<經 id="n2017">VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP Triều Phụng Lang Thủ Ty Nông Thiếu Khanh, Chí Só Khinh Xa Đô úy huyện Trường xuân Khai Quốc Nam Thực Ba, được ban 300 hộ, Thẩm Chấn soạn. Luận về sự mênh mông của bốn biển, nếu không hợp trăm dòng thì chẳng làm sao đầy được, muốn bước lên quả vị tôn quý của hàng Thập Địa mà chẳng tích lũy điều lành thì chẳng đủ sức. Vì vậy nó sâu xa không thể nghó lường là do tích chứa, dung nạp lâu ngày. Bậc Thánh không thể biết được là bởi tu siêng năng tinh cần. Huống chi bậc chiệu giác hạ lời huyền thông lập giáo, nếu hướng về điều thiện chỉ một sợi lông có thể biết bậc ấy đã vượt ra khỏi tam giới nhất định tỏ rõ chân thuyên, ngợi khen nẻo giác. Luôn mài dũa thì được thuần thục. Xét cùng nghóa lý mà gắn gởi, nhưng mà chẳng có Thánh cũng không có phàm. Có mê, có ngộ. Muốn bước sâu vào vực Thánh, phải sữa gấp phàm tâm, chẳng phải một việc mà có thể hun đúc nên, ắt phải do luyện tập nhiều môn. Hoặc giáo khôn khúc diệu, mà nêu đạo hay ở Phật Lủng, hoặc thiền lý sâu mầu mà trình bày lời khen mát mẻ ở suối tào không thể chấp không mà là có, không thể trái thật mà không theo, phải thích hợp quyền nghi nương vào thật tưởng, quyền thật đã rõ, hư không có thể còn cho nên người thông đạt chuyển vật để tâm sáng, có thể nói là diệu dụng. Người mê căn cứ văn tự mà ngằn ngại đối với giáo pháp đâu thể gọi là thông suốt ư ? Hoặc gắn vác linh Long, hoặc chặt luận hở, hoặc chí thành chiêm lễ tôn nhan, hoặc đi quanh tịnh thất, hoặc miệng đọc tôn danh, hoặc tâm quán cảnh tịnh độ, hoặc cúng dường Bồ- tát, không trọng giàu khinh nghèo, hoặc bố thí, trì giới, không thêm tốt mà bớt xấu, sự nếu bằng nhau, lợi cũng tốt đẹp. Hể nương luận nương thiền, phải trợ giúp phước đức; tạo hình đúc tượng ắt phải nhờ nơi làm nhiều. Đừng cho rằng có bậc tiền của mình, tức tâm là Phật, từ phàm vượt lên Thánh, chưa có vị Thích-ca nào không tu; Từ vọng vào chân chưa có vị đạt Ma nào không chứng. Trong đường cả của người chẳng phải đường khác của Phật, thường quý tinh tấn, đừng theo sự đãi, sơ sài. Trọng thời gian dù trong chớp mắt, nghiên tấm căn nguyên của đại đạo. Sao đến trấn nguy nga? Tam Thừa phế bỏ thời khó vào môn từ nhẫn. Không có sự thương xót bản thân mình, thời không có việc lành bỏ người khác ắt cầu toàn đức, mới có thể làm tỏ mối ngờ. Tâm chẳng phải phi tâm, pháp chẳng phải phi pháp, phải ở trong việc tâm truyền tâm mới được chứng nhận, pháp truyền pháp từ thầy trò, chẳng gắn chặt với điều thiện, giống Bồ-đề nên trồng, cõi an dưỡng nên tu. Tỏ rõ thời sinh lên cõi Đâu-suất, mê muội thời chìm xuống địa ngục. Lời như bùn lầy, chẳng có nước mà thuyền đi được; tánh như hơi thây chẳng dùng đò mà qua sông được Thánh hiền xưa nay đều nhờ nơi tâm. Thời xưa thuở nay, đâu từng có pháp khác? Than ôi! Pháp còn hay mất, tâm không hay chẳng không. Không tu mà không có gì không tu, chân tu cũng dứt bặt, không trụ mà không có gì không trụ, chân trụ cũng mất. Thương thay quần sinh chưa một tánh này, vốn không có thiện, ác, bị ngoại cảnh làm thay đổi, nếu không sửa đổi, sao cái đúng cửa? Có thể dứt trừ nó như giúp đỡ diệu thiện, thời có thể gọi là chỗ quay về đúng đắn. Cho nên những lời cặn kẽ của bậc tiền triết cốt để cho kẻ hậu còn nương đó mà học, rồi tìm tòi khắp trong giáo mục để dẫn dụ người mê. Trí Giác Thiền Sư tánh ngộ cơ viên, tài ba lỗi lạc, nhiều đời đã tích tập, phù hợp với các pháp: Đời nay lưu thông, cùng khế hợp với chư Phật. Nghó về người khác cũng như nghó về mình, quán tâm người cũng như tâm mình. Từng soạn 3 quyển: thượng trung hạ “Vạn Thiện Đồng Quy Tập”. Để khuyên tất cả những người hữu duyên vậy. Hoặc những bậc danh tăng thạc đức, hoặc những thiện nam thiện nữ tài cao hạnh cả, chỉ những người một mực cung kính và hết sức siêng năng, thì không quý cũng không tiện, đây là món lương dược của việc lợi sinh. Mở ra then chốt để cầu Phật. Những lời pháp này thảy bao gồm các kinh các luận. Làm thước đo đầu tiên cho kẻ chưa thay chưa biết. Dẫn dắt tất cả, cẩn mật tu trì, mãi mãi là sự cân nhắc của Phạm Hoa, là khuôn mẫu của tông môn. Hôm nay tạng chủ Trí Như ở viện Pháp Tuệ, thành kính giúp đỡ cho người nhân tánh, đích thân họ thực hiện Thánh đạo, thấy bậc hiền mà hiền giống mình, thấy việc thiện mà thiện giống mình. Tổng kết lại luận được sọan ra của Ngài Trí Minh, làm khuôn mẫu cho đời sau, phước lợi láng sâu dày, phương tiện không ít. Mà lại trút hết túi giấy. Vội rút ra những tiện ti, bắt đầu đầu đề xướng long trọng, còn chiêu mộ bậc cao minh hỗ trợ. Thẳng duyên đã hội tụ, sự việc này ắt sẽ thực hành, nhờ khắc bản để thành biên tập, quý ở sự tu thân song cũng lãnh chức trong coi việc chùa, sẽ mãi mãi tốt đẹp. Nhầm gói vào kể phi tài, như chấn tánh muội suốt lời mầu, mở than chốt, bên nhận lời cầu thỉnh, khó chối từ, cùng trình bày lại giềng mối, dâu dám tránh khỏi sự chê trách. Lúc bấy giờ vào thời Thánh Tống Hi Minh Năm thứ 5 tháng 7 nhuận mồng 7. ------------------------------------------ VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP Trí Giác Thiền Sư Diên Thọ ở chùa Vónh Minh Tuệ & Hàng Châu thuật. <卷>QUYỂN THƯỢNG Nói đến chỗ quy tụ các điều thiện đều lấy thật tướng làm tông, như sự bao trùm của hư không, như sự sản sinh của đất, thế nên chỉ khi nào khế hợp nhứt như thì tự bao hàm các đức. Nhưng không đông mé chân, vạn hạnh thường hưng khởi, không hoại duyên sinh, pháp giới thường hiện, tịch không ngại dụng tục không thái chân, bữu vô đều quán, một bè bình đẳng. Thế nên vạn pháp do tâm, cần phải thực hành sông các độ, không thể giữ mối ngu mà ngồi suông để trệ chân tu. Nếu muốn vạn hạnh đều hưng khởi, rút cuộc phải nương vào sự lý. Lý sự vô ngại, ở trong đạo ấy bên được lợi ích cả hai mà lòng bị đồng thể tròn đủ, bao trùm trước sau, để thành vạn vô tận. Nếu luận về lý sự, ý chí thâm sâu khó sáng, suy xét một cách tỉ mỉ, chẳng giống chẳng khác. Đó là lý của thật tánh, là sự của hư tướng, lực dụng thông suốt nhau, co duỗi đồng thời để biết khắp mà không sai khác. Sự nhờ lý mà được lập, không ẩn lý mà thành sự; Lý thành sự mà được hiển bày, không họai sự mà hiển lý, nuơng tựa lẫn nhau mà mỗi thứ được thành lập, thâu nhiếp lẫn nhau mà cả hai đều không ẩn hiện mà cùng khởi, không ngăn ngại mà cùng biểu hiện tương phi, tương đọat mà chẳng phải, chẳng phải không; tương tức tương thành thì chẳng phải thường cũng không phải đoạn. Nếu lìa sự mà tìm cái lý là rơi vào cái ngu của Thanh văn, nếu lìa lý mà hành sự thì giống với cái chấp của phàm phu. Nên biết rằng hễ lìa lý là không có sự, toàn nước là sông. Lìa sự thì không có lý, toàn sông là nước. Lý tức chẳng phải sự động kinh không giống, sự tức chẳng phải lý, năng sở đều khác, chẳng phải sự chẳng phải lý chân tục đều, vừa có lý vừa có sự hai đế thường lập. Song chiếu tức giả, rõ ràng là huyền tồn, song giá tức không, mẫm nhiên mộng tịch, phi không phi giả, trung đạo thường tỏ, không động nhân duyên đâu khuyết lý thể cho nên Bồ- tát dùng vô sở đắt để làm phương tiện. Vào hữu mà không trái không nương thật tế mà khởi hóa môn, thực hành chân mà không ngại tục, luôn đốt trí để ánh đèn tâm được sáng rõ. Mây phủ của từ, sóng nhấp nhô trên biển. Bên được đồng trần vô ngại, tự tại tùy duyên, tất cả việc làm đều là Phật sự. Cho nên “kinh Bát-nhã” nói “nhất tâm đầy đủ vạn hạnh”. Kinh Hoa Nghiêm nói trưởng giới giải thoát bảo thiện tài rằng: “Nếu ta muốn thấy thế giới an lạc của Phật, tùy ý liền thất, nhẫn đến thất được mười phương chư Phật đều do tâm mình.” Thiện Nam tử? Nên biết Bồ-tát tu phát của Chư Phật, tịnh cõi nước Phật, chứa nhóm các hạnh thắng diệu, điều phục chúng sinh phát thệ nguyện lớn, thực hành những điều đó đều do tâm mình. Thế nên Thiện Nam tử: phải dùng thiện phát để ủng hộ tâm mình, phải dùng nước pháp để tưới tẩm tâm mình, phải ở trong pháp giới tịnh thị tâm mình, phải dùng tinh tấn để kiên cố tâm mình, phải dùng trí tuệ để soi sáng tâm mình, phải dùng sức tự tại để khai phát tâm mình, phải dùng tâm bình đẳng của Phật để làm rộng lớn tâm mình, phải dùng mười lực của Phật để soi xét tâm mình. Cổ đức giải rằng: Tâm bao vạn pháp cho rằng trái chỉ nhất niệm quán tưởng Phật do nơi tâm mình, vạn hạnh của Bồ-tát, thể dụng của Phật quả cũng không lìa tâm mình là thứ bỏ lỗi của vọng chấp, gọi hữu kể rằng: vạn pháp do tâm mặc theo nó là Phật, dong ruổi theo vạn pháp há chẳng lao nhọc ư. Nay nói, mặc dù tâm chính là Phật nhưng lâu nay bị bụi trần che mờ, cho nên dùng muôn hạnh để tiến tu cho tâm được tỏa rõ. Chỉ nói vạn hạnh do tâm, không nói không tu là phải. Lại nữa, vạn pháp tức tâm, tu làm gì để ngại tâm? Hỏi: Tổ sư nói: “Thiện ác đều chẳng thể suy lường, tự nhiên nhập vào tâm thể.” Kinh Niết-bàn nói: “Các hành vô thường, là pháp sinh diệt.” Tại sao khuyên tu để trái với ý tổ? Đáp: Ý tổ y cứ nơi tông, dạy để phá chấp. Như đốn giáo của Thiền tông bặt tướng lìa duyên, không có đều mất, thể dụng đều tịch. Như ý chỉ viên diệu trong kinh Hoa Nghiêm, cụ đức đồng thời, lý hạnh đều phô bày bố trí cùng tương trợ nhau. Đó chính là Văn-thù dùng lý để ấn chứng hạn nghóa sai biệt không thiếu; Phổ Hiền dùng hạnh để tráng nghiêm lý, môn căn bản chẳng phế bỏ góc ngọn đồng thời. Phàm Thánh đồng nguồn không hoại tục mà nêu chân, không ngại chân màlập tục, đầy đủ trí nhãn mà không chìm vào sinh tử, vận lòng từ mà không trệ Niết-bàn. Lấy hữu của tam giới làm dụng của Bồ-đề; ở trong biển phiền não mà không bến Niết-bàn. Vạn Thiện là tư tưởng đi vào nẻo Thánh của Bồ-tát, các hạnh là thềm thang trợ đạo của chư Phật. Nếu có mắt mà không có chân, đâu đi đến ao thanh lương được. Được thật mà quên quyền, sao vượt lên vực tự tại? Thế nên phương tiện Bát-nhã thường hỗ trợ cho nhau: chân không diệu hữu, luôn luôn cùng hành trí. Pháp Hoa nói: Hội 3 thừa về một, vạn thiện thảy hướng Bồ-đề. “Đại phẩm” tất cả không hai, vạn thiện đều quay về chủng trí. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Viễn chinh địa thứ 7, phải tu mười món phương tiện tuệ thù thắng đạo. Dù thiện, tu 3 món Tam-muội không, vô tướng vô nguyện. Mà không thương xót không bỏ chúng sinh dù được pháp bình đẳng của chư Phật, mà thường ưa thích cúng dường chu Phật, tuy nhập vào môn trí không quán mà xuyên năng tu tập phước đức. Tuy xa lìa ở cõi mà làm đẹp ở cõi. Tuy rốt cuộc (lắng đọng) diệt tất lửa phiền não màgiúp tất cả chúng sinh diệt tất cảlữa phiền não tham sân si. Tuy biết các pháp như huyền như mộng, như bóng như vang, như chóp như hóa, như trăng trong nước, như bóng trong gương, tự tánh không hai, mà tùy tâm tạo nghiệp, không lường khác biệt. Tuy biết tất cả côi nước như hư không mà hay làm thanh tịnh diệu hạnh trang nghiêm Phật độ. Tuy biết bốn tánh trong pháp thân chư Phật là không thân mà dùng tướnghảo trong nghiêm thân ấy. Tuy biết âm thanh của chư Phật tánh vắng lặng tịch diệt, không thể nói năng mà khéo tùy chúng sinh phát ra các thứ tiếng tâm thanh tịnh sai khác. Mặc dù tùy theo chư Phật hiểu biết ở đời chỉ là một niệm, mà tùy theo ý chúng sinh giải thích rõ ràng, dùng mọi tướng, mọi thời vô số kiếp để tu các hạnh” Kinh Duy Ma nói: “Bồ-tát tuy thực hành nơi không mà các cội đức, là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô tướng mà độ chúng sinh là hạnh Bồ- tát. Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả các hạnh lành là hạnh Bồ-tát” Cổ Đức hỏi: Vạn hạnh tóm thâu chỉ là vô niệm, nay thấy có thiện Đáp: Ở đây có ly niệm mà cầu vô niệm có ác nguyện được nguyện mất, khổ nhọc thân tâm, há đặng đạo ư? Vẫn chưa được chân vô niệm, nữa là niệm vô niệm mà không trở ngại? Vả lại vô niệm chỉ là một trong hạnh, đâu biết nhứt niệm đốn viên? Như những gì đã nêu trên ý Phật rõ ràng, đâu được bụng rỗng tâm cao, được chút ít cho là đủ ư? Tựa như ếch chê lượng biển, đom đóm chê ánh mặt trời? Hỏi: Đứt hẳn không nương tựa, cảnh trí đều không, đây là chỗ quay về của Phật Tổ, là con đương then chốt của Thánh hiền. Nếu luận có làm tâm cảnh rõ ràng, nương đâu chỉ dạy, trình bày rộng vanï thiện Đáp: Một đời thuyết giáo của chư Phật Như Lai thì từ xưa đến nay chia tông thật nhiều, nhưng khái quát yếu chỉ của kinh, không ngoài ở tông. Tướng tông Không tông Tánh tông Như tướng tông nói nhiều về phải, không tông nói nhiều về trái. Tánh tông chỉ luận về trực chỉ đồng ý với Tào khê kiến tánh thành Phật. Như nay không luận về thấy tánh chẳng biết chánh tông nhiều người phải chấp lậy sự trái, phải tranh cãi rầm rộ, đều không hiểu được mật ý của Tổ, chỉ trôi theo ngôn thuyết. Như trong giáo điển co chỗ cho là phải đó là y tánh mà nói tướng, hoặc cho là trái đó là phá tướng để hiển tánh. Chỉ có một môn tánh tông, hiển rõ trực chỉ, không luận phải trái. Như ngày nay phần đông chú trọng về việc phi tâm phi Phật, chẳng lý chẳng sự, dứt bặt lời nói cho là huyền diệu, không biết đó chỉ là ngăn lời để trị bệnh. Chấp vào phương tiện này cho là tiêu đích, lại không tin lời dạy để biểu thị trực chỉ chóng rớt thực địa, mê muội lại chân tâm. Như người ngu ở nước Sở nhận gà là phượng, giống như trẻ nhỏ nhìn ngắm cỏ Xuân cho cục đá là hạt châu, chỉ mặc cho hình thức thiển cận, không khám phá sâu ý mầu, mê không phương tiện, đâu biết được chỗ quay về chân thật ư? Hỏi: Tam thừa giáo điển của chư Phật chỉ có một vị giải thoát, cớ sao nói nhiều về khởi sinh diệt ở thế gian, dùng tâm liền mất, không thuận chân như, đông niệm liền trái, trái với pháp thể? Đáp: Nếu luận về một tướng một vị, thì đây chính là tam thừa quyền giáo. Ước theo lý mà nói, tức là do mọi nhân duyên mà thành họa hoạn. Người nay tu tập chỉ hiển viên tông, mỗi một duyên khởi đều là pháp giới thật đức, không thành không họai, nhẫn đến thực hanh cá món thần biến, đều là pháp như vậy. Cho nên chẳng nương thần lực thì tạm được như trên, mới có một pháp duyên sinh thảy đều do tánhkhởi công đức.Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong biển thế gian hoa tạng này, không hỏi những chỗ hoặc sông hay nút, nhẫn đến cây cối, bụi trần, mỗi mỗi thảy đều gọi là pháp giới chân như, có đủ công đức vô biên” Hỏi: Kinh nói: “Chỉ kể phàm phu tham đắm việc nay” LaÏi nói: “Vin vào tường phàm phu tùy nghi nói pháp cho họ nghe.” Nếu đạt được cội lý vạn hạnh đều được viên mãn, cần gì sự tích mà tạo tác ư? Đáp: Văn này là phá tham trước chấp thủ chẳng liên hệ gì với nhân duyên sự tướng. Kinh Tịnh Danh nói: “Chỉ trừ bệnh cho họ chứ không bỏ pháp.” Kinh Kim Cang Tam-muội nói: Có 2 nhập: Lý nhập Hành nhập Dùng lý để dắt dẫn hạnh, dùng hành để viên mãn lý. Lại nữa Bồ- đề là từ hạnh mà nhập vào vô hạnh. Vì hạnh là chuyên nơi tất cả thiện pháp. Vô hạnh là không được các thiện pháp. Đâu thể rơi vào lý mà thiếu hạnh, chấp hạnh mà thiếu lý. Tổ sư Mã Minh nói: “Đại Thừa Khởi Tín Luận” nói về Tín thành tựu, phát tâm có 3 loại: Trực tâm, bởi nó là pháp chánh niệm chân như. Thâm tâm, ưa thích nhóm tất cả các hạnh lành. Đại bi tâm, muốn nhổ sạch gốc khổ cho các chúng sinh. Luận: (hỏi) ở trên nói về một tướng pháp giới, thể Phật không hai, tại sao không chỉ niệm chân như mà lại tìm cần hoc hạnh của các pháp lành? Luận: (đáp) Thí như hạt châu ma lớp, thể chánh trong sạch, mà do cấu nế của khoáng chất làm dơ, nếu người chỉ niệm bảo tánh, không dùng phương tiện để tôi luyện nó thì không bao giờ được sáng sạch. Bởi lẽ pháp chân như của chúng sinh thể tánh không sạch và có vô số phiền não làm nhơ bẩn, nếu người chỉ niệm chân như không dùng phương tiện để huân tu thì cũng không thể nào được thanh tịnh. Tu khắp các hạnh để đối trị vô lương cấu bẩn. Như người tu tập tất cả thiện phát thì tự nhiên thuận với pháp chân như cho nên lược nên 4 thứ phương tiện. Hành căn bản phương tiện nghóa là quán tất cả các pháp tự tánh không sạch, lìa vọng kiến không trụ sinh tử. Quán nhân duyên hòa hợp của tất cả pháp nghiệp quả không mất khỏi lòng thương xót, tu các phước đức, nhiếp hóa chúng sinh không trụ Niết-bàn, vì tùy thuộc pháp tánh nên không trụ. Năng chỉ phương tiện, đó là hổ thẹn sám hối, khéo dừng tất cả pháp ác để nó không tăng trưởng. Vì tùy thuận pháp tánh nên xa lìa các lầm lỗi. Phát khởi thiện căn thêm lớn phương tiện. Đó là xuyên thực hành cúng dường lễ bái Tam bảo, khen ngợi tùy hỷ, khuyển khỉnh chư Phật. Vì ái mô kinh trong Tam bảo nên tâm được thuần hậu, niền tin được tăng trưởng thì trí mới có thể cầu đạo vô thượng. Lại nữa, nhờ sức Tam bảo gia hộ nên có thể giải trừ nghiệp chướng, căn lành không thổi chuyển. Vì thuận pháp tướng nên chia lìa được chướng si mê. Đại nguyên phương tiện bình đẳng. Nghóa là phát nguyện trọn đời vị lai hóa độ tất cả chúng sinh khiến cho họ sạch hết và làm cho họ rốt ráo vào vô dư Niết-bàn. Vì thuận theo pháp tánh nên không đoạn tuyệt. Pháp tánh rộng lớn biến khắc tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai, không phân bi thứ, cứu cánh vắng lặng. Đại Sư Ngưu Đầu Đung hỏi: Các pháp rốt ráo là không, vậy có 6 độ muôn hạnh của Bồ-tát không ? Đáp: Dây là tâm thất có 2 của hàng Tam Thừa. Nếu quán tâm vốn không tức là thật tuệ, tức là thấy pháp thân chân thật, pháp thân không trụ ở cái không này. Bởi có vận dụng sự hiểu biết tức là có phương tiện tuệ. Phương tiện tuệ cũng không thể chính là thật tuệ, không bao giờ lìa nhau, hạo trước tuệ sau đều do hai tuệ phát khởi. Cho nên nói: “Trí độ là mẹ Bồ- tát, phương tiện đó là cha, tất cả chúng là người dẫn đường, thảy đều do đây sinh” Bậc tiên đức hỏi rằng: Tức tâm là Phật cần gì tu hành? Đáp: Chính vì như vậy nên mới tu hành. Như sắt không phải vàng dù trải qua thời gian mài luyện cũng không thành công dụng của vàng. Hiền Thủ Quốc Sư nói: Nay ở thân Ba-la-mật của Phật nhẫn đến lợi lợi.v.v… của Bồ-tát đều nương vào tự pháp dung chuyển mà thực hành. Ngay trong tâm chúng sinh có chân như thể đại ngày nay tu hành dẫn đến pháp thân; Do trong tâm có chân như tưởng đại, hôm nay tu hành dẫn ra báo thân; Do trong tâm có chân như pháp tánh, vốn không xan tham, ngày nay tu hành, thuận pháp tánh không xan tham, đưa đến đàn Ba la mật. Nên biết 3 kỳ tu đạo, không hiểu ngoài tâm được một pháp hành, một hạnh. Vì cớ sao? Chỉ là tâm mình dẫn ra hạnh thanh tịnh mà tu hành. Cho nên biết ma ni chìm dưới bùn, không thể mưa báu, gương xưa dính nhiều bụi đâu có thể nhìn thấy người? Tuy tâm tính toàn sáng, xưa nay đầy đủ, nếu không nhớ các điều kiện hiển phát thì vạn hạnh bị mai một, phương tiện dẫn ra thành được diệu dụng thì mãi mãi bị khách trần che lấp, cứ trầm luân trong biển thức, thành vọng sinh tử, làm chướng ngại Bồ-đề thanh tịnh. Vì thế lời Tổ rõ ràng, lý sự tương tức không thể y cứ theo thiên lật mà chìm vào tà kíên Hỏi:Thiện dù thắng ác, khởi niệm liền trái chân như, ước theo đạo mà nói đều chẳng phải giải thoát, cần gì khuyến rộng để ngăn thệ việc tu hành? Đã là nhân duyên thì quả ngăn ngại với đạo. Đáp: Thế và xuất thế đếu lấy việc thiện làm gốc, ban đầu nhận nơi thiện mà được vào, sau đó mượn thiện mà trợ đạo. Đừng là con thuyền vượt biển sinh tử, là con đường bước vào thành Niết-bàn, là nền tảng làm thời người, là tường vách để làm Phật Tổ, ở trong cõi trần hay ra khơi trần cũng không thể tạm bỏ, lo đều thiện mà không có lỗi? Hoằng hóa nơi con người. Nếu tham trước thì quả sinh vào cõi trời hữu lậu; không chấp trước vào địa vị vô vi. Sử dụng tâm nhỏ bé thì rơi vào địa vị Tiểu thừa; Phát khởi ý rộng lớn thì thăng lên thềm bực của Bồ- tát; nhẫn đến cứu cánh viên tư, trọn thành Phật quả. Vì biết không có cửa thương thiện có thể làm nhân ngăn ngại, thảy đều do con người thực hành, tự thành lỗi được mất. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: mười nghiệp bất thiện là nhân thọ tronh sinh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, mười nghiệp thiện thọ sinh là nhân trong cõi thiên cho đến hữu đỉnh xứ. Lại nữa thượng phẩm thập thiện nghiệp đạo này lấy trí tuệ tu tập bởi tâm yếu, tâm sợ hãi ở cõi, thiếu đại bó, từ người khác được nghe mà hiểu biết thành Thanh văn thừa. Lại nữa thượng thẩm thập thiện nghiệp đạo này tu tập thanh tịnh, không nghe người khác dạy bảo mà tự giác ngộ, nhưng vì phương tiện đại bi không đầy đủ, hiểu thấu pháp nhân duyên thành độc giáo thừa. Lại nữa thượng thẩm thiện nghiệp đạo này tu trị thanh tịnh, do tâm rộng lớn đầy đủ lòng thương xót nhiếp hết phương tiện, khởi phát đại nguyên không bỏ chúng sinh, khắp cầu trí lớn của chư Phật, bởi trong nghiêm các cõi của Bồ-tát, tịnh tu tất cả các độ, Thánh tựu hạnh rộng lớn của Bồ-tát. Lại nữa thượng thẩm thập thiện nghiệp đạo này, tất cả các thứ thanh tịnh cho đến chứng thập lực, tứ vô uy, tất cả pháp Phật đều được thành tựu. Thế nên ta đây cùng hành thập thiện, khiến cho tất cả được đầy đủ thanh tịnh cho đến cả Bồ-tát chứa nhóm căn lành như vậy, thành tựu thiện căn, táng trưởng thiện căn, tư duy thiện căn, buộc niệm thiện căn, phân biệt thiện căn, ưa thích thiện căn, tu tập thiện căn, an trụ thiện căn, Bồ-tát Ma-ha-tát như vậy mà chứa nhóm thiện căn rồi, do những cănlành này mà đạt được y như quả. Tu Bồ-tát hạnh, ở trong mỗi niệm thấy vô số Phật, chỗ cảnh ứng như vậy, thừa sự cúng dường. Lại nói: “Tuy không làm gì, mà thường trụ trong căn lành.” Lại nói: “Tuy biết các pháp không có chỗ nương nhưng nói nương theo pháp lành để được xa lìa”. Đại Trí Độ Luận nói: Phật dạy: “Vào thời quá khứ ta cũng đừng làm người ác, trùng nhỏ nhờ chứa nhóm căn lành, mới được làm Phật.” Lại nữa như trong 18 pháp bất cọng có ham muốn không giảm, Phật biết ân của thiện pháp thường ưa muốn tích lũy các pháp lành, cho nên nói dục vô giảm; Tu tập các pháp lành, không nhàm chán, cho nên gọi dục vô giảm; Như có một Tỳ-kheo lớn tuổi mù mắt, tự may y tăng già lê, bảo mọi người rằng: “Người nào thích làm phước hãy xỏ kim dùng tôi?” Lúc ấy, Phật hiện thân ra trước ông nói: “Ta là người thích làm phước không biết nhàm chán, ông hãy đưa kim đây.” Phi Niên Tỳ-kheo ấy thấy ánh sáng của Phật, còn biết giọng nói của Phật, bạch Phật rằng: Biển công đức vô lượng của Phật đều tận cả- biên tế, cớ sao không chán đủ “Phật bảo Tỳ-kheo.” Công đức quả báo sâu xa, không ai biết ân phần như ta, tuy ta có phước ấy tận cùng bờ mé nhưng ta nhờ tâm ham muốn không nhàm chán ấy mà được làm Phật. Thế nên nay vẫn không nghó, mặc dù không có công đức có thể được mà lòng ham muốn của ta cũng không dừng nghó. Chư Thiên, người đời tỉnh ngộ, Phật đối với công đức còn không chán đủ huống chi người khác? Phật nói pháp cho Tỳ-kheo ấy nghe, bấy giờ nhục thân liền sáng, thành tựu tuệ nhãn. Lại nữa, Phật nói “Nếu không thành tựu chúng sinh, tịnh cõi nước Phật không thể thành đạo vô thượng. Vì cớsao? Nhân duyên không đủ thì không thể thành Phật. Nhân duyên ấy là tất cả thiện pháp, từ lúc mới phát tâm thực hành làm bala mật cho đến 18 pháp bất cọng, ở trong đó thực hành pháp này, không nhớ tưởng phân biệt” Hỏi: Luận về pháp thân của Như Lai trạm thiên thanh tịnh, tất cả chúng sinh chỉ vì khách trần che lấp không được hiện tiền. Như nay chỉ cần dừng các phan duyên, lắng đọng nước trong trẻo, có đâu như chúng sinh hướng động rong ruỗi, trái nghịch chân tu, chỉ lao công nhọc sức. Đáp: Vô tâm tịch biện, đây là nhân; Phước đức trong nghiêm phải theo duyên khởi. Hai nhân đều đầy đủ, Phật thể mới thành những điều nay đều ghi chép đủ trong các kinh điển Đại Thừa. Kinh Tịnh Danh nói: Thân Phật tức là pháp thân vậy. Từ vô lượng công đức trí tuệ sinh ra, do Từ, Bi, Hỷ, Xả sinh ra, do bố thí, trì giới, nhẫn nhục nhu hòa, siêng năng tinh tấn, thiền định giải thoát Tam-muội, đa văn trí huệ sinh ra cho đến đã đoạn tất cả pháp ác, tích chứa tất cả pháp lành sinh ra thân Như Lai. Lại nói: “Vì đầy đủ phước đức, không trụ vô vi, do đó trí tuệ không đoạn hữu vi, do đại tử đại bi không trụ vô vi, do đầy đủ bổn nguyện không đoạn hữu vi.” Đây chính là tự trái với viên thuyên, không vâng theo lời Phật. Dường như kéo buộc trong Niết-bàn, sắp chìm trong hầm- giải thoát, trồng hoa sen trên cao nguyên, gieo trái ngọt nơi không giới, muốn cầu hoa trái Bồ-đề, đâu sản sinh ra được. Cho nên nói người vào chánh vị vô vi sinh trong pháp Phật, cho đến không thể xuống biển lớn, không thể tìm được châu báu vô giá. Như vậy không thể vào biển rộng phiền não thì không thể được bán nhứt thiết trí. Hỏi: Nhập pháp lấy vô đắc làm môn, hành đạo lấy vô vi làm người dẫn đường. Nếu khỏi các điều kiện sinh tâm có đắc thì thứ nhứt là trái với thanh tông, thứ hai là thiếu thật hạnh. Đáp: Do vô đắc nên không có gì để đắc. Do vô vi nên không có gì để làm ở trong không làm đâu sinh ra làm. Vô đắc đâu ở ngoài đắc, đã không hòan toàn khác biệt, vi và vô vi cũng chẳng giống phần nào. Ai nói một, hai mà giống hay khác, không ngại ngàn sai khác. Nếu mê hơi hai môn đồng biệt liền rơi vào hai chấp đoạn thường. Cho nên, Phẩm ly thế gian của kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả các pháp có tướng là không có tướng, tưởng là vô tưởng, không phân biệt là không phân biệt; chẳng có là có, không làm là làm, làm là không làm; không nói là nói, nói là không nói, không thể nghó bàn. Nên biết tâm đồng với Bồ-đề, Bồ-đề đồng với tâm, tâm và Bồ-đề đồng với chúng sinh, cũng không chúng sinh điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo, không thể nghó bàn. Ở trong mỗi niệm vào diệt tận định, đoạn sạch cái lậu mà không chứng thực tế, cũng không đoạn hết hữu lậu thiên cân. Tuy tất cả pháp vô lậu mà biết lậu sạch, cũng biết lậu tốt.Tuy biết Phật pháp là thế gian pháp thế gian pháp là Phật pháp, mà không ở trong thế gian Phật pháp mà phân biệt thế gian pháp, không ở trong thế gian pháp mà phân biệt Phật pháp. Tất cả các pháp đều nhập vào pháp giới. Vì không có chỗ vào nên biết tất cả pháp không hai không khác, không thể nghó bàn” Hỏi: Tất cả chúng sinh ai chưa được giải thoát, đều nhận lầm nó là giả danh, đuổi theo luân hồi. Trong kinh Lăng Nghiêm chỉ khiến cho nó lặng trong mọi vọng tưởng hư giả sinh diệt, trở lại nguồn giác được nguồn sáng, giác không có tánh sinh diệt là tâm nhân địa sau đó tu chứng quả địa viên thành. Cớ sao cứ đuỗi theo giả danh này. Luận tỉ mỉ về điều thiện kia, tăng thêm hư vọng, đâu lợi ích gì cho sơ tâm? Đáp: Danh tự tánh không, đều là thật tướng chỉ theo duyên mà khởichứ không rơi vào có không. Kinh Pháp Cú nói: Phật bảo Bảo Minh Bồ-tát: “Ông hãy quán sát tên gọi của Đức Phật này nếu là có, nói thức ăn cho người, lẽ ra họ được no đủ. Nếu danh tự là không thì Đức Định Quang Như Lai không truyền cho ta và ký cho ông. Nếu không cóngười thọ ký thời ta, không được làm Phật. Nên biết văn tự có chữ nghóa, lâu nay đã như vậy. Vì ta cũng như vậy thì nó đủ hiển bày tánh không của danh tự các pháp, không ở trong có không.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thí như các pháp không phân biệt tự tánh, không phân biệt âm thanh mà không bỉ tự tánh, không diệt danh tự. Bồ-tát cũng giống như vậy không bỏ việc làm, tùy thuận thế gian mà thực hành, mà ở trong 2 thứ này mà không chấp trước”. Đó chính là không động thực tế, kiến lập hạnh môn, không họai giả danh mà viên tống tự tánh. Hỏi: Cớ sao không mặc tình thong dong vô tâm hợp đạo? Cần gì vạn hạnh để làm động cửa tâm? Đáp: Cổ Đức làm tỏ Phật quả có ba: Quên lời dứt hành động, chỉ nói pháp thân vô tác quả. Từ hạnh tu dần dần, vị viên mãn tam kỳ quả. Từ sơ lý ký tự tại viên dung quả. Đây là việc làm của bậc thượng thượng căn, viên tu viên chứng. Tuy một niệm liền đủ mà không ngại thực hành vạn hạnh. Tuy thực hành vạn hạnh mà không lìa một niệm. Nếu vong tình ngầm hợp, mỗi thứ là một niệm, nhanh chậm vì căn cơ, pháp không trước sau. Hỏi: Chạm mắt là Bồ-đề, dở chân đều là đạo, cần gì phải tập siêng sự tướng đạo tràng? Làm nhọc mệt thân tâm. Đâu phải đều là diệu chỉ? Đáp: Đạo tràng có hai: Lý Đạo tràng. Sự đạo tràng. Lý đạo tràng là biến khắp trần sa cõi nước, Sự đạo tràng là tónh địa nghiêm sức. Song nhờ sự hiển lý, nương lý mà thành sự. Sự bao hàm lý thì sự thảy đều la lý, lý thật ứng chuyên, lý không ngại sự, cho nên ngay hỏi sự rõ lý, phải nhờ trang nghiêm; từ tuc vào chuyên chỉ nương nơi sự kiến lập. Làm gốc của quy kinh, làm cửa của việc sách phát nhìn tưởng mà trang nghiêm tâm, tự tha mà được lợi ích. Chi quán nói: Viên giáo sơ tâm, lý quán tuy thật, pháp nhẫn chưa thành, cần phải ở nơi tónh địa xây dựng trang nghiêm đạo tràng, đêm ngày 6 thời tu hành 5 sám, sám tội 6 căn, nhập quán hạnh tức, thừa giỏi đều cần kíp, lý sự không thiếu sót, chư Phật gia hộ, chớp minh đến Phật, thẳng đến sơ trụ, một đời có hể bước đến. Thượng đô nghi nói: Luận về quy mạng Tam bảo, phải chỉ phương hướng để lập tướng, trụ tâm giữ cánh. Không rõ vô tưởng ly niệm vậy. Phật biết rõ hàng phàm phu, buộc tâm vẫn còn chưa được, huống chi là lìa tưởng ư? Như người bình thường không có phép thuât ở trong hư không xây cất nhà cửa vậy. Nương ba pháp quán như bảo tượng vậy… cần phải không nghi. Phật nói “Sau khi ta diệt độ, ai hay quán tướng cũng không khác ta.” Đại trí độ luận nói: “Bồ-tát chỉ lấy 3 việc không nhàm chán: Cúng dưỡng Phật không chán. Nghe pháp không chán. Cung cấp cho chúng tăng không chán. Thiên thai trí giả nói: Ở đời có kẻ không hành, chấp đó thành sơ không, không khế hợp với kinh điển, nghe pháp quán tấm năng, mà có lời nạn vấn: Nếu quán tâm là pháp thân thì lẽ ra xúc xử bình đẳng, cớ sao khỏi lòng cung kính kinh tượng, giấy gỗ sinh tâm khinh lớn. Bởi cung kính và xem thường khác nhau, thì chẳng phải bình đẳng. Vì chẳng phải bình đẳng, nên nghóa pháp thân không thành. Đáp: Ta từ địa vị phàm phu mà quân tướng như vậy . Vì muốn mở rõ thật tướng này nên cung kính kinh tượng khiến cho tuệ không bị trói buộc, dạy cho vô lượng người treo thiện bỏ ác, để phương tiện không bị ràng buộc, há không giống ông sao? Cho đến rộng pháp hội, xây dựng đàn nghi, gắng sức gia trì, nghiên sức việc thù thắng kia, đạo tràng liền được biện chứng, chư Phật gia hộ thêm oai lực, cũng được lòng thương xót bậc đại Thánh, chỉ dạy nghi tắc. Hoặc thấy tướng hoa thơm, giới đức càng thanh tịnh; hoặc thấy thân của Phổ Hiền, nguồn tội thảy được chút sạch. Nhân đây mà pháp sự được đầy đủ. Phật đạo hưng thịnh, hiện ra đây để cảm thông, có chỗ quay về nương tựa. Vì thế phải nương theo bậc Thánh, sự trùng hợp thanh điển, không thể bịa đặt, sinh ra trong lòng, hiển họai thiện đức, lại đọa vào lòng tà, phố có trệ không. Hỏi: “Kinh Kim Cương Bát-nhã nói: Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người này hành tà đạo, không thể thấy được Như Lai.” Cớ sao đặt tướng nêu hình mà xưng là tội sự? Đáp: Ngưng duyên bặt sự, đây là phá tướng tông; luận thẳng để rõ lý, tức là đại thừa thỉ giáo. Chưa đạt hữu vô càng hành, thể dụng giao nhau. Nếu ước vào niên môn vô ngại, tánh tướng dung thông, chỉ nêu 1 vi trần mà bao trùm cả thế giới. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thanh Tịnh từ môn sát trần số cùng sinh một tướng vi diệu của Như Lai, mỗi mỗi tướng cũng giống như vậy, do đó mà người nhìn thấy không nhàm chán”. Kinh Pháp Hoa nói: Đối với pháp Phật, ông chứng đặng nhứt thiết trí, ra lực đầy đủ 32 tướng cho đến chân thật diệt. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Phi sắc là Thanh văn, duyên giác giải thoát; Sắc là chu Phật Như Lai giải thoát.” Đâu giống với cảnh ngoan ngại hòanh chấp của hàng phàm phu cho là sắc thật, chất khôi đoạn thiên chứng của nhị thừa mà gọi là chân hình? Đó là sở đối của 6 căn đều thấy Như Lai; Vạn tượng đều quán, pháp giới tròn sáng. Đâu đợi tiêu diệt hình ảnh mới thành huyền thư ư? Hỏi: Tức tâm là Phật, cần gì cầu bên ngoài? Nếu nhận trần khác, pháp bên trong liền ẩn. Đáp: Pháp môn của chư Phật cũng không hướng một bề, đâu có sự dung nhiếp gồm tự lực, tha lực, tự tướng, cọng tướng bao hàm nghóa của 6 tướng. Tuy theo duyên mà tợ phân, ước theo tánh mà thường hợp. Cành thiện do tâm, cảnh đức do tâm, đều nhiếp về cả, tha tức là tự. Cổ Đức nói: “Nếu chấp tâmlà hai, ngăn lời không nói hai. Vì ngoài tâm không có trần khác; nếu chấp là một, ngăn cho nói là một. Vì mọi pháp đều do duyên sinh.” Kinh Tịnh danh nói: “Đã kiến lập oai thần của chư Phật”. Trí Giả Đại Sư nói: “Người một bề quán vô sinh, chỉ tin tâm mình lợi ích không tin sự gia hộ của Phật bên ngoài. Kinh nói: Chẳng phải trong hẳng phải ngoài, mà là trong và ngoài. Vì là trong nên chư Phật giải thoát, cầu trong tâm hành. Vì là ngoài nên chư Phật vô niệm, cớ sao không tin có lợi ích bên ngoài ư ? Luận về đạo nhân duyên, môn tiến tu đều do các nhân duyên tạo thành, không độc lập riêng lẽ. Nếu tự lực dồi dào thì không cần nhờ duyên khác, nếu tự lực chưa kham cần phải nương thế khác giống như người đời ở trong khó khăn nếu mình không đủ sức thoát khỏi cần phải nhờ sức của người khác cứu giúp. Lại nữa, như khiêng vác đồ nặng, sức mình không vác nỗi, cần phải nhờ sức của người khác mới có thể chuyển nỗi. Chỉ có thật đức bên trong, không bao giờ ngại người ngoài. Lại nữa, nếu chấp nội lực cho là tự tánh. Nếu nói ngoại lực tức thành tha tánh. Nếu bảo có cảm hợp nhau tức thành cọng tánh; nếu nói chẳng phải nhân chẳng phải duyên tức không phải nhân tánh, đều vướng vào ngăn trệ, chưa vào viên thành. Nếu hiểu rõ chân tâm, tức không chỗ trụ. Hỏi: Kinh nói: Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy, một niệm không sinh thiên chân liền sáng. Sao xướng danh hiệu Phật khác, tụng các kinh điển, luân hồi cao thấp, tiền hậu sinh diệt. Đã chướng ngại thiên định, đâu chạy theo âm thanh, nước động châu chìm. Đâu thể ngầm hợp? Đáp: Nghe là nhà của các nghóa, nói là nhà cửa của sự giải thoát, tất cả đều nghe được tiếng ấy là pháp giới. Kinh nói: Trong mỗi một pháp đều bao hàm tất cả pháp. Cho nên biết trong một nhôn âm, không ngoài bao la, đầy đủ mười cõi, tam đế viên dung. Cớ sao trọng đây khinh kia, lìa tướng cầu chân? Không thấu suốt nguồn động tịnh, bên mất lời mặc ngữ. Cho nên kinh nói: Một niệm vừa khởi không có tính ban đầu, đó là được niệm thật. Đâu cần dứt niệm bật tiếng mới ngầm hợp với thật tướng. Vì thế trong môn tranh nghiêm không thiếu vạn hạnh; trong biển chân như, không bỏ mảy may. Vả lại, nếu niệm theo thời khóa, tuân thủ theo danh hiệu, dạy bảo có lời, xướng một tiếng mà tội diệt trần na, đủ mười niệm mà hình hiện lên cõi tịnh, cứu vớt hiễm nạn, giải trừ oan trái, chẳng những một kỳ tạm nhổ khổ nương nhân duyên này, trọn đời trú vào biển giác. Cho nên kinh nói: “Nếu người tâm toán loạn, vào trong tháp miếu Phật, vừa xưng Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo.” Lại nữa kinh nói: “Người thọ trì danh hiệu Phật, được tất cả chư Phật hộ niệm.” Kinh Bảo Tích nói: “Niệm lớn hiệu Phật, quân ma thoái lui.” Kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Chúng sinh ngu độn, quán không hiểu nỗi, chỉ dạy họ giữa niệm liên tục, tự được vãng sinh cõi Phật.” Trí Độ Luận nói: “Thí như có người mới sinh ra đời đi được 1000 dặm, đi 1000 năm, trong đó dùng 7 báu đầy đủ đem cúng dường Phật, không bằng trong đời ác sau có người xuống một tiếng Phật, phước đức người này gấp bội người kia.” Kinh Đại Phẩm nói: “Nếu người tán tâm niệm Phật, cho đến diệt hết khổ, phước ấy không mất.” Kinh Tăng Nhất Hàm nói: “Đem tất cả sự cúng dường cho tất cả chúng sinh trong toàn cõi Diêm-phù, công đức vô lượng. Nếu có chúng sinh khởi tâm lành kiên tục niệm danh hiệu Phật, như một ruộng sữa của trâu mào, công đức có được vượt hẳn người trên, không thể tính kể, không thể suy lường. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trụ vào tâm tự tại mà niệm Phật, tùy theo tâm mình mà có được sự ưa thích, bởi tất cả các đức Phật đều hiện hình trong đó.” Hòa Thượng Phi Tích lớn tiếng niệm Phật. Luận Bảo Vương Tam- muội nói: “Người tắm nơi biển rộng cũng không dùng nước trăm sông; người niệm danh hiệu Phật ắt sẽ thành Tam-muội. Cũng giống như viên châu sáng rơi xuống ao nứơc đục ắt sẽ trong xanh; Niệm Phật rơi vào tâm loạn, tâm loạn ấy ắt sẽ là Phật. Sau đã khế hợp, tâm phật đều mất. Cả hai mất tức định vậy. Cả hai chiếu soi là thực vậy; Định tuệ đã đều thì tâm nào chẳng phải là Phật? Phật nào chẳng phải là tâm; Tâm Phật rõ ràng thì vạn cảnh nhân duyên thảy đều là Tam-muội vậy”. Ai còn bị họa hoạn, khởi tâm động niệm, lớn tiếng niệm Phật? Cho nên kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói: Niệm Phật lớn tiếng, được tụng kinh điển có ra công đức. Có thể bài trừ hôn trầm. Thiên ma kính sợ. Tống biến khắp mười phương. Tam đồ dứt khổ. Tướng bên ngoài không xâm nhập. Khiến tâm không tán loạn. Dũng mãnh tin tấn. Chư Phật hoan hỷ. Tam-muội hiện tiền. Sinh vào tịnh độ. Quần Nghi Luạân nói. Hỏi: Danh tự tánh tông, không thể giảng nói các pháp, dạy người chỉ một bề xưng danh hiệu Phật khác gì nói ăn mà vẫn còn đói chú ư? Đáp: Nếu nói danh tự vô dụng, không thể giảng nói pháp thể, cũng phải hô lửa nước đến. Cho nên biết môn lưới không phải rỗng không, nhờ đó mà được cá, thỏ. Cho nên khiến cho Phạm Vương cầu thỉnh phật chuyển bánh xe pháp đại tánh tùy căn cơ hoàng tuyên diệu chỉ, thiên nhân phàm Thánh đều bẩm thọ lời chán, ngũ đạo chúng sinh đều tuâm theo lời di huấn, nghe tiếng đọc tụng, lợi ích sâu rộng, xưng niệm hiệu Phật vãng sinh tịnh độ, cũng không được cho rằng danh tự là hư giả, không có người giảng nói thôi. Luận nói: Hỏi: Do đâu một lực niệm Phật có khả năng diệt trừ tất cả nghiệp chướng? Đáp: Như một làn hương chiên đàn có thể biến khắp 40 do tuần rừng y lan đều thơm. Lại nữa, thí như có người dùng gân sư tử để làm dây đàn, âm thanh đó vừa tấu lên thì tất cả đàn khác đều đứt hết. Nếu người ở trong tâm Bồ-đề niệm Tam-muội, tất cả phiền não, tất cả chướng ngại đều dứt sạch. Kinh Đại Tập nói: “Hoặc một ngày đêm hoặc 7 ngày đêm, không làm việc khác, trong tâm niệm Phật, niệm ít thấy ít, niệm nhiều thấy nhiều. Lại nữa, kinh Bát-nhã nói: “Văn-thù hỏi Phật: - Làm sao sớm đặng Tam-miệu Tam-bồ-đề? Phật bảo: Có một hạnh Tam-muội, người muốn vào một hạnh Tam-muội cần phải ở chỗ vắng vẻ dẹp sạch loạn ý, không giữ tướng mạo, chuyên niệm một Phật, chỉ xướng tên gọi, hướng về chỗ của Phật, ngồi ngay thẳng. Có thể ở trong một đức Phật tương tục niệm, ở ngay trong niệm này có thể thấy được chư Phật thời quá khứ, hiện tại, vị lai, đêm ngày thường nói, trí tuệ biện tài không bao giờ dứt.” Hãy biết đấy là oai lực chư Phật khó nghó huyền không khó lường, như đá hút sắt, như nước chảy vào sông. Căn lực thiện từ, thấy việc như vậy, chí tâm quay về, linh cảm rõ ràng. Hỏi: Những gì có tướng đều là hư vọng. Nhưng thấy cảnh đẹp chấp lấy nó thì thành ma. Cớ sao chấp tướng khởi tâm mà cầu thầm cảm ư? Đáp: Tu hành gắng chí, cảnh Thánh mới rõ, chuyên lành đã hiện, pháp xưa nay là thế. Cho nên sắp chứng thập địa, tướng cũng hiện tiền, thế nên hết sức cố gắng tăng thêm oai lực, đạo cao ma Thánh, có người tọa thiền nhập vào chỗ vi tế, mà biến tướng lạ, có người tụng đọc chí thành tam thấy điều lành. Nhưng hòan toàn do tâm. Thấy chỗ không thấy. Nếu vin lấy nó thì ngoài tâm có cảnh liền thành ma sự; nếu bỏ nó thì bác bỏ công năng của việc thiện, không có cửa để tu vào. Luận Ma-ha nói: “Hoặc chân hoặc ngụy chỉ do tâm vọng của mình, cảnh giới hiện lượng, không có gì là thật, không có gì để đắm trước.” Lại nữa, nếu chân hay ngụy cũng là chân như, đều 4 pháp thân khôn g có sai khác. Vì không đoạn trừ. Trí luận nói: “Không bỏ nó là trong các pháp sức đều có sức trợ đạo. Không thọ là vì thậtcác tướng rốt cụôc không có gì để được.” Thiên Thai giáo nói: Người nghi, nói đại thừa bình đẳng, tướng nào để luận? Nay nói không phải vậy, chỉ do bình đẳng vì gương sạch. Các nghiệp hiện hình. Bây giờ nghiên cứu sâu chỉ quán, tâm dần dần sáng sạch, soi rõ các việc thiện ác, như gương được lau chùi, vạn tương tự hiện. Đấy là biết không có mà có, vô tánh duyên sinh; có mà không có, duyên sinh vô tánh. Thường ngẫm hợp với thực tế, trung đạo rõ ràng, yên vui không sinh, phân biệt tình đoạn, hư hòai tịnh lự, cớ sao bị mê hoặc bởi được mất ư. Lại nữa, nếu phúng tụng kinh điển, thọ thì đại thừa, công đức sâu xa, quả báo mầu nhiệm. Như kinh Phật đã đích thân thử nghiệm. Thí như một người tham vấn Văn-thù, giáo hóa người trong 4 cõi đều đến nhứt sinh bổ xứ, so sánh công đức không bằng đem hương hoa cúng dường các điển kinh Phương Đẳng, được hạ đẳng bảo. Lại nữa, A-nan nghị Thẩm Bảy Phật hiện thân chứng minh, thật có việc này. Còn nữa, như thuyết tu hành, được thượng đẳng bảo; thọ trì đọc bảo, được trung đẳng bảo; hương hoa cúng dường, được hạ đẳng bảo. Kinh Pháp Hoa nói: “Cúng dường 400 ngàn tức hàng ký thế giới chúng sinh, đến khi đạt đạo A-la-hán sạch hết hữu lậu vào sâu trong thiền đình đều được tự tại, đủ bát giải thoát, không bằng một người thứ 50 nghe một bài kệ kinh Pháp Hoa tùy hỷ công đức, trăm ngàn muôn ức phần cũng không bầng một. Vả lại kinh nói: Nếu chỗ người đọc tụng kinh, chỗ đất ấy đều thành kim cương, chỉ vì mắt thịt chúng sinh không thể thấy được thôi.” Nam Sơn Cảm Thông truyện nói: “Trong kim tháp của thất Phật có con dấu bạc, nếu người tụng kinh đại thừa, con dấu ấy liền khắc vào miệng người đi, khiến không bao giờ quên kinh Phổ Hiền quán nói: Nếu bảy chúng phạm giới, người muốn trong chốc lát diệt trừ được sinh tử trong trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp nhẫn đến muốn được Văn-thù, Dược Vương, các Bồ-tát lớn cần hương hoa đứng giữa hư không đưa cho phải tu kinh Pháp Hoa này. Đọc tụng kinh đại thừa nghó nhớ việc đại thừa, khiến cho không tuệ này tương ứng với tâm” Kinh Đại Bát-nhã nói: “Không có loài thú ác nào ở trong hang sâu vắng lặng mà chọn chỗ ở.” Cái gọi là cái nghe pháp, đêm ngày 6 thời siêng năng đọc tụng, tiếng lìa cao thấp, tâm không duyên ngoại cảnh duyên tâm trì niệm. Kinh Hiền Ngu nói: “Hành giả muốn thành Phật đạo, nên ưa kinh pháp đọc tụng diễn thuyết, chư Thiên long thần đều đến nghe, lãnh thọ, nữa là người xuất gia? Người xuất gia cho dù đi trên đường đọc tụng kinh, nói kệ. Thường có chư Thiên theo họ để nghe. Vì thế phải siêng năng tụng kinh thuyết pháp.” Những điều nêu trên đều là lời vàng chân thật, chẳng phải là lời của tâm vọng hư dối. Thế nên người chí tâm đọc tụng, chứng nghiệp giống như thật, luôn được do phương chư Phật. Thích-ca Văn Phật thầm rủ lòng thương xót gia hộ, khen ngợi lành thay, nắm tay xoa đầu lấy y trùm cho, nhiếp thọ phó chức, tùy hỷ oai lực, nhẫn đến được thần nương thọ trì, thiên tiên ủng hộ, kim cương theo phò.Thích phạm rãi hoa, thành tựu nhân phước đồng với cõi hư không pháp giới. So sánh công đức còn trội hơn nhận bố thí của hằng sa bảy báu, cho đến chất phàm bình thường, nhục thân không họai, lưỡi biến thành màu sen hồng miệng vọt ra mùi thơm tử đòn, nghe được câu mà được vào Bồ-đề; tụng nữa kệ mà công đức ngang bằng bậc đại giác. Biên chép kinh điển, quả báo thọ ở trời cõi Dục; cung cấp cho người thọ trì, phước trôi chư Phật, có thể gọi là sức oai đức của pháp không thể nghó bàn. Muôn điều lành ngàn điều linh hiển, nhân đây mà được cảm ứng. Tam hiền thập Thánh sinh ra từ đây. Thấu cổ thâu kim, từ trần đến Thánh 3 nghiệp cúng dường, thập chủng thọ trì, bẩm hết lời chân, truyền trí không dứt, nay tại sao khởi tâm hủy báng mà đoạn việc chuyển bánh xe pháp. Hỏi: Trong kinh chỉ khen ngợi như thuyết tu hành, hiểu sâu nghóa thú, siêng cầu vô niệm, mặc khế huyền căn, cớ sao khuyến tu khởi rộng xướng tụng? Đáp: Nếu ước theo bậc thượng thượng viên căn, đại cơ thuần thực, không có các chướng ngại đốn, liễu đốn tu. Nếu vọng niệm không sinh thì cần gì trợ đạo? Phần nhiều tư tưởng nhỏ nhiệm, cõi Phật thì không hiện. Cho nên bài tựa kinh “An Ban Thủ ý” nói: “Trong khoảnh khắc tâm chuyển 960 lần. Một ngày một đêm 30 ức niệm. Ý có mặt toàn thân, tâm không tự biết, giống như bẻ bàn phu vậy.” Thế nên biết tinh thần chướng ngại, vẹn tịnh tốt đẹp. Nếu chẳng có vạn thiện giúp cho khai mở, sức mình sợ bị vướng lại. Lại nữa, nếu luận về pháp nghiệp, trong biến hành môn, vạn hạnh trong nghiệm không bỏ pháp nào, vì các pháp đều trợ đạo, tỏ rõ đại Bồ- đề, đầy đủ mười món thọ trì cũng không có gì ngằn ngại. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Bấy giờ, ngàn thế gian vi trần số Bồ-tát Ma-ha-tát từ đấy vọt ra, đều ở trước Phật một lănh chắp tay, chiên ngưỡng tôn nhan, mà bạch Phật rằng. Thế Tôn! Chúng con ở lúc sau Phật diệt độ rộng nói kinh này. Tại sao như vậy? Chúng con muốn mình được đại pháp chân tịnh, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, viết sách mà cúng dường Phật. Thế nên biết rằng Bồ-tát chẳng những giúp cho người khác giải thoát, còn tự mình phát nguyện thọ trì, nữa là kể sơ tâm không chịu vâng lời. Nhưng trước hết cầu tin hểu ngộ nhập, sau đó như lời dạy mà tu hành, miệng giảng tâm nghó tưởng, giúp mở chánh tuệ. Nếu chưa thâu tột tông chỉ vẫn phải tuân theo lời văn, tuy chưa sáng tỏa nhưng cũng hiện được cội lành. Oai lực của Bát-nhã nhầm hỗ trợ trước sau, ở trong chánh pháp phát một mảy tâm, đều là nhân ban đầu trọn không luống bỏ. Hỏi: Muốn chân thật trì kinh, phải niệm thật tướng, đã quên năng sở, ai là người tụng? Nếu nói vịêc làm của tâm khẩu, cầu tìm nó thì không bao giờ được suy cho cùnglý ở môn nào? Đáp:Tuy quán năng niệm và sở tụng đều không, không ấy chẳng phải đoạn không; không ngại nơi nặng tụng và sở trì là có, có ấy chẳng phải thật có, không phải không cùng không phải có. Đúng lẽ rõ ràng, chấp không thì rơi vào tà không, đăm có thì hành thiên giả. Đó chính là nhứt tâm tam quán, tam quán nhứt tâm, tức một mà 3 tướng bất đồng, tức 3 mà một thể không khác. Chẳng hợp chẳng tan không tụng không hành. Còn mật chẳng buộc, phải trái đâu cong? Thường khế hợp với 3 đế tổng hợp nhứt thừa, lục độ vạn hạnh, đều quay về thật tướng. Lại nữa, cái khó của việc tụng niệm có khi chướng ngại thiền định, bởi một pháp thiền định là cội gốc của tứ biện lục không, là nhân cải phàm thành Thánh. Nhiếp niệm một lát, được xưng thượng thiện. Cho nên phải biết rõ hơi thở tâm trầm. Kinh nói: Nếu người thiền mà bị buồn ngũ, phải đứng dậy đi kinh hành niệm Phật hoặc chí thành sám hối để trừ nghiệp nặng, sách tấn thân tâm, không được chắp chặc một môn lấy cứu cánh. Cho nên Từ Mẫn Tam Tạng nói: “Lời Phật đã dạy, người đang thiền định giữ tâm một chỗ niệm niệm liên tục, lìa khỏi hồn trần, trạo cử, giữ tâm bình thường. Nếu sự ngủ nghó che chướng cần phải gắng sức niệm Phật tụng kinh, lễ bái kinh hành, giảng kinh thuyến pháp, không bỏ luống vạn hạnh, hạnh nghiệp đã tu, hồi hướng về Tây phương Cực lạc. Nếu người theo tu tập thiền định như vậy. Thời thiền định của Phật hợp với chư Thánh, là mắt thịt của chúng sinh được chư Phật ấn nhã. Tất cả chư Phật vốn không sai khác, đều nương theo nhứt như, thành tối chánh, cũng gọi là niệm Phật là nhân Bồ-đề, đâu được vọng sinh tà kiến? Cho nên, thực hành Tam-muội của tông Thiên Thai. Tiễu thừa đủ 5 quán đối trị, cũng có các lọai Tam-muội như thường hành, bán hành v. v… Không bao giờ thiên chấp về tọa thiền. Kinh Kim Cang Tam Muuội nói: “Không động thời không thiền, thiền lìa ý tưởng khởi thiền.” Kinh Pháp Cú nói: “Nếu học các Tam-muội, là động chứ không phải là thiền. Tâm sinh theo cảnh giới cái gì gọi là thiền?” Luận Khỏi Tín nói: “Nếu người duyên tu chỉ thì tâm chìm lắng, hoặc sinh biến nhác, không thích làm việc lành, xa lìa đại bi cho đến mọi lúc, mọi nơi có các việc thiện tùy theo khả năng mình mà làm, không bỏ tu học, tâm luôn siêng năng, ngoài lúc đong ngời, duyên mêng về chỉ. Còn những lúc khác phải xem xét việc nào nên làm, việc nào không nên làm. Hoặc đi, đứng, nằm, ngồi đều phải thực hành đủ 2 pháp chỉ quán.” Đó là khéo thấu hiểu, định, tán đều được vào đạo; nếu phát sinh sự trở ngại đi, ngồi cũng trở thành lỗi. Pháp Hoa sám của ngài đều phải thực hành đủ 2 pháp chỉ quán.” Đó là khéo thấu hiểu, định, tán đều được vào đạo; nếu phát sinh sự trở ngại đi, ngồi cũng trở thành lỗi. Pháp Hoa sám của ngài Phương Nam nói: “Tu tập các phap thiền định, được Tam-muội của chư Phật, 6 căn tánh thanh tịnh. Bồ-tát học “Pháp Hoa” đầy đủ 2 món hạnh: Hữu tướng hạnh. Vô tướng hạnh. Vô tướng an lạc hạnh là thiền định sâu xa mầu nhiệm, quán sát căn của lục tình. Hữu tướng an lạc hạnh (nương theo phẩm khuyến phát này), tán tâm tụng Pháp Hoa, không thâm nhập thiền Tam-muội ngồi, đứng, đi nhất tâm, niệm văn tự “Pháp Hoa” người thực hành nếu được thành tựu thân Phổ Hiền. Đó chính là điều mà Trí giả tu Pháp Hoa sám, tụng đến phẩm “Dược vương đốt thân” nói: “Là chân thật tinh tấn, là chân pháp cúng dường Như Lai.” Đốn ngô ý chỉ liên sơn như cùng ngồi một tọa, nhân đến trì thầm thần chú, linh hiển rõ ràng, được chánh ngăn tà, hàng ma trừ ngoại đạo. Ngăn trừ được chường cả của hồn trầm, diệt được binh trầm kha của nhiều kiếp, hiện thần thông không thể nghó lường, hiện cảm ứng khó nghó bàn. Hỗ trợ đại nghiệp của mình, diệt trừ tai ương còn sót lại của kể khác. Mong nhờ pháp lực khó nghó lường, bèn đạt đến chỗ an nhiên nhập đạo. Đó chứng là do niệm Phật củ achứng Tam-muội, hoặc do tu thiền mà mở cửa trí tuệ, hoặc chuyên tụng kinh mà thấy pháp thân, hoặc chỉ kinh hành mà chướng Thánh đạo, nhưng chỉ lấy việc đắc đạo làm vừa ý, thì không bao giờ đạt được một môn định, chỉ nhờ sức chí thành nhứt ý chẳng tin lời sáo rỗng. Hỏi: Kinh hành lễ bái, chưa đủ gọi là chân tu, tổ lập, cho nên “Trí Độ Luận” nói: “Tu Bồ-đề ở trong hang đá liễu ngộ được pháp không, được lễ Phật trước.” Kinh Tứ Nhập Nhị Chương nói: “Tâm đạo nếu hành thì dùng gì để hành đạo?” Thấu suốt ý chỉ, cớ sao chẳng trái? Đáp: Nếu lúc kinh hành lễ bái khôngsanh tâm tha thiết, đã không quán tuệ, lại không ròng rặc, tuy thân ở trong đạo tràng mà tâm duyên ở chỗ khác, chấp tướng hữu vi, mê mờ tánh không của mình, khởi tâm có mình làm, sinh các thứ ngã mạn, không hiểu mình người bình đẳng, năng sở rỗng không, Đại Sư Nam Tuyền nói: Pháp thân thanh tịnh vi diệu, đủ 32 tướng, những là không cho phép phân chia tâm lượng. Nếu không được tâm ấy thời tất cả hành xử, nhẫn đến chấp tay trong chốc lát đều là chánh nhân. Vạn thiện cũng đồng với vô lậu, mới được tự tại. Hòa Thượng Bách Trượng nói: “Hành đạo lễ bái, từ bi ý xả, là việc chính của diệu môn này, tỏ rõ nương theo lời tuyên nhắc của Phật, nhưng không cho phép dính mắc.” Pháp Hoa sám nói: Có hai thứ tu. Tu trong sự, nếu lễ đạo, niệm Phật hành đạo, thảy đều nhứt tâm. Không phân tâm tán ý. Tu trong lý, tâm đã tạo tác, tâm tánh không hai, quán thấy tất cả đều là tâm này, không được tâm tướng. Kinh Quán Phổ Hiền nói: “Nếu có người đêm ngày 6 thời lễ lạy mười phương Phật, tụng kinh đại thừa nhớ nghó đến pháp, không sầu mầu đệ nhất nghóa, ở trong khoảng khắc, diệt trừ được mọi sinh tử trong trăm ngàn ức atăng kỳ kiếp. Người thực hành pháp này chính là Phật tử, sinh ra từ chư Phật, mười phương chư Phật và các vị Bồ-tát lam hòa thượng của họ, người này gọi là người đầy đủ Bồ-tát giới không cần yết ma tự nhiên thành tựu, đóng nhận tất cả nhân thiên cúng dường.” Hơn nửa thực hành một pháp, xem trọng về trời Tây, nhiều trăm ngàn vòng, vừa thi hành một bái. Kinh nói: “Một ngày một đêm hành đạo, chí tâm đền đáp 4 ân, những người như vậy, mau được đắc đạo.” Kinh Công Đức Nhiễu Pháp nói: “Siêng năng mạnh mẽ, bền bó không họai, sớm thành tựu những việc đã làm, đây là do nhiễu pháp bên phải. Được màu sắc vàng tía, thân tướng hảo trang nghiêm, hiện làm thầy trời người, đều này do nhiễu pháp bên phải.” Hoa Nghiêm sám nói: “Hành đạo dần dần qua vô biên thế giới, mỗi một đạo tràng đều thấy thân ta.” Nam Sơn Hành đạo nghi nói: “Luận về việc hành đạo lấy chướng sạch làm kỳ, không định hạn ngày nào. Nếu luận về chướng tận, Phật địa liền mất, tâm rỡ rỡ như đầu sáng, hình ngều ngệu như đầu trượng.” Nghi nói: Nếu trước đây chưa bao giờ hành đạo, nghiệp chướng không do đâu mà hiện. Kinh nói: “Chúng sanh như đứa con mù của tỷ phú, tuy có vô số của báu nhưng không thấy được.” Nay dụng công hành đạo, cấu trừ thì tâm tịnh, như người nhận mắt được sáng, như nước lặng gương sáng thời mọi hình ảnh điều hiện, cũng như mặt trời chiếu hỏa châu, liền hiện ra từ lửa. Hỏi: Thật tướng các pháp, không có các tướng thiện ác, sao nói có hiện ư? Đáp: Tuy không ngã, không tao tác, không tạo thọ, những nghiệp thiện ác không mất. Các pháp vô tướng có khả năng hiện ra tướng. Hành giả hành đạo, không nghó hữu tướng, không nghó vô tướng, như mỗi niệm thàng công, tướng ấy tự hiện tự hiện. Giống như lọ nước ở trong nhà kín, tuy không có tâm phân biệt các cảnh tự hiện. Hỏi: Lúc tướng hiện, làm sao biện biệt được thật giả? Cớ sao phân biệt mà thành lấy bỏ ư? Đáp: Nếu thủ cũng như thủ hư không; nếu xả cũng như xả hư không. Hỏi: Có người từ lâu không chứng được đều ấy, tại sao? Đáp: “Tâm chúng sinh như gương gương nhỏ bóng không hiện.” Hỏi: Luận nói: “Hành đạo niệm Phật, ngồi niệm Phật, công đức như thế nào? Đáp:Thí như giương buồn ngược gió, vẫn nói là qua được; Vả lại nếu giương buồn thuận dòng, lướt nhanh có thể biết. Ngồi niệm một lời, đến nỗi tội trong 80 kiếp trước đều tan trừ, công đức thành niệm đâu biết được lượng của nó ư? Cho nên kệ nói: Kinh hành 500 vòng, niệm Phật 1000 tiếng, luôn thực hành như vậy, Tây Phương Phật tự thành.” Nếu lễ bái thời khuất phục vô minh, càng nương cõi giác, hết lòng thành kính, như cây đổ núi sạt. Kinh Nghiệp Báo Sai biệt nói: “Lễ Phật một lạy từ chỗ đứng của mình đến bờ mé kim cương, một trần, một ngồi chuyển luân vương, được mười món công đức: Được sắc nhân vi diệu. Nói ra người tin. Ở trong chúng không sợ. Chư Phật hộ niệm. Có cai nghó lớn. Mọi người gần gũi. Chư Thiên yêu kính. Đủ phước báo lớn. Chết đuợc văng sinh. Mau chứng Niết-bàn.” Tam Tạng Nặc Na nói: Phát trí thành tịnh lễ là bởi thông đạt cảnh giới Phật, tuệ tâm sáng suốt, rõ biết pháp giới vốn không ngán ngại, do ta từ vô thỉ thuận theo phàm tục, phi hữu hữ tưởng, phi ngại ngại tưởng. Nay hiểu được tâm mình rỗng lặng vô ngại, cho nên thực hành lễ Phật, tùy hiện lượng của tâm. Lễ một Đức Phật tức lễ tất cả Phật. Lễ tất cả Phật tức lễ một Phật. Vì pháp thân Phật thể dụng dung thông, cho nên lễ một lạy, biến khắp pháp giới. Cũng vậy đem vô số hoa cúng dường ví đồng như vậy. Tứ sinh lục đạo, đều muốn làm Phật. Văn-thù nói: Vì tâm không sinh diệt nên lễ kính không chỗ quán. Nội hành bình đẳng, ngoại thuận tu kính, nội ngoại ngầm hợp, gọi là bình đẳng lễ. Pháp Hoa sám nói: Lúc đang lễ bái, tuy không được năng lễ sở lễ, nhưng ảnh hiện khắp pháp giới, đều lấy thân mình lễ bái trước từng vị Phật. Lược trình bày lời dạy của Tổ, lý sự rõ ràng, không thể diệt ý Phật mà hủy lời vàng, theo thiên kiến mà tổn thương viên chỉ. Hỏi: Văn-thù nói: “Vì tâm đồng hư không nên lễ kính vô sở quán. Kinh điển thậm thâm, không nghe không thọ trì.” Tại sao chấp tướng cho là lễ Phật, đuổi theo văn bảo là tụng kinh, trái với lời tha thiết của đại só, mất ý chỉ sâu mầu của chư Phật? Đáp: Ở đây tuy ước theo lý mà trình bày, nhưng không có sự nào mà không rõ, từ sự mà thực hành, lạai không cólý nào không tròn, lý sự cùng thành mãi rõ ý này. Nỗi tâm đồng hư không, kính lễ vô sở quán, đây là phá kiến chấp về năng sở. Vì sao? Tâm đồng hư không, không thấy mình lễ, không có đối tượng được lễ thì không có gì để lễ; không thọ trì thì thời chẳng có văn tự để nhớ. Trì kinh như vậy, chính là sự ở trong lý, ở đây là lúc đang lễ mà không lễ, đang trì mà không trì. Như vậy khi lễ, chẳng đối với một Phật hai Phật, tâm đồng với hư không, thân biến với pháp giới. Người không nghe thọ trì, không nghe thì không có pháp nghóa để quán không thọ trì thời không có văn tự để nhớ thọ trì như vậy, có gì gián đoạn? Cũng do người nói không bày tỏ nên người nghe không được, nhưng ước về lý, chẳng ai ngoài sự, tức là sự ở trong lý. Đây chính là ý đang lúc lễ mà không lễ, đang lúc trì mà không trì, không thể nương lời mà không nương nghóa và phát khởi kiến châp đoạn diệt thiên thô ư? Hỏi: Pháp môn lục niệm, mười loại quán tướng, tuy gọi là trợ đạo, dong theo tưởng duyên theo trần, vừa khỏi liền trái chân, làm sao tịnh niệm? Đáp: Một pháp vô niệm là tin chỉ của các hạnh; vi tế đếu mất, chỉ có Phật năng tịnh. Cho nên kinh nói: “Tam hiền thập Thánh ở trong quả báo, chỉ một mình Phật ở trong tịnh. Huống chi ở trong địa vị phàm phu lại là sơ tâm. Nếu không có pháp môn hỗ trợ đạo, chánh đạo không thể hiển lộ mà không có nhân duyên. Vả lại phép lục niệm, có khả năng tiêu trừ ma huyễn, tăng trưởng công đức, nâng đỡ thiên căn. Pháp môn thập quán, khéo lìa tham trước, lắng trong niệm đục, ngầm hợp nguồn chân, đều nhập vào mới then chốt của đạo, trọn khuôn phép thâm diệu của việc tu thiền, giống như gậy có sức chống hiển nạn, như công lao thuyền vượt sang bờ, sức đủ công trọn, thuyền gậy đều bỏ. Hỏi: Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Trì phạm chỉ thúc hiển thân, không có thân thời chẳng có gì để thúc. Kinh Pháp Cú nói: “Tánh giới như hư không, người đi làm mê loạn.” Sao khổ công chấp chặt sự tuớng, cột niệm bộc thân? Sao không phóng khoáng tung hoành, hành đạo hư rỗng? Đáp: Ý này phá tình chấp, chẳng trừ giới đức. Nếu thấy mình trì người phạm khởi tâm chê bai, hủy báng giới để ngăn lỗi, do ngăn mà tăng lỗi. Như loại người này, mê lầm điên đảo. Kinh Tịnh Danh nói: “Chẳng phải tịnh hạnh, chẳng phải cấu hạnh là Bồ-tát hạnh.” Cho nên không chấp hai bên trì phạm, là chân chánh trì giới. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Tỳ-kheo trì giới, không lên cõi trời, Tỳ- kheo phá giới không địa ngục, vì cớ sao? Vì trong pháp giới không có trì phạm.” Yù này cũng để phá chấp trước, tỏ rõ các pháp không sự lýđều hành trì, thân tâm cùng Thánh tịnh. Lại nữa, nếu luận về thong dong tự tại, chỉ có một mình Phật là trì giới thanh tịnh, những người còn lại đều là phá giới. Đới nghiệp vãng sinh vẫn còn bị nghiệp lôi kéo, hiện hành há trốn khỏi duyên ràng buộc ư. Ba nghiệp khó được, phóng dật gốc sâu, giống như ngựa say không có móc câu, vượn si được gặp, cây nhảy nhót tung tăng, chim sống bị nhốt. Nếu không có bản định, hương giới, đuốc tuệ, thì không do đâu chiếu soi. Đó là lấy sự bẩm thọ giới Bồ-tát làm thầy, vâng theo lời sách tấn của Phật, tuy phạm tội nhỏ, do luôn ôm lòng lo sợ, cẩn thận giữ gìn như không phạm. Khinh trọng đều giữ, dứt sự có hiềm ở đời, sợ họ sinh nghi ngờ phỉ báng. Luận về giới là nền tảng của muôn điều kiện, bước ra nhất định phải từ nhà; nếu không có giới này, công đức của các điều thiện đều không sinh được. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới có khả năng khai mở tâm Bồ-đề, học là siêng tu công đức, đối với giới và học đều thuận hành, được sự khen ngợi của các Đức Phật” Tát-già Ni-kiền Tử kinh nói: “Nếu không trì giới cho dù làm thân giả con ghẻ lác cũng không được nữa là đóng được công đức pháp thân?” Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: “Tuy có sắc tộc và đa văn, nếu không có giới trí đâu khác gì cầm thú. Tuy ở địa vị hà tiện, dốt nát, nhưng khéo trì giới gọi là thắng só (Bồ-tát).” Trí Luận nói: “Nếu người vức bỏ giới này, tuy khổ hạnh trong ăn hoa quả, làm thuốc cũng không khác cầm thú. Nếu có người tuy ở nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, mà khéo giữ giới này, được sinh vào chỗ tôn quý và được đắc quả. Lại nữa, đối bịnh kịch liệt, giới là thuốc hay. Trong sự kinh hoàng, giới là vật bảo hộ, chết trong tối tăm, giới là đèn sáng. Ở trong đường ác, giới là cầu đò. Chết trong biển nước, giới là thuyền bè.” Như thời mặc thế này trong tông môn đại thừa phần đông khinh rõ giới luật, gọi là giữ gì một chút hạnh thời mất đối với giới là cần kíp. Cho nên kinh Đại Niết-bàn nói: “Lúc Phật sắp Niết-bàn, luận đến dự trợ giúp của Luật thì thừa giới đều quan trọng, cho nên gọi kinh này là chuộc lại sự quý báu của mạng đang sống. Vì sao. Nếu không có lời dạy này, chỉ chấp vào miệng nói giải thoát, trọn không tu hành, thì thừa giới đều mất.” Cho nên kinh nói: “Thì ta không thanh tịnh, Tam-muội không hiện tiền”, từ định pháp tuệ, nhờ sự hiển lý, nếu thiếu thiền định, tuệ do đâu thành. Thế nên biết nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, cho nên nói chuộc lại sự quý trọng của mạng đang sống. Cớ sao diệt thọ mạng của Phật, hủy phá hạnh luật nghi, làm thấy chết trong biển Tăng- già. Làm cây độc giữa rừng trưởng giả. Các bậc Thánh quở trách, chư Thiên chê hiềm, thiện thần xa lánh, ác quỷ chà quét dấu chân, ở trong nước của quốc vương mà sinh làm thân giặc, ở trong lòng Diêm La, chết làm ngục tốt. Những người có trí hãy nên suy nghó lấy nhé. Hỏi: Không tức tội tánh, nghiệp vốn là chân như, chấp tướng thời tăng thêm lỗi, sám hối làm gì? Đáp: Như đường phiền não, lý lẽ phải thích hợp, hai nẻo khổ nghiệp, phải thực hành sự sám, xả thân quy mạng, khóc lóc khẩn thiết, cảm được oai lực của chư Phật, căn lành được phát khởi giống như ao sen được mặt trời căng phô màu rực rỡ, như gương bụi được lau chùi sáng rỡ. Ở chướng trừ Phật và 12 nhân duyên, diệt tất các tội tiêu trừ xà ngũ ấm rỗng không. Kinh Tối Thắng Vương nói: “Người cầu nhứt thiện trí, tịnh trí, bất tư nghí trí, Tam-miệu Tam-bồ-đề chánh biến tri cũng phải sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Vì cớ sao. Vì tất cả nghịêp pháp đều do nhân sinh.” Lại nữa kinh nói tâm trước khởi tội như mây che hư không, tâm sau diệt tội như ngọn đuốc phá tan bóng tối. Phải biết đuốc tắt thời tối hiện lại, phải luôn luôn đốt ngọn đuốc sám hối. Kinh Di-lặc Sở Vấn Bổn Nguyện nói: Bồ-tát Di-lặc khéo thực hiện hạnh phương tiện trong cõi an lạc nên đạt đến đạo vô thượng chánh đẳng đêm ngày 6 thời y báo chánh báo đều thúc liễm thân tâm, quỳ xuống đất hướng về mười phương nói kệ rằng: “Con sám hối tất cả tội, khuyến giúp các đức lành, quy mạng lễ chư Phật, khiến được tuệ vô lượng.” Kinh Đại Tập nói: “Trong một ngày có thể giặt sạch y dơ một trăm năm, cũng vậy nghiệp ác đã nhân trong 100 kiếp, nhờ oai lực của Phật pháp khéo tư duy, có thể trong một giờ, một ngày có thể diệt sạch hết. Lại nữa kinh nói: “Trong các phước sám hối là hơn hết, vì diệt trừ được chướng nặng, vì được điều thiện lớn.” Luận nói: “Bồ-tát sám hối, chứa lòng thương xót đầy mắt, huống chi ta không mong bậc đại Thánh lập ra pháp tha thứ này, ôm tối chịu chết, nhiều kiếp chịu tai ương.” Luận Bà Sa nói: “Trong nhứt thời nếu có người đốùi trước mười phương chư Phật, thay thế tất cả chúng sinh tu hành 5 pháp sám công đức ấy nếu có hình tướng, có thể đo lường được thời 3000 đại thiên thế giới chứa không hết.” Cao Tăng truyện nói: “Đàm Vinh ở trong đạo tràng sám hối, thấy thất Phật bảo rằng: “Tội ông đã diệt ở trong hiền kiếp, hiệu là Phổ Minh” Đại Tư Thiền Sư hành phương đẳng sám, mộng thấy 49 vị phạm Tăng, cố gắng trì giới, cầm khổ gia công, thấu rõ 3 đời.” Trí giả đại sư ở trong Tô Sơn tu pháp Hoa sám, chúng triền đã lam biện. Sa-môn Đạo Siêu ở trong đạo tràng tu pháp sám hối, cười một mình và nói “Châu báu vô giá, nay ta được rồi.” Đông đô anh pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm vào đạo tràng của Thiện Đạo, bèn được du lý Tam-muội, buồn thương khóc lóc than rằng: “Tự hận nhiều năm luống phí thời gian, làm lao nhọc thân tâm thôi!.” Cao Tăng Tuệ Thành học hết 3 tạng bị Tuệ Thiền Sư quở rằng: “Học vấn cả đời của ông, chỉ làm hơ tay ta cũng chưa đủ ấm hoang phí công phu.” Hiện vào đạo tràng Quán Âm, hiểu biết được ngôn ngữ Tam-muội của chúng sinh. Kinh nói: Người đêm ngày thực hành pháp trên, như đem 7 báu cúng dường cho Phật, so với công đức sám hối thời đó thua xa. Kinh nói: “Không thể sinh ý tưởng khó gặp, nay sinh vào đời mặc pháp, chỉ thấy hinh để lại, đoan nghiêm thân tưởng, khóc lóc đau thương nước mắt đầm đìa, như vào từ đường không thây cha nghiêm.” Cho nên Thiền Sư Tuệ Tư thực hành phương đẳng sám mà thấy rõ được ở đời. Cao Tăng Đàm Vinh vào đạo tràng mà thân chứng mười hiệu, Trí giả chứng Triền Đà-la-ni biện. Đạo Siêu được vô giá bảo châu, những việc này đều do gởi thân mình vào pháp môn sám hối, vâng theo lời Phật, cảm ứng sâu xa, bườc nhanh lên bực Thánh. Thế nên sám hối là vượt thẳng đến Đẳng giáo cho rằng vị này cần có một phần vô minh giống như làng khói nhỏ nên cần phải tẩy sạch. Lại nữa pháp thân Bồ-tát vẫn gắng sám hối, nữa là thân bị nghiệp trói buộc màkhông có trọng cấu ư. Cho nên trong 18 pháp bất cọng, 3 nghiệp thanh tịnh chỉ có một mình Phật. Nam Nhạc Đại Sư nói: Sám hối 6 căn gọi là hữu tướng an lạc hạnh; quán thẳng pháp không gọi là cô tướng an lạc hạnh. Khi chứng được hiệu quả cả hai hạnh đều bỏ.” Hỏi: Kết nghiệp là giải thoát chân nguyên, tội cấu không trụ ba đời, sao không liễu ngộ vô sinh mà diệt nguy, trôi theo hữu tác để nhọc công ư? Đáp: Luận về tội tánh không có thể nghiệp đạo do duyên, không nhiễm mà nhiễm, thói quen xấu chẳng phải không; nhiễm mà không nhiễm, xưa nay thường thanh tịnh. Tánh của nghiệp như vậy, bỏ sự chấp thủ càng khó. Tất cả chúng sinh nghiệp trong 3 đời, chân tuệ không phát, bị hai chướng trói buộc, diệu định không thành, bị ngũ cái che lấp. Chỉ có viện thừa Phật chỉ, phải ở chỗ vắng vẽ, trang nghiêm xây dựng đạo tràng, hết sức thành khẩn thay thế khắp các chúng sinh mà siêng tu sám pháp, trong thời chỉ nương sức mình, ngoài htì toàn mong sức gia hộ của Phật, được vậy thời chướng sạch trí sáng, mây tan trăng hiện, đó chính là chẳng phải không chẳng phải ngoài, năng hối rõ sám đều không, vừa trong mà là vừa ngoài, tánh tội giá tội rõ ràng. Cho nên Bồ- tát đều tuân theo lời dạy tột cùng ấy, bảo sám hối trước mà không nói vào qúa khứ. Vả lại Bồ-tát đăng địa vào chánh vị vẫn còn tẩy cấu trừ bẩn, một kẻ hở tán tâm, lại bàn suông mà chấp tay. Hỏi: Kinh Tịnh Danh nói: “Tội tánh không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa.” Há là luống dối ư? Sao chấp chặt không tin, hủy bóng bánh xe chánh pháp? Chấp có tạo ra gốc tội, thật là biết thêm hạnh cho họ? Đáp: Lời Phật quá chính xác, lý sự rõ ràng, hay nhổ sạch gốc nghi sâu dày, khéo khỏi mở trọng hoặc. Nếu người tin sâu một nghe ngàn ngộ, thực hành đúng theo lời dạy. Lỗi trước đã quét sạch lỗi sau không hình dạng, từng bước quán chiếu, niệm niệm không khác, đây là do nghiệp đời trước nhẹ mỏng, căn lành sâu dày thừa giới đều xem trọng, lý hạnh theo sau. Đây là nhờ thấu hiểu giáo môn, thực hành đúng lời Phật dạy, đây cần sự sám lỗi tự không sinh? Giả như chướng nặng cấu dày, trí nhẹ đức mỏng. Chỉ niệm không về tất cả tánh tội không ở trong, ngoài chặn giữa, quán 3 nghiệp hiện hành của mình, hòan toàn không có trong pháp căn trần, như nói ăn ngon mà chẳng bao giờ dứt đói. Tựa như nghó đến thuốc hay, mà đâu trị được bệnh? Nếu bảo rằng chỉ tìm cầu lời Phật mà tội được tiêu trừ, thì mọi nghiệp chướng trói buộc con người lẽ ra cũng dễ cởi bỏ, cớ sao nhiều kiếp sinh tử như quấn vòng lửa ư. Vì biết biển nghiệp mênh mong, chẳng có thuyền Bát-nhã thì không thể qua sông được, núi chướng khó leo. Chẳng phải trí tuệ kim cương thì khó lay chuyển, đến khi thâm tâm nhứt như, lý sự đều sử dụng mới làm héo gốc khổ (hạt giống khổ mới héo được) vónh viễn dứt khỏi nhứt guốc nghiệp. Cho nên Tổ sư nói: “Đem tâm hư không, hợp với lý hư không, cũng không lường hư không, mới được báo không đáp lại. Lại nữa giáo nói:Ý thanh tịnh như hư không, đây là có hai nghóa: Lìa thủ hư vọng, như hư không lặng lẽ kia không có mây che. Xúc cảnh không ngăn trệ, như hư không sáng sủa kia không sinh chướng ngại. Tâm cảnh đã rỗng rang, tội cấu do đâu sinh? Nếu có thể được như vậy gọi là y theo lời dạy. Vẫn không thấy được không tội thời đâu có gì là tội ư? Lại nữa tánh tội vốn trong sạch, là thể tánh tịnh; khế lý không nhờ duyên, là phương tiện tịnh, hiểu rõ thể tánh tịnh, nhờ thể tánh tịnh mà được phương tiện tịnh. Phương tiện tịnh là nhờ sức huân tu: Thể tánh là nhứt niệm viên chiếu. Bổn mạc tương ứng, trong ngoài lại hổ trợ. Cho nên lý sự phải hổ trợ nhau mới được 2 thới tịnh ấy; Chánh trợ đều sám hối, chứng được một tâm này. Giả sử chỉ niệm lời suông, đúng là trái với giác pháp hủy báng không tin, chẳng phải đấy thì không ai ư? Tứ phần Sao của Tổ Nam Sơn, hỏi: Có người nói tội và không tội tìm không thể được gọi là giới, vậy là sao? Sao: Đáp: Chẳng phải cho rằng tà kiến thô tâm là vô tội. Nếu thâm nhập các tướng hành không Tam-muội, do quán tuệ nhân, nói tội là không thể được; nếu cái thấy của nhục nhãn thì không thấy gì trâu dê. Người đọc tụng đại thừa, đâu đủ làm chứng cứ. Đó là lý quán thổ đế, sự hành phải hỗ trợ. Như gió đẩy thuyền đi mau đến nơi; giống như thêm sáp trợ lửa càng thêm sáng tỏ. Đâu giống với việc giữ lời suông, hòan toàn không khắc chứng? Dối người lứa mình, rốt cuộc rơi vào ngục atỳ; xả thân thọ thân, thân vướng vào lưới nghiệp. Hỏi: Duy tâm tịnh độ, biến khắp mười phương, sao được nương náu vào đài sen, gởi hình nơi an dường mà khởi niệm lấy bỏ, đâu đạt môn niệm sinh ư? Ưa chán tình sinh, đâu được bình đẳng? Đáp: Duy tâm tịnh độ là hiểu được thì tâm mới sinh. Kinh Như Lai Bất Khả Tư nghó cảnh giới nói: “Ba đời tất cả chư Phật đều không có gì khác chỉ nương vào tâm mình. Bồ-tát nếu có thể hiểu biết chư Phật và tất cả pháp cùng chỉ tâm này, đắc tùy thuận nhẫn, hoặc chứng rơ địa. Xả thân này rồi sinh liền vồ thế giới Diệu Hỷ hoặc sinh vào tịnh độ của Phật Di Đà.” Cho nên biết tâm mới sinh chỉ là tâm tịnh độ, chấp cảnh chỉ địa vào cảnh sở duyên. Đã hiểu tâm cảnh không sai khác, mới biết ngoài tâm không có pháp. Lại nữa, môn bình đẳng nghóa vô sinh, tuy tôn kính giáo pháp sinh lòng tin, ngại gì sức mình chưa đủ, quán sát cạn cợt tâm thô phù, cảnh mạng nghiệp dày, phải sinh vào cõi Phật để nhờ thắng duyên, sức nhẫn dễ thành, sớm thành đạo Bồ-tát. Khởi Tính luận nói: “Chúng sinh mới học pháp này, muốn cầu chánh tín, tâm họ khiếp nhược, do ở trong thế giới Ta-bà này. Sợ mình không thể thường gặp chư Phật, đích thân cúng dường, sợ rằng tín tâm khó thành tựu, ý muốn thói lui. Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hỗ tín tâm, nghóa là do duyên ý niệm Phật nhân duyên, tùy nguyện được sinh vào cõi Phật phương kia, thường thấy được Phật, lìa hẳn ác đạo. Như kinh nói, nếu người chuyên nghó đến Phật A di Đà ở thế giới Cực lạc những căn lành đã tu đều hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh do thường thấy Phật không bao giờ thối lui. Nếu quán pháp thân chân như của Phật Di Đà, thường khuyên tu tập, rốt cuộc được sinh về đó, do trụ trong chánh định” Vãng sinh luận nói: Người dạo chơi trong cửa địa ngục, sinh vào cõi nước kia, được vô sinh nhẫn rồi, trở lại cõi sinh tử, giáo hóa địa ngục, cứu khổ chúng sinh, vì nhân duyên này cầu sinh tịnh độ. Thập Nghi Luận nói: “Người trí sáng suốt cầu sinh tịnh độ, hiểu được thể của sinh vốn không thể được, tức chân vô sinh, đây gọi là tâm tịnh, tức Phật độ tịnh. Người ngu bị cái sinh ấy trói buộc, nghe sinh liền hiểu nghe vô sinh thì không tin hiểu, không biết sinh tức vô sinh, vô sinh tức sinh không hiểu thấu lý này, hoàng hành tướng thị phi, đây là người tà kiến hủy bóng pháp vậy.” Quán Nghi Luận hỏi rằng: “Cõi nước của chư Phật cũng đều rỗng không, quán chúng sinh như đợi thứ năm đâu được chấp trước hữu tướng, bỏ đây sinh kia? Đáp: Chư Phật thuyết pháp, không lìa hai đế, lấy chân nhiếp tục, không tục càng không chân; lấy tục để hội chân vạn pháp rõ ràng. Kinh nói: Thành tựu tất cả pháp, mà lìa tướng các pháp là các pháp đế vậy; lìa các pháp là đệ nhất nghóa đế vô tướng vậy. Lại nữa kinh nói: Tuy biết cõi nước của chư Phật, và chúng sinh là rỗng không, thường tu hạnh tịnh độ, giáo hóa các chúng sinh. Ông chỉ thấy lời dạy về thuyết viên thành thật tánh vô tướng. Văn phá biến kế sở chấp rốt cuộc rỗng không, không tin lời dạy nương y kha khỏi tánh nhân duyên chính là người không tin nhân quả nói đến sự đoạn diệt của các pháp. Ma Ha Diễn nói: Bồ-tát không rời chư Phật mà nói rằng: Tôi ở trong nhân địa gặp ác tri thức, phỉ báng Bát-nhã, đọa vào ác đọa, trải qua vô lượng kiếp, tuy chưa được ra khỏi, lại có một nương thiện tri thức, bảo tu niệm Phật Tam-muội, lúc đó liền có thể dẹp trừ hết các chướng mới được giải thoát, vì có lợi ích lớn như vậy nên không muốn rời Phật. Cho nên bài kệ kinh Hoa Nghiêm nói: “Thà ở trong vô lượng kiếp, chịu đủ các thứ khổ, quyết không rời Như Lai, không thấy sức tự tại”. Hỏi: Một đời tạo ác, tích lũy nhân sâu, làm sao lúc lâm chung niệm ra tiếng là trừ liền được ? Đáp: Kinh Na Tiên nói: “Quốc Vương hỏi ngài Na Tiên rằng: Người đời làm ác đến 100 tuổi, lúc lâm chung niệm Phật, chết rồi sinh tây phương ta không tin lời này.” Ngài Na Tiên nói: Như cầm trăm cây gậy và đá lớn để vào thuyền, nhờ thuyền nên vật không chìm; con người tuy có gốc ác, nhứt thời niệm Phật không vào địa ngục. Mà hòn đá nhỏ chìm đi, như người làm ác, không biết niệm Phật, liền rơi vào địa ngục.” Lại nữa, Trí Luận nói: Lúc sắp chết một xíu tâm làm sao có thể thắng việc làm của cả đời? Đáp: Tâm này tuy ở trong thời gian gấp rút, mà lực tâm mãnh liệt, như lửa như thuốc độc, tuy là ít có thể làm việc lớn. Tâm này lúc sắp chết, nhờ sức quyết định mạnh mẽ vượt hơn sức nghiệp trăm tuổi; tâm cận tử này gọi là đại tâm, và những việc cần kiếp của các căn, như người vào quân trận không tiếc mạng sống gọi là dũng mãnh. Cho nên biết thiện ác không nhất định nhân duyên thể vốn không, dấu vết có chìm nỗi, sự phân hơn kim. Vàng thiệt một lượng giá trị hơn khối hoa trăm lượng: Một chút ánh sáng của bó đuốc thiêu đốt trăm vạn thước hoa cả. Hỏi: Ngoài tâm không có pháp, Phật không đến đi, sao có chuyện thấy vật và ngưỡng? Đáp: Chỉ một tâm niệm Phật, chỉ một tâm quán bao hàm cả muôn pháp. Đã hiểu cảnh do tâm, hiểu rõ tâm tức Phật, cho nên tùy theo điều mình mà nghó cái gì cũng là Phật. Kinh Bát Chu Tam-muội nói: “Như người mộng thấy 7 báu, thân thuộc vui vẻ, thức dậy nghó hòai không biết ở đâu.” Niệm Phật cũng vậy, thí dụ này chỉ do tâm nghó ngợi, tức là có mà như không, cho nên không đến đi. Như huyễn tâm thật. Thì tâm Phật đều mất, cái nào cũng là tướng huyễn, thời không họai tâm Phật. Không có vô ngại, tức không đến đi, thấy khắp không ngại, thấy tức không thấy, thường khế hợp với trung đạo. Đây chính là Phật thật không đến tâm cũng không đi, cảm ứng đạo giao, chỉ tâm không thấy. Như chúng sinh làm ác, cảnh tướng địa ngục, hay làm việc não hại, nên 4 nghóa đều thành. Bốn nghóa là: Như trong địa ngục cũng có thời định, xứ định, thân bất định, tác dụng bất định, đều là duy thức, tâm ác nghiệp của tội nhân hiện ra, hòan toàn không ngoài tâm cả đúng là những việc chó đồng rắn sắt. Tất cả những việc ở đời cũng giống như vậy. Song cõi nước của Phật Lê giá Na không hẹn cuộc bởi Đông Tây, nếu hiểu rõ ràng đúng đắn thời nghiệp tập nhiều kiếp đều đoạn mất, lý lương đều đầy đủ, đích thân chúng vô sinh, thần Thánh đã bước qua, ở trong địa vị bất thôi, không chán khổ sinh tử, vào đường để giáo hóa chúng sinh. Nếu tín tâm mới đủ sức nhẫn chưn tròn, muốn cứu khổ trần luân, thật khó cứu nỗi. Không có thuyền mà cứu người chìm, cánh yếu mà bay cao. Bệnh trầm kha mà muốn bỏ thuốc hay, còn ở trong địu mà muốn lìa xa từ mẫu, lâu ngày bị rơi lạc nhất định chết không còn gì nghi. Chỉ được sự an vui hãm kỷ chứ chưa có phận lợi tha, cho nên “Trí Luận” nói: Thí như anh nhi, nếu không gần gũi cha mẹ hoặc bị các nạn lọt giếng rơi hầm, nước lửa, thiếu sửa mà chết; phải luôn luôn ở bên cha mẹ, nuôi nấng lớn khôn mới có thể nối dựng tổ tông. Bồ-tát mới phát tâm phần đông là nguyện sinh về tịnh độ, gần gũi chư Phật, thêm lớn pháp thân, mới có thể kế thừa sự nghiệp của Đức Phật, mười phương hỗ trợ, bởi có lợi ích này cho nên phần đông là nguyện vãng sinh. Vả lại căn cứ theo các kinh nói: Người sinh vào cõi an dưỡng, nhân duyên mạnh mẽ cõi nước thù thắng phước đủ sống lâu, hóa thân trong hoa sen, đích thân Phật đón tiếp và bước lên địa vị của Bồ-tát, sinh liền vào nhà Như Lai, mãi mãi ở trong cửa vượt bực, trọn được thọ ký Bồ-đề. Thân đầy đủ diệu tướng quang minh, bước vào cội báo đài hương, hiến cúng mười phương, đâu thống suốt Tam-muội? Chính tai luôn nghe pháp đại thừa, sai kiên đều là người bổ tứ thân thuộc. Niệm niệm rỗng rang, tâm tâm tónh lặng chấp phiền não tiêu diệt, suối ái dục khô cạn vẫn không có con ác thú, thì đâu có việc luân hồi? An Quốc Sao nói: Ý nói Cực lạc gồm 24 thứ vui: Lan can ngăn che. Lưới võng báu trên hư không. Bóng càng che mắt con đường lớn. Tắm gội trong ao bảy báu. Sóng lăn tăn trong vắt ở ao bát thủy. Thấy cát vàng dưới ao. Bờ thềm sáng rỡ. Lầu đài vượt cả hư không Bốn hoa sen thơm Vàng ròng làm đất Bát âm thường tấu lên Đêm ngày mưa hoa Sớm hơn sách tấn Nghiêm trì diệu hoa Cúng dường Phật phương khác Kinh hành quốc độ mình ở Các con dóm hợp đàn với nhau. Sáu thời nghe pháp Nghó nhớ Tam bảo Không có 3 đường ác Có biến hóa Phật Cây giao động lưới vàng Ngàn cõi nước đồng nghe Thanh văn pháp tâm. Quần Nghi Luận nói: Cõi Tây Phương có 30 món lợi ích: Thọ dụng cõi nước thanh tịnh Được pháp lạc lớn Thân cận đức Phật Dạo khắp mười phương cúng dường Phật Được nghe thọ ký chỗ Phật ở Phước tuệ tư lương được tròn đủ Mau chứng vô thượng Bồ-đề Các Bồ-tát cùng câu hội một chỗ Mãi mãi không hề lui sụt Vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng tiến Anh vũ, xá lợi diễn nói pháp âm Gió mát lay nhánh cây như trỗi các nhạc Nước ma ni róc rách chẳng như nói các khổ không. Âm thanh các thứ nhạc trỗi lên diệu âm 48 nguyện dứt hẳn tam đồ Thân màu vàng ròng Thân không dơ xấu Đầy đủ ngũ không Thường ở chỗ vắng lặng Không có các thứ bất thiện Sống mãi không chết Y thực tự nhiên Chỉ thọ các thú vui 32 tướng tốt Thân luôn phóng hào quang Không có Tiểu thừa Lìa bát nạn Không có người nữ thạt Được 3 pháp nhẫn Được thân ma-la-diên. Như tiên lượt thuận vô biên lợi ích của pháp, cảnh Thánh chẳng phải rõng không lời chân chẳng mạo nhận, sao để sông ái cuốn phàm, chìm đắm không lo: Ở trong nhà lửa thiêu đốt không biết sợ. Dệt Lưới si dày kín, dạo trí mõng làm sao dứt được, trồng cội nghi sâu sức phàm tục đâu nhỡ trực? Đành phải cam lòng chịu. Cầu cho người gặp tai họa lấy làm thích chẳng phải cõi nước thanh tịnh, lại thanh luyến cõi đáng sợ. Như thiêu thân lao vào lửa. Tự ở trong chỗ đầy tai ương, như chim lồng cá chậu. Lại cho là khoái lạc. Cho nên biết Phật lực không bằng nghiệp lực. Nhân tà có vào nhân chánh, khi còn chưa thoát khỏi thân nghiệp vẫn bị quanh quẫng trong ba chướng. Đã không thích hóa sinh đài sen, phải lãnh chịu thân trong báo thai. Nếu thọ nhục thân toàn thân là khổ, đã trầm luân trong ba cõi, đâu tránh khỏi luân hồi? Nay ở trong tám thứ khổ, lược nêu hai thứ khổ sinh tử. Sinh khổ: Nhận lãnh tinh cha huyết mẹ làm thân, ở trong bào thai 42 biến mà thành huyễn chất. Trên ăn các thứ dơ uế dưới sông hầm hối, uống lạnh giống như sông băng, ăn nóng vào giống như than hồng, uyển chuyển mê muội, không thể nói hết. Cho đến khi sinh, vô số khổ não, sảy tay rơi xuống đất, như lột da trôi sông, bứt bách khó chịu, như rùa sống bị lột nai, ngặm oan nuốt hận, khổ não thân mẫu, vừa chạm phải gió nóng, duyên khổ liền quyên. Trẻ nhỏ si thẫn nước lửa hoạnh vong; Sinh ra thành người, tạo việc làm nuôi thân, ruộng nghiệp đã chính, nước ái thêm đầy, vô minh phát sinh. Mầm khổ lớn rằng, gắn liền 7 thức lỗ lòng của chỗ, như quấn vòng lửa. Tuần hòan chẳng thôi. Tử khổ: Gió đạo xẻ thay, hỏa đại đốt thân, tiếng hư ảo làm run sợ. Hồn siêu phách tán, vô số khổ cùng sinh, nghiệp ác hiện liền, u uất ngàn sầu, sợ hải muôn thứ cho đến khi mạng dứt khí tuyệt, lặng lẽ ra đi một mình, đường tối mịt mờ, nẻo vắng mênh mang. Cùng với xưa có oán thù gì, đối đải sổ sàng, kêu trời khẩn đất, cầu cứu không cửa, tùy theo nghiệm nặng nhẹ mà trãi qua các đường, hoặc sinh lại địa ngục, hoặc thức ấm thọ thân quỷ, chịu đói khát mà nhiều kiếp kêu la. Chịu tội khổ mà khắp thân đốt tan, chưa ra khỏi 25 cõi thì nghiệp thiện ác chưa mất, đuỗi theo thân chịu quả báo, chưa từng xót mất, biển sinh tử mênh mông, nẻo nghiệp báo khó tường. Thanh văn vẫn còn mê muội khi thoát khỏi hai mẹ, Bồ-tát còn mê mờ, bởi cách ấm, huống chi hàm phàm phu tột bực còn bị sinh tử trói buộc, đâu không bị roi da sinh khổ đánh đặp, mà tử lôi kéo ư: Cho nên kinh Mục Liên Sở vẫn nói: “Phật bảo Mục Liên; Thúy như trăm sông chảy hoài có hoa cỏ nỗi trôitrước không đóai sau đóai, sau không đóai trước đều gặp tại biển cả. Thế gian cũng vậy, tuy có người giàu sang quý trọng, an vui thỏai mái, như chẳng ai tránh được sinh lão bệnh tử. Chỉ do không trôi kinh Phật, đời sau làm người càng thêm bị kịch, không thể sinh vào côi nước chư Phật. Thế nên ta nói côi nước của Phật Di Đà dễ vãng sinh, dễ vịn lấy, mà mọi người không thể tu hành để sinh sang đó, trái lại phụng sự 96 phái tà đạo, ta nói kễ ấy là người không có mắt, là người không tai.” Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: Ta ở trong thời mạt pháp, ức ức chúng sinh khởi hạnh tu đạo. Mạt pháp hiện nay, hiện là ngũ trược ác thế, chỉ có một pháp môn tịnh độ có thể thông cả 8 đường. Nên biết tự thực hành khó được kết quả, có tha lực thì dễ thành, như kẻ yếu nhứt mượn sức luân vương, dạo đi khắp thiên hạ, thân phàm nhờ vào công của thuốc trên, mà vượt khỏi Ba Đảo. Thật là con đường dễ thực hành sớm được tương ứng. Ngài thương sót dặn dò, phải noi gương xưa. Hỏi: Bàng Cư Só nói: “Cõi Phật đã nói trên cách thế gian này mười vạn dặm, biển cả mênh mông vô bờ động thời hắc phong liền khởi. người qua đó tuy ngàn vạn nhưng kẻ đến nơi chẳng được mấy người, chợt gặp người xưa, không ở trong nhân duyên. Làm sao hiểu thấu mà chứng được vãng sinh? Đáp: Nếu trình bày tông chỉ để xét cội gốc, vẫn không nói có Phật có cõi nước, đâu có ai là đạt không đạt ư. Cho nên thiên chân tự đủ không can hệ gì đến nhân duyên, chẳng động tơ hào, thường khế hợp thể chớn thật. Nếu ước về sự luận, chẳng hoàn toàn bằng nhau, chín phẩm vãn sinh, thương hạ đều đạt đến, hoặc dạo chơi ở cõi nước, thấy ứng thân của Phật, hoặc sinh vào quốc độ thấy thân thiệt của Phật hoặc một đêm mà đăng lên thượng địa, hoặc trải qua nhiều kiếp mà mới chứng Tiểu thừa hoặc độn căn, lợi căn hoặc nhứt tâm hoặc tán ý hoặc ngộ mau chậm, căn cơ không đồng hoặc hoa nở sớm muộn, thời hạn có khác. Xưa nay đều ghi chép, phàm Thánh cùng sinh, hạnh tướng rõ ràng, rõ ràng chứng nghiệm tại mắt, cho nên Đức Thích-ca đích thân thọ ký Văn-thù đời sau sinh vào cõi Phật Di Đà, ở địa vị sơ địa. Đại kinh nói: “Bồ-tát Di-lặc hỏi Phật; con chưa biết cõi này có bao nhiêu Bồ-tát bất thối sinh sang cõi nước kia? Phật nói:thế giới Ta- bà này có 67 ức Bồ-tát bất thối được vãng sinh “ Trí giả đại sư suốt đời tu pháp môn Tây phương Cực lạc, ngài dạt được phước trí nhị nghiệm, thảy điều hồi hướng. Khi sắp mất bảo môn nhân tướng tên thập lục quán, rồi chắp tay tán rằng: “48 nguyện trang nghiêm tịnh độ, đài hương công báo dễ đến không có ai tướng xe lửa hiện ra người nhứt niệm sám hối vẫn được vãn sinh, huống chi suất giới định tuệ huân tu hành đạo không bao giờ luống uổng, tiếng phạm âm của Phật không bao giờ gạt người.” Kinh Xưng Tán Tịnh độ nói: “Mười phương chư Phật biện tướng lưỡi rộng dài che trùm khắp đại thiên.” Chứng đắc vãng sinh, há là điều hư cấu ư ? Hỏi: Kinh Duy Ma nói: “Thành tựu 8 pháp ở trong thế giới này thực hành không biết mệt mỏi, sinh vào tịnh độ. Những gì là 8? làm lợi chúng sinh mà không cầu quả báo:thay thế tất cả chúng sinh chịu mọi thứ khổ; công đức đã làm được thí hết cho chúng sinh, tâm bình đẳng với chúng sinh, khiêm hạ không ngại, đồi với các Bồ-tát thấy như thẩy Phật; những kinh điển chưa nghe khi được nghe không nghi ngờ;không trái nhau với chúng Thanh văn; không tật đố với người cúng dường không tự cao mà ở trong đó điều phục tâm mình, thường xét lỗi mình, không phê bình sở đoản người khác, luôn luôn dùng nhất tâm cầu các công đức”.Tại sao hạnh ít thiêïn nhỏ mà được vãng sinh ? Đáp: lý hẳn đầy đủ ở đây thuộc bậc lợi căn. Tám pháp không tỳ vết, thành tựu thượng phẩm. Nếu ở bậc trung hạ chỉ đủ một pháp, quyết chí không thay đổi, cùng được hạ phẩm. Hỏi: Quán kinh nói:thập lục quán môn đều nhiếp tâm tu định, quán tướng hảo Phật, rõ ràng viên minh, mới bước lên cõi tịnh, làm sao tán tâm mà vãng sinh được ư ? Đáp: Văn kinh 9 phẩm, vốn có cao thấp, đều bao hàm thượng hạ, không ngoài 2 tâm: Định tâm: Như tu định tu quán, thượng phẩm vãng sinh. Chuyên tâm chỉ niệm danh hiệu huấn tu các điều thiện, hối hướng phát nguyện được phẩm cuối cùng, nhưng phải trọn đời quy mạng, siêng tu tâm báo, trong lúc nằm ngồi thường quay mặt vế hướng tây, khi hành đạo lễ kinh lúc niệm Phật phát nguyện, tha thiết chí thành không có các niệm khác như gặp hình phạt ở trong tù ngục, oán tặc bức bách, nước lửa vây khốn, hết lòng cầu cứu nguîên thoát vòng khổ, mau chóng vô sinh độ khắp chúng sinh, hiệp long Tam bảo, thệ báo 4 ân chí thành như vậy ắt không hư dối hoặc ngôn hành bất xưng, tín lực nhẹ mỏng không có tâm niệm liên tục, có ý luôn luôn gián đoạn, cậy đó mà biếng nhác lân chung mang vâng sinh, chỉ bị nghiệp chứơng ngăn che, sợ khó gặp được niệm tri thức gió lửa bức bách chánh niệm không thành. Vì cớ sao ? như nhân bây giờ lâm chung là quả, phải tạo nhân thật thì quả không hư. Thanh hòa thì vãng thuận hình ngay thì bóng thẳng nếu muốn lúc lâm chung lo niệm thành tựu thí phải chuẩn bị sẵn đo cầu, tích lũy công đức hối hướng lúc này bốn niệm niệm không thiếu, thì không lo nghó gì. Luận về hai hướng thiện ác hai quả khổ vui đều do ba nghiệp tạo ra, bốn duyên tạo thành 6 nhân sinh khởi năm quả nhiếp về nếu một niệm tâm sanh tà dâm tất đó liền thành nghiệp địa ngục xan tham không bố thí thành nghiệp ngạ quỷ; ngu si tăm tối là nghiệp súc sinh; ngã mạn cống cao thành nghiệp tu la; giữ chặt năm giới thành nghiệp nhân; siêng tu thập thiện thành nghiệp thiên nhân. Chứng ngộ nhân không thành quả thanh vãn biết nhân chuyên thì tánh hồi thành quả chuyên giác, tu đủ sáu độ thành Bồ-tát đạo tình thương bình đẳng tức là Phật quả nếu tâm tịnh thì đài hương cội báu, hóa sinh cõi tịnh: Tâm nhiễm thì hiện hầm hố gò nổng, thọ sinh cõi nhơ uế. Đều là qủa tương xứng, khéo cảm được duyên tăng thượng. Đó chính là nguồn tâm mình càng không có thể khác. Kinh Duy Ma nói: “Muốn đắc tịnh độ, phải tịnh tâm mình, tùy theo tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh.” Lại nữa kinh nói: “Vì tâm nhơ nên chúng sinh nhơ; Vì tâm tịnh nên chúng sinh tịnh.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thí như tâm vương bảo, tùy tâm thấy các sắc, vì các tâm thanh tịnh, được thấy cõi nước tịnh”. Kinh Đại Tập nói: “Muốn tịnh cõi nước của ông, phải tịnh tâm ông đã.” Nên biết tất cả đều quay về tâm, vạn pháp do ta. Muốn được quả tịnh, phải hành nhân tịnh như tánh chất nước chảy xuống, tánh chất lửa bốc lên. Lẽ đời như vậy còn gì đáng nghi ư?  VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP <卷>QUYỂN TRUNG Luận về tánh khởi Bồ-đề, chân như vạn hạnh, suốt ngày làm mà không làm, tuy không thực hành mà thực hành khắp hết. Nếu nói có làm tức giống với ma sự; hoặc chấp không làm là rơi vào đoạn diệt. Cho nên biết ngoài tam mình không kiến lập pháp khác. Mười thêm đầy đủ, bốn cõi thâu trọn hết, tuy bao quát cả nhưng không họai tướng trong ngoài, đều xứng với pháp giới, đâu ngại có không? Ở trong không đầy đủ tuệ phương tiện, không chấp nơi có. Trong có có cả hạnh thù thắng, không rơi vào không. Do đó sự tức là lý hạnh được vô ngại; lý tức là sự, hạnh thuận chân như. Tướng dụng không thiếu, Thổ tánh là đây. Luận về hóa tha diệu hạnh, không ngoài mười độ, tứ nhiếp: Lợi mình chân tu, trước phải thực hành đạo thất giác chi và bát chánh. Nhiếp 4 niệm quay về chân thật hoàn toàn; Cả Tứ cần không ra ngoài một tâm, nghiêm tịnh Ngũ căn, thành tựu Ngũ lực. Nếu luận về bố thí thì trong ngoài đều xả; Nói về trì giới thì đại tiểu đều hành trì; Tinh tấn thời thân tâm cũng hành trì; Nhẫn nhục thời sinh pháp đều đủ; Bất nhã thời cảnh trí không hai; Thiền định thì động tónh đều bình đẳng; phương tiện đều chiếu khắp trần lao; phát nguyện thời biến khắp pháp giới; cụ lực thời tình thông Phật lực; liễu tri thời chúng trí viên thành; ái ngữ tùy thuận cơ nghi; đồng sự thời có khả năng tùy theo hành nghiệp; Vận từ thì cán căn cứu hết, thuyết pháp thời lợi độn cùng thu nhiếp; thất giáo thời hôn trần, trạo cử chẳng sinh; bát chánh thời tà kiến điên đảo chẳng khởi. Nhẫn đến tu đủ diệu hạnh của 3 thứ chắc, đầy đủ pháp Thánh tánh tài, ngộ thiền hạnh, khế hợp với lý tự nhiên; Tu phạm hạnh thời đoạn được gốc của tập nghiệp. Hiện bệnh hạnh thời nghó ngôi trong hóa thành của Thanh văn; hiện nhi hạnh là để dẫn dắt phàm phu vào thiên giới. Trãi qua con đường 5 vị Bồ-đề, vào Thánh tam đức Niết-bàn, luyện 3 nghiệp mà thành ba luân, lìa ba thọ mà thành ba niệm. Từ ba quán huân phát, quả đủ ngũ nhãn viên minh, mới có thể du hý thần thông, ra vào trăm ngàn Tam-muội cõi nước Phật dạo bước trên vô ngại đao tràng. Rồi sau đó ứng hiện khắp các nơi, hiện tướng vi diệu của mười thân, chiếu khắp pháp giới đốt đèn sáng tứ trí. Cảm ưng đạo giao, tùy theo căn tính của họ; không động nước mình, dấu vết thích hợp với vuông tròn. Hễ có thấy nghe, đều có thể được lợi ích…. Từ họ đến ta là sao? Ở đây đều được sự huân tu của các việc thiện, thành tựu sự giáo hóa lớn lao của việc không nhân duyên này. Hoàn Nguyên Quán nói: “Dụng thời sáng vọt lên mặt biển, tròn chân thể để vận hành; Thổ thì gương sạch nước trong, hoàn toàn tùy duyên mà hội tịch.” Tăng Triệu nói: “Thâu nhiếp môn hạnh, thời lấy quyền trí làm chủ; Trồng cội đức thời lấy lục độ làm căn bản; Cứu giúp, ban ân thời lấy từ bi làm đâu; Luận về tông cực thời lấy bất nhị làm lời. Những ý này đều là bổn của bất khả tư nghi vậy. Đến như việc mượn tòa của Phật Đăng Vương, xin cảm ở cõi Hương Tích, thất chứa cả tượng trời, tay ấn cõi nước đại thiên đều là tích của bất khả tư nghi vậy. Song cửa huyền thâm tuy mở nhưng Thánh ứng bất đồng. Chẳng phải bổn không mà bày ra vết tích, chẳng phải tích không để hiện bổn, bổn tích tuy khác mà không thể nghó bàn là giống như vậy. Hỏi: Thân là gốc đạo, trói buộc là nhân giải thoát, cớ sao phải đốt tay thiêu thân, trái với đạo mà tu đạo? Trong Cao Tăng truyện, trong luật Tiểu thừa, chê bai rõ ràng, cái gì là Thánh điển? Đáp:Vong thân mất mạng, là pháp báo ân thầm hợp đại thừa, khế hợp với chánh giáo. Kinh “Phạm Võng” đại thừa nói: Nếu Phật tử muốn thực hành tâm hiếu trứơc hết học oai nghi, kinh luật của đại thừa, mở rộng vị giải nghóa, thấy hàng tân học Bồ-tát từ trăm ngàn dặm đến cầu kinh luật đại thừa, phải nói đúng pháp về các khổ hạnh, như đốt thân, cánh tay, ngón tay. Nếu không đốt thân, cánh tay, ngón tay cúng dường chư Phật, thời chẳng phải là Bồ-tát xuất gia, cho đến những loài hổ đói, chó sói, sư tử, tất cả ngạ quỷ thảy đều xả thân thịt, tay chân mà cúng dường, rồi mới lần lượt họ nói chánh pháp, khiến tâm họ khai mở. Nếu không như vậy, phạm khinh cấu tội.” Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A-nan, như sau khi ta diệt độ, nếu có Tỳ-kheo quyết định tu tam ma đề, có thể ở trứơc hình tượng của Đức Như Lai, thân đốt một ngọn đuốc, đốt một lóng tay, và trong thân bốc ra một làn hướng. Ta nói người này túc trái từ vô thỉ nay nhất thời trả hết. Vónh viễn từ bỏ thế gian, mãi mãi thoát khỏi cái lậu. Tuy chưa sáng liền con đường giác ngộ vô thượng, nhưng người này đối với chánh pháp đã có tâm quyết định. Nếu không như vậy, xả thân chút xíu, dẫu Thánh vô vi, ắt sinh lại làm người. Trả nghiệp báo đời trước của mình, như Ta ăn lúa ngựa, chánh đẳng không khác.” Cho nên Tiểu Thừa chấp tướng, chế mà không khai, đại giáo viên thông. Vốn không có pháp nhứt định. Bồ-tát Thiện giới kinh nói: Giới Thanh văn cần lúp, giới Bồ-tát hoãn trì, giới Thanh văn đóng lại, giới Bồ-tát mở ra. Hơn nữa, kinh nói: “Thanh văn trì giới là Bồ-tát phá giới.” Đây là nghóa này vậy. Nếu y vào kinh liễu nghóa, chư Phật hoan hỷ hứa khả; chấp vào tùy nghi thuyết, chúng Thánh than thở, chỉ có thể tán thán đại y viên, tự tha đều lợi ích. Đâu thể chấp quyền mà trệ tiểu, bổn tích cùng mê ư? Hỏi: Ngũ nhiệt đốt thân, lao xuống vực, nhảy vào lửa; 96 thứ, ngài Thánh đồng trách. May mắn có chánh khoa cớ sao rơi vào vết tà? Đáp: Trí Độ luận nói: Phật pháp có hai đường: Cứu cánh không đạo. Phân biệt tốt xấu. Như cứu cánh không đạo: Phàm phu như tức lậu tận giải thoát như. Như Lai ngữ tức đề Bà Đạt Đa ngữ. Không hai không khác, một dòng một nguồn. Đó chính là tâm địa ngục khởi Diệu giác, cảnh Phật quả hiện địa ngục. Nếu bỏ tà hướng chánh, tà chánh đều sai, lìa ác chấp thiện, thiện ác đều mất. Còn đạo phân biệt tốt xấu: Tri ngu không giống, chân tục rành mạch, ngọc đá phảo phân, vàng thau có thể biện biệt. Vả lại tứ trong hạnh môn, trong vị thăng giáng, tự có nhân quả tá chánh, tông đồ trong ngoài, thiện khéo phân biệt hơn kim, không nên hùa theo. Hơn nữa Văn trong lời dạy chỉ thẳng khen chê, chấp tức thành trệ, hiểu rõ thì mọi thứ thông suốt. Dùng Tứ tất đàn để đối trị, phải quyết định đắn đo. Nếu nói tổng quát thì đại ni liền thành chân chánh. Chư Phật quở nhầm: Nếu nói cả hai đều trái, thì Dược Vưong mắc tội điên đảo, Chư Phật khen sai. Đó là khởi tà thành việc làm vô ích. Phế chánh thì đoạn cửa phương tiện, phải hiểu rõ khai giá, đâu không bỏ thủ ư ? Di thân của ngoại nhân nội giáo có 2 ý: Nội giáo có 2: Hiểu rõ tánh không của mình và người, không có 2 chấp ngã pháp, không thấy cảnh sở cúng, cũng không thấy tam năng nhiêu ích. Chỉ cúng dường Tam bảo, tận lòng báo đáp bốn ân, để hổ trợ cho vô thượng Bồ-đề, không nóng cầu quả báo nhân thiên. Ngoại đạo có 2: Thân kiến không mất, tăng thêm ngã mạn, mê mờ trí nhãn vô tác, khởi tâm hữu đắc. Chỉ tham lam tiếng tăm hiện đại, chỉ mưu toan phước lợi đời sau, hoặc mong cầu làm chủ dòng sát lợi, hoặc cầu sinh lên cõi Quảng Quả. Cho nên Thiên Thai giáo thích “phẩm Dược Vương Đốt Thân” nói: Cảnh trí không hai, năng sở đều mất. Dùng pháp quán bất nhị mà quán cảnh không hai, thành hạnh không hai, thế hội cái không không hai, lúc khởi quán. Bởi lám cho thế giới thấy nghe được lợi ích nên gọi là thừa thừa. Sở dó lao mình xuống vực mà không rước lấy giòm siểm của ngoại đạo nhảy vào lửa mà không bị sợ chê trách của nội chúng là bởi trong có lý quán, ngoài hiểu đươc tâm mình. Đạo cơ Đốc luận rằng, hành nói có sự khắp phục, tâm chánh thì việc làm chánh, trí tà thì sự tà. Hạnh không thể bỏ, trí không thể mất, kẻ hậu học không mất pháp lợi. Kinh Văn-thù vấn: “Bồ-tát xả thân phải trái không nhớ, chỉ được phước đức, bởi thân phiền nãođã diệt nên được thân thanh tịnh. Thí như y dơ, phải đêm giặc giũ phơi khô thỉ trở kại như cũ.” Nếu được viên chỉ, quyết đóan sáng suốt, xin xét văn này để làm gương Quy. Hỏi: Trụ tướng bố thí, thành quả vô thường, thêm lớn tâm hữu ư, trái đạo vô vi, lý quán thế nào mà phước rỗng không? Cho nên kinh nói: “Phật dạy: Phi ngã mà có thể thuận lý.” Cớ sao chấp chặt sự duyên trần mà không quán tâm đạt đạo? Đáp: Nếu ước về quán tâm, để mắt vào cũng vậy; độ nói đạt đạo thì dở chân đều có lỗi; vạn hạnh của Bồ-tát đều khởi lên, tứ nhiếp trùm khắp, không thể chấp không mà hại có, giữ một mà nghi nhiều. Không thể y cứ vào tông vào lời chỉ giáo, nhận diệu nhận huyền, thức tưởng thực hành, âm đạo tạo tác, phải tùy cơ mà chiếu che, mặc tình theo trí mà co duỗi. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thọ nhứt phi dư, bị ma bắt giữ.” Thế nên bỏ hai bên hướng về giữa trở thành tà kiến. Ở trong hai môn không có mà không ra ngoài cũng không ở trong đó, hai đế chân tục không dính không rời, động tónh đâu trái? Viên dung vô ngại. Phần nhiều chư Phật Bồ-tát tu pháp môn tinh tấn, có chánh có trợ, có thật có quyền. Lý sự đều tu, thừa giới đều thiết yếu, bi trí song vận trong ngoài trợ nhau. Nếu quyết lập một tông, đó là giống ma vương, thành cái ngu của ngã kiến. Cho nên kinh Đại Tập nói: “Có hai nhập ngay vào duyên không, gọi là tuệ hành hạnh, đợi sự kiêm tu, gọi là hành hạnh. Bồ-tát luận có hai (đường) đạo. Phương tiện đạo - biết các thiện pháp. Trí tuệ đạo - không được các pháp. Lại nữa, kinh nói có hai như: Như ở trong nhân mà không nhân, như như trong quả mà không cấu. Lại có hai tâm: Tự tánh tâm tịnh tâm, nghóa của bổn hữu; Ly cấu tâm thanh tâm là nghóa của cứu cánh Khởi Tín luận nói: lập hai tướng: Đồng tướng, bình đẳng tánh nghóa. Di tướng, huyễn sai biệt nghóa. Thiên Thai giác nói có 2 thứ thiện hiểu thấu năng sở không, gọi là chỉ thiện. Hỏi: Pháp yếu của Phật Tổ chỉ lập một thừa. Hoặc nói mười phương chư Phật, tất cả người không ngại chỉ một đường ra khỏi sinh tử. Tại sao trình bày rộng những thứ khác nhau, lập hai pháp môn hoặc loạn chánh tông, khởi các thứ tà kiến? Đáp: Pháp môn của chư Phật, tuy thành một loại, theo dụng chia làm hai nhưng thể nó luôn giống nhau. Như một tâm pháp chia ra hai môn chân như và sinh diệt. Đấy là môn đạo nhị đế nhứt thừa. Xưa nay mãi như vậy, không có tăng giảm, đó là tông biệt cùng hiển, gốc ngọn nương nhau, không có tổng thì chẳng sinh biệt, không có biệt thì chẳng thành tổng; Không có gốc thì lấy gì nên ngọn, không có ngọn thì không lấy gì hiển gốc. Cho nên biết mọi cánh khó tung bay, một bánh chẳng thể vận chuyển. Chỉ có chân thì không thể lập, một mình vọng thì không thể thành. Ước theo thể, thì khác mà không khác; theo dụng thì không khác mà khác. Một, hai không ngại nhau, mới chứng nhập môn bất nhị; Không và có không trái nhau, mới bước vào cảnh chân không. Hỏi: Sự thì phân vị sai biệt, lý chỉ một vị trạm nhiên, tánh tướng bất đồng, sao nói vô ngại. Đáp: Sự của năng y, nhờ lý mà thành; Lý của sở y, tùy theo sự mà hiện. Như ngàn làn sóng mà không ngại một giọt, giống như vô số khí cụ mà chẳng trở ngại một chút vàng. Thể dụng thâu nhiếp nhau, co duỗi cùng bờ. Nếu ước về viên chỉ, không chỉ lý sự tương tức, muốn lý lý tương tức cũng được, sự sự tương tức cũng được, lý sự bất tức cũng được. Cho nên nói tùy duyên tự tại vô ngại pháp môn. Vả lại, hóa môn của chư Phật, một pháp bố thí là đừng đầu trong thật độ, là hạnh đầu trong muôn hạnh, là nhân trước hết của việc nhập đạo, là khuôn phép quan trọng trong việc nhiếp hóa chúng sinh. Đại Luận nói: “Bố thí là tụng báu, thường tùy thuận theo người; Bố thí là phá khổ, có thể đem lại niềm vui cho người. Bố thí là người khéo điều phục vì khai mở thiên đạo; bố thí là nhà tốt, che chở những người thiện bố thí là an ổn khi sắp mất tâm không sợ hãi bố thí là tướng hiền có thể giúp tất cả, bố thí là nhóm thiện, khéo phá các giặc khổ; bố thí là đại tướng có khả năng hàng phục địch xan tham bố thí là tịnh đạo là đường đi của hiền Thánh; bố thí là pháp môn chứa nhóm phước đức thiện. Bố thí có thể được cả quả phước lạc; Bố thí là duyên ban đầu của Niết-bàn, là pháp yếu để vào trong chúng hiền, là ngôn phủ của sự khen ngợi tán tụng, là công đức khó lường ở trong chúng, là gầm nhà của tâm không hối hận, là cội gốc của pháp lành đạo hạnh, là nơi quy tụ các món hoan lạc, là ruộng phước phú quý an ổn, là sự trợ giúp để được đạo Niết-bàn.” Lục Hạnh Tập nói: Nếu lúc bố thí cho người thường, khởi tâm xem thường thành tội hạnh, khởi tâm xung kính được phước hạnh. Nếu lúc cúng cho hàn nhị thừa, chỉ quán trần động chuyển. Khi cúng cho Bồ- tát nhỏ, nhớ rằng thể của sắc là không. Khi cúng cho đại Bồ-tát lớn biết được tâm vọng kiến. Như Phật, gọi là bậc chứng chỉ có tâm, lìa niệm thường định. Đó đủ biết chỉ có một môn bố thí mà 6 hạnh thành khác nhau, đâu thể giống đúc một lúc bao trùm hết ư? Cũng có những việc nội thí, ngoại thí, lý đàn sự đàn, thể dụng trợ nhau, bổn măc đều hiển. Căn cứ theo lý thì chìm vào đoạn, chấp sự thì rơi vào thường, lý sự dung không, mới vượt khỏi hai họa đó. Hơn nữa Thánh chỉ của chư Phật, so sánh trong môn bố thí, lấy bố thí là trước tiên, đặt nặng về nội thí. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có người phát tâm, muốn chứng quả vị Phật, có thể đốt cánh tay, ngón tay cho đến một ngón chân để cúng dường tháp Phật hơn cả người quốc thành, vợ con và 3000 đại thiên quốc độ, rừng núi, sông ngòi, các đồ quý báu mà cúng dường Phật.” Trí Độ Luận nói: “Nếu người xả thân cúng dường công đức ấy thù thắng hơn đem đồ quý báu ở cõi Diêm-phù. Thì biết rằng lẽ ấy bị khẩu khinh ngôn dễ thuật, toàn thân quý trọng khó ngưỡng, khuynh động. Bảo mạng tình thâm, sinh lòng tha thiết, đắc ngay thể vắng lặng của tam luân, còn bị giáo thông thu nhiếp nữa là thủ xả tình sinh, đâu được gọi là tình thí ư ? Vả lại pháp môn bố thí của viên giác biến khắp pháp giới, có sự nào mà không đủ, có lý nào mà không đầy? Bồ-tát chiếu tỏ lý mà không bỏ sự, giám soi sự mà không tổn hại lý, hoàng hóa nơi con người, đây trệ nơi pháp. Nếu lìa lý mà có sự, sự thành cái ngu của định tánh; nếu lìa sự mà có lý, lý thành cái chấp của đoạn diệt. Nếu chấp sự mà mê lý thì mắc quả báo trong luân hồi. Nếu hiểu lý mà đặng sự thì quả được rốt ráo. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Lại thấy Bồ-tát, đầu mắt thân thể, ưa vui thí cho, cầu trí tuệ Phật.” Nếu cho rằng xả thân là sai thì sao thành tuệ Phật.” Cho nên biết một mảy thiện hướng quả rộng sâu, thì độ môn này trình bày nhân mà chẳng phế bỏ, như lúc Phật Thích-ca xả thân, mỗi độ đều chứng pháp môn, hoặc được như thuận nhẫn, hoặc vô sinh pháp nhẫn v.v… Đa số những việc Bồ-tát làm đều hoàn toàn vô ngã, vô tánh, bước vào sự để thấy lý, gặp cảnh để thấy không, không giống phàm phu tạo tội phước vậy, không hiểu nhân quả thiện ác vốn vô tánh, đó là mê nơi sự mà chấp thủ tánh, mãi ràng buộc trong 3 cõi. Hỏi: Kinh nói: “Lấy 3 hằng hà xả thân mạng bố thí không bằng thọ trì 4 câu kệ.” Cho nên biết công của Bát-nhã sâu dày, môn bố thí sức yếu, đâu được trái tông vượt lý, tổn lực hao thần. Có thể nói rằng mong ngộ mà gặp mê, cầu thăng mà lại đọa vậy? Đáp: Được lý thì vạn hạnh mới thành, biết được tông thì ngàn đường không trở ngại, không thể bỏ kia mà lấy đây, chấp phải mà bác bỏ trái. Phải bước vào cửa vô ngại, nhập vào đạo biến thành. Đó là chư Phật quá khứ, Đức Bổn Sư Thích-ca từ vô lượng kiến đến nay đã bỏ vô số thân mạng, vì cầu pháp mà không róc thân đục tủy, hoặc vì lòng thương mà thí cho chim cáp, hổ đói. Bất Nhã luận nói: Như Lai trong vô lượn g kiếp xả bỏ thân mạng tài sản, để giữ gìn chánh pháp, chánh pháp không có bờ mó, là nhân vô cùng, được quả vô cùng, quả chính là 3 thân vậy, cho đến những vị Bồ-tát, cao tăng ở Trung Quốc, Ấn Độ từ xưa đến nay, bỏ thân rất nhiều, đều vâng theo lời dạy của Như Lai, trọn noi theo di phong của Dược Sư. Cao Tăng truyện nói: Hạc pháp sự vào Nam Sơn, tự khoét thịt nơi thân trải trên phiến đá, móc ruột vắt lên cây, ôm tim mà chết. Bó Viết lạ khắc trên đá: “Nguyện bỏ thân này rồi, sớm khiến cho thân được tự tại, pháp thân được tự tại rời, ở trong các cõi tùy theo chỗ làm lợi ích, giữ gìn chánh pháp, cứu độ chúng sinh, lại nghiệp ứng tận, có thực hành pháp nào cũng vậy, 3 cõi đều vô thường giờ giết không tự tại, sát người và giết mình, trọn ở chỗ như vậy, chỗ người Trí không thích, nghiệp hết ở hôm nay.” Lại nửa Tăng Nhai Bồ-tát thiếu thân nói: “Thay thế mọi nỗi khổ cho chúng sinh.” Trước đốt tay mình. Mọi người hỏi: “Bồ-tát tự thiệu tội của chúng sinh chín mùi, mỗi người tự chịu khổ, cớ sao phải thay thế.” Ngài đáp: Giống như đốt tay, một niệm căn lành, liền có thể diệt hết khổ ha chẳng phải thay thế ư?” Lại bảo đại chúng rằng: “Sau khi ta diệt độ, ai ưa thích cúng dường người bệnh? Có thể duy lường về người đó, phần đông là do chư Phật Bồ-tát nương phương tiện ứng hóa, nếu chẳng phải là người đại tâm bình đẳng, đâu thể cung kính? Đây là thật hạnh vậy. Môn Thiền Sư của Tông Thiền Thai cả đời đọc kinh Pháp Hoa, cảm đến thần hiện thân, chánh định kinh chú văn tự, sau đó đốt thân cúng dường kinh Pháp Hoa. Tịnh Biện Thiền Sư là đệ tử ngài Trí giả, thiêu thân trước Hối Đường, cúng dường Phổ Hiền Bồ-tát. Song thọ truyền đại só muốn đốt thân cứu khổ cho chúng sinh. Những môn nhân trước sau có 18 vị thay thế Thầy mình đốt thân, cầu xn Thầy ở thế gian cứu vớt chúng sinh. Truyện ký giảng rộng, ở đây không thể nêu hết được. Nếu nói cảnh giới của chư Thánh thì hiện ra Thánh có lỗi dối gặt phàm phu, phàm không tức là phần của Thánh. Giáo võng đặt ra lấy lệ, phương tiện thì không, vốn là nó trước dẫn sau, để phám phu thật chứng, giả như thị hiện quyền thí cũng dạy người sao bắt chước. Không thể đem tà kiến điên đảo, lừa người thi hành, đại Thánh chân từ không bao giờ hư cuống. Đó chính là 8 vạn pháp môn đều là giải thoát, một niệm nhỏ đều hướng về chân như. Vốn có sơ tâm, hậu tâm sinh nhẫn, pháp nhẫn vị tất, phải đem cái cao mà che thấp, lấy thâp để xúc phạm cao, phải biết lúc thiện, tự lượng sức mình, đừng nên phê bình việc hay dở của người khác, gượng lập phải trái, gọi là mầm họa, tự rước lấy nghiệp. Như Bồ-tát được nhẫn, tuy chứng hai món không sinh không, pháp không, vì để lợi người, vứt bỏ cấu xan tham, còn thiêu đốt tay như Bồ-tát, Dược Vương, Tăng Nhai. Nếu người chưa có đủ, sức nhẫn dù biết dùng ngọn lửa trí tuệ đốt rụt củi phiền não, liễu đạt nhị không, không sinh thân kiến, họ hoặc hiện hành chướng trong, chưa được tương ưng, khởi tâm dũng mãnh, sử dụng hạnh chân thật, báo ân cúng Phật, hành từ thế khổ, muốn được môn trợ đạo. Không khởi lòng mong cầu, nếu không luống dối thời việc không luống uổng, qua loa hoặc trí nhãn chưa sáng, còn sinh ngã châp, chỉ cầu nhân quả lý chí không bền chắc, bắt trước tổ tiên. Không ở trong hạn này, không bị cuộc ở đây. Căn cơ chúng sinh khác nhau, sở chuộng cũng khác, cho nên kinh nói: Phật bảo: Nếu chúng sinh nhờ hư vọng mà đươc độ, ta cũng dùng vọng ngữ.” Đấy là biết trước sự việc có nhiều chước khéo, lý quay về một nguồn, đều là điều mà bậc đại từ khéo hiện phương tiện, hoặc nhờ xả bỏ thân mạng mà đốn nhập pháp nhỡn, hoặc nhứt tâm thềin định mà hoát nhiên ngộ vô sinh, hoặc liểu rõ cội gốc thanh tịnh mà chứng môn thật tứơng, hoặc thực hành bất tịnh quán mà đạt đạo viễn ly, hoặc ở trong phòng bảy báu mà bước lên Thánh quả, hoặc ở trong nghóa địa dưới gốc cây mà hướng về Niết-bàn. Đó là môn trần, sa độ, vào đó thì đều giải thoát; Vô biên giáo vâng, liễu tức về chân. Bậc đại Thánh nói ra không bao giờ dối luống. Thí như đi đường xa lấy việc đến nơi làm kỳ vọng, không chấp giữa đường mà luận khó dễ. Cho nên biết thuốc không tán hết, trời không tạnh hoài, cần phải đổi dùng lúc thì hoàn (viên), tán (nhuyễn) âm dương cùng trợ giúp, thì các bệnh cùng khỏi, vạn vật đều xanh tươi, đều là quyền thí,, thật không có pháp nhứt định, tùy theo chỗ ưa thích của họ mà tạm dùng phương tiện cho thích hợp. Chỉ lấy việc chứng đạo làm tâm, không trọn lựa vào môn thô tế. Nếu sinh tâm dắn trước trong môn. Viên giáo thứ 4 thì vẫn còn bị môn đầu của tạng giới ngự trị. Cho nên môn bố thí mà Bồ-tát thực hành như người bị nhốt nhân lỗ mà chui ra được, giống như bệnh nặng mà được thuyên giảm, chẳng phải quán không mà nhổ được căn bệnh của tam độc, chẳng phải thực hành vô mà vượt khỏi tam giới. Sách nói: Được chim là nhờ một mắt lưới, không thể lấy một mắt lưới cho là lưới, người trị nước là nhớ công của một người, không thể cho rằng một người là đất nước. Do vậy đầy đủ các hạnh, Vạn Thiện đều tu, một hạnh quay về nguồn thì ngàn môn tự chánh. Kinh nói 12 nhân duyên là một pháp, nhờ quán tử đẳng mà được bốn món Bồ-đề, nếu chỉ chấp người thượng thượng căn thì kể trung hạ kể như tuyệt phần. Cho nên hoằng truyền một nữa pháp mà có công hoàn thành đầy đủ, đến Bảo sở là nhờ lực của hóa thành. Đâu thể bỏ đây mà lấy kia ư . Chấp thật mà chê quyền, bỏ hẳn cơ duyên, diệt phương tiện của Phật. Cho nên nói từ thật mà phân thành quyền; khai quyền hiển thật, thật là quyền thật. Nếu không rõ hai môn quyền thật thì trí không được tự tại. Đại Luận nói: Các thứ nhân duyên của chúng sinh được độ khác nhau, có người nhờ thiện định mà được độ, có người nhờ trí giỏi thuyết pháp mà được độ, có người nhờ ánh sáng chiếu vào thân mà được độ. Thí như thành có nhiều cổng mà chỗ ra vào thì khác nhau? Người đã nói về công năng sâu xa của Bát-nhã, Bát-nhã chứa Thánh hàm hiền, chứa đựng linh diệu. Nêu tiêu biểu thì nó làm tôn làm đầu, là thứ chỉ đạo là thứ nương tựa; Bao hàm là xúc cảnh là gồm cả hư không, chẳng cái nào không phải là Bát-nhã. Cho nên kinh nói: “Vì sắc vô biên nên Bát-nhã vô biên.” Triệu luận nói: “Tam độc thứ đảo, đều là thanh tịnh, sao chỉ tôn trọng tịnh của Bát-nhã ư ?.” Nay tại sao thủ nhã mà muốn trốn không lánh ảnh ư . Mật ý của chư Phật, khó lường thuyên chỉ, đưa nắm tay không để dụ trẻ, dẫn dụ đối với mọi người mà không nhứt định pháp nào cho nên gọi là đại Bồ-đề. Không biết Bát-nhã có công năng phá chấp trước, khen ngợi siêng trong lời dạy lại tùy thuộc lời àm sinh kiến giải, đó là nương vào phương hướng mà mê. Cho nên Bát-nhã có thể dẫn dắt vạn hạnh, nếu không có vạn hạnh, Bát-nhã đặt ra làm gì. Lại như ăn chay mà uống mặn, thất vị thành bệnh, luôn ôm giữ cái không mà chấp đoạn, mất trí thành lỗi. Đế Thích nghó rằng: “Nếu như Bát-nhã là pháp rốt ráo thì thành quả chỉ cần thực hành Bát-nhã, đâu cần pháp khác.” Phật đáp: Lục độ Ba-la-mật của Bồ-tát, lấy Bát-nhã Ba-la-mật làm pháp hòa hợp vô sở đắc, đây chính là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu chỉ hành Bát-nhã không thực hành pháp khác thì công đức không đủ, không đẹp không tốt. Thí như người ngu, không biết ăn cơm có đủ món, cho rằng muối là vị chủ yếu trong các vị, bàn ăn toàn là muối, thất vị đền nỗi thành bệnh hoạn. Hành giả cũng vậy, vì muốn trừ tâm chấp trước, chỉ thực hành Bát-nhã, ngược lại rơi vào tà kiến, không thể tăng tiến thiện pháp. Nếu thực hanøh chung với 5 Ba-la-mật kia thì công đức mới đủ, nghóa vị đều hòa thích hợp.” Kinh Lăng Nghiêm Sơn Đảnh nói: Bồ-tát mau chứng đạo có 2: Phương tiện đạo có thể làm nhân duyên. Bát-nhã đạo có thể đến tịch diệt. Thế nên có Bát-nhã mà không có phương tiện sẽ chìm vào hầm vô vi, có phương tiện mà không có Bát-nhã bị mắc vào lưới huyền hóa. Để hai vùng ấy không bị nương mắc, nhứt đạo không thiếu quyền thật đều thực hành, chánh tông mới biểu lộ. Trụ mà không có gì để trụ, là lý do Phật sự gồm tu, đắc mà không chấp có đắc đó là lý do trí tâm luôn vắng lặng Hỏi: Lời dạy chỉ khiến cho ta quán tâm vô ngã, liễu ngộ gốc vô sinh. Tánh không thể đạt, thân kiến đâu còn? Mà tưởng dục vọng vẫn phải xả ư? Đáp: Trong lý chẳng phải có, thiên sự chẳng phải không, theo duyên huyền sinh, dù không ai làm, thiện ác không có tánh nhưng nghiệp quả rõ ràng. Từ đời vô thỉ, mất vô số thân chỉ tiếp tục sinh mà mãi hẳng lợi ích gì rồi chết đi. Nay bỏ hình hài của cha mẹ, đâu là thân mình ư. Nếu một niệm tu trọn các thiện tâmvi diệu như giới định tuệ mới chánh thân mình, nay cái bỏ rồi là duyên sinh vậy. Nhưng ở trong sự còn làm lợi ích mà chết, huống chi đang lúc vô mình phiền não, bị 3 chướng và nhị tử ràng buộc, sao lời nói suông. Ai sẽ tin thọ. Do đó Phật pháp quý ở chỗ hành trì, không chấp chỉ nói suông, như trùng ăn gỗ, ngẫu nhiên thành văn, như chim hót suông, hoàn toàn chẳng có nghóa gì. Phiền não không giảm, ngã mạn lại tăng, đó là ác thủ, tà không, chẳng phải người khéo trong đạt chánh pháp, phải đích thân thấy được lẽ thật, thì lời nói và việc làm mới hợp nhau. Chỉ buông lời nói càn theo tâm thô, đâu quán sát tỉ mỉ hành vi nhỏ nhiệm? Cổ đức nói: “Làm thì giữ trăm ngàn thước, nói chỉ giữ một hoặc nữa tấc.” Lại nữa kinh nói: Lời tuy nói suông mà hành thời ở trong có. Kinh Bảo Tích nói: Phật bảo: Nếu người không tu hành được Bồ-đề thì âm thanh, lời nói cũng sẽ chứng được vô thượng Bồ-đề. Nói như vầy: Ta sẽ làm Phật! Ta sẽ làm Phật ! Vì nói lời này nên vô số chúng sinh cũng sẽ trở thành Thánh giác. Cho nên biết thực hành trước khi nói, đạo chẳng phải ở ngoài tâm. Vả lại kinh nói: “Phật dạy: Người học pháp ta, chỉ khi nào chứng mới được.” Đó chính là đều ác to lớn mà không bằng điều kiện nhỏ, khối hư giả không bằng một chút chân thật. Nhưng người có khả năng thực hành, không bỏ tâm nhỏ. Dẫu người nói suông chỉ nêu ý lớn. Nếu chưa khế hợp với dụng của chân như, thực hành theo pháp tánh, chỉ được tâm ngã mạn, tự chuốc lấy lỗi hư cuống. Đó chính là “nhân vương” trình bày địa vị của 5 nhẫn, Trí giả có đủ văn lục tức hạnh vi rõ ràng, đâu thể dùng bừa bãi được? Sao không nhập vào bình đẳng quán, khởi tâm tùy hỷ, tích lũy các căn lành, thành giống đại bi. Kinh nói: “Đốt một ngón tay, thấp một nén hương, vẫn diệt trừ tội lỗi trong nhiều kiếp; hoặc rải một đóa hoa, tạm xưng một câu thật, rốt cuộc cũng được quả vị cứu cánh.” Kinh Lăng Nghiêm nói: “Bồ-tát đồng sự vẫn làm kể gian tham trộm cắp, đồ tể, dâm nữ quả phụ. Không thứ nào không làm.” Nghóa vô sinh cho rằng: Người lìa tướng không trụ hành, không trụ Niết-bàn, có thể phổ hiện sắc thân; ở trong hữu vị, có thể làm người hèn, người sang, người phàm, người Thánh mà thực hành đạo nhân nghóa, thương xót cứu giúp mười phương, trọn đời vị lai. Lại nói: Ở địa vị phàm mà tu hạnh Thánh, ở trong quả vị mà thực hành nhân phàm, chưa đủ Phật pháp, cũng không diệt thọ mà thủ chứng vậy. Nói rằng chân là tục chân, tục là chân tục, chấp là thành trần lao, thông suốt là thật sự. Vào pháp tánh Tam-muội, không có pháp nào đáng chê, chứng vô biên định môn, không pháp nào đáng sợ. Hơn thua đã mất, thủ xả đều trái, không nên làm chướng Bồ-đề của người, diệt gốc thiện của mình. Lại nữa, cho dù liễu ngộ chẳng có thân, thấu suốt thật tướng, không mất kẹt tâm lành, quyết định không còn nghi. Tuy biết tất cả pháp hữu như dấu chim trên hư không. Vẫn còn phải từng địa quan sát đối trị, mà tập khi vẫn chưa hết huống, chi chấp chặt cái ngu của tứ đảo, chìm sâu vào trong lưới tà. Bảo vệ thân dơ bẩn này tha hồ tham dâm, bị nhốt trong lưới huyền, bị say đắm bởi sắc tình, chìm đắm trong sinh tử, trôi nỗi trong biển khổ đấy ư ? Cho nên đông Đại giác tha thiết, ra sức bài bác, chỗ các Thánh bỏ thân, không lúc nào không bị các vị quở trách, giống như lấy thuốc độc mà đổi đề hồ, như đem gạch đá mà đổi trâm bảo. Cho nên kinh Bảo Tích nói: Quán thân có 40 thứ hỏa hoạn, hoặc nói địa ngục tham dục luôn bị phiền não trói buộc giam giữ, hầm hôi thối cứ bị con trùng ăn róa, như đi vào nhà xí có năm thứ bất tịnh, như túi lủng mà chín lỗ thường chảy, như rắn độc tham sân khỏi nào hại làm thương tổn tuệ mạng. La sát ngu si chấp ngã kiến mà ăn nuốt trí thân, giống như giặc ác mà cả thế giới này ai cũng ghét, như loài chó chết mà các bậc hiền ai cũng bỏ, không bền chắc như chuối ba tiêu, như bọt nước, vô thường như ánh lửa bóng đèn xẹt, tuy bưng cơm, rót nước mà trái lại thành oán thù, luôn luôn chăm non mà không biết báo ân. Rộng hẹp chẳng phải một, khó có thể nói hết. Nếu không biết xét kỷ lỗi sâu dày này, rồi cứ tạo mãi ác nghiệp, mê mờ cho rằng đó là đúng mà không biết tiến tu, thì tri hành đều thiết sót, lý sự đều mất. Cần phải nhàm chán tai họa, khổ công đối trị, biết lỗi thì lửa tục dần tắt, liễu được cội thì nguồn tự hiện. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: Giống như bị nhà lửa tam giới thiêu đốt, làm sao có thể hiểu được trí tuệ Phật” Hỏi: Thân tuy hư giả, bị các họa trói buộc, song nhờ thần huyễn này mà có thể thành đạo quả. Kinh nói: Không vào biển cả phiền não, không tìm được báo châu vô giá. Nếu xả bỏ rồi thì e rằng sẽ hối hận về sau. Đáp: Hễ có sinh thì tất có diệt, có tướng đều hư vọng. Nếu đối trước Tam bảo hết lòng quy hướng, khởi một tâm xả bỏ, còn hơn thế gian sinh luống diết uổng thì có thể nhờ thân vô thường mà được thân kim cang, đem thân không bền chắc mà đổi thân bền chắc. Hai đường lấy bỏ, phải nương vào trí chiếu. Hỏi: An tâm vào đạo phải thuận chân không, khỏi hạnh độ sinh, toàn nương thế đế. Nhưng hiếu pháp chánh thể hiện biện chánh tông, cớ sao chê thật mà tựa hư, làm mất gốc mà theo ngọn, làm hữu vi nhiễu loạn, tạo tác làm rối bời hoảng loạn nguồn chân, mờ đục nước tâm? Trong địa nhất nghóa, chân cũng không lập; Pháp giới bình đẳng không có Phật và chúng sinh. Trong môn lục đế không bỏ pháp nào, khởi tâm có làm thâu vào môn Phật sự. Đó là chư Phật thường nương vào nhị đệ để thuyết pháp, nếu không được thế đế, không được đệ nhất nghóa đế. Duy Thức luận nói: Báo không hai đế là ác chấp thủ không, chư Phật nói người đó không thể trí. Kinh Kim Cương nói: Người phát tâm Bồ- đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt.” Hiền Thủ Quốc Sư nói: “Chân không không ngoại duyên khỏi nghiện quả, thế nên cao thấp rõ ràng.” Kim Cang Tam-muội Luận nói: “Chân tục không hai, mà cũng không thủ một. Do vì không hai nên đó là nhất tâm; Vì không thủ một nên toàn thể là hai.” Kinh Hoa Nghiên nói: “Thí như hư không, ở trong mười phương, nếu bỏ xưa nay thì không thể tìm cầu được, nhưng thảy đều là hơi không. Bồ-tát y đó mà quán sát tất cả các pháp đều không thể được, song mọi thứ đều là tất cả pháp, như thật không khác, không mất cái đã làm, hiện tu hành khắp các hạnh Bồ-tát, không bỏ đại nguyện đều phục chúng sinh, chuyển bánh xe chánh pháp không ngại nhân quả.” Lại nữa: “Bồ-tát lớn hiểu thấu tất cả thân mình cho đến chúng sinh xưa nay vắng lặng, không sợ không hãi, và siêng tu phước đức không biết nhàn chán. Tuy biết tất cả các pháp khôngn có tạo tác, mà cũng không bỏ tướng riêng của nó. Tuy ở trong các cảnh giới hằng lìa tham dục, mà luôn ưa thích chiêm ngưỡng tôn sùng sắc thân của chư Phật, tuy biết không do người khác ngộ nhập các pháp, mà gieo phương tiện để cầu nhứt thiết trí; tuy biết cõi nước của chư Phật đều hư không; mà luôn thích trang nghiêm tất cả cõi Phật, tuy thường quan sát không nhân không ngã mà giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, tuy ở trong pháp giới mà xưa nay không động, dùng sức thần thông mà biến hóa các lọai, tuy đã thành tựu nhứt thiết trí rồi mà không ngừng tu hạnh Bồ-tát; tuy biết các pháp không thể nói năng mà chuyển bánh xe tịnh pháp khiến chúng sinh được an vui; tuy có khả năng thực hiện quyền lực của chư Phật mà không chán bỏ thân của Bồ-tát; Tuy hiện vào đại Niết-bàn mà thị hiện thọ sinh khắp nơi khắp chốn. Nếu có thể thực hành được cả hai pháp quyền thực như vậy thì đó là việc của Phật? Thế nên nếu bác bỏ bài trừ nhân tức là không kiến ngoại đạo, dứt thể tuyệt dụng đó là hàng Thanh văn hướng đến tịch diệt.” Nếu lập chánh tông thì pháp nào chẳng phải là tông. Đã luận về pháp tánh thì vật nào chẳng phải là tánh? Từ mê mà nó phá chấp, tạm đồng phải trái; từ ngộ mà hiện đồng thật không có thủ xả. Nay đều đã luận không giống với sự tưởng mà hàng phàm phu đã chấp, mà chẳng phải là sự ngưỡng về giả mà lìa chân của Bồ-tát trong 3 tạng và chỉ không nơi diệt tướng của hàng Thanh văn trong tôn giáo. Nếu lìa cái có của không thì liền vọng cái nhân của sắc, nếu lìa cái không của có thì quy về quả đoạn diệt. Nay ngay nơi tánh tức là tánh của tướng. Cho nên không ngại ràng buộc khởi; tướng tức là tướng của tánh cho nên không thiếu trạm nhiên. Cảnh là cảnh bất tư nghó, không là cái không của đệ nhứt nghóa. Co duỗi đồng thời. Tức không mà thường có, còn mất không hoại, tức có mà không. Cho nên trong Thiên Thai giáo nói: Như gương, có ảnh, gạch gói thì không hiện, ở trong đó đủ các tướng, chỉ có không là không có, pháp thân tịnh vị diệu, đủ 32 tướng tốt. Thanh Lương Quốc Sư nói: “Phàm Thánh đan xen ngay nơi tâm phàm mà thấy được tâm Phật; Lý sự đều tu, nương bổn trí mà cầu Phật trí.” Cổ Đức giải thích rằng: Người thất ý của Thiền tông chấp lý mê sự, nói rằng tánh chẳng đầy đủ, đâu cần nương pháp khác để tìm cầu. Nhưng phải vong tình thật thì Phật mới tự hiện. Bọn học pháp chấp sự mê lý, đâu cần chăm chăm tu tập quán lý? Hợp nó lại cả hai đều đẹp, lìa nó ra cả hai đều tổn thương. Lý sự gồm tu để hiển bày viên diệu. Ngưng tâm dứt ý gọi là lý hành, khởi công nghó có gọi là sự hành, y bổn trí là bổn giác trí, đây là nhân Trí, cái rỗng suốt không mê mờ gọi là trí, thành tiền lý hành, vong tiền hiển lý. Cầu Phật trí tức là trí giải thoát không chướng ngại, đây là quả trí, ước theo viên minh quyết đoán là trí, thành tiền sự hành. Vì khởi hạnh thành quả. Đây chính vì thể tánh giống nhau, cho nên nương theo đó; Vì tướng dụng khác nhau cho nên tìm nó. Chỉ cầu tướng dụng không cầu thể tánh, trước hết là vong tình lý hành tức là trừ bỏ duyên khởi nhiễm, để làm rõ thể tánh; Khởi công sự hành, tức là phát duyên khởi tịnh, để Thánh tướng dụng. Tông Vô Tướng nói: Như trên đã nói, tướng dụng cũng vậy, chỉ nương vào bổn trí thì tình mất, mà tướng dụng tự hiện. Vì gốc đầy đủ. Đâu cần đặc biệt khởi ra sự hạnh. Viên Tông nói; Tánh duyên vốn đủ, khí tình mất, chỉ trừ tướng dụng trong phần nhiễm, tự rõ chân thể. Nếu không có sự hành, nó khởi tướng dụng của phần tịnh, không do đâu được sinh. Như trong vàng tuy có kim khí, trừ bỏ khoáng chất thì có thể hiện ra vàng, nếu không thi công tạo tác, không do đâu sinh ra đồ dùng. Há phải do vàng sinh ra khoáng chất thôi, không tạo, không tác tự nhiên thành đồ dùng? Nếu vong tình thì không nhờ sự hành, Phật bảo phải tu đủ hết, há không lao nhọc đối với sự đời ư. Đó là hàng bát địa đã ly niệm rồi, Phật khuyên mới khi ta khởi sự hành, biết do ly niệm không được. Cho nên Văn nói rằng: “Pháp tánh chân thường lìa tâm niệm, nhị thứa ở trong đâu cũng có thể đuợc, bởi không lấy đâu làm Thế Tôn, chỉ lấy cái thậm thâm vô ngại trí, bởi thất khuyết đều là sự hành. Đó là quả Phật phải đầy đủ tánh tướng, nhân hành ắt phải tu cả hai sự lý. Y bổn trí, như được vàng, tu lý hành, như trừ bỏ khoáng chất; tu sự hành, như tạo tác; Cầu Phật trí như thành đồ dùng. Từ Mẫn Tam Tạng Lục nói: “Nếu bảo rằng Thế Tôn nói các pháp hữu vi, nhất định như hoa đốm hư không, không có vật nào gọi là hư vọng, hư vọng không hình tướng, chẳng phải thân giải thoát. Tại sao Thế Tôn khuyên hàng đệ tử tu nhân vi diệu của lục độ vạn hạnh, rõ chứng quả Bồ-đề Niết-bàn? Đâu có người trí nào khen thành càn Thát bà chắc thật cao siêu, đẹp đẻ, lại khuyên mọi người lấy thỏ làm chiếc than để leo lên ư. Bởi do lý này nên mặc dù là phàm phu phát tâm Bồ-đề, hành hạnh Bồ-tát, tuy nhiên tu tập hữu lậu là thật là chánh, có thân thể hư vọng chẳng như lông rùa không phải không có vật nào, nói là hư vọng, đều là nương vào duyên khác mà sinh ra huyển có, không giống không mà vọng chấp. Nếu người hiểu được như vậy, thường hành nơi tướng, tướng không ngại được, sớm được giải thoát, chấp chặt mê tình, đối với giáo pháp không thông hiểu. Tuy cầu lý tướng, thường bị tướng cân thúc, không phải giải thoát.” Lại nói: Nếu hạnh ba đời chư Phật chấp là vọng tưởng, đâu cần nhờ tu học mới được giải thoát? Chẳng nhờ hạnh Phật đã tôn sùng cái khác, đều là hạnh của ngoại đạo. Cổ Đức nói: Nếu một bồ chấp tay tự giữ an ổn, không hành nhân nghóa, đạo liền thiếu sự trang nghiêm, nhều kiếp cũng không thành. Nhưng thật tế không một thọ mảy trần, Phật sự không bỏ pháp nào. Kinh Nguyên Quán nói: “Chân bao quán cả ngọn vọng, hạnh nào cũng phải tu; vọng thấu triệt cả nguồn chân, không tướng nào không vắng lặng.” Lại nói: “Tánh của chân như, pháp ấy xưa nay tùy duyên vạn pháp đều hưng khởi, pháp nhó quy về tánh.” Bàn kệ truyền pháp của Tổ Sư nói: “Tâm địa tùy thời nói, Bồ-đề cũng an ninh. Sự lý đều vô ngại, sẽ sinh tức không sinh”, cho nên biết chân không thủ tánh, thuận theo sự vắng lặng thì vạn hữu đều hưng khởi, do không mất thể, mặc tình động khởi mà một mảy không thường vắng lặng. Hỏi: Kinh Tư Ích nói: “Người vào chánh vị, không từ địa thứ nhất đến địa thứ mười.” Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tịch diệt chân như, đâu có thứ lớp? Cổ Đức nói: Thà để vónh kiếp trầm luân chứ không bao giờ cầu sự giải thoát của chư Thánh.” Lại nói: “Mặc cho ông có ngàn Thánh hiện, tôi có Thiên chân Phật.” Cớ sao nạn mắt đở sinh ra hoa gượng phân hạnh vị ? Đáp: Nếu tâm ngầm hợp với tánh Phật, lý bao hàm cả nguồn chân, đâu nhờ duyên khác, vẫn còn quên mình? Nếu phân biệt theo trí, ở trong không có thứ lớp mà lập thứ lớp. Tuy giống như có cao thấp, nhưng bổn vị chẳng động. Bởi Thánh như là hàng rất quý báu nên gọi là vị. Nếu không có hạnh vị đó chính là Thiên ma ngoại đạo. Nếu ước theo môn viên dung, thì thuận với pháp giới tánh, vốn tự thanh tịnh. Nếu ước theo hành bố môn tùy theo tướng đế, trước sau cạn sâu. Nay viên dung không ngại hành bố, chóng thành các hạnh, bởi một địa tức tất cả địa. Như hành bố không ngại viên dung, thành tựu khắp các hạnh, bởi tăng thêm công đức các vị. Điểm không luân vị, thường ở trung đạo, không có mà có, thứ lớp rõ ràng, có mà không có? “Tịch nhiên vắng lặng. Cho nên kinh Bát-nhã nói: “Tu Bồ-đề hỏi Phật: Nếu các pháp rốt cuộc không có gì cớ sao nói một địa cho đến mười địa? Phật bảo: Vì các pháp rốt cuộc không có gì, nên có địa thứ nhất đến địa thứ mười của Bồ-tát. Nếu các pháp có tánh quyết định thì không có một đại đến mười địa.” Đó là 37 phẩm cửa mà Bồ-tát bước vào, 52 vị là con đường cổ Phật tu hành. Từ chỗ sơ niệm đến nhất niệm viên tu, nhẫn đến 18 pháp bất cộng, thúc liễm ba nghiệp, cứu cánh thanh tịnh. Hỏi: Chân nguyên tự tánh, vốn tự viên viên hành, đâu nhờ tu hành, thực hành rộng rãi? Kinh nói thấy khổ đoạn tập, chứng diệt tu đạo, gọi lá lý luận. Nếu khởi vọng tu hành làm sao khế được nguồn cội. Đáp: Khởi Tín Luận nói: Vì có tâm vọng tưởng, có thể biết danh nghóa, là nói chân giác.” Cũng nhờ nội huân chân như, khiến cho tâm vô mình này lại có dụng tịnh. Lại nhờ lực nói năng của chư Phật trong ngoài hổ trợ mà khiến cho tâm vọng này tin thân mình có tánh chân như, có thể khởi các phương tiện, tu các món đối trị. Ở đây ai có thể tu hành chính là tin mình có chân như, do chưa chứng chân, nên không gọi là vô lậu; Vọng niệm nếu tịnh, chân tánh tự hiện. Lại nữa, tuy tu vô tánh nhưng không ngại chân tu từ vọng hiển chân, nhờ thức mà thành thí, giống như bóng bình, có thể hiện ra khi gương sáng, nếu không có bụi trần, Phật đạo không lập. Cổ Đức nói: Hai pháp chân vọng đều là nhứt tâm. Vọng buộc lại thì chân thành. Vì không khác vọng: Chân theo vọng hiện, vì không khác chân. Lại ngoài cơn có vọng. Vì sự không có chỗ nương. Lại nữa, nếu kiếp bốn tịnh là sự tánh si; nếu nhờ bên ngoài mà tu, đó là tha tánh si. Nếu trong ngoài tương trợ đó là hai tánh cùng si. Nếu gốc ngọn đều dứt bỏ đó là vô nhân Bi. Trương Giả luận rằng: Nếu một laọi đều bằng nhau, thì vô tâm tri đạo. Cần phải sách tấn để tu, cho đến vô tu, mới biết vạn pháp đền vô tu. Kinh Bảo Tích nói: Nếu người tu không đúng, thì mèo thỏ đều thành Phật, bởi do tu không đúng.” Thiên Thai giáo nói: Thực hành có thể thành trì, hành đủ thì trí tròn, trí có thể hiển lý, lý cùng tột thì trí vắng lặng. Đạo cùng hổ trợ nhau hưng phế chẳng phải không. Nhờ quyền mq hiển thật, thật lập thì quyền mất. Từ vọng mà rõ hơn, chân thành thì vọng mất quyền, vọng đã lặng, chân thật cũng không, chẳng vọng chẳng quyền, đâu chân đâu vọng. Ngưu Đầu Dung Đại Sư nói: “Nếu bảo do tu sinh ra, thì tạo tác chẳng phải thật, nếu nói vốn có thì vạn hạnh đều hư dối. Hỏi: Tất cả phàm phu đều ở trong định đâu còn nhập quán sở tức, không dây mà tự trói mình ư. Đáp: Như pháp tánh Tam-muội thì người nào lại không đủ? Nếu luận về chỗ cứu cánh của môn thiền định chỉ có Phật mới đầy đủ. Hàng Bồ-tát Đẳng giác vẫn còn chưa đủ biết, hàng phàm phu tán tâm đâu có suy lường khắp được ư. Cho nên Văn-thù nói: Thí như người học bắn từ thô đến tế, rồi sau đó những phát bắn ra đều trúng. Tôi cũng như vậy, mới học Tam-muội chuyên chú vào một cảnh, sau đó nhập vào vô tâm Tam-muội, mới ở trong tất cả thời thường tương ứng với định. Cho nên bất tịnh giả quán, sở tức diệu môn, là vào bến cam lồ, ra đường sinh tử. Cho nên Long Thọ Tổ Sư nói: Trong pháp là lớn nhất. Bởi do lực mà vào sinh tử; nhờ định lực mà thoát sinh tử.” Kinh chánh pháp niệm nói: “Cứu mạng tứ thiên hạ không bằng đoạn tâm chánh niệm trong chừng bữa ăn.” Đó là chân như tại triền, hôn mê tán loạn đều đủ, chân như xuất triều, định tuệ nói sáng. Tổng biệt thông suốt, trước sau rõ ràng. Sao khen lý đúng, đạu chê trách sự sai? Hỏi: Sự nghiệp lớn của Bồ-tát là lấy việc nhiếp hóa làm đầu, cớ sao sống một mình trên núi vắng, ở sâu trong lan nhã? Đã trái với bổn nguyện, đâu thành lợi người? Đáp: Bổn nguyện của Bồ-tát là độ tha. Thế nên trước hết là tu giới định buộc ở chỗ vắng vẻ, thiền quán dễ thành thiểu dục đầu đà, có thể vào tháng đạo. Kinh Pháp Hoa nói: “Lại thấy Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn, ở trong rừng sâu, tư duy Phật đạo.” Hỏi: Nghe nhiều học rộng, tu học ghi nhớ tuân theo nghóa nghiên cứu văn, thấy tánh được chăng? Đáp: Nếu nương theo lời mà sinh kiến giải nhờ văn mà hiểu được, chấp lời mà quên ý, đuổi theo ngôn giáo mà mê tâm, không phân biệt ngón tay và mặt trăng, thì khó thấy tánh. Nếu nhâ lời nói àm ngộ đạo, nhờ giáo pháp mà hiểu được tông, chắc chắn chứng nhập viên thuyên, tìm tòi lũy ý, Phật tức là đa văn mà thành bảo tạng, học nhiều để làm hiển trí. Từ phàm vào Thánh, đều nhân nơi sức huyền học: Ở trong nguy hiểm mà được an lạc. Thảy nhờ công của diệu trí. Lời nói là thềm thnag để nhập vào đạo, giáo thuyết là nẩy mực của việc hiện biệt chánh tà. Kinh Hoa Nghiên nói: “Muốn độ chúng sinh, khiến trụ vào Niết- bàn, không lìa vô, chướng ngại giải thoát trí. Vô chướng ngại giải thoát trí không lìa tất cả pháp như Phật giáo, tất cả pháp như Phật giáo không lìa vô hạnh vô sinh hạnh tuệ quang. Vô hạnh vô sinh hạnh tuệ quang không lìa thiền thiện xảo quyết định quán sát trí, thiền thiện xảo quyết định quán sát trí không lìa thiện xảo đa văn. Bồ-tát quán sát hiểu biết rõ như vậy rồi, siêng cầu tu pháp gấp mấy lần đối với chánh pháp, đêm ngày chỉ nguyện nghe phát thuyết phát, vui theo pháp và nương tựa tùy hỷ pháp hiểu biết pháp. Thuận pháp mà được pháp, trụ trong pháp mà thực hành pháp. Bồ-tát siêng cầu Phật pháp như vậy, những của cải quý báu xan tham không tiếc nuối, không thấy vật nào có được mà đáng trọng, chỉ khéo đối với Phật pháp sanh ý tưởng khó gặp gỡ.” Kinh Pháp Hoa nói: Nếu người có căn tánh lanh lợi, thông minh, sáng suốt, học rộng hiểu nhiều, mới có thể nói cho họ nghe.” Luận nói: Có trí tuệ mà không có đa văn, thì không biết thật tướng. Thí như ở trong khoảng tối mênh mông có mắt mà cũng không thấy được gì. Đa văn mà không có trí tuệ cũng không biết thật tướng, thí như ở chỗ sáng sủa, có đèn mà không có mắt. Đa văn lại có trí tuệ họ sẽ lãnh thọ được những gì lời mình nói ra. Không học không trí tuệ đấy gọi là thân người mà như thân trâu. Cho nên 2 phẩm viên giáo, cho phép vị đọc tụng, ở trong vị bất thối, nghe pháp mới không nhàm chán. Nghe có lực của trợ quán, học được công của chủng trí, không thể làm mắt của trâu dê. Chẳng biện khuôn khổ phạm vi, tâm ở chỗ Tam-muội, không phân biệt đậu lúa. Hỏi: Linh tri sáng suốt, diệu tánh bằng đủ, đâu cần nhờ sự tìm tòi, cầu khắp các vị tri thức? Đáp: Tất cả chúng sinh, trong ngộ sinh mê, trong chân, khởi vọng, chỉ vì bất giác, phải nhờ khai mở. Kinh Pháp Hoa nói: “Phật đã từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số Phật, thực hành trọn đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, đáng gọi là nghe khắp.” Lại nói: Thiện trí thức là nhân duyên lớn, có thể nói là người khiến cho ta thấy được Phật, phát tâm vô thượng Bồ-đề. Kinh Hoa Nghiêm nói: Thí như đồ quý ở trong bóng tối, không có đèn thì không thấy được, Phật pháp không có ai nói, tuy có trí cũng không hiểu được.” Lại nói: Không cần của báu ở đầy trong 3 ngàn đại thế giới mà chỉ mong muốn ưa nghe một câu Phật pháp chưa được nghe Lại nói: “Tuy biết các pháp không do người khác mà được ngộ, mà luôn luôn tôn kính các thiện tri thức.” Khởi Tín Luận nói: Pháp của chư Phật, có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ, mới được thành biệt tài. Như tánh lửa trong gỗ, là nhân chính trong lửa, nếu không có người biết, không nhờ phương tiện, có thể tự đốt người không có chỗ này. Chúng sinh cũng vậy, tuy có sức chánh nhân huân tập, nếu không gặp chư Phật, Bồ-tát thiện tri thức v.v… lấy đó làm duyên, có thể tự đoạn, phiền não, vào Niết-bàn thì không có chỗ này.” Kinh Pháp Cú nói: Như giấy gói đồ thơm, vải buộc cá. Phật bảo các Tỳ-kheo: Vật nào bản thân nó cũng sạch, tất cả do nhân duyên khiến nó tạo tội hay phước, gần bực hiền minh thì đạo nghóa tăng trưởng, làm bạn kẻ ngu tối thì tai họa kéo về, giống như giấy vải gần đồ thơm thì nó thơm lây, buộc cá thành hôi thối, nhiễm dần thành thói quen, luôn không không tự giác. Tụng nói: Kẻ ngu tiếp xúc với người, như gần đồ thúi, làm điều sai quấy dần thành mê, không biết nó thành ác. Bậc hiền gần gũi người như thân cận đồ thơm, tăng thêm trí thành hiền lành, hành vi được thanh khiết.” Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo; Tất cả những điên đảo của hết hảy chúng sinh từ xưa đến nay, nghiệp chúng tự nhiên, như ác xoa tập. Những người tu hành không thể thành tựu vô thuợng Bồ-đề, dẫn đến sông được Thanh văn, Duyên giác và thanh ngoại đạo chư Thiên ma vương cùng quuyến thuộc của ma. Những người đó đều do khơng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, giống như nấu cát mà muốn thành cơm thơm, cơm ngon, dẫu trải qua ngàn kiếp cũng không bao giờ thành được. Từ đó mà biết rằng, sơ tâm cần gần gũi bạn đạo để phân biệt tà chánh, mới hợp với chân tu. Hoặc bước vào môn phương tiện, càng gấp bội nếu được viên chỉ, không uổng công lao, thẳng đến đạo tràng, mãi mãi không còn nghi hối. Đến lúc sinh ra liền được ngộ chứng vô sư tự nhiên, chắc chắn không do người khác mà được. Hỏi: Thuyết pháp cho người nghe, tuy thành việc lớn, chưa bằng cực địa, sơ tổn tự hạnh. Đăng địa Bồ-tát vẫn còn bị Phật quở, phàm phu chưa chứng làm sao khai ? Đáp: Phẩm đầu của tông thiên thai tức là phàm phu, nếu tin nhập vào viên môn cũng có thể thuyết pháp. Vì tâm phàm phu đồng với sở tri của Phật, bởi cái thấy được từ mắt sinh ra bằng cái thấy được của Phật. So sánh trong kinh Bát-nhã, phước do tánh ức niệm trong kinh Bát-nhã. Không bằng rộng vì thời người khéo nói thí dụ, khiến cho người đối diện dễ hểu Bát-nhã, phước ấy thù thắng hơn. Kinh nói: Chân giới của người ấy tuy yếu ớt nhưng khéo thuyết pháp làm lợi ích nhiều người, nếu có người cúng dường người này cũng như cúng dường Phật.” Kinh Vi Tăng Hữu nói; Thuyết pháp có hai nhân duyên lớn: Khai hóa nhân thiên, vì phước vô lượng. Vì báo đáp công ân họ cúng thức ăn. Đâu được không nói; Vả lại tài thí như đèn, chỉ đủ sàng một căn phòng nhỏ; pháp thí như mặt trời chiếu sáng khắp thiên hạ. Kinh Đại Thương Quảng Tổng Trì nói: Phật bảo: Thiện nam tử ! sau khi Như Lai diệt độ, nếu có pháp sự, khéo tùy theo hcổ ưa thích, vì ngưới nói pháp, có thể khiến cho người đại thừa học hạnh Bồ-tát và đại chứng có người phát một chút xíu tâm ưa thích, nhẫ đến người tạm rơi một giọt nước mắt, nên biết đều do thần lực của Phật.” Song kiến giải sáng suốt ngầm khế hợp với tam Phật, tuy là vì người khác nhưng công đức quay về mình. Đã có thể trợ đạo, lại báo ân Phật, không màng danh tiếng, quả là một mảy kông bỏ phí. Cho đến truyền trì pháp bảo, giảng xướng đại thừa, tạo luận giải thích kinh, sáng tác văn chương, giải nghóa kinh, nhổ gốc nghi bất tín, soi ánh trí tuệ cho người ngu dốt, xây dựng bức tường chánh pháp, tiếp nói thọ mạng của Phật. Hoặc lãnh lấy kinh Tây độ, cầu pháp phương xa; hoặc phiên dịch Đại Thừa, gọt giũa văn cho thật hay; hoặc rộng tu các kinh chú, thí khắp và thọ trì, mở cửa pháp thí, nối tiếp ngọn đèn của Tổ. Hay đem cam lồ rưới vào tâm khô héo; khéo sử dụng kim bài để chống đỡ đôi mắt si mù. Kinh nói:Giả sử đầu đội trải qua ngàn kiếp, thân làm sáng tỏa khắp tam thiên, nếu không truyền pháp độ chúng sinh, nhất định không thể báo được ân Phật.” Hỏi: Sao không tu một pháp đốn ngộ, vạn hạnh tự tròn, mà quanh quẩn trong con nhỏ, vất vả với một chút thiện ư? Thiền tông chủ trương nhứt niệm không sinh, nhứt Trần không hiện, như hanh nhau đuổi bất khỏi lửa hoặc tu huyễn không bao giờ đạt được lý. Đáp: Chư Phật biết huyễn, mới có thể độ chúng sinh huyễn; Bồ- tát tỏ rõ không, thế nên kiến lập từ không. Kinh Niết-bàn nói: Phật bảo: tất cả các pháp đều là huyễn tướng, Như Lai ở trong tướng huyễn đó dùng sắc phương tiện mà không có nhiễm đắm. Vì cớ sao? Lệ thường của chư Phật.” Trung Luận nói: Vì có nghóa không tất cả cá pháp được thành tựu.” Thế nên nhanh thì như hạt giống đã bao lại, chậm thì như mầm đã nảy hết. Lại nữa như thấy lầu chín tầng, thì có thể thấy liền, cần phải cất bước thì mới lên đó được. Hiểu liền tâm tánh, thì ngay nơi tâm là Phật, vô tánh không đủ thì phảichứa nhóm công đức, tu khắp vnạ hạnh. Lại như lau gương, một lược lau hết, sáng sạch dần dần. Vạn hạnh đốn tu, ngộ thì dần thù thắng, đây gọi là viên tiệm, chẳng phải tiệm viên, cũng là một vó trong vô vị (không vị), hạnh trong vô vị. Thế nên thấu triệt nhân quả, từ chỗ bí ẩn đến chỗ rõ rệt, đều phải thương sức thiện căn, mới có thể tự lợi lợi tha. Cho nên đài 9 tầng, thành được là nhờ uy đất đầu tiên, lộ trình ngàn đặm nhờ bước ban đầu, nước chảy cuồn cuộn là xuất phát từ dòng nước suối, rừng cây rậm rạp là bắt nguồn từ ngọn nhỏ, bóng tối chẳng phản đối ánh sáng ban đầu. Cho nên một cầu đã nhập thần thức trải qua nhiều thức không hư luống, một mảy thiện nhập tâm, vạn đời khó quên. Kinh Niết-bàn nói: “Phật bảo: Tu một tâm lành, phá trăm thứ tội ác, như một chút kim cương, có thể pháp tan núi tu di; cũng như đốn lửa, có thể thui đốt tất cả, như một chút thuốc độc có thể làm tổn hại chúng sinh, một mảy thiên cũng vậy, có thể phá trừ ác lớn.” Kinh Nhựt Ma Ni Bảo nói: Phật bảo Bồ-tát Ca Diếp: Ta thấy chúng sinh, tùy còn mấy vạn ức kiếp ở trong dục ái bị tội che lấp, nếu nghe kinh Phật, vừa quay đầu nghó điều lành, tội liền tiêu sạch.” Đại Trí độ luận nói: Lúc Như Lai thành đạo, quán thấy thế gian có mười vị tiếu (mỉm cười). Có khi nhân nhỏ mà quá lớn, duyên nhỏ mà báo rộng. Như cầu Phật đạo, mà khen ngợi một câu kệ, xưng một câu Nam Mô Phật, đốt một nén nhanh, thảy được thành Phật, nữa nghe biết các pháp thật tướng không sinh không diệt mà thực hành nhân duyên, nghiệp cũng không mất. Vì lẽ đó ta mới cười. Cổ Đức hỏi: Ngài Đạt Na không nói nhân duyên công đức cho Vua Lương Võ Đế nghe. Tại sao không nói vậy? Bồ-tát bỏ quốc thành, lập tháp miếu, há là đặt ra cho có vị ư? Đáp: Đại Sư nói như vậy, không hoại phước đức nhân quả. Võ đế không thông đạt được công đức hữu vi mà có sự hạn chế, không thông được sự không nghó bàn của phước vô tướng phá tham chấp của ông ta; nếu không còn tham chấp rốt cuộc là vô vi Bồ-tát cũng làm luân vương. Cũng như phước báo nhân duyên rõ ràng thì có thể nói là không sao? Nếu người đạt lý, chỗ ấy lượng bằng với pháp giới, không có cũng tốt; nếu không đạt lý, liền có quả báo, luân hồi hữu vi, không nên tham trước. Trung Quốc Sư nói: Chư Phật Bồ-tát đều đủ phước trí nhị nghiêm. Đâu phải báo không nhân quả, vì ngại sự lý, suốt ngày làm mà không trái với không làm vậy. Sinh Pháp Sư hỏi: Sao nói chắp tay trong chốc lát, thảy đều là nhân Phật? Đáp: Tất cả các pháp đều không có tánh nhất định, mà tùy duyên để thích hợp. Nếu lấy tham làm duyên chính là thích ứng với quả báo trời người; nếu lấy việc hồi hướng Bồ-đề làm duyên bèn thành quả báo của Phật quả. Chân như còn không giữ tự tánh huống chi một chút thiện này ư? Lại nói lý của muôn điều thiện đồng với vô lậu, nếu vạn thiện có sẵn đều nhớ lý phát khởi, lý đã không khác, thiện đâu bao hàm 2 gốc? Như Lai tàng tánh là nhân của vạn thiện, cũng gọi là chánh nhân, đích thân sinh là muôn đều thiện. Thiên Thai giáo nói: Nếu xem thường một điều thiện nhỏ thì không thành Phật, là diệt giống Phật ở đời.” Lại nói: thiện cơ có 2: Cảm hoa báo của nhân thiên. Cảm quả báo của Phật đạo. Như vậy Phật nhãn chiếu trọn vạn thiện của chúng sinh, rốt ráo được Phật quả, đó là ý chính của việc lớn xuất thế. Kinh Khê tôn giả nói: Một mảy thiện đều hướng về Bồ-đề như nắm dao cầm đuốc, phải nắm được phần chui, cán của nó. Nếu chấp tâm tướng như cầm mũi dao ôm lửa? Kinh Pháp Hoa nói: Nói về việc tán tâm niệm Phật, khẽ giọng khen ngợi, lấy tay út vẽ tượng, nhóm cát xây tháp, dần chứa công đức, đều thành Phật đạo.” Kinh Đại Bi nói: Phật bảo A-nan. Nếu có chúng sinh ở cửa phật- vừa phát tín tâm, trồng một chút căn lành không bao giờ bại vong. Giả sử trăm ngàn kiếp xa xưa, họ trồng một cội lành, nhất định thành Niết- bàn. Như một giọt nước, rớt vào biển cả, tuy trải qua nhiều kiếp lâu xa, không bao giờ khuyết giảm. Chính vì vậy mà bậc đại Thánh tùy thuận căn cỏ mà cảm ứng, lớn nhỏ không mất, nối trước tiếp sau, nửa đầy đâu phế bỏ? Hoặc tán thán nhỏ mà dẫn vế sâu xa, hoặc trách nữa mà sợ trệ sơ môn, lá vàng đâu phải vàng thật? Tay không đâu có thật? Đều là ý khen chê, tạm dùng ân để dụ dẫn. Mà người không đạt giáo chỉ, chỉ chấp ngôn từ của phương tiện, cùng nhau thị phí, xác định thủ xả, hoặc chấp nhớ mà trệ lớn, trái ngược với bổn tông; hoặc y lớn mà ngại nhỏ, thì thiếu đi tuệ phương tiện. Tuy nhiên sự rộng lớn của tông, ý lớn đâu tỏ? Chỉ nói chê trách nhỏ, nhỏ thì thực hành không mất. Vận ý thì nương cây vào không giả, thốt ra đời thì vượt quá phần đầu. Đoạn bánh xe chấp pháp, chê bai đại Bát nhã. Tội lỗi sâu dày, chẳng vượt qua điều này. Nhiều kiếp sau hết? Mãi chìm trong vô gián. Kinh Tinh Danh nói: Không có phương tiện tuệ trói, có phương tiện tuệ giải, không có tuệ phương tiện trói, có tuệ phương tiện tuệ giải. Đâu thể chấp quyền mà chê thật, tổn hại có mà ruồng bỏ không? Chỉ có thể hoằng truyền cả hai thứ Đại Tiểu, không có điều sử dụng, nhứt tâm tam quán, thì không có lỗi vậy. Đó là thuận pháp thể thì mảy may không lập, thuận trí dụng thì đại nghiệp mãi hứng khởi. Thể không lìa dụng, nên tịch mà thường chiếu; dụng không lìa thể, nên chiếu mà thường tịch, đó là thường thể, thường dụng, thường chiếu, thường tịch. Nếu hội nhập vào chỉ quy hướng về tông, thì thể dụng đều lìa, đâu có chiếu, đâu có tịch? Sao căn cứ vào thể mà phá dụng, chấp tánh mà hoại duyên? Lý sự không dung nhau, chân tục thành ngăn cách thì không thể bị không còn vận hành vô duyên thì chẳng thành tựu. Thiện ác đã không đồng quán. Lại nữa, bậc tiên đức nói: Luận về thiện tri thức, tuy thấy rõ Phật tánh bằng nhau với Phật, nếu luận về công của họ chứ bằng các Thánh phải từ tâm nay từ từ huân tu.” Lại nữa, cổ đức nói: Tào Tử ở Tỳ-kheo mắc lỗi lại, tuy không đạt lý vẫn có hạnh môn. Thời nay nhiều người có học, mà mất cả hai việc, cho nên biết thấy tánh chưa vững, chỉ là thuận lời mà được thông suốt, cho đến lúc kiểm lại thì chánh trợ đều mất. Đó là đều mà tiên Thánh không bao giờ lãng phí, vỗ ngực sờ tâm, đâu có dễ dàng vậy ư? Đó là lục tức xen lạm, thập địa biện công, nếu nhận liền thì đâu có cái nào phàm, đâu có cái nào Thánh? Nếu luận lực cố thì phàm Thánh cách nhau trời vực. Lại nữa nếu luận về lý ấy thì sợ địa liền đầy đủ tất cả địa; nếu luận về hạnh của nó thời địa sau gấp bội lần địa trước. Giống như vừa lên bát địa, một niệm lợi sinh, địa dưới nhiều kiếp không sánh bằng. Hỏi: Thiện ác cùng nguồn, phải trái một ý, cớ sao bỏ ác tôn thiện mà trái với pháp tánh ư? Đáp: Nếu cho rằng có tánh thiện tánh ác phàm phu không đổi. Chư Phật không đoạn tánh ác, hay hiện thân địa ngục; xiển đề không đoạn tánh thiện, thường đủ để Phật quả. Nếu cho rằng tu thiện tu ác ngay nơi sự liền khác, nhân quả không đồng, trí ngu khác biệt. Tu một niệm thiện, sớm lên bờ giáo; khởi một niệm ác mãi chìm đường khổ. Nếu cho rằng cì tánh theo duyên, tuy giống mà khác; nếu dứt duyên mà theo tánh tuy khác mà giống. Cho nên kinh Thiền Môn Mật yếu chép: Phật dạy: Thiện ác nghiệp duyên, vốn không có khác, chì vẫn không khác, cả hai không cùng dừng.” Kinh Hoa Nghiêm nói: Như tướng và vô tướng, sinh tử và Niết- bàn, phân biệt mỗi loại khác nhau, trí và vô trí cũng như vậy.” Nên biết giáo chỉ như tấm gương, đâu nghi ngờ gì nữa? Hỏi: Nếu không tu tánh, thì 2 đường thiện ác trái với lòng thương bình đẳng, mất đức biến hành. Đáp: Tự hành phải lìa, ước theo pháp tức không, hóa tha đẳng quán, ở nơi người đâu có khác? Đó là hàng sơ tâm tự lợi, thì tổn mất hai oai đã trình bày, rốt ráo lợi tha, thì thiện ác đồng hóa. Như đi ban đêm đi trên đường hiểm, do người ác cần đuốc, đâu có thể vì người ác mà không theo ánh sáng họ soi? Bồ-tát được ánh sáng Bát-nhã, không bao giờ bị người ác. Kinh Hoa Nghiêm nói: Người bỏ tánh ác, xa hẳn kẻ lười biếng, khinh mạn loạn ý, chán ghét ác tuệ, đó là việc ma.” Thiên Thai giáo nói: “Ác là do thiện hổ trợ, không ác cũng không thiện.” Kinh Pháp Hoa nói: “Ác quỷ nhập thần ông, mắng chưởi hủy nhục tôi, vì chúng tôi niệm Phật, đều phải nhận việc này.” Ác không thêm vào, dụng niệm không được, dụng niệm do ác thêm vào. Lại nữa, ở chỗ Phật oai âm vương chúng chấp pháp nghe lời thừơng Bất khinh mắng chưởi đánh đập, bởi do ác nghiệp, trở lại Ngài Bất khinh, được Ngài giáo hóa, đều đươc bất thối. Lại nữa Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức. Đâu có phá nào đáng bỏ ư? Hỏi: Không có duyên thì không gượng giáo hóa căn cơ chín mùi thì tự tương ứng, nếu người ngu ác không tin, làm sao dẫn dụ? Đáp: Bỏ ngu theo trí, lý trái với bình đẳng bỏ ác theo thiện, phế bỏ đồng thể bi. Chúng sinh vốn diệu, không thể độ lượng, bổng gặp nhân duyên, cơ pháp không định, giả sử chưa được độ, cũng sẽ được độ. Từ đây suy ra, cần phải hóa độ bình đẳng. Hỏi: Nếu tu các môn thiện, phải khỏi tâm ưa thích. Hai món khổ yêu ghét có thể làm chướng tịch Bồ-đề; Thủ xả hai tinh chấp, đâu thành vô ngại giải thoát? Đáp: Kinh Niết-bàn nói: Tất cả chúng sinh có hai thứ ái: Thiện ái. Bất thiện ái. Bất thiện ái: Chỉ có người ngu cầu nó; Thiện pháp ái thì các Bồ-tát cầu nó. Kinh Hoa Nghiêm nói: Đã nói chí rộng lớn, muốn được cội gốc các pháp, phải khỏi lòng mong cầu thù thắng, chí cầu vô thượng giáo. “Lại nói: Đoạn sư ưa thích thiện pháp, đó là việc ma của Bồ-tát.” Bởi nó là điều kiện trước tiên để nhập đạo, dục là gốc của đạo, cho đến địa vị tột cùng, pháp ái phải quên, vị thứ rõ ràng. Trước sau không lẫn lộn. Hỏi: Kinh Niết-bàn nói: Tuy bản thân nó tự không, cũng do Bồ-tát tu không mà thấy được không. Lại nữa Bồ-tát Sư Tử Hống nói: Thưa Thế Tôn: Năm ấm của chúng sinh rỗng không thì ai là người có thọ giáo tu? “Phật bảo: Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh đều có niệm tâm, tuệ tâm, phát tâm, cầu tinh tấn tâm, trói tâm, định tâm, các pháp như vậy, tuy niệm niệm diệt. Vì dường như giống nhau, tứơng tục không đoạn, cho nên gọi là tu đạo, nhẫn đến như đèn, tuy niệm niệm diệt, mà có ánh sáng phá trừ u ám, các pháp như niệm v.v… cũng giống như vậy. Như chúng sinh ăn, tuy niệm niệm diệt, cũng có thể khiến cho người đói, khát mà được no đủ. Thí như loại thuốc tốt, cũng có thể làm khỏi bệnh. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tuy niệm niệm diệt, cũng có thể làm cho cây cỏ lớn thêm. Thiện nam tử ! ông nói niệm niệm diệt làm sao tăng trưởng.” Hỏi: Phước đức của những đều thiện độ làm, rốt cuộc quay về đâu? Nếu nói tự độ lại đồng với tâm nhị thừa. Nếu nói độ tha tức là lập ra tướng chúng sinh. Đáp: Phước đức mà Bồ-tát đã tạo được, đều vì muốn thành tựu chúng sinh. Không có viên dung, tự tha không ngăn trệ. Quán thế gian như huyễn, đâu có trái với môn thật tướng? Độ sinh cũng giống như không. Đâu có thiếu đạo phương tiện? Kinh Bát-nhã nói: “Bồ-tát thành tựu hai pháp, ma không thể phá hoại: Quán thấy các pháp không Không bỏ tất cả chúng sinh. Luận giải thích: Vì nhờ mặt trời, mặt trăng làm nhân duyên nên vạn kiếp đều thuận sinh. Chỉ có mặt trăng mà không có mặt trời vạn vật đều hư ẩm; Chỉ có mặt trời mà không có mặt trăng vạn vật đều thiêu rụi. Nhờ mặt trời mặt trăng hòa hợp nên vạn vật thành tựu. Bồ-tát cũng vậy, có 2 con đường: Thương xót. Không. Phật nói hai việc ấy phải dùng cả, tuy quán thấy các pháp là không, mà không bỏ chúng sinh; tuy thương xót chúng sinh mà không bỏ tất cả không. Quán tất cả pháp là không thật, vì không cũng là không thật, không chấp không, thế nên không ngại gì đến lòng thường xót chúng sinh; mặc dù thương xót chúng sinh, cũng không đắm nhiễm chúng sinh, cũng không chấp tướng chúng sinh. Chỉ thương xót chúng sinh, dắt dẫn họ chứng nhập pháp không.” Hỏi: Kinh nói: Phật không đắc đạo, cũng không độ sinh. Nếu thấy chúng sinh khổ, cũng như mình chịu khổ. Sao nói tu tập phước đức và độ chúng sinh ư. Đáp: Ước theo chân tức là không, thuận theo tục là có. Luận nói: “Phật trả lời Tu Bồ-đề: Nếu tất cả chúng sinh ai cũng biết tự tánh của các pháp là không thật thì Bồ-tát không pháp tâm Bồ- đề vô thượng, cũng không ở trong lục đạo cứu vớt chúng sinh. Vì sao vậy? Vì chúng sinh tự biết tự tánh các pháp không thật thì chẳng có gì để độ. Thí như không bệnh thì không cần thuốc, không có bóng tối thì không cần đèn. Nay chúng sinh thiệt không biết tự tướng của các pháp không thật. Cho nên theo tâm chấp tướng sinh ra sự đắm trước, vì đắm nên nhiễm. Vì nhiễm nên trôi vào năm dục, vì thuận theo ngũ dục nên bị tham dục chê lấp; vì nhân duyên tham dục, dẫn dụ tạo nghiệp sinh tử, không biết cùng tận.” Thế nên biết nhân phàm mà lập Thánh, phàm Thánh đều không thật; từ ác mà được thiện, thiện ác không có thật tánh, vì không thật tánh nên vạn thiện hằng khởi. Bởi do tất cả đều không thật, nhứt chân thường tịch. Hỏi: Thế giới của chúng sinh như hai đầu bàn tay, nếu thật thấy có độ thì đâu khác gì mà trăng đáy nước và bắt bóng trong gương, xóa dấu chân chim và trồng chuối ba tiêu? Chưa cứu xét rốt ráo lấy cái gì làm chúng sinh mà khởi tâm cứu độ ư? Đáp: Nói đến chúng sinh chính là thân mình đêm ngày ra khỏi vô lương tâm vọng tưởng. Kinh Đại Tập nói: “Tâm ông lúc nào cũng khỏi vô lượng trăm ngàn chúng sinh.” Kinh Tịnh Độ Tam-muội nói: “Một niệm thọ một thân, niệm thuận thì sinh thân trên trời và ở cõi đời, niệm ác thì lãnh thọ thân 3 đường ác. Trăm niệm thọ trăm thân, ngàn niệm thọ ngàn thân. Một ngày một đêm trồng cội sinh tử, đời sau lãnh thọ 8 ức 5000000 thân của loài tạp. Cho đến ở trong trăm năm, thân thể xương, da, lông của những đời sau biến khắp cõi nước đại thiên. Ở trong cõi nước đều có khắp. Nếu một niệm không sinh, thản nhiên trở lại cội nguồn. Cho nên nói độ chúng sinh vọng, hiểu được niệm tức không, không có cổ khởi. Lại nói không thấy có chúng sinh để độ. Cũng nói độ khắp tất cả chúng sinh mới thành chánh giáo, chính là ý này vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân là chánh pháp tạng, tâm là vó ngại đăng, chiếu soi các pháp không, gọi là độ chúng sinh.” Chính là hạnh của mình đã lập, còn nói để chỉ cho người dạy họ quán tâm họ, lại nương đây mà học, đó là tình thương chân thật, đó là rốt ráo độ vậy. Luận về từ địa vị phàm phu đến địa vị Thánh nhân, môn của vạn thiện, trước pháp tâm Bồ-đề là điều quan trọng nhất, là bước đầu của các hạnh, là nấc thang đầu để bước vào đạo bao trùm trước sau, không được tạm bỏ. Kinh Phạm vòng nói: Nếu Phật tử thường khởi tâm đại bi, nhẫn đến thấy mọi loài súc sinh trâu, dê, chó ngựa, phải nghó miệng nói rằng. Người là súc sinh phát tâm Bồ-đề, và Bồ-tát vào tất cả chỗ như núi rừng ao hồ, đều làm cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề. Nếu Bồ- tát không phát tâm giáo hóa chúng sinh thì phạm khinh cấu tội.” Kinh Hoa Nghiêm nói: Muốn thấy mười phương tất cả chư Phật, muốn thực hành vô lượng công đức tạng, muốn diệt trừ mọi khổ não cho chúng sinh, cần phải mau mau phát tâm Bồ-đề.” Lại nói: Tâm Bồ-đề giống như hạt giống, vì có khả năng sản sinh pháp của tất cả các chư Phật. Tâm của Bồ-đề giống như ruộng tốt, vì có thể làm lớn thêm pháp trong sạch của chúng sinh; Tâm Bồ-đề giống như đại địa, ví có thể gìn giữ tất cả các vật ở thế gian; Tâm Bồ-đề giống như nước sạch vì có thể rửa sạch tất cả dơ bẩn phiền não; Tâm Bồ-đề giống như gío lớn vì tỏa khắp thê gian không bị chướng ngại; Tâm Bồ- đề giống như lửa mạnh vì có thể đốt rụi các thứ kiến chấp. Hỏi: Lý chính của Bồ-đề, tánh nó sẵn tròn đầy, đều nhờ pháp tâm mà hỏi vọng niệm. Đáp: Kinh Bát-nhã nói: Nếu Bồ-tát biết tâm tánh là Bồ-đề, mà phát khỏi tâm đại Bồ-đề gọi là Bồ-tát.” Ngài Thượng Thủ Bồ-tát nói: Ta ở trong chỗ vô sở cầu mà cầu nó, lại kông có gì để phát. Bồ-tát nói, biết tất cả pháp đều hkông phát khỏi mà phát tâm Bồ- đề. Vậy thì đối với chân như đã chứng, ngoài như thì không có trí, có thể phát diệu trí, ngoài trí thì không có như, cùng chiếu cùng ngăn, không còn không mất. Không phải hai mà là hai, năng sở đều vắng lặng, kế đến là vị mạng Tam bảo là ngôi phước điều vô thượng, khởi tâm bền chắc, có niền tin không hoại, xa lìa 5 thứ sợ hãi, thành tựu 3 thứ Bồ-đề. Nhân duyên đều tiên là nhiếp tất cả thiện pháp. Kinh Đại Báo Ân nói: “Như vua A-xà-thế tuy có tội nghịch, lẽ ra địa ngục atỳ, nhờ tâm thành hướng Phật nên diệt được tội ở địa ngục, đó gọi là sức cứu hộ của Tam bảo vậy. Lại nữa ở trong rừng núi hoang vắng sợ sệt, nhờ công đức niệm Phật mà sợ hãi liền tiêu diệt, thế nên phải quay về nương tựa Tam bảo, sẽ được giúp đỡ chứ không hư dối. Cổ Đức nói: “Núi có ngọc thì cỏ cây được đượm nhuần, sông có rồng thời nước không cạn, ở chỗ có Tam bảo căn lành tăng trưởng, gọi đó là kực cứu hộ của Tam bảo vậy. Kinh Pháp Cú nói: Đế Thích mạng vào trong thai lừa mẹ, nhờ quy uy Tam bảo, buộc dây giải đi, nó phá hoại đồ dùng bị chủ đánh nhằm, bị thương cái thai, thần thức ấy trở lại sinh làm thân chư thiện, Phật nói kệ cho ông nghe, hiểu được sự thay đổi của tội phước, thấu được lẽ hưng suy, noi theo hạnh vắng lặng, đặng đạo Tu Đà Hoàn. Bản Hoạnh Tử kinh nói: Bấy giờ quốc vương có nạn, gọi là Ba kim Ly bạch Phật rằng: Nước tôi bé nhỏ mà năm nào cũng bị giặc ngũ cốc càng đắt đỏ, bệnh tật hoành hành, nhân dân khốn khổ, Ta cứ bất an, pháp tạng sâu rộng không được tu hành. Chỉ mong mỏi được xót thương, ban pháp yếu cho ta. Phật bảo vua rằng: Nếu người muốn diệt trừ phiền não chướng, phải khóet dây hạnh từ 108 mắc, thường lần theo đó, hết lòng không cho tán loạn. Xưng Nam Mô Phật Đá Nam Mô Đạt Ma, Nam Mô Tăng già, biến sẽ đoạn 108 kết nghiệp, được quả vô thượng. Vua nghe vậy nên rất vui mừng nói: Con sẽ phụng hành: Phật bảo vua rằng: Có Tỳ- kheo sa đấu, tụng danh hiệu Tam bảo, trải qua mười năm, đặng được quả Tư Đà Hàm, lần lượt tu hành, nay ở trong pháp giới Phổ Hương, làm Bích Chi Phật.” Vua nghe vậy rồi, càng cố gắng tu hơn.” Hỏi: Chí công nói: “Khổ thay ! Thương thay! Oan uổng trái lại Phật thật tạo tượng, hương hoa cúng dường, cầu phước mà không tránh khỏi gậy gộc của lục tặc, ý này thế nào, để khế hợp với lời ngày nay”. Đáp: Đây là ý người xưa muốn phá chấp của hành phàm phu không biết mình có Phật, cứ hướng ra bên ngoài tìm cầu, trụ tương mê chân, phân biệt cảnh khác, không vì trợ đạo, chỉ cầu cửa phước, giống như bắn tên lên hư không, như người vào chỗ tối, rốt cuộc chút lấy sinh diệt, đâu vượt khỏi tâm trần? Nếu hiểu được chỉ do tâm thì tất cả những gì đã thấy đều là kiến phần của tâm, không bao giờ chấp là cái đến từ bên ngoài. Song không hoại nhân duyên, sự lý vô ngại. Cho nên Thần Giai hòa thượng nói: Duyên sinh tánh không, không bỏ đại bi, quán Như Lai tịch lặng, không mất sự kính dưỡng. Bàn về thật tướng, không hoại giả danh; luận về sai biệt, không phá bình đẳng. Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát bát địa thân chướng vô sinh pháp nhẫn, vào vô công dụng đạo, ngộ được tất cả pháp như tính của hư không cho đến Niết-bàn, tâm còn không hiện tiền, vừa mới thấy vô lượng Phật hăng hái cúng dường. Kinh Hiền Ngu nói: Có vị trưởng giả ở nước Xá Vệ Sinh được người con trai, ngay lúc trời mưa hoa bảy báu, nhân đó đặt tên con là Bảo Thiên, sau đó được gặp Phật rồi xuất gia đắc đạo. Phật nói: Lúc Phật Tỳ Bà Thi xuất hiện ở đời có một người nghèo, tuy trong lòng sinh tâm hoan hỷ, nhưng không có vật để cúng dường, ông nắm một hòn đá trắng mà nghó là châu đem phân chia cho chúng Tăng, bây giờ chính là Thiên Bảo Tỳ-kheo vậy. Nhẫn đến lãnh thọ vô lượng phước, y thực tự nhiên, nay gặp ta ở đời, đặng chứng đạo quả. Lại nữa chân giác đại sư nói: Tin sâu chánh pháp, siêng tu lục độ, tán tụng Đại Thừa, hành đạo lễ bái, hóa thơm vị ngon, núi rừng sông biển, đất trống đồng bằng, của cải ví như trần ở thế gian như ở trên thảy đem cúng dường, tích góp công đức hồi hướng giúp đỡ cho hạt Bồ-đề. Vì biết rằng đó là phá sở chấp ngoài tâm của phàm phu, hoặc hám lợi mà cúng dường, sân tâm mà trì giới, kiêu mạn làm phước, vì muốn hơn người mà bố thí, không có tâm tha thiết, chẳng có ý rộng lớn. Nếu thực hành như vậy, khó được tịnh nghiệp. Không thể lần hội Thánh ý, đoạn phàm tình của mình, khởi tâm đoạn diệt, là diệt giống Bồ-đề. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu ở trong định ấy, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu diệt thọ âm rõ ràng, tự cho mình đã đủ, bổng có manh mối, đại ngã mạn khởi, như vậy nhẫn đến mạn và quá mạn. Mạn quá mạn, tăng thượng mạn, ty liệt mạn, cùng khởi một lọat. Trong tâm còn xem thường mười phương Như Lai, huống nữa là hàng Duyên giác Thanh văn ở địa vị thấp? Đây gọi là thấy thù thắng, không có trí tuệ tự cứu, ngộ thì hết lỗi, chẳng phải là Thánh chứng. Hoặc làm Thánh giải, liền có một phần đại ngã mạn nhập vào tạng phủ ông. Không lễ miếu tháp, phá hủy linh tượng, bảo đàn việt rằng: Đây là vàng, đồng, hoặc là gỗ, đất, kinh là lá cây, hoặc là điệp hoa. Thân thề chân thường, không cung kính thân mình mà lại tôn sùng gỗ đá, thật là điên đảo. Những người có niềm tin sâu xa, từ đó phá vỡ, chôn vùi trong đất, nghi ngờ chúng sinh, đọa ngục vô gián, mất chánh thọ, sẽ mất vòng trầm luân.” Nhưng khi thao tác không chấp trước thứ gì, hoan hỷ an vui, hết lòng chí thành, hồi hướng về vô thượng Bồ-đề, bố thí khắp chúng sinh trong pháp giới, thì một mảy thiện cũng là nhân tròn đủ, không bao giờ rơi vào quả báo nhân thiên. Lại nữa, pháp nghiệp sâu rộng, phàm Thánh đều hổ trợ. Phước là cội gốc của an lạc, trí là cánh cửa ra sự giải thoát, nên 2 đường này không thể tạm bỏ, là lối chính của việc thành Phật, đúng là nhân sâu mầu của việc bạt trừ gốc khổ. Cầu khẩn vô thượng bảo vương thập phương từ phụ là chỗ nhóm hợp phước lớn đủ thân công đức, vẫn còn đích thân làm lễ tháp cốt của đại chúng, tự xỏ kim cho đệ tử, huống nữa là thân hình phàm tục, phước mỏng đức cạn, Xiển đề không tin, công cao ngã mạn, hổ thẹn làm việc luôn hèn, liền bỏ những điều thiện nhỏ? Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Phật bảo: Nếu lại có người thấy người khác tu phước và giúp đỡ người nghèo khó, chê bai họ rằng: “kẻ tà mạng này tìm cầu danh lợi, người xuất gia đâu có làm việc bố thí? Chỉ tu thiền định, trí tuệ, đâu làm những việc bận rộn vô ích đó?.” Người nghó như vậy, là quyến thuộc của ma, kẻ đó sau khi chết rồi đọa vào địa ngục, nhiều kiếp chịu khổ; khi ra khỏi địa ngục đọa vào loài quỷ đói; ở trong 500 thân đọa trong loài chó; khi ra khỏi loài chó ở trong 500 đời, thường sanh vào hạng nghèo cùng hạ tiện, chịu vô số khổ. Vì cớ sao? Do trong tiền kiếp thấy người khác bố thí không sinh lòng ưa thích.” Luận nói: Phước đức là cội gốc của Bồ-tát ma ha tát, có thể mãn nguyện, được tất cả Thánh nhân khen ngợi, không bọ người trí chê trách, ở trong hành xớ của người trí không bị họ xa lánh. Bởi nhân duyên phước đức này làm nhân vương, chuyển luân Thánh Vương, Thiên Vương, A-la-hán, Bích Chi Phật, Chư Phật Thế Tôn. Đại Từ Đại Bi, Thập lực, tứ vô sở úy, nhứt thiết chủng trí, tự tại vô ngại, đều sinh ra từ phước đức. Lại nói: Tu Bồ-đề hỏi: Vì trong tột cùng của hư không, không có phước và phi phước, tại sao phải lấy phước đức mà tặng?.” Phật đáp: “Vì trong thế đế có phước nên được.” Tu Bồ-đề vì chấp không của chúng sinh nên hỏi: Phật vì không chấp có nên đáp: Nghóa là siêng năng tu phước còn không thể được há huống không tu phước đức. Nếu đạo nhân đến một tụ lạc thọ(thức ăn) xin ăn từ một nhà đến một nhà, khất thực không được, thấy một con chó đói nằm, lấy gậy đánh nó nói:Người là súc sinh vô trí, ta đầy đủ nhân duyên, từng nhà xin ăn cùng không được, huống chi loài chó nằm đây mà mong cầu ư?.” Cho dến dùng đèn báu, đuốc thơm luôn thắp sáng cúng Phật, luôn làm tăng trưởng ngọn lửa trí tuệ, luôn chiếu sáng pháp thân, nhờ chánh quả tròn, hạnh nghiệp thành tựu. Cho nên bọn giặc gạt tàn lửa, mà thiên nhãn sáng mãi; phần nữ nhân đó hiến cây đuốc nhỏ, Phật từ xa thọ ký. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lại nữa, phóng ánh sáng tên là tiêu diệt, ánh sáng ấy che lấp tất cả ánh sáng của chư Thiên, không thứ ám chưởng nào không tiêu trừ, làm lợi ích cho khắp chúng sinh, ánh sáng này giac ngộ tất cả chúng sinh, khiến mọi người cầm đèn sáng đến cúng dường Phật, vì đêm đèn cúng dường, cho nên được thành ngọn đèn vô thượng trong thế gian. Nhưng các thứ đèn dầu và đèn tô, cũng vậy, tất cả các ngọn đuốc sáng các thứ hương, thuốc quý, đèn thượng hạng, cúng dường những thứ đó mà được hà quang này. Kinh Phổ Quảng nói: Đốt đèn cúng dương, soi sáng chỗ tối tăm. Chúng sinh đau khổ mong mõi được thứ ánh sáng này, được cùng thấy nhau, nhờ phước đức này, cứu giúp chúng sinh ấy thảy đều ngừng ngớt. Kinh Công Đức Thí Đèn nói: Nếu người đốt đèn sáng trong tháp miếu rồi, sau khi chết đi thấy 4 loại ánh sáng: Khi lâm chung thấy vầng mặt trời tròn sáng hiện ra. Thấy vầng mặt trăng trong vắt tròn hiện ra. Thấy chỗ ở chư Thiên và ngồi một chỗ. Thấy ở chỗ Như Lai chánh Biến Trí ngồi cội Bồ-đề và sắp được Bồ-đề, tự thấy thân mình tôn trọng Như Lai, chắp tay cung kính mà đứng. Hoặc rải hoa cúng dường, trong trí đạo tràng, làm trọn nhân duyên Bồ-đề, hạnh chính của việc thành Phật. Kinh Pháp Hoa nói: Nếu người tâm tán loạn, dẫn đến dùng một đóa hoa, cúng dường nơi tượng vẽ, dần thấy vô số Phật.” Kinh Đại Tư Duy nói: Nếu không rải hoa cúng Phật, tuy được vãng sinh, mà chánh, y báo không đủ.” Kinh Hiền Ngu nói: Trong nước Xá Vệ có một trưởng giả giàu có sinh được một đứa con trai, mặt mũi khôi ngô, trời mưa các loại hoa, liền đặt tên là Hoa Thiên. Cho đến khi xuất gia đắc quả A-la-hán. Ngài A-nan bạch Phật nói: Hoa Thiên nhờ phước gì mà được như vậy? Phật bảo: “Thời quá khứ có Phật, hiệu Tỳ Bà Thi, có một người nghèo gặp chư Tăng thì rất vui mừng, liền ở nơi sông suối vắng vẽ tìm hái các loài hoa dại, để dãi khắp đại chúng. Nay chính là Hoa Thiên Tỳ-kheo vậy. Công đức rải hoa trong 91 kiếp thân tướng trang nghiêm, trong lòng có điều gì cần liền được như ý”. Kinh nói: Nếu đêm một đóa hoa rải giữa hư không, cúng dường mười phương Phật, dẫn đến hết khổ, phước ấy vô tận.” Luận nói: A-la-hán ức nhó thuở xưa đem một đóa hoa cúng dường tháp Phật, lãnh thọ an lạc trong loài người, trời 91 kiếp, phước lực còn lại đặng quả A-la-hán.” Hoặc đốt hương, bôi hương thơm trang nghiêm Phật sự, đốt một nén mà mong cầu diệu quả, vì tô quét tháp cũ mà thân tỏa mùi thơm chiên đàn. Xưa kia khi Phật còn tại thế, có vị trưởng giả gọi là Chiên Đàn Hương, xưa kia từng đêm bùn thơm chét lại tháp cũ, từ đó đến nay trải qua 91 kiếp, các lỗ chân lông khắp thân đều tỏa ra mùi chiên đàn, từ miệng Ngài phát ra mùi hoa Ưu Bát. Hoặc treo phướng trên tháp miếu, dựng bảo cái để tiêu biểu cho Thánh nghi, tuy nhờ duyên bên ngoài được phước mà duy chỉ thành quả bên trong. Cho nên lúc Phật ở ngoài đời có một người tên Bà Đa Ca, thời quá khứ từng làm một chiếc phướng dàitreo trên tháp của Phật Tỳ Bà Thi, từ đó đến nay trải qua 91 kiếp, ở cõi đời này luôn có một chiếc phướng lớn che chở cho ông, lãnh thọ phước an lạc, sau đó xuất gia và đắc đạo. Lại nữa kinh nói: Nếu người treo phướng, gió thổ lay một lần thời một địa vị chuyển Luân Vương; cho đến tan rã thành vi trần là một vị tiểu vương. Kinh Bách Duyên nói: Có Trưởng giả Bảo Cái vào thời quá khứ từng đêm một viê châu ma ni đậ trên đỉnh tháp thờ Xá lợi của Phật Tỳ Bà Thi, từ đó đến nay trải qua 91 kiếp, ở trong thế gian luôn có Bảo Cái tự nhiên, che trên đầu Ngài, cho đến gặp Phật xuất gia, cũng thành quả Phật. Hoặc khen ngợi công đức của Phật, tán thán Đại Thừa, vô biên quả báo tốt đẹp, nhân thù thắng lớn nhất. Khen một câu kệ, có công năng vượt khỏi kiếp khổ mà thành Phật. Tụng một lời mà được quả báo tướng lười diệu âm. Kinh Quán Phật Tam-muội nói:Vào thời quá khứ lâu xa vô lượng kiếp, có một vị Phật hiện ra thế gian hiệu là Bảo Oai Đức Thượng Vương. Lúc bấy giờ có một vị Tỳ-kheo đi cùng 9 người đệ tử đến chỗ tháp Phật, lễ bái tượng Phật. Thấy một bảo tượng, sáng rỡ trang nghiêm trong đẹp mắt, lễ rồi nhìn thật kỹ, nói kệ khen ngợi. Sau đó mạng chung, sẽ được sinh về cõi nước ở phương đông của Đức Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, bỗng chợt hóa sinh vào hoa sen lớn. Từ đó đến nay luôn được gặp Phật, được niệm Phật Tam-muội Phật thọ ký cho Ngài, đều được thành Phật ở trong mười phương.” Kinh Pháp Hoa nói: Thí như hoa Ưu Đàm, mọi người ai cũng thích, trời người thật hiếm có (thời thời) trổ một lần. Người nghe lâu lắm pháp sinh vui mừng khen ngợi, nhẫn đến phát một lời, chính là cúng dường, mười phương 3 đời chư Phật, người này Phật hiếm có, hơn cả hoa Ưu Đàm.