<經 id="n2058">PHÓ PHÁP TẠNG NHÂN DUYÊN TRUYỆN (QUYỂN 1 ~ 6) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN PHÓ PHÁP TẠNG NHÂN DUYÊN TRUYỆN Đời Nguyên Ngụy – Tam tạng Tây Vực là Kiết-già-dạ cùng Đàm Diệu dịch ra Hán Tạng. <卷>QUYỂN 1 Kính lễ vô biên tế Khứ lai hiện tại Phật Đẳng không bất động trí Cứu thế đại bi tôn Xưa Đức Bạt-già-bà ở trong vô lượng kiếp vì chúng sanh cầu đạo tối thắng, thành tựu các hạnh khổ, khó hành, xả bỏ hết thân, hình, đầu, mắt, tay chân, tuỷ cho đến, vợ con, cung điện, thành ấp, thần dân. Có lúc từ trên núi cao nhảy vào lửa làm cho thân thể tiêu tan. Hoặc có lúc lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích máu làm mực viết bài kệ bốn câu cúng dường cầu bậc minh sư bẩm thọ chư Phật. Khởi lòng từ bi thương xót chúng sinh, chuyên tu công đức vạn thiện phát thệ nguyện lớn. Như trong kinh Ngũ Bách Bổn Sinh có rộng nói. Khi bổn học đã đầy đủ, Phật ngồi kiết-già dưới gốc cây Bồ-đề, thành tựu chánh giác. Thiên ma ở cõi trời thứ sáu thấy vậy rất là lo sợ, nghó Phật thành đạo ắt sẽ thắng ta. Thế rồi ma thống lãnh mười tám vạn ức quyến thuộc ma, đến thọ vương bảo với Bồ-tát rằng: ông nay hãy mau trở về hoàng cung, nếu không thì ta sẽ nắm chân ông ném ra biển lớn. Bấy giờ Bồ-tát tâm như sư tử vương không hề lo sợ, bảo với ma vương rằng: Ba-tuần! Ông từng cúng dường một vị Bích-chi-phật lại thọ tám trai giới. Do phước đức mà được làm thiên vương. Nhưng ta đã ở trong a-tăng-kỳ kiếp tu hành thành tựu những hành khổ khó hành. Khi đại địa không có chút bụi nhỏ như đầu kim nào mà không phải chỗ ta đã tu hành khổ hạnh xưa mà giả sử như hằng hà sa ma chúng cũng không thể khuynh đảo một cộng lông của ta. Tại sao ngươi nay lại có ý muốn quăng ta vào đại dương. Ma vương lại nói: Tôi ngày trước cúng dường cho vị Bích-chi-phật mà được làm thiên chủ. Việc này rõ ràng. Nay lời ông nói đó lấy gì làm chứng? Thế là Bồ-tát chỉ tay xuống đất nói: Vị thần này biết ta. Lúc ấy Địa Thần từ đất Kim Cang hiện thân ra, chắp tay thưa thỉnh: Đúng như lời Bồ-tát dạy. Đất này có ta là thần chủ. Đất này không có chút nhỏ xíu nào như đầu kim mà không phải là bổn hạnh của Bồ- tát. Ma vương nghe lời này, điên đảo biến mất. Bồ-tát phá được ma quân thành tựu tối chánh giác. Tam minh tỏ chiếu lục thông chứng đắc tự tại. Đầy đủ tâm đại bi biện tài vô ngại. Phật chứng quả Bồ-đề, thuyết pháp người người đều tín thọ, xướng pháp vi diệu, cứu độ quần sinh. Ví như Kim Cang không có gì làm tan hoại được. Giáo pháp của Như Lai cũng như thế, có thể trừ diệt hết phiền não kiết hoặc của chúng sinh. Như Lai du hóa khắp các quốc độ tụ lạc thành ấp. Đem pháp thanh tịnh diệt trừ hết tà độc, hàng phục ngoại đạo, lập ra pháp tràng tối thắng. Đóng hết cửa ác thú, mở đạo Niết-bàn, hóa duyên xong rồi Phật liền diệt độ, bảo đại đệ tử là Ma-ha Ca-diếp rằng: Ông nay nên biết ta ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh mà cần tu khổ hạnh, nhất tâm chuyên cầu vô thượng thắng pháp. Như nguyện ta ngày trước nay đã được đầy đủ. Ca-diếp nên biết ví như mây đen kéo tụ khắp thế giới, mưa cam lồ tuôn xuống làm cho cây cối sinh trưởng. Mưa pháp vô thượng cũng lại như thế, có thể làm cho chúng sinh tăng trưởng thiện căn, do đây mà càng lễ bái cúng dường tán thán cung kính, ủng hộ chư Phật. Nay ta sắp nhập Niết-bàn, đem pháp thâm diệu này phó chúc lại cho ông. Sau này ông nên kính thuận theo lời ta dạy, rộng tuyên lưu bố đừng để đoạn tuyệt. Ngài Ca-diếp bạch: Lành thay! Con xin thọ giáo, phụng trì chánh pháp như thế, khiến cho chúng sinh đời vị lai gặp nhiều lợi ích. Duy nguyện Đức Như Lai chớ lo lắng. Thế là sau khi Như Lai diệt độ rồi ngài Ma-ha Ca-diếp lần lượt tuyên nói chánh pháp, kiết tập pháp tạng Phật mà giáo hóa chúng sinh, làm cho chúng sinh thối chuyển không còn thối chuyển. Ngài Ca-diếp là bực trí huệ uyên bác sâu xa, tiếng tăm vang dội đầy đủ công đưcù. Nay cũng nên tuỳ thuận nói hạnh nguyện của Ngài. Trong đời quá khứ lâu xa có Phật Tỳ-bà-thi, sau khi giáo hóa chúng sinh xong rồi Ngài liền nhập Niết-bàn. Bốn bộ đệ tử đều sinh tâm buồn thương lưu luyến, thu lấy xá-lợi xây tháp bảy báu cúng dường, thật là trang nghiêm vi diệu tốt đẹp. Bấy giờ trong tháp có tượng của Như Lai, mặt kim sắc có chút hư hoại. Khi đó có một cô gái nghèo đi xin ăn được một viên kim châu trong lòng rất vui mừng, ý muốn đem tu bổ lại tượng Phật. Ngài Ca-diếp khi đó làm thợ bạc, cô gái liền đem hột châu tới xin tu tạo. Khi đó người thợ bạc nghe người này muốn làm phước, hoan hỷ làm theo lời cô gái, xong xuôi lại phát nguyện rằng: Nguyện cho hai chúng con sinh ra thường làm vợ chồng được thân chân kim sắc hằng thọ thắng lạc. Vì nhân duyên này trải qua chín mươi mốt kiếp được thân kim sắc, sinh trong trời người, được hưởng khoái lạc vô tận. Cuối cùng sinh vào tầng trời thứ bảy. Khi ấy ở nước Ma-kiệt-đà có vị Bà-la-môn tên là Ni-câu-luật-đà ở trong đời quá khứ ông lâu xa tu tập thắng nghiệp. Đây là bực bác học đa tài trí huệ sâu xa về sản nghiệp lại giàu có của cải vô lượng. Nào kim, ngân, lưu-ly, ngọc bích cho đến trâu, dê, ruộng, vừơn, nhà cửa, tôi tớ, xe cộ, so với vua Ma-kiệt thì thù thắng hơn cả vạn lần. Khi đó Bình- sa Vương khí cụ cày cấy bằng vàng có cả ngàn cái. Vị Bà-la-môn kia sợ mắc tội với vua, nên sắm ít hơn một cái, chỉ có chín trăm chín mươi chín cái. Nhà ông có nệm dạ, mỗi cái cũng ít nhất cả trăm ngàn lượng vàng. Dùng đinh đóng vào đất bảy thước các loại da này vẫn không bị xuyên thủng. Do được phước đức mà giàu có như thế. Nhưng lại không có con cái. Trưởng giả suy nghó: -Ta nay già yếu giờ chết sắp đến kho tàng châu báu không biết giao phó cho ai! Ở bên cạnh nhà ông có thờ thần Thọ lâm. Vị Bà-la-môn kia vì cầu con cho nên đi đến cầu thỉnh ở đây. Trải qua nhiều năm mà không có linh ứng. Bấy giờ Câu-luật-đà rất giận dữ bèn nói thần Cây rằng: Tôi cầu đến ông đã trải qua nhiều năm mà không có được chút phước ứng nào. Tôi nay sẽ cầu thỉnh ông trong bảy ngày nếu không linh nghiệm sẽ nổi lửa thiêu đốt. Thần Cây nghe xong rất lấy làm lo sợ mới hướng về Tứ thiên vương trình bày mọi việc. Thế là Tứ thiên vương đi đến bạch với Đế- thích. Đế-thích quán xét khắp cõi Diêm-phù-đề không ai có đủ phước đức làm con của người này. Đế-thích liền đi đến Phạm vương nói rõ việc này. Phạm vương liền dùng thiên nhãn xem thấy có vị Phạm thiên sắp mạng chung, liền báo rằng: Ngươi nếu bị giáng thần thì nên sinh vào nhà vị Bà-la-môn này ở cõi Diêm-phù-đề. Phạm thiên đáp: Pháp của Bà-la-môn phần nhiều là ác tà kiến, tôi không thể làm con vị này được. Phạm vương lại nói: Vị Bà-la-môn kia có đại uy đức. Người trong cõi Diêm-phù-đề không ai có đủ phước để sinh về đó. Nếu ông sinh về đó ta sẽ ủng hộ, không để cho ông tự tánh vào tà kiến đâu. Phạm thiên bằng lòng, kính thừa theo Thánh giáo. Thế rồi Đế- thích liền về hướng thần cây nói rõ việc này. Thần Cây hoan hỷ đi đến nhà Bà-la-môn nói: Ông chớ nên giận ta, sau bảy ngày ông sẽ được như nguyện. Sau bảy ngày thì người vợ liền có thai, đầy đủ mười tháng sinh ra một đứa con trai, dung mạo rất là đoan chánh, toàn thân đều là chân sắc vàng, chói sáng rực rỡ khắp cả do-tuần. Tướng sư nói rằng: Đứa bé này đời trước có uy đức lớn, chí lực trong sạch sâu xa không tham cầu thế sự, nếu xuất gia sẽ đắc quả vô thượng. Tuổi tuy nhỏ mà chí niệm thanh tịnh sâu xa, lòng từ bi rộng khắp. Thường sống hạnh thiểu dục tri túc, hằng quán thế lạc là vô thường nguy ách, chưa từng khởi tưởng ưa thích dục. Lúc ấy cha mẹ thấy con như thế thì tâm sinh sầu não, nói với nhau rằng: “Khi đứa bé sinh ra, tướng sư bảo rằng ắt là sẽ xuất gia. Nay phải làm thế nào để đoạn tuyệt được chí của con. “Họ lại suy nghó, ở đời sự đắm trước duy chỉ có mỹ sắc, vậy cần kiếm người hôn phối xinh đẹp tuyệt trần thì mới có thể đoạn tuyệt được chí này. Đến năm mười lăm tuổi cha mẹ muốn cưới vợ cho, Ca-diếp nghe nói lòng vô cùng sầu não, liền thưa với cha mẹ rằng: Chí con thanh tịnh không muốn lấy vợ. Nói như thế đến ba lần nhưng cha mẹ không bằng lòng. Ca-diếp tự biết việc này khó tránh được mới tìm cách thưa với cha mẹ rằng: - nếu có thể tìm được người con gái có tư dung sắc vàng hơn đời thì con mới ưng chịu, nếu không được thì trọn đời không lấy vợ. Khi ấy cha mẹ rất kính niệm ý của con, cho nên không làm trái nguyện. Họ liền sai các vị Bà-la-môn đi tìm khắp các nước. Nếu có người con gái nào có thân chân kim sắc đoan nghiêm thì cưới về. Chư Bà-la-môn cùng nhau bàn tính: hãy đúc một người bằng vàng nhan sắc thật là kỳ đặc, cho người khiêng đi khắp cùng làng cuối xóm, lớn tiếng xướng rằng: nếu có người con gái nào thấy kim thần này mà lễ bái cúng dường thì đời sau ắt sẽ được trí tuệ vi diệu, được thân kim sắc. Những cô gái nghe lời này đều tìm đến lễ bái. Bấy giờ có người con gái dung nghi thật xinh đẹp sắc vàng tía, tánh tình lại nhu hoà, trí tuệ thì sâu sắc. Đây chính là cô gái kim châu (vàng ngọc) ngày trước vậy. Do thắng duyên ngày xưa mà có được thân vi diệu này, cô gái này lại lập chí kiên cố không ra bên ngoài. Các cô gái hỏi ý thì cô bảo: Các chị! ý tôi ưa nhàn tịnh chứ không có gì khác nên không thích ra ngoài. Khi ấy các cô gái ép cô này đi đến xem kim thần. Hình mạo tư dung của cô gái chói sáng rực rỡ làm cho ánh sáng của thần vàng bị lu mờ. Chư Bà-la-môn liền hỏi cô gái cho Ca-diếp. Đôi bên bằng lòng giao ước ngày thành hôn. Cô gái nghe vậy lòng cũng rất sầu não. Cho đến ngày xuất giá hai người vẫn giữ chí thanh cao trong sạch. Tuy là vợ chồng mà lại không có ý dục, cùng lập thệ rằng: chúng ta nên ở khác phòng không nên gần gũi. Khi cha mẹ biết được việc này liền bảo người phá bớt một phòng. Phòng kia duy chỉ để một giường. Thế rồi Ca-diếp liền giao ước với vợ: nay trong phòng chỉ có một giường hai chúng ta sẽ không cùng ngủ chung. Nếu tôi ngủ thì cô đi kinh hành, cô ngủ thì tôi đi kinh hành. Sau đó trong đêm ngài Ca-diếp đi kinh hành, người vợ nằm ngủ, tay để trước giường. Bên ngoài có con rắn độc từ cửa bò vào muốn cắn vào tay người vợ. Ca-diếp vì lòng từ mẫn nên bước đến lấy áo quấn tay rồi lấy tay vợ đặt lên giường. Người vợ liền tỉnh giấc và trách rằng: ông là người vô trí nên mới làm vậy. Đã cùng tôi lập nguyện giao ước rồi nay vì sao lại tự tiện nắm tay tôi như thế. Ca-diếp nói: Tôi không vì dục tình mà đụng chạm vào người cô. Có con rắn từ ngoài bò vào sợ làm thương hại cô, cho nên tôi mới nắm tay bỏ lên. Con rắn vẫn còn trong phòng, Ca-diếp bèn chỉ. Người vợ lúc đó mới hiểu. Thế là cả hai vợ chồng nhàm chán sinh tử xa lìa hết sự khoái lạc. Như người tắm rửa sạch sẽ không thích bụi bặm nữa. Hai người đến cha mẹ xin xuất gia. Khi song thân bằng lòng, hai vị xuất gia làm Sa-môn thanh tịnh, giữ giới sống đời Phạm hạnh vô vi vô dục. Ở chỗ vắng vẻ cần tu khổ hạnh, ngài Ca-diếp phát lời thệ nguyện: những bậc thành tựu quả La-hán ở trên thế gian này ta đều quy y. Phát nguyện rồi thì xuất gia oai nghi giới đức đều đầy đủ. Sau đó khi Phật thành tựu quả trí nói ra pháp vi diệu. Lúc ấy ngài Ca-diếp mặc y phấn tảo đi đến chỗ Phật chắp tay cúi đầu cung kính lễ bái rồi bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con nay quy y đấng vô thượng thanh tịnh, nguyện Phật từ bi thương xót. Đức Thế Tôn khen rằng: Thiện lai Ca-diếp rồi Phật phân ra nửa toà bảo Ca-diếp lên ngồi. Ca-diếp thưa: con là đệ tử mạt hạnh của Như Lai lại được Phật nhường toà cho ngồi thật con không dám tuân theo. Khi đó chúng hội đều sinh nghi hoặc nói rằng: Lão Sa-môn này có đức khác thường gì mà được Đấng Chí Tôn nhường toà cho ngồi? Sự thù thắng của vị này duy chỉ có Phật mới biết được thôi. Khi ấy Đức Như Lai biết rõ tâm niệm của đại chúng, muốn phá trừ sự nghi lầm của họ mới nói rõ những hạnh nguyện sâu xa của ngài Ca-diếp. Thế Tôn lại nói: Ta nay đem các công đức đại từ đại bi, Tứ thiền tam-muội để tự trang nghiêm, Tỳ-kheo Ca-diếp cũng lại như thế. Lại ở trong quá khứ sâu xa có một vị thánh vương tên là Văn Đà Kiệt, là một bậc cao tài siêu thế, có trí tuệ vô luân. Khi đó vị Thiên Đế-thích rất hâm mộ đức hạnh của vua mới làm một chiếc xe bảy báu đến cung nghinh vua. Thế là vua theo xe trời bay lên cõi thiên cung ở. Thiên đế ra nghinh tiếp vào cùng ngồi, tiếp đãi vua nồng hậu đầy đủ khoái lạc sau đó đưa vua trở về cung. Phật bảo chúng Tỳ-kheo: Thiên Đế ngày trước chính là Ca-diếp ngày nay vậy. Vua Văn-đà-kiệt chính là ta bây giờ. Ca-diếp xưa kia đem toà sinh tử chia cho ta cùng ngồi cho nên ta nay đã thành tựu quả vô thượng, đem toà chánh pháp báo lại ân xưa. Đức Thế Tôn liền vì ngài Ca-diếp thuyết pháp lời lại theo căn cơ của Ngài, ví như tấm vải trắng sạch để nhuộm mày, ngài Ca-diếp ở trên bảo tòa chứng được quả A-la-hán. Đầy đủ tam minh lục thông cùng tám pháp giải thoát. Ngài là bậc cao tài dũng mãnh dung nghi đều an tường, thường cùng Như Lai đối toà thuyết pháp. Bấy giờ, hàng nhân thiên đều gọi Ngài là Thế Tôn Sư. Do đó ngài Ca-diếp liền tạ từ Đức Như Lai đi đến núi Kỳ-xà-quật hang Tất-bát-la. Núi này có nhiều sông suối chảy qua, cây cối xum xuê, hoa quả dồi dào, trăm thú đều tụ tập lại đây, chim lành bay lượn véo von. Trên mặt đất có đầy các loại kim, ngân, lưu-ly. Ngài Ca-diếp ở nơi đây đi kinh hành thiền quán, tuyên dương diệu pháp độ các chúng sinh. Cho đến sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn thì ánh sáng chiếu sáng, khắp cả mặt đất chấn động, ngài Ca-diếp suy nghó: đây chẳng phải là do Đức Như Lai sắp nhập Niết-bàn sao? Rồi Ngài nhập vào tam-muội dùng thiên nhãn quán sát thấy Đức Thế Tôn toàn thân xả thọ bên dòng sông Hi-liên. Quán sát xong thì Ngài buồn bã âu sầu nói: Như Lai vì sao mà nhập Niết-bàn nhanh thế. Con mắt thế gian đã diệt thì các điều bất thiện sẽ tăng trưởng. Thế rồi ngài Ca-diếp liền đem đồ đệ trước sau đi nhiễu quanh hướng về thành Câu-thi-na lễ bái Đức Thế Tôn. Khi đó ở ngoài đường có một vị Phạm Chí tay mặt cầm lấy một nhánh hoa mạn- đà-la, ngài Ca-diếp mới hỏi: Ông từ đâu đến, có biết thầy tôi không? Đáp: tôi có biết, đã nhập Niết-bàn bảy ngày rồi. Tất cả hàng nhân thiên đều thiết lễ cúng dường. Tôi hái nhánh hoa này từ nơi đó Chư Tỳ-kheo nghe xong đều gieo mình xuống đất than khóc thảm thiết và nói rằng: Than ôi! Lực vô thường thật là lớn lao, có thể huỷ hoại hết công đức bảo như thế, làm khô kiệt hết biển pháp, nghiêng ngửa cả pháp tràng. Thế gian vónh viễn mất ánh đại quang minh. Tất cả chúng sinh không còn chỗ để tôn nghinh cung ngưỡng. Hàng nhân thiên bị giảm tổn, ác đạo tăng trưởng. Vô thường quả là một đại hoạn cho thế gian. Ví như điện chớp không thể dừng lại lâu dài còn vô thường nhanh chóng cũng khó bảo tồn. Nó có thể làm biến hoại hết sắc lực thọ mạng của con người, tiêu diệt hết niềm ái lạc của thế gian. Người ngu chấp giữ, người trí thì không. Ngài Ca-diếp cùng chúng Tỳ-kheo cùng đi đến rừng Ta-la song thọ đi nhiễu quanh áo quan Phật ba vòng, cúi đầu làm lễ rồi nói kệ rằng: Hay thay vượt ba cõi Thoát khỏi dòng sinh tử Tịch nhiên không tướng nguyện Vi diệu khó nghó bàn Phật nhật thật minh tịnh Trừ hết si ngu ám Nhiều kiếp tu khổ hạnh Thệ độ chúng nhân khổ Vì sao mà hôm nay Xả bỏ đại từ bi Toàn thân nơi kim quan Tịch nhiên an bất động Duy nguyện thiên nhân tôn Hiển hiện thân kim săc Khiến cho tất cả chúng Hưng khởi nguyện vô lượng. Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong kim quan đưa chân kim sắc ra chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Quan quách không hở mà chân hiện ra làm cho đại chúng nhìn thấy việc này càng áo não than khóc không dứt. Khi đó ngài Ca-diếp trịch bày vai hữu, quỳ xuống làm lễ bên chân Phật lại nói kệ rằng: Gót chân Như Lai đầy Ngàn trướng hoa luân hiện Tay nhọn dài mềm nhuyễn Hợp thành màn như lưới Đại bi độ quần sinh Đoạn nghi kết của chúng Cho nên tức là ngày nay Đảnh lễ chân tối thắng Ta chứng bốn chân đế Nói Phật công đức tụ Đã tán thán cung kính Chân bèn thu nhập lại. Ngài Ca-diếp bảo các vị lực só đem ra ngàn tấm vải liệm để quấn thân Phật lại, rưới dầu thơm khắp thân và đậy nắp quan lại đem củi chiên-đàn làm lễ trà tỳ Đức Thế Tôn. A-nan nhìn ngọn lửa càng khóc lóc thảm thiết rồi nói kệ rằng: Thương thay vô thường Thật đáng lo sợ Huỷ diệt như thế Bảo tụ công đức Thân này Thế Tôn Thanh tịnh vô cấu Nay ở kim quan Dùng ngàn tấm dạ Rưới đầy dầu thơm Đốt cũi chiên đàn Thân vi diệu thắng Sao không tồn tại. Khi ấy ngài Ca-diếp rưới nước diệt lửa lại nói kệ tán thán: Ngàn lụa buộc thân Ngọn lửa thiêu đốt Phật dùng thần lực Trong còn một y Ngoài cũng không cháy Giữa đều thiêu rụi Thần lực thù thắng Không thể nghó bàn. Ngài Ca-diếp nói kệ xong rồi, liền bảo chúng Tỳ-kheo rằng: _ Phật đã trà tỳ, còn xá-lợi chẳng phải là việc của chúng ta. Vì sao? Vì các vị quốc vương, trưởng giả, đại thần cư só cầu phước tối thắng cần phải cúng dường. Còn chúng ta nên kết tập pháp nhãn chớ để Phật pháp suy đồi. Vì muốn soi sáng cho đời vị lai, thiệu Long tam bảo không kh- iến cho đoạn tuyệt. Khi đó ngài Ca-diếp cùng chư Tỳ-kheo đi đến thành Vương Xá, hang Tất-bát-la. Vua A-xà-thế đắc vô căn tín, sau khi Đức Như Lai diệt độ rồi. Chúng quần thần cùng nhau thương nghị: Tín tâm của Đại vương giống như biển cả, siêu vượt cả thế giới nhân thiên. Nếu vua nghe tin Đức Thế Tôn nhập diệt ắt sẽ đau đớn buồn khóc thảm thương. Vậy ta làm sao để tránh được nạn này đây. Có một vị đại thần tên là Vũ-xá, là người có trí tuệ lại khéo dùng phương tiện, cho đào một ao đồng ngang dọc khoảng vài nhận đem nước tịnh hương tưới đầy trong đó mời Vua vào ngồi trong ao đó. Rồi họ lại dùng vải trắng sạch, hoạ khắc lên đó hình tượng bổn hạnh của Đức Như Lai. Đó là các hình Bồ-tát từ cung trời đâu-suất cưỡi bạch tượng giáng hạ vào thai mẹ. Cha là vua Tịnh-phạn, mẹ là Ma-da. Ở trong thai đầy đủ mười tháng thì sinh ra. Khi lọt lòng thì có Đế-thích nâng đỡ lên. Nan-đà Long vương và Bạt-nan-đà Long vương phun nước tắm rửa cho Bồ-tát. Đại quỷ thần vương Ma-ni-bạt-đà, tay cầm bảo cái đứng hầu một bên, Địa Thân hóa ra các búp nâng chân Bồ-tát. Bốn phương đều đi đủ bảy bước. Cho đến Thiên Miếu cũng khiến các tượng chư thiên đứng lên cung nghinh. Tiên nhân A-tư-đà bồng lên xem tướng, xem tướng xong thì buồn rầu ảo não. Tự xót thương mình tuổi già sức yếu không được nhìn thấy Phật. Thái tử lớn lên các môn thi thơ học thuật đều thông suốt. Khi ở tại thâm cung thì có sáu vạn thể nữ theo hầu thọ đủ thứ hỷ lạc, vẽ cảnh Thái tử ra khỏi thành du ngoạn cho đến vừơn Ca-tỳ-la, đi dạo thấy người già và sa-môn. Trở về cung thấy các thể nữ dung mạo hình thể như xương khô. Cung điện nguy nga cũng chẳng khác gì mồ mả. Từ đó Thái Tử sinh tâm nhàm chán, nửa đêm vượt tường đi xuất gia, đến các nơi ở của các vị tiên nhân như Uất-đà-già, A-la-duy…, nghe giảng về thức xứ và phi hữu tưởng phi vô tưởng định. Khi nghe xong một pháp nào, Ngài đều quán sát sâu xa biết rõ các pháp vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã. Sau cùng ngài lìa bỏ hết các nơi đó đến ngồi dưới gốc cây tu hành khổ hạnh suốt sáu năm. Biết rõ pháp tu khổ hạnh không thể đắc đạo, bấy giờ ngài lại đến sông A-lợi-bạt đề để tắm rửa. Lúc này có hai cô gái chăn bò. Vì muốn cúng lễ thọ thần các cô lấy sữa của một ngàn con bò ra cho năm trăm con uống lần lượt như vậy rồi lấy sữa của những con đó cho một con uống. Lấy sữa của con bò đó nấu thành cháo, đem cháo đó chưng lại cho đặc. Có vị Bà-la-môn hỏi: - các cô nấu sữa này muốn đem cho ai? Cô gái đáp: cầu lễ thần cây. Bà-la-môn nói: - vị thần nào có thể thọ được thức ăn này. Duy chỉ có bậc thành tựu nhất thiết trí, mới có thể thọ dụng sự cúng dường đây. Thế rồi hai cô gái đem dâng cúng cho Bồ-tát. Bồ-tát liền nạp thọ. Sau đó Ngài đi đến dưới gốc cây Bồ-đề phá được ma ba-tuần thành tựu đẳng chánh giác. Đức Thế Tôn đến thành Ba-la-nại sơ chuyển pháp luân độ cho năm vị Tỳ-kheo. Cho đến ở trong thành Câu-thi nhập Niết- bàn. Các bức tượng khắc hoạ đầy đủ các cảnh như thế. Vua hỏi quần thần: Các ông làm gì đây? Đáp: thưa Đại vương! Bọn thần hoạ tượng công đức của Đức Như Lai kế đến là các hình biến diệt độ của Đức Thế Tôn. Vua càng kinh ngạc, các lỗ chân lông dựng đứng, tâm lưu luyến đau xót, nhớ nghó Đức Như Lai. Một phần năm dầu trong ao này, tự nhiên chảy vào thân vua, ví như chén đất nung nóng thảy vào ao liền hút nước. Do nhân duyên này mà mạng sống được cứu độ. Vua A-xà-thế lòng càng kính tín, cảm nhớ Đức Như Lai những việc như thế này. Vua nghe có ngài Ca-diếp đến lòng rất vui mừng, cho sửa sang đường sá đốt hương rải hoa. Vua tự cưỡi bạch tượng ra ngoài thành cung nghinh Tôn giả. Trước kia mỗi khi gặp Phật, vua từ lưng voi gieo mình xuống đất cung kính lễ bái, nay thấy ngài Ca-diếp thì cũng làm như vậy. Ngài Ca-diếp dùng thần lực đỡ lấy không để cho vua bị thưong rồi bảo với vua: - Phật lực thù thắng không như chúng Thanh văn. Thanh văn khi nhập định mới có thần túc. Từ đây về sau khi thấy là chớ quăng mình xuống thân voi nữa. Vua thưa vâng rồi bạch với Ca-diếp: Đức Như Lai nhập Niết-bàn tôi không được nhìn thấy. Tôn giả nếu có diệt độ xin nói cho tôi biết. Ca-diếp bằng lòng nhân đó nói với vua rằng: Trí tuệ của Đức Như Lai thật sâu xa có thể làm tiêu trừ hết lửa tam độc trong tâm chúng sinh, có thể làm khô cây đại thụ mười hai nhân duyên, hàng chư thiên, thế nhân đều mong được lợi ích. Nay Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, con mắt thế gian đã hoại diệt. Thế là các việc sinh lão bịnh tử ưu bi khổ não càng xoay mạnh bạo. Ta muốn làm ngọn đèn tuệ cho tất cả chúng sinh nên cùng chư Tỳ-kheo kiết tập Phật pháp tạng. Đối với việc này vua nên cúng dươnøg đầy đủ. Vua đáp: lành thay! Nguyện chư Thánh só hằng thọ sự cúng dường của con. Thế rồi ngài Ca-diếp bảo với A-na-luật: Chư La-hán có ai không đến. Ngài A-na-luật đáp: có Kiều-phạm-ba-đê ở Đại cung Thi-lợi-sa vẫn chưa đến. Ngài Ca-diếp bảo với Lợi-bà-đề: - Ông đi đến cung Thi-lợi-sa bảo với Kiều-phạm-bà-đề rằng: ngài Đại Ca-diếp có tăng sự muốn gặp ngài. Bấy giờ ngài Lợi-bà-đề bay lên hư không đi đến cung trời, trình bày đầy đủ lại các lời trên. Tôn giả mới hỏi: - Đức Thế Tôn ở đâu mà ngài Ca-diếp lại mời, ngài Lợi-bà-đề nói: Đức Thế Tôn đã nhập diệt, cầu pháp đã hoại, núi pháp đã băng, đèn pháp đã diệt khiến cho cuộc đời trở nên tăm tối. Kiều-phạm-ba-đề than rằng: khổ thay! Khắp thế gian