<經 id="n2036">PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI (QUYỂN 1 ~ 2) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI BÀI TỰA Đạo Phật luận về niên đại thời thế thường dùng Đại kiếp, Tiểu kiếp. Do văn tự của người Trung Quốc chưa phổ cập, nên ai nấy đều chưa biết đến niên đại của Phật. Sau khi Ma-đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Hoa vào đời Hán, thì năm sinh năm diệt của Phật Thích-ca phải tính ngược trở lại mới biết được là năm nào. Từ đó người Trung Quốc bắt đầu dùng Hán tự để ghi chép niên đại. Từ Thiên Trúc đến các nước lân cận ở phía Đông, không nước nào hưng thịnh bằng Tây Tấn. Đến các nước khác như Diêu Tần, Thạch Triệu có các Đại sư Cưu-ma-la-thập, Phật Đồ Trừng, Ma-liên-da-xá, Đàm-vô-sấm đều là những bậc vó nhân anh tài trác tuyệt của Đông Độ. Bên cạnh đó có các ngài như Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ sát cánh bên nhau hỗ trợ cho việc phiên dịch. Dù phiên dịch nghóa kinh bằng Hán tự, nhưng yếu lý tinh túy của đạo Phật thảy đều thông thấu triệt để. Muốn biết các vị Tiên Đức trước nữa thì phải tính ngược lên. Do chưa thấu đạt đến lý tận cùng của Phật đạo, nên thời bấy giờ Phật pháp không mấy thịnh hành. Từ Di Thiên Đạo An đến ngài Viễn Công là những người khai mở Thánh địa ở Đông nam. Phật-đà-da-xá là người từ phương xa vân du đến mở mang thời thế. Người quân tử dựa vào nhau trong thời buổi ly loạn là vậy. Cho đến khi các ngài như Bảo Công, Song Lâm đứng ra diễn thuyết chánh pháp, thì Phật pháp mới hưng thịnh ở Đông nam. Đến như ngài Trí Giả khai diễn Pháp Hoa ở Thiên Thai , Tam Tạng hoằng dương Bát-nhã thời Sơ Đường, Thanh Lương mở rộng Hoa Nghiêm ở Ngũ Đài , Mật Công diễn thuyết Viên Giác ở Thảo đường, Tuyên Công nghiêm trì luật giáo ở Nam sơn, Kim Cang xiển dương Bí mật ở Thiên Bảo , thì các bộ luận của Đại thừa, Tiểu thừa, Tam thừa, Duy thức được các danh gia chuyên môn ra sức phân tích tận tường, cố gắng lập rường cột. Người học có đến ngàn trăm, nhưng chỉ hưng thịnh lúc ban đầu chứ càng về sau thì càng bị mai một. Đến khi ngài Đạt-ma sang, thì có năm đời được truyền trao y bát, năm tông được dựng lên. Những dị phái nhưng đồng dòng này trải suốt từ Lương tới Tống và được gọi là Truyền pháp chánh tông. Triều đình ta, Bí mật thì hưng thịnh, nghóa học thì rộng sâu, đó là những gì mà trước đây chưa từng có, hoặc chỉ nêu đại khái. Những bộ sách có ghi chép, chẳng hạn như Bảo Lâm truyện v.v… nhưng từ lâu đã bị thất truyền, chỉ còn Truyền Đăng Lục, Tăng Bảo Sử và một ít tác phẩm Thiền tông. Còn như Kinh sư, Luận sư thì mỗi vị đều hoằng truyền giáo môn của mình mà thôi. Những vị tể tướng đại thần ngoại hộ có công cũng được ghi chép trong đây, vậy làm sao tránh khỏi thiếu sót! Gần đây có bộ Phật Tổ Thống Kỷ, nhưng bộ này phỏng theo các bộ sử ký ghi chép việc Tông môn mà không có phương pháp, đó là lỗi của người ghi chép. Bấy giờ có ngài Hoa Đình Niệm Thường trụ trì Tường Phù thiền tự ở Gia hưng là người liễu đạt diệu chỉ Tông Lâm Tế với Thiền sư Hối Cơ. Ngoài việc tham thiền, ngài đọc khắp cả kinh sách khác rồi ghi lại niên đại trụ thế của Phật tổ; nhân duyên thuyết pháp, các vị dịch kinh hoằng giáo; các vị được thân truyền y pháp, các vị kỳ Thánh, dị Tăng của các Tông phái. Bộ sách đó được Thiên tử đương thời quý trọng, Vương , thần, văn, võ đều cùng nhau giữ gìn. Bộ sách này được vua, quan thời bấy giờ cùng nhau bàn bạc, khảo cứu, chỉnh sửa đến hơn hai mươi năm mới hoàn thành và lấy tên là Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải. Sách gồm hai mươi hai quyển. Quyển đầu tiên trình bày năm phẩm trong Chương Sở Tri Luận, đó là phẩm Khí Thế giới, phẩm Tình Thế giới, phẩm Đạo Pháp, phẩm Quả Pháp, phẩm Vô Vi Pháp. Như vậy đây là phần trình bày về thế giới quan của Đế Sư Phát Tư Bát với Thế Tổ hoàng đế, do đó phần này được ghi chép trước nhất. Kế đến từ năm Giáp Tý niên hiệu Thiên Nguyên ghi chép niên đại của Đế Vương. Trong niên đại Đế Vương, ghi chép việc của giáo môn. Đây là những dấu mốc đáng tin chứ không nhầm lẫn rối bời như trước đó, mà sự thịnh suy, hưng phế của Phật đạo, thế đạo đều có cả ở đây. Than ôi! Mười đời xưa nay chẳng lìa đương niệm, trần ảnh sinh diệt đâu đủ để ghi! Từng thấy Quy Sơn có lần hỏi Ngưỡng Sơn: “Mỗi năm, niên đại càng cách xa hơn, ta lại càng ngậm ngùi với bậc Tiên đức mà ta chưa nghe đến không? Nhưng một bộ kinh Pháp Hoa, kiếp trước kiếp sau có đến mười tên gọi nhưng nào có khác”. Lại nói: “Ta xem số kiếp lâu xa ấy đâu khác ngày nay”. Như vậy thì bộ sách này nên giữ gìn cẩn thận không? Ngày mười một tháng sáu, niên hiệu Chí Chánh năm đầu (1 3 4 1) Vi Tiếu Am, Đạo nhân hiệu Ngu Công viết lời tựa. -------------------------------- <詞>HOA ĐÌNH MAI ỐC THƯỜNG THIỀN SƯ BẢN TRUYỆN THÔNG TẢI BÀI TỰA Phàm ngữ ngôn văn tự là công cụ để chuyển tải đạo, là vận dụng để truyền đi xa. Tự ngàn xưa cổ nhân chỉ dùng thẻ tre, thì lấy gì để ghi chép sự việc, khảo cưu sự thật? Bậc Đại thành chí thánh làm ra Xuân Thu thì giặc loạn khiếp sợ. Bậc Đại Giác Thế Tôn kết tập kinh luật thì hiền triết hưng khởi. Những bộ như Ngũ Kinh, Lục Nghệ, Bách Gia Chư Tử dựng lập ngôn từ buông lời giáo huấn khiến cho hậu học ngày nay thấy cổ thông kim, đặt mình trong nhân nghóa, thế chẳng phải là nhờ lợi ích của sách vở lưu truyền đó ư? Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải là bộ sách do Thiền sư Mai Ốc trước tác. Bộ sách này văn chương uyên bác, nghóa lý rõ ràng ghi chép muôn việc không ngoài kinh điển, khảo cứu sự thật đúng với Tông truyện, chỉ có khác là phụ lục thêm phần danh số. Năm Tân Tî niên hiệu Chí Thành (1 3 4 1) Hàn lâm Đạo Viên Ngu Công viết lời tựa ở đầu sách càng chứng tỏ bộ sách này rất quý hiếm. Thiền sư họ Hoàng người đất Hoa Đình, cha là Văn Hựu, mẹ là Dương thị. Hồi ấy, cha mẹ ngài cầu khẩn Quán Thế Âm, bỗng một đêm nằm mộng thấy một vị Tăng mày to, tóc như tuyết, xưng là Đại trưởng lão xin vào ngủ nhờ, nhân đó mẹ ngài mang thai. Ngài sinh vào đêm 12 tháng 03 năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Chí Nguyên (1 2 8 2). Đêm ấy Quang Minh sáng rực cả thất, hương thơm xông ngát khắp nhà, đến mấy ngày vẫn còn. Lớn lên ngài thường thích đốt hương ngồi một mình. Cốt cách của ngài rất phi phàm, diện mạo rất tuấn tú. Năm mười hai tuổi ngài khẩn cầu cha mẹ đi xuất gia. Vì cha mẹ ngài rất yêu quý ngài, nên dùng công danh phú quý thế gian dụ ngài nhưng cuối cùng chẳng làm ngài thoái chí, bèn cho ngài xuất gia. Ngài theo Đại sư Thể Chí ở viện Viên Minh huyện Bình Giang học tập kinh thư. Ngài học tập xuất chúng, bên cạnh lại để tâm vào học kinh luật . Năm Ất Mùi, niên hiệu Nguyên Trinh (1 2 9 5), Sở tổng thống Giang Hoài trao văn bằng cho ngài. Lúc này ngài mới xuống tóc thọ giới. Thuở nhỏ ngài chu du khắp đại Tùng lâm trong vùng Giang hoài, Chiết giang, đọc khắp kinh sách, lễ những bậc Danh Tăng, Thạc đức làm thầy. Những vị ấy đều muốn thâu nhận, nhưng ngài khiêm tốn chối từ. Năm Mậu Thân niên hiệu Chí Đại (1 3 0 8) Hòa Thượng Phật Trí Hối Cơ từ pháp hội của Bá Trượng ở Giang Tây đến chùa Tịnh Từ ở huyện Hàng. Ngài muốn đến tham học, nhằm lúc Hòa Thượng thượng đường, Phật Trí cử thượng tọa Thái Nguyên Phu nghe nhân duyên của tiếng nhạc, rồi tụng rằng: Cầm sinh vào biển xanh Thái sử dạo núi thẳm Từ đây đến ngoài thành Dương châu Nghiêm cấm không cho mở cửa sớm. Ngay đó ngài tỉnh ngộ, bèn vào trượng thất trình kiến giải. Phật Trì hứa khả, rồi dẫn ngài vào trong phòng dành cho những người trông coi việc ghi chép sổ sách và khen: Ông quả thật là người kỳ vó trong giáo pháp của ta, là bậc kỳ tài ngoại hộ trong vườn văn chương. Thế rồi ngài ở lại hầu hạ bảy năm. Năm Ất Mão niên hiệu Diên Hựu (1 3 1 5), Phật Trí trở về Kính sơn. Từ đó ngài kế thế giữ chức vụ này (chức trưởng ký). Triều đình ban lệnh sang năm cho ngài làm quan Chỉnh lý giáo môn, nhân đó tuyển lựa những việc tốt đẹp trong niên hiệu Gia Hưng, Tường Phù. Mùa hạ năm Quý Hợi niên hiệu Chí Trị (1 3 2 3) Ngài đi ngựa đến Kinh đô để ghi chép kinh Phật bằng vàng ròng. Những ngày rảnh rỗi, ngài được tham quan khắp ba Kinh đô lớn, dạo xem khắp thắng cảnh, lễ Bồ-tát Văn-thù trên Ngũ Đài , tìm di tích của những ngôi mộ cổ thời Yên, Kim. Nhờ đó danh tiếng của ngài lọt đến tai quan Tư mã tuyển chọn sách sử. Ngài được ra vào nhà của Hàn lâm học só thảo luận về kinh điển, đệ trình lên nhà vua những vị danh sư có tài để giảng giải kinh luận. Bấy giờ những vị quan như Tư đồ Vân Lộc Hồng Công, Biệt Phong Ấn Công đều rất tôn kính ngưỡng mộ ngài. Đế sư mời ngài ngồi, dâng thức ăn, nghe ngài diễn thuyết yếu chỉ của Mật thừa. Đế sư vô cùng hoan hỷ. Ngài từ kinh đô trở về Cô Tô, tòa chủ Vạn Thọ phân nửa tòa thỉnh ngài thăng tòa thuyết pháp. Chúng Tăng đều kính phục đức độ của ngài. Nếu một con người không có tư chất thông minh sáng suốt từ nhiều đời trước thì làm sao có được trí tuệ tuyệt vời như hôm nay. Ngài trước thuật Tông phong chư Tổ, mở bày chánh giáo, khiến cho công khanh, đại thần càng thêm kính phục. Trong khoảng niên hiệu Chí Đại, ngài tận tâm hầu hạ Phật Trí, được thọ giáo từ Thiền sư, biết rõ ngọn ngành mà viết bài tựa như thế. Ngài húy là Niệm Thường, hiệu là Mai Ốc. Tháng 3 niên hiệu Chí Chánh thứ tư (1 3 4 4) Tỳ-kheo Giác Ngạn trụ trì chùa Chiêu Khánh, Dư sơn, Tùng giang kính cẩn viết lời tựa. <詞>PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI PHÀM LỆ Những lời giáo huấn vàng ngọc của Thế Tổ hoàng đế, gồm Một trăm đoạn rút ra từ Hoằng Giáo Tập, được Đế sư, Đại thần kính cẩn thừa hành như chiếu chỉ, được cẩn thận ghi chép trong đây. Đế sư diễn thuyết Chương Sở Tri Luận, được ghi chép ở thiên đầu tiên nhằm tỏ ý cung kính. Thời đại trước khi Đức Phật của chúng ta Đản sinh, đúng ra không ghi chép, nhưng để tiện lợi cho hàng Sơ học, nên chép phần này trong đầu quyển hai, đoạn các vị trong thời cổ xưa. Những vị Đế Vương trong thời xưa, lên ngôi năm nào, đổi hiệu năm nào, mất vào năm nào, cùng những vị vua tiếm ngôi, quần thần, bá quan hộ trì tôn trọng chánh pháp chỉ nêu sơ lược, còn lại không ghi. Việc Đế Vương soạn những bài tựa, bài tán trong Thánh giáo và những tác phẩm do Đại thần, danh Nho soạn thuật, trong đó có những gì liên quan đến giáo pháp đều ghi chép lại đủ. Tăng só và Đạo giáo biện luận về giáo pháp đều ghi rõ từ đầu đến cuối để đủ tư liệu cho việc tham cứu. Sau khi Thế Tôn tịch, những gì xảy ra trong một trăm năm ấy đều ghi chép đầy đủ. Trong đó, niên đại bắt đầu có tượng Phật bằng chiên-đàn và quá trình Phật pháp được truyền sang Đông độ cũng chép đủ như vậy. Có kệ truyền pháp của Phật tổ được phiên dịch có ghi chép rõ trong niên hiệu Đại Đồng thứ sáu đời Lương. Sự hưng phế của giáo môn đều dựa vào sách sử ghi lại để người học biết được nguồn gốc. Việc thật của chư Tổ được ghi đủ trong năm tịch, dựa trên kinh luận. Tác phẩm Minh Đạo Tập Thuyết của Cư só Bình Sơn gồm Hai trăm mười bảy thiên, nay chỉ ghi lại mười chín thiên để thấy được học vấn uyên bác của ông ta mà thôi. Những việc trọng yếu của giáo môn, những điểm dị đồng, đúng, sai, đã được chỉnh sửa, khảo cứu sơ lược. Ở điểm này đều nhặt góp từ những bộ truyện ký chứ không phải tự ý luận càn. Bởi vì nếu luận bàn nhiều thì sợ rằng bị lạm dụng thừa thải, nếu giản đơn quá thì sợ rằng bị rơi vào hạn hẹp thiếu sót, cho nên phần này xin nhờ những vị tài cao học rộng chỉnh sửa cho. Trong bộ Sử ký của Thái sử Công cho rằng: Hoàng đế năm thứ ba mươi tám, ban sắc lệnh cho Phong Hậu ấn định năm này là năm Giáp Tý và bắt đầu ghi chép từ năm này. Những năm kế tiếp được ghi đủ cả như phần trên đã trình bày. -------------------------------------------- PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI MỤC LỤC Có kệ của bảy Phật. Phẩm Khí Thế giới trong Chương Sở Tri Luận. Mặt trời. Mặt trăng. Các vì sao. Núi Diệu Cao, cõi trời thứ ba mươi ba. Tình thế giới tổng cộng có sáu loại. Đại Phạm là thủy tổ loài người. Tam-mạt-đa Vương cùng các dòng vua. Khí thế giới hư hoại. Bàn Cổ Vương . Thiên Hoàng. Địa Hoàng. Nhân Hoàng. Ngũ Kỷ. Hữu Sào Thị. Toại Nhân Thị. Phục hy Thị. Xã Thần. Thần Nông Thị. Hoàng Đế. Thiếu Hiệu. Chuyên Húc. Đế Khốc. Đường Nghiêu. Ngu Thuấn. Hạ Hậu Thị. Ân Thang. Chu Văn Vương. Chu Vũ Vương . Chu Thành Vưng (Lập ra bảy miếu). Tắc Thần. Bốn nước Chư Hầu. Khương Vượng. Chu Chiêu Vương. Thế Tôn giáng sinh. Thế Tôn xuất gia. Mục Vương. Thế Tôn thành đạo. Nguồn gốc của tượng Chiên-đàn. Thế Tôn thuyết pháp. Thế Tôn nhập Niết-bàn. Hiếu Vương . Tổ thứ nhất: Ma-ha Ca-diếp. Tần Phi Tử. Lệ Vương. Tổ thứ hai: A-nan. Thượng tọa Bộ. Đại chúng Bộ. Tuyên Vương. Tổ thứ ba: Thương-na-hòa-tu. Vua giết Đỗ Bá bị báo ứng. Bình Vương. Tổ thứ tư: Ưu-ba-cúc-đa. Trang Vương. Tổ thứ năm: Đề-đa-ca. Tương Vương. Tổ thứ sáu: Di-già-ca. Định Vương . Lão Đam sinh ở nước Sở. Tổ thứ bảy: Bà-tu-mật. Linh Vương. Khổng Tử sinh ở nước Lỗ. Cảnh Vương. Tổ thứ tám: Phật-đà-nan-đề. Kính Vương . Tổ thứ chín: Phục-đà-mật-đa. Trinh Định Vương. Tổ thứ mười: Hiếp Tôn Giả. Chu An Vương. Tổ thứ mười một: Phú-na-dạ-xa. Hiển Vương. Tổ thứ mười hai: Mã Minh Đại Só. Noãn Vương. Tổ thứ mười ba: Ca-tỳ-ma-la. Tần Thỉ Hoàng. Thất Lợi Phòng v.v… Mười tám Hóa Nhân. Tổ thứ mười bốn: Long Thọ Tôn giả. Tây Hán Văn Đế. Tổ thứ mười lăm: Ca-na-đề-bà. Vũ Đế. Tổ thứ mười sáu: La-hầu-la-đa. Chiêu Đế. Tổ thứ mười bảy: Tăng -già-nan-đề. Tuyên Đế. Luận sư Vô Trước Thiên Thân. Thành Đế. Tổ thứ mười tám: Già-da-xá-đa. Tân Thất Vương Mãn. Tổ thứ mười chín: Cưu-ma-la-đa. Đông Hán Minh Đế. Vua nằm mộng thấy người bằng vàng. Giáo pháp truyền sang Đông Độ. Ma-đằng, Trúc Pháp Lan. Thích, Đạo so tài đốt kinh. Tổ thứ hai mươi: Xà-dạ-đa. An Đế. Tổ thứ hai mươi mốt: Bà-tu-bàn-đầu. Hoàn Đế. An Thế Cao đến Lạc dương. Tổ thứ hai mươi hai: Ma-noa-la. Linh Đế. Trúc Phật Sóc đến Lạc dương. Giặc khăn vàng làm phản. Hiến Đế. Mâu Tử và Lý Hoặc Luận. Sử quan Phạm Hoa luận về họ Thích (Trong Hán thư). Viên Hoằng luận về Phật. Khương Mãnh Trúc Đại Lực đến Kinh đô. Tổ thứ hai mươi ba: Hạc Lặc-na. Đạo giáo bắt đầu làm ra Linh Bảo, Tiếu Chương. Tam quốc Ngụy Văn Đế. Thục Tiên Chủ. Ngô Đại Đế. Sa-môn Duy-kỳ-nan và Ưu-bà-tắc Chi Khiêm. Minh Đế. Truyện về Tào Thực. Tề Vương Phương. Khương Tăng Hội đến đất Ngô. Hám Trạch nước Ngô luận về Phật. Tổ thứ hai mươi bốn: Sư Tử Tôn giả. Đàm-ma-ca-la v.v…truyền bá Luật tạng. Cao Quý Hương Công. Giặc loạn ở Kế Tân liên lụy đến Phật giáo. Trần Lưu Vương. Sa-môn Châu Só Hành bắt đầu giảng kinh. Tây Tấn Vũ Đế. Tôn Hạo nước Ngô phá đền thần và chùa tháp. Trúc Pháp Hộ đến Kinh đô. Duyên khởi về tháp của A-dục Vương . Tuệ Đế. Ngô. Báo Tónh tự soạn ra Tam Hoàng kinh của Đạo gia. Sa-môn Kỳ Vực người Thiên Trúc đến Lạc dương. Mẫn Đế. Hai tượng Phật bằng đá là Duy-vệ và Ca-diếp xuất hiện ở đất Nguyên Đế. Sa-môn Kiết Hữu đến Kiến Khương. Minh Đế. Tổ thứ hai mươi lăm: Bà-xá-tư-đa. Thành Đế. Tam Tạng Tuệ Lý đến Hàng Châu. Dữu Băng ra lệnh Tăng phải lạy tục. Hà Sung bàn không nên Lạy tục. Mục Đế. Phật Đồ Trừng tịch. Thích Thiệp Công tịch. Y Thuật của Sa-môn Vu Pháp Khai. Ai Đế. Vua xuống chiếu mời Trúc Tiềm giảng kinh. Vua xuống chiếu mời Chi Độn giảng kinh tiếp. Khích Siêu mến mộ đạo Phật. Phế Đế. Pháp Sư Thích Đạo An. Tôn Xước. Hứa Tuân. Hoàn Ôn vâng lời Ni. Giản Văn Đế. Vua xuống chiếu mời Trúc Pháp Khoáng nhương Tinh giải hạn. Đông Tấn Vũ Đế. Pháp Sư Huệ Viễn ở Đông Lâm. Lưu Di Dân mất. Thời Vua Tần là Phù Kiên đức tinh xuất hiện có được Đạo An, La-thập. Tần Chủ là Diêu Trành bị báo ứng. Bắc Ngụy Đạo Vũ Hoàng Đế. Tổ thứ hai mươi sáu: Bất-như-mật-đa. An Đế. Trúc Tăng Lãng ở Thái sơn. Vua Bắc Ngụy xuống chiếu chấn hưng Phật giáo. Pháp Sư La-thập. Đạo Xước Tăng Chánh. Đạo Dung Biện luận với Bà-la-môn. Đạo Hằng, Đạo Tiêu dâng biểu kháng chỉ xin tiếp tục hành đạo. Tăng Duệ-Người mà Tăng trong bốn biển đều ngưỡng vọng. Tăng Triệu -Là người san định kinh luận. Tôn giả Phất-đa-la người Thiên Trúc. Tôn giả Phật-đà-da-xá. Bá Huyền xuống thư khiến Tăng lạy tục. Luận về Sa-môn chẳng kính Vương giả. Phật-đà-bạt-đà bị đuổi. Mời Uyên Minh vào Liên xã. Pháp Quả người đầu tiên được phong tước. Pháp Hiển người đầu tiên sang Tây Thiên thỉnh kinh. Tam tạng Đàm-vô-sấm đến Cô Tạng. Pháp sư Đạo Sinh dựng đá làm đồ chúng. Cung Đế. Đời Bắc Ngụy, Thôi Hạo tiến cử Khấu Khiêm Chi. Thiền sư Huyền Cao bị dèm pha. Tề trước tác bộ Ngụy Thư Phật Lão Chí. Tống Văn Đế. Thần Tăng Bôi Độ. Cầu-na Bạt-đà-la vào triều. Vua xa giá đến chùa Đại Trang Nghiêm . Tạ Linh Vận làm loạn. Tam tạng Cầu-na-bạt-ma. Tiêu Kinh Duẫn xin vua dựng chùa đúc tượng. Vua xa giá đến Khúc Thủy. Tuệ Lâm hủy báng Phật giáo bị quả báo. Vua xuống chiếu thỉnh Pháp Viên trụ trì chùa Thiên Bảo . Thôi Hạo dèm pha Thái Tử và Tăng Huyền Cao. Thời Ngụy, Khấu Khiêm Chi tu theo thuật của Trương Lỗ Ngụy Thái Vũ xuống chiếu giết Sa-môn. Ngụy Thái Vũ nhận Phù lục cho xây Tịnh Luân cung. Ngụy, Thôi Hạo bị tru di. Sa-môn Đàm Thỉ đến Ngụy cứu pháp nạn. Ngụy lại xuống chiếu phục hưng Phật giáo. Vũ Đế. Tổ thứ hai mươi bảy: Bát-nhã-đa-la. Vua xuống chiếu cầu thỉnh Cầu-na Bạt-đà-la. Vua xuống chiếu mời Đạo Dù làm Pháp chủ chùa Tân an. Pháp sư Bảo Lượng ở chùa Trung Hưng. Rợ Khương là Cao Xà làm phản liên lụy đến Phật giáo. Quan Hữu tư trần tấu với vua cho Tăng phải lạy tục. Chu Linh Kỳ gặp Thánh Tăng. Diêu Hưng kính trọng Thích Tăng Đạo. Phế Đế. Quốc Vương nước Sơ Lặc tặng y ca-sa của Phật. Minh Đế. Đại só Bảo Chí. Thiệu Thạc Công người nước Khương Cư. Vua xuống chiếu mời Tăng Cẩn làm chức Tăng Chánh. Ngụy Sử Thích Lão Chí. Tề Thái Tổ. Vua xa giá đến trụ xứ của Tăng Viễn. Vũ Đế. Vua ban sắc chỉ mời Pháp Hiến làm Tăng chủ. Huyền Sướng người đầu tiên thuật Hoa Nghiêm Sớ. Bảo Chí hiển hóa trong ngục. Đàm Siêu thuyết pháp cho rồng nghe. Cố Hoan trước tác Di Hạ Luận. Tư Đồ là Viên Sán phản bác Di Hạ Luận. Mạnh