị, vợ của Tề Hài bị bịnh, thầy thuốc trị không khỏi. Sau thỉnh chư Tăng đến thiết trai. Có vị Tăng bảo cung nghinh ngài Bôi Độ. Ngài đến chú nguyện, bịnh người ấy liền hết. Tề Hài khâm phục tôn Ngài làm thầy. Nhơn đó ông viết truyện ký, đại lược các việc thần dị từ trước đến nay và các việc như trên. Đến tháng 9 năm thứ 3 Nguyên gia, Ngài từ biệt Hài vào kinh, lưu lại một vạn tiền nhờ Giai làm trai đàn. Ngài đến Hồ Xích Sơn, bị bịnh mất. Hài liền lập trai đàn và đem Ngài về táng ở núi Phúc Chu, Kiến Nghiệp. Đến năm thứ 4, có người tên Ngô Hưng Thiệu rất tín sùng Phật pháp. Người này bị bịnh thương hàn nặng không ai dám đến thăm, bèn khóc lóc niệm Quan Aâm Bồ-tát, chợt thấy có vị Tăng đến nói: Ta là đệ tử của ngài Bôi Độ, ông chớ lo phiền, gia sư sẽ đến thăm bịnh. Người này hỏi: Độ sư đã mất làm sao đến. Đạo nhân nói: Muốn đến thì có khó gì? Nói rồi liền lấy từ dây đai ra một hộp có một số thuốc tán cho uống, bịnh liền khỏi. Lại có người tên Đỗ Tăng Ai, sống ở đến biên cương phía Nam, xưa từng phục sự cho ngài Bôi Độ. Con ông bị bịnh nặng, nghó hận không thấy ngài Bôi Độ niệm thần chú. Sáng sớm chợt thấy Ngài đến, nói chuyện như bình thường rồi niệm chú cho người bịnh liền khỏi. Đến ngày 8 tháng 3 nmă thứ 5, Độ lại đền nhà Tề Hài. Mọi người trông thấy liền sợ hãi kinh ngạc, cùng đứng dạy lễ bài Ngài. Độ nói với mọi người. Năm nay sẽ có đại hung, khuyên nên siêng tạo phước nghiệp. Pháp Ý đạo nhơn đãlà người có đức, sẽ đến đây tu tạo chùa trừ họa cho dân. Lát sau nghe ở trên có vị Tăng gọi ngài Bôi Độ. Độ liền từ biệt nói: bần đạo sẽ đi đến nơi cao rộng hơn kia, không còn trở lại nữa. Tề Hài…lễ lạy đưa tiễn ân cần. Thế rồi từ đó tuyệt tích, cũng có người nói thấy Ngài, nhưng chưa rõ sự việc. Do đó, không có truyền nói. Thích Đàm Thỉ: Người Quan Trung. Từ khi Ngài xuất gia về sau có rất nhiều dị tích. Cuối niên hiệu Đại Nguyên đời Tấn Hiếu Vũ, Ngài mang vài chục bộ kinh luật đến Liêu Đông tuyên hóa, hiển trao pháp tam thừa, lập lại quy giới. Bởi vậy bên Cao Ly đã nghe tên của Ngài. Vào đầu niên hiệu Nghóa hy, Ngài lại đến Quan Trung khai đạo Tam Thừa. Vì chân Ngài trắng hơn mặt, tuy đi trên cát bùn mà không bị dính đen, nên mọi người cùng gọi Ngài là: Bạch túc Hòa thượng( Hòa thượng chân trắng). Bây giờ, ở Trường An, có người tên Vương Hồ, có người chú mất mấy năm bỗng thấy hiện hình trở về dẫn Hồ đi dạo khắp địa ngục cho thấy rõ các việc quả báo. Khi từ biệt trở về người chú nói: - đã biết rõ nhân quả thì phải phụng sự ngài Hòa thượng Bạch Túc. Hồ đi thăm hỏi chúng tăng duy chỉ thấy chân ngài Đàm Thủy trắng hơn mặt nhơn đó mà theo phụng sự Ngài. Cuối đời Tấn, Hung Nô là Hách Liên Bột Bột đánh phá Quan Trung, chém giết vô số. Lúc này, Thỉ cũng gặp nạn, nhưng dao chém mà không bị thương. Bột Bột sợ hải. Do đây, mà Sa-môn nhà Tấn đều được tha. Từ đó, Thỉ tạm lánh vào núi rừng tu hành đầu đà. Sau Thác Bạt Đào lại đánh Trường An, làm oai ở Quan lạc. Khi ấy có Bác Lăng Thôi Hạo thuở nhỏ tu theo tả đạo khinh miệt Thích giáo, đã làm đến Nguî Phụ được Thát Bạt Đào khâm phục, tin tưởng, bèn cùng Thiên sư họ Khấu nói với Thát Bạt là Phật giáo chỉ làm hại dân mà không có lợi ích gì, cần nên phá diệt. Thát Bạt Đào đã có ý nghi hoặc lời này, cho đến năm Thái Bình thứ bảy bèn ra lệnh hủy diệt Phật pháp, cho binh lính thiêu đốt chùa chiền, am viện và bắt tăng ni hoàn tục. Những người chạy trốn đều bị truy bắt và chém giết. Trong thành nội lúc ấy không thấy một vị Sa-môn. Duy chỉ có nơi rừng núi xa xôi quân lính không đến được. Đến cuối niên hiệu Thái Bình, ngài Đàm Thỉ biết thì cơ hóa độ Đào đến rồi. Vào ngày Nguyên hội, ngài chợt cầm tích trượng đến cửa cung. Hữu ty vào tâu rằng: - có vị đạo nhân, chân trắng hơn mặt đang đi vào. Đào sai quân bắt đem chém nhưng Ngài không hề bị thương tích. Quận vào báo lại. Đào giận dữ tự tay lấy đao chém Ngài, nhưng vẫn không hề hấn gì duy kiếm thì bị mẻ, lúc này ở khu vườn phía Bắc có nuôi con hổ. Đào sai bắt Ngài đem vào đó. Hổ thấy Ngài liền quy phục mà không dám đến gần. Vua thử đem Thiên sư đến gần chuồng thì Hổ kêu rống lên. Thế rồi Thát Bạt Đào tỉnh ngộ biết rằng Phật đạo rất cao siêu mà Hoàng lão không thể sánh kịp. Rồi vua mời Ngài lên điện và đảnh lễ cầu sám hối tội lỗi. Ngài liền thuyết pháp nói rõ về lý nhân quả. Thát Bạt Đào rất lo sợ mà phát bịnh, hai thầy trò Thôi Khấu cũng mang bịnh ngặt. Đào truy xét vịêc đã qua bèn ra lịnh giết hết gia tộc hai nhà đó và hạ chiếu phục hưng Phật giáo. Không lâu sau Đào mất, người cháu lên ngôi kế vị, ra sức hoằng dương phật pháp thanh hành cho đến nay. Ngài Đàm Thỉ về sau không biết thế nào. Thích Pháp Lãng: Người ở Cao xương. Thuở nhỏ Ngài đã tu hành tinh khổ có hiện nhiều điềm chứng. Ngài tu hành đạo quang ẩn đức, người đời không thể nhận biết. Thầy của Ngài là Thích Pháp Tiến cũng là bực Samôn cao hạnh. Pháp Tiến thường đóng cửa tịnh tu. Chợt thấy Lãng đứng trước cửa bèn hỏi: - Người từ đâu đến? Đáp: - Từ trong ổ khóa mà vào, cùng đến với chúng tăng ở xa, muốn xin thọ thực. Ngài Pháp Tiến liền dọn cơm, duy chỉ nghe tiếng muỗng, bình bát mà không thấy người. Xưa ngài tuệ Viễn ở Lô Sơn có trao ca-sa cho Pháp Tiến. Ngài bèn lấy ra cùng thì Lãng nói: - Chúng tăng đã đi rồi. Ngày khác sẽ lấy. Về sau thấy người coi việc nấu ăn đến Tiến lấy y. Pháp Tiến liền đưa cho. Sao hỏi người nấu ăn thì đều không lấy, lúc đó mới biết bậc Thánh nhơn quyền biến ra người đó đến lấy. Đến nhà Nguî hủy diệt Phật pháp, ngài Pháp Lãng sang nước Quy Tư. Vua nước Quy Tư có kết ước với Đại Thiền sư nước kia là nếu có người đắc đạo đến thì thuyết pháp cho tôi, tôi sẽ cúng dường. Khi Pháp Lãng đến bạch vua. Vua dùng Thánh lễ tiết đãi. Sau Ngài mất ở Quy Tư. Ngày thiêu táng, hai lông mày ngài dựng thẳng lên trời. Đại chúng cho là điều hy hữu và thâu xá-lợi xây tháp thờ. Về sau người ở Tây Vực đến Trung thổ đều truyền nói sự việc này. Bấy giờ, ở Kinh châu lại có Sa-môn tên là Trí Chỉnh cũng tu hành cần khổ có dị hạnh. Vì Chủ Dương gây ra nạn sự, sau đó Ngài lấp bít hang núi tu hành không trở ra nữa. Thiệu Thác: Ngài họ Thiệu tên Thác, người ở Thỉ Khang. Ngài đối với sự việc vô thường, sợ đến như phát cuồng. Miệng thì rộng, mày mặt xấu xí, tuổi nhỏ tính thích vui chơi. Hoặc vào tửu điếm uống rượu với người, mà tánh lại ưa thích Phật pháp. Mỗi khi thấy hình tượng đều cúi đầu lễ lạy, lòng tán thán rơi lệ bi cảm. Thác vốn có ba trai, hai gái. Con trai lớn là Tuệ Sinh xuất gia. Vào đầu nhà Tống, Thác cũng xuất gia nhập đạo, tự xưng là Thác công, ra vào đi ở bất luận cả ngày đêm. Ngài ngao du đến các châu, huyện, rồi đến nơi hoang dã man di, đem những lời hài hước hòa hiệp để khuyên moị người làm thiện. Đến nhà người nếu nằm xuống đất ắt có người chết. Vào nhà người xin một miếng chiếu thì có đứa trẻ mất. Bấy giờ, mọi người đều lấy đó làm sấm. Đến ngày 8 tháng 4 Ngài đến Thành Đô. Thác ở trong chúng bò xuống đất hiện hình sư tử. Lúc ấy khắp quận huyện cũng nói thấy Thác hiện hình sư tử. Từ đó mọi người hiểu rõ sự phân thân của ông. Thứ sử Tiêu Tuệ văn vàLưu Mạnh Minh.v.v..đều nắm rõ việc này, Mạnh Minh đem hai người thiếp là Nam tử và y thử Thác rằng: - Đem hai người cho ông làm hầu cận được không? Thác là người thích nói thơ vận, bèn nói với Minh rằng: Thà tự xin rượu để uống suông Không thể cùng chồng sống chọn đời Một hôm, sáng sớm Thác đội mũ đến nhà Minh không lâu thì Ma- ïnh Minh mất. Trước thời Mạnh Minh có Trường Sử Thẩm Trọng Ngọc dùng hình phạt roi nghiêm trọng hơn bình thường. Thác nói với Ngọc rằng: “Trời đất oa oa từ đây mà có! Nếu trừ được việc phạt roi thì làm được thứ sử. Ngọc tin lời bỏ việc ấy”. Khi Mạnh Minh mất thì quả nhiên Trọng Ngọc làm thứ sử Hành châu. Ngày 1 tháng 9 năm đầu niên hiệu Nguyên Huy đời Tống Ngài thị tịch ở chùa Thông Vân, núi Dân, lúc sắp tịch Ngài nói với Đạo nhơn Pháp Tiến rằng: “Có thể để thi hài ta lộ thiên, mau mang giầy cho ta”. Mọi người y như vậy, sau đó đem táng trong chùa. Hai ngày sau không thấy thi hài Ngài ở đó, không lâu sau có người từ huyện Bi đến qua nói với Pháp Tiến rằng: - Hôm qua tôi thấy Thác công ở trong chợ, một chân mang giầy và nói với tôi rằng: - Tiểu tử làm mất của ta một chiếc giầy. Pháp tiến kinh hãi, kiểm tra hỏi Sa-di, Sa-di thưa: lúc gần táng sợ chân phải giầy không buộc chặt nên bị mất. Những kỳ tích như thế không thể nói hết được. Việc về sau không rõ như thế nào. Thích Tuệ An: Chưa rõ Ngài ở đâu. Từ nhỏ bị bắt đến Kinh châu làm nô lệ. Ngài phục dịch rất siêng năng nên được chủ yêu mến. Năm mười tám tuổi thì xin đi xuất gia ở chùa Tỳ-bà, Giang Lăng. Ngài có phong mạo bình thường lại nhẹ nhàng. Bấy giờ làm Sa-di, chúng tăng ngồi theo thứ tự, sai ngài bưng nước. Ngài cầm bình không châm từ Thượng tọa cho đến hạ tọa mà nước không dứt, mọi người đều lấy làm lạ. Sau khi Ngài thọ cụ túc thì có nhiều sự linh tích. Thường vào ngày cuối tháng Ngài cùng đồng học là Tuệ Tế thượng đường Bồ-tát. Cửa thiền đường chưa mở, Ngài từ khe vách kéo Té cùng vào, khi ra cũng vậy. Tế rất kinh hãi mà không dám nói. Sau đó cùng Tế ngồi ở dưới tháp, Ngài liền nói với Tế: Tôi phải đi xa, xin từ biệt với ông. Không bao lâu thì thấy có thiên nhơn cầm hương hoa kỹ nhạc vang đầy hư không. Tế chỉ kinh sợ mà chẳng nói nên lời. Tuệ An lại nói: - Những sự tích của tôi trước sau chẳng nên vọng nói ra. Nói là có lỗi, duy ở hướng Tây nam có nhà bạch y, đó là Bồ-tát mới phát tâm, có thể nói lại đầy đủ việc này cho người đó. Nói rồi thì từ biệt ra đi. Liền theo phụ thương nhơn vào vùng Tương Xuyên. Giữa đường bị bịnh rất nặng mới nói thuyền chủ rằng: - Mạng Bần đạo ắt chết, xin người đặt thây này bên bờ, không cần quan quách để bố thí cho loài trùng, chim. Bọn thương nhơn y theo lời dặn, đặt Ngài nằm bên bờ. Tối đến thấy lửa từ thân Ngài bốc cháy. Thương nhơn kinh sợ liền đến xem thì thấy Ngài đã tịch rồi. Thương nhơn đi đến phía đông Hồ nam thì thấy Tuệ An đã đến đó trước, sau đó không biết Ngài đi đâu, Tuệ Tế về sau đến chùa Trắc Dó, lại nhà ẩn só Nam Dương là Lưu Cầu nói lại đầy đủ các sự tích, Lưu Cầu nghe liền đảnh lễ Ngài từ xa và nói với Tế rằng: Đây là người đã đắc đạo, đã nhập vào hỏa quang Tam-muội Bấy giờ ở nước Thục có Tăng Lãm, Pháp Vệ cũng có nhiều dị tích, mọi người nghi là Ngài đã đắc Thánh quả. Thích Pháp Quỹ: Họ Nguyễn, người Ngô Hưng xuất gia từ nhỏ, đến kinh sư ở chùa Chỉ Viên làm đệ tử của ngài Pháp Giai, Pháp Giai trước kia có học thông về kinh sử, là thầy của Lang da Vương Hóan, Vương Tiêu. Ngài Pháp Quỹ tính tình trầm lặng ít nói, chân thật, mộc mạc không dây dưa với việc người. Ngài thường tụng kinh Pháp Hoa. Trong chùa có vị lão Hòa thượng là Trần Thắng già bệnh, Pháp Quỹ y chỉ với vị này, hầu hạ rất chí thành. Khi ngài Trần Thắng tịch, thì Pháp Quỹ làm lễ táng như pháp, mỗi khi gặp trai hội, thì chúng tụ lại cùng tạo tượng chiên-đàn. Khi tượng hoàn thành thì lập đại hội. Ngài tới nhà họ Kiều ở kinh sư, sáng hôm đó trở về nhà, lại đến Định Lâm, trở về Chỉ Viên, sau xét lại cả ba nơi Ngài đều đến thọ thực cùng lúc cùng giờ. Tối hôm đó Ngài trở về phòng nằm rồi thị tịch, hai ngón tay của Ngài co lại và thân thể của ngài tỏa ra mùi hương thoang thoảng. Đại chúng biết là Ngài đã đắc nhị quả dù ngài chỉ thọ mới Sa-di mà linh tích thật khác thường. Khi ấy, Lương Vũ Đế nghe Ngài tịch, liền đích thân mở tiệc cúng dường Tăng. Văn Tuệ Văn Tuyên cùng đến đảnh lễ và lo việc tống táng. Trăm họ đều đến cúng dường rất trọng hậu. Những lợi dưỡng có được dùng xây tháp chùa chỉ viên chỉ vào năm Vónh minh thứ bảy nhà Tề Thích Tăng Tuệ: Ngài họ Lưu, không biết người ở đâu đến lưu trú tại Kinh châu khoảng vài chục năm. Họ Lưu ở Nam Dương, lập ra chùa Trắc Dó, bèn thỉnh Ngài đến ở đó. Bấy giờ, Ngài đã năm sáu chục tuổi mà vẫn không già, cử chỉ đi đứng đều rất oai nghi. Khi đến nhà người bịnh, nếu Ngài nổi giận ắt người kia phải chết, hoan hỷ thì khỏi ngay, người đời cho là sấm. Phàm người chưa từng quen biết, Ngài đều gần gũi biểu thị sự mất còn. Ngài thường đến bờ sông chờ đò đưa sang. Khi chiếc thuyền nhỏ chưa cặp bến thì mọi người thấy Ngài ở bên kia rồi. Người hai bên đều cho là thần dị. Ơû Trung Sơn có Chân Điềm và Xa Đàm ở Nam Bình, cùng thỉnh Ngài đến trong ngày Ngài đếu đến. Sau đó, hai nhà nghiệm ra mới biết là Ngài phân thân. Vào năm Văn Huệ, Vónh minh, Ngài muốn đến kinh. Ngài đi qua Bảo Chí, Chí vỗ vào lưng và nói: Xích Long Tử. Ngài không nói gì. Sau đó Ngài trở về Kinh châu, gặp Trưởng sử trấn Tây là Lưu Cảnh Đình, chợt khóc lên thảm thiết và bỏ đi mấy ngày. Đình sau đó quả nhiên bị thứ sử hại. Khi Ngài đến thành phía Nam Tương châu liền chợt nói: - Trong đất này có bia. Mọi người thử đào lên thì thấy có hai tấm bia. Ngài Tăng Tuệ về sau không rõ thế nào. Có người nói Ngài mất vào năm Vónh Nguyên ở Giang Lăng. Lúc ấy ở chùa Trường Sa Giang Lăng lại có ngài Thích Tuệ Viễn. Vốn là đệ tử của Sa-môn Tuệ Aán. Ngài Tuệ Aán thấy ông có tín tâm bèn độ cho xuất gia, vẫn hành trì Ban-chu khổ hạnh chuyên cần mấy năm, bèn có thần dị, phân thân đến các nơi cầu thỉnh, và dự biết các điều hưng vong.vv… Thích Tuệ Thông: Không biết Ngài là người ở đâu. Vào năm Nguyên gia nhà Tống đã thấy Ngài ở Thọ Xuân. Việc ăn mặc ngủ nghỉ đến đi của Ngài đều không nhất định. Ngài du hành qua các xóm làng, cũng thích ăn thịt uống rượu không khác gì người thường. Ngài thường cho mình là Trịnh Tán Kî nói việc chưa xảy ra rất có hiệu nghiệm. Ơû bên Giang Lăng có người tên Tăng Quy đến Thọ Xuân buôn bán rồi trở về quê. Giữa đường gặp Ngài Tuệ Thông. Ngài nói muốn gửi vật lên gánh. Tăng Quy bấy giờ đang gánh nặng nên cố từ chối, Ngài cưỡng ép phải đặt lên gánh, nhưng không có cảm giác nặng. Đi được mấy dặm thì Ngài từ biệt nói với Tăng Quy rằng: - Tôi có người chị ở Giang Lăng, tu hành làm ni tên là Tuệ Tự ở chùa Tam Tằng, ông vì tôi ghé đó hỏi thăm. Ngài nói xong Tăng Quy không còn thấy Ngài nữa, quay lại thì vật gửi trên gánh cũng mất. Khi Tăng Quy đến Giang lăng tìm được ni cô Tuệ Tự, nói rõ ý của ngài Tuệ Thông. Tuệ Tự nói không có người em này, cũng không hiểu vì sao Ngài lại nói vậy. Ni cô bèn tìm đến Thọ Xuân nhưng không gặp. Sau đó thì Tuệ Thông có đến Giang Lăng nhưng Tuệ Tự đã mất. Ngài vào chùa hỏi thăm cặn kẽ, và lưu lại Giang Lăng một thời gian. Mộ phần dọc đường của nhà người Ngài đều biết họ tên và mất ngày tháng nào, ai hỏi thăm Ngài đều nói đúng cả. Hoặc ở trong huyện có các tội trạng trộm cướp Ngài đều chỉ ra. Bọn cướp trông thấy ngài từ xa liền bỏ chạy hết. Ngài đến bên sông gặp một người, chợt lấy gậy đánh người đó và bảo: - Mau chạy về xem nhà ông thế nào rồi? Người kia về nhà, quả nhiên nhà bị cháy, đồ đạc bị thiêu rụi. Đầu năm Vónh nguyên nhà Tề, Ngài bỗng đến nhà người quen xin rượu uống và gấp gáp nói: - Nay tôi phải đi xa và không còn gặp nhau nữa. Xin tạ ơn các vị thiện tri thức và xin chư vị tinh cần làm đều thiện trước hết. Uống rượu xong Ngài đến bên tường nằm xuống đất. Mọi người đến xem thì Ngài đã tịch. Sau đó khoảng vài mươi ngày thì có người thấy Ngài trong chợ. Mọi người đuổi theo hỏi thăm, không lâu Ngài biến mất không tìm được. Thích Bảo Chí: Ngài vốn họ Chu, người ở Kim Thành. Xuất gia từ nhỏ và dừng trụ ở chùa Đại LaÂm tại kinh sư. Thờ thầy là Sa-môn Tăng Kiện làm hòa thượng vốn tu tập Thiền nghiệp. Đầu năm Thái Thỉ nhà Tống, Ngài dường như có dị tánh. Việc đi ở bất định, ăn uống vô thời, để tóc dài vài tấc. Thường đi vào các thôn xóm ngõ hẻm và cầm tích trượng. Đầu tích trượng có treo dao kéo và gương, hoặc treo một vài tấm vải lụa. Vào năm Kiến nguyên nhà Tề, mọi người thấy có một ít hành tích lạ. Vài ngày không ăn mà không hề đói. Nói chuyện với người gần như khó hiểu. Về sau đều có hiệu nghiệm. Bấy giờ hoặc có khi Ngài nói thi phú như sấm ký. Hàng só thứ ở kinh đô đều kính trọng. Tề Vũ Đế cho rằng Ngài mê hoặc mọi người nên bắt giam ngài ở Kiến Khang. Hôm sau có người thấy ngài vào chợ. Người ấy trở về kiểm tra lại trong ngục thì thấy vẫn còn trong đó. Ngài nói với ngục sai: - Ngoài cửa có hai xe thức ăn đựng đầy trong bát vàng vừa đem tới, ông nên ra tiếp nhận. Cai ngục ra coi quả đúng như vậy. Đó là hai xe thức ăn của thái tử Tề Tuệ Văn và Lăng Vương Tử đưa đến cúng dường cho Bảo chí. Kiến Khang sai Lữ Văn Hiển tâu lại sự việc cho Vũ Đế. Đế liền cung nghinh Ngài đến hậu đường. Lúc sau vua bày yến tiệc, Ngài cũng tùy chúng bước ra. Lúc này trên núi Cảnh Dương lại có Bảo chí cùng với bảy vị tăng. Đế giận dữ bảo kiểm lại xem Ngài còn ở đó không. Hỏi thì sứ thưa rằng: Chí từ lâu đã ra khỏi tỉnh. Ngài bèn lấy mực bôi khắp thân. Bấy giờ có tăng Chánh Pháp Hiến muốn cúng cho Ngài cái y, sai sứ đến hai chùa Long Quang và Kế Tân mà cầu thỉnh ngài. Cả hai chùa đều nói Ngài đã đi sáng hôm qua rồi. Sứ lại đến nơi Ngài thường tới là nhà Lệ Hầu Bá tìm thì Bá nói: Ngài hôm qua hành đạo ở đây, bây giờ ngủ chưa dậy. Sứ trở về báo với Tăng chánh Pháp Hiến, lúc này mới biết Ngài một đêm phân thân ba nơi. Vào mùa Đông cực lạnh mà Ngài chỉ mặc áo mỏng đi đường. Sa-môn Bảo Lượng muốn cúng nạp y cho Ngài, thì Ngài bỗng đến tiếp nhận rồi bỏ đi. Có lúc đến người xin cá sống ăn người làm thịt mời ngài. Ngài ăn no rồi bỏ đi. Người ấy trở về thấy cá vẫn còn bơi lội trong chậu như cũ. Bảo Chí sau đó còn dùng thần lực cho Vũ Đế thấy Cao Đế ở dưới địa ngục đang chịu khổ nạn gươm đao. Từ đó, Vũ Đế vónh viễn bỏ gươm đao. Quan vệ úy nhà Tề là Hồ Hài bị bịnh mời Ngài đến. Ngài đọc chú sớ và nói “Minh khuất”( ngày mất). Ngày mai Ngài không đến và hôm đó Giai mất. Khi đưa tử thi về nhà, Chí nói: Minh khuất là ngày mai chết. Tề thái úy là Tư Mã Aân Tề Chi theo lịnh của Trần Hiển Đạt đến trấn Giang châu. Từ biệt chí Ngài vẽ lên tờ giấy một cây cao, trên cây có quạ và nói rằng: Khi cấp bách có thể leo lên cây này. Về sau Hiển Đạt tạo phản và Lưu tề Chi lại Trấn châu, bại trận Tề chạy vào Lô Sơn. Quân cưỡi ngựa đuổi theo. Tề chi thấy trong rừng có cây, trên cây có quạ như ngài Bảo Chí đã vẽ, liền leo lên cây đó. Con quạ không bay lên. Quân đuổi theo thấy quạ cho là không có người liền quay trở về, do đây được thoát chết. Tướng đồn kî là Tang Yển mưu tạo phản, bèn đến tìm Chí. Bảo Chí thấy ông từ xa đã bỏ chạy và kêu to: - Kẻ muốn phản nghịch sẽ bị chặt đầu mổ bụng ở thành Viên Đài. Chưa đến mười ngày sau, xảy ra việc Yển đến chu phương bị bắt và bị chặt đầu mổ bụng. Trung Liệt Vương nhà Lương ở Bá Dương(Giang Tây) từng mới chí đến nhà. Gặp nhau bỗng sai tìm cây kinh rất gấp. Khi có rồi thì đặt trên cửa mà chẳng nói lý do. không bao lâu sau Vương được cử làm thứ sử Kinh châu. Cho thấy điều linh cảm của Ngài chẳng phải chỉ có một. Ngài phần nhiều đi lại ở hai chùa Hưng Tuyền và Tịnh Danh. Và ngày nay ở Long Hưng còn rất được sùng kính lễ lạy. Trước đời nhà Tề thường cấm Ngài ra vào. Ngày nay khi vua tức vị liền hạ chiếu rằng: - “ Chí công hành tích dù bó buộc trong trần cấu mà thần du nơi tịch diệu. Nước lửa không thể thiêu đốt nhận chìm. Rắn, cọp không thể làm hại. Nói Phật lý thì âm thanh nghe vút lên. Luận đàm sự ẩn luân thì trốn ở tiên cao, há đem lẽ thường tình tục só mà câu chấp tướng không, vì sao lại hẹp hòi vào điều này. Từ nay việc hành đạo cùa người ra vào đến đi đều tùy ý không còn bị ngăn cấm. Từ đó ngài Bảo Chí phần nhiều ra vào trong cấm nội. Mùa đông năm Thiên Giám thứ 5 trời hạn hán,lễ cầu mưa đã chuẩn bị xong mà trời vẫn chưa mưa. Bảo Chí tâu với vua: -Chí bịnh không khỏi nay đến quan xin trị. Nếu không đủ trăm quan se bị đánh roi. Nguyện xin đến điện Hoa Quang giảng kinh Thắng Man để cầu mưa. Vương liền thỉûnh Sa-môn Pháp Vân giảng kinh Thắng Man. Giảng xong đêm đó trời mưa tuyết rất to. Chí lại nói: Cầm một chậu nước và dao để trên đó. Không bao lâu thì mưa lớn khắp nơi. Vương thường hỏi Chí rằng: - Đệ tử phiền hoặc chưa trừ lấy gì để trị. hoặc Đáp: - Mười hai thức lấy mười hai nhân duyên làm thuốc trị bịnh Lại hỏi yếu chỉ của mười hai nhân duyên. Đáp: - yếu chỉ đã lộ ra trong thời tiết sẽ lộ ra trong sách, chữ. Người biết trong mười hai thời đều đọc được điều đó. Lại hỏi: - Đệ tử làm thế nào để tịnh tâm tu tập. Đáp: An lạc cấm. Người biết thì lấy cấm để dừng, cho đến khi an lạc thì mới dừng. Về sau Pháp Vân giảng kinh Pháp Hoa ở chùa Hoa Lâm, cho đến sai sử cả hắc phong. Bảo Chí chợt hỏi ông có gió không? Đáp: - Theo thế đế thì có, đệ nhất nghóa thì không. Bảo Chí lại hỏi ba, bốn lần nữa thì cười nói: - Nếu thể là giả có thì đây không khó để giải. Do đây mà yếu chỉ ẩn mất cũng như thế. Có người tên Trần Ngự Lỗ cả nhà đều tôn kính Ngài. Bảo Chí thường vì họ mà hiện ra chân hình, quang tướng như là Bồ-tát. Bảo Chí biết danh phận hiển hách hơn bốn mươi năm nữa. Hàng cư só cung sự không thể tính hết. Cho đến mùa đông năm Thiên Giám 13, Ngài ở hậu đường trên đài bảo với mọi người rằng: - Bồ-rát sắp đi. Chưa được mười ngày, Ngài không bịnh hoạn gì liền mạng chung. Tòan thân Ngài tỏa hương nhẹ nhàng và hình mao vẫn tươi vui rực rỡ ràng. Lúc sắp viên tịch, Ngài đốt một ngọn đuốc, giao cho xá nhân là Ngô Khánh ở sau gác. Ngô Khánh liền hiểu. Vua than: Đại sư không lưu lại nữa rồi. Trao đuốc nghóa là giao phó hậu sự lại cho ta. Nhân đó đưa thi hài về an táng ở đồi Độc Long, núi Vu Chung. Ơõ bên phần mộ lập tịnh xá Khai Thiện. Có khắc bài minh từ ở bia mộ. Văn bia của Vương Quân LăÏc ở ngoài cửa chùa. Hình tượng của Ngài lưu truyền các nơi. Những hành tích mà Ngài hiển hóa đầu tiên là vào nmă đã năm mươi tuổi mà nhìn ngài không già nên khó ai đoán được tuổi. Có người tên Từ Tiệp Đạo ở kinh sư. Vào ngày 9 đến Đài Bắc nói ngài Bảo Chí là anh em, cô cậu của mình. Hồi Chí bốn tuổi có nói là sống đến chín mươi bảy tuổi. Vào đầu nhà Lương ở Thục Trung có Đạo Hương Tăng Lãng cũng có thần lực. Luận rằng: - Ta là hóa thân của thần đạo. Bởi cậy mạnh mà sinh tâm khinh mạn, bẻ hung nhuệ, cởi trần phân. Cho đến như hạng phi luân ngự bảo thì thiện tín đều quy hàng. Đá trọng khói tham thì lực só đều quy phục. Nên biết chỗ trị mà không lấy tấm cương nhu để hóa đạo. Từ tới Tấn Tuệ mất, chánh vì xót thương mà chốn đi nơi khác. Khấu đảng ở Trung Châu, Bọn hung nô gây loạn. Uyên diệu soán nghịch ở trước mặt; Lặc, Hổ, hung bạo giảo hoạt ở sau. Các nước tan ra làm cho dân tình đồ thán. Trừng Công Mẫn vừa bắt đầu gây chiến, thống khổ chưa đến thì đã thấy Thần hóa ở Cát Pha. Huyện ký thong dong đến Tương Nghiệp, dựa vào bí chú mà nhà Tế độ gần hết, đem hương khí nhổ bạt lâm nguy, chiêm bái linh anh chưởng mà tọa định kiết hung. Cuối cùng khiến cho hai họ Thạch cúi đầu, con cháu từ xa đến. Dân đen thắm nuần cố nhiên không thể so sánh. Sau khi Phật diệt ở Tây vực còn có các vị Thiệp công, Bôi Độ..v.v..hoặc soi sáng ánh đạo vàng cứu độ mê tục, hiển hiện thần kỳ, nói trước điềm báo, hoặc chết rồi sống lại, hoặc sau khi chôn thì quan quách trống không. Nhiều hành tích linh hiển không đoán biết được, mà sách vở ghi chép cũng sự đến đi cũng khác. Đến như Lưu An, Lý Thoát, sách sử cho là hạng yêu đảng tiến vị. Tiên lục cho là chim hóa mây bay, phàm nói lý là ở chỗ hợp với Đạo. Nói sự quý ở nơi giúp vật. Cho nên quyền thì trái với thường mà hợp đạo, lợi dụng để mà thành việc. Những sở truyền ở trước đều có ghi lại rõ ràng, chẳng cần tra cứu. Hoặc do pháp thân ứng cảm, hoặc ẩn tích chốn cao tiên. Chỉ ứng một phần mà đầy đủ cả. Đến như Tuệ Tắc cảm được vò hương mà tiêu hết bịnh tật. Sử Tông qua cầu Ngư mà được toàn mạng, Bạch Túc đao chém không bị thương, di pháp vừa mới bắt đầu. Bảo Chí phân thân ở Viên hộ, Đế Vương càng thêm tin tưởng, ánh sáng tuy hòa mà không ô uế thân thể. Bụi trần tuy đồng mà chẳng mất tánh chơn. Cho nên Văn Ký thời đều thấy nơi tông lục. Như kẻ khoe khoang mới đem kỹ xảo tà đạo làm loạn, nhơn vào thần dược mà bay cao, dựa vào cỏ phương cỏ chi mà thọ mạng. Phàm gà kêu trong mây, chó sủa trên trời. Xà, hạc không chết, rùa linh ngàn năm từng là điều kì dị ư. Tóm lại: Đất đai, của cải, sông nước, ao hồ, vàng đun trong lửa. Cường lương lỗ hóa, giả thấy uy quyền. Soi sáng Tương độ, khai đạo Trung Xuyên. Ban ân hai nơi này, dẹp yên bốn cõi, nếu không nương tựa, mạng dân làm sao bảo tòan <篇> <卷>QUYỂN 11 21 VỊ TU THIỀN TRÚC TĂNG HIỂN Ngài họ Phó người phương Bắc. Cần khổ gìn giới tiết, sống đạm bạc, tụng kinh điển hành thiền định làm chính. Thường ở nơi núi non thanh vắng hành hạnh đầu-đà. Có khi mấy ngày liền thiền định quên ăn uống mà không tỏ chút đói khát. Lúc ấy Lưu Diệu dấy bịnh nổi loạn ở Tây kinh, từ kinh đô đến vùng hoang dã đều bị loạn giặc. Lúc đó vào cuối niên hiệu Thái Hưng nhà Tấn, Ngài sang miền Nam ở Giang tả, rồi lại vân du trên những ngọn núi nổi tiếng, tu tập pháp môn Tịnh độ. Sau đó mắc bịnh lại càng dốc chí hơn. Bèn hướng về Tây phương tâm khẩn cầu tha thiết. Thấy Đức Di-đà, giáng xuống ánh sáng chân dung chiếu khắp thân mình. Mọi sự bức bách trong thân đều tan biến. Đêm ấy Ngài ngồi dậy tắm rửa xong kể lại câu chuyện mình thấy Phật Di-đà cho vị đồng phòng và thị giả chăm sóc bịnh nghe, đồng thời răn dạy họ về pháp nhân quả, lời lẽ hết sức gãy gọn sâu sắc. Đến sáng sớm hôm sau thì Ngài mới ngồi yên thác hóa, trong thất tỏa mùi hương lạ trải qua hơn mười ngày mới hết. ------------------------------------- <詞>BẠCH TĂNG QUANG (Còn gọi là Đàm Quang) Ngài không rõ người xứ nào, thuở thiếu thời tu thiền. Vào năm Vónh hòa nhà Tấn, bắt đầu vân du khắp Giang Đông, ở ngọn núi Thạch Thành, Diệm người dân trong núi ấy đều nói rằng vùng này thuở xưa có họa hổ dữ, mãnh thú và sơn thần, quấy nhiễu nên từ lâu đã bặt dấu chân người lui tới. Ngài nghe xong không hề tỏ chút lo sợ, thuê người vạch đường gánh đồ mà đi, đi vào chừng mấy dặm, trời bỗng trút mưa lớn, bầy hổ gầm hét. Ngài ở hướng Nam ngọn núi thấy một hang đá. Ngài bèn vào đó tọa thiền, chắp tay để định thần. Đến sáng hôm sau trời dứt mưa. Ngài bèn vào thôn khất thực, tối đến lại về núi, trải qua ba ngày, một hôm mộng thấy sơn thần, lúc hiện làm thân hổ, khi biến thành thân rắn tranh nhau đến quấy nhiễu ngài. Ngài chẳng chút sợ sệch. Trải qua ba ngày lại mộng thấy sơn thần nói rằng: đã dời sang núi Hàn Thạch, huyện Chương An ở. Đem thất này cúng cho Ngài. Từ đó về sau những người vùng ấy tới lui hái củi, đạo tục rất kính trọng Ngài. Người ưa tu thiền đến đây cất thảo am bên cạnh thất Ngài dần thành chùa chiền, tăng phòng. Vì thế gọi là Aån nhạc. Mỗi lần Ngài nhập định thì suốt cả bảy ngày không xả. Ngài ở trong núi năm mươi ba năm, thọ một trăm lẻ một tuổi. Lúc đó vào cuối niên hiệu Thái nguyên nhà Tấn. Ngài lúc sắp tịch lấy y trùm đầu mà ngồi thác hóa. Chúng tăng đều tưởng rằng như thừơng lệ Ngài nhập định, đến bảy ngày rồi họ cảm thấy lạ lùng vì Ngài không xả định. Cùng nhau đến xem thì thấy nhan sắc không đổi, chỉ có mũi không thấy hơi thở. Thần thức đi đã lâu mà hình hài không đổi. Đến năm thứ 2 niên hiệu Hiếu Kiến nhà Tống. Quách Hồng nhận chức ở huyện Diệm vào núi lễ bái. Thử lấy như ý vạch ngực Ngài ra, bỗng nhiên gió nổi lên tốc y bay hết, chỉ còn bộ xương trắng. Quách Hồng rất hoảng sợ và hối hận đem bộ xương về thất, lấy gạch xây bao quanh bên ngoài để bảo vệ hài cốt. Vẽ bức tượng đến nay vẫn còn. ---------------------------------- <詞>TRÚC ĐÀM DO Ngài còn được gọi là Pháp Do, người Đôn Hoàng. Thuở niên thiếu siêng cần khổ tu tập thiền định. Sau đó sang Giang Tả ở núi Thạch Thành, huyện Điệm. Khất thực, tọa thiền. Một lần nọ đến nhà nuôi trùng độc khất thực. Ngài nhận thức ăn và chú nguyện xong. Chợt thấy con rít bò từ trong thức ăn ra, ngài ăn không chừa, sau đó dời sang Xích Thành ở Thỉ Phong ở trong thạch khất tọa thiền. Có mấy chục con hổ dữ kéo đến trứơc mặt Ngài. Ngài vẫn an nhiên tụng kinh, có một con hổ thiêu ngủ. Ngài lấy tích trượng khỏ vào đầu nó và hỏi: sao không nghe kinh. Lát sau bầy hổ kéo đi, kế đến một con mãng xà xuất hiện to hơn mười vòng, đảo tới lui rồi ngẩng đầu lên nhìn Đạo Do, chừng nửa ngày thì bò đi. Hôm sau thần