đã trở thành không hư, ma ba tuần nay chắc đang vui mừng. Chúng sinh ngu si bị vô minh che lấp, lưu chuyển trong sinh tử, chìm trong lưới ma. Ngày nay Phật nhập Niết-bàn vónh viễn không còn nơi cứu hộ thật là thương xót. Rồi Ngài nói với Lợi-ba-đề: ông có thể thay ta đảnh lễ ngài Ca-diếp và chư Thánh chúng. Nói Kiều-phạm-ba-đề xin từ tạ ngài Ca-diếp. Đức Thế Tôn còn tại thế thì ta nên đến lễ bái cúng dường. Nay Phật đã nhập Niết-bàn, khắp thế gian trở thành trống vắng, quán cõi Diêm-phù-đề này không có điều gì vui. Như Đại Long vương khi đã xả bỏ thân thì long tử cũng tuỳ theo, Ta cũng như thế. Nay Ta cũng muốn nhập Niết- bàn. Nói xong thì Ngài liền nhập diệt. Như thế có nhiều vị nghe Phật nhập diệt cũng lần lượt nhập diệt. Ngài Ca-diếp liền nói: - chưa kiết tập pháp tạng chớ vội nhập Niết-bàn. Khi đó chúng Tỳ-kheo hỏi ngài Ca-diếp: Trước tiên nên kiết tập pháp gì? Ca-diếp đáp: trước kiết tập Tu-đa-la. Chúng lại hỏi: khiến ai tụng tập Tu-đa-la. Ca-diếp đáp: Tỳ-kheo A-nan là người đa văn có trí tuệ, thường theo Đức Như Lai tu Phạm hạnh thanh tịnh. Ở trong tối hậu pháp làm lợi an cho chúng tăng, tri kiến đầy đủ nên thường được Phật khen ngợi. Nên có thể nhờ ông tụng lại Tu-đa-la. Bấy giờ Ca-diếp liền bảo A-nan: Ông nay nên nói lại pháp nhãn. A-nan vâng lệnh. Ngài liền quan sát tâm chúng sinh và nói kệ rằng: Tỳ-kheo chư quyến thuộc Lìa Phật không trang nghiêm Dụ như trong hư không Trời đầy sao không trăng. Nói kệ xong rồi ngài A-nan làm lễ xuống chân chúng tăng rồi bay lên bảo toà nói pháp: “ Như thế tôi nghe, một thời Phật ở tại thành Ba-la-nại trong vườn Lộc dã là nơi ở của cổ tiên, ban đầu chuyển pháp luân cho năm vị Tỳ-kheo. Đó là các pháp khổ thánh đế… như thế rộng nói. Nói các pháp như thế đã xong. Năm trăm vị La-hán liền bay lên hư không, lớn tiếng xướng rằng: Lạ thay vô thường thật quá nhanh chóng, như dòng sông chảy qua không bao giờ trở lại. Chúng ta trước kia mắt nhìn Đức Thế Tôn nay được nghe nói. Thế là chư đại chúng đồng khóc lóc mà nói kệ rằng: Buồn thay các sự khổ Khuấy động như trăng nước Không cứng như ba tiêu Cũng như huyễn ảnh hưởng Như Lai đại dõng mãnh Công đức siêu tam giới Dụ như gió vô thường Phiêu lưu mà không trụ Năm trăm vị La-hán nóikệ xong rồi liền bay lại chỗ ngồi. Khi ấy ngài Ca-diếp hỏi chư Tỳ-kheo: A Nan nói không sai chứ? Đáp: không khác gì Đức Thế Tôn nói. Thế rồi ngài Ca-diếp bảo ngài Ưu-ba-ly kiết tập lại Tạng-tỳ-ni, còn Ca-diếp thì tự nói lại tạng A- tỳ-đàm. Sau khi kiết tập pháp tạng xong ngài Ma-ha Ca-diếp liền nói kệ rằng: Đem tôn pháp luân này Cứu độ hết chúng sinh Thập lực đều đã nói Cùng nên khuyên tu hành Pháp này là đèn sáng Hay phá đều hắc ám Chư Hiền nên thọ trì Chớ khiến sinh phóng dật Bấy giờ ngài Ca-diếp nhập vào trong nguyện trí tam-muội, xem xét pháp tạng kiết tập không có chỗ thiếu sót. Tư duy biết tất cả đã đầy đủ liền khởi niệm nghó: Đấng Như Lai là bậc Thiện tri thức, làm lợi lạc an ổn cho chúng sinh như mẹ thương con. Ta nay đem pháp lợi lạc đồng như Phạm hạnh khỏi lòng đại bi khai thị cho chúng sinh đời sau. Muốn đem đại pháp lưu truyền không dứt mới báo đáp được ân đức của Đức Như Lai. Ta nay tuổi đã lớn, thân thể già suy, sự vô thường khó tránh, không thể y trì lại thường bị các sự khổ não bức hại. Ai là người có trí mà yêu thích thân này. Ta nay nên diệt nhập Niết-bàn. Ngài lại tư duy: ta nay nên thể hiện lòng đại từ đại bi của Phật Bà-già-bà chân Thiện tri thức huân tập vô lượng tịnh thiện công đức đến chỗ xá-lợi vi diệu của Phật, cung kính lễ bái cúng dường. Nói rồi Ngài liền bay lên hư không đến nơi tứ tháp lễ bái cúng dường. Lại đến bát tháp chí tâm cung kính. Cũng như nhạn vương bay đến cung Sa-già-la ở đại hải lễ kính răng Phật. Như đại tráng só đưa tay lên đảnh là đụng tới cung trời Đao-lợi. Thích-đề-hoàn-nhân cùng chúng chư thiên, ra cung kính lễ lạy ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp bảo với Thích-đề-hoàn-nhân: Ta muốn nhập Niết-bàn. Vì lễ tóc của Đức Như Lai cho nên đến đây. Thích-đề-hoàn-nhân nghe xong lời này, tâm rất u buồn khóc lóc bi thương. Rồi tự tay dâng tóc Phật cho ngài Ca-diếp, Ca-diếp thọ nhận tóc thì hết lòng lễ kính, dùng ngưu đầu Chiên-đàn để cúng dường. Sau đó chư thiên đều lần lượt lễ lạy,“Đời ngũ dục vô thường không thể bảo tồn lâu dài, như hoa trong sương móc thấy được mặt trời là điều hy hữu. Duy chỉ có thiện pháp sâu xa là an vui vónh cửu. Nên quán khổ không, cẩn thận chớ có buông lung.” Ngài nói xong liền quay trở về thành Vương Xá. A-nan theo sau không rời một bước sợ ngài nhập Niết-bàn mà không thấy được. Sau đó không lâu ngài Ma-ha Ca-diếp bảo A Nan rằng: - ông đi một mình vào thành trứơc rồi ta cũng đến đó. Rồi ngài Ca-diếp đắp y cầm bát đi vào thành Vương Xá và suy nghó: - vua A-xà-thế vốn đã giao ước với ta. Khi ta nhập Niết-bàn ắt sẽ đến gặp ta, ta nay nên đến báo cho vua biết. Đến cung vua, ngài nói với người giữ cửa: Vào bạch Vua nói là có Ca-diếp đến. Người giữ cửa nói: nay vua đang ngủ. Nếu thức dậy sợ rằng vua sẽ nổi giận bắt tội. Ca-diếp nói: khi vua thức dậy, ngươi thưa lại là: ngài Ca-diếp muốn nhập Niết-bàn muốn từ biệt vua. Khi ngài về đến núi Kê Túc, liền trải cỏ ngồi kiết-già, rồi phát nguyện rằng: Nay thân ta mặc y phấn tảo của Phật, giữ lấy bình bát của mình cho đến thời Di-lặc không để cho mục nát. Khiến cho chúng đệ tử kia thấy được thân ta mà sinh lòng nhàm chán. Ngài lại nghó: - vua A-xà-thế nếu không gặp ta, ắt sẽ thổ huyết, tánh mạng khó bảo toàn. Nếu khi Vua và A-nan đến thì khiến cho núi mở ra, nếu trở ra thì núi sẽ đóng lại như cũ. Rồi Ngài nhập diệt duy chỉ còn một chút hơi thở. Khi đó cả đại địa đều chấn động, Thích-đề-hoàn-nhân cùng như thiên, đem hoa mạn-đà-la cùng các loại mạt hương, đến cúng dường xá-lợi. Ai nấy đều khóc thương bi não và nói rằng: Đức Như Lai diệt độ lòng cảm thương chưa dứt, nay ngài Ca-diếp nhập Niết-bàn càng làm cho lòng ta thêm áo não. Hang Tất-bát-la rồi đây sẽ hoang vắng. Những kẻ khốn khổ đầu đường xó chợ đều được Ngài xót thương cứu giúp nay Ngài ra đi lấy ai cứu độ. Như ngày rằm trời không có mây, trăng sao cũng không hiện ra. Thánh chúng của Đức Như Lai cũng như thế. Đức Thế Tôn trụ thế cũng giống như trăng sao, mây vô thường chết làm sao khơi dậy. Một khi phước điền tối thắng bị che mất khiến cho chư thiên sinh lòng bi cảm than khóc lóc thật là ảo não rồi về lại cõi trời. Vua A-xà-thế trong giấc ngủ nằm mộng thấy cầu nhà đều bị gãy sụp. Khi thức dậy Vua kinh hãi trong lòng hồi hộp. Người gác cửa vào bạch với Vua: ngài Ca-diếp muốn nhập Niết-bàn, đến gặp vua từ biệt nhưng ngài đang ngủ. Vua nghe nói lòng bi não quá đổi liền té nhào xuống đất bất tỉnh. Tuỳ tùng lấy nứơc đắp vào mặt để cho vua tỉnh lại. Vua lại cất tiếng khóc lớn: ta thật là bạc phước, nghiệp chướng sâu dày, chư Thánh nhập Niết-bàn mà ta cũng không được gặp. Sau đó vua đi đến vườn Trúc, lễ lạy dưới chân ngài A-nan bạch rằng: Ngài Ca-diếp đã diệt độ chưa? Ngài A-nan đáp: đã nhập Niết-bàn rồi. Nay ở đâu? Tôi muốn đến cúng dường. Thế rồi A-nan cùng vua A-xà-thế đi đến núi Kê Túc. Khi vua đến thì núi tự nhiên mở ra, ngài Ca-diếp ở bên trong hang núi thân thể vẫn không bị huỷ nát. Hoa mạn- đà-la phủ đầy ở trên. Vua nhìn thấy rồi phát thinh khóc lớn, thân thể vật vã xuống đất. Sau đó Vua đem các loại cây hương đến muốn làm lễ trà-tỳ. Ngài A-nan hỏi: Vua muốn làm gì đó? Đáp: muốn trà tỳ ngài Ca-diếp. Ngài A-nan bảo: tôn giả Ca-diếp dùng định trụ thân để đợi đến khi ngài Di-lặc ra đời, không nên trà tỳ. Khi ngài Di-lặc ra đời thì hàng đồ chúng chín mưoi sáu ức đi đến núi nầy trông thấy ngài Ca-diếp liền nghó rằng: đệ tử Đức Thích-ca Như Lai thân thể kém tệ như thế, Phật kia chắc cũng giống như vậy. thế là ngài Ca-diếp bay lên hư không thị hiện ra mười bảy loại thần biến, biến thành thân hình to lớn đầy khắp cả thế giới. Lúc đó Phật Di Lặc tới lấy Tăng-già-lê của ngài Ca-diếp. Chư đại chúng trông thấy thần lực như thế liền trừ hết tâm kiêu mạn, thành tựu quả La-hán. Vua cúng dường xong thì trở về nước. Núi Kê Túc trở lại như cũ.  NHÂN DUYÊN PHÓ PHÁP TẠNG <卷>QUYỂN 2 Đức Ma-ha Ca-diếp lúc sắp nhập Niết-bàn, đem giáo pháp tối thắng phó chúc cho ngài A-nan. Ngài nói rằng: Trưởng lão nên biết, xưa đức Bạt-già-phạm đem giáo pháp chúc phó lại cho ta. Ta nay tuổi đã già yếu việc nhập diệt sẽ đến. Thắng nhãn thế gian nay muốn giao phó lại cho ông. Ông nên tinh cần giữ gìn giáo pháp này. A Nan thưa: xin vâng, xin nguyện thọ trí. Thế là A-nan diễn xướng diệu pháp hóa độ chúng sinh. Nhưng do đời trước có đại công đức, trí huệ sâu xa đa văn túc trí. Phật từng khen ngợi là người tổng trì đệ nhất, có đủ khả năng nghe thọ pháp tạng của chư Phật, như biển lớn thâu nạp cả trăm sông, tiếng tăm bay xa, người người đều biết. Công đức như thế không thể cùng tận. Ta nên tuỳ thuận nói ra nhân duyên này: Vào đời quá khứ trải qua a-tăng-kỳ kiếp, vào thời Định Quang Như Lai, là một vị sa-môn có nuôi một Sa-di. Thường bảo Sa-di tụng tập ngày đêm, dạy bảo không hề mỏi mệt. Nếu vị này có chút lỗi lầm thì liền quở trách. Lúc này Sa-di vì thầy mà đi khất thực. Nhưng vì còn ít kinh chưa tụng đủ, nên lại bị thầy quở mắng. Sa-di vì đó nên rất khổ não. sau đó vì thầy khất thực thì vừa đi vừa tụng, có vị trưởng giả thấy vậy thì lấy làm lạ mới hỏi. Sa-di đáp: thầy tôi nghiêm dạy, bảo tôi tụng tập. Đi khất thực tức không đủ số, do đó nên tôi vừa đi vừa tụng cho đủ. Trưởng giả đáp: thầy chớ sinh ưu não. từ nay về sau tôi sẽ cúng dường đầy đủ. Thầy cứ lo chuyên cần tụng tập kinh điển. Thế là Sa Di không còn đi khất thực nữ, từ đó về sau tụng kinh đầy đủ. Sa-di đó chính là Đức Thế Tôn. Còn vị trưởng lão này là A-nan. Do phước duyên này mà A-nan có được trí tuệ thâm diệu, tổng trì sâu xa. Đa văn hiểu rộng, không thể nói cho cùng tận. Cho đến Phật-bà-già-bà thành tựu quả vô thượng chánh giác, tuyên dương diệu pháp, giáo hóa chúng sinh. Thế là A-nan tự mình tư duy: thế gian là lao ngục không thể nào yêu thích được. Các pháp ngũ dục như huyễn không có chắc thật. Quả là đáng sợ còn hơn rắn độc. Khi còn trẻ thì dung nhan còn xem là rất đẹp, nhưng rồi cũng bị già bịnh làm cho tàn hại. Vô thường tấn tốc mau như nước dốc, nuốt diệt tất cả mọi sự ân ái hội tụ. Các vị vương tử ngày xưa uy đức thật là tự tại, vì gió vô thường làm cho suy yếu, ưu bi khổ não liên tục không dứt, ái la-sát nữ thường khi dối chúng sinh, ta làm sao tránh được nạn này. Đức Thế Tôn thần trí thật là siêu diệt. Vốn từ dòng họ Thích đi xuất gia học đạo. Ta nay nên đến xin làm đệ tử. Nói rồi liền tìm đến chỗ Phật cầu xin xuất gia. Phật bảo: thiện lại. A-nan liền trở thành sa-môn, khi đó Như Lai liền vì ông mà thuyết pháp, đó là các pháp bố thí, trì giới tu tập sinh về cõi trời. Dục là bất tịnh, ra khỏi đó là pháp tối thiện. Ý ngay đó liền tỏ ngộ thành tựu quả Tu-đà-hoàn. Tâm niệm Phật muốn có người làm thị giả. Ngài Kiều-trần-như liền đi đến chỗ Phật cầu làm thị giả. Phật nói: Kiều-trần-như ông nay già yếu còn cần có người chăm sóc, làm sao làm thị giả cho ta được. Thế là năm trăm vị đại đệ tử đi đến chỗ Phật cầu làm thị giả. Phật đều không cho, tất cả đều lễ Phật lui ra. Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên dùng tha tâm trí, quán tâm Như Lai ở nơi chỗ của A-nan, như mặt trời mới mọc, ánh sáng chiếu tỏ bức tường phía Tây. Ngài cùng chư Tỳ-kheo bảo A-nan: Phật Phật đang cần nhân giả làm thị giả cho ngài. Ông mau đến lễ cầu thắng giác. A-nan nói: uy đức của Như Lai cũng như đại long, nay tôi uế nhược không dám nhận lãnh. Chư Tỳ-kheo bảo: A-nan nên biết, Đức Thế Tôn chỉ chuyên tâm vào ông, nên mau đến phụng lễ chớ để Phật đợi lâu. A-nan liền vâng lệnh nhưng cầu xin ba ước nguyện: Đó là không thọ y cũ của Như Lai. Nếu có đồ ăn dư của Phật xin đem cho người khác. Thời tiết tiến hiện đều theo tôi xét định. Ba nguyện nếu được toại ý thì tôi mới thọ giáo. Bấy giờ chư Tỳ-kheo đến chỗ Đức Thế Tôn cúi đầu làm lễ thưa lạy đầy đủ mọi việc. Như Lai khen ngợi: lành thay! A-nan. Ông thật là người có trí tuệ, khéo biết thời nghi. Không chỉ bây giờ mà nhiều kiếp lâu xa trước cũng đã như thế. Các ông nên lắng nghe, ta nay sẽ nói: từ thời quá khứ xa xưa, có các vị vua ngụ tại thành Bà-sí. Ở trong thành này có một vị Bà-la-môn tên là Câu-lâu-đà, là bậc thiên tài xuất thế thông minh bác đạt, hàng cư só ở trong nước thảy đều tôn kính. Vị Bà-la-môn này giàu có của cải vô lượng, nhưng không có con để nối dõi nên ông rất buồn. Đã mười hai năm rồi ông thường thỉnh cầu chư thiên. Cuối cùng thì đại phu nhân biết mình có thai,đủ ngày tháng thì sinh ra một bé trai dung nhan xinh xắn, thân sắc tử kim. Có vị tướng Sư đoán rằng: đây là đứa con phước đức, thế là bèn đặt tên cho nó là Đại Thí. Khi cậu bé lớn khôn mới xin cha mẹ cho đi du ngoạn. Cha ra lệnh cho sửa sang lại đường xá, cho trổi các thứ kỷ nhạc, đốt hương tán hoa. Đại Thí khi đi ra ngoài du ngoạn, trước đường thấy một người ăn xin, áo quần rách rưới, cất tiếng cầu khẩn bi ai. Đại Thí bèn hỏi: vì sao lại như thế! Người ăn xin đáp: tôi vì nghèo khổ cô độc lại bệnh hoạn bức bách, cho nên mới đi xin. Đại Thí nghe qua lòng rất đau xót nói: nhân loại thật đáng thương xót, ngu si che mất tâm tánh nên bị đắm đuối trong ngũ dục, và bị lão bịnh tử naõ hại. Ở trong đó thản nhiên tìm khoái lạc, không tu thiện nghiệp nên thọ lấy ác quả. Lạ thay! Ở trong đường hiểm nạn thật đáng lo sợ. Sau đó Đại Thí lại đi lên phía trước,thấy người thợ săn đang giăng lưới bắt chim,kẻ khai ruộng bắt cá,phần nhiều đều làm thương hại. Đại Thí hỏi: vì sao lại như thế? Mọi người đáp: tổ phụ chúng tôi từ xưa đến nay đều làm việc này. Vì cuộc sống và đóng thuế cho nhà nước, chi dụng một lúc hết nên cứ nghèo khổ thiếu thốn. Đại Thí nghe qua lòng càng thương cảm. Lòng đại bi hưng khởi và tự suy tư: thương thay cho chúng sinh không có trí tuệ, tội nghiệp tích tụ lâu xa nên chịu cảnh bần cùng khốn khổ. Ở nơi chỗ tối tăm thật đáng lo sợ. Vậy mà nay lại tạo ra ác nghiệp như thế. Giết hại mọi loài chúng sinh, ác nghiệp tăng trưởng ác nghiệp bất thiện đầy dẫy, luân hồi trong ngũ đạo làm sao mà khỏi. Ta nay lập phương tiện cứu hộ.ở nơi sinh tử nhiệt não phải làm cho mát mẽ. Đại Thí nghó xong tìm cách đi vào biển lớn,đến cung Long vương để cầu ngọc châu Như ý, ông trông thấy một thành vàng toả sáng vàng chói rực rỡ. Có các loài rắn độc bao quanh không thể nào đến gần được, ông liền nhập vào từ định vượt lên trên mà vào. Long vương bước ra lễ lạy cung kính nghinh đón. Cùng nhau ân cần thăm hỏi rồi bước vào bên trong. Long vương hỏi: nhân giả vì sao lại đến đây? Đại Thí đáp: người trong cõi Diêm-phù-đề nghèo khổ, nên gây thật nhiềi việc giết hại, mạng chung ắt sẽ sinh vào ác đạo. Tôi vì thương xót họ, trải bao gian khổ để đến được nơi này, cầu được ngọc Như ý để đem về cứu nạn, làm lợi ích cho chúng sinh. Long vương nói: tốt! Tôi sẽ làm theo ý nguyện của Ngài, chỉ xin lưu lại đây ít lâu thuyết pháp cho tôi nghe. Đại Thí bằng lòng. Ở lại đó bốn tháng, diễn xướng các pháp danh tự đầu đuôi, lần lượt tuỳ thuận giải nghóa câu cú. Long vương chí tâm lắng nghe suy nghó, đưa ra các câu hỏi rất đúng thời nghi, tuỳ theo thời tiết mà suy lường. Trải qua bốn tháng Đại Thí liền từ biệt trở về. Long vương cởi hạt châu nơi búi tóc đưa cho, nhân đó phát thệ rằng: Đại só từ bi thật là sâu xa, tất rồi sẽ thành tựu chánh đẳng chánh giác. Nguyện cho tôi được làm một vị đệ tử đa văn, thế là Đại Thí dùng châu Như ý làm ra mưa bảy báu, người trong Diêm-phù-đề thảy đều được an lạc, tu hành thập thiện, cuối cùng đều được sinh thiên. Các Tỳ-kheo nên biết, Đại Thí lúc ấy chính là ta đây, Long vương là A-nan bây giờ. Làm thân Long vương mà còn biết thời nghi, huống gì bây giờ mà không thông đạt. Cho nên A-nan làm thị giả cho Như Lai thì rất tuỳ thuận. A-nan có thể nghe trì pháp tạng ban đầu không mất vô lậu. Cho đến khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn ở Ta La Song Thọ. Đức Thế Tôn hỏi Kiều-trần-như là bây giờ A-nan ở tại đâu. Đáp: đang ở ngoài rừng Ta-la, bị các chúng quỷ nhiễu loạn, rơi vào lưới tà rất là khổ não, trừ Phật ra thì không ai cứu được. Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: Đức Thế Tôn! Trong đại chúng có chư Bồ-tát, ở trong vô lượng kiếp phát tâm Bồ-đề, tu nguyện hạnh lâu xa không còn thối chuyển. Nếu so ra thì có thể thọ trì được pháp tạng của Như Lai, vì sao lại chỉ hỏi A-nan. Phật bảo: Văn-thù! Tỳ-kheo A-nan theo hầu ta đã lâu, ban đầu không có lỗi gì, thành tựu các việc đầy đủ không thể nói biết. Khi nghe pháp thì khéo thọ trì, cũng như rót nước vào vật khác. Được mọi người khát ngưỡng, cho nên ta hỏi A-nan ở đâu. Nay ở ngoài đạo tràng cách đây mười hai do-tuần, bị chúng ma nhiễu loạn, ông đem chú của ta đến đó giải nạn cho A-nan. Văn-thù-sư-lợi đi đến chỗ ma nói chú Đà-la-ni, ma nghe thần chú liền buông thả A-nan ra. A-nan cùng văn-thù cùng đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ lạy rồi đi sang một bên. Đức Thế Tôn sau nửa đêm đó thì nhập Niết-bàn, chúng thiên nhân đều thiết lễ cúng dường làm lễ trà tỳ. Khi sự việc đã xong ngài Ma-ha Ca-diếp cùng chư La-hán, muốn kiết tập kinh điển tại Vương xá thành. A-nan lúc này vẫn còn ở tại học địa, vì hữu lậu chưa dứt hết nên không thể dự vào Thánh chúng. Bấy giờ có Tỳ-kheo tên là Bà-xá-phất, liền nói bài kệ tụng để A-nan giác ngộ. Bậc đa văn thù thắng/ An tịnh trong núi rừng/ Nên quán tất cả pháp/ Giả dối không bền vững/ Sống chết nhiều hoạn nạn/ Niết-bàn thật trong mát/ Con Cù-đàm cần phải/ Siêng tu hạnh vô lậu/ Nhế thế không bao lâu/ Sẽ được lạc đề nhất. A-nan nghe rồi, suốt đêm đó đi kinh hành. Tuy chuyên cần khổ tu mà vẫn không đắc quả A-la-hán, thân thể mệt mỏi liền muốn nằm ngủ, đầu chưa chạm gối thì liền đắc quả, tam minh vô ngại, lục thông thanh triệt. Ngài liền bay vào hang Tất-bát-la, đứng ngoài cửa mà nói kệ rằng: Đa văn biện tài Hầu cận chánh giác Cù đàm A-nan Nay ở ngoài cửa Lúc này Ca-diếp nói kệ đáp: Ông đã dứt các khổ Bỏ hết những phiền não Nên ứng hiện thần không Cho chúng cùng chứng biết Thế là Ngài A-nan bèn dùng thần thông xuyên vách đá mà vào, làm lễ chúng tăng rồi theo thứ tự mà ngồi, vâng lệnh Ca-diếp diễn tập lại thắng nhãn. Cho nên khi Ngài Ca-diếp nhập Niết-bàn, Ngài cùng vua A-xà-thế đi đến núi Kê túc đốt hương rải hoa tán thán cúng dường. Vua nói: nhân giả! Như Lai và ngài Ca-diếp đã nhập Niết-bàn, tôi vì nghiệp chướng sâu dày nên không được thấy. Tôn giả nếu nhập Niết-bàn xin cho tôi biết. A-nan chấp nhận. Rồi Ngài đi các nơi tuyên dương diệu pháp, hóa độ cho tất cả chúng sinh. Cuối cùng Ngài đi đến nơi vườn trúc, nghe có Tỳ-kheo tụng một bài kệ: Nếu người sống trăm tuổi Không thấy con hạc già Không bằng sống một ngày Mà được nhìn thấy đó. A-nan nghe xong thì buồn bã than thở. Pháp nhãn thế gian suy diệt sao mà mau thế. Các pháp ác vì sao liền khởi. Vì trái với Thánh giáo nên sinh ra vọng tưởng, không có trí huệ nên thường ở trong tăm tối. Vónh viễn luân chuyển trong biển sanh tử khổ não, bị lão bệnh tử bức bách Ngài nói với vị Tỳ-kheo đó: đây chẳng phải là lời Phật nói. Không nên tu theo, ông nên biết rằng: hai người cùng huỷ báng Phật, một là, tuy đa văn mà sinh tà kiến. Hai là, không hiểu thâm nghóa mà điên đảo vọng thuyết. Hai điều này tự làm thương hại không thể lìa được tam ác đạo. Ông nên lắng nghe ta nói lại bài kệ: Nếu người sống trăm tuổi Không hiểu pháp sinh diệt Không bằng sống một ngày Mà hiểu rõ Phật pháp Bấy giờ Tỳ-kheo đến thưa lại lời A-nan với thầy mình. Vị Thầy bảo: Ngài A-nan già cả lẩm cẩm rồi, nên trí tuệ lu mờ, nói nhiều điều lầm lẫn không thể tin được.con nên y như trước mà tụng tập. A-nan sau đó lại nghe vị Tỳ-kheo vẫn đọc sai như trên bèn hỏi vì sao, tỳ-kheo nói lại lời thầy mình. A-nan nghe qua suy nghó, vị kia xem thường lời nói ta, hoặc đã nghe ai dạy khác. Rồi Ngài nhập vào tam-muội, suy cầu thắng đức, không thấy có người nào dạy như thế, liền nói rằng: lạ thay vô thường! Thật là huỷ hoại mau chóng. Vô lượng Hiền Thánh như thế, khiến cho khắp thế gian đều trở thành trống vắng, các nơi đều trở thành tối tăm thật là đáng sợ. Tà kiến mạnh mẽ, các sự bất thiện tăng trưởng. Con người trở nên huỷ báng Như Lai, đoạn tuyệt hết chánh pháp,vónh viễn bị trầm luân trong sinh tử. Cửa ác thú mở ra cửa trời người đóng lại, ở trong vô lượng kiếp thọ các khổ não. Thương thay! Thế gian thật là đáng thương xót, nay vị Tỳ-kheo này xem nhẹ lời nói của ai lại nói ra những tà ngôn. Ta biết nói với ai đây. Thế gian khổ não không có gì vui. Thân này đầy sự hủ bại nguy ách không có chắc thật. Cũng như bọt tụ trong khoảnh khắc rồi cũng biến diệt. Khi trẻ trung dung mạo còn đáng ưa thích, già yếu trang sức đã đến chỉ để che đậy bên ngoài, bên trong đầy dẫy máu mũ bất tịnh. Ví như điện giữa hư không,mây bay,gió mạnh bỗng chốc lại tan biến. Ngũ dục không chắc chắn cũng như thế. Cùng nhau ân ái an ổn khoái lạc, khi vô thường đã đến thì còn ai tồn tại. Các khổ thế gian khó ở lâu dài! Vậy nay ta nên nhập diệt. Thầy ta và đồng Phạm sư và đồng phạm hạnh đều đã diệt độ,thân ta nay cũng không nên lâu dài. Ngài lại nghó: Vua A-xà-thế đã giao ước với ta, ta nên đến nói cho Vua hay. A-nan đến cung Vua nói với người gác cửa: -vào thưa với Vua là có A-nan ở ngoài, Ngài muốn nhập Niết-bàn nên đến từ giả. Người ấy thưa: Vua đang ngủ, nếu thức dậy ắt sẽ bắt tội con. A-nan nói: nếu Vua thức dậy thì nói lại lời ta, vua A-xà-thế nằm mộng thấy cây bảo cái bị gãy thì giật mình kinh hãi thức dậy. Môn nhân vào thưa lại mọi chuyện. Vua nghe xong đau đớn té xuống đất ngất xỉu. Tuỳ tùng lấy nước dội cho vua tỉnh dậy. Vua lại khóc lóc thật là bi thương, rồi nói: - thương thay con mắt thế gian đã diệt. Ba cõi khổ não ấy ai cứu độ. Xưa Đức Thế Tôn khổ lòng từ bi sâu xa, vì chúng sinh làm bậc đại y chỉ. Rồi Ngài tự nhập vào Niết-bàn, làm cho thế gian trở nên trống vắng. Ngài Ca-diếp là bậc đại đệ tử có tiếng kế thừa Như Lai diễn nói pháp màu hóa độ chúng sinh, rồi lại diệt độ làm cho pháp luân tổn. Chiêm ngưỡng đức A-nan chẳng khác gì nhật nguyệt. Nay nhập vào Niết-bàn, chúng sinh biết lấy gì nương tựa. Nước pháp thanh tịnh rửa sạch hết mọi trần cấu. Nay còn ai thuyết pháp làm lợi ích cho chúng sinh. Chúng