<經 id="n2025">SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY (QUYỂN 1 ~ 8) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY Quan Lễ bộ thượng thư Hồ Oánh, v.v… kính đề là Trùng San Thanh quy Sự Lễ Khoa Sao Xuất. Sa-môn Trung Trí trụ trì Đại trí thọ Thánh thiền tự ở núi Quy Sơn huyện Phụng Tân phủ Nam Xương ở Giang Tây tấu rằng: Chùa này từ thời Tiền Đường, Thiền sư Phật tổ Đại Trí Hoài Hải dạy răn, gọi là “Bách Trượng Thanh quy”. Khoảng niên hiệu Chí Nguyên 1.Sa-môn Đức Huy lại san định lại, lưu hành khắp các Tòng lâm trong nước. Chúng Tăng vẫn giữ theo Thanh quy. Ngày 25 tháng 04 niên hiệu Hồng Võ thứ mười lăm (1 3 8 2), Tiết Cai vâng phụng Bảng lệ Thánh chỉ của Thái Tổ Cao Hoàng Đế (Chu Nguyên Chương 1 3 6 8- 1399) Đời Minh, chư Tăng các chùa chẳng vào Thanh quy thì dùng đúng pháp trói buộc, chăm chú tôn kính. Ngày mồng 03 tháng 05 niên hiệu Vónh Lạc thứ mười (1 4 1 2), Tiết Cai vâng phụng Bảng lệ Thánh chỉ của Thái Tông Văn Hoàng Đế (Thành Tổ (Chu Lệ 1 4 0 3 - 1 4 2 5) đời minh), chư Tăng chuyên vâng theo cựu chế, gọi là chuyên vụ Tổ phong kính giữ Thanh quy, nghiêm khiết thân tâm. Ngày 27 tháng 11 niên hiệu Vónh Lạc, năm thứ hai mươi hai (1 4 2 4) đời Minh, Cai Tăng lục ty quan tâu: “Trong Tăng chúng có nhiều vị chẳng giữ quy củ, không y theo Thanh quy chỉnh trị”. Tiết Cai vâng theo Thánh chỉ của Nhân Tông Chiêu Hoàng Đế (Chu Cao Chức 1 4 2 5 - 1426 đời nhà Minh), Chiếu y Thanh quy liệu trị kẻ khác kính đây, ngoài kính vâng. Gần đây, nhân thư bản Thanh quy của chùa này bởi năm tháng lâu xa nên chẳng còn, kính mong Hoàng thượng ban Ân phổ độ Tăng hành trong Thiên hạ, vẫn trụ chùa viện nguyên ngạch huân tu hướng hỏa, cầu chúc Thánh thọ. <大>卐 1 Phải biết niên đại của Ngài Đức Huy mới xác định rõ Thần thật thấy Tăng đồ hậu học phần nhiều chưa thấy Thể lệ Thanh quy, không biết quỹ độ, chẳng am tường giới luật, rất nhục Tổ phong, rất là chưa tiện. Thần y theo nguyên thể thức Biên ghi lại khắc đã hoàn thành, tuy có văn Tựa của các triều đại, niên đại đã lâu xa, thật sợ Tăng đồ xem thấy cho là việc thường mà chẳng thực hành vâng giữ. Nay đem Trùng san Thanh quy in tập một bản, khai tọa đủ bản thân mang đến kính cẩn tấu. Cúi mong Thánh ân xót thương giáo môn, xin ban văn tựa Thanh quy, khắc sách viên thành, ban hành khắp tòng lâm chùa viện trong thiên hạ. Các vị Trụ trì, Thủ Tăng, đốc chúng, giảng tập, đều kính mến Tổ phong, nghiêm trì giới luật, ngõ hầu khiến Tăng đồ không tổn thương phong hóa. Ngày 12 tháng 02 niên hiệu Chánh Thống năm thứ bảy (1 4 4 2) đời Minh, gồm thông chính sứ ty, Hữu thông chính Lý Tích, v.v… các quan ở Phụng Thiên môn tấu vâng Thánh chỉ. Lễ bộ tri đạo Khâm, Khâm này vâng sao ra đến bộ tham chiếu. Sa-môn Trung Trí trụtrì tấu xưng Trùng san Bách trượng Thanh quy, xin ban Văn Tựa một tiết, hợp Vô Hành đời Hàn lâm viện soạn thuật. Lại chỉ nghe lệnh Bản Tăng tự hành xin người thuật làm duyên vâng kính y Lễ bộ nhận biết sự lý, chưa dám chuyên chiếm bèn kính cẩn đề thỉnh ý chỉ. Ngày 19 tháng 02 niên hiệu Chánh Thống năm thứ bảy (1442 đời Minh), Lễ bộ thượng thư Hồ Oánh, v.v… các quan ở Phụng Thiên môn đề tấu, kính dâng lời tựa Thánh chỉ soạn thuật, Hàn lâm viện soạn kính đây trừ ngoài vâng y thi hành. Ngày 17 tháng 04 niên hiệu Chánh Thống năm thứ bảy (1 4 4 2). Trường sanh Thiên khí lực lý, Đại phước ấm hộ trợ lý. Thánh chỉ của Hoàng đế, Hành trung thư tỉnh hành Ngự sử đài hành tuyên chính viện quan nhân mỗi căn để, Tuyên úy ty liêm phỏng ty quan nhân mỗi căn để. Quân quan mỗi căn để, quân nhân mỗi căn để. Thành tử lý đạt lỗ hoa xích quan nhân mỗi căn để, Sứ thần qua lại mỗi căn để, Trăm họ mỗi căn để, các Hòa-thượng mỗi căn để. Thánh chỉ của Tuyên dụ: Thành Cát Tư Hoàng đế, Nguyệt Khoát Đài Hoàng đế, Tát Thiền Hoàng đế, Hoàn Giả Đốc Hoàng đế, Khúc Luật Hoàng đế, Phổ Nhan Đốc Hoàng đế, Cách Kiên Hoàng đế, Hốt Đô Đốc Hoàng đế, Trát Nha Đốc Hoàng đế, cùng Liễu Chân Ban Hoàng đế, Hòa-thượng trong Thánh chỉ. Lý có thể ôn Tiên sanh thường chẳng chọn gì? Sai phát Hưu đương (?) cáo trời chúc thọ, là đạo gì? Nói có Như lai, nay y trước thuật tại trong Thể lệ Thánh chỉ trước, chẳng chọn gì? Sai phát Hưu đương cáo trời cùng mình thường chúc thọ, là đạo gì? Trát Nha Đốc Hoàng đế giáo khởi bởi thời phần của chùa Đại long Tường tập Khánh, y trước thuật Thể lệ Thanh quy mà hành, là đạo gì? Từng hành Thánh chỉ, có Thiền sư Đại Trí Chiếu Giác ở Bách Trượng đường thuộc Long Hưng, Giang Tây tại trước lập thể lệ Thanh quy lại, những năm gần đây, trong mỗi chùa dùng nhiều thể lệ Thanh quy, thêm bớt chẳng đồng nhất. Có như nay giáo Trưởng lão Đức Huy trụ trì Đại trí Thọ Thánh thiền tự tại núi Bách Trượng lại mới biên xong. Giáo trưởng lão Tiếu Ẩn ở chùa Đại Long tường Tập Khánh làm đầu, tuyển chọn các Hòa-thượng có Bản sự, khéo sanh Hiệu chính quy nhất là, đem nhiều Thanh quy thêm bớt chẳng đồng nhất trong các chùa, Hữu giáo hành, y soạn thuật thể lệ Thanh quy hiệu chính quy nhất đó định thể hành, là Đạo gì? Nắm giữ Thánh chỉ ban xong, Sứ thần trong mỗi chùa viện phòng xá thường nghỉ an dưới đó, bày ngựa cầu ứng thôi bắtù, thuế lương thôi nạp, chỉ thuộc vườn rừng đất nước nhà chùa, nhân khẩu thứ lớp nghiền mài quán bày mở Điển khố nhà tắm, vườn trúc, sân núi, bến sông, thuyến bè v.v… chẳng chọn là ai? Thôi đoạt yếu, là thôi cậy khí lực, loại ấy tuyên dụ xong, mắng người rõ riêng, cốt yếu tội lỗi, lại thường có Thánh chỉ đó, Đạo gì làm mất Thể lệ câu đương mắng kẻ khác thường, lại chẳng sợ Thánh chỉ. Ngày 18 tháng 07 niên hiệu Trư Nhi (Ất hợi) tức niên hiệu Nguyên Thống năm thứ ba (1335 đời Nguyên), Thượng Đô có thời phần biên chép đến, trong Thánh chỉ Hoàng đế, Đế sư Công Ca Nhi Lam tặng ban tạng bốc, Pháp Chỉ Hành trung thư Tỉnh hành Ngự sử Đài hành tuyên chính viện quan nhân mỗi căn để. Tuyên úy ty liêm phỏng ty quan nhân mỗi căn để, Quân quan mỗi căn để, Quân nhân mỗi căn để, Thành tử Lý đạt lỗ Hoa xích quan nhân mỗi căn để, Sư thần vãng lai mỗi căn để, Bản Địa diện quan nhân mỗi căn để, trăm họ mỗi căn để, các Hòa- thượng mỗi căn để, coi xét pháp chỉ của Dụ, Trác Nha Đốc Hoàng đế, bởi thời phần của chùa Đại Long tường tập Khánh, giáo y soạn thuật thể lệ Bách trượng Thanh quy hành xong. Thánh chỉ có lại Thanh quy, là Thiền sư Đại Trí Giác Chiếu ở núi Bách Trượng lập năm trăm năm trước nay, như nay, vị trên thêm sư hiệu là Hoằng Tông Diệu Hạnh. Lại vì trong các chùa những năm gần đây đem dung nhiều Thanh quy thêm bớt chẳng đồng nhất. Giáo trưởng lão Đức Huy ở núi Bách Trượng lại mới biên xong, Giáo trưởng lão Tiếu Ẩn ở chùa Long Tường hiệu Chính quy nhất, Định thể hành đó, cầm Thánh chỉ ban xong, Hoàng đế làm Thượng Đầu của giáo môn, giáo y soạn thuật thể lệ Thanh quy của Hiệu chính quy nhất đó định thể hành, là đạo gì? Là cần các Hòa-thượng trong thiên hạ thường được một ban của tế. Các vị Hòa-thượng thường thể đắp mặc Thánh tâm Hoàng đế, làm rạng ngời Tam bảo, khéo sống vâng giữ Thanh quy, tu tập hành đạo, chuyên cùng vị trên cầu phước chúc thọ, báo đáp Thánh ân, mở mang Phật pháp, bất luận là ai. Thôi liễu biệt đó, thấy rõ pháp chỉ người thường rõ biệt, chẳng sợ pháp chỉ nào. Ngày 11 tháng 04 niên hiệu Thử Nhi, trong Đại đô Đại tự có thời phần biên chép đến, trong Thánh chỉ của Hoàng đế, Hành tuyên chính viện, y cứ viện Tuyên chính thưa hỏi, y cứ trạng văng của Sa-môn Tử Trọng, cáo hệ Tri sự Tăng ở thiền tự Đại Trí Thọ Thánh núi Bách Trượng đường Hưng Long, Giang Tây. Ngày 18 tháng 07 niên hiệu Nguyên Thống thứ ba (1335 đời Nguyên), Trưởng lão Đức Huy Trụ trì chùa này khâm thọ ngự bảo Thánh chỉ tiết cai, thể lệ Thanh quy của Thiền sư Đại Trí Giác Chiếu ở Bách Trượng đường Hưng Long, Giang Tây lập trước, những năm gần đây, trong các chùa dùng nhiều thể lệ Thanh quy, thêm bớt chẳng đồng nhất. Có như nay giáo Trưởng lão Đức Huy Trụ trì thiền tự Đại Trí Thọ Thánh ở núi Bách Trượng mới biên lại xong, giáo Trưởng lão Tiếu Ẩn chùa Tường Tập Khánh ở Đại Long làm đầu, tuyển chọn các Hòa-thượng có bản sự, khéo sinh hiệu chính quy nhất, đem nhiều Thanh quy thêm bớt chẳng đồng nhất trong các chùa, thời giáo hành y soạn thuật thể lệ Thanh quy hiệu chính quy nhất ấy, định thể hành. Là đạo gì? Nắm giữ Thánh chỉ ban cho xong, kính đây trừ kính vâng. Ngoại duyên hệ đều tỉnh mở đọc sự lý, kính ghi toàn văn Thánh chỉ, liền cáo trước xin thi hành, được chiếu này thì được. Ngày mùng 07 tháng 05 niên hiệu Nguyên Thống năm thứ ba (1335 đời Nguyên), A Sát Xích Khư tiết, ngày thứ hai, tam cát-đát-nạp- bát-lý có thời phần, đối thoát biệt đài Bình chương khoát chi cát tư, Bình chương A-lỗ-hôi, viện sứ cử lý học só, v.v… Bất lan hề đại tư đồ căn để tát địch trung thừa, Truyền phụng Thánh chỉ, thể lệ Thanh quy do Thiền sư Đại Trí Giác Chiếu ở Bách Trượng, đường Long Hưng, Giang Tây lập trước nay, những năm gần đây trong các chùa dùng nhiều thể lệ Thanh quy, có thêm bớt. Có như nay giáo Trưởng lão Đức Huy Trụ trì chùa Bách Trượng, mới biên lại xong, giáo Trưởng lão Tiếu Ẩn chùa ở Tường Tập Khánh Đại Long làm đầu, tuyển chọn các Hòa-thượng có bản sự, khéo sinh hiệu chính quy nhất, cùng định thể nắm giữ thực hành Thánh chỉ. Lại, căn để Thiền sư Đại Trí Giác Chiếu ở Bách Trượng, ban thêm sư hiệu là Hoằng Tông Diệu Hạnh, viện Tuyên chính hành văn thư cùng từ đầu tuyên mạng, là đạo gì? Thánh chỉ xong vậy, kính đây trừ Từ Đầu Tuyên mạng, trình đủ Trung thư coi xét rõ ngoài, y cứ Thánh chỉ, dời giao Mông Cổ phòng y cứ thực hành, Hàn lâm viện kính y ban giáng bên ngoài. Nay căn cứ thấy cáo đương viện, trừ ngoài kính ghi lục văn Thánh chỉ tại trước, hợp hành thưa hỏi, chiếu nghiệm khắp hành hợp thuôïc, kính y thi hành theo đây. Trừ ngoài kính ghi lục đoàn văn ở trước. Sứ viện hợp cúi ngước chiếu nghiệm. Kính y thi hành, phải bàn nghị đáp giao cho. Trên đây là đáp giao Trưởng lão Đức Huy ở chùa Thiền Đại Trí Thọ Thánh núi Bách Trượng, y theo đây. Chữ Mông Cổ một hàng. Ngày….. tháng…. năm niên hiệu Chí Nguyên thứ hai (1336 đời Nguyên). MỤC LỤC SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY Thần Tăng Đức Huy Trụ trì chùa Thiền Đại Trí Thọ Thánh vâng sắc biên chép lại. Thần Tăng Đại Tố Trụ trì chùa Tường Tập Khánh ở Đại Long vâng sắc Hiệu Chính. <詞>Quyển thượng: Chương thứ nhất: Chúc ly. Thánh tiết Bốn ngày trai cảnh mạng chúc tán Đán vọng tạng điện chúc tán Mỗi ngày chúc tán Thiên thu tiết Thiện nguyệt. Chương thứ hai: Báo Ân. Quốc kî Cầu nguyện Cầu tạnh Cầu mưa Cầu tuyết Đạo Hoàng Nhật thực Nguyệt thực Chương thứ ba: Báo Bản. Phật giáng đản Phật thành đạo, Niết-bàn Đế sư Niết-bàn. Chương thứ tư: Tôn tổ. Đạt-ma kî Bách Trượng kî Khai sơn lịch đại tổ kî Tự pháp sư kî. Chương thứ năm: Trụ trì. Trụ trì nhật dụng: Thượng đường Vãn tham Tiểu tham Cáo hương Phổ thuyết Nhập thất Niệm tụng Tuần liêu Túc chúng Huấn đồng hành Vì hành giả phổ thuyết Thọ pháp y Đón hầu tôn túc Thí chủ thỉnh thăng tòa trai Tăng Thọ tự pháp nhân tiễn điểm Tự Pháp sư gửi thư đến. Thỉnh Tân Trụ trì: Phát chuyên sứ Đương đại Trụ trì thọ thỉnh. Thọ thỉnh thăng tòa. Chuyên sứ đặc làm tân mạng tiền điểm. Sơn môn quán đãi tân mạng và chuyên sứ, tân mạng từ chúng thượng đường trà thang, Tây đường. Đầu thủ thọ thỉnh. Người thọ thỉnh thăng tòa. Chuyên sứ đặt làm người thọ thỉnh tiễn điểm, Sơn môn quán đãi người thọ thỉnh và chuyên sứ. Người thọ thỉnh từ chúng thăng tòa trà thang. Nhập viện: Sơn môn thỉnh tân mạng trai Khai đường chúc thọ Sơn môn đặc làm tân mạng trà thang Đương vãn tiểu tham Vì đàn việt xây chùa, thăng tòa Quán đãi chuyên sứ Lưu thỉnh lưỡng tự Báo tạ xuất nhập Giao cắt châm cơ các vật Thọ lưỡng tự cần cựu tiễn điểm. Thối viện. Thiên hóa (thị tịch). Nhập khám Thỉnh chủ tang. Thỉnh tang ty chấp sự Hiếu phục Phật sự Dời khám Quải chân cử ai điện trà thang Đối linh tiểu tham điện trà thang niệm tụng cúng tế Tế thứ Xuất tang quải chân điện trà thang. Trà-tỳ Toàn thân nhập tháp Xướng y Linh cốt nhập tháp Hạ di thư Quán đãi chủ tang và người chấp sự tang ty. Đề nghị cử Trụ trì: <詞>Quyển hạ. Chương thứ sáu: Lưỡng tự Tây tự đầu thủ Tiền Đường thủ tọa Hậu Đường thủ tọa Thư ký Tri tạng Tri khách Tri dục Tri điện Thị giả Thị giả Y bát Thị giả thang được Thị giả Thánh Tăng Đông tự tri sự: Đô giám sự (tự) Duy-na Phó tự Điển tọa Trực tuế Liệt chức tạp vụ: Liêu nguyên Liêu chủ phó liêu Diên thọ đường chủ Tịnh đầu Hóa chủ Viên chủ Ma chủ Thủy đầu. Thán đầu. Trang chủ. Các trang giám thâu Thỉnh lập Tăng thủ tọa Thỉnh danh đức thủ tọa Lưỡng tự tấn thối Lúc Quải bát, thỉnh tri sự Thị giả tấn thối Liêu xá giao cắt các vật Phương trượng đặt làm tân cựu lưỡng tự thang Đường ty đặt làm tân cựu thị giả thang trà Khố ty đặt làm tân cựu lưỡng tự thang dược Đường ty tống cựu thủ tọa đô tự bát vị. Phương trượng quán đãi tân cựu lưỡng tự Phương trượng đặc làm tân thủ tọa trà. Tân thủ tọa đặt làm hậu đường đại chúng trà Trụ trì thăm hỏi Đầu thủ điểm trà Lưỡng tự giao đại trà Nhập liêu xuất liêu trà Đầu thủ đến Tăng đường châm trà Lưỡng tự xuất ban dâng hương Chương bảy: Đại chúng Sa-di đắc độ. Tân giới tham đường Đăng đàn thọ giới. Hộ giới Nói về đạo cụ: Ba y Tọa cụ Thiên sam Quần Trực chuyết Bát Tích trượng Chủ trượng Phật tử Sổ châu Tịnh bình Đãy lọc nước Giới đạo. Trang bao Du phương tham thỉnh Đại tương khán Đại quải tháp quy đường Tiểu quải tháp quy đường Tây đường thủ tọa quải tháp Danh thắng các phương quải tháp Pháp quyến biện sự quải tháp Phao hương tương khán Tạ quải tháp Phương trượng đặc vi tân quải tháp trà Khố ty đầu thủ, phụ xem Ngồi thiền Nghi thức ngồi thiền Tọa tham Đại tọa tham Thỉnh ích Phó trai chúc Phó trà thang Phổ thỉnh Nhật dụng quỹ phạm Văn Quy kính (cảnh) Bệnh Tăng niệm tụng Vong Tăng (Tăng viên tịch) Sao đáp y bát Thỉnh Phật sự. Cổ y Đại dạ niệm tụng Tống vong trà tỳ Xướng y Nhập tháp. Nghi thức bản trướng Chương tám: Tiết lạp Trước hạ xuất thảo đơn Người tân quải tháp châm trà nhập liêu Xuất đồ trướng Chúng Liêu kết giải đặc làm chúng thang - Phụ: Lập tán Lăng Nghiêm Hội Lăng Nghiêm Bia giới lạp. Phương trượng tiểu tọa thang Tứ tiết Thổ Địa đường niệm tụng. Khố ty tứ tiết đặc làm thủ tọa đại chúng thang Kết chế lễ nghi Tứ tiết bỉnh phất Phương trượng tứ tiết đặt làm thủ tọa đại chúng trà. Khố ty tứ tiết đặc làm thủ tọa đại chúng trà Tiền Đường tứ tiết đặc làm Hậu Đường đại chúng trà Đán vọng tuần Đường trà Phương trượng châm trà hành đường Khố ty đầu thủ châm trà hành đường Nguyệt phân phải biết. Chương thứ chín: Pháp khí Chung (chuông) Chuông lớn Chuông Tăng đường. Chuông ở điện Bảng Mộc ngư (mõ) Dùi Khánh. Nạo bạt Cổ (trống) Trống pháp Trống trà Trống thọ trai Trống phổ thỉnh Trống tắm gội Trống sang canh. Các tác phẩm phụ Bàu Minh trên tháp Tổ sư Bách Trượng Bách Trượng sơn thiên hạ sư biểu các ký Bài tựa Thanh quy cổ Bài tựa Thanh quy Sùng Ninh Bài tựa Thanh quy Hàm Đôn Bài tựa Thanh quy Chí Đại Văn nhật dụng hàn huyên. Mục lục sắc tu Bách Trượng Thanh quy - Hết. ------------------------------------ SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY Thần Tăng Đức Huy Trụ trì Thiền tự Đại Trí Thọ Thánh vâng sắc biên tập lại. Thần Tăng Đại Tố Trụ trì chùa ở Tường Tập Khánh Đại Long vâng sắc hiệu chính. <卷>QUYỂN 1 CHƯƠNG THỨ NHẤT: CHÚC LY Điều con người quý trọng là ở Minh Đạo cho nên từ xưa các bậc Thánh quân sùng kính giáo của bậc Thánh phương Tây ta, chẳng dùng thế để tiếp đãi chúng tôi, là tôn đạo đó. Cung kính chỉ Quốc triều may gặp rất lớn, đặt bỏ thuế dịch khiến an ở điện, mà mong dốc hết lực ở đạo. Thánh ân rộng lớn, đất trời chẳng cùng, hẳn là ngộ rõ Phật tánh để về với chí thiện, phát huy diệu dụng để vượt nơi chí thần. Dẫn dân ở hóa của vô vi, lên đời ở vực của nhân thọ. Do đó, báo đáp quân vương, là nay chúng tôi phải tận tâm. Như thấy các nhật dụng thì sớm tối hẳn cầu chúc, một bữa cơm chẳng quên mà còn ở quỹ độ! <詞>THÁNH TIẾT Kính gặp Thánh tiết thì trước chẳng lập đạo tràng Kim Cương Vô Lượng Thọ, suốt một tháng Tăng hành không cấp giả bày kính. Trước một ngày lập, Đường ty chuẩn bị bảng bày bên phải tam quan, và kinh đón thượng điện (thể thức xem sau), đều dùng giấy màu vàng để viết, luân sai Tăng bộ y theo thứ tự giới lạp, đều viết tên hai chữ. Trước năm ngày, Duy-na đưa giấy, hành giả Đường ty mang đến thư ký (Liêu thông báo thư ký ra tiếp, Duy-na tiếp lễ) một lạy, thưa rằng: “Thiết lập Thánh tiết phiền chế lời sớ, nếu thư ký thiếu, thì thị giả thư trạng thay thế. Nếu cũng thiếu thì lời sớ hiện thành.” (Xem ở sau). Thư ký chế xong, đầy đủ bản thảo trước trình Trụ trì, đích thân đưa đến Đường ty, tiếp lễ một lạy tiếp lễ trước, Duy-na dùng giấy màu vàng viết sớ, hành bộc mang, bưng mâm khăn lò đốt hương liên tiếp, lên phương trượng thỉnh Trụ trì kiểm sớ. Đốt hương tiếp lễ một lạy, thưa rằng: “Thiết lập Thánh tiết, xin Hòa-thượng kiểm sớ”. Kiểm xong, hành giả đến lại Trụ trì, sáng sớm hôm sau, trên điện thiết lập tụng kinh, vẫn báo các liêu treo bảng tụng kinh. Thị giả đốt hương trở lại Trụ trì. Sáng sớm hôm sau, thượng đường đến canh năm, Trụ trì hành hương trở về. Lại đến lúc dùng cháo xong, thượng đường bảo khách đầu treo bảng thượng đường. Duy-na ở nơi Tăng đường, sau tiếng chùy dùng cháo sáng xong, lại đánh một tiếng chùy, thưa rằng: “Bạch đại chúng! Dùng cháo xong, nghe tiếng khánh, các vị đều đầy đủ oai nghi, đến điện Đại Phật, thiết lập Thiên thọ Thánh tiết, kính bạch”. Lại đánh một tiếng chùy, đến trước Trụ trì thăm hỏi, theo bảng thủ tọa khởi tuần đường một vòng, ra ngoại đường từ gian dưới đến gian trên, trở về khoảng giữa nội đường, thăm hỏi mà ra. Sau dùng cháo dừng nghỉ chốc lát, đợi nơi Đại điện bày đủ hương đèn, trà nóng, nạo bạt, thủ lư, v.v… Hành giả Đường ty báo khách đầu phương trượng, trước đến Trụ trì, kế đến thị giả, đánh bảng ở phương trượng, đánh ba tiếng trống. Hành giả Đường ty dự đánh ba tiếng bảng trước liêu chúng, nhóm chúng ngồi tại Đường, như bình thường ngồi thiền ngồi hướng về bên trong, trống đánh thì xoay thân ngồi hướng về bên ngoài. Đầu thủ trước tập bên ngoài Đường đợi trống gióng thì vào Đường. Thủ tọa vào sau đến chỗ ngồi, Tây đường cần Cựu mông đường các liêu đều ngồi bên ngoài Đường. Lúc tiếng trống đầu mới gióng, Trụ trì ra ngồi ở nhà ngủ, thị già thăm hỏi đứng ở phía Đông, hành giả thăm hỏi đứng ở phía Tây. Trống chuyển, thị giả đến bên trái pháp tòa đứng đợi chúng nhóm họp. Đầu Thủ ở dưới giường, Thánh Tăng thăm hỏi trước, lãnh chúng ra đường đến trước pháp tòa, xếp một hàng thăm hỏi trở về Tây tự đứng, đại chúng bày xếp ở sau. Nếu chẳng đợi Đầu Thủ đến thì trước tự đứng, định phi pháp. Hành đường đó cũng lúc trống gióng, đánh ba tiếng bảng, Tham đầu lãnh chúng hành giả, xếp trước khố đường tương đối bày đứng, đợi trống chuyển. Tri sự ra thì chào hỏi theo sau đó. Đợi Tây tự trở về vị trí xong cũng xếp một hàng chào hỏi trước tòa. Thượng thủ ở sau. Đôi tự dẫn về dẫn về Đông tự lập định, chúng hành giả xếp sau tri sự, đứng cách hơi xa, đợi thị giả vào thỉnh Trụ trì ra, hành giả thăm hỏi, Trụ trì đến trước pháp tòa, hành giả đến gần đứng sau tri sự. Tháng mùa Đông thì chúng bỏ mũ khăn thưa hỏi. Trụ trì cung kính lên tòa, thị giả theo lên pháp tòa, dùng hạp hương đựng đầy bưng lên. Trụ trì nguyện hương chúc thọ xong, Thị giả tiếp hương dùng tay trái cắm vào lò, tay phải nhón theo một nén hương, lược thưa hỏi xuống tòa trở về ban. Đợi Trụ trì thúc ý ngồi yên, Thị giả trước tại cuối ban dẫn qua dưới tòa xếp một hàng chào hỏi, đốt hương. Thị giả dẫn ban trở về vị trí. Kế là, thủ tọa lãnh ban ra xếp trước tòa chào hỏi, đại chúng đồng chào hỏi. Tri sự chuyển ban xếp trước tòa chào hỏi, hành giả theo chào hỏi. Tây đường, Đông đường ra dưới tòa chào hỏi. Thị giả lên tòa, tay trái dâng hương, xoay mình nâng tọa cụ thăm hỏi (đó gọi là thay thế chúng thỉnh pháp), thối lui đứng bên cạnh tòa, hỏi đáp xong, tỏ bày sự ý nói (ngày nào tháng nào), gặp ngày vía thiên thọ, chùa mỗ dự vào ngày nào tháng nào thiết lập đạo tràng Kim Cương Vô Lượng Thọ, trọn một tháng xoay vần chư Tăng lên điện mở xem kim văn, nay lúc khai mở, thần Tăng là mỗ Trụ trì lên đến tòa này, nâng đệ nhất nghóa Thánh đế, góp nhặt nhân lớn, chánh vì cầu chúc Thánh thọ vạn an!). Nói pháp xong, bạch rằng: “Hạ tọa! Đều đầy đủ oai nghi đến Điện Đại Phật, thiết lập Thánh tiết Thiên thọ, kính bạch!” Ngày ấy, Hạ tọa tuy có Quan viên cũng chẳngđược từ chối, bởi tôn kính quân vương. Đánh chuông lớn và chuông trước Tăng đường, nhóm chúng xếp trên điện hướng về Phật bày đứng, Trụ trì dâng trà nóng, Thượng thủ tri sự thay nhau dâng. Thỉ giả đốt hương đến trước tòa Phật, Hạ trà nóng xong, Trụ trì trở về vị trí lập định, hành giả khua nạo bạt, Duy-na xoay mình trước lò, tiếp Trụ trì dâng hương, thị giả đốt hương bưng hương liên tiếp. Kế Đông đường, Tây đường ra ban dâng hương (nếu có Trụ trì các chùa khác tình cờ đến, thì bảo Thị giả thưa thỉnh dâng hương trước lưỡng tự). Kế, lưỡng tự đối ra, hướng về Phật chào hỏi, dâng hương xong, lưỡng tự cùng chầu, xoay mình trở về vị trí. Đại chúng đồng lạy ba lạy, lưỡng tự phân ban đối lập, Trụ trì đến quỳ, tri khách quỳ dâng thủ lư, thị giả quỳ dâng hộp hương. Duy-na bạch Phật tuyên sớ xong, Tri khách quy tiếp lò, Trụ trì thâu tọa cụ, Duy-na xướng tụng chú Lăng-nghiêm. Hồi hướng rằng (phúng tụng bí chương gom nhặt nhân lớn, chánh vì cầu chúc Hoàng đế hiện nay Thánh thọ vạn an, Kim Cương Vô Lượng Thọ Phật, v.v…). Xong, chúng giải tán, mỗi ngày hành giả Đường ty xoay vần sai Tăng bộ, phải dự trước một ngày thỉnh Trụ trì đầu thủ chúng Tăng, đều ghi tên hai chữ kiểm ký, lượng chúng ít nhiều, y theo giới lạp đầy đủ biên ghi sai đơn, bày định ngày phân, đến cùng rồi trở lại đầu, vẫn xếp kinh mục, niêm yết trên trụ trong điện. Đến ngày đều chuyên nghiêm túc, đánh chuông lớn lên điện, đáng thứ hạng Tăng viên phải đủ oai nghi, hộp hương lễ Phật, trở về vị trí xem kinh, khố ty nghiêm bày lò hương, chuẩn bị điểm tâm, Duy-na đốt hương, châm nước nóng chiếu phất, đến chiều tối, đánh chuông lớn, xuống điện. Hành giả Đường ty và hành giả Trực điện thường xuyên dò xét không để biếng lười. Như quan viên vào chùa nguyện hương, đánh chuông nhóm chúng, tụng chú Vô Lượng Thọ, niệm hiệu Dược Sư, xong hồi hướng rằng: “Xứ nọ, quan nọ vào chùa lễ lạy niệm hương, Tăng chúng niệm tụng Bí chương, vun bồi nhân lớn, chánh vì cầu chúc Hoàng đế hiện nay Thánh thọ vạn an. Kim Cương Vô Lượng Thọ, v.v… Trong tiết gặp ngày mồng ba mồng tám, niệm tụng ở điện Phật, đến ngày trai hoàn tất, hành giả Đường ty đến Trụ trì Lưỡng tự và các liêu treo bảng niệm tụng, báo chúng tham tiền đi tuần hành lang đánh bảng, nhóm chúng hướng về Phật bày đứng. Trụ trì đến, đánh bảng lớn ba tiếng, kế đánh chuông lớn, đốt hương, trở về vị trí, Duy-na ra ban, niệm tụng rằng: “Hoàng phong mãi thổi Đế đạo vang va Mặt trời Phật càng sáng Pháp luân thường xoay. Vì duyên như trên Niệm pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô-giá-na Phật mười lần xong, Hồi hướng từ trước Đến đây niệm tụng Vun bồi nhân lớn Chánh vì cầu chúc Hoàng đế hiện nay Thánh thọ vạn an Kim Cương Vô Lượng Thọ, v.v…” Đánh ba tiếng chuông trước Tăng đường, đại chúng hỏi thăm mà giải tán. Hoặc Trụ trì đến các đạo tràng quận huyện, v.v… lúc trở về, đánh chuông nhóm chúng trước cửa, nghinh đón phương trượng thưa hỏi. Thiết lập hay giải tán Thánh tiết, theo Thanh quy xưa chép, Đường Tăng Đường ty cấp do, tạm đến khách ty cấp do tùy thân chiếu chứng. Bởi thời xưa, Tăng đạo hằng năm căng màn một lần nạp miễn tiền đinh. Quan cấp do làm Bằng, nên ngoài đạo cụ Du phương, Độ điệp, còn có Do miễn Đinh mỗi năm, có do tọa hạ xứ nào, có do thiết bày giải tán Thánh tiết để chuẩn bị cật hỏi, đều cũng lo sợ cẩn thận, nay tuy chẳng dùng, nhưng vẫn còn việc đó để thấy thời xưa. * Thể thức bảng màu vàng. “Châu nọ, phủ nọ, chùa nọ, ngày nọ, tháng nọ, kính gặp Thánh tiết Thiên thọ, Bản tự dự ngày nào đó tháng nầy, cung kính đến Điện Đại Phật thiết lập đạo tràng Kim Cương Vô Lượng Thọ, suốt một tháng luân phiên chư tăng lên điện mở xem chân thuyên, tuyên trì mật hiệu, vun bồi nhân lớn, chánh vì cầu chúc Hoàng đế hiện nay Thánh thọ muôn năm, muôn năm, muôn muôn năm! Như trên cung kính, chỉ mong! Mặt trời Phật ngời sáng, trời rồng chiêu cách. Năm nọ tháng nọ ngày nọ. Đô giám tự thần Tăng mỗ kính lời, Trụ trì thần tăng mỗ”. Nghi thức kinh Đơn. “Nay đủ phẩm mục văn kinh như sau: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Đại Phật Đảnh Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Đại Thừa Kim Quang Minh. Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-đa-la Liễu nghóa Kinh Đại Thừa Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Đại Nhân Vương Hộ Quốc. Trên đây, đầy đủ như trước. Tháng này, ngày Cương Duy thần tăng mỗ cụ. Nghi thức sai Đơn “Nay đầy đủ theo ngày luân phiên chư tăng lên điện, tên từng vị như ở sau, dùng giấy trắng ghi: Ngày mỗ, Trụ trì Thần tăng. Thủ tọa mỗ, thư ký mỗ, tạng chủ mỗ, tri khách mỗ, Tây đường mỗ. Ngày mỗ: Xưng hô mỗ, Thượng tọa mỗ, Đô tự mỗ. Trên đây, đầy đủ như trước. Nay ngày ……. tháng ……., Đường ty mỗ”. Lời sớ (thiết lập) như trên: “Cúi lấy chở che không riêng, đất trời ai lường cao dầy đó, chiếu soi có thịnh chẳng dụ sáng đẹp. Biết khổ nhọc của tán ngưỡng, muốn báo bổ mà không cùng, chỉ gá bên trong hun đúc nghóa trọng bốn ân, nên dốc tấm lòng Trung ái, cung kính ba chúc. Đẩu xu tỏa rạng, Long tượng phô bày, lưới trời trăm ức, núi sông đều về Thánh lượng. Hoa tạng thế giới Tam thiên càng diễn chẳng Đồ, ít hết mảy trần, chẳng lười sớm tối, kính nguyện Yến Long được dụng, muôn sao ngời sáng mà thềm thái bình. Lân phụng bày lành, bậc Thánh tạo tác mà muôn vật thấy. Kính sớ (mãn tán), hoa Ưu-bát-la điềm lành ra đời, đồng Phật giáng sinh. Cây Diêm-phù-đề tỏa râm, cùng trời đồng thọ, nên nuôi Duệ chất của xưa thành, khắc tiếp Thánh mưu của lớn hiển. Lớn thay! Trời lớn thay! Trời rõ trời ở chánh, hội cực quy, về cực, dựng cực đứng giữa. Bên dùng Đại đồng của đạo tôi, có giúp chí trị của Thánh thời, núi rừng chuông trống vui tỏa ngời của Hóa nhật. Cỏ cây côn trùng thấm đượm nhuần ân đức. Lành bày khua trước, tụng chúc hoa phong, kính nguyện, khoanh tay vô vi, vị đất trời mà muôn vật dưỡng. Hun đúc hữu tượng, Lý âm dương mà bốn mùa bình. Thọ khảo muôn năm, gốc ngọn trăm đời”. <詞>CẢNH MẠNG BỐN NGÀY TRAI CHÚC TÁN Cảnh mạng ngày tốt, mồng một, rằm, mồng tám và hăm ba, bốn ngày trai, cách đêm, hành giả Đường ty báo chúng, treo bảng tụng kinh, kế sáng hôm sau gióng chuông dứt, sau đó đánh chuông trước Tăng đường, nhóm chúng lên điện. Duy-na xướng tụng chú Lăng-nghiêm, xướng niệm hiệu Phật Dược Sư. Tán Phật xong, hồi hướng rằng: “Ngày mỗ giờ này, châu mỗ chùa mỗ, Trụ trì truyền pháp mỗ Tăng mỗ, kính cẩn nhóm họp chúng Tăng trong chùa cùng lên Bảo điện, phúng tụng thần chú Đại Phật Đảnh Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm, xưng niệm Thánh hiệu, vun bồi nhân lớn, cầu chúc Hoàng đế hiện nay, Thánh thọ vạn an, Kim Cương Vô Lượng Thọ Phật, Nhân Vương Bồ-tát v.v…). <詞>ĐÁN VỌNG TẠNG ĐIỆN CHÚC TÁN Đán (mồng một) vọng (rằm) xưa nay chuyển tạng chúc tán, nay thì hẳn trước lúc trời sáng lên điện trước ngự tòa chúc tán, ở lễ là cung, hoặc dùng cháo xong, thăng tòa xong, đánh chuông nhóm chúng đến tạng điện, Duy-na xướng rằng: (Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật). Chúng đang mặc niệm, Trụ trì lãnh chúng chắp tay nhiễu tạng, hành đạo ba vòng, chúng đông thì một vòng lập định. Duy-na xướng tụng chú Đại bi, hồi hướng rằng: “Trong đại viên chiếu có biển Hoa tạng, công vượt tạo hóa, đạo bặt sáng nói, ba sáng chớp cuộn mà trùm thật tướng, sáu hợp sấm buông mà lắng trạm nhiên. Biển chẳng nghó bàn, tán dương khó hết. Châu mỗ chùa mỗ, Trụ trì truyền pháp thần Tăng mỗ, tháng mỗ sáng sớm (mồng một) rằm, kính cẩn nhóm hợp chúng Tăng trong chùa, cùng lên tạng điện nhiễu quanh hành đạo, xưng niệm Thánh hiệu Ma-ha Phật mẫu, vận Chuyển luân tạng pháp bảo cung trời, phúng tụng thần chú Đại bi viên mãn, vun bồi nhân lớn, chánh vì cầu chúc. Hoàng đế hiện nay Thánh thọ vạn an, Kim Cương Vô Lượng Thọ Phật, Nhân vương Bồ-tát Ma-ha- tát, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật”. <詞>CHÚC TÁN HẰNG NGÀY Hai thời cháo cơm đến trai đường, tăng chúng phải lên điện, Duy- na xướng tụng chú Vô Lượng Thọ ba biến, Hồi hướng rằng: “Phúng tụng bí chương, vun bồi nhân lớn, chánh vì cầu chúc Hoàng đế hiện nay Thánh thọ vạn an, Kim Cương Vô Lượng Thọ Phật, v.v…”. <詞>THIÊN THU TIẾT Đến kỳ, hành giả Đường ty cách đêm báo chúng, treo bảng tụng kinh. Sáng hôm sau, đánh chuông ở Tăng đường, nhóm chúng lên điện, Duy-na xướng tụng chú Lăng-nghiêm xong, bạch Phật: “Đồng như bốn ngày trai”, Hồi hướng rằng: “Đường mỗ, hẻm mỗ, chùa mỗ, ngày mỗ, tháng mỗ, kính gặp Hoàng Thái tử thiên thu lịnh tiết, kính cẩn nhóm hợp chúng Tăng trong chùa, cùng lên Bảo điện, trì tụng thần chú Đại Phật Đảnh Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm, xưng niệm Thánh hiệu, vun bồi nhân tốt, kính chúc Hoàng Thái tử tài giỏi ngàn năm điện hạ. Cúi mong, mặt trời lại xoay, nguyệt lại tỏa chiếu khắp trời biển, núi như đá ráp sông như đeo mang, bao quanh nền nước, Kim Cương Vô Lượng Thọ Phật, v.v…”. <詞>THIỆN NGUYỆT Tháng giêng, tháng năm, tháng chín là Thiện Nguyệt (tháng an lành), dự trước một ngày, Duy-na bảo hành giả Đường ty đến chỉ thầy Trụ trì, báo khố ty treo bảng Thiện Nguyệt ở trước của điện, đầy đủ kinh đơn luân sai Tăng ba. Mỗi ngày đánh chuông lớn lên điện, xem kinh, chúc tán trọn tháng mới thôi. Mới đầu, do từ niên hiệu Khai Hoàng thứ ba (5 8 3) đời Tùy, (vua Văn Đế - Dương Khiêm 5 8 1- 605) ban chiếu trong thiên hạ là tháng giêng, tháng năm, tháng chín và sáu ngày trai, mỗi chùa đều lập đạo tràng cầu nguyện, chẳng được giết hại sinh mạng, lấy trong tạng kinh nói có Tỳ-sa-môn Thiên Vương mỗi năm đi tuần xem xét bốn đại bộ châu, tháng giêng, tháng năm tháng chín, chánh trị châu thiệm bộ ở phía Nam, nên cấm giết mổ, mà phước trấn ở đời Đường thường lên nhậm, hẳn thưởng công binh lính chẳng dưới mấy muôn người, phải giết hại nấu nướng rất nhiều. Nên lấy tháng giêng, tháng năm, tháng chín chẳng liên quan, vì cấm giết hại, mà tục cho rằng kî là chẳng đúng. Chương Chúc Ly hết. <詞>CHƯƠNG HAI: BÁO ÂN Nước có Đế tế cấp bốn mùa, do đó ngời công đức lớn, bản thỉ lại tiếp nối. Thánh triều sùng Phật, từ Thế tổ mà xuống, đều xây dựng chùa, cho rằng: Do Phật ứng thân để ngự thiên hạ, hóa nghi đã trọn về lại Phật vị. Chùa quan ở kinh đô do đó thiết bày Thánh dung đủ đàn tràng Phật. Hằng tháng dùng năm tế, thiết cúng bày lễ như lúc còn sống, mà đặt suy tư của canh tường. Lớn thay! Chỉ Thánh hóa bao trùm cùng giáo của Phật lưu truyền không ngằn mé, mà chúng tôi gội ân ba đượm Thánh trạch, có thể chẳng biết chỗ tự mà tư duy chỗ báo hiệu hay sao! <詞>QUỐC KÎ Ngày thượng tân đến kỳ, cách đêm khố ty báo đường ty sai Hành giả đến Trụ trì Lưỡng tự, báo chúng treo bảng tụng kinh. Đến trên pháp tòa, an đặt ngự tòa, dùng giấy vàng viết bài vị Thánh hiệu, nghiêm bày hương hoa, đèn nến, bàn án cúng dường. Đến kỳ, đánh chuông ở Tăng đường, nhóm chúng đợi Trụ trì đến dâng hương, dâng trà nóng, Duy- na xướng tụng chú Lăng-nghiêm, phúng tụng xong, hồi hướng rằng: “Châu mỗ, chùa mỗ, Trụ trì truyền pháp thần Tăng mỗ, ngày mỗ tháng mỗ, kính gặp giờ Thánh kî Thánh mỗ, kính cẩn nhóm họp chúng Tăng trong chùa, phúng tụng thần chú Đại Phật đảnh vạn hạnh Thủ-lăng- nghiêm, xưng niệm Thánh hiệu, vun bồi thù lợi, giúp nghiêm Thánh giá, kính nguyện Thần dạo tám cực, tưởng xe mây ngựa gió đến. Lâm vị chứng giữa trời, thọ vui sướng điện ngọc lầu quỳnh, mười phương ba đời, v.v…” <詞>CẦU NGUYỆN. Hễ có cầu nguyện thì phải như pháp trang nghiêm đàn tràng, bày biện cúng dường, vị Trụ trì chuyên tâm kính cẩn, Tăng chúng đều có việc chỉnh túc, Tri sự trong ngoài Đề đốc ứng biện, phòng liêu lớn nhỏ tuần cảnh chỉnh tề, nghiêm khiết. Hoặc có quan viên đến đốt hương, phải cung cần đón đưa. Dự kỳ, khố ty thưa báo thầyTrụ trì, trước giao ý chỉ, Duy-na tri hội, hành giả đường ty báo chúng treo bảng cầu nguyện, cơm cháo hai bữa, đánh chuông nhóm chúng tụng kinh, hoặc xem kinh tạng, hoặc bốn Đại bộ kinh, hoặc ba ngày, năm ngày, bảy ngày, tùy thời mà hành, như cầu tạnh, cầu mưa thì luôn phiên chư tăng mười vị, hai mươi vị, hoặc ba mươi vị, năm mươi vị, chia làm mấy dẫn, tiếp tục tụng kinh, mỗi dẫn tụng chú Đại bi, chú Tiêu tai, chú Đại vân mỗi chú hai mươi mốt biến, gọi đó là luân phiên chẳng đứt quãng suốt ngày phúng tụng, sẽ có lúc cảm ứng, mới có thể hoàn mãn giải tán sám tạ. Ý sớ đó đều nêu như sau: Cầu tạnh: Thật thấy mưa dầm là lệ, vật dụng chẳng thành, trăm sông tràn chảy, dân không có chỗ ở yên, bởi chúng sinh cộng nghiệp cảm nên, chỉ trên trời che chở không riêng. Do đó, kính phát tâm thành, thiết lập đạo tràng cầu tạnh, mỗi ngày bảo chư Tăng trì tụng kinh chú, lễ lạy các Thánh, chỉ mong mỏi cầu được tánh ráo, chóng ban cảm rõ. Cúi nguyện, quét mây đen khắp bốn phía, trủng đọng ngầm tiêu, vén mặt trời giữa hư không, ánh sáng sẽ chiếu, giúp năm hành đều thuận mùa, mà muôn loài đều toại sống. Cầu mưa: Thật thấy nắng hạn làm tai, trăm vật khô khan, chẳng phải giáng phạt của trời ở trên mà do lắm lỗi của dân ở dưới. Chỉ có chư Phật mở cửa từ bi, mà thần chú có ứng cầu nguyện. Do đó, kính phát tâm thành, thiết lập đạo tràng cầu mưa, mỗi ngày bảo chư Tăng phúng tụng kinh chú, lễ lạy Thánh hiệu, chỉ mong mỏi cầu được mưa đượm, chóng ban cảm thông. Cúi nguyện cứu vớt sinh linh ở đồ thán, lưới cửa khó thay, nổi mây rồng nơi sông núi, giúp mưa tuôn xuống, ngõ hầu nhiều mầm mạ cũng có được mùa. Cầu tuyết: Thật thấy mùa Đông luôn ấm, sợ dịch bệnh của sinh vật, lưới trời giáng tuyết, sạch khí xâm của dưới đất, thường khiến thật của nhụy hương, nguyện nhóm điềm lành của sáu hoa. Do đó, kính phát tâm thành, thiết lập đạo tràng cầu tuyết. Mỗi ngày bảo chư Tăng phúng tụng kinh chú, lễ lạy các Thánh, chỉ mong mỏi cầu được mưa tuyết, chóng ban cảm thông. Cúi nguyện mây đỏ ngàn dặm đượm nhuần, tám hoang sáu phủ, ba sự dùng tu, cỏ cây đều thuận, hai khí năm hành theo mùa, người thần am hòa. Khiển Hoàng (trừ châu chấu): Thật thấy sâu bay che trời, chỉ hung hoang đáng lo, trừ yêu vào đất, sợ tư man khó toan. Chẳng phải nhờ khu trừ của thần công, tuy dốc hết sức người mà không bỏ. Do đó, kính phát tâm thành, thiết lập đạo tràng trừ châu chấu. Mỗi ngày bảo chư tăng, phúng tụng kinh chú, lễ lạy các Thánh, chỉ mong đuổi trừ sâu trùng, châu chấu chóng ban tiêu hết. Cúi mong tẩy đến gió mưa, quét chủng loại không còn sót, ném xuống rạch sông, tùy nghiệp cảm mà tự hóa, dân an nghiệp họ, vật toại đời nó. Nhật thực: Ngày này mà thực, xem hoặc trái của năm kỷ, sợ uy của trời, lo tương tác của sáu lệ, nên theo dân tình mà cứu hộ, sao nương Phật lực để cầu nguyện. Do đó, kính phát tâm thành, bảo chư Tăng phúng tụng kinh chú, dùng bày cứu hộ, chỉ mong mỏi mặt trời chóng trở lại sáng. Cúi nguyện, năm sắc mở mà đạo vàng sáng, chiếu rọi dưới đất, các am tiêu mà Dương đức thạnh rõ chiếu xoay trên trời. Nguyệt thực: Nguyệt diệu âm tinh mà chủ đêm, chỗ nhờ chiếu rọi, Thiên bày lỗi trừng ở dưới dân, ôi sao che lấp. Đã răn đã sợ dùng cầu dùng nguyện. Do đó, kính phát tâm thành, bảo chư Tăng phúng tụng kinh chú, dùng để cứu hộ. Chỉ mong mỏi mặt trăng chóng trở lại sáng. Cúi nguyện yêu mô diệt vết, trong sáng hiện núi sông đất liền, cố thổ trường sinh muôn tượng nạp cung điện rộng mát. Chương Báo Ân hết. Sắc Tu Bách Trượng Thanh quy quyển một hết.  SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY <卷>QUYỂN 2 CHƯƠNG BA: BÁO BẢN Tánh là gốc lớn của người, động trời đất mà chẳng biết thỉ, cùng muôn đời mà chẳng rõ chung. Phật và chúng sinh đều có tánh đó. Ngộ thì lên Diệu giác, mê thì trôi nổi tử sinh, từ kiếp này đến kiếp khác sáu đường khác nẻo, nghiệp báo xoay vần không có chỗ cùng. Chỗ nhờ Thánh huấn mênh mang. Xứng đáng làm nương cậy. Chúng tôi thẹn hình phục dự pháp hệ, vâng làm luật của hạnh, tuyên làm giáo của lời đó, truyền làm thiền của tâm, mà theo chỗ tôi gọi là Đại Bản là đồng toàn thể diệu dụng của Phật, mới được xưng là Phật tử mà tiếp nối tuệ mạng, nếu ở ngày húy kî truy điệu thì đâu phải thế lễ ư? <詞>PHẬT GIÁNG ĐẢN Trước kỳ, Đường ty dùng các tài vật đưa đến khố ty chuẩn bị cúng dường, thỉnh chế sớ kiểm sớ (đồng như lễ Thánh tiết). Đến ngày, khố ty nghiêm bày hoa giữa sân, tôn trí tượng Phật giáng sinh trong bồn nước thơm nóng, đặt hai cái thìa nhỏ trước Phật, kính bày cúng dường xong, vị Trụ trì thượng đường niệm hương rằng: “Giờ Phật đản sinh, chùa mỗ Trụ trì di giáo, Tỳ-kheo cháu xa mỗ, kính thành đốt hương báu, cúng dường Bổn sư Thích-ca Như lai Đại Hòa-thượng, đáp ân từ che chở, mong mỏi pháp giới chúng sinh niệm niệm Chư Phật xuất hiện ở đời”, kế đó ngồi nghiêm trang bạch: “Ngày mồng 08 tháng 04, kính gặp Bổn sư Thích-ca Như lai Đại Hòa-thượng nhân lúc giáng đản, nhóm họp chúng Tỳ-kheo trang nghiêm hương hoa, đèn nến, trà quả trân tu để bày cúng dường, Trụ trì di giáo Tỳ-kheo cháu xa mỗ trước lên tòa này xướng lên tông thừa, nhóm họp thù động, trên báo từ âm che chở, dưới cùng chúng sinh trong pháp giới đồng tỏ bày mừng vui ít có”. Kế, nói pháp xong, bạch rằng: (Hạ tọa mỗi vị đầy đủ oai nghi đến tắm Phật tụng kinh, kính bạch), rồi xuống tòa, lãnh chúng đồng đến trên điện, hướng về Phật bày lập định, Trụ trì dâng hương đảnh lạy ba lạy, chẳng thâu tọa cụ, đến trước dâng nước nóng, dâng vật thực. Thị giả thỉnh khách tay nhau dâng. Thị giả đốt hương, bưng đặt trên án xong, trở lại vị trí lạy ba lạy, dâng hương, hạ phẩm vật, châm trà. Lại lạy ba lạy thâu tọa cụ. Duy-na tiếp ban dâng hương, đại chúng bày lạy, Trụ trì quỳ bưng lò, Duy-na bạch Phật: “Một vầng trăng giữa đời, ảnh hiện các sông. Một Đức Phật ra đời, đều ngồi trên một hoa, sợi lông trắng duỗi mà ba cõi sáng, cam lộ rưới mà bốn loài đượm” tuyên sớ xong, xướng kệ tắm Phật rằng: “Nay con tắm gội Đức Như lai, trí sạch trang nghiêm công đức nhóm, chúng sinh năm trược đều lìa cấu, thanh tịnh trang nghiêm pháp thân sạch”. Hành đạo tắm Phật sắp xong, xướng tụng chú Lăng- nghiêm, hồi hướng rằng: “Trước nay công đức phụng tụng, hồi hướng chân như thật tế trang nghiêm vô thượng quả Phật Bồ-đề, bốn ân đều trả, ba cõi được nhờ, pháp giới hữu tình đồng viên chủng trí, tất cả Phật mười phương ba đời, v.v…”. Lời sớ: Biển lớn lắng yên, riêng nghe vỗ của tiếng sóng, thái hư, rỗng rang chỉ trông bày rộng của cảnh vi. Do gốc lớn mà dấu bày, ép thời đến mà cơ ứng, giúp quần linh đều thành Chánh giác, từ năm trược hiện bày giáng sinh, cởi y báu mặc áo dơ, uốn mình để theo, bỏ hóa thành lên đảo châu báu, dắt tay đồng về, mới độ lại đến, ân lớn chẳng báo. Cúi nguyện: Quạt gió thật nơi đời mạt, nâng mặt trời tuệ ở giữa trời, không Phật không ma, pháp pháp tuyên dương kệ ngọc, chẳng dơ chẳng sạch, trần trần rưới tắm thân vàng. <詞>PHẬT THÀNH ĐẠO NIẾT-BÀN Trước kỳ, Đường ty đem các tài vật đưa đến khố ty chuẩn bị cúng dường, thỉnh chế sớ kiểm sớ (đồng như lễ giáng đản). Vị Trụ trì thượng đường nguyện hương rằng: “Ngày Phật thành đạo, chùa mỗ, Trụ trì Di giáo Tỳ-kheo cháu xa mỗ, kính vì chúng sinh trong pháp giới, mừng đốt hương báu cúng dường Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Như lai Đại Hòa- thượng, trên báo đáp ân từ che chở, kế mong chúng sinh trong pháp giới đồng thành Chánh giác”. Kế là ngồi kiết già bạch: “Ngày mồng tám tháng chạp, kính gặp giờ Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Như lai Đại Hòa- thượng thành đạo, dẫn chúng Tỳ-kheo trang nghiêm hoa hương đèn nến, trà quả, trân tu, bày lên cúng dường, Trụ trì Di giáo Tỳ-kheo cháu xa mỗ lên đến tòa này xướng lên tông thừa, nhóm họp thù động, trên đáp ân từ che chở, nguyện khắp chúng sinh trong pháp giới phát minh trí tuệ chính mình vào cõi nhiều như bụi cát xoay bánh xe đại pháp. Kế nói pháp xong, bạch: “Hạ tọa mỗi vị đầy đủ oai nghi lên điện Đại Phật tụng kinh, kính bạch”. Xong xuống tòa, lãnh chúng lên điện, lễ lạy quỳ bưng lò, Duy-na bạch Phật: “Trước núi Chánh giác thấy sao sáng mà ngộ đạo, trong cõi Đại thiên nâng mặt trời tuệ để sáng soi”. Đọc sớ xong, tụng kinh, hồi hướng. Ngày Niết-bàn, vị Trụ trì trước đến điện Phật nguyện hương, chúc Thánh xong, thứ lớp thượng đường, nguyện hương rằng: “Ngày Phật Niết-bàn, chùa mỗ, Trụ trì Di giáo Tỳ-kheo cháu xa mỗ, kính đốt hương báu cúng dường Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Như lai Đại Hòa-thượng trên đáp ân từ che chở, dưới cùng chúng sinh trong pháp giới đồng tỏ kính mến, mong mỏi pháp thân thường trụ, bánh xe pháp xoay lại, tất cả hữu tình ngộ, vô sinh nhẫn”. Kế là ngồi nghiêm trang bạch: “Ngày rằm tháng hai, kính gặp lúc Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Như lai Đại Hòa-thượng nhập Niết-bàn, dẫn chúng Tỳ-kheo trang nghiêm hương hoa, đèn nến, trà quả, trân tu dâng bày cúng dường, vị Trụ trì Di giáo Tỳ-kheo cháu xa mỗ bước lên tòa này xướng Niết-bàn diệu tâm, nhóm họp thù động, trên báo ân từ che chở, nguyện chúng sinh trong khắp pháp giới đồng thành Chủng trí”. Nói pháp xong, bạch rằng: “Hạ tọa, đều đầy đủ oai nghi lên điện Đại Phật tụng kinh, kính bạch”. Xong, xuống tòa, lãnh chúng lên điện lễ lạy, quỳ bưng lò, Duy- na bạch Phật: “Thân tịnh pháp giới vốn không ẩn hiện, nguyện lực đại từ thị hiện có đến đi”, đọc sớ xong, tụng kinh, hồi hướng đều đồng như trước. Lời Sớ Thành Đạo: Vô lượng kiếp đến nay đã thành Phật, đâu nhờ tấn tu, chúng sinh nhật dụng chẳng biết, thị hiện dùng tiên giác giác tự, giác tha mà thành giác đạo, thế gian, xuất thế gian mà xưng Thế Tôn, xiển hóa nghi của một đời, vâng khuôn phép của Phật trước, ngồi cội Bồ-đề, cung ma ẩn mà không sáng, hiện hoa Ưu-bát, bánh xe pháp tỏa ngời thường xoay. Nên đầu dụ ánh sáng ban mai chiếu, mà cuối bày chánh truyền niêm hoa. Tròn sáng chân thường thì không hữu đều mất, Thánh phàm mộng huyễn, nhón đất muôn hóa thì xưa nay một nháy mắt, đất trời ngẩn ngơ. Nhìn cháu con đó nào biết, tụng Di ngôn mà có sợ, cúi nguyện: Sắc không tối sáng, đều nói pháp âm mầu nhiệm, loài máy cựa hàm linh cùng chứng đức tướng trí tuệ. Niết-bàn đều ứng các cơ. Chúc lụy thọ ký của Pháp Hoa, lực chế hậu học, nâng luật bàn thường của Di giáo. Huống chi, niêm niên hoa đắc chỉ trao pháp chánh truyền, mà lá rụng về cội, rốt cùng tôi năng sự, vườn phóng hóa đó trọn ở cùng, thuận thế vô thường, nhờ các huyễn mà trở lại các chân, đó gọi là vắng lặng, nhưng Thần châu hằng chiếu nơi dơ bẩn, mà Bảo Nguyệt chẳng lánh ở dòng dơ. Đại định vô phương, thường trụ hằng sa kiếp, viên cơ ứng khắp, bày biện trăm ngàn ức thân, trông tướng đời đó khó quên, đến ngày húy mà thêm mến. Cúi mong, mở tà kiến của cuối dòng, xoay bạc bẽo của cùng vận. Định lực gồm tu lớn như chánh pháp thường trụ, Thiên ma dẫn hóa đều ngoại hộ tông cương. Phật sinh ở Trung Ấn-độ, chủng tộc Sát-đế-lợi, dòng họ Cù-đàm, tiếng Phạm là Cù-đàm, Hán dịch là Cam giá, Thỉ tổ là vị tiên bị thợ săn bắn chết, máu thấm vào đất mọc hai cây mía. Mặt trời nóng bày, một gốc sinh nam tên là Cam Giá Vương, một gốc sinh nữ là Thiện Giác Phi, sinh con làm vua Chuyển luân. Do mặt trời nóng lên nên còn gọi là Nhật chủng, truyền bảy trăm đời, đến vua Tịnh Phạn. Phật do nhiều kiếp công hạnh đầy đủ, từ tầng trời Đâu-suất giáng thần vào thai phu nhân Ma-da ở cung vua. Ngày mồng 08 tháng 04 năm Giáp dần, tức năm thứ hai mươi sáu đời vua Chiêu Vương nhà Chu thì đản sinh, tên là Tát-bà-tất-đạt, bảy ngày sau thì Thánh mẫu qua đời, nhờ Di mẫu là Ma- ha Ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng. Đến năm hai mươi lăm tuổi, vượt thành vào rừng Bạt-già-tiên, dùng kiếm cắt tóc, cởi bỏ áo báu, theo người thợ săn đổi lấy áo ca-sa mặc làm Tỳ-kheo. Lại theo hướng Bắc vượt qua sông Hằng, đến núi Già-xà ngồi tónh lặng, suốt sáu năm tu khổ hạnh, mỗi ngày ăn một hạt mè, hạt gạo để tiếp nối tinh khí. Lại tự nghó rằng: “Nếu do thân gầy ốm mà đắc đạo thì đó là các ngoại đạo kia nói là tự nhịn đói nhịn khát là nhân Niết-bàn”, nghó đoạn bèn tắm gội dưới sông Ni liên, thọ bát cháo sữa của cô gái chăn dê, Thích Đề Hoàn Nhân dùng cỏ cát tường trải tòa, (Đức Phật) ngồi trên. Ma Vương dẫn binh lính muốn lăm hại, bày đủ trăm kế mà chẳng thể quấy nhiễu chút nào, bèn lễ lạy sám tội mà đi. Sáng sớm mồng 08 tháng 02 lúc sao mai ló dạng, chợt nhiên đại ngộ, đắc đạo Vô thượng, thành Đẳng Chánh Giác (ở đời tương truyền là ngày mồng tám tháng chạp, có chỗ cho là Chu chánh kiến tý, có chỗ có chứng cứ riêng), lúc ấy là ba mươi tuổi. Đức Phật đến trong đạo Trường A-lan-nhã Bồ-đề ở nước Ma-kiệt-đề, giảng nói kinh Hoa Nghiêm, các hàng tiểu cơ chưa vào, nghe như câm như điếc. Đức Phật lại qua hai mươi mốt ngày quán cây nghó rằng, thà nhập Niết-bàn. Các vị Phạm thiên, Đế-thích ba lần ân cần cầu thỉnh, Đức Phật mới đến vườn nai, dùng giáo pháp ba thừa, xoay bánh xe pháp lớn. Trước vì năm người như Kiều-trần-như v.v…, nói pháp bốn Đế, Mười hai nhân duyên, sáu Độ, v.v… trải qua mười hai năm, khi ấy Đức Phật đã bốn mươi hai tuổi, đến hội Phương Đẳng, đào thải đệ tử, dần dần mở rộng, từ đó Đàn Biến kích tiểu, tán Đại khen viên, giảng các kinh Đại Thừa như Duy- ma, Lăng-già, Lăng-nghiêm, Bát-nhã, v.v… Lại trải qua ba mươi năm, lúc Đức Phật bảy mươi hai tuổi, giảng nói kinh Pháp Hoa, vì các đệ tử đều có khả năng đảm nhậm trọng trách dự ghi thành Phật, mới thỏa bản hoài. Lại thêm tám năm, năm thứ năm mươi ba đời vua Mục Vương thời nhà Chu, tức năm Nhâm dần. Khi ấy, Đức Phật bảy mươi chín tuổi, Đức Phật trước đến cung trời Đao-lợi giảng pháp cho Thánh mẫu nghe. Vua Ưu-điền mến mộ nên đúc tượng Phật bằng vàng, nghe Đức Phật trở lại nhân gian, tượng vàng đến đón rước Phật. Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm vị Tỳ-kheo-ni, Xá-lợi-phất, Mục Kiền Liên cùng bảy vạn vị A-la-hán, v.v… chẳng nở thấy Phật nhập Niết-bàn, nên đồng thời nhập diệt. Bồ-tát bốn chúng trời, người tám bộ chim thú các vua đều nhóm họp. Đức Phật riêng thọ sự cúng dường sau cùng của Thuần-đà, vì các Tỳ-kheo giảng nói vô thường, khổ, không. Lại nói: “Chánh pháp Vô thượng đều đã giao phó cho Ma-ha Ca-diếp, sẽ vì các ông làm nơi nương tựa vững chắc, giống như Như lai”. Lại vì A-nan lúc ở rừng Sa-la bị ma quây nhiễu, Đức Phật bèn bảo Văn-thù: “A-nan là em ta, hầu gần ta đã hơn hai mươi năm, nghe pháp đầy đủ như nước rót từ chiếc bình này sang chiếc bình khác, muốn cho A-nan thọ trì kinh Đại Niết-bàn”. Văn-thù vâng lời, gọi A-nan về. Phật dạy: “Có Phạm chí Tu-bạt-đà-la đã một trăm hai mươi tuổi, chưa bỏ kiêu mạn, ông nên báo cho ông ấy biết, trong đêm nay Như lai sẽ nhập Niết-bàn”, tức cùng đồng đến, nghe Phật nói pháp đắc quả A-la-hán, Phật bèn bảo đại chúng: “Từ khi ta đắc đạo, độ Kiều-trần-như, sau cùng độ Tu-bạt-đà-la, việc ta đã hoàn tất”. Vào giữa đêm rằm tháng hai, Đức Phật lại dạy: “Tỳ-kheo các thầy! Sau khi ta diệt độ, phải tôn trọng kính quý Ba-la-đề-mộc-xoa, đó là bậc Đại sư của các ông, như ta còn ở đời không khác!” nơi giường bảy báu, Đức Phật nằm nghiêng hông bên phải, vắng lặng không có tiếng động, bèn nhập Niết-bàn. A-na-luật lên cung trời Đao-lợi báo cho phu nhân Ma-da, từ cung trời mà xuống. Đức Thế Tôn lại dậy, vì nói pháp chỉ bày an ủi. Lại bảo A-nan, phải biết vì chúng sinh bất hiếu đời sau mà thật, từ trong kim quan ra và chào hỏi Thánh mẫu. Bấy giờ, Ca-diếp cùng năm trăm vị đệ tử từ núi Kỳ-xà-quật vội chạy đến buồn khóc nghẹn ngào đảnh lễ, Đức Phật lại duỗi bày hai chân có hình bánh xe ngàn năm. Trời, người đều đem hoa mới đến chỗ trà-tỳ, Đức Phật tự hóa lửa thiêu đốt suốt bảy ngày mới hết. Đại chúng gom thâu xá-lợi đựng đầy tám bát bằng vàng, vua A-xà-thế cùng vua tám nước và các trời Đế-thích vua rồng, v.v… tranh giành xá-lợi. Đại thần Ưu-bà-cát căn ngăn, nên cùng nhau chia, bèn chia làm ba: Một phần cho các vị trời, một phần cho vua rồng, một phần cho tám vua, mà vua A-xà-thế được tám vạn bốn ngàn viên, bèn dùng hộp bằng vàng tía đựng, tôn trí trong năm xứ nơi sông Hằng, xây tháp phụng thờ. <詞>ĐẾ SƯ NIẾT-BÀN Đến ngày, trên pháp tòa kính an bài vị, đúng như pháp lập bày, nghiêm trang hương hoa, đèn nến, trà quả, trân tu cúng dường. Duy-na thỉnh chế sớ kiểm sớ (đồng như Phật Niết-bàn). Cách đêm, bảo hành giả Đường ty báo với chúng treo bảng tụng kinh. Ngày chánh, đánh chuông nhóm chúng, hướng về tòa đứng theo thứ tự, đợi Trụ trì đến dâng hương dâng nước nóng, dâng vật thực, hạ phẩm vật, dâng trà lễ lạy xong, nguyện hương có pháp ngữ, Duy-na tiếp ban dâng hương, đại chúng cùng đồng lễ lạy, Trụ trì quỳ bưng lò tuyên sớ, xướng tụng kinh chú, hồi hướng rằng: “Trước nay công đức tụng kinh, kính vì dưới của Hoàng thiên, trên của một người, mở giáo tuyên văn giúp trị, Đại Thánh chí đức Thiện giác Chân trí, giúp nước như ý Đại Bảo Pháp vương, Tây thiên Phật tử đại nguyện Đế sư, trên đáp ân từ che chở, tất cả chư Phật mười phương ba đời v.v…” Lời sớ: Trời mở có mối, dốc sinh Đại Thánh giúp trị, đạo tôn không trên thật là pháp vương tuyên văn. Mật tán hóa có ngầm giúp vương độ, nhả lời hành kinh, nêu đủ là pháp, vị ở bên trong của ngàn Phật. Rộng dày phối đất, cao sáng phối trời, tôn cực ở trên một người, chỉ nay kî Thánh, càng ngưỡng ân sáng. Cúi nguyện, lại cưỡi xe nguyện giúp trị hóa của đồng văn bốn biển, cuộn lời tượng quý khua tông cương của chánh pháp xưa nay. Đế sư Bạt-hợp-tư-bát, pháp hiệu là Tuệ Tràng Hiền Cát Tường, người nước Thổ-ba, sinh ngày 13 tháng 04 năm Kỷ hợi (1 2 3 9). Thân phụ tên là Lăng-nam-cam-tạng. Mới đầu, tại Thổ-ba có Quốc sư tên Thiền-hằng-la-cát-đạt là bậc chánh tri kiến, có đại oai thần, nhiều đời tương truyền đạo hạnh rất thù thắng, thế sư, vua nước đó rất tôn quý, trải suốt mười bảy đời tức đến Tát-tư-gia-oa là Bá phụ của sư. Sư thiên tư cao khiết, lại lễ lạy Bá phụ làm thầy, kệ tụng Bí Mật, chương cú vi diệu có đến một, hai ngàn lời, qua mắt thành bài tụng, bảy tuổi, sư nói pháp biện bác dọc ngang, năm mười lăm tuổi, tức năm Quý sửu (1 2 5 3), lúc ấy, Hoàng đế Thế Tổ ( Mông Ca 1 2 6 0-1280 đời Nguyên) long đức ẩm ngầm, Sư rõ biết chân mạng có chỗ về, bèn thẳng đến chỗ Vương phủ, Hoàng đế cùng Trung Vi Đông cung đều thọ trì giới pháp, đặc biệt tôn kính, trải qua sáu năm, tức năm Canh thân (1 2 6 0) Thế Tổ lên ngôi, lấy niên hiệu Trung Thống năm thứ nhất (1 2 6 0) bèn phong sư làm Quốc sư, ban trao ấn ngọc, làm pháp chủ Trung nguyên, thống lãnh Thích giáo trong thiên hạ. Mới đầu, bảo Tăng tục phân ty, bốn năm sau, giả từ Hoàng đế mà về Tây, chưa tròn năm, bèn có chiếu mời trở lại. Niên hiệu Chí Nguyên thứ bảy tức năm Canh Ngọ (1 2 7 0), có chiếu chỉ chế chữ nước Đại Nguyên, Sư riêng vận phỏng họa. Chẳng mấy ngày mà xong, rất hợp Thánh ý. Thế Tổ bèn ra chiếu chỉ ban hành, từ triều đình đến các tỉnh, quận, huyện đều vâng dùng, trọn làm Điển chương một đời, Phong hiệu là Đế Sư Đại Bảo Pháp Vương”, lại ban ấn ngọc. Sư trở về Tây vào niên hiệu Chí Nguyên thứ mười một (1 2 7 4), Thế Tổ lại sai sứ thỉnh đến. Sau đó, Sư hết lời từ tạ xin về núi, Thế Tổ cố giữ lại mà chẳng được. Đến ngày 22 tháng 11 niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bảy (1 2 8 0), Sư viên tịch, Thế Tổ nghe tin, chẳng dằn nổi sự thương tiếc, liền xây ngôi Tốt-đổ-ba lớn tại kinh đô, tôn trí toàn thân xá-lợi, vàng ngọc xưa nay không ai sánh bằng (xem văn bia do Hàn lâm học só Vương Bàn, v.v… vâng sắc soạn bia. Sau phong thụy hiệu là “Hoàng thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng, khai giáo tuyên văn phụ trị Đại Thánh chí Đức Phổ Giác Chân Trí Hộ Quốc như y Đại Bảo Pháp Vương Tây phương Phật tử Đại nguyên Đế sư”. Chương Báo Bản hết ------------------------------------------ <詞>CHƯƠNG THỨ TƯ: TÔN TỔ Người đời mỗi kî Tổ đó trọng hình đó là đầu tiên của sinh. Hình sinh đầu tiên ở ái, nhưng hình có thời mà hóa, ái có thời mà hết. Chỉ Linh nhiên của tánh chẳng mờ tối là chẳng cậy sinh mà chọn, chẳng hợp chết mà mất, nên Phật dạy con người hẳn rõ tánh, nhưng về sau người học lại dính mắc ở văn ngôn chẳng được chỉ quy, giống như phương khéo của thầy thuốc viết, mà bỏ dược thạch thì đâu có ích gì? Đến lúc, Tổ Đạt-ma tôi đến, dùng đạo chỉ thẳng mở bày, mà người mới rỗng thoáng, thấy diệu của tự tánh, chẳng cầu văn tự, chẳng nhờ nói nín, mà được nói cười ngoài thanh sắc, thì truyền đạo Tổ, nối tiếp vị Tổ của chúng tôi, như củi của lửa, bình của nước, không khoảng giữa của xưa nay khác chừng lông tóc, chẳng còn trùng ở mới đầu của hình sinh ư? Sau, Thiền sư Đại Trí ở Bách Trượng soạn Thanh quy để chúng tôi thực hành theo khuôn phép, mà rừng thiền ở mới đầu đó ư? Đoan Công Hải Hội cho rằng nên kî Đạt-ma ở giữa, Bách Trượng thêm bên phải, và Tổ khai sơn của các chùa phối đó, xem ở lời tựa Tổ Đường cương kỷ nói. <詞>ĐẠT-MA KÎ Trước kỳ, Đường ty đem các tài vật chuẩn bị cúng dường, thỉnh chế sớ kiểm sớ (đồng như Phật Niết-bàn). Cách đêm đúng như pháp lập bày pháp đường, trước tòa treo chân dung, khoảng giữa đặt bàn cúng, bình, hương, viện hương, ở trên bày ghế thiền, Phất tử, giá móc pháp y (bày giường gối là chẳng đúng), khoảng dưới bày ghế nhỏ, án kinh, bình hương, đèn nến quyển kinh. Hành giả Đường ty báo chúng treo bảng tụng kinh, ngay chiều tụng kinh, và lại mỗi ngày hôm sau thiết trai, đều đủ oai nghi. Bãi kî tụng kinh, xem như trước đánh chuông ở Tăng đường nhóm chúng, đợi Trụ trì đến, đánh trống hiến đặc làm nước nóng, Trụ trì dâng hương ba lạy, chẳng thâu tọa cũ, dâng nước nóng, lùi thân ba lạy lại tiến tới trước chào hỏi nhận nước nóng, trở về vị trí lạy ba lạy thâu tọa cụ, đánh trống ba tiếng. Hành giả đánh khánh cầm tay, Duy-na ra ban niệm tụng rằng: “Trộm dùng: Tông truyền chỉ thẳng, nhục nhờ đượm nơi sóng khác, đạo lớn khó nói, thẹn sáng liền ở cháu con, kính nhờ đại chúng, niệm danh hiệu pháp thân Phật Tỳ-lô- giá-na mười biến, v.v…”. Hồi Hướng rằng: “Trước nay công đức niệm tụng, kính vì Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma Viên giác Đại sư Đại Hòa-thượng, trên đáp ân từ che chở, mười phương ba đời tất cả. Xong, đánh ba tiếng chuông trước Tăng đường, chúng giải tán, hoặc thỉnh đến ngồi dược thạch (ăn chiều), chuông tối đánh, lại đánh chuông ở Tăng đường nhóm chúng, Trụ trì dâng hương, Duy-na xướng tụng chú Lăng-nghiêm xong, hồi hướng rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không ẩn hiện, lực nguyện từ bi bày có đến đi. Ngưỡng mong từ bi nhủ lòng soi xét ngày mồng năm tháng này, cúi gặp giờ Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma Viên Giác Đại sư Đại Hòa-thượng viên tịch, dẫn chúng Tỳ-kheo sắm sinh hương hoa quả phẩm tỏ bày cúng dường, phúng tụng thần chú Đại Phật đảnh vạn hạnh Thủ-lăng-nghiêm, nhóm họp thù động trên báo ân từ che chở, cúi nguyện, các căn cơ có chỗ nương nhờ, lan tỏa gia phong Thiếu Thất, diệu trí không cùng, thành tựu căn khí Đại thừa, mười phương ba đời tất cả, v.v…”. Kế là Tham đầu lãnh chúng, hành giả bày xếp, khấn tham lễ lạy tụng kinh, Nhân bộc sắp bày tham lễ. Qua sáng sớm hôm sau, Trụ trì dâng hương lễ lạy, dâng nước nóng dâng cháo, ngồi bên cạnh dưới tòa thêm phẩm vật. Dâng cháo xong, Trụ trì dâng hương dâng trà, Duy-na xướng tụng chú Đại Bi xong, hồi hướng rằng: “ Từ trên đến đây công đức phúng tụng, kính vì Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma Viên giác Đại sư Đại Hòa-thượng, trên đáp ân từ che chở, mười phương ba đời, v.v…”. Giữa bữa, đánh chuông ở Tăng đường nhóm chúng, hướng về Tổ, bày đứng, Trụ trì dâng hương, lạy ba lạy, chẳng thâu tọa cụ, tiến tới trước lò, dâng nước nóng, dâng thực phẩm. Thị giả mời khách thay nhau dâng cúng, đợi thị giả dâng hương đến bên cạnh Tổ vị bưng đặt trên án, lui về vị trí lạy ba lạy, bên tiến tới trước đốt hương Hạ phẩm vật xong, lạy ba lạy, thâu tọa cụ, đánh trống giảng đặc làm trà (như lễ nước nóng) xong, Trụ trì nguyện hương, có pháp ngữ, hành giả đánh nạo bạt, Duy-na ra ban, tiếp Trụ trì dâng hương, thị giả bưng Hộp hương. Kế là Đông đường, Tây đường ra ban dâng hương, đại chúng đồng lạy ba lạy, Duy-na bạch rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không ẩn hiện, nguyện lực từ bi thị hiện có đến đi). Đọc sớ, Trụ trì quỳ bưng lò, tiếp xướng tụng chú Lăng- nghiêm xong, hồi hướng rằng: “Trước nay công đức tụng kinh, kính vì Sơ Tổ Bồ-đề Đạt-ma Viên Giác Đại sư Đại Hòa-thượng, trên đáp từ ân che chở, mười phương ba đời v.v…” Kế là hành giả tụng kinh. Lời sớ: Lớn thay chánh truyền, tiếp tông tuệ của Giác Hoàng, rỗng rang không Thánh, phá bệnh của nghóa học, trăm sông đến biển chóng dứt khác dòng, mặt trời tỏa sáng hết không ảnh xế. Chỉ tâm người mà thành Phật, thành Phật đồng tâm, khế Diệu đạo thì quên lời, quên lời mới thấy đạo. Có công lớn ở thế giáo, nên rộng bày ở Tông phong. Hiện hoa Ưu-đàm ở đời trược, thật làm tî tổ. Lấy khí Đại thừa ở Thần châu vào hết trong vỏ. Vừa gặp giờ lành bèn sánh dâng thái phiền. Cúi nguyện: Tín y bày nặng của Phật tổ lực nhậm ngàn cân, một hoa nở xuân của đất trời, hương thơm đời. Tổ sư là con thứ ba của vua Hương chí nước Nam Thiên-trúc. Chủng tộc Sát-đế-lợi, vốn tên là Bồ-đề Đa-la, sau gặp Tổ thứ hai mươi bảy là Tôn giả Bát-nhã-đa-la, biết sư ẩn tích, nhân đó khiến cùng hai người anh biện chỗ thí châu báu, phát minh tâm yếu. Thế rồi, Tôn giả bảo: “Ông đối với các pháp, đã được thông lượng. Đạt-ma là nghóa thông đại, nên gọi tên là Đạt-ma”. Do đó, đổi tên là Bồ-đề Đạt-ma, sư bèn thưa cùng Tôn giả: “Con đã đắc pháp, nên đến nước nào để làm Phật sự? Nguyện xin chỉ dạy!” Tôn giả bảo: “Ông tuy đắc pháp mà chưa thể đi xa, hãy dừng ở Nam thiên, đợi sau khi ta diệt độ sáu mươi bảy năm, rồi đến nước Chấn Đán (Trung Hoa) bày thuốc pháp lớn, tiếp ngay hàng thượng căn, cẩn trọng chớ vội đi, sẽ suy hại ở ngày sau”. Ngày 21 tháng 09 năm Đinh mùi (5 2 7) tức niên hiệu Phổ Thông thứ tám thời Nam Lương, sư đến Nam Hải, Quảng Châu Thứ sử Tiêu Ngang dâng biểu tâu vua Võ Đế (Tiêu diễn 5 0 2- 550), vua sai sứ mong chiếu ra đón rước, ngày mồng 01 tháng 10, sư đến Kim Lăng, nói chuyện với vua, nhưng chẳng khế hợp, ngày 19 tháng đó, sư vượt qua Giang Bắc, ngày 23 tháng 11, đến Lạc Dương, khi ấy là niên hiệu Thái Hòa thứ mười, đời vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 5 1 6- 528) thời Bắc Ngụy, muôn duyên dứt bỏ, đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, sư ngồi xoay mặt vào vách tường, suốt ngày im lặng mọi người chẳng lường biết thế nào, bèn gọi sư là Bích Quán Bà-la-môn. Đến ngày mồng năm tháng mười năm Bính Thìn2 tức năm Thái Hòa thứ mười chín, sư ngồi thẳng thị tịch, qua ngày 28 tháng 12 năm đó, an táng sư tại núi Hùng Nhó, xây tháp tại chùa Định Lâm, đến thời Đường vua ban cho Sư thụy hiệu là “Viên Giác Đại Sư”, tháp hiệu là Không quán. <詞>BÁCH TRƯỢNG KÎ Trước kỳ, Đường ty đem các tài vật, chuẩn bị cúng dường, đến ngày, cách đêm, đúng như pháp lập bày pháp đường, trên treo chân dung, trang trí bàn cúng khoảng giữa, khoảng trên dưới là các thứ ghế án, cúng cụ. Ngay chiều tụng kinh, ngày chánh tán kî, đặt làm trà nước nóng, nguyện hương đọc sớ. Ra ban dâng hương đại chúng lễ lạy (đồng như lễ kỹ Đạt-ma) chỉ không có niệm tụng. Đầu đêm Hồi hướng rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không ẩn hiện, nguyện lực từ bi thị hiện có đến đi, ngưỡng mong từ bi, xót thương soi xét. Ngày 17 tháng giêng, <大>卐 2 Năm Bính thìn tức năm 5 3 6. Lúc này nhà Bắc Ngụy không còn, mà là thời Đông Ngụy, năm Thiện Bình thứ ba của vua Hiếu Tỉnh Đế (Nguyên Thiện Hiện 5 3 4- 550), nên hai niên hiệu Thái hòa trên sai cúi gặp gỡ Đại Hòa-thượng Thiền sư Đại Trí Giác Chiếu Hoằng Tông Diệu Hạnh ở Bách Trượng viên tịch, dẫn chúng Tỳ-kheo sắm sửa hương hoa, quả phẩm để bày cúng dường. Phúng tụng thần chú Đại Phật Đảnh Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm, nhóm họp thù động, trên báo ân từ che chở. Cúi mong hoa đàm hiện lại mở mang xuân của vườn giác, mặt trời tuệ mãi sáng, soi chiếu đêm tối tăm, mười phương ba đời tất cả, v.v…”. Lời sớ: Một lời làm pháp cho thiên hạ, trúng cũ trúng quy, muôn đời biết Tôn sư đạo có giềng có mối. Do thịnh của lễ nhạc tòng lâm, thấy nhiều của Long tượng pháp diên. Hoa phạm đồng văn, giàu phòng đá lớn lộc trời, kinh luật giúp nhau, nghiêm như khoa vàng điều ngọc, có trải nghi của trên nhà võ, chẳng bày lễ ngoài đồng hoang, tức dụng này, lìa dụng này, lời thoát trùng huyền, ra nơi cơ vào nơi cơ, lý cùng chúng diệu. Nên phối Thiền tổ để bồi tế, sao vâng ngày húy mà bày trai. Cúi mong: Đế Thích tinh tấn thắng tràng, chế các ma ngoại, Tế Bắc râm mát Đại thọ, che khắp Diêm-phù. Sư là con nhà họ Vương, người ở xứ Trường Lạc, thuộc Phước Châu, vừa tuổi búi tóc đã xuất trần, luyện thông ba học, gặp lúc Mã tổ mở mang giáo hóa tại Giang Tây, pháp tịch rất hưng thạnh, như Đại Châu Nam Tuyền Quy Tông gọi là Pháp Long tượng, mà sư là Thượng thủ. Đến lúc Mã tổ thị tịch ở Lặc-đàm, Sư kế thừa, vì chúng nhóm họp đông nhiều không có nơi dung chứa, sư muốn từ giả bỏ đi, trên đường qua Tân ngô, dừng nghỉ dưới núi xa luân, có Cam Trinh đi dạo chơi gặp, xin cúng đất mời ở, thế rồi chúng lại nhóm đến, bèn xây chùa làm Đại Chiêu-đề. Ngày 17 tháng giêng niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ Ba ( 8 1 4 - thời Tiền Đường), Sư thị tịch. Rừng sam chẳng nóng mà cháy rụi, khe Linh đang xuân mà khô cạn, bốn chúng buồn thương an táng tại núi Đại Hùng. Nguyên trước có Dị nhân Tư Mã đầu đà vì chọn đất an táng mà nói là “Bên cạnh liền ba ngọn núi chưa tận cùng sự vi diệu đó. Pháp vương ở đó, bậc thầy tiêu biểu của thiên hạ”, mà người đời lấy làm tin. Niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821 thời Tiền Đường) vua Mục Tông (Lý Hằng 8 2 1- 827) sắc phong Sư thụy hiệu là “Đại Trí Thiền Sư”, tháp hiệu là “Đại bảo thắng luân”. Đến niên hiệu Đại Quán thứ nhất (1 1 0 7) thời Bắc Tống, thêm thụy hiệu là “Giác Chiếu”, tháp hiệu là “Tuệ tụ”. Đến niên hiệu Nguyên Thống thứ ba (1 3 3 5) thời Đại Nguyên, lại thêm thụy hiệu là “Hoằng Tông Diệu Hạnh Thiền Sư”. <詞>KHAI SƠN LỊCH ĐẠI TỔ KÎ Kî Khai sơn và đạo hạnh sùng trọng, công tỏa cả sơn môn là, cách đêm lập bày trên pháp đường (đồng như kî Bách Trượng), hoặc không sớ, Đường ty chuẩn bị cúng dường. Nếu kî Lịch Đại chẳng đủ sớ chẳng hiến đặc làm trà nóng. Đến kỳ, Đường ty dự báo cho khố ty chuẩn bị cúng dường, thỉnh bài vị, đến đầu phía Tây lập bày. Dùng cháo xong, nhóm chúng, Trụ trì lưỡng tự đứng một hàng. Duy-na ra tiếp ban dâng hương xong trở về vị trí, đồng lạy ba lạy, thị giả lạy cuối ban (Chí Đại quy nói: Có kiền thành đến Tổ đường hạ thực một vị tụng kinh, chẳng phải lễ). Cử tụng chú đại bi, Hồi hướng rằng: “Biển trời sáng báu lắng sóng tử sinh dồn dập, môn tịch định lớn dung tướng xưa nay đi lại. Kính mong chân từ xót thương soi xét, nay ngày mỗ tháng mỗ, sơn môn kính gặp giờ Thiền sư hiệu mỗ, đời thứ trong sơn môn thị tịch, sắm sinh vật phẩm sắp bày cúng dường. Chúng Tỳ-kheo phúng tụng Thần chú Đại Bi, nhóm họp thù động, thêm sùng phẩm vị, kính nguyện mặt trời tuệ lại sáng, soi giống của ánh sáng thất tổ, Linh căn lại đâm chồi, xoay xuân của hoa cây Thiếu Lâm”.v.v… Hoặc hương nhân, hoặc giang hồ cử chú, hồi hướng rằng: “Trước nay công đức tụng kinh, kính vì Đại Hòa-thượng hiệu mỗ thêm lớn phẩm vị, mười phương ba đời, v.v…”. Hoặc có biếu tặng, thì nêu tụng chú Lăng-nghiêm, Hồi hướng như trước. <詞>TỰ PHÁP SƯ KÎ Các bậc tiên đức chỉ khơi bày tông thừa, phát minh chính mình, mở bày cho hàng hậu học biết có trao nhận, để báo ân, như ba chuyển ngữ của Ba-lăng là Vân Môn làm kî, các bậc tiền bối có ý sâu vậy, nhưng tôn thầy trọng đạo, lễ chẳng thể phế bỏ. Trước kỳ, Trụ trì xuất của mình giao đến khố ty chuẩn bị lễ cúng, cách đêm, đến pháp đường, như pháp thiết bày. Hành giả Đường ty báo chúng, treo bảng tụng kinh. Ngay chiều, đó tụng chú Lăng-nghiêm, Hương nhân pháp quyến xướng tụng chú Đại Bi, tiếp hành giả tụng kinh, hồi hướng đều đồng. Sáng sớm hôm sau, Trụ trì dâng cháo, cháo xong, đại chúng tụng chú Đại Bi, Hương nhân pháp quyến xướng tụng chú, giữa bữa trai tan kî, phung tụng, Trụ trì dâng phẩm thức, giảng đặc làm trà, nguyện hương (đồng như kî Đạt-ma), Lưỡng tự dâng hương, đại chúng đồng lạy (bởi trên dưới tòa đều gọi là tham học). Giờ thọ trai, Trụ trì vào đường đốt hương, lễ lạy rồi trở về vị trí. Thị giả y bát hành sấn (có lúc đến pháp đường tụng kinh, biếu tặng là chẳng phải lễ). Trai xong, đến tòa châm trà, thị giả đốt hương hành lễ. Nếu giảng đặc làm bạn chân nước nóng (trai xong, phương trượng, khách đầu mời Tây đường Lưỡng tự, khoảng chiều đối chân tướng bạn uống nước nóng, bày chiếu bày vị sắp ở bên phải tòa. Trụ trì tiếp đến tòa, đốt hương dâng nước nóng, và hạ tướng bạn người nước nóng, lùi thân đốt hương lễ lạy, khởi thân chào hỏi tạ tướng bạn, đánh ba tiếng bảng lui khỏi tòa. Nếu có năm, ba người ở Tây đường thì chia làm hai tòa: Tòa thứ nhất Tây đường uống nước nóng, Trụ trì hành lễ; Tòa thứ hai Lưỡng tự uống nước nóng, Thị giả hành lễ. Nếu không có Tây đường thì thôi, đến tụng kinh xong, chuẩn bị nước nóng quả, dự thỉnh Lưỡng tự cần cựu. Nếu có pháp quyến, các vị tôn trưởng, huynh đệ đồng môn, đều phải thỉnh họ. Tiểu sư hoặc pháp tôn thì không được đồng chiếu. Ngồi đã định, Trụ trì đứng dậy dâng hương dâng nước nóng xong, Thị giả đốt hương, hành nước nóng quả), Chương Tôn Tổ hết. -------------------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ NĂM: TRỤ TRÌ Phật giáo truyền vào Trung quốc khoảng bốn trăm năm thì Sơ Tổ Bồ-đề Đạt-ma đến. Lại truyền tám đời thì Bách Trượng, chỉ lấy đạo trao nhận cho nhau, hoặc yên ở nơi núi hang, hoặc nương tựa chùa luật, chưa có tên Trụ trì. Bách Trượng vì Thiền tông dần thạnh, trên thì các bậc quân tướng vương công, dưới thì Nho lão trăm họ thảy đều kính mến phong hóa mà hỏi đạo, có đồ chúng rất đông, nếu chẳng phải tôn quý vị đó thì pháp của thầy chẳng nghiêm, mới bắt đầu kính mời sư đó làm Trụ trì, mà tôn xưng gọi là Trưởng lão. Như ở Thiên-Trúc tôn xưng Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề, vì tuổi tác đức hạnh đều cao cả. Làm nhà rộng lớn để cho chúng đó ở, thiết bày Lưỡng tự để phân chức, mà chế độ rõ ràng, còn như lao tác thì vẫn cùng chúng chung khổ nhọc. Sư thường nói: “Một ngày không làm, một ngày chẳng ăn, sao có giàu của kho lẫm mà an của tớ xe ư!” Nên mới đầu do chúng suy tôn, do đó mà gọi đó là Quan, mà còn từ chối chẳng đến, sau thì quý bán Hào đoạt xem như vật lạ. Nhưng nếu chẳng phải người đó, thì một chùa hoang phế, để lại bè lũ ở sau, đến mấy mươi năm lan tràn, chẳng thể tính liệu, mà thường truyền sự thảm thiết về minh báo đó, có người nỡ nhẫn nghe, có thể chẳng răn sợ ư! <詞>TRỤ TRÌ NHẬT DỤNG: * Về Thượng đường. mồng một, rằm, lúc cách đêm thị giả bẩm báo Trụ trì là “sáng sớm mai thượng đường chúc Thánh”. Tới sáng mai lại bẩm báo, hành giả phân phó khách đầu treo bảng thượng đường báo chúng. Dùng cháo xong chẳng đánh chuông hạ đường ba tiếng, đợi bày pháp tòa xong, hành giả Đường ty lại báo thủ tọa, đánh bảng trước liêu chúng, đại chúng ngồi ở đường, hành giả phương trượng báo Trụ trì, kế báo Thị giả đánh bảng, Lưỡng tự Lãnh Tăng hành, đến trước tòa chào hỏi, phân ban đối lập. Thị giả thỉnh vị Trụ trì ra, lên tòa nguyện hương chúc thọ (rõ ràng đầy đủ như chương Chúc Ly), ngồi thẳng khai phát người học, khơi bày đạo này. Nếu có khách cùng tự tạ, nhiều thì đầy đủ từng mục nhỏ, sợ có quên sót, Thị giả xướng nhắc. Hoặc có Trụ trì các chùa, danh đức Tây đường, thì bày vị trí bên phải tòa, quan khách thì đối tòa bày vị trí, (biết lễ tôn pháp thì chẳng ngồi). Về Ngũ tham thượng đường, Lưỡng tự đến dưới tòa chẳng về ban đứng. Trụ trì lên tòa, chẳng nguyện hương (các việc khác như thể thức trước). Nếu có các vị tôn túc đến thăm hỏi, thì đặt biệt Thượng đường, hoặc dẫn tòa cử dương. Thí chủ thỉnh thăng tòa thì chẳng câu nệ thời gian. Học giả thời xưa vì quyết nghi nên có hỏi đáp, lúc đầu chẳng dính mắc ngôn ngữ. Gần đây gọi là Thiền khách, phần nhiều mờ tịt nhân quả, thêm lớn thói xấu ác, lấy làm đùa bởn huyên hoa nói cười, rất mất quán chiêm, huống chi cử dương Tông thừa, đoan chúc Thánh thọ. Nếu có các bậc danh đức và quan khách cùng quả, ít khiến nêu bày, mà nay, chư Tăng vì trách lỗi khen thuật tạ, rất trái với pháp thức. Như nói việc thường của nhà chùa, thì phương trượng nhóm họp uống trà bàn luận, không nói việc tạp, khiến chúng chán nghe. Vãn tham: Nhóm chúng khai thị chỉ dạy, đều gọi là Tham, người xưa giúp học trò khiến sớm tối thưa hỏi, không lúc nào chẳng khơi bày đạo này, nên mỗi buổi chiều phải tham thì ở lúc xế bóng. Đến nay tòng lâm tọa tham, như mồng một, rằm, ngũ tham lên tòa, lúc sắp nghe pháp, đại chúng ngồi tại đường (rõ đủ như ở chương Chúc Ly). Nếu Trụ trì đến chiều chẳng tham, thì hành giả Đường ty bẩm báo vâng lệnh Trụ trì đến Thủ tọa, đánh chuông ở Tăng đường ba tiếng, gọi là chuông phóng tham. Nếu Trụ trì nhập viện, hoặc Quan viên, đàn việt vào chùa, hoặc nhận người đặt thỉnh, hoặc gọi là người mất khai thị, hoặc bốn tiết lạp thì dời đến chuông tối mà đánh, gọi là Tiểu tham, có thể thuật theo thế lễ, gọi là gia giáo, nhưng cũng chẳng đánh chuông phóng tham, nghóa là còn có tham. Tiểu tham: Tiểu tham, mới đầu không định nơi chốn, xem chúng ít nhiều, hoặc đến Tẩm đường, hoặc đến pháp đường. Đến sau giờ ngọ, Thị giả báo Trụ trì (chiều nay Tiểu tham), khiến hành giả khách đầu báo với chúng, treo bảng tiểu tham, ngay chiều đó chẳng đánh chuông phóng tham. Lúc chuông tối đánh, hành giả báo với Trụ trì, đánh bảng một hồi, nhóm chúng. Lưỡng tự trở về vị trí, Trụ trì lên tòa (đồng như ngũ tham thượng đường), đề cương lần lượt tạ quanh co rõ ràng, nhưng sau nêu xưa, kết tòa như bốn tiết, thuyết mời đầu thủ, cầm phất và giảng khỏi lễ nghi, rõ lược khiến chúng đều biết, xuống tòa, hành giả khách đầu thỉnh rằng: “Hòa-thượng, phương trượng thỉnh Tây đường lưỡng ban đơn liêu v.v… hộ mông đường Thị giả Thiền khách ngay bây giờ đến tẩm đường dâng nước nóng”, khố ty dự bị nước nóng quả, đưa lên phương trượng. Xưa, tại phần Dương có Thiền sư Chiêu trụ viện Thái tử ở Phần Châu, vì đều đất phần khổ lạnh nên bải bỏ dạ tham, có vị Tỳ-kheo khác lạ rung tích trượng mà đến, nói với Sư rằng: “Trong Hội có sáu vị Đại só, vì sao chẳng nói pháp?” Nói xong, bèn vọt lên hư không mà đi. Sư thầm làm kệ tụng ghi nhớ rằng: “Hồ Tăng gậy vàng sáng Vì pháp đến Phần Dương Sáu vị thành khí lớn Khuyên mời vì phu dương”. Bấy giờ, Sở Viên Thủ Chi hiệu là Thượng thủ, Sở Viên tức Từ Minh, sau ở Thạch Bá, mỗi lúc trai Phạm xong thường đi dạo núi, khi ấy Hội Công Dương Kỳ làm giám tự, nhìn ra đó, bèn đánh trống nhóm chúng. Từ Minh vội trở về giận dữ nói: “Buổi chiều mà thăng tòa, từ đâu mà được thước dây này?” Hội Công từ từ đáp: “Phần châu vãn tham sao là chẳng phải thước dây ư?” Từ Minh gật đầu. Trước mỗi hạ, Cáo hương mới quy Đường là nêu một người Tham đầu, Duy-na hòa hội định đồng chúng đến Thị Ty, thưa rằng: “Huynh đệ mới đăng ký muốn cầu Hòa-thượng Cáo Hương Phổ thuyết, cảm phiền Thị giả thưa hỏi: “Đáp rằng: “Chấp nhận làm sau báo, sẽ trà lời”. Nếu Trụ trì chấp thuận, thì báo với Đường ty ra Biểu đồ Cáo hương (nghi thức xem ở sau), lược chúng ít nhiều xếp thành mấy hàng, phân ra hai bên Đông Tây, đứng mặt hướng về pháp tòa, y theo giới lạp bày xếp, dự nhóm chúng tập nghi, hành giả đường ty xuất tiền chúng mua hương lớn nhỏ ba mãnh và giấy, chi phí làm Biểu đồ, giao tham đầu thâu. Đến ngày, thị giả báo khách đầu đến tẩm đường hoặc pháp đường, bày bình phong, ghế dựa, phải dùng chiếc án hương ba cặp đài đèn, ngay trước ghế dựa, khoảng chữ xếp, bên ngoài bày một chiếc chiếu lạy nhỏ. Hành giả Đường ty dự theo một báo chúng, treo bảng Cáo hương, Thị giả dự ra bảng nhỏ, niêm yết trên cây cột ở pháp đường rằng: “Kinh vâng từ chỉ của Hòa-thượng Đường Đầu, danh đức thủ tọa Tây đường đều miễn Cáo hương. Thị ty mỗ kính bạch”. Đến ngày, dùng cháo xong, các Liêu đều đánh ba tiếng bảng, chúng nhóm họp, y theo vị trí như biểu đồ mà đứng, đều phải có hộp hương nhỏ, ngồi kiêt già. Tham đầu đồng Duy- na, Thị giả vào thỉnh Trụ trì ra, Tham đầu trở về vị trí, đồng chúng chào hỏi, rồi tiến tới trước thưa: “Thỉnh Hòa-thượng an tọa”. Trụ trì đến tòa, phó tham thay đổi một mảnh hương lớn, cùng Tham đầu đồng chúng đáp lễ cắm hương, đều lạy ba lạy, thâu tọa cụ, lại đồng đáp lễ, Tham đầu tới bên cạnh ghế dựa, đáp lễ, thưa rằng: “Chúng con vì sinh tử việc lớn vô thường nhanh chóng, cúi mong Hòa-thượng từ bi khai thị nhân duyên”. Trụ trì nêu thoại ba tắc, tùy hạ ngữ, trở về vị trí đáp lễ, cắm một mảnh hương, lại đồng chứng trở về vị trí đứng khoanh tay. Đông Tây mỗi bên ba vị ra ban. Người thứ nhất, thứ hai bên Đông qua trước lò bên Đông, người thứ ba lò giữa, người thứ nhất thứ hai bên Tây qua trước lò bên Tây, người thứ ba qua trước lò giữa, cả hai bên đốt hương thăm hỏi, sau đó ba người bên Đông qua bên Đông, ba người bên Tây qua bên Tây, kế là như trước mà tiến tới dần hành mỗi tuần tiếp cuối ban, ba ba khoanh tay ra ban, chắp tay trở về vị trí, đợi mỗi vị đốt hương xong, lần lượt đi đến nguyên vị. Đồng chúng lạy ba lạy chẳng thâu tọa cụ. Tham đầu tiến tới bạch: “Chúng con được Hòa-thượng từ bi chỉ bảo, hạ tình chẳng thắng rất cảm kích”. Trở lại vị trí, đồng chúng lạy ba lạy, lại tiến tới bạch: “Ngay bây giờ khiến cẩn trọng giờ cùng chỉ, Hòa- thượng Đường đầu tôn hầu đi ở muôn phước”. Rồi trở lại vị trí đồng chúng lạy ba lạy thâu tọa cụ. Hành giả đánh năm tiếng bảng, Lưỡng tự chuyển thân tuần tự đứng trước tòa, tham đầu đứng dưới Tây tự, người cáo hương Đông Tây chuyển thân, y theo cần cựu mông đường đã cáo hương là đứng ở sau, Phổ thuyết xong, đứng đều hướng về pháp tòa, Tham đầu cắm hương, đồng chúng lạy ba lạy, miễn thì xúc lễ tiến tới bạch: “Chúng con đời trước may mắn, được nhờ Hòa-thượng từ bi khai thị, hạ tình chẳng thắng rất cảm kích”. Khắp đồng đáp lễ mà lui. Tham đầu lãnh chúng gian dưới pháp đường, tạ Duy-na, thị giả xúc lạy một lạy, tiếp đại chúng tạ Tham đầu, xúc lạy một lạy, thỉnh thị giả khách dự y thứ lớp giới lạp, đầy đủ trà trạng, ghế, khăn gói bút nghiên, cáo hương xong, xếp bày gian dưới pháp tòa, mời dùng trà mỗi mỗi kiểm danh, thỉnh thủ tọa quang bạn, thọ trai xong, chúng trở về đứng ở vị trí. Hai Thị giả hành lễ (đồng thường đặt làm trà). Đang chiều phương trượng mời Tham đầu, Duy-na, Thị giả dùng bữa chiều, Thủ tọa quang bạn. Kế sáng hôm sau, thỉnh Tham đầu dùng trà, giữa bữa trai, thỉnh Duy- na Tham đầu Thị giả điểm tâm. Nếu đại chúng đồng dự cáo hương, thì thủ tọa làm Tham đầu, đặt đó làm trà, thỉnh Tây đường quang bạn. Trụ trì nhập viện, người sau định việc, Khố ty chuẩn bị hương, thủ tọa lãnh chúng khẩn thỉnh, vì chúng cáo hương, sau đó khai đường, (pháp xưa chưa dự cáo hương chẳng cho phép nhập thất”. Phổ thuyết: Có khi đại chúng cáo hương mà thỉnh, đến ngồi ở chỗ lập bày, có đàn việt đặc thỉnh, nếu có Trụ trì vì chúng khai thị, thì lên pháp tòa. Lúc Phổ thuyết Thị giả bảo hành giả khách đầu treo bảng Phổ thuyết báo chúng, thiết bày nói Tẩm đường hoặc pháp đường. Dùng cháo xong, hành giả lạy Trụ trì, đánh bảng năm tiếng thư thả, Thị giả ra đợi chúng nhóm, thỉnh Trụ trì ra, y cứ ngồi Phổ thuyết, đồng như lễ tiểu tham. Nhập thất: Nhập thất là, tức Sư gia khám biện học trò, khuyên răn điều chưa đạt đến, dẹp hư cao, phá nghiêng nặng, như lò nấu vàng thì thủy ngân chẳng còn, thợ ngọc sửa ngọc vũ phu phế cả, chẳng nệ sớm hôm, chẳng chọn nơi chốn, không thời gian nào không thực hành. Nên thời xưa Thích tử có hộp hương nhỏ thường mang theo thân, chỉ nghe đánh ba tiếng trống, thì đến nhập thất (thời này dùng ba tám nhập thất là, đầy đủ cố sự), gặp lúc khai thất, trước khi dùng cháo, Thị giả khiến hành giả khách đầu, treo bảng nhập thất trước Tăng đường và các liêu. Trong Tẩm đường có treo tượng Đạt-ma, phía trước bày hương đèn và chiếu lạy, thiết bày cầm đèn treo hương trong thất, chiếu lạy bày cạnh bên trái. Dùng cháo xong xuống đường khách đầu đánh ba tiếng trống thư thả. Trụ trì đến trước tượng Đạt-ma đốt hương, đồng Thị giả lạy ba lạy vào y cứ thất ngồi, Thị giả đáp lễ đứng bên trái bạn. Hành giả đáp lễ đứng bên phải ban. Đầu thủ lãnh chúng đến trước tượng Đạt-ma, đều đốt hương lạy ba lạy liền tiếp mà đến trước thất. Người đến sau y thứ lớp đốt hương lạy bái mà đứng, thứ lớp cùng đến chẳng chấp thuận lẫn lộn trước loạn mất thứ lớp. Thị giả đốt hương đáp lễ, ra ngoài tiếp thủ tọa vào, vào trước bước chân trái, vẫn dùng tay trái dâng hương, tiến tới trước đáp lễ, đến cạnh bên phải ghế dựa thiền mà đứng nghe nêu thoại. Hoặc hạ ngữ, hoặc chẳng hạ ngữ, tùy ý qua bên trái ghế dựa thiền, đáp lễ rồi lùi bước, xúc lễ lạy một lạy giở chân trái, ra tiếp người kế vào, một ra một vào cùng hướng đáp lễ liên tiếp chẳng dứt. Nếu Thủ tọa là Đại phương Tây đường, hoặc danh đức vào đốt hương, Trụ trì đang dưới tòa tiếp nhường tiễn ra. Gặp thăng đường bạch chúng đặc miễn (đây cũng là nghi của thời cận đại tập theo. Nếu các bậc cổ đức Đương cơ, Phật tổ chẳng nhường, sao giảng thế lễ. Trông lại sư gia sao như vậy). Chỉ hậu đường lãnh chúng tạm đến đều phải nhập thất, Thị giả ở sau, chúng nhập thất xong, đốt hương, lạy ba lạy, hành giả cắm hương lạy ba lạy. Trụ trì lại ra trước tượng Đạt-ma đốt hương, lạy ba lạy mà lui. Niệm tụng: Theo Thanh quy cổ, thì ngày mồng ba, mười ba, mười tám, mồng tám, mười tám, hai mươi tám. Nay chỉ hành mồng tám, mười tám và hai mươi tám. Đường ty y theo giới lạp thứ lớp lập biểu đồ (Nghi thức xem sau). Đến ngày, quét tước trước Tăng đường. Sau giờ ngọ, hành giả Đường ty báo chúng, treo bảng niệm tụng. Đến trước tham, xem xét Tăng đường và các điện đường hương đèn đầy đủ, báo lại Trụ trì, Lưỡng tự, trước đánh bảng ở phương trượng và bảng ở chiếu đường, kế đi tuần ở hành lang, đánh bảng, Trụ trì ra, thư thả đánh ba tiếng bảng lớn, chúng nhóm họp, y cứ biểu đồ lập định, tạm đến nơi dưới vai Thị giả đứng. Thị giả theo Trụ trì đến Tổ đường, Thổ địa đường và đại điện đốt hương, lạy bái. Đánh chuông lớn, Lưỡng tự dự tập bên ngoài đường, bảng lớn đánh mới về vị trí theo biểu đồ. Trụ trì nhập đường, Cung đầu đánh chuông trước đường bảy tiếng, đốt hương trước Thánh Tăng, Thị giả bưng hộp hương. Thị giả thư trạng trở về vị trí. Thị giả thỉnh khách liền sang Tây tự chào hỏi, thỉnh nước nóng đi tuần qua, kế là thỉnh Đông tự trở về vị trí, Trụ trì ra khỏi đường, đứng ngay ở giữa. Thị giả đốt hương theo ra đến vị trí, Duy-na trước lìa vị trí đến đầu cửa, đứng hướng về Trụ trì, chắp tay niệm tụng tám thượng tám trung rằng: “Hoàng phong mãi tỏa, đế đạo vang xa, mặt trời Phật sáng thêm, bánh xe pháp thường chuyển, thổ địa già-lam hộ pháp hộ người, mười phương Đàn-na thêm phước thêm tuệ. Vì duyên như trên, niệm pháp thân thanh tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na, v.v…” Đại chúng mặc niệm, mỗi hiệu, ở trước Đường khinh ứng, đánh một tiếng chuông, niệm xong điệp một tiếng. Tám tiếng thì bạch đại chúng! Như lai Đại sư nhập Đại Niết-bàn, đến niên hiệu Chí Nguyên năm thứ nhất (1 3 3 5) đời Nguyên đã được hai ngàn hai trăm tám bốn (2 2 8 4) năm. Ngày nay đã qua, mạng sống giảm dần, như cá cạn nước, đâu có gì vui, các vị phải siêng năng tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, chỉ nghó sự vô thường. Cẩn trọng chớ buông lung. Thổ địa già-lam hộ pháp hộ người, mười phương Đàn-na thêm phước thêm tuệ, vì duyên như trên, niệm pháp thân thanh tịnh mười hiệu v.v… Xong trở về vị trí. Trụ trì nhập đường, thủ tọa tiền đường vào kế, Danh Đức Tây đường sáo nhập, trở về đầu bảng Thánh Tăng đứng. Đầu thủ lãnh chúng, ba người một dẫn, đến trước Thánh Tăng đáp lễ, chuyển thân đến trước Trụ trì đáp lễ, chắp tay đi tuần đường, thuận theo vai trái mà chuyển, y cứ vị trí trong biểu đồ mà đứng, dẫn đến Thị giả theo chúng nhập, chi đi tuần nửa đường đến sau Thánh Tăng, Thị giả hướng cửa sau đứng, tạm đến hướng thị giả đứng, kế là thày Tri sự nhập đường, đến trước Thánh Tăng thăm hỏi, chuyển thân đến trước Trụ trì thăm hỏi, chắp tay đi tuần đường ra, tạm đến tiếp thị giả sau theo ra, hành giả đường ty đến trước Thủ tọa báo rằng (phóng tham), theo sau Thánh chúng chuyển ra khỏi đường. Cúng đầu đánh chuông ở trước Đường ba tiếng. Chúng cùng chung kính lễ, đều ra toàn đơn mà giải tán (Trụ trì ra, Lưỡng tự theo ra đến trước đường tạ nước nóng. Trụ trì đừng đó, tám hạ đến nước nóng, tẩm đường đánh bảng, thị giả đốt hương hành lễ như thường thức, nước nóng xong thì dùng bữa chiều. Theo pháp xưa thì ba tám đều có nước nóng, tám thượng tám trung thì khỏi dùng bữa chiều. Ngày đó chẳng tọa tham, đến chiều ngồi thiền như thường thức). Tuần liêu: Theo Thanh quy xưa, Trụ trì tuần liêu, trước Tăng đường treo bảng tuần liêu báo chúng, mỗi liêu bày vị trí, đầy đủ hương trà, nước nóng. Do xét đợi Trụ trì đến, đánh bảng nhóm chúng, ở ngoài của bày đứng chào hỏi, theo Trụ trì vào liêu. Liêu chủ đốt hương đồng chúng chào hỏi mà ngồi, Trụ trì thăm hỏi người già bệnh, xem xét liêu phòng khuyết thiếu, thuật thoại mà dậy, chúng đáng bày tọa cụ tạ đến thăm hỏi, miễn thì đáp lễ cùng tiễn đưa. Hoặc mồng một, rằm tuần hành (thì chẳng treo bảng), nay chỉ lấy bốn tiết báo lễ làm tuần liêu, ngày khác chẳng giảng, năng trở lại xưa là phải thực hành. Luật Tăng-kỳ chép: Đức Thế tôn do năm việc mà cứ năm ngày đến Tăng phòng một lần: Một là sợ đệ tử mê đắm việc hữu vi; Hai là sợ đắm trước tục luận; Ba, sợ mê đắm ngủ nghỉ; Bốn là vì thăm vị Tăng nào bị bệnh; Năm là khiến Tỳ-kheo trẻ tuổi thấy oai nghi Phật mà sinh tâm vui mừng. Túc chúng: Trong Đại Tạng Kinh chép: Hàn lâm học só Dương Ức đời tống suy tìm ý của Bách Trượng lập Thanh quy, lược nói: Hoặc có người giả hiệu trộm hình lẫn lộn trong chúng thanh tịnh, làm cho xảy ra những việc huyên náo, Duy-na tức phải xem xét, rút xuống bản vị treo. Đuổi ra khỏi viện là quý an chúng thanh tịnh. Hoặc kia có điều phạm, thì dùng gậy đánh, nhóm chúng đốt hủy y bát đạo cụ, đuổi theo cửa hông mà ra là bày só nhục. Rõ ràng điều chế này có bốn lợi ích: Một là chẳng làm ô nhiễm chúng thanh tịnh, khiến sinh cung kính; Hai là chẳng hủy Tăng hình, y theo Phật chế; Ba là chẳng nhiễu cửa công, xét ngục tụng; Bốn là chẳng rò rỉ bên ngoài, bảo hộ tông cương. Nhưng Bách Trượng sáng lập Thanh quy, chiết trung năm thiên bảy tụ của luật Phật, Hoằng Phạm ba cõi. Phạm đàn đuổi trị, tự tứ nêu lỗi để chỉnh túc chúng đó. Quốc triều nhiều vị Thánh răn gắng tăng đồ nghiêm vâng Phật chế, trừ hình danh tội trọng, vì thuộc ngoài Hữu ty. Nếu Tăng nhân tự cùng can phạm, phải dùng luật Thanh quy để trị. Nếu đấu tránh phạm phần, hoặc ô hạnh buông lung, hoặc xâm chiếm của thường trụ, hoặc lén trộm tiền vật thì nên theo gia huấn, không lan truyền xấu xa ra bên ngoài, bới đều xưng là họ Thích, chuẩn cứ tục đồng thân, tiếc giữ Tổ quy, tùy sự răn trừng, nặng trọng thì nhóm chúng tẩn đuổi, khinh nhẹ thì phạt tiền, phạt hương, phạt dầu, mà niêm bảng công khai, như quan hệ tiền vật có văn trạng trách phạt đòi bồi, chỉ bình chỉ đáng, khiến tự hối cải cứu vãn, Quy Thằng xưa có bài kệ chép: “Trộm của và đấu tránh Sắc rượu dơ Tăng luân Chóng đuổi lìa chúng tịnh Lại nói: Dung giữ thì hại chúng. “Phạm trọng đốt y bát Nên phải nhóm mọi người Chùa treo bảng nêu xấu, Đuổi bỏ ra cửa hông”. Thiền sư Đại Tuệ lúc ở Dục Vương, niêm bảng tại Đường ty: “Tăng tranh cãi là vô minh, quyết định chẳng phải vị Tăng tốt, có lý, không lý, đều đuổi ra khỏi viện, hoặc bàn nghị có lý mà cũng tẩn đuổi, nghi chưa xác đáng. Bởi Tăng phải nhẫn nhục, nếu chấp có lý mà tranh cãi, tức là vô minh. Tẩn đuổi đó để dứt sự tranh cãi khi chưa nẩy mầm”. Huấn Đồng Hành: Sáng ngày rằm, ngũ tham thượng đường xong, hành giả Tham đầu bảo hành giả hát thực báo với các cục vụ, trước hành đường treo bảng báo chúng. Chuông tối đánh, trước hành đường đánh ba tiếng bảng, nhóm chúng hành giả, trước ở tại điện Phật, kế là ở Tổ đường, trước Tăng đường, liêu tiền đường (hét tham) mới lên Tẩm đường bày đứng. Tham đầu vào phương trượng thỉnh Trụ trì ra chỗ ngồi. Tham đầu tiến tới cắm hương, lùi thân trở về vị trí, thư thả hét tiếng rằng “Tham”, chúng thấp tiếng đồng nói “chẳng xét” và đều lạy ba lạy, lắng yên khoanh nghe Thanh quy răn dạy xong, lại lạy ba lạy. Tham đầu hét (trân trọng), chúng đồng thấp tiếng hòa, thăm hỏi mà lui. Nếu vị Trụ trì có duyên sự khác thì hành giả hát thực hét rằng: “Vâng từ chỉ của phương trượng là vãn tham”, chúng nói “chẳng xét”. Kế tiếp kéo dài tiếng hét rằng: “Phóng tham”, chúng đều nói “trân trọng”, xong, đồng thăm hỏi mà lui. Vì hành giả phổ thuyết: Tham đầu dự đến thị ty, cắm hương lễ lạy, thưa Thị giả rằng: “Hỏi báo Trụ trì”. Nếu chấp thuận sự cầu thỉnh thì Tham đầu liền đánh bảng trước hành đường nhóm chúng, bày đứng ở Tẩm đường. Tham đầu theo thị giả vào thỉnh Trụ trì ra y cứ chỗ ngồi. Tham đầu đồng chúng thăm hỏi, tiến tới trước cắm hương, lùi thân trở về vị trí, thư thả hét rằng: “Chẳng xét”, chúng thấp tiếng hòa xong, đồng lạy chín lạy. Tham đầu tiến tới trước thưa (chúng con lâu nghó Hòa-thượng dạy răn, cúi mong từ bi khai thị nhân duyên). Xong, chuyển thân thăm hỏi mà lui. Ngày hôm sau, tại hành đường treo bảng Phổ thuyết báo chúng, thiết tòa bàn hương đài đèn. Tham đầu báo chúng thỉnh Lưỡng tự lập ban, phó tham lãnh chúng tại cửa thỉnh Lưỡng tự nhập đường. Tham đầu đường chủ đến Thị ty đồng thỉnh Trụ trì xuống hành đường, chúng nrước vào y cứ mời ngồi, Thị giả thăm hỏi đứng bên cạnh. Lưỡng tự thăm hỏi xong, Thị giả đốt hương thỉnh pháp. Tham đầu lãnh chúng tuần tự đứng cắm hương, hét tham, lạy ba lạy, lui về phần sau Đông Tự Tây Tự bày đứng, khoanh nghe khai thị xong, Tham đầu lãnh chúng như trước bày đứng lạy ba lạy, liền ra ngoài cửa đứng bên phải, kế đưa tiễn Trụ trì Lưỡng tự. Sau đó, theo đến Tẩm đường, cắm một mảnh hương lớn, lạy chín lạy mà lui, kế đến Thị ty, cắm hương lạy ba lạy. Tham đầu, Phó tham đồng đến trước Lưỡng tự, mỗi mỗi lạy tạ. Thọ pháp y: Chuyên sứ đưa pháp y đến, trước xem xét lẫn nhau ý chung của Tri khách, đồng dâng Thị ty phiền thông phúc phương trượng, hoặc tức cùng tiếp, hoặc ở hôm sau đến. Thị giả dự khiến khách đầu báo thỉnh Lưỡng tự đến. Chuyên sứ cắm hương như thường lễ cùng xem, tạ trà xong, lại cắm hương, cả hai lạy ba lễ, miễn thì xúc lễ bèn từ rằng (người mỗ, pháp y biểu tín của Hòa-thượng, chuyên dâng trên đây), đem mâm khăn gói bày trình pháp y tín vật, sau đó nhập tòa, Lưỡng tự quang bạn, dùng trà xong thì dâng nước nóng, nước nóng xong, Lưỡng tự đồng đưa đặt xuống, Thị giả dẫn tuần liêu. Ngày khác thượng đường, cạnh bên trái pháp tòa bày vị trí Trụ trì, chuyên sứ bày lạy ba lễ, bưng y thay nhau dâng, Trụ trì tiếp y, có pháp ngữ, đắp y thăng tòa, hoặc kế thừa Pháp sư đã thị tịch, gian bên phải pháp đường, thiết bày Linh, hạ tòa cúng tế, tụng kinh, như lễ gửi thứ đến, xem ở sau. Đón hầu tôn túc: Có các vị tôn túc đến thăm viếng, phải dự treo bảng tiếp tôn túc, đánh chuông nhóm chúng đón rước ở cửa. Kia nếu còn chọn lựa thì ngầm vào chùa, Trụ trì phải ở tẩm đường đầy đủ hương đèn đón rước, vẫn khiến đánh chuông ở Tăng đường, khách đầu báo với Thủ tọa, lãnh chúng cắm hương thăm hỏi xong, chúng lui, Lưỡng tự cần cựu đến bồi tòa, đốt hương uống trà xong, thị giả mới cắm hương lễ lạy. Thị giả mang hành lý, hành giả nhân lộc kiệu theo tham lễ, trương trượng chấp cục và tham đầu lãnh chúng, hành giả nhân bậc kiệu phướng lần lượt tham lễ. Thị giả lại đốt hương châm nước nóng, nước nóng xong, Lưỡng tự cần cựu đồng tiễn khách vị, khách đầu khiến chuẩn bị kiệu, Trụ trì đồng dẫn tuần liêu báo lễ, Thị giả theo hầu. Nếu các chùa trở xuống thì Thị giả dẫn tuần liêu, Thị giả thỉnh khách đầy đủ trạng văn, đến khách vị, cắm hương lạy thỉnh đặt làm nước nóng, bẩm rằng: “Phương trượng lạy thỉnh Hòa-thượng, chiều nay đến tẩm đường, đặt làm hiến dâng nước nóng, cúi mong từ bi giáng trọng”. Bẩm xong, trình trạng văn (biểu thức xem sau). Xong, khách đầu lại thưa: (Thỉnh Hòa-thượng dùng nước nóng xong, đến tòa dùng bữa chiều. Tại tẩm đường, đinh treo màn trướng, treo bảng chiếu, thiết đặt làm vị trí Quang bạn, đánh trống hành lễ, tiếp ngồi, tiếp hương, khuyên nước nóng, dùng nước nóng xong, dùng bữa chiều, đều đồng thường đac biệt làm lễ, khách đầu đến khách vị thỉnh rằng: “Phương trượng thỉnh Hòa-thượng chiều nay dùng nước nóng quả”. Vẫn thỉnh Lưỡng tự Quang bạn, thị giả báo lại. Sáng sớm hôm sau, thượng đường đáp tạ, sáng kế tiếp thỉnh dùng nước nóng, thị giả đốt hương, hành giả đáp lễ. Bộc theo tiếng dạ, Trụ trì cùng bồi dùng cháo, cháo xong Thị giả lại thưa bẩm Thượng đường, bày vị trí bên phải tòa, giữa bữa điểm tâm. Như Đại Tôn túc thì thủ tọa chúng Đầu thủ thưa bẩm Trụ trì, khuyên thỉnh vì chúng giảng dạy pháp yếu. Trụ trì trước đến khách vị trình bày ý, nếu chấp thuận thì thủ tọa đầy đủ trạng văn. Lượng tự đại chúng đồng đến khách vị, cắm hương lạy thỉnh, tiếp thỉnh Trụ trì dẫn tòa báo chúng treo bảng, hai bên trước pháp tòa bày đứng. Đến giờ đánh trống, Trụ trì đồng xuống đứng trước vị trí pháp đường, Trụ trì trước dẫn tòa, cùng đồng thường thượng đường, hạ tòa lưỡng tự đến trước tôn túc chào hỏi. Tôn túc đến trước Trụ trì chào hỏi, trở về giữa chào hỏi chung rồi lên tòa. Thị giả Lưỡng tự ra ban chào hỏi, Trụ trì chào hỏi. Nói pháp xong xuống tòa đến trước Trụ trì chào hỏi, cùng cả đại chúng chào hỏi. Trụ trì Lưỡng tự đại chúng theo đến khách vị, cắm hương lạy tạ. Thị giả thỉnh khách đầy đủ trạng văn, thỉnh đặt làm quản đãi. Sơn môn đặt vật thực chuẩn bị dâng cúng, phương trượng chuẩn bị thêm sấm. Hành lễ cùng thường đặc là đồng. Nếu các chùa bình giao lễ trong châm chước thì có thể. Nếu pháp quyến tôn trưởng đến, trước giảng các chùa cùng gặp lễ, tiễn đưa khách vị thỉnh ở tòa giữa, Trụ trì cắm hương lễ lạy, giảng pháp quyến lễ. Phương trượng ngồi trong phải nhường vị trí giữa, đón đưa như lễ trước, hiến dâng nước nóng đích thân hành lễ. Khách lực từ, Thị giả hành lễ. Nếu tự pháp biện sự thì pháp điệt thăm viếng, phải tự thân đến phương trượng Trụ trì liền bảo đánh chuông ở tiền đường, nhóm chúng nhân sự, trước thỉnh Trụ trì ngồi giữa, hàng đệ tử pháp quyến lễ, kế là giảng các chùa lễ, kế là tiễn đồng như trước. Chỉ đặt làm nước nóng quản đãi chẳng đủ trạng văn. Thị giả thỉnh khách đốt hương bày thỉnh, lại xem tuổi tác giới lạp cao thấp, đến lúc thông biến (thỉnh nước nóng, thỉnh quán đãi, thỉnh thăng tòa, mỗi việc đều có trạng thức xem ở sau). Các lời trạng văn: Trụ trì chùa này Tỳ-kheo mỗ, như trên, mỗ liền chiều nay đến Tẩm đường, châm nước nóng đac làm, cúi mong tôn từ đặc biệt xót thương giáng trọng, kính trạng. Ngày tháng năm, đầy đủ vị trạng: Trụ trì chùa này Tỳ-kheo mỗ, như trên, mỗ liền ngày mai đến tẩm đường, chuẩn bị đủ cơm nước. Cúi mong tôn từ xót thương giáng trọng, kính trạng. Ngày tháng năm đầy đủ vị trạng. Thủ tọa chùa này Tỳ-kheo mỗ, như trên, mỗ liền lấy ngày mai lạy thỉnh cử dương tông chỉ, khai thị hậu học, cúi mong tôn từ xót thương cho phép, kính trạng. Ngày tháng năm đầy đủ vị trạng. Khả lậu tử trạng văn cầu thỉnh, xứ mỗ Thiền sư Hòa-thượng đường đầu, đầy đủ vị, kính thư. Thí chủ thỉnh thăng tòa trai Tăng: Thí chủ đến cửa, tri khách tiếp kiến dẫn lên Phương trượng, hiến dâng trà nước nóng, tiễn an ở dưới. Nếu quan quý đại thí chủ, phải đánh chuông nhóm chúng đón rước từ cửa, tiễn an ở dưới ổn định, thí chủ liền mời Tri sự bàn bạc, đồng lên phương trượng, đốt hương lạy thỉnh thăng tòa, đến ngày thiết bày pháp tòa, trước tòa bày vị trí của thí chủ, treo bảng thượng đường, báo chúng, đánh trống nhóm chúng, tri khách đồng thí chủ lên phương trượng thỉnh Trụ trì, phải chuẩn bị thủ lư, đèn, phướn, nạo bạt, như nghi thức đón rước đến trước tòa, lên tòa an tọa. Thí chủ đến trước tòa lạy bái. Tri khách vái dẫn vào vị trí nghe pháp (chỉ nhận lễ ngồi thì khinh mạn pháp). Xuống tòa lạy tạ. Nếu trai Tăng thì phải cùng tri sự bàn định trai liệu dụng phí, Duy-na đầy đủ số mục Tăng hành. Vật phẩm tùy số biếu đều, có nghi thức bên trong Tăng đường bày vị trí thí chủ cùng Trụ trì phân tay, trai xong, tri sự bồi thí chủ đến đứng giây lát trước Tăng đường, đợi thủ tọa lãnh chúng ra khỏi đường mà lạy tạ, tiếp Trụ trì tri sự đến khách vị tạ. Hoặc có giữ tiền trai Tăng, Trụ trì giao trách nhiệm cho tri sự, cần phải hết số sắm sinh vật cúng cẩn trọng chớ sử dụng lẫn lộn việc khác, phải nghó nhân quả rõ ràng. Trong Nhân Thiên Bảo Giám chép: Thiền sư Trí trụ núi Vân Cái ở Hồ Nam, ban đêm ngồi nơi trượng thất, chợt nghe hơi khí đốt cháy và tiếng gông cùm, bèn nhìn, thì thấy có một người đội lửa mang gông, lửa tắt vẫn cháy chẳng thôi, đuôi gông tựa vào chốt cửa. Thiền sư Trí kinh sợ hỏi: “Ông là ai mà khổ sở thế ư?” Người mang gông ấy đáp: “Tôi trước là Thủ Ngung ở chùa này, chẳng được đem vật đàn việt cúng Tăng mà tạo Tăng đường,(nhưng tôi lại làm việc ấy) cho nên chịu khổ này”. Thiền sư Trí hỏi: “Phải làm cách nào để thoát khỏi?” Người ấy đáp: “Mong vì giúp đánh giá trị Tăng đường mà thay thiết cúng Tăng, nước có thể khỏi”. Thiền sư Trí bèn đem của cải riêng của mình như lời nói đó mà đền bù, một đêm nọ mộng ấy người ấy đến cảm tạ rằng: “Nhờ lực sư ủng hộ mà được khỏi khổ địa ngục, sinh lên cõi trời, ba đời sau lại được làm Tăng”. Nay vết chốt cửa cháy lẹm hiện vẫn còn. Nhưng Ngung Công đem vật cúng Tăng làm Tăng đường đều là Tăng thọ dụng, còn chịu quả báo của hỗ dụng. Nếu nay đây tòng lâm bác bỏ không nhân quả, chẳng phải chỉ hỗ dụng, mà còn trộm của thường trụ làm của mình, nên thế nào ư! Người thọ tự pháp tiễn điểm: Nếu pháp tự đến chùa Tiễn Điểm khiến mang hành tri sự đến khố ty cùng bàn tính, sắm sinh hợp dụng, tiền vật đưa nhận, cách đêm trước đến thị ty hỏi bẩm thông báo, đến phương trượng cắm hương lễ lạy, miễn thì xúc lễ thỉnh rằng: “Sớm mai đến vân đường hãy đủ lễ cúng, cúi mong từ bi xót thương giáng trọng”, khiến khách đầu thỉnh Lưỡng tự, Đơn liêu, các liêu, treo bảng tiễn điểm. Đến ngày, vị trí Trụ trì ở Tăng đường nghiêm trang thiết bày, và ghế khăn gói vật phẩm, v.v… đầy đủ. Hỏa bản đánh, đại chúng đến đường, người Tiễn Điểm theo Trụ trì vào đường tiếp ngồi, Thánh Tăng trước chuyển thân đốt hương, chắp tay, sang trước Trụ trì chào hỏi, chuyển sau Thánh Tăng mà ra, Trụ trì dẫn tay tiếp người điểm ngồi, vị trí ở đầu bản tri khách. Hành giả hét rằng: “Thỉnh đại chúng hạ bát”, hành thực khắp xong, người Tiễn Điểm đứng dậy đốt hương, đặt vật phẩm đáp lễ Trụ trì và hành chúng vật phẩm, Trù ty mới đánh bản trai đến hành Phạn, Phạn xong, chúng thâu bát, lùi ghế Trụ trì, người Tiễn Điểm đốt hương đến trước Trụ trì thăm hỏi, theo sau Thánh Tăng ra trước lò đáp lễ. Đánh chuông, hành trà khắp, tiến đến trước Trụ trì khuyên dùng trà, lại theo sau Thánh Tăng ra, tiến tới trước Trụ trì, trải tọa cụ, bạch: “Ngày nay lạy bạc từng phiền đặc nhục giáng trọng, hạ tình chẳng thắng rất cảm kích”. Hai bày ấm lạnh xúc lạy ba lạy, đưa tiễn Trụ trì ra. Người Tiễn Điểm lại trở về đường đốt hương gian trên dưới thăm hỏi để tạ quang bạn, lại trong lúc thăm hỏi, đánh chuông gom chén bát, kế đến phương trượng tạ giáng trọng, Trụ trì theo đến khách vị đặt tạ. Nếu các chùa Tiễn điểm hầu trai biện, thỉnh Trụ trì đồng đến đường, tiếp Trụ trì ngồi, Trụ trì ngay đó mẫu hành lễ, tiếp người tiễn điểm về vị trí, trì hành thực khắp, đứng dậy đốt hương đến trước Trụ trì đáp lễ hạ phẩm vật, biếu vật phẩm mọi người, đốt lửa bạn hương, về vị trí bạn thực, trà lễ giảng chăng tùy nghi châm chước. Tự Pháp sư gởi thư đến: Chuyên sứ mang thư đến chùa (lễ nghi rõ xem thiên Di thư ở sau), phương trượng mở thư, Lưỡng tự trước hỏi thăm Trụ trì, gian giữa pháp đường bày cúng tế, nguyện hương trước tòa, có pháp ngữ, cử ai, lạy ba lạy, dâng nước nóng, lại lạy ba lạy, dâng phẩm thực, hạ vật thực đánh chuông, giảng đặt làm lễ, lạy ba lạy, dâng trà, đánh ba tiếng trống, lui tòa thâu tọa cụ, Duy-na xướng tụng chú Lăng-nghiêm, hồi hướng (đồng như Tự Pháp sư), Lưỡng tự bốn liêu, giang hồ hương nhân pháp quyến, Tiểu sư biện sự đều có tế. Trụ trì ở bên trái của bàn linh (như có các chùa và Tây đường pháp quyến dưới tòa cùng sư làm bạn đồng hành dâng tế thì Trụ trì đồng chuyên sứ đáp lạy, trở xuống thì chẳng đáp lạy). Tế xong, tụng chú Đại Bi, hồi hướng rằng: “Trước nay công đức phúng tụng, kính vì chùa mỗ, Đại Hòa- thượng hiệu mỗ, thêm lớn phẩm vị, tất cả Phật mười phương ba đời, v.v…”. Thủ tọa Lãnh chúng an ủi Trụ trì rằng: “Pháp môn bất hạnh, kh- iến Hòa-thượng thị tịch, hàng hậu học mất nơi nương tựa, buồn thương khôn xiết, còn mong kham nhẫn lực hành đạo này”. Sắc Tu Bách Trượng Thanh quy quyển hai hết.  SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY <卷>QUYỂN 3 THỈNH TRỤ TRÌ MỚI Phát chuyên sứ: Chùa viện ở mười phương, Trụ trì trống vắng, thì tấu trình lên sở ty, xét người bạn xuống, khổ ty hội Lưỡng tự cần cựu dùng trà, bàn nghị phát chuyên sứ tu thư (Đầu thủ tri sự cần cựu trước mông đường, giúp tăng chúng) chế sớ (giang hồ các chùa sơn môn), bảng trà nước nóng (chuyên sứ ghi danh) thỉnh thư ký làm, nếu khuyết thư ký thì chọn người giỏi văn chữ tốt, phân làm, dùng lụa trắng viết bảng, chỗ thỉnh chuyên sứ hoặc thượng thủ tri sự, hoặc cần cựu, hoặc Thủ tọa Tây đường, hoặc sung thứ Đầu thủ vào đó, nếu chẳng phải Tri sự sung chuyên sứ cũng phải tri sự trở xuống một người đồng bỏ trông coi của cải nghị sự, đầy đủ phải biết một sách, gồm ghi chép Bản tự nên có ruộng đất sản vật cơ nghiệp, và đón rước nghi tùng, tất cả đều đầy đủ. Sơn môn quản đãi chuyên sứ một hành nhân tùng, đến ngày khởi trình, đến các liêu giã biệt nhau, đánh chuông ở tăng đường nhóm chúng ở cửa tiễn đưa, dưới ba cửa đóng treo trướng hướng vào bên trong thiết bày vị trí, giảng trà nước nóng lễ, thỉnh Lưỡng tự cần cựu quang bạn. Như Thượng thủ Tri sự đi thì Hạ thủ Tri sự hành lễ. Như Đầu thủ cần cựu đi thì Thượng thủ Tri sự hành lễ, tiếp ngồi đốt hương, tiếp hương trở về vị trí, cùng bạn uống trà, lại đứng dậy đốt hương, tiếp hương trở về vị trí, cùng bạn uống nước nóng, xong gom chén tách. Chuyên sứ đứng dậy tạ và lên kiệu. Đương Đại Trụ trì thọ thỉnh: chuyên sứ đến chùa kia, trước gặp tri khách, đồng đến khố ty tiếp đưa an ở, kế nữa ra mắt Đầu thủ và các liêu, đến Thị ty trình rõ lai lịch, Thị giả thông báo Trụ trì, đợi được chăng? Nếu chấp thuận, sau đó khiến thiết bày ghế, khăn gói, an đặt sớ điệp, báo cho Lưỡng tự đến, vào thỉnh Trụ trì ra, Chuyên sứ chào hỏi (mời ngồi). Trụ trì đứng giữa, Chuyên sứ cắm hương, lạy ba cái tiến tới trước thưa: “Mỗ được sơn môn sai khiến vin đến tôn nghiêm, được kính thờ Từ nhan. Hạ tình chẳng ngăn nỗi cảm kích”. Lại ba lạy từ tạ rằng: Ngay hôm nay khiến lúc cung kính cùng mong, Tân mạng Đường đầu Đại Hòa-thượng, tôn hầu đi đứng muôn phước. Lại ba lạy thâu tọa cụ, trụ trì đều đáp một lạy, tạ từ rằng: Lẽ ra thỉnh mạng có gió châm phong, hãy cẩn thận xa xưa đến nay không thắng nhiều họac Chuyên sứ trình sớ điệp thưa hỏi, Trụ trì tiếp đặt trên bàn, mở thư sớ xem qua, Thị giả mời ngồi (Chuyên sứ đối diện Trụ trì mà ngồi, Tây đường dời xuống một vị để nhường khách xa), uống trà xong, đồng Lưỡng tự tiễn đưa khách vị, hành giả Đường ty đánh chuông ở Tăng đường, đại chúng đến phương trượng làm giá, khố ty chuẩn bị hương. Thủ tọa Tri sự đều cắm hương bày đầu, ban từ rằng: “Pháp môn lắm may, mong xét vinh chuyển đổi mừng động tòng lâm. Hạ tình chẳng thắng chỉ của mừng vui”. Lại trải thưa: “Ngay hôm nay khiến kính cẩn lúc cùng chỉ, Tân mạng xứ mỗ Đại Hòa-thượng đường đầu tôn hầu đi ở muôn phước”. Xúc lễ lạy ba lạy, Trụ trì đáp một lạy, ban từ rằng: “Tự lường sơ lầm, chợt ứng chọn đây, qua cẩn xưng giá, chẳng thắng lắm thẹn”. Chúng giải tán, Tri khách dẫn Chuyên sứ tuần liêu xong, lần lượt trình nạp bản tự phải biết nghi từ mọi vật đang chiều đặt làm nước nóng, phẩm vật dùng chiều, đến tối, dùng nước nóng quả, đều thỉnh Lưỡng tự cần cựu, quang bạn khố ty bày biện. Thọ thỉnh thăng tòa: Thọ thỉnh rồi, ngày hôm sau thăng tòa, Thị giả phân giao hành giả, dự cạnh bên phải ở dưới pháp tòa, bày sắp sớ điệp xếp vị trí. Chuyên sứ dự thưa Duy-na thỉnh người đọc sớ điệp, Thị giả báo Trụ trì, đánh chuông, như nghi thức thường thượng đường. Trụ trì ra đến vị trí mà đứng, đưa hương lên ghế, chuyên sứ đốt hương trình sớ điệp, mỗi lần trình một sớ, thì chuyên sứ đốt hương thay đổi dâng. Trụ trì theo một niệm thường có pháp ngữ, đọc xong, Chuyên sứ vẫn đốt hương, cả hai lạy ba lạy, hoặc xúc lễ, hoặc miễn tại ý Trụ trì lùi ghế, Trụ trì lên tòa nêu giềng mối tuần tự tạ kết tòa. Chuyên sứ đặc biệt làm Tân mạng tiễn điểm: Chuyên sứ trước cùng Tân mạng bàn định vật phẩm trai cúng, khinh trọng nên hợp nghi. Lưỡng tự cần cựu, hương nhân pháp quyến biện sự biếu cúng phẩm vật, phí tổn trai liệu, v.v… Chuyên sứ thân đưa nạp khố ty đặt làm. Đến ngày, Chuyên sứ đến phương trượng cắm hương lạy thỉnh. Mới đầu bày thưa: “Hôm nay giờ ngọ, đến Vân đường đặt làm Tiễn điểm, cúi mong Từ Bi giáng trọng. Hạ tình chẳng thắng chí của chiến hạn”. Lại, bày thưa: “Ngay hôm nay khiến kính cẩn lúc cùng chỉ. Tân mạng Đại Hòa-thượng Đường hầu, tôn hầu đi ở muôn phước”, xúc lạy ba lạy, Trụ trì đáp một lạy, Lượng tự đơn liêu hệ thuộc phương trượng khách đầu, đồng hành giả Chuyên sứ, mỗi mỗi đến Liêu, thưa thỉnh theo bảng Tiễn điểm báo chúng, ở bên trong Tăng đường thiết bày chiếu chủ, bản ở Tây đường bày vị trí Chuyên sứ. Bảng trà nước nóng giăng hai bên ở ngoài Đường. Đến giờ thọ trai, Chuyên sứ đến trước Tăng đường đợi Trụ trì vào Đường, chào hỏi rồi trở về vị trí mời ngồi, trở về giữa chào hỏi, mời chúng ngồi, đốt hương trước Thánh Tăng, tiếp gian trên dưới, tiếp đốt hương bên ngoài Đường, vẫn trở về bên trong Đường, gian trên dưới trước Trụ trì và Đường bên ngoài chào hỏi, vẫn trở về giữa chào hỏi, hành thực khắp, đốt hương hạ phẩm vật Trụ trì, tiếp hành phẩm vật đại chúng xong, trở về vị trí bạn trai, đợi chiết nước ra, đánh trống. Chuyên sứ lại đứng dậy, đốt hương hành lễ đồng như trước, hành trà khắp bình ra như trước, đáp lễ thâu chén bát Trụ trì, chuyên sứ hành lễ, mới đầu bày thưa: “Mỗ cũng chuẩn bị cơm rau, cúi mong Từ Bi giáng trọng. Hạ tình chẳng ngăn mỗi cảm kích”, thứ hai là bày thuật lạnh ấm, xúc lạy ba lạy, tiễn đưa Trụ trì ra, lại trở về Đường đốt hương lạy ba lạy, tuần Đường một vòng bên ngoài Đường, lại trở về khoảng giữa bên trong Đường thăm hỏi, thâu chén bát, đánh ba tiếng chuông xuống tòa, Chuyên sứ theo lên phương trượng đặt tạ, kế đến khố ty đặt trai, lại đến phương trượng, thỉnh Trụ trì đến chiều dùng bữa chiếu, đến tối dùng nước nóng quả, đều thỉnh Lưỡng tự cần cựu quang bạn. Sơn môn quản đãi Tân mạng và Chuyên sứ: Khố ty cùng bàn quản đãi cúng phẩm vật đúng như nghi thức. Cách ngày, Thượng thủ tri sự đến trước Tân mạng, cắm hương lạy thỉnh, kế đến khách vị thưa thỉnh Chuyên sứ, khiến khổ ty khách đầu thỉnh Lưỡng tự cần cựu quang bạn, xếp đặt phẩm vật phải đúng như lễ, chẳng thể khinh miệt. Từ ngữ hành lễ đều đồng như lễ đặt làm. Bên trong Tẩm đường, thiết tòa cao của Trụ trì, Chuyên sứ phụ vị trí bên phải. Lưỡng tự như thường xếp hai bên, cần cựu đối diện vị trí, Thị giả tri sự vị trí dưới, xa tiếp Bộc tùng quản đãi bên ngoài, phải chi thưởng công khó nhọc, chỗ đến Trụ trì nhiều nhân trở về chùa khác. Tăng hành ôm hoài tức giận, động khiến môi mép, truyền đến quan viên só thứ, nhân một người không biết mà khiến cả chùa mang tiếng xấu. Các bậc Lão thành kỳ túc ngoại hộ gần núi, phải răn dứt đó, nhưng làm Trụ trì là, phạm sự thiếu sót, thì mến đó có thể được. Tân mạng từ chúng thượng đường trà thang: Đến ngày ra đi Chuyên sứ đến các liêu từ biệt, Tân mạng thượng đường đặt tạ Lưỡng tự cần cựu đại chúng, xuống tòa đánh tiếng ba trống, đứng hướng về pháp tòa, khắp cùng đại chúng xúc lạy ba lạy, từ hàng hiên phía Tây ra, đánh chuông lớn và các pháp khí. Đại chúng đứng ở cửa đưa tiễn. Hành bộc bày đứng ngoài cửa. Đầu cửa chùa dự đóng treo trướng thiết bày, ở giữa lập tòa cao hướng vào trong, Thủ tọa hướng ra ngoài nhiếp ở chủ vị, Tây đường cần cựu phân tay quang bạn, Đông tự Tây tự hai bên chầu ngồi. Thượng thủ Tri sự hành lễ mời ngồi, vái hương trở về vị trí, chân trà thâu chén, lại đứng dậy đốt hương, vái hương trở về vị trí châm nước nóng, nước nóng xong đứng dậy tạ và lên kiệu. Lưỡng tự cần cựu chuẩn bị kiệu tiễn đưa xa, Trụ trì đang mạnh miễn đó, đánh chuông lớn, kiệu Trụ trì đi xa mới thôi. Tây đường Thủ đầu thọ thỉnh: Chuyên sứ đến chùa, trước gặp tri khách, đồng đến Thị ty, dẫn ra mắt phương trượng cắm hương lạy bái, cùng chào hỏi, dùng trà xong, tiễn đưa khách vị, kế đến các liêu nhân sự xong, thưa Thị giả đồng đến Phương trượng, thưa hỏi rằng: “Chùa mỗ thỉnh người mỗ Trụ trì”. Trụ trì báo Lưỡng tự cần cựu đồng sang trong liêu người thọ thỉnh, trải bày sớ điệp thưa hỏi. Chuyên sứ cắm hương hành lễ, đồng như thỉnh Đương đại, nếu chẳng chấp thuận thì chúng vì khuyên thỉnh, thọ thỉnh sau, Trụ trì thỉnh Tân mạng và Lưỡng tự cần cựu dùng trà, tiễn đưa Tân mạng trở về khách vị, thứ lớp nhận thêm, tuần liêu nhân sự, chiều thỉnh Tân mạng Chuyên sứ đặt làm nước nóng, vật thực bữa chiều, nước nóng quả, Lưỡng tự quang bạn. Người thọ thỉnh thăng tòa (danh đức, Tây đường, Tiền đường thủ tọa mới nêu hành này): Chuyên sứ phải cách đêm ôm hương đến Phương trượng, xúc lạy ba lạy, bày từ rằng: “Lạy thỉnh Hòa-thượng ngày mai vì Tân mạng Hòa-thượng dẫn tòa”. Đến ngày sau, dùng cháo xong, cạnh bên phải pháp tòa xếp bày ghế, ghế dựa, trên ghế an đặt sớ điệp, bên trái tòa cũng thiết bày ghế dựa của Trụ trì, đánh trống nhóm chúng, Trụ trì ra lên tòa, đồng như lễ ngũ tham, bảo thị giả thỉnh khách thỉnh mời Tân mạng ngồi kiết già khen tốt, Tân mạng vì pháp mà ra khuyên thỉnh cử dương, an ủi chúng khát ngưỡng, nêu thoại có không chẳng câu nệ (tùng nguyên vì am thất dẫn tòa, Tiếu am vì tùng nguyên dẫn tòa đều chẳng nêu thoại. Thạch kiều vì giản thường dẫn tòa, tức am vì phục am dẫn tòa đều nêu thoại). Xuống tòa, Trụ trì trở về bên trái tòa hướng ra ngoài mà đứng. Chuyên sứ đồng tri khách thị giả, đến trước Tân mạng thăm hỏi xong. Tân mạng ra trước Trụ trì thăm hỏi, kế cùng Lưỡng tự đại chúng thăm hỏi. Nếu Tân mạng là đệ tử Tự pháp, Trụ trì giao pháp y, có pháp ngữ, đắp y xong tiến tới trước, thỉnh Trụ trì ngồi, lạy ba lạy chẳng thâu tọa cụ. Tiến tới bày từ rằng: “Sớm được đào luyện, ngưỡng thẹn tiên Tông, lại thỉnh đã cần khó trốn công mạng, hạ tình không nhậm chí của sợ lo”. Lại lạy ba lạy, tiến tới bày từ rằng: (Ngay hôm nay khiến kính cẩn lúc cùng chỉ. Đường thượng bổn sư Đại Hòa-thượng tôn hầu đi ở lắm phước). Lại lạy ba lạy, thâu tọa cụ, tiến tới thăm hỏi, Trụ trì đáp rằng: “Chỗ đây nói gửi, một sợi chỉ chín đảnh, chẳng cung đang nhân, chỉ mong bảo nhậm”. Tức trở về đứng ở bên phải tòa, Chuyên sứ độ sớ điệp đều có pháp ngữ. Nếu chẳng phải pháp tự, thì liền ra trước tòa chào hỏi Trụ trì, kế là chào hỏi đại chúng Lưỡng tự, xong thẳng về bên phải tòa niêm y, niêm sớ điệp, có pháp ngữ. Chuyên sứ trước thưa Duy-na thỉnh người tuyên sớ điệp, đọc xong chỉ tòa có pháp ngữ. Lên tòa, ban lời hỏi đáp đề cương thuật tạ, kết tòa, xuống tòa. Đến trước Trụ trì, hai lần lạy ba lễ. Lần đầu bày, từ rằng: “Chịu ứng thỉnh mạng, có vết Tông phong, ngưỡng mong ngọc thành, hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Trụ trì đáp rằng: “Mừng vui thỉnh của trời người, vinh thêm sáng của mặt trời Phật. Hạ tình chẳng ngăn nổi hân hoan”. Kế là tỏ bày rằng: “Ngày hôm nay khiến cẩn trọng lúc cùng chỉ, Đường đầu Hòa-thượng tôn hầu đi ở lắm phước”, xúc lạy ba lạy. Hoặc giảng hoặc miễn, tùy ý Trụ trì, kế là chào hỏi đại chúng Lưỡng tự, Tri khách Thị giả dẫn tuần tiêu đặt tạ. Như Tự pháp là xuống tòa trước đến trước Trụ trì lạy ba lạy, lui chào hỏi Đại chúng, sau đó đi tuần tạ, đồng như trước. Như dùng kế là Đầu Thủ Tây đường, đến giờ lại tại Trụ trì châm chước giảng hành. Chuyên sứ đặc biệt làm người thọ thỉnh Tiễn điểm: Chuyên sứ đến trước Tân mạng bàn định phẩm vật phương trượng dẫn tòa, phẩm vật giúp chúng, người đọc sớ điệp, và Lưỡng tự cần cựu giang hồ hương nhân pháp quyến, v.v… biếu thêm phẩm vật. Đến ngày, dùng cháo xong, Chuyên sứ ôm hương đến phương trượng xúc lễ lạy thỉnh rằng: “Hôm nay giờ ngọ, đến Vân Đường chuẩn bị cơm rau, đặt biệt làm Tân mạng Hòa-thượng, cúi mong từ bi xót thương giáng trọng”. Lại đến trước Tân mạng lạy thỉnh, đồng lễ trước, phương trượng khách đầu đồng Chuyên sứ hành giả, thỉnh các Liêu đều treo bảng Tiễn Điểm. Ở bên trong Tăng đường, Trụ trì đối điện thiết bày vị trí Tân mạng. Bên ngoài Đường, đầu bảng tri khách thiết bày vị trí Chuyên sứ, bảng trà thang đó giăng hai bên ở ngoài đường, đến giờ trai, báo Tân mạng đến trước Tăng đường, đợi Trụ trì đồng vào đường chào hỏi, Chuyên sứ theo vào đường, trước vài Trụ trì, trở về vị trí, kế vái Tân mạng trở về vị trí. Đốt hương hành lễ đều đồng như trước. Hạ vật thực, hành phẩm vật trà xong, trước thâu chén Tân mạng, Chuyên sứ tiến tới trước hai lần bày ba lễ, tiễn đưa Tân mạng ra cửa sau. Chuyên sứ vào trước Trụ trì hai lần lạy ba lễ, tiễn đưa Trụ trì ra cửa trước, lại trở về Đường đốt hương, lạy ba lạy, tuần Đường một vòng và bên ngoài Đường trở về giữa chào hỏi. Thâu chén, đánh ba tiếng trống, lui tòa. Đang chiều, nước nóng quả, dùng bữa chiều, quang bạn đồng như trước. Sơn môn quản đãi người thọ thỉnh và Chuyên sứ: Đến Tẩm đường thiết bày vị trí chủ của Trụ trì. Tân mạng đối diện vị trí giữa, bên trái bày vị trí chuyên sứ. Lưỡng tự cần cựu quang bạn vị trí hai bên. Hạ phẩm vật, hành lễ đồng như trước. Người thọ thỉnh từ chúng thăng tòa trà thang: Người thọ thỉnh bảo Thị giả đồng Chuyên sứ dự đến Phương trượng thưa mượn pháp tòa, Thượng đường từ chúng, tòa chẳng thiết bày, bên trái thiết bày vị trí của Trụ trì, đánh trống nhóm chúng. Trụ trì ra trở về vị trí, người thọ thỉnh thẳng đến trước Trụ trì chào hỏi, tiếp cùng đại chúng kính lễ, thăng tòa cử dương xong, xuống tòa, trước từ biệt Trụ trì xúc lạy ba lạy. Kế đừng hướng về pháp tòa, từ biệt chúng khắp đồng xúc lạy ba lạy. Đầu cửa hướng vào trong khoảng giữa thiết đặt vị trí giảng trà thang. Lưỡng tự cần cựu quang bạn. Thượng thủ tri sự hành lễ cùng đương đại đồng, đánh chuông lớn tiễn đưa. Kế là Tây đường đầu thủ, thì không từ biệt chúng thượng đường, lúc sắp đi, trước đồng Chuyên sứ lên phương trượng, cắm hương xúc lạy ba lạy bẩm thưa góa từ, kế là tuần liêu từ biệt. Đầu cửa chùa, lễ trà thang đồng như trước. <詞>NHẬP VIỆN. Người xưa, eo bao đầu nón, đến cửa chùa thì cởi nón, vào cửa đốt hương, có pháp ngữ, đến trước Tăng đường cởi bao, chỗ vắng rửa chân, lấy y đắp mặc, vào Đường đốt hương, trước Thánh Tăng, lạy ba lạy, người tham thì tùy người đồng bái. Treo móc xong, đến điện Phật nguyện hương, có pháp ngữ, vào phương trượng y cứ thất có pháp ngữ. Lần lượt khai Đường chúc Thánh. Thời nay, Tân mạng đi đến phải xét nơi an ở gần xa, gần thì thủ tọa lãnh chúng đến rước, xa thì Lưỡng tự cần cựu mà thôi. Chuyên sứ dự phải tính bẩm thưa Trụ trì, trước phải phát thệ khỏi chúng xa đón rước. Nếu nơi an ở gần phải làm nước nóng quả, Lưỡng tự cần cựu quang bạn chọn ngày nhập viện. Khố ty mỗi mỗi bày biện, cách đêm treo bảng tiếp Trụ trì, báo chúng. Đến giờ đánh chuông lớn và các pháp khí. Đại chúng đứng ở cửa đón rước từ xa đến gần, hai hàng bày đứng. Hành bộc đứng bên ngoài đại chúng, Tân mạng đến cửa, đốt hương nêu pháp ngữ. Đến điện Phật đốt hương nêu pháp ngữ, lạy ba lạy, đánh chuông ở Tăng đường. Đại chúng trước trở về địa vị bình bát lập định. Tân mạng vào Đường đốt hương, người tham tùy người đồng lạy ba lạy. Duy-na ngay mặt chào hỏi, dần tuần Đường một vòng, người tham tùy trước ra. Lưỡng tự tiễn đưa Tân mạng trở về vị trí bình bát, xúc lạy ba lạy, kế đến Thổ địa đường, Tổ đường đốt hương, đều có pháp ngữ, vào phương trượng y cứ thất, Thị giả tiến tới trước đốt hương chào hỏi, đứng bên cạnh đợi cử pháp ngữ xong. Hành giả tiến tới ghế bút nghiên. Tri sự đầy đủ trạng văn (Biểu thức xem ở sau), đầy đủ mâm khăn gói bưng trình ấn chùa. Tân mạng xem thư, giao Tri sự mở thư. Tân mạng xem Triện, xong đến trên trạng văn kiểm ký trước, kế đề Nhật tử, sai in ở trên, Tri sự toàn ban tiến tới xếp bày, Thượng thủ cắm hương, cả hai lạy ba lễ. Mới đầu bày từ rằng: “Từ nhờ Hòa-thượng sáng rọi pháp diên, Hạ tình chẳng ngắn nối mừng vui”. Kế tiếp bày từ rằng: “Ngay hôm nay khiến kính cẩn lúc cùng chỉ, Tân mạng Đường Đầu Đại Hòa-thượng tôn hầu đi ở nhiều phước”. Xúc lạy ba lạy. Các chùa và Đầu thủ cần cựu tiến tới trước cắm hương (hương chẳng nhận), thảo giá xong. Hành giả khách Đầu hét rằng: “Thỉnh lưỡng ban cần cựu các chùa đến tòa dâng nước nóng”. Nước nóng xong, thỉnh quan khách các chùa điểm tâm. Nếu đời trước Trụ trì riêng chuyển dời chưa đến, hoặc thối ở Đông đường, chưa y cứ thất, trước giảng giao thay lễ. Tân mạng nhận Thảo giá rồi, đánh chuông ở Tăng đường, lãnh chúng đích thân tiễn đưa thay trước, trở về liêu đối xúc lạy một lạy, tiếp thủ tọa đại chúng là giá, Hành bộc đều phải tham lễ lạy. Trình chùa (Tỳ kheo khố tî của chùa này, chùa mỗ ấn một cái) Ấn trạng (như trên kính cẩn bày nạp, Tân mạng Đường Đầu Đại Hòa-thượng cúi hầu từ chỉ, Ngày tháng năm đủ vị trạng) Sơn môn thỉnh Tân mạng trai: Thượng thủ tri sự đợi y cứ thất, sau đó nhân sự hơi xong, chuẩn bị mâm, khăn-gói, lò đèn, đầy đủ trạng văn (biểu thức xem ở sau), ôm hương đến phương trượng thỉnh trai, cả hai lạy ba lạy. Mới đầu bày rằng: “Giờ ngọ đến Vân đường chuẩn bị cơm rau cầu đón, cúi mong tôn từ xót thương giáng trọng. Hạ tình chẳng ngăn nổi chiến hạn”. Kế là bày tuần tự lạnh ấm, xúc lạy ba lạy. Trụ trì đáp một lạy, Tri sự trình trạng văn, phương trượng khách đầu thâu, khổ tu khách đầu thiết bày vị trí của Trụ trì bên trong Đường, hành lễ cùng đồng như đặt làm quản đãi. Trai: (Tỳ kheo khố ty chùa này là mỗ giáp, như trên, mỗ lấy giờ ngọ đến Vân đường, chuẩn bị cơm rau, cầu đón rước. Cúi mong tôn từ xót thương giáng trọng). Trạng: (Ngày tháng năm đầy đủ vị trạng, khả lậu tử trạng thỉnh Tân mạng, v.v… trước tên tòa. Đầy đủ vị, kính thư). Khai đường chúc thọ: Xưa, khai đường chầu mạng hạ, hoặc sai quan dốc thỉnh, hoặc Bộ Sứ giả, hoặc quận huyện đưa tệ lễ thỉnh đến chùa mỗ, hoặc quan bản tự cấp tiền lo liệu thiết trai khai đường, đều quan tự có thỉnh sớ và bán trà thang, v.v.. xem văn tập của các danh công, gần lại khai đường phần nhiều chùa tự chuẩn bị. Đến giờ vào viện, Thị giả phân giao hành giả, thiết bày pháp tòa, báo chúng, treo bảng Thượng đường, ghi đủ quan viên, danh mục các chùa, dự trình Trụ trì, ở bên trái tòa bày vị trí, bày ghế, khăn gói, lò đèn, an đặt sớ điệp. Dự trước hòa hội Duy-na tuyên công văn, Thủ tọa đọc sớ sơn môn, và kế đầu thủ, hoặc giang hồ danh thắng các chùa đọc các sớ khác và dự mời các chùa một người bạch chùy. Đối diện trước tòa bày vị trí Quan viên, Thị giả báo phương trượng, đánh trống nhóm chúng. Thị giả đồng Chuyên sứ vào thỉnh Trụ trì ra nạo bạt phướn hoa, đốt đèn rước dẫn đến đứng trước vị trí Pháp đường. Như lúc thọ thỉnh chưa niêm y, phải nêu pháp ngữ. Đắp y xong, Chuyên sứ tiến tới trước cắm hương hành lễ. Mới đầu bày thưa: “Hôm nay cúi mong Hòa-thượng quang lâm pháp diên, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Kế là bày tuần tự lạnh ấm xong, xúc lạy ba lạy, Trụ trì đáp một lạy, trước trình công văn, nêu pháp ngữ xong, kế là giao Duy-na tuyên bạch, kế nữa là sớ giang hồ các chùa sơn môn, mỗi mỗi thay nhau dâng. Có pháp ngữ phân tiễn tuyên đọc. Nếu thấy quan nhậm thỉnh khai đường có sớ, đích thân tự bưng thay nhau có pháp ngữ, đọc xong, chỉ pháp tòa có pháp ngữ, lên tòa nguyện hương chúc Thánh, kế là nguyện hương Đế sư tỉnh viện đài hiến quận huyện văn võ quan liêu. Thị giả theo một độ hương, chỉ hương pháp tự Trụ trì ân trong đó rút ra tự cắm vào lò, vén y ngồi kiết già. Thị giả đốt hương xuống tòa chào hỏi, Lưỡng tự ra bàn chào hỏi xong. Thị giả lại lên tòa đốt hương đáp lễ. Lễ đồng như mồng một rằm thượng đường, Trụ trì các chùa tiễn đưa người nhập viện cũng ra chào hỏi. Trụ trì phải sai Thị giả thỉnh quan viên ngồi, Thượng thủ các chùa ra bạch chùy, đánh chùy một tiếng, bạch: Pháp diên chúng Long tượng, đang quán nghóa nghóa bậc nhất”. Trụ trì nói lời hỏi đáp nên lên giềng mối, tuần tự tạ quan viên các chùa rằng: “Hôm nay khai đường, chánh vì chúc Thánh, chẳng dám nhiều từ thuật bày”. Chuyên sứ Lưỡng tự cần cựu lược đề qua, rõ tại lúc Tiểu tham thuật bày. Kết tòa, người bạch chùy lại đánh một tiếng chùy, bạch rằng: “Quán chắc pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như vậy”, xuống tòa, trước nhận quan viên làm giá xong. Tri sự kế tiễn khách vị. Hành giả khách đầu liền tiến chỗ lò đèn, một chữ bày xếp trước tòa, Chuyên sứ cắm hương, cả hai lạy ba lạy xong. Hành giả Đường ty hét rằng: “Nhân sự các chùa”, kế hét: “Nhân sự Tây đường”, bái lễ hét rằng: “tri sự nhân sự” cả hai lạy ba lạy. Lại hét rằng: “Nhân sự đại chúng Thủ tọa” cần cựu mông Đường tiền tư các liêu đều cắm hương, đồng đại chúng cả hai lạy ba lạy xong. Tháp Trang Khổ am pháp quyến hương nhân, tạm đến bày giá xong y cứ tòa, Thị giả tiểu sư cắm hương lạy ba lạy, kế là hành giả chấp cục cắm hương lễ lạy. Kế làTham đầu lãnh chúng hành giả cắm hương lễ lạy, tiếp trực sảnh kiệu phướn trang giáp làm đầu, Lão lang nhân bộc tham lễ xong, Trụ trì liền đến khách vị, đặt tạ Quan viên các chùa, lần lượt tuần liêu, các liêu phải bày chỗ để hương ghế, lò đèn, đều đầy đủ oai nghi. Ở bên ngoài liêu do xét Trụ trì đến, Liêu chủ trước đứng đầu phía dưới trước cửa đón vào, mời ngồi cắm hương. Trụ trì đáp hương, lược tuần tự lạnh ấm đặt tạ tiễn đưa ra. Mông đường tiền tư các Liêu đều xếp đầu dưới bên ngoài cửa, đồng đưa đồng tiễn. Sơn môn đặc biệt làm Tân mạng trà thang: Bảng trà thang dự treo gian trên và dưới trước Tăng đường, khố ty vẫn đầy đủ trạng thỉnh (biểu thức xem ở sau), chuẩn bị mâm khăn gói lò đèn đến phương trượng cắm hương lạy thỉnh. Miễn thì xúc lễ thưa rằng: “Trai xong đến Vân đường châm trà đặc làm, cúi mong từ bi giáng trọng”. Thưa xong, trình trạng văn, tùy khiến Khách đầu thỉnh Lưỡng tự cần cựu đại chúng, quang bạn treo bảng châm (trà, nước nóng), báo với chúng. Bên trong Tăng đường bày vị trí Trụ trì (gần đây, lúc có trai nghe đánh bảng dài, Tri sự vào Đường đốt hương lạy bái, Tuần liêu một vòng, thỉnh trà, nhưng đặc làm Trụ trì bày giá. Thanh quy xưa cũng không tuần Đường, lễ thỉnh đại chúng, miễn đó là đúng). Trai xong lui, đánh bảng nhóm chúng, Tri sự tiếp Trụ trì vào Đường, trở về vị trí mới ngồi đốt một nén hương, Trụ trì trước vái hương, theo sau Thánh Tăng chuyển về giữa, chào hỏi mà đứng, hành trà khắp bình ra, đến trước Trụ trì tiếp trà, lùi thân, sau Thánh Tăng theo phía hữu ra đốt hương lạy ba lạy, khởi dẫn toàn ban, đến trước Trụ trì, cả hai bày ba lễ, tiễn đưa ra. Lại trở về đường đốt hương gian trên dưới, chào hỏi thâu chén lui tòa, nước nóng đồng như lễ trà. Chỉ không tiễn đưa Trụ trì ra khỏi đường. Nước nóng xong, đến tòa dùng bữa chiều. Trạng: (Tỳ-kheo khố ty chủa chùa này là mỗ, như trên mỗ khải thưa, lấy lúc này trai xong lui, chiều đến Vân đường châm trà nước nóng, dùng trọng nghi của bày giá. Cúi mong tôn từ xót thương giáng trọng.) Biểu thức: (Ngày tháng năm đầy đủ vị trạng, Khả Lậu Tử đồng biểu thức trạng trai). Ngay chiều đó tiểu tham: Trai xong, Thị giả báo Trụ trì rằng: “Chiều nay tiểu tham”, khiến khách đầu báo chúng treo bảng Tiểu tham, ghi đầy đủ Chuyên sứ Lưỡng tự cần cựu mông Đường, trước giúp các liêu, trang khố am tháp nghiệp, Thị giả tạm đến nhập viện, Thiền khách tham tùy, hoặc có quan khách các chùa cùng tiễn đưa nghỉ lại qua đêm, theo một điều lệ dự cùng trình thưa. Lúc đánh chuông tối, Thị giả đáp phương trượng, sau đánh bảng thì đánh một hồi trống, chúng nhóm ở Lưỡng tự về vị trí định đứng, Trụ trì ra lên tòa, ban lời hỏi đáp đề cương xong thì từ tạ. Hành giả bưng đèn, Thị giả trình từng mục nhỏ, cho được tường tận, xuống tòa hành giả khách đầu hét rằng: “Hòa-thượng phương trượng thỉnh Hòa-thượng các chùa, lưỡng ban Tây đường cần cựu mông Đường Thị giả thiền khách ngay hôm nay đến thỉnh đường dâng nước nóng”. Tri sự tiễn đưa quan khách, trở về khách vị dùng nước nóng quả. Vì đàn việt xây chùa mà thăng tòa: Cách đêm, Tri sự phải báo Trụ trì, sáng sớm hôm sau, Thị giả khiến khách đầu treo bảng Thượng đường báo chúng, khố ty sai người trang nghiêm từ đường, cúng dường cháo xong, đặc biệt Thượng đường, trình bày ý sự việc xong, thì nói pháp, xuống tòa, nhóm chúng đến từ đường, đốt hương, châm trà nước nóng dâng cúng, Duy-na xướng tụng kinh, hồi hướng. Quản đãi Chuyên sứ: Tri sự dự thưa Trụ trì, bàn với Chuyên sứ người đọc sớ điệp phẩm vật biếu đáp ít nhiều, phương trượng chuẩn bị phẩm vật biếu tặng, phải cho hợp tiết. Đến ngày, ở Tẩm đường đóng treo bày thiết vị thứ, thỉnh Lưỡng tự cần cựu quang bạn, thiết vị trí đac biệt. Thị giả thỉnh khách đích thân thỉnh. Ngoài ra, các người khác thì phương trượng khách đầu thưa thỉnh, lễ đồng như lễ thường đặc biệt làm. Lưu thỉnh Lưỡng tự: Lưỡng tự dò xét quản đãi Chuyên sứ xong, liền đến phương trượng thưa bẩm báo lui, Trụ trì chưa thể vội theo. Thị giả khiến hành giả khách đầu chuẩn bị nước nóng đầy đủ mâm khăn, lò đèn. Trụ trì mang Thị giả đến khố ty các Liêu, khỏi bảng Lưu khách, trước báo rước Trụ trì vào phân tay ngồi. Thị giả đốt hương châm nước nóng, dốc lễ khuyên lưu lại, nếu chức quá đầy cũng phải khoan nhịn, đợi Trụ trì hơi rảnh lại bẩm thưa từ lui. Báo tạ xuất nhập: Phàm quan viên đàn việt các chùa cùng tiễn đưa vào viện, lễ nên báo tạ, quan phủ quận huyện cũng phải tham kiến, như ở núi rừng ra xa, khiến hành giả chuyển lời khố ty thủ tọa Duy-na tri hội. Xuất nhập thì Tri sự thăm dò kỳ hạn trở về, khiến Đường ty treo bảng tiếp hộ chuông bài báo chúng, đánh chuông, đón rước từ cửa. Trụ trì trước khiến truyền lời miễn đó, tức đến điện Phật, thổ địa đường đốt hương. Thủ tọa lãnh chúng đến phương trượng chào hỏi, chúng lui lưu lại, Lưỡng tự cần cựu dâng nước nóng mà giải tán, thị giả phương trượng, hành giả chấp cục cắm hương lễ lạy, kế là tham đầu lãnh chúng hành giả lễ lạy xong, Trụ trì phải tuần liêu báo lễ. Nếu ở thành phủ quách triều chớ xuất nhập vô thời, chẳng hẳn giảng hành, hoặc kín đồng phương trượng, Lưỡng tự cần cựu đều phải đến phương trượng hỏi đi ở, không ycứ ngày Hòa-thượng ở núi. Hóa duyên nhiều ra vào, thường dòm ngó giờ trai cháo, thẳng về Tăng đường, bạn chúng thọ thực xong. Phương trượng khách đầu đợi Thị giả Thánh Tăng đánh chùy xuống đường. Đại chúng sắp xuống đất, hét rằng: “Đại chúng đứng chốc lát, Hòa-thượng phương trượng tuần đường”. Trụ trì đốt hương tuần Đường một vòng, ra khỏi Đường. Lại hét rằng: “Hòa-thượng chuyển lời với đại chúng, chẳng phiền hỏi kịp”. Lưỡng tự cần cựu cũng phải đến phương trượng chào hỏi. Giao cát châm cơ thập vật: Sau nhập viện phải hội Lưỡng tự cần cựu dùng trà, cặn kẽ chào hỏi sơn môn chuyên vụ châm cơ khế thư các vật lặt vặt, theo một điểm đối, giao cắt tính toán của cải thóc gạo, bạ thư phân rõ quan phòng làm tệ, chuyên tại xét rõ. Thọ Lưỡng tự cần cựu tiễn điểm: Đến ngày, Thủ tọa, Tri sự cần cựu đến phương trượng, cầm hương lạy thỉnh Trụ trì, tiếp đến Thị giả tiểu sư. Thiết bày vị trí của Trụ trì trong Tẩm đường, vị trí của Lưỡng tự cần cựu như thường ngồi, Thị giả mang hành lý Tiểu sư chào hỏi Trụ trì xong. Lưỡng tự cần cựu ngồi sau cùng. Đến giờ, Thủ tọa thỉnh Trụ trì ra, mời ngồi, hành lễ. Nếu miễn, chỉ đốt hương tiến tới trước chào hỏi, hạ phẩm vật. Thủ tọa tri sự cần cựu làm đầu, ba người chào hỏi trở về chỗ ngồi. Thọ thực xong, thủ tọa đứng dậy đốt hương. Nếu miễn lễ thì đến chỗ ngồi uống trà, đạo cựu các chùa và pháp quyến tiểu sư biện sự, v.v… đồng như lễ thỉnh Tẩm đường tiễn điểm. Chỉ người tiễn điểm thiết vị trí cao thấp, lúc ấy có châm chước. <詞>THỐI VIỆN Nếu vị Trụ trì tuổi già bị bệnh, hoặc tâm lực mệt nhọc, hoặc duyên chẳng thuận, nên biết tiền vật thối lại thường trụ phải có sổ ghi rõ ràng, mọi vật nơi phương trượng điểm đối giao cắt đầy đủ đơn mục một dạng hai bản. Trụ trì, Lưỡng tự cần cựu kiểm ký, dùng ấn ký của chùa, Trụ trì, khố ty mỗi người giữ một bản để đối chiếu, công thỉnh một người coi giữ phương trượng. Đến ngày rút lui, thượng đường tuần tự tạ từ chúng rồi xuống tòa, đánh ba tiếng trống mà lui. Nếu lưu lại bản tự thỉ ở Đông đường. Người cùng dứt Trụ trì phải nên dốc lễ ôn tồn. Đời Tống, vua Lý Tông lấy vườn trà chùa Linh Ẩn vì Diêm Phi mà xây chùa. Xung Công - Si tuyệt trú núi, ngày lui khỏi viện, tự thân mang bao nón đi đến Lô Sơn, sai sứ lưu lại đó, chẳng trở lại. Cao phong ngàn xưa ai tiếp nối đó! THIÊN HÓA (thị tịch) Bệnh tật cảm thấy nặng nề, dự mời Lưỡng tự cần cựu châm đối, gom thâu y bát hành lý đưa đến nơi Phương trượng, sai công cẩn trọng hành bộc coi giữ, để đợi đánh giá xướng, hoặc có nêu rõ biếu rải mọi vật, nên vừa phải chớ để ân oán không đồng về sau đấu tránh. Nếu y bát ít ỏi, theo việc kiểm chọn, căn dặn tiểu sư chẳng được mặc áo gai khóc than, thỉnh Thủ tọa làm chủ tang, tất cả Phật sự đều miễn, chỉ xướng kệ vô thường đồng như vong Tăng tân tống, không tốn phí của thường trụ, không nhọc đại chúng, nếu Trụ trì có công với sơn môn, chúng chùa nhớ nghó mến thương lưu lại đó. Hoặc y bát hơi nhiều phải như nghi thức giảng hành tang lễ. Có quan viên đàn việt, pháp quyền các chùa gửi thư thì phải đáp lại. Di chúc: (Chùa mỗ, Trụ trì mỗ, duyên đời sắp hết, gió đèn chẳng dừng, bao vật tùy thân như y bát do đàn việt tín cúng, chẳng phải vật của thường trụ, phiền Lưỡng tự sao phân. Chánh thỉnh người mỗ chủ hành việc tang, ngoài ra chia cho chúng Tăng khán kinh hành tang, không để phiền nhiều xâm dùng của thường trú, mong xét ý này, cúi mong đều khắp! Ngày tháng năm ở núi mỗ giáp). Hành thức gửi thư: Tôn túc (Hạn nhục dạo theo, sao có số của hợp lìa, kế thừa lôi kéo, bèn nêu duyên gấng gỏi. Điểm chớp ngã không, mây núi càng mờ, dám mong bảo hộ lấy thọ, văn này cầu nguyện chẳng đủ). Lân Phong: (Ở chùa không ích lợi, thường nương ánh sáng gần vách. Cảnh mộng vốn không, may rụng huyễn của duyên đời, chẳng hợp mặt riêng, chỉ thật tâm rong, mong mặt trời Phật tỏa sáng, giúp tông phong lan rộng, cúi mong trân trọng). Pháp Quyến: (Đội lạm ở chùa, có thẹn với bạn đồng môn, nhân theo ôm bệnh, sắp làm người hết đời, kính bày như tay, tạm tỏ mà giả biệt. Sáng tỏ lịnh đức của Tiên sư, đạo còn lực hành của tôi thuộc, không nhậm khuynh động. Cúi mong trân trọng). Khả lậu tử: (Thư bái, người mỗ xưng hô chùa mỗ, Tỳ-kheo mỗ, kính thư). Nhập khám: Vừa mới thị tịch, Thị giả liền sai hành giả khách đầu xuống Tăng đường báo chúng, đánh một tiếng chùy, bạch rằng: “Hòa- thượng Đường đầu chuyển lời với đại chúng gió lửa ép mặt chẳng kịp diện đạt”, lại đánh một tiếng chùy, kế báo các liêu, hành giả Đường ty đánh chuông, Tăng đường nhóm chúng lên phương trượng viếng điếu an ủi xong. Thủ tọa đồng Lưỡng tự cần cựu thương lượng bàn nghị, phát thảo trạng văn (biểu thức xem ở sau), báo với các chùa, phát thư mời người chủ tang, phải là bậc danh đức các chùa, Lão thành lân phong, hoặc Tôn trưởng pháp quyến, hoặc chỉ Thủ tọa chùa này, như có Di mạng thì phải vâng hành cử thỉnh. Tiểu sư thị giả, người thân tùy an bài tắm rửa, đắp y cạo tóc để nhập khám. Di kệ dán yết bên trái khám, Duy-na lãnh Tiểu sư đốt hương thỉnh Thủ tọa hành Phật sự nhập khám, an bài ở tẩm đường, đặt khám lò đèn ghế bàn cúng dường. Đến giờ, đánh chuông ở Tăng đường báo với chúng, xướng Phật sự xong, Duy- na ra, niệm tụng rằng: “Thật dùng: minh quyền diệu mật, hiện hóa vết ở trời người, chí tánh tròn sáng, hợp huyền cơ ở Phật Tổ, kính mong Hòa-thượng Đường đầu, tỏa ngời trăng trí sáng lan muôn khoảnh, xứng hợp tâm bi, thức đáng cảm mười phương, trông nhau không chốn, vạch chí có về, là nhóm họp các học đồ chân chánh, tán dương Thánh hiệu, vì duyên như trên, niệm pháp thân thanh tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na v.v…” xướng tụng chú đại bi, Hồi hướng rằng: “Trước nay, công đức niệm tụng phúng kinh, kính vì Hòa-thượng đất báu vô sinh, trang nghiêm diệu cực mười phương ba đời v.v…” lại xướng tụng chú Lăng-nghiêm, hồi hướng rằng: “Công đức tụng kinh, kính vì Hòa-thượng Đường đầu thêm cao phẩm vị, mười phương ba đời, v.v…” Đang đêm, nhóm chúng niệm tụng rằng: “Bạch Đại chúng! Hòa-thượng đường đầu đã về chân tịch, chúng mất chỗ nương, chỉ nghó nhớ vô thường, cẩn thận chớ buông lung, vì duyên như trên, niệm pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô-giá-na v.v…” Hồi hướng đồng như trước. Hai bữa dâng cháo cơm, ba bữa dâng trà nước nóng. Đại chúng tụng kinh, xem chức Duy-na, hồi hướng đồng như trước. Ở thời gần đây, phong tục nhạt xấu, chư Tăng cầu sung trang khố, chấp sự chẳng được, hoặc lén trộm của thường trú, Trụ trì y công đuổi phạt, học trò xấu chẳng trách lỗi mình, chỉ ôm hoài tức hận, một khi nghe thị tịch thì khoái chí, lời ác mắng nục rất thô, dùi đánh quan khám, chiếm đoạt y vật, vội bày hung ác ngang trái, chủ tang kỳ túc, Đàn việt các chùa quan quý só thứ tham học giao du, phải làm ngoài hộ. Ai người không chết? Huống chi học trò dự tham dưới tòa trái phạm thì phải đuổi bỏ trừng trị, chủ tang chấp sự nếu có thể dự giáp giới sức, sớm khiến đổi cách hóa xấu chưa nẩy mầm, rất toàn vẹn vẻ đẹp bên xem. Trạng: (Chùa mỗ, tang ty Tỳ-kheo mỗ, như trên, sơn môn mỗ ở trên chẳng may Hòa-thượng Đường đầu, ngày mỗ tháng này vội đã về chân, kính cẩn dùng cáo phó báo tin, kính trạng. Ngày tháng năm chùa mỗ Tỳ-kheo tang ty mỗ trạng). Biểu thức (Khả lậu tử, kính cáo: Xứ mỗ, Thiền sư Hòa-thượng Đường đầu, đầy đủ vị, kính phong). Thỉnh chủ tang: Người chủ tang đến, đánh chuông lớn nhóm chúng đón từ cửa, đến trước khám, đốt hương, Thủ tọa, đại chúng chào hỏi, chúng giải tán, Lưỡng tự cần cựu tiễn đưa khách vị, cắm hương bày lễ, người chủ tang ở chủ vị, thủ tọa phân tay tòa định đích thân đứng dậy đốt hương, trở lại vị trí hiến dâng trà. Tiểu sư tức xếp trước cắm hương, bày ba lạy, phương trượng chấp tục và tham đầu lãnh chúng, hành giả lần lượt cắm hương lễ lạy. Sau, Phương trượng bộc tùng tham lễ xong, dâng nước nóng, tiễn đưa Lưỡng tự ra. Khố ty chuẩn bị điểm tâm, Lưỡng tự quang bạn lần lượt tuần liêu. Chủ tang phải là bậc danh đức lão thành. Như Viên Ngộ là khai phước, Hòa-thượng Ninh chủ tang, tiếp Quả Công - Nguyệt Am để nối pháp, có thể làm tiêu cách. Thỉnh tang ty chức sự: Người chủ tang tuần liêu xong, Lưỡng tự cần cựu Tiểu sư theo đến khách vị, trình các vậy như y bát ba di mặc, v.v…, mời dùng trà, bàn thỉnh tang ty chức sự (thư ký Duy-na Tri khách thị chân Thị giả) đều tất cả cùng Phật sự (thứ lớp xem ở sau) kế là bàn thỉnh, trừ hai Phật sự cử ai và Tiểu tham, điều thuộc người chủ tang làm, phân hiếu phục (khinh trọng xem ở sau). Nếu không có vải lụa, tùy nghi chiết tiền chia đó. Người chủ tang phải cùng Thủ tọa bàn tính chỗ để lại y bát ít nhiều, điểm làm ba phần: Một phần y cứ tang ty mọi chi phí như hiếu phục tụng kinh đốt đèn, v.v… một phần quy thường trụ bồi niêm cúng dường, một phần chia cho đại chúng khán kinh và dùng Phật sự bản trướng,v.v… Người chủ tang còn phải công chánh, không thể theo riêng. Mang hành Tăng hạnh chẳng được can dự các công việc nặng nhọc. Mỗi ngày tụng kinh, chia phẩm vật cúng trà nước nóng, chẳng câu nệ Lưỡng tự cần cựu, mỗi mỗi thỉnh một người trông coi tài vật, ngõ hầu dứt bàn phiếm. Thị giả Thánh Tăng cầm trướng tang ty công, sai khố tử khách đầu, trà đầu một hành nhân, quản biện sự, thỉnh kiến chức Duy- na đồng bàn nghị, kiến chức tri khách tiếp khách bên ngoài, tang y hợp ngàn nhân bộc, bày đơn yết thị. Hiếu phục: Thị giả tiểu sư (ma bố chuyết). Lưỡng tự (trữ bố chuyết). Chủ tang và pháp quyến tôn trưởng (sinh bố chuyết) cần cựu Biện sự hương nhân pháp quyến các chùa (sinh quyên yêu bạch), đàn việt (sinh quyên cân yêu bạch), hành giả phương trượng (ma bố cân chuyết), chúng hành giả (Trữ bố cân), phương trượng nhân bộc làm đầu (ma bố cân sam), giáp cán trang khách các bộc (ma bố cân). Phật sự: Nhập khám, dời khám, khoát khám, pháp đường treo chân dung, cử ai, điện trà thang, Đối linh tiểu tham, điện trà thang, khởi khám. Sơn môn thủ chân đình treo chân dung, điện trà thang, cầm đuốc, an cốt để y, khởi cốt nhập tháp, nhập Tổ đường, toàn thân nhập tháp, rải đất như y bát quá nhiều, mỗi ngày điện trà thang, thêm các Phật sự như chuyển khám, chuyển cốt, v.v… Dời khám: Nhập khám ba ngày, che trùm khám, bày thiết gian trên pháp đường, treo màn vi, thiết sàn tòa giá móc, khí cụ động dụng thiết bày, như lễ của sự sinh, gian giữa, trên pháp tòa treo chân dung, đặt bài vị, bày rộng bàn tế cúng, dùng sinh quyên vi màn để chuẩn bị dâng tế, gian dưới đặt khám, dùng gai bố làm màn, phía trước bày ghế, án lò, bình hoa trắng, hương đèn chẳng dứt. Hai thời dâng trà, nước nóng, cháo cơm, cúng dường tụng kinh, vẫn chuẩn bị gánh đèn nạo bạt, phước đẹp. Đánh chuông ở Tăng đường, nhóm chúng, thỉnh Phật sự dời khám, xong dời khám, xuống pháp đường thỉnh Phật sự tiêu khám. Treo chân dung cử ai điện trà thang: Dời khám đến pháp đường tiêu khám xong, thỉnh Phật sự treo chân dung xong, như có thân thư di ngôn Thị giả bừng trình người chủ tang và Thủ tọa đại chúng rằng: “Di ngôn của Hòa-thượng Đường đầu lúc sắp qua đời, trình tợ Thủ tọa đại chúng”, người chủ tang đích thân tiếp chuyền cho Thủ tọa, đem thư xông trên lò hương, trao Duy-na đọc qua, hành giả tang ty dán màn tay trên gian giữa pháp đường, chủ tang bạch rằng: “Hòa-thượng đường đầu thị tịch, lý phải cử ai”, cử Phật sự xong, cử ai (khóc) ba tiếng, đại chúng đồng khóc, Tiểu sư xếp ai khóc dưới màn, cử Phật sự điện cúng trà nước nóng, Tiểu sư xếp lễ lạy trước chân dung trở về dưới màn. Chủ tang đốt hương lễ chân dung, Lưỡng tự cần cựu đại chúng lần lượt đốt hương lễ chân dung, Tiểu sư đứng bên trái chân dung đáp lạy, người chủ tang viếng điếu an ủi dưới màn, Tiểu sư theo lễ người chủ tang ba lạy, tiếp an ủi Lưỡng tự đại chúng rằng: “Pháp môn chẳng may, Hòa- thượng đường đầu vội dứt hóa quyền, cảm mong năng lực đại chúng vì duy trì hậu sự”. Thủ tọa đáp rằng: “Còn nhờ lực Hòa-thượng ban chủ trương”. Lưỡng tự đại chúng an ủi Tiểu sư rằng: “Sơn môn chẳng may, Hòa-thượng quy chân, tạm mong tiết ai khốn để trọn đại sự”. Tiểu sư ban đêm trông coi khám vi, tang ty xếp bày tế thứ (xem ở sau), dán màn thượng ở gian dưới pháp đường. Phàm văn tế đều do thư ký Tang ty làm, mỗi ngày hoặc hai lần, ba lần dâng tế không câu nệ. Bởi đàn việt các chùa lại có trước sau tùy thời, nếu pháp quyến môn nhân dâng tế đến cửa, tri khách tiếp rồi thì báo tang ty, tùy tiễn đưa hiếu phục, nhưng sau dâng tế như có phúng nghi dùng thừa, phải đem về của thường trụ, bù đắp chi phi thưởng công cho nhân tùng của các chùa, Tang ty tập Lưỡng tự cần cựu, sắp bàn nghị sao phân y bát, theo Di chúc lưu lại hay tiễn đưa bên ngoài, định ra mới cũ ngắn dài, giá trị cao thấp, ngõ hầu khỏi xướng y đến lúc lăng xăng. Đối linh tiểu tham điện trà thang niệm tụng đặt tế: Tang ty Duy-na đồng tiểu sư ôm hương đến khách vị, lạy thỉnh người chủ tang. Đêm dài đối linh, tiểu tham dự bày tòa, đợi chuông tối đánh thì đánh trống nhóm chúng, Lưỡng tự xuống tòa đáp lễ (như thường thức). Người chủ tang dùng Thị giả mang hành đốt hương, không thì Thị giả Thánh Tăng thay thế. Tiểu tham xuống tòa, Tiểu sư bày lạy lễ tạ, Thủ tọa lãnh chúng đến trước khám dâng hương lập định, thỉnh Phật sự điện trà thang xong. Sơn môn Duy-na niệm tụng rằng: “Bạch đại chúng! Hòa-thượng đường đầu nhập Bát Niết-bàn. Ngày nay đã qua, mạng sống giảm dần, như cá cạn nước, đâu có gì vui. Các vị cần phải tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, chỉ nhớ nghó vô thường, cẩn thận chớ buông lung, kính mong đại chúng chỉnh túc đến khám vi, tụng trì hồng danh muôn đức, kính vì Tăng cao phẩm vị, cúi nhờ đại chúng niệm Pháp Thân Thanh Tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na v.v…” xướng tụng chú đại bi xong, hồi hướng rằng: “Công đức niệm tụng phúng kinh trên đây kính vì Hòa-thượng Đường đầu vừa mới viên tịch. Cúi nguyện chẳng quên nguyện lực, hiện lại hoa đàm, chèo thuyền từ lướt qua sinh tử, tiếp quần mê đến bờ kia Bồ-đề. Lại nhọc đại chúng niệm Phật mười Phương ba đời v.v…”. xong, tri khách sơn môn xướng tụng chú Lăng-nghiêm (công đức phụng tụng, trên đây kính vì Hòa-thượng Đường đầu vừa mới viên tịch, tiếp của đêm dài thêm lớn phẩm vị, mười phương ba đời tất cả, v.v…) lần lượt mỗi vị dâng tế, cuối cùng xướng tụng chú Đại Bi (Hồi hướng đồng như trước), hành bộc tham lễ tụng kinh xong, hành giả tang ty hét rằng: “Thỉnh Thủ tọa đại chúng tòa dùng nước nóng quả”. Chúng giải tán, Tiểu sư, hành bộc, phương trượng trọn đêm giữ Linh. Theo thứ lớp tế là: Tri sự, Đầu thủ, chủ tang, Tây đường, cần cựu, mông đường, giang hồ, Tiền tư, Lão túc, Chúng liêu, biện sự, cựu Thị giả, Hương nhân, pháp quyến, các am tháp, Tiểu sư, Sư tôn, Phương trượng, hành giả, Hành giả sáu cục, Hành đường, nhân bộc phương trượng, kiệu phướn, Lão lang, trang giáp, hỏa khách, cục tu tạo, các sắc làm đầu. Xuất tang treo chân dung điện trà thang: Khố ty tang, ty liên quan, đề điều hương đình tang nghi, chân đình cờ phước bối nhạc, ghế lọng trước khám, nước nóng, lò, đèn, bè tre, chủ trượng, phất tử, hộp hương, pháp y, v.v… mọi vật. Tiểu sư theo sau khám, đánh chuông lớn và các pháp khí đưa tang, khởi khám tụng niệm rằng: “Kim quan tự dất nhiễu thành lớn của câu thi, phan thi lay trời đến thạnh lễ của trà tỳ, kính mong đại chúng xưng niệm hồng danh, tỏ bày lòng thàng, trên giúp đường giác, niệm Pháp Thân Thanh Tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na v.v… nếu toàn thân nhập tháp thì xướng đến Thạnh lễ của Nan-đề”. Tang ty Duy- na tiến tới đốt hương, dẫn Tiểu sư lạy thỉnh Phật sự khởi khám, khám đến đầu cửa núi, thỉnh điện đình, treo chân dung điện trà thang, đều có Phật sự, Lưỡng tự đại chúng xếp ở cửa, đợi ra khám rồi Duy-na sơn môn hướng vào bên trong chắp tay đứng giữa, nêu tụng chú vãng sinh, hoặc niệm danh hiệu bốn vị Thánh, đại chúng đều niệm, chủ tang lãnh chúng từng đôi phân ra, hai bên chia rải liễu tuyết, đều