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phóng ánh sáng gọi là diệu âm, ánh sáng này làm khai ngộ các Bồ-tát, có thể khiến cho âm thanh trong 3 cõi, người nghe nó đều là tiếng nói của Như Lai. Nhờ lớn tiếng khen ngợi Phật, và cúng dường các món âm nhạc như chuông linh, khiến cho khắp thế gian này nghe được âm thanh Phật, cho nên đặng ánh sáng này.” Cho đến ngân nga xướng tụng, ca ngợi phạm âm vi diệu, tiếng chúc tụng của Bà Đà thuở xưa trải ra âm hưởng thấu đền trời Tình Cư, Thích Tôn nhập định, tiếng cầm ca chấn động đến Thạch Thất. Quán thấy vườn rừng lầu gác, vào pháp môn của pháp giới âm thanh ngôn ngữ, thành Phật sự của Phật tông. Kinh Tỳ Ni Mẫu nói: Phật bảo chư Tỳ-kheo: Cho phép các ông tán tụng, tụng là lời của ngôn ngữ. Luật Tháp Tụng nói: Vì chư Thêin Nghe lời tán tụng ấy rồi sinh tâm vui thích, hoặc trổi nhạc ca múa, tiếng loa, tiếng bạt, tiếng tiêu, tiếng thiều, phát ra làm cho người thành tâm ưa vui mà cúng dường các thứ. Kinh Pháp Hoa nói: Nếu dạy người trổi nhạc, đánh trống, thổi sừng ốc, tiêu, địch, cầm không hầu, tỳ bà chụp, chã động những thứ vi diệu như vậy, trọn đem cúng dường, hoặc dùng tâm hoan hỷ, ca tụng oai đức của Phật, nhẫn đến một tiếng nhỏ, đều đã thành Phật đạo? Hoặc khuyến thỉnh chư Phật sơ chuyển pháp luân, không vào Niết-bàn, thương xót cứu chúng sinh. Trí Luận nói: Hỏi: Lệ thường của Bồ-tát, 6 thời khuyến thỉnh, mười phương chư Phật, có thể khuyến thỉnh chư Phật trước mặt cũng được? Đáp: Như khởi lòng thương xót nghó đến chúng sinh, khiến cho họ được an lạc, chúng sinh tuy không được gì, người niệm được phước lớn. Thỉnh Phật thuyết giáp cũng giống như vậy. Vả lại, tuy chúng sinh gặp mặt để thỉnh Phật nhưng Phật luôn thấy tâm họ, cũng nghe lời cầu thỉnh của họ.” Hoặc tùy hỷ khen ngợi điều thiện trợ giúp thặng duyên của người như thấy người bán hương ở gần nhiễm khói hương, tuy không đích thân làm nhưng cũng được căn lành giống họ. Luận nói: Có người làm công đức, người thấy sinh tâm tùy hỷ, khen ngợi là tốt lắm, ở trong thế giới vô thường, bị si ám che lấp, có thể mở rộng lòng ra tạo nên phước đức này. Bồ-tát chỉ lấy tâm tùy hỷ mà vượt trội, người của hành nhị thừa, huống nữa là tự mình làm. Lại nữa, Bồ-tát ngày đêm luôn làm ba việc: Lễ mười phương Phật, sám hối tội ba đời Tùy hỷ công đức đã làm của mười phương ba đời chư Phật. Khuyến thỉnh chư Phật sơ chuyển pháp luân và ở lâu trong thế gian. Thực hành ba việc này, công đức vô lượng, chuyển xoay đến gần Thánh Phật. Nếu làm các điều thiện, đều hồi hướng hết thì thành tựu Bồ-đề, tránh lọt vào đường sinh tử. Như âm thanh nhỏ lọt vào ống thì dẫn tiếng đi đi xa; giống như giọt nước rơi xuống sông liền đồng với biển cả. Vì một chút thiện mà đạt đến quả cùng tột, vận dụng chút ý mà thành đại tâm. Hoặc phát đại nguyện là nhân của vạn hạnh, có thể tăng thêm lòng thương xót không đoạn giống Phật, việc lớn đã làm xong, việc đã làm trọn, thànhđạo lợi sinh đều nhờ thệ nguyện sâu rộng. Thế nhưng có hạnh mà không phát nguyện thì hạnh ấy ắt lẽ loi; có nguyện mà không có hạnh thì nguyện ấy ắt hư luống; hạnh nguyện theo nhau, mình người đều lợi. Kinh Hoa Nghiem nói: Không phát đại nguyện, bị ma dẫn dắt ở chỗ an ổn vắng lặng, đaọn trừ phiền não, bị ma dắt dần, vónh viễn đoạn sinh tử, bị ma dắt dần, bỏ hạnh Bồ-tát, bị ma dắt dần, không giáo hóa chúng sinh, bị ma dắt dần.” Trí Luận nói: Làm phước mà không mong cầu, không tạo dựng, nguyện làm người dẫn đường có thể thành tựu đạo. Thí như người nung vàng tùy theo ý của người thợ chứ vàng không nhất định. Bồ-tát cũng vậy, nguyện tu tịnh độ, sau đó đặng y sở nguyện. Vì thế nên biết nhờ nguyện được quả. “Lại nói: Nếu có thể vứa phát tâm nói rằng: Tôi nguyện đời sau làm Phật, diệt trừ tất cả khổ cho chúng sinh.” Tuy chưa đoạn phiền não, chưa thực hành việc khó, nhưng vì tâm khẩu trùng hợp, nên vượt hơn mọi chúng sinh khác.” Đại Trang Nghiêm Luận nói: Việc lớn trong cõi Phật, chỉ thực hành công đức thì không thể thành tựu, phải nhờ nguyện lực. Như con trâu tuy có sức kéo xe nhưng phải nhờ người dẫn dắt nó mới đến nơi được. Tịnh cõi nước Phật phải nhờ nguyện dẫn dắt mới thành tựu. Vì nhờ nguyện lực, phước đức tăng trưởng, không mất không hoại, vì luôn thấy Phật. Hoặc sửa đổi mới lại, tạo dựng hình tượng, xây cất những chùa chiền, làm trang nghiêm đắt phước. Kinh Pháp Hoa nói: Nếu như người vì Phật, xây dựng các hình tượng, chạm trổ thành các tướng đều đã thành đạo. Hoặc dùng 7 báu làm thau, đồng bạch đồng đỏ, chất nhôm cùng chì kẽm, sắt gỗ cùng với bùn, hoặc dùng keo sơn vải, nghiêm sức làm tượng Phật, những người được như thế, đều đã thành Phật đạo. Vẽ vời làm tượng Phật, trăm tướng phước trang nghiêm, tự làm hoặc dạy người, đều đã thành Phật đạo. Kinh tạo hình tượng Phật nói: “Vua Ưu điền đi đến chỗ Phật, bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Nếu sau khi Phật diệt độ, lúc đó có chúng sinh muốn làm tượng Phật, sẽ được phước gì? Phật bảo vua rằng: Nếu có người tạo hình tượng Phật, phước đức vô lượng, không thể tính kể, người thời đều hưởng các món khoái lạc, thân thể thường được sắc vàng sáng chói. Nếu sinh vào loài người, thường sinh bậc đế vương, đại thần, trưởng giả, con nhà hiền thiện. Nhẫn đến nếu tam đế vương là bậc rất mực tôn quý trong hàng vua; hoặc làm chuyển Luân Thánh Vương, làm vua trong tứ thiên hạ. Bảy báu tự nhiên, đầy đủ cả ngàn con. Cho đến sinh lên trời, làm thiên chủ trong lục dục; như sinh vào hàng phạm thiên, làm ma trời Đại phạm. Sau đó được sinh vào cõi nước của Phật Di Đà, làm Bồ-tát lớn, sau sẽ thành Phật, vào đường Niết-bàn. Nếu đời sau có người, làm hình tượng Phật, được phước như vậy. Kinh Hoa Thủ nói: Phật bảo Xá Lợi Phật: Bồ-tát có bốn pháp, bao giờ mới chuyển nơi vô thượng Bồ-đề. Những gì là bốn. Nếu thấy pháp miếu hư sụp, phải gia công sữa chữa, hoặc lấy bùn nhẫn, đến một viên gạch. Nếu ở ngã tư đường, chỗ nhiều người cùng thấy, xây tháp đắp tượng vì muốn tạo duyên cho người niệm Phật làm phước lành. Nếu thấy hai bộ Tỳ-kheo tranh tụng, khuyến cầu phương tiện, khiến cho họ được hoà hợp. Nếu thấy Phật pháp sắp chết khéo đọc tụng thuyết pháp cho dù một bài kệ khiến nó không chiết mất, vì hộ trợ chánh pháp, cúng dường, kính trọng pháp sư, một lòng hộ pháp, không tiếc thân mạng. Bồ-tát nếu ai thành tựu được bốn pháp như trên, đời đời sẽ làm Chuyển luân Thánh vương được thân mạnh khoẻ như thân, bỏ tứ thiên hạ mà xuất gia tu hành, có thể tuỳ ý tu tứ phạm hạnh, mạng chúng sinh lên cõi trời, làm đại phạm vương, nhẫn đến cứu cánh thành vô thượng đạo, thế nên con Di Hầu tạo tháp đá đễ vui chơi còn được sinh thiên, người hái củi lầm xướng một tiếng Phật vẫn còn được độ, hướng gì đói thành há không có phước thù thắng ư ? Hoặc hưng sùng bảo tháp, hoặc đúc hồng chung, nhẫn đến lớn như ngón tay cái. Phước sinh lên thiên giới, hoặc tạm gõ một tiếng, đường tối đều ngừng khổ. Kinh Vô Thượng Y nói: “Phật bảo A-nan: Như ở trong cung của trời Đế Thích có Đại Phi Các, gọi tên là Thường Quang Điện, vô số món báu, mỗi loại đều có 8 vạn 4 ngàn thứ. Nếu có thiện nam tin nữ tạo lập điện Thường Thắng Bảo như vậy, trăm ngàn câu cho thí và tứ phương chúng tăng. Nếu lại có người, sau khi Như Lai nhập diệt, lấy Xá Lợi như giới tử đại tạo tháp như amala tử đại cở sát như châm đại, lộ bàn như cức diệp đại, tạo hình tượng Phật như mạch tử đại, những công đức này hơn công đức đã nói ở trước, trăm phần không bằng một, ngàn vain ức phần nhẫn đến a-tăng- kỳ số phần không bằng một. Vì cớ sao? Vì Như Lai có vô lượng công đức vậy.” Kinh Niết-bàn nói: “khéo giữ gìn vật của Phật và tăng, lau quét đất Phật, a tăng, tạo tháp như ngón tay cái, thường sinh tâm hoan hỷ, cũng sinh vào cỏi nước bất động.” Đây chính là cõi Tịnh Độ Thường Quang không bị tam tai làm lay động. Hoặc biên chép đại tạng, khai mở chân thuyên; hoặc khắc đá mạ vàng, lột da chích máu, khiến cho người thấy nghe tuỳ hỷ, mười thứ truyền thông, hệ báo tứ ân, tuân theo lời khuyên của đấng đại từ. Đó là Phật trí tán thán mà không kịp, phước báo cõi trời mà không cùng tận, công bằng với bậc Thiên Thệ, làm sứ giả của Như Lai. Kinh Pháp Hoa nói: Nếu người được nghe kinh pháp Hoa này, hoặc tự viết, hoặc bảo người viết, công đức có được đem trí tuệ của Phật tính kể không hết, không thể cùng tận công đức ấy. Hoặc hưng sùng Tam bảo. Gió từ quạt khắp, hoặc nơi cửa tường hào, oai lực ngoại hộ, bèn khiến cho chánh pháp trụ lâu ở đời, Phật đạo mãi hưng thịnh. Ngoại cảm thì mưa hoà gió thuận, nước nhà an ninh thái bình; nội báo thì đạo tăng cấu diệt, nhân quả viên mãn. Có thể tuân theo ân phó chúc, không mất lời thọ ký quả Bồ-đề. Hoặc cởi sự trói buộc, hoặc cho người đi xuất gia; hoặc rộng độ Tăng ni, nối thạnh dòng Phật mở đường xuất ly, thực hiện moan tiếp dẫn, so sánh thắng duyên, khen ngợi các kinh điển. Kinh xuất gia công đức nói: Nếu cho người Nam, Nữ, nô tỳ, nhân dân xuất gia, công đức vô lượng.” Kinh Bổn Duyên nói: “dù một này một đêm xuất gia, 20 kiếp không đọc ba đường ác.” Luật Tăng Kỳ nói: Người xuất gia tu phạm hạnh một ngày một đêm lìa sáu trăm sáu ngàn sáu mươi kiếp khổ ở tam đồ. Cho dù trong lúc say cạo tóc, trong lúc vui đùa mà đắp y, trong khoảng thời gian ti hào đó, sẽ mong có ngày đặng đạo quả. Nữa là cắt ái từ thân, đầy đủ chánh duyên, thành Bồ-tát Tăng, phước đâu có bờ mé. Hoặc vì pháp quen thân, dứt tuyệt tà sư, dựng cờ chánh pháp, đoạt lưới ma chướng. Mặt trời trí tuệ ngời sáng chiếu soi ngôi nhà vô minh, mây từ che khắp khu rừng phiền não, khiến cho người tin tà đạo hướng về cửa tam giải thoát làm cho người tà kiến xé tan lưới bất đảo. Hoặc làm việc lớn khác để trợ phát Bồ-đề, làm chuyên tăng thượng, là người bạn không mời thỉnh. Kinh Niết-bàn nói: Kẻ giúp người khác phát tâm Bồ-đề cho phép phá 5 giới, nên biết tổn mình lợi người là hạnh của Bồ-tát. Hoặc thiết trai cúng dường chúng tăng hổ trợ việc tu hành, mở cửa đại thờ, lập hội vô già. Đó là vì giảm một muỗng cơm mà 7 lần sinh biên trời. Bố thí một nắm gạo mà hiện đời lên ngôi vua. Hoặc xây dựng phòng kinh thiền that, hoặc cho hoa quả vườn rừng, cung cấp những đồ cần dùng để giúp cho đạo nghiệp. Thuở xưa Chi Biện An Thiền đạo bạn, lấy nhạc trời tự nhiên, ngày cho tụng kinh sa-di, được tổng trì đệ nhất. Kinh Đại Báo Ân nói: “nếu dùng bữa ăn sâu chuổi anh laic cho nhười, loại bỏ tâm sân, do nhân duyên này, đạt được hai tướng: Sắc vàng. Luôn tươi sáng chói. Nhẫn đến quét tháp tô trét đất, giúp đở chúng tăng, khởi tâm cung kính, tha thiết với sự nghiệp của mình, phát một chút tâm lành, thành duyên thanh tịnh vô biên. Kinh Bồ-tát Bổn Hạnh nói: “Thuở xưa lúc Phật còn ở đời, có vị La Hán Bà Da Kiệt Lê quát sát nhân địa của mình đã từng rưới quét tháp cổ của Phật Định Quang, chặt phát cỏ cây. Làm cho sạch sẽ rồi hết sức vui mừng, nhiễu tháp 8 vòng, làm lễ rồi ra về. Sau khi mạng chung, sinh vào cõi trời Quang âm, trọn tuổi thọ ở trời, nhẫn đến trăm lần, trở lại làm chuyển luân Thánh Vương. Tướng mạ trang nghiêm, ai thấy cũng thích, lúc muốn đi thì đường xá tự sạch sẽ, trãi 90 kiếp dù sinh thiên hay sống trong nhân gian đều giàu sang, vinh hiển, vô cùng khoái lạc. Nay thân cuối cùng được gặp Phật Thích Ca, bỏ sự giàu sang mà xuất gia, đắc quả La Hán. Nếu người nào đối với Tam bảo làm một chút thiện bằng mảy lông cọng tóc, khi sinh ra ở đâu cũng lãnh thọ quả báo rộng lớn, không có ngằm mé.” Kinh Chánh Pháp Niệm nói: Nếu có chúng sinh cúng dường chúng tăng bằng tâm thanh tịnh, quét tháp Phật, khi mạng chúng sinh vào cỏi trời ý lạc thân không phải bằng máu thịt cũng không dơ uế. Mùi thơm lan khắp 100 tuần, thân ngài sạch sẽ, giống như gương sáng. Phó Pháp Huyện nói:” Có vị Tỳ-kheo hiệu là Cầu Đa, quán thấy không có phước, không thể đắc đạo, dạy bảo họ cúng tăng bèn được chứng La Hán quả. Lại có vị La Hán hiệu là Kỳ Dạ Đa, đủ tam minh lục thông, quán thấy đời trước mình đã từng làm thân chó, chưa từng có được bữa ăn no, luôn bị đói khát, mà luôn đích thân tự gắp thức ăn chín cung cấp cho chúng tăng.” Kinh Đại Báo Ân nói: “Quán sát nghóa thậm thâm của các pháp ưa tu pháp lành, phụng dường cha mẹ, những người có đức như thầy Tổ Hoà Thượng. Nếu đi trên đường tháp Phật, phòng tăng chọn bỏ những ngòi đá, gai góc và đồ dơ dáy. Do nhân duyên này, trong 32 tướng được tướng mỗi mỗi sợi lông xoay về hướng phải. Nhẫn đến nuôi bệnh, tắm rửa cho chúng tăng bị bệnh, hoặc đào giếng xây hầm cầu, trợ giúp những khi hiểm nạn nguy cấp, lúc cứu giúp được đầy đủ cũng là tâm của Đại Bồ-tát, thành hạnh bất khả tư nghì. Lợi tha đã xong, đắc quả lại sâu xa, hoặc luôn thọ thân biến cố bất hoại, hoặc được tướng hảo thanh tịnh, hoặc vãng sinh về cõi cam bồ Phật quốc, hoặc chóng được thân nhẹ nhàng, tự tại, đều là nhân thù thắng của 32 tướng, quả vô diệu của 80 món đẹp. Kinh Đại Phương Tiện Phật Bát Ân nói: “Ba nghiệp thanh tịnh, xem bệnh cho thuốc, phá trừ ngã mạn, ăn uống biết đủ nhờ nhân duyên này mà trong 32 tướng được tướng đều đặn. Kinh Phước Điền nói: “Phật Bảo Thiên Đế, thuở xưa ở nước Ba La Nại xây dựng nhà xí, do công đức này đời đời thanh tịnh, nhiều kiếp hành đạo, dơ dáy không dính vào, sắc vàng sáng chói, trần cấu không dính, thức ăn tự tiêu hoá không có các bệnh tự tiện lợi” Kinh Bách Duyên nói: “Tỳ-kheo Tôn Đà Lợi vào thời quá khứ làm một vị trưởng giả, vì đem đủ các thứ nước thơm cho các chúng tăng tắm rửa, lại lấy những đồ trân quý bỏ vào nước, nay khi được sinh ra, trong nhà tự nhiên có một dòng suối, nước thơm mát lạnh, đầy đủ đồ quý báu hiện trong đó, thân tướng khôi ngô, sau đó xuất gia đắc đạo.” Kinh Hiền Ngu nói: “Thuở xưa có 500 khách buôn vào biển tìm châu, thỉnh một vị ưu bà tắc ngũ giới, để làm người dẫn đường, Thần biển vốc nước mà hỏi rằng: Nước trong vốc tay này nhiều? Hay nước trong biển nhiều? Hiền Giả đáp: Nước trong vốc tay nhiều. Nước trong biển tuy nhiều, nhưng khi kiếp sắp tận ắt sẽ khô cạn. Nếu lại có người có thể lấy một vóc nước cúng dường Tam bảo, hoặc phụng dưởng cha mẹ, hoặc giúp đỡ người nghèo khó, hoặc cho chim muôn uống, công đức này, muôn kiếp không hết. Từ câu nói này biết được nước trong biển ít hơn nước trong vóc tay.” Thần biển hoan hỷ bèn đem châu báu tặng cho Hiền Giả. Vì biết tất cả vạn vật đủ ứng thời mà cứu giúp cho họ được lợi ích, nếu họ không cần mà tuy nhiều nhưng chẳng lợi ích gì. Kinh nói: “Nếu trồng cây trong vườn, xây giống nhà xí, cầu đồ, phước mà người này đã làm, đêm ngày luôn tăng thưởng.” Cao Tăng nói: Đạo An Pháp Sư cảm được lời của Thánh Tăng bảo rằng: Hạnh giải của ông hơn người, chỉ vì phước ít, hay tắm cho chúng tăng thì sẽ nguyện ắt đủ.” Hoặc san bằng gò hầm, mở mang đường xá, hoặc đóng tàu bè, lắp ráp cầu đò, hoặc ở nơi đường quan trong xây dựng đình đài, hoặc bến đường trồng cây ăn quả, giúp sự lỡ đường cho người qua lại, chuẩn bị cho bước đường của người và vật. Trong lục độ môn, chỉ phát khởi sau rộng, trong 8 phước điền, tâm thương xót cứu giúp cùng khắp. Nhân của một niệm lành có thể cảm hai thứ báo: Hoa báo, lãnh thọ sự thoái lạc của trời người. Quả báo, chứng nguồn chân của Phật tổ. Hoặc cho ăn cho uống, bệnh thời cho thuốc men, chỗ ở, quần áo, tất cả vật cần dùng làm an lạc loài hữu tình, là gia nghiệp của chủ Phật, vỗ về, an ủi những kẻ yếu đuối, là lệ thường của bật đại só, giả sử cho một trái thọ phước lạc trong 90 kiếp, chia một phần ăn được tài sản gấp ngàn lần. Kinh nói: Cho thức ăn được 5 thứ lợi ích: Thí mạng. Thí sắc. Thí lực. Thí an. Thí. Trí Độ Luận nói: “Quỹ thần được người cho một bữa ăn, thì nó hoá ra gấp ngàn vạn lần.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phóng ánh sáng gọi là an ổn, ánh sáng này chiếu soi đến người bệnh tật, thì khiến cho họ diệt trừ mọi thứ khổ đau, thảy được niềm vui của thiền định. Cho một thang thuốc hay để chữa bệnh nan y, được báu trang nghiêm thân thể, tô, dầu sữa mật ăn, uống no nê, nhờ vậy mà được ánh sáng này. Hoặc ban cho sự không sợ hãi, khéo dàn xếp sự tranh cãi, thương sót người coi cút, cứu giúp kẻ hoạn nạn, phước thọ bằng phạm thiên, hạnh ngang bằng bậc Đại Giác, nhân to thời quả lớn, đức sâu thì quả dày. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ánh sáng gọi là vô úy, ánh sáng này chiếu đến người sợ hãi, phi nhân ôm giữ các thứ độc hại, tất cả đều khiến họ diệt trừ. Có thể ban sự bình yean cho chúng sinh, gặp người não hại cũng khuyên họ dừng, cứu giúp kẻ hiểm nạn cô đơn nghèo cùng, nhờ vậy mà được ánh sáng này.” Lại nữa, từ bi hỷ xã các món lợi ích, cứu nghèo giúp khổ, rũ lòng thương nhớ và cho súc sinh ăn một nắm, đều là Phật nghiệp, nhân từ vô duyên. Kinh Pháp cú nói: Thực hành từ bi có 11 thứ lợi ích. Phật nói rằng: Thực hành nhân từ Từ bi cứu giúp Có mười một thứ vinh dự Phước luôn theo thân Thức ngủ an ổn Trời hộ người thương Không độc không bệnh Không chết vì nước lửa Sống được lợi ích Chết sinh trời phạm thiên Đó là mười một. Cho nên Kinh nói: Tất cả những căn lành có sẳn có của chư Phật, Bồ-tát, Duyên Giác, Thanh Văn, từ bi là căn bản. Tỳ Sa Luận nói: Nếu người tu hạnh từ, lửa không đốt được, dao không chém được, nước không cuốn được, người không giết được. Người sở dó được như vậy bởi tâm từ nhất định là pháp bất hại. Có oai lực lớn, chư thiên ủng hộ, người muốn hại cũng không hại được.”” Kinh Thượng Pháp Quyết Nghi nói: Phật bảo: nếu người ở trong a-tăng-kỳ kiếp đem thân cúng dường mười phương chư Phật cùng chư Bồ-tát và chúng Thánh Văn, không bằng người bố thí cho chúng sinh một bữa ăn, phước ấy hơn phước của người kia gấp trăm ngàn vạn vô lượng vô biên lần. Trương Phu Luận nói: “Thương sót giúp một người, công đức như đại địa, vì mình thí tất cả, được quả như hạt cải, cứu một người hiểm nạn, hơn người thí tất cả, các ngôi sao tuy sáng nhưng không bằng mặt trăng.” Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát cho dù thí cho chúng sinh một bữa ăn một năm, một hạt, đều nguyện như vầy: đời sau khiến cho những loài này bỏ đường súc sinh. Lợi ích an lạc, cuối cùng giải thoát qua hẳn biển khổ, diệt hẳn khổ thọ, dứt hẳn ấm khổ, đoạn hẳn giác khổ, tụ khổ, và các xứ khổ, nguyện cho chúng sinh kia, đều được xả lî. Bồ-tát chuyên tâm buộc ý nơi tất cả chúng sinh như vậy, lấy căn lành ấy làm trên hết, vì họ hồi hướng về nhứt thiết chủng trí. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Thời quá khứ Phật chỉ tu một hạnh từ, trải qua các kiếp số bảy lần thành hoạn, không sinh lại cõi này. Khi thế giới hoại sinh vào cõi trời Quan Âm; khi thế giới thành lên vào trời phạm thiên cõi trời Đại Phạm. 36 lần làm trời Đế Thích, vô lượng trăm ngàn đời chuyển luân Thánh Vương, cho đến lúc thành Phật.” Lại nữa, sư tử hiện ra ngón tay. Voi say lể dưới chân, như mẹ hiền gặp con, kẻ mù được sáng mắt, thành biến thành lưu ly, đá tung lên hư không. Thích nữ bị ung nhọt, Điều Đạt bệnh bout đều là nhờ đức Bổn Sư nhiều kiếp huân tu căn lành có thể khiến cho người khổ thấy được việc như vậy. Nay đã kể thừa, vâng theo dấu xưa, cho đến phóng sinh cứu mạng, khởi lòng thương sót và dứt hết sự sát hại. Bỏ hết tai vạ của việc vướng, mở hết lồng, mõm, nói tiếp thọ mạng của biển, thực hành nhân của mạng. Bèn được trọn hình nơi sông nước, ngừng các thứ khổ bị rơi vào lưới mắt câu, bay, lượn tuỳ ý, thoát khỏi nỗi lo của nạn cháy rừng, cạn nước, thoát hầm sai sử, tránh bào thai mới, tổ không có trứng củ, mỡ tan trong chảo vạc, thịt nhừ trong dao thớt. Kinh Phạm Võng nói: “Nếu Phật tử vì lòng thương sót, làm việc phóng sinh, vì tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta, đời đời ta đều sinh ra từ nơi ấy, cho nên chúng sinh trong lục đạo đều là cha mẹ của ta, mà người giết nó để ăn là người giết cha mẹ mình, cũng là giết thân củ của mình.” Cho nên biết loài hữu tình hay vô tình đều không được giết hại. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Này Phật Tử! Bồ-tát ma ha tát làm đại quốc vương ở trong pháp tự tại, ban hành khắp viêc giữ gìn thân mạng, khiến họ trừ sát nghiệp. Thành ấp tụ lạc trong Diêm-phù Đề, tất cả đồ tể đều ra lệnh cấm đoán, tất cả những sinh vật không chân, hai chân nhiều chân, đều ban cho sự không sợ hãi, không có tâm dối lừa cướp đoạt, Tu khắp tất cả các hạnh, thương sót đến muôn vật, không làm tổn não, phát tâm quý báu, làm an ổn chúng sinh. Ở chỗ chủ Phật, đặt niềm vui thật sâu, thường tự an trụ trong 3 môn hình giới, cũng khiến cho chúng sinh được an trụ như vậy. Bồ-tát lớn dạy cho chúng sinh trụ vào 5 giới, đoạn hẳn nghiệp sát đem thiện căn này hồi hướng rằng, nguyện cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề, đầy đủ trí tuệ, giữ gìn chắc mạng sống, không có cùng tận. Nhẫn đến thấy chúng sinh, tâm ôm lòng tàn nhẫn, làm tổn hại người vật, của cãi, khiến họ bị thiếu thốn chịu hkác thứ khổ sở, thấy việc ấy rời khỏi lòng thong sót mà cứu giúp họ. Khiến cho tất cả nhân dân trong cõi Diêm-phù này được bỏ nghiệp này.” Kinh Niết-bàn nói: “Ai ai cũng mến tiếc thân mạng, loài nào cũng sợ dao gậy, suy bụng mình để làm thí dụ, chớ giết chớ bảo giết.” Xưa có vị thiền tăng Đặn Ân Phong, lúc chưa xuất gia từng bắn một con khỉ, rơi xuống đất và chết. Trong khoảnh khắc mẹ con khỉ, cũng rơi xuống đất và chết. Nhân việc đó mà mổ bụng nó ra, thấy ruột gan của nó đứt từng đoạn, ông liền bỏ nghề săn bắn, nhân việc này mà xuất gia. Vì thế nên biết thân người thể thứ, thọ quả báo có nhiều thứ sai khác, lưới ái căn tình, đều giống nhau không khác. Cho nên như hổ lạc rừng, phải rơi vào bụng lừa, giết chim để làm kinh động cầm thú, bèn ném thân vào trong án trắc. Đến như ông Dương nuôi chim nhưng đâu có ý mong được vòng ngọc. Họ khổng thả rùa vốn không có tình nơi ngọc ấn. Mạng đã không có lớn nhỏ thì tôi đâu có cách hiền ngu. Ba nghiệp tạo tác phải hết sức cẩn thận, lỡ làm tổn thương, lở giết chết còn phải trả báo vô tình, cố tạo cố tác thì đâu tránh khỏi lưới nghiệp? Hoặc thọ giới một ngày, hoặc thọ bát quan trai, hoặc không ăn mặn hoặc dứt hẳn thứ cay nồng, khôn gặp cõi tam tai, có thể vượt lên khỏi cõi lục dục. Đã làm chuyên sống lâu, lại chưa nhóm hạt giống đại từ. Kinh nói: Thuở xưa có Ca La Việt thiết lập đàn tràng lớn thỉnh Phật và tăng, lúc ấy có một người bán rượu, ở trọ tại nhà người chủ. Rộng khuyên ông nghe kinh trì trai. Đến tối mới trở về người vợ hỏi ông: “Tôi từ sáng tới giờ không ăn, đợi ông tới giờ.” Rồi phá trai giới của chồng, phước trì trai có phân nữa còn sinh lên cõi trời, bảy đời ở tại cõi trần lúc nào thức ăn đồ mặc cũng đầy đủ. Trì trai một ngày được long trong sáu mươi vạn tuổi tự nhiên. Lại có 5 phước: một là ít bệnh, hai là thân tâm an ổn, ba là ít dâm dục, bốn là ít ngủ nghỉ, năm là sau khi mạng chung thần thức sinh lên cõi trời, thường biết túc mạng. Hoặc ôm lòng hổ thẹn, thường sinh tâm vui mừng, biết tỏ lòng tri ân, hằng khởi ý đáp đền. Kinh Tạp A Hàm nói: “Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Có hai tịnh pháp có thể ủng hộ thế gian. Những gì là hai. Đó là tàm quý giả sử người thế gian không có hai tịnh pháp này, người đời cũng không biết mình có mối quan hệ giữa cha mẹ. Anh em, chị em, vợ con, tôn thân, sư trưởng, cao thấp, điên đảo hổn loạn, như cõi súc sinh. Liền nói Kệ rằng: Thế gian nếu không có hai loại tàm quý vượt trái đạo thanh tịnh, hưởng sinh lão bệnh tử. Thế gian nếu thành tựu hai loại pháp tàm quý thì thêm lớn đạo thanh tịnh, đóng chặt cửa sinh tử. Hoặc chuộc tội thay hình phạt, liều mình cứu người, hoặc cởi mở lao ngục, ân xá hình phạt, hoặc chiều theo ý khách, kêu gọi bãi bỏ thuế dân, hoặc ngừng đặt quan phòng, bỏ các thuế buôn, hoặc cứu giúp người bệnh nghèo, an ủi kẻ không nương tựa. Thường đề tâm thương yêu tha thứ thường đem lòng quan tâm chăm sóc. Khi tỉnh cũng như lúc mê không bao giờ quên lòng thương xót, cho đến loài bò, bay máy cựa cũng cho chở khắp cả. Kinh Hoa Nghiêm nói: Này Phật Tử: Bồ-tát lớn thấy ngục tù, năm cõi bị trói buộc, chịu các khổ độc, bao vây bức bách, đem vào cõi tử, muốn đoạt mạng mình, nhẫn đến tự bỏ thân mạng, chịu các khổ nhọc. Bồ-tát bấy giờ nói với chủ ngục rằng: Tôi nguyện xả thân để thế mạng cho người ấy, những tội như vậy để tôi thế cho. Nếu người kia tuỳ ý làm theo, giả sử tội kia dù trãi qua bao nhiêu a tăng kỳ tôi cũng chịu hết, để cho kẻ đó được thoát nạn. Nếu ta thấy người sắp bị giết hại, không bỏ thân mạng cứu chuộc khổ kia, thì không gọi là trụ tâm Bồ-tát. Vì cớ sao? Tôi vì cứu hộ tất cả các chúng sinh mà phát tâm Bồ-đề nhất thiết trí. Chánh Pháp Niệm nói: Xây một ngôi chùa không bằng cứu một mạng người, đinh chính một bản linh so sánh các phước đức không bằng tâm từ thương xót tất cả loài côn trùng, có tình thức, phước này thù thắng hơn. Hoặc tận trung báo hiếu, giúp nước hộ nhà, thực hành gió khiêm cung nhường nhịn, thực hiện đạo ôn hoà cung kính, kính dưỡng cha mẹ, được phước điền đệ nhất, thừa sự tôn hiền, mở tịnh lộ để sinh thiên. Kinh Hiền Ngu nói: Phật bảo A-nan: “Người xuất gia tại gia, tâm từ hiếu phụng dưỡng cha mẹ, tính kể công đức ấy, thù thắng khó lường. Tại vì sao? Ta nhớ lại thời quá khứ, từ tâm hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ, nhẫn đến sóc thịt cứu nguy cho cha mẹ trong lúc hiểm nguy. Nhờ công đức ấy, trên là vua trời, dưới làm Thánh vương, nhẫn đến làm Phật, bậc tôn kính của 3 cõi, đều do phước này.” Hoặc xưng dương công đức ấy, mở cửa toàn thiện, hoặc tán thán danh tiếng của nó, phát khỏi con đường toàn hiền, thành cái đẹp của con người trợ giúp tâm dũng mãnh, vui theo dự vẽ vang của người cùng khởi làm việc tốt, gọt sạch hết gai nhọn tật đố, dập tắt ngọn gió độc phẫn hận, khởi tâm tứ vô lượng, nhiếp vật cùng về với mình, thực hành hạnh an lạc để lợi ích hữu tình. Vì thế chủ Bồ-tát đều muốn trở lại biển khổ sóng dữ, làm những việc không lợi ích, hao tốn công sức, chỉ nuôi lớn mầm nghiệp, truy xét lại lỗi xưa, chóng tu Phật đạo, mặc giáp tinh tấn, phát tâm kim cương, làm hết mọi điều thiện, rộng khởi việc lợi, vào Tam-muội thế gian, hiện thần thông công xảo, hoà quang đồng trần hạnh sấu dụng kín, dập lửa vô mình, bẻ cờ kiêu mạn, chiều chuộng cơ ngơi, vui hoà để chị bảo, ái ngữ nhiếp thọ, đoái nhìn bằng ánh mắt từ khai tỏ sự tối tăm, an ủi kẻ lo sợ, giương ánh mặt trời để soi thế gian, đốt ngọn đuốt để phá tan bóng tối, đặt ra từng lớp cửa ngục, rót dầu vào nhà lửa hực cháy, nguyện đã cầu xong, như hạt châu như ý, nhổ gốc rễ của bệnh tật, còn cho thuốc thiện kiến, làm khô nước ái dục mà thành biển từ bi, làm nát lịm khổ luân mà thành trí luân. Biến bờ nghèo khó thành bến phước đức, chuyển cõi sinh tử thành đạo Bồ-đề. Trong pháp của chư Phật, không gì mà không làm, trong cõi chúng sinh không gì mà không giúp, như sự chở che của đất, như sự nâng đở của cầu, như sự lội kéo của gió, như sự thấm nhuần của nước, như sự nóng ấm của lửa, như sự sản sinh của mùa xuân, như sự dung nạp của hư không, như sự che mát của mây trời, bèn khiến cho người nghe tên thoát được khổ, dẫm lên bóng mà an lạc, xúc chạm hào quang, mà thân dơ được sạch sẽ, nhớ nghó đến thì tâm vượn được điều phục, đều là chỗ nhỏ nhiệm đến chỗ tỏ rõ, chưá dần thiện cảm, hạnh mãn công niên, thành tựu đại sư. Cớ sao lại phá con đường thiện nghiệp, mở cửa ác thú, thành tựu việc ma, đoạn giết giống Phật?  <卷>QUYỂN HẠ Luận về nhứt vạn đốn viên, ba đức thảy đồng đủ, chưa có một pháp nào vượt khỏi nguồn tâm, nếu tu vạn hạnh cũng từ chân pháp giới mà thành tựu. Hoặc đối trị tập khí mà dùng tri kiến Phật để đoạn, thành quả mình đã làm ấy không thành, đâu ngại chiệu hạnh đoạn mà không đoạn, há ngại với với viên tu ư? Cảnh hết sức trái ngược còn làm chỗ dựa để phát khởi tri thức, đức tốt, thiện đẹp, đâu phải con đường tiến vào đạo ư? Hỏi: Sao không tỏ ngay bờ chính, vì bổn lập thì đạo sinh. Nếu thực rộng hạnh môn, sợ rằng sinh ra sự ngăn trệ. Đáp: Lý là gốc của đạo, hạnh là dấu vết của đạo. Nhân gốc thấy dấu không có gốc thì dấu vết đâu tìm được. Nhờ dấu vết mà rõ được gốc, không có dấu vết, gốc đâu có đứng riêng được. Cho nên nói bổn tích tuy khác nhưng trọn không nghó bàn vậy. Thế nên biết rằng trước hết làm rõ tông chỉ của mình, rồi mới tiến bước trên đường đạo. Nếu cứ đuổi theo ngọn quả là có sự chướng ngại. Kinh nói: Chẳng phải không tỏ được chân như mà có thể thành được hạnh ấy, giống như những chuyện huyền ảo, dường như có mà không thật.” Vả lại, người mà căn cơ viên mãn thọ lãnh một cách nhanh chóng, thì dù cho chiếu che cũng không ngại, ngay nơi giá mà chiếu, cho nên cả hai đều trái chính là hai hạnh, ngay nơi chiếu mà giá nên vừa 2 hạnh mà chính là cả hai trừ bỏ, không hoại bổn mà luôn luôn là mạc, vạn hạnh rõ ràng, không hoại mạc mà luôn là bổn, nhứt tâm thường tịch. Hỏi: Kinh Pháp Cú nói: “Nếu có thể để tâm không khởi, tinh tấn không có ngằn mé.” Vì cớ sao lập sự khởi tâm để trái với đạo vô tác ư? Đáp: ngay nơi tâm mà vô tâm, sự không ngại lý, làm mà không làm, tánh không ngại duyên. Cho nên Huyền Thủ Quốc Sư nói: “Duyên khởi thể tịch, khởi mà cứ không khởi, đạt thể tuỳ duyên, không khởi mà hằng khởi.” Kinh Đại Tập nói: “Phật bảo: Tinh Tấn có 2 loại: Mới phát tinh tấn. Trọn thành tinh tấn. Bồ-tát bắt đầu từ phát tinh tấn để tu tất cả pháp lành, đem trọn thành tinh tấn, để phân biệt tất cả pháp, không được tự tánh.” Kinh Kim Quang Minh nói: tuy được quả Phật, song không ngừng tinh tấn, cho nên ở trong chúng còn đem thân lễ xác thịt huống chi những bậc thấp còn lại, đứng thẳng chắp tay mà được ư? Cho nên trong 18 pháp bất cọng tinh tấn không giảm. Đại Luân nói: “Bồ-tát biết tất cả tinh tấn đều là hư vọng, mà luôn thành tựu không thối lui, đó gọi là chân thật tinh tấn.” Hỏi: Tất cả pháp không thật đều tôn sùng vô tướng, cớ sao trình bày các món thiện, khởi tâm hữu tướng? Đáp: Vì các pháp rốt cuộc là không có thật, nên có vạn thiện để thực hành. Nếu các pháp có tánh nhất định thì tất cả các pháp không lập. Cho nên Kinh Bát-nhã nói: “Nếu các pháp thật có thời không có đạo có quả.” Kinh Pháp Cú nói: “Bồ-tát ở trong rốt ráo không, hiển nhiên kiến lập.” Kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Nếu nói pháp có một, tướng này như mao luân, như ánh nước mê mờ điên đảo, vì nó là các thứ hư vọng.” Nếu thấy nơi pháp không, pháp này đồng hư không, điên đảo như kẻ mù không thấy, nói pháp như lông rùa” Lại nữa, Kinh nói: “Thà huỷ báng như núi tu di, chứ đừng chê không như hạt cải.” Luận nói: trong các pháp thật tướng, quyết định tướng không thể được, cho nên gọi vô sở đắc, chẳng phải không có phước đức trí tuệ thêm lớn thiện căn. Lại nói: “Người tà kiến phá các kiến cho không, người quán không biết các chân không, không phá không hoại. Thí như người điền xá, không bao giờ biết muối, thấy người giàu sang, lấy muối nêm vào các loại rau thịt mà ăn, Ông hỏi: “Cớ sao làm như vậy?.” Người kia đáp: “Muối này có thể tạo cho các món ăn ngon thêm” Người này liền nghó: “Muối này có thể khiến các món ăn ngon thêm, chắc hẳn vị nó rất nhiều.” Bèn múc đồng thìa muối bỏ vào miệng ăn, chất mặn làm hư miệng, rồi hỏi lại rằng “Tại sao ông nói muối có thể làm cho thức ăn thêm ngon?.” Người kia đáp: “Ông ngu ơi! Điều này phải biết so đo một chút, cho thêm vào khiến cho món ăn ngon chứ tôi có nói ăn toàn là muối đâu.” Người vô trí nghe không giải thoát môn, không thực hành các công đức, chỉ muốn đắc không, đây là tà kiến, đoạn các căn lành. Đại Sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn giải thích Kinh Niết-bàn có đoạn hỏi: “Nếu không được gì, tại sao phải làm thiện.” Phật đáp: Biết các chúng sinh, hiện có Phật Tánh, ắt có nhân quả như đứa trẻ trong thai, nhất định sinh ra không bao lâu, đương nhiên phải tu thiện. Lại hỏi: Tôi nay, không biết chỗ thú nhập, làm sao làm thiện? Phật bảo: có Như Lai tạng, có thể hướng vào, phải tu các nghiệp lành. Hoằng Minh Tập nói: Hoặc có người chấp chặc nơi không rời, sinh ra đoạn kiến, nói ra miệng dường như giống mà thực hành ở nơi tâm thì khác. Chánh Pháp lấy không để trừ lòng tham ái của mình. Bậc Đại Só thể hội pháp không mà tăng tưởng công đức, kẻ tiểu nhân nói không mà thục lui đối với điều thiện. Bởi vì phản dụng chánh ngôn để sinh ra tà chấp. Không quán không để trừ mối tuệ luî, chỉ chấp không mà phế bỏ điều thiện. Lại nữa các pháp thiện ác đồng với không vô tướng, mà thiện, pháp là trợ đạo, ác pháp sinh ra chướng ngại. Nên biết tánh Phật của vạn pháp đồng với nhất như vậy, trong pháp ngàn duyên nó không có sự ngăn ngại nên có không có muốn thứ sai khác. Cho nên Kinh nói: Tin sâu nhân quả, không huỷ bán đại thừa, nhân quả ba đời, Phật không dối gạt. Khuyên răng mười phương, nghe ắt không nghi, mà cho rằng, thiện ác đều không, không tổn ích ư? Hễ pháp nhân sáng tỏ, thì không pháp nào không rõ ràng: tướng lưỡi rộng dài thì không pháp nào không thật. Nó đã chia ra thành có thì một mãy là muôn ngàn, nó đồng với không thì vạn điều cũng là một. Ngăn sự nãy sinh ra đoạn thường thì trừ luôn hai bệnh không có. Chẳng phải thành ắt không lành, thuận với đạo rốt cuộc là điềm lành, đừng bảo không tin, vì rõ ràng như ban ngày. Cho nên trung luận nói: “Chu Phật nói pháp là không có vì để trừ bệnh chấp có, nếu lại chấp không là chỗ chư Phật không hoá độ. Kinh Kim Can Tam-muội nói: “nếu lìa không mà chấp có, phá có mà thủ không, đây là cái không giả tạo, chứ chẳng phải là chân không.” Nay tuy lìa có mà không giử không, như thế thì được các pháp chân không. Cho nên “Triệu Luận” nói: nếu lấy có làm có, thì lấy không làm không, có đã không có thì không cũng như vậy.” Không giữ không để quán các pháp thì có thể gọi là thấy thật tánh của pháp vậy. Đâu được lấy không hại có, lấy có hại không, trái với nguồn của một vị Thánh cấu của nhị kiến. Đây đều là y nơi, lời nói mà đánh mất nghóa, bỏ rơi trí mà lưu giử tình. Tuy nói là phá chấp có, chưa đạt nguồn có, gọi chấp không chứ chẳng cùng tột ý không. Nay biện sơ về điều này, để triệt tiêu tà tuệ. Hễ nói có là có của không có, không là không của không không, chẳng đoạn không. Nếu quyết định là có, chẳng phải là huyễn có, mà không sinh khởi trở ngại. Nếu rỗng tuếch mà đồng với hư không, thì không có chiệu dụng. Cho nên theo duyên mà có, là không của vô tánh. Không của vô tánh, không mà không ngại có. Có là do duyên, có mà không ngại không. Có nhờ không lập, thành do trí thì vạn pháp cuồn cuộn, không từ có mà sinh, khởi điệu tuệ mà nhất chân rồng lặng. Đâu giống với chấp chỉ không mà sinh đoạn kiến, thì biển phước tiêu sạch, nương vào thật có mà khởi tâm hằng hữu thì núi ngã mạn cao chất ngất. Vì thế Phật nói không thật, vì không vô minh mà thành phước nghiệp, phá biến kế mà liễu viên thành. Người ngu nói không liền sinh ra cái hiểu sai lầm, mà huỷ bán ý Phật, tăng thêm cái thấy, không mà duyệt nhân thiện. Lại đoạn duyệt không, thì không thiện không ác, không nhân không quả. Đệ nhất nghóa không thì có nghiệp có báo, không thấy người làm. Hỏi: Sao không thâm nhập vô sinh, tự nhiên hợp đạo, nhiều lỗi hữu vi đâu ích gì cho sơ tâm? Đáp: Nhân nơi thế từ mà vào chân từ, từ sinh nhẫn mà có pháp nhẫn. Học thì chia ra trước sau, vị đâu có lẫn lộn. Lại nữa, sinh tức là vô sinh, đâu vượt khỏi cảnh giới của tánh không? Không làm tức làm đâu thoát khỏi nguồn thật tướng. Chỉ thủ xã tình vong, tức chân tục lý kiến. Cho nên Kinh nói: “Bồ-tát không diệt sạch hữu vi, không ở trong vô vi.” Ngài Tăng Triệu nói: “Hữu vi tuy giả, nhưng bỏ nó thì việc lớn không thành, vô vi tuy thật nhưng trụ vào đó thì tuệ tâm không sáng.” Kinh Hoa Nghiêm nói: Hiểu rõ thân Như Lai chẳng như hư không, vì vô lượng diệu pháp, và tất cả công đức đã được viên mãn. Kinh Đại Tập nói: “Xã bỏ đại bi mà quán chúng sinh, đấy là ma nghiệp, chán bỏ công đức hữu vi đấy là ma nghiệp.” Hỏi: Tánh đức vô lậu vốn tự đầy đủ, đâu nhờ sự tu bên ngoài mà khuyết