sinh luôn khát ngưỡng đạo mầu, nay còn ai gội nhuần pháp vũ. Bọn ma vương vui mừng vì được nhiều quyến thuộc. Thiện pháp dần mất đi nhường chỗ cho ác pháp. Rồi Vua hỏi: Ngài A-nan đang ở đâu? Viên thần nói: ở hướng Tỳ-xá-ly, Vua liền ra lệnh bốn lính cùng đến bờ sông Hằng. A-nan ngồi thuyền ở giữa dòng, vua tiến thẳng đến ầu lễ lạy thưa: - bậc minh đăng trong cúi đầu ba cõi đã bỏ tôi mà đi. Nay chỉ còn nương vào Ngài xin chớ nhập Niết-bàn Ngài A-nan chỉ yên lặng không nhận lời. Thế là khắp cả địa đại đều chấn động. Lúc này trong Tuyết sơn có năm trăm vị tiên nhân,thấy hiện tượng như thế liền khởi tâm nghó: vì nhân duyên gì mà có dị tướng này. Họ liền quán thấy A-nan sắp nhập diệt. Thế rồi tất cả liền bay lên hư không đến chỗ Ngài cúi đầu làm lễ cầu xin xuất gia. Ngài A-nan hóa sông Hằng thành mặt đất vàng, vì chúng tiên nhân mà thuyết pháp cho họ nghe, tất cả đều chứng quả A-la-hán. Và đồng nhập vào Niết-bàn A-nan nghó: Phật đã thọ ký ở nước Kế-tân có Tỳ-kheo tên là: Ma- điền-đề, vị này sẽ kế thừa truyền trao pháp nhãn ở đó. Nghó rồi Ngài A-nan đi đến nước Kế-tân phó pháp cho Ma-điền-đề. Ngài bay lên hư không, biến hiện mười tám loại biến hóa. Nhập vào trong phấn tấn tam muội, phân thân làm bốn phần. Một phần bay lên cung trời Đao-lợi cho Thích-đề-hoàn-nhân. Một phần rơi xuống đại dương cho Sa-già Long vương. Một phần cho Tỳ-xá-ly tử. Mộït phần cho Vua A-xà-thế. Do vậy mà bốn phương đều có xây tháp thờ, các nơi đều đốt hương tán hoa cúng dường Xá-lợi. Lúc ngài Ma-ha Ca-diếp nhập Niết-bàn, bảo A-nan rằng: - nay ta đem pháp Phật giao phó cho ông. Trưởng lão sau đó nếu nhập Niết-bàn thì ở thành Vương Xá có vị trưởng giả tên là: Thương-na Hòa Tu, là bậc cao tài dõng mãnh có đại trí huệ, đã trồng thiện căn lâu đời, ý phát lên muốn đi vào biển tìm châu báu. Sau trở về lại làm đàn Ban-giá vu, làm nơi cho Như Lai đi kinh hành, lại lập ra lầu gác cao rộng, khi mọi việc xong xuôi rồi có thể độ cho xuất gia. Pháp tạng Như Lai có thể phó chúc cho người này. Thế nên khi A-nan sắp diệt độ có nói với Thương-na Hòa Tu: -Phật đem pháp tạng giao phó lại cho ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp giao lại cho ta. Nay ta nhập Niết-bàn nên giao lại cho ông. Ông nên chuyên cần giữ gìn,để lại cho chúng sinh hưởng được pháp vị cam lồ. Thương-na Hòa-tu đáp: con xin vâng dạy. Con sẽ ủng hộ diệu pháp này, khai sáng cho tất cả chúng sinh. Thế là Tôn giả lần lượt tuyên dương pháp lạc,độ chúng sinh dứt hết phiền não lậu hoặc. Ngài có đầy đủ đức hạnh cao xa, nguyện hạnh tu tập lâu dài. Đa văn tổng trì biện tài đều vô tận. Nay nên diễn bày công đức tụ của Ngài. Vào đời quá khứ A-tăng-kỳ kiếp, Thương-na-hòa-tu là một thương chủ,cùng năm trăm thương khách tụ tập muốn vào biển lớn tìm châu báu. Khi ấy thấy một vị Bích-chi Phật ở bên đường, thân thể gầy gò bịnh tật gần sắp chết. Thương chủ cùng mọi người dừng lại, tìm thuốc men chạy chữa cho Bích-chi Phật, tận tâm chu cấp mọi việc đầy đủ. Khi lành bịnh, thể lực dồi dào mạnh mẽ, vị Bích-chi-phật đắp y Thương-na. Bấy giờ, thương chủ dùng nước thơm tắm cho Bích-chi Phật, dâng cúng các loại y phục tốt đẹp và thưa rằng: Đại thánh! Y Thương-na này đã cũ rách, xin Ngài nhận lấy y phục của chúng con. Bích-chi-phật bảo: thương chủ nên biết, ta đắp y này từ lúc xuất gia cho đến khi thành đạo, sẽ cũng đắp y này cho đến khi nhập Niết- bàn. Thương chủ nghe thế thì ôm lòng buồn não, bạch rằng: Đại Thánh! Xin chớ nhập diệt mà hãy cùng chúng tôi đi vào biển lớn, chúng tôi nguyện suốt đời cúng dường y phục đầy đủ và thuốc thang khi bịnh hoạn. Bích-chi-phật đáp: ta không thể đi vào biển lớn được, ta nay muốn nhập Niết-bàn. Ông đối với phước điền nên sinh tâm rộng lớn, đời sau ắt sẽ được quả báo lớn. Nói rồi Ngài liền bay lên hư không, biến ra thành mười tám thứ, trở lại chỗ cũ liền nhập vào Niết-bàn, thương chủ bi ai khóc lóc, rồi gom các loại cây hương lại để làm lễ trà tỳ cho Phật. Sau đó thâu nhập xá-lợi xây tháp cúng dường. Nhân đó phát nguyện rằng: nguyện con đời sau gặp được Thánh sư để cho con được các công đức tụ. Có đầy đủ pháp uy nghi và y phục như chư Thánh ngày nay không khác. Do nguyện lực dõng mãnh này mà ở trong thai mẹ đã được mặc y thương-na. Loại y phục này cùng rộng lớn ra theo thân. Cho đến khi xuất gia thọ giới đắc đạo nhập Niết-bàn, mà y thương-na này chưa lần nào lìa thân thể. Mọi người nhân đó mà gọi Ngài là: Thương-na Hoà-tu. Xưa đức Như Lai tu hóa tại nước Ma-đột-la, thấy cây cối xanh tươi xum xuê, liền bảo A-nan rằng: có thấy rừng cây này không? A-nan đáp: dạ thấy! Phật bảo: đây là núi Ưu-lưu-trà. Sau khi ta diệt độ thì có Tỳ-kheo tên Thương-na Hoà Tu, ở trong núi này xây dựng ngôi Tăng-già-lam, thuyết pháp giáo hóa được nhiều lợi ích. Thương-na Hoà Tu sau chuyến đi biển về thu hoạch được rất phiền loại trân báo, liền đi đến vườn Trúc làm lễ ngài A-nan, thưa rằng: - Đại Thánh! Con khi ra biển có nguyện nếu được an ổn trở về, sẽ thiết lập đại thí hội cúng dường Phật và Tăng. Nay Đức Thế Tôn ở đâu? A-nan đáp: Đức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, Thương-na Hoà Tu nghe lời đó rồi thì đau buồn áo não té xuống đất bất tỉnh. Sau khi được lay tỉnh lại. Thương-na Hoà Tu phát lên khóc lóc kêu thương bi thảm, tự bức râu tóc, thân thể lắm đầy bùn đất, rồi lại kêu khóc như mưa, rồi nói rằng: sự vô thường đã làm tan hoại ngôi bảo tụ. Thế gian cô độc vónh viễn không có gì nương vào, là con bạc phước tội chướng sâu dày, mặt trời Phật soi sáng thanh tịnh mà không được thấy, vónh viễn phải chịu trầm luân trong tam đồ khổ hải. Thương-na Hòa Tu lại hỏi: Ngài Ca-diếp, Mục-kiền-liên và xá- lợi-phất hiện ở đâu? A-nan đáp: đều đã nhập diệt. Nghe lời này Thương-na Hoà Tu lại càng đau đớn u buồn, thưa: Đại Thánh! Con vốn có phát nguyện vào biển nếu được an ổn trở về, sẽ thiết lập đại hội cúng dường Phật và tăng. Cho nên con muốn vì Thánh chúng cúng dường chút ít, duy nguyện Tôn giả thương xót hứa khả. A-nan đáp: Lành thay! Trưởng giả nên biết là thế gian này nguy ách bất an đối với phước điền tối thắng nên khởi tâm kiên cố. Trưởng giả nên biết: các pháp vô thường không có ngã và ngã sở,cũng như vay mượn không có gì là lâu dài. Nếu ông muốn được lợi vô thượng thì ở nơi phước điền nên khởi tâm ân trọng. Vì quả báo này không bị trở ngại. Thương-na Hoà Tu liền sửa soạn, mở đại hội cúng dường đầy đủ các thứ, lập ra nơi kinh hành và nhà cửa, phòng ốc. Khi mọi việc xong xuôi A-nan lại bảo: - ông tạo pháp tài thí thật là hy hữu. Nay nên làm pháp thí cúng dường. Đây là pháp thí sâu xa rộng lớn vô cùng, thù thắng hơn trăm ngàn lần tài thí, Thương Na Hoà Tu lại hỏi: - pháp thí là sao? A-nan đáp: - ở trong Phật pháp xuất gia học đạo, thuyết pháp giáo hóa làm lợi ích cho chúng sinh, đó gọi là pháp thí. Thương-na Hoà Tu đáp: thật là vừa với chí nguyện của con. Thế là Ngài A-nan độ cho Thương-na Hoà Tu xuất gia và thọ giới cụ túc. Thương-na Hoà Tu bạch với Đại Sư: con vốn khi sinh ra đã mặc y thương Na. Nay xin thọ trì y phục này đến suốt đời. Ngài nói xong thì đắc được lực tổng trì, các pháp nghe qua chưa từng quên, chứng quả A- la-hán, có được công đức lớn. Sau đó khi ngài A-nan nhập Niết-bàn, tuyên giảng diệu pháp làm lợi ích cho chúng sinh. A-nan có được tám vạn bốn ngàn pháp tạng. Thương-na Hoà Tu đều ghi nhớ hết, ví như rót nước từ vật này sang vật khác. Thương-na Hoà Tu thọ trì cũng như thế. Đem pháp chân tịnh du hành giáo hóa, cuối cùng Ngài đi đến Ma-đột-la, ở trong núi Mạn-đà, thì muốn xây dựng trụ xứ. Khi ấy ở trong núi có hai con rồng phun ra nọc độc dữ dội không thể đến gần. Thương-na Hoà Tu, liền dùng thần lực làm chấn động núi này. Rồng rất giận dữ làm mưa gió dậy trời. Thương-na Hoà tu nhập vào từ tam-muội dùng định lực làm cho nọc độc của rồng tiêu mất. Rồng sợ hãi vô cùng bèn sinh tâm kính tin, hỏi rằng: thưa Tôn Giả, Ngài có pháp gì dạy bảo? Thương-na Hòa Tu đáp: Phật đã thọ ký núi này có trụ xứ Tăng, cho nên ta muốn đến đây xây dựng Tăng đường. Lonh tử bạch rằng: nếu Phật đã thọ ký, thì chúng con xin vâng lệnh. Thương-na Hoà Tu liền đến núi cho khởi công xây dựng trụ xứ, Thiền thất nơi kinh hành đều có đầy đủ. Trong ngoài đều yên tịnh vắng lặng không có ồn náo. Khi tạo trụ xứ xong xuôi Ngài liền khởi niệm suy nghó: Phật thọ ký ở nước Kế-tân là nơi an ổn yên vui. Đất nước nhàn tịnh không có hoạn nạn. Nơi đó trong lành ít bệnh có thể đi kinh hành. Ta nay nên đến đó như vậy. Nghó xong Ngài liền bay lên hư không, đi đến nước Kế-tân, nhập định hoan hỷ mà thuyết kệ rằng: Thường đắp y thương-na Thành tựu thiền ngũ chi, Nơi núi non hang vắng Toạ thiền và niệm định Gió lạnh vẫn chuyên tu Tất cả đều nhẫn thọ Tâm lành được giải thoát Trí huệ tự trang nghiêm Cũng như voi hoang dã Tự tại chẳng ưu lo. Lúc ấy, Ưu-ba-cúc-đa, có năm trăm đệ tử vẫn còn trong sinh tử chưa được giải thoát, tâm sinh kiêu mạn lại cống cao. Ưu-ba-cúc-đa liền nhập vào tam-muội, quán bọn người kia với mình không có duyên, duy có thầy ta mới hóa độ được. Ngài bèn chuyên tâm nghó đến Thương-na Hoà Tu, Thương-na Hoà Tu dùng thần lực, như Đại Nga vương (Thiên Nga) bay đến rồi dừnglại đó. Ưu-ba-cúc-đa đi đến chỗ khác để cho chúng đệ tử gặp ngài Thương-na. Ngài Thương-na Hoà Tu áo quần thì xấu xí tóc tai dài thượt đi vào phòng của Ưu-ba-cúc-đa ngồi xuống. Chúng đệ tử của Ưu-ba-cúc-đa trông thấy đều nổi giận nói vì sao con người rách rưới này lại vào phòng Thầy ta ngồi. Mọi người cùng muốn xua đuổi Ngài ra ngoài, nhưng Ngài vẫn ngồi vững như núi Tu-di không hề lay động muốn nói lời ác thì miệng tự câm nín. Chúng đệ tử tìm ngài Ưu-ba-cúc-đa thưa lại mọi chuyện. Bạch Thầy có lão Tỳ-kheo hình dung tiều tuî, đi vào phòng Thầy ngồi kiết-già. Cúc-đa nói: nếu không phải Thầy ta thì không thể ngồi đó. Ngài đi vào phòng thì thấy Thương-na Hoà Tu,liền quỳ mọp xuống cúi đầu làm lễ. Chúng đệ tử nghó: Thầy tuy làm lễ, nhưng oai đức vẫn hơn người này. Thương-na Hoà Tu biết tâm kiêu mạn của chúng đệ tử chưa dứt, Ngài chỉ tay lên hư không liền tuôn ra một dòng hương nhũ, như ở đảnh núi cao, một dòng suối tuôn chảy ra. Đệ tử hỏi ngài Cúc-đa: - đây là định tướng gì? Ngài Ưu-ba-cúc-đa liền nhập vào tam-muội, đem thân tâm quán sát mà vẫn không thể hiểu nổi,liền hỏi Đại sư. Bạch Thầy đây là tam-muội gì? - Ngài Hoà Tu đáp: đây gọi là Long Phấn Tấn Định Lần lượt như thế trải qua đến năm trăm định tam-muội. Hỏi chúng đệ tử mà không ai biết, Ngài đều giải thích ra tất cả. Ưu-ba-cúc-đa ba- ïch: con đều thọ học nơi Thầy, dạy chỉ có tam-muội này thì chưa học. Cúc-đa nên biết! Tam-muội của Như Lai, Bích-chi Phật còn không biết tên, tam-muội của Duyên giác tất cả hàng Thanh văn đều không thể biết. Các ngài Mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất nhập vào tam-muội thì chúng A-la-hán không thể lượng biết được, định tướng tam muội của thầy ta là A-nan, ta cũng không thể biết được, nay tam-muội của ta, ông cũng không thể biết, tam-muội này sau khi ta Niết-bàn cũng sẽ diệt mất theo ta. Bảy ngàn bảy vạn kinh bổn sinh đều có đầy đủ. Một vạn A-tỳ- đàm Tạng có tám vạn số thanh tịnh Tỳ-ni, pháp đây cũng tuỳ theo ta mà diệt. Thế nên Ưu-ba-cúc-đa, sau khi Như Lai diệt độ,các bậc Hiền Thánh ẩn mất. Pháp tạng như thế, dần dần bị suy tổn, đến cuối cùng thì tất cả đều diệt. Ông nay nên chuyên tu gìn giữ. Lúc này chúng đệ tử mới hối hận tự trách: bọn ta vô trí, đã khinh mạn một bực đại Thánh. Nay mới biết định Thầy ta cũng không thể bằng. Ngài Thương-na liền thuyết pháp cho mọi người nghe, năm trăm chúng đệ tử liền chứng quả A-la-hán. Bấy giờ Tôn giả Thương-na Hoà Tu, ứng ra các pháp cho chúng sinh rồi, bay lên hư không hiện ra mười tám thứ thần biến rồi,quay trở lại pháp toà ngồi nhập diệt, Ưu-ba-cúc-đa cùng hàng quyến thuộc, đem các loại củi hương cùng làm lễ trà tỳ. Sau đó thâu Xá-lợi xây tháp cúng dường.  <卷>QUYỂN 3 Tôn giả A-nan đem các giáo pháp phó chúc cho ngài Thương-na Hoà Tu và nói: Xưa Đức Thế Tôn du hóa qua nước Ma-đột-la, có dạy ta rằng: trong nước này về sau có vị trưởng giả tên là Cúc-đa. Ở trong thiền pháp là bực đệ nhất. Tuy không có tướng hảo hóa độ như ta. sau khi Ta diệt độ làm các điều lợi ích hóa độ vô thường chúng sinh, thảy đều giải thoát đắc qủa A-la-hán. Ông sau này nên độ cho xuất gia, khi Niết-bàn thì giao phó pháp tạng. Thương-na Hoà Tu, lúc sắp nhập Niết-bàn, bảo Cúc-đa rằng: Phật đem vương pháp phó chúc cho ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp truyền cho Đại sư A-nan. Ngài A-nan giao phó lại cho ta. Ông nên chuyên cần giữ gìn pháp bảo. Ưu-ba-cúc-đa thưa: Xin nguyện thọ giáo. Thế rồi Ngài diễn xướng vô thượng diệu pháp rộng nói chánh pháp hóa độ chư chúng sinh, phước đức sâu xa khó thể hạn lượng. Vào đời quá khứ lâu xa Ngài đã từng tu vô thượng thắng hạnh. Tuy có khi làm loài cầm thú nhưng vẫn hóa độ chúng sinh, hàng phục ngoại đạo, kiến đại pháp tràng, đem mây từ bi che chở cho tất cả. Các công đức như thế nay chỉ nói lược qua. Xưa đức Bạc-già-phạm, ở tại nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc. Bấy giờ Ưu-ba-cúc- đa làm ni càn, tên là Tát-giá. Trí tuệ rất là sâu xa thâm diệu, luận nghị thật là tuyệt luân, lúc ấy sinh tâm cống cao, xem thường thiên hạ. Lá đồng cột đầy bụng, đầu đội một cục lửa dữ và nói lời rằng: trí huệ của ta đầy đủ, sợ sẽ lọt ra ngoài. Do việc này mà dùng lá đồng tự buộc vào thân. Thế gian hôn ám không trông thấy, nên muốn đem ánh quang minh soi sáng khắp nơi tăm tối. Khi nghe Đức Thế Tôn đang ở nước Xá-vệ, liền muốn tìm đến để tranh luận. Có người nói: Ông nếu gặp Phật thì trí tuệ sẽ lu mờ mà ánh sáng cũng tự diệt. Khi đến chỗ Phật liền nói: Cù-đàm! Tôi muốn xuất gia, nếu trí huệ có thể ngang bằng ngài Xá-lợi-phất thì quả là tốt đẹp. Nếu như không bằng thì tôi sẽ hoàn tục. Đức Thế Tôn bảo: - giả sử ông đem trăm ngàn vạn thân, muốn bằng Xá-lợi-phất cũng không thể được. Phạm Chí nghe xong liền từ tạ lui ra, sau đó Phật bảo hội chúng: sau khi ta diệt độ một trăm năm, người này khi đó đắc quả A-la-hán, đầy đủ tam minh lục thông và bát giải thoát, trí tuệ soi sáng độ khắp chúng sinh, số người độ thoát không thể xưng hết. Chúng hội nghe xong đều sinh tâm hy hữu. Lại nữa, Tôn giả này vào đời quá khứ vô số na-do-tha kiếp, ở Trà Sơn có vị Bích-chi Phật cùng đồng loại năm trăm người câu hội, chư tiên nhân cũng ở gần bên đó. Có năm trăm con di hầu cũng ở gần đó. Bấy giờ di hầu vương phát tâm đại tin, tu tập phát thiện. thường hái hoa quả đem cúng dường Bích-chi Phật. Lại có lúc thấy chứng Duyên giác ngồi ngay ngắn tư duy, thâm nhập pháp tam-muội. Di hầu cũng bắt chước học theo. Về sau các vị Bích-chi Phật đều nhập vào Niết-bàn. Di hầu đem hoa quả dâng cúng thì không thọ nhận, đưa tay níu kéo cũng không thấy động đậy. Biết Phật đã nhập diệt, di hầu buồn bã âu sầu, sau đó di hầu trông thấy các vị tiên chân ở bên một ngọn núi tu hành thật là khổ hạnh, ngủ nghó trên cỏ gai, kiểng chân đứng một bên ngọn lửa, ném thân từ trên cao xuống ngọn lửa. Di hầu thâu lấy các thứ tro đó bỏ hết phân đất, rồi ngồi kiết-già ở trên đó. Tiên nhân trông thấy liền bắt chước theo Di hầu ngồi đoan nghiêm buộc niệm, không thầy mà tự giác ngộ thành tựu quả Bích-chi Phật, lúc ấy Phật khởi niệm nghó: nay ta đắc đạo là do Di hầu, thế là Phật đem hương hoa đến cúng dường cho di hầu. Di hầu vương chính là Ưu-ba-cúc-đa bây giờ vậy. Lúc còn súc sinh mà còn có thể giác ngộ, có trí huệ biện tài. Rồi khi ngài Thương-na muốn phó chúc pháp tạng, quán sát Cúc- đa đã sinh ra đời chưa? Ngai nhập định tư duy biết là chưa ra đời, nên cùng chư Tỳ-kheo đi đến nhà cha Cúc-đa. Cho đến lần lần Ngài đến đó một mình. Cha Cúc-đa hỏi: sao Ngài đi một mình mà không có bằng hữu? Đáp: Trưởng giả! Tôi vô phước không có một đệ tử xuất gia để cùng theo. Cha Cúc-đa nói: tôi còn ham thế tục không thể xuất gia, nếu sau này sinh con ắt sẽ cho theo Ngài. Thương-na nói: tốt thay! Sau đó trưởng giả sinh một người con đặt tên là: A-thất-bà Cúc- đa. Đứa bé dần dần khôn lớn, Ngài đến xin thì Cúc-đa đáp: - tôi chỉ có một đứa con, không thể cho theo Ngài được. Nếu sinh đứa khác tất sẽ cho theo Ngài. Sau đó trưởng giả sinh thêm một đứa nữa đặt tên là: Nan-đà Cúc- đa. Ngài Thương-na đến xin thì ông lại nói: - tôi nay chỉ có hai đứa con để nối nghiệp. Đứa nhỏ lo giữ gìn, đứa lớn lo kế tục gia nghiệp buôn bán, như vậy mới được đại phú. Vì thế nên không thể cho theo. Nếu sinh được đứa thứ ba ắt sẽ cho. Thương-na Hòa Tu biết hai đứa bé này không có duyên với đạo, nên cũng không ân cần cầu xin nữa. Sau trưởng giả sinh thêm một đứa con nữa dung mạo rất đoan chánh, đặt tên là Ưu-ba-cúc-đa. Tánh tình của Cúc Đa thích điều từ thiện lại nhu hoà ham tu, thông tuệ biện tài tâm chí rộng lớn. Năm mười hai tuổi đã khéo việc buôn bán ở chợ. Nếu có người đến mua, phần nhiều đều đem cho. Khi đó ngài Thương-na quán biết Cúc-đa ra đời đã lâu, Ngài tìm đến nơi hỏi: - ngươi nay vào trong chợ là đã tịnh tâm hay bất tịnh tâm? Cúc-đa đáp: sao gọi là tịnh tâm và bất tịnh tâm. Đáp: - nếu tâm hợp với tham si gọi là tâm bất tịnh. Nếu không hợp với` đó thì gọi là tịnh. Dần dần Ngài dùng phương tiện giáo hóa để cho Cúc-đa tỉnh ngộ buộc tâm lại. Ngài dạy nếu tâm ác khởi lên thì ném vào một hạt sỏi đen. Nếu sinh tâm thiện niệm thì ném vào hòn sỏi trắng. Cúc-đa theo lời dạy buộc niệm không cho tán loạn. Khi tâm thiện ác nổi lên liền ném vào hủ những viên sỏi trắng đen. Lúc đầu đen nhiều mà trắng ít. Dần dần tu tập trắng đen đều bằng nhau. Cho đến bảy ngày thì tâm chuyển thành thanh tịnh. Sỏi đen đã hết duy chỉ còn đá trắng. Thương-na Hoà Tu liền suy nghó: Cúc-đa nay tâm thiện đã đầy đủ, xét căn cơ đã đến có thể thuyết pháp được. Thế rồi Ngài tuyên nói tứ Thánh đế, ứng thời Cúc-đa đắc quả Tu-đa-hoàn. Bấy giờ ở thành Ma- đột-la có một dâm nữ tên là: Bà-tu-đạt, làm nhiều điều tà mị yêu huyễn gian trá. Cô ta sai người đi chợ mua hoa. Người kia đi đến chỗ Ưu-ba- cúc-đa được hoa rất nhiều đem về cho Ba-tu-đạt. Cô gái lấy làm lạ hỏi người kia: hoa này ngươi không phải ăm trộm về chứ? Đáp: tôi không ăn trộm, đây từ chợ mua về. Có người tên là Ưu- ba-cúc-đa, tánh tình rất nhân từ rộng rãi lại thích bình đẳng, do đó mà tôi mua được nhiều hoa. Lại người này hình dung tuấn tú xinh đẹp. Đại gia nhìn thấy có chết cũng không tiếc. Thế là Bà-tu-đạt, sai người ấy đi mời về. Ưu-ba-cúc-đa không hứa khả. Cô gái cứ ân cần cầu thỉnh mãi không thôi. Khi đó có một vị trưởng giả cùng dâm nữ ở chung. Gặp lúc có một thương khách từ xa đến, đem nhiều trân báu muốn tư thông cùng dâm nữ. Cô gái tham tiền nhận lời, nên giết trưởng giả đem chôn trong nhà. Sau đó gia đình trưởng giả đi đến tìm kiếm đào đất nền nhà lên bắt gặp thi thể mới đi thưa trình lên quan quân. Quan xử dâm nữ bị chém đứt tay chân, cắt hết tai mũi rồi đem thân thể quẳng xuống hồ! Ưu-ba-cúc-đa khi ấy khởi niệm: cô kia khi còn xinh đẹp có đến mời ta, vì nhân duyên đó nên ta không đi! Nay vì muốn cô ta giải thoát nên đến giáo hóa. Thế rồi Ngài đi đến chỗ Bà-tu-đạt- cô gái nói: - khi dung nhan tôi còn xinh đẹp, có mời mà ông không đến. Nay bị tàn phá vì sao lại tìm đến. Đáp: tôi nay quán thấy thật tướng của cô cho nên tìm đến, chứ không phải là vì lòng dục vọng. Cô lâu nay đem sắc đẹp ra để mê hoặc mọi người. Bọn phàm phu vô trí nên khởi tưởng điên đảo. Nay nên tự mình quán xét sắc thân này. Sự vô thường nguy ách cũng giống như bọt tụ. Lại đem các thứ trang sức tô điểm bên ngoài, bên trong đầy những máu mủ xương cốt bất tịnh. Cũng như bình hoa, đựng đầy các đồ nhơ uế, người ngu không biết sinh tâm đắm chấp. Người trí thì không đắm trước vào đó. Cũng như đem hương hoa giặt giũ y phục, ngoài hiện ra trang nghiêm mà trong thật là bất tịnh. Đại dương mênh mông còn có thể đo được, sự hoạn nạn của thân này thật không thể cùng tận. Thế nên chư Phật vẫn thường quở trách chưa từng một niệm sinh nguyện lạc tưởng. Khi đó dâm nữ tâm dần dần khai ngộ, sinh lòng kính tin Tam bảo thật sâu xa, liền thưa rằng: Bạch nhân giả! Các pháp thật đế xin Ngài rộng nói cho tôi biết. Ưu-ba-cúc-đa liền ứng thuyết pháp. Tất cả chúng khổ hữu vi đều tích tụ lại như ung như nhọt như tên bắn vào tâm ta, sinh lão bệnh tử xoay chuyển không ngừng. Sự vô thường bại hoại không thể lâu dài! Chẳng khác nào như kẻ tử tù trong lao ngục không thể an vui được. Cũng như trên đường đi bị người ném đá, thân này gặp điều xấu sẽ quay về chỗ hoại diệt, các loài dã thú tranh nhau ăn thịt, gặp gió thổi phơi bày ra các thứ hôi thối, tóc răng lông nóng đều rơi rụng xuống đất. Thân thể thì có gì yêu thích, nên tìm phương tiện mà cầu giải thoát. Dâm nữ nghe xong liền đắc được pháp nhãn, mạng chung được sinh về cung trời Đao-lợi, Ưu-ba-cúc-đa, do quán các pháp khổ vô thường liền chứng quả A-na-hàm. Ngài Thương-na Hoà Tu lại đến chỗ Cúc Đa và bảo rằng: - ông vốn có duyên với ta, nay đã trưởng thành thì nên theo ta. Ưu-ba-cúc-đa tánh hay ở nơi chợ búa, do đây mà người cha không muốn cho đi. Tôn giả mới nói: Phật đã thọ ký người này, trăm năm sau làm Phật sự lớm đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. Ông nên khai tâm cho ta đứa con này. Cha Ưu-ba-cúc-đa nghe xong liền cho đi xuất gia. Ngài Thương- na Hoà Tu đem Cúc-đa đến tăng phường độ xuất gia và thọ giới cụ túc. Khi yết-ma xong thì Cúc-đa liền chứng quả A-la-hán. Tam minh lục thông có đầy đủ tám giải thoát, khéo dùng từ ngữ diễn pháp vô tận, tâm tự nghó rằng: ta hôm nay đã thấy được pháp thân, nhưng chưa thấy tướng hảo của Như Lai. Tư duy rồi thì tâm Ngài sinh bi luyến không thôi. Bấy giờ có một lão Tỳ-kheo-ni, tuổi đã một trăm hai mươi, đã từng thấy Phật. Ưu Ba Cúc Đa biết vị Tỳ-kheo-ni này đã gặp Phật, Ngài muốn đến Phật nên sai người đến hỏi vị Tỳ-kheo-ni rằng: Tôn giả Cúc-đa muốn gặp Ni sư. Khi ấy lão Tỳ-kheo-ni đựng đầy một bát dầu đặt sau cánh cửa. Ưu-ba-cúc-đa đi đến chỗ đó thì dừng lại, khi muốn vào phòng thì bỏ làm tràn vài giọt dầu ra mgoài, ân cần hỏi thăm rồi mới mời ngồi. Ngài hỏi: Thế Tôn đương thời cùng chúng Tỳ-kheo, uy nghi đi đứng các việc thế nào? Tỳ-kheo-ni nói: xưa Phật tại thế có lục lục quần tỳ-kheo rất là thô bạo, tuy vào trong phòng chưa từng làm tràn ra ngoài một giọt nước. Đại đức nay là người có trí tụê cao thắng. Thế nhân cho là