bước cùng hành, không được kề vai giao nói, mỗi mỗi ôm hoài buồn cảm. Đô tự ký tang, tang ty, Duy-na, tri khách, Thị giả Thánh Tăng chia phẩm vật hành tang. Trà-tỳ: Tang đến Đài Niết-bàn, tang ty Duy-na đợi Đô tự dâng hương trà xong, tiến tới trước đốt hương, dẫn Tiểu sư lạy thỉnh Phật sự cầm đuốc, sơn môn Duy-na niệm tụng rằng: “Ngày ấy thì có vị mới viên tịch, Hòa-thượng Đường đầu, hóa duyên đã xong, trở về lại chân thường, v.v… quan chuyển nhiễu ở câu-thi, tánh lửa tự đốt ở ngày nay, kính mong đại chúng trợ giúp giác linh, Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A-di-đà Phật, mười niệm chúng hòa xong. Trước nay xưng dương Thánh hiệu, kính tán hóa nghi, thể cách tông trước, cơ cao chẳng dung ở Phật Tổ, dụng mở hậu học, tâm bi vẫn nhiếp ở trời người, thâu trăm cốt của huyễn hóa, vào Tam-muội hỏa quang. Trà khoảnh ba điện, đốt một lò hương, đảnh hội vâng làm, hòa-nam Thánh chúng”. Xướng tụng chú Đại Bi, Hồi hướng: “Trước nay công đức niệm tụng phúng kinh, kính vì Hòa-thượng đường đầu Tăng cao phẩm vị trà- tỳ, mười phương ba đời tất cả, v.v…” Tri khách sơn môn nêu tụng chú Lăng Nghiêm, Hồi hướng đồng như trước. Kế hương nhân tụng kinh, đại chúng đồng tụng xong. Thủ tọa lãnh chúng trở về chùa thọ trai. Tiểu sư hương nhân pháp quyến giữ hóa thâu cốt. Trai xong, đánh chuông Tăng đường nhóm chúng, vẫn chuẩn bị nghi tùng, nghinh cốt trở về Tẩm đường tôn thờ, thỉnh Phật sự an cốt, treo chân dung cúng dường tụng kinh, hai thời dâng cháo cơm, ba thời dâng trà nước nóng, hoặc mười ngày nửa tháng, đại chúng tụng kinh linh cốt nhập tháp thì nghỉ. Toàn thân nhập tháp: Khám đến nơi tháp, đô tự dâng hương trà xong, tang ty Duy-na tiến tới đốt hương, dẫn Tiểu sư lạy thỉnh Phật sự nhập tháp xong, Duy-na sơn môn niệm tụng rằng: “Thật dùng: Hai gót chân hiện tướng, tiếp nối Di quy của Linh Thứu, hai chiếc giày hiện tông, tiêu biểu thùy phạm của Thiếu Lâm, toàn ở ẩn hiển, thạnh pháp thỉ chung. Ngưỡng nhờ đại chúng trợ giúp Giác linh, Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A-di-đà Phật, mười niệm xong, trước nay xưng dương mười niệm trợ giúp vãng sinh, chỉ nguyện gương từ vô biên, mây bi rộng rãi, trong cõi bốn loài, bày nhân chẳng sinh chẳng diệt, trong sáu đường, nói pháp vô ngã vô nhân, trà khoảng ba điện, đốt một lò hương, đầu đội vâng làm, hòa-nam Thánh chúng?. Xướng kinh phúng tụng lần lượt, đều đồng như Đài Niết-bàn, chỉ hồi hướng thì đổi (lúc nhập tháp), đợi bít huyệt tất cả hoàn tất, sau đó thỉnh Phật sự rải đất, rước chân dung trở về Tẩm đường cúng dường, chủ tang đốt hương lễ chân dung, tiếp các chùa Lưỡng tự đại chúng Tiểu sư lễ chân dung xong, Tiểu sư cắm hương lạy ba lạy, tạ chủ tang, tiếp Lưỡng tự đại chúng tạ chủ tang bày từ nói: “Sơn môn chẳng may Hòa-thượng đường đầu trước thị tịch, gánh vác hậu sự của chủ minh”. Chủ tang đáp rằng: “Kính nhờ đỡ giúp được không rỗng bại”, chủ tang đồng tang ty một hành nhân tuần liêu cảm tạ, tiếp Tiểu sư tuần liêu lạy tạ, Duy-na sơn môn tiễn đưa kiến chức thị giả, thị chân thị giả, trở về các liêu, mỗi ngày ba thời dâng trà nước nóng nhóm chúng tụng kinh, đợi rước bài vị vào Tổ đường thì nghỉ, hoặc đợi tân Trụ trì đến mới vào Tổ đường có Phật sự. Xướng y: Đến kỳ, ở trước Tăng đường, hoặc gian trên dưới của pháp đường thiết vị trí chỗ ngồi của đại chúng. Gian giữa hướng vào bên trong an đặt ghế dài, đặt bút nghiên khánh lớn trên đó, đánh chuông Tăng đường nhóm chúng. Thủ tọa cùng chủ tang phân tay, Lưỡng tự đại chúng lần lượt ngồi, tang Duy-na tri khách Thị giả Thánh Tăng hướng về vị trí chủ tang mà ngồi, Duy-na niệm tụng rằng: “Lưu y bày tín là khuôn phép để lại của các tổ, dùng pháp phá san, bẩn di phạm của Tiên đạt. Nay xướng dùng để nói lên vô thường, kính nhờ đại chúng niệm pháp thân thanh tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na v.v…”. Xong, mở hòm đem y bát ra, y hiệu bày trên chiếu, thỉnh Phật sự đề y xong, Duy-na đánh khánh một tiếng, bạch rằng: “Pháp xướng y, bởi bẩm pháp thường, mới cũ ngắn dài tự nên chiếu hiển, sau tiếng khánh dứt, chẳng được đổi hối, kính bạch”. Nếu pháp y nhiều thêm lưu Di chúc, lần lượt trình y. Duy-na niêm xướng, tang y hợp can nhân quý tại công tâm chủ hành. Duy-na định giá đánh khánh, hành giả nhìn xem trước sau xướng định danh tự, Tri khách ghi danh trên đơn, Thị giả y danh phát nếu, xướng y xong, kết định sao số chủ tang kiểm đơn, giao sao lấy y chẳng được theo riêng giảm giá, chủ tang chỉ việc đó, nay phần nhiều làm rút thẻ niêm lấy rất dứt ồn náo, pháp đó dùng một mảnh giấy nhỏ, dùng ngàn văn tự lần lượt viết tự hiệu, mỗi hiệu làm ba đoạn, ghi ở trên, vẫn dùng ấn ký liên quan đề phòng. Lượng chúng ít nhiều cùng tang ty hợp can nhân đối định. Đến kỳ, trình qua chủ tang, Lưỡng tự thủ tọa mở niêm phong, Tri khách phân chia, hành giả Đường ty bưng mâm theo Thị giả. Thị giả cắt lấy một nửa đó đặt trong mâm xong, đem mâm đặt bên cạnh thủ tọa, đặt chậu nước ở dưới đẩu chước, Duy-na niêm y xướng giá xong. Thủ tọa lúc ấy gọi một đồng hành, thuận tay nhom lấy nửa thẻ trong mâm, vội trao Thủ tọa, mở xem tự hiệu phân rõ, nói với hành giả Đường ty, xướng tự hiệu mỗ, mọi người đều mở nửa thẻ đang cầm, tự hiệu đồng liền ứng. Nếu chẳng nguyện xướng hiệu y vật này thì chẳng ứng. Ba xướng chẳng ứng, Thủ tọa ném nửa thẻ đó vào chậu nước. Lại bảo rút ra nửa thẻ, lại xướng lên, ứng thì hành giả Đường ty sang thâu nửa hiệu đến thủ tọa xử đối đồng, báo cùng Duy-na xướng rằng: Vật mỗ xướng với người mỗ, đánh khánh một tiếng, Tri khách lên đơn, Thị giả phát nêu, hành giả Cung đầu thay cùng xướng được người. Y bất vẫn như cũ, nhập hòm lần lượt xướng xong, Duy-na đánh một tiếng khánh, hồi hướng rằng: “Trước nay, công đức xướng y niệm tụng, kính vì Hòa-thượng Đường đầu thị tịch thêm cao phẩm vị, mười phương ba đời”. Chúng giải tán, mỗi tự chiếu giá giữ nêu lấy y. Sau ba ngày, nếu chẳng lấy thì y như giá đưa ra ngoài bán, làm Đơn trướng, pháp xưa xướng y (xem ở chương Đại Chúng). Biểu thức đơn: Hòa-thượng Đường đầu thị tịch cận trọng đầy đủ y vật, giá xướng sao số, thâu chi như sau: Một thâu sao bao nhiêu (là kiện mỗ xướng đến) Một thâu sao bao nhiêu (là khoản mỗ thâu đến) Một chi sao bao nhiêu (là khoản mỗ dùng độ) Một chi sao bao nhiêu (là khoản mỗ chí sứ, theo một mà nêu ghi) Trên đây: Cộng thu sao bao nhiêu - Cộng chi sao bao nhiêu. Trừ ngoài chi thấy quản sao bao nhiêu (chuẩn cứ giúp dùng cúng trai thất tu Tăng hành kinh). Trên đây đầy đủ như trước. Ngày tháng năm hành giả tang ty mỗ trình đầy đủ, người cầm trướng chấp sự, Lưỡng tự điển tang mỗi ghi tên kiểm ký. Linh cốt nhập tháp: Đến kỳ, cách đêm chuẩn bị nghi tùng, ngày chánh, đánh chuông nhóm chúng. Đô tự dâng hương xong, thỉnh Phật sự khởi cốt, rước đến chỗ tháp, thỉnh Phật sự nhập tháp, xuống kinh phúng tụng hồi hướng đó, đều là ngôn ngữ toàn thân nhập tháp, rước chân dung về Tẩm đường cúng dường và tạ người chủ tang, v.v… lễ đều đồng. Hạ Di thư: Tang sự xong, chủ tang thỉnh Thị giả, người biện sự sung Chuyên sứ phân đường đưa Di thư đến các chùa pháp quyến đàn việt quan viên, chỉ các bậc tôn túc thăm viếng ban lời, phải chọn người khéo việc sung làm Chuyên sứ. Đến chùa kia, trước là đến gặp khách ty, Tri khách dẫn gặp thị ty, dự bi mâm khăn gói đựng thư vật. Thị giả đến phương trượng thông báo, Trụ trì sẽ cùng tiếp, sai mời Lưỡng tự đồng mở thư, Chuyên sứ tiến tới trước chào hỏi, thưa rằng: “Thỉnh Hòa-thượng an tọa”. Nếu Trụ trì ban dạy, phải xuống lời cắm hương lạy bái, Trụ trì miễn thì xúc lễ như thường thăm viếng, đốt hương, uống trà xong, đợi Lưỡng tự đến, Chuyên sứ đứng dậy trước lò tạ trà, lại cắm một mảnh hương lớn, lễ lạy thưa rằng: “Ngày mỗ tháng mỗ, Hòa-thượng xứ mỗ viên tịch, Di thư Di vật khiến mỗ đưa đến”, tức trình thư vật, Trụ trì đáp: “Pháp môn suy lạc, chẳng giằng nỗi buồn đau”. Lưỡng tự tiến tới chào hỏi, Thủ tọa phân tay đến chỗ ngồi, Chuyên sứ đối diện Trụ trì lùi về ngồi một chỗ. Dùng trà xong, đứng dậy. Trụ trì bạch rằng: “Pháp môn chẳng may, ở xứ mỗ, Hòa-thượng viên tịch, chẳng dằn được buồn đau”, Thị giả chuẩn bị thư kéo gá thư vật, Thị giả độ thư cùng Trụ trì tiếp đến trên lò xông rồi giao lại Thị giả, tiễn đưa với Duy-na. Hành giả đột cắt mở bít tuyên đọc xong, Thị giả vái tiếp Chuyên sứ lên Trụ trì đối diện vị trí ngồi (Tây đường quyền hướng xuống vị trí ngồi nhường khách) Thị giả đốt hương, châm nước nóng, tiễn đưa Chuyên sứ về nơi an ở. Trước tiên Trụ trì chào hỏi, kế đến Thị giả Lưỡng tự chào hỏi, Tri khách dẫn tuần liêu, trước đến khố ty, kế đến liêu Thủ tọa, đơn liêu, mông đường bốn liêu, Thị giả thưa thỉnh đặc biệt làm nước nóng, nước nóng xong dùng bữa chiều. Đến chiều, nước nóng quả, di thư đại phương đến, Lưỡng tự quang bạn kế tiếp, Lưỡng tự Duy-na Thị giả quang bạn, thỉnh thư ký làm văn tế, văn tế của phương trượng, hoặc Trụ trì tự làm, giang hồ pháp quyến Biện sự đều phải chuẩn bị hương đặt tế, Thị giả mỗi mỗi đề điểm. Sáng hôm sau, phương trượng mời trà, gian dưới pháp đường thiết ghế Linh bày tế, Thị giả lại thượng đường, hành giả báo chúng treo bảng thượng đường. Dưới toàn chuẩn bị ghế khan gói đựng thư vật, bên trái tòa bày vị trí Trụ trì, đánh trống nhóm chúng, Trụ trì ra đứng trước vị trí dưới pháp tòa, trống dứt tiến tới ghế hương. Tri khách dẫn Chuyên sứ đến trước Trụ trì hành lễ cắm hương. Mới đầu bày thưa: “Liền giữ Di mặc ngưỡng quấy tôn từ, Hạ tình chẳng thắng chí của kinh sợ”. Lại, bày thưa: “Ngày giờ này khiến kính cẩn lúc cùng chỉ, Hòa-thượng Đường đầu tôn hầu đi ở nhiều phước”. Xúc lạy ba lạy trình Di thư, Trụ trì tiếp thư xông trên lò rồi giao cho Thị giả, thay Duy- na tuyên đọc, Chuyên sứ thăm hỏi Trụ trì xong, trở về đứng sau ban Tri khách, Trụ trì lên tòa xuống tòa đến trước bàn linh đốt hương châm nước nóng, dâng tế, châm trà lạy bái, Chuyên sứ bên phải bái trở lại, Duy-na ra ban tiếp Trụ trì, Thị giả đốt hương bưng hộp hương, Lưỡng tự dâng hương xong, Lưỡng tự Trụ trì bày lạy, Duy-na đọc văn tế, Trụ trì lại lạy bái, Chuyên sứ đáp lạy, bái xướng chú Lăng-nghiêm, hồi hướng rằng: “ Công đức tụng kinh trên đây, kính vì xứ mỗ, Hòa-thượng thêm cao phẩm vị, mười phương ba đời tất cả, v.v…” Lưỡng tự bốn liêu, giang hồ, Biện sự, Hương nhân đều đặt tế, Chuyên sứ đáp lạy, trở xuống pháp quyến Tiểu sư làm việc, Chuyên sứ chẳng đáp lạy, xong, xướng tụng chú Đại bi, hồi hướng, Chuyên sứ ra trước linh, cả hai bày ba lễ, tạ Trụ trì, miễn thì xúc lễ tiếp tuần liêu đặt tạ, sau đó, Sơn môn quản đãi Chuyên sứ thỉnh Lưỡng tự quang bạn, như trước Trụ trì bản tự đều vào Tổ đường, tụng kinh xong, bèn rước đến Tổ đường, Trụ trì nguyện hương an bài, có pháp ngữ, an xong, Chuyên sư liền lạy tạ Trụ trì. Nếu đương đại vào Tổ đường, Tẩm đường an cốt, tụng kinh ba ngày, đợi Tân Trụ trì vào Tổ đường, hoặc không có Di thư di vật cho đương đại Trụ trì, đồ chúng đó tự vào Tổ đường là, mới đầu đến chùa gặp Thị giả, dẫn ra mắt Trụ trì, cắm hương lạy bái, thăm viếng đốt hương uống trà, đứng dậy thưa bẩm tỏ ý xong, tiễn đưa đến nơi an ở. Kế đến đầu thủ khố ty đơn liêu mông đường các xứ cùng thăm viếng, định ngày cúng chia phẩm vật, pháp đường đặt tế, tụng kinh thỉnh kinh bài vào Tổ đường, Trụ trì có pháp ngữ, lễ đồng như trước. Quản đãi chủ tang và người tang ty chấp sự: Sơn môn phải chuẩn bị cúng phẩm cao thấp đều đúng như nghi thức, vẫn thỉnh Lưỡng tự cần cựu quang bạn thủ tọa nhiếp ở chủ tịch, đến phương trượng ngồi, bày chiếu bài, đô tự hành lễ, đồng với thường đặc biệt làm, dùng trà xong, đánh chuông nhóm chúng, tại cửa tiễn đưa người chủ tang. <詞>BÀN LUẬN ĐỀ CỬ TRỤ TRÌ Lưỡng tự cần cựu đến khố ty cùng dùng trà, bàn luận thỉnh mời Bổ xứ Trụ trì, vẫn thỉnh danh thắng giang hồ, đại chúng công đồng chọn cử, phải chọn bậc tông nhãn sáng sạch đức lớn tuổi cao, đi ở liêm khiết, có khả năng đáp ứng hoài mong của chúng, lại phải hợp các chùa nói cho biết, sau đó xếp danh kiểm trạng, bảo bày sở ty thỉnh, nếu Trụ trì được người, đạo pháp tôn trọng, cửa chùa tỏa rạng. Làm cần cựu Tri sự là chẳng thể dùng hương nhân pháp quyến bè đảng truyền hội, chẳng chọn tài đức, chỉ theo đút lót đến nỗi có lập đảng theo tư, cùng nhau chiếm đoạt, chùa viện hoang phế, nguyên do của chức này, thật nên cẩn trọng, thật nên cẩn trọng, thật nên cẩn trọng. Đại sư Minh Giáo nói: Giáo tôi cho rằng Trụ trì, nghóa là gì? Trụ trì nghóa là nhờ người giữ pháp đó, khiến đó trụ mãi mà chẳng mất. Giới, định, tuệ là cụ của trì pháp. Vườn vật việc Tăng là tư của trì pháp. Pháp là đạo của Đại Thánh, tư và cụ đợi người đó mà sau khéo nêu cụ đó, chẳng khéo tư thì không được, khéo tư đó mà chẳng khéo cụ đó cũng chẳng được. Đều khéo thì có thể dùng trì mà trú đó. Xưa kia, Trụ trì Linh sơn là do Đại Ca-diếp thống lãnh, Trụ trì Trúc Lâm là Thân tử làm chủ, nên giáo của bậc Thánh hưng thạnh, pháp của bậc Thánh còn mãi, bậc Thánh đã ẩn, số đời đó cùng mất, mịt mờ lâu thay! Chúng ta kiêu hãnh mới lấy Trụ trì gọi đó, thế đó lợi đó, thiên hạ tập quen giẫm đạp rối ren, cơ hồ thành phong thành tục. Bậc Thánh chẳng xuất hiện lại, ai năng làm chánh. Ngoại vệ là chẳng thấy chẳng chọn, muốn phong của bậc Thánh ta chẳng suy, pháp của bậc Thánh càng thạnh thì chẳng thể được. Buồn thay? Tôi còn mong gì? Chương Trụ trì hết. Sắc Tu Bách Trượng Thanh quy quyển ba hết <篇> SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY <卷>QUYỂN 4 CHƯƠNG SÁU: LƯỠNG TỰ Lập ra Lưỡng tự là vì chúng làm việc, mà nhân lấy đề cương để xướng đạo, phủ phất tông du, đến như ty nô canh lịch thứ vụ, pháp thế gian và xuất thế gian không gì chẳng nhàn tập. Sau đó, y cứ vị xưng Sư đến chúng ngự vật, thì toàn thể đầy đủ dùng, cái gọi là thành ở mình mà thành ở người. Xưa, còn Đông Tây đổi vị mà giao chức, chẳng lấy ban tư sùng ty làm hiềm, nay cao vợi mà chẳng phải của hai, rất là đảng đấu, mạnh yếu khác thế đến nỗi chẳng dung nhau mà có, chỉ chủ bày Tổ huấn để răn, muốn đó không tranh, hẳn thận trọng chọn chỗ nhậm, khiến đều đáng chức đó, người không ngừng nói có thể. <詞>TÂY TỰ THỦ ĐẦU Tiền Đường Thủ tọa: Biểu suất tòng lâm, mắt của trời người, phân tòa nói pháp, mở xét hậu côn, ngồi thiền lãnh chúng, cẩn thận giữ gìn điều chương, trai cháo tinh thô, gắng luận chấp sự, Tăng hành mất nghi, nương Thanh quy bày phạt, già bệnh qua đời, xót thương lo hậu sự. Việc của chúng đều được cử hành, như áo có cổ, như lưới có giềng, tuy bậc tôn túc ở các nơi, nếu Trụ trì dùng lễ đặt đó, cũng thỉnh sung chức này, gọi là thối vị làm người, như văn thư là thầy của bảy Đức Phật, còn trợ giúp Đức Thích-ca xiển hóa làm Thượng thủ trong chúng. Tông ta có Mục Châu ở Hoàng Bá, Vân Môn ở Linh Thọ, sáng rỡ đời trước, răn bày về sau, trọng của danh vị, có thể khinh nhậm ư? Trong Tổ Đình Sự Uyển nói: Thủ tọa tức xưa là Thượng tòa, tiếng Phạm là Tất-tán-na, Hán dịch là Thượng tọa; Một là tuổi già; Hai là quý tộc; Ba là thọ giới trước và chứng đạo quả. Nay cái mà thiền môn gọi là Thủ tọa là hẳn chọn việc mình đã xong, cái mà chúng phục tùng, đức nghiệp gồm tu thì được gọi là Thượng tọa. Hậu đường thủ tọa: Vị ở bản sau, giúp tán tông phong quỹ tắc đoan chánh trang nghiêm làm khuôn phép của chúng. Vì chúng đông nhiều nên phân ra trước sau, hai bữa trai cháo quá đường và ngồi thiền thì ra vào cửa sau. Nếu thiếu Tiền đường, ngày khác Trụ trì thượng đường bạch chúng thỉnh chuyển bản trước, trồng đơn xướng thực, ngồi thiền ngồi tham, chỉ tiếng bản thứ ba đánh trước liêu chúng thì vào đường, chẳng hẳn đánh bản trước liêu Thủ tọa, ngoài ra mọi hành sự đều đồng như Tiền Đường. Thư ký: Tức thư trạng của Thanh quy xưa, chức trông coi văn kiện ghi chép. Phàm ở sơn môn các thứ bảng sớ thư vấn ngôn từ cầu nguyện đều thuộc về thư ký. Bởi các bậc danh tục thời xưa phần nhiều vâng theo triều đình mời thỉnh. Và các chùa chiền có tiếng tăm phàm vâng phụng Thánh chỉ sắc vàng. Trụ trì tức đầy đủ văn biểu dâng tạ, thị tịch có Di biểu, hoặc điều ban điều hỏi đều kính văn biểu dâng, mà Trụ trì nắm giữ đại pháp không việc văn tự. Lấy màn nguyên nhung phủ che danh của ký thất tham quân, ở rừng thiền đặc thỉnh thư ký giữ chức đó, vẫn còn thư trạng xếp vào Thị giả sứ ty mới văn riêng ban thư hỏi Nội ký chép: Mà hiển trước của danh đó là từ Nam Công ở Hoàng Long là đầu tiên, lại Diễn Tổ ở Đông Sơn gán chức đó cho Viễn Công - Phật Nhãn, muốn dùng danh khơi dậy đó khiến gồm thông ngoại điển giúp biển pháp đó dậy sóng, mà xưa Đại Tuệ cũng từng giữ chức đó, ở chức đó nên dùng ba Đại lão làm khuôn phép thì được. Tri tạng: Chức trông coi kinh tạng, thông cả nghóa học. Người xem kinh, lúc đầu vào kinh đường, trước phải thưa với Đường chủ đồng đến Tạng Ty chào hỏi, tiễn đưa về án vị đối xúc lạy một lạy. Đây là Thanh quy xưa. Nay chư tăng xem kinh phần nhiều đến các liêu, mà Tạng điện không có đặt bạn ghế, nhưng sung danh đó, sẽ tận chức đó, hoàn pho mục lục, thường gia công điểm đối, nếu thiếu thì bù trả, bồi hoàn. Ẩm ướt là hong phơi, rách rời là khâu vá. Nếu đại chúng mở đọc thì tạng chủ đặt sổ sách, chiếu chỗ bày kinh đơn nêu danh của Đường ty, theo hộp giao phó, xem xong, chiếu bộ giao thâu vào tạng, ngõ hầu không lạc mất. Suy nguyên tông tôi đã nói truyền riêng ngoài giáo, mà còn bảo tăng chuyên ty tạng đó là thế nào? Vì điều nói điều làm của Phật là giáo luật, mà Tăng có người chẳng vâng theo lời nói việc làm của Phật ư? Đặc vì chỗ chứng, chỗ đắc của tôi chẳng dính mắc ở văn tự, mà vượt ngoài lời nói việc làm, để thấy diệu của tự tánh. Lại, ý của Tổ là muốn chúng ta tham cứu khắp các bộ cùng với trăm họ bên ngoài, mong chiết xung bên ngoài xem thường, ứng biến vô cùng, chính cái gọi là chẳng tức chẳng lìa. Sau vì chúng đông nhiều nên xếp vào Đông tạng Tây tạng. Tri khách: Chức coi về tân khách, phàm các vị quan viên, đàn việt, tôn túc danh đức các nơi cùng qua là, phải hương trà đón đợi, tùy khiến hành giả thông báo phương trượng, sau đó dẫn lên ra mắt, vẫn chiếu quản an đặt nơi đi ở, như người khách bình thường chỉ đến khách ty chào hỏi. Hoặc muốn đến phương trượng, khố ty các liêu thăm viếng thì bảo hành giả dẫn sang. Qua sáng sớm thì phòng liêu giường màn mọi vật đèn, dầu than củi, thường phải ngăn nắp, mới đến phải thêm ôn tồn. Duy-na tại giả thì nhiếp Hành sự đó, trước Tăng đường xem xét hành thêm cơm cháo cho khách tăng, gặp tăng viên tịch thì đồng Thị giả cầm trướng, tạm đến làm chủ tang đó. Tuyết Đậu ở Đại Dương, Thiền Nguyệt ở Thạch Sương đều làm chức đó không lơi lòng. Tri dục: Gặp khai dục (mở phòng tắm), trước trai treo bảng khai dục, tháng mùa lạnh năm ngày tắm một lần, về mùa nắng thường ngày đổ mồ hôi, nên lập phòng tắm, treo khăn tay, ra mặt bồn kéo vải chân hài. Tham đầu sai hành giả trực dục, trai xong, Dục Đầu báo Duy-na, Thủ tọa, Trụ trì xong, đánh ba tiếng trống. Trong thùng dục Thánh đều đặt ít nước nóng, đốt hương lễ lạy, tưởng các Thánh tắm, lần lượt tuần quách, đánh ba tiếng bản, khắp đánh trống hồi thứ nhất, Tăng chúng vào tắm. Hồi thứ hai xong, Đầu thủ vào tắm. Hồi thứ ba, hành giả vào tắm, lúc này Trụ trì mới vào, dùng bình phong ngăn cách mà tắm. Hồi thứ tư thông Nhân lực vào tắm, Hành giả trông làm, Tri sự tắm cuối cùng, đếm khảy yểm đó và điểm xem, khiến tắt lửa và than cháy trong bếp, nước rải khô sạch, nếu có củi thừa thì đem để chỗ xa, vào tắm đó thứ lớp phải niêm yết bên ngoài phòng tắm (thời nay cho rằng Trụ trì điện Đầu thủ tắm sau, Tri sự điện Hành giả tắm sau, là chẳng phải đúng. Như Trụ trì có nên muốn đồng Đầu thủ tắm trước, thì chẳng dùng bày ngăn chướng, chẳng vào trong gác nhỏ, chỉ Đầu thủ bảng đầu cởi y). Bên trong phòng treo bản nhỏ, bên cạnh đóng tấm bia nhỏ, ghi rằng: “Đánh bản một tiếng thêm nước nóng, hai tiếng thêm nước, ba tiếng thì dừng. Lấy đó làm tiết”. Như thí chủ bày tắm thì khóa kinh Hồi Hướng Năng Diệu Xúc nói rõ, thành Phật tử trụ thì công chẳng lãng thí. Tri điện: Trông coi các điện đường thì hương đèn phải thường lau bụi, nghiêm khiết ghế bàn. Hoặc gặp gió thổi, phải tắt hương lửa trong lò, và buộc dậy chân phướn, chớ để gần đèn đuốc. Hương tiền thí chủ chẳng được dùng lẫn vào việc khác, ngày Phật đản tắm Phật, nấu nước nóng cúng dường đại chúng, bốn ngày trai mở cửa điện để tiện lui tới chiêm lễ. Thị giả: (Đốt hương thư trạng thỉnh khách). Chức của Thị giả rất là thân mật, trông đạo đức ở trước sau, nghe dạy răn sớm tối, đích thân tham học, mong pháp đạo được thành tựa lớn lao, mà lễ tiết thường nên cung kính cẩn mật. Khánh Hỷ hầu Cù-đàm, Hương Lâm hầu Vân Môn, Phật Tổ lại gửi đó có thể xao nhãng các thứ ư? Trụ trì thượng đường tiểu tham, Phổ thuyết, khai thất, niệm tụng, phóng tham, tiết lạp đặc biệt, thông báo qua lại, đăng ký đốt hương hành lễ, ghi chép pháp ngữ. Thị giả đốt hương giữ chức đó. Phàm Trụ trì có thư từ qua lại, chế tác văn tự, trước đủ thảo trình. Nếu thiếu thư ký thì văn từ bút mực của dơn môn, Thị giả thư trạng nên giữ chức đó. Trụ trì ứng tiếp tân khách quản đãi tôn túc, tiết lạp đặt làm đầy đủ văn trạng hành lễ, Thị giả thỉnh khách giữ chức đó. Hoặc Duy-na Tri khách đều chẳng đến chúng hành sự đó, ba Thị giả đều phải nhiếp cả (hoặc nói thư trạng chẳng đáng can thiệp các việc khác, là vô căn cứ). Nếu Trụ trì lâu ra thì trở về các hàng đứng, tạm ra thì chẳng lìa vị trí ban. Thị giả y bát (chẳng lập ban): Các bậc tiền bối phần nhiều dùng các bậc sị lão thành của tòng lâm cho làm chức đó, bởi năng thâu nạp người trung thành, cứu kẻ lỗi lầm, bủa khắp nhân tài, trong ngoài vô sự, thông biến viên dung, nguyện hạnh trên dưới nghiêm túc, như Thị giả Mật Am hữu như mà được tùng nguyên kế đời nhà đó. Đông Tẩu được lên Thủ tọa mà phép càng nghiêm, nay các nơi thường cho kẻ sinh sau tuổi trẻ giữ chức đó, rất khiến bại đức nhầm việc, có thể chẳng thận trọng hay sao? Thị giả thuốc thang (lập ban): Sớm tới cúng dường thuốc thang lên phương trượng, ứng tiếp hai bên, giúp đỡ Thị giả y bát, vỗ về hành bộc cận sự. Nếu tạm thiếu Thị giả, khách đến thông báo đốt hương, hoặc thiếu người hồi hướng, đều nên nhiếp hành, phải chọn người tuổi trẻ khỏe mạnh, nghiêm cẩn mà cho giữ chức đó. Thị giả Thánh Tăng (chẳng lập ban, hành đạo sau chúng, lo cháo cơm bên ngoài đường): Quý ở chỗ có đạo tâm, hai thời cơm cháo dâng cúng, đánh chùy xuống đường, sớm tối giao điểm đắp vị, giữa đêm gỡ đèn, đồng Duy-na giao thâu, Tăng thị tịch xướng tiền y. Trụ trì thị tịch thì cầm trướng. Đầu thủ cầm phất thì vì đốt hương, hoặc thay đánh chùy, chức niệm Phật mãn, tại chùa này phải dự danh Thị giả. Hai lão thôi cày dứt cầu lúc ở chúng thường giữ chức này. Vì năng kết các duyên mà gắng chí ở đạo. <詞>ĐÔNG TỰ TRI SỰ: Đô giám tự: Theo Thanh quy xưa chỉ lập giám viện, sau nhân chùa rộng chúng đông, thêm đô tự để coi sóc mọi việc, sớm tối coi việc hương hỏa, ứng tiếp quan viên thí chủ. Bàn tính sổ sách, xuất nhận tiền thóc, thường khiến hằng năm tính có thừa. Kính chủ mến chúng. Mọi việc đều có họp bàn, thưa bẩm Trụ trì mới thi hành, dạy răn hành bộc chẳng vọng đánh đập. Giả sử đáng răn trừng phạt đuổi, cũng phải thưa bàn lượng trình bày răn, không buông oai bạo, khơi biến khởi tố, sai bày trang khố chức vụ phải công bình, không dùng bè đảng riêng khiến oán trên dưới. Xưa, tòng lâm lúc thạnh, phần nhiều thỉnh Tây đường Thủ tọa thư ký giữ chức này, mà Đô giám tự cũng làm chức Thủ tọa thư ký, không thì phải tuổi cao lịch sự, liêm năng công cẩn, vốn làm cho chúng phục thì cho giữ chức đó. Đã không lấy ở công, mà đạo phước thù thắng, trên dưới còn đẹp, tuy nhiều năm chẳng đổi, hoặc mấy lần thỉnh lại sung, lại đâu có thương tổn ư? Nên hiện chỗ đơn liêu cần cựu chẳng đầy năm sáu vị, phó tự trở xuống thì phải trải ba lần, chẳng trở về tiền tư, giám tự chẳng phải ba lần, chẳng trở về mông đường, đô tự chẳng phải ba lần, chẳng được ở đơn liêu, lại thỉnh ra sung đó, công giới bít khóa nguyên phòng để tránh hiềm nghi, hai thời cơm cháo phải đến đường, thì lợi ích hành bộc hạnh tự nhiên chỉnh túc. Như phụ từ minh của Dương kỳ, Phụ công trí của Thạch song, có thể làm phép tắc. - Tăng sử chép: Tri sự ba cương là, như dây lớn của giềng lưới giăng thì trăm mắt chánh. Tiếng Phạm là Ma-ma-đế, Hán dịch là Tự chủ, tức Giám tự ngày nay. Lại, trong kinh Đại Tập chép: Vật chư Tăng khó trông giữ, ta cho phép hai hạng người trông giữ vật Tam bảo: Một là A-la-hán; Hai là Tu-đà-hoàn. Lại có hai hạng: Một là người năng trì tịnh giới, khéo biết nghiệp báo; Hai là người sợ tội đời sau, có các hổ thẹn. Duy-na: Là giềng mối của chúng Tăng, thảy đều điều nhiếp. Đường Tăng đăng ký, biện phân độ điệp chân ngụy, chúng có tranh giành sai mất, phải biện giải hòa hợp, giới lạp thứ lớp, sàng lịch đồ trướng. Việc tăng trong ngoài không gì chẳng trông coi, cử xướng hồi hướng dùng âm thanh làm Phật sự, tăng bệnh tăng tịch, rất phải dốc tâm, mỗi ngày hai thời đến Đường. Chuông trước đường đánh thì lìa vị trí, vào đường trước Thánh Tăng, tay trái dâng hương, lùi hai bước rưỡi, chào hỏi chắp tay, mà vào đứng cạnh chùy, trước xem theo ngày hồi hướng, thần bày danh vị. Trống chuông dứt thì đánh một tiếng chùy, chúng bày bát rồi, đánh một tiếng chùy, chắp tay im lặng, hồi hướng đáng ngày thần bày. Tay trái đề chàm, cử xướng (kính mong đại chúng niệm pháp thân thanh tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na, viên mãn báo thân, mười hiệu v.v…) tay phải đánh chùy, cao chẳng quá năm tấc, tiếng dứt mới hạ chùy, nhanh chậm vừa chừng. Đợi Thủ tọa xướng thực đến câu thứ ba sắp xong, chuyển thân lùi đến đứng ở đầu Tăng bảng, đợi hành thực khắp, tiến tới trước đánh một tiếng chùy, chắp tay đến trước Thánh Tăng chào hỏi, ra khỏi đường trở về vị trí bát, nếu thí chủ trai Tăng hành phẩm vật khắp thực, sau tiếng chùy, thì đi theo Thánh Tăng chuyển, cạnh bên trái chầu Thủ tọa thăm hỏi, lại đánh một tiếng chùy mà ra, là thỉnh thí tài. Hoặc có duyên sự khác hoặc tạm giả ra vào, đem sở giới lạp, sở giả để coi xét. Đường ty phải biết sổ, đích thân đưa sang khách ty để coi xét. Ký Quy Truyện chép: Duy-na, là Hoa Phạm chép chung, Duy là Cương Duy, là tiếng Hán. Na là tiếng Phạm, nói Yết-ma-đà-na, lược bỏ ba chữ theo lược. Hán gọi là Duyệt chúng. Lại, Luật Thập Tụng chép: Vì trong Tăng phường không người biết thời đánh kiền-chùy, lại không người lau chùi quét tước giảng đường, nhà ăn, không người tương tục bày giường. Lúc chúng loạn, không người khảy bít, v.v… Phật bảo lập Duy-na. Lại, Thanh luận dịch là Thứ đệ, nghóa là lần lượt coi sóc việc tăng. Phó tự: Theo Thanh quy xưa thì gọi là Khố đầu, nay các chùa gọi là Quỹ đầu, phương Bắc xưng là Tài bạch, thật ra đều một chức này. Bởi phó nhị Đô giám tự phân công nhọc, trông coi vàng thóc, tiền lụa, lúa gạo xuất nhập của thường trú, tùy thời lên lịch thâu quản chi dùng. Khiến khố tử mỗi ngày đầy đủ thâu chi bao nhiêu, kiểm định đem đơn trình Phương trượng, gọi là Nhật đơn. Mười ngày kết toán một lần, gọi là tuần đơn, một tháng kết toán một lần, một năm kết chung, có không xem quản, gọi là Nhật hoàng Tổng bạ, Bên ngoài có gạo bún năm vị, mỗi sở đều thường xét tính. Tài vật cùa thường trú tuy chỉ mảy may đều là chúng Tăng mười phương có phần. Như chẳng phải cửa chùa, quan viên đàn việt ngoại hộ tân khách đón đưa, vui buồn thăm viếng hợp hành nhân sự, đều chẳng thể giả danh chi phá xâm lạm. Trên dưới khố tử đó phải chọn có tâm lực khả năng ghi chép tính toán, giữ mình liêm cẩn thì làm chức đó. Tăng bệnh được dùng vật cung cấp, tức thời ứng phó, như kho lẫm thủng dột chim chuột xâm hại gạo thóc, ẩm ướt tất cả vật sắc, chóng buông gìn giữ có khi chẳng đúng pháp, đều phải kịp thời xem xét xử lý. Điển tòa: Chức trông coi cơm cháo của đại chúng, tất cả cúng dường, phải cho tinh khiết, vật liệu điều hòa, kiểm buộc cục vụ, tiếc giữ thường trú, chẳng được tàn hại hết, răn chúng hành giả vâng giữ khuôn phép, hành ích Phổ thỉnh, chẳng được lười khinh, vỗ về người làm vườn, gieo trồng kịp vụ, chia lợi đồng đều, hai thời đến nhà bếp, cháo cơm ăn chẳng khác chúng, cháo cơm trên thùng trước đối Tăng đường đốt hương lễ lạy, sau đó mới bắt đầu quá đường. Trực tuế: Chức trông coi tất cả việc làm. Điện đường liêu phòng hư hại, thường phải gia tâm sửa chữa, động dụng mọi vật, thường xem số đó, nhân lực làm việc, xét công trình đó, gạt bỏ biếng lười, không dung ăn không tốn tài hại công, ruộng vườn phòng nhà, nghiền mài giả phường, xe thuyền số lượng, giặc trộm lửa đèn, tuần hộ phòng răn, sai bỏ sứ lệnh, thưởng phạt chánh đáng, đều nên công cần, nhọc khỏe chia đều, như tu tạo lớn thì thêm người trông coi. <詞>LIỆT CHỨC TẠP VỤ Liêu nguyên: Trông coi văn kinh, mọi vật của các Liêu. Trà nước nóng củi than, xin cấp cần dùng, quét tước rải rưới cạo đầu, giá khăn các loại. Mỗi ngày, dùng cháo xong, khiến hành giả trà đầu đứng ngoài cửa đợi chúng đến. Đánh ba tiếng bảng, đại chúng về liêu, liêu trưởng phân tay. Liêu chủ phó liêu: Đối diện vị trí phải trái, phó liêu ra đốt hương trở về vị trí. Trà Đầu hét rằng: “Chẳng xét”. Đại chúng kính lễ, gặp ngày mồng một, rằm, châm nước nóng, đánh bảng nhóm chúng, đốt hương hành nước nóng như lễ thường. Liêu chủ phó liêu, an chúng ở liêu nguyên chiếu thứ lớp giới lạp. Từ dưới mà lên thỉnh giữ chức đó, ghi định danh tự, dán trước trên bảng, mười ngày thay một lần, giúp Liêu nguyên việc. Sớm tối tăng chúng về Đường, tuần xem bàn kinh, hoặc có sót quên các vật lặt vặt thì mắt đồng gom nhặt giao trả, và giao điểm bàn liêu các vật lặt vặt đề điều hương đèn trà nước nóng, không cho người ngoài ở lại qua đêm và gởi bán các vật, do dự định trông liêu một tên, khiến dùng thứ lớp thay giúp phó Liêu. Nếu Liêu chủ gặp mãn theo Duy-na thỉnh giao thay thế, phó liêu gặp mãn theo Liêu nguyên thỉnh giao thay thế. Diên thọ Đường chủ: Trông nom Tăng bệnh, thuốc thang dầu đèn, than lửa cơm cháo năm vị, thường cung cấp đầy đủ. Công giới nếu thiếu, nếu tự mình đầy đủ kết duyên ứng phó, hoặc khuyên hóa thí chủ bày biện, giường chiếu áo chăn dơ bẩn lẫn lộn nên giặt giũ, không sinh hiềm oán, trong tám ruộng phước thì chăm sót người bệnh là bậc nhất. Tịnh Đầu: Quét đất nghiêm hương, rút thẻ tẩy xí, nấu nước nóng thêm nước, phải cho kịp thời, hơi có lẫn lộn tức thì rửa sạch, khăn tay thùng sạch, xem xét thêm thay. Người làm chức này đều là tự phát đạo tâm, lúc sắp giao đổi, Đường ty dự ra bảng nhỏ ghi (kế dưới tịnh đầu thiếu người, nếu có kết duyên xin để lại tên họ mời lưu phương danh), nguyện kết duyên là thâu bạch Đường ty, sau đó báo Trụ trì thỉnh sung đó. Hóa chủ: An chúng ở thường trụ, thuế nhập có hạn, phải nhờ hóa chủ khuyến hóa đàn việt, tùy khả năng cúng thí, giúp thêm cúng chúng. Đó hẳn là hằng sản đủ dùng, chẳng cần nhiều lần đến mong cầu khiến nhàm chán. Viên chủ: Chẳng sợ siêng năng khổ nhọc, đem thân dẫn trước, gieo trồng rau lá kịp thời tưới tẩm, cung cấp nhà bếp, không để thiếu sót. Ma chủ: Kiêm chủ giả phường gạo bún, cúng chúng rất có quan hệ, phải chọn người có đạo tâm, am hiểu việc cối xay v.v… thì sung đó. Thủy đầu: Canh năm nấu nước nóng, cúng bồn chậu cho đại chúng, khăn tay chậu rửa mặt đèn đuốc, nha dược, không để thiếu sót. Tháng mùa đông hong sấy khăn tay, phải dậy sớm thiết bày, chớ để đến lúc cần làm động niệm chúng. Than đầu: Dự bị than củi để ngăn việc lạnh, hoặc khuyến hóa thí chủ, hoặc xuất công giới, phải cho đủ dùng. Trang chủ: Coi về Điền giới cho đến sửa sang trang xá, Đề đốc nông vụ, vỗ yên trang điền. Chút ít việc nên tùy thời tiêu nghỉ, việc liên quan đại thể, trình bày chùa định đoạt. Gần đây, tòng lâm rách nát trăm xuất mà trong Trang rất lặm, lược nêu có ba. Các phương thông hại mới đầu tranh giành chức Trang, đâu năng khắp cùng, gây oán với Trụ trì trên dưới chẳng hòa mục là một. Một là sung chức đó, ở cách xa chùa, không việc gì chẳng làm, đến nỗi tranh giành khởi tố, cúng chúng tiền lương đều do phí tổn canh cày. Lại chứa trốn mắc nợ để lụy về sau, do đó mà giềng mối chẳng giữ, trang điền sinh lờn, thuế khóa chẳng trả, là tệ thứ hai. Giả sử khiến người lão thành khéo việc sung đó, mà châu huyện ứng đối. Lại lệnh cầm cán, hương đô chức sai, lân lý giàu có, đều được tìm bồi. Đã mở mối đó, hơi có chẳng kịp, khiến sinh kẽ hở, tuy chẳng rõ chi, mà khéo lập trừ phá công tư vô ích, nên phí của trong trang hoặc một nửa ở chùa, đó là tệ thứ ba. Chỉ như Đại gia sản nghiệp giàu lớn, chẳng nghe phân để con em, khắp ở trang sở, bởi canh cày gieo tỉa có người làm mướn, Đề đốc thì có giáp cán, lúc thâu thuế thì tự có Tăng hành giám thâu, ngoài ra, giả sử có thâu nạp tu sửa bờ đập y cứ lương, v.v… các khoản chỉ đến lúc phân giao cần cựu Tri sự. Hạn kỳ sai làm, việc xong trở về, chẳng phải chỉ bớt phí, mà có bổ ích của thường trụ và tiêu họa chưa nảy mầm, công tư đều được lợi, nay phế bỏ của các nơi như trốn mất nhà. Trụ trì cần cựu năng nghó thương cửa chùa, muốn bớt phí cứu giúp, trừ bỏ lạm nhũng, xin từ đây làm đầu. Đó lúc đầu so sánh có đáng cật nạn lại chăng? Mà cho làm chức trang là, riêng bàn nghị thù đáp bổ sung. Các trang giám thâu: Thanh quy xưa, lúc đầu không có trang chủ giám thâu, gần đây mới đặt ra tên gọi này. Khi đặt tên gọi này, mà tệ của nó có cả trăm thứ. Vì Trụ trì riêng nhậm, chẳng phải nhân giả có, nhân lợi quanh co là có theo, vì người cần cựu chấp sự nhiều năm đánh giá sung vào có đó, gá thế cầu sung là cóù, lập bè đảng phân sung là có, dốc sức tranh sung là có, tổn công hại tư chẳng thể nêu cử. Tuy muốn cứu giúp, cuối cùng thế nào. Nếu được liêm chánh cần cựu phụ giúp Trụ trì, công chọn chia dùng, hoặc đối chúng rút thể niêm sung đó, làm chức này là phải nghiêm mình làm niệm, kính chúng làm tâm, không tàn ác lấy điền hộ, không khuyết tổn của thường trụ, thì tự tha đều lợi. <詞>THỈNH LẬP TĂNG THỦ TỌA Việc đó quan trọng không thể xem thường, như Đại phương Tây đường danh đức Thủ tọa. Hạnh giải vốn là điều đại chúng tôn phục, cặn kẻ bày tình, như có xứng ý, đặt làm thượng đường nói là thời gian này chúng đông nhiều, nên được đáng người cùng vì dựng lập cờ pháp, mở lò bệ lớn. Trong chùa may có người mỗ, thấy biết cao sáng, chỗ tuệ mạng nương. Lát nữa xuống tòa, đồng Lưỡng tự đại chúng lạy thỉnh vì chúng khai thất, cúi mong từ bi thương xót hứa khả. Xuống tòa, hành giả phương trượng dùng mâm khăn gói dựng hai bìa nhập thất và Phổ thuyết, đến nơi dưới tòa đồng đại chúng lạy thỉnh, văn từ là (đại chúng dốc lòng từ lâu nghó suy chỉ dạy, cúi mong từ bi xót thương hứa khả), người thọ thỉnh theo đến phương trượng đốt hương xúc lễ lạy tạ, văn từ là (mỗ may được nương cậy Quý đồ tạng vụng về. Đã được bị cử chẳng dám có trái). Đáp rằng: “Phật pháp cậy trọng, kính mong thương tình. Tạ xong, hành giả Đường ty đánh chuông ở Tăng đường, đại chúng đồng đưa tiễn về Liêu. Trụ trì đối xúc lễ một lạy tiễn ra, kế là chào hỏi đại chúng, Duy-na đến liêu, bàn nghị thỉnh một người Thị giả, treo bảng Phổ thuyết, dự thiết bày chiếu đường ghế thiền, Phất tử, chủ trượng, lò đèn, đánh một hồi trống, chúng nhóm lập định, lập tăng trở về vị trí. Duy-na ra ban đốt hương, đồng với đại chúng lại lạy xuống bày thỉnh. Lập tăng ngồi, kiết già, Lưỡng tự chào hỏi, Trụ trì chào hỏi. Lập tăng phổ thuyết xong. Duy-na đồng đại chúng lại lạy xuống bày tạ. Lập Tăng tức ôm hương đến chỗ Phương trượng, đặt tạ, cả hai lạy ba lạy, văn từ là (đã được sứ lệnh gắng nguyện gánh vác, từ bi gồm cả, chẳng ngăn được thẹn sợ). Bèn đến khố ty, các liêu phòng chào hỏi, phương trượng chuẩn bị cơm rau, thỉnh đặt làm nước nóng dùng bữa chiều. Đến chiều, nước nóng quả, Lưỡng tự quang bạn, lập tăng thị giả cùng dự. Ngày hôm sau, Trụ trì thỉnh Tăng đường đặc biệt làm trà Thị giả thỉnh khách đầy đủ bảng trà (nghi thức xem ở sau), đến Liêu cắm hương lạy thỉnh, lễ đồng như đặc biệt làm Tân thủ tọa. Lập tăng phải đặt làm thủ tọa đại chúng trà, đồng với lễ tiền Đường đặc biệt làm hậu Đường đại chúng. Ngày khác, phương trượng quản đãi thỉnh Lưỡng tự quang bạn. <詞>THỈNH DANH ĐỨC THỦ TỌA Trụ trì phải dự bẩm bày, như có xứng ý, phương trượng trước mời dùng trà, Lưỡng tự quang bạn liền đánh trống lên tòa. Lại chẳng báo chúng, Trụ trì cặn kẽ khẩn thiết, xuống tòa cùng đại chúng đồng bày lạy thỉnh, đánh chuông tiễn đưa về liêu, trà nước nóng quản đãi lễ đồng như trước, tiến thối chẳng lẫn lộn, Lưỡng tự không giao thay thế. - Bảng: (Hòa-thượng Đường đầu sáng nay thọ trai xong, đến Vân đường châm trà, đặt làm Tân mạng Thủ tọa. Hãy dùng nghi của cờ bày giá, vẫn thỉnh các Tri sự, đại chúng đồng nhủ lòng, quang bạn. Nay, ngày tháng , thị ty mỗ kính bạch. <詞>LƯỠNG TỰ TIẾN LÙI Đầu thủ chuyên chọn người tài đức tương đối cho giữ chức đó, gần đây những kẻ tầm thường trách vì ăn uống mà liên tiếp làm việc, khiến các kẻ só giữ bần ôm đạo càng cam tâm lui tàng. Tòng lâm do đâu mà kính mến tốt lành, Trụ trì phải đổi thay tệ hại đó là đúng. Theo Thanh quy xưa, Tri sự chỉ xếp vào giám viện, Duy-na điển tọa, trị tuế, khổ đầu năm vị mà thôi, chức mãn thì đánh chùy bạch chúng cáo lui về Đường theo chúng. Lúc đầu, không đơn liêu giường vị, nên tòng lâm hưng thạnh, gần đây các phương lớn nhỏ cần cựu động đến trăm số, tôi tớ gấp bội, mà tăng đường vắng không một người. Khoảng niên hiệu Thái Định ( 1 3 2 4-1328 đời Nguyên) Thừa tướng Thoát Hoan lành hành tuyên chính viện, chia chùa viện thành ba hạng thượng, trung, hạ v.v… ngạch định hằng năm thỉnh tri sự số vị chánh là đây, nên vâng hành đó. Chức sự sắp mãn, dự đến Phương trượng thưa lui. Như chọn định ngày tấn thối, Trụ trì bảo hành giả báo cho Lưỡng tự biết, nên biết chiều, tối đánh chuông. Một ban cựu Tri sự đến Phương trượng cắm hương cáo thưa, xúc lạy một lạy, nạp sổ chìa khóa khố mà lui. Trong đây hoặc có lưu lại là Trụ trì theo đưa đến khố ty, Thị giả đốt hương châm nước nóng, khuyên gắng lưu. Đến canh năm hôm sau đánh chuông, một ban đầu thủ ôm hương đến chỗ Phương trượng, xúc lạy một lạy, cáo lui. Hoặc có lưu lại là, cũng đồng lễ trước, châm nước nóng lưu lại đó. Trụ trì đem danh mục người chọn định, cùng Tây đường cần cựu, khiến hành giả khách đầu, thỉnh dùng cháo xong thì dùng trà, một ban cựu tri sự đó đợi Tăng đường hành cháo khắp, từ cửa sau mà vào, Thượng thủ đánh chùy một tiếng, thưa: “Bạch đại chúng! Chúng tôi hôm qua được từ chỉ của Hòa-thượng đường đầu, khiến trở về khố ty, nay lại tâm lực khổ nhọc, xin lui về Đường theo chúng, kính bạch”. Lại đánh một tiếng chùy, từ bên trái Thánh Tăng ra trước Trụ trì, cả hai lạy ba lạy. Mới đầu bày, thưa: “Chúng tôi hôm qua được chọn ghi, tự thẹn chẳng phải tài năng. Hạ tình không ngăn nổi thẹn sợ”. Lại bày tuần tự lạnh ấm xong, xúc lạy ba lạy, lùi thân. Từ bên phải Thánh Tăng ra trước Thánh Tăng, lạy ba lạy, chuyển thân theo Thủ tọa bảng đứng dậy tuần Đường một vòng, khoảng giữa chào hỏi mà lui. Dùng cháo xong, hành giả giữ thỉnh người mới đến Tẩm đường, dâng trà xong, Trụ trì đích thân đứng dậy, đốt một nén hương, trở về vị trí, bạch rằng: “Lưỡng tự trước cáo lui, việc này không thể thiếu người. Lạy thỉnh người mỗ sung làm tri sự, người mỗ sung làm Đầu thủ, theo một nêu danh, bạch xong”, Trụ trì ra đến trước lò, Thị giả vái thỉnh người mới đến trước Trụ trì, đối xúc lễ một lạy, Tân tri sự đồng tiến tới trước, cả hai lạy ba lạy, mới đầu bày, thưa: “Chúng tôi chợt vào tòng lâm, mọi sự sinh sơ quá nhờ sứ lệnh, Hạ tình chẳng thắng chí của lo sợ”. Lại bày, thưa: “Ngày hôm nay khiến kính cẩn lúc cùng chỉ, Hòa-thượng đường đầu đi ở nhiều phước” xúc lạy ba lạy. Trụ trì đáp một lạy. Tân đầu thủ tiến tới trước, cả hai lạy ba lạy, đặt văn từ đồng như trước, chuyển vị trí dâng nước nóng (Hàm thuần quy nói: Vái tiếp ngồi, tiếp hương, tiếp nước nóng, đến nay các phương thực hành. Hoặc cho rằng đang chiều có đặc biệt vì đây có thể miễn, giảng hay chẳng giảng ở ý Trụ trì”. Nước nóng xong, tạ lễ, hoặc bày hoặc miễn, Cung Đầu đánh chuông ở Tăng đường, đại chúng trở về vị trí Bát đứng định, Trụ trì vào đường, trước tiễn đưa tiền Đường Đầu thủ, vì thứ Đầu thủ theo về vị trí bát, mỗi xúc lạy một lạy, tiếp tiễn đưa hậu Đường đối xúc lạy một lạy. Một ban Tân tri sự dự đứng ở Đầu bản Tây đường. Trụ trì trở về vị trí. Duy-na sang đến Trụ trì chào hỏi rồi đứng bên cạnh (nếu Duy-na đã lui, thì Thị giả tri khách thay thế hành lễ). Trụ trì giao danh mục cho, đối mặt chào hỏi, theo sau Thánh Tăng, chuyển đánh chùy một tiếng, thưa: “Bạch đại chúng! Tri sự trước cáo lui. Việc này không thể thiếu người. Vừa kính vâng từ chỉ của Hòa-thượng Đường đầu, thỉnh người mỗ sung chức mỗ, người mỗ sung chức mỗ, kính bạch”. Lại đánh một tiếng chùy. Thị giả liền vái thỉnh một ban Tân tri sự, đến trước Trụ trì xúc lạy một lạy, Duy-na bạch rằng: “Thỉnh Tri sự xong”, lại đánh một tiếng chùy, một ban Tri sự cả hai lạy ba lạy. (Đặt văn từ đều đồng như trước), Tri sự chuyển lui sau Thánh Tăng, theo bên phải ra trước Thánh Tăng bày đứng, lạy ba lạy. Duy-na dẫn tuần Đường một vòng, trở về giữa chào hỏi, lùi ngang qua đầu bảng Tây đường đứng. Hành giả Đường ty hét rằng: “Đại chúng lễ chúc mừng Tân tri sự”, khắp đồng xúc lạy một lạy xong. Lại hét rằng: “Tân tri sự lễ tạ đại chúng”, khắp đồng xúc lạy một lạy xong. Lại hét rằng: “Đại chúng tiễn đưa Tân tri sự về khố ty”. Hành giả Cung đầu đánh chuông ở tăng đường, Trụ trì tiễn đưa vào đối xúc lạy một lạy tiễn đưa Trụ trì ra, cùng người cựu giao thay thế, cùng chuyển thân đối, xúc lạy một lạy, tiễn đưa người cựu ra. Thị giả trước chúc mừng, tiếp Đầu thủ lãnh chúng chúc mừng xong, hành giả hét rằng: “Đại chúng tiễn đưa Tân thủ tọa về Liêu”. Lại đánh chuông tiễn đưa, chúc mừng xong, hét rằng: “Đại chúng tiễn đưa Tân Duy-na về Đường ty”, lại đánh chuông tiễn đưa chúc mừng xong. Theo hét một tiếng rằng: “Hai ban cần cựu tiễn đưa Tân hậu đường Thủ tọa, Thư ký, Tạng chủ, Tri khách về liêu”, tiễn đưa chúc mừng giao thay thế, lễ đồng như trước. Lại đều hét rằng: “Đại chúng tiễn đưa cựu thủ tọa, đô tự về liêu”, cũng đánh chuông, chúc mừng xong, đều hét rằng: “Hai bạn cần cựu tiễn đưa dùng thứ cựu Đầu thủ Tri sự về Mông đường tiền tư”. Lễ cũng như trước, tiễn vị Trụ trì ra, Liêu chủ trước tiếp đãi, chuyển thân lẫn nhau đối xúc lạy một lạy, chẳng tiễn ra, sau đó nhận chúc mừng đều xong, các vị Tân cựu đều ôm hương đến chỗ Phương trượng lạy tạ, hương người mới hệ thuộc khố ty chuẩn bị tạ xong, các vị Tân cựu đồng tuần liêu phương trượng thỉnh giữa trai điểm tâm. Đến giờ trai cơm rau, vẫn thỉnh Tây đường cần cựu quang bạn, Liệt chức tạp vụ đãi thỉnh Lưỡng tự xong, ngày khác đến Đường ty cáo lui, thứ lớp chọn người giao thay. <詞>THỈNH TRI SỰ LÚC TREO BÁT Có xứ Trụ trì chẳng trước hòa hội, im lặng chọn người định, dự phân trao hành giả Đường ty. Ở Tăng đường, dùng cháo sáng xong, lúc treo bát, hét rằng: “Đại chúng dừng chốc lát thỉnh Tân tri sự”. Duy-na vào Tăng đường trước đốt hương, tuần đường một vòng, đến trước Trụ trì chào hỏi, đứng bên cạnh, Trụ trì ban giao danh mục thỉnh người, tiếp xong, đối mặt đáp lễ, theo sau Thánh Tăng chuyển, đánh một chùy tiếng, bạch rằng: “Bạch đại chúng! Vừa vâng phụng từ chỉ của Hòa- thượng Đường đầu, thỉnh người mỗ sung cho Tri sự mỗ”. Theo một bạch xong, Thị giả vái thỉnh người mới đến trước Trụ trì nhận chức, cùng đồng như lễ trước, bạch Phương trượng họp dùng trà thỉnh Đầu thủ, lể đều đồng như trước. <詞>THỊ GIẢ TIẾN LÙI. Thỉnh Lưỡng tự xong, cựu Thị giả theo Trụ trì lên phương trượng thưa bẩm rằng: “Chúng con từ lâu hầu Hòa-thượng, nay muốn cáo lui theo chúng hành đạo, cúi mong từ bi”. Cắm hương, lạy ba lạy mà lui. Trụ trì phê xuống Đường ty, thỉnh Tân thị giả, Duy-na khiến hành giả y theo phê thỉnh, vẫn thỉnh liêu nguyên khuyên thỉnh, đồng đến Đường ty dùng trà tiếp mời vào, đốt hương châm trà xong, đứng dậy lại đốt hương bạch rằng: “Vừa vâng phụng từ chỉ của Hòa-thượng Đường đầu, bảo thỉnh Thượng tọa mỗ sung vào Thị giả mỗ”, theo một bạch xong, vái người thọ thỉnh, tiến tới trước khắp đồng xúc lạy một lạy, chuyển vị trí, Duy-na hành lễ vái mời ngồi, tiếp hương, trở về vị trí ngồi, dâng nước nóng xong, dẫn lên phương trượng, Trụ trì ra, Duy-na tiến tới trước thưa: “Vừa vâng phụng từ chỉ, bảo thỉnh người mỗ sung cho Thị giả mỗ, nay dẫn đốt hương lễ lạy”. Trụ trì cứ ngồi, Tân Thị giả cắm hương lạy ba lạy xong, Duy-na tiễn đưa về liêu, đối xúc lạy một lạy, Thị giả tiễn ra, tức cùng người cựu giao thay thế, đồng như lễ Đầu thủ (Hàm Thuần Quy ghi: Cũng có Trụ trì tự tiễn đưa Thị giả về liêu, Thị giả phải xúc lạy một lạy tiễn ra, Chí Đại Quy ghi: Nếu là người danh đức, Trụ trì đích thân tiễn đưa vào liêu, đối xúc lạy một lạy, Duy-na chỉ chúc mừng mà thôi, chớ xem thường). Hành giả phương trượng trực sảnh kiệu phướn lạy chúc mừng. Hành giả Đường ty dẫn Tân cựu Thị giả đồng tuần liêu xong, Tân thị giả lại lên phương trượng đốt hương lạy tạ, cựu Thị giả sớm tối dò xét đồng Tân Thị giả, hhương trượng chào hỏi, ba ngày sau, Trụ trì phê xuống Đường ty tiễn đưa về Liêu chúng, cùng Duy-na Liêu nguyên chào hỏi xong, vẫn lên Phương trượng đốt hương lạy tạ. Thị giả Thánh Tăng hệ thuộc Duy-na, chọn người hòa hội sung chức, sau dẫn Phương trượng lễ tạ, tùy lệ trà nước nóng điểm tâm quản đãi. <詞>LIÊU PHÒNG GIAO CẮT CÁC VẬT LẶT LẶT. Liêu phòng mọi vật do thường trú đặt làm chẳng dễ, thường có người chức sự trông coi làm truyền xá, đến lúc tiến lùi hương nhân đều tự chuyển dời, tự nhiên rỗng không, khiến người mới vào Liêu không sao toan liệu, chưa khỏi đủ số, đến khố ty yêu cầu vật cần chẳng được, nhân đó trên dưới lời tiếng chẳng an. Giả sử nếu ứng phó trọng phí của thường trú, khố ty phải đặt tổng ba, ghi chép đầy đủ mọi vật trong các liêu. Trụ trì Tri sự kiểm định bèn phân đặt quyển sổ nhỏ giao cho các liêu, hai bên đối chiếu tương đồng. Tân cựu cùng nhau giao cắt, hư tổn thì công giới tu bổ, thiếu mất thì tự liêu đó đền bù. Sắp tiến lùi, trước vài ngày, phó tự sai hành giả ban sở đến các liêu, dự trước điểm đối rõ ràng, trách nhiệm tại nhân bộc trong liêu, không được làm mất, trái phạm thì phải bồi thường. Hoặc có Tăng thêm số mục tùy thì niêm phong đồng phụ ba, ngõ hầu có thể khảo xét. <詞>PHƯƠNG TRƯỢNG ĐẶC BIỆT LÀM TÂN CỰU LƯỠNG TỰ THANG Thị giả thỉnh khách khiến hành giả khách đầu chuẩn