<經 id="n2006">NHÂN THIÊN NHÃN MỤC (QUYỂN 1 6) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN BÀI TỰA NHÂN THIÊN NHÃN MỤC Lúc du phương, tôi đã hết lòng chí thành, thưa hỏi các bậc tôn túc cương yếu năm tông. Kiện mục trong ấy, thường không đồng có người chưa biết, mà khái niệm, đã căn cứ vị thầy, mà ngữ cú cương tông, còn không biết tên ấy, huống hồ chỉ quyết toan lấy gì mở bày dìu dắt hậu côn, hoặc thấy sót bên lề hoặc ở đoạn bia đá, hoặc nghe bậc tôn túc xưng đề, hoặc được Lão nạp đưa ra bài tụng. Phàm là năm nhà cương yếu, ngay bút viết thành các tụng. Tuy thành pho sách lớn, mà thứ lớp chưa rãnh định rõ. Chiếu đến núi Vạn niên Thiên thai, mới thưởng thức chí thú ấy, phân loại theo thứ tự phân làm năm tông, gọi đó là Nhân Thiên Nhãn Mục, lời ấy đều đồng, y theo các bậc tiền bối đã làm, không dám thêm bớt, song là biên tập. Chính từ trên các bậc đại lão lợi ích chúng sinh ra làm, đã chẳng phải cho bàn luận nội tâm để lưu hành ở đời, nào có chê trách. Nếu chấp vào trái bỏ nên căn cứ vào vị sư, bỏ thì không do đâu nghiệm biện tà chánh, người có hiểu biết nghe nhiều, ắt được ấn khả. Cuối tháng ở núi Việt mùa đông, Năm Nhâm Thân, niên hiệu Thuần Hy đời Tống. Nham Trí Chiêu viết lời tựa. ---------------------------------- NHÂN THIÊN NHÃN MỤC <卷>QUYỂN 1 TÔNG LÂM TẾ Thiền sư tên húy là Nghóa Huyền, họ Hình người Nam hoa, thuộc quận Tào Châu, còn nhỏ mà đã thông minh khác thường. Lớn lên nổi tiếng là có hiếu, sau khi xuất gia rồi thọ giới cụ túc, được cư trú tại học viện, chuyên tinh nghiên cứu luật, và nghiên cứu nhiều kinh luận. Nhưng một hôm Sư than thở rằng: Tất cả nhũng thứ đây là phương thuốc cứu đời, chẳng phải là ý chỉ giáo ngoại biệt truyền, liền khoát áo du phương. Ban đầu đến học với Thiền sư Hoàng Bá, sau đó lại đi yết kiến Thiền sư Đại Ngu, nhưng cơ duyên ngữ cú này đều có ghi chép ở phần Hành Lục. Sau khi Sư được Thiền sư Hoàng Bá ấn chứng, thiền sư liền tìm đến Hà bắc, cư ngụ tại vùng Đông nam thành Trấn Châu, tiếp cận bờ sông Hô Đà, trụ trì tại một thiền viện nhỏ, tên Lâm Tế là do tên đất mà đặt ra. Ngày mười tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Hàm Thông thứ tám đời Đường, Sư vén y ngồi yên, nói chuyện với đệ tử là Tam Thánh vài câu rồi im lặng qua đời. Môn đồ đem toàn thân Thiền sư nhập tháp ở phía Tây Bắc phủ Đại danh. Vua sắc ban cho Thiền sư tên Thụy là Tuệ Chiếu Thiền sư, tháp hiệu là Trừng Linh. <詞>TỨ LIỆU GIẢN Sư đầu tiên đến ở viện Hà Bắc, tham kiến với hai vị thượng tòa là Phổ Hóa và Khắc Phù. Sư bèn nói: “Tôi muốn ở đây kiến lập tông chỉ của ngài Hoàng Bá, ông có thể đoạt tông chỉ của ta, hai người trân trọng đi xuống, ba ngày sau ngài Phồ Hóa lại đến hỏi: Hòa thượng ba ngày trước nói thế nào? Sư liền đánh. Ba ngày sau Khắc Phù đến hỏi: Hòa thượng hôm qua đánh Phổ Hóa làm gì? Sư cũng đánh. Trong một buổi tham vấn chiều. Thiền sư khai thị: “Có lúc đoạt người mà không đoạt cảnh” có lúc “Đoạt cảnh mà không đoạt người” có lúc người cảnh đều đoạt” có lúc “Người cảnh đều không đoạt” Tăng hỏi: Như thế nào là đoạt người không đoạt cảnh? Sư nói: “Nắng dậy gấm thêu đầy mặt đất Hài nhi tóc rủ bạc như tơ” (Đại Huệ nói hai câu đây một câu tồn cảnh, một câu đoạt người). Tăng hỏi: Như thế nào là “đoạt cảnh không đoạt người?” Sư nói: Lệnh vua truyền khắp trong thiên hạ Biên thùy tướng só khói mây tan (Đại Huệ nói câu trên đoạt cảnh, câu dưới tồn nhân). Tăng hỏi: Thế nào là người cảnh đều đoạt? Sư nói: Hai quận Biện Phần không liên lạc Dân chúng một mình một cõi riêng (Đại Huệ nói: Lại có nhân cảnh đều đoạt diện mục). Lại nói, ta ban đầu đọc các sách thiền, thấy câu: “ Biện Phần không liên lạc” rất lấy làm nghi, tuy gạn các lão, đều mơ hồ không rõ. Đã xem lời của Lâm Tế, thì biết chữ không liên lạc. Bởi Biện Phần là tên của hai châu. Đáp: Riêng ở một phương, ý chỉ ấy rõ ràng, mới ngộ biên tập của các sư đều có sai lầm của Ô Yên). Tăng hỏi: Như thế nào là người cảnh đều đoạt? Sư nói: Vua bước lên điện báu. Ông già quê hát ca. (Đại Huệ nói: Đây là nhân cảnh đều không đoạt). <詞>BÀI TỤNG CỦA KHẮC PHÙ Đoạt nhân không đoạt cảnh Duyên tự trệ sai lầm Toan muốn cầu ý chỉ nhiệm mầu Suy lường lại trách gì? Ánh sáng ly châu sáng rỡ Thềm quế ảnh Ta-bà Gặp mặt không xoay lại Lại phải mang lưới võng. (Đại Huệ nói: Bài tụng đây đại khái ánh sáng của ly châu sáng rỡ trên thềm quế ảnh Ta-bà. Bởi hai câu đây là cảnh, người học hỏi đoạt người không đoạt cảnh, “toan muốn cầu ý chỉ nhiệm mầu”, suy lường lại trách gì. Đại ý chỉ là không thể suy lường, toan bàn suy lường, người học sai lầm “gặp mặt không xoay lại, lại phải manh lưới võng” ngôn ngữ). Đoạt