không có tướng hảo của Phật, nhưng vào phòng làm tràn vài giọt dầu. Xét việc này thì vào thời Phật, đệ tử Phật nhất định là kỳ diệu. Ưu-ba-cúc-đa nghe xong thì tự hối trách lòng tự hổ thẹn. Tỳ-kheo-ni nói: đại đức chớ nên sinh tâm hối trách như thế! Như Phật nói rằng: chúng sinh sau khi ta diệt độ ngày đầu tốt đẹp hơn ngày thứ hai, người ở vào ngày thứ ba lại càng xấu kém. Do đó mà phước đức suy tàn, ngu si ám độn làm mất hết thiện pháp, huống chi nay đại đức cách Phật đã trăm năm. Tuy làm những việc không đúng oai nghi, có như vậy đâu có gì là lạ. Bấy giờ ngài Cúc-đa bèn hỏi: Đại tỷ đã gặp Như Lai, việc ấy như thế nào? Tỳ-kheo-ni nói: -xưa Phật còn tại thế, khi ấy tôi mới hai mươi tuổi vừa sắp xuất giá. Tôi làm mất một cái kim xoa, rơi trong đám cỏ rậm, tìm mà không được. Lại đem đèn đuốc đến soi sáng để tìm. Tìm cho đến khi mệt mỏi không còn tâm sức, chính lúc đó đức Như Lai đi ngang qua, sắc vàng chiếu ra ánh sáng như trăm ngàn mặt nhật. Những nơi u ám đều sáng rực lên. Các vật vi tế đều hiển hiện. Do đây mà tôi tìm thấy được kim xoa của mình. Do nhân duyên này mà tôi được gặp Phật. Ưu-ba-cúc-đa nghe những lời như thế, lòng càng sinh kính tin luyến mộ, khen ngợi việc chưa từng có. Thương-na Hoà Tu liền bảo: Phật thọ ký cho ông một trăm năm sau, là người tọa thiền bậc nhất trong việc đại hóa chúng sinh, nay chính là phải thời. Ông nên làm lợi ích đem cam lồ vị ban cho chúng sinh. Ưu-ba-cúc-đa nói: xin nguyện thọ giáo. Thế rồi Ngài vân tập chúng hội tại nước Ma-đột-la, để nghe Ngài thuyết pháp. Ngài thuyết về các pháp thí luận, giới luận, sinh thiên luận. Dục là pháp bất tịnh, thoát ra được là điều tối thiện. Ma vương Ba-tuần sinh lòng sợ hãi mà nghó rằng: Ưu-ba-cúc-đa đại tập chúng hội, ắt sẽ dạy mọi người xa lánh cảnh giới của ta. Vậy ta nên đến đó phá hoại ý của chúng. Thế là khi ngài Ưu-ba thuyết pháp, ma hóa ra mưa chân kim bảo, hoặc mưa hoa anh quang màu sắc sáng tịnh. Hoặc hóa thành bạch tượng, bảy báu trang nghiêm, hiện ra hình sắc nữ nhân xinh đẹp diễm kiều. Khiến cho hội chúng nhìn thấy không thể để tâm nghe pháp. Trong ba ngày liền diễn nói pháp vị sâu xa, mà không có một người nào đắc đạo. Ma vương vui mừng, tự cho là may mắn. Ngài Ưu-ba-cúc-đa liền nhập tam muội, quán sát tư duy xem là do ai làm ra. Ma vương lại dùng chuỗi hoa ngọc chân châu đeo vào cổ Ngài. Tôn giả quán biết là do Ma vương làm, liền nghó rằng: Ma Vương đố kî muốn hoại loạn chánh pháp. Như Lai vì sao mà không hàng phục. Ngài liền quán Phật tâm, khiến cho ba chùm hoa kia thành ra ba thây chết của rắn, chó và người. Rồi hóa thành hoa man cảm vời Ma tìm đến và nói rằng: - ông cho ta hoa man, thật là hậu thí, nay ta trả lại cho ông để gọi là báo đáp. Ma nghe nói rất mừng bèn đeo vào cổ. Nhưng khi đeo vào rồi thì thấy đó là ba thây chết hôi thối muốn cởi ra mà không thể được. Ma thấy như thế thì sinh nhàm chán ghê tởm, thưa cùng Ưu-ba-cúc-đa rằng: Ngài vì sao lại đem thây chết buộc vào cổ tôi? Tôn Giả đáp: - Tỳ-kheo không nên đem hoa man trang nghiêm cho ông. Vì ông đem tà ác buộc vào ta, nay ta trả lại những thây chết hôi thối, chính là thích hợp. Người chớ sân giận. Ma dùng thần lực muốn tháo bỏ thây chết này mà những thây chết này như núi Tu-di không thể giao động. Ma vương rất giận dữ bay lên hư không, đến cầu chư thiên chư vị cởi dùm thây chết ra. Chư thiên đều nói: đây do bậc Đại thánh làm ra, chúng tôi thấp trí đâu thể cởi được. Ma lại đến Phạm vương cầu xin, Phạm vương nói: thần lực của hàng đệ tử Phật làm, chúng tôi là phàm lậu, há lại cởi ra được, ông nên quay về quy y với Đại Thánh, thì thây chết này dễ dàng cởi ra. Ma Ba-tuần nghe theo lời Phạm vương, trừ hết tâm kiêu mạn, sinh lòng kính tín sâu sắc, đi đến chỗ Tôn giả cúi đầu đảnh lễ xuống đất, bạch rằng: Đại đức! Khi Phật mới thành đạo ngồi dưới gốc Thọ vương tôi đem quyến thuộc đến bức nhiễu, từ đó làm não loạn không thể tính kể, Phật chưa từng buông lờớac khinh nhục, lòng đại bi của Phật thật sâu rộng như núi Tu-di. Ngài là A-la-hán, ít có lực từ nhẫn, cho nên đối với chúng nhân thiên ngài đều khinh huỷ, Ưu-ba-cúc-đa đáp: Ba-tuần, ngươi thật đại ngu si không có trí huệ vì đem hàng Thanh văn so sánh với Đức Như Lai. Muốn đem hạt cải so bì với núi Tu-di. Như Lai lòng đại bi vô lượng còn hàng Nhị thừa thì không có. Vì nhân duyên đó, cho nên không thể gia báo. Ta nay yếu kém không đủ tâm bi nhẫn, do đó mới làm cho ngươi huỷ nhục. Lại đức Như Lai muốn khiến cho ta sau này hàng phục ngươi để cho tâm ngươi quay về kính tin Tam bảo,do thiện tâm này mà không đoạ vào tam ác, rửa sạch trần lao phá hết tội ngiệp. Ma vương nghe được lời này thì rất vui mừng, toàn thân lông dựng đứng lên, sinh tâm hy hữu, bạch rằng: Nhân giả! con do Ngài khai thị mà khởi lòng kính tín, Ngài vì con mà làm điều lợi ích lớn, vậy xin Ngài cởi ba thây chết này cho con. Tôn giả đáp: ông đối với chánh pháp không còn sinh tâm nhiễu hại, thì sau đó ta mới giải thoát cho. Ma nói: xin thọ giáo. Tôn giả lại nói: Ta không được thấy sắc thân của Như Lai, ông xưa đã từng gặp Phật, vậy hãy hiện lại cho ta xem. Ma vương nói: Nhân giả! Tôi hiện ra thân Phật xin Ngài chớ đảnh lễ. này. Ngài Ưu-ba-cúc-đa: như lời ngươi nói, ta sẽ cởi bỏ ba thây chết Ma liền đi vào trong rừng biến ra hình sắc như Phật, có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Dung mạo rất kỳ đặc như vàng tụ lại. Ánh sáng từ Phật chiếu rực rỡ, nghi tướng rất an lành. Hóa ra chúng Tỳ- kheo trước sau vây quanh, từ từ trong khu rừng tiến ra như Nga vương thật là dũng mãnh oai đức. Ưu-ba-cúc-đa trông thấy lòng rất hoan hỷ, nhất tâm quan sát và nói kệ rằng: Than ôi vô thường, Không tâm bi mẫn, Năng hoại như thế, Sắc thân thượng diệu. Ngài Ưu-ba nhất tâm chiêm nghiệm mắt không rời, lòng hân hoan bèn nói kệ tán thán rằng: Vui thay! Thanh tịnh nghiệp, Hay thành tựu diệu quả, Không sinh tự tại thiên, Cũng chẳng vô nhân tác. Mặt như sắc vàng tía, Mắt tịnh như sen xanh, Đoan chánh hơn nhật nguyệt, Kỳ diệu hơn rừng hoa, Trong suốt như đại dương. Bất động như Tu-di, An ổn như sư tử, Ngước nhìn đồng ngưu vương, Vô lượng trăm ngàn kiếp, Tịnh tu thân khẩu ý, Vì thế nên đạt được, Như thân thù diệu này, Oán thấy còn hoan hỷ, Sao ta không vui mừng. Ngài Ưu-ba-cúc-đa nói kệ xong rồi. Quán tâm Phật nên bất giác cúi đầu lễ lạy. Ma Vương nói: Làm sao như thế? Ngài đáp: Ba-tuần! ta biết Đức Thế Tôn diệt độ đã lâu. Nay thấy dung mạo này giống như thấy Phật vì tâm hoan hỷ cho nên làm lễ, ma lại hiện ra nguyên hình quay về cõi trời. Đến ngày thứ tư ma lại trở xuống dùng đại âm thanh phổ cáo tất cả, Nhân giả! muốn đắc phước lạc sinh lên cõi nhân thiên, muốn cầu Niết-bàn đệ nhất an ổn, không thấy Như Lai đại bi thuyết pháp, nên đến ngài Ưu-ba-cúc-đa, nghe được diệu pháp nên chí tâm tu hành. Bấy giờ nam nữ lớn nhỏ trong thành Ma-đột-la, nghe Tôn giả hàng phục được ác ma, trăm ngàn vạn người đều vân tập đến. Ngài Ưu-ba ngồi trên toà Sư tử, tuỳ theo tâm ứng của chúng sinh mà thuyết pháp, trăm ngàn chúng sinh đều đắc quả Tu-đà-hoàn, một vạn tám ngàn người chứng A-la-hán. Từ đó về sau ngài hóa độ vô lượng, lại được vua A-thứ hưng khởi lợi ích lớn, công đức của vua thật thù thắng sâu xa, đối với Tam bảo tín tâm bất hoại. Vì thiện duyên cho nên đắc được quả này. Xưa Phật còn trụ thế ở tại rừng Già-lan-đà, vào một ngày Phật cùng chư Tỳ-kheo vào thành khất thực, ở bên đường thấy hai đồng tử, một tên là Đức Thắng, hai tên Vô Thắng. Cả hai đang dùng đất tạo ra nhà cửa thành trì kho đụn, và gọi đó là lúa gạo. Chúng đem lúa gạo bằng đất cất vào trong kho, khi thấy Phật ánh quang minh chiếu tỏ, cũng giống như kim sắc trong sáng thấu triệt. Đức Thắng hoan hỷ đem vật gọi là bánh dâng lên cúng cho Như Lai. Vì thân còn nhỏ nên không đưa lên cao được. Vô Thắng quỳ xuống để cho Đức Thắng đứng lên dâng cúng. Thế Tôn nhận lấy và mỉm cười. Bấy giờ A-Nan mới bạch Phật rằng: Như Lai vì duyên cớ gì lại cười? Phật bảo A nan: - ông có thấy hai đứa bé này không? Bạch Thế Tôn có thấy! Hai đứa bé đó, một trăm năm sau khi ta diệt độ là một trong bốn Chuyển luân vương, ở trong thành Hoa Thị trị đời theo chánh pháp. Vua này phân bố Xá-lợi của ta thờ cúng khắp nơi, tạo ra tám vạn bốn ngàn bảo tháp. Phật đem đất này trao cho A-nan, bảo đem về trét vách phòng của Phật. Một trăm năm sau đứa bé tái sinh ra đời làm vua. Vua này rất bạo ngược vô đạo tạo nhiều sự sát hại. Vua tạo ra cảnh địa ngục, bề ngoài trông rất vui vẻ khoái lạc. Lại sai một kẻ ác là Kỳ-lợi, lập ra đại ngục thất với đầy đủ các thứ đao kiếm, thiết đồng sắt nóng, để trị tội những ai bước vào đó. Có một vị trưởng giả tử xuất gia, du hành khất thực đi vào ngục ái lạc rồi muốn trở ra, Kỳ-lợi bắt lại. Vị Sa-môn này kêu khóc rất thống thiết. Ngục tốt hỏi: sao lại như thế? Tỳ-kheo đáp: ta không sợ chết mà là vì thiện lợi vậy. Ta mới xuất gia chưa chứng đạo quả, thân người tuy được mà pháp Phật khó gặp. Nay ta rơi vào đây mà phải chịu chết, vì nghó thế cho nên ta mới đau đớn khóc than. Kỳ-lợi đáp nói: Vua đã ra pháp lệnh rồi, ai đã vào đây rồi thì nhất định không cho ra. Tỳ-kheo lại nói: Ta vào đây ắt là phải chết, vậy xin gia hạn cho bảy ngày rồi hãy giết.Ngục tốt nghe nói vậy thì bằng lòng. Vua A-thứ-già ở trong cung thấy thể nữ cùng bọn nam tử đùa giỡn nhau. Vua rất giận dữ bắt họ giao cho ngục tốt trị tội, ngục tốt cầm chày sắt bằm họ ra như bụi, xương cốt phân tán ra như bọt tụ. Tỳ-kheo quán thấy như thế sinh lòng rất nhàm chán, liền than rằng: Tin thay! Bậc đại bi đã nói ra những lời chân thật. Phật nói sắc vô thường cũng như bọt lửa, không có gì là chắc chắn lâu dài. Thân họ trước đây xinh đẹp đáng yêu. Nay không còn chút gì trong hiện tại. Nhân mạng hư nguî không có gì đáng yêu. Sự tôn quý bần tiện, trí ngu đều không đồng. Sự sống tuy có khác biệt mà vẫn đưa đến cái chết. Cũng như trăm sông nguồn chảy thì có khác, mà chưa có nguồn nào không chảy về biển cả. Người cũng như thế, cũng tụ ở nơi cõi tử, vì nghiệp dài ngắn nên sự thọ sinh cũng có dài ngắn, chẳng bao lâu rồi cũng quy diệt. Thân này bất tịnh xứ uế thật đáng chán, nhờ có da thịt bao bọc sinh lòng ái tưởng mà không quán thấy bên trong đầy dẫy xú uế, lạ thay! Sinh tử khổ đau mà kẻ ngu si vẫn ưa thích. Nếu chẳng phải bậc Hiền Thánh du tâm trước vị, quán sát như từ đêm suốt ngày, nhờ vậy mà đoạn hết kiết phược đắc quả Tu- đà-hoàn. Tỳ-kheo lại quán chuyển tinh cần đắc quả A-la-hán. Đủ bảy ngày Kỳ-lợi đến hỏi: Ông kỳ hạn bảy ngày đã đến, nên thọ hình phạt. Tỳ-kheo đáp: đêm đã qua, mặt trời đã mọc, việc làm đã xong tuỳ ngươi trị phạt. Kỳ-lợi giận dữ đặt một chảo dầu nóng đun nấu Tỳ-kheo. Lửa đang cháy mạnh lại trở thành mát mẻ. Ngục tối lấy làm lạ mới đến bên chảo nhìn xem, thấy trong chảo có cả ngàn hoa sen. Vị Tỳ-kheo đang ngồi kiết-già ở trên. Thấy vậy Kỳ-lợi liền vào bạch vua. Vua dẫn theo quyến thuộc đến xem, khi ấy Tỳ-kheo liền bay lên hư không, biến hóa ra thành mười tám loại thần biến. Vua thấy vậy khen là việc chưa từng có, và nói rằng: Chúng con nay cùng bẩm thọ hình tướng của người, uy đức kỳ diệu có muôn thứ sai biệt như thế. Con nay chưa thông đạt, xin Ngài tuyên nói pháp. Bấy giờ Tỳ-kheo muốn hóa độ nhà vua, liền nói lời này: Ta đoạn hết kiết phược, giải thoát ngoài tam hữu, lìa hết sự động loạn được tịch nhiên an lạc. Đại vương nên biết, Phật đã thọ ký cho Ngài, sau một trăm năm Vua ở tại thành Hoa Thị, phân bố xá-lợi, rộng kiến tạo ra bảo tháp. Ông cớ sao lại tạo ra các tội ác này, tàn hại sinh linh không hề thương xót. Vua nên thừa hành theo ý của Phật, đem lại sự lợi ích an lạc cho chúng sinh. Vua nghe xong rất lấy làm hối hận tự trách, quy y Tam bảo, sinh tâm kính tín, thâu thập công đức xá-lợi của Như Lai lập ra tám vạn bốn ngàn bảo tháp. Khi xây tháp xong rồi thì vua đến chùa Kê-đầu-mạt, chắp tay hỏi Thượng tọa Da-xá rằng: Cõi Diêm-phù-đề này, có ai được thọ ký như tôi không. Da-xá đáp: Phật đã thọ ký cho Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa, một trăm năm sau làm việc ích lợi lớn lao. Vua lại hỏi: người thanh tịnh đã có ra đời chưa? Đáp: Đại vương! Vị đó ra đời nay đã đã đắc quả La-hán, đang ở tại núi Ưu-đà thuyết pháp cho hội chúng. Vua liền sửa soạn xa giá muốn đến kia đảnh lễ, cho sứ giả đi trước đến bạch với Đại Thánh rằng: Vua A-thứ-già muốn đến thăm ngài. Tôn giả nghó: chỗ này hiểm trở thô lậu, không thể chứa được nhiều người. Ta nên tự mình đi đến chỗ Vua. Rồi Ngài sửa soạn cùng đi đến thành Hoa Thị. Vua nghe nói rất vui lòng, cho quét dọn đường xá phố phường, đốt hương, tán hoa và các thứ kỷ nhạc. Vua cùng quần thần ra cung nghinh Tôn giả. Khi gặp Ngài, Vua liền làm lễ sát đất, rồi chí tâm chiêm ngưỡng mắt không tạm rời, rồi bạch rằng: Thưa Đại Thánh! Con làm Vua được các thứ tự tại khoái lạc, cũng không bằng ngày nay được nhìn thấy Tôn giả. Tâm vua rất hoan hỷ nên liền nói kệ: Phật tuy nhập tịch định, Tôn giả bổ xứ sinh, Nay ứng thấy giáo sắc, Con liền tuỳ thuận học. Thế rồi Tôn giả đưa tay rờ đầu Vua, dùng kệ đáp: Cẩn thận sợ hãi chớ phóng dật, Vương vị giàu sang khó bảo tồn, Tất cả rồi đây đều quy diệt, Thế gian không có gì thường trụ, Tam bảo khó gặp ông đã gặp, Hằng thường cúng dường chớ bỏ phế. Vua thỉnh Tôn giả đi vào, trong nội cung sắp đặt bảo toà cho Ngài ngồi rồi thưa: Bạch Đại Thánh! Những nơi Phật du phương hành trụ, con đều muốn lập tháp để cho mọi người khởi lòng kính tín. Tôn giả khen: lành thay! Lành thay! Ta sẽ dẫn vua đi khắp các nơi có Phật tích. Rồi vua chuẩn bị xa mã cùng đi với Tôn giả. Mọi người hướng về vườn lâm-tỳ-ni nơi Phật đản sinh, cho đến Phật đến thành câu-thi-na sau khi đã hóa duyên xong rồi nhập Niết-bàn. Vua nghe xong sự tích của Phật thì buồn rầu khóc lóc đến ngất xỉu, giây lâu mới tỉnh dậy. Sau đó vua cho xây tháp thờ xá-lợi của Phật khắp nơi, Cúng dường trăm ngàn lượng rồi mới trở về. Sau đó Tôn giả dẫn vua đi đảnh lễ tháp của ngài xá-lợi-phất và năm trăm vị La-hán. Các nơi vua đều đảnh lễ và cúng dường để xây sửa. Cuối cùng vua đến tháp Bạc-câu-la. Vua hỏi: tháp này có công đức gì? Tôn giả đáp: Đại Vương! Phật thọ ký cho vị này không có các thứ bịnh suy. Cho đến trải qua chín mươi mốt kiếp sau khi Phật diệt độ tại thành Tỳ-bà-thi, bấy giờ Bạc-câu-la trụ trong một ngôi chùa, thấy các vị hào phú đến cúng dường chúng tăng. Tôn giả lúc ấy say rượu nằm nghỉ, tâm tự nghó: ta nghèo biết lấy gì cúng dường đây, ta nay có một viên Ha-lợi-lặc, chúng tăng ai có bịnh hoạn gì, có thể đến cúng dường sẽ chữa bịnh. Thế rồi Tôn giả nói cho mọi người biết sẽ cúng dường thuốc. Khi ấy có một vị Tỳ-kheo bị bịnh rất thống khổ, có người mách bảo cho thuốc Ha-lợi-lặc. Tỳ-kheo đến xin thuốc về chữa trị, không bao lâu thì khỏi bịnh. Do nhân duyên đó mà trong chín mươi mốt kiếp thường được sinh về cõi trời người, chưa từng mắc bịnh. Cuối cùng sinh vào nhà Bà-la-môn. Mẹ mất sớm cha lấy vợ khác. Lúc còn bé, có lần Bạc-câu-la thấy mẹ kế làm bánh thì đi theo sau xin, người mẹ rất ghét bèn ném vào lò bánh. Người cha về tìm thì gặp con ở bên trong lò. Lần khác, người mẹ nấu thịt, đứa bé lại theo sau xin ăn. Mẹ giận ném vào trong chỏ, lửa nóng như đốt mà vẫn không sao. Người cha đi tìm con không gặp mới hỏi: Con ta nay ở đâu? Lúc này Bạt-câu-la trong chỏ lên tiếng. Cha liền đem ra mà không hề hấn gì. Người mẹ sau đó đi qua sông, Bạc-câu-la níu áo đòi theo. Người mẹ giận dữ nói: Ngươi là loài yêu mị gì mà bị lửa đốt bao lần vẫn không chết. Thế rồi nắm đứa bé liệng xuống sông. Gặp phải con cá lớn nuốt chửng nhưng do phước duyên nên không chết. Có người câu được cá này đem ra chợ bán. Vì nói giá cao nên không ai mua. Từ sáng đến tối thịt đã muốn hôi. Cha Bạc-câu-la đi ngang qua chợ, thấy con cá lớn liền nghó: cá này thịt rất nhiều, nay đã muốn hư nên hỏi mua mang về. Thế rồi ông cho tiền người bán rồi đem cá về. Khi dùng dao định mổ bụng cá thì Bạc-câu-la ở bên trong liền lên tiếng: Xin cha nhẹ tay chớ làm con bị thương. Người cha mổ bụng cá đem con ra. Năm tháng dần trôi, Bạc-câu- la liền xin xuất gia, chứng quả La-hán có đầy đủ công đức. Đến tuổi một trăm sáu mươi mà vẫn chưa có bịnh, cho đến cũng không có nóng lạnh nhức đầu, sống đời thiểu dục tri túc thường lạc nhàn tịnh, cũng chưa từng dạy người một câu kệ bốn chữ. Vua nghe nói vậy, sai người đặt một tiền vàng cúng dường cho tháp này. Quan phụ tướng thưa: - cũng đồng là La-hán, vì sao nơi này chỉ cúng một tiền. Vua đáp: vì đây tự độ mà không hóa tha. Khi ấy tháp thần không nhận mà hoàn trả lại cho vua. Phụ tướng thưa: Thật là thiểu dục, chỉ một đồng tiền mà không muốn nhận, huống chi là nhiều. Như thế năm trăm vị La-hán, mỗi vị đều có bổn duyên riêng. Vua A-thứ-già cúng dường tháp Như Lai mà chúng Thanh văn xong, hoan hỷ chắp tay và nói kệ rằng: Lập muôn bảo tự, Mới được làm người, Ta nay liền vì, Bất không thọ sinh, Gặp phước điền tốt, Tạo đủ thắng nghiệp, Đem của rộng lớn, Mà tu pháp dày, Nơi ta xây tháp, Trang nghiêm cõi này, Dụ như mây trắng, Sáng đẹp hư không. Nói kệ xong rồi vua đảnh lễ trở về. Khi đến cây Bồ-đề lại nói rằng: - ta nay muốn làm hai việc phước: một là dùng ngàn cái bình đựng đầy nước hương đem rưới cây Bồ-đề, hai là kiến lập “Bàn- giá-vu-cầm” (Đại hội cúng thí) thế là Vua tắm rửa sạch sẽ đắp mặc y phục mới. Ngài đứng trên lầu cao đảnh lễ khắp bốn phương, và nói lời rằng: nguyện chư Thánh xin nhận lời thỉnh của con. Vua vừa nói xong thì mười phương các bậc La-hán bay lên hư không, đến hai mươi vạn thánh nhân từ ba cõi cũng đều vân tập, ở trên toà mà không dám ngồi. Vua hỏi chúng tăng: Vì sao đến đây mà lại ngồi trên hư không? Da-xá đáp: có vị đại La-hán tên là Tân-đâu-lô. Như Lai đã thọ ký cho vị này là sư tử hống uy đức rất cao thắng, nay sẽ đến đây. Vua nghe xong thì lông trên lưng đều dựng đứng, như hoa Ưu-bát- la vừa mới khai nở. Vua liền chắp tay chiêm ngưỡng chờ đợi. Bấy giờ Tân-đầu-lô cùng chư vị La-hán, như nga vương bay lên hư không đáp xuống. Tất cả chúng hội thảy đều cung kính. Vua thấy Tôn giả tóc trắng đẹp, thân hình tướng hảo như Bích-chi Phật, liền qùy mọp xuống làm lễ, thưa rằng: Đại Thánh! – Ngài có gặp Như Lai không? Đáp: - đã từng gặp, sắc Phật như vàng tụ, mặt như trăng đầy, đầy đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm, tiếng Phạm âm thâm diệu, lòng đại bi thật là sâu rộng. Vua lại hỏi: - Ngài gặp Phật ở đâu? Tôn giả đáp: Tại thành Vương xá, vào mùa hạ an cư. Ta lúc ấy gặp các việc phước điền thù thắng. Thấy vua khi ấy đem nắm đất cúng dường cho Phật. Như Lai thọ ký cho ông ta cũng được nghe. Sau đó vua đem tất cả quốc gia cho đến vợ con quyến thuộc vàng bạc châu báu cung điện, cho đến bản thân mình đem cúng dường cho Phật. Lại thỉnh chúng tăng cho mình lập ra hội “Bàn-giá-vu-cầm” (pháp hội bố thí pháp và tài không hạn lượng). Sau khi Vua rưới cây Bồ-đề, lại tự mình đi châm thêm thức ăn cho chúng tăng. Khi ấy ngài Tân-đầu-lô dùng sữa rưới vào cơm. Vua nói: Đại Thánh! sữa vốn là chất khó tiêu, Ngài ăn không sợ bịnh chăng? Tôn giả đáp: Không hề chi, vì sao? khi Phật còn tại thế thì nước cùng sữa đều như nhau. Tôn giả ăn mà không có bịnh gì. Ngài muốn nghiệm lại việc này nên giơ tay xuống mặt đất đến hơn bốn vạn hai ngàn lý, rồi bốc một nắm đất nơi đó lên bảo vua. Vua nên biết, chúng sinh bạc phước nên mùi vị ngon béo đều nhập vào đất. Cho nên phước thế gian chuyển thành suy diệt. Vua cúng dường xong rồi thì vui vẻ trở về. Vua có một người em tên là Túc-đà- sất, người này theo tà kiến rất ghét Sa-môn. Vua liền lập phương tiện cho em từ bỏ tà kiến. Sau đó vị này xuất gia, tu chứng quả A-la-hán. Nhưng rồi bị kẻ xấu sát hại. Bấy giờ đại chúng nghi vấn mới hỏi ngài Ưu-ba-cúc-đa: vì nhân duyên gì mà Túc-đà-sất sinh vào nhà hào quý, tu chứng quả mà còn bị giặc giết. Tôn giả đáp: trong đời quá khứ lâu xa vào thời Phật Ca-diếp, vị này thường cúng dường chúng tăng, do phước này nên sinh vào hào quý hưởng vinh hoa. Lại trong đời quá khứ từng làm một người thợ săn, giăng bẫy mà không bắt được con thú nào. Khi trông thấy vị Bích-chi- Phật thì sinh tâm giận dữ, dùng kiếm bén chém vào đầu Phật. Do ng- hiệp đó mà đoạ vào địa ngục, sinh ra thường bị người giết hại, tuy đắc đạo mà vẫn còn dư báo. <卷>QUYỂN 4 Vua A-thứ-già lại có một người con tên là Pháp Tăng, sắc rất đoan chánh, con mắt rất kỳ diệu. Khi đó có một con chim tên là Câu-na- la, mắt của thái tử rất đẹp như chim Câu-na-la. Do đó mà lấy tên chim đặt cho con. Lớn lên thái tử có vợ tên là Chân Kim Man. Vua cùng con đến chùa Kê-đầu-mạt. Thượng toạ Da-xá nhìn thấy người này sắp mất con mắt, liền bảo: Con mắt đó là vật vô thường không thể giữ gìn lâu dài. Vậy thái tử nên chuyên tu tinh tấn cầu quả giải thoát rồi trở về cung. Thái tử quán sát mắt này là khổ không bại hoại. Vua có vị đại phu nhân tên là Đế-thất La-xoa, đối với Câu-na-la lại đem lòng yêu thương đắm trước, dục vọng bức bách muốn cùng tư thông. Vương tử tánh tình thuần lương trong sạch nên cương quyết không nghe theo_ Đế-thất-la-xoa ôm lòng thù hận. Lúc này Câu-na-la đang cai trị trong thành Xoa-thi-la. Vị đại phu nhân kia thường dò xét theo dõi, gặp lúc vua bị bịnh nguy khốn, phu nhân cho tìm thầy thuốc chữa trị. Bà xin thay thế làm vua trong bảy ngày. Khi được toại ý bèn rắp tâm báo oán, ngầm đem thư đến móc mắt vương tử. Vương tử vì lòng hiếu thuận nên nhờ người ác móc mắt phải để trên tay để quán, lúc này vương nhớ lại lời dạy của ngài Da-xá, liền nói: quả như lời Tôn giả dạy, mắt này vô thường dụ như huyễn hóa. Ngày trước cho đây là kỳ đặc vi diệu, nay quán xét thấy thì chẳng có gì để yêu thích cả. Ta nên bỏ thứ nguy ách dơ bẩn này mà chuyên cầu con mắt huệ thanh tịnh thù thắng. Quán xong liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Lại móc con mắt kia ra quán tưởng, nhàm chán không thôi, nên liền chứng quả Tư-đà-hàm. Người vợ là Kim Man nghe chồng bị móc mắt thì than khóc kêu gào tìm đến. Bấy giờ Câu-na-la nói kệ: Xưa ta làm nghiệp ác, Ngày nay phải hoàn trả, Tất cả khổ thế gian, Ân ái cũng ly biệt Nàng nên quán xét kỹ, Cớ sao lại buồn khóc. Nhân dân trong thành đuổi hai vợ chồng ra ngoài thành. Câu-na- la đánh đàn đi xin ăn lần hồi về đến thành Hoa Thị, tìm vào cung vua ở trong chuồng voi. Vương tử gãy đàn ca ngâm kể lại các điều cực khổ. Vua