giảm thiện bên trong? Đáp: có sẳn hai đức tu tánh, hai duyên trong ngoài, như tánh đức vốn đủ, như trong cây có lửa, không thành sự dụng, phải nhờ tu đức nếu gặp nhân duyên mới có thể hiển hiện. Đó là nhờ tu mà hiển tánh, nhờ tánh mà tu được, nếu bản chất là vô tánh thì tu cũng không thành. Tu, tánh không hai, hoà hợp mới đủ. Lại nữa, trong các bổn giác, thường huân Thánh chủng, ngoài nương thiện duyên, giúp mở tri giác. Có trong mà thiếu ngoài, thì Bồ-đề không tròn. Kinh Hoa Nghiêm nói: Vì pháp như vậy, có sẳn nhân bên trong, vì thần lực của Phật, có sự gia hộ của duyên bên ngoài. Do đó, nếu tu vạn thiện, thì thuận pháp tánh, để gọt sạch dơ bẩn, tánh đức mới khởi. Phàm phu tuy đủ, do tạo ác mà trái với tánh, nên bổn tánh không hiển lộ, không thành diệu dụng. Hỏi: Vong duyên đốn nhập, giác điển có lời văn, sao nay cho là trái, làm đuổi theo pháp nhân duyên? Đáp: Một môn đốn giáo cũng là do bậc thượng căn lãnh thọ, vong duyên thì ý tịnh, quả là như thật tu hành. Nay nó bao hàm hết, vì người chấp pháp mà sinh biên kiến, một sự, không rõ viên tông, chỉ chia chẻ vọng tình, đâu trừ giáo đạo? Chỉ cần thấy một pháp của Phật, tự có ngũ đẳng dạy người: Tiểu thừa nhân, thấy thân Phật tức là thân sinh ra từ cha mẹ, tâm là từ bên ngoài đến, có tướng hảo rỏ ràng, sự huên tập ý thức, có điều phân biệt, không biết nghóa duy thức, cho nên thấy từ bên ngoài đến. Đại Thừa sơ giáo thấy Phật chỉ là hiện hoá, chẳng có tướng hảo, nhưng kỳ thật thể không chẳng có gì, cho nên nói nếu người dùng 32 tướng thấy Như Lai, chuyển luân Thánh Vương tức là Như Lai. Đại thừa chung giáo, thấy tướng hảo sáng ngời, của Phật mỗi mỗi tướng đồng với chân tánh, thân tức phi thân, lý sự không ngại. Đốn giáo, thấy Phật không có sự khác nhau giữa đầu đuôi, thì đâu có sự sai biệt giữa hiện ứng, cũng không có tướng hảo để lập. Vì tất cả phân biệt chẳng phải là chân lý, lìa chân niệm này gọi là thấy Phật. Nhứt thừa viên giáo, thấy Phật tức lìa chân niệm này, chẳng những không sinh lý của tướng kia, mà chính là không ngại muôn điều hưng thịnh, đầy đủ y chánh, bao trùm sự lý, nhân pháp đều trên, tỏ 1 việc khắp đến mười phương, tất cả thế giới đều đồng thời hiển hiện giống như đế võng. Lại nữa, một môn duyên khởi nếu là đốn giáo, không nói duyên khởi tức là sự tướng, khiến chân lý không hiện, phải do tướng tận mới là thật tánh, nếu nói duyên khởi như mắt nhậm thấy hoa đốm hư không. Nếu là viên giáo pháp giới, khởi thì chắc chắn một nhiều điều dung nhiếp lẫn nhau, có lực, vô lực mới được thành lập, một nhiều không ngại, nhiếp vào đồng thời, gọi là vào đại duyên khởi. Như năm môn trên, đều là nhập lộ, vẫn không trách tiểu, sợ phế bỏ môn phương tiện, cớ sao bài xích viên để ngăn ngại thật đức. Thiên Thai Giáo nói: Như pháp sư đại thừa không hoằng truyền giáo pháp Tiểu thừa, thì mất phương tiện của Phật. Chỉ vì bậc cổ đức giả lập lời để bài xích hữu biên cũng chỉ vì muốn phá trừ chấp trước, ngày nay chỉ bắt chước theo lời nói, chẳng biết ý chỉ của họ. Hơn nữa chưa nhập vào đốn môn, chỉ vọng danh huỷ, báng đã mắt lỗi thái quá thật đáng sót thay. Cho nên phần Viên Giáo, phẩm Ly Thế gian trong kinh Hoa Nghiêm nói: Này Phật Tử: Bồ-tát lớn lại nghó như vầy: A nậu Đa La tam niệu tam bồ đề lấy tâm làm gốc, nếu tâm thanh tịnh thì có thể viên mãn tất cả thiện căn, đối với Bồ-đề của Phật ắt được tự tại muốn thành A nậu đa la miệu tam Bồ-đề tuỳ ý liền thành. Nếu muốn đoạn trừ mọi duyên thủ, trụ hoàn toàn trong đạo, tôi cũng có thể làm được, nhà tôi không đoạn là vì muốn cứu cánh Phật Bồ-đề cũng không chứng liền vô thượng Bồ-đề. Vì cớ sao? Vì mãn bỗn nguyện, trọn tất cả thế giới hạnh, Bồ-tát hạnh để giáo hoá chúng sinh. Đó là tâm thể nguyện như kim cương đại thừa. ” Bởi trôi theo duyên mà trái tánh, chứa tạp nhiễm mà thành phàm phu, lìa duyên để cầu cứng, chìm vào thiên không mà trở thành nhỏ bé. Duyên tánh vô ngại, tức đại Bồ-đề. Không đoạn môn trần lao, mà có thể thành giống vô vi, không đắm vào biển, thật tế mà có thể tuỳ theo sóng hữu tác. Chân tục rỗng rang, hữu, vô không ngại, có thể gọi thật hành phi đạo mà thông đạt chánh đạo, ngay nơi chế pháp mà đầy đủ Phật pháp. Hỏi: Vạn thiện oai nghi, Thanh văn thực hành thiếu sót, đè nén cỏ cây, đâu xứng đại tâm? Sao thành viên đốn. Đáp: Hàng sơ học của tam thừa hiếu thấu pháp, cho nên Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có Tỳ-kheo thật đắc quả A-la-hán, mà không tin pháp này, thì không có chuyện đó.” Lại nói: Những việc các ông làm, là đạo Bồ-tát, dần dần tu học, ắt sẽ thành Phật.” Đều là giữa đường thủ chứng khởi tâm trụ trước, những người đó bị Phật quở trách, khuyến khích họ phát khởi hạnh nguyện. Còn người của nhị thừa đều lên Thánh vị, vượt khỏi phiền não của 9 địa, đoạn thân nghiệp của tam giới, cùng ngồi toà giải thoát, đã đủ tuệ thần thông, đâu sánh với hàng phàm phu đầy dãy sự trói buộc trong thế giới bao la này, chỉ toàn y thông, hoàn toàn không tu chứng? Cho nên Đại sư Chân Giác nói: Nhị Thừa lỗi gì, mà không muốn tu? Trong giáo pháp hoặc chê hoặc khen, khen chê đồng thời, phàm phu không hiểu, do dự sợ bị quở trách, đâu biết kiến ái vẫn còn, cách Tiểu thừa thật xa. Tuy còn nói tu đạo hoặc sử chưa đoạn trừ, chẳng những thân khẩu chưa ngay ngắn mà tâm cũng còn cong méo, kiến sinh từ ý, giải trái chân thuyên, Thánh giáo không nương theo, minh sư chưa từng lãnh thọ, căn duyên cũng chẳng phải do đời trước tạo nên, kiến giải chưa đủ để sinh ra sự hiểu biết, mà hay thể trí biện thông, suốt ngày bàn luận về nó bấy giờ bị vướng mắc theo lời kinh hiểu méo mó theo tâm riêng, buông theo tà thuyết, để mê hoặc người ngu, phế bỏ nhân quả và bài trừ tội phước. Thuận tình thì hớn hở vui vẻ, nghịch ý thì buồn sầu bực tức. Cảm thái của ba loại cảm thọ này hẳn nhiên như vậy, xứng vị là bạn Bồ-tát, tránh khỏi lỗi sơ thiên, lại quanh quẩn trong kẻ hở của người có lỗi. Không tu pháp đại thừa mà lại chê bai hàng tiểu học, lỡ miệng không nhứt thời, hoạn nạn huỷ báng Mãi chịu khổ báo trong ba đường. Sách nói: “Người xưa ngay khi nói cũng sinh lòng lo sợ, phát ra lời nói rồi cũng thấy không yên.” Lại nói: “Ngăn nước sôi chẳng bằng rút củi, dứt lỗi không bằng đừng nói.” Vả lại Kinh nói: Tâm tán loạn hữu lậu của hàng phàm phu, một lần xưng nam mô Phật, nhẫn đến hơi cúi đầu, do nhân duyên này vẫn thành Phật đạo, huống chi tâm Thánh vô lậu, của hàng nhị thừa, vónh viễn đoạn trừ thâm sâu, đích thân chứng trí tuệ nhân không, các hạnh đã tu tập mà không đăng chánh vị ư? Hỏi: Công của có công đều rơi vào bại hoại, công của vô công là công tột bực thường còn. Cớ sao lại bỏ mất ý bất thiên mà làm theo hạnh hữu tác? Đáp: Triệu Luân nói: “Công lao của thế tôn truyền lại muôn đời mà mãi trường tồn, đạo thông suốt vạn kiếp, và mãi mãi như cũ.” Kinh nói: “Kiếp tam tai kéo dài mà vẫn hạnh nghiệp trạm nhiên, nay là chứng tin vậy. Cho nên biết rằng điều thiện một mãy dù là hữu vi cũng là trợ Bồ-đề mà không rơi mất. Mặt cho đại kiếp hoả tranh khởi, cũng không bao giờ đốt được hư không, dẫu cho sóng sinh tử vô biên, cũng không thể nào làm đắm chìm điều thiện chân thật. Hỏi: các pháp vốn không thể, vì do duyên huyễn sinh, các duyên không còn nương tựa trở lại từ pháp khởi, duyên pháp vốn không tánh, rốt cuộc đều là hư, không chủ không nhân, không sinh không duyệt. Tại sao lại bàn về sự tướng vô thường, lại còn nói về quả báo hư vong ư ? Đáp: Vì chân tâm không thủ tự tánh, theo duyên àm thành có, dẫu giống như có mà không thật, chính là thể không thành sự, giống như bóng cây tuy rỗng không, nhưng có công năng che mát, còn giống với hôn mộng không thật song cũng sinh tâm vui buồn. Tuy không có người tạo tác, nhưng không mất quả báo nhân duyên. Cho nên Kinh “Tịnh Danh” nói: “không có ta không người làm và người thọ nhận nhưng nghiệp thiện ác cũng không mất. ” Lại trong giáo pháp nói về không. Vì không thể được, vì không có tánh thật, không phải là cái không của đoạn diệt, tại sao lại khởi tâm như lông rùa rừng thỏ, sinh kiến chấp chân rắn hương muối. Hỏi: Sơ Tâm vào đạo, lời nói và việc làm phải phù hợp nhau, vạn điều thiện trợ huân, điều là ý này Quả địa rốt ráo, việc lớn đã xong, cảnh trí rỗng rang, cần gì các điều kiện ư ? Đáp: Đạt Quả Vị Phật, cứu cánh vô vi, nếu không có vô biên hạnh môn, 8 tướng thành đạo, điều là hạnh phổ hiền, sau khi Phật thâu nhiếp lại, mặc tình như vậy, tận đời vị lai. Kinh Duy Ma nói: “Tuy đạt Phật đạo, chuyển bánh xe pháp, vào Niết-bàn, mà không bỏ đạo Bồ-tát, là hạnh Bồ-tát.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết rõ pháp giới không có ngằn mé, một tướng hay không tướng của các pháp, đều là nói cứu cánh pháp giới không bỏ đạo Bồ-tát. Tuy biết pháp giới không có bờ mé mà biết các tướng có tướng khác nhau, khởi tâm đại bi, độ các chúng sinh, trọn đời vị lai không biết mỏi mệt, đấy chính gọi là Bồ-tát Phổ hiền.” Hỏi: Năm độ như kẽ mù, Bát-nhã như người dẫn đường, nay tại sao tán thán riêng có hạnh, rộng bàn về những điều thiện.? Đáp: Những điều thiện mà nay đã bàn luận, chỉ vì thành tựu Bát- nhã. Cho nên trong Hoặc quở trách hữu vi, chỉ để phá trừ tham chấp của họ. Nếu như thủ xã không sinh, thì tất cả không ngại. Nếu chưa sáng tỏ đối với Bát- nhã, thề lấy vạn hạnh làm trợ duyên. Kinh Pháp Hoa nói: Phật danh đồn khắp mười phương, rộng lợi ích chúng sinh, tất cả đủ căn lành, để trợ tâm vô thượng. Kinh Hoa Nghiêm nói: Thí như tất cả pháp, do các duyên sanh khởi, thấy Phật cũng như vậy, thảy nhờ các thiện nghiệp. Nếu đã hiểu công dụng Bát-nhã, thì các hạnh là món trang sức. Kinh Hoa Nghiêm nói: Xe ấy cao rộng, trang hoàng các báu, cho đến nhiều tôi tớ theo hầu cận. Cho nên nói Vạn thiện đồng quy tập, lìa Bát-nhã ra càng không có pháp nào, như các dòng đổ vào biển cả, đều cùng một vị, các loài chim tụ tập núi Diệu Cao lại không có màu sắc khác. Hoặc không chứng bát nhã, chỉ tu pháp hữu vi thì chỉ thành nhân sinh tử, đâu được quả Niết-bàn. Nếu bố thí mà không có trí tuệ, thì chỉ được vinh hiễn một đời, đời sau phải chịu tác trái oan khiên. Nếu trì giới mà không có trí tuệ thì tạm sinh lên cõi trên của dục giới, còn rơi vào địa ngục. Nếu nhẫn nhục mà không có trí tuệ, được phước báo thân hình đoan chánh không chứng nhẫn tịch diệt. Nếu tinh tấn mà không có trí tuệ, chỉ khởi công sinh diệt không hướng vào biển chân thường. Nếu thiền định mà không có trí hụê, chỉ hành thiền sắc giới, không nhập định kim cang. Nếu vạn thiện mà không có Bát-nhã là người thầy dẫn đường trong con đường hiễm ác, là đuốc sáng trong căn nhà mê tối, là con thuyền Bát-nhã trong biển sinh tử, là vị thuốc hay trong bệnh phiền não, là ngọn gió lớn đập nát núi tà, là vị tướng giỏi phá tan ma quân, là mặt trời rực sáng chiếu soi đường tối, là tiếng sấm làm tỉnh cơn mê, là chiếc kim bề mở mắt người ngu tối, là giọt cam lồ làm tiêu nước khát ái, là chiếc kiếm tuệ cắt lưới si mê, là viên bảo châu cho người nghèo thiếu. Nếu trí tuệ không sáng, thì cạn thịên cũng huống uổng. Tổ Sư nói: “Không biết huyền dù chỉ lao nhọc tịnh niệm.” Không thể quên chiếu trong sát ma, trái nhau trong chốc lát, nhẫn đến ở trong quả vị cứu cánh thành Phật, định tuệ luật trang nghiêm, dùng đây độ chúng sinh, cho nên Phật nói: “Ta ở trong một đêm thường nói Bát-nhã. Hỏi: Các pháp tịch duyệt tưởng, không thể dùng lời diễn nói, sao không chỉ thẳng vào việc ấy mà đề cập rộng đến nhân duyên, phát khởi sự vấn đáp? Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo đại tuệ: Nếu không nói tất cả pháp, thì giáo pháp sẽ hoại diệt, giáo pháp hoại thì không có chủ Phật, duyên giác Thanh văn, nếu không có vị này thì ai nói cho ai? Thế nên đại tuệ: Bồ-tát lớn nên chấp trước nơi ngôn thuyết, phải tuỳ nghi phương tiện, rộng nói các pháp. Nên biết tổng trì không có văn tự làm sáng tỏ tổng trì, lìa lý không có thuyết lìa thuyết không có lý. Vì chân tánh biến khắc cả, bất khả thuyết không khác khả thuyết, vì do tu theo vô tánh, khả thuyết không khác bất khả thuyết. Nếu nói tứ thật tánh và tự tướng của các pháp đều bất khả thuyết, nếu nương tứ tất đàn và cọng tướng các pháp điều là khả thuyết, đó là chư Phật thường nương nhị đế để thuyết pháp, nhưng đạt ý chỉ viên dung thì nói (thuyết) không có lỗi. Lại nữa, tánh khi lìa lời không thể nói, nhưng nhờ ngôn thuyết mới hiểu được bất khả thuyết. Nếu luận về thực hành nguồn đạo, nới thạch dòng Phật, trước hết phải nói Bát-nhã để biện chân tâm. Bát-nhã chính là thầy của vạn thiện, mẹ của ngàn Thánh, chân tâm là gốc của quần sinh, là nguồn của các pháp. Nếu Bát-nhã chưa thông thì chân tâm do đó bị mê muội, cần phải quy mạng một thể Tam bảo, sám hối tội cấy trong 3 đời. Dùng giới luật để kìm điểm lỗi phòng sai, dùng thiền định để nhiếp trừ hôn loạn, thân cận bạn lành, tán tụng đại thừa, tu tập vạn thiện, học rộng nghe nhiều, giúp chân tánh hiển hiện, thẳng đến Bồ-đề, chướng sạch thì diệu định tự sáng, tuệ bát thì chân tâm rạng rỡ. Đã có thể tự lợi lại khẳn thiết với điều chưa nghe, rộng làm nhân phước, thực hành đủ các độ, kế thừa sự nghiệp nhà Phật, dựng cờ đại pháp. Rót một vị mưa pháp, để xoá sạch các trần hoặc đốt ngọn neon trí vô tác, để chiếu soi nơi tăm tối. Đây là công đức vạn thiện trước sau đều khởi, ở trong giáo pháp của chư Phật, thông thường như vậy. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ- tát lớn không làm những việc bức não chúng sinh, chỉ nói những chuyện làm lợi ích chúng sinh” Kinh Pháp Hoa nói: “nếu người thọ trì đọc tụng kinh này, vì người khác nói hoặc tự viết hoặc dạy người viết. Lại còn xây tháp dựng phòng tăng cúng dường khen ngợi chúng Thánh văn tăng, cũng dùng trăm ngàn muôn ức cách tán thán để tán thán công đức của Bồ-tát. Lại vì người khác gieo trồng các thứ nhân duyên, tuỳ căn cơ giải nói Kinh Pháp Hoa này. Lại có thể ở chung với ngưởi trì giới thanh tịnh và nhu hoà, nhẫn nhục không sân chí niệm bean vững, thường quý ngồi thiền, đắc được định sâu mầu, tinh tấn dũng mãnh, nhiếp các pháp lành, trí tuệ lanh lợi, khéo trả lời sự vấn nan. Nhẫn đến người này hoặc ngồi hay đứng hoặc đi, ở trong đây phải xây tháp, tất cả thời người đều phải cúng dường như cúng dường tháp Phật. Lược nói pháp thiện có 4 thứ: Tự Tánh thiện: không có tham, sân si mà đồng với ba thiện căn. Tương ưng thiện: khi tâm lành khởi, tâm vương tâm sở cùng khởi theo một lúc. Phát khởi thiện, phát thêm ngữ nghiệp, biểu lộ điều đã tư duy trong tâm. Đệ nhất nghóa thiện, thể tánh thanh tịnh. Lại lược có 2 loại: Lý thiện tức đệ nhất nghóa. Sự thiện tức lục độ vạn hạnh. Ngày nay phần nhiều căn cứ trên lý thiện, nếu là lý thiện thì xiển đề cũng có, sao không thành Phật. Thế nên cần phải thực hành sự thiện, để trang nghiêm lý thiện, nhóm phước đức đức lớn, mới thành diệu thân, như khoáng chất có vàng, như núi chứa ngọc, như đá ẩn lửa, như đất sinh suối, chưa gặp nhân duyên, không được giúp đở, dù nó vốn có sẳn song có cũng đồng không, ba nhân của chúng sinh cũng giống như vậy. Hễ nói có tâm chánh nhân đều đủ, chưa đắc duyên tỏ, pháp thân không thành. Liễu nhân trí tuệ trang nghiêm, chánh giải quán sát, vì nhờ phước đức trang nghiêm, diệu hạnh trợ phát. Đầy đủ ở nhân mười hiệu sáng chói, tự lợi lợi tha, lý tột cùng ở đây, cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: Ta dùng tưởng nghiêm thân, ánh sáng chiếu thế gian, tất cả chúng tôn kính, vì thuyết ấn thật tướng. Còn người đức mỏng phước cạn không thể cam nhậm pháp này. Thiện căn khó phát, nghiệp ác khó trừ. Kinh Niết-bàn nói: Thí như khắc vẽ trên đá, hoa văn của đó còn mãi, vẽ trên nước thì mất liền, sức không còn lâu. Sân như vẻ trên đá, cội gốc của các căn lành như việc vẽ trên nước, vì thế tâm này khó điều phục được. Cho nên biết việc thiện dễ quên, thân người khó được, không thể theo nhân, phút chốc qua đời khác. Kinh Đề Vị nói: “Thí như có một người ở trên núi tu di thả cọng chỉ xuống, một người đứng dưới cầm kim đưa lên, ở giữa có một trận gió mãnh liệt, thổi bay cọng chỉ, thật khó xâu vào lỗ kim. Thân người khó được hơn cả điều này.” Lại nữa, Kinh Bồ-tát Xữ Thai nói: Rùa mà gặp bông cây nỗi, đời đời cũng có thể gặp được, con người hễ mất mạng căn, trãi ức kiếp khó có thể gặp được. Nước biển mênh mông, bát ngát, 336 dặm, bỏ một cây kim xuống đáy biển, tìm lại còn có thể được. Lại nói: Ta từ vô số kiếp, qua lại trong đường sinh tử, xã thân rồi lại thọ thân, không rời bào thai. Kể lại những chỗ ta đã đi qua, chỉ nhớ một thứ mà không nhớ thứ khác, thuần làm một thân chó trắng, xương chất cả ức núi Tu Di. Lấy kim đâm vào địa chủng chỗ nào cũng gặp thân ta, huống chi là thân chó khác, số ấy không thể tính kể. Vì ta nhiếp tâm mình, không tham trước phóng dật. Thế nên tạm được thân người, ở trong 12 thời, không thể chốc lát quên đi điều thiện, sát ma tăng trưởng điều ác, như vậy mà còn khó được đâu dễ dàng ư ? Vả lại vô thường mau chóng, niệm niệm đổi dời, đá lửa gió đến, thê ba tàn chiếu, bóng hoa ảnh điện, không đủ để thí dụ. Kinh Pháp Cú nói: “Phật bảo Phạm Chí: Đời có bốn việc, không thể lâu được” Có thường ắt vô thường. Giàu sang ắt bần tiện (nghèo hèn). Hội họp ắt chia tay. Mạnh khoẻ ắt sẽ chết. Lại nữa Kinh nói: Chẳng phải ở trong không trung, trong biển, chẳng phải vào trong núi đá, không có nơi chốn, thoát khỏi nó mà không chịu chết. Như điều đã nói trên, vạn đức muôn thiện, Bồ-đề làm tư lương, chỉ trừ hai pháp, có thể thành chướng ngại: Một là bất tín. Hai là sân nhuế. Không tin thì chướng chưa hành thiện sắp làm thiện. Sân nhuế diệt rồi hành thiện, đang hành thiện. Vì không tin, giống như giống hư, vónh viễn đoạn thiện căn hư hoại chánh tông, tăng trưởng tà kiến. Vì sân nhuế, nên thiêu đốt ngăn ngại Bồ-đề, mở cửa ác thú, đóng bít đường vào nhân thiên. Lại nữa không sân do từ khỏi, tin sâu xa do trí mà thành, kiếm trí vừa bươi lên gốc nghi liền đoạn, mây từ vừa thấm lửa sân liền tiêu. Thế nên nhờ nhân trí mà vượt qua bờ khổ hải, nhờ tín mà vào cửa Bồ-đề, nhờ từ mà ở trong nhà đại giác, nhờ nhẫn mà khoát áo như lai. Kinh Hoa Nghiêm nói: Tín là mẹ của cội nguồn công đức, nuôi lớn mọi pháp lành. Tín có thể làm tăng trưởng công đức trí, tín có thể đạt đến địa vị Phật, tín khiến cho các căn thanh tịnh, sáng suốt lanh lợi, sức tín kiên cố không thể phá hoại, tín có thể diệt hẳn gốc phiền não, tín hay hướng thẳng vào công đức của Phật, Tín là công đức không hoại hạt giống, tín có thể làm lớn thêm cội Bồ-đề, tín có thể làm tăng ích trí tối thắng. Tín có thể thị hiện tất cả Phật.” Kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn nói: “Người sân hận có thể diệt trừ thiện nghiệp đã làm trong trăm ngàn kiếp.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát khởi một niệm sân, có thể phát sinh trăm vạn cửa chướng ngại.” Kinh nói: Nó là giặc cướp công đức, không thứ nào hơn sân nhuế” Lại nữa, Đất ý khởi sân, đại đạo oán tặc.” Hỏi: Phàm tu vạn thiện, đều trợ giúp cho Bồ-đề, cớ sao có sự ngăn trợ không thành? Lại làm sao chóng được viên thành? Đáp: Vì phóng giãi đãi, nên không thành, nhờ dũng mãnh tinh tấn nên sớm được. Kinh Thí Dụ nói: “Có một Tỳ-kheo, ăn no vào thất, đóng cửa nằm ngủ, yên thân khoái lạc, nhưng 7 ngày sau, khi mạng sắp hết, Phật thương sót ngài, mà bảo rằng: Vào thời Phật Duy Vệ ông được xuất gia, không tụng kinh giới, ăn no lại ngủ, khi mạng chung sinh vào loài trưng ngô công, sống 3 vạn tuổi thì thọ hết, lại làm (trùng) ốc trai, làm mọt trong thân cây, mỗi thân chịu 5 vạn tuổi. Bốn phẩm trùng này sinh trong tăm tối, yêu thân tiếc mạng, thích sống chỗ tối tăm, và xem đó là nhà, không thích ánh sáng, một khi ngủ trăm năm mới thức, ở triền miên trong lưới tội, không cầu ra khỏi. Đời nay tội hết, được làm Sa-môn, tại sao ngủ nghỉ không biết nhàm đủ? Tỳ-kheo nghe rồi, xấu hổ tự trách, ngũ cái biến trừ, thành A-la-hán”. Kinh Đại Bảo Tích nói: Phật bảo: Thí như lấy một chỉ lụa buộc lên đầu, lửa cháy đến dải lụa, không rồi để cứu lửa. Vì cớ sao? Rốt cuộc thật lý cần kíp, ở trên đây mỗi mỗi tự thân, phải tỏ giáo hạnh, đâu giám tạo thêm thứ lớp, bèn có sự càn gỡ? Nguyện tuân theo lời tha thiết, không trái lẽ rốt ráo. Hỏi: Từ bi vạn thiện, sâu xa như Phật, lời tổ dạy có người khen kẻ chê, cho nên sinh nghi. Ở trên tuy nói rộng, nhưng vẫn còn ôm mối ngờ khác, chưa thẫm thấu chỗ quay về rót ráo trong ý chỉ của Phật, lại monog cầu kim chỉ nam, trừ hẳn sự tích trệ. Đáp: Tổ lập ra lời răng bảo, Phật lưu lại dấu tích, chỉ vì muốn phá biến, kế sở chấp, không làm tổn hoại đến pháp môn duyên khởi. Biến kế tánh là tình có mà lý không, như nhìn sợi dây tưởng con rắn, thấy cây trơ trụi tưởng là quỷ, nó không có mà hoạnh chấp có, lột xát toàn không, y tha tánh là nhân duyên nếu tuỳ theo tịnh duyên thì được quả Thánh, nếu theo duyên nhiễm thì làm phàm phu. Đó là tuỳ duyên vô tánh nên gọi là viên thành. Kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật lưỡng túc tôn, biết pháp thường vô tánh, giống Phật từ duyên khởi, thế nên nói nhứt thừa.” Luận nói: “Nếu thấy pháp nhân duyên thì gọi là thấy Phật.” Cho nên biết không có một không hợp cả lý sự, chưa có một pháp nào chẳng phải là Phật thừa. Tất cả chỉ vì không hiểu được nguyên sơ của vạn pháp, tự tánh của một trần, rồi sinh tình chấp, trệ tướng mê danh, vọng phân mình người, gương sinh ly hợp, đến nỗi khiến cho lý sự, nước lửa tranh nhau sinh ra, mỗi thứ căn cứ nhị biên, không thành một vị. Tự che lấp nhãn kiến, châu sáng có vết. Do tâm chấp quán, vạn thiện sinh bẩn. Tánh dâm, nộ, si, tà kiến phi đạo, vẫn là môn giải thoát, tôn sùng Tam bảo, làm các việc thiện lợi người, há thành việc chướng ngại? Đó là thông đạt nó thì ngói đá là vàng, chấp nó thì diệu dược thành chất độc. Cho nên Kinh nói: hư vọng là lời thật, vì trừ tà chấp, thuật ngữ là hư vọng, vì sinh ngũ kiến. Chỉ trừ khử tình chấp, hành trọn con đường huyền, thông, lưới, kiến chấp đã xé rách, chỉ còn một chân tâm, bụi trần nếu tiêu thì không phải thứ gì Phật quốc. Cho nên Kinh Đại Bát-nhã nói: “Phật bảo: Ta bảo các pháp không có gì để chấp ấy Bất Nhã Ba La Mật Đa. Vì chúng ta ở trong ấy không có gì để chấp, lại có thể ở đạt được thân sắc vàng rồng thường chiếu sáng.” Nếu muốn không có lỗi, chỉ cần lý sự viên dung, hạnh nguyện theo nhau, bi trí gồm đủ. Cho nên Luân Hoa Nghiêm nói: Tu riêng lý thì trệ vào tịch lăng, thiên tu trí thì không có lòng thương xót, thương hướng tu về lòng bi, thì tập nhiễm càng tăng, chỉ phát nguyện thì tình hữu vi khởi phát. Cho nên Bồ-tát nhờ pháp viên dung nên không lấy không bỏ.” Thiền Sư Khuê Phong nói: Thầy trò truyền trao, phải biết thuốc bịnh. Thừa hành phương tiện trên cũng phải khai thị bỗn tánh trước, mới khiến họ nương tánh mà tu thiền. Khó ngộ tánh bởi phần nhiều là do đấp tướng. Cho nên muốn hiển tánh, trước tiên phải phá chấp, phá chấp phương tiện, cần phải phàm thành điều bặt dứt, công, nghiệp đều dứt sạch, khiến tâm không còn gì để chấp, mới có thể tu thiền, hàng hậu học kiến thức nông cạn, bèn chấp lời này là đạo cứu cánh. Lại nữa, lấy môn tu tập, vì phần đông người buông lung, sâu này rộng nói về điều ưa ghét, chê bai tham sân chỉnh ý để nhập đạo. Người sau nghe vậy, lại mê nơi dụng của bổn giáo, liền một bề chấp tướng, mắc kẹt nơi giáo, trái nghịch với tông. Lại nữa, người học thiển cận, hoặc chỉ biết ly cấu thanh tịnh, lìa chướng được giải thoát, cho nên chế thiền môn tức tâm là Phật, hoặc chỉ biết tự tánh thanh tịnh, tánh tịnh, giải thoát, cho nên xem thường giáo tướng tri luật, toạ thiền, điều phục… Không biết thảy đều nhờ đốn ngộ tư tánh thanh tịnh, tánh tịnh giải thoát, tiệm tu khiến đăng viên mãn thanh tịnh cứu cánh giải thoát, hoặc thân hoặc tâm, không có sự ngăn trệ. Lại nói, không tông chỉ vì mê nơi giá thuyên, chẳng phàm chẳng Thánh, tất cả không thể đặng bằng, tánh hữu giá hữu biểu. Người thời nay đều cho rằng giá ngôn là sâu mầu, biểu ngôn là thiển cận, nên chỉ chú trọng nơi chuyện phi tâm phi Phật. Bởi vì cho từ giá, phi là vi diệu, không muốn thân chứng pháp thể của mình nên mới như vậy. Những điều đã kể trên, lời Tổ dạy rõ ràng, nên vì chẳng phải để phá chấp kia tướng lìa tánh mà sinh thường kiến, tánh lìa tướng mà thành đoạn diệt. Hoặc có người tán thán, đấy chính vì họ hiểu tướng tức là tánh, dụng không lìa thể, tánh tức là thể của tướng. Như muốn khen ngợi tánh chính là tán thán tướng, nếu muốn chê bai tướng chính là chê tánh vậy. Cớ sao vọng khởi tâm thủ xả mà sinh nhị kiến? Nếu vào một cõi pháp môn thì khen chê đều ngừng. Hỏi: Như ý trên hỏi chỉ căn cứ vào thời nay, đa phần thủ chấp lý thông, ít người học theo sư, điều gọi là huyền học, ly vật siêu trần. Quả Phật vẫn còn chê mà không chịu tu, một mảy thiện đâu chỉ tôn sùng mà phải làm ? Chưa thẩm xét việc của bậc thượng cổ rốt cũng như vậy, cầu xin quyết nghi thêm, để tránh việc rơi vào lưới tà. Đáp: Bậc Thánh hiền thời xưa, chí lớn tâm thuần, tột cùng nơi lý mà thời khắc không quên, đi lên mà thần linh chuẩn đón trước, sớm tối như vào sâu ra cạn, khắc chứng như đốt châm cứu đầu, trọng điều thật chứ không trọng điều hư, quý nơi thực hành chứ không quý lời nói, đề cập đến có mà không tụ nơi có, hành không mà không chứng không, từ việc thiện nhỏ mà chứa công to lớn, nhờ nhân nhỏ mà đặt được quả lớn. Đời nay thì kiếp học thời ngoa, chí nhả mà căn độn, ngã mạng cấu nặng, giải đãi chướng sâu, một hạnh không thành, trăm lỗi thường tập, thừa giới đều mắt, lý sự cuồng vong, rơi vào hầm vô tư, ngồi trong ngục hắc ám, không đạt ý tức sự là lý, huống niệm lời phá chấp trừ bệnh. Người trí thật bi ai người ngu bắt chước, đã thành dấu vết, chống đoạt càng khó. Đấy là trích dẫn thâm tâm của Phật tổ, trình bày đủ đại ý của kinh luận, mong chừa chấp cũ, sữa đổi lỗi xưa, cùng nhau bước theo dấu chân xưa của bậc hiền Thánh, đồng bẩm thọ lời khuyên của như lai, không thiếu bổn chí, khỏi phụ tứ âm cùng bước vào môn giải thoát, cùng xiển dương con đường ly xanh, thành sự nghiệp của chủ Phật, mãn đại Bồ-đề. Đóng đường tà mà mở nẻo chánh. Giữ chặt tín căn mà nhổ sạch gai nghi, dự bị thuyền trí Ba-la-mật, nương vào bè từ đại Bát-nhã, vượt khỏi bến khổ củatam hữu, vào biển nguyện của khổ huyền bước qua khỏi phiêu trần của Pháp giới, dừng lại nơi đại thành của Niết-bàn, qua lại cõi trần lao, dạo khắp nơi ngũ thú, không ngừng không nghó, chẳng trước chẳng sau, vị lai cùng mà không cùng, hư không tận mà không tận, ngưỡng mong Phật nhãn, chứng lời thành thật này, khắp vì quần sinh, kính cẩn thuật lại bộ này. Hỏi: Bậc thượng thượng căn đốn ngộ tự tâm có còn nương vạn thiện để trợ đạo huân tu không? Đáp: Thiền Sư Khuê Phong có 4 câu khoa giản: Tiệm tu đốn ngộ, như chặt cây phải từng nhát rìu, một lúc đổ ngã liền. Đốn tu tiệm ngộ, như người học bắn, người lanh trí thì từng mũi tên, chú ý ngắm thẳng ngay đích. Người chậm lụt thì lâu lâu mới trúng. Tiệm tu tiệm ngộ, như leo lên đài 9 tầng, từng bước lên cao dần, thấy họ xa dần. Đốn ngộ đốn tu, như nhuộm một mảnh vải, thì muôn sợi đồng thành màu. Bốn câu trên phần nhiều ước theo chứng ngộ. Chỉ đốn ngộ tiệm tu, đây là ước theo biểu ngộ, như mặt trời vừa xuất hiện thì sương mù dần tiêu tan. Kinh Hoa nghiêm nói: “Lúc mới phát hiện, liền thành chánh giác, rồi mới đăng địa, thứ lớp tu chứng” Nếu chưa ngộ mà tu, chẳng phải chân tu vậy. Chỉ có sự đốn ngộ tiệm tu này, đã hợp với Phật thừa, không trái viên chỉ. Như đốn ngộ đốn tu, cũng nhiều đời dần tu, đời nay liền thành thục, người đang ở đây, tự nghiệm trong lúc này, nếu lời nói đúng với việc làm, việc đã làm xứng như lời đã nói, lượng cùng cõi pháp giới, tâm hợp với lý hư không, bát phong không động, ba thứ cảm thọ tịch nhiên, chúng tử hiện hành đều tiên, căn, tuỳ đều sạch. Nếu ước theo tự lợi thì đây cần vạn thiện huân tu? Không bịnh đâu cần thuốc men ? nếu tính theo lợi tha cũng không thể phế bỏ, nếu không tự làm sao khuyên người khác. Cho nên Kinh nói: “Nếu tự tri giới, khuyên người khác thì theo, nếu mình ngồi thiền khuyên người khác cũng ngồi” Trí Luận nói: “Như ông lão trăm tuổi ca múa là muốn dạy cho đứa trẻ. Trước muốn dắt dẫn, sau khiến họ vào tuệ Phật” Nếu như hiện hành chưa đoạn phiền não, tập khí lại sau dày, chạm mắt sinh tình, chạm trần thành ngại, tuy hiểu nghóa vô sinh, song đức ấy chưa đầy đủ, không thể chấp rằng tôi đã ngộ rồi. Phiền não tánh không, nếu khỏi tâm tu, lại bị điên đảo. Vậy thì tánh phiền não dẫu không có thể khiến chịu nghiệp, nghiệp quả vô tánh, cũng làm nhân khổ, đau khổ tuy không, tại sao khó (nhẫn) chịu. Nếu gặp bịnh nặng, bịnh cũng toàn không, đâu cần bác só, chạy vạy thuốc thang? Cho nên biết ngôn hành trái nhau, hư thật có thể nghiệm, chỉ lường căn lực, không thể tự (trễ nãi) lừa dối, xét ý phòng lỗi, phải hết sức cẩn thận. Hỏi: Lão tử cũng diễn nói hạnh môn, trọng ni rộng khuyến khích làm thiện, cớ sao chuyên tán thán Phật giáo mà khen ngợi duy mỹ ư ? Đáp: Lão Tử thì dứt Thánh bỏ trí, ôm giữ một lối mềm nhũn, lấy thanh hư đạm bạc làm chủ, ưa thiện ghét ác làm giáo, báo ứng ở trong một đời, giữ gìn chỉ một thân mạng đấy là nói gần trong cõi này, chẳng phải bàn xa về cảnh tượng ngoài, nghóa trái với đạo kiêm tế, mà không có ân hụê, lợi ích vậy. Trọng ni thì hành trung lập hiếu, xiển đức xướng nhân, chỉ phô trương thiện của thế gian, chưa thể quên lời thần giải. Nên chẳng phải là bậc đại giáo. Đó là trọng ni trả lời Lý Lộ rằng: Sống và việc người ông còn chưa biết, chết cùng với quỷ thần, đâu phải việc tôi biết? Hai thuyết trên, đều chưa thoát khỏi thoái đời, còn vướng bận trong lưới trần, đâu thể thông suốt được tông thâm sâu của pháp giới, vận dụng hạnh vô diệu vô biên ư ? Hỏi: Hạnh của Phật vô thượng, các bậc hiền triết đã tôn trọng, hai giáo nho Đạo đã hết sức kính phục, cớ sao trong đời sau lại huỷ báng không tin vậy ? Đáp: Nho Đạo Tiên Tông đều là Bồ-tát, biểu thị sự khen ngợi, đồng khen Phật thừa. Lão Tử nói: “Thầy ta là Phật giác ngộ tất cả dân.” Tây Thăng Kinh nói: “Thầy ta du hoá ở Tây Trúc, khéo vào Niết- bàn. Phu Tử nói: Thầy của họ Lão gọi là Thích-ca Văn.” Liệt Tử nói: Thương Thái Tể Hi hỏi khổng tử rằng: (Phụ Tử là Thánh nhân ư ?). khổng tử đáp: Khổng Khâu biết rộng nhớ nhiều chứ chẳng phải Thánh đâu.” Lại hỏi: Tam Vương là Thánh nhân ư ? đáp: “Tam Vương khéo dùng kẻ trí dũng, chẳng phải Thánh nhân.” Lại hỏi: “Ngũ Đế là Thánh nhân ư ?” Đáp: Ngũ Đế khéo dùng nhân nghóa, cũng chẳng phải điều khâu biết. Lại nữa: Tam Hoàng là Thánh nhân ư? Đáp: Tam Hoàng khéo tùy thời cơ, cũng chẳng phải điều khâu biết. Thái Tể Hy ngạc nhiên nói: Vậy thì ai là Thánh nhân. Phu Tử hau mặt nói rằng: Khổng khâu nghe nói ở Tây Phương cá bậc Thánh không trị mà không loạn, không nói mà tự tin, không hóa mà tự hành, bình dị đối với dân không thể gọi tên! Ngô Thư nói: Ngộ chủ Tôn Quyền hỏi Thượng Thư lệnh Hám Trạch rằng: Lão Tử Khổng Khâu có thể so sánh với Phật được không? Hám Trạch nói: “Nếu đem hai nhà Khổng Lão so sánh với Phật pháp ở phương xa, thì xa vậy. Cho nên nói là Khổng Lão thiết lập giáo pháp, theo pháp trời chế dụng, không dám trái trời; chư Phật thiết lập giáo pháp, chư thiên phụng hành, không dám trái Phật. Từ đây mà nói, quả thật chẳng so sánh được! Ngô Chủ hết sức vui mừng (dùng) mời Hám Trạch làm Thầy dạy cho Thái Tử. Kinh Khởi Pháp giới nói: “Phật bảo ta sai hai vị Thánh sang trung hoa giáo hóa; một là Lão Tử tức là Bồ-tát Ca Diếp; hai là Khổng Tử tức là Nho Đồng Bồ-tát.” Biết rõ điều đó từ xưa đến nay, những người lợi ích nơi thế gian, đều là Bồ-tát thầm giáo hóa. Chỉ bậc đại só mới biết, chẳng phải kẻ phàm tình có thể hướng được. Lại khiến cho kẻ bận tiện nghe khởi tâm hủy báng chư khói, đều không hiểu bổn tông, vọng sinh ngu chấp. Người thờ Lão Tử thì phi phù đồ ấn() luyện đa nung vàng, lập bày rượu thịt để tế lễ. Người vào cửa Khổng, chí trái với sự thuận pháp, ý còn phù hoa, dong ruổi theo tài cuồng của oanh vũ, bắt chướt mọn tài của nhền nhện. Những điều này đều trái ngược với tiên đức, tự mất bổn tông. Người này không chê bai đâu hiển lộ sự sâu xa của nó. Kẻ hạ só không cười sao thành đạo ấy? Thế nên pháp Phật như biển, không thể bao quát; lý cùng tột hư không, cửa nào không vào? Các bậc tiên triết ngầm lãnh hội, ngàn vị Thánh đều quy tụ, chân tục cùng hành từ, trí ngu cùng chiếu soi. Khai mở cho tục đế thì khuyên thần phải trung với vua, khuyên con phải hiếu với cha mẹ, khuyên tổ quốc phải thiệu long, khuyên gia đình phải hòa hợp, hoằng thiện để bày niềm vui của Thiên đường. Nêu ra lỗi để thị hiện khổ ở địa ngục, không chê khen ngợi một chữ, đâu dừng lại ở ngũ hình mà làm giới cấm? Phô bày chân đế thì phải trái đều bật dứt năng sở đều không, thâu muôn đều lành nhứt chân, hỡi ba thứa quay về viên cực, chẳng phải chỗ nhị đế sánh cùng thì há bách gia có thể sánh kịp ư? Hỏi: Đạo thảy ở nơi đây, chân tánh chẳng rời, có Phật không Phật, tánh tướng thường trụ, đây chính là nhứt thể Tam bảo thường trụ ở thế gian đâu cần gỗ vàng khắp tượng, trúc bạch viết kinh, thế phát xuất gia cho là Tam bảo? Đáp: Bậc thiện căn hiểu thâm sâu, đâu nhờ bày ra; bậc trung hạ độn cỏ, phải nương sự phát, không thấy chánh tướng, chỉ nhiễm tà tông. Ví như ở đất nước này khi tượng giáo chưa đến, chỉ có ngaọi đạo thạnh hành. Chẳng biết chân ngụy, chẳng biện được linh tung, Phục Tự Hán Minh mộng hiện thân vàng, Ngô đế hiện tướng lành xá lợi, về sau quốc vương trưởng giả mới biết cửa để quy kinh triết só minh nhân chóng hiểu nơi an nghó. Thế mới biết nhờ tích mà hiển lộ bổn, tướng có thể thông