cảnh không đoạt người, tìm nói chỗ nào chân, hỏi thiền thiền là vọng, xét lý lý chẳng phải thân quen, mặt trời chiếu lạnh ánh sáng yên tónh, núi xa màu xanh mới, mãi tăng thêm nhiệm mầu khế hội được, cũng là bụi trong mắt (Đại Huệ nói: Muốn hội được mặt trời chiếu ánh sáng lạnh yên tónh, núi lay động sắc xanh mới là sao? Hai câu đây là cảnh, gặp được tăng thêm nhiệm mầu khế hội, cũng là bụi trong mắt, lại đoạt rồi). “Người cảnh cả hai đều đoạt”, từ trước đến nay là chánh khiến thực hành, không luận Phật cùng Tổ, sao nói Thánh phàm tình, toan phạm xuy mao kiếm, lại như gặp người mù tiến đến trước cầu giải hội, đặc biệt chém đất linh tinh (Đại Huệ nói: Chánh kiến đã thực hành, không ngại Phật và Tổ, đến đây tiến thối đều ở trong tay sư gia, như xuy mao kiếm, không thể phạm cơ phong ấy). “Người cảnh đều không đoạt”, ý suy lường không thiên lệch, chủ khách nói không khác, lý hỏi đáp đều đủ, đậïp vỡ trăng đầm trong, xuyên khai bích lạc thiên, không thể hiểu rõ diệu dụng, chìm đắm ở vô duyên (Đại Huệ nói: Nếu muốn phân phân lý hội được ý của ngài Lâm Tế, chỉ một bề đương thời chỉ bày chỗ tham. Sư dạy chúng: Như người học các phương đến, Sơn Tăng đây hỏi, làm ba loại đoạn căn khí, như căn khí trung hạ, ta lại đoạt cảnh ấy, mà không bỏ pháp ấy, hoặc căn khí trung thượng, ta lại cảnh pháp đều đoạt, như căn khí thượng thượng, ta lại cảnh pháp người đều không đoạt. Như có người đưa ra kiến giải, Sơn Tăng đây, lại tác dụng toàn thể, không trải qua căn khí. Đại đức đến đây, người học chấp chỗ sức lực gió không thông. Nhà lửa điện chớp tức lỗi lầm, người học nếu nhãn mục bất động, tức không giao động (phàm tông năm nhà chủ yếu chỉ bày chỗ xưng thầy, sau đều phỏng theo đây). Hòa thượng ở Nam Viện hỏi Phong Huyệt Chiểu: Ông nói Tứ liệu giảng, liệu giảng pháp nào? Phong Huyệt nói: Phàm nói không trệ ở phàm tình, tức rơi vào Thánh giải, là bệnh nặng của người học, bậc Tiên thánh buồn thương họ, vì họ mở bày phương tiện, như ngạch cửa ra khỏi ngạch cửa. Nam Viện hỏi: Thế nào là đoạt người không đoạt cảnh (Thủ Sơn đáp đều gồm). Phong Huyệt nói: Mới ra khỏi lò hồng (3 0 1) cây đàn vàng, giúp phá diện môn thiết của Xà-lê. Thủ Sơn nói: Người trước ra tiễn xa ngàn dặm. Trong kinh Pháp Hoa ghi: “Bạch cúc vừa nở nhiều ngày ấm, Trăm năm công tử không gặp xuân”. Từ Minh Viên nói: Thần Hội từng mài bia Phổ Tịch. Đạo Ngô Chân nói: Trong am nhàn rỗi ngồi đánh, mây trắng nổi đỉnh núi. Viên Ngộ Cần Khắc nói: Lão tăng có mắt mà không từng thấy. Đạt Quán Đỉnh nói: Trong nhã đã không tin mặt trời xoay, đường xa luống có mong về bài vị. Thạch Môn Thông nói: Sơn hà đại địa. Tại sao “đoạt cảnh không đoạt người?” Phong Huyệt nói: ?? ?? vừa phân kể đầu não, mây loạn đầy bóng ban đầu vẫn còn. Thủ Sơn nói: Đánh rồi không từng sân, oan gia khó giải oan. Kinh Pháp Hoa ghi: “Đại địa tuyệt tiêu tức, Hốt nhiên riêng nhận chân”. Từ Minh nói: Phải tin trong cái nhất riêng có trời. Đạo Ngô nói: Ráng đỏ lấp lánh bay, tiên đồng chỉ đường. Viên Ngộ nói: Xà-lê hỏi được tự nhiên giúp. Đạt Quán nói: Biển xanh tận giáo khô đến đáy, núi xanh cho đến nghiền thành bụi. Thạch Môn nói” Xét người mất điệp trướng. Tạo sao người cảnh đều đoạt? Phong Huyệt nói: Chen chân đến trước phải mau mau, mau quất kiềng ngựa đừng chậm trễ. Thủ Sơn nói: Vạn người làm một mộ, bấy giờ người hết bi sầu. Kinh Pháp Hoa ghi: “Cỏ hoang người biến sắc, Phàm Thánh cảnh đều vong”. Từ Minh nói: Thiên tử sắc lệnh trong vũ trụ, ngoài ngăn lệnh tướng quân. Đạo Ngô nói: Xương cứng đều chìm theo bóng hồng, mầm báu đều tiên theo mây trắng. Viên Ngộ nói: Bắt. Đạt Quán nói: Trời đất còn hư không, nhật nguyệt Tần, núi sông không thấy Hán quân thần. Vô Môn nói: Có gì là Phật Tổ. Thế nào là người cảnh đều không đoạt? Phong Huyệt nói: Vua nhớ, trong ba tháng Giang nam chim ngói kêu trỗ trăm hoa hương. Thủ Sơn nói: Hỏi: Chỗ phân minh? Đáp: Chỗ giúp. Kinh Pháp Hoa ghi: Gió mát cùng trăng sáng, Ông già quê cười thân quen. Từ Minh nói: Gió mát mặc tình qua lại. Đạo Ngô: Hạn lâu gặp mới mưa, tha hương gặp bạn cũ. Viên Ngộ nói: Buông bỏ. Đạt Quán nói: Hoàng oanh hót ngàn rừng hoa khắp nơi khách du phương ba tháng cỏ mọc gần trời. Vô Môn nói: Hỏi đáp rất phân minh. <詞>BÀI TỤNG CỦA THÚY NHAM (Tên có thể là Chân Hương Hóa người xứ Bồ điền nối tiếp Từ Minh) Đoạt người không đoạt cảnh, Nhật nguyệt tự lưu chuyển, Sơn hà và đại địa, Mưa ít nhan hơn trời. Đoạt cảnh không đoạt người, Hỏi thiền giúp chỗ nào, Gặp nhau không cúi chào, Sớm tối qua bến ải. Người cảnh cả hai đều đoạt, Tiếng trống rơi vào hồng lâu, Tung hoành đi khắp nơi, Ai dám lập tụng ngay. Người cảnh đều không