hiện hình đến chỗ ngài Đàm Do nói rằng: Pháp sư có oai đức cao rộng và đến ở nơi núi này, đệ tử xin đem thất dâng cúng. Ngài nói: Bần đạo đến núi này mong được gặp Ngài, sao không ở chung. Thần nói: Đệ tử rất muốn được như thế nhưng bỏ thuộc chưa hợp pháp hóa, khó kiềm chế lời nói. Người tới lui nơi này có khi đệ tử xúc phạm họ. Người thần khác đạo vì thế phải ra đi thôi. Ngài nói: Ngài vốn là thần gì mà ở lâu nơi này, nay muốn dởi sang chỗ nào ở vậy. Thần nói: Thần là con của vua Hạ ở núi này hơn hai ngàn năm, núi Hàn Thạch là nơi cậu cai trị nên đệ tử sang đó ở, tìm trở lại Sơn lâm miếu. Nói rồi chắp tay từ biệt và tặng Ngài ba hộp nhan. Thế rồi gõ vách thổi ốc cởi mây mà đi. Núi Xích Thành có một đỉnh cao chót vót, vượt khỏi ngàn mây. Ngài chất đá thành bậc thềm để leo lên đỉnh tọa thiền, đặt ống trúc dẫn nước để dùng hàng ngày. Các vị học thiền kéo về hơn cả mười người. Vương Huy Chi nghe tin cũng đến thăm, ngưỡng mộ phong cách thanh cao và kính trọng đức độ của Ngài. Đỉnh Xích Thành cùng với Thiên Thai giáp nhau tạo thành dòng thác linh thiên. Nhưng đỉnh Thiên Thai cheo leo cao vút tận trời. Người xưa truyền nhau rằng: trên đó có một ngôi tịnh xá đẹp, những vị đắc đạo ở trong ấy. Tuy có cầu đá bắt qua khe nhưng có đá chắn ngang lối đi của người, còn có những thảm rêu xanh trơn trợt từ xưa đến nay không ai đến được. Lúc Ngài đi đến chân cầu bổng nghe tiếng nói từ hư không vọng xuống: Biết Ngài có lòng chí thành nhưng đây chưa qua được. Mười năm sau rồi hãy đến vậy. Trong lòng Ngài buồn bả đành phải ở lại đêm nơi đó, nghe người hành đạo xướng âm Bồ-tát. Sáng hôm sau Ngài lại muốn đến nữa, thấy một người lông mi, râu tóc bạc trắng. Hỏi: Ngài ở đâu? Ngài trình bày ý nghó của mình, ông nói: thân sinh tử của Ngài đâu thể qua được. Tôi là thần núi nên đến báo cho Ngài biết. Thế là Ngài đành lui lại( trở về) đi ngang qua một thất đá Ngài vào đó nghó ngơi. Chốc lát sau mây mù phủ khắp thất đá và làm chấn động bởi những tiếng sấm rền. Ngài vẫn an nhiên không tỏ chút sợ hãi. Sáng hôm sau Ngài lại thấy một người mặc áo đơn đến nói. Đây chính là chỗ tôi cư ngụ, hôm qua tôi đi vắng không có ở nhà. Ngài vào nên tôi đến quấy nhiễu, bây giờ cảm thấy rất áy náy hổ thẹn. Ngài nói: Nếu là thất của ông tôi xin trả lại. Thần nói: Nhà tôi rời đi nơi khác rồi, xin Ngài ở alị đây. Ngài cứ ở lại đây một thời gian ngắn cứ hận không qua được cầu đá. Sau đó giữ trai khiết trong một thời gian và muốn qua đó nữa. Thấy cửa động đá chắn ngang đã mở và Ngài liền bước qua cầu trong tích tắc. Thấy tịnh xá, thần tăng như lời người xưa nói. Nhân đó Ngài đốt nhan và dùng cơm trưa. Sau khi ăn xong thần tăng nói với Ngài rằng: Mười năm sau rồi hãy đến đây, nay chưa ở được. Thế là Ngài đành phải quay về. Ngoái nhìn tảng đá chắn ngang vẫn khép như xưa. Vào giữa niên hiệu Thái nguyên nhà Tấn có sao lạ xuất hiện. Vua hạ chiếu mời các vị Sa-môn có oai đức trong khắp cả nước lập trai đàn sám hối để cầu dứt họa. Ngài bèn thành tâm cầu khẩn nên cảm ứng. Đến sáng ngày thứ 6 thấy chú tiểu đồng mặc áo xanh đến sám hối xin tội rằng. Đã làm lao nhọc Pháp sư, ngay đêm ấy sao lạ biến mất. Có thuyết nói rằng: Người giải trừ nạn sao lạ là Bạch Tăng Quang ( chưa rõ) Ngài tịch vào khoảng cuối niên hiệu Thái nguyên, nơi thất đá trên núi. Thân Ngài vẫn còn ngồi yên mà cả người biến thành màu xanh lục. Cuối niên hiệu Nghóa hy nhà Tấn có ẩn só Thần Thế Tiêu vào núi rồi leo lên đỉnh thấy thi thể Ngài không hề rửa mục. Sau này muốn đến đó xem thì thấy mây mù che bủa không thể nhìn được. Thời ấy cũng có các vị Tuệ Khai, Tuệ Chân..vv..cũng rất giỏi pháp môn thiền định. Vào trong núi Linh Bí Dư Diêu. Mỗi vị đều dựng một thiền thất để ở đến nay vẫn còn ---------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ NGÔI Không rõ là người xứ nào, chỉ biết Ngài ở Đại tự Trường An, giới hạnh tinh nghiêm, thường ở nơi thâm sâu cùng cốc tu tập thiền định. Một hôm có con quỷ không đầu đến chỗ Ngài nhưng Ngài vẫn thản nhiên và bảo quỷ rằng: Ông đã không có đầu thì không có nỗi khổ của đau đầu, thế thì sướng thật đấy, quỷ bèn ẩn hình. Rồi lại biến ra một con quỷ không có bụng, chỉ có tay và chân. Ngài lại nói: ngươi không có bụng thì không có sự ưu não của năm tạng thế thì vui thật. Chốc lát nó lại biến ra hình khác, Ngài cũng nói theo từng kiểu dạng và đuổi nó đi. Vào mùa đông trời đổ tuyết thật lạnh, có một cô gái dung nhan rất đẹp đến chỗ Ngài xin ở lại, quần áo tươm tất, dáng thùy mị dịu dàng tự xưng là thiên nữ. Vì biết Ngài là bậc thượng nhơn, có oai đức, nên Thiên đế sai tôi đến đây để dụ dổ Ngài. Nói những lời có ý khích động. Nhưng Ngài vẫn thản niên không hề tỏ chút nao núng. Bèn bảo cô ta rằng: Tâm tôi đã nguội lạnh như tro tàn không thể dùng túi da để thử được. Cô bèn lướt mây mà đi, còn quay lại khen rằng: nước biển có thể cạn, núi Tu-di có thể nghiêng. Bậc thượng nhơn kia giữ chí bền chặt”. Sau này vào năm thứ 3 Long An nhà Tấn. Ngài cùng Pháp Hiển sang Tây Vực, không biết tịch ở đâu ---------------------------------- <詞>THÍCH HIỀN HỘ Ngài họ Tôn, người Lương châu, đến ở chùa Diệm Hưng huyện Quảng Hán. Siêng tu thiền định, lại thông luật tạng, không hề trái pha- ïm. Ngài tịch vào năm Long An thứ 5 nhà Tấn. Lúc lâm chung trong miệng toả ra ánh sáng năm màu chiếu khắp trong chùa, nhưng theo di chúc Ngài bảo phải thiêu, các vị đệ tử cũng thuận lời chẳng bao lâu gân cốt đều tiêu rụi chỉ còn một ngón tay không cháy. Vì thế đặt vào trong tháp. -------------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM LAN Ngài là người Thanh châu, sống đạm bạc ưa thích tọa thiền, tụng kinh cả ba mươi vạn câu, vào giữa niên hiệu Thái Nguyên nhà Tấn Ngài đền huyện Diệm. Sau đó đến ở núi Xích Thành huyện Thỉ Phong. Tìm thấy một chốn núi non thanh vắng và đến trú ở đó. Chừng khoảng vài ngày, chợt thấy một người thân cao vài trượng gọi Ngài đi. Rồi lại thấy những loài cầm thú, linh thú quái lạ đến dọa Ngài. Chúng thấy Ngài tỏ vẻ thản nhiên không chút sợ hãi nên quì xuống lễ Ngài rồi nói. Châu Khi Vương là cậu, nay sang núi Vi Hương để ở, hiến dâng chốn này cho Ngài. Ba năm sau chợt thấy đòan xe ngựa xa xa cùng vô số tùy tùng. Chốc lát lại thấy một người khăn quấn xưng là Châu Khi Vương đến, ông đứng trước cùng với vợ, con trai, con gái chừng khoảng hai mươi ba người. Những người này đều có phong cách đoan trang, tề chỉnh, diện mạo hơn người. Oâng đến chỗ Ngài thăm hỏi xong. Ngài hỏi: Oâng ở nơi nào? ông đáp: con ở núi vị Hương huyện Lạc An. Từ lâu con đã cảm phục oai phong của Ngài, nay cùng gia đình lặn lội đến đây xin quy y. Ngài bèn truyền giới cho gia đình ông. Khi thọ giới xong ông mang ra một vạn tiền mặt và hai thùng mật cúng dường tạ lễ, rồi từ biệt ra về, bèn nghe những tiếng kèn sáo nổi lên inh ỏi chấn động núi rừng. Ngài cùng với mười vị thiền Tăng đều nghe thấy. Vào giữa niên hiệu Nguyên hi nhà Tấn Ngài tịch trong núi thọ tám mươi ba tuổi. <詞>THÍCH PHÁP TỰ Ngài họ Hỗn người ở Cao Xương, đức hạnh thanh cao, sống đạm bạc mà vui thiền định. Sau đó vào núi Thục ở trong sơn cốc đi tu đầu-đà ở trong ngôi mộ của Lưu Sư, hổ beo không làm tổn thương. Ngài thường tụng các bộ Pháp Hoa, Duy-ma, Kim Quang Minh, hay ở trong thạch thất vừa tọa thiền vừa đọc tụng. Giữa hạ thì thị tịch luôn trong thạch thất cho đến ngày thứ bảy vẫn không có mùi hôi, bên hông trái tỏa mùi thơm trải qua cả mười ngày hết. Đêm nào cũng chiếu ánh sáng đến khoảng mấy dặm, người trong thôn bèn xây tháp thờ thi hài đó. --------------------------- <詞>THÍCH HUYỀN CAO Ngài họ Ngụy, tục danh Linh Dục, người ở Vạn Niên, Bằng Dực vậy. Mẹ Ngài họ Quan vốn là người sùng tín ngoại đạo. Lúc vừa về nhà họ Ngụy sinh một cô con gái đầu lòng tức chị hai của ngài Huyền Cao. Khi cô này sinh ra lại tin đạo Phật. Cô chú nguyện cho mẹ, nguyện cho mẹ lại đừng tu tà đạo, trở lại phụng thờ đại pháp. Vào năm thứ 3 Hoằng Thỉ thời vua Ngụy tần, bà mộng thấy một tăngrải hoa đầy nhà, tỉnh lại thì mang thai sư, đến mồng 8 tháng 2 năm thứ 4 sanh một cậu con trai. Trong nhà tỏa mùi hương lạ, và ánh sáng chói trên tường, cả ngày mới hết. Mẹ Ngài nhân điều lành khi sinh con gọi là Linh Dục. lúc ấy người người ai cũng yêu quí Ngài. Rồi lại đặt tên là thế Cao. Năm lên mười hai tuổi thì biệt mẹ vào núi, nhưng bà không cho phép, một ngày nọ, có một thư sinh tá túc trong nhà Ngài, ông ta nói là ông muốn vào núi Trung Thường ở ẩn, cha mẹ Ngài bèn gởi Ngài cho vị thư sinh ấy. Đêm ấy cả nhà đều thấy người trong cả thôn đều làm lễ bái tổ tiễn Ngài. Sáng hôm sau họ đến thăm Ngài, cha mẹ nói, hôm qua các vị đã đến tiễn rồi mà nay lại đến nữa. Họ nói: Chúng tôi đâu biết cậu bé đi thì làm sao mà nói tiễn rồi. Cha mẹ hiểu ra hôm qua người đến tiễn là thần vậy. Khi Ngài mới vào núi thì liền muốn xuất gia. Nhưng các vị tăng ở đó chưa cho phép, họ bảo rằng cha mẹ Ngài chưa cho phép thì không được xuất gia. Thế là Ngài đành phải quay về nhà khẩn cầu cha mẹ cho phép được xuất gia. Suốt cả hai mươi ngày mới được toại nguyện. Khi đã lánh tục lìa thế nên đặt tên là Huyền Cao. Ngài là người thông minh học đâu biết đó không cần suy nghó. Năm lên mười lăm tuổi lại còn thuyết pháp cho các vị sơn tăng nghe. Khi thọ giới xong thì chuyên tinh nghiên cứu thiền luật. Sau nghe tin ở Quan Trung có thiền sư Phù-đà Bạt-đà ở chùa Thạch Dương hoằng pháp. Ngài đến tham bái sư. Chỉ trong mười ngày thì thông thạo thiền pháp. Thiền sư Bạt-đà khen rằng: lành thay Phật tử, có thể thông đạt như vậy. Vì khiêm nhường không chịu nhận sự lễ lạy. Như bậc thầy nên Ngài đành phải chống tích trượng sang Tây Tần ẩn cư trong núi Mạch Tích. Học nhơn trong núi hơn cả trăm vị, đều tôn Ngài làm thầy và theo thọ học Phật pháp. Khi ấy có Sa-môn Đàm Hoằng người Trường An là vị cao tăng đang ẩn cư ở núi này, hai vị gặp nhau, vì cùng tư tưởng nên kết làm bạn thân. Lúc ấy Khất-phật Sí-bàn có đường đi qua Lũng Tây. Tây tiếp với đất Lương. Có thiền sư ngoại quốc hiệu Đàm Vô Tỳ vân du sang nước này. Thu nạp đồ chúng và dạy thiền đạo. Tam-muội chánh thọ đã sâu sắc lại mầu nhiệm. Các vị Tăng ở Lũng Tây bẩm thọ những tinh túy của pháp thiền Huyền Cao cũng tự dẫn đồ chúng đến đó thọ pháp. Trong khoảng mười ngày thì ngài Vô Tỳ bèn tham vấn ý chí của Ngài. Lúc đó, ở Hà Nam có hai vị Tăng. Tuy hình dáng là Sa-môn nhưng thật sự trá hình ngụy tạo. Mặc tình buông lung trái phạm luật, đố kî với học tăng. Ngài Đàm Vô Tỳ từ Lũng Tây trở về Xá-di. Hai vị tăng ấy đến chỗ vương thế Tử Man ở Hà Nam sàm báng Huyền Cao, nói rằng việc thu nạp đồ chúng đông là mối họa của đất nước. Thái Tử Man tin những lời sàm báng đó nên muốn trừ khử Ngài Huyền Cao, nhưng cha ông không cho phép. Bèn đuổi Ngài đến núi Đường xứ Lâm Dương tỉnh Hà Bắc. Ngọn núi này các bô lão đời xưa truyền nhau rằng: Là chốn tụ hội của chư tiên. Huyền Cao dẫn ba trăm đồ chúng đến ở núi này. Tinh thần an định, thiền tuệ ngày càng tăng tiến. Nhờ tâm chí thành tha thiết nên thầm cảm ứng đến rất nhiều điềm linh dị. Khánh không đánh mà tự kêu. Hương cũng tự nhiên tỏa hương bóc khói. Tiên só ứng chân thường tới lui du ngoạn. Thú dữ cũng hàng phục, trùng độc cũng tiêu trừ. Trong những vị học trò thông thạo lục môn của Ngài có hơn cả trăm. Có vị tên Huyền Thiệu là người Lũng Tây, Tần châu, thấu đạt các pháp thiền thần lực tự tại, chính tay ông hóa ra nước dâng cho ngài Huyền Cao xúc miệng, rửa mặt, nước ấy thơm sạch gấp bội nước thường. Thường tạo ra những hương thơm tuyệt hảo để dâng cúng Tam bảo. Những vị đạt được thần lực vi diệu như Huyền Thiệu có mười một vị. Sau đó ngài Huyền Thiệu vào núi Đường Thuật thiền duyệt rồi mất. Ngày xưa Pháp sư Đàm Hoằng ở Trường An đến trú ở Mân Thục hoằng đạo rất thịnh hành chốn thành đô. Hà Nam Vương biết đến uy danh của Ngài nên sai sứ đến đón về nhưng Ngài biết chuyện ngài Cao bị đuổi nên muốn đến đó để làm sáng tỏ chuyện này. Vì thế không ngại đường xá hiểm trở, núi non gập ghềnh, khi Ngài đến Hà Nam. Khách chủ thăm hỏi nhau xong. Ngài bèn hỏi Vương rằng: Ngài là bậc cao minh cớ sao tin tưởng những lời sàm báng bỏ đi bậc hiền tài. Bần đạo sở dó không ngại đường xa ngoài ngàn dặm lặn lội đến đây chính là vì muốn bày tỏ những điều này. Vua và thái tử ái ngại và hổ thẹn, bèn sai sứ đến chỗ ngài Huyền Cao bằng những lời lẽ nhã nhặn khiêm tốn thỉnh Ngài về kinh. Ngài vì muốn cứu độ muôn loài quên đi những hận xưa, lúc mới khởi ý xuống núi, đột nhiên cây cối trong núi ngã gãy, đá nghiêng đổ bít lắp con đường. Ngài chú nguyện rằng: Tôi thệ phải hoằng hóa đạo cả, sao làm cản trở lối đi, lúc đó gió ngừng đường xá hiện ra. Ngài đi lần về đến kinh đô. Vua và thần dân gần đó cùng nhau ra nghinh đón. Đời đạo đều kính ngưỡng và tôn Ngài làm quốc sư. Khi nhân duyên hóa độ ở Hà Nam đã mãn. Ngài lên đường đến đất Lương. Thư Cừ, Mông Tốn hết lòng kính trọng và cúng dường Ngài, đồng thời hội tụ những bậc anh tài phát khởi những thắng giải từ nơi Ngài. Lúc đó ở Tây Hải có Phiên Tăng Aán cũng theo Ngài thọ học. Có kẻ trí hẹp tài kém được chút ít cho là đủ cho rằng mình đã đạt quả La-hán, thấu tột thiền cơ. Ngài liền âm thầm dùng thần lực khiến cho ông từ trong định thấy rõ chư Phật trong mười phương thế giới nói pháp khác nhau. Trong một mùa hạ ông mới nhận rõ cái thấy của mình không bao giờ thấu tột hết, mới biết nước định không ngằn mé nên sinh lòng hổ thẹn. Lúc đó Ngụy Lỗ Thác Bạt Đảo Tiềm xưng ở Bình Thành, khởi quân xâm chiếm đất Lương. Cậu của Đảo là Dương Bình Vương Đỗ Siêu thỉnh ngài Huyền Cao về Ngụy đô. Khi đi đến Bình Thành rồi ngài Hoằng thuyết giáo pháp. Thái tử Thác Bạt Hỏang thờ ngài Huyền Cao làm thầy. Thái tử lúc bị cha nghi ngờ nên thuật với Huyền Cao rằng: Khi không vướng lấy oan ức làm sao để thoát nạn? Ngài chỉ cho thái tử lập đàn chay Kim Quang Minh trì trai bảy ngày để sám hối. Đảo đêm nọ mộng thấy ông nội và cha mình cầm kiếm đến thị oai hỏi: Tại sao ngươi tin lời sàm báng nghi oan cho thái tử. Đảo giật mình thức giấc tập hợp quần thần hỏi về điềm trong mộng. Quần thần đều nói: Thái tử không có lỗi, thật đúng như Hoàng linh hiện báo, Đảo không còn nghi ngờ thái tử nữa, chính là nhờ công lực thành khẩn của Cao vậy. Đảo nhân đó hạ chiếu chỉ rằng: Trẩm phụng thừa nếp đạo của tổ tông mà muốn xiển dương nền móng to lớn, khôi phục phát huy muôn đời. Công sức của Võ tuy rạng mà đại giáo chưa lưu thông thì chẳng thể nói đến việc đề cao thái bình thịnh trị. Nay đất nước bình yên no ấm, nên phải đặt ra pháp chế để làm chuẩn cho vạn thế. Bởi âm dương có tuần hòan, bốn mùa có thay đổi. Bảo con: phải tin nhậm bậc hiền để làm người giao phó, khiến cho ngưng mọi sự mệt mỏi, kiểu cách bền vững lâu dài. Xưa nay lệnh điển khó đổi. Các công thần của Trẫm đã vất vả nhiều ngày. Nay muốn mời họ về an nghỉ thỏai mái. Không cần đảm nhiệm những việc đau khổ. Oâng ra lệnh bảo Hoàng thái tử giao phó Lý Vạn Cơ thống lãnh muôn dân. Còn đề cử bậc hiền tài bổ nhận chức vụ. Tuyển chọn người tài và cách chức bọn tham ô. Cho nên Khổng tử nói: “Hậu sinh khả úy. Sao biết người xưa không bằng người nay. Thế là cả triều đình từ quan quân đến muôn dân đều xưng thần với thái tử. Dâng thư như lời trần tình, dâng giấy trắng để phân biệt. Lúc ấy Thôi Hạo, quan Thiên sư trước kia được ẩn ủng của Đảo, sợ hoảng lên nối vị thì sẽ đoạt đi quyền uy của mình bèn đàm tấu: Việc xưa của thái tử thật có mưu tâm. Nhưng nhờ đạo thuật của Huyền Cao nên khiến tiên đế giáng mộng. Sự tích vật luận như vậy hiển lộ ra nếu không diệt trừ, ắt sẽ làm mối họa lớn. Đảo liền tiếp nhận và đột nhiên nỗi giận. Bèn ra lệnh bắt Huyền Cao. Trước đây Ngài đã từng thầm nói với đệ tử rằng: Phật pháp sẽ suy vi. Ta và Sùng công từng gây họa cho ông ta vào đời trước. Bấy giờ người nghe ai nấy đều buồn bã. Lúc ấy có Sa-môn Thích Tuệ Sùng ở Lương châu là bậc thầy của thượng thư Hàn Vạn Đức nhà Ngụy. Oai đức ấy cũng tầm cở với ngài Huyền Cao và cũng bị nhiều chướng ngại trong việc hoằng đạo. Đến tháng 9 năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình. Huyền Cao và Sùng công đều bị giam cầm, vào ngày 15 tháng đó thì bệnh mất ở ngoại ô phía đông thành Bình. Thọ bốn mươi ba tuổi, năm ấy đúng năm 21 Nguyên hy nhà Tống. Lúc đó môn nhân của Ngài không ai biết. Nhưng vào canh ba đêm ấy chợt thấy hào quang nhiểu quay ba vòng chỗ trước đây Ngài ở rồi thu vào thiền thất. Nhân đó nghe trong hào quang có tiếng nói rằng: Ta đã tịch rồi, các vị đệ tử mới biết Ngài đã tịch, vô cùng đau xót chẳng bao lâu sau thỉnh thi hài của thầy về vùng đất trống ở phía Nam thành, tắm rửa sạch sẽ rồi tẩm liệm đồng thời xây tháp chôn ngài Sùng công ở một chỗ khác. Đạo tục cả kinh đô vô cùng thương tiếc. Đệ tử Huyền Sướng lúc đó ở Vân Trung cách Ngụy quận sáu trăm dặm. Một hôm trông thấy một người bảo với Ngài rằng: “ Có sự biến”. Rồi cấp cho Ngài một cổ ngựa chạy 600 dặm. Thế là Ngài quất ngựa ra đi, khỏang mờ tối thì đến kinh đô, mới hiểu rằng thầy đã tịch, lòng vô cùng đau xót. Nhân cùng ngồi khóc với bạn đồng môn rằng: pháp nay đã diệt lại còn phục hưng chi bằng thoát thân này thì càng hưng thịnh. Thỉnh hòa thượng ngồi dậy, đức của thầy siêu việt hơn người thường, ắt sẽ chiếu sáng vậy. Nói xong thì hai mắt Ngài hé mở, ánh mắt vẫn còn tươi nhuận, thân toát mồ hôi, nhưng rất thơm, chốc lát Hòa thượng ngồi dậy bảo đệ tử rằng: Đại pháp ứng hóa tùy theo duyên mà có thạnh suy. Thạnh suy ở nơi sự, còn đối với lý thì xưa nay vẫn như vậy. Nhưng nghó đến các ông không lâu nữa cũng giống ta thôi, chỉ có Huyền Sướng nên về phương Nam hóa độ. Sau khi các ông mất rồi pháp sẽ được hưng thịnh lại, hãy khéo tu tâm mình đừng nửa đường thối lui. Nói xong thì nằm xuống mà tịch. Hôm sau định đem linh cữu Ngài nhập tháp nhưng phép nước không cho, đành phải xây mộ an táng. Đạo tục đau buồn khóc không ngớt. Lúc đó có Sa-môn Pháp Đạt làm chức Tăng chánh ở Ngụy quốc, hâm mộ tài đức của Ngài đã lâu nhưng chưa đến thỉnh giáo được. Chợt nghe tin Ngài đã tịch vì thế mà than khóc nói: “ Thánh nhân tạ thế rồi ta biết nương tựa vào ai”, nhiều ngày bỏ ăn uống và luôn gọi thánh nhân cao thượng tự tại sao không hiện một lần. Ứng theo âm thanh ấy thấy Ngài lướt mây đến. Phát Đạt đảnh lể cầu ai mong được cứu độ. Ngài nói: Nghiệp ông nặng khó cứu. Ông nói thế phải làm gì? Ngài nói: Từ đây trở đi phải chịu khó nương kinh Phương Đẳng siêng năng sám hối thì sẽ được nhẹ nhàng”. Đạt nói: Thoát được báo khổ nguyện thấy việc xót thương cứu giúp. Cao nói: không quên tất cả thà rằng ở một mình ông. Đạt lại nói: Pháp sư cùng với Sùng công thác sinh chốn nào. Ngài Cao nói: Ta nguyện sinh vào cõi ác này cứu giúp chúng sinh nên sinh vào cõi Diêm-phù-đề. Còn Sùng công thường cầu An Dưỡng nên nguyện đã theo tâm rồi vậy Pháp Đạt lại hỏi: Không rõ Pháp sư đã chứng địa nào. Ngài nói: Các đệ tử của ta tự biết. Nói xong biến mất, Pháp Đạt âm thầm đến dò hỏi các vị đệ tử của Ngài họ đều nói: Đắc nhẫn Bồ-tát. Đến năm Thái bình thứ 7 nhà Ngụy. Thác Bạc Đảo quả đúng là hủy diệt Phật pháp, giống như lời ngài Huyền Cao nói. Lúc đó Thư Cừ ở Hà Tây là người tài giỏi đồng thời có vị Sa-môn tên Đàm Diệu cũng rất giỏi thiền học, Ngụy thái phó Trương Đàm kính phục như thầy. --------------------------- <詞>THÍCH TĂNG CHU Không biết Ngài là người xứ nào, tính cách thanh cao, có những vẻ dị thường, luôn mai danh ẩn tích nên người đời chẳng biết. Thường ở trên Sùng Sơn, đầu-đà tọa thiền, lúc Ngụy sắp diệt Phật pháp. Ngài bảo với môn nhơn rằng: Đại nạn sắp đến, rồi cùng với mấy mươi người đồ đệ lánh vào Hàn Sơn. Núi này ở phía Tây nam Trường An khoảng bốn trăm dặm. Khe suối hang hốc hiểm hóc không có quân binh nào đến được. Thế là Ngài bèn định cư ở đó. Chẳng bao lâu sao Ngụy lỗ nổi loạn, những người ở lại đều bị giết chết. Sau đó hối hận vì tội giết hại, họ Thôi phục hưng Phật giáo. Vónh Xương Vương nhà Ngụy trấn nhận Trường An phụng chỉ tu bổ, xây dựnglại chùa chiền và phỏng cầu các vị Sa-môn. Lúc đó có người nói ở Hàn Sơn có vị Sa-môn tài đức phi phàm. Vương liền sai sứ đến cầu thỉnh. Ngài từ chối vì bịnh già, rồi bảo đệ tử Tăng Lượng phụng chỉ xuống núi. Lúc Ngài sắp thị tịch bảo với đệ tử rằng: Ta sắp đi đâ. Đêm ấy bổng thấy lửa từ phía sau giường bốc cháy khắp thân, trải qua hai ngày mới tắt, khói phủ ngút trời mà phòng không thấy cháy, đệ tử thu gom tro cốt bỏ vào trong hộp để nhập tháp. Đệ tử Tăng Lượng họ Lý, người Trường An, thọ giáo nơi ngài Tăng Chu. Ban đầu Vónh Xương Vương thỉnh tăng có vị không dám nhận, họ đều cho rằng Phật pháp mới được phục hưng e rằng có điều bất trắc xảy ra. Tăng Lượng nói: Vận may ký thác nơi người chính lúc này. Nếu bị hảm hại chính thân tôi lãnh chịu. Còn như được an tòan đạo có cơ may phục hưng. Lại có thêm sự trợ khuyến của Tăng Chu. Thế là bèn theo sứ giả đến Trường An. Lúc chưa đến, Vương cùng nhân dân quét dọn đường xá, phòng xá tốt đẹp để cung đón Ngài. Vương đích thân ra đường đảnh lễ tiếp đón hết mực cung kính. Ngài răn dạy ngăn dứt tai họa gieo hồi trước, khai thị lý nhân quả. Lời lẽ hợp lý nhu hòa mà lại thân thiết. Thính giả buồn vui lẫn lộn mà không thể ngăn được. Thế là Ngài trùng tu laị chùa cũ, cầu thỉnh Sa-môn, Phật pháp ở Quan Trung được chấn hưng, đó là nhờ công lao của ngài Tăng Lượng vậy. ----------------------------- <詞>THÍCH TUỆ THÔNG Ngài là người Quan Trung, lúc nhỏ ở chùa Thái Hậu, Trường An, ăn chay trì chú, tụng kinh Tăng Nhất A-hàm. Ban đầu theo thiền sư Tuệ Thiệu ở Lương châu thọ học thiền pháp. Thông thạo pháp môn một cách vượt bậc. Sau đó cầu nguyện Di-đà và chuyên tâm nơi tịnh cảnh. Lúc vừa khởi bịnh liền nhập định, ở trong định thấy một người hình dáng đoan nghiêm, nói với Ngài rằng: Lát nữa sẽ đến, chốc lát thấy đức Vô Lượng Thọ hào quang rực rỡ. Nhân đó ngài xuất thiền, bảo với các bạn đồng học về những điều xảy ra trong thiền. Nói xong thì tịch luôn. Mùi hương lạ lan khắp phòng ba ngày mới hết, thọ năm mươi chín tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH TỊNH ĐỘ Ngài là người Dư Hàng, Ngô Hưng. Tuổi nhỏ rất thích săn bắn. Có lần ông bắn trúng con nai đang mang thai và bị trụy thai. Nai mẹ đau đớn mà vẫn còn cúi xuống đất liếm con. Độ bèn tỉnh ngộ. Nhân đó mà buông cung ném tên xuất gia học đạo. Tụng kinh hơn ba mươi vạn lời. Thường ở nơi sông núi vắng vẻ tọa thiền đọc tụng hoặc trong quận (ấp) lập trai đàn, đích thân Ngài đến đó đốt chín ngọn đèn sáng rõ để cúng dường. Như vậy nhiều năm. Sau đó bỗng bảo đệ tử rằng: Hãy sắm dầu thơm để ta tắm rửa. Thuyết pháp mấy ngàn chương, răn dạy về luật nhân quả sanh tử, nói xong lẳng lặng thác hóa. Nhạc trống hương khói nổi lên từ hư không. Đồng thời mấy mươi vị đệ tử đều cùng nghe thấy. --------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG TÙNG Chưa rõ Ngài là người xứ nào, bẩm tánh thư thái, điềm tỉnh, ẩn cư nơi núi Bộc Bố xứ Thỉ Phong, học thông nội ngoại điển, tinh tu ngũmôn, không ăn ngũ cốc chỉ ăn táo lê. Khi tuổi sắp một trăm mà thần khí vẫn tráng kiện, lễ tụng không ngớt. Cùng với ẩn só Bổ Bá Ngọc làm bạn nơi Lâm hạ. Mỗi lần luận đạo thuyết nghóa, bèn lưu lại nơi liên tín. Sau đó mất trong núi. ---------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP THÁNH Ngài là người Lương châu, lúc mười sáu tuổi xuất gia học thông kinh luật, không ăn ngũ cốc chỉ ăn nhưa thông, ở ẩn trong hang núi tu tập thiền định. Vào giữa niên hiệu Nguyên gia Vương Hoài Tố ở Đông Hải đi tuần thú chốn Ba Tây, nghe danh tiếng Ngài bèn sai sứ rước Ngài về Bội Thành. Suốt mùa hạ Ngài giảng luật xong bèn từ giả trở về. Nhân lúc dừng lại Quảng Hán, Ngài hoằng truyền thiền pháp. Sau đó mắc bệnh và bảo chúng tăng: tôi thường tụng kinh Bảo Tích. Thế rồi tự lực tụng, mới được nửa quyển hơi yếu dần rồi không tụng tiếp được nữa, bèn bảo người tụng một biến, vừa xong thì Ngài chấp tay thị tịch, hơn mười người hầu bệnh đều thấy trên hư không ngựa cám cổng một chiếc quan tài lướt mây mà đi. ------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ LÃM Ngài họ Thành người Tửu Tuyền, thuở nhỏ cùng với Huyền Cao lấy tịch quán làm phương pháp chính yếu, Ngài từng chu du từ Tây Vực đảnh lễ bát Phật. Rồi ở nơi nước Kế Tân theo Đạt-ma Tỳ-kheo vấn tham thiền pháp. Sư Đạt-ma từng nhập định sang cõi trời Đâu-suất, thọ giới Bồ-tát nơi Phật Di-lặc, sau đó đem giới pháp truyền cho ngài Tuệ Lãm. Ngài Tuệ Lãm lên đường về đến Vu Điền lại đem giới pháp ấy truyền lại cho các vị học tăng ở các nơi rồi mới trở về. Trên đường về Hà Nam, Mộ Diên thế tử Quỳnh là người dân tộc Thổ Cốc Hồn ở Hà Nam kính ngưỡng oai đức của Ngài nên sai người mang phẩm vật tiền tài lập một ngôi chùa Tả Quân ở Thục. Ngài đến đó ở sau này dời về chùa Thiên Cung ở La Phù. Tống Văn thỉnh Ngài về kinh đô ở chùa Định Lâm, Chung Sơn. Hiếu Vũ xây chùa Trung Hưng rồi hạ chiếu sắc phong Ngài làm trụ trì. Thiền Tăng ở kinh ấp đều theo Ngài học thiền. Ngô Hưng, Thẩm Diễn, Bình Xương, Mạnh Ỷ đều ngưỡng mộ đạo đức của Ngài, nên xây thiền thất trong chùa cho Ngài ở. Ngài tịch vào khoảng giữa niên hiệu Đại minh nhà Tống thọ sáu mươi tuổi. -------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP KỲ Ngài họ Hướng, là người ở ngoại ô Thục quận, cha mẹ mất sớm, ngài kính anh như cha, năm lên mười bốn tuổi xuất gia. Theo ngài Trí Mãnh thọ học thiền pháp và cùng với bạn đồng học là Pháp Lâm ở chùa Linh Kỳ tu tập thiền quán. Trí Mãnh biết rõ họ đều đã chứng đắc. Sau đó gặp ngài Huyền Sướng lại theo thọ học, rồi cùng với Huyền Sướng về Giang lăng. Trong mười môn thập trụ Ngài đã thông đạt hết chín, chỉ có Tam-muội Sư tử phấn tấn là chưa thấu được. Huyền Sướng khen rằng: Ta từ Tây Vực đến Lưu Sa, phương Bắc đi khắp nơi hẻo lánh, phương Đông dò tìm tận chốn hang hóc, phương Nam đi khắp mọi nơi. Chỉ thấy một mình ông này có thiền phần. Sau đó Ngài tịch ở chùa Trường Sa thọ sáu mươi hai tuổi, thần sắc sáng rỡ, trên thi thể lại tỏa ra mùi hương tinh khiết. Lúc đó ở chùa Long Hoa đất Thục có vị sư Thích Đạo Quả cũng là bậc rạng danh về thiền học. ------------------------------ <詞>THÍCH ĐẠO PHÁP Ngài họ Tào, người Đôn Hoàng, từ khi xuất gia học đạo chuyên tinh thiền nghiệp, đồng thời trì thần chú. Sau đó vân du tới Thành Đô được Vương Hựu Chi, Phí Kiên Chi thỉnh về chùa làm trụ trì hai chùa Hương Tích và Hưng Lạc, có công lao trong việc giảng dạy tăng chúng, thường đi khất thực, không thọ thỉnh riêng và ăn cơm chúng Tăng. Đồ khất thực thường được Ngài thí cho chim chóc, côn trùng một nửa. Mỗi đêm thường cởi áo ở trần ngồi để bố thí cho muỗi. Ngài làm như vậy nhiều năm. Sau đó nhập định thấy Phật Di-lặc phóng hào quang giữa chặng mày chiếu soi quả báo tam đồ. Thế là Ngài càng nỗ lực tinh tấn hơn. Thường ngồi không nằm, năm thứ 2 Nguyên huy Ngài thị tịch ở chùa Định Trung. Ngồi ngay ngắn trên giường dây mà sắc mặt vẫn tươi tắn như ngày thường. ------------------------------------ <詞>THÍCH PHỔ HẰNG Ngài thuộc dòng họ Quách, người ở Thành Đô Thục Quận. Lúc còn nhỏ có lần ngài thấy trong ánh mặt trời có vị thánh tăng thuyết pháp trong hư không. Ngài kể lại chuyện này cho người nhà nghe, nhưng họ vẫn không tin, sau đó Ngài tha thiết xin cha mẹ cho xuất gia ở chùa An Lạc vùng Trị Hạ, ở riêng một phòng không quyến thuộc. Tập tu thiền định và rất khéo xuất, nhập, trụ, rất tâm đắc với Luật sư Thục Thao. Ngài tự nói mình nhập hỏa quang Tam-muội, phóng ánh sáng từ chân mày thẳng đến mé Kim cang, trong ánh sáng ấy thấy các sắc tượng, thấy rất rõ về nghiệp báo đời trước. Vào niên hiệu Thăng minh thứ 3 nhà Tống Ngài thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi. Lúc sắp lâm chung Ngài đến từ biệt thân bằng quyết thuộc. Nhưng không tỏ chút bịn rịn. Lúc ấy, người ta bảo Ngài nói đùa, lúc Ngài sắp mất có chút bệnh. Chỉ có một người hầu tại gia thấy biết thôi. Sáng hôm sau Ngài tọa thiền rồi viên tịch. Người tớ hầu không biết gì bèn gượng đỡ ông nằm xuống, nhưng thi hài vẫn không duỗi ra. Chúng tăng đến đó thấy