Cảnh Dực viết Chánh Nhất Luận. Trương Dung trước tác môn Luật. Ngụy xuống chiếu độ Tăng Ni. Đông Hôn Hầu. Trần Hiển Minh trước tác bộ Hư kinh. Hòa Đế. Luật Tạng của Tăng -già Bạt-đà-la. Lương Vũ Đế. Đào Hoằng Cảnh viết Thái Thanh Kinh. Vua ban chiếu cho Bảo Chí tùy tiện giáo hóa. Phu nhân Hy thị cầu sám. Bài văn phát nguyện bỏ tà quy chánh của vua. Hà Điểm, Hà Dận không làm quan. Vua chú giải Đại phẩm mời Pháp sư Pháp Vân giảng. Ngụy chủ ưa chuộng Phật giáo. Vua xuống chiếu mời Tăng Mân giảng kinh Thắng Man. Vua viết bài tựa trong Niết-bàn sớ. Tế tự Tông miếu không được sát sinh. Trung Thực Luận của Thẩm Hưu Văn. Ngụy Hồ Thái hậu dựng chùa. Tuệ Kiểu soạn Cao Tăng truyện. Hai vị Tăng thần dị: Tăng Lãng, Đạo Anh. Vua thọ Tam quy, Ngũ giới. Thiền sư Đạt chứng đắc Thủy Quán Tam-muội. Pháp sư Tạng can gián vua dùng luật của Tăng . Tạng leo lên ngự tòa. Ngụy luận bàn về Phật giáo, Đạo giáo. Ngụy thư Phật Lão Chí. Sơ tổ Đạt-ma Đại sư. Thái tử Chiêu Minh. Lưu Hiệp xuất gia. Song Lâm Phó Đại só. Pháp sư Huệ Ước. Duyên Khởi của Cao Vương Kinh. Những người dịch Có kệ của Phật, Tổ đầu tiên. Ẩn só Nguyễn Hiếu Tự. Số lượng thư tịch xưa nay. Nghịch Tặc Hầu Cảnh làm phản. Sử quan đời Lương: Ngụy Trưng. Giản Văn Đế. Thiền sư Huệ Văn người Bắc Tề, tổ của Thiên Thai tông. Nguyên Đế. Tam tạng Chân Đế. Cư só Lục Pháp Hòa ở Kinh sơn. Vua Bắc Tề xuống chiếu mời Thiền sư Tăng Trù vào cung. Kính Đế. Vua Bắc Tề ban sắc lệnh cho Lục Tu Tónh và Pháp sư Đàm Hiển so tài. Đỗ Bật thời Bắc Tề. Tề Thư trước tác Vương Thiệu Thuật Phật. Chu Vũ Đế ghét phái Hắc Y phá diệt Phật giáo. Trần Cao Tổ. Thiền sư Tăng Trù ở chùa Bá Nham. Pháp sư Hồng Yển. Pháp sư Bảo Quỳnh. Vệ Nguyên Tung dâng sớ đòi vua giảm bớt Tăng . Phế Đế. Thiền Sư Huệ Tư -Tổ của Thiên Thai tông. Tuyên Đế. Chu Vũ Đế ra lệnh Tam giáo trình bày rõ sự lợi hại. Chu Vũ Đế hủy diệt Phật Pháp. Châu Loan dâng Tiếu Đạo Luận. Đạo An trước tác Nhị Giáo luận. Chu Vũ Đế lên tòa bàn chuyện phế, lập Phật, Đạo. Tónh Ái xã thân vì nạn vua hủy diệt Phật pháp. Nhậm Đạo Lâm xin vua khôi phục Phật giáo. Tùy Văn Đế. Vua xuống chiếu phục hưng Phật giáo. Pháp sư Đàm Diên truyền tám giới cho vua. Truyện Thích Nữ Trí Tiên. Luật sư Linh Tạng hộ giá. Lý Só Khiêm ví dụ về thuyết Báo ứng. Tổ thứ hai: Đại sư Huệ Khả. Thiền sư Trí Giả của Thiên Thai tông. Vua xuống chiếu cho ba mươi châu dựng tháp. Văn Trung Tử giảng đạo. Xà-na-cấp-đa dịch kinh Pháp Hoa. Vua xuống chiếu thăm hỏi Thiền sư Hồng Sơn Trí Thuấn. Dạng Đế. Vua xuống chiếu lệnh Tăng Đạo phải lễ lạy Vua như những người thế tục, Pháp sư Minh Chiêm biện luận, vua liền bãi bỏ. Tổ thứ ba: Đại sư Tăng Xán. Dương Hoằng thống lãnh Đạo só, danh Tăng nghị luận đạo pháp. Cung Đế. Truyện về Thần Tăng Pháp Hỷ. kém. nước. tựa. Đường Cao Tổ. Vua xuống chiếu cho Tăng, Đạo luận nghị để phân định hơn Phó Dịch dâng sớ xin vua hủy diệt Phật giáo. Lý Sư Chánh trước tác Nội Đức Luận. Vua xuống chiếu sa thải Phật giáo, Đạo giáo. Thái Tông. Vua hỏi quần thần điểm khó dễ trong việc cai trị. Vua ra sắc lệnh dựng chùa để siêu độ những kẻ chết trận. Huyền Trang sang Tây Thiên cầu pháp. Vua ban sắc lệnh để tang Pháp sư Huyền Uyển. Vua xuống chiếu độ Tăng Ni, dựng chùa. Thái tử hỏi Trương Só Hành về việc thờ Phật. Vua xuống chiếu cho Đạo giáo đứng trước, Phật giáo đứng sau. Vua ban sắc lệnh bảo Ngụy Vương Thái Tế Ngu Thế Nam. Vua xuống chiếu cho nghị luận về điểm tinh hoa của Tam Học. Tuệ Lâm bị dèm pha. Pháp sư Đỗ Thuận của Hoa Nghiêm tông. Phó Dịch bị báo ứng. Truyện về thừa tướng Tiêu Vũ. Vua xa giá đến chùa Hoăng Phước. Quốc chủ nước Kỳ La ngưỡng mộ Thanh giáo của vua Đường. Nguyên Châu xuất hiện đá quý, được ghi vào điềm lành của Huyền Trang mang kinh về triều. Huyền Trang dâng vua những bộ kinh mới dịch, mời vua viết lời Lời Sấm ký nữ chúa thay vua trị vì thiên hạ. Vua khuyên Huyền Trang bỏ đạo ra làm quan. Huyền Trang dâng biểu từ chối, nguyện trọn đời hành đạo. Vua viết lời tựa cho Tam tạng Thánh giáo. Thái Tử viết lời tựa cho Thánh giáo. Vua ban cho Huyền Trang một trăm y ca-sa có đính vàng. Vua xuống chiếu sáng lập viện Hoằng Pháp để ngài Huyền Trang ở đó phiên dịch. Vua xuống chiếu cho xây chùa Đại Từ Ân. Vua xuống chiếu cho Huyền Trang hộ giá. Bài tán và luận trong sử sách đời Đường. sớ. Đường Cao Tông. Tổ thứ tư: Đại sư Đạo Tín Vua ban sắc lệnh dựng tháp Đại Từ Ân . Thiền sư Huệ Khoan và Chị là Tín Tương. Tăng ở Thiên Trúc gởi thư cho ngài Huyền Trang. Pháp sư Huệ Lập bác bỏ luận của Lã Tài. Lập ra Quan Giám hộ cho việc phiên dịch kinh điển. Vua viết văn bia trong chùa Đại Từ Ân. Pháp sư Huyền Trang cáo bệnh. Vua xuống chiếu phân định giáo nào trước giáo nào sau. Thiền sư Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu. Tiến cử Tăng, Đạo để cùng nghị luận. Pháp sư Huyền Trang dâng biểu xin về núi. Lại tiến cử Tăng, Đạo cùng nghị luận. Vua xuống chiếu buộc Tăng phải lạy tục, Sa-môn Đạo tuyên dâng Pháp sư Huyền Trang tịch. Pháp sư Đạo Thế biện luận rõ chân ngụy trong đạo kinh. Luật sư Đạo Tuyên ở Nam sơn. Vua xuống chiếu cho Tăng, Đạo định đoạt Hóa Hồ Kinh. Tổ thứ năm: Đại sư Hoằng Nhẫn. Tôn giả Phật-đà-ba-lợi. Pháp sư Khuy Cơ ở Từ Ân. Pháp sư Đạo Thế soạn Pháp Uyển Châu Lâm. Vũ Hậu Tắc Thiên. Bắt đầu chế định ra Mẫu phục và dựng Minh Đường. Khánh Sơn bắt đầu xuất hiện. Dịch đại kinh Hoa Nghiêm. Vua xuống chiếu cho Khương Pháp Tạng làm Tăng. đạo. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Huệ An ở Tung sơn vào triều hỏi Tam tạng Nghóa Tịnh từ Ấn Độ trở về. Vua xuống chiếu thâu tiền của chư Tăng để đúc tượng Phật. Vua xuống chiếu mời Hiền Thủ Pháp Tạng giảng kinh mới dịch. Đúc tượng hoàn thành, vua dẫn cả trăm quan đến lễ lạy tế tự. Trung Tông. Phòng Dung nhuận văn, dịch Lăng-nghiêm. Vua xuống chiếu mời Lục tổ vào triều, Tổ không đi. Thiền sư Đại Thông Thần Tú. Thần Tăng Vạn Hồi Pháp Vân Công. Vua xuống chiếu cho Tăng, Đạo cùng ngang hàng. Quốc sư Huệ An tịch. Vua xuống chiếu thỉnh Thật-xoa-nan-đề vào cung. Đại Thánh ở Tứ châu. Vua triệu Luật sư Đạo Ngạn vào cung truyền giới. Bồ-đề-lưu-chi dịch kinh Bảo Tích. Vua xuống chiếu mời Nhất Hành vào cung nhưng ngài không đi. Đường Duệ Tông. Tổ thứ sáu: Đại sư Huệ Năng. Huyền Tông. Thiền sư Vónh Gia Huyền Giác. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Nhất Hành vào cung. Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc. Tam tạng Vô Úy người Thiên Trúc đến Kinh sư. Tống Cảnh lễ tháp của Lục tổ. Vua xuống chiếu mời Nhất Hành sửa và soạn Đại Diễn Lịch. Sa-môn Trí Thăng dâng mục lục Tạng kinh cho vua. Nhất Hành chế tác hoàn thành Hoàng Đạo Nghi. Con gái Quách Hành từng thiết trai cúng dường nên chiêu cảm phước báo. Ngưu Vân cầu thông minh được cảm ứng. Nhật Bản bắt đầu có luật giáo. Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi tịch. Hòa Thượng Phá Táo Đọa ở Tung sơn. Nhất Hành tịch. Viễn. tịch. cung. Bài tựa Bát-nhã tâm kinh. Ấn định lại Ngũ Phục Chế. Tam tạng Kim Cang Trí tịch. Thiền sư Nghóa Phước tịch. Trương Quả Tiên sinh ở Hàng Châu. Tam tạng Vô Úy tịch. Tam tạng Bất Không hàng phục voi điên. Sa-môn Pháp Tú hiến ngọc châu cho chùa Hồi Hướng. Lý Trưởng giả soạn Hoa Nghiêm Hợp Luận. Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư. Thiền sư Phổ Tịch trụ trì chùa Hưng Đường tịch . Quan Chiêm Sự của thái tử là Nghiêm Đỉnh Chi. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Bản Tịnh vào cung. Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng. Vua xuống chiếu mời Đạo só Ngô Quân đến hỏi đạo. Bắt đầu định chế Cấp Từ Bộ cho Tăng Ni. Vua xuống chiếu mời Bất Không tỉ thí pháp thuật vớ La Tư Thiền sư Huyền Tố trụ trì chùa Hạc Lâm tịch. Vua xuống chiếu lập đền thờ Tỳ-sa-môn Thiên Vương. Thiền sư Tả Khê Huyền Lãng của Thiên Thai tông. Tác phẩm Pháp Môn Nghị của Thiên Thai tông. Huyện lệnh Lỗ Sơn là Nguyên Đức Tú mất. Túc Tông. Thái thú Lãng Châu chém đầu tượng vẽ. Bắt đầu thu tiền độ Tăng, Đạo. Sa-môn Vô Lậu người Tân La bay bổng đứng trên không mà Vua xuống chiếu mời Thiền sư Huệ Trung ở Nam dương vào Vua xuống chiếu lập văn bia ở những nơi có ao phóng sinh. Thượng thư Vương Ma Cật mất. Châu Như lên Thiên cung, Thiên đế trao cho mười ba bảo vật. Đường Đại Tông. Lương Bí Tạo Nhân Vương Kinh sớ (bản dịch mới) Thiền sư Đạo Nghóa bắt đầu dựng pháp hội Vu-lan-bồn. Đỗ Hồng Tiệm hỏi pháp với Thiền sư Vô Trụ. Quốc sư Thanh Lương Trừng Quán. Vua xuống chiếu mời Quốc sư Huệ Trung so tài với Thái Bạch Sơn Nhân. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Kính Sơn Quốc Nhất vào triều. Thiền sư Huệ Trung ở Ngưu Đầu. Quốc sư Huệ Trung so tài với Tam tạng Đại Nhó. Văn bia Tam tạng Bất Không. Văn bia Luật sư Đàm Nhất. Văn bia Tam tổ Cảnh Trí Thiền sư. Bài ký về Giới Đàn tại chùa Bảo ứng ở Phủ Châu. Đạo só Sử Hoa tranh biện đạo lý với Sa-môn Sùng Huệ. Lý Nguyên hỏi đạo với Sa-môn Viên Trạch. Vua xuống chiếu cho Đam Nguyên hỏi về ý chỉ Vô Phùng tháp. Thiền sư Sùng Tuệ ở núi Thiên trụ. Đức Tông. Bài tựa kinh Thiên Tý Thiên Bát Văn-thù Thiền sư Nam Nhạc Minh Toản. Thiền sư Kinh Khê Trạm Nhiên. Chỉ Quán Thống Lệ. Vua viết lời tựa trong kinh Đại thừa Lục Ba-la-mật. Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất. Thiền sư Đại Châu Tuệ Hải. Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên. Vua xuống chiếu mời Quốc sư Thanh Lương giảng đề kinh Hoa Nghiêm . Vua xuống chiếu mời Quốc sư Thanh Lương giảng Tông chỉ của Hoa Nghiêm. Văn bia Luật sư Hy Di ở Đông Lâm. Bài ký Hoàng Thạch Nham. Luật Sư Vân Phong Pháp Chứng. Truyện về Lục Vũ. Đại sư Ngưng Công trụ trì chùa Thánh Thiện ở Đông đô. Thiền sư Bàn Sơn Bảo tích ở U châu. Bài tựa noi về Tuấn Thượng Nhân trở về Hoài nam. Văn bia nói về công trạng của Hòa Thượng Nam Nhạc Ban Châu. Thuận Tông. Bài Ký về chim Anh vũ, xá-lợi. Vua hỏi pháp với Thiền sư Phật Quang Như Mãn. Đường Hiến Tông. Thiền sư Nga Hồ Đại Nghóa. Hàn Sơn, Thập Đắc, Phong Can. Thiền sư Thiên Hoàng Đạo Ngộ ở Kinh châu. Thiền sư Thiên Vương Đạo Ngộ ở Kinh châu. Thiền sư Lan Nhượng ở Giang Tây bắc. Hoàng Thượng hỏi quần thần việc chánh sự nên dùng khoan dung trước hay hà khắc trước. Bài ký của Thiền sư Thảo Y. Hoàng Thượng hỏi Quốc sư Trừng Quán về pháp giới Hoa Nghiêm. Thiền Giả Vô Trước vào Ngũ Đài sơn. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Hoài Uẩn vào trụ trì chùa Cư thượng. Cư só Bàng Uẩn. Văn bia nói về Hòa Thượng Di-đà. Bài ký nói về Tịnh Độ Viện ở Vónh châu. Pháp sư Trí Biện thí thực được báo ứng. Pháp sư Đạo Thọ hàng phục yêu thuật. Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Văn bia nói về Luật sư Đại Minh. Văn bia nói về việc Mã Tổng xin vua ban tên thụy cho Lục Tổ. Đặng Ẩn Phong ở Ngũ Đài . Thiền sư Quy Tông Trí Thường. Thị giả Bố Mao Hội Thông. Bài tựa nói về Pháp sư Trọng Tốn được Trung Thừa mời đến. Mã Lang Phụ ở Thiểm Hữu. Văn bia nói về công trạng của Luật sư Thượng Hoằng. Thiền sư Nguyên Hạo của Thiên Thai tông. Vua xuống chiếu nghinh đón xương Phật, Hàn Dũ dâng biểu bài xích Phật. Thứ sử Triều Châu Hàn Dũ gặp Thiền sư Đại Điên và biện luận. Thiền sư Đại Điên ở Triều Dương. Thứ sử Liễu Châu Liễu Tử Hậu. Pháp sư Thần Thanh ở Bắc Châu. Mục Tông. Thiền sư Điểu Khòa Vua xuống chiếu mời Thiền sư Vô Nghiệp vào cung nhưng ngài không đi. Thiền sư Long Đàm Sùng Tín. Bài ký nói về việc khắc kinh trên vách đá tại chùa Vónh Phước ở Hàng Châu . Vương Trí Hưng lợi dụng việc xin đi lập giới đàn để thu tiền. Thiền sư Cổ Linh Thần Tán ở Phước Châu. Đường Kính Tông. Vua xuống chiếu mời Đạo só Lưu Tùng Chánh vào cung đảm trách việc tu tiên. Văn Tông. Văn bia nói về Thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm. Lý Cao soạn Phục Tánh thư. Văn bia nói về việc khắc kinh trên vách đá tại chùa Trùng huyền ở Tô châu. Thiền sư Đơn Hà Thiên Nhiên. Lăng Hành Bà. Trong con sò hiện tượng Bồ-tát. Lý Huấn dâng sớ đòi sa thải Tăng Ni. Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện. Văn bia nói về Pháp sư Đại Đạt. Bài Minh trong văn bia của Quốc sư Thanh Lương. Thiền sư Khuê Phong Tông Mật. Vũ Tông. Thiền sư Vân Nham Đàm Thạnh ở Đàm châu. Vua xuống chiếu muốn cầu phép tiên. Dựng Vọng Tiên Đài trong cung cấm. Vua ra sắc lệnh đập bớt chùa chiền trong thiên hạ. Vua xuống chiếu bỏ đạo Phật. Tuyên Tông. Vua xuống chiếu phục hưng Phật giáo. Cư só Bạch Cư Dị ở Hương sơn. Vua xuống chiếu giáng chức Lý Đức Dụ. Thiền sư Hoa Lâm Thiện Giác. Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Hoằng Biện vào cung để hỏi về Tông chỉ của Nam tông, Bắc tông. Văn bia khôi phục chùa Đông Lâm ở Lô sơn. Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu. Lý Tiết đề tặng bài tựa trong sớ của Đạo Lâm. Vua xuống chiếu mời La Phù Hiên Viên hỏi thuật Trường Sinh bất lão. Thị hiện sự tích ở Bổ Đà. Đường Ý Tông. Thiền sư Đại Từ Hoàn Trung. Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám. Thiền sư Lâm Tế Nghóa Huyền. Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm. Thiền sư Động Sơn Lương Giới. Truyện về Quốc sư Ngô Đạt Tri Huyền. Bài tựa trong Thiền Nguyên Thuyên của tướng quốc Bùi Hưu. Vua xuống chiếu nghinh đón xá-lợi Phật. Hy Tông. Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội. Thiền sư Nham Đầu Toàn Khoát. Chiêu Tông. Thiền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch . Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm. Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng. Ngũ Đại. Lương Thái Tổ Chu Ôn. Thiền sư Tuyết Phong Nghóa Tồn. Thiền sư Huyền Sa Sư Bị. Duy Kính soạn Bảo Lâm truyện. Mạt Đế. Hòa Thượng Bố Đại ở Minh châu. Đường Trang Tông Lý Tồn Úc. Thiền sư Hưng Hóa Tồn Tưởng. Minh Tông. Thiền sư Huệ Lăng ở Trường Khánh. Mở khoa khảo thí chư Tăng . Tấn Thạnh Kính Đường. Duyên khởi của việc đánh chuông để dứt khổ. Vua nước Liêu là Đức Quang ngự ở Biện cung. Hán Lưu Tri Viễn. Thiền sư Văn Môn Văn Yển. Châu Quách Uy. Thiền sư Huệ Ngung ở Nam Viện. Thế Tông. Vua xuống chiếu phế bỏ Phật giáo, định chế Tăng tràng. Thiền sư Thanh Lương Văn Ích Tống Thái Tổ. Vua xuống chiếu khắc một tạng kinh Phật. Quốc sư Đức Thiều tịch . Thiền sư Diên Chiểu ở Phong Huyệt. Thiền sư Vónh Minh Trí Giác. Ngô Việt Vương soạn bài tựa trong Tông Cảnh Lục. Hậu tự (Lời bạt) trong Tông Cảnh Lục. Thái Tông. Vua soạn bài tựa cho Tam tạng Thánh giáo. Tán Minh San Định Đại Tống Tăng Truyện. Vua xuống chiếu lập ra viện dịch kinh. Triệu Phổ bị báo ứng. Thiền sư Trừng Viễn ở viện Hương Lâm. Tôn giả Tự Nghiêm ở Nam An. Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ sơn. Chân Tông. Vua soạn bài tựa trong Kế Thánh Giáo. Đạo Nguyên soạn Truyền Đăng Lục. Vua xuống chiếu cho các Châu Huyện dựng Thiên Khánh Quán. Pháp sư Trí Viễn ở Cô sơn. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần dương. Vua sắc cho Giáo bộ của Thiên Thai được nhập Tạng. Thiền sư Cảnh Huyền ở Đại Dương. Giảng sư Tứ Minh Pháp Trí. Pháp sư Trường Thủy Tử Tuyền. Sám Chủ Từ Vân Tuân Thức. Vua soạn bài tựa trong Quảng Đăng Lục. 2 8.Thiền sư Từ Minh Sở Viên. Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội. Thiền sư Ngôn Pháp Hoa. Lý Cấu để tâm đến sách Phật. Thiền sư Pháp Viễn ở Phù sơn. Vua xuống chiếu mời Thiền sư Hoài Liên trụ trì Tịnh Nhân viện. Thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu. Thiền sư Đạo Long ở Hoa Nghiêm . Thiền sư Đàm Dónh ở Đạt Quán. Thiền sư Thiên Y Nghóa Hoài. Âu Dương Tu hỏi việc lâm chung. Thiền sư Thiên Bát Trùng Nguyên. Anh Tông. Thiền sư Vân Phong Văn Duyệt. Vua xuống chiếu quy định số lượng chùa trong dân gian. Giác. Tống Thần Tông. Thiền sư Viên Thông Cư Nột. Thiền sư Minh Giáo Khế Tung. Thiền sư Thủ Đoan ở Bạch Vân. Pháp sư Hoa Đình Tuệ Biện. Thiền sư Khánh Nhàn ở Kiết châu. Thiền sư Nghóa Thanh ở Thư châu. Bài ký nói về pháp đường Chân Như ở Gia Hưng. Lý Bình Sơn nước Kim luận về Phật pháp. Minh Đạo lập luận ghét khoa cử. Lý Bình Sơn nước Kim biện luận. Triết Tông. Bài tựa tiễn Kiển Củng Thần đi tham học với Thiền sư Chiếu Tăng Thống Nghóa Thiên ở Cao Ly. Thiền sư Tịnh Nguyên ở Tấn Thủy. Thiền sư Tán Nguyên ở Tưởng Sơn. Tô Lão Tuyền viết bài ký về viện Viên Giác. Ma Nạp Tán của Tô Đông Pha. Thiền sư Viên Thông Pháp Tú. Thiền sư Thường Tổng ở Đông Lâm . Thiền sư Ngọc Tuyền Thừa Hạo. Pháp sư Biện Tài Nguyên Tịnh. Thiền sư Tịnh Nhân Đạo Trăn. Thiền sư Trí Hải Mộ Triết. Thiền sư Vân Cư Nguyên Hựu. Thiền sư Phật Ấn Liễu Nguyên. Thiền sư Thụy Quang Tông Bản. Thiền sư Hoàng Long Tổ Tâm. Huy Tông. Vua soạn bài tựa trong Tục Truyền Đăng. Thiền sư Ngũ Tổ Pháp Diễn ở Kỳ Sơn. Thiền sư Pháp Vân Thiện Bản. Sái Kinh ăn thịt chim Thuần bị báo mộng. Tuệ Trì nhập định trong Đại Thọ. Vua xa giá đến Ngọc Thanh Chiêu Dương Cung. Nhữ Chân phản Liêu. Thiền sư Tử Tâm Ngộ Tân. Luật Sư Linh Chi Nguyên Chiếu. Đạo Só Lâm Linh Tố dùng yêu thuật yêu sách vua. Thiền sư Hoàng Long Duy Thanh. Thiền sư Phật Giám Tuệ Cần. Vua nghe Lâm Linh Tố giảng kinh. Đại Kim Lập Quốc. Vua xuống chiếu sửa Danh hiệu Phật, phá chùa Tăng. Truyện về Trương Vô Tận. Thiền sư Giác Phạm Đức Hồng. Vua xuống chiếu mời Pháp sư Vónh Đạo về kinh phục chế lại Tăng phục. Nam Tống Cao Tông. Pháp sư Tô-đà-thất-lợi người Tây Trúc. Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần. Thiền sư Thiệu Long ở Hổ Khâu. Thiền sư Phật Trí Đoạn Dụ. Thiền sư Mục Am Pháp Trung. Thiền sư Chân Hiết Thanh Liễu. Thiền sư Cảm Sơn Hiểu Oánh. Thiền sư Hoằng Trí Chánh Giác. Hiếu Tông. Thiền sư Ứng Am Đàm Hoa. Thiền sư Kính Sơn Tông Cảo. Thiền sư Đại Thiền Liễu Minh. Thiền sư Thạch Thất Tổ Tú. Thiền sư Phổ Am Ấn Túc. Thiền sư Khánh Thọ Giáo Hanh. Thiền sư Hạt Đường Tuệ Viễn. Vua soạn Nguyên Đạo Luận. Vua xuống chiếu cho Giáo Tông Thiên Thai nhập Tạng. Pháp sư Đức Tạng Khả Quán. Vua chú giải Kinh Viên Giác, ban tặng Kính Sơn. Vua Tống sai Vũ Văn Hư Trung đi sứ nước Kim. Quang Tông. Vương Hiếu Lễ nói về ảnh biểu, đồng biểu. Thiền sư Ngạn Sung ở Tịnh Từ. Ninh Tông. Thiền sư Linh Ẩn Sùng Nhạc. Thiền sư Phật Chiếu Đức Quang. Bài ký nói về Tử Vi Quán. Minh Đạo Tập Thuyết của cư só Lý Bình Sơn. Bài ký nói về Sa-môn Hồng Cáp La Tất Lợi. Thiền sư Phổ Chiếu Đạo Ngộ ở Trịnh Châu. Thiền sư Tư Thọ Ni Vô Trước. Đại Nguyên Thái Tổ hoàng đế. Giảng sư Bắc Phong Tông Ấn người Thiên Trúc. Hiến Tông. Đại sư Hải Vân Ấn Giản ở Khánh Thọ. Thế Tổ . Vua bái phong Lưu Bỉnh Trung chức Thái bảo Tham Lãnh Trung Thư Tỉnh Sự. Bài tựa nói về Đế sư thuyết Yết-ma Nghi Quỹ. Văn bia nói về Lưu Thái Bảo Thần Đạo. Vua có chiếu ban Lưu Thái Bảo thụy là Văn Trinh. Hành trạng của Đế sư Phát Tư Bát. Thánh chỉ cho Tăng Đạo biện luận. Văn bia nói về việc đốt các Tạng kinh trái đạo ở các châu huyện. Bài tựa trong biện ngụy Lục Tùy Hàm. Mười bốn chương trong Biện Ngụy Lục. (1=> 8) <藥> QUYỂN 22 Thế Tổ. Biện Ngụy Lục. (9=> 1 4) Vua xuống chiếu cấm những phẩm kinh trong đạo Tạng. Đốt Tạng kinh của Đạo giáo. Những vị Tăng Đạo trì luận. Giang Nam Thiền Giáo Đăng Đối Lục. Thiền sư Vân Phong Diệu Cao ở Kính sơn. Thế Tổ hoằng truyền giáo pháp (Một trăm đoạn) Thành Tông. Quốc sư Chân Giác Văn Tài ở Ngũ Đài. Đảm Ba Kim Cang Thượng sư. Vũ Tông. Vua ban sắc lệnh soạn bài ký nói về Lâm Tế Chánh Tông. Văn bia nói về Khất Đài Tát Lý. Thiền sư Hoa Nghiêm Chí Ôn ở Thượng Đô. Luận về việc cách bãi Tăng Đạo nha môn. Nhân Tông. Tam tạng Pháp sư Sa La Ba. Luận sư Phổ Giác Anh Biện ở Tần Châu. Bài ký nói về vua ban sắc lệnh dựng Thụy tượng Điện. Chiếu nói về Gia Phong hiệu cho Thiền sư Phổ Am. Giảng sư Đức Khiêm ở Sùng Ân kinh đô. Luật sư Phổ Khánh Pháp Văn ở kinh thành. Tam tạng Quốc sư Đạt Ích Ba. Giảng Sư Bảo tập Diệu Văn ở Kinh sư. Anh Tông. Văn bia nói về chiếu của vua cho các châu huyện kiến lập điện thờ Đế sư. Giảng sư Phổ Minh Liễu Tánh ở Ngũ Đài . Giảng sư Phổ An Bảo Nghiêm ở Ngọc Sơn. Quốc sư Thiên Mục Trung Phong Minh Bản. Tỳ-kheo ni Xá Lam Lam ở chùa Diệu Thiện, Đại Đô. Luật sư Đại Đức Tuệ Văn ở Lâm Đàn.  PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI <卷>QUYỂN 1 Trụ trì Đại Trung Tường Phù Thiền tự, Gia Hưng lộ [hiệu Hoa Đình Niệm Thường soạn. Có kệ của bảy Phật: Đức Phật Tỳ-bà-thi: (Đức Phật thứ chín trăm chín mươi tám của Quá khứ Trang Nghiêm kiếp) Có kệ : Thân từ trong vô tướng thọ sinh Giống như huyễn tạo các tượng hình Tâm thức người huyễn xưa nay chẳng Tội phước đều không không chỗ nương. Trong kinh Trường A-hàm chép: Khi con người sống thọ tám vạn tuổi thì Đức Phật này xuất thế. Ngài họ Câu-lợi-nhã, thuộc dòng Sát- lợi, cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu-bà-đề, ở tại thành Bàn-đầu-bà-đề, ngồi dưới cây Bà-la thuyết pháp. Trong ba hội độ được ba mươi bốn vạn tám ngàn người. Thần túc có hai vị là Kiền-trà và Đề-xá. Thị giả là Vô Ưu, con là Phòng Ưng. Đức Phật Thi-khí (Đức Phật thứ chín trăm chín mươi chín trong Quá khứ Trang Nghiêm kiếp) Có kệ. Khởi các thiện pháp vốn là huyễn Tạo các ác nghiệp cũng là huyễn Thân như bọt tụ, tâm như gió Huyễn tạo không căn, không thật tánh. Kinh Trường A-hàm chép: Khi con người sống thọ bảy vạn tuổi ( 7 0. 000) thì Đức Phật này xuất thế. Ngài họ Câu-lợi-nhã, thuộc dòng dõi Sát-lợi, cha là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu, ở tại thành Quang tướng, ngồi dưới cây Phân-đà-lợi thuyết pháp. Trong ba hội, độ được hai mươi lăm vạn người. Thần túc có hai vị là A-tỳ-phù và Bà-bà. Thị giả là Nhẫn Hạnh, con là Vô Lượng. Đức Phật Tỳ-xá-phù (Đức Phật thứ một ngàn trong Quá khứ Trang Nghiêm kiếp Có kệ : Vay mượn bốn đại để làm thân Tâm vốn không sinh sinh do cảnh Cảnh trước nếu không, tâm cũng không Tội phước như huyễn khởi cũng diệt. Kinh trường A-hàm chép: Khi con người sống thọ sáu vạn tuổi ( 6 0. 000) thì Đức Phật này ra đời. Ngài Họ Câu-lợi-nhã, thuộc dòng Sát- lợi, cha là Thiện Đăng, mẹ là Xứng Giới, ở tại thành Vô dụ, ngồi dưới cây Bác-lạc-xoa thuyết pháp. Trong hai hội độ được mười ba vạn người. Thần túc có hai vị là Phù-du và Uất-đa-ma. Thị giả là Tịch Diệt, con là Diệu Giác. Đức Phật Câu-lưu-tôn (Đức Phật đầu tiên trong Hiền kiếp) Có kệ: Thấy thân không thật là Phật thân Biết tâm như huyễn là Phật huyễn Thấu được thân tâm vốn tánh không Người này cũng Phật đâu sai khác. Kinh Trường A-hàm chép: Khi con người sống thọ bốn vạn tuổi ( 4 0. 000) thì Đức Phật này xuất thế. Ngài họ là Ca-diếp, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, cha là Lễ Đức, mẹ là Thiện Chi. Ở tại thành An hòa, ngồi dưới cây Thi-lợi-sa thuyết pháp. Trong một hội độ được bốn vạn người. Thần túc có hai vị là Tát-ni và Tỳ-lâu. Thị giả là Thiện Giác, con là Thượng Thắng. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (Đức Phật thứ hai trong Hiền kiếp) Có kệ : Phật chẳng thấy Phật biết là Phật Nếu thật biết rằng không Phật khác Người trí hay biết tội tánh không Thản nhiên chẳng sợ gì sinh tử. Kinh Trường A-hàm chép: Khi con người sống thọ ba vạn tuổi thì Đức Phật này xuất thế. Ngài họ là Ca-diếp, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, cha là Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng, ở tại thành Thanh Tịnh , ngồi dưới cây Ưu-đàm-bà-la thuyết pháp. Trong một hội độ được Ba vạn người. Thần túc có hai vị là Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu. Thị giả là An Hòa, con là Đạo Sư. Đức Phật Ca-diếp (Đức Phật thứ ba trong Hiền kiếp) Có kệ : Tất cả chúng sinh tánh Thanh Tịnh Vốn từ vô sinh nên không diệt Tức thân tâm này là huyễn sinh Ngay trong huyễn hóa không tội phước. Kinh Trường A-hàm chép: Khi con người sống thọ hai vạn tuổi thì Đức Phật này xuất thế. Ngài họ là Ca-diếp, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ, ở tại thành Ba-la-nại, ngồi dưới cây Ni-câu-loại thuyết pháp. Trong một hội độ được hai vạn người. Thần túc có hai vị là Đề-xá và Bà-la-bà. Thị giả là Thiện Hữu, con là Tiến Quân. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Đức Phật thứ tư trong Hiền kiếp) Có kệ : Pháp vốn là pháp là vô pháp Pháp vô pháp thảy đều là pháp Ngày nay trao phó vô pháp này Pháp pháp đâu từng chỉ là pháp. Ngài thuộc dòng dõi Sát-lợi, cha là Tịnh Phạn Thiên, mẹ là Đại Thanh Tịnh , ở tại thành Xá-vệ, ngồi dưới cây Bồ-đề thuyết pháp. Trong một hội độ được một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, độ người vô lượng. Thần túc có hai vị là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Thị giả là A-nan, con là La-hầu-la. Phật xưa ứng thế nối nhau không cùng, đâu thể đếm biết hết số lượng được. Thế Tôn từng nói: Ta dùng sức tri kiến của Như Lai xem nhiều kiếp lâu xa ấy giống như ngày nay. Thế nên căn cứ trong kinh Phật Danh, thì ghi đủ một ngàn Đức Phật trong hai kiếp quá khứ và hiện tại. Đến Đức Thích-ca thì nêu tiêu biểu bảy vị mà thôi. Kinh A-hàm chép: Sức tinh tấn bảy Phật Phóng quang diệt ám tối Mỗi vị ngồi đạo tràng Thành tựu quả Chánh giác. Người phiên dịch Có kệ của Phật, Tổ chính là cao Tăng Vân Khải Nhất Đồng, Tam tạng Na-liên-da-xá người Thiên Trúc, phiên dịch tại nước Quy Tư. Việc này có ghi lại trong niên hiệu Lương Đại Đồng thứ sáu (5 4 0). Đại Nguyên, Đế sư Phát Hợp Tư Ba thuyết: Chương Sở Tri Luận. (Tuyên Thọ Giang Hoài Phước Kiến Đẳng Xứ Thích Giáo Tổng Thống Pháp Tánh, Tam tạng hoằng giáo Phật Trí Đại sư Sa-la-ba dịch). Phẩm Khí Thế giới: Thể do Khí thế giới tạo thành tức là vô số những thứ mà tứ đại hình thành nên. Vì vậy đất thì cứng, nước thì ướt, lửa thì nóng, gió thì động. Đại chủng ấy nếu vô cùng nhỏ nhiệm thì gọi là cực vi trần hay Lân hư trần. Thể trạng của nó không thể nào chia chẻ được nữa. Bảy Lân hư như vậy là một cực vi. Bảy cực vi là một vi trần. Bảy vi trần là một Thấu kim trần. Bảy Thấu kim trần là một Thấu thủy trần. Bảy Thấu thủy trần là một Thố mao trần (bụi bằng đầu lông thỏ). Bảy thố mao trần là một Dương mao trần (bụi bằng đầu lông dê). Bảy Dương mao trần là một Ngưu mao trần (bụi bằng đầu lông trâu). Bảy Ngưu mao trần là một Du khích trần (bụi chui qua kẻ hở). Bảy Du khích trần là một Kỷ lượng (con rận con). Bảy Kỷ lượng là một Sắt lượng (con chấy, con rận). Bảy Sắt lượng là một mạch lượng (bụi bằng hạt lúa). Bảy mạch lượng là một đốt ngón tay. Ba đốt là một ngón tay. Hai mươi bốn ngón tay đo ngang là một khuỷu tay. Bốn khuỷu tay là một cung. Năm trăm cung là một câu-lô-xá. Tám câu-lô-xá là một do-tuần. Đó là độ lượng thân tướng của thế giới . Nguyên nhân hình thành thế giới là do cộng nghiệp của tất cả hữu tình chiêu cảm nên. Vậy thế nào gọi là thành? Đó là gió từ mười phương trong hư không nổi lên xô xát nhau hình thành một lớp cứng chắc bất động là Diệu phong luân. Nó có màu xanh, trắng vô cùng cứng chắc, dày mười sáu Lạc-xoa do-tuần, rộng thì vô số. Nhờ hơi nóng nên sinh ra mây và gọi đó là Kim tạng. Mây tuôn mưa lớn, nương gió mà trụ, và gọi là đáy biển. Nó dày mười một lạc-xoa ba vạn do-tuần, rộng mười hai lạc-xoa ba ngàn bốn trăm năm mươi do-tuần. Nước từ đáy biển đẩy lên phía trên kết thành vàng, giống như sữa chín đóng một lớp mô trên bề mặt. Đây gọi là Kim địa luân. Thế nên thủy luân mỏng hơn, chỉ dày có tám lạc-xoa, phần còn lại đều chuyển thành vàng, dày ba lạc-xoa hai vạn do-tuần. Kim luân rộng ngang bằng Thủy luân. Chu vi của nó thành ba lần như vậy, tổng cộng gồm ba mươi sáu lạc-xoa, Một vạn ba trăm năm mươi do-tuần. Nó ở trên lớp phong luân của đáy thế giới Ta-bà. Địa luân Thủy luân ở dưới đáy của tứ châu. Trên lớp Địa luân lại do mưa lớn nên thành ra biển lớn. Chúng bị gió, đánh bạt cả ra những phần tinh diệu kết tụ lại thành Diệu Cao sơn, những phần kế đó kết tụ lại thành bảy núi vàng, những phần dưới nữa kết tụ lại thành Luân vi sơn. Những phần tạp khác kết tụ thành tứ châu… Thể của Diệu Cao sơn, phía Đông có bạc, phía Nam có lưu ly, phía Tây có pha lê, phía Bắc có vàng kết tụ lại với nhau làm thành. Còn bảy núi vàng, tứ châu v.v… do những phần tạp tạo thành. Riêng Luân vi sơn chỉ có sắt làm thành. Thân lượng của Diệu Cao sơn chìm sâu trong nước đến tám vạn du-thiện-na. So với những núi khác nó cao hơn cả, nên gọi là Diệu Cao . Sau đó là đến thứ lớp của bảy núi vàng: Du-càn-đà-la: Cao bốn vạn do-tuần ( 4 0. 000) Y-sa-đà-la: Cao hai vạn do-tuần. ( 2 0. 000) Khư-đắc-la-kha: Cao một vạn do-tuần. ( 1 0. 000) Tu-đằng-sa-la: Cao năm ngàn do-tuần. ( 5. 000) A-thâu-cát-na: Cao hai ngàn Năm trăm do-tuần. ( 2. 500) Tỳ-ni-đát-ca-na: Cao một ngàn hai trăm năm mươi do-tuần. ( 1. 250) Ni-dân-đà-la: Cao sáu trăm hai mươi lăm do-tuần. (6 2 5) (Trong Tạng luận sớ thì nói: 1.Trì song sơn; 2.Trì trục sơn; 3. Diêm mộc sơn; 4.Thiện kiến sơn; 5.Mã nhó sơn; 6.Tượng tî sơn; 7. Ngư chủng sơn.) Bên ngoài bốn đại châu có Luân vi sơn. Núi này cao hai trăm mười hai (212, 5) do-tuần. Những núi ấy phần ăn sâu trong nước và phần nhô khỏi mặt nước bằng nhau. Khoảng giữa bảy núi vàng là nơi mà các Long Vương dạo chơi, nên gọi đây là Hý hải. Giữa tám núi có bảy biển rất gần với núi Diệu Cao là: Biển Du-càn-đà-la: Rộng tám mươi ngàn do-tuần. Biển Y-sa-đà-la: Rộng bốn mươi ngàn do-tuần. Biển Khư-đắc-la-kha: Rộng hai mươi ngàn do-tuần. Biển Tu-đằng-sa-la: Rộng mười ngàn do-tuần. Biển A-thâu-cát-na: Rộng năm ngàn do-tuần. Biển Tỳ-ni-đát-ca-na: Rộng hai ngàn năm trăm do-tuần. Biển Ni-dân-đà-la: Rộng một ngàn hai trăm năm mươi do-tuần. Trong biển chứa đầy nước tám công đức. Tám núi bảy biển đều có hình vuông. Biển bên ngoài có vị mặn. Từ Ni-dân-đà-la lên đến Luân vi sơn, hai núi này cách nhau ba lạc-xoa, hai mươi hai ngàn do-tuần. Biển bên ngoài tuy nước không phân giới hạn, nhưng do màu sắc của Núi Diệu Cao , nên biển phía Đông có màu trắng, biển phía Nam có màu xanh, biển phía Tây có màu hồng, biển phía Bắc có màu vàng, do đó mà gọi là tứ hải. Chu vi của nó rộng đến ba mươi sáu lạc-xoa bảy trăm năm mươi do-tuần. Bên ngoài có Luân vi sơn, chu vi rộng ba mươi sáu lạc-xoa hai ngàn sáu trăm hai mươi lăm do-tuần. Bên ngoài biển này là Nam Thiệm-bộ châu. Hình dáng của hai châu này như hai mái xe hẹp dần lên và cách núi Thiết vi ba do-tuần (3, 5). Ba mặt còn lại, mỗi mặt cao hai ngàn do-tuần, chu vi rộng sáu ngàn ba trăm năm mươi do- tuần. Có hai Trung châu là Đông Giá-ma-la (Hán dịch là Miêu Ngưu) và Tây Bà-la-ma-la (Hán dịch là Thắng Miêu Ngưu). Chính giữa Nam Thiệm-bộ châu là nước Ma-kiệt-đà. Đây là nơi đản sinh của ba đời chư Phật. Kế đến, từ đó đi thẳng qua hướng bắc qua khỏi chín ngọn Hắc sơn có một núi Tuyết lớn, tên là Cụ kiết tường. Phía Bắc núi này có núi Hương túy. Giữa hai núi này có vị đại Long Vương tên là Vô Nhiệt. Ao mà Long Vương này cư ngụ tên là A-nậu-đạt (Hán dịch là Vô Nhiệt). Hình dáng ao này bốn mặt đều vuông, mỗi mặt dài năm mươi do-tuần, chu vi rộng hai trăm do-tuần. Trong ao chứa đầy nước tám công đức. Từ trong ao này lưu xuất ra bốn con sông lớn. Phía Đông là sông Khắc- già. Sông này từ miệng voi lưu xuất cát bạc tổng cộng có năm trăm sông ngòi đổ về biển Đông. Phía Nam là sông Tân độ, từ miệng trâu lưu xuất cát bằng lưu ly, tổng cộng có năm trăm sông ngòi đổ về biển Nam. Phía Tây là sông Phược sô, từ trong miệng ngựa lưu xuất ra cát như pha lê, tổng cộng có năm trăm sông ngòi đổ về biển Tây. Phía Bắc là sông Tất đát, từ miệng Sư tử lưu xuất ra cát vàng, tổng cộng có năm trăm sông ngòi đổ về biển Bắc. Bốn sông lớn ấy từ trong ao Vô nhiệt xoay vòng qua phải bảy vòng theo hướng mà lưu chuyển. Từ Hương sơn đi thẳng về hướng Bắc hai mươi do-tuần, ở đó có nham thạch tên là Nan-đà. Bề mặt nham thạch mỗi mặt rộng năm mươi do-tuần, chu vi là hai trăm do-tuần, cao ba do-tuần. Lại có tám ngàn tiểu nham thạch khác. Cách nham thạch này hai mươi do-tuần về hướng Bắc có cây Sa- la Thọ Vương tên là Thiên trụ. Rễ của nó ăn sâu trong đất đến bốn mươi Cung lượng, cao tám mươi Cung lượng, có bảy hàng cây làm lưới bao bọc chung quanh. Cách hai mươi do-tuần về phía Đông có ao Hoãn lưu. Hình dáng của nó hình tròn, rộng năm mươi do-tuần, chu vi là một trăm năm mươi do-tuần. Lại có tám ngàn ao nhỏ khác, ao chứa đầy nước tám công đức, trong đó lại có hoa sen. Lá sen giống như da trâu, thân sen như ống cuốn tròn, hoa lớn tựa bánh xe, vị của hoa ngọt như mật. Ở đó lại có Đế Thích thường lâm chiến. Người cỡi Tượng Vương tên là Thiện trụ, có tám ngàn tượng Vương. Bốn tháng lạnh ở tại Kim nham, bốn tháng nóng ở tại Thiện trụ, bốn tháng mưa ở tại ao Hoãn lưu. Bên cạnh ao Vô nhiệt có cây Thiệm-bộ, trái lớn như cái vò, mùi vị rất ngon ngọt. Khi chín rơi xuống nước phát ra âm thanh Thiệm-bộ, loài rồng biến thành cá ăn những trái này. Những trái héo, trôi theo dòng nước chuyển thành vàng Thiệm-bộ. Do đó tên cây cây này xưa gọi là Thiệm-bộ. Phía Tây của châu này có nước Ô Điền, Đại Kim Cang Cung Trì Chủng ở đó. Pháp Kim Cang Thừa được truyền từ đây. Trong biển Nam có núi tên là Trì Thuyền, Bồ-tát Quán Thế Âm ở trên đỉnh của núi này, Thánh Đa-la Mẫu ở tại chân núi. Phía Đông có Ngũ phong. Bồ-tát Văn-thù ở tại đó. Ở đó còn có mười sáu nước lớn và hơn một ngàn nước nhỏ. Lại có ba trăm sáu mươi chủng loại người, bảy trăm hai mươi loại dị âm. Ở bên ngoài cùng về phía Đông có một châu tên là Thắng thân, hình dáng của châu này giống như nửa mặt trăng. Bề mặt đối diện với núi Diệu Cao rộng ba trăm năm mươi do-tuần, các mặt còn lại rộng sáu mươi do-tuần. Chu vi của nó là sáu ngàn ba trăm năm mươi do-tuần. Hai bên châu này có hai Trung châu là Bắc Đề-ha (Hán dịch là Thân) và Nam Tỳ-đề-ha (Hán dịch là Thắng Thân). Ba châu đó hơn các châu khác bằng bảy cây Đa-la. Có thuyết cho rằng, con người ở đây tướng mạo rất đoan nghiêm, thân tướng rất thù thắng nên gọi là Thắng thân. Ở biển ngoài cùng về phía Bắc có một châu tên là Cưu-lâu, hình dáng châu này có bốn góc, hơi nghiêng. Mỗi mặt rộng hai ngàn do-tuần, chu vi là tám ngàn do-tuần. Hai bên châu này có hai Trung châu, một châu tên là Cưu-lâu (Hán dịch là Hữu Thắng), một châu tên là Cao-la-sa (Hán dịch là Hữu Thắng Biên). Sự thọ dụng của người trong các châu này từ cây Như ý lưu xuất ra. Trước khi họ chết bảy ngày, cây Như ý phát ra âm thanh rất buồn, báo trước rằng trong bảy ngày nữa thì họ chết. Có thuyết cho rằng người trong châu này lưỡi của họ phát ra Quỷ âm, cắn đứt thịt để ăn, nên gọi là Cưu-lâu. Đó là những âm thanh không hay ho gì. Ở bên ngoài cùng về phía Tây có một châu tên là Ngưu Hóa. Hình dáng của nó giống như mặt trăng tròn đầy, dài hai ngàn năm trăm do- tuần, chu vi bảy ngàn năm trăm do-tuần. Hai bên có hai Trung châu là Nam Xá-hô (Hán dịch là Cụ Xiểm) và Bắc Ôn-đát-la Mạn-đát-rị-noa (Hán dịch là Nghi Thượng). Người trong các châu này hầu hết dùng trâu quý để trao đổi buốn bán, nên gọi là Ngưu hóa, núi, biển v.v… của châu này đều hướng xuống dưới, đều dài tám mươi ngàn do-tuần. Nó ở gần phần đất vàng nên gọi gần Nam Thiệm-bộ châu. Tinh cát tức châu, Kim châu, Nguyệt châu v.v…đều thuộc Thiệm-bộ châu. Các đại châu khác, tiểu châu cũng như vậy. Cách châu này bốn mươi ngàn do-tuần trên không trung, thì hoàn toàn sạch sẽ, không ngăn ngại. Đây được gọi là Thắng kiên phong luân. Nó xoay vần qua bên phải. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú, không cư thiên v.v… đều nương lớp phong luân này mà trụ. Mặt trời: Do Hỏa châu hình thành, đường kính năm mươi mốt do-tuần, chu vi một trăm năm mươi ba do-tuần, dày sáu do-tuần mười tám phân. Phía trên có viền vàng. Trên lại có vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.v… đan kết thành bốn phía. Cung điện Sở cư của Nhật Thiên tử vận hành nhờ gió. Một ngày một đêm mặt trời xoay vần khắp bốn đại châu. Khi mặt trời xoay sang hướng Bắc thì ngày dài hơn, khi xoay vần qua Nam thì ngày ngắn hơn. Trong lúc xoay vần Nam bắc như vậy phân định thành ngày đêm. Những nơi nó ngang qua, do có tiếp nhận ánh sáng nên có nóng lạnh, đó là mùa đông, mùa hạ. Nó vận hành qua Bắc sáu tháng, vận hành sang Nam sáu tháng. Vận hành đến ngay giữa thì gọi mặt trời, mặt trăng xoay vòng trở lại. Quay giáp một vòng thì gọi là một năm. Mặt Trăng: Do Thủy châu hình thành, đường kính năm chục do-tuần, chu vi một trăm năm chục do-tuần, dày sáu do-tuần mười tám phân. Phía trên lại có vàng, bạc, lưu ly, pha lê… đan kết thành bốn hướng, là cung điện mà Nguyệt Thiên tử… cư trú. Mặt trời, mặt trăng cách nhau xa hay gần thì bóng của nó giảm hay Tăng . Do Tăng một phần thì một nửa phía trên đủ cả mười lăm phần và gọi là trăng tròn, do giảm một phần thì nửa phần dưới bị che khuất cả mười lăm phần nên gọi là trăng khuyết. Do Tăng giảm nên gọi là Túc không, do một ngày đêm nên gọi là Túc địa. Như vậy ba mươi ngày thì gọi là một tháng. Các Vì Sao: Các vì sao do các thứ báu trong cung của Không Cư thiên hình thành nên. Hình dáng của nó đều tròn. Sao nhỏ nhất bằng một giọt sữa bò, sao hạng trung bằng ba giọt sữa bò, và sao lớn nhất bằng sáu giọt sữa bò. Chu vi của nó gấp ba lần, nối liền với Tứ Vương Chúng. <詞> 6. Núi Diệu Cao: Núi Diệu Cao có bốn tầng. Từ mặt nước lên đến mười ngàn do- tuần là tầng đầu tiên. Tầng này từ núi Diệu Cao nhô ra mười sáu ngàn do-tuần. Lên đến mười ngàn do-tuần nữa là tầng thứ hai, tầng này nhô ra tám ngàn do-tuần. Lên đến mười ngàn do-tuần nữa là tầng thứ ba, tầng này nhô ra bốn ngàn do-tuần. Lên đến mười ngàn do-tuần nữa là tầng thứ tư, tầng này nhô ra hai ngàn do-tuần. Đỉnh của Diệu Cao này có bốn góc, mỗi góc có một ngọn núi cao bốn do-tuần, rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần, chu vi là năm trăm do-tuần. Thần Dược-xoa ở ngay trong đó. Trên đỉnh Diệu Cao là cõi trời thứ ba mươi ba. Thành ở ngay chính giữa tên là Thiện kiến. Thành này toàn do vàng làm thành, một do-tuần , mỗi mặt rộng hai ngàn năm trăm do-tuần, chu vi là mười ngàn do-tuần. Thể chất của thành bằng vàng, lại dùng đủ cả trăm thứ vật quý khác trang sức. Đất trong thành mịn màng như vải lục Đâu-la. Bốn mặt thành đều có mười sáu ngàn trụ báu, xà báu, đòn tay báu, mái che báu. Bốn mặt có bốn cửa, lại có một ngàn lầu nhỏ, mỗi lầu có một cửa nhỏ. Bốn ngả đường lớn có các đường nhỏ. Bên cạnh bốn cửa thành, năm trăm Thiên tử đều mặc giáp cứng giữ cửa thành. Trong thành có cung điện của Đế Thích tên là Tối Thắng Xứ, hay còn gọi là Thù thắng điện. Hình trạng của cung, bốn mặt vuông vức cao bốn trăm năm mươi do-tuần, mỗi mặt rộng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi là một ngàn do-tuần. Có một trăm lẻ một lầu trong cung điện. Mỗi một lầu lại có bảy lầu báu, mỗi một lầu báu có bảy lầu nhỏ. Mỗi một lầu nhỏ có bảy ao đầm, mỗi một ao đầm có bảy ao sen. Trên mỗi hoa sen có bảy đồng nam đồng nữ tấu vô số âm nhạc ca múa làm vui. Phía Đông của thành Thiện kiến là nơi để xe ngựa, còn gọi là vườn Chúng Xa, cao một ngàn do-tuần, phía Nam là nơi Lâm chiến được gọi là vườn Thô ác Phía Tây là nơi để đi lại được gọi là vườnTương Tạp Phía Bắc là nơi dạo chơi được gọi là vườn Hoan Hỷ. Những vườn này ngang rộng bằng thành trước. Phía ngoài những khu vườn này khoảng hai mươi do-tuần có một nơi tên là Thiện Địa, được gọi là Chúng Xa Thô Ác Tương Tạp Hoan Hỷ. Chu vi bằng những vườn kia. Phía Đông bắc của thành Thiện Kiến có cây Như ý tên là Ba-lợi-xà-đa, hay còn gọi là cây Viên Sinh. Rễ ăn sâu trong đất năm mươi do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành nhánh tỏa rộng năm mươi do-tuần. Nó hay lưu xuất các loại dục lạc. Bên dưới có một bàn đá tên là A-lật-ma-lệ-ca, màu sắc trắng như lông cừu, mặt bàn rộng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần. Phía Tây nam thành Thiện kiến là nơi chư Thiên tụ hội, tên là Thiện pháp đường, rộng chín trăm do-tuần. Thiện Pháp đường có hình tròn, ngay chính giữa pháp đường là tòa của Đế Thích. Tòa này toàn do vàng làm thành. Chu vi của tòa có ba mươi hai chỗ ngồi của phụ thần, được bày biện xung quanh. Cõi trời thứ Ba Mươi Ba cao tám mươi ngàn do-tuần, ở trong hư không, nương gió mà trụ. Cõi này đều do những món báu làm thành. Ly Tránh: Thân lượng của cung này gấp hai lần đỉnh núi Diệu Cao, cao đến một trăm sáu mươi ngàn do-tuần, ở trong hư không nương gió mà trụ, do các món báu làm thành. Đâu-suất: Kích thước bằng Ly Tránh , ngang rộng gấp hai lần, cao đến ba lạc-xoa, hai vạn do-tuần, ở trong hư không nương gió mà trụ, do các món báu làm thành. Hóa Lạc: Kích thước bằng Đâu-suất, ngang rộng gấp hai lần, cao đến sáu lạc-xoa bốn vạn do-tuần. Ở trong hư không nương gió mà trụ, do các món báu làm thành. Tha Hóa Tự Tại thiên cung: Kích thước bằng Hóa Lạc, ngang rộng gấp hai lần. Đây là Dục giới, phía trên có Sơ thiền. Như vậy: Bốn châu, bảy núi, Diệu Cao , Luân vi, Lục thiên của Dục giới và Sơ thiền… là một Tứ thiên hạ. Một ngàn Tứ thiên hạ là một Tiểu thiên giới, có một Tiểu thiết vi bao bọc xung quanh. Một ngàn Tiểu thiên giới như vậy là một Trung thiên giới, có một Trung thiết vi sơn bao bọc. Một ngàn trung thiên giới như vậy là tam thiên đại thiên thế giới, có một Đại thiết vi sơn bao bọc chung quanh. Như vậy có tất cả trăm ức Tứ thiên hạ rải rác khắp cả. Giữa các núi như Thiết vi… là nơi tăm tối, không có ngày đêm, ngửa tay trước mặt còn không thấy. Sơ thiền thiên: Kích thước bằng Tứ thiên hạ. Nhị thiền thiên: Lích thước bằng Tiểu thiên giới. Tam thiền thiên: Kích thước bằng Trung thiên giới. Tứ thiền thiên: Kích thước bằng tam thiên đại thiên thế giới . Vô sắc giới: Không có xứ sở riêng biệt. Vậy nếu người sinh lên đây thì mệnh chung ở đâu? Đó là trụ trong Vô sắc định ở ngay trong xứ ấy. Thế nên gọi là Vô sắc. 7. Phẩm Tình Thế giới: Tình thế giới tổng cộng có sáu loại: Địa ngục. Ngạ quỷ. Bàng sinh. Người. Phi thiên. Trời. Tên gọi và ý nghóa của sáu loại này như thế nào? Đó là: Chặt róc thân thể tay chân nên gọi là Địa ngục. Đói khát bức bách nên gọi là ngạ quỷ. Loài đi bụng nằm ngang nên gọi là bàng sinh. Tâm ý quá nhiều phân biệt, nên gọi là Người (Đây là ý nghóa của Ma-nâu-sa). Thân và sự thọ dụng giống như trời, nhưng nhỏ liệt, kém cõi, thô xấu hơn, hoặc do không có rượu, nên gọi là Phi thiên (Đây là nghóa của A-tu-la). Từ thân Phạm thiên sinh ra, chỉ dạo chơi làm vui, hoặc đáng được cúng dường, nên gọi là Trời (Đây là nghóa của Đề-bà). - Địa ngục: Từ Thiệm-bộ châu xuống sâu hai mươi ngàn do-tuần, thành quách bốn bên rộng hai mươi ngàn do-tuần, thành toàn bằng sắt, lửa cháy hừng hực. Có tám địa ngục nóng: Địa ngục Cánh hoạt: Loài hữu tình sinh ở đây, do nghiệp lực đã tác tạo từ trước chiêu cảm quả báo, oán ghét nổi lên, cầm các thứ khí cụ, xáp vô chặt bửa thân mình đứt thành muôn đoạn, ngất đi tạm chết. Ngay trong âm cảnh ấy nghe âm thanh liền sống trở lại và tiếp tục chém giết nhau. Một đời của họ bằng một ngày một đêm ở Tứ thiên Vương thiên, như vậy tính ra họ phải trải qua năm trăm năm để chịu sự thống khổ đó. Địa ngục Hắc Thằng: Ngục tốt của ngục này lấy dây đen quấn chặt thân hữu tình từ đầu đến chân, dùng cưa lửa cưa nát thân thể tay chân hữu tình. Do nghiệp lực đã tạo chiêu cảm, nên thân nát ấy lại sống trở lại. Một đời của họ bằng một ngày đêm trên Đao-lợi thiên, như vậy tính ra họ phải trải qua một ngàn năm để chịu sự khổ sở ấy. Địa ngục Chúng Hợp: Hữu tình sinh ở đây, ngục tốt dùng hai trái chùy bằng sắt đánh, hoặc dùng hai trái núi bằng sắt như đầu con dê, hai núi này xô ép lại nghiền nát thân thể hữu tình, khi hai trái núi giãn ra, liền tự nhiên có lửa nổi lên thiêu đốt. Cứ thế lại tiếp tục nghiền ép đến nát thân. Một đời của họ bằng một ngày đêm trên Ly Tránh thiên, như vậy tính ra họ phải trải qua hai ngàn năm để chịu khổ báo. Điïa ngục Hào khiếu (Kêu gào): Hữu tình sinh sang đây, do sợ ao sắt nóng nên chạy vào trong rừng rậm, bị lửa cháy bừng bừng nổi lên thiêu đốt mãi cả năm như vậy. Nhưng do nghiệp lực trong đời trước, lưỡi của họ dài rộng đến một ngàn do-tuần, có một con trâu lớn sừng sắt, móng sắt, kéo cày bằng sắt, lửa cháy đỏ rực, cày bừa trên lưỡi. Một đời của họ bằng một ngày đêm trên Đâu-suất thiên. Như vậy tính ra họ phải trải qua bốn ngàn năm để chịu khổ báo. Địa ngục Đại hào khiếu: Cũng như trong ngục trước nhưng sự thống khổ gấp bội lần. Thọ mạng của họ một đời bằng một ngày đêm trên cõi Hóa lạc thiên. Như vậy tính ra họ phải trải qua tám ngàn năm để chịu khổ sở. Địa ngục Viêm Nhiệt (Nóng bức): Thành ngục bằng sắt dày ba lớp, lửa cháy ngùn ngụt, tội nhân ở trong ấy gánh chịu khổ báo. Một đời của họ bằng một ngày đêm trên cõi Tha Hóa Tự Tại. Như vậy tính ra họ phải trải qua mười sáu ngàn năm để chịu quả khổ. Địa ngục Cực Viêm Nhiệt: Giống như ở ngục trên nhưng sự thống khổ gấp bội lần. Họ phải trải qua nửa Trung kiếp để chịu khổ báo ở đây. Địa ngục Vô Gián: Thân trong ngục sắt này bị một đám lửa lớn thiêu đốt, khổ sở vô cùng. Họ phải trải qua một Trung kiếp để chịu khổ báo ở đây. Mười sáu Ngục Tăng: Bên cạnh tám ngục nóng lại có bốn sở ngục nữa là: Đường Ổi Tăng (Than nướng): Sâu lút đầu gối, hữu tình thác sinh ở đây, vừa mới bước chân xuống thì da, thịt, máu, mỡ đều cháy tiêu hết cả, chỉ còn lại bộ xương. Nhấc chân lên thì da thịt bình phục như cũ. Hộ Phẩn Tăng (Nhà xí): Các thứ bất tịnh cao đến lưng của tội nhân. Trong ấy có vô số côn trùng đeo bám cắn rỉa. Miệng của nó bén như kim, châm vào da thịt tội nhân thấu đến tận xương tủy để rỉa cắn thân thể tội nhân. Phong Đao Tăng (Núi dao): Lại có ba ngục: Đao nhận lộ: Trong ngục này dùng dao nhọn chỉa ngược lên làm đường đi. Tội nhân sinh sang đây vừa mới đặt chân xuống thì da, thịt, máu, mủ đều bị nát nhừ, nhấc chân lên thì lại bình phục như cũ. Kiếm Diệp Lâm : Trong rừng cây này, là cây toàn là dao kiếm bén nhọn. Tội nhân thác sinh ở đây, bị gió thổi lá cây ấy rơi xuống chém nát thân thể, xương thịt rã rời. Lại có quạ chó đến tranh nhau ăn thịt. Thiết Thích Lâm (Còn gọi là Tiêm-ma-lợi): Trong rừng cây này có những dùi sắt bén nhọn dài mười sáu ngón tay. Lúc tội nhân bị ép phải leo lên leo xuống, dùi sắt bén nhọn ấy đâm từ dưới lên, chích từ trên xuống. Cứ như vậy da thịt, máu mủ của họ treo đầy trên đầu dùi sắt nhọn, chỉ còn trơ lại gân xương. Lại có loài chim mỏ sắt bay đến mổ mắt, óc, não tội nhân, chúng tranh nhau giành thịt mà ăn. Ba loại ngục trên tuy khác nhau, nhưng cùng dùng khí cụ bằng sắt, nên nó chỉ là thuộc trong một ngục. Liệt Hà Tăng (Sông sôi): Còn gọi là Vô độ: Trong sông chứa đầy nước nóng bỏng vô cùng, tội nhân ở trong ấy khi bị chìm, lúc bị nổi, hoặc trôi xuôi dòng, hoặc trôi ngược dòng hoặc trôi ngang hoặc trôi dọc, bị nấu bị luộc, xương thịt nát nhừ. Chẳng khác nào trong chảo lớn chứa đầy nước tro rồi đổ thóc gạo vào đó. Dù ngọn lửa đã tắt nhưng hạt gạo cứ theo dòng xoáy của nước mà trôi mãi cho đến nát nhừ. Tội nhân cũng bị như vậy. Giả sử muốn chạy trốn, thì hai bên bờ đã có ngục tốt, tay cầm dao thương cản đường buộc phải quay lại, nên không bao giờ thoát được. Sông này như cái hào, ba ngục trước giống như khu vườn. Những ngục này gọi là Cận biên địa ngục. Tám địa ngục lạnh: Ngục Thủy Bào: Sinh trong băng giá lạnh rét vô cùng, toàn thân là bọng nước, nên gọi Thủy bào ngục. Thọ mạng của họ bằng số hạt mè trong tám mươi hộc của nước Ma-già-đà, cứ một trăm năm thì vơi đi một hạt, khi mè hết thì thọ mạng của tội nhân mới hết. Ngục Bào Liệt: Do vì quá lạnh nên những bọng nước ấy đều vỡ ra, rỉ chảy ra thứ nước vàng hôi. Thọ mạng của họ gấp hai mươi lần trong ngục trước. Ngục A-tra-tra: Do vì quá lạnh phải cắn răng chịu đựng. Thọ mạng của họ gấp hai mươi lần trong ngục trước. Ngục A-ba-ba: Phát ra những âm thanh nhẫn chịu lạnh cóng. Thọ mạng ở đây gấp hai mươi lần trong ngục trước. Ngục Ẩu hầu hầu: Do lạnh cóng nên gào khóc thảm thiết, rên la vì khổ. Thọ mạng ở đây gấp hai mươi lần ngục trên. Ngục Liệt như Uất-bát-la hoa: Do vì lạnh cóng nên thân thể nứt nẻ như lá của hoa Uất-bát-la. Thọ mạng ở đây gấp hai mươi lần ngục trên. Ngục Liệt như Liên hoa: Do vì lạnh cóng, nên thân thể nứt nẻ như hoa sen nở ra. Thọ mạng ở đây gấp hai mươi lần ngục trên. Ngục Liệt như Đại liên hoa: Thân nứt nẻ hơn trong ngục trước, như hoa sen lớn nở ra, phơi bày nhiều cánh. Thọ mạng ở đây gấp hai mươi lần ngục trước. Còn ngục Cô Độc, ở những nơi đồng hoang núi thẳm trong Thiệm- bộ châu. Trong ngục này mỗi một ngày đêm phải chịu khổ được vui, cứ xen nhau chịu đủ như vậy. Tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, Cận biên ngục và Cô độc ngục, đó gọi là mười tám địa ngục. - Ngạ quỷ: Từ thành Vương xá xuống đến năm trăm do-tuần có một thành quỷ đói tên là Hoàng Bạch, hay còn gọi là Thảm Đạm. Quỷ Vương thành ấy tên là Diêm-la Pháp Vương, cùng ba mươi sáu quyến thuộc đồng ở trong ấy. Trong đó có bốn loại ngạ quỷ: Ngoại chướng: Tên cơm nước còn không được nghe đến. Nội chướng: Được chút thức ăn nhưng miệng đau như kim châm nên không thể ăn được. Giả sử đưa được vào miệng nhưng cổ họng nhỏ như lông đuôi ngựa nên nuốt không trôi. Giả sử nuốt qua cổ họng, nhưng bụng to như trái núi, nên không thể no được. Dù được no bụng nhưng do cẳng chân như cỏ rỗng ruột nên không thể cử động được. Tội nhân phải chịu những sự thống khổ như vậy. Ẩm thực chướng: Khi thấy cơm nước, thì bị vô số ngục tốt cầm các khí cụ ngăn cản không cho ăn. Chướng ẩm thực: Lúc ăn uống do nghiệp lực chiêu cảm, cơm nước biến thành hòn sắt nóng, nước đồng sôi từ trong miệng trào ra. Bốn loại ấy đều là quỷ đói. Một ngày đêm của họ bằng một tháng của dương gian, như vậy tính ra họ phải trải qua năm trăm năm để chịu thống khổ, tức bằng mười lăm ngàn năm của dương gian. Hoặc trên dân gian, những nơi rừng sâu lạnh rét, chúng sinh uống máu ăn thịt đều thuộc về quỷ đói. <詞>Bàng sinh: Phần nhiều sống ở bờ sông bờ biển, tụ tập đông đúc tạp nhạp, loài lớn ăn thịt loài nhỏ, loài nhỏ ăn thịt loài lớn. Chúng đàn áp lẫn nhau. Do sóng biển đẩy xô không cố định, nên có khi chúng ở trong trời người. Thọ mạng của chúng là nửa trung kiếp, dài bằng Long Vương, hoặc ngắn ngủi như con ve chỉ trong sát-na rồi liền biến mất mạng, thọ mạng ngắn dài không nhất định. <詞>Người: Ở trong bốn đại châu, tám Trung châu và các Tiểu châu khác. Thọ mạng của họ, chẳng hạn như người trong Thiệm-bộ châu lúc sơ kiếp thì vô lượng, lần hồi giảm dần, như nay chỉ còn sáu mươi tuổi. Sau đó dần dần giảm tiếp đến còn mười tuổi, rồi lại Tăng dần đến mức vô lượng. Người ở Bắc Câu-lô châu thọ mạng thọ mạng nhất định là một ngàn năm; Đông Thắng thân là năm trăm năm, Tây Ngưu hóa châu là hai trăm năm mươi năm; trừ Bắc Câu-lô châu, người trong các châu khác đều có chết yểu. Sự thọ dụng của họ thì, ở Bắc Câu-lô châu thức ăn tự nhiên sẵn có, y phục, anh lạc, đều từ cây Như ý lưu xuất ra. Còn ba châu kia thì ăn ngũ cốc, rau, thịt, dùng của báu để trang sức. Thân lượng của họ thì người trong Thiệm-bộ châu cao bốn Khuỷu tay, ở Đông Thắng thân cao tám khuỷu tay, ở Tây Ngưu hóa cao mười sáu khuỷu tay, ở Bắc Câu-lô cao ba mươi hai khuỷu tay. Mặt mũi của họ giống hình dáng của châu đó. Người ở tiểu châu cũng giống như đại châu, nhưng thân lượng chỉ bằng một nửa. <詞>Phi thiên: Từ mặt nước của Diệu Cao xuống mười một ngàn do-tuần, trong thành Quang Minh ở nơi núi rộng thông thoáng có A-tu-la Vương tên là La-hầu-la (Hán dịch là nhiếp não) cùng chư quyến thuộc ở trong thành ấy. Lại xuống mười một ngàn do-tuần nữa, trong thành Tinh Man có A-tu-la Vương trên là Hạng Man cùng quyến thuộc ở trong ấy. Lại xuống mười một ngàn do-tuần nữa, trong thành Kiên Lao có A-tu-la Vương tên là Diệu Trấn, hay còn gọi là Đại Lực cùng chư quyến thuộc ở trong thành ấy. Lại xuống mười một ngàn do-tuần nữa trong thành Thậm thâm có A-tu-la Vương tên là Tỳ-ma-chất-đa-la (Hán dịch là Ty Chủng chủng hay Văn Thân) cùng chư quyến thuộc ở trong thành ấy. Loài này thường hay đánh nhau với trời Đế Thích. Thành của chúng tên là Cụ kim, cung điện tên là Tấu Nhạc, cây Như ý thọ Vương tên là Tức đát bát lật, nơi hội họp tên là Hiền Tài, bàn đá tên là Thiện hiền, vườn tên là Phổ Hỷ. Thiện địa tên là Diệu Hỷ Tối Hỷ Thậm Hỷ, hay còn gọi là Phổ hỷ diệu Hỷ Tối Hỷ Thậm Hỷ. Lúc lâm chiến cỡi con voi tên là Vô năng địch; lúc dạo chơi cỡi con voi tên là Lũy Tuyết, ngựa tên là Tiểu bột. Những loài Phi thiên này thường đánh nhau với vua trời Tam Thập Tam để tranh giành hương vị Tu-đà và con gái Tu-la. Chúng thường xuất binh từ những vách núi, thân mặt áo giáp cứng chắc bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê… tay cầm kiếm giáo, tiêu, thương, cung tên thống lãnh bốn bộ chúng tham chiến. La-hầu-la, Hạng Man, Diệu Trấn, Tỳ-ma-chất-đa-la… những A-tu-la Vương ấy có khi ba vị trước đi đánh, có khi cả bốn người cùng đi. Bấy giờ năm chúng thủ hộ của Đế Thích tham chiến. Vị thứ nhất tên là Nguyện Nhạo Bạch Pháp Long Vương trụ ở bờ biển dẫn quân đi đánh Phi thiên. Nếu Long Vương này không thắng thì đến thành Kiên thủ dẫn thủ hộ thứ hai cùng đi đánh Phi thiên. Nếu cũng không thắng thì đến thành Trì man dẫn thêm thủ hộ thứ ba cùng đi đánh Tu-la. Nếu lại không thắng thì đến thành Hằng Kiều dẫn thủ hộ thứ tư cùng đi đánh. Nếu cũng không thắng thì đi đến thành của Tứ Vương cùng thủ hộ thứ năm đi đánh. Tứ Đại Thiên Vương thống lãnh bốn đoàn quân đó mặc áo giáp báu cứng chắc tay cầm các khí cụ như giáo, trượng, đánh nhau với Tu-la. Hầu hết thì Tứ Thiên Vương đều thắng. Nếu không thắng nổi thì đến Đao-lợi thiên, trước tiên thưa Đế Thích rằng: Bọn thủ hộ chúng tôi không thắng nổi A-tu-la Vương kia, mong nhà vua đứng ra chống địch. Thưa xong, Thiên chủ Đế Thích cỡi con voi Thiện trụ, bảo với chúng trong cõi trời thứ ba mươi ba rằng: Các ngươi nên biết, nay quân của Tu-la đã đến tới đỉnh Diệu Cao, các ngươi phải mặc áo giáp cứng chắc, cỡi những chiến xa giao chiến với Tu-la. Nói xong, các vị Thiên tử đều mặc áo giáp báu, tay cầm gươm giáo, đao, trượng đến vườn Chúng Xa Uyển lấy những cỗ xe, vào Thô Ác để thân tâm chuyển thành ác, ra khỏi thành Thiện