đoạt, Diêm-phù chuyển gần như gặp, Phía Nam xem Bắc đẩu, Ngặt vì gặp được y táo. <詞>PHẬT GIÁM (Tên Tuệ Cần) Vò rượu người quen đều say, Trên rừng khói đặc hoa đang hồng, Nửa dêm không hương đèn đều yên tónh, Cái đu ở trong trăng sáng. Chim oanh gặp nắng xuân xa tiếng trong, Người gặp thời hình nét mặt nở nụ cười, Bao nhiêu hoa rơi trôi theo nước, Một tiếng trúc dài mây theo đến. Đường đường ý khí luống lôi đình, Oai phong lẫm liệt lẫy sương tuyết, Tướng Quân hạ lệnh trảm hình rất nhanh, Kiếm thần một phen múa ngàn dặm máu. Thánh triều thiên tử ngồi minh đường, Bốn biển sinh sinh linh đều yên gối, Niên thiếu phong lưu đảo kim tôn, Hoa hồng rụng đầy viện giống như tơ. <詞>TỔNG TỤNG Ngàn khe muôn hóc về biển cả, Bốn biển tám man triều đế đô, Phàm Thánh từ trước đến nay không hai nẻo, Cho toan cuồng chấp theo nhiều đường. <詞>BA CÂU Sư nhân vị tăng hỏi: Thế nào là chân Phật chân pháp chân đạo, xin chỉ bày. Sư nói: Phật là tâm thanh tịnh. Pháp là tâm sáng suốt. Đạo là ánh sáng vô ngại khắp nơi. Ba tức một đều không mà không thật có. Như làm người chân chánh, tâm niệm không gián đoạn. Đạt-ma Đại sư từ Tây Trúc đến, chỉ tìm người không bị hoặc chướng. Sau gặp hai vị Tổ, được một lời nói liền liễu ngộ, mới biết trước luống dụng công phu. Sơn Tăng ngày nay thấy chỗ cùng Phật tổ không khác. nếu trong câu thứ nhất tiến được, có thể cùng Phật tổ làm thầy. Nếu trong câu thứ hai tiến được, có thể cùng nhân thiên làm thầy. Nếu trong câu thứ ba tiến được tự cứu không được. Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ nhất? (Phong Huyệt lấy câu sau đáp). Sư nói: Tam yếu ấn khai chu điểm hẹp, chưa cho bàn luận phân chủ khách. Phong Huyệt nói: Theo tiếng liền hét. Đạo Ngô Chân nói: Ngay đó chạm bờ mây, núi đông tuyệt vãng lai. Hải Ân tin nói: Na Tra phẫn nộ. Vân Phong vui vẻ nói: Đưa tay quá gối. Thế nào là câu thứ hai? Sư nói: Giải hay há cho không lời hỏi. Bọt nước ngặt vì chịu đựng ngăn máy nước. Phong Huyệt nói: Trước khi chưa hỏi đã sai. Đạo Ngô nói: Khi trước mặt không thấy, sau lưng xưng oan khổ. Hải Ấn nói: Nạp tăng rơi vào lưới sai lầm. Vân Phong nói: Muôn dặm ngạn châu. Thế nào là câu thứ ba? Sư nói: Chỉ xem đầu trần làm bù nhìn, lôi kéo là trong đầu người. Phong Huyệt nói: Minh phá tức không thể được. Đạo Ngô nói: Trên đầu một đống bụi, dưới chân ba thước đất. Hải Ấn nói: Tây Thiên cõi đây. Thủy Nham nói: Cái ky cái chổi. Từ Minh chỉ bày chúng: Tiên bảo ứng Hòa thượng nói: Câu thứ nhất tiến được, có thể cùng Phật tổ làm thầy. Câu thứ hai tiến được, có thể cùng nhân thiên làm thầy. Câu thứ ba tiến được, tự cứu không được. Sơn Tăng không đúng. Câu thứ nhất tiến được, hòa bùn hợp với nước. Câu thứ hai tiến được, không dây mà tự trói. Câu thứ ba tiến được bốn lăng sát đất. Cho nên nói: Đứng cũng hải yến hà thanh, đi thì người tránh đường, ngồi thì càn khôn tối tăm nhật nguyệt không có ánh sáng. Mọi người các ông, ở chỗ nào trút nổi bực tức, như nay lại có bực tức là sao? Có bực tức liền đối với chúng bực tức thử. Nếu không Sơn Tăng ngày nay cùng ông trút bực tức đi. Bèn hô một tiếng liền chống gậy xuống tòa. Thạch Môn thông nói: Câu thứ nhất nói: Tiến được trong đá ra. Câu thứ hai tiến được ép buộc tương lai. Câu thứ ba tiến được tự cứu không nổi. <詞>TAM HUYỀN TAM YẾU Sư nói: Phàm phu diễn xướng Tam thừa, một câu phải đủ ba huyền môn, một huyền môn phải đủ ba yếu, có quyền có thật, có chiếu có dụng, mọi người các ông làm sao thể hội. Sau Hòa thượng Phân Dương Chiêu, nhân đó nêu câu nói trước: Cái đó là câu cuối của Tam huyền Tam yếu. Vị tăng hỏi: Thế nào là đệ nhất huyền? Phần Dương nói: Đích thân phó chúc trước Ẩm Quang. Đạo Ngô nói: Đích Thích Tôn phóng quang vai A-nan. Như thế nào là đệ nhị huyền? Phần Dương nói: Tuyệt tướng lìa ngôn thuyết. Đạo Ngô nói: Các voi cô luân họp lại. Thế nào là đệ tam huyền? Phầân Dương nói: Gương sáng chiếu không thiên lệch. Đạo Ngô nói: Khóc về dâu khô nước mắt đầm đìa. Thế nào là đệ nhất yếu? Phầân Dương nói: Trong lời nói không tạo tác. Đạo Ngô nói: Rất tốt chiếu tinh thô. Thế nào là đệ nhị yếu? Phần Dương nói: Ngàn bậc Thánh nhập huyền diệu. Đạo Ngô nói: Lấp lánh càn khôn chói sáng. Thế nào là đệ tam yếu? Phầân Dương nói: Ngoài từ các bá phi, đều đạp ngăn đường núi. Đạo Ngô nói: Đường hẹp tùng già xanh. <詞>TỤNG CỦA NGÀI PHẦN DƯƠNG Đệ nhất huyền: Chiếu dụng đồng thời đủ, Bảy ngôi sao ánh sáng chói rạng, Muôn dặm tuyệt khói trần. Đệ nhị huyền: Móc câu dùi bén lại thêm nhọn, Toan nghó xuyên qua má, Rách mặt dựa hai vai. Đệ tam huyền: Diệu dụng đủ vuông tròn, Tùy cơ rõ sự lý, Đầy đủ trong thể muôn pháp. Đệ nhất yếu: Đệ nhị yếu: Căn cảnh đều vong tuyệt trẫm triệu, Núi lở biển cạn gió, Nước sôi biết trôi lạnh mới là diệu. Móc câu dùi xét biện trình khảo diệu, Buông ra đoạt lại kéo máy điện, Hộp cong bảy ngôi sao chiếu sáng. Đệ tam yếu: Không lưỡi câu và thả câu, Đến mấy một khúc ca tiếng nước Sở, Người nghe tận giáo chiếu soi trở lại. (Một phen khởi nghe thảy đều vọng soi chiếu trở lại) Tam huyền tam yếu việc khó phân. Được ý vong ngôn đạo dễ gần, Một câu rõ ràng gồm muôn tượng, Trùng dương cửu nhật hoa cúc mới. <詞>TỪ MINH Đệ nhất huyền: Ba đời chư Phật toan nói gì? Trong mộng rủ lòng từ sinh khinh bạc, Ngồi ngay lại thành rơi đoạn biên. Đệ nhị huyền: Linh lợi nạp tăng mắt chưa sáng, Nhà lửa điện sáng cũng là chậm, Dương mày nháy mắt qua cửa núi. Đệ tam huyền: Vạn tượng sum-la vũ trụ rộng, Mây bay rỗng không núi nhạc tịnh, Hoa rơi nước chảy đầy sông dài. Đệ nhất yếu: Đệ nhị yếu: Đệ tam yếu: Há nói Thánh hiền diệu, Toàn bàn rảo bước đường dài, Ngẩng đầu đã điên đảo. Núi cao ????, Thần thông tự tại đến, Đa văn kêu ngoài cửa, Đứng ngược khiến người cười, Trong tay nắm càn khôn, Ngàn sai đều một phen chiếu. Bảo ông thông huyền só Đánh hét phải kịp thời, Nếu rõ ý chỉ gần Nửa đêm thái dương sáng. Ngài Trúc Am dạy chúng (Tên Só Khuê Thành Đô Sư họ Tử Từ Phật nhãn) Lâm Tế nói: Trong một câu phải đủ Tam huyền môn, một huyền môn phải đủ Tam yếu, việc của đại chúng nhân lời dặn dò mà phát khởi, lần lựa thấy sai lầm, cho lấy một bài tụng, trong câu khó thấu suốt Tam huyền, một câu gồm thông trước kiếp không. Lâm Tế mạng căn đều đoạn, một sợi chỉ hồng trong tay kéo. <詞>BỐN CÁI HÉT Sư bảo vị tăng: Có khi một cái hét như Bảo kiếm kim cang vương. Có khi một cái hét như sào dò bóng cỏ, có khi một cái hét không thành dụng của một cái hét, ông làm sao sinh thể hội?. Vị tăng suy nghó: Sư lại hét. <詞>TỤNG CỦA NGÀI TỊCH ÂM TÔN GIẢ Bảo kiếm kim cang vương gặp đường đường sương móc, Vừa hợp môi miệng liền phạm vào đầu mũi nhọn, Xem máy dừng lâu liền thành rò rỉ, Sào dò bóng cỏ không vào cõi âm. Một điểm không đến thân giặc tự bại, Có khi một tiếng hét không thành dụng hét, Đại hữu của Phật pháp chỉ là nhức răng. Ngài Thủ Sơn chỉ bày chúng: Lão tăng tầm thường hỏi ông nói, Trong đây một tiếng hét không như cái dụng của tiếng hét. Có khi một tiếng hét làm việc hỏi, Có khi một tiếng hét như sào dò bóng cỏ, Có khi một tiếng hét sư tử ngồi xổm trên đất, Có khi một tiếng hét như bảo kiếm cang vương. Hoặc khi làm việc hỏi, Phải để mắt xem mới được, Nếu khi sào dò bóng cỏ, Các ông phải làm gì sống. Nếu như sư tử ngồi xổm trên đất, Dã can phải té phân tiểu mới được. Nêu khi làm dụng bảo kiếm kim cang vương, Thiên Vương cũng phải bể não, Chỉ cùng với hét ngang hét dọc, Đồng kêu thành thương lượng đạo lý. <詞>TỤNG CỦA PHẦN DƯƠNG Bảo kiếm kim cang rất oai hùng, Một tiếng hét khả năng dẹp muôn mũi nhọn, Khắp giới càn khôn đều thất sắc, Tu-di ngã dựa nửa giữa không. Kim mao ngồi xổm đất các oai đủ, Một tiếng hét khả năng mất hồn mật, Đỉnh núi Nhạc cao người không thấy, Vượn kêu bạch nhật lại hoàng hôn. Từ Phong thám cỏ biện đương nhân, Một tiếng hét phải biết ngay cùng chân, Biển cả trong sâu bao hàm muôn tượng, Dừng dắt trâu dấu vết sâu trong hơn. Một tiếng hét ngày dương thế tự hiển bày, Các phương đều có thương lượng tốt, Tràn ngập dày đường người ca dao, Xưa đi nay đến thường không biến. <詞>PHỔ BÌNH TỤNG CỦA NGÀI TRI HẢI Khi một tiếng hét là dụng Kim cang, Ánh sáng rét tỏa sáng khắp càn khôn, Nói năng bàn luận tổn thương mũi nhọn, Đầu lâu khắp cõi đều biết không biết. Một tiếng hét sư tử lông vàng ngồi xổm, Cây đàn hương đột nhiên nổi gió thơm, Móng lớn không từng thi thiết, Hồ ly muôn dặm tránh xa. Một tiếng hét sẽ làm sào dò bóng cỏ, Nam bắc đông tây đều đến, Dài ngắn khinh trọng quyết định so bì, Đất bằng mênh mông phải nương tựa. Một tiếng hét không thành một cái dụng của một tiếng hét, Ba đời xưa nay không riêng chung, Tháng ba hoa rơi ngủ mới tỉnh, Mắt xanh đầu vàng đều là mộng. <詞>CÂU CỦA TÂM CHỦ (303) Một hôm, có vị tăng ra lễ bái, Sư liền hét. Tăng nói: “Lão Hòa thượng không ló đầu ra được”. Sư nói: “Rơi ở chỗ nào?” Tăng liền hét, Sư lại hét. Lại có vị tăng hỏi: Như thế nào là đại ý của Phật pháp? Sư lại hét, tăng lễ bái. Sư nói: “Đạo của ông hét cũng không”. Tăng nói: Giặc cỏ đại bại. Sư nói: Qua ở chỗ nào? Tăng nói: Lại phạm không cho. Sư lại hét: Ngày ấy hai vị thủ tòa gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi Sư: Có Tân chủ không? Sư nói: Tân Chủ rõ ràng. Sư nói: Đại chúng muốn lãnh hội câu Tân Chủ, Lâm Tế hỏi hai vị chủ tòa trong thủ đường. <詞>TỤNG CỦA TỪ MINH Khạc nhổ nhanh như tên chẻ mũi