nghe rõ tiếng âm nhạc phảng phất, muốn biết sai người ra xem có phải là Câu-na-la rồi cho triệu vào. Vua thấy con thì đau đớn té xỉu khóc lóc rồi hỏi Câu-na-la: -Ai huỷ hoại đôi mắt con mau nói cho ta biết, ta sẽ trị tội kẻ đó. Câu-na nói: - phụ vương không nghe sao? Xưa Phật còn thọ ng- hiệp báo. Thế lực của quả báo này rất lớn. Dù là bực hiền Thánh người tôn quý kẻ nghèo hèn không có ai tránh khỏi. Con trước gây ra nghiệp báo nên nay chịu lấy quả. Vua chẳng những buồn não mà tâm càng tiều tụy. Dù nghe lời con nói nhưng lòng vua nóng như lửa đốt nên lại hỏi: ai hại mắt con? Hỏi một hồi thì biết là do Đế-thất La-xoa làm, Vua liền triệu đến hỏi: - Vì sao mà quả đất này không chôn hãm ngươi đi, thật là kẻ oan gia mà giả làm người thân cận ta. Vì duyên cớ gì lại hại mù mắt Câu-na-la. Ta nay sẽ giết ngươi băm thân ra như cám. Câu-na-la nghe cha nói vậy thì sinh lòng đại bi, thưa rằng: phu nhân vì vô trí nên gây ra hoạ hoạn này, là người có trí lẽ nào lại cũng vậy. Nay muốn trả báo lại tất sẽ gieo oán hận nhiều đời cứ như vậy cùng kiếp sẽ không cùng tận. Đại vương nên biết, cũng như tiếng vang thì có âm hưởng. Thân này do đây mà có khổ. Lại thân này cũng là căn bản của muôn sự khổ. Vậy nên Phật khuyên chúng ta cần phải xa lìa. Nếu các pháp ở thế gian này nhất định là được an lạc thì tại sao những người có trí tuệ lại sinh tâm nhàm chán xa lìa. Do đây mà quán biết thân là nơi tích tụ của muôn sự xấu ác đau khổ. Đại vương nên biết, thế gian chẳng khác nào như đứa con chưa từng biết nghóa lý mắng nhiếc cha mẹ, không tỏ lòng cung kính. Cha mẹ kia lại đi sân giận nó sao? Tất cả chúng sinh cũng thế, thường bị phiền não che lấp vô si vô trí cũng như trẻ thơ, thì sao lại giận dữ với họ. Vua dù nghe con nói nhưng tâm sân giận không nguôi, liền cho chất củi để thiêu sống phu nhân. Lúc này đại chúng nghi ngờ mới hỏi ngài Ưu-ba Cúc-đa: Vì duyên cớ nào mà Câu-na-la được sinh vào nhà tôn quý mà lại bị người khoét mắt? Tôn giả trả lời: - Xưa ở thành Ba-la-nại có một thợ săn đi lên núi Tuyết gặp lúc mưa bão dữ dội. Có năm trăm con nai cũng vào hang trú ẩn. Người thợ săn muốn giết hết bọn chúng, mới nghó rằng: - Nếu ta giết hết một lần thì thịt sẽ hôi thối, nên khoét mắt cho chúng không thể đi đâu, rồi giết dần chúng để ăn. Do nghiệp duyên đó mà thọ báo đến bây giờ. Lại vào thời Phật Ca-la-cưu-tôn, khi Phật đã diệt độ có vị Quốc vương tên là Đoan nghiêm, thâu thập xá-lợi của Phật xây bảy ngọn tháp cúng dường. Sau đó có một vị vua tâm lại không kính tin Tam bảo, phá hết các bảo tháp lấy hết vàng ngọc chỉ còn lại đất đá. Người trong nước thấy vậy đều than khóc bi thương. Có vị trưởng giả đi qua hỏi lý do, mọi người đáp: tháp Phật Ca-la-cưu bị huỷ hoại, nên chúng tôi than khóc. Trưởng giả nghe nói vậy, liền bỏ vàng báu ra xây sửa lại như cũ. Do tạo Phật tượng nên sinh ra được tướng hảo thù diệu. Nhân đó phát nguyện rằng: - Khiến cho con đời sau được quả tối thắng, giải thoát như Thế Tôn. Do nghiệp duyên đó nên sinh vào nhà tôn quý đắc quả tịnh diệu. Quyến thuộc của vua A-thứ-già nghe như thế đều xả bỏ hết sự tham trước mà chỉ cầu thoát ly sinh tử. Lòng tin của vua càng thêm sâu rộng. Vua thấy các vị Sa-môn dù lớn dù nhỏ đều cung kính hỏi thăm và đảnh lễ, bây giờ có vị đại thần tên là Dạ-xà, tâm tà kiến mạnh nên không kính tin Tam bảo, nên nói lời rằng: Vua A-thứ-già thật không có trí tuệ, tự hạ mình để đi lễ lạy kẻ đồng ấu. Vua nghe lời đó thì liền ra lệnh cho quần thần rằng: các ông tìm về cho ta trăm cái đầu con thú. Vua riêng sai Dạ-xa tìm về đầu người, mọi người theo lệnh vua đổ xô đi tìm. Khi tìm được rồi thì dâng lên vua, vua bảo họ đem ra chợ bán, không bao lâu thì đầu thú đều bán sạch, riêng chỉ có đầu người của Dạ-xa thì không ai mua. Qua mấy ngày đầu đã hư thối. Dạ-xa mới vào bạch vua: - Đại Vương! đầu người không ai muốn nhìn huống chi là mua. Vua bảo Dạ-xa: - vật gì là tối quý. Đáp: - Đại vương, người là vật tối thắng. Vua nói: người cao quý nhất sao lại không bán được? Dạ-xa đáp: người khi sống thì quý nhưng chết đi là vật ti tiện. Vua nói: đầu ta thì rồi cũng vậy phải không? Dạ-xa sợ hãi cúi đầu đáp: đầu vua rồi cũng vậy. Vua bảo: đầu ta cũng là ti tiện. Vậy sao ông làm lạ khi ta lễ lạy người còn trẻ tuổi, ông thật là chân Thiện tri thức của ta vì đã khuyên ta đem cái đầu nguy ách đổi lấy đầu kiên cố. Như vậy tại sao không phải là điều thiện. Lúc này quan đại thần Dạ-xa mới hối hận trách mình, hối cải tà tâm kính tin Tam bảo. Sau đó vua lại hỏi ngài Ưu-ba: Xưa Phật còn tại thế ai cúng thí nhiều nhất? Tôn giả đáp: trưởng giả Tu-đạt là người cúng dường nhiều nhất. Đem vàng bạc cả trăm ức cúng dường Như Lai. Vua lại nghó: - Vị kia đã cúng thí các loại trân báu như thế, ta nay lý nào lại không bằng. Thế rồi vua tính toán lại những gì đã cúng thí từ trước đến nay, gồm có chín mươi sáu ức lượng vàng. Sau đó vua bị bịnh nặng gần chết, liền khóc lóc thật là ảo não. Có vị đại thần tên là La-đề-cúc, vốn thường ngày tuỳ hỷ theo đồng tử, do phước này nên được làm phụ tướng, ông có trí tuệ sâu xa lại khéo ăn nói. Thấy vua ảo não liền chắp tay tâu: Cũng như mặt trời sáng rực thì mọi người đều chiêm ngưỡng. Tha- ïnh đức của vua cũng thế, đều được dân chúng cung kính. Nay vua gặp bịnh như mặt trời xế tàn. Nhân dân cả nước không ai không bi cảm lo lắng. Đại vương nên nghe lời thần nói: tam giới là vô thường, dời đổi không an. Tuổi trẻ rồi cũng già yếu suy tàn, ví như núi đá bốn phương cùng đến, làm sao người có trí tránh thoát được. Chúng sinh ở thế gian này cũng thế. Thọ thân ngũ ấm cái chết lại đến bức bách. Giả sử có làm ra trăm ngàn phương tiện, đem các thứ chú thuật trốn tránh tàng ẩn, chưa thấy có nơi nào tránh được hoạn này. Nên biết thế gian này là vô thường, có hợp tất có tan. Nên thâm quán lý này, nên dứt bỏ cớ sao lại ảo não âu sầu. Vua bảo: - ta không sợ chết hay lẫn tiếc tài bảo mà chính là muốn xả bỏ tất cả. Muốn cúng dường trăm ức vạn kim mà chưa đủ, vì nhân duyên đó cho nên ta đau buồn. La-đề-cúc nói: kho báu của vua rất nhiều đem ra cúng thí ắt sẽ đủ. Vua liền đem bảy báu cúng cho chùa Kê-đầu-mạt, lập con của Câu-na-la là Thức-ma-đề làm thái tử. Aùc thần tà kiến nói với thái tử rằng: Vua sắp mạng chung nên đem tẩu tán hết kho báu, ngài nối ngôi vị sẽ không còn của cải để sử dụng, nay phải tìm cách ngăn cản, chớ theo ý ông ta. Khi ấy, Thức-ma-đề tin theo tà thuyết, đem một mâm vàng đựng thức ăn cho vua. Vua đem cúng bát cho chùa Kê-đầu-mạt. Sau chỉ đem cho vua nửa bát sành đựng nửa trái am-ma-lặc cho vua ăn. Vua triệu quần thần đến nói: - cõi Diêm-phù-đề này ai là vua? Chư thần đáp: duy chỉ có vua thống lãnh tất cả. tại. Vua nói: không phải, ta chỉ có nửa trái am-ma-lặc mà được tự Rồi vua lại than: thương thay phú quý chỉ là sự xấu xa tàn hại, ngôi vị như huyễn hóa không bao lâu rồi cũng hoại diệt, dù sống nơi tôn quý cuối cùng cũng đoạ lạc. Ta làm vua uy đức tột cùng, rốt cuộc lại nghèo thiếu, duy chỉ có nửa trái cây độ nhật. Thế đủ biết thế gian là hư ngụy. Kẻ ngu ham mê dục lạc, người trí thì lìa xa quở trách, vua bèn hướng về quần thần nói kệ: Đúng thay! Lời Phật dạy, Lời nói Phật không hư, Rộng bày sinh tử hoạn, Không có gì yêu thích. Ta sinh nơi tôn quý, Uy đức bao trùm cả, Tiểu vương và nhân dân, Người người đều chiêm ngưỡng, Ngày nay phước đã tận, Đói khát càng trói buộc, Cũng như dòng nước mạnh, Va núi không còn trôi, Ta xưa giúp người nghèo, Cứu tế sự khổ não, Tại sao đến hôm nay, Lại rơi vào nghèo khổ, Mới biết sự tôn quý, Mau diệt không chắc chắn, Giải thoát tịch tónh vui, Là điều tối an lạc. Vua nói xong thì bảo với một vị đại thần: - ông đem quả này đến chùa Kê-đầu-mạt nói lại lời ta là vua A-thứ-già xin lễ lạy dưới chân chúng tăng, ta nay duy chỉ có nửa trái Am-ma-lặc mà được tự tại. Tất cả mọi thứ đều đã mất hết. Quả này tuy nhỏ nhưng là vật cúng dường cuối cùng, duy nguyện chúng tăng thương xót ta nghèo khổ mà thọ nạp cho. Thượng toạ Da-xá bảo chúng tăng rằng: Các ông nên biết, Vua A-thứ-già thọ phước hưởng khoái lạc, tổng nhiếp khắp thiên hạ, nay bị quần thần chế ngự cướp đoạt, duy chỉ có nửa trái Am-ma-lặc mà được tự tại. Nên biết sinh tử thật đáng nhàm chán. Ngũ dục phú quý không bao lâu rồi cũng tan hoại. Uy thế tự tại, không bao lâu cũng bị tàn diệt. Ôi, tam giới khó thể ở lâu. Rồi Ngài bảo vị điển sự đem mài quả này ra nấu chung với cháo để cho chúng tăng cùng dùng. Vua A-thứ-già khi ấy sắp lâm chung, mới hỏi La-đề-cúc rằng: Cõi Diêm-phù-đề này ai được tự tại? La-đề-cúc nói: Duy chỉ có vua. Vua nghe lời này, liền chắp tay quán khắp bốn phương và nói rằng: trừ các kho báu, thì tất cả đại địa bốn biển đều xin cúng dường hết cho chúng tăng, và các công đức từ xưa đến nay xin hồi hướng mau chứng đạo quả, mà không cầu sinh tử Chuyển luân, Đế-thích. Vua ấn khả giao phó cho La-đề-cúc, sau đó thì mệnh chung. Quần thần y vào pháp Chuyển luân vương mà làm lễ tống đáng. Tôn giả Ưu-ba Cúc-đa khai mở tâm vua cho đến khi niềm tin lớn mạnh, dùng các phương tiện khéo léo giáo hóa chúng sinh. Sau đó ở trong thành Túc-la có một vị thương chủ tên là Thiên Hộ rất có lòng kính tin Tam bảo, muốn vào biển lớn tìm kiếm trân báo, khi trở về thì mở đại hội cúng dường cho chúng Tăng, có vị Tỳ-kheo-ni đắc quả A-la- hán, quán xét trong chúng xem ai là người có phước điền. Tỳ-kheo-ni lại suy nghó: Tăng đứng đầu là ai? Thấy chư La-hán cùng các học nhân đoạn hết phiền não kham thọ sự cúng dường, lại quán thấy một vị Tỳ-kheo tên là A-sa-la chưa được giải thoát mà đứng đầu trong hàng Tăng chúng. Khi ấy Tỳ-kheo-ni đến bảo rằng: Đại Đức! hôm nay Ngài nên tự trang nghiêm. Vị Tỳ-kheo không hiểu ý này, nên chỉ cạo tóc, tắm rửa, mặc y phục sạch sẽ. Một lần khác Tỳ-kheo-ni lại nói Sa-la nên trang sức tự thân lại. Sa-la nghe nói thì giận dữ: - ta vì lời nói của Sư cô mà tắm rửa trang nghiêm sạch sẽ. Ta còn chỗ nào chưa sạch hãy nói ra đi. Tỳ-kheo-ni nói: Đại Đức nên biết! trang nghiêm theo thế tục chẳng phải là pháp Phật vậy. Trang nghiêm theo pháp Phật là chứng được tứ quả, là thay Đại đức quá là khinh liệt. Trưởng giả Thiên Hộ muốn thiết đại hội, ngài thọ cúng cao hơn các vị hiền Thánh. Ngài là Tăng đầu mà chưa tránh được sinh tử, đem tâm hữu lậu tối sơ thọ cúng. Thế nên tôi nay muốn ông giác ngộ. A-sa-la nghe nói vậy thì bi thương rồi tự tư duy: - Lão hủ này làm sao có thể đạt lậu tận được. Tỳ-kheo-ni nói: Phật pháp là vô thời, huống chi là già trẻ. Ngài nên đến tham học với Ưu-ba Cúc-đa. Tỳ-kheo liền đến chỗ của ngài Ưu-ba Cúc-đa gặp lúc tăng tắm đồng hiện ra thần biến, A-sa-la hoan hỷ nói kệ: Hoà hợp cùng một chỗ, Kiết-già như long bàn, Thảy đều nhập tịch định, Tịch nhiên không biến động, Cùng phóng ánh quang minh, Dụ như trăm ngàn ngày, Tuy đồng là hình người, Công đức thật cao dày. Ngài Ưu-ba Cúc-đa thấy Tỳ-kheo đã điều thuận, Ngài liền thuyết pháp, Tỳ-kheo nghe xong liền chứng quả La-hán, lúc này lại có một Ưu-bà-tắc, hướng về vị Bà-la-môn nói: vô ngã. Bà-la-môn nói: ai nói lời này. Đáp: - Ngài Cúc-đa thường nói vô ngã, chỉ mượn hoà hợp mà nói là ngã. Bấy giờ Bà-la-môn đi đến chỗ Tôn giả, ngài Ưu-ba biết được tâm của ông nghó nên nói tất cả đều là vô ngã. Ví như không sơn nổi lên những âm thanh vang vọng. Quán sát tư duy biết rõ là bất khả đắc, bởi do ngũ ấm hoà hợp mà thành, là người có trí, phải tính tới lẽ chân thật. Bấy giờ vị Bà-la-môn được khai ngộ liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Ngài độ cho xuất gia liền chứng quả La-hán. Có người trong dòng họ cao quý đến ngài Ưu-ba cầu xin xuất gia học đạo, vị này giải đãi làm biếng chỉ thích nằm ngủ, tuy có nghe thuyết pháp mà không chứng ngộ. Tôn giả bảo ra ngoài gốc cây ngồi thiền. Ra gốc cây vị này lại ngủ. Cúc-đa hóa ra một cái giếng sâu. Tỳ-kheo nhìn thấy thì sợ hãi, nhất tâm chuyên niệm ngài Ưu-ba Cúc-đa. Tôn giả liền hóa ra một con đường nhỏ, để cho vị Tỳ-kheo đó đi qua. Tỳ-kheo liền nghó: thầy cứu con khỏi nạn này. Ưu-ba Cúc-đa liền nói: Đây là sự khủng bố ít không đáng nói. Sinh lão bệnh tử trong tam giới thường theo người chưa từng xa lìa. Cõi địa ngục thống khổ trăm ngàn vạn loại. Cái sợ đó còn quá hơn những hầm hố sâu này. Tỳ-kheo lúc này không còn lo ngủ nghỉ nửa, mà tinh tấn tu hành đắc quả A-la-hán. Ở nước phương Đông có một vị thuộc tộc tánh, tin vui theo pháp Phật rồi xuất gia học đạo khéo léo luôn thành tựu mọi việc sinh nhai. Trải qua thời gian lâu dài lại sinh lười biếng. Vị này đi đến chỗ của Ưu- ba Cúc-đa. Tôn giả quán xét biết vị Tỳ-kheo này phước đức chưa đầy đủ nên chưa đắc đạo. Do đây mà ngài bảo Tỳ-kheo đi du hành giáo hóa. Tỳ-kheo vâng lịnh đi vào thành, có một vị trưởng giả trông thấy liền hỏi, thì vị Tỳ-kheo đáp: Trưởng giả, Tôn giả Ưu-ba Cúc-đa dạy tôi đi giáo hóa. Nay ở trong thành ai là người có lòng tịnh tín sâu xa. Trưởng giả lại nói: Ngài cẩn thận chớ đi nơi khác. Tất cả vật dụng cần thiết, tôi sẽ cung cấp đầy đủ. Tỳ-kheo được cúng quỳ dài trì bát ở trước thượng tọa, tất cả chúng tăng đều chú nguyện. Chú nguyện xong rồi liền chứng quả A-la-hán. Có vị Tỳ-kheo tánh rất ham ăn, do đó mà chưa đắc đạo, Ưu-ba Cúc-đa gọi vào phòng, đem cháo hương nhũ cho ăn, nhưng bảo hãy đợi nguội rồi hẳn ăn. Tỳ-kheo thổi cho cháo nguội bớt rồi nói: Thưa Tôn giả cháo đã nguội rồi. Tôn giả bảo: cháo này tuy nguội mà ông thì nóng nảy. Nên quán nước để diệt tâm nóng của ông, lại dùng bát không để thổ hết ra. Đã mửa ra rồi ăn trở lại. Tỳ-kheo nói: đã mửa ra sao còn ăn được? Tôn giả nói: tất cả loại ẩm thực cùng việc này không khác, ông không quán xét lại vọng sinh tham ăn. Vậy nay nên quán thức ăn là bất tịnh. Tỳ-kheo nghe thuyết pháp xong liền đắc quả. Có vị Tỳ-kheo rất yêu tiếc thân mình. Vì ái lạc thân cho nên hoàn tục trở về nhà, từ biệt ngài Cúc-đa xong trên đường trở về nhà ban đêm ghé vào miếu nghỉ. Tôn giả liền hóa ra một quỷ Dạ-xoa mang một xác chết vào miếu. Lát sau thì có một con quỷ khác bước vào. Thế là hai con quỷ cùng tranh nhau xác chết, phân vân kiện tụng không thể quyết định được. Con quỷ đến trước nói: Ta có người làm chứng rồi cùng nhau hỏi người đến trong miếu. Người kia hoảng hốt tự nghó: - Ta hôm nay nhất định là phải chết. Vậy thì cứ nói thật dẫu chết cũng được. Nghó xong liền nói: Thây chết này của quỷ đến trước. Con quỷ sau sân giận lên bèn chặt hết tay chân của người đó. Con quỷ đến trước bèn lấy tay chân của thây chết đắp vào, thân thể người kia bình phục như cũ, lần lượt cả thân hình người bị quỷ ăn rồi con quỷ kia đem thân người chết đắp vào, lại lành lặn như trước. Do đây mà tâm ông dứt hết sự luyến ái tự thân. Trở về chỗ Tôn giả xin xuất gia lại và càng tinh tấn tu hành, không lâu sau đó thì đắc quả La-hán. Ở Nam Thiên-trúc có một vị thuộc dòng họ tộc tánh xin xuất gia học đạo, vị này lại đắm trước tự thân, lo tắm rửa thoa hương ướp dầu, thích ăn ngon mặc đẹp, trang sức thân thể nên không thể đắc đạo. Vị này đi đến chỗ Tôn giả cầu thọ thắng pháp. Ưu-ba Cúc-đa quán sát người này vì đắm trước thân nên chưa dứt lậu hoặc nên nói: Này Tỳ- kheo! Nếu có thể thọ pháp của ta thì ta sẽ trao cho ông. Rồi Tôn giả hóa ra một cây đại thọ bảo vị kia leo lên đó, bốn bên biến thành hố sâu cả ngàn nhận, rồi Ngài bảo ông buông cả hai tay hai chân. Người kia lúc này buông xả cả thân mạng, buông cả tay chân nhào xuống mặt đất, không thấy hố sâu và cả cây đại thọ. Sau đó nghe Tôn giả thuyết pháp và đắc quả A-la-hán. Lại có một vị Tỳ-kheo tâm rất keo sẻn, vì thế nên không đắc đạo, ngài Ưu-ba dạy phải bố thí, vị kia nói: - Con nghèo lấy gì để thí? Ngài Ưu-ba Cúc-đa bảo hai người đệ tử ngồi hai bên vị này, thân phóng ra ánh hào quang sáng rực. Tỳ-kheo hoan hỷ giảm bớt phần ăn ra để bố thí. Sau được thức ăn ngon càng sinh lòng hoan hỷ, liền nghó rằng: Thí ít còn được phước báu nhiều, nếu cúng nhiều sẽ được phước vô lượng. Từ đó phá tâm keo sẻn. Được nghe pháp thâm diệu liền chứng quả A-la-hán. Lại có người tộc tánh xuất gia học đạo. Ngài Ưu-ba Cúc-đa liền nói pháp yếu cho nghe, vị này liền thấy đạo đắc quả Tu-đà-hoàn, liền khởi niệm nghó: Ta đã đoạn tam kết đâu còn gì để cầu tiến. Sau đó vị này du túng tự tại cho đến sinh trở lại bảy lần. Tôn giả bảo: pháp sinh tử thật xấu xa thấp kém, cũng như đồ xú uế dù nhiều ít cũng hôi thối. Rồi ngài đi đến thôn chiên-đà-la, thấy một đứa bé thân hình đầy ghẻ lở, máu mủ trùng bọ đeo bám thật là tanh hôi khổ não Tôn giả bảo Tỳ-kheo: - có thấy đứa bé này không? Đứa bé này từng chứng quả Tu- đà-hoàn – Xưa Phật còn tại thế có một vị La-hán, thân có một ít ghẻ lở, rên la ra tiếng. Vị Duy-na giận nói: mình ông có ghẻ lở phải không? Nên đến thôn Chiên-đà-la mà ở. La-hán nói: - ông đắc tội khi nói ra lời này. Khi ấy vị Duy-na liền tức thời sám hối. Tinh tấn tu tập đắc quả Tu-đà-hoàn. Sau đó vì giải đãi không cầu thắng tiến tu tập cho nên mới sinh vào nhà này thọ quả báo này. Lát sau đi trên đường, thấy một người bị lửa thiêu đốt, thân thể nát nhừ khổ thống thật khó nhẫn. Một lúc lại thấy có người phạm vào vương pháp vua, thân bị cột vào cây lớn bị thả nổi trên sông, phát tiếng kêu khóc thật là khổ não. Lúc ấy Tôn giả hỏi Tỳ-kheo rằng: - Ông có thấy hai người này không? Tỳ-kheo đáp: - thưa thấy. Tôn giả bảo: - người trước đã chứng quả Tư-đà-hàm, người sau thì chứng A-na-hàm. Sau đó vì giải đãi không chịu tu tiến, cho nên sinh trong loài người bị quả báo này. Vậy thì ông hãy tinh tấn tu tập sớm cầu giải thoát. Tỳ-kheo nghe xong ngày đêm nổ lực tu học, không bao lâu đắc quả A-la-hán. Tôn giả liền vì Chân-đà-la mà thuyết pháp. Sau đó vị kia chứng quả A-na-hàm, khi mạng chung sinh về cõi trời Tịnh cư. Nước Ma-đột-la có vị trưởng giả sinh một người con. Tuổi vừa lên một thì chết, như thế trải qua sáu lần sinh con mà lần nào cũng vừa một tuổi thì chết. Lần cuối cùng thì đứa bé ấy sinh vào nhà một trưởng giả, khi lên bảy tuổi thì lại bị giặc bắt đi. Ngài Ưu-ba Cúc-đa thấy đứa bé sẽ đắc đạo trong hiện đời, nên hóa ra tứ binh vây bắt giặc, tên giặc sợ hãi lễ lạy cầu xin, giặc nghe Ngài thuyết pháp liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Sau đó thì giao đứa bé lại cho ngài Ưu-ba. Tôn giả độ cho đứa bé này xuất gia cùng tên giặc. Ngài thuyết pháp cho đồng tử khiến chứng quả La-hán. Ngài bảo tiểu nhi: Nay con quán xét quyến thuộc để đến hóa độ họ. Tiểu nhi quán thấy cha mẹ trong bảy đời đang âu sầu than khóc nhớ con, liền đi đến những nhà ấy và nói: - Trưởng giả – ta là con của người, chớ nên đau buồn nữa. Rồi chú nói cho các vị nghe và đều đắc sơ quả. Lần lượt sáu nhà đồng như thế. Lại có vị tộc tánh tin Phật đi xuất gia, khi toạ thiền đắc được tứ thiền của thế tục, tự cho mình rốt ráo sẽ đắc quả La-hán. Ngài Ưu-ba Cúc-đa khéo léo dùng phương tiện, khiến cho Tỳ-kheo kia đi vào tụ lạc. Ngài hóa ra một cổ khách ở giữa đường. Lại hiện ra một bọn giặc gồm năm trăm người cùng đồng đảng đến cướp điếm khách, sát hại chém người khắp nơi. Lúc này vị Tỳ-kheo rất sợ hãi, biết rõ là mình chưa chứng La-hán mà nghó rằng chỉ chứng A-na-hàm, sau đó cổ khách tan hoang, có một trưởng giả nữ nói với tỷ-kheo này: xin đại đức cùng đi với tôi. Tỳ-kheo đáp: - Phật không cho đi với người nữ. Trưởng giả nữ nói: tôi chỉ đi theo sau. Tỳ-kheo thương xót bèn cho đi theo sau. Tôn giả liền hóa ra một con sông lớn. Người nữ nói: - ngài có thể đưa tôi qua sông. Tỳ-kheo ở hạ lưu, cô gái ở thượng lưu. Cô gái này sau đó bị chìm xuống dòng nước mới gọi: Đại đức xin cứu tôi. Tỳ-kheo liền kéo cô gái lên, khởi tâm ái dục vi tế, nên biết là chưa chứng quả A-na-hàm. Lúc ấy lòng dục khởi lên muốn tư thông cùng cô thì mới nhận ra là ngài Cú-đa. Khi đó lòng rất xấu hổ cúi đầu đứng yên. Tôn giả bảo: ông xưa tự cho mình là A-la-hán. Vì sao lại muốn làm ác sự này, nên đến tăng phường sám hối. Sau đó nghe Ngài thuyết pháp mà Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Có một Tỳ-kheo quán pháp bất tịnh, kiết tập tạm thời không khởi liền cho là chứng Thánh đạo. Ưu-ba Cúc-đa liền nói: - Tỳ-kheo ông nên đến nước Càn-đà-việt. Tỳ-kheo liền vâng lịnh đi đến kia. Trong nước này có vị trưởng giả tên Ca-la-hoà sinh một cô con gái rất xinh đẹp, Tỳ-kheo đi đến nhà đó khất thực. Cô gái đưa thức ăn xong thì nhoẻn miệng cười. Tỳ-kheo trông thấy thì vọng sinh tham dục, do đây mà ông lại khởi quán bất tịnh, quán hàm răng của người nữ như xương trắng, do quán mà đắc quả A- la-hán, tự trách bản tâm mà nói kệ rằng: Ngoài hiện nơi hiền thiện, Trong còn nhiều đắm trước, Thấy được thật tướng đó, Tâm liền được giải thoát. Nước Ma-độ-la có một trưởng giả, vừa cưới vợ về tâm liền suy nghó: ta muốn xuất gia. Thế là đi vào từ tạ cha mẹ. Cha mẹ nói: ta chỉ có mình con không thể chia lìa, tại sao lại bỏ đi? Con thưa: nếu không cho xuất gia, thì suốt đời con sẽ nhịn đói. Rồi người con tuyệt thực trong suốt bảy ngày, cha mẹ sợ con chết đói mới nói: cha mẹ cho con được tròn nguyện, nhưng sau khi xuất gia xong nên về đây thăm cha mẹ. Người con rất vui mừng liền từ biệt ra đi. Ông đến chỗ Ưu-ba Cúc- đa cầu xin xuất gia học đạo, và tự nghó rằng: xưa ta có hứa với cha mẹ nay nên trở về nhà, khi về nhà gặp lại cha mẹ và vợ cũ. Người vợ nói: nếu chàng không trở về thì thiếp sẽ chết. Tỳ-kheo trong tâm hối hận, ý muốn xả giới. Ông đi đến nói với thầy. Ngài Ưu Ba bảo: Hãy đợi đến sáng mai. Ông xin thầy ngủ lại trong chùa. Đêm đó Tôn giả hiện ra giấc mộng khiến cho Tỳ-kheo thấy hết mọi việc ở nhà. Người vợ khi ấy mạng chung. Cha mẹ thân tộc sửa soạn tống táng, khiêng thây chết đặt giữa, quan tài. Không bao lâu thì mùi hôi thối xông lên, trùng bọ lúc nhúc bò ra, xương cốt phân tán, cáo sói tới tranh ăn. Khi ấy Tỳ-kheo tỉnh giấc mới đến thưa với thầy mọi chuyện. Ưu- ba bảo: Ông trở về xem có như trong mọng không. Tôn giả dùng thần lực đưa Tỳ-kheo về nhà người vợ đã chết y như trong giấc mộng, ông quán sát tư duy càng sinh lòng nhàm chán, thế rồi tinh tấn tu tập chứng A-la-hán. Ở núi Ưu-lâu-đà có một lão hổ sinh ra hai con, vì đói khát kiệt sức cho nên mạng chung, hai hổ con mất mẹ thật là quẫn bách, Ưu-ba Cúc- đa đi đến trông thấy liền cho ăn và nói kệ: Các hành vô thường, Là pháp sinh diệt, Sinh diệt diệt rồi, Tịch diệt là vui. Ngày ngày cho ăn và nói kệ này. Hai hổ con sau đó chết đi sinh vào nhà Bà-la-môn trong nước Đột-la. Ngài