kiến giao chiến với Tu-la. Nếu Tu-la thắng thì họ xâm nhập đến nội thành. Nếu Thiên Vương thắng thì đuổi Tu-la về lại từng biển thứ nhất. Lúc đánh nhau, quân binh của Thiên Vương và Tu-la nếu bị chém cổ chém lưng thì liền chết ngay, nếu bị chém đứt tay chân thì lại bình phục như cũ. Nếu gặp lúc Bạt-già-phạm, Bích-chi-phật, Chuyển luân thánh Vương trụ thế, thì A-tu-la không khởi tâm tranh giành, giao chiến. Nếu có đánh nhau, chư Thiên tất thắng. Những việc phước thiện trong thế gian Tăng thịnh thì chư Thiên cũng thắng. Nếu việc bất thiện Tăng thì Tu-la thắng. Vì vậy chư Thiên thường hay hộ trì việc thiện. <詞>- Trời: Tức sáu cõi trong Dục giới, mười bảy cõi trong Sắc giới và bốn cõi trong Vô sắc giới. Sáu cõi trong Dục giới: Tầng thứ nhất của Tô-mê-lô sơn chúng Kiên Thủ ở. Tầng thứ hai là chúng Trì Man ở. Tầng thứ ba là chúng Hằng Kiều ở. Phía Bắc trên ngọn Trì Song sơn có thành tên là A-na-ca phược đế, có đại Thiên Vương tên là Đa Văn Thiên Vương cùng chúng Dược-xoa ở đó. Phía Đông có thành tên là Hiền Thượng, có đại Thiên Vương tên là Trì Quốc cùng chúng Càn-thát-bà ở đó. Phía Tây có thành tên là Chúng Sắc, có đại Thiên Vương tên là Quảng Mục cùng chúng Long thần ở đó. Phía Nam có thành tên là Tăng Trưởng, có đại Thiên Vương tên là Tăng Trưởng cùng chúng Diễm Man ở đó. Ngoài bốn tầng đó, thì bảy núi vàng, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, Thiết vi, Luân sơn, các núi ở Thiệm-bộ châu, dưới cây Đa-la, bộ chúng của Tứ Thiên Vươngcùng ở trong ấy. Những nơi này đều thuộc quyền cai quản của Tứ thiên Vương và được gọi là một bộ. Thọ mạng của họ trong một ngày đêm bằng năm mươi năm của loài người. Như vậy tính ra họ sống đến năm trăm năm. Còn như thân lượng của họ thì bằng một câu-lô-xá và một phần tư. Cõi trời Tam Thập Tam ở trên đỉnh Diệu Cao là nơi thù thắng nhất dành cho Đế chủ, Đế Thích và cung nữ loài Phi thiên tên là Diệu An. Vua cùng chúng Thiên nữ thọ hưởng dục lạc chẳng hề nhàm chán. Khi lâm chiến vua cỡi tượng Vương tên là Thiện trụ, lúc dạo chơi trong vườn, vua cỡi tượng Vương tên là Ái-la-phiệt-noa (Hán dịch là Trì địa tử). Thân hình của hai con voi này mỗi con dài bảy do-tuần cùng ở chung với tám ngàn voi nhỏ khác. Lại có Mã Vương tên là Tốc tật phong cùng ở chung với tám ngàn con ngựa khác. Phụ thần của Thiên chủ gồm ba mươi hai người, nên gọi là trời Tam thập tam. Các vị Thiên tử đều mê đắm năm món dục lạc. Nếu lúc phóng dật có trống đại thiên phát ra âm thanh cảnh cáo chư Thiên rằng: Các hành đều vô thường, hữu lậu đều là khổ, các pháp đều vô ngã, tịch diệt là an vui. Lúc đánh nhau với Tu-la, nó phát ra âm thanh trừ khổ mà cảnh báo rằng: Mong trời thắng trận, Tu-la bại trận. Cung điện, thành trì, cây cối, nơi tập hợp, bàn đá… cũng đều như vậy. Thọ mạng của chư thiên một ngày đêm bằng một trăm năm ở nhân gian. Như vậy tính ra họ sống đến một ngàn năm. Thân lượng của họ bằng nữa du-xà-na. Trời Diệm-ma: Trời Tam thập tam đánh nhau với Tu-la, còn trời này rời xa sự đấu tranh nên gọi là Ly Tránh thiên. Thọ mạng của họ một ngày đêm bằng hai trăm năm của loài người. Như vậy họ sống đến hai ngàn năm. Thân lượng của họ bằng hai du-xà-na. Trời Đâu-suất-đà: Có Bồ-tát Từ Thị nối tiếp xuất thế. Ở ngôi vị Pháp Vương thọ hưởng Đại pháp lạc, nên gọi là Đâu-suất (Đây là nghóa của Câu Lạc). Một ngày đêm ở đây bằng bốn trăm năm ở nhân gian. Như vậy họ sống đến bốn ngàn năm. Thân lượng là bốn du-xà-na. Trời Hóa lạc: Tự biến hóa ra sự thọ dụng, nên gọi là Hóa lạc. Một ngày một đêm ở đây bằng tám trăm năm ở nhân gian. Như vậy họ sống đến tám ngàn năm. Thân lượng của họ là tám du-xà-na. Trời Tha Hóa Tự Tại: Thọ dụng do sự biến hóa của người khác, nên gọi là Tha Hóa Tự Tại. Vua trong cõi trời này uy đức rất tự tại, đây là chúa của Ma quân. Một ngày đêm ở đây bằng một ngàn sáu trăm năm ở nhân gian. Như vậy họ sống đến mười sáu ngàn năm, thân lượng là mười sáu du-xà-na. Dưới từ ngục Vô Gián lên đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại là phạm vi của Dục giới. Chúng sinh trong cõi này đắm trước dục lạc, nên gọi là Dục giới. Mười bảy cõi trời thuộc Sắc giới nằm trong Tứ tónh lự (Tứ thiền). Ba cõi thuộc Sơ thiền: Là Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm, thọ mạng của các cõi này như sau: Phạm chúng là nửa kiếp, Phạm phụ là một kiếp, Đại phạm là một kiếp rưỡi. Thân lượng theo thứ tự sau: Nửa do-tuần, một do-tuần, một do-tuần . Ba cõi thuộc Nhị thiền là: Thiểu quang, Vô lượng quang, Cực quang. Thọ lượng của Thiểu quang là hai kiếp (Từ đây lên đến Tứ thiền thiên cứ bốn mươi trung kiếp là một đại kiếp. Từ đây xuống các cõi trời dưới, cứ tám mươi trung kiếp là một đại kiếp). Vô lượng quang là bốn kiếp, Cực quang là tám kiếp. Thân lượng trong Thiểu quang là hai do- tuần, Vô lượng quang là bốn do-tuần, Cực quang là tám do-tuần. Ba cõi thuộc Tam thiền là: Tiểu thiện, Vô lượng thiện, Quảng thiện. Thọ mạng trong Tiểu thiện là mười sáu kiếp, Vô lượng thiện ba mươi hai kiếp, Quảng thiện là sáu mươi bốn kiếp. Thân lượng chư Thiên trong Tiểu thiện mười sáu do-tuần, Vô lượng thiện là ba mươi hai do- tuần, Quảng thiện là sáu mươi bốn do-tuần. Tám cõi thuộc Tứ thiền là: Vô vân, Phước sinh, Quảng quả. (Ba cõi này phàm phu ở). Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh, năm cõi này Thánh nhân ở. Đây còn gọi là Ngũ tịnh cư thiên. Thọ mạng của chư Thiên trong Vô vân là một trăm hai mươi lăm kiếp, Phước sinh là hai trăm năm mươi kiếp, Quảng quả là năm trăm kiếp, Vô phiền là một ngàn kiếp, Vô nhiệt là hai ngàn kiếp, Thiện hiện là bốn ngàn kiếp, Thiện kiến là tám ngàn kiếp, Sắc cứu cánh là mười sáu ngàn kiếp. Thân lượng của chư Thiên trong Vô vân là một trăm hai mươi lăm do-tuần, Phước sinh là hai trăm năm mươi do-tuần, Quảng quả là năm trăm do-tuần, Vô phiền là một ngàn do-tuần, Vô nhiệt là hai ngàn do- tuần, Thiện hiện là bốn ngàn do-tuần, Thiện kiến là tám ngàn do-tuần, Sắc cứu cánh là mười sáu ngàn do-tuần. Bắt đầu từ Phạm chúng lên đến Sắc cứu cánh là địa phận của Sắc giới. Chúng sinh ở đây lìa được dục lạc nhưng chưa lìa sắc uẩn nên gọi là Sắc giới. Bốn cõi thuộc Vô sắc giới: Chúng sinh cõi này không có sắc thân, không có xứ sở, từ trong định mà phân ra làm bốn cõi đó là: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thọ mạng chúng sinh trong Không vô biên xứ là hai mươi ngàn đại kiếp, Thức vô biên xứ là bốn mươi ngàn đại kiếp, Vô sở hữu xứ là sáu mươi ngàn đại kiếp, Phi tưởng phi phi tưởng xứ là tám mươi ngàn đại kiếp. Bốn cõi này thuộc Vô sắc giới. Do chưa lìa được sắc định mà chỉ lìa được sắc thô, nên gọi là Vô sắc. Thọ mạng của bốn cõi này là năm, kiếp, thời. Số lượng ấy như thế nào? Thời gian nhỏ nhất gọi là sát-na. Một trăm hai mươi sát-na là một đát-sát-na, sáu mươi đát-sát-na là một la-bà, ba mươi la-bà là một mâu-hữu-đa (Hán dịch là Tu du), ba mươi mâu-hữu-đa là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm. Kiếp có sáu loại: Trung kiếp (hay gọi là kiếp giảm). Thành kiếp. Trụ kiếp. Hoại kiếp. Không kiếp. Đại kiếp. Trung kiếp nghóa là người ở Thiệm-bộ châu từ vô lượng năm giảm dần xuống đến còn tám mươi ngàn năm, đây thuộc về thành kiếp. Từ tám mươi ngàn năm giảm dần xuống còn mười năm, đây là thời kỳ đầu của trung kiếp. Sau đó lại Tăng đến tám mươi ngàn năm, rồi giảm xuống còn mười năm là một vòng. Cứ như vậy mười tám lần Tăng giảm là mười tám trung kiếp. Sau đó từ mười năm Tăng lại đến tám mươi ngàn năm là kiếp sau cùng, cộng với kiếp đầu tiên và mười tám vòng kiếp giữa thì thành hai mươi trung kiếp. Thành kiếp thì bắt đầu từ Phong luân lên đến địa ngục Vô Gián, sinh một hữu tình thì Khí thế giới thành, tồn tại trong một trung kiếp như đã nói ở trước. 8. Tình thế giới: Ba ngàn thế giới ấy bị lửa thiêu đốt sau đó hình thành thế giới. Người Trời từ Cực quang thiên mạng chung, thác sinh vào xứ sở của Đại phạm. Họ ở trong ấy một mình nên sinh tâm mỏi mệt thở than. Nếu có người cùng cộng nghiệp sinh trong thế giới này thì cũng sẽ phát cái tâm như thế, dù không phải nhờ sức nhớ nghó người trời ở Cực quang thiên mạng chung, nhưng liền thác sinh trong xứ ấy. Cái tâm trước khi thác sinh suy nghó như vầy: “Do tôi tham sống”. Thế nên người ta nói rằng Đại phạm là thỉ tổ loài người. Kế đó Phạm Phụ, Phạm Chúng, Tha Hóa Tự Tại cho đến Tứ Vương thiên lần lượt sinh trong Bắc Câu-lô châu, Tây Ngưu hóa châu, Đông Thắng thần châu, Nam Thiệm-bộ châu. Cứ thế lần lượt thác sinh. Bấy giờ người trong Nam Thiệm-bộ châu thọ mạng vô lượng, những thứ thức ăn thức uống, vui chơi có hình sắc đều do ý khởi tưởng mà thành. Thân họ mang đầy ánh sáng, tự tại bay nhảy giữa hư không, giống như chư Thiên trong Sắc giới cũng có loại này. Mùi vị của đất dần dần phát sinh vị ngọt, có màu trắng như mật, hương vị thơm ngát. Lúc bấy giờ có một người vốn bẩm tánh tham đắm mùi vị, khởi tâm phân biệt thối thơm, liền bốc đất ăn, lại bảo mọi người làm theo như mình. Do bốc ăn như vậy nên ánh sáng trên thân tắt hết. Do nghiệp lực chiêu cảm nên mặt trời, mặt trăng liền chiếu rọi bốn châu. Sau đó hương vị của đất cũng mất và phát sinh thành bánh bằng đất. Mùi vị của nó cũng ngọt nhưng có màu hồng như mật. Do họ tranh nhau lấy ăn, nên bánh đất này cũng mất. Thế là họ tranh nhau giành lấy dây leo trong rừng mà ăn, nên dây leo cũng hết. Rồi chẳng cần cày cấy mà lúa thóc tự mọc và mọi người cùng lấy lúa này để ăn. Do thức ăn này thô dở, nên họ phải bỏ cặn bả rễ gốc. Bấy giờ, chư Thiên hằng ngày lấy lúa thơm mà ăn. Sau đó có một người vốn bẩm tánh lười biếng cứ lấy hoài lúa thóc dự trữ ra ăn, những người khác cũng bắt chước anh ta, nên lúa thóc ngày càng vơi cạn. Từ đó họ cùng chia ruộng để phòng bị đến khi lúa hết sạch, cái tâm bảo thủ giữ gìn cũng bắt đầu phát sinh. Đối với những phần ruộng của kẻ khác họ cũng muốn rắp tâm chiếm đoạt, thế là nổi lên sự tranh giành. Bấy giờ mọi người bàn bạc nên cử một người có đức phong làm chúa để đứng ra chia ruộng đất, ý kiến này ai nấy đều đồng ý và người được cử là Đại Tam-mạt-đa Vương (Hán dịch là Chúng Sở Hứa). Vị vua này có rất nhiều con nối nhau làm vua. Con trai trưởng tên là Quang Diệu, con của Quang Diệu là Thiện Đế, con của Thiện Đế là Tối Thiện, con của Tối Thiện là Tónh Trai. Năm vị vua này là Ngũ Vương trong thời kỳ thành kiếp. Con của Tónh Trai Vương tên là Đảnh Sinh, con của Đảnh Sinh là Diệu Đế, con của Diệu Đế là Cận Diệu, con của Cận Diệu là Cụ Diệu, con của Cụ Diệu là Nghiêm Diệu. Năm vị vua này được gọi là ngũ Chuyển luân Vương. Con của Nghiêm Diệu Vương tên là Xả Đế. Con Xả Đế là Xả Song, con Xả Song là Xả Cố Ni, con Xả Cố Ni là Cố Thất, con của Cố Thất là Thiện Kiến, con của Thiện Kiến là Đại Thiện Kiến, con của Đại Thiện Kiến là Trừ Ngại. Con của Trừ Ngại là Kim Sắc, con của Kim Sắc là Cụ Phần, con của Cụ Phần là Ly Ác, con của Ly Ác là Diệu Cao, con của Diệu Cao là Định Hạnh, con của Định Hạnh là Thậm Hống Âm, con Thậm Hống Âm là Đại Thậm Hống Âm, con Đại Thậm Hống Âm là Năng An, con Năng An là Phương Chủ, con của Phương Chủ là Hiền Trần, con của Hiền Trần là Năng Quảng, con của Năng Quảng là Đại Thiên. Chủng tộc của vua này có năm ngàn người kế vị. Con út của vua này có tên là A-tư-ma-ca Vương có bảy ngàn người con kế vị. Người con sau cùng tên là Cưu-lâu Vương có tám ngàn người con kế vị. Người con sau cùng tên là Cụ Đầu Vương có chín ngàn người con kế vị. Người con sau cùng là Long Âm có mười ngàn người con kế vị. Người con sau cùng tên là Đát-di-lâu-đát, có mười lăm người con kế vị. Người con sau cùng tên là Cù-đàm Thị, tức dòng họ Cam Giá, con cháu họ nối tiếp nhau. Dòng Cam Giá Vương có một ngàn một trăm người kế vị. Người con sau cùng của dòng họ này tên là Tăng Trưởng, tức là Ý Sư Ma Vương. Nhà vua này có bốn người con: Diện Quang. Tượng Thực. Điều Phục Tượng. Nghiêm Trạc. Đây gọi là họ Thích-ca. Nghiêm Trạc có người con tên là Nghiêm Trạc Túc, con Nghiêm Trạc Túc là Trí Sở, con của Trí Sở là Ngưu Cư, con của Ngưu Cư là Sư Tử Giáp Vương. Sư Tử Giáp Vương có bốn người con: Tịnh Phạn. Bạch Phạn. Hộc Phạn. Cam Lộ Phạn. Con của Tịnh Phạn Vương tức là Bà-già-phạm, con thứ của ông ta là Nan-đà. Bạch Phạn Vương có hai người con: Đế-sa tức Điều-đạt. Nan-đề-ca. Hộc Phạn Vương có hai người con: A-ni-lâu-đà. Bạt-đề-la-ca. Cam Lộ Phạn Vương có hai người con: A-nan. Đề-bà-đạt-đa. Con của Bạt-già-phạm tên là La-hầu-la. Chủng tộc Thích-ca đến đây là hết. Lại nữa các dòng vua khác theo giáo pháp mà chấn hưng Phật giáo. Hai trăm năm sau khi Như Lai diệt độ, quốc Vương của Trung Ấn Độ là Vô Ư làm quốc Vương ở Nam Thiệm-bộ châu, thường làm Đại thí chủ chấn hưng Phật giáo trong những lần kết tập. Sau đó ba trăm năm, phía Tây Bắc Thiệm-bộ châu có vị vua tên là Cát-cư-thi-cát làm Đại thí chủ chấn hưng Phật pháp trong ba lần kết tập. Trong các nước khác như Phạm Thiên Trúc, Ca-thấp-di-la, Lăc Quốc, Quy Tư, Niết-ba-lạt, Chấn Đán, Đại Lý, Tây Hạ… Các vị quốc Vương ấy đều chấn hưng Phật pháp ở ngay đất nước của mình. Hơn một ngàn năm sau khi Như Lai diệt độ, trong nước Tây Phiên mới bắt đầu có vua tên là Nha Khất Lật Tán Phổ. Đến đời vua thứ hai mươi sáu tên là Hợp đà đóa lật tư nhan tán. Lúc bấy giờ Phật pháp mới lưu nhập trong nước này. Về sau đời thứ năm có vua tên là Song tán tư nhan phổ, bấy giờ có Ban-di-đạt tên là A-đạt-đà, dịch chủ tên là Đoan Mỹ Tam-ba-la cùng phiên dịch giáo pháp, sửa sang xây dựng tinh xá ở các nơi như Hợp tát… để lưu truyền giáo pháp. Sau đó đến đời vua thứ năm tên là Khất lật song đề tán, vị vua này thỉnh Đại sư Thiện Hải, Thượng sư Liên Hoa Sinh, Ca-ma La-thập-la, thế là chúng Ban-di-đạt được thành lập. Những người ấy cùng với Tỳ-lô-giá-na-la- khư-đát và Khương Long Tôn Hộ… cả thảy bảy người cùng phiên dịch giáo pháp. Ngoài ra Ban-di-đạt còn cùng với các dịch chủ truyền bá rộng những giáo pháp đã dịch ra. Ba giới cấm được hoằng truyền trong quốc gia này. Sau này đến đời vua thứ ba là Khất-lật-lai-ba-đảm, vị vua này mở mang thêm bờ cõi. Bấy giờ có những người như Na-di-đa tinh thấp, Liên-đát-la Bồ-đề, Ban-di-đạt… cùng Tư-cát-cán, Kiết Tường, Tích-chước-la Long Tràng… hiệu đính những bản đã dịch, phiên dịch những bản chưa phiên dịch, hoằng truyền giáo pháp. Dòng Tây phiên Vương đến nay có những người phiên dịch như Ban-di-đạt… dịch chủ, chúng Thiện tri thức rất nhiều, cho nên giáo pháp rất hưng thịnh. Quốc gia Mông cổ phía Bắc: Do phước duyên đời trước chín muồi nên sinh ra vua Thành Cát Tư. Ban đầu Thành Cát Tư làm vua ở phương Bắc, một nước đa âm như Thiết luân Vương. Con ông ta tên là Quản Quả Đới, thời bấy giờ gọi là Khả Hãn, kế thừa ngôi vua mở mang bờ cõi. Con ông là Cỗ Vó thừa kế ngôi vua. Con thứ của Thành Cát Hãn Hoàng đế là Dựng La, con trưởng của Dựng La tên là Mông Kha, cũng lên nối ngôi vua. Em trai của vua này là Hốt Tất Liệt kế thừa ngôi vua, chinh phục các nước láng giềng mở mang lãnh thổ, quy y Phật pháp, dùng Phật pháp cai trị muôn dân. Phật giáo ở thời kỳ này hưng thịnh lẫy lừng gấp bội lần thời kỳ trước đó. Vua có ba người con. Con trưởng tên là Chân Kim, thân tướng tuấn tú như Thiên Pháp Bảo Trang Nghiêm. Con thứ hai tên là Mang Các Lạt. Con thứ ba là Nạp-ma-ha. Người nào cũng có đức độ, cai trị muôn dân chẳng khác cha mình. Đây là thời kỳ sơ khai. Thỉ Tổ Đế Vương Tam Mạt Đa Vương: Lúc bấy giờ ruộng đất đã được phân chia, người ta nổi lên xâm lấn trộm cắp lẫn nhau. Ban đầu phát sinh trộm cắp bị vua bắt tra hỏi, người này liền chối: “Tôi chưa từng ăn cắp”, thế là bắt đầu sinh ra nói dối, bị pháp vua hành hình, tức là có việc sát hại, pháp bất thiện từ đó phát sinh. Lúc ấy chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, sau khi chết sinh trong loài bàng sinh, kế đến sinh trong loài ngạ quỷ, lần hồi sinh trong địa ngục. Kế đến trong ngục Vô Gián nếu có một hữu tình thác sinh thì lúc bấy giờ thành kiếp hết. Như vậy, hữu tình tạo tác các nghiệp bất thiện, thì thọ mạng của họ giảm dần, sự thọ dụng cũng ngày một thiếu thốn. Người trong Diêm-phù-đề thọ tám mươi ngàn tuổi, địa ngục Vô Gián sinh một hữu tình, hai việc này cùng xảy ra một lúc. Thế là tình thế giới hình thành một trung kiếp, thì Khí thế giới là mười chín trung kiếp. Như vậy thời hạn của thành kiếp là hai mươi trung kiếp. Lúc con người trong Diêm-phù-đề thọ tám mươi ngàn tuổi mới là thời kỳ trụ kiếp. Trụ kiếp cũng tồn tại trải qua hai mươi trung kiếp. Đến khi con người chỉ sống được mười tuổi, xảy ra nạn đao binh trong bảy ngày đêm, tật bệnh nổi lên đến bảy năm bảy tháng, bảy ngày; nạn đói khát xảy ra cũng bảy năm bảy tháng bảy ngày. Phần đông ai nấy đều chết cả. Số ít còn lại thấy mình may mắn sống sót, nên khởi tâm kính trọng lẫn nhau, xa lìa nghiệp sát hại, dần dần sinh thiện tâm. Từ đó thọ mạng và thọ dụng của họ cũng dần dần Tăng lên. Tăng đến lúc con người sống thọ tám mươi ngàn tuổi thì Chuyển luân thánh Vương xuất thế, dùng chánh pháp giáo hóa muôn dân. Lúc tuổi thọ giảm xuống thì Bà-già-phạm xuất thế để cứu độ chúng sinh. Trong khoảng giữa của lúc Tăng giảm có Độc giác xuất thế làm phước điền cho tất cả chúng sinh. Trụ kiếp tồn tại hai mươi trung kiếp mới đến thời kỳ của hoại kiếp. Ban đầu tình thế giới hư hoại, trong ngục Vô Gián không có hữu tình thác sinh, nghiệp đời trước hết, thác sinh ở trong đường khác. Nếu hữu tình chưa đoạn sạch nghiệp thì sinh trong địa ngục trên (trên Vô Gián) hay sinh trong địa ngục Vô Gián của thế giới khác. Như vậy những địa ngục từ Vô Gián trở lên dần dần hoại hết, thì họ thác sinh trong loài ngạ quỷ, kế đến ngạ quỷ, bàng sinh cũng trống không thì họ sinh trong loài người, ngoại trừ Bắc Câu-lô châu. Ngoài ra họ còn được sinh trong Lục dục thiên, dù không có Đạo sư, Phật pháp, nhưng vẫn đạt được Sơ tónh lự sinh vào Sơ thiền thiên. Người ở Bắc Câu-lô châu sinh trong cõi trời thuộc Dục giới, đạt được