nhọn, Thoạt nhiên Tân Chủ phân đường thời, Tông sư thương muôn vật rủ áo đời, Đất Bắc sông Huỳnh đục thấu đáy. <詞>TỤNG CỦA TRÚC AM Làm nhà gặp nhau trọn không lầm, Cả hai đồng thời xem khạc nhổ, Hét ra tuy nhiên phần Tân Chủ, Ngặt vì như Phổ Hóa rung chung nhạc. <詞>TỪ TÂN CHỦ Sư một hôm dạy chúng rằng: Người tham học phải để hết tâm ý trong khi tham vấn. Khi chủ khách gặp nhau, thế nào cũng có lời qua tiếng lại, hoặc ứng hiện ra những hình tượng khác nhau, hoặc sử dụng toàn thân mà đối phó với đương sự. Có khi lại sử dụng những phương tiện cơ quyền như mừng giận, hoặc hiện nửa thân, hoặc ngồi trên lưng sư tử hay trên lưng voi chúa ….. Trong trường hợp một học nhân đích thực thì người này có thể hét lên hoặc đưa ra một cái bẩy( bình keo) trước mặt vị tri thức. Nếu vị này không nhận ra được cảnh ấy mà lại rơi vào cái bẩy, cứ nương theo cảnh ấy đặt ra đủ thứ mô hình, thì vị học nhân lại có thể hét lên nửa. Nếu vị thiện tri thức còn chưa chịu buông bỏ, thì đó thật là trường hợp của bệnh nan y. Trường hợp này gọi là trường hợp “khách khán chủ”. Hoặc giả vị không đưa ra cái gì hết mà cứ đòi người học đưa ra cái gì liền đoạt cái đó, người học bị đoạt tới chết vẫn còn chống cự lại, đây là “Chủ khán khách”. Hoặc có người học đứng trước thiện tri thức đưa ra đối tượng thanh tịnh. Vị thiện tri thức nhận được đối tượng ấy nắm lấy và ném xuống hầm sâu. Người học liền nói: “Rất tốt”. Vị thiện tri thức liền nói: ối chà, ông không biết cái gì tốt, cái gì xấu. Người học liền lễ bái, đây gọi là “Chủ khán Chủ”. Hoặc có người trình diện trước thiện tri thức như một người có mang gông cùm, vị thiện tri thức thấy thế lại đem tới và đeo thêm cho vài cái nữa. Người học vui mừng quá đổi, đến đổi không phân biệt được ai là chủ, ai là khách. Trường hợp này gọi là “khách khán khách”. Này các Đại đức, những gì tôi vừa nói đó là ma quái và tà đạo, và phân biệt được chính tà. <詞>TÂN CHỦ HỎI ĐÁP Có vị tăng hỏi ngài Phong Huyệt: Thế nào là tha Tân trong Tân? Phong Huyệt nói: Mở mắt ngồi mây trắng. Khắc Phù nói: Dựa cửa bên nhà, cũng như say, phát ra lời nhả khí tỏ lộ xấu hổ. Phần Dương nói: Trọn ngày chạy theo bụi trần, không biết trân báu nhà mình. Khắc Phù nói: Chấp tay đứng trước hỏi Thế Tôn. Từ Minh nói: Lại bái lạy ân cần. Thạch Môn nói: Lễ bái rất phân minh. Tuyết Đậu nói: Đầy mắt là bụi trần. Lại nói: ỐÂi! Thế nào là Chủ trung Tân? Phong Huyệt nói: Vào chợ đều là mờ mắt. Khắc Phù nói: Miệng niệm Di-đà đều là chống gậy, người mắt mù không ló đầu ra được. Phần Dương nói: Biết được của báu trong áo, ngồi ngay giải phân biệt. Ngài nói tiếp: Đối mặt không bè bạn. Từ Minh nói: Chống gậy thường ở tay. Thạch Môn nói: Thấy đất không ngó lại. Tuyết Đậu nói: Triệu phần thành năm. Ngài nói tiếp. Thế nào là Tân trung Chủ? Phong Huyệt nói: Hồi loan đôi bên chiếu sáng. Khắc Phù nói: Đề cao Tổ ấn dụng đương cơ, lợi vật nên biết nói có từ bi. Phần Dương nói: Lưỡi câu vàng quăng ném bốn biển, đuốc ngọc đèn thường sáng. Ngài nói tiếp: Trận mây khắp trên biển, rút kiếm khuấy long môn. Từ Minh nói: Chống gậy bát càn khôn. Thạch Môn nói: Đến lại hỏi đường trước. Tuyết Đậu nói: Trăng mang vầng nặng. Ngài lại nói: Gồm thâu. Thế nào là Chủ trong Chủ? Phong Huyệt nói: Mài đá ba thước kiếm, đợi chém không bằng người. Khắc Phù nói: Hoành án ?? ?? …… vũ trụ thái bình si dốt. Vị tăng nói: Dã là vũ trụ thái bình, vì sao dứt si dốt? Khắc Phù nói: Không cho đi đêm vừa cầm lửa, lại phải ngay đạo cùng người xem. Phân Dương nói: Vũ trụ cao bằng ánh sáng mặt trời mặt trăng xiển dương cùng khắp âm dương bài ca nước Sở. Sư lại nói: Ba đầu vui chấn động trời đất, Na Tra phẫn nộ xông vào cung vua. Từ Minh nói: Tay người cầm kiếm và nồi đất. Thạch Môn nói: Muôn dặm tuyệt bạn lữ. Tuyết Đậu nói: Bóp chặt đại thiên. Sư lại nói kệ. <詞>TỤNG CỦA PHÙ SƠN Khách trong khách : Hai mày không mở mắt không gân, Phục dịch phương khác đến tri kỷ, Lại mất trân báu vô giá trong áo. Chủ trong khách : Hết sức tìm đuổi không nơi chốn, Năm xưa còn tự thấy đôi chút, Ngày nay ai biết hai mắt mù. Khách trong chủ: Nhà ta rộng lớn thật khó luận, Mong cầu không sẻn tiếc không cao thấp, Sang hèn đồng đường một nẻo bằng. Chủ trong chủ: Bảy báu không thiếu điện vũ vàng, Nghìn con thường vây quanh Thánh nhan, Chủ thiên không thuận nêu vòng bay. <詞>TỤNG CỦA THÚY NHAM Khách trong khách : Nói ra không có nhân tướng, Chưa suy xét kỹ lưỡng, Cỡi trâu qua Mạnh Tân. Chủ trong khách : Dắt nhau dựa giờ ngọ, Tự triển khai không được, Lại hiểu rõ nhà cửa họ. Khách trong chủ : Nam Việt mong về Tây Tần, Hàn Sơn gặp Thập Đắc, Toan bàn Ất Mão Dần. Chủ trong Chủ: Đầu ngồi