<經 id="n2016">TÔNG CẢNH LỤC (QUYỂN 1 20) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TÔNG CẢNH LỤC <詞>LỜI TỰA Tả triều thỉnh lang thượng thư lễ bộ Viên ngoại lang Hộ Quân Dương Kiệt soạn. Chư Phật nói thật lấy tâm làm tông. Chúng sanh tin đạo lấy tông làm gương. Cảnh giới của chúng sanh tức là cảnh giới của chư Phật, nhân vì mê mà làm chúng sanh. Tâm của chư Phật tức là tâm chúng sanh, nhân ngộ mà thành chư Phật. Tâm như gương sáng, muôn hình tượng trải qua rõ ràng, Phật và chúng sanh đó như ảnh tượng. Sanh tử Niết-bàn chỉ là cưỡng danh. Thể gương tịch mà thường chiếu, ánh sáng gương chiếu mà thường tịch. Tâm, Phật và chúng sanh cả ba không sai biệt. Mới đầu, Thiền sư Trí Giác - Diên Thọ ở Vónh Minh tại Ngô Việt chứng tối thượng thừa, thấu rõ Đệ nhất nghóa, thông suốt giáo điển, thâm đạt Thiền tông, nghiêm trì luật nghi, rộng làm lợi ích. Nhân đọc kinh Lăng-già nói: “Phật nói lấy tâm làm tông”, mới chế thuật “Tông Kính Lục”, từ trong chỗ không nghi mà khởi nghi, từ chẳng phải hỏi mà đặt bày hỏi. Làm bạn không thỉnh mời, thật là bậc Đại đạo sư, ném bỏ vật báu của cung Rồng, bình đẳng bố thí cho quần sanh, thấu suốt then chốt của Tổ, khắp dung mọi người cùng lại, đưa mắt trông nhìn đó, có điều gì ưa muốn thảy đều đầy đủ, thuận tay mà nhón lấy, có bệnh đều lành. Gột rửa tà kiến, chỉ về nguồn diệu. Điều gọi là nêu một tâm làm tông, soi chiếu muôn pháp làm gương vậy. Như người lấy Phật làm gương thì biết Giới, Định, Tuệ là tông của các Thiện pháp. Người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai do đó mà ra, hết thảy các loại thiện không gì chẳng tin nhận, nếu lấy chúng sanh làm gương thì biết tham, sân, si là tông của các ác pháp, các loài A-tu-la, bàng sanh, địa ngục, quỷ thú đều do đó mà ra, hết thảy loại ác không gì chẳng khiếp sợ. Thiện ác tuy khác, mà tông đó thì đồng, trở lại soi sáng tâm đó thì biết linh minh trạm nhiên rộng lớn dung thông, vô vi vô trú vô tu vô chứng, không mảy trần có thể nhiễm, không cấu bẩn có thể diệt, làm tông của hết thảy các pháp vậy. Mới đầu, Ngô Việt Trung Ý Vương chế thuật lời tựa đó, cất nơi giáo tạng. Đến trong khoảng niên hiệu Nguyên Phong (1078 - 10 8 6) thời Bắc Tống, Hoàng đệ Ngụy Đoan Hiếu Vương khắc bản in phân thí ở các danh lam. Các học giả ở bốn phương ít gặp bản đó. Đến mùa Hạ năm Nguyên Hựu thứ sáu ( 10 9 1) thời Bắc Tống, nhân đến Đạo tràng Pháp Vân ở Đông đô, mới thấy tâm bản Tiền Đường rất rõ ràng, do Từ Tư, người xứ Ngô thỉnh cầu Thiền sư Pháp Dõng cùng Vónh Lạc, Pháp Chân vài ba vị lão túc gom nhặt khắp các bản lục, dùng điển tịch Tam thừa, giáo ngữ của chư Thánh hiền so đọc thành tựu để rộng lưu bố. Lợi ích đó rất rộng lớn. Thiền sư Pháp Dõng biết tôi ưa thích bản lục đó, nhân mời, làm lời tựa vậy. <詞>LỜI TỰA TÔNG CẢNH LỤC Ngô Việt Vương Tiền Thục chế thuật. Rõ ràng giáo của trong nước (Trung quốc) có ba, đó là chánh vua tôi thân cha con và nồng hậu nhân luân là thầy của Nho tôi vậy. vắng vậy lặng vậy nhìn nghe không thể được, từ vi diệu lên hư vô để dừng ở cưỡi gió ngự cảnh. Quân vương được đó thì khéo dựng lập không lay động. Con người được đó thì lâu dài đầy đủ không cùng, là thầy của đạo Nho vậy. Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Tam minh, Bát giải thoát, thường luôn hành tập chẳng quên, mỗi ngày tu trì để được, một lúc đã lên được quả vị, trọn thấu đạt chân thường, là tông của Thích đạo vậy. Chỉ ba giáo ấy đều tự tâm tu, “Tâm Kính Lục” (1) là do Thiền sư Trí Giác soạn thuật gồm một trăm quyển, bao quát tất cả vi ngôn. Những lời từ kim khẩu Đức Phật tuyên giảng chứa đầy nơi Hải tạng, bởi cũng vì dắt dụ hàng hậu học, trí tuệ biện tài của Thiền sư diễn xướng muôn pháp, minh liễu nhất tâm, chốn thiền mưa dạo chơi tuôn, khoảng tuệ mây bủa, tính mà xưng gọi đó, chẳng thể biên ghi cùng tận, tạm làm lời tựa nhỏ để đọc tụng tuyên hành ấy vậy! <詞>LỜI TỰA TÔNG KÍNH LỤC Thời Bắc Tống, Thiền sư Trí Giác - Diên Thọ viện chủ chùa Tuệ Nhật, Vónh Minh tại Ngô Việt soạn tập. Phục dó: Nguồn vắng lặng, biển giác lắng trong, tuyệt đầu mối của danh tự, không vết tích của năng sở. Do đầu tiên, bất giác chợt động tâm, thành nguyên do của nghiệp thức, làm sai quấy của giác minh. Nhân minh khởi chiếu kiến phần chờ nổi, theo chiếu lập trần, tướng phần an bài như gương hiện ảnh tượng, chóng khởi thân căn, tiếp tùy theo tưởng mà thế giới thành sai khác, sau đó thì nhân trí mà thương ghét chẳng đồng, từ đó bỏ chân mất tánh, chấp tướng theo danh, tích chứa đắm trệ ở tình trần, kết sóng thức tương tục, khóa trùm chân giác ở giấc mộng dài trầm mê trong ba cõi, mù mắt trí giữa đường tối, lăn lóc trong chín thú, bèn mới quấn nghiệp khổ buộc, mất cửa giải thoát. Ở trong không thân mà thọ thân, đến trong không thú mà lập thú, nếu y theo nhập thì phân có hai mươi lăm hữu, luận về chánh báo thì có mười hai loại sanh, đều từ tình tưởng làm căn do, bèn khiến y báo chánh báo có sai biệt, hướng đến cảnh không chuyển đổi, luống nhận chịu luân hồi, ở trong khuôn pháp giải thoát tự sanh ràng buộc, như tằm mùa Xuân làm kén, tự trùng mùa Thu lao đầu vào lửa, dùng tơ của Nhị kiến vọng tưởng, trói buộc nghiệp chất khổ tụ, dùng cánh vô minh tham ái, đánh quay xe lửa sanh tử, dùng ngôn từ của hang cốc vang vọng, luận gian xấu bốn loài, dùng gương tâm vọng tưởng, hiện hình nghi ba cõi. Sau đó, trái thuận gió tưởng, lay động biển giác, nước tham si ái giúp đượm mầm khổ, mãi theo trần, không biết trở lại gốc, phát tri kiến cuồng loạn, ngăn che tự tâm, lập sắc thanh huyễn hóa nhận làm pháp khác. Từ đó, một mảy mún qua cảnh dần thành núi cao của Hạ Hán, giọt nước dấy gợn cuối cùng nổi sóng lớn chìm nuốt thuyền. Sau đó, gần như muốn quay trở lại gốc ban đầu, nói theo căn lợi độn bất đồng mà từ trong Nhất chân pháp giới, khai mở Tam thừa ngũ tánh, hoặc thấy không mà chứng quả, hoặc rõ duyên mà vào chân, hoặc qua A tăng-kỳ huân luyện, dần đủ hạnh môn, hoặc một niệm viên tu chóng thành Phật đạo. Đó thì khắc chứng có khác mà một tánh chẳng khác. Nhân thành tên của phàm Thánh, tợ phân tướng của chân tục. Như muốn tận cùng tinh vi, thấu suốt cội gốc, rốt ráo yếu chỉ, thông rành tận tông thì lìa tánh căn bản, rốt cùng tịch diệt, tuyệt khác dị của thăng trầm, không sai khác của buộc mở. Đã không người ở tại thế, cũng không kẻ diệt độ, hai ngằn mé bình đẳng, một đạo thanh hư, thức trí đều không, danh thể đều lắng, chóng không chỗ có, chỉ một chân tâm. Thấu đạt đó gọi là người kiến đạo, mê mờ đó thì gọi là mở đầu của sanh tử. Lại có tà căn ngoại chủng tiểu trí quyền có, chẳng rõ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến của nhân ngã, chỉ muốn nhàm chán huyên náo, bài xính khua động phá tướng chia chẻ trần. Tuy nói mờ tỉnh mê không không biết chôn chân chống giác. Như không biết trong mắt có màng đỏ, chỉ diệt vòng sáng trên đèn, không thấu huyễn thân của nội thức, đứng giữa không mà trốn lánh hư ảnh của mặt trời soi chiếu. Đó thì nhọc hình mệt tư mất sức tổn công, chẳng khác nước đủ giúp băng, ném củi thêm lửa, đâu biết vòng sáng tự tiêu, dứt huyễn chất mà hư ảnh liền diệt. Nếu hay xoay chiếu lại chính mình, phản cảnh quán tâm, thì Phật nhãn tỏa sáng mà ảnh nghiệp không, pháp thân hiện mà vết trần tuyệt, dùng trí nhọn của tự giác tách mở tâm châu trong buộc ràng, dùng tuệ bén trong một niệm, chém đứt lưới kiến ở trong trần. Đó là thấu cùng yếu chỉ của tâm,hiểu đạt thuyên giải của thức, ngôn từ ước lược, nghóa lý đủ đầy, văn chất lý thấu, vạch bày giỏi nghi ngờ nơi cửa nhà chánh trí, phác dọn cỏ vọng trên cánh đồng chân giác, trầm kha càng vào tủy, tiệt cố chấp bàn căn, thì vật ngã gặp cháy rực của lửa trí, dung thành lò duy tâm người chưa nghe vào nghe viên mãn của chẳng nghe, người chưa biết, nói th. Danh tướng gặp ánh sáng của tuệ nhật, tiêu tan nơi biển nhất chân. Đó mới là pháp nội chứng, đâu tại văn thuyên, tri giải không thể cùng tận, thấy nghe không thể kịp. Nay vì người chưa thấy mà diễn bày diệu thấy của không thấy. Người thật biết của không biết, người chưa hiểu thành hiểu lớn của không hiểu. Chỗ khác, là, nhân ngón tay thấy vầng nguyệt, được thỏ quên lưới. Ôm một minh tông, bỏ thuyên kiểm lý. Rõ muôn vật do ngã, suốt Diệu giác tại thân. Có thể gọi là tìm móc huyền căn, mài giã hang lý, dọn nhặt cốt tủy của Thiền tông, nêu bày giềng mối của giáo võng. Còn lại những lầm hoặc, các tỳ vết khác, ứng tay tròn sáng, huyền tông diệu chỉ, nêu ý toàn chương, hay gạt núi bảy mạn, trọn bít lấp đường sáu suy. Trần lao ngoại đạo, đều đến ở chỉ gội. Sống chết quân ma, toàn tiêu ảnh hưởng, hiện sức tự tại mỡ mang đại oai quang, bày châu ngọc chân thật, lợi dụng không cùng tận, dốc kho tàng bí mật, khắp cứu tế nào cùng. Có thể gọi là: Trong hương đốt ngưu đầu đó, trong vật báu sưu tầm dưới cổ con ly, trong hoa hái nhặt linh thụy, trong tỏa chiếu ánh diệu thần quang, trong thức ăn dùng lấy cháo sữa, trong nước uống chất cam lồ, trong thuốc uống dùng cửu chuyển, trong chủ gặp được Thánh vương, nên được núi cao pháp tánh, chóng rơi lại chót vót của các núi, biển rộng đề- hồ, giăng nuốt sóng của các nguồn, tợ vọt sáng của phách đêm, đoạt muôn sao của Tiểu thừa, như mang sắc thể của triều dương, phá mờ tối của ngoại đạo. Như người nghèo khổ pháp tài gặp được của báu lớn, như kẻ khô khát cam lồ gặp ao trong mát. Làm trời chỗ kính của chúng sanh, làm cha chân từ Bồ-tát, ôm bệnh tật nặng dữ gặp Dược Vương khéo thăm, mê lầm đường hiểm nạn gặp được người dẩn dắt tốt sáng suốt. Lâu ở trong phòng tối chợt đến nơi ánh sáng của đuốc báu. Thường chịu mình mẩy trần truồng, chóng nhận diệu phục cõi trời, chẳng mong cầu mà tự được, không công mà chóng thành. Nên biết, trong vô lượng cõi nước, khó nghe danh tự, trong số kiếp như bụi trần hiếm gặp truyền trì. Dùng nhân duyên như trên, mắt làm gương tâm, hiện một đạo mà Thanh hư có thể soi chiếu, dẹp hết các tà mà mảy lông chẳng dung. Diệu thể không riêng tư, viên quang chẳng phải ngoài, vô biên biển nghóa đều kết quy trong trông nhìn. Hình dung muôn tượng đều vào trong soi chiếu. Đó mới là yếu chỉ nhất vị của Tào Khê, chư Tổ đồng truyền, chánh tông bất nhị của rừng chim hộc, các kinh đều thuật. Có thể gọi là tích chứa sâu xa của muôn thịên, huyền nguyên của các triết. Bảo Vương của một chữ, nguyên tổ của các linh, bèn khiến lìa cảnh ở tâm, văn lý đều hư rỗng, tức trần của thức, thuyên lường có chứng cứ. Hải Ấn của Nhất tâm, khải định viên tông. Đèn trí tám thức, chiếu phá tà ám. Thật có nghóa là ngôi nhà tâm linh của hàm sanh, nghóa tông muôn pháp. chuyển biến vô phương, cuộn buông tự tại. Ứng duyên hiện vết, mặc vật thành danh. Chư Phật thấu suốt đó, gọi là Tam- bồ-đề, Bồ-tát tu hành đó, gọi là Lục độ hạnh. Biển tuệ biến đó làm nhân duyên, Long nữ hiến dâng đó làm châu báu. Thiên nữ rải đó làm hoa Vô trước, bạn lành cầu đó làm vật báu như ý, Duyên giác tỏ ngộ đó làm mười hai duyên khởi, Thanh văn chứng đó làm bốn đế nhân không, ngoại đạo chấp thủ đó làm sông tà kiến, loài dị sanh chấp đó làm biển sanh tử. Luận về thể thì phù hợp mầu nhiệm chí lý, ước về sự thì sâu hợp với chánh duyên. Nhưng, tuy nêu tổng môn của pháp giới, phải biện biệt chỉ của Nhất thừa, nghóa của các thứ tánh tướng tại Đại giác vì viên thông, môn của lớp lớp tức nhập, chỉ chủng trí mà diệu đạt. Chỉ bởi căn gầy mà chẳng soi xét, học ít khó cùng khắp. Không biết hai môn tánh tướng là thể dụng của tự tâm. Nếu đủ Dụng mà mất Thể thường hằng thì như không nước mà có sóng, nhưng được Thể mà khuyết môn của Diệu dụng, tợ không sóng mà có nước. Vả lại, chưa có nước không sóng, từng không sóng chẳng ướt, vì sóng triệt nguồn nước, nước cùng ngọn sóng, như tánh cùng tướng, bày tướng đạt nguồn tánh. Phải biết thể dụng cùng thành, tánh tướng hỗ tương hiển bày. Nay thì nhỏ nhiệm tỏ rõ tổng biệt, rộïng biện giải dị đồng, nghiên tầm căn nguyên của một pháp, sưu tầm gốc ngọn của các duyên, thì có thể xưng là Tông Kính để soi xét sâu xa nhỏ nhiệm. Không một pháp nào để trốn lánh hình thì ngàn sai mà đều hội, bèn học đòi bao gồm nghóa rộng, tóm lược văn cốt yếu, phô bày rộng trong trăm quyển, quyển nhiếp ở trong nhất tâm, hay khiến biển giáo khó nghó bàn, như chỉ trong lòng bàn tay mà niệm niệm tròn sáng. Chân tông vô tận, mắt thấy mà tâm tâm khế hợp, như thần châu tại trong tay, trọn dứt việc mong cầu. Như giác thọ rủ che toàn tiêu vết bóng. Được báu thật ở trong ao Xuân, nhặt sỏi vụn lẫn chẳng phải, được gốc đầu ở trước gương xưa, tâm cuồng chóng hết, có thể sâu chọn thấy trái, trọn dứt rễ nghi, chẳng vận công một mảy may, toàn mở kho báu, chẳng phải dùng sức trong sát-na, chóng được huyền châu. Gọi tên là nơi Nhất thừa Đại tịch diệt, thật là nơi A-lan-nhã chánh tu hành đó là cảnh giới tự đến của Như Lai, là pháp môn vốn trụ của chư phật,do đó. Đó là khuyên khắp các hàng hậu Hiền tinh tế soi xét, bèn được trí cùng biển tánh, học suốt nguồn chân. Tâm ấy thức ấy, chỉ tôn chỉ thắng. Thức ấy là sở chứng của chư Phật mười phương, tâm ấy là sở thuyết của giáo pháp một đời Đức Phật giảng tuyên. Chỉ tôn là chỗ kết quy của giáo lý hạnh quả. Chỉ thắng là chỗ hướng đến của tin hiểu chứng nhập. Chư Hiền y cứ đó mà giải thích luận khởi ngàn chương. Chư Thánh thấu rõ đó, để hoằng tuyên đàm nói thành bốn biện. Do đó, nhặt kỳ nêu dị, nghiên tinh thấu suốt, riêng nêu cương rộng, bày lớn cương chánh, lặn lội nơi đất cơ ngũ thừa, nhảy vọt lên trời nghóa đệ nhất. Nói rộng tông ấy, lợi ích vô tận, bèn được chánh pháp trú lâu nơi đời, xô dẹp rừng tà ngoại đạo, hay khiến rộng cứu tế hàm sanh. Bít lấp vết loạn của Tiểu thừa, thì không tà nào chẳng chánh, có ngụy đều không. Do tự lợi nên phát nguyện của trí đức, do lợi tha nên lập sự ân đức. Do thành trí đức thì từ khởi hóa vô duyên, thành ân đức thì bi hợp tâm đồng thể. Do đồng thể thì tâm khởi vô tâm. Do vô duyên thì hóa thành đại hóa. Tâm khởi vô tâm thì vui nào mà chẳng cho. Hóa thành đại hóa thì khổ nào chẳng lấy. Vui nào mà chẳng cho, thì lợi độn đều xem ngang bằng, khổ nào mà chẳng lấy thì oán thân thảy đều cứu. Bèn khiến ba cỏ hai cây đều kết quy nơi một đất tươi tốt. Giống tà tiêu mầm đồng thấm đượm một cơn mưa. Đó là tận thiện tận mỹ, không sánh không đồng. Có thể gọi là bao gồm môn nhân tìm cùng biển quả. Nên được khai mở bậc só Bồ-đề người mới cầu Bát-nhã, rõ biết nguyên do thành Phật, chóng viên mãn không ngưng trệ, suốt biết đường lối trở về nhà thẳng đến nào còn nghi. Hoặc lìa đây riêng tu, theo lầm hiểu khác, như vắt sừng lấy sữa, leo cây bắt cá, nhọc trải qua ba A tăng-kỳ kiếp không được một tí gì. Nếu y cứ yếu chỉ đây, tin nhận hoằng trì, như thuyền ùnhẹ theo dòng không các chướng ngại ngăn trệ, lại gặp thế gió tiện, lại thêm công sức của mái chèo, thì nhanh đến thành báu, chợt đến bờ giác. Có thể gọi là tư lương dễ làm, đạo quả trước thành, đắp mặc pháp y thượng hạnh của Tôn giả Ca-diếp, ngồi tòa pháp không của Đức Phật Thích-ca, lên gácTỳ-lô của Đức Di-lặc, vào thân pháp giới của Bồ-tát Phổ Hiền. Hay khiến khách làm người nghèo hèn hết lãnh gia nghiệp của trưởng giả. Chợt khiến các hàng trầm không tiểu quả chóng nhận thọ ghi danh của Đức Như Lai, chưa có một môn nào chẳng thông đạo đây, hẳn không một pháp chẳng khế hợp tông đây. Các bậc Giác vương ở thời quá khứ nhân đó mà thành Phật, những bậc Đại só ở tương lai nương cậy đó mà chứng chân, thì một pháp môn nào mà không mở, một nghóa lý nào mà không hiện, không một sắc nào chẳng phải Tam-ma-bát-địa, không một thanh nào chẳng phải Đà-la-ni môn, thưởng thức một vị mà đều biến thành đề-hồ, nghe một hương mà đều vào pháp giới. gió cây bãi trăng đều có thể truyền tâm, đảo khói rừng mây đều bày nêu diệu chỉ, bước bước giẩm lên trải cảnh giới kim sắc, niệm niệm ngửi mùi hương chiêm-bặc, vốc nước biển cả mà đã được trăm sông, đến núi Tu-di mà đều đồng một sắc, rực rỡ vậy mở mắt quán tượng, hết thảy trở lại tự tông, vắng lặng vậy dẫn dắt tâm tìm cầu châu ngọc đều về lại bản pháp, bèn khiến núi tà rơi lạc mũi nhọn, biển khổ lặn sóng, mái chèo trí vì đó mà an dòng, Diệu phong nhân đó mà vút cao. Nay rõ ràng đại ý của Phật Tổ, chánh tông của kinh luận, chuốc bỏ văn rườm rà, chỉ tìm rút yếu chỉ, mượn bày vấn đáp, rộng nêu dẫn chứng minh. Nêu cao Nhất tâm làm tông, chiếu muôn pháp làm kính, đan ken các nghóa sâu sắc của Khế định xưa, gom lược viên thuyên trong các Tạng, báo đồng hiển bày đây, xưng gọi là Lục phân làm thành trăm quyển. Đại khái chia thành ba chương: Một là, lập chánh tông, để làm quy thú; hai là, nêu bày vấn đáp, dùng để dứt trừ tình nghi; và ba là, nêu dẫn chân thuyên, để hoàn thành tin tròn đủ đó, đem diệu thiện này, thí khắp hàm linh, đồng báo ân Phật, cùng truyền yếu chỉ đây vậy. ------------------------------ TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 1 CHƯƠNG I: NÊU TÔNG Rõ ràng, phàm Tổ nêu Thiền lý, truyền chánh tông mặc khế; Phật diễn pháp môn, lập đại chỉ thuyên giãiï, thì là điều bẩm nhận của các tiền Hiền, và hàng hậu học có chỗ quy thú. Vì thế, trước niêu liệt bày chương Nêu tông. Vì có nghi nên hỏi, vì dứt nghi nên đáp, nhân hỏi mà nghi tình được mở, nhân đáp mà diệu giải ngầm sanh. Nghóa là viên tông đây khó tin hiểu là thuyết của đệ nhất. Đầy đủ cơ tối thượng, nếu chẳng giả lập ngôn từ thuyên giải thì không do đâu để nhổ dứt tình chấp đó. Nhân ngón tay mà được thấy vầng nguyệt, không thể không có môn Phương tiện. Được thỏ quên lưới, tự hợp với đạo thuyên chân. Tiếp đến là lập chương hỏi đáp, chỉ vì hiện nay đang là đời mạt pháp hiếm gặp được hàng đại cơ, hàng quán cạn tâm trôi nổi nơi căn nhỏ trí kém tuy biết có chỗ kết quy của tông chỉ, hỏi đáp dứt nghi dần tiêu hoặc chướng. Muốn sức tin bền chắc phải mượn chứng minh rộng nêu dẫn lời chân thật của Phật Tổ, kín khế hợp với đại đạo viên thường, khắp gom nhặt yếu chỉ của kinh luận, viên thành chân tâm quyết định. Sau cùng nêu bày chương Dẫn chứng. Đem ba chương này thông làm nhất quán, sưu tìm bao gồm đầy đủ cả ở đây vậy. Hỏi rằng: Tiên đức nói: Nếu giáo ta mà lập tông định chỉ như trên lương rùa mà tìm lông, bên mình thỏ mà kiếm sừng. Kinh Lăng- già có lời kệ nói: “Hết thảy pháp chẳng sanh, không nên lập tông đó”. Cớ sao nêu tên chương đây? Đáp rằng: Lời nói đó dứt ngăn. Nếu không tông của tông thì tông thuyết đó gồm nêu. Xưa kia, Phật đều dùng môn phương tiện, Thiền tông cũng mở một con đường, hẳn không thể chấp ở phương tiện mà mê lầm đại chỉ. Lại không thể phế bỏ phương tiện mà dứt tuyệt trình bày sau. Nhưng trước cơ không giáo, sau giáo không thật. Giả sử có một giải một ngộ, đều là việc rơi lạc lui sau vậy, thuộc đầu thứ hai. Do đó, trong luận Đại Trí Độ nói: Dùng Phật nhãn mà quán sát hết thảy mọi vật trong tất cả các cõi nước mười phương, còn chẳng thấy không, huống gì có pháp, rốt cùng không pháp hay phá điên đảo, khiến Bồ-tát thành Phật, việc ấy còn không thể được, huống gì phàm phu điên đảo có pháp”. Nay y theo trong ngôn giáo của Phật Tổ, nói theo người học hiện nay, tùy chỗ thấy tâm tánh mà phát minh. Lập tâm làm tông. Cho nên Đức Phật Thích-ca Văn ở Tây phương nói là: “Phật nói tâm làm tông, vô môn làm pháp môn”. Còn xứ này Sơ tổ Đại sư Đạt-ma nói: “Dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự”. Thì Phật phật trao tay trao yếu chỉ đó. Tổ tổ truyền nhau truyền tâm đó vậy. Trên đây là nói về chỗ lập tông chỉ của Phật Tổ. Lại nữa, tông thể do các Hiền thánh lập thì Hòa thượng Đỗ Thuận y cứ kinh Hoa Nghiêm lập “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Đó tức là thể pháp tánh trong Như Lai Tạng,từ xưa đến nay tánh tự đầy đủ,ở nhiễm không nhơ,sữa sang không sạch nên nói là tự tánh thanh tịnh. Tánh thể chiếu khắp, không tối không soi, nên gọi là viên minh. Lại tùy dòng thêm nhiễm mà chẳng dơ bẩn, trái ngược dòng trừ nhiễm mà chẳng sạch. Cũng có thể ở tại Thánh thể không thêm, ở phàm thân không bớt, tuy có ẩn hiển sai khác, mà không sai biệt khác nhau. Phiền não che lại thì ẩn, trí tuệ tỏ rõ thì hiển. Chẳng phải chỗ sanh của nhân sanh. Chỉ chỗ liễu của nhân liễu. Đó tức là thể tự tâm của hết thảy chúng sanh. Linh tri không mờ tối, tịch chiếu không bỏ sót, chẳng phải tông của Hoa Nghiêm, cũng là thể của hết thảy giáo. Luận “Phật Địa” lập “Nhất thanh tịnh pháp giới thể”. Luận nói: “Thanh tịnh pháp giới là tự thể chân thật của hết thảy Như Lai, từ vô thỉ đến nay tự tánh thanh tịnh, đầy đủ các thứ tánh tướng công đức quá hơn số vi trần cùng cực cõi ở mười phương. Không sanh không diệt giống như hư không, khắp hết thảy hữu tình đều bình đẳng cùng có, cùng với hết thảy pháp. Chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải có chẳng phải không, lìa hết thảy tướng, hết thảy phân biệt, hết thảy danh ngôn, đều không thể đắc, chỉ là sở chứng của Thánh trí thanh tịnh. Chỗ hiển bày Nhị không vô ngã, chân như làm tự tánh đó. Chư Thánh chứng từng phần, chư Phật chứng viên mãn. Thanh tịnh pháp giới đó tức là Diệu tâm chân như, làm nguồn của biển quả chư Phật, làm địa vị thực tế của quần sanh. Đó đều là tên khác của lập tông, chẳng phải có thể riêng khác. Hoặc nói tông là tôn vậy. Dùng tâm làm tông, nên nói: “äThiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Hoặc nói thể là tánh vậy, dùng tâm làm thể, nên nói: “Biết hết thảy pháp tức là tự tánh tâm”hoặc nói về trí,lấy tâm làm trí tức là dụng tịch chiếu của bản tánh, do đó nói: Tự giác thánh trí”, “Phổ quang minh trí”, v.v… nếu nói theo nghóa dụng mà phân thì thể tông dụng khác. Nếu quy về bình đẳng thì một đạo không sai. Do đó, trong “Hoa Nghiêm Ký” có lời hỏi rằng: “Hai địa vị Đẳng giác và Diệu giác toàn đồng Phổ quang minh trí của Như Lai, kết thành vào khắp”, do đó hội đây thuyết Đẳng giác Diệu giác, hai giác toàn đồng Phổ quang minh trí tức là nghóa Hội quy vậy. Hỏi rằng: Đẳng giác đồng với Diệu giác ở lý có thể được vậy. Nhưng ngoài Diệu giác còn có Phổ quang minh trí của chư Như Lai nào làm chỗ đồng chăng? Đáp rằng: Nói Đẳng giác hay nói Diệu giác tức là nói theo địa vị, Phổ quang minh trí chẳng thuộc nhân quả gồm thông nhân quả. Do đó thánh trí tự giác siêu tuyệt nhân quả, nên trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Ngoài địa vị Diệu giác lại còn địa vị thánh trí tự giác”. Cũng như Phật tánh có nhân có quả, có nhân nhân có quả, dùng nhân mà chấp lấy đó, nhân đó là Phật tánh, dùng quả mà chấp lấy đó, quả đó là Phật tánh. Nhưng mà Phật tánh chẳng phải nhân chẳng phải quả, Phổ quang minh trí cũng lại như vậy. Thể tuyệt nhân quả, làm nhân quả nương tựa, quả mới cứu cánh, nên nói Phổ quang minh trí của chư Như Lai hoặc xưng là bản là lấy tâm làm gốc vậy. Nên Niết-bàn sớ nói: “Tông Niết-bàn là bản, các hành đều lấy tâm Đại Niết-bàn làm gốc. Gốc lập thì đạo sanh, như không mắt lưới chẳng lập không lông da chẳng phụ, tâm làm gốc nên tông đó được lập. Hỏi rằng: Nếu muốn sáng tông chỉ hợp thuần nêu bày ý Tổ, đâu cần gồm dẫn ngôn giáo của chư Phật, Bồ-tát lấy làm chỉ nam? Nên trong tông môn nói: “Mượn tâm làm mắt không có phần của chính mình, chỉ thành văn tự, Thánh nhân chẳng vào Tổ vị”. Đáp rằng: Từ trước chẳng phải thuần chỉ một mực chẳng chấp nhận xem giáo, sợ tư lự chẳng rõ ràng lời Phật, tùy theo văn sanh giải hiểu làm mất ý Phật. Vì để gìn giữ tâm ban đầu, hoặc nếu nhân thuyên giải mà được yếu chỉ chẳng làm tâm cảnh đối trị, rõ thẳng tâm Phật, đâu có gì lỗi Chỉ như Hòa thượng Dược Sơn một đời đọc xem kinh Niết-bàn, tay chẳng buông rời quyển, bấy giờ có người học vào hỏi: “Bình thường Hòa thượng chẳng cho người học đọc xem kinh, cớ sao Hòa thượng tự xem kinh?” Hòa thượng đáp: “Chỉ như vì che mắt”. Lại hỏi: “Người học đọc xem có được không?” Hòa thượng bảo: “Ngươi nếu trông xem da trâu cần phải xuyên thủng”. Vả lại, như đệ nhất Tổ sư ở Tây Thiên là do Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật mới đầu truyền cho Đại Ca-diếp làm Sơ tổ, rồi lần lượt tương truyền mãi đến Tổ thứ sáu ở xứ này đều là đệ tử của Phật. Nay dẫn lời của Đức Bổn sư dạy răn chỉ bày cho đệ tử, khiến nhân lời nói tiến đạo thấy pháp, biết tông chẳng ngoài mong cầu thân gần rõ được ý Phật, được yếu chỉ tức vào ngôi vị Tổ, ai luận môn Đốn tiệm, thấy tánh hiện chứng viên thông đâu nêu ngôi vị trước sau. Nếu là như vậy đâu có trái nghịch. Vả lại, như đời trước, hai mươi tám vị Tổ ở Tây Thiên, sáu vị Tổ ở xứ này, cho đến Đại sư Mã Tổ ở Hồng châu, quốc sư Trung ở Nam Dương, Thiền sư Đại Nghóa ở Nga hồ, Thiền sư Bản Tịnh ở núi Tư không v.v…, đều thông rành kinh luận, viên ngộ tự tâm. Như chỗ chỉ bày cho học trò đều dẫn chứng chân thật, trọn chẳng xuất phát từ ức đoán vọng có chỉ bày. Do đó trải qua thời gian năm tháng lâu dài, chân phong chẳng rơi lạc. Lấy Thánh ngôn làm định lượng, tà ngụy khó đổi thay, dùng chí giáo làm chỉ năm, nương tựa có chứng cứ. Nên Hòa thượng Khuê Phong nói: “Cho rằng thủy tổ của các tông tức là Đức Phật Thích-ca. Kinh là lời Phật nói, Thiền là ý của Phật, tâm và khẩu của chư Phật hẳn chẳng trái nhau. Chư Tổ nói nhau căn bản là Phật đích thân giao phó, Bồ-tát tạo luận trước sau, chỉ hoằng dương kinh Phật. Huống gì Tôn giả Đại Ca-diếp cho đến Ưu-ba-cúc-đa hoằng truyền đều gồm cả Tam Tạng. Mãi đến chư vị Mã Minh, Long Thọ đều là Tổ sư, tạo luận giải thích kinh có đến vài mươi vạn kệ tụng. Quán sát phong cảm hóa vật không định sự nghi. Do đó, phàm xưng là tri thức pháp ấy, phải rõ lời Phật ấn khả tự tâm, nếu chẳng cùng Viên giáo Nhất thừa liễu nghóa tương ứng, giả sử có chứng Thánh quả cũng chẳng phải cứu cánh. Nay tạm nêu cử một vài điểm để chứng minh văn đó. Đại sư Mã Tổ ở Hồng châu nói: “Đại sư Đạt-ma từ nước xứ Nam Thiên Trúc đến, chỉ truyền pháp Nhất tâm của Đại thừa, dùng kinh Lăng-già để ấn tâm chúng sanh, sợ không tin pháp Nhất tâm đó. Kinh Lăng-già nói: “Phật nói tâm làm tông, vô môn làm pháp môn”. Cớ sao Phật nói tâm làm tông? Phật nói tâm là tức tâm tức Phật. Nay nói tức là tâm nói, nên nói “Phật nói tâm làm tông”. Vô môn làm pháp môn là thấu đạt bản tánh không, lại không một pháp. Tánh tự môn đó, tánh không có tướng cũng không có môn, nên nói “Vô môn làm pháp môn”. Cùng còn gọi là “không môn”, cũng gọi là “sắc môn”. Cớ sao? Không là pháp tánh không, sắc là pháp tánh sắc. Không hình tướng nên gọi đó là không. Tri kiến vô tận nên gọi đó là sắc, nên nói: “Như Lai sắc vô tận, trí tuệ cũng như vậy”, tùy chỗ sanh các pháp, lại có vô lượng môn Tam-muội, xa lìa tri kiến tình chấp trong ngoài, cũng gọi là Tổng trì môn, cũng gọi là Thí môn. Nghóa là chẳng nhớ nghó các pháp thiện ác trong ngoài. Cho đến đều là các Ba-la-mật môn. Sắc thân Như Lai là thật tướng gia dụng của Phật. Trong kinh nói: “Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều từ tâm tưởng sanh”. Cũng còn gọi là Pháp tánh ngọn lửa trong nhà, cũng là pháp tánh công huân. Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã lửa thiêu đốt trong ngoài ba cõi các vật đều tiêu hết, ở trong đây chẳng tổn hại một lá cỏ. Vì các pháp như tướng vậy. Nên trong kinh nói: “Chẳng tổn hại nơi thân mà tùy một tướng”. Nay biết tự tánh là Phật, ở trong tất cả mọi lúc đi đứng ngồi nằm, lại không một pháp khả đắc. Cho đến chân như chẳng thuộc hết thảy tên gọi, cũng không không tên gọi. Nên trong kinh nói: “Trí chẳng được có không, trong ngoài không mong cầu, mặc tình bản tánh đó, cũng không tâm nhậm tánh, kinh nói: “Các thứ ý sanh thân, ta nói là tâm lượng”, tức tâm của vô tâm, lượng của vô lượng. không tên gọi là tên gọi chân thật. Không cầu là cầu chân thật. Kinh nói: “Phàm người cầu pháp nên không chỗ cầu”. Ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm. Chẳng chấp thủ thiện, chẳng tạo ác, dơ sạch hai bên đều chẳng y theo pháp, không tự tánh ba cõi chỉ tâm. Kinh nói: “Sum-la cho đến muôn tượng, chỗ ấn của một pháp”. Phàm chỗ thấy sắc đều là thấy tâm, tâm chẳng phải tự tâm, nhân sắc nên tâm, sắc chẳng phải tự sắc, nhân tâm nên sắc. Nên kinh nói: “Thấy sắc tức là thấy tâm”. Quốc sư Trung ở Nam Dương nói: “Pháp của Thiền tông là nên y theo Phật nói Nhất thừa liễu nghóa, khế hợp lấy bản nguyên tâm địa, chuyển tướng truyền trao cùng Phật đạo đồng. Chẳng được y cứ nơi vọng tình và giáo điển Bất liễu nghóa ngang làm kiến giải, nghi lầm người học sau đều không ích lợi gì. Giả sử nương tựa theo bật thầy lãnh thọ tông chỉ, nếu cùng với giáo điển liễu nghóa tương ưng tức có thể y cứ thực hành. Còn nếu tương ưng với giáo điển Bất liễu nghóa, thí như trùng ở trong thân sư tử ăn thịt trong thân sư tử, chẳng phải thiên ma ngoại đạo mà có thể phá diệt Phật pháp vậy”. Bấy giờ có một Thiền khách vào hỏi: “Cái nào là tâm Phật?” Quốc sư đáp: “Tường vách ngói sỏi các vật vô tình đều là tâm Phật”. Thiền khách nói: “So với kinh rất trái ngược vậy. Trong kinh nói: Lìa tường vách ngói sỏi các vật vô tình thì gọi đó là tánh Phật”. Nay nói hết thảy vật vô tình đều là tâm Phật. Không biết tâm đó cùng với tánh là đồng dạng hay khác biệt?” Quốc sư bảo: “Người mê tức khác biệt, người ngộ tức không khác biệt”. Thiền khách nói: “So với kinh lại còn chống trái vậy. Kinh nói: “Này thiện nam! Tâm chẳng phải tánh Phật. Tánh Phật là thường, tâm là vô thường”. Nay nói chẳng khác biệt, không biết ý như thế nào?” Quốc sư bảo: “Ông tự y theo ngữ mà chẳng y theo nghóa. Thí như tháng lạnh nước đóng thành băng, đến lúc nóng ấm, băng tan thành nước. Chúng sanh lúc mê buộc tánh thành tâm, lúc ngộ mở tâm thành tánh. Ông định chấp các vật vô tình chẳng phải tâm, thì trong kinh không nên nói ba cõi chỉ tâm. Nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Nên quán tánh pháp giới, thảy đều do tâm tạo”. Nay thử hỏi ông: Các vật vô tình là ở trong ba cõi hay ngoài ba cõi? Nói là tâm hay chẳng phải tâm? Nếu chẳng phải tâm, thì kinh không nên nói ba cõi chỉ tâm. Nếu nó là tâm, thì lại không nên nói là không tánh. Ông tự trái với kinh, chẳng phải tôi trái vậy”. Thiền sư Đại Nghóa ở Nga hồ, nhân có sắc chiếu mời vào nội, bèn hỏi chư vị Đại đức ở kinh đô rằng: “Chư Đại đức! Lấy gì làm đạo?” Có vị đáp rằng: “Dùng thấy biết làm đạo”. Thiền sư bảo: “Trong kinh Duy-ma nói: “Pháp lìa thấy nghe hay biết” thì sao lại dùng thấy biết làm đạo?” Có vị khác trả lời: “Dùng không phân biệt làm đạo.” Thiền sư bảo: “Trong kinh nói: “Khéo hay phân biệt tướng của các pháp, đối với Đệ nhất nghóa mà không lay động”. Cớ sao nói dùng không phân biệt làm đạo?” Lại, gặp Hoàng đế hỏi: “Thế nào là Phật tánh?” Thiền sư đáp: “Chẳng lìa điều hỏi của bệ hạ”. Do đó, hoặc là chỉ thẳng minh tâm, hoặc là phá chấp vào đạo, dùng biện tài vô phương, dứt bỏ chấp nhất định, vận trí tuệ không đắc, khuất nhiếp tâm có lượng. Thiền sư Bản Tịnh ở núi Tư không nói cùng chư vị Đại đức ở chốn kinh đô rằng: “Chư vị chớ chấp tâm. Tâm đó đều nhân tiền trần mà có, như ảnh tượng trong gương, không thực thể khả đắc. Nếu người chấp thật có, thì mất bản nguyên, thường không tự tánh. Kinh Viên Giác nói: “Vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, sáu trần duyên ảnh làm tướng tự tâm”. Kinh Lăng-già nói: “Chẳng rõ tâm và duyên thì sanh hai thứ vọng tưởng. Rõ tâm và cảnh giới thì vọng tưởng chẳng sanh”. Kinh Duy-ma nói: “Pháp chẳng phải thấy nghe hay biết”. Tạm dẫn ba kinh để chứng minh chân thật. Đại sư Trang Nghiêm ở dưới chùa Ngũ Tổ, suốt một đời chỉ dạy đồ chúng, chỉ nêu cử bốn câu kệ cuối bài tụng tán Phật của trưởng giả Bảo Tích ở trong kinh Duy-ma rằng: “Chẳng đắm thế gian như hoa sen, Thường khéo vào nơi hạnh không tịch, Thấu đạt pháp tướng không quái ngại, Kính lạy như không không chỗ nương”. Có người học hỏi rằng: “Đó là lời Phật, muốn được nghe lời Hòa thượng tự nói”. Đại sư bảo: “Lời Phật tức là lời ta, ta nói tức là Phật nói”. Cho nên Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma từ Tây vức đến khai sáng thực hành Thiền đạo, muốn truyền tâm ấn, phải mượn kinh Phật, dùng kinh Lăng- già làm chứng minh. Biết chỗ tự của giáo môn, bèn được người ngoài chấm dứt phỉ báng, người trong tập học nhận lãnh, nối dõi Tổ hưng thạnh, huyền phong tỏa khắp. Do đó người sơ tâm học đạo, trước khi tự tỉnh phát, nếu chẳng phải chánh tông Thánh giáo, thì nương cậy vào đâu để tu hành tấn đạo? Giả sử chẳng tự sanh vọng kiến, cũng là gặp phải thầy tà. Nên nói: “Mắt ta vốn chánh, nhân thầy nên tà”. Ở Tây Thiên có chín mươi sáu thứ chấp kiến, đều thuộc loại đó. Nên biết gỗ chẳng có dây mực thì ø không thẳng, lý chẳng phải giáo thì không viên. Như trên lược nêu dẫn vài ba điểm đều là Đại thiện tri thức, Tông sư ngoài vật, lân ròng của vườn Thiền gương rùa của Tổ môn, bày một giáo mà gió thổi sấm cuốn, duỗi một lời mà núi đổ biển khô. Các bậc Đế vương thân gần tôn xưng thầy, từ triều đình đến thôn dã mọi người thảy quy mạng. Tùng lâm lấy làm khuôn phép, hậu học bẩm thừa trọn chẳng theo từ lòng ngực trái lời Phật nói. Phàm có giải thích nghi dứt ngụy, hiển tánh minh tông, không gì chẳng mỗi mỗi rộng dẫn kinh văn, bày đủ ý Phật, do đó mãi truyền đời sau nối dõi chẳng rơi lạc gia phong. Nếu không như vậy, sao được đến nay tiếp nối kế thừa hưng thạnh. Pháp lực như thế, chứng nghiệm chẳng phải hư dối. Lại nếu muốn nghiên cứu Phật thừa, mở tìm kho báu, mỗi mỗi phải tiêu về tự mình, lời lời khiến ngầm hợp chân tâm. Chỉ chớ chấp văn trên nghóa, tùy lời sanh thấy, cứ phải tham cứu yếu chỉ dưới thuyên giải, khế hội Bản tông, thì trí vô sư hiện tiền, đạo thiên chân không mờ tối. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết hết thảy pháp tức tự tánh của tâm, thành tựu tuệ thân chẳng do đâu khác tỏ ngộ”. Nên biết giáo có sức trợ đạo, hàng sơ tâm sao có thể tạm quên, tinh tế rõ ràng pháp lợi vô biên. Đó là sưu tầm nêu cử tóm lược. Vả lại, phàm luận về Tông chỉ chỉ hợp Đốn cơ, như mặt nhật vừa ló dạng soi chiếu núi cao, ngựa giỏi thấy bóng roi. Do đó, Hòa thượng Đơn Hà nói: “Cùng gặp chẳng nêu ra, khởi ý bèn biết có”. Như nay Tông Kính còn chẳng đợi khởi ý bèn tự biết có. Nên kinh Thủ Lăng- nghiêm nói: “Viên minh rõ biết chẳng nhân tâm nghó. Dương mày động mắt sớm đã ngăn khắp”. Như Tiên đức có lời tụng rằng: “Bèn là do bội câu Động mắt tức sai trái, Nếu hỏi ý Tào khê, Chẳng lại đợi nhướng mày”. Nay vì người vui thích Phật thừa thật chưa tiến cử, mượn dùng Tông Kính giúp hiển bày chân tâm, tuy treo văn ngôn diệu chỉ tại đây, phụ gom trung hạ đủ cả các cơ, chỉ mặc tình ngay tự thân người đó mỗi đều giúp tự lợi. Trăm sông tuy thấm đượm, nào ngại biển lớn rộng ngậm chứa, Ngũ nhạc tự cao, chẳng ngại thái dương chiếu khắp, căn cơ chẳng bằng, lạc dục chẳng đồng, ở nơi bốn cửa vào tuy khác, tại một cái thấy thật thời gian không biệt. Như bắt được chim là ở nơi một mắt của lưới, chẳng thể dùng một mắt làm lưới. việc trị nước ø là công của một người không thể dùng một người làm nước nhà được. Như luận Nội Đức nói: “Phàm, một giọt nước không thể dùng hòa làm canh, một cây gỗ không thể dựng nên nhà, một chiếc áo không thể vừa các thân hình, một loại thuốc không thể trị các bệnh khác nhau, một sắc màu không thể làm nên văn vẻ đẹp, một tiếng không thể hài hòa cầm sắc, một lời không thể khuyên các thiện, một giới không thể ngăn nhiều lỗi”. Sao được lấy làm quái lạ cái khác Đốn tiệm, khiến pháp môn chỉ chuyên nhất? Nên nói: “Như khi vì một người, lúc chúng đông cũng vậy, như lúc vì chúng đông lúc một người cũng vậy”. Đâu đồng phàm tình kém hiểu mà sanh nhận biết hạn cục. Pháp môn rộng lớn vô ngại của ta đây, như hư không chẳng hình tướng đâu ngại các tướng phát huy, tự như pháp tánh không thân, chẳng ngại các thân chóng hiện, phải dùng nghóa sáu tướng gồm nhiếp, các kiến chấp đoạn thường mới tiêu, dùng mười huyền môn dung thông các tình lấy bỏ mới tuyệt. Lại nữa, nếu được nghe một hiểu ngàn ngộ được Đại tổng trì, do đó luống mượn không nhọc giải thích. Thuyền bè vì đưa người qua bến mê, Đạo sư nhân dẫn kẻ mất lối, phàm then chốt tất cả ngôn thuyên nêu bày ở Viên tông đều là chưa rõ tánh văn tự, xa lìa tức là giải thoát, mê mờ tánh chân thật của các pháp hướng tâm bên ngoài chấp thủ pháp ,mà khởi chấp văn tự, nay lại đem văn tự đối trị chỉ bày chân thật đó. Nếu ngộ bản nguyên của các pháp tức không thấy có văn tự và cả mảy lông phát hiện, mới biết tất cả các pháp tức tự tánh của tâm, thì cảnh trí dung thông, sắc không đều hết, ngay đó thân chứng ngằn mé viên minh, lúc vào một pháp bình đẳng đó lại có pháp nào là giáo mà có thể lìa? Pháp nào là Tổ mà có thể trọng? Pháp nào là Đốn mà có thể thủ? Pháp nào là Tiệm mà có thể quấy? Thì biết đều là thức tâm trở ngược sanh giăng phân biệt. Do đó, Phật Tổ khéo dùng phương tiện kín bày quyền môn, rộng đủ giáo thừa phương tiện hợp hiểu mới được kiến tánh. Ngay đó không tâm, thì thuốc bệnh đều tiêu, giáo quán đều dứt. Như kinh Lăng-già có kệ tụng rằng: “Các trời và Phạm thừa, Thanh văn, Duyên giác thừa, Chư Phật Như Lai thừa, Ta nói các thừa đó. Cho đến có tâm chuyển, Các thừa chẳng cứu cánh, Nếu tâm kia diệt hết, Không thừa và thừa đó. Không có thừa kiến lập, Ta nói là Nhất thừa, Vì dẫn dắt chúng sanh, Phân biệt nói các thừa.” Nên các bậc Tiên đức nói: “Một màng che ở mắt, Ngàn hoa loạn giữa không, Một vọng khởi tại tâm, Có hằng sa sanh diệt”. Màng trừ hoa hết, Vọng diệt chứng chân, Bệnh lành thuốc bỏ, Băng tan tại nước. Thần đón cửu chuyển, Chấm sắt thành vàng, Một lời chí lý, Chuyển phàm thành Thánh. Tâm cuồng chẳng dứt, Dứt tức Bồ-đề, Gương sạch tâm sáng, Xưa nay là Phật. <詞>CHƯƠNG II: HỎI ĐÁP Hỏi: Như điểm nêu trên đã biết đại ý, sao lại phải mở rộng giải thích phần sau? Đáp: Bậc thượng căn lợi trí tập khí đời trước làm sanh ra tri kiến. Mới xem một chữ Tông của đề mục đã toàn vào trong biển trí Phật, vónh viễn dứt trừ mảy may nghi ngờ, chóng tỏ yếu chỉ lớn, thì một lời không gì chẳng lược hết, nhiếp đó không có sót thừa. Nếu xem ngay đến trọn trăm quyển cho đến vô số nghóa thú, Bảo tạng ở Long cung, kim văn ở Thứu lãnh, thì khác thuyết mà không đường. Buông đó khắp cùng pháp giới, vì trước lược sau rộng chỉ là nhất tâm, gốc cuốn ngọn buông đều đồng một ngằn mé, trọn không có yếu chỉ khác có cách biệt tông trước, đều gọi là mê tình vọng khởi lấy bỏ, chỉ thấy văn tự giấy mực, ghét sách vở nhiều, chỉ chấp vắng lặng không ngôn từ nói năng, mừng cho là lược yếu, đều là mê tâm theo cảnh, trái giác hợp trần, chẳng tận cùng bản nguyên của động tónh, chẳng thấu đạt chỗ khởi của một nhiều, lệch sanh cái thấy ham cuộc chỉ sợ nghe nhiều. Như nhiếp sợ pháp không của hàng Tiểu thừa, tợ sự căn vặn các thiện của ma Ba-tuần, vì không thấu đạt tánh chân thật của các pháp, nên tùy các tướng chuyển rơi lạc vào Hữu vô, như kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu người nghe nói một chữ một câu Đại Niết-bàn, chẳng làm tướng chữ, chẳng chấp tướng câu, chẳng chấp tướng nghe, chẳng chấp tướng Phật, chẳng chấp tướng nói. Nghóa như vậy gọi là tướng của không tướng”. Giải thích rằng: Nếu nói tức văn tự không tướng là Thường kiến, nếu nói lìa văn tự không tướng là Đoạn kiến, lại như chấp có tướng tướng cũng là Thường kiến, nếu chấp không tướng tướng cũng là Đoạn kiến. Chỉ mất các thứ tức, lìa, đoạn, thường, tứ cú, bách phi hết thảy các kiến, yếu chỉ đó tự hiện, ngay lúc đích thân hiện vào Tông Kính, có lời văn ,trí biết nào có thể giải thích nêu bài? Do đó, các bậc Tiên đức nói: “Nếu tìm kinh rõ tánh chân như không thể nghe. Nếu tìm pháp ở chân núi Kê túc thì hỏi Ca-diếp. Đại só gìn giữ pháp y ở núi đó, vô tình chẳng cần cầu chuyên giáp đó thì đâu có thể vận tâm thấy nghe hay biết để giải văn tự câu nghóa. Nếu người minh tông đạt tánh tuy rộng mở tìm còn chẳng thấy tướng của một chữ, trọn chẳng làm giải của ngôn thuyên. Vì người mê tâm làm vật, sanh kiến chấp của giấy mực đó vậy. Nên trong “Tín tâm minh” nói: “Sáu trần chẳng ác, lại đồng Chánh giác, người trí không làm, kẻ ngu tự buộc”. Thấu đạt như vậy thì sáu trần đều là chân tông, muôn pháp không gì chẳng là lý diệu Sao hạn cục, ếch ngồi đáy giếng mà mê đối với đại chỉ ư? Đâu biết cảnh giới rộng lớn của chư Phật là môn tác dụng của Bồ-tát. Do đó Long vương ở biển lớn đặt hỏi mười ngàn câu, Đức Phật Thích-ca văn mở tám vạn môn an ủi chúng sanh. Bồ-tát Phổ Tuệ bày hai trăm điều nghi. Đại só Phổ Hiền đáp biện giải hai ngàn nhạo thuyết. Như pháp môn trong chương Phổ Nhãn trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử có người dùng lượng mực như biển lớn, đống bút như núi Tu-di biên ghi một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghóa trong một pháp, một câu trong một nghóa của pháp môn Phổ Nhãn còn chẳng được phần ít huống gì có thể hết cả”. Lại như trong kinh Đại Niết-bàn, Phật dạy: “Hết thảy các pháp Ta đã rõ biết, như nhân mặt đất sanh ra các thứ cỏ cây v.v…. Còn các thứ đều vì chúng sanh mà giảng nói thì như nắm lá trong lòng bàn tay”. Chỉ như giáo pháp Phật đã giảng thuyết đầy cả Long cung, Bồ-tát Long Thọ tạm xem có một trăm- lạc xoa xuất hiện ở nhân gian, ở Tây Thiên còn trăm phần chưa kịp một, phiên dịch đến trung hoa, nên chẳng đủ nói, huống gì pháp chưa thuyết ư? Đó là vô tận diệu chỉ, chẳng phải chỗ hàng trí cạn biết được. Tánh khởi pháp môn, sao hàng giải kém có thể trông xem. Chim yến chim sẻ sao lường nỗi chí chim hồng hộc, ếch ở đáy giếng sao biết sâu thẳm của biển cả. Như sư tử rống kêu, chồn đâu làm được, như hương tượng mang vác, lừa không thể hơn, như vật báu của Tỳ-sa-môn, kẻ bần khổ sao sánh bằng, như kim sí điểu bay các loài chim khác sao có thể kịp? Chỉ y theo tình mà khởi kiến, chỉ đuổi theo vật mà ý đổi thay, hoặc nói có mà chẳng can thiệp đến không, hoặc nói không mà chẳng gồm có, hoặc bàn nói sơ lược làm một của nhiều ngoài, hoặc lập rộng lớn làm nhiều của một ngoài, hoặc lìa im lặng mà chấp nói năng ngôn từ, hoặc lìa ngôn từ nói năng mà cầu im lặng. Hoặc y cứ lý ở ngoài sự, hoặc đắm trước sự ở ngoài lý, rất không thể tỏ ngộ viên tông tự tại đây. Diễn bày rộng chẳng phải nhiều, đó là nhiều của trong một, nêu bày lược chẳng phải một, đó là một của trong nhiều, đàm nói không chẳng đoạn đó tức là không của hữu, luận hữu chẳng thường, tức là hữu của không. Hoặc có nói cũng được, đó tức là nói năng trong tức im lặng, hoặc không nói cũng được, im lặng trong tức nói năng, hoặc lý sự tương tức cũng được, lýđó là của lý thành sự, đó là sự hiển lý. Hoặc lý lý tương tức cũng được, vì một như không hai như chân tánh thường dung hội. Hoặc sự sự tương tức cũng được, đó là sự của toàn lý, mỗi một vô ngại. Hoặc lý sự chẳng tức cũng được, vì lý của toàn sự chẳng phải sự sở y chẳng phải năng y do không ẩn chân đế, vì sự của toàn lý chẳng phải lý năng y do chẳng phải sở y không hoại tục đế. Đó thì còn hết trong một ngằn mé, ẩn hiện đồng thời. Như xiển dương pháp môn của Phổ Nhãn đều là nghóa của trong lý, tợ như buông đại thiện quyển kinh, chẳng phải nêu văn ở ngoài tâm. Nên trong kinh nói: “Một pháp hay sanh vô lượng nghóa”. Chẳng phải chỗ Thanh văn, Duyên giác biết được, chẳng đồng với thuyên đản không, đơn điệu và kiến quyết định, thiện khô. Nay diệu chỉ vô tận này nêu một pháp mà quyến thuộc theo sanh, tánh tông viên mãn cử một môn mà các môn đều họp lại. Chẳng phải thuần, chẳng phải tạp, chẳng phải một chẳng phải nhiều, như năm vị cùng hòa trong canh, các lụa tạp thành sắc màu đó, các vật báu thành kho tàng đó, trăm thứ thuốc thành viên đó, bên cạnh phô bày dung thông nghóa vị khắp đủ, tìm vi chọn diệu đều trong Tông Kính, y báo chánh báo lẫn lộn dung hòa nhân quả vô ngại, nhân pháp không hai, trước sau đồng thời. Phàm, cử một môn đều hay viên nhiếp vô tận pháp giới, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải nhiều chẳng phải một, buông đó thì giẫm vào lớp lớp, cuộn đó thì chân môn tịch tịch. Như trong kinh Hoa Nghiêm, trong tòa sư tử trang nghiêm đủ ở trong, mỗi tòa xuất hiện một thế giới Phật, có vô số thân Bồ-tát ,vân tập, đó là y báo chánh báo nhân pháp vô ngại. Lại như giữa khoảng chặng mày Đức Phật phát ra âm thanh thù thắng ngang bằng thế giới Phật có vô số Bồ-tát. đó là nhân quả trước sau vô ngại, cho đến cõi nước như vi trần, mỗi mỗi đầy đủ vô biên trí đức,lỗ chân lông và thân phần mỗi mỗi dung nhiếp pháp môn rộng lớn, cớ sao lỳ lạ khó nghó như vậy? Bởi nhất tâm dung tức nên vậy. Lấy điểm cốt yếu mà nói đó, chỉ hết thảy vô biên Phật sự sai biệt đều chẳng lìa vô tướng chân tâm mà có. Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Phật trú chân pháp tánh thậm thâm, Vắng lặng không tướng đồng hư không, Nhưng ở trong thật nghóa đệ nhất, Bày hiện các thứ việc thực hành. Các việc làm vì lợi ích quần sanh, Đều nương pháp tánh mà được có, Tướng và vô tướng không sai biệt, Vào trong cứu cánh đều vô tướng”. Lại nữa, luận Nhiếp Đại thừa có kệ tụng rằng: ”Ngay các Tam-ma-địa, Đại sư nói là tâm, Vì do tâm vẽ vời, Như các sự nghiệp”đã làm Nên biết việc làm của phàm hay Thánh, chân hay tục duyên sanh, ngay trong một niệm tâm sanh khởi trong sát-na, tức đầy đủ sáu nghóa của ba tánh và ba vô tánh. Nghóa là tâm của trong một niệm là pháp duyên khởi, là y tha khởi, tình chấp có thật tức là thể của biến kế sở chấp, vốn không tịch tức là viên thành, tức y cứ ba tánh giảng nói ba vô tánh nên sáu nghóa đầy đủ vậy. Nếu một niệm tâm khởi đầy đủ sáu nghóa đó tức đầy đủ hết thảy pháp. Vì tất cả muôn pháp chân hay tục đều không vượt ngoài ba tánh và ba vô tánh. Trong luận Pháp Tánh nói: “Phàm tại khởi diệt đều chẳng phải tánh,vì khởi tánh không khởi nên tuy khởi mà chẳng thường, diệt không tánh diệt, tuy diệt mà chẳng đoạn. Nếu đó có tánh thì vùi lấp nơi lưới của tứ kiến”. Lại nói: “Tầm tướng để suy tánh, thấy vô tánh của các pháp, tầm tánh để cầu tướng, thấy vô tướng của các pháp. Do đó, tánh tướng hỗ tương suy tầm thảy đều vô tánh. Do đó, nếu chấp có tánh thì rơi lạc rừng tà của tứ kiến, nếu rõ tánh không quy về chánh đạo của nhất tâm”. Nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tự vào sâu pháp chân thật không tự tánh, cũng khiến kẻ khác vào không tự tánh chân thật. Tâm đó được an ổn”, dùng diệu đạt đó mới vào tông đây, thì mỗi mỗi vật đều ngầm chân, mỗi mỗi ngôn từ đều khế hợp yếu chỉ. Nếu chưa xác thực chẳng phát viên cơ, nói đó thì trái với tông, im đó thì khiến mất hẳn, đâu có thể dùng bốn cú mà chấp thủ chỗ biết của sáu tình ư? Chỉ Tổ giáo đều thí định tuệ song chiếu, tự lợi lợi tha thì không lỗi vậy. Giả sử có chấp chặt mình hiểu, không tin lời Phật, khởi tự chướng tâm, tuyệt đường học khác. Nay có mười câu hỏi để định về kỹ cương lại được rõ ràng kiến tánh, như ban ngày trông thấy sắc, tợ Văn-thù v.v… chăng? Lại gặp duyên đối cảnh thấy sắc nghe tiếng, giở chân đặt chân mở mắt nhắm mắt đều được minh tông, cùng đạo tương ưng chăng? Lại xem thấy giáo điển một đời Đức Phật giảng nói và ngôn cú của chư Tổ sư từ xưa trước, nghe sâu chẳng khiếp sợ, đều được chắc thật rõ ràng không nghi ngờ chăng? Lại nhân sai biệt hỏi nạn các thứ cật vấn nhỏ nhiệm có thể đầy đủ bốn biện, đều dứt tâm nghi ngờ khác chăng? Lại ở trong tất cả thời tất cả chỗ, trí chiếu không ngưng trệ, niệm niệm viên thông, không thấy một pháp có thể làm chướng ngại, chưa từng trong một sát-na tạm khiến gián đoạn chăng? Lại đối với hết thảy cảnh giới thuận nghịch tốt xấu ngay lúc hiện tiền chẳng bị gián cách hết thảy thức được phá chăng? Lại đối với Bách pháp minh môn trong tâm và cảnh, mỗi mỗi được thấy thể tánh vi tế nơi căn nguyên khởi, chẳng bị chỗ sanh tử căn trần làm hoặc loạn chăng? Lại đối với trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, cung kính vân đáp đối mặc áo ăn cơm làm việc, lúc hành xử mỗi mỗi đều làm, được chân thật chăng? Lại nghe nói có Phật không Phật, có chúng sanh không chúng sanh, hoặc tán thán hoặc hủy hoại, hoặc phải hoặc quấy, có được nhất tâm bất động chăng? Lại nghe trí sai biệt đều hay hiểu rõ, tánh tướng đều thông, lý sự không ngưng trệ, không có một pháp chẳng soi xét căn nguyên đó, cho đến ngàn Thánh xuất hiện nơi đời, có được không nghi ngờ chăng? Nếu thật chưa được công như vậy, thì không đượckhởi tâm khi dôi quá độ , sanh ý tự biết đủ. cần phải rộng mở chí giáo, thông hỏi các bậc tiên tri, thấu triệt căn nguyên tự tánh Phật Tổ, đạt đến chỗ tuyệt học không nghi ngờ. Lúc đó mới có thể thôi học, hết dứt tâm dạo chơi. Hoặc tự phân biệt thì Thiền quán tương ưng, hoặc vì người khác thì phương tiện chỉ bày. Nếu chẳng thể tham tầm khắp pháp giới, rộng nghiên cứu các kinh, chỉ xem kỹ trong Tông Kính, tự nhiên được vào, đó là cốt yếu của các pháp, là cửa đến đạo, như giữ mẹ để biết con, được gốc mà biết ngọn, giở lưới mà lỗ lỗ đều ngay kéo áo mà sợi sợi đều lại. Lại như dùng gân sư tử làm dây đàn, một khi đánh trổi âm thanh thì hết thảy các dây đàn khác đều đứt hư. Sức của Tông Kính đây cũng lại như vậy. Nêu đó mà muôn loại ngầm sáng, hiển bày đó mà các môn hết vết tích. Dùng một tắc đó thì phá cả ngàn đường, đâu cần khổ cực trải qua bến ải riêng sanh đường gập ghềnh? Do đó, Hòa thượng Chí công có lời ca rằng: “Sáu giặc hòa quang đồng trần, Không sức đại nạn xô đẩy, Trong phát giải không vô tướng, Sức Đại thừa có thể lật lại”. Chỉ tại lúc cao xét được yếu chỉ, mới có thể nghiệm văn đó cứu cánh chân thật.  TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 2 Hỏi: Phàm, cảnh của chư Phật tónh lặng, cõi của chúng sanh vốn không. Vậy, có nhân duyên gì mà dấy khởi giáo tích? Đáp: Trong nhất thật đế tuy không khởi tận, mà trong môn phương tiện có đại nhân duyên. Nên trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng rằng: “Các pháp thường không tánh, Phật chủng theo duyên sanh”. Vì muôn pháp thường không tánh, lúc không gì chẳng tánh không, pháp đó hay tùy duyên, tùy duyên chẳng mất tánh. Vả lại, nguyên do khởi giáo có vô lượng nhân duyên, các bậc cổ đức lược nêu có mười thứ: Một là, vì pháp như thế; hai là,vì nguyện lực; ba là, vì cơ cảm; bốn là vì làm gốc; năm là vì hiển đức; sáu là vì hiện vị; bảy là vì khai phát; tám là vì thấy nghe; chín là vì thành hạnh; mười là vì đắc quả. Nay các Đại Bồ-tát nhóm tập luận Duy thức v.v… đại ý có hai thứ: Một là; vì thấu đạt chánh tông của muôn pháp, phá tà chấp của Nhị không; hai là, vì đoạn chướng của phiền não sở tri, chứng môn giải thoát Bồ-đề. Đó thì tự chứng pháp Nguyên Chân Địa Bản Giác, chẳng ở văn tự câu nghóa xiển dương, nay vì người học sau mến mộ đạo nên phương tiện nhóm tập, lại tự có hai ý dùng phô bày bản hoài: Một là: vì người ưa thích lược mà nhón rút then chốt cốt yếu đó, tinh thông yếu chỉ khỏi, phải xem đọc văn nhiều; hai là, vì người chấp tổng chẳng rõ biệt lý, vi tế mở bày tánh tướng viên thông, chuyển tải hai thứ căn của sanh tử, nối theo đạo Bồ-đề nhất vị, kính ngưỡng đại chỉ của các kinh, rõ thẳng tự tâm, tuân theo vi ngôn của chư Thánh, chóng mở giác tạng, bỏ kiến y thông kia, phá tình tà chấp đó, tin sâu vào chánh tông, khiến biết mặt nguyệt chẳng tại ngón tay, soi chiếu trở lại, khiến thấy tánh chẳng theo văn, chỉ chứng tương ưng. Đó là bản ý, không thể trở lại sanh hiểu biết đắm chìm sông kiến, ở trong vô đắc quán, ôm ấp ý thú hướng, ngay trên lý chân không dấy khởi tâm thủ xả, dẫn từ lòng ngực, nghi ngộ người học sau, phải đích thân thấy tánh mới hiểu tông này. Hỏi: Đã lo chấp ngón tay đắm theo văn, sao lại phiền rối nhóm tập giáo điển? Đáp: Vì người trái với chính mình hợp với trần, hiểu từ lời văn, sợ bít giáo trệ tình, nên có thuyết này. Nếu người theo thuyên giải mà thấu rõ yếu chỉ,ngay giáo minh, thì có gì lấy bỏ. Do đó, pháp sư Tạng nói rằng: “Tự có chúng sanh tầm giáo được chân hiểu lý giáo không ngại, thường quán lý mà chẳng ngại trì giáo, luôn tụng tập mà chẳng ngại quán không, thì lý giáo đều dung hợp thành nhất quán, mới là cứu cánh truyền thông vậy. Đó là giáo quán nhất như, thuyên chỉ đồng nguyên vậy. Hỏi: Các kinh luận lớn tự thành mảnh đoạn, khoa tiết tuần tự, câu nghóa rõ ràng, sao giả mượn nhón lược văn rộng làm thành yếu lược đó? Đáp: Chỉ vì biển giáo rộng sâu, nghiên cùng đó không biết được ngằn mé, trời nghóa cao lớn rộng, ngưỡng trông đó chẳng được lằn biên. Nay thì dùng ống nhỏ nhìn trời, lấy vỏ nghêu múc nước biển, như vốc từng giọt của biển cả, tợ nhặt một mảy trần của hoa đốm hư không, vốn vì nghóa rộng khó khắp tình còn nhàm biếng, cũng vì chẳng nương theo chánh lý của Nhất thừa giáo, chỉ theo nhân duyên Bất liễu nghóa, ít thấu cùng môn ngang dọc, chẳng biết nơi khởi tận, do đó lược bỏ rườm rà chọn bớt khác lạ, tham tầm huyền diệu, tuy văn chẳng đủ, mà đại nghóa chu toàn, duyên chẳng đầy mà chánh lý hiển bày, sưu tầm hết yếu chỉ của Nhất thừa, chon lựa mở căn nguyên của muôn pháp. Làm chất nhiệm mầu của Bát-nhã, làm đường cốt yếu của Bồ-đề, thì tư lương dễ biện chóng đến Đại thừa, chứng nhập vô ngại, khỏi quanh co đường nhỏ. Do đó, Bồ-tát Mã Minh tạo luận Khởi Tín, nói: “Hoặc có người tự mình không có sức trí, nhân người khác luận rộng mà được hiểu nghóa, vui thích nghe lược luận nhiếp nghóa rộng lớn mà chánh tu hành. Ta nay vì hạng người sau cùng đó mà lược nhiếp nghóa tối thắng thậm thâm vô biên của Đức Như Lai mà tạo luận này”. Trong luận Du- già nói: “Có hai duyên nên nói luận này: Một là, vì pháp giáo của Đức Như Lai trụ lâu nơi đời; hai là, vì bình đẳng lợi ích an lạc các hữu tình. Lại vì Thánh giáo cam lộ của Đức Như Lai đã ẩn một, nên nghó nhớ nhóm nhặt mở bày lại. Vì chưa ẩn một thì hỏi đáp quyết trạch tô bồi hưng thạnh. Lại vì nhiếp người vui thích sơ lược ngôn luận chuyên cần tu hành. Chọn nhóm pháp nghóa quảng yếu của các kinh mà lược phân biệt”. Nay bộ Lục này, tuy không có công chế tạo rộng lớn, chỉ có một việc mong cầu thuật thành, cũng biết sao lục trước sau sức văn chẳng chu toàn, chỉ mong lấy ngay cốt yếu thuyên giải và làm sáng tỏ tông chỉ. Như từ đá mà chọn ngọc, tợ vạch cát mà lượm vàng, ở trong các thứ thuốc chỉ lấy tinh diệu của A-đà, đến trong vật báu chỉ chọn lấy châu như ý. Nêu một mà che cùng, dùng gốc nhiếp ngọn, thì một lời không gì chẳng lược hết. Khác thuyết mà lại không khác đường, cũng mong các bậc hậu Hiền chưa bày than trách chê cười, vì mong dứt nghi sanh tin, chỉ lấy kiến đạo làm điểm nghó nhớ, chẳng vì theo hư danh để chuốc lấy danh dự ở đời. Mong suốt tận đời vị lai, khắp cùng trong pháp giới, trải qua các đời kiếp thường hoằng dương đạo đó. Phàm, người có tâm đều vào tông đây, bỏ chấp trừ nghi, thấy nghe được lợi ích, nhờ sức Tam bảo gia bị hộ trì. Thề nguyện báo đáp ân đức của Phật, rộng làm lợi ích quần sanh. Hư không có thể cùng tận, nguyện đây chẳng đổi thay, pháp giới có thể cùng tận, văn đây chẳng rơi lạc. Hỏi: Đại thừa liễu nghóa rộng lược đều khắp đủ, giải một nghóa đủ cái thấy viên mãi thông suốt, nghe một kệ có công thành Phật. Sao mượn thuật thành bèn phiền giải thích? Đáp: Với người thượng thượng căn, một nghe ngàn ngộ, tánh tướng đều viên mãn. Còn đối với hàng trung căn hạ căn, phải nhờ mở bày đạo trang nghiêm, môn tán thán nghiêm sức so lường công đó không thể thí dụ, nên trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng rằng: “Thí như hoa ưu-đàm, Tất cả đều ưa thích, Hiếm có trong trời, người, Lâu xa mới xuất hiện. nghe pháp vui tán thán, Cho đến phát một lời, Thì là đã cúng dường, Chư Phật trong ba đời, Người đó rất hiếm có, Quá hơn hoa ưu-đàm.” Trong kinh Bát-nhã có kệ tụng rằng: “Bát-nhã không hoại tướng, Hơn tất cả ngôn ngữ, hợp không nơi y chỉ, Ai hay tán đức đó? Bát-nhã tuy không tán, Nay ta hay được tán, Tuy chưa thoát chỗ chết, Thì là đã được ra”. Lại như các bậc Thánh xưa nói: Như Bồ-tát tạo luận gọi là Trang Nghiêm kinh, như hoa sen chưa nở, thấy tuy sanh vui mừng, chẳng bằng đã nở rộ, mùi hương thơm tỏa ngát. Lại như vàng chưa dùng, thấy tuy sanh vui thích, chẳng như dùng đó làm vật trang nghiêm”. Nên biết khéo một niệm hoằng giáo, có khả năng báo đáp ân đức chư Phật ở mười phương. Luận hiếm có thì như hoa có tên ưu-đàm, thuyết tỏa sáng thì tợ vàng dùng làm vật trang nghiêm. Vì vậy, Bồ-tát khai mở yếu chỉ vi mật của Đại thừa, nghe điều chưa từng nghe, hay đoạn nghi ngờ sâu xa, thành tựu kính tin đầy đủ, pháp lợi nào cùng tận, công đức vô biên. Như trong kinh Đại Bát-nhã nói: “Lại nữa, Kiều-thi-ca! Ngay như các loài hữu tình ở Thiệm bộ châu, như các loài hữu tình ở bốn Đại châu, như các loài hữu tình trong Tiểu thiên giới, như các loài hữu tình trong Trung thiên giới, như các loài hữu tình trong Đại thiên giới. Lại như các loài hữu tình ở các thế giới trong mười phương mỗi mỗi số nhiều như cát sông Hằng v.v… đều đối với đạo Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề được không thối chuyển, đồng nói lời rằng: “Nay ta vui thích mau chứng Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề cứu giúp các khổ của loài hữu tình, khiến được an lạc thù thắng rốt ráo”. Có thiện nam, tín nữ nào vì thành việc ấy, biên ghi Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng các vật báu trang nghiêm cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán, thí khắp các hữu tình kia thọ trì đọc tụng, khiến khéo thông lợi, đúng như lý mà tư duy. Ý ông nghó thế nào? Người thiện nam, tín nữ đó do nhân duyên ấy được phước nhiều chăng?” Thiên Đế Thích đáp: “Rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều, bạch Đấng Thiện Thệ”. Khi ấy, Phật bảo Thiên Đế thích rằng: “Như người thiện nam, tín nữ biên ghi Bát-nhã ba-la-mật- đa, dùng các vật báu trang nghiêm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, đối với trong chúng hữu tình kia tùy thí cho một người thọ trì đọc tụng, khiến khéo thông lợi, đúng như lý mà tư duy, dùng vô lượng môn văn nghóa xảo diệu rộng vì giải thích, phân biệt nghóa thú, khiến đó hiểu rõ, dạy răn trao truyền khiến chuyên cần tu học. Người thiện nam, tín nữ đó có được phước đức rất nhiều so với người trước vô lượng vô biên không thể tính kể”. Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo: Này thiện nam! Trừ hành Nhất-xiển-đề, còn các chúng sanh khác nghe kinh đây rồi thảy đều hay làm nhân duyên Bồ-đề, tiếng pháp tỏa sáng vào trong lỗ chân lông, hẳn nhất định sẽ đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tại sao? Nếu có người hay cúng dường cung kính vô lượng chư Phật mới là được nghe kinh Đại Niết-bàn. Người phước mỏng thì không thể được nghe”. Nên biết nếu được nghe thật tướng nhất tâm pháp môn thường trú ghi Tông Kính, đều là xưa trước đã từng kết nhân sâu xa, từng thân gần dự nơi pháp hội chư Phật, rất là đại sự, chẳng thuộc tiểu duyên, như chưa nghe và huân tập, thì do đâu mà được gặp. Lại như cũng trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp!! Nếu có người thiện nam, tín nữ nên biết người đó theo chỗ Ta thực hành đến nơi Ta đến”, do đó, tin pháp nhân đây tức phàm tức Thánh, tu trì khế hội, trụ trong nơi Phật trụ, đi đứng oai nghi, thực hành, theo vết tích sở hành của Phật. Trong luận Thích Ma-ha-diễn nói: Một là: hiển bày lìa môn nghi ngờ tin vào công đức. Nghóa là có chúng sanh nghe pháp môn thậm thâm cực diệu quảng đại của Ma-ha-diễn đây ngay trong tâm họ cũng chẳng nghi sợ, cũng chẳng khiếp nhược, cũng chẳng khinh tiện, cũng chẳng phỉ báng. Phát tâm quyết định, pháp tâm kiên cố, phát tâm tôn trọng, phát tâm mến tin, nên biết người đó là Phật tửø chân chánh. Chẳng đoạn giếng pháp, chẳng đoạn giếng tăng, chẳng đoạn giếng Phật, thường luôn tương tục triển chuyển tăng trưởng đến tận tương lai. Cũng là chỗ được chư Phật xác thực thọ ký, cũng là chỗ được hết thảy vô lượng Bồ-tát hộ niệm. Nên như luận nói: Nếu người nghe pháp này rồi, chẳng sanh khiếp sợ, nên biết người đó nhất định tiếp nối làm ngời sáng giếng Phật, nhất định được chư phật thọ ký. Hai là, so sánh loại đối trị chỉ bày môn ưu thắng, nghóa là nếu có người hay khéo nhiếp hóa chúng sanh khắp đầy trong ba ngàn Đại thiên thế giới thảy đều không dư, khiến thực hành Thập thiện. Hoặc có chúng sanh chỉ chừng trong khoảng bữa ăn đối với pháp thậm thâm đây, quán sát tư lương. Nếu so sánh công đức của hai người đó, thì người thứ nhất có được công đức rất là bé, thí như hạt cải nghiền nát thành trăm phần. Còn người thứ hai có được công đức rất là rộng lớn, thí như nghiền nát số vi trần trong mười phương thế giới làm lượng. Nên như luận nói: Giả sử có người hay chuyển hóa chúng sanh đầy trong ba ngàn Đại thiên thế giới, khiến thực hành Thập thiện, chẳng bằng có người chỉ trong khoảng bữa ăn tư duy chân chánh pháp này, công đức có được quá hơn người trước không thể thí dụ. Ba là, nêu môn thọ trì công tán thán, nghóa là có người thọ trì luận đây, quán sát nghóa lý, hoặc một ngày một đêm, trong thời gian đó có được công đức vô lượng vô biên, không thể nói năng, không thể nghó lường. Giả sử như hết thảy chư Phật trong mười phương ba đời, hết thảy Bồ-tát trong mười phương ba đời dùng số lưỡi nhiều như vi trần trong các thế giới khắp mười phương. mỗi mỗi thảy đều nơi vô số kiếp không thể tính kể trong các thế giới khắp mười phương để tán dương công đức của người đó có được cũng không thể cùng tận. Tại sao? Công đức của pháp thân chân như ngang bằng Hư không giới, không có ngằn mé, huống gì hạng người phàm phu Nhị thừa hay xưng tán đó, một ngày một đêm chẳng hơn trong thời gian đó, người thọ trì có được công đức còn không thể nghó bàn, huống gì hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến trăm ngày thọ trì đọc tụng tư duy quán sát không thể nghó bàn, không thể bàn nói trong không thể bàn nói, nên như luận nói: Lại nữa, nếu người thọ trì luận này, quán sát tu hành hoặc một ngày một đêm, có được công đức vô lượng vô biên, nói bàn không thể được. Giả sử chư Phật trong mười phương mỗi mỗi đều ở trong vô lượng vô biên A tăng-kỳ kiếp tán thán công đức đó, cũng không thể cùng tận. Tại sao? Nghóa là công đức pháp tánh không có cùng tận, công đức người đó cũng lại như vậy, không có ngằn mé”. Nên biết tin tâm tông đây thành Ma-ha-diễn, đồng sở chủng của chư Phật trong ba đời, nghóa lý nào cùng ngang bằng như sở thừa của chư Bồ-tát ở mười phương, công đức không cùng tận. Chợt gặp huyền hóa đây thì niềm vui và sự may mắn càng sâu, thuận theo yếu chỉ Phật mà báo đáp ân Đức Phật, không gì trước bằng hoằng pháp, xiển dương mặt trời Phật mà mở bày Phật nhãn, chỉ tại sáng tâm. Đối với trong Tông Kính đây, nếu được một câu nhập thần trải qua nhiều đời kiếp làm hạt giống, huống gì chánh tín sâu sắc gồm trong các kinh. Một người đây là một trong vô lượng người, nếu nhiễm pháp này tức là hạt giống của Viên đốn, có thể gọi là cam lồ rót vào đỉnh đầu, đề hồ rưới đượm tâm đèn, tuệ tỏa sáng không hai, phá lầm hoặc mờ tối của tình căn, rót rước trí một mùi vị, tẩy rửa vọng trần của ý địa. Hay khiến chướng dày ngăn sau, như gió dữ thổi cuốn lá sắp rụng, nghi buộc trệ chứa, như mặt nhật nóng đốt tan băng. Như trong các vương làm Kim luân vương, ở trong các soi chiếu làm soi chiếu của mặt trời mới mọc, ở trong các vật báu làm báu ma-ni, ở trong các hoa làm hoa sen xanh, ở trong các đế làm môn chân không, ở trong các pháp làm vườn nhà Niết-bàn. Nên trong kinh Kim Cang Tam-muội có kệ tụng rằng: “Pháp ấn của một vị, Sở thành của Nhất thừa, Hay ở trong tất cả chúng sanh, Đứng đầu, làm bật thầy, Làm minh làm dẫn dắt”. Như kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói: “Trong hết thảy pháp, tâm làm thượng thủ”. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Chư Phật ba đời đều dùng các pháp thật tướng làm thầy”. Tổ sư nói: “Trong các thứ sáng tỏ, tâm sáng là trên hết”. Trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng rằng: “Đấng đạo sư thứ nhất, Được pháp vô thượng đó”. Lại nếu chưa vào Tông Kính, chẳng phải chỉ không được kiến đạo, thật là lý tuyệt tu hành, ngay gốc lập nói sanh, trở về căn mới cứu cánh. Như quán xét bản chất, biết tượng họa chẳng phải thật. Nếu rõ tạng tánh, thấy cảnh trần mà chẳng vọng. Nên trong kinh có kệ tụng rằng: “Phải chứng được chân như, Mới hay rõ các hành, Giống như các việc huyễn v.v… Tợ có mà chẳng chân”. Do đó, nếu được gốc tức được ngọn. Nên trong kinh Hoa Nghiêm, Hải Hội Bồ-tát dùng pháp giới vi trần lấy làm Tam-muội. Lại trong phẩm Xuất hiện nói: “Pháp môn này gọi là nơi bí mật của Như Lai, cho đến gọi là diễn thuyết pháp thật tánh căn bản cứu cánh không thể nghó bàn của Như Lai”. Nên các bậc Tiên đức nói: “Vạch mở kinh quyển của vi trần thì niệm niệm quả thành. Cùng tận nguyện môn của chúng sanh thì trần trần hạnh mãn”. Chưa ngộ Tông Kính sao có thể tin được văn đó? nếu tạm tin đó, công sức hẳn ngang bằng, chẳng đổi thay điều hành tập, tận cùng đầy đủ pháp môn, tức bít tức thông, tức tà tức chánh. Do đó, người xưa nói: “Người gặp được giáo đây, nên phải tự vui mừng, đó như đắm trong biển lớn mà được gặp thuyền tốt, tợ rơi rớt giữa không trung mà được cưỡi hạc linh vậy”. Hỏi: Phàm, tỏ bày hoằng giáo, khai thị cảm hóa người, cần phải tự thực hành, công hạnh viên mãn, trải qua các địa vị thân chứng, mới báo đáp bản nguyện mở bày môn phương tiện, thì điều lợi ích chẳng phải hư rỗng, chẳng trái với chánh giáo. Còn nay ghi chép đây, có gì để chứng minh? Đáp: Đây chỉ là gom tập giáo ngôn của Phật Tổ và chư Bồ-tát, nên gọi là “Lục”ghi chép. Bày có hỏi đáp giải thích, đều y theo đại ý của cổ đức, tựa nương tán thán khuyên tu, thuật thành chí giáo. Đâu dám liền xưng là khai thị, dối có chỉ bày. Vả lại, phàm chánh tông của Phật Tổ, thì thật chỉ thức tánh mới có chỗ tin, đều có thể vì người. Nếu luận về môn tu chứng, các phương đều nói: “Công chưa ngang bằng so với các Thánh”. Vả lại, trong giáo có cho phép Bồ-tát sơ tâm đều có thể so sánh biết, cũng cho phép giáo mà hội, trước dùng nghe hiểu tin vào, sau dùng không suy tư khế đồng. Nên vào cửa tin bèn lên Tổ vị. Nay tập Tông Kính này, chứng nghiệm vô cùng, theo nghó đều thông, ghé mắt đều phải. Nay tạm hiện theo việc của thế gian, ở trong cõi chúng sanh Một là so sánh biết, hai là, hiện biết, ba là, từ giáo mà biết. Thứ nhất so sánh biết, như hiện nay với thân hữu lậu, đêm ngủ đều có mộng, cảnh giới tốt xấu thấy trong mộng, hẳn rõ ràng có lo mừng, lúc tỉnh giấc nằm yên trên giường nào từng là thật? Đều là chỗ làm của ý thức tư tưởng ở trong mộng đều có thể so sánh biết, việc thấy trong lúc thức tỉnh đều không thật như trong mộng. Phàm cảnh giới của ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, nguyên là thức thứ tám A-lại-da thân gần tướng phần. Chỉ sở biến của bản thức, như cảnh của hiện tại là ý thức minh liễu phân biệt. Còn cảnh của quá khứ và tương lai là ý thức tư duy riêng tan mờ tối. Cảnh của mộng tỉnh tuy khác nhưng đều chẳng vượt ngoài ý thức, thì yếu chỉ của duy tâm so sánh tình huống rõ ràng. Thứ hai hiện biết, tức là đối với sự rõ ràng chẳng đợi phải lập, huống lại, như lúc hiện thấy vật xanh trắng, vật vốn tự hư dối, chẳng nói ta là xanh ta là trắng, đều là kiến phần nhãn thức tự tánh nhậm vận phân biệt cùng đồng thời với ý thức minh liễu tính lường phân biệt làm xanh làm trắng, vì ý thức làm xanh, vì nói năng làm xanh, đều là ý thức và nói năng tự vọng đặt bày. Vả lại, như sáu trần kém chậm nên thể chẳng tự lập, danh chẳng tự gọi, một sắc đã vậy muôn pháp cũng vậy, đều không tự tánh đều là ý thức nói năng. Nên nói muôn pháp vốn nhàn tỉnh mà người tự ồn náo. Do đó, nếu lúc có tâm khởi muôn cảnh đều có, nếu nơi tâm không khởi muôn cảnh đều không, thì không chẳng tự không, nhân tâm nên không, có chẳng tự có nhân tâm nên có. Đã chẳng phải không chẳng phải có thì duy thức, duy tâm. Nếu không ở tâm, muôn pháp sao nương gá? Lại như cảnh của quá khứ nào từng là có, tùy nơi niệm khởi, chợt nhiên hiện tiền, nếu tưởng chẳng sanh, cảnh trọn chẳng hiện. Đó đều là chúng sanh thường dùng hằng ngày có thể hiện biết, chẳng đợi công thành, đâu nhờ tu đắc, phàm là có tâm, đều có thể chứng biết. Nên các bậc Tiên đức nói: Như người đại căn biết duy thức là thường quán tự tâm, ý thức nói năng làm cảnh người, đó lúc mới quán tuy chưa thành Thánh, phần biết ý thức nói năng thì là Bồ-tát. Thứ ba ước giáo mà biết là, kinh nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Đây là bản lý sở chứng, chánh tông năng thuyên. Nói rộng văn sau thật để chứng minh chẳng phải chỉ một. Như luận Thành Thật nói: “Phật giảng nói lời trong ngoài và khoảng giữa, bèn liền nhập định, bấy giờ có năm trăm vị A-la- hán, mỗi tự giải thích lời đó, sau khi Đức Phật xuất định, đồng thưa hỏi: “Thế Tôn! Ai là người giải đúng ý Phật?” Phật bảo: “Chẳng phải ý Ta”. Lại bạch Phật rằng: “Đã chẳng đúng ý Phật, sao không mắc tội?” Phật bảo: “Tuy chẳng phải ý Ta, nhưng mỗi mỗi đều thuận chánh lý đáng làm Thánh giáo, nên chỉ có phước không tội”. Vả lại, như thuyết pháp môn tự chứng của Tiểu thừa còn thuận chánh lý, huống gì thuần dẫn Nhất thừa, chỉ đàm nói yếu chỉ của Phật ư? Lục Hạnh Pháp nói: “Những người trí lớn muốn học đạo chớ hỏi là Đại hay Tiểu, đều y cứ lý giáo. Nếu thấy Quyền giáo, tuy là Phật giảng nói nhưng biết đó chẳng phải thật ngữ, tức chẳng y cứ theo. Nếu thấy người phàm giảng nói có lý, tuy chẳng phải Phật ngữ cũng nên y cứ thực hành”. Vì người có trí học Phật pháp khéo hiểu giáo của Như Lai có quyền có thật. Y cứ Phật thật giáo tuyên thuyết đạo lý, thì là người quá phàm ngu sai lầm chấp quyền. Do đó, người trí nếu có điều giảng nói, người tuy là phàm, mà pháp đồng như Phật, như bình chuyền nước rót vào các bình khác, bình tuy có khác nhưng nước rót chỉ có một. Do đó, phàm phu kết nghiệp tuy chưa hết nhưng chẳng ngăn ngại có giải hiểu hay nói thật nghóa, chỉ khiến giải lý. Tâm số tư lương. Hàng mới đầu quán lý đó thì khác với các phàm phu khác, nghóa là, tư duy nhân không tức là Nhị thừa, nếu quán pháp không tức là Bồ-tát. Nên trong luận Nhiếp Đại thừa nói: “Mới đầu tu quán thì là phàm phu Bồ-tát”. Dùng văn đó để chứng minh thì người mới học quán, tuy chưa đoạn kết nghiệp, tức là Bồ-tát, vì hay giải lý đồng với Đại thánh. Giảng thuyết thì hợp lý, mỗi mỗi đều đáng y cứ. Trong kinh Bảo Khiếp nói: “Giống như chim Ca-lăng-tần-già, chim con đang nằm trong trứng, mỏ nó chưa xuất hiện, bèn đã phát ra âm thanh vi diệu của chim Ca-lăng-tần-già. Các Bồ-tát v.v… tuy ở trong trứng Phật pháp, chưa hoại diệt ngã kiến, chưa vượt ra ba cõi, nhưng hay giảng nói Phật pháp với âm thanh vi diệu. Nghóa là các pháp không vô tướng vô tác, thực hành âm thanh Ca-lăng-tần-già đến trong đàn chim khổng tước trọn chẳng kêu hót ư? Lại đến trong đàn chim Ca-lăng-tần-già mới phải kêu hót ư? Bồ-tát nếu đến trong tất cả chúng Thanh văn, Duyên giác, trọn chẳng diễn nói pháp của chư Phật chẳng thể nghó bàn, đến trong chúng Bồ-tát đó mới diễn nói vậy”. Lấy đoạn văn này để chúng minh, trong phàm phu địa, tội lỗi tuy chưa hết nhưng chẳng ngăn ngại giải hiểu sâu sắc. Với người giảng nói có lý, đều đáng tin nhận. Các phàm phu giảng nói có lý đều là xưa trước đã học tập thực hành chẳng phải ngày nay mới học. Nếu chẳng phải xưa trước đã học tập thực hành, ngày nay mới học đến già chỉ gọi là người khác nói, còn tự mình vẫn mê lý, vì mê lý, tuy được giảng nói nhiều vẫn chưa giải hiểu quyền hay thật. Giảng nói thì trái với lý. Nếu người giải hiểu lý, chẳng phân chọn già trẻ, chỉ cầu đạo, chẳng cần sự, chỉ y cứ pháp, chẳng y cứ người. Như Tôn giả A-thấp-bà-thị nhân Xá-lợi-phất thầy gặp cần cầu giáo pháp, liền nói kệ đáp rằng: “Tôi tuổi còn trẻ nhỏ, Thường ngày học cạn cợt, Đâu thể nói chí chân, Giảng rộng nghóa Như Lai”. Xá-lợi-phất nói: “Có thể lược vì nói cốt yếu đó”. Tôn giả A-thấp- bà-thị bèn nói kệ tụng rằng: “Các pháp nhân duyên sanh, Pháp đó nói nhân duyên, Pháp đó nhân duyên hết, Đại sư giảng như vậy”. Chỉ một lần nghe qua, Xá-lợi-phất liền chứng đắc sơ quả, chuyển dạy lại cho Mục-kiền-liên, lại giảng nói mà đắc đạo. Lấy đó mà chứng biết, người trí cầu pháp, chỉ trọng đức người khác, chẳng xấu hổ mình thấp kém, chẳng đồng như phàm ngu ngã mạn tự cao, tuy biết người khác hơn mình nhưng xấu hổ chẳng chịu học. Phàm phu từ vô thỉ chẳng thể nhập đạo, phần nhiều đều do đó mà không thể cầu pháp nên các người ngu mê mờ thật giáo, chưa thể tự ngộ, chỉ nên phỏng tìm ở đức, vì người mê lý tuy có trí thế gian, nếu không có bạn ưu thắng nên thường mê lầm đạo. Như kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói: “Như người vừa mới sanh đã bị mù không thể thấy màu sắc, phiền não cũng như vậy khiến mù tối các chúng sanh, không thể thấy pháp. Như người có mắt, mà không có ánh sáng bên ngoài cũng không thể thấy màu sắc. Hành nhân cũng như vậy, tuy có trí tuệ, nếu không có thiện tri thức thì không thể thấy pháp”. Lấy đó mà chứng biết người tuy có trí mà chưa thể tự ngộ, cần phải nhờ bạn tốt lành. Nên trong kinh Phú Pháp Tạng nói: “Thiện tri thức tức là nhân duyên toàn phần của sự đắc đạo”. Phật tự khuyên người nương theo thiện tri thức, chẳng nên cố giữ ngu dốt luống qua một đời. Cho nên chư Phật có để lại yếu chỉ, chỉ khiến y cứ pháp chẳng y cứ ở người, chỉ y cứ ở nghóa không y cứ ở ngữ, Bồ-tát còn biến thân làm súc sanh, vì người giảng nói pháp, hiển bày sự khác lạ đó khiến người nghe tin nhận, đều khiến ngộ đạo vào pháp bình đẳng, đâu khiến tâm sanh cao thấp ư? Nên trong Hoa Nghiêm Diễn Nghóa có cật nạn rằng: “Yếu chỉ đó vi mật, chứng đắc địa vị cùng cực mới biết. Sao dùng phàm tình mà lén trông đại giáo?” Giải thích rằng: “Vì y cứ giáo lý nên Thánh giáo chấp thuận đó”. Kinh Niết-bàn nói: “Hàng phàm phu có đủ thứ buộc ràng, hay biết tạng bí mật của Đức Như Lai”. Trong phẩm Tỳ-lô-giá-na có bài tụng rằng: “Như nhờ ánh sáng mặt trời chiếu, Lại thấy nơi vầng mặt trời, Dùng ánh sáng trí tuệ của Phật, Thấy đạo đã làm Phật”. Tức nhân giáo của Phật mà hay rõ giáo vậy. Nay trong Tông Kính thủy chung dẫn ánh sáng giáo của trí tuệ Phật, hiển bày vết đạo sở hành của Phật, nếu người tin sâu chắc thì là dùng ánh sáng tâm chúng sanh thấy hành tích của chúng sanh. Như cật nạn nói: “Phàm phu không thể biết”, đó là tà kiến không tin người vậy. Nên trong kinh Đại Tập nói: “Nếu có người nói ta khác Phật khác, nên biết người đó tức là đệ tử của ma”. Lại nói: “Người rõ ràng thấy, biết hết thảy pháp không hai tướng vậy”. Lại nói: “Quán các pháp bình đẳng, gọi đó là Phật”. Do đó, có người học, hỏi quốc sư Trung rằng: “Như Lai nói Bát-nhã, tức chẳng phải Bát-nhã, đó gọi là Bát-nhã, đã hết phải quấy, sao còn gọi là Bát- nhã?” Quốc sư đáp: “Hay thấy quấy, gọi đó là Bát-nhã”. Người học lại hỏi: “Phật cũng nói như vậy ư?” Quốc sư đáp: “Xưa nay chẳng khác. Đắc thì ngàn Phật ngang bằng tâm, muôn Thánh đồng vết”. Hỏi: Giáo môn Phương tiện của chư Phật, đều y cứ căn tánh chúng sanh mà khởi. Căn tánh chẳng đồng, pháp mới nhiều như cát bụi. Môn Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đường năm mươi hai quả vị tu hành. Cớ sao chỉ lập Nhất tâm lấy làm Tông Kính? Đáp: Nhất tâm đây lý sự đều viên mãn đầy đủ. Đại bi đó là cha, Bát-nhã đó là mẹ, pháp bảo chứa cội gốc muôn hạnh, vì hết thảy pháp giới, chư Phật ở mười phương, chư Đại Bồ-tát, các hàng Thanh văn, Duyên giác, hết thảy chúng sanh đều đồng tâm dây. Chư Phật đã giác ngộ, chúng sanh chẳng rõ biết. Nay vì người chưa rõ biết mà dùng phương tiện chỉ thẳng, vì vốn có đầy đủ nên chẳng hư dối, vì đáng được nên chẳng sai lầm. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có bài tụng rằng: “Thí như người thế gian, Nghe nói có kho báu, Vì họ có thể được, Tâm sanh rất vui mừng”. Nơi kho báu đó tức là tâm chúng sanh, mới vào cửa tín, tự nhiên hiển hiện, mới tỏ ngộ từ trước đến nay vốn đầy đủ, đâu gá công thành, mới bắt đầu biết bản tánh không sai, chẳng phải nhân thực hành mà được. Có thể gọi là vật của tối linh, cội nguồn của chí đạo, môn của tuyệt diệu, nghóa của tinh thật, làm căn bản của phàm và Thánh, làm * nguyên do của mê và ngộ. Như muôn vật có được đất mà phát sanh, các đức vụt quay về, làm nền tảng của ngàn Thánh hướng đến đạo, làm mắt mũi của chư Phật xuất thế. Do đó, nếu rõ tự tâm, chóng thành Phật tuệ, có thể gọi là hợp muôn sông làm một ẩm ướt, vốc các bụi làm thành một viên, dung hợp vòng xuyến làm thành một vàøng, biến tô lạc làm thành một vị. Như kinh Hoa Nghiêm có bài tụng rằng: “Chẳng hay rõ tự tâm, Sao biết được Phật tuệ”. Kinh A-sai-mạt nói: “Chỉ chánh tự tâm chẳng còn các học khác”. Kinh Thiền Yếu nói: “Nội chiếu mở hiểu tức môn Đại thừa, thấy tự tâm tánh, gọi đó là chiếu, nơi các Thánh dạo chơi gọi đó là môn”. Kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng rằng: “Tâm đủ nơi pháp tạng, Lìa vô ngã kiến dơ, Thế Tôn nói các hạnh, Chỗ trong tâm biết pháp”. Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội có kệ tụng rằng: “Nếu ai nhận giữ một pháp đó, Hay thuận Bồ-tát chánh tu hành, Nhân một pháp đây làm công đức, Chóng được thành ở đạo Vô thượng”. Kinh Thắng-man nói: “Thế Tôn! Con thấy nhiếp thọ chánh pháp có sức lực lớn này . Như Lai lấy đó làm mắt, làm pháp căn bản, làm pháp dẫn đạo, làm pháp thông đạt”. Giải thích rằng: Điều gọi là chánh pháp tức Đệ nhất nghóa tâm vậy, ngoài tâm dối tính lường, ngoài lý riêng mong cầu, đều rơi lạc một bên, mê lầm ở chánh kiến. Do đó được làm mắt chánh của Như Lai, nhiếp cả tận cùng ngằn mé *muôn hạnh chủng lý mà thành tựu, các môn tranh nào, của mười phương, chiếu suốt biên bờ của pháp giới. Như luận Khởi Tín nói: “Lại nữa, tự thể tướng chân như là ở nơi hết thảy phàm phu Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật không có thêm bớt, chẳng phải khoảng trước sanh, chẳng phải khoảng sau diệt, thường hằng rốt ráo, từ vô thỉ lại, bản tánh đầy đủ hết thảy công đức. Gọi đó nghóa là Đại trí tuệ quang minh, nghóa là biến chiếu pháp giới, nghóa là như thật rõ biết, nghóa là bản tánh thanh tịnh tâm, nghóa là thường lạc ngã tịnh, nghóa là tịch tónh bất biến tự tại, v.v…, như vậy quá hơn số cát sông Hằng, chẳng động chẳng dị. Phật pháp không thể nghóa bàn, không có đoạn tuyệt, y cứ nghóa đó nên gọi là Như Lai Tạng, cũng gọi là Pháp thân”. Hỏi: Trước nói chân như lìa hết thảy tướng, cớ sao nay nói đầy đủ hết thảy tướng công đức? Đáp: Tuy thật đầy đủ có hết thảy công đức nhưng không tướng sai biệt. Hết thảy pháp kia đều đồng một vị một chân, vì lìa tướng phân biệt không có hai tánh, vì y cứ nghiệp thức v.v… các tướng sanh diệt mà lập hết thảy tướng sai biệt kia. Đó làm sao lập? Vì hết thảy pháp xưa nay chỉ tâm, thật không phân biệt, chỉ bởi bất giác tâm phân biệt khởi thấy có cảnh giới, gọi đó là vô minh, tâm tánh vốn tịnh, vô minh chẳng khởi, tức ở nói chân như lập nghóa Đại trí tuệ quang minh. Nếu tâm thấy cảnh thì có tướng chẳng thấy, tâm tánh không thấy thì không chẳng thấy, tức ở nơi chân như lập nghóa biến chiếu pháp giới. Nếu tâm có động thì chẳng phải thật rõ biết, chẳng phải bản tánh thanh tịnh, chẳng phải thường lạc ngã tịnh, chẳng phải tịch tónh, là biến dị chẳng tự tại, do đó khởi đủ hư vọng tạp nhiễm quá hơn số cát sông Hằng. Vì tâm tánh không động nên lập nghóa chân thật rõ biết. Cho đến nghóa tướng công đức thanh tịnh quá hơn số cát sông Hằng. Nếu tâm có khởi thấy có các cảnh khác có thể phân biệt mong cầu, thì ở nội pháp có chỗ chẳng đủ, vì vô biên công đức tức tự tánh của nhất tâm, chẳng thấy có các pháp khác mà có thể mong cầu. Cho nên đầy đủ pháp của chư Phật không thể nghó bàn, chẳng phải một chẳng phải khác quá hơn số cát sông Hằng, không có đoạn tuyệt. Nên nói chân như gọi là Như Lai Tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai. Nhưng nhất tâm đó chẳng đồng phàm phu, dối nhận tâm lo nghỉ dính mắc hay đổi dời quyết định chấp ở bên trong sắc thân. Nay khắp pháp giới đều là chân tâm diệu minh, như trong “Phẩm Nhập Pháp Giới” nói: “Trong biển pháp giới Hoa tạng, bất kể các nơi hoặc núi hoặc sông, hoặc đất liền hoặc hư không, cây cối lùm rừng, sợi lông mảy trần v.v… không gì chẳng xưng là cõi chân như đầy đủ vô biên đức. Nên các bậc Tiên đức nói: “Nguyên hưởng lợi trinh là đức của càn, mới đầu ở một khí, thường lạc ngã tịnh là đức của Phật vốn ở nhất tâm, chuyên một khí mà khiến mềm dịu, tu nhất tâm mà thành đạo. Tâm ấy là tinh túy mầu nhiệm cao vọt, rực rỡ minh linh, đến khứ không đi, ngầm thông ba mé, chẳng trong chẳng ngoài suốt cùng mười phương, chẳng diệt chẳng sanh, há bốn núi có thể hại, lìa tánh lìa tướng, há năm sắc có thể làm mù tối, ở nơi dòng sanh tử, ly châu riêng tỏa sáng, ở giữa biển rộng ngồi nơi bờ Niết-bàn, vầng quế riêng tỏa giữa trời xanh. Lớn vậy thay! Muôn pháp vốn bắt đầu từ đó. Muôn pháp rổng giã, bởi duyên hợp mà sanh, sanh pháp vốn không tất cả chỉ thức. Thức như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm. Tâm vắng lặng mà biết, gọi đó là Viên giác, tràn đầy trong thanh tịnh chẳng dung gì khác, nên đức dụng vô biên đều đồng một tánh, tánh khởi làm tướng. Cảnh trí rõ ràng, tướng được tánh dung, thân tâm rỗng lặng, sánh đó như Hải ấn vượt thái hư kia, lồng lộng vậy, sáng rỡ vậy, chóng vượt ngoài nghó bàn vậy”. Lại nữa, các bậc Tiên đức nói: “Như Lai Tạng tức là tên khác của nhất tâm. Sao gọi là nhất tâm? Nghóa là chân vọng nhiễm tịnh hết thảy các pháp tánh vốn không hai, nên gọi là nhất. Nơi không hai đây, sự thật trong các pháp, chẳng đồng hư không, tánh tự hiểu cách mầu nhiệm, nên gọi là tâm. Do đó, nếu ở ngoài riêng cầu, theo nơi khác dối học, như là dùi băng tìm lửa, ép cát mong ra dầu, vì băng và cát chẳng phải chánh nhân của lửa và dầu, muốn cầu để giúp dùng, chỉ luống nhọc công sức. Lại như chỉ tu Tiệm hạnh không trú ở Quyền thừa, thì tợ như bức họa vẽ mà không keo dán, chén bát chưa qua nung luyện. Vì chén bát và bức họa vẽ chẳng phải là vật bền chắc, muốn mong cầu được cứu cánh, trọn không thể có. Nếu hay thật rõ tự tâm, chẳng dối mong cầu bên ngoài, như từ cây gỗ mà ra lửa, từ vừng mè mà ra dầu, chẳng hoại chánh nhân, chóng được thành tựu biện tài. Lại như bức họa vẽ có được keo dán, chén bát đã trải qua lửa nung, có thể thành vật dụng, sử dụng chẳng luống mất, phàm có hành động, thảy đều cứu cánh. Nếu chưa tin vào, lấy bỏ muôn mối, tùy cảnh sanh mê làm chỗ hại pháp, chẳng quán không để dứt lụy, chỉ chấp lấy không mà phế bỏ thiện, chẳng thấu đạt hữu để dấy khởi lòng từ, chỉ đắm trước hữu mà khởi tội, đều vì chẳng rõ không và hữu chỉ là nhất tâm, nên khiến được mất đó. Nếu vào Tông Kính, lúc mới phát tâm, chẳng chỉ hạnh thành lý tức chóng đủ, bèn đồng Phật xưa trước một ngằn mé không sai khác. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Ở thành Câu-thi-na có người Chiên-đà-la, tên là Hoan Hỷ, Đức Phật dự ghi người đó do một lần phát tâm sẽ ở nơi cõi này trong số ngàn Đức Phật chóng thành đạo Vô thượng chánh chân”. Trong Pháp Hoa Huyền Nghóa nói: “Tâm pháp là pháp trước đã làm rõ, đâu được khác tâm, chỉ vì chúng sanh pháp quá rộng nhiều, Phật pháp rất cao sâu, đối với hàng sơ học rất khó, nhưng tâm, Phật và chúng sanh cả ba không riêng biệt, chỉ tự quán ở tâm mình thì là dễ. Kinh Niết-bàn nói: “Hết thảy chúng sanh đều đủ ba bậc định. Định bậc thượng là Phật tánh. Hay quán tâm tánh, gọi là thượng định, thượng hay gồm hạ, tức nhiếp được chúng sanh pháp”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm rảo khắp pháp giới như hư không, thì biết cảnh giới của chư phật. pháp giới tức là trung, hư không tức là không, tâm Phật tức là giả. Ba thứ tức là cảnh giới Phật vậy. Do vì quán tâm bèn đủ Phật pháp. Lại nữa, tâm rảo khắp pháp giới là quán căn trần tương đối, một niệm tâm khởi ở trong mười giới hẳn thuộc một giới. Nếu thuộc một giới tức đủ trăm giới ngàn pháp ở trong một niệm hết thảy đầy đủ. Tâm đó là huyễn sư thầy phù thủy, ở trong một ngày đêm thường tạo các thứ chúng sanh, các thứ năm ấn, các thứ cõi nước. Chỗ gọi là địa ngục giới, cõi nước thật giả, cho đến Phật giới, cõi nước thật giả, hành nhân phải tự chọn lựa, đạo nào có thể theo. Lại như hư không là quán tâm tự sanh tâm, chẳng phải gá mượn duyên, có tâm lưc, tâm không sanh lực, tâm không sanh, duyên cũng không sanh. Tâm và duyên mỗi tự không, hợp thế nào có? Hợp còn chẳng thể được, lìa tức chẳng sanh, còn không một sanh, huống có trăm giới ngàn pháp ư? Vì tâm không nên từ chỗ tâm sanh, hết thảy đều không, không đây cũng không. Nếu không chẳng phải không, điểm không bày giả, giả cũng chẳng phải giả, không giả không không, rốt cùng thanh tịnh, đâu chỉ tam quán, muôn hạnh cho đến mười phương hư không, còn theo tâm biến, huống gì hư không, nơi sanh ra các vật tượng?” Như kinh Thủ Lăng Nghiêm có bài tụng rằng: “Không sanh trong Đại giác, Như biển một bọt nổi”. Do đó, trong Hoa Nghiêm sớ nói: “Hai pháp không và hữu đều xứng với lý chân, thì hữu và không đều là tánh không vậy”. Sao Thích nói: “Không và hữu xứng với lý chân, không đây là không ngoài, nếu đem không lý đối cùng không ngoài, thì không ngoài lìa pháp, là không đoạn diệt, lý không tức gọi là chân không. Nếu vì không ngoài cũng tâm hiện, cũng do đối sắc, diệt sắc mới hiển bày, thì đây là đoạn không, theo duyên không tánh, tức là tánh không vậy. Nên nói về sự lớn lao trong mười tám không, nghóa là mười phương không, tức mười phương hư không cũng là tánh không vậy. Do đó, ngàn Thánh phó chúc khó gặp cơ duyên, nếu đối với bậc thượng căn, chợt nhiên có thể nghiệm, như Hàn Sơn Tử có lời thơ rằng: “Từ xưa ít nhiều Thánh, Nói đường khổ đinh ninh, Căn tánh người chẳng đồng, Cao thấp có nhanh chậm. Phật thật chẳng chịu tin, Đặt công uổng chịu khổ, Chẳng như tâm sáng sạch, Bèn là Ấn tâm vương”. Các bậc Tiên đức cũng nói: “Muốn biết pháp yếu, tâm là căn bản của mười hai bộ loại kinh giáo. Cửa cốt yếu vào đạo, tâm đây là cửa, Phật Tổ trong ba đời, chỉ một việc này thật, hai khác tức chẳng chân, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba”. Pháp Nhất thừa đó là nhất tâm, chỉ giữ nhất tâm tức tâm chân như môn, hết thảy các pháp không có khuyết thiếu, hết thảy pháp hạnh chẳng vượt ngoài tự tâm, chỉ tâm tự biết, lại không riêng khác tâm, tâm không hình sắc, không căn không trú, không sanh không diệt, cũng không giác quán có thể hành. Nếu có thể quán hạnh tức là thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải bản tâm, đều là công dụng hữu vi, chư Tổ chỉ là dùng tâm truyền tâm, thấu đạt thì có thể ấn chứng, ngoài ra không pháp gì khác. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Văn-thù cảm hóa năm trăm đồng tử phát tâm Bồ-đề, chỉ có một người là Thiện Tài Đồng tử thấu đạt bản tâm, vân du khắp một trăm mười thành quách, phỏng hỏi muôn hạnh Bồ-đề, học môn Tam-muội, đều như huyễn hóa mà không thật thể. Nên biết từ tâm sanh khởi đều đồng huyễn hóa, chỉ rõ ngay chân tâm, tự nhiên chân thật. Như trong Duy Thức Khu Yếu nói: “Y cứ năm thứ cảnh, giáo, lý, hạnh quả trong duy thức. Luận đây, có nghóa chỉ nói rõ cảnh duy thức, lìa bỏ cảnh chấp thủ ngoài tâm, vì hết thảy cảnh chẳng lìa khỏi tâm. Có nghóa chỉ nói giáo duy thức, thành bản giáo của luận, vì giải thích thuyết kia. Có nghóa chỉ giữ lấy lý duy thức, thành lập lý sở thuyết của bản giáo, vì phân biệt tánh tướng duy thức. Có nghóa chỉ giữ lấy hạnh duy thức, vì nói rõ năm vị tu hạnh duy thức. Có nghóa chỉ giữ lấy quả duy thức, vì cầu quả lớn, an lạc thân giải thoát, tên pháp Đại Mâu-ni”. Cho đến nay, giải thích thuyết ấy, chỉ giữ lấy thuyết giáo lý, y cứ giáo lý, thành tánh tướng kia. Tánh tướng tức nhiếp cùng tận tất cả nên tất cả đều giữ lấy ở lý làm ưu thắng. Vậy biết lý của duy thức là chánh tông thành Phật, chỉ vì lý gồm tất cả, không pháp nào chẳng phải, nên nói vạn pháp Duy thức. Ý chánh của soạn thuật Tông Kính, cùng bản hoài của Phật Tổ, chỉ dùng một pháp hợp với một cơ, không yếu chỉ nào riêng khác. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Trong cõi Phật mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa”. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Sư tử hống là quyết định giảng nói hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. Lại nói: “Chúng sanh cũng vậy, thảy đều có tâm, phàm kẻ có tâm, thảy đều sẽ chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Hỏi: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức. Đây gồm vạn pháp, nên riêng lập chân như làm tông ư? Đáp: Chân như là thức tánh. Thức đã bao gồm muôn pháp, tức là tánh của hết thảy các pháp hữu vi vô vi thảy đều bình đẳng. Nên kinh nói: “Chưa từng có một pháp nào mà vượt ngoài pháp tánh”. Tư Mã Bưu nói: “Tánh là gốc của người”. Thái Ung nói: “Tánh là gốc của tâm”. Nên chư sư xưa trước nói: “Luận Duy thức là chi cao kiến pháp tràng trong mười chi, pháp nào mà chẳng gồm, tông nào mà chẳng lập?” Duy lấy giản chọn làm nghóa, thức lấy rõ ràng làm nghóa. Lìa thức ra không riêng duy thể tức thức, có dụng ngăn che ngoài tâm, nên gọi là duy. Tên duy đó riêng tánh tướng đều gồm, chân như là thức tánh nương sắc, tướng phần, v.v…, là thức tướng. Tâm sở dùng thức làm chủ, đều chẳng lìa thức, nên gọi chung là Duy thức. Lại hỏi: Tam giới, là pháp Hữu lậu, do thuộc ái kết của ba cõi ràng buộc nên gọi là Tam giới. còn các pháp vô vi vô lậu chẳng bị ái kết của ba cõi ràng buộc, tức chẳng gọi là pháp của Tam giới, sao kinh chỉ nói Tam giới duy tâm, tức chẳng bao gồm các pháp vô vi vô lậu v.v…. đó há chẳng phải duy thức mà chỉ nói Tam giới ư? Đáp: Tam giới, pháp sở trị mê loạn còn gọi là duy thức. Pháp tánh vô vi vô lậu là năng trị thể chẳng mê loạn, chẳng nói tự thành nên chỉ nói là Tam giới duy thức. Lại các bộ (phái) gồm chung có câu Hữu vi vô vi nhiễm tịnh các pháp đều lấy tâm làm gốc. Như Tát-bà-đa-bộ v.v…, nói: “Vô vi do tâm nên hiển hiện, Hữu vi do tâm nên khởi”. Do tâm khởi pháp nhiễm tịnh, lực dụng duyên mạnh nên nói tâm là gốc. Hỏi: Lập tâm làm tông, đủ bao nhiêu môn công đức hay khởi lòng tin thấy nghe? Đáp: Tự thể chân tâm chẳng phải ngôn ngữ có thể thuyên giải, lắng như hư không không ngằn mé, sáng ngời như gương sạch tròn sáng, hủy hoại, tán thán chẳng kịp, nghóa lý khó thông, vì hai môn công đức và quá hoạn tuyệt sự đối đãi. Nay ý cứ theo các bậc Tiên đức theo tướng mà phân biệt tâm, lược có năm nghóa: Một là, tướng xa lìa sở thủ sai biệt; hai là, tướng giải thoát năng thủ phân biệt; ba là, khắp tam tế không chỗ chẳng ngang bằng; bốn là, ngang bằng hư không giới không chỗ chẳng khắp; năm là, chẳng rơi lạc các bên có, không, một, khác v.v…. Vượt chỗ tâm hành quá đường ngôn ngữ. Lại nữa, tâm không chấp trước đây hết sạch Nhị đế, nên không có sự khác lạ của ra tục vào chân, đã chẳng ra vào, chẳng ở không hữu, nên kinh nói: Tâm không ở tại đâu, nơi không tại đâu, chỉ là nhất tâm, thể của nhất tâm xưa nay tịch diệt, chẳng thể dùng nơi chốn có không để tận cùng vết tích sâu xa đó, không thể dùng thức trí chú kính so lường bàn nói diệu thể đó, chỉ có người vào, chỉ tại tâm biết, như vốc muôn thứ mà làm thành viên hương, đốt một mảy trần mà đủ cả các mùi thơm, tợ như vào tắm trong nước biển lớn, vốc một giọt nhỏ mà đã dùng của cả trăm sông, nắm một mạt vụn mà đều thành vàng thật, bứt cỏ lá mà không gì chẳng là diệu dược, chén bát rỗng không thảy đều đầy mùi vị cam lồ, khắp phòng nhà chỉ nghe mùi hương chiêm-bặc. Các nghóa quy tựu quy, như thái hư bao gồm cả muôn tượng, ngàn đường đua tranh vào, như lắm ảnh chẳng ngăn ngại nơi đầm lắng. Nếu luận về nhất tâm, tánh khởi công đức vô tận vô biên, há dùng tâm hữu lượng mà tán thán đức vô vi, dùng hết thần lực chưa thuật được mảy may. Vì người tin vào, thảy đều hiện chứng, tức phàm tức Thánh, cảm ứng chẳng hư dối, tin chắc chẳng đổi thay, tiếng rỗng của pháp không tự dứt, sáng tỏ chân thật có thể nghiệm, lửa đồng linh nhuận chợt dừng, đâu nhờ thần thông, tâm ma chóng tuyệt, chẳng cậy thuật khác, lửa thức tự tiêu. Trừ người ngu dốt, sao có thể rõ yếu chỉ đó? như người xưa nói: Y cứ trí chẳng y cứ thức, nghóa là thức hiện hành tùy theo trần phân biệt, mắt sắc tai tiếng, đam mê chẳng hay biết. Đấng Đại thánh chỉ bày giáo, cảnh là tự tâm. Hàng hạ ngu trọn chấp trần là ngoài thức. Nay, ngoài miệng tuy nói không đó mà tâm chưa mất có. Vọt bay lên không chẳng được, vào lửa càng khó, đều là tâm tướng mê bít nên vậy, sau được thông đạt, tùy tâm chuyển dùng, há chẳng đồng như chim bay giữa hư không tự thường như vậy, vãi dùng lửa giặt chẳng đáng quái lạ, chỉ vì thức tánh của quần sanh chẳng đồng, đến nỗi khiến đấng Đại thánh tùy theo tình mà giảng nói riêng, nhưng căn cứ theo chí đạo chỉ là tự tâm. Nên kinh nói: “Trên dưới ba cõi, pháp nghóa duy tâm”. Đó là căn cứ thế giới y báo để nói rõ về tâm. Lại nói: “Như như cùng chân tế, Niết-bàn và pháp giới, các thứ ý sanh thân, ta nói là tâm lượng”, đó là căn cứ pháp thể xuất thế để nói rõ về tâm. Chung cùng đến thật rốt ráo thấu đạt nguồn đó, theo dòng cảm quả, trở lại Tông liễu nghóa. Hỏi: Nhất tâm làm tông, có thể xưng là cương yếu, cớ sao trong giáo rộng bàn nói các đạo, mỗi tự lập Tông kinh? Đáp: Chủng loại các pháp tuy lắm nhiều, nhưng chỉ là chỗ làm của nhất tâm, ở nơi một Thánh đạo lập vô lượng tên gọi, như một đóm lửa nhân đốt cháy mà được gọi là lửa cỏ, lửa cây v.v…, như một thứ nước căn cứ chỗ dùng hoặc gọi là canh là rượu v.v…, tên gọi có nhiều, môn nhất tâm đây cũng lại như vậy, đối với hàng cơ nhỏ mà xưng là tiểu pháp, với hàng lượng lớn mà gọi là Đại thừa. Đại tiểu tuy phân, nhưng chân tánh không cách. Nếu quyết định chấp Phật giảng nói có nhiều môn, tức phỉ báng pháp luân, thành tội lỗi của hai lưỡi. Nên kinh nói: “Tâm chẳng lìa đạo, đạo chẳng lìa tâm”. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngợi khen Bồ-tát Ca-diếp rằng: Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Nay ông muốn biết kinh điển vi diệu của Đại thừa Bồ-tát có những bí mật gì nên mới hỏi như vậy. Này thiện nam! Các kinh như vậy đều vào đạo đế. Này thiện nam! Như trước kia Ta nói nếu có người tin đạo, tin đạo như vậy là tin căn bản, là hay giúp đỡ đạo của Bồ-đề, cho nên Ta nói không có sai lầm. Này thiện nam! Đức Như Lai khéo biết vô lượng phương tiện, muốn chuyển hóa chúng sanh nên làm các thứ thuyết pháp như vậy. Này thiện nam! Thí như vị lương y khéo biết các thứ căn bệnh của các chúng sanh, tùy chỗ bệnh đó mà cho đúng thuốc. Và điều cấm của thuốc, chỉ một thứ nước chẳng thuộc trong loại cấm, hoặc uống nước gừng, hoặc nước cam thảo, hoặc nước tế tân, hoặc nước đường phèn đen, hoặc nước A-ma-lặc, hoặc nước Ni-bà-la, hoặc nước Bát-trú-la, hoặc uống nước lạnh, hoặc uống nước nóng, hoặc nước bồ- đào, hoặc nước An-thạch-lựu. Này thiện nam! Vị lương y như vậy khéo biết chỗ bệnh của chúng sanh, các thứ thuốc tuy nhiều cấm kî chỉ nước không thuộc lệ đó. Như Lai cũng lại như vậy, khéo biết phương tiện, ở nơi một pháp tướng tùy các chúng sanh phân biệt nói rộng các thứ danh tướng. Các chúng sanh kia tùy chỗ giảng nói mà nhận thọ, nhận thọ rồi tu tập, đoạn trừ phiền não. Như người bệnh kia theo sự chỉ bảo của vị lương y, mà chỗ bệnh được trừ. Lại nữa, này thiện nam! Như có một người khéo hiểu biết nhiều thứ tiếng, ở chỗ đông người, mọi người trong đám đông đó đang bị nóng khát bức bách, đều nói lời rằng: “Tôi muốn uống nước! Tôi muốn uống nước!” Khi ấy, người đó dùng nước sạch mát, tùy các chủng loại đó mà nói là nước, hoặc nói là Ba-ni, hoặc nói là Uất-trì, hoặc nói là Sa-lợi-lam, hoặc nói là Bà-lợi, hoặc nói là Ba-da, hoặc nói là Cam lồ, hoặc nói là sữa bò. Dùng vô lượng tên gọi về nước v.v…, như vậy vì đại chúng nói. Này thiện nam! Đức Như Lai cũng lại như vậy, dùng một Thánh đạo vì các Thanh văn mà diễn nói các thứ, từ tín căn v.v… cho đến Bát thánh đạo. Lại nữa, này thiện nam! Thí như kim sư (người thợ khéo giỏi làm vàng) dùng một thứ vàng, tùy ý mà tạo ra các thứ anh lạc, chỗ gọi là kềm, khóa, vòng, xuyến, xoa, đang, thiên quan, tý ấn v.v… tuy có sai biệt chẳng đồng như vậy, nhưng chẳng lìa khỏi vàng. Này thiện nam! Như Lai cũng lại như vậy. Dùng một Phật đạo tùy các chúng sanh, phân biệt các thứ mà vì giảng nói , hoặc nói một thứ; được gọi là chư Phật một đạo không hai. Lại nói hai thứ; tức là định và tuệ. Lại nói ba thứ; nghóa là kiến, tuệ và trí. Lại nói bốn thứ; tức là kiến đạo, tu đạo, vô học đạo và Phật đạo. Cho đến, lại nói hai mươi đạo, tức nghóa là mười lực, bốn vô úy, đại từ, đại bi, niệm Phật Tam- muội, ba chánh niệm xứ. Này thiện nam! Đạo đó một thể. Ngày xưa, Đức Như Lai vì chúng sanh nên phân biệt các thứ. Lại nữa, này thiện nam! Thí như một thứ lửa, nhân sự đốt cháy mà có các thứ tên gọi như lửa cây gỗ, lửa lá cỏ, lửa vỏ trấu, lửa phân trâu ngựa. Này thiện nam! Phật đạo cũng như vậy, một mà không hai, vì chúng sanh nên phân biệt các thứ. Lại nữa, này thiện nam! Thí như một thức, phân biệt nói thành sáu, như đến nơi mắt thì gọi là nhãn thức v.v… cho đến ý thức, cũng lại như vậy. Này thiện nam! Đạo cũng như vậy, một mà không hai, Đức Như Lai vì giáo hóa chúng sanh, nên phân biệt các thứ. Lại nữa, này thiện nam! Thí như một sắc; chỗ thấy của mắt thì gọi đó là sắc, chỗ nghe của tai thì gọi là tiếng, chỗ ngửi của mũi thì gọi là hương, chỗ nếm của lưỡi thì gọi là vị, chỗ nhận biết của thân thì gọi là xúc. Này thiện nam! Đạo cũng như vậy, một mà không hai, Đức Như Lai vì muốn giáo hóa chúng sanh nên phân biệt các thứ. Này thiện nam! Do nghóa như thế nên đem Bát thánh đạo phân tên là Đạo thánh đế. Này thiện nam! Bốn thánh đế đó, chư Phật Thế Tôn theo thứ lớp giảng nói đó. vì nhân duyên đó, vô lượng chúng sanh được qua khỏi sanh tử”. Lại nói: “Nếu nói Thập thiện Thập ác có thể làm, không thể làm Thiện đạo, Ác đạo, Bạch pháp, Hắc pháp. Phàm phu gọi là hai, người trí thấu rõ tánh đó không hai, tánh của không hai, tức là thật tánh”. Kinh Đà-la-ni nói: “Không có hết thảy các pháp, đó gọi là Nhất tự pháp môn”. Lại nữa, kinh nói: “Phật bảo: Giáo pháp của chư Phật trong ba đời giảng nói, nay Ta suốt bốn mươi chín năm không thêm một chữ”. Nên biết môn nhất tâm này hay thành chí đạo. Nếu bậc thượng căn vào thẳng, trọn không lập nên môn nào khác, vì hàng trung hạ căn chưa vào thì quyền xảo phân làm các đạo, do đó, Phật Tổ đồng chỉ, Hiền thánh ngầm quy về, tuy tên có khác mà thể ấy đồng, là duyên phân mà tánh hợp, Bát-nhã chỉ nói không hai, Pháp Hoa chỉ nói Nhất thừa. Tịnh danh không gì chẳng là Đạo tràng, Niết-bàn đều quy tụ về Mật tạng. Thiên thai chuyên cần Tam quán, Giang tây khắp thể toàn chân, Mã Tổ tức tâm là Phật, Hà Trạch chỉ thẳng thấy biết. Lại nữa, giáo có hai thứ thuyết: Một là Hiển liễu thuyết; hai là, Bíù mật thuyết. Hiển liễu thuyết thì như các kinh Lăng-già, Mật Nghiêm v.v… các luận Khởi Tín, Duy Thức v.v…. Bíù mật thuyết là mỗi y cứ Tông kinh lập ra tên khác, như kinh Duy-ma lấy Bất tư nghì làm tông, kinh Kim Cang lấy Vô trú làm tông, kinh Hoa Nghiêm lấy Pháp giới làm tông, kinh Niết-bàn lấy Phật tánh làm tông. Mặc tình lập có ngàn đường nhưng đều là nghóa khác của nhất tâm. Tại sao? Vì chân tâm diệu thể chẳng ở có không, trí chẳng thể biết, nói không thể kịp, chẳng phải cảnh giới của tình thức nghó lường, nên gọi là Bất tư nghì. Thể rỗng tướng lắng, tuyệt đãi linh thông, hiện pháp giới mà không sanh, vượt ba đời mà tuyệt vết, nên gọi là Vô trú. Dọc suốt tam tế, ngang cùng mười phương, không có giới lượng, ngoài biên không thể được nên gọi pháp giới là gốc rễ muôn vật. Do làm nguyên thủy của quần sanh, ở phàm không bớt ở Thánh không thêm, linh giác chiếu sáng thường như thể đó, nên gọi là Phật tánh, cho đến đều gọi là Diệu tánh linh đài, Thần châu bảo tạng, đều là nhất tâm tùy duyên mà xưng riêng. Kinh nói: “Ba A tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu đều là tên khác của Như Lai, chỉ vì không biết chư Phật dùng phương tiện, rồi mê danh đắm tướng, theo hiểu biết thành sai lầm”. Chỉ cần rõ tông đây, chợt nhiên không tịch, làm gì có danh tướng có thể được mở bày, như Long vương phun mưa chỉ một vị, tùy theo nghiệp thiện ác của người, trời mà chỗ mưa chẳng đồng, mỗi thấy sai biệt. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thí như vua rồng Ta-kiệt-la muốn hiện sức Đại tự tại của vua rồng để làm lợi ích quần sanh đều khiến vui mừng, từ Tứ thiên hạ cho đến cõi trời Tha hóa tự tại, khắp cùng trên mặt đất, ở tất cả mọi nơi có mưa chẳng đồng, có nghóa là ở trong biển lớn mưa nước sạch mát, gọi là Vô đoạn tuyệt. Ở cõi trời Tha hóa tự tại mưa ra các thứ âm nhạc như tiêu địch v.v…, gọi là mỹ diệu. Ở trời Hóa lạc mưa đại Ma-ni bảo, gọi là phóng Đại quang minh. Ở cõi trời Đâu-suất, mưa Đại trang nghiêm cụ, gọi là thùy kế. Ở cõi trời Dạ-ma mưa hoa Đại diệu, gọi là các thứ trang nghiêm cụ. Ở cõi Tam thập tam mưa các Diệu hương, gọi là Duyệt ý. Ở cõi trời Tứ thiên vương, mưa y báu cõi trời, gọi là phúc cái. Ở nơi cung vua Rồng, mưa xích trân châu, gọi là Dõng xuất quang minh. Ở nơi cung A-tu-la, mưa các thứ binh trượng, gọi là hàng phục oán địch. Ở Bắc Uất-đơn-việt mưa các thứ hoa, gọi là khai phu. Ngoài ra, ở ba thiên hạ thảy đều như vậy. Nhưng mỗi mỗi tùy nơi đó mưa chẳng đồng, tuy vua Rồng kia tâm luôn bình đẳng không có đây kia, chỉ vì căn lành của chúng sanh có khác nên mưa có sai biệt. Do đó, vua Rồng phun mưa chỉ một vị, tùy các trời chỗ cảm chẳng đồng, giống như pháp môn nhất tâm của chư Phật, theo chúng sanh lúc thấy có sai biệt. <篇> <卷>QUYỂN 3 Hỏi: Phàm, giáo nói rõ hết thảy muôn pháp, chí lý hư huyễn, chẳng phải chứng của có không, tuyệt tánh của tự tha. Nếu không một pháp làm tự thể, vậy làm sao lập tông? Đáp: Nếu chẳng lập tông, học sao quy thú? Nếu luận bàn về tự tha có không, đều là thức tâm của chúng sanh phân biệt, là môn đối trị, theo tướng đợi có. Tự thể pháp thân trong tâm thật lý đâu đồng huyễn có, chẳng theo huyễn không. Kinh Lăng-già nói: “Phật dạy: Đại Tuệ! Thí như chẳng phải tánh trâu ngựa, tánh trâu ngựa kỳ thật chẳng phải có chẳng phải không, kia chẳng phải không tự tướng” giải thích xưa rằng: Trên thân thể của ngựa chẳng thể nói tánh trâu là có hay là không, nhưng. Xưa chẳng phải không có tự thể của ngựa. Thí như trên pháp thân chẳng được nói tánh của ấm giới nhập là có hay là không, nhưng chẳng phải không có tự tướng của pháp thân. Lý pháp không đây vượt quá có không, tức tánh của pháp thân, nhưng có thú có hướng trí trái với Thiên chân. Không đắc không quy tình sanh đoạn diệt. Chỉ có đó chẳng cần mong cầu, khuôn chân rõ ràng như vậy, không đó tự nhiên đủ, diệu chỉ sâu mầu, thì lắng vậy có kết quy, điềm nhiên không gián đoạn, chóng vượt năng sở, chẳng ở nơi có không, có thể gọi là chân thật kết quy năng thông chí đạo vậy. Hỏi: Dùng tâm làm tông. Thế nào là tướng của tông thông? Đáp: Nội chứng tự tâm, Đệ nhất nghóa lý, trú ở địa vị tự giác, vào môn Thánh trí, vì tương ưng đó, gọi là tướng tông thông. Đó là lúc hành chẳng phải lúc giải. Nhân giải thành hành, hành thành giải tuyệt, thì nói năng dứt tuyệt, chỗ tâm hành diệt. Như kinh Lăng-già nói: “Phật bảo: Đại Tuệ! Tông thông nghóa là duyên tự được tướng thắng tấn, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng khống đến tự tướng cõi vô lậu địa vị tự giác,xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng nhiếp phục hết thảy chúng ma, ngoại đạo. Duyên tự giác thú hướng quang minh phát huy, đó gọi là tướng tông thông”. Do đó, ngộ tâm thành Tổ thánh trước tương truyền, nên Đại sư đạt-ma nói: “Rõ Phật tâm tông, trọn không sai lầm, hành giải tương ưng, gọi đó là Tổ”. Lại nói lời kệ tụng rằng: “cũng chẳng nhìn ác mà ganh ghét,cũng chẳng nhìn thiện mà riêng. Cũng chẳng bỏ ngu mà gần hiền, cũng chẳng vất mê mà đến ngộ, đạt đại đạo vậy quá lượng, thông tâm Phật vậy vượt qua. Chẳng cùng phám Thánh đồng giẫm siêu nhiên, gọi đó là Tổ”. Hỏi: Ngộ đạo sáng tông như người uống nước nóng lạnh tự biết. Làm sao nói được hành tướng đó? Đáp: Trước đã nói: Chư Phật dùng phương tiện chẳng đoạn thời nay, kín trải tâm từ sâu chẳng khiến riêng bỏ. Người đời sáng tỏ trọn chẳng mở lời, chỉ vì nhân nghi ngờ nên hỏi, nhân hỏi nên đáp. Đó là Đức Bổn sư ở trên pháp hội Lăng-già vì chư vị Đại Bồ-tát ở mười phương đến cầu pháp, nên đích thân giảng nói hai thứ thông đó: Một là tông thông; hai là thuyết thông. Tông thông làm Bồ-tát, thuyết thông làm ngu dại, Phật Tổ lại vì kẻ sơ cơ, ngu dại ít rủ lòng mở bày. Đó là nói về thuyết thông, chỉ vì theo người tìm pháp từ ngôn ngữ sanh giải hiểu. Sợ chấp phương tiện lấy làm chân thật, mê lầm ở tông thông, do đó, phân mở nghóa của hai thông. Tông thông nghóa là duyên tự được tướng thắng tấn, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, cho đến duyên tự giác thú hướng quang minh phát huy, nếu đích thân đạt đến địa vị tự giác, lúc quang minh tỏa phát, được gọi là như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Như một đoàn người mù mắt, cảnh chiếu phân minh, nghiệm hình thể thật của voi, trọn chẳng mò đuôi ngà voi, thấy chánh sắc sữa, đâu ở đàm nói hộc tuyết. Ngay trước người đầy đủ mắt sáng, nếu lại nói bày thì chẳng được xưng là biết thời, gọi là Đại pháp sư. Người thấy vầng nguyệt, trọn không nhìn ngón tay, người đích thân về đến nhà tức tự dứt hỏi lộ trình, chỉ chứng tương ưng, chẳng đợi nói bày, trọn chẳng chấp ngón tay là vầng nguyệt, cũng chẳng lìa ngón tay mà thấy vầng nguyệt. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Thí như có vị vua bảo một quan đại thần rằng: “Ông dẫn một con voi ra chỉ bày cho các người mù”. Khi ấy quan đại thần vâng nhận lời vua bảo rồi, nhóm tập đông nhiều người mù, mà dẫn voi ra chỉ bày. Bấy giờ các người mù mỗi tự đưa tay xúc chạm vào voi. Quan đại thần liền trở về tấu với vua rằng: “Thần đã chỉ bày xong”. Khi ấy, vua bèn gọi các người mù lại, theo thứ tự từng người mà hỏi: “Ông có thấy voi chăng?” Các người mù đều nói: “Tôi đã được thấy”. Vua hỏi: “Voi là loại như thế nào?” Trong đó, người xúc chạm ngà voi thì nói hình voi như củ cải. Người xúc chạm tai voi thì nói voi như chiếc ky, người xúc chạm đầu voi thì nói voi như tảng đá, người xúc chạm mũi voi thì nói voi như chày, người xúc chạm chân voi thì nói voi như cối gỗ, người xúc chạm lưng voi thì nói voi như sàn giường, người xúc chạm bụng voi thì nói voi như chiếc bình, người xúc chạm đuôi voi thì nói voi như sợi dây. Này thiện nam! Như các người mù kia, chẳng nói hình thể voi cũng không phải chẳng nói. Như các tướng đó hẳn chẳng phải voi, nhưng lìa các tướng đó ra lại không có voi riêng khác. Này thiện nam! Vua đó dụ như Đức Như Lai, bậc Ứng Chánh biến tri, quan đại thần dụ như kinh Phương Đẳng, đại Niết-bàn, voi dụ như Phật tánh, người mù dụ như chúng sanh vô minh. Các chúng sanh đó nghe Phật giảng nói pháp rồi, hoặc nói lời rằng: “Sắc là Phật tánh tại sao? Sắc đó tuy diệt nhưng lần lượt tương tục, cho nên chứng đắc vô thượng, Như Lai có ba mươi hai tướng, Như Lai là sắc thường, sắc của Như Lai thường chẳng đoạn dứt, nên nói sắc đó là Phật tánh. Thí như vàng thật, chất tuy biến đổi mà sắc màu thường chẳng khác, hoặc có lúc làm xuyến, làm mâm, nhưng màu vàng như mới đầu không đổi khác. Chúng sanh, Phật tánh cũng lại như vậy. Chất tuy vô thường, mà sắc là thường, do đó nên nói sắc là Phật tánh. Cho đến nói thọ, tưởng, hành, thức v.v… là Phật tánh. Lại có người nói rằng: Lìa Ấm có Ngã. Ngã là Phật tánh. Như các người mù kia, mỗi tự nói về voi, tuy chẳng được thật, chẳng phải không nói về voi. Nói về Phật tánh cũng lại như vậy. Chẳng phải tức sáu pháp, chẳng lìa sáu pháp. Này thiện nam! Cho nên Ta nói chúng sanh, Phật tánh chẳng phải sắc chẳng phải lìa sắc, cho đến chẳng phải Ngã chẳng phải lìa Ngã. Này thiện nam! Có các ngoại đạo tuy nói có ngã mà thật là không ngã. Chúng sanh ngã tức là ngũ ấm. Lìa Ấm ngoài ra không có Ngã nào riêng khác. Này thiện nam! Thí như cành lá tua đài hợp lại làm hoa sen, lìa các thứ đó ra lại không có hoa nào riêng khác”. Phật lại bảo: “Này thiện nam! Các ngoại đạo ngu si như là trẻ con, không trí tuệ phương tiện, không khả năng thấu hiểu thường và vô thường, khổ và vui, tịnh và không tịnh, ngã và vô ngã, thọ mạng và chẳng phải thọ mạng, chúng sanh và chẳng phải chúng sanh, thật và chẳng phải thật, hữu và chẳng phải hữu, đối với trong Phật pháp chấp lấy một phần ít, hư vọng chấp có thường lạc ngã tịnh mà thật chẳng biết thường lạc ngã tịnh. Như người vừa mới sanh đã mù, không biết sắc màu của sữa, bèn hỏi người khác: “Sắc màu của sữa tương tợ gì?” Người ấy đáp: “Sắc màu sữa trắng như võ sò”. Người mù lại hỏi: “Sắc màu của sữa như bối ngang ư?” Người ấy đáp: “Không phải vậy”. Người mù lại hỏi: “Sắc màu của võ sò tợ gì?” Người ấy đáp: “Tợ như cháo gạo”. Người mù lại hỏi: “Sắc màu của sữa mềm mại như cháo gạo ư? Cháo gạo sao tương tợ được?” Người ấy đáp: “Giống như mưa tuyết”. Người mù lại hỏi: “Cháo gạo kia lạnh như tuyết ư? Tuyết sao tương tợ được?” Người ấy bèn đáp: “Giống như bạch hộc”. Người mới sanh ra mà mù đó tuy nghe bốn thứ thí dụ như vậy nhưng trọn không biết sắc màu chân thật của sữa. Các ngoại đạo đó cũng lại như vậy, trọn không thể biết thường lạc ngã tịnh. Này thiện nam! Với ý nghóa như vậy, trong Phật pháp ta có chân thật đế chẳng phải như của ngoại đạo”. Phàm, chân thật đế là chỗ kết quy của Tông Kính, lúc chưa nghe ngộ chẳng tin hiểu những pháp nói xa và tự tu hành, đều thành môn sanh diệt chiết phục, chẳng vào đạo Vô sanh cứu cánh. Như trong kinh Yêm-đề-già-nữ nói: “Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại hỏi rằng: “Lại có người sáng suốt biết sanh mà tướng chẳng sanh, có bị sanh lưu lại không??” Đáp: “Có. Tuy tự thấy rõ, nhưng sức lực đó chưa sung mãn mà bị sanh lưu lại ấy vậy”. Lại hỏi: “Lại có người vô tri không biết tánh sanh thìø rốt cùng có bị sanh lưu lại chăng?” Đáp: “Không. Tại sao vậy? Nếu chẳng thấy tánh sanh, tuy nhân điều phục mà ít được nơi an, tướng chẳng an đó thường làm đối trị. Nếu người hay thấy sanh tánh, tuy ở nơi chẳng an, mà tướng an thường hiện tiền. Nếu người chẳng biết như thế, tuy có các thứ thắng biện, bàn nói điển tịch sâu mầu, mà tức là tâm sanh diệt nói lời bí yếu của thật tướng kia, như người mù phân biệt về sắc màu, nhân người khác nói nên nói được xanh vàng đỏ trắng đen mà chẳng thể thấy được tướng chánh của sắc màu. Nay người không thể thấy các pháp cũng lại như vậy, chỉ nay làm chỗ sanh của sanh làm chỗ tử của tử mà có chỗ giảng nói, mới đối với người đó, tức không có nghóa của sanh tử ư? Nếu làm chỗ buộc của thường và vô thường cũng lại như vậy. Phải biết người đại đắc không cũng chẳng tự đắc không, nên nói nghóa có và không ư? Nên biết hay rõ biết tánh của muôn pháp Vô sanh, đó là đắc đạo”. Trong kinh Đại Bát-nhã nói: “Phật bảo: Này Thiện Hiện! Vì hết thảy pháp không; không chỗ có, đều chẳng tự tại, hư dối không bền chắc, nên hết thảy pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy. Lại nữa, này Thiện Hiện! Hết thảy pháp tánh không chỗ nương dừng, không chỗ lệ thuộc, do nhân duyên đó, không sanh, không khởi, không biết, không thấy”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Pháp ấn như thật in các nghiệp môn, được pháp Vô sanh, trú nơi Phật trú, quán tánh vô sanh in các cảnh giới, chư Phật hộ niệm phát tâm hồi hướng, cùng các pháp tánh tương ưng hồi hướng, vào pháp vô tác, thành tựu phương tiện sở tác”. Do đó, chưa rõ yếu chỉ của duy tâm, người chưa vào Tông Kính, hướng đến trong vô sanh khởi dơ bẩn của tham si, ở trong chân không đắm duyên cảnh giới, lấy làm đối trị, thành luân chuyển đó. Nếu hay soi chiếu trở lại, tâm cảnh đều lắng. Như kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu Bồ-tát thấy tham dục tế tức là chân tế, thấy sân nhuế tế tức là chân tế, thấy ngu si tế tức là chân tế, thì hay diệt hết tội của nghiệp chướng. Cho đến người ngu phàm phu không biết các pháp rốt cùng là diệt tướng, nên tự thấy ở thân đó, cũng thấy người khác. Do vì thấy đó bèn khởi thân, khẩu, ý nghiệp, cho đến không thấy Phật, không thấy Pháp, không thấy Tăng. Đó là không thấy hết thảy pháp. Nếu chẳng thấy hết thảy pháp,ở trong các pháp thì chẳng sanh nghi ngờ Vì chẳng sanh nghi ngờ thì chẳng nhận chịu hết thảy pháp. Vì chẳng nhận chịu hết thảy pháp thì tự tịch diệt”. Trong kinh Bất Khả Tư Nghì Phật Cảnh Giới nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đồng tử! Ông có thể rõ biết chỗ trụ của Đức Như Lai là pháp Bình đẳng chăng?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Thế Tôn! Con đã rõ biết”. Phật hỏi: “Đồng tử! Thế nào là chỗ trụ của Đức Như Lai là pháp Bình đẳng?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Nơi hết thảy phàm phu khởi tham sân si, là nơi trụ của Đức Như Lai là pháp Bình đẳng?” Phật hỏi: “Đồng tử! Thế nào là nơi hết thảy phàm phu khởi tham sân si, là nơi trụ của Đức Như Lai là pháp Bình đẳng?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Hết thảy phàm phu ở trong pháp không, vô tướng, vô nguyện khởi tham sân si, cho nên nơi hết thảy phàm phu khởi tham sân si, tức là nơi trú của Đức Như Lai, là pháp Bình đẳng”. Phật hỏi: “Đồng tử! Không há là pháp cóù mà nói ở trong tham sân si?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Không là có, cho nên tham sân si cũng là có”. Phật hỏi: “Đồng tử! Không, thế nào là có? Tham sân si lại thế nào là có?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Không, do vì nói năng nên có. Tham sân si cũng vì nói năng nên có. Như Đức Phật nói : Tỳ-kheo có pháp không sanh không khởi, vô tác vô vi, chẳng phải các hành đây chẳng phải không có. Nếu không có thì đối với các pháp sanh khởi, tác, vi, các hành, phải không xa lìa, vì có nên nói xa lìa vậy. Đây cũng như vậy, nếu không có không thì ở nơi tham sân si không có xa lìa. Vì có, nên nói xa lìa tham v.v… các thứ phiền não vậy”. Trong luận Trung Quán có kệ tụng rằng: “Từ pháp chẳng sanh pháp, Cũng chẳng sanh phi pháp, Từ phi pháp chẳng sanh pháp, Và cùng với phi pháp”. Giải thích thẳng ý bài kệ rằng: Pháp tức là có, như sắc tâm v.v…. Phi pháp là không, như sừng thỏ v.v…. Nếu từ pháp sanh pháp, như mẹ sanh con, pháp sanh phi pháp, như người sanh gái đá. Từ phi pháp mà sanh pháp, như sừng thỏ mà sanh người, từ phi pháp mà sanh phi pháp, như lông rùa sanh sừng thỏ. Nên luận Bát-nhã Giả Danh nói: “Lại có ý nghó rằng: Nếu Như Lai chỉ chứng vô sở đắc, Phật pháp tức một, chẳng phải vô biên. Cho nên kinh nói: Như Lai nói hết thảy pháp đều là Phật pháp. Phật pháp nghóa là gì? Tức vô sở đắc, cho nên hết thảy không gì chẳng là Phật pháp. Thế nào là hết thảy đều vô sở đắc? Kinh nói hết thảy pháp tức chẳng phải hết thảy pháp. Thế nào là chẳng phải ư? Vì tánh vô sanh. Nếu vô sanh tức là vô tánh. Thế nào gọi là hết thảy pháp? Vì ở trong vô tánh giả mượn nói năng. Hết thảy pháp không có tánh, tức là chúng sanh, Như Lai Tạng tánh”. Cư só Bàng Uẩn có bài kệ tụng rằng: “Kiếp lửa thiêu đốt trời, trời chẳng nóng, Gió chướng thổi động chẳng nghe tiếng. Trăm sông đua nhau trút vào biển chẳng đầy tràn, Ngũ nhạc danh sơn chẳng thấy hình. Lắng trong tónh lự không dấu vết, Ngàn đường đều gồm vào vô sanh”. Nên biết các pháp theo ý thành hình, ngàn đường nhân tâm mà có tượng. Một niệm lắng tịch, muôn cảnh rỗng rang. Nguyên đồng môn không hai, đều vào yếu chỉ vô sanh. Do đó, trong Hành Lộ Nan, Phó Đại Só nói: “Ông chẳng thấy, các pháp chỉ giả không thi thiết Tịch tónh vô môn làm pháp môn, trong tất cả pháp tâm làm chủ. Nay ta lại chẳng được nguồn tâm, tầm tìm xét nguồn đã không được, nên biết các pháp đều không căn”. Lại nữa, vô sanh có hai. Như luận Thông Tâm nói: “Một là, Pháp tánh vô sanh, diệu lý nói pháp, cực rỗng nói tánh, xưa nay tự vậy, gọi là vô sanh. Hai là, Duyên khởi vô sanh, phàm cảnh do tâm hiện, nên chẳng từ tha sanh, tâm gá cảnh khởi, nên chẳng tự sanh. Tâm cảnh mỗi khác, nên chẳng cùng sanh, cùng nhân mà có, nên chẳng không nhân sanh”. Cũng nói, một là lý vô sanh, vì viên thành thật tánh vốn chẳng sanh. Hai là, sự vô sanh, tướng của duyên sanh, tức là vô sanh. Luận Chỉ Quán nói: “Nếu giải thích kinh Kim Cang tức chuyển ý vô sanh vào trong môn không trú. Không trú sắc bố thí. Không trú thanh hương v.v…, bố thí, tuy các pháp không trú, vì không trú pháp, trú trong Bát-nhã tức là vào không. Vì không trú pháp, trú ở Thế đế tức là vào giả. Vì không trú pháp, trú ở thật tướng tức là vào trung, tuệ không trú đây tức là Kim cang Tam-muội, có khả năng phá hết đá tảng, cát sỏi vụn vặt, suốt cùng cả Bản tế”. Lại như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Đại tịch định Kim cang Tam-muội, luận của Thiên Thân, Vô Trước khai mở thiện, rộng giải thích, há vượt ngoài ý vô sanh vô trú ư? Nếu đắc ý đó, ngàn kinh muôn luận rỗng rang không nghi ngại. Đó là chương mới đầu của học quán, căn bản của nghó bàn, diệu tuệ của giải thích khác lạ, chỉ quy của vào đạo, giềng mối rộng lớn sự lý đầy đủ. Một giải ngàn theo, pháp môn tự tại. Nên biết hết thảy các pháp đều từ vô sanh tánh không mà có. Có mà chẳng phải có, chẳng lìa tục mà thường chân, chẳng phải có mà có, chẳng lìa chân mà thường tục, thì huyễn có lập mà vô sanh hiển bày, không và hữu rõ ràng. Hai tướng hết mà hai sự còn, chân tục rõ ràng thì vô sanh mà không gì chẳng sanh, chẳng trú ở hai bên vậy. Như cổ đức có lời tụng rằng: “Vô sanh trọn chẳng trú, Muôn tượng không bày trải, Nếu làm giải vô sanh, Lại bị vô sanh buộc”. Hỏi: Dùng tâm làm tông, lý phải cứu cánh, nói về hữu tình giới, chân ngụy tợ phân, chẳng thể sấm đồng có lạm viên giác, như vàng thau cùng đốt nóng, giả thật chợt phân, cát gạo đồng nấu, sống chín có khác. Vậy không biết dùng tâm nào làm tông? Đáp: Thật như điều hỏi phải kín nhiệm nhận biết tâm. Diệu này khó biết, chỉ Phật mới hay hiện rõ, chỉ vì hàng Tam thừa kính đạo, thấy có sai biệt, lầm chỉ vọng tâm lấy làm chân thật, nhận giặc hư vọng mà làm con thật, bỏ hết của báu trong nhà, nhặt lấy mắt cá mà cho là ly châu. Không mê mắt trí, bèn khiến đứa con ngu si, vùi lấp vào nhiều lớp của ngục hữu, người tà đảo đắm chìm sóng lớn của sông kiến, đùa lửa bừng nói nhà mục nát, quên khổ quên nhọc nằm mộng lớn suốt đêm dài, mê tâm mê tánh, đều vì chấp duyên lự đó làm thân của chính mình, bỏ sót chân tâm đây, nhận thanh sắc khác, đó là chỗ mất của hàng ngoại đạo xuất tục và hàng phàm phu tại gia. Cho đến hàng Tam thừa kính đạo học pháp. Thiền tông cũng mê mờ tâm đây, chấp phương tiện của Phật, đến nỗi khiến giáo mở tám lưới, thừa đối bốn cơ, vượt một niệm mà xa chợt ba kỳ, công rỗng cả Đại kiếp. Lìa bảo sở mà lâu đắm trong hóa thành, vết tích khốn nhọc giữa đường dài, đó là quyền cơ quả nhỏ, cho đến chỗ mất của Thiền tông không được ý vậy. Do đó, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật bảo A-nan rằng: “Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bởi các thứ điên đảo, giống nghiệp tự nhiên như ác xoa tụ. Các người tu hành không thể được thành Vô thượng Bồ-đề, cho đến riêng thành Thanh văn, Duyên giác, và thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma, đều do không biết hai thứ lầm loạn tu tập, tợ như nấu cát mà muốn thành thức ăn ngon, giả sử trải qua kiếp số như vi trần trọn không thể được. Thế nào là hai thứ? A-nan! Một là, căn bản sanh tử từ vô thỉ, thì như ông nay cùng các chúng sanh dùng tâm phan duyên lấy làm tự tánh. Hai là, Bồ-đề Niết-bàn từ vô thỉ nguyên thể thanh tịnh, thì như ông nay, thức tinh nguyên minh hay sanh các duyên, chỗ duyên bỏ sót là do các chúng sanh bỏ sót bản minh đây. Tuy trọn ngày thực hành mà không tự biết, uổng vào trong các thú”. Giải thích rằng: Hai thứ căn bản ấy tức là hai tâm chân vọng. Một là, căn bản sanh tử từ vô thỉ tức là căn bản vô minh, đó là vọng tâm, mới đầu mê lầm nhất pháp giới, bất giác chợt khởi mà có niệm đó. Chợt khởi tức là vô thỉ, như tròng mắt mệt nhọc thì hoa đốm hiện, ngủ say thì mộng sanh. Vốn không nguyên có lýù do của khởi nguyên, chẳng phải có nơi định sanh, đều từ vọng niệm, chẳng phải duyên ngoài khác, từ đó thành nghiệp thức vi tế, thì khởi chuyển thức, chuyển làm năng tâm. Sau đó khởi hiện thức, hiện ngoài cảnh giới, hết thảy chúng sanh đồng dùng nghiệp đó chuyển hiện đều cả ba thức, khởi phan duyên trong ngoài làm tự tánh của tâm, nhân sanh tử tương tục đó lấy làm căn bản. Hai là, Bồ-đề Niết-bàn từ vô thỉ nguyên thể thanh tịnh. Đó tức là chân tâm, cũng gọi là tự tánh thanh tịnh tâm, cũng gọi là bản giác thanh tịnh. Vì không khởi không sanh, tự tánh bất động, chẳng bị sanh tử làm nhiễm, chẳng bị Niết-bàn làm tịnh, đặt là thanh tịnh. Thể thanh tịnh đó là tinh nguyên của tám thức vốn tự viên minh, vì tùy theo nhiễm bất giác, chẳng giữ tánh, như hang rỗng, mặc tình âm vang theo duyên phát tiếng. Đây cũng như vậy, hay sanh các pháp thì lập hai phần kiến tướng, tâm cảnh hỗ tương sanh, chỉ tùy theo duyên của nhiễm tịnh, bỏ sót tánh viên thường đây, như nước tùy theo gió khởi các gợn sóng. Như chúng sanh ấy mất gốc theo ngọn, cứ mãi chìm đắm đều không nhận biết, uổng chịu dối khổ, tuy chịu khổ dối, mà vui thật thường còn, mặc tình giẫm trải qua lên xuống, bản giác vẫn chẳng động, như nước làm sóng mà chẳng mất tánh ướt. Chỉ biết biến tâm làm cảnh, lấy ngộ làm mê, từ mê tích chứa mê, rỗng luống trải qua số kiếp như vi trần, nhân mộng sanh mộng, trọn mê mờ trong đêm dài. Nên kinh nói: “Phải biết hết thảy chúng sanh từ vô thỉ lại sanh tử tương tục, đều do không biết chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể, dùng các vọng tưởng, tưởng đó chẳng phải chân, nên có luân chuyển. Vì không rõ chân tâm bất động mà theo vọng thức luân hồi. Thức đó không thể, chẳng lìa chân tâm. Nguyên ở vô tướng chân nguyên, chuyển làm hữu tình vọng tưởng, như gió dấy khởi sóng trong đầm lắng, sóng tuy động mà thường ở nguồn chẳng động. Tợ như màng mắt sanh hoa đốm giữa khoảng không, hoa tuy hiện mà chẳng lìa tánh của hư không, màng mắt tiêu hư không sạch, bóng dứt đầm lắng sạch. Chỉ một chân tâm cùng khắp pháp giới. Lại nữa, tâm ấy chẳng phải từ khoảng trước sanh, chẳng ở khoảng giữa trú, chẳng đến khoảng sau diệt, thăng giáng chẳng động, tánh tướng chỉ nhất như, thì từ trước bẩm thọ dùng chân tâm đây làm tông, lìa đây mà tu hành, đều là ràng buộc trong lưới ma, riêng có sở đắc, đều vùi lấp trong rừng tà. Do đó, hay động tâm từ sâu sắc, gấp bội sanh khởi xót thương”. Nên Nhị tổ mong cầu vọng tâm đó không được, sơ tổ khi ấy bèn truyền y pháp. A-nan chấp vọng tâm ấy, Đức Như Lai do đó mà chê trách. Như trong kinh nói: “Phật bảo: A-nan! Ông nay muốn biết đường Xa-ma-tha, mong ra ngoài sanh tử. Ta nay lại hỏi ông: “Khi ấy Đức Như Lai bèn đưa cánh tay sắc vàng co năm ngón lại mà bảo A-nan rằng: “Nay ông có thấy gì chăng?” A-nan thưa: “Dạ thấy”. Phật bảo: “Ông thấy chỗ nào?” A-nan thưa: “Con thấy Như Lai đưa cánh tay co quắp ngón lại làm nên ánh sáng đánh lóa vào trong tim mắt con”. Phật hỏi: “Ông cùng ai thấy?” A-nan thưa: “Con cùng đại chúng đồng dùng mắt thấy”. Phật bảo: “A-nan! Nay ông trả lời Ta, Như Lai co ngón tay làm ánh sáng đánh lóa vào tim mắt ông. Mắt ông có thể thấy. Vậy lấy gì làm tâm, ngay lúc Ta đánh lóa sáng?” A-nan thưa: “Hiện nay Như Lai nêu bày chỗ ở của tâm, mà con dùng tâm tìm tòi đến cùng, tức cái năng tìm tòi thôi, con lấy làm tâm”. Phật bảo: “Ôi! A-nan! Đó chẳng phải tâm ông”. A-nan chợt nhiên rời khỏi tòa, đứng dậy chấp tay bạch Phật rằng: “Đó chẳng phải tâm con, thì phải gọi như thế nào?” Phật bảo: “A-nan! Đó là tướng tưởng tiền trần hư vọng tưởng tướng làm mê hoặc chân tánh của ông. Do ông từ vô thỉ đến nay nhận giặc làm con, đánh mất nguyên thường nơi ông nên nhận chịu lưu chuyển”. A- nan thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con là người con mến thương của Phật, tâm mến kính Phật nên nay con phát tâm xuất gia. Tâm con đâu riêng cúng dường Như Lai, cho đến khắp các cõi nước như số cát sông Hằng mà phụng sự chư Phật và các thiện tri thức, phát đại dõng mãnh, thực hành hết thảy các pháp sự khó làm, đều dùng bằng tâm đó. Nếu nay phát minh chẳng phải là tâm, thì con là không tâm, đồng như thổ mộc. Lìa giác tri đây lại không có gì khác, cớ sao Như Lai nói đó không phải tâm? Con thật kinh sợ, và tất cả đại chúng đây không ai chẳng nghi ngờ lầm hoặc, cúi mong Như Lai rủ lòng đại bi, thương vì chỉ bày!” Khi ấy, Đức Thế Tôn chỉ dạy cho A-nan và cả đại chúng, muốn khiến tâm vào Vô sanh pháp nhẫn, nên từ tòa sư tử, Đức Phật đưa tay xoa đỉnh đầu A-nan mà bảo rằng: “Đức Như Lai thường nói chỗ sanh các pháp chỉ do tâm hiện, hết thảy nhân quả trong thế giới vi trần đều nhân tâm mà thành thể. A-nan! Như các thế giới tất cả chỗ có, trong đó cho đến cỏ lá nút thắt tơ hỏi đến căn nguyên đều có thể tánh, đến như hư không cũng có danh mạo, huống gì tâm tánh diệu minh thanh tịnh hết thảy tâm mà tự không thể? Nếu ông chấp giác quán dối phân biệt chỗ rõ biết tánh hẳn làm tâm. Tâm đó tức nên lìa tất cả sắc, thanh, hương, vị, xúc, các trần sự nghiệp riêng có toàn tánh. Như nay ông nhân nghe pháp Ta, đó là nhân âm thanh mà có phân biệt. Giả sử diệt tất cả thấy nghe hay biết, trong giữ u nhàn, vãn là pháp trần phân biệt ảnh sự. Ta chẳng bảo ông chấp làm chẳng phải tâm. Chỉ vì ông đối với tâm nhỏ nhiệm thăm dò, nếu lìa tiền trần có tánh phân biệt, tức thật là tâm ông. Nếu tánh phân biệt lìa trần không thể, đó tức là tiền trần phân biệt ảnh sự, trần chẳng phải thường trú. Nếu lúc biến diệt tâm đó thì đồng như lông rùa sừng thỏ, thì pháp thân ông đồng với đoạn diệt,thì ai tu chứng Vô sanh pháp nhẫn ư?” Xưa trước giải thích rằng: Năng tìm tòi tức là vọng tâm, đều có dụng của suy nghó chấp trước, cũng được gọi là tâm, nhưng chẳng phải chân tâm. Vọng tâm là ảnh tượng của trên chân tâm. Nên nói thân ông tâm ông đều là vật được hiện trong tâm diệu minh chân tinh diệu. Nếu chấp ảnh tượng đó làm thật, thì lúc ảnh tượng diệt, tâm đó tức đoạn, nên nói nếu chấp duyên trần tức đồng đoạn diệt. Dùng vọng tâm quậy trần thành, thể như tượng trong gương tợ bọt trên nước, mê nước chấp sóng, sóng lắng tâm diệt, mê gương chấp tượng, tượng diệt tâm mất. Như lúc tâm diệt tức thành đoạn kiến, nếu biết tánh ướt chẳng hoại, thể gương thường sáng, thì gợn sóng vốn không, ảnh tượng nguyên lắng. Nên biết cảnh trí chư Phật khắp cùng không giới, thân tâm phàm phu như ảnh như tượng, nếu chấp ngọn làm gốc, lấy vọng làm chân, lúc sanh tử hiện mới nghiệm chẳng thật, nên các bậc Thánh xưa trước nói rằng: “Thấy khoáng không biết vàng, vào lò mới biết lầm”. Hỏi: Hai tâm chân vọng, mỗi dùng nghóa gì làm tâm, lấy gì làm thể, lấy gì làm tướng? Đáp: Chân tâm lấy linh tri tịch chiếu làm tâm, lấy chẳng không vô trú làm thể, lấy thật tướng làm tướng. Vọng tâm lấy sáu trần duyên ảnh làm tâm, lấy vô tánh làm thể, phan duyên tư lự làm tướng. Duyên lự đó rõ ràng là vọng tâm hay biết mà không tự thể, chỉ là tiền trần tùy theo cảnh có không, cảnh đến tức sanh, cảnh đi tức diệt. Nhân cảnh mà khởi, toàn cảnh là tâm. Lại nhân tâm chiếu cảnh, toàn tâm là cảnh. Mỗi mỗi đều không tự tánh, chỉ là nhân duyên. Nên trong kinh Pháp Cú nói: “Bóng nắng không có nước chỉ là hơi mặt trời, trong bóng râm không có sắc chỉ duyên khí vậy. Vì lúc nóng, khí đốt nhân ánh sáng mặt nhật thiêu cháy, từ xa trông nhìn tựa như nước, đó chỉ là tưởng sanh, chỉ là dương khí vậy”. Sắc tâm hư vọng đây cũng là như vậy. Lấy nghiệp tự bản thân làm nhân, lấy cha mẹ ngoại trần làm duyên, hòa hợp tợ hiện sắc tâm, mà chỉ là duyên khí vậy. Nên trong kinh Viên Giác nói: “Vọng nhân sáu trần duyên ảnh làm tướng tự tâm”, nên biết đó là tâm năng tìm tòi, nếu không nhân duyên tức chẳng sanh khởi. Chỉ theo duyên sanh, pháp duyên sanh đều là vô thường, như hình trong gương không thể mà toàn nhân cảnh ngoài, tợ trăng trong nước chẳng thật mà hư hiện không luân, nhận đó làm thật, ngu thật quá lắm vậy. Dó đó, A-nan chấp mà không có căn cứ, bảy chỗ mịt mờ, Nhị tổ thấu rõ mà chẳng sanh. Một lời khế hợp đạo, thì Nhị tổ cầu tâm duyên lự chẳng an đó không được, tức biết chân tâm khắp cùng tất cả xứ, ngộ đó làm tông, bèn mới đầu tiên tiếp nối Tổ vị, A-nan nhân Như Lai dẹp phá vọng tâm. Cho đến ở nơi năm Ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại tánh, mỗi mỗi nhỏ nhiệm thảy đều thấu triệt, chỉ không đều không tự tánh. Đá chẳng phải nhân duyên, tự tha hòa hợp mà có. Lại chẳng phải tự nhiên, không nhân mà sanh, đều là lời lẽ ý nghó thức tưởng phân biệt, nhân đó chợt ngộ chân tâm diệu minh rộng lớn hàm dung khắp tất cả xứ. Liền cùng đại chúng đều đạt tâm đó, đồng tiếng tán thán Đức Phật. Nên trong kinh nói: “Khi ấy A-nan và cả đại chúng được Phật Như Lai chỉ bày vi diệu. Thân tâm rỗng rang được không quái ngại. Đại chúng đó, mỗi mỗi tự biết tâm khắp mười phương, thấy mười phương hư không, như nhìn lá vật cầm nắm trong lòng bàn tay. Hết thảy các vật có trong thế gian đều tức là Bồ-đề nguyên tâm diệu minh. Tâm tinh khắp đủ chứa trong mười phương. Quán sát trở lại thân của cha mẹ sanh ra, tợ như một mảy trần thổi trong mười phương hư không kia, hoặc còn hoặc mất, như một bọt bóng nổi giữa biển cả mênh mông, nổi tan chẳng theo rõ ràng tự biết, được tâm bản diệu thường trú chẳng diệt. Nên chấp tay lễ Phật, được chưa từng có, đối trước Đức Như Lai, nói kệ tán thán rằng: “Kính lạy Đấng Diệu Trạm tổng trì bất động, Pháp Thủ Lăng Nghiêm Vương ở đời hiếm có, Dứt trừ ý tưởng điên đảo của con trong ức kiếp, Chẳng trải qua kiếp số mà chứng đắc pháp thân”. Tức đồng như Sơ tổ chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Hỏi: Hành tướng chân tâm có văn nào làm chứng? Đáp: Trong kinh Trì Thế nói: “Bồ-tát quán tâm, trong tâm không có tướng tâm, tâm đó xưa nay không sanh không diệt, tánh thường thanh tịnh, do khách trần phiền não nhiễm vào có phân biệt, tâm không biết tâm, cũng không thấy tâm. Tại sao? Tâm đó không, tánh tự không, nên căn v.v… không chỗ có, tâm đó không có một định pháp, vì định pháp không thể được. Tâm đó không pháp, hoặc hợp hoặc tan. Tâm đó khoảng trước khoảng sau không thể được. Tâm đó không hình, không năng kiến tâm, tâm chẳng tự thấy, không biết tự tánh. Cho đến người đó khi ấy không phân biệt là tâm hay chẳng phải tâm. Chỉ khéo biết tướng tâm vô sanh, thông đạt là tánh tâm vô sanh. Tại sao? Tâm không tánh quyết định cũng không tướng quyết định, cho đến không được tướng tâm dơ, không được tướng tâm sạch, chỉ biết tâm đó tướng thường thanh tịnh”. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Ở nơi tất cả pháp, tuy không chỗ thủ, mà hay thành tựu phân biệt hết thảy sự nghiệp”. Giải thích rằng: Nếu rõ tự tâm không việc gì chẳng phân biệt. Hoặc vọng chấp thủ tiền cảnh giới lại thành trong tự chẳng đủ. Do đó, kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Bồ-tát quán tánh tướng gốc gọi là tự đầy đủ. Ngàn tư muôn lự chẳng ích gì cho đạo lý, nhọc làm động loạn, mất gốc tâm vương”. Luận thích rằng: Vô lượng công đức tức là nhất tâm, nhất tâm làm chủ nên gọi là tâm vương. Sanh diệt động loạn trái tâm vương đây không được trở lại, nên nói là mất. Lại nữa, tâm là thống nhiếp, vương là thống ngự bốn biển tám phương triều tông. Không một dân nào mà chẳng là bề tôi. Nên kinh Như Huyễn Tam-muội nói: “Chẳng cầu các pháp là tên thân mình”. Kinh Tấn Thú Đại Thừa Phương Tiện nói: “Chân như thật quán là tư duy tâm tánh không sanh không diệt, không trú thấy nghe hay biết, xa lìa tất cả tướng phân biệt. Hỏi: Tâm hay làm Phật, tâm làm chúng sanh, do thấu rõ chân tâm nên thành Phật, do chấp vọng tâm nên làm chúng sanh. Nếu thành Phật đều đủ ngũ nhãn viên thông, ngũ ấm vô lậu. Nên kinh nói: “Diệt sắc vô thường, đạt được sắc thường”. Lại nói: “Diệu sắc trạm nhiên thường an trú”. Lại nói: “Khéo hay phân biệt các pháp tướng”. Vậy, sao nói chân tâm chẳng trú thấy nghe hay biết, trọn xa lìa hết thảy tưởng phân biệt? Đáp: Nếu là vọng tâm thấy nghe, phải nhờ nhân duyên năng sở sanh khởi, như nói “nhãn đủ chín duyên sanh v.v…”. Nếu không có duyên của sắc và không hòa hợp, tánh thấy không do đâu được phát, năm căn cũng vậy, đều nương duyên khởi. Đó thì duyên tụ hội mà sanh, duyên tan mà diệt, không tự chủ tể, rốt cùng là tánh không như kinh Lăng-già có kệ tụng rằng: “Tâm làm người thợ khéo, Ý như người hóa nghề, Năm thức làm đồng bạn, Vọng tưởng trông các nghề, Như người có nghề ca múa, Tùy người vỗ nhịp chuyển, Vỗ chậm thì bước chậm, Vỗ gấp thì bước gấp, Năm căn cũng như vậy, Chỉ tùy theo ý chuyển”. Như nói thân chẳng phải niệm luân, tùy theo niệm mà chuyển. Cớ sao ý địa nếu sanh thân luân động tác, ý địa nếu dứt, căn cảnh đều vắng lặng. Chân tâm thì không như vậy, thường chiếu thường hiện, đến như Thiết vi cũng chẳng thể ép tỏa sáng đó, khắp cùng không giới, bầu trời chẳng thể trùm thể đó. Chẳng thuần chẳng tạp, muôn pháp chẳng thể ẩn chân đó, không trú không nương, trần lao chẳng thể đổi tránh đó, đâu nhờ tiền trần phát sáng, đối cảnh sanh biết, tự nhiên tịch chiếu, linh tri trạm nhiên không ngằn mé. Nên kinh Thủ Lăng - nghiêm nói: “Phật bảo: A-nan! Sáu căn như vậy do giác minh kia có minh minh giác, mất tinh liễu kia, điểm vọng phát sáng. Do đó, nay ông lìa tối lìa sáng, không có thể thấy, lìa động lìa tónh nguyên không chất nghe, không thông không bít, tánh ngửi chẳng sanh. Chẳng biến chẳng yên, thường không chỗ ra, chẳng lìa chẳng hợp, giác xúc vốn không, không diệt không sanh rõ biết đặt gá. Ông chỉ chẳng theo động tónh hợp lìa yên biến thông bít sanh diệt tối sáng, mười hai tướng hữu vi như vậy, tùy nhổ một căn thoát điểm nội phục, phục về nguyên chân, phát diệu của bản minh, diệu tánh phát sáng, ngoài ra năm điểm khác nên nhổ thoát hết. Chẳng do tiền trần sanh khởi thấy biết. Minh chẳng theo căn, gá căn mà minh phát, do đó sáu căn hỗ tương làm dụng. A-nan! Há ông không biết ở trong chúng hội đây, A-na-luật-đà không mắt mà thấy, rồng Bạt-nan-đà không tai mà nghe, thần nữ Khắc Hà không mũi nghe hương, Kiều-phạm-bát-đề khác lưỡi biết vị, thần Thuấn-nhã-đa không thân có xúc chạm, Như Lai trong ánh sáng ánh ngời khiến tạm hiện, đã không phong chất, thể đó nguyên không. Các diệt tận định, Thanh văn được vắng bặt,như trong hội đây, Ma-ha Ca-diếp từ lâu đã diệt ý căn, viên minh rõ biết chẳng nhân niệm tâm. A-nan! Nay ông các căn nếu nhổ hết rồi, trong ánh ngời phát sáng, phù trần như vậy cùng khí thế gian, các tướng biến hóa, như nước nóng tiêu băng, ứng niệm hóa thành vô thường tri giác. A-nan! Như người đời kia nhóm tụ thấy ở mắt, nếu khiến gấp hợp tướng tối hiện tiền, sáu căn ủ rủ đầu chân cùng loại, người kia dùng tay theo hình thể nhiễu quanh bên ngoài. Kia tuy không thấy đầu chân vừa rõ ràng tri giác là đồng, duyên thấy nhân sáng, tối thành không thấy, chẳng sáng tự phát, thì các tướng tối trọn không thể tối, căn trần đã tiêu, thế nào là giác minh, chẳng thành viên diệu?” Giải thích rằng: Như người thế tục kia nhóm tụ thấy ở mắt sáng trước đó ở đời thấy chẳng phải mắt chẳng trông, nếu khiến gấp hợp, thì không chỗ thấy cùng tai v.v… năm căn tương tợ. Người kia đưa tay theo hình thể nhiễu quanh bên ngoài, tuy chẳng mượn nhờ mắt mà cũng tự biết, tình huống đó là thật thấy chẳng gá cảùnh bên ngoài. Duyên thấy nhân sáng, tối thành không thấy, đó là trình bày mắt thế gian, thấy phải nhờ nhân duyên tối sáng, căn trần hòa hợp mới thành ở thấy. Không thấy nào không sáng tự phát, đó là lúc chánh minh chân kiến, tánh thấy chẳng phải mắt. Đã chẳng thuộc mắt, sao lại nương gá chỗ phát của căn trần tối sáng, thì sáng của chẳng sáng, thấy của chẳng thấy, tự nhiên tịch chiếu, linh tri nào từng gián đoạn. Vả lại, tối sáng ở thế gian là tướng hư huyễn ẩn hiện, sao có thể phủ che ư? Do đó, sáng không thể sáng, tối không thể tối vậy. Nên nói: Thì các tướng tối trọn chẳng thể tối, chân tánh thiên nhiên há chẳng phải là viên diệu. Do đó, người học hỏi các bậc Tiên đức rằng: “Thế nào là đại bi thiên thủ nhãn?” Bậc Tiên đức đáp: “Như người trong đêm tối sờ mó được chiếu gối”. Hỏi: Hành tướng vọng tâm, có văn nào làm chứng chăng? Đáp: Kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Phật bảo: Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm niệm khởi tư duy rằng: “Tâm này vô thường mà gọi là thường trú, ở nơi khổ gọi là vui, vô ngã gọi là ngã, bất tịnh cho là tịnh, số động chẳng dừng nhanh chóng chuyển đổi. Kết sử căn bản các môn ác thú, nhân duyên phiền não, hoại diệt thiện đạo, đó chẳng thể tin, tham sân si làm chủ, trong tất cả pháp, tâm là thượng thủ, nếu khéo biết tâm tức đều hiểu các pháp. Các thứ thế gian đều do tâm tạo. Tâm chẳng tự thấy, hoặc thiện hoặc ác đều do tâm khởi, tâm tánh xoay chuyển như vòng lửa quay, đổi chuyển như ngựa, hay thiêu đốt như lửa, bộc khởi như nước. Quán sát như thế, mà ý niệm chẳng động, chẳng theo tâm hành, khiến tâm theo rồi, nếu hay nhiếp phục tâm thì nhiếp phục được các pháp”. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo: Này thiện nam! Tâm nếu là thường, cũng lại chẳng thể phân biệt các sắc, chỗ gọi là sắc màu xanh vàng đỏ trắng tía. Này thiện nam! Tâm nếu là thường, thì không nên nói năng đã làm nay hiện làm và sẽ làm, nếu có đã làm nay hiện làm và sẽ làm, nên biết tâm đó hẳn nhất định là vô thường. Này thiện nam! Tâm nếu là thường thì không oán thân, chẳng phải oán chẳng phải thân. Tâm nếu là thường thì không nên nói vật ta vật người, hoặc chết hoặc sống. Tâm nếu là thường, tuy có chỗ làm không nên tăng trưởng. Này thiện nam! Vì với nghóa đó nên biết tâm tánh mỗi mỗi riêng khác, nên biết là vô thường vậy”. Lại nói: “Thế nào là hiện dụ? Như trong kinh nói tâm tánh chúng sanh giống như khỉ vượn. Tánh của khỉ vượn bỏ một lấy một. Tâm tánh chúng sanh cũng lại như vậy. Đắm trước sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp, không lúc tạm dừng. Đó gọi là hiện dụ. Có thể nghiệm tức tâm chúng sanh nay như khỉ vượn ở nơi cây cao lên xuống chẳng dừng. Mà khỉ vượn lên xuống ra vào không ngại, như thầy phù thủy đến trong chúng hội, danh tướng đều hư, như người kỹ nhạc ra nơi hý trường, gốc ngọn chẳng thật”. Do đó, kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Lại Tỳ-kheo kia thứ lại quán sát tâm nơi khỉ vượn, như thấy khỉ vượn, như khỉ vượn kia quấy nhiễu chẳng dừng, các thứ cây cành lá quả rừng v.v… nơi núi cốc hang hốc quanh co, đi chẳng chướng ngại, tâm nơi khỉ vượn cũng lại như vậy, năm đường sai biệt như các thứ rừng. Các đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ giống như cây kia, chúng sanh vô lượng như các thứ cành, mến ái như hoa lá, phân biệt mến ái tiếng các thứ hương vị v.v… lấy làm các quả, đi nơi núi Tam giới, thân thì như hang, đi chẳng chướng ngại. Tâm khỉ vượn đó, tâm khỉ vượn đây thường đi nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đất của sanh tử. Lại nữa, Tỳ-kheo kia y cứ thiền pháp mà quán sát tâm nơi người kỹ nhạc, như thấy người kỹ nhạc, như người kỹ nhạc kia dùng các nhạc khí ở nơi hý trường làm các thứ đùa vui. Tâm nơi người kỹ nhạc cũng lại như vậy, các thứ nghiệp hóa dùng làm y phục. Đất nơi hý trường nghóa là đất của năm đường. Các thứ trang sức, các thứ nhân duyên, các thứ nhạc khí nghóa là tự cảnh giới. Người ca kỹ đùa vui tức đùa vui sanh tử vậy, tâm làm các thứ đùa vui của người ca kỹ, vô thủy vô chung kéo dài sanh tử vậy. Lại nữa, Tỳ-kheo kia y cứ Thiền pháp quán sát tâm cá Di-nê, như thấy Di-nê, như cá Di-nê ở tại trong sông. Nếu nước các sông chảy xiết gấp loạn, sóng sâu mà chảy nhanh, khó thể qua được, hay trôi dạt vô lượng các thứ cây gỗ, thế lực mạnh dữ, không thể ngăn chướng, núi khe sông nước cao vút nhanh gấp xấu, mà cá Di-nê kia hay vào hay ra, hay đi hay dừng, tâm nơi Di-nê cũng lại như vậy, ở trong sông Dục giới sóng loạn nhanh gấp, hay vào hay ra, hay đi hay dừng”. Luận Đại Trí Độ nói: “Như Phật giảng nói: Người phàm phu có lúc biết thân vô thường, mà chẳng thể biết tâm vô thường. Nếu người phàm phu nói thân có thường, còn sai ít, cho rằng tâm là thường tức rất lầm hoặc vậy. Tại sao? Thân trú hoặc mười năm hoặc hai mươi năm, còn tâm đó ngày ngày qua đi, sanh diệt khác diệt, như việc huyễn, thật tướng không thể được. Có vô lượng nhân duyên như vậy, nên biết tâm là vô thường. Đó gọi là tâm niệm xứ. Hành giả tư duy tâm đó thuộc về ai? Ai sai sử tâm đó? quán sát rồi không thấy có chủ, hết thảy pháp nhân duyên hòa hợp nên chẳng tự tại, chẳng tự tại nên không tự tánh, không tự tánh nên vô ngã. Nếu là vô ngã, vậy ai đang sai sử tâm đó?” Chỉ Quán nói: “Khởi một suy nghó biết đến tâm, tùy sự mừng ghét mà sanh ra mười đạo: Một là, nếu tâm đó niệm niệm chuyên tham sân si, nhiếp đó chẳng trở lại, nhổ đó chẳng ra, ngày tháng thêm nhiều, khởi mười ác thuộc thượng phẩm, như năm cửa kéo lưới, đó là phát tâm của địa ngục, đi nơi đường hỏa đồ. Hai là, nếu tâm đó niệm niệm muốn lắm nhiều quyến thuộc, như biển nuốt các dòng, như lửa đốt củi, khởi mười ác thuộc trung phẩm, như Điều-đạt dẫn dụ các người, đó là phát tâm súc sanh, đi đường huyết đồ. Ba là, nếu tâm đó niệm, niệm muốn được tiếng tăm vang vọng khắp cùng bốn phương tám hướng, ngợi ca khâm vịnh, bên trong không thật đức, dối sánh với Thánh hiền, khởi mười ác thuộc hạ phẩm như Ma Kiền-đề, đó là phát tâm quỷ, đi đường đao đồ. Bốn là, nếu tâm đó niệm niệm thường muốn hơn người khác, chẳng nhẫn chịu dưới người, khinh thường người khác, tự trân quý mình, như chim cú bay trên cao trông nhìn xuống mà bên ngoài phô bày nhân nghóa lễ trí tín, khởi tâm thiện hạ phẩm, đi đường A-tu-la. Năm là, nếu tâm đó niệm niệm ưa thích vui của thế gian, an thân dơ uế đó, vui tâm ngu si đó. Đó là khởi tâm thiện trung khởi phẩm, đi đường ở người. Sáu là, nếu tâm đó niệm niệm nhận biết ba đường ác thì khổ nhiều. Ở cõi người, khổ vui xen tạp, còn trên cõi trời thuần vui, vì vui trên trời chiết phục thô ác. Đó là tâm thiện thượng phẩm, đi đường ở trời. Bảy là, nếu tâm đó niệm niệm muốn oai thế lớn, thân miệng ý mới có chỗ làm hết thảy thôi nghỉ theo, đó là phát tâm làm chủ Dục giới, đi đường ma-la. Tám là, nếu tâm đó niệm niệm muốn được lợi trí biện thông, tài cao dõng triết xét đạt sáu hợp, mười phương to lớn. Đó là phát tâm thế trí, đi đường Ni-càn. Chín là, nếu tâm đó niệm niệm vui thích nhỏ nhiệm ngoài năm trần sáu dục, vui của Tam thiền còn như suối đá, vui đó bên trong nặng, đó là phát khởi tâm Phạm, đi đường sắc và vô sắc. Mười là, nếu tâm đó niệm niệm biết thiện ác xoay quanh, phàm phu say đắm, Hiền Thánh chê trách. Phá ác do tịnh tuệ, tịnh tuệ do tịnh thiền, tịnh thiền do tịnh giới, chuộng ba pháp đó như đói như khát. Đó là phát khởi tâm vô lậu, đi đường Nhị thừa. Với mười tâm trên, hoặc trước khởi tâm quấy, hoặc trước khởi tâm phải, hoặc phải quấy đều khởi, thí như voi, cá và gió đều làm bẩn nước ao. Voi thí như các quấy từ ngoài mà khởi. Cá thí như nội quán mạnh yếu làm chỗ động hai bên. Gió thí như trong ngoài hợp tạp uế trược hòa lẫn. Chín thứ tâm trước là sanh tử như tằm tự buộc, một thứ tâm sau là Niết-bàn, như con chương siêng nhảy ra, tuy được tự thoát, mà chưa đủ Phật pháp, đều quấy nên cả hai đều chọn lựa. Rõ biết ba cõi không lý riêng biệt chỉ là vọng tâm sanh, làm gốc rễ của tám đảo, làm nguồn hang của bốn dòng, nhanh như điện chớp, mạnh như gió cuồng, chợt nổi trần lao, nhanh như nước dòng vỡ, rì rào sanh ngũ dục, chóng tựa vàng lửa xoay, do đó, kết cấu bốn ma, rong ruổi mười sử, chìm đắm nơi đáy sông hai thứ chết, ném lao vào lửa dữ tám khổ. Say mê không biết châu ngọc trong chéo áo, nhọc trải qua hiểm nạn, đánh đấu mất vật báu trong búi tóc, không tự buồn than, đều nhân vọng tâm, mê chân giác đây, trọn không riêng mất”. Có ra văn ấy, như trên y theo giáo nói về hai tâm chân vọng, nói theo nghóa tợ có phân, quy tông chẳng khác biệt. Cớ sao chân tâm hạn chế ở lý thể, vọng tâm y cứ tướng dụng. Nay dùng lý thường là tâm chẳng được tướng tâm, tâm thường là lý chẳng động tướng tâm, như nước tức sóng chẳng được tướng sóng, sóng tức là nước chẳng hoại tướng sóng. Do đó, động tónh không ngằn mé, tánh tướng nhất nguyên. Ngay phàm tâm mà là Phật tâm, quán Thế đế mà thành Chân đế. Do đó, kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát quán hết thảy pháp đều dùng tâm làm tự tánh, như vậy mà trú. Nếu nhiếp cảnh làm tâm là thắng nghóa thế tục. Tự tánh của tâm tức là chân như, là tối thắng nghóa, như vậy mà trú, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, chiếu cả chân tục, trú ở vô trú.  TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 4 Hỏi: Phàm, gọi là tâm pháp. Thế nào là tâm? Thế nào là tâm pháp? Đáp: Rõ trần thông tướng gọi là tâm vương, do gốc nhất tâm đó là tổng nguyên của các pháp. Chấp thủ trần biệt tướng gọi là số pháp. Bởi vì căn bản vô minh đó mê hoặc tánh bình đẳng nên vậy. Luận Biện Trung Biên nói: “Nếu rõ trần thông tướng gọi là tâm, chấp thủ trần biệt tướng gọi là tâm pháp. Hỏi: Một tâm pháp đây có mấy nghóa mà thành? Đáp: Tâm pháp gồm có bốn nghóa: Một là, sự tùy cảnh phân biệt thấy nghe hay biết. Hai là, pháp luận thể chỉ là số pháp sanh diệt. Hai nghóa trên luận về tục nên có, nói về chân nên không. Ba là, không tịch của lý cùng. Bốn là, thật luận bản tánh đó chỉ là pháp Như Lai Tạng tánh chân thật. Hỏi: Trong bốn nghóa của tâm. Hai nghóa trước là vọng tâm duyên lự, hai nghóa sau là chân tâm thường trú. Ước về chân tâm thì bản tánh u huyền cùng lý không tịch, đã không số lượng, lại chẳng chỉ bày. Chỉ như vọng tâm đã liên can vào thấy nghe, lại nói là sanh diệt. Tâm duyên lự đó có bao nhiêu hành tướng? Đáp: Có năm thứ tâm: Một là, tâm suất dó,(theo cảnh) nghóa là nghe pháp mở đầu gặp cảnh bèn khởi. Hai là, tâm tầm cầu, tức đối với cảnh chưa đạt được mới có tầm cầu. Ba là, tâm quyết định, là xét biết pháp thể mà khởi quyết định. bốn là, tâm nhiễm tịnh, là pháp phân tách thích hay chán mà khởi nhiễm tịnh. Năm là, tâm đẳng lưu, là niệm niệm duyên cảnh trước sau ngang bằng. Trong Pháp Uyển Nghóa Lâm nói: “Biện tướng của năm tâm là như nhãn thức mới đầu rơi lạc nơi cảnh, gọi là tâm suất dó đọa. Đồng thời ý thức trước chưa duyên đó, nay mới đồng khởi, cũng gọi là suất dó”. Nên luận Du-già nói: “Ý thức nhậm vận tán loạn duyên chẳng suốt, lúc tập cảnh, vô dục v.v… sanh. Khi ấy, ý thức gọi là tâm suất dó đọa. Lúc có dục sanh, vì tầm cầu v.v…, đều nhiếp”. Lại như, kinh Giải Thâm Mật, và luận Quyết Trạch nói: “Năm thức đồng thời hẳn nhất định có một ý thức phân biệt, đồng thời mà chuyển, nên nhãn cùng ý gọi là tâm suất dó. Vì đầu và cuối rơi lạc cảnh. Đây đã duyên mới đầu, chưa biết cảnh nào làm thiện làm ác, vì rõ biết nên tiếp khởi tầm cầu, cùng dục đồng chuyển vì hy vọng cảnh. Đã tầm cầu rồi, thức biết cảnh trước, tiếp khởi quyết định, tức vì hiểu cảnh, quyết định rồi thức giới sai biệt, giữ lấy tướng của chánh nhân v.v…, đối với oán trú ác, đối với thân trú thiên, đối với trung bình trú xả. Tâm nhiễm tịnh sanh. Do nhiễm tịnh đó ý thức làm trước. Dẫn sanh nhãn thức đồng tánh khéo nhiễm, thuận trước mà khởi, gọi là tâm đẳng lưu như nhãn thức sanh, như thức v.v… cũng vậy. Tiên đức hỏi: Năm tâm, đối với trong tám thức, mỗi tự có bao nhiêu tâm? Đáp: Năm thức trước có bốn tâm, trừ tâm tầm cầu, vì không phân biệt. Thức thứ sáu có đủ năm tâm, thức thứ bảy không hai tâm suất dó và tầm cầu, mà có ba tâm quyết định, nhiễm tịnh và đẳng lưu. Nghóa là thức thứ bảy thường duyên cảnh hiện tại, nên không tâm suất dó. Hỏi: Thức thứ bảy hiện có kế độ phân biệt, sao không tâm tầm cầu? Đáp: Phàm, tâm tầm cầu đều nương theo suất dó, sau đó tầm cầu mới sanh. Thức thứ bảy đã không suất dó nên tầm cầu cũng không. Hỏi: Năm thức trước đã không có suất dó, sao không có tâm tầm cầu? Đáp: Tầm cầu có hai duyên mới có: Một tức là tâm suất dó dẫn; hai tức là, tâm kế độ phân biệt. Năm thứ trước tuy có suất dó mà không kế độ phân biệt. Thức thứ tám có ba tâm suất dó, quyết định và đẳng lưu, không nhiễm tịnh và tầm cầu. Hỏi: Thức thứ tám đồng thức thứ bảy thường duyên cảnh hiện tại, sao được có suất dó? Đáp: Thức thứ bảy duyên cảnh tức không gián đoạn, thức thứ tám duyên cảnh có gián đoạn. Thức thứ tám mới đầu lúc thọ sanh, bắt đầu duyên ba cõi, vì ba thứ cảnh. Hỏi: Mới đầu, lúc thọ sanh thức thứ bảy cũng bắt đầu duyên ba cõi, sao thức thứ tám không tâm suất dó? Đáp: Thức thứ bảy tùy chỗ buộc thường duyên ngay cõi thức thứ tám. Nay hỗ trợ giúp một thức thứ bảy thường bên trong duyên một cảnh, tức không suất dó. Thức thứ tám ngoài duyên nhiều cảnh mà có suất dó. Vì không phân biệt tức không tầm cầu. Hỏi: Trong năm tâm, tâm nào huân chủng, tâm nào không huân chủng? Đáp: Tâm suất dó có hai thuyết: Một là, không huân chủng vì nhậm vận duyên cảnh không cường thạnh. Hai là, nếu duyên sanh cảnh tức không huân chủng. Nếu duyên từng nghe thục cảnh tức huân chủng, do sức xuyên suốt tập, còn các tâm khác thảy đều huân tập. Nay giải, tạm như tâm suất dó lúc nghe tiếng cảnh, chẳng chọn tiếng cảnh là sanh hay thục, đều huân chủng tử tiếng thật. Lại có chín tâm thành luân, rộng lược chẳng đồng. Chân lý là một. Tâm đó như luân (bánh xe) tùy cảnh mà chuyển. Nên kinh nói: “Thân chẳng niệm luân, tùy niệm mà chuyển”. Nghóa đó như thế nào? Chư sư thuộc Thượng tọa bộ lập chín tâm luân là: Một là Hữu phần; hai là Năng dẫn phát; ba là Kiến; bốn là Tầm cầu; năm là Quán triệt; sáu là An lập; bảy là Thế dụng; tám là phản duyên; chín là Hữu phần thể. Vả lại, như mới đầu, lúc thọ sanh, chưa hay phân biệt, tâm chỉ nhậm vận duyên ở cảnh chuyên, gọi là hữu phân. Nếu có cảnh đến lúc tâm muốn duyên, bèn sanh cảnh giác, gọi là năng dẫn phát. Tâm đó đã ở trên cảnh đây, chuyển kiến chiếu thuộc kia, đã thấy kia rồi bèn thành tầm cầu. Xét thiện ác đó. đã xét kia rồi bèn suốt biết thiện ác đó mà an lập tâm, khởi lời phân biệt nói thiện ác đó, tùy thiện ác đó bèn có động tác thế dụng. Động tác đã dấy khởi muốn dừng phế đạo, nên phản việc làm trước. Đã phản duyên rồi trở về lại hữu phần. Nhậm vận duyên cảnh gọi là chín tâm. Có thể thành nghóa luân. Trong đó, tâm kiến thồn ở sáu thức, ngoài ra chỉ ý thức. Tâm hữu phân thông với sanh tử, tâm phản duyên chỉ được tử. Nếu người ly dục chết chỉ tâm hữu phân, đã không ngã ái, không chỗ phản duyên, chẳng sanh đoái hoài luyến tiếc. Người chưa ly dục, vì tâm phản duyên mà chết có luyến ái. Nếu có cảnh đến, tức tâm có thể sanh, nếu không cảnh khác, luôn trú hữu phân nhậm vận tương tục. Nhưng tâm kiến và tâm tầm cầu trước sau không nhất định. Hỏi: Nếu tùy theo phân biệt mà lập tâm chân vọng, ước hai tâm đó có bao nhiêu thứ? Đáp: Luận Đại Trí Độ nói: “Có hai thứ đạo: Một là đạo tất cánh không; hai là phân biệt tốt xấu (hảo ố). Như đạo tất cánh không, còn chẳng được một, huống gì nói nhiều. Như đạo phân biệt tốt xấu. Lý theo nghóa riêng biệt, sự mới lắm nhiều. Tạm ước nhất tâm. Xưa trước giải thích có bốn thứ: Một là Hột-lợi-đà-da, Trung Hoa gọi là Nhục đoàn tâm (quả tim), tức tâm ngũ tạng ở trong thân, như trong kinh Hoàng Đình nói rõ. Hai là Tâm duyên lự, tức đây là tám thức, vì đều hay duyên lự tự phân cảnh. Sắc là cảnh của nhãn thức, căn thân chủng tử khí thế giới là cảnh của A-lại-da thức, mỗi duyên một phần nên gọi là tự phân. Ba là Chất-đa-la, Trung Hoa gọi là Tâm tập khởi, chỉ thức thứ tám tích tập chủng tử sanh khởi hiện hành. Bốn là Càn-lật-đà-da, Trung Hoa gọi là Tâm kiên thật, cũng gọi là tâm trinh thật. Đó là chân tâm vậy. Nhưng thức thứ tám không có tự thể riêng biệt, chỉ là thân tâm. Do vì bất giác nên cùng các vọng tưởng có nghóa hòa hợp và không hòa hợp. Nghóa hòa hợp là hay hợp nhiễm tịnh mục đích làm tạng thức, nghóa không hòa hợp là thể thường bất biến, mục đích làm chân như, đều là Như Lai Tạng. Nên kinh Lăng-già nói: “Tịch diệt gọi là nhất tâm, nhất tâm tức là Như Lai Tạng”. Như Lai Tạng cũng là pháp thân đang ở trong ràng buộc. Trong kinh nói: “Ẩn làm Như Lai Tạng, hiển làm pháp thân”. Nên biết bốn thứ tâm vốn đồng một thể, chỉ theo mê hay ngộ mà phân nhiều, trong kinh có kệ tụng rằng: “Phật nói Như Lai Tạng, Lấy làm A-lại-da, Ác tuệ chẳng thể biết, Tạng tức Lại-da thức.” Có chấp chân và A-lại-da thể riêng biệt tức là ác tuệ vậy. Nhưng tuy bốn tâm đồng thể, nghóa chân vọng riêng biệt, gốc ngọn cũng khác. Ba loại trước là tướng, một loại sau là tánh. Tánh tướng vô ngại đều là nhất tâm, tức chân tâm thứ tư lấy làm tông chỉ. Lại nữa, các bậc cổ đức rộng giải thích nhất tâm, trông ở Như Lai Tạng tâm, bao hàm cả hai nghóa: Một là, nghóa ước thể tuyệt tướng, tức chân như môn, nghóa là chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng động chuyển, bình đẳng, nhất vị, tánh không sai biệt, chúng sanh tức Niết-bàn chẳng đợi diệt. Phàm phu và Di-lặc động một ngằn mé. Hai là, nghóa tùy duyên khởi diệt, tức sanh diệt môn, nghóa là tùy huân chuyển động thành ở nhiễm tịnh. Nhiễm tịnh tuy thành tánh luôn chẳng động, chỉ do chẳng đồng hay thành nhiễm tịnh. Cho nên chẳng động cũng tại động môn, kinh Lăng-già nói: “Như Lai Tạng gọi là A-lại-da thức, mà cùng vô minh bảy thức cộng càng, như sóng biển lớn chẳng đoạn tuyệt”. Lại nói “Như Lai Tạng là từ vô thỉ hư ngụy ác tập huân thành, gọi là thức tạng. Nếu từ nhất tâm đó suy ngọn về gốc, gọi là Đệ nhất nghóa, thì được giải thoát”. Đệ nhất nghóa là tánh của duyên, nếu thấy tánh duyên thì thoát duyên ràng buộc. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đều nhất tâm làm”. Luận nói: “Chỉ là nhất tâm, nghóa là tất cả Tam giới chỉ do tâm chuyển. Các giáo đồng dẫn chứng thành duy tâm. Thế nào là nhất tâm mà làm Tam giới? Có ba: Một là, Nhị thừa, nghóa là có tiền cảnh chẳng rõ duy tâm, giả sử nghe nhất tâm cũng chỉ là một của chân đế. Hoặc cho rằng do tâm chuyển biến chẳng phải đều là tâm. Hai là, Dị thục A-lại-da gọi là nhất tâm, vì chọn không ngoại cảnh nên gọi là nhất tâm. Ba là, Như Lai Tạng tánh thanh tịnh nhất tâm, lý không hai thể, nên nói là nhất tâm. Đó biết phàm Thánh hai pháp, nhiễm tịnh hai môn, không gì chẳng là nhất tâm vậy. Lại nữa, nhất tâm đây, ước về nghóa của tánh, tướng, thể, dụng, bản, mạt, tức, nhập v.v…, lại có mười môn: Một là, giả thuyết nhất tâm, thì người Nhị thừa cho rằng thật có ngoại pháp, chỉ do tâm biến động, nên nói nhất tâm. Còn chín môn sau thật chỉ nhất tâm. Hai là, tướng kiến đều còn nên nói nhất tâm. Đó là thông cả tám thức cùng các tâm sở đều là tướng phần sở biến, gốc ảnh đầy đủ, do có sức các chi v.v… huân tập, biến hiện quả báo y chánh v.v… trong Tam giới. Ba là, nhiếp tướng quy kiến nên nói nhất tâm, cũng thông với vương số, chỉ tướng phần sở biến không riêng biệt giống sanh, năng kiến thức sanh, mang theo ảnh kia khởi. Bốn là, nhiếp số quy vương nên nói nhất tâm, chỉ thông tám thức, vì tâm sở kia y cứ vương không thể cũng không tâm biến. Giải thích rằng: Nhiếp tướng quy kiến, Duy thức có kệ tụng rằng: “Duy thức không cảnh giới, Vì không trần vọng kiến, Như người mắt có màng, Thấy các sự lông trăng”. Phàm, làm luận có ba nghóa: Một là, lập nghóa tức câu thứ nhất; hai là, dẫn chứng, tức câu thứ hai; ba là, thí dụ tức hai câu sau (ba- bốn). Luận Sở duyên duyên, chấp nhận tướng kia ở thức, và cả năng sanh thức”. Ý nói rằng: Nội thức tợ như ngoại cảnh hiện làm Sở Duyên duyên, chấp nhận cho nhãn thức v.v… cùng tướng kia khởi và theo kia sanh thức. Kết thúc nói: Các thức chỉ nội cảnh tướng làm Sở Duyên duyên, lý đó cực thành thì chẳng phải toàn vô tướng, tướng thuộc thức, nên nói quy kiến. Nhiếp số quy vương là như luận Trang Nghiêm có kệ tụng rằng: “Tự giới và Nhị quang, Si cùng các hoặc khởi, Các phiền não như vậy, Nhị thật nên xa lìa.” Giải thích rằng: Tự giới nghóa là tự chủng tử A-lại-da thức. Nhị quang tức Năng thủ quang và sở thủ quang. Các thứ phân biệt v.v… này do cùng vô minh và các hoặc khác nên được sanh khởi. Các phân biệt như vậy, nhị thật như vậy nhiễm ô nên cầu xa lìa. Do đó, luận có kệ tụng rằng: “Năng thủ và sở thủ, Hai thứ chỉ tâm quang, Tham quang và tin quang, Hai quang không hai pháp.” Giải thích rằng: Người cầu Duy thức nên biết năng thủ và sở thủ. Hai thứ đó chỉ là tâm quang. Năm là, dẫn ngọn và gốc nói nhất tâm, nghóa là bảy chuyển thức đều là bản thức, công năng sai khác nhưng thể không sai khác. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Thí như sóng biển lớn, Không có bao nhiêu tướng, Biết thức tâm như vậy, Khác cũng chẳng thể được.” Sáu là, nhiếp tướng quy tánh nói nhất tâm, nghóa là tám thức đây đều không tự thể, chỉ là Như Lai Tạng bình đẳng hiển hiện. Các tướng khác đều hết. Hết thảy chúng sanh tức là tướng Niết-bàn. Kinh nói: “Có tám tướng chẳng hoại, vô tướng cũng vô tướng”. Bảy là, tánh tướng đều dung nói nhất tâm, nghóa là Như Lai Tạng toàn thể tùy duyên, thành biện các việc, mà tự tánh đó vốn không sanh diệt, tức lý sự ấy hỗn dụng vô ngại. cho nên nhất tâm Nhị đế đều không chướng ngại. Tám là, dung sự tương nhập nói nhất tâm. Nghóa là do tâm tánh viên dung vô ngại, dùng tánh thành sự, sự cũng hòa dung, chẳng cùng chướng ngại, một vào hết thảy, trong một một mảy trần, mỗi tự thấy pháp giới, trời, người, A-tu-la chẳng lìa một mảy trần. Chín là, toàn sự tương tức nói nhất tâm. Nghóa là sự của y tánh, sự không sự khác biệt, tâm tánh đã không khác của đây và kia, sự cũng hết thảy là một, một tức là nhiều, nhiều tức một ngang bằng. Mười là, lưới trời vô ngại nói nhất tâm. Nghóa là trong một có hết thảy, trong hết thảy kia lại cũng có hết thảy, lớp lớp vô tận, đều vì tâm thức Như Lai Tạng tánh viên dung vô tận, vì chân như tánh rốt ráo vô tận, vì quán hết thảy pháp tức là chân như, trong tất cả thời xứ đều là lưới trời. Như Tuyền Phục tụng rằng: “Nếu người muốn biết lý chân không, Trong thân chân như lại khắp ngoài, Tính với phi tình đồng một thể, Nơi nơi đều đồng chân pháp giới. Chẳng lìa huyễn sắc tức thấy không, Đó tức chân như gồm tất cả, Ở trong một cảnh tất cả trí, Ở trong một trí các cảnh giới. Chỉ dùng một niệm quán các cảnh, Hết thảy các cảnh đồng thời hội, Nơi lúc lưới trời hiện lớp lớp, Hết thảy trí thông không quái ngại.” Tuyền phục là nước nơi dòng nước chảy xoáy xiết. Một là, rất sâu, hai la,ø xoay chuyển, ba là, khó vượt qua. Biển pháp nước xoáy cũng vậy, một là chỉ Phật mới rốt ráo; hai là chân vọng đều theo khó cùng đầu cuối; ba là, nghe không cho là không, nghe hữu cho là hữu, thì chìm đắm nơi dòng xoáy. Nếu chẳng rõ tông đây khó vượt qua biển hữu, tùy theo sóng thiện ác trôi nổi giữa châu khổ vui, chẳng gặp thuyền từ, sao lên bờ giác được? Như kệ tụng nói rằng: “Chân như sạch pháp giới, Một sạch chưa từng còn, Tùy nơi duyên nhiễm tịnh, Bèn thành mười pháp giới.” Tùy nhiễm duyên thì thành pháp giới sáu phàm, tùy tịnh duyên thì thành pháp giới bốn chánh. Pháp giới sáu phàm tức, một là, pháp giới thiên; hai là ,pháp giới nhân; ba là, pháp giới A-tu-la; bốn là, pháp giới địa ngục; năm là pháp giới ngạ quỷ; sáu là pháp giới súc sanh. Pháp giới bốn Thánh tức, một là pháp giới Thanh văn; hai là pháp giới Duyên giác; ba là pháp giới Bồ-tát; bốn là, pháp giới Phật. Chúng sanh ở trên chân tánh, do tịnh tưởng tự khác thì lên xuống trong sáu thú, các Thánh ở trong pháp Vô vi, do trí hạnh làm sai thì bốn Thánh có cao thấp. Nhưng vết tích phàm Thánh tuy thăng giáng buộc mở tợ như khác, nhưng ở trong nhất chân pháp giới, mới đầu không chuyển động. Lại y cứ theo tông Hoa Nghiêm, nhất tâm tùy theo lý sự mà lập bốn thứ pháp giới: Một là, lý pháp giới. Giới nghóa là tánh, vì vô tận sự pháp đều đồng một tánh. Hai là, sự pháp giới. Giới nghóa là phân, vì mỗi mỗi nghóa riêng biệt có phân tể. Ba là, lý sự vô ngại pháp giới, nghóa là đầy đủ tánh phần, viên dung vô ngại. bốn là, sự sự vô ngại pháp giới, nghóa hết thảy phân tể sự pháp mỗi mỗi đều như tánh, dung thông lớp lớp vô tận, vì mười pháp giới đây nhân sự lý bốn pháp giới tánh tướng, tức nhập chân tục dung thông xa ra vô cùng, thành lớp lớp pháp giới vô tận, nhưng phải toàn pháp giới của nhất tâm, toàn nhất tâm của pháp giới, tùy có sức hay không sức mà lập một lập nhiều, nhân giúp nhau bao gồm nhau mà hoặc ẩn hoặc hiển, như một không trung bao trùm vật tượng của sum-la, tợ một cơn nước gom sóng cả của muôn lớp. Vào trong Tông Kính thản nhiên hiển hiện. Lại có hai thứ pháp giới sở nhập và năng nhập, như Thanh Lương sớ nói: “Trước nói rõ sở nhập gồm thể nhất chân pháp giới vô ngại, nói về tánh tướng đó chẳng vượt ngoài sự lý, tùy nghóa đó riêng lược có năm môn: Một là Hữu vi pháp giới; hai là Vô vi pháp giới; ba là Câu thị (cũng là Hữu vi pháp giới, cũng là Vô vi pháp giới); bốn là Câu phi (chẳng phải Hữu vi pháp giới, chẳng phải Vô vi pháp giới); năm là Vô chướng ngại. Nhưng năm môn đây mỗi mỗi lại riêng có hai môn. Thứ nhất, Hữu vi pháp giới có hai: Một, bản thức hay gìn giữ chủng tử các pháp, gọi là pháp giới. Như luận nói: “Vô thỉ thời lai giới v.v…”. Đó là nói theo về nghóa của nhân, mà thể giới đó chẳng ước pháp giới. Hai là, pháp của ba đời sai biệt biên tế, gọi là pháp giới. Như trong phẩm Bất từ nghì nói: “Hết thảy chư Phật biết tất cả pháp giới ở quá khứ đều không thừa sót v.v…”. Đó tức là nghóa của phân tể. Thứ hai, Vô vi pháp giới có hai: Một là, tánh tịnh môn, tánh ở trong phàm vị luôn tịnh, pháp Chân như một vị không sai biệt. Hai là, ly cấu môn, nghóa là đối trị mới hiển bày tịnh, tùy cạn sâu nên phân thành mười thứ. Thứ ba, cũng là Hữu vi pháp giới cũng là Vô vi pháp giới (Câu thị), có hai: Một là, tùy tướng môn, nghóa là thọ tưởng hành uẩn, năm thứ sắc và tám vô vi, mười sáu pháp đó chỉ ý rõ biết, trong mười tám giới gọi là pháp giới. Hai là, vô ngại môn, nghóa là nhất tâm pháp giới đầy đủ hai môn, đó tức: một là, tâm chân như môn, và hai, là tâm sanh diệt môn. Tuy hai môn đó đều gọi là tổng thâu gồm hết thảy các pháp, nhưng hai vị đó luôn chẳng lẫn lộn nhau. Đó như thâu gồm sóng của nước chẳng lắng, gồm nước của sóng chẳng động. Nên trong phẩm Hồi Hướng nói: “Ở Hữu vi giới bày pháp Vô vi mà chẳng diệt hoại tướng của Hữu vi. Ở Vô vi giới bày pháp Hữu vi mà chẳng phân biệt tánh của Vô vi”. Đó là nói rõ về sự lý vô ngại. thứ tư, chẳng phải Hữu vi pháp giới, chẳng phải Hữu vi pháp giới (Câu phi) có hai: Một là, hình đoạt môn, nghóa là duyên không chẳng duyên của lý, nên chẳng phải hữu vi. Lý không chẳng lý của duyên, nên chẳng phải vô vi. Pháp thể bình đẳng, hình đoạt cả hai đều sạch. Trong kinh Đại Phẩm nói: “Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: “Pháp Bình đẳng ấy là pháp Hữu vi hay pháp Vô vi?” Phật dạy: Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi. Tại sao? Lìa pháp Hữu vi, pháp Vô vi không thể được, lìa pháp Vô vi, pháp Hữu vi không thể được. Tu-bồ-đề! Tánh hữu vi, tánh vô vi đó, hai pháp đó chẳng hợp chẳng tan vậy”. Hai là, vô ký môn, nghóa là pháp giới ấy lìa tướng lìa tánh, nên chẳng phải hai đó. Lại chẳng phải hai đế, lại chẳng phải hai danh ngôn năng sở khiến nên, do đó đều lìa. Trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Tất cả các pháp, có hai thứ, đó là: Hữu vi và vô vi. Trong đó, hữu vi chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. Vô vi chẳng phải vô vi chẳng phải hữu vi v.v…”. Thứ năm, vô chướng ngại pháp giới, có hai: Một là bao gồm khắp môn, nghóa là đối với bốn môn trước tùy một tức nhiếp hết thảy còn lại, cho nên Thiện Tài đồng tử hoặc thấy núi biển, hoặc thấy nhà cửa đều gọi là nhập pháp giới. Hai là, Viên dung môn, nghóa là dùng lý dung sự, khiến sự không chia chẻ vi trần chẳng phải nhỏ, hay dung cả mười cõi, sát hải chẳng phải lớn ngầm vào trong một mảy trần. Dùng sự hiển bày lý, khiến lý chẳng phải không phân, nghóa là một và nhiều vô ngại, hoặc nói một pháp giới, hoặc nói các pháp giới. Nhưng do một chẳng phải một nên tức các, các chẳng phải các nên tức một, cho đến lớp lớp vô tận, do đó, Thiện Tài đồng tử tạm thời chấp tay theo kinh nhiều kiếp, mới vào lầu các, thấy khắp vô biên, đều thuộc loại đó. Năm môn mười nghóa trên gồm nói rõ sở nhập pháp giới. Nên dùng sáu tướng gồm chứa đó. Thứ hai là, nói rõ về năng nhập cũng có năm môn: Một là tịnh tín; hai là chánh giải; ba là tu hành; bốn là chứng đắc; năm là viên mãn. Năm môn này đối với sở nhập pháp giới trước có hai môn đó: Một là, tùy một năng nhập thông năm sở nhập, tùy một sở nhập thông năm năng nhập. Hai là, năm năng nhập đây như thứ tự đó mỗi nhập một môn. Như trên hai nghóa tâm cảnh gồm mười môn sáu tướng viên dung, gồm làm thành một tụ. Vô chướng ngại pháp giới, như Bách Môn Nghóa Hải nói: “Nhập pháp giới, tức trần duyên khởi pháp đó, pháp tùy trí hiển bày, dung có sai biệt là giới. Pháp đó vì vô tánh nên không phân tể, dung không hai tướng đồng ở chân tế, đồng hư không ngang bằng, khắp thông hết thảy, tùy chỗ hiển hiện không gì chẳng rõ ràng nhưng một trần đây cùng với hết thảy pháp, mỗi chẳng cùng thấy cũng chẳng cùng biết. Tại sao? Do mỗi mỗi toàn là viên mãn pháp giới. Nhiếp khắp tất cả, không pháp nào khác có thể thấy biết vậy. Trong kinh nói: “Tức pháp giới không pháp giới, pháp giới không biết pháp giới. nếu như vậy thì không pháp riêng khác có thể thấy biết. Tại sao? Vì nơi tỏ ngộ gọi đó là nhập. Lại tuy nhập mà không chỗ nhập. Nếu có chỗ nhập thì mất nghóa các pháp tánh không. Vì vô tánh lý đồng thì nơi nơi đều nhập pháp giới”. Trước ước về tình trí phàm nhỏ, chỗ thấy tùy duyên nhiễm tịnh, thành mười pháp giới, tức thành quá độ. Nay y theo tánh khởi pháp môn của Hoa Nghiêm, đều là chân pháp giới, hoặc thành hoặc hoại, hoặc dơ hoặc sạch, toàn thành pháp giới, như kinh nói: “Phân biệt các sắc, vô lượng hoại tướng, đó gọi là thượng trí”. Xưa trước giải thích rằng: Sắc của lục đạo, hoại thiện hoại định. Sắc của Nhị thừa, hoại nhân hoại quả. Sắc của Bồ-tát, hoại có hoại không. Sắc của Phật hoại các hoại trên, hoại làm pháp giới, chẳng phải hoại, chẳng phải chẳng hoại đều là pháp giới. Hỏi: Tâm phân bốn tên nghóa mở tới mười thứ. Vậy danh nghóa của thức có khoảng bao nhiêu thứ? Đáp: Nếu theo tự tướng đồng môn không thể phân biệt, nếu theo cộng tướng dị môn, tùy nghóa tợ phân danh theo tánh tướng có chín, nghóa bao gồm nội ngoại có đủ năm. Danh có chín, tức: Một là, Nhãn thức; Hai là, Nhó thức; Ba là, Tỷ thức; Bốn là, Thiệt thức; Năm là, Thân thức; Sáu là, Ý thức; Bảy là, Mạt-na thức; Tám là, A-lại-da thức; và Chín là, Tịnh thức. Nghóa đầy đủ năm tức: Một là, thức tự tướng, nghóa là thức tự chứng phần. Hai là, thức sở biến nên hết thảy cảnh giới từ tâm hiện khởi. Ba là, thức tương ưng nên đồng thời với các tâm pháp thọ, tưởng, v.v…. Bốn là, thức phân vị nên bốn tướng trên của thức v.v…. Năm là, thức thật tướng, nghóa là nhị không chân như là thật tánh của thức. Từ trên các pháp đều chẳng lìa thức, gọi chung là duy thức. Nên biết hoặc tướng hoặc tánh, hoặc cảnh hoặc tâm, cho đến phân vị sai biệt đều là duy thức, cuộn buông chẳng lìa, chung riêng đồng thời, giống như mây mốc nương hư không, tợ sóng cả trào vượt giữa biển. Các bậc cổ đức rộng giải thích nghóa duy thức có mười môn để nói rõ hai chữ duy thức đây. Trước lìa giải, kế tiếp hợp giải. Trước tạm lìa giải; mới đầu là “duy”, sau là “thức”. Mới đầu chữ “duy” gồm có ba nghóa: Một là, nghóa của giản trì. Giản nghóa là chọn ngã pháp sở chấp. Trì nghóa là giữ lấy, giữ lấy hai tánh y tha và viên thành. Luận Duy thức nói: “Duy nói là xua lìa ngã pháp của thức. Chẳng phải không chẳng lìa tâm sở vô vi v.v… của thức”. Hai là, nghóa của quyết định. Quyết là không lìa cảnh của tâm. Định là có tâm của nội thức. Nghóa là Tiểu thừa lìa tâm có cảnh, thanh biện phá không nội tâm. Ba là, nghóa hiển bày thù thắng, nghóa là tâm vương ưu thắng, tâm sở v.v… kém liệt. Nay chỉ hiển bày ưu thắng, không nên nói kém liệt. Trong Nhị thập duy thức, luận sư Cù ba nói: “Nói duy thức đây, chỉ nêu vương thắng, lý gồm tâm sở. Như nói vua đến, chẳng phải không có bề tôi”. Tiếp theo giải nghóa chữ “thức”, tức nghóa liễu biệt, nghóa là tám thứ tâm vương là tự tánh của thức v.v…, năm vị trăm pháp, lý đó cùng với sự đều chẳng lìa thức. Không như thế thì chân như nên chẳng phải duy thức, gồm các thứ khác về thức, lập chung tên thức. Trong kinh nói: “Tam giới duy tâm”. Tiếp theo nữa là Hợp giải duy thức là: Duy nghóa là chọn bỏ (giản khứ), ngăn không cảnh ngoài, cảnh không gì chẳng có thức năng liễu biệt. Phân tách có tâm trong, tâm có chẳng phải không. Hợp tên duy thức, duy nghóa là ngăn không dụng đó, thức là bày giải thích có thể đó. Gồm dụng quy về thể, duy tức là thức gìn giữ nghiệp thích. Phàm văn của Lục Thích chọn pháp làm diệu. Nay muốn tánh tướng đều biện rõ, tạm lược dẫn Trì nghiệp thích và Y chủ thích, có thể xứng với văn đây. thứ nhất, Trì nghiệp thích, có hai: Một là Trì nghiệp, hai là Đồng y. Vả lại, Trì nghiệp tức, trì nghóa là giữ gìn, nghiệp nghóa là nghiệp dụng. Như pháp thể hay trì dụng, dụng hay hiển bày thể, gọi là giữ gìn nghiệp. Như trong tạng thức: Thức là thể, tạng là dụng. Thức thể hay trì tạng dụng, tức gọi là Trì nghiệp. Lại như Diệu pháp tức là Liên hoa v.v…. Hai là, Đồng y thích, tức nhiều dụng đồng y một thể, như nói phần đoạn sanh tử tức là thân. Biến dịch sanh tử tức là thân v.v…, Do đó, sở dó muôn pháp dùng tâm làm thể, muôn pháp làm dụng. Pháp chẳng lìa tâm, dụng chẳng lìa thể. Tâm thể hay giữ gìn muôn pháp. Pháp tức là tâm, dụng tức là thể, gọi là Trì nghiệp thích. Nếu hết thảy pháp chẳng được giữ gìn của tự tâm, thì không một pháp có thể lập. Lại nữa, nếu không pháp thì không nghiệp dụng, không dụng tức không thể hiển bày thể. Nên biết hết thảy pháp là tâm, tâm là hết thảy pháp. Thể dụng cùng thành chẳng phải một, chẳng phải hai. Thứ hai, Y chủ thích, có hai: Một là Y chủ thích, hai là Y só thích. Y chủ là có pháp dùng hơn giải thích kém, dẫn liệt đến hơn để rõ bày danh. Như nói nhãn thức. Nhãn là sở y - tức thắng, thức là năng y - tức liệt. Dùng mắt thù thắng giải thích thức kém cỏi nên dẫn liệt đến thắng để làm rõ tên đó là thức của nhãn nên y chủ thích vậy. Hoặc dùng riêng chọn chung, y chủ tức riêng danh hơn đồng danh kém. Hai là, Y só thích, nghóa là pháp kém là só dụng của hơn pháp, nên đem pháp kém giải ở pháp hơn, pháp hơn theo pháp kém để rõ bày tên. Như nói Trạch diệt vô vi, Trạch diệt là hữu vi tức liệt, vô vi tức hơn, đem hơn đến kém để rõ bày tên y só thích. Do, biết tâm vương là hơn, pháp là năng y tức kém. Đem kém hiển bày hơn, vì pháp của tâm tức y chủ thích. Không một pháp nào chẳng thuộc tâm. Nếu đem hết thảy pháp hiển bày tâm, đem kém hiển bày hơn vì tâm của pháp tức Y só thích. Do đó, trong Tông Kính đối với trong Trì nghiệp có Tài y thích, Chủ y thích, Só lân thích ,Cận đái thích, Số thích, sáu thứ chẳng vượt ngoài hai thứ Trì nghiệp thích và Y chủ thích. Văn sau chẳng lại mỗi mỗi rộng nói rõ theo một lệ đó tự nhiên không mê hoặc. Hỏi: Đây nói chỉ ngăn ngoại cảnh chẳng có, là ngăn cảnh của lìa tâm, hay ngăn cảnh chẳng lìa tâm? Đáp: Nếu bày vậy sao mất nạn, cả hai đều có lỗi. Nếu ngăn cảnh của lìa tâm là không, ngoài ra có tướng phần chẳng lìa tâm đâu? Hỏi: Cớ sao chỉ nói duy thức, chẳng nói là duy cảnh thức? Nếu ngăn cảnh lìa tâm là không, nên chỉ có ba phần năng biến. Thiếu lỗi tướng phần sở biến, làm sao giải thích thông suốt? Đáp: Nói duy thức là ngăn cảnh ngoài tâm không, chẳng ngăn cảnh trong chẳng lìa tướng phần của thức là không. Hỏi: Cảnh trong cùng thức đã đều chẳng phải không, cớ sao chỉ nói là duy thức, mà chẳng nói là duy cảnh thức ư? Đáp: Vì Bồ-tát Hộ Pháp nói cảnh danh thông cả trong ngoài. Nghóa là có cảnh lìa tâm và cảnh chẳng lìa tâm, sợ lạm cảnh bên ngoài nên chỉ nói là duy thức. Do đó, trong luận Duy thức nói: “Nghóa là các kẻ ngu mê chấp cảnh ngoài khởi nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, chẳng hiểu biết quán tâm, chẳng phải nghóa là cảnh bên trong tướng phần như ngoài đều không”. Hỏi: Duy thức tánh và duy thức có gì đồng dị? Đáp: Mỗi một thứ có hai nghóa. Duy thức tánh có hai nghóa là: Một là, hư vọng duy thức tánh tức bỏ đi thanh tịnh của biến kế tánh. Hai là, chân thật duy thức tánh, tức thanh tịnh chứng được của viên thành thật tánh. Nếu nói về duy thức, cũng có hai nghóa: Một là, thế tục duy thức, tức sở đoạn thanh tịnh của y tha khởi. Hai là, thắng nghóa duy thức, tức thanh tịnh có được của viên thành thật. Lại nói duy thức tánh tướng chẳng đồng, tướng là y tha. Duy là hữu vi thông lậu và vô lậu. Tánh tức là viên thành, duy là chân như, vô vi vô lậu. Lại nói chỉ nói thức là nghóa liễu biệt, ý nói là năm vị trăm pháp lý đó cùng sự chẳng lìa thức, nay gồm kết quy về thức, chung gọi tên thức. Vì muôn pháp đều do tâm khởi, nhưng tức chẳng phải chỉ thức của một người cũng chẳng phải chỉ một thức. Lại không thức nào khác v.v… vượt ngoài thể duy thức: Một là, sở quán vượt ngoài thể tức chấp thủ năm vị trăm pháp làm thể, vì quán chung cả pháp Hữu vi và vô vi, tức lấy thức tướng thức tánh, hợp làm duy thức thể đều chẳng lìa thức. Hai là, năng quán vượt ngoài thể tức chỉ chấp thủ tâm tâm sở làm thể vì tâm sở cùng thức thường tương ưng, tức chỉ năng chẳng phải sở. Nếu rơi theo duy thức quán tức chấp thủ tuệ của trong cảnh làm thể, vì ở cảnh ở quán quán sát hơn vậy. Lại nói rõ về sai biệt của duy thức gồm nhiếp các duyên và lý, có mười thứ đó: Một là, nghóa bỏ hư tồn thật. Khiển là trừ khiển, hư là hư vọng. Quán xét biến kế sở chấp chỉ là hư vọng khởi đều không thể dụng. chánh nên khiển trừ, vì tình có lý không. Tồn nghóa là lưu, thật nghóa là thật hữu, tức quán sát y tha và viên thành pháp thể là thật có, là cảnh của căn bản trí và hậu đắc trí, chánh nên lưu giữ, vì lý có tình không vậy. Bởi vì tất cả các loài dị sanh, Tiểu thừa từ vô thỉ đến nay lầm chấp ngã pháp là có, Bồ-tát Thanh Biện v.v… lầm bác lý sự là không. Nay đối trong duy thức quán, bỏ hư vọng là không quán, đối với bỏ chấp còn thật là quán hữu, đối với bỏ chấp không chẳng phải hữu chẳng phải không, vì pháp không phân biệt, lìa lời lẽ giải thích. Hai là, nghóa xã lạm lưu thuần. Xã là xã ly, lạm tức là xâm lấn nhau, lưu nghóa là tồn lưu, thuần là không tạp. Tuy quán sự lý có cảnh có tâm, vì tâm chẳng riêng khởi. Do cảnh có xâm lấn,bỏ, đó chẳng gọi là duy. Tâm thể đã thuần, lưu lại nói duy thức. Nên luận Duy thức nói: “Ta chỉ có trong, cảnh cũng thông ngoài, sợ xâm lấn cảnh ngoài, chỉ nói duy thức, chẳng vì cảnh trong, như ngoài đều không”. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Tam giới duy tâm”. Ba là, nghóa nhiếp mạt quy bản. Nhiếp nghóa là thâu gồm nhiếp mạt tức là kiến phần tướng phần, quy tức là hướng về bản, nghóa là tự chứng phần của thức. Vì đó là thể sở y. Nay nhiếp mạt kiến phần tướng phần, quy bản thể tự chứng phần, nên nói duy thức. Nên trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Sở duyên của các thức, là chỗ hiện của duy thức”. Bốn là, nghóa ẩn kém hiển hơn nghóa là vương sở đều hay thị hiện. Tâm sở tức liệt, vì y tha khởi, ẩn kém chẳng chấp thủ, tâm vương tức hơn, vì thể sở y, nên nói duy thức, tức gọi là hiển hơn nên trong luận Trang Nghiêm nói: “Tâm nào tợ hai hiện, như vậy tợ tham v.v…”. Năm là, nghóa bỏ tướng chứng tánh, thức nói chỗ bày đủ có sự lý. Sự nghóa là tướng dụng mà chẳng chấp thủ. Lý làm thể tánh nên cầu làm chứng. Nên trong luận Nhiếp Đại thừa có kệ tụng rằng: “Nương dây khởi tưởng rắn, Thấy dây biết là không, Chứng thấy kia rõ ràng, Mới biết rõ tánh loạn”. Sáu là, nghóa cảnh. Cảnh nghóa là cảnh sở quán, thức tức là tâm năng quán. Cảnh sở quán đây do thức biến hiện, cảnh chẳng lìa thức. Nghóa lập cảnh duy thức, trong kinh A-tỳ-đạt-ma nói: “Chỗ thấy của quỷ, người, trời v.v…, mỗi tự riêng khác”. Bảy là, nghóa giáo, tức giáo năng phân tánh, vì thuyết có nghóa duy thức. Kinh Lăng-già có kệ tụng rằng: “Do tự tâm chấp trước, Tâm tợ cảnh ngoài chuyển, Chỗ thấy kia chẳng có, Cho nên nói duy thức”. Tám là, nghóa lý. Nói lý duy thức, Duy thức có bài tụng rằng: “Các thức đó chuyển biến, Phân biệt sở phân biệt, Do đây kia đều không, Nên hết thảy duy thức”. Chín là, nghóa hạnh. Hạnh nghóa là quán hạnh, tức Bồ-tát tại định vị, khởi quán bốn tầm tư v.v… tức quán hạnh và định đều chẳng lìa thức. Luận Du-già có kệ tụng rằng: “Bồ-tát nói định vị, Quán cảnh chỉ là tâm v.v…” Mười là, nghóa quả, nghóa là tứ trí Phật quả, công đức Bồ-tát có được đều chẳng lìa thức, nên luận Trang Nghiêm nói: “Chân như không cảnh thức, là tịnh vô lậu giới v.v…”. Như trên mười nghóa tánh, tướng, cảnh, trí, giáo, lý, hạnh, quả, v.v… đều chỉ là thức, không có một pháp mà chẳng chỗ nêu, nên xưng là vua của trong các kinh liễu nghóa, là cha của các Thánh tựa nương. Nếu có người gặp chóng dứt hy vọng, không một pháp nào mà có thể cầu, không một sự nào mà chẳng đủ, toàn được trân bảo vô thượng của Như Lai, sao đồng ngọc phát trong núi hiển gai góc. Đã tham tầm linh châu bí mật trong biển giáo há sánh với dưới cổ của ly long, bèn được hết ngằn khổ của chúng sanh, đoạn nguồn bệnh của phiền não, một niệm công toàn, muôn đường tự chánh. Do đó, trong kinh Pháp Hoa nói: “Như ao trong mát, hay đầy đủ cho tất cả mọi người khát thiếu, như người lạnh được lửa, kẻ trần truồng được áo mặc, như người thương buôn được chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp thuyền, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối được đèn, như nghèo khổ được của báu, như dân gặp vua, như khách buôn được biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa đây cũng lại như vậy, hay khiến chúng sanh lìa tất cả khổ, lìa tất cả bệnh tật, hay mở tất cả trói buộc của sanh tử. Nên biết chỉ đây là chân thật, muôn pháp đều không”. Lấy đó mà nêu tông lại không gì sánh bằng. Như kinh Quán Pháp nói: “Kia có vị Bồ-tát tên là Thượng Thủ làm một khất só vào thành khất thực. Bấy giờ có vị Tỳ-kheo tên là Hằng-già nói cùng khất só rằng: “Ông từ đâu đến?” Vị khất só đáp: “Tôi từ trong chân thật đến”. Hằng-già lại hỏi: “Sao gọi là chân thật?” Vị khất só đáp: “Vì tịch diệt nên gọi là chân thật”. Hằng-già lại hỏi: “Trong tịch diệt tướng có sở cầu hay không sở cầu?” Vị khất só đáp: “Không sở cầu”. Hằng-già lại hỏi: “Trong sở cầu, dùng gì để cầu?” Vị khất só đáp: “có chỗ cầu là hết thảy đều không, được đó cũng không, đắm đó cũng không, thật đó cũng không, tịch diệt Niết-bàn, hết thảy hư không phần giới cũng lại đều không. Tôi làm lần lượt pháp không như vậy mà cầu chân thật”. Nên biết nếu hay đối với trên mỗi mỗi pháp mà cầu không, thì trong mỗi mỗi môn giải thoát. nếu nhân, pháp, hỏi đáp, nói năng, qua lại, như vật tượng trong Tông Kính. Do đó, hoặc tượng hoặc sáng hết thảy đều không. Chỉ có thể của kính hằng thường phô bày khắp hết thảy xứ chưa từng vào ra. Nên nói tôi làm lần lượt pháp không như vậy mà cầu chân thật, tức biết hết thảy pháp đều là chân thật. Tôi ở trong không chỗ cầu nên mong cầu đó vậy. Cũng là, phàm người cầu pháp, đối với hết thảy pháp nên không chỗ cầu. Nên Đại sư Dung nói: “Nếu có một pháp có thể được, tức là chẳng phải lúc cầu vậy”. Do đó, trong kinh Tịnh danh nói: “Không, phải cầu ở đâu?” Đáp: “Phải đến trong sáu mươi hai kiến mà cầu”. Lại hỏi: “Sáu mươi hai kiến phải cầu ở đâu?” Đáp: “Phải ở trong giải thoát của chư Phật mà cầu”. Lại hỏi: “Giải thoát của chư Phật phải cầu ở đâu?” Đáp: “Phải ở trong tâm hành của hết thảy chúng sanh mà cầu”. Xưa trước giải thích rằng: Không trí nhân ở kiến sanh thì không trí không tánh, không tánh nên trí không, nên gọi là không trí. Tà kiến nhân giải thoát của chư Phật mà có. Tà nhân chánh sanh, tà kiến cũng không vậy, tức ước thể không đó không hai, do đó, hỗ tương cầu lý không đâu chẳng khắp. Giải thích rằng: Tà chánh đã thể vốn đồng không lý, lại chưa từng tạm ẩn, nếu đến trong tánh bình đẳng đây tức chẳng phải cầu. Vì người chưa biết mà nói cầu vậy. Như nghóa vô sanh nói, như trong kinh nói: “Nguyện cầu tuệ chư Phật, cũng không đắm nguyện cầu”. Cầu tuệ Phật còn không cho tham trước, huống gì các thiện pháp khác. Lại nữa, Bồ-tát dùng lìa nguyện cầu, chỉ không biết cầu Phật đạo, Bồ-tát nên phát nguyện, chỉ nói: “Ta nguyện cầu Phật đạo”. Chúng sanh nhân đó mới phát tâm mà cầu Phật đạo, được ý tự biết không chỗ cầu vậy. Giải được như trên thì niệm niệm cùng với thật tướng tương ưng, lại không các niệm khác vậy. Do đó, kinh Lăng-già nói: “Mỗi mỗi tướng tương ưng, xa lìa các quả kiến”. Phải biết nếu đối với các tướng thường cùng với thật tướng tương ưng, tự nhiên xa lìa các lỗi quá, hội cùng Đệ nhất nghóa đế, thanh tịnh chân tâm, sáng ngời thấu suốt, mà không niệm đắm trước, tức sự tức như, chỉ tâm thẳng tiến, tức chỗ chấp nhận của Phật, cảnh của tự giác vậy. Nên trong luận có kệ tụng rằng: “Tự biết chẳng theo khác, Tịch diệt không hý luận, Không khác không phân biệt, Đó gọi là thật tướng”. Hỏi: Duy thức đây, đại ước có mấy thứ? Đáp: Lược có hai thứ: Một là cụ phần; hai là chẳng cụ phần. Cụ phần duy thức dùng lý vô tánh, thành nghóa chân như tùy duyên, thì không sanh diệt cùng sanh diệt hòa hợp, chẳng phải một chẳng phải khác, gọi là A-lại-da thức, tức là cụ phần. Nếu chẳng toàn hoàn y cứ chân tâm, sự chẳng nương lý, nên chỉ theo sanh diệt, bèn chẳng phải cụ phần. Hoặc nói: “Ngoài ảnh có chất làm nửa đầu duy thức, chất ảnh đều ảnh làm cụ phần”. Đó là cụ phần của trong Duy thức tông vậy. Lại, nếu quyết định tin vào, đó là chánh lý duy thức, chóng đạt đến Bồ-đề, như lên xe mà đứng đến phương xa, như lên thuyền mà ngồi lên bờ kia. Như luận Thành duy thức bảo sanh nói: “Nghóa là y cứ Đại thừa thành lập Tam giới, chỉ duy là thức”. Giải thích rằng: Như điều kinh nói Đại thừa, nghóa là đường sở hành của Bồ-đề-tát-đỏa, và thắng quả của Phật. Làm được đó nên tu Duy thức quán, đó là không lầm lỗi phương tiện chánh lộ. Vì loại đó nên hiển bày phương tiện kia, các thứ hành tướng ở trong các kinh mà rộng tuyên nói, như đất nước gió lửa đều là chỗ gìn giữ vật, phẩm loại khó đều, nơi chốn vô biên, do đó xét biết tự tâm tướng hiện bèn ở các xứ xả bỏ ngoại tướng đó, xa lìa vui thích. Lại quán biển hữu, ồn lắng không sai, bỏ đường nhỏ kia, dứt mong ước Đại thừa, và ở các hữu với loại đắm trước, quán như bờ hiểm, rất sanh khiếp sợ, hướng thẳng đến trung đạo. Nếu biết chỉ là việc làm của tự tâm, vô biên tư lương dễ làm tích tập, chẳng đợi nhiều thời gian, như ít dụng công hay thành việc lớn. Khó vào hành xứ, giống như trong lòng bàn tay, do vì lý đó, nên chỗ có mong cầu sẽ hay viên mãn, tùy ý mà chuyển. <篇> <卷>QUYỂN 5 Hỏi: Phàm, chân tâm chẳng đổi thay, diệu tánh vô sanh, phàm Thánh đồng luận, cớ sao nói là vọng? Đáp: Bản tâm vắng lặng tuyệt tướng lìa nói năng, tánh tuy tự vậy,vì chẳng giữ tánh nên tùy theo duyên nhiễm tịnh. Vả lại, như một dòng nước, nếu đưa châu ngọc vào thì lắng trong, nếu đưa trần tạp vào thì dơ đục. Lại như một bầu trời, nếu mây giăng thì mờ tối, nếu trăng hiện thì trong mát. Nên luận Đại Trí Độ nói: “Thí như ao nước trong sạch, voi điên lội vào khiến nó vẩn đục. Nếu dòng nước trong sạch, đưa châu ngọc vào, nước tức càng trong sạch. Chẳng thể nói ngoài nước không có voi không có châu ngọc. Tâm cũng như vậy, phiền não vào nên hay khiến tâm dơ trược, các thiện pháp, từ bi v.v… vào tâm thì khiến tâm thanh tịnh. Nhưng dơ sạch chẳng nhất định, chân vọng đều tùy theo duyên. Nếu mê mờ đó thì niệm niệm luân hồi, sót mất chân tánh. Nếu chiếu soi đó thì tâm tâm tịch diệt, viên chứng Niết-bàn”. Nên biết chân vọng không nhân không hữu ngôn thuyết. theo chân không có thuyết, theo thuyết không có chân, đều là cuồng mê tình tưởng kiến lập. Ngàn mê đua tranh khởi, không mê đầu của Diễn nhã, một pháp mới sanh, chỉ hiện ảnh của Thát-bà, vì hàm sanh chẳng cùng thật tế, chỉ theo tình cuồng thì các Thánh hạ mình thuận cơ nghi, đều đồng việc ấy. Dùng nên nay nên, nói vọng mà từ vọng xoay lại chân. Lấy thô tiếp thô, nêu tưởng mà nhân tưởng thông tánh. Nếu chẳng chấp vọng, còn chẳng nói chân. Huyễn ảnh mới tiêu, trí quang dứt ánh sáng. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật dạy: “A-nan! Tinh chân diệu minh, bản giác viên tịnh chẳng lưu lại sanh tử và các trần cấu. Cho đến hư không đều nhân chỗ sanh khởi của vọng tưởng. Đó nguyên là bản giác diệu minh tinh chân do vọng phát sanh các khí thế gian, như Diễn-nhã-đa lầm mê đầu nhận ảnh. Vọng nguyên không nhân, ở trong vọng tưởng mà lập tánh nhân duyên. Nhân duyên tự nhiên đều là vọng tâm chúng sanh kế độ. A-nan! Biết chỗ vọng khởi, nói nhân duyên vọng. Nếu vọng nguyên không, nói nhân duyên vọng nguyên không chỗ có”, huống gì không biết suy ở tự nhiên, pháp sư Triệu cùng khởi nguyên do của vọng lập phẩm Bản tế, nói rằng: “Phàm, Bản tế tức là tánh Niết-bàn vô ngại của hết thảy chúng sanh, cớ sao chợt có vọng tâm như vậy và các thứ điên đảo? Chỉ vì một niệm mê tâm, một niệm đó từ một mà khởi. Lại một đó là từ Bất tư nghì khởi. Bất tư nghì là không chỗ khởi, nên kinh nói: “Đạo mới đầu sanh một, một đó là vô vi, một sanh hai, hai đó là vọng tâm, cho đến ba sanh muôn pháp vậy”. Đã duyên vô vi mà có tâm, lại duyên có tâm mà có sắc. Nên kinh nói: “Các thứ sắc tâm là vì tâm sanh muôn suy nghó sắc khởi muôn mối, hòa hợp nghiệp duyên bèn thành hạt giống Tam giới”. Sở dó có Tam giới, là vì chấp bản mê chân một tức có trược nhục sanh vọng khí đó, lắng trong vi nhiệm làm Vô sắc giới, gọi là tâm vậy. Lắng trược nhục làm Sắc giới, gọi là thân vậy, tan tể uế làm Dục giới, gọi là trần cảnh vậy. Nên kinh nói: “Tam giới hư vọng, chỉ một vọng tâm biến hóa. Phàm, bên trong có một sanh tức bên ngoài có vô vi, bên trong có hai sanh, tức bên ngoài có hữu vi, bên trong có ba sanh, tức bên ngoài có Tam giới. Đã trong ngoài tương ưng, bèn sanh các thứ các pháp và vô số phiền não vậy”. Nên biết trong Tam giới không có một pháp chẳng từ tự tâm sanh. Nhân tâm tưởng niệm phân biệt tạo tác, như sức huyễn thuật biến hóa muôn vật, ở bên ngoài tợ như có phát hiện, hiện không hiện tánh chỉ tự tâm sanh. Người mê lầm điên đảo, chấp làm cảnh bên ngoài, tùy cảnh liễu biệt, gian xấu tự phân. Mới sanh tình thích hay chán, bèn khởi vết tích của trần lao. Nên pháp sư Viễn nói: “Đầu mối trọn nào từ ngằn mé khởi diệt có không, một mảy may mới xen động cảnh, thành thế sụp đổ núi đây, chỉ bên trong một chẳng sanh thì không các hữu. Muốn bít lấp hang huyệt phiền não, chặt đứt gốc rễ sanh tử, chỉ hay nội quán nhất tâm vô sanh, thì Tam giới hoa hư không như gió thổi cuộn mây khói, sáu trần huyễn ảnh giống như nướng nóng rưới vào tuyết, chợt nhiên không còn ngằn mé, chỉ một chân tâm vậy”. Kinh Tấn Thú Đại Thừa Phương Tiện nói: “Phật dạy: “Một cảnh giới thật, nghóa là tâm thể chúng sanh từ xưa đến nay chẳng sanh chẳng diệt, cho đến tâm của hết thảy chúng sanh, tâm của hết thảy hàng Nhị thừa, tâm của hết thảy chư Bồ-tát, tâm của hết thảy chư Phật đều đồng chẳng sanh chẳng diệt, vì đó là tướng chân như. Cho đến cùng khắp mười phương hư không hết thảy thế giới cầu hình trạng tâm, không một phân chia mà có thể được. Chỉ vì chúng sanh vô minh si ám huân tập nhân duyên, hiện cảnh giới vọng, khiến sanh niệm đắm trước. Chỗ gọi là tâm đó, tâm đó chẳng thể tự biết. Vọng tự cho rằng có khởi tưởng giác tri, chấp ngã và ngã sở, mà thật không có tướng của giác tri, vì vọng tâm ấy rốt cùng không thể, vì chẳng thể thấy. Nếu không giác tri năng phân biệt thì không mười phương thế giới hết thảy tướng cảnh giới sai biệt, vì hết thảy pháp đều chẳng thể tự có, luôn nương tựa vọng tâm phân biệt nên có. Chỗ gọi là hết thảy cảnh giới mỗi mỗi chẳng tự niệm nghó làm có, biết làm đó, tự biết kia làm khác. Cho nên hết thảy pháp chẳng thể tự có, thì không riêng khác. chỉ y cứ vọng tâm không rõ không biết, vì bên trong tự không, nghóa là có chỗ biết cảnh giới bên ngoài trước, vọng sanh các thứ pháp tướng, cho là có, cho là không, cho là tốt, cho là xấu, cho là phải, cho là quấy, cho là được, cho là mất. Cho đến sanh cả vô lượng vô biên pháp tưởng. Phải biết như vậy, hết thảy các pháp đều từ vọng tưởng sanh, y cứ vọng tâm làm gốc, nhưng vọng tâm đó không có tự tướng, cũng y cứ cảnh giới mà có. Chỗ gọi là duyên niệm giác tri tiền cảnh giới, nói tên là tâm. Lại nữa, vọng tâm đây cùng với tiền cảnh giới, tuy đều cùng nương khởi không trước sau, mà vọng tâm đây hay làm nguyên chủ của hết thảy cảnh giới. Tại sao vậy? Nghóa là vì y cứ vọng tâm không rõ pháp giới một tướng, nói tâm có vô minh, y cứ sức vô minh diệt nên hết thảy cảnh giới diệt, chẳng phải y cứ hết thảy cảnh giới tự chẳng rõ nên nói cảnh giới có vô minh. Cũng chẳng phải y cứ cảnh giới không sanh vô minh, vì hết thảy chư Phật ở nơi hết thảy cảnh giới không sanh vô minh, lại chẳng y cứ cảnh giới diệt nên tâm vô minh diệt. Vì hết thảy cảnh giới từ xưa đến nay thể tánh tự diệt, vì chưa từng có. Nhân nghóa như vậy, cho nên chỉ nói hết thảy các pháp y cứ tâm làm gốc. Phải biết hết thảy các pháp đều gọi là tâm. Vì nghóa thể chẳng khác làm tâm sở thâu gồm. Lại nữa, hết thảy các pháp từ tâm sở khởi, cùng tâm làm tướng hòa hợp mà có, cùng sanh cùng diệt, đồng trú không hữu. Vì hết thảy cảnh giới chỉ tùy tâm sở duyên niệm niệm tương tục, mà được trú trì, tạm thời mà có. Như trên rộng nêu dẫn lời Phật dạy quanh co khắp cùng tinh tế, chỉ làm thành lòng tin của người học sau rõ tự tâm mình. Luận Bảo Tạng nói: “Gương xưa chiếu tinh, tinh đó tự hình, giáo xưa chiếu tâm, tâm đó tự sáng. Phải biết nhất tâm biến khắp hết thảy tâm, không trần có thể khác. Hết thảy tánh hợp ở một tánh, có pháp đều đồng, không hình mà rỗng suốt cùng hư không. Ai phân đây kia, sưu tầm vết tích mà mặc tình tận cùng pháp giới, chẳng được mảy may. Cớ sao trong chúng sanh giới tức nay hiển hiện? Đó thì đều nhân vọng niệm tích tập huân thành, như mảy bụi trên gương, tợ ngăn ảnh sáng, tợ sương mốc giữa hư không, tạm hỗn loạn thanh hư, chỉ có một pháp hiện tiền, đều là tự tâm phân biệt. Giả sử ngay một niệm mới khởi, đều nhân huyễn cảnh dẫn sanh, khởi diệt đồng thời, lại không trước sau. Nếu biết chỗ trước không thể, chóng ngộ nhân không pháp không, chợt rõ vật ngã không nương tựa, mới tin cảnh lặng lẽ tâm lặng lẽ, mới biết tâm sanh chẳng phải là nhân kia, cảnh chưa từng diệt. Phải biết cảnh nhân tâm khởi, lại theo tâm mất. Chỉ tâm sanh, chẳng phải cảnh sanh. Tâm diệt chẳng phải cảnh diệt, tợ như cá mẹ nghó nhớ cá con, tợ ong chúa thâu tóm đàn ong. Nếu cá mẹ chẳng nghó nhớ cá con thì cá con chết mất, ong chúa không thâu tóm thì ong đàn tan rã. Do đó, có tâm duyên tưởng muôn cảnh buông thả, không niệm nghó nhớ, mảy may chẳng hiện, trọn không có pháp ngoài tâm hay cùng tâm làm duyên, chỉ là tự tâm sanh lại cùng tâm làm tướng. Do đó, kinh Lăng-già nói: “Bất giác tự tâm, chỗ hiện phân chia, bất giác nội thức chuyển biến ngoài hiện làm sắc, chỉ là chỗ hiện của tự tâm, không thông đạt phân chia như vậy, gọi là ác kiến luận. Vì không biết tâm hiện khởi sai biệt kiến nên nói là phân chia”. Đó biết nếu chẳng ở trong chánh nghóa của Tông Kính thì phàm có trí giải gì đều là tông đảng tà đạo, bày hình nói năng đều rơi lạc vào luận nghị ác kiến. Pháp nghóa Tông Kính đây, có thể dùng làm bằng cứ chuẩn mực, chánh lý không sai, có thể dùng để nương tựa thực hành, hiện tiền được sức, muôn tà chẳng thể xoay. Cho nên khiến ngàn Thánh chẳng cải đổi nghi ấy, bèn có thể tẩy rửa hoặc trần, tiêu sạch trệ lự, lắng u bảo, rộng rãi lòng thần, riêng diệu tuyệt luân, nên không sánh bằng. Hỏi: Nếu nói có chân có vọng là Tông pháp tướng, nếu nói không chân không vọng là tông phá tướng, nay luận tông pháp tánh, làm sao lập chân lập vọng? Lại nói chẳng phải chân, chẳng phải vọng? Đáp: Nay, điều luận của Tông Kính, chẳng phải pháp tướng lập hữu, chẳng phải phá tướng quy không, chỉ theo tánh tông viên giáo để làm sáng tỏ chánh lý, tức vì chân như bất biến, chẳng ngại tùy duyên là viên đầy đủ đó. Như tông pháp tướng chỉ một hướng nói có chân có vọng. Như tông phá tướng một hướng chỉ nói chẳng phải chân chẳng phải vọng. Hai môn đó, mỗi mỗi chấp trước một bên, đều có thể nghó bàn. Nay viên tông đây, hai môn không hữu trước đều còn, lại chẳng trái ngại, đó là chẳng thể nghó bàn. Nếu định nói hai môn có không đều có thể nghó bàn. Nay vì chẳng nhiễm mà nhiễm thì bất biến tùy duyên, nhiễm mà chẳng nhiễm thì tùy duyên bất biến. Thật không thể đem có và không mà tư duy, cũng chẳng thể làm chân vọng mê hoặc, đó là tông thú của chẳng thể nghó bàn, chẳng phải chỗ biết của tình thức. Nay giả bày văn nghóa đối trị chỉ vì phá tà chấp đó. nếu tình hư thì trí tuyệt, bệnh lành thì thuốc tiêu, có thể tận cùng nguyên do của đầu đuôi, mới thấu suốt yếu chỉ của viên thường. Nên pháp sư Phục Lễ hỏi các học só trong thiên hạ về chân vọng với kệ tụng rằng: “Chân pháp tánh vốn sạch, vọng niệm do đâu khởi? Từ chân có vọng sanh, vọng ấy sao dừng dứt, không đầu tức không cuối, có chung nên có thủy. Không thủy mà có chung, muốn hiểu rõ lý đó, mong vì mở huyền diệu, chiết đó ra sanh tử”. Hòa thượng Trừng Quán đáp rằng: “Mê chân vọng niệm sanh, ngộ chân vọng thì dừng, năng mê trái sở mê, sao được toàn tương tợ, xưa nay chưa từng ngộ, nên nói vọng vô thủy, biết vọng vốn tự chân, mới là thường hằng, tâm phân biệt chưa mất, do đâu ra sanh tử?” Thiền sư Tông Mật giải thích rằng: “Kinh giáo Đại thừa gồm chỉ ba tông: Một là, Tông pháp tướng; Hai là, Tông phá tướng; Ba là, Tông pháp tánh. Nay hỏi đó là ăn mòn mắt đốt mũi tên trong Tông pháp tánh. Chẳng hỏi hai tông, như điều Tông pháp tướng nói tất cả pháp vọng hữu lậu, pháp tịnh vô lậu, từ vô thỉ đến nay mỗi đều tự có hạt giống trong A-lại-da thức, gặp duyên huân tập tức mỗi mỗi theo tự tánh mà khởi, đều chẳng liên quan đến chân như. Ai nói từ chân sanh vọng vậy? Kia nói chân như một mực vô vi tịch diệt không khởi không dừng. Chẳng thể cật nạn kẻ khác từ chân mà có vọng sanh vậy. Như Tông phá tướng một hướng chỉ nói phàm Thánh nhiễm tịnh, hết thảy đều không, vốn không chỗ có. Giả sử thấy có một pháp qua Niết-bàn là cũng như huyễn mộng. Kia tạm vốn chẳng lập chân, huống gì ở vọng, nên chẳng cật nạn nói từ chân có vọng vậy. Chỉ nghi ngờ Tông pháp tánh, vì kinh luận tông ấy nói y cứ chân khởi vọng, như nói pháp thân lưu chuyển trong năm đường, Như Lai Tạng nhận chịu khổ vui v.v…. Nói ngộ vọng tức chân là, như nói lúc mới phát tâm tức thành Vô thượng Bồ-đề, biết vọng vốn từ chân, thấy Phật tức thanh tịnh v.v…. Lại nói phàm Thánh chứa lẫn nhau là, như nói hết thảy chúng sanh xưa nay thành Chánh giác bát- niết-bàn, trong thân Tỳ-lô-giá-na có đủ chúng sanh cả sáu đạo v.v… Chân vọng tương tức, tuy nói Niết-bàn Bồ-đề, không có thủy chung. Lại nói phiền não cuối cùng hết, mới gọi là Diệu giác. Văn từ trước sau trong kinh Hoa Nghiêm, luận Khởi Tín, nghóa tông có ngăn ngại, tự nói trái nhau, phỏng muốn chọn đó, không thể lấy một bỏ một, còn muốn hợp đó lại khó hội, còn đều dùng đó thì lại trái nhau. Thử hỏi các học só trong thiên hạ, có người thấu đạt tức biết chân vào đạo, như điều đáp của chư sư đều mê lầm ý hỏi, đều theo hết tướng về lý mà nói, đều không biết nguyên do từ chân khởi vọng và lý của tu vọng chứng chơn mà người đó đã hỏi. Nhưng mê chân khởi vọng, bởi có nhân do, dứt vọng quy chân, chẳng phải không sở dó. Pháp sư Phục Lễ há không biết chân vọng đều tịch, lý sự đều như. Ở trong Như và Tịch sao có hỏi đáp. Nhưng có hai môn, nghóa lý dễ biện, tức không trái ngăn. Một là, nhất một mực nói có vọng có thể đoạn, có chân có thể chứng. Hai là, một mực nói chẳng phải chân chẳng phải vọng, không phàm không Thánh. Hai môn đó đều có thể nghó bàn. Nên kinh Thắng-man nói: “Chúng sanh tự tánh thanh tịnh, tâm không phiền não nhuốm nhiễm, không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm”, đều nói khó thể rõ biết, pháp sư Phục Lễ chánh hỏi nghóa đó. Điều đáp của chư sư chỉ nói không cấu nhiễm vậy. Chỉ có điều đáp của Hòa thượng Trừng Quán nóivề chân như bất biến, chẳng ngại nhân duyên, mới là khế hợp xác đáng. Nay, Tông Mật thử đáp rằng: “Vốn tịnh vốn bất giác, Do đó vọng niệm khởi, Biết chân vọng tức không, Biết không vọng liền dứt, Chỗ dứt gọi có chung, Lúc mê gọi vô thủy. Nhân duyên như huyễn mộng, Nào chung lại nào thủy, Đó là chúng sanh nguyên, Cùng đó ra sanh tử”. Lại nữa, mọi người phần nhiều cho rằng chân hay sanh vọng, nên nghi ngờ vọng không cùng tận, vì quyết trạch lý đó, nên lại đáp lời kệ trước rằng: “Chẳng phải chân sanh vọng, Vọng mê chân mà khởi, Biết vọng vốn tự chân, Biết chân vọng tức dừng. Vọng dừng tợ cuối cùng, Ngộ lại tợ mới đầu, Tánh mê ngộ đều không, Tánh không không chung thủy, Sanh tử do đó mê, Đạt đó ra sanh tử.” Lại nói theo thủy chung có bốn câu phân biệt: Một là, có thủy không chung tức là thủy giác. Hai là, có chung không thủy, tức là vô minh. Ba là, không chung không thủy, nghóa là thật tế. Bốn là, có thủy có chung, là một kỳ sanh tử. Lại giải thích rằng: Vô thủy mà hữu chung, người mãi không rõ lý đó, ngay sự pháp tướng liệt bày mà cật nạn đó”. Nay nói có vọng tức chân thì đồng không chung thủy. Nếu phân biệt nói, phải có bốn câu: Chân lý thì không chung thủy, vọng niệm thì không thủy có chung, chân trí thì không chung có thủy, khởi vọng niệm có chung có thủy. Nếu theo viên dung đồng không chung thủy. Đã không chung thủy, cũng lại không có không chung không thủy. Chỉ mất lời tuyệt tưởng có thể hợp với huyễn đây. Rõ ràng đáp trên ý sâu hợp với viên tông, ở môn tùy duyên mới đầu tức mê mờ chân khởi vọng, sau mới tỏ ngộ vọng tức chân. Ở trong mê ngộ tợ phân chung thủy. Theo ở môn bất biến thì vọng tự vốn không, ai luận trước sau, chân tục không tánh. Phàm Thánh chỉ tên, thí như mê mờ sợi dây cho là rắn, nghi ngờ Đào ngột là quỷ, Chân đế chẳng phải có, Thế đế chẳng phải không. Nhị đế cùng thành tựu chẳng rơi lạc tà kiến. Do đó, Tục đế chẳng được chẳng có, có thường tự không, Chân đế chẳng được chẳng không, không luôn suốt có. Người học thời nay phần nhiều mê lầm hai môn có và không, đều thành thiên kiến, chỉ chuộng hết thảy chẳng lập, phủi vết về không. Ở trong nghóa trái nhau sai biệt toàn không mắt trí. Đã chẳng biện rành lầm hoặc thì sao có thể giải thích nghi ngờ? Nên nói: Tâm Niết-bàn dễ hiểu, trí sai biệt khó rõ. Nếu hay ở trong không môn hữu môn; ngăn cả hai, chiếu cả hai, ở trong Chân đế, Tục đế, chẳng tức chẳng lìa, mới có thể hoằng pháp, làm người tiếp nối hưng thạnh giác vị. Hỏi: Hai Tông pháp tướng và pháp tánh, làm sao biện biệt? Đáp: Pháp tướng phần nhiều nói về sự tướng, pháp tánh chỉ đàm về lý tánh. Như Tông pháp tướng, nếu lìa thức thứ tám, tức không các thứ nhãn thức v.v… Như Tông pháp tánh, nếu lìa Như Lai Tạng tức không có tám thức. Nếu chân như chẳng giữ, lúc tự tánh biến thức, tám thức đó tức là nghóa của tùy duyên trên chân tánh. Hoặc phân tông biện tướng, sự thì hai phần, nếu tánh tướng cùng thành, lý quy về một nghóa. Vì bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, như nước của toàn sóng, sóng của toàn nước. Động tónh tợ có phân nhưng tánh ướt khác. Ở Thanh Lương lý nêu dẫn kệ tụng trong kinh Mật Nghiêm nói rằng: “Như Lai Tạng thanh tịnh, Thế gian A-lại-da, Như vàng và vòng tay, Chuyển đổi không sai khác”. Tức thể của A-lại-da là Như Lai Tạng cùng vọng nhiễm hợp gọi là A-lại-da mà không thể khác biệt. Lại, sắc vàng và vòng vàng ở tay, thể tức là vàng. Nhưng khác ở trên gồm có bốn câu: Một là, dùng bản (gốc) thành mạt (ngọn), bản ẩn mạt còn, đó tức là còn ẩn chẳng khác, nên nói vì vọng không thể quậy chân mà khởi, thì chân không gì chẳng ẩn chỉ vọng hiện vậy. Hai là, nhiếp mạt quy bản, mạt hết bản hiển hiện. Đó tức là hiển hiện và diệt mất rõ ràng không khác, nên nói vì thân thể thật. Vọng không gì chẳng hết, chỉ chân hiển hiện vậy. Ba là, nhiếp bản từ mạt, mạt còn nhiếp mạt về bản; bản hiển hiện, đó tức là hai pháp đều còn, chỉ vì chân và vọng có khác, tức có chân có vọng, rõ ràng không khác, nên nói: Phải ngay vọng của không thể, chẳng khác chân của thể chân, nên nói không có khác vậy. Bốn là, nhiếp bản từ mạt, bản ẩn là chẳng không nghóa, nhiếp mạt về bản, mạt hết là chẳng có nghóa. Đó thì chẳng có chẳng không, rõ ràng không khác, cũng là hai câu sau cùng lại chẳng phải khác, nên chẳng phải biên, chẳng phải một nên chẳng phải trung, chẳng phải trung chẳng phải biên là pháp giới vô ký, sở chứng của biện lý, trạm nhiên thường trú không chỗ ký vậy. Lại nữa, chẳng phải một tức chẳng phải khác, nên luôn ở biên mà tức ngang bằng trung. Lại nữa, chẳng phải một tức sanh tử, chẳng phải khác tức Niết-bàn, chẳng phải một tức chẳng phải khác nên luôn trú sanh tử tức ở nơi Niết-bàn ngang bằng. Cũng có thể chúng sanh mê nên thành A-lại-da, Như Lai ngộ nên thành Như Lai Tạng. Như vòng tay tùy lò lửa lúc duyên hoại tức lại làm vàng, thành hoại chuyển đổi chỉ là một thứ vàng không gì sai biệt. Như Lai Tạng tâm cũng lại như vậy. Chỉ tùy lúc duyên nhiễm mê làm A-lại-da, tùy lúc duyên tịnh ngộ thành Như Lai Tạng. Trước sau chuyển đổi chỉ là nhất tâm, rốt cùng không sai khác. Như Vô sanh nghóa nói: “Trong thân chúng sanh có Niết-bàn, tức là trong ngọn có chứa gốc. Chúng sanh là gia dụng của Niết-bàn, tức là trong gốc có chứa ngọn. Tham dục tức là đạo tức là trong ngọn có chứa gốc. Tham dục tức là gia dụng của đạo, tức là trong gốc có chứa ngọn”. Nên trong kinh nói: “Hết thảy phàm phu thường ở tại định”. Hoặc hỏi “Thường ở định nào?” Đáp rằng: “Vì chẳng hoại pháp tánh Tam-muội”, đó tức là trong ngọn ngậm có gốc, trong pháp tánh ngậm có chúng sanh, tức là trong gốc ngậm có ngọn. Trong kinh Đại Phẩm nói: “Không thể lìa hữu vi mà nói vô vi, không thể lìa vô vi mà nói hữu vi”. Lại nữa, ngọn tức là gốc, gốc tức là ngọn, nghóa là như sóng tức là nước, nước tức là sóng. Như trong kinh nói: “Sanh tử là Niết-bàn, vì không diệt không sanh vậy”. Lại nữa, kinh Lăng-già nói: “Chân thức, hiện thức như cục bùn, bụi trần v.v… cho đến, Đại Tuệ! Nếu cục bùn, bụi trần khác là chẳng phải chỗ kia thành mà thật kia thành. Cho nên chẳng khác, nếu chẳng khác là cục bùn, bụi trần nên không sai biệt. Như vậy chân tướng chuyển thức, tạng thức nếu khác là tạng thức chẳng phải nhân. Nếu chẳng khác là chuyển thức diệt thì tạng thức cũng nên diệt, mà tự chân tướng thật chẳng diệt, chỉ có nghiệp tướng diệt vậy”. Trong đó, chân tướng là Như Lai Tạng, chuyển thức là bảy chuyển thức, tạng thức là A-lại-da. Lại nói: Các thức có ba thứ tướng, tức là chuyển tướng, nghiệp tướng là chân tướng. Ba thứ tướng đó thông với tám thức, nghóa là khởi tâm gọi là chuyển, vì cả tám đều khởi, đều có sanh diệt nên gọi là chuyển tướng. Động thì thành nghiệp, như thứ nhất là nghiệp tướng của trong tam tế, tám thức đều động nên đều gọi là nghiệp tướng. Chân tánh của tám đều gọi là chân tướng. Nên trong kinh nói: “Lược nói có ba thứ thức, rộng nói có tám thứ tướng. Thế nào là ba? Nghóa là chân thức, nghiệp thức và phân biệt sự thức”. Theo chẳng cùng vọng hợp Như Lai Tạng tâm, lấy làm chân thức hiện thức thứ tám. Trong kinh nói: “Thí như gương sáng gìn giữ các sắc tượng. Hiện thức xứ hiện cũng lại như vậy. Ngoài ra bảy kia đều gọi là phân biệt sự thức”. Trong kinh nói: “Nếu khác là tạng thức chẳng phải nhân, nghóa là có ba: Nếu khác tạng thức thì nên chẳng dùng chân tướng và chuyển thức làm nhân”. Vì đã dùng chuyển thức huân tập, chân thức tùy theo duyên mà thành tạng thức, thì biết chẳng khác chẳng phải vì tạng thức làm nhân hai thức. Nên trong kinh nói: “Chẳng phải tự chân tướng diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt”. Đó thì ba sự đều đủ vậy. Trong kinh thí dụ có ba: Một là bụi trần, hai là nước, ba là bùn. Vì nước hòa với bụi trần, cục bùn mới thành. Vì nghiệp huân chân tướng, nghiệp thức bèn sạch. Trong kinh nói: “Nếu tự chân tướng diệt thì tạng thức diệt, trái lại hiển bày tạng thức vì chân vọng hòa hợp mà thành, chỉ vọng đó diệt mà thể chân đó chẳng không”. Lại nữa, tự chân tướng, pháp sư Hiểu giải thích rằng: “Tâm của bản giác chẳng nương gá vọng duyên, tánh tự thần giải gọi là tự chân tướng. Nói theo thuyết nghóa chẳng phải một lại tùy theo gió vô minh lúc làm sanh diệt, tánh của thần giải cùng với gốc chẳng khác, cũng gọi là tự chân tướng, đó là y cứ nghóa chẳng khác nói. Lại nữa, trong kinh nói: “Như Lai Tạng làm chỗ huân đúc ác tập từ vô thỉ, gọi là tạng thức”. Lại nói: “Đại Tuệ! Như Lai Tạng là nhân thiện và bất thiện, hay dấy khắp tất cả thú sanh, thì như người tài năng biến hiện các thú. Do đó, các giáo đều Như Lai Tạng làm thức thể”. Nên biết tâm tánh tức Như Lai Tạng, ngoài ra không pháp nào khác. Trong luận Duy thức có kệ tụng rằng: “Lại, các pháp thắng nghóa, Cũng tức là chân như, Là thường như tánh đó, Tức thật tánh duy thức”. Rõ ràng biết được Thế Thân cũng dùng Như Lai Tạng mà thành thức thể. Chỉ bởi những người đời sau giải thích luận, chỉ lập bất biến, thì lỗi đó quy về người sau vậy. Tóm yếu mà nói, gồm tất cả các nghóa trên đều là chân vọng hòa hợp, chẳng phải một chẳng phải khác, hay thành nên nhất tâm Nhị đế, chẳng rơi lạc vào đoạn thường, ở trong diệu chỉ. Sự lý giao triệt, tánh tướng dung thông, không pháp nào chẳng gom, đều kết quy về Tông Kính. Hỏi: Hai tâm chân vọng, hành tướng mỗi khác, làm sao dung hội được viên tông của tánh nhân pháp? Đáp: Chỉ rõ vọng niệm không sanh tức là chân tâm chẳng động. Ngoài chẳng động đó, lại không mảy may pháp nào khả đắc. Như trong kinh nói: “Dự lưu, Nhất lai quả, Bất lai, A-la-hán, các Thánh nhân như vậy đều nương tựa tâm vọng có”. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm phân chiết các pháp quá cực lượng nhỏ, trọn không thấy có chút ít thật khả đắc, nên gọi là Bát- nhã ba-la-mật-đa”. Lại nữa, chân vọng không thể, đều có danh tự, danh tự không thể, đều y cứ ngôn thuyết. Ngôn thuyết vốn tánh không đều không chỗ khởi, thì tất cả ngôn ngữ thảy đều bình đẳng, tất cả các pháp thảy đều chân thật. Do đó, kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn nói: “Phạm Thiên nói cùng Văn-thù rằng: “Điều Nhân giả nói đều là chân thật ư?” Văn-thù đáp: “Này thiện nam! Hết thảy ngôn thuyết đều là chân thật”. Phạm Thiên lại hỏi: “Hư vọng ngôn thuyết cũng là chân thật ư?” Văn-thù đáp: “Đúng vậy. Tại sao? Này thiện nam! Các ngôn thuyết đó đều là hư vọng, không xứ không phương. Nếu pháp hư vọng không xứ không phương tức là chân thật. Vì với nghóa đó nên hết thảy ngôn thuyết đều là chân thật. Này thiện nam! Đề-bà-đạt-đa có nói năng gì cùng với điều Như Lai nói không khác không biệt. Tại sao? Các thức ngôn thuyết đều là Như Lai ngôn thuyết, vì chẳng vượt ngoài như các thứ ngôn ngữ sự của sở thuyết hết thảy đều vì không sở thuyết nên được có sở thuyết”. Lại nữa, trong Phụ Hành Ký giải thích nhất niệm tâm để thành quán cảnh. Đó có hai nghóa: Một là, dùng thiền làm cảnh chẳng đồng tâm thế tục. Hai là, tức cảnh đó tâm lại phải lìa chấp trước. Như trước biện giải về thiền tâm, đã nói nhất niệm. Một nhiều tương tức, thì phải những nhất tâm nào hay đủ, nên chọn lựa chỉ bày đó, chẳng được đồng ở nhất niệm vọng tính lường, hay rõ vọng niệm không một tướng khác. Thành đạt vô tướng đó, đầy đủ hết thảy tâm, ba ngàn đầy đủ mới hay chiếu ở một nhiều tướng tức. Đó là y cứ người sơ tâm tập quán, sợ lạm ở vọng tình cảnh quán, cho nên cần phải chọn lựa chỉ bày cửa vào. Nếu y cứ lý luận, không gì chẳng là pháp giới, cũng nào cách biệt ở chấp thủ đắm trước vọng tình. Vì niệm vốn tự không, vọng không thể được. Vì người chấp có nên khiến quán không. Lại nữa, các Tiên đức nói: “Lúc chưa niệm niệm thì chưa sanh, chưa sanh thì là chẳng có. Pháp của chẳng có cũng không tự tướng. Niệm của hiện tại theo duyên mà sanh. Niệm nếu tự có, chẳng nên đợi duyên. Vì đợi duyên sanh tức không tự thể. Nên biết tâm không tự tánh, duyên khởi tức không. Như muốn dứt dòng đó, chỉ nên bít lấp nguồn đó, muốn khỏi sống đó chỉ chặt rễ đó, chẳng dùng nhiều công rất là tỉnh yếu. Nên luận Thông Tâm nói: “Phàm, buộc từ tâm buộc, mở từ tâm mở, buộc mở từ tâm, chẳng liên quan các xứ khác. Phương thuật xuất yếu chỉ có quán tâm, quán tâm được ngộ, hết thảy đều rõ, cho nên người trí trước phải quán tâm. Quán tâm được tịnh, trở lại quán tự tâm. Khi dối chẳng thật, như huyễn như hóa, nhảy nhót chẳng dừng, lại như khỉ vượn, chạy nhảy rong ruổi giống như ngựa hoang. Vô thủy vô minh trải qua nhiều kiếp trôi nổi không biết do đâu để được ra. Nếu hay quán tâm lỗi lầm như vậy, lại tìm tòi các cảnh. Cảnh không tự tánh, do thấy mà có, chẳng thấy tức không. Lại tìm tòi chỗ thấy, thấy không tự tánh, do tâm có động, chẳng động tức không. Lại tìm tòi tâm động, động không tự tánh, chỉ do bất giác, giác thì chẳng động. Lại tìm tòi bất giác, không có căn bản. Ngay từ vô thỉ hư tập, niệm niệm tự mê. Chân tâm vô niệm, không một chỗ có”. Luận nói rằng: “Như người mê mờ nên lấy Đông làm Tây, phương thật chẳng đổi chuyển. Chúng sanh cũng vậy. Vì vô minh mê mờ nên cho là tâm làm động, tâm thật chẳng động. Nếu hay quán, biết tâm không khởi, tức được tùy thuận vào chân như môn. Phải biết những gì có ra đều là hư vọng do tâm niệm mà sanh. Tâm có tức có, tâm không tức không. Có và không đều từ tâm, càng phải tự giác, chớ chẳng tự giác làm tâm tự khi dối, đã biết tâm dối, lại chớ lưu tâm. Có không đều không, thân tâm đều hết, thân tâm hết nên sạch bằng muôn cảnh, muôn cảnh không tướng, hợp gốc một minh, minh nhưng huyền chiếu. Chiếu không chẳng lặng lẽ. Dùng lặng lẽ làm thể, thể không chẳng rỗng, rỗng lặng không cùng thông đồng pháp giới. Pháp giới duyên khởi, không gì chẳng tự nhiên. Lại không từ đâu, đi không chỗ đến. Lại nữa, pháp không tướng cố định, chân vọng do tâm, khởi diệt đồng nguồn, lại không yếu chỉ riêng biệt, do đó, chư sư xưa trước rộng giải thích nghóa chân vọng giao nhau tận cùng, nói là: “Phàm, chân và vọng, nếu theo ở tam tánh thì viên thành là thật, biến kế là vọng. Y tha khởi tánh thông cả chân và vọng. Phần tịnh đồng chân, phần nhiễm đồng vọng. Ước biến kế làm vọng là tình có tức phải, lý không, vọng triệt chân vậy. Lý không tức phải tình có, chân triệt vọng vậy. Nếu phần nhiễm y tha làm vọng vốn hư thì rõ ràng giao triệt. Chân vọng đều chân thì xưa nay chỉ một vị, nên biết chân vọng thường giao nhau cùng tận cũng chẳng hoại tướng của chân vọng, thì gồm chân của vọng. Chân chẳng phải chân mà lắng lặng, tận cùng vọng của chân, vọng chẳng phải vọng mà mây nổi, như nước gồm sóng mà chẳng phải nước, tánh ướt ngưng dừng sóng triệt nước mà chẳng phải sóng cả tuôn vọt, thì chẳng còn chẳng sạch, tánh tướng rõ ràng, mỗi mỗi đều dung thông, lớp lớp nhau tận cùng, không chướng không ngại, thể dụng cùng gom”. Vào trong Tông Kính tự nhiên pháp như thế, nên các bậc Tiên đức nói: “Nhưng chân vọng đó sở dó giao nhau tận cùng là chẳng lìa nhất tâm”. Nên trong Thiền Nguyên tập nói: “Cho rằng hết thảy phàm Thánh căn bản đều là nhất pháp giới tâm, tánh giác sáng báu mỗi đều viên mãn. Vốn chẳng gọi là chư Phật cũng chẳng gọi là chúng sanh. Chỉ vì tâm đó linh diệu tự tại, chẳng chấp thủ tự tánh, tùy duyên của mê hay ngộ mà thành việc của phàm hay Thánh. Lại nữa, tuy tùy duyên mà chẳng mất tự tánh, thường chẳng phải hư vọng, thường không biến dị, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, bèn gọi là chân như. Nên nhất tâm đây thường đủ hai môn, chưa từng tạm khuyết. Chỉ trong Tùy duyên môn, phàm Thánh không cố định, nghóa là xưa nay chưa từng giác ngộ nên nói là phiền não vô thủy. Nếu tu chứng tức phiền não đoạn hết, nên nói hữu chung, nhưng thật không khác biệt thủy giác, cũng không bất giác, rốt cùng bình đẳng, nên nhất tâm đây thường đủ hai môn chân như và sanh diệt. Lại nữa, chân vọng mỗi tự có hai nghóa: Một là, chân có hai nghóa bất biến và tùy duyên; hai là, vọng có hai nghóa thể không và thành sự, nghóa là do chân bất biến nên vọng là thể không, làm chân như môn, vì sanh diệt tức chân như, nên trong các kinh nói không có Phật, không chúng sanh, xưa nay Niết-bàn tướng thường tịch diệt. Lại vì chân như tức là sanh diệt, nên kinh nói pháp thân lưu chuyển trong năm đường gọi là chúng sanh. Đã biết mê ngộ phàm Thánh tại sanh diệt môn, nay tại môn đó đủ rõ hai tướng phàm Thánh, tức chân vọng hòa hợp, chẳng phải một chẳng phải khác, gọi là A-lại-da thức. Thức ấy ở phàm xưa nay thường có nghóa giác và bất giác. Giác là gốc của Hiền thánh Tam thừa. Bất giác là gốc của phàm phu lục đạo. Nay tìm tòi tâm của bất giác ấy không thể thì tánh của chân giác hiện tiền. Trong kinh Bảo Tích nói: “Phật dạy: Bồ-tát cầu tâm như vậy. Thế nào là tâm? Hoặc là tham dục ư? Hoặc là sân nhuế ư? Hoặc là ngu si ư? Hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại ư? Nếu tâm ở quá khứ tức là diệt tận. Nếu tâm ở vị lai thì vị lai chưa đến. Nếu tâm ở hiện tại thì không có trú. Tâm đó chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng chẳng phải trung gian. Tâm đó không sắc không hình, không đối, không thức, không tri, không trú, không xứ. Tâm như vậy là mười phương ba đời hết thảy chư Phật, chẳng đã thấy, chẳng hiện thấy, chẳng sẽ thấy. Nếu hết thảy chư Phật từ quá khứ đến nay mà chẳng thấy, sao gọi là sẽ có? Điên đảo tưởng nên tâm sanh các pháp các thứ sai biệt. Tâm đó như huyễn, do vì nhớ tưởng phân biệt nên khởi các thứ nghiệp, thọ các thứ thân. Cho đến, như vậy, Ca-diếp! Cầu tâm tướng đó mà không thể được. Nếu không thể được thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại thì ra ngoài ba đời. Nếu ra ngoài ba đời thì chẳng phải có chẳng phải không. Nếu chẳng phải có chẳng phải không tức là không khởi. Nếu không khởi tức là không tánh. Nếu không tánh tức là không sanh, nếu không sanh tức là không diệt, nếu không diệt thì không chỗ lìa, nếu không chỗ lìa thì không lai không khư không thối không sanh. Nếu không lai không khứ không thối không sanh thì không hành nghiệp. Nếu không hành nghiệp thì là vô vi, nếu vô vi thì là căn bản của hết thảy các Thánh”. Trong kinh Trì Thế nói: “Bấy giờ, Bồ-tát khởi ý niệm rằng: Thế gian rất là cuồng si, chỗ gọi là từ nhớ tưởng phân biệt thức khởi ở thế gian, cùng tâm ý thức đó cũng không hình không phương, chẳng tại mội pháp chẳng tại ngoại pháp. Phàm phu bị trói buộc bởi hư vọng tương ưng nên ở trong thức ấm tham đắm nơi ngã và ngã sở”. Kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Biết các danh sắc chỉ là tâm phân biệt. Si tâm phân biệt các pháp lại không sự gì khác vượt ngoài danh sắc. Biết pháp như vậy, chẳng tùy theo văn ngữ, tâm tâm đối với nghóa chẳng phân biệt ngã”. Luận Thích nói: “Đây nói rõ ở trong phương tiện quán có hai: Một là, nói rõ duy thức tầm tư, lại không sự gì khác vượt ngoài danh sắc. Danh nghóa bốn uẩn, sắc là sắc uẩn. Các bất tương ưng đều giả dựng lập. Lìa danh sắc đây lại không thể khác biệt, nên các sự của hữu vi đều do danh sắc thâu tóm. Các pháp như vậy chỉ do tâm tạo tác, ngoài tâm không cảnh, lìa cảnh không tâm. Như vậy gọi là duy thức tầm tư. Hai là, hiển bày như thật trí. Biết pháp như vậy, chẳng tùy theo văn ngữ, đó là danh tầm tư thâu dẫn như thật trí, nên tâm tâm đối với nghóa chẳng phân biệt ngã, đó là nghóa tầm tư thâu dẫn như thật trí nên hai ngã nhân pháp đều không có nghóa, do đó ở trong chẳng phân biệt”. Hai tâm chân vọng, hai thứ tình phần đây, trí rõ chỉ một, một hai đều mất mới vào Tông Kính. Do đó, kinh Duy-ma nói: “Bồ-tát Diệu Tý nói: Tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn là hai. Quán tâm tướng không như huyễn hóa, không tâm Bồ-tát, không tâm Thanh văn là vào pháp môn bất nhị”. Nên biết đã dùng không tâm hiện tâm thì không pháp hiện pháp, cớ sao dùng tất cả cảnh giới tùy niệm mà sanh? Niệm đã vốn không, pháp lại nào có? Như kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni nói: “Phật bảo: “Kiều-thi-ca! Nếu có người đến hỏi: Nay đại chúng đây sử dụng mọi thứ điều hòa phải tốn bao nhiêu công?” Người kia hỏi như thế, ông đáp sao?” Thiên Đế- thích thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Con không đáp gì. Tại sao? Bạch Đức Thế Tôn! Nay con ở Tam thập tam thiên, phàm các thứ ăn mặc cần dùng, thảy đều tùy tâm mong nghó mà hiện có, chẳng phải tạo tác nên”. Phật bảo: “Kiều-thi-ca! Hết thảy các pháp cũng lại như vậy, đều trú trong tâm, tùy lúc có mong nghó tức được thành tựu. Kiều-thi-ca! Giống như noãn sanh, các chúng sanh v.v…, chỉ do tâm niệm tức tiện thọ sanh, hết thảy các pháp cũng lại như vậy, đều do tâm niệm, pháp liền hiện tiền. Kiều- thi-ca! Lại như hết thảy các loài thấp sanh, như là cá, ba ba, giải, rồng, đến nơi chỗ đất cao trong nước cần nên giăng bọc, các loài đó v.v… đều gồm thuộc noãn sanh. Các loại đó hoặc chỉ đi một do-tuần, hoặc hai do- tuần, hoặc đến ba, bốn, hoặc lại quá bảy, đạt đến chốn đó đã đặt để trứng mình, chẳng khiến nhọc thiếu, nên hay thành thục. Kiều-thi-ca! Tam tạng giáo đây cũng lại như vậy, tùy lúc nhớ nghó, nghiệp kia hiện tiền, lần lượt chẳng loạn, tương tục chẳng đoạn, cùng câu nghóa kia hòa hợp tương ưng”. Lại nữa, luận Phật địa nói: “Tam thập tam thiên có một rừng tạp, do phước lực của các trời hòa hợp mà cảm nên. Giả sử các chúng trời chẳng ở tại rừng đó, cung điện v.v…, mọi sự, cùng vui v.v…, hưởng thọ, hơn kém có khác, có ngã và ngã sở thọ dụng sai biệt. Còn nếu đến tại rừng đó thì hoặc là thọ dụng hoặc là mọi sự đều không hơn kém, đều đồng thượng diệu, không ngã và ngã sở hòa hợp thọ dụng. Hay khiến bình đẳng hòa hợp thọ dụng nên gọi là rừng tạp. Đó là do sức phước nghiệp tăng thượng của các trời mỗi mỗi đều tu bình đẳng hòa hợp, nên khiến A-lại-da thức các trời đó biến hiện rừng ấy đồng xứ đồng thời đồng một tướng trạng. Do sức tăng thượng của rừng tạp ấy nên khiến chuyển thức kia cũng đồng biến hiện, tuy mỗi tự thọ dụng mà cho là không khác biệt”. Do đó, nếu người thấu đạt các pháp đều do tâm tưởng sanh tức từ thế tục môn, là Thánh hạnh xứ. Như kinh Vô Tận Ý Bồ-tát nói: “Bấy giờ, Xá-lợi-phất hỏi Vô Tận Ý: “Thiện nam! Từ xứ nào đến? Phật đó hiệu là gì, thế giới tên gì? Cách đây xa gần?” Vô Tận Ý nói: “Xá-lợi-phất! Có tưởng đến ư?” Xá-lợi-phất nói: Thiện nam! Tôi biết tưởng rồi”. Vô Tận Ý nói: “Nếu là biết tưởng, nên không hai tướng. Bởi duyên gì mà hỏi từ xứ nào đến? Xá-lợi-phất! Có đến đi, là làm nghóa hòa hợp, như tướng hòa hợp là không hợp chẳng hợp, không hợp chẳng hợp tức chẳng đến đi, chẳng đến đi là Thánh hạnh xứ”. Trong kinh Phật Tạng nói: “Phật dạy: Xá-lợi-phất! Tùy chỗ niệm khởi hết thảy các tưởng đều là tà kiến. Xá-lợi-phất! Tùy không chỗ có, không giác, không quán, không sanh, không diệt. Thông được như vậy, gọi là niệm Phật”. Trong kinh Hải Long Vương nói: “Phật bảo: Đại vương! Hết thảy các pháp đều từ tâm dấy khởi, tùy chỗ làm đó mà mỗi mỗi đều thành. Các pháp không trú cũng không chỗ có”. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Bồ-tát làm sao quán tâm niệm xứ? Bồ-tát quán tâm trong ngoài. Trong tâm đó có ba tướng: Sanh, trú và diệt. Khởi nên ý niệm tâm đó chẳng từ đâu lại, diệt cũng không chỗ đến chỉ theo nhân duyên trong ngoài hòa hợp sanh. Tâm đó không có thật tướng cố định, cũng không thật sanh, từ và diệt, cũng chẳng ở trong đời quá khứ, vị lai và hiện tại. Tâm đó chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở khoảng giữa. Tâm đó cũng không sanh không tướng. Cũng không sanh, không khiến sanh, ngoài có các thứ tạp sáu trần nhân duyên, trong có tâm tưởng điên đảo sanh diệt tương tục, nên cưỡng gọi làm tâm. Như vậy trong tâm, thật tướng tâm không thể được. Tánh tâm đó không sanh không diệt, thường là tướng tịnh, do tướng khách trần phiền não dính đắm nên gọi là tâm bất tịnh, tâm chẳng tự biết. Tại sao? Tâm đó, tưởng tâm vốn không. Tâm đó gốc ngọn không có thật pháp. Tâm đó cùng các pháp không hợp không tan, cũng không khoảng trước khoảng sau và khoảng giữa, không sắc, không hình, không đối, chỉ điên đảo hư dối sanh. Tâm đó là không: Không ngã, không ngã sở, không thường, không tướng. Người trí hay biết, người trí tuy quán sanh diệt của tâm đó, cũng chẳng được pháp thật sanh diệt. Không phân biệt dơ sạch mà được tâm thanh tịnh. Vì tâm đó thanh tịnh, không bị khách trần phiền não ;làm nhiễm. Như vậy, quán trong tâm, quán ngoài tâm, quán trong ngoài tâm v.v…, cũng lại như thế. Nên biết pháp vốn chẳng có, nhân tâm nên sanh, xa lìa nhớ tưởng mà không pháp có thể thành, dứt trừ phân biệt mà không mảy trần có thể hiện. Lại, trở lại quán nhớ tưởng phân biệt, rốt cùng không sanh. Theo tam tế (ba thời) mà mong cầu, mong cầu đó chẳng thấy, hướng đến mười phương tìm kiếm, tìm kiếm đó không dấu vết. Đã không tâm của năng khởi, cũng không vết của sở diệt. Khởi diệt đều lìa, chỗ lìa cũng không, tâm cảnh rỗng rang, gọi là kiến đạo. Ở trong kiến đạo, cùng đợi đó, chân vọng tự dung, đối trị đó, năng sở đều tuyệt. Nơi năng sở hết, tự nhiên thành Phật. Như luận Hoa Nghiêm nói: “Kinh đây nói: Dùng chút ít phương tiện bèn chóng chứng đắc Bồ-đề, chẳng đồng như quyền giáo Bồ-tát đồng với hữu vi lập năng chứng sở chứng. Trong khoảng một niệm không có năng sở. Nơi năng sở hết, gọi là Chánh giác, cũng chẳng đồng như Tiểu thừa diệt trừ năng sở. Rõ ràng năng sở vốn không động. Đó là mặt tình pháp tánh, động tónh đều bình đẳng. Làm bản trí chẳng phải động tịch, vọng cho là làm động. Ngu phu không rõ biết, bỏ động mà cầu tịch, làm thành khổ lớn vậy”. nên trong kinh Duy-ma nói: “Ngũ thọ ấm suốt đạt không là nghóa khổ. Vì Tiểu thừa có mừng chán nên liền sanh khổ”. Hỏi: đây nói chân tâm vọng tâm là Tông pháp tướng? Hay là Tông pháp tánh? Đáp: Căn cứ theo Hoa Nghiêm Diễn Nghóa nói: “Luận nói: Tam giới hư vọng chỉ là nhất tâm”, là nếu chấp thủ tam giới hư vọng tức là sở tác. Nay lấy năng tác làm Đệ nhất nghóa. Luận giải thích chỉ là năng tác. Nay trong kinh nói: “Tam giới chỉ tâm chuyển” tức là thông cả năng lẫn sở. Nhưng năng sở có hai. Nếu y cứ trong Tông pháp tánh lấy Đệ nhất nghóa tùy duyên thành có, tức làm năng tác, chỗ có tâm cảnh đều thông sở tác, vì chẳng thể nghó bàn luận chẳng thể nghó biến là nhân của hiện thức vậy. Nếu như Đệ nhất nghóa tâm ở trong Tông pháp tướng, chỉ là chỗ mê, chẳng phải là năng tác, có ba năng biến, nghóa là Đệ bát v.v… theo luận Duy thức nói: “Lại nữa, có nghóa nói Tam giới duy tâm của trong kinh Đại thừa. Duy tâm đó là chỉ có nội tâm, không có sắc hương v.v…, các cảnh giới bên ngoài”. Đây nói sao biết? Như kinh Thập Địa nói: “Tam giới hư vọng, chỉ là nhất tâm tạo tác, nên tâm, ý, thức và liễu biệt v.v… bốn pháp như vậy nghóa chỉ một, mà tên có khác”. Đây y cứ tâm tương ưng nói, chẳng phải tâm bất tương ưng nói. Tâm có hai thứ: Một là, tâm tương ưng, tức như các thứ phiền não kiết sử thọ, tưởng, hành v.v… đều tương ưng với tâm. Do đó, nên nói tâm, ý, thức và liễu biệt nghóa chỉ một mà tên có khác. Hai là, tâm bất tương ưng, tức như Đệ nhất nghóa đế thường trú bất biến tự tánh thanh tịnh tâm, nên nói Tam giới hư vọng, chỉ nhất tâm tạo tác, là tâm tương ưng, nay y cứ theo pháp tánh nên nói Đệ nhất nghóa tâm lấy làm năng tác, nói chuyển là nghóa khởi tác, cũng là nghóa chuyển biến. Hỏi: Như trên nói về chân tâm vọng tâm chỉ là văn lý tụ về. Đâu là môn phương tiện để được thân gần kiến tánh? Đáp: Vọng dứt tâm không thật biết tự hiện, nếu làm tính lường so sánh càng thêm vọng tâm, chỉ lúc diệu ngộ, các duyên tự tuyệt. Như xưa kia Đức Phật ngộ đạo, có bài tụng rằng: “Nhân muôn sao thấy ngộ, Ngộ rồi chẳng phải sao, Chẳng đuổi theo nơi vật, Chẳng phải là vô tình”. Lại nữa, trong luận Bảo Tạng nói: “Chẳng phải có chẳng phải không tông của muôn vật, chẳng phải không chẳng phải có mẹ của muôn vật. Ra đó không phương, vào đó cũng không sở. Bao hàm muôn hữu mà chẳng làm só, ứng hóa muôn mối mà chẳng làm chúa, đạo tánh như vậy, đâu có thể so lường? Lúc kiến tánh tự nhiên mở bày”. Do đó, xưa trước có kệ tụng rằng: “Vọng dứt tịch thì sanh, Tịch sanh biết thì hiện, Biết sanh tịch đã xả, Rõ ràng chỉ chân tánh”. Lại nữa, trong Tín Tâm Minh nói: “Khoảng trước biết không, Chỗ biết đều tông, Phân minh chiếu cảnh, Tùy chiếu mênh mông. Nhất tâm có trệ, Muôn pháp chẳng thông, Đi lại tự vậy, Chẳng dụng suy cùng”. Như có người học hỏi Hòa thượng Hoàng Nghiệt: “Chỉ như hư không trước mắt có thể chẳng phải là cảnh, há không chỉ cảnh thấy tâm?” Hòa thượng bảo: “Tâm nào thấy trên cảnh? Giá sử ông được thấy nguyên lai chỉ là chiếu tâm cảnh. Như người dùng gương soi mặt, giả sử có được mặt mày rõ ràng, cũng chỉ là ảnh tượng, đâu liên quan gì đến việc ông”. Người ấy lại hỏi: “Nếu chẳng nhân soi làm sao được thấy?” Hòa thượng đáp: “Nếu trải qua nhân, thường phải gá vật. Có lúc nào rõ ràng ông không thấy đạo. Buông tay tợ như ông không một vật, khổ nhọc nói bậy vài ngàn thứ”. Người ấy lại hỏi: “Kia nếu biết rõ, lúc soi cũng không vật ư?” Hòa thượng đáp: “Nếu là không vật thì nơi nào được soi chiếu? Ông chớ mở mắt mà nói mở”. Hòa thượng bảo: “Biết nhiều trăm thứ chẳng như người không cầu đạo tối đệ nhất”. <卷>QUYỂN 6 Phàm, Tông Kính vốn mong chỉ luận đạo đó, thiết bày đủ các văn nghóa rộng khắp các căn cơ. Đồng với chỉ nam đây trọn không yếu chỉ nào riêng khác, trộm không thể y cứ văn mà mất tông thú đó. Nếu tỏ ngộ đạo đó thì có thể tiếp thừa rạng rỡ, có thể dùng để truyền pháp y. Như có người hỏi Hòa thượng Nam Tuyền rằng: “Môn hạ của Hoàng Mai có năm trăm người. Cớ sao Lư Hành giả (Tuệ Năng) riêng được y bát?” Hòa thượng Nam Tuyền đáp: “Chỉ vì bốn trăm chín mươi chín người đều giải hiểu Phật pháp, riêng một mình Lư Hành giả chẳng giải hiểu Phật pháp, chỉ hội đạo đó. Do đó, được y bát”. Xin hỏi: Chỉ như đạo làm sao hội? Đáp: Như Đức Bản Sư nói: “Đạo tràng Như Lai là chỗ đắc pháp, pháp đó chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Ta đối với pháp đó, trí không thể hành, mắt không thể thấy, không có hành xứ, chỗ tuệ chẳng thông, minh chẳng thể rõ. Hỏi không có đáp”. Lại nữa, người xưa nói: “Việc ấy tợ như không mà chẳng không tợ như có mà chẳng có. Ẩn ẩn thường thấy, chỉ phải cầu đó; nơi không thể được. Do đó, nếu quyết định không thì quy về đoạn kiến. Nếu thật có thì lạc vào thường tình, nếu có nơi chốn thì thành cảnh đó. Nên biết việc ấy, chẳng phải chỗ tâm lường được, chẳng phải chỗ trí nhận biết”. Như Hòa thượng Hương Nghiêm có bài tụng rằng: “Phỏng bàn trước sau, An đặt trong ngoài, Chẳng được một pháp, Đắm chìm suối sâu. Đều chẳng như vậy, Ta ngay trước ta, Người học mười phương, Làm sao tham thiền.” Nếu nói như vậy đâu có thể hội ư? Do đó, người xưa nói: “Ngay phải diệu hội mới được. Đó là hội của chẳng hội, diệu khế trong đó vậy”. Nên các bậc Thánh trước ngộ đạo, có bài tụng rằng: “Tâm có không đi lại trọn dứt, Trong ngoài khoảng giữa thảy đều không, Muốn thấy Như Lai nơi Phật thật, Chỉ nhìn dê đá sanh ngựa con”. Sau của diệu đạt như vậy, đạo còn chẳng còn, há có thể luận bàn tri giải vọng tưởng của hội và chẳng hội ư? Như cổ đức có kệ tụng rằng: “Khuyên ông học đạo chớ tham cầu, Muôn sự vô tâm đạo hợp đầu, Vô tâm mới rõ vô tâm đạo, Rõ được vô tâm đạo cũng thôi”. Trước kia, Hòa thượng Động Sơn có kệ tụng rằng: “Người này còn chẳng thật, Huống gì bày ba lý, Chân không cùng phi không, Tương lai chẳng tương tợ, Rành rành như trước mắt, Chẳng dung mảy tóc phỏng”. Chỉ như nói người này còn chẳng thật, huống gì các cuồng có lầm giải khác ư? Do đó trong kinh nói: “Tâm chẳng vướng đạo cũng không buộc nghiệp”. Đạo còn chẳng vướng, ngay đây có thể biết vào trong Tông Kính tự nhiên thầm hợp. Hỏi: Giác thể chẳng đổi thay, giả danh có khác. Phàm Thánh đã ngang bằng, chúng sanh sao chẳng giác tri? Nếu nói chẳng mê, trong giáo sao nói có mê ngộ? Đáp: Chỉ vì nhân chân tâm bản giác mà khởi bất giác, nhân bất giác nên thành thủy giác. Như nhân đất mà lộn ngược nhân phương nên mê mờ, lại ngộ thường không, bất giác tợ mê, lúc mê vốn lắng. Do đó ngay lúc mê ngộ, tình tưởng tự phân, vì có tâm hư vọng, lại ban thuốc hư vọng. Trong kinh nói: “Phật dạy: Ta giảng nói ba thừa, mười hai bộ loại kinh giáo, như năm tay không, cuốn dối gạt trẻ con, việc đó không biết, gọi là vô minh”. Tổ sư có kệ tụng rằng: “Như Lai tất cả pháp, Trừ ta tất cả tâm, Ta không tất cả tâm, Nào cần tất cả pháp”. Nên biết mắt mình nếu mở, sáng thật tự phát, mê ngộ của sở trị, bệnh thấy tự mất, quyền thật của năng trị, thuốc pháp tự bỏ. Phàm người tỏ ngộ pháp này, chẳng nương gá trí người khác cùng với dị thuật vậy. Hoặc người thấy chẳng như mở kho lấy vật báu, mổ trai được ngọc. Sáng phát từ cõi lòng, ảnh bao trùm pháp giới. Như kinh có kệ tụng rằng: “Như người được kho báu, Trọn lìa khổ nghèo khó, Bồ-tát được Phật pháp, Lìa dơ tâm thanh tịnh”. Hoặc người không tỏ ngộ mà tự sanh chướng ngại, nên trong luận Thông Tâm nói: “Chân thường chẳng dễ bít sanh tử, tự đổi dời chí lý viên thông, chấp phương hướng khuôn mẫu mà khiến cách biệt, đó đều là mê mờ tự tánh, chỉ đuổi nương theo thông, nên phải mắt mình tròn sáng chẳng tùy thuộc người khác xoay chuyển. Như Đại sư Dung có bài tụng rằng: “Chó mà sủa rừng lau, Người mù nó giặc hổ, Theo tiếng nên khiến mê, Bởi vì mắt không thấy”. Nếu được lúc tâm mở chiếu lý, các kiến đều tuyệt, chẳng thấy Phật pháp là phải, chẳng thấy thế pháp là quấy. Vì trong tự tánh ngôn ngữ tư duy đều dứt tuyệt. Như nói không chỗ phải là Bồ-đề, không nên an đặt Phật Bồ-đề ở có chỗ bên phải. Như nay chỉ chẳng dùng an đặt, thể tự hư huyền, như vật báu lưu ly mặc tình đặt để đâu, tánh nó vẫn chẳng mất. Nếu biết được ấy cũng lại như vậy. Mặc tình hình sắc hơn kém của Thánh phàm ảnh hiện trong đó, tánh đó chẳng động. Người không biết việc ấy tức tùy theo sắc biến trước mà phân biệt tốt xấu, mà sanh mừng lo. Do đó, Tổ sư nói: “Tùy lưu nhận được tánh, không mừng lại không lo”. Luận Khởi Tín nói: “Tâm sanh diệt môn nghóa là y cứ Như Lai Tạng mà có tâm sanh diệt chuyển. Chẳng sanh diệt cùng sanh diệt hòa hợp, chẳng phải một chẳng phải khác, gọi là A-lại-da thức. Có hai thứ nghóa tức là năng nhiếp hết thảy pháp, và năng sanh hết thảy pháp. Lại có hai thứ nghóa: Một là nghóa giác, hai là nghóa bất giác. Nói nghóa giác tức là tâm Đệ nhất nghóa, tánh lìa hết thảy tướng vọng niệm. Vì lìa tất cả tướng vọng niệm, nên ngang bằng hư không giới, không đâu chẳng cùng khắp. Pháp giới nhất tướng tức là pháp thân bình đẳng của hết thảy Như Lai, y cứ pháp thân ấy mà nói hết thảy Như Lai là Bản giác. Vì đối đãi với thủy giác nên lập làm bản giác, nhưng lúc thủy giác tức là bản giác, không giác nào riêng biệt khởi. Lập thủy giác nghóa là y cứ bản giác có bất giác, y cứ bất giác nên nói có thủy giác. Lại vì nguyên tâm giác nên gọi là cứu cánh giác, nguyên tâm bất giác nên chẳng phải cứu cánh giác, cho đến vì có tâm vọng tưởng nên hay biết danh nghóa, vì nói chân giác. Nếu không tâm bất giác thì không tự tướng chân giác có thể nói”. Sớ Thích nói: “Nếu tùy nhiễm tùy lưu thành ở bất giác thì nhiếp thế gian pháp, nếu bản giác chẳng biến và thủy giác trở lại thì nhiếp xuất thế gian pháp”. Sao giải nói: “Đối với trong bản giác và thủy giác mà luận về nhiếp pháp là, nếu chỗ nhiếp của bản giác tức là nghóa Đại trí tuệ quang minh, nghóa biến chiếu pháp giới, nghóa chân thật giác tri v.v…. Nếu chỗ nhiếp của thủy giác tức là ba minh, tám giải thoát, năm mắt, sáu thần thông, mười lực, bốn vô úy, mười tam pháp bất cộng v.v…, nhưng đây y cứ thật tức đồng, nghóa ngôn lại khác. Nên sớ nói: “Ở trong môn sanh diệt tùy theo dùng bất giác, ngược dòng thủy giác, đối với nghóa dụng thì nhiếp pháp chẳng đồng. Nếu ở trong chân như môn thì dùng hòa hàm nhiếp nhiễm tịnh chẳng khác, nghóa là dùng lý nhất chân như dung đó, khiến nhiễm tức chẳng phải nhiễm, tịnh tức chẳng phải tịnh, tức nhiễm tức tịnh sâu làm thành một vị, nên chẳng khác vậy”. Như luận nói: “Hết thảy các pháp từ xưa đến nay, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có biến dị, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là chân như”. Vậy biết tùy duyên của giác và bất giác tợ sanh nhiễm tịnh, duyên sanh không tánh, nhiễm tịnh đều hư dối. Lại nói: Lìa tướng ngôn thuyết, há có thể dùng ngôn ngữ mà đàm nói? Lìa tướng tâm duyên, há có thể dùng tâm mà lường? Thật nghóa là tuyệt đường tâm ngôn, chỉ chứng tương ưng vậy. Vả lại, phàm phu nói năng là từ giác quán sanh, là cộng tướng hòa hợp mà khởi. Phân biệt là nhân ý thức sanh là do tính toán so lường mà khởi. Tám yếu mà nói là đều nhân bất giác giáo quán tùy sanh, nếu không tâm bất giác, hết thảy các pháp đều không tự tướng có thể nói, tùy phương tiện môn mà vì chỉ bày cứu cánh, chỉ đạo kết quy không ngôn từ. Nên luận nói: “Nếu lìa tâm bất giác thì không tự tướng chân giác có thể nói. Vì giác đối bất giác nói cộng tướng mà chuyển. Nếu không bất giác, giác không tự tướng. Như riêng một bàn tay không phát ra tiếng. Tư duy đó có thể thấy, cho đến các pháp nhiễm tịnh đều là như vậy, đều là tướng đối đãi mà có, rốt cùng không tự thể có thể nói. Như lìa dài làm gì có ngắn, lìa cao sao có thấp? Nếu vào trong Tông Kính tự nhiên tuyệt đối đãi. Lại nữa, trong Sao hỏi: Sanh diệt và chân như mỗi tự nhiếp các pháp, không biết nghóa nhiếp là dị hay là đồng? Đáp rằng: Dị. Tại sao? Trong sanh diệt môn gọi là trùm thâu, trong chân như môn gọi là Dung nhiếp. Cai nhiếp nên nhiễm tịnh đều có, dung nhiếp nên nhiễm tịnh đều mất. Đều mất nên một vị chẳng phân. Đều có nên rõ ràng sai biệt. Luận Ma-ha-diễn nói: “Hai giác đây có hai môn: Một là lược nói Bản giác an lập môn; hai là lược nói Thủy giác an lập môn. Trong Bản giác môn thì lại có hai môn: Một là Thanh tịnh bản giác môn; hai là Nhiễm tịnh bản giác môn. Trong Thủy giác môn lại cũng có hai môn: Một là, Thanh tịnh thủy giác môn; Hai là, Thủy tịnh bản giác môn. Thế nào là Thanh tịnh bản giác? Vốn có pháp thân từ vô thỉ lại, đầy đủ công đức viên mãn quá hơn số cát sông Hằng, vì thường sáng sạch. Thế nào là Nhiễm tịnh bản giác? Tự tánh thanh tịnh tâm nhận chịu vô minh xông ướp, vì lưu chuyển sanh tử không đoạn tuyệt. Thế nào là Thanh tịnh thủy giác? Vô lậu tánh trí vượt khỏi hết thảy vô lượng vô minh, vì không nhận chịu hết thảy vô minh xông ướp. Thế nào là Nhiễm tịnh thủy giác? Bát-nhã nhận chịu vô minh xông ướp, vì không thể xa lìa. Các giác như thế đều là quyến thuộc của trí. Phải chứng lý gì dùng làm thể phần? Nghóa là tánh chân như và lý hư không. Hai lý như thế, mỗi mỗi có hai thứ. Sao gọi là hai thứ chân? Một là, thanh tịnh chân như. Hai la,ø nhiễm tịnh chân như. Lý của hư không cũng lại như vậy. Thế nào gọi là thanh tịnh chân như? Vì hai thứ tịnh giác sở chứng chân như lìa huân tập. Thế nào gọi là nhiễm tịnh chân như? Vì hai thứ nhiễm tịnh giác sở chứng chân như chẳng lìa huân tập, lý của hư không cũng lại như vậy. Vì nghóa gì cưỡng gọi là Bản giác, chữ sự sai biệt, tướng đó thế nào? Tụng rằng: Bản giác mỗi thứ có mười, thể tuy đồng, mà chữ sự mỗi mỗi khác biệt, tức nghóa của căn minh v.v…. Luận nói: Bản giác, mỗi thứ có mười. Thế nào là mười bản? Một là, chữ căn sự bản, pháp thân vốn có, hay khéo gìn giữ hết thảy công đức. Thí như rễ cây hay khéo gìn giữ cành lá và hoa quả v. v… không hư hoại không tổn mất. Hai là, chữ bản, sự bản pháp thân vốn có, từ vô thỉ lại, tánh tự nhiên có, vì chẳng từ mới đầu khởi. Ba là, chữ viễn sự bản pháp thân vốn có. Lúc đó có đức lớp lớp lâu xa không phân giới. Bốn là, chữ tự sự bản pháp thân vốn có, ta thành tự ta, chẳng do đâu khác mà thành ta. Năm là, chữ thể sự bản pháp thân vốn có, làm các chi đức làm nương tựa. Sáu là, chữ tánh sự bản pháp thân vốn có, nghóa của chẳng chuyển vì thường kiếp lập. Bảy là, chữ trú sự bản pháp thân vốn có, trú ở vô trú, không khứ không lai. Tám là, chữ thường sự bản pháp thân vốn có, quyết định thật tế vì không lưu chuyển. Chín là, chữ kiên sự bản pháp thân vốn có. Xa lìa phong tướng kiên cố chẳng động như Kim cang. Mười là, chữ tổng sự bản pháp thân vốn có, rộng lớn tròn đầy không chỗ chẳng khắp, vì làm thông thể. Đó gọi là mười. Thế nào là mười giác? Một là, chữ kính sự giác, Tát bát-nhã tuệ thanh tịnh sáng sạch không có trần lụy. Hai là, chữ khai sự giác, Tát- bát-nhã tuệ thông đạt hiện rõ không có chướng ngại. Ba là, chữ nhất sự giác, Tát- bát-nhã tuệ riêng tôn riêng một không có sánh lường. Bốn là, chữ ly sự giác, Tát- bát-nhã tuệ, như tự tánh tuệ giải thoát vượt khỏi các thứ trói buộc. Năm là, chữ mãn sự giác, Tát- bát-nhã tuệ, tự đầy đủ vô lượng các công đức không chỗ khuyết thiếu. Sáu là, chữ chiếu sự giác, Tát- bát-nhã tuệ phóng Đại quang minh chiếu khắp hết thảy vô lượng cảnh. Bảy là, chữ sát sự giác, Tát- bát-nhã tuệ, thường luôn phân minh vì không mê loạn. Tám là, chữ hiển sự giác, Tát- bát-nhã tuệ, trong thể thanh tịnh, tịnh phẩm quyến thuộc thảy đều hiện tiền. Chín là, chữ tri sự giác, Tát- bát-nhã tuệ, đối với hết thảy các pháp không gì chẳng cùng khắp. Mười là, chữ giác, Tát- bát-nhã tuệ, nơi có công đức chỉ có giác chiếu, không mỗi một pháp mà chẳng phải giác. Đó là mười, chữ nghóa mười thứ bản giác như vậy, chỉ y cứ một thứ bản tánh pháp thân, tùy nghóa giải thích khác, căn cứ tự thể đó không khác biệt mà thôi. Điều trong đây nói trong hai bản giác, phải là bản giác nào? Nghóa là Thanh tịnh bản giác chẳng phải Nhiễm tịnh bản giác. Nhiễm tịnh bản giác chữ nghóa sai biệt. Tướng nó thế nào? Tụng rằng: “Trong Nhiễm tịnh bản giác, Hoặc mỗi có mười nghóa, Trước nói trong mười sự, Mỗi có tánh xa lìa”. Luận nói: Trong bản giác đây, hoặc mỗi có mười, cớ sao như vậy? Trong mười nghóa trước, mỗi đều có nghóa chẳng giữ tự tánh. Chữ sự phối thuộc nương hướng nên biết. Hai giác như vậy là đồng hay dị? Chẳng phải đồng vì đồng, chẳng phải dị vì dị. Vì với nghóa ấy, nên hoặc đồng hoặc dị, hoặc chẳng phải đồng, hoặc chẳng phải dị. Cho nên đều phải đều quấy mà thôi. Bởi nghóa gì mà cưỡng gọi là thủy giác. Chữ dị sai biệt, tướng đó thế nào? Tụng rằng: “Từ vô thỉ đến nay, Không có lúc hoặc loạn, Ngày nay bắt đầu giác, Nên gọi là thủy giác”. Luận nói: Từ vô thỉ lại, thủy giác Bát-nhã không lúc hoặc loạn, mà không lúc hoặc, ngày nay mới bắt đầu giác nên gọi là Thủy giác. Thủy giác như thế, trước hoặc sau giác, thì chẳng phải thủy giác, mà lúc không hoặc, lý thường hiện, nay thường mới đầu nên làm thủy giác. Thủy giác như thế, trong hai thủy giác phải là thủy giác nào ư? Nghóa là Thanh tịnh giác, chẳng phải Nhiễm tịnh giác. Nhiễm tịnh thủy giác, chữ nghóa sai biệt. Tướng nó thế nào? Tụng rằng: “Trí thanh tịnh thủy giác, Vì chẳng giữ tự tánh, Mà hay nhận nhiễm huân, Nên gọi Nhiễm tịnh giác”. Tuy lúc không lầm hoặc mà chẳng giữ tự tánh, hay nhận nhiễm huân, tùy duyên lưu chuyển, vì nghóa như thế cho nên gọi là Nhiễm tịnh thủy giác. Bởi nghóa gì mà cưỡng gọi là chân như, chữ sự sai biệt, tướng nó thế nào? Tụng rằng: “Lý thể tánh chân như, Bình đẳng bình đẳng một, Vì không có nhiều tướng, Nên gọi là chân như”. Luận nói: Lý tánh chân như bình đẳng bình đẳng, tuy đồng một tướng, cũng không một tướng cũng không nhiều tướng. Không một tướng nên xa lìa đồng duyên, không nhiều tướng nên xa lìa dị duyên. Vì nghóa như vậy nên gọi là chân như. Hai chữ tịnh trí chân như như thế thân gần chỗ nội chứng. Lại nữa, chân như, mỗi thứ có mười nghóa: Một là, chữ căn sự chân, cho đến thứ mười chữ tổng sự chân, mười chân như thế mười thứ nghóa bản tương ưng đều có, chẳng cùng xả ly, cho nên đồng gọi là biểu thị mà thôi. Thế nào là mười Như? Một là, chữ kính sự như, cho đến thứ mười chữ giác sự như, nghóa mười giác như vậy tương ưng đều có chẳng cùng xả ly, cho nên đồng gọi là biểu thị mà thôi. Cớ sao như vậy? Mười thứ chân như, pháp thân vốn có, có đức phương tiện. Lý mười chân như, Tát Bát-nhã tuệ, có giác phương tiện. Vì với nghóa đó, lại trọng ngôn từ, chỉ bày như vậy. Điều nói trong đây ở trong hai chân, phải chân như nào? Nghóa là thanh tịnh chân như chẳng phải nhiễm tịnh chân như. Nhiễm tịnh chân như chữ sự sai biệt, tướng đó thế nào? Tụng rằng: “Lý chân như thanh tịnh, Vì chẳng giữ tự tánh, Mà hay nhận nhiễm huân, Là nhiễm tịnh chân như”. Luận nói: Thanh tịnh chân như từ vô thỉ đến nay bình đẳng bình đẳng tự tánh thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, cũng không khứ lai, cũng không chỗ trú, mà chân như lý tánh chẳng giữ tự tánh nên tùy theo duyên động chuyển, đó gọi là nhiễm tịnh chân như. Chân như như thế hai trí nhiễm tịnh thân với nội chứng, tương ưng đều chẳng cùng xả ly. Các nghóa như thế, xem nơi ở trước so sanh loại nên biết. Do nghóa gì mà cưỡng gọi là hư không. Chữ sự sai biệt, tướng đó thế nào? Hư không có mười nghóa. Thể nó tuy đồng nghóa, mà sự mỗi sai biệt, nghóa là các nghóa vô ngại v.v…. Luận nói: Lý tánh hư không có mười thứ nghóa: Một là, nghóa không chướng ngại, vì trong các sắc pháp không có chướng ngại. Hai là, nghóa biến khắp, vi không nơi nào chẳng đến. Ba là, nghóa bình đẳng, vì không chọn lựa. Bốn là, nghóa rộng lớn, vi không phân ngằn mé. Năm là, nghí vô tướng, vì tuyệt sắc tướng. Sáu là, nghóa thanh tịnh, vì không trần lụy. Bảy là, nghóa bất động, vì không thành hoại. Tám là, nghóa hữu không, vì diệt hữu lượng. Chín là, nghóa không không, vì lìa không đắm trước. Mười là, nghóa vô đắc, vì không thể chấp. Đó gọi là mười. Mười sự như thế nghóa dụng sai biệt. Nếu y cứ thể đó không khác biệt mà thôi. Lý hư không ấy hai thứ tình trí thân chỗ nội chứng, tương ưng đều có chẳng cùng xả ly. Trong hai thứ hư không, phải hư không nào? Nghóa là thanh tịnh hư không chẳng phải nhiễm tịnh hư không. Nhiễm tịnh hư không, chữ sự sai biệt, tướng đó như thế nào? Tụng rằng: “Lý thanh tịnh hư không, Vì chẳng giữ tự tánh, Mà hay nhận huân tập, Là nhiễm tịnh hư không”. Luận nói: “Thanh tịnh hư không đầy đủ mười đức, cũng không tướng nhiễm, cũng không tướng tịnh, mà tánh hư không chẳng giữ tự tánh, hay nhận chịu nhiễm tịnh huân tập tùy duyên lưu chuyển, cho nên gọi là nhiễm tịnh hư không”. Lại nữa, Khởi Tín Luận Sớ nói: “Bản giác là vì đối với thủy nên nói đó là bản. Nói lìa niệm là lìa nơi vọng niệm hiển bày không bất giác. Ngang bằng với hư không v.v… chẳng chỉ không mờ tối của bất giác, mà còn có nghóa Đại trí tuệ quang minh v.v…, nên vậy. Hư không có hai nghóa, vì sánh với bản giác. Một là, nghóa biến khắp, nghóa là rộng khắp tam tế, thẳng thông Thánh phám, nên nói là không chỗ nào chẳng khắp. Hai là, nghóa không sai biệt, nghóa là tạo trong ràng buộc hay ra ngoài chướng ngại, tánh vẫn thường không hai, nên pháp giới chỉ là nhất tướng. Muốn rõ nghóa giác ra ngoài tướng ràng buộc hiển bày nên nói tức là Như Lai bình đẳng pháp thân, tức lý giác của pháp thân chẳng phải mới thành, nên nói y cứ pháp thân ấy mà gọi tên bản giác”. Luận Vô Tánh Nhiếp nói: “Trí vô cấu vô ngại gọi là pháp thân “. Kinh Kim Quang Minh nói: “Gọi Đại viên kính trí là pháp thân”, v.v…, đều là nghóa ấy. Cớ sao như vậy? Trách đó lập danh có hai ý trách: Một là, trong phần mở chương trước thẳng nói vào nghóa giác, cớ sao đến đây kết mới gọi là bản giác? Hai là, trong đây đã nói là bản giác, cớ sao trong luận gọi thẳng là giác ư? Tiến lùi đều trách vậy. Giải thích rằng: Vì đối với thủy nên nói đó là bản, đó là đáp lại ý mới đầu. Vì thủy tức đồng với bản, vì đến lúc tâm nguyên, thủy giác tức đồng bản giác, không có hai tướng, cho nên trong Luận Chỉ nói giác đó. Đó là đáp lại ý sau vậy. Bởi vì bản giác tùy nhiễm sanh ở thủy giác. Trở lại đối đãi với thủy giác đây mới gọi là bản giác. Nên nói bản giác là đối với thủy giác mà nói vậy. Nhưng thủy giác đây là chỗ thành của bản giác lại khế hợp với tâm nguyên. Dung đồng một thể mới gọi là thủy giác, nên nói vì thủy giác tức đồng bản vậy. Hỏi: Nếu thủy giác khác với bản tức chẳng thành thủy, nếu thủy đồng với bản tức không khác của thủy giác, cớ sao nói đối với thủy nên gọi là bản? Đáp: Nay ở trong sanh diệt nên ước về nghóa tùy nhiễm, hình vốn bất giác nói ở thủy giác. Mà thật thủy giác lúc đến tâm nguyên, nhiễm duyên đã hết, thủy bản chẳng khác, bình đẳng tuyệt ngôn tức chân như môn nhiếp vậy. Cho nên tên của bản giác chỉ tại trong sanh diệt môn chẳng ở nơi chân như môn. Thứ hai, thủy giác là điệp sanh, y cứ bản giác mà có bất giác là nói rõ nguyên do khởi thủy giác, nghóa là tức tâm thể này tùy vô minh duyên đông làm vọng niệm, mà do sức huân tập bên trong của bản giác dần có hơi giác nhàm cầu cho đến rốt ráo trở lại đồng với bản giác. Nên nói y cứ bản giác. Do đó y cứ bản giác có bất giác, y cứ bất giác có thủy giác vậy. Luận nói: “Bản giác tùy nhiễm sanh tướng trí tịnh tức là thủy giác đây”. Đại ý trong đây nói rõ bản giác thành bất giác, bất giác thành thủy giác. Thủy giác đồng bản giác, đồng bản giác nên tức không bất giác, không bất giác nên tức không bản giác, không bản giác nên bình đẳng bình đẳng lìa ngôn tuyệt lự. Cho nên Phật quả viên dung buồn bả vô ký, còn không khác của thủy bản, sao có khác của ba thân? Chỉ tùy vật tâm hiện nên nói dụng của Báo hóa vậy. Lại nữa, nay ước về chân như thì là bản giác. Vô minh thì là bất giác. Chân như có hai nghóa: Một là bất biến; hai là tùy duyên. Vô minh cũng có hai nghóa: Một là vô thể tức không; hai là hữu dụng thành sự. Tùy duyên chân như và thành sự vô minh mỗi tự có hai nghóa: Một là nghịch tự thuận tha; hai là nghịch tha thuận tự. Trong vô minh mới đầu nghịch tự thuận tha có hai: Một là, hay phản đối thuyên chỉ bày tánh công đức; hai là, hay biết danh nghóa mà thành tịnh dụng. Nghịch người thuận tự cũng có hai: Một là che phủ chân lý; hai là thành vọng tâm. Trong chân như, nghịch người thuận tự có hai: Một là, lạt đổ đối với vọng nhiễm hiển bày tự đức; hai là, huân tập vô minh khởi tịnh dụng. Nghịch tự thuận ngườicũng có hai: Một là, hiển bày tự chân thể; hai là, hiển hiện vọng pháp. Do nghóa phản đối phiên bày ở trong vô minh và nghóa lật đỗ vọng hiển bày đức ở trong chân như, từ hai nghóa độ mà được có bản giác. Lại do nghóa năng tri danh ở trong vô minh và nghóa huân đúc bên trong trong chân như, từ hai nghóa đó được có thủy giác. Lại do nghóa che phủ chân ở trong vô minh và nghóa ẩn thể ở trong chân như mà được có căn bản bất giác vụn vặt. Lại do nghóa thành vọng ở trong vô minh và nghóa hiện vọng ở trong chân như, mà được có bất giác. Giác và bất giác dung hòa gồm thâu chỉ tại một môn sanh diệt. Chân như môn ước thể tuyệt tướng nói. Bản giác môn ước tánh đức nói. Nghóa Đại trí tuệ quang minh v.v… gọi là giác. Bản nghóa là tánh, giác là trí tuệ tâm. Sao Thích nói: “Trong chân chẳng biến, trong vọng thể không, thành chân như môn. Trong chân tùy duyên, trong vọng thành sự thành sanh diệt môn. Cho đến hết thảy tịnh duyên phân chia pháp tướng thuộc ở hai giác. Hết thảy nhiễm duyên phân tể pháp tướng thuộc ở hai bất giác. Lại ở trong thể của tịnh pháp thuộc ở bản giác, dụng của tịnh pháp thuộc ở thủy giác. Lại thể của nhiễp pháp thuộc căn bản bất giác, tướng của nhiễm pháp thuộc bất giácvụn vặt. Lại thủy giác là ngọn chẳng lìa bản của gốc giác. Luận nói: “Thủy giác là tức đồng bản giác”. Lại nói: “Mà thật không có khác của thủy giác, cho đến bình đẳng đồng một giác. Chi mạt bất giác chẳng lìa căn bản bất giác”. Luận nói: “Phải biết vô minh hay sanh hết thảy nhiễm pháp, vì hết thảy nhiễm pháp đều là tướng bất giác, nhưng hai giác đó chỉ là khác của thể dụng, gốc ngọn hai bất giác chỉ là khác của thô tế. Há lìa thể mà có dụng, lìa tế mà có thô ấy ư? Lại chúng sanh căn bản mê có hai: Một là, mê pháp, nghóa là vô minh trú địa mê che phủ pháp thể. Điều gọi là pháp, nghóa là tâm chúng sanh gọi là tệ ý. Nên vô minh đây là mới đầu của mê chân gốc của vọng hoặc. Hai là, mê nghóa thông bốn trú hoặc, do si ám trước, mê phủ che nghóa của nhân duyên vô ngã, vọng lập các pháp. Chỗ mê các pháp có nội có ngoại, nghóa là kiêu mạn tà kiến đó là y cứ mê ngoại, vọng cho rằng ngã sở và cảnh giới bên ngoài mà sanh tham ái, như nai khát chạy quanh lửa dữ, vượn si vốc vầng nguyệt, không mà bày tính, luống vào vòng khổ, tất cả đều tự mê tâm, chẳng phải lỗi lầm người khác. Luận Đỗ Chánh nói: “Tâm là lời của Như Lai cao tìm Thánh địa. Thân tức thuyết của Bồ-đề tự cách phàm luân. Chẳng ngộ phàm công đức vô lượng chỉ tại trong tấc vuông, tướng hảo rõ ràng chẳng vượt ngoài ấm giới. Lại nữa, Bi Từ nói: Pháp tánh bình đẳng, thật tuệ hư thông, ta đồng ở khác, Như Lai ở đồng chẳng hoại ở hữu, không thủ ở không. Đạo chẳng phải ngoài tâm, Phật tức trong tâm. Hỏi: Bất giác vọng tâm nguyên không tự thể, nay đã giác ngộ, lúc vọng tâm khởi, không có tướng mới đầu thì toàn thành chân giác. Tướng chân giác ấy là lại tùy vọng đều bỏ dứt, hay là ngay nơi thủy chung mà kiến lập? Đáp: Nhân vọng nói chân, chân không tự tướng, từ chân khởi vọng vạn thể vốn hư dối. Vọng đã kết quy về không, chân cũng chẳng lập. Luận Khởi tín nói: “Nghóa bất giác là từ vô thỉ lại chẳng như thật biết một pháp chân như. Tâm bất giác khởi mà có vọng niệm, tự không thật tướng, chẳng lìa bản giác, giống như người mê y cứ phương hướng nên mê, mê không tự tướng, chẳng lìa ở phương hướng. Chúng sanh cũng vậy, vì y cứ nơi giác mà có bất giác, vọng niệm mê sanh, nhưng bất giác ấy tự không thật tướng, chẳng lìa bản giác. Lại đối đãi bất giác vì nói chân giác, bất giác đã không, chân giác cũng bỏ dứt. Đó thì nói rõ tên của chanâ giác đối đãi ở vọng tưởng. Nếu lìa bất giác tức không tự tướng của chân giác có thể nói. Đó là nói rõ chỗ nói chân giác hẳn đối đãi ở bất giác. Nếu chẳng cùng đối đãi tức không làm sao có tự tha, đợi tha mà có cũng không tự tướng, tự tướng đã không làm sao có tha tướng? Đó là hiển bày nghóa các pháp không chỗ được”. Luận nói: “Phải biết hết thảy nhiễm pháp tịnh pháp thảy đều là tướng đối đãi, không có tự tướng có thể nói”. Luận Đại Trí Độ nói: “Nếu ở Thế tục đế như chỉ mảy may mà có thật, thì ở Đệ nhất nghóa đế cũng phãi có thật, là nghóa ở đây vậy”. Lại kệ tụng nói rằng: “Lúc Phật ngồi Đạo tràng, Chẳng được một pháp thật, Tay không dối trẻ em, Dụ vượt qua tất cả. Lại phàm lập chân vọng, Đều là tùy ý khác, Nói gom trong hóa môn, Nếu người chóng kiến tánh, Ai luận bàn việc đó.” Như nay chẳng ngộ ngay nhất tâm, đều là tà vạy. Giả sử ngoài cầu Phật quả, đều chẳng là chánh. Như Hàn Sơn Tử có lời thơ rằng: “Nam nhi đại trượng phu, Làm việc chớ khinh suất, Thẳng cao tâm sắt đá, Ngay lấy đường Bồ-đề. Đường tà chẳng dùng đi, Đi đó càng khó khổ, Chẳng dùng cầu Phật quả, Thức lấy tâm vương chủ.” Vậy biết nếu thấy có pháp có thể cầu, thấy đạo có thể hành đều là mất nghóa tự tông của tâm vương. Nếu thẳng vào Tông Kính, muôn sự đều ngừng dứt. Phàm Thánh tình hết, an lạc diệu thường. lìa khỏi tâm ấy đều thành nhọc khổ. Do đó Phó Đại Só có bài tụng rằng: “Động sơn nước nổi lên, Tây sơn đi chẳng dừng, Bắc đẩu dưới Diêm-phù, Là nơi thật giải thoát. Đi đường dễ, Đường dễ người không biết, Nửa đêm vầng nhật trên đầu sáng, Chẳng ngộ chân khổ nhọc”. Lại nữa, Hòa thượng Động trên vật Sơn ngộ đạo có kệ tụng rằng: “Hướng vật trước, vật trên cầu thông, Chỉ vì từ trước chẳng biết tông, Đến nay thấy rõ đều vô sự, Mới biết muôn pháp xưa nay không”. Hỏi: Chân đế chẳng sai lầm, bản giác chẳng hư dối, thế nào là đồng vọng một lúc đều bỏ dứt? Đáp: Nhân mê lập giác, nói vọng nên chân, đều theo cơ nghi, mỗi một không tự thể, nói về thế tục thì có, y cứ nơi thật đế thì không, chỉ trừ tên của tướng đối đãi, chẳng phải diệt tánh của nhất linh, tánh chỉ tuyệt đối đãi, sự có đối đãi, trừ dứt phóng túng vì phá tình chấp, kiến lập vì trừ đoạn kiến, khổ hạnh khuất phục các ngoại đạo, thần thông giáo hóa ngu si kia, Tam-muội nhiếp phục thiên ma, không quán dứt tướng bó buộc đó, thấy khổ đoạn tập. Vì đối với người tăng thượng mạn, chứng diệt tu chân đều thành kẻ hý luận, đều là quyền trí dẫn vào tông đây, thì không một pháp có thể dấy khởi, không một pháp có thể trừ dứt. Bốn ma chẳng thể giảm, đại giác chẳng thể tăng, trở lại tâm mà nghóa lý toàn tiêu, hội yếu chỉ mà danh ngôn tự tuyệt. Hỏi: Đã nói chân tâm tuyệt vết tích, lý vượt ngoài có không, cớ sao trong giáo rộng nói yếu chỉ vô danh vô tướng? Đáp: Môn nhất tâm vi diệu khó cứu cánh, công đức khắp đủ, lý sự viên thông, hiểu biết hiếm cùng, phân biệt chẳng kịp, nhắm đặt là vô tướng. Kỳ thật không có pháp có thể xưng tên của vô tướng. Đặt làm vô sanh, cũng không có pháp để hiển bày lý của vô sanh. Luận Pháp Bồ-đề Tâm nói: “Bồ-tát quán sát hết thảy thiện và bất thiện, ngã và vô ngã, thật và chẳng thật, không và chẳng không, Thế đế và Chân đế, chánh định và tà định, hữu vi và vô vi, hữu lậu và vô lậu, hắc pháp và bạch pháp, sanh tử và Niết-bàn, như pháp giới tánh nhất tướng vô tướng, trong đó không một pháp nào có thể gọi là vô tướng, cũng không một pháp nào lấy làm vô tướng. Do đó gọi là hết thảy pháp ấn chẳng thể hoại ấn, ở trong ấn đó cũng không tướng ấn, đó gọi là trí tuệ chân thật”. Giải thích rằng: Hết thảy pháp ấn là dùng tâm ấn đây ấn hết thảy pháp, khải định chân thật. Không thể hoại ấn là hết thảy các pháp có không trong ngoài chẳng thể phá hoại, ở trong ấn ấy cũng không tướng ấn là muôn pháp đều không cũng không sở ấn. Pháp của sở ấn đã không, trí của năng ấn chẳng phải có. Thông đạt như vậy, gọi là trí tuệ chân thật. Các vị cổ đức nói: “xem khắp pháp ấy, bản nguyên của chúng sanh, sở chứng của chư Phật, siêu vượt hết thảy lý, lìa tất cả tướng. Không thể dùng ngôn ngữ trí thức có không ẩn hiển tìm tòi mong cầu mà được. Chỉ tâm tâm cùng ấn, ấn ấn cùng khế, khiến tự chứng biết quang minh thọ dụng mà thôi. Hỏi: Lập tâm làm tông, lấy gì làm thú hướng? Đáp: Lấy tín hạnh đắc quả làm hướng Do đó trước lập Đại tông, sau làm Quy thú, nên nói chỗ chuộng của ngôn ngữ gọi là Tông, chỗ kết quy của tông gọi là Thú, bèn được dứt đoạn nghi ngờ sâu xa, khởi tin tròn đầy, sanh chánh giải thành chân tu viên mãn Bồ-đề cứu cánh thường quả. Lại nữa, duy thức tánh nhiếp đủ bốn pháp giáo lý hạnh quả. Tâm năng thuyên là giáo, tâm sở thuyên là lý, tâm năng thành là hạnh, tâm sở thành là quả. Pháp sư Pháp Tạng y cứ kinh Hoa Nghiêm lập nhân quả duyên khởi lý thật pháp giới lấy làm Tông thú. Giải thích rằng: Pháp giới nhân quả song dung đều lìa, tánh tướng hồn nhiên vô ngại tự tại, có mười nghóa môn: Một là, do lìa tướng nên nhân quả chẳng khác pháp giới, tức nhân quả chẳng phải nhân quả vậy. Đó tức tướng làm tông, lìa tướng làm thú, hoặc lìa tướng làm tông mất nhân quả làm thú. Chín môn sau, định theo tư. Hai là, do lìa tánh nên pháp giới chẳng khác nhân quả, tức pháp giới chẳng phải pháp giới. Ba là, do lìa tánh chẳng lẫn lộn tánh nên pháp giới tức thời nhân quả pháp giới rõ ràng thì vì chẳng phải pháp giới làm pháp giới vậy. Bốn là, do lìa tướng chẳng hoại tướng nên nhân quả tức thời pháp giới nhân quả rõ ràng thì vì chẳng phải nhân quả làm nhân quả vậy. Năm là, lìa tướng chẳng khác lìa tánh, nên nhân quả pháp giới cả hai lẫn lộn đều chứa chóng vượt lời lẽ suy tư. Sáu là, do chẳng hoại chẳng khác chẳng lẫn lộn, nên nhân quả pháp giới đều còn, hiện tiền rõ ràng có thể thấy. Bảy là, do năm sáu còn lẫn lộn lại chẳng khác nên siêu vượt diệu pháp của thấy nghe, không gì chẳng thường thông nghe thấy, tuyệt nghóa sâu sắc của nghó bàn, chưa từng ngại ở nơi nghó. Tám là, do pháp giới tánh dung chẳng thể phân nên tức nhân quả của pháp giới mỗi mỗi đồng thời toàn thâu pháp giới không gì chẳng đều hết. chín là, nhân quả mỗi mỗi toàn thâu thời pháp giới, nhân quả tùy pháp giới, mỗi mỗi hỗ tương hiện trong nhân quả. Cho nên trong Phật có Bồ-tát, trong Phổ Hiền có Phật vậy. Mười là, hai vị nhân quả mỗi mỗi tùy theo pháp sai biệt, không gì chẳng trùm thâu pháp giới, nên mỗi mỗi một pháp, mỗi một hạnh, mỗi một vị, mỗi một đức đều mỗõi gồm thâu vô tận, vô tận như lưới trời lớp lớp các biển pháp môn. Đó gọi là Hoa nghiêm vô tận tông thú, vì thật giáo của Hoa nghiêm gồm thâu các kinh. Nêu viên tông của vô tận, hay bao gồm cả muôn pháp, có thể gọi là biến khắp vô ngại tự dung thông, mới hiển bày ngã tâm hay thành Tông Kính. Hỏi: Lấy tâm làm tông là chánh phái Thiền môn, vả lại, tâm là tên gọi, còn lấy gì làm thể? Đáp: Trong thời gần nay, người học phần nhiều chấp văn trái với yếu chỉ, mê mờ thể nhận làm danh. Người nhận danh quên thể, đâu cùng thật địa, người theo văn mê yếu chỉ sao khế hợp với đạo nguyên? Thì tâm là danh, vì tri là thể, đó là linh tri, tánh tự thần giải, chẳng đồng như vọng thức nhờ duyên gá cảnh làm ý mà biết. Lại chẳng đồng như thái hư trống rỗng, đoạn diệt vô tri. Triệu Luận nói: “Bát-nhã vô tri là không có tri của thủ tướng, người thường đều gọi Bát-nhã là trí. Trí thì có tri vậy. Nếu có tri thì có chấp trước, nếu có chấpû trước thì chẳng khế hợp với vô sanh. Nay rõ ràng chân trí Bát-nhã vô tướng vô duyên. Tuy soi xét Chân đế mà chẳng chấp tướng, nên nói là vô tri vậy”. Nên trong kinh nói: “Tâm Thánh vô tri nhưng không chỗ nào chẳng biết vậy”. Lại, cũng trong kinh nói: “Chân Bát-nhã là thanh tịnh như hư không, vô tri vô kiến vô tác vô duyên, đó thì tri tự vô tri vậy, đâu đợi phản chiếu sau mới vô tri đó ư? Chỉ tri đây tánh tự vô tri, chẳng đợi quên mất vậy”. Vì chân tri ấy chẳng lạc vào cảnh có không, do đó, chư Phật có bí mật. Giáo của bí mật, Tổ sư im lặng truyền, tông của mật phó chỉ gồm xét mới tương ưng, chẳng phải phô bày của ngôn thuyên. Nếu người minh tông rõ ràng không mờ tối, tịch vậy mà thường biết, rành rành mà toàn mắt vọt sáng, đâu giả mượn hiển hiện của thần thông, rỡ rỡ mà không mảy trần chẳng thấu, đâu nhọc phu dương của diệu biện. Vì người chẳng thấu đạt mà chỉ bày phương tiện, khiến y cứ đây không u tối nào chẳng tận. Hỏi: Các pháp sanh ra chỉ do tâm hiện. Là lại từ tâm mà biến hay là lại tức tâm tự tại? Đáp: Bản tánh tâm đó, chẳng chỉ tâm biến. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết hết thảy pháp tức tự tánh tâm, thành tựu tuệ thân chẳng do đâu khác tỏ ngộ”. Kinh Pháp Hoa có kệ tụng rằng: “Trong ba ngàn thế giới, Hết thảy các quần manh, Trời, người, A-tu-la, Địa ngục quỷ súc sanh, Các sắc tướng như vậy, Đều từ trong thân hiện”. Tức biết tánh tâm biến khắp tất cả xứ. Do đó, bốn loại chúng sanh trong chín cõi đều từ trong thân tự tánh hiện. Lấy tự chân tâm làm tánh của hết thảy vạn hữu, tùy làm sắc không khắp cùng pháp giới, theo nghiệp phát hiện quả báo chẳng đồng. Ở dị sanh thì biển nghiệp nổi chìm, sanh tử tương tục, tại các Thánh thì pháp thân viên mãn diệu dụng vô cùng, ẩn hiển tuy khác, mà một tánh chẳng động. Hỏi: Nếu hết thảy pháp tức tự tánh tâm. Cớ sao lại nói tánh cũng chẳng phải tánh? Đáp: Tức tự tánh tâm ấy là biểu thuyên, do vì hết thảy pháp không tánh tức thật tánh của ngã tâm. Tánh cũng chẳng phải tánh, đó là già thuyên. Nếu hay siêu vượt văn thuyên của già biểu, hết sạch tình chấp của tức ly, mới là kiến tánh, mắt chính mình tròn sáng. Như nay nếu muốn chóng ngộ tự tâm, mở nghe đều từ tâm hiện. Ngoài tâm không có một mảy may pháp mà có thể tánh, mỗi mỗi chẳng cùng biết, mỗi mỗi chẳng cũng đến, cớ sao? Do vì một pháp, không pháp có thể cùng biết cùng đến. Nếu có hai pháp tức cùng qua lại, vì biết hoặc phàm hoặc Thánh, hoặc cảnh hoặc trí đều đồng một tánh. Điều gọi là vô tánh, yếu chỉ của vô tánh đây là tông của đắc đạo, làm đầu mỗi nguyên do của bình đẳng, làm sở dó của thuyết tông, rõ bèn thành Phật, chẳng lạc công phu. Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Pháp tánh vốn không tịch, Không thủ cũng không kiến, Tánh không tức là Phật, Không thể được nghó lường”. Nếu chẳng tin ngay ở đây, khởi niệm mong cầu, như người ngu si lánh hư không, tợ kẻ mất đầu chạy cuồng. Đại sư Dung nói: “Phân biệt phàm Thánh, phiền não thêm nhiều, tính lường trái thường, cầu chân trái chánh”. Trong luận Bảo Tạng nói: “Vặt vãnh tinh cần nhọc dấy mộng lự, ra vẻ ngoài tìm chuyển mất huyền lộ”. Do đó, mười phương chư Phật chánh niệm ở đây vào nguồn thật tánh, nên hay mở môn Đại tuệ bình đẳng, làm bạn không thỉnh mời của chúng sanh. Do đó, trong phẩm Vấn Minh nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Bồ-tát Giác Thủ rằng: “Phật tử! Tâm tánh là một, cớ sao thấy có các thứ sai biệt? Điều gọi là đến thiện thú ác thú, các căn đầy khuyết, thọ sanh đồng dị, đoan chánh hay xấu xa, khổ vui chẳng đồng, nghiệp không biết tâm, tâm không biết thọ, thọ chẳng biết tâm, nhân không biết duyên, duyên không biết nhân, trí không biết cảnh, cảnh không biết trí”. Khi ấy Bồ- tát Giác Thủ dùng kệ tụng đáp rằng: “Nay Ngài hỏi nghóa ấy, Vì giác ngộ quần mông, Tôi như tánh đó đáp, Mong Ngài nên lắùng nghe! Các pháp không tác dụng, Cũng không có thể tánh, Cho nên hết thảy kia, Mỗi mỗi chẳng cùng biết. Thí như nước trong sông, Tràn dòng đua chảy qua, Mỗi mỗi chẳng cùng biết, Các pháp cũng như vậy. Cũng như đống lửa lớn, Lửa dữ đồng thời phát, Mỗi mỗi chẳng cùng biết, Các pháp cũng như vậy. Lại như gió lớn nổi, Gặp vật đều cổ vũ, Mỗi mỗi chẳng cùng biết, Các pháp cũng như vậy. Lại như các cõi đất, Triển chuyển nhân nương dừng, Mỗi mỗi chẳng cùng biết, Các pháp cũng như vậy. Mắt tai mũi lưỡi thân, Tâm ý các tình căn, Do đó thường lưu chuyển, Mà không thể chuyển là. Pháp tánh vốn vô sanh, Thị hiện mà có sanh, Trong đó không năng hiện, Cũng không sở hiện vật. Mắt tai mũi lưỡi thân, Tâm ý các tình căn, Hết thảy không - vô tánh, Vọng tâm phân biệt có. Như lý mà quán sát, Hết thảy đều không tánh, Pháp đã chẳng nghó bàn, Thấy đây chẳng điên đảo. Hoặc thật hoặc chẳng thật, Hoặc vọng hoặc chẳng vọng, Thế gian xuất thế gian, Chỉ có giả ngôn thuyết”. Sớ Thích nói: “Lời hỏi với ý cho rằng minh tâm tánh là một, vì sao thấy có các thứ loại báo. Nếu tánh tùy theo sự khác thì mất Chân đế, nếu sự tùy theo tánh là một thì hoại Tục đế. Bày lời cứu kia, báo loại sai biệt tự do vì nghiệp v.v… huân thức biến hiện, chẳng liên quan đến tâm tánh nên không cùng trái. Vì ngăn cứu đó nên lại cật nạn nói nghiệp không biết tâm v.v…, nghóa là tâm nghiệp hỗ tương y tựa mỗi không tự tánh. Tự tánh còn không thì sao có thể cùng biết mà sanh các pháp? Đã lìa chân tánh, mỗi không tự lập. Rõ ràng đó đều y cứ tâm tánh mà khởi, tâm tánh đã một, sự nên chẳng nhiều. Sự pháp đã nhiều, tánh nên chẳng phải một. Đó là nạn gốc ngọn cùng trái, chuẩn cứ ý hỏi đó, lìa Như Lai Tạng, chẳng chấp nhậntám thức năng sở huân mỗi riêng biệt có tự thể năng sanh các pháp. Chỉ Như Lai Tạng là chỗ y cứ phát sanh. Bồ-tát Văn-thù muốn hiển bày lý của thật giáo, nên dùng tâm tánh mà làm nạn gốc, muốn khiến Bồ-tát Giác Thủ đem pháp tánh chỉ bày chúng sanh, quyết định mà đáp. Hải hội đồng chứng tâm tánh là một, nghóa là tánh của tâm nên là Như Lai Tạng vậy. Lại nữa, tâm tức là tánh nên là tự tánh thanh tịnh tâm vậy. Lại nữa, tánh của vọng tâm là tánh của vô tánh, không Như Lai Tạng vậy. Tánh của chân tâm là tánh của thật tánh nên chẳng không Như Lai Tạng vậy. Đều bình đẳng không hai, nên nói là một vậy. Lại nữa, tánh của vọng tâm thành tánh của tâm, vọng tâm là tướng, vì tánh tướng chẳng đồng nên tánh của chân tâm, chân tâm tức tánh vậy. Lại nói, tánh của hai tâm trước, riêng rõ hai tạng. Hai tánh của trước đều đủ hai tạng, chỉ vì vọng che phủ nên gọi là Như Lai Tạng, nói thẳng tạng thể tức tự tánh tâm. Nên tự tánh thanh tịnh chân tâm đây chẳng cùng vọng hợp, gọi là không tạng. Đầy đủ đức như Hằng sa gọi là Bất không tạng. Trước nói rõ về tức ly, đây nói rõ về không hữu, nên lại nêu bày vậy. Nói đều bình đẳng không hai. Tức ly hai trên chẳng đồng, do tánh của tâm nên chẳng tức, do tâm tức tánh nên chẳng ly. Chẳng tức chẳng ly là tánh của tâm. Tức không hai đây thật là chẳng không. Không của tức thật là không tạng, không hữu chẳng hai là tánh của tâm, nhưng không hữu là tánh của không hai, tức là tánh của chẳng tức chẳng ly, nên chỉ nói là một. Lại nữa, chẳng phải chỉ bản tánh là một. Ta tinh tế tìm tòi việc hiện tại mỗi mỗi chẳng cùng biết. Đã có các thứ, bởi duyên gì mà chẳng cùng biết? Đã chẳng cùng biết, ai nói các thứ? Mỗi mỗi quán sát, chưa biết nguyên do của các thứ vậy. Đã không cùng biết, là phải một tánh hay là phải các thứ, lại nạn có hai ý: Một là, nói về bản thức, nghóa la nghiệp làø năng y, tâm là sở y, lìa sở không năng nên nghiệp chẳng biết tâm, lìa năng không sở nên tâm không biết nghiệp, vì mỗi không thể dụng chẳng thể cùng thành. Đã mỗi mỗi chẳng cùng biết. Ai sanh các thứ? Hai là, nói theo đệ lục thức, nghiệp là sở tạo, tâm là năng tạo, thảy đều chóng diệt, lúc khởi không nói là ta khởi, lúc diệt không nói ta diệt, sao có thể mà được cùng sanh thành các thứ ư? Lại nói về rạng vấn về cảnh trí tương đối tương kiến hư vô nghóa là cảnh là tâm biến, cảnh không biết tâm, tâm gá cảnh sanh, tâm không biết cảnh. Vì không tâm ngoài cảnh hay chấp cảnh ngoài tâm, cho nên tâm cảnh hư vọng chẳng cùng biết vậy. Nghiệp không biết tâm, tâm không biết nghiệp là có hai: Một là, ước bản thức, nghiệp là tâm sở nên y cứ ở tâm, tâm là đệ bát làm căn bản y, tức lìa sở không năng. Cớ sao? Không sở y, tâm vương không thể y nghiệp, nay y tâm có nghiệp, nghiệp theo duyên sanh nên không tự tánh, chẳng thể biết tâm. Nếu lìa năng không sở nghóa là lìa năng y nghiệp thì tâm chẳng phải sở y, nay chỗ thành do nghiệp, sở y không tánh nên không thể biết nghiệp, nghóa là mỗi mỗi tùy theo duyên thành tánh không không thể. Tướng y không sức lực nên nói là không dụng. Do đó trong kinh nói: “Vì không thể dụng nên không cùng biết”. Hai là, nói theo Đệ lục thức, nghiệp là sở tạo, tâm là năng tạo, tức lấy đệ lục thức gọi là tâm, từ nơi tích tập vì thông cùng nói, nghóa là đệ lục thức người chấp vô minh, mê nghóa chân thật vì lý dị thục, vì thiện và bất thiện tương ưng, tư duy tạo tội v.v…. Vì tội phước chẳng động v.v…, ba hành huân A-lại-da thức, hay cảm năm thú, ái chẳng phải ái v.v… các thứ báo tướng, hỗ tương nghóa không cùng biết. Thông tướng mà nói, đều ước không thể dụng, biệt tướng mà nói, dụng môn chẳng đồng. Dụng ấy lược có hai môn: Một là, Vô thường môn, kinh nói: “Hết thảy đều chóng diệt”. Trong phẩm Đệ Tử ở kinh Tịnh Danh nói: “Hết thảy pháp như huyễn như điện chớp, các pháp không cùng đối đãi, cho đến một niệm chẳng trú vì các pháp đều vọng kiến, thì tâm nghiệp đều không”. Trong kinh Hoa Nghiêm có bài tụng rằng: “Các báo tùy nghiệp sanh, như mộng chẳng chân thật, niệm niệm thường hoại diệt, như trước sau cũng vậy”. Nên do vô thường chẳng thể cùng biết. Hai là, Vô ngã môn, tức lúc khởi không nói ta khởi, lúc diệt không nói ta diệt. Nói theo pháp Vô ngã rõ ràng không cùng biết. Thọ không biết báo, báo không biết thọ là, thọ là nhân của năng thọ, báo là báo của sở thọ, tức thứ danh ngôn, như luận Duy thức nói: “Lại nữa, sanh tử tương tục do các tập khí, nhưng các tập khí gồm có ba thứ: Một là danh ngôn tập khí; hai là, ngã chấp tập khí; ba là, hữu chi tập khí. Danh ngôn tập khí nghóa là pháp Hữu vi mỗi riêng thân chủng. Một là. Danh ngôn có hai: Một là, biểu nghóa danh ngôn, tức năng thuyên nghóa âm thanh sai biệt. Hai là, hiển cảnh danh ngôn, tức năng liễu cảnh tâm tâm sở pháp, tùy sự huân tập của hai thứ danh ngôn thành chủng làm pháp Hữu vi, mỗi riêng biệt nhân duyên. Giải thích rằng: Nói mỗi riêng thân gồm từng thứ, vì ba tánh khác chủng. Năng thuyên nghóa âm thanh là, giản không thuyên âm thanh, vì kia chẳng phải danh, danh là trên âm thanh quanh co, chỉ thuộc tánh vô ký, không thể huân thành các thứ sắc, tâm, v.v…. Nhưng nhân danh khởi chủng lập danh ngôn chủng. Hiển cảnh danh ngôn, tức tâm kiến phần v.v… của bảy thức, chẳng phải tâm tướng phần. Tâm tướng phần là chẳng thể hiển bày cảnh, kiến phần v.v… này thật chẳng phải danh ngôn, như ngôn thuyết danh hiển nghóa sở thuyên. Tâm tâm sở ấy hay hiển cảnh sở liễu, như tợ danh kia vì hay thuyên nghóa, tùy hai thứ danh ngôn đều huân thành chủng. Luận nói: Ba hữu chi tập khí nghóa là chiêu nghiệp chủng dị thục trong Tam giới. Hữu chi có hai: Một là, hữu lậu thiện, tức năng chiêu quả nghiệp khả ái. Hai là, các bất thiện, tức năng chiêu quả nghiệp chẳng phải ái. Tùy hai thứ hữu chi huân tập thành chủng, khiến quả dị thục thiện ác hoàn toàn khác, nên luận tụng rằng: “Do các nghiệp tập khí, Hai thủ tập khí câu, Dị thục trước đã diệt, Lại sanh dị thục khác”. Năng dẫn nghiệp ấy là các nghiệp tập khí. Danh ngôn chủng đây tức là hai thủ tập khí. Ngôn làm nghiệp sở dẫn là tức nghóa câu kia, thân gồm biện quả thể tức do danh ngôn. Nếu không nghiệp chủng chẳng chuốc lấy khổ vui, như giống mà không ruộng đất trọn không thể nẩy mầm. Nên danh ngôn đây do nghiệp dẫn khởi mới nhận thọ báo khổ vui là quả dị thục ở tương lai. Nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Nghiệp làm ruộng thức làm giống vậy”. Như trên, các thứ nạn vấn, nghóa chẳng cùng biết đã xong, đến đây đáp dùng duyên khởi tướng do môn giải thích là: Câu đầu nhân duyên cùng giả qua lại đều không sức lực. Câu kế tiếp là quả pháp gồm rỗng nên không thể tánh. Do đó, hư vọng duyên khởi lược có ba nghóa: Một là, lại y cứ qua lại mỗi mỗi không thể dung nên chẳng cùng biết. Hai là, do y cứ vô tri vô tánh đây mới có duyên khởi. Ba là, do vọng pháp đây mỗi mỗi không chỗ có, khiến chân lý vô tánh thường luôn hiển hiện. Lại, quả từ nhân sanh, quả không thể tánh, nhân do quả lập, nhân không thể tánh. Nhân không thể tánh, sao có dụng của cảm quả. Quả không thể tánh, đâu có khả năng đáp nhân. Lại tiếp đãi qua lại nên không sức lực vậy. Lấy tha làm tự nên không thể vậy. Cho nên thể dụng đều không. Do đó, hết thảy các pháp mỗi mỗi chẳng cùng biết vậy. Nay, trước tiên dùng Tứ đại để thí dụ đó. Một là y cứ thủy có chảy rót; Hai là y cứ hỏa có ánh khởi diệt; Ba là y cứ phong có động tác; Bốn là y cứ địa có giữ gìn. Trong pháp có bốn: Một là y cứ chân vọng tương tục; Hai là y cứ chân vọng khởi diệt; Ba là vọng dụng y cứ chân khởi; Bốn là vọng làm sở trì của chân. Nhưng pháp dụ đây mỗi mỗi có ba nghóa: Một là cứ năng y; Hai là y sở y; Ba là chỉ sở y. Nay trong dụ đầu tiên chỉ cứ năng y là lưu (chảy). Nhưng lưu chú (chảy rót) đây có mười nghóa chẳng cùng biết mà thành lưu chú: Một là dòng, trước chẳng tự chảy do dòng sau đuổi nên chảy, thì dòng trước không tự tánh nên không biết sau. Hai là dòng, sau tuy đảy dòng trước mà chẳng đến nơi dòng trước nên cũng không cùng biết. Ba là dòng, sau chẳng tự chảy do dòng trước dẫn nên chảy, thì dòng sau không tự tánh nên chẳng thể biết trước. Bốn là dòng, trước chảy tuy dẫn sau mà chẳng đến sau nên cũng chẳng cùng biết. Năm là, năng đuổi và sở dẫn không hai nên chẳng cùng biết. Sáu là, năng dẫn và sở đuổi không hai nên chẳng cùng biết. Bảy là, năng đuổi và sở bày không hai nên chẳng cùng biết. Tám là, năng dẫn và sở dẫn không hai nên chẳng cùng biết. Chín là, năng đuổi và năng dẫn chẳng được cùng nên chẳng cùng biết. Mười là, sở đuổi và sở dẫn cũng chẳng được cùng nên chẳng cùng biết. Đó thì trước sau qua lạiã chẳng cùng đến, mỗi mỗi không tự tánh, chỉ do như vô tri vô tánh đây mới có lưu chú, thì chẳng chảy mà chảy vậy. Triệu công nói: “Sông ngòi đua tranh rót mà chẳng chảy”, tức nghóa ấy vậy. Hai là, y sở y là ,dòng trước dòng sau mỗi mỗi đều y cứ nước, đều không tự thể, chẳng thể cùng biết, nhưng chẳng hoại tướng chảy, nên nói là dòng nước chảy. Ba là, chỉ sở y là, chảy đã gồm không, chỉ là nước, nước trước nước sau không hai tánh nên không thể cùng biết. Đó thì vốn không có chảy mà nói chảy vậy. Ba nghóa trong hai pháp đó. Một là, chảy là dụ cho năng y vọng pháp. Hai là, vọng y chân lập. Ba là, vọng hết chỉ chân. Vọng duyên trong thứ nhất khởi pháp tợ hỗ tương nương gá, mỗi mỗi chẳng thể cùng đến, thảy đều không tự tánh nên vô tánh vô tri. Đó thì có mà chẳng phải có vậy. Hai là, y sở y, nghóa là vọng pháp ấy mỗi mỗi tự rỗng chứa chân mới lập. Nào có thể dụng có thể cùng biết cùng thành, tức do vô tri vô thành ấy chứa chân nên có. Đó thì chẳng phải có mà làm có vậy. Ba là, chỉ sở y, nghóa là năng y vọng pháp chóng không thể dụng, chỉ có chân tâm nổi trội hiển hiện. Đã không đây kia sao có cùng biết? Chánh do nghóa đó, vọng pháp có tức chẳng phải có làm có. Lại nói chân tánh ẩn, lấy chẳng phải ẩn làm ẩn. Lại trước sau có hai: Một là sanh diệt trước sau; hai là đây kia trước sau. Sanh diệt trước sau là trước diệt sau sanh qua lại dẫn đuổi Đó tức là nói dọc như Trang và Lão, nghóa là nước chảy đây sanh diệt trong từng sát-na, sát-na trước diệt, sát-na sau sanh. Đây kia trước sau là, đó tức là nói ngang, giống như hai người đồng đi trên đường hẹp, người sau đuổi trước, người trước dẫn sau, nước của từng phần đều có trước sau. Cho đến mảy giọt có trước mảy gịot sau mảy giọt, nên tích chứa nhiều thành chảy rót (lưu chú) thì không tánh vậy. Tiểu thừa cũng nói đương xứ sanh diệt, không dụng từ đây chuyển đến phương khác mà chẳng biết nghóa của vô tánh duyên khởi vậy. <卷>QUYỂN 7 Phàm, nước dụ chân tâm là vì nước có mười nghóa đồng với chân tánh: Một là, thể nước lắng trong dụ cho tự tánh thanh tịnh tâm. Hai là, gặp bùn thành dơ bẩn dụ cho chân tâm chẳng nhiễm mà nhiễm. Ba là, tuy sơ bẩn mà chẳng mất tánh sạch, dụ cho tịnh tâm nhiễm mà chẳng nhiễm. Bốn là, nếu bùn lắng thì sạch hiện, dụ cho chân tâm mê hoặc hết thì tánh hiện. Năm là, gặp lạnh thành băng mà có dụng cứng chắc, dụ Như Lai Tạng cùng vô minh hợp thành dụng của bản thức. Sáu là, tuy thành dụng cứng chắc mà chẳng mất tánh mềm mại. Bảy là, gặp ấm nóng dung thành mềm mại, dụ bản thức hoàn tịnh. Tám là, tùy theo gió sóng động mà chẳng đổi tánh tónh, dụ cho Như Lai Tạng tùy gió vô minh mà gợn sóng khởi diệt mà chẳng biến tánh tự chẳng sanh diệt. Chín là, tùy đất cao thấp bày dẫn chảy rót mà chẳng động tự tánh, dụ cho chân tâm tùy duyên chảy rót mà tánh thường vắng lặng. Mười là, tùy vật đựng vuông tròn mà chẳng mất tự tánh, dụ cho chân tâm biến khắp các pháp hữu vi mà chẳng mất tự tánh. Lại nữa, kinh thư nói: “Thượng đức như nước, vuông tròn mặc tình đồ chứa đựng, cong thẳng tùy theo hình vật”. Như Tiểu thừa Câu-xá luận cũng nói các pháp Hữu vi có sát-na hết. Cớ sao biết có? Vì sau có hết. Đã sau có hết, nên luận nói: “Nếu xứ này sanh, tức xứ này diệt, không dung từ đây chuyển đến phương khác”. Nếu sanh đây diệt đây, chẳng đến phương khác, tức đồng nghóa không chuyển dời, mà có pháp thể là sanh là diệt, nên chẳng phải Đại thừa. Pháp Đại thừa là duyên sanh vô tánh, sanh tức chẳng sanh, diệt tức chẳng diệt, nên chuyển dời tức chẳng phải chuyển dời, thì lý đó cách biệt. Lại nữa, Trung Luận sớ nói: “Thường và Vô thường môn là, thường tức là định vị của trời, người, nên không lui tới. Vô thường tức sáu thú mỗi đều hết một hình cũng không lui tới. Lại, thường tức là ngưng nhiên bất động, vô thường là niệm niệm đổi khác, khiến ai lui tới, thì thường và vô thường pháp đều chẳng cùng đến, đều không lui tới”. Triệu Luận nói: “Phàm, điều con người gọi là động là vì vật xưa chẳng đến nay, nên nói động mà chẳng phải tónh. Điều ta gọi là tónh, cũng vì vật xưa chẳng đến nay, nên nói tónh mà chẳng phải động, động mà chẳng phải tónh vì nó chẳng tới, tónh mà chẳng phải động, vì nó chẳng lui, nhưng mà chỗ tạo chưa từng khác, chỗ thấy chưa từng đồng. Nghịch đó thì gọi là bít, thuận đó thì gọi là thông. Nếu được đạo đó, lại trệ gì ư? Thương thay lầm hoặc nhân tình đã lâu lắm vậy, mắt đối với chân mà chẳng giác ngộ. Đã biết chẳng lại của vật qua, mà cho là vật nay có thể qua. Vật qua đã chẳng lại, vật nay sao có thể qua. Sao thì cầu trước vật ở trước, ở trước chưa từng không, trách trước vật ở nay, ở nay chưa từng có. Vì rõ vật chẳng lại, ở trước chưa từng không nên biết vật chẳng đi, giẫm trải mà cầu nay, nay cũng chẳng qua. Đó gọi là vật xưa tự tại xưa chẳng từ nay đến xưa. Vật nay tự tại nay, chẳng từ xưa đến nay, nên Trọng Ni nói: “Hồi ấy thấy mới, chen vai chẳng phải cũ”. Như vậy, thì vật chẳng cùng đi lại rõ ràng vậy. Đã không điềm nhỏ đi lại, lại vật nào mà có thể động ư? Giải thích rằng: “Hồi ấy thấy mới, chen vai chẳng phải cũ là Khổng tử nói cùng Nhan Hồi rằng: “Tôi cùng ông trọn đời chen một vai đã tàn tạ, đâu đợi tóc bạc sau đó mới biến đổi ư?” Ý rõ ràng vật vật thường tự mới, niệm niệm chẳng cùng đến, giữa khoảng chen vui còn chẳng còn đợi. Đã mất người trước, đâu được đến già mà sau đổi ư? Lại nữa, niệm trước đã cũ, niệm sau luôn mới, trọn ngày cùng thấy, luôn là người mới, nên nói thấy mới. Người mới như thế, thấy đó chỉ như giây phút chen vai, sớm là niệm sau người mới, chẳng phải lúc niệm trước vậy, nên nói cũng chẳng phải cũ vậy. Nếu niệm trước đã cũ, niệm sau đã nói, mới chẳng đến cũ, cũ chẳng đợi mới, trước sau chẳng cùng đến, nên chẳng chuyên dời vậy. Tay hai người mới đầu cùng thấy giơ ønhư khoảng khắc giờ nắm tay chen vai, sớm đã qua vậy. Đây là lấy nhanh chóng vậy. Nên nói “vật xưa tự tại xưa, vật nay tự tại nay, như hồng nhan tự tại thân của đồng tử, tóc bạc tự ở thể tuổi già”. Do đó nói: Người thì cho rằng trẻ mạnh đồng thể, trăm tuổi một chất, không biết năm qua, chẳng rõ hình theo, do đó, Phạm chí xuất gia tóc bạc mà trở về, người ở gần thấy đó hỏi: “Người xưa còn đó ư?” Phạm Chí nói: “Tôi như người xưa, chẳng phải người xưa vậy”. Người ở gần đều ngạc nhiên chẳng phải lời nói đó. điều gọi là người có sức vác đó mà theo, người mờ tối không thấy biết. Đó nghóa của đây ư? Tôi như người xưa là, như (= do) nghóa là tợ vậy. Tôi tuy thân này tợ với người xưa. Nhưng nhan sắc trẻ nhỏ tự tại ở xưa, nay tướng của già suy tự tại ở nay thì chẳng phải người xưa vậy. Nên nói không biết năm qua, không rõ hình theo, người đời tuy biết năm tháng tại xưa trước, đâu biết dung mạo của đương thời. Cũng tùy theo tuổi ở thời xưa, thì trẻ nhỏ chẳng đến tuổi già, trong sát-na chẳng cùng biết, niệm niệm chẳng cùng đợi, đâu được trẻ mạnh đồng thể, trăm tuổi một chất ư? Lại nữa, tuổi qua đi hình cũng qua đi, đó là nghóa chuyển dời, tức trong chuyển dời đây có chẳng chuyển dời vậy. Năm trược tại thời trước, hình trước tại ngày trước, đó nghóa là chẳng chuyển dời, mà người mới cho là người của ngày trước chuyển dời đến ngày nay, đó gọi là lầm hoặc vậy. Lại nữa, xưa tự tại xưa, sao phải chuyển dời đến nay, nay tự tại nay sao phải chuyển dời đến xưa? Nên luận nói: “Do đó, nói qua chẳng hẳn qua, xưa nay thường còn, vì nó chẳng động. Gọi đi chẳng hẳn đi, nghóa là chẳng từ nay đến xưa, vì nó chẳng lại. Trong kinh nói chuyển dời, chưa hẳn tức chuyển dời, vì xưa ở xưa, nay ở nay nên vậy. Sở dó nói vô thường là phòng ngừa chấp thường của người, nói thường trú là phòng ngừa chấp đoạn của người. Ngôn tuy trái mà lý chẳng khác, ngữ tuy ngược mà chân chẳng chuyển dời, không thể tùy ngôn ngữ của phương tiện có không, mà mê tánh nhất tâm chẳng chuyển dời”. Lại giải rằng: Như Phạm Chí bạc đầu mà trở về, người ở gần cho rằng trẻ mạnh đồng thể, nên nói người còn đó ư? Điều gọi là người có sức lực, thì các sự ba tàng v.v…, vô thường ngầm vận, sức lực vác đêm đi, chen vai luôn mới, niệm niệm bỏ cũ, mà thường thấy mờ tối đó, cho rằng bền chắc vậy. Người ở gần không biết, nghóa là đây vậy. Lại nữa, có sức lực tức là sức lực lớn của vô thường. thế gian chưa có một pháp nào chẳng bị vô thường nuốt mất, nên nói: Nhưng mà sở dó tàng núi của trang sinh, sở dó đến sông của Trọng Ni, đó đều là cảm giác người qua lại khó lưu. Đâu nói: Bày nay mà có thể đi. Bản ý của Trang tử nói pháp chẳng trú, niệm niệm luôn mới, vật vật mỗi trú, mỗi trú cùng nhân mà chẳng cùng đến tức chẳng chuyển dời vậy. Đối với người lầm hoặc thì làm vô thường chẳng trú, mới mẻ sanh diệt mà gọi đó là chuyển dời. Nếu người trú thí thấu rõ tánh không vô tri, niệm niệm vô sanh, gọi đó là chẳng chuyển dời, Trang Tử có ba tạng, nghóa là tăng núi ở đầm, giấu thuyền ở hóa, giấu thiên hạ ở nơi thiên hạ. Gọi đó là bền chắc, là không như vậy. Nhưng vô thường nửa đêm mang vác đó mà đi. Mê muội là bất giác. Ba tạng là giấu người ở phòng nhà, tàng vật ở khí cụ, đó là giấu nhỏ, tàng thuyền ở hốc, chứa giấu núi ở đầm đó là chưa giấu lớn. giấu thiên hạ ở thiên hạ, đó là không chỗ giấu chứa. Nhưng lớn nhỏ tuy khác, tàng đều được thích nghi, như niệm niệm chuyển chảy, mới mẻ đổi thay. Vậy biết đạo của biến hóa không xứ nào có thể trốn vậy. Phàm tàng thiên hạ ở nơi thiên hạ là đâu tàng được ư? Bởi không chỗ tàng vậy. Khổng tử ở tại trên sông nói: “Đi ấy như thế ư? Chẳng bỏ đêm ngày, đi ấy là qua vậy, mênh mông giữa dòng, chưa từng tạm dừng, đêm ngày thường vậy. Cũng than sự bất giác của người đời, nên nói đó đều là cảm giác khó lưu người qua lại”. Đâu nói bày nay mà có thể qua. Đó là Trang Khổng đều than đi qua khó dừng, đều nói vô thường đi vậy, đâu có thể tìm tòi vật ở ngày nay đến, ngày xưa? Nếu ngày nay chẳng đến xưa tức ngày nay tự tại nay, ngày xưa tự tại xưa, thì nay xưa hiển nhiên, đều chẳng chuyển dời vậy. Nên nói: Cớ sao? Người thì cầu xưa ở nay, gọi đó là chẳng trú. Tôi thì cầu nay ở xưa, biết đó chẳng đi. Nay nếu đến xưa, xưa nên có nay. Xưa nếu đến nay, nay nên có xưa, nay mà không xưa, vì biết không lại, xưa mà không nay, vì biết chẳng đi. Nếu xưa chẳng đến nay, nay chẳng đến xưa. Mỗi sự tánh nó dừng, có vật gì mà có thể đi lại. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Mạng người chẳng dừng, còn hơn sông núi”. Phàm vô thường có hai: Một là bại hoại vô thường; hai là niệm niệm vô thường. Người chỉ biết hoại diệt vô thường, mà không biết niệm niệm vô thường. Luận nói: “Nếu động mà tónh tợ đi mà dừng, kinh nói vô thường nhanh chóng, tợ như lưu động, căn cứ lý thì tuy vô thường, trước sau chẳng cùng đi lại, nên như tónh vậy, tuy là niệm niệm rơi rụng đi, xưa nay mỗi tánh mà trú, ngay đó tự tịch lắng nên như dừng vậy. Tuy nói xưa nay mỗi tánh mà trú, ngay đó tự tịch lắng, mà rõ ràng niệm niệm chẳng trú, trước sau tương tục vậy, thì chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải động chẳng phải tónh, thấy nguyên tánh của vật vậy. Cổ đức hỏi rằng: “Mỗi tánh mà trú, tợ như Tiểu thừa, chấp các pháp mỗi có tự tánh nó mỗi khác ư?” Đáp rằng: Vì phá đi lại, nói rõ không đi lại. Vì vậy y cứ thể mà nói đó, nên nói mỗi tánh mà trú, chẳng phải nghóa quyết định, thì dùng vô tánh mà làm tánh, chẳng đồng ngoại đạo Nhị thừa, chấp có tự tánh quyết định, từ đây hướng đến kia. Nếu chẳng chấp có định tánh đi lại, cũng chẳng nói mỗi tánh mà trú. Nên lụân nói: “Nói đi chẳng hẳn đi, tưởng thường của chúng sanh, nói dừng chẳng hẳn dừng, chỗ dừng của nhà Phật”. Lại nữa, Lưu Trạm ghi chú rằng: Trang Tử tàng núi, Trọng Ni đến sông là ý Trang tử nói rõ núi trước chẳng phải núi sau, ý Phu tử nói rõ nước trước chẳng phải nước sau, nửa đêm có sức vác đó mà đi, tức bốn mùa sanh trú dị diệt niệm niệm chuyển dời chẳng dừng vậy. Do đó, nếu ngoài tâm chấp thủ pháp, chỗ thấy của vọng mộng, tình cho là đi lại, thì niệm niệm luân hồi. Tâm tùy cảnh chuyển, còn không biết tướng thô vô thường, sao có thể tỏ ngộ yếu chỉ kín mầu của chẳng chuyển dời ư? Nếu hay thấy pháp làm tâm, tùy duyên rõ tánh, không một pháp nào từ ngoài mà vào, không một pháp nào từ trong mà sanh, không một pháp hòa hợp mà có, không một pháp tự nhiên mà thành, như vậy thì còn chẳng thấy một mảy may tướng trú, sao có thể quán muôn pháp đến đi. Đó là triệt để sáng tông, thấu đảnh thấy tánh, tâm tâm thường hợp đạo, niệm niệm chẳng trái tông, đi dừng đồng thời, xưa nay nhất quán. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Ta quán sát lâu xa giống như mới ngày nay”. Kinh Duy-ma nói: “Pháp không khứ lai, vì thường chẳng trú”. Nếu rõ chân tâm không chỗ trú, diệu tánh chẳng biến dị đây, mới là cứu cánh rõ ràng không chuyển dời vậy. Trong luận nói trên, nêu dẫn kinh điển nội ngoại, mượn xưa nay của sự tướng thế gian, nhờ rõ chẳng chuyển dời, đồng vào chân thật, do đó, thời nhân pháp lập, pháp tự vốn không, pháp thể của sở y còn không, xưa nay năng y sao có? Nếu mượn phương góc mà biện giải pháp, nhân ngón tay thấy vầng nguyệt mà không phòng ngại, hoặc theo phương tiện mà mê lầm chân, chấp giải hiểu trái tông mà trở lại sai lầm. Nên trong Tín Tâm Minh nói: “Tín tâm không hai, không hai tín tâm, tuyệt đường ngôn ngữ, chẳng đi lại nay”. Thứ hai y cứ hỏa có ánh khởi diệt, nghóa trong dụ đồng như trước. Mới đầu chỉ là ánh lửa, nghóa là ánh lửa khởi diệt. Có hai nghóa đó: Một là, ánh lửa trước lụi diêt dẫn khởi ánh lửa sau. Ánh lửa sau không thể mà hay biết trước. Ánh lửa trước đã diệt, lại không chỗ biết. Cho nên mỗi mỗi đều chẳng cùng biết. Hai là, ánh lửa trước nếu chưa diệt cũng y cứ trước dẫn, không thể nên không hay biết, ánh lửa sau chưa đến nên không chỗ biết, cho nên kia cũng mỗi mỗi chẳng cùng biết. Vọng pháp cũng vậy, sát-na sanh diệt, không thể tự lập, nghóa là đã diệt và chưa sanh, không vật gì có thể biết, sanh rồi thì diệt, không thể có thể biết, cho nên đều không chỗ có vậy. Đó thì chảy vàng đá vụn mà chẳng nóng vậy. Thứ hai ý cứ sở y, nghóa là ánh lửa kia tức do không thể không dụng đây chẳng có mà làm có vậy. Vọng pháp cũng vậy, y cứ chân lý không chỗ y đây mới là vọng pháp, đó cũng chẳng phải có làm có vậy. Thứ ba, chỉ sở y là tìm tòi ánh lửa của khởi diệt, thể dụng đều không, không lý của ánh lửa, nổi trội hiển hiện, đó thì không có của vọng pháp, có không của vọng pháp trạm nhiên hiển hiện, bèn khiến tướng của duyên khởi tướng không chẳng cùng tận, lý của vô tánh lý không chẳng hiện. Lại nữa, lửa y cứ củi mà có, củi là có khả năng đốt cháy, lửa tức là đốt cháy, vì nhân đốt cháy có thể đốt cháy, thì đốt cháy không thể, có thể nhân đốt cháy đốt cháy thì có thể đốt cháy không thể. Lại nữa, ánh lửa trước đã diệt ánh lửa sau chưa sanh, khoảng giữa không dừng trú, như ngay trên một niệm tức có ba thời, đã diệt làm đã sanh, chưa sanh làm chưa sanh, sanh rồi tức diệt là lúc sanh. Nên kinh Tịnh Danh nói: “Nếu quá khứ sanh, quá khứ sanh rồi diệt, nếu vị lai sanh vị lai sanh chưa đến, nếu hiện tại sanh hiện tại sanh không dừng trú”. Trong kinh nói: “Tỳ-kheo! Ông nay tức thời cũng sanh cũng già cũng diệt”. Nên ba thời không thể không thể cùng biết vậy. Thứ ba y cứ phong có động tác, dụ cho vọng dụng y cứ chân mà khởi, ba nghóa đồng như trước. Một là, chỉ động là lìa vật của sở động, tướng động của gió trọn không thể được, không thể cùng biết. Vọng pháp cũng vậy, lìa sở y chân thể không thể được, nên không thể cùng biết. Đó thì xoay khí nép núi mà thường tónh lặng vậy. Hai là, y cứ sở y, nghóa là gió không thể tự động, cần phải nương tựa vật mà hiện động, động không tự thể có thể vì biết vật, vật chẳng tự động, tùy theo gió không thể, chẳng thể biết trong phong pháp hay y cứ vọng pháp, cốt yếu y cứ chân lập, không thể biết chân, chân tùy theo vọng ẩn, không cùng biết vọng. Ba là, chỉ sở y, nghóa là gió cổ xúy nơi vật, động chỉ là vật động, tướng gió đều tận, không thể cùng biết, tác dụng vọng pháp tự bản tánh không, chỉ sở y chân nổi trội hiển hiện, cho nên vọng pháp toàn tận mà chẳng diệt. Chân tánh toàn ẩn mà luôn lộ bày, năng sở huân v.v… pháp vốn tự vậy, tư duy đó có thể thấy. Thứ tư y cứ địa có nhậm trì là, dụ vọng làm chân sở trì, ba nghóa đồng như trước.Thứ nhất, Mới đầu địa giới nhân y có hai thứ nghóa: Một là nói về tự loại; hai là nói về dị loại. Trong trước từ Kim cang tế lên đến mặt đất đều trên y dưới, dưới trì trên, triển chuyển nhân y mà được an trú, nhưng trên năng y đều lìa sở y không thể mà hay biết dưới. Lại nữa, trên trên năng y thấu triệt đến dưới, không dưới có thể cùng biết, dưới dưới năng trì thấu triệt đến trên, không trên có thể cùng biết. Cho nên, hoặc là y hoặc là trì cùng không chẳng tận, chỗ hiện vọng pháp phải biết cũng vậy, hẳn là thô y tế, nghóa là khổ báo y ở nghiệp, nghiệp y vô minh tạo, vô minh y sở tạo, triển chuyển không thể, không vật có thể cùng biết, đó thì sâu chuyển muôn vật mà bất nhân vậy. Triệu công cũng nói: “Còn không sụp đổ, không nghóa là chẳng tónh vậy”. Lão tử nói: “Đất trời bất nhân vì muôn vật làm cỏ khô”. Kinh nói: “Thí như đại địa mang đội bốn trách nhiệm nặng mà không nhọc nhàm vậy”. Bất nhân là chẳng ỷ lại nhân đức vậy, giống như chó cỏ đâu có khả năng sủa giữ. Nên nói chỉ đạo vô tâm muôn vật tròn đầy vậy. Hai là, dịï loại, như trong kinh nói: “Địa luân y cứ thủy luân, thủy luân y cứ phong luân, phong luân y cứ hư không, hư không không sở y”. Căn cứ đó thì vọng cảnh y cứ vọng tâm, vọng tâm y cứ bản thức, bản thức y cứ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng không sở y, cho nên, nếu lìa Như Lai Tạng thì các vọng pháp khác mỗi mỗi hỗ tương y tựa, không thể có thể cùng biết, vậy thì không gì chẳng đều tận. Thứ hai, y sở y, nghóa là địa giới chánh do mỗi mỗi không tự tánh mà được tồn tại dựng lập. Như trên nếu có thể thì không cùng y, vì không cùng y nên chẳng được có pháp. Do đó, quậy vô tánh đây để thành pháp kia, pháp hợp có thể biết. Thứ ba, chỉ sở y, nghóa là quậy vô tánh để thành pháp kia, đó thì pháp kia không gì chẳng đều tận mà chưa từng chẳng diệt, chỉ lý vô tánh mà riêng hiện tiền. Lại nữa, đã không cùng biết, do các thứ duyên gì? Đây có bốn nhân: Một la,ø do vọng phân biệt; hai là, các thức huân tập; ba là do vô tánh chẳng cùng biết; bốn là, chân như tùy duyên. Nhưng bốn nhân ấy chỉ là nhất trí, nghóa là do vọng phân biệt làm duyên, khiến chân như chẳng giữ tự tánh, tùy duyên thành có. Các thức huân tập triển chuyển không cùng, nếu đạt vọng nguyên, thành tịnh duyên khởi, điều nghi ngờ trước nói là các thứ đó, là một tánh đó, nay đáp là các thứ thường, thường một tánh. Lại cật nạn: Một tánh tùy ở các thứ thì mất Chân đế. Các thứ tùy ở một tánh thì hoại Tục đế. Nay đáp là hai thứ ấy hỗ tương thành lập đâu đáng cùng trái. Tánh chẳng phải ngoài sự, nào từng trái với các thứ? Các thứ tánh không nào từng trái với một tánh. Do vô tánh nên có, một tánh hay thành các thứ, duyên sanh nên không, các thứ hay thành một tánh. Do đó, pháp của duyên khởi, gồm có bốn nghóa: Một là, duyên sanh nên có, tức vọng tâm phân biệt có cho đến các thứ huân tập đều vậy. Hai là, duyên sanh nên không, tức các pháp không tác dụng cũng không có thể tánh phải vậy. Ba là, vô tánh nên có, vì nghóa có không nên hết thảy pháp được thành vậy. Bốn là, vô tánh nên không, tức hết thảy không là vô tánh vậy. Lại nữa, tánh có hai nghóa: Một là có; hai là không. Lại có hai nghóa: Một là bất biến; hai là tùy duyên. Vì nghóa có nên nói hai không sở hiện, tức pháp tánhvốn vô sanh vậy. Vì nghóa không nên nói y tha không tánh, tức là viên thành tức mỗi mỗi chẳng cùng biết. Vì nghóa có nên nói bất biến. Vì nghóa không nên nói tùy duyên. Hai bất nhị này, tùy duyên tức là bất biến, bất biến nên hay tùy duyên. Nếu chỉ bất biến tánh sao dự pháp, nếu chỉ tùy duyên pháp đây xứng tánh? Lại nữa, nếu tánh lìa pháp, pháp diệt đoạn diệt, pháp lìa tánh thì vốn không mà nay có? Lại nữa, nếu pháp tức tánh, tánh thường nên thường. Tánh nếu tức pháp, pháp diệt nên diệt. Hai ấy cùng thành, chẳng phải thường chẳng phải đoạn. Hai ấy cùng đoạt, chẳng phải có chẳng phải không, là nghóa Trung đạo. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Nhãn nhó tỷ thiệt thân, Tâm ý các tình căn, Do đó thường lưu chuyển, Mà không người năng chuyển”. Vì nhãn v.v… tám thức làm năng sở huân triển chuyển làm nhân mà thường lưu chuyển, không riêng biệt ngã nhân, nên nói không người năng chuyển. Do vì cử thể tánh không mới thành lưu chuyển, tức tám thức đây, mỗi mỗi không thể tánh, nên không thật ngã pháp mà làm chủ đó. Như trên, nếu có tánh, không thể huân biến, thảy đều y cứ ở tâm, như dòng chảy y tựa nước, lửa y cứ củi, nối tiếp không biết, mới mẻ chẳng dừng. Thiện thú ác thú tức là tổng báo, do nghiệp huân tâm, nhận chịu chỗ thọ báo, như nước trôi dòng chẳng dứt đoạn. Tuy nhiên lưu chuyển mà không ai chuyển, nên nói do đây thường lưu chuyển, và không người năng chuyển, là như Luận Thích nói: “Như dòng thác đổ, chẳng đoạn chẳng thường, tương tục lâu dài, có chỗ nổi chìm, sanh thức cũng vậy, từ vô thỉ lại, mỗi mỗi sát-na, quả sanh nhân diệt”. Quả sanh nên chẳng phải đoạn, nhân diệt nên chẳng phải thường. Nổi chìm có tình, khiến chẳng ra khỏi. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh, làm dòng thác lớn, sóng cả dập chìm”. Kinh Lăng-già nói: “Biển tạng thức thường trú, gió cảnh giới lay động”. Luận Duy thức nói: “Thường chuyển như bộc lưu”. Luận Khởi Tín nói: “Như nước biển lớn, nhân gió mà sóng động v.v…”. Lại nữa, vì trong hư vọng nó có hai nghóa: Một là hư chuyển; hai là vô chuyển. Nên thường các thứ, thường một tánh vậy. Vì hư chuyển nên tục khác chân mà tương tục lập. Vì vô chuyển nên chân chẳng khác tục mà thể chân còn, nên hỗ tương chẳng cùng chống trái vậy. Pháp tánh vốn vô sanh. Pháp tánh, pháp nghóa là lúc pháp y chánh sai biệt v.v…. Tánh nghóa là thể tánh sở y của pháp ấy, tức là tánh của pháp, nên gọi là pháp tánh. Lại nữa, tánh lấy bất biến làm nghóa, tức đây có thể làm khuôn phép, cũng gọi là pháp. Đó thì tánh tức pháp, nên gọi là pháp tánh. Hai nghóa ấy đều ước ở bất biến mà giải thích vậy. Lại nữa, tức tất cả pháp mỗi mỗi vô tánh nên gọi là pháp tánh, tức tánh của tùy duyên pháp tức tánh vậy. Vốn (bản) vô sanh. Vốn có hai nghóa: Một là, nói theo bất biến, vốn tức nguyên bản, xưa nay bất sanh, tùy duyên nên sanh. Hai là, nói theo tùy duyên, có pháp đây lại vốn từ bất sanh. Chẳng đợi diệt không tức hiện bày lúc sanh vốn bất sanh, nên nói trong đây không năng hiện, cũng không vật sở hiện, thì vọng tâm phân biệt. Tình kế gọi là có, nhưng có tức chẳng có, nên nói hết thảy không vô tánh. Đó tức là tự hư rỗng của muôn vật, đâu đợi cắt xẻ để cầu thông ư? Lại nữa, nói về tương đãi tương đoạt, giải thích chẳng cùng biết. Nói tương đãi, tức nghiệp không thức chủng chẳng thân biện thể, chẳng chuốc lấy khổ vui tức cùng tương đãi, thì mỗi mỗi không tự tánh. Nói tương đoạt tức vì nghiệp đoạt nhân, chỉ do nghiệp chuốc lấy nên nhân không hư vọng. Vì nhân đoạt duyên thì chỉ tâm làm thể, nên nghiệp như hư không cùng đoạt riêng lập, cũng chẳng thể cùng biết. Cùng đoạt cả hai đều mất, không thể cùng biết. Lại do vì vô sanh nên chẳng cùng biết, vì duyên đoạt nhân nên chẳng tự sanh. Vì nhân đoạt duyên nên chẳng tha sanh. Nhân duyên hợp biện, tương đãi vô sanh, nên chẳng cộng sanh. Cùng cả hai đều mất, không nhân sao sanh. Do bất sanh đây, với loại chẳng biết, rành rẽ dễ rõ vậy, tức là nhân làm, tự lấy duyên làm tha, hợp đây làm cộng, lìa đây làm không nhân, cùng có còn chẳng cùng biết, cùng không há có thể cùng biết ư? Nên biết các pháp tương đãi đều không tự tánh. Như Trung Luận Tương Đoạt Môn nói: “Bất không đã phá không pháp cũng mất”. Kệ tụng rằng: “Nếu có pháp chẳng chân, Tức nên có pháp chân, Thật không chẳng pháp chân, Nào được có pháp chân”. Cũng như nhân dơ nói sạch, tánh dơ vốn không, tướng sạch nào có? Một môn đối nhauđãi đây, phá hết các pháp, vì các pháp đều là tương đãi mà có, chưa từng có một pháp mà hay độc lập. Nên luận Nhân Duyên Vô Tánh nói: “A-nan và Điều-đạt đều là em của Thế Tôn. La-hầu và Thiện Tinh đồng là con cháu của Như Lai, mà A-nan thường thân gần hầu hạ cung cấp, còn Điều-đạt luôn dấy nghịch hại, La-hầu thì gìn giữ châu ngọc chẳng phạm, Thiện Tinh thì phá khí vật khó gom thâu. Lấy đó mà quán xét, thực có thể biết vậy. Nếu nói: Mỗi mỗi có tự tánh chẳng thể biến đổi. Đây không như vậy, đến như chim ưng hóa thành chim cưu, bản tánh chóng hết, cây quýt biến thành cây chanh, mùi vị trước trọn mất. Nên biết hữu tình vô tình, mỗi mỗi đều không tánh cố định, chỉ tùy tâm biến, chỉ thọ nghiệp sanh, bèn có môn từ phàm vào Thánh, sự chuyển ác làm thiện. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Như chứng đắc các pháp vô tánh làm tánh, cứu cánh viên mãn, mới gọi là Phật”. Nên biết dựng lập Tam bảo, thành môn Phật sự, đều từ vô tánh duyên sanh mà được hưng hiển. Do đó, kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội nói: “Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp bạch Phật rằng: “Con nghó là Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi trong các đời trước từng làm Phật sự, hiện ngồi Đạo tràng, chuyển Đại pháp luân, chỉ dạy cho các chúng sanh, rồi nhập đại diệt độ”. Phật dạy: “Đúng vậy! Đúng vậy! Cho đến, này Ca-diếp! Nay ông hãy quán sát thế lực Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội, các Đại Bồ-tát dùng sức lực đó thị hiện nhập thai, rồi sơ sanh, xuất gia, đến Bồ- đề thọ ngồi nơi Đạo tràng, chuyển Diệu pháp luân, nhập Bát Niết-bàn, phân bố xá-lợi, mà cũng chẳng xả pháp của Bồ-tát. Đối với Bát Niết- bàn chẳng phải là rốt ráo diệt độ”. Khi ấy trưởng lão Ma-ha Ca-diếp nói cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Nhân giả! Thật hay thực hiện các việc hiếm có khó làm như vậy, chỉ dạy cho chúng sanh!” Bồ-tát Văn- thù-sư-lợi nói: “Ca-diếp! Ý ông nghó thế nào, núi Kỳ-xà-quật đó do ai tạo nên? Thế giới ấy cũng từ đâu mà xuất hiện?” Trưởng lão Ca-diếp đáp: “Văn-thù-sư-lợi! Hết thảy thế giới, cho đến bọt nước hình thành cũng từ nghiệp nhân duyên chẳng thể nghó bàn của chúng sanh mà có ra”. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Hết thảy các pháp cũng từ nghiệp nhân duyên chẳng thể nghó bàn mà có. Tôi đối với việc ấy không có công sức. Tại sao? Hết thảy các pháp đều thuộc nhân duyên, vì không có chủ, tùy ý sở thành, nếu hay thấu hiểu vậy, chỗ làm chẳng khó”. Giải thích rằng: Nếu rõ hết thảy pháp đều thuộc nhân duyên, đều không tự tánh, chỉ là tâm sanh, thì phàm có làm gì chẳng nhờ mượn công sức. Vì lý của vô tánh, môn của pháp dó tùy duyên buông cuộn, tự tại vô ngại, kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng: “Như tâm tánh đó mà quán sát, Rốt cùng tìm cầu không thể được, Hết thảy các pháp không có thừa, Đều vào ở như không thể tánh”. Lại có kệ tụng rằng: “Thí như tự tánh của chân như, Trong ấy chưa từng có một pháp, Chẳng được tự tánh là chân tánh, Dùng nghiệp như vậy mà hồi hướng”. Luận Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh mê mờ căn bản trí mà có các pháp khổ vui thế gian, vì trí vô tánh tùy duyên bất giác, khổ vui nghiệp sanh, vì trí vô tánh làm chỗ khổ buộc, mới hay tự giác căn bản vô tánh, các duyên vô tánh, muôn pháp tự tịch lắng. Nếu lúc chẳng biết khổ, vì vô tánh nên gồm chẳng biết hữu tánh vô tánh, như người nhân đất mà ngã, và cũng nhân đất mà dậy. Hết thảy chúng sanh nhân tự tâm căn bản trí mà ngã cũng nhân đó mà khởi. Lại vì trí thể không tánh chỉ tùy duyên hiện, như vọng hưởng giữa không trung ứng theo vật mà thành tiếng. Trí của vô tánh chỉ ứng duyên phân biệt, do vì phân biệt, si ái tùy theo khởi dậy”. Lại nữa, ở luận Trung Quán phá nên không có Như Lai có kệ tụng rằng: “Kẻ tà kiến sâu dày, Thì nói không Như Lai, Như Lai tướng tịch diệt, Phân biệt có cũng quấy. Như vậy trong tánh không, Tư duy cũng chẳng thể, Sau khi Như Lai diệt, Phân biệt ở có không”. Lại nữa, Tổng Phất kệ tụng rằng: “Như Lai quá hý luậân, Mà nhân sanh hý luận, Hý luận phá tuệ nhãn, Đó đều chẳng thấy Phật”. Luận Thích nói: “Hý luận là ức niệm, phân biệt đây và kia v.v…”. Phẩm Như Lai đây đầu, giữa và cuối tư duy Như Lai tánh cố định không thể được, cho đến năm cầu bốn câu đều chẳng phải, nên kệ tụng nói: “Như Lai không có tánh, Tức là tánh thế gian, Như Lai không có tánh, Thế gian cũng không tánh”. Vì Như Lai một tánh nghóa không, biết hết thảy các pháp thế gian đều là không tánh, đồng nghóa Như Lai. Trong Hoa Nghiêm diễn nghóa dẫn kệ tụng trong kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật ở đời sau, Tuy nói trăm ngàn ức, Vô số các pháp môn, Kỳ thật chỉ một thừa. Chư Phật đấng phước tuệ, Biết pháp thường không tánh, Phật chủng theo duyên khởi, Cho nên nói Nhất thừa. Pháp ấy trú ngôi pháp, Thế gian tướng thường trú, Nơi Đạo tràng biết rồi, Đạo sư phương tiện nói.” Nay chỉ trích dẫn hai câu để hiển bày các pháp là không tánh thành nghóa một tánh vậy. Như ba kệ tụng trên, các vị giải thích chẳng đồng, nay giải thẳng văn kinh. Kệ tụng thứ nhất nêu rõ ngay Phật mở quyền, chung quy về một thật, nên nói kỳ thật chỉ một thừa. Kệ tụng kế tiếp, giải thích nguyên do nói Nhất thừa, vì chỉ là một tánh, nói nếu như có hai tánh thì nên có hai thừa, đã chỉ một tánh nên nói một thừa vậy. Biết pháp thường không tánh. Biết tức là chứng biết. Pháp tức pháp bị chứng biết, tức sắc tâm v.v… hết thảy các pháp, thường không tánh là lý sở chứng, tức như lý không tánh. Biết rõ các pháp sao là không tánh? Nghóa là sắc tâm v.v… từ xưa đến nay, tánh tướng không tịch, chẳng phải tự chẳng phải tha, chẳng phải cộng chẳng phải lìa, trạm nhiên thường tịch, nên nói là không tánh. Mà nói thường là có nghóa xưa nay tức không, chẳng phải tìm tòi đó khiến không, nên nói thường không tánh vậy. Phật chủng theo duyên khởi là, có hai nghóa: Một là, nói về nhân chủng. Nhân chủng tức là Phật tánh chánh nhân. Nên kinh Niết-bàn nói: “Phật tánh tức là chủng tử đạo trong Vô thượng Bồ-đề”. Chủng này tức là lý thường không tánh ở trước. Nên kinh Niết-bàn lại nói: “Phật tánh tức là Đệ nhất nghóa không”, nghóa của không tánh tức không vậy. Duyên tức Lục độ vạn hạnh. Nhân duyên Phật tánh đó khởi chánh nhân kia, khiến được thành Phật. Cho nên nói Nhất thừa là chỉ dùng Phật tánh khởi ở Phật tánh, ngoài ra không tánh nào khác, nên nói Nhất thừa là xứng lý nói vậy. Thể đồng gọi là tánh, tướng tợ gọi là chủng. Nên Trung Quán nói: “Như lúa nếp tự sanh lúa nếp, chẳng sanh các thứ lúa thóc khác”. Đó, thuộc về tánh vậy. Mầm lá hoa hạt, loại nó không sai, đó thuộc về chủng vậy. Hai là, ước về quả chủng tánh, trong đó nói: “Phật báo chỉ có Phật, lý ấy không sai”, tức nghóa của tánh vậy, giảng pháp độ người, loại đều tương tợ, tức nghóa của chủng vậy. Chủng tánh của quả, duyên chân lý sanh. Nên nói theo duyên, vì vậy giải thích kệ tụng đó là Phật duyên lý sanh. Lý đã không hai, cho nên nói Nhất thừa vậy. Ý nói là chứng lý thành Phật, xứng lý nói một, trong đây câu kệ biết pháp thường không tánh, toàn như trong phẩm xuất hiện ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Đức Như Lai lúc thành Chánh giác, ngay trong tự thân, thấy khắp hết thảy chúng sanh đều thành Chánh giác. Cho đến, thấy khắp chúng sanh nhập Niết-bàn đều đồng một tánh”. Điều gọi là không tánh cho đến biết hết thảy pháp đều không tánh, nên đắc Nhất thiết trí. Đại bi tương tục cứu độ chúng sanh, nói biết không tánh vì tánh Phật đồng. Căn cứ kinh văn nói: “Do biết không tánh còn được một thành, huống gì không nói Nhất thừa mà độ thoát đó”. Kệ tụng sau cùng nói pháp ấy trú ngôi pháp v.v… là lại giải thích kệ tụng trước. Nói pháp ấy, tức là pháp nhận biết trước, sở dó thường không tánh là do trú ở chánh vị của chân như. Do duyên không tánh, duyên khởi tức chân, do tức chân, nên nói là không tánh. Nói ngôi pháp, tức là chánh vị của chân như. Nên luận Đại Trí Độ nói: “Pháp tánh pháp giới, pháp trú pháp vị (ngôi pháp) đều là dị danh của chân như”. Thế pháp tức như nên đều thường trú, nghóa là nhân trái với thường lý, thành Tam giới vô thường. Nếu hiểu được thật của vô thường, tức vô thường mà thành thường vậy, thì thường và vô thường, hai lý chẳng thiên lệch, nên kinh Niết-bàn so sánh đó như hai chim bay dừng đồng ở. Nay ở nơi Đạo tràng chứng biết hết thảy thế gian vô thường tức lý chân thường, như gương treo nơi nhà cao rộng muôn ảnh tượng đều soi thấy đó, hai mà chẳng hai, không thể nói bày. Do sức phương tiện giả dùng ngôn thuyết. Một thừa, còn là giả nói huống gì có hai hoặc ba, thì lý của Nhất thừa, chí lý không quá, tông của không tánh, các tông chẳng kịp. Có thể gọi là cương cốt của Tông Kính, chỉ năm của Tổ giáo vậy. Do đó, trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Hết thảy các pháp đều không tự tánh. Không sanh không diệt, xưa nay tónh lặng, tự tánh Niết-bàn”. Trong kinh Thương Chủ Thiên Tử Sở Vấn nói: “Nếu pháp là không, tức chẳng tự tại, nếu chẳng tự tại, thì là vô dục, nếu là vô dục, thì là chân tánh, nếu là chân tánh, tức gọi không tánh”.  TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 8 Hỏi: Phàm, không tánh lý đồng, vậy tông nào gồm Đáp: Tông pháp tánh gồm, như chư sư xưa trước nói: Pháp tánh có thể là nghóa của Tông pháp tướng, trên sự không thể là nghóa của Tông pháp tánh. Hỏi: Như hết thảy pháp thật là không tánh, chẳng được người giáo ý, sợ thành kiến chăng? Đáp: Nếu là có tánh, một pháp chẳng thành. Do vì không tánh nên các duyên đều lập. Ở trong không tánh, có và không đều chẳng thể được, há thành đoạn kiến thường kiến ư? Như kinh Đại Bát-nhã nói: “Các Bồ-tát Ma-ha-tát rất là hiếm có, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai không, tuy biết các pháp, hết thảy đều như mộng như tiếng vang, như ảnh tượng như bóng sáng, như dương diệm, như huyễn như hóa, đều chẳng phải thật có. Dùng không tánh làm tánh, tự tướng đều không mà hay an lập thiện, chẳng phải thiện v.v… các pháp sai biệt, đều không tạp loạn”. Lại nói: “Thiện Hiện bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Phật nói hết thảy pháp đều lấy không tánh làm tự tánh đó. Nếu hết thảy pháp đều dùng không tánh làm tự tánh, thì ai nhiễm? Ai tịnh? Ai buộc? Ai mở? Kia ở nơi nhiễm tịnh và nơi buộc mở, vì không rõ biết nên phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá tịnh mạng, sẽ đọa và địa ngục, bàng sanh, quỷ thú, nhận chịu các thứ kịch khổ”. Cho đến, Phật bảo: “Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Thiện Hiện, như lời ông nói, hết thảy các pháp đều lấy không tánh làm tự tánh, ở trong tự tánh, có tánh không tánh đều chẳng thể được. Không nên ở đây chấp có tánh không tánh. Nên biết đã không thể chấp có, cũng không thể châp không, vì trong tự tánh không có có không. Điều nói pháp có pháp không đều là phương tiện phá chấp vào pháp”. Nên các bậc Tiên đức nói: Dùng không chỗ được để làm phương tiện là có hai: Một là, dùng không chỗ được dẫn dắt tùy tướng trước thì giẫm trải có mà chẳng mê ở không, làm phương tiện vào có. Hai là, mượn nhờ vô đắc để vào có, chẳng còn vô đắc, tức vô đắc cũng là phương tiện, đó là phương tiện của vào không. Do đó, vô đắc tướng không, vô tác nhân không, vô tế tánh không, ba tướng ấy đều hết sạch thì lý pháp giới hiện. Nên Bồ-tát chẳng hoại không mà thường có, pháp nhiễm tịnh rõ ràng, chẳng ngại có mà thường không, đạo nhất chân luôn hiện, song chiếu như vậy mới vào thậm thâm. Như luận Bát-nhã Đăng nói: “Ta nói ngăn ngừa vào có là ngăn có tự thể, chẳng nói không thể”. Như kinh Lăng-già có kệ tụng: “Có không đều là biên, Cho đến tâm sở hành, Tâm sở hành kia diệt, Gọi là chánh tâm diệt”. Giải thích rằng: Như vậy, chẳng chấp trước có thể, chẳng chấp trước không thể, nếu pháp không thể thì không một có thể làm. Lại như kệ tụng nói: “Ngăn có nói chẳng có, Vì không thủ chẳng có, Như ngăn xanh chẳng xanh, Chẳng muốn nói làm trắng”. Giải thích rằng: Hai thứ kiến chấp ấy đều là bất thiện, cho nên người có trí tuệ muốn dứt hý luận để chứng đắc An lạc vô dư nên phải ngăn ngừa hai thứ ác kiến ấy. Đây lại thế nào? Như sở nhiếp trong Tam giới, hoặc xuất thế gian, hoặc thiện hay bất thiện, cùng với vô ký v.v… như giống Thế đế các chỗ mưu làm, kia đối với trong Đệ nhất nghóa, nếu có tự thể khởi động phương tiện, tạo thiện hay bất thiện, các tác nghiệp ấy, nên không không quả. Tại sao? Do vì trước có. Thí như trước có, hoặc bình, áo v.v… như vậy. Lạc là thường lạc khổ là thường khổ, như họa vẽ trên vách tường, hình lượng oai nghi, tướng mạo bất biến. Hết thảy chúng sanh cũng nên như vậy. Lại nữa, nếu không tự thể là sở nhiếp của Tam giới kia, hoặc xuất thế gian, thiện và bất thiện pháp, khởi động phương tiện, thì không không quả, do vì không có, thế gian như vậy thì rơi đọa đoạn diệt, thí như mài bóng sừng thỏ, khiến nó bén nhọn, trọn không thể được. Cho nên kệ tụng nói: “Thiếu tuệ thấy các pháp, Như có hoặc như không v.v…, Người kia thì không thấy, Diệt thấy Đệ nhất nghóa”. Lại nữa, như trong kinh Bảo Tụ nói: “Phật bảo: Ca-diếp! Có là một bên, không là một bên, như vậy v.v… ở nội địa giới và ngoại địa giới kia đều không hai nghóa. Chư Phật Như Lai thật tuệ chứng biết, được thành Chánh giác, tướng không một hai, tức là không tướng”. Cho nên các bậc Tiên đức nói: “Các tông xét tính, phần nhiều nói chỉ không tự tánh, chẳng không đối với pháp. Như Tông pháp tướng, chỉ không biến kế, chẳng phải không y tha, giả như các người học Trung Luận v.v… không đắc ý cũng nói pháp không tự tánh. Nên nói làm không, thì khiến tướng chẳng không vậy”. Nay đã không tánh, do duyên mưa nên có, thể có tức không, duyên danh không tánh nên không, không mà thường có, cốt yếu qua lại giao nhau tận cùng, mới là chân không diệu hữu. Nên họ nói đại đồng mà yếu chỉ có khác. Lại nói về pháp Duyên khởi, có hai: Một là, không tướng như không, thì mênh mông cùng tận có không, là tướng không. Hai là, không tự tánh như huyễn thì nghiệp quả luôn chẳng mất, tức tánh không. Vì tướng không nên muôn pháp thể hư rỗng, trọn không chỗ được. Vì tánh không nên chẳng hoại nghiệp đạo, nhân quả rõ ràng. Do tánh không tướng không đây mới lập lý chân không, thì chẳng phải khoảng đầu khoảng giữa và khoảng cuối thủy chung rõ ràng không người hay tạo tác, báo ứng chẳng phải mất, nên biết lý không tánh thành, pháp nhãn viên chiếu, lại không một pháp có thật căn do. Nay lại dẫn chứng nói rộng sáng tỏ, thành tựu Tông Kính. Phàm, Chân đế, Tục đế, hết thảy các pháp chẳng vượt ngoài không vì có, pháp của không và có đều từ duyên sanh, pháp của duyên sanh vốn không tự thể, y cứ tâm mà hiển hiện, thảy đều không tánh. Vì duyên sanh nên không tánh, vì không tánh nên duyên sanh. Vì hai môn duyên tánh ấy nên muôn pháp đều đồng bình đẳng. Do đó, Hoa Nghiêm Ký Quảng Thích nói: “Do duyên sanh nên có là nghóa có, không tánh nên không, là nghóa không. Hai nghóa là sở dó có không. Do không tánh nên có là sở dó có. Duyên sanh nên không, là sở dó không. Sở dó tức là nhân duyên, nghóa là cớ sao có không tánh được thành nghóa không? Do tùy duyên sanh, sở dó duyên sanh. Cho nên duyên sanh là sở dó của không - không tánh vậy. Cớ sao duyên sanh được là nghóa có? Đặc biệt do không định tánh mới đầu tùy duyên mà thành huyễn có, cho nên không tánh là sở dó có”. Nên trong Trung Luận có kệ tụng rằng: “Nếu người chẳng biết không, Chẳng biết nhân duyên không, Chẳng biết đến nghóa không, Cho nên tự sanh não, Như chẳng giỏi chú thuật, Chẳng khéo bắt rắn độc.” Nếu đem cả bốn câu gồm trông về không có thì đều gọi là sở dó. Nên nói: Duyên sanh nên gọi có, duyên sanh nên gọi không. Không tánh nên gọi có, không tánh nên gọi không. Bởi vì các pháp khởi hẳn theo duyên. Vì từ duyên có, hẳn không tự tánh. Do không tự tánh, sở dó theo duyên. Duyên có tánh không, lại không hai pháp mà theo huyễn có muôn loại sai khác, nên gọi là Tục đế. Không tánh chỉ một vị nên gọi là Chân đế. Lại nữa, bốn câu sở dó, chỉ câu thứ ba chứng thành là không tánh nên có, vì lý khó hiển bày, nếu người chứng đầy đủ là: Một, duyên sanh nên có, như kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ do nhân duyên có, từ điên đảo sanh nên nói…”. Kinh Tịnh Danh nói: “Do nhân duyên nên các pháp sanh”. Trung Luận có kệ tụng: “Chưa từng có một pháp, Chẳng tùy nhân duyên sanh v.v…” Đều nhân duyên nên nghóa có. Hai, duyên sanh nên không là như kinh nói: “Nhân duyên sở sanh không có sanh”. Luận có kệ tụng: “Nếu pháp tùy duyên sanh, Thì là không tự tánh, Nếu là không tự tánh, Sao mà có pháp đó”. Lại có kệ tụng: “Do vì có nghóa không, Hết thảy pháp được thành”. Do trong luận các phẩm trước lấy không để dứt trừ có, Tiểu thừa bèn cho vì Bồ-tát làm lỗi, nói là “nếu hết thảy pháp không sanh không diệt, như vậy thì không có pháp của bốn Thánh đế”. Bồ-tát trở lại đáp rằng: “Nếu hết thảy chẳng không, không sanh không diệt, như vậy thì không có pháp của bốn Thánh đế”. Nghóa là Tiểu thừa vì không nên không bốn đế, Bồ-tát vì chẳng không thì mất bốn đế. Nếu có nghóa không, bốn đế mới thành. Nên kệ tụng nói: “Do vì có nghóa không, Hết thảy pháp được thành, Nếu không có nghóa không, Hết thảy đều chẳng thành”. Lại nữa, kinh Bát-nhã nói: “Nếu các pháp chẳng không, thì không đạo không quả”, tức không tánh nên có vậy. Kinh Tịnh Danh nói: “Văn- thù-sư-lợi lại hỏi: “Sanh tử có khiếp sợ, Bồ-tát phải nương tựa ở đâu?” Duy-ma-cật đáp: “Bồ-tát ở trong sanh tử khiếp sợ, phải nương tựa vào sức công đức của Như Lai”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Bồ-tát muốn nương tựa sức công đức của Như Lai, phải trú nơi đâu?” Duy-ma-cật đáp: “Muốn nương tựa sức công đức của Như Lai phải trú ở độ thoát hết thảy chúng sanh”. Văn-thù-sư-lợi laiï hỏi: “Muốn độ chúng sanh, phải trừ những gì?” Duy-ma-cật đáp: “Muốn độ chúng sanh, trừ phiền não đó”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Muốn trừ phiền não, phải hành thế nào?” Duy-ma-cật đáp: “Phải hành chánh niệm”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Thế nào là hành ở chánh niệm?” Duy-ma-cật đáp: “Phải hành chẳng sanh chẳng diệt”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Pháp nào chẳng sanh pháp nào chẳng diệt?” Duy-ma-cật đáp: “Pháp bất thiện chẳng sanh, pháp thiện chẳng diệt”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: :Thiện và bất thiện, ai làm gốc?” Duy-ma-cật đáp: “Tham dục làm gốc”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Tham dục, ai làm gốc?” Duy-ma-cật đáp: “Hư vọng phân biệt làm gốc”. Văn- thù-sư-lợi lại hỏi: “Hư vọng phân biệt ai làm gốc?” Duy-ma-cật đáp: “Điên đảo tưởng làm gốc”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Điên đảo tưởng, ai làm gốc?” Duy-ma-cật đáp: “Vô trú làm gốc”. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Vô trú ai làm gốc?” Duy-ma-cật đáp: “Vô trú thì không gốc. Văn-thù- sư-lợi! Từ gốc vô trú lập hết thảy pháp”. Duệ công giải thích rằng: “Vô trú tức tên khác của thật tướng, thật tướng tức tên khác của tánh không, nên từ không tánh có hết thảy pháp”. Lại nữa, cũng kinh Tịnh Danh nói: “Văn-thù-sư-lợi nói: “Cư só! Bồ-tát có bệnh, làm sao điều phục tâm đó?” Duy-ma-cật đáp: “Bồ-tát có bệnh nên khởi tâm niệm: Nay ta có bệnh này đều do điên đảo vọng tưởng các thứ phiền não từ đời trước sanh, không có thật pháp. Ai là kẻ nhận chịu bệnh? Tại sao? Vì bốn đại hòa hợp, giả danh làm thân, bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, nên bệnh này khởi đều do chấp trước ngã”. Cho nên đối với ngã, không nên sanh đắm trước. Đã biết gốc bệnh tức trừ ngã tưởng và chúng sanh tưởng, phải khởi pháp tưởng, nên sanh ý niệm rằng: “Chỉ vì chúng sanh hợp thành thân này. Khởi chỉ pháp khởi, diệt chỉ pháp diệt”. Lại pháp đây mỗi chẳng cùng biết. Lúc khởi không nói ta khởi, lúc diệt không nói ta diệt. Bồ-tát có bệnh ấy vì diệt pháp tưởng, phải khởi ý niệm”. Pháp tưởng này đây cũng là điên đảo. Điên đảo tức là đại loạn, ta nên xa lìa đó. Làm sao xa lìa? Lìa ngã và ngã sở? Làm sao lìa ngã và ngã sở? Nghóa là lìa hai pháp. Thế nào là lìa hai pháp? Nghóa là chẳng nghó nhớ các pháp trong ngoài, thực hành ở bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Nghóa là ta ngang bằng, Niết-bàn ngang bằng. Tại sao như vậy? Ta và Niết-bàn cả hai đều không? Lấy gì làm không? Chỉ vì danh tự nên không. Hai pháp như vậy, không tánh quyết định, được bình đẳng đó, không có các bệnh khác, chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không”. Không tánh duyên sanh nên không là, hai điệp trong bốn câu trước là hai thứ không vậy. Hai thứ không ấy đều lìa đoạn kiến, nghóa là quyết định có thì chấp thường, quyết định không thì chấp đoạn. Nay duyên sanh nên không, chẳng phải quyết định không, không tánh nên không, cũng chẳng phải quyết định không. Quyết định không là một mực không vật gì, như lông rùa sừng thỏ. Nay chỉ theo duyên sanh nên có cũng là hai điệp trong bốn câu trước là hai thứ có, chẳng phải thường thấy. Có có của thường thấy là định tánh có. Nay theo duyên có chẳng phải định tánh có, huống là do không tánh có, đâu là quyết định có ư? Theo duyên không tánh như người huyễn hóa, chẳng phải không người huyễn hóa, vì huyễn hóa chẳng phải chân, cũng nói là huyễn có, cũng gọi là Diệu hữu. Vì chẳng phải có làm có nên gọi là Diệu hữu. Lại nữa, huyễn có tức là chẳng phải có có. Trong kinh Đại Phẩm nói: “Các pháp không chỗ có”, có như vậy, chẳng phải có chẳng phải chẳng có nên gọi là Trung đạo, là nghóa của huyễn có. Chân không là chẳng phải không không là có nghóa chẳng không và không không chướng ngại, cho nên chẳng phải không chẳng phải chẳng không gọi là Trung đạo, là nghóa của chân không. Kinh nói: “Không chẳng không không thể nói, gọi là chân không”. Trung Luận có kệ tụng rằng: “Không tánh pháp cũng không, Vì hết thảy pháp không”. Ở kinh Yêm-đề-già-nữ có kệ tụng: “Than ôi! Chân Đại đức, Chẳng biết nghóa thật không, Sắc không có tự tánh, Há chẳng phải như không. Không nếu tự có không, Thì chẳng dung các sắc, Vì không chẳng tự không, Các sắc theo đó sanh.” Lại nữa, một là, nghóa không, có hại nhau, như nay mới đầu chân không hẳn hết huyễn có, tức là chân lý Đoạt sự môn, vì sự quậy lý thành, bèn khiển sự tướng không gì chẳng đều tận, chỉ một chân lý bình đẳng hiển hiện. Vì lìa ngoài chân lý không có sự nhỏ có thể được, như nước đoạt sóng, sóng không chẳng hết. Kinh Bát-nhã nói: “Cho nên trong không không sắc không thọ, tưởng, hành, thức v.v…”. Hai là, nghóa không có tướng tạo tác, chân không hẳn thành huyễn có tức là y cứ lý thành sự môn, nghóa là sự không thể riêng biệt, cần phải nhân chân lý mà được thành lập, vì các duyên khởi đều không tự tánh, do không tánh lý nên sự mới thành như sóng quậy nước mà thành lập đó, cũng là y cứ Như Lai Tạng được có các pháp. Kinh Pháp Cú nói: “Bồ-tát ở trong rốt ráo không, mạnh mẽdựng lập”. Ba là, nghóa không có tướng trái ngược. Huyễn có hẳn che phủ chân không, tức sự năng chướng lý môn, nghóa là chân lý tùy duyên hay thành sự pháp, nhưng sự pháp ấy đã trái với lý bèn khiến sự hiển mà lý chẳng bày. Vì lìa ngoài sự không có lý, như sóng đoạt nước, nước không chẳng ẩn, đó thì trong sắc không tướng không vậy. Bốn là, nghóa không có chẳng cùng ngại, huyễn có ắt chẳng ngại chân không, tức sự năng hiển lý môn, nghóa là do sự quậy lý thì sự hư mà lý thật. vì sự rỗng nên lý của toàn sự nổi bật hiển bày, như do tướng sóng rỗngkhiến nước hiện bày. Ở Trung Luận có kệ tụng: “Nếu pháp tùy duyên sanh, Thì là không tự tánh”. Nhưng bốn nghóa đây tức là bốn nghóa duyên sanh nên không trước v.v… vậy. Một là, chân không hẳn hết tận huyễn có là không tánh nên nghóa không. Hai là, chân không hẳn thành huyễn có là không tánh nên nghóa có. Ba là, huyễn có hẳn che phủ chân không là duyên sanh nên nghóa có. Bốn là, huyễn có hẳn chẳng ngại chân không là duyên sanh nên nghóa không. Bốn điểm trên toàn nói về sở dó có không. Nay tiếp bốn nữa là chánh nói rõ tướng của có không. Nhưng có và không đây tuy hai mà chẳng hai, phải biết bốn nghóa, hai nơi danh khác. Một là, chân không hẳn tận huyễn có là nghóa không trên chân không. Hai là, chân không hẳn thành huyễn có là nghóa chẳng không trên chân không. Ba là, huyễn có hẳn che phủ chân không là nghóa chẳng phải có trên huyễn có. Bốn là, huyễn có hẳn chẳng ngại chân không là nghóa chẳng phải có trên huyễn có. Lại phải biết có chẳng phải có, không chẳng phải không, mỗi mỗi có hai nghóa: Thứ nhất, hai nghóa trên có: một là nghóa chẳng hoại tướng có; hai là ngăn đoạn diệt, thì đặt để có chẳng phải chẳng có. Thứ hai, hai nghóa trên chẳng phải có: một là nghóa lìa tướng có; hai là nghóa tức là không. Thứ ba, hai nghóa trên không: một là nghóa chẳng hoại tánh; hai là nghóa ngăn định tánh, nên đặt để không làm chẳng phải chẳng không. Thứ tư, hai nghóa trên chẳng phải không: một là nghóa lìa tướng không; hai là nghóa tức có. Đã biết danh nghóa, nay dung hợp mới có năm lớp làm năm lớp Trung đạo: Một là, nghóa là có chẳng phải có không, hai là một huyễn có, đây là nghóa hai có trên tự hợp, nhưng lấy nghóa chẳng hoại tướng của có trên chẳng phải nghóa lìa tướng có của có trên nên hợp làm một huyễn có, là Trung đạo thuộc Tục đế. Hai là, chẳng phải không không hai làm một chân không, tức hai nghóa không trên tự hợp, nhưng lấy nghóa chẳng hoại tánh của không trên, chẳng phải nghóa lìa tướng không của không trên, nên hợp làm một chân không, là trung đạo thuộc Chân đế. Một trước làm Trung đạo của tức tướng không tướng. Một đây làm trung đạo của tức tánh không tánh, cũng là còn hết không hai nghóa. Ba là, chẳng phải không và có không hai làm một huyễn có. Một trên đối không có tự hợp. Một dưới đây đối không có bốn nghóa xen nhau mà hợp, nay thứ ba đây mà lấy nghóa chẳng phải không của chân trên, nghóa có của huyễn có trên, hai nghóa tướng thuận, rõ ràng không hai, nhưng đó chẳng phải không trên, lấy tức là nghóa có. Có trên, lấy nghóa ngăn đoạn diệt nên được cộng thành huyễn có, làm chẳng phải không chẳng phải chẳng có, Trung đạo của còn hết không ngại. Bốn là, không và chẳng phải có không hai làm một chân không, tức thứ tư lấy nghóa không của chân không trên, nghóa chẳng phải có của huyễn có trên, hai nghóa thuận nhau rõ ràng nó chẳng hai, nhưng đó là nghóa ngăn định có của không trên, chẳng phải nghóa tức là không của có trên, nên hai nghóa tương thuận, được thành chân không, làm chẳng phải có chẳng phải chẳng không, là Trung đạo của còn hết không ngại, thứ ba là còn tục hết chân, đây là còn chân hết tục. Lại, ba là không triệt ở có, nay là có triệt ở không, đều hai đế giao nhau tận cùng. Năm là, huyễn có và chân không không hai làm một vị pháp giới, tức thứ năm gồm hợp cả bốn trước, khiến nó không hai, nhưng trên mỗi hợp giao nhau triệt để đều chẳng vượt ngoài chân không huyễn có, nên nay hợp nó làm một vị pháp giới, làm Trung đạo của hai đế đều dung. Nhưng ba và bốn tuy dung hai đế, mà không và có riêng dung, nay đây không và có không ngại, tức là chẳng phải không chẳng phải có không ngại, nêu một toàn thâu. Nếu đem chân đồng tục thì chỉ một huyễn có, nếu dung tục đồng chân thì chỉ một chân không, không và có không hai, làm Trung đạo của song chiếu, chẳng phải không chẳng phải có không hai, làm Trung đạo song ngăn. Ngăn chiếu một thời, còn hết không ngại, nên nói lìa tướng lìa tánh, không chướng không ngại, không phân biệt pháp môn. Dùng huyễn có làm tướng, chân không làm tánh. Lại, không và có đều làm tướng, chẳng phải không chẳng phải có làm tánh. Lại, riêng biệt hiển làm tướng, gồm dung làm tánh. Nay hỗ tương đoạt cả song dung thảy đều lìa vậy. Không phân biệt pháp chỉ nói về trí để nói, chỉ không phân biệt trí, mới rốt ráo nguồn ấy. Không chướng ngại đó thông ở cảnh để nói, tâm trí khế hợp tức làm năm quán. Năm cảnh đã dung, năm quán cũng dung, vì trí của cùng dung khế hợp với cảnh của không ngại, thì tâm cảnh không ngại. Trong tâm có cảnh của vô tận, trên cảnh có tâm của không ngại. Nên cốt yếu phải quên ngôn từ mới hợp lý đó, gồm làm tướng duyên khởi thậm thâm. Nên biết nếu thấu rõ không có không ngại, chân tục dung thông, tông của không tánh, lý của duyên sanh, như đồng thần biến, chẳng định phương góc, tuy ở nơi chật hẹp mà thường rỗng thoáng. Giả sử ở chỗ sâu mà quá cạn, hoặc tại dưới mà luôn trên, mặc tình đi giữa mà tức bên cạnh, chúng sanh thường ở nơi thân Phật, Niết-bàn chỉ y cứ sanh tử, có thể gọi là Diệu chỉ nhớ nghó, chẳng phải chỗ tình nhận biết được. Nên nói: “Biển tánh không bờ muôn đức lấy đó làm nhiều rộng. Duyên sanh chẳng lường, các môn do đó được viên thông. Chẳng thể xoay chuyển muôn sai, hình của cuộn buông đó tùy theo trí. Dung hợp thành một khoảng, thế của mở hợp theo tâm, chiếu chẳng mất có. Có sai biệt mà luôn thuận, dụng chẳng phải trái thể tuy một vị mà thường thông. Lại nói mảy trần chẳng hoại tướng nhỏ mà khắp cả mười phương, nhiếp cùng tất cả. Ở trong hiển hiện, đó do lượng thì chẳng phải lượng, chẳng phải lượng tức lượng. Lại ở nơi đất của thấy nghe, tức thấy nghe đến chẳng hợp, ở nơi khoảng nghó bàn, tức nghó bàn đến chẳng lường, đều do thể chẳng nghó bàn, vì tự chẳng thể được, tức nghó chẳng thể nghó. Trong kinh nói: “Chỗ nghó chẳng thể nghó, đó gọi là khó nghó”. Pháp giới quán Chân không môn nói: Một là, sắc tức là không là vì sắc khắp thể toàn là chân không, chẳng tức đoạn không. Vì sắc v.v… vốn là nhất tâm chân như, cùng sanh diệt hòa hợp, gọi là A-lại-da thức, hay biến khởi căn thân khí giới”, tức là chỗ nói rõ sắc v.v…, các pháp trong đây vậy. Nên nay tìm tòi đó, đều không thể đó, nên nêu sắc kết quy ở không của chân tâm, chẳng hợp kết quy ở không của đoạn diệt, vì vốn chẳng phải sở biến của đoạn không nên đoạn không thì hư rỗng đoạn diệt, vô tri không dụng, chẳng thể hiện ở muôn pháp, như không của ngoài gương chẳng phải đồng không của trong gương, sắc tướng rõ,ràng nhiên cầu không thể được, gọi đó là không. Lại nữa, phàm là sắc pháp hẳn chẳng khác chân không, vì các sắc pháp hẳn là không tánh, cho nên, sắc tức là không, đã chẳng phải diệt sắc lấy không, lìa sắc cầu không, lại chẳng phải không của tức hình hiển sắc tướng, lại chẳng phải là không của hình hiển không thể, tức là chân không, nếu chẳng tức sắc tướng tức không biến kế sở chấp. Chẳng lìa không thể tức là y tha duyên khởi. Chân lý của duyên khởi không tánh tức là viên thành. Hai là, nói rõ không tức sắc là chân không hẳn chẳng khác sắc, nên nói không tức sắc là không tức là sắc. Tại sao? Phàm là chân không hẳn chẳng khác sắc, vì đó là lý pháp Vô ngã, chẳng phải đoạn diệt, cho nên không tức là sắc. Nếu lìa sự mà cầu lý không tức thành đoạn diệt, nay tức sự rõ ràng lý của vô ngã không tánh chân không. Lìa sự sao có lý ư? Vì chân như chẳng thủ tự tánh, tùy duyên thành các sự pháp, thì nêu không toàn sắc, nêu lý toàn sự. Lại nữa, chân như chánh lúc tùy duyên chẳng mất tự tánh, thì nêu sắc toàn không, nêu sự toàn lý. Ba là, không và sắc vô ngại, nghóa là sắc, nêu thể toàn là không của tận sắc, nên sắc tận mà không hiện. Không nêu thể chẳng khác sắc của tận không, tức không tức sắc mà không chẳng ẩn. Cho nên, nhìn sắc không gì chẳng thấy không, quán không chẳng gì chẳng thấy sắc, không chướng không ngại, làm một vị pháp vậy, như nêu các sóng toàn là một nước, nêu một nước toàn là các sóng, sóng nước chẳng ngại đồng thời, mà thể nước nổi trội toàn bày, như tức không tức sắc mà không chẳng ẩn. Luận Bảo Tạng nói: “Không có thể không chẳng phải chân không, sắc có thể sắc chẳng phải chân sắc, chân sắc không hình, chân không không danh. Không danh là cha của danh, không sắc là mẹ của sắc, làm cội nguồn của muôn vật, làm Thái tổ của trời đất”. Triệu Luận nói: “Không không thật tướng pháp tánh tánh không duyên hội một nghóa vậy”. Tại sao? Hết thảy các pháp duyên hội mà sanh, thì chưa sanh không có, chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, như thật có đó, có thì không diệt, lấy đó mà suy tìm nên biết tuy nay hiện có, có mà tánh thường tự không. Tánh thường tự không nên gọi đó là tánh không. Pháp tánh như vậy nên gọi là thật tướng. Thật tướng tự không, chẳng phải suy tìm đó khiến không, nên gọi là vốn không. Nói chẳng có chẳng không là chẳng như có của chấp có chấp thường, không của tà kiến đoạn diệt vậy. Nếu lấy có làm có, thì lấy không làm không. Có đã chẳng có thì không không vậy. Phàm chẳng còn không để quán pháp, có thể gọi là biết thật tướng pháp vậy. Cho đến Tam thừa các thứ quán tánh không mà đắc đạo vậy. Tánh không, nghóa là thật tướng của các pháp, thấy thật tướng pháp, nên làm chánh quán, nếu là khác đó tức làm tà quán. Nếu hàng Nhị thừa chẳng thấy lý này thì điên đảo vậy. Do đó, Tam thừa quán pháp không khác, chỉ tâm có đại tiểu làm sai vậy. Lại như luận Bất Chân Không nói: “Phàm, chí hư không sanh, bởi là diệu thú của Bát-nhã huyền giám, tông của có vật cùng cực ấy vậy. Tự chẳng phải bậc Thánh minh đặc đạt, sao có thể khế hợp thần ở khoảng có và không ư? Do đó, Thánh nhân thông thần tâm đến không cùng, cùng chỗ chẳng thể trệ, cực tai mắt ở thấy nghe, thanh sắc chỗ chẳng thể chế, há chẳng vì đó tức là tự hư của muôn vật. Nên vật chẳng thể lụy thần minh đó ấy vậy. Do đó, Thánh nhân nương thân tâm làm lý thuận thì không trệ mà chẳng thông. Xét một khí để quán hóa, nên chỗ gặp mà thuận vừa. Vì không trệ mà chẳng thông, hay hỗn tạp mà khiến thuần. Vì chỗ gặp mà thuận vừa thì xúc chạm vật mà một. Như vậy thì muôn tượng tuy khác, mà chẳng thể tự khác. vì chẳng thể tự khác nên biết tượng chẳng phải chân tượng. Tượng chẳng phải chân tượng thì tuy tượng mà chẳng phải tượng. Nhưng mà vật ngã đồng căn, phải quấy một khí, ngầm nhỏ u ẩn, gần như chẳng phải chỗ tận của các tình. Nên biết nếu nương chân tâm mà rõ suốt vật thì vật nào mà chẳng kết quy, ngang bằng một khí mà quán thời, thì thời nào mà chẳng hội? Không thời nào chẳng hội thì biết không sanh của xúc cảnh, không vật nào chẳng kết quy thì thấy tự rỗng của tánh vật vậy. Nếu nhậm tình chỗ chiếu sao có thể cùng tận yếu chỉ sâu mầu đó ư? Nếu chẳng tỏ ngộ tông khó trốn khỏi vết thấy. Như cư só Bàng Uẩn có lời kệ rằng: “Ngày xưa khi “có” thời, Thường bị người khinh “có,” Các thứ sanh phân biệt, Thấy nghe lắm phải quấy. Sau đến trong “không” ngồi, Lại bị người khinh “không,” Một mực nhìn tâm ngồi, Mờ mờ không chỗ biết. Có không đều là chấp, Xứ nào là vô vi, Có không đồng một thể, Các tướng thảy đều lìa. Vì tâm đồng hư không, Hư không không chỗ y, Nếu luận lý vô tướng, Chỉ có phụ vương biết.” Nên biết các pháp có không, muốn cầu cứu cánh, chỉ tâm mới chứng. Nếu chưa quy tâm đều thành chân như, làm thường làm đoạn, thành phải thành quấy, mới vào tông đâu tự nhiên dung tức. Nghóa là trước nói rõ chỗ khởi đó, biết từ tâm sanh. Đã từ tâm sanh thì muôn pháp theo duyên đều không thể tánh, hẳn không pháp ngoài tâm có thể cùng tâm làm duyên, hẳn là tự tâm sanh, trở lại cùng tâm làm tướng. Chỉ luận không có thì rộng nói rõ các pháp. Tại sao? Vì không và có gồm hết thảy pháp. Hai môn tánh và tướng, cũng là hai môn thể và dụng, cũng là hai môn chân và tục, cho đến Tổng biệt, đồng dị, thành hoại, lý lượng, quyền thật, buông cuộn, chánh phụ, ta chánh, ngăn chiếu v.v…, hoặc giống nhau,, gồm nhau, là nhau, khác nhau, biến đổi nhau, thành tựu nhau, hại nhau, đoạt nhau, tức nhau,tại nhau,che nhau, tương phú trái nhau, mỗi mỗi như vậy, mỗi mỗi dung thông. Nay dùng môn nhất tâm không tánh, một lúc gom thâu hết, danh nghóa cả hai đều tuyệt, cảnh quán đều chung, khế hợp yếu chỉ quên mất ngôn từ, đều quy về Tông Kính. Do đó, phải biết danh nghóa hành tướng sai biệt, mới có thể dùng thể tánh dung thông. Nếu chẳng trước ngang dọc phô bày, sau làm sao một môn quyển nhiếp? Nên Hoàn Nguyên Quán nói: “Dụng nhóm thể phân chẳng phải không thế của sai biệt. Sự y lý hiện, tự có hình của một khoảng. Như trên, nhỏ nhiệm phân tích rộng soi xét hai môn có không, có thể gọi là được căn do của muôn pháp, thấu cùng khởi diệt của các duyên. Hai pháp có không đây mê đảo sở do. Chín mươi sáu thứ tà sư nhân đây mà khởi. Sáu mươi hai kiến lợi sư từ đây mà sanh. Bồ-tát còn chưa tận cùng căn nguyên đó, phàm phu sao có thể rốt ráo yếu chỉ đó? Do đó, luận Bảo Tánh nói: “Bồ-tát không loạn ý đối với chân không diệu hữu đây còn có ba điểm nghi ngờ: Một là, nghi ngờ không diệt sắc, thủ lấy không của đoạn diệt. Hai là, nghi ngờ không khác sắc, thủ lấy không ở ngoài sắc. Ba là, nghi ngờ không là vật, thủ lấy không làm có”. Nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thiện Tài đồng tử trải qua phụng sự chư Phật đã chứng pháp môn, còn như ở trong pháp không mà tính có. Nếu cứu cánh xa lìa thì chỉ có bậc Đại Bồ-tát”. Luận Đại Trí Độ có kệ tụng nói: “Có không hai kiến diệt không còn, Các pháp thật tướng Phật tuyên bày”. Kinh Tịnh Danh nói: “có không hai kiến không còn các tập khí khác”. Lại có kệ tụng rằng: “Nói pháp chẳng có cũng chẳng không, Do vì nhân duyên các pháp sanh”. Tại sao? Nếu thời có nhân duyên chấp có thì nói môn không. Nếu thời có nhân duyên chấp không thì bèn bàn giáo có. Vì phá có nên chẳng còn không, vì trị không nên chẳng lập có, nên nói có mà chẳng có, nói không mà chẳng không. Hoặc cả hai đều mất mà cả hai đều lưu, hoặc cả hai đều chiếu mà cả hai đều tịch. Phá lập một mé, ngăn chiếu đồng thời, như Triệu Luận sao nói: “Nay căn cứ luận văn gồm có bốn ý để hiển bày yếu chỉ của tròn khắp: Một là, phá thật hiển không; Hai là, phá không hiển giả; Ba là, phá chỉ không chỉ giả, hiển cũng không cũng giả; bốn là, phá cũng không cũng giả, hiển chẳng phải không chẳng phải giả, thì là Trung đạo, mới gọi là Chu viên vậy. Nhưng bốn luận đều có tròn khắp, nay mỗi mỗi đã biện rành đó. Tạm giới hạn bốn nghóa: Một là nói về cảnh; hai là nói về trí; Ba là nói về quả; Bốn là nói về cảnh trí quả. Một là nói về cảnh là, như luận Bất Chân Không nói: “Tức vật thuận thông nên vật chẳng nghịch đó. Đó tức là pháp thật hiển không, dứt trừ chấp của phàm phu, tức ngụy tức chân nên tánh chẳng đổi đó. Đó tức là pháp không hiển giả, dứt trừ chấp của Thanh văn. Tánh chẳng đổi nên tuy không mà có. Vật chẳng nghịch nên tuy có mà không. Đó thì pháp có pháp không, hiển cũng không cũng giả. Biện giải về cảnh của Bồ-tát, tuy có mà không. Điều gọi là chẳng phải có, tuy không mà có. Điều gọi là chẳng phải không. Đó là pháp cũng không cũng giả, dứt trừ chấp của Bồ-tát, hiển bày Trung đạo Đệ nhất không, cảnh của Phật. Đó thì cảnh tròn khắp vậy. Hai là, nói về trí thì là luận Bát-nhã vậy. Nếu dùng trí Bát-nhã mỗi mỗi rành rẽ cảnh không giả v.v… thì thành tâm lượng. Chỉ là có trí, chẳng được ý của vô trí. Nay từ trí trước biết phàm là một cảnh tức phải tròn khắp vậy. Luận nói: “Nói tri chẳng phải làm tri, muốn để thông soi xét đó. Đây là pháp phàm phu chấp tướng tri biện giải vô tri vậy. Chẳng biết chẳng phải chẳng biết, muốn để biện tướng đó. Đây là pháp vô tri của Thanh văn. Biện giải không chủng chẳng biết vậy. Biện tướng chẳng làm không, thông xét chẳng làm có. Đây là phá cũng biết cũng không biết, hiển chẳng phải biết chẳng phải chẳng biết vậy. Chẳng phải có nên biết mà không biết, chẳng phải không, không biết mà biết. Đây là pháp chẳng phải biết, chẳng phải chẳng biết, biện giải cũng biết cũng không biết. Từ trước đến đây, bốn nghóa nói tuy trước sau đều tại nhất tâm, chẳng tức chẳng lìa, có thể gọi là Phật trí tròn khắp vậy. Ba là, nói về quả để biện giải là như văn trong luận Niết-bàn nói: “Còn chẳng làm có, phá Hữu dư Niết-bàn, khiển trừ chấp thường của Thanh văn, mất chẳng làm không, phá Vô dư Niết-bàn, khiển trừ chấp đoạn của Thanh văn. Mất chẳng làm không tuy không mà có, còn chẳng làm có tuy có mà không, đó là song phá có không, hiển bày cũng có cũng không. Tuy có mà không, điều gọi là chẳng phải có. Tuy không mà có, điều gọi là chẳng phải không, đó là phá cũng có cũng không, hiển bày chẳng phải có chẳng phải không, vì hiển bày Trung đạo, cảnh của Phật. Không trú Niết-bàn quả tròn khắp vậy. Bốn là, nói về cảnh trí quả ba hợp biện giải, thì là gồm thâu các văn luận trước. Hai luận trước là cảnh của Chân đế không tướng làm chân không, Bát-nhã năng quán chân trí, tức là gốc của muôn hạnh làm diệu hữu, như cảnh phát trí, do trí hiển cảnh, cảnh trí qua lại hiển bày làm cũng không cũng có, tức như trong luận Niết-bàn nói ba đức cùng ngầm, cảnh trí không hai, chẳng đoạn chẳng thường, làm chẳng phải không chẳng phải có. Có thể gọi là Niết- bàn cưc quả vậy. Tức ý của Như Lai nhất hóa thảy đều tròn khắp thì hết sạch biển sâu của Phật pháp vậy. Nên biết chân không khó giải, nên phải khéo đắc chỉ quy. Nếu tùy theo văn của có không, đều rơi lạc vào tà kiến. Như ở kinh Ương-quật- ma-la có kệ tụng: “Thí như có gã ngu, Thấy bọt nước khởi tưởng, Cho là châu lưu ly, Vốc lấy giữ mang về. Đặt để ở trong bình, Gìn giữ như báu thật, Chẳng lâu đều tiêu tan, Không tưởng im lắng trú. Với lưu ly thật khác, Cũng lại sanh không tưởng, Văn-thù cũng như vậy, Tu tập cực không tịch. Thường khởi tư duy không, Phá hoại hết thảy pháp, Giải thoát thật chẳng không, Mà khởi cực không tưởng. Tợ như thấy bọt tan, Lạm hoại các chân thật, Ngươi nay cũng như vậy, Lạm khởi cực không tưởng. Thấy ở pháp không rồi, Chẳng không cũng bảo không, Có khác pháp không đó, Có khác pháp chẳng không. Hết thảy các phiền não, Thí như báu lưu ly thật, Là Như Lai thường trú, Như báu lưu ly thật. Gọi là Phật giải thoát, Hư không sắc là Phật, Phi sắc là Nhị thừa, Giải thoát sắc là Phật. Phi sắc là Nhị thừa, Làm sao cực tướng không, Mà nói thật giải thoát? Văn-thù nên nghó kỹ. Chớ chẳng phân biệt tưởng, Thí như tụ lạc không, Sông cạn, bình chẳng nước, Chẳng phải không các vật. Trong rỗng nên gọi không, Như Lai thật giải thoát, Chẳng không cũng như vậy, Xa lìa tất cả quá. Nên nói giải thoát không, Như Lai thật chẳng không, Lìa hết thảy phiền não, Và các ấm trời, người. Cho nên nói là không, Than ôi! Hạnh rận rệp, Chẳng biết nghóa chân không, Ngoại đạo cũng tu không, Ni càn nên im lặng.” Sở dó ngoại đạo chấp đoạn không, Nhị thừa chứng chỉ không, đều chẳng thấu đạt lý nhất tâm như hư không. Nên vô sanh nghóa nói: “Kinh nói: Trì tâm như hư không, chẳng phải là đoạn không. Khi ấy như có thần diệu, tức có diệu thức nghó lường”. Hỏi: Kinh nói trì tâm như hư không, nào có ở thần diệu? Đáp: Kinh nói trì tâm như hư không là chỉ trì tâm khiến chẳng sanh. Nói như hư không chẳng phải tức là không, là kinh nói như hư không vậy. Kinh nói: Nếu thức ở hai pháp thì có vui mừng. Nếu thức ở trong pháp không hai thật tế, thì không vui mừng. Thật tế tức là pháp tánh, không thức tức là diệu thần, nên biết trong thật tế gồm có diệu thần vậy. Trong phẩm Tánh khởi ở kinh Hoa Nghiêm làm mười thứ thí dụ để rõ pháp thân Phật có tâm. Đại sư nói tuy có diệu thần, thần tánh chẳng sanh cùng như một thể, thí như gợn sóng trở lại là nước, cùng nước một thể, nước cũng có tánh gợn, nếu không tánh gợn là lạnh đông buộc gợn thì chẳng hiện, trong như cũng có diệu thần, tánh đồng như thanh tịnh thì hiện, bất tịnh thì lại chẳng thấy. Cho đến như thầy chủ dòng họ Phó. Dòng họ Phó trong thân tìm không được, ngoài thân tìm không được, khoảng giữa tìm không được, phải biết dòng họ Phó là không mà chẳng phải là không của đoạn không. vì trong dòng họ Phó gồm có các nam nữ, nên nói tánh không khác với hư không. Phật tánh là không, pháp thân chư Phật chẳng không. Đại sư dẫn kinh nói: “Sắc tướng nữ thân không tại không chẳng tại. Phàm không tại không chẳng tại là điều Phật giảng nói vậy”. Giải thích rằng: “Sắc tướng nữ thân tức như, nên nói là không tại, tánh như chân thường, thể gồm các tướng, nên nói không chẳng tại, gồm là gồm có các tướng nam nữ sắc thanh v.v…. Kinh Niết-bàn nói rõ Bồ-tát niệm pháp: “Này thiện nam! Chỉ chánh pháp đây không có thời tiết, chỗ pháp nhãn thấy chẳng phải nhục nhãn thấy, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng trú, chẳng diệt, chẳng thủy, chẳng chung, không minh, không số. Đây chánh nói rõ thể như, chẳng phải kết chẳng phải nghiệp. Đoạn kết đoạn nghiệp mà cũng là nghiệp, chẳng phải nam, đoạn nam màcũng là nam, chẳng phải có, đoạn có mà cũng là có. Chẳng phải nhập, đoạn nhập mà cũng là nhập, cho đến các nơi Phật đến dừng trú vẫn thường chẳng biến đổi. Đó gọi là Bồ-tát niệm pháp”. Như trên, hai môn không có giới hạn và nói rộng nghóa dụng đó, bèn nói còn hết mở hợp. Nếu phá tình chấp đó mới nói tức là có không, thiết bày ngay lúc thấy tánh chứng hội. Trí giải đều tuyệt như Mẫn Tuyệt Vô Ký Quán nói: Gọi chỗ quán chân không đây chẳng thể nói tức sắc chẳng tức sắc, cũng chẳng thể nói tức không chẳng tức không. Hết thảy đều chẳng thể, chẳng thể cũng chẳng thể, nói đây cũng chẳng nhận, chóng tuyệt vô ký, chẳng phải nơi ngôn từ nói kịp, nơi giải hiểu thấu tới. Đó gọi là hạnh cảnh. Tại sao? Sanh tâm động niệm tức trái pháp thể, vì mất chánh niệm, cho đến nếu chẳng rõ suốt giải trước, không vì noi theo thành hạnh đây. Nếu chẳng giải hạnh pháp đây tuyệt ở giải trước, không vì thành chánh giải đó, nếu giữ giải chẳng bỏ, không vì vào chánh hạnh đây. Cho nên hạnh do giải thành, hạnh khởi giải tuyệt, xưa trước giải thích rằng: Không tức là sắc là Thánh nên đồng phàm thấy vọng sắc, phàm nên đồng Thánh thấy chân không. Lại nên không hai đế. Không nếu chẳng tức sắc là thấy không ngoài sắc không do thành ở Thánh trí. Lại nên phàm Thánh vónh biệt, vì Thánh chẳng theo phàm được. Lại sắc nếu tức là không là phàm mê thấy sắc nên đồng Thánh trí thấy không, lại cũng mất ở hai đế. Sắc chẳng tức không là phàm phu thấy sắc nên chẳng mê. Lại chỗ thấy sắc dài cách chân không nên trọn chẳng thành Thánh, sanh tâm động niệm tức trái pháp thể. Vì mất chánh niệm là lý tánh chân không vốn tự như nhiên, chỉ vì động niệm của mê chấp tướng tuy tìm phá chọn tình hiển giải. Nay tình quên trí hết, chỉ là bản chân, sao còn giải số mới sanh? Nếu có giải số tức là động niệm, động niệm sanh tâm nên mất chánh niệm. Chánh niệm là không niệm mà biết, nếu gồm vô tri sao thành chánh niệm? Lại giải làm dứt trừ tình, nói nhân phá chấp. Nếu tình tiêu chấp mất, nói giải sao còn. Chân tánh rõ ràng, tịch lắng không còn hết. Do đó nếu nói, tức và chẳng tức đều lạc vào phải quấy. Liếc treo có không tức chẳng phải chánh niệm nên nói: Mới có phải quấy rối ren mất tâm. Hỏi: Phàm, can thiệp và có không đều thành tà niệm, nếu liên quan đến năng sở thảy đều lạc vào có biết. Vậy, thế nào là không niệm mà biết? Đáp: Cỏ lành sanh vận tốt, hoa rừng nở xuân về. <篇> TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 9 Hỏi: Phàm tu hành khế ngộ, pháp có nhiều như trần sa, cớ sao riêng lập nhất tâm làm tông, mà xưng là tuyệt diệu? Đáp: Nếu chẳng rõ tâm tông đều thành mê đảo, chạm đường thành bít trệ, chứng nhập không cửa. Như trong Tục đế cũng có pháp bí mật. Nếu chẳng đắc yếu quyết, học cũng không thành. Hoặc được môn đó, việc làm đều xong, nay giáo thừa xưng là pháp Bí mật. Thiền tông nêu văn chẳng truyền, thì hướng đường nào mà tiến tu, theo cửa nào mà thú nhập? Nếu chẳng được quyết của duy tâm, chánh tín không do đâu được thành. Mới được tông đó ngàn cửa tự mở. Đạo chẳng đợi cầu mà chứng hiện, hạnh chẳng nhờ tu mà tự viên mãn. Như đất gặp ánh nắng ngày Xuân, mầm mống nảy nở. Nên nói nếu không quán tuệ, sự cũng không thành. Lại nữa, tâm đây hay thành tất cả hay hoại tất cả. Thành thì chóng thành Phật của thiên chân. Do đó, Đại sư Chân Giác ca rằng: “Đó dùng cửa Thiền rõ ngay tâm, chóng vào vô sanh sức từ nhẫn”. Vì một môn vô sanh đây, một thành tất cả thành. Cho đến ba thân, bốn trí, tám giải thoát, sáu thần thông, vô lậu vô vi, muôn hạnh Phổ Hiền đều ở vô sanh một lúc viên mãn, nên nói: “Mới nghe môn chữ A tức hiểu hết thảy nghóa, chỗ gọi là hết thảy pháp chẳng sanh. Hoại thì dần hoại môn hữu vi vô vi công đức, do đó, ca rằng: “Tổn pháp tài diệt công đức, không gì chẳng do ở tâm ý thức”. Nên biết, tâm đây không nơi sâu tối nào mà chẳng chiếu soi, có pháp đều biết, xét mật phòng ngừa nhỏ nhiệm, cùng nay suốt xưa, nên gọi đó là linh đài. Nên Tư Mã Bưu nói: “Tâm là đài của thần linh”. Trang tử nói: “Muôn ác chẳng thể ở trong linh đài”. Trong kinh Danh Sớ có “Hỏi: Huyền nghóa nơi nơi phần nhiều rõ quán tâm, đã sợ chẳng thể, vào văn lại vậy, sắp chẳng hoại loạn kinh văn ư? Đáp: Nói kinh vốn làm vào đạo. Nếu kẻ Hiền hoại đạo, xúc xứ quán hạnh, đâu có tìm cầu Thánh điển Niết-bàn mà chẳng quán hạnh ấy ư? Chỉ khéo nói được thích nghi, chẳng chỉ không tồn văn nghóa, mà gồm được quán tuệ phân minh. Phân biệt pháp môn chẳng phải quán đâu xa, há có lỗi hoại loạn ư?” Phàm có điều nói, ý ở trước lời. Bản ý của Phật Tổ đều vì minh tâm đạt đạo, mượn dùng văn nghóa chỉ thẳng nguồn tâm, đâu có chấp thuyên giải, mê mờ yếu chỉ trái ngược tâm mà cầu đạo ư? Do đó, kinh Chánh pháp niệm xứ có kệ tụng rằng: “Trời, Rồng, A-tu-la, Địa ngục, quỷ La-sát, Tâm thường làm chủ dẫn, Như vua đi ba cõi. Tâm đưa đến trên trời, Lại đi đến trong người, Tâm dẫn đến ác đạo, Tâm luân chuyển thế gian.” Kinh Bảo Vũ nói: “Thế nào là Bồ-tát đắc Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá- na thiện xảo? Nghóa là tâm Bồ-tát này thiện xảo rồi, quán sát các pháp như huyễn như mộng, tư duy các pháp, đây là thiện pháp, đây là chẳng phải thiện pháp, đây là pháp xuất ly, đây là pháp chẳng xuất ly, nghóa là các Bồ-tát quán tất cả các pháp đều y cứ nơi tâm. Tâm làm tự tánh, tâm làm thượng thủ. Hay nhiếp thọ tâm, khéo điều phục tâm, khéo rõ biết tâm, nên hay nhiếp hết thảy các pháp đây đã khéo điều phục, lại khéo rõ biết, do nhân duyên ấy, tiện có thể tu tập pháp Xa-ma-tha. Buộc tâm như vậy, dừng tâm như vậy, và an trú tâm. Do siêng tu Xa-ma-tha như vậy bèn hay an trú hết thảy cảnh tánh”. Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Định Ý nói: “Đức bản ấy là rõ biết bản tâm, dùng tâm ấy hành từ đến các chúng sanh. Biết rõ không kia không ngã nhân, tâm đức ấy vốn giúp ở đạo, nên biết tâm là gốc đức, tức là tổng tướng. Tâm Phật và chúng sanh, ba không biệt tướng. Tâm là tổng tướng là pháp giới nhiễm tịnh muôn loại muôn pháp chẳng vượt ngoài nhất tâm”. Tâm đó tức nhiếp hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, nên gọi là Tổng tướng. Ngoài ra hai duyên nhiễm tịnh, mỗi thuộc hai loại. Nhưng tổng tướng nói trong mười pháp giới. Lục đạo là nhiễm, tứ Thánh là tịnh thì trong pháp giới hai duyên nhiễm tịnh, hai đạo Thánh phàm đều chẳng vượt ngoài nhất tâm vậy. Nên kinh nói: “tâm hay dẫn thế gian, tức nghóa của tự tại, tâm hay nhiếp thọ khắp, tức nghóa của tùy hành”. Pháp nhất tâm như vậy đều tự tại tùy hành. Luận Kim Cang Tam-muội nói: “Nhân của xuất thế là nhập thật tướng quán. Quả của xuất thế là một vị giải thoát”. nên biết mời đầu thì tín tâm mà vào đạo, sau thì chứng tâm mà đắc quả, thủy chung chẳng vượt ngoài Tông Kính vậy. Kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng rằng: “Chỉ tâm không chỗ có, Các hành và Phật địa, Chư Phật ở ba đời, Đều giảng nói như vậy”. Đế vốn không chỗ có, đó gọi là nhất tâm. Trong phẩm Dạ-ma thiên kệ tán ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Thí như thợ khéo vẽ, Phân bố các màu sắc, Trong sắc không đại chủng, Cũng chẳng lìa đại chủng. Mà có sắc khác được, Trong tâm không nét vẽ, Trong nét vẽ không tâm, Nhưng chẳng lìa ở tâm. Có màu vẽ khá được, Tâm kia luôn chẳng trú, Vô lượng khó nghóa bàn, Hiện bày tất cả sắc. Mỗi mỗi chẳng cùng biết, Thí như thợ khéo vẽ, Chẳng hay biết tự tâm, Mà do tâm nên vẽ. Các pháp tánh như vậy, Tâm như thợ khéo vẽ, Hay vẽ các thế gian, Năm uẩn đều theo sanh. Không pháp nào chẳng tạo, Như tâm Phật cũng vậy, Như Phật chúng sanh vậy, Nên biết Phật và tâm. Thể tánh đều vô tận, Nếu người biết tâm hạnh, Khắp tạo các thế gian, Người đó thì thấy Phật. Rõ tánh chân thật Phật, Tâm chẳng trú nơi thân, Thân cũng chẳng trú tâm, Mà hay làm Phật sự. Tự tại chưa từng có, Nếu người muốn rõ biết, Ba đời hết thảy Phật, Nên quán tánh pháp giới, Hết thảy chỉ tâm tạo.” Sớ Thích nói: Bài tụng này hiển bày ở Cụ phần duy thức. Đây là nghóa chẳng cùng biết, nghóa là chẳng phải chỉ pháp của sở họa tự chẳng cùng biết, dụ cho cảnh sở biến, không có thể tánh, tâm năng họa niệm niệm sanh diệt, tự chẳng cùng biết, nên cũng chẳng thể biết ở sở họa. Hai dụ tâm cảnh đều không tự tánh, mỗi chẳng cùng biết, nên nói chẳng thể biết tự tâm, mà do tâm nên vẽ. Lại tuy không biết vẽ tâm mà do tâm hay vẽ, dụ cho chúng sanh tuy mê tâm hiện lượng mà tâm biến nơi cảnh. Lại do chẳng thể biết sở họa chỉ họa ở tự tâm, nên hay thành sở họa, dụ cho chúng sanh do mê cảnh, chỉ tâm mới hay hiện cảnh vọng. Lại dụ chánh do không tánh mới thành muôn cảnh, nên nói các pháp tánh như vậy. Nên quán tánh pháp giới là tức chân như lý quán. Hết thảy chỉ tâm tạo là tức duy thức sự quán. Vì tánh của lý quán duy thức, chư Phật chứng đó làm thể của thành Phật, vì tướng của sự quán duy thức, chúng sanh thấu đạt đó làm môn xuất ly. Như Hoa Nghiêm Diễn Nghóa nói: Do vì diệu của văn gồm nghóa không sót, công của một kệ hay phá địa ngục. Nên Bồ-tát Phổ Hiền bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Ta ở trong biển pháp đây không có một văn, không có một câu, chẳng phải xả thí ngôi vị chuyển luân mà cầu được, chẳng phải xả thí hết thảy sở hữu mà cầu được”. Giải thích rằng: Vì một là một của hết thảy, một của xứng tánh, Toản Linh Ký nói: “Có người ở kinh Triệu, dòng họ Vương, lại mất tên, vốn không giới hạnh chẳng từng tu thiện nhân mắc bệnh hoạn khiến chết, có hai người dẫn đến địa ngục trước cửa địa ngục thấy có một vị tăng, nói là Bồ-tát Địa Tạng mới dạy tụng bài kệ tụng: “Nếu người muốn rõ biết, Hết thảy Phật ba đời, Nên quán tánh pháp giới, Tất cả chỉ tâm tạo”. Bồ-tát trao kinh rồi bảo đó rằng: “Tụng được kệ tụng ấy hay phá các khổ địa ngục”. Người ấy tụng rồi, bèn vào ra mắt vua. Vua hỏi: “Người này có công đức gì?” Đáp: “Chỉ thọ trì một kệ tụng bốn câu”. Đầy đủ như nói trên, vua bèn phóng tha. Đang lúc tụng bài kệ tụng đó, tiếng vang đến nơi, các người nhận chịu khổ đều được giải thoát. Lại ba ngày sau mới sống lại, nhớ trì kệ tụng đó, nói cùng các hàng đạo tục”. Tham nghiệm kệ văn, mới biết là kệ do vô lượng Bồ-tát vân tập ở thiên cung Dạ- ma nói ra trong kinh Hoa Nghiêm tức kệ của Bồ-tát Giac lâm ý nói rõ địa ngục do tâm tạo, rõ tâm tạo Phật thì địa ngục tự không. Nên biết nếu quán tâm đây, ngay lời nói đó tức lìa khổ, chẳng chỉ phá cảnh giới địa ngục, cho đến mười pháp giới một lúc đều phá, vì nhập pháp chân không nhất tế, thì bình đẳng chân pháp giới, không Phật không chúng sanh, đây chẳng phải diệu thuật thần thông, nhờ ở tha lực, vì pháp như vậy có thể nghiệm ở tự tâm, không thể nghó bàn, sức của thần diệu, cao mà không gì trên, sâu mà chẳng gì bằng. Dài mà chẳng gì hơn, ngắn mà chẳng gì bằng, rộng mà không tướng, hiển bày mà biết vết, có mà chẳng thường, không mà chẳng diệt. Thể chiếu độc lập, xứng tánh khắp cùng, diệu muôn vật nên xưng là thần, mang tất cả nên gọi là mẹÏ, thống ngự gồm nhiếp thông biến không cùng, nhậm chiếu không nhọc như ghi tả tượng của gương sáng, ứng duyên vô tác như tiếng vang của hang trống. Ở vuông mà tướng vuông rành rẽ, ở tròn mà đường nét tròn hiển hiện, tại ngộ mà ngộ thành chư Phật, đọa mê mà mê làm chúng sanh, vết tích mặc tình ngàn đường, bản địa chẳng động, Thai giáo nói: “Tâm như huyễn hóa, chỉ có danh tự, danh đó làm tâm, vừa lời đó có, chẳng thấy sắc chất, vừa lời đó không, lại khởi lự tưởng, không thể dùng có không để tư duy suy lường, gọi tâm làm diệu chẳng phải là đợi thô thành diệu, nên Phó Đại só xưng là thần diệu, cũng gọi là diệu thức. Diệu thức tức là pháp thân Phật. Nếu không diệu thần, ai thọ lạc tịch diệt? Luận Bảo Tạng nói: “Làm đó là hình, lặng đó là sáng, vốn sạch chẳng ngời, pháp như thế thiên thành, sáng vượt nhật nguyệt. Đức quá thái thanh, muôn vật không làm, hết thảy không tên, chuyển biến trời đất, tự tại tung hoành, hằng sa mà dụng, hỗn độn mà thành. Ai nghe chẳng mừng, ai nghe chẳng sợ”. Làm sao lấy vật báu vô giá ẩn nơi hố ấm nhập, do vậy hiểu đó tức diệu tức thần, hiển vật báu vô giá, mê đó thành thô thành muội, rơi nơi hố ấm nhập. Khắp xem giải thích đầy đủ, giải thích đó chẳng tận, ngưỡng chỉ các Thánh, tán thán đó chẳng cùng. Có thể gọi là cửa huyền vào đạo. Diệu quyết thành Phật. Cho đến nhân quả phàm Thánh, hạnh vị tấn tu, chẳng lìa tâm đây mà được thành tựu, khế đồng tâm tánh, đức nào chẳng thâu, vì hết thảy phải tùy nơi y tựa, đều ở nhất tâm viên đốn tròn đầy, mọi sự như vậy, há chẳng phải mầu nhiệm dứt đối đãi ư? Như trong Pháp Hoa Huyền Nghóa nói: “sáng màu dứt đối đãi ấy là bốn: Một là, tùy tình ba giả pháp khởi, nếu vào chân đế, liền dứt đối đãi nên Thân Tử nói: “Tôi nghe trong giải thoát, không có ngôn thuyết”. Trong ba tạng kinh đây tuyệt ý đối đãi. Hai là, nếu tùy lý ba đoạn, hết thảy thế gian đều như huyễn hóa, tức sự mà chân, không có một sự mà chẳng phải chân, lại đối đãi vật nào làm chẳng chân ư? Trông ba tạng kia, tuyệt lại chẳng tuyệt, tức sự mà chân, cho đến tuyệt đối đãi. Đây là tuyệt đãi của thông giáo vậy. Ba là, Biệt giáo nếu khởi, trông ngay dứt của chân, trở lại Thế tục đế. Tại sao chẳng phải Đại Niết-bàn? Do đó là sanh tử thế đế, tuyệt trở lại có đối đãi. Nếu vào Trung đạo của Biệt giáo, đối đãi thì tuyệt vậy. Bốn là, Viên giáo nếu khởi, nói pháp không phân biệt tức là biên mà trung, không chẳng phải Phật pháp, mất sạch thanh tịnh. Đâu lại Phật pháp đối đãi với Phật pháp. Như Lai pháp giới, nên vượt ngoài pháp giới, không lại có pháp có thể hình tướng so sánh, đối đãi ai làm thô, hình ai được diệu. Không chỗ có thể đối đãi, cũng không chỗ tuyệt, không biết tên gì, gượng gọi làm tuyệt. Kinh Đại Niết-bàn nói: “tên lớn không thể xưng lường, không thể nghó bàn nên là lớn. Thí như hư không, chẳng nhân nhỏ không gọi là lớn vậy. Niết-bàn cũng thế, chẳng nhân tướng nhỏ mà gọi là Đại Niết-bàn”. Diệu cũng như thế, diệu gọi là chẳng thể nghó bàn, chẳng nhân ở thô mà gọi là diệu, nếu cho là quyết định có pháp giới rộng lớn riêng tuyệt, đó thì, lớn có sở hữu, sao gọi là tuyệt? Nay, pháp giới thanh tịnh, chẳng phải thấy nghe hay biết, không thể nói bày. Trong kinh nói: “Thôi thôi chẳng phải nói, pháp ta diệu khó nghó”. Thôi thôi chẳng phải nói tức là tuyệt ngôn, pháp ta diệu khó nghó tức là tuyệt tư. Lại nói: “Pháp đó chẳng thể bày, tướng ngôn từ vắng lặng”. Cũng là văn tuyệt tán thán, không thể dùng đối đãi chỉ bày, không thể dùng tuyệt chỉ bày. Diệt đối đãi, diệt tuyệt, nên nói là tịch diệt. Lại nói: “Tất cả các pháp, tướng thường tịch diệt, chung quy ở không, không ấy cũng không”, thì không lại đối đãi tuyệt. Trung Luận nói: “Nếu pháp làm đối đãi thành”. Ở đầu kinh Pháp Hoa nói: “Đã được Vô sanh nhẫn, đây chẳng sanh vô sanh, sanh tức vô sanh, gọi là tuyệt đối đãi”. Hàng đã ngoài đây, nếu lại có làm, tuyệt đối vật gì, hiển lý gì? Lưu lãng không cùng, thì rơi lạc hý luận, mới là mê tình phân biệt, tuyệt đãi chẳng tuyệt, chẳng phải tuyệt, chẳng phải đãi, đãi ở cũng đãi cũng tuyệt. Ngôn ngữ cũng đuổi, trọn không tuyệt vậy. Tại sao? Ngôn ngữ từ giác quán sanh, tâm lự nghó chẳng dứt, ngữ lời do đâu tuyệt. Như có ngu si đuổi theo ụ đất, tự chuốc nhọc mệt, ụ đất trọn chẳng tuyệt. Nếu hay diệu ngộ trong hoàn vũ, dứt gió giác quán, nước tâm lắng trong, ngôn ngữ tư lự đều tuyệt, như sáng tỏ sư tử buông bỏ ụ đất đuổi người, ụ đất vốn đã trừ, ụ đất thì tuyệt vậy. Ngay lúc diệu ngộ, rõ biết ngoài pháp giới không pháp mà luận tuyệt là ước môn có rõ tuyệt vậy, tuyệt đó cũng tuyệt, ước nói theo môn nói theo không rõ tuyệt vậy. Như ngựa quyết thấy bóng roi không chẳng được vào. Đó gọi là tuyệt đối đãi diệu vậy. Dụng là hai diệu, ba pháp diệu trên, pháp của chúng sanh cũng đủ hai diệu, xưng đó làm diệu, Phật pháp tâm pháp cũng đủ hai diệu, xưng đó là diệu. Hỏi: Ý nào dùng tuyệt giải thích diệu? Đáp: Chỉ gọi diệu làm tuyệt, tuyệt là tên khác của diệu, như người đời xưng tuyệt năng vậy. Lại, diệu là năng tuyệt, thô là sở tuyệt. Diệu đây có công của tuyệt thô, nên nêu tuyệt dùng tên diệu, tuyệt đây chẳng phải là đoạn tuyệt, dùng vô tận làm tuyệt, như Hoàn Nguyên Quán nói: “Một mảy trần sanh ra vô tận khắp trong một mẩy trần, tức lý tức sự, tức nhân tức pháp, tức y tức chánh, tức nhiễm tức tịnh, tức nhân tức quả, tức đồng tức khác, tức kia tức đây, tức một tức nhiều, tức tộng tức hẹp, tức tình tức chẳng phải tình, tức ba thân, tức mười thân. Tại sao? Vì lý sự vô ngại pháp như vậy, mười thân qua lại làm dụng tự tại, nên chỉ cảnh giới của phổ nhãn vậy. Như trong sự tướng trên, mỗi mỗi cùng chứa nhau, gồm nhau mỗi một đầy đủ cảnh giới lớp lớp vô ngại. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Tất cả biển pháp môn vô tận, Đồng tụ về trong Đạo tràng một pháp, Như vậy thứ lớp triển chuyển thành, Đây người vô ngại mới được ngộ”. Hỏi: Căn cứ điều nói đó, thì trên một mảy trần, không lý gì chẳng hiển, không sự nào chẳng dung, không văn nào chẳng thích, không nghóa nào chẳng thông. Thời nay, người tu học làm sao hiểu ngộ đạt ở nơi mảy trần, chóng quyết định các nghi ngờ? Vả lại, ở trên một mảy trần, thế nào là nhiễm, thế nào là tịnh, thế nào là chân, thế nào là tục, thế nào là sanh tử, thế nào là Niết-bàn, thế nào phiền não, thế nào Bồ-đề, thế nào pháp Tiểu thừa, thế nào pháp Đại thừa? Xin vì chỉ bày, quyết định, để được nghe điều chưa từng nghe. Đáp: Đại trí viên minh, thấy mảy may mà quán biển tánh chân nguyên rõ hiện, nơi một mảy trần dùng ngắm toàn thân, muôn pháp hiển hiện hẳn đồng thời, lý nhất tế chẳng trước sau. Tại sao? Do hư tướng một mảy trần đây hay che mờ ở chân thức là nhiễm vậy, do tướng mảy trần không không chỗ có tức tịnh vậy. Do tánh mảy trần bản thể đồng như, tức là chân vậy, do tướng mảy trần duyên sanh huyễn có, tức là tục vậy, do ở tướng mảy trần niệm niệm biến chuyển tức là sanh tử vậy. Do quán tướng mảy trần sanh diệt hết là không không có thật tức là Niết-bàn vậy. Do tướng mảy trần đây lớn đều là vọng tâm phân biệt tức là phiền não vậy. Do thể mảy trần không biến kế tức là pháp Tiểu thừa. Do tánh mảy trần không sanh không diệt, y tha tợ như có tức là pháp Đại thừa. Lược nói như vậy, nếu nói đầy đủ đó, giả sử tất cả chúng sanh hoài nghi, mỗi mỗi khác biệt đồng thời mà hỏi Như Lai. Như Lai chỉ dùng một chữ mảy trần mà vì giải thích, nên tư duy sâu sắc đó. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Hết thảy biển pháp môn vô tận, một lời diễn nói hết không thừa”. Y cứ nghóa lý ấy nên nói một mảy trần sanh ra vô tận biến khắp vậy. Điều gọi là tức, là hiện nay bình đẳng nên pháp môn nhất tâm đây, như gương chóng hiện chẳng đợi thứ tự, như ấn chóng thành, lại không trước sau. Một thấy hết thảy thấy, một nghe hết thảy nghe, chẳng đợi suy tầm. Nếu đợi liễu đạt mà thành đều là quyền tiệm. Nếu hay quán một ở tâm tánh thì là một đạo thậm thâm, tức một của chánh đạo, là một của chỉ một, ngàn Phật đồng vết, một đạo của xưa nay chẳng đổi, cũng gọi là môn Nhất lộ Niết-bàn, cũng gọi là một đạo ra ngoài sanh tử. Lại gọi là Đại Phật Đảnh Thủ lăng- Nghiêm cụ túc vạn hạnh thập phương Như Lai nhất môn siêu xuất diệu trang nghiêm lộ, giống như trăm hoa cùng thành tựu một mật, nên biết muôn hạnh cùng hội ở tông đây nếu thật rõ tất cả đó tại ta, thăng trầm đi ở mặc ý tùy duyên, bày Thánh hiện thần, ra sanh vào tử, biến hóa khó lường, vận thần thông của vô tác, ẩn hiển đồng thời, xiển Tam-muội như huyễn, phải quấy ngầm hợp, nghịch thuận đồng quy, nói nín có duỗi, thường thuận đạo của nhất chân, làm nghiệp sanh sản chẳng trái môn thật tướng, vận dụng hành xử, niệm niệm mà chưa từng lìa pháp giới, đi đứng nằm ngồi, bước bước mà thường tại trong đó. Nếu người chẳng tin đối mặt ngàn dặm, như Hàn Sơn Tử có lời thơ rằng: “Đáng quý vật thiên nhiên, riêng một không bè bạn, nhỏ đó trong tấc vuông, lớn đó khắp mọi nơi, nếu ông không tin nhận, đối mặt chẳng cùng gặp. Như người minh đạt ghé mắt liền nhờ đều hay biết trước, nếu kẻ chưa gặp, có thể dùng sự để biết, cử động hành xử, chưa từng gián đoạn. Như Thái Thuận tự là Nhã Trọng hiếu kính vang danh. Từ bé nhỏ, Thái Thuận mồ côi nuôi dưỡng mẹ, thường ra ngoài kiếm củi, có khách chợt đến, người mẹ trông ngóng Thái Thuận chẳng trở về, mới cắn vào ngón tay mình, Thái Thuận liền động tâm, vất bỏ củi vội chạy về, quỳ hỏi nguyên do. Người mẹ bảo: “Bỗng nhiên có khách đến, ta cắn ngón tay để cảnh ngộ ngươi vậy”. Lại, có Bùi Kính Di ở đời Đường, cha bị Trần Vương Điển giết, Kính Di đang ở tại thành, bỗng tự nhiên rơi lệ bỏ ăn, nói với mọi người: Đại nhân ta chắc có điều khổ nên tôi liền chẳng an, ngày nay tâm đau, tay chân đều rã rời, sự gì chưa lường biết”. Bèn trở về thăm cha, quả nhiên là đã chết. Lại nữa, cũng ở thời Tiền Đường có Trương Chí An, ở trong làng xóm ngợi khen là người hiếu hạnh, nên cử làm Lý duẫn. Đang ở huyện chợt nói mẹ bệnh gấp. Huyện lệnh hỏi, Chí An nói: “Mẹ có bệnh, Chí An tôi cũng bệnh, Chí An tôi vừa đau nhói tim, do đó, biết là mẹ có bệnh”. Huyện lệnh giữ lại, sai người đi tra xét, quả thật như điều nói, sau đó tấu bày cao biểu trước cửa ngõ, bái làm Tán kî thường thị. Hỏi: Sở ngộ của tông đây lại có thầy chăng? Đáp: Đây là nơi sở chứng của tự giác Thánh trí, Vô sư trí, Tự nhiên trí, chẳng từ Như Lai mà tỏ ngộ, thời của tự chứng, pháp từ tâm hiện, chẳng từ ngoài lại, nên là không thấy, khế hợp mà hay tự đắc Vô thượng Bồ-đề. Trong kinh Lăng-già nói: “Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu khéo tự giác Thánh trí cùng với Nhất thừa. Con và Bồ-tát khác nếu khéo tự giác Thánh trí cùng với Nhất thừa, chẳng do ở đâu khác mà thông đạt Phật pháp”. Lại, trong kinh nói: “Xá-lợi-phất lại hỏi: Cớ sao chư Hiền giả lại phát lời ấy, từ ngày nay bắt đầu* tự tại xứ này chẳng ở nơi khác, tự quay về chính mình, chẳng trở về Như Lai, dùng làm thầy chủ, chẳng dùng thầy khác. Do đó nên trước chẳng lấy Phật làm Thánh sư”. Cho đến, khi ấy Đức Thế Tôn ngợi khen các Tỳ-kheo: “Lành thay! Tốt thay! Đó đối với các pháp không sở đắc mới là thật đắc”. Đây là chỉ có thể tự biết mới thấy thật đắc, do đó, ngàn Thánh khoanh tay làm tính lường chẳng thành. Như trong kinh có kệ tụng rằng: “Ngôn ngữ nói các pháp, Chẳng thể bày chân thật, Bình đẳng mới hay thấy, Như pháp Phật cũng vậy”. Do đó, Vónh Gia ca rằng: “Chẳng lìa đương xứ thường trạm nhiên, tìm tức biết ông không được thấy”. Lại nữa, Tiên đức có kệ tụng rằng: “Chẳng phiền hỏi thầy giỏi, Tâm vương nên tự biết”. Đó mới là thật chiếu không chiếu, thật biết không biết. Tại sao? Nếu có chiếu là có chỗ đối. Nên nói tùy chiếu mất tông, nếu có biết thì bị biết ngăn ngại, nên nói pháp lìa thấy nghe hay biết. Như Tín Tâm Minh nói: “ngang dọc không chiếu, rất là vi diệu. Biết pháp vô tri, vô tri biết yếu, thấu đạt yếu ấy, tức một pháp có thể đồng, không một pháp có thể khác không một pháp có thể(*)không cho phật là bật thánh sư?Các Ty-kheo thưa: Từ ngày nay trở đi…. phải, không một pháp có thể quấy, thì ngoài dụng nào cầu tri giải. Cổ đức ca rằng: “Người xưa trọng nghóa chẳng trọng vàng, khúc cao hòa ít không tri âm. Học só thời nay lại như vậy, nói nín động dụng vết khó tìm. Điều than trên đời đường hóc hiểm, trọn ngày gập ghềnh uổng dụng tâm, bình thản chiên-đàn chẳng chịu lấy, muốn phải treo lên hỏi rừng thông, cùng tử bỏ cha xa trốn chạy, tức nơi nhà cũ tuyệt tri âm, bần nữ trong nhà bán vô giá, tức đem cân nhỏ mua vàng người”. Nên trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Như đường bằng phẳng hết thảy chúng sanh đều đi trong đó. không chướng ngại là trong đường có cây bóng râm mát mẻ. Người đi dừng nghỉ ở dưới chỉ thở nhưng bóng râm cây ấy vẫn thường trú chẳng khác, cũng chẳng tiêu hoại. Không mang đi là, là đường dụ cho Thánh đạo, bóng râm dụ cho Phật tánh. Do đó, nếu đạt tông đây, kết quy ở tự chỗ ấy. Kho báu trong nhà đâu phải từ ngoài lại, minh châu trong chéo áo, chẳng phải từ nươi khác mà được. Nếu hay mở mang kho tàng bí mật, được vẻ vang thọ dụng hiện tiền, của cải đổi lấy thần châu, dứt khổ bần cùng của nhiều kiếp, chẳng phải vài vật báu khác, đâu theo kia mong cầu, thì trí tạng đượm nhuần chính mình nào cùng, pháp tà lợi tha vô tận. Hỏi: Nếu nói không thầy tự chứng, tức rơi lạc kế tự nhiên, chấp từ người mà giải, bèn giẫm trải môn nhân duyên. Vả lại, tánh của đại đạo chẳng phải tự nhiên cũng chẳng phải nhân duyên, cớ sao khai bày mà trái với đạo thể? Đáp: Vì phá tha cầu, nên nói phải tự chứng, vì chấp tự giải nên theo tha ấn khả. Nếu ngay lúc thân xét, mê ngộ đều không, tự tha đều tuyệt, chẳng phải chỗ kịp của hạn lượng, há là năng thuyên của ngôn luận. Do đó, Sơ tổ Ngưu Đầu nói: “đại đạo la ønếu đạo của một người đắc tức bất biến, nếu đạo của nhiều người đắc tức có cùng. Nếu đạo của mỗi mỗi có tức có số. Nếu tổng cộng có đó, phương tiện tức không. nếu tu hành đắc đó, tạo tác chẳng phải chân. Nếu vốn tự có đó, muôn hạnh giả bày. Cớ sao? Vì lìa tất cả hạn lượng phân biệt, rõ biết nói tự nói tha nói được nói mất. Nếu nói về Thánh giáo thì phải tùy ngôn ngữ thế tục chấp phương tiện, nếu y theo ý giải, đều là hạn lượng phân biệt chẳng vượt ngoài tình trần, chỉ chẳng chấp giáo để theo tình thì mới thấy tánh mà đạt đạo. Hỏi: Người sơ tâm học, ngộ nhập tông này, tin hiểu viên thông, có thắng lực gì? Đáp: Nếu chánh hiểu viên minh, quyết định tin vào, có công vượt kiếp, được sức chóng thành, tuy ở tại sanh tử mà thường nhập Niết-bàn, hằng ở nơi trần lao mà luôn sống trong cõi Tịnh, hiện đủ mắt thịt mà mở quang minh của mắt tuệ. Chẳng những đổi tâm phàm, tiện đồng tri kiến của tâm Phật. Như Thái tử đủ tướng của hình dáng vua, Ca-lăng-tầng- già âm thanh vượt hẳn các giống chim. Rút gân sư tử làm dây đàn, các âm thanh khác đều đoạn tuyệt, dùng thuốc thiện kiến mà trị bệnh, các hoạn đều ngầm tiêu, như công của mũi tên na-la sức xuyên trống sắt, tợ như sức của chày kim cang, phỏng đánh nát núi vàng, thì trần lao phiền não chẳng đợi đoạn mà tự diệt, diệu hỏa Bồ-đề, chẳng nhờ tu mà tự tròn đủ Cho đến bình đẳng oán thân, hòa hợp tranh luận, ngang bằng phàm Thánh hết sạch tự tha, đồng nhất đến đi, ấn khả đồng khác dung thông ngắn dài, lẫn lộn trung biên, sức của thế gian và xuất thế gian, không thể xưng không thể lường không thể nói không thể bàn. Chẳng thể quá là cũng gọi là Phật lực, cũng gọi là vô trú lực. Do đó, các vị Tiên đức giải thích rằng: Sắc vô trú gìn giữ thì cả đại kiếp chẳng lìa một niệm. Lại nói: Sắc bình đẳng là Phật lực, sắc đã bình đẳng thì nghóa duy tâm thành. Nên biết môn của quán tâm, lý không quá đó rất tôn rất quý, tuyệt diệu tuyệt luân. Có công thành Phật trong một sát-na, có đức chóng cắt vòng khổ. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Thí như cây thuốc, tên là thọ vương, ở trong các thứ thuốc rất là thù thắng, hay diệt các bệnh. Cây chẳng khởi niệm: Nếu lấy cành lá cùng với da thân v.v…, tuy chẳng khởi niệm hay lành các bệnh. Niết-bàn cũng vậy”. Cho nên nếu đối với Tông Kính có tin đủ tu đủ, cho đến thấy nghe tùy hỷ một niệm phát tâm, không ai chẳng trừ bệnh của tám muôn trần lao, ba chướng hai chết. Kinh Đại Phẩm nói: “Như châu ngọc ma-ni ở tại trú xứ, hết thảy phi nhân chẳng được sơ hở đó, đem châu theo người vào trong tối được sáng, lúc nóng được mát mẻ, lúc lạnh được ấm áp, nếu ở trong nước, tùy vật mà hiện sắc màu”, tức huống là nhận biết tự tâm đây là linh châu như ý, tin đủ bền chắc trong tất cả thời và nơi chốn, chẳng bị trần lão vô minh và phi nhân xâm hại, thì ở nơi phiền chẳng loạn, ở nơi hiểm luôn an, ở nơi cao mà chẳng nguy, đầy mà chẳng tràn. Thai giáo dẫn kinh Phật Tạng nói: “Trong không danh tướng, giả nói danh tướng, đều là sức của Như Lai chẳng thể nghó bàn. Thí như có người nhắm núi Tu-di giữa hư không, dùng bè đá vượt qua biển, mang bốn thiên hạ vào núi Tu-di, dùng chân muỗi làm thềm thang lên đến Phạm cung. Gặp kiếp thiêu lúc đang cháy rực, chỉ một khạt nhổ, lửa liền tắt mất, một cái thổi, thế giới tức thành, dùng tơ ngó sen buộc treo núi Tu-di, tay tiếp lấy mưa bốn thiên hạ. Như Lai giảng nói hết thảy các pháp vô tướng vô vi vô sanh vô diệt. Khiến người tin hiểu, rất là khó có, rất là hiếm có. Nếu ít có chỗ được cùng Phật, Pháp, Tăng tranh vào nơi tà đạo, chẳng thuận xuất gia thọ giới uống một bát nước. Phải biết kinh nói rõ dụng bên ngoài của vô sanh để hiển bày diệu lý nhân quả vô sanh, thì là không rõ nhất thể Tam bảo thường trú, chẳng thuận xuất gia. Nói chẳng thuận là như chẳng hiểu giới đây chẳng đầy đủ. Nếu nói về quán tâm là một sát-na khởi gọi là một chúng sanh, tức khởi tức diệt gọi là một thời kỳ. Trong mỗi mỗi niệm luôn khởi ba độc, tức ngay kiếp tận tam tai. Ba độc tham làm đầu, tam tai lửa làm mối. Dùng chỉ quán chẳng nghó bàn quán ba độc đây, một niệm tâm tham không có chỗ khởi tức là một khạt nhổ kiếp lửa diệt mất. Rõ niệm thành trí tức là một cái thổi thế giới mà thành, cho đến hết thảy các sự chẳng thể nghó bàn hiếm có, chỉ đạt một niệm vô minh, tâm thành trí chư Phật. Không có người của suốt hiểu, nếu chẳng phải đây chẳng chỉ chẳng thuận xuất gia, hết thảy muôn thiện đều chẳng thành tựu, vì không biết căn bản của Phật pháp. Luận Đại Trí Độ nói: “Lại nữa, có người cho là đất làm tâm bền chắc, không hình chất đều là hư vọng. Do đó nên Phật nói tâm lực làm đại, vì hành Bát-nhã ba-la-mật, nghiền nát đại địa đây để làm bụi nhỏ, vì đất có sắc hương vị xúc nặng. Tự không chỗ làm, vì nước thiếu hương, động không hơn đất, lửa thiếu hương vị, thế thắng so với nước, gió thắng sắc hương vị nên động làm hơn nữa. Tâm không bốn sự nên chỗ làm sức lớn. Lại vì tâm lắm phiền não kiết sử trói buộc nên khiến sức tâm nhỏ ít. Tâm hữu lậu thiện tuy không phiền não, vì tâm chấp thủ các pháp tướng nên lực đó cũng ít. Hàng Nhị thừa tâm vô lậu tuy chẳng thủ tưởng, nhưng vì trí tuệ có lượng, đến lúc ra đạo vô lậu sáu tình theo tục phân biệt,chấp thủ các pháp tướng nên chẳng tận tâm lực. Chư Phật và Đại Bồ-tát trí tuệ vô lượng vô biên, thường trú thiền định, đối với thế gian Niết-bàn không có phân biệt, các pháp thật tướng kỳ thật chẳng khác, chỉ bởi trí có hơn kém. Người hành Bát-nhã ba-la-mật rốt ráo thanh tịnh không chỗ ngăn ngại, chỉ trong một niệm hay nghiền nát mười phương hết thảy như cát sông Hằng v.v…, ba ngàn đại thiên cõi nước, đại địa các núi vi trần. Nên biết chân tâm có sức lực lớn ấy, chúng sanh vọng cách mà chẳng hay biết”. Kim Quang Minh Kinh Sớ nói: “Như ánh sáng mặt nhật hay tỏa chiếu thiên hạ, chẳng thể chiếu đạo lý. Ánh sáng của tâm trí hay phát trí chiếu lý, nên tâm là ánh sáng. Nếu tâm si ám thể thì tiều tụy, tâm có trí sáng sắc da đượm nhuần. Nên nói Bát-nhã lớn nên sắc lớn, Bát-nhã tịnh nên sắc tịnh, tức là minh vậy”. Muôn vật trong thiên hạ, chỉ con người là quý. Hình hài bảy thước chẳng như linh trí làm quý. Do đó, quán đến tâm quý tâm tức là vàng. Lại biết y báo chánh báo gọi là ánh sáng biết hết thảy pháp không hết thảy pháp là sáng tỏ Do đó, nếu ở nơi Tông Kính mới có tin vào, bèn sanh viên giải có thể phát tâm Bồ-đề chân chánh. Lại không quá trên, là tâm không gì bằng, là tâm tối thắng, là tâm tối thật. Luận Chỉ Quán nói: “Người phát tâm ấy hay vượt qua mỗi mỗi môn trần lao tức là tám vạn bốn ngàn các môn Tam-muội. Vô minh chuyển tức biến làm minh, như băng tan thành nước, lại chẳng phải xa rời vật, chẳng xứ khác lại, chỉ một niệm tâm, khắp đều đầy đủ. Ý châu như vậy, chẳng phải có báu chẳng phải không báu. Nếu cho là không tức là vọng ngữ, nếu nói là có tức là tà kiến. Không thể dùng tâm biết, Ít dùng ngôn từ phân biệt giãi thích. Chúng sanh ở trong pháp chẳng trói buộc chẳng nghó bàn đây mà tư tưởng làm trói buộc. Ở trong pháp giải thoát, mà cầu ở thoát, cho nên khởi đại từ bi, phát tứ hoằng thệ, nhổ trừ hai khổ, ba cho, hai vui, nên nói chẳng phải trói buộc chẳng phải thoát là tâm Bồ-đề chân chánh. Phát một tâm Bồ-đề đây tức tất cả tâm Bồ-đề, thí như vị lương y có một phương thức bí mật, gồm hết các phương thuốc A-dà-đà, công gồm các thứ thuốc, như ăn cháo sữa, lại không cần gì khác, hết thảy đều đầy đủ như châu như ý. Cho đến nhất tâm đây là đại trong đại, thượng trong thượng, viên trong viên, mãn trong mãn, thật trong thật, chân trong chân, liễu nghóa trong liễu nghóa, huyền trong huyền, diệu trong diệu, chẳng thể nghó bàn trong chẳng thể nghó bàn. Nếu hay như vậy, chọn quấy hiển bày phải, rõ quyền biết thật, mà người phát tâm là giống của hết thảy chư Phật. Thí như Kim cang từ tánh vàng sanh. Tâm Bồ-đề Phật từ đại bi khởi, là trước tiên của các hạnh, như uống thuốc A-bà-la trước tiên dùng lấy nước trong, tối ưu trong các hạnh. Ở trong các căn, mạng căn là ưu tối, trong chánh pháp chánh hạnh của Phật, tâm đây là tối ưu, như Thái tử vừa sanh đủ hình tướng Vua, đại thần cung kính có tiếng tăm lớn, như chim Ca-lăng-tầng- già từ trong vỏ trứng tiếng kêu đã ưu thắng hơn các giống chim. Tâm Bồ-đề đây có thế lực lớn như dây gân sư tử như sữa sư tử, như chày kim cang, như mũi tên na-la-diên, đầy đủ các vật báu, hay trừ các thứ bần khổ, như châu như ý. Tuy nhỏ biếng lười, nhỏ mất oai nghi, còn hơn công đức của hết thảy Bồ-tát, hay thành Vô thượng Chánh giác trong ba đời. Nếu giải hiểu tâm đây nhậm vận mặt tình thấu đạt ở chỉ quán, không phát không ngại tức là quán, tánh nó tịch diệt tức là chỉ. Chỉ quán tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức là chỉ quán. Như trên rộng tán thán người phát tâm Bồ-đề viên tín đây, thật là khó có. Nếu hàng phàm phu ngoại đạo mê ở tâm này mà làm phần đoạn sanh tử. Hàng Nhị thừa thông tạng trái với tâm đây mà làm Hữu dư Niết-bàn, cho đến hàng Bồ-tát thông giáo, người mới phát tâm Đại thừa, rõ ở tâm đây chỉ thành không của tự tại. Bồ-tát Biệt giáo đến chung ngộ của Đại thừa đối với tâm đây tuy thấy chẳng không làm sở y của mười phương pháp giới. Nhưng tức nay chưa đủ, còn nhờ riêng tu thứ lớp sanh khởi đều chẳng thể hay biết. Tự tâm một niệm đốn viên bình đẳng chánh tánh, phàm Thánh chung có một khoảng không sai. Do vì không biết, đều chẳng thể phát tâm Bồ-đề Vô thượng vô đẳng tối thắng quảng đại chẳng thể nghó bàn đây. Chỗ có bi nguyện trí hạnh đều chẳng đầy đủ, nếu một lúc phát tâm đây, công đức không ngằn mé, niệm niệm viên mãn mười Ba-la-mật. Nên trong kinh Tịnh Danh nói: “Duy-ma-cật nói: Nhưng các ngươi bèn phát tâm A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề, đó tức là xuất gia, đó tức là Cụ túc”. Nay, Tông Kính chánh vì chỉ bày tâm ấy, mỗi mỗi sưu tìm cùng, lớp lớp dẫn chứng, khắp vì hết thảy pháp giới hàm sanh, phàm là có tâm nguyện đều tin nhận, mới được tin vào pháp như thế tự nhiên phát tâm Vô thượng Bồ-đề đây, bèn ngồi Đạo tràng hành đồng thể đại bi, khởi vô duyên từ hóa. Do đó mười phương chư Phật tán thán tâm này xong, người hay phát Bồ-đề, công đức vô tận. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm Bồ-đề giống như hạt giống hay sanh hết thảy các Phật pháp. Tâm Bồ-đề giống như măït đất, vì hay giữ gìn hết thảy thế gian. Tâm Bồ-đề giống như nước sạch, vì hay tẩy rửa hết thảy phiền não dơ bẩn. Tâm Bồ-đề giống như gió lớn, vì khắp nơi thế gian không chỗ chướng ngại. Tâm Bồ-đề giống như lửa mạnh, vì hay thiêu đốt các củi kiến chấp. Tâm Bồ-đề giống như mặt nhật sáng sạch, vì hay soi chiếu khắp hết thảy thế gian. Tâm Bồ-đề giống như vầng nguyệt tròn đầy, vì các pháp bạch tịnh thảy đều viên mãn. Tâm Bồ-đề giống như mắt sạch, vì thấy khắp các chốn an nguy. Tâm Bồ-đề giống như đường lớn, vì khắp khiến được vào thành đại trí. Tâm Bồ-đề giống như chánh tế vì khiến đó được xa lìa các tà pháp. Tâm Bồ-đề giống như xe lớn, vì hay chuyên chở chư vị Bồ-tát. Tâm Bồ- đề giống như cửa nẽo, vì hay mở bày hết thảy hạnh Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như cung điện, vì an trú tu tập pháp Tam-muội. Tâm Bồ-đề giống như vườn tược vì ở trong đó vui chơi thọ các pháp lạc. Tâm Bồ-đề giống như vườn nhà, vì hay an ổn tất cả các chúng sanh. Tâm Bồ-đề làm chỗ quy, vì lợi ích tất cả các thế gian. Tâm Bồ-đề làm chỗ nương tựa, vì là nơi nương tựa của các hạnh Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như cha lành, vì hay dạy răn dẫn dắt các Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như mẹ hiền, vì hay sanh trưởng hết thảy các Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như sữa mẹ, vì nuôi dưỡng hết thảy các Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như bạn lành, vì thành tựu ích lợi hết thảy các Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như quân chủ vì thắng vượt ngoài hết thảy người Nhị thừa. Tâm Bồ-đề giống như Đế vương, vì ở trong tất cả các nguyện được tự tại. Tâm Bồ-đề giống như biển lớn, vì tất cả công đức thảy đều vào trong. Tâm Bồ-đề giống như núi Tu-di, vì đối với tất cả chúng sanh, tâm đều bình đẳng. Tâm Bồ-đề giống như núi Thiết vi, vì hay gồm giữ tất cả các thế gian. Tâm Bồ-đề giống như núi tuyết, vi nuôi lớn hết thảy thuốc trí tuệ. Tâm Bồ-đề giống như núi Hương, vì hay xuất sanh hết thảy mùi hương công đức. Tâm Bồ-đề giống như hư không, vì các diệu công đức rộng lớn vô biên. Tâm Bồ-đề giống như hoa sen, vì chẳng nhiễm hết thảy các pháp thế gian. Tâm Bồ- đề giống như voi điều tuệ, vì tâm đó khéo thuận chẳng ngang trái. Tâm Bồ-đề giống như ngựa lành tốt, vì xa lìa hết thảy các tánh ác. Tâm Bồ- đề giống như thầy điều ngự, vì hay gìn giữa hết thảy pháp Đại thừa. Tâm Bồ-đề giống như thuốc tốt, vì hay trị hết thảy bệnh phiền não. Tâm Bồ-đề giống như hầm hố xuyên thủng, vì hay vùi lấp hết thảy các ác pháp. Tâm Bồ-đề giống như kim cang, vì đều có thể xuyên suốt hết thảy các pháp. Tâm Bồ-đề giống như tráp hương, vì hay trữ hết thảy hương thơm công đức. Tâm Bồ-đề giống như diệu hoa, vì là nơi tất cả thế gian đều vui thích thấy. Tâm Bồ-đề giống như bạch chiên-đà, vì hay trừ dục nhiệt của chúng sanh khiến được trong mát. Tâm Bồ-đề như hương hắc trầm, vì hay xâm pháp giới đều cùng khắp. Tâm Bồ-đề như Thiện Kiến Dược Vương, vì hay phá tất cả bệnh phiền não. Tâm Bồ-đề như thuốc Tỳ-cấp-ma, vì hay nhổ tất cả các mũi tên phiền não. Tâm Bồ-đề giống như Đế thích, vì trong tất cả các chúa rất là tôn quý. Tâm Bồ-đề như Tỳ-sa-môn, vì hay đoạn dứt tất cả khổ bần cùng. Tâm Bồ-đề như công đức thiên, vì chỗ tất cả công đức trang nghiêm. Tâm Bồ-đề như trang nghiêm cụ, vì trang nghiêm hết thảy các Bồ-tát. Tâm Bồ-đề như lửa kiếp thiêu, vì hay thiêu đốt hết thảy các hữu vi. Tâm Bồ-đề như thuốc không sanh rễ, vì trưởng dưỡng tất cả các Phật pháp. Tâm Bồ-đề giống như long châu vì hay phá tiêu tất cả độc phiền não. Tâm Bồ-đề như châu thủy tinh, vì hay lắng trong tất cả cấu bẩn phiền não. Tâm Bồ- đề như châu như ý, vì hay chu cấp tất cả bần khổ thiếu thốn. Tâm Bồ-đề như bình công đức, vì đầy đủ tất cả tâm chúng sanh. Tâm Bồ-đề như cây như ý, vì hay mưa hết thảy các trang nghiêm cụ. Tâm Bồ-đề như áo nga vũ, vì chẳng nhận chịu tất cả cấu bản sanh tử. Tâm Bồ-đề như chỉ bạch điệp, vì từ xưa lại tánh thường thanh tịnh. Tâm Bồ-đề như lưỡi cày sắc bén, vì hay trị tất cả ruộng chúng sanh. Tâm Bồ-đề như Na-la-diên vì hay đánh dẹp tất cả giặc ngã kiến. Tâm Bồ-đề giống như mũi tên sắc nhọn, vì hay phá tất cả đích khổ. Tâm Bồ-đề giống như mâu nhọn, vì hay xuyên thủng tất cả áo giáp phiền não. Tâm Bồ-đề giống như áo giáp bền chắc, vì hay được hết thảy tâm như lý. Tâm Bồ-đề giống như dao bén, vì hay chém tất cả đều phiền não. Tâm Bồ-đề giống như kiếm bén, vì hay phá rách hết thảy áo giáp kiêu mạn. Tâm Bồ-điều giống như phướn dõng tướng, vì hay nhiếp phục tất cả các ma quân. Tâm Bồ- đề giống như cưa bén, vì hay cắt đứt tất cả cây vô minh. Tâm Bồ-đề giống như búa bén, vì hay chặt tất cả các cây khổ. Tâm Bồ-đề giống như binh trượng, vì hay ngăn ngừa tất cả các khổ nạn. Tâm Bồ-đề giống như tay khéo, vì hay phòng hộ tất cả các công đức. Tâm Bồ-đề giống như thuốc mắt, vì diệt trừ tất cả màng mờ vô minh. Tâm Bồ-đề giống như kềm díp, vì hay nhổ tất cả mũi nhọn thân kiến. Tâm Bồ-đề giống như ngọa cụ, vì dứt trừ các khổ nhọc sanh tử. Tâm Bồ-đề như thiện tri thức, vì hay mở hết thảy sanh tử trói buộc. Tâm Bồ-đề giống như của cải quý tốt, vì hay trừ tất cả việc bần cùng. Tâm Bồ-đề như Đại Đạo sư, vì khéo biết đạo xuất yếu của Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như phục tàng, vì xuất sanh của cải công đức không thiếu thốn. Tâm Bồ-đề giống như suối trào, vì sanh nước trí tuệ không cùng tận. Tâm Bồ-đề giống như gương sáng, hiện khắp ảnh tượng của hết thảy pháp thân. Tâm Bồ-đề giống như hoa sen, vì chẳng nhiễm hết thảy các tội cấu. Tâm Bồ-đề giống như sông lớn, vì lưu dẫn tất cả độ nhiếp pháp. Tâm Bồ-đề như Đại Long vương, vì hay mưa tất cả mưa pháp. Tâm Bồ-đề giống như mạng căn, vì giữ gìn thân đại bi của Bồ-tát. Tâm Bồ-đề giống như cam lồ, vì hay khiến an trú cõi bất tử. Tâm Bồ-đề giống như lưới lớn, vì thâu tóm khắp hết thảy các chúng sanh. Tâm Bồ-đề giống như dây ràng, vì nhiếp lấy tất cả chỗ ứng hóa. Tâm Bồ-đề giống như mồi câu, vì kéo ra kẻ ở trong vực sâu. Tâm Bồ-đề như thuốc A-già-đà, vì hay khiến người không bệnh trọn được an ổn. Tâm Bồ-đề như thuốc trừ độc, vì đều hay tiêu tất cả độc tham ái. Tâm Bồ-đề như khéo trì chú, vì hay trừ tất cả độc điên đảo. Tâm Bồ-đề giống như gió thổi nhanh, vì hay cuốn tất cả mốc mù các chướng. Tâm Bồ-đề như châu đại bảo, vì sanh ra hết thảy giác phần báu. Tâm Bồ-đề giống như chủng tánh tốt, vì xuất sanh ra tất cả pháp Bạch tịnh. Tâm Bồ-đề giống như ở vườn nhà, vì là nơi sở y của các pháp công đức. Tâm Bồ-đề giống như quán chợ, vì là nơi Bồ-tát thương nhân buôn bán. Tâm Bồ-đề như thuốc luyện vàng, vì hay trị tất cả cấu bẩn phiền não. Tâm Bồ-đề giống như mật tốt, vì viên mãn hết thảy mùi vị công đức. Tâm Bồ-đề giống như chánh đạo, vì hay khiến các Bồ-tát vào thành trí tuệ. Tâm Bồ-đề giống như vật đựng tốt lành, vì hay gìn giữ hết thảy vật Bạch tịnh. Tâm Bồ-đề giống như lúc mưa, vì hay diệt tất cả các bụi trần phiền não. Tâm Bồ-đề thì làm trú xứ, vì là nơi trú xứ của hết thảy Bồ-tát. Tâm Bồ-đề làm hạnh trao truyền, vì chẳng thủ quả giải thoát của Thanh văn. Tâm Bồ-đề như lưu ly sạch, vì tự tánh sáng sạch không các bẩn dơ. Tâm Bồ-đề như báu đế thanh, vì vượt qua thế gian trí Tam thừa. Tâm Bồ-đề như trống chuyển canh thâu, vì tỉnh giấc chúng sanh ngủ gật phiền não. Tâm Bồ-đề như nước thanh tịnh, vì tánh vốn lắng sạch không dơ đục. Tâm Bồ-đề như vàng Diêm- phù, vì ánh ngời lóa sáng đoạt các thiện hữu vi. Tâm Bồ-đề như núi Chúa lớn, vì vượt ngoài hết thảy các thế gian. Tâm Bồ-đề làm sở quy, vì chẳng chống cự hết thảy mọi người lại. Tâm Bồ-đề thì làm nghóa lợi, vì hay trừ hết thảy sự ưu não. Tâm Bồ-đề làm diệu bảo, vì hay khiến hết thảy tâm hoan hỷ. Tâm Bồ-đề như đại thí hội, vì sung mãn tất cả tâm chúng sanh. Tâm Bồ-đề thì làm tôn thắng, vì tâm các chúng sanh không cùng ngang bằng. Tâm Bồ-đề giống như phục tàng, vì hay nhiếp hết thảy các Phật pháp. Tâm Bồ-đề như lưới nhân-đà-la, vì hay nhiếp phục phiền não A-tu-la. Tâm Bồ-đề như gió Bà-lâu-na, vì hay động hết thảy chỗ ứng hóa. Tâm Bồ-đề như lửa nhân-đà-la, vì hay thiêu đốt hết thảy các thói quen lầm hoặc. Tâm Bồ-đề như Phật Chi-đề, vì hết thảy thế gian nên cúng dường. Này thiện nam! Tâm Bồ-đề thành tựu vô lượng công đức như vậy. Tóm yếu mà nói là nên biết đều cùng các công đức v.v… của hết thảy Phật pháp. Tại sao? Nhân vì tâm Bồ-đề sanh ra hết thảy các Bồ-tát hạnh. Vì chư Như Lai trong ba đời đều từ Tâm Bồ-đề mà sanh ra. Cho nên, này thiện nam! Nếu có người phát tâm A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì đã xuất sanh vô lượng công đức, khắp hay thâu lấy Nhất thiết trí đạo. Cho đến, này thiện nam! Như có châu báu tên là Tự tại vương, nơi ánh sáng của nhật nguyệt soi chiếu đến, hết thảy các vật của báu y phục v.v… có được giá trị đều chẳng thể kịp. Bồ- tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề, báu tự tại vương cũng lại như vậy. Nơi tất cả ánh sáng trí tuệ soi chiếu đến. Hết thảy công đức hữu lậu thiện vô lậu thiện của các hàng trời, người Nhị thừa trong ba đời đều chẳng thể kịp. Này thiện nam! Trong biển có vật báu tên là Hải Tạng, hiện khắp các sự trang nghiêm trong tất cả biển trí. Này thiện nam! Thí như vàng Diêm-phù-đàn trên trời, chỉ trừ tâm vương đại ma-ni bảo, ngoài ra không có gì kịp. Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề vàng Diêm-phù-đàn cũng lại như vậy, thì Nhất thiết trí tâm vương đại bảo, ngoài ra đều chẳng gì kịp. Cho đến, này thiện nam! Tâm Bồ-đề thành tựu vô lượng vô biên như vậy, cho đến không thể nói, không thể nói các công đức thù thắng. Nếu có chúng sanh phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì được thắng pháp công đức như vậy. Như trên lược ghi một trăm hai mươi môn trong Hoa Nghiêm đại giáo tán thán phát tâm Bồ-đề công đức rộng lớn vô biên. Nhưng trong kinh tuy dẫn các trân bảo hiếm có để thí dụ so sánh, đều là vật hữu hạn trong thế gian. Đem thô so diệu, đem cạn sánh sâu, sao bằng trân quý xuất thế vô tận, đâu đồng yếu chỉ của Phật pháp khó nghó bàn. Nên biết thế gian và xuất thế gian, tất cả quý báu của thiên hạ, không gì quý báu hơn tâm. Như sư tử dõng dạt bước tới oai mãnh rất hùng. Voi chúa giẫm đạp, thế lực không gì bằng. Do đó trong kinh Đại Thọ Khẩn-na- la Vương Sở Vấn nói: “Bấy giờ đại thọ Khẩn-na-la Vương bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con nghe Bồ-tát có pháp Tam-muội tên là Bảo trú. Nếu có Bồ-tát nào đắc Tam-muội đó thì hết thảy pháp bảo, các công đức pháp tự nhiên mà đắc”. Phật bảo Khẩn-na-la Vương rằng: “Nếu có Bồ-tát muốn khiến chủng tánh Phật bảo không đoạn, chủng tánh pháp bảo chủng tánh tăng bảo không tuyệt là tu tập sanh khởi tám mươi thứ báu. Đó là không quên tâm báu Nhất thiết trí Cho đến tâm quán không vô tướng vô nguyện giải thoát môn bảo. Vào cam lồ môn nên quán hết thảy pháp vô sanh, vì Bảo Tâm được Vô sanh pháp nhẫn. Thấy hết thảy pháp như huyễn ,như mộng, như ánh lửa, như bóng hình, như vang theo tiếng ,như trăng đáp nước, vì Tâm báu chẳng trú các kiến. Quán pháp nhân duyên, vì Tâm báu lìa đoạn kiến thường kiến. Lìa các biên kiến dơ bẩn, vì Tâm báo lìa ở hai. Vào pháp môn Bất nhị, vì Tâm báu giác ngộ nhất đạo. Lìa hết thảy hạnh, vì Tâm báu thành đạt chánh vị. Chánh quán pháp vị, vì Tâm báu hết thảy pháp Bình đẳng. Tập tụ hỗ trợ hết thảy pháp Bồ-đề, vì Bảo Tâm rõ suốt hết thảy Phật pháp. Cho đến dụ như biển lớn làm chủ các pháp, nhóm tập hết thảy vật báu, hết thảy các báu thảy đều đến quy tụ, ở trong biển đó sanh ra các báu. Như vậy, Khẩn-na-la Vương! Bồ-tát đắc Trú Tam-muội đó, vì làm chủ của hết thảy chúng sanh, nhóm tập hết thảy báu. Hết thảy pháp báu thảy đều quy hướng”. Dó đó, Tổ sư nói: “Trong tất cả các báu, tâm báu là trên hết, nên biết hết thảy pháp báu đều kết quy trong Tông Kính. Không có pháp tài trân bảo nào mà chẳng tích tụ”. Như kinh Nhập pháp giới thể tánh nói: “Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật rằng: “Vì nhân duyên gì gọi lấy Tam-muội làm bảo tích ư?” Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Thí như đại ma- ni bảo khéo mài ánh ngời đã an đặt nơi sạch sẽ, tùy chỗ đất ấy mới sanh ra các thứ trân bảo không thể cùng tận. Cho nên, Văn-thù-sư-lợi! Ta trú nơi Tam-muội đây quán sát ở phương Đông, thấy vô lượng A tăng-kỳ thế giới hiện tại chư Phật Như Lai A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Phật- đà, như vậy ở các phương Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn góc và trên dưới, như vậy, mười phương vô lượng A tăng-kỳ thế giới ta đều hiện thấy các Như Lai đó trú Tam-muội này vì đại chúng giảng nói pháp. Văn-thù- sư-lợi! Ta trú Tam-muội đây chẳng thấy một pháp nhưng chẳng phải pháp giới”. Giải thích rằng: “Bảo tích Tam-muội, tức là tâm của hết thảy chúng sanh. Vô lượng công đức nhóm tụ giống như chất chứa báu ở thế gian. Nếu hay trú nhất tâm Bảo tích Tam-muội đây, có công đức báu nào mà chẳng biết. Nên hay thấy mười phương Phật bảo soi chiếu khắp cùng không thừa, do đó nói không thấy một pháp mà chẳng phải pháp giới. Do đó, trong muôn loại, chỉ tâm là quý, như kim sí điểu sau khi mạng chung xương thịt tan rã hết chỉ có quả tim còn. Nan-đà Long vương lấy tim chim đó làm minh châu, Chuyển luân vương được dùng làm châu như ý, nhưng tâm của hết thảy chúng sanh cũng lại như vậy. Thân huyễn tuy diệt nhưng tâm chân chẳng hoại. Như trong kinh nói: “Như kiếp lửa thiêu đốt chẳng thiêu đốt hư không”. Lại, Tổ sư nói: “Tram hài cốt tuy tan nát hết, một vật trấn trường linh, nếu hay rõ biết chân tâm thường trú đây, tức đồng được sánh như châu báu như ý, nếu người được đó, rộng cứu tế khắp pháp giới, người dụng đó nhuận khắp cả mười phương”. Vì trong các kinh Đại thừa đây, mười phương chư Phật đồng cùng tán dương tâm Bồ-đề đó. Sánh như hư không không ngằn mé, chưa từng nói phần nhỏ. Nếu người vị thấp trí cạn sao dám nói đó? Nên các bậc Tiên đức giải thích giáo nghóa Niết-bàn nói: “Các thứ danh mục chỉ là pháp nhất tâm. Pháp ấy tức là thầy của Phật, là mẹ của các Bồ-tát. Chư Phật Bồ-tát biện giải chẳng thể tuyên bày, ngàn miệng phàm phu há giải hiểu du dương, trăm Nhị thừa mù lòa sao có thể múa tay ấy ư?” Luận đây mở phát tin vào, công đức vô biên, nếu chỉ thấy nghe, giả sử không tin vui, còn được gieo trồng căn lành không luống rỗng không vậy. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Thí như đại trượng phu ăn chút ít kim cang trọn không tiêu mất, phải xuyên qua thân đó mà ra bên ngoài. Tại sao? Kim cang chẳng cùng thân thịt tạp uế mà đồng dừng trú vậy. Đối với Đức Như Lai gieo trồng chút ít căn lành cũng lại như vậy, phải xuyên qua thân tất cả hữu vi các hành phiền não, qua đến nơi trí vô vi cứu cánh. Tại sao? Vì chút ít căn lành ấy chẳng cùng hữu vi các hành phiền não mà chung dừng trú. Phật tử! Giả sử cỏ khô chất chứa đồng như Tu-di, ném lửa hay thiêu đốt vậy. Đối với Đức Như Lai gieo trồng chút ít căn lành cũng lại như vậy, hẳn hay thiêu đốt tất cả phiền não. Rốt ráo chứng đắc Vô dư Niết-bàn. Tại sao? Vì tánh chút ít căn lành ấy rốt ráo vậy. Phật tử! Thí như ở núi Tuyết có cây dược vương tên là Thiện Kiến. Nếu có người thấy thì mắt được thanh tịnh. Nếu có người nghe thì tai được thanh tịnh. Nếu có người ngửi thì mũi được thanh tịnh. Nếu có người nếm thử thì lưỡi được thanh tịnh. Nếu có người xúc chạm thì thân được thanh tịnh. Nếu có chúng sanh lấy được chút đất ở nơi đó cũng có thể dùng làm trừ bệnh lợi ích. Phật tử! Như Lai Ứng Chánh đẳng giác Vô thượng dược vương cũng lại như vậy, hay làm tất cả mọi sự nhiêu ích chúng sanh. Nếu có người được thấy sắc thân Như Lai thì mắt được thanh tịnh. Nếu có người được nghe danh hiệu Như Lai thì tai được thanh tịnh. Nếu có được ngửi hương giới Như Lai thì mũi được thanh tịnh, đủ tướng lưỡi rộng dài giải nói lời pháp. Nếu có xúc chạm ánh sáng Như Lai thì thân được thanh tịnh, rốt ráo được pháp thân vô thượng. Nếu đối với Đức Như Lai mà sanh khởi nghó nhớ thì được niệm Phật Tam-muội thanh tịnh. Nếu có chúng sanh cúng dường nơi Đức Như Lai từng đi qua và các tháp miếu, cũng được đủ căn lành, diệt trừ tất cả các hoạn phiền não, được vui của Hiền thánh. Phật tử! Nay ta bảo cùng các ông, nếu có chúng sanh thấy nghe nơi Phật nhưng do nghiệp chướng ràng buộc chuyển sanh tin vui cũng được gieo trồng căn lành, không luống qua, cho đến rốt ráo chứng nhập Niết-bàn. Phật tử! Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết như vậy, ở nơi Như Lai mà thấy nghe thân gần gieo trồng căn lành, thảy đều xa lìa các pháp bất thiện, đầy đủ thiện pháp. Nên biết hoặc thấy hoặc nghe, hoặc tin hoặc chẳng tin đều được rốt ráo căn lành vô thượng. Vì thấy Phật viên giác pháp phổ môn vậy”. Vì giác viên nên không khuyết giảm, vì pháp khắp nên tự nhiên đầy đủ. Há chẳng phải là cứu cánh ư? Do đó, trong phẩm Công đức sơ phát tâm ở kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Bồ-tát phát tâm lượng công đức, Ức kiếp xưng dương chẳng thể hết, Vì sanh ra tất cả an lạc, Của Như Lai, Độc giác, Thanh văn. Chúng sanh ở các cõi nước mười phương, Thảy đều được an vô lượng kiếp, Khuyên trì năm giới và mười thiện, Tứ thiền tứ đẳng các xứ định. Lại ở nhiều kiếp ban an lạc, Nay đoạn các hoặc thành La-hán, Kia các phước tụ tuy vô lượng, Chẳng cùng sánh công đức phát tâm. Lại dạy ức chúng thành Duyên giác, Được đạo vô tránh hạnh vi diệu, Lấy kia mà sánh tâm Bồ-đề, Tính lường thí dụ không thể kịp. Một niệm hay quá vô số cõi, Như thế trải qua vô lượng kiếp, Số các cõi ấy còn lường được, Công đức phát tâm không thể biết.” Lại có kệ tụng: “Nói bày các thứ món thí dụ, Không có thể kịp tâm Bồ-đề, Vì tất cả chư Phật ba đời, Đều từ phát tâm mà được sanh”. Hoa Nghiêm Chỉ Quy nói: “Hiểu rõ nghóa kinh có mười thứ lợi ích: Một là, lợi ích thấy nghe, nghóa là thấy nghe Như Lai đây và pháp để lại đây mà gieo trồng căn lành thành kim cang chủng không thể phá hoại, yếu tâm để thành Phật, như phẩm Tánh Khởi nói: “Phật tử! Cho đến chúng sanh tà kiến bất tín mà thấy nghe Phật, các chúng sanh ấy ở trong thấy nghe, được gieo trồng căn lành, quả báo không hư rỗng, cho đến rốt ráo chứng đắc Niết-bàn v.v…”. Hai là, lợi ích phát tâm, nghóa là tín vị đã mãn, xứng với bản hoài chư Phật, phát đại tâm đây, tâm đây tức là Phổ Hiền pháp thâu gồm, cho nên dung thông tức biến pháp giới không cùng tận thời xứ v.v…. Đã vào gồm kia, tức toàn các ngôi vị kia thảy đều thành mãn, nên trong kinh nói: “Sơ phát tâm tức là thành Phật, đều cùng chư Như Lai trong ba đời v.v…”. Ba là, lợi ích khởi hạnh, nghóa là nếu lúc khởi một hạnh Phổ Hiền tức khắp tất cả hạnh, tất cả vị, tất cả đức, tất cả pháp, tất cả xứ, tất cả thời, tất cả nhân, tất cả quả, cùng tận pháp giới đầy đủ tất cả, như lưới trời Đế thích v.v…. Nên trong kinh nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát được nghe pháp này, dùng chút ít phương tiện chóng đắc Bồ-đề”. Bốn là, lợi ích gồm vị, nghóa là tín v.v…, năm vị, trong mỗi một vị gồm tất cả vị, nhưng có hai môn: Thứ nhất,môn Toàn vị tướng, tức tất cả vị là một vị, Thập tín viên mãn tức bèn thành Phật. Thứ hai, môn Các vị giúp nhau, thì trong một vị đủ tất cả vị, như trong Thập Tín có Thập trú cho đến Thập địa. Nên trong kinh nói: “Trú ở một địa, thâu gồm khắp tất cả các địa công đức, như mười huyền môn”. Năm là, lợi ích chóng chứng, y cứ khắp một đây, một chứng tất cả chứng, như trong kinh nói rõ chúng sanh ở địa ngục mong được ánh sáng để diệt khổ, mới từ cửa địa ngục ra, lên đến trời Đâu-suất chẳng phải ngay tự thân chóng đắc Thập địa, cũng là từ trong từng lỗ chân lông xông hương toàn chỉ bày chúng sanh chóng diệt vô lượng phiền não, đều là thắng lực của pháp khắp. Bảy là, lợi ích chuyển lợi,hạnh khắp cũng thành tức hay chóng lợi ích vô biên chúng sanh, đều cũng đắc pháp thập địa đây. Như trước, Thiên tử Đâu-suất đắc Thập địa rồi từ trong lỗ chân lông tỏa ra mây lọng cúng dường Phật. Như trong kinh nói: “Nếu có chúng sanh thấy mây lọng đây thì các chúng sanh ấy gieo trồng một hằng hà sa các Chuyển luân vương gieo trồng căn lành v.v…”. Tám là, lợi ích tu tạo, như Thiện Tài đồng tử y cứ pháp khắp đây, một đắc tất cả đắc, Vì đời trước từng nghe pháp khắp thành Kim cang chủng, bèn khiến đời nay chóng được giải hạnh; Chín là, lợi ích chóng đắc, như kinh nói rõ sáu ngàn vị Tỳ-kheo chóng thấy Như Lai đắc mười nhãn pháp giới, trong rừng Kỳ-hoàn vô số Bồ-tát đông nhiều không thể nói, chóng đắc biển pháp tự tại vô tận v.v…; Mười là, lợi ích xứng tánh, nghóa là y cứ pháp khắp đây, hết thảy chúng sanh, không ai chẳng đều xứng với bản tánh họ ở trong biển Phật quả, tức là lợi ích từ xưa lại, như kinh nói rõ ở trong thân Phật thấy hết thảy chúng sanh đã thành Phật rốt ráo, đã chứng đắc Niết-bàn rốt ráo. Do đó, trong Tông Kính đây đều là xứng tánh mà bàn, theo bản mà nói. Nhân quả đều thật, lý sự đều chân. Do đó tông viên mãn, pháp Phổ môn, thấy pháp khắp nên gọi là Phổ nhãn. Pháp khắp là một đủ tất cả mỗi mỗi xứng tánh đồng thời đầy đủ. Ngoài nhãn không pháp mới xưng là Phổ nhãn, cũng gọi là kinh Phổ Nhãn, bèn khiến người thấy nghe đều đồng tánh đắc. Vì tánh đây vô tận thì điều lợi ích nào cùng, nên hay tổng quát vô biên, gồm thông tất cả.Gồm trước thì gồm sau, như giở bước chân đầu tiên tức đến lộ trình dài ngàn dặm. Được một thì được tất cả các thứ khác, như trông vầng nguyệt giữa bầu trời tức rõ biết tất cả ánh trăng dưới đáy nước. Nên biết, có giáo tức có vị đó, có pháp tức có người đó, như chúng sanh ở địa ngục thấy nghe làm hạt giống ở trong tám nạn, làm thềm thang vượt lên mười địa. Thiện Tài đồng tử hạnh giải ở tự thân mà ở trong một đời viên mãn quả nhiều kiếp. Văn lý có chứng cứ, quả báo chẳng phải hư dối có thể chỉ bày cho các bậc hậu hiền đồng tiếp nối giống đó. Do đó, trong kinh Như Lai Tạng so sánh công đức thọ trì kinh đây, cúng dường quá khứ hằng sa và hiện tại chư Phật, tạo hằng sa đài bảy báu cao mười do-tuần, thường ngày như vậy, cho đến năm mươi hằng hà sa đài bảy báu, cúng dường hằng hà sa Như Lai, chẳng như có người vui thích Bồ-đề thọ trì kinh đây, cho đến tính số thí dụ, chỗ chẳng thể kịp giải thích rằng: Bảy báu là tài của có hạn lượng, cúng dường là phước hữu vi, nếu trì kinh đây thì báu của Nhất thừa thường trú, chân như là phước vô tận. Như pháp giới sánh với vi trần, đâu có thể so lường ư? Hỏi: Phát tâm Bồ-đề ấy có bao nhiêu thứ? Y cứ thứ Bồ-đề gì mà phát tâm để được công đức như vậy? Đáp: Nếu nói theo luận tắt tùy căn sở chứng thì có bốn thứ Bồ-đề, nếu nói theo thụ luận, y cứ theo sơ trung hậu thì có ba thứ Bồ-đề. Lại, phát có hai thứ: Một là khởi phát; Hai là khai phát. Khởi phát là đứng đầu của Thập tín Nhất thừa, khai phát tức khởi đầu của Thập trú Nhất thừa. Nay, điều tán thán là trong bốn thứ y cư ùtối thượng căn, Bồ-đề của Phật. Như điều tán thán của Tông Kính, phần nhiều lấy phát của viên tín khởi phát, như dẫn ở Hoa Nghiêm. Hoặc phát của sơ trú khai phát. Lại, nay luận về phát là chẳng y cứ người mà y cứ pháp, đốn ngộ tự tâm, muôn hạnh viên mãn đủ đầy, nên gọi là phát, như luận Hoa Nghiêm nói: “Phát tâm có hai: Một là, có từ lâu xa từ trong khổ sanh tử nhàm chán khổ mà phát tâm, có đắc tam thừa, quả của Nhất thừa gọi là Tự giác thánh trí, cũng gọi là Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí; Hai là, y cứ tiên giác là khuyên khiến biết gốc khổ mới hay phát tâm. Phàm, người phát tâm, lại có hai thứ. Nếu nói cần y theo Phật trước mà phát tâm, tức có lỗi lầmù của thường, tức đồng thường kiến của ngoại đạo. Tức người giác trước lấy ai làm thầy, chuyển đổi dần dà nối tiếp nhau chẳng lìa thường kiến. Nếu có Phật thường từ thời xưa làm thầy chuyển đổi dần dà, tức Phật xưa tự thể tự chân, chẳng tùy theo vọng, tức không thể giẫm đạp theo vết xưa. Vì chân tự thường chân, không thể đem chân tùy theo sanh tử, tức sanh tử là thường sanh tử, vì Phật tự là thường Phật. Nếu là chúng sanh quyết định có sanh tử, sanh tử tự thường sanh tử, vì không thể được thành chân, đó là đoạn kiến. Hai thứ ấy đều quấy, chẳng lìa đoạn thường vậy. Vì hết thảy chúng sanh sanh tử không tánh, vốn không sanh tử, Hoành tính sanh tử vốn chẳng phải sanh tử. Hết thảy chư Phật, vốn không tự tánh, thật không Bồ-đề, cũng không Niết-bàn mà chúng sanh vọng cho rằng chư Phật có Bồ-đề Niết-bàn. Nếu có chúng sanh hay biết như vậy thì gọi là phát tâm, gọi là chư Phật, gọi là kiến đạo, mà hay khai ngộ hết thảy chúng sanh, là thấu đạt vô minh, vô minh vốn không. Chư Phật cũng không, gọi là bậc giác, nhân vì không y cứ, không trú, không thể không tánh diệu trí, hay tùy hưởng ứng, đối hiện sắc thân, hay dùng lý này giáo hóa chúng sanh, gọi là Đại bi. Nên không thể có đắc có chứng, có mừng có chán, có lấy có bỏ, có xưa có nay, có chân có giả, phát tâm Bồ-đề vậy. Phát tâm Bồ-đề như vậy, là chẳng bị vô minh đêm dài che phủ vậy. Lại nói: “Thiện Tài đồng tử thưa cùng Tỳ-kheo Đức Vân rằng: “Tôi đã phát tâm Bồ-đề Vô thượng, đã ở nơi Văn-thù-sư-lợi phát tâm Bồ-đề, vì biết Bồ-đề không chứng, tu không chỗ cầu, chỉ cầu Bồ-đề Tam-muội gia hạnh. Tâm Bồ-đề đó tự nhiên sáng sạch không bẩn dơ, như giữa hư không có mây, mây tan thì hư không đó tự không, chẳng lại nói tìm cầu hư không vậy. Vì rõ ràng chỉ tu Bồ-tát Tam-muội quán chiếu để trị chấp chướng. Nhưng tâm Bồ- đề không có thể của tu làm lưu trừ. Ở phàm chẳng giảm ở Thánh chẳng tăng. Cho nên nay lấy núi Diệu phong, tượng dùng hai môn chỉ quán, hỗ trợ của bảy phần Bồ-đề hiển bày phương tiện, tâm Bồ-đề tự sáng sạch, và đến Bồ-đề sáng sạch, tức Bồ-tát hạnh, các Tam-muội tự là Bồ-đề, chẳng lại riêng có Bồ-đề màtự sáng sạch. Vì rõ ràng Bồ-tát nơi thế gian tu các vạn hạnh, thế gian vạn hạnh cho đến Bồ-đề, vì Niết-bàn tánh tự lìa. Vì đem pháp này giáo hóa các người mê. Người không thấu rõ đây mà khiến ngộ đạt tánh không trí tuệ vô cấu, để tịnh các nghiệp, khiến khổ không sanh, gọi là đại bi giống như hóa nhân giáo hóa thầy phù thủy, dùng trí quán nghiệp, tùy thời tùy cơ, mười phương đều lợi. Không tâm ý thức, trí huyễn lợi sanh. Do vì nghóa đây, chỉ cầu hết thảy các hạnh của Bồ-tát, vì minh tức hạnh là Bồ-đề, hết thảy không sanh diệt, nên nói tôi đã phát tâm Bồ-đề Vô thượng, vì rõ hiểu tín tâm Bồ-đề tuy chưa có Tam-muội gia hạnh hiển phát, đã biết không sở tu không sở cầu nên nay cầu Bồ-đề hạnh. Vì rõ hiểu phương tiện Tam-muội tướng ấn mới rõ hiểu hạnh và Bồ-đề như thật không hai, ở ngay trong đây không thể nói bàn, các hành vô thường là sanh là diệt. Như kinh đây nói: “Hết thảy pháp chẳng sanh. Hết thảy pháp chẳng diệt, nếu hay hiểu như vậy, chư Phật luôn hiện tiền”. Là biết tâm Bồ-đề chẳng sanh chẳng diệt, không đắc không nương. Điều gọi là cầu Bồ-tát hạnh là phương tiện hiển phát, ngay lúc hiển phát thì lý hạnh không hai. Do đó trong pháp hội Bát-nhã, Xá-lợi-phất tư duy Tu-bồ-đề y cứ pháp môn gì mà khéo giảng nói Bát-nhã. Tu-bồ-đề bảo: “Tôi dùng không y cứ nên phân biệt nói như vậy. Đệ tử chư Phật nếu đối với hết thảy không y cứ, đều là pháp vậy như thế, chẳng phải tôi hay làm”. Cũng như trong Diệu thiện đường, trống trời nói pháp, xưng là pháp môn vô y ấn, nên xưa trước có kệ tụng rằng: “Rõ tâm đạt bản như như Phật, rốt ráo không y người tự tại”. <篇> <卷>QUYỂN 10 Hỏi: Phàm Thánh đồng là cảnh giới nhất tâm. Thế nào là sức tự tại xuất sanh vô ngại? Đáp: Một là, pháp như thế; hai là, do hạnh nguyện của chư Phật Bồ-tát; ba là, tức chúng sanh tin hiểu tự nghiệp hoặc hiện. Lại, gồm đủ mười lực: Một là, lực pháp như vậy; hai là, lực không vô tánh; ba là, Thần lực chư Phật; bốn là, lực căn lành của Bồ-tát; năm là, lực hạnh nguyện của Phổ Hiền; sáu là, lực tịnh nghiệp của chúng sanh; bảy là, lực thắng giải thâm tín; tám là, lực pháp sanh như huyễn; chín là lực pháp sanh như mộng; mười là, lực sở hiện của chân tâm vô tác. Lại nữa, trong Hoa Nghiêm sớ giải thích rằng: “Một nhiều gìn giữ lẫn nhau cùng làm gốc ngọn, một tâm hiển hiện gồm có mười nghóa: Một là, riêng nêu độc lập, do đó chỉ một nền độc lập làm chủ; hai là, song hiện đồng thời, vì mỗi mỗi tương tư vô ngại; ba là, hai tướng đều mất, vì cùng đoạt đều hết; bốn là, tự tại vô ngại, ẩn hiển đồng thời vì một khoảng hiện; năm là, đến đi chẳng động, vì mỗi trú bản pháp chẳng hoại tự ngôi vị; sáu là, không sức cùng gìn giữ, vì có sức gìn giữ không sức; bảy là, đây kia không biết, vì mỗi mỗi không tự tánh, pháp pháp chẳng cùng biết chẳng cùng đến; tám là, lực dụng giao triệt, vì khác thể cùng vào, có sức cùng gìn giữ; chín là, tự tánh chẳng phải có, vì không thể tánh mới hay tức nhập vô ngại; mười là, rốt ráo lìa ngôn ngữ, vì ngầm tánh đức chìm biển quả, giải thích rằng: Riêng nêu độc lập, tức trong kinh có kệ tụng: “Trong nhiều không một tánh, Một cũng không có nhiều, Vì hai pháp cùng không, Được độc lập cũng một”. Tức nhiều mà chỉ nhiều, nhiều tức một mà chỉ một, phế bỏ mình cùng với người, nên nói độc lập. Hai, song hiện đồng thời là, tức trong kinh có kệ tụng: “Biết dùng một nên nhiều, Biết dùng nhiều nên một, Không mười tức không nhiều, Không nhiều tức không một”. Nên hai, song hiện lại không trước sau, như trâu có hai sừng. Ba, hai tướng đều mất, tức hai trước đều xả bỏ vậy. Bốn, tự tại vô ngại là muốn một tức một, vì chẳng hoại tướng. Muốn nhiều tức nhiều, vì một tức nhiều. Một đã như đây, nhiều cũng chuẩn đó, thường một thường nhiều, thường tức chẳng hoại, nên nói là tự tại. Năm, đến đi chẳng động là một vào nhiều mà một còn, nhiều vào một mà nhiều chẳng mất, như hai gương cùng vào mà chẳng động bản tướng, tương tức cũng vậy. Sáu, không sức cùng gìn giữ là nhân một có nhiều. Nhiều không sức mà gìn giữ một. Nhân nhiều có một, một không sức mà gìn giữ nhiều. Bảy, đây kia không biết là cả hai qua lại y cứ đều không thể dụng, nên chẳng cùng biết, như trong kinh có kệ tụng: “Các pháp không tác dụng, Cũng không có thể tánh, Cho nên hết thảy kia, Mỗi mỗi chẳng cùng biết”. Tám, lực dụng giao nhau triệt để, tức như trong kinh có kệ tụng: “Trong một giải vô lượng nghóa, Trong vô lượng giải một nghóa”. Chín, tự tánh chẳng phải có là qua lại làm nhân khởi khắp thể tánh không. Mười, rốt ráo lìa ngôn ngữ, là chẳng thể nói một, chẳng thể nói chẳng phải một, chẳng thể nói cũng một cũng chẳng phải một. Chẳng thể nói cũng một cũng chẳng phải một, chẳng thể nói chẳng phải một chẳng phải chẳng phải một, không thể nói tương tức, do vì tương nhập không thể nói tương nhập. Do vì tương tức, không thể nói tức nhập, vì chẳng tưởng, không thể nói chẳng tức nhập, vì qua lại giao nhau triệt để, miệng muốn nói mà từ tiêu mất, tâm sắp duyên mà nghó ngợi dứt, chỉ chứng trí biết vì đồng biển quả. Một nhiều đã vậy, nhiễm tịnh v.v… các pháp không gì chẳng đều vậy. Lại nữa, nói về Lý nhất tâm tròn riêng, lực vô ngại là lý tròn riêng biến khắp, nhỏ nhiệm khó phân biệt, thì cần có sai biệt mới năng biến, nếu chẳng sai biệt chẳng thể biến khắp tròn, thì không cần sai biệt mà hay biến khắp, pháp năng biến khắp mỗi mỗi viên dung nên không sai biệt, mà nói viên dung là một hội tức hết thảy kia hội cũng chẳng phải hội đây, nơi nơi đều đến vậy. Tức đây, tức kia, tức một tức nhiều, nên nói là viên dung. Lại nói về nơi sở biến để luận về tổng biệt. Tên Đông chẳng phải tên Tây, sở biến là Riêng vậy. Hội đây tức Hội kia, nơi sở biến là chung vậy. Lại nói về năng biến để luận về tròn riêng, cần dùng pháp của sai biệt mới có thể biến khắp, đó gọi là riêng, nay là pháp viên dung không sai, tức năng biến nên gọi là tròn vậy. Biệt trước như xếp bày muôn sao khắp chín trời, Riêng đây như một vầng nguyệt rơi lạc trăm sông. Chung trước như một ánh mây tỏa khắp vũ tru,ï tròn đây như hòa hương ngát cả một phòng, nên nói chung tròn có khác vậy. Trong luận Hoa Nghiêm nói: “Hoa tạng giới đây ẩn hiển tự tại, vì lợi chúng sanh hiển thắng phước đức, tức đủ tướng muôn sai, quang minh hiển chiếu, nếu khiến chúng sanh tình không chấp trước, như mây huyễn tan, một vật bèn không có chỗ được vì còn kế tính đó, vì như Đại nguyện trí lực đây, tự thể pháp tánh là không; không tánh lực, ẩn hiển tự tại, nếu tùy pháp tánh muôn tướng đều không, tùy trí lực các tướng theo hiện, ẩn hiển tùy duyên đều là vô tác. Phàm phu chấp trước dùng làm vô minh, chấp chướng đã không, trí dụng tự tại, chẳng lìa cảnh của nhất chân, hóa nghi trăm biến. Do đó, mùi tên xuyên thủng hổ đá, chẳng phải chỗ công lực có khả năng, sai bảo ba quân, đâu phải đồng men rượu tạo nên. Măng trồi mọc từ cốc lạnh, chẳng phải do ánh dương sanh ra, cá nhảy vọt sông băng, đâu phải do lưới chài khiến vậy, tất cả đều vì tâm cảm hiển linh thông đó. Nên biết muôn pháp hành xử đều là sức của tự tâm, nếu hoặc tin nhận đủ lực năng đây thì rộng mở cửa chướng, khô cạn biển nghiệp. Do đó kinh Nhân Vương nói: “Năng khởi một niệm tin thanh tịnh, người đó vượt quá trăm ngàn kiếp ức kiếp vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp hết thảy khổ nạn, chẳng sanh vào ác thú, không bao lâu sẽ chứng đắc Bồ-đề Vô thượng”. Do đó, rõ tâm vô tác tức ngộ nghiệp không, lúc Quán nghiệp không, gọi là đắc đạo. Đạo đó hoặc hiện, trí vào chẳng sáng. Lúc tâm trí sáng ở trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, pháp ấy hay hiện sực tự lợi lợi tha, như kinh Hoa Nghiêm nói: “Tỳ-kheo Thiện Hiện kinh hành trong rừng, nói cùng Thiện Tài rằng: “Này thiện nam! Lúc tôi kinh hành, trong một niệm, hết thảy mười phương đều hiện tiền, vì trí tuệ thanh tịnh. Trong một niệm, tất cả thế giới thảy đều hiện tiền, vì trải qua số thế giới không thể nói, không thể nói vậy. Trong một niệm, số cõi Phật không thể nói không thể nói thảy đều trang nghiêm thanh tịnh, vì sức thành tựu đại nguyện. Trong một niệm, các hạnh sai biệt không thể nói, không thể nói thảy đều hiện tiền, vì đầy đủ trí mười lực. Trong một niệm, thân chư Phật thanh tịnh không thể nói, không thể nói thảy đều hiện tiền, vì thành tựu sức hạnh nguyện Phổ Hiền. Trong một niệm, cung kính cúng dường chư Như Lai ở các cõi Phật như số vi trần không thể nói, không thể nói, vì thành tựu tâm nhu nhuyến nguyện lực cúng dường Như Lai vậy. Trong một niệm, lãnh thọ pháp của chư Như Lai nhiều không thể nói không thể nói, đắc chứng pháp A tăng-kỳ sai biệt, vì sức trú trì pháp luân Đà-la-ni. Trong một niệm, biển hạnh của chư Bồ-tát không thể nói không thể nói thảy đều hiện tiền, vì nguyện lực đắc năng tịnh hết thảy hạnh như lưới Nhân Đà-la. Trong một niệm, biển các Tam-muội không thể nói không thể nói thảy đều hiện tiền, vì nguyện lực đắc ở một môn Tam-muội vào hết thảy môn Tam-muội đều khiến thanh tịnh. Trong một niệm, biển các căn không thể nói không thể nói thảy đều hiện tiền, vì nguyện lực được rõ biết ngằn mé các căn ở trong một căn thấy hết thảy căn. Trong một niệm, số thời như vi trần các cõi Phật không thể nói không thể nói thảy đều hiện tiền, vì nguyện lực được tất cả thời chuyển pháp luân chúng sanh giới tận mà pháp luân không tận. Trong một niệm, biển hết thảy ba đời không thể nói không thể nói thảy đều hiện tiền, vì nguyện lực được rõ biết trong tất cả thế giới hết thảy ba đời phân vị trí Quang minh, kinh hành đã vậy, ngồi đứng cũng vậy”. Nên trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng rằng: “Phật tử trú địa này, Thì là Phật thọ dụng, Thường trú ở trong đó, Kinh hành và ngồi nằm”. Hỏi: Trong Tông Kính Lục đây, sở nhân đức dụng, có nhân duyên gì khiến các pháp đây chứa lẫn nhau vô ngại? Đáp: Nói theo tông Hoa Nghiêm thì có mười nghóa đó: Một là, Duy tâm hiện, nghóa là hết thảy các pháp do chân tâm hiện thành, như nước biển lớn toàn thể thành sóng, vì hết thảy pháp không gì chẳng là nhất tâm. Các tướng lớn nhỏ v.v… đều tùy tâm lưu chuyển tức vào vô ngại. Hai là, không định tánh, nghóa là đã duy tâm hiện theo duyên mà sanh, không có tánh cố định, tánh tướng đều lìa, nhỏ chẳng phải cố định nhỏ, nên hay dung chứa thái hư mà có thừa, do vì đồng không ngoài của lớn. Lớn chẳng phải cố định lớn, nên hay vào mảy trần nhỏ mà không gián đoạn, vì đồng không trong của nhỏ. Vậy thì ngang bằng vi trần của thái hư, ngậm chứa cõi nước rộng lớn như mảy trần, có gì khó ư? Do đó, một chẳng phải cố định một, nên có thể là tất cả, nhiều chẳng phải cố định nhiều nên có thể là một. Biên chẳng phải cố định biên, nên có thể tức trung. Trung chẳng phải cố định trung, nên có thể tức biên. Dài ngắn tónh loạn v.v… mỗi mỗi đều vậy. Ba là, duyên khởi tương do (bởi nhau), nghóa là biển pháp duyên khởi trong pháp giới lớn, nghóa môn vô lượng lược có mười môn, đủ như trong quyển sau nói ở nhân duyên pháp tánh. Bốn là, pháp tánh dung thông môn, nghóa là nếu chỉ nói về sự thì qua lại chướng ngại không thể tức nhập, nếu chỉ nói về lý thì chỉ một vị, không thể tức nhập. Nay thì lý sự dung thông, đủ vô ngại đó, nghóa là một sự chẳng khác lý, lúc nhiếp đủ lý tánh khiến nhiều sự kia chẳng khác lý, tùy chỗ y cứ lý đều hiện ở trong. Nếu trong một, nhiếp lý chẳng tận thì chân lý có phân hạng mất, nếu trong một nhiếp lý tận, nhiễu sự chẳng tùy hiện, thì sự ở ngoài lý mất. Nay đã trong của một sự toàn nhiếp lý tận, nhiều sự há chẳng y cứ hiện trong nên Hoa Nghiêm phẩm tụng nói: “Thế giới Hoa tạng có các trần, Trong mỗi trần thấy pháp giới”. Pháp giới tức sự pháp giới vậy, đó tức là tổng ý. Biệt cũng có mười Huyền môn: Thứ nhất, tức chân lý cùng hết thảy pháp mà cùng tương ưng nhiếp lý không sót, tức là các môn các pháp đồng thời đủ môn. Thứ hai, sự đã như lý năng bao quát, cũng như lý rộng khắp chẳng hoại tướng hẹp, nên có rộng hẹp thuần tạp vô ngại môn. Lại, tánh thường bình đẳng nên thuần, nhiếp khắp các pháp nên tạp. Thứ ba, lý đã khắp tại tất cả nhiều sự, nên khiến một sự tùy lý khắp trong tất cả, nên có một nhiều tương dung môn. Lại như tự tướng trần là một do tự một chẳng động mới hay khắp nên thành nhiều, nếu động tự tức mất khắp nên nhiều, cũng chẳng thành một, hai ba đều như vậy. Lại nữa, một nhiều do nhau thành lập, như một toàn là nhiều mới gọi là một. Lại nhiều toàn là một mới gọi là nhiều, ngoài nhiều không riêng một, rõ biết là một trong nhiều, ngoài một không riêng nhiều, rõ biết là nhiều trong một. Bởi vì chẳng phải nhiều nhưng hay làm một nhiều. Chẳng phải một nhưng hay làm nhiều một, vì chẳng mất không tánh mới có trí của một nhiều. Trong kinh có kệ tụng: “Thí như pháp toán số, Thêm một đến vô lượng, Thảy đều là số gốc, Trí tuệ nên sai biệt”. Thứ tư, chân lý đã chẳng lìa các pháp thì một sự tức là chân lý, vì chân lý tức là tất cả sự. Cho nên, một đây tức là tất cả sự kia. Tất cả tức một trái với trên có thể biết, nên có tương tức tự tại môn. Thứ năm, do chân lý tại sự vì mỗi mỗi toàn chẳng phải phần, chánh tại đây lúc kia tức làm ẩn, nên có ẩn hiển môn. Thứ sáu, chân lý đã là gồm khắp các pháp, trệ ở sự của năng y kia, đốn tại trong một, nên có vi tế môn. Thứ bảy; đây toàn nhiếp lý nên hay hiện tất cả, kia toàn gồm lý, đồng đây chóng hiện. Đây hiện thời kia, kia năng hiển sở hiện đều hiện trong đây. Kia hiện thời đây, đây năng hiện sở hiện đều hiện trong kia, như vậy lớp lớp vô tận, nên có Đế võng môn. Sở dó chân như rốt ráo vì vô tận vậy. Thứ tám, tức sự đồng lý nên tùy nêu một sự tức chân như môn, nên có Thác sự môn. Thứ chín, chân như khắp tại ngày đêm vì ngày tháng năm kiếp đều toàn tại, thời của tại ngày chẳng khác tại kiếp nên có Thập thế dị thành môn. Huống hồ thời nhân pháp mà có, pháp dụng thời chẳng dung ư? Thứ mười, sự tức lý thời chẳng ngại, cùng tất cả các thứ khác luôn tương ưng, nên có chủ bạn môn. Lại có nghóa là trần là pháp giới thể không phân tể, thông khắp tất cả, đó là chủ vậy, tức hết thảy kia mỗi mỗi riêng biệt, nên là bạn vậy. Bạn chẳng khác chủ, hẳn toàn chủ mà thành bạn, chủ chẳng khác bạn, cũng toàn bạn để thành chủ, chủ đó cùng bạn qua lại giúp đỡ thâu gồm, nếu gồm nhau kia đây cùng không, không thể riêng nói tất cả, nếu giúp nhau thì đây kia cùng có, không thể đồng nói tất cả, đều do tức chủ tức bạn, cho nên cũng đồng cũng khác, phải biết trong chủ cũng chủ cũng bạn, trong bạn cũng bạn cũng chủ vậy, nên một lý dung thông, mười môn đầy đủ vậy, nên biết, lý đây trần trần đều đủ niệm niệm viên dung, không có mười pháp mà chẳng phải chỗ kia, như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thời kia, khắp cứu chúng sanh diệu đức dạ thần vì Thiện Tài đồng tử thị hiện thần lực Bồ-tát điều phục chúng sanh giải thoát, dùng các tướng tốt trang nghiêm thân đó, ở giữa chặng mày phóng Đại quang minh, gọi là Trí đăng phổ chiếu thanh tịnh phan, Vô lượng quang minh lấy làm quyến thuộc, ánh sáng đó chiếu khắp tất cả thế gian, chiếu thế giới rồi vào đảnh đầu Thiện Tài song khắp thân đó. Khi ấy, Thiện Tài liền đắc rốt g giữa thanh chỗ ráo tịnh luân Tam-muội. Đắc Tam-muội ấy rồi đều thấy hai thần hai nơi và khoản có hết thảy địa trần thủy trần cho đến hỏa trần Kim cang ma-ni các báu vi trần hương hoa, anh lạc, các thứ trang nghiêm, hết thảy như vậy chỗ có vi trần, trong mỗi mỗi trần mỗi thấy cõi Phật, số thế giới như vi trần thành hoại và thấy tất cả địa thủy hỏa phong các đại chủng tụ, cũng thấy tất cả thế giới tiếp vận đều dùng địa luân nhậm trì mà trú. Các thứ núi biển, các thứ sông ngòi, các thứ cây rừng, các thứ cung điện, chỗ gọi là cung điện trời, cung điện rồng, cung điện Dạ-xoa, cho đến cung điện phòng nhà của Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân v.v… Địa ngục, súc sanh, Diêm-la vương giới tất cả trú xứ, các thú luân chuyển sanh tử qua lại, tùy chuyển thọ báo mỗi mỗi sai biệt, không gì chẳng đều thấy, lại thấy tất cả thế giới sai biệt, chỗ gọi là hoặc có thế giới tạp uế, hoặc có thế giới thanh tịnh, hoặc có thế giới thú tạp uế, hoặc có thế giới thú thanh tịnh, hoặc có thế giới tạp uế thanh tịnh, hoặc có thế giới hình đó bình chánh, hoặc có lật úp trú, hoặc có nghiêng trú, hết thảy thế giới như vậy trong hết thảy thú, đều thấy nơi khắp cứu chúng sanh dạ thần đây trong tất cả thời tất cả xứ, tùy hình mạo ngôn từ giải hạnh của các chúng sanh sai biệt, dùng sức phương tiện hiện khắp trước đó, tùy nghi hóa độ”. Năm là, như huyễn mộng là giống như Huyễn sư hay huyễn hóa một vật lấy làm các thứ huyễn, các thứ vật lấy làm một vật v.v… Trong kinh nói: “Hoặc hiện chỉ trong chốc lát làm trăm năm v.v…”. Hết thảy các pháp do nghiệp huyễn làm nên, nên một khác vô ngại, nói như mộng là như điều thấy rộng lớn trong mộng mà chưa rời trên gối, trải qua thời gian lâu xa mà chưa qua khoảnh khắc đó. Sáu là, như ảnh tượng như trong kinh nói: “Vật xa vật gần tuy đều ảnh hiện, ảnh chẳng tùy theo vật mà có xa gần v.v…”. Bảy là, nhân vô hạn, nghóa là chư Phật Bồ-tát xưa trước tại trong nhân thường tu các Quán duyên khởi vô tánh v.v… Đại nguyện hồi hướng v.v… xứng với pháp giới, tu đến vô lượng nhân thù thắng khác, nên nay như quả được khởi, đủ đầy vô ngại đó. Tám là, Phật chứng cùng cố là do ngầm chân tánh được dụng như tánh, nên trong kinh nói: “Công đức không lường nên hay như vậy”. Chín là, Thâm định dụng cố, nghóa là sức các môn Tam-muội như Hải ấn định v.v… nên trong phẩm Hiền Thủ có kệ tụng rằng: “Vào các Tam-muội như vi trần, Mỗi mỗi sanh ra vi trần định, Mà vi trần ấy cũng chẳng thêm v.v…” Mười là, thần thông giải thoát cố, nghóa là do mười thông và các giải thoát chẳng thể nghó bàn v.v… nên trong phẩm pháp Bất tư nghì ở phần mười thứ giải thoát nói: “Ở trong một trần dựng lập ba đời hết thảy Phật pháp v.v… Hỏi: Đặt để tâm làm tấm gương có chứng văn gì? Đáp: Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Thể tướng giác có bốn thứ Đại nghóa, cùng ngang bằng như hư không, giống như gương sạch: Một là, như gương thật không, xa lìa tất cả tướng tâm cảnh giới, không pháp có thể hiện, vì chẳng phải nghóa giác chiếu. Hai là, gương nhân huân tập, nghóa là như thật chẳng không, hết thảy cảnh giới thế gian đều hiện ở trong, chẳng ra chẳng vào chẳng mất chẳng loại, thường trú nhất tâm, vì tất cả pháp tức là tánh chân thật, lại tất cả nhiễm pháp chỗ chẳng thể nhiễm, trí thể chẳng động, vì đầy đủ vô lậu huân chúng sanh. Ba là, gương pháp xuất ly, nghóa là chẳng không, vượt ngoài phiền não chướng ngại, lìa tướng hòa hợp vì thuần sáng sạch. Bốn là, gương duyên huân tập, nghóa là y cứ pháp xuất ly, chiếu khắp tâm chúng sanh, khiến tu căn lành, tùy ý niệm mà thị hiện”. Nên luận Thích Ma-ha-diễn nói là “Tánh tịnh bản giác”. Trung Luận nói: “Thể tướng giác có bốn nghóa lớn, cùng ngang bằng như hư không v.v… giống như gương sáng sạch”. Trong bốn thứ nghóa lớn đây, mỗi mỗi có hai nghóa, cùng với nghóa lớn ấy chẳng cùng xả ly. Một là, nghóa đẳng không; Hai là, nghóa đồng kính. Như trong luận nói: “Lại nữa, thể tướng của giác có bốn nghóa lớn, cùng ngang bằng hư không, giống như gương sạch, nên nói sao gọi là như gương thật không? Và có hai nghóa, nghóa đó thế nào? Kệ tụng nói: Trong Tánh tịnh bản giác, xa lìa nghó biết biết, như xa lìa cảnh vọng, thật bày nghóa xa lìa, gương Ma-xa-trật-sa, nêu một chuyển biến một. Nên luận nói: Trong thể tánh của Tánh tịnh bản giác, xa lìa tất cả phan duyên nghó biết, các thức hý luận, thành tựu nghóa nhất vị bình đẳng, nên gọi là Như, xa lìa tất cả cảnh giới hư vọng, các thứ tướng phần, thành tựu tướng chân thật quyết định, nên gọi là thật, vì muốn hiện bày nghóa xa lìa, nên gọi là không, gương nghóa là dụ sáng, nhưng gương trong đây thì dụ cho gương châu Ma-xa-trật-sa, chẳng phải các thứ gương Du-ma v.v… khác dùng làm thí dụ. Tại sao? Đem gương Ma- xa-trật-sa đây an đặt một nơi, châu trong trước gương hoặc chứa các thứ đá, hoặc chứa các thức ăn uống, hoặc chứa các thứ trang nghiêm, hoặc chứa gương châu đồng loại, trong gương châu ấy, các ảnh tượng khác chẳng hiện, chỉ châu đồng loại phân minh hiện rõ, nên gương như thật không cũng lại như vậy. Ở trong gương đây, chỉ đồng loại đối đãi thanh tịnh an lập tập thành, các thứ loại khác, các pháp quá loạn thảy đều xa lìa. Như trong luận nói: Một là, gương như thật không, xa lìa tất cả tướng tâm cảnh giới, vì không pháp nào có thể hiện, mỗi mỗi có hai thứ nghóa, mà chỉ hiện bày nghóa đồng như gương, nghóa bằng hư không chẳng hiện bày ư? Do vì nêu một nghóa gồm chỉ bày một nghóa. Nếu là như vậy, sao gọi là nghóa bằng hư không ư? Nghóa là như hư không thanh tịnh không nhiễm, nơi bốn chướng không thể ngăn che, rộng lớn vô biên, chỗ ba đời chẳng thể gồm nhiếp. Gương như thật không cũng lại như vậy, nên chẳng phải nghóa giác chiếu, nên đó tức là thị hiện xa lìa nhân duyên, vì như trong gương châu Ma-xa-trật-sa kia các ảnh tượng như đá v.v… chẳng hiển hiện trước, vì đá v.v… các pháp đều là thô dơ. Trong gương châu Bản giác đây, các thứ pháp vọng chẳng hiện bày trước, tất cả nhiễm pháp thảy đều là vô minh, tướng của bất giác, vì không nghóa chiếu đạt. Thế nào gọi là gương nhân huân tập? Và có hai nghóa, tướng đó như thế nào? Kệ tụng rằng: “Trí bản giác tánh tịnh, Ba thứ pháp thế gian, Thảy đều chẳng xa lìa, Vì một giác huân tập. Quả trang nghiêm pháp thân, Nên gọi nhân huân tập, Gương luân nhiều hoa lê, Không dung nhận khắp một”. Luận nói: Bản giác tánh tịnh, ba thế gian thảy đều chẳng lìa, huân tập ba kia mà làm một giác huân tập, trang nghiêm quả của một đại pháp thân, cho nên gọi là gương nhân huân tập. Thế nào gọi là ba thứ thế gian? Một là, chúng sanh thế gian; Hai là, khí thế gian; Ba là, Trí chánh giác thế gian. Chúng sanh thế gian nghóa là dị sanh tánh giới. Khí thế gian, nghóa chốn - nơi ý chỉ, Trí chánh giác thế gian, nghóa là Phật Bồ-tát. Đó gọi là Ba, gương trong đây là gương luân nhiều hoa lê, như dùng xe nhiều hoa lê an đặt một nơi, nhóm tập tất cả các vật, do vì hoa ấy xông ướp tất cả các vật thảy đều sáng sạch. Lại, vật sáng sạch hiện tiền trong Hoa thảy đều không thừa, trong hết thảy vật, hoa ấy hiện tiền cũng lại không thừa. Gương nhân huân tập cũng lại như vậy, huân tất cả pháp làm giác thanh tịnh, huân khiến bình đẳng. Lại nữa, nghóa hư không thì có hai thứ: Một là nghóa dung thọ; hai là nghóa biến nhất. Nghóa dung thọ là dung thọ các sắc vì không chướng ngại, nghóa biến nhất là các thứ giống sắc chỉ có một chủng vì Đại hư không. Như trong luận nói: Hai là gương nhân huân tập, nghóa là như thật chẳng không, vì hết thảy cảnh giới thế gian đều hiện trong đó. Bản giác như vậy, từ vô thủy đến nay, xa lìa bốn thứ lỗi lầm, tự tánh thanh tịnh thường trú nhất tâm. Một là, xa lìa lỗi lầm bất biến, vì ba thứ thế gian chẳng vượt ngoài gương bản giác thanh tịnh, như trong luận nói: Vì chẳng vượt ngoài. Hai là, xa lìa lỗi lầm tạp loạn, vì hết thảy các pháp chẳng vào gương bản giác thanh tịnh, như trông luận nói vì chẳng vào. Ba là xa lìa lỗi lầm Quá hoạn, trong gương bản giác hiện tiền các pháp, vì không gì chẳng là tịnh công đức của bản giác, như trong luận nói vì chẳng mất. Bốn là xa lìa lỗi lầm vô thường, trong gương bản giác hiện tiền các pháp, vì không gì chẳng là trí vô vi thường trú, như trong luận nói vì chẳng hoại. Xa lìa lỗi lầm biên, thật trong viên mãn, cho nên nói là Nhất tâm thường trú. Từ đây trở xuống là hiển bày nhân duyên, bởi nhân duyên gì mà trong Trí bản giác, các thứ giống pháp như bản giác kia lìa các lỗi lầm ư? Vì tất cả các pháp thảy đều không gì thể chẳng chân thật, như trong luận nói: “Do vì tất cả các pháp đều là tánh chân thật”, nên từ đây trở xuống làm duyên dứt nghi. Nghóa là có chúng sanh nghi ngờ rằng: Trong ba thứ thế gian, chúng sanh thế gian do vô minh nhiễm pháp đầy đủ viên mãn, lưu chuyển biến động không lúc ngưng nghỉ. Thế gian như vậy hiện là bản giác, không thể được nói. Bản giác thanh tịnh xa lìa các lỗi quá, do vì nghóa đây nay thông mà nói. Lại, tất cả nhiễm pháp chỗ chẳng thể nhiễm là thật trí Bát-nhã, thể nó bất động, tự tánh thanh tịnh đầy đủ vô lậu, thường luôn huân tập chúng sanh thế gian vì khiến thanh tịnh, như trong luận nói. Lại, hết thảy nhiễm pháp chỗ chẳng thể nhiễm. Thể trí chẳng động, đầy đủ vô lậu vì huân chúng sanh. Thế nào gọi là gương pháp xuất ly? Và có hai nghóa, tướng đó thế nào? Kệ tụng rằng: “Pháp như thật chẳng không, Xa lìa ba lỗi lầm, Viên mãn ba thứ đức, Gọi là pháp xuất ly, Gương tiêu luyện pha lê, Không - nghóa xa lìa sắc”. Luận nói: Tánh đức vô lậu xa lìa ba lỗi quá, viên mãn ba đức gọi là pháp xuất ly. Thế nào gọi là ba thứ quá thất? Một là, vô minh nhiễm phẩm gọi là phiền não chướng ngại; hai là, căn bản vô minh gọi là trí chướng ngại; ba là, câu hợp chuyển tướng gọi là hý luận thức. Đó gọi là ba. Ba lỗi lầm như vậy rốt ráo xa lìa nên gọi là xuất ly. Như trong luận nói: Ba là gương pháp xuất ly, nghóa là pháp chẳng không vượt ngoài phiền não chướng ngại, trí chướng ngại, vì lìa tướng hòa hợp. Thế nào gọi là ba thứ công đức? Một là, công đức thuần thành tựu; hai là, công đức tịnh thành tựu; ba là, công đức minh thành tựu. Đó gọi là ba. Như trong luận nói: Vì thuần tịnh minh (thuần sáng sạch) nên xa lìa lỗi lầm nào, viên mãn đức nào? Nghóa là xa lìa phiền não chướng ngại, viên mãn công đức tịnh thành tựu, xa lìa trí chướng ngại, vô minh công đức minh thành tựu, xa lìa hòa hợp chuyển tướng, viên mãn công đức thuần thành tựu. Tại sao? Vì tương đối pháp nhũ. Gương trong đây, nghóa là châu pha lê. Thí như châu pha lê chìm sâu trong bùn sình, thì liền vọt lên xa lìa bùn sình đó, vọt cao với lượng một trượng. Nếu đặt để trong nước đục, khua lẫn thành trần lụy, chỉ trên nước thanh tịnh, an trú trong đó. Nếu đặt để trong rừng phước đa-già thì xuất hiện hương thơm ngăn ngại mùi uế kia, cách xa mà dừng. Gương pháp xuất ly, cũng lại như vậy, dụ trong đây là dụ nghóa tự thể tịnh. Nghóa Đẳng không là nghóa xuất ly sắc, nghóa là như hư không xa lìa đại chủng, một hướng thanh tịnh, gương pháp xuất ly cũng lại như vậy. Thế nào gọi là gương duyên huân tập? Và có hai nghóa, tướng nó thế nào? Kệ tụng rằng: “Ở vô lượng vô biên, Các chúng sanh trong duyên, Sanh vô lượng vô biên, Ứng hóa thân thù thắng. Huân tập tâm chúng sanh, Xuất sanh các căn lành, Tăng trưởng hai vòng hoa, Trang nghiêm quả pháp thân. Nên gọi duyên huân tập, Trong gương pha lê không, Tùy thuận nghóa thành tựu, Như pháp nên quán sát”. Luận nói: Thí như đem châu pha lê an đặt một nơi, bao quanh chất chứa các thứ châu sắc màu. Châu pha lê kia tùy hướng châu sắc màu hiện tiền chuyển biến. Gương duyên huân tập cũng lại như vậy. Lại thí như hư không có sức tự tại, đối với trong tất cả sự tạo tác, tùy thuận mà thành lập, gương duyên huân tập cũng lại như vậy. Đối với trong sự tu hành của tất cả chúng sanh vì tùy nên dựng lập. Như trong luận nói: Bốn là gương duyên huân tập, nghóa là y cứ pháp xa lìa nên chiếu khắp tâm của chúng sanh, khiến tu căn lành, vì tùy niệm thị hiện. Nêu bốn thứ đại nghóa bản giác như vậy, biến khắp tất cả chúng sanh giới, tất cả Nhị thừa giới, hết thảy Bồ-tát giới, hết thảy Như Lai giới, trong đó, không nơi nào chẳng trú, không nơi nào chẳng chiếu, không nơi nào chẳng thông, không nơi nào chẳng đến. Đầy đủ viên mãn, Khởi Tín sớ giải thích rằng: Bản giác tánh tịnh là dùng không và gương để thí dụ giải riêng bốn nghóa. Luận nói: Một là gương như thật không, xa lìa tất cả tướng tâm cảnh giới, không pháp nào có thể hiện, vì chẳng phải nghóa của giác chiếu. Mới đầu, trong nội chân như, vọng pháp vốn không, chẳng phải trước có mà sau không, nên nói là Như thật không. Đến dưới giải thích nghóa không. Tâm điên đảo và cảnh vọng, vốn chẳng tương ưng nên nói xa lìa, chẳng phải nghóa là có mà chẳng hiện. Chỉ vị pháp vọng lý không, nên không thể hiện cảnh, chẳng phải chẳng thể hiện, chỉ vì sừng thỏ không, nên không thể hiện vậy. Chẳng phải giác chiếu là có hai nghóa: Một là, dùng vọng niệm ngóng trông ở chân trí, không công của giác chiếu, do vì tình chấp trái nghịch lý, như gương chẳng phải tức vật bên ngoài, vì vật bên ngoài ấy không nghóa chiếu dụng, nên hiển bày trong gương không thể của vật bên ngoài. Hai là, dùng bản giác trông ngóng ở vọng pháp, cũng không công năng của giác chiếu, do vì vọng vốn không, như mắt sáng sạch trông nhìn hoa đốm hư không, không công của chiếu trông. Cũng như gương trông soi sừng thỏ. Hỏi: Nếu vậy, tại sao trong gương nhân huân tập ở dưới liền hiện các pháp thế gian? Đáp: Nói về y tha tợ pháp, đây là chân tâm tùy huân sở tác, vì không có tự thể, chẳng khác chân như, nên trong luận nói: “Do vì tất cả pháp tức tánh chân thật”. Nên đây nói về Biến kế sở chấp thật tánh, nên không thể hiện vậy. Hỏi: Sở hiện tợ pháp, há chẳng do chấp thật có kia ư? Đáp: Tuy do chấp thật có, nhưng tợ luôn chẳng phải thật. Như ảnh do chất, ảnh luôn chẳng phải thật. Trong gương hiện ảnh chẳng hiện chất. Vì chẳng hiện chất nên nói là gương không. Vì năng hiện ảnh, là nhân huân vậy. Luận nói: “Hai là gương nhân huân tập, nghóa là như thật chẳng không, hết thảy cảnh giới thế gian đều hiện ở trong. Chẳng ra chẳng vào chẳng mất chẳng hoại, thường trú nhất tâm. Do vì tất cả pháp tức tánh chân thật. Lại tất cả nhiễm pháp, chỗ chẳng thể nhiễm, trí thể chẳng động đầy đủ vô lậu, vì huân chúng sanh nên vậy”. Giải thích: Nội có hai nghóa nhân: Một là, nhân năng tác hiện pháp; hai là, nhân tác nội huân cũng có thể một là nghóa nhân và hai là nghóa huân tập. Nên nói nhân huân tập vậy. Nói như thật chẳng không, tức đây là gồm xuất thể nhân huân, nghóa là có tự thể và công năng. Với hai nhân, trong một là hết thảy cảnh giới thế gian đều hiện, rõ ràng tất cả các pháp lìa ngoài tâm đây không có thể tánh riêng biệt, như trong gương năng hiện ảnh vậy. Chẳng ra là tâm đợi huân và hiện các pháp chẳng phải chẳng huân mà tự ra vậy. Chẳng vào là lìa tâm do vì không năng huân nên chẳng từ ngoài vào vậy. Chẳng mất là tuy chẳng theo trong ra ngoài vào, nhưng lúc duyên khởi hiển hiện không gì chẳng có nên nói là chẳng mất vậy. Chẳng hoại là các pháp duyên tập khởi không chỗ theo, chẳng khác chân như nên không thể hoại, như ảnh trong gương, vì nhân gương nên không thể hoại vậy. Thường trú nhất tâm là hội thể tương đồng. Nhiễm pháp chẳng thể nhiễm là do vì tánh tịnh. Trí thể chẳng động là vì vốn không nhiễm nên nay chẳng bắt đầu tịnh, cho nên trí của bản giác chưa từng dời động. Lại, tuy hiện nhiễm pháp chẳng là sở nhiễm, nên nói là chẳng động, như tượng trong gương tùy chất chuyển biến, nhưng thể gương đó chưa từng động vậy. Lại, một gương không lìa tất cả thể của vật bên ngoài. Hai gương chẳng không, nghóa là thể không gì chẳng thể hiện muôn tượng, ba gương tịnh, nghóa là đã lau chùi các trần cấu, bốn gương thọ dụng, nghóa là đặt để nơi nhà cao, người cầu thì thọ dụng. Hai gương trước tự tánh tịnh, hai gương sau lìa cấu tịnh. Lại hai gương đầu căn cứ lúc nhân ẩn mà nói, hai gương sau căn cứ lúc quả hiển mà nói. Lại hai gương trước là nói về không và chẳng không, hai gương sau là nói về thể và dụng. Như trong kinh Phật Địa nói: “Lại nữa, Diệu Sanh! Đại viên kính trí là như y tựa gương tròn các tượng ảnh hiện, cũng như vậy, nương tựa ở gương trí Như Lai, các xứ cảnh thức các tượng ảnh hiện, chỉ dùng gương tròn để làm thí dụ, phải biết gương tròn, gương trí Như Lai bình đẳng bình đẳng, cho nên gương trí gọi là viên kính trí, gương Như Lai tròn lớn, người có phước lạc, treo nơi cao thắng không chỗ dao động. Vô lượng chúng sanh có qua lại, ngay đó mà quán sát tự thân được mất, là muốn còn được xả bỏ các mất. Như vậy, Như Lai treo viên kính trí nơi tịnh pháp giới, vì không gián đoạn, không chỗ dao động, muốn khiến vô lượng vô số chúng sanh quán nơi nhiễm tịnh, là muốn lấy tịnh xả bỏ các nhiễm. Lại như gương tròn rất khéo lau sáng soi sạch không dơ ánh sáng tỏa khắp. Như vậy, Như Lai Đại viên kính trí đối với trên Phật trí, tất cả phiền não dơ bẩn sở tri chướng trọn hẳn xa lìa, rất khéo lau sáng, làm nương tựa định chỗ nhiếp trì, soi sạch không dơ, làm sự lợi lạc cho các chúng sanh, ánh sáng chiếu khắp. Lại như gương tròn nương duyên bản chất, cácthứ ảnh tượng tướng mạo sanh khởi. Như vậy, Như Lai Đại viên kính trí ở trong tất cả thời, y cứ các duyên, các thứ trí ảnh tướng mạo sanh khởi, như trên gương tròn, chẳng phải một chúng nhiều các ảnh tượng khởi, mà trên gương tròn không các ảnh tượng, mà gương tròn đây không động không tác. Như vậy, trên Như Lai viên kính trí chẳng phải một chúng nhiều các trí ảnh khởi, trên viên kính trí không các trí ảnh, mà gương trí đây không động không tác. Lại như gương tròn cùng các ảnh tượng chẳng phải hợp chẳng phải lìa vì chẳng tụ tập, vì hiện duyên kia. Như vậy, Như Lai đại viên kính trí cùng các trí ảnh, chẳng phải hợp chẳng phải lìa, vì chẳng tụ tập, vì chẳng tan mất. Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu hay nghe nhận kinh Đại Niết- bàn đây, đều hay biết đủ tất cả kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa nghóa vị sâu sắc. Thí như kẻ nam người nữ đối nơi gương sáng sạch, thấy sắc tượng họ rành rẽ phân minh. Gương Đại Niết-bàn cũng lại như vậy, Bồ-tát gìn giữ đó đều được rõ thấy nghóa lý sâu sắc trong kinh điển Đại Thừa”. Lại nói: “Những gì gọi là kinh Y-đế-mục-đa-già? Cho đến thời Phật Câu-na Mâu-ni gọi là Pháp Kính”. Vậy biết Phật xưa đều đặt để đây làm gương, vì giáo pháp muôn nghóa, chân tục muôn duyên, không gì chẳng hiển hiện ở trong. Nên Tôn giả Thiên Thai Đảnh nói trong Niết-bàn sớ rằng: “Bát-nhã tức là Nhất thiết chủng trí của đấng Điều Ngự Vô Thượng, gọi là gương Đại Niết-bàn sáng sạch, gương này, một chiếu tất cả chiếu, chiếu trong nên là gương, chiếu chân nên là sạch, chiếu tục nên là sáng. Sáng nên tượng rõ ràng giả hiện, sạch nên tỳ vết hết chân hiện, gương nên hiển trong thể tròn, đắc trong Tam trí nhất tâm nên gọi là gương sáng sạch. Nhiếp hết thảy pháp nên gọi là Điều Ngự. Phật Trí Tạng nên gọi là Bát-nhã Đức. Do đó biết các Thánh đều đặt để tâm làm gương, diệu tận trong đó vậy”. Kinh Đại Thừa Thiên Bát nói: “Quán sát chắc thật gương tâm chiếu thấy tâm tánh, chỉ chiếu chỉ trong, chỉ chiếu chỉ sạch, quán khắp mười phương, rỗng cùng pháp giới, sáng suốt vắng lặng không có chướng ngại”. Do đó, các bậc Tiên đức nói: “Tánh chân như đây giống như gương sáng, muôn tượng đều hiện ở trong”. Lại, tất cả muôn pháp có hai: Một là, đều như gương sáng gồm tánh sáng rõ vì nhất tâm tạo thành; hai là, phân biệt sở hiện vì như ảnh tượng. Do nghóa trước nên làm năng hiện, do nghóa sau nên làm sở hiện. Nên tất cả các pháp hỗ tương làm tượng gương, như gương hỗ chiếu mà chẳng hoại bản tướng. Trong kinh nói: “Vật xa vật gần tuy đều ảnh hiện, ảnh chẳng theo vật mà có xa gần”. Vả lại, như trong sông suối thấy có nhật nguyệt là vì năng hiện. Nếu sông suối lấy làm sở hiện, thì sông dài suối bay vào ở trong gương. Ra là tướng sở hiện, lên lầu gìn giữ gương thì Hoàng hà một dãy đều vào trong gương, thác đổ ngàn trượng thấy ở thước thẳng. Vương Hữu Thừa có lời thơ rằng: “Cánh cửa sương mây sanh trên áo, Cuộn rèm núi suối vào trong gương”. Sáng là sở hiện vậy, như treo cao gương tâm, không pháp nào chẳng gần, tợ như tánh không rỗng suốt, cửa nào chẳng vào. Nên vua Thái Tông (Lý Thế Dân 6 2 7- 650) thời Tiền Đường nói: “Trẫm nghe dùng đồng làm gương, có thể để chỉnh áo mão, dùng xưa làm gương có thể để biết hưng suy, dùng người làm gương có thể để biết được mất”. Nay dùng tâm làm gương có thể để chiếu pháp giới. Lại gương sáng chỉ chiếu hình đó, chẳng chiếu tâm đó, chỉ chiếu sanh diệt, không chiếu vô sanh, chỉ chiếu thế gian không chiếu xuất thế. Có hình mới chiếu, không hình chẳng chiếu, vả lại như gương tâm suốt gồm tánh địa soi triệt tâm nguyên. Rõ khắp vô sanh rộng sáng chân tục. Có không đều xét, ẩn hiển đều thông. Hơn kém cách biệt, lược bằng ít dụ. Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Bấy giờ, Bà-la- môn vì Thiện Tài đồng tử tán thán Đại vương cam lồ. Tụng rằng: “Chúa ta thắng đoan nghiêm, Tỏ giận răn các dục, Tâm như gương sáng sạch, Soi vật chưa từng riêng. Gương sáng chỉ chiếu hình, Không chiếu ở tâm tưởng, Gương tâm vương ta sạch, Suốt thấy nơi tâm nguyên”. Các vị Tiên đức nói: “Như gương báu Đại ma-ni, cao chiếu thái hư, các sắc tướng khắp mười phương thảy đều chóng hiện, mà gương đây tánh sáng sạch không có ảnh tượng. Pháp thân chư Phật cũng lại như vậy, lắng suốt trong sạch mà không ảnh tượng. Vì xưa kia đại bi chẳng nhọc mệt, tùy chúng sanh nghiệp duyên cảm ứng sai biệt, khắp hiện tất cả sắc thân Tam-muội. Chúng sanh nghe thấy, không ai chẳng được lợi ích. Chư Phật và tâm Kim cang vô lậu làm thân, hiện khắp tất cả cõi chúng sanh. Chỉ vì tập khí phiền não ngăn che, không thể nào chẳng hiện, như trong bình sạch, đèn sáng chẳng tắt, gọi là Như Lai Tạng, cũng gọi là công đức tạng, cũng gọi là vô tận tạng. Chư Tổ cùng truyền diệu tâm chân như thánh trí tự giác thanh tịnh của chư Phật, chẳng đồng chỗ được văn tự ở thế gian. Tại sao? Vì vô ngại giải thoát là Nhất chân pháp tánh, chẳng cùng chỗ chung có thế gian và xuất thế gian. Trong kinh nói: “Vô tỷ là Bồ-đề, vì không thể dụ, nếu có ngộ pháp tánh chân thật đó. Người ấy thì hay rõ biết chư Phật ba đời vì tất cả chúng sanh đồng một pháp giới, xưa nay bình đẳng thường hằng bất biến. Chư Phật trong tất cả thời xa lìa quán tướng”. Trong kinh có kệ tụng: “Tâm tịnh đã qua các thiền định”. Do vì tâm tịnh thì một ánh sáng riêng lẽ soi chiếu, muôn nghó ngợi đều tiêu, như trong phòng tối mà treo đèn, nhiều lớp mây thấy mặt nhật. Như các vị cổ đức có kệ tụng rằng: “Sao biết một niệm nơi được sáng, Ức kiếp hôn mê lúc này diệt”. Nên nói pháp có khả năng ứng chiếu, nên lấy gương mà sánh đó, giáo có nghóa có thể truyền, nên dụ đó như đèn. Có thể gọi là trăng tuệ vào lòng, châu linh ở nắm tay, pháp giới suốt rỗng không gì chẳng soi xét vậy. Luận Tài Mạng nói: “Tâm suốt triệt gương báu”, ghi chú rằng: “Phàm, tâm dùng soi chiếu vật, phẩm loại chẳng sót, suốt triệt tối sáng đồng như gương báu. Lại, Trang tử nói: “Tâm của bậc chí nhân như gương vậy”. Lại như gương ở thế gian, còn soi chiếu gan mật của người, huống gì gương tâm đài linh mà không soi suốt ư? Xưa kia, Tần cung dùng ngọc làm gương soi chiếu các quan liêu, gan mật phủ tạng thảy đều hiển hiện. Do đó, người xưa nói: “Chẳng đi biển lớn chưa thấy cái lạ của Ốc nhật, chưa thăm Thái sơn chưa thấy hình trạng của Can tiêu”. Như chưa đến Tông Kính, sao biết được tự tâm. Rỗng rang mà thể nạp của thái hư, lắng trong mà ánh ngậm cả muôn tượng, người không tin vào, chẳng lường cao sâu. Nên Đại sư Chân Giác có bài ca rằng: “Gương tâm sáng soi vô ngại, Rỗng rang ngời suốt khắp pháp giới, Muôn tượng sum-la ảnh hiện trong, Một tánh tròn sáng chẳng trong ngoài”. Cho nên y cứ bốn thứ nghóa gương không ở luận Khởi Tín đây, bèn là rộng ghi Tổ giáo, hiển hiện nhất tâm, chứng thành Tông Kính. Do đó, luận nói: “Có pháp năng khởi Ma-ha-diễn, tín căn là có pháp, nghóa là pháp nhất tâm. Nếu người hay hiểu pháp đây, hẳn do khởi tín căn rộng lớn. Tín căn đã lập tức vào Phật đạo, vì thành Phật đạo nên lìa hai hiện hành. Thế nào là hiện hành? Một là, phàm phu hiện hành, sanh tử thành sự tạp nhiễm; hai là, Nhị thừa hiện hành, Niết-bàn mất sự lợi lạc. Buộc mở tuy khác, đều mê mờ tông kính. Nay thành Phật đạo không hai hiện hành, viên chứng nhất tâm, đủ Ma-ha-diễn. Do vì Đại trí chẳng trú sanh tử, do vì đại bi chẳng trú Niết-bàn, làm một thứ ánh sáng, làm bến bờ cứu tế muôn đường. Hỏi: Tông Kính rộng chiếu muôn pháp đồng quy, có phải là nghóa gương đây chăng? Đáp: Hoặc phàm hoặc Thánh, nói khác nói đồng đều là ảnh tượng trong gương, đây chỉ là một gương tròn khắp mười phương, ngoài gương không pháp. Đây kia đều tuyệt, các bậc Cổ đức nói: “Nếu nói tâm tánh chúng sanh đồng tâm tánh chư Phật là Biệt giáo vậy. Tâm tánh của Viên giáo là một ánh sáng lặng lẽ không đây không kia, cùng khắp mười phương chư Phật ba đời và ngằn mé chúng sanh thành một gương tròn lớn, chỉ là một gương không có đồng khác. Phật và chúng sanh là ảnh tượng trên một gương vậy. Hỏi: Nay Tông Kính Lục lấy gương làm nghóa là nói theo tông Pháp tướng mà lập hay nói theo tông Pháp tánh mà lập? Đáp: Nếu nói theo nhân duyên đối đãi môn dùng tông Pháp tướng, tức bản thức làm gương. Như kinh Lăng-già nói: “Thí như gương sáng hiện các sắc tượng. Nói hiện thức hiện cũng lại như vậy”. Hiện thức tức là thức thứ tám. Dùng tông Pháp tánh, tức Như Lai tạng làm gương. Như luận Khởi Tín nói: “Thể tướng của giác là có bốn thứ nghóa lớn, cùng ngang bằng như hư không v.v… giống như gương sáng sạch”. Lại, trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác lập hai thứ Quán môn: Vì người độn căn lập Duy tâm thức quán, vì người lợi căn lập chân như thật quán. Lại, luận Khởi Tín nói: “Tâm nếu rong ruổi tan mất tức phải gom lại khiến trú chánh niệm”. Chánh niệm đó là, phải biết duy tâm không cảnh giới bên ngoài, tức lại tâm đây cũng không tự tướng, vì niệm niệm chẳng thể được. Nếu Duy tâm thức quán kịp chánh niệm. Duy tâm đang là tông Pháp tướng. Nếu chân như thật quán cùng với tâm đó niệm niệm chẳng thể được, tức là tông Pháp tánh. Nếu nói theo pháp tánh dung thông môn, đồng kết quy một yếu chỉ không lại phân biệt. Nay luận Chánh Tông, lấy Thắng mà nói, ước theo tông Pháp tánh mà nói, nếu gồm bao hàm như biển nhận nạp các sông, dùng gốc nhiếp ngọn, đâu chỉ tánh tướng, không có một pháp mà sót sở chiếu. Hỏi: Trong Tông Kính đây, làm sao tin vào? Đáp: Chỉ chẳng động Nhất tâm, chẳng trú các pháp, không chứng của năng sở, mất tâm của trí giải, thì là tin của không tin, vào của không vào. Nhân không pháp không, tâm cảnh đều vắng lặng. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Buộc duyên pháp giới, một niệm pháp giới, chẳng động pháp giới. Biết chân pháp giới không nên dao động, nếu nói ta vào pháp giới, đã động pháp giới, năng sở cả hai đều mất, tướng vào đó vắng lặng nên chẳng động pháp giới là vào pháp giới”. Kinh Đại Thừa Thiên Bát Đại Giáo nói: “Phương tiện thế nào mà được chứng vào Vô tánh quán? Bồ-tát trước phải ngay tâm quán chiếu bản tánh vắng lặng, ngộ nhập diệt tận định, được tâm thức tánh, chứng thấy thanh tịnh, chỉ thanh chỉ tịnh, chứng thấy Thánh tánh, tự tánh như như, một đạo vắng lặng, ngộ đạt bản nguyên, xoay chiếu thấy sạch, chỉ chiếu chỉ sáng, chỉ sáng chỉ sạch, chỉ lắng chỉ Thánh, thì gọi là Bồ-tát được vào chẳng động Niết-bàn vô tánh quán”. Nên biết nếu có năng chứng thì là có người, nếu có sở chứng thì là có pháp. Vì chỉ một chân pháp giới nên ngoài tâm không pháp. Không thể dùng pháp giới lại chứng pháp giới. Như Vô Sanh Nghóa nói: “Như trong kinh nói: Xá-lợi- phất tán thán các Tỳ-kheo rằng: “Nay đây chư vị trú ở phước điền!” Các vị Tỳ-kheo nói: “Đại sư Thế Tôn còn chẳng tiêu cúng dường, huống gì chúng tôi. Đại sư giải thích rằng: Đây là Phật chẳng trú Phật thì không có Phật cũng không có phước điền. Năng tiêu cúng dường, đây chánh là người chân thật phước điền. Phật nếu trú Phật tức là có Phật cũng là có phước đức năng tiêu cúng dường, đây tức chẳng phải là chân thật phước điền vậy. Loại đây trú thần thông trí tuệ thì có trí tuệ, đây thì chẳng phải chân thật trí tuệ, nếu không có sở trú mới là có trí tuệ”. Lại, trong kinh Tư Ích Luận Thích rằng: “Lìa nơi pháp giới lại không có người nhận thọ cúng dường, vì pháp giới kia xưa nay thanh tịnh”. Do đó, lục đây gạt bỏ tất cả phù hoa chỉ đàm nói chân thật, chẳng y cứ danh tự, thẳng hiển bày tâm tông. Như kinh Phổ Hiền Quán nói: “Xưa kia tại Linh sơn diễn nói đạo nhất chân”. Lại, luận Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh có kệ tụng: “Tuy không lời khéo léo, Chỉ có nghóa chân thật, Pháp ấy nên thọ trì, Như lấy vàng bỏ đá. Diệu nghóa như vàng thật, Lời khéo như ngói đá, Y danh chẳng y nghóa, Người ấy mù vô minh”. Nếu xác thực thấy tánh vào trong Tông Kính, mới là tự tin pháp môn, quyết định không lầm hoặc, thì mặt nhật có thể khiến lạnh, mặt nguyệt có thể khiến nóng, giả sử ngàn đường khác thuyết trọn chẳng thể đổi thay. Như kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni nói: “Phật bảo: “Kiều-thi- ca! Đệ tử của Như Lai thấy các thế gian giống như huyễn hóa, không có nghi ngờ. Tại sao? Nếu người thế gian đã tự thấy rồi, người ấy trọn không chấp lấy lời người khác nói. Kiều-thi-ca! Như người lõa lồ thân thể giữa đường mà đi, giả sử có người nói với mọi người rằng: “Người này hiếm có áo gấm che thân”. Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Người kia tuy có nói mọi người tin lời đó chăng?” “Không vậy, Bạch Đức Thế Tôn! Tại sao? Vì mắt xác thực thấy”. Phật bảo: “Đúng vậy! Đúng vậy! Kiều-thi-ca! Chư Phật Như Lai có các đệ tử, tự thấy pháp nên chẳng tin lấy lời người khác nói. Nghóa đó cũng vậy”. Giải thích rằng: Nếu thấy tự pháp, pháp nào chẳng phải tự? Hoặc phàm hoặc thánh, hoặc phải hoặc quấy, phàm có chuyển biến đều chẳng vượt ngoài ngằn mé của tự tâm. Người tin như vậy, mới đến nguồn pháp. Như kinh Nhập Pháp Giới Thể Tánh nói: “Phật lại bảo: “Văn-thù-sư-lợi! Ông biết thật tế chăng?” Văn-thù-sư-lợi thưa: “Như vậy, Bạch Đức Thế Tôn! Con biết thật tế”. Phật bảo: “Văn-thù-sư-lợi! Sao gọi là thật tế?” Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Có ngã sở tế, kia tức là thật tế. Sở hữu phàm phu tế, kia tức là thật tế. Hoặc nghiệp hoặc quả báo, hết thảy các pháp đều là thật tế. Hoặc nghiệp hoặc quả báo, hết thảy các pháp đều là thật tế. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người tin như vậy, tức là thật tin. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người điên đảo tin, tức là chánh tín. Nếu hành chẳng phải hạnh, kia tức là chánh hạnh. Tại sao như vậy? Chánh chẳng chánh là chỉ có ngôn thuyết, không thể được vậy. Vậy biết nếu người tin thật nghóa duy tâm thì chẳng bị ngôn ngữ lay chuyển, nghe sâu mà chẳng sợ, nghe cạn mà chẳng nghi, nghe chẳng phải sâu chẳng phải cạn mà chẳng si. Như Thanh Lương Diễn Nghóa nói: “Người nghe sâu chẳng sợ tức phần lớn nghóa sâu. Điều gọi là không vậy, nghe nói ở không, nghóa là đồng với đoạn diệt, nên khiến người khiếp sợ”. Nên Đại Phẩm nói: “Đã chẳng phải trước có, sau cũng chẳng phải không, tự tánh tự tướng không, chớ sanh kinh sợ. Nghe cạn chẳng nghi ngờ là, cạn nghóa là liên can sự”. Phương tiện có nhiều môn, khiến nghi hoặc. Nay biết tùy nghi, nghi ngờ ở đâu ư? Nghe chẳng phải sâu chẳng phải cạn, nghóa là không chỗ y cứ, khiến thân tâm trong lặng, biết chẳng phải sâu là diệu hữu, chẳng phải cạn là chân không. Lìa tướng thân tâm, mới là dõng mãnh, có thể tạo cảnh đó. Lại ba câu ấy cũng tức là Tam quán, thứ nhất là không, kế tiếp là giả và sau là trung đạo. Ba câu đều nghe, một niệm đều hội, thì Tam quán nhất tâm, nghi ngờ nào chẳng khiển trừ?  TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 11 Hỏi: Phàm, căn cơ sở độ thì có vô lượng, pháp môn năng độ thì có vô biên. Lập năm hạnh môn, rộng mở đường của hiền ngu, giăng lưới tám giáo, khắp học gồm cả của trời người. Sao lại dùng tâm nêu tông năng trị tất cả? Đáp: Phương tiện có nhiều môn thì xa giăng lưới tám giáo, về nguồn tánh không hai, mới nêu cao tông của Nhất tâm. Do đó, người bệnh đi dừng nghỉ như Thanh văn ở Hóa thành, trẻ con đi dẫn dụ phàm phu ở cõi trời, gồm chỉ đối mang, cúi vì cơ sai biệt, mở bày ngộ nhập, chỉ chứng đạo Nhất thừa, như ngàn phương thuốc chung trị một bệnh, vạn nghóa lý chỉ hiển bày một tâm, khiến chẳng chấp kiến theo văn, mất vị của chân pháp, chỗ mong nghiên tâm cứu lý, được nguồn của Chánh giác. Như Pháp Hoa Huyền Nghóa nói: “Nhất tâm ngũ hạnh tức là Tam đế Tam-muội. Thánh hạnh tức là Chân đế Tam-muội. Phạm hạnh, Anh nhi hạnh và bệnh hạnh tức là Tục đế Tam-muội. Thiên hạnh tức là Trung đạo vương Tam-muội. Lại, Viên tam Tam-muội, viên phá nhị thập ngũ hữu, tức không nên phá hai mươi lăm ác nghiệp kiến tư v.v… Tức giả nên phá hai mươi lăm vô tri. Tức Trung nên phá hai mươi lăm vô minh. Tức một mà ba, tức ba mà một. Một không tất cả không, một giả tất cả giả, một trung tất cả trung, nên gọi là Như Lai hạnh. Lại, Như Lai thất tối huân pháp giới, từ thiện căn lực chẳng động chân tế, hòa đồng trần cấu, dùng bệnh hạnh từ bi ứng đó chỉ bày thứ thân như điếc như câm, nói các thứ pháp như cuồng như si. Có cơ sanh thiện, dùng Anh nhi hạnh từ bi ứng đó, Bà bà hòa hòa trâu gỗ lá dương. Có cơ vào không, dùng phạm hạnh từ bi ứng đó, căn lực từ thiện thấy sự như vậy, ngồi xổm sàng tòa sư tử ghế báu đỡ chân. Khách thương buôn bán ra vào dứt lợi, không xứ nào chẳng có. Có cơ vào trung, dùng thiên hạnh từ bi ứng đó, như ngựa quyết thấy bóng roi, đường đi lớn thẳng không lưu nạn. Nên không trước không sau, chẳng cùng chẳng riêng. Nói pháp không phân biệt. Các pháp từ xưa lại, thường tự tướng tịch diệt, viên ứng các cơ như đàn cầm A-tu-la. Hoặc tiệm dẫn vào viên, như điều nói trước, hoặc đốn dẫn vào viên, như điều nay nói. Vào viên chứng v.v… lại không sai biệt. Vì hiển bày môn biệt viên mới vào, với căn lực từ thiện, khiến người đốn tiệm thấy như vậy. Nói pháp môn nhất tâm này, ngang thông dọc suốt, nhiếp hết hằng sa nghóa lý, nên gọi là Tổng trì. Hay làm tông của muôn pháp, bèn xưng là Vô thượng, nếu chỉ luận sự hành, mất bản tông của Phật. Như kinh Kim Quang Minh Sớ Giải nói: “Như Vương Tử thí thân cho hổ, Thi-tỳ vay đổi cho chim cáp, đều là xả thí di thể của cha mẹ, chẳng phải xả thí tự thân mình”. Tự thân mình, là pháp tánh thật tướng ấy vậy. Thích Luận nói: “Trì giới làm da, thiền định làm máu, trí tuệ làm cốt, thiện tâm vi diệu làm tủy, vì người khác thuyết giới, hay ngăn tội tu phước, vô tướng vô thượng, chẳng phải trì, chẳng phải phạm, Thí ba-la-mật là thí da của tự mình vậy, nói các thiền định thần thông biến hóa, chẳng khởi diệt định, hiện các oai nghi, là thí máu huyết của tự mình vậy. Nói pháp thảy đều đạt đến nơi Nhất thiết trí địa là thí cốt của tự mình vậy. Đàn nhẫn v.v… nên là thịt vậy, nói pháp tướng thậm thâm. Hành xứ của chư Phật, chẳng một chẳng hai, tuyệt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành, trung đạo vi diệu là thí tủy của tự mình vậy. Lấy đó khiến các chúng sanh đói khát đều được no đủ, huống là các thức ăn uống khác. Các thức ăn uống khác tức giới của trời người, Nhị thừa là da, định là máu, tuệ là cốt, chân đế là tủy vậy”. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Đối với trong các pháp sâu mầu khác mà chỉ dạy khiến được lợi mừng”. Tức nghóa đó vậy. Do đó người hay nói pháp môn này là thấu triệt chân tâm của Phật, thì tủy ở tự mình vậy. Lại, tông nhất tâm này, nếu toàn chọn môn thì tâm chẳng phải tất cả, thần tánh độc lập, nếu toàn thâu môn thì tất cả tức tâm, diệu thể khắp cùng. Nếu chẳng phải thâu chẳng phải chọn thì ngăn chiếu đều mất, cảnh trí đều không, danh nghóa đều tuyệt, có thể gọi là diệu thuật khó nghó, chấm ngói sỏi làm thành vàng, không làm thần thông, quậy sông suối mà làm sữa, chuyển biến tự tại, ẩn hiện theo thời, hoặc cuộc hoặc buông, năng đồng năng biệt, thật là diệu của năng trị, bệnh nào mà không lành. Môn của xảo độ, cơ nào mà chẳng thấu, tẩy trừ tâm dơ, nhổ ra rễ nghi ngờ, lời lời đều khế hợp bản tâm, mỗi mỗi đều bao gồm chân tánh, pháp pháp là câu Kim cang, trần trần đủ môn Bí mật. Như kinh Nhập Pháp Giới Thể Tánh nói: “Văn-thù-sư-lợi nói: Các pháp tánh chẳng hoại, cho nên gọi là câu Kim cang”. Kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Nếu nơi Phật và pháp, Tâm đó trọn bình đẳng, Hai niệm chẳng hiện tiền, Sẽ giẫm vị khó lường”. Kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát đối với tất cả các cảnh giới, không có một pháp mà không thông đạt, tu hành Trí ba-la-mật như vậy. Hàng Nhị thừa ngoại đạo không thể ngăn che, dùng trí quán sát, từ sơ phát tâm cho đến nhập Niết-bàn, thảy đều rõ biết, hay dùng một pháp biết hết thảy cảnh giới. Tất cả cảnh giới tức là một pháp. Tại sao? Vì như như một, chẳng thấy ta năng tu và pháp sở tu, không hai không khác, vì tự tánh lìa, cho nên gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, thông đạt trí Bát-nhã ba-la-mật”. Kinh Tư Ích nói: “Võng minh bao Phạm thiên: “Năm trăm Tỳ-kheo đó từ tòa đứng dậy, ông phải dùng phương tiện dẫn dắt tâm đó vào pháp môn này, khiến được tin hiểu, lìa các tà kiến”. Phạm thiên nói: “Này thiện nam! Giả sử khiến đi đến hằng hà sa kiếp chẳng thể được ra như pháp môn này. Thí như người si mê khiếp sợ hư không, xả bỏ không mà chạy, phàm các chỗ đến chẳng lìa hư không, các Tỳ-kheo đây cũng lại như vậy, tuy là xa đi, chẳng lìa tướng không, chẳng vượt ngoài tướng vô tướng, chẳng vượt ngoài tướng vô tác”. Lại như một người đòi tìm hư không, Đông Tây rảo chạy nói: “Ta muốn có được không, Ta muốn có được không! Người đó chỉ nói danh tự hư không, mà chẳng được không. Đi ở trong không mà chẳng thấy không. Các Tỳ-kheo đây cũng lại như vậy, muốn cầu Niết-bàn, đi trong Niết-bàn, mà chẳng đắc Niết-bàn. Tại sao như vậy? Niết-bàn là chỉ có danh tự, giống như hư không chỉ có danh tự không thể được thủ. Niết-bàn cũng lại như vậy, chỉ có danh tự mà không thể đắc”. Vậy, biết tất cả chúng sanh chẳng tin, các hàng ngoại đạo tà kiến, nhọc sống nhàm lìa, uổng tự vọng cầu cứu cánh, trong vị nhất tâm chưa từng tạm ra khỏi. Nên kinh Mật Nghiêm có kệ tụng rằng: “Như cơm một hạt chín, Hạt khác tức biết được, Các pháp cũng như vậy, Biết một tức biết kia. Thí như người ăn sữa, Dùng ngón tay thử đó, Như vậy các pháp tánh, Khá dùng một quán sát”. Kinh Lăng-già có kệ tụng rằng: “Thí như tượng trong gương, Tuy thấy mà chẳng có, Ở trong gương vọng tưởng, Người ngu thấy có hai”. Kinh Pháp Tập nói: “Bấy giờ Bồ-tát Hải Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát muốn nguyện thấy Niết-bàn, nên quán tâm hư vọng phân biệt tịch diệt, ở nơi như vậy được vào Niết-bàn, cho nên gọi là Thắng Diệu Pháp Tập”. Trong phẩm Quán Tâm ở kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật dạy bảo Diệu Đức v.v… năm trăm vị trưởng giả, ta vì các ngươi mà diễn nói pháp môn tâm địa vi diệu. Nay con vì đó mà thưa hỏi Như Lai. Thế nào là tâm? Thế nào là địa?”… cho đến” Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là bậc Đại thánh Vô cấu; là mẹ của chư Phật rằng: “Này thiện nam! Pháp này gọi là pháp môn Tâm địa vi mật tối thắng của chư Như Lai ở khắp mười phương. Pháp này gọi là pháp môn đốn ngộ nhập Như Lai địa của hết thảy phàm phu. Pháp này gọi là Đường chánh của hết thảy Bồ-tát hướng đến Đại Bồ-đề chân thật. Pháp này gọi là cung báu vi diệu của chư Phật ba đời tự thọ pháp lạc. Pháp này gọi là tạng báu vô tận làm lợi ích hết thảy hữu tình. Pháp này hay dẫn các chúng Bồ-tát đến nơi sắc cứu cánh tự tại trí. Pháp này là Đạo sư chân thật hay dẫn các Bồ-tát hậu thân đến Bồ-đề thọ. Pháp này hay mưa các thứ của cải thế gian và xuất thế gian như ma-ni báu mãn nguyện chúng sanh. Pháp này hay sanh bản nguyện công đức của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Pháp này hay tiêu các quả ác nghiệp của tất cả chúng sanh. Pháp này hay ấn điều nguyện cầu của tất cả chúng sanh. Pháp này hay đưa tất cả chúng sanh qua khỏi sanh tử hiểm nạn. Pháp này hay dứt sóng cả biển khổ của tất cả chúng sanh. Pháp này hay cứu chúng sanh khổ não mà làm nạn gấp. Pháp này hay khiến khô cạn biển sanh lão bịnh tử của tất cả chúng sanh. Pháp này khéo hay sanh ra các nhân duyên chủng tử của chư Phật. Pháp này hay vì đêm dài sanh tử mà làm ngọn đuốc lớn. Pháp này hay vì phá binh chúng bốn ma mà làm áo giáp mũ trụ. Pháp này tức là quân chánh dõng mãnh, cờ hiệu chiến thắng. Pháp này tức là pháp luân Vô thượng của chư Phật. Pháp này tức là pháp tràng tối thắng. Pháp này tức đánh trống pháp lớn. Pháp này tức thổi pháp loa lớn. Pháp này tức là Đại sư tử vương. Pháp này tức là Đại sư tử hống. Pháp này giống như Thánh vương nước lớn khéo hay chánh pháp, nếu thuận vương hóa thì được an lạc lớn, nếu trái nghịch vương hóa tức sau đó sẽ bị diệt mất. Này thiện nam! Trong ba cõi lấy tâm làm chủ, người hay quán tâm thì cứu cánh giải thoát, người chẳng hay quán, thì rốt ráo trầm luân. Tâm của chúng sanh giống như đại địa, năm thứ lúa thóc, năm thứ cây trái tự đại địa sanh. Tâm pháp như vậy sanh ra thiện ác năm thú trong thế gian và xuất thế gian. Các hàng hữu học, vô học, Độc giác, Bồ-tát và các Đức Như Lai do nhân duyên đó, ba cõi duy tâm, tâm gọi là địa. Hết thảy phàm phu thân cận bạn lành, nghe pháp tâm địa, đúng như lý mà quán sát, đúng như thuyết mà tu hành, tự mình lợi ích, chỉ dạy người khác, tán thán khuyên răn mến thương an ủi, hạng người như thế hay đoạn hai chướng, chóng tròn đầy các hạnh, nhanh đắc Vô thượng Bồ-đề”. Bấy giờ, Bồ-tát Đại thánh Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như điều Phật nói, chỉ dùng tâm pháp làm chủ ba cõi. Tâm pháp vốn là chẳng nhiễm trần cấu. Thế nào là tâm pháp nhiễm tham sân si! Đối với pháp ba đời sao gọi là tâm? Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng trú. Ở trong các pháp tánh không thể được, ở ngoài các pháp tướng không thể được, khoảng giữa các pháp đều không thể được. Tâm pháp xưa nay không có hình tướng, tâm pháp xưa nay không có trú xứ. Hết thảy Như Lai còn không thấy tâm, huống gì các hàng người khác được thấy tâm pháp. Tất cả các pháp từ vọng tưởng sanh. Do nhân duyên đó, ngày nay Thế Tôn vì đại chúng nói Tam giới duy tâm, xin Phật xót thương như thật giải bày!” Khi ấy Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đúng vậy! Đúng vậy! Này thiện nam! Như điều ông hỏi tâm và tâm sở pháp bản tánh không tịch. Ta nói các thứ thí dụ để làm rõ nghóa đó. Này thiện nam! Tâm như huyễn pháp, do Biến kế sanh các thứ tâm tưởng, vì nhận chịu khổ vui. Tâm như dòng nước, niệm niệm sanh diệt ở đời trước đời sau chẳng tạm dừng trú. Tâm như gió lớn trong khoảng sát-na trải khắp các nơi khổ. Tâm như ánh đèn vì các thứ hòa hợp mà được phát sanh, tâm như bóng chớp, chỉ trong chốc lát, chẳng dừng trú lâu. Tâm như hư không, chỗ khách trần phiền não phủ che. Tâm như khỉ vượn, leo trèo cây ngũ dục chẳng tạm dừng nghỉ. Tâm như thợ vẽ, hay họa vẽ các thứ sắc tướng thế gian. Tâm như tôi tớ, bị các phiền não sai sử bó buộc. Tâm như đi một mình, vì không có kẻ thứ hai. Tâm như Quốc vương, khởi các thứ sự luôn được tự tại cho đến. Này thiện nam! Nói như vậy, tâm và tâm sở pháp không trong không ngoài, cũng không khoảng giữa, ở trong các pháp, cầu không thể được, quá khứ vị lai và hiện tại cũng không thể được, vượt hẳn ba đời, chẳng phải có, chẳng phải không, tâm ôm hoài đắm nhiễm, theo vọng duyên hiện, duyên không tự tánh. Tâm tánh vốn không, tánh không như vậy không sanh không diệt, không đến không đi, chẳng một chẳng khác, chẳng đoạn chẳng thường, vốn không nơi sanh cũng không nơi diệt, cũng chẳng phải xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa, các tâm như vậy chẳng khác vô vi. Thể của vô vi chẳng khác các tâm. Thể của tâm pháp vốn không thể nói, chẳng phải tâm pháp cũng không thể nói. Tại sao? Nếu vô vi thì tâm đó gọi là đoạn kiến, nếu lìa tâm pháp tức gọi là thường kiến, xa lìa hai tướng, chẳng đắm hai biên, tỏ ngộ như vậy gọi là Chân đế, người ngộ Chân đế, gọi là Thánh hiền. Hết thảy Thánh hiền tánh vốn không tịch. Trong pháp vô vi, giới không trì phạm, cũng không tiểu đại, không có tâm vương và tâm sở pháp, không khổ không vui, pháp giới như vậy, tự tánh không dơ, không thượng trung hạ, các tướng sai biệt. Tại sao? Pháp vô vi đó tánh vốn bình đẳng, như nước các sông chảy đổ vào biển cả, đều đồng một vị, không có biệt tướng. Tánh không dơ đây là không đẳng đẳng, xa lìa ở ngã và lìa ngã sở. Tánh không dơ đây chẳng phải thật chẳng phải hư, tánh không dơ đây là Đệ nhất nghóa đế không tưởng tận diệt, thể vốn chẳng sanh, tánh không dơ đây thường trú chẳng biến, tối thắng Niết-bàn vì ngã lạc tịnh. Tánh không dơ đây xa lìa tất cả, bình đẳng, thể không sai khác. Nếu có người thiện nam, kẻ tín nữ nào muốn cầu Vô thượng bình đẳng phải nên nhất tâm tu tập pháp quán tâm địa như vậy”. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Hỏi: Bát-nhã ba-la-mật là đạo Đệ nhất của Bồ-tát, một tướng gọi là vô tướng. Tại sao nói các thứ đạo như thế? Đáp: đạo đó đều vào trong một đạo, đều gọi là thật tướng các pháp, mới học thì có các thứ sai biệt, sau đều đồng nhất không có sai biệt. Thí như kiếp tận, lúc lửa thiêu đốt, tất cả sở hữu đều đồng hư không. Nên biết vượt đây rộng tu tuyệt địa vị tiến bộ, lìa phương tiện đó, không kỳ hẹn thành Phật. Cho đến từ mới đầu đắc đạo đến cuối cùng nhập Niết- bàn ở trong năng hóa sở hóa, thầy trò thủy chung gốc ngọn đồng thời, cơ ứng một khoảng, đều chẳng vượt ngoài tự tâm vậy”. Như Thai Giáo nói: “Tâm vương tức là Như Lai, tâm sở tức là đệ tử, chỉ bởi chúng sanh từng sát-na tương tục ngày đêm thường sanh vô lượng trăm ngàn chúng sanh. Tâm vương mười sở tà, tất cả pháp tà, quyến thuộc của ma vậy. Tâm vương mười số chánh thì tất cả pháp chánh”. Ngày nay hành nhân học đạo phải khéo được ý này, nếu tu trí tuệ, chỉ nên bên trong khởi tuệ số tư duy phân biệt, nhân đây phát bàn phần trí tuệ mãn phần trí tuệ, tự hành hóa tha, tức đồng Xá-lợi-phất trang nghiêm song thọ. Như vậy mỗi mỗi ước tâm số hạnh thành, hóa mười đệ tử, mỗi mỗi hạnh nguyện đều do tâm vậy. Nếu hay chắc thật quán sát tâm tánh, tức là thấy Phật tánh, trú Đại Niết-bàn, tức đồng Như Lai đầy đủ trang nghiêm Sa-la song thọ. Nếu người quán hạnh tâm rõ thấy tâm vương, tức là Pháp vương, tâm số (sở) tức là đại đệ tử, nghóa của trang nghiêm Song thọ, giống như mắt thấy. Hỏi: Thai Tạng Quán tâm ngữ mật, sớ đâu tận tâm? Hoàng Nguyên Tập nói: “Kinh Pháp Hoa nói là “thọ trì tu kinh gì? Xưng dương Phật đạo nào?” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Kinh luận sắc, kinh luận thọ, tưởng, hành, thức, nếu tùy tự ý nơi cũng được nói, kinh luận nhãn, kinh luận Nhó tỷ thiệt thân ý tham sân si”. Sở dó như vậy là biết Nhãn vô sanh không tự tánh. Nói không - tịch diệt, không sở hữu. Sáu căn đồng kinh đây, kinh chỉ là pháp. Biết nhãn không pháp tức kinh luận nhãn vậy, không pháp tức là vậy. Kinh luận các cõi cũng vậy, đạo lý hẳn phải thật chiếu, chẳng thể hư đàm lấy làm tự khinh, đi đứng nằm ngồi thọ trì ấm giới nhập, là hạnh kinh nào? Ở trên sắc phát trí, tức là kinh Thọ Hành Sắc, cho đến ngộ hết thảy xứ. Ngộ tức thọ trì kinh Nhất Thiết Xứ. Thừa đó từ trong Tam giới lưu xuất, đến trong Tát-bà-nhã mà trú, do vì chẳng động, tức là nghóa đó. Nếu tin chắc tư duy sâu, như kinh Pháp Trú nói: “Như Pháp trú là như sáu căn kia tánh không pháp mà giả nói trú vậy”. Xưng dương Phật đạo nào là như kinh Anh Lạc nói: “Thật trí tánh là pháp thân. Nếu thấy thật tánh tức là xưng dương pháp thân Phật. Nghe thân có thật tánh tức ở nơi ấm giới nhập, đắc không Tam-muội, Lục độ, Thất giác, Thập địa, Diệu giác v.v… vì báo công trước tức là xưng dương Báo thân Phật, được các pháp trước ứng với thân chúng sanh, tức là xưng dương ứng thân Phật”. Đây tức là trong thân, một niệm thấy cả ba Phật, chúng sanh chẳng quán sát, tuy gần mà chẳng thấy. Kinh Đại Tập nói: “Xuất của không xuất, đó gọi là Phật xuất. Thiền của không thiền, đó gọi là chánh thiền. Thoát của không thoát, đó gọi là chánh thoát”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ma cầu xin Bồ-tát Văn-thù mở trói buộc, Bồ-tát Văn-thù bảo: “Không người nào trói ngươi, tự ngươi tưởng trói buộc vậy”. Ma liền nói: “Tôi trọn chẳng giải thoát”. Trong kinh nói: “Vốn tự không trói buộc, ai cầu cởi mở đó”. Nếu khiến pháp giới có người trói buộc, ta tức giải thoát. Đây chân thật chẳng sanh chẳng diệt vậy, phải ở trong tâm hạnh mà mong cầu, đối với trong hạng người vô trí, chớ nói kinh này. Sợ sanh tà kiến, thuốc trái với bệnh. Biết lìa gọi là pháp, giác pháp gọi là Phật. Biết lìa là sắc tánh lìa, thọ tưởng hành thức cũng lìa, từ một tánh không pháp mà giả sanh ra tên của Tam bảo. Hòa thượng Hoàng Nghiệt nói: “Ngươi nếu phỏng đắm trước một pháp, ấn sớm thành vậy. Ấn chấp trước có thì văn tứ sanh xuất hiện, ấn chấp trước không tức văn không giới vô tưởng hiện”. Như nay chỉ biết quyết định, chẳng ấn tất cả vật. Ấn đây cũng với hư không chẳng phải một, chẳng phải khác. Hư không chẳng không, Bản ấn chẳng có, thấy mười phương hư không thế giới chư Phật ra đời như một thứ điện chớp, quán tất cả côn trùng quấy động như một thứ tiếng vang, ngàn kinh muôn luận chỉ nói một tâm của ngươi. Tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt tức là quả Đại Niết-bàn. Do đó, đạo quả mãn, Bồ-đề viên, hoa nở thế giới hiện khởi. Nên biết Bồ-đề quả mãn kết từ tâm hoa. Thế giới duyên dấy, mới đầu từ sóng thức, như xưa kia có Pháp sư Nguyên Hiểu, Pháp sư Nghóa Tướng ở Đông Quốc. Hai vị đồng đến Trung Hoa ở thời Tiền Đường tầm thầy học đạo, gặp đêm tối tạm dừng nghỉ trong gò mả. Pháp sư Nguyên Hiểu nhân khát mà nghó tưởng nước sữa, bèn ngay bên cạnh chỗ ngồi thấy có một dòng nước trong vắt, vốc uống rất ngon. Đến sáng hôm sau, trông nhìn lại đó nguyên là nước rò rỉ của thây chết, đang lúc tâm nhàm gớm, ói nhả, bỗng nhiên đại ngộ, mới nói: “Ta nghe Phật dạy Tam giới duy tâm vạn pháp Duy thức, nên biết tốt xấu vốn tại ta, thật chẳng phải tại nước vậy”. Bèn liền trở về quê cũ rộng hoằng dương chí giáo. Nên biết không có người chẳng đạt đây, chóng dứt tâm rong ruổi, mặc tình mang tráp đeo đảy rộng trải qua cửa học Tam thừa, phóng tầm thầy hỏi bạn, tham khắp thiền cục pháp giới. Nếu muốn tuyệt học gá thần rốt ráo nên phải quy hướng nơi Tông Kính. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: Thế nào là Bồ-tát tin thuận nhất thật? Bồ-tát rõ biết tất cả chúng sanh đều quy hướng ở một đạo. Một đạo, nghóa là Đại thừa vậy”. Giải thích rằng: “Đại thừa, nói là đại tức là tâm tánh chúng sanh, có khả năng bao quát, có khả năng khắp cùng. Đến nhỏ không trong, không một mảy trần nào mà có thể vào. Đến lớn không ngoài, một pháp nào mà chẳng bao hàm. Nói là thừa, là dùng vận tải làm nghóa, hay đưa người đến thẳng biển Tát-bà-nhã. Vậy biết biển đây chẳng trái nghịch. Tâm báu thường hiện, thì Triệu bích chẳng phải quý, Tùy châu chưa phải trân. Bạn lành nhọc sóng cả nổi chìm, Biện Hòa rỗng truyền núi gai. Nếu vào tông kính, chẳng động thân tình, trong khoảng sát-na, báu đó tự hiện, nào phải khắp tham pháp giới, rộng trải qua các tòng lâm, phải xác thực lúc tỏ ngộ thật chẳng phải từ đâu khác mà được, như Hàn Sơn Tử có lời thơ rằng: “Năm xưa từng vào trong biển lớn, Vì tìm ma-ni thề khẩn cầu, Thẳng đến cung rồng tạng kín sâu, Cửa vàng khóa dứt quỷ thần sầu. Vua rồng gìn giữ trong thân ổn, Kiếm báu sao lạnh chớ xúi cầu, Khách buôn tức về trong cửa đi, Minh châu vốn tại đầu tâm ta”. Hòa thượng Đỗ Thuận có kệ tụng rằng: “Người dạo dối gợn gợn, Vòng núi lễ gò đóng, Văn-thù chỉ đó vậy, Xứ nào kiếm Di-đà”. Hòa thượng Thạch Củng có đùa châu ngâm rằng: “Minh châu như ý gương tròn sáng, Cũng có trong người gọi làm tánh, Phân thân trăm ức, châu ta phân, Vô thủy vốn sạch như nay sạch. Trân châu ngày dùng là Phật-đà, Nào nhọc theo vật sóng gợn gợn, Ẩn hiển tức nay không hai tướng, Đối mặt trông châu biết được gì?” Hỏi: Tất cả muôn pháp đều chỉ có thức tánh, cớ sao có hư có thật? Lập sắc lập không, môn chân đế tục đế, đạo tánh tướng cả hai đều không? Đáp: Vô vàn ảnh tượng, đều chỉ là bản tông của tâm, sai biệt phân vết, đều là diệu tánh của thức. Tánh của Duy thức đại lược có hai thứ: Một là, hư vọng, tức là Biến kế sở chấp; hai là, chân thật, tức là viên thành thật. Ở trước là chỗ dứt trừ thanh tịnh của Duy thức tánh, sau là sở chứng đắc thanh tịnh của Duy thức tánh. Lại có hai thứ: Một là, thế tục tức là y tha khởi; hai là, Thắng nghóa tức là viên thành thật. Ở trước là sở đoạn thanh tịnh, ở sau là sở đắc thanh tịnh. Lại nữa, tướng tức là y tha khởi, bao gồm môn hữu vi. Tánh tức là viên thành thật, thông cả đạo vô lậu. Lại, sắc tức là tướng của y tha khởi, không tức là tánh của viên thành thật. Đó thì hư thật chân tục, tánh tướng, có không, suốt gốc cùng nguồn đều là Duy thức tánh vậy. Đại sư Từ Ân nói: “Thức tánh thức tướng đều chẳng lìa tâm, tâm sở tâm vương lấy tâm làm chủ, quy tâm sạch tướng chung gọi là Duy thức. Duy là ngăn cảnh có, người chấp có là mất chân đó, thức là chọn tâm không, người trệ không là trái thật đó”. Do đó, Tâm Phật như biển, không một dòng sông nào mà chẳng chảy vào. Tâm Phật như gương, không một ảnh tượng nào mà chẳng sanh. Tâm Phật như châu, không một báo nào mà chẳng mưa. Tâm Phật như đất, không một giống nào mà chẳng thành, muôn tượng hiện nơi pháp thân, các nghóa sanh từ Bát-nhã, thì một văn một chữ một niệm một trần đều vào pháp môn không hai, đều trú giải thoát chẳng thể nghó bàn vậy. Như kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Nếu trú biển lớn thì bao quát các dòng nước, trú ở một vị thì nhiếp hết các vị”. Kinh Vô Hạnh có kệ tụng rằng: “Bồ-đề chẳng Bồ-đề, Phật-đà chẳng Phật-đà. Nếu biết một tướng đó, là bị thế gian dẫn”. Nên biết, nếu hay thấu rõ tông một khoảng vô tướng đây, là có thể làm ánh sáng, làm dẫn dắt, làm thầy, làm mẫu mực, khắp cứu quần mê, chẳng trú ở hóa thành, thẳng đến chốn báu, nên trong kinh nói: “Thường vui quán tịch diệt, một tướng không có hai, tâm đó chẳng tăng giảm, hiện vô lượng thần lực”. Nên trong phẩm Xuất Hiện ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật Tử! Nếu như có quyển kinh lớn, lượng ngang bằng như ba ngàn đại thiên thế giới, biên ghi mọi việc trong ba ngàn đại thiên thế giới tất cả đều hết. Cho đến một quyển kinh lớn đây, tuy lại lượng ngang bằng như ba ngàn đại thiên thế giới mà toàn trú ở trong một mảy trần, như một mảy trần, tất cả mảy trần đều cũng như vậy. Bấy giờ có một người trí tuệ minh đạt, thành tựu thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển kinh đây tại trong mảy trần, đối với các chúng sanh không ít lợi ích, liền khởi ý niệm rằng: “Ta phải dùng sức tinh tấn phá mảy trần ấy lấy quyển kinh này ra, khiến được lợi ích tất cả chúng sanh”. Khởi ý niệm rồi, bèn dùng phương tiện phá mảy trần đó lấy quyển kinh lớn này ra, khiến các chúng sanh khắp được lợi ích. Như đối với một mảy trần, tất cả mảy trần, nên biết đều là Phật Tử. Trí tuệ Như Lai cũng lại như vậy, vô lượng vô ngại, khắp hay lợi ích tất cả chúng sanh, đầy đủ tại nơi trong thân chúng sanh, chỉ bởi các phàm ngu vọng tưởng chấp trước, chẳng hay chẳng biết, chẳng được lợi ích. Bấy giờ Như Lai dùng trí nhãn thanh tịnh không chướng ngại quán khắp pháp giới tất cả chúng sanh, mà nói lời rằng: “Kỳ thay! Lạ thay! Các chúng sanh đây cớ sao có đủ trí tuệ Như Lai, mà ngu si mê hoặc không biết không thấy. Ta phải dùng Thánh đạo để chỉ dạy, khiến đó trọn lìa vọng tưởng chấp trước. Tự ngay trong thân được thấy trí tuệ rộng lớn của Như Lai cùng Phật không khác”. Tức dạy chúng sanh đó tu tập thánh đạo, khiến lìa vọng tưởng, lìa vọng tưởng rồi chứng đắc vô lượng trí tuệ của Như Lai, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh”. Giải thích rằng: Quyển kinh Đại thiên tức là trí tuệ Như Lai. Tại trong một mảy trần tức là toàn tại trong tâm của tất cả chúng sanh. Tất cả mảy trần đều cũng như vậy, tức là tất cả pháp giới chúng sanh đều ngậm chứa trí Phật, vì tình trần tự ngăn cách chẳng thể nội chiếu. Không rỗng chôn vùi kho vàng, uổng che khuất đài linh, như đánh nhau mất châu nơi trán, say mê vật báu trong áo, chẳng nhận chuyển biến không sao thấy biết được, nên các bậc Tiên đức nói: Phá mảy trần lấy ra quyển kinh là hằng hà sa Phật pháp hiểu trong một tâm. Vậy biết nước chưa vào biển thì chẳng mặn, củi chưa vào lửa thì chẳng cháy, cảnh chưa quy tâm thì chẳng ngang bằng. Chỉ vì Tông Kính gồm thâu đó, muôn pháp đều đồng một chiếu. Phải quấy đều sạch, thuận nghịch đồng kết quy, không một tâm nào chẳng phải là tâm Phật, không một sự nào mà chẳng phải là Phật sự, chưa thấy trong khoảng sát-na chẳng là lúc Như Lai chứng đắc Bồ-đề, không chỗ trống nào chỉ bằng hạt cải mà chẳng phải nơi Bồ-tát xả thí thân mạng. Nên các bậc Tiên đức nói tâm chẳng phải ngoài cảnh nên không đắc, cảnh chẳng phải ngoài tâm nên không tướng. Tức tâm là cảnh nên thậm thâm tức cảnh là tâm nên khó vào. Như Pháp sư Triệu nói: “Tức sự không gì chẳng khác, tức không không gì chẳng một, cực thượng cùng hạ, ngang bằng nhất quán mới ứng với bình đẳng vậy”. Thai Giáo nói: “Như đất không sai biệt bao nhiêu cỏ cây, bao nhiêu không bao nhiêu, không bao nhiêu bao nhiêu. Lại như nói về tâm luận pháp, ước về pháp luận tâm, tâm có các số pháp không các số, tâm chẳng lìa pháp, pháp chẳng lìa tâm, không số mà số, số mà không số vậy”. Do đó, luận Khởi Tín nói: “Lại nữa, chân như y cứ ngôn thuyết phân biệt có hai thứ nghóa. Những gì là hai? Một là như thật không, do vì hay cứu cánh hiển bày thật; Hai là, như thật bất không, do vì có tự thể đầy đủ tánh công đức vô lậu. Nói là không, tức từ xưa đến nay tất cả nhiễm pháp chẳng cùng tương ưng, nghóa là lìa tướng của tất cả pháp sai biệt, do vì không tâm niệm hư vọng, phải biết tự tánh chân như, chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải chẳng phải có tướng, chẳng phải chẳng phải không tướng, chẳng phải có không cùng tướng, chẳng phải một tướng, chẳng phải khác tướng, chẳng phải chẳng phải một tướng, chẳng phải chẳng phải khác tướng. Chẳng phải một và khác cùng tướng. Cho đến, nói chung tất cả chúng sanh vì có vọng tâm niệm niệm phân biệt đều chẳng tương ưng, nên nói là không, nếu lìa vọng tâm vì thật không thể không. Điều gọi là bất không là vì hiển bày pháp thể không không vọng tức là chân tâm thường hằng bất biến, tịnh pháp đầy đủ thì gọi là Bất không, cũng không có tướng có thể thủ, vì lìa niệm cảnh giới chỉ chứng tương ưng. Chân như, xưa trước giải thích là: Dứt trừ vọng gọi là chân, hiển bày lý gọi là như. Hòa thượng quán ngược lại nghóa đó nói: Không pháp chẳng phải chân, sao có vọng để có thể khiển trừ ư? Thì chân chẳng phải chân vậy. Không pháp chẳng như, sao xứng lý có thể hiển bày ư. Nên Như chẳng phải Như vậy. Đó thì không khiển trừ, không dựng lập, vì chẳng phải chân như của an lập vậy. Ở đây giải thích rất diệu, nên tín tâm minh nói: Do vì lấy bỏ, sở dó chẳng Như. Lập tức là lấy, khiển tức là bỏ”. Nay không khiển trừ không dựng lập, Đạo tự huyền hội vậy, đâu có chân vọng đáng tình ư? Như lời tựa Bách Luận nói: “Thản nhiên chẳng viện cứ mà sự chẳng mất chân, tự nhiên không nương cậy mà lý tự huyền hội. Đạo của trái gốc đắm trước ở đây vậy. Có thể gọi là không tâm hợp đạo, lý sự đều thông. Lại, tự tướng chân như chỉ lìa niệm cảnh giới thì không thể có hay không mà tư duy, nên nói chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải chẳng phải có tướng, chẳng phải chẳng phải không tướng, chẳng phải có và không cùng tương. Tại sao? Nếu có hai có thể được thì gọi là cùng. Nay có tức là không, thì ngoài có không không có thể đồng có cùng, nay không tức là có thì ngoài không không có có thể đồng không cùng, cũng có cũng không trái nhau chẳng lập, nếu quyết định có có và không thì ngăn vướng câu chẳng phải có và không có cùng. Nay có tức là không, có nào chẳng phải không? Nên cả hai chẳng phải cũng tịch, nên biết nói mất bốn câu (tứ cú) không câu có thể mất, rõ ràng không câu đây tức là thật mất vậy. Hỏi: Nhất tâm bình đẳng, lý tuyệt thiên viên, cớ sao trong giáo lại nói các pháp khác? Đáp: Tùy theo tình mà nói khác tuy khác mà đồng, đối chấp mà nói đồng, tuy đồng mà khác. Lấy đồng phá khác, dùng khác phá đồng, tuy đồng tuy khác, chẳng phải khác chẳng phải đồng, như nói: Cầm mâu của ông đâm thuẫn của ông, cũng như cưỡi ngựa giặc mà đuổi giặc, dùng tiếng động đểà ngưng ồn ào. Do đó: Sáng bốn chiều ba, khiến lũ vượn đều vui thích, khổ bôi thoa nước rửa, dùng vừa lúc mà dưỡng nuôi trẻ con, đều là cúi thuận có nghi, khéo dùng phương tiện. Như Trang tử nói: “Nhọc thần minh làm một, mà chẳng biết đó đồng vậy”, nghóa là gọi đó là sáng ba, sao gọi là sáng ba? Thư công có bài phú rằng: “Sáng ba mà chiều bốn, Lũ vượn đều giận bảo, Nếu sáng bốn mà chiều ba, Lũ vượn đều vui thích”. Danh thật chưa khuyết mà mừng giận làm dụng cũng nhân đó vậy. Ghi chú rằng: Phàm, bốn đó và ba lũ vượn vọng sanh mừng giận, quấy đó cùng với phải, người đời đua tranh khởi thương ghét. Thánh nhân lại dùng phải và quấy đó để dừng phải và quấy của người đời. Thư công lại lấy bốn và ba để chấm dứt ba và bốn của lũ vượn. Người thấu đạt nơi một, há một nhọc thần minh ở khoảng ấy ư? Kinh Đại Niết-bàn nói: “Thí như người nữ sanh nuôi một đứa con, trẻ nhỏ đó mắc bệnh, người nữ ấy buồn rầu tìm cầu thầy thuốc giỏi. Thầy thuốc đã đến, hợp ba thứ thuốc tô nhũ và đường phèn, trao cho và khiến uống, nhân bảo người nữ rằng: “Đứa trẻ uống thuốc rồi, chớ nên cho bú sữa, phải đợi thuốc tiêu rồi mới cho bú sữa”. Khi ấy người nữ liền dùng chất có mùi vị đắng bôi thoa núm vú mà bảo đứa trẻ rằng: “Sữa mẹ đang bị bôi thoa chất độc, không thể xúc chạm”. Đứa trẻ đó thèm khát, muốn được bú sữa mẹ, nghe nói hơi độc, bèn bỏ đi xa. Đến lúc thuốc đó đã tiêu, người nữ mới tẩy rửa núm vú, gọi đứa trẻ lại cho bú. Khi ấy, đứa trẻ tuy là thèm khát nhưng trước đó nghe có hơi độc, cho nên chẳng đến, người mẹ lại bảo rằng: “Vì con uống thuốc, nên dùng chất độc để bôi thoa, nay thuốc con uống đã tiêu, ta cũng đã tẩy rửa xong, con nên bú sữa không còn phải khổ đắng”. Đứa trẻ đó nghe xong dần dần trở lại bú sữa, kinh hợp với ý thí dụ. Thí như nếu không có ngã v.v… giống như bôi thoa chất độc. Nói Như Lai Tạng, như gọi con lại bú sữa. Hoặc có lúc nói ngã, có lúc nói vô ngã, đều vì vừa có. Hoặc có lúc nói ngã, có lúc nói vô ngã, đều vì mưa có, như người nữ kia bôi thoa và tẩy rửa chất độc vậy. Như Nghóa Hải nói: “Gọi tướng của trần sự là khác, khắc thể chỉ pháp là không khác, chỉ do pháp thể chẳng khác tức nghóa khác mới thành, do vì chẳng mất thể, chỉ do trần sự sai biệt tức nghóa chẳng khác mới thành, vì chẳng hoại duyên mới nói lý vậy. Nên trong kinh nói: “Lạ thay! Thế Tôn, đối với trong pháp không khác hay nói các pháp khác, như sum-la tuy khác mà chẳng thể tự khác. Hư vọng tuy đồng, mà chẳng thể tự đồng, do vì không thể pháp pháp thường sanh, do vì không dụng, trần trần thường lắng đều là thế gian phân biệt chúng sanh vọng tình, ở trong pháp bình đẳng tự sanh sai biệt, hướng đến nói không hai tướng cưỡng lập lắm mối, giống như thợ vẽ từ xa tạo thành tướng trạng cao thấp, hoặc như thợ vàng, rèn luyện ra các hình vật lớn nhỏ, thể muôn pháp thường hư, chỉ do tự tâm biến khởi như luận Đại Trang Nghiêm có kệ tụng: “Thí như thợ họa vẽ, Họa bằng nổi lồi lõm. Dối phân biệt như vậy, Ở không thấy năng sở”. Thí như người thợ họa vẽ khéo léo có khả năng họa vẽ từ bức tường bằng phẳng nổi lên tướng lồi lõm, kỳ thật không có cao thấp mà thấy có cao thấp, người chẳng chân thật phân biệt cũng lại như vậy, ở trong pháp giới bình đẳng, nơi không hai tướng, mà thường thấy có hai tướng năng sở. Cho nên không nên khiếp sợ, vì sao chẳng phải khiếp sợ, vì chỉ tự tâm biến khởi, như họa vẽ lồi lõm do tự tay họa vẽ nên. <篇> <卷>QUYỂN 12 tự? Hỏi: Phàm, chỉ một tâm pháp, cớ sao trong giáo rộng lập các danh Đáp: Danh hiệu Như Lai, mười phương chẳng đồng, một pháp Bát-nhã, nói các thứ danh, giải thoát cũng vậy, nhiều các danh tự. Nên kinh Đại Bát-nhã nói: “Như tên của tất cả các pháp, chỉ là do khách thâu gồm, đối với mười phương ba đời, không chỗ từ đâu lại, không chỗ đến đi, cũng không chỗ trú. Trong tất cả pháp không tên, trong tên không tất cả pháp, chẳng phải hợp chẳng phải tan, chỉ giả khái niệm, cớ sao như vậy? vì tất cả pháp và tên đều là tự tánh không”. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập nói: “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương rằng: “Này thiện nam! Đệ nhất nghóa tức nghóa là không có các pháp. Nếu không các pháp, cớ sao nói không? không sanh tự pháp, nói làm danh tự. Danh tự như thế cũng không trú xứ, pháp ở dưới danh cũng lại như vậy. Do vì, pháp từ tâm sanh, danh nhân pháp lập. Tâm của sở sanh không nơi chốn, pháp của năng sanh cũng vậy, thì tâm cảnh đều không, đều không xứ sở”. Luận nói: “Tâm hay vì tất cả pháp làm tên. Nếu không tâm thì không tất cả danh tự, phải biết danh tự của thế gian và xuất thế gian đều từ tâm khởi, vì tâm tùy duyên, ứng vật mà lập hiệu, lược có năm nghóa: Một là theo nghóa; Hai là tùy duyên; Ba là y cứ tục; Bốn là nhân thời; Năm là theo dụng”. Thế nào là theo nghóa? Kinh Vô Lượng Nghóa nói: “Vô lượng nghóa là từ một pháp sanh”. Nên biết nhân nghóa mà lập danh, nhân danh mà hiển bày nghóa. Thế nào là tùy duyên? Kinh Niết-bàn nói: “Vị đó chân chánh dừng ở Tuyết sơn, tùy nơi lưu chảy đó, được các thứ tên”. Tùy nói lưu chảy đó tức là tùy duyên nhiễm tịnh, được hiệu của Thánh phàm. Thế nào là y cứ tục? Trong kinh nói: “Một pháp có nhiều tên, trong pháp thật tức không, Vì chẳng mất pháp tánh, lưu bố ở thế gian. Thế nào là nhân thời. Kinh Niết-bàn nói: “Phật tánh nhân thời tiết mà có khác, nói tịnh và bất tịnh. Tại sao? Tại lúc dơ nhiễm thì gọi là theo dụng? Như nhân tâm mà lập pháp, tùy pháp mà được sanh, tại nơi Thánh gọi là chân, ở nơi phàm gọi là tục, tợ như vàng làm ra các vật dụng, ở nơi ngón tay gọi là vòng, trang sức nơi cổ tay gọi là xuyến, thì nhất tâm chẳng động. Chấp hiệu riêng mà muôn pháp thành sai. Vàng thật chẳng đổi, nhận tên khác mà ngàn vật dụng chẳng ngang bằng. Nếu biết pháp pháp toàn tâm tạo, mỗi mỗi vật dụng đều do vàng thành. Danh tướng chẳng thể liên can, phải quấy sao có thể lầm hoặc. Lại như vật dụng hình tròn và vật dụng hình vuông danh tự chẳng đồng. Nếu vàng sống và vàng chín ngôn thuyết có khác, suy nguồn nghiên cứu thể, muôn pháp đều không, chỉ có ý nói danh nghóa sai biệt. Động tức tám thức, ngưng là nhất tâm, đắc yếu chỉ quên duyên, xúc chạm đường không dùng ghé. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo: Này thiện nam! Như Lai có tất cả thiện hạnh, đều vì điều phục các chúng sanh. Thí như y vương có các phương thuốc đều vì trị liệu tất cả bệnh khổ. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn vì cõi nước vì thời tiết. Vì người khác nói, vì người, vì các căn, nên ở trong một pháp làm hai thứ thuyết, ở một tên pháp, nói vô lượng tên, ở trong một nghóa nói vô lượng danh, ở trong vô lượng nghóa nói vô lượng danh. Thế nào là một tên nói vô lượng tên? Giống như Niết-bàn cũng gọi là Niết-bàn, cũng gọi là vô sanh, cũng gọi là vô xuất, cũng gọi là vô tác, cũng gọi là vô vi, cũng gọi là quy y, cũng gọi là hang nhà, cũng gọi là giải thoát, cũng gọi là quang minh, cũng gọi là đèn sáng, cũng gọi là bờ kia, cũng gọi là vô úy, cũng gọi là không lùi, cũng gọi là nơi an, cũng gọi là lặng lẽ, cũng gọi là vô tướng, cũng gọi là không hai, cũng gọi là nhất hạnh, cũng gọi là trong mát, cũng gọi là không tối, cũng gọi là vô ngại, cũng gọi là không tranh cãi, cũng gọi là không dục, cũng gọi là rộng lớn, cũng gọi là cam lồ, cũng gọi là cát tường. Đó gọi là một tên mà làm vô lượng tên. Thế nào là một nghóa nói vô lượng danh? Giống như Đế thích, cũng gọi là Đế thích, cũng gọi là Kiều-thi-ca, cũng gọi là Bà-sa- bà, cũng gọi là Phú-lan-đà, cũng gọi là Ma-khư-đà, cũng gọi là Nhân- đà-la, cũng gọi là thiên nhãn, cũng gọi là Xá-chỉ-phu, cũng gọi là Kim cang, cũng gọi là Bảo đảnh, cũng gọi là Bảo tràng. Đó gọi là một nghóa nói vô lượng danh. Thế nào là ở vô lượng nghóa nói vô lượng danh? Như Phật, gọi là Như Lai, nghóa khác danh khác, cũng gọi là A-la-ha, nghóa khác danh khác, cũng gọi là Tam-miệu-tam-phật-đà, nghóa khác danh khác, cũng gọi là bậc thầy lái thuyền, cũng gọi là Đạo sư, cũng gọi là Chánh giác, cũng gọi là Minh hạnh túc, cũng gọi là Đại sư tử Vương, cũng gọi là Sa-môn, cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là Tịch tónh, cũng gọi là Thí chủ, cũng gọi là Đến bờ kia, cũng gọi là Đại y vương, cũng gọi là Đại tượng, cũng gọi là đại Long vương, cũng gọi là Thí nhãn, cũng gọi là Đại lực só, cũng gọi là Đại vô úy, cũng gọi là Bảo tụ, cũng gọi là Thương chủ, cũng gọi là Đắc thoát, cũng gọi là Đại trượng phu, cũng gọi là Thiên nhân sư, cũng gọi là đại Phân-đà-lợi, cũng gọi là Độc vô đẳng lữ (riêng một mình, không bạn ngang bằng), cũng gọi là Ruộng phước lớn, cũng gọi là Vô tướng, cũng gọi là Đầy đủ tám trí. Như vậy, tất cả nghóa khác danh khác. Này thiện nam! Đó gọi là trong vô lượng nghóa nói vô lượng sanh. Lại có một nghóa nói vô lượng danh. Đó như là ấm, cũng gọi là ấm, cũng gọi là điên đảo, cũng gọi là đế, cũng gọi là niệm xứ, cũng gọi là tứ thực, cũng gọi là tứ đế trụ xứ, cũng gọi là hữu, cũng gọi là đạo, cũng gọi là thời, cũng gọi là chúng sanh, cũng gọi là thế, cũng gọi là Đệ nhất nghóa, cũng gọi là Tam tu; nghóa là thân - giới - tâm, cũng gọi là nhân quả, cũng gọi là phiền não, cũng gọi là giải thoát, cũng gọi là Thập nhị nhân duyên, cũng gọi là Thanh văn Bích-chi-phật, cũng gọi là địa ngục ngạ quỷ súc sanh người trời, cũng gọi là quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó gọi là một nghóa nói vô lượng danh. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn vì các chúng sanh nên trong rộng nói lược, trong lược nói rộng, Đệ nhất nghóa đế nói là Thế tục đế, nói pháp. Thế tục đế làm Đệ nhất nghóa đế. Thế nào gọi là trong rộng nói lược? Như bảo các Tỳ-kheo, nay ta tuyên nói Thập nhị nhân duyên. Thế nào gọi là Thập nhị nhân duyên? Đó gọi là nhân quả. Thế nào gọi là trong lược nói rộng? Như bảo các Tỳ-kheo, nay ta tuyên nói khổ, tập, diệt, đạo. Khổ: Điều gọi là vô lượng các khổ. Tập: Điều gọi là vô lượng phiền não. Diệt: Điều gọi là vô lượng giải thoát. Đạo: Điều gọi là vô lượng phương tiện. Thế nào gọi là ở Đệ nhất nghóa đế nói làm Thế tục đế? Như bảo các Tỳ-kheo, nay thân ta đây có các thứ già bịnh chết. Thế nào gọi là nói Thế tục đế làm Đệ nhất nghóa đế? Như bảo Kiều Trần Như, ông đắc pháp nên gọi là A-nhã Kiều-trần-như. Cho nên tùy người tùy ý tùy thời, nên gọi là Như Lai biết các căn lực. Này thiện nam! Nếu ta ở ngay các nghóa v.v… như vậy làm cố định nói, thì chẳng được xưng ta là Như Lai đủ biết căn lực. Này thiện nam! Người có trí, phải biết sức mang vác của hương tượng thì lừa chẳng thể hơn nổi, sở hành của tất cả chúng sanh có vô lượng, cho nên Như Lai vì các thứ mà nói vô lượng pháp. Tại sao? Chúng sanh có nhiều thứ phiền não, nếu như Như Lai chỉ nói một hạnh thì chẳng gọi là Như Lai đầy đủ thành tựu. Biết các căn lực nên biết pháp vốn không tên, nhân tâm mà kiến lập. Do đó, Đại Thánh tùy thuận Thế tục đế, quanh co theo cơ nghi, rộng lược chẳng đồng, một nhiều không nhất định. Đem có nói gồm về không nói, dùng có danh dẫn vào không danh, cứu cánh đều khiến đến nơi địa vị của bản tâm tịch diệt. Nên trong kinh nói: “Phật bảo: Xá-lợi-phất! Ông phải cẩn thận chớ vì người lợi căn rộng nói pháp ngữ, vì người độn căn mà lược nói pháp vậy”. Lại, sanh nhân thể lập, thể theo danh sanh. Thể không mà danh không chỗ thi thiết, danh hư mà thể không chỗ khởi. Danh thể qua lại vắng lặng, muôn pháp không sanh, chỉ một chân tâm, lại không sở hữu. Trong Vónh Gia Tập nói: “Do vì thể chẳng phải danh mà chẳng biện giải, danh chẳng phải thể mà chẳng khái niệm. Nói thể, hẳn mượn ở danh đó, nói danh hẳn gá ở thể đó”. Nay, ngoài thể đặt bày danh, đây chỉ là danh, đó thật không thể vậy. Đâu có thể xứng với danh đó ư? Thí như, thỏ không sừng mà đặt bày danh. Đây thì gọi đó không sừng, đâu có sừng xứng với danh đó ư? Không thể mà thiết bày danh, thì gọi là không thật danh vậy. Danh không thật danh, thì sở danh không sở danh, sở danh đã không thì năng danh chẳng có vậy. Tại sao? Thiết bày danh, vốn để gọi thể đó, không thể thì lấy gì xứng với danh đó? Nói thể, vốn để xứng với danh đó, không danh thì lấy gì xứng với thể đó.Xứng không xứng mà chẳng phải thể, danh không danh mà chẳng phải danh. Đây thì đâu riêng thể mà nguyên hư cũng là danh mà vốn tịch vậy. Nhưng mà không thể xứng danh, nguyên do như vậy. Có xứng của danh do đâu nói làm? Phàm, thể chẳng tự danh, mượn danh khác mà gọi là ngã thể. Danh chẳng phải tự đặt bày, gá thể khác để đặt bày ngã danh. Nếu thể chưa thành hình thì danh do đâu mà gọi? Nếu danh chưa đặt bày thì thể do đâu để tỏ sáng? Nhưng mà rõ ràng thể tuy mượn ở danh đó, chẳng làm chẳng danh mà không thể vậy. Đặt bày danh cốt yếu nhân nơi thể đó, không thể thì danh đó vốn không. Như vậy thì thể chẳng danh sanh, danh sanh ở thể vậy”. Nay thể ở trước danh, danh theo sau thể để biện giải. Như vậy thì thiết bày danh để gọi thể đó. Nên biết, thể là nguyên của danh vậy, thì sở do duyên khởi của danh ở thể. Giềng mối của thể do nhân nào y cứ? Phàm, thể không hình ngã, gá duyên tụ hội mà thành thể, duyên chẳng phải ngã tụ hội, nhân tụ hội thể mà thành duyên. Nếu thể chưa thành hình thì duyên do đâu hội? Nếu duyên chưa hội thì thể do đâu thành hình? Thể hình thì duyên hội mà hình, duyên hội thì thể hình mà hội. Thể hình mà hội, thì rõ ràng hình không riêng biệt hội. Hình không riêng biệt hội thì hội vốn không vậy. Duyên hội mà hình thì rõ ràng hội không riêng biệt hình. Hội không riêng biệt hình tức hình vốn không vậy. Do đó, muôn pháp theo duyên không tự thể. Thể mà không tự nên gọi là tánh không. Tánh đó đã không, tuy duyên hội mà chẳng phải có. Duyên đó đã hội, tuy tánh không mà chẳng không, do vì có duyên hội. Có mà chẳng phải có, không của tánh không, không mà chẳng không. Tại sao? Hội thì tánh không, nên nói chẳng phải có. Không thì duyên hội, nên nói chẳng phải không. Nay nói chẳng có chẳng không là chẳng phải là lìa có mà riêng có một không vậy, cũng chẳng phải lìa không mà riêng có một có vậy. Như vậy thì rõ ràng pháp chẳng phải có và không, vì chẳng phải có chẳng phải không mà gọi vậy, chẳng là chẳng phải có chẳng phải không. Đã chẳng phải có và không, lại chẳng phải chẳng phải có, chẳng phải chẳng phải không. Như vậy thì nào riêng tuyệt đường ngôn ngữ, cũng là chỗ tâm hành diệt vậy. Như vậy thì danh và thể đã không, nói năng và tư duy tự tuyệt, có thể gọi là muôn cơ sạch vết riêng sáng chân tâm vậy. Hỏi: Duy tâm diệu chỉ, tất cả đều không có danh tự. Như hiệu của chúng sanh là giả đặt vậy. Vậy danh của chư Phật há cũng hư dối kiến lập ư? Đáp: Nhân phàm lập Thánh, Thánh vốn không sanh, theo tục hiển bày chân, chân vốn chẳng lập, đều y cứ theo văn tự thế tục đối đãi mà sanh. Văn tự lại không, không cũng không nương gá. Nếu là bậc thượng có Đại só, sao gá danh tướng mà phát dương? Đối cảnh mà niệm niệm biết tông, gặp duyên mà tâm tâm khế đạo. Như luận Đại Trí Độ nói: “Như trong kinh nói cả nước của Phật Sư Tử Lôi Âm cây báu trang nghiêm. Cây đó thường xuất sanh vô lượng pháp âm. Điều gọi là tất cả pháp rốt ráo là không, không sanh không diệt v.v…. Nhân dân nước đó vừa sanh ra bèn nghe pháp âm đó, nên chẳng khởi tâm ác, đắc Vô sanh pháp nhẫn, đang lúc như thế thì xứ nào có danh tự Tam bảo? Chỉ rõ yếu chỉ của Vô sanh, tự nhiên một thể, Tam bảo thường hiện ở thế gian, nếu chấp thủ danh của sai biệt tức mất lý chân thường, chỉ rõ tất cả các pháp không tự tánh, thì tất cả mọi nơi Phật xuất hiện ở đời, không một pháp nào mà chẳng phải tông”. Như các bậc Tiên đức nói: Phật xuất hiện nơi đời, nay Như Lai xuất hiện, toàn vì trần không tánh, pháp giới duyên khởi Bồ-đề Niết-bàn dùng làm pháp thân Như Lai vậy. Thân này thông cả ba thế gian, cho nên ở nơi tất cả cõi nước, tất cả chúng sanh tất cả sự vật, tất cả duyên khởi, tất cả nghiệp báo, tất cả mảy trần sợi lông v.v… mỗi mỗi đều hiển hiện Bồ-đề Niết-bàn v.v… làm Phật xuất hiện nơi đời vậy. Nếu ở một xứ chẳng rõ biết tức chẳng thành Phật, cũng chẳng xuất hiện. Tại sao? Do không rõ biết xứ, bèn là vô minh, cho nên chẳng thành Phật, chẳng xuất hiện vậy”. Do đó, chư Phật xuất hiện nơi đời biết cơ biết thời, cúi vì hàng hạ căn mà thị hiện kiếp sanh giảm, nắm tay không dẫn dụ, lá vàng kéo dậy, với hạng người thượng thượng cơ thì chư Phật chẳng xuất hiện chẳng ẩn một. Nên trong kinh nói: “Có Phật không Phật, tánh tướng thường trú”. Kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Như tâm chư Phật ấy, Như Phật chúng sanh vậy, Tâm Phật và chúng sanh, Ba đó không sai biệt”. Chỉ là một pháp, danh khác lý đồng. Tại sao? Giác không y không trú tuyệt đối đãi đây, lúc tâm không động chẳng thể nghó bàn. Vào Sơ vị của Thập tín thì gọi là Bất động trí Phật. Bất giác tuyệt đối đãi đây, lúc chân tâm chẳng giữ tự tánh tùy duyên sai biệt thì gọi là Pháp thân, lưu chuyển trong năm đạo thì gọi là chúng sanh. Chỉ có danh của mê ngộ, chẳng lìa thể của nhất tâm, lại có pháp nào mà làm danh tự phàm Thánh làm sai biệt ư? Như kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Phật dạy: Phật pháp vô thượng ư? Văn-thù đáp: Không có một pháp như vi trần hứa gọi là Vô thượng”. Lại trong kinh nói: “Như lúc Thế Tôn giảng nói pháp đây, không có Bồ-tát đắc Tam-muội đó và các Đà-la-ni, cũng lại không ngữ ngôn câu nghóa của chư Phật kia nói, cho đến chẳng nói một câu văn tự, không người lắng nghe, không người được giải, không người thành Phật. Các pháp như vậy v.v… là lời nói thật, ở đời sau năm trăm năm, pháp môn kinh này hoằng dương xiển hóa nơi Diêm-phù-đề, lưu bố khắp hưng thạnh chẳng diệt mất là chân thật ngữ”. Hỏi: Đã muôn cơ sạch vết riêng tỏ sáng chân tâm. Cớ sao trong giáo nói đây là pháp phàm phu, đây là pháp Thánh nhân? Đáp: Do vì tất cả các pháp là duyên sanh không tự tánh, chẳng được pháp phàm phu, chẳng được pháp Thánh nhân. Do vì không tánh duyên sanh, nên hoặc chân hoặc tục, chẳng cùng hỗn loạn. Như nói tất cả tức là một đều đồng không tánh, một tức là tất cả, nhân quả rõ ràng, tuy tức rõ ràng nhưng chẳng mất lý không tánh, tuy tức không tánh mà chẳng hoại đạo duyên sanh. Nhưng lại tuy chỉ rõ nhất tâm mà đối với các pháp mỗi mỗi đều rõ biết phân minh không lầm hoặc. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát biết tất cả các pháp đều giải thoát một tánh, đó là không tánh, không các thứ tánh, không vô lượng tánh, không thể tính đếm tánh, không thể cân lường tánh, không sắc không tướng, hoặc một hoặc nhiều đều chẳng thể được, mà quyết định rõ biết. Đây là pháp chư Phật, đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Thanh văn, đây là pháp phàm phu, đây là pháp thiện, đây là pháp bất thiện, đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp lỗi lầm, đây là pháp không lỗi lầm, đây là pháp Hữu lậu, đây là pháp Vô lậu. Cho đến đây là pháp Hữu vi, đây là pháp Vô vi. Đó là Đệ nhất như thật trú”. Hỏi: Pháp nhất tâm, vì sao có thể khắp cùng hàm chứa sanh ra đầy đủ tất cả các pháp? Đáp: Phàm là tâm, là thần diệu vô phương, chí lý cao xa, ba khoảng cầu mà không được. Hai đế suy tìm mà chẳng biết, không tượng không danh, không thể đo lường sâu rộng đó, không nương không trú, không thể dùng quán sát chỉ vết đó, nhỏ vào trong không gián đoạn, không thể dùng nói nhỏ lớn đó bao gồm ngoài càn tượng, không thể dùng nói sâu đó. Chí đạo hư huyền, ai có thể khiến có, u linh chẳng rơi lạc, ai có thể khiến không, bèn phân pháp giới mà chẳng phải nhiều, tánh hợp nhân không mà chẳng phải một. Thể ngưng một đạo mà chẳng phải tỉnh, dụng khắp muôn vật mà chẳng phải nhọc, như châu như ý là thắng báu trên trời, tướng trạng chỉ như hạt cải hạt thóc mà có công năng lớn, tịnh diệu ngũ dục, bảy báu lâm lang, chẳng phải trong tích chứa, chẳng phải ngoài vào. Chẳng mưu tính trước sau, chẳng chọn lựa ít nhiều, chẳng làm thô diệu, xứng ý dồi dào, ít ỏi, tuôn mưa dầm dìa chẳng thêm chẳng hết, lợi tế không cùng bởi là sắc pháp, còn có thể như vậy, huống gì tâm thần linh diệu, sao chẳng đủ tất cả pháp ư? Nên trong kinh nói: “Phật bảo: Tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát đều cùng một Diệu đạo thanh tịnh đây, đều đồng một rốt ráo thanh tịnh đây, lại không có thứ hai. Ta y cứ đây, nên mật ý nói năng, chỉ có một thừa. Cho đến thí như hư không, khắp tất cả xứ đều đồng một vị, chẳng chướng ngại tất cả các sự nghiệp làm ra”. Như vậy, Đức Thế Tôn y cứ các pháp đây đều không tự tánh đều đồng một vị, chẳng chướng ngại tất cả Thanh văn, Duyên giác và các Đại só trong sự nghiệp tu hành. Như Hàn Sơn Tử có lời thơ rằng: “Nhà tôi ở đây hiệu Hàn Sơn, Núi cao dừng nghỉ lìa náo phiền. Sạch thời muôn tượng không tỳ vết, Buông tức khắp tràn cả Đại thiên. Bóng sáng phát tỏa chiếu tâm địa, Không có một pháp đang hiện tiền. Mới biết ma-ni một viên báu, Diệu dụng không cùng chốn chốn viên”. Hoàng Nguyên quán nói: “Định quang hiển hiện không niệm Quán, nghóa là trong giáo Nhất thừa lưới báu sáng sạch, châu báu của muôn chữ luân vương. Châu đây thể tánh sáng suốt mười phương đều chiếu. Vô tư thành sự niệm là đều từ tuy hiện kỳ công mà tâm không niệm lự. Nếu người vào trong môn Chỉ quán đại diệu đây, không nghó ngợi, mặc tình hành sự, như châu báu kia xa gần đều chiếu, rành rẽ hiển hiện, suốt cả hư không. Chẳng làm hàng ngoại đạo Nhị thừa, chỗ bị ngăn che bởi mưa bụi khói mây”. Thanh Lương sớ nói: “Như một nhật cung ngàn ánh sáng đều chiếu, tùy cử một pháp có vô lượng môn, nhưng có hai nghóa: Một là nói về tướng loại, như một môn vô thường, có sanh già bệnh chết, tụ tan hợp lìa, được mất thành hoại, ba tai bốn tướng, vật ngoài thân trong, sát-na một kỳ, sanh diệt chuyển biến nhiễm tịnh ẩn hiền, đều là môn vô thường, ngoài ra cũng đều như vậy; hai là căn cứ tánh dung thông không thể cùng tận, nghóa là pháp tánh vắng lặng tuy không các tướng, tướng của vô tướng chẳng ngại dấy nhiều, do vì y cứ thể mà hiện khắp, như ánh nguyệt vào trăm sông, tầm vần nguyệt của ảnh bóng, thể vầng nguyệt chẳng phân, tức dụng của thể. Dụng đầy khắp pháp giới. Thể dụng tương giao suốt triệt nên chẳng nghó bàn”. Trong Phụ Hạnh Ký nói: “Hỏi: “Một tâm đã đủ nhân quả mười pháp giới, vậy chỉ quán ở tâm, sao phải quán đủ?” Đáp: “Một nhà Quán môn trọn khác các thuyết, gồm thâu tất cả mười phương ba đời hoặc phàm hoặc Thánh tất cả nhân quả. Do vì quán đầy đủ, đầy đủ tức là giả, giả tức là trong không. Lý tánh tuy đầy đủ, nếu chẳng quán đó, chỉ nói quán tâm thì chẳng xứng lý. Tiểu thừa sao thường chẳng quán tâm ư? Chỉ mê một tâm đủ các pháp vậy”. Hỏi: “Nếu chẳng quán đủ là thuộc giáo nào?” Đáp: “Giáo đạo của Biệt giáo, từ sơ phát tâm lại, chỉ nói thứ lớp sanh ở mười giới. Đoạn cũng thứ lớp, nên chẳng quán đủ. Hoặc vâng theo Thông giáo, tức không chỉ lý. Hoặc vâng theo Tam Tạng, tịch diệt chân không. Các người như thế v.v… nào phải quán đủ. Tại sao? Tạng giáo Thông giáo chỉ nói tâm sanh sáu cõi, quán có khéo vụng, tức lìa chẳng đồng, cho nên hai giáo ấy chẳng phải quán đủ, còn chẳng biết đủ, huống là biết trong không. Nếu chẳng như vậy, sao gọi là phát tâm rốt cùng hai chẳng khác biệt? Thành Chánh giác rồi sao có thể hiện thân và độ ở mười cõi? Lại nữa, người học giả sử biết trong tâm có đủ ba ngàn pháp, chẳng biết ta biến khắp ba ngàn ấy. Ba ngàn ấy qua lại cùng biến cũng vậy. Giả sử thuận theo phàm tình sanh kiến của nội ngoại, nên chiếu lý thể, vốn không bốn tánh. Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt, người hay biết đây, thức tâm mơ màng. Luận Hoa Nghiêm nói: “Dùng ấn của Nhất tâm đại trí, ấn ba đời vô thủy, gồm chỉ tại một thời, vô biên các pháp, trí ấn đều khắp, do vì trí ngang bằng chư pháp, trí ngang bằng tâm chúng sanh, trí ngang bằng các pháp, trí không có trung biên trong ngoài ba đời, dài ngắn gần xa. Vì trí quá lượng của hư không, như thế tục thì với hư không không chỗ rõ biết, như vô phân biệt trí với hư không chỉ trong một niệm mà hay phân biệt các pháp môn quá hơn hư không”. Cho nên trong kinh có bài tụng rằng: “Hết thảy hư không còn lường được, pháp chư Phật giảng không thể nói”. Lại có kệ tụng rằng: “Phổ quang minh trí bằng hư không, Hư không chỉ không trí tự tại”. Do đó trong kinh Vô Lượng Nghóa nói: “Vô lượng nghóa là từ một pháp sanh, tức biết một pháp năng sanh vô lượng nghóa. Nói là Nhất tâm, tức mỗi mỗi pháp đều sanh vô lượng nghóa, vì tâm trùm khắp tất cả pháp, vì mỗi mỗi pháp không gì chẳng là tâm. Lấy lược thay tổng, nên biết được tâm bao hàm muôn pháp, trải qua tất cả giáo, hoặc cảnh hoặc trí, hoặc người hoặc pháp, tùy các sự giải thích mỗi mỗi hướng tâm làm quán, quán tuệ trọn thành như biển nuốt các dòng nước, tợ như củi thêm lửa. Vì chẳng thể thâm đạt nên làm biến làm tiểu vì chẳng thể chắc thật quán nên trú có trú không. Do vậy, Thanh văn thấy việc lớn đó, tự khinh mình không kham, hoặc gào khóc mà tiếng vang động cả Đại thiên, hoặc nói đồng cùng trong một pháp mà chẳng được việc này. Nếu Bồ-tát nghe diệu chỉ đây, sám hối lỗi quấy trước, hoặc nói từ biếng lười kiếp đến nay bị trôi nổi theo dòng vô ngã. Hoặc nói chúng ta quy hướng trước đây đều là người tà kiến. Những điều mất như trên, đều vì chẳng thấu đạt tự tâm rộng lớn viên dung, có thể bao hàm, có thể trùm khắp, cớ sao có thể bao hàm có thể trùm khắp? Do vì vô tướng vậy. Như thái hư không hình tướng, chẳng chống ngại các tướng phát huy, có khả năng bao hàm tất cả các cõi nước dơ sạch khắp mười phương. Do đó, người xưa nói: Phàm muôn hóa chẳng phải không tông, mà tông đó là vô tướng. Hư tướng chẳng phải không khế hợp, mà khế hợp đó là vô tâm. Trong ngoài đều ngầm, duyên trí đều lắng. Cho nên, nếu hay thấu rõ đạo như vậy, ngàn muôn tương ưng, có thể gọi là người đệ tử Phật chân thật trong chánh pháp, nếu trái với yếu chỉ đây, vọng khởi có tâm, thảy đều rơi lạc vào tà, tu chẳng vào tông kính. Như Cổ đức quở trách rằng: “Chỉ làm không tâm học không học. Cũng lại chánh tu ở không tu, nếu người không biết nói như vậy, chẳng được xưng là Tỳ-kheo”. Hòa thượng Động Sơn nói: “Nhà tôi vốn ở tại phương nào, đường chim không người đến quê hương. Ông nếu xuất gia làm Thích tử, nên đi đường này muôn tương đương”. Sở dó Đại sư Sơ Tổ nói: “Nếu tất cả nói làm tức không nói làm, không pháp làm tức là thấy Phật, nếu lui thấy tướng thì tất cả nơi thấy quỷ”. Tại sao? Nếu lúc làm không người làm không pháp làm, tức người pháp đều không, giác ngộ được đó tức thanh Phật, nếu mê mờ nghiệp pháp làm thì huyễn tướng hiện tiền. Nên trong kinh nói: “Phàm có hình tướng, đều là hư vọng”. Như điều thấy của bệnh nhiệt, há chẳng phải là quỷ ư? Do đó, Cổ đức nói: “Muôn pháp rộng lớn, một tông vô tướng”. Lại nói: “Niệm đủ một vạn tám ngàn biến, mỗi mỗi biến vào nơi định vô tướng”. Cũng nói là: Đạo tràng vô tướng, pháp môn vô tướng v.v… Vì vậy, nếu viên dung tông kính mà phát thật là tâm lực rất tỉnh giác, kinh Hoa Nghiêm nói: “Dùng chút ít phương tiện, nhanh chứng Bồ-đề”. Các bậc Cổ đức nói: “Học tuy chẳng nhiều mà có thể ngang bằng Thượng Hiền” tức ý đây vậy. Lại nữa, Nhất tâm đây đều nhân lý sự vô ngại, được có hàm chứa khắp cùng như vậy. Như Lý Sự Vô Ngại Quán nói: “Chỉ lý sự hòa chứa thì còn mất thuận nghịch thông có mười môn: Một là môn lý biến ở sự, nghóa là lý năng biến, tánh không phân hạn, sự ở biến phân vị sai biệt, trong mỗi mỗi sự, lý đều toàn biến, chẳng phải phân biến. Tại sao? Vì chân lý ấy không thể phân, cho nên mỗi một mảy trần đều gồm vô biên chân lý không gì chẳng tròn đủ; Hai là, môn sự ở lý: Nghóa là sự năng biên là có phân hạn, lý sở biến là không phân hạn, sự có phân hạn này ở nơi lý không phân hạn toàn đồng chẳng phải phân đồng. Tại sao? Vì sự không thể trở lại như lý, cho nên một mảy trần chẳng hoại mà biến khắp pháp giới vậy. Như một mảy trần, tất cả pháp cũng vậy, nên tư duy đó. Lại, một lý tánh không chỉ không phân nên tại tất cả xứ mà toàn thể tại ở trong một. Hai chẳng chỉ phân nên thường tại trong một mà toàn tại tất cả xứ. Một sự pháp chẳng chỉ phân nên thường tại đây mà luôn tại phương khác. Hai chẳng chỉ không phân nên biến tất cả xứ mà chẳng dời bản vị. Lại, một do lý tánh chẳng chỉ không phân nên chẳng chỉ ngoài một sự. Hai chẳng chỉ phân nên chẳng tại trong một sự. Pháp một sự chẳng chỉ phân nên thường tại xứ này mà không tại, hai chẳng chỉ không phân nên thường tại xứ khác mà không tại. Cho nên không tại không chẳng tại mà tại đây tại kia không chướng ngại vậy. Đây là toàn biến môn, vượt tình lìa kiến, chẳng phải thế gian dụ được tình huống, như toàn một biển lớn tại trong một sóng mà sóng chẳng phải nhỏ, như một sóng nhỏ vây quanh biển lớn mà sóng chẳng phải lớn, đồng thời toàn biến ở các sóng mà biển chẳng phải khác và cùng thời mỗi mỗi vây quanh biển lớn mà sóng chẳng phải một. Lại lúc biển lớn toàn biến một sóng chẳng phòng ngại khắp thể toàn biến các sóng, lúc một sóng toàn vây quanh nơi biển lớn, các sóng cung mỗi mỗi toàn vây quanh, qua lại chẳng cùng ngại nhau, tư duy đó. Giải thích rằng: Lấy biển làm chân như, lấy sóng làm sự, thí dụ sự lý tương biến mà chẳng phải một hay khác, thì biển ở nơi sóng mà chẳng nhỏ, đồng tánh ẩm ướt mà rộng lớn không sai, sóng vây quanh biển mà chẳng phải lớn chẳng hoại tướng mà một và nhiều toàn vây quanh. Hỏi: Lý đã toàn biến ở một trần, cớ sao chẳng phải nhỏ? Đã chẳng đồng trần mà nhỏ, sao được nói toàn thể biến một trần, một trần toàn vây quanh ở lý tánh, cớ sao chẳng phải lớn? Nếu chẳng đồng lý mà rộng lớn, sao được toàn biến ở lý tánh. Vậy, đã thành mâu thuẫn, nghóa rất chống trái. Đáp: Lý sự cùng trông nhau mỗi mỗi chẳng phải một hay khác, nên toàn châu mà chẳng hoại bản. Trước, lý trông sự, nó có bốn câu: Một là, chân như cùng sự chẳng phải khác, chân lý toàn thể tại trụ trì sự; Hai là, chân lý cùng sự chẳng phải một, thể tánh chân lý luôn không biên tế; Ba là, vì chẳng phải một tức chẳng phải khác, lý tánh vô biên, toàn tại một trần; Bốn là, vì chẳng phải khác tức chẳng phải một, lý tánh một trần không có phân hạn. Tiếp theo sự trông lý cũng có bốn câu: Một là, sự pháp cùng lý chẳng phải khác nên toàn vây quanh ở lý tánh; Hai là, sự pháp cùng lý chẳng phải một nên chẳng hoại ở một trần; Ba là, vì chẳng phải một tức chẳng phải khác nên một trần nhỏ vây quanh ở vô biên lý tánh; Bốn là, vì chẳng phải khác tức chẳng phải một nên một trần vây quanh vô biên lý tánh mà trần chẳng lớn. Nên tư duy đó. Hỏi: Lúc vô biên lý tánh toàn biến một trần thì ở ngoài các sự có lý tánh hay là không lý tánh? Nếu ngoài trần có lý thì chẳng phải toàn thể biến một trần. Nếu ngoài trần không lý thì chẳng phải toàn biến tất cả sự. Nghóa rất chống trái. Đáp: Vì một lý tánh dung thông nhiều sự không ngại, được toàn tại trong mà toàn tại ngoài không chướng không ngại, mỗi mỗi có bốn câu. Trước tiên, ở lý có bốn câu: Một là, vì lý tánh toàn thể lúc tại trong tất cả sự, chẳng ngại toàn thể tại nơi một trần, cho nên tại ngoài thì tại trong; Hai là, lúc toàn thể tại trong một trần, chẳng ngại toàn thể tại nơi các sự khác, cho nên tại trong thì tại ngoài; Ba là, vì tánh không hai, lúc mỗi mỗi toàn tại trong tất cả, cho nên cũng tại trong cũng tại ngoài; Bốn là, vì tánh không hai, chẳng phải tất cả, cho nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Ba câu trước nói rõ cùng tất cả pháp chẳng phải khác, còn một câu cuối đây nói rõ cùng tất cả pháp chẳng phải một. Do vì chẳng phải một chẳng phải khác nên trong ngoài không ngại. Tiếp theo, ở sự có bốn câu: Một là, một trần lúc toàn vây quanh ở lý chẳng ngại tất cả sự, pháp cũng toàn vây quanh, cho nên tại trong tức tại ngoài; Hai là, tất cả pháp lúc mỗi mỗi vây quanh lý tánh, chẳng ngại một trần cũng toàn vây quanh. Cho nên tại ngoài thì tại trong; Ba là, vì các pháp đồng lúc mỗi mỗi vây quanh cho nên toàn trong cũng toàn ngoài. Không có chướng ngại; Bốn là, vì các sự pháp mỗi mỗi chẳng hoại, kia đây cùng trông, chẳng phải trong cúng dường ngoài. Nên tư duy đó. Giải thích rằng: Vì lý tại một làm trong, tại nhiều làm ngoài. Sự cũng vì một làm trong, vì nhiều làm ngoài. Cớ sao như vậy? Một nhiều trong ngoài cùng biến cùng tại mà không chướng ngại, chỉ là một tâm viên dung, gá nơi lý sự để làm sáng tỏ đó. Vì thể tịch biên, đặt gọi đó là lý, vì sự cần biên, đặt gọi đó là sự. Vì lý là tánh của tâm, vì sự là tướng của tâm. Tánh tướng đều cùng tâm, do đó tất cả không ngại. Như sự không phân hạn sai biệt trên, chỉ vì một lý tánh nung đúc dung thông, tự nhiên lớn nhỏ cùng hợp, một nhiều đi vào nhau như vàng đúc tượng mười pháp giới, nếu tiêu dung thì không khác tướng, nếu hòa dung thì chỉ là một vùng, dùng lý tánh làm lò lớn nấu chảy muôn sự làm dáng lớn thì tiêu hòa muôn pháp đồng hội nhất chân; Ba là, môn y lý thành sự, nghóa là sự không thể riêng biệt, cốt yếu nhân chân lý mà được thành lập. Vì các duyên khởi đều không tự tánh, do vì không tánh, lý sự mới thành như sóng cần nhân ở nước mới có thể thành lập, y cứ Như Lai tạng mà được có các pháp, phải biết cũng vậy. Tư duy đó; Bốn là, môn sự năng hiển lý, nghóa là so dự quậy lý thì sự hư mà lý thật, vì sự hư nên lý của trong toàn sự nổi trội lộ bày, như tướng sóng là hư khiến thể nước lộ bày, phải biết đạo lý trong đây cũng vậy, nên tư duy đó; Năm là, môn dùng lý đoạt sự, nghóa là sự đã quậy lý thành, bèn khiến tướng sự đều hết chỉ một chân lý bình đẳng hiển hiện, vì lìa ngoài chân lý không chút sự có thể được, như nước đoạt sóng, không sóng chẳng hết. Đây thì nước còn ở đã hoại sóng khiến hết; Sáu là, môn sự năng ẩn lý, nghóa là chân lý tùy duyên mà thành các sự pháp, nhưng sự pháp đây đã vây quanh ở lý, bèn khiến sự hiển lý chẳng hiện vậy, như nước thành sóng, động hiển mà tónh ẩn. Trong kinh nói: “Pháp thân lưu chuyển trong năm đường, gọi là chúng sanh”. Nên khiến lúc chúng sanh hiện tức pháp thân chẳng hiện vậy; Bảy là, môn chân lý tức sự, nghóa là phàm là chân lý hẳn chẳng phải ngoài sự, vì pháp đó là lý vô ngã, nên sự hẳn y lý. Vì sự hư không thể cho nên lý đây khắp thể đều sự, mới là chân lý, như nước tức sóng động mà chẳng ẩm ướt; Tám là, môn sự pháp tức lý, nghóa là duyên khởi sự pháp hẳn không tự tánh vì khắp thể tức chân, nói chúng sanh tức như chẳng đợi diệt vậy. Như tướng sóng động khắp, thể nước không khác vậy; Chín là, môn chân lý chẳng phải sự, nghóa là lý của tức sự mà chẳng phải là sự, vì chân vọng khác nhau, thật chẳng phải hư, sở y chẳng phải năng y, như nước của tức sóng chẳng phải sóng, vì động và ẩm ướt khác nhau vậy. Mười là, môn sự pháp chẳng phải lý, nghóa là sự của toàn lý, sự luôn chẳng phải lý, nghóa là sự của toàn lý, sự luôn chẳng phải lý, vì tánh tướng khác nhau, năng y chẳng phải sở y, cho nên khắp thể toàn lý mà sự tướng rõ ràng, như sóng của toàn nước. Sóng luôn chẳng phải nước, vì nghóa động chẳng phải ẩm ướt. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Như sắc cùng chẳng phải sắc, hai đây chẳng làm một”. Lại nói: “Sanh tử và Niết-bàn, phân biệt mỗi chẳng đồng”. Giải thích rằng: Lý sự thuận nghịch tự tại là sự lý cùng trông nhau, mỗi mỗi có bốn nghóa, trong bốn nghóa đều hai nghóa nghịch hai nghóa thuận. Nghóa là y lý thành sự, chân lý tức sự thuận vậy. Vì lý chẳng phải sự nghịch vậy. Sự năng hiển lý. Sự pháp tức lý thuận vậy. Sự năng ẩn lý, sự pháp chẳng phải lý nghịch vậy, muốn thành tức thành muốn hoại tức hoại, nên nói là tự tại. Thành chẳng ngại hoại, hoại chẳng ngại thành. Hiển chẳng ngại ẩn, ẩn chẳng ngại hiển, nên nói là vô ngại, chánh lúc thành tức hoại v.v… nên nói là đồng thời. Năm đối đều không tức trước, nên nói là chóng khởi. Lại, bốn đối trên vì sao ước lý trông sự, luôn nói thành v.v… chẳng hiển v.v… ước sự trông lý luôn nói hiển v.v… chẳng nói thành v.v… rất có nguyên do. Cớ sao sự theo lý sanh, có thể hứa nói là thành lý chẳng phải mới có, luôn có thể nói hiển. Sự thành hẳn diệt, nên được nói là hoại. Chân lý thường trú nên luôn nói là ẩn. Đó tức đó cùng một, lìa đó cùng khác, đại chỉ thì đồng mà nhỏ nhiệm rõ ràng cũng khác. Lý không hình tướng, chỉ có thể tức sự mà sự có muôn sai, nên nói cùng lý ngầm một, lý tuyệt các tướng, nên nói lìa sự, sự có sai khác nên nói là khác lý. Trên là nói theo nghóa riêng có đây chẳng đồng, nếu gồm thâu, nên thành nghóa của năm đối không ngại: Một là đối tướng biến; Hai là đối tướng thành; Ba là đối tướng hoại; Bốn là đối tức tướng; Năm là đối bất tức. Trong năm đối đó bốn đối trước nói rõ sự lý chẳng lìa, một đối sau nói rõ sự lý bất tức. Lại trong năm đối đó cộng có ba nghóa, một đối thành hiển là nghóa sự lý tác động lẫn nhau; hai đối ẩn hiển và bất tức là nghóa sự lý tương vi (trái nhau). Hai đối biến đổi lẫn nhau và cả hai là nhau là nghóa sự lý chẳng ngăn ngại nhau. Lại do thứ hai tương tác nên có thứ tư cả hai là nhau, do tương tức nên biến đổi nhau. Do có thứ ba trái nhau nên có thứ năm bất tức. Lại nếu không bất tức không thể biến đổi nhau, nên nói chân không diệu hữu, mỗi mỗi có bốn nghóa. Căn cứ lý nhìn sự tức chân không bốn nghóa: Một là nghóa phế (bỏ) kỷ (mình) thành tha (kẻ khác) tức môn y lý thành sự; Hai là nghóa hết tha hiển kỷ, tức là môn chân lý đoạt sự; Ba là nghóa tự tha đều còn, tức là môn chân lý chẳng phải sự; Bốn là nghóa tự tha đều hết, tức là môn chân lý tức sự, do vì tức đó mà qua lại hết vậy. Lại, thứ nhất và ba môn tức lý biến sự, do vì tự tại, khắp thể thành tha nên biến tha vậy. Tiếp theo, căn cứ sự trông lý tức bốn nghóa diệu hữu: Một là, hiển tha tự hết, tức môn sự năng hiển lý; Hai là, nghóa tự hiển ẩn tha tức là môn sự năng ẩn lý; Ba là, nghóa tự tha đều còn tức là môn sự pháp chẳng phải lý; Bốn là, nghóa tự tha đều sạch tức là môn sự pháp tức lý. Lại, thứ nhất và ba tức là môn sự biến ở lý, do vì tự tại mà hay hiển tha nên biến tha vậy. Nên nói căn cứ không có còn mất vô ngại, chân không ẩn hiển tự tại sự lý, nung nấu dung thông; tức nung nấu là nấu chảy để đúc nghóa là mới đầu nghóa tiêu. Dung thông là hòa, nghóa là cuối cùng nghóa thành. Dùng lý nung nấu sự, sự cùng lý dung thông. Quán đó ở tâm tức gọi là quán đây, quán sự ngay tục, quán lý ngay chân. Nay quán lý sự vô ngại, Trung đạo đệ nhất nghóa quán tự nhiên bi trí cùng dẫn thành không trú hành. Lại, lý sự mười môn gần phân năm đối: Một là sự lý biến đổi nhau; Hai là lý sự tương thành; Ba là sự lý hại nhau; Bốn là sự lý cả hai là nhau; là sự lý cả hai chẳng phải. Lý tức tánh không, chân lý một tướng không tướng. Sự tức nhiễm tịnh, tâm cảnh qua lại làm duyên khởi. Lúc khởi diệt hân tướng mạo đây kia, không thể nêu bày đầy đủ. Hai môn biến đổi lẫn nhau là toàn biến toàn đồng, vì lý chẳng thể phân. Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng rằng: “Pháp tánh biến tại tất cả xứ, hết thảy chúng sanh và cõi nước, ba đời đều tại không có thừa, cũng không hình tướng mà khả đắc”. Ba câu trước tức toàn biến, một câu cuối tức không thể phân. Hai môn thành tựu nhau nương lý. Thành sự thì như nhân nước thành sóng, tợ như y không lập sắc, chân như chẳng giữ tự tánh, hay tùy muôn duyên. Sự hay hiển lý, thì như ảnh tướng phô bày nơi gương sáng, thức trí phô bày bản tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm có bài tụng là: “Rõ biết tất cả pháp, Tự tánh không chỗ có, Hiểu các pháp như vậy, Tức thấy Lô-xá-na”. Hai môn hại nhau, vì lý đoạt sự, như nước đoạt sóng. Sự hay ẩn lý tợ khói và lửa. Hai môn tức là nhau chân lý, tức sự như nước chẳng lìa băng, nếu chỉ là không vượt ở ngoài sự thì sự bất tức nay tức pháp làm nghóa vô ngã. Lìa sự nào có lý ư? Sự pháp tức lý thì duyên khởi không tánh, tất cả chúng sanh cũng như vậy. Hai môn tương phi, năng sở có khác, chân vọng chẳng đồng, thì ở giải thường tự một, ở đế thường tự hai. Cả hai là nhau thì chẳng phải hai, cả hai chẳng phải thì chẳng phải một. Chẳng phải một nên chẳng hoại tục đế, chẳng phải hai nên chẳng ẩn chân đế. Lý chân đế tánh không đây không mà chẳng không, sự tục đế huyễn có đây có mà chẳng có. Có của chẳng có, có chẳng ngại không, không của chẳng không, không chẳng tuyệt có. Đây kia không gá đắp đổi hỗ tương cùng thành. Nếu trong tâm quyết định một pháp là có tức rơi lạc ở thường, nếu ngoài tâm chấp pháp là không tức chìm đắm ở đoạn đều thành lưới kiến, chẳng vào viên tông. Như trên viên dung ước lý sự vô ngại đã xong.  <卷>QUYỂN 13 Phàm, trước đã nói rõ Nhất tâm lý sự vô ngại, nay nói về sự sự vô ngại ở trong quán biến khắp hàm chứa. Như lời tựa Pháp giới quán nói: “Giả sử quán lý tùy sự của toàn sự mà mỗi mỗi có thể thấy. Sự tùy lý của toàn lý mà mỗi mỗi có thể dung, sau đó, một nhiều không ngại, lớn nhỏ đều bao hàm thì hay hành xử ẩn hiển thần dụng chẳng thể lường vậy. Cho đến muốn khiến người học ngầm cảnh đây ở tự tâm, tâm tuệ đã tỏ sáng, tự thấy nghóa của vô tận. Quán biến khắp hàm chứa đây cũng đủ mười môn: Một là, môn lý như sự: Nghóa là sự pháp đã rỗng, tướng không gì chẳng hết, lý tánh chân thật, thể không gì chẳng hiện. Đây thì sự không riêng biệt sự, tức toàn lý làm sự. Cho nên Bồ-tát tuy lại nhìn sự tức là quán lý, nhưng nói sự đây là lý bất tức”. Giải thích rằng: Do chân lý đây toàn là sự, như sự hiển hiện, như sự sai biệt, lớn nhỏ một chiều biến đổi vô lượng. Lại, chân lý đây tức cùng tất cả sự của ngàn sai muôn khác, đồng thời rõ ràng hiển hiện như cảnh sở đối của tai mắt, cũng như giới bình, cũng như vàng ròng lúc làm hình tượng của chư Phật Bồ-tát Tỳ-kheo và chúng sanh trong lục đạo cùng các tượng đồng một lúc hiển hiện, không ẩn mảy may, cũng không mảy may chẳng là tượng. Nay, lý tánh cũng vậy, không ẩn mảy may, cũng không mảy may chẳng sự. Chẳng đồng chân không, chỉ quán trong môn lý đoạt sự, chỉ là không lý hiện vậy. Nên Bồ-tát tuy lại nhìn sự tức là quán lý, nhưng nói sự đây là lý của bất tức, vì sự hư không thể mà chẳng hoại tướng. Do đó, quán chúng sanh thấy chư Phật, quán sanh tử thấy nước, vì sự của toàn lý thường luôn hiển hiện, do vì sự đã toàn lý nên chẳng tức lý, nếu ấy tức lý là chẳng toàn vậy. Như vàng đúc tượng mười pháp giới, mỗi mỗi tượng toàn thể là vàng, chẳng thể lại nói là tức vàng vậy; Hai là, môn sự như lý: Nghóa là các sự pháp cùng lý vì chẳng phải khác, sự tùy lý mà viên biến, bèn khiến một mảy trần khắp biến pháp giới. Lúc toàn thể pháp giới biến khắp các pháp, một mảy trần đây cũng như lý tánh toàn tại trong một pháp, như một mảy trần, tất cả sự pháp cũng vậy. Giải thích rằng: Mỗi mỗi sự đều như lý biến khắp rộng lớn, như lý triệt ở ba đời, như lý thường trú bản thiên, liệt bày tất cả chư Phật Bồ-tát Duyên giác Thanh văn và chúng sanh trong Lục đạo mỗi mỗi đều vậy. Cho đến một mảy trần một niệm tánh tướng tác dụng hạnh vị nhân quả không gì chẳng tròn đủ; Ba là, môn sự hàm lý sự, nghóa là các sự pháp cùng lý vì chẳng phải một, còn gốc một sự mà làm rộng bao dung như một mảy trần. Tướng đó chẳng lớn mà hay gồm chứa vô biên pháp giới, như cõi nước v.v… Các pháp đã chẳng lìa pháp giới, đều hiện trong một mảy trần như một mảy trần, tất cả pháp cũng vậy. Lý sự dung thông đây chẳng phải một chẳng phải khác, gồm có bốn câu: một là một trong một; hai là một trong tất cả; ba là tất cả trong một; bốn là tất cả trong tất cả, mỗi mỗi đều có nguyên do, nên tư duy đó. Giải thích rằng: Một trong một tức, một trên là năng chứa, một dưới là sở chứa, một dưới là năng biến, một trên là sở biến. Ba câu còn lại mỗi mỗi theo lệ ấy mà biết; Bốn là, môn thông suốt, giới hạn vô ngại, nghóa là sự và lý chẳng phải một tức chẳng phải khác, khiến sự pháp đây chẳng lìa một xứ tức toàn biến mười phương trong tất cả mảy trần. Chẳng phải khác tức chẳng phải một, toàn biến mười phương mà chẳng động một vị, tức xa tức gần, tức biến tức trú, không chướng không ngại; Năm là, môn rộng hẹp vô ngại, nghóa là sự và lý chẳng phải một tức chẳng phải khác, chẳng hoại một mảy trần mà hay rộng chứa mười phương sát hải. Do chẳng phải khác tức chẳng phải một, rộng chứa mười phương pháp giới, mà mảy trần chẳng lớn. Vậy thì sự của một mảy trần tức rộng tức hẹp, tức lớn tức nhỏ, không chướng không ngại; Sáu là, môn khắp chứa vô ngại, nghóa là một mảy trần đây trông ở tất cả. Do khắp biến tức là rộng dung nên biến tại trong tất cả thời tức trở lại hoàn nhiếp tất cả các pháp toàn trú tự trong. Lại do rộng dung tức là khắp biến, khiến một mảy trần đây trở lại thì biến tự trong tất cả pháp sai biệt. Cho nên mảy trần đây tự biến lúc khác tức. Tha biến tự, năng dung năng nhập đồng thời khắp thâu vô ngại, nên tư duy đó; Bảy là, môn thâu vào vô ngại, nghóa là tất cả kia trông ở một pháp, vì nhập tha tức là gồm tha, lúc tất cả toàn nhập trong một tức kia toàn một trở lại tại tự trong của tất cả, đồng thời không ngại, nêu tư duy đó, lại do nhiếp tha tức là nhập tha, lúc một pháp toàn tại tất cả, trở lại khiến tất cả luôn tại trong một, đồng thời không ngại, nên tư duy đó. Giải thích rằng: Vô ngại trên đây giống như đèn gương tức mười phương qua lại vào như lúc chín gương vào một gương kia liền gồm một gương kia trở lại vào trong của chín gương, đồng thời giao nhau nên nói là vô ngại; Tám là; môn giao thiệp vô ngại, nghóa là một trông ở tất cả, một vào tất cả, tất cả gồm một, tất cả vào một. Một gồm một, một vào một, tất cả gồm tất cả, tất cả vào tất cả, đồng thời xen nhau vô ngại. Giải thích rằng: Một gồm một, một vào một là như lúc gương phía Đông gồm thâu phía Tây kia vào trong gương phía Đông ta tức gương phía Đông ta vào trong gương phía Tây kia đi. Tất cả gồm tất cả, tất cả vào tất cả là viên mãn thường như. Câu này chỉ lấy lời chẳng chóng để nêu, mượn ba câu trước, mỗi câu đều viên mãn; Chín là, môn tương tại vô ngại, nghóa là tất cả trông một cũng có gồm có vào, cũng có bốn câu, nghóa là gồm một vào một, gồm tất cả vào một, gồm một vào tất cả, đồng thời xen nhau vô ngại, giải thích rằng: Đây so với bốn câu trước chẳng đồng, trước chỉ đây kia đồng thời gồm vào, nay thì muốn lúc vào kia, hẳn riêng gồm các pháp khác đeo mang đó dẫn vào trong kia, phát khởi lớp lớp thế vô ngại. Gồm một vào một là như gương phía Đông hay nhiếp gương phía Nam đeo mang đó dẫn vào trong gương phía Tây, tức gương phía Đông làm năng gồm năng vào, gương phía Nam làm sở gồm, gương phía Tây làm sở vào vậy. Đây thì Đức Thích- ca Thế Tôn gồm Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi vào trong Phổ Hiền vậy. Nhiếp tất cả vào một là, như lúc gương phía Tây gồm tám gương khác mang đó dẫn vào trong gương phía Nam. Gương phía Đông là năng gồm năng vào, tám gương kia là sở gồm, gương phía Nam là sở vào, thì một Phật gồm tất cả chúng sanh mang đó đồng vào trong tất cả chúng sanh vậy. Gồm một vào tất cả là như gương phía Đông năng gồm gương phía Nam mang đó dẫn vào trong tám gương khác. Gồm tất cả vào tất cả là như lúc gương phía Đông gồm chín gương đeo mang đó dẫn vào trong chín gương, một gương phía Đông làm năng gồm năng vào, chín gương làm sở gồm cũng tức bèn làm sở vào vậy. Câu này chánh nói rõ các pháp qua lại đi vaò nhau một lúc viên mãn lớp lớp vô tận vậy. Nay hiện thấy đèn gương chỉ vào trong một đèn, ngay lúc đó thì trong mỗi mỗi gương mỗi mỗi đèn có nhiều, không trước sau vậy, thì biết chư Phật, Bồ-tát chúng sanh trong lục đạo chẳng có thì đã có, tức trong một sát-na bèn thấu triệt quá khứ hiện tại vị lai mười phương trong tất cả Thánh phàm vậy; Mười là, môn Phổ dung vô ngại, nghóa là tất cả và một khắp đều đồng thời qua lại trông nhau, mỗi mỗi đủ hai lớp bốn câu trước, khắp chứa vô ngại, chuẩn cứ theo trước mà tư duy đó, khiến tròn sáng hiển hiện xứng hạnh cảnh giới không chướng không ngại, sâu sắc tư duy đó khiến hiện tại trước. Do vì chín môn trước văn chẳng đến hiển, đây gồm khiến đồng một sát-na. Đã chung riêng đồng thời thì lớp lớp vô tận vậy. Lại, trong Hoa Nghiêm diễn nghóa nói: “Phàm năng sở tương nhập tâm cảnh bao hàm, gồm đủ bốn nghóa hay thành vô ngại: Một là, nghóa xứng tánh; Hai là, nghóa chẳng hoại tướng; Ba là, nghóa bất tức; Bốn là, nghóa chẳng lìa. Do xứng tánh nên chẳng lìa, do chẳng hoại tướng nên bất tức. Lại, như các cõi vào lỗ chân lông đều có nghóa xứng tánh và chẳng hoại tướng, nay trên sợi lông lấy nghóa xứng tánh nên biết luận ngoài của pháp tánh, trên cõi nước lấy nghóa chẳng hoại tướng, chẳng biến sợi lông xứng tánh, vì một sợi lông xứng tánh nên hay bao hàm rộng khắp các cõi. Vì rộng khắp các cõi chẳng hoại tướng nên hay vào một sợi lông. Lại, trong ngoài duyên khởi chẳng phải tức chẳng phải lìa cũng có hai nghóa: Một là, căn cứ cả trong ngoài cùng làm duyên khởi, do chẳng tức nên có năng sở vào, do vì chẳng lìa nên được cùng vào; Hai là căn cứ trong ngoài duyên khởi và chân pháp tánh bất tức chẳng lìa. Đây lại có hai nghóa: Một là do trong ngoài bất tức pháp tánh có năng sở nhập, vì chẳng lìa pháp tánh, sợi lông hay rộng bao gồm, cõi nước hay biến nhập; Hai là, sợi lông ước chẳng lìa pháp tánh, như lý mà bao gồm cõi nước ước bất tức pháp tánh chẳng biến lỗ chân lông. Nên tư duy đó. Sự sự vô ngại quán đây, như quần thần đối với vua mỗi mỗi toàn được làm cha, lại như trăm vị tăng đệ tử ở một chùa mỗi mỗi toàn được thọ dụng mà chùa chẳng phân, như hoa lớn nhỏ giữa không trung mỗi mỗi khắp nhận nạp không ngằn mé hư không mà hoa chẳng hoại, thì mười phương tất cả chúng sanh toàn là Phật thể mà không phân chia, vì không biết nên cam chịu xưng là yếu kém,vâng nhận Trí đức của Như Lai, trở lại rơi lạc vào ngu tối mù lòa. Đầy đủ oai thần rộng lớn mà nép ở tiểu khí. Do đó, Chí công nói: “Pháp tánh lượng đồng như Thái Hư, chúng sanh phát tâm từ nhỏ”. Như trên, vô ngại chỉ là nhất tâm, như biển vọt ngàn sóng, gương bao gồm muôn tượng, chẳng phải một chẳng phải khác, khắp biến viên dung, qua lại đoạt nhau, qua lại tựu nhau, chẳng còn chẳng sạch, bèn được mảy trần bao gồm pháp giới không khuyết lớn nhỏ niệm bao gồm chín đời, ngắn dài đồng thời, v.v… mọi sự hiện tiền. Đây là pháp môn pháp giới duyên khởi tự tại ở trong một bộ Hoa Nghiêm, như tại trong lòng bàn tay sáng rỡ có thể thấy. Lại chẳng riêng bộ Hoa Nghiêm, cho đến thời giáo của một đời, diệu chỉ khó nghó lường, thần thông vô tác của mười phương chư Phật, Bi môn bí mật của Bồ-tát Quán Thế Âm, biển trí pháp giới của Bồ-tát Văn-thù, một lúc hiển hiện chiếu suốt không nghi ngờ vậy. Nếu chẳng phải trí chiếu sâu đạt tự tâm, lại sao có thể tỏ ngộ sự hiếm có kỳ đặc đây. Như các bậc Tiên đức nói: Chư Phật là chân không vô ngã vô tánh ấy vậy, cho đến xứng lý mà nói chẳng phải chỗ trí biết, như dấu vết lúc chim bay giữa không trung không thể tìm cầu nương dừng nơi dấu vết. Dấu vết giữa không trung đã không có thể tướng khả đắc, nhưng dấu vết chẳng phải không. Dấu vết đây tìm đó càng rộng, cốt yếu y cứ chim bay mới phân tích được sâu rộng của dấu vết. Phải biết Phật địa cốt yếu nhân tâm tướng mà đắc chứng sâu rộng của Phật địa, nhưng chứng nhập địa đây không thể trú ở tịch diệt. Pháp tất cả chư Phật không nên vậy, phải chỉ dạy lợi mừng, học phương tiện Phật, học trí tuệ Phật. Phàm, trí tuệ Phật là tức Nhất thiết chủng trí. Do đó, trong kinh Bát-nhã lấy chủng trí làm Phật thì không thứ gì chẳng biết, không thứ gì chẳng thấy. Đó mới dùng vô tri biết tất cả tri, dùng vô kiến thấy tất cả kiến. Như trong phẩm lìa thế gian ở kinh Hoa Nghiêm nói về mười thứ tâm không hạ liệt là: “Bồ-tát Ma-ha-tát lại khởi ý niệm: Chỗ có tất cả chư Phật, tất cả Phật pháp, tất cả chúng sanh tất cả cõi nước, tất cả thế gian, tất cả ba đời, tất cả hư không giới, tất cả pháp giới, tất cả ngữ ngôn thi thiết giới, tất cả tịch diệt Niết-bàn giới, như vậy tất cả các thứ các pháp trong ba đời, ta phải dùng một niệm tuệ tương ưng, thảy đều biết, thảy đều hay, thảy đều thấy ,thảy đều chứng, thảy đều tu, thảy đều đoạn, nhưng ở trong đó không phân biệt, lìa phân biệt, không các thứ, không sai biệt, không công đức, không cảnh giới chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải một chẳng phải hai. Vì chẳng phải hai trí biết tất cả hai, vì vô tướng trí biết tất cả tướng, vì không phân biệt trí biết tất cả phân biệt, vì không dị trí biết tất cả dị. Vì không sai biệt trí biết tất cả sai biệt, vì không thế trí biết tất cả thế, vì không chúng sanh trí biết tất cả chứng sanh, vì không chấp trước trí biết tất cả chấp trước, vì không trú xứ trí biết tất cả trú xứ, vì không tạp nhiễm trí biết tất cả tạp nhiễm, vì không tận trí biết tất cả tận, vì cứu cánh pháp giới trí ở tất cả thế giới hiện thân, vì lìa ngôn âm trí hiện bày ngôn âm không thể nói, vì một tự tánh trí vào nơi không tự tánh, vì một cảnh giới trí hiện các thứ cảnh giới, biết tất cả pháp không thể nói mà hiện ngôn thuyết đại tự tại, chứng Nhất thiết trí địa. Vì giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh nên ở tất cả thế gian thị hiện đại thần thông biến hóa. Đó là tâm thứ mười không hạ liệt”. Như trên nhỏ nhiệm phân bày cội nguồn lý sự mới thấy chúng sanh của toàn Phật tỉnh tỉnh không mê muội, Phật của toàn chúng sanh rành rành không nghi ngờ. Tỏ ngộ gốc mà tợ về đến nhà cửa quê cũ, được dụng mà như đích xác tay chân. Cớ sao mê chân ôm huyễn, bỏ thật cậy rỗng, cô phụ tánh linh chính mình vùi chôn nhà báu? Suy cao thượng thánh, tự khinh bỉ hạ phàm, đều là chỉ tụng văn không chưa thấu cùng nghóa thật, chỉ ghi nhớ lời tức tâm là Phật, tự thân xét năm nào, chỉ học lời muôn pháp duy tâm, ai đáng hiện chứng. Đã trái với giáo quán, lại khuyết thiếu minh sư, tuy xưng là tiếp nối làm sáng ngời, chỉ thành tự lừa dối. Tông kính ủy gá nhỏ nhiệm chánh vì hạng người đó, khiến rõ nghóa đó mà biết tâm đó, mở văn đó mà thấy pháp đó, cảm lời khổ thiết của các Thánh, thẹn sự dụng tâm của Tiên hiền, đọc xem quyển mới Bồ-tát trọn chẳng hư dối sai lầm, như cao phủi mây mốc chợt thấy trời xanh, tợ vào sâu nơi cung rồng, tự thân gặp báu thật, mới tỏ ngộ từ xưa trước đến nay chưa chắc thật, học chỗ thô phù, trong lúc có thể nghiệm toàn không lực lượng, chưa đến thật địa, chớ nói đó sâu, chưa tới cù lao, chớ nói đó khổ, chỉ phải kiến tánh, có thể dứt lời. Vả lại sở dó các Thánh duỗi lời chỉ dạy, khắp vì phàm phu mù tối, khiến chẳng đắm trước sanh tử. Hàng Nhị thừa chợt mắt khiến chẳng trú Niết-bàn. Hàng tiểu Bồ-tát nhìn đêm khiến bỏ quyền thừa thun lưới, hàng Bồ-tát riêng biệt khiến chẳng chấp giáo đạo. Đây là chưa biết có tự tâm tức đủ thần đức rộng lớn như vậy vô biên diệu dụng, phân minh chuyển biến khiến mỗi mỗi tự biết. Mười phương chư Phật không gì chẳng nhân oai quang ta. Tất cả hàng dị sanh không gì chẳng nhờ ân lực ta, khuyên sanh vui mừng kính mộ, tiến đạo rộng tu phá một mảy trần ra Đại thiên quyển kinh, sau đó dùng sức định tuệ trang nghiêm trong ngoài, phát khởi bản tâm Diệu giác, tướng dụng chân như, tợ như lau chùi gương cũ, như ánh ngời thần châu, sáng soi suốt mười phương, ảnh thấu pháp giới, không khiến một hàm thức nhỏ chẳng nương ánh sáng đây, giống như Thiện Tài một đời có thể biện xong, tợ như Long nữ tự thân dâng hiến châu ngọc ở Linh Sơn, Đức Như Lai ấn khả, nên nói: “Tôi dâng hiến châu báu, Đức Như Lai nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Đáp: “Rất mau”. Long nữ nói: “dùng sức thần của ông xem tôi thành Phật lại nhanh hơn vậy”. Vậy đủ biết mới tỏ ngộ pháp này, nhân quả đồng thời, thành đạo độ sanh chẳng vượt ngoài khoảng một sát-na. Như ở phẩm tín giải trong kinh Pháp Hoa nói: “Chạy gấp theo bắt”. Lại ở phẩm Thí dụ nói: “Đó nhanh như gió”. Đâu trệ nhiều kiếp uổng tu công hạnh, có sức nhanh chóng niệm niệm tương ưng mà chẳng chịu thừa đương, nên các Thánh kinh thán rộng vì mở bày, giăng lưới tám giáo, đủ xe ba thừa, lớn nhỏ đều thâu quyền thật đều chở, ân cần dìu dắt, kính nhiệm đến với cơ nghi, hoặc thấy hoặc nghe, hoặc trước hoặc sau, thảy đều khiến vào kho báu Kim cang Nhất thừa đây, lấy làm cứu cánh. Như trong phẩm phương tiện nói dẫn: “Mười phương ba đời chư Phật đều dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, pháp đó đều là một Phật thừa. Các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được nhất thiết chủng trí”. Thì không thể mê mờ ở môn phương tiện của chư Phật, chắp tay biết đó, lãnh lời hiện thành, khởi tâm pháp ngã. Như trong kinh Bát- nhã, Phật dạy: “Ta đối với tất cả các pháp không chỗ chấp, được ánh sáng thường một tầm, thân sắc vàng ròng. Do vì chỉ đối với hai chấp nhân pháp đều mất, một luồng ánh sáng thường tự hiện, trở lại đồng với Đức Thích-ca tự chứng thân sắc vàng ròng”. Do vì giáo môn của chư Phật đều vì hiển bày tông phá chấp, y cứ trú chấp trước ngược lại càng mê tâm, như cầm nắm viên vàng nóng thì cháy tay. Khiến Thánh giáo cam lồ làm duyên tốt vượt ra khỏi khổ, nếu gặp người đó chỉ có tổn hại không ích lời. Như trong phẩm Phương Tiện có kệ tụng rằng: “Xá-lợi-phất phải biết, Các Phật pháp như vậy, Dùng muôn ức phương tiện, Tùy nghi mà giảng pháp. Người chẳng tập học đó, Không thể rõ hiểu đây. Các người đã biết rồi, Chư Phật thấy trong đời, Việc phương tiện tùy nghi, Không còn các nghi hoặc. Tâm sanh rất vui mừng, Tự biết sẽ làm Phật”. Nên biết nếu chẳng tập định học tuệ, vả lại, chẳng biết thuyết của tùy nghi, vọng nhận làm chân, không thể theo văn lấy làm ngộ đạo. Ngay như Thiện Tài đồng tử lên gác, Long nữ hiến dâng châu ngọc, ngay lúc đó tự nhiên đích thân thấy, nên phải khắc kỷ biện sự sớm tối quên cả nhọc mệt. Nếu hỏi đường mà chẳng đi, nhà cũ quê hương càng xa, tợ như thấy của báu mà chẳng lấy, trở lại nhận chịu nghèo khổ. Do đó các bậc Cổ đức có bài tụng rằng: “Học đạo trước phải nhỏ xét tâm, Nhỏ của trong nhỏ nhỏ khó tìm, Có thể tìm đến không chỗ tìm, Mới tin tâm phàm là tâm Phật”. Nên biết tức ở trong một niệm niệm tâm sanh tử hay tin có những sự không thể nghó bàn của chư Phật, rất là khó được. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: “Nếu có người hay dùng tơ rễ sen để treo núi Tu-di. Có thể nghó bàn chăng?” “Không thể! Bạch Đức Thế Tôn”. Phật dạy: “Này thiện nam! Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong khoảng một niệm đều hay được lường tất cả sanh tử, cho nên lại gọi là không thể nghó bàn”. Hỏi: Lý chỉ một đạo, sự có muôn sai, cớ sao chỉ rõ một tâm, mà vô biên Phật sự thảy đều viên mãn? Đáp: Đạo của xuất thế, lý do tâm hành, môn của xử thế, sự do tâm tạo. Nếu dùng sự của Duy tâm, một pháp tức tất cả pháp, buông đó vô biên. Dùng lý của Duy tâm, tất cả pháp tức một pháp cuộn đó không vết. Nhân cuộn mà nói một, pháp đây chưa từng một, nhân buông mà nói nhiều, pháp đây chưa từng nhiều, chẳng phải một chẳng phải nhiều, có mà chẳng có, mà nhiều mà một, không mà chẳng không, một nhiều cùng nương nhau qua lại làm gốc ngọn, thông có bốn nghóa: Một là, nghóa thành tựu nhau thì một nhiều đều lập, vì qua lại gìn giữ có sức đều còn vậy; Hai là, nghóa hại nhau: Hình đoạt cả hai đều mất, vì cùng nương tựa mỗi mỗi không tánh vậy; Ba là nghóa qua lại còn, vì đây gìn giữ kia chẳng hoại kia mà tại đây, kia gìn giữ đây cũng vậy. Trong kinh có bài tụng rằng: “Trong một hiểu vô lượng, Trong vô lượng hiểu một”; Bốn là nghóa qua lại hết, vì đây gìn giữ kia, kia cùng hết mà chỉ đây, vì kia gìn giữ đây, đây cùng hết mà chỉ kia. Trong kinh nói: “Biết một tức nhiều nhiều tức một”. Lại do đây kia cùng thành giúp nhiếp vô ngại, cho nên được có lớn nhỏ tức nhập một nhiều, cùng chứa xa gần qua lại gìn giữ, chủ bạn gồm chứa. Giả sử mỗi mỗi mảy trần hiện mà vô tận ngang bằng như lưới trời Đế thích vì sâm sai, nên được mỗi mỗi sự hiển mà không cùng như ánh sáng định mà ẩn ánh. Lại, nghóa của một nhiều vô ngại, các bậc Cổ đức dùng thí dụ để hiển bày, như số pháp mười tiền, đây có hai thể: Một là dị thể, hai là đồng thể. Căn cứ trong dị thể có hai: Một là cùng là, hai là cùng vào. Lại vì các pháp duyên khởi có hai nghóa: Một là, nghóa không hữu, đây tức là tự thể; Hai là nghóa có lực và không lực, đây là trông lực dụng. Do nghóa trước nên căn cứ theo là nhau, do nghóa sau nên được cùng vào. Mới đầu, trong nghóa không hữu, do lúc tự nếu có, tha hẳn không, nên tha tức là tự. Tại sao? Do tha không tánh vì tự tạo tác, thứ hai, do lúc tự nếu không, tha hẳn có, nên tự tức tha. Tại sao? Do tự không tánh dùng tha tạo tác. Vì không hữu không hai thể, do đó thường tương tức. Nếu không như vậy thì điều kiện chẳng thành, có các lỗi lầm của tự tánh v.v… Hai, trong lực dụng, tự có toàn lực, do đó năng nhiếp tha, tha toàn không lực, do đó năng nhập tự, chẳng y cứ tự thể, nên chẳng phải tương tức. Lực dụng giao triệt nên thành tương nhập mười. Số làm thí dụ lại có hai môn: Một là môn khác thể; Hai là môn đồng thể. Căn cứ trong môn khác thể, lại có hai: Một là nhiều trong một; Hai là một trong nhiều. Như trong kinh có kệ tụng rằng: “Trong một hiểu vô lượng, Trong vô lượng hiểu một, Rõ kia cùng sanh khởi, Sẽ thành không chỗ sợ”. Đây là căn cứ tướng mà nói. Hai là một tức nhiều nhiều tức một, như trong kinh có kệ rằng: “Một tức là nhiều nhiều tức một, Nghóa vị tịch diệt đều bình đẳng, Xa lìa tướng một khác điên đảo, Đó là Bồ-tát trú bất thối”. Đây là căn cứ lý mà nói. Hỏi: Kia đã mỗi mỗi không tánh, sao được thành một nhiều đó ư? Đáp: Đây do thật đức của pháp giới, lực dụng của duyên khởi, cảnh giới Phổ Hiền tương ưng, do đó một chiều thường thành chẳng tăng chẳng giảm vậy. Tiếp đến nói rõ một tức là nhiều, nhiều tức là một, như tợ một tức mười duyên thành. Nếu mười chẳng phải một, một chẳng thành, nào chỉ một chẳng thành, mười cũng chẳng thành. Như cột trụ nếu chẳng phải là nhà, khi ấy thì không nhà, nếu có nhà cũng có cột trụ, tức vì cột trụ tức là nhà, nên có nhà lại có cột trụ. Vì một tức mười, mười tức một, thành một lại thành mười vậy. Hỏi: Nếu một tức mười, đây là không có một, nếu mười tức một, đây là không có mười. Nào nói một đó và mười, lại nói vì tức nên được thành ư? Đáp: Một tức chẳng phải một, tình đó nghóa là một, nay chỗ gọi duyên thành một. Duyên thành một là chẳng phải tình đó nghóa là một. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Một cũng chẳng làm một, Do vì phá các số, Trí cạn chấp các pháp, Thấy một lấy làm một”. Hỏi: Trước nói rõ nhiều trong một, một trong nhiều, tức trong một có mười, trong mười có một. Nay nói rõ một tức mười, có gì khác biệt ư? Đáp: trước nói rõ mười trong một là lìa một không có mười mà mười chẳng phải là một. Như đây nói rõ một tức mười là lìa một không có mười, mà mười tức là một, duyên thành nên vậy. Hai môn đồng thể là lại như môn trước, tương tợ trở lại nói rõ nhiều trong một một trong nhiều, một tức nhiều, nhiều tức một. Nay căn cứ trong môn đây mà nói là môn Dị thể trước nói mười trong một là vì trong chín sau nên gọi là mười trong một. Môn đây nói mười trong một là tức trong một có chín, nên nói mười trong một vậy. Hỏi: Nếu trong một tức có chín là đây cùng với một tức mười trong môn khác thể trước có gì khác biệt ư? Đáp: Trong đây nói có chín là có ở tự thể chín mà một chẳng phải. Chín như dị thể trước nói là một tức là mười ở dị thể kia mà mười chẳng lìa một. Hỏi: Trong một đã tự có chín là nên chẳng phải nghóa duyên thành? Đáp: Nếu chẳng phải duyên thành đâu được có chín ư? Hỏi: Một thể sao được có chín? Đáp: Nếu không chín tức không một. Tiếp theo nói rõ một tức mười trong môn đồng thể, trở lại nói một là, duyên thành nên một tức mười. Tại sao? Nếu mười chẳng phải một, vì một chẳng thành. Một tức mười đã vậy, một tức hai ba cũng vậy. Hỏi: Trong đây nói tự thể một tức mười cùng mười trong một ở đồng thể trước có gì khác biệt ư? Đáp: Trước nói rõ trong tự thể có mười mà một chẳng phải là mười, đây nói rõ một tức mười mà một tức là mười, lấy đó làm khác. Hỏi: Đây nói rõ một thể tức mười là gồm pháp cùng tận chăng? Đáp: Tùy trí sai biệt nên cũng cùng tận cũng chẳng cùng tận. Tại sao? Như một gồm mười tức chẳng là cùng tận, nêu đầy đủ mà nói tức vô tận vậy. Hỏi: Vì gồm tự môn vô tận, vì nhiếp các môn khác cũng vô tận ư? Đáp: Một vô tận, các khác cũng vô tận. Nếu các khác chẳng tận. Nếu một thành tất cả thành, nếu một chẳng thành tất cả tức chẳng thành. Cho nên gồm pháp đây tức vô tận lại vô tận, thành nghóa của một vậy. Ở nghóa ba bốn giống như hư không tức là tận. Lại chẳng gồm các khác nên gọi là vô tận. Nên biết cũng nhiếp tận và chẳng tận vậy. Hỏi: Đã nói một tức năng gồm là làm chỉ gồm mười trong một, cũng được gồm mười xứ khác ư? Đáp: Gồm mười khác cũng có nghóa tận và chẳng tận. Tại sao? Lìa không tự nên một nhiếp xứ khác, tức vô tận mà thành nghóa của một, nghóa mười xứ khác như hư không nên có tận. Trong kinh nói: Bồ- tát ở một địa khắp nhiếp tất cả công đức các địa. Tông Kính Lục đây là Biệt giáo nhất thừa, môn chẳng thể nghó bàn, Tông của viên dung vô tận, chẳng đồng chỗ nói trong giáo của Tam thừa. Như trên, nghóa của một nhiều vô ngại, không thể dùng cái thấy của ý giải tình tư làm hạn lượng, chỉ mắt tịnh trí dùng sáu tướng mười huyền bao gồm đó mới tận yếu chỉ ấy vậy, thì biết dung nhiếp vô biên, bao hàm chẳng phải ngoài, như ở phẩm Thần lực trong kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật ở đây đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Chư Phật ở đây chuyển xoay xe pháp, chư Phật ở đây mà nhập Niết-bàn”. Lại, trong kinh nói: “Từ bi làm mắt Phật, chánh niệm làm đầu Phật, diệu âm làm tai Phật, rừng hương làm mũi Phật, cam lồ làm miệng Phật, tứ biện làm lưỡi Phật, lục độ làm thân Phật, tứ nhiếp làm tay Phật, bình đẳng làm ngón tay Phật, giới định làm chân Phật, chủng trí làm tâm Phật”. Ở Kim Quang Minh kinh sớ nói: “Pháp tánh thân Phật là chẳng phải chỗ có thể thấy của các hàng phàm phu Nhị thừa hạ địa, chỉ người đáng độ, thị hiện khiến được thấy. Đây tức là thân của không thân, tướng của vô tướng, Nhất thiết trí làm đầu, Đệ nhất nghóa đế làm búi tóc, tám vạn bốn ngàn pháp môn làm tóc, mắt đại bi, lông trắng trung đạo, mũi vô lậu, lưỡi mười tám không, răng bốn mươi bất cộng, vai hoằng thệ, eo Tam-muội, bụng Như Lai tạng, tay trí quyền thật, chân định tuệ, các tướng như vậy v.v… trang nghiêm pháp tánh thân Phật vậy”. Sơ tổ Ngưu Đầu nói: “Chư Phật ở đây đắc Bồ-đề là, đây là nơi tâm đắc Bồ-đề, nơi sắc chuyển pháp luân, nơi mắt nhập Niết-bàn. Nếu như vậy là trong thân rốt ráo giải thoát pháp thân, thường tại Tịnh độ đầy đủ. Lại thiếu vật gì, lại cầu tìm gì? Lúc mới phát tâm bèn thành Chánh giác”. Trong Tông Kính đây chỗ có trí hạnh, chủ bạn đều đồng một ngằn mé, người mới có tin, đều đồng dòng pháp, chỉ như trong một gương tròn, không phân tích khác. Như trong Hoa Nghiêm luận nói: “Pháp môn kinh đây,gồm chư Phật mười phương đồng hành chung hành, lại không mới cũ, như đường của Đại vương, người cất bước lên đó, tức là không làm sao chẳng đi, một niệm căn tùy hỷ, phần ít kiến tánh trí tuệ hiện tiền, gồm là chẳng lìa trí Chánh giác căn bản của Phật, chẳng lìa hạnh Phổ Hiền. Như Phổ Hiền phần ít thiện tâm trong một niệm đều là hướng dòng pháp. Nên trong kinh nói: Nghe danh hiệu và pháp môn giảng nói của Như Lai, nghe mà chẳng tin, còn có thể rốt ráo đến nơi Kim cang trí địa huống gì là người tin tu vậy”. Lại nói: Trong kinh Hoa Nghiêm pháp môn giải hạnh tu học ngộ nhập hẳn hay thành tựu pháp môn Thập trú, trú chủng tánh Phật, sanh nhà Như Lai, làm con Phật thật, chẳng đồng quyền giáo Bồ-tát sơ địa dùng thệ nguyện thành Phật, kinh Hoa Nghiêm đây luận ngay địa vị thật chứng, chẳng luận thệ nguyện, vì giáo môn đây gồm một thời một khoảng một pháp giới không khác niệm trước sau tình tuyệt, phàm thánh một tánh, chẳng luận tình buộc, nên dùng vô niệm vô tác pháp giới chiếu đó có thể thấy, nếu lập tình kiến không thể tin vậy. Giả sử sanh tin, huyền tin lời Phật, nên chẳng phải là tự thấy. Nếu tự thấy là tình tuyệt tưởng mất. Tâm cùng lý hợp, trí cùng cảnh ngầm, mới biết tánh tướng muôn cảnh thông gồm thâu. Nếu chẳng như vậy, tâm thường đây kia, phải quấy đua tranh tạo tác, dơ sạch sao dừng. Nếu là xứng tánh tình mất, môn pháp giới trùng huyền tự đạt, một nhiều thuần tạp, tự tại hàm dung, môn của chung riêng tròn chứa tự tại, đối với pháp lợi sanh khó đạt các căn, tùy chỗ hay kham nhận thảy đều thành lợi ích. Kính thừa thân gần đều hay giúp đó, do đó xứng tánh, nên phàm thực hành một sự thảy đều biến pháp giới. Nếu tùy sự làm thì có phân hạn. Như kinh Ma-ha Bát-nhã nói: “Muốn đem một thức ăn cúng dường mười phương mỗi mỗi như cát sông hằng v.v… chư Phật và Tăng, phải học Bát-nhã Ba-la-mật, muốn đem y phục hương hoa anh lạc hương bột hương xoa hương đốt đèn đuốc tràng phan hoa lọng v.v… cúng dường chư Phật và Tăng, phải học Bát- nhã Ba-la-mật”. Trong luận hỏi: “Bồ-tát nếu dùng một thức ăn cúng dường một Phật và Tăng còn là việc khó huống gì mười phương như số cát sông hằng v.v… chư Phật và Tăng?” Đáp: Công đức cúng dường là tại tâm, chẳng tại sự. Nếu Bồ-tát dùng một thức ăn, tâm lớn thảy đều cúng dường mười phương chư Phật và Tăng, cũng chẳng vì xa gần làm ngăn ngại, cho nên chư Phật đều thấy đều nhận thọ. Vậy biết chỉ vận một tâm rộng lớn không ngằn mé, công đức trí tuệ hai thứ trang nghiêm, Lục độ vạn hạnh không gì viên mãn, thì biết một mảy lông không tánh, pháp giới không sai, trong một mảy trần đủ phần mười phương. Do đó trên hội Pháp Hoa, các nước của chư Phật ở mười phương thông làm một cõi nước, phân thân cùng tòa, đồng chứng nhất thừa, cũng như trong kinh Hoa Nghiêm dạy rõ: Cõi đây nói pháp mười cõi nước khác đều vậy”. Ngưỡng kính đồng quy của tiên Thánh, khiến tin chắc của hậu học, chợt nhiên giáo đây chẳng duyên tốt lớn, như nắm đuốc lớn để đốt soi tăm tối, soi rọi thấy tánh, tợ cưỡi thuyền đi mà vượt qua sâu mà chợt lên chân, nên nói một câu nhiễm thần hẳn sẽ thành Phật, như một chữ kinh bảy đời chẳng chìm, điều lợi chỉ ở người, điều giới hạn chỉ ở mình. Tướng ưu thắng trăm phước đồng nhập vô sanh, khác dòng muôn thiện đều hội bình đẳng. Nay trong Tông Kính cũng lại như vậy, chánh ngay xả bỏ phương tiện chỉ nói Đạo vô thượng. Trong tất cả các pháp chỉ dùng Đẳng quán nhập. Nếu chấp phương tiện rộng biện các thừa thì mất bản hoài của Phật, trái với đại chỉ. Như trong kinh Pháp vương nói: “Nếu nhất định căn cơ làm người Tiểu thừa, nói pháp Tiểu thừa, làm người xiển- đề, nói pháp xiển-đề, là đoạn mất tánh Phật, là diệt thân Phật. Người nói pháp đó phải trải qua trăm ngàn muôn kiếp đọa vào các địa ngục. Tại sao? Tánh của chúng sanh tức là pháp tánh, từ xưa đến nay không có tăng giảm, cớ sao ở trong đó phân biệt thuốc bệnh, nếu hiểu như vậy, tức tất cả các pháp không gì chẳng là Phật pháp vậy. Hỏi: Thế nào là tất cả pháp đều là Phật pháp? Đáp: Tất cả pháp duy tâm, tâm tức là Phật, tâm tức là pháp. Như có người học hỏi Quốc sư Trung rằng: “Trong kinh nói: Tất cả các pháp đều là Phật pháp, giết hại lại là Phật pháp chăng?” Quốc sư đáp: “Tất cả hành xử đều là dụng của Phật trí, như người dùng hương đốt, mùi hôi chẳng hiềm, cũng như nước sạch, nhơ uế chẳng phải ô nhiễm, vì phô bày Phật trí vậy. Vậy biết, lửa không phân biệt, lan ngãi đều thiêu đốt, nước đồng thực thượng đức, vuông tròn mặc tình đồ chứa đựng. Do đó Bồ-tát Văn- thù cầm kiếm múa nơi Cù-đàm, Ương-quật nắm dao khua ở họ Thích, há chẳng là Phật sự ư? Nếu ngoài tâm thấy pháp mà sanh phân biệt, ngay như rộng làm các việc thắng diệu cũng chẳng phải cứu cánh”. Hỏi: Tâm tánh vốn tịnh, tịch chiếu không sót, sao mượn Trí Quang mà làm soi xét tận cùng? Đáp: Tâm là chánh nhân, tuy là rõ chiếu nhưng vì khách trần phiền não ngăn che, nếu không trí tuệ liễu nhân mà chẳng thể hiện. Các bậc Cổ đức nói: Trí chiếu tâm nguyên tức là liễu nhân, như hư không và mặt nhật lược có mười nghóa, vì biện khó nghó lường. Một là, mặt nhật và hư không chẳng phải tức chẳng phải lìa; Hai là, chẳng phải trú chẳng phải chẳng trú; Ba là, như mặt nhật khéo làm cốt yếu phá tối duyên tốt hiển bày không; Bốn là, tuy là diệt trừ tối hiển bày không mà hư không không tổn ích; Năm là, lý thật không tổn sự vì suy đó tối ngăn che trọn trừ, tánh là không thêm, chỗ bao gồm muôn tượng của không giới đều hiện; Sáu là, hư không đây tánh tuy thanh tịnh, nếu không ánh sáng mặt nhật thì có tối khởi; Bảy là, chẳng phải vì hư không, không nên tự hay trừ tối. Tối nếu dứt trừ hẳn nhờ ở ánh sáng mặt nhật; Tám là, mặt nhật nếu không hư không không ánh sáng không chiếu. Hư không nếu không có mặt nhật, tối chẳng tự trừ; Chín là, nhưng tối đây tánh không đến không đi, thể tướng của mặt nhật cũng chẳng sanh chẳng diệt; Mười là, chỉ có mặt nhật soi chiếu hư không thì càn khôn suốt hiểu, dùng trí tuệ mặt nhật soi chiếu tâm tánh hư không cũng lại như vậy. Giải thích rằng: Một, Trí cùng tâm chẳng phải tức chẳng phải lìa. Thế nào là chẳng phải tức? Vì trí là năng chiếu, tâm là sở chiếu, vì năng và sở khác vậy. Thế nào là chẳng phải lìa? Trí là dụng của tâm, vì dụng chẳng lìa thể; Hai, chẳng phải trú chẳng phải chẳng trú. Thế nào là chẳng phải trú? Vì trí tánh lìa vậy. Thế nào là chẳng phải chẳng trú? Vì cùng tâm tương ưng; Ba, Trí tuy dứt bụi trần hiển hiện tánh mà tâm vốn không ẩn hiển; Năm, Tâm tuy vốn không, cốt yếu phải sạch hết khách trần mới có thể hiện khắp pháp giới; Sáu, Tâm tuy thanh tịnh, nếu không trí quang thì bị khách trần ngăn che; Bảy, chẳng phải tâm tự không chẳng nhiễm khách trần. Trần nếu trừ cần nhân trí quang; Tám, Trí không tâm chẳng chiếu, tâm không trí chẳng sáng; Chín, khách trần tuy hết, vốn không đến đi, trí tuy khởi chiếu cũng không sanh diệt; Mười, chỉ được trí quang thì tâm tánh trạm nhiên lặng chiếu, pháp giới rỗng sáng, cứu cánh thanh tịnh, nên biết muôn pháp không tu, răn tu mà đến không tu. Bản tánh tuy không cũng do tu không mà hiển bày không. Nay chỗ ghi của Tông Kính rất có nguyên do, chỉ vì chúng sanh không trí chẳng tu mà đọa lạc ngu tối chẳng chiếu tâm tánh, uổng vùi lấp luân hồi, nếu chẳng được trí quang của Tông kính, do đâu hiển bày ở tâm báu. Vả lại, chúng sanh vô lậu trí tánh vốn đầy đủ, vì khách trần ngăn che, tợ gương tối bởi bụi, chỉ hay biết gương vốn sáng, bụi trần tức dần sạch, nói khách trần hết, chân tánh sáng rỡ. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Như ngoài thôn lớn có rừng sa-la, bên trong có một cây đã sanh sống trước rừng đủ một trăm năm, bấy giờ chủ rừng dùng nước rưới đó tùy theo thời tu sửa, cây đó trần bày khô mục, da dẻ cành lá thảy đều rơi rụng, chỉ trinh thật còn. Đức Như Lai cũng vậy, chỗ có trần bày nên đều đã trừ hết, chỉ có tất cả pháp chân thật còn”. Do đó, Hòa thượng Nhất bát có bài ca rằng: Muôn đời kim luân Thánh vương tử, chỉ là chân như Linh giác phải, dưới gốc Bồ-đề độ chúng sanh, độ hết chúng sanh ra sanh tử, chẳng sanh tử chân thật trượng phu, không hình không tướng Đại Tỳ-lô; trần lao diệt sạch chân như còn, một viên minh châu sáng vô giá”.  TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 14 Phàm, Đức Phật Thích-ca Văn khai mở tâm chúng sanh thành Phật tri kiến, sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma chỉ thẳng tâm người kiến tánh thành Phật. Nếu rõ hiểu một tâm đây, thế nào là lý thành Phật? Đáp: Một tâm chẳng động, các pháp không tánh, do vì không tánh thảy đều thành Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử Lúc Đức Như Lai thành Chánh giác, ở trong thân đó thấy khắp tất cả chúng sanh thành Chánh giác, cho đến thấy khắp tất cả chúng sanh nhập Niết-bàn đều đồng một tánh, đó là vô tánh. Không các tánh gì? Đó là tánh vô tướng, tánh vô tận, tánh vô sanh, tánh vô diệt, tánh vô ngã, tánh không chẳng phải ngã, tánh không chúng sanh, tánh không chẳng phải chúng sanh, tánh không Bồ-đề, tánh không pháp giới, tánh không hư không, cũng lại không có tánh thành Chánh giác, vì biết tất cả pháp đều không tánh, đắc Nhất thiết trí, đại bi tương tục cứu độ chúng sanh. Phật Tử! Thí như hư không, tất cả thế giới, hoặc thành hoặc hoại, thường không tăng giảm. Tại sao? Vì hư không không sanh, chư Phật Bồ-đề cũng lại như vậy. Nếu thành Chánh giác chẳng thành Chánh giác cũng không tăng giảm. Tại sao? Bồ-đề không tướng, không chẳng phải tướng, không một, không các thứ. Phật tử! Giả sử có người hay hóa làm hằng hà sa các tâm, mỗi mỗi tâm lại hóa làm hằng hà sa các Phật, đều không sắc không hình không tướng, như vậy hết hằng hà sa các kiếp không có dừng nghỉ. Phật tử! Ý ông nghó thế nào? Người kia hóa tâm hóa làm Như Lai, phàm có bao nhiêu Như Lai tánh khởi?” Diệu Đức Bồ-tát thưa: “Như điều tôi hiểu đối với nhân chỗ nói nghóa, hóa và chẳng hóa v.v… không có sai biệt. Tại sao hỏi nói phàm có bao nhiêu?” Bồ-tát Phổ Hiền nói: “Lành thay! Tốt thay! Phật tử! Như điều ông nói, giả sử tất cả chúng sanh ở trong một niệm đều thành Chánh giác và chẳng thành Chánh giác v.v… không có sai khác. Tại sao? Vì Bồ-đề không tướng, nếu không có tướng thì không tăng giảm. Phật Tử! Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết như vậy, thành Đẳng Chánh Giác đồng ở Bồ-đề, một tướng không tướng”. Trong Sớ Thích nói: “Sở dó biết trí Phật biến khắp là không một chúng sanh chẳng có bản giác, vì cùng Phật thể không khác? Trong kinh nói: “Trí Phật ngầm lưu tức tợ trí Phật biến chúng sanh khác”. Nay hiển bày chúng sanh tự có trí Phật nên nói là biến vậy. Đây có ba ý: Một là, nói rõ không một chúng sanh chẳng có, thì biết không tánh là chẳng phải chúng sanh, nghóa là cây cỏ v.v… đã qua thấy của năm tánh; Hai là, Chúng sanh nhân tại trong hàng ràng buộc đã đầy đủ quả pháp vượt thoát ràng buộc, nên nói có trí tuệ Như Lai, chẳng phải chỉ có tánh, sau mới sẽ thành, cũng chẳng phải lý trước trí sau. Vậy biết Niết-bàn đối phương tiện xưa trước tạm nói có tánh, học sau còn cho là đàm có tạng không, huống là nghe v.v… có quả trí, ai là đáng tin; Ba là, Quả trí của trong nhân tức là quả trí của Phật khác. Vì viên giáo tông tự tha nhân quả không có hai thể. Không như vậy, đây nói chúng sanh có quả, sao gọi nói trí Phật ư? Đó là huyền lại huyền vậy chẳng phải tông Hoa Nghiêm không có lý đó. Nghi ngờ rằng: Niết-bàn nói Phật tánh gọi là trí tuệ, lúc có trí tuệ thì không phiền não, nay có trí Phật nào làm chúng sanh? Giải thích rằng: Nghóa là vì điên đảo chẳng chứng, đâu được nói không, như kẻ tráng só mê mờ viên minh châu nơi trán, đâu phải là trong da không của báu. Cho rằng nếu trước không, lìa điên đảo sao có? Đã lìa thì hiện sáng, vốn chẳng không, như kẻ bần khổ được châu báu, chẳng phải nay mới trao cho. Do đó, Niết-bàn ngại sợ chẳng tu hành, nên nói: Nói quyết định là có, tức là chấp trước, ngại sợ chẳng tin có, nên nói: Nếu nói quyết định không thì là vọng ngữ. Chợt có thể chấp trước, chẳng thể vọng ngữ. Lại các kinh Như Lai Tạng v.v… nói: “Có chín thí dụ, dụ Như Lai tạng, nghóa là như hoa sen sanh tại trong nước bùn chưa ra khỏi bùn, mọi người không quý. Lại như bần nữ mà mang Thánh thai. Như vật báu giá lớn buộc trong áo dơ, như châu ma-ni rơi hầm xí sâu, như tượng vàng thật do lớp áo ngăn che, như cây am-la hoa thật chưa nở, cũng như hạt gạo tại trong vỏ trấu, như vàng trong quặng, tợ tượng trong khuôn, đều là nghóa trong bụi trần có thân Phật cùng đây rất đồng vậy. Lại, lý vô tánh đây hay thành tất cả hay hoại tất cả, thì một thành tất cả thành, một hoại tất cả hoại. Một thành tất cả thành là tức nhân quả giao triệt, ở trong đó có hai: Một là, nói rõ chúng sanh và Phật không hai trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Lúc Đức Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, ở trong thân đó thấy khắp tất cả chúng sanh thành Đẳng Chánh Giác v.v…”, kinh Tịnh Danh nói: “Tất cả chúng sanh tức tướng Bồ-đề”. Tức tướng Bồ-đề ở đâu chẳng thành?; Hai là, nói rõ năng sở không hai, tức trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Đều đồng một tánh, đó là vô tánh”, kinh Tịnh Danh nói: “Chẳng hành là Bồ-đề, vì lìa ý pháp. Pháp tức là sở, ý tức là năng, do vì tâm cảnh đều đồng một tánh, chúng sanh và Phật cũng vậy”. Do đó, chân tâm chẳng giữ tự tánh, khắp thể tùy duyên thành ở muôn pháp. Tánh tức là thể vậy, vì các pháp duy tâm sở hiện, mỗi mỗi không tự thể, hư giả cùng nương nhau, không tánh quyết định, hay tùy duyên khác thành lập tất cả. Nếu có tánh quyết định, giống như vàng đá mỗi mỗi có tánh bền chắc không thể khiến đổi khác. Nay vô tánh đây giống như nước gặp lạnh thành băng, gặp lửa thành hơi ấm. Nên trong Trung Luận có kệ tụng rằng: “Tập nếu có định tánh, Trước nay chỗ chẳng đoạn, Nay làm sao đoạn được. Đạo nếu có định tánh, Trước nay chỗ chẳng tu, Nay làm sao tu được”. Nên biết nếu có tánh cố định thì tất cả các pháp thảy đều chẳng thành, nếu không tánh cố định thì tất cả các pháp đều thành. Lại như chúng sanh, mỗi mỗi có tánh, tự thể chẳng đổi thay thì trọn làm chúng sanh, không nhân đâu thành Phật. Do đó lý vô tánh đồng, vì có nghóa không, nên tất cả các pháp được thành, ở trong không trung rốt ráo mạnh mẽ dựng lập tất cả các pháp. Nếu một vi trần pháp đây thành thì khắp mười phương hư không giới tất cả các pháp khác đồng một lúc thành. Nếu có một vi trần pháp khác chẳng thành thì một mảy may pháp ở đây cũng chẳng thành, mất nghóa viên đốn. Vì một tâm là tất cả tâm, nếu ngộ tông kính thành Phật tức tất cả các xứ thành Phật. Do đó, trong kinh Kim Cang nói: “Nơi của sở tại thì là có Phật”, nếu có một nơi như vi trần chẳng thành Phật thì chẳng vào trong Tông kính, nên trong kinh nói: “Chỉ ta là một người, ba cõi sáu đường phàm thánh không gì chẳng phải ta. Vì là một là người, chỉ ta một người vậy”. Nên biết nếu lìa đây mà tu đều thành quyền tiệm, như đợi hoa đốm hư không mà kết quả, mong nước nóng mà thành băng, mặc tình mãn ba A tăng-kỳ kiếp chẳng vào chân thật. Chỉ tự quán tâm thấy Phật, rõ các pháp không, thì chẳng động niệm mà đích thân thấy được hào quang, chẳng phải vận thân mà tham khắp pháp giới, như Phật tại cung trời Đao-lợi an cư một mùa hạ, Phật dùng sức thần ngăn các người trời không biết nơi chốn, mãn hạ tự tứ xong, Phật thâu nhiếp Thần túc muốn trở về lại Diêm-phù. Bấy giờ, Tu-bồ-đề trú trong thạch thất, tự tư duy rằng: “Phật từ cung trời Đao-lợi xuống, ta phải đến nơi chỗ Phật để đảnh lễ chăng? Hay là chẳng đến?” Lại tự tư duy rằng: “Phật thường giảng nói pháp, nếu người dùng sức trí tuệ quán pháp thân Phật, đó gọi là ưu tối trong thấy Phật”. Khi Phật đã từ cung trời Đao-lợi xuống Diêm-phù-đề, bốn chúng thảy đều nhóm tập, người trời cùng thấy trong tòa có Phật, các Đại luân vương, các trời nhóm tụ chúng hội trang nghiêm, từ trước chưa từng có. Tu-bồ-đề tư duy: Nay đại chúng đây tuy là thù đặc, thế chẳng dừng lâu, pháp của ma diệt đều kết quy vô thường. Nhân vô thường đây, quán môn mới đầu đó, đều biết các pháp là không, không thật có”. Lúc quán như thế tức được chứng đạo. Bấy giờ tất cả đại chúng mọi người đều muốn trước được thấy Như Lai lễ bái cúng dường. Khi ấy Tỳ-kheo-Ni Liên Hoa Sắc, thường bị mọi người gọi là dâm nữ, muốn dứt trừ tên gọi xấu xa, bèn hóa làm Luân vương có ngàn con bảy báu, mọi người thấy đó thảy đều lánh khỏi chỗ ngồi. Hóa vương thấy Phật rồi, trở lại hiện nguyên bản thân làm vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên đảnh lễ Đức Phật. Phật bảo Liên Hoa Sắc rằng: “Chẳng phải ngươi là người trước tiên đảnh lễ ta, chỉ có Tu-bồ-đề là người đảnh lễ ta trước hết. Tại sao? Tu-bồ-đề quán các pháp không là thấy pháp thân, được cúng dường chân thật, là ưu tối trong các sự cúng dường, chẳng phải cúng dường sanh thân, gọi là cúng dường vậy”. Vậy biết, nếu chẳng tự tin tâm Phật mà cầu thắng duyên khác, công nghiệp tuy duyên cần mà trọn chẳng phải cứu cánh. Như trong phẩm Như Lai xuất hiện ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật Tử! Giả sử có Bồ-tát ở trong vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp hành Lục độ Ba-la-mật, tu tập các thứ Bồ-đề phần pháp, nếu chưa nghe pháp môn Đại oai đức chẳng thể nghó bàn của Như Lai đây, hoặc lúc đã nghe rồi mà chẳng tin chẳng hiểu chẳng thuận chẳng vào, chẳng được gọi là Bồ-tát chân thật, vì không thể sanh vào nhà Như Lai”. Lại vì theo duyên, duyên cũng không tự tánh, thì tất cả chẳng thành, niệm niệm tan hoại. Như tùy theo duyên tạp nhiễm sai biệt, nhân danh ngôn dựng lập nên gọi là chúng sanh. Ở trong các duyên, tìm cầu tánh chúng sanh trọn chẳng thể được, thì chúng sanh thể không, tức là nghóa hoại, do vì có các pháp thì nghóa không được hiển bày. Nếu nghóa một chúng sanh đây chẳng thành, thì khắp mười phương pháp giới tất cả chúng sanh thảy đều chẳng thành, nên nói một hoại thì tất cả hoại. Do đó, chư Phật biết tất cả các pháp đều là vô tánh nên được thành tựu Nhất thiết trí, khởi đồng thể đại bi tương tục không dứt đoạn, suốt ngằn mé vị lai rộng độ các loài hữu tình, dùng lý của một tâm vô tánh thành Phật, nguyện tất cả chúng sanh cùng ta không khác. Biết chúng sanh một tâm xưa nay chẳng động thường hợp với Thiên chân, do vì vô tánh, bất giác tùy theo duyên lên xuống trong sáu thú, uổng nhận chịu vọng khổ, hư dối đọa lạc luân hồi, do đó hay khởi đại bi tương tục độ thoát. Nếu không lý vô tánh đây thì đại hóa chẳng thành. Thiện ác phàm Thánh không thể đổi thay. Nếu hay giải ngộ như vậy thì vào pháp môn phương tiện chẳng thể nghó bàn. Trong kinh Phật Nghiêm nói: “Các pháp nếu có thể tánh quyết định, như chẻ lông tóc một trong trăm phần. Vậy thì chư Phật chẳng xuất hiện nơi đời, cũng trọn chẳng giảng nói các pháp không và nghóa đốn chứng”. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Hay ở một niệm đều rõ biết, Tất cả chúng sanh không thừa sót, Rõ tâm tự tánh chúng sanh kia, Thấu đạt vô tánh chỗ hành đạo”. Trong kinh Bất Thối Chuyển Pháp Luân nói: “Bấy giờ có ba vị Bồ-tát tại trước Đức Thế Tôn, dùng hoa sen Mạn-đà tung rải trên Phật, rải xong, khởi ý niệm rằng: “Chúng ta đối với pháp đây rất sanh tin hiểu, không có nghi hoặc”. Trong đó, vị thứ nhất bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai, Tôi tức Như Lai đối với trong pháp đây đều không nghi hoặc”. Vị Bồ-tát thứ hai lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người xưng nói Thế Tôn, tôi tức Thế Tôn, cũng đối với pháp đây đều không nghi hoặc”. Vị Bồ-tát thứ ba bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người xưng nói A-la-ha-tam- miệu-tam Phật-đà. Tôi tức A-la-ha-tam-miệu-tam Phật-đà cũng đối với pháp đây đều không nghi hoặc”. Cho đến, A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Cớ sao Bồ-tát nói như vậy?”. Phật dạy: “ba vị Bồ-tát đây khéo hiểu giả danh, nói lời như vậy, biết chỉ là phàm Thánh các pháp đều là giả danh, theo tâm kiến lập, nếu hay rõ đạt tất cả bình đẳng, tức biết phàm Thánh các pháp chẳng vượt ngoài giả danh, giả danh chẳng vượt ngoài tánh chân như”. Như kinh Đại Bát-nhã nói: “Bấy giờ, Thiện Hiện bảo các chúng trời ở Dục giới và Sắc giới rằng: “Chúng trời các ngươi nói Thiện Hiện ta là đệ tử chân thật của Phật, tùy Như Lai sanh. Thế nào là Thiện Hiện tùy Như Lai sanh? Nghóa là tùy Như Lai cho nên mà sanh. Tại sao? Như Lai chân như không đến không đi. Thiện Hiện chân như cũng không đến không đi, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh, tức tất cả các pháp chân như. Tất cả các pháp chân như tức là Như Lai chân như, Như Lai chân như không Như Lai tánh, cũng không chẳng chân như tánh. Thiện Hiện chân như cũng lại như vậy. Nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh”. Giải thích rằng: Nếu Như Lai chân như tức tất cả các pháp chân như chẳng phải riêng Thiện Hiện tùy Như Lai sanh, cho đến tất cả pháp giới chúng sanh đều tùy Như Lai sanh. Tại sao? Vì Như Lai chân như tức tự chân như. Chân như như vậy không tánh chân như, vì chân như đây là cùng cực trong ngôn thuyết cũng không thể lập, nên nói: Gọi làm như như sớm đãø biến đổi vậy. Đã không có tánh của chân như, cũng không tánh chẳng phải chân như. Rõ đạt như vậy mới là cứu cánh chân như vậy. Kinh Nhạn Dịch nói: “Bấy giờ Xá-lợi-phất hỏi các Tỳ-kheo rằng: “Đại đức bởi duyên gì nói lời như vậy? Nay tôi mới ở nơi Lục Sư xuất gia”. Các Tỳ-kheo nói: “Đại đức Xá-lợi-phất! Từ nay trở đi, Lục sư, chư Phật v.v… đồng một tướng không tăng không giảm. Đại đức Xá-lợi-phất! Chúng tôi nay biết các sư chẳng khác, ở trong xuất gia không có phân biệt, nên nói xuất gia”. Xá-lợi-phất nói: “Đại đức! Duyên gì mà nói từ nay Phật chẳng phải tôi tôn quý?” Các Tỳ-kheo nói: “Đại đức Xá-lợi-phất! Từ nay trở đi, tôi tự nhiên rõ biết, đốt đèn sáng rỡ, chẳng nương gá các ánh sáng khác, tôi tự quay về nương tựa, chẳng phải nương tựa đâu khác, tự quay về tự tôn trọng, cho nên nói là Phật chẳng phải tôi tôn quý. Tại sao? Tôi chẳng lìa Phật, Phật chẳng lìa tôi”. Cho đến, Xá-lợi-phất nói: “Đại đức! Cớ sao nói từ nay trở đi biết tất cả thuyết cứu cánh Niết-bàn, trong đó không có điều phục, không chẳng phải điều phục. Do đó nên nói: Tôi nói không nghiệp”. Trong kinh Như Lai tạng nói: “Thế Tôn bảo Kim Cang Tuệ rằng: “Này thiện nam! Ta dùng mắt Phật quán xét tất cả chúng sanh trong các phiền não tham dục sân nhuế, có trí Như Lai, mắt Như Lai, thân Như Lai, ngồi kiết-già nghiễm nhiên chẳng động. Này thiện nam! Tất cả chúng sanh tuy tại trong thân phiền não các thú, có Như Lai tạng thường không dơ bẩn, đức tướng đầy đủ như ta không khác”. Trong kinh Lăng-già nói: “Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh chuyển ba mươi hai tướng vào trong thân tất cả chúng sanh”. Trong phẩm Nhập pháp giới ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Cư só Tỳ-sắc-chi-la đắc pháp môn Bồ-tát giải thoát bất Bát-niết-bàn tế, thường cúng dường tháp Phật tòa chiên-đàn tòa, nói cùng Thiện Tài đồng tử rằng: “Lúc tôi mở cửa tháp Đức Như Lai tòa chiên-đàn chứng đắc Tam-muội tên là Phật chủng vô tận. Này thiện nam! Trong mỗi mỗi niệm tôi vào Tam-muội đây, mỗi mỗi niệm được biết tất cả vô lượng sự thù thắng. Cho đến, này thiện nam! Tôi chỉ được Bồ-tát sở đắc bất Bát-niết-bàn tế giải thoát đây, như các Bồ-tát Ma-ha-tát dùng một niệm trí biết khắp ba đời, một niệm khắp vào tất cả các Tam-muội, Như Lai trí nhật luôn chiếu tâm đó, đối với tất cả các pháp không có phân biệt, rõ tất cả chư Phật thảy đều bình đẳng. Như Lai và ta cùng tất cả chúng sanh v.v… không có hai. Biết tất cả các pháp tự tánh thanh tịnh, không có nghó ngợi không có động chuyển, mà hay vào khắp tất cả thế gian, lìa các phân biệt, trí Phật pháp ấn đều hay khai ngộ pháp giới chúng sanh”. Lại có kệ tụng rằng: “Như tâm cảnh giới không có lường, Cảnh giới chư Phật cũng như vậy, Như cảnh giới tâm từ ý sanh, Cảnh Phật như vậy nên quán sát”. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Đúng như vậy, ta thành Phật đến nay thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng A tăng-kỳ kiếp, thường trú chẳng diệt”. Trong chúng nghi ngờ rằng Thành đạo đã lâu thường ở đây giáo hóa, khoảng giữa đó có Đức Phật Nhiên Đăng, Tỳ-ba-sà, Thi-khí v.v… thành đạo nhập diệt, nói pháp độ chúng sanh, lại là ai ư? Xưa trước giải thích rằng: Ở khoảng giữa đó, nói các Phật Nhiên Đăng v.v… thành đạo nhập diệt, như vậy đều dùng trí tuệ phương tiện khéo léo phân biệt nói ở các Phật khác, chẳng phải lìa thân ta mà riêng có các Phật ấy. Trong Kim Cang kinh luận nói: “Trong thân chúng sanh có Phật cũng chẳng phải kín mầu, ngoài thân có cũng chẳng phải kín mầu, cho đến chẳng phải trong thân chẳng phải ngoài thân có, chẳng phải chẳng phải trong chẳng phải chẳng phải ngoài có, đều chẳng phải kín mầu vậy. Chúng sanh tức vậy, nên gọi là kín mầu”. Trong Luận Bảo Tạng nói: “Chẳng trừ bỏ một pháp, chẳng đắc một pháp, chẳng tu một pháp chẳng chứng một pháp, tánh tịnh Thiên chân, có thể gọi là đại đạo ư? Do vì quán khắp thiên hạ không gì chẳng là chân nhân. Ai được lý này đồng một luân đó”. Thai giáo nói: “Chỉ quán mười pháp giới chúng sanh tức là Phật, mười pháp giới chúng sanh âm, Phật âm, không khác mảy may như hạt cải. Phật sự ba đời, bốn tướng chúng sanh không gì chẳng tròn đủ”. Trong Hoa Nghiêm luận nói: “Nếu kiến tánh chút ít, cũng được Phật thừa, như trong biển lớn, một giọt mảy may, cho đến nhiều giọt, trong mỗi mỗi giọt đều được biển lớn. Như vậy, Bồ-tát ở trong ngũ vị, thập trú thập địa, trong mỗi mỗi vị đều có Phật quả, như nước biển kia một giọt mảy may, chẳng lìa Phật tánh mà được các hạnh, vì Phật tánh ấy mà có tiến tu. Như kinh Hoa Nghiêm lấy ngay toàn Phật quả trí chẳng động v.v… mười trí Như Lai, chỉ bày phàm tin tu, như có phàm phu chóng lên ngôi vị báu. Thân gìn giữ vương vị, khắp biết các thần hạ, tất cả các phẩm loại không gì chẳng bao gồm. Trong kinh Hoa Nghiêm, pháp môn hành tướng Bồ-tát cũng lại như vậy. Từ sơ phát tâm, mới đầu ở Thập trú chóng thấy pháp thân Như Lai, Phật tánh vô tác trí quả như vậy, hành khắp tất cả muôn hạnh của Phổ Hiền, tùy duyên thẳng trệ, thảy đều là vô tác”. Trong kinh Niết-bàn nói: “Phật tánh chẳng phải là tác pháp, chỉ vì khách trần phiền não ngăn che, cho nên nay từ địa vị đầu tiên trong Thập trú dùng vô tác Tam-muội tự thể ứng chân, khách trần phiền não toàn không thể tánh, chỉ dụng của chân thể không tham sân si, mặc tình tức Phật, nên một niệm tương ưng một niệm thành Phật, một ngày tương ưng một ngày thành Phật, nào phải số kiếp dần dần mà tu, nhiều kiếp tích chứa tu ba A tăng-kỳ đến quả, tâm duyên số lượng kiếp, kiến chướng nào dừng, pháp môn của chư Phật vốn chẳng phải thời gồm, tính thời lập kiếp chẳng phải là Phật thừa”. Lại, trong kinh nói: “Tất cả các thế giới hải vi trần số kiếp, nơi có chư Phật xuất hiện hưng hóa ở đời, thân gần cúng dường, rõ trí của không công, khắp cùng không pháp nào chẳng Phật. Phật tức là pháp vậy, mười phương hư không không có khoảng khuyết, châm mũi nhọn chỉ bằng đầu sợi lông không đâu chẳng là tất cả các pháp, tất cả chư Phật vậy, chỉ có vi trần mới là chẳng phải tâm nhiễm tịnh, đều chẳng là thấy Phật vậy, dùng mắt trí mà in đó”. Lại nói: “Đều khắp cõi Phật vi trần số Phật, trí cùng hạnh khắp không gì chẳng là Phật. Thảy đều vâng thừa, tức là phàm thánh đồng thể, không một gì chẳng là Phật pháp, không là không gián cách vậy. Dùng phổ nhãn quán sát đó thấu suốt tâm cảnh đó không gì chẳng là Phật, trí theo các hạnh tất cả đều là Phật. Thấy được như vậy, dùng sự mà luận cũng thật như vậy, bày pháp mà luận tất cả đều thật. Vì là Phật, nếu một pháp một vật chẳng là Phật thấy, nên biết người đó tức là tà kiến, chẳng phải chánh kiến vậy, tức có năng sở phải quấy các kiến đua nhau sanh, chẳng được vào cảnh giới trí nhãn của Văn-thù, Phổ Hiền đây. Do đó nếu có dị tưởng tạp niệm tương tục mà khởi, nên gọi là chúng sanh, thì năng sở qua lại dấy phát, phải quấy chen nhau tranh cãi, tức là tà kiến. Nếu rõ vọng niệm vô tướng, cảnh ngoài tự hư dối, thì tất cả cõi nước như vi trần không gì chẳng là Chánh giác”. Do đó luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Một niệm mới khởi, không có tướng mới đầu, nghóa là tâm khởi đầu tức nghóa là vô niệm, thì phải dứt trừ nghi ngờ khiến sanh thắng giải, nghóa là có chúng sanh khởi nghi ngờ như vậy, đạo giải thoát cùng cực lúc gặp bản giác, vi tế mới sanh, biết được có chăng? Biết được không chăng? Nếu là biết có thì đạo giải thoát cùng cực, sẽ chẳng phải vô niệm. Tại sao? Biết có niệm mới đầu, vì có niệm mới đầu, nếu là biết không thì đạo giải thoát cùng cực sẽ chẳng thể có. Tại sao? Đã không niệm mới đầu, đợi niệm nào không lập giải thoát, vì có nghi ngờ như vậy. Nay tự kết luận: Tướng của Sở tri từ xưa đến nay tự tánh là không vô. Trí của năng tri, từ xưa đến nay không có lúc khởi. Đã không tướng sở giác, cũng không trí của năng giác, há có thể được nói có tướng mới đầu nhỏ nhiệm, trí tuệ có thể biết. mà nói là biết tướng mới đầu tức là thị hiện đạo lý vô niệm. Tại sao? Lý của pháp tánh tuy không khởi tướng mới đầu của sở tri, cũng không trí thỉ giác của năng tri, mà năng thông đạt không tướng sở tri, không trí năng tri, không sở hữu giác, đều chẳng phải không không, cho nên nay tạm y cứ đạo lý đây làm lời nói như vậy, biết tướng mới đầu vậy. Cho nên tất cả chúng sanh chẳng gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm tương tục, chưa từng lìa niệm, nên nói là vô thủy, vô minh tức là thành lập nghóa vô niệm trên, nghóa là Kim cang đã trở lại tất cả chúng sanh, riêng tướng nghiệp lực, niệm Đại vô minh chưa từng xa lìa, do đó thị hiện tất cả chúng sanh đều là có niệm, gọi là chúng sanh. Tất cả chư Phật đều đắc vô niệm, nên gọi là Phật. Từ đây trở xuống thị hiện cảnh giới thủy giác khắp cùng viên mãn, gọi là Đại giác, đã đến bờ kia, biết khắp tất cả vô lượng chúng sanh một niệm lưu chuyển làm bốn tướng sanh trú dị diệt, Nên như trong Luận nói: Nếu được vô niệm thì biết tâm tướng sanh trú dị diệt. Do vì nghóa gì mà biết như vậy ư? Lúc được tự vô niệm tất cả chúng sanh đều bình đẳng đắc. Nên như trong luận nói: Do vì vô niệm v.v… Do vì nghóa gì chỉ là một hạnh? Lúc đắc vô niệm, tất cả chúng sanh đều đắc vô niệm, mỗi mỗi chúng sanh thảy đều mỗi mỗi có bản giác. Nghóa ấy thế nào? Nghóa là một hạnh, lúc thủy giác viên mãn đồng với bản giác, đồng khắp tất cả trong tâm bản giác của vô lượng chúng sanh, chẳng phải tự bản giác. Tại sao? Tự tánh bản giác khắp chúng sanh giới không đâu chẳng đến. Thanh tịnh giác là lúc đắc vô niệm, tất cả chúng sanh đều đắc vô niệm. Thanh tịnh giác là lúc đoạn vô minh, tất cả chúng sanh cũng có thể đoạn ư? Nếu vậy có lỗi lầm gì? Nếu thủy giác là lúc đoạn vô minh, tất cả chúng sanh đều được đoạn. Cở sao như trước nói Kim cang đã trở lại tất cả chúng sanh, riêng tướng nghiệp lực, niệm Đại vô minh chưa xa lìa nên chẳng gọi là giác? Nếu các chúng sanh do vô minh từ vô thủy chưa được xa lìa mà đồng chư Phật đồng đắc vô niệm. Nghóa vô niệm v.v… chỉ có ngôn thuyết không có thật nghóa, đâu có thể được nói tất cả chúng sanh đều có bản giác cũng có thủy giác, quyết đoán nạn này thì có hai môn: Một là tự tông quyết đoạn; Hai là tông riêng biệt quyết đoạn. Tự tông quyết đoán là đây là luận về chánh tông, vì muốn thị hiện tất cả chúng sanh đồng một tương tục vì không sai biệt. Có thể được một tu hành, vô minh từ vô thủy lúc rốt ráo đoạn, tất cả chúng sanh cũng đồng đoạn hết. Một tu hành là lúc mãn thủy giác tất cả chúng sanh cũng đồng được mãn. Cho nên ba thân vốn có, trong Khế kinh nói lời như vậy”. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Văn-thù rằng: “Văn- thù Sư-lợi! Ta do hai đẳng mà thành Chánh giác: Một là đoạn đẳng; Hai là đắc đẳng. Nói đoạn đẳng là lúc ta phát khởi đạo giải thoát cùng cực, tất cả chúng sanh có các thứ vô minh từ vô thủy đồng một lúc rốt ráo chóng quyết đoạn. Nói đắc đẳng là lúc ta mới thành đạo đầy đủ thủy giác, tất cả chúng sanh đều đầy đủ. Đó gọi là hai đẳng. Trông riêng biệt quyết đoạn là, khắp viên mãn là trông chúng sanh giới, không mỗi một pháp mà chẳng phải thanh tịnh, khắp các chúng sanh trông Vô thượng tôn, vào vô minh tạng, không chỗ hay biết, thảy đều thanh tịnh không chỗ chướng ngại, nghóa vô niệm v.v… mà được thành lập. Vào vô minh tạng không chỗ hay biết. Như điều nói trên, văn không lỗi chống trái, nêu một góc đây nên rộng quán sát. Từ đây trở xuống, chứa các thủy giác khiến đồng bản giác, nghóa là năm mươi mốt phần lúc đầy đủ thủy giác, thật không quả của chuyển thắng tiệm thứ, cũng không cùng cực của cứu cánh viên mãn. Tại sao? Tất cả thủy giác bốn tướng đồng thời mà được dừng trú đều không tự lập, từ xưa đến nay một vị Bình đẳng, tự tánh viên mãn khế đồng không hai, chỉ một tướng giác, nên như trong luận nói mà thật không có khác của thủy giác, vì bốn tướng đồng thời mà có đều không tự lập xưa nay bình đẳng đều đồng một giác. Trong Khởi Tín luận sớ nói: “Chợt nhiên đại ngộ suốt rõ tự tâm vốn không chỗ chuyển, nay không chỗ tỉnh, xưa nay bình đẳng các thứ mộng niệm động tâm nguyên đó. Tâm giác mới khởi, là rõ tâm tướng sở giác. Mới đầu khởi là y cứ vô minh có tâm thể của sanh tướng khiến động niệm, nay mới chứng biết, lìa bản giác thì không bất giác, tức động niệm là tỉnh tâm, nên nói giác tâm mới khởi như mê mờ phía Đông lấy làm phía Tây, lúc ngộ mới biết phía Tây tức là phía Đông. Tâm không tướng mới đầu, vốn do bất giác có tâm sanh khởi, nay đã giác nên tâm không chỗ khởi, nên nói không tướng mới đầu. Nay cứu cánh vị động niệm đều hết chỉ một tâm còn nên nói không tâm mới đầu. Vô minh trọn hết, kết quy một nguồn tâm. Lại không khởi động nên nói được thấy tâm tánh, tâm tức thường trú, lại không chỗ tiến tới nên gọi là cứu cánh giác. Chưa đạt đến tâm nguyên, mộng niệm chưa hết, muốn diệt động đây trông đến bờ kia, mà nay đã thấy tướng tâm tánh mộng đều hết, rõ biết tự tâm vốn không lưu chuyển. Nay vô minh tỉnh dứt thường tự một tâm do đó chứng biết Phật địa vô niệm, đây là nêu nhân mà chứng quả vậy. Đại sư Mã Tổ nói: “nếu ông muốn biết tâm, chỉ ngôn ngữ này tức là tâm ông, gọi tâm ấy làm Phật cũng là thật tướng pháp thân Phật, cũng gọi là đạo”. Trong kinh nói: “Có ba A tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu, tùy thế tục ứng xử lập danh, như tùy sắc màu châu ma-ni, xúc chạm xanh tức xanh, xúc chạm vàng tức vàng, thể chẳng phải tất cả sắc màu, như ngón tay chẳng tự xúc chạm, như dao chẳng tự mổ cắt, như gương chẳng tự soi chiếu, tùy duyên nói của chỗ thấy mỗi một được tên nói. Tâm đây và hư không thọ ngang bằng, cho đến luân hồi lục đạo nhận chịu các thứ hình, tức tâm đây chưa từng có sanh chưa từng có diệt. Vì chúng sanh chẳng biết tự tâm, mê tình vọng khởi các nghiệp nhận chịu quả báo. Mê bản tánh đó, vọng chấp thân tứ đại gió hơi ở thế gian, thấy có sanh diệt, mà tánh của kinh giác thật không sanh diệt, nay ông ngộ tánh đây, gọi là trường thọ, cũng gọi là Như Lai thọ lượng, gọi làm tánh vốn không chẳng động. Các Thánh trước sau chỉ hội tánh ấy làm đạo. Nay thấy nghe hay biết nguyên là bản tánh ông, cũng gọi là bản tâm, lại chẳng lìa tâm ấy riêng có Phật. Tâm ấy vốn có, nay có chẳng nương gá tạo tác, vốn tịnh nay tịnh chẳng đợi phải lau chùi. Tự tánh Niết-bàn, tự tánh thanh tịnh, tự tánh giải thoát, tự tánh xa lìa, là tâm tánh ông, vốn tự là Phật, chẳng dùng riêng cầu Phật, ông tự là Kim cang định, chẳng dùng lại tác ý ngưng tâm thủ định giả sử ngưng tâm kiểm niệm, làm được cũng chẳng phải cứu cánh”. Trong khoa chúng sanh và Phật không hai, Hòa thượng Chí công nói: “Chúng sanh và Phật chẳng khác. Đại trí chẳng khác với ngu, sao dùng ngoài cầu trân báu, trong thân tự có minh châu, chánh đạo tà đạo không hai, rõ biết phàm thánh đồng mê, mê ngộ vốn không sai biệt, Niết-bàn sanh tử như một, rốt ráo duyên theo không tịch, suy cầu nghó tưởng thanh hư, không có một pháp khả đắc, thâm trầm vào thẳng vô dư”. Phó Đại só có bài tụng rằng: “Về nguyên cũ nào phải thứ lớp cầu, Pháp tánh không trước sau, Một niệm một lúc tu”. Lại có bài tụng rằng: “Phàm địa tu chánh đạo, Quả địa tập nhân phàm, Luôn đi không chỗ giẫm, Thường độ không độ người”. Đại sư Chân Giác có bài ca rằng: “Núi tuyết béo ngậy không gì tạp, Thuần ra đề hồ ta thường nhận, Một tánh viên thông tất cả tánh, Một pháp bao gồm tất cả pháp, Một trăng khắp hiện khắp cả nước, Trăng tất cả nước một trăng thâu. Pháp thân chư Phật vào tánh ta, Tánh ta đồng chung Như Lai hợp, Một địa đầy đủ tất cả địa, Chẳng sắc chẳng tâm chẳng hạnh nghiệp, Khảy tay viên thành tám vạn môn, Sát-na diệt dứt nghiệp A-tỳ. Tất cả số câu chẳng số câu, Cùng Linh giác tôi nào giao thiệp”. Trong Bách Môn Nghóa Hải nói: “Phát tâm Bồ-đề, nay rõ đạt tất cả chúng sanh và bụi lông v.v… lý vô tánh, vì thành trí Bồ-đề của Phật, do đó ở trong thân Bồ-đề Phật thấy tất cả chúng sanh thành Đẳng Chánh Giác. Lại, chúng sanh và bụi lông v.v… toàn vì lý Bồ-đề của Phật mà thành chúng sanh, do đó ở trong Bồ-đề chúng sanh thấy Phật tu hạnh Bồ-đề, cho nên Phật là Phật của chúng sanh, chúng sanh tức là chúng sanh của Phật. Giả sử có khai hợp, trọn không sai biệt. Thấy như vậy gọi là tâm Bồ-đề, khởi đồng thể đại bi giáo hóa chúng sanh vậy”. Lại, Đông Lâm hỏi rằng: “Chúng sanh là mê, chư Phật là ngộ, thể tuy là một, ước dụng có sai biệt. Nếu vì chúng sanh thông gồm Phật, Phật cũng hợp mê. Nếu vì Phật thông gồm chúng sanh, chúng sanh hợp ngộ ư?” Đáp: Luôn lấy chẳng phải chúng sanh làm chúng sanh, cũng lấy chẳng phải Phật làm Phật, chẳng ngại còn mà luôn đoạt, chẳng phòng hoại mà thường thành, tùy duyên tạp lập của chúng sanh, đâu có chúng sanh có thể được căn cứ thể, quyền thí tên gọi pháp thân. Nào có chư Phật có thể cầu, không gì chẳng dối suốt nguồn chân nguyên, ở một tướng mà luôn có, chân gồm ngọn vọng, vào năm đường mà thường không, tình đàm thì hai cõi khó thông, trí nói thì nhất như dễ nhóm, sau đó cả hai chẳng phải cả hai, đó tức là thành tựu lẫn nhau, thấy chư Phật ở nơi thân chúng sanh, quán chúng sanh ở nơi Phật thể”. Hòa thượng Ngưỡng Sơn hỏi Hòa thượng Quy Sơn rằng: “Phật thật trú nơi nào?” Hòa thượng Quy Sơn nói: “Do tư duy diệu của không tư duy, trái lại tư duy vô cùng của ánh lửa linh, tư duy hết trở lại nguyên tánh tướng thường trú, sự lý không hai, Phật thật như như, đó thì không trú không lìa, hay thấy Phật thật giẫm t trên đường bình đẳng vậy”. Nên nói đạo của lục đạo, lìa ác của thiện, lìa thiện của ác. Đạo của Nhị thừa, lìa vô lậu của lậu. Đạo của Bồ-tát lìa trung của biên. Đạo của chư Phật không lìa không đến. Tại sao? Vì tất cả các pháp tức là Phật đạo. Do đó các bậc tiên đức nói: “Phàm, Đại đạo duy tâm, tức tâm là Phật, chỉ nương tựa nhất tâm mà tu, tức là trí của căn bản, cũng là trí không phân biệt tức năng phân biệt vô cùng, vì tự đủ Nhất thiết trí, chẳng đồng khởi tâm biến kế, nên biết phàm là có tâm đều là thành Phật, như nay đi là Phật đi, ngồi là Phật ngồi, nói là Phật nói, im lặng là Phật im lặng. Do đó nói A-tỳ y chánh thường ở tự tâm của cực Thánh, pháp thân chư Phật chẳng lìa một niệm của hạ phàm”. Đây, chẳng phải phân được, có thể gọi là toàn thâu, vì không tin nên quyết định làm phàm, vì rõ suốt nên xưa lại thành Phật. Nhưng nghóa của thành Phật, theo tánh hư huyền, tùy cơ đối lập nhau, tức có nhiều thứ. Như trong Hoa Nghiêm Diễn Nghóa nói: “Tùy môn chẳng đồng, các thứ có khác. Môn chỉ có nhiều, tạm lược phân bốn: Một là, ước tánh, tức nhất chân pháp giới; Hai là,ước tướng, tức vô tận sự pháp; Ba là, tánh tướng giáo biệt, hiển bày hai môn đây bất tức chẳng lìa; Bốn là, vì tánh dung tướng đức dụng lớp lớp. Thứ nhất nói về Thể môn là. Hỏi: Thể là Phật chăng? Đáp: Nên thành bốn câu: Một là, Phật, vì pháp tánh thân không chỗ chẳng đến, trong kinh nói: “Tánh không tức là Phật”; Hai là, chẳng phải Phật, vì tuyệt năng sở giác làm tánh đó, bình đẳng chân pháp giới, chẳng phải Phật, chẳng phải chúng sanh; Ba la,ø cũng chẳng Phật cung phụng Phật, vì pháp tánh thân không tự tánh; Bốn la,ø cả hai chẳng phải, vì tánh và vô tánh cả hai hết tuyệt. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Trong không không có hai, Không hai cũng lại không, Ba đời tất cả không, Thì là chư Phật thấy”. Thứ hai, căn cứ tướng môn có hai: Một là, tình; hai là, chẳng phải tình. Chân tâm tùy duyên biến năng sở, nhưng hai môn đây mỗi mỗi phân nhiễm tịnh. Nghóa là vô minh huân chân như thành duyên khởi nhiễm, chân như huân viên mãn thành duyên khởi tịnh, nhiễm thành muôn loại, tịnh đến thành Phật. Vì tu duyên tịnh đoạn duyên nhiễm kia mới được thành Phật, y cứ hai nghóa đây thì chúng sanh và Phật chẳng đồng. Ở trong duyên tịnh lại có nhân quả. Nhân có thuần tạp, quả có y chánh. Nếu căn cứ thuần môn, tùy một Bồ-tát, suốt cùng vị lai chỉ tu một hạnh, mỗi mỗi đều vậy. Nếu căn cứ tạp môn, muôn hạnh đều tu suốt cùng vị lai. Nếu căn cứ nhân môn, suốt cùng vị lai thường là Bồ- tát. Nếu căn cứ quả môn, suốt cùng vị lai thường là Như Lai. Trong kinh nói: “Làm chúng sanh nên niệm niệm mới thành Đẳng Chánh Giác”. Nếu cả hai biện môn, suốt cùng vị lai, tu nhân đắc quả. Nếu căn cứ cả hai chẳng phải, suốt cùng vị lai chẳng phải nhân chẳng phải quả, bèn đồng chân tánh. Ba môn trước cả hai đều đủ bi trí song chứa tâm cảnh. Thứ ba, là tánh tướng giao triệt môn, khúc chiếc có bốn môn: Một là, vì tánh tùy tướng đồng môn thứ hai; Hai là, gá tướng quy tánh đồng môn thứ nhất; Ba là, cả hai còn vô ngại đủ hai môn trên, y cứ đây thì bi trí song vận, tánh tướng đều xua, tịch chiếu cùng chuyển động Đại tự tại; Bốn là, cùng đoạt cả hai đều mất thì tánh tướng đều tuyệt, hết đồng biển quả không thành chẳng thành. Thứ tư,vì tánh chứa tướng môn. Tướng tuy muôn sai không gì chẳng tức tánh, tánh tức vô tận toàn tại trong tướng, vì tánh dung tướng tướng như ở tánh, khiến các môn trên đều không chướng ngại, nhân quả giao triệt thuần tạp cùng chứa, sự sự xen nhau lớp lớp vô ngại. Nay căn cứ trong bốn câu của tánh môn, đó tức là Phật môn, chẳng lấy ba môn khác. Căn cứ trong tướng môn, nói theo môn hữu tình, là tịnh chẳng phải nhiễm, là quả chẳng phải nhân, là nghóa một phần, chẳng phải chỗ dùng đây. Căn cứ giao triệt môn, Phật thì tánh tướng cùng chứa, chúng sanh thì nhóm tướng về tánh. Nay kinh chánh căn cứ thứ tư, vì tánh dung tướng, một thành tất cả đều thành, nghóa là lấy tánh tịnh của Phật dung nhiễm của chúng sanh, lấy một tánh của Phật chứa nhiều của chúng sanh, khiến chúng sanh nhiều nhiễm tùy một chân tánh đều như ở Phật đã thành cứu cánh, chẳng phải chỉ hữu tình hội, vạn loại tương dung làm Phật thể, không gì đều thành. Nên Triệu công nói: “Họp muôn vật mà thành rồi, đó chỉ là Thánh nhân ư?” Lại nói: “Nên Thánh nhân không đồng thể đó, muôn vật không chẳng phải ta. Đem tánh của Phật dung nơi tánh vật đồng Phật đều thành. Đem tánh của vật dung nơi tướng Phật, Nên khiến ba nghiệp ngang bằng ở muôn loại”, tức ý kinh nay mà chẳng phải các môn khác. Nên nói tùy môn chẳng đồng, nay là thành Phật môn vậy. Đốn giáo phần nhiều đồng ước tánh bốn môn. Chung giáo tức đồng tánh tướng giao triệt. Thủy giáo có hai môn, huyễn có tức không, đồng nhóm tướng quy tánh, chỉ duy tâm hiện, phần nhiều đồng thứ hai. Tiểu thừa trời người đều đồng tướng môn, do đó có nói: Vô tình thành Phật tức là căn cứ tánh tướng tương dung. Đem tánh của hữu tình chứa tướng vô tình, đem tướng vô tình tùy tánh chứa đồng tướng của hữu tình, nên nói vô tình có nghóa thành Phật. Nếu đem vô tình chẳng nghóa thành Phật chứa tướng của hữu tình cũng được nói là chư Phật và chúng sanh chẳng thành Phật vậy. Vì thành và chẳng thành, hữu tình và vô tình không có hai tánh, pháp giới vô hạn, Phật thể khắp cùng, sắc không không hai, pháp không tánh cố định, mười thân viên dung, duyên khởi cùng nguyên do, sanh giới vô tận, làm nhân khắp cùng, xa lìa đoạn thường, muôn pháp rỗng chứa, nên nói một thành tất cả đều thành vậy, chẳng phải cho rằng vô tình cũng có tánh giác đồng với hữu tình thành Phật. Nếu chấp thuận thành đây thì năng tu nhân, vô tình biến hóa hữu tình, hữu tình biến hóa vô tình, bèn đồng tà kiến, do đó, tánh chẳng phải khéo vụng, giải hiểu có tinh thô, trí diệu mà thấy ở khoảnh khắc, có độn mà ngộ trải qua số kiếp như bụi trần. Do đó, các bậc Cổ đức nói: Phàm, Phật thể sâu mầu, chẳng phải tức sắc uẩn, cũng chẳng lìa sắc uẩn. Một và khác tánh không, chân tánh tự hiện. Như trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng rằng: “Mạt vụn nơi quặng vàng, Trong quặng chẳng thấy vàng, Người trí khéo dung luyện, Vàng thật mới hiển bày, Phân vạch ở các sắc, Cho đến làm cực nhỏ, Và chiết tìm các uẩn, Hoặc một hoặc khác tánh, Phật thể chẳng thể thấy, Cũng chẳng không có Phật”. Vả lại, như ngộ vào trong Tông kính, thành Phật chẳng lìa một niệm. Nếu niệm trước là phàm niệm sau là Thánh, đây như chỗ gồm thâu của Biệt giáo. Nay chẳng động vô minh, toàn thành Chánh giác. Nên trong Hoa Nghiêm kinh luận nói: “Như đem ngôi vị báu trao ngay cho kẻ phàm ngu, như đêm mộng ngàn thu, tỉnh rồi theo đó mất”. Phó Đại só tâu cùng Võ Đế (Tiêu Diễn 5 0 2- 550) thời Nam Lương rằng: “Nay muốn đem châu báu như ý thanh tịnh giải thoát chiếu suốt mười phương, sắc màu ánh sáng vi diệu khó thể nghó bàn, ý muốn thí đến người chủ, nếu thọ nhận chóng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Nên biết nếu một niệm quyết định tin nhận, chẳng cách sát-na bèn lên ngôi vị giác ngộ. Như trong kinh Duy-ma nói: “Cư só Duy-ma-cật nói: “Nhưng các ông bèn phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đó tức là xuất gia, đó tức là cụ túc”. Lại, trong kinh Pháp Hoa nói: “Bấy giờ Long nữ có một hạt châu báu giá trị bằng ba ngàn đại thiên thế giới, đem dâng lên Đức Phật, Đức Phật liền nhận lấy. Long nữ nói cùng Bồ-tát Trí Tích và Tôn giả Xá-lợi- phất rằng: “Tôi dâng châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ, việc ấy có nhanh chăng?” Đáp rằng: “Rất nhanh!” Long nữ nói: “Dùng sức thần của các ông xem tôi thành Phật, còn nhanh hơn vậy”. Nên biết tâm châu của hàm sanh sáng rỡ, lý không trước sau, sáng tối tùy căn cơ, hoặc nhân đấu đánh mà ẩn trong da, đối với gương sáng mà hiển hiện, hoặc nhân vân du mà chìm nơi đáy nước, tại đường yên ổn mà được đó, hoặc đặt để trong búi tóc của Luân vương, lập công lớn mà trao nhận, hoặc buộc trong chéo áo người bần khổ tỉnh trí nguyện mà vẫn còn. Tông kính nói rõ văn đồng chứng ở đây. Tin lược như vậy, rốt ráo không thừa, tức là một niệm biết tất cả các pháp, vì là đạo tràng thành tựu Nhất thiết trí. Căn cứ các Thánh mở bày tâm Phật rõ ràng đây, giả sử có người ôm giữ nghi ngờ lui sụt, tuy chưa tin nhận,nếu lý thành Phật chưa từng tạm khuyết, như người chẳng biết vàng thật nhận làm đồng sắc, đồng sắc chỉ có hư danh, tánh vàng chưa từng tạm biến. Như nay người chấp trước không biết xưa đúng lại cho rằng nay chẳng phải, cũng chẳng phải xưa trước mê lầm mà mới bắt đầu tỏ ngộ. Như trên, rộng nêu dẫn uyển chuyển chứng minh, chỉ vì ngay trong sanh tử có tánh chẳng thể nghó bàn, ở giữa trần lao đủ thân đại Bồ-đề. Vì hạng người nghiệp chướng sâu nặng nghe đều chẳng tin, cam chịu xưng là tuyệt phần, chỉ nói ta là phàm phu, đã chẳng thể tiếp nối làm ngời sáng Phật thừa hoằng trì pháp khí, bèn là một mực thuận theo nghiệp của chúng sanh, trái với tánh giác hợp trần, biển sanh tử càng sâu, lòng phiền não càng kín. Do đó gom tập ngôn giáo của Phật tổ, chóng mở tan các thứ nghi ngờ, khiến ngay lời nói đó mà phát sáng, thấy được tự tánh vô sanh, mới biết cùng Phật không khác, muôn pháp vốn đồng, mới tin chân thuyên có lợi ích sâu như vậy. Hỏi: Lục Tổ nói: “Thiện ác đều chẳng nghó lường, tự nhiên được vào tâm thể”. Hòa thượng Động Sơn nói: “Học được việc bên cạnh Phật, như là dụng tâm sai”. Nay làm sao rộng luận bàn yếu chỉ của thành Phật? Đáp: Nay Tông Kính Lục chánh luận nghóa đó, vì tâm ngầm tánh Phật lý hợp chân không, đâu ở ngoài tâm vọng cầu tùy thắng cảnh khác. Như trong Hoa Nghiêm ký nói: “Nếu đạt chân không còn chẳng tạo thiện, há huống là ác ư? Nếu tà thuyết không nghóa là chợt nhiên đạt không vật, hoặc nói vô ngại chẳng phòng ngại tạo ác. Nếu thật biết không khéo thuận ở lý, sợ sanh động loạn, còn chẳng khởi tâm kính mộ thiện. Ác trái với lý, vì thuận vọng tình, đâu đáng nên tạo. Nếu nói vô ngại chẳng ngại tạo ác, sao chẳng vô ngại chẳng ngại tu thiện mà đoạn ác ư? Phàm tu thiện pháp còn sợ đắm trước tâm, buông tình tạo ác sao chẳng sợ đắm trước, rõ ràng biết chúng sanh tà kiến ác vậy. Cho đến vào lý quán Phật còn sợ khởi tâm, lại tạo nghiệp tư duy, đặc biệt trái với chí lý. Nên trong kinh Lăng-già nói: “Phật bảo Đại Tuệ: “Điều biết của Thánh trước chuyển cùng truyền trao, vọng tưởng không tánh. Bồ- tát Ma-ha-tát riêng ở một nơi tỉnh, tự giác quán sát, chẳng do ở khác lìa kiến vọng tưởng, thượng thượng tiến lên vào Như Lai địa. Đó gọi là Tự giác thánh trí tướng”. Lại nói: “Tất cả không Niết-bàn, không có Phật Niết-bàn, không có Niết-bàn Phật, xa lìa giác sở giác”. Sở giác là tướng, năng giác là kiến, xa lìa giác sở giác gọi là Tự giác thánh trí, vì mất nơi năng sở thành Phật vậy. Phàm hạn lượng chỗ biết, theo học ngoài khác, muốn cùng tột biển Bát-nhã, chẳng được nguồn đó, như ở trong sông Hằng ném đổ vào một thăng muối, nước không mùi vị mặn, người uống không biết. Nếu nội chiếu phát sáng, thấu triệt nguồn đáy pháp, không lý nào chẳng chiếu, không sự nào chẳng gồm. Như trong kinh nói: “Phật dạy: Ta ở trong pháp vô niệm, đắc thân sắc màu vàng ròng có ba mươi hai tướng tốt như vậy, phóng quang minh lớn chiếu khắp các thế giới không thừa sót”. <篇> TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 15 Hỏi: Đã bác địa phàm phu vị ngang bằng chư Phật, cớ sao chẳng đầy đủ tác dụng thần thông như chư Phật? Đáp: Chẳng phải không đầy đủ, chỉ vì chúng sanh không biết. Nên Tông Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật chứng thể của chúng sanh, dùng dụng của chúng sanh”. Do đó, Hòa thượng Chí Công có bài ca rằng: Trời xế chưa tâm địa, nào từng an liễu nghóa, văn tự nhà người có thân sơ, chớ khởi công phu cầu đích ý, mặc tình ngang dọc tuyệt húy kî, lớn tại nhân gian chẳng ở đời, vận dụng xưa nay trong thanh sắc, phàm chẳng rõ tranh làm kế”. Như có người học hỏi Hòa thượng Đại An rằng: “Thế nào là thần thông của chư Phật?” Hòa thượng Đại An bảo: “Ông từ xứ nào đến đây?” Người ấy đáp: “Từ Giang Tây đến đây?” Hòa thượng bảo: “hoàn toàn chẳng nói dối chăng?” Người ấy đáp: “Trọn không nói hư dối”. Và lại hỏi: “Thế nào là thần thông?” Hòa thượng bảo: “Quả nhiên là vọng ngữ”. Đó đều có thể nghiệm, đều là hằng ngày dùng hiện tiền mà không biết. Chư Phật đem nhân của ba đại thể tướng dụng chân như trong tâm chúng sanh làm quả của ba thân pháp báo hóa. Đâu có thể lại luận đầy đủ hay chẳng đầy đủ ư? Như nay nếu thật chưa tiến là chỉ chẳng phải sở sanh của sanh nhân, chỉ lại sở hiểu của liễu nhân. Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Sanh nhân là như đất bùn làm bình. Liễu nhân như đèn soi chiếu vật, nếu đèn trí mới chiếu, phàm thánh nhất như, nếu ý giải quán đó, chân tục tợ riêng biệt”, nhưng ở thế gian phần nhiều chấp sự tướng, mê mờ ở chân lý. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Giữ lấy tướng phàm phu, tùy cơ nghi giảng nói”. Trong kinh Kim Cang nói: “Chỉ người phàm phu tham trước việc đó”. Do đó tất cả các kinh luận đều phá các sự chấp sự tướng thân tâm v.v… của chúng sanh. Như trong phẩm Ly vi ở luận Bảo Tạng nói: “Phàm, kinh luận là không gì chẳng căn cứ phàm tình kia mà phá căn lượng kia, các thứ phương tiện đều chẳng trù nơi hình sự. Nếu chẳng lườnghình sự thì chẳng cần phải tất cả ngôn thuyết và dùng Ly vi vậy”. Nên trong kinh nói: “Tùy nghi nói pháp, ý thú khó hiểu, tuy nói các thứ thừa đều là quyền tiếp phương tiện hỗ trợ đạo pháp vậy, nhưng chẳng phải cứu cánh giải thoát Niết- bàn. Như có người ở trong hư không vẽ các thứ sắc tướng và các thứ âm thanh, nhưng hư không kia thật không tướng khác, thọ nhập biến động nên biết chư Phật hóa thân và vì giảng nói pháp cũng lại như vậy. Ở trong thật tế đều không một khác. Do đó, trời đất nên lìa hư không nên nhỏ, muôn vật động tác biến hóa vô vi. Phàm, trong thần có trí, trong trí có thông. Thông có năm thứ, trí có ba thứ. Những gì là năm thứ thông? Một là đạo thông; hai là thần thông; ba là y thông; bốn là báo thông; năm là yêu thông. Yếu thông là Hồ ly già biến, cây đá tinh hóa, nương tựa người thần thông tuệ kỳ dị, đó gọi là yêu thông. Sao gọi là Báo thông? Quỷ thần nghịch biết, các trời biến hóa, trung ấm liễu sanh, rồng thần ẩn biến. Đó gọi là Báo thông. Sao gọi là y thông? Căn cứ pháp mà biết, duyên thân mà dụng, nương phù qua lại, bánh thuốc linh biến. Đó gọi là y thông. Sao gọi là thần thông? Tónh tâm chiếu vật, túc mạng nhớ giữ, các thứ phân biệt đều tùy định lực. Đó gọi là thần thông, sao gọi là đạo thông? Vô tâm ứng vật, duyên hóa vạn hữu, nước trăng hoa đốm hư không, ảnh tượng không chủ. Đó gọi là đạo thông. Những gì là ba thứ trí: Một là chân trí; Hai là nội trí; Ba là ngoại trí. Sao gọi là ngoại trí? Nghóa là phân biệt tướng môn, biết rõ cảnh trần, rộng xem xưa nay đều thông việc tục. Đó gọi là ngoại trí. Sao gọi là nội trí? Tự giác vô minh, cắt đứt phiền não, tâm ý vắng lặng, diệt không có thừa. Đó gọi là nội trí. Sao gọi là chân trí? Rõ hiểu không vật, xưa nay vắng lặng, thông đạt không ngằn mé, sạch dơ không hai, nên gọi là chân trí. Chân trí đạo thông không thể đặt để tên gọi, ngoài ra các điều có đều là tà ngụy. Ngụy thì chẳng chân, tà thì chẳng chánh, hoặc loạn tâm sanh, mê mờ nơi bản tánh. Do đó hiểu sâu lìa nhỏ nhiệm, thấu đạt các hữu kia. Tự tánh vốn chân vượt ngoài các phẩm loại. Phàm trí có tà chánh. Thông có chân ngụy. Nếu chẳng phải pháp nhãn tinh minh thì khó thể biện rõ. Do đó trong thế tục phần nhiều tin theo tà ngụy, ít tin chánh chân. Đại giáo nép hành, Tiểu thừa hiện dụng. Nên biết diệu lý khó hiển bày vậy. Trong Bách Trượng Quảng Ngữ nói: “Ứng vật tùy hình, biến hiện các thú, lìa ngã và ngã sở như thuộc tiểu dụng. Đó là gồm thâu trong môn Phật sự. Đại dụng là đại thân ẩn nơi không hình, Đại âm nép nơi hiếm tiếng”. Cư só Bàng Uẩn có kệ tụng rằng: “Người đời lắm trọng vàng, Ta mến khoảnh khắc lắng. Vàng nhiễu loạn tâm người, Lắng thấy tánh chân như. Tâm thông pháp cũng thông, Mười tám đoạn vết tích, Chỉ tự tâm vô ngại, Nào buồn thần chẳng thông”. Hiểu được như vậy mới vào trong Tông Kính, chỗ có việc làm đều vào luật hạnh, tự nhiên hoàn thành tất cả Phật sự. Như trong kinh Tịnh Danh Tư Ký nói: “Được vào luật hạnh, như chương Ưu-ba-ly, đó gọi là Phụng luật, đó gọi là Thiện giải, ngồi yên chẳng dùng, kinh doanh bày các thứ cúng dường mà thường làm Phật Phật sự, cầu trong tâm hành”. Trên đây, đều ước tánh dụng tâm thông, chẳng căn cứ sự giải. Hoặc các nhà chủ trương kiêm gần sự mà nói là, hoặc nói lý chúng sanh đầy đủ các Phật sự viên mãn, hoặc nói chúng sanh tại nhân chư Phật chứng quả. Hoặc nói chúng sanh là chỗ khách trần ngăn che. Chư Phật các thứ hiện đều hết. Hoặc nói chúng sanh bị vọng kiến cách biệt, chư Phật năm mắt viên thông. Lại, Thiên thai giáo phần nhiều căn cứ Bản tích, nói rõ phàm thánh không hai, biện rành nhân quả của chúng sanh và Phật, nên Pháp sư Triệu nói: “Bản tích tuy khác, chẳng thể nghó bàn một”. Do đó, Tôn giả Trạm Nhiên căn cứ Tam quán, Tứ giáo, thập như, thập thừa, nhất niệm tam thiên v.v… ở trong Tích mộn đây, luận bàn thập diệu đó. Nếu biết Tích môn còn diệu, Bản môn có thể biết, bèn gom được sắc tâm không hai v.v… cả mười môn, nói rõ tông của quyền thật, biện giải hóa của năng sở, nên nói: Bày thật làm quyền thì chẳng hai mà hai, mở quyền bày thật thì hai mà chẳng hai. Đó thì thủy chung rõ ràng không hai. Mười môn là: Một là môn sắc tâm không hai là, tạm như gương mười như, cho đến không Đế mỗi mỗi đều có hai ý tổng biệt. Tổng lại Nhất tâm, phân biệt sắc tâm. Tại sao? Mới đầu trong mười Như, tướng chỉ tại sắc, tánh chỉ tại tâm, thể lực làm duyên, nghóa gồm sắc tâm. Nhân quả duy tâm, báo chỉ ước sắc. Mười hai nhân duyên, khổ nghiệp gồm cả hai. Hoặc chỉ tại tâm, tứ đế thì ba gồm sắc tâm, diệt chỉ tại tâm. Hai đế ba đế đều tục, đủ cả sắc tâm, chỉ tâm trong chân, một thật đế và không đế. Căn cứ đây có thể thấy, đã biết riêng biệt rồi, gồm riêng vào chung, tất cả các pháp không gì chẳng phải tâm tánh. Một tánh không tánh, ba ngàn rõ ràng. Phải biết sắc tâm của tâm, tức tâm gọi là biến, biến gọi là tạo tác, tạo tác nghóa là thể dụng. Đó thì chẳng phải sắc chẳng phải tâm, mà là sắc mà là tâm, chỉ sắc chỉ tâm. Do vì ở đó nên biết chỉ biết một niệm thấy khắp ta người, chúng sanh và Phật, chúng sanh khác Phật khác còn cùng tâm đồng, huống gì chúng sanh và Phật nơi tâm mình sao trái một niệm, nên kia, cảnh pháp kia sai mà chẳng sai. Hai là môn nội ngoại không hai là, phàm cảnh sở quán chẳng vượt trong ngoài. Ngoại nghóa là gá y chánh kia, sắc tâm tức là không giả trung, tức không giả trung diệu nên sắc tâm thể tuyệt, chỉ một thật tánh không không giả trung, sắc tâm rõ ràng, chợt đồng chân tịnh, không lại chúng sanh bảy phương tiện khác, chẳng thấy cõi nước sạch dơ sai khác phẩm loại, mà y chánh lưới trời Đế thích trọn tự sáng rỡ. Gọi là nội, tức rõ bên ngoài sắc tâm một niệm không niệm, chỉ thể bên trong ba ngàn tức không giả trung, đó thì pháp ngoài toàn làm tâm tánh, tâm tánh không ngoài, nhiếp không đâu chẳng khắp. Mười phương chư Phật, pháp giới hữu tình, tánh thể không khác, tất cả đều khắp. Ai bảo nội ngoại sắc tâm ta người? Đó tức là Dụng hướng môn sắc tâm không hai thành; Ba là, môn tu tánh không hai là, tánh đức chỉ là giới như một niệm, Nội giới đây như ba pháp đầy đủ. Tánh tuy vốn vậy, gá trí khởi tu, do tu chiếu tánh, do tánh phát tu, tại tánh thì toàn tu thành tánh, khởi tu thì toàn tánh thành tu. Tánh không chỗ đổi dời, tu thường rõ ràng. Tu lại có hai thứ; thuận tu và nghịch tu. Thuận nghóa là rõ tánh làm hạnh, nghịch nghóa là trái tánh thành mê. Mê rõ hai tâm, tâm tuy chẳng hai, thuận nghịch hai tánh, tánh sự luôn khác, có thể do sự chẳng đổi dời tâm, thì khiến mê tu thành rõ, nên phải một kỳ mê rõ chiếu tánh thành tu, thấy tánh tu tâm, hai tâm đều sạch. Lại, rõ thuận tu đối tánh có lìa có hợp. Lìa nghóa là tu tánh, mỗi mỗi có ba, hợp nghóa là tu hai tánh một. Tu hai; mỗi mỗi có ba cùng phát tánh ba, đó thì tu tuy đủ chín, chín chỉ là ba, vì đối tánh nói rõ tu nên hợp tu làm hai. Hai cùng một tánh như nước làm sóng. Hai cũng không hai, cũng không sóng nước. Nên biết tánh chỉ ba chướng, cho nên đầy đủ ba, tu từ tánh thành, thành ba pháp vậy. Đạt không tu tánh, chỉ một diệu thừa, không chỗ phân biệt, pháp giới rỗng sáng. Đó, do môn nội ngoại không hai mà thành; Bốn là, môn nhân quả không hai là, tâm chúng sanh nhân đã đủ ba khuôn phép, nhân đây thành quả, gọi là ba Niết-bàn. Nhân quả không khác, thủy chung lý một. Nếu vậy, nhân đức đã đủ, sao chẳng trú nhân, chỉ do mê nhân, mỗi tự cho là thật. Nếu rõ mê tánh thật vì chỉ trú nhân. Lâu nghiên cứu nhân đây, nhân hiển bày gọi là quả, chỉ duyên một lý nhân quả, dùng một lý đây làm nhân, lý hiểu biết không gọi lại là quả, đâu có thể vẫn còn hiệu nhân. Nhân quả đã sạch, lý tánh tự quên, chỉ do quên trí thân sơ, cuối cùng khiến mê thành dày mỏng, mê dày mỏng nên cưỡng phân thành ba hoặc,nghóa mở sáu tức gọi là trí cạn sâu nên như mê mờ lại thêm không ngầm lầm hoặc tuyệt, huyễn nhân đã đủ, gương tượng quả tròn, không tượng tuy tức nghóa đồng mà không hư tượng thật tượng thật, nên xưng lý vốn có, không hư nên mê chuyển thành tánh. Đó thì chẳng hai mà hai, lập nhân quả khác hai mà chẳng hai, thủy chung một thể. Nếu cho rằng nhân khác quả, nhân cũng chẳng phải nhân, hiểu quả từ nhân, nhân mời khắc quả. Do đó, ba ngàn tại lý đồng gọi là vô minh. Ba ngàn quả thành đều xưng là thường lạc, ba ngàn vô ký, vô minh tức minh, ba ngàn đều thường đều thể đều dụng. Đó, do môn tu tánh không hai mà thành; Năm là, môn nhiễm tịnh không hai là, nếu biết vô thủy tức pháp tánh làm vô minh nên có thể rõ, nay vô minh làm pháp tánh. Pháp tánh đó cùng vô minh khắp tạo các pháp, gọi đó là nhiễm. Vô minh đó cùng pháp tánh khắp ứng các duyên, gọi đó là tịnh. Nước đục nước trong, sóng ướt không khác. Trong đục tuy tức do duyên mà đục thành vốn có, đục tuy vốn có mà toàn thể là trong. Vì lý hai sóng thông khắp thể là dụng. Ba ngàn nhân quả đều gọi là duyên khởi. Mê ngộ duyên khởi chẳng lìa sát-na, sát-na tánh thường duyên khởi lý một trong một lý mà phân nhiễm tịnh. Riêng biệt thì sáu dơ bốn sạch, thông đồng thì mười thông sạch dơ. Nên biết sát-na thể nhiễm đều tịnh. Ba ngàn chưa hiển bày, nghiệm thể vẫn mê, nên địa vị tương tợ thành sáu căn khắp chiếu. Chiếu phân mười cõi, mỗi mỗi đầy đủ sáng rỡ. Há người tịnh sáu căn cho rằng mười nhất định mười, phân chân duỗi vết mười cõi cũng vậy, cho đến quả thành v.v… trăm cõi kia, nên cần phải tâm mới đầu mà ngăn mà chiếu. Chiếu nên ba ngàn luôn đầy đủ, ngăn nên pháp ấy trong không, trọn ngày cả hai đều mất, trọn ngày cả hai đều chiếu, chẳng động niệm đây, khắp ứng vô phương, tùy cảm mà hành xử, tịnh uế đó sạch. Vì mất tịnh uế, lấy không lấy trung, nhưng do không trung chuyển nhiễm làm tịnh, do rõ nhiễm tịnh, không trung tự mất. Đó, do môn nhân quả không hai mà thành; sáu là, môn y chánh không hai là, đã chứng Giá-na thể không hai, do vì một niệm ba ngàn từ vô thủy, lấy hai ngàn sanh ấm trong ba ngàn làm chánh, cõi nước một ngàn thuộc y, y chánh đã ở nhất tâm. Nhất tâm đâu phân năng sở, tuy không năng sở mà y chánh rõ ràng. Đó thì lý tánh danh tự quán hạnh đã có tưởng y chánh không hai, nên khiến tự tha, nhân quả gồm nhau, chỉ vì chúng sanh ở lý, quả tuy chưa biện, tất cả không gì chẳng là diệu cảnh Giá-na, nhưng phải lại rõ pháp thể chư Phật chẳng phải khắp cùng mà khắp cùng, lý tánh chúng sanh chẳng phải hạn cục mà hạn cục. Thủy chung không cải đổi, lớn nhỏ không phòng ngại. Lý nhân quả đồng, y chánh nào sai biệt. Nên cõi nước dơ sạch, tự thân hơn kém, trần thân và pháp thân lượng đồng. Cõi nước trần và tịch quang không khác. Đó thì mỗi mỗi cõi trần tất cả cõi, mỗi mỗi thân trần tất cả thân. Rộng hẹp hơn kém khó nghó bàn, dơ sạch nơi chốn không cùng tận. Nếu chẳng phải ba ngàn không giả trung, sao có thể thành dụng tự tại đây. Như vậy mới biết chúng sanh và Phật ngang bằng, đây kia sự lý hỗ tương gồm thâu. Đó, do môn nhiễm tịnh không hai mà thành. Bảy là môn tự tha không hai là, tùy cơ lợi tha, sự mới nương cậy gốc, gốc là một tánh, đầy đủ tự tha. Mới đến quả bị, tự tức lợi ích tha, như lý tánh ba đức ba đế ba ngàn, tự hành chỉ tại trong không. Lợi tha ba ngàn đến với vật. Vật có vô lượng, chẳng vượt ngoài ba ngàn. Năng ứng tuy nhiều chẳng vượt ngoài mười cõi. Mười cõi chuyển hiện chẳng vượt ngoài một niệm, cõi cõi qua lại sanh chẳng vượt ngoài Tịch quang, chúng sanh do lý đầy đủ ba ngàn nên hay cảm, chư Phật do ba ngàn lý đủ nên hay ứng. Ứng khắp có khắp, mừng vui đến chẳng sai, không như vậy đâu có thể, như gương hiện hình tượng, gương có lý của hiện hình tượng. Hình có tánh sanh tượng. Nếu một hình đối chẳng thể hiện tượng thì lý gương có cùng, hình sự chưa thông. Nếu cùng gương tượng cách biệt thì dung có lý đó. Không có hình đối mà chẳng ảnh tượng là, nếu gương chưa hiện hình do bụi trần ngăn che, dứt trừ bụi trần là do người lau chùi. Hiện hình chẳng liên quan đến lau chùi là, dùng thí dụ để quán pháp, ý chỉ lớn có thể biết. Nên biết, lý tuy tự tha đều đầy đủ, hẳn nhờ duyên rõ làm công lợi tha. Lại do duyên rõ cùng tánh một hợp mới có thể xứng tánh đặt bày muôn mối, thì chẳng khởi tự tánh, hóa không nơi chốn. Đó, do môn y chánh không hai mà thành; Tám là môn ba nghiệp không hai là môn hóa tha sự phân ba kín đáo, tùy thuận vật lý được danh chẳng đồng. Tâm luôn xét có, hai luân bày hóa, hiện thân nói pháp chưa từng sai mảy may, tại thân phân nơi chân ứng, tại pháp phân ở duyên thật. Hai thân nếu khác cớ sao mới nói tức là pháp thân? Hai thuyết nếu trái cớ sao mới gọi đều thành Phật đạo? Nếu chỉ pháp thân, nên không ứng hiện nơi đời, nếu chỉ Phật đạo, thiết bày ba thừa. Thân còn không thân, thuyết hẳn chẳng phải thuyết. Thân miệng bình đẳng bằng ý luân kia, tâm sắc nhất như chẳng mưu tính mà hóa, thường ngầm chí cực, ứng vật mà hành xử. Há chẳng phải trăm cõi một tâm, mỗi mỗi cõi không chẳng phải ba nghiệp. Cõi còn một niệm, ba nghiệp đâu khác. Quả dụng không khuyết, nhân hẳn xứng quả. Nếu tin nhân quả mới biết ba kín đáo vốn có. Trăm cõi ba nghiệp đều không giả trung, nên khiến xứng nghi khắp đến làm quả, mỗi mỗi ứng sắc, mỗi mỗi ngôn âm, không gì chẳng là trăm cõi ba nghiệp đầy đủ. Hóa lại làm hóa, đó gọi là ư? Nên một niệm tâm phàm đã có lý tánh ba tướng hải kín đáo. Một mảy trần báo sắc đồng tại lý gốc Tỳ-lô-giá-na, mới gọi là ba không sai biệt, do môn tự tha không hai mà thành. Chín là môn nói rõ quyền thật không hai là, đại tuệ bình đẳng thường soi xét pháp giới, cũng do lý tánh chín quyền một thật. Thật lại chín cõi, quyền cũng lại vậy. Quyền thật cùng ngầm trăm cõi một niệm cũng chẳng thể phân biệt, mặc tình thường vậy. Đến quả mới do khế gốc một lý, chẳng phải quyền chẳng phải thật mà là quyền mà là thật. Đây tức như trước, tâm luân tự tại, cuối cùng khiến thân miệng đến cớ quyền thật. Ba nghiệp một niệm không trái quyền thật, chẳng động mà đặt bày, đâu nên cách biệt khác đối nối, tức dùng quyền thật lập xưng tại thân, thì dùng chân ứng làm danh, ba nghiệp lý đồng, quyền thật ngầm hợp. Đó, do môn ba nghiệp không hai mà thành. Mười là môn thọ nhuận không hai là vật lý xưa nay tánh đủ quyền thật. Từ vô thủy huân tập hoặc quyền hoặc thật, quyền thật do huân tập thường luôn bình đẳng, gặp thời thành tập, nguyện hạnh làm vốn liếng. Nếu không nhân gốc, huân cũng nhọc bày, gặp huân tự khác chẳng phải do tánh khác. Tánh tuy không khác hẳn gá huyễn phát, huyễn cơ, huyễn cảm, huyễn ứng, huyễn đến. Năng hóa sở hóa đều chẳng phải quyền thật, nhưng do chúng sanh đầy đủ chẳng phải quyền chẳng phải thật, thành có quyền thật, Phật cũng quả đầy đủ, chẳng phải quyền chẳng phải thật, làm ứng quyền thật, vật cơ ứng hợp, thân cõi không thiên lệch, đồng thường tịch quang, không gì chẳng phải pháp giới. Nên biết ba ngàn đồng tại tâm địa cùng Phật tâm địa ba ngàn chẳng khác. Bốn vi thể đồng, quyền thật càng ngang bằng. Đó, do môn quyền thật không hai mà thành. Trên đây đều là căn cứ lý sự quyền thật nhân quả năng sở v.v… mà giải thích. Đại khái hai môn lý sự chẳng phải một chẳng phải khác. Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Có hai thứ môn: Một là tất cánh không; Hai là môn phân biệt tốt xấu”. Nay y cứ trong môn phân biệt thì ly ùlà sở y làm gốc, sự là năng y làm ngọn. Lại, lý diệu khó biết là hơn, sự thô dễ thấy là kém. Như nay chỉ có thể theo hơn chẳng thể theo kém, chỉ được lý gốc, gốc lập mà đạo sanh, sự lý tự nhiên thành vậy. Lại, lý thật ứng cơ, vô ngại lý của sự. Sự nhân lý lập, không mất sự của lý. Như nay, người chẳng vào viên tín đều tự khinh bỉ là hạ phàm xa suy cực Thánh, đó là chẳng chỉ mất sự, lý cũng toàn không, chỉ ngộ tông của một tâm vô ngại tự tại, tự nhiên lý sự dung thông chân tục giao triệt. Nếu chấp sự mà mê lý, trọn kiếp trầm luân, hoặc ngộ lý mà bỏ sót sự, đó chẳng phải viên chứng. Tại sao? Lý sự chẳng vượt ngoài tự tâm, tánh tướng nào trái một yếu chỉ. Nếu vào tông kính chóng ngộ chân tâm, còn không văn chẳng phải lý chẳng phải sự, đâu có chấp hoặc lý hoặc sự, chỉ được gốc đó sau cũng chẳng phế viên tu. Như có người học hỏi Hòa thượng Bản Tịnh rằng: “Sư lại có tu hành hay không?” Hòa thượng đáp: “Ta tu hành khác biệt ông. Ông trước tu mà sau ngộ, ta trước ngộ mà sau tu. Do vì nếu trước tu mà sau ngộ, đó thì công của có công, công kết quy về sanh diệt. Nếu trước ngộ mà sau tu, đó là công của không công, công chẳng hư bỏ”. Do đó, trong tín tâm minh, Đại sư Dung nói rằng: “Muốn được tâm tịnh, không tâm dụng công”. Lại như người đầy đủ mắt trí, đâu được dối sanh tham lam, huống hồ tợ người mắt sáng, trọn chẳng rơi lạc nơi hầm hố, nếu những kẻ mù thiền tối chứng, sao biết lục tức, những hạng cuồng tuệ theo văn nào biết Nhất tâm. Như nay, chỉ trước khiến viên tín không nghi ngờ, tự ở nơi ngôi vị của quán hạnh. Người xưa nói: “Một đời có thể làm xong, đâu phải nói hư dối ư?” Cần kíp không thể mê tánh theo tu, chấp quyền hại thật, bỏ gốc theo ngọn, nhận vọng bỏ sót chân, căn cứ danh ngôn của Thế đế, chấp huân tập từ vô thủy, đem ngôn từ định hẳn yếu chỉ, lập hiểu biết nói rõ tông, một hướng hợp trần trái với Bản giác. Như người xưa nói: “Vọng tình dắt dẫn năm nào xong, cô phụ linh đài một điểm sáng”. Lại, Đại sư Chân Giác có bài ca rằng: “Giác tức xong chẳng bày công, tất cả pháp hữu vi chẳng đồng, trú tướng bố thí phước sanh trời, như ngửa cung tên bắn hư không. Hết sức lực mũi tên rơi lại, chuốc chịu đời sau chẳng như ý, tranh tợ vô vi thật tướng môn. Một vượt thẳng vào Như Lai Địa, chỉ được gốc chớ buồn rầu ngọn, như lưu ly sạch ngậm báu trắng. Đã hay hiểu châu như ý đây, tự lợi lợi tha trọn không hết”. Vả lại như trong đời người có phước, đến trong kho báu được ma-ni. Pháp ấy dùng các thứ mài sửa, sau đó tự nhiên được mưa báu, huống là người ngộ tâm đắc đạo, cũng như vậy đã vào Phật vị, pháp ấy muôn hạnh trang nghiêm bi trí tương tục, như Bồ-tát Pháp Vân Địa thứ mười trong kinh Hoa Nghiêm, huống gì như châu đại ma-ni có mười thứ tánh. Trong phẩm Thập địa nói: “Phật Tử! Thí như châu đại ma-ni có mười thứ tánh vượt quá các vật báu. Những gì là mười? Một là, từ trong biển lớn lưu xuất; Hai là, thợ khéo giỏi sửa làm; Ba là, tròn đầy không khuyết; Bốn là, trong sạch lìa dơ; Năm là, trong ngoài sáng suốt; Sáu là, khéo léo đục xuyên; Bảy là, xâu thành chuỗi báu; Tám là, đặt để trên tràng lưu ly cao; Chín là, tỏa phóng khắp tất cả các thứ ánh sáng; Mười là hay tùy ý vua mưa các vật báu. Như tâm chúng sanh đầy đủ nguyện đó. Phật tử nên biết Bồ-tát cũng lại như vậy có mười thứ sự vượt hơn các Thánh. Những gì là mười? Một là, phát tâm Nhất thiết trí; Hai là, Trì giới đầu-đà chánh hạnh sáng sạch; Ba là, các Thiền Tam-muội viên mãn không khuyết; Bốn là, đạo hạnh thanh bạch lìa các dơ bẩn; Năm là, phương tiện thần thông trong ngoài sáng suốt; Sáu là, trí tuệ duyên khởi khéo hay đục xuyên; Bảy là, dùng các thứ phương tiện xâu làm chuỗi trí; Tám là, tôn trí trên tràng cao tự tại; Chín là Quán hạnh chúng sanh tỏa phóng ánh sáng văn trì; Mười là nhận chức Phật trí thuộc trong số Phật, hay vì chúng sanh rộng làm các Phật sự. Nên biết ngộ đạo như được châu, đâu không các việc giũa sửa trang nghiêm”. Hỏi: Nếu chẳng đủ Thần biến thì lấy gì nhiếp hóa? Đáp: Nếu thuần giữ lấy sự tướng thần thông, có trái với chân thú. Như trong Phụ Hành Ký nói: “Tu Tam-muội chợt phát thần thông, phải gấp dứt trừ đó. Vì pháp hữu lậu là hư vọng”. Nên trong chỉ quán nói: “Hay chướng ngại Bát-nhã. Tại sao? Chủng trí Bát-nhã tự đủ các pháp hay sạch các tướng, chưa đủ đã lại chỉ mở lý, nào phải sự thông, nếu chuyên ở thông, đó thì chướng lý. Lại, chẳng chỉ chướng lý, trái lại nhận chịu khuyết đó, như học trò của Uất-đầu thắng trí tức loại ấy vậy”. Phàm, nói chân thật thần biến là không gì chẳng phải diễn nói môn Nhất thừa, đàm bàn lý vô sanh. Một lời khế hợp đạo, đang sanh tử mà chứng Niết-bàn, mục kích minh Tông, tức trần lao mà thành Chánh giác, chỉ trong sát-na mà đổi Phàm làm Thánh, chỉ một khoảnh khắc mà biến có về không. Tác dụng như vậy, hà chẳng phải là Thần biến ư? Do đó, trong kinh Bảo Tích nói: “Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Phàm là nói pháp, làm Đại thần biến, nếu là người thuộc căn cơ hạ liệt, chư Phật dư tâm đại bi, chẳng khiến riêng bỏ. Một kỳ phương tiện, lá vàng ngưng khóc”. Như trong kinh Duy-ma nói: “Dùng thần thông chuyên hóa chúng sanh ngu si, nếu là hạng người thượng thượng căn chỉ khiến quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy”. Như xưa kia, có vua Bành Thành hỏi các Đại đức v.v… Quý nếu chứng quả tức được thành Thánh giả, cùng bên hông trái ta ra nước bên hông phải ra lửa, bay vọt giữa hư không, tỏa phóng ánh sáng động đất, Ta liền lễ bái ngươi tôn xưng làm thầy. Đại sư Dung ở Ngưu Đầu đáp rằng: Lành thay! Tốt thay! Không thể nghó bàn, nay nếu trách ta chứng quả như vậy, sợ trái với đạo. Xét thành Phật như vậy, huyễn sư cũng được làm Phật, tạm cùng các Đại đức và các Đại só chứng là, xưa kia Đức Phật Thích-ca tu tập chúng tăng diễn nói đạo Vô thượng, cùng chư tăng không khác, Cư só Duy-ma ở giữa thế tục nói quả giải thoát, cùng tục chẳng khác. Nữ nhân Thắng Man nói pháp Đại thừa, tướng người nữ chẳng đổi thay. Tỳ-kheo Thiện Tinh hành hạnh Xiển-đề, tăng tướng chẳng đổi. Đó là chánh căn cứ trong tâm đó, giải hiểu và chẳng giải hiểu lấy làm sai cách, nào liên quan sắc thân nam nữ tướng mạo y phục tốt xấu. Nếu nói hình tùy chứng mà cải đổi, mạo theo ngộ mà chuyển thay là Thánh giả, thì Cù-đàm hình cải đổi mới thành Thích-ca, Duy- ma tướng đổi chuyển mới thành Kim Lật. Tức biết chứng là tâm chứng chẳng phải là hình chuyển đổi, ngộ là trí biến chẳng liên quan tướng khác. Thí như ở thế gian người nhậm quan chức, là chuyển đổi chức quan, quan cao đâu tức dáng mạo khác biệt. Lại, người xưa nói: “Chẳng cải đổi người thời xưa, chỉ cải đổi nơi giẫm trải thời xưa. Giả sử hoặc cải hình đổi chất ngàn biến muôn hóa đều là chỗ làm của Nhất tâm, cho đến tác dụng thần thông, ra vào tự tại, đổi nhỏ khiến lớn, chuyển ngắn làm dài, đâu lìa trong Nhất tâm, nên biết muôn sự không có gì chẳng do tâm, chỉ chứng tự tâm ngay lời nói ấy bèn thành Thánh, nếu không biết đạo đầy đủ tướng sao làm. Nên trong kinh Kim Cang nói: “Nếu người dùng ba mươi hai thông suốt để quán Như Lai, thì Chuyển luân thánh vương tức là Như Lai”. Lại có kệ tụng rằng: “Nếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta, Người đó hành tà đạo, Chẳng thể thấy nghóa”. Người xưa nói: “Nếu chẳng đạt lý đây, giả sử có từng bước đạp trên hoa sen, đó cũng chỉ đồng mà làm”. Cư só Bàng Uẩn có kệ tụng rằng: “Sắc thanh cầu Phật đạo, kết quả lại thành ma”. Nếu quyết định giữ lấy thần thông tướng ưu thắng làm Phật, chẳng chỉ huyễn só cũng thành Thánh, cho đến Thiên ma ngoại đạo yêu hồ tinh mî Quỷ thần rồng sò v.v… thảy đều thành Phật. Vì các loài kia đều đủ nghiệp báo ngũ thông, đều có thể biến hóa, nếu chẳng mỗi một dùng thật tướng để khám xét đó, làm sao biện rành được chân ngụy. Chỉ trước ngộ tông kính mắt pháp tròn sáng, thì lý nào mà chẳng thông, sự nào mà chẳng triệt. Tất cả các môn Phật, sự nhiếp hóa tự nhiên thành tựu. Như trong luận Hoa Nghiêm nói: “Trong kinh nói nhập thiền định sâu được thần thông của Phật, vì tâm xứng lý nguyên, không thể vào ra, không thể tỉnh loạn, không tánh tạo tác, nhậm lý tự chân, không sanh không diệt, Lý chân trí ứng, tánh tự khắp cùng mười phương ba đời, đồng một lúc ứng khắp đối hiện sắc thân, tùy trí ứng mà hóa các phẩm loại mà không lai vãng, cũng chẳng biến hóa, đó gọi là thần thông của chư Phật. Trí không nương dừng, không hình không sắc, thể không khứ lai tánh tự khắp cùng, chẳng phải ba đời nhiếp mà hay ứng khắp pháp của ba đời, gọi đó là thần thông”. Cho nên trong kinh nói: “Trí vào ba đời mà không qua lại, vì ba đời là chỗ vọng lập bởi chúng sanh tình chẳng phải thật có, vì trí thể không hình không sắc chẳng tạo chẳng tác mà ứng với các phẩm loại, gọi đó là thần, đầy đủ cả mười phương không pháp nào chẳng biết, không căn nào chẳng hay, gọi đó là thông”. Lại nói: “Trong kinh Pháp Hoa nói: Các thứ nghóa tánh tướng, ta và mười phương Phật mới hay biết việc đó, Thanh văn và Duyên giác, các Bồ- tát Bất thối, đều chẳng thể biết được”. Đây tức là môn mà hàng Tam thừa trước là chẳng rõ biết. Tướng thế gian thường trú, pháp đó trú ngôi pháp, vì hàng Tam thừa đồng tâm nhàm chán khổ tập vui thích tu diệt đạo. Chưa rõ khổ tập vốn chỉ tín khởi, chẳng rõ diệt đạo vốn tự không tu không tạo không tác, hóa các phẩm loại như huyễn trú ở đời. Tánh tuyệt vô minh tức đó là Phật. Một niệm tương ưng một niệm Phật, một ngày tương ưng một ngày Phật, sao phải khổ chết trải qua ba A tăng-kỳ, chỉ tự rõ hiểu nghiệp ba cõi, hay không nơi nghiệp, nhập vạn tiếp sanh tức là Phật vậy. Nào phải biến đổi mới gọi là Phật. Trời rồng biến đổi đâu làm Phật ư? Hạng người ba thừa cũng biến đổi cớ sao phải đợi ba A tăng-kỳ kiếp mới được thành Phật, hàng Thập địa trở lên mới được thấy tánh? Cho nên trong kinh nói: “Nếu dùng sắc tánh sức thần lớn mà muốn trông thấy đấng Điều Ngự só kia, tức mắt mờ che điên đảo thấy kia, vì không biết pháp tối thắng, Phật là giác vậy. Giác nghiệp tánh chân, nghiệp không sanh diệt, không đắc không chứng, chẳng hiện chẳng mất. Tánh không biến hóa, xưa nay như như tức là Phật vậy, tùy duyên trong Lục đạo, hành hạnh Bồ-tát, biến hóa thần thông, dẫn dắt kẻ mê. Phật chẳng phải biến hóa”. Trong kinh Tịnh Danh nói: “Tuy thành Chánh giác, chuyển bận xe pháp, chẳng xả bỏ đạo của Bồ-tát, đó là hạnh Bồ-tát vậy”. Do đó, Thiện Tài đồng tử là sơ tâm Thập trú ở chỗ Tỳ-kheo Đức Vân trên núi Diệu Phong được pháp môn ánh sáng trí tuệ hiện khắp, nhớ nghó cảnh giới của tất cả chư Phật, tức bèn thành Chánh giác, sau đó mới đến nơi các bạn đạo cầu đạo Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát. Phải biết lúc Chánh giác thể dụng tức tâm không nơi tạo tác tức là Phật nên chẳng phải tu hành. Giả sử sẽ hành mãn cũng chẳng dời đổi nay. Nên như hóa Phật lúc thị hiện thành tướng hóa, khổ hạnh chỉ ăn hạt thóc hạt mè xuống tóc mang y, bỏ các thứ trang sức tốt đẹp, mượn nhờ cỏ lá v.v… mọi sự, vì giáo hóa ngoại đạo. Trong kinh nói: Phật tự hòa hợp, chẳng phải Phật tự phải hành như vậy v.v… không kẻ tăng thượng mạn, đâu phải như vậy. Một niệm nhậm tánh vô tác, trí tuệ Phật hiện tiền, không đắc không chứng, tức là Phật vậy, trở lại như Thiện Tài đồng tử sau khi chứng giác mới cầu đạo Bồ-đề hạnh Bồ-tát. Tại sao như vậy? Vì sau khi giác đạo mới kham vào ràng buộc, vào trong trần tục mà không ràng buộc, mới có thể vì chúng sanh nói pháp cởi mở ràng buộc. Nếu tự có ràng buộc mà hay cởi mở ràng buộc cho kẻ khác, thì điều ấy không thể có. Lúc nói có trước sau, mà pháp là chỉ một thời. Phải biết nếu muốn hành hạnh Bồ-tát, trước phải thành Chánh giác. Lại, trong kinh có kệ tụng rằng: “Văn Thù! Pháp thường vậy”. Vì Văn-thù là tuệ của chư Phật. Bất động trí là thể, Văn-thù là dụng, vì đem môn thể dụng căn bản trí của tất cả chư Phật tất cả chúng sanh cùng tất cả người tín tâm làm thể dụng nhân quả, khiến nương tựa gốc, mãi đến quả mãn cứu cánh cùng nhân chẳng khác, vì không hai tánh, mới gọi là tâm mới phát và tâm cứu cánh hai thứ chẳng khác biệt. Rõ ràng tâm Thập tín đây khó phát khó tin khó vào. Người nghe đó đều nói: “Ta là phàm phu, do đâu có thể được là Phật”. Nên thiết bày tin phần ít (thiểu phần tín), tức trách đạo lực thần thông. Cho nên phải biết tạm phải chánh tín như vậy, mới có thể dùng chánh tín chánh kiến pháp lực gia hạnh đúng như pháp mà tấn tu, từng phần vô minh mỏng dứt, trí tuệ giải thoát tỏ sáng, nương tựa tự được pháp cạn sâu, dần dần ngay đức dụng của thần thông tùy tự mình được tin còn chưa được huống gì đòi hỏi thần thông. Nói năng dần dần chẳng đổi thay một lúc một pháp tánh một trí tuệ, không nương dừng, không sở đắc, vì bên trong dần dần, vì nghóa mười huyền sáu tướng tròn đủ đó, trong lý pháp tánh không có tiệm đốn, chỉ vì tập quán vô minh từ vô thủy chín mười rốt cùng khiến khế lý, vì khó thuần thục mà có dần dần. Hỏi: Phật xứng nghóa giác, giác những pháp gì? Đáp: Pháp của không pháp, đó gọi là chân pháp, giác của không giác, đó gọi là chân giác, thì diệu tánh không nương cậy, thiên chân sáng tỏ. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Pháp Phật không thể giác, Rõ đây là giác pháp, Chư Phật tu như vậy, Một pháp không thể đắc”. Trong kinh Vô Tự Bảo Khiếp nói: “Bấy giờ Bồ-tát Thắng Tư Duy bạch Phật rằng: “Những gì một pháp là sở chứng giác tri của Như Lai?” Phật dạy: “Này thiện nam! Không có một pháp, sở giác của Như Lai. Này thiện nam! Đối với pháp không giác là Như Lai giác. Này thiện nam! Tất cả các pháp chẳng sanh mà Như Lai chứng giác. Tất cả các pháp chẳng diệt mà Như Lai chứng giác. Cho nên nếu có giác là chúng sanh, không giác đồng với gỗ đá, đều chẳng phải chân tánh, chẳng khế hợp vô duyên. Giác của không giác mới ngang bằng Đại chỉ. Vì không giác chẳng đồng chúng sanh, vì giác chẳng như gỗ đá, thì một giác tất cả giác. Không giác không chẳng giác, không giác nên tuệ giải vắng lặng, không chẳng giác nên hư hoài sáng soi. Lại, thấy tâm thường trú, gọi đó là giác. Một thành tất cả thành, một giác tất cả giác, hết sạch nói năng tư lự, chẳng hoại giả danh, nên nói mới thành Chánh giác. Hỏi: Lúc mới phát tâm bèn thành Chánh giác, cớ sao lại nói tâm Bồ-đề sau? Đáp: Chẳng phải mới đầu, chẳng phải sau, chẳng lìa mới đầu và sau. Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Chẳng chỉ dùng tâm mới đầu được, cũng chẳng lìa tâm mới đầu được. Tại sao? Nếu chỉ dùng tâm mới đầu được mà chẳng dùng tâm sau, thì Bồ-tát mới phát tâm, bèn nên là Phật. Nếu không tâm mới đầu, làm sao có tâm thứ hai thứ ba? Tâm thứ hai thứ ba do tâm mới đầu làm nhân duyên căn bản. Cũng chẳng chỉ tâm sau, cũng chẳng lìa tâm sau là, tâm sau đó cũng chẳng lìa tâm mới đầu. Nếu không tâm mới đầu thì không có tâm sau. Tâm mới đầu nhóm tập các thứ vô lượng công đức, tâm sau thì đầy đủ. Đầy đủ nên hay đoạn thói quen phiền não, đắc đạo Vô thượng. Tu-bồ-đề! Trong đây nói nhân duyên khó, tâm mới đầu tâm sau, tâm số pháp chẳng cùng, chẳng cùng là quá khứ đã diệt mất chẳng được hòa hợp, nếu không hòa hợp thì căn lành không nhóm tập. Căn lành không nhóm tập làm sao thành đạo Vô thượng. Phật dùng việc hiện tại thí dụ đáp, như đốt đèn. Chẳng phải riêng chỉ ánh sáng đốt cháy mới đầu, cũng chẳng lìa ánh sáng mới đầu, chẳng phải riêng chỉ ánh sáng đốt cháy sau, cũng chẳng lìa ánh sáng sau, mà đèn đốt cháy. Phật bảo: Tu-bồ-đề! Ông tự thấy đốt cháy, chẳng phải mới đầu chẳng phải sau mà đốt cháy. Ta cũng dùng mắt Phật thấy Bồ-tát đắc đạo Vô thượng. Chẳng dùng tâm mới đấu đắc, cũng chẳng lìa tâm mới đầu. Cũng chẳng dùng tâm sau đắc cũng chẳng lìa tâm sau mà đắc đạo Vô thượng. Đèn thí như đạo Bồ-tát, châm đốt thí như vô minh v.v… các thứ phiền não, ánh sáng như sơ địa tương ưng trí tuệ, cho đến Kim cang Tam-muội tương ưng trí tuệ đốt cháy ngọn lửa vô minh v.v… các phiền não, cũng chẳng phải ánh sáng trí tâm mới đầu, cũng chẳng phải ánh sáng trí tâm sau, mà vô minh v.v… các phiền não đốt cháy hết thì đắc thành đạo Vô thượng. Lại như đèn tuy niệm niệm diệt mà hay tương tục phá tối. Tâm cũng như vậy, tuy niệm niệm chẳng dừng, trước sau chẳng cùng, mà hay tương tục thành giác tuệ đó, thành đạo Vô thượng”. Trong Thanh Lương Sớ nói: “Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Rõ biết cảnh giới như huyễn như mộng như ảnh như hưởng cũng như biến hóa. Nếu các Bồ-tát hay cùng quán hạnh như vậy tương ưng, ở trong các pháp chẳng sanh hai thứ nhận biết, thì tất cả pháp Phật chóng được hiện tiền. Lúc mới phát tâm tức đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, biết tất cả các pháp tức tự tánh của tâm, thành tựu tuệ thân chẳng do từ người khác khai ngộ. Phàm, tâm mới đầu làm đầu, Chánh giác làm cuối. Cớ sao tâm mới đầu bèn thành Chánh giác? Nên nói biết tất cả các pháp tức tự tánh của tâm, giác pháp tự tánh tức gọi là Phật. Nên trong kinh có kệ tụng rằng: “Phật tâm đâu có khác, Chánh giác giác thế gian”. Đó là do chứng vậy, đó thì phát là phát của khai phát, chẳng phải phát của khởi phát vậy. Sao gọi là tướng của hiện tiền? Phàm, trí Phật chẳng phải sâu, tình mê gọi là xa, tình mất trí hiện thì một thể chẳng phải xa. Đã nói biết tất cả các pháp tức tự tánh của tâm thì biết tâm đây tức là tánh của tất cả các pháp. Nay lý hiện tự tâm, tức tánh của tâm đã đầy đủ vô biên công đức vậy. Thành tựu tuệ thân là quán pháp trên hết vậy. Chánh pháp đang hưng khởi, nay các kiến mất vậy trí Phật sao khởi? Giác tâm thì lý hiện, lý hiện thì trí viên mãn, như gương sáng sạch sanh, chẳng phải trước chẳng phải sau chẳng phải mới chẳng phải cũ, tịch chiếu trạm nhiên. Chẳng do người khác khai ngộ là thành tuệ thân trên, tức trí tự nhiên không thầy vậy. Lại, chẳng do người khác khai ngộ là tự giác vậy, biết tất cả các pháp là giác tha, thành tựu tuệ thân là giác viên mãn. Thành tựu tuệ thân hẳn nhờ lý phát hiện. Phàm, tâm tánh đâu lại có khác. Nếu thấy có khác, sao xưng là ngộ? Đã nói tâm tánh tự cũng chẳng còn, tịch mà hay biết, gọi là Chánh giác. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Vì một Đại sự nhân duyên nên xuất hiện nơi đời, khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật”. Phàm, một tức một đạo xưa nay chẳng đổi thay. Đại là tâm thể của cả Thánh phàm mười phương chư Phật vì một Đại sự ấy mà xuất hiện nơi đời, đều khiến chúng sanh ở trong tự tâm khai mở tri kiến ấy. Nếu lập các thứ sai biệt, là tri kiến của chúng sanh, nếu dung thông quy về một đạo là tri kiến của hàng Nhị thừa. Nếu một cũng chẳng phải một là tri kiến của Bồ-tát. Còn tri kiến của Phật là ngay lúc một niệm tâm khai mở như ngàn mặt nhật đồng tỏa chiếu, chẳng đợi lại phải nói, tức là Tổ sư từ Tây Vức đến, tức là chư Phật hiện khắp. Nên nói trong từng niệm, Đức Thích-ca xuất hiện nơi đời, trong mỗi bước Đức Di-lặc hạ sanh, xứ nào ở ngoài tự tâm riêng cầu Phật tổ, thì biết chúng sanh Phật trí vốn tự đầy đủ, nếu muốn khởi tâm riêng biệt mong cầu, tức thành tánh biến kế. Nên Lục Tổ nói: “Bản tánh tự có trí Bát-nhã, tự dùng trí tuệ quán chiếu chẳng nương gá văn tự. Nếu là như vậy, dụng nào lại lập văn tự? ” Nay vì người chưa biết mượn dùng văn tự để chỉ về khiến thấy tự tánh. Nếu lúc phát minh tức là chợt nhiên trở lại được bản tâm, ở trong bản tâm không pháp nào chẳng rõ, nên nói ngộ pháp vô niệm là muôn pháp đều thông, ngộ pháp vô niệm là thấy cảnh giới của chư Phật. Vậy biết, nếu vào pháp môn vô niệm, thành Phật chẳng vượt ngoài khoảnh khắc của sát-na. Nếu khởi tâm mong cầu đạo, khổ nhọc thần ở trong số kiếp như bụi trần. Như Đức Phật Thích-ca Văn từ quá khứ vô lượng kiếp trở lại vâng thừa kính phụng cúng dường vô lượng chư Phật nhiều như số cát sông Hằng v.v… đều chẳng được ghi nhận. Tại sao? Vì nương dừng sở hành có sở đắc. Đến thời Đức Phật Nhiên Đăng, nhân hiến cúng năm cành hoa sen mới được thọ ký hiệu Thích-ca, mới thành đạt năm ấm tánh không, tâm không chỗ đắm trước, mới thấy Phật Thiên Chân, chóng vào môn vô đắc. Nên đem hoa sen hiến cúng Phật, dùng phô bày chứng minh. Do đó, trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Tánh không tức là Phật, Không thể nghó lường được, Còn chẳng dùng liếc khởi tư lương, Hà huống nhọc công trọn kiếp”. <篇> TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 16 tâm? Hỏi: Phàm, tức tâm thành Phật, là tức chân tâm hay là tức vọng Đáp: Chỉ tức chân tâm, ngộ tâm chân nên thành nghóa đại giác, nên xưng là Phật. Hỏi: Nếu tức chân tâm, vậy có thắng nghóa gì? Nếu tức vọng tâm thì thành lỗi lầm gì? Đáp: Trong môn rốt ráo không, lý không có điềm vết. Ở đạo phân biệt, sự có mở ngăn, vọng tâm là tức từ năng sở sanh, nhân phân biệt khởi, phát tiệm dụng của phù căn, thành vọng biết của đối cảnh. Nếu lìa tiền trần, tâm ấy không thể, nhân cảnh khởi chiếu, cảnh diệt chiếu mất. Tùy niệm sanh trần, niệm không trần rơi rụng. Nếu đem cảnh sự đây mà làm thân Phật, đã là nhân của hư vọng, chỉ thành quả của đoạn diệt, chân tâm là trạm nhiên tịch chiếu, chẳng phải từ cảnh sanh, ngậm hư ngậm duyên chưa từng tác ý, sáng rỡ không mờ tối, rành rẽ thường biết, buông đó không dấu, cuộn đó không vết, như đầm lắng ánh ngời ảnh quê, gương sáng treo giữa khoảng không, muôn tượng sum la chợt nhiên rỗng soi, chẳng ra chẳng vào chẳng phải có chẳng phải không. Đó thì ngàn Thánh ngầm quay về, muôn linh giao hội. Tin đó thì thấu suốt nguồn đáy của đại đạo, hiểu đó thì thành pháp thân thường trú. Tổ Phật đồng chỉ tâm đây mà thành ở Phật, cũng gọi là Thiên chân, Phật tánh, pháp thân Phật, Phật như, như Phật, cũng chẳng phải lìa vọng, vì vọng không thể, cũng chẳng phải tức chân, vì chân chẳng phải tức, tên chân vọng hết, tức lìa tình tiêu, Diệu viên giác tâm mới hay hiển hiện. Lại vì vốn có nên mới hay khai thị, nên nói tâm Chánh giác của Như Lai và tâm phân biệt của chúng sanh khế đồng không hai. Làm phương tiện khai thị ngộ nhập, cho nên nếu tâm chúng sanh cùng tâm chư Phật, mỗi tự sai bày làm sao nói khác? Chỉ vì khế đồng mới duỗi bày phương tiện. Như trong kho không vật báu, khổ nhọc bới xét, chỉ là có vật báu mới chẳng phế công người. Chỉ phát tín tâm trọn sẽ kiến tánh, nên nói ta vì người mà bảo nhiệm việc này trọn không hư dối vậy. Do đó nói: “Châu ngọc ma-ni người không biết, trong Như Lai tạng tự gom được, sáu ban thần dụng không chẳng không, một viên tròn sáng sắc chẳng sắc”. Như vậy đích chỉ dụng nào riêng cầu ư? Nên trong tâm đan Quyết nói: “Mênh mang thiên rỗng hư kiếm tầm, chưa chịu xoay đầu tự cùng biết, tin thầy đi đến quê vô vi, mới biết xưa nay uổng phí sức”. Do đó, trong luận Hoa Nghiêm nói: “Dùng vô minh trú địa phiền não, bèn làm trí bất động của tất cả chư Phật, tất cả chúng sanh đều tự có đó, chỉ vì trí thể không tánh không nương, chẳng thể tự rõ, hội duyên mới rõ”, nên biết tất cả chúng sanh đều là Phật trí, chẳng được liễu duyên không do giác ngộ. Liễu (ngộ rõ) tức thành Phật”. Như trong kinh Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát mới phát tâm tức ngồi đạo tràng làm như Phật”. Do đó, cư só Bàng Uẩn có kệ tụng rằng: “Tâm nếu như Thần tự rỗng, Chẳng uống thuốc bệnh tự trừ, Hoa sen trắng châu như ý, Không nhọc tìm chớ khư khư. Người trí quán tài sắc, Rành rẽ như huyễn hư, Ăn mặc nuôi thân mạng, Cùng khuyên học Như Như, Thời đến dời am đi, Không vật khá dư thừa”. Lại, người xưa nói: “Một viên trị muôn bệnh, chẳng cần thuốc nhiều phương”. Hỏi: Nếu tức chân tâm thành Phật, vọng tâm đọa lạc phàm, thì vọng niệm trái tông, chân tâm thuận giác. Đó là chân vọng có hai. Thể dụng phân lìa, làm sao hội thông, viên dung một yếu chỉ? Đáp: Chân vọng không tánh, thường hợp nhất nguyên, đâu có hai tâm mà hỗ tương tức. Vì tánh tịnh không nhiễm, vọng không thể đắc. Như huyễn dao không thể chém đá, mốc đắng chẳng thể nhiễm hư không. Vì người chẳng rõ nhất tâm, do đó nói tức. Như Thai Giáo hỏi rằng: “Vô minh tức pháp tánh không trở lại, vô minh cùng ai tương tức?” Đáp rằng: Như vì người không biết băng, chỉ nước đá là băng, chỉ băng là nước. Chỉ có danh tự nào lại có hai vật tương tức ư? Do đó biết thời tiết có khác, chứa cột tùy duyên, tánh ướt thường còn, chưa từng biến động, cho đến tức phàm tức Thánh cũng lại như vậy. Phàm thánh chỉ là tên gọi, một thể không khác. Nêu các bậc Tiên đức giải thích kinh Hoa Nghiêm rằng: “Một thế giới khắp cùng giải thoát cũng như vậy là; biết một mắt như, tất cả mắt như đều vậy. Nêu thí như thân một người có tay chân, tất cả mọi người đều có tay chân. Do đó, không rõ nhất tâm đây đều thành hai kiến. Nếu phàm phu chấp trước tâm đây tạo nghiệp luân hồi. Hàng Nhị thừa nhàm bỏ tâm đây cầu tro tàn đoạn diệt quả. Lại, phàm phu không mắt đem Bồ-đề trí chiếu thành phiền não lửa cháy, như trẻ con mù lòa của nhà giàu có lớn ngồi trong kho báu, cử động trở ngại bị các vật báu làm tổn thương. Hàng Nhị thừa đem kho tàng bốn đức kín đáo của Như Lai làm năm ấm vô thường, cho đó là giặc hổ rồng rắn khiếp sợ mà rong chạy. Buộc mở tuy khác, lấy bỏ đều mất. Nếu người chắc thật rõ hiểu thông đạt, chẳng khởi chẳng diệt không đắc không sanh, rõ vọng tâm đây niệm niệm không thể, từ đâu khởi chấp, niệm niệm tự lìa, chẳng phải đoạn diệt, còn chẳng được một, huống gì hai ư? Nên biết các pháp thuận như chứng viên thành mà tình không lý có, các tình trái yếu chỉ chấp biến kế mà tình có lý không, thuận tự tướng tại trái một đạo mà nào từng mất thể, tình chẳng trái lý, ngàn đường mà chưa từng phân lối. Thấu suốt đó mà tình lý tuyệt danh, rành rẽ đó mà thuận trái không nền. Do đó, pháp pháp đều hợp đạo không lời, niệm niệm đều về tâm không đắc. Thiên chân tự nhiên chẳng phải ở tạo tác. Như trong kinh Vô Ngôn Bồ-tát nói: “Bấy giờ Xá- lợi-phất nói cùng Bồ-tát Vô Ngôn rằng: “Ông con nhà dòng dõi, không thể nói năng, cớ sao muốn hỏi nghóa Như Lai ư?” Bồ-tát Vô Ngôn đáp: “Tất cả các pháp đều không văn tự, cũng không ngôn từ. Tại sao như vậy? Vì tất cả chúng sanh thảy đều tự nhiên, không các ngôn giáo và các tưởng niệm”. Do đó, nếu ước về sự trình bày đầy đủ, thì phàm Thánh không sai mà sai, nếu căn cứ lý dung tức thì chúng sanh và Phật sai mà chẳng sai. Do vì sai và chẳng sai đều chẳng lìa thể của chân như. Như trong Hoa Nghiêm diễn nghóa nói: “Sai của chẳng sai là hành bố của viên dung trên, chẳng sai của sai là viên dung của hành bố trên vậy. Như quậy riêng thành chung chẳng phải lìa ngoài Biệt mà có Tổng đây. Gồm chứa như vậy không pháp nào chẳng kết quy, thì ba thừa chẳng phải ba, năm tánh chẳng phải năm. Diệu giải như vậy mới kịp ánh sáng của Tông kính. Lìa thấy sanh đây, đều trái yếu chỉ không hai. Hỏi: Nếu tất cả chúng sanh tức tâm là Phật, thì chư Phật sao phải nhờ A tăng-kỳ trăm kiếp tích công chứa đức mới thành? Đáp: Vì lại học thật pháp nhất thừa, vì lại hướng đến năm tánh quyền có. Đây luận về pháp môn tự tánh, chẳng phải thuật về phương tiện hóa nghi. Vả lại, trong kinh Lăng-già nói có bốn thứ Phật: Một là, Hóa Phật; Hai là, Báo sanh Phật; Ba là, Như như Phật; Bốn là, Trí tuệ Phật. Tùy cơ đến cảm, gọi đó là hóa. Đáp nhân xưa trước đó, gọi đó là báo, Bản giác hiển bày tỏa chiếu, gọi là trí tuệ, lý thể không hai, nên gọi là Như như. Trong kinh Hoa Nghiêm nói rõ có mười thứ Phật. Đó là Phật ở an trú thế gian thành Chánh giác không đắm trước kiến. Phật nguyện xuất sanh kiến, Phật nghiệp báo tin sâu kiến, Phật trú trì tùy thuận kiến, Phật Niết-bàn vào sâu kiến, Phật pháp giới đến khắp kiến, Phật tâm an trú kiến, Phật Tam-muội vô lượng không nương tựa kiến, Phật bản tánh minh liễu kiến, Phật tùy lạc trao khắp kiến. Lại, Phật gồm đủ mười thân: Một là, thân chúng sanh; Hai là, thân cõi nước; Ba là, thân nghiệp báo; Bốn là, thân Thanh văn; Năm là, thân Duyên giác; Sáu là, thân Bồ-tát; Bảy là, thân Như Lai; Tám là, thân trí; Chín là, thân pháp; Mười là, thân hư không. Nếu riêng y cứ ngũ giáo tùy giáo chẳng định. Một là, Tiểu thừa giáo có hai thân Phật tức thứ nhất là sanh thân, thứ hai là pháp thân; Hai là, Đại thừa sơ giáo có ba thân Phật tức thứ nhất là pháp thân, thứ hai là Ứng thân, thứ ba là Hóa thân; Ba là, Chung giáo có bốn thân Phật tức thứ nhất là Lý tánh thân, thứ hai là pháp thân, thứ ba là Báo thân, thứ tư là Ứng hóa thân; Bốn là, Đốn giáo chỉ có một thân Phật tức là Thật tánh thân; Năm là, Nhất thừa viên giáo có mười thân Phật. Lại căn cứ tánh thành Phật, ngũ giáo sai biệt chẳng đồng. Tiểu thừa chỉ có một người là Tất đạt la Phật tánh, sơ giáo một nửa thành một nửa chẳng thành, vì có phân tánh và không tánh nên làm Phật. Chung giáo phàm là có tâm tức sẽ được làm Phật, trừ cây cỏ v.v… Đốn giáo không Phật không tánh, lìa tướng nói năng làm Phật. Viên giáo không nơi đâu chẳng có Phật tánh, vì ba thứ thế gian đều là làm Phật. Nếu ba thứ thế gian đều là làm Phật thì tâm cảnh trong ngoài không gì chẳng là Phật vậy. Lại ước về tâm thành Phật thì Tiểu thừa dùng chỗ tu thiện tâm được làm Phật. Sơ giáo lấy tánh tâm làm Phật, chung giáo lấy tướng tánh tâm sạch hết làm Phật, Đốn giáo lấy tâm vốn chẳng sanh làm Phật. Viên giáo lấy tâm vô ngại vô tận làm Phật. Lại, Thiên Thai nói rõ về Tứ giáo Phật: Một la,ø Phật tạng giáo; Hai là, Phật thông giáo; Ba là, Phật Biệt giáo; Bốn là, Phật Viên giáo. Nếu lấy Phật như như, Phật tâm, Phật bản tánh, ai là người chẳng đầy đủ? Nếu lấy thân cõi nước, thân pháp, thân hư không, pháp nào chẳng viên mãn, thì nơi nơi mà đều là phường báu, gò đồi ai lập? Niệm niệm mà đều thành Chánh giác, vọng tưởng nào phân? Như người mù không thấy ánh sáng, chẳng phải lỗi lầmù của mặt trời sớm hồn phách tối. Tợ hàng Tiểu quả không nghe viên đốn, đâu phải diệu chỉ thân sơ của tâm Phật. Chỉ vì pháp yếu do ở căn nhỏ, đạo rộng tại nói lượng lớn. Cơ cạn tự cảm, Diệu hữu chứng làm vô thường, phước mỏng thích nghi trân báu hóa làm ngói sỏi. Không mê mắt mình, lầm nhận thân khác, dùng ngàn sai để phân thật tế, lấy trăm biến đặt để hóa nghi. Như trong kinh Đại Phương Đẳng Vô Tưởng nói: “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng rằng: “Này thiện nam! Nay ông phải đốt đèn đại trí tuệ phá tan hắc ám cuồng ngu của chúng sanh. Nếu nói Đức Như Lai chân thật xuất sanh nơi nhà Thâu đầu đàn, xuất gia học đạo, tu tập khổ hạnh, phá hoại chúng bịnh ma, ngồi nơi đạo tràng thành đạo Bồ-đề. Phải biết người đó tức là phỉ báng Phật. Thà chặt đứt đầu, nhổ rút lưỡi ra, trọn không nói lời hư vọng ấy. Tại sao? Vì chẳng phải khéo hiểu lời bí mật của Đức Như Lai”. Lại, Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu nói Đức Thích-ca Như Lai từ cung trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, cho đến tám tướng thành đạo. Đó là sự thấy biết quanh co của Thanh văn. Nên nói vì hàng chúng sanh hiểu biết kém cỏi mà từ thai mẹ xuất hiện”. Do đó vào tông kính đây, mở lời nói không lỗi lầm, dấy niệm đều là chân. Nếu chưa đến môn đây, nói phải thành quấy, nhiếp tâm còn sai lầm. Như trong kinh Viên Giác nói: “Động niệm đó và dứt niệm, đều qui thuộc mê muội”. Trong Tín Tâm Minh nói: “Chẳng biết huyền chỉ, khổ nhọc niệm tỉnh”. Đại sư Dung nói: Người ngộ tông đây, đạo Phật chẳng phải cũng được. Nếu người chưa tin, giả sử niệm Phật cũng thành vọng ngữ”. Nên biết không thấu đạt Tông kính, phàm có thấy biết đều là phỉ báng Phật Pháp Tăng Tam bảo, mặt tình ngàn muôn tư lự, chưa có ngày tương ưng. Mới rõ yếu chỉ đây, tự nhiên một niệm không sai. Do đó trong luận Hoa Nghiêm nói: “Từ đầu mới phát tâm Thập trú, dùng sức Tam-muội chóng ấn ba cõi. Ba đời một khoảnh, các pháp một vị là vi giải thoát Niết-bàn thường tịch diệt. Lại không thủy chung, nhân quả một lúc, các tánh một tánh, các trí một trí, các tướng một tướng, các hạnh một hạnh, ba đời một niệm, một niệm ba đời, cho đến mười đời, các pháp như vậy tự tại vô ngại. Pháp môn kinh đây không đầu không cuối, gọi là pháp luân thường chuyển, cho nên giáo môn kinh đây y cứ gốc an lập vì đầy đủ căn lớn, y cứ gốc một lúc, chẳng lập thủy chung. Vì chẳng phải hư vọng thấy, vào một tổng được các khác, vì pháp giới một ngằn mé, vì chẳng đồng quyền học thấy chưa tường tận, vào các tổng khác được một, vì thể pháp giới vô ngại, như châu tròn không vuông, như gương sáng chóng soi chiếu, như hư không chẳng ngăn cách, như vang hưởng không y tựa, như ảnh chẳng ngại, như hóa nhân sanh thành. Pháp môn đây là bao quát thủy chung một khoảnh khắc, viên mãn vô ngại, không thành không hoại, không ra không mất, thường chuyển pháp luân. Nếu người rõ ngộ được pháp môn này là chỗ trí không thầy, trí tự nhiên, trí Phật hiện tiền, vì pháp này không ra không mất, lại vì tự nhiên không trí ra mất, mà tự hay đắc đó. Chẳng phải chỗ của tình buộc tư lương hay đắc vậy. Tất cả pháp môn quyền giáo tại trong đây, đồng một lúc mà nói, vì các quyền giáo chẳng vượt ngoài pháp giới, vì không ba đời, mỗi mỗi y cứ tự thấy vô lượng sai biệt. Nhất thừa giáo đây là giảng nói lúc mới thành Chánh giác, nếu y cứ tình là nói lúc đầu tiên mới thành Phật, nếu y cứ trí là nói không thủy chung, nên biết thành Phật giảng nói pháp chẳng lìa một niệm. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tiên nhân Tỳ- Mục nắm tay Thiện Tài đồng tử, tức thời Thiện Tài đồng tử tự thấy thân mình đến trong các thế giới ở mười phương mười cõi Phật nhiều như số vi trần. Đến nơi chư Phật ở mười cõi Phật như số vi trần, thấy cõi Phật và chúng hội kia, chư Phật tướng tốt các thứ trang nghiêm. Cho đến hoặc trải qua trăm ngàn ức cõi Phật nhiều không thể nói không thể nói với số kiếp như vi trần. Cho đến lúc Tiên nhân ấy buông tay Thiện Tài đồng tử ra, Thiện Tài đồng tử tức tự thấy thân mình trở lại nơi cũ”. Vậy biết nền tảng của bất động bản vị mà thân đi khắp cùng mười phương, chưa lìa trong một niệm mà thời gian trải qua cả ức kiếp. Bản vì bất động, cõi của xa gần đều rõ ràng, một niệm chẳng chuyển dời, mà thời gian dài ngắn uyển nhiên. Chẳng y cứ tông kính lấy gì để tiêu văn, muôn pháp ngầm kết quy, trọn không riêng biệt yếu chỉ. Hỏi: Lý vô tánh đồng một lúc thành Phật, vì sao người hàng Tam thừa v.v… thấy Phật có sai biệt đó? Đáp: Tùy tâm cảm hiện, ảnh tượng chẳng đồng, tự nghiệp sai biệt, chẳng phải Phật có khác. Quán một giọt nước mà chợt phân thành bốn v.v… đều tự thấy khác. Đồng chung một đồ đựng bằng vật báu mà sắc cơm chẳng đồng, chẳng phải nghiệp khác biến, thì toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tức tâm chân như là Phật pháp thân. Vả lại, pháp thân không tướng, chân tánh không hình. Hình tướng còn không, thế nào là sai biệt. Đều là tự thức chiếu ảnh chẳng đồng. Như năm trăm Bà-la- môn thấy thân đoạn diệt mà khởi tín, Trưởng giả Cù-sư-la thấy ba thước mà phát tâm, Bồ-tát Vô Biên Thân khắp cùng cõi trên mà có thừa, trú phàm phu của tiểu thánh quán trượng sáu mà vô tận. Như trong kinh Quán Phật Tam-muội nói: “Phật thưa cùng phụ vương và bảo A-nan rằng: “Nay tôi vì các người mà hiện thân tướng đầy đủ”. Nói lời ấy rồi, Phật từ chỗ ngồi đứng dậy, khiến mọi người đều dậy, bảo quán Như Lai từ đảnh đầu thuận quán đến tướng Túc luân, lại tự tướng chân quán ngược lên đến đảnh đầu, mỗi mỗi thân phần phân minh rành rẽ, như người nắm gương tự soi thấy ảnh tượng mặt mình. Nếu người sanh tâm dơ bẩn bất thiện, hoặc có người hay hủy báng Phật phá hoại giới cấm thì thấy ảnh tướng thuần đen giống như Hôi nhân (thân người bôi tro), có năm trăm Thích tử chỉ thấy Hôi nhân, có ngàn vị Tỳ-kheo thấy sắc màu đất đỏ, có mười sáu Ưu-bà-tắc thấy sắc màu cẳng chân voi đen, có hai mươi bốn Ưu-bà-di thấy như đống mực. Tỳ-kheo ni thấy như bạc trắng. Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có người thấy như màu lam nhuốm xanh. Bốn chúng buồn tủi rơi lệ, các Thích tử nhổ tóc dập mình, tự thuật chỗ thấy. Cho đến, Đức Phật vì mỗi mỗi hạng mà nói nhân xưa trước ở quá khứ khiến đến nay thấy sắc màu có khác”. Nên trong Thức luận nói: “Cảnh tùy nghiệp thức chuyển, cho nên nói Duy tâm”. Lại trong kinh Mật Tích nói: “Tất cả trời người thấy sắc lượng của Phật, hoặc như vàng ròng bạc trắng, các vật báu tạp v.v… cho đến hoặc thấy thân cao trượng sáu, hoặc thấy một dặm, hoặc thấy mười dặm, cho đến trăm ức vô lượng vô biên khắp trong hư không, thì đó gọi là thân vi mật của Như Lai”. Nên biết tùy thấy chẳng đồng, vết phân lắm thứ, chẳng chỉ thấy Phật, quán pháp cũng vậy, tùy trí cạn sâu, pháp thành cao thấp. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Mười hai nhân duyên, hàng hạ trí quán nên được Thanh văn Bồ-đề, hàng Trung trí quán nên được Duyên giác Bồ- đề, hàng thượng trí quán nên được Bồ-tát Bồ-đề, hàng thượng thượng trí quán nên được Phật Bồ-đề, cho đến tám tướng thành đạo chẳng vượt ngoài môn sát-na tế Tam-muội”. Tùy sự thấy nghe của chúng sanh mà tự phân thời phần, nên các bậc Tiên đức nói: “Cho nên Đức Như Lai ở trong một niệm tám tướng thành đạo chẳng vượt ngoài khoảnh sát- na, vì lúc đản sanh tức là lúc thành đạo, tức là lúc độ người, tức là lúc nhập diệt. Tại sao? Vì tất cả các pháp đồng thời đồng thành vậy, một thành tất cả thành”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Chẳng lìa cây giác ngộ mà lên cung trời Đế thích”. Sớ Thích nói: “Phật chứng đắc Bồ-đề, trí không đâu chẳng khắp, thể không đâu chẳng ở, không nương không dừng không đi không lại. Nhưng vì tự tại tức ứng của thể, ứng tùy thể khắp, duyên cảm trước sau có dừng có thăng. Diêm-phù có cảm thấy tại đạo thọ, cung trời có cảm thấy lên trên trời. Chẳng phải Phật rời khỏi giác thọ mà lên cung trời, nên nói chẳng lìa cây giác ngộ mà lên cung điện trời Đế- tích”. Pháp Tuệ có kệ tụng rằng: “Phật tử ông nên quán, Như Lai sức tự tại, Tất cả Diêm-phù-đề, Đều nói Phật ở trong”. Đó là chẳng lìa vậy. Nay chúng ta thấy Phật tại đảnh núi Tu-di, đây mà lên vậy. Lại các sư xưa trước giải thích có mười nghóa: Một là, ước xứ tương nhập môn, vì trong một xứ có tất cả xứ, là cung trời ấy v.v… vốn tại dưới gốc cây, nên chẳng phải vậy. Nhưng là dụng kia nên nói là lên vậy; Hai là, cũng căn cứ tương nhậm môn, vì một xứ vào tất cả xứ, cây khắp trong trời, cũng chẳng phải dậy, muốn dụng cung trời phô bày pháp tiến lên, nên nói là lên vậy; Ba là, do tất cả tức một nên trời tại dưới gốc cây; Bốn là, do một tức tất cả nên cây tại trên trời, chẳng dậy v.v… chuẩn cứ như trước; Năm là, nói về thân Phật, nghóa là thân dưới gốc cây đây tức khắp pháp giới cùng tất cả xứ thì xưa nay tại kia chẳng đợi dậy vậy. Căn cơ chín muồi khiến thấy, nên nói là lên. Cho nên Như Lai dùng thân pháp giới thường tại đây tức là tại kia; Sáu là, ước về Phật tự tại giải thoát chẳng thể nghó bàn, nghóa là ngồi tức là đi đứng v.v… tại đây tức là tại kia, đều chẳng phải hàng địa vị thấp kém so lường nên vậy; Bảy là, nói về duyên khởi tướng do môn; Tám là, nói về pháp tánh dung thông môn; Chín là nói về phô bày thị hiển pháp môn; Mười là, nói về thành pháp giới đại hội môn. Trong kinh Bất Tư Nghì nói: “Vì tất cả chư Phật, tất cả các pháp bình đẳng, bình đẳng đều đồng một lý, như dương diệm v.v… tất cả chúng sanh và các Như Lai, tất cả cõi Phật đều chẳng lìa tưởng, cho đến nếu ta phân biệt tức Phật hiện tiền, nếu không phân biệt đều không chỗ thấy. Tưởng hay làm Phật, lìa tưởng không có ba cõi như vậy. Tất cả các pháp đều chẳng lìa tâm”. Trong kinh Phổ Hiền Quán nói: “Bấy giờ nghe Phổ Hiền nói hiểu sâu nghóa thú, nhớ trì chẳng quên, thường ngày như vậy, tâm đó dần dần thông lợi. Bồ-tát Phổ Hiền dạy họ nghó nhớ mười phương chư Phật, người đó tùy theo sự chỉ dạy của Bồ-tát Phổ Hiền, chánh tâm chánh ý, dần đem mắt tâm thấy Phật ở phương Đông, thân sắc vàng ròng đoan nghiêm vi diệu. Thấy một Phật rồi lại thấy một Phật, như vậy dần dần thấy khắp tất cả chư Phật ở phương Đông. Do tâm tưởng thông lợi nên thấy tất cả chư Phật ở mười phương”. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, cho nên lúc tâm của ông tưởng tâm của chư Phật, từ tâm tưởng Phật thì tâm đó tức đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm đó làm Phật, tâm đó là Phật. Biển chánh biến chúng sanh”. Kinh Vô Lượng Thọ đây vì hàng căn cơ trung hạ làm mười sáu pháp quán tưởng, khiến phu nhân Vi-đề-hy v.v… dần thấy thân Phật, sợ sanh giải hiểu bên ngoài nên có thuyết này. Tâm đó là văn của Phật, khiến sanh thật thấy. Trong phẩm xuất hiện ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật Tử! Thí như biển lớn nước đó ngầm chảy trong đất bốn thiên hạ và tám mươi ức các châu nhỏ. Như có người đục xuyên, không đâu chẳng có nước, mà biển lớn kia chẳng làm phân biệt Ta ra nơi nước, nước biển trí Phật cũng lại như vậy, chảy vào trong tâm tất cả chúng sanh. Nếu các chúng sanh quán sát cảnh giới tu tập pháp môn, thì được trí tuệ thanh tịnh sáng suốt, mà trí Như Lai bình đẳng không hai, không có phân biệt, chỉ tùy tâm hành của chúng sanh có khác, nên chỗ được trí tuệ mỗi mỗi chẳng đồng. Phật tử! Đó là tâm tướng Như Lai”. Lại, trong phẩm Vấn minh có kệ tụng rằng: “Thí như nước một vị, Nhân vật có sai khác, Ruộng phước Phật cũng vậy, Tâm chúng sanh nên khác”. Lại có kệ tụng rằng: “Thí như gương sáng sạch, Tùy sắc mà hiện tượng. Ruộng phước Phật như vậy, Tùy tâm được các báu”. Trong luận Khởi Tín nói: “Lại nữa, dụng của chân như, nghóa là tất cả chư Phật lúc tại nhân địa, phát đại từ bi, tu hành các độ, các hạnh tứ nhiếp v. v… Quán vật đồng mình, khắp đều cứu thoát, suốt cùng vị lai chẳng hạn số kiếp. Như thật rõ biết tự tha bình đẳng, mà cũng chấp thủ tướng của chúng sanh. Dùng Trí đại phương tiện như vậy, diệt phá vô minh từ vô thủy, chứng bản pháp thân, nhậm vận khởi ở nghiệp chẳng nghó bàn, các thứ tự tại, tác dụng sai biệt khắp cùng pháp giới chân như v.v… mà cũng không có tướng dụng khả đắc. Tại sao? Vì tất cả vị lai chỉ là pháp thân. Đệ nhất nghóa đế, không có Thế đế, cảnh giới tác dụng chỉ tùy sự thấy nghe của tất cả chúng sanh mà có các thứ tác dụng chẳng đồng. Dụng đây có hai: Một là y phân biệt sự thức, nghóa là chỗ thấy của tâm hàng phàm phu Nhị thừa, đó gọi là Hóa thân, người ấy không biết ảnh hiện của chuyển thức, thấy từ ngoài lại, chấp thủ sắc phân hạn, nhưng hóa thân Phật không có hạn lượng; Hai là y nghiệp thức, nghóa là Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến Bồ-tát cứu cánh địa, chỗ tâm thấy, đó gọi là thân thọ dụng. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, chỗ y báo cũng đủ vô lượng công đức trang nghiêm, tùy chỗ ứng thấy vô lượng vô biên, không ngằn mé không đoạn. Chẳng phải ở ngoài tâm mà thấy như vậy. Các công đức đó đều nhân các Ba-la- mật v.v… hạnh vô lậu huân tận và chẳng nghó bàn huân mà được thành tựu, vì đủ vô biên tướng công đức hỷ lạc, cũng gọi là Báo thân. Lại, chỗ thấy của phàm phu v.v… là thô dụng đó tùy sáu thú khác các thứ sai biệt, không có tướng vô biên công đức lạc, gọi đó là Hóa thân. Mới hành Bồ-tát thấy dụng trung phẩm (bậc trung), do vì tin sâu thân như, được thấy phần ít. Biết thân nghóa không đến không đi, không có đoạn tuyệt, chỉ tâm ảnh hiện chẳng lìa chân như. Nhưng Bồ-tát đây còn chưa thể lìa phân biệt nhỏ nhiệm, vì chưa vào vị pháp thân vậy. Bồ-tát tịnh tâm thấy dụng vi tế, chuyển thắng như vậy, cho đến Bồ-tát trong cứu cánh địa thấy đó mới cùng tận. Dụng vi tế đây là thân thọ dụng, vì có nghiệp thức thấy thân thọ dụng, nếu lìa nghiệp thức thì không thể thấy. Tất cả Như Lai đều là pháp thân, không có sắc tướng đây kia sai biệt, hỗ tương cùng thấy”. Nên xưa trước giải thích rằng: Y phân biệt sự thức nghóa là chỗ thấy của tâm hàng phàm phu Nhị thừa, đó gọi là Hóa thân, tức hàng phàm phu Nhị thừa chưa biết Duy thức, chấp có ngoại trần, tức là nghóa của phân biệt sự thức. Nay thấy thân pháp cũng cho là ngoài tâm, thuận theo sự thức phân biệt kế độ kia, mê mờ nơi Duy tâm nên nói từ ngoài đến, chẳng thấu đạt tức sắc là tâm, không có phân chia, nên nói chấp thủ sắc phân chia, không thể biết cùng tận. Hỏi: Thân Phật cớ sao chỉ chân tâm chúng sanh cùng thể chư Phật bình đẳng không hai? Đáp: Chỉ vì chúng sanh mê mờ ở tự lý khởi các vọng niệm, bấy giờ chân như chỉ hiển bày nhiễm tướng. Vì trong Bản giác huân vọng tâm nên có nhàm chán mong cầu, có nhàm chán mong cầu nên chân dụng tức hiển bày, nhàm chán mong cầu yếu kém nên tướng dụng tức thô, nhàm chán mong cầu dần tăng, dụng cũng vi tế, dần dần như vậy cho đến tâm nguyên, vô minh hết sạch, nhàm chán mong cầu đều dứt. Thủy giác đồng bản, dụng trở về lại thể bình đẳng, bình đẳng không hai không riêng biệt. Chưa đến tâm nguyên đã trở lại dụng ở trong thức tùy căn hiển hiện, nên nói hiện trong thức vậy. Hỏi: Nếu căn cứ nghóa đây thì dụng từ chân khởi, sao nói chuyển thức hiện ư? Đáp: Chuyển thức tức là chuyển tướng trong A-lại-da, y chuyển tướng đây mới khởi hiện thức, hiện các cảnh giới. Thức đây tức là chân vọng hòa hợp. Hỏi: Nếu căn cứ nghóa đây tức là dụng của chân như ở trong tự tâm chúng sanh, cớ sao nói là báo thân hóa thân Phật vậy? Đáp: Chân tâm chúng sanh thì là thể chư Phật không sai biệt, nếu theo dòng sanh tử tức là vọng có công năng, vọng tuy có công nhưng lìa chân chẳng lập. Nếu ngược dòng vượt khỏi bó buộc thì chân có công năng, chân tuy có công, nhưng lìa vọng chẳng hiển bày. Căn cứ trong duyên khởi hòa hợp nói về dụng ấy vậy. Đã từ pháp thân khởi dụng Báo thân Hóa thân, sao được chẳng là chân tâm của chúng sanh ư? Vì chân tâm là thân của pháp gia, phàm Thánh đồng mong cầu pháp thân. Nên, trong kinh nói: “Tâm tạo các Như Lai”. Do đó, tức tâm là Phật vậy. Hỏi: Nếu chân tâm tức là Phật, cớ sao nói từ các Ba-la-mật v.v… nhân duyên sanh? Đáp: Đây là căn cứ nghóa bản giác tùy nhiễm mà nói, nhưng Thủy giác đó giác đến tâm nguyên bình đẳng mong cầu ngằn mé, có gì sai biệt. Lại, tức lấy bi trí của chư Phật làm tăng thượng, duyên cơ của chúng sanh cảm, chủng tử làm nhân, gá trên bản chất Phật, tự tâm biến ảnh hiện. Nên nói tự tại hiện trong thức. Trong phẩm pháp giới nói: Trưởng giả Di-già thấy suốt mười phương Phật hải, hiện định này chỉ là quán của tâm, vì biết chúng sanh giới vô lượng vô biên đều là tâm hiện, nên rõ tùy tâm niệm Phật, chư Phật hiện tiền dùng duy tâm quán khắp muôn pháp. Nay ước về các căn thượng trung hạ tùy tự tâm quán, thấy Phật chẳng đồng, gồm có bốn hạng: Một là, hàng phàm phu do đeo mang quá khứ tập khí ác nghiệp trong lục đạo chẳng hết, hoặc thấy Phật là thân Thần cây Thần trời, voi chân đen ba thước v.v…; Hai là, hàng Tiểu thừa đeo mang nghiệp cọc của sanh diệt nên thấy Phật là thân bị kiếm vàng lúa ngựa đánh vào thân chảy máu đều chẳng phải tướng an lạc; Ba là, hàng Đại thừa, sơ chung đốn v.v… ba giáo, Bồ-tát do Duy thức đó quán Phật là tướng sớ hiện của chuyển thức trong A-lại-da. Thấy thân Phật đây, chỉ là tâm hiện, chẳng lìa chân như, không có phân chia tể, khắp tất cả xứ, tùy căn chúng sanh tự nhiên hiển hiện, đó là tướng an lạc; Bốn là, hàng Bồ-tát Nhất thừa viên giáo dùng trí y chánh của pháp giới tròn sáng gồm thâu pháp của lý sự, dùng trí ấy cảm thấy mười thân lý sự vô ngại. Lại, ba đời dung thông tất cả, cho nên thân Phật chẳng lìa đạo thọ ở mười phương, thường đến sáu tầng trời. Trí là quán khắp tất cả luôn không tác niệm. Trong Thập Tứ Khoa Pháp Thân Nghóa nói: “Trong kinh nói rõ pháp thân, tức vết tích chỉ cao trượng sáu đồng với thân người là nghóa tụ, mà không gì chẳng phải pháp nên có xưng của pháp thân. Tìm yếu chỉ của kinh, lấy chiếu thể rỗng còn của Như Lai làm thân, lụy hết làm pháp, mới là do vì chân pháp thân vậy, nhưng tức dùng thiện cảm ứng, ứng tức tùy loại thành khác, chỉ ở nơi thấy là có Phật thường không thân vậy”. Trong kinh nói: “Thân Như Lai là thân huyễn hóa. Hỏi: Phật, hẳn là không thân, cớ sao giải cảm thân cao trượng sáu ư? Đáp: Chúng sanh vì thiện chưa đầy đủ, ngưỡng cảm địa vị rất đầy đủ của Như Lai. Đạo đầy đủ tức hay ứng hóa vô phương, chưa đầy đủ nên chỉ thấy chỗ thấy pháp đó chẳng đạt tức thân là huyễn hóa vậy. Hỏi: Phàm, đạo của cảm ứng đều do tình thấu triệt ngầm khế, nên khiến sự có công hiệu đương thời trong ngoài lý ứng là đồng, như người phụ nữ đến tình, thành sâu tối vì đó mà sụp đổ. Hiếu đến thì đá mở bày. Đó tức là sự tùy tâm biện, cớ sao lấy thiện cảm thân cao trượng sáu mà nói là thân huyễn hóa ư? Đáp: Thành quách sụp đổ, đá mở bày, đó là do tình cảm ở vật, vật thật nên sụp đổ và mở bày, chẳng phải hư dối giải cảm pháp thân. Pháp thân chẳng phải có, chỉ tin hiểu vì lầm hoặc bít cách nên thấy thân cao trượng sáu làm thật, há chẳng phải chỗ cảm tự thấy của người ư? Hỏi: Thân cao trượng sáu nếu là hư huyễn, cớ sao truyền ở thật lý? Đáp: Lý diệu chẳng phải thô mà chẳng truyền, như truyền của ảnh là ở hình vậy. Hỏi: Pháp thân là không hình, đó tức pháp thân là thân cao trượng sáu, hay ngoài pháp thân riêng có thân cao trượng sáu? Đáp: Cảm pháp thân là thân cao trượng sáu, nào có riêng biệt vậy. Như âm thanh cảm hang cốc mà phát ra vọng hưởng, đâu dung ngoài hang cốc riêng có vọng hưởng? Hỏi: Chúng sanh là duyên pháp thân sanh thấy hay là duyên thân cao trượng sáu sanh thấy? Đáp: Cảm thấy chỗ ứng của pháp thân, duyên nào thấy pháp thân. Như thấy ảnh biết có cây mà chẳng thấy cây vậy. Hỏi: Pháp thân là thường, thân cao trượng sáu cũng là thường chăng? Đáp: Lý thân cao trượng sáu là thường, chỉ ở nơi người là vô thường. Nên trong kinh nói: “Như bóng cây trong tối, chẳng phải chỗ mắt thịt thấy được”. Xưa trước giải thích rằng: Phật thường không thân là rõ ràng cảm ứng chẳng phải chân. Pháp thân là thật, cảm là năng cảm thuộc chúng sanh. Ứng nghóa là sở ứng thuộc Phật, vì chúng sanh có cảm thiện của Phật, tự thấy chẳng đồng, hoặc có thấy Đức Thích-ca thân cao trượng sáu, Đức Di-lặc thân cao ngàn thước, hoặc thấy tướng của vô biên, hoặc thấy hình của ba thước, cùng chúng sanh căn lành có cạn sâu, bèn khiến ứng thân tinh thô theo khác. Nên nói chân pháp thân Phật giống như hư không ứng với hiện hình, như trăng trong nước. Lại, Phật thường không thân là không thân của phần đoạn biến dịch, vì pháp thân rất diệu, không thể dùng hình chất để tầm cầu nên nói là không thân. Căn cứ ở thật lý, chẳng phải không diệu sắc diệu tâm. Diệu sắc nên hay phân hình vừa hợp, diệu tâm nên hay hư rổng hay xét, Tôn giả Thiên Thân có kệ tụng rằng: “Báo hóa chẳng phải Phật thật, Cũng chẳng phải người nói pháp”. Trong kinh Kim Quang Minh nói: “Ứng thân, hóa thân là giả danh có, pháp thân là có chân thật”. Đạo đầy đủ tức hay ứng hóa vô phương là vì Pháp thân là đạo đầy đủ nên hay ứng hóa vô phương tức không chỗ nào chẳng ứng. Không có thân có nhất định, chúng sanh địa vị ở tin hiểu, vì thiện chưa đầy đủ, chỉ tùy chỗ họ thấy thân cao trượng sáu v.v… Thiện chẳng đầy đủ là thiện từ Pháp vân trở lại tin hiểu vậy. Địa vị rất đầy đủ (chí túc) là Phật quả cực chiếu đạo mãn Bồ-đề, gọi là địa của chí túc. Vì thiện chưa đầy đủ nên chưa thể thấu đạt thân cao trượng sáu hay cao ba thước v.v… tức là hư huyễn, chỉ pháp thân và thân tự thọ dụng, có thể gọi là chân thật. Như người phụ nữ đến tình sâu tối, thành quách vì đó mà sụp đổ là, trong truyện Liệt Nữ nói: “Vợ của Kỹ Lương đến nơi người chồng chết ở dưới thành mà khóc, suốt mười ngày mà thành quách ấy vì đó mà sụp đổ”. Hiếu đến mà đá mở bày là trong Hán Thư nói: “Hiếu Quảng không có cha, hỏi với mẹ rằng: “Cha con ở đâu?” Người mẹ đáp: “Cha con bị hổ giết hại”. Hiếu Quảng bèn đi bắn hổ, ở trong lùm cỏ ban đêm thấy đá tợ như hổ, bắn đó mất lông, sau lại bắn đó mà trọn chẳng vào vậy”. Vì sự việc thành và đá là tùy tâm cảm biến, do đó sụp đổ và mở bày. Diệu lý chẳng phải thô mà chẳng truyền, như truyền của ảnh là ở hình là nói rõ thân cao trượng sáu tuy là thô mà hay truyền diệu lý. Gá sự phô bày lý, mượn ngôn từ hiển bày đạo, như ảnh truyền từ hình, cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Trong Thanh Lương sớ nói rằng: “Phật xưa và mới thành không từng hai thể, mới thành và Phật xưa, pháp thân báo thân tợ như phân mà không gì chẳng ứng thời, nên tức chân mà ứng, ứng tùy tánh khởi, nên tức ứng mà chân. Ba Phật viên dung mười thân vô ngại, nên biện ứng hiện tức hiển bày chân thành. Lại, thân Phật không y trú, ứng có mà hiện khắp, nghóa là sắc không cố định sắc, như hợp đỏ tía của Kim cang. Hình không cố định hình như mặc tình ngắn dài của ánh sáng và ảnh bóng. Tướng không cố định tướng, tợ đối xấu đẹp của gương sáng, nên tùy vui thích mà đều thấy, cho đến một thân nhiều thân chỉ do tâm phân biệt của chúng sanh khởi, nên không tích chứa không theo. Đó như đều đặt ngàn đồ vật chứa đựng chỉ trong vài bộ mà ngàn ánh trăng chẳng đồng, một đường sông lắng muôn dặm mà một ánh trăng riêng ngời sáng. Lại như ba thuyền cùng trông xem, một thuyền dừng đứng, còn hai thuyền ở hai bờ Nam Bắc, thuyền ở bờ phía Nam thì thấy ánh trăng ngàn dặm theo phía Nam, thuyền ở bờ phía Bắc thì thấy ánh trăng ngàn dặm theo phía Bắc, thuyền dừng đứng thấy ánh trăng chẳng chuyển dời. Đó là ánh trăng ấy chẳng lìa giữa dòng mà đến phía Nam phía Bắc. Giả sử có trăm ngàn thuyền đồng trông xem, tám phương mỗi tự xa rồi, thì trăm ngàn ánh trăng mỗi tự tùy đó xa rời. Đó là vì tình cách tức pháp thân thành khác, tâm thông mà huyền chỉ hẳn quân bình, rối ren tự tha, nói Phật nào can dự. Do đó, chân thân lặng lẽ rỗng rang, cùng khắp giới hợp, thể đó bao la không ngoài, cùng muôn hóa ngang bằng dụng đó, cùng tận nguyên chớ hai, chấp vết lắm mối, một thân nhiều thân, kinh luận nói khác. Nay nói kinh đây Phật là chân là ứng, là một là nhiều. Nếu nói là chân, sao gọi Thích-ca ở cõi Ta-bà, trời người đồng thấy? Nếu nói là ứng, sao nói Già-na ở Liên Hoa tạng, Đại Bồ-tát thấy, thấy Phật pháp thân. Nếu nói là một, sao vì lắm nơi riêng hiện? Nếu nói là khác, sao lại nói mà chẳng phân thân? Nên nói Phật ở kinh đây đều chẳng phải thuyết trước, tức là pháp giới không cùng tận thân vân chân ứng viên dung, một nhiều vô ngại, tức Tỳ-lô- già-na là Thích-ca, nên thường tại xứ này tức là xứ khác. Xa tại phương khác, vì luôn tại nơi này. Thân chẳng phân khác, cũng chẳng phải một, đồng thời khác xứ, một thân viên mãn, vì đều toàn hiện. Tất cả Bồ-tát không thể tự lường. Nay trước nói rõ mười thân sau phô bày vô ngại. Nói mười thân là như nêu thuật trước, nay căn cứ trên Phật tự có mười thân: Một là, Bồ-đề thân; hai là, nguyện thân; ba là, hóa thân; bốn là, lực trì thân; năm là, tướng hảo trang nghiêm thân; sáu là, oai thế thân; bảy là, ý sanh thân; tám là, phước đức thân; chín là, pháp thân; mười là, trí thân. Nói vô ngại là chỉ kết quy trong có mười nghóa: Một là, Dụng khắp vô ngại, nghóa là ở trong niệm kiếp các nơi cõi nước như số vi trần v.v…, Phật Già-na hiện pháp giới thân vân, nghiệp dụng vô biên, thảy đều khắp cùng. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Như ở xứ này thấy Phật ngồi, Trong tất cả xứ cũng như vậy v.v…”. Hai là, tướng khắp vô ngại, ở trong dụng mỗi mỗi sai biệt, mỗi mỗi nhiếp tất cả nghiệp dụng, như tại trong thai tức có các loại xuất gia, thành đạo v.v… như vậy tất cả tự tại vô ngại; ba là, tịch dụng vô ngại, tuy hiện vô biên tự tại như vậy, nhưng chẳng tác ý chẳng khởi niệm, thường tại Tam-muội chẳng ngại khởi dụng. Trong phẩm Bất Tư Nghì nói: “Ở trong một niệm đều hay thị hiện tất cả chư Phật ba đời giáo hóa tất cả chúng sanh, mà chẳng xa lìa tịch diệt vô nhị Tam-muội của chư Phật. Đó là cảnh giới của chư Phật không thể thí dụ, chẳng thể nghó bàn. Thí như ma-ni mưa báu, trống trời phát tiếng đều không công dụng, nhậm vận mà thành tựu; bốn là, y khởi vô ngại, như chỗ hiện đây tuy không công dụng, đều nương tựa sức của Hải Ấn Tam-muội mà được hiển hiện. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Tất cả thị hiện không có dư, Hải Ấn Tam-muội sức oai thân”. Năm là, chân ứng vô ngại, tức ứng hiện vô mgại, tức ứng hiện vô tận thân vân đây tức không sanh diệt, tức là pháp thân bình đẳng một vị, chẳng ngại nghiệp dụng, không có hạn lượng; sáu là, khân viên vô ngại, tức thân Lô-xá-na khắp pháp đây, mỗi mỗi thân, mỗi mỗi chi phần, mỗi mỗi lỗ chân lông đều cũng có tự toàn thân xá na, cho nên trong kinh phân xứ tức viên mãn có kệ tụng rằng: “Như Lai biển công đức vô lượng, Mỗi mỗi chân lông thảy đều hiện”. Bảy là, nhân quả vô ngại, nghóa là nói lỗ chân lông trên thân phần hiện tự thân của xá-na ở xưa trước trong bản sanh hành hạnh Bồ-tát mà cảm nhận và giữa chân mày Phật phóng ra âm thanh thù thắng v.v…, số Bồ-tát nhiều như số bụi trần; tám là, Y chánh vô ngại, nghóa là thân vân đây tức làm tất cả khí thế gian. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Hoặc làm nhật nguyệt giữa hư không, Hoặc làm sông ao suối giếng v.v…”. Lại cũng ngầm thân vào các cõi kia, mỗi mỗi xứ như bụi lông nhỏ nhiệm đều có thân Phật viên mãn hiện khắp; chín là, ngầm vào vô ngại, nghóa là vào chúng sanh giới, như Như Lai Tạng tuy làm chúng sanh mà chẳng mất tự tánh. Nên trong phẩm Xuất Hiện nói: “Trí Phật ngầm vào chúng sanh”. Lại nói: “Trong tâm chúng sanh có Phật thành Chánh giác v.v…”. Lại cũng gồm tất cả chúng sanh tại trong một lỗ chân lông, Thiện Hóa Thiên Vương có kệ tụng rằng: “Ngươi quán một lỗ chân lông Phật, Tất cả chúng sanh đều ở trong v.v…”. Mười là, viên thông vô ngại, nghóa là thân Phật đây tức lý tức sự, tức một tức nhiều, tức y tức chánh, tức sâu tức rộng, tức nhân tức pháp, tức đây tức kia, tức tình tức chẳng phải tình, tức sâu tức rộng, tức nhân tức quả, tức ba thân, tức mười thân, đồng một vô ngại. Vô ngại như vậy chỉ là nhất tâm, nếu có mảy may bụi trần bên ngoài tức thành trệ. Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Thân Phật chẳng quá khứ, Cũng lại chẳng vị lai, Một niệm hiện xuất sanh, Thành Đạo và Niết-bàn”. Trong Hoa Nghiêm Diễn Nghóa giải thích thấy Phật sai biệt, nay ý cứ Thanh Lương đến Ngũ đài mong cầu thấy Bồ-tát Văn-thù để so sánh pháp giới thấy Phật sai biệt, gồm có mười nghóa: Một là, hoặc nhiều căn cơ khác xứ mỗi mỗi cảm thấy; hai là, đồng xứ mỗi mỗi riêng thấy; ba là, hoặc khác lúc riêng thấy; bốn là, hoặc đồng lúc thấy khác; năm là, hoặc đồng lúc khác xứ mà thấy; sáu là, hoặc đồng xứ khác lúc mà thấy; bảy là, khác lúc khác xứ mà thấy; tám là, hoặc đồng lúc đồng xứ mà thấy; chín là, một người ở đồng khác xen nhau lúc và xứ thấy chỗ thấy của nhiều người; mười là, hoặc một người ở đồng khác cùng lúc và xứ thấy chỗ thấy của tất cả mọi người. Nghóa là đồng lúc đồng xứ, khác lúc khác xứ gọi là đồng khác cùng lúc và xứ, đã là lúc của một người gồm nhiều lúc, xứ khắp các xứ, thấy thông các cảnh, nên là cơ của Phổ Nhãn vậy. Nên biết chân thể của Văn-thù còn chẳng phải là một, người thấy tự có sai biệt, có thể nghiệp duy tâm, càng thâm quán sâu. Lại như nói một Văn-thù từ một xứ phương Đông lại tức tất cả xứ Văn-thù. Một là, căn cứ nghóa, lại nói thật đức đó, như trăng của trước khe tức là trăng của sau khe và muôn sông ngàn rạch, toàn vào trước khe, sở dó như vậy là vì trong tất cả các xứ chẳng lìa trăng gốc. Trăng gốc rơi lạc khe nước thì ngàn xứ đều rơi lạc; Hai là, căn cứ biểu là Văn-thù là chủ môn Bát-nhã, nếu căn cứ Quán chiếu Bát-nhã thì trí rõ muôn cảnh, không gì chẳng phải Bát-nhã, như ban ngày giữa trời không vật gì chẳng rành rõ. Nếu là thật tướng Bát-nhã, thì không pháp gì chẳng phải là thật tướng, nên không pháp nào chẳng phải là Bát-nhã, như nước khắp sóng, không sóng nào chẳng phải là nước. Tức trong kinh Đại Bát- nhã nói: “Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên trí Nhất thiết trí thanh tịnh. Tại sao? Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh, nếu sắc thanh tịnh, nếu Nhất thiết trí thanh tịnh, vì không hai, không hai phân, không riêng biệt, không đoạn nên thông ở Quán chiếu và Thật tướng vậy. Lại hỏi: Phật trước chỉ một Phổ Hiền, cớ sao mỗi mỗi Phật trước mỗi mỗi có nhiều ư? Đáp: Gồm có hai nghóa: Một là, duyên khởi tướng do, chánh là ước về chủ bạn gồm nói rõ tức nhập, nghóa là làm chủ phải một, làm bạn hẳn nhiều. Một đây là tức một của nhiều, một của tất cả vậy. Nhiều là toàn nhiều của một, tất cả của một vậy; hai là, lực dụng giao triệt, một có tất cả, thân của Phổ Hiền chẳng thể nghó bàn, lược có ba loại: Thứ nhất là, thân tùy loại, tùy thấy của trời, người v.v… chẳng đồng vậy; thứ hai là, thân tiệm thắng, là tướng cưỡi voi sáu ngà v.v… trang nghiêm vậy; thứ ba là, thân cùng tận pháp giới, lưới trời Đế-thích lớp lớp không có cùng tận vậy. Thân thứ ba đây bao gồm hai thân trước và thân vô tận. Lại hỏi: Nếu nói như trên thì không một nơi nào không có Phổ Hiền, nay sao không thấy? Giải thích: Gồm có ba ý: Thứ nhất là căn cứ cơ không thấy là lỗi lầm của người mù; thứ hai là, không thấy là thấy, thấy thân hư không, vì hư không chẳng thể thấy. Nếu người chẳng thấy là chân thật thấy hư không; thứ ba là, cũng khắp vì nơi chẳng thấy là nói rõ thấy thì chẳng khắp. Tại sao? Vì thấy và chẳng thấy đều là thân Phổ Hiền, cốt yếu khiến có thể thấy làm thân, thì thân Phổ Hiền chẳng khắp muôn hữu, như trí chẳng thể thấy, há chẳng phải trí thân ư? Rõ ràng biết do có chỗ của chẳng biết mới biết khắp vậy. Thân thứ ba đây, người nào có thể thấy? Tuệ nhãn mới thấy, chẳng phải chỗ thấy của mắt thịt, tuệ nhãn như vậy không thấy không chẳng thấy. <篇> TÔNG CẢNH LỤC <卷>QUYỂN 17 Hỏi: Phàm, lý của thành Phật hoặc nói là một niệm, hoặc nói là ba A tăng-kỳ kiếp, không biết quyết định lấy văn nào để ấn cho hàng hậu học? Đáp: Yếu chỉ của thành Phật. Vả lại chẳng phải thời gian hay kiếp số. Giáo của nhanh chậm, thuộc ở quyền nghi, nên trong luận Khởi Tín nói rõ, vì hàng chúng sanh dõng mãnh thì thành Phật tại trong một niệm, vì hạng người biếng lười đắc quả phải đủ ba A tăng-kỳ kiếp, chỉ ngôn từ của Hình giáo tích đều thành phương tiện. Trong Lăng- nghiêm kinh sao nói: “Kiếp nghóa là thời phần, mà có thành trụ hoại không, đều do vọng kiến của chúng sanh cảm nên. Vả lại, vọng kiến động ngoài cảm phong luân, do ai phát khởi nên ngoài động thủy luân, do tâm chấp chặt ngoài cảm địa luân, do nghiên buồn bã không an nên ngoài cảm hỏa luân. Do bốn đại nên khởi sáu căn, khởi sáu căn nên thấy sáu trần, thấy sáu trần nên có thời phần. Nếu rõ được căn bản vô minh một niệm vọng tâm thì biết từ tâm sanh ra ba cõi, rốt cùng không có. Vả lại, thời nhân cảnh lập, cảnh còn vốn không, thời tự không thể, sao lại phải luận kiếp số ngắn dài, chỉ một niệm đoạn dứt vô minh, sao giả lại trải qua A tăng-kỳ kiếp. Do đó, trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Như Huyễn Tam-ma-đề, khảy móng tay vươt vô học”. Lại nói: “Tưởng tướng làm trần, thức tình làm dơ, cả hai đều xa lìa thì pháp nhãn ông tức liền sáng sạch. Cớ sao chẳng thành tri giác vô thượng”. Trong kinh Viên Giác nói: “Biết huyễn tức lìa, chẳng làm phương tiện, lìa huyễn tức giác, cũng không lần lượt”. Nên biết kiếp số ngắn dài do một niệm lại, ba thừa hướng đến quả đều là trong mộng, nói việc lúc ngộ đều không nhiều kiếp. Do đó, kinh Pháp Hoa diễn nửa ngày làm năm mươi tiểu kiếp. Kinh Duy-ma diễn nói bảy ngày làm một kiếp. Lại như kinh Niết-bàn nói: “Đồ nhi Quảng Ngạch mỗi ngày giết ngàn con dê, sau khi đã phát tâm, Phật nói sẽ thành Phật trong hiền kiếp này. Các Đại Bồ-tát và A-la-hán nghi ngờ, nói là “chúng con thành Phật tức phải ở kiếp lâu xa, cớ sao Quảng Ngạch được thành Phật trước”. Phật dạy: “Muốn được sớm thành, tức cho sớm, muốn được lâu xa mới thành, tức cho lâu xa. Nếu chóng thấy chân tánh tức một niệm thành Phật”. Nên biết lợi độn chẳng đồng, nhanh chậm tại ta, có thể nghiệm ở tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt vậy. Vì ba cõi không riêng biệt, pháp chỉ là một tâm tạo tác, tất cả cảnh giới đều nhân động niệm. Niệm nếu chẳng sanh, cảnh vốn không thể, trở ngược lại tận cùng động niệm, niệm cũng không tịch, tức biết lúc mê không mất, lúc ngộ không đắc, vì không trú chân, tâm không tăng giảm. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật dạy: “Này Phú-lâu-na! Há ông chẳng nghe Diễn nhã Đạt-đa ở trong thành Thất-la, chợt lúc sáng sớm dùng gương soi mặt, mến thích đầu và thấy mặt mắt, cho là ly mî không trạng chạy cuồng. Ý ông nghó thế nào? Người đó bởi nhân gì vô cớ mà chạy cuồng?” Phú-lâu-na thưa: “Tâm người đó điên cuồng, không do đâu khác”. Phật bảo: “Diệu giác tròn sáng vốn tròn sáng diệu, đã gọi là vọng cớ sao có nhân? Nếu có sở nhân, sao gọi là vọng? Tự các vọng tưởng triển chuyển cùng làm nhân, từ mê tích chứa mê để trải qua số kiếp như vi trần, tuy Phật phát minh còn chẳng thể trở lại. Mê nhân như vậy, nhân mê tự có, biết mê không nhân, vọng không chỗ nương, còn không có sanh, dục làm sao diệt, đắc Bồ-đề là như người lúc tỉnh ngủ, nói việc trong mộng, tâm phóng túa tinh minh, dục nhân duyên gì lấy vật trong mộng, huống là không nhân, vốn không chỗ có, như Diễn Nhã Đạt-đa ở trong thành kia đâu có nhân duyên tự khiếp sợ đầu mà chạy, chợt nhiên cuồng hết, đầu chẳng phải từ ngoài lại. Giả sử chưa hết cuồng cũng nào sót mất. Phú-lâu-na! Tánh vọng như vậy, nhân nào làm tồn tại? Ông chỉ chẳng tùy phân biệt tương tục ba thứ chúng sanh nghiệp quả thế gian. Ba duyên đoạn nên ba nhân chẳng sanh, thì Diễn Nhã Đạt-đa trong tâm ông không cuồng tánh tự hết. Hết tức là Bồ-đề, thắng tịnh minh tâm vốn khắp pháp giới, chẳng từ người được, nào gá nhọc mệt chịu chẳng khinh tu chứng”. Xưa trước giải thích rằng: Đầu không được mất là, đầu dụ cho chân tánh, lúc vô minh mê mờ, tánh cũng chẳng mất, lúc vô minh hết, cũng chẳng riêng được. Hết tức Bồ-đề là, chỉ ngộ bản thể, năm thức hiện lượng, tất cả muôn hạnh thảy đều đầy đủ, tức là Bồ-đề, như trong kinh Niết-bàn nói: “Tất cả chúng sanh xưa nay thành Phật, trí tánh vô lậu vốn tự đầy đủ”. Lại, đốn từ tiệm được, tên đều gọi là phương tiện, xưa trước giải thích rằng: Nếu cứ nói đốn, cũng là phương tiện, nếu nói tiệm đốn đều phải, cũng phỉ báng Phật, điều chẳng phải, cũng phỉ báng Phật. Do vì trên thể bản giác lìa đốn tiệm, lìa ngôn thuyết, xứ nào có danh tự đốn tiệm? Thức thứ sáu động tức có phân biệt, chẳng động tức bình đẳng khắp cùng pháp giới. Năm thức hiện lượng, mỗi mỗi căn đều khắp pháp giới. Lúc mắt thấy sắc, sắc không thể được, xưa nay ngang bằng pháp giới. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Pháp đó trú ngôi pháp, tướng thế gian thường trú”. Tức biết tất cả các tướng thế gian xưa nay thường nhậm hạnh vị nào có thể biết, chỉ Phật ở nơi đạo tràng biết rồi, đấng đạo sư dùng phương tiện nói, vì chúng sanh mê mờ không biết nên nói, nếu biết chẳng đợi phải nói, mới biết có nói đều thuộc phương tiện. Hỏi: Tức tâm thành Phật, lại lập Phật khác chăng? Nếu quyết định chẳng lập thì không chỗ oai thần của chư Phật gia bị hộ niệm v.v… bèn thành đoạn kiến ư? Đáp: Vì tự tâm tánh khắp tất cả xứ, do đó nếu thấy Phật khác tức là tự Phật, chẳng hoại cảnh của tự và tha, chỉ là một tâm. Chúng sanh như khuôn của trên tượng, nếu trừ bỏ khuôn, đã thấy tự Phật cũng thấy Phật khác. Tại sao? Tuy thấy Phật khác tức là tự Phật, vì tự đúc ra, cũng chẳng hoại Phật khác. Vì ở trên bản chất kia tuy biến khởi hình của Phật khác, tức là tự tướng phần, biến và chẳng biến đều là một tâm. Do vì nhân chúng sanh mê ngộ có hai tâm, có thấy và chẳng thấy, lý của tự và tha. Nếu ước về chân tánh, mê ngộ theo đâu? Tự và tha đều sạch hết, vì pháp thân không hình, không tướng của tướng thấy tự và tha. Các bậc cổ đức nói: “Mê có hai thứ: Một là, ngoài tâm chấp thủ cảnh sanh tưởng trái lý nên chẳng thể thấy Phật vô tướng; Hai là, chấp thủ tướng nội uẩn vì chẳng rõ tánh, không thấy tâm Phật. Ngộ hai thứ đây: Một là, thấu rõ tất cả các pháp tức tự tánh của tâm, tánh cũng chẳng phải tánh, tình phá lý hiện thì thấy thân xá-na xứng với pháp tánh, không có trong ngoài vậy; Hai là, thấu rõ tánh tướng của uẩn, thì thấy Phật của tự tâm cùng xá na chẳng phải một chẳng phải khác, như trời Đế-thích chẳng tu nghiệp trời, cớ sao cung điện tùy theo thân? Vua chuyển luân chẳng làm nhân vua, bảy báu không do đâu mà nhóm tụ, chỉ nương tựa tự thiện, ngoài cảm thắng duyên. Do đó, trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Tất cả các Đức Như Lai đồng một thể tánh, trong trí đại luận sanh ra các thứ ánh sáng trí tuệ. Phật tử! Các ông phải biết, Đức Như Lai ở nơi một vị giải thoát, sanh ra vô lượng các thứ công đức chẳng thể nghó bàn, chúng sanh khởi ý nghó rằng. Đó là thần lực của Đức Như Lai tạo nên. Phật tử! Đó chẳng phải do thần lực của Đức Như Lai tạo nên. Phật tử! Cho đến một Bồ-tát chẳng ở nơi Phật từng gieo căn lành, hay được phần ít trí tuệ của Đức Như Lai, điều đó không thể có, chỉ vì sức oai đức của chư Phật, nên khiến chúng sanh thấy công đức của Phật, mà Phật Như Lai không có phân biệt, không thành không hoại, không có người làm, cũng không pháp làm. Phật tử! Đó là tướng của Đức Như Lai ứng chánh đẳng giác xuất hiện”. Trong luận Bảo Tạng nói: “Phàm, sở dó chân thật một, không một mà hiện chẳng đồng, hoặc có người niệm Phật tức Phật hiện, niệm tăng tức tăng hiện, chỉ Phật kia chẳng phải Phật chẳng phải chẳng phải Phật mà hiện nơi Phật. Cho đến chẳng phải tăng chẳng phải chẳng phải tăng mà hiện nói tăng. Tại sao? Kia là vọng tâm, mong cầu hiện vậy. Chẳng giác ngộ tự tâm hiện nên, việc thánh duyên khởi, một mựclàm cảnh giới bên ngoài mà có sai biệt. Thật chẳng phải Phật pháp tăng mà có khác vậy. Cho đến, thí như có người ở bên cạnh xưởng đúc lớn, tự làm khuôn mẫu, vuông tròn tự xứng, mong vàng nấu lỏng kia rót đổ vào trong khuôn mình để thành hình tượng, nhưng mà vàng nấu lỏng, tuy thành hình tượng. Kỳ thật vàng nấu lỏng chẳng phải tượng, chẳng phải chẳng phải tượng mà hiện nơi tượng. Người kia niệm Phật cũng lại như vậy. Xưởng đúc vàng tức dụ như pháp thân Như Lai, khuôn mẫu tức dụ sự mong cầu của chúng sanh, niệm chứa được Phật, vì niệm Phật hòa hợp duyên, sanh khởi các thứ thân tướng. Nhưng pháp thân ấy chẳng phải tướng, chẳng phải chẳng phải tướng, sao gọi là chẳng phải tướng? Vì vốn không tướng cố định. Sao gọi là chẳng phải chẳng phải tướng? Vì duyên khởi các tướng, nhưng mà pháp thân chẳng phải hiện, chẳng phải chẳng phải hiện. Lìa tánh không tánh, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải tâm chẳng phải ý, chẳng thể lấy tất cả suy lường do độ vậy. Chỉ phàm phu kia tùy tâm mà có, tức sanh hiện Phật tưởng, một hướng cho rằng ngoài tâm kia có Phật, không biết tự tâm hòa hợp mà có, hoặc một hướng nói ngoài tâm không Phật, tức là phỉ báng chánh pháp vậy. Giải thích rằng: Sao gọi là chẳng phải tướng? Vì vốn không tướng cố định là, vì nhân tâm số hiện, tướng bên ngoài không thật thể, tùy tâm cảm sanh, duyên hết tức diệt. Vậy có tướng nào? Nếu nói vốn không tướng cố định. Sao gọi là chẳng phải chẳng phải tướng? Vì duyên khởi các tướng là, đã gọi là không cố định, chỉ tùy duyên hiện, nhân duyên hòa hợp huyễn tướng chẳng không, nên nói duyên khởi các tướng, nếu hay chẳng sanh phân biệt, chẳng khởi tự tha, bên trong chẳng chấp có mà giữ lấy các uẩn, bên ngoài chẳng chấp không mà phỉ báng chánh pháp, thì mở mắt nhắm mắt, giở bước đặt bước, chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng phải thấy là chân thật thấy Phật vậy. Trong luận Bảo Tánh nói: “Vì y cứ nghóa Phật vậy”. Trong kinh nói: “Phật bảo A-nan rằng: Như Lai là chẳng phải pháp có thể thấy, cho nên nhãn thức không thể thấy được, vì y cứ nghóa pháp vậy”. Trong kinh nói: “Điều gọi là pháp tức là việc chẳng thể nói. vì như thế nên chẳng phải chỗ nhó thức nghe, vì y cứ nghóa “tăng vậy”. Trong kinh nói: “Điều gọi là tăng, tức là vô vi, cho nên không thể thân tâm cúng dường, lễ bái tán thán. Nên biết Tam bảo như tướng hư không, chẳng phải chỗ thấy nghe kịp, thì tâm của chúng sanh Phật độ chúng sanh của tâm Phật, nếu có một pháp đối trị tức đều thành tà kiến. Nên Lục Tổ nói: “Tà tới chánh độ, mê tới ngộ độ, ngu tới trí độ, ác tới thiện độ. Độ như vậy tức là chân thật độ. Hỏi: Đã ngoài tâm không Phật, thấy Phật là tâm. Tại sao trong giáo có nói Hóa Phật đến nghinh tiếp sanh về các cõi tịnh? Đáp: Pháp thân Như Lai vốn không sanh diệt, từ thân khởi hóa, tiếp dẫn mê căn, vì hóa tức chân, chân ứng một ngằn mé, tức chẳng đến chẳng đi, tùy ứng vật tâm. Lại, hóa thể tức chân nói không khứ lai, từ chân lưu hóa, hiện có qua lại, tức tướng chẳng lại mà lại, tướng chẳng thấy mà thấy vậy. Chẳng lại mà lại tợ trăng và nước chóng lộ bày, chẳng thấy mà thấy, như mây bay chợt hiện. Hỏi: Như trên nói thân thể thì lặng trong chẳng động. Hóa tướng thì chẳng lại mà lại, chánh là ngoài tâm có Phật khác đến nghinh tiếp. Thế nào là chứng tự tâm là Phật? Đáp: Một là, do sức bản nguyện từ bi chủng tử công đức, tăng thượng duyên của Đức Như Lai, khiến các chúng sanh từng có duyên với Phật, niệm Phật tu quán nhóm tâp các thứ phước trí muôn thiện, với sức công đức lấy làm nhân duyên thì tự tâm cảm hiện thân Phật đến nghinh tiếp, chẳng phải là chư Phật thật sai hóa thân đến nghinh tiếp. Chỉ là chủng tử công đức, sức của bản nguyện, do đó lúc hóa chúng sanh căn cơ hợp khiến tự tâm thấy Phật đến nghinh tiếp, thì thân Phật trong lắng văng lặng, không có đến đi thức tâm chúng sanh nương gá thắng lực công đức bản nguyện của Phật, tự tâm biến hóa có đến có đi, như ảnh tượng mặt gương, tợ hành xử trong mộng. Hình của trong gương chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chất của trong mộng chẳng phải có chẳng phải không, chỉ là tự tâm chẳng liên quan Phật hóa, thì chẳng đến chẳng đi, là nói về chỗ công đức của chư Phật mà nói. Nếu có đi có lại tức căn cứ chỗ tâm tướng chúng sanh mà nói vậy. Vậy biệt tịnh nghiệp thuần thục, mắt thấy thân Phật, ác quả sắp thành, tâm hiện địa ngục, như người sẵn phước đức thì nắm đá vụn thành vàng, người nghiệp bần khổ, chuông vàng thành đá vụn, đá vụn chẳng phải vàng mà vàng hiện, vàng chẳng phải đá vụn mà đá vụn sanh. Vàng sanh chỉ là tâm sanh, đá vụn hiện chỉ từ tâm hiện, chuyển biến là ta, vàng đá từ đâu? Các hạng người ôm giữ nghi ngờ khá nên hiểu yếu chỉ bày. Hỏi: Như trước phân tích, lý sự rành rẽ, ngoài Phật không tâm, ngoài tâm không Phật, cớ sao trong giáo lại lập Pháp môn niệm Phật? Đáp: Chỉ vì chẳng tin tự tâm là Phật, hướng ngoại mong cầu. Nếu hàng căn cơ trung hạ thì quyền khiến quán sắc thân Phật, buộc duyên thô niệm, dùng ngoài hiển bày trong, dần ngộ tự tâm, nếu hàng căn cơ bậc thượng, chỉ khiến quán thân Thật tướng, Quán Phật cũng vậy. Như trong kinh Phật tạng nói: “Thấy Thật tướng các pháp gọi là thấy Phật. Những gì là thật tướng các pháp? Đó là các pháp rốt ráo không, không chỗ có. Dùng pháp rốt ráo không, không chỗ có ấy niệm Phật, cho đến niệm Phật lìa các tưởng, các tưởng chẳng sanh, tâm không phân biệt, không danh tự, không chướng ngại, không dục không đắc, không khởi giác quán. Tại sao? Xá-lợi-phất! Tùy chỗ khởi niệm, tất cả các tưởng đều là tà kiến. Xá-lợi-phất! Tùy không chỗ có, không giác không quán, không sanh không diệt, thông đạt như thế, gọi là niệm Phật. Trong niệm như thế, không tham không dục, không nghịch không thuận, không sanh không tưởng. Xá-lợi-phất! Không tưởng không nói năng, mới gọi là niệm Phật. Trong đây cho đến không một niệm nhỏ vi tế, huống gì nghiệp thân miệng ý thô phù, không xứ nghiệp thân miệng ý,không chấp không gồm, không tranh cãi không tụng, không niệm, không phân biệt, không tịch vô tánh, diệt các giác quán, đó gọi là niệm Phật. Xá- lợi-phất! Nếu người thành tựu niệm như vậy, muốn chuyển đất bốn thiên hạ, tùy ý có thể chuyển, cũng có thể nhiếp phục trăm ngàn ức ma, huống gì vô minh ngăn che từ duyên khởi hư luống, không tướng quyết định. Pháp đó như vậy, không tưởng, không hý luận, không sanh không diệt, không thể phân biệt không tối không sáng. Hoặc ma hoặc dân ma đều không thể lường, chỉ vì ngôn thuyết thế tục có chỗ giáo hóa, mà nói lời rằng: “Lúc ngươi niệm Phật, chớ chấp niệm nhỏ, chớ sanh hý luận, chớ có phân biệt. Tại sao? Vì pháp đó đều không, không có thể tánh, không thể niệm một tướng. Đó gọi là vô tướng, đó gọi là chân thật niệm Phật”. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Thí như nhật nguyệt giữa hư không, Trong tất cả nước đều hiện ảnh. Trú nơi pháp giới không chỗ động, Tùy tâm hiện ảnh cũng như vậy”. Lại có kệ tụng rằng: “Thí như thần Báu xanh, Chiếu vật đều đồng sắc, Chúng sanh lúc thấy Phật, Đồng Phật sắc Bồ-đề”. Giải thích rằng: “Sắc Bồ-đề của chư Phật tức là ánh sáng của tâm tánh chúng sanh, vì tâm vô tướng nên Bồ-đề cũng lại như vậy. Do đó Bồ-tát Văn-thù có kệ tụng rằng: “Hư không không trung biên, Tâm chư Phật cũng vậy, Vì tâm đồng hư không, Kính lễ không chỗ quán”. Trong phẩm Nhập pháp giới ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Tỳ-kheo Đức Vân nhập pháp môn ức niệm Nhất thiết chư Phật cảnh giới trí tuệ Quang Minh Phổ Hiền cho đến môn Thú nhất thiết thế niệm Phật, tùy chỗ vui thích của tự tâm, thấy khắp tất cả các Đức Như Lai trong ba đời”. Trong phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới có kệ tụng rằng: “Tâm hay nhóm khắp vô biên nghiệp, Trang nghiêm tất cả các thế gian, Rõ tất cả pháp đều là tâm, Hiện thân bằng số chúng sanh kia”. Trong kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng: “Phật và thân Thanh văn, Thân Bích- chi Phật bằng, Và các thứ sắc thân, Chỉ nói là trong tâm”. Trong kinh Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng nói: “Pháp Như Lai Mật tạng, nghóa là Nhất thiết trí tâm, cho đến tâm đó là trụ, chẳng khiếp chẳng sợ, chẳng suy chẳng hoại, không có biếng lười, không trái không bỏ, thuận hướng tâm đó mà thấu rõ đó”. Trong kinh Hoa Thủ nói: “Tất cả các pháp như mặt nhật sóng sạch, tùy chỗ chánh quán đều vào không ngằn mé”. Giải thích rằng: “Tất cả các pháp đều là ánh sáng của tâm không có tỳ vết ngăn che, nên nói là như mặt nhật sáng sạch, tùy chỗ có pháp, hay làm quán đó, không gì chẳng vào trong khoảng của tự tâm không ngằn mé. Lại, trong chỉ quán nói rõ: Môn niệm Phật Tam-muội là phải niệm thế nào? Là lại niệm ta, phải từ tâm được Phật, từ thân được Phật, Phật chẳng dụng tâm được, chẳng dụng thân được, chẳng dụng tâm được Phật sắc, chẳng dụng sắc được Phật tâm. Tại sao? Tâm là Phật không tâm, sắc là Phật không sắc, chẳng dùng sắc tâm được Tam Bồ-đề. Phật sắc đã hết, cho đến thức đã hết, chỗ Phật nói hết là người ngu si không biết, người trí hiểu rõ. Chẳng dùng thân miệng được Phật, chẳng dùng trí tuệ được Phật. Tại sao? Trí tuệ cầu không thể được, tự cầu ta rõ không thể được, cũng không chỗ thấy. Tất cả các pháp vốn không chỗ có, hoại gốc tuyệt gốc. Lại như mộng thấy bảy báu, thân thuộc vui thích, tỉnh rồi nghó nhớ không biết nơi nào, niệm Phật như vậy. Lại như lúc Phật còn tại thế, ba người là Bá Trọng nghe trong nước Tỳ-da-ly có dâm nữ tên là Yêm-la-bà-lợi, trong nước Xá-vệ có dâm nữ tên là Tu-mạn-na, trong thành Vương-xá có dâm nữ tên là Ưu-bát-la-bàn-na. Có ba người, mỗi mỗi nghe người ngợi khen ba người nữ đoan chánh không ai sánh bằng, đêm ngày chuyên nghó nhớ, tâm đắm trước chẳng bỏ, bèn ở trong mộng, thấy cùng tư không, tỉnh rồi tâm nghó, người nữ kia chẳng lại, ta cũng chẳng đến mà việc dâm được xong, nhân đó mà tỏ ngộ tất cả các pháp đều là như vậy ư? Khi đó đến nơi Bồ-tát Bạt-đà-bà-la mà hỏi việc ấy. Bồ-tát Bạt-đà-bà-la đáp rằng: “Các pháp thật vậy, đều từ niệm sanh”, và vì ba người đó mà dùng các thứ phương tiện khéo léo nói các pháp không, khi ấy ba người liền đắc A-bệ-bạt-trí. Vậy biết người chẳng tới lui mà việc vui rõ ràng. Phải niệm Phật như vậy. Lại như người đi nơi đầm lớn mà đói khát, mộng thấy được thức ăn ngon, tỉnh rồi bụng ruột trống không, tự nghó tất cả các pháp sở hữu thảy đều như mộng. Phải niệm Phật như vậy, mỗi mỗi niệm chớ được dừng nghó, dùng niệm đó, sẽ sanh về cõi nước Phật A-di-đà. Đó gọi là niệm như tướng”. Trong kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập nói: “Phật bảo: “Này Hiền Hộ! Ta nhớ trong đời quá khứ có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Tu-ba-nhật. Bấy giờ có một người đến thẳng nơi đồng trống, đói khát khốn khổ, bèn liền nằm ngủ, trong mộng thấy được có các thức ăn thượng diệu. Ăn xong đã no, không còn đói khát. Từ khi tỉnh giấc trở lại đói khát. Người ấy nhân đó tự tư duy rằng: Như vậy các pháp đều không không thật, giống như điều thấy trong mộng, vốn tự chẳng thật”. Lúc quán như vậy, ngộ và sanh nhẫn, được không thối chuyển đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Lại như người đem vật báu đặt để trên lưu ly, ảnh hiện trong đó, cũng như Tỳ-kheo quán xương nổi các thứ ánh sáng, đó là không người mang lại, không co xương đó, do ý làm vậy. Như trong kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập nói: “Lại nữa, Hiền Hộ! Thí như vị Tỳ-kheo tu Bất tịnh quán, thấy thây mới chết, hình sắc mới xương tan rã, mà xương ấy tan rã, không từ đâu đến, cũng không thể đi, chỉ do tâm làm, lại thấy ở tự tâm. Lại như ảnh tượng trong gương, chẳng ngoài đến chẳng trong sanh, vì gương sạch nên tự thấy hình đó. Sắc của hành nhân thanh tịnh thì chỗ thấy thanh tịnh. Muốn thấy Phật tức thấy Phật, thấy tức hỏi, hỏi tức đáp, nghe kinh rất hoan hỷ, tự nghó Phật từ nơi nào lại, ta cũng không chỗ đến? Điều ta nghó tức thấy tâm làm Phật, tâm tự thấy tâm, thấy Phật tâm, Phật tâm đó là tâm ta. Chẳng tự biết tâm, tâm chẳng tự thấy tâm. Tâm có tưởng là ngu si, tâm không tưởng là Nê-hoàn. Pháp đó không thể chỉ bày là đều do niệm làm thành. Giả sử có niệm đó cũng trọn không chỗ có, là không vậy. Đó gọi là Phật ấn, không thể tham, không chỗ đắm trước, không chỗ mong cầu, không chỗ tưởng, hết chỗ có, hết sự ham muốn, không từ đâu sanh, không từ đâu diệt, không chỗ bại hoại. Đạo cốt yếu đạo gốc. Ấn đó, hàng Nhị thừa không thể làm hư hoại huống gì là ma ư?” Trong luận Bà-sa nói rõ: “Bồ-tát mới phát ý trước niệm sắc tướng Phật, tướng thể tướng dụng, tướng nghiệp tướng quả, được thế lực bậc hạ. Tiếp đến niệm Phật có bốn mươi pháp bất cộng, tâm được thế lực bậc thượng, mà chẳng đắm trước sắc thân và pháp thân”. Có kệ tụng rằng: “Chẳng tham trước sắc thân, Pháp thân cũng chẳng trước, Khéo biết tất cả pháp, Vắng lặng như hư không”. Khuyên người tu là: Nếu người muốn được trí tuệ như biển lớn khiến không thể vì ta làm thầy. Ngồi nơi đó, chẳng vận thần thông, thảy đều thấy chư Phật, đều nghe giảng nói, đều có thể thọ trì, thường hành Tam-muội. Đối với các công đức rất là đệ nhất. Tam-muội đây là mẹ của chư Phật, mắt Phật, cha Phật. Vô sanh mẹ đại bi,tất cả chư phạt đều từ hai pháp nay sanh ra, nghiền nát đất Đại thiên và cây cỏ làm bụi trần, một bụi trần làm một cõi Phật, khắp đầy trong thế giới tất cả vật báu đều dùng bố thí, phước đó rất nhiều, không như nghe Tam- muội này mà chẳng kinh chẳng sợ, huống gì tin nhận thọ trì đọc tụng vì người mà giảng nói, huống gì hay thành Tam-muội đó, nên vô lượng vô biên. Lại trong luận Bà-sa nói: “Kiếp lửa, quan, giặc, rồng độc cầm thú, các thứ bệnh tật xâm phâm người đó. Điều ấy không thể có. Người đó thường được trời rồng tám bộ, tất cả chư Phật đều cùng hộ niệm tán thán, đều cùng muốn thấy, đều đến nơi người đó. bằng nghe Tam-muội đây bốn phen như trên, công đức đều tùy hỷ. Ba đời thư Phật Bồ-tát đều tùy hỷ, lại hơn công đức bốn phen trên. Nếu chẳng tu pháp như vậy, mất vô lượng báu trọng, trời người vì đó mà lo buồn, như người nghẹt mũi nắm chiên-đàn mà chẳng ngửi, như người nhà nông cầm châu ma-ni mà đánh đầu trâu”. Nên biết không biết tự tâm là Phật trái lại mong cầu pháp khác, trái đạo tu đạo, lỗi quá đó như vậy, tức là phàm phu chẳng đạt tâm báu, uống ăn vật độc nơi trời người, hàng Nhị thừa xa lìa nhà trân quý, làm kẻ hèn để dọn phẩn dơ. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Người có trí nếu nghe được nếu nghe được thì hay tin hiểu, kẻ không trí nghi ngờ thì là trọn mất”. Hỏi: Như môn thành Phật, nếu luận về tu thiện thì có trước sau, nếu là tánh thiện thì vốn một tâm bình đẳng. Chư Phật đã có tánh ác, Xiển-đề cũng có tánh thiện. Đã đồng một tánh, đều nên thành Phật, cớ sao Xiển-đề không thành Phật ư? Đáp: Nếu nói tánh Phật, người nào chẳng như nhau? Nếu nói về tu thành Xiển-đề chưa đầy đủ. Trong Thai giáo hỏi: Xiển-đề cùng Phật đoạn những thiện ác gì? Đáp: Xiển-đề đoạn hết tu thiện, chỉ tánh thiện còn, Phật đoạn hết tu ác, đều chỉ tánh ác còn. Hỏi: Xiển-đề chẳng đoạn tánh thiện trở lại có thể khiến tu thiện khởi. Phật chẳng đoạn tánh ác trở lại khiến tu ác khởi ư? Đáp: Xiển-đề chẳng đạt tánh thiện, vì chẳng đạt nên trở lại vì chỗ thện nhiễm, tu thiện được khởi, rộng sửa trị các ác. Phật tuy chẳng đoạn tánh ác mà hay thấu đạt ở ác, vì thấu đạt ác nên ở nơi ác mà được tự tại nên chẳng bị chỗ ác nhiễm, tu ác chẳng được khởi, nên Phật trọn không trở lại ác. Do vì tự tại, rộng dùng các pháp môn ác mà hóa độ chúng sanh, trọn ngày dùng đó mà trọng ngày chẳng nhiễm, chẳng nhiễm nên chẳng khởi, sao được đem Xiển-đề mà xếp đều ư? Nếu Xiển-đề hay thấu đạt thiện ác đây, thì chẳng lại gọi là Nhất Xiển-đề vậy. Nếu y tựa người khác nói rõ Xiển-đề đoạn thiện hết, là do thức A-lại-da huân thành, lại có thể khởi thiện. A-lại-da tức là vô ký vô minh, thiện ác y tựa gìn giữ làm tất cả hạt giống. Xiển-đề chẳng đoạn vô ký vô minh, nên trở lại sanh thiện, Phật đoạn hết vô ký vô minh, không chỗ có thể huân, nên ác chẳng trở lại sanh. Nếu muốn đem ác để giáo hóa chúng sanh, chỉ là thần thông biến hiện độ chúng sanh vậy. Hỏi: Nếu Phật địa đoạn ác hết làm thần thông dùng ác hóa vật, đó là tác ý mới có thể khởi ác. Như người họa vẽ các thứ sắc tượng, chẳng phải là mặc tình, như gương sáng chẳng động sắc tượng tự hình, có thể là lý chẳng thể nghó bàn có thể vương ác. Nếu làm ý là cùng ngoại đạo nào có khác? Đáp: Nay nói rõ Xiển-đề chẳng đoạn thiện của tánh đức, gặp duyên thiện phát. Phật cũng chẳng đoạn tánh ác, có duyên khởi kích, sức từ huân thành, vào địa ngục A-tỳ đồng tất cả việc ác để chúng sanh. Vì có tánh ác nên gọi là chẳng đoạn. Không lại tu thiện nên gọi là chẳng thường. Nếu tu tánh đều hết thì là đoạn, chẳng được là chẳng đoạn chẳng thường, Xiển-đề cũng vậy. Tánh thiện chẳng đoạn, trở lại sanh thiện căn, Như Lai tánh ác chẳng đoạn trở lại hay khởi ác, mà là giải tâm không nhiễm, thông đạt ngằn mé ác tức là thật tế. Hay dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng chẳng buộc chẳng mở, hành trái đạo mà thông Phật đạo. Xiển-đề nhiễm mà chẳng đạt, cùng đây là khác vậy. Sao gọi là chẳng đạt? Vì không tỏ ngộ không tánh, do vì các pháp thiện ác đều lấy không tánh làm tánh, tánh đây tức là Phật tánh, tức không trú vốn tức là pháp tánh, tánh thiện ác này không thể đoạn, tức nay suy tự tâm tánh không thể được, tức không trú xứ mà hay khắp tất cả xứ tức là tánh thiện ác vậy. Tánh không thiện ác hay sanh thiện ác, thiện ác có thể đoạn mà tánh không thể đoạn. Thiện ác đồng lấy tâm tánh làm tánh, nếu đoạn tánh ác thì đoạn tâm tánh, tánh không thể đoạn, đo đó Xiển-đề chẳng đoạn tánh thiện, giả sử đọa trong tam đồ, tánh thiện cũng chẳng giảm, tánh ác không tăng, mãi đến thành Phật tánh ác không tăng, tánh thiện không giảm. Tánh này tức là pháp thân vậy. Thí như gương sáng vốn không các ảnh tượng xấu đẹp, hay hiện tất cả các ảnh tượng xấu đẹp. Ảnh tượng có tăng giảm mà thể sáng sạch chẳng tăng chẳng giảm vậy. Gương vốn không ảnh tượng nên hay hiện ảnh tượng, Phật tánh không thiện ác nên hay hiện thiện ác. Chúng sanh chẳng được tánh, chỉ được thiện ác, bị thiện ác bó buộc, không được tự tại vậy. Tánh thiện không hoại nên địa ngục hay phát thiện cõi Phật, tánh ác chẳng hoại, nên Phật hay hiện ác sáu thú. Lại, tánh tức là tánh của các pháp thiện ác v.v… khắp mười phương ba đời chúng sanh cõi nước v.v… tất cả xứ, không có biến khác chẳng tăng chẳng giảm, hay hiện các thứ thiện ác phàm thánh sạch dơ nhân quả v.v… từ tánh mà khởi, nên nói tánh thiện tánh ác, nếu thiện ác v.v… tức không tướng cố định, tùy duyên nhóm tập, như ảnh tượng trong gương, không thể có thể được. Nếu gặp duyên tịnh tức thiện, nêu nhân duyên nhiễm tức ác, từ tu mà được nên nói là tu thiện tu ác. Nếu luận về tánh thiện chẳng chỉ Xiển-đề, nếu luận về tánh ác, chẳng chỉ chư Phật, do vì thiện ác là tánh của các pháp vậy, tức tất cả chúng sanh thảy đều đầy đủ có một ngằn mé bình đẳng.nếu giác ngộ tánh đây tức bên thành Phật, nên hay hiện thánh bày phàm tự tại vô ngại. Nếu luận về tu thiện tu tác, ở trong các căn thượng trung hạ tức không thể định. Tùy sự tu thành đó dày mỏng, nhậm sức lượng đó có cạn sâu, được quả báo trong thế gian mà lên xuống trong sáu thú, thành quả xuất thế gian mà tứ thánh có cao thấp. Do vì chẳng tỏ rõ tánh của thiện ác, bị nghiệp thiện ác ràng buộc mà chẳng tự tai. Nếu thấy tánh đạt đạo thì đạo nào chẳng thành, nên pháp pháp nêu tông, trần trần khế hợp yếu chỉ, đâu chỉ hai pháp thiện ác mà được tự tại ư? Hỏi: Tam bảo như tướng hư không, chẳng phải chỗ thấy nghe kịp được. Tại sao trong giáo nói kiến đạo, lại xưng là thấy Phật? Đáp: Nói về bản trí phát minh, giả xưng gọi là kiến, chẳng phải chỗ mắt thấy, chỉ chứng mới biết. Lìa thấy chẳng phải thấy, mới gọi là thật thấy. Trong kinh Niết-bàn nói: “Bồ-tát thật không chỗ thấy, không chỗ thấy tức là không chỗ có. Không chỗ có thì tất cả các pháp, do đó pháp tánh không chỗ có. Bồ-tát thì không chỗ thấy, cùng lý pháp họp, giả xưng là thấy, thật chẳng phải thấy vậy”. Chân tánh trạm nhiên, chẳng phải là thấy pháp. Trong kinh nói: “Chẳng hành thấy pháp, chư Phật nhanh vì thọ ký thì là lìa hai biên đoạn thường, tức thấy tự thân thanh tịnh, thấy thân thanh tịnh tức là thấy Phật thanh tịnh, cho đến thấy tất cả pháp thảy đều thanh tịnh, không gì chẳng phải là Phật, không gì chẳng phải là pháp, vì tự tâm tánh vô sanh thuận vật khắp tất cả xứ. Nếu một bụi trần chẳng là Phật, thì thành chướng ngại ngăn che, chẳng vào môn Phổ Nhãn, chỉ rơi lạc ở năng kiến sở kiến. Trong kinh Đại Tập nói: “Phạm Thiên hỏi Bồ-tát Hải Tuệ rằng: “Này thiện nam! Nay ông rõ ràng thấy Phật pháp chăng?” Phạm Thiên (Bồ-tát Hải Tuệ?) nói: “Phật pháp chẳng phải sắc, không thể trông thấy, sao ông nói rõ ràng thấy Phật pháp ư? Tất cả các pháp đều không thể thấy. Phàm, rõ ràng tức là Phật pháp, không có hai tướng, do vì lại thì đồng như trăng nước, tan tợ mây huyễn, thấy như mộng hình, nghe như âm vang trong hang cốc, nơi giác tức hiện, chẳng theo phương lại, nơi mê tự không, chẳng từ đây đi”. Như trong kinh Viên Giác nói: “Viên Giác chiếu khắp, tịch diệt không hai, ở trong năm ngàn muôn ức A tăng-kỳ vô lượng vô số thế giới chư Phật, giống như hoa đốm giữa hư không loạn khởi loạn diệt”. Trong luận Bát-nhã giả danh có kệ tụng rằng: “Như Lai pháp làm thân, Chỉ nên quán pháp tánh, Pháp tánh chẳng chỗ thấy, Nhưng cũng chẳng thể thấy”. Pháp tánh, đều gọi là tánh không, tánh vô sanh. Đây tức là thân Đệ nhất nghóa của chư Phật. Nếu thấy ở đây, gọi là thấy Phật. Trong kinh nói: “Vì thấy tánh không, gọi là thấy Như Lai”. Lại, nơi của pháp tánh không có một vật có thể gọi là chỗ biết. Do vậy, trí kia cũng không thể biết. Lại, trong kinh nói: “Đại Vương! Tất cả pháp tánh giải như hư không, ngang bằng các vật, cũng chẳng phải không vật. Hay biết trong đây vắng lặng không biết, gọi là rõ biết”. Gọi là biết, tức tùy ngôn thuyết của thế tục, tin hiểu phước không sanh, phần nhiều ở báu thí, như có bài tụng rằng: “Nếu người trì chánh pháp, Và phát tâm Bồ-đề, Chẳng như hiểu ở không, Một của mười sáu phần”. Do vì thấu hiểu Đệ nhất nghóa không, mới thành Bát-nhã. Thấy được tự tánh vô sanh mới ngộ Viên tông. Vì chân không chẳng hoại nghiệp quả, tôn ty rõ ràng, chẳng đồng chỉ không chẳng gồm các có, như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Có nghiệp có báo chẳng thấy người làm, pháp không như vậy, gọi là Đệ nhất nghóa không”. Do vì lúc thấy tánh, tánh vốn lìa niệm, chẳng phải có niệm mà có thể trừ ngằn mé của vật. Vật vốn không tình, chẳng phải có vật mà có thể xua trừ, nên nói trí của lìa niệm ngang bằng cõi hư không, như trong kinh Đại thừa Thiên Bát Đại Giáo Vương nói: “Bấy giờ Bồ-tát Phổ Minh nhập Tỳ- lô-già-na Như Lai Kim Cang pháp tạng Tam-muội Tam-ma-địa, khiến tất cả chư vị Bồ-tát, tất cả các loài hữu tình chúng sanh đồng nguyện tu trì nhập tánh tịnh chân như pháp tạng Tam-muội chân tế quán ấy. Thế nào nên được tu nhập quán ấy? Bồ-tát thì đang quán chiếu tâm địa, giác dụng tâm trí, chỉ chiếu tâm tánh nhỏ nhiệm quán giác chiếu tâm thể, thấy tánh không động, chứng giác không động tức hay luôn dụng. Dụng quán thể trí, thấy tánh thanh tịnh. Tánh tự lìa niệm, lìa niệm không vật, tâm ngang bằng như hư không tức chứng thánh trí, như như thánh tánh, cả hai đều lắng tịch, rỗng đồng không có thểå, tánh thể rỗng lắng, đó thì gọi là Bồ-tát chứng nhập môn chân như pháp giới tánh ấn pháp tạng thâu tế quán”. Nên biết tánh pháp giới tức tâm tánh chúng sanh. Tâm tánh chúng sanh tức tánh hư không, nên trong luận Đại Trí Độ nói: “Lại nữa Xá-lợi-phất! Bồ-tát Ma-ha-tát muốn trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, Đệ nhất nghóa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thủy không, tán không, tánh không, tự tướng tánh chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không, phải học Bát-nhã ba-la-mật”. Giải thích rằng: “Nội không tức là nội pháp, nghóa là nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý sáu nhập bên trong, nhãn không, không ngã, không ngã sở v.v… ngoại không tức là ngoại pháp, nghóa là sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp sáu nhập bên ngoài, sắc không, không ngã, không ngã sở v.v… nội ngoại không tức mười hai nhập nội ngoại, trong mười hai nhập không ngã, không ngã sở v.v… không không, vì không phá nội không, ngoại không, nội ngoại không, phá ba không đó nên gọi là không không. Đại không tức là mười phương không. Đông phương vô biên nên gọi là đại, cũng tất cả xứ có nên gọi là đại. Đệ nhất nghóa không, Đệ nhất nghóa gọi là thật tướng các pháp. Vì chẳng phá chẳng hoại, thật tướng các pháp đó cũng không. Tại sao? Vì không nhận thọ không đắm trước, nếu thật tướng các pháp là có nên nhận thọ nên đắm trước. Vì thật không nên chẳng nhận thọ chẳng đắm trước. Nếu nhận thọ nếu đắm trước tức là hư cuống. Hữu vi không, vô vi không là, pháp hữu vi gọi là nhân duyên hòa hợp sanh, tức là năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới v.v… pháp vô vi gọi là không nhân duyên, thường chẳng sanh chẳng diệt, như hư không. Hỏi rằng: Pháp hữu vi là nhân duyên hòa hợp sanh, vì không tự tánh nên không, đây có thể vậy. Pháp vô vi chẳng phải pháp nhân duyên sanh, không phá không hoại, thường như hư không, thế nào là không? Đáp rằng: Nếu trừ bỏ hữu vi thì không vô vi. Thật tướng hữu vi tức là vô vi. Nếu hữu vi không thì vô vi cũng không, vì hai sự đó chẳng khác vậy. Tất cánh không là tất cả các pháp đều rốt ráo không, tất cánh (rốt ráo) không đó cũng không. Không, không pháp có nên cũng không thật tướng hư dối đối đãi. Lại nữa, tất cánh không là phá tất cả các pháp khiến không sót thừa nên gọi là tất cánh không. Nếu có phần ít sót thừa thì chẳng gọi là rốt ráo không. Vô thủy không là như trong kinh nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, chúng sanh không có khởi đầu, do vô minh che phủ, bởi ái trói buộc, qua lại sanh tử. Khởi đầu không thể được, pháp pháp không khởi đầu đó, gọi là vô thủy không”. Tán không là tán, nghóa là tướng ly biệt, như các pháp hòa hợp nên có. Như xe dùng các thứ căm càng trục cốc hợp lại làm xe, nếu lìa tan mỗi thứ mỗi nơi thì mất tên xe. Do năm ấm hòa hợp nên gọi là người, nếu lìa năm ấm, người không thể được. Tánh không là tánh của các pháp thường không, vì giả lại tương tục tợ như chẳng không, thí như tánh nước tự lạnh, gá lửa nên nóng ấm, ngưng lửa thời gian lâu, thì nước trở lại lạnh. Như trong kinh nói: “Nhãn không, không ngã, không ngã sở”. Tại sao? Vì tánh tự như vậy. Tự tướng không là tất cả các pháp có hai thứ tướng đó là tổng tướng và biệt tướng. Hai tướng không nên gọi là tướng không. Tổng tướng là như vô thường v.v… biệt tướng là các pháp tuy đều vô thường mà mỗi mỗi có tướng riêng biệt, như đất có tướng cứng chắc, lửa có tướng nóng. Nhất thiết chư pháp không là tất cả các pháp có tốt có xấu có trong có ngoài. Tất cả các pháp có tâm sanh nên gọi là có, không tự thể nên không. Vô sở đắc không là, tất cả các pháp cho đến vô dư Niết-bàn không thể được, nên gọi là vô sở đắc không. Vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không là vô pháp gọi là pháp đã diệt, diệt đó không nên gọi là vô pháp không, hữ pháp không là các pháp do nhân duyên hòa hợp sanh nên có pháp (hữu pháp), thật tánh không nên gọi là hữu pháp không. Vô pháp hữu pháp không là hữu tướng vô pháp hữu pháp không thể được. Đó là vô pháp hữu pháp không cho đến nói lìa ngã và ngã sở nên không, nhân duyên hòa hợp sanh nên không, vô thường khổ không vô ngã nên gọi là không. Thủy chung không thể được nên không, duy tâm nên gọi là không. Nên biết tất cả muôn pháp đều từ tâm hiện, đều không tự thể, đều gọi là không. Sở dó nói nếu trú môn mười tám không đây, phải học Bát-nhã, thì chưa từng có một pháp có thể vượt ngoài Linh đài trí tánh của ngã vậy. Mười tám không đây, dưới đến năm ấm thế gian hữu vi, trên đến Đệ nhất nghóa đế vô vi, gồm thâu tất cả các pháp không gì chẳng đều không. Nếu chẳng học Bát-nhã mà riêng chuộng tông khác thì rõ hữu mà chưa đạt hữu nguyên, thấu không mà chẳng tận không lý. Phải quay về Tông Kính, nội chiếu phát minh, thì ngoài không một pháp lại có sót thừa vậy. Lại nữa, đây là như không, chẳng phải thể là không. Vì chân tâm vô ngại, ánh hiện muôn pháp, như hư không chẳng trở ngại các tướng phát huy, ở trong chân tâm hay hiện tất cả. Chỗ hiện tất cả đó tuy y cứ tâm không thể chiếu biến năm uẩn đều không, nhưng cũng chẳng đắm trước ở không, hay hưng hiện các Phật sự, như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Mười phương nơi có chư Như Lai, Thấu rõ các pháp không có thừa, Tuy biết tất cả đều không tịch, Mà chẳng ở không khởi tâm niệm. Vì một trang nghiêm nghiêm tất cả, Cũng chẳng nơi pháp sanh phân biệt, Như vậy khai ngộ các quần sanh, Tất cả không tánh, không chỗ quán”. Hỏi: Lý của pháp thân là lại có pháp thành hay là không pháp thành, là pháp một thành hay pháp khác thành? Đáp: Bản giác tâm tông, pháp thân tánh địa, miệng muốn nói từ tan, tâm muốn duyên mà lự mất. Sở dó như vậy là, nói có thì diệu thể hư huyền, nói không thì đạo không chẳng tại. Nói sanh thì ba cõi không vật, nói diệt thì một thể thường linh, nói một thì mỗi mặc hình đó, nói khác thì đồng quy thật tướng. Vậy nên biết không thể cân lường, không thể vì mong cầu, nếu mở phương tiện muốn hiểu nghi tình thì chẳng có chẳng không, chẳng phải một chẳng phải khác, hay vượt tứ cú mới họp với nhất thừa. Các bậc cổ đức hỏi rằng: Nếu chúng sanh cùng chư Phật đồng một tâm, Phật tánh ngang bằng có pháp thân, thì có hai lỗi lầm: Một là, chúng sanh thảy đều thành Phật thì chúng sanh giới cùng tận; hai là, các Bồ-tát khuyết hạnh lợi tha vì không có hóa cơ vậy. Đáp rằng: Điều vấn nạn ấy đều do vọng kiến chúng sanh giới nên khởi cật nạn đó. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Đại tà kiến là thấy chúng sanh giới tăng, thấy chúng sanh giới giảm, vì không như thật biết một pháp giới, nên đối với chúng sanh giới khởi thấy tăng giảm”. Ý kinh thì tất cả chúng sanh một lúc thành Phật, Phật giới chẳng tăng, chúng sanh giới chẳng giảm, nên trong kinh nói: “Chúng sanh tức là pháp thân, pháp thân tức là chúng sanh, chúng sanh và pháp thân nghóa chỉ một mà danh xưng có khác”. Giải thích rằng: Huống hồ chúng sanh giới như hư không giới, giả như một con chim bay giữa hư không từ Tây đến Đông, trải qua trăm ngàn năm, trọn không được nói phía đông gần phía Tây xa. Tại sao? Vì hư không không phân chia, cũng chẳng được nói, tất cả chẳng bay đi, vì công chẳng phải hư huống vậy. Phải biết đạo lý trong đây cũng vậy, chẳng phải có diệt độ, khiến có chung tận (cuối cùng hết), chẳng phải không chung tận có diệt độ, nên cõi chúng sanh rộng lớn sâu xa, chỉ là cảnh chỗ biết của Như Lai trí, không thể dùng cuồng tâm hạn lượng châm chước khởi thấy tăng giảm. Vả lại, như hư không giới tuy không phân chia, chẳng ngại các loại chim bay, chúng sanh giới tuy không thể tận mà chẳng ngăn ngại diệt độ, thì chẳng phải thấy của tăng giảm, tình của lý bỏ, thì cánh trí bay cao, chân không chẳng trệ, như trong Hoa Nghiêm Sớ Thích rằng: Kinh nói: “Trí Phật rộng lớn đồng như hư không là trí lượng bao hàm mà khắp cùng. Trí lý không phân biệt mà thể nhập, do vì thái hư bao gồm muôn tượng mà muôn tượng chẳng thể bao gồm thái hư. Thái hư chẳng phân biệt muôn tượng, muôn tượng mới sai biệt thái hư. Lấy đó để so sánh ngã pháp chẳng thể dung Phật trí, Phật trí mới hay dung cả ngã pháp. Có ngã pháp là phân biệt Như Lai, Như Lai đó là chẳng phân biệt ngã pháp. Trong hai dụ khắp cùng, Diệu quán sát trí không đâu chẳng biết khắp, tức là nghóa phổ biến, Thành sở tác trí, uyển chuyển thành không sót, tức nghóa tùy nhập. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Trí Phật rộng lớn đồng hư không, Khắp cùng tất cả tâm chúng sanh”. Đây tức là thể biến, thảy đều rõ biết các vọng tưởng thế gian. Đây là nói về tri biến (biết khắp). Lại nói: “Đắc tất cả pháp lượng bằng tâm”. Đây là nói về chứng biến (chứng khắp), “Trí tánh toàn đồng ở sắc tánh”, đây là nói theo lý biến (lý khắp). Thế nào là biến nhập? Vì chẳng hoại năng sở có chứng biết. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Các cõi nước thế gian, Tất cả đều theo vào, Thân trí không có sắc, Chẳng phải chỗ kia thấy được”. Do tùy ở như, tức vào (nhập) không chỗ vào, nên nói là bình đẳng. Do vì hư không vào khắp các cõi nước, các cõi nước chẳng vào pháp hư không, nơi có cõi nước hẳn có hư không, nơi có hư không hoặc có thể không có cõi nước. Hư không đến nơi các cõi nước đều bình đẳng tùy vào các cõi nước đến nước hư không, tự có đây kia. Hư không có thể dụ như trí Phật, cõi nước có thể dụ như ba đời. Nơi có ba đời, trí Phật hẳn tại trong đó, nơi trí Phật biết. Ba đời hoặc có thể không thể đó. Trí Phật đến nơi ba đời, bình đẳng tùy vào, ba đời đến nơi trí Phật tự có đầu cuối. Đây như căn cứ thuyết không hai mà hai vậy. Nếu hai mà chẳng hai, thì cõi nước, hư không, ba đời, trí Phật đều đồng một tánh, đều đi vào nhau, nêu một gồm thâu tất cả. Phổ biến (khắp cùng) cũng vậy. Khoảng thời gian ba đời gồm chứa thì tuyệt đường ngôn ngữ nghó ngợi, nêu gọi trí Phật là chẳng thể nghó bàn vậy. Trong kinh Đại Tập nói: “Bồ-tát Văn- thù nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai nếu ngồi dưới gốc cây Bồ-đề. Như Lai Thế Tôn thì có hai tướng: Một là, Như Lai; hai là, cây Bồ-đề. Như Lai Thế Tôn đã lìa hai tướng”. Phật dạy: “Này thiện nam! Bồ-đề, chúng sanh, tất cả các pháp tánh bình đẳng không sai biệt, một vị một tánh. Như Lai ngồi dưới gốc Bồ-đề, thấy pháp như vậy, cho nên gọi là đợi đắc Bồ-đề, ta đều chẳng thấy lìa ngoài Bồ-đề riêng có một pháp. Thấy tất cả các pháp thảy đều bình đẳng gọi là vô ngại”. Lại, pháp môn đây, nêu một thì cả pháp giới gồm thâu, như nêu mắt làm môn thì tướng tốt các căn cõi nước chư Phật không gì chẳng là hiện trong mắt. Cho đến sáu căn hiện trong một mảy bụi một sợi lông cũng như vậy. Như nói trong thân Tỳ-lô-già-na đầy đủ chúng sanh trong ba cõi sáu đường v.v… Đây thì một thân bao hàm tất cả các thân. Lại, một thân biến khắp tất cả các thân, tức vào lớp lớp, bao khắp vô ngại, như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Có một thân kín chắc, Thấy trong tất cả trần, Không sanh cũng không tướng, Hiện khắp ở các nước”. <卷>QUYỂN 18 Hỏi: Phàm, pháp thân chư Phật khắp cùng tâm chúng sanh. Đã đồng một tâm, cớ sao có hiện và chẳng hiện? Đáp: Thường hiện không lúc nào chẳng hiện, hoặc ở trong một bụi trần chóng hiện, không gì chẳng đầy đủ, hoặc ở trong các bụi trần hiện khắp, không đâu chẳng khắp cùng. Một nơi chóng hiện là lông mi của Đức Như Lai, mão báu của Văn-thù, trong gác của Di-lặc, trong lỗ chân lông của Phổ Hiền, trong thất Tịnh Danh, trong bụng Ma-da, hạt cải mũi kim, gần bụi trần xa cõi nước, mỗi mỗi chóng hiện. Như trong kinh Văn-thù Bát-nê-hoàn nói: “Thân Văn-thù như núi vàng đá, mão báu của Văn-thù đó gồm các báu Tỳ-lăng-già nghiêm sức thành, có năm trăm thứ sắc, trong mỗi sắc, các thứ nhật nguyệt muôn sao, cung điện trời rồng, mọi sự hiếm thấy đối với chúng sanh ở thế gian đều hiện ở trong”. Trong kinh, Duy-ma nói: “Khi ấy Trưởng giả Duy-ma-cật hiện sức thần thông, tức thời Phật kia khiến đưa ba vạn hai ngàn tòa Sư tử cao rộng trang nghiêm vào trong thất Duy-ma-cật. Các vị Bồ-tát, đệ tử lớn, trời Thích Phạm, bốn vị Thiên Vương v.v… từ xưa trước chưa từng thấy thất đó rộng rãi đều bao dung cả ba vạn hai ngàn tòa Sư tử mà không trở ngại. Nơi thành Tỳ-xá-ly và cõi Diêm-phù-đề, bốn thiên hạ cũng chẳng bị bức bách chật hẹp, đều hiện như cũ”. Trong phẩm Nhập Pháp Giới ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phu nhân Ma-da nói với Thiện Tài Đồng tử rằng: “Này thiện nam! Bấy giờ Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất lúc sắp giáng thần, có chúng Bồ-tát đông nhiều như số cực vi trần cùng với quyến thuộc ở mười cõi Phật từ cung trời xuống vào trong thân ta, các Bồ-tát đó ở trong bụng ta hiện thần thông lớn du hành tự tại, hoặc lấy ba ngàn đại thiên thế giới mà làm một bước, cho đến hoặc lấy rõ thế giới như cực vi trần ở các cõi Phật nhiều không thể nói không thể nói mà làm một bước. Lại trong mỗi mỗi niệm, số thế giới như cực vi trần các cõi Phật ở khắp mười phương nhiều không thể nói, các chúng hội Bồ-tát ở nơi các Đức Như Lai và bốn Thiên Vương, trời Ba mươi ba, trời Tu-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, cho đến các Phạm Thiên vương ở cõi sắc đều lại muốn thấy thần thông quảng đại của Bồ-tát ở trong thai, mà cung kính cúng dường nghe nhận chánh pháp, đều vào trong thân ta. Tuy trong bụng ta đều hay chứa nhận chúng hội như vậy, mà thân chẳng rộng lớn cũng chẳng chật hẹp. Các Bồ-tát mỗi mỗi thấy tự mình ở nơi chúng hội, đạo tràng thanh tịnh nghiêm sức. Này thiện nam! Các Bồ-tát trong bốn thiên hạ cõi Diêm-phù-đề đây thọ sanh, ta đều vì làm mẹ. Trong ba ngàn Đại thiên thế giới trăm ức bốn thiên hạ cõi Diêm-phù-đề thảy đều như vậy, nhưng thân ta đây xưa nay không hai, cũng lại chẳng phải một, chẳng phải một trú xứ, chẳng phải nhiều trú xứ. Tại sao? Vì tu môn Bồ-tát Đại nguyện trí huyễn trang ng- hiêm giải thoát vậy”. Như các bậc Tiên đức nói: “Rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, đó là nghóa ở nơi bào thai, nếu như vậy thì tất cả chúng sanh đều ở nơi bào thai phu nhân Ma-da, chẳng riêng một mình Đức Thích-ca vậy. Tại sao? Vì tâm chúng sanh tức là pháp giới. Lại, nếu tỏ ngộ tâm không tức không thai phần. Như trong kinh Bồ-tát Xứ Thai nói: “Phật bảo Di-lặc: “Bồ-tát Hạnh không nói: Nào đến các cõi nước ở mười phương giáo hóa chúng sanh”. Di-lặc thưa: “Bồ-tát Hạnh không chẳng thấy cõi nước, cũng không có Phật, Phật tự không Phật. Cớ sao có Phật, đất nước gió lửa nhân ngã thọ thảy đều không tịch. Do vì như vậy nên không có thai phần”. Các trần hiện khắp là ngang thì gồm khắp tất cả xứ, dọc thì suốt hết tất cả thời gian, giẫm vào lớp lớp khắp chứa tròn đủ. Các bậc cổ đức nói: “Tất cả mọi sự chẳng thể nghó bàn ở nơi tất cả xứ đều hay hiện khắp, đó chỉ là ứng dụng của một pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô. Pháp thân đó tức là tâm vậy. Do đó, nói: “Nếu hay quán sát chắc thật tâm không hai mới thấy được thân Tỳ- lô thanh tịnh. Một niệm khởi ác, pháp thân cũng tùy hiện, một niệm thiện tâm sanh, pháp thân cũng tùy hiện, gọi là xứ xứ hỗ tương hiện, cho đến hiện nơi sắc, hiện nơi không, tự tại vô ngại. Lại chớ xa suy chư Phật, chỉ tự một niệm tâm không đó, lại như Hải ấn đóng dấu khắp tất cả. Trong phẩm xuất hiện ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Bồ-tát Ma- ha-tát nên biết Như Lai thành Chánh giác, với tất cả các nghóa, không chỗ quán sát, với pháp bình đẳng, không chỗ nghi hoặc, không hai, không tướng, không đi, không dừng, không lường, không ngằn mé, xa lìa hai bên, trú ở trung đạo, vượt quá tất cả văn tự ngôn thuyết, biết tâm tánh sở hành, căn tánh ưa thích, nhiễm tập phiền não của tất cả chúng sanh. Tóm yếu mà nói là trong một niệm thảy đều biết tất cả các pháp ba đời. Phật tử! Thí như biển lớn khắp hay in hay hiện hình tượng sắc thân của tất cả chúng sanh trong bốn thiên hạ, cho nên cùng nói lấy làm biển lớn, nên trong kinh nói có Hải ấn Tam-muội”. Sớ Thích nói: Hải ấn Tam-muội có mười nghóa; căn khí là sở hịên, định tâm của Bồ-tát là năng hiện, không gì chẳng không tâm nên gọi là Tam-muội. Một là, không tâm năng hiện, trong kinh nói: “Không có công dụng, không phân biệt”. Hai là, hiện không chỗ hiện, trong kinh nói “như bóng ảnh ánh sáng” vậy. Ba là, năng hiện và sở hiện chẳng phải một. Bốn là, chẳng phải khác, trong kinh nói: “Biển lớn năng hiện, năng sở khác nhau nên chẳng phải một. Ngoài nước tìm kiếm ảnh tượng chẳng thể được nên chẳng phải khác. Hiển bày định tâm đây và pháp sở hiện tức là tướng của tánh vậy. Năng và sở rõ ràng tức là tánh của tướng vậy, vật và ngã không hai”. Năm là, không đến đi hiện muôn pháp ở tự tâm, kia cũng chẳng lại, bày thân mây ở pháp giới, chưa từng tạm đi. Sáu là, rộng lớn. Trong kinh nói: “Khắp đều bao dung không chỗ cản cự, rõ tâm Tam-muội khắp nơi pháp giới thì sắc tâm chúng sanh đều là vật trong định tâm. Dụng khắp pháp giới cũng chẳng lìa tâm đây”. Bảy là, hiện khắp. Trong kinh nói: “Tất cả đều năng hiện”. Lại nói: “Bồ-tát in khắp các tâm hành”. Đây so với rộng lớn có khác vậy, vì đây nói về sở hiện, chẳng kén chọn lớn nhỏ, kia nói về năng hiện, lượng đó khắp cùng. Tám là, chóng hiện, trong kinh nói: “Vì một niệm hiện, gọi là không trước sau, như in chóng thành”. Chín là, thường hiện, chẳng phải như gương sáng có lúc hiện lúc chẳng hiện. Mười là, chẳng phải hiện diện, như gương sáng đối diện đến mới hiện, tượng của Tứ thiên chẳng đối mà hiện, nên nói chẳng phải hiện hiện. Vì chẳng đợi đối diện cho nên thường hiện khắp cùng Tam tế vậy. Trên đây là nghóa Hải ấn hiện, tùy lý sự năng sở mà phân làm mười môn, chỉ là nghóa của một chân tâm tịch chiếu hiện khắp. Nếu có chẳng hiện, tức là khách trần tự ngăn, lưới kiến tự cách, chẳng phải lỗi lầm của pháp thân. Trong Luận Ma-ha- diễn nói: “Pháp thân chư Phật Như Lai bình đẳng tự nhiên khắp tất cả xứ, không có tác ý, chỉ y tựa tâm chúng sanh mà hiện. Tâm chúng sanh, giống như ở gương, gương nếu có dơ bẩn thì sắc tượng chẳng hiện. Như vậy, tâm chúng sanh nếu có dơ bẩn thì pháp thân chẳng hiện. Đó như nhật nguyệt sáng giữa trời mà người mù chẳng thấy, sấm sét nổ động đất mà người điếc chẳng nghe. Đạo khế hợp thì gần, vì chẳng tại thân gần, người có phước ra đời thì ngọc lâm lang hiện vậy, người bạc phước ra đời thì gai gốc mọc vậy, đều do tự tâm có hiện và chẳng hiện. Nếu người tỏ rõ ngay tâm tánh, thảy đều bình đẳng hiển hiện”. Như trong Thần kiếm ca của Hòa thượng Lạc Phố nói: “Quân tử được đó quên đây kia, tiểu nhân được đó tự khinh cuộc sống. Người khác chẳng dùng kiếm nhà ta, trên đời cao thấp sớm muộn bằng”. Sở dó chúng sanh chẳng được rõ ràng hiện sáng đều trệ có mê chân, trệ chân trong mê, trong trệ mê tánh thành ba thứ duyên tập, do đó thành chướng. Như Thiên Thai sớ thích kinh Tịnh Danh nói: “Khí loại chúng sanh vô lượng vô biên, nguyên chánh yếu đó chẳng vượt ngoài ba thứ duyên tập khí loại: Một là, loại hữu vi duyên tập tức là cõi nhiễm tịnh ở nội giới thảy đều mê chân trệ có mà khởi kết nghiệp. Bẩm thọ phần đoạn sanh tử đều là loại chúng sanh hữu vi duyên tập. Hai là, loại vô vi duyên tập, tức là cõi nước có thừa ở ngoại giới và cõi nước quả báo, cho đến cõi nước hạ phẩm trung phẩm thường tịch quang, chúng sanh ở ba cõi nước đó, mê Phật tánh trung đạo, trệ vô vi chân không, duyên vô vi khởi các kết nghiệp, nhận thọ biến dịch sanh tử, là loại chúng sanh vô vi duyên tập. Ba là, tự thể pháp giới duyên tập, tức là Bồ-tát mê tự thể mà khởi. Như trong Tông môn nói: “Đã thấy chẳng quên, nay ngoài thất chiết phục chúng sanh hữu vi duyên tập ở giới nội, tiếp đến một phẩm đệ tử, chiết phục chúng sanh vô vi duyên tập, và sau là một phẩm Bồ-tát, tức là chiết phục tự thể pháp giới chúng sanh duyên tập”. Hỏi: Vô vi duyên tập và tự thể duyên tập là đồng hay khác? Đáp: Danh gọi tuy có khác biệt, lầm hoặc thể không khác hàng Nhị thừa mê tự thể, khởi vô vi sanh tính lường chấp trước vô vi nên chánh thọ danh xưng vô vi duyên tập. Bồ-tát cũng mê tự thể khởi vô vi duyên tập mà Bồ-tát quán phá vô vi chấp trước, vô vi duyên tập chưa hết, lầm hoặc này kèm gá thể riêng nhận thọ danh xưng của tự thể duyên tập. Như phàm phu mê chân khởi hữu vi duyên tập. Người học thấy chân đoạn kiến tu hoặc, tư duy chưa hết, còn ở chân lý có danh xưng của tham nhuế sắc nhiễm vô sắc. Hỏi: Người học hữu vi duyên tập chẳng tận cùng thấy chân, còn có lầm hoặc chẳng căn cứ chân, gọi là tự thể duyên tập. Bồ-tát vô vi duyên tập, chẳng cùng tận thấy chân, sao được riêng nhận thọ danh xưng của tự thể duyên tập? Đáp: Hàng Nhị thừa thấy chân chỉ là không lý, không lý chẳng phải pháp thân, chẳng được lập danh xưng của tự thể. Bồ-tát thấy chân thật là pháp thân, pháp thân thường tại, nên được riêng lập danh xưng tự thể duyên tập vậy. Bồ-tát hoặc chưa biết, chưa biết nên phải chiết phục. Cho nên ba thứ duyên tập chẳng mất, do đó pháp thân chẳng hiện. Lại, Đại sư Viễn nói: “Nghóa duyên tập là gồm chỉ một thứ, hoặc phân làm hai, nói về chân vọng khai. Một là, vọng duyên tập, ba cõi hư vọng chỉ một tâm tạo tác, như điều thấy trong mộng đều là vọng tâm hiểu. Hai là, chân duyên tập: tất cả các pháp đều từ chân tâm khởi lên, như điềm thấy trong mộng đều là báo tâm tạo tác. Hoặc căn cứ thuyết tâm thức thì có ba: Một là, căn cứ sự duyên tập, từ sự thức đó khởi tất cả các pháp; hai là, vọng duyên tập, từ vọng duyên đó khởi tất cả các pháp; ba là, chân duyên tập. Trong thể chân thức đủ quá tất cả hằng sa tánh đức, hỗ tương tập thành, nên gọi là duyên tập. Lại từ chân thức khởi tất cả các pháp, nên trong kinh nói: Nếu không có Như Lai Tạng thức thì bảy thức chẳng trú, chẳng được nhàm khổ, vui cầu Niết-bàn. Do Như Lai Tạng nên khởi các pháp. Lại căn cứ ở thuyết hữu vi và vô vi thì có ba, tức: Một là hữu vi duyên tập; hai là vô vi duyên tập; ba là đủ cả hai duyên tập. Hỏi: Thấu rõ ngay tâm đây là Phật, lại còn dùng tám tướng thành đạo chăng? Đáp: Nếu thấu rõ tâm đây tức là thiên chân Phật, chẳng nói thành hay không thành. Nếu nói thành Phật là lời phụ trợ, cũng là lời tăng thêm. Trong kinh Viên Giác nói: “Tất cả Như Lai Diệu Viên Giác tâm, vốn không Bồ-đề cùng với Niết-bàn, cũng không thành Phật và chẳng thành Phật, không vọng luân hồi và chẳng phải luân hồi v.v… giải thích rằng: Vốn không Bồ-đề cùng với Niết-bàn tức đây là tên gọi của chuyển y. Cũng gọi là lời trú quán, chuyển phiền não nên lập hiệu Bồ- đề, chuyển sanh tử nên được danh Niết-bàn. Nếu rõ phiền não là tánh không, sanh tử vốn tịch tónh, đã không tướng của sở chuyển cũng không danh của năng chuyển. Không ai chẳng thành Phật là không vọng luân hồi. Cũng không thành Phật là không gì chẳng phải luân hồi. Chỉ diệu viên giác tâm, lại không chỗ có, như nay chỉ sợ chẳng được ánh sáng của Tông Kính, nếu được ánh sáng đó thì tự nhiên vào môn Viên giác, chiếp khắp pháp giới. Do đó, các bậc Tiên đức nói: Gậy bay nếu lên đường cố quốc, chớ buồn thiên hạ chẳng nghe tiếng”. Cư só Bàng Uẩn có bài tụng rằng: “Mười phương lại một hội, mỗi tự học vô vi. Đây là nơi chọn Phật, tâm thông đỗ đạt về”. Như vậy thì tự nhiên ứng niệm, đến khóa tùy nơi đỗ đạt, nào phải nhận dự ghi mà đợi dương danh ấy ư? Như người xưa có bài ca rằng: “Chẳng tọa thiền, chẳng trì luật, Diệu giác tâm châu sáng như mặt nhật, đương thể hư huyền một vật không, ai người tiếp nhận Phật Nhiên Đăng?” Hỏi: Nghiệp quả chúng sanh là chủng tử hiện hành nhiều kiếp huân tập giống như keo rít, cớ sao chỉ rõ một tâm chóng đoạn thành Phật? Đáp: Nếu chấp tâm cánh là thật, nhân Phật chẳng không, nhọc trải qua muôn kiếp tu hành, trọn chẳng chứng thành đạo quả. Nếu chóng tỏ ngộ vô ngã, thấu đạt vật hư, thì năng sở đều tiêu, có gì chẳng chứng? Giống như bụi nhỏ tung nơi gió mát mạnh, thuyền nhẹ đi giữa dòng chảy, chỉ sợ chẳng tin một tâm, tự sanh nạn trở. Nếu vào Tông Kính, đến đâu chẳng theo. Vả lại, như Bồ-tát Dõng Thí nhân phạm dâm dục còn ngộ vô sanh. Tỳ-kheo-ni Tánh, vô tâm tu hành cũng chứng đạo quả. Huống gì tin hiểu Phật nhất thừa, thật rõ tự tâm mà không được chứng ư? Hoặc có người nghi ngờ rằng: “Há chẳng đoạn phiền não ư?” Giải thích rằng: Chỉ chắc thật quán sát đạo dâm vọng từ trên một tâm khởi, ngay đó tự tịch lắng, nào phải cầu đoạn. Do đó, chỉ rõ một tâm, tự nhiên muôn cảnh như huyễn. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều từ tâm huyễn sanh. Tâm đã không hình, pháp nào có tướng? Vì vậy, Hòa thượng Cao Thành có bài ca rằng: “Thuyết giáo vốn cùng lý không tướng, rộng đọc xưa nay chẳng biết tâm, biết lấy tâm, rõ lấy cảnh, biết tâm rõ cảnh sông thiền lặng, nếu hay rõ cảnh liền biết tâm, muôn pháp đều như ảnh Thát- bà”. Tỳ-kheo-ni Tánh tức Ma-đăng-già, trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật bảo A-nan: “Ma-đăng-già kia còn là dâm nữ vô tâm tu hành, do sức thần ngầm giúp chóùng chứng vô học. Cớ sao các ông tại trong hội Thanh văn cầu tối thượng thừa quyết định thành Phật thí như đem bụi trần tung nơi thuận gió, có gì hiểm nạn?” Trong kinh Tịnh Nghiệp Chướng nói: “Bấy giờ có một Tỳ-kheo tên là Vô Cấu Quang vào thành Xá-ly, theo thứ tự mà khất thực, vì không biết nên vào nhà dâm nữ, khi ấy Vô Cấu Quang vào nhà đó rồi, lúc đó dâm nữ khởi tâm nhiễm ô, mà nghó rằng: “Nay ta hẳn chết, nên cùng Tỳ-kheo này chung hành dục pháp, nếu chẳng theo ý ta, ta hẳn tự vẫn”. Nghó như thế rồi bèn liền đóng cửa, nói cùng Tỳ-kheo rằng: “Xin cùng Tôn giả chung làm việc dục, nếu chẳng theo ý tôi, tôi hẳn sẽ chết”. Khi ấy Tỳ-kheo Vô Cấu Quang nói cùng dâm nữ rằng: “Thôi đi, Đại tỷ! Ta nay không nên phạm phải việc này. Tại sao? Giới pháp Phật chế, ta phải phụng hành, thà bỏ thân mạng chớ chẳng hủy giới đó”. Lúc đó dâm nữ lại nghó rằng: “Nay ta phải dùng cỏ thuốc chú thuật khiến Tỳ-kheo nay cùng làm việc dục”. Liền nói với Tỳ-kheo rằng: “Nay tôi không thể khiến ông thối chuyển hủy phạm giới cấm, xin chỉ nên thọ nhận vật thực tôi hiến thí”, liền vào trong phòng, bèn chú thuật vào thức ăn rồi dùng đặt vào bình bát của Tỳ-kheo, do sức chú thuật nên khiến Tỳ-kheo liền mất chánh niệm, dấy khởi dục tâm triển chuyển tăng mạnh. Bấy giờ dâm nữ thấy nhan sắc Tỳ-kheo đổi khác, bèn đến trước đưa tay cùng làm việc dục. Khi ấy, Tỳ-kheo cùng dâm nữ kia cùng nhau ái lạc. Hành dâm dục rồi, mang các vật thực trở về tinh xá, về đến tinh xá rồi, sanh tâm lo sợ hối hận, khắp mình mẩy nóng bừng, tự nghó: “Ôi thay! Sao làm thân phá hủy đại giới? Nay ta không nên nhận thọ của người tín thí. Nay ta là người phá giới, sẽ phải đọa vào địa ngục”. Khi ấy, Tỳ-kheo Vô Cấu Quang hướng đến các vị Tỳ-kheo đồng phạm hạnh mà nói rằng: “Nay tôi phá giới, chẳng phải là Sa-môn, hẳn sa đọa vào địa ngục”. Bấy giờ có vị Tỳ-kheo hỏi Vô Cấu Quang rằng: “Có nhân duyên gì mà phá giới đó?” Tỳ-kheo Vô Cấu Quang nói lại đầy đủ sự việc trên. Lúc đó các vị đồng học nói với Tỳ- kheo Vô Cấu Quang rằng: “Nhân giả nên biết, đây có Bồ-tát Ma-ha-tát tên là Văn-thù-sư-lợi đã chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, khéo hay diệt trừ tội phá giới, cũng khiến chúng sanh lìa các ngăn che trói buộc. Nay tôi cùng ông đến nơi Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, để trừ lo sợ hối hận”. Khi ấy, Vô Cấu Quang còn như cũ chưa ăn, cùng các vị Tỳ-kheo đồng đến nơi Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử, đến rồi thưa hỏi cung kính cúng dường, và liền đem sự việc trên thưa rõ cùng Văn-thù-sư-lợi. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo cùng Vô Cấu Quang rằng: “Nay ông tạm hãy ăn đã, ăn xong sẽ cùng đến nơi Đức Như Lai, hỏi Như Lai về việc ấy, rồi theo sự chỉ dạy của Đức Như Lai mà cùng thọ trì”. Tỳ-kheo Vô Cấu Quang ăn xong cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến nơi Đức Phật, đến rồi đảnh lễ sát chân Đức Phật xong rồi lui ngồi một phía. Khi đó, Tỳ-kheo Vô Cấu Quang trong tâm lo sợ chẳng dám hỏi Phật. Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù-sư- lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh sửa y phục để bày vai hữu, gối hữu quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật và đem sự việc trên thưa trình rõ ràng. Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi Vô Cấu Quang: “Ông thật có như vậy ư?” Vô Cấu Quang thưa: “Thật vậy”. Phật hỏi: “Ông vốn có tâm muốn phạm dâm chăng?” Vô Cấu Quang thưa: “Không vậy”. Phật hỏi: “Ông vốn không tâm, cớ sao mà phạm?” Vô Cấu Quang thưa: “Sau lúc đó, con mới sanh dục tâm”. Phật bảo: “Tâm Tỳ-kheo như vậy có phạm dục chăng?” Vô Cấu Quang thưa: “Phạm vậy”. Phật hỏi: “Ta thường chẳng nói tâm dơ nên chúng sanh dơ, tâm tịnh nên chúng sanh tịnh ư?” Vô Cấu Quang thưa: “Có dạy như vậy”. Phật hỏi: “Ý ông nghó thế nào, ông từng trong mộng lúc thọ dục, tâm hay biết chăng?” Vô Cấu Quang thưa: “Có hay biết”. Phật bảo: “Vừa rồi ông phạm dục, đâu chẳng phải do tâm mà hay biết ư?” Vô Cấu Quang thưa: “Đúng vậy”. Phật bảo: “Nếu vậy, Tỳ- kheo lúc tỉnh mộng phạm dục có sai biệt gì?” Vô Cấu Quang thưa: “Tỉnh mộng phạm dục không có sai biệt”. Phật bảo: “Ý ông nghó thế nào? Ta trước chẳng nói tất cả các pháp đều như mộng ư?” Vô Cấu Quang thưa: “Có vậy”. Phật bảo: “Ý ông nghó thế nào? Tỉnh và mộng hai tâm đó đều chân thật ư?” Vô Cấu Quang thưa: “Không như vậy, Bạch Đức Thế Tôn!”. Phật bảo: “Nếu chẳng phải chân thật, là có pháp vậy”. Vô Cấu Quang thưa: “Không như vậy, bạch Đức Thế Tôn!”. Phật bảo: “Ý ông nghó thế nào? Không chỗ có pháp là có sanh ư?” Vô Cấu Quang thưa: “Không như vậy, bạch Đức Thế Tôn!”. Phật bảo: “Nếu pháp không sanh, vậy có diệt, có trói buộc, có mở thoát chăng?” Vô Cấu Quang thưa: “Không như vậy, bạch Đức Thế Tôn!”. Phật bảo: “Ý ông nghó thế nào? Pháp không sanh còn không chỗ có, mà phải có đọa vào ba đường ác ư?” Và, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Tất cả các pháp tánh vốn thanh tịnh, nhưng vì các phàm phu ngu muội vô trí, đối với pháp có và không chẳng biết như thế nào nên vọng sanh phân biệt, vì phân biệt nên đọa ba đường ác”. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: “Các pháp không thật mà hiện các thứ chỗ ứng với việc làm, vì đắm trước tham dục, sân nhuế, ngu si, phàm phu v.v… nên phân biệt các pháp, vì không biết như thế nào là phải quấy chân thật”. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: “Các pháp hư dối, như ngựa giữa đồng trống vậy. Các pháp như mộng, bản tánh tự tại, vui vẻ thanh tịnh vậy. Các pháp rốt ráo, như trăng trong nước, và bọt bóng v.v… vậy các pháp vắng lặng vì không có các lỗi lầm tai hoạn già bệnh chết. Các pháp không chấn thủ, chẳng phải là sắc pháp, không thể thấy vậy. Các pháp không tụ, như hư không vậy. Các pháp không tánh, vượt quá các tánh vậy. Các pháp trong lắng, vượt quá hư vọng vậy. Các pháp rộng lớn, không nơi chốn vậy. Pháp không chỗ làm, rốt ráo vắng lặng vậy, pháp không chỗ y tựa, cảnh giới là không vậy, pháp không gốc rễ, rốt ráo không vậy, pháp lìa ngăn che trói buộc, vì phiền não kết sử không thể được vậy, pháp lìa cháy bừng, vì tánh chẳng sanh vậy”. Cho đến lúc Vô Cấu Quang nghe nói pháp đó, tâm sanh hoan hỷ, mừng buồn xen nhau rơi lệ, chấp tay nhất tâm quán Phật, và liền nói kệ tụng rằng: “Vui thay Thế Tôn công đức lớn, Các trời, người đời chỗ tựa nương, Khéo rõ tất cả pháp thắng diệu, Kính lạy Đấng năng đoạn khổ hạnh”. Đức Phật lại bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Thuở quá khứ có Đức Phật hiệu là Vô Cấu Quang, bấy giờ có vị Tỳ-kheo tên là Dõng Thí vào trong thành Nan-thắng, theo thứ tự mà khất thực, đến nơi nhà vị Trưởng giả, nhà đó có một người nữ dung mạo đoan chánh, thấy Dõng Thí rồi, tâm sanh ái nhiễm. Cho đến nhân gá cớ bệnh, thỉnh mời Dõng Thí đến giảng nói pháp. Sau đó, Dõng Thí vài lần đến nhà đó, dẫn cùng thân hậu, vài lần cùng trông thấy nhau, bèn mất chánh niệm mà sanh dục tâm, tức cùng người nữ đó đồng làm việc dâm, tâm bèn đắm trước, vài lần qua lại. Khi ấy, chồng người nữ đó thấy vị Tỳ-kheo đó thường luôn qua lại, nên tâm khởi ngu si sân giận, liền bày phương tiện muốn giết ông. Tỳ-kheo Dõng Thí nghe việc ấy rồi, liền lấy thuốc độc đem trao cho người nữ đó mà bảo rằng: “Nếu hẳn thật nghó tưởng về tôi thì có thể lấy thuốc độc để giết chồng cô. Bấy giờ con gái trưởng giả đem thuốc độc hòa trong thức ăn, rồi bảo kẻ tớ : đem thức ăn đó cho chồng ta ăn, người chồng đó ăn xong bèn liền chết mất. Khi ấy, Dõng Thí nghe người chồng đó chết, tâm sanh ra hối hận, tự tư duy rằng: “Nay việc ta làm rất là ác nặng, sao gọi là Tỳ-kheo! Nhận pháp hành dâm, lại giết mạng người. Nay ta như vậy, sẽ phải về đâu? Vô cùng lo sợ, nếu ta mạng chung sẽ đọa vào đường ác. Ai có thể khiến ta thoát khỏi nỗi khổ như vậy”. Do vì việc đó mà từ một tinh xá đến một tinh xá khác, khiếp sợ rong chạy đến nỗi y phục rơi rớt giữa đất, và nói lời rằng: “Ôi thay! Quái lạ thay! Nay ta tức là chúng sanh ở địa ngục”. Khi đó có một tinh xá tên là Hê Vô, trong đó có vị Bồ-tát tên là Tỷ-cúc-đa-la. Tỳ-kheo Dõng Thí liền vào trong phòng đó, gieo mình xuống đất. Khi ấy, Bồ- tát đó hỏi Dõng Thí rằng: “Cớ sao ông tự gieo mình xuống đất?” Dõng Thí đáp: “Đại Đức! Nay tôi tức là chúng sanh ở địa ngục”. Bồ-tát lại hỏi: “Ai khiến ông làm người địa ngục?” Dõng Thí đáp: “Tôi tạo đại tội, phạm ở giới dâm, lại giết mạng người”. Khi ấy, Bồ-tát đó bảo cùng Dõng Thí rằng: “Tỳ-kheo! Chớ nên kinh sợ, nay với sức lực tôi có thể thí cho ông sự không khiếp sợ”. Lúc ấy, Dõng Thí nghe tiếng Bồ-tát đó nói thí cho sự không khiếp sợ, trong tâm sanh vui mừng nhảy nhót vô lượng. Khi ấy Bồ-tát Tỷ-cúc-đa-la liền từ đất tiếp Dõng Thí dậy, dùng cánh tay phải dẫn dắt đến nơi khác, ngồi trong rừng cây. Lúc đó Bồ-tát Tỷ-cúc-đa-la liền nhập diệu môn Đại thừa cảnh giới chư Phật, Bảo Ấn Tam-muội của Như Lai nhập rồi, liền ngay trên thân xuất hiện vô lượng thân Phật đều sắc màu vàng ròng có ba mươi hai tướng tốt khắp đầy giữa rừng cây. Lúc đó chư Phật liền đồng tiếng nói kệ tụng rằng: “Các pháp đồng ảnh gương, Cũng như trăng trong nước, Phàm phu tâm ngu hoặc, Phân biệt si nhuế ái”. Cho đến “Các pháp thường không tướng, Tịch tónh không gốc rễ, Vô biên chẳng thể thủ, Dục tánh cũng như vậy”. Lúc đó, trong rừng có hai vạn Thiên tử đến nơi Bồ-tát Tỷ-cúc-đa- la nghe giảng pháp, nghe nói kệ tụng đó rồi, liền chứng đắc vô sanh pháp nhẫn”. Hỏi: Diệu viên giác tâm đã không chỗ có, cớ sao trong giáo nói những việc chư Phật thành Đẳng chánh giác xuất hiện nơi đời v.v…? Đáp: Một là, do chúng sanh căn cơ đã thuần thục, tự tâm cảm hiện. Hai là, do bản nguyện nhân địa của Bồ-tát. Nhưng cảnh giới chư Phật rộng lớn vô biên, chẳng phải chỗ tình thức biết được, chỉ thấy tánh mới có thể rõ. Nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Bồ-tát Ma-ha- tát dùng trí tuệ không chướng không ngại, biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai, biết cảnh giới tất cả ba đời, biết cảnh giới tất cả cõi nước, biết cảnh giới tất cả pháp, cảnh giới tất cả chúng sanh, cảnh giới chân như không sai biệt, cảnh giới pháp giới không chướng ngại, cảnh giới thật tế không biên tế, cảnh giới hư không không phân lượng, cảnh giới không cảnh giới là cảnh giới Như Lai. Phật tử! Như cảnh giới tất cả thế gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới tất cả ba đời vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng, cho đến như cảnh giới không cảnh giới vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới không cảnh giới tất cả xứ không có, cảnh giới Như Lai cũng tất cả xứ không có như vậy. Phật tử! Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết cảnh giới tâm là cảnh giới Như Lai, như cảnh giới tâm vô lượng vô biên, không trói buộc không mở thoát, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên không trói buộc không mở thoát. Tại sao? Vì như vậy, tư duy phân biệt như vậy. Như vậy, vô lượng hiển hiện như vậy, nên biết phàm thánh không ngằn mé, tâm cảnh nhất nguyên. Chân không tánh mà tức tướng phát minh, tướng không thể mà nhân chân dựng lập. Nên nói trí thân rỗng lắng, gồm muôn trượng để thành thể, muôn trượng không hình, dùng trí thân mà ngang bằng thể. Lại như trong một luận hóa hiện, đây là sức bi nguyện nhân địa của chư Phật, khiến chúng sanh căn cơ thuần thục tự tâm cảm hiện, trong tâm chúng sanh, chư Phật ứng hiện không cùng, trong tâm chư Phật, căn cơ chúng sanh chẳng tận. Do đó, pháp thân không tượng, gặp cảm thành hình, diệu ứng vô phương ứng niệm hiện vết. Do rõ ngộ bình đẳng mà đến với các hoài mong, mà riêng như ma-ni, vì đạt không riêng tư nhậm với các căn cơ mà đồng như trống trời. Xưa trước có bài tụng rằng: “Phật là Phật trong tâm chúng sanh, Tùy tự tâm kham không vật khác, Muốn biết nguồân tất cả chư Phật, Ngộ vô minh mình vốn là Phật”. Như trong kinh Phật Địa nói: “Tùy chỗ chúng sanh vui thích mà thị hiện, vì pháp tánh bình đẳng nên thành”. Trong Luận Thích nói: “Tùy các hữu tình vui thích thấy sắc thân Như Lai sai biệt. Như Lai thị hiện sắc thân như vậy, Như Lai tuy ở ngôi vị không hý luận. Do sức tăng thượng của bình đẳng trí nên đại liên cảnh trí tương ưng tịnh thức, hiện sắc thân vi diệu như lưu ly v.v… khiến thiện căn của hữu tình thành thục, tự tâm biến tợ thân tướng như vậy. Gọi đó là tự ngoài tâm thấy thân Như Lai”. Như trong Khế kinh nói: “Do căn lực từ thiện của chư Như Lai có chỗ thị hiện, khiến tự tâm của trời, người v.v… biến khác thấy thân Như Lai như vàng ròng v.v…”. Lại như trong kinh nói: “Nếu chỗ ứng hóa vô lượng hữu tình thích nghi thấy sắc lưu ly ma-ni báu, Như Lai tức hay vô ngại thị hiện các thứ sắc lưu ly ma-ni báu, khiến tự tâm kia cũng biến như vậy. Cho đến nói rộng, thị hiện tất cả hình tướng Như Lai bình đẳng như vậy. Bình đẳng như vậy tức là pháp tánh, cho nên gọi là pháp tánh bình đẳng, nghóa là các Đức Như Lai tùy đồng chỗ hóa hữu tình vui thích thấy hình tướng sắc thân, tức mỗi mỗi thị hiện đồng xứ đồng thời mà khác loại hình tướng, khiến tự tâm kia biến hiện như vậy làm việc lợi lạc. Như A-lại-da thức nơi các hữu tình cùng tướng chủng thuần thục, mỗi mỗi biến hiện tướng thế giới v.v…, đồng xứ tương tợ chẳng trở ngại nhau, đây cũng như vậy, như tướng sắc thân, các việc khác cũng vậy. Do vì thị hiện đây trước tu tập viên mãn thành tựu vậy”. Trong kinh Bình Đẳng Tánh Trí Viên Mãn Thành Tựu Độ Nhất Thiết Chư Phật Cảnh Giới Trí Nghiêm nói: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi: “Không sanh không diệt, tướng đó như thế nào?” Phật dạy: “Không sanh không diệt tức là Như Lai. Này Văn-thù-sư-lợi! Thí như mặt đất do chất lưu ly tạo thành, cung điện vật cúng v.v… của Đế-thích Tỳ-xà Diên ảnh hiện trong đó, người Diêm-phù-đề thấy đất Lưu ly, ảnh các cung điện, chắp tay cúng dường đốt hương rải hoa, nguyện ta được sanh nơi cung điện như vậy, ta sẽ vui chơi như trời Đế-thích v.v… Các chúng sanh ấy không biết đất đó là ảnh cung điện, mới bố thí trì giới tu các công đức, vì được quả báo cung điện như vậy. Văn-thù-sư-lợi! Như cung điện đó thật không sanh diệt, vì đất sạch nên ảnh hiện trong đó, ảnh cung điện đó cũng có cũng không, chẳng sanh chẳng diệt. Văn-thù-sư-lợi! Chúng sanh thấy Phật cũng lại như vậy, vì tâm họ tịnh nên thấy thân Phật. Thân Phật vô vi chẳng sanh chẳng diệt, chẳng khởi chẳng tận, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng phải sắc, không thể thấy, chẳng phải không thể thấy. Chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng phải thế gian, chẳng phải tâm chẳng phải chẳng phải tâm. Vì tâm chúng sanh tịnh thấy thân Như Lai rải hoa đốt hương cúng dường các thứ, nguyện ta có được sắc thân như vậy. Bố thí trì giới làm các công đức, vì được thân vi diệu của Như Lai vậy. Như vậy Văn-thù-sư-lợi! Thần lực Như Lai xuất hiện nơi đời, khiến các chúng sanh được lợi ích lớn, như ảnh như tượng tùy chúng sanh thấy. Lại nói dụ như ánh sáng mặt nhật vô tâm chiếu khắp. Dụ ma-ni vô tâm mưa báu, dụ âm vang trong hang cốc không thật v.v… Đất lưu ly đó v.v… dụ như tâm chúng sanh, ảnh dụ như thân Phật”. Lại, trong kinh Hoa Nghiêm có dụ Ma-ni tùy ánh ngời, Ma-ni hiện sắc dụ như thân tự thọ dụng có bản dắc đó. Chỉ không khác của xanh vàng v. v… khác của xanh vàng v.v… là tùy cơ ánh ngời sanh. Lại như đem hư không dụ như thân Phật, tức thân pháp tánh, vì hư không không tướng vậy, chẳng tùy phương góc mà có tăng giảm. Vì pháp tánh hình vậy, chẳng phải y báo hóa mà hiện tinh thô. Như trong phẩm Thập Định ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Thí như hư không ở trong lỗ thủng nơi hạt cải do sâu trùng đục ăn cũng chẳng giảm nhỏ, ở trong vô số thế giới, cũng chẳng tăng rộng. Thân chư Phật đó cũng lại như vậy, lúc thấy lớn cũng không chỗ tăng, lúc thấy nhỏ cũng không chỗ giảm”. Các thuyết như trên đều dụ thấy Phật nhưng ở dụ gương ảnh rất thân gần như hình chất đưa lại đối diện gương, trong gương hiện ảnh tượng. Ảnh tượng là ảnh tượng hình chất, có cảm đối cùng cõi nước, trong cõi nước thấy Phật. Phật là Phật tâm, nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Hóa Phật từ tâm cung kính mà khởi”. Lại, đại ý các dụ đều lấy thể không sanh diệt chẳng ngại sanh diệt. Như chẳng phải sắc là nói về thể, chẳng phải chẳng sắc là nói về dụng. Thì pháp thân báo thân đồng một ngằn mé, thể và dụng không sai. Đều hội không sanh, đồng quy về Tông Kính. Lại nếu lấy sắc thanh mà chấp là hành tà đạo, nếu lìa sắc thanh mà chấp, tức chưa khỏi đoạn không. Xưa trước giải thích rằng: Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Sắc thân chẳng phải Phật, âm thanh cũng như vậy, cũng chẳng lìa sác thanh, thấy sức thần thông Phật”. Nếu y theo Quyền giáo, bản ảnh bốn câu, thể dụng đều phân, nếu y theo tông đây, bốn câu đều dụng, vì biết tất cả các pháp tức tự tánh của tâm, bản chất ảnh tượng cũng là tự tâm, ngang dọc ngang bằng tất cả các pháp chẳng vượt ngoài tâm tánh vậy. Như trong Bát-nhã rõ sắc là Bát- nhã, đầy đủ rõ ràng các pháp. Vả lại, mới trải qua ngũ uẩn nói là rõ sắc là Bát-nhã tất cả các pháp hướng đến sắc. Sắc còn chẳng thể được, cớ sao phải có hướng đến và chẳng phải hướng đến, trải qua các pháp đầy đủ như thế đều vậy. Bát-nhã ý tợ ngay tánh các pháp chẳng khác sắc tánh nên đều hướng đến sắc. Sắc chẳng thể được, ngay pháp tánh không đã không chỗ hướng đến, sao có thể hướng đến? Nếu ý Trí Giả thì tất cả các pháp hướng đến sắc là giả quán, sắc còn chẳng thể được là không quán. Cớ sao phải có hướng đến và chẳng phải hướng đến tức là Trung Đạo Quán. Nay chỉ cốt yếu ở câu đầu, vì lấy sắc tánh làm các pháp y tựa, vì tánh gồm thâu nên đều hướng đến sắc, thì trong một sắc đầy đủ tất cả các pháp, là ý của vô ngại vậy, tùy một pháp đều gồm thâu cả pháp giới vậy. Nếu hay thấu hiểu như vậy thì phàm có thấy nghe tất cả cảnh giới, không gì chẳng phải là Phật xuất hiện nơi đời. Như trong kinh Đại Tập nói: “Bấy giờ trong chúng có một vị Bồ-tát tên là Tuệ Tụ, bạch Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Sanh lão bệnh tử xuất hiện nơi đời tức là Phật xuất hiện. Vô minh ái xuất hiện tức là Phật xuất hiện. Tham nhuế si xuất hiện tức là Phật xuất hiện, tất cả lưới nghi phiền não xuất hiện tức là Phật xuất hiện. Tại sao? Nếu các pháp như vậy v.v… chẳng xuất hiện nơi đời, thì Phật do duyên gì mà xuất hiện nơi đời?” Phật dạy: “Lành thay! Tốt thay! Này thiện nam! Thật đúng như điều ông nói”. Bấy giờ Bồ-tát Hải Tuệ thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chẳng thấy các pháp như vậy v.v… khi ấy Như Lai xuất hiện nơi đời, hay chẳng xuất hiện nơi đời?” Phật dạy: “Này thiện nam! Bồ-tát lúc mới phát tâm Bồ- đề, chân thật không biết các pháp như vậy v.v… cho nên ta vì truyền nói đó. Này thiện nam! Bồ-tát có bốn thứ: Một là, mới phát tâm Bồ-đề; hai là, tu hành đạo Bồ-đề; ba là, kiên cố chẳng thối Bồ-đề; bốn là, một đời sẽ bổ xứ làm Phật. Bồ-tát phát tâm thấy sắc tướng Phật, thấy rồi liền phát tâm Bồ-đề. Bồ-tát tu hành thấy Phật đầy đủ tất cả các thiện pháp thấy rồi liền phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát chẳng thối thấy thân Như Lai và tất cả các pháp thảy đều bình đẳng, Bồ-tát một đời chẳng thấy Như Lai có các công đức và tất cả các pháp. Tại sao? Vì chứng đắc tuệ nhãn rõ ràng thanh tịnh vậy, đoạn hai kiến chấp vậy, thanh tịnh trí tuệ vậy. Nếu chẳng thấy tịnh chẳng thấy chẳng tịnh, chẳng thấy chẳng phải tịnh chẳng phải chẳng tịnh, người đó tức hay thấy rõ Như Lai. Lại, các bậc cổ đức giải thích chỉ quán của Thai giáo nói: Chỉ đạt một niệm tự tâm là pháp giới, mười phương chư Phật cùng tất cả chúng sanh đồng, một không trú, vốn một pháp giới, làm thân làm cõi nước, không kia không đây, không căn không trú xứ, không tu chẳng tu, không chứng chẳng chứng, không phàm không thánh, chỉ chúng sanh tự cho là vọng tưởng trói buộc làm phàm, vì chẳng tu vì chẳng chứng, cho là Phật là Thánh là tu là chứng. Tu chủng phàm thánh tại chúng sanh tự gượng lập đó. Trong ngôi vị Phật đều không danh đây vậy, chỗ thấy của chư Phật thì thân của tất cả chúng sanh phàm Thánh là pháp thân Phật, tất cả cõi nước đều là cõi nước Phật. Tất cả các pháp là pháp Phật, tất cả tâm là một tâm, cùng tận mười phương ba đời, suy cầu không có một mảy may, hoặc sắc hoặc tâm chẳng là cảnh trí Phật lý, sáng suốt khắp cùng pháp giới, từng không một việc, điềm nhiên thân tâm không chỗ hành xử, Phật tâm đã vậy, ta học trí Phật như Phật dụng tâm, tức chỉ quán sáng sạch vậy. Phật hiện tức tâm ta hiện, hiện và chẳng hiện chỉ tại ảnh tượng trên gương tự tâm vậy. Hỏi: Há đều không có Phật ở ngoài có thể thấy ư? Đáp: Tự tha không hai, chỉ Như Lai có đồng thể đại bi, chúng sanh có sức của huân tập, gõ đánh vào gương trí đồng thể, tùy trên tâm đó cảm thấy tướng hảo. Ảnh tượng của trong gương, nhưng chẳng lìa gương, mà chẳng phải tức là gương, tùy chiếu có đẹp xấu, người cảm có ngàn sai, tướng cũng là muôn phẩm, hoặc có địa sâu dày, hoặc thân Phật cao lớn ngàn vạn do-tuần, thọ mạng vô lượng A tăng-kỳ kiếp. Dùng vô số thế giới như vi trần các cõi Phật mà làm một cõi nước tịnh diệu. Nói vô lượng vô biên pháp môn nhiều không thể nói không thể nói, hoặc người trời quả báo khác, thị hiện tám tướng, một kỳ lợi ích chẳng quá thời gian vài trăm năm, như mây trời trăng nước bỗng chốc mà sanh, đó đều do tâm người cảm trong một niệm. Cho là sắc thân Phật lại ứng, Phật thật không có thế lực đến đi, không có quá hoạn của có hình, không pháp có thể nói, không căn cơ được độ, chỉ do thiện duyên tâm tưởng của chúng sanh cho là Phật lại ứng vì ta mà giảng nói pháp. Thật là ở trên tự tâm chúng sanh hiện tướng đó vậy. Hỏi: chúng sanh có thiện căn kích động vào gương trí Đại viên của Phật, hiện ảnh tượng đây. Tượng thì thuộc về Phật ư? Đáp: Gương thuộc là Phật, tượng chẳng thuộc về Phật. Tượng nếu thuộc Phật, thì Phật sanh diệt lưu động. Tượng nếu thuộc chúng sanh, chúng sanh thì nghiệp kết trói buộc, sao có thể đủ tướng tốt đó? Chỉ cảm ứng Đạo giao mới thấy đó vậy. Hỏi: Đã là ảnh tượng trên gương trí của Phật, sao nói hiện trên tâm chúng sanh? Đáp: Đồng thể gương tròn, chẳng thiên lệch thuộc Phật và chúng sanh, vì đồng một thể, chỉ chúng sanh mãi ánh ngời gương chính mình mà chưa được toàn sáng vậy. Có thể tạm hiện tướng đó để biểu thị sức tấn tu. Hỏi: Nếu vậy, chúng sanh tự cảm trên gương tâm mà hiện tượng chẳng nói tượng Phật hiện. Phật tức không tác dụng ở nơi chúng sanh hư dối kính mộ, đâu có ích gì? Đáp: Do tâm kính mộ mà cảm tượng hiện vậy. Đó thật là sức lực Phật, há chúng sanh có thể đặt để ư? Hỏi: Đó cũng sức Phật ở tự nơi chúng sanh, chẳng phải sức Phật khác vậy? Đáp: Phật địa không có tự tha. Ông cưỡng cho là tự Phật và Tha Phật (Phật mình và Phật khác) là tâm chúng sanh chẳng cùng tận vậy. Hỏi: Nếu vậy chỉ chung làm một Phật, không thể mỗi mỗi tự thành vậy? Đáp: Chẳng chung làm một Phật, chẳng mỗi mỗi tự thành, nghóa này khó rõ, thử nêu một thí dụ xem. Như chùa Quốc Thanh là pháp giới vậy, vị Tăng trú trì là cổ Phật vậy, người từ xa tạm đến tạm cảm Phật vậy, ngày khác kính mộ mến thích nên xuống tóc vào chùa, thì Quốc Thanh tức là chùa ta vậy. Ngũ phong đường tùng, điện đài phòng hiên thảy đều là ta có vậy, chóng được thọ dụng, chẳng giảm vật khác thành nhà ta vậy, chẳng mỗi người riêng tạo một chùa vậy, chẳng cùng người khác phân một chùa vậy, phân tức là tùy theo người đi, pháp giới thường trú không thể phân vậy. Nghóa này rút từ trong kinh Niết-bàn nói: Thí như giữa đường có một cây lớn, bóng cây che mát, người đến đều nhận vào, không ai chẳng được chở che bảo hộ, không người mang đi. Đã ấn từ kim khẩu, có thể phụng trì. Lại, cơ ứng tương quan, cảm ứng duyên hội, hay thấy tất cả vô biên Phật sự. Vì Phật là Tăng thượng duyên, bi nguyện rộng lớn, căn lực từ thiện, vì chúng sanh là quả đẳng lưu, do chí thành cảm nên, căn cơ thuần thục mà thấy. Nhưng tất cả chẳng vượt ngoài tự tâm, như sư tử hiện trong ngón tay, voi say kính lễ sát chân, mẹ hiền gặp con, giặc mù được sáng, thành quách biến làm lưu ly, đá đất giữa không giới, Thích nữ lành vết thương, Điều-đạt bệnh thuyên giảm, đó đều do Đức Bổn sư nhiều kiếp huân tu căn lực từ thiện, khiến tự tâm tất cả chúng sanh cảm thấy, những sự như trên, có thể để chứng minh văn đây, nên torng kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo: “Này thiện nam! Như Đề-bà-đạt-đa chỉ bảo vua A-xà-thế, muốn hoại Đức Như Lai. Bấy giờ ta vào thành lớn Vương-xá, lần lượt khất thực, vua A-xà-thế liền thả voi Hộ Tài cuồng say muốn khiến hại ta và các đệ tử. Cho đến lúc ấy ta muốn khiếp phục voi hộ tài nên liền nhập từ định, buông duỗi ngón tay đó, liền ngay trên năm ngón tay xuất hiện năm sư tử, voi đó trông thấy rồi, tâm bèn khiếp sợ, sau đó liền vung cả phẩn dải, gieo cả thân mình xuống đất, kính lễ sát chân ta. Này thiện nam! Lúc ấy trên đầu năm ngón tay ta, thật không có sư tử. Đó là do tu căn lực từ thiện vậy, khiến voi kia điều phục. Lại nữa, này thiện nam! Ta muốn nhập Niết-bàn, mới đầu lúc vừa đặt chân đến thành Câu-thi-la, có năm trăm lực só ở giữa đường đó sửa sang quét tước, trong đó có một tảng đá, mọi người muốn giở bỏ, dùng hết sức lực mà không thể nỗi. Khi ấy, ta xót thương bèn khởi tâm từ, chỉ chốc lát các lực só kia liền thấy ta dùng ngón chân cái giở tảng đá lớn đó ném đặt giữa hư không, lại đưa tay tiếp nhận lấy, đặt để trên bàn tay phải, thổi khiến vỡ nát, rồi tụ hợp lại, khiến tâm cống cao của các lực só kia tự dứt bỏ và liền vì lược nói các thứ pháp cốt yếu, khiến họ đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Này thiện nam! Lúc bấy giờ thật chẳng dùng ngón chân dất tảng đá lớn đó lên giữa không trung, rồi đặt để trên bàn tay phải, thổi khiến vỡ nát và lại nhóm hợp như cũ. Này thiện nam! Phải biết tức là căn lực từ thiện, khiến các lực só thấy sự như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Ở Nam Thiên Trúc đây có một thành lớn tên là Thủ-ba-la, trong thành đó có một Trưởng giả tên là Lô Chí làm chủ dẫn dắt mọi người, ở trong thời quá khứ, nơi vô lượng chư Phật đã từng gieo trồng thiện căn. Này thiện nam! Trong thành lớn đó tất cả nhân dân tin phục tà đạo phụng sự Ni-càn. Lúc ấy ta muốn độ trưởng giả đó nên từ thành Vương-xá đến thành ấp đó. Đường đó dài xa sáu mươi lăm do-tuần, ta từng bước thư thả mà đi, vì muốn độ các người đó. Chúng Ni-càn kia nghe ta muốn đến thành Thủ-ba-la, liền khởi ý niệm rằng: “Sa-môn Cù-đàm nếu đến nơi đây, các nhân dân đây sẽ bỏ chúng ta chẳng cung cấp gì, chúng ta sẽ khốn cùng tiều tụy, làm sao để tự sống”. Các hàng Ni-càn mỗi tự phân tán bảo mọi người trong thành đó rằng: “Nay Sa-môn Cù-đàm muốn đến nơi đây, nhưng Sa-môn đó bỏ cả cha mẹ, rong ruỗi Đông Tây, các nơi đi đến hay khiến đất đai lúa thóc chẳng tươi tốt, nhân dân đói kém chết mất lắm nhiều, gầy bệnh lần lượt không thể cứu giải. Cù-đàm vô lại, thuần đem các La-sát quỷ thần ác lấy làm đồ chúng, không cha không mẹ, các người có cùng mà lại thưa hỏi xin làm môn đồ. Những điều dạy răn thuần nói hư không, tùy nơi Cù-đàm đến, bắt đầu không an lạc, người ấy nghe rồi bèn ôm lòng lo sợ, đầu thành kính lễ sát thân Ni-càn tử, mà thưa rằng: “Đại sư! Nay chúng tôi phải làm kế gì?” Ni-càn Tử đáp: “Sa-môn Cù-đàm tánh vốn ưa thích núi rừng dòng suối nước trong, ở ngoài nếu có thì nên phá hoại. Các người bèn có thể cùng nhau ra ngoài thành, nếu các nơi có thì chặt phá khiến hết chớ để có thừa. Dòng suối giếng hồ, đều tung rải phẩn uế, đóng chặt cửa thành, mỗi nơi đều nghiêm đặt khí trượng, ở tường thành phải phòng hộ chuyên cần tự gìn giữ. Nếu Cù-đàm kia đến, chớ khiến được tới trước. Nếu chẳng tới trước thì các người sẽ an ổn. Chúng tôi cũng làm các thứ thuật, khiến Cù-đàm kia theo đường cũ trở về, các người đó nghe lời nói ấy rồi, kính vâng thi hành, chặt phá cây cối, ô nhiễm các dòng nước, nghiêm đặt các khí trượng, phòng hộ chặt chẽ. Này thiện nam! Bấy giờ ta đến thành đó rồi chẳng thấy các thứ cây cối rừng trầm, chỉ thấy mọi người trang sức khí trượng, tự giữ ở vách tường. Thấy việc ấy rồi, bèn sanh thương xót, đem tâm từ hướng đến. Nơi có cây cối, trở lại sống như cũ, sanh trưởng tươi tốt, ngoài ra các thứ cây khác nhiều không thể tính kể, sông ao suối giếng, nước đó trong sạch tràn đầy ở trong, như lưu ly xanh sanh ra các thứ hoa tạp phủ kín trên đó, biến cát thành tường làm thành lưu ly sắc xanh, nhân dân trong thành đều được thấy suốt ta và đại chúng. Cửa tự mở rộng không thể cản chế, nơi nghiêm đặt khí trượng đều biến thành hoa tạp. Trưởng giả Lô Chí làm bậc Thượng thủ, cùng nhân dân đó đều cùng theo nhau đi đến nơi Phật, ta tức vì nói các thứ pháp yếu, khiến các người đó tất cả đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Này thiện nam! Lúc ấy, ta thật chẳng hóa các thứ cây cối, dòng nước trong sạch tràn đầy sông ao, biến thành gốc đó làm lưu ly sắc xanh, khiến nhân dân đó thấy suốt nơi ta, mở cửa thành đó, khí trượng làm hoa. Này thiện nam! Phải biết đó đều là căn lực từ thiện hay khiến mọi người kia thấy sự như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Trong thành Xá-vệ có một Bà-la-môn nữ vốn dòng họ Bà-tư-tra, chỉ có một người con, nên rất mến quý nó, không may cảm mắc bệnh mà chết mất. Khi ấy người nữ đó sầu độc nhập tâm cuồng loạn mất tánh, lõa lồ thân mình không biết xấu hổ, đi giữa đường cái, gào khóc thất thanh, nói rằng: “Con! Con! Con ở nơi nào?” Đi khắp thành ấp không có nhọc mệt, mà người nữ đó đã ở nơi chư Phật xưa trước gieo trồng các gốc đức. Này thiện nam! Khi ấy đối với người nữ đó, ta khởi tâm từ xót thương, người nữ đó liền được thấy ta, bèn sanh tưởng là con, trở lại được bản tâm, đến trước ôm chầm thân ta, kêu gào nơi miệng ta. Lúc đó ta liền bảo Thị giả A-nan: “Ông nên mang y trao cho người nữ đó”. Đã trao y rồi bèn nói các pháp yếu. Người nữ đó nghe pháp rồi vui mừng nhảy nhót, phát tâm A-nậu-đa-la Ta-miệu Tam-bồ- đề. Này thiện nam! Lúc đó ta thật chẳng phải người con kia. Người nữ kia chẳng phải là mẹ ta, cũng không ôm chầm. Này thiện nam! Phải biết đó đều là căn lực từ thiện, khiến người nữ kia thấy việc như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Ở thành Ba-la-nại có một Ưu-bà-di tên là Ma- ha-tư-na-đạt-đa, đã ở nơi Đức Phật Vô Lượng Quang trong thời quá khứ gieo trồng các thiện căn, Ưu-bà-di đó sau chín mươi ngày mùa hạ, thỉnh mời chúng tăng mà dâng cúng các thứ thuốc thang. Khi ấy trong tăng chúng có một vị Tỳ-kheo thân mắc bệnh nặng, các vị lương y chẩn đoán cần có thuốc thịt, nếu có được thịt thì bệnh có thể dứt trừ, nếu không có được thịt thì mạng sống sẽ chẳng an toàn. Lúc đó, Ưu-bà-di ấy nghe lời nói của lương y rồi, liền mang vàng ròng đi khắp trong phố chợ, mà rao hỏi rằng: “Ai có thịt bán, tôi sẽ dùng vàng để mua, nếu có được thịt thì sẽ trao trả vàng cân bằng”. Đi khắp thành chợ hỏi tìm mà không thể được. Sau đó, Ưu-bà-di ấy tự dùng dao cắt thịt lá lách của mình, thái dùng làm canh, hòa thêm các thứ hương vị rồi đem dâng vị Tỳ-kheo bệnh, vị Tỳ-kheo đó dùng rồi, bệnh được lành khỏi, còn Ưu-bà-di đó vì vết thương đau, khổ não không thể kham nhẫn, liền phát tiếng xưng niệm “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà!”. Lúc ấy ta ở tại thành Xá- vệ nghe âm thanh ấy liền đối với người nữ đó khởi tâm đại từ. Sau đó, người nữ ấy được thấy ta đem thuốc tốt bôi thoa trên vết thương đó, bèn được lành lại như cũ. Ta liền vì đó nói giảng các pháp, người nữ đó nghe pháp rồi hoan hỷ, phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Này thiện nam! Lúc ấy, ta thật chẳng đến thành Ba-la-nại đem thuốc bôi thoa nơi vết thương Ưu-bà-di đó. Này thiện nam! Phải biết đó đều là căn lực từ thiện khiến người nữ ấy thấy việc như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Điều-đạt là người ác, tham chẳng biết đủ, do dùng nhiều váng sữa nên đầu đau bụng đầy, phải chịu khổ não không thể kham nhẫn, phát lời niệm xưng: “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà”. Lúc đó, ta đang ở tại thành Ưu-thuyền-ni, nghe âm thanh đó rồi liền sanh tâm từ. Sau đó, Điều-đạt liền được thấy ta đến nơi đó, đưa tay xoa đầu và bụng, trao cho nước muối ấm nóng và bảo uống đó, uống rồi trở lại bình phục. Này thiện nam! Ta thật chẳng đến nơi Điều-đạt xoa đầu và bụng đó trao nước ấm nóng và bảo uống. Này thiện nam! Phải biết đó đều là căn lực từ thiện, khiến Điều-đạt thấy việc như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Ở nước Kiều-tát-la có các bọn giặc số đông đến năm trăm, kết thành bè đảng cướp giết làm hại rất lắm. Vua Ba-tư-nặc gặp phải hung bạo đó nên sai binh lính dò bắt, bắt được rồi móc mắt, thả vào trong rừng rậm tối mịt. Các bọn giặc đó đã ở nơi chư Phật xưa trước gieo trồng gốc đức, nay bị móc mắt rồi, nhận chịu rất khổ não, mỗi mỗi tự xưng niệm rằng: “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà! Nay chúng con không được ai cứu hộ!”. Gào khóc thảm thiết, lúc đó ta ở tại tịnh xá Kỳ hoàn, nghe âm thanh đó rồi liền sanh tâm từ. Khi đó có luồng gióù mát thổi trong Hương sơn, các thứ thuốc thơm tỏa đầy trong vành mắt họ mà vì giảng nói pháp, bọn giặc nghe pháp rồi liền phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Này thiện nam! Bấy giờ ta thật chẳng làm gió thổi trong Hương sơn, các thứ thuốc hương và đứng trước mặt người đó mà vì giảng nói pháp. Này thiện nam! Phải biết đó là đều do căn lực từ thiện khiến các bọn giặc ấy thấy việc như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Thái tử Lưu Ly do vì ngu si nên phế bỏ vua cha, tự lập mình làm chủ. Lại nhớ nghó ghét ganh xưa trước mà hại nhiều người dòng họ Thích, đem một muôn hai ngàn người dòng họ Thích và các người nữ, cắt lóc tai mũi, chặt đứt tay chân, vất bỏ xuống hầm hố mà chôn lấp. Bấy giờ thân các người nữ nhận chịu khổ não, liền xưng niệm rằng: “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà! Nay chúng con không có ai cứu hộ!”, lại gào khóc lớn. Lúc ấy ta đang ở trong Trúc Lâm nghe âm thanh đó liền khởi tâm từ, và lúc đó các người nữ thấy ta đến thành Ca-tỳ-la, dùng nước tẩy rửa vết thương, đem thuốc trao cho, thống khổ sau đó được dứt trừ, tai mũi tay chân trở lại như cũ. Lúc đó, ta liền vì lược nói các pháp yếu, khiến tất cả đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, và liền đến nơi Tỳ-kheo ni Đại Ái Đạo, xuất gia thọ giới cụ túc. Này thiện nam! Lúc bấy giờ, Như Lai thật chẳng đến thành Ca-tỳ-la dùng nước tẩy rửa vết thương, trao thuốc khiến dứt khổ. Này thiện nam! Phải biết đó đều do căn lực từ thiện, khiến các người nữ ấy thấy việc như vậy. Tâm bi hỷ cũng lại như vậy. Này thiện nam! Do vì nghóa đó, Bồ-tát Ma-ha-tát tu từ tư duy tức là chân thật, chẳng phải hư vọng vậy. Này thiện nam! Phàm là vô lượng tức không thể nghó bàn, sở hành của Bồ-tát không thể nghó bàn, sở hành của chư Phật không thể nghó bàn. Kinh điển Đại thừa và kinh Niết-bàn đó cũng lại chẳng thể nghó bàn”. Đem văn sáng rõ đây có thể làm chứng minh thành thật, thì biết ba cõi chín giới, tất cả các pháp nhiễm tịnh v.v… đều chẳng vượt ngoài pháp giới tâm của chúng sanh. Giống như họa só họa vẽ ra tất cả các cảnh giới. Tâm họa só đó cũng lại như vậy. Do đó, trong kinh chánh pháp niệm xứ nói: “Lại, Tỳ-kheo kia quán sát như vậy, cớ sao chúng sanh có các thứ sắc, các thứ hình tướng? Có các thứ đạo, các thứ y chỉ? Lại, quán sát kia có các thứ tâm, các thứ y chỉ, các thứ tin hiểu, có các thứ nghiệp. Các thứ sắc, các thứ hình tướng, các thứ đạo, các thứ y chỉ như vậy đó v.v… thí như họa só sáng suốt khéo léo. Nếu học trò họ quán sát nền tảng khéo bằng chắc trơn tốt đẹp, được nền tảng đó rồi, các thứ sắc thái, các thứ tạp sắc, hoặc đẹp hoặc xấu tùy tâm làm nên như hình tướng kia. Tâm nghiệp họa só, nếu học trò họ cũng lại như vậy, nền tảng khéo bằng chắc trơn nghiệp quả báo, nền tảng sanh tử giới, tùy chỗ hiểu đó tạo các thứ hình tướng các thứ các đạo, các thứ y chỉ, tâm nghiệp họa só, nghiệp làm chúng sanh. Lại, các sắc thái, lấy sắc trắng làm trắng, lấy sắc đỏ làm đỏ, lấy sắc vàng làm vàng, nếu lấy sắc đen thì làm sắc đen. Tâm nghiệp họa só cũng lại như vậy. Duyên sắc trắng lấy sắc trắng, ở trong trời người thì thành sắc trắng. Bởi nghóa gì mà gọi là trắng? Lậu cấu của dục v.v… chỗ chẳng nhiễm ô nên gọi là sắc trắng. Cũng lại như vậy, tâm nghiệp họa só lấy sắc thái màu đỏ, ở trong trời người hay làm sắc đỏ. Bởi nghóa gì mà gọi là đỏ? Điều gọi là ưa thích thanh vị hương xúc sắc, Họa só quán sát y phục, cũng lại như vậy. Tâm nghiệp họa só lấy sắc thái màu vàng, ở trong đường súc sanh hay làm sắc vàng, bởi nghóa gì gọi là vàng? Đây kia thay nhau cùng uống máu ăn thịt, tham dục sân nhuế lại cùng giết hại, nên gọi là sắc vàng. Cũng lại như vậy, tâm nghiệp Họa só lấy sắc thái chim khác. Bởi nghóa gì gọi là chim khách? Vì thân kia giống như lửa đốt rừng cây, đói khát nhiễu não các thứ khổ bức, tâm nghiệp Họa só, tâm mờ chấp giữ, si ám ngăn che, cũng lại như vậy. Tâm nghiệp Họa só lấy sắc thái màu đen, ở trong địa ngục họa làm sắc đen làm các thứ bệnh, thân khổ đói khát, vô lượng khổ bức đều là nghiệp tự mình chẳng phải do kẻ khác tạo tác. Lại, Tỳ-kheo kia quán sát ba cõi năm đạo, năm thứ sắc màu sanh tử họa vẽ y phục, ở nơi ba địa trú, gọi là dục giới địa, sắc và vô sắc địa. Tâm nghiệp Họa só tập quen gần dâm dục, phan duyên dục giới các thứ sắc họa, duyên sắc y chỉ có mười hai thứ. Lìa dục tứ thiền lấy làm bút họa, y cứ mười sáu địa là nơi chỗ họa, làm sắc giới, lìa duyên sắc giới tam- ma bạt-đề, duyên vô sắc giới họa làm bốn xứ. Tâm nghiệp Họa só rộng hoa vẽ y phục lớn ba cõi như vậy. Lại, Tỳ-kheo kia quán sát tâm nghiệp Họa só như vậy, thân như thái khí (vật đựng màu), tham dục sân nhuế lấy làm cứng chắc, tâm phan duyên giống như thềm thang, căn như bút họa, bên ngoài các cảnh giới thanh xúc vị sắc và các hương v.v… như các thứ màu sắc, sanh tử như đất, trí như ánh sáng, chuyên cần phát tinh tấn, như tay tương tợ, chúng sanh như họa, thần thông như vô lượng hình phục kia, có vô lượng thứ nghiệp quả báo sanh, như họa thành tựu. Lại, Tỳ-kheo kia y cứ thiền quán sát, tâm nghiệp họa só có các pháp khác, như Họa só kia chẳng sanh nhọc mệt khéo sửa sắc thái, mỗi mỗi sáng sạch, khéo biết bút đẹp, họa làm sắc đẹp. Tâm nghiệp Họa só cũng lại như vậy chẳng sanh nhọc mệt, như tu thiền định khéo sửa trị thiền thái, phan duyên sáng sạch, như thái sáng sạch. Các sư tu đạo, như bút khéo đẹp biết thượng hạ như thiện tri thức, có lấy có bỏ như chẳng nhọc mệt, thiền định như vậy. Tâm nghiệp Họa só thiền địa kia như sắc đẹp kia. Lại, kia như vậy, tâm nghiệp Họa só nếu có nhọc mệt thì họa vẽ không khéo, các đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh xử đồng nghiệp nhân duyên, chày sắt làm bút, sắc thái bất thiện họa vẽ chẳng phải đồ vật người (khí nhân). Chỗ gọi là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, các sắc màu như vậy v.v… chẳng phải sắc màu đẹp họa vẽ, nói rộng như trước”. Giải thích rằng: Do vì Họa só vận ý khéo hay vụng nắm bút năm sắc màu, ở trên nền tảng bằng chánh, dung mạo xuất hiện tất cả ảnh tượng tinh thô, như chúng sanh bẩm nhận tâm ngu hay trí, dấy bút ba nghiệp ở trên nền tảng thiện ác họa vẽ ra tất cả các việc khổ vui. Lại như Họa só ở đời chỉ họa được sắc ấm, nếu tâm Họa só hay họa được năm ấm. Lại, họa vẽ ở đời chẳng bền chắc, sắc lùi tượng cũng diệt. Tâm họa trải hoa nhiều kiếp, thân rơi rụng mà nghiệp chẳng mất. Lại, họa vẽ ở đời rất dễ biết, xấu xa đều có thể thấy. Tâm họa rất khó xét, quả báo chẳng thể biết. Như trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ có kệ tụng rằng: “Việc làm của các nghiệp, Quá hơn Họa só khéo, Nghiệp Họa só trong trời, Làm các thứ báo vui. Các thứ nhiều màu sắc, Hiện thấy thì đếm được, Tâm nghiệp bày các màu, Số đó chẳng thể biết. Hủy vách tranh sẽ mất, Cả hai đồng thời diệt, Như lúc thân diệt mất, Nghiệp họa chẳng thể mất. Thí như một Họa só, Tạo tác các văn sức, Một tâm cũng như vậy, Tạo tác các thứ nghiệp. Năm màu sắc sáng hiện, Thấy đó sanh vui thích, Năm căn họa cũng vậy, Như nghiệp có sanh tử. Như đời Họa só giỏi, Hiện tiền thì thấy được, Tâm Họa só vi tế, Tất cả chẳng thể thấy. Đồ họa hình đẹp xấu, Khiến vách các tượng hiện, Tâm nghiệp cũng như vậy, Hay tạo báo thiện ác. Tâm đó suốt đêm ngày, Nghó nhớ luôn chẳng dừng, Nghiệp tùy tâm như vậy, Triển chuyển thường chẳng lìa. Gió bụi khói mây nóng, Họa sắc thì hủy diệt, Bỏ thiện giữ bất thiện, Các nghiệp bèn mới mất.” Lại, y cứ kinh Ban Chu, thấy Phật, lược có bốn thí dụ: Một là, mộng thí dụ, như chỗ thấy trong mộng, từ phân biệt sanh, thấy tất cả Phật, từ tự tâm khởi. Hai là, nước ảnh thí dụ, nước dụ như tâm tánh thì bóng trăng của Phật đều là trong chân tâm chúng sanh, tâm Phật giao triệt chỉ chân tâm vậy. Ba là, huyễn thí dụ, tự tâm như huyễn thuật, tất cả chư Phật như huyễn mà thành, nghóa là có pháp năng huyễn mới thành sự huyễn, không tâm năng niệm thì không Phật sở thấy. Bốn là, hưởng thí dụ, thí như hang cốc trống rỗng tùy tiếng mà phát vang, ngộ hiểu tự tâm, tùy niệm thấy Phật, với bốn thí dụ trên: Thứ nhất chánh là thí dụ duy tâm; thứ hai là, do duy tâm nêu không; thứ ba là, do duy tâm nên giả; thứ tư là, do duy tâm nên trung. Lại nữa, thí dụ về mộng là chẳng đến chẳng đi, thí dụ về bóng ảnh là chẳng ra chẳng vào, thí dụ về huyễn là chẳng phải có chẳng phải không, thí dụ về vang hưởng là chẳng phải hợp chẳng phải tan. Như trong kinh có kệ tụng rằng: “Tâm là tâm chẳng biết, Tâm là tâm chẳng thấy, Tâm có tưởng thì si, Không tưởng thì Niết-bàn. Pháp đó chẳng bền chắc, Thường lập tại nơi tâm, Vì thấy hiểu được không, Tất cả không tưởng niệm”. Giải thích rằng: “Nếu tâm tự thấy tâm, tâm trước là năng thấy. Phật là sở thấy, dao chẳng tự cắt, tay chẳng tự xúc chạm, cớ sao tự tâm trở lại thấy tự tâm? Năng sở chẳng phân, thấy tướng đó tuyệt, nên trong kinh nói: “Tâm có tưởng thì si, nếu không tưởng thì tâm ngầm tánh Phật trọn tuyệt tư duy mong cầu vậy”. Như trên là tự tâm chúng sanh cảm hiện, tiếp đến là nguyện lực nhân địa của chư Phật Bồ-tát thị hiện hóa môn không có đoạn tuyệt. Do đó, trong kinh Duy-ma nói: “Tuy thị hiện thành Đẳng chánh giác mà chẳng xả bỏ đạo Bồ-tát, tuy ngộ tức tâm là Phật, chóng thành Bồ-đề, nhưng vì chúng sanh chưa đạt nên rộng tu phước nghiệp, để dẫn dắt người nghe sau cuối đều khiến mở hiểu đồng quay về địa đây”. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tuy hay một niệm tức thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhưng vì chúng sanh nên ở trong vô lượng kiếp hành hạnh Bồ-tát, không có dừng nghỉ. Đó là như núi tâm tăng thượng”. Lại nói: “Phật tử! Bồ-tát Ma-ha-tát lại tư duy rằng: A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề lấy tâm làm gốc, tâm nếu thanh tịnh thì hay viên mãn tất cả thiện căn, ở nơi Phật Bồ-đề hẳn được tự tại. Muốn thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tùy ý tức thành, nếu muốn đoạn trừ tất cả thủ duyên trú một hướng đạo, ta cũng năng đắc, mà ta chẳng đoạn, vì muốn cứu cánh Phật Bồ-đề vậy, cũng chẳng tức chứng Vô thượng Bồ-đề. Tại sao? Vì mãn bản nguyện hết tất cả thế giới, thực hành hạnh Bồ-tát hóa độ chúng sanh vậy”. Đó là tâm thệ nguyện thứ chín như Kim cang Đại thừa. Thí dụ so sánh như trên, chứng tín không nghi thì Phật đạo lập thành, chẳng phải do giáo khác, trọn không khởi ở niệm khác. Chỉ tự tịnh ở một tâm, có thể gọi là thuận chánh ý bản hoài đắc giáo của Phật vậy. Hỏi: Phật độ chúng sanh, chúng sanh lại có thể độ Phật chăng? Đáp: Nếu nói về nội quán, nhân rõ vọng niệm tạp thức chúng sanh, không thể phát giác tuệ đó, thành Phật của tự tâm, đó đâu chẳng phải là nhân chúng sanh được độ. Nếu luận về hóa bên ngoài là đều nhân chúng sanh cảm ra. Nếu không có duyên, đã không sở hóa, cũng chẳng thành Phật. Như trong kinh Tịnh Danh nói: “Bồ-tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh mà lấy cõi Phật”. Trong kinh Tịnh độ Tam-muội nói: “Chúng sanh cũng độ Phật, nếu không cảm, Phật chẳng xuất hiện nơi đời, cũng chẳng thể được thành Tam-bồ-đề. Bồ-đề xuất hiện nơi đời đều do căn cơ chúng sanh vậy”.  <卷>QUYỂN 19 TÔNG KÍNH LỤC - QUYỂN MƯỜI CHÍN Hỏi: Phàm như nói trên, Tổ giáo đồng giải thích, phàm nói có tâm đều được thành Phật. Như nay chúng sanh hiện thấy, sao chẳng thấy Phật? Đáp: Nếu dùng mắt chúng sanh để quán sát, chỉ thấy chúng sanh giới có thừa. Nếu dùng mắt Phật để quán sát, mới biết không ngoài chư Phật giới. Nên biết gió vọng vô minh cổ xúy biển tâm mà dễ động, chân tánh bản giác ngủ giấc mộng dài mà khó tỉnh. Do đó trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Tâm linh của ông tất cả sáng rõ chưa từng tạm mê mờ mà mê mờ là mục kích mà chẳng biết như ngọc đẹp chìm bùn tự chôn vùi giá cao, như vàng thật lẫn trong đá vụn rỗng núp sáng ngời”. Như trong kinh Pháp Hoa nói: “Xưa trước ta muốn ông an lạc tha hồ hưởng năm món dục lạc, ở ngày tháng năm đó, đem châu báu vô giá buộc dính trong áo ông, nay vẫn còn đó mà ông chẳng biết, khổ nhọc ưu não để cầu tự sống, rất là ngu si lắm. Nay ông đem châu báu đó đổi lấy những vật cần dùng, sẽ được như ý không chỗ thiếu thốn”. Nên biết bản giác thường thành, châu báu trong áo chẳng mất, nếu chẳng phải giáo của viên đốn thì lấy gì để rõ nay tự tâm? Nên trong kinh Viên Giác nói: “Do giác thành tựu, phải biết Bồ-tát chẳng cùng pháp ràng buộc, chẳng cầu pháp giải thoát, chẳng nhàm chán sanh tử, chẳng vui thích Niết-bàn, chẳng kính trì giới, chẳng ghét hủy phạm, chẳng trọng hành tập lâu, chẳng khinh chưa học. Tại sao? Vì tất cả đều giác vậy”. Vậy biết tất cả chúng sanh đều là bản giác thành tựu, vì bất giác nên nhận giác của tùy nhiễm thấy cảnh có hơn kém, khởi tâm vui chán, chỉ theo vọng luân hồi, chóng mê chân giác, nhưng nhân giác có bất giác, nếu không chân vọng không sở y, nên như khói không lửa chẳng bốc. Lại, giác nhân bất giác, như vàng tùy đồ đựng lại nhờ đồ đựng bày, vì sự hay hiển lý vậy. Do đó, chỉ chân chẳng lập riêng, vọng chẳng thành. Chỉ chân chẳng lập là quả Phật không sanh vậy, riêng vọng chẳng thành là không sở y vậy. Như các bậc Tiên đức có kệ tụng rằng: “Tất cả chúng sanh cõi vàng ròng, Trắng sạch không dơ trí chẳng hoại, Châu báu tự tại trong chéo áo, Chỉ muốn khổ nghèo ở ngoài cửa. Xe báu thanh tịnh giữa đường thông, Văn-thù dẫn dắt, Phổ Hiền nâng, Trâu trắng béo tốt nhiều sức mạnh, Một niệm đi khắp không cuộn buông. Xe báu như vậy chẳng chịu vào, Chỉ thích cần khổ đứng của đường, Bất chợt tự thân thường tại trong, Bỏ trên luôn nói ta chẳng kịp”. Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ tụng rằng: “Muốn cầu Nhất thiết trí, Chóng thành Vô thượng giác, Nên dùng tâm tịnh diệu, Tu tập hạnh Bồ-đề”. Lại có bài tụng nói: “Thí như ruộng béo tốt, Gieo trồng hẳn xanh tươi, Như vậy đất tâm sạch, Sanh ra các Phật pháp”. Vậy biết chư Phật trong mười phương không có một Phật nào chẳng tin tâm đây thành Phật, trong hai mươi tám vị Tổ, không có một vị Tổ nào chẳng thấy tánh đây mà thành Tổ. Như nay nghe mà chẳng thành Phật Tổ đều vì tin chẳng kịp, thấy chẳng chắc vậy. Nên học lời đó mà chẳng chiếu rọi tâm đó, chỉ chấp hiểu biết đó mà chẳng vào sâu pháp đó. Sao là tin? Tức là đạo vậy. Trong kinh nói: “Đức tin là mẹ công đức của tất cả nguồn đạo”. Thấy tức không nghi ngờ, nên trong kinh nói: “Thấy khổ đế, tập cũng trừ, huống gì cảnh giới hiện ở ngoài tâm, chỉ vào Tông Kính mới ngộ trước quấy, lúc tâm sáng thấu các vết tự hết”. Trong phẩm Xuất Hiện ở kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Bồ- tát Ma-ha-tát phải biết tự tâm niệm niệm luôn có Phật thành Chánh giác, tại sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm đây mà thành Chánh giác. Như tự tâm thì tâm của tất cả chúng sanh cũng lại như vậy, đều có Như Lai thành Đẳng chánh giác, rộng lớn khắp cùng không xứ nào chẳng có, chẳng lìa chẳng đoạn, không có dừng nghỉ, vào pháp môn phương tiện chẳng thể nghó bàn”. Xưa trước giải thích rằng: “Chẳng lìa tâm đây thành Phật là có hai: Một là, thân tâm chúng sanh tức chỗ chứng của chư Phật, Phật chứng ở thể chúng sanh, dụng ở dụng của chúng sanh. Hai là, toàn tức Phật là tánh Bồ-đề vậy, một tánh không khác. Đây tức quả khác tại nhân của ta, vì nhân ta thành quả khác vậy, gọi là vào pháp môn phương tiện chẳng thể nghó bàn. Do đó, chẳng được ý là làm chúng sanh tư duy nên là cũng chẳng thể, nói làm Phật tư duy là cũng chẳng thể, tức cũng chẳng thể, chẳng phải tức cũng chẳng thể. Ngay mắt tịnh trí chẳng chấp các tình. Trong kinh nói: “Phật tử! Khiến nương tựa đây biết không sâu nào chẳng tận”. Trong kinh Niết- bàn nói: “Hai mươi lăm hữu có ngã là tự thật danh ngã, điều gọi là tất cả các pháp thể thật, tất cả chúng sanh có Như Lai Tạng. Hay làm nhân Phật, gọi là Phật tánh, như trong tất cả các sắc đều có không tánh, nhưng chẳng phải riêng hữu tình đầy đủ chánh tánh của Như Lai. Trong tất cả các pháp đều có tánh an lạc. Do đó nói nếu dùng mắt thịt để quán sát thì không chân nào chẳng tục, nếu dùng pháp nhãn để quán sát thì không tục nào chẳng chân”. Lại nói: “Pháp thân lưu chuyển trong năm đường, gọi là chúng sanh”, chỉ pháp thân tức là chân như, lưu chuyển trong năm đường tức là tùy duyên, gọi là chúng sanh là nghóa sai biệt. Lại, do tùy duyên tức bất biến vậy. Tập sai biệt khiến thể không thì ngọn tónh lắng vậy, do thể không sai biệt vậy. Tập chẳng biến khiến tùy duyên nên gốc tónh lắng vậy. Vì toàn gốc làm ngọn, nên gốc bèn ẩn, toàn ngọn làm gốc nên ngọn bèn mất vậy. Đó thì chân như tùy duyên thành chúng sanh, ngọn từng mất ở chân thể, nên khiến chúng sanh chẳng phải chúng sanh vậy, chúng sanh thể không, tức lúc pháp thân chưa từng không chúng sanh vậy, chẳng phải pháp thân vậy. Nên cả hai đều tuyệt, cả hai đã hỗ tương tuyệt, thì chân vọng bình đẳng không thể khác vậy. Nên nói tùy duyên chẳng phải pháp thân có, luôn chẳng khác sự mà thành lập, tịch diệt chẳng phải chúng sanh không, thường chẳng khác chân mà hiển hiện, nên biết phiền não tức Bồ-đề, Bồ-đề tức phiền não. Do đó, trong kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói: “Phật bảo Thắng Thiên Vương rằng: “Thí như châu báu như ý vô giá trang sức ánh ngời sửa soạn sáng sạch rất đáng ưa thích, thể tròn rất sạch không có dơ đục rơi rớt trong bùn sình trải qua thời gian lâu, có người nhặt được lấy về gìn giữ không để rơi rớt. Pháp tánh cũng vậy, tuy tại trong phiền não mà không bị nhiễm, sau lại hiển hiện. Này Thắng Thiên Vương! Chư Phật Như Lai đều biết tự tánh thanh tịnh của chúng sanh do bị khách trần phủ che, chẳng vào tự tại, cho nên Bồ-tát Ma-ha-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, phải khởi tâm niệm là ta phải dõng mãnh cần tu tinh tấn, vì các chúng sanh nói Bát-nhã ba-la-mật sâu mầu này để trừ phiền não đó. Tất cả chúng sanh đều có tánh tịnh, cho nên đối với kia chúng sanh hạ liệt, phải biết tôn trọng, kia tức là thầy ta, nên đúng như pháp mà cung kính. Trong kinh Xà-na Đại Bi Xử Thai nói: “Ma Phạm Thích Nữ đều chẳng xả bỏ thân và chẳng thọ thân, đều ở nơi hiện thân được thành Phật vậy”. Có kệ tụng rằng: “Pháp tánh như biển lớn, Chẳng nói có phải quấy, Phàm phu người Hiền thánh, Bình đẳng không cao thấp, Chỉ tại tâm dơ diệt, Thủ chứng như trở tay”. Trong kinh Hoa Thủ nói: “Phật dạy: Này Kiên Ý! Vô ngại tế tức là vô biên tế, vô biên tế tức là tánh tất cả chúng sanh, đó gọi là tế môn, vào tế môn đó thì hay khai diễn ngàn muôn pháp tạng, pháp tạng đây tức chẳng phải tạng vậy. Này Kiên Ý! Trong pháp tạng của Như Lai có chỗ giảng pháp đều giảng tế đó. Lại có tạng sắc, tạng thọ tưởng hành thức, tạng phải tạng quấy, chẳng ở tự tạng, đó gọi là các tạng, dùng môn chữ A để vào”. Giải thích rằng: Chữ A tức nghóa vô sanh, nếu rõ tâm vô sanh thì không pháp nào có thể được, ngộ duy thức đây chính là cửa trước tiên vào đạo. Do đó trong kinh Đại Phẩm nói: “Không có một pháp khả đắc, gọi là chúng sanh. Phàm, nơi chúng sanh, tức là nghóa pháp thân. Như trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Xá-lợi-phất! Tức pháp thân này quá hơn số cát sông Hằng, vô lượng phiền não trói buộc, từ vô thủy đến nay tùy thuận thế gian, sóng cả sanh tử qua lại sanh diệt, gọi là chúng sanh”. Vậy biết, nếu nói chúng sanh tức là pháp thân, rất là khó hiểu, nên các bậc cổ đức nêu dẫn trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu có người có khả năng dùng tơ trong ngó sen để treo núi Tu-di, có thể nghó bàn chăng?” “Không vậy, bạch Đức Thế Tôn!”. Phật dạy: “Bồ-tát có thể dùng một niệm cân lường sanh tử không thể nghó bàn. Nay với lý viên minh khó hiểu, chỉ kính ngưỡng vâng tin mà thôi. Như nghe sanh tử có lý chẳng thể nghó bàn, mà chỉ kính ngưỡng vâng tin, chứ không thể một tâm tức Như Lai Tạng, nên chẳng phải trọn vẹn ý”. Trong kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Phật bảo: “Văn-thù! Nếu người hỏi ông, có bao nhiêu chúng sanh giới, ông đáp như thế nào?” Văn-thù thưa: “Chúng sanh giới số như Như Lai giới vậy”. Hỏi: “Tất cả chúng sanh buộc tại giới nào?” Đáp: “Như Như Lai buộc, chúng sanh cũng vậy”. Hỏi: “Chúng sanh giới trú tại xứ nào?” Đáp: “Trú tại Niết-bàn giới”. Lại nói: “Văn-thù nói: “Như hư không vô số, chúng sanh cũng vô số, hư không chẳng thể được, chúng sanh cũng chẳng thể được”. Do đó, ở trong chẳng thể được tùy ngôn ngữ ở đời có chỗ dựng lập. Cảnh giới phàm Thánh là phương tiện nói, đó là chẳng thể nghó bàn, rộng lớn thần biến. Như trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Lại nữa, pháp không tướng xuất mà nói pháp xuất ly, đó gọi là thần biến. Pháp không sai biệt, văn tự sai biệt, đó gọi là Thần biến. Pháp không chỗ hành, nói là tu hành, đó gọi là Thần biến. Pháp không đến đi, nói có đến đi, đó gọi là Thần biến. Nơi một đạo chứng, dựng lập các quả, đó gọi là Thần Biến. Tất cả chư Phật chỉ là một Phật, nói vô lượng Phật, đó gọi là Thần biến. Tất cả cõi Phật chỉ một cõi Phật, nói vô lượng cõi, đó gọi là Thần biến. Vô lượng chúng sanh tức một chúng sanh, nói vô lượng chúng sanh, đó gọi là Thần biến. Tất cả Phật pháp chỉ một Phật pháp, nói vô lượng pháp, đó gọi là Thần biến. Pháp chẳng thể hiển bày mà hiển bày các pháp, đó gọi là Thần biến. Pháp không sở đắc, tu tập làm chứng, đó gọi là Thần biến”. Cho đến “bấy giờ Trưởng lão Xá- lợi-phất nói cùng Thương Chủ Thiên tử rằng: “Ông nghe Thần biến đó, chẳng kinh sợ ư?” Thiên tử đáp: “Tôi tức là Thần biến, cớ sao phải kinh sợ?” Xá-lợi-phất hỏi: “Thiên tử! Vì ý ngầm gì mà nói như vậy?” Thiên tử đáp: “Tất cả các pháp hoặc thiện hoặc bất thiện, không động mà động, gọi là đại Thần biến. Cho nên, Xá-lợi-phất! Người làm thiện nghiệp, sanh ở trên đời, có oai đức lớn, thiện nghiệp như vậy chẳng thể nghó bàn. Tất cả chúng sanh qua lại sanh tử cũng chẳng thể nghó bàn, chẳng thể nghó bàn tức gọi là đại Thần biến. Như Phật giảng nói bốn thứ cảnh giới chẳng thể nghó bàn. Một là, cảnh giới nghiệp chẳng thể nghó bàn; hai là, cảnh giới rồng chẳng thể nghó bàn; ba là, cảnh giới thiền chẳng thể nghó bàn; bốn là, cảnh giớii Phật chẳng thể nghó bàn. Do vì nghóa đó, nên nói tất cả các pháp gọi là đại Thần biến, không nên khiếp sợ. Lại nữa, Xá-lợi- phất! Như Như Lai nói Thần biến đây, hư không giới nào có khiếp sợ ư?” Xá-lợi-phất đáp: “Không vậy!”. Thiên tử nói: “Nếu hư không chẳng khiếp sợ, cớ sao ông hỏi tôi khiếp sợ không?” Xá-lợi-phất đáp: “Ông đâu đồng hư không ư?” Thiên tử nói: “Như điều Phật nói, hoặc nội không hay ngoại không, là hư không ư?” Xá-lợi-phất đáp: “Đúng vậy!”. Thiên tử nói: “Cho nên tất cả chúng sanh là tánh hư không”. Vậy biết, tất cả hữu tình vô tình đều đồng tánh hư không, xứ nào có khác của Thánh phàm, sai biệt của nội ngoại? Vả lại, tánh hư không không có khởi tận, cớ sao lại hỏi là thành Phật hay không thành Phật ư? Trong kinh Nhập Pháp Giới Thể Tánh nói: “Phật bảo: “Văn-thù! Ông biết pháp giới ư?” “Như vậy, Thế Tôn! Con biết pháp giới tức là ngã giới”. Lại hỏi: “Ông há chẳng vui thích pháp giới ư?”Văn-thù đáp: “Bạch Đức Thế Tôn! Con không thấy một pháp nào chẳng phải là pháp giới. Vậy còn gì là vui thích”. Trong kinh thì thế nói: “Nếu pháp thế gian và pháp xuất thế gian mà có khác thì chư Phật chẳng xuất hiện nơi đời vậy. Tại sao? Vì giác ngộ tất cả các pháp bình đẳng, nên gọi là Phật vậy!”. Trong kinh Đại Tập nói: “Các chúng sanh giới và pháp giới, nếu hay bình đẳng quán sát không khác, chẳng sanh phân biệt ở số một hai, đó gọi là Bồ-tát Bất thối ấn”. Lại nói: “Nếu có Bồ-tát chẳng lìa phàm phu mà hay biết thánh pháp, vì dùng tâm phàm phu mà quán sát thánh pháp”. Trong kinh Mật Nghiêm nói: “Pháp thân Như Lai trú ở trong thân tất cả chúng sanh, bóng sáng hiện bên ngoài, giống như châu ngọc ma-ni ở trong lụa sạch, không chỗ ngăn che, cũng lại như vậy. Cho nên phải biết pháp thân Như Lai khắp ở trong thân tất cả chúng sanh, như điều Phật dạy, cho đến cây khô cây cháy cũng thảy đều vào, không nên sanh hại, huống gì các loại khác. Vì vậy không nên cân lường chúng sanh, trừ các Đức Như Lai, không thể biết đó, cho nên pháp thân chư Phật khắp tất cả xứ”. Phàm, pháp thân tức là tự tâm vậy, là thân của pháp gia, là tánh của muôn hữu, gồm nay suốt xưa, khắp cõi đầy hư không, mười phương thái hư, ở trong tự tâm còn như một điểm mây sanh, trăm ngàn biển lớn, đưa vào trong bản giác, giống như một giọt bọt bóng nổi, huống gì giả danh phàm Thánh mà chẳng phải tâm ta ư? Theo Thai giáo nói: Phật nghóa là giác, như trong kinh Bảo Khiếp nói: “Phật giới, chúng sanh giới, chỉ một giới không khác biệt giới. Đây là viên trí viên giác các pháp, khắp tất cả xứ không đâu chẳng sáng rõ, tuy ở ngũ vô gián đều sanh tưởng giải thoát, tuy mù tối điên đảo lầm hoặc, lý đó vẫn còn vậy”. Lý đó rõ ràng, thế gian thường trú, có Phật chẳng thể lợi ích, không Phật chẳng thể tổn hại, được đó chẳng làm cao, mất đó chẳng làm thấp. Nên nói chúng sanh tức Phật là lý Phật đây vậy. Trong luận Hoa Nghiêm nói: “Tất cả xứ Văn-thù-sư-lợi, tất cả xứ thế giới vàng ròng, tất cả xứ Phật Bất động trí. Ngày nay người tin, phải tin tự tâm không tánh nương dừng Diệu tuệ giải thoát là từ Văn-thù, ở trong tâm không nương dừng, Diệu lý không tánh có tự tại phân biệt. Không tánh có thể động, gọi là Phật Bất động trí, lý trí không hai, diệu dụng tự tại, cho nên gọi là Bồ-tát Diệu Đức, cho nên tất cả chư Phật tử đức tin đây sanh, nên gọi là Văn-thù, là mẹ của mười phương chư Phật cũng hiệu là Văn-thù làm Bồ-tát Đồng tử vì đều lấy đức tin làm sơ sanh vậy. Tín tâm thành tựu tức dùng sức định huệ quán trí ấn chứng đó. Khế hợp một niệm tương ưng gọi là thập trú sơ tâm bèn thành Chánh giác, dùng năng hành hành xứ gọi là Phổ Hiền, dùng Diệu tuệ vô y xứ gọi là diệu đức, dùng trí khéo hay phân biệt biết căn gọi đó là Phật Bất Động Trí, tự khế hợp tương ưng gọi là Chánh giác. Vả lại, xứ năng tin, gọi đó là tín, tự khế hợp tương ưng gọi là Trú tâm, vì trú nơi Phật trú là tướng diệu tuệ giải thoát và tận pháp vô sanh vậy. Nếu ngoài tâm có Phật thì chẳng gọi là tín tâm, mà gọi là người tà kiến vậy. Tất cả chư Phật đều đồng tự tâm, tất cả chúng sanh đều đồng tự tánh, vì tánh không y tựa, nên thể không sai biệt, trí tuệ một tánh nên biết như vậy. Vì đồng thể diệu tâm này nên biết tâm chư Phật và tâm chúng sanh, nên tin hiểu như vậy, chẳng tự khinh dối, cho nên tông thú kinh đây làm đại tâm chúng sanh nói pháp như vậy là môn chư Phật tự chuyên chở, Diệu điển nhất thừa, đạo lý pháp giới, khiến đại tâm chúng sanh vào căn bản Phật là đại trí Phật quả vậy. Một niệm khế chân lý trí đồng hiện tức bèn là Phật vậy, vì đạo lý pháp giới thấy thì không mới đầu giữa và sau cùng, do vì người đời chỉ tin cảnh giới chư Phật chẳng thể nghó bàn, không biết cảnh giới chúng sanh cũng chẳng thể nghó bàn, vì chúng sanh giới tức là Phật giới vậy, như trong luận nói: “Tất cả xứ Phật bất động trí, tức phàm nói tất cả tức không xứ nào chẳng khắp, đâu riêng chúng sanh giới ư? Do đó, trong Hoa Nghiêm Tư Ký nói: “Nay có nhiều người học đều được cùng Đức Thích Tôn ngang bằng, cũng cùng Văn-thù ngang bằng, một niệm tức ngang bằng. Nếu chẳng tin, mới đầu làm thời gian ngắn nỗ lực, tịnh tư duy trông xem, nên biết một niệm bình đẳng, lý sự không sai, chỉ lắng suy nghó ngưng thần, hồi quang soi chiếu bên trong, có pháp gì khác hay làm cách vượt, chỉ tự tâm tưởng khởi vọng phân cao thấp vậy”. Trong Thanh Lương sớ nói: “Phật và chúng sanh nếu dùng tánh tịnh mà nói hiện nay bình đẳng, chẳng ngăn ngại khác biệt của mê và ngộ, cho nên ba thừa cũng có sai biệt cũng không sai biệt. Vậy thì nhiễm tịnh ba đời, tất cả các pháp không gì chẳng bình đẳng, huống gì xứng tánh qua lại gom thâu. Thấu hiểu như vậy thì gọi là khéo trú địa vị Nhất thiết trí, như đất hay sanh mọi vật, cuối cùng kết quy về đất. Muôn pháp y tựa nơi Phật trí cứu cánh, trở lại đến Nhất thiết trí. Trong luận Bảo Tánh có kệ tụng rằng: “Thí như nhà người nghèo, Đất có kho vật báu, Người đó chẳng thể biết, Báu lại chẳng thể nói. Chúng sanh cũng như vậy, Ở trong nhà tự tâm, Có chẳng thể nghó bàn, Kho pháp bảo vô tận. Tuy có kho báu đây, Chẳng thể tự hay biết, Có vì chẳng hay biết, chịu sanh tử nghèo khổ. Thí như kho vật báu, Tại nhà người nghèo kia, Người chẳng nói ta nghèo, báu chẳng nói ở đây. Kho pháp bảo như vậy, Tại trong tâm chúng sanh, Chúng sanh như người nghèo, Phật tánh như kho báu. Vì muốn khiến chúng sanh, Được vật báu đây vậy, Chư Phật Như Lai kia, Xuất hiện ở nơi đời.” Trong Vô Sanh Nghóa nói: “Đại sư luôn dẫn nêu kinh Như Lai Tạng nói: “Trong thân chúng sanh có Phật ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp ngồi hoa sen báu cùng chư Phật không khác, chỉ vì phiền não ngăn che nên chưa thể được dụng”. Đó là có đầy đủ căn tánh tri kiến của Phật, mà chưa có dụng tri kiến (thấy biết), tức lúc còn ngu vậy. Cho đến thí như trẻ con có đầy đủ sáu căn của người lớn, chẳng khác gì người lớn tại trong thân đó mà chưa thể có dụng của người lớn. Đến lúc lớn dần lại phải học hỏi mới có lực dụng tri kiến của người lớn. Nếu căn tánh là có tác dụng há không như hạt giống vốn ngọt thì kết quả chẳng phải đắng. Chỉ sợ không biết có, tự nhận làm phàm phu, chân tánh thường rõ ràng, chưa từng tạm ẩn che, như Phật dạy: “Như Lai thật không che giấu. Tại sao? Như trăng thu tròn đầy ở giữa hư không hiển bày thanh tịnh không ngăn che, mọi người đều trông thấy”. Lại, Tổ sư nói: “Ngũ ấm xưa nay không, sư tử nào từng ở trong hang”. Nên biết chỉ vì chúng sanh chẳng rõ nên nói là che giấu, tuy là không che giấu mà có mật ngữ. Mật ngữ khó hiểu, chỉ trí mới biết, như Hòa thượng Bách Thượng nói: “Chỉ như nay nói năng soi chiếu rành rẽ, tìm kiếm hình tướng đó không thể được, tức là Mật ngữ”. Do đó, ánh sáng của Tông Kính không lúc nào chẳng chiếu, thường liên quan ngày dùng, người mê mờ không biết, do đó không chỗ mong cầu”. Trong kinh có kệ tụng rằng: “Chúng sanh giới bằng nhau, Bằng như hư không giới, Người hay rõ bằng đây, Thành Phật đạo không khó”. Lại có kệ tụng rằng: “Không chỗ tướng đó là, Tất cả không chỗ niệm, Không tâm không chỗ sanh, Phật đạo chẳng khó đắc”. Trong kinh Nguyệt Tạïng nói: “Phật dạy: Cho nên đối với pháp bình đẳng tư duy quán sát, chẳng lìa chúng sanh pháp có, chẳng lìa pháp có chúng sanh, như thể tánh chúng sanh tức là thể tánh ta, như thể tánh ta tức là thể tánh tất cả các pháp, như thể tánh tất cả các pháp tức là thể tánh Phật pháp, lúc quán các pháp bình đẳng như vậy, chúng sanh tức ấm chẳng thể được, lìa ấm chẳng thể được, hòa hợp chẳng thể được, lìa hòa hợp cũng chẳng thể được. Chẳng phải pháp chẳng phải chẳng phải pháp, người như vậy đó, được trú vô tướng, đó gọi là pháp bình đẳng”, vậy biết tất cả các pháp thường thành Chánh giác, không có lúc nào chẳng thành Chánh giác. Như trong kinh nói: “Phàm là pháp chân thật, chẳng xả bỏ tự tướng mà lấy tướng khác, nếu xả bỏ chẳng phải Chánh giác thành Đẳng chánh giác, thì chẳng phải chân thật, Chánh giác là chẳng từng có lúc chẳng thành Chánh giác, nên biết tất cả chúng sanh đều trú giác địa, chẳng phải là xả bỏ bất giác mà thủ lấy Chánh giác. Thì một giác, tất cả đều giác, thường thành Chánh giác, không có lúc bất giác. Như hư không trong trẻo không có thành hoại, nếu chấp có thành và chẳng thành, đó thuộc tình kiến, nếu dùng trí chiếu, đến đâu mà chẳng thân, niệm niệm mà thường thấy pháp thân, mỗi mảy trần mà đều thành cõi Phật, chỉ vì tự mắt có màn che, diệu kiến chẳng thông, trái ngược tánh linh của chính mình, chìm đắm nhà báu. Tuy đồng một tánh, cốt yếu do trí minh, như nhạc chứa âm kỳ đặc, ngón tay khéo thì cung thương hợp tiết tấu. Người ôm hoài tánh giác, trí khéo thì động dụng ngầm chân, được mất tại người, tinh thô mặc mình. Do đó, đấng Thiện Thệ đè ngón tay, phát ánh sáng Hải ấn, chúng sanh dấy tâm, hiện tướng của trần lao. Như xưa trước giải thích chúng sanh Phật tánh là thí như không hầu có đủ năm nghóa: Một là, có thân không hầu; hai là, có tiếng trung gian…; ba là, có dây đàn; bốn là, có người đánh đàn không hầu; năm là, có chỗ đàn được khúc nhạc; năm nghóa đó là dụ ngũ ấm chúng ta tợ như không hầu, chân như Phật tánh trong thân tợ tiếng, lục độ vạn hạnh tợ dây đàn, trí tuệ phương tiện khéo léo tợ người đánh đàn không hầu. Chúng ta dùng trí tuệ phương tiện khéo léo tu hành lục độ, tương lai thành Phật, một mảy may trần một sợi lông đều khắp pháp giới tợ như khúc nhạc đánh tấu vậy. Nên Thẩm Hưu Văn trong Phật Tri Bất Dị Chúng Sanh Tri nghóa nói: “Nên biết, biết của phàm phu cùng biết của Phật chẳng khác, do ở sự của chỗ biết khác, chữ biết chẳng khác vậy”. Thẩm Hưu Văn căn cứ về lục đạo nối tiếp làm nghóa Phật, nói rằng: “Nối tiếp chẳng diệt, do đó hay nhận biết, như đời nay, công đào luyện chứa dần, thì quả ở tương lai lý chỗ biết chuyển tinh thuần, biết của chuyển tinh thuần lại ứng dẫn đến nơi Phật mà chẳng đoạn chẳng luyện vậy. Nếu đời nay vô minh thì quả ở tương lai chỗ biết chuyển mờ tối, biết của chuyển mờ tối lại ứng, dẫn đến nơi lục đạo vậy. Nên biết thức của chúng sanh nối tiếp chẳng đoạn, chỉ do tinh thô mà phân lên xuống đó vậy”. Lại, chư Sư xưa trước tính xét chấp rằng: “Tất cả chư Như Lai phát nguyện ở nhân địa, độ hết chúng sanh, chúng sanh giới chẳng hết thì chẳng thành Chánh giác. Hiện thấy chúng sanh trầm luân trong chín thú, nên biết chư Phật chưa đáng có thành, thành thì trái với thệ nguyện kia”. Xin đáp: Không phải vậy. Trong Hoa Nghiêm ký căn cứ nghóa như thật, giải thích rằng: “Chư Phật đều có hai môn bi và trí. Do đại bi nên cũng vị lai tế không lúc nào thành Phật, nên Bồ-tát Xiển-đề chẳng thành Phật vậy. Do đại trí nên mỗi niệm chóng thành, lại muốn hóa độ hết chúng sanh giới, tự phải chóng thành mới có thể rộng hóa độ, chẳng sợ trái lời nói rốt ráo chân thành xưa trước. Lại, do thấu rõ bản như của chúng sanh, nên hóa độ mà không hóa độ, đó thì thường thành mà cũng thường chẳng thành, cũng thường hóa độ mà thường không hóa độ. Bi trí tự tại, nào hạn cục chấp trước ư? Như giải thích trên, đó là ước về lý và sự cả hai đều thông. Nếu thẳng ngay tông mà nói rõ thì như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Như Lai lúc mới thành Chánh giác, ở trong tự thân thấy tất cả chúng sanh, đã thành Phật rồi, đã nhập Niết-bàn rồi”. Lại, trong kinh nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn lại y tựa tất cả tướng trú trì tạng pháp Như Lai, vì các Bồ-tát mà tuyên nói Bát-nhã, tất cả hữu tình trú trì pháp môn biến mãn thậm thâm lý thú thắng tạng, nghóa là tất cả hữu tình đều là Như Lai Tạng, tự thể của Bồ-tát Phổ Hiền biến khắp nên tất cả chúng sanh đều là Kim cang tạng. Vì là nơi quán rưới của Kim cang tạng nên tất cả chúng sanh đều là chánh pháp tạng, tất cả đều y tựa chánh ngữ chuyển đổi vậy, tất cả chúng sanh đều là Diệu nghiệp tạng, tất cả sự nghiệp gia hạnh nương tựa vậy”. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Xá-lợi-phất nên biết, ta vốn lập thệ nguyện, muốn tất cả chúng sanh đều như ta không khác, như ta xưa lập nguyện, nay đây đã đầy đủ, độ tất cả chúng sanh đều khiến vào Phật đạo”. Đó thì thành Phật độ sanh, đại nguyện đại hóa thảy đều viên mãn vậy. Nếu người chẳng tin nói đó, tự còn chưa thành, sao có thể độ kẻ khác? Hỏi: Chúng sanh tức Phật, Phật tức chúng sanh, vào môn nhất tâm, nhân quả gồm suốt. Nên trong kinh nói: “Nếu Di-lặc đắc Bồ-tát là tất cả chúng sanh đều cũng nên thành”. Đó đều là nghóa thành Phật, đắc Bồ-đề, là lý thành hay sự thành vậy? Đáp: Ba thừa phần nhiều về lý thành. Hoặc nói pháp thân tức bình đẳng mà báo thân hóa thân chưa viên mãn. Hoặc nói: một niệm thành Phật, đều từ lý nói. Nay tông Nhất thừa, lý sự đều bình đẳng, các bậc cổ đức giải thích rằng: Đây rút từ đại ý kinh Hoa Nghiêm, khó thể lấy rõ hiểu, nhưng các chúng sanh nếu ở trong địa vị trời người, quán sát đó đều đủ hai ngã nhân pháp, hàng Nhị thừa chỉ là ngũ ấm thật ngã, hàng Đại thừa hoặc nói chỉ là sở hiện của tâm, hoặc nói huyễn cơ tức không, nhân pháp đều dứt bỏ. Hoặc nói chỉ Như Lai Tạng, đầy đủ vô số tánh đức vậy. Chúng sanh tức là pháp thân tại trong ràng buộc, pháp thân và chúng sanh, nghóa chỉ một mà tên gọi có khác, do y cứ lý mà nói. Lại có thuyết nói: Tướng vốn tự hết, tánh vốn tự hiện, không thể nói là tức Phật hay chẳng tức Phật v.v… Nếu y cứ tông Hoa Nghiêm, xưa nay thành rồi, cũng Niết-bàn rồi, chẳng phải nói về đồng thể. Đây thành tức là kia thành. Nếu vậy cớ sao hiện có chúng sanh chẳng phải tức Phật ư? Nếu căn cứ địa vị thấy biết của chúng sanh mà trông nhìn, còn chẳng thấy duy tâm tức không, sao thấy sự trong Viên giáo. Như mê Đông làm Tây là chánh chấp Tây vậy, nếu các tình chóng phá thì pháp giới hiện tròn đầy. Không gì chẳng là đã thành, khi người kia ngộ Tây ở toàn Đông. Do vậy, Thiện Tài và Long nữ đều là phàm phu một đời thân chứng. Hạng Tam thừa quyền giáo tin chẳng kịp, xưng là thị hiện, như Huyền Nghóa Cách nói: “Người cho rằng Thiện Tài và Long Nữ là Bồ-tát pháp thân hóa làm huyễn kỷ, một thời vui sống người phàm, khiến tự cưỡng chẳng dứt vậy”. Xin luận bàn rằng: Nếu vậy, thì Thánh có lỗi lừa dối kẻ phàm, kẻ phàm không phần tức Thánh, giáo môn nhọc thiết bày dùng học làm gì? Nên không phải vậy. Hỏi: Nếu thật là từ phàm chóng thành Phật, cớ sao trong kinh chỉ nói hai vị ấy, còn những vị khác lại không ư? Đáp: Nhật nguyệt tại giữa trời mà người mù chẳng thấy, trong kinh nói hạng một đời thành Phật số đó đông nhiều như cát bụi, năm ngàn quyển kinh, mỗi mỗi quyển đều có tức sanh đắc đạo, chỉ như Thiền sư Đạt-ma truyền Phật tâm ấn, ngay lời nói liền thấy tánh bèn là đắc đạo, hạng chấp thủ tướng chỉ trích cho đó là ngoại đạo. Trong luận nói: “Phật Bất Động Trí ở thế giới Kim sắc, Bồ-tát Văn-thù ở tất cả xứ đều là pháp tánh của tự tâm, chẳng phải vật bên lại”. Lại nói: Hàng thập tín, thập trú, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa là Hoa Nghiêm, ngộ rõ tự tâm rộng lớn là Phật, trước tự thấy tánh là thân tâm Phật, đều tu ngũ vị làm trang sức vậy, cũng đồng như Thiên thai nói lúc mới phát tâm tức quán Niết-bàn hành đạo, tỷ dụ như hoa sen, hoa quả đồng thời, nghóa đồng ấn tức tâm thành Phật. Trong kinh Ương-Quật-ma-la nói: “Ương-Quật- ma-la cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến khắp mười phương, mỗi phương mười thế giới; nơi các Đức Như Lai, hỏi nghóa như vầy: “Thế nào là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trú tại thế giới Ta-bà chẳng ngằn mé Bát Niết-bàn giải thoát?” Các Đức Như Lai đó đều đáp với tôi rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tức là thân của ta v.v… Đức Phật ấy sẽ vì ông mà quyết định điều nghi ngờ”. Nên biết thân ở khắc các cõi chỉ là một thân, phân chia cũng chẳng nhiều, nhóm tụ chẳng phải một. Như trong kinh Thủ lăng-nghiêm Tam-muội nói: “Nếu kẻ thiện nam tín nữ, người cầu Phật đạo nghe nghóa thú của Thủ- lăng-nghiêm Tam-muội mà tin hiểu chẳng nghi ngờ, phải biết hạng người đó đều ở nơi Phật đạo chẳng còn lại thối chuyển, huống gì đã tin nhận thọ trì đọc tụng, vì người khai mà giảng nói đúng như thuyết tu hành”. Bấy giờ các trời Thích Phạm, Thiên Vương hộ đời v.v… đều suy nghó rằng: “Nay chúng ta phải vì Như Lai mà trải tòa Sư tử, tòa chánh pháp, tòa đại nhân, tòa đại trang nghiêm, tòa đại chuyển pháp luân, sẽ mời Đức Như Lai ngồi nơi tòa chúng ta đây giảng nói Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội”. Mọi người trong đó mỗi mỗi tự cho rằng: “Chỉ ta vì Phật mà trải tòa Sư tử, còn mọi người khác không có khả năng”. Chỉ trong khoảnh khắc, trước mặt Như Lai có tám muôn bốn ngàn ức na-do-tha tòa báu Sư tử đều ở nơi chúng hội không chỗ chướng ngại. Mỗi mỗi Thiên tử chẳng thấy các tòa khác, nên mỗi tự nghó là “Riêng ta vì Phật mà trải tòa Sư tử. Phật sẽ ngồi trên tòa ta trải bày đây mà giảng nói Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội”. Khi các trời Thích Phạm, Thiên Vương hộ đời trải tòa đã xong, mỗi tự thưa bạch Đức Phật rằng: “Cúi mong Đức Như Lai ngồi trên tòa con trải bày đây mà giảng nói Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội”. Tức thời, Đức Phật hiện sức thần thông, ngồi khắp trên tám muôn bốn ngàn ức na-do-tha tòa Sư tử. Các trời mỗi mỗi thấy Đức Phật ngồi trên tòa do chính mình trải bày, chẳng thấy các tòa khác. Có một vị trời Đế- thích nói cùng các trời Đế-thích khác rằng: “Các ông trông đi Như Lai ngồi trên tòa tôi trải bày”. Khi ấy, các trời Thích Phạm, Thiên Vương hộ đời mỗi mỗi cùng nói rằng: “Các ông trông xem Đức Như Lai ngồi trên tòa tôi trải bày”. Khi ấy có một trời Đế-thích nói: “Nay Đức Như Lai chỉ ngồi trên tòa do tôi trải bày, chẳng ngồi trên tòa của các ông”. Đến lúc trong chúng Thích Phạm có một vị Phạm Vương tên là Đẳng Hạnh bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Các Đức Như Lai nào là chân thật, ngồi trên tòa của con là chân thật hay ngồi ở các tòa khác là chân thật”. Phật bảo Đẳng Hạnh: “Tất cả các pháp đều không, như huyễn, không có tác giả, đều từ ức niệm mà khởi, không có chủ nên tùy ý mà sanh ra, các Đức Như Lai đó đều là chân thật. Thế nào là thật? Các Đức Như Lai đó vốn tự chẳng sanh, cho nên là thật, các Đức Như Lai đó từ nay về sau cũng không, cho nên là thật, các Đức Như Lai đó chẳng phải gồm thuộc về tứ đại, cho nên là thật, các ấm giới nhập không đâu chẳng gồm, cho nên là thật, các Đức Như Lai đó như trước giữa và sau bình đẳng không sai biệt, cho nên là thật. Phạm Vương! Các Đức Như Lai đó bình đẳng không sai biệt. Tại sao như vậy? Các Đức Như Lai đó, do sắc như nên bình đẳng, do thọ tưởng hành thức như nên bình đẳng, do thị nên bình đẳng đó, do đời quá khứ như nên bình đẳng, do đời vị lai như nên bình đẳng, do đời hiện tại như nên bình đẳng, do pháp như huyễn có nên bình đẳng, do pháp như ảnh nên bình đẳng, do pháp không chỗ có nên bình đẳng, do không từ chỗ nào đến không từ chỗ nào đi nên bình đẳng. Các Đức Như Lai đó cũng lại như thế”. Giải thích rằng: Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội tức tất cả sự rốt ráo kiên cố. Tại sao? Vì hay thấy tâm tánh, gọi là thượng định. Người tin vào đây cũng gọi là Vương Tam-muội, vì Tam-muội này trải qua tất cả các sự, há chẳng phải rốt ráo bền chắc (cứu cánh kiến cố) ư? Như các trời Thích Phạm hộ đời, mỗi tự thấy Phật ngồi trên tòa của chính mình, đó là thật chứng tự tâm, do đó trong kinh nói đều từ ức niệm phân biệt mà khởi, không có chủ nên tùy ý mà sanh ra. Các Đức Như Lai đó đều là chân thật. Thế nào là thật? Các Đức Như Lai đó vốn tự chẳng sanh, cho nên là thật. Vì các Đức Như Lai vốn tự chẳng sanh, tức là tự tâm sanh, nhưng tự tâm đó lại như huyễn mộng đều chẳng vượt ngoài tánh chân như bình đẳng. Do đó trong kinh nói: “Thí như vàng ròng tuy lại giũa mài mà chẳng mất tánh đó, các Đại só đó cũng lại như vậy. Tùy chỗ so sánh đều hay thị hiện pháp tánh chẳng thể nghó bàn”. Trong luận Thật Tánh có kệ tụng rằng: “Như Tỳ-lưu-ly kia, Trong đại địa thanh tịnh, Thân thiên chủ Đế-thích, Ở trong gương ảnh hiện. Như vậy tâm chúng sanh, Trong đại địa thanh tịnh, Thân chư Phật Như Lai, Ở trong gương ảnh hiện”. Nên biết tức tâm mà thấy Phật, đó có nghóa là ở thân hiện tại thành đạo vậy, như trong kinh Thiền Yếu nói: “Phật bảo: Này thiện nam! Nếu ngoại tướng mong cầu tuy trải qua nhiều số kiếp trọn chẳng thể được, ở nội giác quán như chỉ khoảng một niệm tức đắc A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Do đó hạnh vị đều thành tựu chóng lên diệu quả”. Về phàm Thánh đồng thể, mê ngộ tợ có phân. Nếu lúc tin vào chẳng từ ngoài được, do đó nói sanh tử cùng đạo hợp, như sáng cùng tối hợp. Nên nói: Vị muối trong nước, keo xanh trong sắc. Trong luận Lý Trưởng giả nói: Ở kinh Hoa Nghiêm đây, Thập trú là kiến đạo, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Thập nhất địa là gia hạnh. Tu hành khiến quen thuần thục nên Phật quả ở mới đầu hiện dùng bi nguyện của Phổ Hiền, khiến trí bi đại dụng quen thuần thục tự tại vậy, vì tự Như Lai căn bản trí Phổ Quang Minh hiện trước, vì đầu cuối gốc ngọn đều không ngắn dài, thời gian ngày tháng phân chia. Dùng pháp thân căn bản trí như thật mà nói, chẳng đồng chỗ tình nhận hiểu của hàng Tam thừa quyền giáo vậy, đều phải căn cứ ở gốc mà quán sát đó, cuối cùng Phật quả quen tập đã thành. Hạnh Phổ Hiền đã mãn, một lần trải qua chỉ vì giáo hóa tất cả chúng sanh là thường luôn, từ mới đầu đến cuối cùng, không thủy không chung, không thành không hoại, chỉ vì tất cả sáu đường cùng khắp mười phương mà dùng trí đối diện lợi sanh làm sự nghiệp trọn vẹn vậy. Từ lúc mới phát tâm khởi tin tu hành, phát tin vui thích như vậy, phát chí nguyện như vậy. Khởi chí như vậy, cầu thấy đạo như vậy. Từ mới phát tâm trú, dùng sức định quán khế hội pháp thân, hiển bày căn bản trí Phổ Quang Minh, chiếu biết tất cả biển sanh tử của tự và tha, tự tánh giải thoát, chỉ vì giáo hóa chúng sanh, khiến nó phá chấp lìa khổ vọng tướng vậy, cũng chẳng thấy tự thân thành Phật hay chẳng thành Phật. Nếu là khởi tâm mưu đồ ý niệm thành Phật, phải biết người đó cách xa Phật đạo. Nếu là chỉ dùng sức của pháp thân không tánh, lìa tánh tự và tha, không tâm thành hay hoại, khởi sức phương tiện, dấy sức đại nguyện, mở môn đại bi không làm mà làm, phát chí nguyện không hạn lượng, giáo hóa tất cả chúng sanh không tánh trong pháp giới, giả sử khiến mê hiểu trở lại không ai chẳng nói thành Phật, chẳng nói chẳng thành Phật, không thể làm tình của ý niệm mưu đồ như vậy. Như trong kinh Hoa Nghiêm đây an lập giáo môn năm vị, chỉ vì tiếp dẫn hàng chưa được mà cho là được, hàng chưa đến mà cho là đến, hàng chưa mãn mà cho là mãn, trệ chướng nhiễm tịnh, đối với đạo Bồ-đề và hạnh Bồ-tát có tâm dừng chân, có tưởng dứt nghỉ. An lập năm mươi lớp nhân quả, một trăm mười lớp pháp môn, khiến tâm chẳng trệ ngưng dùng dứt nghỉ, noãn hạnh nguyện Phổ Hiền, đến tột cùng vô tận. Lại nói: Kinh Hoa Nghiêm đây, chỉ ngay bản tâm bản pháp, vượt hẳn tình kiến không thủy không chung, ba đời cùng tuyệt, nhất viên chân báo, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, tánh tướng vô ngại, tự tại pháp môn biểu quả, trao thẳng hạng người căn tánh thượng thượng, giáo môn hành tướng thế phân như vậy, chẳng đồng quyền học theo thứ tự dần dần mà thành, chỉ như lên núi cao chín nhận, không thể để tuyệt vết đó, lên cấp mười tầng, không thể mất tích đó. Thường thấy quan ở địa vị nhất phẩm chỉ lấy làm bề tôi, nghe các bậc só xưa, chợt nghe có thân lên ngôi cửu ngũ, minh châu chóng chiếu, thấy khắp vô phương, mưa dầm biển lớn giọt giọt đều khắp, một mảy trần không tánh, pháp giới không sai, phẩm loại hữu tình, mạnh sanh lưu lại nhiều, căn khí chẳng ngang bằng, quyền thật chẳng đồng. Vì pháp môn đây ngàn sai muôn khác, phải biết quyền thật, hay giả tu chân, không thể lâu trệ ở Quyền tông mê mờ Thật giáo đó ấy vậy. Nên Pháp sư Trí Nghiễm hỏi: “Một địa tức nhiếp tất cả các địa, công đức là một pháp tức đủ sao lại dùng các môn khác ư?” Đáp: “Nếu không các môn khác, một môn tức chẳng thành vậy, như một thăng gồm thuộc một đấu, nếu lúc không có thăng tức đấu đây chẳng thành”. Hỏi: “Nếu không thăng tức không đấu, nay nêu một thăng tức được một đấu, vì không được một thăng chẳng được một đấu, là một hạnh chẳng đủ tất cả vậy ư? ” Đáp: “Mười thăng hợp thành một đấu, lúc đã không thăng đó, lấy gì làm đấu? Nên biết không thăng tức không đấu, có thăng tức có đấu. Nay cử thăng tứ đấu, ngoài thăng đấu không khác biệt thăng đấu vậy, như lông rùa sừng thỏ không thể được vậy”. Sơ tâm tức thành Phật, ngoài thành không riêng biệt tu, tướng đó như hư không vậy. Cho nên sơ tâm thành Phật là chẳng phải nghóa là chẳng đủ các công đức. Như trong kinh nói: “Đồng tử Phổ Trang Nghiêm, một đời được nghe khéo huân tập, hai đời thành giải hạnh đó, ba đời được vào biển quả”. Đồng một duyên khởi mà ba đời đây chỉ tại một niệm, giống như đi đến xa, bắt đầu từ bước thứ nhất, nhưng đến của bước thứ nhất đây, chẳng phải nghóa là không có bước sau rõ ràng. Đồng đây được vào biển quả, chẳng phải chẳng lâu xa gieo trồng căn lành. Hỏi: Đã lâu xa tu mới đắc, cớ sao nói một niệm đắc ư? Đáp: Nói lâu xa tu căn lành tức nhiếp đại Tam thừa giáo, từ Tam thừa vào Nhất thừa, tức là một niệm mới tu đầy đủ. Nên trong kinh nói: “Lúc mới phát tâm bèn thành Chánh giác. Thí như các dòng sông vào biển mới vào một giọt tức gọi khắp biển lớn không thủy không chung. Nếu rất sâu của trăm dòng sông khác, chẳng một giọt kịp vào biển lớn, tức dùng tu nhiều kiếp trong ba thừa, chẳng kịp một niệm của một thừa. Lại, thời kiếp đây chẳng định, hoặc một niệm tức vô lượng kiếp, vô lượng kiếp tức một niệm, một đời tức vô lượng đời, vô lượng đời tức một đời. Như mười Huyền môn thời xứ Vô ngại. Lại, Đại thừa nói rõ một niệm thành Phật, nghóa đó có hai: Một là, hội duyên để vào thật, tánh không nhiều ít vậy, nói rõ một niệm thành Phật; hai là, hành hạnh mới mãn, lấy niệm sau cùng, gọi là một niệm thành Phật, như người đi xa lấy bước sau cùng làm đến. Nếu Đại thừa nói rõ một niệm thành Phật là như Đại thừa lấy một niệm sau cùng thành Phật, tức vào một thừa. Vì sau cùng tức mới đầu, niệm mới đầu tức là thành. Tại sao? Vì nhân quả cùng tức, đồng thời tương ứng vậy, muốn luận thành đó là thành lại thành, thành lại thành vậy. Chúng sanh muốn lại thành sau là tại sao lại tại sao, tại sao lại tại sao vậy. Nay nên một niệm thành là tức cùng Phật đồng vị, chưa đầy đủ rốt ráo vậy, lại có khác của cạn sâu vậy, như người mới bước đầu bước ra cửa cho đến lâu xa đi tới phương khác, tuy đồng tại không trung mà xa gần có khác. Cho nên năm vị Thập tín, Thập trú v.v… mỗi mỗi nói thành Phật là mà lại biện rành cạn sâu đó. Trong đây phải khéo tư duy đó. Trong Tâm Yếu Tiên nói: “Tâm tâm làm Phật không một niệm tâm mà chẳng phải tâm Phật, xứ xứ đạo thành không một mảy trần mà chẳng phải cõi Phật, cho nên chân vọng vật ngã, nêu một gồm thâu, tâm Phật chúng sanh xen lẫn đều đến”. Vậy biết, mê thì người tùy ở pháp, pháp muôn sai mà người chẳng đồng, ngộ thì pháp tùy ở người, người nhất trí mà dung muôn cảnh. Trong luận Chỉ Quán nói: “Quán tướng chúng sanh như tướng chư Phật, lượng chúng sanh giới như lượng Phật giới, chúng sanh giới trú như hư không trú, dùng pháp chẳng trú, dùng pháp không trú trú trong Bát-nhã. Chẳng thấy pháp phàm, làm sao xả bỏ, chẳng thấy pháp thánh, làm sao thủ lấy? Chỉ trú thật tế, như quán chúng sanh chân Phật pháp giới đây”. Thân Tử nói: “Chắc thật rõ hiểu nghóa này, đó gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát”. Di-lặc nói: “Người đó gần nơi Phật ngồi, Phật giác pháp này vậy”. Văn-thù nói: “Nghe pháp này chẳng kinh sợ tức là thấy Phật”. Phật bảo: “Tức trú bất thối địa, đủ sáu Ba-la-mật, đủ tất cả các Phật pháp vậy”. Như điều nói trên, giáo lý không khuyết, chỉ là chánh giải khó sanh, sức tin khó đủ. Nếu tin mà chẳng hiểu, thì đêm ngày kéo dài vô minh, nếu hiểu mà chẳng tin, thì đêm ngày kéo dài tà kiến. Tin mà lại hiểu mới khế hợp tông đây, người khế hợp tông đây rất là hiếm có, chẳng chỉ mười phương chư Phật cùng ta tương ưng. Đại địa núi sông một lúc đồng chứng. Như Đại sư Chân Giác có bài ca rằng: “Vua trong pháp rất cao thắng, vô số chư Phật đồng cùng chứng, nay ta hiểu châu như ý này, tin nhận đó là đều tương ưng”. Hòa thượng Bách Trượng nói: “Chỉ là tất cả chiếu dụng mặc tình nghe ngang dọc, khóc cười nói năng đều thành tuệ Phật”. Hiểu như vậy là không một lúc chẳng thành Phật, không một người chẳng đắc đạo. Thiên chân tự nhiên, nào liên quan tạo tác. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Lại thấy các Như Lai, tự nhiên thành Phật đạo”. Pháp Giới Ấn nói: “Lúc mới phát tâm bèn Chánh giác, khổ vui bình đẳng một vị Phật”. Lại nói: “pháp vắng lặng phân biệt gọi là chúng sanh, xưa nay chẳng động gọi đó là Phật”. Đại sư Dung có kệ tụng rằng: “Pháp nhẫn trước đem ba độc cùng, Phật tánh thường cùng sáu tình chung, Chỉ tin xét tâm ra báu diệu, Nào phiền ngoài áo kiếm minh châu”. Phó Đại só có bài tụng rằng: “Phật cũng chẳng lìa tâm, Tâm cũng chẳng lìa Phật, Tâm vật tức thấy Phật, Nếu hay dụng như vậy, Mười tám từ đâu ra”. Cư só Bàng Uẩn có kệ tụng rằng: “Chẳng cần khổ nghe nhiều, Nhìn kia bậc Thượng nhân, Trăm ức và nhật nguyệt, Gom tại một lông vảy. Tâm chỉ lặng không tướng, Tức ra bến sanh tử, Nếu hay học như vậy, Bao nhiêu tỉnh tinh thần”. Hàn Sơn Tử có bài thơ rằng: “Gởi lời các nhân giả, Lại lấy gì làm lòng, Đạt đạo tự thấy tánh, Thấy tánh tức Như Lai. Thiên chân nguyên đầy đủ, Tu chứng chuyển sai về, Bỏ gốc tức theo ngọn, Chỉ giữ một trường đùa”. Hòa thượng Chí Công có bài ca rằng: “Phật thể vốn là tâm làm, Nào được trong văn tự tầm, Đem Phật cầu Phật cay đắng, Ngồi đất tự khiến sai làm!”. Hòa thượng Nhất Bát có bài ca rằng: “Chớ lại đem thân làm bọt nước, Trăm lông máu chảy là ai bảo, Chẳng bằng ngồi yên đất chân như, Trên đảnh mặc tình chim làm ổ, Muôn đời Kim Luân Thánh vương tử, Chỉ là chân như linh giác đó. Dưới gốc Bồ-đề độ chúng sanh, Độ hết chúng sanh ra sanh tử, Chẳng sanh tử thật trượng phu, Không hình không tướng đại Tý-lô, Bụi trần diệt hết chân như còn, Một viên minh châu quý vô giá”. Hòa thượng Bố Đại có bài ca rằng: “Chỉ mỗi tâm tâm tâm là Phật, Mười phương thế giới vật tối linh, Ngang dọc diệu dụng đáng thương sanh, Tất cả chẳng như tâm chân thật, Mạnh mẽ tự tại không chỗ làm, Rỗi nhàn rốt ráo kẻ xuất gia, Muôn pháp nào sai tâm nào khác, Nào nhọc lại dùng tìm nghóa kinh, Tâm vương vốn tự tuyệt biết nhiều, Người trí chỉ rõ vô học địa”. Hỏi: Phàm Thánh đều đồng một tâm chân tánh, thành Phật cớ sao thấy có trước sau? Đáp: Thấy tuy có trước sau mà tánh thì chẳng khuyết, vết mặc tình thăng trầm mà lý cũng không sai, như trong tâm mê ngủ có tánh của giác ngộ, vì ngủ chín muồi chưa tỉnh dậy. Thức dậy tức hiện, tợ như trong thân, trẻ con đầy đủ tướng của bậc đại nhân, do lực dụng chưa sung túc vậy, lớn lên hẳn đầy đủ, vì giấc mộng vô minh chưa tỉnh, sức giác đạo chưa đủ, thì Phật tánh chưa hiện pháp thân chưa tròn đầy. Đâu phải là tất cả hàm linh mà chẳng đủ Như Lai Tạng tánh. Các bậc cổ đức có hỏi rằng: Phật tánh cùng có, lúc chư Phật thành Phật, chúng sanh đều nên thành Phật. Nếu nói mỗi riêng khác có thì nên là vô thường? Đáp rằng: “Phật tánh cùng tất cả chúng sanh đồng có, sở chứng là một mà năng chứng có trước sau, cho nên chư Phật thành Phật, còn chúng ta luân hồi. Trước sau là ước về thời gian, chứ tánh không gốc ngọn, như người xưa nói: “Pháp thân một tướng chiêm ngưỡng khác dáng mạo, chánh giáo không lệch nói nghe khác chỉ. Nên trong luận Nhiếp Đại thừa nói: “Chúng sanh tội chẳng hiện như trăng nơi vật bể, khắp đầy các thế gian, pháp sáng như ảnh nhật”. Giải thích rằng: “Như nước trong vật chứa đựng bị vỡ bể thì chẳng đứng dừng, nước chẳng đứng dừng nên ánh trăng chẳng hiện, như vậy, trong thân hữu tình không có nước Xa- ma-tha thì ánh trăng Phật chẳng hiện. Phật tuy chẳng hiện, nhưng khắp tất cả làm mọi Phật dự, thí như ánh sáng mặt nhật chiếu khắp thế gian làm các Phật sự thành thục hữu tình. Lại như nay chính mắt mình không tỏ sáng đều vì chấp trước phàm thánh có chỗ ràng buộc vậy. Như Hòa thượng Vạn Hồi có bài ca rằng: “Trắng đen đều mất mở mắt Phật, Chẳng vướng một pháp thoát bụi sen, Chân không chẳng hoại tánh linh trí, Diệu dụng luôn thường công chẳng làm, Thánh trí xưa nay thành Phật đạo, Tịch Quang chẳng chiếu tự viên thông”.  <卷>QUYỂN 20 Hỏi: Phàm, chánh nhân Phật tánh, chúng sanh đều có. Trong kinh nói: “Chẳng do quán trí chỗ hiển bày thì đạo thường vạch lộ”. Cớ sao hàng dị sanh mê mà chẳng ngộ? Đáp: Trong luận Đại Trí Độ nói: Tâm tánh chúng sanh giống như dao bén, chỉ dùng cắt bùn, bùn không thành mảnh, dao ngày một từ mòn, lý thể thường diệu, chúng sanh tự thô, hay khéo dùng đó tức hợp bản diệu. Lại, thí như nước trong một bình mùi vị luôn nhạt, nếu hòa cam thảo vào thì ngọt, hòa hoàng liên vào thì đắng, tâm nước chúng sanh cũng lại như vậy, khởi vọng nhiễm thì phàm, ngầm chân không thì Thánh, tánh của tâm đó chưa từng đổi khác. Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng rằng: “Thí như nhật nguyệt sạch, Gương sáng giữa hư không, Ảnh hiện các dòng nước Chẳng bị nước khiến tạp. Bồ-tát pháp luôn sạch, Phải biết cũng như vậy, Hiện nước tâm thế gian, Chẳng vì đời khiến tạp”. Như trong Hoa Nghiêm sớ nói: “Tất cả các pháp có hai: Một là, sở mê, nghóa là duyên khởi chẳng thật nên như huyễn, duyên thành nên không tánh. Hai là, năng mê, biến kế không vật nên như không, vọng kế nên không tướng. Lại vì bất giác nên chẳng biết có, vì chẳng tin nên chẳng gánh vác, chỉ khởi vô minh không rỗng thành ý tưởng điên đảo, như sợi dây ban đêm chẳng động mà nghi ngờ cho đó là rắn. Trong nhà tối vốn trống không, khiếp sợ cho đó là có quỷ”. Nên biết vốn không mê ngộ, dối có thăng trầm. Ngày trước mê ngộ mà tợ mê, nay ngộ mê mà chẳng phải ngộ. Chỉ vì nội kiến tự cách biệt, khách trần làm ngăn che, ở trên thể phân tình xa gần, đến trong tánh thì lập lượng Thánh phàm. Như trong kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn nói: “Phạm Thiên hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: “Cớ sao Tỳ-kheo thân gần nơi Phật?” Văn-thù-sư-lợi đáp: “Này Phạm Thiên! Nếu Tỳ-kheo ở trong Phật pháp chẳng thấy có pháp hoặc gần hoặc xa, thì đó gọi là thân gần nơi Phật”. Trong kinh Đại Tập nói: “Chẳng rõ biết một pháp tướng nhỏ nhiệm là có thể rõ biết Như Lai xuất hiện nơi đời, xuất hiện của không xuất hiện tức là Phật xuất hiện. Do đó, nếu chẳng thấy một pháp thường thấy chư Phật thì ngàn dặm đồng phong. Nếu thấy một pháp chẳng thấy Phật thì đối mặt Hồ Việt”. Nên biết trái ngược tâm hợp cảnh chóng khởi trần lao, trái ngược cảnh hợp tâm, chiếu khắp pháp giới. Tại sao? Tâm là sở y, pháp là năng y, năng y từ sở y khởi, như nước là sở y, sóng là năng y, lìa nước không sóng, lìa tâm không pháp. Lại, tâm là năng sanh, pháp là sở sanh, như cây gỗ hay sanh ra lửa, nên gỗ là năng sanh, lửa là sở sanh, lìa cây gỗ không lửa, lìa tâm không pháp, nên biết chẳng tức tâm là đạo thì như ngàn người mở cửa mà không một người được vào. Nếu tỏ rõ tâm chóng vào là như một người mở cửa ải mà hay thông muôn loài. Được cốt yếu của Tông Kính đây, nghóa là như vậy đó. Do vì diệu tánh chẳng khuyết, mê ngộ tự được, một pháp chẳng động trái thuận chợt phân. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Này Phú-lâu-na! Ông hỏi là địa thủy hỏa phong bản tánh trọn chứa, khắp cùng pháp giới, nghi ngờ tánh của thủy hỏa chẳng cùng lấn diệt. Lại, trưng nên hư không và các đại địa đều khắp pháp giới chẳng hợp tương dung. Phú-lâu-na! Thí như hư không, thể chẳng phải các tướng mà chẳng ngăn ngại các tướng khác phát huy. Tại sao vậy! Phú-lâu-na! Thái hư không kia, mặt nhật soi chiếu thì sáng, mây giăng thì tối, gió lay thì động, sương lắng thì trong, khí ngưng thì đục, đất tích chứa thành bụi mù, nước ngưng lắng thành ánh ngời, ý ông nghó thế nào? Như vậy, các tướng hữu vi ở phương khác là nhân kia sanh, hay là từ hư không mà có. Nếu do từ kia sanh ra, thì này Phú-lâu-na! Vả lại, lúc mặt nhật soi chiếu, đã là mặt nhật tỏa sáng, mười phương thế giới đồng là sắc mặt nhật, cớ sao giữa không trung lại thấy mặt nhật tròn đầy”. Nếu là hư không tỏa sáng, thì hư không nên tự chiếu, cớ sao lúc nửa đêm hay trong sương mây chẳng sanh ra ánh sáng? Phải biết ánh sáng đó chẳng phải mặt nhật, chẳng phải hư không, mà chẳng phải hư không và mặt nhật, quán tướng nguyên là vọng, không thể chỉ bày, giống như đón lấy hoa đến hư không mà kết làm quả trong hư không. Cớ sao cật hỏi tướng lấn diệt đó? Quán tánh nguyên là chân, chỉ diệu giác sáng. Diệu giác sáng tỏ tâm trước chẳng phải là nước lửa. Cớ sao lại hỏi chẳng chứa đó? Chân diệu giác minh cũng lại như vậy. Ông cho rằng hư không tỏa sáng thì có hư không hiện, địa thủy hỏa phong mỗi mỗi phát sáng thì mỗi mỗi hiện. Nếu đều phát sáng thì có đều hiện, cớ sao đều hiện? Này Phú-lâu-na! như trong một dòng nước hiện ảnh mặt nhật, hai người đồng nhìn mặt nhật trong nước, theo hướng Đông Tây mỗi mỗi riêng đi thì mỗi tự có mặt nhật theo hai người đi, một về hướng Đông một đến hướng Tây, trước không có chuẩn đích, không nên cật nạn nói là mặt nhật đây là một. Cớ sao mỗi riêng đi? Mỗi mặt nhật tức đã là hai, cớ sao hiện một? Uyển chuyển hư vọng không thể có bằng cứ. Này Phú-lâu-na! Ông cho rằng sắc và không cùng khuynh loát cùng lấn đoạt nơi Như Lai Tạng, mà Như Lai Tạng tùy làm sắc và không khắp cùng pháp giới. Cho nên ở trong đó gió động hư không lắng, mặt nhật tỏa sáng, mây giăng tối. Chúng sanh mê muội trái ngược giác hợp với trần. Nên phát trần lao có tướng thế gian. Ta cho rằng Diệu minh chẳng sanh chẳng diệt, hợp với Như Lai Tạng, mà Như Lai Tạng chỉ là diệu giác tròn sáng chiếp khắp pháp giới”. Nên biết Diệu giác minh tâm trong lặng chẳng động, nhân nghiệp phát hiện, tùy làm sắc không, khắp cùng pháp giới. Chúng sanh trái với bản giác đó, vọng chấp tình trần. Vụt ở trong một chân giác bình đẳng, chợt hiện nên cảnh giới sai biệt, tùy nơi phát sáng mà tướng gọi là phải quấy. Như ở trong thể hư không mà định sai biệt đó, thật đáng gọi là hư vọng điên đảo, không lý đáng cậy. Phàm, treo Thánh trí chân thuyên đều là phá điên đảo đó. Nếu biết điên đảo chẳng thật, tự nhiên không pháp có thể luận bàn. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Dùng trí vào nơi tất cả Phật pháp, vì chúng sanh nói, khiến trừ đảo điên, nhưng biết chẳng lìa chúng sanh có điên đảo, chẳng lìa điên đảo có chúng sanh, chẳng ở trong điên đảo có chúng sanh, chẳng ở trong chúng sanh có điên đảo, cũng chẳng phải điên đảo là chúng sanh, cũng chẳng phải chúng sanh là điên đảo. Điên đảo chẳng phải pháp bên trong, điên đảo chẳng phải pháp bên ngoài, chúng sanh chẳng phải pháp bên trong, chúng sanh chẳng phải pháp bên ngoài. Tất cả các hư vọng chẳng thật, chóng khởi chóng diệt không có bền chắc, như mộng như ảnh như huyễn như hóa, dối lừa hạng ngu phu”. Như trong Sớ Thích nói: Ở kinh văn có bốn đối, ba đối trước từng đôi qua lại trông vọng, một đối sau dùng đương thể để biện giải. Hai đối trước trong ba đối trước là chẳng lìa, một đối sau trong ba đối trước là chẳng tức, tức hiển bày chúng sanh đó cùng điên đảo chẳng phải tức chẳng phải lìa. Chúng sanh tức là người năng khởi phiền não là nhiễm phần khác khởi. Điên đảo tức là vọng sở khởi, là biến kế sở chấp. Đối thứ nhất nói rõ về chẳng lìa (bất ly), nghóa là nương tựa tợ chấp thật vậy, lìa chúng sanh không điên đảo, nương tựa chấp tợ khởi lìa điên đảo không chúng sanh. Đối thứ hai nói rõ chẳng cùng tồn tại, lại giải thích nghóa trước nói về chẳng lìa, là nói rõ nhân quả cùng đợi duyên thành chẳng phải trước có thể. Hai vật cùng tồn tại, trong nhân không quả, nên trong điên đảo không chúng sanh. Nếu hẳn là có thì nên biến kế tức là y tha khởi. Trong quả không nhân, nên trong chúng sanh không điên đảo. Nếu cần khiến có thì nên không có chẳng điên đảo chúng sanh. Đối thứ ba nói rõ về chẳng tức (bất tức), chẳng hoại hai tướng của nhân quả năng sở biến kế. Do ba đối trước thì biết chúng sanh điên đảo chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải tức chẳng phải ly đối thứ tư là lấy đương thể để biện giải. Tâm điên đảo gá cảnh mới sanh nên chẳng phải pháp bên trong. Nếu là bên trong tức không cảnh, nên có cảnh do tình chấp nên chẳng phải pháp bên ngoài. Nếu là bên ngoài thì người trí ở nơi cảnh chẳng nên chẳng nhiễm. Đã chẳng phải trong hay ngoài, sao lại trung gian? Thì đương thể tự rỗng dối lấy gì đối với khác? Để nói rõ tức là lìa, chúng sanh cũng vậy, tức uẩn cầu không nên chẳng phải pháp bên trong, lìa uẩn cũng không nên chẳng phải pháp bên ngoài. Đã chẳng phải trong hay ngoài, cũng tuyệt trung gian, bản tánh tự không sao có thể khởi điên đảo? Lấy gì đối với khác? Nói rõ chẳng phải tức hay lìa, đã biết như vậy thì tự không điên đảo, vì vật nói điên đảo này tự trừ. Nhân nghóa là do chẳng đạt duyên thành chẳng bền chắc, vọng sanh biến kế, nên nói dối lừa hạng ngu phu, nhưng thật ngu phu tự luống dối, như khỉ chấp vầng nguyệt chẳng phải vầng nguyệt chấp khỉ. Lại trong luận Trung Quán có kệ tụng rằng: “Có đảo chẳng sanh đảo, Không đảo chẳng sanh đảo, Chẳng đảo cũng chẳng đảo, Nếu ở lúc điên đảo, Cũng chẳng sanh điên đảo, Ông nên tự quán sát, Ai sanh ở điên đảo?” Đã là kẻ điên đảo thì chẳng còn sanh điên đảo, đã điên đảo nên chẳng phải kẻ điên đảo, cũng chẳng điên đảo không có điên đảo, nên lúc điên đảo cũng không điên đảo, có hai lỗi lầm vậy. Nay ông trừ tâm kiêu mạn, khéo tự quán sát ai là điên đảo? Lại nữa, các điên đảo chẳng sanh, cớ sao có nghóa này? Không có điên đảo vậy, sao có điên đảo là các thứ nhân duyên điên đảo phá diệt nên rơi vào chẳng sanh, tham trước kia chẳng sanh, nghóa là chẳng sanh là thật tướng điên đảo, cho nên có kệ tụng rằng: “Sao gọi chẳng sanh là điên đảo? Cho đến pháp vô lậu còn chẳng gọi là tướng chẳng sanh, huống gì điên đảo là tướng chẳng sanh, không điên đảo sao có điên đảo, là nhân điên đảo mà có điên đảo vậy”. Hỏi: Cớ sao tất cả điên đảo chẳng thành vọng ư? Đáp: Chỉ vì nhân chỗ tình chấp, bên thành hư vọng, vì thấy vốn không, vọng tức chẳng phải vọng. Như trong Khởi Tín Sao nói: “Sở chấp vốn không cùng chân tâm chẳng động lần lượt cùng thánh lập, chỉ vì sở chấp vốn không. Do đó, chân tâm chẳng động, chỉ do chân tâm chẳng động nên được sở chấp vốn không, sao gọi là chân vọng lần lượt cùng thành lập? Vì mê chân khởi vọng, vọng nhân chân lập ngộ vọng tức là chân, chân từ vọng hiển bày”. Hỏi: Làm sao được lìa điên đảo, chẳng tự lừa dối, không lỗi lầm ư? Đáp: Như trong kinh Đại Tập nói: “Như đại thứ năm, như tình thứ bảy, như mười chín giới, không ra không vào không sanh không diệt, không có tạo tác, không tâm ý thức, mới gọi là không lỗi quá. Hỏi: Nếu tâm tánh vốn tịnh, cớ sao nói khách trần nhiễm? Đáp: Tâm vốn thanh tịnh, vết tích cũng thanh tịnh, thể cũng thanh tịnh, dụng cũng thanh tịnh. Vì chẳng lìa một tâm riêng có thanh tịnh, vì vọng trần chẳng thể nhiễm, chân pháp chẳng thể tịnh. Tại sao? Lìa tâm không khác pháp, đâu có nhiễm có thể nhiễm ư? Cũng lìa tâm không chân pháp, đâu có Tịnh độ có thể tịnh ư? Thì sao chẳng thể tự cắt, tay chẳng thể tự xúc chạm. Trong luận Đại Trang nghiêm có kệ tụng rằng: “Đã nói tâm tánh tịnh, Mà vì khách trần nhiễm, Chẳng lìa tâm chân như, Riêng có tâm tánh tịnh”. Chẳng lìa chân như của tâm riêng có khác, nghóa là tướng y tha nói làm tự tánh thanh tịnh. Trong đây nên biết, nói tâm chân như, gọi đó là tâm, tức nói tâm đây là tự tánh thanh tịnh, tâm đây tức là thức A-ma- la. Lại, tất cả chúng sanh chưa thấy tánh là tuy do khách trần che ẩn, ngũ ấm vùi chôn, mặc tình trải qua sanh tử qua lại mà tánh đó chẳng mờ tối, hoặc gặp bạn lành mở bày trọn tự hiển sáng, do đó xuất thế gian thường trú tâm báu, há pháp thế gian vô thường bại hoại sanh diệt mà có thể đọa lạc hư hoại, như kho vàng trong nhà bần nữ tuy chưa đào bới mà chẳng phải di dời, như bảo châu trên trán lực só mặc tình chiến đấu ẩn một mà thường còn, như thuốc trong ống trúc ở núi Tuyết mùi vị tạm lan tỏa mà thường còn, như kim cương dưới đáy đại địa, giả sử đục thủng mà chẳng hoại. Cho nên trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Bồ-tát Ca- diếp bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Từ ngày nay, con mới được chánh kiến. Thế Tôn! Từ nay trở về trước, chúng con đều gọi là người tà kiến. Thế Tôn! Hai mươi lăm hữu có ngã hay không?” Phật dạy: “Này thiện nam! Ngã tức là nghóa Như Lai Tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là nghóa ngã vậy. Nghóa ngã như vậy từ xưa đến nay thường bị vô lượng phiền não ngăn che, cho nên chúng sanh chẳng thể được thấy. Này thiện nam! Như trong nhà bần nữ có nhiều kho vàng thật, mọi người lớn nhỏ trong nhà không ai hay biết. Bấy giờ có một người khác khéo biết phương tiện, nói cùng người bần nữ rằng: “Nay tôi thuê mướn ngươi, ngươi có thể vì ta mà cày dọn các cỏ dơ”. Người nữ ấy đáp: “Tôi không thể làm vậy. Nếu ông có thể chỉ bày kho vàng cho con tôi, sau đó tôi sẽ làm cho ông”. Người ấy lại bảo: “Tôi biết cách thức có thể chỉ cho con người”. Người nữ ấy nói: “Mọi người lớn nhỏ trong nhà tôi còn tự chẳng biết, huống gì ông làm sao biết được”. Người ấy lại bảo: “Nay tôi có thể tìm xét?” người nữ ấy nói: “Tôi cũng muốn thấy, và có thể chỉ bày cho tôi”. Người ấy liền đến nơi nhà đó đào bới ra kho vàng thật. Người nữ thấy rồi, tâm sanh vui mừng, sanh ý tưởng lạ lùng tôn sùng kính ngưỡng người ấy. Này thiện nam! Phật tánh chúng sanh cũng lại như vậy. Tất cả chúng sanh chẳng thể được thấy, như kho báu kia mà người bần nữ chẳng biết. Này thiện nam! Nay ta chỉ bày cho tất cả chúng sanh nơi có Phật tánh. Vì sự ngăn che của các thứ phiền não, như người bần nữ kia có kho vàng thật mà chẳng được thấy. Ngày nay Như Lai chỉ bày cho chúng sanh nhận biết kho báu, đó là Phật tánh, mà các chúng sanh thấy việc đó rồi, tâm sanh vui mừng quy hướng kính ngưỡng Như Lai. Người khéo biết phương tiện tức là Đức Như Lai, người bần nữ tức là tất cả vô lượng chúng sanh. Kho tàng vàng thật tức là Phật tánh vậy. Cho đến, thí như nhà vua có một đại lực só, người đó giữa chân mày có hạt châu kim cương, cùng các lực só khác đọ sức đánh nhau, mà lực só đó dùng đầu húc chạm, viên châu trên trán đó ngầm ẩn vào trong da, đều chẳng tự hay biết viên châu ở nơi nào. Ở nơi có vết thương, tức mời thầy thuốc để chữa trị đó. Lúc chữa trị có vị thầy thuốc thông minh khéo biết các phương thuốc, tức biết vết thương đó do hạt châu vào trong cơ thể, hạt châu đó vào trong da tức bèn dừng ở. Khi ấy vị thầy thuốc tầm hỏi lực só: “Hạt châu trên trán ông hiện tại ở đâu?” Lực só kinh ngạc đáp: “Đại sư y vương! Hạt châu trên trán tôi là không mất ư? Nay hạt châu đó hiện ở nơi nào?” Cho là chẳng phải huyễn hóa, buồn rầu than khóc. Lúc đó, vị thầy thuốc an ủi lực só”. Ông nay chớ nên phải sầu khổ quá lắm. Nhân lúc ông đánh nhau, hạt châu vào trong cơ thể, nay lại trong da, ảnh hiện ở ngoài. Do lúc các ông đánh nhau, sân nhuế độc mạnh, hạt châu vùi trong cơ thể nên chẳng tự biết”. Lúc đó, lực só không tin lời thầy thuốc, mà nói: “Nếu tại trong da thì huyết nồng chẳng sạch, bởi duyên gì mà chẳng ra? Nếu tại trong gân, thì không nên có thể thấy. Nay cớ sao ông lừa dối khinh thường tôi vậy!”. Khi ấy, thầy thuốc nắm gương để soi chiếu vào mặt, hạt châu trong gương sáng rõ hiển hiện. Lực só thấy rồi, trong tâm kinh ngạc, sanh ý tưởng cho là lạ lùng. Này thiện nam! Tất cả chúng sanh cũng lại như vậy. Vì chẳng hay thân gần thiện hữu tri thức, nên tuy có Phật tánh, mà đều chẳng thể thấy, và bị các thứ tham dâm sân nhuế ngăn che, nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, A-tu-la, hay Chiên-đà-la, Sát-đế- lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà sanh trong các thứ nhà như vậy v.v… nhân tâm sở khởi các thứ nghiệp duyên, tuy thọ thân người điếc đui câm ngọng cong queo tật nguyền ở trong hai mươi lăm hữu chịu các quả báo, tham dâm sân nhuế ngu si che phủ tâm, không biết Phật tánh, như lực só kia viên châu báu trong cơ thể mà gọi là đã mất đi, chúng sanh cũng vậy, không biết thân gần thiện hữu tri thức, không biết kho báu kín mầu của Đức Như Lai, tu học vô ngã, dụ như chẳng phải Thánh tuy nói có ngã cũng lại không biết thân gần thiện hữu tri thức, tu học vô ngã, cũng lại không biết nơi của vô ngã, còn tự không biết chân tánh vô ngã, huống lại có thể biết chân tánh của có ngã. Này thiện nam! Như vậy Như Lai nói các chúng sanh đều có Phật tánh, dụ như người thầy thuốc giỏi chỉ châu báu kim cương cho người lực só kia, các chúng sanh đó bị vô lượng ức các thứ phiền não che phủ không biết Phật tánh. Nếu phiền não hết khi đó mới được chứng biết rõ ràng, như người lực só kia đối diện trong gương sáng thấy châu báu đó. Này thiện nam! Kho tàng kín mầu của Như Lai nhiều vô lượng như vậy chẳng thể nghó bàn. Lại nữa, này thiện nam! Thí như trên núi Tuyết có một vị thuốc gọi là lạc vị, mùi vị đó rất ngọt ở dươiù rừng rậm sâu, mọi người không thể thấy. Có người nghe mùi hương liền biết đất đó đang có thuốc đó. Ở đời xa xưa về trước có vị Chuyển Luân Vương đến nơi núi Tuyết này làm thuốc ấy vậy, ở khắp các nơi làm các ống gỗ để đựng thuốc đó. Thuốc đó lúc nóng từ đất lưu xuất nhóm tụ trong các ống gỗ, mùi vị đó chân chánh. Vị Chuyển Luân Vương đã qua đời. Về sau thuốc đó hoặc chua hoặc mặn họăc ngọt hoặc đắng, hoặc cay hoặc nhạt, một vị như vậy, tùy nơi lưu xuất mà có các thứ khác nhau. Mùi vị chân thật của thuốc đó ngưng đọng tại trong núi, giống như trăng tròn tỏa sáng, phàm là người bạc phước, tuy dùng bửa lớn đẽo gọt gia công khốn khổ, mà chẳng thể được. Lại có vị Thánh vương xuất hiện nơi đời, do phước báo nhân duyên tức liền được mùi vị chân chánh của thuốc đó. Này thiện nam! Kho tàng kín mầu của Đức Như Lai mùi vị đó cũng vậy, vì các rừng rậm phiền não ngăn che, chúng sanh vô minh không thể được thấy. Một vị thuốc là dụ như Phật tánh, vì phiền não nên sanh ra các thứ mùi vị, đó nghóa là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời người nam nữ, chẳng phải nam chẳng phải nữ, Sát- đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà. Do Phật tánh hùng mạnh khó thể trở hoại, cho nên không có kẻ hay giết hại. Nếu có giết hại thì đoạn mất Phật tánh. Phật tánh như vậy trọn không thể đoạn. Tánh mà có thể đoạn, thì điều đó không thể có. Như ngã tánh tức là kho tàng bí mật của Như Lai. Kho tàng bí mật như vậy, tất cả không ai có thể đồng năng trở phá hoại tiêu diệt, tuy chẳng thể hoại, nhưng không thể thấy. Nếu được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Lúc đó mới chứng biết. Do nhân duyên đó mà không thể giết hại”. Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu không giết hại là nên phải không có nghiệp bất thiện”. Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Thật có giết hại. Tại sao? Này thiện nam! Phật tánh chúng sanh trú trong Ngũ ấm, nếu hủy hoại ngũ ấm, gọi đó là giết hại. Nếu có giết hại thì đọa vào ác thú. Do nghiệp nhân duyên mà có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn v.v… Tỳ-xá, Thủ-đà và Chiên-đà-la, hoặc nam hoặc nữ, chẳng phải nam chẳng phải nữ, tướng sai biệt của hai mươi lăm hữu, lưu chuyển sanh tử. Nếu chẳng phải bậc Thánh, ngược lại tính nơi ta các tướng lớn nhỏ, giống như hạt cỏ, hoặc nơi như hạt đậu, cho đến ngón tay cái, các thứ như vậy dối sanh nhớ tưởng tướng của vọng tưởng. Không có chân thật, tướng ta xuất hiện nơi đời, gọi là Phật tánh, tính nghó ta như vậy, gọi là tối thiện. Này thiện nam! Thí như có người khéo biết kho tàng ẩn kín, tức dùng bửa bén nhọn bửa đất xuống thẳng nơi đá tảng các sỏi, xuyên qua không khó, chỉ đến kim cương, chẳng thể xuyên thủng. Phàm, là kim cương thì dao búa không thể làm ngăn trở phá hoại. Này thiện nam! Phật tánh chúng sanh cũng lại như vậy. Tất cả dù là Thiên ma Ba-tuần và các trời người không thể hủy hoại, tướng của ngũ uẩn tức là khởi tác. Tướng của khởi tác dụ như cát đá, có thể xuyên thủng có thể hủy hoại. Phật tánh là dụ như kim cương không thể làm trở ngại. Do vì nghóa đó, nên hủy hoại ngũ uẩn gọi là giết hại. Này thiện nam! Hẳn định phải biết Phật pháp chẳng thể nghó bàn như vậy, là biết tuy có Phật tánh từ lâu bị bụi trần che phủ, phải dùng chỉ quán huân tu mới được sáng sạch, như cô gái nghèo được của báu trong kho, như lực só kia thấy hạt châu của trong gương, mới thật tỏ ngộ tự tâm diệu giác viên mãn”. Lại, làm sao thực hành chỉ quán mà được khế hợp chân tu? Chỉ cần rõ tâm năng quán và cảnh sở quán mỗi mỗi tánh lìa tức vọng tâm tự dứt. Đây gọi là chỉ, thường làm quán đó, chẳng mất soi chiếu đó, nên gọi là quán, đây thì tức chỉ tức quán, tức quán tức chỉ, không có năng quán sở quán thì gọi là chỉ quán. Như các bậc Tiên đức nói: “Pháp tánh vắng lặng tự nhiên gọi là chỉ, vắng lặng mà thường soi chiếu gọi là quán. Chẳng phải năng quán sở quán có hai sự đó. Do đó trong kinh Hoa Nghiêm có bài tụng rằng: “Nếu có muốn biết cảnh giới Phật, Phải tịnh ý mình như hư không, Xa lìa vọng tưởng và các thủ, Khiến chỗ tâm hướng đều vô ngại”. Trong Sớ Thích nói: “Một là, lìa dối chấp như không trung trong sạch kia không mây ngăn che, đó tức là chân chỉ; hai là, xúc cảnh không ngưng trệ, như không trung trong sạch kia không có chướng ngại, đó tức là chân quán. Quán này chẳng tác ý để soi chiếu cảnh, thì sở chiếu không bờ mé, chỉ này thể tánh lìa mà dứt vọng, các chấp thủ đều vắng lặng, như vậy thì chẳng phải lau chẳng ánh ngời mà tự sạch vậy, sạch của không sạch mới ngầm khế hợp với cội nguồn pháp. Tu của không tu thì thầm bước vào cảnh Phật vậy. Nên biết chỉ một tâm chân trí là bản thân ngã, trong lắng thường còn, hiện tiền sáng sạch, tự nhiên dùng mỏ trí tuệ mổ phá vỏ vô minh, bay ra ngoài ba cõi tự tại vô ngại. Thời gian phương hướng đây được thấy tánh rõ ràng. Lại có pháp nào có thể kham đối sánh? Như trong Cô tịch ngâm của Đan Hà nói rằng: “Chẳng mê phải có tâm chẳng mê, Lúc nhìn cạn cạn lúc dùng sâu, Hạt trân châu đây như chọn việc, Đâu đồng lượm củi mang vàng ròng. Vàng ròng nấu luyện chuyển làm mới, Châu đây lồng sáng chưa bày người, Rõ thì đầu lông nuốt biển cả, Mới biết đại địa một mảy trần!” Hỏi: Tâm chư Phật khắp cùng tất cả tâm chúng sanh, hay hiện phàm tâm. Thân chúng sanh khắp cùng thân chư Phật, hay làm Thánh thể, là do chuyển động qua lại khắp cùng mà thành hay là ngay nơi một thể? Đáp: “Nếu nói chuyển động tức thành tạo tác, nếu nói qua lại khắp cùng thì có hai tâm. Do đó một tâm thường trú giống như thể của hư không. Phàm Thánh hai hiệu, lại đồng hoa của trong không trung, xanh vàng khởi diệt tuy khác mà chẳng phải vượt quá tánh của thái hư. Mê ngộ thăng trầm tuy khác mà chưa lìa nguyện của chân giác. Lại như ngàn ngọn đèn trong một căn phòng, mỗi mỗi ánh sáng xen lẫn vào, muôn tượng trong một gương, ảnh ảnh che bày, chẳng phải khác, chẳng phải đồng, chẳng khứ chẳng lai. Thấu đạt yếu chỉ này là chỉ Phật suốt biết. Do đó muôn hữu tức chân, không tướng chuyển biến. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tâm như huyễn, sanh ra tất cả cảnh giới các pháp, khắp cùng vô tận, chẳng hết chẳng dứt”. Trong kinh Đại Tập nói: “Trú trong một tâm hay biết các tâm của tất cả chúng sanh, quán tâm chúng sanh thảy đều bình đẳng, như tướng huyễn hóa, bản tánh thanh tịnh, quán thân nghiệp các chúng sanh bình đẳng đều như trăng nước, thấy các chúng sanh đều tại trong thân mình, thân mình cũng tại trong thân chúng sanh, giống như ảnh hiện, hay khiến chúng sanh đều làm thân Phật, cũng khiến thân mình làm thân chúng sanh. Tất cả không có kẻ hay biến động”. Lại trong kinh có kệ tụng rằng: “Chư Phật tợ như gương tròn lớn, Thân ta giống như châu ma-ni, Pháp thân chư Phật vào thể ta, Thân ta thường vào thân chư Phật”. Tuy nhiên qua lại vào mà không chỗ vào, nếu có chỗ vào tức thành hai pháp. Hỏi: Nếu thật ngoài tâm không pháp riêng nêu tông là không chư Phật là không người năng hóa, không chúng sanh thì không chúng sở hóa, toàn quy về vô ký, lấy gì làm tiếp nối hưng thạnh? Đáp: Chỉ nghóa là rõ duy tâm nên thành Phật bình đẳng, đạt duy thức nên hành bi đồng thể. Nếu chẳng ngay đó chóng ngộ tông đây, thì tự lợi lợi tha đều mất. Tại sao? Vì chẳng vào một tâm bình đẳng, trái với chánh tông của thành Phật. Chẳng rõ đồng thể đại bi, đọa vào vọng tưởng của ái kiến. Như trong phẩm Quán chúng sanh ở kinh Duy-ma nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Duy-ma-cật rằng: “Bồ-tát làm sao quán ở chúng sanh?” Duy-ma-cật đáp: “Thí như Huyễn sư thấy ở người huyễn, Bồ-tát quán chúng sanh là như vậy, như người trí thấy ánh trăng trong nước, như thấy ảnh tượng họ trong gương, như ánh lửa trong lúc nóng đốt, như tiếng vang lúc gọi, như mây giữa không trung, như nước nhóm tụ bọt, như bọt trên mặt nước, như lá chuối bền chắc, như điện chớp chẳng dừng lậu, như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như tình thứ bảy, như mười ba nhập, như mười chín giới. Bồ-tát quán chúng sanh như đây, như sắc của Vô sắc giới, như mầm hạt cháy, như Tu-đà-hoàn thân kiến, như A-na hàm vào thai, như A-la-hán ba độc, như Bồ-tát đắc nhẫn tham nhuế hủy phạm cấm giới, như thói quen phiền não nơi Phật, như người mù thấy sắc, như nhập diệt tận định có hơi thở vào ra, như dấu vết chim bay giữa hư không, như con của thạch nữ, như phiền não ở hóa nhân, như điều thấy trong mộng đã tỉnh giấc, như người diệt độ nhận thọ thân, như lửa không khói, Bồ-tát quán chúng sanh là như vậy”. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi: “Nếu Bồ-tát quán như vậy, cớ sao hành từ?” Duy-ma-cật đáp: “Bồ-tát quán như vậy rồi tự tư duy rằng: “Ta đang vì chúng sanh nói pháp như thế này”. Đó tức là chân thật từ vậy”. Trong Tịnh Danh Tư Ký giải thích rằng: “Nay nói rõ về cốt lõi trong phẩm quán chúng sanh thì chỉ y cứ một hàng câu trong đó là đủ, được một câu thâu tóm tâm thường chiếu tất cả muôn hạnh của hành đầy đủ, chỉ khiến trong tự quán, quán thâu tâm ông như rốt ráo không đây, tức là Bồ-tát quán chúng sanh. Bồ-tát gọi là đạo, đạo là năng thông, thông sắc tâm bản tánh ông, khiến lìa hư vọng, tức là Bồ-tát. Bồ-tát chỉ tại trong thân ông, quán thân tâm ông như cánh tay thứ ba là, rốt cùng không thân tâm. Trong đây nêu bày pháp dụng tâm của người tọa thiền rất hay, chỉ quán thân tâm như vậy, không thể làm định loạn. Phải quấy một khác, tất cả đều bình đẳng tức là pháp tọa thiền. Chẳng đồng như thời nay chấp có tâm khả đắc, nói tâm ta loạn, muốn trừ loạn phải giữ lấy định, rất thành điên đảo, phải rõ biết việc ma. Lại, thời nay muốn độ chúng sanh, nên phải sớm tối quán chỗ khởi tánh phiền não trong tâm ông tức là độ chúng sanh chỉ dẫn bảo trí quán phiền não đây gọi là Phật vậy. Thích-ca đã quán phiền não rồi, đắc làm Phật rồi, thuyết giáo lưu truyền cho. Nay phàm phu y cứ theo giáo mà tu hành, nếu nói riêng có Phật riêng có rất nhiều thế giới chúng sanh, Phật lần lượt độ xong, vậy sau mới thành Phật, nếu vậy thì Thích-ca đã thành Phật rồi, nay nào được còn thấy chúng sanh đầy khắp thế giới? Phải biết không như vậy. Phàm, nói rồi, tức hết vậy. Trên đây quán chúng sanh đã xong, tiếp theo là quán Như Lai là như trong phẩm Phật A-Súc nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Duy-ma-cật rằng: “Ông muốn thấy Như Lai thì dùng những gì để quán Như Lai ư?” Duy-ma-cật đáp: “Như tự quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Con quán Như Lai khoảng trước chẳng đến, khoảng sau chẳng đi, nay thì chẳng trú, chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như, chẳng quán sắc tánh, chẳng quán thọ tưởng hành thức, chẳng quán thức như, chẳng quán thức tánh, chẳng phải tứ tại khởi, đồng như hư không, sáu nhập không tích nhãn nhó tỷ thiệt thân tâm đã qua, chẳng tại trong ba cõi, ba cấu đã lìa, thuận ba môn giải thoát, ba minh cùng vô minh bình đẳng, chẳng một tướng chẳng khác tướng, chẳng tướng tự chẳng tướng tha, chẳng phải không tướng chẳng phải chấp tướng, chẳng bờ này chẳng bờ kia chẳng giữa dòng, mà hóa độ chúng sanh, quán nơi tịch diệt mà chẳng trọn diệt, chẳng đây chẳng kia, chẳng lấy đây chẳng lấy kia, chẳng thể dùng trí biết, chẳng thể dùng thức hay, không tối không sáng, không danh không tướng, không mạnh không yếu, chẳng phải sạch chẳng phải dơ, chẳng tại phương chẳng lìa phương, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, không chỉ bày không nói năng, không ban cho không keo lận, chẳng giới chẳng phạm, chẳng nhẫn chẳng sân, chẳng tiến chẳng lùi, chẳng định chẳng loạn, chẳng trí chẳng ngu, chẳng thành thật chẳng khi dối, chẳng đến chẳng đi chẳng ra chẳng vào, tất cả bặt đường ngôn ngữ, chẳng phải phước điền, chẳng phải chẳng phước điền chẳng phải ứng cúng dường, chẳng phải chẳng ứng cúng dường, chẳng phải lấy, chẳng phải bỏ, chẳng phải tướng chẳng phải không tướng, đồng chân tế, bằng pháp tánh, không thể cân không thể lường, vượt qua các cân lường, chẳng phải lớn chẳng phải nhỏ, chẳng phải thấy chẳng phải nghe, chẳng phải hay chẳng phải biết, lìa các trói buộc, ngang bằng các trí, đồng chúng sanh, đối với các pháp không phân biệt, tất cả đều không mất, không xúc không não, không làm không khởi, không sanh không diệt, không sợ không lo, không mừng không chán, không đắm trước, không đã có, không sẽ có, không hiện có, không thể dùng tất cả ngôn thuyết phân biệt diễn bày. Bạch Đức Thế Tôn! Thân Như Lai là như vậy. Tác quán như vậy, vì quán đó gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”. Trong Tịnh Danh Sớ của Thiên Thai giải thích chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như, chẳng quán sắc tánh, chẳng quán sắc là tâm như huyễn sư huyễn tạo các thứ sắc, nếu biết huyễn sư là luống dối thì không được sắc của chỗ huyễn, sắc từ tâm huyễn sư huyễn hóa ra, còn chẳng được tâm đây, thì xứ nào thấy có sắc đây? Nên không nên quán sắc, chẳng quán như là, nếu thấy sắc cùng như là khác đó thì hết sạch sắc vào như, nay chẳng thấy riêng biệt của sắc như, nên chẳng quán như. Chẳng quán tánh là tức chẳng quán thật tánh, chẳng quán sắc là không tục, chẳng quán như là không chân, chẳng quán thật tánh là không trung đạo, vì chấp trung đạo đó có Phật tánh, mà khởi thuận đạo ái sanh, là làm đảnh rơi đọa. Nên trong kinh nói: “Ngã và Niết-bàn cả hai đều không, chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không”. Nay chẳng quán tánh là không thuận đạo ái vậy. Phàm nhận thọ quả báo sai biệt ở thế gian, đều là một niệm tâm khác phân biệt tình sanh, chấp thủ tướng chúng sanh, là phàm chấp cảnh chư Phật làm Thánh, như trong kinh nói: “Quán chúng sanh như huyễn sư thấy huyễn, quán Như Lai thì ba khoảng thời gian thể đều không, hai kiến do đó tiêu mất, tình lượng vì đó đều sạch hết, thì có thể thành vui của chư Phật trừ lo buồn của Bồ-tát, tin một tâm đây hay vào Tông Kính. Do đó trong phẩm Như Lai Thần Lực ở kinh Pháp Hoa có kệ tụng rằng: “Người hay trì kinh đây, Khiến ta và phân thân, Phật Đa Bảo diệt độ, Tất cả đều vui mừng”. Các bậc Thánh xưa trước nói rằng: “Chẳng ngang bằng của đạo tục, chẳng hết sạch của hai tế, là lo buồn của Bồ-tát vậy”. Trong kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập nói: “Phật pháp, gọi là tất cả pháp, tất cả pháp gọi là Phật pháp. Tánh Phật pháp tức là tánh tất cả pháp, như tánh tất cả pháp không có sai biệt”, nên biết tánh không có khác, tùy thấy thành sai biệt, thể đó thường dung thông, giả danh có sai biệt. Do đó trong kinh nói: “Tất cả các pháp và pháp chư Phật, chỉ giả danh tự, cũng chẳng phải pháp phải, cũng chẳng phải pháp quấy”. Trong kinh Bất Thối Chuyển Pháp Luân nói: “Phật và Bồ-tát có âm thanh mà không thật, cũng không phương sở, các pháp cũng vậy”. Trong kinh Hoa Nghiêm có bài tụng rằng: “Biết các thế gian đều bình đẳng, Chẳng phải tâm nói tất cả nghiệp, Chúng sanh huyễn hóa không có thật, Nơi có quả báo từ đây khởi”. Lại có kệ tụng rằng: “Các pháp tịch diệt chẳng tịch diệt, Xa lìa hai tâm phân biệt đây, Biết các phân biệt là tục thấy, Vào nơi chánh vị phân biệt hết”. Trong phẩm An Lạc Hạnh ở kinh Pháp Hoa nói rằng: “Lại nữa, vị Đại Bồ-tát quán tất cả các pháp không, như thật tướng, chẳng điên đảo, chẳng động chẳng thối chẳng chuyển, như hư không, không chỗ có tánh, tất cả tuyệt đường ngôn ngữ, chẳng sanh chẳng xuất chẳng khởi, không danh, không tướng, thật không chỗ có, không lường không ngằn không ngại không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh”. Nói thường vui thích quán thật tướng như vậy, đó gọi là nơi thân gần thứ hai của vị Đại Bồ-tát. Lại, trong phẩm Như Lai Thọ Lượng nói: “Này các thiện nam! Các kinh điển Như Lai diễn nói, đều vì độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các điều nói năng đều thật chẳng dối. Tại sao như vậy? Vì Như Lai biết như thật, thấy tướng của ba cõi, không có sanh tử, hoặc lùi hoặc ra khỏi, cũng không ở đời và cả diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Những việc như thế, Như Lai thảy đều thấy rõ không có sai lầm. Vì các chúng sanh có các thứ tánh các thứ dục, các thứ hành, các thứ nghó tưởng phân biệt, muốn khiến sanh các căn lành, dùng vô số nhân duyên thí dụ, ngôn từ, các thứ nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm phế bỏ”. Nên biết nếu dùng môn chánh tông, còn không người ở đời, cũng không có diệt độ, huống gì có khác biệt của năng hóa và sở hóa ư? Nếu dùng môn Phật sự, thì biển giáo rộng sâu, đèn trí chiếu khắp, tùy cơ duyên khéo léo, nào dụng tạm phế bỏ ư? Do đó, trong luận Đại Trí Độ nói: “Hỏi rằng: Nếu ngũ ấm là không tức không Phật, tức là tà kiến, vậy cớ sao Bồ-tát phát tâm cầu làm Phật?” Đáp rằng: “Trong đây nói không Phật, vì phá ý tưởng chấp trước nơi Phật, chẳng nói giữ lấy tướng không Phật, nếu có Phật còn khiến chẳng giữ lấy, huống gì giữ lấy tà kiến không Phật? Lại, Phật là thường vắng lặng, không tướng hý luận, nếu người phân biệt hý luận sự thường vắng lặng, thì người đó cũng rơi lạc tà kiến. Lìa hai biên có và không đó, ở ngay trung đạo tức là thật tướng các pháp. Thật tướng các pháp tức là Phật. Tại sao? Đắc thật tướng các pháp đó gọi là đắc Phật. Trong kinh Đại Bát-nhã nói: “Các chúng Bồ-tát còn chẳng đắc pháp, huống gì chẳng phải pháp, còn chẳng đắc đạo, huống gì chẳng phải đạo”. Lại nói: “Đối với pháp sanh tử, chẳng khởi chẳng rơi đọa, đối với các đạo thánh, chẳng lìa chẳng trí”. Giải thích rằng: “Đối với pháp sanh tử mà chẳng khởi, là tự tánh thường không nên chẳng rơi lạc bên lìa, chẳng rơi đọa, là chẳng tùy lưu chuyển nên chẳng rơi lạc bên tức. Đối với các đạo thánh chẳng lìa, là tánh thường tương ưng, nên chẳng rơi lạc bên biên, chẳng tu, là thiên chân đầy đủ nên chẳng rơi lạc bên thường. Như trong Thanh Lương sớ nói rằng: “Chẳng chấp trước một nhiều năng lập tất cả, là chẳng chấp trước ở có năng an lập vậy, tức chân tục dung thông, nghóa là tướng của thế tục huyễn có, tướng vốn tự không. Lý của thắng nghóa chân không, lý thường tự có, có là không, có chẳng phải thường có. Có đó chưa từng chẳng không, không là có không, chẳng phải đoạn không. Không đây còn thường chẳng có, có không, không có, thể chỉ một mà tên gọi khác. Tên gọi khác nên chân tục qua lại trái nhau xa xôi chẳng tạp. Thể một nên không có cùng thuận ngầm vậy chẳng hai, một và chẳng một, chẳng tức chẳng lìa, dung thông vô ngại. Trí Bồ-tát khế hợp với nguồn cội đó, do đó mà chóng tuyệt vô ký, mà khéo tu an lập”. Lại nói: “Do vì sư hư quậy lý, không sự nào của chẳng lý. Lý thật ứng duyên, không lý nào của ngại sự. Do đó, vắng lặng mà thường soi chiếu, soi chiếu mà thường vắng lặng, nên trọn ngày biết thấy mà không biết thấy vậy. Cho đến, Bồ-tát Bi Trí cùng thành, ẩn hiện không ngại, bi nên thường hành ở thế gian. Trí nên chẳng nhiễm thế pháp. Dung thông có ba: Một là, bi không gì chẳng trí thì thế tục không gì chẳng lìa, do đó thường tại thế gian mà chưa từng chẳng ra khói. Hai là, trí không gì chẳng bi nên lìa không gì chẳng là thế tục, do đó vượt ngoài thế tục mà không gì chẳng ở nơi thế tục. Ba là, cả hai cùng chứa, nên động tónh không hai, chỉ là một niệm, điều gọi là không niệm, không niệm bình đẳng vậy. Thế tục và xuất thế tục không có chướng ngại. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Vị Đại Bồ-tát biết khéo léo nói Phật, chỉ bày Niết-bàn vì độ chúng sanh, nơi có phương tiện tất cả đều là tâm tưởng kiến lập, chẳng phải là điên đảo, cũng chẳng phải hư dối. Tại sao? Bồ-tát rõ biết tất cả các pháp ba đời bình đẳng, như như chẳng động, thật tế không trú, chẳng thấy có một chúng sanh đã thọ nhận giáo hóa, nay đang thọ nhận giáo hóa và sẽ thọ nhận giáo hóa. Cũng tự rõ biết không chỗ tu hành, không có chút ít pháp hoặc sanh hoặc diệt mà có thể đắc, mà y tựa nơi tất cả các pháp, khiến điều nguyện chẳng không. Đó là như thật trú thứ chín. Lại có bài tụng rằng: “Bồ-tát hay ở trong một niệm, Quán các chúng sanh vô số Phật. Lại ở nơi trong đầu sợi lông, Gồm hết các pháp đều rõ thấy”. Do thật thấy đây nên thành vô duyên từ, khiến khắp pháp giới chúng sanh thấy nghe được lợi ích. Do đó, trong kinh nói: “Thí như nhật nguyệt chẳng tâm làm qua lại chiếu sáng, chỉ vì sức phước đức của các chúng sanh nên tự hành qua lại phá hoại các tối tăm”. Nếu vào trong Tông Kính đây thì không một pháp có thể thủ lấy, vì đều đồng tánh vậy, không một pháp có thể xả bỏ, vì tuyệt tướng khác biệt vậy. Do đó, thánh nhân thường khéo cứu người mà không vất bỏ người, thường khéo cứu vật nên không vứt bỏ vật. Phàm nói khéo (thiện) là không gì chẳng phải biết tông. Mới là khéo trên hết (thượng thiện) của rốt ráo. Nếu cứu người là thành bi của đồng thể, nếu cứu vật là quy về lý của không tướng, thì ngoài khéo không pháp, vất bỏ gì ư?