Sơ tónh lự sinh trong Sơ thiền thiên. Dù không có đạo sư, không gặp chánh pháp nhưng họ đạt được Nhị tónh lự sinh vào Nhị thiền thiên. Từ ngục Vô Gián lên đến Phạm thế đều không còn, như vậy Hoại kiếp đã qua mười chín trung kiếp. Sau đó trong bốn châu có bảy mặt trời xuất hiện. Đầu tiên là không có mưa, rừng rậm cỏ cây đều bị khô héo. Lúc hai mặt trời xuất hiện thì ao rãnh đều bị khô cạn. Lúc ba mặt trời xuất hiện thì những con sông như hằng hà… đều cạn nước. Lúc bốn mặt trời xuất hiện thì ao Vô nhiệt khô cạn. Lúc năm mặt trời xuất hiện thì nước trong biển chỉ còn đến đầu gối. Lúc sáu mặt trời xuất hiện thì nước trong biển cả đều khô cạn. Lúc bảy mặt trời xuất hiện thì khí thế giới ấy bị lửa thiêu đốt. Từ ngục Vô Gián lên đến Phạm thế đều bị thiêu cháy cả, trong một trung kiếp như vậy. Tổng cộng hoại kiếp đã trải qua hai mươi trung kiếp. Không kiếp cũng như thế. Như vậy thành, trụ, hoại, không, cả thảy tám mươi kiếp. Gọi chung tám mươi kiếp này là một đại kiếp, bằng thọ lượng của chúng sinh trong Phạm chúng… Khí Thế giới Hư Hoại: Khí thế giới hư hoại có ba loại. Hỏa hoại, thủy hoại, phong hoại cũng giống như đã nói ở trên. Như vậy sau bảy lần ấy thế giới mới khôi phục trở lại. Lại bị nạn thủy tai phá hoại lên đến Nhị thiền thiên. Từ Cực quang thiên, liền có mây to mưa lớn trút xuống. Khí thế giới ấy ngập chìm trong biển nước mênh mông, rồi nước ấy rút hết, là một lần thủy tai. Kế đến lại bị bảy lần hỏa tai. Cứ bảy lần hỏa tai lại có một lần thủy tai. Cứ thế mà xảy ra bảy lần thủy tai như vậy. Lại nữa sau bảy lần thủy tai thì thế giới lại hình thành, lại bị phong tai phá hoại lên đến Tam thiền thiên. Sức mạnh của gió này thổi tung cả Diệu Cao huống gì là những thứ khác. Đệ Tứ thiền thiên không bị ảnh hưởng. Những loài hữu tình ấy sinh, thì cung điện xuất hiện, mạng chung thì cung điện ẩn mất. Như vậy Khí thế giới , tình thế giới thành hoại đã trình bày xong. Ngài Niệm Thường nói: Kha Thư cho rằng: Trong năm trăm năm tất có Vương giả xuất thế, trong thời đó lại có kẻ nổi danh ở đời. Lời nói đó quả thật đúng thay! Như Hoàng Nguyên ta, lừng lẫy một nơi, vạn bang điều phục, tôn kính Phật thừa, lạy thỉnh pháp Vương Thượng sư Tát-tư-ca, Đại Ban-di-đạt, Phát-tư-ba, Tuệ tràng, Kiết Tường Hiền làm Đế sư, nêu cao việc tốt đẹp. Nhà vua xuống chiếu lấy tên nước là Đại Nguyên. Đế sư vận dụng bút văn, phỏng theo sử truyện, lại được vua ban chiếu chỉ, tỉnh, quân, châu, huyện trong triều đều tuân thủ, nên trước tác bộ điển chương cho thời thế, đó là Chương Sở Tri Luận. Khi Dụ Tông chưa lên ngôi, đã thỉnh Sư diễn thuyết luận này. Nội dung bộ luận trình bày về năm phẩm là Khí Thế giới, Tình Thế giới, Đạo Pháp, Quả Pháp và Vô vi pháp. Năm phần này tóm thâu tất cả những điều thấy biết, nên lấy tên là Chương Sở Tri Luận. Phần lớn sư dựa trên công phu tu tập hằng ngày, cùng những kinh luận trong đời mà viết ra. Đối với nghóa lý thì thật tương ưng, hệ thống lại những điểm nhầm lẫn cũng không phải ít. Nếu chẳng phải là bậc đại trí luận biện đến chỗ tột cùng của thật tướng thì làm sao có thể liễu đạt những pháp lớn như không kiếp, những pháp nhỏ như Lân hư trần rõ ràng như trái Am-ma-lặc trong lòng bàn tay như vậy được! Thánh đức Thần công của Thế Tổ làm hoàng đế cả văn võ. Đạo thì khế với Phật tâm, đức thì vượt xa muôn Thánh, giữ gìn đại giáo, đáng là người ở dưới Hoàng thiên ở trên mọi người. Phật tử của Tây Thiên là bậc Đế sư của Đại Nguyên, được vua ân sủng. Là người tôn sư trọng đạo, đâu chỉ làm ra điển chương cho Đế vương muôn đời mà còn là ngọn đèn chân chính cho những kẻ ngu mê lạc đường trong đêm tối. Ở đây tôi chỉ sao lục lại hai chương Khí Thế Giới và Tình Thế Giới, đặt nó ở thiên đầu tiên. Còn lại ba chương Đạo pháp, Quả pháp và Vô vi Pháp có nói đủ trong Chương Sở Tri Luận. <篇> PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI <卷>QUYỂN 2 CÁC VỊ VUA THỜI THÁI CỔ (Thái nghóa là rất, lắm. Cổ đối lại với Kim. Vua là Chủ) Bàn Cổ: Vị vua đầu tiên, cai trị được mười tám ngàn năm. (Liệt Tử nói: Vận chính là Bàn Cổ. Bắc Sơn lại nói: Trời cao một trượng, đất dày một trượng. Bàn Cổ thì nói: Dài một trượng, đầu ở cực Đông, chân ở cực Tây, tay trái dang đến cực Nam, tay phải dang đến cực Bắc, mở mắt là ngày, nhắm mắt là đêm. Thở ra là nóng, hít vào là lạnh, thổi hơi thì thành gió, mây, hắt hơi thì thành sấm, sét. Bốn mùa vận hành, vạn vật sinh trưởng. Lớn đến Tám phương chín hướng thử hỏi còn gì nhiều hơn. So với Tam Hoàng, Ngũ Kỷ thì ai trước nhất. Trong Cổ Kim ký cho rằng: Sau khi Bàn Cổ chết, thân hình ông ta chia thành muôn vật). Thiên Hoàng Thị: Một thân có mười ba đầu. Vi Chiếu nói: Có mười ba anh em, chia lãnh thổ ra cai trị. Mỗi người trị vì mười tám ngàn năm. Trong Cổ Kim ký thì nói: Một thân Thiên hoàng có mười ba đầu. Địa Hoàng Thị: Một thân có mười một đầu. Vi Chiêu nói: Anh em gồm mười một người, trị vì tổng cộng mười một ngàn năm. Đế vương Giáp Tý nói: Chín ngàn năm. Có thuyết cho rằng: Tam Hoàng ai nấy đều trị vì mười tám ngàn năm. Nhân Hoàng Thị: Một thân có chín đầu. Vi Chiêu nói: Anh em gồm chín người, chia đất thành chín châu để cai trị. Đế vương Giáp Tý nói: Bốn ngàn năm trăm năm. Nhân Hoàng gồm sáu mươi lăm đời, trị vì bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm. Ngũ Kỷ: Ngũ Long Kỷ: Có năm họ, trị vì hai trăm bảy mươi ba ngàn sáu trăm năm. Thời bấy giờ con người ăn lá cây, ở hang ổ. Nhiếp Đề Kỷ: Có bảy mươi hai họ, trị vì Sáu trăm bốn mươi chín ngàn, năm trăm hai mươi năm. Bấy giờ bắt đầu chia ra ban ngày, ban đêm, ngày, tháng, mặt trăng (ngọc thố), sao (hà mô), mặt trời (kim ô) nhô ra từ Phù tang, lặn mất ở Hàm trì. Hợp Hùng Kỷ: Có ba họ, trị vì sáu mươi ba ngàn năm. Liên Kính Kỷ: Có sáu họ, trị vì sáu mươi chín ngàn năm. Vi Chiêu nói: Ba mươi hai ngàn năm. Tự Mạng Kỷ: Có bốn họ, trị vì bốn mươi ngàn năm. Hữu Sào Thị: Có trăm đời không ghi năm tháng. Kinh Lễ nói: Ngày xưa Tiên vương chưa có cung thất, mùa đông thì ở trong hang mả, mùa hạ thì ở trong gốc cây, tổ chim. Bấy giờ chưa có lửa, ăn trái cây sống, thịt thú sống, uống máu, mặc lông thú. Toại Nhân Thị: Bắt đầu mài cây lấy lửa. Kinh Lễ nói: Biết nướng lúa nướng thịt. Lời chú: Thời Trung cổ chưa có nồi niêu, gạo thịt chỉ để trên đá thiêu chín rồi ăn. Trong Cổ Kim ký nói: Vua Mộc Đức trị vì tám mươi ngàn năm. Từ Thái cổ trở về đây, bốn mùa đều có thứ lớp, ngày đêm ngắn dài được phân chia từ đây. Kinh Thư nói: Một năm có ba trăm lẻ sáu tuần hoàn, sáu ngày (ba trăm sáu mươi sáu ngày), lấy tháng nhuần ấn định bốn mùa là một năm. (Mặt trời rất tròn, chu vi là ba trăm sáu mươi lăm độ, một phần tư, quay quanh bên trái trái đất. Thường một ngày một vòng lệch một độ. Mặt trời chiếu sáng bầu trời nhưng chậm ít hơn, cho nên mặt trời vận hành một ngày cũng quay quanh trái đất một vòng, nhưng ở trên trời thì chưa đến một độ. Đến ba trăm sáu mươi lăm ngày ( 2 3 5/940 phần của ngày) thì hết vòng quay. Đó là thời gian mặt trời vận hành trong một năm. Mặt trăng cũng chiếu sáng bầu trời, nhưng chậm hơn. Một ngày thường không bằng mười ba độ bảy phần mười chín của bầu trời. Đến 29 ngày 4 9 9/940 phần của Ngày thì bằng với mặt trời. Mười hai lần gặp như vậy thì hơn ba trăm bốn mươi tám- phần của ngày. Lại nữa năm ngàn chín trăm tám mươi tám lần thì bằng số của mặt trời. Chín trăm bốn mươi lần thì chưa tới ba trăm bốn mươi tám phần của ngày. Nhưng nói chung là được ba trăm năm mươi bốn ngày ba trăm bốn mươi tám phần chín trăm bốn mươi của ngày. Đó là thời gian mà mặt trăng vận hành trong một năm. Một năm có mười hai tháng. Một tháng có ba mươi ngày. Ba trăm sáu mươi là thường số của một năm. Cho nên mặt trời giáp vòng bầu trời nhiều hơn năm ngày hai trăm ba mươi lăm phần chín trăm bốn mươi của ngày. Mặt trăng giáp vòng mặt trời thì ít hơn năm ngày năm trăm chín mươi hai phần chín trăm bốn mươi của ngày, do đó có nhuần. Thế nên một năm nhuần thì dư ra mười ngày tám trăm hai mươi bảy phần chín trăm bốn mươi của ngày. Ba năm có một năm nhuần thì thành ba mươi hai ngày sáu trăm lẻ một phần chín trăm bốn mươi của ngày. Năm năm lại có một năm nhuần thì thành năm mươi bốn ngày ba trăm bảy mươi lăm phần chín trăm bốn mươi của ngày. Mười chín năm có bảy năm nhuần thì khí tượng bằng nhau. Đó là một chương. Thế nên ba năm không để nhuần thì tháng một của mùa xuân lấn sang mùa hạ, nhưng thời gian chậm nên không ấn định được. Tháng một của Tý lấn sang Sửu, nhưng năm chậm lại nên không thành. Qua nhiều năm tháng như vậy đến khi ba lần mất nhuần thì mùa xuân đều lấn sang hạ, nên thời gian hoàn toàn không xác định. Mười hai lần mất nhuần thì Tý đều lấn sang Sư ûu và năm hoàn toàn không ấn định được. Thời Tam Hoàng: Trung Dung Tử nói: Hoàng nghóa là to lớn, trong ngoài đều vô vi, dùng đạo giáo hóa nhân dân, Lôi Thị nói: Thời Hồng Hoang trong thượng cổ bắt đầu từ Tam Hoàng là Phục Hy, Thần Nông và Hiên Viên. Thái Hạo Phục Hy Thị: (Họ Phong, hiệu là Thái Hạo, mẹ là Hoa Tư, nhân đạp vết chân của người khổng lồ mà sinh ra ông. Hình ông là thân rắn đầu người. Ông nuôi muôn thú để ăn thịt, nên còn gọi là Bào Hy. Ông là vua đầu tiên an định đất nước.) Mộc Đức đóng đô ở Trần Lưu (nay là địa phận huyện Tiểu hoàng, Duyên châu). Ở ngôi được một trăm mười năm, bắt đầu họa ra bát quái, làm ra thư, khế (để thay gút dây và từ đây bắt đầu có sách vở), đặt ra việc dựng vợ gã chồng (Con gái đi lấy chồng gọi là giá, con trai cưới vợ gọi là thú), làm ra lưới để bắt cá (Cương nghóa là lưới. Trong sách Nhó Nhã nói: Lưới bắt chim thì gọi là La. Lưới bắt cá thì gọi là Thuyên (cái nơm), lưới bắt thỏ thì gọi là Trí (đặt bẫy), làm ra loại đàn sắc hai mươi lăm dây (dài bảy thước hai tấc, rộng một thước tám tấc). Nữ Oa Thị: Họ Phong, em gái của Phục Hy, có tài biến hóa ra muôn vật, chế tạo ra sinh, hoàng (Sinh là cái Sênh, ngày xưa làm bằng quả bầu khoét mười ba lỗ, trong có lưỡi gà bằng đồng, khi thổi phát ra tiếng rất hay. Hoàng là cái vè đồng. Lấy đồng dát mỏng làm mạng, để trong lỗ tiêu hay sáo mà thổi cho kêu. Loại khí cụ này dài bốn thước. Hình dáng như quả bầu, bên trong có lá đồng để thổi. Loại lớn có mười chín là đồng, nhỏ có mười ba lá đồng, cán dài ba mươi bảy thước, lá đồng dài bốn thước hai tấc. Hoàng được làm bằng trúc, hình dáng gần giống như cánh chim). Bà luyện đá ngũ sắc để vá trời, chặt chân con ngao (ba ba) để dựng thành bốn cực. Ở ngôi được một trăm bốn mươi năm. Còn các họ khác như Cung Công, Đại Đình, Bá Hoàng, Trung Ương, Lục Lật, Ly Liên, Tư, Tôn Lô, Hỗn Độn, Hạo Anh, Cát Thiên, Châu Tương, Âm Khương, Vô Hoài, gồm có mười lăm đời, ở ngôi tổng cộng mười bảy ngàn bảy trăm tám mươi bảy năm. Phần này kinh Sử không thấy ghi chép. Xã Thần: Xưa Cung Công Thị có tên là Hậu Thổ, có tài bình định được chín châu, được tôn thờ làm vua của Xã thần, Ngũ thổ. Ngũ thổ là: Núi sông, ao đầm, gò đồi, triền núi, bình nguyên. Đất đai của ông rộng lớn bao la và màu mỡ, nên được phong đất và tế tự để báo đáp công lao. Chẳng biết Hậu thổ ở vào thời đại niên kỷ nào. Việc này đợi bậc trí giả sau này định liệu. Viêm Đế Thần Nông Thị: Họ Khương, hiệu là Viêm Đế, mẹ là họ Nữ Đăng, cảm Thần Long mà sinh ra ông. Hình dáng ông mình người đầu trâu. Lớn lên cư ngụ ở Khương Thủy, do đó mà có họ Khương. Vương Hỏa Đức đóng đô ở Trần Thiên Khúc Ốc ở ngôi được một trăm bốn mươi năm, mất ở Trường sa. Trong Kinh Dịch nói: Thần nông thị đẻo cây làm bừa, gọt cây làm cày, bắt đầu dạy thiên hạ gieo trồng ngũ cốc, lại từng dùng trăm vị cỏ cây để làm thuốc, diễn giải bát quái thành sáu mươi bốn quẻ, lập ra chợ búa buôn bán, đặt ra lễ tế cuối năm (Lễ chạp), chế ra loại đàn năm dây, tượng trưng ngũ hành. Từ đó các vị Đế vương sau này như Hạ Đế, Thừa Đế, Khôi Đế, Minh Đế, Trực Đế, Lai Đế, Ai Đế, Du Cương nối nhau kế thừa. Tổng cộng được tám đời, năm trăm bốn mươi năm. Hoàng Đế Hữu Hùng Thị: (Đinh Hợi) Họ là Công Tôn, tên là Hiên Viên, con thứ của Thiếu Điển. Vừa mới sinh ra đã là bậc Thần dị, còn nhỏ nhưng đã biết nói. Hơi lớn một chút đã ngang bằng tài năng trẻ khác. Vừa lớn đã minh mẫn, khi trưởng thành thì vô cùng thông minh. Cuối năm của vua Du Cương, các nước chư hầu nổi lên đánh nhau. Ông chế ra cung tên và chinh phục họ. Các nước trong thiên hạ đều quy phục ông. Ông lại hàng phục được các giống thú dữ ở Ngô bản như cọp, beo, gấu, báo. Bấy giờ anh em Xi Vưu cả thảy tám mươi mốt người, đều là người đầu đồng trán sắt, ăn cát nuốt đá, là loài yêu tinh của núi biển, làm loạn thiên hạ. Ông đánh với họ ở đồng hoang Trác Lộc, bị chém chết ở Trung đế. Nhờ đúc đỉnh nên thành Phi Tiên, bám theo rồng mà đi, thọ hai trăm mười tuổi, an táng tại Kiều sơn. Ông ở ngôi được một trăm năm. Có Đại thần Tả Triệt (khắc cây làm hình người thống lãnh chư hầu, nắm chánh Sư ï mười năm) tạo dựng cung thất, chế ra y phục, sai Lỗ Ban làm ra ghe thuyền, xe cộ (ghe thuyền dùng để đi trên nước. Xe cộ giống như cái nhà, có thể dùng để đi hoặc ở), tạo dựng nhà cửa, làm ra quan quách để tống táng người chết. Thế là tang lễ phát xuất từ đó. (Kinh Lễ nói: Thiên tử bảy ngày thì liệm, bảy tháng thì chôn. Chư hầu năm ngày thì liệm, năm tháng thì chôn. Quan đại phu đến só thứ, nhân dân ba ngày thì liệm, ba tháng thì chôn. Phần mộ của Thiên tử cao ba nhận, được trồng Tùng. Mộ chư hầu cao bằng nửa và được trồng Bách. Mộ đại phu cao tám thước được trồng Lật. Đến mộ của só quan cao bốn thước, được trồng Hòe. Mộ của nhân dân không đắp cao và được trồng Dương liễu. Lại làm ra nhạc Hàm trì, bái Thiên lão lực Mục Thái Sơn làm tướng. Năm Giáp Tý thứ nhất: Phong Hậu ấn định Giáp Tý (có thuyết cho là Đại Nhiêu ấn định). (Hoàng Đế lên ngôi được ba mươi tám năm mới sai Đại Nhiêu ấn định Giáp Tý. Thế nên năm thứ ba mươi tám là Giáp Tý thứ nhất. Tính ngược lên thì năm đầu tiên là Định Hợi). Dung Thành làm ra lịch, từ đây mới có toán số. Vua hỏi đạo với Quảng Thành Tử. Thương Hiệt làm Sử quan. Kỳ Bá phân định cỏ cây. Du Phụ ấn định mạch kinh. Linh Luân làm ra luật lữ (dùng để điều hòa âm nhạc, ống dài chín tấc làm bằng trúc, có khi dài hơn hoặc ngắn hơn dùng để phân định ngũ âm), đặt ra chín châu (Lịch Đế Kỷ nói: Hoàng Đế có hai mươi lăm người con, mười hai người có họ, đó là: Cơ, Dậu, Kỳ, Dó, Đằng, Châm, Nhậm, Tuân, Hy, Thỉ, Huyền, Hưu. Chia trị chín châu là Ký, Thanh, Từ, Dự, Ung, Lương, Sở, Dương, Yên. Từ lớn tới nhỏ, theo thứ tự mà phong. Con cháu sau này như Tam Hoàng, Ngũ Đế đều là dòng dõi của ông. Đế lấy vợ là Đại Đình thị sinh hai người con. Con lớn là Huyền Hiêu, con thứ là Xương Ý. Cả thảy là mười tám đời, trị vì một ngàn năm trăm hai mươi năm. Thời Ngũ Đế : (Trung Dung Tử nói: Đế có nghóa là thể, bên trong tuy vô vi nhưng biểu hiện bên ngoài là hữu vi, dùng đức giáo hóa nhân dân. Đức biểu trưng cho trời đất, nên gọi là đế). Lôi thị nói: Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn truyền đến nhà Hạ. Thiếu Hạo, Kim Thiên Thị: (Giáp Tý hai) Họ Dó tên Chí, tự là Thanh Dương, mẹ là Nữ Tiết. Lúc ấy xuất hiện ngôi sao như cầu vồng chẳng tan, nhân đó sinh ra ông. Lớn lên ông đi chân không, chẳng đội mủ nón, là con của Hoàng Đế, sống một trăm tuổi. Lên ngôi năm Đinh Mão, ở ngôi được tám mươi bốn năm. Vương Kim Đức đóng đô ở Cùng Tang, sau dời về Khúc Phụ, lập ra phường chợ, dùng phép tắc làm nhạc, đặt thành một trăm hai mươi hàng, dùng chim Kỷ quan nhử Phượng Hoàng Đến. Tổng cộng gồm mười đời, ở ngôi bốn trăm chín chục năm. Chuyên Húc, Cao Dương Thị. (Giáp Tý Ba). Họ Cơ tên Chuyên Húc, cháu của Hoàng Đế , con của Xương Ý. Bấy giờ xuất hiện ngôi sao như cầu vồng, họ Cơ nhân đó mà sinh ra ông. Ông thọ chín mươi tám tuổi, mất ở Đốn khâu, việc này sách Sư û có ghi. Ông lên ngôi năm Tân Mão, ở ngôi bảy mươi tám năm. Vương Thủy Đức đóng đô ở Đế Khâu (nay là huyện Bộc dương). Ông làm ra lịch, lấy đầu mùa Xuân làm tháng khởi đầu, tạo mũ miện Bình Quang (Rộng tám tấc, dài một thước sáu tấc. Đến nhà Châu mới chế thêm dải mũ. Mặt trước mặt sau đều có đính mười hai viên ngọc), lập ra Tam công, Cửu nghi và hai mươi bốn Quan tư, biết bảo dưỡng tài nguyên giữ gìn đất đai. Lúc đội mũ lên tượng trưng cho trời không hề lẫn lộn với Thần nhân. Vạn vật đều có thứ tự. Ông sinh tám người con tài giỏi và gọi là Bát Khải. Bình định mối loạn của Cửu Lê, tiết chế thói hư để giáo hóa nhân dân, trong sạch chân thành trong tế tự, phân biệt rõ đạo vua tôi, làm ra nhạc Ngũ hành (Kết hợp làm nền tảng cho Ngũ hành). Tổng cộng gồm tám đời, trị vì năm trăm hai mươi năm. Đế Khốc, Cao Tân Thị. (Giáp Tý bốn) Họ Cơ, tên Kỳ, tằng tôn của Hoàng Đế, cháu nội của Huyền Hiêu, con của Kiều Huyền, thọ một trăm lẻ năm tuổi, chôn ở Nghi dương. Ông lên ngôi năm Kỷ Dậu, ở ngôi bảy mươi chín năm. Vương Mộc Đức đóng đô ở Bạc Sư Xích (nay là huyện Yển Sư ). Tùng Tử đặt ra Ngũ hành quan, dùng Câu Mang làm Mộc Chánh (con của Thiếu Hạo), Chúc Dung làm Hỏa Chánh (con của Chuyên Húc), Nhục Thâu làm Kim Chánh (con của Thiếu Hạo), Huyền Minh làm Thủy Chánh (con của Thiếu Hạo), Hậu Thổ làm Thổ Chánh (con của Cao Dương). Ông sinh tám người con tài giỏi và gọi là Bát Nguyên. Ông chế tạo ra chõ, vạc, dao, trống, chuộng, khánh, huân, trì (trống làm bằng da và gỗ, đánh thì kêu. Chuông làm bằng khuôn vàng và đất, hình dáng tựa như cái linh nhưng không tròn, cao hai thước hai tấc rưỡi, dày tám phân, gọi là chuông treo. Khánh thì trước dài ba luật hai thước bảy tấc, sau dài hai luật một thước tám tấc và gọi là hoàng chung. Huân (huyên) làm bằng đất rồi nung, lớn bằng trứng nhạn, phần trên nhọn, đáy bằng phẳng, lại có năm lỗ. Trong Bạch Hổ Thông cho rằng: Hình giống trái cân, trái chùy có sáu lỗ. So ra hơi khác với Châu Lễ. Trì: Làm bằng trúc dài một thước bốn tấc, ống rộng ba tấc. Loại nhỏ thì dài một thước hai tấc, phía trên có sáu lỗ). Tổng cộng gồm chín đời, trị vì ba trăm năm mươi năm (Tả truyện nói: Thương