ngay phải sợ, Muôn dặm lội qua dòng cát, Ai nói Phật cùng Tổ. <詞>TỤNG CỦA NGÀI TUYẾT ĐẬU Khách trong khách : Ít vui nhiều sân, Trượng phu trang chí, Phải giao người nào. Chủ trong khách : Huyền Sa mãnh hổ, Nửa hợp nửa khai, Chỉ có tự tướng thừa nhận. Tân trong Chủ: Ôn cũ biết mới, Soi chiếu lẫn nhau, Sư tử rên rỉ. Chủ trong Chủ: Chánh lệnh toàn đề, Ỷ thiên trường kiếm, Ai dám ngăn cản. Khách chủ phân không phân: Lờ mờ tuyệt tiếng lạ, Mở vải nhọc người chưa thạo việc, Gởi lời đến mây trắng. <詞>HOA NGHIÊM (Tôn Tư ở Đông Kinh) Vị tăng hỏi: Thế nào là Tân trong Tân? Tư nói: Nhà khách như trời xa. Tăng hỏi: Thế nào là Chủ trong Tân? Tư nói: Cửa nào giống biển sâu. Tăng hỏi: Thế nào là Chủ trong Chủ? Tôn Tư nói: Lệnh Thiên tử trong vũ trụ. Tăng hỏi Thế nào là Tân trong Chủ? Tôn Tư nói: Ngoài ngăn lệnh tướng quân. Tư nói: Trong Tân hỏi Chủ xen nhau đổi, trong Chủ hỏi Tân đồng sinh đồng tử. Trong Chủ hiện Chủ, uống khí nuốt tiếng. Trong Tân tìm Tân, mây trắng muôn dặm, nên trong câu không có ý, ý ở trong câu, ở đây hiểu được, một cặp cô nhạn, bay cao khắp mặt đất, ở đây không hiểu, một đôi uyên ương, một mình đứng bên ao, thiền khách tri âm, cùng nhau chứng minh, ảnh hưởng dòng khác, cần phải xét kỹ, giây lâu mới nói: Nếu là Đào Uyên Minh, mở mắt liền trở về. <詞>TỪ CHIẾU DỤNG Một hôm Sư dạy chúng: Ta có khi trước chiếu sau dụng, có khi trước dụng sau chiếu, có khi chiếu dụng đồng thời, có khi chiếu dụng không đồng thời. Trước chiếu sau dụng còn có người, trước dụng sau chiếu còn có pháp, chiếu dụng đồng thời, đuổi trâu của nông phu cày ruộng, đoạt thức ăn của người đói, đẽo xương lấy tủy, đau đớn như kèm dùi. Chiếu dụng không đồng thời, có hỏi có đáp, lập chủ lập khách, hợp nước hòa bùn, ứng cơ tiếp vật. Nếu là người quá lượng, một bề chưa nêu về trước, vén lên lại đi, còn so sánh vài điều. Lúc bấy giờ có vị tăng ra hỏi đại ý Phật pháp. Sư nói: Ông nói thử xem?. Tăng liền hét, Sư cũng hét, tăng lại hét, Sư đánh lại. (Trước chiếu sau dụng) Tăng hỏi: Như thế nào là Đại ý của Phật pháp? Sư liền hét, rồi nói: Đạo của ông thích hét sao? Tăng lại hét, Sư cũng hét, tăng hét lại, Sư liền đánh. (Trước dụng sau chiếu) Tăng vào cửa Sư liền hét, tăng cũng hét, Sư liền đánh và nói: “Thích đánh chỉ có trước mũi nhọn lại không có sau điện”. (Chiếu dụng đồng thời) Tăng đến tham kiến, Sư liền hét, tăng cũng hét, sư lại hét, tăng cũng hét, Sư liền đánh và nói: “Thích đánh vì ông làm chủ không đến đầu không chỗ dụng, gia chủ phải đoạt thành dụng, ngàn người muôn người, đến đây ra tay không được, mãi phải đợi vội để mắt xem mới được. (Chiếu dụng không đồng thời) Cổ đức nói: Chủ một phen hét khách chứng nghiệm, khách một phen hét chủ chứng nghiệm, chủ lại hét khách chứng nghiệm, khách lại hét chủ chứng nghiệm, bốn cái hét sau không có khách chủ. Đến trong đây chủ nhà đoạt lại, lại không cho. Ngài Từ Minh dạy chúng: Có khi trước chiếu sau dụng, có khi trước dụng sau chiếu, có khi chiếu dụng đồng thời, có khi chiếu dụng không đồng thời. Cho nên nói: Có sáng có tối, có đi có đến. Từ Minh bèn hét, một tiếng hét nói, rồi lại nói: “Là chiếu là dụng, lại có thế tục được ra sao?” Nếu có xin ra tình cạn ý ngu. Nếu không Sơn Tăng mất lợi. <詞>CHIẾU DỤNG HỎI ĐÁP Như thế nào là trước chiếu sau dụng? Thủ Sơn nói: Mây trên đầu núi Nam nhạc, giặc dưới núi Thái hàng. Phật-đà khiêm tốn rằng: “Cờ hồng mặt trời sáng, bỏ dẹp chinh chiến, tuấn mã hí gió quyện mây trận”. Đạo Ngô Chân nói: Nói đường nói phân minh, quăng kim không tránh né. Huỳnh Long Tân nói: Gió mát phất trăng sáng. Ngũ Tổ diễn rằng: Lời vua như tơ. Như thế nào là trước dụng sau chiếu? Thú Sơn nói: Giặc dưới núi Thái hàng, mây ở đầu non Nam nhạc. Phật-đà nói: Chặt được đầu hung nô, về lại doanh Tế Liễu. Đạo Ngô nói: Kim cang gặp mặt đích thân phân phó, nói đạo phân minh được trình bày tốt. Huỳnh Long nói: Trăng sang lướt gió mát. Tổ nói: Trăng ra như vầng kia. Thế nào là chiếu dụng đồng thời? Thú Sơn nói: Bắt mây dưới đỉnh non Nam nhạc, bắt được giặc dưới núi Thái hàng. Phật-đà nói: Thái hàng vẫy tay, Tử Hạ nhướng mày. Đạo Ngô nói: Trong Phật tổ đi đường khác, trong bóng sum-la không lưu lại thân. Huỳnh Long nói: Gió mát trăng sáng. Tổ nói: Đưa ra gương cửa viên môn. Xi Vưu đần độn lại mất oai. Thế nào là chiếu dụng không thời? Thú Sơn nói: Hôm qua mưa hôm nay tạnh. Phật-đà nói: Sau ngọ đánh lầu chuông. Đạo Ngô nói: Trước chiếu ánh sáng màu vàng trong mát. Ngân giới Nga Mi đồng thời lót. Huỳnh Long nói: Chẳng phải gió mát mà không có trăng sáng. Tổ nói: Đem vàng thử lửa. Phần Dương nói: Phàm một câu nói phải đủ Tam huyền môn, mỗi một huyền môn