Ưu-ba Cúc-đa một mình đi đến nhà đó, Bà-la-môn nói: Sao ngài đi một mình? Đáp: Đàn-việt! Người xuất gia đơn độc không có nô bộc. Bà-la-môn nói: Vợ tôi mang thai, nếu sinh con trai sẽ cho theo ngài. Sau đó sinh được hai đứa bé trai, dung nghi thật là tuấn tú, Ưu-ba Cúc-đa tìm đến xin. Bà-la-môn nói: chúng còn quá nhỏ, đợi lớn lên sẽ cho theo ngài. Đến khi đứa trẻ tám tuổi ngài lại đến xin. Trưởng giả đem đứa lớn cho Tôn giả, đứa nhỏ bảo cho con đi theo. Hai đứa bé cùng tranh nhau đi xuất gia, ngài Ưu-ba Cúc-đa nói: cả hai đều có khả năng đắc đạo. Vị Bà-la-môn đều cho theo Tôn giả hết. Tôn giả độ cho xuất gia, tu hành cho đến chứng quả A-la-hán. Tôn giả sai hai vị lên hái hoa chiêm-bặc, cả hai đáp: - Đại sư! cây này cao lắm, con không thể leo lên. Tôn giả bảo: các con là Thánh, há lại không có thần túc. Lúc này hai Sa-di liền bay lên hư không hái hoa đem về dâng thầy. Tôn giả cùng hàng đệ tử đứng đó, thấy rõ thần đức liền khen ngợi chưa từng có, Cúc-đa nói: hai Sa-di này đời trước là hai con hổ đói. Các ông trách ta cho chúng ăn, nay hãy xem thần biến này. Hàng đệ tử nghe xong nghó là điều kỳ đặc. Ở Nam Thiên-trúc có một nam tử tư thông với vợ của người. Người mẹ hết sức la rầy: con nên biết dâm dật sinh ra nhiều tội hoạn. Bởi do đây nên không có điều ác nào mà không làm, đời sau ắt sinh vào nơi khổ thống. Người con giận dữ liền giết mẹ mình. Sau đó đến nhà kia muốn thoả mãn cùng cô gái kia mà không được. Tâm ông sinh hối hận nhàm chán, tìm đến Phật pháp xuất gia học đạo. Không bao lâu thông suốt cả tam tạng pháp điển, ông khéo ăn nói nên có nhiều quyến thuộc đồ đệ. Một hôm đem đồ chúng đến chỗ Tôn giả. Tôn giả quán xét người này vì tạo tội nghịch nên không đắc quả, nên Ngài im lặng mà không nói gì. Tỳ-kheo Tam tạng biết tội mình rất sâu dày, thấy Tôn giả không nói gì thì quay trở về. Có một vị ngồi thiền tư duy đắc được thế tục định, lại tự cho là đã đắc tứ đạo. thời gian sau vị ấy ngồi thiền dưới gốc cây. Ưu-ba Cúc-đa hóa ra một vị Tỳ-kheo đến ở chỗ đó, cũng hỏi thăm qua lại. Hóa nhân nói: - ông theo ai xuất gia? Đáp: thầy tôi là ngài Ưu-ba Cúc-đa. Khen rằng: Đại đức lành thay, thầy ông không có tướng hảo như Phật. Lại hỏi: Tỳ-kheo! – ông tụng kinh gì? Đáp: tôi tụng Tam tạng kinh điển. Hóa nhân hỏi: - ông chứng đạo gì? Đáp: tôi đắc quả A-la-hán. Lấy gì làm chứng? Đáp: tục định. Hỏi: nếu đem tục định để chứng đạo đó là hư vọng. Tỳ-kheo nghe xong lòng rất hối hận, nhất tâm tu hành tinh tấn liền chứng quả La-hán. Ở nước Kế-tân có vị Tỳ-kheo tên là Thiện Kiến, đắc được thế tục định, đầy đủ ngũ thông, khi trời không mưa Tỳ-kheo có thể làm cho nổi mưa. Do đây mà khởi tăng thượng mạn cho là đã chứng Thánh đạo, Tôn giả liền hóa ra trời hạn hán trong mười hai năm, nhân dân lo sợ cầu thỉnh tôn giả. Tôn giả bảo: Ta không thể làm được. Ở nước Kế-tân có Tỳ-kheo Thiện Kiến, có thần thông tối thắng nên đến cầu thỉnh. Chúng nhân đều đến đó cầu thỉnh. Lúc này Tỳ-kheo dùng thần lực hướng hư không bay đến, làm nước cam lồ không bao lâu thì mưa đổ xuống, nhân dân hoan hỷ thiết lễ cúng dường. Khi được cúng dường lòng lại sinh kiêu mạn, nhưng lại nghó: A-la-hán thì không có tâm kiêu mạn. Tỳ-kheo đến Tôn giả cầu xin sám hối. Ngài thuyết pháp yếu cho nghe. Vị này liền đắc quả La-hán. Ở Nam Thiên-trúc có một Tỳ-kheo tu hành thiểu dục tri túc thích đắp y phục vải thô xấu, thân thể gầy yếu nên không đắc đạo. Ưu-ba Cúc-đa quán xét người này sẽ ứng hiện đắc đạo. Do vì thân suy nhược, nên Ngài đem đến cho y phục hương hoa đầy đủ. Người ấy khoẻ mạnh đắc quả A-la-hán. Như thế Ngài hóa độ vô lượng chúng sinh đắc được quả vị La-hán. Mỗi người đắc đạo làm một thẻ tre. Thẻ dài bốn tấc đầy cả một hang đá. Thất cao sáu trượng ngang dọc cũng vậy, thế nên tiếng tăm của ngài vang khắp cõi phù đề, đời gọi Ngài là vô tướng hảo Phật. Hóa duyên xong rồi Ngài liền tư duy: - Ta nay đem pháp cúng dường Phật đã xong, đem lại sự lợi ích an lạc cho muôn loài muôn người, thiệu long chánh pháp không để cho đoạn tuyệt. Lúc sắp Niết-bàn, ngài bảo Đại chúng: sau bảy ngày nữa ta sẽ Niết-bàn. Bấy giờ cùng tập họp mười phương La-hán và chúng học nhân lại, còn hạng tịnh trì giới thì không thể tính hết. Ưu-bà-tắc thì có vô lượng trăm ngàn. Tôn giả phi thân lên hư không hiện mười tám thần biến, khiến chư tứ chúng sinh đại tín tâm. Diệt độ trong cõi vô dư Niết-bàn đem thẻ ở trong thất mà làm lễ trà tỳ, mười phương La-hán cũng nhập Niết-bàn. Hàng nhân thiên khóc lóc thương cảm không thôi, rồi xây tháp cúng dường xá-lợi.  <卷>QUYỂN 5 Ngài Thương-na Hoà Tu lúc sắp nhập Niết-bàn, đem giáo pháp phó chúc cho ngài Ưu-ba Cúc-đa, và nói rằng: - Xưa Đức Bạt-già-phạm đem pháp vô thượng phó chúc cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, muốn cho chúng sinh nắm bắt được ngọn đèn lớn, xa lìa hết chướng khổ, thọ hưởng Niết-bàn an lạc. Ngài Ca-diếp lại phó chúc cho thầy ta là ngài A-nan, A-nan lại giao cho ta. Ta nay sắp diệt nên phó chúc lại cho ông. Sau này ông có nhập Niết-bàn thì ở nước Đột-la có một thiện nam tử, sắp sửa ra đời tên là Đề-đa-ca, nguyện hạnh tu tập biện tài đều vô tận. Ông nên độ cho xuất gia, rồi đem pháp Phật phó chúc lại. Ngài Ưu-ba thưa: xin thọ giáo. Cho đến khi Tôn giả hóa duyên xong rồi ý muốn nhập diệt, quán xét xem Đề-đa-ca ra đời chưa. Tư duy thì biết là chưa ra đời. Khi đó Tôn giả đem chúng Tỳ-kheo đến nhà kia, lần lần Ngài chỉ đến đó một mình. Vị trưởng giả hỏi: Đại Thánh! Sao không dẫn quyến thuộc mà lại đi có một mình? Ưu-ba Cúc-đa đáp: Trưởng giả! tôi là người xuất gia, không có người hầu cận. Nếu ông có thì cho đến theo. Trưởng giả nói: tôi ham việc thế gia không thể theo Ngài được. Nếu sau này có con sẽ cho Ngài. Ưu-ba nói: lành thay lời nói này, nên giữ tâm này xin chớ dời đổi. Mà trưởng giả trước nay sinh đã nhiều con, nhưng đã chết khi còn thơ dại, cuối cùng sinh ra đứa con đặt tên là Đề-đa-ca, dung nghi tuấn tú lại thông minh tuyệt học thông suốt hết các kinh luận. Trong đời quá khứ tu hành đã trồng sâu căn lành, ngài Ưu-ba tìm đến xin, trưởng giả vui lòng giao cho. Ngài đem về tăng phường độ cho xuất gia đến hai mươi tuổi độ cho thọ giới Cụ túc. Lúc sơ bạch đoạn hết kiến đế kết đắc quả Tu- đà-hoàn. Đệ nhất yết-ma làm mỏng dâm nộ si ám đắc quả Tư-đà-hàm. Đệ nhị yết-ma thì dục giới kiết tận đắc quả A-na-hàm. Đệ tam yết-ma, thì đoạn trừ hết phiền não trong tam giới, kiến lập Phạm hạnh thành tựu A-la-hán quả, tam minh chiếu sáng, lục thông đều đầy đủ. Ngài du hóa ẩn hiện tự tại vô ngại. Ưu-ba Cúc-đa bảo: - Mặt trời trí tuệ và lòng từ bi của Đức Thế Tôn chiếu sáng khắp nơi, vì muốn cứu đại khổ sinh tử của chúng sinh, đem giáo pháp tu tập từ vô lượng kiếp phó chúc lại cho ngài Ca-diếp, đem ngọn minh đăng soi sáng những nơi tăm tối, khiến cho tất cả đều được tu học, ra khỏi chốn bùn nhơ đoạn trừ lưới ái. Ngài Ca-diếp phó chúc cho Tỳ-kheo A-nan. Ngài A-nan sau đó giao lại cho Tôn sư Thương-na Hoà Tu. Ngài Thươn-na Hòa Tu chúc phó lại cho ta. Pháp luân thường chuyển tương tục như thế, đem nước cam lồ diệt hết lửa phiền não. Ta nay việc hoằng hóa đã xong, cõi Niết- bàn không còn bao xa, ta đem pháp bảo giao lại cho ông. Ông phải khéo giữ gìn chớ để cho suy diệt. Lại này Đề-la-ca! – Như Lai nhập Niết-bàn, chư Hiền Thánh cũng đã ẩn diệt, cho nên tất cả bảo tạng thâm kinh dần dần mai một. Thế gian hôn ám lưu chuyển trong sinh tử, vì sao? thầy ta sau khi đã diệt độ thì bảy vạn bảy ngàn kinh Bổn sinh đầy đủ. Một vạn tạng A-tỳ đàm gồm có tám vạn Tỳ-ni thanh tịnh. Các pháp này từ từ giảm bớt. Một vị Niết-bàn chúng pháp suy giảm, huống chi nhiều Hiền Thánh cùng diệt. Thắng pháp tịnh diệu vónh viễn không thay đổi. Vậy nay ta ân cần giao phó lại cho ông. Ông nên chí tâm kính thuận theo ý ta. Đối với tất cả chúng sinh nên khởi lòng bi mẫn, thọ trì lưu bố chớ để cho đoạn tuyệt. Đề-đa-ca nói: Kính thọ lời Tôn giả, con sẽ giữ gìn chánh pháp. Từ đó Ngài lần lượt tuyên nói pháp vị vô thượng, hóa độ rộng khắp chúng sinh. khi duyên hết nhập Niết-bàn hàng nhân thiên đều bi cảm. Đại chúng thâu xá-lợi xây tháp cúng dường. Đề-đa-ca khi sắp lâm chung phó chúc pháp tạng cho đại đệ tử là: Di-già-ca, vị này đa văn bát đạt có đại biện tài. Ngài bảo: Phật đem chánh pháp trao cho ngài Ca-diếp lần lượt cho đến ta. Ta sắp Niết-bàn muốn giao lại cho ông. Sau này ông nên lưu bố thế nhãn. Di-già-ca đáp: lành thay, con xin nhận lãnh. Từ đó ngài Di-già-ca tuyên lưu chánh pháp bảo tạng, khiến cho chúng sinh khai mở đạo Niết-bàn. Hóa duyên xong rồi Ngài nhập diệt. Đem giáo pháp trao cho ngài Phật-đà Nan-đề, khiến cho thắng vị cam lồ được lưu truyền mãi. Ngài Nan-đề sau đó rộng tuyên phân biệt, chuyển đại pháp luân, hàng phục ma vương. Sau đó phó chúc lại cho Phật-đà Mật-đa, vị này đức lực sâu xa vô lượng, khéo dùng các phương tiện để hóa độ chúng sinh, khiến cho mọi người xa lìa hết ác kiến, hướng về đạo tối thắng. Ngài đem trí tuệ để tự trang nghiêm, diễn pháp vị thanh tịnh, bẻ gãy mọi tà thuyết. Các công đức như thế không thể cùng tận. Tôi nay tuỳ thuận chỉ nói ra ít phần. Có vị Đại quốc vương thống lãnh khắp cả thiên hạ là người cao tài dõng mãnh, đa văn bác đạt. Vua chỉ phụng sự tà thuyết, tín thọ tà kiến, đối với Tam bảo đã từng khinh huỷ hoại diệt. Phật-đà Mật-đa liền nghó: thầy ta là Nan-đà đem giáo pháp phó chúc cho ta, ta phải làm sao cho chánh pháp được lưu truyền để cho tất cả chúng sinh được lợi ích an lạc. Nay vị quốc vương nước này tin theo tà kiến, ta phải đến đó để điều phục, việc này cũng như chặt cây, nếu gốc đã ngã thì cành lá không bao lâu cũng tàn úa. Nghó như thế rồi, Ngài đem xích phan đi trước chỗ vua, làm như thế suốt nhiều năm mà vua không hề hỏi tới. Rồi một hôm đột nhiên hỏi: Người này là ai mà đi trước ta vậy? Tuỳ tùng ra hỏi ý Tôn giả, Ngài nói: Đại vương! Ta là người trí có thể đàm luận cùng ngài, muốn đến trước vua cầu xin thử nghiệm. Nhà vua liền cho vời hết chư vị Bà-la-môn, trưởng giả cư só thông minh bác học khéo dùng ngôn từ, cùng vân tập lại nơi điện chánh thắng để cùng đối đáp luận nghị với Sa-môn. Khi mọi người đã có mặt đầy đủ, vua cho trang hoàng chánh điện đầy đủ hương hoa tráng lệ minh tịnh. Ngài Phật-đà Mật-đa liền bay lên pháp toạ, cùng bọn ngoại đạo lập luận vô phương. Kẻ thiển trí một lời nói ra liền bị khuất phục. Người đa ngôn biện trí thì lời nói không tận. Vua thấy chúng nhân lý đều bị bẽ gãy nên tự mình cùng ngài Mật-đa luận nghị. Vừa nói lên cũng bị khuất phục – Ngài Phật-đà Mật-đa liền nghó: Ta cùng vua luận nghị chớ nên hiển bày sự thắng lợi nên nói: Ng- hóa này sâu cạn xin vua tự hiểu lấy. Khi ấy vua biết là mình đã yếu lý mới hối cải tà tâm quay về chánh pháp. Xin làm đệ tử thọ tam quy, từ đó Ngài hoằng tuyên đạo hóa khắp quốc độ. Bấy giờ trong nước có một ni-càn, tà kiến rất mạnh, huỷ báng chánh pháp. Người này biện tuệ thông đạt, khéo môn toán số. Ngài Mật-đa ý muốn giáo hóa, mới đến xin làm đệ tử để học pháp thuật, không bao lâu Ngài thông đạt hết thảy. Ni-kiền tử, phát ra lời đại ác mắng nhiếc Phật, ngài Phật-đà nói: Ni-kiền tử! chớ nói ra lời này, ông sẽ đắc tội, quả báo ắt sẽ đoạ vào địa ngục. Ni-kiền tử nói: ông há biết việc này sao? Mật-đa đáp: - nếu không tin ông có thể dùng toán số sau đó mới đủ chứng tri. Ni-kiền tử tự mình suy đoán số thì thấy mình bị đoạ vào địa ngục. Thế rồi ông sinh lòng sợ hãi, cầu xin sám hối, cúi lạy ngài Mật-đa thưa rằng: nhân giả! tôi làm sao để tránh được tội này. Ngài Phật-đà bảo: Ni-kiền tử! Như người té xuống đất thì phải từ đó mà đứng lên, ông quy y Phật thì diệt được tội này, lúc này Ni-kiền khởi tâm đại tín đem năm trăm bài kệ tán thán Như Lai, tự mình quở trách và sám hối tội trước. Phật-đà Mật-đa liền bảo: - ông đem tâm này khéo tu nghiệp duyên, khi mạng chung ắt sẽ sinh về cõi trời. Ni-kiền lại nói: vì sao Ngài biết tôi sẽ được sinh thiên. Mật-đa bảo: nếu không tin thì dùng toán số để biết sự thật. Ni-kiền tử liền tính toán, tự thấy mình tội diệt được sinh lên trời. Ông rất vui mừng xin ngài Mật-đa xuất gia. Mật-đa nói: - nên nói cho môn đệ của ông, sau đó mới xuất gia. Đệ tử Ni-kiền gồm có năm trăm người, khi tất cả mọi người đến đông đủ ông bảo: ta gặp được thắng lý thật là yêu thích, nên muốn xuất gia học đạo theo pháp Phật các ông có thể tuỳ theo ý thích của mình mà đi, nên tìm minh sư để bẩm thọ thắng pháp, lúc này chư đệ tử đều bạch với thầy: chúng con vốn tôn kính ngưỡng phục thầy như Đại vân cái. Thầy gặp thắng đạo, chúng con cũng muốn tuỳ theo, thế là Ni-kiền tử cùng năm trăm người đến chỗ Tôn giả cầu xin xuất gia. Từ đó Tôn giả danh tiếng lan rộng cõi Phù-đề. Ngài giáo hóa vô lượng chúng sinh. Khi duyên hết nhập diệt thì chúng đệ tử đều cảm hoài bi thương, thâu thập xá-lợi tạo tháp cúng dường. Ngài Mật-đa khi sắp Niết-bàn, bảo với một đệ tử là Hiếp Tỳ-kheo rằng: Ngày sau ông nên xiển dương Thánh giáo giáo hóa chúng sinh cùng được giải thoát. Tỳ-kheo bạch: thưa Đại sư! xin y giáo phụng hành. Con sẽ dốc tâm giữ gìn chánh pháp. Hiếp Tỳ-kheo do vì túc nghiệp nên ở trong thai mẹ đến hơn sáu mươi năm. Khi ra đời thì tóc tai bạc trắng, nhàm chán cảnh ngũ dục nên không thích ở nhà. Ông đến ngài Mật-đa đảnh lễ cầu học đạo. Ngài liền độ cho xuất gia và nói pháp yếu, cũng như lụa trắng sạch sẽ dễ thọ nhiễm sắc, ở trên toà Ngài đắc A-la-hán. Tam minh chiếu tỏ lục thông vô ngại. Cần tu khổ hạnh, tinh tấn dũng mãnh, chưa từng đặt lưng xuống chiếu để nằm. Người đương thời gọi Ngài là Hiếp Tỳ-kheo. Ngài khéo thuyết pháp yếu hóa độ chư chúng sinh. Khi việc làm đã xong, ngài liền nhập Niết-bàn. Chúng thâu thập Xá-lợi khởi tháp cúng dường… Hiếp Tôn giả khi sắp nhập diệt bảo một Tỳ-kheo tên là Phú-na- xa: Trưởng lão nên biết! Phật pháp vi diệu có công đức thật lớn lao. Thế nên chư Thánh đều phụng trì đảnh lễ. Ta thọ lời phó chúc giữ gìn pháp này. Nay sắp nhập Niết-bàn nên giao lại cho ông. Ông nên chí tâm gìn giữ thọ trì. Phú-na-xa đáp: xin vâng lời Đại sư. Từ đó Ngài xướng diễn diệu pháp thù thắng vi diệu, hóa độ vô lượng chúng sinh. Sau đó ngài vào rừng ngồi kiết-già tịch lặng tư duy, có một vị Đại só tên là Mã Minh. Đại só là người có trí huệ bác lãm uyên thâm, siêu quần tuyệt chúng, những kẻ nạn vấn thảy đều bị khuất phục. Cũng như gió mạnh thổi hết cây khô. Do đây mà khởi tâm kiêu mạn xem thường mọi người. Chấp thật có bản ngã nên tự cống cao. Ông nghe có Tôn giả tên là Phú-na-xa là người có tuệ trí sâu rộng, đa văn bác học, nói các pháp không vô ngã vô nhân, vì mạng lòng khinh mạn, cho nên liền tìm đến nói rằng: tất cả ngôn luận ở thế gian ta có thể bẻ gãy như loài cỏ dại. Lời nói này nếu không thành thật, thì sẽ cắt lưỡi này để tạ lỗi. Phú-na-xa nói: trong pháp Phật có nhị đế. Nếu theo thế đế giả danh là ngã. Đệ nhất nghóa đế đều là không tịch. Như vậy, suy ra thì ngã lấy gì mà chấp. Lúc này Mã Minh tâm chưa được điều phục, chỉ dựa vào cơ tuệ mà cho là mình đã thắng. Phú-na nói: - Ông suy nghó sâu xa chớ nói ra lời hư vọng. Ta và ông hôm nay xem nhất định rồi ai sẽ thắng. Mã Minh nghó: thế đế giả danh định là phi thật. Đệ nhất nghóa đế tánh lại là không tịch, nếu hai đế này đều không thể đắc. Đã không sở hữu thì lấy gì để hoại. Ta ắt không thể thắng nổi rồi. Nghó rồi thì định cắt lưỡi mình. Phú-na nói: Phật pháp nhân từ không cắt lưỡi của ông. Vậy nên cắt tóc làm đệ tử của ta. Sau đó Tôn giả độ cho Mã Minh xuất gia, tâm ông vẫn còn hối hận muốn xả bỏ thân mạng, lúc này Phú-na-xa đắc quả La-hán, Ngài nhập định quán xét biết rõ tâm niệm này. Tôn giả bảo Mã Minh vào ám thất lấy kinh. Mã Minh thưa: Đại sư! ám thất này tối tăm làm sao đến đó. Tôn giả nói: đến lấy ta sẽ cho ông xem. Lúc này Tôn giả liền dùng thần lực, từ xa duỗi tay xuyên vào thất, năm ngón tay phóng ánh sáng soi sáng căn thất không chỗ nào mà không nhìn thấy. Lúc này Mã Minh trong tâm nghi ngờ cho là huyễn, phàm các pháp huyễn biết thì liền diệt, mà ánh quang minh này lại trở nên rực rỡ, cần phải dùng phương thuật để diệt ánh sáng này. Nhưng nổ lực hết sức vẫn không có dị tướng, nên chịu khuất phục. Từ đó cần tu khổ hạnh không hề thối chuyển. Như thế Tôn giả khéo dùng phương tiện để độ chúng sinh, việc làm đã xong Ngài liền nhập Niết-bàn. Tứ chúng xây tháp cúng dường xá-lợïi. Xưa ngài Phú-na-xa khi nhập diệt giao phó pháp tạng cho Mã Minh và nói rằng: Ví như trong nhà tối đốt đèn đuốc sáng lên các vật đều rõ ràng. Ngọn minh đăng pháp tạng cũng thế, lưu bố khắp thế gian trừ hết sự tối tăm. Thế nên Như Lai diễn nói chánh pháp này là để chúng tu hành theo. Chư Hiền Thánh nhân cùng gia hộ phó chúc cho đến ta. Nay ta đem thắng nhãn giao phó lại cho ông. Từ nay ông nên chí tâm thọ trì, và đem lại lợi ích cho đời vị lai. Thế là từ đó ngài Mã Minh lãnh tuyên pháp tạng thâm áo, kiến đại pháp tràng, tiêu diệt tà kiến. Ngài đến thành Hoa thị du hành, giáo hóa. Muốn độ dân chúng ở thành kia, mới làm khúc kỷ nhạc tên là: “Lại-sất-hoa-la”, âm thanh của khúc này thật là thanh nhã ai oán điều hoà. Về lời ý thì tuyên nói các pháp khổ không vô ngã, đó chính là: hữu vi như huyễn như hóa, tam giới là nơi trói buộc không có nơi nào là vui. Vương vị cao hiển thế lực được tự tại, một khi vô thường đến thì mấy ai được tự tại. Như mây trên hư không chẳng mấy chốc liền tan biến. Thân này hư giả có khác nào như ba tiêu, lấy oán làm giặc không thể nào được gần gũi tự tại. Cho nên chư Phật vẫn thường chê trách thân này. Như thế rộng nói các nghóa không, vô ngã, vô thường. Ngài đem âm nhạc để diễn bày. Bấy giờ người tấu nhạc không thể hiểu rõ, nên âm khúc điều phối đều sai lệch. Lúc này ngài Mã Minh mặc áo dạ trắng nhập vào trong đoàn kỷ nhạc, tự tay đánh chuông trống điều hoà các cây đàn cầm sắt. Âm tiết liền trở thành ai nhã, thành tựu khúc điều, diễn nói các pháp khổ không vô ngã. Bấy giờ trong thành có năm trăm vương tử, đồng thời được khai ngộ nên chán ghét cảnh ngũ dục nên xuất gia học đạo. Bấy giờ vua nước Hoa thị sợ dân chúng nghe âm nhạc này bỏ nhà xuất gia làm cho đất nước hoang vắng nên ra lệnh phế bỏ. Vua tạo đủ thứ tiện nghi để cho nhân dân chớ theo loại kỷ nhạc này nữa, dân trong thành Hoa thị gồm có chín ức người. Vua nước Nguyệt Chi uy đức rất mạnh. Vua tên là Chiên-đàn-kế-ni-sất, chí khí rất hùng dũng oai vệ, đem quân chinh phục các nơi đều khuất phục tất cả. Vua cử đại binh tiến đánh nước Hoa thị. Giao chiến không bao lâu rồi sau mới quy phục. Vua đòi chín ức kim tiền. Bấy giờ vua đem ngài Mã Minh, bát Phật cùng một con gà có từ tâm, mỗi thứ trị giá ba ức để hiến cho Vua Nguyệt Chi. Mã Minh Bồ-tát thì trí tuệ siêu xuất. Công đức bát Phật của Như Lai thọ trì, con gà có từ tâm không uống nước có sinh trùng trong đó, có thể tiêu diệt hết oán địch. Vua Nguyệt Chi rất hoan hỷ nạp thọ, liền đem quân trở về. Vua Kế ni Sất có công đức rất lớn. Vua lập chí nguyện rất kiên cố, từng đặt nê đoàn trên tháp Phật, nhân đó lập thệ rằng: Nếu con đời sau được thành chánh giác trong số một ngàn vị Phật, thì khiến cho khối nê đoàn (khối bùn) này thành Phật tượng. Nguyện xong liền được thành tựu, nghi tướng kỳ đặc hình trạng như hình vẽ. Tâm vua thật vui mừng vô lượng. Sau đó vua đi du hành thấy tháp của ngoại đạo bằng bảy báu trang nghiêm, thì hoan hỷ cho là tháp Như Lai, đến trước cúi đầu làm lễ, chí tâm cung kính, đốt hương tán hoa, nói kệ tán thán rằng: Đầy đủ tất cả trí, Đoạn trừ dục não chướng, Chư tiên tối thắng tôn, Danh xưng biến tam giới, Giải thoát lìa ba cõi, Thương xót loài quần sinh, Chỗ nói thật chân đế, Dẹp hết những tà luận, Cho nên ta ngày nay, Đảnh lễ và cúng dường. Nói kệ xong thì bảo tháp liền nghiêng đổ xuống. Vua thấy thế kinh hãi nói: Lẽ nào phước báo vương vị ta sắp hết chăng? Vì sao ta đảnh lễ thì bảo tháp nghiêng đổ. Có người thưa: Tháp vua vừa lễ đó là của ngoại đạo. Vì uy đức kém nên không được phước lễ của người có đức cho nên sụp đổ. Chúng nhân khen rằng: - lạ thay đức của Đại vương thật thâm hậu, lễ lạy tháp tà giáo đủ khiến cho kia phải sụp đổ huỷ hoại. Công đức của vua sánh ngang bằng với Phạm thiên. Lại có một lần vua sai người cạo râu đến cạo râu cho mình. Thợ cạo đứng trước mặt vua nói rằng: Tôi có đứa con gái rất thông minh mẫn tuệ lại xinh đẹp mẫn tuệ, xin đại vương thâu nạp làm (cung phi) vợ. Vua giận dữ nói: ngươi là dòng hạ tiện thấp kém, làm sao ta có thể lấy con gái ngươi. Rồi vua ra lệnh đuổi đi nơi khác. Người kia im lặng không dám nói gì nữa. Sau vua lại triệu đến thì cũng lại tâu như trước. Như thế đến ba lần. Vua liền suy nghó: - Nay dưới đất này ắt là có bảo tàng, nên người này mới dám nói vậy. Vua sai người đào đất lên, quả thật kho báu rất nhiều. Vua là người có trí tuệ như thế. Có lần vua hỏi quần thần: trong các nước có ai là người đầy đủ trí tuệ đáng kính không. Đương thời có vị Tỳ-kheo tên là Đạt-ma Mật-đa trí tuệ rất thâm hậu, công đức lại đầy đủ, khéo thông đạt được tam-muội định tướng. Ở Nam Thiên-trúc có hai Tỳ-kheo, tâm ý nhu hoà, chỉ ưa thích pháp thiện. Hai vị nghe Tôn giả Mật-đa là bậc toạ thiền đệ nhất, nên cùng nhau tìm đến. Nơi đó có ba hang sâu. Khi hai người xuống hang thấy có một Tỳ-kheo mặc y phục rách rưới, hình mạo xấu xí, đang ngồi đốt lửa trong bếp, hai vị hỏi: Trưởng lão Đạt-ma ở chỗ nào? Đáp: Ở trong hang tối thượng, các ông mau đến gặp. Hai người liền đến hang thượng thì đã thấy vị Tỳ-kheo trước ở đó. Một vị Tỳ-kheo nói với bạn: Lão Tỳ-kheo này sao giống với vị mình đã thấy ở dưới. Vị Tỳ-kheo là người thông minh chợt hiểu, liền nói: Tôn giả là người có thần lực như thế, tiếng tăm vang dội, há không thể đến ngồi đây sao? Tỳ-kheo liền tiến đến trước cúi đầu đảnh lễ: Uy danh của Đại đức thế gian thật ít có, lẽ nào tự hạ mình làm tăng đốt lửa. Đạt-ma Phật-đa bảo: - ông nên lắng nghe. Ta nghó sinh tử là điều thọ khổ lâu dài. Nếu tay có thể nắm được lửa, ta nên vì tăng mà đốt hết lửa đó, huống gì phân thân khác để đốt lửa, đâu có gì khó. Ta nghó đời trước trong năm trăm đời thường làm thân chó, đói kém gầy yếu duy chỉ được một lần no. Là do một người say rượu, ói mửa ra đất, thế là ta được bữa no. Lại xưa kia, có hai vợ chồng nấu cháo trong nồi rồi bỏ đi ra ngoài. Ta thấy không người nên vào nhà, chúi đầu vào nồi ăn hết cháo, nhưng muốn rút đầu ra không được. Thế rồi hai vợ chồng kia vào nhà, thấy