vậy bèn đỡ Ngài ngồi lên. Chỉ có ba ngón tay cong lại còn các ngón khác duỗi thẳng. Chúng tăng thử kéo ra các ngón ấy cũng duỗi ra nhưng rồi co lại. Lúc Ngài còn sống thì cơ thể vốn sạch sẽ đến khi tịch rồi còn trắng sạch hơn. Lúc đó theo cách thức nên đem trà-tỳ. Khi giàn củi bắt đầu cháy thì có luồng khói năm mầu bắt đầu bốc lên, tỏa ra mùi hương thơm phức. Vương Huyền Đới ở Tương châu bèn khen rằng. Đại giác miễu vô tượng Huyền ứng quý vọng tịnh Nhứt niệm hội đạo tràng Không quá vạn kiếp vónh Tín tâm hư đông tưởng Ngộ thánh tảo Tây ảnh Diệu thú trừng Tam giới Truyền thần tứ thiền cảnh Tục vật cố tham sai Chân tánh lý hằng bỉnh Thao quang ký phù thế Di đức phương hóa huýnh ------------------------------------ <詞>THÍCH PHÁP NGỘ Ngài là người nước Tề, gia đình Ngài trồng dâu nuôi tằm, có sáu người con trai đều trưởng thành. Năm được năm mươi mất vợ, cả nhà đau buồn đồng thời cũng rất mến mộ Phật pháp nên bảy cha con xuất gia. Băng rừng lội suối từ miền Nam đến Vũ Xương, thấy vùng đất ở Phàn sơn có thể làm nơi cư ngụ. Đó là chỗ ở của ẩn só Quách Trường Tường, thế là họ có ý muốn ở chung. Khi ấy thái thú Vũ Xương Trần Lưu Nguyễn Hối hay tin đến chơi, nhân đó phá đường mở lối lập một căn nhà. Ngài không ăn gạo trắng mà dùng gạo lúa mạch. Ngày chỉ ăn một bữa thôi. Tụng Đại Tiểu phẩm Pháp Hoa, luôn hành đạo trong sáu thời, hành hạnh đầu-đà nơi sông núi không kể hang hổ, có khi tọa thiền dưới gốc cây, hoặc có khi cả ngày không xả thiền, Ngài tịch ở trong núi vào năm thứ 7 Vónh minh nhà Tề, thọ bảy mươi chín tuổi. Sau đó có Sa- môn Đạo Tế nối bước theo đạo nghiệp thanh cao của Ngài, nay ở Vũ Xương gọi chổ Ngài là chùa Đầu-đà vậy. ------------------------------------ <詞>THÍCH TĂNG THẨM Ngài họ Vương, người ở quận Thái nguyên, là hậu duệ của Kî phiêu Thẩm nhà Tấn. Tổ tiên nhà Ngài ngụ ở quận Tiều. Ngài xuất gia từ thuở bé ở chùa Thạch Giản Thọ Xuân. Tụng kinh pháp Hoa, Lăng- nghiêm. Thường gọi là phi thiền bất trí( không thiền định thì không phát sinh trí tuệ), thế là chuyên tâm tu thiền. Hay tin Đàm-ma Mật-đa giảng đạo cho vua ở Kinh ấp. Thế là Ngài lên đường vượt sông đến ở chùa Linh Diệu. Tinh tấn tham vấn cầu học nghiên cứu đến tận nguồn cội pháp điển. Lúc ấy bọn giặc kéo vào núi. Ngài vẫn ngồi yên bất động, rồi cởi y cho họ đồng thời thuyết pháp răn dạy họ, bọn giặc xấu hổ toát mồ hôi, bèn làm lễ rồi lui xuống. Ngài Tuệ Cao chùa Linh Thứu theo sư thọ học thiền pháp, đồng thời thỉnh sư Thẩm về chùa. Xây riêng một ngôi thiền thất, Trương Chấn ở Thanh Hà sau này lại thỉnh sư về ở chùa Thê Huyền. Văn Tuệ, Văn Tuyên đều rất cung kính và phụng sự. Truyền Diễm Tú, Xích Phủ đều cầu Ngài giới huấn. Vua kính trọng nên vào thiền phòng tìm Ngài. Chính lúc thấy Ngài nhập thiền nên đàn chỉ rồi quay ra, cho rằng đó là bậc Thánh, liền chở một ngàn đấu gạo đến cúng và thỉnh Ngài truyền tam quy. Ngài tịch năm Vónh Minh thứ 8, thọ bảy mươi lăm tuổi. Lúc đó các vị Tăng Khiêm, Siêu Chí, Pháp Đạt, Tuệ Thắng đều thọ thiền pháp nơi Ngài. Cũng đều là những vị thiền tăng kiệt xuất. -------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM SIÊU Ngài họ Trương, người Thanh Hà, thân cao tám thước, tướng tá phong độ. Aên uống đạm bạc, mặc đồ thô sơ chỉ một bộ mà thôi. Ban đầu ở chùa Long Hoa chốn kinh đô. Đến cuối niên hiệu Nguyên gia Ngài về phương Nam tham quan khắp chốn sông núi ở Thỉ Hưng. Rồi chọn một gốc cây để ở, hổ báo không hại Ngài. Vào giữa niên hiệu Đại minh Ngài trở về kinh đô, đến khi Tề Thái Tổ lên ngôi, Ngài được vua sắc phong về Liêu Đông hoằng dương thiền pháp. Ngài lưu lại ở đó hai năm hoằng truyền đại pháp. Cuối năm Kiến nguyên Ngài trở về kinh. chẳng bao lâu sau Ngài lại đến núi Long Aån huyện Tuyền Đường. Mỗi lần nhập vào thiền định thì suốt mấy ngày không xả. Sau đó chợt nghe tiếng sấm chớp, lát sau thấy một người cầm chiếc hốt đến xưng là Nghiêm Trấn Trần Thông. Lát nữa lại có một người đến hình dáng thật đoan nghiêm, cận vệ hai hàng, ông phủ phục làm lễ và tự xưng là đệ tử ở cách đây bảy dặm trấn nhậm cả vùng này, vâng lệnh Pháp sư mà đến. Cho nên đến đây thi lễ. Người ở huyện Phú Dương mùa đông năm xưa từng đục vách tường phòng của Nhưỡng Long ở dưới chân núi Mi. Bầy Rồng nổi giận nên ba trăm ngày không mưa, nay đã hơn một trăm ngày giếng ao hồ đều khô cạn nên ruộng rẫy cũng ảnh hưởng theo. Pháp sư là bậc đã có đạo đức lại giỏi pháp thần thông, muốn thỉnh Ngài chỉ đường nhất định cảm thấm nhuầm đến tất cả hàm linh, công lao ấy sẽ có chỗ quay về. Ngài nói: hô mưa gọi gió là sức của đàn việt, bần đạo đâu có khả năng ấy. Thần nói: Đệ tử là loài ẩn có thể hỏi mây chứ không thể giáng mưa. Thế nên mới đến đây thỉnh Ngài vậy, Ngài bèn hứa khả. Thần vội vã ra đi, Ngài bèn về phương Nam trải qua năm ngày đến núi Xích Đình. Từ xa chú nguyện thuyết pháp cho rồng, đến nửa đêm bầy rồng hóa làm thân người đến lễ bái Ngài. Siêu liền thuyết pháp nhân đó họ xin thọ Tam quy tự xưng là rồng. Ngài bèn bảo họ tạo mưa, họ nhìn Ngài mà không nói, đêm đó báo mộng cho Ngài rằng: Xưa vì giận nên lập lời thề, Pháp sư đã hướng dẫn cải thiện nên chúng con không dám làm trái lệnh. Ngày mai trời sẽ đổ mưa, nên hôm sau Ngài trở về chùa Lâm Tuyền, sai người báo cho huyện lệng chuẩn bị thuyền để Ngài xuống sông chuyển đọc kinh Hải Long Vương. Huyện lệnh liền thỉnh Tăng bơi thuyền Thạch Thủ, kinh đọc vừa xong trời bỗng đổ mưa lớn. Cao thấp đều thấm nhuầm mùa màng bội thu. Ngài tịch vào năm thứ 10 Vónh minh. Thọ bảy mươi bốn tuổi. <詞>THÍCH TUỆ MINH Ngài họ Kiền, người nước Khang Cư. Tổ tiên nhà Ngài lánh nạn sang Đông Ngô. Ngài xuất gia thuở nhỏ ở Đông tự, Chương An. Vào giữa năm Kiến nguyên nhà Tề, Ngài cùng Sa-môn leo lên núi Xích Thành ở trong thất đá. Nhìn thấy thi thể của Do công không hư hoại mà thiền thất hoang vu không ai nối tiếp thay thế. Ngài bèn sai người dọn dẹp rồi xây đường thất và tạo một tượng Phật nằm và một tượng Do công. Thế rồi Ngài chuyên tâm thiền tụng đến nổi xác thân khô héo. Sau đó trong định thấy một nữ thần, tự xưng là Lữ Mỗ nói rằng luôn đến ủng hộ, hoặc có lúc thấy vượn trắng, nai trắng, bạch xà, bạch hổ đùa giởn trước sân Ngài. Thuần phục uyển chuyển không làm cho người sợ. Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương nghe tin đều rất thần phục, nhiều lần sai tam sứ ân cần cầu thỉnh. Ngài bèn rời kinh sư đến đó một chuyến. Văn Tuyên cung kính Ngài bằng lễ thầy trò, nhưng chỉ một thời gian ngắn Ngài từ giả trở về núi. Oâng năn nỉ hết lời nhưng không được. Thế là ông cung cấp lương thực sai người đưa Ngài về. Vào cuối niên hiệu Kiến Vũ Ngài tịch trong núi, thọ bảy mươi tuổi. Luận rằng: Thiền là nói về sự nhiệm mầu của vạn vật, cho nên có thể không pháp không duyên, không cảnh, không quán sát. Nhưng có duyên, có cảnh, có quán, có pháp thì chỉ tịch tịnh mới thấy rõ. Nó cũng giống như ao sâu sóng lặng thì mới thấy rõ đá và cá. Nước tâm đã lắng thì nó sẽ chiếu soi tỏ rõ. Lão tử nói: Trọng là gốc của khinh, tỉnh là ông chủ của náo động. Cho nên khinh nhất định phải lấy trọng làm gốc. Tháo động nhất định phải lấy tỉnh làm nền tảng. Đại Trí Độ Luận nói: Thí như uống thuốc thì phải dưỡng thân, tạm ngưng việc nhà, khi khí lực hồi phục lại thì mới lo việc nhà. Cũng thế lấy sức thiền định uống thuốc trí tuệ, đạt được sức rồi mới trở lại hóa độ chúng sinh. Bởi vì tứ bình đẳng và lục thông là nhờ thiền định mà có, bát trừ thập nhập nương sức định mà thành. Nên biết rằng công năng của thiền định rất lớn vậy. Từ khi giáo pháp được truyền sang phương Đông thì thiền đạo cũng được truyền trao. Trước tiên là do ngài An Thế Cao, Trúc Pháp Hộ dịch kinh thiền. Các ngài Tăng Quang, Đàm Do đều nương vào giáo mà tu tâm. Rốt cuộc thành tựu sự nghiệp thù thắng. Cho nên có thể đạt đến sự hỷ lạc bên trong và chiết phục được ma mî bên ngoài. Đuổi quỷ mî nơi bậc cao, thấy thần Tăng trong thạch thất. Và như Sa-môn Trí Nghiêm sang Tây Vực thỉnh thiền sư nước kế Tân là Phật-đà Bạt-đà rồi truyền bá thiền pháp vào Đông độ. Các ngài Huyền Cao, Huyền Thiệu..v..v.. đích thân thọ ghi tắc. Ra vào nhiều lần nơi đất Tùy. Tới lui trọn cùng nơi hòan tịnh. Rồisau đó Tăng Chu, Tịnh Độ, Pháp Ký, Tuệ Minh cũng nối gót theo. Nhưng dụng của thiền là làm hiển rõ, là thuộc về thần thông. Cho nên khiến cho cõi tam thiên thu vào đầu sợi lông. Bốn biển kết thành váng mỡ. Xuyên qua vách đá mà không hề vướng mắc. Nâng cả đại chúng mà chẳng hề dời. Còn như luận về thế đạo rối ren, tiên thuật hoang đường, vẫn còn có thể ngăn sóng dứt mưa, chú hỏa thiêu quốc. Và như Ngài Huyền Cao tịch rồi mà còn ngồi dậy. Đạo Pháp ngồi mà thác hóa. Điều đó đủ thấy là điềm linh dị vậy. Còn như Uất –đầu-lam- phất rốt cuộc bị cầm thú quấy nhiễu. Độc giác Tiên nhân cuối cùng bị Phiến-đà làm loạn, đều do đạo tâm tuy nhiếp mà lại tương ưng với ái kiến. Tỉ như đom đóm mà so với ánh sáng, mặt trời, mặt trăng đâu đáng kể nói. Khen rằng: Thiền-na tịch lặng, chánh thọ sâu mầu, mượn pháp dứt tư lự để hoàn bị tâm mầu, năm môn bỏ ác, cửu thứ tùng lâm, nung khô sơn hải, hợp tan chìm nổi. Nhờ đức này thấm nhuần vậy. Như vậy mà không gắng làm sao. ------------------------------------ MƯỜI BA VỊ THÔNG LUẬT THÍCH TUỆ DO Ngài là người vùng Giang Tả, thuở nhỏ xuất gia ở Tân tự xứ Giang Lăng. Tuổi còn nhỏ mà sống rất đạm bạc, tánh tình ngay thẳng. Cho đến khi thọ cụ túc giới rồi bèn chuyên tinh gìn giữ cấm giới. Lúc ấy có luật sư Tỳ-ma La-xoa đến Giang Lăng hoằng dương luật tạng. Ngài theo sư thọ giáo. Nghiên cứu tư duy sâu sắc nhiều ngày nên thấu rõ Thập tụng, thế là Ngài giảng dạy liên tục. Các vị luật sư ở Thiểm Tây ai cũng kính trọng Ngài. Sau đó Ngài tịch ở Giang Lăng. Soạn bộ nghóa sớ Thập Tụng gồm tám quyển. ---------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG NGHIỆP Ngài họ Vương, người Hà Nội, thuở nhỏ đã thông minh đỉnh ngộ, thông thạo các sách vở. Sau đó đến Trường An theo ngài La-thật cầu pháp, gặp bộThập Tụng vừa dịch ra nên chuyên tâm nghiên cứu bộ này. Tài năng trời ban nên thấy hết chỗ sâu nhiệm. La-thật khen rằng: Đây chính là hậu thân của Ưu-ba-ly. Cho đến lúc ở vùng Quan Trung xảy ra nhiều tại nạn Ngài lánh sang kinh sư. Trương Thiệu người nước Ngô, ngưỡng mộ phong cách trong sáng của Ngài, nên thỉnh về Cô Tô và xây chùa Nhàn Cư, địa thế thông thoáng lại nằm bên sông Trường Xuyên. Ngài ở đó dạy dỗ, giáo hóa không ngừng nghó. Học só ở tam Ngô hội tụ vô số. Ngoài thời gian giảng đạo còn lại thì chuyên tâm nơi thiền môn. Mỗi khi bắt đầu nhập thiền thì lại tỏa ra mùi hương lạ xông khắp cả phòng. Những vị thiền giả ngồi gần Ngài đều ngửi thấy mùi thơm nên họ đều khen là thần dị. Xưa La-thật ở Quan Trung chưa dịch bộ Thập Tụng, mà dịch Giới Bổn trước cho đến khi ngài Lưu Chi vào nước Tần mới truyền “ Đại bộ”. Cho nên giới tâm tương đồng với ý trong đại bổn của Ngài, trong lời văn có chỗ khác. Ngài bèn sữa lại cho giống Đại Bổn, nay truyền tụng hai bổn song hành, Ngài tịch vào năm 18 Nguyên hy tại Ngô Trung, thọ bảy mươi lăm tuổi, đệ tử của Ngài là Tuệ Tiên nương theo quy củ thanh cao của thầy cũng thường đem thuyết giảng. -------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ TUÂN Ngài là người họ Triệu ở Triệu quận. Thuở nhỏ mà đã ăn uống đạm bạc khổ hạnh, rồi lại qua Trường An thọ giáo ngài La-thật, nghiên cứu sâu xa kinh luận, đặc biệt thông thạo về các bộ Thập Tụng, Tăng- kỳ, nên chế ra các điều chương, nghóa thông suốt muôn đời. Vào giữa niên hiệu VÓnh Sơ nhà Tống, Ngài trở về Giang Lăng mở một đàn giới lớn. Vào niên hiệu Nguyên hy Ngài đến kinh sư ở chùa Đạo Tràng. Vị Tăng ở chùa này là Tuệ Quán cũng tinh thông Thập Tụng. Ngài lấy đức của sư Tuân làm mô phạm cho chúng tăng. Vì thế khiến cho ngôi chùa này hưng thịnh lên. Sau đó Ngài đến chùa Trường Lạc và tịch vào năm thứ 2 Đại minh, thọ tám mươi bốn tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG CỪ Ngài họ Chu người nước Ngô, xuất gia làm đệ tử ngài Tăng Ng- hiệp. Thông suốt rành rẽ các kinh, nhất là luật Thập Tụng, đồng thời tinh tường cả sử sách lại soạn ra những quyển bình luận về văn sử. Ban đầu ở núi Hổ khâu nước Ngô. Tống Hiếu Đế ngưỡng mộ tiếng tăm của Ngài bèn mời Ngài về Kinh Sư làm Tăng chánh duyệt chúng ở chùa Trung Hưng. Bấy giờ có Sa-môn Tăng Định tự xưng là chứng quả Bất Hòan. Ngài Tăng Cừ nhóm chúng muốn rõ thật hư bèn bảo ông hiện thần túc. Oâng bảo vì sợ phạm giới nên không hiện được. Ngài căn cứ vào văn luật có bốn nhân duyên được thị hiện thần túc. Thứ nhất là, đoạn lưới nghi; thứ hai là, phá tà kiến; thứ ba là, trừ kiêu mạn; thứ tư là, vì thành tựu công đức, Tăng Định đã mắc tội nói dối, sự thật được phơi này nên ngày hôm sau liền bị đuổi. Ngài còn soạn các bộ luật về giới để nói rõ nghiệp đời sau này. Ngài là một bậc đã thông thạo nội ngoại điển lại có giới hạnh trong sạch, đạo tục quy y, xe cộ tới lui không ngớt. Thiếu Đế chuẩn theo Ngài thọ năm giới. Vương tử ở Dự Chương vì ưa mến kính ngưỡng nên kết làm bạn hữu. Viên Xán, đều chỉ một lần gặp mà vô cùng ngưỡng mộ. Sau đó Ngài dời về chùa Trang Nghiêm và tịch ở đó, thọ năm mươi tám tuổi. Ngài trước thuật bộ Thắng Man Văn Chỉ, và soạn hai quyển Tăng Ni Yếu Sự, nay vẫn còn lưu hành ở đời. Lúc ấy là bậc chánh trực có đạo hạnh thanh cao. Tống Minh Đế hạ chỉ bảo Tấn Hi Vương theo Ngài thọ giới. -------------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG NGHIÊM Ngài là người vùng Tiểu Hoàng Ung Châu, thuở nhỏ đã có giới hạnh lại giỏi Tỳ-ni, nghiên cứu tinh tường bốn bộ, dung hội các nhà, Ngài cho rằng bộ luật Đông truyền Phạm Hán âm khác nhau, văn trái ngược sợ người sau mơ hồ không biết nên Ngài chốt lại yếu chỉ gọi là “Quyết Chánh Tứ Bộ Tỳ-ni Luận”. Sau đó vân du sang Bành Thành, hoằng dương luật tạng, rồi tịch ở đó, thọ bảy mươi lăm tuổi. Lúc ấy ở chùa Thê Huyền lại có ngài Thích Tuệ Diệu cũng rất giỏi về Thập Tụng. ------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG ẨN Ngài họ Lý, người xứ Lủng Tây Tần châu, gia thế vốn chánh tín Tam Bảo nên năm lên tám bèn xuất gia và ăn chay trường, đến năm mười hai tuổi thì ăn uống đạm bạc, và đến khi thọ giới cụ túc thì càng gìn giữ nghiêm ngặt hơn. Thường dạo tâm nơi vườn luật, thông suốt Thập Tụng. Còn tụng kinh Pháp Hoa, Duy-ma. Nghe ở miền Tây Lương châu có Pháp sư Huyền Cao, thiền tuệ đều cao siêu, bèn khăn gói đến đó tham học. Thế rồi học trọn Thiền môn, thấu tột yếu luật. Sau khi ngài Huyền Cao thị tịch. Ngài lại vân du sang hướng Tây đến xứ Ba Thục chuyên tâm hoằng hóa. Chẳng bao lâu sau Ngài xuôi về Đông ở chùa Tỳ Bà vùng Giang Lăng, tham học nơi ngài Tuệ Triệt. Vị này cũng là bậc nổi tiếng đương thời và đạo hạnh vang khắp muôn nơi. Tăng Aån đến tham học một thời gian ngắn mà thấu tột yếu nghóa các kinh luật, tiếng tăm về Thiền tuệ trùm khắp Kinh Sở. Dương Vương, Lưu Hưu Hựu ở núi Châu Tương và trường sử Trương Đại đều bẩm thọ giới pháp nơi Ngài. Sau đó thứ sử Vương Hưu Nhã ở Ba Lăng và Lương Cảnh Tố ở Kiến Bình đều xa giá đến thiền phòng, quỳ lạy cung kính. Sau này Ngài trở bệnh một thời gian ngắn và hỏi thị giả mặt trời đứng bóng chưa? Đáp: Đã đứng bóng rồi. Bèn lấy nước súc miệng, khi ấy diện mạo còn tươi tắn bổng nhiên thác hóa, thọ tám mươi tuổi. Khi ấy chùa Thượng Minh ở Giang Lăng cũng có luật sư Thành Cụ rất giỏi về Thập Tụng và Tạp Tâm, Tỳ-đàm. ---------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO PHÒNG Ngài họ Trương, người vùng Ngũ Thành huyện Quảng Hán. Đức hạnh trong sáng, thuở nhỏ đã giỏi về luật học, ở chùa Trường Lạc, Quảng Hán. Mỗi lần đốt hương lễ Phật thì khói hương bay thẳng lên đỉnh Phật, lại siêng dạy môn nhơn sửa ác làm lành, người nào không sửa đổi thì Ngài rơi lệ. Sau đó mất tại chùa này thọ một trăm hai mươi tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO DOANH Không rõ Ngài là người xứ nào, lúc đầu ở chùa Linh Diệu tu thiền, sau đó y chỉ hai vị luật sư Quán, Tuân thọ học Tỳ-ni, đặc biệt rất giỏi về bộ Tăng-kỳ. Tụng kinh pháp Hoa, Kim Quang Minh, chay lạt thủ tiết. Các vị Trang Nghiêm, Đạo Tuệ, Trị Thành, Trí Tú đều là bậc thầy giới hạnh mô phạm của Ngài. Sau đó Trương Vónh thỉnh Ngài về Ngô quận. Thái Hưng tôn sùng nên muốn Ngài ở Thượng Ngu. Sau đó Trương Vónh lập ngôi chùa Nhàn Tâm trong vườn Lũ Hồ ở kinh sư lại thỉnh Ngài về ở. Hội giảng ngày càng đông đảo đồ chúng. Ngài tịch vào năm thứ 2 Thăng minh, thọ tám mươi ba tuổi. Bấy giờ có ngài Thích Tuệ Hựu vốn là người Đan Đồ, xuất gia năm ba mươi tuổi, đầu-đà khổ hạnh chuyên tinh giới luật, vào đầu đời Tề, Ngài vào Đông Sơn giảng bộ Ma-ha Tăng-kỳ, Vương tử Lương con Tề Cảnh Lăng sai người rướt Ngài về kinh đô và cũng ở tại chùa Nhàn Tâm. ------------------------------------- <詞>THÍCH CHÍ ĐẠO Ngài họ Nhậm, người Hà Nội, tính tình ôn hòa kính cẩn, xuất gia năm mười bảy tuổi ở chùa Linh Diệu. Thanh bần thiểu dục, ngoài sáu món đồ ra không chứa vật gì, học thông Tam tạng, sở trường về luật học, Hà Thượng Chi ngưỡng mộ đức hạnh nên đảnh lễ mời Ngài về chùa Pháp Luân do ông xây. Thuở trước Ngụy Lỗ hủy diệt Phật pháp nên đời sau khi Phật pháp hưng lại thì việc truyền giới phần nhiều kh- iếm khuyết. Ngài đã phát nguyện hoằng dương không nề khổ nhọc. Thế là bèn dắt hơn mười người đồng tâm đến Hổ lao vân tập năm châu đạo só là Lạc, Tần, Ung, Hoài, Dự ở chùa Dẩn Thủy giảng luật, làm sáng tỏ giới và nêu bày pháp thọ. Tăng cấm ở Ngụy quốc được hoàn bị là nhờ công lao của Ngài. Sau đó Ngài về Kinh Aáp, Vương Hoán đến trấn nhậm Tương châu nên cả hai cùng đi. Ngài tịch vào năm Vónh minh thứ 2 ở đất Tương, thọ bảy mươi ba tuổi. Lúc bấy giờ ở chùa Ngõa Quang, kinh sư lại có vị sư tên Siêu Độ cũng giỏi Thập Tụng và Tứ phần, trước tác luật học gồm bảy quyển. ------------------------------------ <詞>THÍCH PHÁP DÓNH Ngài họ Tố người Đôn Hoàng, mười ba tuổi xuất gia thờ ngài Pháp Hương làm thầy ở chùa Công Phủ Lương châu cùng với bạn học là Pháp Lực lấy luật tạng làm đề mục. Khi Ngài đã thuần thục rồi, học không còn thỉnh nữa, nhớ rõ trong ký ức, chuyên nghiên cứu luật tạng, thông suốt các kinh luận. Cuối niên hiệu Nguyên gia Ngài về kinh đô ở chùa Tân Đình, Hiếu Vũ miền Nam tu bổ lại chùa này, biết Ngài có sự học siêu tuyệt và tài đức sắc phong làm Tăng chánh ở Đô ấp. Sau đó Ngài từ chức về chùa Đa Bảo. Thường nhập định trong thiền phòng và mở hội giảng luật. Đến khi Tề Cao đăng vị, lại sắc phong Ngài làm Tăng chủ. Uûng hộ phụng sự mọi sự mọi việc gấp bội thường tình. Ngài đem của tín thí ra xây phòng chứa thuốc và tạo kinh tượng đặt ở Trường Can. Ngài tịch năm thứ tư Kiến Nguyên nhà Tề, thọ sáu mươi bảy tuổi, soạn Thập Tụng giới Bổn và Yết-ma …v..v Lúc ấy chùa Thiên Bảo lại có luật sư Tuệ Văn cũng thông thạo các bộ Tỳ-ni, được Vương Hóan ở Lang Nha rất mực cung kính. ------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP LÂM Ngài họ Nhạc người Lâm Ngang Phổ, Nguyên, tuổi trẻ xuất gia ở chùa Bùi, Thục quận, chuyên ròng giới luật, hết lòng để tâm nghiên cứu Thập Tụng luôn hận ở Thục quận không gặp bậc minh sư, chẳng bao lâu Aån công đến đất Thục. Ngài bèn khắc kỷ tôi luyện không kể ngày đêm, cho đến khi Aån công trở về Thiểm Tây, Ngài lại theo sư mấy năm. Thông suốt mọi luật đến chỗ thâm áo. Sau đó Ngài trở về chùa Linh Kíên đất Thục. Tăng Ni ở Ích Bộ ai ai cũng sùng kính Ngài. Ngài lại chuyên tâm cầu sinh Cực lạc. Mỗi khi tụng kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh thì thấy một vi Sa-môn thân hình tuyệt mỹ đến đứng trước Ngài. Đến năm Kiến Vũ thứ 2 nhà Tề, Ngài nhuốm bịnh không khỏi, chuyên tâm niệm Di-đà lễ sám liên tục, nên thấy các vị hiền thánh đều đến đứng trước Ngài. Thế là Ngài thuật rõ mọi việc đã thấy cho đệ tử nghe và bảo sau khi Ngài mất hãy thiêu thân. Nói xong chắp tay mà tịch. Các vị Tăng chất củi ngay ngã tư đường Tân Phồn mà làm lễ hỏa táng, khói lửa bốc ngút trời ba ngày mới tan. Các vị Tăng thu gom di cốt và lập tháp thờ ngay chùa Ngài ở. <詞>THÍCH TRÍ XỨNG Ngài họ Bùi ở Văn Hỉ huyện Hà Đông là hậu Tuệ của thứ sử Huy ở Ký châu đất Ngụy. Tổ tiên Ngài lánh nạn ngụ ở Kinh Khẩu. Từ khi nhỏ Ngài đã tính khẳng khái và ưa bắn cung cỡi ngựa. Năm lên mười bảy tuổi theo Vương Huyền Mô tiến thẳng đến phương Bắc trừng phạt bọn Hiểm duẩn. Mỗi khi hai bên giao chiến nhìn cảnh máu rơi Ngài luôn đau xót trong lòng, rồi lại than rằng: Hại người lợi mình chẳng phải chí của kẻ có lòng nhân. Xong việc cởi bỏ áo giáp, gặp người tụng kinh Thụy Ứng bèn cảm ngộ sâu sắc biết được lẽ trăm năm không hẹn, việc nước chẳng trọng. Bèn đến thiền phòng ngài Tông công ở Nam Nhàn cầu thọ năm giới. Tống Hiếu Đế lúc đó thỉnh Thiền sư Aán về kinh đô cúng dường. Ngài bèn đi theo có ý muốn y chỉ, Ngài Aån cũng tiếp nhận. Thế là cùng đi với thầy về Văn Giang. Ngài đi theo đến ở chùa Bùi, xứ Thục xuất gia thờ Aán công làm thầy. Lúc ấy Ngài đã ba mươi sáu tuổi, bắt đầu chuyên tinh nghiên cứu giới luật. Rất rành Thập Tụng. Rồi tụng một bộ tiểu phẩm, sau đó về phương Đông đến Giang Lăng theo hai sư Aån, Cụ thọ giáo thiền luật, gặp loạn Nghóa Gia, Ngài bèn lánh nạn đến kinh sư, gặp Dónh công giảng luật ở Hưng Hoàng. Ngài thỉnh vấn những điểm sâu xa lời lẽ khúc chiết. Trong nhất thời cả chúng hội ai nấy đều tán thán. Pháp Hiến ở Định Lâm gặp Ngài trong buổi giảng hay biết Ngài tới lui Thanh Huyền nên cùng nhau về ở chùa trên núi. Thế là Ngài đọc Tiểu Phẩm và nghiên cứu tinh tường Tỳ-ni. Sau đó ngài Thích Tăng Chí chùa Bảo An ở Dư Hoàng thỉnh Ngài về quê ông giảng Thập Tụng. Chùa Vân Thê lại đến thỉnh Ngài về trụ trì thế là Ngài bèn hứa khả. Trong thời gian sau cử Ngài nêu rõ hiến chương. Sau đó không lâu Ngài trở về lại Kinh Đô. Văn Tuyên thỉnh Ngài giảng luật ở Phổ Hằng, tăng chúng cả mấy trăm vị đều chấp bổn thừa chỉ. Từ khi Ngài từ giả gia đình phát chí xuất gia, xa lánh những việc phiền lụy, dứt bỏ những hội tiệc tùng, tang điếu, xa hẳn chuyện đời. Mỗi khi gặp chuyện không hay Ngài thường lấy giới bảo vệ, chỉ một lòng hành đạo siêng năng năm. Sa-môn Tuệ Thỉ, ở Chu Phương thỉnh Ngài về quê giảng thuyết, những bà con quen biết trong làng đều đến thăm hỏi. Ngài đều ân cần khuyên bảo và nói rõ về đạo hiếu từ. Đến lúc sắp chia tay ai nấy đều quyến luyến rơi lệ cố giữ Ngài ở lại nhưng không được. Ngài về Kinh ở chùa An Lạc, pháp luân vẫn chuyển mãi, giảng Đại Bổn hơn bốn mươi lần, Ngài tịch vào năm thứ 3 Vónh Nguyên nhà Tề, thọ bảy mươi hai tuổi, trước tác bộ Thập Tụng Nghóa Ký gồm tám quyển, giờ vẫn còn lưu hành ở đời, đệ tử của Ngài là Tăng Biện dựng bia ở chùa An Lạc. Còn hai vị Thông, Siêu cũng là đệ tử của Ngài rất thông Tỳ-ni được môn đồ tôn kính. --------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG HỰU Ngài vốn họ Du, Tổ tiên Ngài ở hạ Bỉ, Bành Thành nhưng cha đến ở Kiến nghiệp, khi Ngài lên mấy tuổi thì vào ở chùa Kiến Sơ lễ bái, vì vui thích đạo nên không chịu về, cha mẹ thương yêu nên chìu theo chí nguyện cho phép xuất gia, thờ ngài Tăng Phạm làm thầy. Năm mười bốn tuổi người nhà lén tìm người hôn phối. Ngài biết chuyện nên chốn đi đến ở với Pháp sư Pháp Đạt ở Định Lâm. Ngài Pháp Đạt cũng là bậc giới đức tinh nghiêm làm rường cột cho Phật pháp. Ngài hầu hạ kính thờ thầy hết lòng, đến năm đủ tuổi thọ giới cụ túc Ngài càng giữ gìn miên mật hơn. Ban đầu thọ giáo nơi Sa-môn Pháp Dónh. Pháp Dónh cũng là một bậc thầy lừng danh một thuở là một thượng thủ trong làng tăng học luật. Ngài Tăng Hựu bèn dốc lòng nghiên cứu suy tư không thể ngày đêm, sau đó thông suốt luật bộ có chỗ vượt hơn bậc tiên triết. Tề Cảnh Lăng Văn Tuyên Vương thường thỉnh về cung giảng luật. Thính chúng thường thường đến bảy, tám tăm người, giữa năm Vónh Minh được sắc thỉnh vào Ngô Thứ chọn lọc năm chúng đồng thời tuyên giảng Thập Tụng. Ngài lại nói rõ về pháp thọ giới. Được phẩm vật cúng dường của tín thí Ngài đều đem tu sửa chùa Kiến Sơ ở Định Lâm và chùa Thiện Chư đồng thời lập Vô già Đại Tập, xả thân tế trai.v.v… Còn in ấn kinh tạng sưu tập hiệu đính các quyển kinh. Làm cho chốn chùa chiền được hưng thịnh, pháp âm không dứt, tất cả nhờ công lao của Ngài vậy. Ngài có những suy tư sâu sắc nên tự chuẩn lượng mẫu mực, nên người thọ y theo khuôn đúc thước tấc không sai, cho nên tượng Phật đá vó đại ở huyện Diệm núi Giang Trạch nhiếp thật tuyệt hảo, đều nhờ ngài Tăng Hựu ban đầu thọ theo nghi tắc bản vẽ. Nay càng lễ ngộ thâm hậu hơn, phàm những việc rắc rối trong Tăng chúng đều nhờ Ngài thẩm quyết. Đến lúc tuổi lớn chân yếu, có bịnh. Vua hạ chiếu thỉnh ngồi xe vào cung truyền giới cho lục cung. Ngài được xem trọng như vậy cho nên Khai Thiện, Trí Tạng, Pháp Aâm, Tuệ Khuếch đều tôn kính đức hạnh của Ngài, đồng thời phụng thờ với lễ của người đệ tử. Lâm Xuyên Vương Hòanh, Nam Bình Vương Vó Nghi, cùng Trần Quận Viên Thăng, Vónh Khang Định công chúa, quý Tần họ Đinh nhà Lương đều tôn sùng giới hạnh của Ngài, phụng sự tận tình bằng lễ thầy trò. Còn nói đến hàng đệ tử tại gia xuất gia có hơn cả ngàn cả vạn người. Ngài tịch ngày 26 tháng 5 năm Thiên Giám thứ 7 ở chùa Kiến Sơ, thọ bảy mươi bốn tuổi. Vì thế xây tháp bên mộ cũ ở chùa Định Lâm phía Tây lô Khai Thiện. Đệ tử Chánh Độ lập bia để tưởng nhớ công đức. Đông Hoàn Lưu Tư soạn văn, lúc Ngài mới soạn tập kinh tạng xong bèn sai người sao chép những điều cốt yếu, thành bộ Tam Tạng Ký, Pháp Uyển Ký Thế Giới Ký, Thích-ca Phổ và Hoằng Minh Tập.vv… đều còn lưu hành ở đời. Luận rằng: Lễ là xuất phát từ nền gần với trung tín. Luật cũng bắt nguồn từ việc phòng phi chỉ ác. Thế nên tùy theo trường hợp phạm mà chế thiên mục. Đến như song thọ còn đủ vết tích. Từ khi bóng thế tôn khuất dạng, ngài Ca-diếp nối pháp. Vì mệnh danh là người trì luật, tôn giả Ưu-bà-li phải đọc lại luật Tạng. Ba-li tay cầm quạt ngà miệng đọc lời của đấng Điều Ngự, đủ tám mươi phen mới trọn vẹn nghóa. Thế là bèn đề lên lá cây, gọi là Bát Thập Tụng luật. Sau đó Ca-diếp, Anan, Mạc điền Địa, Xá-na Ba-tư, Ưu-ba-quật-đa ba vị La hán này lần lượt truyền nhau gìn giữ. Đến đời ngài Quật-đa có vua A-dục. Vị này trị vì thành Ba-sất-lê Phất-đa. Nhân vì xưa thấy Phật bèn tạo thiết luân ngự thế. Nhưng bản tánh đố kî bất nhẩn trong chánh trị bạo ngược. Thiêu đốt kinh sách, sát hại những vị đắc đạo, sau này đổi tâm quay về chánh tín sám hối tội trước. Từ xa biết được ứng chơn kết tập lại tam tạng. Thế nhưng vì cùng chất, chỗ thấy nghe mỗi người dẫn lời thầy mình, y cứ khác nhau mà tạo thành năm bộ, chế ra giới luật khinh trọng khác nhau, khai phá phế lập thảy đều có đôi chút sai khác. Nhưng tất cả do Như Lai ngày xưa khéo ứng cơ tiếp vật. Có khi tùy người, tùy căn cơ, tùy thời gian, tùy quốc độ. Hoặc chỗ này phải khai, nhưng nơi khác thì chế, hoặc người này phải chế nhưng người khác thì khai cho. Năm thầy tuy đồng nhưng lấy luật Phật mà mỗi người y cứ một kiểu, cho nên thiên tụ có khi khinh trọng, cương mục đều không hơn kém. Nương vào đó mà tu học đều có thể đắc đạo. Cho nên Như Lai lúc còn tại thế có mơ một giấc mơ về nhân duyên. Ngài đã huyền ký kinh luật phải chia làm năm bộ. Đại Tập kinh nói: Sau khi ta diệt độ chánh pháp sẽ được chia làm năm bộ, điên đảo giải nghóa làm che khuất pháp tạng gọi là Đàm-vô Cúc-đa, tức là Đàm Vô Đức vậy. Đọc tụng sách ngoại đạo chịu khổ ba đời, hay khéo vấn nạn, nói tất cả loài đều được thọ giới gọi là Tát-bà-la Nhã-đế-bà, tức là Tát-bà-đa vậy. Nói không có ngã coi khinh các phiền não gọi là Ca-diếp-tỳ, nói có ngã không nói không, gọi là Bà-ta-phú-la. Vì mở rộng phát triển năm bộ gọi Ma-haTăng-kỳ, Thiện nam tử, năm bộ này tuy mỗi bộ khác nhau, nhưng không ngại gì đến pháp giới chư Phật và Đại Niết-bàn. Văn-thù Sư-lợi Vấn kinh cũng nói: ta vào Niết-bàn một trăm năm sau sẽ có hai bộ được phát khởi. Một là Ma-ha Tăng-kỳ; hai là, Đại Chúng, già trẻ cùng ở trong một hội soạn tập luật tạng. Từ bộ này lại sinh ra bảy bộ nữa. Hai là bộ Thể Tỳ Lý, toàn là bậc lão túc cùng nhau soạn luật. Từ bộ này phân chia thành mười một bộ nữa, cho nên bài kệ trong kinh kia nói Mười tám và hai bộ chính Đều từ Đại thừa ra Không đúng cũng không sai Ta noí đời sau khởi Lại vì kiến giải bất đồng, trong lúc truyền bá cũng có mười tám bộ, danh tự có đôi chút khác nhau. Cho nên lấy năm bộ làm căn bản. Từ Tát-bà-đa Bộ sinh ra bốn bộ, Di Sa Tắc sinh ra một bộ, Ca-diếp-tỷ sinh ra hai bộ, đều là những bộ xuất hiện sau khi phật vào Niết-bàn hai trăm năm. Tăng-kỳ phân chia thành hai bộ được lưu truyền đến năm thứ bốn trăm sau Phật Niết-bàn là do Đàm Vô Đức phát sinh vậy. Trong kinh có lúc chỉ nói năm sư đó là chỉ nêu tên những vị Thượng thủ. Có khi nói mười tám, hai mươi thì xếp chung vào dị luận vậy. Từ khi giáo pháp truyền vào Trung Quốc thì năm bộ cũng được truyền sang. Ban đầu Phất-nhã-đa-la tụng bộ Thập Tụng bằng văn Phạm. Ngài La-thật dịch ra văn Tấn nhưng chưa xong thì Ngài Đa La đã tịch. Sau đó ngài Đàm-ma Lưu-chi lại tụng những phần còn lại và ngài La-thật dịch hết. Bộ Đàm Vô Đức do ngài Phật-đà Da-xá dịch, tức là luật Tứ phần vậy. Bộ Ma-ha Tăng-kỳ và bộ Di Sa Tắc đều do Pháp Hiển đọc bản Phạm, Phật-đà Bạt-đà-la dịch ra Tăng-kỳ luật. Phật-đà thập dịch ra Di Sa Tắc tức là Ngũ phần luật. Bộ Ca-diếp-tỳ, hoặc nói Phạm bổn đã truyền sang nhưng chưa dịch được. Thiện kiến Ma-đắc Lặc-già giới nhân duyên. v.v..cũng thuộc phần chi nhánh của luật. Tuy các bộ đều được truyền sang, nhưng chỉ có bộ Thập Tụng thịnh hành nhất ở Đông đô, vì xưa kia luật sư Tỳ-ma La-xoa vốn là bậc Thượng thủ ở Tây Vực đến Quan Trung và qua kinh Thiểm đều thiên giảng Thập Tụng, thấy đủ trong tông lục. Đàm Do đích thân thừa ý chỉ, Tăng Nghiệp nối tiếp sự nghiệp hoằng hóa ở vùng đó. Các vị Cừ, Aån, Nghiểm Vinh v.v…đều thuật đủ sự nghiệp của Đạo Do và xếp vào hàng kỳ vó của đời Tống, nhưng đều y vào văn giải chưa được tinh tường. Sau này luật sư Trí Xứng hết lòng nghiên cứu. Tất cả mọi chỗ còn chưa rõ Ngài đều phán thích một cách rõ ràng, bèn đặt khoa mục, giữa đời Tề, Lương, Ngài được tôn xưng là học đồ mệnh thế, truyền ghi đến nay vẫn còn. Tuệ nhờ vào định mà có, định hướng vào giới mà thành. Cho nên thứ tự, nghóa ý của phẩm giới định tuệ tương xứng nhau. Cho nên biết người tu đạo lấy giới luật làm gốc, ở thế gian thì lấy nghóa lễ làm đầu. Lễ ký nói: Đạo đức nhân nghóa không có lễ không thành. Dạy dỗ khiến cho họ ngay thẳng không có lễ không đủ. Kinh nói: Giới là đất bằng cho các điều Thiện phát sinh, Phật đạo ở đời đều nương giới mà trụ (tồn tại), cho nên luật giải năm pháp chế để cho ta biết hết việ chặt hết gốc cỏ không thể không biết. Nhưng pháp môn định tuệ là phần thứ yếu trong việc tu học, mà bọn chấp lầm sinh ra dị luận. Người chỉ chuyên về luật thì nói giới luật là hàng đầu, các luật khác là phù phiếm, chỉ biết thiên tụ danh mục ( tên của các Thiên), bèn nói là hiểu ngang với Ba-ly, chỉ có thể lật cái đãy lược nước bèn cho rằng hạnh ngang với La-hán, chỉ cho rằng ta là Tăng, còn kẻ khác là gổ có suy nghó ( mộc tưởng) đây chính là kẻ khen mình chê người. Công không chuộc được tội, ngã mạn cống cao chính từ đây vậy. Người chỉ thiên về Số luận thì nói luật bộ là phần phụ, số luận là chính yếu. Thế là bèn trái bỏ Tỳ-ni, chú trọng ấm nhập, tùy tiện đắc ý chưa từng trở ngại, cho rằng địa ngục không thiêu người trí, chảo dầu không nấu người hành Bát-nhã. Đấy đều là những kẻ đánh mất nền tảng, thật là đáng thương. Xem chuột nhìn dê há chẳng giống đây sao. Khen rằng: Bàn Mạnh lập giới, Kỷ Trượng đặt bài răn. Nếu người không tỏ đâu thể kế thừa. Nạp y đã và thiên tụ, từ đây sinh, giữ gìn cẩn thận khẩu ý, bền chặt tâm hình, hai cảnh vui buồn, hai bình đều sầu bi hoang lạc.  <卷>QUYỂN 12 THÍCH TĂNG QUẦN Không rõ Ngài ở vùng nào. Là một người thanh bần thủ tiết, ăn chay tụng kinh. Sau đó dời sang núi Tiếu huyện La Giang ở, cắt một chiếc chòi tranh, ngọn núi đứng trơ trọi giữa biển, trên có tảng đá đường kính khoảng mấy trượng, nước sâu sáu, bảy thước, luôn có nước trong chảy xuống, các bô lão ngày xưa truyền rằng: Đó là nơi ngày xưa các vị tiên tụ tập, họ uống nước trong đó rồi không còn đói khát nữa cho nên họ không ăn cơm gạo. Sau đó thái thú nhà Tấn là Đào Quý biết tin này liền sai đến đó lấy nước thì nước bốc mùi hôi, cứ như vậy đến ba, bốn lần. Cuối cùng Đào Quý đích thân vượt biển, lúc đi trời quang mây tạnh nhưng đến chân núi thì mưa gió mịt mù, ông ở lại đó mấy ngày liền cuối cùng vẫn không đến được nơi đó. Nên than rằng: phàm phu trong cõi tục chắc cách biệt với cõi thánh tiên, buồn bả quay về. Am tranh của ngài Tăng Quần cách mỏm đá kia một con suối nhỏ. Ngài thường lấy một khúc gỗ làm cầu nối tới đó mang nước về. Sau này tự dưng có một con vịt gãy cánh, sải cánh nơi đầu cầu, nó cất tiếng kêu. Ngài định lấy tích trượng gạt nó ra nhưng sợ làm tổn thương nó, nhân đó mà quay về, bỏ nước hẳn không uống nữa mấy ngày thì chết, thọ một trăm bốn mươi tuổi. Lúc lâm chung nói với mọi người rằng: Thuở thiếu thời có lần chặt cánh của con vịt, nghiệm lại điều này chắc là hiện báo. ------------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM XỨNG Ngài là người Hà Bắc, tuổi còn nhỏ đã có sẵn lòng nhân ái, cứu giúp đến các loài côn trùng. Cuối đời Tấn, Ngài đến Bành Thành thấy một cụ già tám mươi tuổi, vợ chồng nghèo cùng khốn khổ, Ngài bèn xả giới để làm nô bộc cho họ, nhiều năm vất vả nhưng bên trong vẫn tu dưỡng đạo đức, làng xóm ai nấy đều khen ngợi, cho đến khi hai ông bà qua đời. Được người phụ giúp đó là phước phần của hai lão. Ngài nghó công vịêc tình nguyện của Ngài đã xong, muốn trở lại với đạo nhưng pháp vật chưa chuẩn bị đủ. Vào đầu nhà Tống ở núi Giá huyện Bành Thành xảy ra nạn hổ, người trong thôn mỗi ngày bị nạn bỏ hai, ba người. Ngài bèn bảo người trong thôn rằng: Nếu hổ ăn thịt ta thì nhất định họa sẽ hết. Mọi người hết lời can ngăn nhưng không được. Thế là đêm đó Ngài ngồi trên thảm cỏ, chú nguyện rằng: Ta đem thân này giúp ngươi đỡ đói, để cho ngươi tù đây trở đi dứt bỏ ý niệm oán hại đời sau sẽ được pháp thực vô thượng. Người trong thôn biết ý Ngài đã quyết nên họ khóc lóc lễ lạy rồi ra về. Tới canh tư nghe tiếng hổ bắt Ngài đi. Người trong thôn bèn đuổi đến Nam Sơn thì nó đã ăn hết thịt Ngài rồi, chỉ còn lại cái đầu, nhân đó xây tháp an táng. Thế là nạn hổ biến tiêu mất. ----------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP TẤN Người ta gọi là Đạo Tấn hoặc gọi là Pháp Nghinh. Ngài họ Đường, người ở vùng Trương Dịch, Lương châu. Thuở nhỏ đã tinh khổ đọc tụng, có đức siêu tuyệt, được Thư Cừ, Mông Tốn kính trọng, Tốn mất, con là cảnh Hòan bị giặc Hồ quấy phá, hỏi Ngài rằng: Nay muốn chuyển đến Cao Xương có được chăng? Tấn nói: Tất nhiên được nhưng sợ mắc nạn đói thôi. Thế là ông kéo quân lên đường. Ba năm sau Cảnh Hoàn chết, em là An Chu kế vị, năm đó đói kém mất mùa người chết vô số. Chu cầu cứu Ngài, nên nhiều lần Ngài đi khất thực quyên góp cứu giúp kẻ nghèo đói, kho đựng trong nước sắp cạn, Ngài không biết tìm cầu đâu nữa. Nên tắm rữa sạch sẽ rồi cầm đao và muối đi đến chỗ cư ngụ của những kẻ đói nhất. Ngài lần lượt truyền Tam quy cho họ rồi máng y bát lên cành cây, đứng trước chỗ người đói nói rằng: Ta thí thân này cho các ngươi ăn. Mọi người tuy đói khát khốn khổ nhưng lòng không nhẫn. Thế là Ngài cắt thịt mình và lấy muối cho họ ăn. Thịt hai bên bắt đùi đã hết mà lòng buồn bả vì không thể cắt được nữa. Ngài bèn bảo các người đói kia rằng: Các ngươi lấy thịt da tôi, may ra vẫn còn ăn được mấy ngày. Nếu sứ của vua đến nhất định họ sẽ đem đi, nên phải đem dấu đi. Những người đói kia vô cùng bi ai nên không nỡ lấy nữa. Không lâu đệ tử Ngài đến. Cả nước đau buồn kêu gào than khóc, nhân đó mà chở di hài Ngài về cung, An Chu ra lệnh lấy ba trăm đấu gạo cứu giúp những kẻ đói khổ kia. Còn xuất kho lẫm để giúp dân nghèo, đến hôm sau mới hết. Vua làm lễ trà-tỳ Ngài ở phía Bắc thành, khói lửa ngút trời bảy ngày mới tắt. Hài cốt đều rụi chỉ còn lại cái lưỡi không cháy. Nên vua đem về xây ngôi tháp ba tầng để thờ, dựng bia bên phải. Đệ tử của Ngài là Tăng Tuân, họ Triệu người Cao Xương, thông thạo Thập Tụng luật, chay lạt tiết hạnh, tụng các bộ kinh như pháp Hoa, Thắng Man, Bát-nhã còn khuyết khích môn nhơn siêng năng sám hối. --------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG PHÚ Ngài họ Sơn, người vùng Cao Dương, cha đứng đầu chức giám điền. Thuở nhỏ Ngài mồ cột sống cuộc sống nghèo nàn nhưng siêng năng học hành không biết chán. Lượm củi đốt để lấy ánh sáng mà học, đến năm hai mươi tuổi thì thông kinh sử, hình dáng phong nhã lại khéo nói năng. Sau đó gặp Ngụy Tần tướng quân Dương Doanh giúp đỡ áo quần, lương thực. Ngài dắt bạn cùng chí học với mình là Tập tạc só đến nghe An công giảng kinh Phóng Quang, liền sinh tâm ưa mến đạo. Thế là cắt tóc theo thầy học đạo. Sau khi ngài Đạo An tịch, Ngài trở về chùa Đình Úy ở Ngụy quận, nhập thất thiền định dứt hẳn mọi việc đời. Bấy giờ trong thôn có nạn cướp, chúng cướp một đứa trẻ muốn lấy tim gan để tế thần. Ngài từ xa nhìn thấy ngã tư đường đến gặp tên cướp hỏi rõ lý do, Ngài bèn cởi y để đổi lấy đứa bé nhưng chúng không bằng lòng, Ngài hỏi: Ngũ tạng của người lớn có thể dùng được không? Bọn họ cho rằng Ngài không thể xả thân, nói dối cho qua, Ngài bèn nghó: Thân huyễn hóa của ta cũng sẽ chịu một lần chết, nếu chết mà để cứu người, tuy chết mà vẫn còn sống. Thế là Ngài tự lấyy dao của bọn cướp cắt từ ngực đến rốn. Bọn cướp lại trách cứ lẫn nhau rồi bỏ chạy tứ tán, Ngài liền đưa đứa trẻ về nhà, ở ngã tư có người đang đi họ thấy cảnh như thế, nhân đó hỏi nguyên do, tuy trong lòng đau đớn nhưng vẫn nói được, nên thuật rõ chuyện trên, người này vô cùng thương cảm nên đem Ngài về lấy kim may da của Ngài lại, lấy thuốc xoa lên vết cắt, lấy xe đưa Ngài về chùa nghỉ ngơi, chẳng bao lâu sau thì vết thương lành. Sau này không biết Ngài mất ở đâu. ------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP VŨ Ngài là người vùng Ký châu,, năm mười lăm tuổi xuất gia, làm đệ tử ngài Tuệ Thỉ, lúc đầu lập hạnh tinh khổ tu hạnh đầu-đà. Chí khí kiên cường nên thâm đạt đạo cả. Thường muốn học theo hạnh đốt thân cúng dường của ngài Dược Vương. Bấy giờ Vương Diêu Tự nhà Ngụy Tần trấn nhậm ở Bồ Phản, ngài đem chuyện nói với Tự. Oâng nói: Hành đạo nhiều phương pháp đâu cần phải thiêu thân, nên Ngài không dám trái ý, hạnh nguyện tam tư, chí Ngài đã sâu nặng, thế là Ngài xoa dầu thơm vào người rồi lấy vải quấn thân, tụng phẩm xả thân xong thì lấy lửa tự đốt. Đạo tục nhìn thấy ai cũng hết lòng đau xót, năm ấy bốn mươi lăm tuổi. -------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ THIỆU Không rõ Ngài thuộc dòng họ nào. Thuở nhỏ mẹ Ngài đút cá thịt vào miệng bèn nhổ ra, đút rau thì không nghi, từ đó Ngài bắt đầu ăn chay. Đến tám tuổi thì xuất gia làm đệ tử ngài Tăng Yếu. Tinh cần khổ nhọc gắng chí giữ hạnh. Sau theo thầy đến ở chùa Chiêu Đề ở Lâm Xuyên, bèn có thầm ý muốn thiêu thân, thường mướn người đốn củi chất bên thất đá cao mấy trượng ở núi Đông. Ơû giữa đặt một cái khám đủ đặt thân mình. Rồi trở về chùa từ giả thầy. Ngài Tăng Yếu cố khuyên cản nhưng không được. Ngay hôm thiêu thân, Ngài lập một đàn bát quan trai ở núi Đông và cáo biệt những người quen biết, ngày ấy cả nước xôn xao, người người xe ngựa chở vàng bạc không thể kể hết, đến đầu đêm hành đạo Ngài tự đốt hương, hành hương xong cầm đuốc đốt củi, vào giữa đống củi ngồi tụng phẩm Dược Vương Bổn Sự, mọi người không còn thấy Ngài được nữa mới biết Ngài đã mất rồi, lễ bái chưa xong mọi người đều đến chỗ chất củi, củi cháy phừng phừng mà giọng tụng không ngớt, lửa cháy đến cổ nghe tiếng xướng nhất tâm thì liền dứt hẳn. Đại chúng đều thấy một ngôi sao to như cái đấu, từ trong làn khói thoáng vụt lên trời. Khi đó mọi người ở cung trời đến rước Ngài. Trải qua ba ngày đống củi mới tàn. Khi Ngài sắp mất bảo bạn đồng học rằng: Chỗ ta thiêu thân sẽ mọc một cây ngô đồng, cẩn thận chớ đốn. Ba ngày sau quả đúng có sinh một cây ngô. Ngài thiêu thân vào năm Nguyên gia 2 8. Năm ấy thầy của Ngài là Tăng Yếu cũng thanh cẩn có đức tốt. Năm một trăm sáu mươi tuổi tịch ở chùa. <詞>THÍCH TĂNG DU Ngài họ Chu người vùng Dư Hàng huyện Ngô Hưng, năm hai mươi tuổi xuất gia, hạnh nghiệp thuần chơn. Năm Nguyên gia thứ 15 cùng với các bạn đồng học Đàm Uẩn, Tuệ Quang xây dựng tinh xá ở Nam Lãnh, Lô Sơn, gọi là Chiêu Aån, Ngài luôn cho rằng bởi do thân hình tâm thức nên vướng lụy trong tam đồ, tình nếu tận thì hình cũng sẽ tổn thương, dấu vết của Dược Vương đâu thể gọi là xa. Thế rồi nhiều lần phát thệ mới khế với nguyện thiêu thân. Vào ngày mồng 3 tháng 6 năm thứ 2 Hiếu kiến nhà Tống, Ngài chất củi thành đống rồi thỉnh chư tăng thiết trai, cáo biệt đại chúng, ngày ấy mây mù che lấp mặt trời dường như sắp đổ mưa. Ngài bèn thệ rằng: Nếu nguyện tôi thành thì mong cho trời sáng ra. Nếu không cảm thì khiến trời trút mưa. Để cho tứ chúng ngay đây biết được thần ứng nghiệm không nghi vậy. Ngài nói xong mây tan trời trong, đến đầu đêm Ngài bèn vào khám củi chắp tay ngồi ngay ngắn, tụng phẩm Dược Vương, ngọn lửa bốc đến thân mà Ngài vẫn còn chắp tay không buông. Đạo tục biết việc ấy tranh nhau chạy đến Di Sơn đồng thời cùng nhau đảnh lễ nguyện kết nhân duyên, họ đều thấy khí đỏ xông thẳng lên hư không rất lâu mới hết. Thọ bốn mươi bốn tuổi, sau mười ngày Ngài mất chừng bốn ngày trong phòng Ngài mọc hai cây ngô đồng. Cành lá sum suê, lớn nhỏ xứng nhau, mập mạp thẳng vút, bèn trở thành đồi cây kỳ lạ. Kẻ thức giả cho rằng đó là Ta-la Bảo Thọ biểu hiện điềm Niết-bàn. Dường như Ngài hiện hai cây này để biểu hiện chứng nhân gọi là song đồng Sa-môn. Trương Biện ở Ngô quận làm trưởng sử ở Bình Nam chính mắt trong thấy việc này nên ghi vào truyện để khen tặng. Tán rằng: Truyền cơ sâu xa Chí đạo mênh mông Vào sanh ra tử Ai là diệu bảo Từ xưa Dược Vương Hóa độ tuyệt luân Xưa nghe lời ấy Nay thấy người này Sa-môn trác tuyệt Định tuệ tâm vững Thầm ngưng khí tỏa Hiện vết song thọ Đức ấy đáng vui Hạnh ấy đáng quý Nên tôi đã viết văn này Để người làm theo. ---------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ ÍCH Ngài là người Quảng Lăng, thuở nhỏ xuất gia theo thầy đến ở Thọ Xuân. Trong niên hiệu Hiếu kiến nhà Tống đến kinh đô ở chùa Trúc Lâm. Siêng năng chuyên cần, thệ nguyện thiêu thân. Mọi người nghe tin có kẻ khen ngợi có người chê bai. Đến năm thứ tư Đại minh bắt đầu bỏ ăn cơm gạo chỉ ăn mạch nha, đến năm thứ sáu thì tuyệt dứt mạch nha. Chỉ ăn váng sữa. Chẳng bao lâu thì dứt bỏ váng sữa, chỉ uống viên hoàn thơm. Tuy tứ đại còn rất mong manh nhưng tinh thần vẫn còn rất khỏe mạnh. Hiếu Vũ rất kính trọng đến thăm hỏi ân cần, sai thái tể Giang Hạ Vương Nghóa đích thân đến chùa khuyên can. Nhưng chí Ngài kiên quyết không đổi. Đến ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 7 Đại minh, lúc Ngài chuẩn bị thiêu thân, bèn đặt chảo dầu ở phía Nam, Chung Sơn. Ngày ấy ngồi xe ngựa nhờ người kéo từ chùa lên núi. Vì hoàng đế là chỗ nương tựa của muôn dân, lại là chỗ nhờ cậy của Tam Bảo, lại đích thân vào đài đến cửa Vân Long, không thể bước được nữa bảo người mở tấu văn của Ngài đọc: Tuệ Ích đạo nhân nay xả thân đến Vân Long Môn phụng chỉ, lại đem Phật pháp giao phó cho vua, vua nghe đổi nét mặt, bèn đích thân ra cửa Vân Long. Ngài thấy vua rồi còn đem Phật pháp phó chúc rồi từ giả. Vua cũng tiếp tục đến. Các vương tôn, hoàng phi đạo, tục, thứ dân chen đầy hang núi. Cởi y phục bỏ trân bảo vô số, Ngài bèn vào chảo dầu vin vào một giường nhỏ lấy y áo tự quấn thân, trên thêm một cái mão dài lấy dầu rót vào đó rồi cầm ngọn đuốc, vua bảo thái tể đến chỗ vạc dầu khuyến dụ rằng: Đạo hạnh nhiều cách đâu cần làm tổn tánh mạng, mong Ngài suy nghó kỹ lúc sinh vào đường khác. Nhưng chí nguyện của Ngài đã quyết không còn niệm hối hận. Bèn đáp rằng: Thân mạng hèn mọn này đâu đáng giữ lại. Lòng trời ý Thánh chẳng phải mình. Nguyện độ hai mươi người xuất gia, vua ban sắc lệnh cho phép, Ngài bèn chính tay cầm đuốc đốt mão. Mão cháy Ngài bỏ đuốc, chắp tay tụng phẩm Dược Vương. Lửa cháy đến chân mày tiếng tụng kinh vẫn còn rất rõ ràng cho đến lúc đến mắt thì tiếng nhỏ dần, kẻ quý người tiện đều than khóc chấn động cả hang tối. Ai nấy chỉ còn biết kêu Phật thảm thiết rơi lệ. Lửa cháy đến hôm sau mới tắt. Lúc ấy vua nghe giữa hư không có tiếng kèn sáo, mùi hương lạ thơm tho, trọn ngày hôm đó vua mới về cung. Đêm mộng thấy Ngài chống tích trượng đến lại giao phó Phật pháp. Sáng ngày hôm sau vua mở hội cho độ người. Bảo trai chủ xướng bạch đầy đủ những điều Ngài nói. Nơi Ngài thiêu thân vua cho dựng ngôi chùa Dược Vương, để tưởng nhớ việc này vậy. ----------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG KHÁNH Ngài họ Trần người vùng An Hán, Ba Tây. Gia thế thờ đạo năm đấu. Ngài sinh ra đời bèn thấy rõ điều đó. Năm lên mười ba tuổi xuất gia ở chùa Nghóa Hưng tịnh tu phạm hạnh, nguyện cầu thấy Phật. Trước tiên xả ba ngón tay, sau cùng thệ thiêu thân, dần dần tuyệt thực chỉ uống dầu thơm. Đến ngày mồng 8 tháng 2 năm thứ 3 Đại minh, Ngài ở chùa Vũ Đảm nước Thục ở trước tượng Tịnh Danh mà Ngài tạo dựng đốt thân cúng dường, thứ sử Trương Duyệt đích thân đến thăm, đạo tục đến xem đông vô số. Mây trôi kết thành mưa buồn thương rơi xuống. Lát sau trời quang mây tạnh. Bỗng thấy một vật giống như rồng bay thẳng lên trời. Năm đó Ngài hai mươi ba tuổi, thái thú ở Thiên Thủy tên là Bùi Phương Minh thu hài cốt xây tháp để thờ. --------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP QUANG Người Lũng Tây, Tần châu, thuở nhỏ đã có lòng thành tín, nhưng đến năm hai mươi chín tuổi mới xuất gia, khổ hạnh đầu-đà không mặc gấm lụa, không ăn ngũ cốc chỉ ăn lá tùng. Sau đó phát nguyện thiêu thân rồi bắt đầu uống nhựa thông và dầu trải qua nửa năm. Đến ngày 20 tháng 10 năm Vónh minh thứ ba nhà Tề, Ngài ở trong chùa Ký Thành, Lũng Tây chất củi thiêu thân để mãn nguyện xưa, khi lửa cháy đến mắt mà tiếng tụng kinh vẫn còn rất rõ, lúc đến mũi mới im bặt. Ngài thọ bốn mươi mốt tuổi. Lúc ấy vào cuối năm Vónh Minh ở huyện Thỉ Phong có vị Tỳ-kheo Pháp tồn cũng thiêu thân cúng dường, quận thú Tiêu Miễn bảo Sa-môn Tuệ Thâm xây tháp thờ hài cốt. <詞>THÍCH ĐÀM HOẰNG Ngài là người Hoàng Long, thuở nhỏ rất có giói hạnh, chuyên ng- hiên cứu luật tạng. Giữa niên hiệu Vónh Sơ nhà Tống Ngài về phương Nam ở Đài tự xứ Phiên Ngu. Sau đó đến chùa Tiên Sơn ở vùng Giao Chỉ tụng kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh phát tâm hồi hướng về Tây phương. Vào năm thứ 2 Hiếu kiến Ngài lên núi chất củi rồi âm thầm vào trong đó đốt thân, đệ tử vội tìm đến khiêng ngài trở về, nửa thân đã cháy hết, trải qua nửa tháng mới bớt. Sau này ở vùng gần thôn có mở trai hội, cả chùa đều đi hết một mình Ngài lại vào trong hang thiêu thân. Người trong thôn chạy đến thì Ngài đã mất rồi. Thế là họ bèn chất thêm củi cháy tới sáng hôm sau mới tắt. Ngày hôm đó dân làng đều thấy thân Ngài sắc vàng cỡi một con nai vàng đi về Tây. Ngài đi rất vội không rảnh han huyên. Đạo tục bấy giờ mới hiểu sự linh dị của Ngài cùng nhau thu hài cốt xây tháp thờ. Luận rằng: Những vật có hình tướng thì có đáng quý trọng là thân thể, cái đáng quý của tình thức là mệnh sống. Cho nên ăn mỡ uống máu, che thân mập bằng áo mỏng là muốn cho tinh thần vui vẻ; uống linh đan để nuôi dưỡng thể tạng là để trường thọ. Còn như chẻ một sợi lông để lợi thiên hạ mà xen lẫn, bỏ một bữa ăn để duy trì mạng sống kẻ khác thì tiếc mà không cho, đấy là quá chậm tệ vậy. Từ xưa có Hoành Tri, Đạt Trị, Đạt, kiến từng quên mình vì người. Thể hội tam giới là nhà trong đêm dài. Ngộ được tứ sinh là cảnh huyễn mộng, tinh thần thong dong như cánh chim. Hình hài mắc nơi đáy bình. Thế nên xoa từ đầu đến chân không từng liên quan đến tâm. Quốc thành thê tử xả bỏ như cỏ rác. Những điều luận bàn hôm nay chính là con người này vậy, Tăng Quần chỉ vì một con vịt mà bỏ nước để đến nổi vong mạng. Tăng Phú chỉ vì cứu một đứa trẻ mà rạch bụng để nó toàn thân. Pháp Tấn róc thịt cứu người đói. Đàm Xướng tự hiến thân để trừ họa hổ. Đây đều là đạo liêm tế cao thượng, quên mình vì người vậy. Ngày xưa vương tử xả thân công đức ấy vượt qua chín kiếp. Róc thịt chuộc lại con chim làm chấn động ba ngàn thế giới. Đâu phải chỉ có người như Ngài mới cao siêu tuyệt thế. Kế đến Pháp Vũ cho đến Đàm Hoằng đều thiêu hình hài xả bỏ vật yêu quí, để chuyên lòng cầu về An dưỡng. Hoặc nguyện sống tri túc cho nên để lại hai cây ngô trong phòng. Trong một bữa ăn vụt thẳng hư không, thị hiện điềm lành cùng một lúc. Những Thánh giáo khác nhau, khai giá cũng chẳng giống. Nếu như vì quyền hợp thời mà tạo tác. Vì lợi mà hiện thần thông thì chẳng phải điều thánh giáo cho phép. Cho nên kinh nói: Nếu có thể đốt một ngón tay hoặc ngón chân công đức ấy còn cao hơn bố thí cả quốc thành. Nếu hàng phàm Tăng xuất gia vốn lấy oai nghi để nhiếp hóa chúng sinh mà nay hủy hoại hình hài tức là phá tướng phước điền. Suy cho cùng nói có được có mất, được là ở nơi quên mình, mất là vì trái giới. Cho nên ngài Long Thọ nói: Mới thực hành hạnh Bồ-tát không thể cùng một lúc hành đầy đủ các độ, hoặc viên mãn nơi hạnh bố thí thì trái với hạnh hiếu. Như vương tử xả thân cứu hổ. Hoặc viên mãn tuệ thì lại trái với hạnh từ, như ép người khác đoạn thực. Tất cả đều do hạnh chưa trọn vẹn nên không thể không có sự thiếu sót. Còn như Phật nói thân có tám vạn vi trùng đồng căn khí với người. Mạng người đã đoạn thì vi trùng cũng chết theo. Thế nên bậc La-hán sau khi mất, Phật cho phép thiêu thân mà nay các vị vẫn còn sống lại đi thiêu hủy thì đối với mạng vi trùng sẽ phạm lỗi. Có người nói: Bậc La-hán còn nhập hỏa quang thì phàm phu đâu có gì để tiếc. Có người nói nhập hỏa quang bỏ mạng mình trước. Sau đó dùng sức thần trí để tự thiêu. Nhưng hàng Bồ- tát tánh địa cũng chưa tránh khỏi báo thân, hoặc có khi đâm mình vào đám lửa, hoặc có khi xẻ thịt chia cho người. Nên biết luận về việc giết côn trùng rốt cuộc đã rõ lắm rồi. Còn như tam độc tứ đảo là gốc rễ của sinh tử. Thất giác chi, bát chánh đạo là con đường chính vào Niết-bàn. Đâu cần phải thiêu hủy hình hài, rồi mới lìa khổ. Nếu các vị ấy gần tới đắc nhẩn mà giả hiện đồng phàm phu. Có khi vì chúng sinh mà xả thân. Đây chẳng phải lời nói có thể bàn đến được. Kẻ phàm phu không có cái nhìn sâu rộng chi bằng suốt đời hành đạo. Còn như xả bỏ thân mạng, hoặc muốn vinh dự một thuở, hoặc muốn lừng danh vạn đời, thì khi lửa đến sẽ sinh tâm hối tiếc lẫn sợ hãi. Lời nói đã rộng hổ thẹn vì xúc chạm đến tiết tháo của người. Thế thì cần phải gắng gợi để tu học, luống rơi vào vạn khổ, như thế thì chẳng có gì để nói. Khen rằng: Nếu người vững chí, đá vàng chẳng sánh được, luyện thuần thục ở đây cầu về nơi bảo thành kia. Cỏ thơm xanh tốt, tư quán phù khinh. Tỏa rạng ánh sáng, hiện ra điềm lành hàm ẩn linh dị, ngàn năm còn đẹp, muôn đời vẫn luôn thơm. ------------------------------------- <詞>THỨ BẢY : TỤNG KINH THÍCH ĐÀM THÚY Không rõ Ngài là người phương nào. Thuở nhỏ xuất gia ở chùa Bạch Mã, Hà Aâm, ăn uống đạm bạc, áo vải thô sơ. Tụng kinh Chánh pháp Hoa một ngày một biến. Lại thông đạt ý chỉ kinh cũng vì người khác giải nói. Vào một đếm bỗng nghe tiếng gõ cửa và nói muốn thỉnh Pháp sư thuyết pháp chín mười ngày. Ngài không nhận lời. Họ năn nỉ mãi Ngài mới đi, mà vẫn còn trong giấc ngủ, thức dậy thân đã ở trong miếu chùa Bạch Mã. Với một đệ tử, từ đó mỗi ngày Ngài âm thầm sang đó. Người khác không ai biết gì. Sau có vị tăng trong chùa qua trước miếu thấy có hai tòa cao. Ngài ở hướng Bắc, đệ tử ở hướng Nam, như có âm thanh giảng pháp, lại nghe có mùi hương kỳ lạ. Thế là đạo tục truyền nhau đều nói là việc thần dị. Đến cuối mùa hạ, thần cúng dường chùa Bạch Mã năm con dê trắng, chín mươi tấm lụa. Chú nguyện xong rồi từ biệt nhau. Sau này không biết Ngài tịch ở đâu. -------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP TƯỚNG Ngài họ Lương, không biết người ở phương nào, luôn sống vất vả trên núi, tụng kinh hơn cả vạn lời. Cầm thú tụ tập quanh chỗ Ngài, Ngài đều đều dạy dỗ chúng giống như gia cầm. Ngôi miếu ở Thái Sơn có rương đá lớn chứa đồ quý. Ngài nhân dạo núi đi đến ở trên miếu, chợt thấy một người mặc áo đen đội mão tướng, võ bảo Ngài mở rương, nói xong hoàn toàn không thấy nữa. Rương đá ấy nặng hơn một ngàn cân, Ngài thử nhấc lên bỗng nhẹ phớt. Thế là Ngài lấy của cải bố thí cho dân nghèo. Sau đó qua Giang Nam ở chùa Việt Thành. Bỗng dưng Ngài trở nên buông thả phóng đãng, hài hước như thường hát, hoặc có khi cởi trần phạm đến sự quý trọng cảu triều đình. Tướng quân Tư Mã Điềm nhà Tấn trấn giữ phương Bắc rất ghét phong thái của Ngài, gọi đến để hạ độc, nhiều lần nghiêng đổ ba chung nhưng thần khí vẫn thản nhiên không chút sợ hãi. Oâng rất kính trọng. Đến cuối niên hiệu Nguyên Hưng nhà Tấn Ngài thị tịch, thọ tám mươi tuổi. Thời ấy có các vị Trúc Đàm Cái, Trúc Tăng Pháp đều khổ hạnh và có sự cảm thông. Trúc Đàm Cái còn có thể trì chú cầu mưa, được thứ sử Tư Mã Nguyên Hiển ở Dương châu kính trọng. Ngài Tăng Pháp cũng giỏi thần chú. Con của thừa tướng nhà Tấn là Lương Tư Mã Đạo ở Cối Kê xây chùa Trị Thành cho Ngài. ------------------------------ <詞>TRÚC PHÁP THUẦN Không rõ ngài ở phương nào, thuở nhỏ xuất gia ở chùa Hiển Ng- hóa ở Sơn Aâm, khổ hạnh có đức độ, tụng kinh Cổ Duy-ma. Vào giữa năm Nguyên Hưng nhà Tấn vì chùa mà đến Lam Chử mua nhà xưa. Tới lúc chiều trở về giữa hồ, gặp gió mà thuyền nhỏ. Ngài nhất tâm cầu Quán Thế Aâm không ngớt. Bổng thấy một con thuyền lớn. Ngài leo lên đó liền tránh khỏi nạn, đến bờ hỏi ra mới biết thuyền không chủ, chốc lát biến mất. Đạo tục đều khen là do thần cảm, sau này không biết Ngài tịch ở đâu. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG SINH Ngài họ Viên, người ở Ty quận Thục thuở nhỏ xuất gia sống rất khổ hạnh. Thành Đô Tống Phong thỉnh Ngài làm trụ trí chùaNhị Hiền, tụng kinh pháp Hoa, tu Thiền định, thường ở trong núi tụng kinh, có con hổ đến quỳ trước thất nghe Ngài tụng kinh xong mới đi. Sau đó mỗi khi đến đoạn phúng tụng bèn thấy bốn người xung quanh hầu hạ. Tuổi tuy già yếu nhưng chí lực càng mạnh, sau đó có chút bịnh bèn nói với thị giả rằng: Ta sắp đi đây, sau khi ta mất hãy thiêu thân, đệ tử vâng theo di chúc. ------------------------------------ <詞>THÍCH PHÁP TÔNG Ngài là người Lâm Hải, thuở nhỏ thích săn bắn, có lần ở Diệm bắn nhằm con nai có chửa bị đọa thai. Nai mẹ ngậm mũi tên mà vẫn còn cúi xuống liếm con. Ngài bèn hối hận, biết được lẽ tham sống yêu thương con là điểm chung của loài hữu tình. Thế là bèn bỏ cung ném tên đi xuất gia cầu đạo. Thường khất thực để nuôi thân, ngày ăn một bữa, sống đạm bạc chuyên tâm sám hối tội xưa. Tụng kinh pháp Hoa, Duy- ma, thường lên đài phúng vịnh âm vang khắp nơi. Kẻ só thứ ngưỡng mộ quy giới hơn ba ngàn người. Ngài bắt đầu khai thác chỗ ở để làm tinh xá. Nhân lấy đọc tụng làm sự nghiệp nên gọi là Pháp Hoa đài không biết sau này Ngài tịch ở đâu. --------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO DUỆ Ngài họ Mã, người Phù Phong, lúc mới xuất gia làm đệ tử ngài Đạo Ý. Lúc thầy bịnh lại sai bốn người đệ tử gồm Đạo Duệ v.v… đến Tiêu Sơn Hà Nam tìm chung sữa, họ vào hang mấy dặm, leo cây qua sông ba người chết chìm, ngọn đuốc lớn đã mất, Ngài đoán không còn cách nào cứu. Bèn chuyên tâm tụng kinh pháp Hoa, chỉ còn cách nương cậy vào lòng chân thành này. Lại còn luôn tưởng niệm đức Quán Aâm, lát sau lại thấy một luồng sáng giống như ánh sáng đom đóm. Ngài vội đuổi theo nhưng không kịp, thế là Ngài đành ra khỏi hang, rồi bắt đầu tu tập thiền định, tiết hạnh hơn trước. Nhiều lần lập đàn trai Phổ Hiền, đều có sự linh ứng. Có khi thấy Phạm tăng vào đàn ngồi. Hoặc thấy người cởi ngựa đi vào, đều chưa kịp hỏi han gì bỗng nhiên biến mất. Sau đó cùng với bốn người bạn đồng học, đi về phương Nam đến kinh đô xem xét phong cảnh tập quán, ban đêm bước lên sông qua sông, giữa dòng băng vỡ ba người chết chìm. Ngài lại thành khẩn niệm Quán Aâm, bèn cảm thấy dưới chân có một vật tự nhúc nhích, rồi lại thấy luồn ánh sáng đỏ hiện ra phía trước. Ngài men theo ánh sáng đó đến bờ, khi đi đến kinh đô ở chùa Nam Nhàn. Thường lấy Bát-chu làm sự nghiệp. Có lần vào lúc nửa đêm ngồi thiền, chợt thấy bốn người ngồi xe đến phòng, bảo Ngài lên xe, Ngài mơ hồ không biết gì đã thấy mình ở trong quận, sau đó chìm vào giữa cầu, bèn thấy một người ngồi trên giường Hồ. Thị giả mấy trăm người, họ thấy ngài giật mình đứng dậy nói: người tọa thiền đây. Người kia nhân đó hỏi thị giả xung quanh: chỉ muốn để biết chỗ ở mà thôi. Cớ sao làm lao nhọc Pháp sư. Thế rồi bèn lễ bái và từ biệt Ngài. Nói xong sai người tiễn Ngài trở về chùa, gõ cửa hồi lâu mới mở cửa và vào chùa thấy phòng vẫn còn đóng cửa. Mọi người chẳng ai lường được. Vào năm thứ 20 Nguyên Gia nhà Tống. Khang Vương Nghóa Khánh người Lâm Xuyên và Ngài cùng nhau đến Quảng Lăng. Sau này Ngài tịch ở đó. <詞>THIÍCH TUỆ KHÁNH Ngài là người Quảng Lăng, xuất gia ở chùa Lô Sơn, học thông kinh luật, giới hạnh trong sạch. Tụng kinh pháp Hoa, Thập Địa, Tư Ích, Duy-ma. Mỗi đêm thường ngâm vịnh, thường nghe trong bóng tối có tiếng khảy móng tay khen ngợi. Hôm nọ chợt có sấm chớp gió thổi làm thuyền chao đảo sắp lật, Ngài tụng kinh liên tục, cảm thấy thuyền ở trên làn sóng như có người kéo giữ, bỗng nhiên đến bờ, thế là Ngài càng dốc chí mãnh liệt hơn. Ngài tịch vào cuối năm Nguyên gia nhà Tấn, thọ sáu mươi hai tuổi. ---------------------------------------- <詞>THÍCH PHỔ MINH Ngài họ Trương người ở Lâm Truy, thuở nhỏ xuất gia, bẩm tánh trong sáng ăn mặc thô sơ, lấy việc sám hối tụng kinh làm bổn phận. Tụng hai bộ pháp Hoa, Duy-ma và mỗi khi phúng tụng đều có y áo và tọa cụ riêng… khi phúng tụng đến Phẩm khuyến phát bèn thấy ngài Phổ Hiền cởi voi trắng đứng ở trước mặt. Lúc tụng kinh Duy-ma cũng nghe giữa hư không xướng âm nhạc. Ngài rất giỏi thần chú cầu gì được nấy. Có người vợ chính của Vương Đạo ở trong làng bị bịnh đến chờ Ngài trì chú. Sáng hôm sau Ngài vừa vào đến cổng thì cô vợ của ông ta trở nên rất buồn bã. Lát sau lại thấy một vật như con hồ ly dài mấy thước từ chỗ hang chó nhảy ra, nhân đó mà bệnh khỏi. Có lần Ngài đến một ngôi miếu bên dòng sông. Thầy cúng (đồng bóng) trong miếu tự nói: Thần thấy Ngài đến đều bỏ đi. Ngài mất vào giữa năm Kiến sơ nhà Tống, thọ tám mươi lăm tuổi. ------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP TRANG Ngài họ Thân, người Hoài Nam, xuất gia năm mười tuổi, thờ ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn. Thuở nhỏ nổi tiếng khổ hạnh, lúc tuổi già trở về Quan Trung theo ngài Tăng Duệ thọ học. Đầu năm Nguyên gia, Ngài đến kinh đô ở chùa Đạo Tràng, tánh tình bộc trực ngay thẳng ngày chỉ ăn một bữa, tụng kinh Đại Niết-bàn, pháp Hoa, Tịnh Danh, vào lúc cuối đêm thường phúng tụng. Mọi người luôn nghe trước phòng Ngài có tiếng binh đao khí trượng và lính vệ. Thật ra đó là thiên thần đến nghe Ngài tụng kinh vậy. Ngài tịch vào đầu năm Đại minh Nhà Tống. Thọ bảy mươi sáu tuổi. -------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ QUẢ Ngài là người Dự châu, thuở nhỏ ăn chay sống đạm bạc. Vào những năm đầu nhà Tống, Ngài đến kinh Sư ở chùa Ngõa Quan. Tụng kinh pháp Hoa, Thập Địa. Có lần thấy một con quỷ trong nhà xí, đến lễ kính Ngài và nói rằng: Ngày xưa con làm Duy-ma trong chúng tăng. Có việc nhỏ trái pháp nên đọa vào trong loài ngạ quỷ ăn phân dơ. Pháp sư là bậc đạo cao đức trọng lại có lòng từ bi vô lượng. Cầu mong Ngài ban ơn cứu giúp con tìm phương thoát khỏi kiếp này. Ngày xưa con có ba ngàn lượng chôn cất ở dưới gốc cây thị, xin Ngài hãy lấy số tiền đó làm phước. Thế là Ngài bảo chúng Tăng đào lên, quả đúng ba ngàn lượng, Ngài đem in một bộ pháp Hoa và mở trai hội. Sau đó mơ thấy quỷ nói rằng. Con đã được tái sinh vào chốn thù thắng hơn ngày xưa. Ngài sau này mất vào năm thứ 6 Thái thủy nhà Tống, thọ bảy mươi sáu tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP CUNG Ngài họ Quan, người Uûng châu, ban đầu xuất gia ở chùa An Dưỡng vùng Giang Lăng, sau đó ra kinh sư ở chùa Đông An. Tuổi tuy còn nhỏ mà có chí khổ hạnh tuyệt luân, mặc vải thô sơ, ăn đậu mạch. Tụng kinh hơn ba mươi vạn câu. Mỗi đêm ngâm tụng bèn tỏa ra mùi thơm kỳ diệu. Người vào phòng Ngài ai cũng nghe thấy. Ngài thường lấy y áo cũ gom chí rệp và lấy đắp. Để nuôi nó. Ba vị vua Vũ, Văn, Minh nhà Tống và Văn Vương, Nghóa Tú v.v… ở Hàm Dương đều rất tôn sùng đạo hạnh của Ngài. Những phẩm vật mà tín thí cúng dường, Ngài đều phân chia hết cho người nghèo, không hề cất vật gì. Vào giữa năm Thái thỉ nhà Tống, Ngài trở về Tây và mất ở đó, thọ tám mươi tuổi. Lúc đó ở Ô Y cũng có vị Tăng Cung, đức độ cao minh, nhậm chức Cương Tổng ở chùa, cũng không ăn cơm gạo, chỉ ăn đậu mạch. <詞>THÍCH TĂNG PHÚ Không rõ Ngài là người phương nào, thuở nhỏ mồ côi được thuộc hạ nuôi dưỡng, bảy tuổi xuất gia làm đệ tử ngài Đăng Lượng học thông các kinh, ăn chay trì chú, tụng Đại phẩm Pháp Hoa. Tống Minh Đế vô cùng kính trọng, sắc phong Ngài trụ trì chùa Bành Thành, có công trong việc hướng dẫn đồ chúng. Ngài mất vào cuối năm Thái thỉ nhà Tống, thọ sáu mươi sáu tuổi. ------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ TẤN Ngài họ Diêu, người Ngô Hưng, thuở nhỏ có tính anh dũng, hào hiệp. Đến năm bốn mươi tuổi bèn ngộ tâm, tự khai phát. Thế là Ngài ly tục ở chùa Cao Tòa kinh sư, ăn chay mặc áo thô, thề tụng Pháp Hoa, dụng tâm khổ nhọc, nên hễ cầm đến kinh thì bị bịnh. Ngài bèn phát nguyện, nguyện in ấn một trăm bộ Pháp Hoa để sám hối tội xưa. Bắt đầu gom được một ngàn sáu trăm lượng. Lúc đó có giặc cướp đến hỏi Ngài có vật gì không? Đáp rằng: Chỉ có tiền in kinh để ở chỗ thờ Phật. Bọn cướp nghe vậy hoảng hồn bỏ đi. Thế là ngài gom góp của tín thí để ấn kinh, đủ một trăm bộ. Sau khi kinh in xong thì bịnh cũng thuyên giảm. Tụng một bộ Pháp Hoa thì tâm nguyện đã mãn, ngài càng dốc chí mạnh hơn. Ngài luôn hồi hướng những phước lành này nguyện sinh về An dưỡng. Khoảng thời gian không lâu sau, Ngài nghe tiếng ở không trung nói rằng: Nguyện của Ngài đã viên mãn, nhất định sẽ được sinh Tây phương. Đến năm thứ ba Vónh minh nhà Tề, Ngài không bịnh mà thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi. Khi ấy chùa Long Hoa ở kinh sư lại có ngài Thích Tăng Niệm tụng kinh Pháp Hoa, Kim Quang Minh, sống đạm bạc xa lánh thế tục. ------------------------------------ <詞>THÍCH HOẰNG MINH Ngài vốn họ Doanh, người vùng Sơn Âm Cối Kê, thuở nhỏ xuất gia khổ hạnh có giới đức. Ở chùa Vân Môn, Sơn Âm, tụng kinh Pháp Hoa tu thiền định, siêng năng lễ sám sáu thời không ngớt. Mỗi khi cần nước thì bình tự đầy. Thật ra đó là do chư thiên đồng tử cung cấp cho Ngài. Có lần Ngài ngồi thiền ở Vân Môn, có con hổ đi vào phòng ngồi trước giường. Thấy Ngài điềm nhiên bất động, hồi lâu nó lại ra đi. Có lúc Ngài lại thấy một cậu bé đến nghe Ngài tụng kinh. Ngài hỏi: Ngươi là người nào? Chú đáp: Ngày xưa con làm Sa-di ở chùa này, lén ăn vụng trong mùng. Nay đọa vào chỗ tăm tối. Nghe thượng nhơn có đạo nghiệp, nên con đến nghe ngài tụng kinh. Mong Ngài giúp con phương tiện để con thoát khỏi khổ lụy này. Ngài liền thuyết pháp khuyến hóa, chú lãnh hội thông suốt mới ẩn hình. Sau này, Ngài nhập định trong động Thạch mỗ ở Vónh Hưng. Lại có sơn tinh đến quấy não. Ngài bắt được lấy sợi dây buộc thắt lưng trói lại. Con quỷ van xin cầu thoát và nói rằng sau này không dám đến nữa. Thế là Ngài thả ra, nó cũng mất tích luôn. Vào giữa năm Nguyên gia, quận thú Bình Xương Mạnh Hạo trọng vọng hạnh thanh cao của Ngài, muốn Ngài đến ở tinh xá Đạo Thọ. Sau đó Dương Giang Tổng nhà Tề ở Hưng Ấp lập chùa Thiệu Huyền, lại đến thỉnh Ngài về ở. Cuối năm Đại minh, Đào Lý Đổng lại xây dựng một ngôi chùa Bá Lâm cho Ngài ở. Những hội giảng thiền dạy giới môn nhân hàng hàng lớp lớp. Vào năm thứ tư Vónh minh nhà Tề, Ngài thị tịch ở chùa Bá Lâm, thọ tám mươi bốn tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ DỰ Ngài là người Hoàng Long, đến kinh sư ở chùa Linh Căn. Thuở nhỏ hiếu học đi khắp nơi cầu thầy học đạo, giỏi bàn luận, khéo về phong tắc. Mỗi khi nghe nhân vật Tạng phủ thì bịt kín tai không nghe. Có khi dùng lời lạ can ngăn. Bình y mang theo, ngày chỉ ăn một bữa ngọ là đủ, siêng năng cần mẫn, lấy việc cứu khổ làm đầu. Tụng Đại Niết- bàn, Pháp Hoa, Thập Địa. Lại học Thiền định, tinh chuyên ngũ môn. Có lần nằm mơ thấy ba người đến gõ cửa phòng, họ đều trang phục áo mão chỉnh tề cầm lọng hoa. Ngài hỏi các vị tìm ai? Họ đáp: Pháp sư sắp chết, cho nên đến để đón ngài. Ngài nói: Có chút việc chưa làm xong, xin đợi một năm nữa có được không? Họ đáp: Được chứ. Đúng trọn một năm thì Ngài mất. Lúc ấy vào năm thứ bảy Vónh Minh nhà Tề, thọ năm mươi bảy tuổi. Cùng chùa Ngài ở có Sa-môn Pháp Âm cũng siêng năng tụng kinh. ----------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO SÙNG Ngài họ Hạ, người vùng Cao Mật, mười tuổi xuất gia, thuở nhỏ vốn có bẩm tính trầm lặng nhưng đầy chí khí. Đến lúc thọ cụ túc xong thì chuyên tâm học luật; tụng kinh đến ba mươi vạn lời, giao tiếp trên dưới chưa hề tỏ vẻ bất hòa. Tánh rất thích bố thí, hễ được lợi dưỡng đều đem cho hết mọi người. Ngoài bình bát và y ra, không có vật gì khác. Vào giữa niên hiệu Nguyên Huy nhà Tống, Ngài đến kinh sư ở chùa Định Lâm, Chung Sơn. Ở trong phòng tónh nhàn sám hối tụng kinh liên tục. Có người đến, Ngài bèn thuyết pháp khuyến tấn họ đến quên. Người theo học giới rất đông. Sau này Ngài thị tịch trong núi, thọ bốn mươi chín tuổi. -------------------------------------- <詞>THÍCH SIÊU BIỆN Ngài họ Trương người Đôn Hoàng, thuở còn bé mà đã thần ngộ, đỉnh đạc, tiết tháo thâm trầm. Tụng kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cương, Bát-nhã. Nghe ở kinh sư Phật pháp hưng thịnh. Ngài bèn tự vượt qua Tây Hà, chẳng đường từ Ba Sở đến Kiến Nghiệp. Chẳng bao lâu Ngài về miền Đông đến Ngô Việt, ngắm xem sông nước, dừng lại chùa Thành Bàng ở Sơn Âm một thời gian ngắn. Sau đó dời lại kinh đô ở chùa Định Lâm Thượng, sống những ngày đạm bạc thanh vắng nơi sơn môn, tụng kinh Pháp Hoa theo hạn định mỗi ngày một thiên, tâm luôn chuyên theo khẩu tụng. Hễ còn đủ sức thì lễ ngàn Phật. Tất cả hơn một trăm năm mươi vạn bái, hơn ba mươi năm không ra khỏi cửa chùa. Vào năm thứ mười Vónh Minh nhà Tề, Ngài thị tịch ở trong chùa toạ lạc trên núi, thọ bảy mươi ba tuổi, nhập tháp tại khu đất phía Nam của chùa. Sa-môn Tăng Hựu dựng bia bên phía Đông ngôi mộ. Tông Lưu Tư viết văn, khi ấy có ngài Thích Pháp Minh ở chùa Linh Căn, Thích Tăng Chí ở Kỳ Hoàn, Thích Pháp Định ở Ích châu, đều là những bậc tụng kinh hơn mười câu, sống khổ hạnh đạm bạc có giới đức tinh nghiêm. -------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP TUỆ Ngài có họ Hạ Hầu, thuở nhỏ có chí khí, tinh cần nơi giới luật, phẩm hạnh trang nghiêm, vào cuối niên hiệu Đại minh nhà Tống, Ngài đi về phương Đông, đến Vũ Huyệt, ẩn cư nơi núi Đại Trụ, tụng kinh Pháp Hoa một bộ, ăn mặc thô sơ đạm bạc, chí vui thú thiên nhiên. Ở trong gác hơn ba mươi năm, Vương Hầu đi thu thuế đến phòng Ngài tham bái rồi quay về. Chỉ Chu Ngung ở Nhữ Nam vì lòng tín giải sâu sắc nên ở lại hội kiến cùng Ngài. Khi ấy có người hâm mộ đức độ mà đến lễ bái, có người nhân vì Chu Ngung giới thiệu nên đến tham kiến Ngài. Vào năm thứ hai Kiến vũ nhà Tề, Ngài thị tịch ở ngôi chùa trên núi, thọ tám mươi lăm tuổi. Khi ấy ở Lưu Sơn huyện Nhã-da có vị tên Đàm Du, cũng ăn chay tụng kinh, khổ hạnh hàng đầu. ------------------------------------ <詞>THÍCH TĂNG HẦU Ngài là người Tây Lương châu ở Tây Cung. Năm mười tám tuổi thì bắt đầu ăn chay lễ sám cho đến sau khi thọ giới cụ túc, Ngài đi du phương quan sát giáo hóa. Vào đầu năm Hiếu kiến nhà Tống, Ngài đến kinh sư tụng kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Kim Quang Minh. Thường hai ngày một biến, như vậy hơn sáu mươi năm Tú Tuệ Khai vào nước Thục thỉnh pháp ngài và đi cùng. Sau Nghóa Gia và Huệ Khai mắc tội trở về cung. Một mình Ngài trở về kinh đô, xây dựng một, thất đá ở Hậu Cương để làm nơi tịnh tu thiền định. Từ khi thọ Sa-di đến lúc mạng chung, thịt cá và các loại ngũ tân chưa từng dính vào môi. Bóng dưới chân hơi lệch qua hướng Tây thì bèn tịnh trai để cho qua. Vào năm thứ hai Vónh minh nhà Tề, Ngài cảm thấy hơi khác, đến ngọ không ăn được, Ngài bèn tìm nước súc miệng chắp tay mà thị tịch, thọ tám mươi chín tu- ổi. Khi đó chùa Phổ Hoằng có ngài Thích Tuệ Ôn cũng tụng kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Thủ Lăng Nghiêm, tịnh khổ có giới đức. ----------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ DI Ngài họ Dương người ở Hoa Âm, Hoằng Nùng. Là hậu duệ của thái thú Chấn nhà Hán. Năm mười sáu tuổi xuất gia, cho đến sau khi thọ giới cụ túc, có chí tu viễn ly. Ngài bèn vào núi Chung Nam ở Trường An. Nơi hang hóc cheo leo nguy hiểm chẳng vết xe nào tới được, mà một thân một mình mang tích trượng tiến vào. Hổ dữ, hùm beo không hề quấy nhiễu, tụng kinh Đại phẩm, tịnh tu tam-muội. Thế là Ngài cất tranh kết thảo am để làm nơi an dưỡng. Đến giờ thì ôm bát vào xóm khất thực xong trở về thất tụng kinh, làm như vậy tám năm. Sau đó nghe ở Giang Đông Phật pháp hưng thịnh. Ngài bèn vân du sang kinh sư ở chùa Định Lâm núi Chung Nam, học tập tu luyện như trước. Là người ôn hòa cung kính khiêm nhường, không hề tỏ vẻ mừng giận, giới hạnh trong sáng, khuyến hóa dạy dỗ không chút mệt mỏi. Luôn có tâm tham vấn bậc tiền tài cầu tìm thiện tri thức không hề biết chán. Những kẻ Tăng người tục vào núi lễ bái Ngài đều thuyết pháp khuyến dụ thay cả ăn uống. Dường như từ lúc xuất gia cho đến khi già yếu, tất cả loại cay nồng ngon béo đều hoàn toàn dứt tuyệt. Hơn ba mươi năm không bước ra khỏi cửa, sớm tối tu tập thiền định, thường tụng Bát-nhã, sám hối cả đêm lẫn ngày, làm gương cho chúng. Vào ngày 15 tháng 8 nhuận năm mười bảy thiên giám nhà Lương, Ngài tịch trong tăng phòng trên núi, thọ bảy mươi chín tuổi, an táng ở phía Nam của chùa, lập bia để tưởng niệm công đức. Lúc ấy chùa Định Lâm lại có Sa-môn Pháp Tiên cũng tụng kinh, có giới hạnh trong sáng. Sau đó sang Ngô làm Tăng chánh rồi tịch ở đó. --------------------------------- <詞>THÍCH ĐẠO LÂM Ngài là người ở Sơn Âm, Cối Kê. Thuở nhỏ xuất gia có giới hạnh, thông thạo kinh Niết-bàn, Pháp Hoa và tụng kinh Tịnh Danh. Trương Tự ở nước Ngô bình kính phụng sự Ngài. Sau đó Ngài ở chùa Tuyền Lâm huyện Phú Dương. Trong chùa thường có quỷ quái nhưng từ khi Ngài đến ở thì nó cũng mất luôn. Đệ tử của Ngài là Tuệ chiêu bị phòng đè lên, đầu hãm vào vai. Ngài bèn cầu nguyện khấn vái. Ban đêm chiêu thấy hai vị Phạm tăng kéo đầu mình ra, sáng ra thì bình phục. Lúc ấy Ngài bèn thiết lập trai đàn Thánh tăng, phủ vải trắng mới trên giường. Trai đàn hoàn mãn thì thấy dấu chân người trên tấm vải dài hơn ba thước. Chúng tăng đều thầm phục sức cảm ứng nhiệm mầu kia. Người Phú Dương bắt đầu lập tòa Thánh Tăng để dâng cúng. Đến năm đầu nhà Lương, Ngài đến chùa Tề Hi. Năm Thiên Giám thứ mười tám Ngài thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi. Luận rằng: Phúng tụng có lợi ích lớn lao vô cùng. Nhưng người có được sự thành công ấy quả là rất hiếm vậy. Bởi vì Tổng trì thì khó được, lãng quên thì dễ sinh. Như kinh nói: Chỉ cần đọc một câu một kệ cũng được Thánh hiền khen ngợi. Thế nên Đàm Thúy hiện thần thông nơi Thạch Ô. Tăng Sinh cảm ngộ nơi không trung. Đạo Duệ gặp nguy mà được cứu. Tuệ Khánh sắp chìm mà cuối cùng được an toàn. Đây đều do thật đức sung mãn bên trong. Cho nên khiến cho sự linh ứng từ bên ngoài khơi mở. Kinh nói: Voi trắng sáu ngà giáng xuống thất, Tứ Thiên Vương theo hộ vệ bên tòa, há là hư dối ư? Còn như đêm yên tónh lạnh lẽo, ánh trăng sáng xua đi đêm dài, một mình nơi nhàn phòng ngâm tụng kinh điển, âm thanh tuôn ra sáng tỏ đạo, văn tự rõ ràng. Đó gọi là ca tụng lời pháp, lấy đây làm âm nhạc. Khen rằng: Pháp thân đã khuất xa, chỗ nương tựa là lời. Ngâm nga tới lui, huệ lợi khó nghó bàn, siêng tu ba nghiệp, tranh thủ cả sáu thời, hóa người bằng cách khất thực, khiến cho mọi người đến nơi này. Đây chính là người có thật đức, ai dám sánh bằng.  <卷>QUYỂN 13 THỨ TÁM: TẠO PHƯỚC GỒM MƯỜI BỐN VỊ TRÚC TUỆ ĐẠT Ngài họ Lưu, tên thật là Tát-a, người xứ Ly Thạch, Tây Hà Tinh châu. Thuở nhỏ thích săn bắn, năm ba mươi mốt tuổi bỗng nhiên bị chết giấc, điều trị cả ngày mới tỉnh lại. Trong lúc chết thấy đủ khổ báo ở địa ngục, đồng thời gặp một đạo nhơn nói rằng “Ta là vị thầy thuở xưa của ông” và thuyết pháp dụ dẫn khiến Ngài xuất gia và bảo Ngài đến Đan Dương Cối Kê Ngô quận tìm tượng thờ trong tháp A-dục lễ bái sám hối những lỗi lầm thuở trước gây tạo”. Thế nên khi tỉnh lại, Ngài bèn xuất gia học đạo, đổi tên là Tuệ Đạt, siêng năng làm phước, lấy việc lễ bái sám hối làm đầu. Vào giữa năm Ninh Khang nhà Tấn Ngài đến kinh sư. Đầu tiên do Giản Văn đế xây tháp ba tầng ở chùa Trường Can. Sau khi tháp hoàn thành, đêm nào trong tháp cũng phóng quang. Thế rồi Ngài leo lên thành nhìn lại thấy ngôi chùa này có sắc thái kỳ lạ nên đến đó lễ bái đêm ngày khẩn thiết. Vào đêm nọ Ngài thấy dưới chân chùa có ánh hào quang phát ra, Ngài liền bảo người khác cùng đào, đào xuống chừng một trượng tìm thấy có ba bia đá. Bia ở giữa được bọc một hòm sắt. Trong hòm lại có một hòm bạc. Trong hòm bạc lại có một rương vàng. Trong rương vàng lại có ba viên xá-lợi và một chiếc răng, một cọng tóc dài mấy thước cuốn lại thành búi như con ốc, ánh sáng chói lọi. Vào thời Chu Tuyên Vương, vua A-dục cho xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp. Đây chính là một trong những ngôi tháp này vậy, được đạo tục khen ngợi việc kỳ lạ. Ngài bèn xây một ngôi chùa ở phía Tây ngôi tháp để thờ xá-lợi. Vào năm thứ mười sáu niên hiệu Thái Nguyên nhà Tấn, vua Hiếu Vũ lại xây thêm ba tầng, cũng vào giữa năm Hàm Hòa có Y Cao Đát ở Đan Dương, lúc ở bến sông cầu Trương Hầu, lưới được một tượng Phật, không có quang phu mà chế tạo rất tinh xảo. Trước đây có một quyển phạm thư nói: Đây là do con gái thứ tư của vua A-dục tạo. Ông ta chở tượng về đến cửa sông Trường Can. Trâu không đi được, sức người cũng không khiêng nỗi. Thế là bèn để xe trâu kéo về chùa Trường Can. Lúc đó khoảng một năm có ông Trương Hệ Thế ra biển đánh cá. Khi ra đến cửa biển vớt được hoa sen đồng nổi trên mặt nước. Ông đem về dâng cho tri huyện. Quan huyện bảo đem lên đài đặt dưới chân tượng, tự nhiên hai vật ăn khớp nhau. Sau đó có năm vị Tăng người Tây vực đến chỗ ông nói: Ngày xưa ở Thiên Trúc, có tượng do vua A- dục làm, khi đến đất Nghiệp gặp lúc loạn lạc nên chôn dấu ở vùng ven sông. Nay đã bình trị nên đến đây tìm vật đã mất. Gần đây nằm mộng thấy có người nói: Tượng kia nay ở Giang Đông do Cao Đát lấy rồi. Cho nên chúng tôi vượt biển leo núi từ xa đô đến đây để được lễ bái một lần thôi. Ông ta liền dẫn tới chùa Trường Cam, năm vị tăng thấy tượng ngậm ngùi rơi lệ, bức tượng liền phóng hào quang chiếu khắp phòng. Năm vị tăng nói: xưa có viên quang nay đang ở nơi xa cũng phải tìm đến đó. Vào năm đầu Hàm An nhà Tấn tại huyện Hợp Phố, Giao Châu, người tìm châu tên là Đổng Tông Chi lặn xuống đáy biển tìm được một tượng Phật. Thứ sử dâng lên vua Giản Văn Đế nhà Tấn, vua ra lệnh cúng dường tượng này. Tại huyện Khổng Huyệt cũng có một loại ánh sáng giống như vậy, hơn bốn mươi năm từ Đông sang Tây đều cảm ứng điềm lành, quang phu vừa đủ, khi Ngài đến chùa thì tượng Phật linh dị gấp bội lần. Sau đó Ngài sang Đông đến Ngô huyện lễ bái tượng Phật đá. Tượng này vào khoảng cuối đời Tây Tấn, năm đầu Kiến nguyên tức năm Quý dậu. Tượng trỗi lên trên dòng sông Ngô Tùng ra cửa Thượng Hải. Ngư dân nghi là thần biển bèn chú nguyện để thỉnh về. Thế là sóng gió nỗi dậy, họ sợ hãi quay về. Lúc bấy giờ có người sùng bái đạo Lão cho rằng đó là thần của Thiên sư. Lại cùng nhau sang đó, sóng gió vẫn nổi dậy như trước. Sau này có vị cư só tin Phật tên là Chu Ứng ở huyện Ngô nghe vậy khen rằng: “Có phải sự cảm ứng thùy từ của đấng Đại giác chăng”. Thế là ông bèn tịnh trai cùng với mấy người tín só, ni cô chùa Linh Vân đến cửa sông Thượng Hải đảnh lễ chí thành, đồng thời ca tụng công đức vô biên”. Tức thời sóng gió bình lặng, từ xa nhìn thấy hai người lướt trên mặt sông mà đến đó chính là thạch tượng. Phía sau có bài minh, một gọi là Duy Vệ, một gọi là Ca-diếp. Ông liền thỉnh về an trí tại chùa Thông Huyền. Só thứ vùng Ngô Trung khen ngợi là việc linh dị. Người quy tâm thật đông, Ngài ở lại chùa này suốt ba năm, đêm ngày thành kính lễ lạy chưa từng phế bỏ, chẳng bao lâu Ngài đến Cối Kê lễ bái tháp, tháp này cũng do vua A-dục xây dựng, nhiều năm hoang tàn, chỉ còn lại nền móng cũ. Ngài định tâm quán tưởng thì bèn thấy ánh hào quang chiếu rực rỡ. Nhân đó ngài sửa sang khám thờ, bầy chim không dám đến tụ tập làm tổ. Tất cả những kẻ săn bắn, bẫy rập gần chùa chẳng ai dám đến bắt. Đạo tục cảm ngộ đều quay về nương tựa. Sau này quận thú Mạnh Hạo lại mở rộng thêm ra. Ngài vân du Đông Tây chiêm bái lễ lạy có nhiều điều linh nghiệm. Ngài chuyên cần dốc chí trọn đời không đổi, sau này không biết Ngài ở đâu. ------------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ NGUYỆN Ngài là người Hà Bắc, là người có tính lành, chưa hề tỏ ra nét mừng giận. Thường tu Thiền tụng kinh, khuyến khích mọi người làm việc phước thiện để làm sự nghiệp cuộc đời. Vào đầu năm Thái nguyên đời Tấn Ngài lập chùa ở Bình Sơn, huyện Vũ Lăng. Có hơn hai mươi vị Tăng, sống đời đạm bạc dứt bặt thế sự. Vào năm thứ mười bốn nhà Tấn niên hiệu Thái nguyên, Ngài thị tích. Sau khi ngài thị tịch, có người vào núi Vũ Đương nhìn thấy Ngài, thần sắc rất tươi tắn, nhắn lời các vị tăng trong chùa đừng để chùa tàn phế. Từ đó trong chùa đúng giờ nghe tiếng khánh vang lên giữa hư không, y theo đó nhóm chúng chưa từng sai sót. Sa-môn Trúc Tuệ Trực ở đó, vị Tăng này siêng năng khổ luyện có giới đức. Sau đó tuyệt hẳn ngũ cốc chỉ ăn tùng bách, rồi sau lên núi thiền duyệt luôn. ------------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ LỰC Không rõ Ngài là người phương nào. Vào giữa niên hiệu Vónh Hòa nhà Tấn, Ngài đến kinh sư, thường khất thực ăn uống đạm bạc, tu khổ hạnh đầu-đà, làm việc phước. Đến giữa niên hiệu Hưng ninh nhà Tấn, Ngài xin chỗ lò đúc để làm chùa Ngõa Quan. Ban đầu đặt nền tháp là phía Tây của tháp ngày nay. Mỗi đêm cây tiêu dời về phía Đông hơn mười bước, sáng ra đem lại chỗ cũ rồi nó cũng dời sang lại. Ngài âm thầm dò xét… thì thấy một người mặc áo đỏ đội mũ quan võ nhổ cây tiêu cắm về hướng Đông. Thế là Ngài theo chỗ đó xây tháp. Chính là chỗ tháp ngày nay vậy. Người ghi nói: Sau khi lập chùa ba mươi năm bị thiên hỏa đốt cháy. Đúng vào đêm tháng bảy năm thứ hai mươi mốt Thái nguyên, Hiếu Vũ nhà Tấn, tự nhiên lửa bốc cháy. Các vị tăng trong chùa, mấy mươi vị không hề hay biết. Sáng ra thấy tháp thành đống tro. Vua nói đây là điềm chẳng lành của nước này vậy. Liền ra lệnh cho Dương Pháp Thượng, Lý Tự v.v… mau mau khôi phục lại. Đến tháng 9 vua băng hà. Có Đái An Đạo chế tạo năm tượng và Đái Ngung đúc một tượng bằng vàng khoảng trượng sáu, nhiều năm đúc luyện mới hoàn thành. Nhưng đầu và mặt gầy nhỏ. Các thợ đúc không còn cách nào khác, bèn mời Ngung đến xem. Ngung nói: chẳng phải nét mặt gầy ốm đâu, chỉ là hai bên vai mập quá thôi, chỉ cần giảm bớt hai bên vai thì tướng mặt tự tròn. Các thợ đúc ai nấy đều khen nức nở. Lại có bức tượng ngọc bốn thước hai ở nước Sư Tử cũng được đặt ở đấy. Ngày xưa vua nước Sư Tử nghe Tấn Hiếu Vũ siêng năng phụng sự Phật pháp, nên sai Sa-môn Đàm-ma đem tượng Phật đến dâng. Đường đi hơn mười năm, đến giữa năm Nghóa hy mới đến kinh đô nhà Tấn. Tư Đồ Vương Mật có lần lên đài thấy phía Đông ngạch cửa có ngôi chùa. Người ném đồ đến chỗ đó thì bèn thấy ánh sáng phóng ra, sai người đào lên thì thấy một tượng vàng, có quang phu dài bảy thước hai. Vương Mật trình sớ tâu Tống Cao Tổ, thỉnh lên đài cúng dường. Vào cuối đời Tống Cảnh Bình thì tượng được thỉnh về thờ chùa Ngõa Quan. Nay dời về chùa Long Quang. --------------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ THỌ Ngài là người vùng An Lạc, vào giữa niên hiệu Hưng Ninh nhà Tấn. Ngài đến kinh sư chay lạt khổ hạnh và luôn làm phước thiện. Có lần đi qua vườn của Vương Thản, đêm đó về mộng thấy làm chùa trong khu vườn kia. Mấy lần như vậy, Ngài muốn đến xin Vương Thản một chỗ để lập một ngôi thất, nhưng chưa dám nói ra. Thế rồi Ngài đến Khách Tư Kỳ là người giữ vườn nói điều này. Kỳ nói: vườn của Vương gia sợ chẳng phải nơi Ngài dự tính vậy. Ngài nói: Nếu quả thật có sự cảm thông sâu sắc thì lo gì không được. Thế rồi đi đến chỗ Vương Thản trình bày ước muốn. Vương rất vui và hứa cho Ngài thực hiện nguyện vọng. Ban đầu lập một căn phòng nhỏ, mỗi đêm lại mộng thấy một con rồng xanh từ phương Nam bay đến hóa thành trụ chùa, ngài bảo sa-di thử đến sông Tân Đình tìm, bèn thấy một khúc gỗ dài chảy xuôi theo dòng. Ngài nói: Quả đúng như điều ta thấy. Thế rồi Ngài thuê người khiêng lên dựng làm ngôi chùa, cất làm một tầng. Đạo tục tranh nhau đến chiêm bái, ai nấy đều khen là điều thần dị. Thản Chi liền xả vườn làm chùa, lấy quê hương của Ngài đặt tên chùa là An Lạc, phía Đông có nhà của Đan Dương Y Vương Nhã, phía Tây có nhà của Đông Yến Thái Thú Lưu Đấu, phía nam có nhà của Thái Thú Phạm Ninh người Dự Chương, đều cúng làm chùa. Sau này có Sa-môn Đạo Tinh, Đạo Kính tu sửa thêm lại cho đến nay vẫn còn nguy nga tráng lệ. -------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG TUỆ Không rõ Ngài là người phương nào. Thuở nhỏ rất thích làm phước. Vào giữa niên hiệu Nghóa hi nhà Tấn, cùng với người Trường An là Hành Trường Sinh lập chùa ở kinh sư. Trong thôn phá ổ, ban đầu nơi dời đến cất mấy gian thảo am, rồi nhóm tăng thiết trai. Đến giữa đêm hai ngọn đèn trong phòng tự nhiên tiến về phía trước mấy mươi bước, dầu vẫn như cũ không hề lật đổ. Đại chúng kinh ngạc đi thăm hỏi các trưởng lão. Các vị ấy đều nói: chỗ đèn dời ngày xưa có đạo nhơn ngoại quốc xây nền tháp. Thế rồi Ngài cùng chúng tăng khôi phục lại, lấy việc đèn dời làm tượng trưng cho điềm lành, nhân đó đặt là Sùng Minh tự. ------------------------------------ <詞>THÍCH TĂNG DỰC Ngài là người Dư Hàng Ngô Hưng, tuổi còn nhỏ mà đã có tín tâm, và ý nguyện lánh xa thế tục. Ban đầu xuất gia ở chùa Lô Sơn theo ngài Tuệ Viễn tu học, ăn chay khổ hạnh, vượt hơn môn nhơn. Đến lúc lớn tuổi đến Quan Trung theo ngài La-thập, kinh luật số luận đều tham cứu tinh tường. Tụng một bộ Pháp Hoa. Vào năm thứ mười ba Nghóa hi nhà Tấn, Ngài cùng với bạn cùng chí hướng là Sa-môn Đàm Học đến Cối Kê tham quan sông núi. Đến chỗ cao trông xem hướng Tây bắc thấy năm ngọn đồi cao có tướng trạng giống kỳ-xà, Ngài bèn kết cỏ làm thảo am, đặt là tịnh xá Pháp Hoa. Thái Thú Mạnh Hạo và Trần Tải là người Phú Xuân đều sùng kính, tận lòng đồng thời ủng hộ cho thành công. Ngài ăn uống đạm bạc hơn ba mươi năm. Vào năm thứ hai mươi bảy Nguyên Gia nhà Tống, Ngài thâu thần thị tịch. Thọ bảy mươi tuổi, lập bia trên chùa ở núi để tưởng niệm công đức của Ngài. Khổng Hoán người Cối Kê viết văn. Bạn đồng hành của ngài là Sa-môn Đàm Học, sau dời sang hướng Bắc của Tần vọng, đặt tên là tịnh xá Lạc Lâm. Lúc ấy có Thiều Tương, Quyền Thiến đều là người Đông Nhạc ngưỡng vọng Ngài nên cùng nhau đến nương ở. Bấy giờ có Sa-môn Đạo Kính thuộc giòng họ Vị quê ở Lang-da là cháu của Tả tướng Quân Vương Hi nhà Tấn bỏ tục xuất gia, ưa thích núi rừng, đến ở núi Nhã Da, lập tịnh xá Huyền Truy, sau này Ngài vì phụng dưỡng chúng Tăng, xả bỏ giới cụ túc chuyên tinh thập giới. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG HỒNG Người Dự Châu ở chùa Ngõa Quan, kinh sư. Thuở nhỏ tu tập thanh bần có giới đức. Sau đó khuyến khích người có duyên đúc tượng Phật trượng sáu. Lúc đúc vừa xong, chưa được an vị, lại gặp cuối thời Tấn cấm sử dụng đồng rất nghiêm, ai phạm sẽ giết. Lúc Tống Vũ Đế làm tướng quốc, Ngài bị bắt vì tội kia, họ đem vào phủ tướng, chỉ tụng kinh Quán Thế Âm, nhất tâm hướng về tượng Phật. Đêm mộng thấy tượng Phật kia đến, tay xoa đầu Ngài và hỏi có sợ không. Ngài nói: Tự nghó nhất định sẽ chết. Bức tượng nói: Đừng lo. Rồi Ngài thấy trước ngực bức tượng vuông vức chừng một thước sắc vàng đồng lấp lánh. Lúc sắp đem hành hình, tham quân, giám ngục trong phủ cho xe trâu kéo, nhưng trâu nhảy, xe hư. Nhân đó trải qua mấy hôm, lại có lệnh từ Bành Thành đến nói: Đừng giết Tăng Hồng vì được miễn tội. Ngài trở về khai quang bức tượng, quả thấy trước ngực có ánh sáng lấp lánh. Sau này Ngài tu khổ hạnh rồi thị tịch. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG LƯỢNG Không rõ Ngài là người phương nào, thuở nhỏ nổi tiếng là người có giới hạnh, muốn đúc tượng Phật một trượng sáu dùng rất nhiều đồng, chẳng phải xin ít có thể đúc đủ. Vì thế, Ngài nghe ở miếu của Ngũ Tử Tư tại sông Giới Đồng vùng Tương châu có rất nhiều đồ đồng. Nhưng miếu ấy rất oai linh chẳng ai dám đến gần. Ngài hay tin đó bèn ra đi. Lúc đi nhờ thứ sử Trương Thiệu cho mượn một trăm người khoẻ mạnh và mười chiếc thuyền lớn. Thiệu nói miếu ấy rất linh, hễ người nào phạm vào nhất định sẽ chết. Lại còn có người Man bảo vệ, đâu thể nào được. Ngài nói: Nếu đúng như có phước đức thì sẽ cho đàn việt hưởng, còn nếu mắc lỗi thì ta sẽ chịu trách nhiệm. Trương Thiệu cấp người và thuyền đi ba ngày ba đêm đến chỗ miếu thờ. Ngài cùng với các lực só đến một lượt. Khi sắp tới miếu khoảng hai mươi bước có hai chảo đồng chứa chừng hơn trăm đấu. Trong đó có một con mãng xà dài hơn mười trượng bò ra trên mặt đường. Ngài bèn chỉnh tề oai nghi cầm tích trượng, chú nguyện mấy mươi câu, mãng xà đột nhiên biến mất. Lát sau thấy một người cầm ống trúc đi ra nói rằng: nghe nói Pháp sư là bậc có đạo nghiệp phi phàm tạo phước làm đầu, nay gặp Ngài rất lấy làm vui mừng. Thế rồi Ngài sai người lấy đồng trong miếu nhiều đến nỗi chưa lấy hết một phần mười mà thuyền đã đầy. Chỉ trên đầu thần sàng có một ống nhổ trong đó có một con thằn lằn dài chừng hai thước, lát chạy ra lát chạy vào. Người ta bàn rằng: thần thích nhất vật này nên Ngài không lấy. Thế rồi đoàn người ra về gặp phong thủy rất tiện. Đám người Man báo nhau đuổi theo nhưng không còn kịp nữa. Ngài đem về kinh đô đúc tượng xong chỉ có độ bóng chưa đủ. Tống Văn Đế cho dát lớp vàng mỏng thì độ sáng vẹn đủ, rồi cho an trí tượng tại chùa Bành Thành. Đến giữa niên hiệu Thái thỉ nhà Tống, vua Minh Đế dời tượng về chùa Tương Cung, nay vẫn còn ở đó. -------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP Ý Ngài là người vùng Giang Tả ưa làm việc phước thiện, xây năm mươi ba ngôi chùa. Vào giữa niên hiệu Tấn Nghóa hi, Tế Tửu Chu Ứng Tử ở Chung Sơn kia là Tôn Ân Kiến Nghóa chiếm lónh núi này chia cho ít đất ở vùng ngoài. Ông cúng cho Ngài làm chùa đặt tên Diên Hiền. Sau đó Bôi Độ tới lui chùa này nói rằng: Vùng này có nhiều biến đổi. Thời sau sẽ là vùng đất tốt dễ làm phước hơn thiên đường. Chẳng bao lâu bị lửa thiêu đốt. Sau đó Tề Hài và Trương Dần v.v… nhớ ý chỉ của Bôi Độ nói ở Độ Truyện bèn cùng với Ngài đến đất núi để lập lại chùa, nhưng không có nước nên không ở được. Ngài y theo lời Bôi Độ thành khẩn sám hối xin nước ở ao Tây phương, trải qua ba ngày tâm thành càng tha thiết, chợt nghe giữa hư không có tiếng phớt qua mặt đất. Ngài e rằng đó là kim bạch. Ngài cho người thử đào lên hai thước, bỗng có hai dòng nước trong tuôn ra thành dòng khe chảy xiết. Thế nên Ngài xây chùa ở đó. Sau này không biết Ngài tịch ở đâu. ------------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ KÍNH Ngài là người Nam Hải, thuở nhỏ du học ở Kinh Sở cũng thông thạo kinh luận, nhưng lấy việc tạo phước làm đầu. Cho nên sự học không được viên mãn. Tất cả những nơi Ngài xây chùa đều dựng tháp tượng để hoàn bị các phước nghiệp. Sau đó trở về quê trùng tu các chùa Vân Sầm, Vónh An. Ngài là bậc có giới đức tinh nghiêm, mà chí khí cũng rất nghiêm minh. Cho nên Tăng ni ngoài vùng đều cung kính bẩm thọ. Sau này được phong làm Tăng chủ, có công lớn trong việc giảng huấn. Ngài có một người nô bộc và một sa-di, bỗng nhiên bị quỷ đánh, sau đó thấy hình sơn tinh đến chỗ Ngài sám hối lỗi xưa và nói: Quyến thuộc của con không biết nên đến quấy nhiễu Pháp sư. Quyến thuộc của nó chốc lát kéo đến đầy đủ để tạ lỗi. Tất cả những phước đức mà Ngài tạo đều hồi hướng về Tây phương. Ngài lâm chung, trong phòng tỏa hương thơm kỳ diệu, trải qua thời gian lâu mới hết. -------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP HIẾN Ngài là người Quảng Châu, ban đầu ở Bắc tự, chùa nhiều năm xuống cấp, Ngài hướng dẫn đồ chúng cố chuyên tu, sửa lại chùa, đổi tên là Diên Tường. Sau đó vào lập chùa ở núi Tàng Vi. Sau khi chùa hoàn thành thấy có hai đồng tử dắt nhau đến ca rằng: Tàng Vi có đạo đức, vui mừng khôn xiết kể, hát xong chợt biến mất. Cả chùa kinh ngạc đều khen là điềm thần dị. Sau này Ngài nhập thiền chợt thấy một người đến nói: Dây chuông sắp đứt, đâu thể sửa lại được. Ngài giật mình xả thiền qua xem, thấy nó sắp đứt rơi xuống đất. Do đó ngài lấy tay đỡ không bị hư hoại. Từ khi Ngài xuất gia luôn khuyến khích mọi người làm phước và chuyên tâm nơi thiền giới chưa hề hủy phạm giới tiết. Sau này không biết tịch ở đâu. ---------------------------------- <詞>THÍCH HUYỀN SƯỚNG Ngài họ Từ người Diên Thủy Tây Hải. Đầu tiên theo cậu đến Lương châu rồi xuất gia. Đến năm thứ mười sáu Nguyên gia ngài mới xuống kinh sư ở chùa Định Lâm Thượng, thông thạo kinh luật, chí khí dũng mãnh, hay cứu giúp mọi người, tu sửa chùa chiền. Trước nghe Mãnh Công vân du sang Tây có nhiều điềm linh dị, bèn thệ nguyện xả thân đến chiêm bái Thánh tích. Vào năm thứ ba Nguyên huy nhà Tống phát xuất từ Kim Lăng đi về Tây đến Ba Thục. Trên đường đến Hà Nam, trải qua nước Nhuế Nhuế, khi đến Vu Điền muốn qua Thông Lãnh gặp đường hiểm trở cách ngăn. Ngài bèn ở lại Vu Điền rồi trở về. Được một chiếc răng Phật, mười lăm viên xá-lợi và bài chú diệt tội của ngài Quán Âm và phẩm điều đạt, lại được tượng dát vàng của vua Quy Tư tặng, rồi Ngài lên đường trở về. Con đường gian nan nguy hiểm được nhìn thấy trong sử ký của Ngài. Chiếc răng Phật vốn ở nước Ô Triền, từ Ô Triền đến nước Nhuế Nhuế, từ Nhuế Nhuế đến đất Lương, Ngài thỉnh răng Phật về kinh. Trong mười lăm năm, Ngài âm thầm lễ bái bài cúng dường không ai biết, đến khi Văn Tuyên cảm mộng mới truyền bảo đạo tục biết. Giới hạnh của Ngài tinh nghiêm, oai đức làm mô phạm cho người. Vương Túc, Vương Dung người Lang-da và Trương Dung, Trương Quyển, Sa-môn Tuệ Lịnh, Trí Tạng v.v… người nước Ngô đều cung kính vâng theo lời dạy bảo của Ngài. Vào giữa niên hiệu Vónh Minh, Ngài được sắc phong làm Tăng chủ ở Trường Can với Huyền Sướng, cùng coi sóc hai bờ Nam Bắc, ngài Huyền Sướng vốn là người Tần châu, cũng có giới luật tinh nghiêm được Thái tử Văn Huệ thờ làm giới sư. Sau đó Ngài được phong làm sứ tuyển chọn hai chúng ở Tam Ngô. Ngài Huyền Sướng cũng về Đông trùng tuyên lại phương pháp thọ giới. Lúc bấy giờ, hai vị Sướng và Hiến đều học luật. Xét lại, lúc ấy không ai bì kịp. Có khi nói chuyện với Vũ Đế chỉ xưng tên chứ không ngồi. Sau đó Tăng chung người Trung Hưng yết kiến vua tại điện Càn Hoành. Vua hỏi chung như thế nào, Chung đáp: bần đạo thua kém hơn. Vua chê ông, nên hỏi thượng thư Vương Kiệm: Các Sa-môn đời trước cùng nói chuyện với vua, xưng tên ở giữa điện, và có người ngồi dự không? Kiệm đáp: Phật pháp thời Hán Ngụy chưa hưng thịnh không thấy ghi vào sử truyện. Bắt đầu từ nhà Ngụy mới dần phát triển, đều xưng bần đạo và cũng ngồi dự, đến đầu nhà Tấn cũng như vậy. Thời trung đại có Sưu Băng, Hoàn Huyền v.v… đều muốn khiến các vị Sa- môn kính vua hết lòng. Việc triều chính bề bộn đều nghỉ ngơi. Vào giữa triều Tống cũng khiến các vị hết lòng thủ lễ, mà rốt cuộc không thực hành. Từ đó đến nay đều dự ngồi và xưng bần đạo. Vua nói: Hai vị tăng Huyền Sướng và Pháp Hiến có đạo hạnh như thế còn tự xưng tên huống chi người khác. Nên ông lễ kính và cung phụng rất nồng hậu, xưng tên cũng không hiềm. Từ đó các vị Sa-môn đều xưng tên đối với vua, nghóa là bắt đầu từ hai vị tăng này. Vào đầu niên hiệu Kiến Vũ, ngài Huyền Sướng thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Vào cuối niên hiệu Kiến Vũ thì ngài Pháp Hiến thị tịch. Ngài cũng được an táng hướng mặt trời mọc nơi Chung Sơn với ngài Huyền Sướng. Đệ tử của ngài Pháp Hiến là Tăng Hựu lập bia bên cạnh mộ. Thẩm Ước người Doãn Hưng, Đan Dương viết văn. Khi Ngài được tặng răng Phật và tượng ở Tây vức. Đều đặt ở chùa Định Lâm Thượng. Vào tháng giêng năm thứ ba Phổ thông chợt có mấy người cầm gậy vào đầu đêm đến gõ cửa báo rằng: Ở điện Lâm Xuyên bọn nô tỳ làm phản. Có người nói rằng: trên gác thờ răng Phật, xin mở các xem răng. Người làm công trong chùa y theo lời mở các. Vương soái đến trước tòa răng Phật mở hàm lấy răng, rồi lễ ba lạy, lấy khăn tay trắng bọc chiếc răng lại, đi vòng qua hướng Đông của núi mà đi, đến nay không biết ở đâu. ----------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG HỘ Ngài là người Diệm Cối Kê. Thuở nhỏ xuất gia, lại khắc ý khổ hạnh, giới đức nghiêm tịnh. Sau đó ở núi Thạch Thành trong chùa Ẩn Nhạc. Phía Bắc của ngôi chùa có bức tường xanh, thẳng tắp mấy mươi trượng. Ngay ở giữa hình như có hình của Phật Diệm Quang, trên có nhiều cây, nhánh tỏa xuống thành bóng râm mát. Ngài thường đi kinh hành đến chỗ bức tường, bèn thấy ánh sáng chiếu rực rỡ và nghe tiếng đờn sáo ca tụng: Thế là Ngài nâng lò hương tự phát nguyện tạc một tượng Phật đá mười trượng ở Bác Sơn và phác họa bức chân dung đức Di-lặc ngàn thước, khiến cho những kẻ có duyên đều thấy được ba hội. Vào giữa niên hiệu Kiến vũ Bắc Tề, Ngài kêu gọi đạo tục bắt đầu đục khoét đá… nhiều năm mà mới tạc được vẻ thô sơ. Chẳng bao lâu Ngài mất bịnh rời mất. Khi lâm chung ngài thệ rằng: công việc điêu khắc của ta không thành tựu trong một đời, hẹn thân sau ta sẽ hoàn thành nguyện vọng này. Sau này có Sa-môn Tăng Thục tiếp nối công việc dở dang ấy, vì lực không đủ nên không thành tựu. Đến năm Thiên Giám thứ sáu nhà Lương, có Thỉ Phong sai Lục Hàm Bào Ấp ở Ngô quận trở về nước. Đêm đó tá túc ở dòng sông Diệm gặp mưa gió mịt mù, Hàm hoảng sợ giả ngủ; bèn mộng thấy ba vị đạo nhơn đến bảo rằng: ông có niềm tin vững chắc thì tự nhiên được an ổn. Điện hạ Kiến An bị bệnh cảm chưa khỏi. Nếu có thể điêu khắc bức tượng của ngài Tăng Hộ huyện Diệm thành tựu thì nhất định sẽ hết bịnh. Lẽ mầu chẳng luống nên bắt đầu khởi công làm. Hàm trở về kinh đô trải qua cả năm dường như sắp quên mộng xưa. Sau đó ra cửa liền thấy một vị Tăng: Kể lại chuyện tá túc thuở trước. Nhân đó nói rằng: Trên dòng sông Diệm năm ngoái có còn nhớ lời dặn dò việc Kiến An Vương không? Lúc này ông sửng hồn, đáp là không nhớ. Đạo nhơn cười nói hãy cố nhớ lại đi. Thế rồi từ giả ra đi. Hàm chợt hiểu đó là việc phi phàm, vội vả đuổi theo thăm hỏi: đi chừng trăm thước, bỗng nhiên không thấy. Hoát nhiên ông tỉnh ngộ và nhớ rõ mộng xưa. Chính là vị Tăng thứ ba mà ông đã thấy ở sông Diệm vậy. Ông vội giong ngựa đến trình Kiến An Vương. Vương liền tâu lên vua. Vua ban chiếu bảo Tăng Hựu chuyên lo việc tạo tượng kia. Từ đó Vương càng tin sâu hơn và mừng vui khôn xiết. Xuất kho lấy vàng bạc để hoàn thành công việc. Lúc Tăng Hựu chưa đến khoảng một ngày, vị tăng trong chùa là Tuệ Sính mộng thấy một đại thần mặc áo đen, tùy tùng rất tráng kiện đứng trước khám lược phân số. Đến sáng ngày mai, ngài Tăng Hựu đến, Thần ấy vẫn như thế. Ban đầu ngài Tăng Hộ xây khám kia quá cạn, bèn khoét vào năm trượng để lấp lên đỉnh đầu và thân tướng, thì công việc dùi mài sắp xong. Đêm đó ngay chỗ chữ vạn bỗng phát ra màu đỏ. Nay chỗ chữ vạn ngay ngực vẫn không dát thêm lớp vàng mỏng mà màu sắc đỏ vẫn còn. Vào mùa xuân năm thứ mười hai, Thiên giám bức tượng mới hoàn thành. Đến mùa xuân năm thứ mười lăm thì viên mãn. Thân ngồi cao năm trượng, hình đứng mười trượng. Trước bàn thờ xây đài ba tầng. Lại xây thêm cổng, các, điện đường và lập cơ nghiệp cho chúng để cúng dường một cách hoàn hảo. Dân chúng khắp nơi kéo nhau về cúng dường hương hoa, từ vạn dặm quay về cúng thì tới lui chật cả trấn ấp. Sau khi bức tượng hoàn thành, bệnh của Kiến An Vương đáng lẽ sắp chết mà được bình phục. Vương sau đó được đổi phong chức, nay chính là Nam Bình Vương vậy. <詞>THÍCH PHÁP DUYỆT Ngài là một vị Sa-môn giới hạnh tinh nghiêm. Vào cuối đời Tề, ngài được phong làm Tăng chủ ở chùa Chánh Giác ở kinh sư, siêng tu phước nghiệp, bốn chúng đều quy tập. Ngài từng nghe ở chùa Tống Vương, Bành Thành. Tại chùa này có tượng Phật cao trượng tám, do thứ sử Vương Trọng Đức là xa kî ở Từ châu của Tống Vương đúc. Tướng hảo kỳ vó, nổi tiếng vùng Giang Tả. Nội cảnh ở châu này lúc phát họa lớn. Tăng sư bị hoành hành, bức tượng toát mồ hôi, bao nhiêu giọt mồ hôi làm phai đi họa hoạn. Vào đầu năm Thái thỉ nhà Tống, bọn người Lỗ ở Bắc Bành Thành muốn đến cướp tượng. Họ kéo đến cả vạn người nhưng không khiêng nổi. Vào đầu nhà Tề mấy quận ở Duệ Châu muốn khởi nghóa Nam phủ, cũng muốn đuổi xua chúng Tăng để lấy đất đai. Khi ấy tướng soái của Lỗ là Lang Lăng Công, công kích vào vùng đất này bắt các vị Sa-môn. Bắt sạch các đạo nhơn ở hai châu, giam kín vào ngục rồi giả vờ cho rằng các vị làm loạn. Khi đó bức tượng toát mồ hôi ướt cả chánh điện. Khi đó Ngụy Lương, Vương Lượng trấn giữ Bành Thành ít nhiều cũng có niềm tin Tam bảo, nên đích thân ông đến chỗ thờ bức tượng kia bảo người lau sạch mồ hôi, nhưng không tài nào hết được. Ông bèn đốt nhang lễ lạy một cách chí thành và phát thệ rằng: Tăng chúng vô tộ, đệ tử sẽ tự lo việc ủng hộ không để dấy họa nữa. Nếu lời thành thật này có sức cảm ứng thì xin lau sạch, mồ hôi này liền hết. Nói rồi tự tay ông lau, lau tới đâu khô tới đó. Vương kể rõ sự việc này rõ ràng, chư Tăng đều oan. Ngài Pháp Duyệt vui mừng nhìn thấy điềm linh dị này và thệ nguyện chiêm lễ. Nhưng vì quan ải ngăn cấm chẳng thể toại nguyện. Lại vào thuở xưa vua Minh Hoàng nhà Tống cũng đã cho đúc một tượng Phật trượng tám. Đúc bốn lần không xong, thế là đổi lại đúc một trượng tư. Ngài cùng với Sa-môn Trí Tịnh chùa Bạch Mã hướng dẫn kẻ có duyên cùng đúc một tượng Di-đà một trượng tám để tỏ bày chí nguyện của mình. Thế là bắt đầu góp tập vàng đồng. Nhưng lúc ấy gặp cuối đời Tề, đời đạo hỗn tạp, lại rất ảnh hưởng. Cho nên đầu đời Lương mới dâng biểu tâu vua, vua hạ lệnh cho phép thực hiện, đồng thời giúp cho quang phù. Các thợ công và nghệ nhân cũng giúp cho việc cần dùng. Đến ngày mùng 3 tháng 5, năm Thiên giám thứ tám đời Lương, bắt đầu đúc tại chùa Tiểu Trang Nghiêm. Thợ đúc tượng thân Phật hết bốn vạn cân đồng, nung luyện xong mà vẫn chưa tới ngực, dân chúng đem đồng đến cúng nhiều vô số đổ vào các lò để nung mà trong khuôn vẫn chưa đầy, vẫn giống như trước, nên tiếp tục trình sớ tâu vua. Vua hạ chiếu ban cho ba ngàn vạn đồng làm công đức. Trong đài mới bắt đầu cân đồng để đưa đi thì ở chỗ đúc tượng đã thấy, xe dê chuyên chở đồng đến bên lò nung. Thế là trong thoáng chốc đồng trong bể tan chảy đầy khuôn. Trong giây lát thì người ngựa biến mất. So ra số đồng xuất từ trong đài mới biết xưa lựa chỗ cho quả thật linh cảm. Thợ thầy vui mừng, đạo tục hết lòng khen ngợi. Cho đến khi mở khuôn để cân lại thì vọt lên trượng chín, mà tướng sáng vẫn như thế. Lại có hai thẻ tiền lớn còn in trong điều y không thể nung chảy, hoàn toàn không thể nghiệm được lẽ ấy. Thế là Ngài so lại số đồng bốn vạn thuở xưa, theo lượng dùng thì sẽ thừa, sau đó thêm ba ngàn cân nữa, tính vào chỗ thiếu vẫn chưa đủ, mà điềm lành ngầm thoát khỏi dự tính của tự tâm. Cho nên biết lẻ thần mầu nhiệm không thấu đến việc phi phàm. Khi tượng mới làm xong, Tỳ-kheo Đạo Chiêu hằng đêm lễ sám, chợt thấy bức tượng bỗng nhiên tỏa sáng. Ngài xem kỹ hồi lâu mới biết điềm linh dị của thần quang. Sau khi đúc xong ba ngày vẫn chưa khai quang, có Thiền sư Đạo Độ là vị Tăng có hạnh Nghiêm tịnh xả y bảy điều của mình để trợ phí. Lúc khai đỉnh chợt thấy từ xa có hai vị tăng quỳ mở búi tóc của tượng, mọi người vội vàng đến xem thì bỗng nhiên biến mất. Khi đó hai vị Duyệt và Tịnh lần lượt qua đời. Vua ban chiếu bảo đem việc đúc tượng kia giao lại cho ngài Tăng Hựu chùa Định Lâm. Vào ngày 26 tháng 9 năm đó, dời tượng về chùa Quang Trạch. Tháng đó trời không mưa mà lại có gió cát. Đến ngày mai sẽ chuyển tượng đi thì đêm có một lớp mây trôi nhẹ trên bầu trời đồng thời mưa một trận thấm nhuần cây cối. Ngài Tăng Hựu kinh hành bên bức tượng, cứ nghó mãi về việc khí hậu thời tiết. Từ xa trông thấy bên bức tượng phát ra ánh sáng rực rỡ, trên dưới như ngọn đèn ngọn đuốc, đồng thời nghe tiếng kiền chùy để làm lễ sám. Ngài vào phòng xem kỹ thì bỗng nhiên mất hết. Người giữ chùa là Tưởng Hiếu Tôn cũng thấy việc đó. Đêm ấy khách buôn ở Hoài Trung cũng nghe dưới chiếc thuyền thôi thúc sửa cầu. Có tiếng dường như của mấy trăm người, mới biết là sức nặng của linh khí. Sau đó lại đúc thêm quang phu và có điềm lành của hoa thơm, từ Thông Hà trở về phía Tả, bức tượng này là vật duy nhất. Luận rằng: Thuở xư vua Ưu Điền mới khắc chiên-đàn, vua Ba-tư mới luyện chất vàng, đều hiện rõ chân dung, khắc họa tướng vi diệu. Cho nên có thể lưu truyền ánh sáng, điềm lành khai phát, từ khước ngôi vị để cúng thí, còn như hai tháp thờ móng tóc và hai đài thờ y và ảnh là những vật khi Như lai còn tại thế đã thấy được khuôn phép rồi. Từ khi thâu thân trong rừng Xà-duy bên bờ sông, vua tám nước đến thỉnh xá-lợi về xây tháp và hai nơi thờ bình tro. Thế là mười ngôi tháp được dựng lên nơi Ngài sanh, đắc đạo, thuyết pháp và Niết-bàn, nhục kế, xương đỉnh đầu, bốn chiếc răng, đôi hài, tích trượng, ống nhổ, Niết-bàn Tăng, đều xây tháp khắc bia để biểu trưng cho sự thần bí. Hơn một trăm năm sau, vua A-dục sai sứ vượt biển, đập phá các tháp gom lấy xá-lợi. Trên đường về gặp sóng gió nên bị thất lạc một số, cho nên khiến cho hải tộc lượm được, là nguyên nhân xây tám muôn bốn ngàn tháp sau này con gái của A-dục cũng lần lượt phát tín tâm, có người cho đục đá nung kim loại để khắc đục tượng Phật. Có người còn có thể băng sông vượt biển để truyền bá sang Đông xuyên. Mặc dù tướng linh kia ai cũng biết nhưng chưa sáng tỏ sự thấy nghe của họ, cho đến khi Thái Âm, Tần Cảnh từ Tây vức trở về mới truyền nhau vẽ tượng Thích-ca. Thế rồi Lương Đài, Thọ Lăng đều họa tướng của Ngài. Từ đây trở đi hình tượng, tháp miếu cùng tranh đua với thời gian. Từ thời nhà Lương bắt đầu hưng thịnh. Luận về pháp thân không có tượng mà chỉ do cảm ứng thấy thì sẽ có sự sai khác. Cho nên hình ảnh sẽ hóa ra nhiều sự khác nhau. Nếu dòng tâm mênh mang thì chân nghi sẽ ngăn cách sự hóa hiện. Còn tình chí khắn khít thì gỗ đá cũng khai tâm. Cho nên, Lưu Ân chí hiếu nên được sự cảm ứng. Phủ Dửu vì ông mà viết bài minh. Đinh Lang ôn hoà điềm đạm, mộc mẫu vì thế mà biến sắc. Lỗ Dương quay giáo khiến mặt trời xoay chuyển. Đắc Kỷ rơi lệ khiến cho thành nghiêng nước đổ. Đây đều là từ sự ẩn trắc thấm thấu vào tánh tình họ. Cho nên khiến điềm lành chiếu soi vào tai mắt họ. Còn như Tuệ Đạt vời ánh sáng ở nơi bản sao của chùa. Tuệ Lực cảm thấy điềm lành nơi nền tháp. Tuệ Thọ tỏ lòng thành nơi khúc gỗ nổi. Tuệ Hiển chứng nơi bóng đèn dời Hồng, Lượng đều quên thân cho việc đúc tượng Ý, Hiến đều lo trọn đời cho chùa chiền. Pháp Hiến chuyên lòng cho việc răng cốt. Cảnh Lăng vì thế mà cảm thông. Tăng Hộ ấp ủ chí nguyện nơi Thạch Thành. Nam Bình vì Ngài mà được ứng. Gần đây có bức tượng đồng sáng rỡ một trượng chín làm rạng ngời chốn kinh đô. Tống đế đúc bốn lần cũng không xong nhưng vua Lương vừa luyện thì hoàn mãn. Tướng mầu càng trội chứ không sút kém. Đồng ít mà lại đủ. Cho nên biết đạo nhờ người hoằng. Thần do vật cảm, đâu thể nói là hư huyền được. Vì thế tế thần như thần sống, thì thần đạo cảm giao vậy. Kính tượng Phật như thân Phật, thì pháp thân ứng hiện. Cho nên vào đạo nhất định phải lấy trí tuệ làm nền tảng. Trí tuệ ắt phải lấy phước đức làm căn bản. Như chim có đủ hai cánh mới vút cao ngàn tầm. Xe phải có đủ hai bánh mới chạy ngàn dặm. Há không siêng năng ư? Há không cố gắng ư? Khen rằng: Chơn nghi tỏa chiếu, vàng đá truyền ánh sáng, nhờ có tháp tượng nên kẻ cảm mến hâm mộ hướng về, hiện điềm lành, lành nơi oai dung. Nham thạch ẩn trong đất vọt lên, nước phụt giữa hư không, dốc chí với dòng tâm, nhất định khế hợp với lẻ mầu nhất quyết không trái. ***** <詞>THỨ CHÍN: KINH SƯ BẠCH PHÁP KIỀU Ngài là người Trung Sơn. Thuở nhỏ rất thích đọc tụng kinh điển, tiếng tăm rất thanh tao. Thường lấy sự trở ngại để nuôi chí. Sau đó Ngài tuyệt thực sám hối bảy ngày bảy đêm, đảnh lễ đức Quán Âm để cầu hiện báo. Bạn đồng học khổ công can ngăn nhưng Ngài thệ không đổi. Đến ngày thứ bảy cảm thấy trong yết hầu rỗng không. Ngài bèn lấy nước súc miệng nói: ta có sự cảm ứng rồi. Thế rồi Ngài tụng ba bộ kinh, tiếng tăm thấu ra ngoài chừng một dặm. Mọi người gần xa đều kinh ngạc và cùng nhau kéo đến xem nghe. Sau đó Ngài tụng kinh đến mấy vạn lời. Đêm ngày ngâm tụng uyển chuyển thông thần. Đến năm chín mươi tuổi mà tiếng vẫn không đổi. Vào giữa niên hiệu Vónh hòa Tấn Mục Đế, Ngài thị tịch ở Hà Bắc, tức cuối đời Thạch Hổ vậy. Ngài có vị để tử tên là Tăng Phù cũng là bậc có giới hạnh thanh cao. ------------------------------------ <詞>CHI ĐÀM THƯỢC Ngài vốn là người nước Nguyệt Chi, ngụ ở Kiến Nghiệp, thuở nhỏ xuất gia tinh cần khổ hạnh, sống đạm bạc, đến ở núi Hổ Khâu đất Ngô. Niên hiệu đầu của Tấn Hiếu Vũ, Ngài được sắc thỉnh đến kinh đô ở chùa Kiến Sơ. Hiếu Vũ theo Ngài thọ năm giới, kính Ngài như thầy. Ngài đặc biệt có giọng rất hay nên tụng kinh rất thành thạo. Có lần mộng thấy thiên thần trao cho thính pháp của họ. Thức dậy, nhân đó mà chế ra tiếng mới. Phạm âm trong trẻo, chẳng có tứ phi thì chẳng chuyển, rung lại yết hầu rồi dội lên nóc dọng. Tuy Đông A trước có biến nhưng Khang Hội sau đó xây dựng lại. Từ đầu đến cuối, tuần hoàn cũng không ai tuyệt diệu hơn Ngài. Sau đó Ngài biên chép truyền trao đều áp dụng phương thức ấy. Những Phạm chú sáu chữ mà Ngài soạn có truyền âm thường đến ngày nay. Sau đó ngài tịch ở vùng Ngài đang ở, thọ tám mươi mốt tuổi. ------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP BÌNH Ngài họ Khang, người Khang Cư, ngụ ở Kiến Nghiệp, cùng xuất gia với em là Pháp Đẳng ở chùa Bạch Mã, làm đệ tử ngài Đàm Thược. Hai người nối nghiệp thầy, đọc tụng âm vận thanh nhã du hướng khắp nơi. Sau đó anh em dời đến chùa Kỳ-hoàn, người em có tướng mạo nhỏ xấu, nhưng tiếng thì hay hơn anh. Đại tướng quân nhà Tống thiết trai trong Phủ Đông. Luôn xem thường hình tướng xấu nhỏ, nhưng đến khi nghe Ngài mở quyển tụng thì đổi ý, bèn khen rằng: Nếu lấy tướng mạo mà chọn người thì mất đi lòng tín kính của bậc hảo hán. Sau này Nghiêm công ở Đông An mở hội giảng pháp, Đẳêng tụng xong ba bộ kinh. Nghiêm động nhẹ phất trần nói: Tụng kinh như vậy cũng chẳng thua sút gì giảng pháp, thế là Ngài giải tán pháp hội. Ngày hôm sau lại khai hội. Người luận rằng: đó là tướng thành đạo. Cả hai anh em đều tịch vào cuối niên hiệu Nguyên gia. ---------------------------------- <詞>THÍCH TĂNG HIỂU Ngài là người Kiến Khang, xuất gia ở chùa Bạch Mã, rất giỏi về văn thư và tạp kỹ, nhưng chỉ lấy âm thanh làm đầu, nổi tiếng vào đời Tống Vũ. Thanh điệu du dương, thanh nhã ai bi trong trẻo sánh ngang với Đạo Tông là vị rất giỏi Tam Bổn Khởi và Tu-đại-noa. Mỗi lần cất lên bằng giọng Phạm âm, khiến cho kẻ tục người đạo phải khâm phục. Trong chùa có đài Bát-nhã, Ngài thường nhiễu quanh đài, dùng Phạm âm chuyển đọc để cúng dường, Người đi đường nghe vậy, ai nấy cũng dừng xe chần chừ không muốn đi, khảy móng tay xưng tán Phật. Vào năm thứ hai Đại minh nhà Tống, Ngài thị tịch, thọ tám mươi sáu tuổi. Vào thời ấy tại chùa này cũng có các vị Siêu Minh, Minh Tuệ, thuở nhỏ đã giỏi đọc Phạm chú và trường trai, cũng là bậc tụng kinh hay nổi tiếng đương thời. <詞>THÍCH ĐẠO TUỆ Ngài họ Trương, người vùng Sài Tang, xứ Tầm Dương, xuất gia năm hai mươi bốn tuổi ở chùa Lô Sơn, phẩm hạnh trong sáng, thông thạo kinh điển, đặc biệt bẩm thọ chất giọng tự nhiên, cho nên rất giỏi đọc tụng. Cho nên âm hưởng phát ra rất kỳ diệu không phải do phương pháp chế đặt, rõ ràng rành mạch câu chữ, uyển chuyển phân minh. Sau đó ra ở chùa An Lạc ở kinh đô, giọng tiếng của Ngài tụng kinh vang dội cả thành ấp. Lúc tuổi lớn dời về chùa Trúc Lâm ở Chu Phương ở, tụng kinh mấy vạn câu. Mỗi đêm ngâm tụng lại nghe trong bóng tối có tiếng khảy móng tay xướng âm tát. Ngài tịch vào năm thứ hai Đại minh nhà Tống, thọ năm mươi mốt tuổi. ----------------------------------- <詞>THÍCH TRÍ TÔN Ngài họ Chu, người Kiến Khang, xuất gia ở Tạ tự, học rộng hiểu sâu, rất giỏi về việc đọc tụng, tiếng rất thanh nhã và sảng khoái. Nếu mỗi lần đến kỳ thọ bát quan trai thì cả đêm không ngủ. Sau nửa đêm tứ chúng gật gù đầu ngái ngủ gần chấm mặt đất. Khi Ngài thăng tòa vừa cất giọng Phạm âm thấu cả ngàn mây. Mọi người nghe không ai không cảm thấy sảng khoái tinh thần, rồi hoát nhiên tỉnh ngộ. Ngài thị tịch vào năm Đại minh thứ ba, thọ ba mươi mốt tuổi. Lúc đó có các vị Tuệ Bảo, Đạo Thuyên tuy không cùng thời tác Pháp giống nhau âm thanh rất hay và có giọng cao không theo quy cách. Tống Minh lại ban thưởng cho Đạo Thuyên. Người luận rằng đó là gặp thời vậy. ------------------------------ <詞>THÍCH ĐÀM THIÊN Ngài là người họ Chi, người nước Nguyệt Chi, ngụ ở Kiến Khang, rất thích huyền Nho, chuyên tâm nơi nghóa Phật, giỏi luận đàm Lão Trang và chuyên chú nơi Thập địa. Lại có công trong chánh thư, thường bố thí đề kinh, tụng kinh rất hay, có thanh vận uyển chuyển. Từ âm Phạm, Ngài chế ra phương pháp mới kỳ diệu hơn xưa. Vương Nghóa, Khang Phạm, Hoa Vương, Đàm Thủ ở Bành Thành đều là những du hiệp. Ngài ban đầu đến ở chùa Kỳ Hoàn, sau đó dời sang chùa Ô Y. Đến khi Phạm hoa bị chu di, người nhà bị giết khoảng mười hai nguời. Không ai dám đến gần, Ngài đem y áo, vật dùng bán để lấy tiền mua đồ mai táng. Hiếu Vũ nghe vậy, vừa khen ngợi vừa ban thưởng, bảo Từ Viên rằng: khanh viết sử nhà Tống chớ bỏ sót kẻ só này. Vương Tăng Kiền làm việc tại Tương châu và Tam Ngô nên rủ Ngài đi chung. Vào năm thứ tư Kiến Nguyên nhà Tề, Ngài thị tịch, thọ chín mươi chín tuổi. Khi đó ở chùa Đạo Tràng có hai Sa-môn Thích Pháp sướng, chùa Ngõa Quan có Thích Đạo Diễm, đều có giọng tụng kinh uyển chuyển thanh tao. Tuy không sánh bằng ngài Đàm Thiên nhưng cũng được liệt vào hàng thư. -------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM TRÍ Ngài họ Vương, người ở Kiến Khang, khi xuất gia ở chùa Đông An, tính tình phong lưu có nhiều cử chỉ đẹp. Hay bàn chuyện Lão Trang, kinh luận sử sách thông thạo rất nhiều. Lại có âm thanh cao rõ ràng, đọc tụng thanh thoát. Tuy cũng đọc theo cách ngài Trí Tông nhưng sáng tác thêm nhiều phong cách độc đáo hơn, âm điệu cao trong trẻo không thể tả được. Tống Hiếu Vũ, Tiêu Tư Thoại, Vương Tăng Kiền v.v… đều kính trọng. Tăng Kiền đến Tương châu cũng chở Ngài đi chung, khi Tiêu trấn thủ đất Ngô cũng vời ngài đến. Ngài tịch vào năm thứ năm Vónh minh ở nước Ngô, thọ bảy mươi chín tuổi. Lúc đó có các vị như Đạo Lãng, Pháp Nhẫn, Trí Hân, Tuệ Quang, đều là những bậc kiệt xuất, đọc tụng rất hay. Đạo Lãng kéo từng điệu thong thả, Pháp Nhẫn rất giỏi kích thiết. Trí Hân khéo về điệu trắc. Tuệ Quang hay tụng lời bay bổng. ---------------------------- <詞>THÍCH TĂNG BIỆN Ngài họ Ngô, người Kiến Khang xuất gia ở chùa An Lạc, thuở nhỏ rất thích tụng kinh, thọ giáo nơi hai thầy Thiên, Sướng. Ban đầu tuy bắt chước phong cách của thầy nhưng sau đó lại có ý cân nhắc, giọng trầm buồn uyển chuyển hơn lúc đầu. Có lần thọ trai ở Tân Đình nhà Lưu Thiệu. Đêm đầu Ngài mới tụng một quyển kinh, bỗng nhiên có một bầy hạc bay xuống đậu ngay trước thềm. Khi Ngài tụng xong quyển một thì chúng bay đi. Từ đó tiếng tăm chấn động thiên hạ, xa gần ai cũng biết. Sau này các học giả ai ai cũng tôn kính Ngài. Vào ngày 19 tháng 2 năm thứ bảy, niên hiệu Vónh minh, Tư Đồ Cánh Lăng Văn Tuyên Vương mộng thấy mình ở trước Phật vịnh một bộ kinh Duy-ma. Nhân âm thanh phát ra mà ông tỉnh giấc. Ông liền vào chánh điện y theo cách ngâm trong mộng, ngâm hết một bộ Duy-ma cổ, bèn hiểu thanh vận lưu loát hay hơn ngày thường. Ngày hôm sau cho mời tất cả vị Sa-môn có tiếng tụnh kinh hay ở kinh sư, như ngài Long Quang, Minh Trí, Tân An, Đạo Hưng, Đa Bảo, Tuệ Nhẫn, Thiên Bảo, Siêu Thắng và Tăng Biện v.v… bắt đầu lần lượt tụng. Ngài Tăng Biện truyền một bản Duy-ma Cổ. Một bản kệ bảy chữ Thụy ứng, nhất là tác phẩm của mệnh gia. Sau này có người truyền lại đều có sự nhẫm lẫn sai sót ý chỉ (đại thể). Ngài Tăng Biện thị tịch vào năm thứ mười một Vónh minh nhà Tề. Vùng Trung Hưng có ngài Thích Tăng Cung, đương thời cũng nổi tiếng ngang với ngài Tăng Biện, nhưng sau đó thì hoàn tục. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM BẰNG Tên thật là Dương Kiện, người vùng Nam An, thuở nhỏ đến kinh sư học tụng kinh. Ở chùa Bạch Mã, âm điệu rất hay trội hơn những ngày tự học. Người thời ấy rất khen Ngài, thế rồi Ngài chuyên tinh nơi quy cũ và nghiên cứu học tập. Sau đó trở thành bậc xuất chúng thì đột nhiên đổi cách nhìn. tụng Tam Bổn khởi kinh, âm thanh rất hay. Sau này về nước Thục ở chùa Long Uyên. Những học giả ở Ba Hán đều tôn sùng phong cách chuyển âm của Ngài. Mỗi lần cất giọng Phạm âm thì voi ngựa hí tiếng buồn và đi từ từ đến ở dưới chân Ngài. Nhân đó Ngài chế tạo ra chuông đồng, nguyện cho đời vị lai có tám âm tứ biện. Vùng Dung Thục có chuông đồng bắt đầu từ đây vậy. Sau đó Ngài tịch tại trụ xứ Ngài đang ở. Khi ấy, vùng Dung Thục có ngài Đạo Quang cũng là bậc rất giỏi đọc tụng. ------------------------------ <詞>THÍCH TUỆ NHẪN Ngài họ Quý, người Kiến Khang, thuở nhỏ xuất gia ở chùa Đa Bảo Bắc, không có những hạnh giải khác, chỉ rất yêu thích âm thanh. Ban đầu thọ giáo nơi ngài Tăng Biện ở An Lạc, học hết phương pháp của thầy mà chất giọng trầm buồn, nhỏ nhẹ đặt biệt muốn vượt qua. Tề Văn tuyên cảm mộng, sau đó vân tập các kinh sư, rồi cùng với ngài Tuệ Nhẫn so đo âm cũ để chế ra cách mới lạ, chế bốn mươi hai tập Thụy Ứng. Những tác phẩm Ngài làm rất hay. Thế rồi bảo hơn bốn mươi vị như Tuệ Vi, Tăng Nghiệp, Tăng Thượng, Siêu Minh, Tăng Kỳ, Diêu Do, Tuệ Húc, Pháp Luật, Đàm Tuệ, Tăng Dẫn, Tuệ Trảo, Pháp Từ v.v… đều theo Ngài thọ học, rồi truyền pháp cho đến nay. Ngài thị tịch vào năm đầu Long Xương, thọ hơn bốn mươi tuổi. Còn các vị: Thích Pháp Lân Thích Đàm Biện Thích Tuệ Mạng Thích Đàm Can Thích Đàm Tấn Thích Tuệ Siêu Thích Đạo Thủ Thích Đàm Điệu Tất cả những vị này đều có tiếng tăm vào đời Tề. Những vị này ở vùng Triết Tả, Giang Tây, Kinh Thiểm, Dung Thục cũng là những bậc đọc tụng rất hay. Nhưng chỉ có tài trong việc ngâm vịnh, chứ không có công hạnh gì khác, cho nên không chép đủ vào sử. Luận rằng: Luận về việc sáng tác văn chương là muốn tỏ bày những nỗi u ẩn ôm ấp trong lòng, còn chế tác cách ngâm vịnh là muốn ngữ ý trôi chảy âm vận hài hòa. Cho nên tựa thi nói: Tình khởi bên trong mà hiện hình ra lời nói. Nói không tỏ bày hết nên phải ngâm vịnh. Nhưng câu ca của phương Đông phải kết vần mới thành ngâm vịnh. Còn lời tán của phương Tây thì phải làm kệ để hòa âm. Tuy ca tán là đặc thù nhưng đều phải hiệp giai điệu chung luật để phù hợp với cung thương thì nó mới huyền diệu. Cho nên tấu ca trong vàng đá thì gọi đó là nhạc, tụng tán nơi ống sáo và dây đàn thì gọi là bái (tán tụng). Bậc Thánh nhân chế ra bốn loại nói về đức của nhạc. Đó là cảm thiên địa, thông thần minh, an vạn dân, thành tánh loại. Còn nếu nghe tán tụng cũng có năm điều lợi cho mình. Thân thể không bịnh hoạn, không quên ký ức, tâm không lười mỏi, âm thanh không bể, chư thiên vui mừng. Đó chính là Bàn-giá đờn ca trong thạch thất để xin mở môn cam lồ đầu tiên, Tịnh cư ca tụng nơi song lâm để báo ân đức của một đời. Trong đó tùy thời mà tán vịnh, cũng tạo nên âm thanh tại xứ đó. Còn như ức nhó khẻ nghe giữa đêm. Đề-bà du dương ở Phạm cung, hoặc chỉ dạy yếu chỉ vô tướng, tấu nơi ống sáo, hoặc khiến âm bản hạnh tuyên vào đàn cầm. Tất cả đều làm uyển chuyển lời cảm thông trong câu khen ngợi Phật. Cho nên Hàm Trì, Thiều Vũ không so công của mình, Kích Sở, Lương Trần cũng không sánh cái diệu của mình. Từ khi giáo pháp truyền vào phương Đông, người dịch văn thì rất nhiều nhưng chuyển tiếng thì quá ít. Bởi vì tiếng Phạm trùng lặp mà tiếng Hán thì đơn lẻ. Nếu dùng âm Phạm để vịnh ngâm tiếng Hán thì tiếng rườm rà mà kệ gấp gáp. Nếu dùng lời Hán để vịnh tiếng Phạm thì vận ngắn mà lời dài. Cho nên lời Phật có người dịch mang âm hưởng Phạm chứ không truyền. Ban đầu có Ngụy Trần Tư, Vương Tào Thực rất thích thanh luật, gắn ý nơi âm kinh. Đã thông thấu âm hưởng tốt đẹp của Bàn-già. Lại cảm ứng với thần chế của Ngư Sơn. Thế là bỏ bớt Thụy ứng Bổn khởi để làm tông chỉ cho học giả. Truyền đạt âm thanh thì hơn ba ngàn. Còn khế có bốn mươi hai. Sau này Bạch Kiều, Chi Thược cũng nói là bắt chước cách của Trần Tư, mà ưa thích thông linh, biệt cảm thần chế. Chế biến ra hữu thanh chỉ còn một ngàn mà thôi. Vào khoảng giữa năm Kiến Bình thời Thạch Lặc có thiên thần giáng xuống nơi làm việc của An ấp ngâm vịnh âm kinh bảy ngày mới hết. Lúc ấy những người truyền tin cho rằng đó là việc hư huyền nên bỏ đi. Cho đến giữa triều Tống Tề có các vị Đàm Diên, Tăng Biện, Thái Phó, Văn Tuyên v.v… đều tha thiết vịnh khúc ý âm lu- ật, tuyển chọn sự dị đồng để phân biệt thành khoa. Mô phỏng theo cách xưa chỉ còn đúng ba trăm thanh. Từ đó về sau, thanh vận phần nhiều bị thất lạc. Mỗi người cố ý bổ khuyết nên bất đồng. Cho nên sư sư đều có pháp khác nhau, từng nhà chế theo kiểu riêng. Tất cả đều do không rõ nơi âm chỉ chẳng phải chế đúng. Đó là do âm nhạc cảm động từ xưa như vậy. Thế nên Huyền Sư Phạm Xướng đến nổi nhạn đỏ ưa thích không nỡ bay đi. Tỳ-kheo khởi xướng đến nỗi két xanh vui mừng quên trở về tổ. Đàm Bằng vừa cất giọng đã khiến voi ngựa quỳ rạp dưới chân. Tăng Biện chiết điệu còn khiến cho hồng hạc ngưng bay. Lượng về người tuy có sâu cạn, nhưng so về cảm cũng đáng bậc kế. Cho nên vỗ đá, đập đá thì muôn thú cùng nhảy múa, tiêu thiều chín khúc xong thì phượng hoàng bay đến kính lễ. Chim thú còn có nỗi cảm sâu như thế huống chi con người và thần linh ư. Nhưng đọc tụng là tạo phước tốt. Những ý hay trong việc phúng tụng là quý chỗ thanh và văn đều đủ. Nếu chỉ có thanh mà không có văn thì đạo tâm không do đâu sinh. Nếu chỉ có văn mà không có thanh thì tình tục không thể thâm nhập. Cho nên kinh nói: dùng âm thanh vi diệu để ca ngợi công đức của Phật, chính là ý này vậy. Mà chẳng bao lâu học giả thế gian chế tạo được những thanh đầu đuôi khác bèn nói là nổi danh đương thế. Văn kinh từ đầu đến cuối sẽ không có sự trù liệu, hoặc phá câu, hoặc hợp thanh, hoặc chia văn, hoặc đủ vận. Đâu chỉ không đủ âm thanh mà văn cũng không trình bày xong, người nghe chỉ tăng thêm nỗi hoang mang, nghe tụng chỉ tâm buồn ngủ hơn. Khiến cho kẻ vào kho minh châu mà chưa tìm được chỗ cất chứa. Trăm vị toàn sữa mà không chịu uống để đến nỗi phải chết. Buồn thay, nếu có thể tinh thông được ý chỉ của kinh, thấu đạt được âm luật thì tam vị thất thanh thứ tự không loạn, ngũ ngôn tứ cú khế hợp chẳng lộn. Trong đó khởi trịch, đãng cử, bình chiết, phóng thích, du phi chẳng chuyển trở lại nhiều lần mềm mại bỡn cợt vô cùng. Há miệng thì biến hóa vô tận. Cho nên có thể bỉnh phát bát âm, quang dương thất thiện, mạnh mẽ mà không thô kệch, ngưng mà không trệ, yếu mà không dã, cương mà không bén, thanh mà không nhiễu, đục mà không che, thanh thoát đủ vận khởi lời vi diệu, để trưởng dưỡng tinh thần. Cho nên có thể nghe âm thanh để vui tai, ngâm chữ để sảng khoái tâm hồn. Như vậy gọi là Phạm âm thâm diệu, khiến người thích nghe. Nhưng phong tục của Thiên-trúc hễ ca ngâm lời pháp đều gọi là tán ca. Còn như Đông đô vịnh ngâm kinh gọi là đọc tụng. Ca tán thì gọi là Phạm âm. Ngày xưa chư thiên ca tán đều lấy vần nhập vào dây cung. Năm chúng đã khác với thế tục, cho nên phải lấy sự uyển chuyển của âm thanh để gọi là vi diệu. Sự phát khởi cách tán chữ cũng bắt đầu từ Trần Tư. Ban đầu viết Thái tử tụng và Thiểm tụng v.v… Vì thế mà chế ra âm thanh. Ca tán cao thấp đều bắt chước pháp của thần trao. Ngày nay ngơ ngác sợ hãi, bởi vì nó bị gió cuốn vậy. Sau này cư só Chi Khiêm cũng truyền ba bộ Phạm chú, nhưng cũng thất lạc hết không còn. Thời ấy có một chương cộng nghị sợ có kẻ chê bai phép tắc ấy. Chỉ có Khương Tăng Hội chế tạo Niết-bàn Phạm bái đến nay vẫn còn truyền. Chính là một quyển kính yết, lời văn trích trong hai quyển Niết-bàn. Cho nên nói Nê-hoàn Bái đến đời Tấn có Pháp sư Sanh. Ban đầu truyền mích lịch, nay hành địa ấn văn chính là pháp này vậy. Ngài Đàm Thược chế ra sáu chữ, tức là một quyển Đại Bi Ai Mẫn. Đến nay thời có tác giả. Vả lại gần đây có Tây Lương Châu Bái, vốn xuất phát từ Quan Hữu, mà lưu truyền đến Tấn Dương. Nay mặt tròn như trăng vậy. Tất cả những khúc này được bậc danh sư chế tác. Người đời sau kế nghiệp nhưng có nhiều chỗ sai sót. Có khi thì Sa-di trẻ nhỏ truyền trao cho nhau. Ngày xưa thành quy tắc mà đến nỗi không sót một. Tiếc thay ở đây cũng luận về âm thanh nên luận đủ ở sau vậy. <詞>THỨ MƯỜI: XƯỚNG ĐẠO THÍCH ĐẠO CHIẾU Ngài họ Cúc người Tây Bình. Thuở nhỏ viết văn thư rất hay đồng thời thông thạo kinh sử. Năm mười tám tuổi xuất gia ở chùa Kỳ-hoàn, kinh sư. Xem hết mọi sách vở, lấy việc tuyên bày làm sự nghiệp, âm thanh thốt ra trong trẻo tẩy ngộ trần tâm, chỉ việc hợp thời lời không phạt riêng, nổi tiếng vào đầu thời Tống. Có lần Tống Vũ Đế thiết trai trong nội điện. Vào đầu đêm Ngài lược thuật: Trăm năm trôi qua mau chóng phút chốc khổ vui sai biệt ắt do nhân quả. Như lai thương xót ứng hiện lục đạo, bệ hạ khoan dung ai mẫn tất cả. Vua nói hay lắm, hồi lâu tiệc trai mới xong, vua tặng riêng cho Ngài ba vạn kim tiền. Vương Đạo quy ở Lâm Xuyên theo Ngài thọ năm giới, thờ Ngài làm thầy. Vào năm thứ mười Nguyên gia nhà Tống, Ngài thị tịch, thọ sáu mươi sáu tuổi, đệ tử của ngài là Tuệ Minh họ Tiêu người Ngụy quận, phong thái đónh đạc, thông minh lỗi lạc, cũng học theo phong cách của thầy, cùng là người nổi danh đương thời. ------------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM DÓNH Người Cối Kê, thuở nhỏ xuất gia rất cẩn trọng về giới hạnh, tụng kinh hơn mười vạn lời, ở chùa Trường Can, tánh cung khiêm chỉ lấy việc khuyến dụ làm chính. Cho nên luôn để tâm nơi việc tuyên xướng, tuyệt giao với thế sự. Tất cả những người nào muốn thỉnh, Ngài không phân biệt sang hèn, giàu nghèo mà đều đến phó hội. Trương Sướng nghe vậy vui mừng khen rằng: Lời Ngài thốt ra tuôn chảy vượt hơn cả dặm. Có lần Ngài bị bịnh hắc lào, chữa hoài mà không khỏi. Trong phòng Ngài thường cúng dường tượng Quán Thế Âm, sớm tối lễ bái cầu bịnh này thuyên giảm. Bỗng một ngày nọ chợt thấy một con rắn từ phía sau bức tượng men theo bức tường bò lên nhà. Lát sau có một con chuột từ nóc nhà rơi xuống đất, nước dải tràn khắp thân trạng như đã chết. Ngài lại dò xem thì dường như còn sống. Ngài bèn lấy cành tre gạt hết nước dải ra. Lại nghe nói con rắn cắn chuột có thể trị lành bịnh lở. Ngài lấy nước bọt để bôi lên vết thương mình, thì con chuột cũng sống lại. Trong một đêm thì vết thương cũng lành hẳn. Ngài mới hiểu rắn và chuột đều do sự nguyện cầu của mình mà được. Thế rồi Ngài tinh cần hóa độ, nỗ lực khuyến khích. Vương Nghóa Cung ở Giang Hạ là thái tể nhà Tống rất tôn trọng Ngài. Sau đó Ngài tịch tại trụ xứ đang ở, thọ tám mươi mốt tuổi. -------------------------------- <詞>THÍCH TUỆ CỪ Ngài là người Đan Dương, xuất gia ở chùa Ngõa Quan, đọc bài kinh luận, thông thạo sử sách, tài giỏi nhiều mặt mà đặt biệt là xướng đạo. Nói ra thành thơ, mở lời thành tác phẩm. Mỗi khi Ngài cầm khánh đánh rất hay. Tống Thái Tổ, Văn Hoàng đế, Xa Kî Tàng Chất đều xem như bạn bè, khiêm nhường và yêu mến rất mực. Tiều Vương Trấn ở đất kinh muốn mời Ngài đi chung. Sau đó trái thời tiết nên trở về triều, thiết hội ở Lương Sơn. Chẳng bao lâu Tiều Vương bị bại, Ngài đành trở về kinh. Sau đó Tống Hiếu Vũ thiết trai, thỉnh Ngài xướng đạo. Vua hỏi Ngài: Hôm nay vân tập có giống như ở Lương Sơn không? Ngài đáp: Thiên đạo trợ giúp được suôn sẽ đâu có làm trái nghịch. Vua rất hài lòng. Sáng hôm sau đặc biệt tặng một vạn lượng. Sau đó phong Ngài làm Duy-na ở kinh ấp. Ngài tịch ở chùa vào cuối niên hiệu Đại minh, thọ bảy mươi hai tuổi. ---------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM TÔN Ngài họ Quắc người vùng Mạc Lăng, xuất gia ở chùa Linh Vị. Thuở nhỏ ham học, thông thạo các sách kinh điển, công lao xướng thuyết vượt trội đương thời. Nói năng đúng thời, ứng biến vô tận. Có lần Ngài hướng dẫn vua Hiếu Vũ hành lễ năm pháp Bồ-tát xong. Vua cười và nói với Ngài rằng: Trẫm có tội gì mà phải sám hối. Ngài nói: Ngày xưa Ngu Thuấn là bậc chí Thánh mà còn nói ta trái với khuôn phép. Thang Vũ cũng nói muôn dân có tội là do nơi một mình ta. Thánh vương nêu ra lỗi mình là để làm gương cho đời. Bệ hạ đức trội muôn đời, ngang bằng với Thánh Ngu Ân, Lý Đạo, Tư Xung (cai trị phải khoan dung, đâu được lập dị). Vua rất vui mừng. Sau đó Ân Thúc Nghi mất, mở hội lễ hai mươi mốt ngày cũng thỉnh Ngài dự. Ngài bắt đầu than thế đạo hư ngụy phải lìa ân ái. Than ôi! Đức của họ Ân có nhiều vinh hạnh mà chưa thỏa được, mất đi ngày ấy mà lưu danh đến hôm nay, phát ra những lời bi ai. Vua bùi ngùi giây lát, rồi ban thưởng trọng hậu hơn. Sau này ngài tịch tại trú xứ đang ở. Trước tác Kinh sư tháp tự ký hai quyển. Lúc ấy chùa Linh Vị có ngài Thích Tăng Ý cũng giỏi xướng thuyết, chế tác Đàm kinh Tân Thanh, giọng trầm buồn, trong trẻo. ----------------------------------- <詞>THÍCH ĐÀM QUANG Ngài là người Cối Kê, theo thầy ở chùa Trường Sa, Giang Lăng, tánh ưa thích ngũ kinh thi phú, cùng với toán số bói quẻ, các thứ ấy đều tinh tường. Năm gần ba mươi tuổi, bỗng nhiên than rằng: từ xưa tới nay ta học chỉ toàn là việc thế tục. Phật pháp sâu mầu mà ta chưa thấm một mảy may, đâu nên để tên rơi ư? Thế là Ngài bỏ hết thói quen xưa và bắt đầu nghe kinh luận, hiểu rõ rằng người xưa vừa nghe liền thông đạt. Văn Vương, Nghóa Quý, người Hành Dương nhà Tống trấn nhậm Kinh châu, tìm cầu Sa-môn Ý lý luận bàn Phật pháp và suy tôn Ngài đảm nhiệm chức vụ lớn tại vùng đó, nhưng Ngài cố từ chối. Vương đích thân đến phòng năn nỉ. Ngài đành thuận lịnh, ông cấp cho xe và người phục vụ, mỗi tháng cung cấp một vạn lượng. Mỗi khi thiết hội không có người xướng đạo, vương bảo ngài rằng: Khuyến dẫn quần sinh chỉ lấy đức làm chính. Thượng nhơn sao lại từ chối được, mong ngài đảm nhận. Ngài bèn hồi tâm học cách xướng đạo và chế tạo sám văn, mỗi lần bưng lư trầm trước chúng thì đạo tục phải ngưỡng bái. Sau đó Ngài trở về kinh đô ở chùa Linh Vị. Vương Húc ở Nghóa Dương ra trấn thủ Bắc Từ, dắt Ngài đi theo, cho đến khi Cảnh Hòa hết đức, Nghóa Dương nỗi loạn. Ngài thấy đủ nên mang thất diệu để xử tử Ngài, Ngài ngậm thin không nói nên việc khỏi. Tống Minh Đế thiết hội trong Tương cung, nghe Ngài xướng thuyết, vua khen hay, liền phong tặng ba y bình bát. Sau đó Ngài tịch ở chùa, thọ sáu mươi lăm tuổi. ------------------------------ <詞>THÍCH TỤÊ PHÂN Ngài họ Lý người Dự châu, thuở nhỏ có nhiều tánh khí đặc thù, mười hai tuổi xuất gia, ở chùa Thường Sơn huyện Cốc Thục, học hành đạt loại giỏi, khổ hạnh tinh chuyên, mỗi khi đến dự trai tăng thường thuyết pháp cho thính chúng nghe. Khoảng thời kỳ Lương Sở đều phụng sự giáo hóa của Ngài. Cho đến khi Ngụy lỗ phá diệt Phật pháp, Ngài lên đường về Nam, đến Ô Giang họ đuổi ngựa theo sắp kịp mà dòng bến đò không có thuyền, Ngài nhất tâm niệm Phật, bỗng thấy chiếc thuyền trôi đến. Ngài vội lên thuyền nên tránh khỏi bị họ bắt lại. Đến kinh đô ở chùa Bạch Mã, khi đó ngự sử trung Thừa Viên Mẫn Tôn luôn cho rằng đạo nhơn thiên chấp chưa đủ để luận nghị với ông. Thế rồi ông sai tả hữu đi dò xem có vị Sa-môn nào để ông cật vấn, rồi tìm được Ngài đến. Trước tiên ông hỏi lý tam thừa, tứ Đế, lại biện về yếu nghóa Lão Trang Nho Mặc, Ngài khéo dẫn các kinh sách, đồng thời ngôn âm lưu loát. Từ sáng đến tối hôm đó ông không thể tìm cách nào phản vấn được. Thế là kính Ngài như bậc thầy. Và sai đệ tử theo Ngài thọ giới hết. Ngài lại rất giỏi về thần chú, Ngài trị bịnh rất linh nghiệm. Sau đó mắc bịnh phải uống thuốc, người ta khuyên Ngài dùng rượu. Ngài bảo nhiều năm trì giới đâu thể đến lúc sắp chết lại phá hủy. Ngài bèn bảo đệ tử rằng: Ta sắp đi đây. Vào năm thứ ba Vónh Minh nhà Tề, ngài mất ở chùa Hưng Phước, thọ bảy mươi chín tuổi. Lúc lâm chung có để lại văn răn dạy. ------------------------------------ <詞>THÍCH ĐẠO NHO Ngài họ Thạch người Bột Hải, ngụ ở Quảng Lăng, thuở nhỏ có lòng thành tín ưa thích xuất gia. Gặp Vương Nghóa Khánh người Lâm Xuyên đời Tống trấn nhậm ở Nam Duyện. Ngài đem việc trình lên ông. Vương tán thành chí nguyện của Ngài, rồi giới thiệu cho Ngài xuất gia. Sau khi thế phát, Ngài ăn chay đạm bạc tụng kinh. Tất cả những việc Ngài làm đều muốn khuyến hóa người khác đổi ác làm lành, xa gần tôn sùng, Ngài trở thành vị thầy hướng đạo, không dự định trước nhưng khi nói ra thì thành tác phẩm. Vào cuối niên hiệu Nguyên gia, Ngài đến kinh đô ở chùa Kiến Sơ, Trường Sa Vương thỉnh Ngài làm giới sư. Lô thừa tướng, Bá Trọng Tôn v.v… cũng mua nhà cũ của Trương Kính Nhi lập chùa cho Ngài. Nay chính là chùa Tề Phước vậy. Vào năm thứ tám Vónh minh, nhà Tề, Ngài thị tịch, thọ tám mươi mốt tuổi. Lúc ấy chùa Nhàn Tâm có ngài Thích Tăng Hỉ cũng rất giỏi về xướng thuyết, nổi danh vào cuối đời Tống, đầu đời Tề. <詞>THÍCH TUỆ TRỌNG Ngài họ Mẫn người nước Lỗ, ngụ ở Kim Lăng, đã có lòng tín ngộ từ lúc còn nhỏ, có chí theo đạo nhưng lời nguyện chưa thành. Tự mình ăn chay trường và hướng dẫn mọi người mở trai hội, thường tự xướng đạo. Làm như vậy một thời gian lâu, mới tâu vua Tống Hiếu Vũ. Năm thứ sáu Đại Minh, vua hạ chiếu cho phép Ngài xuất gia ở chùa Tân An. Từ đó chuyên đảm nhiệm việc xướng thuyết. Bẩm tánh trong sáng, thức ngộ thâm trầm. Lời không dự tính trước nhưng ứng thời như nước chảy. Tất cả những ai nghe Ngài nói đều muốn liên lạc thư từ để tăng thêm giao tiếp thân thiết. Sau đó Ngài dời sang thiền phòng chùa Ngõa Quan. Năm Vónh minh thứ năm Ngài thị tịch, thọ bảy mươi ba mươi tuổi. Bấy giời ở Ngõa Quan lại có ngài Thích Pháp Giác cũng nối tiếp sự nghiệp của ngài Tuệ Trọng và nổi danh vào đời Tề. -------------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP NGUYỆN Ngài vốn mang họ Chung, tên Vũ Lệ, trước đây là người Trường Xã Dónh Xuyên, Tổ tiên lánh nạn dời đến Trường Thành, Ngô Hưng, Ngài thường lấy gốc mai để trông coi, có Thi Thuận Dân đến thay. Lúc trước văn thư chưa tra xét, Thận Dân bèn thành người thiên lệch, bị mắc tội nên tìm Ngài xin tha. Có chỉ miễn tội chết cho Thận Dân, ngoại trừ Ngài học theo đạo, còn gia đình vốn thờ thần, thân học cổ vũ. Những tạp kỹ ở thế gian và việc chiêm tướng của cha, ngài đều thấu tột đến chỗ vi diệu của nó. Có lần Ngài lấy gương soi vào mặt và nói: Không lâu nữa, ta sẽ thấy thiên tử. Thế rồi ngài đến kinh đô ở Thẩm Kiều, làm nghề xem tướng để tự sống. Tôn Cốc, Thẩm Khánh Chi đến xin Ngài xem tướng. Ngài nói: Ông Tôn đây đáng lý làm thứ sử ba châu, ông Thẩm làm chức tam công. Như vậy, Ngài xem tướng cho rất nhiều người, nhớ lại những việc gần của Ngài nghiệm lại không phải ít. Có người dâng sớ tâu lên Tống Thái Tổ, Thái Tổ cho gặp mặt. Vua cho dắt ra một người tù và một mỹ nữ sinh đẹp. Trang phục cho tù nhơn lựa bằng áo mũ cho thật oai, rồi cho Ngài xem tướng. Ngài chỉ vào tù nhơn nói: Ông mắc nhiều hiểm nạn, xuống khỏi bệ sẽ bị bắt giam. Nói với nô tỳ rằng cô là kẻ thấp hèn, tạm thời được khỏi tội. Vua rất khâm phục, liền phong cho Ngài ở hậu đường, biết được bí thuật âm dương. Một thời gian không lâu sau, Ngài xin xuất gia. Ba lần dâng sớ mới được toại nguyện. Ngài vào làm đệ tử của Viễn công ở chùa Định Lâm Thượng. Đến khi Tông Cốc ở Long Phi trong thời Hiếu Vũ ra trấn nhậm Quảng châu dắt Ngài đi chung, thờ Ngài làm thầy năm giới. Hội Tiều Vương kết vây cánh tạo nghịch ở Lónh Nam. Tông Cốc đến tham vấn ý kiến Ngài. Ngài nói: Hễ ông xuất binh thì giết nhầm người. Nay Thái Bạch phạm ở Nam Đẩu, theo pháp lẽ ra phải giết đại quan. Nhưng nên đổi kế nhất định sẽ được công lớn. Đúng như lời Ngài nói, Tông Cốc được tăng chức làm thứ sử ở Dự châu, rồi cũng thỉnh Ngài đi chung. Cho đến khi Cánh Lăng Vương ngông cuồng gây chuyện, Ngài hết lời can gián ông cũng không đổi. Sau đó Ngài cùng với thứ sử muốn giảm bớt số lượng tăng khiến họ y theo pháp chế Bát chỉ. Lúc đó Sa-môn Tăng Đạo nổi tiếng nhất Giang Tây, cho rằng ngài Tăng Nguyện là kẻ lạm khuôn, nên có vẻ bất bình, bèn lấy sớ dâng Hiếu Vũ Đế. Vua hạ chiếu bảo ngài Tăng Nguyện trở về kinh đô. Vua hỏi Ngài tại sao phải giả làm ăn chay. Ngài đáp: ăn chay đã hơn mười năm rồi. Vua sai Trực Cáp, Thẩm Du lấy thịt cưỡng ép Ngài, Ngài khép kín hai hàm răng, nguyện không thay đổi ý chí. Vua rất giận, ra lệnh bảo Ngài bỏ đạo làm tướng quân ở Quảng Vũ. Ngài đến thẳng điện Phật Hoa Lâm. Bây giờ tuy thân hình giống người đời nhưng luôn chuyên tâm nơi Thiền giới, chưa hề mất tiết tháo. Chẳng bao lâu vua băng hà. Chiêu Thái Hậu có lệnh cho phép Ngài trở lại với đạo. Năm thứ sáu thái tử, Hiệu Trường Sinh xả nhà làm chùa, gọi là Chánh Thắng, thỉnh Ngài về ở. Tề Cao đế đích thân nuôi dưỡng ấu chủ luôn có nỗi lo bất trắc, thường đến tham hỏi ý ngài. Ngài nói: tháng 7 sau sẽ định đoạt. Đúng như lời Ngài nói, đến khi Cao Đế lên ngôi, thờ Ngài làm Thầy. Vũ Đế, Từ Hưng cũng rất kính trọng ngài. Năm Vónh minh thứ hai, Ngài chịu tang người anh, nên xin phép trở về quê. Về quê chưa bao lâu thì vua lại sắc chỉ nữa. Sau đó, Ngài đến ở Tương Cung. Vua xa giá từ chùa Hạnh Giáng đến an ủi. Ngài nói chân bị đau chưa hết nên không thể hội kiến với vua. Vua đành quay về. Văn Tuệ thái tử có lần đến thăm hỏi, Ngài đã không mời ngồi nên Văn Tuệ làm lễ rồi đứng dậy. Ông thưa với Ngài rằng: Dùng bảo xuy, thanh nao để cúng dường phước ấy như thể nào. Ngài nói: Ngày xưa Bồ-tát dùng vô số kỹ nhạc cúng dường Phật vẫn không bằng chí tâm. Nay thổi ống trúc, đập da trâu chết, đây sao đủ bàn. Kẻ gieo đức muôn đời đều như vậy. Vương hầu, phi tần và só dân tứ xứ đều theo Ngài thọ giới và trọng Ngài làm thầy. Mỗi lần Ngài đến chỗ vua thì đi ngay chứ không có thông bạch gì, nhưng vua đều tùy hỷ. Mỗi ngày vật phẩm cúng dường kể cả vạn. Ngài đem tạo phước hết chứ không tích chứa vật gì. Hoặc thuê người lễ Phật, hoặc mướn người trì trai, hoặc gom cơm gạo thóc lúa rải cho chim cá ăn, hoặc đổi thức ăn thức uống để cho tù nhân, tạo công lập đức không thể tính hết. Ngài còn có tài năng trong việc xướng đạo. Và y theo kinh thuyết pháp, tất cả đều xuất phát từ nỗi ấp ủ trong lòng, không bàn tới cung thương, nói năng bậy bạ, chỉ tùy cơ ứng biến. Có thể gọi là bậc trí người ngu không bì kịp. Sau đó Ngài nhập định không ăn ba ngày. Bỗng một hôm nói với đệ tử rằng: Các ông mất cái rá cơm. Chẳng bao lâu Ngài mắc bịnh nặng. Lúc đó, bên chùa bị cháy ở cuối gió, khói lửa ngùn ngụt. Đệ tử muốn chở Ngài ra khỏi chùa. Ngài nói: Nếu Phật bị đốt, ta sống làm gì nữa? Thế là ngài ra sức niệm Phật. Thế rồi ba phía đều cháy rụi, chỉ có chùa không bị tổn hại. Ngài tịch năm thứ hai Vónh Nguyên nhà Tề, thọ tám mươi bảy tuổi. -------------------------------- <詞>THÍCH PHÁP CẢNH Ngài họ Trương, người Ô Trình Ngô Hưng. Thuở nhỏ mến thích học đạo nhưng ý nguyện chưa thành. Gặp lúc ngài Tuệ Ích thiêu thân xin vua ban cho phép hai mươi người xuất gia. Ngài cũng được dự vào một trong số những người ấy. Khi xuất gia thờ ngài Pháp Nguyện làm thầy. Lúc chính thức nhập đạo, Ngài giữ giới hạnh như băng tuyết. Thương người cứu giúp là ước nguyện. Sau đó Ngài bắt đầu học cách xướng đạo, nổi bậc hơn tiền nhân. Tề Cảnh Lăng, Văn Tuyên Vương cung kính ủng hộ rất trọng hậu. Ngài phát nguyện hoằng pháp không kể giàu nghèo. Hễ có người thỉnh thì Ngài đi, không ngại sương lạnh nắng đốt, không chứa của riêng mà luôn làm việc phước. Đầu niên hiệu Kiến Vũ, những vị tín thí lập chùa Tề Long thỉnh Ngài ở. Ngài có sẵn tánh đôn thuần nên lấy việc tiếp đãi làm bổn phận. Vì vậy đạo tục quen biết đều rất ưa mến Ngài. Tuy việc học của Ngài không bao nhiêu nhưng có sẵn trí thông minh trời ban. Nên hễ gặp chuyện giễu cợt cật vấn thì nhất định có cách đối ứng. Ngài tịch vào năm thứ hai Vónh nguyên nhà Tề, thọ sáu mươi bốn tuổi. Sau này chùa Ngõa Quan có ngài Đạo Thân, chùa Bành Thành có ngài Bảo Dữ, chùa Kỳ Xà có ngài Đạo Đăng đều theo học phép tuyên xướng, giọng điệu thanh thoát, lời lẽ hoa mỹ. Chẳng thua bậc tiền bối, làm lay động lòng người. Ngôi chùa Ngài ở do vua Tuyên Vũ Trường Sa sửa lại nhân đó đổi tên là Tuyên Vũ. Luận rằng: Xướng đạo là tuyên xướng lý pháp, khơi mở tâm người vậy. Ngày xưa Phật pháp mới truyền vào, bấy giờ vân tập chỉ bày tuyên xướng danh hiệu Phật, y theo câu văn mà hành lễ. Đến khi Trung Tiêu bị bịnh nặng nhờ sự trợ giúp nên mới tỉnh ngộ. Ông bèn thỉnh những bậc cao đức thăng tòa thuyết pháp, hoặc trình bày nhiều nguyên nhân, hoặc chỉ nêu ví dụ. Sau này ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn đạo nghiệp cao minh, tài ba lỗi lạc, mỗi khi đến trai đàn, Ngài bèn thăng tòa đích thân xướng thuyết. Trước hết nói về nhân quả ba đời, rồi nêu rõ đại ý của buổi trai tăng. Người đời sau truyền trao nhau trở thành lệ cũ. Cho nên hơn mười vị như Đạo Chiếu, Đàm Dónh v.v… đều nối tiếp gương thầy. Vị nào cũng nổi danh đương thời. Cái quý trong việc xướng đạo có bốn điều: Đó là Thanh, Biện, Tài, Bác. Không có giọng điệu thì không thể làm chúng kính phục. Không có sự luận biện thì không đâu hợp thời, không có tài thì lời nói không sắc sảo, không hiểu rộng thì ngôn ngữ không bằng ai. Còn như âm hưởng chuông trống thì tứ chúng cảnh tỉnh tâm, đó là dụng của thanh vậy. Lời sau khi thốt ra thích hợp không sai thì đó là dụng của biện vậy. Lời văn trau chuốt bóng bẩy, ý trong sáng là dụng của tài vậy. Nhiếp dẫn kinh luận, minh chứng bằng sử sách, đó là cái dụng của bác vậy. Nếu ai có đủ bốn điều này thì có thể tùy cơ ứng biến. Đối với năm chúng xuất gia thì phải đề cập ngay đến vô thường, khổ khuyên họ sám hối. Nếu là bậc vua chúa, trưởng giả thì phải thích dẫn chung sách vở thế gian để khéo léo chuyển biến lời văn. Còn đối với người dân bình thường thì phải chỉ ngay những việc thấy nghe trước mắt. Còn đối với dân dã rừng núi thì phải nói những lời dễ hiểu rõ ràng, trách tội cũng phải khéo léo. Những cách biến chuyển này tùy theo việc mà làm, thì mới gọi là biết thời biết người. Lại có tài ăn nói, tuy nhiên cần phải nói lời tha thiết mới khiến người cảm động, việc này là trên hết. Ngày xưa phác họa bậc cao tăng vốn lấy tám khoa để viết thành truyện, nhưng lại nghiên tầm hai kỹ xảo tụng kinh xướng đạo, tuy việc xướng đạo, là sau cuối nhưng làm thức tỉnh thế tục mới là trên hết. Cho nên thêm hai điều này để cho đủ con số mười. Tại sao đêm đau bát Quan trai, phải nhiễu quanh kinh hành hương khói tụ tán, đèn phướn sáng trưng, tứ chúng chuyên tâm, ép tay mật niệm. Khi ấy vị thầy xướng đạo bưng lư trầm khẳng khái, xướng vận ngôn âm lời lẽ tuyệt cùng. Nói đến vô thường thì thân tâm run sợ. Bàn về địa ngục thì khiến cho lệ rơi dầm dề. Trình bày nhân xưa thì như thấy nghiệp cũ. Luận về quả hiện tiền thì giống như lộ rõ lai báo. Kể về chuyện vui thì tâm tình thỏa thích. Kể về những chuyện bi ai thì nuốt lệ ngậm ngùi. Bấy giờ cả chúng thổn thức, toàn thiền đường chìm vào cảnh buồn bã. Năm vóc sát chiếu dập đầu bi ai. Mỗi mỗi đờn chỉ, người người xướng danh Phật. Cho đến nửa đêm, chuông đổ mới thôi. Chính là nói tinh hà dễ đổi mà thắng tập khó lưu. Rồi bảo mọi người mau đem hoài bảo này, chuyên chở tròn đầy sự luyến mộ. Ngay lúc này là cái dụng của thầy xướng đạo. Trong đây nói về việc kinh sư tụng kinh đã thuật chương trước, đều là bởi thưởng ngộ hợp thời, trừ tà lập tín thì có một phần đáng khen. Cho nên xếp vào cuối phần sử truyện của các bậc cao Tăng. Nếu sự tổng tập chưa rộng thì sự lão luyện không nhiều. Đã không có khả năng ứng thời xuất khẩu, thì cần phải học theo bản xưa. Nhưng tài không phải chính mình phát, thì sự chế tác ắt do người khác mà thành, cất lên những cung điệu nhất định mắc phải sai lầm, thì trong đó biên chép lầm lẫn, cũng y theo đó mà học xướng. Đến nỗi Ngư Lỗ hỗn loạn, Thử, Phác nghi nhau, hoặc khi lễ bái, chính giữa sám hối qua loa, đã không gieo trồng từ đời trước thì chính giữa phải hổ thẹn rụt đầu. Lúc xảy ra những khúc mắc, khó tránh khỏi lòng dạ hoang mang, tâm khẩu cách biệt. Lời trước đã qua lâu, mà câu sau chưa nghó được, vén áo ho khẽ để kéo dài thời gian, thính chúng đau lòng, người tham dự phải nói ra. Thí chủ mất phước, lập tức chúng tăng trái với lời dạy của Phật xưa. Đã dứt cơ hội sinh mầm thiện, chỉ tăng sự mê hoặc hý luận, bắt đầu bị sự cơ hiềm quá độ, rốt cuộc mắc phải lỗi lầm của bậc làm thầy. Nếu như vậy sao gọi là bậc cao Tăng ư?  <卷>QUYỂN 14 Đạo mầu rộng lớn, nhờ phương tiện để hiển bày, Lý huyền sâu thẳm nương Tăng bảo truyền trao. Thế nên Thánh tích dần hưng, Hiền năng đổi mới. Biện biệt về Trung, Liệt, Hiếu, Từ thì lấy đạo để định nghóa quân phụ. Biết thi ca lễ nhạc để soạn lời dạy răn tục thế, hoặc quên mất công ơn chuộng cái rỗng tuếch, hoặc thân mang hư vinh mà trọng cái Đạt mệnh này. Thì việc giáo hóa chỉ nằm trong khu vực nhỏ, công lao ấy cũng hạn hẹp. Đây bởi lẽ mới huân tập cho nên chưa đạt đến chỗ mầu nhiệm, thì cũng vẫn quanh quẩn trong tam thế. Nếu lời lẽ cao siêu thì sẽ thấu tột vạn loài. Nếu khơi mở Thập địa, để biện về Tôn tuệ, hiển nhị đế để luận về phủ trí, đó là chỉ tận cùng của tâm tánh, khóa chặt then chốt cuối cùng. Còn những phương tiện khác cũng giống như gom tụ trăm dòng về biển cả. Cung của muôn sao tụ về Bắc thần. Xa xăm thay! Mờ mịt thay! Tín khó được thì lấy lời dẫn khởi. Còn như giáo pháp đầy cả tam thiên, hình biến khắp lục đạo. Tất cả chỉ vì tiếp dẫn kẻ mê muội trở thành lợi ích lớn. Mà vì tịnh uế nghe khác, thăng trầm thấy xa. Cho nên ở phương Tây lấy âm thanh làm chính, còn phương Đông thì lấy sự thấy nghe mới được. Rồng mây biểu trưng cho đêm sáng, phong hổ hiển bày giấc mộng đêm dài. Hồng phong đã là quạt thì đại hóa sẽ dung thông từ đây. Từ đó những danh tăng Tây vực thường đến đây, hoặc truyền bá kinh pháp, hoặc dạy bảo Thiền đạo, hoặc đem điển tích kỳ lạ để hóa độ cho mọi người, hoặc dùng thần lực để cứu người. Từ đời Hán đến đời Lương, niên kỷ đã xa, trải qua sáu thời đại, cũng gần năm trăm năm, phương này và Tây vực (nước phía Tây) cùng nhau khởi phát. Những bậc nhân tài kiệt xuất từ đó nổi lên. Những nhà biên soạn ghi chép khác nhau, Sa-môn Pháp Tế chỉ chép một tích cao siêu. Sa-môn pháp An trình bày một hạnh trong sáng. Sa-môn Tăng Bảo chỉ soạn một khoa du phương. Sa-môn Pháp Tấn thì tuyển soạn chung các luận truyện; mà lời lẻ và cốt truyện đơn sơ. Tất cả đều do sự rườm rà, giản lược, sơ suất mà thành khác nhau. Khảo sát về hành sự thì chưa thấy nó thuộc tông nào. Khang Vương Nghóa Khánh tuyên nghiệm ký và U Minh Lục ở Lâm Xuyên Minh Tường Ký của Vương Đàm ở Thái Nguyên. Bài ký chùa Ích Bộ của Lưu Tuấn ở Bành Thành, bài ký chùa Lương Sư của Sa-môn Đàm Tôn, Cảm Ứng truyện của Vương Diên Tú ở Thái Nguyên, Trưng Ứng truyện của Chu Quân Đài, Sưu Thần Lục của Đào Uyên Minh thuật về những phong cách của các vị thuộc giòng Thánh, nên chỉ là phụ kiến phần nhiều bị sơ sót thất lạc. Tam Bảo ký truyện của Tề Cảnh Lăng Văn Tuyên Vương, hoặc gọi là xưng Phật sử, hoặc gọi là Tăng lục, cùng chép chung với Tam Bảo. Còn mối tương quan giữa lời lẽ thì hỗn loạn khó tìm kiếm, lại thêm lộn xộn rườm rà. Vương Cân ở Lang Da soạn Tăng sử ý dường như đầy đủ tổng quát, nhưng văn chưa trọn vẹn. Sa-môn Tăng Hựu soạn Tam Tạng ký chỉ có hơn ba mươi vị tăng chứ không đông lắm. Đông Sơn tăng truyện của Khích Trung Thư Cảnh Hưng, Lô Sơn Tăng Truyện của Trương Lý Quý ở Tri Trung, mỗi nhà tranh nhau đề xuất sở trường của mình, chẳng thông kim cổ, chỉ bảo tồn một tánh thiện chứ không đề cập đến hạnh khác. Cho đến lúc này cũng có tác giả kế nghiệp. Trong phần xưng tán quá khen ngợi các Ngài, hoặc trong phần tường thuật hành trạng, dẫn ra những lời không xác đáng, tìm câu lễ thật thì không biết đâu để gọi. Hoặc chê trách những đoạn rườm rà mà giản lượt cốt truyện, hoặc che dấu đi kỳ tích của các Ngài tước bỏ rất nhiều, cho rằng kẻ xuất gia sống trong nước nghe theo vua không cần cố gắng vươn lên cao, quyết dứt bỏ vinh hoa, lìa xa ân ái để khác thế tục, làm người hiền thánh. Nếu không luận những điều này thì đâu có gì để ghi chép. Có lần rảnh rỗi xem xét các tác phẩm, bèn sưu tập tạp lục hơn mấy mươi nhà biên soạn. Và sử sách đời Tấn, Tống, Tề Lương, Xuân Thu, những triều đại phiếm xưng như Tần, Triệu, Yến, Lương, các thiên khác như Địa lý, những tạp ký đơn lẽ, đều tham vấn các bậc trượng đức, bô lão để kiểm duyệt lại chuyện thật hư của truyện. Rút ra điểm dị đồng. Bắt đầu từ năm Vónh Bình thứ mười Hán Minh Đế cho đến năm thứ mười tám Thiên Giám nhà Lương là chấm dứt. Tổng cộng bốn trăm năm mươi ba năm, hai trăm năm mươi bảy vị, lại có hơn hai trăm vị thuộc giòng Thánh. Triển khai về đức nghiệp của các Ngài chia làm mười mục lớn: Dịch kinh Giải nghóa Thần dị Tập thiền Minh luật Dị thân Tụng kinh Hưng phước Kinh sư Xướng đạo Nhưng giáo pháp của Phật được truyền sang Đông độ là do công lao của người truyền dịch. Có vị Tăng vượt qua nguy hiểm, có vị bơi thuyền qua sóng cả, đều bỏ thân vì đạo, phó mệnh cho việc hoằng pháp. Chấn Đán được rạng ngời hoàn toàn nhờ vào đó. Đức ấy đáng tôn sùng, cho nên được xếp vào đầu thiên. Nếu tuệ giải, khai thần thì đạo bao hàm vạn ức. Thông cảm ứng hóa, thì dũng mãnh để dẹp yên. Tịnh niệm an thiền thì công đức sung mãn. Hoằng dương tán thán Tỳ-ni thì giới hạnh thanh tịnh, quên thân bỏ thể thì thương xót quên tâm. Ca tụng lời pháp thì thầm hiển điềm tốt, tạo công lập phước thì làm tượng để truyền. Tám khoa này đều do vết tích khác nhau, nên việc hóa độ cũng sai khác. Mà đức cũng phỏng theo tứ y, công cũng nhờ ba nghiệp. Cho nên được các kinh khen ngợi, các Thánh phô bày, và thảo cứu nguồn gốc, trao đổi sự lấy bỏ, đều xếp vào các luận tán, đầy đủ ở văn sau, mà luận về những tác phẩm, lời lẽ hiển rõ hằng thể mới nêu ra đại ý. Giống như tựa trước, chưa biện biệt về thời gian và con người giống như nghi sau. Nếu trong đó nêu ra thứ tự trước sau, nếu cho là phức tạp nên gom chung thành một khoa cuối, gọi chung là luận. Việc đọc tụng tuyên xướng, tuy nguồn xuất phát không xa nhưng cũng có tiếp vật khai ngộ thế tục, thật có công lớn. Cho nên Tề Tống tạp ký đều ghi đủ những bậc kiệt xuất. Nay những nhân vật được trích ra đây đều là những vị có tác dụng siêu tuyệt, và có một phần không cảm. Chỉ xếp vào cuối truyện, còn những sự việc khác lạ thì bỏ đi. Trình bày cả thảy mười khoa, đều nằm rải rác trong các bộ ký. Nay chỉ lượt bớt và gom lại một chỗ, cho nên chỉ tường thuật lại chứ không sáng tác thêm. Ngõ hầu giúp người lật xem nội trong một quyển có thể kiêm cả, các điều cần thiết khác. Còn những lời rườm rà khen ngợi vu vơ, hoặc có vị đức không đáng được nêu, tất cả đều lượt bỏ. Cho nên thuật về các bậc hiền dị của mười ba quyển, cùng với bài tựa lục hợp thành mười bốn trục, gọi là Cao Tăng truyện. Từ đời trước các tác phẩm phần nhiều viết là danh tăng. Nhưng danh là cái đi theo thực chất. Nếu người có thật mà ẩn tích thì có cao mà không có danh. Người ít đức mà gặp thời thì có Danh mà không cao. Danh không cao thì hoàn toàn không có gì đáng để ghi chép. Cao mà không Danh thì nay có đủ trong lục. Cho nên lượt âm danh thay bằng chữ cao. Trong đó bắt đầu sáng tạo hoặc có chỗ sót mất. Nay biên thành mười bốn quyển. Có đủ trong tán luận, lấy ý để đặt định. Như chưa bao quát, người xem sẽ rõ. **** <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN NHẤT Dịch kinh có mười lăm vị: Nhiếp Ma Đằng chùa Bạch Mã Lạc dương nhà Hán Trúc Pháp Lan chùa Bạch Mã Lạc dương. An Thanh ở Lạc dương Chi Lâu Ca Sấm ở Lạc dương (Trúc Phật Điều, An Huyền, Ng- hiêm Phật Điều, Chi Diệu, Khang Thần, Khang Mạnh Tường…) Đàm Kha Ca La người Lạc dương nhà Ngụy (Khương Tăng Hội, Đàm Đế, Bạch Diên) Phang Tăng Hội chùa Kiến Sơ ở Kiến Nghiệp nhà Ngô. Duy Kỳ Nan ở Vũ Xương (Pháp Lập, Pháp Cư) Trúc Đàm Ma La Sát người Trường An nhà Tấn (Nhiếp Thừa Viễn, Nhiếp Đạo Chân) Bạch Viễn người Trường An nhà Tấn (Bạch Pháp Tộ, Kiều Só Độ) Sát) Bạch Thi Lê mật chùa Kiến Sơ, Kiến Khang nhà Tấn. Tăng Già Bạt Trừng người Trường An nhà Tấn (Phật Đồ La Đàm Ma Nan Đề người Trường An nhà Tấn. (Triệu Chính) Tăng Già Đề Bà người ở Lô Sơn nhà Tấn. (Tăng-già La-xoa) Trức Phật niệm ở Trường An nhà Tấn. Đàm Ma Da Xá chùa Tân vùng Giang Lăng nhà Tấn. (Trúc Pháp Độ) <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN HAI Dịch kinh có bảy vị: Cưu Ma La-thật ở Trường An nhà Tấn Phất Nhã Đa La ở Trường An nhà Tấn Đàm Ma Lưu Chi ở Trường An nhà Tấn Tỳ Ma La Xoa chùa Thạch Giản vùng Thọ Xuân nhà Tấn Phật Đà Da Xá ở Trường An nhà Tấn Phật Đà Bạt Đà La chùa Đạo Tràng kinh sư nhà Tấn Đàm Vô Sấm ở Hà Tây nhà Tấn (An Dương Hầu, Đạo Phổ, Pháp Thịnh, Tăng Biểu, Pháp Duy) <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN BA Dịch kinh có mười ba vị: Thích Pháp Hiển ở Tân Tự vùng Giang Lăng nhà Tống Thích Đàm Vô Kiệt người Hoàng Long Phật Đà Thập chùa Long Quang vùng Kiến Khang nhà Tống Phật Đà Bạt Ma người Hà Tây nhà Tống Thích Trí Nghiêm chùa Chỉ Viên kinh sư nhà Tống Thích Bảo Vân núi Lục Hợp nhà Tống Cầu Na Bạt Ma chùa Kỳ Hoàn kinh sư nhà Tống Tăng già Bạt Ma chùa Phụng Thành kinh sư nhà Tống Đàm ma mật Đa chùa Định Lâm Thượng nhà Tống Thích Trí Mãnh Kinh Triệu nhà Tống Cương Lương Da Xá chùa Đạo Lâm kinh sư nhà Tống (Tăng già Đạt Đa, Tăng già La Đa) Cầu Na Bạt Đà La chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tống (Ana- makỳ) Cầu Na Tỳ Địa chùa Chánh Quán Kiến Khang nhà Tống (Tăng già Bà La) <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN BỐN NGHÓA GIẢI Mười bốn người: Chu Só Hành người Lạc dương nhà Tấn (Trúc Thúc Xiển, Vô La Xoa) Chi Hiếu Long Hoài Dương nhà Tấn Khương Tăng Uyên núi Dự Chương nhà Tấn (Khương Pháp sướng, Chi Mẫn Độ) Trúc Pháp Nhã ở Cao Ấp nhà Tấn (Tỳ Phù, Đàm Tướng, Đàm Tập) Khang Pháp Lãng Trung Sơn nhà Tấn (Lệnh Thiều) Trúc Pháp Thừa Đôn Hoàng nhà Tấn (Trúc Pháp Hành, Trúc Pháp Tồn) Trúc Pháp Tiệm núi Ngưỡng Sơn Huyện Diệm nhà Tấn (Trúc Pháp Hữu, Trúc Pháp Uẩn, Trúc Pháp Tế, Khang Pháp Cơ) Chi Tuần núi Ốc châu huyện Diệm nhà Tấn (Chi Pháp Kiền, Trúc Pháp Ngưỡng) Vu Pháp Lan Diệm Sơn nhà Tấn (Trúc Pháp Hưng, Chí Pháp Uyên, Vu Pháp Đạo) Vu Pháp Khai Bạch Sơn huyện Diệm nhà Tấn (Vu Pháp Uy) Vu Đạo Thúy ở Đôn Hoàng nhà Tấn Trúc Pháp Sùng núi Cát Hiện huyện Diệm nhà Tấn. (Đạo Bảo) Trúc Pháp Nghóa núi Thỉ Ninh nhà Tấn Trúc Tăng Độ ở Đông Hoàn nhà Tấn (Trúc Tuệ Siêu) <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN NĂM NGHÓA GIẢI Thích Đạo An chùa Ngũ Cấp Trường An nhà Tấn (Vương gia) Thích Pháp Hòa ở Bồ Bản nhà Tấn Trúc Tăng Lãng ở Thái Sơn nhà Tấn (Chi Lăng Thục) Trúc Pháp Thái chùa Ngõa Quan kinh sư nhà Tấn (Đàm Nhất, Đàm Nhị) Thích Tăng Quang núi Phi Long nhà Tấn (Đạo Hộ) Trúc Tăng Phu chùa Thượng Minh Kinh Châu nhà Tấn Trúc Tăng Phu chùa Ngõa Quan kinh sư nhà Tấn Thích Đàm Dực chùa Trường Sa Kinh Châu nhà Tấn (Tăng Huy) Thích Đàm Ngộ chùa Trường Sa Kinh Châu nhà Tấn Thích Đàm Huy chùa Thượng Minh Kinh Châu nhà Tấn Thích Đạo Lập núi Phú Chu ở Trường An nhà Tấn (Tăng Thường, Pháp Duệ) Thích Đàm Giới chùa Trường Sa nhà Tấn Trúc Pháp Khoáng ở núi Thố Thanh nhà Tấn Trúc Đạo Nhất chùa Đông Sơn ở Hổ Khâu nhà Tấn Ngô (Bạch Đạo Hiến, Đạo Bản, Đảo Thí) Thích Tuệ Kiền chùa Gia Tường Sơn Âm nhà Tấn (Đàm Giới, Trí Minh) <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN SÁU NGHÓA GIẢI Mười ba vị Thích Tuệ Viễn Lô Sơn nhà Tấn Thích Tuệ Trì chùa Long Uyên nhà Thục (Tuệ Nghiêm, Tăng Cung, Đạo Hằng, Đàm Lan) Thích Tuệ Vónh Lô Sơn nhà Tấn (Tăng Dung) Thích Tăng Tế Lô Sơn nhà Tấn Thích Pháp An Tân Dương nhà Tấn Thích Đàm Ung Lô Sơn nhà Tấn Thích Đạo Tổ chùa Ngô Đài nhà Tấ (Tuệ Yếu, Đàm Thuận, Đàm Thuyết, Pháp U, Đạo Hằng, Đạo Thọ) Thích Tăng Khế ở Đại Tự Trường An nhà Tấn (Hoằng Giác) Thích Đạo Dung quận Bành Thành nhà Tấn Thích Đàm Ảnh Trường An nhà Tấn Thích Tăng Duệ Trường An nhà Tấn (Tăng Khai) Thích Đạo Hằng Trường An nhà Tấn (Đạo Tiên) Thích Tăng Triệu Trường An nhà Tấn <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN BẢY NGHÓA GIẢI Ba mươi hai vị: Trúc Đạo Sinh chùa Long Quang kinh sư nhà Tống (Bảo Lâm, Pháp Bảo, Tuệ Sinh). Thích Tuệ Duệ chùa Ô Y kinh sư nhà Tống. Thích Tuệ Nghiêm chùa Đông An kinh sư nhà Tống và Pháp Trí. Thích Tuệ Quán chùa Đạo Tràng kinh sư nhà Tống, Tăng Phục và Pháp Sùng. Thích Tuệ Nghóa chùa Kỳ Hoàn kinh sư nhà Tống và Tăng Dung. Thích Đạo Uyên chùa Bành Thành kinh sư nhà Tống và Tuệ Lâm. Hòa. Thích Tăng Bật chùa Bành Thành kinh sư nhà Tống. Thích Tuệ Tónh người Đông A nhà Tống. Thích Tăng Bào chùa Kỳ Hoàn kinh sư nhà Tống và Pháp Thích Tăng Thuyên chùa Phương Hiển Dư Hàng nhà Tống. Thích Đàm Giám ở Tân Tự Giang Lăng nhà Tống, Đạo Hải, Tuệ Lung, Tuệ Cung, Đàm Tư, Đạo Quảng. Thích Tuệ An chùa Lăng Vân Lô Sơn nhà Tống. Thích Đàm Vô Thành ở Trung Tự Hoài Nam nhà Tống. Thích Tăng Hàm chùa Linh Vị kinh sư nhà Tống và Đạo Hàm. Thích Tăng Triệt chùa Tỳ Bà Giang Lăng nhà Tống và Tăng Trang. Thích Đàm Đế núi Hổ Khâu Ngô Quận nhà Tống. Thích Tăng Đạo chùa Thạch Giản Thọ Xuân nhà Tống, Tăng Nhân, Tăng Âm, Tăng Thành. Thích Đạo Uông chùa Vũ Đảm Thục quận nhà Tống (Phổ Minh, Đạo Duyệt) Thích Tuệ Tónh núi Thiên Trụ Sơn Âm nhà Tống, Tăng Tông. Thích Pháp Mẫn Mi Sơn Trường Sa nhà Tống. Thích Đạo Lượng chùa Đa Bảo Bắc kinh sư nhà Tống, Tịnh Lâm, Tuệ Long. Thích Phạm Mẫn Đan Dương nhà Tống, Tăng Thược. Thích Đạo Ôn chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tống, Tăng Khánh, Tuệ Định, Tăng Cao. Thích Đàm Môn chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tống, Đàm Tế, Đàm Tôn. Thích Tuệ Lượng chùa Hà Viên kinh sư nhà Tống. Thích Tăng Cảnh chùa Định Lâm, hạ nhà Tống, Đàm Long. Thích Tăng Cẩn chùa Linh Căn kinh sư nhà Tống, Đàm Độ, Huyền Vận. Thích Đạo Mãnh chùa Hưng Hoàng kinh sư nhà Tống, Đạo Kiên, Tuệ Loan, Tuệ Phô, Tuệ Huấn, Đạo Minh. Thích Siêu Tấn chùa Linh Gia Sơn Âm nhà Tống, Đàm Tuệ, Đạo Tuệ. Thích Pháp Dao Tiểu Sơn Ngô Hưng nhà Tống, Đàm Dao. Thích Đạo Do chùa Tân An kinh sư nhà Tống, Đạo Tuệ, Tuệ Chỉnh, Giác Thế. Thích Tuệ Đạo chùa Trị Thành kinh sư nhà Tống. <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN TÁM NGHÓA GIẢI Có hai mươi bảy vị: Thích Tăng Uyên Tề Châu nhà Ngụy đời Tề, Tuệ Ký, Đạo Đăng. Thích Đàm Độ nhà ngụy. Thích Đạo Tuệ chùa Trang Nghiêm. (Huyền Thú, Tăng Đạt) Thích Tăng Chung chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tề, Đàm Sám, Đàm Thiên, Tăng Biểu, Tăng Tối, Mẫn Đạt, Tăng Bảo. Thích Tăng Thạnh chùa Thiên Bảo kinh sư nhà Tề. Thích Hoằng Sung chùa Tương cung kinh sư nhà Tề, Pháp Tiên. Thích Trí Lâm quận Cao Xương nhà Tề. Thích Pháp Viên chùa Linh Căn kinh sư nhà Tề, Pháp Ái, Pháp Thường, Trí Hưng. Thích Huyền Sướng núi Tề Hậu quận Thục nhà Tề. Thích Tăng Viễn chùa Định Lâm Thượng, Đạo Tuệ, Pháp Lịnh, Tuệ Thái. Thích Tăng Tuệ chùa Trúc Lâm kinh châu nhà Tề, Đàm Thận, Tuệ Mẫn, Tăng Do. Thích Tăng Nhu chùa Định Lâm Thượng nhà Tề, Hoằng Xứng, Tăng Bạt, Tuệ Hi. Thích Tuệ Cơ núi Pháp Hoa Sơn Âm, nhà Tề, Tăng Hạnh, Tuệ Khôi, Tuệ Húc, Tuệ Thâm, Tuệ Vónh, Pháp Hồng. Thích Tuệ Thứ ở Tạ Tự kinh sư nhà Tề, Tăng Bảo, Tăng Trí, Pháp Trân, Tăng Hưởng, Tăng Mãnh, Pháp Bảo, Tuệ Điều. Thích Tuệ Long chùa Hà Viên kinh sư nhà Tề, Trí Diên, Tăng Biện, Tăng Hiền, Thông Tuệ, Pháp Độ. Thích Tăng Tôn chùa Thái Xương kinh sư nhà Tề, Đàm Ch- uẩn, Pháp Thân, Pháp Chân, Tuệ Lịnh, Tăng Hiền, Pháp Tiên, Pháp Tối, Tăng Kính, Đạo Văn. Thích Pháp An chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tề, Tuệ Quang, Kính Di, Quang Tán, Tuệ Thao, Đạo Tông Thích Tăng Ấn chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tề, Tuệ Long. Thích Pháp Độ Nhiếp Sơn huyện Lanh Nha nhà Tề, Pháp Thiệu, tăng Lãng, Tuệ Khai, Pháp Khai, Tăng Thiện. Thích Trí Tú chùa Trị Thành kinh sư nhà Lương. Pháp Chỉnh, Tăng Nhược, Tăng Duệ, Đạo Thừa. Thích Tuệ Lâm kinh châu nhà Lương. Thích Tăng Thạnh chùa Linh Diệu kinh sư nhà Lương, Pháp Hân, Trí Sưởng, Tăng Hộ, Tăng Thiều. Thích Trí Thuận Vân môn Sơn Tự ở Sơn Âm nhà Lương. Thích Bảo Lượng chùa Linh Vị kinh sư nhà Lương, Đạo Minh, Tăng Thành, Tăng Bảo. Thích Pháp Thông chùa Định Lâm Thượng nhà Lương. Thánh Tấn Thích Tuệ Tập chùa Chiêu Đề kinh sư nhà Lương. Thích Đàm Bùi, Pháp Hoa Đài ở huyện Diệm nhà Lương. (Pháp Tạng, Minh Độ) <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN CHÍN THẦN DỊ Phần nghóa giải có bốn vị: Trúc Phật Đồ Trừng Nghiệp Trung nhà Tấn, Đạo Tấn. Đơn Đạo Khai núi La Phù nhà Tấn. Kỳ Vực Lạc dương nhà Tấn. Trúc Phật Điều Thường Sơn nhà Tấn. <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN MƯỜI THẦN DỊ Có mười sáu vị: Kiền-đà-lặc núi Bàn Chí Lạc dương nhà Tấn Ha La Kiệt núi Lâu Chí Lạc dương nhà Tấn Trúc Pháp Tuệ Tương Dương nhà Tấn. Hoa Lâm An Tuệ Tắc chùa Đại Thị Lạc dương nhà Tấn, Tuệ Trì. Thiệp Công ở Trường An nhà Tấn. Thích Đàm Hoắc Tây Bình nhà Tấn. Sử Tông núi Lỗ Long Thượng nhà Tấn. Bôi Độ kinh sư nhà Tống. Thích Đàm Thỉ Trường An ngụy ngụy. Thích Pháp Lãng Cao Xương nhà Tống. Pháp Chỉnh Thiệu Thạc chùa Thông Vân Dân Sơn nhà Tống. Thích Tuệ An chùa Tỳ Bà Giang Lăng nhà Tống, Tăng Lãm, Pháp Vệ. Sa-di Thích Pháp Quỷ chùa Chỉ Viên kinh sư nhà Tề, Pháp Giai. Thích Tăng Tuệ kinh châu nhà Tề, Tuệ Viễn. Thích Tuệ Thông Thọ Xuân nhà Tề. Thích Bảo Chí kinh sư nhà Lương, Đạo Hương, Tăng Lãng. <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN MƯỜI MỘT TẬP THIỀN - THÔNG LUẬT TẬP THIỀN có hai mươi mốt vị: Trúc Tăng Hiển Giang Tả nhà Tấn. Bạch Tăng Quang núi Ẩn Nhạc huyện Diệm nhà Tấn. Trúc Đàm Do núi Xích Thành Thỉ Phong nhà Tấn, Tuệ Khai, Tuệ Chân. Thích Tuệ Ngôi Trường An nhà Tấn. Thích Hiền Hộ chùa Diêm Hưng Quảng Hán nhà Tấn. Thích Pháp Tự núi Thạch Thất quận Thục nhà Tấn. Thích Huyền Cao Bình Thành nhà Ngụy. Tuệ Sùng Thích Tăng Chu Hám Sơn Trường An. Tăng Lượng Thích Tuệ Thông chùa Thái Hậu Trường An nhà Tống. Thích Tịnh Độ Dư Hàng nhà Tống. Thích Tăng Tùng núi Bộc Bố Thỉ Phong nhà Tống. Thích Pháp Thành Quảng Hán nhà Tống. Thích Tuệ Lãm chùa Trung Hưng kinh sư nhà Tống. Thích Tuệ Kỳ chùa Trường Sa kinh châu nhà Tống, Đạo Quả. Thích Đạo Pháp Thành Đô nhà Tống. Thích Phổ Hằng chùa An Lạc quận Thục nhà Tống. Thích Tăng Thẩm chùa Linh Thứu kinh sư nhà Tề, Tăng Kh- iêm, Pháp Aån, Siêu Chí, Pháp Đạt, Tuệ Thắng. Thích Pháp Ngộ núi phồn Vũ Xương. (Đạo Tế) Thích Đàm Siêu núi Linh Ẩn Tiền Đường. Thích Tuệ Minh núi Xích Thành Thỉ Phong. Thích Chi Đàm Lan núi Xích Thành, Thỉ Phong, nhà Tấn. THÔNG LUẬT có mười ba vị: Thích Tuệ Do Giang Lăng nhà Tống. Thích Tăng Nghiệp chùa Nhàn Cư đất Ngô, Tuệ Quang. Thích Tuệ Tuân, chùa Trường Lạc kinh sư nhà Tống. Thích Tăng Cừ chùa Trang Nghiêm kinh sư nhà Tống, Đạo Viễn. Yến. Thích Đạo Nghiễm quận Bành Thành nhà Tống, Tuệ Diệu. Thích Tăng Ẩn Giang Lăng nhà Tống, Thành Cụ. Thích Đạo Phòng Quảng Hán nhà Tống. Thích Đạo Vinh chùa Nhàn Tâm kinh sư nhà Tống. Tuệ Hựu Thích Chí Đạo chùa Linh Diệu Chung Sơn nhà Tề, Siêu Độ. Thích Pháp Dónh chùa Đa Bảo kinh sư nhà Tề, Tuệ Văn. Thích Pháp Lâm chùa Linh Kiến Thục quận. Thích Tăng Hựu chùa Kiến Sơ kinh sư nhà Tề. Thích Trí Xứng, chùa An Lạc, kinh sư, nhà Tề, Thông Siêu <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN MƯỜI HAI VONG THÂN TỤNG KINH Vong Thân mười một người: Thích Tăng Quần Tiều Sơn nhà Tấn. Thích Đàm Xứng Giá Sơn Bành Thành nhà Tống. Thích Pháp Tấn Cao Xương nhà Tống, Tăng Đạo. Thích Tăng Phú chùa Đình Úy Ngụy Quận nhà Tống. Thích Pháp Vũ Bồ Bản Ngụy Tần nhà Tống, Tuệ Thỉ Thích Tuệ Thiệu chùa Chiêu Đề Lâm Xuyên nhà Tống, Tăng Thích Tăng Du Chùa Chiêu Ẩn Lô Sơn nhà Tống. Thích Tuệ Ích chùa Chiêu Ẩn Lô Sơn nhà Tống. Thích Tăng Khánh chùa Vũ Đảm Thục Quận nhà Tống. Thích Pháp Quang Lủng Tây nhà Tề. Thích Đàm Hoằng Tiên Sơn Giao Chỉ. Tụng kinh có hai mươi mốt vị: Thích Đàm Thúy chùa Bạch Mã Hà Âm nhà Tấn. Thích Pháp Tướng chùa Việt Thành. Đàm Ích, Tăng Pháp Trúc Pháp Thuần chùa Hiển Nghóa Sơn Âm. Thích Tăng Sinh chùa Tam Hiền Thục Quận. Thích Pháp Tôn Pháp Hoa Đài huyện Diệm nhà Tống. Thích Đạo chùa Nam Nhàn kinh sư. Thích Tuệ Khánh Lô Sơn nhà Tống. Thích Phổ Minh Lâm Vị nhà Tống. Thích Pháp Trang chùa Đạo Tràng kinh sư nhà Tống. Thích Tuệ Quả chùa Ngõa Quan kinh sư nhà Tống. Thích Pháp Cung chùa Đông An kinh sư nhà Tống, Tăng Cung. Thích Tăng Phú chùa Bành Thành kinh sư nhà Tống. Thích Tuệ Tấn chùa Cao Tòa kinh sư nhà Tề, Tăng Niệm. Thích Hoằng Minh chùa Bách Lâm Vónh Hưng. Thích Tuệ Dự chùa Linh Căn kinh sư nhà Tề, Pháp Âm. Thích Đạo Tung chùa Định Lâm Thượng nhà Tề. Thích Siêu Biện chùa Định Lâm Thượng nhà Tề, Pháp Minh, Pháp Định. Thích Pháp Tuệ núi Thiện Trụ Sơn Âm nhà Tề, Đàm Du. Thích Tăng Hầu Hậu Cương kinh sư nhà Tề, Tuệ Ôn. Thích Tuệ Di chùa Định Lâm Thượng nhà Lương, Pháp Tiên. Thích Đạo Lâm chùa Tề Kiên Phú Dương. <詞>CAO TĂNG TRUYỆN MỤC LỤC QUYỂN MƯỜI BA TẠO PHƯỚC, KINH SƯ, XƯỚNG ĐẠO Tạo phước có mười bốn vị: Trúc Tuệ Đạt Tinh Châu nhà Tấn. Thích Tuệ Nguyên Bình Sơn Vũ Lăng, Trúc Tuệ Trực. Thích Tuệ Lực chùa Ngõa Quan kinh sư. Thích Tuệ Thọ chùa An Lạc kinh sư. Thích Tăng Tuệ chùa Sùng Minh kinh sư nhà Tống. Thích Tăng Dực núi Pháp Hoa Sơn Âm. Thích Tăng Hồng Dự châu. Thích Tăng Lượng kinh sư. Thích Pháp Ý chùa Diên Hiền kinh sư. Thích Tuệ Kính chùa Vân Phong Nam Hải nhà Tề. Thích Pháp Hiến núi Tàng Vi Nam Hải. Thích Tăng Hộ núi Thạch Thành huyền Diệm nhà Lương. Thích Pháp Duyệt chùa Chánh Giác kinh sư. Thích Pháp Hiến, chùa Định Lâm Thượng, nhà Tề – Huyền Sướng Kinh sư có mười một vị: Bạch Pháp Kiều Trung Sơn nhà Tấn. Chi Đàm Thược chùa Kiến Sơ kinh sư. Thích Pháp Bình chùa Kỳ Hoàn kinh sư. Thích Tăng Nhiêu chùa Bạch Mã kinh sư nhà Tống. Thích Đạo Tuệ chùa An Lạc. Thích Trí Tông Tạ tự. Thích Đàm Thiên chùa Ô Y nhà Tề. Thích Đàm Trí chùa Đông An. Thích Tăng Biện chùa An Lạc. Thích Đàm Bằng chùa Bạch Mã. Thích Tuệ Nhẫn chùa Đa Bảo. Xướng Đạo có mười vị: Thích Đạo Chiếu chùa Kỳ Hoàn kinh sư nhà Tống. Thích Đàm Đỉnh chùa Trường Can. Thích Tuệ Cừ chùa Ngõa Quan. Thích Đàm Tông chùa Linh Vị. Thích Đàm Quang Trung Tự. Thích Tuệ Phân chùa Hưng Phước. Thích Đạo Nho chùa Hưng Phước nhà Tề. Thích Tuệ Trọng chùa Ngõa Quan. Thích Pháp Nguyện chùa Chánh Thắng. Thích Pháp Cảnh chùa Tề Long. Mười khoa mười ba quyển ở trên tổng cộng hai trăm năm mươi bảy vị. Đệ tử Cô Tử Vương Mạn Dónh cúi đầu đảnh lễ, một ngày mong mỏi chỉ bày tuyển soạn Cao Tăng Truyện. Tất cả gắng sức tìm tòi từ đầu đến cuối. Chỉ thấy những bậc anh tài, giấy rách mực phai còn chưa thể ngưng. Còn như pháp mầu đã được danh đức làm hưng thạnh rồi. Thời gian trải qua năm trăm và sáu thời đại. Từ khi Ma Đằng, Trúc Pháp Lan xuất phát từ Tây Vực; An Hầu, Chi Sấm, chống tích sang Đông đô, tuy dấu vết có xuất hiện rồi chìm mất, hành thực có sâu cạn nhưng đều làm cầu đò để lợi ích nên phải biên chép in ấn định lời để chỉ bày soi sáng hàng hậu côn tán chương những bậc tiền bối, như Đạo An, La-thập được nêu trong sách Tần. Phật Trừng, Đạo Tấn xem thấy trong sách nhà Triệu, sử nhà Tấn được thu góp để định đương thời. Sách Tống còn lại thì nhân đó mà tập hợp. Đồng thời lại pha lẫn ký của Quân Đài trộn vào thuyết của Nguyên Lượng, cảm ứng hoặc do thảo luận. Đen trắng đều rõ ràng, làm rõ những câu văn liên quan nhưng chưa đủ xiển dương. Trong đó có các chuyện chưa có sự tổng quát chung. Cảnh Hưng tình cờ chọn người ở núi. Tăng Bảo chỉ mến kẻ du phương. Pháp Tế chỉ trình bày hạnh cao dật. Pháp An chỉ đặt tên khoa tiết hạnh. Khang Hoằng chuyên ghi đơn khai. Vương Quý chỉ khen cao tòa. Tăng Dụ chỉ chép những bậc trác tuyệt. Huyền Sướng, Siêu Nhiên, Cô Lục chỉ có thích Pháp Tấn sáng tác, Vương Cân có ý trước tác. Còn tóm thâu một nhà thật hay. Nhưng Tấn danh rộng mà chưa lớn. Cân thể lập mà chưa xong. Những tác giả đời Lương cũng có những chứng bịnh này. Tăng Hựu thành đã giống với lỗi của Pháp Tế. Hiếu Tú nhiễm chút lại bị Cảnh Hưng chê trách, Xương công soạn tập những điều thật gần đây, tìm thấy ý thô hèn, càng hận lại buồn hơn. Pháp sư chế tác văn này mới gọi là hồng bút mà không san định. Xuyên suốt cả cổ kim, bao quát trong ngoài. Lời lẽ sự việc không hay không đẹp. Đó là rườm rà khó tỉnh lược, bảo giản bớt đâu cần thêm. Lấy cao làm danh, đã khiến người hổ chẳng theo kịp. Mở thí dụ thành rộng hơn đủ khiến người khích lệ theo thiện. Ngày xưa vài ba chư tử lần lượt soạn tuyển, đâu được định vài lượng ngắn cùng năm cùng ngày để nói ư? Những môn đồ tín tâm rốt không có một lời để khen. Nơi chợ búa giả đặt mức thưởng ngàn vàng mới khiến người vào hàm rồng leo lên bệ lân. Ra vào trong lầu vàng điện ngọc, đệ tử tuy không thông minh nhưng thuở nhỏ đã có tính hiếu học. Đến ngày tuổi già sức yếu các cảnh mê mờ. Nhưng còn được lật xem bộ sách này, ở đây tán ngưỡng chẳng phí, thảo luận đâu có nơi nào, quả thật Phi tử xem thấu luận nguyên tắc. Lương Quý xử đạo biết sách giúp thôi lo. Đồ Thâm, Tạ An, mộ Trúc Khoáng phong lưu, Ân Hạo Đạn, Chi Tuần anh tuấn. Cả mười ngày tận tình nỗ lực, cố gắng để thay những sự chê trách. Đệ tử Cô tử Vương Mạn Vónh cúi đầu đảnh lễ. Quân Bạch một ngày tuyển chọn soạn Cao Tăng Truyện. Ý như bài khuyên răng, mà khi viết thì rất nhiều giấy, lại trau chuốt thêm. Nhưng đạo nhờ người hoằng, lý nương giáo hiển. Mà hoằng đạo thích giáo chẳng chuộng Cao Tăng nên thâm nhiễm đã lâu làm tỏ di pháp. Công lớn hạnh nhiều làm liệt Tổ chấn hưng. Thúc dục hậu sinh, lý phải xuyêt suốt. Bần đạo thuở nhỏ ôm kinh đọc sách, hâm mộ lời hay ý đẹp trong mực đen. Cho nên ngoài thời gian xem xét nghe kinh thì để tâm nơi truyện lục. Mỗi khi thấy một điều đáng khen bèn để lòng suy xét nhiều lần. Nhưng tìm tòi các bài ký phức tạp, hoặc chép chỗ bất đồng ghi những điều sai khác, hoặc hành trạng còn mất. Khi xem rõ rồi trình bày riêng và gom đủ để trình bày. Cho nên không lượng cỡ chữ bèn lập mười khoa, thảo luận rành mạch. Lời ý tóm gọn mà nét bút rộng lớn. Từ ngữ nông cạn, vốn do sơ suất. Đâu dám lạm vào hàng đàn việt cao minh, đã học kiêm Khổng, Thích. Giải quán huyền Nho, thêm vào cho văn vẻ hoa mỹ. Trong ngoài đều có đủ. Lúc rảnh rỗi dở xem cho tường tận, nên quên đi kẻ thô bỉ lạm xưng là cửa rồng. Bởi hạnh trạng các Ngài cao siêu mà lời lẽ của kẻ viết thì dân dã nên lòng vô cùng tủi thẹn. Lại bảo phô trương càng nên rùng mình. Nay trước thuật lại thành mười khoa luận tán, chú trọng điều đã giản lược. Nếu có sự sai nhầm xin thư tội. Thích Tuệ Kiểu. Truyện này là do ngài Tuệ Kiểu chùa Gia Tường, Cối Kê soạn. Pháp sư là người thông nội ngoại điển, giỏi giảng kinh luật. Trước tác mười quyển Niết-bàn sớ, Phạm Võng giới đẳng nghóa sớ, đều làm khuôn mẫu ở đời. Còn soạn mười ba quyển Cao Tăng Truyện này. Thái tuế, Quý dậu niên hiệu Thừa thánh thứ hai cuối nhà Lương lánh nạn Hầu Cảnh đến Phân Thành, giảng thuyết trong một thời gian ngắn. Tháng hai năm Giáp Tuất, Ngài thâu thần thị tịch, thọ năm mươi tám tuổi. Tăng chánh tuệ Cung ở Giang châu mai táng di thể của Ngài ở mộ chùa Thiền Các, Lô Sơn. Ngài Tăng Quả chùa Long Quang cùng lánh nạn ở núi, khi thấy vậy bèn biên chép hành trạng vào kia.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 184