phải đủ có Tam huyền có Tam yếu, có chiếu có dụng, hoặc trước chiếu có dụng, hoặc trước chiếu sau dụng, hoặc trước dụng sau chiếu, hoặc chiếu dụng đồng thời, hoặc dụng không đồng thời. Trước chiếu sau dụng, phải cùng ông thương lượng. Trước dụng sau chiếu, ông cũng phải là người mới được, chiếu dụng đồng thời, ông làm sao chống lại được. Lang Da Giác nói: Trước chiếu sau dụng, bày móng răng sư tử. Trước dụng sau chiếu, dù cho oai mãnh của tượng vương, chiếu dụng đồng thời, như rồng được nước nổi mưa đồng mây. Chiếu dụng không đồng thời, ẵm đứa trẻ lên, vỗ về thương yêu như con đỏ. Đây là pháp môn của người xưa kiến lập, thành hợp như vậy, không hợp như vậy. Nếu hợp như vậy, Kỷ Tín nương bậc Cửu long, không hợp như vậy, nếu chim nhạn mất lông ngàn dặm, lại có người Lang Da xuất khí là thế nào? Như không có Sơn Tăng tự nói đi, chống gậy đứng vững xuống tòa. <詞>TỤNG CỦA NGÀI TỪ MINH (Và tổng tụng) Chiếu thì đoạn đường càn khôn, kiểm nghiệm bậc hiền phá người ngu rơi mật mất hồn, Chiêu Quân mở đeo ấn Tô Tần cũng phải trở về thành thật đợi Hoàng Thiên, dụng lại bắt sống đến mạng chung, lại kh- iến Tô Tần dứt hết tàn hại, trở về thật lòng tỏ bày báo thiên hạ, tha ông năm tháng tháng còn lại cũng không, chiếu dụng đồng thời đánh huyền, không cho nghó nghì suy nghiệm ngu hiền, vầng kiếm mãi tung hoành trận rồng hổ, ngựa chết người chết máu đầy ruộng. Chiếu dụng không đồng thời, thời người từng hiếm có, mùa thu không có lá vàng rơi, mùa xuân rụng hết hoa bay, một tiếng hét phân tân chủ, chiếu dụng đồng thời đi, từng được ý trong ấy, giờ ngọ đánh canh ba. <詞>HƯNG HÓA SUY NGHIỆM NGƯỜI (Tứ uyển tứ thùy tứ hại) Không có tiếng kêu bát nóng (hai cơ dụng ở giữa và sau) bát ra khỏi gò đất (không có lời nào) bát ra khỏi quanh co (không có lời quyến luyến) bát (về trước nói rõ họ) ngay mặt nhổ trông về hư không khạc nhổ (lời quỷ lời tinh hồn) nhổ phía sau lưng (lời của vọng lượng) nhổ ngay xuống (nói mau diệt) không giống như mù, người mù quyết định ở phần trên trước người, chỗ đến không thấy nói. <詞>PHẦN DƯƠNG THẬP TRÚ ĐỒNG CHÂN (Phật Hải chấp nhiều lời) Phần Dương dạy chúng: Phàm người nói pháp phải đủ mười trí đồng chân (3 0 5). Nếu không đủ mười trí đồng chân, thì tà chánh không hiện rõ thế tục không có phần không thể làm nhãn mục cho nhân thiên quyết đoán thị phi như chim bay hư không mà chặt cánh, như tên bắn đích mà đứt dây cung, đứt dây cung nên bắn không trúng đích, gãy cánh nên không thể bay lên hư không được. Huyền Tráng ít trông mong đều thấu suốt hư không băng tan ngói vỡ. Làm sao sinh mười trí đồng chân cùng các thượng tòa ra điểm. 1- Đồng một chất, 2- Đồng đại sư, 3- Tổng đồng tham, 4- Đồng chân trí, 5- Đồng biến khắp, 6- Đồng đầy đủ, 7- Đồng được mất, 8- Đồng sinh sát, 9- Đồng tiếng rống, 10- Đồng được nhập. Lại có điểm sao ra được, không tiếc từ bi, thử nói ra xem. Nếu điểm không đưa ra, chưa có mắt tham học, cần phải biện lấy. Muốn biết thị phi, mặt mũi hiện còn, hét một hét xuống tòa. Đại Huệ nói: Phần Dương lão tử rốt sau, nếu không có diện mục hiện tại, một trận thua bại, tuy nhiên chưa khỏi chết con cháu của ta, hét một tiếng hét. Tịch Âm nói: Nay pháp môn đây, tòng lâm khiếp sợ, không muốn nghe tiếng ấy, lấy đâu mà nói, các phương chỉ cần bình đẳng kiến giải thật, kiến chấp đó không thay đổi, chỉ muốn truyền trao, không tin có ngộ. Giả sử ngài Phần Dương sinh lại, đích thân mổ chặt, cũng cho là quấy. Xưa ngài A-nan đi kinh hành, nghe đồng tử tụng kinh Phật rằng: Nếu người sống trăm tuổi, không khéo già bị nước mưa ngập, chưa bằng sống một ngày mà được quyết liễu. A-nan đến nói rằng: Không khéo cơ của chư Phật, chẳng phải con hạc đứng trong nước ngập. Đồng tử trở về bạch thầy, thầy cười nói: A- nan già nua, nên lấy lời của ta cho là phải, ở trước người học, nói chỉ thú Tam huyền Tam yếu mười trí đồng chân do đâu khác đây. <詞>HỎI ĐÁP CỦA CỔ TÚC THẬP TRÍ ĐỒNG CHÂN Đồng một chất Phần Dương nói: Tơ lụa Châu Phủ, Tử Hán Châu Khương. Sư lại nói: Quỷ đập vỡ thùng sơn, đều không ra khỏi sào huyệt, giặc không đánh nhà nghèo, ló đầu ngập đầu trong hang quỷ, trăm đồi cỏ mặc tình dạo chơi, trên đầu một sợi lông quyết định càn khôn, tám chữ đánh khai người không biết, chén ra khỏi gò đất. Đồng đại sự Phần Dương nói: Lửa trên đâu quan con của xe gió, đại tượng Da Châu trâu sắt phủ Thiểm Tây, sẽ rách đôi giày cỏ, thiếu mua chơi, hai vai vác không nổi, không được nửa phần văn, biết được cây thượng tòa cũng chưa, lồng đèn vào thấy trụ, gậy quơ mặt trời mặt trăng tay nắm càn khôn. Tổng đồng tham Phần Dương nói: Vạn tượng sum-la đều đảnh lễ, chớ lấy làm lạ không biết nhau, cố