ta ăn cháo thì giận dữ liền lấy dao chém vào đầu ta, năm trăm kiếp ta làm thân chó, duy chỉ có hai lần ăn no nhưng lại chịu mất thân. Vì vậy mà ta tư duy chuyện sinh tử dài lâu, đầy khắp trong ngũ đạo thật khổ vô lượng. Do đó mà ta không sợ cần lao, vì chúng tăng đốt lửa. Hai Tỳ-kheo nghe lời nói ấy rồi, càng quán việc sinh tử khổ hoạn vô lượng, liền khi ấy chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Danh tiếng của Mật- đa vang dội như thế. Quần thần nghe tiếng ngài liền tâu với Vua. Đại vương nên biết, trong núi Kế-tân có vị Tỳ-kheo tên là Đạt-ma Mật-đa, là bậc tài tuệ siêu luân, phước đất sâu dày. Vua nên đến đó thăm hỏi cúng dường. Khi ấy Kế-ni-sất sửa soạn xe ngựa cùng với quần thần đi đến núi Kế-tân cách kinh thành hơn năm trăm lý. Vua suy nghó: nếu Tỳ-kheo kia phước đức sâu xa, đáng cho ta lễ lạy cúng dường. Vậy thì người bạc phước không thể kham thọ. Đạt-ma Mật-đa tánh tình thuần khiết mặc y phục rách rưới nhan sắc tiều tụy. Đệ tử Tôn giả cùng nói: Vua Kế-ni-sất uy danh rất rộng lớn, xa giá đến đây để lễ lạy Đại sư. Xin Ngài nên trang nghiêm mặc y phục sạch sẽ để vua kia không xem thường. Đạt-ma bảo: xưa đức Như Lai không có dạy hàng đệ tử khi gặp người hào quý thì phải trang nghiêm sạch sẽ. Vả lại người xuất gia y phục thô xấu là thường, đâu cần phải thay đổi. Khi ấy vua bước vào cúi đầu lễ kính thăm hỏi Tôn giả, Đạt-ma biết tâm niệm của vua liền khạc đàm cho vua hứng. Vua chắp tay hứng lấy rồi bỏ. Hỏi rằng: Ta nay có kham được vua cúng dường không? Vua liền bội phục và càng sinh lòng kính tin. Tôn giả nói: - vua trước kia từng vì thắng đạo mà đến, nay có thể trở về đường cũ mà đi. Vua nghe lời này thì thọ giáo trở về nước. Lúc này quần thần sinh phẫn nộ. Vì sao đại vương tới để thăm người, mà khi gặp lại không biện luận gì hết vậy. Vua bảo: - Các ông há biết được việc này. Ta xưa kia tích tụ phước hạnh. Nay được làm vua tài tuệ xuất thế. Tôn giả bảo ta trở về tu đại nghiệp. Đã thọ huấn trở về lại còn thưa hỏi gì nữa. Sau đó vua đến thành Ni-sất, thấy trướcđường có năm trăm khất só đang kêu gào xin bố thí. Vua nghe bèn mở đại thí hội cho kẻ xin ăn, tất cả vàng, bạc, lưu-ly voi ngựa ruộng vườn, nhà cửa. Khi trở về lại mở hội thí cho người nghèo khổ, cô quả. Đem chánh pháp trị thế, lấy lòng nhân nuôi dưỡng thiên hạ. Bấy giờ có một vị đại thần tên là Thiên Pháp, khởi niệm nghó: Vì sao vua gặp những kẻ ăn xin lại kiến lập ra nhiều công đức thù thắng như thế. Ông đem ý này hỏi vua, vua bảo: Người ăn xin đối với ta rất có lợi ích. Vì bản thân cùng lời nói của họ đã giúp ta khai ngộ. Họ xưa kia làm vua mà không tạo nhân phước, cho nên ngày nay phải chịu nghèo hèn khốn khổ, thân thể tiều tuî khổ não.Vua nếu không lo bố thí làm phước, đời sau ắt cũng vậy. Người ăn xin bảo thế, ta ngộ được nên sẵn lòng tạo phước. Thiên Pháp tâu: vua không chỉ ở ngôi vị thù thắng khắp thiên hạ, trí tuệ cũng thống triệt hơn cả vạn nước. Bấy giờ vua nước An Tức bản tánh rất bạo ngược, định mang binh sang xâm chiếm nước Kế-ni-sất – Vua nước này cũng sửa soạn nghênh chiến. Vua nước Kế-ni-sất thắng lợi tàn sát người An Tức hơn chín ức. Vua hỏi quần thần: Tội này của ta có thể diệt được không? Chư thần đáp: Đại vương giết đến chín ức người, tội đã sâu nặng làm sao diệt được. Thế là vua cho đem ra cái chảo lớn, đun nước sôi sùng sục trong bảy ngày. Vua đặt một chiếc vòng bằng vàng vào chảo nước đang sôi dữ dội rồi bảo quần thần: - Ai khéo dùng phương tiện lấy vòøng này ra. Có vị quan vâng lệnh vua lấy nước lạnh đổ vào chảo nước để lấy vàng ra. Vua bảo: tội của ta cũng như chảo nước nóng này, nếu sám hối có thể tiêu được cũng như dùng nước lạnh đổ vào. Ta giết người tuy đến chín ức, mà trọng tội duy chỉ có hai người rưỡi. Lúc ta giết có hai người hiền tín, sắp sửa bị hại họ liền niệm nam-mô Phật. Ta giết họ tội thật thâm trọng. Còn một người miệng tuy nói nam-mô Phật mà chưa biết Phật, đó là hạng Phú-lâu-na. Ta giết người này cũng là nửa người. Khi đó có một Tỳ-kheo La-hán thấy vua Kế-ni-sất tạo ra nghiệp ác này, muốn vua lo sợ hối lỗi liền dùng thần lực, mở ra cảnh địa ngục có tên là trảm thích kiếm luân giải hình”. Trong ngục này đầy tiếng bi thương khó nhẫn. Vua thấy thì lòng sợ hãi vô cùng, trong tâm nghó: Ta quá sức ngu si nên tạo ra ác nghiệp này, đời sau ắt sẽ thọ lấy quả khổ. Nếu ta biết trước ác báo như thế này, ắt đã không tạo ra oan nghiệt với oán tặc, huống chi đối với người thiện mà sinh niệm ác. Lúc ấy ngài Mã Minh liền nói với Vua: Vua nên chí tâm nghe lời ta nói pháp, tuỳ thuận theo lời dạy của ta mà đảnh thọ, khiến tội của vua không rơi vào địa ngục. Vua nói: lành thay! xin thọ giáo. Ngài Mã Minh nói pháp thanh tịnh cho vua nghe, nhờ đó mà tội trọng dần dần vơi nhẹ. Lại có một thầy thuốc tên là Già-lặc, là người đa văn thông tuệ khéo hiểu rõ các phương thuốc. Ông lại là người từ hoà nhân ái, lợi trí biện tài. Vua Kế-ni-sất nghe danh thường vời vào cung. Khi y sư đến vua nói: ta nay khéo điều hoà thân thể, nằm ngủ bên mặt tiết chế sự ăn uống. Như vậy sao lại còn dùng thuốc. Già-lặc nói: Vua nếu làm được như thế, thì nên xuất gia. Phàm làm vua thì túng tình nhục dục, buông lung thân khẩu. Nay vua còn kiêm nhiếp phòng hộ thì sao còn tham ngôi vị mà ở lâu nơi đời. Vua nghe lời này tự biết mình đuối lý. Y vương lại nói: Đại Vương nếu tin lời nói của tôi, làm theo như vậy thì thân sắc vua sẽ sung mãn, ăn uống tiêu hóa trọn không còn hoạn bịnh. Vua nói: lành thay! xin vâng theo lời dạy. Sau đó không lâu, một phu nhân của vua có thai, đủ tháng ngày sinh ra một nam nhi. Trước kia phu nhân từng sinh con rồi bị chết, người mẹ khổ thống, tánh mạng gần nguy ách. Từ đó về sau mấy lần chuyển sinh cũng vậy. Lúc này Già-lặc chỉ tay vào thai, thế là mẹ inh con được an ổn vẹn toàn. Y vương nói: Đại vương! Từ nay chớ nên sủng ái người phụ nữ này, nếu gần gũi ắt sẽ như cũ. Vua Kế-ni-sất dâm dục rất mạnh, không thể tiết lượng nên càng sủng hạnh phu nhân này. Sau sinh con cũng chịu khổ độc như thế. Lúc này Y vương mới biết căn bản của ngũ dục thật quá mạnh, ông nghó: Vua Kế-ni-sất không chịu nghe lời ta nên dẫn đến các sự khổ này. Quả thật dục vọng chẳng có gì đámg vui cả, táng thân bại đức đều do đây cả. Nó làm bại hoại hết danh tiếng ô nhục người Phạm hạnh. Phàm phu mê hoặc không thể xa lìa. Người trí thì xem đó như oán tặc. Ta nay nên xa lìa pháp ác này, ẩn cư nơi chốn núi non nhàn tu niệm định. Thế là ông từ vua xuất gia học đạo. Ông là bực xuất thế cao tài, uyên minh bác đạt, du hóa khắp thế gian tuyên giảng ký luận. Lại có một vị đại thần tên là Ma-tao-la, là người có tuệ trí siêu luân tài nghệ ít ai bì, ông tâu vua rằng: - Đại vương nên tuỳ thuận theo lời của hạ thần. Điều này có thể khiến cho vua quy phục cả tứ hải, tất cả thần dân đều tôn ngưỡng bát biểu quy đức. Nên xét lời của hạ thần chớ để lộ ra. Vua nói: tốt lắm sẽ y như lời khanh nói. Bấy giờ quan đại thần tập hợp binh tướng hùng mạnh, đi đến đâu thảy đều khuất phục, như mưa đá bạt hết cỏ cây. Nhân dân trong ba biển đều thần phục. Vua cỡi ngựa du hành các nơi và nói: Ta chinh chiến ba biển đều quy thuận, duy chỉ có Bắc hải là chưa hàng phục, vậy nên làm thế nào? Quần thần nghe vua nói vậy đều cùng thương nghị: - Vua tham tàn vô đạo, mấy lần chinh chiến làm cho nhân dân đồ thán. Nay còn không biết đủ muốn thâu tóm cả bốn biển. Binh bị xa xôi làm cho thân thích phải phân ly, sự thống khổ này không bao giờ dứt. Vậy thì chúng ta nên đồng tâm trừ đi để đem lại an lành cho mọi người. Do vua bị bịnh sốt rét lại bị trấn áp, ngồi trên toà cao trong khoảnh khắc thì mạng chung. Do vua nghe ngài Mã Minh thuyết pháp, nên sinh vào trong biển lớn làm con cá ngàn đầu. Cá bị bánh xe kiếm chém sạch. Tiếp tục sinh ra lại bị chém nữa. Như thế lần hồi đến vô lượng, không bao lâu cả đại hải đầy cả đầu cá. Khi đó có vị La-hán làm tăng Duy-na. Vua cá liền nói: - khi Ngài đánh kiền chuỳ, nghe tiếng bánh xe kiếm liền dừng lại, nên tôi cũng bớt thống khổ một chút, xin nguyện đại đức từ bi thương xót đánh kiền chuỳ cho thật dài lâu. La-hán thương cảm đánh kiền chùy dài ra, qua bảy ngày thì mọi khổ não đều dứt. Chùa này nhân chuyện trên mà được tuyên truyền là nơi “Trường đả kiền chùy” cho đến nay vẫn như cũ. Ngài Mã Minh đem nguyện đại hạnh diễn pháp vị cam lồ mà vua Kế-ni-sất có được lợi ích lớn, và lại độ thoát cho vô lượng ức người. Khi việc làm đã xong, Ngài xả mạng hạnh, đại chúng thâu thập xá-lợi xây tháp cúng dường.Khi sắp nhập diệt Mã Minh Bồ-tát có bảo với một vị Tỳ-kheo tên là Tỳ-la: Trưởng lão nên biết! Pháp Phật thuần tịnh có thể trừ hết phiền não cấu. Sau này ông nên cúng dường lưu bố. Tỳ-la đáp: xin thọ giáo lời Đại sư. Từ đó về sau Ngài rộng tuyên chánh pháp, đem công đức vi diệu mà tự trang nghiêm. Ngài trí huệ sâu rộng lại khéo dùng ngôn từ, làm cho bọn ngoại đạo tà kiến đều bị khuất phục. Ngài tạo ra luận Vô ngã đủ một trăm bài kệ. Luận này lý lẽ siêu việt như chất kim cương không gì làm băng hoại. Khi sắp lâm chung ngài Tỳ-la giáo hóa cho một vị Đại só tên là Long Thọ. Ngài Long Thọ sau đó lưu truyền pháp nhãn, đem diệu dụng công đức để tự trang nghiêm. Ngài kiến lập pháp tràng hàng phục chúng dị đạo. Công đức như thế không thể tính được. nay nên tuỳ thuận nói rõ các nhân duyên: Ngài sinh ra tại nước Nam Thiên-trúc, dòng dõi Phạm Chí trong gia đình đại hào phú. Khi sinh ở dưới một gốc cây, do rộng mà thành đạo nhân đó mà gọi tên là Long Thọ. Tuổi nhỏ Ngài thông minh tài trí, sức học siêu thế. Khi Ngài còn ẵm bồng đã nghe được chư phạm chí tụng bốn bộ vệ-đà. Bộ sách này sâu xa uyên bác gồm bốn vạn bài kệ. Mỗi bài đủ ba mươi hai chữ, ngài đều thông đạt hết cú nghóa. Tuổi trẻ tiếng tăm đã vang dội các nước, thiên văn, địa lý, chiêm tinh, đồ sấm và các học thuật Ngài đều thông hiểu. Ngài có ba người bạn thuộc loại thiên tư kỳ tú, cùng thương nghị rằng: - Lý nghóa thiên hạ khai ngộ thần minh, khai thác yếu chỉ u huyền, làm tăng trưởng trí tuệ. Nếu việc nào chúng ta cũng đều thông đạt, thì lấy gì để tự vui. Ngài lại nói: thế gian chỉ chạy theo sắc đẹp, túng tình nơi chỗ cực dục một đời ở trên chỗ khoái lạc. Nhưng đạo Phạm Chí không phải là pháp tự tại, nếu không dựa vào vinh lạc thì khó biện luận, cho nên đều cầu nơi pháp dược để ẩn thân. Sự nếu quả như vậy thì việc ắt sẽ thành tựu. Mọi người cùng nói: - lành thay! lời này thật là vui thích. Ngài liền đến nhà thuật gia cầu học pháp ẩn thân. Phạm chí nghó: bốn vị Phạm Chí này tài trí cao sâu nên lòng rất kiêu mạn. Nay ta dùng pháp thuật ắt sẽ chịu khuất phục. Nhưng bọn người này là bực nghiên cùng bác đạt, chỗ chưa biết chỉ là những pháp thấp kém. Nếu trao cho họ hết họ sẽ vónh viễn bỏ đi. Nghó thế nên thuật sư trao cho mỗi người một viên thuốc màu xanh và bảo: Các ngươi cầm lấy viên thuốc này dùng nước mài ra bôi vào mắt sẽ có hiệu nghiệm, hình sẽ tự ẩn. Mỗi người nghe lời thầy đều mài viên thuốc ra. Long Thọ nghe mùi hương liền biết đó là gì, phân số nhiều ít, họ trở lại thưa với thầy các sự việc này. Thuốc này đầy đủ có bảy mươi loại, danh tự lượng số phương thuật như thế. Thuật sư nghe nói thì kinh ngạc hỏi nguyên do. Long Thọ đáp: - Đại sư nên biết, tất cả các loại thuốc đều có khí phần, do đó mà biết chẳng có gì lạ. Thầy nghe xong thì khen ngợi, rồi suy nghó: Những người này nghe đến danh còn khó, huống chi ta gặp được, sao lại còn tiếc mà không dạy. Thế là ông đem pháp thuật dạy lại bốn người dùng y phương hoà hợp thuốc này để ẩn thân. Từ đó du hành tự tại mới cùng nhau đi vào trong hậu cung, vua, các cung nhân đều bị xâm phạm, sau một trăm ngày thì hoài thai tất cả. Họ tìm đến trình bày cho vua hay. Vua nghe thì trong lòng rất buồn nghó: _ Điều bất lành gì ma quái lạ như vậy. vua: Bèn cho gọïi bọn trí thần đến bàn luận việc này. Có một vị tâu Phàm những việc xảy ra như vậy thì có hai điều: Một là, do yêu mị làm; hai là, do phương thuật. Có thể dùng tế thổ đặt ở các cửa, bảo người giữ thành ngăn hết mọi sự qua lại. Nếu dùng phương thuật thì dấu tích tự hiện ra, còn yêu mị thì không. Người thì dùng binh só trừ, yêu mị thì dùng chú diệt. Vua theo kế sách đó làm thì có dấu chân người từ cửa vào. Quan phòng vệ liền chạy vào tâu vua. Vua đem dũng só cả trăm người, bọn dũng só huơ gươm lên hư không chặt đầu cả ba người. Đứng gần vua cách bảy thước nên đao gươm không tới, Long Thọ ẩn thân đứng bên vua. Từ đó ngộ được dục vọng là căn bản của khổ đau, làm nguy thân bại đức, ô nhục phạm hạnh, nên phát thề rằng: Nếu ta thoát được tai ách này, sẽ xuất gia làm Sa-môn. Khi thoát ra được liền tìm đến một tháp Phật trên một ngọn núi xa lìa ái dục xuất gia học đạo. Trong chín mươi ngày tụng thuộc làu các bộ kinh điển, Cầu học dị điển mà không có. Bèn lên núi Tuyết thì gặp một Tỳ-kheo đem ma-ha-diễn trao cho Long Thọ. Ngoài tụng tập rất thích thú bèn cung kính cúng dừơng, tuy rõ được thực nghóa mà chưa chứng đạo. Ngài khéo ngôn luận, biện tài đều vô ngại. Hàng ngoại đạo dị học, Sa-môn nghóa só đều quy phục thỉnh Ngài làm bậc sư phạm. Thế là tự cho mình là bậc nhất thiết trí trong thiên hạ, tâm sinh kiêu mạn tự cao tự đại, lại muốn đi vào trong cửa Cù-đàm. Bây giờ môn thần bảo Long Thọ:- Trí của ông như muỗi mòng, so với phật thì chẳng khác nào như đom đóm sánh với nhật nguyệt, như đem Tu-di mà so với hạt cải, ta xem nhân giả chẳng phải là bậc nhất thiết trí, làm sao có thể vào được cửa này. Long Thọ nghe nói có phần hỗ thẹn. Khi đó có người đệ tử bạch với Long Thọ: - Thầy thường tự cho mình là bậc nhất thiết trí, nay lại chịu khuất nhục trước đệ tử Phật. Pháp của đệ tử là nương theo thầy. Nương thầy không đủ chẳng phải là nhứt thiết trí. Long Thọ bị đuối lý trong tâm khởi nghó!_Pháp thế gian thì có vô lượng. Kinh Phật tuy diệu mà cú nghóa chưa tận, ta nay nên diễn dịch thêm khai ngộ cho hậu học làm lợi ích cho chúng sinh. Nghó thế rồi liền muốn lập sư giáo giới và tạo ra y phục, phụ vào Phật pháp mà ít có sự bất đồng. Muốn trừ hết chúng tình khai thị cho người không thọ học. Đại Long Bồ-tát thương xót người như thế liền dùng thần lực tiếp Ngài vào trong biển lớn. Khi đến cung điện, Rồng mở kho báu, đem các kinh Phương đẳng uyên thâm, cùng vô lượng diệu pháp trao cho Long Thọ. Trong chín mươi ngày Ngài thông giải rất nhiều, trong tâm thâm nhập thể đắc được thật lợi. Long cung biết tâm niệm này nên hỏi: Ngài xem kinh biết chưa? Long Thọ đáp: Kinh ở đây vô lượng không thể xem tận. Chỗ ta tụng đầy khắp các cõi Diêm-phù-đề. Long vương hỏi: Trên cõi trời Đao-lợi của Thích-đề-hoàn-nhân có kinh điển nhiều hơn ở đây gấp trăm ngàn lần. Bấy giờ ngài Long Thọ thỉnh được các bộ kinh điển, hoát nhiên thông đạt khéo giải nhất tướng. Thâm nhập đầy đủ vô sinh pháp nhẫn. Long Thọ ngộ đạo bèn xuất cung. Khi ấy vua cõi Diêm-phù-đề tín theo tà kiến, thừa sự ngoại đạo, huỷ báng chánh pháp. Long Thọ Bồ-tát muốn giáo hóa vua, tự thân mang phan đỏ đi trước mặt vua, trải qua bảy năm vua mới lấy làm lạ hỏi: _Ông là ai mà đi trước mặt ta? Đáp: _Ta là người nhất thiết trí. Vua nghe nói rất kinh ngạc, hỏi: Người nhất thiết trí thật là ít có. Ông nói như vậy lấy gì làm chứng. Long Thọ đáp: Ngài muốn biết cứ hỏi. Đã nói pháp rồi sau mơiù chứng tri. Vua nghe lời ấy thì nghó: Ta là bậc Trí chủ đại luận nghị sư, hỏi phát nếu khuất phục được cũng chưa làm lạ, còn như không bằng kia thì sự tổn hại rất nhiều. Im lặng không nói cũng lại phi lý. Vua suy nghó hồi lâu như thế mà trong lòng không vui. Việc đã cấp bách nên đành hỏi: Chư thiên lúc này đang làm gì? Đáp: Đại Vương! - Chư thiên lúc này đang đánh nhau cùng At- ula. Vua nghe nói vậy thì như người bị mắc nghẹn, nuốt vào cũng không được mà nhả ra cũng không xong, nhưng vẫn cho rằng lời nói suông chẳng có gì làm chứng. Long Thọ bảo: Đây chẳng phải hư luận, vua hãy đợi xem. Nói xong thì trên không trung đao kiếm rơi, rơi xuống tên dài kiếm ngắn lần lượt rớt xuống đất. Vua nói: cung tên đao kiếm tuy là binh khí, hà tất đó là của Thiên, Atula. Long Thọ đáp: nếu cho là hư dối thì sẽ chứng nghiệm sự thật. Thế là tai mắt mũi của tu-la từ hư không rơi xuống. Lúc này vua mới kinh hãi cuối đầu làm lễ cung kính, tôn trọng thọ lời đạo hoá. Lúc ấy trên điện có một vạn Bà-la-môn, thấy thần đức như vậy thì khen là chưa từng có. Tất cả cùng xin cạo đầu xuất gia. Hàng ngoại đạo nghe việc này vân tập lại cùng quyết chí tranh luận. Ngài Long Thọ dùng ngôn từ làm phương tiện đại trí tuệ để biện luận cùng ngoại đạo. Hạng ngu trí chỉ có một lời liền bị khuất phục. Ít có người trí nào luận nghị đến hai ngày. Bọn người kia liền chịu khuất phục xin cạo tóc xuất gia. Như thế ngài Long Thọ độ cho vô lượng chúng tà đạo. Hàng vương gia thường đưa đến mười xe y bát, trong một tháng đều hết sạch. Lần lượt cho đến vô số, ngài khai diễn phân biệt các kinh ma-ha-diễn, tạo ra mười vạn bài kệ Ưu-ba Đề-xá để trang nghiêm Phật đạo. Các bộ luận này mỗi bộ có năm ngàn bài kệ, khiến cho kinh ma-ha-diễn rộng lưu bố ở đời. Tạo luận Vô úy đủ mười muôn bài kệ. Trung luận rút ra trong bộ vô uý gồm năm trăm bài kệ, nhưng chỗ diễn nghó thật sâu xa, hàng phục tất cả ngoại đạo. Bấy giờ ở Nam Thiên-trúc có Bà-la-môn, tính theo tà kiến rất mạnh lại khéo biết về chú thuật, nên muốn tranh tài cùng Long Thọ, đến tâu với vua rằng: - Đại Vương! xin cho thần cùng Sa-môn tranh tài với nhau. Nếu thần thua thì xin quy phục. Nếu thần thắng thì Sa-môn sẽ thuộc hạ thần. Vua nói: Đại đức, ông thật là ngu si. Vị Bồ-tát này, ánh sáng cũng như nhật nguyệt tài trí đồng với chư Hiền Thánh, ông không thể sánh được đâu. Muốn đem cọng sen để buộc núi Tu-di, nước nơi dấu chân trâu lại so với đại hải. Ta xem ông cũng giống như vậy. Bà-la-môn nói: Vua là bậc trí dũng, gách vác mọi trọng trách của quốc gia, cũng như nhật nguyệt đâu đâu cũng được soi sáng. Tôi nói hư thật Ngài nên theo lí mà xét. Đại vương chớ để họ xem thường. Khi ấy vua thấy rõ ý của Bà-la-môn nên cho xe giá đi rước Bồ-tát Long Thọ. Sáng sớm cùng vân tập trên chánh điện. Lúc này Bà-la-môn liền dùng thần lực hóa ra một cái ao lớn dài trong mát thanh tịnh. Trong ao có cả ngàn hoa sen, ông tự ngồi trên đó và bảo với Long Thọ: chỗ ông trên mặt đất cũng đồng như súc sinh. Ta ngự trên hoa nên trí tuệ thanh tịnh, sao dám cùng ta nghị luận. Bồ-tát Long Thọ lại dùng chú lực hóa ra voi trắng. Voi có sáu ngà bằng kim, ngân, lưu-ly. Vua từ từ tiến đến bên người ngồi trên hoa dùng mũi đưa hoa và người lên cao rồi ném xuống đất. Bà-la-môn bị thương nơi lưng rất đau. Thế là thua cuộc phải quy thuận ngài Long Thọ, ông nói: Tôi ngoan cố phạm nghịch tội với Đại sư. Xin Ngài thương xót cho tôi sám hối. Ngài Long Thọ từ bi độ cho xuất gia. Khi đó có một vị Pháp sư Tiểu thừa. Thấy Ngài cao minh thì ôm lòng ganh ghét. Khi mọi việc xong rồi Ngài tìm đến nơi ấy, hỏi Pháp sư rằng: Ông có muốn ta trụ thế ở đời lâu không? Đáp: Nhân giả! Thật không muốn! Ngài liền nhập thất nhiều ngày không ra. Đệ tử phá cửa vào thì Ngài đã thiền hóa nhập tịch. Các nước Thiên-trúc đều lập tháp thờ, cung kính cúng dường như Phật.  <卷>QUYỂN 6 Ngài Bồ-tát Long Thọ lúc lâm chung bảo với Đại đệ tử là Ca-na Đề-bà rằng :-Thiện nam tử lắng nghe. Phật đem lòng đại bi thương xót tất cả chúng sanh, diễn pháp cam lồ làm lợi ích cho đời sau. Giáo pháp được giao phó đến ta. Nay ta sắp nhập diệt nên chúc luî lại cho ông, ông nên chí tâm thọ trì lưu bố! Đề-bà cung kính thừa giáo. Từ đó tuyên nói pháp bảo chân tạng, đem lực trí tuệ hàng phục chúng dị đạo. Ngài là người bác học uyên thâm tài trí siêu tuyệt, vang danh khắp thiên hạ. Ngài thác sinh tại Nam Thiên-trúc trong dòng tộc Bà-la-môn hào phú danh giá. Do huỷ hoại thần nhãn nên bị mất một con mắt. Do đó mà có tên là Ca-na Đề-bà. Ngài có trí tuệ sâu xa, cơ minh bộc phát. Quan sát mọi việc không hỗ thẹn trong tâm. Duy chỉ có lời nói người chưa tín thọ, đạo hóa chưa thi hành, nhiều đêm hằng lo nghó. Trong nước kia có một vị thiên thần, đúc vàng làm hình cao sáu trượng, ai cũng đều gọi là Đại tự tại thiên. Nếu có ai cầu nguyện đều được như ý. Đề-bà đến miếu xin vào lễ bái. Chủ miếu nói: - Thiên tượng là bậc chí thần. Người có gặp cũng không dám nhìn thẳng, mà còn bị mất hồn cả trăm ngày. Ông chỉ nên nguyện ở ngoài cửa, cớ sao lại muốn vào thấy. Đêà-bà nói: Nếu thần được như thế tôi mới muốn gặp, nếu không thì tôi đã chẳng đến. Mọi người nghe nói đều cho là lạ, cùng theo vào miếu có đến cả ngàn người. Đề-bà đến nơi thì cuối đầu làm lễ. Thiên máy động con mắt giận dữ nhìn Đề-bà nói: Thiên quả thật là thần vậy. Nhưng nay quán xét thật là đại thấp hèn. Phàm là thần đó thì nên lấy tinh linh để hàng phục quần sinh, mà chỉ mượn hoàng kim, chỉ biết lấy lợi để trang sức, mê hoặc dân chúng cầu tự những việc nhỏ nhặt. Nói xong thì bước lên bậc đục khoét một con mắt của thần. Bấy giờ những người đứng xem đều có ý nghi hoặc. Bậc tự tại thiên uy đức cao lớn, vì sao bị tiểu Bà-la-môn huỷ nhục, chắc sẽ bị thần quở. Đề-bà nói:_Thần minh rộng lớn bao la cho nên thử tôi.Tôi hiểu rõ ý Ngài cho nên làm vậy, lên núi vàng tụ xuất ra Phả lợi châu, đều khiến cho tất cả cùng liễu tri. Tinh kinh thuần tuý không mượn hình chất. Tôi chẳng phải kiêu mạn, thì thần có gì là nhục. Nói xong thì bước ra. Trong đêm đó cầu sự cúng dường đầy đủ. Sáng ra cầu tự thiên thần Ca-na Đề-bà danh đức trí tuệ cùng hội tụ với thần. Ngài nói ra lời nào đều được hưởng ứng. Trong một đêm cúng dường đầy đủ. Đại tự tại thiên làm một nhục hình cao đến bốn trượng, mắt trái của thần khô cạn từ từ an tường mà đến chỗ ngồi. Mọi người đến xem đều cho là việc chưa từng có. Ngài nương vào đức lực này mà nói thêm! _Lành thay Đại só! Hiểu rõ tâm ta dùng trí soi xét cúng dường. Nay ông thật kính tin ta. Thế nhân ngu si, duy chỉ cầu hình tượng của ta, dâng cúng thức ăn, vì sợ mà vu khống ta, ông dâng cúng thức ăn mỹ vị đầy đủ. Mắt trái của ông nếu có cho ta thì thật là bậc chân thượng thí! Đề-bà đáp: Lành thay!xin thọ giáo. Nói rồi liền đưa tay móc mắt trái đem cho. Nhờ thần lực của thần nên móc ra thì sinh trở lại. Thiên thần tán thán: Lành thay Ma-nạp, thật là chân thượng thí. muốn cầu điều gì đều được như ý nguyện. Lúc này Đề-bà bạch với thiên thần:- Tôi xét theo sự hiểu biết mà không vay mượn bên ngoài. Duy chỉ hận dạy cho người mà không tín thọ, xin nguyện theo lời tôi nói sau rồi lưu bố. Thần nói: Rất tốt. Ngài Đề-bà đến chỗ Bồ-tát Long Thọ, xin thế phát xuất gia. Sau đó đi chu du giáo hóa cứu độ chúng sinh. Vua Nam Thiên-trúc thống nhiếp các nước, ôm lòng cống cao tin dùng theo tà đạo, Thích tử Sa- môn đều không muốn thấy, nhân dân gần xa đều chịu sự giáo huấn này. Đề-bà nghó: cây không chặt gốc thì cành lá khó ngã. Bậc nhân chủ không được giáo hóa đạo há có thể lưu bố. Bậc Chánh pháp vương gia trong nước xuất tiền ra mướn người túc vệ. Bấy giờ Đề-bà được mộ làm tướng cầm cương trước ngựa, chỉnh đốn hàng ngũ bộ điển uy đức nhân từ khiến cho con vật vui vẻ đi theo hàng. Vua thấy vậy rất vui hỏi: Người nào làm được như thế. Đáp: Người này mới được tuyển mộ. Đã không ăn phẩm vật lại không lấy tiền, chỉ một mực cung kính cẩn thận, tánh lại thích sự nhàn tập, chẳng biết tâm người này cầu gì muốn gì. Vua liền triệu Đề-bà đến để hỏi ý. Đề-bà đáp:- Đại vương! Tôi là người trí giỏi về ngôn luận, muốn được thử nghiệm trước mặt vua. Vua bằng lòng và cho kiến lập ra luận toà. Bấy giờ Đề-bà lập ra ba nghóa. Trong tất cả bậc Thánh thì phật là tối thắng hơn cả. Ở trong các pháp thì Phật pháp không thể so sánh, cứu thế phước điền chúng tăng đệ nhất. Luận só trong tám phương nếu phá được lời nói này thì tôi xin chém đầu tạ tội. Vì sao? Vì lập luận lí không rõ ràng đó là người ngu si, như thế thì còn tiếc gì đến cái đầu. Luận só trong tám phương cùng vân tập và đều nói: Nếu ta thua thì sẽ trảm đầu tạ tội, cái đầu ngu si chẳng phải là sự yêu thích của ta. Đề-bà nói: phép tu của ta là đem lòng nhân ban phát cho muôn loài. Nếu chư vị luân nghị không thắng thì tôi chỉ cắt tóc cho làm đệ tử mà không chém đầu. Sau đó cả hai bên cùng nghị luận. Hàng ngoại đạo tình trí kém thua nên phải chịu thua. Người cao nhất cũng chỉ được có hai ngày, từ lý đều hết. Thế là tất cả đều cắt tóc theo Ngài xuất gia. Bấy giờ có một đệ tử ngoại đạo, hung bạo vô trí nên thấy thầy bị thua ngoài tuỳ theo mà tâm thì kết oán, cầm đao tự thề rằng: Nếu kia thắng thì ta sẽ cầm đao giết hắn. Nói rồi thì cầm đao theo mình, ngày đêm rình tìm cơ hội. Khi ấy ngài Đề-bà ở lại khu rừng tịnh, tạo ra một trăm bộ luận để phá ngoại đạo. Hàng đệ tử phân tán dưới các gốc cây để tư duy. Bồ-tát Đề-bà xuất định đi kinh hành. Đệ tử ngoại đạo tìm đến chỗ đó cầm đao nói: - Ông xưa kia dùng trí làm khuất phục thầy tôi, nay dao của tôi sẽ đâm bụng ông. Nói rồi thì cầm đao đâm tới, ngũ tạng liền đổ ra nhưng mang chưa đứt, lòng thương xót kẻ cuồng si nên bảo: Ta có y bát ở bên chỗ ngồi, ngươi có thể lấy và mau đi nhanh. Hàng đệ tử ta chưa đắc đạo, nếu gặp ngươi sẽ bắt giữ hoặc giao cho vua quan thì ngươi sẽ nguy khốn không ít. Phàm thân danh này đều là căn bản tội lỗi: Ông nếu còn yêu tiếc tình trọng thì cần phải phòng hộ. Lúc này chư đệ tử có người đến, thấy thầy như thế thì kêu lớn la khóc. Mọi người cùng chạy đến kinh hãi khóc than vang chuyển cả mặt đất. Trong số đó có người cuồng loạn bỏ chạy, cùng nhau phân ra truy kích các yếu lộ. Khi ấy ngài Đề-bà bảo: Các pháp vốn không có ngã, ngã sở, không có người hại cũng không có người thọ nhân. Ai thân ai oán, ai là người não hại. Các ông này bị sự ngu si che lấp nên sinh ra vọng kiến và trồng các nghiệp bất thiện. Người kia hại ta là do nghiệp báo chư ùkhông phải giết hại. Nói xong thì Ngài lâm chung. Trước kia Ngài từng bảo với Tôn giả La-hầu- la. Đức Bà-già-bà vì muốn độ chúng sinh nên diễn xướng diệu pháp làm lợi ích cho đời sau. Lần lượt phó chúc cho đến ta. Sau khi ta diệt độ sẽ giao lại cho ông, ông nên giữ gìn. Sau đó ngài La-hầu-la truyền lưu pháp tạng thâm kinh, đem trí tuệ để phá bỏ mọi tà kiến ngoại đạo. Ba lần nghe thuyết pháp thì có thể thọ trì hết. Ngài Long Thọ, Đề-bà và vị Đại só tên là Đức Tịnh trước vào âm thanh vi diệu nên đều nghe. Đương thời có vị Bà-la-môn rất thông minh kì ngộ lại khéo ngôn luận, tạo ra danh thư quỷ quái rất khó đọc, về chương cú thì có đến mười vạn bài kệ. Vì tam đại só tán tụng lại bài đó. Long Thọ một khi nghe qua liền được khai ngộ lại khéo ghi nhớ tụng tập như trước. Đề-bà chưa hiểu, đọc lại lần nữa liền thông tỏ. Đề-bà Bồ-tát vì La-hầu-la rộng phân bịêt diễn nói chương cú. La-hầu- la nghe xong ý liền tỏ rõ. Lúc này Bà-la-môn rất kinh ngạc nghó: các vị Bà-la-môn này tài tụê như thế sao? tụng sách của ta không bao lâu đã thông thuộc, lại khéo phân biệt như xưa đã học qua. Từ đó Bà-la-môn tín phục sửa đổi tà tâm La-hầu-la thông tuệ như thế, khéo dùng phương tiện để hóa độ chúng sinh. Sau đó ngài giao phó lại cho Tôn giả Tăng-già Nan-đề. Tăng-già Nan-đề có đại công đức, trí tuệ sâu rộng tu Bồ-tát hạnh. Đem chí nguyện kiên cố tự trang nghiêm, vượt qua các cảnh giới Thanh văn Duyên giác. Khi đó có một vị La-hán, bỏ hết mọi chuyện vun bồi công đức đầy đủ. Tăng-già Nan-đề muốn thử người kia, liền tuyên nói kệ: Chuyển luân trong sinh tử Phi phật phi Bồ-tát Không thọ thân đời sau Cũng chẳng Bích-chi-phật. Đại Đức nên nhất tâm quán xét xem lời kệ trên là gì? Lúc này La-hán nhập vào tam-muội, tư duy sâu xa mà không thể hiểu. La-hán dùng thần lực bay lên cung trời Đâu-suất đến chỗ Phật Di- lặc, thưa rõ những điều nghi ngờ. Bấy giờ ngài Di-lặc bảo La-hán: - Thế gian lấy bùn nung thành ngói, vậy ngói này há là đồng với chư Thánh ở hậu thế sao? La-hán hoát nhiên tỉnh ngộ, trở lại cõi Ta-bà nói lại việc này. Tăng-già Nan-đề nói:_Đại đức! Đây ắt là do Bồ-tát Di-lặc giảng giải rồi sau ông mới hiểu phải không? Như thế trí tuệ cùng thần lực biến hóa của Ngài để làm lợi ích chúng sinh không thể hạn lượng. Việc làm xong rồi Ngài muốn xả thân bèn đi đến gốc cây uất-thọ-chi, ngồi Thiền rồi nhập diệt dưới gốc cây này. Chư La-hán muốn dời thi thể Ngài đi, đặt nơi chỗ đất bằng, để chất củi làm lễ trà tỳ. Nhưng thân này vững như Tu-di không thể di chuyển. Dùng cả sức Bạch tượng kéo cũng không được. Chúng đem cây hương đến làm lễ trà tỳ, lửa cháy mạnh thân thành tro bụi mà thân cây uất-thọ không bị tiêu huỷ. Mọi người tán thán cho là việc chưa từng có. Đại chúng thâu thập xá-lợi xây tháp cúng dường_Sau khi ngài Tăng-già xả thân có vị La-hán tên là Tăng-già Da-xá, thọ lời phó chúc lưu truyền pháp nhãn, rộng giáo hóa chúng sinh cứu bạt chúng khổ. Có vị đại trí tuệ ngôn từ thông biện, xưa nay tuy xuất gia mà chưa chứng đạo quả. Ngài đi vào đại hải trông thấy một cung điện, trang nghiêm bằng bảy báu, ánh sáng hoà diệu rực rỡ. Ngài Tăn-già Da-xá thấy thời cơ đã đến mới vào cung điện kia nói kệ: Đói căn bịnh thứ nhất Hành là đệ nhất khổ Biết các pháp như thế Đạt được đạo Niết-bàn. Bây giờ chủ nhà liền ra cung nghinh, trải toà nệm mời ngồi. Tăng- già Da-xá thấy trong nhà có hai ngạ quỷ, khoả thân gầy đen, đói khát tiều tuî. Đầu thân bị xiềng xích buộc vào giường. Lại có một bình bát, trong đựng đầy thức ăn ngon, một bình đầy nước đặt bên cạnh. Lúc này chủ nhà lấy thức ăn này dâng cho Tỳ-kheo, thưa rằng: Đại đức, cẩn thận chớ cho thức ăn cho ngạ quỷ. Tỳ-kheo thấy quỷ đói khát khốn khổ, nên đem cho nó một ít cơm. Quỷ được thức ăn cho vào miệng liền hóa thành máu mủ, rơi khắp đất làm ô uế cả cung điện. Tỳ-kheo lấy làm lạ hỏi: Quỷ này vì duyên nghiệp gì mà khổ như vậy. Chủ nhà đáp: hai con quỷ này đời trước một là con tôi, một là con dân tôi. Tôi xưa kia bố thí làm nhiều công đức mà hai vợ chồng cứ ôm lòng giận dữ bỏn sẻn. Tôi vẫn thường khuyên bảo mà không nghe. Do đó mà lập thệ rằng:_Tội nghiệp này ắc sẽ bị ác báo. Khi thọ tội ta sẽ xem các ngươi. Do nhân duyên đó mà bị khổ não này. Tỳ-kheo lại đi đến nơi khác, thấy nhà cửa trang nghiêm rực rỡ. Trong nhà có vô số chúng tăng đang ngồi thiền kinh hành. Đến giờ ăn đại chúng vân tập lại. Ăn gần xong thì thức ăn ngon lành bỗng biến thành máu mũ. Sau đó mọi người lấy bình bát ném vào đầu cho vỡ. Máu mũ chảy đầy thân và nói:Vì sao lại tiếc thức ăn cho nên nay phải chịu sự khổ này? Tăng-già Da-xá bước đến hỏi thì đáp:Trưởng lão!chúng tôi vào thời phật Ca-diếp cùng ở một chỗ. Khi có khách Tỳ-kheo đến, đều sân giận dấu thức ăn không đem ra chia đều. Vì nhân duyên đó nên thọ khổ này. Tôn giả Da-xá đi chu du khắp nơi đại hải quan sát gồm năm trăm cảnh địa ngục như thế. Do đó mà sinh lòng nhàm chán cõi ngũ dục trong tam giới, càng sinh lòng sợ hãi mà nói rằng: Thế gian tạo nghiệp không bao giờ mất đi, như bóng theo hình nào ai có thể xa lìa. Ta nay nên phương tiện cứu họ. Người qúan sát sự tình cho đến khi đắc quả A-la-hán, chứng lục thông vô ngại, tam minh tỏ sáng. Ở ngọn núi kia có năm trăm vị tiên. Họ chuyên cần tu khổ hạnh mong cầu phước báo. Tăng-già Da-xá tìm đến, vì họ tuyên nói bài kệ về Phật pháp tăng. Năm trăm tiên nhân đều đắc đạo quả. Tôn giả làm rộng các Phật sự như thế! giáo hóa xong rồi ngài liền nhập Niết-bàn- Chúng thâu xá-lợi xây tháp cúng dường. Lúc Ngài chưa nhập diệt, phó pháp lại cho Cưu-ma-la-đà, và bảo rằng: -Phật đem chánh pháp phó chúc lại cho ngài Ca-diếp, như thế lần lượt đến ta. Nay ta muốn nhập Niết-bàn nên phó pháp lại cho ông, ông nên giữ gìn lưu bố. Cưu-ma-la-đà đáp: Xin thọ giáo Từ đó Ngài lưu truyền pháp bảo, làm công đức rộng lớn. Ngài phát hoằng thệ nguyện, trí tuệ biện tài cũng như biển lớn, cũng tạo được chút danh tiếng được người trong nước kính trọng. Cưu-ma-la-đà khi còn nhỏ đã có mỹ danh. Vì duyên cớ gì mà có mỹ danh. Có vị trưởng giả có duyên sự đi nơi khác, đem hai bình vàng gởi cho người bạn. Một bình lớn và một bình nhỏ và nói với người bạn rằng: Tôi đi nơi khác nên gởi cho bạn hai bình vàng. Nếu ý con tôi muốn thì đưa cho nó. Sau đó con người trưởng giả đến đòi vàng, Người kia đưa cho bình nhỏ. Người con giận dữ không chịu lấy vàng. Rồi cùng đem ra quan xử. Quan nghe mọi việc chẳng biết xử thế nào. Lúc ấy Cưu-ma-la-đà còn nhỏ đang ở ngoài đường chơi nghe nói có kiện tụng, liền nói: Con được vàng rồi cần gì phải kiện tụng. Người cha trước đã có nói: Tuỳ theo chỗ muốn của con. Nay ưa thích bình lớn, lí ra phải thuộc về người con rồi. Lúc này quan đoán sự chiếu theo lời này. Từ đó danh tiếng vang khắp bốn phương nhân đó gọi là Mỹ danh đồng tử. khi xuất gia học đạo thì tài tuệ xuất thế. Ngài đi đến một quốc gia khác, dân chúng ở đó rất ngoan cường. Tuy nghe pháp mà không tín thọ. Cưu-ma-la-đà nói: - ông nay đem vạn kî binh thất mã, sai người cưỡi qua trước ta, theo như lời ta nói mà làm. Cưu-ma-la-đà chỉ nhìn qua một lần đều phân biệt được đâu là tên người, màu ngựa cùng y phục tướng mạo, nói đầy đủ không sai một mảy. Nhân dân nước đó thảy đều tin phục. Ngài du hóa khắp thế gian, tạo ra kinh luận. Việc xong rồi Người mới xả mạng. Ngài bảo Tỳ-kheo Xà-dạ-đa: - Trưởng lão nên biết, như người qua sông phải cần thuyền bè. Chúng sinh cũng vậy. Muốn lià tam giới thì trước tu pháp thiện sau mới xuất gia. Nay ta muốn phó chúc cho ông. Nên chuyên tu học để làm lợi ích cho chúng sinh. Xà-dạ-đa thưa: Xin thọ giáo. Từ đó Ngài diễn hóa pháp Phật diệu thâm độ hóa khắp thế gian. Ngài Xà-dạ-đa có đại công đức, tinh tấn dũng mãnh, cần tu khổ hạnh, khéo trì cấm giới không có sai sót. Đức Thế Tôn thọ ký về sau Ngài sẽ là luật sư. Khi đó trong chúng có vị Tỳ-kheo, có người chị dâu đem bánh đến chùa cúng. Lòng dâm dục nổi lên bèn cùng nhau tư thông. Tỳ-kheo biết mình phạm trọng giới, lòng rất hổ thẹn và hối hận tự trách. Ta thật ngu si khi tạo ra ác nghiệp này. Ta chẳng còn là Sa-môn Thích tử nữa. Thế rồi ông đem y bát quảy trên gậy, đi khắp nơi lớn tiếng nói: Ta là tội nhân, không nên làm nhiễm ô pháp y của Phật. Vì tạo tội trọng ắt sẽ đoạ vào địa ngục, phải đi đến nơi nào để được cứu độ. Lúc này, Ngài Xà-dạ-đa nói với Tỳ-kheo: Nếu ông theo lời dạy của ta, thì tội ắt sẽ tiêu diệt. Tỳ-kheo vui vẻ thưa: xin y giáo. Xà-dạ-đa liền dùng thần lực, hóa ra một hầm lửa đang cháy dữ dội, bảo Tỳ-kheo nhảy vào đó. Vị Tỳ-kheo vì muốn diệt tội nên liền nhảy vào hố lửa. Thế là lửa dữ bỗng trở nên mát mẻ. Nước ngập tới đầu gối nên không bị thương hại. Bấy giờ Xà-dạ-đa bảo với Tỳ-kheo: Ông đem tâm trí thành tâm sám hối, nay các tội đã tiêu trừ. Tỳ-kheo nghe thuyết pháp liền chứng quả La-hán. Do duyên này mà đời đều gọi là Tỳ-kheo thanh tịnh trì luật. Lại có lúc Ngài đem chúng Tỳ-kheo đi đến thành Đức-xoa Thi-la. Khi đến thành này thì ngài Xà-dạ-đa buồn rầu ra mặt. Đệ tử làm lạ hỏi ý, thầy liền đáp: Hãy khoan, sau rồi hãy rõ. Đi đến phía trước không bao lâu Ngài thấy một con chim. Lúc này tôn giả vui vẻ mỉm cười - Đệ tử hỏi thì Ngài nói: Khi ta mới vào thành, ở ngoài cửa có một ngạ quỷ, đói khát khốn khổ đến bảo ta rằng: Mẹ tôi vào thành xin thức ăn, đã trải qua năm trăm năm rồi. Thân tôi đói khát mạng chẳng còn bao lâu nữa. Tôn giả vào thành thấy mẹ tôi, xin vì tôi nói lại việc này. Khi vào thành ta thấy mẹ của quỷ, liền nói lại việc quỷ con đói khát khốn khổ. Quỷ mẹ nói: Tôi vào thành đến nay đã năm trăm năm chưa từng gặp một người khạc nhổ. Trước có một ít thì bị quỷ thần đoạt mất rồi. Nay lại gặp một người khạc nhổ, muốn ra ngoài thành đưa cho con, nhưng ngoài cửa có đại lực quỷ thần, sợ bị đoạt nên không dám ra. Xin Tôn giả nhủ lòng thương xót đem tôi ra ngoài cho tôi gặp. Ta lúc ấy đem quỷ mẹ ra cho con ăn. Tôi liền hỏi: Người từ lúc sinh ra cho đến nay đã được bao lâu. Đáp: Tôi thấy thành này đã bảy lần thành hoại. Quốc độ giàu có nhân dân an lạc hùng mạnh, lại thấy lúc bại vong suy tàn. Ta nghe kia nói càng than thở về sự sinh tử thọ khổ dài lâu vô lượng. Vì duyên cớ đó cho nên buồn rầu. Còn nhân duyên gặp chim, là vì trải qua chín mươi mốt kiếp trong đời quá khứ, thời Tỳ-bà-thi ra đời giáo hóa chúng sinh. Ta lúc ấy là một trưởng giả, lòng chán ghét ngũ dục chỉ thích cầu xuất gia học đạo. Nếu lúc ấy ta xuất gia học đạo ắt đã chứng quả La-hán. Cha mẹ không cho ta theo chí nguyện, bắt ta lấy vợ để đoạn ý xuất thế. Ta không thể trái lời nên đành phải lấy vợ. Sau khi lấy vợ lại muốn xuất gia. Cha mẹ nói: Con lấy vợ là cầu có con nối dõi. Nếu sinh cho ta một đứa con, thì cha mẹ cho con tự do. Ta vâng lời và sau đó vợ có thai sinh ra một đứa con trai, năm đó lên sáu tuổi. Cha mẹ ta liền dạy đứa bé: Cha con nếu muốn xuất gia thì ôm lấy chân cha và nói: cha bỏ con thì lấy ai nuôi dưỡng. Nếu vậy thì giết con trước rồi sau hãy đi. Đứa bé theo lời đó đến ôm ta kêu khóc rất thống thiết. Ta lúc này đem tâm ái nhiễm nên nói với con. Ta vì con mà không đi xuất gia đâu. Do vì có con nên không thể chứng đạo, chín mươi mốt kiếp lưu chuyển trong sinh tử. Ở trong ngũ đạo chưa từng gặp lại. Nay dùng đạo nhãn quán sát thấy chim kia chính là con ta đời trước. Vì thương xót con ngu si trong cõi sinh tử, do đó mà mỉm cười. Tôn giả dùng các pháp yếu như thế, dùng lực biện tài du hóa khắp thế gian. Khi việc làm đã xong Ngài liền nhập diệt. Ngài bảo với Tỳ- kheo tên Bà-tu Bàn-đà rằng: - Ông khéo lắng nghe! Xưa Đức Thích Tôn ở trong vô lượng kiếp tu hành khổ hạnh vì đạo vô thượng. Nay đã đầy đủ lợi lạc chúng sinh. Ta nhận lời phó chúc đem hết tâm hộ trì chánh pháp. Nay muốn uỷ thác lại cho ông. Bà-tu Bàn-đà thưa: xin y giáo. Từ đó về sau Ngài tuyên thông kinh tạng, đem trí lực đa văn biện tài vô ngại, các công đức như thế để tự trang nghiệm, khéo giải nghóa tất cả kinh điển, phân biệt tuyên nói rộng hóa độ chúng sinh. Khi làm việc xong Ngài buông xả mạng hạnh, giao pháp tạng lại cho Tỳ-kheo Ma-nô-la, đem thắng pháp vô thượng lưu bố ở đời. Ngài Ma-nô-la trí tuệ cực kỳ siêu thắng, lại thiểu dục tri túc cần tu khổ hạnh, khéo dùng ngôn từ diệu dụng làm cho tâm người hoan hỷ. Ngài thông đạt hết yếu nghóa của tam tạng, làm nhiều lợi ích cho chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề. Bấy giờ có vị Tôn giả tên: Dà-xà. Ngài là người có biện tài mẫn tuệ tài trí uyên bác, công đức cũng đồng với Ma-nô-la, cũng thông nghóa cả tam tạng giáo điển, tiếng tăm vang khắp mọi người đều cung kính. Có một thời ngài Ma-nô-la đến xứ Bắc Thiên-trúc, Tôn giả Dạ-xà nói: hai xứ nam bắc Thiên Trúc ở sông Hằng, người ở đó phần nhiều tin theo tà kiến lại hùng biện lợi trí. Trưởng lão khéo diễn giảng âm thanh luận có thể đến kia du hành giáo hóa, còn ta ở đây làm lợi lạc chúng sinh. Tôn giả đi đến nhị Thiên-trúc, rộng tuyên nói luận tỳ-la vô ngã, hàng phục tất cả chúng dị đao tà kiến.Việc làm đã xong Ngài liền xả mạng thân, trao truyền pháp bảo cho Tôn giả Hạc-lặc-na. Ngài Hạc- lặc-na phức đức sâu xa, tài trí uyên bác, giáo hóa đời mê hoặc khiến đi theo đường chánh.Việc làm xong rồi Ngài lâm chung nhập diệt. Lại có một Tỳ-kheo tên là Sư Tử, làm các việc Phật sự ở nước Kế-tân, Vua nước đó tên là Di-la-khuất, lòng đầy tà kiến không tin Tam bảo huỷ hoại chùa chiền, sát hại tăng chúng. Vua sai đem kiếm bén chém đầu Sư tử. Trên đảnh đầu ngài Sư Tử không có máu duy chỉ có lỗ chân lông chảy ra. Việc trao truyền phó pháp từ đây dứt tuyệt. Pháp như thế là đại minh đăng, soi sáng hết mọi ngu si tăm tối của thế gian. Các vị Thánh hiền nói ở trên đều cùng thọ trì gìn giữ lưu truyền, cùng phó chúc pháp luân thường chuyển vì chúng sinh làm nhiều việc lợi ích, ngăn chặn ác đạo, khai đường nhân thiên. Cho đến khi pháp đạo suy tàn, Thánh Hiền ẩn mất không còn ai kiến lập. Từ đó thế gian chìm trong tăm tối, vónh viễn mất đi ánh đại quang minh, chúng sinh tạo nghiệp làm những điều ác đạo, nên phần nhiều rơi vào tam đồ bát nạn. Vậy nên người trí cần có sự qúan triệt sâu xa. Thắng pháp vô thượng có đại công đức, vi diệu uyên thâm không thể nghó bàn. Cũng như thương buôn muốn đi qua biển lớn, tất phải dùng thuyền bè thì mới qua được. Tất cả chúng sinh cũng thế. Muốn ra khỏi ba cõi sinh tử khổ hải, cũng cần mượn phương tiện để độ thoát, pháp là ngọn gió mát trừ hết nhiệt phiền não, pháp là diệu dược trừ hết các chứng bịnh kiết phược của chúng sinh.Đó chính là chân Thiện tri thức của chúng sinh làm lợi ích lớn cứu tế khổ não. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh tánh không có định tướng, tuỳ theo chỗ nhiễm tập mà tạo ra các nghiệp thiện ác. Nếu huân tập gần gũi tà kiến ngoại đạo thì lưu chuyển theo sinh tử không bao giờ cùng, đó chẳng phải là Thiện tri thức. Nếu có người khởi tâm kính tín, thân gần Hiền Thánh, thích nghe diệu pháp. Do nhân duyên công đức nghe được pháp này, muốn ra khỏi trần lao thọ tối thắng lạc. Đây chính là bậc Thiện trí thức, nên chuyên tâm gần gũi cúng dường. Bậc Thiện tri thức khiến người lìa tam ác khổ. Như xưa ở tại thành Hoa Thị có một bạch tượng khí lực rất mạnh mẽ có thể tiêu diệt hết oán địch. Nếu có người làm tội đều đem đến cho voi dẫm chết. Sau đó chuồng voi bị lửa thiêu cháy nên dời đến gần một tịnh xá. Ở đây voi nghe có Tỳ-kheo tụng kinh Pháp cú trong đó nói rằng: Làm thiện sinh thiên làm ác sinh vào tam đồ ác đạo. Từ đó voi trở nên nhu hoà, tâm ý từ ái. Sau có đưa người tội đến voi không sát hại nữa, chỉ lấy mũi ngửi rồi đi. Vua thấy vậy thì lo lắng, cho triệu quần thần đến hỏi, có một đại thần bạch với vua rằng: Voi vì ở gần tịnh xá vì nghe diệu pháp nên vậy. Nay nên buộc gần nhà đồ tể, thấy kia sát hại thì tâm ác sẽ nổi lên. Vua theo lời này buộc voi gần đồ tể. Voi thấy người giết hại thì tâm ác hại tăng trưởng.Thế nên biết rằng: Các chủng loại chúng sinh vốn tánh bất định.Vì sao? Loài súc sinh còn nghe pháp mà sinh lòng từ, thấy làm ác thì sinh lòng ác, huống chi làm người mà không sinh nhiễm tập các việc thiện ác. Vậy người trí cần phải hiểu rõ - Tà kiến ác pháp phần nhiều là pháp tổn hại, muốn xa lìa thì phải chuyên cần nỗ lực dùng phương tiện gần gũi Thánh pháp thọ trì lưu bố, khởi tưởng là bậc Đại sư. Do nhân duyên công đức vi diệu mà vónh viễn siêu thoát tam ác đạo. Vượt qua biển sanh tử thọ lạc Niết-bàn, lại pháp này là nhân duyên đắc đạo lợi lạc toàn phần, cho nên gọi là chân Thiện tri thức. Như ngài A- nan từng bạch thầy rằng: Thế Tôn! Thiện tri thức! là nửa nhân duyên làm lợi lạc đắc đạo. Phật bảo: Không phải, Thiện tri thức là nhân duyên đắc đạo toàn phần. A-nan nên biết. Cõi Diêm-phù-đề này, trừ các ngài Đại Ca-diếp Xá-lợi-phất …. nếu chúng sinh không gặp Phật thì mãi lưu chuyển không thể giải thoát. Cho nên ta nói: Thiện tri tthức có thể làm lợi ích cho chúng sinh.Vì đó nên biết Phật pháp là tối tôn tối diệu, là vô hữu thượng, là chỗ thành tựu vô lượng công đức. Thế nên Đức Thế Tôn khi mới thành chánh giác, ngồi dưới thọ vương tư duy quán tưởng: Tất cả thế gian nếu không có cha mẹ sư trưởng, thì cô độc hiu quạnh không có nơi nương tựa. Ta nay nên y vào ai để lập? lại nghó chư Phật trong ba đời đều lấy thắng pháp làm sư phạm, ta cũng nên như ba đời chư Phật đem thắng pháp thâm diệu làm thầy. Vì duyên cớ đó mà Phật thường cung kính diệu pháp này và chí tâm lễ bái gia hộ giữ gìn. Nên biết pháp này thật là ít có, là người trí thì cần phải thọ trì. Lại xưa kia có một Bà-la-môn cầm rất nhiều đầu lâu người đến thành Hoa Thị rao bán. Trải qua nhiều ngày mà không có ai mua, liền giận dữ lớn tiếng nói: Người trong thành này nếu không mua đầu lâu ta bán thì ta sẽ đặt tên xấu ác, các người chỉ cho các ngươi là những kẻ ngu si ám độn. Trong thành các vị Ưu-bà-tắc nghe vậy sợ người kia huỷ báng liền đem tiền đến mua, sau đó lấy dây đồng xỏ xâu lỗ tai lại. Nếu là kẻ thông triệt thì trả giá cao, kẻ thông triệt phân nửa thì giá thấp hơn, không thông thì hoàn toàn không cho giá. Bà-la-môn hỏi: Đầu lâu của ta đều không khác, vì sao giá trị lại khác. Ưu-bà-tắc nói: Như đầu lâu trước là người thông triệt. Người này bình sinh thường nghe diệu pháp, trí tuệ cao thắng, quí như đây nên cho giá nhiều, còn đầu chỉ thấu triệt phân nửa, tuy nghe diệu pháp mà chưa khéo phân biệt, cho nên chỉ cho ít giá, còn đầu này hoàn toàn không biết vì không nghe pháp, cho nên không cho giá. Lúc này Ưu-bà-tắc cầm lấy đầu lâu này đem ra ngoài thành xây tháp cúng dường. Sau khi mạng chung đều được sinh lên cõi trời. Vì vậy cho nên biết: Diệu pháp có công đức lớn có thể xây dựng con người.Vì sao? Vì Ưu-bà-tắc này xây tháp cho đầu của người nghe pháp mà còn được sinh thiên, huống gì chí tâm cung kính cúng dường người thọ trì pháp, phước báu này nay thật khó cùng tận đời vị lai ắt sẽ thành vô thượng đạo. Thế nên người muốn đạt quả vô thượng an ổn khoái lạc, vì làm lợi ích hóa độ chúng sinh nên thọ trì thắng pháp như thế.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 184