Thư, Đồi Ngải, Đào Diễn, Đại Lâm, Mang Giáng, Đình Kiên, Trọng Dung, Thúc Đạt gọi là Bát Khải. Bá Phấn, Trọng Kham, Thúc Hiến, Thúc Báo, Quý Trọng, Bá Hổ, Trọng Hùng, Lý ly, được gọi là Bát Nguyên). Đế Nghiêu, Đào Đường Thị. (Giáp Tý năm). Họ Y Kỳ, tên Phóng Huân, huyền tôn của Hoàng Đế, con thứ của Đế Khốc, ở trong thai mười bốn tháng, lông mày phân thành tám màu. Ông đắp đất dựng nhà tranh. Ông lên ngôi năm Giáp Thìn ở ngôi chín mươi tám năm. Vương Hỏa Đức đóng đô ở Bình dương (nay là Tấn châu), sau dời về An ấp, cùng Thuấn làm chánh Sự trong một trăm mười tám năm. (Bắt đầu từ Bính Dần, kết thúc năm Quý Mão, Thuấn mất ông để tang hai năm, đến Ất Tî thì ông mất, thọ một trăm tám mươi tuổi, an táng ở Cốc lâm. Gọi năm là Tải (thay vì niên). Cụ Anh tiên sinh sai Hy Hòa làm ra lịch để ấn định ngày tháng thời khắc, trao cho dân dùng. Trời thả xuống một con voi cái (tên là Xúc Tà, chết chôn bên phải điện. Ngay nơi ấy sinh ra một loại cỏ tên là Minh giáp, cao tám thước. Đầu tháng sinh ra một lá, đến ngày rằm thì đủ mười lăm lá. Sau ngày rằm bắt đầu rụng một lá, đến cuối tháng thì rụng hết cả. Có một con dê con tên là Giải Trại, chết chôn bên trái điện. Ngay nơi ấy sản sinh một thứ cỏ màu đỏ, dài một trượng, tên là Chỉ Nịnh). Ông chế ra hành thất (nhà ngang), làm ra cờ vây (ba trăm sáu mươi đường tượng trưng cho ba mươi sáu tuần [360 ngày], bày Đan Chu chơi cờ). Lúa thóc trù phú, có phương hoàng bay đến. Lại có cả thảy ba mươi hai người hiền tài (chưa rõ họ tên). Ông lập ra trống Cảm Gián (dám đến đánh trống can gián vua). Ông trị nạn hồng thủy trong chín năm (Sai ông Cổn và ông Vũ trông coi). Bấy giờ có mười mặt trời cùng xuất hiện (ông sai ông Nghệ bắn chín cái rơi xuống đất. Nhà Nho nói: Phía Đông nam có nước Hy Hòa, trong nước có người con gái tên là Hy Hòa, sinh ra mười mặt trời, thường tắm trong biển lớn. Vào thời của vua này, mười mặt trời cùng xuất hiện, ông Nghệ bắn rơi chín cái chỉ còn một cái mà thôi). (Trương Nghệ là người có tài bắn cung rất giỏi. Ông từng được Tây Vương mẫu cho thuốc bất tử. Đó là thuốc Thú chi. Người vợ ông lấy trộm thuốc rồi trốn vào cung trăng. Vợ tên là Hằng Nga. Nhân đó mặt trăng được gọi là Thiềm Thừ). Đế Thuấn, Hữu Ngu Thị (Giáp Tý sáu) Ông họ Diêu, tên là Trùng Hoa, tự là Đô Quân, là cháu sáu đời của Hiên Viên. Người ông mặt rồng, miệng to, mắt có hai đồng tử. năm hai mươi tuổi, lòng hiếu kính của ông vang khắp thiên hạ. năm ba mươi tuổi đi tuần thú trong vùng Dung nam, mất ở Thương ngô, thọ một trăm năm mươi tuổi. Vương Thổ Đức đóng đô ở Bồ phản (nay là phủ Hà Trung). Trong thời vua Nghiêu, ông nắm chính Sư ï trong hai mươi tám năm. Cả thảy trị vì được năm mươi năm. (Năm Bính Ngọ lên ngôi, mất năm Ất Mùi, an táng ở Cửu nghi sơn). Ông ngâm vịnh Nam phong thi, cử mười sáu tướng (Bát khải và Bát nguyên) đánh đuổi bốn kẻ hung bạo. (Tả truyện nói: Hoan Hung con của Hoàng Đế là kẻ bất tài, che nghóa giấu đức, thích làm những chuyện hung bạo, đời gọi ông là kẻ hồn độn (u mê). Thiếu Hạo con của Cung Công, là kẻ bất tài hủy kẻ tín, phế người trung, ưa chuộng những lời nói xấu, đời gọi ông là kẻ “Cùng Kỳ” (xấu xa). Hiên Viên con của ông Cổn, là kẻ bất tài, nhạo báng người hiền đức, làm loạn phép thường, đời gọi ông là kẻ “đảo cơ” tam miêu (gây loạn). Họ Tấn Vân là bề tôi của Hoàng Đế , là kẻ bất tài, hấu ăn hám lợi, đời gọi ông là kẻ thao thiết (tham ăn tham uống). Bề tôi là ông Thi chế ra chất nhựa dùng để sơn, sai Cao Đào xử đoán ngục tù, định ra ngũ hình. (Trong kinh thư nói: Ngũ hình có từ đời vua Thuấn, Trịnh chú. Trong kinh lễ nói: Thích chữ lên trán rồi đày đi, không cho ra vào kinh. Hình phạt này dành cho những kẻ không có đạo nghóa. Cắt mũi, dành cho những kẻ muốn thay đổi chế độ. Chặt chân, dành cho những kẻ muốn chui hào vượt thành. Nhốt trong ngục, nam nhốt trong lao, nữ nhốt trong nhà tối. Hình phạt này dành cho những kẻ nam người nữ quan hệ không đúng lễ nghóa. Tội chết, dành cho những kẻ thảo khấu, giặt cướp. Ông lại làm ra nhạc Thiều, chế ra tổng chương (nhạc thiều có chín số, mười một thứ. Nhạc Đường thượng có sáu thứ, đó là: Chúc: Giống như cái thùng sơn, vuông hai thước bốn tấc, sâu một thước tám tấc. Bên trong có cái chày có tay cầm dùng để trỗi nhạc. Ngữ: Hình trạng giống như con hổ nằm phía trên lưng là hai mươi bốn răng cưa lồi lõm, khắc bằng gỗ, dài hơn một thước, được làm theo phép ba mươi chín dương số, dùng để dừng nhạc. Cầm: Dài ba thước sáu tấc, biểu trưng cho ba trăm sáu mươi ngày; rộng sáu tấc, biểu trưng cho sáu thời. Lỗ trên gọi là Trì, lỗ dưới gọi là Tân; trước rộng sau hẹp, biểu trưng cho tôn ti. Trên tròn dưới vuông, làm theo phép thiên địa thất huyền. bảy dây này lấy lụa đỏ bện thành, dài bảy thước hai tấc, làm theo phép bảy mươi hai hầu. Có thuyết nói: Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương từ Ngũ Huyền cầm chế thành Thất huyền cầm. hai dây lớn và nhỏ là để hợp với ý vua tôi. Trong bộ Phong Tục Thông nói rằng: Cầm là loại đứng đầu trong nhạc cụ, người quân tử thường mang theo bên mình. Nó không giống như chuông trống bày biện ở cung miếu, treo trên xà nhà. Dù nó có lớn nhỏ nhưng âm thanh rất hòa nhã. Lớn nhưng không ầm ó mà lại mênh mang, nhỏ nhưng không tắt tiếng đến nỗi không nghe, âm vận của nó vừa đủ để chuyển tải ý khí của con người. Sắc: Như đã chú giải trong phần trước. Đoàn phụ: Hình giống cái trống, được làm bằng da, lấy cơm làm trầm tiếng, đánh để giữ nhịp. Nhạc: Là cái khánh bằng ngọc, đánh thì nó kêu. Nhạc Đường Hạ có năm thứ, đó là: Tiêu: Hình giống cánh Phượng hoàng, kết trúc làm thành, dài một thước năm tấc. Loại lớn có hai mươi ba ống và được gọi là Đỗng tiêu. Loại nhỏ có mười sáu ống và được gọi là Nhã tiêu. Trong châu lễ nói: Có hai loại Nhã tiêu: Loại dài một thước bốn tấc, gồm hai mươi bốn ống gọi là Phiền tiêu. Loại hai mươi ba ống thì gọi là Đỗng Tiêu, nó dài một thước hai tấc, khi đánh thì cầm chùy gõ vào một bên ống, giống như đánh chuông lớn. Sinh: Giống đoạn trước đã chú giải, cũng làm bằng ống trúc, nhưng có bảy lỗ.) Vua Thuấn lập ra mười hai châu, chôn người chết bằng áo quan bằng đất nung (Từ Thiếu Hạo trở về trước, thiên hạ gọi vua để biểu trưng cho đức độ của nhà vua, từ Hiên Viên đến nay thiên hạ gọi vua bằng tên của nhà vua. Còn như vua Cao Tân, Cao Dương là gọi theo tên đất mà ông khai phá. Trong Lưu Thị Ngoại Kỷ lấy tên của Tam Hoàng, Ngũ Đế làm tục truyện.) Tam Hoàng: Đó là ba nhà: Hạ, Thương, Chu. Nhà Hạ: Lôi thị nói: Vũ, Khải, Tam Khương, Tương, Trữ, Hòe, Mang, Tiết, Bất Giáng, Quynh, Cần, Giáp, Cao, Phát, Kiệt, cả thảy mười bảy đời vua, trị vì tổng cộng bốn trăm ba mươi hai năm. 1 7. Hạ Hậu Thị: (Giáp Tý bảy) Ông họ Tự tên là Văn Mạng, tự là Cao Mật, là cháu tám đời của Hoàng Đế, con ông Cổn hiệu là Vũ Vương. Hồi ấy vua Thuấn cử vua Vũ trị thủy, ông không coi trọng tiền tài mà rất quý trọng thời gian, ba lần ngang qua cửa mà không ghé vào nhà. Vương Kim Đức đóng đô ở An Ấp (nay là quân Châu Thiên Dương Địch), làm quan Tư đồ dưới thời vua Nghiêu (quan coi về đất đai). Trịnh chú: Lại bộ thượng thư, hay còn gọi là Thiên quan tức là Trủng tể, thái tể (tể tướng). Binh bộ thượng thư, tức là Hạ quan (quan coi về mùa Hạ) hay còn gọi là Đại tư mã. Hộ bộ, tức Địa quan, hay còn gọi là Đại tư đồ. Hình bộ, tức Thu quan, hay còn gọi là Đại tư khấu. Lễ bộ, tức Xuân quan, hay còn gọi là Thuyên trưởng. Công bộ, tức Đông quan, hay còn gọi là Đại tư không. Vua Vũ chính là chức quan thứ ba. Ông trị thủy mười hai năm, khi đi dùng bốn loại phương tiện (trên đất liền đi bằng xe, dưới nước thì đi bằng thuyền, đất bùn đi bằng khiêu, leo núi thì bằng liễn). Ông mở ra chín châu (Ký châu: Phía Đông giáp đến Hà tây, phía Tây tiếp giáp Hà nam, phía Nam kéo đến Hà bắc. Duyên châu: Đông nam tiếp giáp sông Tể, Tây bắc tiếp giáp Hoàng hà. Thanh châu: Đông bắc là biển, Tây nam là Thái sơn. Từ châu: Đông dài đến biển, Bắc tiếp giáp Thái sơn, Nam dài đến sông Hoài. Dương châu: Phía Bắc cách sông Hoài, Phía Nam cũng cách sông Hoài. Kinh châu: Phía Bắc là núi, phía Nam dài đến Hoành dương. Dự châu: Tây nam tiếp giáp đất kinh, phía Bắc tiếp giáp Hoàng hà. Lương châu: Phía Đông cách Hoa sơn, phía Tây giáp Hắc thủy. Ung châu: Phía Tây giáp Hắc thủy, phía Đông đến Long môn. Tây hà thông cả chín đường, chín gò, chín núi, chín sông.) Ông trị vì mười sáu năm (lên ngôi năm Giáp Tuất, mất năm Kỷ Dậu, ông đông chinh đến Cối kê thì mất, thọ một trăm tuổi, thụy là Thọ Thiền, do thành công nên gọi là Vũ). Ông gọi năm là Tuế, lấy tháng Dần làm tháng giêng, ông làm ra nhạc Đại hạ, chôn nguời chết thì dùng áo Tức (áo quan) (làm bằng đất nung, bấy giờ có họ Phòng Phong cao bốn mươi thước.) Giáp Tý tám: Ông Khải, con ông Vũ (mẹ hóa thành đá, có thuyết nói là sinh trong đá). Ông lên ngôi năm Quý Mùi, trị vì được chín năm (có thuyết nói là mười năm). Ông tổ chứ các thứ lễ tế như: Tế Giao , tế đế, tế Tổ , tế Tông (tế đế có Hoàng Đế , Văn Tổ . Tế Giao có ông Cổn được tế ngang hàng với Thiên tổ. Tế Tổ có Hiên Viên được tế ngang hàng với Văn Tổ . Tế Tông có cha ông là ông Vũ). Ông lập ra miếu, diêu, đàn để tế tự. Thái Tổ là ông Vũ (cùng Nhị Chiêu, Nhị Mục) thành Ngũ miếu. Giáp Tý chín: Thái Khương: Con ông Khải, làm ruộng ở đất Lạc đến mười tuần (một trăm ngày) vẫn không về. Năm người con làm những bài ca ca ngợi ông, nhân đó ông mất ngôi. Ông lên ngôi năm Nhâm thìn, trị vì được hai mươi chín năm. Trọng Khương: Em của Thái Khương, lên ngôi năm Tân Dậu. Đế Tương: Con của Trọng Khương, dời đô về Thương khâu. Sau bị Hậu Nghệ giết và soán ngôi, ông trị vì hai mươi tám năm. Nghệ lên ngôi được hai năm thì bị bề tôi là Hàn Trác giết. Trác giết Nghệ rồi tự lên làm vua, được mười năm thì bị bề tôi nhà Hạ là Phỉ giết. Ba ông vua trên trị vì cả thảy là bốn mươi năm. Giáp Tý mười: Thiếu Khương: Con của Đế Tương, mẹ họ Hữu Nhưng, có đất ruộng là một thành, chúng nhân là một lữ, giết Nhiêu Hỷ, dời về đất cũ của vua Vũ, đó là Trung hưng. Ông lên ngôi năm Quý Mùi, trị vì được bốn mươi chín năm. Ông Trữ: Con của Thiếu Khương, lên ngôi năm Quý Mão trị vì được mười bảy năm. Ông Hòe: Con ông Trữ, lên ngôi năm Canh Thân, trị vì được hai mươi sáu năm. Ông Mang: Con ông Hòe, lên ngôi năm Bính Tuất, trị vì được mười tám năm. Giáp Tý mười một: Ông Tiết, con ông Mang lên ngôi năm Giáp Thìn, trị vì được mười sáu năm. Bất Giáng: Con ông Tiết, lên ngôi năm Canh Thân, trị vì được năm mươi chín năm. Ông Quynh: Em của Bất Giáng, lên ngôi năm Kỷ Mùi, trị vì được hai mươi mốt năm. Giáp Tý mười hai: Ông Cần con ông Quynh, lên ngôi năm Canh Thìn, trị vì được hai mươi năm. Khổng Giáp: Con của Bất Giáng, thích thờ quỷ thần, dâm loạn, đức nhà Hạ suy kiệt, chư hầu nổi lên làm phản. Ông lên ngôi năm Tân Sư ûu, trị vì được ba mươi mốt năm (Lúc này vua Thang mới sinh). Giáp Tý mười ba: Ông Cao, con của Khổng Giáp, lên ngôi năm Nhâm Thân, trị vì được mười một năm. Ông Phát: Con ông Cao, lên ngôi năm Quý Mùi, trị vì được mười năm (có thuyết nói là mười một năm). Ông Kiệt: Con ông Phát, tên là Lũ Quý, sủng ái con gái họ Hữu Thi tên là Muội Hỷ. Ông dâm loạn bạo ngược, đam mê tửu sắc, làm nước nhà điêu đứng, muôn dân lầm than, cho những lời can gián là yêu mị, giết Quan Long, Phùng Sở, Hoàng Đồ. Giáp Tý mười bốn: Hai bề tôi nổi lên phế truất nhà Hạ. Bấy giờ có hai vầng mặt trời che khuất nhau. Vua Thang đánh đuổi Kiệt đến Sào nam và Kiệt chết ở đó. Kiệt thụy là Tặc Nhân, do giết người nhiều nên gọi là Kiệt. Ông lên ngôi năm Nhâm Dần, đóng đô ở An ấp, trị vì được năm mươi hai năm. Cả mười bảy đời vua trên, trị vì cả thảy bốn trăm ba mươi hai năm. 1 8. Ân Thang: Lôi thị nói: Ân Thang, Ngoại Bính, Trọng Nhâm, Thái Giáp, Ốc Đinh, Thái Canh, Tiểu Giáp, Ung Kỷ, Thái Tuất, Trọng Đinh, Ngoại Nhâm, Hà Đản Giáp, Tổ Ất, Tổ Tân, Ốc Giáp, Tổ Đinh, Nam Canh, Dương Giáp, Bàn Canh, Tiểu Tân, Tiểu Ất, Vũ Đinh, Tổ Canh, Tổ Giáp, Lẫm Tân, Canh Đinh, Vũ Ất, Thái Đinh, Đế Ất, Đế Tân, cả thảy ba mươi chín đời vua, trị vì tổng cộng sáu trăm hai mươi chín năm. Giáp Tý mười lăm. Vua Thang: Ông họ Tử, tiên tổ là con của Cao Tân. là cháu mười bốn đời của ông Khế. Thỉ tổ họ Cao làm quan Tư đồ dưới thời vua Nghiêu. Vương Hỏa Đức đóng đô ở đất Bạc (Nay là huyện Yển Sư, tức Nghị Thục). Chiêu Minh. Tương Thổ. Xương Sinh. Tào Vi. Minh. Chấn. Vi. Báo Đinh. Báo Ất. Báo Bính. Chủ Nhâm. Chủ Quý. (Sinh ra ông Lý) Lý: Tự là Thiên Ất, vì ông sinh vào ngày Ất, là cháu hai mươi đời của Hoàng Đế . Cha là ông Khế, mẹ là Giản Địch, do bà ăn phải trứng chim đen, nên phải mổ trên lưng mới sinh được ông. Ông Khế cho rằng nhờ trứng chim đen ấy mà mình có con, nên đặt cho ông là họ Tử. Có thuyết Sư ûa lại là họ Chúc Đức và Cầm thú. Vua Kiệt nhà Hạ vô đạo, ông Thang cử Y Doãn làm tướng đem binh phạt Trụ. Đánh Đông thì Tây oán, đánh Nam thì Bắc oán, hồi ấy bị đại hạn đến bảy năm. Ông tự trách mình có sáu tội nên thiêu thân, lúc ấy trời liền đổ mưa. Ông lên ngôi năm Ất Mùi, trị vì được mười ba năm, thọ một trăm tuổi. Ông lấy tháng Sư ûu làm tháng giêng, gọi năm là Tự. Thời bấy giờ có Bành Tổ, ông họ Tiên tên Khanh, là Hiền đại phu sống đến tám trăm tuổi. Ông rất thích thuật lại việc xưa, húy là Bành Tổ. Ngoại Bính: Con thứ của vua Thang, trị vì ba năm. Trọng Nhâm: Em của Ngoại Bính, trị vì được bốn năm. Thái Giáp: Trưởng tôn của vua Thang, con của Thái Đinh. Ông lên làm vua, do không sáng suốt nên Y Doãn phóng thích ông ở Đồng cung ba năm để hối lỗi. Sau đón ông về đất Bạc, trao quyền Chánh cho ông. Ông trị vì được ba mươi ba năm, ông lập sáu miếu để tế tự (Cao là Nhị Chiêu, Thang là Nhị Mục). Thái Giáp cũng Tế Giao, tế tự, tế Tổ, tế Tông. (Tế Đế có Đế Khốc, Văn Tổ. Tế Giao có ông Minh, tế ngang với Thiên tổ. Tế Tổ có ông Khế được tế ngang hàng với Văn Tổ, Thái Tổ . Tế Tông có cha ông là vua Thang). Giáp Tý mười sáu. Ốc Đinh: con của Thái Giáp, lên ngôi năm Tân Tî, trị vì được ba mươi năm (được tám năm thì Y Doãn mất). Thái Canh: Em của Ốc Đinh, trị vì được ba mươi năm (có thuyết nói là hai mươi lăm năm. Trong Cổ Kim ký thì nói là ba mươi lăm năm). Giáp Tý mười bảy. Tiểu Giáp: Con của Thái Canh, trị vì được mười bảy năm. Ung Kỷ: Em của Tiểu Giáp (Đạo nhà Ân suy thoái) trị vì được mười hai năm. Giáp Tý mười tám. Thái Tuất: Em của Ung Kỷ, ban đầu lập ông làm vua, nhưng do vô đạo nên chư hầu nổi lên làm phản. Sau đó cử con của Y Doãn là Trắc lên làm tướng, từ đó đạo nhà Ân hưng thịnh trở lại. Ông trị vì được bảy mươi lăm năm. Trọng Đinh: con của Thái Tuất. Từ đất Bạc dời đô về Khai Phong, Trần Lưu, trị vì được mười bảy năm (có thuyết nói mười một năm). Giáp Tý mười chín. Ngoại Nhâm: Em của Trọng Đinh, trị vì được mười lăm năm. Hà Đản Giáp: Em của Ngoại Nhâm, lại dời đô về đất Tương, nhà Ân lại suy yếu, ông trị vì được chín năm. Tổ Ất: Con của Đản Giáp, lại dời về đất Đam, nay là huyện Ba thị, tỉnh Hà Đông. Vu Hiền nhậm chức, nhà Ân hưng thịnh, ông trị vì được mười chín năm. Giáp Tý hai mươi. Tổ Tân, con của Ất, trị vì mười sáu năm. Ốc Giáp: Em của Tổ Tân, trị vì được hai mươi lăm năm. Nam Canh: Con của Ốc Giáp, trị vì được hai mươi chín năm. Dương Giáp: Con của Tổ Đinh, trị vì được mười bảy năm. Giáp Tý hai mươi mốt. Bàn Canh: Em của Dương Giáp, đổi nhà Ân thành nhà Thương, lại dời đô về đất Bạc, ông trị vì được mười tám năm. Tiểu Tân: Em của Bàn Canh, trị vì được hai mươi mốt năm. Đạo nhà Ân suy, muôn dân nhớ đến Tiên đế, nên làm ra ba thiên sách nói về Bàn canh. Giáp Tý hai mươi hai: Tiểu Ất: Em của Tiểu Tân, trị vì hai mươi hai năm. Vũ Đinh: Con của Tiểu Ất, dùng Truyện Thuyết là tướng; tu đức, ban bố chánh Sư ï, thiên hạ đều vui mừng. Kinh thư nói: Cao Tông tự giam mình ba năm, vua chẳng nói một lời. Kinh lễ nói: Để tang ba năm, vua chẳng nói một lời, trăm quan đều nghe lệnh của Trủng Tể Ông trị vì được năm mươi chín năm, thọ một trăm năm, Miếu tên là Cao Tông. Giáp Tý hai mươi ba: Tổ Canh: Con của Vũ Đinh, trị vì bảy năm. Tổ Giáp: Em của Tổ Canh. Đạo nhà Thương suy, ông trị vì được mười sáu năm. Lẫm Tân: Con của Tổ Giáp, trì vì được sáu năm. Canh Đinh: Em của Lẫm Tân, dời đô về Triều ca, nay là địa phận của Vệ châu. Ông trị vì được hai mươi mốt năm. Vũ Ất: Con của Canh Đinh, là kẻ vô đạo, khinh mạn thần linh, bạo ngược với dân, đi săn ở đoạn sông Vị bị sét đánh chết. Ông trị vì được bốn năm. Giáp Tý hai mươi bốn: Thái Đinh, con của Vũ Ất, trị vì được ba năm. Đế Ất: Con của Thái Đinh, đạo nhà Thương suy, ông trị vì được ba mươi bảy năm. Giáp Tý hai mươi lăm: Trụ Tân, còn có tên là Thọ. Con út của Đế Ất, em của Khải. Mẹ của Khải nghèo hèn nên Khải không được kế ngôi. Mẹ của Tân là chánh hậu. Vua Trụ lên ngôi, bên trong thì sủng ái Đát Kỷ, bên ngoài thì dùng những kẻ xấu ác, lập ra ao rượu, núi thịt, sai nam nữ trần truồng rượt đuổi nhau trong ấy. Ông lại dựng cung Trường Dạ, tính một trăm hai mươi ngày là một ngày đêm, chế ra hình cụ Bào lạc, moi tim người hiền, chặt chân Triều Thiệp. Chư hầu nổi loạn. Vũ vương đánh Trụ, Trụ nhảy vào hầm lửa mà chết. Ông trị vì ba mươi mốt năm. Nhà Ân có ba người nhân đức là Cơ Tử, Triệt Tử và Thúc Tử Can. Ông lên ngôi năm Đinh Mùi. Ba mươi đời vua trên trị vì tổng cộng sáu trăm hai mươi chín năm. <詞> 1 9. Nhà Chu: Lôi thị nói: Dưới thì có nhà Chu, từ Văn, Vũ, Thành, Khương, Chiêu, Mục, Cung, Ý, Hiếu, Di Lệ, Tuyên, U, Huề, Bình, Hoàn, Trang, Hy, Tuệ, Tương, Khoảnh, Khuông, Định, Giản, Linh, Cảnh, Điệu, Kính, Nguyên, Trinh, Ai, Khảo, Uy Liệt, An, Di, Hiển, Thánh, Thân Tịnh, Noãn đến Tần Vương gồm ba mươi bảy đời vua, trị vì tám trăm sáu mươi tám năm. Giáp Tý hai mươi sáu. Văn vương: Họ Cơ, đến Vũ vương thì dời đô về đất Cảo, nay là Kinh Triệu. Vương Mộc Đức, tiên tổ khởi nguyên từ Hậu Tắc. (Người Phi của Đế Khốc là Khương Nguyên đạp phải dấu chân người khổng lồ mà sinh ra ông. Do ông có nhiều