bị mâm khăn lò đèn, đến nơi Tân cựu Tiền đường Thủ tọa, đốt hương xúc lạy một lạy, thưa rằng: “Hòa-thượng Đường đầu thỉnh tham tiền đến Tẩm đường đặc biệt dâng nước nóng”, kế là ở trước tân cựu Đô tự, đốt hương không lạy, từ ngữ đồng như trước, kế tiếp là tân cựu Lưỡng tự khiến khách đầu thỉnh, và thỉnh cần cựu quang bạn đóng treo ở Tẩm đường, thiết bày vị trí ngồi quang bạn phân tay, Tân đầu thủ một ra, Tân tri sự hai ra, Cựu đầu thủ ba ra, Cựu tri sự bốn ra. Ngoài ra, cần cựu dự quang bạn là sắp xếp chủ bạn hai bên. Tây tự bên trái, Đông tự bên phải, Thị giả đốt hương, dự bày chiếu bài. Đến giờ đánh trống, khách nhóm đồng với Thị giả thỉnh khách hành lễ (đồng như lễ tiểu tọa nước nóng), đến chiều nước nóng quả. Sáng sớm hôm sau dùng cháo xong, thỉnh người tân cựu dùng trà, khố ty cũng thỉnh trà, nhưng chẳng kịp đến. Đến phương trượng dùng trà xong, liền đến đặc tạ, giữa trai, khố ty điểm tâm, vẫn đề điều tiễn đưa người cựu, cháo cơm ba ngày. <詞>ĐƯỜNG TY ĐẶC BIỆT LÀM TÂN CỰU THỊ GIẢ TRÀ THANG Cơm rau xong, Duy-na khiến hành giả đường ty thỉnh Thị giả tân cựu, và Thị giả Thánh Tăng cùng tham tiền đến Liêu dâng nước nóng, Đường ty thiết vị trí, bày chiếu bài, thỉnh Liêu nguyên, quang bạn đánh bảng trước liêu, tiếp vào mời ngồi (lễ đồng như khố ty), ngay tại phương trượng trước đặt biệt làm nước nóng, ngõ hầu chẳng phòng ngại hành lễ, đợi phương trượng riêng làm Tân thủ tọa trà xong, thì Đường ty cũng thỉnh Thị giả tân cựu riêng làm trà, ngày hôm sau phải chuyên cảm tạ. <詞>KHỐ TY RIÊNG LÀM TÂN CỰU LƯỠNG TỰ THANG DƯỢC THẠCH Cơm rau xong, khiến hành giả khách đầu chuẩn bị mâm khăn, lò đèn, Thượng thủ Tri sự đến chỗ Tân cựu thủ tọa và Cựu đô tự, đốt hương, văn từ là (chiều nay Phương trượng dùng nước nóng xong, đến khố ty làm nước nóng, cúi mong giáng trọng). Khách đầu theo sau thỉnh rằng: “Nước nóng xong, đến tòa dùng bữa chiều”, và thỉnh Tân cựu, chức sự lớn nhỏ, vẫn thỉnh Tây đường cần cựu, quang bạn thiết vị trí bày chiếu bài, vị trí phân bốn ra. Tân đầu thủ một ra, Cựu đầu thủ hai ra, Cựu tri sự ba ra, Trang khố bốn ra, Tân tri sự cũng y ban bày vị trí, riêng Duy-na đến tòa, quang bạn cần cựu như phương trượng bày vị trí, đợi phương trượng dùng nước nóng xong, khố ty đánh bảng, đều y theo bài lập định, Đô tự tuần tòa mời ngồi xong, đốt hương vái hương, y ngồi vị trí ra đầu đi tuần chào hỏi, trở về giữa, đốt hương quang bạn trở về vị trí ngồi dâng nước nóng, nước nóng xong đứng dậy ra, đến trước, là tạ nước nóng xong, vén y đến tòa dùng bữa chiều. <詞>ĐƯỜNG TY TIỄN ĐƯA CỰU THỦ TỌA ĐÔ TỰ BÁT VỊ Duy-na ở sau ba ngày Lưỡng tự tiến lùi, lúc chưa khai tónh, phân giao cho hành giả Đường ty, dẫn người gánh đèn, thỉnh cựu thủ tọa đô tự đến Đường ty dâng nước nóng, Duy-na tiếp vào, đốt hương uống nước nóng xong, bạch rằng: “Thanh chức đã mãn, sơn môn lễ hợp, mời đưa bát vị”, dẫn đến Tăng đường, theo cửa sau vào. Trước tiễn đưa thủ tọa, kế tiễn Đô tự về mỗi đầu bản, mỗi xúc lạy một lạy, ngay ngày đó treo bát ở đường. <詞>PHƯƠNG TRƯỢNG QUẢN ĐÃI TÂN CỰU LƯỠNG TỰ Trụ trì riêng làm thượng đường mỗi mỗi nêu danh, tuần tự tạ xong, người tân cựu đến dưới tòa lạy tạ. Thị giả thỉnh khách khiến hành giả khách đầu chuẩn bị mâm khăn, lò đèn, hộp hương đến trước Tân cựu thủ tọa, đốt hương bày thỉnh rằng: “Hòa-thượng phương trượng giờ ngọ thỉnh đến Tẩm đường quản đãi”. Khách đầu thỉnh người thứ Tân cựu và cần cựu, quang bạn ở Tẩm đường thiết vị trí bày chiếu bài, khách nhóm, báo Trụ trì ra tiếp, mỗi tòa y chiếu bài lập định, Thị giả đốt hương cùng Thị giả thỉnh khách đi tuần mời ngồi xong, đốt hương đưa đến ghế. Thị giả một ban xếp trước Trụ trì chào hỏi vào vị trí, hành nước nóng hạ vật thực xong, đến lúc hành phạn đốt hương, Thị giả lìa vị trí đốt hương, hạ phẩm vật cơm xong lùi ghế, đánh trống lễ giảng trà (cùng đồng lễ đặt làm nước nóng). Đánh ba tiếng trống lui tòa, người tân cựu cả hai ba lạy bái tạ. <詞>PHƯƠNG TRƯỢNG RIÊNG LÀM TÂN THỦ TỌA TRÀ Quản đãi xong, sáng hôm sau Thị giả đốt hương đến Trụ trì, khiến hành giả khách đầu chuẩn bị mâm khăn, lò đèn, hộp hương, Thị giả thỉnh khách viết bảng trà. (Biểu thức xem ở trước) danh đức thủ tọa đồng đến liêu Thủ tọa, đốt hương xúc lạy một lạy, thưa rằng: “Hòa-thượng Đường đầu thọ trai xong, đến Vân đường riêng làm điểm trà, cúi mong giáng trọng). Khách đầu báo với chúng, treo bảng điểm trà, vẫn thỉnh tri sự đại chúng, quang bạn bày chiếu bài, Thị giả hành lễ (đồng như lễ bốn tiết riêng làm, nhưng bốn đầu bản chẳng đặt ghế, không tuần đường thỉnh trà). Lễ xong, trước thâu chén Thủ tọa, Trụ trì, Thủ tọa thẳng đến trước Trụ trì hành lễ, mới đầu bày thưa: “Ngày nay riêng nhờ tiễn điểm lễ ý quá cần, Hạ tình chẳng ngăn nổi thẹn sợ”. Kế là nêu bày lạnh ấm xong, xúc lạy ba lạy, thủ tọa theo sau Thánh Tăng từ phía phải ra trước Đường, Trụ trì cùng tiễn lại vị trí cầm chén, Thị giả đốt hương quang bạn xong thâu chén, ba tiếng đánh trống, lui tòa. Thủ tọa vẫn ở gian dưới pháp đường đợi Trụ trì tạ trà. <詞>TRÀ TÂN THỦ TỌA RIÊNG LÀM HẬU ĐƯỜNG ĐẠI CHÚNG (Không hậu Đường thì dùng thứ Đầu thủ) Phương trượng riêng làm trà xong, ngày hôm sau, Tân thủ tọa ôm hương đến chỗ Phương trượng, lạy thỉnh rằng: “Trai xong, riêng làm hậu Đường thủ tọa đại chúng, đến Vân đường châm trà, cúi mong từ bi giáng trọng”. Đầy đủ trạng văn (biểu thức xem ở sau), chuẩn bị mâm khăn, lò đèn, đến liêu hậu Đường thủ tọa, đốt hương lạy thỉnh rằng: “Nay, giờ thọ trai xong, đến Vân đường châm trà riêng làm, cúi mong giáng trọng”. Trình nạp trạng văn xong, người nhận làm khiến trà đầu của bản liêu thay nhau giao Cung đầu dán ở gian dưới trước Tăng đường. Phong bao niệm trạng trước, kế khiến Hành giả Đường ty báo chúng, treo bảng điểm trà, đánh bảng lớn, bên trong Tăng đường đi tuần thỉnh trà. (Đánh trống nhóm chúng hành lễ đều đồng như lễ thường riêng làm). Trạng văn: (Tiền đường thủ tọa Tỳ-kheo mỗ, như trên mỗ, nay giờ thọ trai xong, đến Vân Đường châm trà, một tiếng chuông riêng làm, hậu Đường thủ tọa đại chúng, vẫn thỉnh các Tri sự đồng xót thương quang giáng. Nay, ngày tháng , đầy đủ vị mỗ trạng văn). Biểu thức: (Khả lậu tử, trạng văn thỉnh hậu Đường thủ tọa đại chúng, đầy đủ vị mỗ, kính thư). <詞>TRỤ TRÌ THĂM VIẾNG ĐẦU THỦ CHÂM TRÀ Trà nước nóng lễ xong, Trụ trì thọ trai xong đến các Liêu Đầu thủ châm trà thong dong ôn tồn, xem xét thiếu xót, tùy khiến khố ty làm xong. <詞>LƯỠNG TỰ GIAO THAY THẾ TRÀ Xét đợi phương trượng riêng làm Tân thủ tọa trà xong, lần lượt tân chức sự đầy đủ oai nghi, ôm hương đích thân đến chỗ các người nhận thay thế, cắm hương đối xúc lạy một lạy, thỉnh rằng: “Trai xong, xin lạy thỉnh tôn trọng đến liêu dâng trà”, tùy khiến trà đầu thỉnh Lưỡng tự đều một vị, Đông tự Tây tự cần cựu đều một vị, quang bạn. (Tây tự thỉnh trà, thì Tây tự phân tay ngồi, ở trong đồng xếp Đầu thủ, thỉnh dưới vai một vị Quang bạn, như người trên vai đến vị trí ngồi ngăn ngại nhau. Đông tự thỉnh trà, thì Đầu thủ phân tay ngồi, như vị trí Duy-na ở Đông tự, lúc thỉnh trà dưới vai phó tự một người đến). Trong liêu hướng vào trong lập vị trí riêng làm, chủ tịch phân tay vị trí, hai bên vị trí người quang bạn. Trai xong, đánh bảng trước liêu, tiếp người nhận riêng làm, kế người quang bạn vào vị trí mời ngồi, đốt hương vái hương, đốt hương Quang bạn, vào tòa hạ trà, trà xong, người nhận thay thế đứng dậy làm đầu thỉnh hương căm trong lò, xúc lạy bái tạ mà lui. Ngày hôm sau, khiến hành giả Đường ty thỉnh giao thay thế điểm tâm, danh thắng một người, Quang bạn tiền Đường thủ tọa, thì thỉnh Tây đường cần cựu đều một người Quang bạn. Nếu một ban khố ty, thỉnh Tây đường cần cựu Đầu thủ Quang bạn, khố ty đóng treo, hướng bên trong thiết vị trí riêng làm, hai bên bày vị trí Quang bạn. Thủ đầu cùng chủ tịch phân tay, đồng tự tùy vị trí ban. Kế ngày sau nữa, điểm tâm vị trí ngồi đồng như trước. Tây tự dừng ở Tri khách, Đông tự dừng ở Duy-na, phàm Thị giả giao thay thế trà cùng điểm tâm, phải thỉnh Duy-na Quang bạn (lập vị trí hành lễ đều đồng). Gần đây, điểm tâm nhân mà thỉnh khách, thỉnh hương khúc là chẳng phải lễ. <詞>VÀO LIÊU RA LIÊU TRÀ Vào Mông đường thì bạch Liêu chủ, treo bảng điểm trà, bên trái bản, dán mảnh giấy nhỏ ghi: “Mỗ lạy thỉnh tôn chúng cả liêu trai xong đến liêu trên”. Trai xong, chuẩn bị hương đèn khắp đồng chào hỏi, vái mời Liêu chủ ở chủ vị, người châm trà ở khách vị, lược ngồi, đứng dậy đốt hương chào hỏi, lại ngồi, châm trà, thâu chén, Liêu chủ đứng dậy trước lò từ tạ nhau, từ Mông đường ra sung làm Đầu thủ là điểm giao thay trà xong, ngày khác khiến trà đầu báo Liêu chủ treo bảng châm trà, trai xong, đánh bảng nhỏ trong liêu, người châm trà đứng bên phải ngoài cửa tiếp mời chúng vào, đến trước lò chào hỏi, Liêu chủ ở chủ vị, người châm trà phân tay vị trí. Lược ngồi, đứng dậy đốt hương chào hỏi, lại ngồi dâng trà xong, Liêu chủ cùng chúng đứng dậy đến trước lò từ tạ, tiễn người châm trà. Tự chúng liêu ra sung làm Đầu thủ là, khiến trà đầu dự báo Liêu chủ treo bảng châm trà, trai xong đánh bảng, trước đến đứng bên phải ngoài cửa chúng liêu, mời chúng vào vị trí lập định, chào hỏi mời ngồi. Đến gian giữa và gian trên dưới đốt hương, trở lại gian giữa và gian trên dưới chào hỏi, vẫn ở giữa chào hỏi, Liêu nguyên tiếp người châm trà, đối diện vị trí ngồi, hành trà xong, Liêu nguyên ra trước lò tạ lễ, tiễn đưa ra. Người vào Liêu chúng châm trà (lễ đồng như ra trà Liêu), nhưng Liêu nguyên Liêu trưởng phân vị trí khách chủ, Tự chẳng thể vào vị trí ngồi. <詞>ĐẦU THỦ ĐẾN TĂNG ĐƯỜNG CHÂM TRÀ Xem xét châm trà ra liêu xong, đầy đủ bản trà (nghi thức xem ở sau), khiến Trà đầu dán ở gian dưới trước Tăng đường, đầy đủ oai nghiu đến Phương trượng thỉnh trà. Các liêu treo bảng châm trà báo thỉnh, dự khiến Cung đầu nấu nước nóng rót ra chén, khố ty chuẩn bị trà đèn. Trai xong đến chỗ ngồi châm trà, Đầu thủ vào Đường đốt hương hành trà (đồng như lễ mồng một, rằm). Bảng: (Liêu phòng mỗ thấp hẹp chẳng dám ngồi chơi, nay giờ thọ trai xong đến Vân đường châm trà một. Cúi mong chúng từ bi đồng hứa giáng trọng. Nay, ngày tháng , đầy đủ vị mỗ lạy thỉnh). Nghi thức: (Thiền sư làm việc trong chùa, Thiền sư danh thắng trong giang hồ, Thiền sư Hương khúc đạo cựu, Thiền sư Tôn chúng hợp đường). <詞>LƯỠNG TỰ RA BAN DÂNG HƯƠNG Ra ban dâng hương, hành hương, đánh nạo bạt, Duy-na ra trước lò hướng bên ngoài đứng một mình, vái Trụ trì dâng hương (Thị giả bưng hộp), kế mời Lưỡng tự, cùng chầu mà ra, chuyển thân chào hỏi Trụ trì (gọi là tá hương), sau đó dâng hương. (Nếu Thánh tiết, Phật tổ tự Pháp sư kî, không tá hương chào hỏi, có lập ban Tây đường, trước phải dâng hương. Hoặc cho rằng thủ tọa đã ra đời trước phải dâng hương, là không đúng, vì phải cùng Đô tự đồng ra ban). Chương Lưỡng Tự hết. **** CHƯƠNG THỨ BẢY: ĐẠI CHÚNG Nước của Quy hư, cây của Đặng lâm, vì Tụ nghóa là Đôn đảo. Nay, phương lớn ở chúng có cả trăm ngàn, trút kho mà nấu, đỏ núi mà thổi, cũng là chỗ tụ. Mà đến của bốn phương như về, nếu đã là chỗ vốn có thì nên làm sao ư? Bởi Phật lấy sự trôi lăng ba cõi vào ra sinh tử của người, chỉ rõ đạo ngộ tánh để vượt đến Diệu giác, thì chúng sinh khác loại đều nhờ điều thiện mà răn đồ chúng, lấy mất mình làm vậy, nên mỗi người đãi học trò như đãi bậc thầy, tuy kề vai nối gót mà đến, chỉ sợ kính phụng đó chẳng kịp, chẳng vì chúng đó mà ít biếng lười. Nếu chẳng vậy thì có lấy thước đất đấu lật mà cùng tố tụng là nhiều, đâu riêng ngu khờ, cam chịu phạt để rộng tôi ở, thôi bữa cơm chiều để cho học trò tôi, ăn ở đây ở tại đây của học trò tôi, thật làm sao ư? Thật làm sao ư! Sắc Tu Bách Trượng Thanh quy quyển bốn hết. <篇> <卷>QUYỂN 5 SA DI ĐẮC ĐỘ Hành giả mới nhận độ điệp, dùng khăn gói đến trình Bổn sư, Lưỡng tự v.v… các xứ, cắm hương lạy ba lạy, chọn ngày thiết cúng cạo tóc (theo luật, chọn nơi lập tòa, là nơi đất trống rưới nước thơm, chu vi bảy thước, bốn góc treo cờ. Thời nay phần nhiều ở tại đại điện phải hướng về Phật, hoặc đối nhau lập tòa, nếu trong pháp đường phải lập tượng, hoa hương đèn đuốc đúng như nghi thức, nay trong Tăng đường vì chúng nhiều tiện giường ngồi). Trước thưa bẩm Duy-na hòa hợp, giới sư và Xà-lê tác Phạm, Xà-lê dẫn thỉnh, chọn ngày đã định, thì cách đêm cạo tóc, ngay giữa đảnh để dành tóc (gọi là Chu-la, tiếng Phạm là Chu- la, Hán dịch là Tiểu kết), lập tòa ghế giới sư, cùng Trụ trì phân tay, trên ghế đặt hương đèn, thủ lư, giới xích, thiết tòa ghế Xà-lê tác phạm bên phải Thánh Tăng, cùng đối giới sư, trên ghế đặt khánh, trước án Thánh Tăng đặt ca-sa, đặt chuyết độ điệp ở trên, tự hành đường đánh nạo bạt dẫn người cạo tóc ra các nơi Thổ địa đường, Tổ đường, điện Phật đốt hương lạy ba lạy, tuần tự đứng trước Tăng đường, đánh chuông nhóm chúng. Đầu thủ Trụ trì cùng vào Đường xong, giới sư hai Xà-lê mới vào Đường, lạy ba lạy, đều trở về vị trí. Đại chúng đều ngồi định. Xà-lê dẫn thỉnh đến trước giới sư lạy ba lạy quỳ thẳng chắp tay, giới sư hỏi: “Tăng nhóm chưa?” Đáp: “Tăng đã nhóm”. Hỏi: “Hòa hợp chăng?” Đáp: “Hòa hợp”. Giới sư hỏi: “Nay Tăng hòa hợp để làm gì?” Đáp: “Vì hành giả cạo tóc thọ giới”. Giới sư bảo: “Được”. Dẫn thỉnh thâu tọa cụ, đứng dậy đánh khánh tay, dẫn người cạo tóc vào đường, đến trước Thánh Tăng lạy ba lạy, kế đến trước giới sư lạy ba lạy xong, quỳ thẳng, Xà-lê tác phạm đánh khánh lớn. Tác phạm bạch: “Bậc Thần tiên năm thông, tác giả ở chú thuật, vì kẻ hổ thẹn kia, nhiếp các chẳng hổ thẹn. Như lai lập giới cấm, nửa tháng tụng một lần, vì lợi ích nói giới, cúi đầu lễ Chư Phật”. Thế nào là phạm (tại sao ở kinh này, rốt ráo đến bờ kia, nguyện Phật mở sâu kín, rộng vì chúng sinh nói). Tác phạm xong, lại bạch rằng: Vì người cạo tóc thọ giới mà nói, giới sư đứng dậy, đại chúng đồng đứng, giới sư bưng lư, bạch rằng: Hương Giới, hương Định, hương Tuệ, hương giải thoát, giải thoát tri kiến, đài mây ánh sáng trùm pháp giới, cúng dường vô lượng Phật mười phương, vô lượng pháp mười phương, vô lượng Tăng mười phương, người thấy nghe huân chứng tịch diệt, tất cả chúng sinh cũng như vậy, tức đem công đức giờ này cạo tóc thọ giới mở phát, trên nguyện, Hoàng đế muôn năm, thần thống ngàn thu, thiên hạ thái bình, bánh xe pháp thường xoay, già-lam thổ địa thêm lớn oai quang, hộ pháp hộ người không các việc khó, thí chủ mười phương phước tuệ trang nghiêm, người cả đạo tràng thân tâm an vui, sư trưởng cha mẹ đạo nghiệp vượt cao, cạo tóc Sa-di tu hành không chướng, ba đường tám nạn đều thoát vòng khổ, chín cõi bốn loài đều lên bờ giác, kính mong đại chúng niệm (pháp thân thanh tịnh Phật Tỳ- lô-giá-na v.v… mười hiệu xong). Đại chúng lại ngồi, dẫn thỉnh bưng lư, dạy Sa-di rằng: “Lời thỉnh Sư, đáng lẽ ngươi tự nói, nếu người chẳng thể nói được thì nói nên theo tôi, phàm xưng xứ mỗ, phải xưng tên mình”. Lại xướng niệm rằng: “Đại đức một lòng nghe, con là mỗ, nay thỉnh Đại đức làm A-xà-lê cạo tóc thọ giới, xin Đại đức vì con làm A-xà-lê cạo tóc thọ giới, xin thương xót cho”. Người cạo tóc lễ một lạy. Lại xưng: “Xin thương xót cho”, lạy hai lạy. Lại xưng: “Xin thương xót cho” lạy ba lạy. Lại quỳ thẳng chắp tay, Giới Sư bảo: “Này người thiện nam!” Sa-di đáp “dạ”, Giới Sư bảo: “Nguồn tâm vắng lặng, biển pháp lắng sâu, mê thì trọn kiếp đắm chìm, ngộ thì liền giải thoát, muốn truyền đạo mầu không gì hơn xuất gia, rộng dụ lớn hư không, thanh tịnh đồng trăng sáng, tu hành đủ duyên, đạo quả chẳng xa, mới đầu từ công phu khắc niệm, rốt cùng chứng địa vô vi. Do đó, đấng Đại Giác Thế Tôn bỏ vị báu kim luân, nửa đêm vượt thành, cởi áo rồng quý báu, núi xanh cắt tóc, để chim làm ổ trên đầu, nhện giăng màn trước mắt, tu tịch diệt mà chứng chân thường, dứt trần lao mà thành Chánh giác. Chư Phật ba đời chẳng nói tại gia thành đạo, Tổ sư nhiều đời ai là người hành nhiễm mà độ người? Do đó, Phật Phật trao tay, tổ tổ truyền nhau, chẳng nhiễm duyên đời mới thành pháp khí, nên được Thiên ma khoanh tay, ngoại đạo quy tâm. Trên đáp ân bốn trọng, dưới cứu khổ của chúng sinh. Vì vậy nói: Trôi lăn trong ba cõi, ân ái chẳng thể bỏ, xả ân vào vô vi, đó thật là báo ân. Sau khi xuất gia lễ vượt thường tình, chẳng lạy quân vương chẳng lạy cha mẹ. Nay ngươi hãy lìa tòa này, tưởng niệm ân trên nước của Quốc vương, đức cha mẹ sinh thành. Chuyên tinh lạy từ, sau chẳng bái nữa. Sa-di bước đến lạy một lạy. Dẫn thỉnh đánh khánh tay dẫn ra phía ngoài thiền đường, trông về hướng Bắc lạy tạ ba lạy, lại ba lạy tạ ân cha mẹ, tức thay Tăng y (y phục người xuất gia), dẫn vào trước Thánh Tăng lạy ba lạy, đến trước giới sư lạy một lạy, quỳ thẳng chắp tay. Giới sư dùng tịnh bình rưới đảnh, dùng tay rưới nước trên đảnh, dùng dao cạo tóc, dẫn nêu kệ, đại chúng đồng tụng (Lành thay! Đại trượng phu, hiểu đời là vô thường, xuất gia hướng Niết-bàn, ít có, khó nghó bàn). Tụng ba biến xong, Sa-di lui lạy một lạy, dẫn thỉnh đưa Sa-di đến trước bổn sư, quỳ thẳng chắp tay, Bổn sư cầm dao, bảo: “Một kết cuối cùng, gọi là Chu-la, chỉ có thầy mới dứt được, nay ta vì ngươi trừ bỏ, nay ngươi có bằng lòng?” Đáp: Xin vâng! Có bảo ban pháp ngữ, vẫn nêu kệ cạo tóc rằng: “Phá dáng, giữ chí tiết Dứt ái, trừ chỗ thân Xuất gia nở Thánh đạo Thề độ tất cả người”. Xướng ba lần, đại chúng đồng thanh hòa, Sa-di kính lạy ba lạy, vẫn quỳ thẳng chắp tay. Bổn sư bưng ca sa, cũng có bảo ban pháp ngữ, trao ca sa dặt trên đầu Sa-di, lại xướng kệ tụng rằng: “Lớn thay áo giải thoát Y ruộng phước vô tướng Đắp giữ giới Như lai Rộng độ các chúng sinh”. Xướng ba lần, chúng Cũng đồng thanh hòa xong. Sa-di đắp ca-sa Lạy bổn sư ba lạy Lạy Thánh Tăng ba lạy Lạy giới sư ba lạy Quỳ thẳng chắp tay. Giới sư bảo: “Này người thiện nam! Pháp như biển lớn càng tiến ra càng sâu, ngươi đã xuất gia, phải trước thọ ba quy y, năm giới cấm, mới được gần thờ đại Tăng, tiếp thọ Sa-di mười giới, mới được đồng tăng lợi dưỡng, việc ở chuyên chân thật, chẳng được khinh dễ. Nay ta vì ngươi mà triệu thỉnh Tam bảo chứng minh Phật sự”. Bèn bưng lư, bạch: “Nhất tâm kính thỉnh vô biên Phật bảo, hải tạng kinh văn, mười địa ba hiền, năm quả bốn hướng, đồng nhủ lòng xót thương, đồng làm minh chứng”. Ba lần thỉnh xong, lại bảo: “Này người thiện nam! Muốn cầu quy giới, trước phải sám trừ tội lỗi, như người giặt áo sau đó mới thêm sắc, nay ngươi chí thành theo ta sám hối”. Xướng rằng: “Xưa con vốn gây bao vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, từ thân miệng ý phát sinh ra, tất cả nay con xin sám hối”, ba lần nêu, chúng ba lần hòa. Sa- di lạy ba lạy, quỳ thẳng chắp tay, Giới sư bảo: “Này người thiện nam! Pháp đã trị sạch nghiệp thân, miệng, ý, nay phải quy y Phật, Pháp, Tăng Bảo”. Bèn xướng kệ rằng: “Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y Phật là đấng Vô thượng, quy y Pháp là pháp lìa dục, quy y Tăng là người cao quý trong chúng. Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi. Như lai là bậc Chí chân Đẳng chánh giác, là thầy lớn của ta, nay ta quy y, từ nay trở đi, gọi Phật là thầy, chẳng còn quy y tà ma ngoại đạo, xin thương xót cho”. Sa-di theo tiếng niệm, chúng đều hòa (tự quy y Phật, cho đến xin thương xót cho, tụng chung ba biến, cho đến xin thương xót cho, kế tiếp lại lặp lại, và lần thứ ba cũng lặp lại). Mỗi lần tụng một biến, Sa-di lạy theo một lạy, hai biến hai lạy, ba biến ba lạy, lại quỳ thẳng chắp tay. Giới sư bảo: “Này người thiện nam! Ngươi đã bỏ tà về chánh, giới đã tròn đầy, nếu muốn biết tướng để hộ trì, thì nên thọ năm giới: Suốt đời: chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, chẳng dâm dục, chẳng nói dối, chẳng uống rượu, là tướng năm giới, ngươi có giữ được chăng?” Đáp: “Dạ Được”. “Trên đây, năm chi tịnh giới, đều chẳng được Phạm, ngươi có giữ được chăng?” Đáp: “Dạ Được”. “Việc ấy cứ thế mà giữ gìn”. Sa-di lạy ba lạy, quỳ thẳng chắp tay, Giới Sư bảo: “Này người thiện nam! Năm giới là nhân đầu của tiên để đạo, cội gốc để ra khỏi ba đường, kế là thọ mười giới Sa-di, hình đủ pháp nghi, đây gọi là cần sách, nương thầy mà ở, hưởng lợi đồng Tăng, đó là Sa-di ứng pháp, nên phải kính thọ! Chẳng giết hại, chẳng trộm cướp, chẳng dâm dục, chẳng nói dối, chẳng uống rượu, chẳng ngồi nằm giường cao rộng lớn, chẳng đeo tràng hoa chuỗi anh lạc dầu thơm xoa mình, chẳng làm trò ca múa và cố đi xem nghe, chẳng cầm giữ vàng bạc, tiền, vật báu, chẳng ăn phi thời, là tướng giới Sa-di, người có giữ được chăng?” Đáp: “Dạ Được”. “Trên đây mười chi tịnh giới, đều chẳng được phạm, ngươi giữ được chăng?” Đáp: “Dạ Được”. “Việc ấy cứ thế mà giữ gìn”. Sa-di lạy ba lạy, quỳ thẳng chắp tay. “Này người thiện nam! Nay ngươi sau khi thọ giới phải nên kính trọng vâng giữ, chẳng được trái phạm giới luật nguyện giữ, cúng dường Tam bảo, siêng năng gieo ruộng phước, đối với Hòa-thượng, A-xà-lê đều phải đúng như pháp với các bậc thượng, trung, hạ tọa, tâm thường cung kính, tinh tấn hành đạo, báo ân cha mẹ, áo mặc che thân, chẳng dùng văn vẻ, ăn nuôi thân mạng, chẳng được đắm vị, hoa hương phấn sáp không để gần mình, sắp đẹp tiếng tà, không gần xem nghe, nói năng chân chánh, chớ nêu lỗi người, nếu có người tranh cãi thì khéo dùng lời hòa hợp. Nam nữ riêng biệt, cây cỏ không tổn thương, chẳng phải hiền không kết bạn, chẳng phải Thánh không kính thờ, pháp phục ứng khí thường mang theo bên mình, phi thời chẳng ăn, phi pháp chẳng nói, siêng năng suy nghó chánh nghóa, ôn cũ biết mới, ngồi thì Thiền tư, dậy thì tụng niệm, đóng ba đường ác, mở cửa Niết-bàn, đối với pháp Tỳ-kheo, Tăng trưởng chánh nghiệp, tâm Bồ-đề chẳng thối, trí Bát-nhã luôn tỏa sáng, rộng độ chúng sinh, cầu thành Chánh giác. Dụng tâm như vậy, mới thật là đệ tử Phật” Sa-di đảnh lạy ba lạy, quỳ thẳng chắp tay, giới sư đứng dậy bưng lư, Hồi hướng rằng: “Trước nay, công đức cạo tóc thọ giới, kính chúc trời rồng hộ pháp, chân tể già-lam, đều bày oai linh an Tăng hộ pháp. Hòa-thượng đường đầu thường làm bến bờ của biển khổ, cao nhân chấp sự, mãi làm trụ đá của pháp môn, chúng thanh tịnh cả pháp đường đồng ngồi thuyền Bát-nhã, Sa-di cạo tóc cùng đến bờ Bồ-đề, bốn ân đều đáp, ba cõi đều giúp, pháp giới hữu tình đồng viên chủng trí. Tất cả chư Phật mười phương ba đời, chư tôn Bồ-tát Ma-ha- tát, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật”. Giới sư trở lại ngồi. A-xà-lê tác phạm đánh khánh, xướng: “Ở thế giới như hư không, như Hoa sen chẳng dính nước, tâm thanh tịnh vượt hơn kia, cúi đầu lễ Đấng Vô thượng. Phật, đắc Bồ-đề, tâm đạo thường chẳng lui sụt. Quy y Pháp, Tát-bà-nhã, đắc môn Đại tổng trì. Tăng, dứt tranh luận, đồng vào biển hòa hợp. Từ trên đến đây, công đức cạo tóc thọ giới, nhân lành cao quý vô hạn lượng, rải khắp pháp giới, kính lễ Thánh chúng”. Xà-lê dẫn thỉnh đợi lúc Xà-lê tác phạm xướng: Ở thế giới như hư không, liền đánh khánh tay, dẫn Sa-di đảnh lễ giới sư ba lạy, xoay chân đảnh lễ Thánh Tăng ba lạy xong thì thăm hỏi, ra khỏi đường, xuống đứng cách tay trước giới sư và hai Xà-lê Thánh Tăng, lạy ba lạy mà lui ra. Hành giả Đường ty đánh chuông ở tiền đường ba tiếng, Trụ trì ra khỏi Đường, đại chúng xuống giường, Thủ tọa lãnh chúng theo đến phương trượng đảnh lễ chúc mừng. Nếu chúng đông thì Trụ trì sẽ đến trên pháp đường nhận chúc mừng, hành giả khách đầu vẫn dự xếp bày hương đèn lò bình, bình phong giá móc ghế nhỏ, chờ đợi giới sư hai Xà-lê trước hành lễ, lúc đầu, thưa rằng (được sai trao giới, gắng gỏi kính vâng, nhân sự sơ sài, có lạm tôn trọng, Hạ tình chẳng ngăn nổi kinh sợ). Trụ trì đáp (Sa-di cạo tóc, có thần dụng mệt nhọc), kế là bày tuần tự lạnh ấm xong, xúc lạy ba lạy, Trụ trì đáp một lạy. Kế tiếp Thủ tọa đại chúng tiến tới trước cắm hương, hoặc bày, hoặc xúc lễ, hoặc miễn. Kế là, Thị giả tiểu sư cắm hương, kính lạy ba lạy, chẳng thâu tọa cụ, tiến tới, thưa rằng: “Sa-di được độ, cả chúng đồng mừng, ngưỡng phong tôn nghiêm, Hạ tình chẳng ngan nổi mừng vui”. Lại, lạy ba lạy, tiến tới hỏi thăm sức khỏe, lùi ba lạy, thâu tọa cụ. Kế là Sa-di cắm hương, kính lạy ba lạy, chẳng thâu tọa cụ, tiến tới thưa: “Chúng con được tướng đầu tròn, may đắp áo ruộng, chẳng nhận bụi dơ, trọn lìa hẳn lưới ái, Hạ tình chẳng ngăn nổi mừng vui.” Lại, lạy ba lạy, tiến tới thưa: “Ngay hôm nay, kính cẩn lúc cùng chỉ, Đại Hòa-thượng bổn sư Đường đầu, tôn hầu đi ở nhiều phước”, lui lạy ba lạy thâu tọa cụ. Trụ trì tuần liêu báo lễ, các Sa-di đều đến liêu lễ tạ, chỉ đến liêu Sa-di nghỉ ngơi, đợi lúc khác đăng đàn thọ giới. Văn từ tạ giới là: Chúng con được lên giới phẩm, lạm vào Tăng luân, xin được chở che, riêng bái tạ đây”. Đáp rằng: “Xưa vâng Phật ký, tăng giới viên thành, kiên nhẫn thọ trì, lực hộ Tông giáo”. <詞>TÂN GIỚI THAM ĐƯỜNG Được độ thọ giới Sa-di rồi, báo lại Trụ trì vào ngày nào tham đường, kế thưa Thủ tọa Duy-na. Đến kỳ, sau tiếng chùy dùng cháo sáng xong rồi, Tân giới tham đầu lãnh chúng vào Đường, đối trước Thánh Tăng chào hỏi, cắm hương, kính lạy ba lạy, chẳng thâu tọa cụ, tiến tới thưa: “Chúng con được dự tăng luân, nương chúng thanh tịnh, ngày nay tham đường, Hạ tình chẳng ngăn nổi đổ mồ hôi”. Lại lạy ba lạy, tiến tới thưa: “Ngay hôm nay, cung kính lúc cùng chỉ, Đại Hòa-thượng bổn sư Đường đầu, Đại thiền sư Thủ tọa tôn chúng, tôn hầu đi ở nhiều phước”, lùi lạy ba lạy thâu tọa cụ, chuyển thân đối trước Trụ trì xếp bày chào hỏi. Theo Thủ tọa bản, đứng dậy tuần Đường, đến bên ngoài đường, trở lại gian giữa bên trong đường, chào hỏi mà ra, sau đó trở về đường, an đơn theo chúng thiền tụng. <詞>ĐĂNG ĐÀN THỌ GIỚI Chư Phật ba đời đều nói xuất gia thành đạo, Tổ sư nhiều đời truyền tâm ấn Phật đều là Sa-môn, bởi do nghiêm tịnh giới luật mới mở rộng được khuôn phép ba cõi. Nhưng tham thiền hỏi đạo, giới luật làm đầu, nếu chẳng lìa lỗi ngừa quấy, lấy gì thành Phật làm Tổ, pháp thọ giới, phải đầy đủ ba y bình bát tọa cụ, đều là y vật mới sạch, nếu không mới thì phải tẩy giặt sạch sẽ, vào đàn thọ giới, nhất tâm chuyên chú, thận trọng chớ duyên gì khác, ngoài hình nghi tượng Phật, đủ giới luật Phật, được Phật nhận dùng, đây chẳng phải việc nhỏ, đâu thể khinh tâm. Nếu nhờ mượn y bát, dù đăng đàn thọ giới cũng đều chẳng đắc giới. Nếu chưa từng thọ, một đời làm người vô giới, lạm ở cửa không, rỗng tiêu tín thí. Đã thọ giới Thanh văn, nên thọ giới Bồ-tát, đây là dần dần vào pháp. <詞>HỘ GIỚI Sau khi thọ giới thường phải giữ gìn, thà có pháp mà chết, chớ nên không pháp mà sống. Như luật Tứ Phần của Tiểu thừa chép: Bốn Ba- la-di, mười ba Tăng-già-bà-thi-sa, hai bất định, ba mươi Ni-tát-kỳ, chín mươi Ba-dật-đề, bốn Ba-la-đề Đề-xá-ni, một trăm pháp chúng học, bảy pháp diệt tránh. Kinh Phạm Võng của Đại thừa nói mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, đều phải đọc tụng thông thuộc, khéo biết trì phạm khai già, chỉ nương lời bậc Thánh nói ra từ miệng này, chớ duyên theo hạng tầm thường. Như chẳng nên ăn (đó là rượu, tân (cay nồng) tinh (huyết tanh), hành hẹ tỏi ném gọi là Tân, mùi vị máu thịt gọi là Tinh, đều chẳng nên ăn), chẳng ăn phi thời (như chẳng phải hai bữa cháo cơm đều là ăn phi thời), đều nên vâng cấm, họa tài sắc, hơn cả rắn độc, rất nên phải xa lìa, thương nghó chúng sinh giống như con đỏ, nói năng chân thật, tâm miệng tương ưng, đọc tụng Đại thừa, giúp phát hạnh nguyện, giới luật thanh tịnh, Phật pháp hiện tiền, da chẳng còn, thì lông sao an được, nên trong kinh nói: Tinh tấn trì tịnh giới, giống như giữ ngọc sáng”. <詞>NÓI VỀ ĐẠO CỤ. Sắp vào tòng lâm, trước phải sắm sửa đạo cu, kinh Trung A-hàm chép: “Vật chứa để có thể giúp thân, tức là dụng cụ Tăng trưởng thiện pháp”. Kinh Bồ-tát giới chép: “Giúp sinh thuận đạo, đó là Cụ”. Ba y: Bởi pháp y có ba: Một là Tăng-già-lê (tức đại y); Hai là Uất-đa-la-Tăng (tức y bảy điều); Ba là An-đà-hội (tức y năm điều. Đó là ba y, nếu gọi y bảy điều, thiên sam và quần là y thì chẳng đúng). Lại, ba phẩm đại y (Thượng phẩm gồm hai mươi lăm điều, hai mươi ba điều hai mươi mốt điều, Trung phẩm mười chín điều, mười bảy điều, mười lăm điều, Hạ phẩm gồm mười ba điều, mười một điều và chín điều). Về Duyên khởi điền y (áo ruộng), luật Tăng-kỳ chép: “Phật trú ở trước hang đá Đế-thích, trông thấy ruộng lúa bờ thửa rõ ràng, bảo A-nan rằng: Tướng y của Chư Phật ở quá khứ như vậy, từ nay y theo đây làm tướng y”. Tăng Huy Ký chép: “Bờ ruộng chứa nước sinh trưởng, mầm mạ tốt tươi để nuôi dưỡng hình mạng. Ruộng của pháp y, thấm nước của bốn lợi, thêm lớn mầm mạ ba thiện, để nuôi dưỡng pháp thân tuệ mạng. Tọa cụ: Tiếng Phạm là Ni-sư-đàn, Hán dịch là Tùy tọa y, Căn Bản Tỳ-nại-da chép: “Ni-sư-đản-na, đời Đường dịch là Tọa cụ”. Luật Ngũ Phần nói là “Hộ thân hộ y hỗ giường chăn của Tăng. Về chứa tọa cụ”. Luật Tăng-kỳ chép: “Luật ứng lượng là dài hai gang tay Phật, rộng một gang rưỡi tay Phật (một gang tay Phật dài hai thước bốn tấc, đây phải dài bốn thước tám tấc, rộng ba thước sáu tấc). Thiên sam: Xưa, Tăng y theo luật chế chỉ có Tăng-kỳ-chi, (dịch là áo che đùi, cũng gọi là áo bịt nách). Đây dài che đùi chân trái và nách phải, bởi cúng thí ba y, tức là nghi của Thiên-trúc. Trúc Đạo Tổ Ngụy Lục nói: “Đời Ngụy, người trong cung thấy chư tăng để bày một khuỷu tay, chẳng lấy làm đẹp, bèn làm Thiên Đản đắp vá trên Tăng- kỳ-chi cùng theo, do đó gọi là Thiên sam (nay mở xương sống tiếp cổ ấy, bởi ngụy chế lưu lại). Quần: Tây Vực ký chép: Nê-phược-ta-la, đời Đường dịch là quần, các luật Cựu dịch hoặc gọi là Niết-bàn Tăng, hoặc gọi là Nê- hoàn Tăng, hoặc dịch là nội y, hoặc gọi là thùy y (thùy đọc âm thuyền, tức đồ vật hình tròn chứa gạo, tợ thùy mà không nắp đậy, lấy thùy nghi nên nói như vậy). Trực chuyết: Tương truyền các bậc tiền bối thấy chư Tăng có Thiên sam mà không quần, hoặc có quần mà không Thiên sam, bên hợp cả hai y làm trực chuyết. Nhưng Phổ hóa đòi gỗ trực chuyết, đại dương truyền cách lý bố chuyết, xưa cũng có. Bát: Tiếng Phạm là Bát-đà-la, Hán dịch là Ứng lượng khí, nay gọi lược là Bát, lại gọi là Bát-vu, tức Hoa Phạm gọi chung. Trong kinh Phật Bản Hạnh Tập chép: Ở Bắc Thiên-trúc có hai vị Thượng thủ: Vị thứ hai tên Đế-lợi-phú-la, một vị tên là Bạt-lợi-ca đem bột gạo sữa đường mật đến cúng dường Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn tư duy xưa Chư Phật đều thọ trì Bát khí. Nay ta phải dùng khí (vật) gì để nhận thức ăn của Thượng chủ? Bấy giờ, bốn vị Thiên vương vội cùng nhau đem bốn bát vàng đến dâng cúng Phật, Đức Phật chẳng nhận, vì người xuất gia chẳng được chứa giữ, bốn Thiên vương kia lại đem bốn bát bạc, bát pha- lê, bát lưu-ly, bát xích châu, bát mã não, bát xà cừ dâng cúng, đúc Phật đều chẳng nhận, bấy giờ ở phương Bắc, vua trời Tỳ-sa-môn bảo ba vị Thiên vương kia rằng: Ta nhớ thuở xưa các trời sắc xanh đem bốn bát đá đến hiến dâng ta, có thể dùng để nhận thức ăn. Khi ấy, riêng có một vị Thiên tử tên là Tỳ-lô-giá-na thưa rằng: Thưa các nhân giả! Hãy cẩn thận chớ dùng bát đá đó nhận thức ăn, chỉ nên cúng dường Như lai, đang có Đức Như lai hiệu là Thích-ca Mâu-ni ra đời, chúng ta nên đem bốn bát đá này dâng cúng Đức Như lai ấy. Khi đó, bốn vị Thiên vương đồng đem bốn bát đá dâng cúng Đức Phật. Đức Phật nghó bốn vị Thiên vương dùng tâm tịnh tín dâng cúng ta bốn bình bát, nếu ta chỉ nhận riêng một người, thì các vị khác có giận, nay ta nhận cả bốn bát, trì làm một bát, lần lượt cùng đặt trên tay trái và dùng tay phải đè xuống hợp thành một bát, bên ngoài có bốn môi, mà nói kệ tụng rằng: “Công đức ta xưa các quả mãn, vì phát tâm thương xót thanh tịnh, cho nên nay bốn Đại thiên vương, thanh tịnh bền chắc cúng bát ta”. Tích trượng: Tiếng Phạm là Khích-khí-la, Hán dịch tích trượng. Kinh Tích Trượng chép: Phật bảo Tỳ-kheo nên thọ trì tích trượng, Phật quá khứ vị lai hiện tại đều sử dụng. Lại gọi là tích trượng, lại gọi là Đức trượng, rõ bày trí hạnh công đức bản. Ca-diếp bạch Phật: Sao gọi là Tích trượng? Phật dạy: Tích là khinh, nương tựa là trượng, trừ phiền não ra ba cõi. Tích là minh, vì được trí minh. Tích là tỉnh, vì tỉnh ngộ khổ không ba cõi kết cứu. Tích sơ, vì người thọ trì đối với năm dục mới đoạn. Hai vế sáu vòng là Phật Ca-diếp chế, bốn vế mười hai vòng là Phật Thích-ca chế. Chủ trượng: Luật Thập Tụng chép: Phật cho chứa giữ trượng, đó dùng sắt làm bền chắc, đây bởi khéo giúp của hành lý. Lại, Tỳ-nại- da chép: Phật cho giữ Chủ trượng, có hai nhân duyên: Một, vì già yếu không có sức khỏe; Hai, vì bệnh khổ thân yếu ớt. Phật tử: Luật chép: Tỳ-kheo bị trùng cơ nên cho làm Phất tử. Luật Tăng-kỳ chép: Phật cho làm Phất bằng cước, phất xếp bông, phất cỏ gai, phất da cây. Nếu dùng đuôi trâu, đuôi ngựa và vàng bạc trang sức cán thì không được cầm. Sổ châu (xâu chuỗi): Kinh Mâu-ni Mạn-đà-la nói: Tiếng Phạm nói Bát-tắc-mạc, đời Lương dịch là Sổ châu, là pháp cụ của người Buộc niệm tu nghiệp. Kinh Mộc Hoạn Tử chép: Xưa kia có vị Quốc vương tên là Ba-lưu-lê, bạch Phật rằng: “Nước con biên giới nhỏ, con thường chẳng an, pháp tạng sâu rộng, chẳng được hành khắp, cúi xin Phật chỉ bày pháp yếu”. Phật dạy: “Nếu muốn dứt trừ phiền não, phải xâu một trăm lẻ tám hạt Mộc Hoạn Tử, thường tự mang theo, dốc lòng xưng niệm Nam mô Phật-đà, Nam mô Đạt-ma, Nam mô Tăng-già, mới qua một hạt, như vậy dần đến qua cả ngàn muôn, đầy đủ hai mươi muốn biến, thân tâm chẳng loạn, xả bỏ thân mạng được sinh về cõi trời Diệm- ma, nếu đủ trăm muôn biến, sẽ dứt một trăm lẻ tám kết nghiệp được quả thường lạc”. Vua thưa: “Con sẽ vâng thực hành”. Tịnh bình: Tiếng Phạm là Quấn-tró-ca, Hán dịch là Bình, thường chứa nước mang theo để rửa tay, Ký Quy Truyện chép: Quân Trì có hai: Nếu gốm sứ thì là Tịnh dụng, nếu đồng sắt thì là xúc dụng. Lự thủy nang (đãy lọc nước): Tăng Huy Ký nói: Là đồ vật tuy nhỏ mà công nó rất lớn, vì bảo hộ sinh mạng, ở Trung Hoa, tăng ít có thọ trì, y theo luật nêu bày, Căn Bản Bách Nhất Yết-ma nói: Thủy la có năm thứ: Một là Phương la (dùng lụa ba thước hoặc hai thước, tùy thời lớn nhỏ, làm lụa phải dầy kín chẳng lọt trùng qua, nếu dùng lụa thưa mỏng Sa trữ bố là không ý hộ sinh); Hai là Pháp bình (bình âm dương); Ba là Quân trì (dùng lụa buộc miệng, dùng dây treo chìm trong nước, đợi đầy kéo ra); Bốn là Chước thủy la; Năm là Y giác la (nói y giác là chẳng phải góc ca sa, chỉ lấy một góc phẩy tay lụa kín, hoặc buộc miệng bình, hoặc đặt trong Bát vu, rưới nước mà dùng). Đại sư Từ Giác và Trách Công gom tập kinh luật có ba mươi mốt bài kệ tụng, văn nhiều ở đây chẳng ghi, cuối cùng cho rằng người đời nói: Lự la khó an chúng nhiều. Niên hiệu Sùng Ninh thứ nhất Tông trách ở viện Hồng Tế bên cạnh giếng trước nhà trù, đặt củi nước lớn, phía trên gần môi củi, riêng đặt củi nhỏ xuyên góc bên cạnh ra, phía dưới đặt Lự la, lúc dốc đổ nước toàn không chảy tràn, cũng đủ năm chúng lớn dùng. Giá sau ở nhà tắm cũng bắt chước đây, Tăng hành Đông ty cũng đều lọc nước, gốc đạo của xuất gia. Sau trụ ở Trường Lô, các giếng lọc nước có hơn hai mươi chỗ. Thường trú nếu chẳng lọc nước thì tội quy người chủ chấp. Đều mong cố gắng thực hành. Giới đao: Tăng Sử Lược nói: Giới đao đều là đạo cụ, tiêu biểu dứt trừ tất cả ác. <詞>TRANG BAO Người xưa đội nón, trong nón đặt các loại văn kinh đạo cụ, áo trùm bó bao trước sau, găm ống giới đao của từ bộ, nay thì đảnh bao pháp của trang bao, dùng vải xanh gói hai dãi, trước dùng một dãi thâu thập thuộc của áo chăn, vẫn dùng đầu đơn lót ở ngoài, lại dùng một dãi trùng bao ở ngoài, bốn góc buộc định dùng xích nhỏ xích lại, vẫn buộc bao móc ở trên, Độ Điệp có đãy treo trước ngực, ca-sa dùng khăn buộc định vào eo bao, treo ở trước. Dưới xiêm giày tất có đãy buộc ở sau. Tay phải cầm chủ trượng, giữa đường mây nước gặp nhau. Kia đây chắp tay vái chào mà qua. Như dạo núi đến nơi sắp vào cửa, hạ bao bưng vào đán quá, nơi an nghỉ cởi bao lấy giày tất, rửa chân, thay áo, đắp ca-sa cùng tri khách chào hỏi. <詞>DU PHƯƠNG THAM THỈNH Thưa bẩm giả từ sư trưởng, kính mến chữ tôn túc có đạo, nương tựa cầu xin đăng ký (theo luật nói: Tỳ-kheo nơi có pháp có cơm thì nên ở, nơi có pháp không cơm cũng nên ở, nơi không pháp có cơm chẳng nên ở). Theo Thanh quy xưa, đầu tiên đến khách ty chào hỏi, kế đến Đường ty đăng ký, đưa đơn vị trí kinh án định, sau đó đến Thị ty thông báo, đến Phương trượng lễ lạy. Thời nay Du phương đăng ký mới đầu đến Đán Quá, tìm ai nơi tòng lâm một người hay khéo việc làm tham đầu, lãnh chúng đến khách ty đầy đủ oai nghi xếp bày bên phải đầu cửa, bạch rằng: “Tạm đến chào hỏi”. Tri khách liền tiếp vào, bày từ rằng: “Ngày nay cung kính chỉ, Thiền sư Tôn trưởng tri khách tôn hầu đi ở nhiều phước, từ lâu khâm kính tiếng tăm này, lại vâng phụng chiêm ngưỡng, Hạ tình ngăn nổi cảm kích”. Đáp rằng: Sơn môn may mắn đặt mang xa đến”, mời ngồi đốt hương uống trà, lược hỏi lai lịch, xong tức đứng dậy tạ trà trở về Đán Quá. Sau đó, tri khách đến hồi lễ, tham đầu tiếp vào, khắp đồng chào hỏi, Tri khách bày tỏ từ rằng: “Dời khắc cung kính chỉ, các vị Thiền sư Tôn trưởng tôn hầu đi ở lắm phước, vừa nương giáng trọng, riêng bái tạ này, hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Đáp rằng: “Lễ phải lạy thăm, đâu cần giáng trọng”. Tham đầu tự tiễn ra cửa, nếu muốn lễ lạy Trụ trì, thì sau phóng tham, đến thị ty chào hỏi, như lễ trước. Đứng dậy bẩm thưa rằng: “Chúng tôi riêng đều lễ lạy Hòa- thượng, xin nhọc Thị giả thông báo”. Thị giả kế mời ngồi lại, hỏi rõ nguyên do. Hoặc hương nhân pháp quyến biện sự rõ ràng. Thị giả thưa: “Tạm trở lại nơi an ở, xin sẽ thông báo”. Bèn lên Phương trượng hỏi báo. Nếu chấp thuận thì sáng sớm hôm sau đánh chuông, Thị giả khiến khách đầu báo đến chào thăm, nếu chưa rảnh, thì Thị giả gánh đèn đến nơi an ở báo lễ, khéo nói an ủi. Lễ chào thăm là dùng cháo xong, Tham đầu lãnh chúng đến tẩm đường, đợi Trụ trì ra, Thị giả mời vào, Tham đầu tiến tới thưa: “Thỉnh Hòa-thượng ngồi kiết già”, chuyển thân tay trái cắm hương, lùi thân đồng chúng, mới đầu bày thưa: “Chúng con lâu đã được nghe đạo phong, ngày nay được chiêm hầu tôn nhan, Hạ tình chẳng ngăn nỗi mừng sợ”. Kế tiếp bày thưa: “Ngay hôm nay kính cẩn lúc chỉ, Đại Hòa-thượng Đường đầu tôn hầu đi ở nhiều phước”, xúc lạy một lạy. Như đệ tử pháp quyến nhập thất thì thưa: “Từ lâu vâng thưa từ âm”, riêng cắm hương hành lễ đến tòa, Thị giả đốt hương uống trà. Trụ trì hỏi họ tên quê hương xứ sở và nhập hạ ở xứ nào, đều phải thật đáp, chẳng được nói nhiều, đứng dậy trước lò tạ rằng: “Lại vâng được giáng tiếp, riêng lạy tạ đây”, Trụ trì tiễn ra, Tham đầu thưa: “Hòa- thượng tôn trọng”, theo đến Thị giả đặt tạ rằng: “Có phiền thần dụng, đac bái tạ này”, trở về ngoài Đán quá xuống tay bày đứng, đợi Trụ trì trở lại, lễ đồng chào hỏi tiếp vào, tỏ từ rằng: “Dời khắc cung kính chỉ, Đại Hòa-thượng Đường đầu, tôn hầu đi ở nhiều phước. Chúng tôi vừa đến phân hợp lễ lạy quá được giáng trọng, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kính). Trụ trì bảo: “An ở chẳng tiện, nay mong vui vẻ lưu lại”. Chúng tiễn ra, Tham đầu chuyển tay trên tiếp Thị giả vào, đồng chúng chào hỏi rằng: “Dời khắc cung kính chỉ, Thiền sư cao thị đạo thể khởi đến nhiều phước. Lễ phải đến Liêu lạy thăm, trái lại nhục giáng trọng, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Thị giả thưa: “Sơn môn lắm may riêng gánh vác từ xa đến, báo tạ bày chậm, Hạ tình lắm thẹn”. Thời nay, du phương phần nhiều chẳng vào Đán quá. Đến nơi liền tìm hương khúc Đầu thủ liêu phòng an ghé vào. Theo lễ xưa tạm đến không cho, Trụ trì gặp danh thắng đến thăm viếng thì đến tiễn đưa khách vị hồi lễ. Thượng tọa thăm viếng, thì đến gian dưới pháp đường, nghinh đợi Trụ trì hồi lễ, miễn phiền giáng trọng. Mà năm núi phương lớn thì chẳng hồi lễ, giữa trai mời điểm tâm. Đang chiếu đặt làm nước nóng, đặp y đến, trụ trì tiếp vào. Trước lò thông lạnh ấm, đến ngồi. Thị giả đốt hương vái tiếp nước nóng, nước nóng xong, đứng dậy đến trước lò tạ nước nóng, phải cả hai lạy ba lạy, vén y đến ngồi dùng bữa chiều. Nếu Trụ trì chẳng rảnh, thì thỉnh Đầu thủ thay thế cùng tiếp. Lúc đang tự đứng dậy đốt hương, Trụ trì tự bạn nước nóng mới tận lễ. Hôm sau, dùng cháo xong mời trà, Tham đầu lãnh chúng, bày đứng trước Tẩm đường, đợi Trụ trì đến, tức đến trước chào hỏi rằng: “Qua đêm cung kính chí, Hòa-thượng Đường đầu tôn hầu đi ở nhiều phước, chúng con vâng thưa ân gọi, Hạ tình chẳng ngă nổi cảm kích”. Vào tòa, Thị giả đốt hương uống trà, đứng dậy đến trước lò, cả hai lạy ba lạy tạ trà. Mới đầu bày, thưa: Chúng tôi vâng thừa tiễn điểm, riêng bái tạ đây, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Kế là bày thưa: “Ngay hôm nay, cung kính chỉ, Hòa-thượng đường đầu, tôn hầu đi ở lắm phước”. Lùi thân, xúc lạy ba lạy, Trụ trì tiễn ra vài ba bước. Nếu cầu xin đăng ký, Tham đầu lãnh chúng xoay thân, tiến tới trước Trụ trì bẩm thưa rằng: “Chúng tôi vì sinh tử việc lớn, vô thường nhanh chóng, từ lâu được nghe đạo phong, riêng đến nương hầu, cúi mong từ bi thâu nhận”, bẩm thưa xong, có đợi chấp thuận chăng? Tức khắp đồng xúc lạy một lạy, thưa: “Tạ Hòa-thượng đăng ký”. Phải trước đăng ký Tham đầu, ngoài ra, chẳng câu nệ sớm chiều, chẳng chọn nơi chốn, đều biết tiến lùi, dò đợi Trụ trì cầu xin ở, phương trượng, người cận sự không được trách cấm, nếu hứa khả thì vẫn xúc lạy một lạy, đến cầu xin tấm điệp, đến Thị ty, phụ danh rằng: “Vừa vâng phụng từ chỉ của Phương trượng, khiến đến Thượng liêu ghi tên”. Thị giả lần lượt phát bảng đầu xuống Đường ty, Duy-na khiến hành giả thỉnh mới đến uống trà xong ra. Độ Điệp trên sàng lịch (rõ đủ Đại đăng ký quy Đường), đợi tiễn đưa về Đường. Hoặc có cớ ra vào, phải giữ đường nghi, nửa tháng mới có thể thỉnh giả, xưa nói: Thỉnh giả dạo núi là thường lấy kỳ hạn nửa tháng, qua kỳ hạn lại đăng ký, y như cũ giữ Đường nghi, như bức gấp Sư trưởng cha mẹ tật bệnh tang chết, thì chẳng thuộc hạn này. Trong Tẩm đường, hẳn thiết ghế tham bày đạo tôn sư, mới đến thăm viếng, Trụ trì đáng ở vị trí giữa, khiến đó cắm hương bày lễ, ngồi bên cạnh nhận trà, đối với lễ không tổn. Nay, phương Bắc còn thực hành đó. Thời gần đây, Sa-di tân học vừa mới vào chúng, bèn cùng tôn túc phương lớn phân ngồi kháng lễ, coi là việc thường, theo thói thành tệ. Còn về Lạp Đẳng phạm phần đem bày bên ngoài xem thường, đạo thầy mỏng nhạt. Năng Tôn sư thì tôn pháp, Tôn pháp thì giềng mối tòng lâm hưng thịnh. Như các sư Tây Vực, học trò rất kính phụng, giống như bậc vua cha, chỉ sợ chẳng kịp có thể làm pháp. <詞>ĐẠI TƯƠNG KHÁN Phương lớn chúng đông, lại tôn túc nghiêm trọng, không có lễ của thường thấy. Mới đến hải đợi người nhiều, đều dự đến Thị ty, ghi tên thành một đến chào hỏi, Thị giả thưa định, hoặc đầu tháng chín, hoặc tiết năm trước Đông. Chúng suy Biện sự danh thắng, hoặc ai ở tòng lâm là làm Tham đầu. Đến ngày, lãnh chúng đến Tẩm đường bày đứng, Thị giả thỉnh Trụ trì ra, Tham đầu tiến tới thưa: “Thỉnh Hòa-thượng ngồi kiết già”. Trụ trì ban lời dạy bảo, Tham đầu ban nói rồi, lùi bước đồng chúng chào hỏi, cắm hương bày lễ, kế là của tạ Thị giả. Sáng hôm sau đến Phương trượng mời trà cầu xin đăng ký, đợi phát bảng (nghi thức xem ở sau) xuống Đường ty, tiễn đưa về đường, đều đồng với lễ trước. Trụ trì đều ở lúc tạ đăng ký hồi lễ. - Bảng thức: (Vâng phụng từ chỉ của Phương trượng, đăng ký một vị Tăng, Thượng tọa mỗ, Thượng tọa mỗ. Nay, ngày tháng , Thị ty mỗ báo). <詞>ĐẠI ĐĂNG KÝ QUY ĐƯỜNG Đường ty nhân Thị ty báo bảng, tức khiến hành giả thỉnh mời đến dùng trà, đều ôm Độ Điệp. Tham đầu chuẩn bị hộp hương nhỏ, y cứ giờ trở về Đường dùng. Lãnh chúng đến Đường ty đối, xúc lạy một lạy, hỏi thăm sức khỏe. Vào tòa, nhận trà xong, đứng dậy thưa bẩm rằng: “Chúng tôi vừa vâng phụng từ chỉ của Phương trượng, bảo nương tựa tả hữu, cúi mong ghi nhận”. Duy-na đáp rằng: “Rất may, mừng được đồng giữ vắng lặng”. Tham đầu và chúng đều lấy Độ Điệp thay nhau giao Duy-na, vẫn đối xúc lạy một lạy, theo một lên giường lịch xong giao lại, chỉ lưu giữ Độ Điệp Tham đầu. Hành giả hét rằng: “Thỉnh chúng Thủ tọa về Đường đăng ký”, Tham đầu lãnh chúng theo tay phải cửa trước vào Đường, đến trước Thánh Tăng bày đứng, Tham đầu đốt hương đồng chúng kính lạy ba lạy, tuần Đường một vòng, từ Thượng đường đến Hạ đường, vẫn như trước bày đứng chào hỏi, theo cuối ban trước đời bước, lùi đầu bảng Thánh Tăng đứng, Duy-na vào Đường đốt hương đứng gian trên, hành giả Đường ty dùng mâm khăn gói Độ Điệp, Duy-na giao trả lại, Tham đầu đồng chúng đối, xúc lạy một lạy. Tham đầu tiễn đưa Duy-na ra (trước thọ trai thì cửa sau, sau thọ trai thì cửa trước). Tham đầu chẳng ra hạn cửa, Duy-na phát bảng các liêu báo (biểu thức xem ở sau). Hành giả dẫn đến Liêu chúng, đánh bảng bên trong ba tiếng, Liêu chủ cùng tiếp vào cửa đối, xúc lạy một lạy, hỏi thăm sức khỏe xong, phân tay ngồi dâng chén không, bèn đứng dậy đến trước lò hương, chào hỏi tạ xong, thưa: “Chúng tôi vừa vâng phụng từ chỉ của Duy-na, khiến về liêu trên nương tựa tả hữu. Cúi mong từ bi”. Liêu chủ nói: “Nay lại lắm phước, tạm mừng đồng giữ vắng lặng”, tức mỗi xúc lạy một lạy, người mới đăng ký chuyển bốn phía Đông, liêu chủ chuyển bên phía Tây. Lại xúc lạy một lạy, liêu chủ dẫn người đăng ký bày đứng, chầu hầu Quán Âm chào hỏi, dẫn tuần án một vòng, sau chầu hầu Quán Âm chào hỏi mà lui, chẳng phải tiễn ra. Hành giả dẫn gặp Liêu nguyên, đối xúc lạy một lạy, thưa: “Ngày hôm nay, cung kính chỉ có Thiền sư Tọa Nguyên tôn hầu đi ở lắm phước, nay được từ chỉ của Phương Trượng, khiến chúng tôi nương tựa tả hữu, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”, kế đến các liêu Đầu thủ khố ty, mỗi xúc lạy một lạy, hỏi thăm sức khỏe xong tiễn ra. Nay, phần nhiều chẳng tiếp, chỉ truyền lời, hoặc cho rằng chỉ đối với Thủ tọa có lạy, đều là phi pháp, bởi lúc tạ đăng ký, Lưỡng tự hồi lễ thông có đáp lạy. - Bảng: (Đăng ký, một vị Tăng, Thượng tọa mỗ, xứ mỗ, người dòng họ, giới mỗ, thượng tọa mỗ. Nay, ngày tháng , đường ty mỗ báo. Thức: Báo Thị ty rằng thân tôn Trụ trì, Tiền đường Thủ tọa Thị ty liêu chúng, hẳn đủ giới thứ tên châu, ngoài ra đều chẳng đủ). Tiểu Đăng Ký Quy Đường: Phương trượng cho phép đăng ký, thị ty phát bảng xuống đường ty, thỉnh trà thượng giường lịch xong, tiễn đưa vào liêu chúng, Duy-na ở gian trên đối, xúc lạy một lạy, chuyển gian dưới, lại đối xúc lạy một lạy, người đăng ký