chân, nhờ môn được cá, lý sự vô ngại. Đó chính là Mộc mẫu biến sắc, tượng vàng tỏa hào quang, đạo nhờ người hoằng, vật do tình cảm. Có khả năng sinh giống tịnh, kính trọng từ nơi tượng mà khai mở tâm; không kết tín duyên thì dù gặp chân nghi cũng không thấy. Đó chính là do mê nó thì bổn mạc đều mất, hiểu ngộ nó thì chân giả đều thông. Nếu nghiệm kỹ văn này, thì đâu sinh tâm thủ xả? Hoặc cúng dường rộng rãi, hết sức chí thành, ý nghiệp công sâu, tu nhân sức lớn, đó chính là cô gái nghèo dâng nước trái cây lọc mà quả vị lên đến Bích Chi, Đồng Tử vào Thổ xa mà phước thọ Luân Vương. Hỏi: Nhân duyên nghóa không, tự tha vô tánh Niết-bàn sinh tử, một thể không khác. Tại sao hành từ, nhiếp hóa rộng khắp. Đáp: Tuy nhân pháp vốn không, ta người rỗng tịch, mà chúng sinh mê như mộng, sở đắc đều không biết gì, Bồ-tát khởi lòng thương xót, mà thị hiện chân thật. Kinh Đại Bát-nhã nói: Phật bảo Thiện Hiện: Phải biết hữu tình tuy tự tánh không, xa lìa các tướng, mà có sự tạp nhiễm, thanh tịnh có thể được. Khởi Tín Luận nói: “Tuy niệm tự tánh của các pháp không sinh, mà lại nghó nhân duyên hòa hợp với nghiệp thiện ác, các bảo khổ vui, không mất không hoại. Tuy nghó đến nhân duyên thiện ác nghiệp báo, mà cũng niệm tánh không thể được. Đó là quán duyên khởi mà không trụ Niết-bàn, liễu tánh không mà không trụ sanh tử.” Hỏi: 96 phái ngoại đạo ở Tây Thiên, mỗi phái đều lập pháp môn để tu hành, hết sức khổ luyện, việc nào cũng là thiện nghiệp, cớ sao bái tận còn phải trở lại luân hồi, không được giải thoát? Đáp: Chưa đạt được lý chính vô sinh, tuy tu sinh diệt hữu sinh, khỏi tâm tham trước, mang lòng hy vọng, lấy khổ bỏ khổ, từ mê nhóm mê, chìm nỗi ngổn ngang, luân hồi chưa dứt, dụ như chứng sa, đủ để biết vậy. Hỏi: Đâu chỉ ngoại đạo tu thiện không được giải thoát, nương theo giáo lý nội điển tu hành cũng có người không đắc đạo, tại sao vậy? Đáp: Tất cả cũng vì chấp ngã, nên không đoạn kết tập được, là cho rằng ta làm, theo cảnh mà ta trụ trước (dính mắc) vào nhân quả. Nếu hiểu hai lý vô ngã, chứng phải được nhất tâm bất động trần lao thì ngay nơi đây được giải thoát. Hỏi: Khi chánh tác, sao nói liễu vô ngã? Đáp: Khi sở tác, theo duyên mà khởi, vì có thực hành, mà không có chư tổ, âm thanh đã phát ra gống như chuông reo trong gió, tùy cơ chuyển động, chỉ giống như người gỗ. Chỉ làm theo nghiệp lực, mà không có ngã tánh có thể được. Bốn đại hợp tan, sinh diệt tự nhiên, cho đến 6 nẻo thọ sinh cũng giông như vậy, thật không có người có thể đến đi. Kinh Hoa Nghiêm nói: Như người mộc cơ quan, có thể phát ra các tiếng, họ không có ngã, nghiệp tánh cũng như vậy. Luận nói: Vì nhân duyên nên sinh thiên, vì nhân duyên nên đọa địa ngục. Nếu nói là ta chứ chẳng phải nhân duyên thì làm ác tại sao không sinh thiên mà lại đọa địa ngục ư? Tôi đâu yêu thích chịu khổ trong địa ngục kia? Tôi đã làm ác mà không thọ vui, cho nên biết thiện ác cảm báo chỉ là nhân duyên, chẳng phải là ta vậy. Mà chúng sinh ở trong vô ngã vô tác vọng nhầm ta làm, gượng cho là chỉ của mình, không biết là do thức tạo ra, quyết định không có người làm, ngoại đạo đều gọi chấp tác thảy là hữu thần ngã. Nếu vô thần ngã thì ai là người làm ? Trí Luận phá rằng: Tam là thức tướng, nên tự có thể khiến tâm không nương thần, như tánh lửa có khả năng thiêu đốt vạn vật mà không cần người.” Duy Thức Luận nói: “Những sở chấp thật có ngã thể, là có sự tư duy ? Hay không có tư duy? Nếu có duy tư lẽ ra nó phải vô thường, vì chẳng phải bất cứ lúc nào cũng duy tư; còn không duy tư nó như hư không, không thể làm việc được, cũng không thành quả báo, nên lý chấp ngã không thành. Từ đây mà biết, nhất định không có thật ngã, chỉ có các thức. Từ vô thi đến nay, diệt trước sinh sau, nhân quả tương tục, do luân tập hư vọng, tợ ngã tướng hiện. Người ngu ở trong vọng chấp là ngã.” Lại nếu là vô ngã tức là vô tánh, tánh chính là thể, thể là nghóa chủ thể. Hễ có một pháp đều từ các duyên tạo thành, thật không có bản thể, vì vô thể nên không thật. Thế mà chúng sinh ở trong tánh không chấp là thật có, trong thì bị ngã ràng buộc, ngoài thì bị trần lôi kéo, cho nên người tu hành không ra ngoài tâm cảnh, nhẫn đến đắc quả, không lìa sở nhân, thăng giáng tuy khác, vẫn luôn bị trói buộc trong các cõi, cùng là cao thấp, trước sau vẫn quẩn quanh trong luân hồi, sinh ra các hoạn nạn, ngã là căn bản của nó. Hỏi: Vạn pháp đã vô thể xưa nay, vốn không cớ sao lại có tạo lập các pháp? Đáp: Chỉ là vô không thể tánh mà từ duyên sinh. Nếu có tự thể, thì không nhờ duyên sinh; đã không do duyên sinh thì vạn pháp quyết định có thể. Nếu lập tướng cố định thì thành lỗi chấp thường, thiện ác không thể sửa đổi, nhân quả trở thành thác loạn. Làm ác phải sinh Thiên, làm Thiên phải trầm luân, vì không có nhân vậy. Làm thiện lẽ ra không có phước, làm ác lẽ ra không có tội, vì không có quả báo. Thế nên vạn pháp không thể cũng không nhứt định, chỉ theo nhân duyên mà hiện khởi. Vì nhân duyên nên vô tánh, các pháp đều vô thật. Vì vô tánh nên nhân duyên kiến lập các pháp. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói Bồ-tát ở trong vô tự tánh mà tạo dựng tất cả vô Phật sự. Đó là nhờ không màlập có, có không tự danh. Từ có biện không, không hông tự thể. Hỏi: Hiện thấy các pháp phát sinh, sao nói vô sinh. Đáp: Ngay lúc sinh mà không sinh, bởi nó vô tánh. Nếu nói có sinh, lại là tự sinh? Là tha sinh? Là cọng sinh? Hay là vô nhân sinh? Nếu nói tự sinh, thí như thân mình, nếu chẳng có cha mẹ làm sao snah được? Cho nên nói thân này là di thề của cha mẹ, lấy nghiệp quá khứ làm nội nhân, nương thể cha mẹ làm ngoại duyên, do nhân duyên nội ngoại hòa hợp mà có, thì chẳng phải tự sinh. Hoặc do ta tha sinh, nếu không có túc nghiệp làm tự nhân, thì không bao giờ gả thai, tất cả đều do nghiệp của mình mà có, thí như bên ngoài có đủ đất nước, mà không có hạt giống thì chắc chắn không thể sinh được. Nếu là cọng sinh thì nhân nhờ duyên mà thành, đâu có dụng của từ thể? Duyên từ nhân khởi mà không có công năng hổ trợ bên ngoàithì nhân duyên đều không thì hòa hợp làm sao có? Như một hạt cát mà không có dầu, hòa các hạt ấy lại cũng thành không có; một người mù mà không thấy thì tụ hợp các người mò lại cũng đâu thấy gì? Nếu không có nhân mà sinh, chính là gái đá sinh con, lông rùa làm chổi, có nhân cũng như không, không nhân thì làm sao có? Hơn nữa, từ chỗ có nhân mà lập vô nhân, có nhân cũng không thật, thì vô nhân cũng tuyệt phần. Chỉ hiểu rõ hai câu tự tha vô sinh thì bốn câu cũng phá. Đã không có tự tha thì lấy ai làm hòa hợp? Cho đến không nhân có bốn câu tự nhiên tịch lặng. Thế nên biết sinh của vô sinh, tướng huyễn như vậy; vô sinh của sinh, chân tánh vắng lặng. Cho nên kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Nghóa nhân duyên sở sinh, nghóa này diệt chẳng sinh. Diệt các nghóa sinh diệt, nghóa này sinh chẳng diệt.” Hỏi: Tất cả các pháp đã không tánh không sinh, cớ sao chúng sinh chấp trước cảnh duyên làm chịu thật báo? Đáp: Chỉ vì không hiểu vô tánh, mê chấp là thật có, cho nên chịu quả báo thật. Nếu đạt được tánh không thì không sinh tham trước. Đã không tắm trước mặc ý mà làm, không trụ vào nhân ấy, không bao giờ chịu quả. Cho nên kinh nói: “Tâm sinh các pháp sinh.” Lại nói: Tất cà do tâm tạo. Nếu tâm không khởi, ngoại cảnh thườnghư, liễu ngộ tánh không của cảnh, tâm ấy tự lặng. Tâm vọng đã lặng, sao sinh tướng huyễn? Tâm cảnh đều thầm ẩn, tự nhiên hợp đạo. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, tâm ý các tình căn, tất cả không vô tánh, vọng tâm phân biệt có.” Lại nữa, “Tất cả pháp ở đời, chỉ lấy tâm làm chủ, tùy giải thủ các tướng, điên đảo chẳng như thật” Hỏi: Đã chịu thật báo, sao nói tất cả không? Đáp: Rõ ràng nói rằng chúng sinh tự vọng nhận là thật, chư tánh ấy thường không, tuy thọ khổ vui, tình sinh yêu ghét, nhân pháp đều không, hoàn toàn không có gì được, giống như mộng thấy tốt xấu, ôm tông ưa chán đến khi tỉnh giấc bổng nhiên chẳng có việc gì, tỉnh rồi thấy chẳng có gì, trong mộng thì có đủ, đã huân tập nhân điên đảo, thì phải nhận quả hư vọng. Hỏi: Tâm vọng cảnh giả, từ xưa nó đã vốn không? Hay bắt đầu hôm nay mới không? Đáp: Tâm cảnh vốn không. Hỏi: Đã là vốn không, tại sao chúng sinh không được giải thoát? Đáp: Xưa nay không trói buộc thì có gì gọi là giải thoát? Chỉ vì không thông được bổn vô, nên vọng sinh nay có. Do sức huân tập từ đời vô thỉ, không nay không biết chuyển biến theo nghiệp, tuy đang bị nghiệp dẫn dắt tánh ấy hằng thanh tịnh. Hỏi: Làm sao được rốt ráo thanh tịnh? Đáp: Ý này có hai nghóa: một là hiểu được tánh bởi vô, đắc tự tại thanh tịnh; hai là tịnh ấy vọng nhiễm, đắc ly cấu thanh tịnh. Bởi tánh đã tịnh, vọng niệm không sinh, hai là chướng đều tiêu tan luân khuyếch triệt, khế hợp với bổn nguyện chủng tử, hiện hành đều vắng lặng. Hỏi: Đạo Phật hưng thịnh khắp nơi, phàm Thánh đồng bẩm thọ, tại sao hưng suy không nhất định, mà có người đọa lạc ư? Đáp: Vạn vật có sự đổi thay mà Tam bảo thường trụ, lặng lẽ bất động, cảm thông mà giáo hóa, chẳng phải vừa sinh ra trong cung vua thì không chết mãi nơi song thọ. Nếu chúng sinh phước mỏng, thì thật sự bóng tiêu; nếu quốc độ có duyên sâu thì phạm vương sát lợi tụ hội, người bây giờ tự sinh tâm được mất không có phép tắc mà không có hưng suy. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Chúng sinh thấy kiếp tận, lúc bị lửa lớn thiêu đốt, cõi này của ta được an ổn, trời người luôn đông đủ.” Hỏi: Đã tán thán các điều thiện, báo ưng chẳng hư dối, tại sao có người khổ nhọc tìm cầu, toàn không khắp chứng? Đáp: Người tu thiện, tự có hai thứ lợi ích ẩn hiển. Pháp Hoa Huyền Nghóa: Tứ cu khoa giản. Minh cơ minh ứng, như quá khứ tu ba nghiệp, hiện tại chưa vận hành nơi thân khẩu, nương vào sức thiện thời quá khứ, đạy gọi là minh cơ. Tuy không thấy linh ứng, mà âm thầm được lợi ích cho pháp thân, không thấy không nghe, chẳng hay chẳng biết, đây gọi là ngầm lợi ích. Ứng thân phải là hiển ứng, pháp thân phải là minh (ngầm) ứng. Minh cơ hiển ích: Quá khứ gieo thiện mà minh cơ đã thành, lại được gặp Phật nghe pháp, hiện tiền được lợi ích, đây gọi là hiển ích. Nếu Phật vừa ra đời, là người đầu tiên được độ, hiện tại làm sao biết tu hành? Chư Phật soi tỏa căn cơ đời trước của họ rồi đích thân đến độ họ. Hiển cơ hiển ích: Hiện tại thân khầu tinh tấn không lười mõi, có thể cảm hiện thiện, lễ sám nơi đạo tràng có thể cảm được tiềm lành. Hiển cơ minh ích: Như người tuy một đời siêng năng, hiện tại tích lũy nhiều việc thiện, mà không hiển cảm ngầm có lợi ích. Nếu hiểu được 4 câu tất cả những việc cúi đầu, chấp tay phước không luống bỏ, trọn ngày không cảm, trọn ngày không hối. Hỏi: Có người cả đời làm thiện, hiện tại mắc ác báo; người trọn ngày tạo ác, hiện tại gặp điều tốt lành là sao? Đáp: Nghiệp thông 3 đời, sống chín không nhứt định; lại thông cả 3 báo, dày mỏng lẫn nhau. Tổ Cưu Ma Ha Đa thứ 19 ở Tây Thiên nói: “đời trước tu công đức, và đến quá nữa công phu vì có một chút phá hoại bèn hồi tâm tu các hạnh. Do tội nghiệp ít hơn công đức, trước khi chết cũng lãnh thọ phước đức. Đang lúc thọ phước an lạc đời này, tâm dường được an lạc, các suy não chợt giáng xuống, gia đình nhà tôi dần bị phá sản, vì kế thừa nghiệp ác đời trước kia, liên tục đến bây giờ chẳng phải đời này tu phước, mà chuốt lấy ác báo này. Lại nói: Đời trước làm việc ác, tội ấy hơn công phân nữa, bỗng gặp một người trí, dạy cho tu phước đức. Phước đức tuy tu rồi, song thiện ấy chưa đến, công đức ít hơn tội, chết rồi sinh vào nhà nghèo khó. Tâm không tín kính Phật, không cũng trọng Tam bảo, như vậy quá nữa rồi, nhà ấy dần giàu có, của cải nảy sinh nhiều vì thừa kế nghiệp lành đời trước, liên tục đền hôm nay chẳng phải đời này làm ác, mà chiêu cảm thiện báo này. Luận nói: Nay tôi bệnh khổ, đều do quá khứ; đời này tu phước báo ở đời sau. Nếu thấy người ưa thích sống lâu, thiết giúp đỡ kẻ bần cùng, có thể tin lời này, không sinh tà kiến. Nếu không hiểu đời này, ưu não thất ký, chỉ luống công mất kế, thiện ác không hiện ra ngoài. Như khi tu thiện, một lòng không thối lui, không gián đoạn, quả phước mãi tươi sáng, chỉ sợ tự sanh chướng ngại. Những bậc hiền só và thông đạt, mới hiểu được ý này thôi. Hỏi: Ác có thể che thiện, thì khi họa khỏi phước nghiêng đổ. Thiện có thể bài trừ ác, thì chướng tiêu và đạo hiện. Cớ sao lại có người từ khi sinh ra đã chứa nhóm điều thiện lại mắc tai ương? Và khi Lương Vũ Đế bị nỗi loạn, ông quy uy Tam bảo, mà cả triều đều bị khốn đốn, hoàn toàn không có sự linh ứng là sao vậy? Cả thế giới đều nghi, xin Ngài quyết nghi cho. Đáp: Trước đã nói rõ nghiệp thông ba đời, sự việc đã rõ ràng. Nay quyết nghi lại trong ấy có ba nghóa: 1/ Là chư Phật Bồ-tát thị hiện báo độ và tùy thiện thế gian, hòa vào sự khổ vui của họ, thiên biến vạn hóa, nhọc nhằn dẫn dắt họ. Có người đang sống yên ổn bỗng gặp tại nạn, bởi vật đi đến chỗ tột cùng thì quay lại, có người đang sống cuôc sống vinh hoa chợt gặp chuyện hư xấu hiện ra thịnh thời ắt có suy. Khiến người ta ưa đắm vinh hoa ngộ được thế gian vô thường, cảnh tỉnh người ủy quyền biết cuộc đời này có hạn dần dần tiêu trừ tham cấu, tẩy sạch tình trần, hiện chánh hiện tà, hoặc nghịch hoặc thuận, đây là thuật bí mật của việc thần hóa. Chẳng phải kẻ tiểu phàm có thể biết đươc. 2/ Thiện ác không nhứt định, quả báo theo duyên; nghiệp lực khó lường, sức không thể ngăn lại được. Cho nên kinh Niết-bàn nói: Nghiệp có 3 thứ báo: Hiện báo, hiện đời làm thiện ác, hiện đời chịu khổ vui. Sinh báo, đời này tạo nghiệp, đời sao thọ báo. Hậu báo, đời này tạo nghiệp, trải qua trăm ngàn đời mới lãnh thọ quả báo. Kinh nói: Có nghiệp hiện khổ có báo khổ, có nghiệp hiện khổ có báo vui, có nghiệp hiện vui có báo vui, có nghiệp hiện vui có báo khổ. Hoặc dư phứơc chưa hết, điều ác không gia vào liền; hoặc túc ương vẫn còn mà duyên lành lại phát. Lại nữa nếu thiện nhiều ác ít, thì trước thọ vui mà sau này chịu khổ, thì phước hết họa sinh. Hoặc thiện ít ác nhiều, thì trước chịu khổ mà sau thọ vui, tai nạn tiêu trừ và hỷ lạc vân tập. Những đều này hoàn toàn do nghiệp chín mùi của hậu báo, đời này sức thiện khó bài trừ. Đoạn tập chứng Thánh vẫn còn túc trái, như Tỳ-kheo Sư Tử, một vị thiền sư mà còn như vậy huống chi phám phu bộ ngjiệp lực ràng buộc, đâu tránh khỏi họa hoạn này? 3/ Hoặc thiện căn sâu dày, sức tu kiên cố, quyết chí không nghi thệ hơn đá vàng, thì hiện tại thọ khinh báo, có thể đoạn được lỗi lầm nhiều kiếp. Cho nên kinh nói: Đời này làm ác ít thiện nhiều, thì tranh đi bảo nặng ở địa ngục và hiện đời được nhẹ nhàng, có người làm thiện ít mà ác nhiều thỉ chẳng quả hiện tại nhẹ mà nặng về địa ngục. Nhẫn đến người tu thiện hoàn toàn, thì hiện đời tạm thời chịu khổ nhưngdiệt được món khổ trong trăm vạn kiếp. Ở địa ngục. Thế nên Bồ-tát phát hiện rằng. Nguyện được thân này để đền trả, kông vào ác đạo chịu khổ.” Người làm ác, tuy hiện đời an lạc, song quả ấn trong ngục A tỳ, nhiều kiếp bị thiêu đốt, chịu khổ không gián đoạn. Lại nữa, người tu hành sắp ra khỏi luân hồi, khi lâm chung khỏi chịu khổ, là do ác nghiệp từ vô thỉ, trở lại một lát rồi dứt sạch. Như Đường Tam Tạng pháp sư, chín đời làm tăng, phước đức trí tuệ, thường xưng tụng là bậc nhất, hoàng truyền Thánh giáo rộng khắp, diễn dải Phật thừa, lợi ích vô biên, công lao to lớn khó có thể lường được. Cho đến khi sắp thác hóa, nằm trong phòng bệnh, vị tăng nuôi bệnh là thiền sư Minh Tạng thấy có hai người, mỗi vị cao một trượng, cùng cầm bông sen trắng đến trước pháp sư nói rằng: “Thầy từ xưa đến nay có một số ác nghiệp làm tổn não chúng sanh trong các cõi, vì thế mà nay có chút bệnh, song đều được tiêu trừ, hãy sinh lòng vui vẽ.” Pháp sư ngoáy nhìn chắp tay, rồi quay nằm sang hướng phải. Đệ tử hỏi ngài:”Hòa thượng chắc chắn sinh vào nội viện của Di-lặc không? Đáp: Được sinh, nói xong, hơi thở yếu dần, an nhiên ra đi. Nếu biết nghóa của ba ý trên mới là người biết nhân biết quả. Hoặc giả mê mờ lời nay thì trọn đời nghi ngờ hủy báng. Hỏi: Tu thiện lẽ ra đã thuần, cớ sao còn tạo ác? Ác đã tạo rồi sao dùng thiện làm gì? Nếu thiện ác đều làm, e rằng luống uổng công sức. Đáp: Nếu Bồ Tát suất gia không có các thứ chướng ngại, phải tu toàn điều thiện, thẳng đến Bồ-đề. Còn Bồ Tát tại gia bị ràng buộc bởi sự nghiệp, chưa được thuần tịnh, chỉ thực hành thiện đạo để đối trị. Nghiệp khó đổi liền, ác chẳng đoạn hết, dần dần chứa nhóm công đức để hướng vào Bồ-đề. Nếu lại chứa ác mà không chịu tu, thời ác không bao giờ hết, phải làm việc lành, để tẩy trừ nhân ác. Kinh thí dụ nói: “Xưa kia có vị quốc vương, ra ngoài săn bắn rồi trở về, đi ngang qua chùa nhiều tháp, làm lễ các vị Sa-môn, quần thần ai cũng cười ông. Vua liền hiểu ra bảo chúng thần rằng “Có thỏi vàng trong chảo, trong chảo tràn nước sôi, nhúng tay vào lấy vàng được không? Đáp: Không được. Vua nói: Lấy nước thật lạnh đổ vào đó rồi lấy được không? Quần thần tâu rằng: Lấy được. Vua nói: Ta hành vương sự, những việc săn bắn như nước sôi, đốt hương thắp đèn, nhiều tháp như đem nước lạnh đổ vào nước sôi.” Hễ làm Vua thì có những việc thiện ác, tại sao chỉ có ác mà không làm thiện ư ? Hỏi: Bồ-tát tại gia cũng cho phép tu thuần thiện chăng? Đáp: Nếu chí gắng tâm vững, hoàn toàn quy mạng, như nai mắc lưới, như lửa đốt dầu, chỉ tìm cửa để thoát khỏi, không đoái hoài gì đến việc đời, từ xưa đến nay cũng nhiều việc như vâïy. Kinh thí dụ nói: “Thuở xưa có vị quốc vương rất thích đạo đức, cứ đi nhiều tháp cả trăm vòng chưa ngừng, Vua nước láng giềng cất binh sang đánh, muốn đoạt nước của ông. Quần thần xung quanh hết sức sợ hãi, liền tâu vua rằng: Ngưng việc nhiều tháp lại để chống thả giặc cả.” Vua nói: Cứ để chúng đem binh đến, ta không dừng lại đâu. “Tâm ý vua vẫn như cũ, nhiều tháp chưa xong mà binh chạy toán loạn hết.” Hễ người có một tâm chí vững chãi, không việc gì không xong. Bởi vậy, sông núi không binh mà chỉ cảm nơi lòng người, chỉ có lòng hướng đến thì không chỗ nào không đến. Cho dù vào ao lạng để bắt cá, vào rừng cóng để măng, nên chẳng phải là sức thần mà do chí khí làm việc vậy. Hỏi: Nếu rộng tu vạn thiện, cũng thực hành từ bi, chỉ bẩm thọ chân thuyên, có hại với thế đế, thì ở trong nước loạn để trị nước đó, ở trong nhà hư thì sửa trong nhà đó, tuy gọi là lợi người nhưng chưa toàn mỹ. Đáp: Những điều thiện trong pháp Phật thấm nhuần tất cả, sức giúp đỡ những kẻ còn người mất, đạo bao hàm cả chân tục. Ở trong nước nào có nhiều điều kiện thì nước ấy thành quốc bá, ở nhà nào có làm thiện thì nhà ấy được sung túc, lợi ích đã đạt được thật tu lớn. Cho môn sách (thư) nói: Nhà chứa ác ắt phải có tai ương”, lại nói: Làm thiện thì trăm ngàn điềm lành lúc đến, làm ác thí trăm thứ tai ương giáng xuống. Tống điển Văn Đế vào niên hiệu nguyên gia hỏi Hà Thị Trung rằng: “Phạm Thái, Tạ Linh Vận rằng: Lục kinh vốn là giùp đời, nếu tìm tánh linh chân yếu thì lấy kinh Phật làm kim chỉ nam. Nếu cõi nước của ta đây được Phật pháp thuần hóa thì ta ngồi yên trên ngôi vậy. “Thị trung nói rằng: Hễ ngôi làng có một trăm hộ, mười người trí ngủ giới thì mười người hiền lành chất phát. Ấp có 1000 hộ mà 100 người tu thập thiện thì một trăm người nhu hòa, thuần hậu. Truyền những âm hưởng biến khắp vũ trụ, gộp ngàn vạn hội vì người nhân từ có cả trăm vạn. Thể lành được một việc thiện thì bỏ đi được một biệc ác; bỏ đi một điều ác thì dứt một hình phạt. Một hình phạt giúp ở một gia đình, vạn hình phạt giúp ở một nước, bệ hạ gọi đó là ngồi yên trên thái bình rộng. Bởi vì pháp giới bao la, biến khắp hư không, một việc thiện đã làm, không có việc bất lợi kéo đến thì đó chính là phép tắc chính yếu của việc lập thân, giác hóa, giúp nước giữ nhà. Nếu lấy đó để lập thân thì không thân nào không lập; lấy đây để giúp nước thì không nước nào không giúp được. Gần thì được phước nhân thiên, xa thì bước vào ngôi vị Phật. Hỏi: Vạn thiện đã tu lấy gì làm căn bản? Đáp: Tất cả lý sự, lấy tâm làm gốc. Ước theo lý, kinh nói: “Quán tất cả pháp tức tự tánh của tâm, thành tựu tuệ thân, không ngộ từ người khác.” Tâm như người thợ vẽ, có thể vẽ được cảnh đời, 5 uẩn đều sinh từ đây, không pháp nào không tạo.” Đây chính là lấy tâm thực quán tâm duyên lự làm căn bản. Tâm chân thật là thể, tâm duyên lự làm dụng, dụng tức là tâm sinh diệt môn, thể tức là tâm chân như môn. Thể dụng chia làm 2 song chỉ là một tâm dụng tức là thể, vì dụng không lià thể, thể tức là dụng, thể không lìa dụng. Đóng mở tuy khác, song chân tánh bất động, tâm có khả năng làm Phật, tâm có thể làm chúng sinh. tâm làm thiên đường, tâm tạo địa ngục, tâm sai muôn hình vạn tượng tranh nhau khỏi phát, tâm bình thì thế giới bằng phẳng, tâm phàm thì tam độc trói buộc, tâm Thánh thì tự tại trong lục đạo, tâm không thì một bề thanh tịnh tâm có thì vạn cành tung hoành. Như trong hang dối tiếng, nói to thì âm lớn, như gương soi bóng, hình cong thì bóng tà. Vì vạn hạnh từ nơi tâm, tất cả tại ngả, trong hư dối thì ngoài không bao giờ thật, trong nhỏ bé thì ngoài không bao giờ lớn, nhân lành thì rút cuộc găïp chuyện lành, làm ác khó tránh cảnh ác. Lượn trên mây mà uồng cam lồ, chẳng phải người khác trao chọn, nằm trong khói lửa mà ăn máu mủ, đèu do mình làm chẳng phải do trời sinh đất sản, chỉ tại ở niệm đầu trên đến nỗi trầm luôn như vậy, muốn bên ngoài được an hòa thì bên trong phải định tónh, tâm lắng thì cảnh tịnh, niệm khởi thì pháp sinh, nước đục thì sóng ngầu, đầm trong thì trăng tỏ, điểm cốt yếu của sự tu hành, chẳnh ngoài điều này, có thể gọi là cửa của chúng diệu, nhà của quần linh, cội gốc của sự thăng trầm, nguồn của tội phước chỉ làm ngay thẳng tâm mình, sao nghi cảnh khác? Kinh nói: Làm thiện thì phước theo làm ác thì họ kéo đến, như vang ửng tiếng, thiện ác như âm thanh, chẳng phải thiền long quỷ thần trao cho. Chẳng phải tổ tiên cháu chắc làm ra. Cái tạo ra nó chỉ là tâm, cái tâm ra nó là thân khẩu vị. Phật nói kệ rằng: Tâm là gốc của pháp, tâm tôn tâm sử, trong tâm nghó ác, rồi nói rồi làm, tội khổ tự theo, như xe lăn theo bánh. Tâm là gốc các pháp, tâm tôn tâm sử, trong tâm nghó thiện bèn nói bèn làm, phước lạc theo sau, như bóng theo hình. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát Trí Thủ hỏi:Bồ-tát Văn-thù rằng: Làm sao để khỏi mắc lỗi 3 nghiệp, nhẫn đến là đến là thương là vô thượng, làm đẳng là vô đẳng v.v… Văn-thù Sư Lợi đáp: Này Phật tử! Nếu Bồ-tát khéo dụng tâm mình thì được tất cả công đức thù thắng vi diệu. Kinh Mật Nghiêm nói: “Như đất không phân biệt, mọi vật nương đó để sinh, tăng thức cũng như vậy, các cảnh nương thức ở. Như người dùng tay mình trở lại xoa thân mình, cũng như voi dùng vòi hút nước tự tắm rữa, lại giống như các bé con, ngậm tay vào miệng. Như vậy trong tâm mình, hiện cảnh rồi tự duyên theo cảnh giới của tâm này biến khắp 3 cõi. Người tu quán hạnh lâu ngày có thể thông đạt các thế gian trong ngoài, tất cả chỉ do tâm hiện. Từ đây mà nói, đâu chỉ dừng lại gốc của vạn thiện, cho đến hữu tình vô tình, cảnh giới phàm tánh, vạn tượng trong hư không, đều lấy tâm làm gốc. Cũng nói: Lấy vô chủ làm gốc, gốc lập thì đạo sinh, đó chính là điều này vậy. Hỏi: Nguồn của vạn hạnh, lấy tâm làm gốc, trong môn thợ đạo, pháp nào là thước tiên. Đáp: Lấy tâm ngay thẳng chân thật của mình làm gốc, từ bi nhiếp hóa làm đạo. Vì nó ngay thẳng, nên quả không cong vậy hạnh thuận chân như: Vì tâm từ bi nên không rơi vào tử thừa, công bằng bậc đại giác. Vì 2 môn này đầy đủ tự lợi, lợi tha. Hỏi: Trước tiên biết rõ chánh tông biến hành trợ đạo, nay trong vạn hạnh môn, để tiêu trừ nghi trệ, chưa xét lũy thì lấy gì làm tông chỉ? Đáp: Phật pháp vốn không có ý nhứt định, chỉ thì căn cơ vào chỗ thấy rõ tâm tánh, tạm gọi là Tông. Hỏi: Dùng phương tiện gì để được ngộ nhập? Đáp: Có cửa phương tiện, cần phả tự nhập. Hỏi: Sao không chỉ bày? Đáp: Thấy tánh không nơi chốn, lấy gì chỉ thị? Quả là chẳng phải cảnh giới thấy nghe hiểu biết. Hỏi: Đã không thể chỉ thị thì lúc thấy rõ là thấy việc gì? Đáp: Thấy vô vật. Hỏi: Không có vật làm sao thấy được? Đáp: Không có vật thì không thấy, thấy không vật là thấy đúng, thấy có tức là bị trần kéo. Hỏi: Thế thì như trong giáo pháp, tại sao Phật cũng nói thấy? Đáp: Phật tùy theo pháp thế gian, thấy ngay trong cái không thấy, chẳng giống hàng phàm phu chấp có thấy thật. Nói chung, kiến tánh chẳng thuộc có không, trạm nhiên thường tịch. Hỏi: Rốt cuộc như thế nào? Đáp: Phải đích thân xét nét. Hỏi: Ở trước nói ngoài tâm không có pháp tại sao nói có thấy liền bị trần kéo? Đáp: Tất cả cảnh sắc đều là đệ bát thứ đạt được từ tướng phần hiện lượng. Thật không có pháp bên ngoài, khi mắt thấy sắc, chưa snah phân biệt, trong sát na chuyển nhập, hiêu rõ ý thức, phận biệt hiện tượng, làm cái hiểu bên ngoài, bèn chấp thành trần cảnh. Hỏi: Cảng này làm sao biết nó đã hiện? Đáp: Trần hiện ra từ thức, nội thức biến khởi, thì hiện ra cảnh tự trần, như trong gương thấy mặt mũi mình, chẳng hiện bóng khác. Duy Thức luận nói: “Nội thức chuyển tự ngoại cảnh, phân biệt ngã pháp, vì sức huân tập, khi các thức sinh, biến thành ngã phá của mình. Tướng nãg pháp này tuy ở (trong thức) thức bên trong, nhưng do phân biệt thì dường như cảnh bên ngoài hiện. Các loài hữu tình từ xưa đến nay do đây chấp làm thật ngã, thật pháp như việc chuyển mộng, vì sức chuyển mông tâm giống như mọi cảnh tướng bên ngoài hiện, nội thức biến ra tự ngã tự pháp, tuy có mà không thật.” Kinh nói: Do tâm mình chấp trước, tâm dường như bị cảnh ngoài chuyển, thấy nó không có thật nên gọi là duy tâm.” Ý này do ước theo sự mà luận, nói là thức biến. Nếu hiểu sâu chân như, thời tất cả pháp xưa nay không động, chính tự tánh của tâm cũng không cần biến. Hỏi: Trần và thức này từ đâu mà lập? Đáp: Nghóa là từ danh ngôn huân tập chủng tử, mà được kiến lập. Thật không có thể, mà tự có nghóa, tướng mạo hiển hiện, như những vật huyễn, từ tên mà lập pháp, nhân pháp mà lập danh, trong danh không có pháp, trong pháp không có danh, vô thể cường hình thành, hữu tưởng đồng vắng lặng. Hỏi: Thức này đã không lập thì lấy thức nào làm tông? Đáp: Các thức rốt ráo cũng không có chỗ nương tựa, luận theo cực quyền, chỉ một chân tánh. Thức loạn này vì cảnh lôi kéo nên lập, cnảh tiêu thức trừ, năng sở đều mất, chỉ còn một chân thức tức là thật tánh. Tam Võ Tánh Luân nói: “Trước lấy loạn thức xưa đuỗi ngoại cảnh, kê đến lấy A-ma-la thức đuỗi loạn thức, rốt ráo chỉ còn một tịnh thức.” Hỏi: Lý sự vô ngại, vạn sự viên tu, giác nào để tôn, đế nào để nhiếp? Đáp: Pháp tánh dung thông, tùy duyên tự tại, tùy nêu mọât pháp, thâu tịch vạn hạnh, tức là sở tông của Hoa Nghiêm sở nhiếp của viên giáo. Như lục độ vạn hạnh, thành Phật độ sinh, tuy chuyên khỏi tịnh song đều nhiếp thâu vào thế đế. Nếu phát sáng bổn tông, hiểu cùng tột biển quả, thì lý trí đều mất, ngôn tâm tuyệt nẻo. Hỏi: Tập này đã trình bày, gồm những danh mục nào? Đáp: Nếu chỉ giả danh thì số đến hằng sa. Nay nói tóm lược, thì gọi chung là “Vạn Thiện Đồng Quy”. mở rộng nghóa là: 1/ Lý sự vô ngại. 2/ Quyền thật song hành. 3/ Nhị đế đều trình bày. 4/ Tánh tướng dung tức. 5/ Thể dụng tự tại. 6/ Không có tương thành. 7/ Chánh thợ kiêm tu. 8/ Đồng chị một mé. 9/ Tu Thánh không hại. 1 0/ Nhân quả không khác. Hỏi: Danh do nghóa lập, nghóa giả, danh thật, giả danh đã lập nghóa ấy làm sao trình bày? Đáp: Thứ nhất, lý sự vô ngại: Lý là vô vi, sự là hữu vi, trọn ngày làm mà chưa từng có làm, trọn ngày không làm mà chưa từng không làm. Làm và không làm chẳng giống chẳng khác, cùng nguồn pháp tánh, đồng cõi hư không. Nếu nói là một thì sinh nhâm vương nói: “Công đức hữu vi và vô vi vủa chư Bồ-tát thảy đều thành tựu.” Nếu chỉ là một thì không nên nói có hai thứ công đức. Nếu nói là khác thì kinh Bát-nhã nói: Không được lìa hữu vi mà nói vô vi, không được lìa vô vi mà nói hữu vi. Đó chính là lý sự tương tức, chẳng đoạn chẳng thường, khởi diệt đồng thời, vô ngại cùng hiện. Thứ hai, quyền thật song hành: Thật là chân tế, quyền là hóa môn. Từ chân tế mà khỏi hóa độ, ngoài thật không có quuyền; nhân sự tích mà được cội gốc, ngoài quyền không có thật. Luân thần hợp với toàn ý chỉ, vô ngại song hành giá chiếu đồng thời, lý lương đều hiện. Thứ ba, nhị đế cùng trình bày! Chư Phật thương y theo nhị đế thuyết pháp. Vì cớ sao? Vì tục là chân thuyên, liễu ngộ tục là vô tánh, tức là chân tánh, cho nên nói: “Nếu không được tục đế, không được đệ nhứt nghóa.” Cho nên chân không cần lập mà thường hiện, tục không cần trừ mà nó tự không. Hai đế cùng tồn tại, giống như sống nước hễ nước cạn thì sóng ngừng, sóng nước đồng thời, sóng tột nguồn nứơc, động ẩm một bờ. Thứ tư, tánh tương chung tức: Kinh Vô Lượng nghóa nói: “Vô Lượng nghóa là từ một pháp sinh” pháp đã nói tức là chân tâm. Từ một chân tâm mà đủ hai nghóa tùy chuyên bất biến, bất biến là tánh, tùy chuyên là tướng. Tánh là thể của tướng, tướng là dụng của tánh, vì không hiểu nguồn cội, nên vọng sinh tránh luận. Nếu nay hủy tướng là không hiểu dụng của tâm, hủy bỏ tánh thì không biết thể của tâm. Nếu có thể dung thông, thì thủ xả đều dứt. Thứ năm, thể dụng tự tại: thể tức là lý của pháp tánh, dụng là sự của trí ứng. Nêu toàn dụng của thể, dụng tức không giống, nếu toàn thể của dụng, thể tức chẳng khác. Dụng của thể mà không ngại dụng, là thể của dụng mà không mất thể, cho nên một vị (song) hai phần, tự tại vô ngại. Thứ sáu, không có tướng thành: Hễ luận về tất cả vạn pháp, vốn không có tướng nhất định, cùng hoại, tương nhiếp tương trợ, nhân không mà lập có, vì chuyên sinh tánh không, giả có thành không, vì vô tánh chuyên khởi. Nhân nghóa hiển biệt, theo cái thấy mà thành sai khác, mê nó thì vạn rộng bất đồng, ngộ nó thì tam thừa không khác. Vì sao? Vì nếu giả sử có một pháp thì hàng Tiểu thừa thấy thật sắc, hàng sơ giáo thấy là huyễn có, chung giáo thì thấy sắc, không vô ngại. Vì không ấy không giữ tự tánh, tùy chuyên mà thành các cõi. Đốn giáo thấy tất cả sắc pháp đều là chân tánh, viên giáo thấy vô tận pháp giới này. Nếu chung thông được nó thì liền thành chân không diệu hữu, có, có thể hiển bày vạn đức, không, có thể thành tất cả. Thứ bảy, kiêm tu chánh trợ: Chánh là chủ trợ là bạn. Nhờ bạn mà chủ thành không có trợ thì chánh không bao giờ trọn vẹn; từ chủ được bạn không có chánh thì trợ không do đâu lập. Đó chính là ý chủ vạn tương thành, chánh trợ gồm đủ, cũng là chỉ quán song vận, ẩn hiển cùng chưng trong ngoài lại giúp nhau, giới thừa đều cần. Thứ tám, đồng trị một bờ: Đồng thì căn cứ theo lý bất biến, độ thì ước theo sự tùy duyên. Vì bất biến nên mới có thể tùy duyên; vì tùy duyên cho nên bất biến. Chỉ vì sự không khác mà thành khác, môn bất đồng mà lập đồng. Nếu là khác thì hoại ở khác nên mất thể. Nếu đồng thì không thành đồng, vì không dùng cho nên giống không giống mà khác. Khác không khác mà giống, chấp mỗi thứ bèn rơi vào đoạn thường, dung thông cả hai thì thành Phật pháp. Cho nên kinh nói: “Lạ thay Thế Tôn! Ở trong pháp vô dị mà nói các pháp dị. Thứ chín, tu tánh không hai: Cái vốn có gọi là tánh chẳng phải do quán mà thành, nay hiển lộ gọi là tu, nhờ trí mà hiện ra. Do tu mà hiển được tánh bổn hữu, nhờ tánh mà phát khởi sự tu của ngày nay, toàn tánh thành tu, toàn tu thành tánh, tu, tánh không hai nhân duyên tự phân. Thứ mười, nhân quả không khác: Nhân từ quả khởi, quả tròn thì mới thành nhân, quả đuổi đi thì nhân sinh ra. Nhân tròn thì có thể lập quả. Sự phân trước sau, lý thì cùng một lúc, cùng giúp đỡ lẫn nhau, nghiệp dụng không mất. Hỏi: Tập này đã trình bày, phải theo những căn cứ nào? Được những lợi ích nào? Đáp: Gồm cả tự lợi, lợi tha, đốn trộn cùng thâu. Tự lợi là viên môn của trợ đạo, huyền kinh của việc tu hành. Lợi tha là mặt trời tỏ rạng của việc thệ chân, là lương y của nhị kiến. Đốn hành: Không Thái với môn tánh khởi, có thể thành hạnh pháp giới; tiệm trếm là khởi phế bỏ lời dạy phương tiện, trọn quay về thừa cứu cánh. Nếu người tin điều ấy thì vâng lời Phật dạy, nếu người chê bai nó thì huỷ bán ý Phật. Tin hay nghe đều có quả báo, nhân quả rõ ràng. Trình bày tóm tắt một trần của biển giáo phát, thí khắp chúng sinh trong pháp giới, nguyện hoằng chánh đạo, để báo ân Phật. Tụng rằng: Bồ-đề không phát mà phát Phật đạo không cầu mà cầu Điệu dụng không hành mà hành Chân trí không làm mà làm Khởi từ ngộ được đồng thể Hành bi thâm nhập vô chuyên Không có gì xả mà hành thí Không có gì giữ mà đủ giới Tu tiến hiểu không có gì khởi Họa nhẫn đạt không có gì hại Trí tuệ ngộ cảnh vô sinh Thiền định biết tâm không thụ Thấy không thân mà đủ tướng Chứng vô thuyết mà bàn thuyên. Xây dựng đạo trăng trăng đáy nước, Trăng nghiêm pháp giới tánh không Bày khắp đồ cúng huyễn hóa Cúng dường như lai hình, bóng Sám hối tôi tánh vốn không Khuyên thỉnh pháp thông thường thụ Hồi hướng chọn vô sở đắc Phước tùy hỷ đồng với chân như Tán thán ta người huyển giả, Phát nguyện năng sở bình đẳng Lễ bái ảnh hiện pháp hộ Hành đạo rão bước hư không Đốt hương khéo đạt vô sinh Tụng kinh không sâu thật tướng. Rãi hoa hiển các vô chấp Đàn chỉ để hiện bỏ trần Thí là độ môn của hang tiếng Tụ tập không hoavạn hạnh Thâm nhập biển tánh chuyên sinh Thường dạo pháp môn huyễn hóa. Thể đoạn trần lao vô nhiễm, Nguyện sinh trung tâm tịnh độ Thực hành thực tế lý địa Ra vào quán môn vô đắc. Hàng phục cảnh tượng ma quân Trong mộng rộng làm Phật sự Độ khắp chúng sinh như huyễn Đồng chứng Bồ-đề tịch diệt.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 178