dị tướng, nên bà bỏ ông ở trong hẻm núi, nhưng trâu ngựa chẳng đạp chết mà nó tha về núi cho thú nuôi. Thú tha ông ra bờ sông cho chim mớm ăn. Sau đó bà lại nhặt ông về nuôi, do đó mà ông mang họ Khí (Vứt bỏ). Ông thích những việc trồng trọt. Dưới thời vua Nghiêu ông làm tắc quan, có công lao và được phong ở đất Thai, hiệu là Hậu Tắc. Bất Truất. Cúc. Công Lưu. Khánh Tiết. Hoàng Bộc. Sai Phất. Hủy Du. Công Phi. Cao Ngữ. Á Ngữ. Công Tổ Loại. Thái Vương Đản Phụ (còn có tên là Cổ Công). Ông sinh ba người con: Thái Bá, Ngũ Trọng, Quý Lịch. Ông là cha của Văn vương. Ban đầu kinh đô nước này ở đất U, sau Cổ Công dời đô về đất Kỳ. Bá và Trọng biết Cổ Công muốn lập Quý Lịch làm vua, nên chạy trốn đến Kinh Man. Về sau ông quả nhiên truyền ngôi cho Lịch. Trong Cổ Kim ký Thế Kỷ có một vài chỗ khác với Sư û Ký. Xương: Con của Quý Lịch, còn có tên là Đại Vương. Đóng đô ở đất Phong, là Tây Bá của vua Trụ. Ông là người rất mực hiền đức, trị vì được năm mươi năm, thọ chín mươi bảy tuổi, thụy là Trung Tín. Ông rất coi trọng quẻ hào trong bát quái, làm ra Chu dịch: Càn: Có sáu cung chín số ba mươi sáu lão dương. Khảm: Có một cung bảy số hai mươi hai thiếu dương. Cấn: Có tám cung bảy số hai mươi tám thiếu dương. Chấn: Có ba cung bảy số hai mươi tám thiếu dương. Tốn: Có bốn cung tám số ba mươi hai thiếu âm. Ly: Có chín cung tám số ba mươi hai thiếu âm. Khôn: Có hai cung sáu số hai mươi bốn lão dương. Đoài: Có bảy cung tám số ba mươi hai thiếu âm. Mỗi một quái có sáu hào sáu tên thần làm chủ các việc kiết hung, đó là thanh long, chu tước, bạch hổ, huyền vũ, đằng xà, câu trần. Giáp Tý hai mươi bảy. Bá Di, Thúc tề: Họ Mặc, con của Cô Trúc Quân. Hai ông nghe Tây Bá là người hay nuôi dưỡng người già, nên đến ở với ông. (Ngu Nhuế tranh với Tây Bá, lại xin vua Trụ bãi bỏ cực hình Bào lạc.) Vũ Vương Vũ Vương là Phát, con của Văn Vương, anh của Chu Công. Khi đã lên ngôi ông thờ Thái Công Vọng làm thầy, Chu Công Đán là phụ thần, bọn Triệu Tất làm kẻ tả hữu, họ cùng bàn mưu đánh Trụ, khởi binh ở Vị Thủy, có đến tám trăm chư hầu không hẹn mà đến, họ đều nói: Trụ thật đáng đánh. Ngày Mậu Ngọ binh đến Mạnh tân. Đêm Quý Hợi bày binh ở Thương Giao. Ngày Giáp Tý lâm chiến ở Mục Dã, quân tiên phong thất trận, giáo vứt đầy đồng, máu chảy thành sông. Cuối cùng ông diệt được nhà Ân bình định thiên hạ, xếp giáo cất gươm, trị vì được bảy năm, thọ chín mươi ba tuổi, an táng ở đất Cảo. Kinh Lễ nói: Thiên hạ đều có vua, đều chia đất, dựng nước, lập đồ, đặt ấp (Pháp chế ngày xưa, kinh kỳ của vua rộng một ngàn dặm; công là một trăm dặm, hầu là bảy chục dặm, bá, tử, nam là năm mươi dặm, nếu không đủ số dậm ấy chỉ là thành phụ. Nhà Chu đặt ra Pháp chế kinh kỳ của vua là một ngàn dặm, công là năm trăm dặm, hầu là bốn trăm dặm, bá là ba trăm dặm, tử là hai trăm dặm. Nam là một trăm dặm. Nếu không đủ số dặm ấy thì chỉ gọi là Thành phụ. Tống táng người chết thì dùng áo sáp. Trong Thế Bản ghi rằng: Vũ Vương chế ra áo sáp, hình giống cái quạt, đặt bên ngoài quan tài để cho đẹp). Ông lên ngôi năm Ất Mão, lấy tháng Tý làm tháng giêng. Mười bốn nước chư hầu: Theo thứ lớp được phong tùy theo đời vua. Lôi thị nói: Mười bốn chư hầu là; Trịnh, Tống, Tấn, Ngô, Vệ, Tần, Tề, Lỗ, Trần, Kỷ, Tào, Sái, Yên Triệu, Sở Man. Ngô Thái Bá: Con của Thái Vương, cùng em là Ngu Trọng chạy đến Kinh Man, cắt tóc rạch thân, làm như mình là kẻ vô dụng để trốn Quý Lịch. Người đất Kinh lập ông làm vua với hiệu là Câu Ngô. Vũ Vương diệt nhà Ân, phong cho Chương làm Ngô Chương, mãi đến con cháu đời thứ mười chín là Thọ Mộng mới xưng vương. Mộng sinh được bốn người con, con thứ là Quý Trát, là người rất mực hiền đức. Mộng muốn lập Trát làm vua, nhưng ông nhường lại cho anh là Chư Phàn, nhưng người nước Ngô một lòng muốn lập Trát, nhưng Trát lại bỏ đi. Sau cùng Sái lập Phong Trát ở Diên lăng. Từ Thái Bá đến Phù Sai tổng cộng được hai mươi lăm đời, cuối cùng bị Việt Vương Câu Tiễn diệt. Từ Ngô Chương đến Phù Sai là hai mươi mốt đời vua, trị vì được sáu trăm năm mươi lăm năm. Bấy giờ nhằm đời Chu Kính Vương. Liệt Tử nói: Xưa Ngô Thái Tể hỏi Khổng Tử rằng: Phu Tử là Thánh nhân phải không? Khổng Tử đáp: Khâu tôi là kẻ học rộng nhớ dai, chứ không phải là Thánh nhân. Hỏi: Tam vương là Thánh nhân chăng? Đáp: Tam vương là những người khéo dùng trí và dũng, có phải Thánh nhân hay không thì Khâu này không biết. Hỏi: Ngũ Đế là Thánh nhân chăng? Đáp: Ngũ Đế là những người khéo dùng nhân và tín, phải Thánh nhân hay không thì Khâu này không biết. Hỏi: Tam Hoàng là Thánh nhân chăng? Đáp: Tam Hoàng là những người khéo dùng chánh Sư ï hợp thời, phải Thánh nhân hay không thì Khâu này không biết. Thái Tể thất kinh hỏi: Vậy ai là Thánh nhân? Phu Tử im lặng giây lát rồi đổi vẻ mặt và nói: Bậc ở phương Tây là Thánh nhân, ông ấy chẳng cần cai trị mà dân chẳng loạn, chẳng nói nhưng ai nấy đều tự tin, chẳng dạy mà ai nấy tự làm theo. Vòi vọi thay! Dân không thể lường biết người ấy được. Tề Thái Công Vọng: Còn có tên là Lã Thượng, người Đông hải. Ông vốn là họ Khương. Tổ tiên ông phụ giúp vua Vũ trị thủy, do có công nên được phong ở đất Lã. Văn Vương bói toán, quẻ bói hiện điềm tốt gấu bay. Vua đi săn bắn ở sông Vị và gặp ông. Vua thốt lên: Ta đợi ông đã lâu lắm rồi! Nhân đó vua gọi ông là Lã Vọng (đợi người họ Lã). Ông còn có tên là Vũ Sư . Sau khi đánh Trụ, ông được gọi là Thượng Phụ, được phong đất ở Doanh châu (nay là Thanh châu, Lâm truy). Đến khi Tiểu Bạch xưng Hoàn Công, ông mới được xưng Bá. Từ Thái Công xuống đến Đinh Công, Lã Hấp, Ất Công, Quý Công, Ai Công, Hồ Công, Hiến Công, Vũ Công, Lệ Công, Văn Công, Thành Công, Trang Công, Ly Công, Tương Công, Hoàn Công, Hiếu Công, Chiêu Công, Ý Công, Tuệ Công, Khoảnh Công, Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, Nhu Tử, Điệu Công, Giản Công, Bình Công, Tuyên Công và Khương thì bị Điền Hòa diệt. Tổng cộng ba mươi đời vua, trị vì bảy trăm bốn mươi bảy năm. Bấy giờ nhằm đời Chu An Vương thứ mười bảy. Những người như: Quản Trọng, Bào Thúc, Dung Thúc, Án Tử là những người sống trước và sau thời Cảnh Công. Trần Hồ Công Mãn: Họ Quy, là hậu duệ của Hữu Ngu. Xưa khi vua Thuấn còn làm thứ dân, vua Nghiêu gả hai người con gái đến đất Quy Nhuế, nhân đó mà lấy họ Quy. Sau khi Vũ Vương diệt nhà Ân, vua bèn đi tìm con cháu của vua Thuấn, cuối cùng tìm được ông Mãn, phong cho ông ở đất Trần để thờ tự Vua Thuấn, đó là Hồ Công. Từ Hồ Công xuống đến Thân, Hoàn, Hiếu, Thận, U, Ly, Vũ, Anh, Bình, Văn, Hoàn, Lệ, Trang, Tuyên, Mục, Cung, Linh, Thành, Ai, Tuệ, Hoài, Mẫn, cả thảy hai mươi ba đời vua, trị vì được sáu trăm năm mươi ba năm. Đời Chu Kính Vương thứ bốn mươi mốt bị Sở diệt. Tự Đông Lâu Công: Là con cháu của vua Vũ nhà Hạ. Thời nhà Ân có họ được phong, có họ bị diệt. Vũ Vương diệt nhà Ân xong, phong ông ở đất Tự, Trần Lưu (nay là huyện Ung châu). Từ Đông Lâu Công đến Giản Công Xuân, tổng cộng có mười chín đời vua, trị vì năm trăm ba mươi chín năm. Chu Định Vương năm thứ hai mươi bốn bị Sở Tuệ diệt. Tào Thúc Chấn Đạc: Con thứ sáu của Văn Vương, em của Vũ Vương, được phong ở đất Tào (Nay là huyện Định Đào, Tế Dương). Đến Bá Dương thì ông chỉ thích làm ruộng, săn bắn, bỏ bê chánh Sư ï. Sau đó thì Tào Bá bội ước với Tấn theo Tống. Từ Chấn Đạc xuống đến Thái Bá, Trọng Quân, Cung Bá, Hiếu Bá, Di Bá, U Công, Dực Bá, Cố Bá, Mục Công, Hoàn, Trang, Hy, Chiêu, Cung, Văn, Tuyên, Thành, Vũ, Bình, Điệu, Tương, Ẩn, Tónh, Bá, Dương, tổng cộng hai mươi sáu đời vua, trị vì sáu trăm bốn mươi lăm năm. Chu Kính Vương năm thứ ba mươi ba bị Tống Cảnh Công diệt. Sái Thúc Độ: Con thứ năm của Văn Vương, em của Vũ Vương. Sau khi diệt nhà Ân, vua phong cho Thúc Tiên ở đất Quản, phong cho Độ ở đất Sái. Vua sai hai ông cùng con vua Trụ là Vũ Canh (còn có tên là Lộc Phụ) cai trị số dân còn lại của nhà Ân. Từ Thúc Độ đến Hầu Tề có tổng cộng hai mươi bảy đời vua, trị vì được năm trăm hai mươi bảy năm. Đến đời của Chu Định Vương thì bị Sở tiêu diệt. Lỗ Chu Công Đán: Con thứ tư của Văn Vương. Sau khi Vũ Vương diệt nhà Ân, ông được vua phong đất ở nơi mộ của Thiếu Hạo (nay là huyện Tiên Nguyên, Duyên châu), nhưng ông không đến đó mà ở lại phụ giúp Vũ Vương. Sau khi Vũ Vương mất, ông phụ chánh cho Thành Vương. Ông sai con là Bá Cầm thay mình đến đất Lỗ. Ông thành thật bảo Cầm rằng: Ta là con của Văn Vương, em của Vũ Vương, chú của Thành Vương, đối với thiên hạ cũng đâu phải là hạng tiện dân, nhưng một lần tắm chỉ ba lần vuốt tóc, một bữa ăn chỉ ba lần nhai cơm, thức dậy là chờ kẻ só vì sợ mất những người hiền trong thiên hạ. Con đi qua đất Lỗ chớ có làm kẻ kiêu mạn của đất nước. Bá Cầm nghe dạy xong vâng lời cha đi qua đất Lỗ. Từ Bá Cầm xuống đến Khảo, Dương, U, Ngụy, Lệ, Hiến, Chân, Vũ, Ý, Bá, Ngự, Hiếu, Tuệ, Ẩn, Hoàn, Trang, Mẫn, Hy, Văn, Tuyên, Thành, Tương, Chiêu, Định, Ai, Điệu, Nguyên, Mục, Cung, Khương, Cảnh, Bình, Văn, Khoảnh, cả thảy ba mươi bốn đời vua trị vì chín trăm mười lăm năm. Đến Tần Trang Tương Vương năm đầu, bị Sở là Khảo Liệt Vương diệt. Thời Ẩn Công - Xuân Thu thì Ai Công mất, Ai Công năm thứ mười sáu thì Khổng Tử mất. Yên Triệu Công Thích: Cùng họ với nhà Chu, Vũ Vương diệt xong nhà Ân, ông được phong ở đất Yên. Thời Thành Vương, ông làm chức tam công, làm chủ vùng Thiểm tây, rất được lòng dân. Ông đi tuần thú đến Hương ấp, xỉa chân rơi xuống vực thẳm dưới cây Cam đường mà chết. Triệu chết, nhân dân thương nhớ ông không dám chặt cây Cam đường, mà làm Cam đường thi để tưởng nhớ ông. Từ Triệu Công xuống đến Chiêu, Tuệ, Vũ, Thành, Hiếu tổng cộng ba mươi bảy đời vua, trị vì được tám trăm chín mươi bốn năm, cuối cùng bị Tần Thủy Hoàng diệt. Thành Vương Tên là Tụng, con của Vũ Vương, đóng đô ở đất Lạc. Ông lên ngôi năm mười ba tuổi, quyền chính do Chu Công nắm giữ. Chu Công chế lễ làm ra nhạc, thiên hạ rất thái bình. Bảy năm sau ông trao quyền chánh lại cho vua. Ông bói xem thấy quẻ ứng đến ba mươi đời và bảy trăm năm, vua trị vì được bốn mươi bảy năm. Chu Công định lại lễ nhạc của vua tôi, được Thành Vương hết lời khen ngợi. Ông đặt ra Tam Công (Thái Sư , Thái phó, Thái bảo), Cữu Khanh ( 1. Thái thường: Coi về âm nhạc; 2. Quang lộc: Coi về bàn soạn, tiệc tùng; 3. Đại lý: Coi về hình luật; 4.Tông chánh: Coi về những người trong hoàng thân; 5.Thái phủ: Coi về kho, đụn; 6.Tư nông: Coi về việc trồng trọt; 7. Hồng lô: Coi về khách khứa; 8.Thái bộc: Coi về xe, ngực; 9.Vệ úy: Coi về việc sắp đặt.). Hai mươi bảy đại phu (có chín phẩm, mỗi phẩm có ba người), tám mươi mốt Nguyên só, định lại ngũ hình, lập ra thất miếu (bảy miếu). Kinh Lễ nói: Vua đặt ra Thiên tử thất miếu gồm Tam Chiêu , Tam Mục và Thái Tổ thì thành Thất miếu. Lời chú rằng: Đó là nhà Chu đặt ra. Thất miếu, gồm: Thái Tổ, Văn Diêu, Vũ Diêu cùng bốn thanh miếu. Thái Tổ tức là Xã tắc. Chiêu nghóa là sáng suốt, chỉ cho người giám sát những kẻ dưới. Mục nghóa là cung kính, chỉ cho người kính trọng người trên. Thái Tổ thì miếu ở hướng Tây, quay mặt về Đông. Tam Chiêu thì quay mặt về Nam. Tam Mục thì quay mặt về Bắc. Mục là đứng đầu trong tàng văn miếu. Chiêu đứng đầu trong tàng võ miếu. Lúc có cúng tế thì thỉnh ra để trên đàn mà tế. Văn Diêu, Vũ Diêu được tế trong triều. Thường thì được tế vào tháng đầu tiên của bốn mùa. Thời Ngũ đại thì Tổ là người lớn nhất được thờ trong Diêu, khi có cúng tế mới thỉnh ra để cúng, không cúng tế thì không thỉnh ra. Trong phép cúng tế có nói: Cúng tế có bốn mùa, tế vào mùa Xuân thì gọi là Thược bạc. Tế vào mùa Hạ thì gọi là Đế đệ. Tế vào mùa Thu thì gọi là Thường (nếm mùi vị của trăm thứ trái, hạt). Tế vào mùa Đông thì gọi là Chưng tiến (tiến dâng phẩm vật). Thiên tử thì tế trời đất, mỗi năm chín lần tế, trong đó có ba lần tế Trời, sáu lần tế Ngũ phương, Đại đế. Chư hầu thì tế Xã tắc. Đại phu thì tế Ngũ tự. Chư hầu có Ngũ miếu (Thái Tổ cùng Nhị chiêu và Nhị Mục). Đại phu có Tam miếu (Thái Tổ cùng Nhất Chiêu và Nhất Mục). Thích só, Quan, Sư có hai miếu. Thứ só có một miếu. Thứ dân không có miếu chỉ tế ở trong nhà. Tế Giao, tế Đế, tế Tổ, tế Tông (Tế Đế có Đế Khốc, Văn Tổ, Tế Văn Tổ ngang với Thái Tổ. Tế Giao có ông Tắc tế ngang với trời, tế Tổ là tế Văn Vương, tế Tông là cha ông tức Vũ Vương). Thành Vương tế ba lễ. (Tế trời gọi là tế, tế đất gọi là tự, tế người tế quỷ thần gọi là hưởng). Ông lập ra Minh đường (là cung để ban bố chánh Sự, ngoài rộng ba dặm, trong rộng bảy dặm. Đông Tây có chín chỗ ngồi, Nam bắc có bảy chỗ, Đông tây có chín gian, nam bắc cũng như vậy. Phần trên tròn biểu trưng cho trời, phần dưới vuông tượng trưng cho đất, tám cửa tượng trưng cho tám thứ gió, bốn cửa chính tượng trưng cho bốn mùa, chín gian tượng trưng cho chín châu, mười hai bậc thềm tượng trưng cho mười hai tháng, ba mươi sáu gian nhỏ tượng trưng cho ba trăm sáu mươi ngày, bảy mươi hai cửa sổ tượng trưng cho bảy mươi hai khí. bốn miếu chín gian, tổng cộng có mười ba vị trí). Ông chế ra các thứ trang phục như: Mũ miện, tua mũ, áo Cổn (áo lễ phục của vua). Mặt trời, mặt trăng, sao tượng trưng cho Sự sáng suốt. Rồng tượng trưng cho Sự biến hóa, biểu trưng cho Thánh đức. Hoa trùng (giống như con chim Tró) tượng trưng cho văn. Rau tảo (một loại cỏ sống dưới nước) tượng trưng cho Sựï thanh khiết. Bột gạo tượng trưng cho Sựï nuôi dưỡng người khác. Núi, quý trọng tính lặng yên mà không quý thế đứng. Lửa, quý trọng đến cái thần mà không quý cái tính lanh lợi. Hổ, vị, tượng trưng cho đức hiếu. Phủ (hình như cái búa thêu hoa nửa đen nửa trắng) biểu trưng cho Sư ï quyết đoán. Phát (hình giống hai chữ Dó áp lưng nhau thêu hoa nửa đen nửa xanh, biểu trưng cho khả năng biện bác. mười hai biểu tượng ấy được thêu trên lễ phục của vua. Ông lên ngôi năm Bính Tuất. Tắc Thần: Xưa con của họ Lệ Sơn tên là Quế rất giỏi trong việc trồng ngũ cốc. Trước thời vua Vũ nhà Hạ, các vua đều tế tự ông ngang hàng với Tắc thần. Từ đời Chu Công thì Hậu Tắc thay. Dọn đất làm thành, đắp đất làm thành, quỷ có nghóa là quy. Thỉ Thái Tổ Nguyên Khương Tiên Mẫn Phi Cung. Dời Tông chư tế hợp tế với để ở tiên Hậu đây vương Tắc Mục Văn Vương Là Thế Tổ thứ 14 của nhà Chu Chiêu Vũ Vương là Thế Tổ thứ 15 của nhà Chu. Cha của Mục Hoàng cũng gọi là Tằng Tổ Cha của Chiêu cũng gọi là Cao Tổ. Cha của Mục Thân gọi là Nỉ Bia Đình Cha của Chiêu Vương cũng gọi là Tổ. Bình Phong Từ nhà Chu trở về sau đều có tế tự. Tế tự người đầu tiên gieo trồng ngũ cốc để báo đáp công lao của ông. Ngũ cốc là đạo, lương, thúc, mạ, mạch. Từ đó mà phân thành trăm thứ lúa đậu. Bốn nước chư hầu: Tống, Tấn, Vệ, Sở, bốn nước được Thành Vương phong. Nước cùng họ với vua, người lớn nhất là Bá phụ, nhỏ nhất là Thúc phụ. Nước khác họ với vua, người lớn nhất là Bá cửu, người nhỏ nhất là Thúc cửu. Tống Vi Tử Khải: Anh thứ của vua Trụ, khi Vũ Vương diệt nhà Ân, Khải bèn đem đồ tế lễ bày ở trước cửa quân, cởi trần, cúi mặt, tay trái dẫn con dê, tay phải cầm cỏ tranh, quỳ lê tới trước, vì vậy Vũ Vương tha cho Vi Tử, phong cho con vua Trụ là Vũ Canh tế tự nhà Ân. Vũ vương sai Quản Thúc, Sái Thúc dạy dỗ Canh. Vũ Vương mất, Chu Công phụ giúp Thành Vương, nhà Ân trái lệnh vua giết chết Vũ Canh, rồi phong cho Khải thay Canh, đối nước nhà Tống (nay là Tuy Dương). Về sau đến Tương Công mới xưng bá. Từ Khải xuống đến Vi, Trọng, Khể, Đinh, Mẫn, Thang, Lệ, Ly, Tuệ, Tương, Đái, Vũ, Tuyên, Mục, Thương, Trang, Mẫn, Cô, Hoàn, Tương, Thành, Chiêu, Văn, Cung, Bình, Nguyên, Cảnh, Chiêu, Điệu, Phục, Tích, Biệt, Thành. Yển Công xưng vương dâm loạn vô đạo, chư hầu, cùng Tề, Ngụy, Sở đánh phạt và chia ba đất nước. Nhà Tống gồm ba mươi ba đời vua, trị vì tám trăm ba mươi năm. Bấy giờ là đời Chu Noãn Vương năm thứ ba mươi chín. Tấn Thúc Ngu: Tự là Tử Can, con của Vũ Vương, em của Thành Vương. Thành Vương thuở nhỏ cùng Thúc Ngu chơi đùa, Thành lấy lá ngô đồng làm Ngọc Khuệ đưa chu Ngu và nói: Ta phong Vương cho mày đấy! Lại hầu nhân đó mới xin Vũ chọn ngày lập Thúc Ngu làm vua. Vũ nói: Ta chỉ nói đùa mà thôi! Hầu nói: Vua đâu có nói chơi! Do đó bèn phong Ngu ở đất Đường. (Nay là họ Bì ở Hà Đông). Cao Thúc Ngu là Tiếp (đó là Tấn Hầu) đến khi Hiến Công diệt được nước Quắc thì mới lập đô. Sau này đến Văn Công Trùng Nhó mới xưng Bá. Từ Thúc Ngu xuống đến Tiếp, Vũ, Thành, Lệ, Tónh, Ly, Hiến, Mục, Thương, Văn, Chiêu, Hiếu, Ngạc, Ai, Mẫn, Hiến, Tuệ, Hoài, Văn, Tương, Linh, Thành, Cảnh, Lệ, Điệu, Bình, Chiêu, Khoảnh, Định, Xuất, Ai, U, Liệt, Hiếu, Tónh Công, cả thảy ba mươi sáu đời vua trị vì bảy trăm bốn mươi chín năm. Thời Chu An Vương bị Hàn, Ngụy, Triệu diệt. Vệ Khương Thúc: Con thứ chín của Văn Vương, em cùng mẹ với Vũ Vương. Thành Vương giao ông số dân thừa của nhà Ân cho ông nắm giữ, phong Khương Thúc làm vệ công, trú tại Hà kỳ (xưa là Thương khâu). Đến đời Nguyên Công thì dời qua huyện Dã vương (nay là Hà nội). Từ Khương Thúc xuống đến Khương, Bá, Hiếu, Tự, Khương, Tónh, Chân, Khoảnh, Ly, Cung, Vũ, Trang, Hoàn, Tuyên, Tuệ, Tân, Ý, Văn, Thành, Cung, Mục, Định, Hiến, Thương, Tương, Linh, Xuất, Trang, Ban, Khởi, Điệu, Kính, Chiêu, Hoài, Thận, Thanh, Thành, Bình, Công, Tự, Hoài, Nguyên, Quân, Giác cả thảy bốn mươi ba đời vua, trị vì chín trăm năm. Cuối cùng bị Tần Nhị Thế phế ngôi, Giác bị phế làm dân thường. Sở Hùng Dịch: Con cháu của Hiên Viên. Đến Quý Liên lấy họ Lao, thì con cháu sau này là Hùng Dịch. Thành Vương tiến cử những hậu duệ văn võ giỏi, nên Dịch được phong ở Sở man (nay là huyện Chi giang, Giang lăng). Đến đời Thân Quân thì dời đô về Thọ xuân. Từ Dịch đến Phụ Sô, cả thảy hai mươi lăm đời vua, trị vì bảy trăm tám mươi chín năm. Cuối cùng đất nước về tay nhà Tần. 2 4. Khương Vương: Tên là Chiêu, con của Thành Vương, Triệu Công, Tất Công nhận di lệnh của Thành Vương phải giúp đỡ ông. Hai đời vua trước, đất nước thái bình, không dùng hình hơn bốn mươi năm. Ông lên ngôi năm Quý Hợi, trị vì được năm mươi hai năm.