tỏ từ rằng: “Nay nhiều may, nhục nặng ôn tồn, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Đáp rằng: “Liêu phòng chẳng tiện, may xin chỗ rộng”. Tham đầu tiễn đưa Duy-na ra bên phải ngoài liêu chúng đứng. Hành giả đường ty đánh bảng nhỏ trong liêu ba tiếng, Liêu chủ cùng tiếp,Lễ đồng như trước. Tây đường Thủ tọa đăng ký: Như danh đức phương lớn muốn làm trú kế, nói tiếp bày ý. Trụ trì độ có đơn liêu để ở, và vị trí đi ngồi, tiếp trên dưới an thuận thì lưu lại đó. Ngày hôm sau, dùng trà xong, thưa rằng: “Tôi vì sinh tử việc lớn, riêng lại nương tựa”, tức xúc lạy một lạy, hoặc ngày khác, hoặc tức thời, hội hợp Lưỡng tự cần cựu dùng trà, Trụ trì đích thân đứng dậy đốt hương, trở lại vị trí đứng, thưa rằng: “Xứ mỗ, Thủ tọa Tây đường chẳng bỏ, lại đây đồng giữ vắng lặng, phiền Lưỡng tự cần cựu đồng tiễn đưa về liêu”. Người nhận tiễn đưa liền bước tới trước thưa: Đặt lại nương tựa, lại đội ghi nhận”. Trụ trì đồng Lưỡng tự cần cựu tiễn đưa về liêu, đối xúc lạy một lạy, tiễn đưa Trụ trì ra, người nhận tiễn đưa ở chủ vị, vái mới Thị giả vào chào hỏi tiễn đưa ra, vái mời Lưỡng tự cần cựu vào chào hỏi xong thì ôm hương đến chỗ Phương trượng bái tạ. Hành giả Đường ty dẫn đến nơi cần cựu Lưỡng tự, hồi lễ Phương trượng. Ngày khác đặt làm lễ quản đãi giảng trà. Mồng một rằm thỉnh trà, đều cần cựu riêng. Danh đức các nơi đăng ký: Muốn xin đăng ký, ngày hôm sau dùng trà xong, thưa rằng: “Chúng tôi vì sinh tử việc lớn, riêng lại nương tựa, cúi mong ghi nhận”. Khắp đồng xúc lạy một lạy. Nếu Trụ trì chấp thuận thì hội họp Thủ tọa Tri sự, Duy-na dùng trà xong, Trụ trì đích thân đứng dậy đốt hương bạch, tiễn đưa, ý như trước, người nhận tiễn đưa bước tới thưa: “Chúng tôi lại được ghi nhận, chỉ về Tăng đường tùy chúng”. Đáp rằng: “Sơn môn lễ hợp bày tiễn đưa”, tùy chức danh cao thấp, tiễn đưa mông đường tiền tư. Đối xúc lạy một lạy, tiễn đưa Trụ trì ra, chào hỏi liêu chủ, tỏ từ là: Đời trước lắm may, được nương tả hữu”. Đáp rằng: “Nhiều đời duyên thuần thục, tạm mừng đồng ở”. Người nhận tiễn đưa chuyển chủ vị tiếp mời Thị giả vào, chào hỏi tiễn ra, chào hỏi Lưỡng tự xong, thì ôm hương đến chỗ phương trượng, lạy tạ giường vị. Hành giả Đường ty dẫn đến khố ty các thủ đầu liêu, đồng lễ. Hoặc Phương trượng phát bảng đầu phiền Thủ tọa thỉnh đưa thì Thủ tọa khiến hành giả đường ty, thỉnh một vị Tri sự, Thị giả Duy-na và người nhận tiễn đưa đồng đến liêu Thủ tọa đốt hương dâng trà, thưa Trụ trì phát bày ý của Sơn môn cùng tiễn đưa. Lúc tiễn vào cửa. Thủ tọa ở chủ vị thay thế Trụ trì xúc lạy một lạy, người nhận tiễn đưa về chủ vị, Thủ tọa chuyển ở khách vị cùng đồng Tri sự Duy-na chảo hỏi. Ngoài ra các lễ khác đều đồng như trước. Pháp quyến làm việc đăng ký: Chẳng câu nệ lúc nào thưa hỏi, Thị giả nói lai lịch, thông báo Trụ trì, cắm hương lễ bái, nếu dùng pháp quyến dưới từng làm thị giả, Trụ trì đều phải nhận lễ, tùy chức danh cao thấp mà bày tiễn đưa, đồng như trước. <詞>NÉM HƯƠNG TƯƠNG KHÁN Mới đến hoặc vì duyên gấp nên đến chẳng kịp giờ, hoặc dừng đăng ký chẳng được thông báo, chẳng câu nệ nơi chốn, mới đón gặp Trụ trì tức liền ném hương, bước tới trước thưa: “Tạm đến lễ bái Hòa- thượng”, xúc lạy một lạy, tùy tự thâu hương dò đợi xin đăng ký. Nếu Trụ trì chấp thuận thì Thị ty phát bảng xuống Đường ty, lễ đồng như trước. Nếu đồ trướng đã định, thì đến Đường ty thưa thêm tên vào đồ, hoặc người nhiều liệt giới thứ ở sau. <詞>TẠ ĐĂNG KÝ Theo Thanh quy xưa, người đăng ký trở về đường, liền tạ đăng ký. Sau lấy tiết đông tiết năm và trước hạ ba lần tạ đăng ký. Từ khi Hòa- thượng Phật chiếu từ A-dục đến Kính Sơn, quyền Cô vân làm Thị giả vào viện. Bấy giờ, Phật Chiếu vì lễ nhiều nên đều ở trước hạ. Thời gần đây, Nạp Tử đến nơi, ngồi chiếu chưa ấm đã dời chuyển đơn Đông tây, phần nhiều khiến chẳng tạ đăng ký. Đã nói là trải Đông qua Hạ. Chiết trung phải ở trước Đông trước Hạ, hai kỳ báo tạ. Trước kỳ, Thị giả lấy sổ giới lạp ở Đường ty xem xét mới Đăng ký ở trên là một người làm Tham đầu, một người làm Phó tham. (Xưa thì lấy Thị giả các nơi làm Tham đầu, thường vì sơn môn cao thấp cạnh tranh chẳng an, nguyên vì Thị giả đều đăng ký tại Liêu chúng. Đã nói là tùy chúng, phải y cứ giới lạp, y theo Phật chế. Huống chi các Đồ trướng và bảng giới lạp ở Liêu chúng, chẳng lấy danh tự phân cao thấp, một là vâng theo Phật chế, hai là khỏi sự cạnh tranh, ba là được chúng hòa đồng ở, chỉ lực của Trụ trì chủ hành đó). Tham đầu phải có bản đồ nhỏ có nghi thức tu tập, ba người một dẫn, mỗi dẫn một người làm Tiểu tham đầu, phải ghi rõ từ ngữ tiến lùi bẻ xoay hợp độ, miễn khiến đến lúc so le. Hành giả Đường ty danh số, suất lấy tiền lương, ghi bảng nhỏ là: Mới về Đường, Thủ tọa mỗi suất tiền bao nhiêu để mua hương tạ đăng ký. Hành giả Đường ty mỗ lấy báo, dán trước liêu chúng, thâu tiền hương đủ giao Thị giả nạp Phương trượng, đến thưa hỏi định ngày nào tạ đăng ký, ra bảng báo chúng rằng: “Huynh đệ mới về đường, ngày mai dùng cháo xong, đến chỗ phương trượng tạ đăng ký. Nay, ngày tháng, Thị ty mỗ báo”. Đến ngày, đến Tẩm đường hoặc pháp đường thiết bày vị trí Trụ trì, bày sắp hương ghế, bình, đèn đài. Thị giả giao một mảnh hương lớn cho Tham đầu. Giao cho phó tham thâu lãnh chúng y cứ vị trí trên đồ bày đứng. Tham đầu tùy đồng Thị giả thỉnh Trụ trì ra, trở về vị trí đứng. Tham đầu đồng chúng đều chào hỏi xong. Tham đầu bước tới trước Trụ trì thưa rằng: “Thỉnh Hòa-thượng an tọa” lùi chân trái nghiêng chuyển thân, nơi ghế hương, tay phải nơi không đi ra qua lại, vị trí đều chào hỏi xong. Phó tham lấy hương trong tay áo thay nhau bưng, Tham đầu tiếp giấu nhỏ trong lòng chào hỏi xoa tay. Vốn dẫn ba người trải một tọa cụ, Trụ trì đưa tay ước miễn đó, liền thâu và đứng dậy. Tham đầu tiến tới trước thưa: “Chúng tôi đời trước mừng may được toại nương tựa, hạ tình chẳng ngăn nổi mừng vui”. Vẫn như trước lùi thân, theo tuy phải ghế hương chuyển về vị trí chào hỏi. Lại, trải tọa cụ, Trụ trì lại như trước ước miễn, thâu tọa cụ lại tiến tới trước thưa: “Ngay hôm nay kính cẩn chỉ, Hòa-thượng Đường đầu, tôn hầu đi ở lắm phước”. Vẫn như trước chuyển về vị trí chào hỏi, xúc lạy ba lạy. Trụ trì đáp một lạy. Thứ nhất dẫn chào hỏi, qua cạnh bên trái tiếp nối cuối ban. Tiếp người thứ ba tiến lên, tỏ từ lễ đều đồng. Tham đầu đứng ở dưới vai Thị giả, dò xét mỗi mỗi lễ xong. Phó tham bước đến nơi mới đầu đứng. Tham đầu về vị trí đầu. Lãnh chúng đều chào hỏi mà lui. Phó tham lãnh chúng hành trước. Tham đầu ở cuối, đến ngoài cửa liêu chúng dưới tay đứng. Phó tham dẫn chúng theo cạnh bên phải vào gian dưới trong liêu, xoay chuyển lường chúng ít nhiều, chẳng câu nệ số hàng. Phó tham bước hướng tới trước tiếp liên kề vai Tham đầu, dò đợi Trụ trì đến, cùng chúng đồng đón rước, chào hỏi chuyển vào trong liêu. Chúng đáng trước sau trông nhau thành hàng tiến lùi bước rảo. Tham đầu chuyển thân đến trước lò đối, xúc lạy một lạy, tỏ từ nói: “Dời khắc cung kính chỉ, Hòa-thượng đường đầu, tôn hầu đi ở lắm phước. Chúng tôi lại được ghi nhận. Lễ phải lạy tạ, nay được giáng tôn. Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Chúng đồng tiễn ra. Tham đầu bên ngoài cửa chuyển tay trên đứng, Phó tham vẫn dẫn chúng xoay chuyển ở gian trên, ra liền kề vai Tham đầu, tiếp mời Thị giả vào, tỏ từ rằng: “Chúng tôi may mắn được nương tả hữu, nay gội giáng trọng, chẳng ngăn nổi cảm kích”. Tham đầu một người tiễn Thị giả ra, kế mời Lưỡng tự vào đối xúc lạy một lạy, tỏ từ rằng: “Tức khắc cung kính chỉ, Tọa nguyên đô tổng các vị Thiền sư, tôn hầu lắm phước. Chúng tôi được toại nương tựa mới thừa giáng trọng. Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Tham đầu tiễn Lưỡng tự ra, trở về vị trí gian trên đứng. Phó tham dẫn chúng từ sau Quán Âm chuyển ra trước là vẫn trông lại cuối ban, đều đứng định đối Tham đầu, xúc lạy một lạy, tỏ từ rằng: “Chúng tôi vừa rồi rất nhọc thần dụng, đặt lạy tạ này”. Nghi thức đó cũng đáng dự định tu tập, ngay ngày đó vào sớm, phương trượng khách đầu hành giả Đường ty mỗi ghi hồi lễ, bảng dán trước tiên chúng. Phương trượng bản dán gian trên, Lưỡng tự bảng dán gian dưới (nghi thức xem ở sau). (Hòa-thượng Đường đầu dùng cháo xong hồi lễ). Bảng: Thủ tọa mới về Đường. Nay, ngày tháng , hành giả khách đầu mỗ thừa y cứ Đầu thủ Tri sự dùng cháo xong hồi lễ, Thức: Thủ tọa mới về Đường. Nay, ngày tháng, hành giả Đường ty mỗ lạy báo). <詞>PHƯƠNG TRƯỢNG RIÊNG LÀM MỚI ĐĂNG KÝ TRÀ (Khố ty Đầu thủ phụ xem). Thị giả thỉnh khách chiếu giới lạp song danh tự ghi tạng trà (nghi thức xem ở sau). Đến ngày, lúc gần sáng rửa mặt chuẩn bị ghế bút nghiên bày ở chiếu đường, thỉnh khách ở dưới tên ghi rằng: (Chúng tôi kính cẩn lạy tôn mạng). Nếu đăng ký là danh thắng các phương cũng y theo giới mà ghi. Nhập vào trà trạng, cách ngày, Phương trượng, Khách đầu phải trước đem trạng thỉnh kiểm tên, Thị giả khiến Liêu đầu y giới sắp tên, ghi bảng đặt làm, hoặc làm bốn ra sáu ra, Thủ tọa quang bạn, danh thắng các nơi hẳn cùng Trụ trì đối diện vị trí, nếu có dị nghị thì ở trong danh thắng suy cử người giới cao nhất ngồi đó. Tham đầu cùng Quang bạn đối diện vị trí, bởi người nhận tiễn thì trước tạ giường vị trí, đây đồng đến trà. Đến ngày, dùng trai xong, đánh trống nhóm chúng, Thị giả tiếp mời vào, Trụ trì cùng tiếp chào hỏi, tiếp cùng người quang bạn chào hỏi, mỗi y chiếu bảng về vị trí lập định, Thị giả đốt hương, thỉnh khách phân đầu vị trí tả hữu, hành lễ tuần mời ngồi, vái hương, mời trà, đốt hương Quang bạn, đánh trống lui tòa, đồng lễ bốn tiết tiểu tòa thang, người nhận đặt làm dẫn chúng bày đứng tạ trà, mới đầu bày, thưa “Ngày nay chúng tôi lại được tiễn điểm, đặt lạy tạ này, Hạ tình chẳng ngăn nổi cảm kích”. Kế bày, thưa: “Ngay hôm nay, kính cẩn chỉ, Hòa-thượng Đường đầu tôn hầu đi ở lắm phước”, lùi thân xúc lạy ba lạy mà lui. Hôm sau, khố ty, khách đầu, hành giả y theo tên họ trong giới đơn mà cụ trà trạng, sắp trước liêu chúng thỉnh kiểm tên. Thư ghi: “Chúng tôi kính y lai mạng”, khố ty bày vị trí. Thủ tọa quang bạn đánh bản ở khố đường. Thượng thủ Tri sự cùng Duy-na hành lễ. Lại, ngày hôm sau, Thủ tọa chúng đầu thủ đầy đủ trạng văn thỉnh kiểm đồng trước. Chiếu đường bày vị trí. Đô tự quang bạn đánh bản ở chiếu đường, toàn ban hành lễ, hoặc bốn người, sáu người phân tuần chào hỏi. Như ba người, năm người, Thủ tọa đốt hương chỉ đứng ở giữa. Theo pháp xưa thì, ba ngày giảng hành, nay các nơi phần nhiều đều làm một ngày. Đến phương trượng mượn tòa và trống, Đầu thủ Tri sự không Trụ trì một vị trí, làm vị thứ chủ bạn lẫn nhau, hành lễ đều đồng (chỉ tạ trà, phải đều lìa vị trí chuyển thân chào hỏi đặt tạ, gần đây quen thói chỉ vị trí đầu đứng dậy tạ, là chẳng đúng lễ). - Nghi thức trạng trà: (Mới đăng ký, Thượng tọa mỗ nêu tên. Hòa- thượng Đường đầu sáng nay dùng trai xong trở về Tẩm đường châm trà riêng làm, cúi mong nhóm họp. Nay, ngày tháng, thị ty mỗ bái thỉnh. Khố ty Đầu thủ thì nói: Mới đăng ký, Thượng tọa mỗ nêu tên. Như trên, chúng tôi sáng nay thọ trai xong đến khố ty châm trà một trúng, đặt làm cúi mong, chúng xót thương đồng giáng trọng. Nay, ngày tháng, khố ty Tỳ-kheo mỗ lạy thỉnh. Đầu thủ phải nêu tên chỉ ở tri khách đến chiếu đường, ngoài ra đồng như trước). <詞>NGỒI THIỀN Mỗi ngày, dùng cháo xong, hành giả Đường ty trước báo Thủ tọa, trước Tăng đường, trước liêu chúng đều treo bảng ngồi thiền báo chúng. Sai Cung đầu bên trong Tăng đường, bày hương châm đèøn, trước đánh một tiếng bản ở trước liêu chúng. Đại chúng về đường, hướng vào bên trong ngồi, lần lượt đều nhóm họp, báo chúng Thủ đầu đánh bản tiếng thứ hai, đợi vào Đường thư thả, đánh bản tiếng thứ ba. Phó liêu đóng cửa liêu chúng, đánh ba tiếng bản trước liêu Thủ tọa, tiếng thứ nhất ra cửa, tiếng thứ hai đến khoảng nửa đường, tiếng thứ ba vào Đường, trước Thủ tọa Thánh Tăng đốt hương tuần đường, từ gian dưới đến gian trên một vòng, trở lại khắp vị trí ngồi, kế báo Trụ trì, đánh ba tiếng bản ở phương trượng, Trụ trì vào Đường đốt hương trở lại đường, từ gian trên đến gian dưới một vòng, trở về vị trí ngồi định, thời gian lâu, Tăng chúng mới có thể lần lượt đứng dậy rút mở. Lại phải xem trên dưới vai dậy dừng nhanh chậm, khỏi thấy thành liền đơn vị trí trống thiếu. Hoặc có để chăn lại tại Đường, chẳng theo chúng. Hoặc có tạm lại tùy chúng lưu lại ca-sa ở vị trí chăn ở bên ngoài buông lung, đều phải kiểm nêu trách phạt. Đầu thủ đại chúng đều theo bản qua lại, chỉ có tiền Đường Thủ tọa chấp thuận theo trước Trụ trì ra vào. Hành giả Đường ty hầu trai lần lượt báo Thủ tọa phóng thiền chuyển theo bên phải sau Thánh Tăng ra, chống giữ bảng dưới rèm nhẹ lay phát tiếng. Trụ trì đầu thủ ra Đường. Hành giả Đường ty theo cạnh bên phải nghiêng đứng, dò xét chào hỏi. Hoặc sơn môn có đón rước cầu nguyện Phổ thỉnh xem đọc đưa tang, và liêu chúng cạo tóc giặt y, thì chẳng ngồi thiền, cũng chẳng tọa tham, sau tham ngồi thiền như thường. Trụ trì Thủ tọa vân tuần đường, trong Đường có bảng trực Đường, khắc ghi (xoay lần trực Đường đến cuối thì trở lại đầu. Ở chùa ký, khắc hai mặt). Chiếu y vị trí chăn giúp lần, mỗi ngày vào canh năm sau thỉnh chuông xong, giao xuống người kế tiếp, suốt ngày trông giữ. Hoặc có mở hòm cắm đơn hạ bát rút chăn đều phải thưa người trực Đường biết. Đến lúc đánh chuông phóng tham, giao phó Thị giả Thánh Tăng trông coi quản lý. Đến chiều thì Thánh Tăng đều giao phó vị trí chăn. Bảng thì ở sáng sớm hôm sau giao qua. Gần đây, trực Đường thành đoàn gấp bội, phân chia trái quả nhóm họp đùa giỡn quen lấy làm thường. Não loạn thiền tịch, Trụ trì Thủ tọa cố gắng răn bảo, trái phạm thì nên phạt. <詞>NGHI THỨC NGỒI THIỀN Bồ-tát học Bát-nhã, khởi tâm đại bi, phát thệ nguyện rộng, tinh tu tam-muội, thề độ chúng sinh, chẳng vì một thân riêng cầu giải thoát, buông bỏ các duyên, ngừng dứt muôn niệm thân tâm như một, động tónh không liên can, tất lượng sư ăn uống, hạn chế ngủ nghỉ, ở nơi nhàn tónh trải dày vật ngồi, hoặc ngồi kết già hoặc ngồi bán già, đặt tay trái lên tay phải, hai ngón tay cái đụng đầu nhau, thẳng mình ngồi ngay, khiến tai và vai cân đối, mũi thẳng với rốn, lưỡi cuốn lên hàm trên, môi răng chạm nhau, mắt phải mở nhỏ, để khỏi khiến ngủ gật. Nếu đắc thiền định, thì năng lực đó rất ưu thắng. Xưa, các bậc cao tăng tu định ngồi thường mở mắt. Thiền sư Viên Thông ở Pháp Vân quở trách người nhắm mắt ngồi thiền, cho đó là núi đen hang quỷ. Có ý chỉ sâu sắc, tất cả thiện ác đều chẳng nghó, niệm khởi liền giác, thường giác chẳng mê, chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn. Muôn năm một niệm, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, yếu thuật của ngồi thiền là ở đây. Ngồi thiền là pháp môn an lạc, mà người phần nhiều đến mỗi bệnh là bởi chẳng được yếu thuật đó. Được yếu thuật đó thì tự nhiên bốn đại nhẹ an, tinh thần sảng khoái, chỉ cần tâm chịu, hẳn chẳng hiềm nhau. Nhưng sợ đạo cao ma thạnh, nghịch thuận muôn mối. Nếu năng chánh niệm hiện tiền, thì tất cả chẳng thể làm trở ngại, như kinh Lăng-nghiêm, Thiên Thai Chỉ Quán, Nghi Tu Chứng của Khuê Phong, có nói rõ ma sự đều từ tự tâm sinh, chẳng phải do bên ngoài mà có. Định tuệ có năng lực ưu thắng thì ma chướng tự tiêu, nếu muốn xuất định nên từ từ động thân, khoang thai mà dậy, chẳng được vội vã. Sau khi xuất định thường làm phương tiện hộ trì định lực, trong các môn tu hành, thiền định là trên hết, nếu chẳng an thiền tónh lự, thì ba cõi trôi lăn, xúc cảnh mênh mang. Do đó, đạo dò tìm châu nên tónh sóng, nước động lấy hẳn khó, nước định lắng trong, tâm châu tự hiện. Nên trong kinh Viên Giác chép: “Tuệ thanh tịnh vô ngại, đều nương thiền định sinh”. Kinh Pháp Hoa chép: “Ở chỗ nhàn xứ tu nhiếp tâm, an trú chẳng động như núi Tu-di”. Cho nên, biết siêu phàm vượt Thánh phải nhờ tónh duyên, ngồi đứng xả mạng toàn nhờ định lực. Một đời lấy làm xong còn sợ dần dà, huống chi chuyển đổi, lấy gì địch nghiệp. Mong các bạn thiền ba lần xem lại văn này, tự lợi lợi tha đồng thành Chánh giác. Sắc Tu Bách Trượng Thanh quy quyển năm hết.  SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY <卷>QUYỂN 6 Tọa tham: Thọ trai xong, hành giả Đường ty cùng Thủ tọa đến Tăng đường Trước chúng liêu đều có treo biển tọa tham. Lúc gần xế chiều thì vào trong Tăng đường thắp hương đốt đèn. Đánh bản trước chúng liêu một tiếng lớn rồi chúng vào thiền đường. Tiếng thứ hai thì vị Thủ đầu vào, tiếng thứ ba thì vị Thủ tọa vào. (Không đánh bản trước liêu vị Thủ tọa. Nếu lúc đại tham, lại đánh ba tiếng sau) trụ trì lại đánh bản ở phương trượng để cùng ngồi thiền. Có nơi không đắp ca-sa là phi pháp. Hành giả Đường ty dọn nấu cháo buổi chiều, vị Thủ tọa lại nói: (phóng tham) sau Thánh Tăng thì hạ tấm biển sang phải. Đánh ba tiếng chuông ở trước thiền đường, đại chúng cùng kính lễ theo. Vị trụ trì lần lượt ra khỏi thiền đường. Chúng rời tòa và về đơn của mình. Vị Thủ đầu cũng quay về chúng liêu dùng bữa chiều. Bởi ngày xưa mỗi buổi chiều đến đều tham yết vị Trụ trì để cầu khai thị, cho nên nhóm họp chúng lại ngồi đợi trống đánh thì cùng đến tham yết Trụ trì, nên gọi là tọa tham. Vì ở phần châu quá lạnh nên ngài Chiêu công bỏ điều này, cho nên có thuyết phóng tham. Đại tọa tham: Ngày nay ở chốn tòng lâm có nhiều nơi vẫn còn giảng về vãn tham để giữ gìn ý xưa, gọi là đại tọa tham, cũng đồng như thường tọa tham. Nhưng Thủ tọa vào thiền đường không đốt hương, mà đợi vị Trụ trì vào thiền đường ngồi thiền. Hành giả đường ty đánh ba tiếng bản ở liêu Thủ tọa, đại chúng liền ngồi dậy hướng ra ngoài. Vị Thủ tọa liền bước xuống đất, đi ra cửa sau, sau lại vào cửa trước. Vẫn đốt hương trước Thánh Tăng như thường. Vị tuần đường quay về ngồi thiền giây lát, như Trụ trì khi vãn tham thì không đánh chuông trước thiền đường. Khách đầu Phương trượng đánh ba tiếng pháp cổ, Trụ trì ra khỏi thiền đường. Vị Thủ toạ lãnh chúng đến pháp đường, hoặc vào tẩm đường của Trụ trì ngồi xuống. Thị giả theo lưỡng tự đồng tây cùng xuất ban. Thưa hỏi khai thị xong. Chúng quay về liêu dùng bữa chiều. Nếu không vãn tham thì hành giả Đường tư đến trước vị Thủ tọa thưa hỏi rằng: Hòa-thượng đường đầu tối nay phóng tham. Sau đó chuyển lên, Thánh Tăng. Đi ra bên phải và khiến hành giả khất thực đang đứng trong đó: “phóng tham”. Rồi đánh ba tiếng chuông trước thiền đường. Đại chúng trước xuống đất, đồng xướng” kính lễ”. Vị Thủ tọa ra khỏi thiền đường, sáu đó vị trụ trì cũng ra, vị Thủ đầu ra khỏi, đều ra khỏi toàn đơn, về các liêu dùng bữa chiều. Nếu lúc giảng hành thì phải giảng một lần tham, một lần miễn để cho người hậu học biết qua. Thường ngày nếu có duyên nên không ngồi tham thì hành giả Cung đầu thay thế vị Thủ tọa xuất bán đơn và đồng với đại chúng. Đến chiều, ở trước các liêu đánh ba tiếng bản, chúng ra khỏi liêu, trở về thiền đường, đánh chuông tối (nếu ở thành thị thì đợi đánh trống). Vị Đầu thủ vào thiền đường, Đầu thủ đợi đánh chuông, vào đốt hương tuần đường. Kế là vị trụ trì cũng vào đốt hương trầm đường, đợi đánh chuông, vị trụ trì ra khỏi thiền đường, kế là vị Thủ đầu ra khỏi thiền đường. Nếu ngồi lại thỉnh thiền thì vị Trụ trì đi cửa sau vào, quay về chỗ không đi tuần đường. Vị Thủ đầu thì tùy theo chúng, hoặc đưa chúng đến rồi trở về ra sau vị Trụ trì. Nghe vị Thủ tọa khai kệ âm hưởng thâm trầm chúng mới yên lặng. Theo đạo huynh dệ thì không dùng câu này. Sáu đó, sáng sớm đánh ba tiếng bảng thức chúng, vị Thị giả của Thánh Tăng thì vào thiền đường kéo khăn tay để cho các vị thức giấc. Sau khi thức dậy rửa mặt thì chúng quay về thiền đường. Vị Thủ tọa đi vào đốt hương tuần đường. Kế là vị Trụ trì vào đốt hương tuần đường. Khi tiếng trống thứ tư vang lên thì Trụ trì đi ra, khi chuông đánh thì Thủ tọa đi ra, rồi vị Thủ tọa và đại chúng từ từ đi ra cửa sau, cởi y ra treo lên trở về chỗ. Hoặc vị Thủ tọa lại vào thiền đường tọa vị. khi tiếng chuông dứt, đánh bảng thì chúng mới xếp mền lại. Mền vị Thủ tọa được xếp trước, đại chúng tùy ý ra khỏi thiền đường, lễ niệm cũng gồm tu tập. Thưa hỏi: Muốn thưa hỏi thì trước phải nói với vị thị giả để thưa lại với Trụ trì: Kính bạch Thượng tọa tối nay chúng con muốn đến Phương trượng để thưa hỏi. Nếu vị Trụ trì chấp nhận thì sau khi định chuông đến nói với thị giả. Đợi cho Phương trượng đốt nhang xong, thị giả dẫn vào thưa hỏi vị Trụ trì, cắm hương. Lớn thì gồm chín lạy. Thâu tọa đầy đủ rồi tiến đến thưa rằng:” chúng vì sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng, kính mong Hòa-thượng tứ bi khai thị”. Phải cúng kính đứng một bên lắng nghe lời dạy bảo xong thì tiến lên trước cắm hương lạy chín lạy. Đó là lạy tạ nhân duyên miễn thi xúc lễ. Sau đó lạy thị ty. Đến nhà dùng cháo: Sáng sớm nghe khai tónh bản. Sau khi dùng cháo xong thì đợi vị tuần hỏa đánh bản. Trước đem bát về chỗ. Rồi vào thiền đường thăm hỏi Thánh Tăng. Xong chắp tay lui về. Trước khi lên giường cũng thăm hỏi vị kế bên. Trước khi dùng tay mặt sửa tay áo bên trái xuống nách. Tay trái cũng kiểm tay áo bên mặt. Sau đó đặt hai tay xuống giường, hai chân mang dép rồi bước xuống giường. Đầu tiên co chân trái lại, rồi thâu chân mặt, thân ngồi thẳng trên giường, ca-sa phủ trên gối, không nên để lộ y trong, không được để y rớt xuống giường. (thấy rõ việc khuôn phép hằng ngày). Đô giám Tự duy-na đến gặp thị giả ở ngoài giảng đường. Theo thanh quy xưa thì mỗi ngày vị Trụ trì đến giảng đường, trước giờ dùng cháo sáng thì ở bên ngoài nhà, đợi khi chuông đánh thì bước vào. Đại chúng đến nhà thọ trai cùng niệm Phật và ngồi xuống. Khi gần đến giờ thì vị Trụ trì đánh một tiếng chuông lớn. Trước khi vào giảng đường ngồi, vào đường thì đánh chuông, mới bước xuống đất thì cùng hỏi thăm. Chỉ gặp lúc năm giờ sáng cùng giảng hành một lần. Người mới nhập chúng không biết điều này, nên phải bàn bạc trước. Khi bước xuống giường thăm hỏi, nghóa là đại chúng các liêu thăm hỏi nhau. Lấy đây mà nói thì hễ nơi nào có chúng thì mỗi sáng khi bước xuống đều thăm hỏi nhau là được. Đến uống trà: Phàm trụ trì lưỡng tự đặc biệt là dùng trà lễ, số thật là quan trọng, không nên xem thường. Đã thọ thỉnh rồi thì y theo thời mà đến. Trước nên xem rõ vị thứ ghi ở trên bảng, để tránh sự luống cuống khi đến giờ. Nếu có vị bệnh hoạn ép ngặt không kịp đến thì nhờ người đến bạch lại. Chỉ có vị Trụ trì thì việc uống trà không được miễn nếu xem thường không đến thì không được ở chung. Phổ thỉnh: Pháp phổ thỉnh là trên dưới đều cố gắng. Chỗ an chúng đều phải hợp sức chúng mà làm việc. Trước tiên, khố ty bẩm với trụ trì, kế là khiến hành giả truyền nói cho vị Duy-na, Thủ tọa hành giả đường ty phân phó báo cho chúng biết đến cùng nhau thỉnh bia, vẫn dùng tấm giấy nhỏ ghi trên bia là “thời gian, địa điểm”. Hoặc nghe tiếng mõ hay tiếng trống đánh thì đều đánh tay trái, trên vai cùng cố gắng đi đến chỗ thỉnh. Trừ vị thủ liêu trực đường già bệnh ra, tất cả đều phải đi làm công tác. Thường nghó đến người xưa có răn là một ngày không làm thì một ngày không ăn. Khuôn phép thực hành hằng ngày. Thiền sư Vô Lượng Thọ có viết lời tựa rằng: Đầu tròn áo vuông thoát trần lìa tục phần lớn đều trải qua chốn tòng lâm, thiết yếu phải có khuôn phép rõ ràng. Mọi oai nghi cử chỉ chưa rõ pháp độc, mọi việc làm không hợp với luật nghi, dù có bạn lành bạn tốt mà chẳng chịu biên chép cực dùi mài, huân tập thì cũng thành cái tệ cải cách nạn cũ dẫn đến sự nghiệp sơ bạc khiến cho nhân tâm biếng nhác. Nhiều lần tìm đến vua thấy cái hoạ trước mắt, bàn sưu tập ra” Bách Trượng Thanh quy” để làm khuôn phép. Từ đầu đến cuối, từ sáng đến tối, cần tránh những điều bại khuyết, vâng hành theo từng pháp. Sau cùng mới dám nói mình đã thấy rõ việc sánh già bệnh chết. Pháp thế gian cũng tức là pháp xuất thế gian. Người hành trì sẽ để lại cho người chưa hành. Như vậy ngõ hầu mới không cô phụ tâm xuất gia ban đầu, và báo được ân đức của Phật tổ. Pháp nhập chúng thì ngủ không được trước người, dậy không được sau người, lúc năm giờ, chuông chưa đóng thì nhẹ nhàng thức dậy, bỏ chân xuống từ từ, sợ làm kinh động đơn bên cạnh. Khi tinh thần khoan khoái thì thân mới ngồi thẳng không được dùng quạt làm kinh động người ngồi bên. Khi mỏi mệt thì đổi chân sau, lấy khăn tay chuyển thân bước xuống đất. Khăn phủ lên tay trái rồi nói kệ rằng: Từ giờ dần cho đến tối, Tất cả chúng sanh tự giữ mình. Nếu ở dưới chân có các thân mạng. Nguyện cho tức thời sanh về tịnh độ. Sau đó tay nhẹ nhàng vén màn đi ra phía sau, không được kéo lê dép hay ho ra tiếng. Người xưa có nói: Vén nên bỏ tay sau rồi ra khỏi giảng đường, tối kî việc kéo lê dép. Nhẹ tay khi lấy chậu rửa mặt, không nên lấy nhiều nước nóng. Tay phải nặn kem đánh răng xoa chà bên trái, tay trái chà bên mặt, không nên chà lại sợ văng qua người. Xúc miệng thì nhổ thấp xuống, nhổ nước cũng lấy tay bũ muống thấp mà nhổ, không được gội đầu. Có bốn điều mình và mọi người đều bất lợi. Văng nước dơ. Khăn dơ. Tóc khô. Tổn mắt. Không được hỷ mũi ra tiếng, không được phun nước rửa mặt, không được khạt nhổ to tiếng, không vẩy nước dơ lên mặt, người xưa nói: Canh năm rửa mặt vốn vì tu hành, khạc nhổ, kéo lê dép làm ồn náo chúng. Không được xé khăn tay lau mặt, không được dùng khăn lau đầu, dùng xong thì treo lên hoặc hơ trên lửa. Vào giảng đường thì bước chân trái trước khi ra thì chân phải trước, mặc áo trên khi ngủ thì thâu một nửa để ngồi thiền. Nếu bị rách thì lấy vải mới vá lại, chớ để gió thổi vào. Nếu muốn đốt hương lễ lạy, thì vào lúc hô chuông ra cửa sau đắp ca-sa. Bình thường cũng cởi mền ra để đắp ca-sa. Chắp tay đảnh lễ tưởng niệm lạy kệ: Lành thay áo giải thoát Y ruộng phước vô tướng Nay con cung kính thọ Đời đời thường đắp mặc Án tất đà da sa ha. Xếp ca-sa trước vắt trên tay, sau đó mưói cởi ra, không được dùng miệng ngậm ca-sa, không được dùng cằm mốc ca-sa. Đắp xong nên thưa hỏi rồi đi. Nếu lên chánh điện, đắp xong cũng phải thưa hỏi rồi mới đi. Nếu lên điện đường lễ bái không được đứng ở vị trí giữa chùa vì ngăn ngừa vị trụ trì sẽ đến, niệm Phật không được ra tiếng, không được đi qua đầu người đang lễ bái, phải đi vòng chỗ trống ở phía sau. Canh năm khi nghe chuông đóng, nên quán tưởng niệm kê. Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới. Chốn địa ngục tối tăm dều nghe, Ba đường lìa khổ hết binh đạo. Tất cả chúng sanh thành Chánh Giác. Khi vị Trụ trì và Thủ tọa ngồi ở giảng đường không được ra vào cửa trước. Lúc khai tiểu tịnh thì mặc áo ngăn, pháp đắp y trước là hai góc lấy tay kéo thẳng ra trước. Đắp một nửa trước, sau đó đắp ra thân trước một nửa. Không được lấn sang đơn gần mình, không được lấy mền quạt, hoặc trở về các liêu gọi thuốc uống nước nóng. Hoặc đi kinh hành trên trà đường, lần lượt đem bát trở về chỗ cũ, lấy từ trên vai mà thuận chuyển (nghóa là vai trái). Như cửa trước thì từ hướng nam mà vào, không được đi hướng Bắc hay chính giữa, vì tôn trọng trụ trì. Khi nghe tiếng mõ không được vào giảng đường, hoặc sai hành giả lấy bát, còn mình ngồi ngoài, hoặc trở về chúng liêu nhờ người đến lấy bát về, cần phải cúi đầu hỏi các bậc thượng trung hạ tòa. Nếu các bậc thượng trung hạ tọa đã đến trước ngồi rồi thì phải chắp tay. Người xưa nói: “Không kính bậc thượng trung hạ tọa thì có khác gì Bà-la-môn nhóm họp. Sau khi nghe tiếng mõ, rồi tiếng bảng dài thì để bát xuống, thân chánh khởi lập định sau đó chuyển thân, cũng nên thuận từ trên vai chắp tay rồi mới lấy bát. Một tay cởi móc, tay trái cầm bát. Chuyển thân để cho thân ngồi xổm phóng bát, tránh đừng để lưng đụng người. Nghe tiếng chuông đánh trước giảng đường, liền bước xuống đơn đón rước trụ trì vào thiền đường. Đại chúng đồng đến thừa hỏi. Không được giơ một tay trái hay phải. Khi bước xuống đơn phải thưa hỏi người gần đơn, nếu để ca-sa ở tiền đơn thì phải để nhẹ nhàng. Trên đơn không được cúi mình lấy bát để trước an tọa. Nghe tiếng liền chùy liên tưởng niệm bài kệ. Phật sanh Ca-tỳ-la Thành đạo Ma-kiệt-đà Nói pháp Ba-la-nại Nhập diệt Câu-thi-na. Pháp mở bát trước nên chắp tay tưởng niệm bài kệ: Ứng lượng khí Như lai Nay con được mở ra Nguyện cùng tất cả chúng Đồng vắng lặng ba luân. Sau đó cởi khăn ra, để khăn sạch che gối, cột khăn thành ba góc, chớ để rớt ra ngoài tay trái giữ bát, rồi đặt trên đơn. Dùng hai ngón tay cái giữ bát, không được gây ra tiếng, các ngón tay thứ tư, thứ năm là các ngón tay dơ nên không được dùng. Cầm bát rửa cũng phải nhẹ nhàng, múc vào dùng muỗng, xúc ra thì phải dùng đũa. Tay cầm đầu sạch hướng lên vai, không được dùng đũa muỗng xuất sanh cơm, không được quá bảy hột, ít qúa thì thành bỏn sẻn. Thọ thực gì thì dùng đó để xuất sanh, Hoặc không thọ thực, không được lấy thìa múc, từ sô ra xuất sanh. Duy-na chắp tay niệm Phật, ngón tay không được so le, phải giơ cao lên khỏi ngực, không được dùng tay gá bên miệng bát. Người xưa nói: Chấp tay so le không ngang ngực Hai tay đan nhau cắm vào mũi Kéo lê giầy dép không oai nghi Ho khạc, hạ phong chẳng anh hùng. Khi hai tay cầm bát thọ thực nên tưởng kệ rằng! Như lúc thọ thực Xin nguyện chúng sanh Vui Thiền là ăn Pháp hỷ đầy đủ. Hoặc nhiều hoặc ít, thì dùng tay mặt ngăn lại, khi nghe biến thực chỉ nhìn ngang vai, mắt nhìn vào bát mà ăn, không được dùng tay khua hai bên. Tụng xong tương năm pháp quán. Tính công nhiều ít so chỗ kia đem tới. Xét đức hạnh mình thiếu đủ mà thọ thực Phòng tâm lìa lỗi, tham sân si là cội gốc. Xem như men thuốc hay để trị bệnh khô gầy. Vì thành Phật đạo nên thọ cơm này. Kế đến xuất sanh tưởng niệm bài kệ Các người quỷ thần chúng Nay Ta cúng cho người Thức này khắp mười phương Cúng tất cả quỷ thần. Pháp ăn cơm không được đưa miệng đến thức ăn, không được đưa thức ăn đến miệng. Giứ bát, đặt bát, và dùng muỗng đưa không được có tiếng. Không được khạc nhổ. Không được hỷ mũi hắt hơi. Nếu bị hắt hơi thì dùng khăn tay bịt mũi lại, không được gãi đầu, sợ gió rơi gàu vào bát người bên cạnh. Không được dùng tay xỉa răng, không được nhai thức ăn và húp canh có tiếng. Không được ăn cơm giữa bát mà ăn. Không được moi cơm lớn miếng, không được há miệng lớn đợi cơm đến ăn. Không được ăn cơm để rơi rớt. Không được tay lượm cơm đổ ăn. Nếu có thức ăn cặn đem đổ sau khi đặt bát. Không được lấy quạt ở đơn bên cạnh. Nếu sợ gió thì bạch xin Duy-na ngồi ngoài giảng đường, không được lấy tay để lên ngồi, tùy lượng mà thọ thức ăn, không được xin thần, không được để thức ăn quá ướt trong bát, không được đổ canh vào bát rồi mới ăn cơm, không được trộn rau vào cơm ăn. Khi ăn phải nhìn xem trên dưới, không được quá chậm, không được rửa chậu bát. Không được rửa bát có tiếng. Chưa tới giơ ăn không được ngồi buồn phiền. Người xưa nói: Ngoái nhìn bốn phía khởi buồn giận Nghó ăn nước miếng chảy ở miệng Lùa cháo húp canh đầy cả miệng Khai đơn mở bát phiền người gần. Rửa bát thì dùng bát đựng nước, thứ lớp rửa bát, không được rửa muỗng, đưa trong bát chỉ co ngón thứ tư, thứ năm. Không được xúc miệng có tiếng. Không được nhổ nước vào bát. Không được trước dùng nước chín rửa bát, chưa chiết nước vào bát không được trước thâu khăn gối lau mồ hôi. Không được lấy nước rưới trên đất, khi chiết nước tưởng niệm bài kệ. Nay con tẩy rửa bát Như nước cam vị lộ Thí cho các quỷ thần Khiến đều được no đủ. Ám ma hưu la tế sa bà ha. Thâu bát thì dùng hai ngón tay cái, theo thứ lớp đi hàng đôi vào xong, chắp tay tưởng niệm kệ khi ăn xong, kệ rằng: Ăn cơm xong rồi sắc sung mãn Uy linh mười phương ba đời hùng Hồi nhân chuyển quả không ở niệm Tất cả chúng sanh đạt thần thông. Trước liệu có treo bảng, đánh bảng quî về liệu. Thưa hỏi xong không quay về vị trí là khinh thường đại chúng. Vào cửa quy vị như pháp của Tăng đường. Lập định hầu liêu chủ và đốt hương xong, thưa hỏi trên dưới. Nếu có trà để ở chỗ ngồi không được để rũ y, không được tụ đầu nói, không được một tay tiếp người, không được che giấu mạt trà. Người xưa nói: Lên giường ngồi không được dũ y, một tay tiếp người là đạo lý gì, giấu riêng mạt trà bị người chung quanh chê cười, đạo nhân ở gần bàn, đè dặt không được dụm đầu kề tai. Dùng trà xong, hoặc xem kinh, không được mở kính để dài, (nghóa là hai mặt) không được cầm kinh đi vào liêu, không được làm rớt kinh. Không được phát ra tiếng, không được xoay lưng dựa vào đầu bảng xem kinh người xưa nói: Trì tụng ra tiếng làm ồn chỗ đông người, lưng tựa vào bản là khinh thường đại chúng, phải ra liêu trước, chớ đợi đảnh bảng ngồi thiền. Nếu muốn cởi bỏ năm điều theo cổ, (tức mang quãi), lấy khăn sạch đắp lên tay trái, cởi điều ra buộc lên sào. Cởi y năm điều ngay máng lên cho ngay thẳng, dùng khăn tay buộc để nhận biết. Không được cười nói. Không được ở ngoài hối thúc. Tay phải xách nước vào nhà xí, giày dép không được so le. Thùng tẩy tịnh đặt ở phía trước, búng ngòn tay ba tiếng, làm kinh độïng loài quỷ ăn phân. Ngồi xổm thân ngay ngắn. Không được rặn ra tiếng, không được khạc nhổ, không được cách vách nói chuyện với người. Không được rẩy nước hai bên, tay trái tẩy tịnh dùng ngón thứ hai, thứ ba. Không được dùng nhiều que chùi phân. Có đi xong dùng nước ở chỗ trống bên nhà xí. Chỗ đông thì làm phương hại chúng, không nên ở mãi trong nhà xí, nước tẩy tịnh để vào chỗ cũ. Dùng tay khô mở cửa, tay trái gõ cửa bước ra. Tay ướt không được cầm cánh cửa và ngạch cửa. Tay phải gạt tro, không được dùng tay ướt nắm tro rải trên đất. Không được khạc nhổ trên bùn. Rửa tay xong mới dùng bồ kết. Rửa đến khủy tay, mỗi động tác phải niệm chú. Xét kinh Anh lạc trong Đại tạng có nói: Khi vào nhà xí mà không niệm chú này thì dù cho dùng hằng hà sa nước rửa đến mé Kim Cương cũng không thể sạch, như vậy dù khi lên chánh điện làm lễ cũng không lợi ích. Vâng khuyên thọ trì thường tụng bảy biến. Do đó mà quỷ thần thường ủng hộ. Chú khi vào nhà xí: Án căn đà da sa ha. Chú tẩy tịnh: Ám hạ nẳng mật túc để sa bà ha. Chú rửa tay: yêm chủ dà da sa ha. Chú tịnh thân: Am thất lợi duệ bà ế sa ha. Chú khử uế: Am sất chiết nẳng già sất sa ha. Sau đó mới dùng chậu rửa mặt súc miệng, theo trong luật một ít chừa lại cũng tẩy tịnh, xỉa răng xong thì quay về thiền đường ngồi thiền. Chưa nghe kiểng không được trở về liệu trước. Trước khi thọ trai không được rửa bát. Trước khi dùng cháo thọ trai, sau khi phóng tham không được mở đơn. Nếu có việc gấp thì bạch với thủ liêu. Ở Tăng đường thì bạch với Thánh Tăng ở chùa. Thọ trai xong không được nhóm họp nói chuyện trong Tăng đường. Không được xem kinh trong Tăng đường, xem sạch, không được không được trên dưới, chính giữa đi xuyên qua thiền đường. Không được xâu tiền trên đơn, không được ngồi duỗi chân trên đơn. Trước đơn một thước là ba tịnh đầu. Giở bát. Đặt ca-sa. Đầu hướng về. Không được đi trên đơn. Không được quỳ gối mở rương hòm, không được chân từ trên đơn đưa xuống đất đạp vào giày cỏ năm điều, khi lên núi không được đi kinh hành trước điện Phật pháp đường. Người xưa nói: Cởi trần vào nhà xí, giày cỏ dạo núi thì không dẫm chân lên pháp đường, qua lại với bậc kỳ cựu. Không đựơc chân không mà mang giày Tăng, không được nắm tay cùng đi nói chuyện phải trái thế gian. Người xưa nói: Riêng mình lìa cha mẹ, bổn sự, hỏi tìm tri thức định làm gì? Không hiểu việc tông môn đã nói, bạc đầu không thành lỗi ở ai? Không được dựa lan can ở điện đường, không được chạy nhanh gấp rút. Người xưa nói: Đi phải bước chậm, tu tập theo oai nghi của Mã Thắng nói: Phải nhỏ tiếng, học theo khuôn phép của Ba-ly. Không được đi dạo chơi trên điện Phật, thọ trai xong giặt giũ y phục không được cởi trần. Không được nghiêng bình chế nước nóng vào áo. Ủi thẳng mặc lại nơi giá áo. Khi rửa chân có tiếng bảng đánh không được tranh nhau. Nếu chân có ghẻ thì rửa sau, hoặc rửa ở chỗ khuất. Các việc đều tùy phương tiện để tránh làm động chúng. Chớ đợi đánh bảng mới thứ lớp quay về thiền đường ngồi tham. Mỗi người đều ra khỏi nửa đơn, bỏ chân xuống đất. Khi giảng đại chúng phóng tham, Thủ tọa đến trước liêu hô kiểng. Lúc này, chúng chuyển mình hướng ra ngoài, phải kịp thời đến thiền đường. Không được đứng bên ngoài thiền đường. Trụ trì, Thủ tọa ra khỏi thiền đường, khai đơn xuống giường thăm hỏi rồi trở về liêu. Các loại dược thạch mỗi thứ để trên bàn, không được trước bỏ vào bát mà ăn, không được lớn tiếng kêu đem các thứ như cháo, cơm, muối ăn, xong ra khỏi liêu, không được đi ra ba cửa. Không được vào trong tiểu liêu. Không được cởi trần quay về Tăng đường và đi vào thôn xóm. Không được đợi đánh bản ra khỏi liêu. Nghe chuông khuya liền chắp tay thầm, tụng kệ: Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ Trí tuệ lớn Bồ-đề sanh, Lìa địa ngục ra khỏi hầm lửa Nguyện thành Phật độ chúng sanh. Trước quay về vị trí đơn ngồi thiền. Không đơn gãi đầu trên đơn. Không được trên đơn lần chuỗi ra tiếng. Không được nói chuyện với người gần bên. Người gần đơn phân tán, lơ là thì nên dùng lời khuyến dụ, không được có tâm hiềm trách chê bai. Sau khi đánh định chuông không được ra vào cửa trước. Khi hầu Thủ tọa sau khi để gối, cẩn thận rồi mới ngủ. Khi ngủ nằm bên phải không được nằm ngửa. Nằm ngửa là thây chết, ngũ dao đông thường hay bị ác mộng, lấy khăn mền bọc ca-sa đặt trước gối. Nay phần nhiều đêm đặt dưới chân là không đúng. Như mở vòi tắm thì nắm tay mặt đi vào cửa sau thăm hỏi rồi quay về chỗ không xá mọi người xong. Trước dùng khăn tay năm điều phơi lên sào trúc, khi tắm thì mở gói đồ ra, lấy đồ tắm để một bên và treo áo lên. Chưa cởi trực chuyết, trước cởi quần, lấy khăn bao lấy thân, kế đến cởi trực chuyết và ngũ điều để một chỗ, lấy khăn tay buộc lại, không được đi chân không vào nhà tắm. Ở chỗ trống đợi theo thứ lớp vào nhà tắm. Không chiếm chỗ ngồi của vị lão túc đầu thủ (nghóa là gian trên) không được lấy nước nóng rưới tung tóe trên thân. Không được xối nước vào chân, không được tiểu tiện trong phòng tắm. Không được gác chân trên thùng. Không được cười nói, không được gác chân trên máng nước, không được tát nước, không được khởi thân xối nước lên mình. Trước sau có người phải che chắn kín đáo. Cước bố không được rời thân, vì có thì nước không văng vào thân. Không được dùng nhiều nước nóng. Nếu có ghẻ thì hơ ghẻ lên lửa, hoặc xức thuốc, sau đó mới vào tắm. Không được tắm trước, không được dùng khăn tay công giới lau mặt, khăn công giới dùng buộc vào sau y để chùi tay sạch rồi đắp y năm điều, ra khỏi nhà tắm thì chào tả hữu. Lên ngồi dựa vách một chút, trước đắp thượng y và trực chuyết, xong rồi mới bước xuống đất. Tay trái cầm khăn tay đưa hai bên rồi đi ra, xem tên của thí chủ cúng nước tắm, rồi thùy theo thời khóa tụng kinh chú hồi hướng. Tháng lạnh đốt lửa sưởi ấm trước, sau đó mới chuyển thân chánh tọa, không được lấy lửa hương đốt chơi. Không được thổi lửa làm cho bay tro, không được dụm đầu nói chuyện, không được nướng vật để điểm tâm.v.v… Không được hơ giày dép y phục trên lửa, không được để trực chuyết lộ ra khởi quần. Không được khạc nhổ và quăng đồ dơ vào lửa. Một ngày giữ oai nghi trong chúng chẳng dám nghe lão chân thành nói để dẫn dụ kẻ sơ học, những việc thăng đường, vào thất, Tiểu tham, phúng kinh niệm tụng, tuần liêu, giải kết nhân sự, trang phục cùng các quy tác Thanh quy nhỏ nhiệm đã trình bày đầy đủ, các vị tôn túc đều có văn nói về việc này. Đây không dám lạm ngôn trình bày đầy đủ ra. <詞>VĂN QUY CẢNH Đại sư Từ Giác Tránh công soạn. Hai quế rã bóng, một hoa hiện điềm lành, tới đây những điều thiết yếu của chốn tòng Lâm vốn là của tăng chúng. Vì để khai thị chúng Tăng nên có Trưởng lão, tiêu biểu cho chúng Tăng cho nên có Thủ tọa, đảm trách việc chúng Tăng thì có Giám viện. Điều hòa chúng Tăng thì có Duy-na, cúng dường chúng Tăng thì có Khúc tọa. Vì chúng Tăng làm việc thì có Trực Tuế. Vì chúng Tăng xuất nạp thì có Khố đầu. Vì chúng Tăng ghi chép thì có Thủ Trạng. Vì chúng Tăng giữ giàn Thánh giáo thì có Tạng chủ. Vì chúng Tăng tiếp đãi tiếp đàn việt thì có Tri khách. Vì chúng Tăng thỉnh mời thì có Thị gia, vì chúng Tăng giữ gìn y bát thì có Liêu chủ, vì chúng Tăng cung cấp thuốc men nước nóng thì có Đường chủ, vì chúng Tăng giặt góu thì có Dục chủ Thủy Đầu. Vì chúng Tăng chống lạnh thì có Thán đầu, Lư đầu. Vì chúng Tăng khất thực thì có Nhai phường Hóa chủ. Vì chúng Tăng làm việc thì có Viên đầu, Ma đầu, Trang chủ. Vì chúng Tăng lau chùi nên có Tịnh Đầu, vì chúng Tăng hầu hạ thì có Tịnh nhân. Thế nên, duyên hành đạo mười phương đều đầy đủ. Dụng cụ giúp thân thì có sẵn trăm thứ, muôn việc không lo, nhất tâm hành đạo. Vật tôn quý ở thế gian không ngoài sự ưu nhàn, sự thanh tịnh vô vị là điều cần thiết nhất của chúng Tăng. Hồi niệm lực của nhiều người nên không biết ân và báo ân, khi thạm tụng chẳng cầu thỉnh, không bỏ chút thì giờ, do đó phải báo trưởng lão. Giữ tôn ty thứ lớp dừng động rõ ràng đó là báo ân Thủ tọa. Ngoài Tôn pháp để giữ gìn quy phạm là bấo ân Giám viện, sáu hòa cùng nhóm, thủy nhũ cùng tham, là báo ân Duy-na. Vì nghiệp thành đạo nên thọ thức ăn nầy, nên báo Khúc tọa. An xử tăng phòng, giữ gìn các vật nên báo ân Trực Tuế, vật của thường trụ thì mảy may cũng không phạm, tới nên báo, ân Khố Đầu. Tay không cầm bút như cứu lửa cháy đầu, cho nên báo ân Thư Trạng, bên cửa sạch xét giáo xưa chiếu tâm, nên báo ân Tạng chủ. Mai danh, ẩn tích không việc truy bồi nên báo ân Tri khách. Một bình một bát xử chúng như múi, cho nên báo ân Thủ liêu. Tâm thăm hỏi bệnh khổ, cháo thuốc tùy nghi, nên báo ơn Đường chủ. Khinh từ tónh mặc không mê muội thủy nhân, nên báo ơn Dục chủ Thủy đầu. Ít nói cung thủ giữ mình nhượng người nên báo ân Thán đầu Lô đầu. Suy xét đức hạnh đủ hay thiếu của mình mà ứng cúng nên báo ân Hóa chủ Nhai phường (láng giềng). Tính công nhiều ít so với kia đem đến, nên báo ân Trạng chủ Viên Đầu Ma Nhai. Châm nước, vận trù biết tàm biết quý, cho nên báo ơn Tịnh đầu. Khoan mà dễ, từ đơn giản mà việc dễ dàng, cho nên báo ơn Tịnh nhân. Phần dưới là đạo nghiệp duy tân của chốn tòng lâm. Căn cơ thượng thượng thì một đời làm xong. Kẻ só trung lưu thì nuôi dưỡng mần Thánh, còn như chưa ngộ được tâm nguyện, thì trong thời đó cũng không luống uổng. Thế nên chân Tăng Bảo là ruộng phước thế gian. Gần thì làm bến cầu cho đời mạt, rốt ráo. Chứng cực quả hai nghiêm. Như chốn tòng lâm không trị, pháp luân không xoay thì chẳng phải nơi trưỡng lão nên làm chúng. Ba nghiệp không điều hòa, bốn nghi không cung kính thì chẳng phải Thủ tọa nên nắm chúng. Không khoạn lượng dung chúng, tâm yêu chúng không dầy, thì chẳng phải Giám viện cho nên hộ chúng. Người tu hành không an, bại quần không đi thì chẳng phải Duy-na, nên làm duyệt chúng. Sáu vị không tinh, ba đức không đủ, chẳng phải Điển tọa cho nên phụng chúng, liêu xả không tu, các vật không đủ thì chẳng phải Trực Tuế cho nên an chúng. Chứa nhóm thường trụ, giảm khắc chúng Tăng, chẳng phải Khố đầu, thì làm Chiem chúng. Thư trạng không công khéo, văn tự chia chẻ chẳng phải thư trạng, cho nên Sức (trang sức) chúng. Bàn ghế không nghiêm, phiền não không dứt, thì chẳng phải Tạng chủ nên làm đãi chúng. Ghét nghèo yêu giàu trọng tục khinh Tăng, chẳng phải Tri khách làm Tán chúng. Lễ mạo không cung kinh tôn ty trật tự, chẳng phải thị giả nên làm Mạng chúng. Đả điệp không siêng năng, thủ hộ không cẩn thận, chẳng phải Liêu chủ nên làm Cư chúng. Không rảnh để cung đãi làm não loạn người bệnh thì chẳng phải Đường chủ, nên làm Tuất chúng. Nước nóng không đủ, nóng lạnh thất thường, chẳng phải Dục chủ Thủy đầu nên làm hoán chúng (giặt giũ). Dự bị không trước, làm động niệm chúng, chẳng phải Lư Đầu Thán đầu, nên làm Hướng chúng, lâm tài không công, tuyên lực không tận, chẳng phải Hóa chủ Nhai phường, nên làm Cung chúng. Đất có di lợi, người không toàn công, thì chẳng phải Trang chủ Viên Đầu Ma, cho nên thay chúng. Biếng nhác đều dát, các duyên khong đủ, chẳng phải Tịnh Đầu thì làm Sự chúng. Cấm không dừng mạng không hành, chẳng phải Tịnh nhân, nên làm Thuận chúng. Như có chung tăng khinh thầy, man pháp tùy duyên giữ tánh, nên chẳng báo ân trưởng lão. Nằm ngồi lật đật, đi đứng trái pháp, nên chẳng báo ân Thủ tọa, ý kinh pháp vua, không nhìn lại chốn tòng lâm, nên chẳng báo ơn Giám viện. Trên dưới không hòa, đấu tranh bền chắc thì chẳng báo ơn Duy-na. tham lam ăn ngon, ghét sự đói lạnh chẳng phải báo ân Điển tọa. Cư xử thọ dụng không nghó đến người sau, nên chẳng báo ân Trực tuế. Đa tham lợi dưỡng, không thương xót thường trụ, nên chẳng báo ân Khố đầu. Sự giữ theo bút nghiên, rong ruổi theo văn chương nghiên nân chẳng báo ân Thư Trạng, khinh mạn văn kinh, xem thường ngoại điển, cho nên chẳng báo ơn Tạng chủ. Truy bồi theo tục só, giáo kết với quý nhân, thì chẳng báo ân Tri khách. Quên việc triệu thỉnh ngồi lâu trong chúng Tăng thì chẳng báo ân Thị giả. Vì khinh mạn người che dấu tội trộm, nên chẳng báo ân Thủ liêu. Đa sân ít hoan hỷ, không thuận theo bệnh duyên, do đó mà không bao ân Đường chủ. Dao nóa ra tiếng, dùng nước không tiết độ, nên chẳng báo ân Dục chủ Thủy đầu. Thân lợi sự ấm mát nên làm chướng ngại cho người, nên chẳng báo ân Lô Đầu, Thán Đầu. Không nghó tu hành, an nhiên thọ cúng nên chẳng báo ân Hóa chủ Nhai phường. Ăn no cả ngày không có dụng tâm. Cho nên chẳng báo ân Trang chủ Ma đầu Viên đầu. Khạc nhổ vào tường vách, bừa bãi Đông từ, cho nên không báo ân Tịnh Đầu. Chuyên chuộng oai nghị xưa không khéo dạy, nên không báo ân Tịnh nhân. Bởi vì gió xoay ngàn vòng còn không xoay vần, chỉ biết bỏ ngắn theo dài, cùng làm việc xuất gia, mong ở háng sử tử đều thành Sư tử. Rừng chiên đàn thuần là Chiên Đàn, khiến cho năm trăm năm sau lại thấy một hội Linh Sơn. Nhưng pháp môn hưng hay phế là ở Tăng đồ, Tặng là ruộng phước, đáng được kính trọng, Tăng trọng thì pháp trọng, tăng khinh thì pháp khinh. Trong đã nghiêm thì ngoài phải cẩn trọng. Dù cho chủ nhân cúng cơm cháo một kỳ, vị chấp sự ở tùng lâm nên quyền biến, nên tùy nghi cung kính đãi như đồng bào, không được tự tôn tự đại. Như thế, người cống cao ngã nạn việc riêng đáp công vạn sự vô thường, há bảo tồn lâu dài. Rồi một sáng cùng chúng quy tụ làm sao đối mặt. Nhân quả không sai, sợ khó tránh được. Tăng vìø Phật tử ứng cúng không khác, nhân gian cõi trời đều cúng kính. Hai thời cơm cháo lý hợp tình đầu. Bốn thứ cúng dường, chớ để thiếu sót. Di âm của Đức Thế tôn còn che con cháu suốt hai ngàn năm nay. Một phần ánh sáng của sợi lông trắng thọ dụng không hết, chỉ biết phụng chúng thì không thể lo nghèo. Tang không có phàm Thánh, chung hội cả mười phương. Đã gọi là chiêu-đề, thảy đều có phần, há lại vọng sanh phân biệt khinh chán khách Tăng. Sáng sớm qua liêu, ba triều quyền trụ tận lễ cung thừa. Trước Tăng đường tạm cầu trai lễ Tâm bình đẳng cúng dường, khách tục còn như chiêu quản. Tăng gia nỡ không đón rước nếu không có tâm giới hạn thì tự có phước vô cùng, tăng chúng hòa hợp trên dưới đồng lòng. Có chuyện dài ngắn thì che giấu lẫn nhau, chuyện xấu ác trong nhà chớ để ngoài nghe. Tuy nhiên đới với sự không thương xót cuối cùng cũng giảm sự cung kính của người. Cũng như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt Sư tư, chẳng phải Thiên ma ngoại đạo làm hoại được, nếu muốn đạo phong không mất, mặt trời thật sáng mãi, Trang Tổ soi sáng ở Tây Vực, lo giúp Thánh hóa Hoàng Triều, nguyện lấy văn này làm quy cảnh. Niệm tụng cho vị Tăng bị bịnh. Có vị Tăng bị bệnh, người cùng quê hương đạo cựu đối với người bệnh phải lo trước tiên. Bày hương đèn, tượng Phật, niệm tụng tán Phật rằng. Nước lắng, trăng thu hiện Khẩn thỉnh ruộng phước sanh Duy có Phật Bồ-đề Là chỗ thật Quy y Nay chính ở tại đây Tỳ-kheo bịnh mỗ giáp Cởi oán đối nhiều đời Sám tội lỗi nhiều kiếp Riêng vận chí thành kính Cúi đầu thanh chúng. Xưng dương Thánh hiệu, Sửa sạch oán sâu Kính nương tôn chúng niệm pháp thân Thanh tịnh Mười hiệu Tỳ-lô v.v… Hồi hướng rằng: Phục nguyện, nhất tâm thanh tịnh bốn đại khinh an, thọ mạng cùng tuệ mạng dài lâu. Sắc thân cùng pháp thân bền chắc. Lại thỉnh tôn chúng niệm Phật mười phương ba đời. Như người bệnh nặng thì mười niệm A-di-đà Phật, lúc niệm trước bạch khen ngợi. Phật A-di-đà chân sắc vàng. Tưởng tốt đoan nghiêm không ai bằng, Lông trắng uốn lượn năm Tu di. Mắt xanh lóng lặng như bốn biển Hóa Phật trong ánh sáng vô số Các hóa bồ-tát cũng vô biên Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh Chín phẩm hàm linh lên bờ kia. Sáng nay vì Tỳ-kheo bệnh mỗ giáp, cởi mở oán đối nhiều đời, sám tội lỗi nhiều kiếp, cung kính cúi đầu thỉnh chúng, xưng dương Thánh hiệu rửa sạch ương sâu. Kính nương tôn chúng niệm. Nam-mô A-di-đà Phật (trăm câu) Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát. Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát, Nam-mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ-tát. (Đều mười câu) Hồi hướng rằng: Phục nguyện, Tỳ-kheo bệnh là mỗ giáp các duyên chưa hết sớm được khinh an, mạng lớn khó tránh, sanh về an Dưỡng mười phương ba đời v.v… Lúc niệm Phật chúng nên nhiếp tâm thanh tịnh, không được phan duyên tạp niệm. Khẩu từ: Đưa bệnh Tăng đến, xưng tên hộ tuổi tác quê quán. Nơi cấp độ điệp làm Tăng, năm nào đến chùa. Nay bị bệnh sợ là phong hỏa không định, sở hữu tùy thân, hành lý hợp phiền, công giới sao hợp, sau khi mất mong được đưa tiễn theo luật Thanh quy của chốn tòng lâm. Ngày tháng năm tăng bị bịnh, mỗ giáp khẩu từ. Vị tăng qua đời, lục lại y bát. Hễ có người bệnh mất, người chăm sóc bệnh liền bạch cới Đường chủ Diên Thọ. Thưa Duy-na xin gói gém hành lý, Hành giả Đường ty đáp Lại Thủ tọa, Đầu thủ, Trị sự thị giả cùng đến chỗ người bệnh, ghi lại khẩu từ. Người nuôi bệnh đồng như người chấp sự, thu thập rương kinh, y vật, lục xét đơn giường, mỗi thứ gọi kín khoá ngoài, phải giữ lại y phục của người mất, các vật cấp dụng, gọi lại để một chỗ, vị đường chủ Diên Thọ cùng người nuôi bịnh đích thân giữ. Hoặc người bệnh khong thể phân phó, vị Duy-na Thủ tọa nên ra sức chủ hành. Không có hành lý cũng phải đừa tống tân lễ. Đơn màn gói lại đừa vào chỗ Thủ tọa gói kín hành lý. Các vị Thủ tọa, Duy-na, Tri khách, thị giả cùng người bốn liêu ra sức khiêng về đường ty. Nếu đơn và hành lý nhiều thì chúng liêu gói lại mang đi, chỉ lưu lại phòng, khố ty sai người trông giữ. Vị Tăng mất trước đã dự nghe vị Trụ trì nói hai chữ cần cựu và không có thư để lại di chúc y vật khi Hòa thượng Đại Xuyên trụ ở Tịnh Từ thì Đầu thủ, Duy-na ngụy làm vị tăng qua đời để lại y vật, từng bị đuổi ra khỏi chùa. Nếu Tăng bệnh nhắm mắt, vị chủ Diêu Thọ đường liền báo với Duy Na, khiến hành giả Đường Ty báo người nấu nước nóng, báo với các vị thủ tọa, tri khách, Thị giả, khố ty sai người đem thau tắm ra tắm cho người chết xong, lấy rượu tắm rửa, lấy khăn tay lau sạch tóc, vị Duy-na đôn đốc người mặc áo và đừa vào quan tài đưa vào nhà Diên Thọ, bày ra bàn ghế và lập bài vị. trên bài vị ghi. Tân viên tịch Thượng Tọa mỗ giáp giác linh hoặc tây đường thì ghi trước trụ chùa mỗ, hiệu thiền sư mỗ chi linh, còn lại tùy chức hiệu xưng hô. Bày đủ hương hoa cúng dường. Đại chúng hiện tiền xướng tụng chú Đại bi, hồi hướng an vị. Ban đêm thì đốt đèn lớn. Hành giả Đường ty dự bị làm phướn hoa liễu tuyết, hành giả trực linh mỗi ngày cúng cơm cháo. Vi tri sự ba thời dâng trà nóng. Ở Điện Đường đốt hương cúng cơm cháo và tụng kinh xong, bãi việc phóng tham, Hành giả Đường ty liền kêu dẫn khách đi trước, vị Thủ tọa dẫn chúng đến trước quan tài. Vị trụ trì đốt hương xong, Duy-na xướng tụng chú Đại bi, hồi hướng rằng: “Thượng lai, phúng kinh công đức, phục vì tân viên tịch, Mô giáp Thượng tọa, trang nghiêm báo địa mười phương ba đời…” Kế là hương nhân xướng chú, Hương trưởng đốt hương. Mỗi ngày cúng lạy ba thời. Trừ hồi hướng công giới xưng hai chữ danh tự, còn lúc, khác chỉ xưng tên một chữ. Hối hướng cũng đồng như trước. Nếu gặp ngày mùng một, rằm và ngày cảnh mạng thì miễn tụng kinh, chưa thể đưa đi chôn. Thỉnh Phật sự: Cầm đèn thì thỉnh vị Trụ trì xướng Phật sư, các việc tiêu khám, khởi khám, khởi cốt nhập tháp, vị Duy-na bẩm với Thủ tọa, bàn bạc y theo thứ lớp thay phiên thỉnh Thủ tọa làm. Chỉ dùng một từ giấy trắng, viết lên đó: Tân viên tịch Thượng Tọa Mỗ giáp người ở Châu mỗ Cầm đuốc, Phật sự… Đương đầu Hòa-thượng Đường Tỳ Tỳ-kheo tên là … Bái thỉnh… cùng các Phật sự khác y theo đây mà viết. Nếu người mất đơn liệu cần cựu y bát ở Tây Đường hơi nhiều thì thêm các Phật sự như tuần trà nóng, chuyển khám, chuyển cốt v.v… Chuyển thỉnh Chủ tọa đơn liêu ở Tây Đường… và các danh thắng sông, núi hồ ao. Duy-na chuẩn bị một bát hương mang đến Phương trượng. Thắp hương lạy một lạy, thừa rằng: Thượng Tọa Mỗ giáp viện tịch, vào ngày này trà-tỳ, thỉnh Hòa-thượng cầm đuốc. Trình nạp thiệp mời rồi thoái lui. Lể thỉnh Đều Thủ cũng đồng. Đường ty đặt sổ, Phật sự để tra cứu luân thỉnh cho đầy đủ. Cổ y (bán y áo cũ) Vị Duy-na giao cho hành giả Đường Ty thỉnh Trụ trì Lưỡng Tự và Thị giả đến Đường Ty, hoặc đến Chiếu đường đối chúng trình qua về bao đồ vật mở lấy y vật ra, bày trên đất trong phòng. Sau đó sai người trình qua Duy-na. Các vị Thủ tọa chiết ra cho trị Khách thị giả ở đơn trên, bày tự hiệu chính là ghi giá trị, ở dưới y phục ghi là tả tiêu. Đưa y vật trên cho vào giỏ, Tùy theo giá trị hiệu y, sai người ghi là Trường tiêu, để lúc dùng xướng y đầy đủ. Phương trượng lập hai hàng thứ lớp ở liêu xá, không cho dùng công dụng làm danh phận mà bỏ các kiện. Thường trụ nếu có sẽ được đắc dụng. Giá trị y phục lấy tiền làm chuẩn, như người mất y bát hơi nhiều. Nên phóng theo giá trị lợi chúng để cầu tiến phước thầm. Đại dạ niệm tụng Đến sớm đưa đám. Cách ngày sau giờ ngọ, hành giả Đường ty thỉnh trụ trì báo với chúng treo bài bị tung niệm. Dự báo với khố Ty sai người cúng thực, phô bày tế diên (trải chiếu để tế lễ). Hương nhân pháp quyến làm văn tế, nạp tiền cho khố ty để hồi tế. Chuẩn bị ba cây hương, dùng để tế trên. Nếu vị Tăng mất là danh đức Đại phương, cần cựu đơn liêu ở Tây Đường, có công với Sơn môn, Trụ trì Lưỡng Tự có tế. Duy-na đọc văn tế, phóng tham xong, đánh chuông nhóm chúng ở Tăng Đường, đến trước quan tài tụng kinh niệm Phật. Vị Tri sự đốt hương và dâng trà nóng. Vị trụ trì đến đốt hương và thỉnh mọi người cùng xuất ban lui thân đốt hương thăm hỏi. Theo thứ tự, trụ trì thưa hỏi trước chuyển qua hàng phía đông thưa hỏi tuần tự đến cuối hàng y theo bổn vị, qua chỗ trống đứng bến phải quan tài. Hành giả Đường ty cầm khóa gỗ đứng dội, xướng Phật sự xong, dùng khoá khoá khám lại. Trụ trì đứng lại vị trí. Duy-na đứng bên trái vái trụ trì Lưỡng Tự. Dâng hương xong, Duy-na hướng về khám niệm tụn. Thiết vì sanh tử giao nhua, lạnh nóng thay đổi là đến, Điện chớp trên không là đi, sóng gió biển lớn. Hôm nay có tân viên tịch thượng tọa mỗ giáp, là đi, sanh duyên đã hết, đại mộng đã dời, rõ các hạnh là vô thường, đó là vắng lặng là vui, kính mong đại chúng trang nghiêm đến trước khám tụng hống danh các Thánh, đưa thanh hồn về tịnh độ, nương nhờ đại chúng niệm pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô. v.v… xướng chú Đại bi, hồi hướng rằng: Công đức niệm tụng phúng kinh từ trên đến đây xin kính vì tâm viên tịch thượng tọa mỗ giá, phục nguyện thần về tịnh ước, nghiệp ở lại trần lao, sen nở hoa thượngphẩm, Phật thọ ký một đời, lại nhọc đại chúng niệm tất cả Phật mười phương ba đời. Vị trí khách xướng tụng chú Lăng-nghiêm, hồi hướng: “Thương lại phú tụng kinh công đức, phụng vì tân viên tịch. Thượng tọa trang nghiêm báo địa. Mười phương tam thế v.v… trụ trì liền quay về đứng hàng đầu phía đông. Bạn đạo sông hồ pháp quyến cùng tự đến tế. Sau cùng tụng chú Đại bi hồi hướng đồng với Tri khách. Đưa người mất (Tống vọng) Phàm khi xuất táng, vị khố Ty dự bị phân bố công việc cho hành giả, dùng củi hỏa thiêu. Sau người chuẩn bị nạo bạt phướn lọng hoa hương, trống nhạc, đèn đuốc. Hành giả Đường Ty đêm trước báo với Trụ trì Lưỡng tự treo bài vị đưa vong. Sáng sớm hôm sau dùng cháo, lại đánh một tiếng kiền chùy nữa thưa rằng: : Bạch đại chúng thọ cháo xong thỉnh quý vị cùng đưa vong”. Ngoài thủ liêu trực đường ra thì tất cả cùng đến, kính bạch. Lại đánh một tiếng kiền-chùy nửa, ra trước chúng Tăng thưa hỏi, kế là thăm hỏi Trụ trì xong, thì theo Thủ tọa di tuần trai đường một vòng, đến ngoại đường quay về nội đường thưa hỏi rồi đi ra. Nếu gặp ngày vía Thánh, không thể bạch chùy, hành giả Đường ty thưa với trụ trì lưỡng tự. Dùng cháo xong thì báo với trai đường. Thỉnh Thủ tọa cùng đại chúng, khi nghe tiếng chuông ở Diên thọ đường tụng kinh. Đánh chuông ở Tăng Đường nhóm họp chúng, Duy-na tụng niệm nên lược niệm khấn rằng: Muốn cử linh khám đến thành lễ trà-tỳ, kính mong đại chúng tụng hồng danh các Thánh. Niệm pháp thân Thanh tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na. Xong thì trụ trì chuyển lên đứng đầu hàng phía Đông. Duy-na bước ra đốt hương thỉnh quan tài đi Phật sự xướng xong, hành giả gọi người khiêng quan tài ra khỏi đầu núi. Như cúng trà nóng chuyển vào Am, thì hướng về khám phải bày ghế hương. Thủ tọa lãnh chúng đứng hai hàng. Duy-na đốt hương thỉnh đợi xướng Phật sự xong thì đi. Nếu không chuyển khám ra tắt ngoài cửa thì Duy-na đứng chắp tay, rồi đọc chú vãng sanh, đại chúng đồng niệm hàng hàng theo thứ lớp chắp tay đi ra. Mỗi người cầm một nhành liễu tuyết. Hành giả đứng sắp hàng ngoài cửa, cúi đầu chắp tay. Đợi Tăng chúng hành lễ xong cũng đi đưa phía sau. Duy-na tùy đi theo khám cùng đưa tống táng. Trà-tỳ: Táng đến đài Niết bàn. Trì sự đốt hương dâng trà, kế đến trụ trì thượng hương trở về vị trí. Duy-na bước ra đốt hương thỉnh trụ trì cầm đuốc Phật sự. Xong thì Duy- na hướng về khám tụng rằng: Hôm nay có Thượng tọa. Tân viên tịch, đã tùy chuyển thuận thân hoằng pháp trăm năm, cũng như con đường tắt về cõi Niết-bàn. Kính mong tôn chúng giúp cho giác Kinh. Nam-mô Tây phương cực lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật, mười niệm xong thì thượng lai xưng dương mười niệm giúp cho vãng sanh. Cúi mong Tuệ cảnh phân huy chân phong tán thái. Khai mở Bồ-đề, hóa giác ý. Trong biển pháp tánh gột rửa tâm trần cấu. Dâng trà ba chén hướng nóng một lò, phụng tống vân trình Hòa-thượng Thánh chúng. Lúc Trị sự niệm dâng trà đốt hương xong, thân xuất ra hơi nóng, biểu thị lễ sơn môn. Duy-na đều hành phi lễ, đọc chú đại bi, Hồi hướng rằng: Công đức niệm tụng phúng kinh trên đây, kính vì tân viên tịch Thượng tọa mỗ giáp, kế đến trang nghiêm báo địa mười phương ba đời tất cả , v.v… Tri khách xướng tụng chú Lăng-nghiêm, hồi hướng đồng như trước. (Nhưng không có hai chữ niệm tụng). Hương nhân pháp quyến phúng kinh hồi hướng. (cũng đồng) Xướng y: Sau khi trà-tỳ, hành giả Đường ty báo với Trụ trì lưỡng tự, thị giả, thọ trai xong đến trước Tăng đường xướng y, báo với chúng treo bài vị xướng y, bày biện mọi thứ trước Tăng đường. Trụ trì Thủ tọa phân ra hai hang đối tọa. Vào cửa mọi người hương về bức hoành đặt trên bàn cao. Trên bàn vẫn để bút nghiên, khánh tên, treo các đồ vật, trên đất bày các đồ vật đầy đơn. Hành giả đường ty báo với Trụ trì lưỡng tự đánh chuông nhóm chúng, Duy-na Tri khách thị giả, cùng vào giảng đường ngồi hướng về bên trong. Hành giả Đường Ty, các hành giả Cung Đầu, khất thực đứng thành một hàng, hướng về Trụ trì lưỡng tự thưa hỏi, lại hướng về Duy-na Tri khách thị giả thừa hỏi xong thì mang gói đồ đặt trước Trụ trì lưỡng tự, ở chỗ vị thủ tọa thỉnh mở gói và trình qua, mở lấy y vật, chiếu tử hiệu sau đó bày ra trên bàn, cái giỏ không để một góc bên trong, vị Duy-na đứng dậy đanh một tiếng khánh niệm tụng rằng: Mây nổi tan mà ảnh không lưu lại Đuốc tàn hết mà ánh sáng tự tắt. Nay đây cổ xướng là dụng nói lên vô thường, kính mong đại chúng phụng vì thượng tọa mỗ giáp giúp cho giác linh vãng sanh Tịnh độ. Niệm pháp thân thanh tịnh Phật Tỳ-lô-giá-na …. Niệm mười hiệu xong thì đánh một tiếng khánh, pháp xướng y vì bẩm theo khuôn phép thường hằng, tân cựu, ngắn dài tự nên chiếu cố, sau khi tiếng khánh dứt thì không cho phép lại hối hận. Kính bạch. Lại đánh một tiếng khánh giơ độ tiệp lên, đối với danh tự vong Tăng, cắt phá ngang rằng: Vong Tăng bổn danh độ điệp nay đối với chúng xin cắt bỏ. Đánh một tiếng khánh, rồi giao cho hành giả, trình cho Lưỡng Ty, Duy-na cởi ca-sa đặt lên khánh, rồi bảo treo lên. Hành giả đường Ty vào thứ lớp mà niêm y vật, trình qua cho mọi người. Duy-na đề khởi rằng: Hiệu này vật này… một xướng bao nhiêu, nhe niêm một xâu thì tự một trăm mà xướng. Hành giả đường ty tiếp lời xướng, trong chúng cũng ứng thanh đồng tụng. Thứ lớp xướng đến nhất quán. Duy-na đánh một tiếng chuông và xướng các hiệu khác đều đồng. Hoặc đồng thanh lẽ ra đồng giá. Hành giả xướng khởi lấy khánh làm độ. Hành giả Đường Ty hỏi danh tự người này. Tri khách viết tên lên đơn (giường) Thị giả y theo tên mà phát phiếu, giao cho hành giả Niêm cung, thay nhau xướng được người, hành gia Cung đầu vẫn thâu y vật để vào giỏ, mỗi thứ xưóng xong thì đánh một tiếng khánh. Hồi hướng rằng: Công đức xướng y niệm tụng trên đây, phụng vì tân viên tịch Thượng tọa mỗ giáp tang nghiêm báo địa, lại lao nhọc tôn chúng, niệm mười phương ba đời, v.v… Gần đầy vì dứt huyên náo, phần nhiều là làm thiếp pháp (Thấy chương Trụ trì) y vật quá ba ngày không lấy là chiếu theo giá, đưa ra bán tạo bản trướng. Trong Tăng Huy ký nói rằng: Ý Phật chế phân y, để cho người còn thấy vật người mất đem phân cho chúng Tăng. Từ đó suy nghó kia đã như thế, ta lại như thế, do đó để đối trị dứt bỏ tham cầu. Nay không tỉnh xét, khi lúc xướng y lại tranh giá um sùm, thật là ngu muội. Nhập tháp: Sau khi trà-tỳ người chấp sự hương khúc, pháp quyến cùng thu cốt lại dùng vải bọc lại để vào hũ đậy kín. Rồi đem về Diên Thọ đường (Trên bài vị bỏ chữ tân). Ngày tụng kinh ba thời. Sau ngọ ngày thứ ba, đem bản trương ra trước Tăng đường, để đại chúng biết (Nếu không hợp thành theo quy thức, là có sự xem thường, phải kính lễ trên dưới và thật hối cải. Làm trái phải chịu đuổi phạt chịu khiển phạt. Trụ trì và chấp sự, phải làm gương để phục chúng, phải bình đẳng trước xong. Hành giả Đường ty báo cho chúng mang tâm bài vị cho vào tro. Sau đó đánh tiếng chuông nhóm chúng mang cốt thỉnh nhập tháp. Nhập xong thì trị sự đóng kín tháp lại. Duy-na tụng chú Đại bi, rồi hồi hướng. Ttrên đây phụng kinh công đức. Phung vì thượng tọa mỗ viên tịch trang nghiệp nhập tháp báo địa, mười phương, Tri khách xướng tụng chú Lăng-nghiêm, Hương nhân tụng kinh hồi hướng đều đồng. Sắc tu bách trượng Thanh quy quyển sáu hết. <篇> <卷>QUYỂN 7 Nghi thức bản trướng (Báng tỉnh sở). Nay đầy đủ là xướng giá vật quả vong tăng Mỗ giáp. Xưng hô y bát, số tiền chi thu dưới hạng (khoản tiền). Thu số tiền một ngàn quan tiền là xướng y sao thâu đến, hoặc có riêng danh mục thâu sao, nêu chép từng thứ một. Chi số tiền là chín mươi mốt quán, là chi hành của bản trướng khai đầy đủ mười lăm quan tiền. Hồi khám, văn ba quan (hồi tế). Văn ba quan (nấu cháo). Một quan đèn dầu trước khám, mười quan giấy bút tạo đơn, phiếm hoa tuyết liễu. Một quan tịnh phát (cạo tóc), hai quan, năm trăm văn, dời khám khiêng vong. Năm trăm quan: Nấu nước nóng. Hai quan: Tắm người chết. Một quan tiền: Trực linh dâng cơm cháo, Năm trăm quan: Khố ty khách đầu báo việc tạo cúng tế. Năm trăm quan tiền. (Đinh treo chiếu cúng tế), năm trăm quan: Quán kế xuất oan diệp. Năm trăm quan. (Kho xuất ra cung cấp để tạo cúng tế), năm trăm quan: Giám trù làm thức ăn. Năm trăm quan. (Khố ty trà đầu dâng trà nước nóng), năm trăm quan: Tham đầu sai hành giả. Hai quan (Hành giả đường ty báo chúng), năm trăm quan: Giám tác sai nhân lực. Năm trăm quan: Phương trượng kêu gọi bưng hộp hương, mười quan: Hành đường tụng kinh. Một quan tiền: Thiếp đường ty hành giả đánh bảng ngoài hành lang, hai quan: Bốn xét Trà đầu cung ứng. Mười lăm quan: Hủy khám, một quan: Đánh bạt. Ba quan trống nhạc, ba quan: Sáu người: Giang, hương, trác, khiêu, phan, đăng. Năm trăm quan: Biểu tuyết liễu sài chi, một quan: Hóa vong. Ba quan: Một hàng người của Phương Trượng theo đưa tang, một quan: Bốn xét nhân lực, giang đăng, trác. Năm trăm quan: Hành giả thiếp đường ty trình y, năm trăm quan: Hánh giả Dường ty xướng y. Năm trăm quan: Niêm Cung Đầu thay nhau xướng giá y Năm trăm quan: Thiếp cung Đầu xướng y. Năm trăm quan: Cung đầu thâu y. Năm trăm quan: Hành giả xướng thực. Năm trăm quan: Thâu cốt. Một quan: Bỏ tro vào hũ. Một quan trực Tháp. Cộng lại số tiền chi, hai trăm bảy mươi quan: Là bản chi phí, rút ra ba bảy quy về thường trụ. Chi một trăm ba mươi lăm quan (là tiền Phật sự). Khai đủ trong hai mươi quan: Cầm đèn. Mười quan: Cầm đuốc Phật sự. Bốn mươi quan: Trấn khám khởi khám, lấy cốt, nhập tháp. Hai mươi quan: Bốn thứ Phật sự niêm yết trên. Ba mươi quan: Duy-na Phật sự sơn đầu. Tri khách thị giả cầm trướng. Mươi lăm quan: Ba thứ Phật sự niêm yết trên. Cộng chi hành. Chi mười lăm quan: Thủ tọa chủ táng, Đô tự áp táng. Duy-na chủ khánh, đều năm quan, cộng chung các chi hành trên. Chi chín quan: Tri khách khai kinh, Thị giả cầm hương, mỗi vị ba quan. Thị giả Thánh tăng tăng thâu xương y bát hai quan. Trực tế giữ lửa một quan, cộng chung các chi hành trên. Chi mười lăm quan: Lưỡng tự phương trượng thị giả Đường ty, sao đáp cổ y tạo đơn, ba lần điểm tâm, hai phần phương trượng. Tính chi phần của kiện trên. Chi hai mươi quan: Phương trượng Lưỡng tự liễm đơn, phương trượng hai phần, cộng chung các chi hành trên. Chi bốn trăm bốn mươi bốn quan, năm trăm xu: Chi cho tiền các kinh, Quán âm đại só, Thánh Tăng phương trượng hai phần. Tăng chúng bốn trăm quan. Mỗi vị một quan. Hành giả Đường ty tùy theo Tăng sấn ở giả và tạm đếnước có bảy mươi chín người, mỗi vị nửa phần, đều năm trăm quan cộng chi hành. Trừ các chi phí quản kiến năm trăm quan. (Thâu công dụng Đường Ty) Trên đấy đầy đủ như trước. Ngày, Tháng, năm. Hành giả Đường ty…. Đầy đủ. Cầm trướng. Thị giả. Mỗ giáp Tri khách. Mỗ giáp. Trực tuế. Tri tiện. Điển tọa. Tri dục. Phó tự. Tạng chủ. Duy-na. Tạng chủ. Phó tự. Thư ký. Giám tự. Thủ tọa. Đô tự. Thủ tọa. Mỗ giáp (Lưỡng tự đều đồng) Trụ trì, giáp. Lập bản sổ bộ, bởi xưa lập thành quy thức tức phải viết trên bản, là để biểu thị không thể dời đổi. Cho nên Tăng mất ở tòng lâm đều có bản trướng (Bản hộ tịch) Khi Tăng mất, lấy tất cả y vật của vị này, đối trước chúng xướng giá để răn chứa tham. Xướng giá được tiền, tức chiếu theo bản chi thu. Ngoài việc chi dụng số tiền đó làm hai mươi mốt ngày, một phần chia quy về thường trụ (một trăm quan) thì lấy ba mươi quán, không đủ một trăm thì không rút phần, còn lại chia đều cho tăng chúng, tiền kinh một trăm thì Phật sự một quan, Phương trượng gấp đôi. Dùng một ngàn quan làm suất thì cứ nêu ra như trước, y theo đó thành cách thức nhiều thì Tăng lên, ít thì hạ xuống, lại lượng theo số chúng tùy nghi mà châm chước (Hoặc cần cựu có ruộng vườn, gạo lúa, phòng xá, giường ghế, nên quy hết về thường trụ, nhưng lượng theo sự xướng y về số tiền bao nhiêu mà bày ra biểu sấn hằng ngày, tụng kinh, xem kinh, thêm tôn trà, nước nóng, các Phật sự chuyển khám cốt, v.v… Chương đại chúng hết ------------------------------ CHƯƠNG THỨ TÁM: TIẾT LẠP Tăng không dùng tuổi đời mà dùng tuổi hạ lạp để phân biệt khác thế tục. Bên Tây vực có ba thời, lấy một thời làm an cư, ra vào đều có cấm ngăn. Phàm khí thiền tụng, đi ngồi đều lấy việc thọ giới trước sau làm thứ lớp. Mà chế ra chín tuần bó buộc trong đạo, lấy ba tuần để doanh tạo các dụng cụ giúp thân, khiến cho trong ngoài đều nuôi dưỡng thân tâm an ổn. Phải khắc kỳ tiến tu, không xả bỏ chút thì giờ nào. Hộ tiếc thân mạng lại kiêm hạnh tu từ nhẫn, tôn chỉ vủa Thánh huấn muôn đời mãi tôn sùng. Mà đất đai bên năm xứ Thiên trúc rộng lớn, nóng lạnh mưa gió, khí hậu không đều. Cho nên kiết chế có khi lấy tháng tư, tháng năm, tháng mười hai, nhưng đều bắt đầu vào ngày mười sáu. Cái gọi là vũ an cư (an cư mà mưa). Nhân địa thì tùy thời, chỉ thích hợp an ổn là được, hoặc gọi là tọa hạ, hoặc gọi tọa lập. Nghóa là giới lạp bắt đầu từ đây. Như nói nghiệm lạp người ngồi thiền trên băng. Nghiệm xét hạnh của người đó giống như băng trong sạch. Hoặc nói chôm người sáp dưới đất để nghiệm xem sự tu của họ thành khuyết ra sao? Loại dâm vu lời nói dùng thường chẳng phải là tương truyền dối trá sao? Vả lại, chỗ tu chứng Thánh của ta không thể thiếu sót há ngoại vật có thể đo lường sự tiến lùi được sao? Nay thiền lâm kiết chế là ngày rằm tháng tư, giải hạ là ngày rằm tháng bảy, nếu trước một ngày giảng về nghi thức hành lễ mà kỳ hạn trong đó được chuyên chí ở nơi đạo nên văn này chỉ nói lược. Cũng tùy theo phương tỳ-ni hoặc nghị tuân không đúng pháp mà không biết là đắc pháp ngoài ý. Ở Trung Thổ lấy mùa đông là bắt đầu ngày một dương. Tuổi (năm) thì bắt đầu tháng tư âm. Sự vật lúc duy tâm thì nhân tình cũng vui theo. Lễ quý ở nơi sự đồng tục, hóa duyên cũng tùy nghi. Lấy kết giải mùa Đông thì năm làm bốn đại tiết. Xoay vần theo quy cách. Chỗ quán chiếu long tượng cao ngất, chủ khách xướng qua lại, lại nghe tiếng rống Sư tử. Lễ văn trật trật chẳng hưng thạnh hay sao? Trước hạ xuất thảo đơn Tòng lâm lấy ngày mùng một tháng ba làm xuất thảo đơn. Thấy ở sau phương trượng có treo bảng, Đường ty y vào giới lạp mà viết số Tăng vào trước là để cho hành giả trình với Thủ tọa, kế đến trình với trụ trì treo hai hàng trước Tăng đường, bày đầy đủ bút nghiên trên bàn. Trong ba ngày, sau khi thọ trai đều đem ra, hoặc có sai lầm thì xin sửa đổi. Bởi phòng lúc đầu thượng sàng, nhất thời sợ có sai lầm, lại chúng phần nhiều có sự rời lạc, đem viết vào sổ bộ này trước phải thảo đơn đầy đủ. Mỗi người phải tự xem bổn danh giới phẩm cao thấp. Gần đây, người ưa thích sự đấu tranh ồn náo, thường cậy mạnh hiếp yếu, tranh hơn danh tự, thị phi đồ mạt lẫn nhau, huyên hoa làm nhiễu chúng, phạm thì bị đuổi, quả là có mạo danh vượt giới, chỉ nên bẩm thọ rõ ràng. Thủ tọa, Duy-na đều đặt ở chỗ trụ trì. Nghị thức thảo đơn Giới phẩm ghi mực đỏ. Tên học ghi mực đen. Giới lạp thanh chúng. Giới Oai Âm Vương. Tôn giả Trần-như. Hòa-thượng đường đầu. Chí nguyên mấy giới. Nguyên Trịnh mấy giới. Thượng tọa mỗ giáp. Thượng tọa mỗ giáp. Đại đức mấy giới. Chí đại mấy giới. Thượng tọa mỗ giáp, Thượng tọa mỗ giáp. Ở trên đầy đủ như trước, nếu có sai xót xin tự sửa cho đúng. Thật may mắn cho đại chúng. Nay là ngày … tháng… Đường ty mỗ cụ. Người mới đến ghi tên điểm nhập vào liêu trà. Người mới đến sau khi nhập liêu, y theo đó mà nạp vào liêu một số tiền bao nhiêu, hầu luân bài ở liêu nguyên, nên ở lại mấy ngày ghi tên lên thẻ bài điểm trà để báo cho chúng biết. Sách chép: Hôm nay, Tỳ kheo mỗ giáp thoái liêu ghi chép ba người, sau người chín người làm đỏ. Đều phải chuẩn bị đầy đủ hộp hương nhỏ, đầy đủ oai nghi, dự bị nêu chúng đứng hầu dưới giảng đường. Tuần trà đầu là đánh bản trước liêu chúng. Chúng đến chào hỏi đón rước quay về vị trí đứng yên. Người châm trà đi từng hàng thăm hỏi, chào xong, phân lò hương trên dưới, người đốt hương nhiều không quá chín người, đi từng ba người tiến đến trước rồi lui một bước. Khi chuyển thân phải nhìn rõ lò lửa phía sau. Từng hàng thưa hỏi tiến đến trước lò lửa xong thì bước lui đứng lại theo hàng. Đó chính là vái hương, đánh hai tiếng bản nhỏ trong liêu, hành trà đi khắp. Bình phải đi xuyên qua giảng đường. Vẫn như trước tiến lại thưa rồi lùi lại đứng vào hàng, thăm hỏi gọi là vái trà. Đánh một tiếng bảng nhỏ thâu ly, Đại chúng đứng dậy, liêu nguyên bưng là hương ra đốt tước người điểm trà, thay đại chúng nói lời cảm tạ trà. Mọi người đến chỗ đồng thời chắp tay cảm tạ. Liêu nguyên về lại vị trí, người châm trà lại đi từng hàng thưa hỏi. Đánh ba tiếng bảng trước liêu, đại chúng cùng hòa-nam rồi giải tán. Liêu nguyên theo lệnh của trà đầu mà thỉnh người châm trà đến dâng trà, đem trà đưa vào kết các liêu. (Nguyên trong ngày, nương vào giới đầy đủ gọi là điểm giới lạp trà. Hành lễ đều đồng như trước). Xuất đồ trướng. (Biểu đồ hộ tịch) Thảo đơn đã định. Đường ty y theo giới lạp mà viết biểu đồ Lăng- nghiêm, biểu đồ tuần đường niệm tụng, biểu đồ Bi vị, biểu đồ bát vị. ( Nghi thức trước sau đều thấy) bia ghi giới lạp chỉ có biểu đồ bát vị, nên phân ra mười sáu bản (còn lại tùy theo Tăng đường lớn nhỏ, không câu nệ). Trừ cần cựu thủ tọa đơn liêu ở Tây đường, ngoài đầu bản nêu ra, các việc khác đều y theo giới lạp. Người cũ thì y vào Mông đường mà sắp xếp phó bát. Sau nhân vì cạnh tranh nên không xếp nữa. Rồi y vào giới luật thứ lớp thảo bổn đầy đủ trình lên Thủ tọa, sau đó trình qua trụ trì xem xét định ra phương thức viết đồ biểu. Lại trình lên chánh bổn, chỉ có biểu đồ bát vị. Tấm biểu đem dán sau cửa trước giảng đường. <詞>SÔI. CHÚNG LIÊU KẾT GIẢI RIÊNG VÌ CHÚNG ĐÃI NƯỚC (Phụ kiến tán Lăng-nghiêm) Đầu tháng tư đợi chúng đến Phương trượng từ tạ việc đăng ký xong. Đồ trướng của Đường ty đã xong, Liêu nguyên y theo giới mà bày kinh vào hợp, biểu đồ. Trà nóng thăm hỏi, bia ghi giới lạp thanh chúng. Khi nhập liêu theo thứ lớp ghi thẻ bài để cạo tóc, trong hạ đem bình trà nóng rót ra chén mời (Huynh đệ hết duyên tùy ý ghi tên) Bản đồ về đại chúng khi thành thì kính lễ, cùng ra khỏi giảng đường. Sau ngọ ngày mười hai, hành giả Đường ty cùng trụ trì lưỡng tự báo cho chúng các liêu treo bảng tụng kinh. Liêu nguyên quét dọn, chúng liêu dự bị đầy đủ sau khi trạng kiến, dán ở gian dưới trước liêu, thỉnh tôn chúng cả liêu, đặc biệt đem trà nóng bày ra chiếu, đặt trước Quán âm thiết lễ cúng dường. Khoảng giữa trên dưới lập đài đốt hương, thắp đuốc. Liêu nguyên dự bị nấu nước đưa đến Phương trương, và bảo trà đầu phân đến các liêu, cùng đánh bản nhỏ trong liêu. Trước giảng, tiểu tọa thang cũng lập chiếu bài. Đặc biệt vì liêu chủ phó liêu tụng Lăng-nghiêm, người ở hàng đầu đem bình trà đi mời thỉnh trưởng liêu quang bạn vác rồi ngồi, cùng đốt hương vái hương, quay về chỗ ngồi dùng nước nóng xong, mời đánh bản mời Thủ liêu và đại chúng vào ngồi. Thỉnh Duy-na, Thị giả, Quang bạn cùng liêu nguyên phân ra thứ vị, liêu Trưởng đứng đối diện, đại chúng y vào giới chia làm bốn bàn vị, liêu chủ, liêu phó chia bán hành lễ, đều đi tuần thăm hỏi. Khi nhập tọa vái tọa, đốt hương vái hương, đánh hai tiếng bảng trong nội liêu, rót nước nóng mời mọi người, lại đánh một tiếng bản thâu ly tách. Xong liêu trưỏng đưa lò hương ra trước, tạ ơn nước nóng. Đánh ba tiếng bản trước rồi trở về chỗ ngồi. Lưỡng tự đi vào liêu, các vị thủ tọa cùng đốt hương rồi quay về vị trí. Liêu nguyên đứng lên phải ngoài cửa, đón rước Trụ trì vào đốt hương, liêu nguyên đứng ở cuối bạn Tây tự, bước ra đốt hương lễ lạy và tụng chú Lăng-nghiêm, hồi hướng xong, liêu nguyên đưa Trụ trì trở ra, ngày mười hai tháng bảy cũng lễ đồng như vậy. Trạng thức Tỳ-kheo thủ liêu là mỗ giáp, bên phải mỗ khải lấy, chiều nay đến liêu nấu nước xong, một trung đặc biệt, tôn chúng cả liêu liêu tinh, nghi thức mỗ chế kính mong, đại chúng từ bi đồng dũ lòng: Quang giáng kính trạng. nay ngày… tháng… Tỳ kheo giữ liêu là mỗ trạng, khả lậu Tử trạng thỉnh, tôn chúng cả liêu, Thiền sư Tỳ kheo giữ liêu mỗ, kính trạng. (Hình vẽ) <大>卐 <大>卐 Hội Lăng-nghiêm Ngày 13 tháng tư bắt đầu khải kiến, sau khi Đường ty dự chiếu viết biểu đồ giới lạp cho đại chúng vào ngày tắm Phật, các đồ trướng này đều được bày trước điện, thỉnh thư ký viết lời sớ. Duy-na trước lựa người có âm thanh đứng đầu xướng Lăng-nghiêm, đẫn đến phương trượng khố ty thưa hỏi. Đều thỉnh điểm tâm. Duy-na Quang bạn đến viết kệ hồi hướng: (sau khi thấy kệ, thật hiểu rõ quy chế của Thiền sư). Thiếp treo trên trụ hai bên trái hữu của điện. Có chỗ thấy khắc bia thì treo bia hành giả Đường ty đêm trước đã báo với chúng rằng: Sáng sớm sau khi dùng cháo xong, các vị oai nghi đến đại điện khải kiến phúng kinh hội Lăng-nghiêm. Rồi đi đến các liêu trao bản tụng kinh. Hôm sau khi dùng cháo xong lên điện bày biện các thư xong. Báo với lưỡng tự, kế báo với trụ trì, tự đánh bản trước liêu chúng. Tuần tự đi khắp nơi kêu. Phương trượng đánh bản, Trụ trì bước ra đánh ba tiếng bản lớn tại khố đường (nhà kho), đánh chuông lớn tại chánh điện và Tăng đường. Trụ trì đến trước Phật đốt hương cúng trà nóng xong quay về Duy-na chào trụ trì lưỡng tự xuất ban đốt hương. (đại chúng không lạy theo quy cách cũ mà theo cận thời). Nghóa là đại chúng đồng lạy ba lạy trụ trì quỳ trước lò hương. Ngày vía Thánh Phật đản sanh cũng lạy như vậy, không biết noi theo là gì. Vốn chỉ có đại chúng lạy và trụ trì quỳ lò hương, đọc sớ chúc Thánh thọ và báo ân Phật. Do đó phải nghiêm lễ để biểu thị đắc trọng. Hội Lăng-nghiêm được an cư. Đối với lễ có thể sát, nếu không thì từ cựu được chấp nhận. Bạch Phật tuyên sớ xong bắt đầu xướng Lăng-nghiêm, chúng tụng hòa theo, vẫn xướng tiếng Phạm xướng niệm kinh xong thì tụng chú. Chú xong tụng Ma-ha, chúng hòa theo. Duy-na hồi hướng rằng: Công đức phúng kinh, trên đây hồi hướmg thật tế chân như trang nghiêm vô thượngPhật quả Bồ-đề, bốn ân đều báo, ba cõi đều giúp, pháp giới hữu tình, đồng viên chủng chí tất cả mười phương ba đời, v.v… Sau khi tiểu thức xong, đơi chúng đắp y. Hành giả Đường ty thưa lưỡng tự, kế đến thưa trụ trì, sau đó đi tuần hành lang đánh ba tiếng bản. Trụ trì bước ra thì đánh ba tiếng bản không ra thì không đánh, Đánh chuông ở Tăng đường bảo điện, không đánh đại chung, nhóm chúng tụng chú Lăng-nghiêm đầu xướng kệ hồi hướng khắp. Đại chúng đồng thanh niệm. Nếu gặp mùng một, ngày rằm thì chúc lễ Thánh thọ, Duy-na hồi hương đến bảy ngày. <大>卐 (Ngày 13 cùng tán lễ, chỉ có vị Lăng-nghiêm đầu, xướng niệm chú ở phần cuối. Duy-na hồi hướng rồi giải tán. Kệ hồi hướng khắp: Tạm dịch: Chúng Tỳ-kheo hiện tiền trên đây Phúng tụng chú bí mật Lăng-nghiêm Hồi hướng chúng trời rồng hộ pháp Thổ địa già-lam và các Thánh Ba đường tám nạn đều lìa khổ Bốn ân ba cõi đều đượm ân. Quốc gia an ổn tan chiến tranh Gió mưa hòa thuận dân an vui Đại chúng huân tu mong thăng tiến Vượt lên Thập địa không nạn sự Sơn môn yên tịnh, không kẻ ngu Đăn tìn quy y thêm phước tuệ Tất cả Phật mười phương ba đời. Tất cả Bồ-tát Ma-ha tát Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Lời Sớ (khải kiến): Vàng do tinh luyện nhọn mà chẳng bén. Gương được lau chùi thì toả sáng không mờ. Bậc tiên Thánh biết cản cơ cao thấp, vì chúng sanh mà phá hoặc nhơ nhiểm. Ma-đăng-già vui mừng, diệu hiệp ninh quyền. Thế tôn, Văn-thù đặc biệt làm sáng tỏ khuôn phép hóa độ, mở rộng giáo quán một đời thì hữu quán giáo hữu, bày mật nhân tu chứng mà vô tu vô chứng. Thấy rõ chân kiến mà dứt các trần, Hoa đốm không có đài. Ở chỗ chánh định để chế ngăn quần động. Ngăn nước không sóng, nhìn lại làm sao biết dòng dõi cuối, Tụng vi ngôn mà tự răn nhắc. Phục nguyện rút ngắn hằng hà sa kiếp thành một niệm, trường kỳ vô gián, hội mười phương cõi nước để đồng cư, đều thành Chánh giác. Nhìn vườn rừng này còn rõ ràng, kỳ hoàn tịnh xá hiện tiền hải chúng nghiễn nhiên, một hội Linh sơn, bao gồm Đại Thiên trong hạt bụi. Dung ba đời trong đương niệm Thuộc tự tứ vào lúc thôi hạ Vô phạm thì không trì Gồm muôn tượng để giáo tham Bia giới lạp Ai phàm ai Thánh Người người Diệu giác Cõi cõi Tỳ-lô Thị hiện trăm ngàn ức thân, Siêu vượt năm mươi bảy vị Dùng chỉ dụ chỉ mà không chỉ Chỉ cũng đều mất. Tợ không, chứa không mà hợp không Không có thể hướng Vì thương xót kẻ ấu tró, Đặc biệt khích lệ, người ngu muội Niêm vâng theo di giáo để thọ trì, Nhờ an cư vô chướng Phục nguyện, xa-ma vắng lặng, Đầy đủ các cửa trần lao Đại dụng phồn hưng, Đều nhập định Thủ-lăng-nghiêm. Đường ty, Thị ty chúng liêu dự bị y vào giới lạp để viết ra. Đến sau ngọ ngày 1 4.bia Đường ty bày ở gian trên của Tăng đường. Bia Thị ty bảy gian dưới của pháp đường. Bia chúng liêu nêu ở trong liệu, đều chuẩn bị bàn hương đèn đuốc cúng dường, đại chúng thắp hương lễ lạy, sau đó các nơi gỡ bia đem đi. Tiểu tọa nước nóng ở Phương trượng. Bốn tiết giảng hành xét cổ thì có ba tọa thang (ngồi uống nước nóng). Tọa thứ nhất chia làm hai xuất, đặc biệt là ở Đông đường, Tây đường thinh Thủ tọa. Quang bạn tòa thứ hai chia làm bốn xuất, đầu thủ một xuất, Tri sự hai xuất, Tây tự cần cựu ba xuất, Đông tự cần cựu bốn xuất, Tây Đường Quang Bạn là tọa vị thứ ba, phần nhiều là sáu xuất. Bổn sơn làm việc các nơi làm việc, tùy chức cao thấp phân tọa, chức đồng là kế đó. Thủ tọa quang bạn Thị ty chuẩn bị đầy đủ thảo đồ. Trình cho Phương trượng bàn định, đến ngày thì y theo danh thư mà chiếu bia. Sau giờ ngọ bày đủ bàn khăn, làm một, hai, ba tòa, để ở gian dưới của Tâm đường (nhà nghỉ) ở trước Đông tây đường, Thủ tọa đường, Đô tự đều thỉnh khách thị giả. Các nơi đều đến các liêu lễ lạy thỉnh mời. Thỉnh Hòa-thượng Đường đầu chiều nay đến Tâm Đường, đặc biệt dâng nước nóng. Vị Đầu thủ khác thì biện sự về danh thắng, Phương trượng khách đầu hành giả thỉnh mời v.v… Hòa-thượng phương trượng tham thỉnh trước đến tẩm đường, đặc biệt dâng trà nóng. Nơi tẩm đường có treo bài vị, đốt đèn thắp hương xong. Hành giả khách đầu mời thị giả, kế báo với Phương trượng đánh trống, khách nhóm trung ở tòa đầu, được thị giả tiếp rước đến trước Trụ trì thưa hỏi, y theo chiếu bài mà lập định nhập vị, thị giả đốt hương thỉnh thị giả khách, đặc biệt vì người trước. Tuần tự thăm hỏi mời ngồi rồi trở về chỗ. Thị giả đốt hương thì tiến về trước đốt hương, rồi quay về vị trí và mời thị giả khách tuần tựu thăm hỏi thắp hương. Khi nghe tiếng bản thì tuần tự đi khắp mời nước nóng, thị giả thắp hương tiến lên đốt hương cho Quang Bạn, nghe một tiếng bản thì thâu ly tách, năm tiếng bản thì lui về chỗ ngồi. Tam tọa hành lễ cũng đồng như vậy. Chốn tòng lâm lấy việc dang trà nóng làm lễ lớn. Gần đây phần nhiều vì tranh chấp vị trí cao thấp mà không còn thỉnh nữa. Trụ trì ra sức thực hành, lão thành giang hồ cũng ra sức làm theo, để cho người sao biết mà cẩn trọng. Tiểu đệ chủ, một đệ chủ, ba một đệ chủ, ba năm một tọa, một hai ba Đồ tọa bạn, hai tọa bạn, bốn hai tọa bạn, bốn sáu hai. Bốn Tiết Niệm Tụng Ở Thổ Địa Đường (Nhà Thổ Địa) Hễ gặp ngày vía, thì sau giờ ngọ vào ngày mồng một nên trang nghiêm thiết lễ cúng dường ở Thổ địa đường. Bày bàn hương án đèn nhang, lò hương. Hành giả đường ty báo cho chúng treo bản niệm tụng. Đánh bản tuần tự theo hành lang, chúng nhóm chung đứng đối diện trụ trì đến trước tổ đường, kế đến đốt hương ba lạy ở đại diện. Đánh ba tiếng bảng rồi đóng hồng chung, Trụ trì đốt hương rồi quay về vị trí. (Đại chúng quay đầu về phía Trụ trì chắp tay tiếp rước, thị giả theo sau, nên chắp tay mà đi qua. Đốt hương trở về chỗ, Hành giả đánh bạt, Duy-na xuất ban thượng hương xong, niệm tụng hồi hương. (Xem ở sau). Bốn tiết niệm tụng hồi hương. Thiết vì, gió huân thổi đến thôn dã, lửa đốt đến ty phường này, nên Pháp Vương cấm túc hộ sanh cho Thích tử. Cung thỉnh đại chúng đến chỗ linh từ, tụng trì hồng danh muôn đức. Hồi hướng cho hiệp đường Chân tể, cầu nguyện che chở an cư, kính mong đại chúng đồng niệm… Thiết vì, gió kim thổi thôn dã bạch đế ty phương, nên Giác hoàng giải chế, pháp tuế chu viên. chín tuần vô nạn, cả chúng đều an. Tụng trì hồng danh muôn đức, nghinh đáp hợp đường Chân tể, kính mong đại chúng niệm, v.v… Thiết vì, thời gặp năm xấu mưa gió thất thường, nên khi ánh dương đến thì muôn loài phát sanh. Cung nghinh đại chúng tề tựu đến linh từ, tụng trì hồng danh muôn đức, hồi hộp hương đường Chân tể. Ngưỡng mong đại chúng niệm, v.v… Thiết vì, hòa công ngầm xoay vần tuể lịch gọi là khắp, cùng vui an bốn chữ, sẽ khải mừng ba dương. Cung nghinh đại chúng đến linh từ túng tri hồng danh muôn đức hồi hướng hợp đường Chân tể. Kính mong đại chúng niệm , v.v… Công đức niệm tụng trên đây hồi hương đương sơn thổ địa, các vi hộ thần già-lam, hợp đường Chân tể. Kính mong thần lực hiệp tán, phát huy lợi lạc. Phạm uyển siêu tát, mãi vui vô tư, lại lao nhọc tôn chúng niệm tất cả mười phương ba đời,v.v… bốn tiết đều đồng. Tứ tiết khố ty đặc biệt vì thủ tọa đại chúng đâng nước nóng. Niệm tụng xong thì đến Tăng đường giảng lễ, Đô tự chuẩn bị thọ trai xong thì có bản nước nóng, thấy ở sau. Tức khiến cho hành giả Khách đầu chuẩn bị khăn gói, lò hương, mọi mgười đến trước, Thủ tọa niệm hương lạy một lạy, thưa rằng: Tối nay đến Vân đường, đắc biệt vì Thủ tọa đại chúng dâng trà nóng, kính mong các vị từ bi đặc biệt quang giáng. Rồi trình lên với Thủ tọa tùy theo bổn liêu, Trà đầu thứ lớp giáo cho Cung đầu. Dán ở gian dưới trước Tăng đường. Khố ty, Khánh đầu báo theo rằng: Bái thỉnh nước nóng xong đến chỗ dùng bữa chiếu. Đô tự mang hương đến chỗ phương trượng lạy một lạy và thỉnh: Tối nay đến vân đường, đặc biệt châm trà nóng cho Thủ tọa đại chúng, kính mong Hòa-thượng từ bi nạp thọ. Khi phân phó cho khách đầu, thỉnh các liêu cần cựu Mông đường đều mang bản châm nước nóng. Thỉnh rồi bày chiếu bài ở trước Tăng đường, mời Thủ tọa và các trụ trì ngồi đối diện đại, chúng ngồi ở khoảng trên dưới. Sai hành giả chuyên trực để tiếp đãi người. Niệm tụng xong, liền đánh một hồi trống thọ trai, đại chúng trở về chỗ bát. Một ban Đầu thủ đến trước bản. Đô tự đi vào vái thủ tọa trở lui, Thủ tọa theo đưa rồi quay trở lại. Sau đó theo sau Thánh Tăng, ra ngoài giảng đường rước trụ trì vào tăng đường. Cung đầu đánh bảy tiếng trước giảng đường, đưa trụ trì nhập vị, đến ngồi trước chỗ tọa vị, vẫn như trước xuất từ bản Thủ tọa. Đứng dậy đi tuần theo giảng đường một vòng. Khoảng trên dưới ngoài giảng đường, trở về đứng trong giảng đường thăm hỏi chúng tọa, tiến tới trước thắp hương. Kế từ đường bên ngoài của hai gian trên dưới trở về chỗ hương hộp an nguyên. Trụ trì liền thăm hỏi các vị ấy. Ở trên nói thăm hỏi trước Trụ trì, vẫn đi tuần thăm hỏi một vòng, và từ bên ngoài đường trở vào trong đường thăm hỏi rồi đứng một bên, đánh hai tiếng chuông trước giảng đường lại mời trà nóng cho Trụ trì và mọi người. Kế là hành đại chúng nước nóng khắp từ trong bình ra, Trụ trì đặc biệt thăm hỏi mọi người. Trên là nêu trước Thánh tăng, lạy ba lạy, vẫn đi quanh thiền đường một vòng, ra ngoài đường đi tuần xong. Dẫn mọi mgười vào trước mặt trụ trì hành lạy ba lạy, ban đầu bày rằng, hôm nay nước nóng thô, đặc biệt tắm gội, từ bi giáng trọng. Hạ tình không ngăn nổi cảm kích. Lại bày rằng: Ngay hôm nay là lúc khiến cẩn trọng, cúi mong Hòa-thượng đường đầu tôn hầu đi ở nhiều phước. Lùi lại xúc lạy ba lạy xong, chuyển thân dẫn từ sau Thánh tăng mà chuyển, bên phải ra khỏi đứng trước giảng đường, vị Thủ tọa tùy theo sự tiếp xúc mà lạy một lạy để tạ ơn dùng nước nóng, lại từ gian trên nhập vào vị đặc biệt Đô tự lại trở vào trong thắp hương (là cơm chiều), và thoái lui. Hành giả Đường Ty nói rằng: Thỉnh đại chúng hạ bát. Hành giả tiến chỗ Trụ trì, đặc biệt vì người, đại chúng mở bát (Đầu thủ không hạ bát, Khố ty chuẩn bị đưa bát. Hành thực cơm chiều xong, đánh ba tiếng bản thoái tọa, Phương trượng dự bị treo bảng miễn nhân sự nói rằng: Vào ngày vía mỗ cùng ngày nhân sự lên pháp đường, miễn dến phương trượng, cúi mong chúng đều trụ núi mỗ, kính bạch gian trên Tăng đường, không đánh chuông phóng tham,đều xuất cứ từ thương khúc y, đến bản đều lễ bái, bốn tiết đều đồng, chỉ có mùa Đông dùng nước nóng xong mới dùng cơm chiều. Bảng nước nóng. Khố ty tối nay đến Vân đường dùng nước nóng đặc biệt vì đại chúng Thủ tọa. Đây là nghi thời tiết liêu tộc. Phục vọng cúi mong đại chúng từ bi đồng thùy từ quang giáng, hôm nay Tỳ-kheo khô ty là mỗ, v.v… kính bạch Kết chế lễ nghi (phần kết nói về chế lễ nghi). Đến năm ngày cùng lưỡng tự đại tiểu cần cựu, làm việc giang hồ, hương khúc pháp quyến tiểu sư cùng đến phương trượng niệm hương tiến lễ, nếu thấy trước Tăng đường có bảng miễn nhân sự thì không cần đến. Thị giả đến Phương trượng sai hành giả báo chúng treo bia ở thượng đường. Tiểu thực xong, trụ trì nói pháp, sau nói rõ hành lễ trước sau như sau: Hạ tọa trước cùng nhân sự Tây đường lạy một lạy. Kế là cùng nhân sự đại chúng Thủ tọa cả hai cùng lạy ba lạy. Tri sự trước quay về khố ty, thủ tọa dẫn đại chúng đến khố ty. Nhân sự cùng lạy ba lạy. Thủ tọa quay về Tăng đường ở gian phía trước. Ở hậu đường thông lãnh đại chúng quay về gian dưới ở Tăng đường cùng nhân sự thủ tọa xúc lạy tam lạy xong, y vào niêm lập biểu đồ phúng tụng. Thủ tọa lãnh chúng, tuần tự đi vào giảng đường đứng yên. Thủ tọa rời chỗ đến trước Thánh Tăng thắp hương lạy ba lạy, đi tuần đường một vòng rồi trở lại, hành giả thưa rằng: Thủ tọa lễ tạ đại chúng, cùng xúc lạy ba lạy, tuần đường một vòng, cho đến bài vị bản đầu của Thánh Tăng. Hành giả nói rằng: Tri sự lễ tạ đại chúng, xúc lạy tam lạy không ra ngoài giảng đường. Trụ trì đi vào thiền đường đốt hương đại lễ ba lạy tuần đường một vòng rồi quay về; Hành giả nói rằng: Hòa-thượng đường đầu cùng nhân sự đại chúng cùng xúc lạy ba lạy. Lại nói rằng: Đại chúng phổ đồng tác lễ xúc ba lạy, thứ lớp đi tuần liêu. Hành giả hạ tọa tức lập bàn đốt hương án viết một chữ bài lên đó. Xong đến Tây Dương tiến lại nhân sự, kế Tri sự đến cắm hương. Đầu tiên nói rằng: Lần an cư này được phụng khăn bình chỉ nương pháp lực giúp giữ nguyện không nạn sự. Lại bày rằng: Vào ngày đầu hạ chỉ thời cung duy Hòa-thượng đường đầu tôn hầu đi ở nhiều phước. Thoái lui cùng lễ ba lạy Trụ trì đáp một lạy. Kế là Thủ tọa lãnh chúng cùng đến nguyện hương. Cần cựu các liêu đều theo sau lần lượt niệm hương, đại chúng trở về, trụ trì ngồi xếp bằng. Thị giả tiểu sư nguyện hương lễ lạy. Kế là hành giả cùng cắm hương lễ lạy. Tiếp theo Tác đầu đưa các vị lão lang thẳng đến sảnh đường tham lạy. Thủ tọa lãnh chúng đến chỗ nhân sự khốty xúc lạy ba lạy. Thủ tọa hậu đường lãnh chúng quay về gian dưới tiền đường lập định. Thủ tọa tiền đường ở gian trên, hành giả Đường ty nói rằng: (Đại chúng cùng thủ tọa nhân sự) cùng đối xúc ba lạy. Y vào biểu đồ mà lập tụng niệm, thủ tọa lãnh chúng đi tuần khắp nội đường rồi quay về. Thị giả tạm đi tuần nữa giảng đường. Thị giả đứng sau khám của Thánh Tăng. Thủ tọa rời chỗ đến chỗ Thánh Tăng đốt hương, lạy ba lạy rồi đi tuần một vòng. Lại vị nói rằng: Thủ tọa lễ tạ đại chúng, cùng đối xúc lạy ba lạy. Tri sự đi vào đốt hương lễ lạy tuần đường, xong bày bảng đầu ở chỗ Thánh Tăng nói rằng: Tri sự lạy ba lạy xong không ra khỏi giảng đường, Trụ trì đi vào đốt hương lễ lạy tuần đưởng rồi quay về chỗ. (Tiểu sư nên tránh, bước ra phía sau cửa giảng lễ xong trở lại vị trí rót trà). Yết rằng: (Hòa thượng đường đầu cùng nhân sự đại chúng) Cùng xúc lạy ba lạy, nói rằng: Đại chúng cùng chung làm lễ. Rồi xúc lạy ba lạy. (Theo quy tắc cũ, tri sự sau khi ra khỏi giảng đường thì trụ trì bước vào, chưa hề đáp lễ được tri sự, vì lễ không đâu không đáp lại. Gần đây Hòa-thượng Hy Tẩu, Hòa-thượng Nhất Sơn đều giảng hành như thế. Tri sự thoái lui ra ngoài thiền đường, thị giả đi theo sau. Đại chúng cùng ngồi, thị giả bước vào thưa hỏi chào ngồi. Tiến vào bên trong lò hương. Mùi hộp hương với chỗ an nguyên. Khi trở lại bước vào trong thưa hỏi, xong quay về vị trí. Đánh hai tiếng chuông. Ngưòi hành trà đi châm các bình trà và thưa hỏi như trước. Đánh ba tiếng chuông giải tán bước ra. Trụ trì theo thứ lớp tuần liêu. Các liêu nghiêm lập bàn hương ghế ngồi, đứng ngoài cửa hầu vị trụ trì. Đi tuần từ đông lang của liêu thứ nhất, đi qua bàn hương trước các liêu. Thủ liêu đồng niệm hương với chúng rằng: Hôm nay lễ lạy chúc mừng lại tắm gội giáng trọng. Niêm hương rằng: Hôm nay lễ hạ, chuyên tâm chí tạ. Tất cả đưa trụ trì đi vài bước lại đứng bên phải bàn hương, chắp tay thưa hỏi đợi chúng đi hết, rồi đi vào hàng cuối cùng. Chúng các liêu đi tuần phía sau, đến trên pháp đường trụ trì đứng trong bàn hương. Đại chúng ba người dẫn một, thưa hỏi bước qua. Đi tuần đến đứng bên bàn hương của bổn liêu, các vị y vào thứ lớp chắp tay đứng yên. Đi tuần xong các nơi thì giải tán, Bốn mùa đều như vậy. Bốn mùa cầm phất Lúc Trụ trì tiểu tham thì bạch: Đến sáng khi thọ trai xong thì thoái lui, phiền các vị Duy-na, thị giả đô tự, cùng đến chỗ Thủ tọa lau quét bia, mỗi nơi đều lạy thỉnh, đến tối thì vì đại chúng cầm phất quét dọn. Hôm sau khi thọ trai xong thì trở ra thắp hương, thị giả dẫn các vị khách đầu, Hành giả, Độ Tự, Duy-na… cùng đến các liêu, thắp hương lạy một lạy, thưa rằng: Hòa-thượng phương trượng có từ chỉ, khiến các nơi đến lau chùi bia, chuyên lạy thỉnh này, tối nay vì đại chúng cầm phất. Mỗi mỗi thỉnh xong, Thủ tọa y cứ đồng thọ thỉnh. Đầu thủ đưa cho hành giả chủ trượng việc quét bia. Mọi người theo đến phương trượng bẩm từ. Trụ trì hết lời khuyến thỉnh rồi tiễn ra. Thủ tọa xoay mình nói rằng: Tôn mạng đã nghiêm thì không được từ khước, xin mượn pháp tòa cúi mong từ bi, xưa nay cầm phất trần nhiều lập tòa riêng. Nay tu tập là thường, hậu côn không hiểu biết. Kế đến chỗ thị giả đốt hương, mượn trống pháp người cầm phất khiến hành giả trà đầu, thỉnh thị giả thiền khách Thánh Tăng, đốt hương dâng trà xong rồi bạch rằng: Tối nay bỉnh phất xin phiền thị giả thắp hương thăm hỏi thiền khách. Lại bảo hành giả treo bảng bỉnh phất trước Tăng đường. Phương trượng thỉnh người bỉnh Phất dược thạch, miễn đến đưa tiễn hành giả Đường ty bày biện pháp tòa, bên tay trái bày lưới võng. Lập chỗ cho trụ trì. Lúc chuông chiều thì hành giả mời người bỉnh pháp, kế đến mời người bỉnh pháp, kế là mời trụ trì đánh một hồi trống nhóm chúng. Đồng với lễ tiểu tham, Trụ trì trở về đứng yên. Đô tự, Duy-na, Thị giả cùng qua trước người bỉnh phất thưa hỏi. Người cầm phất thường đến trước Trụ trì thăm hỏi, kế là thăm hỏi Tri sự đi đến cuối hàng rồi đến đồng ban, thăm hỏi, cũng đi tuần đến cuối ban, liền giơ tay, thăm hỏi khắp đại chúng, xong lên tòa ngồi yên. Thị giả cầm phất và thị giả phương trượng cùng bước xuống tòa thăm hỏi lưỡng tự Tây đường thứ lớp thăm hỏi. Trụ trì hỏi thăm người cầm phất rồi trở lại tòa và nói - thị giả đến thỉnh Hòa-thượng đường đầu ngồi kiết già. Thị giả cầm đuốc đến trước vị Trụ trì thưa hỏi, rồi lên tòa thắp hương, xong lui về chỗ. Người cầm đuốc thưa hỏi giải đáp trình bày giềng mối và từ tạ phương trượng cùng lưỡng tự cần cựu, đại chúng các liêu xong thì nêu công án tiểu tham của Phương trượng, hoặc niêm hoặc Tụng, xong thì bước xuống tòa. Trụ trì tiến đến thăm hỏi rồi trở về chỗ cũ, kế đó người cầm phất lễ đồng như trước. Bỉnh phất xong, khách đầu phương trượng xướng thỉnh dùng trà như lúc tiểu tham. Người bỉnh phất liền ôm hương đồng đến chỗ phương trượng bái tạ và cùng ngồi dùng trà nóng trái cây. Hôm sau, phương trượng thỉnh dùng trà như Đô Tự sắm sửa trai diêm cùng thỉnh trà, điểm tâm nửa thời. Ngày khác lại thượng đường từ tạ quan đãi. Hoặc thỉnh lập bản ở Tây đường, bỉnh phất vào đêm thứ hai, lúc trụ trì tiểu tham có vài lời khuyến thỉnh nêu lên, tùy ý niệm tụng công án lần lượt kích dương con đường này, gần đây lại noi theo tập tục rườm rà làm cho người chán nghe, thủ tiêu sự hiểu biết. Bởi bỉnh phất là dùng pháp để thí, nếu vâng theo nghi này chỉ là nêu danh chung, hoặc lược qua là đủ. Phượng trượng vì Thủ tọa đại chúng mời trà trong tứ tiết. Sau khi dùng tiểu thực, thị giả thỉnh khách sau khi nhìn thấy bản tả trà thì bày đủ đèn đuốc nhang dầu và đến liêu đốt nhang, đảnh lễ thỉnh rằng: Thỉnh Hòa-thượng đường đầu sau khi dùng cháo sáng nay, đến điểm trà ở Vân đường, kính mong Hòa-thượng từ bi hứa khả. Dán bản trình nạp ở gian trên của tăng đường, hành giả khách đầu thỉnh các vị thủ liêu và Tri sự, Quang Ban mang bia điển trà. Đánh bảng lớn thị giả thỉnh khách vào Tăng đường, thắp một nén hương cho Thánh Tăng, lạy ba lạy, rồi tuần đường một vòng, thăm hỏi rồi trở về. Nghóa là đi tuần đường thỉnh trà trước Tăng đường bầy ra chiếu bài. Thủ tọa cùng Trụ trì đối diện. Thượng thủ Tri sự cùng trụ trì tạo vị duy- na kế đó. Tri sự được mọi người phân thứ ngôi vị rồi đánh chuông nhóm chúng. Thị giả đốt hương hành lễ, thủ tọa thì tạ ơn Trụ trì mời trà. Cả hai bên cùng lạy ba lạy. Đầu tiên nói: Đây là bữa tiệc trà đặc biệt, hạ tình không ngăn nổi cảm kính. Lại bày rằng: Hôm nay là cung duy, Hòa-thượng đường đầu đi ở nhiều phước. Thoái lui đảnh lễ ba lạy, Trụ trì đều một lạy, y cứ đó mà dừng, đến khi xúc lễ thì đáp một lạy. Thủ tọa đi từ phía sau bên phải Thánh Tăng mà ra. Trụ trì đưa rồi trở về. Thị giả thắp hương, đánh chuông, thâu bát, đánh trống rồi trở về chỗ ngồi cũng đồng như thế. Thủ tọa trước đến Pháp đường, đợi Trụ trì lạy ta, miễn thì thăm hỏi. Bảng thức Sáng nay Hòa-thượng đường đầu sáng khi tiểu thực liền đến vân đường uống trà. Thủ tọa đặc biệt vì đại chúng liêu tộc mà cung thỉnh theo nghi thức, các vị Tri sự đồng thùy quang giáng hạ. Khố ty đặc biệt vì thủ tọa, đại chúng mời trà trong tứ tiết Hôm sau gặp ngày vía, sau khi dùng cháo, khố ty có bảng trà. (đồng với nước nóng), thỉnh trà báo cho chúng treo bảng. Đánh hồi bảng dài, đi vào Tăng đường thỉnh trà đồng với thi giả, thọ trai xong thì bày chiếu bài, đánh trống nhóm chúng. Vái tọa vái hương vái trà, đi tuần đường thăm hỏi, Trụ trì đến trước từ đường làm lễ, đồng với lễ nước nóng. Tiền đường tứ tiết đặc biệt vì đại chúng hậu ở đường mời trà. Ngày thứ ba gặp ngày vía Thủ tọa bày đầy đủ tiệc trà đến hậu đường thủ tọa các liêu và đến phương trượng thỉnh trà giảng hành, lễ nghi, ngày thứ tư cùng khố ty thỉnh trà, chỉ thiết lập thêm vị thứ Tri sự. Trà trạng Thủ tọa tiền đường là Tỳ-kheo mỗ sáng nay dùng cơm xong đến Vân đường dùng điểm tâm trà. Thủ tọa hậu đường đại chúng theo nghi tiết liêu tộc mời thỉnh các Tri sự cùng đến ngày… tháng… này đủ vị mỗ trạng, khả lậu tử, trạng thỉnh, Hậu đường thủ tọa đại chúng, đủ vị, kính phong. Tuần đường trà vào mùng một, ngày rằm. Trụ trì lên giảng đường nói pháp xong, bạch rằng xuống tòa tuần đường dùng trà: Đại chúng đến Tăng đường trước, nương vào đồ biểu lập ra mà niệm tụng. Kế đến tuần nhập vào nội đường, tạm cùng thị giả tùy chúng đi tuần. Sau khi đến khám Thánh Tăng hướng về ngồi đối diện với thị giả. Đại chúng đi tuần xong về ngồi yên, đánh bảy tiếng chuông trước giảng đường, Trụ trì đi vào thắp hương, tuần đường một vòng rồi về vị trí. Tri sự vào giảng đường cũng thăm hỏi Thánh tăng chuyển thân Trụ trì tiến đến thăm hỏi. Theo tiến bản của Thủ tọa đi tuần một vòng. Thị giả cũng theo sau tri sự mà ra. Thị giả thắp hương cúng vái thưa hỏi: Đợi chúng ngồi yên. Rồi tiến đến trước thắp hương và cả thượng hạ ngoài giảng đường. Trước ở gian dưới, sau lên gian trên hộp hương d8ạt ở chỗ cũ. Đốt lò thăm hỏi vái hương xong, trở về nguyên vị, đánh hai tiếng chuông, hành trà trình đi ra, lại thăm hỏi như trước, vái trà rồi lui. Đánh một yiếng chuông thâu ly tách. Đánh ba tiếng chuông, trụ trì bước ra khỏi giảng đường. Thủ tọa, đại chúng thứ lớp bước ra. Hoặc bức bách tha duyên, hoặc trụ trì tam không đến, chúng dùng cháo xong đến ngồi dùng trà, thị giả hành lễ đồng như trước. Phương trượng điểm hành đường trà. Ngày tiết lạp ở Tăng đường dùng trà xong, Thị giả cùng khách đầu đến hành đường châm trà. Khách đầu dự báo với Tham đầu treo bảng điểm trà để báo chúng. Rót nước ra tách thỉnh Điển tọa, Quang bạn, Phương trượng dự tống trà. Thị giả đến khố ty, Điển tọa tiếp vào. Đường chủ, Tham đầu lãnh chúng hành giả ra cửa đón rước. Thị giả ở ngôi chủ vị thay thế trụ trì, điển tọa ở bên phải, thị giả bước ra thắp hương, Đường chủ Tham đầu đưa ra cửa, liền đến phượng trượng tạ lễ tiệc trà. Đầu thủ, Khố ty điển hành đường trà. Khố ty hầu Phương trượng châm trà xong, Tri sự đến hành đường, châm trà cho Tri sự ở chủ vị. Điển tọa phân tay hành lễ đồng với thị giả của Phương trượng, đưa ra cửa và nói. Tham đầu đại chúng đến Khố ty tạ lễ trà. Khách đầu khố ty báo rằng: Tri sự truyền ngữ miễn tạ trà. Đầu thủ hầu châm trà ở Tăng đường xong, bảo hành giả đường ty báo cho Tham đầu treo bia báo chúng. Thỉnh Điển tọa, Quang ban hành lễ (cùng ra cửa với khố ty, tạ lễ hay miễm cũng đồng). Nên biết về nguyệt phân (Phân về tháng). Tháng giêng, có chỗ nói vào ngày mùng một. Mùng 4: Đại chúng hành đạo phúng kinh cầu nguyện, kế là đầy đủ môn trạng. Đàn việt quan viên đến các chùa chúc năm mới. Ngày 17 giỗ ngài Bá Trượng. Tháng 2: Mùng một trong tăng đường bế lò, hoặc chùa núi cao lạnh thường câu, ngày 15 Phật Niết-bàn. Tháng 3: Đường ty xuất thảo đơn, ngày thanh minh đàn việt cúng lễ tháp các tổ ở Tổ đường, dự báo quét dọn cúng dường đầy đủ, nhóm họp chúng lại tụng kinh. Tháng này treo bảng cấm lên núi rừng hai trà non. Tháng 4: Mùng một, ngày Phật đản sanh khố ty chuẩn bị nấu cơm đen, Phương trượng thỉnh đại chúng, Điểm tâm trước hạ, ngày mười ba lập hiệu Lăng-nghiêm. Ngày mười lăm kết chế. Tháng 5: Sáng sớm ngày đoan ngọ, Tri sự đốt hương, châm trà xương bồ trong Tăng đường. Tri sự thứ lớp lập hội Thanh miên. Đường ty chuẩn bị đến các liêu xem kinh tụng kinh đơn, Trực Tuế xem xét lại các nơi cho ngay ngắn. Nạo vét kênh rạch sông ngòi. Phương trượng đi đến các liêu, các am tháp, các nơi đều châm trà nóng. Trong Tăng đường treo trướng. Tháng 6: Mùng một ngày rất nóng bức, thủ tọa miễn đánh bản ngồi thiền. Đường ty nhập phục, quét dọn đê điêu, khôi đầu hoặc Đường ty đập than đá. Tháng 7: Tuần đầu Đương ty chuẩn bị mở hội Vu-lan-bồn, các liêu xem tụng kinh đơn. Dự xuất tiền bạc nấu cơm cúng dường. Ngày giải 13 tán hội Lăng-nghiêm ngày mười lăm giải chế, nên miễn lập hội Vu-lan-bồn, tụng kinh thí thực. Tháng 8: Mùng một khai lễ sớm, Tri khách dị bị giặt giũ giường chiếu trong liêu. Tháng này tu bổ bổn sắc nạp y chưa y cứ khởi đơn, Tăng đường thâu trướng. Tháng 9: Mùng một Thủ tọa lại đánh bản ngồi thiền. Đường ty sửa chữa cửa sở Tăng đường, hạ màn lạnh, treo màn ấm lên. Sáng sớm ngày trùng dương, Tri sự đốt hương châm trà thù du. Trụ trì thượng đường, cho phép các nơi đến tham kiến. Tháng 10: Mùng một khai lò ở Phương trượng, giỗ tổ Đạt-ma Tháng 11: Ngày 22 giỗ Đế sư, mùa Đông đến Khố ty dự bị hoa quả. Tháng này ban chức sự hoặc tiến lùi, hoặc tại tuế tiết (năm mới) phương trượng thỉnh đại chúng đến điểm tâm trước mùa Đông. Tháng 12: Mùng 8, ngày Phật thành đạo Khố ty chuẩn bị làm hồng tao, cuối năm kết trình sổ sách các mầu. Chương lạp tiết. Hết Sắc tu bách trượng Thanh quy.  <卷>QUYỂN 8 CHƯƠNG CHÍN: PHÁP KHÍ Đời thượng cổ có hóa mà không có giáo, hóa không đủ mà lễ lạc làm gì? Việc ca kích nhưỡng, không bằng tấu cửu thành, việc uống oa gôn không bằng thưởng thức rượu mờ tối biếng nhác. Nhưng văn sanh ở chất quý ở gốc. Bậc Thánh ở Thiên-trúc đầu tiên khai thị giáo hóa, cho rằng tánh diệu giác nơi mỗi người vốn không có phàm Thánh, vật toàn chân đâu có tịnh uế. Không nhờ tu chứng, cũng không dính dáng tới công dụng. Nhưng kẻ mê mờ hoang mang tự đánh mất, như người đui điếc. Thế rồi Ngài tùy cơ lập ra giáo pháp đánh Kiền-chùy, để nhóm hội chúng giảng nói Ba Tạng. Tụ tập thiền định cho đến bốn mươi chín năm hóa nghi mới hết. Chử kiền chùy là tiếng Phạm, là tất cả những vật phát ra âm thanh như ngói, gỗ, đồng, sắt. Như chuông, khánh, linh trống, chùy bản, loa bối. Chốn tùng lâm đến nay vẫn bắt chước theo chế ấy mà ứng dụng, để cảnh tỉnh người mờ tối biếng nhác. Thành kính dẫn dắt chốn u trệ để hòa cùng thần nhân. Còn như đại định thường ứng đại dụng thường tịch, nghe chẳng hề nghe, giác cũng chẳng giác, để khảo để kích phát huyền phong thối nát, không tư lự, không tạo tác, giáo hóa ngày càng vững chắc. Ung dung nơi cõi nhân thọ, là đô thành thanh thoát. Chuông Chuông lớn trong tùng lâm là hiệu lệnh giúp bắt đầu. Sáng sớm đánh chuông thì phá tan đêm dài, cảnh tỉnh sự ngủ mê. Tối đánh chuông thì thức tỉnh sự mịt mờ, tăm tối. Gióng phải khoan thai thì âm thanh mới du dương (ngâm dài). Gồm ba hồi, mỗi hồi có ba mươi sáu tiếng, tổng cộng một trăm lẻ tám tiếng, khi bắt đầu ngưng thì ba tiếng hơi tiếng, Hành giả hô chuông phải tưởng niệm kệ rằng: Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới Thiết vi tăm tối thảy đều nghe Văn trần thanh tịnh, chứng viên thông Hết thảy chúng sinh thành Chánh giác. Vẫn xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, dù niệm dù gióng thì lợi ích rất lớn. Gặp ngày vía xem kinh, lên chánh điện xuống chánh điện. Ba tám niệm tụng Phật Đản, thành Đạo, Niết-bàn. Kiến lớp, giải tán hội Lăng nghiên, tụng linh, trai phạn, quá đường do người định thời, mỗi thời mười tám tiếng. Còn nếu tiếp rước quan chức bậc Trụ trì tôn túc, thì không nhất định số hạn, việc này do Khố Ty phụ trách. Chuông Tăng đường hễ nhóm chúng thì đánh, gặp lúc trụ trì quang lâm Tăng phòng thì hộ bảy tiếng. Lúc cơm cháo xong xuống phòng, lúc xả tham. Buổi chiều đi tuần phòng uống trà, xuống đơn mỗi việc đều gióng ba tiếng. Có khi trụ trì không vào thiền đường, hoặc nghỉ ngơi thì không đánh, niệm Phật một tiếng lúc trước thiền đường tụng niệm. Hò nhẹ một tiếng, cuối cùng gióng một tiếng. Việc này do Đương ty phụ trách. Chuông trên Chánh điện gióng bảy tiếng lúc trụ trì đi nhiễu hương vào buổi sáng chiều. Hễ nhóm chúng trên chánh điện trì phải phối hợp với chuông ở thiền đường đánh với nhau. Việc này do Tri điện đảm trách. Cảm Thông Truyện chép: Lúc Phật Câu-lưu-tôn trụ viện Tu-đa-la ở Thiên-trúc có tạo một quả chuông đá xanh. Khi mặt trời mọc thì các vị hóa Phật xuất hiện theo ánh mặt trời, thầm nói mười hai bộ kinh. Người nghe pháp chứng Thánh nhiều không thể tính kể. Kinh Tăng Nhất A-hàm chép: Như lúc đóng chuông tất cả các khổ trong đường ác đều dừng. Lại Kim Lăng chí nói: Có một người dân chết giấc xuống âm ty, thấy có người cột người ở củi gỗ, bảo rằng ta là Tiên chủ của Nam đường, vào đời Tống Tề có giết nhầm một kẻ ở châu Hòa mà đến nỗi này. Mỗi khi nghe tiếng chuông thì khổ của ta tạm ngưng. Nhớ ông về báo lại với đức vua kế vị hãy đúc chuông cầu nguyện cho ta. Người dân trở về tâu đủ việc ấy với vua sau. Nhân đó mà vua cho đúc quả chuông ở chùa Thanh Lương, khắc rằng: Tiên liệt tổ hiếu cao hoàng Đế thoát u đồ, ra khỏi nguy ách. Bản: Bản lớn dùng để gõ ba hồi dài và hai thời ăn cháo sáng và quá đường trưa, sau khi gõ vào bảng ba tiếng nhập hai tiếng. Đó gọi là trường bản, niệm tụng Lăng-nghiêm, răn nhắc đèn thuốc mỗi thứ đánh ba hồi. Báo canh thì tùy theo thứ lớp canh mà đánh. Phương trượng, Khổ ty, Thủ tọa liêu và cái liêu đều có treo một cái bản nhỏ. Giờ chỉ tịnh đánh một hồi dài. Lúc thức gõ ba tiếng, trong ngoài liêu chúng đều có bản. Bản ở bên ngoài mỗi ngày lúc đại chúng nhóm họp thăm hỏi thì đánh ba tiếng. Lúc Ngồi thiền, ngồi tham đều đánh ba tiếng. Đợi chúng trở về Tăng đưòng thì lần lượt đánh. Lúc châm trà thì đánh một hồi dài. Bảng bên trong khi chúng về liêu phòng thì đánh ba hồi. Lúc đêm trà đổ ra chén thì đánh hai hồi, dọn chén trà thì đánh một tiếng. Khi xuống tòa đánh ba hồi. Khi ngồi xuống trà đánh một hồi dài. Mõ: Hai thời cơm cháo đánh hai hồi dài, phổ thỉnh chúng Tăng đánh một hồi dài, phổ thỉnh hành giả hai hồi. Tương truyền rằng: Con cá đêm ngày thường tỉnh, nên khắc hình tượng cá vào gỗ để đánh, là vì thức tỉnh sự mê muội. Chùy: Hai thời cơm cháo mở bát trong Tăng đường. Niệm Phật xướng thực biến thực, thí tòi bạch chúng đều ho, việc này do duy-na đảm trách. Lúc xuống khỏi trai đường do thị giả của Thánh Tăng ho, Tri sự lúc báo lui, lúc thỉnh Tri sự cũng hô. Khi trụ trì vào viện khai đường sắp nói pháp. Bậc Thượng thủ ở các núi hô, gọi là Bạch chùy. Một hôm, đức Thế tôn thăng tòa đại chúng nhóm tập ổn định, Văn-thù bạch kiền- chùy rằng: Lắng nghe, pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như vậy, Thế tôn bèn xuống tòa. Khánh: Lúc ở đại điện thì sớm chiều Trụ trì, Tri sự hành hương. Lúc đại chúng xem kinh, tụng kinh trì chú, thì ở ngang trên chánh điện mà đánh, xướng theo lời khoá lễ. Việc này do Duy-na đảm trách. Lúc hành giả phủi tóc thì do tác phạm xà-lê đánh, cây khánh cầm tay nhỏ lúc hành giả đi đâu thường mang theo, gặp chúng Tăng tụng linh thì đánh. Là phép tắc khởi dừng. Nạo bạt: Duy-na tiếp đãi Trụ trì, lưỡng tự lúc xuất ban dâng hương. Lúc ở chánh điện chúc tán chuyển luân thì hành giả đánh, gặp lúc đưa tiễn người mất, hành giả cạo tóc, đại chúng hành đạo, lúc tiếp đãi Tân trì vào viện đều hô. Trống: Trống Pháp hễ khi Trụ trì thượng đường, tiểu tham, phổ thuyết, nhập thất đều đánh, phương pháp đánh trống lúc thượng đường là ba hồi. Trước tiên nhịp hai tiếng nhẹ tồi mới đánh mạnh tay một hồi dài khoan thai khiến cho tiếng trống khẩn hoàn luyến nhau, nặng nhẹ tương ứng nhau. Âm thanh du dương, như tiếng sấm mùa xuân. Hồi thứ hai kéo tay trống dài rồi lơi ra chuyển hồi thứ hai, lúc hồi trống dài ra không để ngớt tiếng bèn chuyển qua hồi thứ ba. Một mặt chuyển liên tục đến khi trụ trì thăng tòa mới dứt trống. Hai dùi đánh liên tục ba hồi. Lúc tiểu tham đánh một hồi phổ thuyết năm tiếng, vào thất ba tiếng, đều phải đánh chầm chậm. Tống trà đánh một hồi dài do thị ty đảm trách. Trống ăn quá đường ba hồi. Còn lúc thượng đường chỉ nhấp vài cái hơi gấp mà thôi. Trống phổ thỉnh đánh một hồi dài, trống chuyển canh sáng tối đều đánh ba hồi bình thường. Còn những canh khác tùy theo thứ lớp mà đánh. Do Khố Ty đảm trách, đánh trống bốn hồi lần lượt đợi chúng mà đánh, do Tri dục đảm trách. Các pháp trên phải theo thường lệ mà làm, đừng để mất pháp độ. Nếu Trụ trì mới vào viện thì các pháp khí đều đánh lên một loạt. Kinh Kim Quang Minh chép: Bồ- tát tin tưởng đêm mộng thấy trống vàng dáng nó rất lớn, chiếu sáng rực rỡ, giống như ánh sáng mặt trời. Trong ánh sáng ấy, Ngài thấy Chư Phật mười phương ngồi tòa lưu ly dưới các cây báu. Nói pháp cho trăm ngàn quyển thuộc vây quanh các Ngài. Có một người giống như Bà-la- môn lấy chày gióng trống phát ra âm thanh lớn. Âm thanh ấy là tiếng nói pháp, sám hối kệ tụng. Khi Bồ-tát giật mình tỉnh dậy đến chỗ Phật, thưa lại với Phật những điều ngài thấy trong mộng, như trống vàng và kệ sám hối. Lại, Kinh Lăng-nghiêm chép: Này A-nan! Ông lại nghe trong vườn Kỳ-hoàn này thọ thực xong thì đánh trống, nhóm chúng thì đánh trống, âm thanh chuông trống lần lượt tấu lên liên tục. Ý ông nghó sao? Những điều này là do âm thanh vang đến bên tai, hay do tai đến chỗ âm thanh? Hết chương Pháp Khí <詞>BÀI MINH VÀ LỜI TỰA Về Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách trượng xứ Hồng châu đời Đường. Tướng só Lang Thú Điên Trung Thị ngự sử Trần Tường soạn. Thư tín châu Ty hộ tham quân viên ngoại. Trí đồng chánh Viên Vũ Đực hoàng chép. Tinh sao giăng bủa, dáng núi sừng sững, tang môn thượng thủ là Thiền sư Hoàn Hải, thất ở đây, tháp ở đây. Môn đệ của ngài sợ núi lở hang sụp thời gian sẽ làm phai kỷ niệm. Nên nhờ các nhà nho khắc bia để ghi nhớ. Chánh giáo ở phương Tây truyền vào Trung quốc, dùng sáu độ của Ngài để xét năm thường của Trung quốc. Chuyển ác về thiện khác nẻo mà cùng mục đích. Chỉ có một tông thiền-na mà vượt qua sanh tử. Bậc đại trí tuệ mới đạt được pháp này. Từ Kê Túc đến Tào khê đã ghi rõ rằng: Tào khê truyền cho Hoài Hành Nhạc Quán Âm đài Hoài Nhượng. Hòa-thượng Quán Âm truyền cho Hòa-thượng Đạo Nhất ở Giang tây. Tịch truyền cho Đại sư. Việc truyền thừa ở Trung Quốc trải qua chín đời. Đại sư Thái Nguyên họ vương, người ở truyện Trường Lạc, Phúc Châu Viển Tổ vì vào niên hiệu Vónh Gia có loạn nên dời đến mân ngung, đại sư vì nhân duyên lớn sanh ra thời tượng quý. Gá bào thai mà mùi tanh hôi tự mất. Lúc sắp sanh nhiều điềm thần dị xuất hiện, khi thành niên thì linh Thánh biểu hiện. Chẳng phải đã gieo trồng cội đức từ xưa thì đâu có được như vậy. Thế phát với Hòa-thượng Tuệ Chiếu ở Tây Sơn, đến lúc thọ giới cụ túc với Luật sư Pháp Triều ở Hành Sơn bèn than rằng: Muốn gột tẩy nguồn vọng phải vân du nơi biển pháp, dù duy tâm chứng cũng phải nhờ ngôn thuyên. Thế là ngài đến Lê giang xem đọc kinh tạng, nhiều năm không để mắt tới đình vũ đã được Đại Tịch tâm đắc tâm ấn, lời lẽ sâu mầu phong thái điềm đạm thầm tú. Người thấy liền sanh lòng kiính ngưỡng, luôn hạ thấp nhúnnhường. Không gần gũi danh lợi nên trong văn bia của tiên sư đac biệt nêu rõ đức hiệu, hòa mình với chúng cho nên ôn nhân bổ lực phục vụ đòng với sự gian khổ của Ngài. Vì oán thân đều quên hết, vứt bỏ những thói quen cũ, hiền ngu tóm thâu nên truyền khắp cho người đến học. Thường lấy ba thân vô trụ, muôn hạnh đều không, tà chánh đều bỏ, nguồn dòng đều sạch. Dùng giáo chỉ này để làm khuôn phép cho người. Lời Phật nói đây là đốn môn, môn đồ của đại tịch rất nhiều bậc tài giỏi xuất chúng. Có vị tiếng tăm vang lừng, thấy cả linh kỳ. Có vị hóa đô cả một phương, đều làm an định quận nước. Chỉ có Đại sư ưa chuộng nơi thanh vắng, ẩn cư chốn núi non, bỏ danh lợi mà đức hạnh cao hơn. Vân du một mình mà học đồ vô số. Ngài có tài nghiên cứu giảng dạy rất tuyệt về môn Thiền học. Dính mắc chưa dứt bỏ, không hữu còn ngăn ngại, chứa đựng tất cả muôn dặm giữ chắc một lời lưới nghi bủa giăng, gươm trì dứt sạch. Từ đời Tè Lỗ yến, vùng Kinh Ngộ Mân Thục ngưỡng vọng lúc về truyền nhau, đưa đến no đủ. Siêu nhiên huyền giả thời chính người này. Đại sư lúc đầu ở thạch môn, bên tháp đại tịch. Lúc đó nối địa vị thầy, trùng tuyên thượng pháp, sau đó do chúng quy tập ý ở nơi xa xăm núi Bách trượng sừng sững mọc lên một vùng. Người, mây bốn dứt. Nếu muốn xây dựng phải đợi đàn na. Y Bồ Tắc Du sướng cam trịnh thỉnh cúng nhà trên núi nguyện làm hương đạo, bao bọc xung quanh cúng thí vô số, chúng lại vượt vào sơn môn. Nhưng vì đất linh thiêng xa xăm mà chí thì có hạn. Vào ngày 17 tháng giêng niên hiệu Nguyên Hòa thứ chín chứng diệt trên giường thiền, thọ 66 tuổi hạ lạp 47 năm. Vào ngày 22 tháng tư năm ấy phụng di hài của sư về nhập tại Tây Phong. Theo văn luận Tỳ-bà-sa vâng đi chúc chúng cách côn cất của Bà-la-môn tịnh hạnh, lúc đầu bạch quang cách thất kim tích minh không. Linh khê mới vào xuân mà dòng đã cạn, đèn thông thắp trọn đêm để chiếu sáng. Diệu đức thầm cảm ở đâu không có. Môn nhân Pháp Chánh v.v… từng bẩm phụng đều được điều nhu. Thay nhau phát huy không làm sai lời phó chúc, nhiều năm phát triển tự sẽ truyền khắp. Môn nhân kể lại nhớ hoài ân sư để khắc vào tháp miếu, dọn đất chất đá hết sức khổ nhọc. Môn nhân thần hành, phạm vân kết tập lời mầu của thầy thành ngữ bản. Học giả đời nay ai không bước vào đây phụng thờ Pháp sư. Lúc đầu, luật sư Linh Ái ở Môn Việt, giáo tông một xuyên, ba học quy ngưỡng, có lần hỏi về Phật tánh có hay không. Đại sư dụng ngụ ngôn để giải thích. Nay cùng với ngữ lục ấy cùng lưu lại cho hậu học vang khắp phủ Giang Châu, họ nếm trọn pháp vị của Đại sư nên không nhượng số đông. Văn ấy chép: Bậc đại hùng thiết lập giáo pháp có quyền có thật chưa đắc đốn môn đều là thất tối. Tổ sư dừng lại mới truyền bí mật, nếu kể kia nhiều hôn ám thì tạm bày (là một). Nhưng bậc Đại só này mở rộng Chánh tông, tuy tu chiếu hạnh nhưng không trụ chân không. Không nhờ phương tiện, đâu đợi mài giũa. Điềm nhiên quay về cội muôn cảnh viên thông (là hai).Trăm nghìn người hết bệnh khổ, kia đều có đắc, ta thật không nói, tâm vốn bất sanh, hình đồng bày diệt, cõi này tro tàn, phương kia trăng nước (là ba). Pháp truyền người nối, tháp đóng sơn nguyên, sáp tùng dù tắt, chùa tháp vẫn còn học đồ đông đúc ai cũng vào cửa. Chỉ có năng giác chiếu là báo ân thầy, vào ngày mồng ba tháng mười niên hiệu nguyên hòa thứ mười ba lập bia đại chúng đồng ghi năm việc, đến nay vẫn còn. Có thể làm tấm gương giới, đều chếp bên trái, Đại sư đã thị tịch, nhưng chưa thỉnh Viện chủ, ngày càng đông, đề nghị cải cách sơn môn. Thời hian lâu mới quyết định và đặt năm điều. Tháp viện thường thỉnh một đại Tăng và sai một sa đi quét dọn. Trong địa giới không được có đài ni, tháp ni và người thế tục ở chung. Phải có y chỉ và đông hành xuất gia phải bảo chúng nương theo vị Viện chủ. Tàng chúng không được thọ lãnh riêng. Ngoài đài và các nơi không bố trí trang viên ruộng vườn. Đại chúng ở trên núi không được chứa riêng tiền tài trong ngoài. Muốn thanh lọc nguồn tâm thì phải lắng nơi gốc. Thì kẻ hậu lai nối tiếp từng nguyện tôn sùng. Ngày dựng bia đại chúng đồng ghi Bách Thượng Sơn Đại Trí Thọ Thánh Thiền tự Thiên hạ sư biểu Các Ký. Đời thứ tám sau Bồ-đề Đạt ma có đại Tỳ-kheo ở núi Bách Trượng, người ta gọi là Thiền sư Bách Trượng. Nay thiên tử mới truyền mệnh vì thuî cũ là Đại Tri Giác Chiếu thêm vào hiệu Hoằng Tông Diệu Hạnh, tên chùa Thọ Thánh là ngạch cũ. Núi cách quận trị 300 dặm, lúc ngài chưa cất chùa núi non hang hóc hiểm trở đường xá tắc nghẽn, vách núi cheo leo, ở đây có vị là Tư Mã đầu-đà, rất giỏi thuật xem địa hình, cất nhà cửa. Ông thấy thế núi cao ngút và từng dãy nối liền nhấp nhô uốn lượn, biết đây là vùng đất tốt, nêu trong kiềm ký chép. Đó là nơi cho bậc Pháp vương ở, hoặc là thầy khuôn mẫu cho thiên hạ trụ. Khi Thiền sư đến đây chính là phù hợp với lời ông nói, Đức Huy ở Đông Dương là cháu đời thứ mười tám của Thiền sư kế vị trụ trì núi này, xây lại một giảng đường nói pháp mới. Còn xây thêm một căn thất lên trên để an trí di tượng của Thiền Sư treo tấm biển trên gian phòng ấy là: Thiên hạ sư biểu chi các” Khi văn Tông Hoàng Đế mới đăng quang, liền vào Tiềm Để ở Kim lăng xây chùa, tên là Long Tường Tập khánh, Ban chiếu cho Đại Tố là khai sơn hướng dẫn đồ chúng thực hiện Thanh quy mà Thiền sư đã chế để tiết chế từng oai nghi động tác hằng ngày. Nhưng sách ấy lưu hành ở đời đã lâu mà người sau quan niệm về nó đều cơ sự tổn ích, tự sanh mâu thuẫn, chứ không thẻ phán đoán rạch ròi, Huy cùng học một thầy với Tố mà cũng hoằng pháp ở tổ đình rất sợ người sau truyền bá nghi ngờ chẳng biết đâu thích hợp mà theo. Không thể y cứ vào sự thấy nghe của nhiều người. Ngài bèn lên kinh đô xin chiếu dụ để chỉnh sửa lại. Nay ngự sử Đại phu Tán Địch chấp pháp, ở trung đại tâu trình ý của Ngài lên vua, vua cho diện kiến, có chỉ bảo rằng Đức Huy tuyển chọn những văn cũ để đưa cho Đại Tố biên tập lại những lời sư dạy, rồi cùng khảo định mà ban hành làm phép tắc trong chốn tùng lâm. Vẫn như Thiền sư Tích lấy hiệu như ngày nay, khen hiển mà phong cách nghiêm khắc, Đức Huy mang chiếu thư về nam. Khi các xây xong mà chưa kịp thấy những ký thuật, Niệm Vu phổ nói: xin thuật lại ngọn nguồn những gì ngài thiết lập, để trở về khắc vi, Phổ trộm nghe các Thánh hiền xưa nương thời chóng tri hoăn đắp đổi qua lại không cùng, cho nên thông được sự biến ấy. Giáo pháp của Phật lấy giới luật làm đầu, nghóa của các bộ đại tiểu trình bày, xong các loại khai giàchỉ lấy một việc, cách Thánh càng xa phải hạn cuộc vào chuyên môn, danh mục càng nhiều, mặt trời đạo phải ẩn. Thế nên Đạt-ma không dung phương tiện mà chỉ thẳng nguồn tâm. Tướng luật rõ ràng không thể ngăn ngại. Đời dần lui về thời mạt pháp, tà thắng mà chân thua. Rong ruổi theo trầm duyên thành suy nghó tà vọng. Thế nên Bách trượng hoằng truyền khuôn phép để hành trì theo luật, ủng hộ nhiếp trì ở nơi sự mà đều là lý. Bởi vì đạo của Phật do Đạt ma hiển sáng. Sự của Phật do Bách Trượng mà đầy đủ, diệu thông biến tồn tại ở người này. Song, sự truyền thừa của Đại-ma chi thần năm phái mà đều xuất phát từ hai Thiền sư này. Thầy của Ngài khởi xướng những tông chỉ đặc thù. Tuy nỗi vị thành lập gia phái nhưng đều an định đồ chúng, chưa ai không áp dụng pháp của Thiên sư, cho nên câu nói Thiên hạ Sư biểu là xứng đáng chứ không ngoa. Từ đó vua quan ở Trung quốc biết tôn trọng Phật pháp, chiếu sáng tông cực, chẳng gì hơn đây. Đức Huy sanh ra gặp thời có bậc Thánh, nhờ sức ủng hộ của vua nở lực phát huy lời thầy dạy, làm rạng rỡ tông phong, ngỡ hầu sánh cùng với nhịp bước phát triển của đất nước mà thôi. Không chỉ làm sư biểu cho thiên hạ ở hôm nay mà tận đời vị lai cũng đều có chỗ nương tựa. Vu phổ cẩn thận ghi lại mà đối với công phu trong suốt quá trình ngài biên soạn chỉ tóm thâu những pháp yếu, có những điều không rảnh nói thì gồm có năm gian phòng. Cái cao nhất là 120 thước, một trong ba tông ấy đó là tu, ba cái tu ấy cho là rộng. Bắt đầu khởi công vào tháng sáu mùa hạ niêm hiệu Chí Thuận đầu tiên đến tháng mười mùa Đông thì xong việc, thật ra vào năm sau Đức Huy trụ trì ở núi nhưng Đức Huy đến đó vào tháng 5 mùa hạ, năm thứ ba tháng hai mùa xuân năm sau, Thừa trực Lang Quốc Tử bác só hoàng phổ ký. Hàn Lâm thị chế phụng nghị đại phu kiêm quốc sử viện tu quán trình bày sách này. Hàn Lâm thị giảng học só thông phụng đại phu tri chế đồng tu quốc sử tri kinh diên sự trương khởi nghiễm in chữ triệu. Nên Vinh Lộc Đại Phu ngư sử Trung thừa Triệu Thế An, quang lộc đại phu giang nam chư đạo hanh ngự sử đại phu dịch, Thích Đổng A đồng lập bài tựa cổ thanh quy. Hàn Lâm học só Triều tán đại phu hành tả ty gián tri chế các đồng tu quốc sử phán sử quán sự thượng thụ quốc nam Dương quận khai quốc hấu hưởng lộc 1100 hộ dân, đựoc ban áo kim ngư tím, thay Dương Ức thuật. Thiền sư Bách trượng Đại Trí, Thiền Tông xuất phát từ thiếu thất đến Tào khê. Phần nhiều ở luật tự, tuy xếp vào viện riêng nhưng đối với việc nói pháp trụ dtrì chưa hợp quy tắc. Cho nên tôi thường lo lắng bèn nói: Đạo của Phật Tổ muốn hoằng bá rộng rãi cho đến đời vị lai không đoạn diệt đâu thể thực hành theo các bộ A-cấp-ma giáo. Có người nói: Luận Du-già, Kinh Anh Lạc là giới luật Đại thừa, sao không thực hành theo ư? Sư nói: Tông phái của ta chẳng hạn cuộc ở đại tiểu, cũng chẳng khác đại Tiểu thừa. Mà phải uyển chuyển phán đoán, lập ra quy tắc là việc phải làm, thế nên khởi ý lập riêng thiền cư. Tất cả những bậc đầy đủ đạo nhãn có đức đáng tôn kính, gọi là Trưởng lão, như xứ Tây Vực bậc đạo cao lạp trưởng thì được xưng hô như Tu-bồ-đề.v.v… tức là Hóa chủ tức là ở nơi Phương Trượng, đồng với thất của Tịnh Danh, chẳng có phòng ngủ riêng, không lập điện Phật, chỉ xây pháp đường biểu thị cho Phật Tổ thân thuộc được sự tôn trọng của đương đại môn đồ theo học, không kể nhiều ít, không phân cao thấp, khi vào Tăng đường rồi thì sắp xếp theo hạ lạp, đặït giường nối liền, gắn giá treo y bát, đồ dùng khi nằm phải gối đầu và nghiêng hông bên phải, ngủ theo kiểu cát tường. Khi ngồi thiền lâu thì xả thiền an nghỉ mà thôi, phải đủ bốn oai nghi. Trừ lúc vào phòng thưa hỏi người học siêng năng, biếng nhác, hoặc xuống không câu nệ lệ thường. Đại chúng trong viện sáng tham tối nhóm trưởng lão thượng đường thăng tòa chủ sự, đồ chúng phải đứng một bên nghe khách chủ thăm hỏi nhau, trao đời để mở mang tông yếu, dạy họ nương pháp mà trụ. Cơm cháo tùy nghi, hai thời phải có mặt đông đủ. Phải giữ tiết kiệm, biểu hiện pháp thực song vận. Hành pháp khắp tỉnh trên dưới đồng lòng, dật xá thường dùng một người lãnh đạo số đông. Làm việc khiến cho mỗi ban đều có tổ chức. Hoặc có kẻ giả danh trá hình lẫn vào trong chúng thanh tịnh để gây ra nhiều chuyện rắc rối. Thì Duy-na phải xem xét, nêu tên họ rồi đuổi ra khỏi viện, để giữ sự thanh tịnh cho chúng. Nếu có người phạm tội thì dùng gậy đánh, họp chúng thâu y bát đạo cụ rồi đuổi khỏi thiền môn, để họ tự hổ thẹn, rõ ràng điều này chế ra có bốn lợi ích. Không làm mhiễm ô sanh thanh tịnh, sanh tâm kính tin cho mọi người. Không hủy tướng Tăng, vâng theo lời Phật dạy. Không quấy nhiễu cửa công và bớt đi sự kiện tụng ở trong ngục. Không tiết lộ tông cương của ngoại hộ. Bốn loại này ở chung thì Thánh phàm làm sao phân biệt. Hơn nữa, lúc Như lai tại thế còn có Lục quần huống chi ngày nay là mạt pháp, đâu được hoàn hảo. Nhưng thấy một vị Tăng có lỗi bèn phơi bày chê trách, thật không biết khinh chúng hoại pháp tổn hại rất lớn, nay trong thiền môn nếu có kẻ làm tổn hại thì phải y theo quy thức thiền lâm của Bách Trượng mà lường xét phân biệt, lập pháp phòng kẻ gian không phải là hiền só nhưng đâu thể có cách mà không phạm. Không thể phạm mà không dạy chỉ có Thiền sư Đại Trí lợi ích hộ pháp rất lớn, thiền môn độc hành từ đó trở đi. Đại yếu của Thanh quy tỏ khắp kể hậu học, khiến họ không mất gốc. Các phép tắc khuôn mẫu của ngài trình bày đầy đủ rõ ràng, chỉ mong xét duyệt san định truyền đó mà soạn lời tựa. Ngày lành tháng tốt năm giáp dần đối niên hiệu cảnh Đức năm thứ hai. Lời tựa Sùng Ninh Thanh quy: Luận sư lệ của thiền môn không có hai dạng tỳ-ni, gia phong nạp tử chỉ một khuôn phép. Nếu thọ dụng trong đường thì tựï nhiên phong cách thanh cao, nếu xúc chuyên quay mặt vào tường thật gọi là ít người cung kính chiêm ngưỡng. Thế nên cùng mưu cầu khai só, tham bài khắp các nơi, tất cả đều giúp cho việc thấy nghe, thảy đều trình bày đủ trong cương mục. Tham ôi tin tức đã khoét thịt thành vết thương, khuôn phép của Bách Thượng có thể gọi điều mới đặc biệt. Huống chi Tùng lâm đầy khắp, chuyển kiến không kham, thêm vào đó pháp lệnh càng tỏ thì chuyện xảy ra càng nhiều. Nhưng vì trang nghiêm bảo xã, kiến lập cờ pháp, trong môn Phật sự không thể thiếu một, cũng giống như Bồ-tát có ba tụ, Thanh Văn có bảy thiên đâu phải việc lập pháp quý ở chỗ rườm rà, vì tùy cơ mà lập giáo, kẻ sơ cơ hậu học mong theo thiện, tham cho rõ ràng, bậc thượng đức cao lưu mong rũ lòng chứng giám. Ngày 15 tháng tám niên hiệu Sùng sinh năm thứ hai. Truyền pháp Từ giác Đại sư Tông Ai trụ Thiền viện Thập Phương Hồng Tế phủ Chân Định viết lời tựa. Lời tựa hàm thuần Thanh quy: Khuôn phép trong tùng lâm đã tỏ nơi Thiền sư Đại Trí Bách Trượng. Nhưng thời đại đã dần xa. Tùy theo người mà có sự giản tiện, rồi đến sự vâng theo tu tập. Tuy các nơi có khi khác nhau, nhưng cũng chưa hề trái với khuôn phép lớn nầy. Lúc tôi ở trong chúng, thường thấy bạn bè sao chép Tùng lâm nhật dụng thanh quy, đều có sự thiếu sót. Sau đó, nhân lúc rảnh rỗi xem các bổn, xét các chỗ khác nhau để tập hợp lại, đích thân biên soạn lại cho đầy đủ. Mục đề là tùng lâm hiệu định Thanh quy tổng yếu. Sửa thành quyển thượng hạ để tiện xem xét. Đạo ta có Thanh quy giống như nhà Nho có kinh lễ. Lễ là tùy nghi nhân theo thời mà có tổn ích. Bởi sách này viết tiếp ngài Đại Trí. Đây đều do việc túc dức tiền bối lần lượt giảng cứu kỷ lục kẻ ngu không dám nêu riêng chỗ thấy nghe mà thêm hay bớt. Như trước gọi là tham cứu chỗ đồng mà gom lại. Để người xem không phải khó xử. Kết chế hai ngày trước năm Giáp Tuất niêm hiệu Hàm Thuần năm thứ mười Tỳ-kheo Hậu Tố duy miễn thư ở hiên ký ngoan. Lời tựa Chì Đại Thanh quy: Lễ là Đại kinh ở đầu, mà tiết văn của tình người. Duyên cách tổn ích vì chạy theo thời, cho nên tình người xưa nay nhờ phép tắc của luân lý làm quỹ đạo cho nên mới tồn tại Đại kinh của trời đất. Hơn nữa, bậc Thánh ta lấy Ba-la-đề-mộc-xoa làm thọ mệnh và Bách Trượng Thanh quy cũng xuất phát từ đây. Đây chính là Đại kinh của lễ pháp tòng lâm. Nhưng từ cuối đời Đường đến nay khoảng năm trăm năm. Phong tục thay đổi nhiều, nhân tình cũng biến khác thì thuyết duyên cách tổn ích quá đúng rồi. Gần đây, hai tổ Đại Xuyên và Tiếu ông xướng đạo ở núi Nam Bắc. Thanh quy Nhật dụng hưng thịnh ở đương đời. Năm Mậu Dần niên hiệu chí Nguyên, nương Hòa-thượng Thạch Lâm ở Nam Bình. Còn được thấy di phong để lại, và được bạn Vân Minh ở Tây Đường lấy ra bản sao trong tạng, nghiên cứu tâm thưa hỏi biên tập thành bản. Sách này bắt đầu viết ra thì có vị cho rằng việc thọ giới của tăng làm đầu. Có vị cho rằng trụ trì nhập viện là trên hết, đến năm Nhâm Ngọ theo Tiên sư Giác Am ở thừa thiên, sớm tối thưa hỏi. Vì được hai nghi giáng đản, chúc Thánh Như lai làm đầu. Các môn còn lại phân loại rồi sửa thành mười quyển nhưng vẫn chưa dám truyền cho người học. Vào năm Bính Tuất, Hạ Lưu Tuyết Bảo, Thiên phong uyển ở Tây đường nói rõ thêm sách này. Vào mùa xuân năm Đinh Hợi Hòa-thượng Khê Tây Trạch đính chính lại chổ lẫn lộn được tỏ tường sự thấy nghe mà còn lấy việc chưa đích thân thực hành làm hổ thẹn. Mùa Hạ năm Nhâm Thìn thủ chúng Song Kinh, trong buổi tiểu tham có sự cạnh tranh về ngôi vị cao thấp, các nơi thường bỏ qua không nêu lên. Ngu từ Tây đường hễ ra thì Thủ tọa lại ra, đô tự ra thứ ba, hậu đường ra thứ tư. Tạng chủ, Duy-na, Tri khách, Thị giả tùy theo chức mà ngồi, xin người bác là Vân phong cố gắng thực hành. Xong việc không dám ồn ào. Năm Ất mùi niên hiệu nguyên trinh làm bị viên vónh gia thiên ninh. Đại đức năm Canh Tý bổ nhiệm ở Vónh Phúc phan Dương. Năm Ất tî làm chủ đông lâm ở lô sơn. Đều thực hành không dẽ ngõ hầu nhân tình được chiết trung. Nhưng xem Thanh quy thời xưa không mấy rườm rà, bởi do phù thể cổ không thể làm được chuông lớn để đoán được tuổi tác. Uống ly rượu dở không thể thí ngày cho biền la hy tượng. Gọi là Thiền Lâm Bị dụng Thanh quy, nghóa là đầy đủ mà không dùng, biết lỗi của tôi thì biết tuổi tôi. Mùa Thu năm Tân Hợi niên hiệu Chí Đại. Đông Lâm ở Lô Sơn, Nhất Hàm kính ghi. Lời tựa sắc tu bách trượng Thanh quy: Khoảng niên hiệu Thiên Lịch, Chí Thuận, Văn Tông hoàng đế xây chùa Đại Long Tường Tập Khánh ở Kim Lăng. Chùa xây xong thì để cho mười phương Tăng ở, có điếu chỉ phải thực hành Bách Trượng Thanh quy. Tháng bảy mùa Thu năm Ất Hợi, niên hiệu nguyên thống thứ ba. Kim thượng hoàng đế đích thân thượng triều ra chỉ lệnh. Mấy năm gần đây Thanh quy tòng lâm thêm bớt không thống nhất. Cho nên đặc biệt ban sắc cho trụ trì Đức Huy ở chùa Thiền Thọ Khánh Đại Trí núi Bách Trượng biên tập lại. Sách ấy giao cho Đại Tố trụ trì chùa Đại Long Tường Tập Khánh chọn vị Sa-môn nào có học thức cùng hiệu đính lại. Mong được quy nhất khiến vâng hành làm thường pháp. Đức Huy kính cẩn phụng mệnh. Lúc sách sắp xong, chúc huyền soạn lời tựa. Huyền có nghe các sư nói: Trong khoảng trời đất không có việc nào không có lễ nhạc, An định chổ ở là lễ, ưa thích chỗ thường dùng hằng ngày là Nhạc. Tiên sinh Tình Minh Đạo một hôm qua chùa Định Lâm, tình cờ nhìn thấy nghi thức trai đường. Hốt nhiên khen rằng: Ba đời lễ nhạc ở hết đây rồi, há chẳng phải uy lực của giềng mối Thanh quy hay sao? Cho rằng phụng hành thuần phục nên có thể như vậy, vâng hành theo pháp ấy là lẽ đường nhiên. Nhưng diệu hạnh tự nhiên ở trong đây mà người không biết lại cho rằng nó là chướng lý sự. Nhưng người biết thì cho rằng pháp môn an vui chính là ở đây. Nhưng khiến cho sách này đồ sộ mà không hỗn tạp, thì có tựa và ý hài hòa. Lâu dần sẽ sâu kín, cho nên công lao hiệu đích có ích rất lớn đối với sách này. Mà ý chí của người học ở hai triều Gia Huệ hợp nhau vô cùng. Hạnh Thanh quy đời Tống, Dương Văn Công ức viết trọn đầu đuôi, điều mục rõ ràng, ở đây không nêu ra lại, thượng tuần tháng ba mùa xuân năm Bính Tý niên hiệu Chí nguyên thứ hai. Hàn lâm trực học só trung đại phu Tri chế cáo đồng Tu quốc sử quốc tử Tế Tửu Lô Lăng Âu Dương Huyền thuật Bách Trượng Thanh quy vẫn còn lưu hành ở đời. Từ đời Đường đến nay nhiều đời phong tục đổi thay nên lễ cũng theo đó mà không tránh khỏi sự tổn ích. Thường thường các bộ được trích dẫn lẫn lộn chẳng biết đâu mà theo, học giả hoang mang. Một ngày nọ, Thiền sư nhất sơn vạn dẫn lời đầu sách của tiên sư Vân ông cùng nhau san định hiệu đính lập thành điển chương một thời. Không biết sao ba Ngài lần lượt qua đời. Với sức mọn thầm muốn kế tiếp ý nguyện của Ngài nhưng chưa thể thực hiện được. Sau này tình cờ nhận được Thanh quy Bách Trượng. Hội hành xin thêm tên thuî của Tổ sư, chưa báo được nên đến cung điện trình lên vua ngự sử Trung Thừa Tán Địch dẫn lên tiếp kiến vua. Khi gặp vua, Ngài đem lý do muốn chỉnh sửa Thanh quy trình lên vua. Nhân đó được sắc chỉ biên tập lại. Sai tấu ẩn hiệu đính rồi ban cho ngọc tỷ (ấn vua) để ban hành. Khi thọ nhận sau vẫn không tìm thấy bản đầu. Chỉ có Chân định tích công ở niên hiệu Sùng Ninh đời Tống và Kim Hoa Miễn công ở niên hiệu Hàm thuần Hàm Công ở Đông Lâm sưu tập lại để chọn. Thế là cùng hội họp lại những bản dị đồng để lần lượt giải thích, chỗ rườm rà thì cắt gọt bớt, chỗ lầm lẫn thì sửa lại, chỗ thiếu thì thêm vào. Đều có sự được mất song song. Trong đó trích chú sớ để tiện tham cứu. Hoàn toàn không lấy vọng kiến riêng của mình để định lấy, sưu tập lại của Tẩu ẩn, kỷ định thành chín chương. Đầu chương có lời tựa ngắn, nói về đại ý của chương, chia làm hai quyển để tiện cho người xem được mạch lạc rõ ràng. Ngõ đầu làm sáng tỏ ý nguyện truyền pháp của Tổ sư ta, để vâng hành theo và làm cho hưng thịnh. Nói về kẻ học thức cạn cợt đâu đủ khả năng để phán xét. Soạn lại bộ Thanh quy mới chẳng qua nhờ người thành sự. May thay đã hoàn tất, chỉ mong người học không hoang mang mà thôi. Nếu nói lập điển chương một đời thì người ngu chẳng thể biết được. Có người nói ông miệt mài với sách mày chắc có tâm đối với tôn giáo, mới chế chung chiếu cáo rộng rãi trong quốc gia ngày nay luật pháp còn chưa thực hành được mà hành Thanh quy ư lắm. Vì thế nói như vậy nhưng cũng không hề phế bỏ sách này. Còn người nắm giữ luật pháp cố gắng thi hành thì thế nào. Phật Tổ chế giới luật, lập Thanh quy dùng lẫn nhau, khiến cho Tỳ-kheo v.v.. ngoại cách chẳng hoằng đạo bên trong, tuy trăm ngàn nhóm họp lại ở chung một đường ngồi cùng pháp tịch ăn ngủ chung một nhà. Nhưng hiển nhiên thành nề nếp không lẫn lộn như thói đời, không trái hiến pháp quốc gia, bỏ bê luật vua. Chế chung phép tắc ni hành ở đó mà đạt được đây, thì sao gạo là quanh co, có người cảm tạ rồi lui, cho nên cùng thức tỉnh ở đây để báo cho chúng ta biết phải cố gắng thêm. Tống Dương Văn Công soạn lời tựa Thanh quy cổ cùng ba ngài soạn tập từ lời tựa đều là phụ soạn. Tháng ba mùa Xuân năm Mậu Dần niên hiệu Chí Nguyên, Tỳ- kheo Đức Huy ở Đông Dương kính ghi. Sắc tu bách trượng Thanh quy <詞>LỜI BẠT THÊM VÀO HIỆU TỔ Thiền sư Bách Trượng Đại Trí Chiếu Giác phong thêm hiệu của ngài là Hoằng Tông Diệu Hạnh. Ngọc tỷ vừa thông cáo niên hiệu Chí Nguyên thứ hai năm bính tý, nay là ngày tiếp nhận đặc ân của Hoàng đế. Trước là có chỉ ban xuống bảo hành theo Bách Trượng Thanh quy rồi ban thêm hiệu cho Thiền sư, nên có cáo lệnh này, Triều đình bàn bạc vừa mới giáng chế từ. Lúc ấy huyền bị nêu từ lâm làm Trực học só, chính thức phụng hành điển thư. Một hôm, Trụ trì Đức Huy ở núi này được quốc tử Tiến só Hoằng phổ đến thăm. Xin viết lời mở đầu cho bộ Thanh quy, y theo sự tích của Bách Thượn, Đức Huy kể lại đầy đủ, do đó ngài có lời đề nghị khen ngợi sách này, ý muốn đích thân thấy thuộc Huyền đáp rằng: Muôn một phải viết đúng như lời sư đã nói ngày xưa, mới được vựng thành. Sau cách sử văn không như thế thì trải qua 12 năm. Huyền cáo lão về ở nhà. Đức Huy từ Bách trượng thăm dò khắp trong núi dấu ngọc tỷ vua ban, xem quyển lục chữ Hán, nhờ người biết việc này khắc vào bia đá. Hồng duy thiên triều tôn tả họ thích thầy trò nhiều đời, ban Hiệu không đồng nhất. Như bốn chữ Hoằng Tông Diệu Hạnh chỉ có Thiền sư không hổ danh xưng, kẻ Thích tử mới vào môn thiết yếu. Ở môn giới, định, tuệ đó là cương lónh. Thiền sư nghiên tầm tâm pháp của bậc Thánh xưa, rõ ràng lấy một chữ kính dạy cho học trò mình, vận trí rộng lớn đối với công phu sâu kín. Tri hành đều tiến thể dụng gồm đủ thấm khắp muôn loài. Thầy khuôn mẫu cho thiên hạ. Thanh quy trong ngoài truyền khắp vô phương, gọi là mở tông diệu hạnh, quả thật khắng khít nhau, đức huy vốn xuất thân từ tông Lâm Tế nhưng lấy việc gánh vác làm chí nguyện, lấy việc hiển dương làm sự nghiệp, từ đầu tới cuối là việc này. Trên biển ơn vua, dưới biển dương tông phong là bậc hiếu tử trung thần của thiền môn. Có người nói nếu vậy đâu còn lo gì nữa. Đầu tháng sáu năm Đinh Hợi niên hiệu Chí Chánh thứ bảy Tiền hàn lâm Học só thừa chỉ Vinh Lộc Đại phu tri chế cáo gồm du quốc sử Âu Dương huyền chắp tay cúi đầu kính ghi. Thư của Thiền sư Nhất Sơn: Phương lễ chín lạy, rồi tiến về trước Trí giả đường thượng, Hòa- thượng Vân ông lão sư huynh. Phương từ sau khi cởi áo từ quan, phúc nham lục ông quá bận rộn, chẳng thể sắp xếp thời gian để đến lễ bái, rất mong nhớ ở nơi có rượu quý, văn hay và quả ngon, nỗi lòng đầy băn khoăn khắc khoải. Khi nhận thức đã là tổn hại đến sự chế tác của Tề tướng công. Cùng với nhai tác và hùng tác, tròn trónh như viên ngọc châu lấp lánh. Tầm thương mà như núi cao sông sâu, kẻ suy đốn không mong tìm tới được. Vén vạt áo danh tiếng ở đời, ôm khí vật bình hồ. Tinh nghiêm mật luyện ở trong đạo này. Thốt ra lời nói không hề mang vế gọt giũa, dong xe về phương Nam, chu du khắp nơi mà tỏ rõ, xem xét muôn vật mà chẳng mê việc giữ nhà, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ, đều thành thạo mọi việc một ngày chín dặm, cỡi ngựa để đợi, tùng dưỡng có thể rút ra để xin dùm cho lệnh trọng. Phương ở đây hơn một năm, mọi việc khó khăn đều nhẫn chịu, gặp năm hạn mất mùa. Ở trong này còn đỡ hơn chốn kia, chỉ xin được một vài tấc đất và gỗ, như trung lưu mất tay chèo, canh cảnh không an lòng, ốm yếu từ cuối hạ đầu thu, đến nay vẫn chưa khỏe hẳn. Pháp huynh tôi tuổi cao về tónh dưỡng đủ để chiêm ngưỡng di tích cao khiết của hiện nay, đáng hổ thẹn. Hai năm trước, Bách trượng hối cơ có lần gởi đến bản Thanh quy cũ trong đó. Xem xét kỹ phát hiện có nhiều chỗ sai lầm rất lớn. Việc rút gọn cùng tu chỉnh trái nhau, so với lời này lại không bình nhan tuyển soạn, rộng hẹp nhiều chỗ chưa thích hợp, kẻ ngu sơ cơ lập luận, lấy chúc thọ làm đầu. Như giám Tự thư trạng v.v… đặt ra chức vị, nhuận sắc nguyên văn của Đại Trí, dùng chữ nhỏ chú giải Thạch song Nam thư ký bản mạt ở phía sau. Như đây đêm trách công việc trong tùng lâm đã có từ trước. Đại khái trong quy cổ, Văn đời Đường phần nhiều là đối ngẫu nên phải dich rõ hết, tấu lên vua để in ấn làm điển chương cho cả thời đại, hối cơ hội ước sẽ ngăn tôi khóc huynh đến kháng tướng và liệu ký, nay thời thế như vậy, từ đâu gắng chí. Bậc cao kiến cho là thế nào. Viết hai câu kệ trong sách không dám đối đáp, dường như hay lắm nhưng trí hiểu biết còn thấp kém. Mong rằng thọ hộ thức nhanh chóng xét soi, cầu nguyện không ngừng phương lễ chín lạy, lại gian của cảm thuần. Nam bình nhất thời thắng tập, huynh nhất sơn và tiểu đệ đâu có hai người, cùng huynh Vân ốc tham ngữ, không thấy ba hình, là chuyện xưa. Một hôm, rút ngắn năm mươi năm thành một nháy mắt. Mộng ư? Chẳng phải mộng, lúc này ngọc dựng lên các đỉnh sau hận tuyết ở Tây hồ. Cảnh xưa rõ ràng, hai huynh sáng suốt bay động, chỗ ánh sáng mặt trời kích tạ, là cảnh chăng? Chẳng phải cảnh đứng đợi hồi lâu chỉ có người sau chết, khiến lòng u buồn không dứt, muốn đem Thanh quy cũ san định lại, đặt thành điển chương, nay ai đồng tâm? Ngày mồng mười tháng 12, niên hiệu Diên Hựu năm đầu. Đong song tuyết tề, nam bình tiểu đệ. Nguyên Hi kính ghi. Ba vị tôn túc ở niên hiệu hàm thuần thì nhất sơn, Hối cơ đều là bậc thầy đáng kính của tôi. Nhưng không biết về Vân Thất Ông, đến khi đọc quyển Cảnh Lục đường thi của Ngài mới hiểu được nét thâm thúy của Vân Thất. Ba lão túc đều muốn tu Thanh quy lập thành điển chương cho cả thời đại. Mà môn đồ của các ngài phải kế thừa để hoàn thành, thì thấy quyền thao thế của ngài mà biết được công cụ duy thế, là không sánh bằng, há không hổ thẹn ư? Mùa Đông năm bính thìn nhân chuyến tham quan chùa cổ của trí giả nhìn thấy như vậy mà lòng cảm động nên đề ở sau. Xả bổn.