chấp biện bày, kêu thần gọi quỷ, buồn bã dựa lan can trông về Giang nam người Hồ trí chú miệng lẩm bẩm. Đồng chân trí Phầân Dương nói: Kế sống nhà quỷ, tám mươi ông lão vào sân nhà, kia đây không chấp phương tiện, trời đất càng khác, Phật nhãn thấy không chấp, nhận chấp y nhiên lại không phải. Hang quỷ Hắc Sơn, sợi lông nuốt biển lớn, hạt cải nhét núi Tu-di, sóng nhỏ đây lỗ mũi dài. Đồng biến khắp Phần Dương nói: Thạch đầu khối đá, Nam nhạc Thiên Thai Tây Thiên cõi đây, là cảnh giới nào? Cá đi nước đục, đánh chấp bên nam động bên bắc, thật đáng tiếc, ngồi đi ngàn ngàn muôn muôn, làm sao chặt được. Chốn cáo nô tỳ bò trắng phóng hào quang, cười họ núi lúa mở đánh trống, đạp mở biển sinh tử, nhảy ra cửa thị phi. Đồng môn đầy đủ Phần Dương nói: Xin thúng trẻ dễ đầy, đồng nhàn thổi vào kèn lá nước Hồ, lạnh thì trọn không nóng, tay mình nắm bắt mình, sư tử hống tượng vương giẫm đạp. Đồng đắc thất Phần Dương nói: Mang lông đội sừng, hàm thiết đội yên, một lời so sánh Duy-ma gạn, trong vò không có ba ba đi, cũng không thả nói ở, không rơi vào sáng tối, làm sao nói, lão bà bán quạt tay che mặt trời. Đồng sinh sát Phần Dương nói: Thả mang ông thông khí ông, rắn chết thả ra cũng sống, xin xem làm đầy, sấm chớp nhanh không kịp bịt tai, họa không đi riêng, bảo kiếm giữa mày chùy vàng trong tay áo, tưới nước lúa xe kêu khó khăn. Đồng tiếng hống Phần Dương nói: Lừa kêu chó sủa mở viên thông, sư tử rên rỉ bầy chồn chạy sau, luống nhọc bên tai, thích nói không ra khỏi cửa, tiểu xu- ất đại gặp, gió thổi cối đá niệm Ma-ha, dạ-xoa đi giữa hư không. Đồng đắc nhập Phần Dương nói: Lại ở ngoài cửa, chịu đựng đánh nặng kim cang, sơn môn cỡi điện Phật, cũng gãy nỏ hết cũng chưa, quạ già trong đãy vải, kim cang vây quanh hạt dẻ gia hồng, làm sao nuốt sống được, bao gồm trong điện hỏi Trường An, bánh Hồ nhắm sữa, cá voi uống hết nước biển, lộ ra nhánh san hô, cùng người nào được nhập. Phần Dương nói: Quỷ dành thùng sơn, sao bày tam mặc bốn mùa. Cùng ai đồng tiếng rống. Phần Dương nói: Gió thổi cối đá niệm Ma-ha, người gỗ tuy không nói, thạch nữ dẫn hồi đầu, làm sao sinh đồng sống giết. Phần Dương nói: Mãnh hổ vào bầy dê, trong đây không có lão tăng. Tại sao vật đồng được mất? Phần Dương nói: Đầu trâu mất đầu ngựa quay lại, trước mắt không có Xà-lê, A cái đó đồng đầy đủ. Phần Dương nói: Thượng tòa lại thiếu cái gì, chú lùn xem người giỡn. Đây làm sao đồng biến khắp? Phần Dương nói: Cáo nô tỳ bò trắng phóng hào quang, lại thong thả bói suy. Người nào đồng chân trí? Phần Dương nói: Nhận chấp y nhiên lại không phải, biết nhau khắp thiên hạ, biết tâm được mấy người, ai cùng chung đồng tham. Phần Dương nói: Biết được trên tòa gỗ cũng chưa, căn cứ đầu hổ bắt đuôi hổ, câu thứ nhất về sau nói rõ tông chỉ. Cái đó đồng đại sự? Phần Dương nói: Xuyên qua xương sọ, ít người tri âm. Vật nào đồng một chất? Phần Dương nói: Trong điện Hàm Nguyên hỏi Trường An, cây tang heo lau chùi lưng, Trường giang vịt gội đầu. <詞>HỎI ĐÁP TÙNG NGUYÊN NHẠC THẬP TRÍ Thế nào là Thập Trí Đồng Chân. Đồng một chất. Đồng sự việc. Tổng đồng tham. Đồng chân trí ( 1- Bất thành, 2- Không phải). Đồng biến khắp. Đồng cụ túc. Đồng được mất. Đồng sinh sát. Đồng tiếng hống. Đồng nhập (Hàn Sơn gặp Thập Đắc) cùng người nào đồng đắc nhập cùng ai đồng tiếng rống. Làm sao sinh đồng sinh sát vật nào đồng được mất. Cái đó đồng đủ. Vật nào đồng biến khắp cỡi đại bàng. Người nào đồng chân trí. Ai có thể cùng đồng tham. Cái đó đồng đại sự. Vật nào đồng một chất. <詞>HOẶC TỤNG CỦA NGÀI PHỔ AM Trời xuân mây trắng người khó hòa, Bình phẩm ngõ đi băng tuyết há xem đủ, Một cành tơ liễu nắm không được, Khói hòa bắt ngọc ở lan can. <詞>TỊCH ÂM Thập trí đồng chân mặt mũi đi, Ở trong một trí là căn nguyên, Như nay muốn thấy lão Phân Dương, Đánh phá tam huyền làm lưỡng biên. <詞>TRÚC AM Thập trí đồng chân chọn khoa Phật, Phật pháp Phân Dương khổ không nhiều, Tâm yêu kiệt tận tìm chân trí, Diện mục phân minh thấy cũng vậy. <詞>ĐẠI HUỆ Mang lông đội sừng để trong mắt, Thiết Sơn ngay mặt thế cao lớn, Đông tây nam bắc không cửa vào, Nhiều kiếp vô minh ngay dưới tro. <詞>CỔ ĐỨC THẬP THỦ (Tụng và tổng tụng) Là vật gì sao đồng một chất, Trong vạn tượng, đồng ngang nhau, Thôi đem tâm thức lừa dối tham tầm, Giúp sương mù gió mạnh thổi biển đứng. Cái đó cùng ông đồng đại sự, Trong ấy dám nói họ cùng mình, Một thân kiên cố thầm hiện các trần, Trong ánh tịch diệt không có tiện thứ. Ai có thể cùng ta tổng đồng tham, Tri thức luống nhọc năm mười ba, Trước cửa lầu gác ý nào hạn cuộc, Cố hương vẫn ở cửa Nam của biển. Người nào đồng với đây một chất trí, Thấy được phân minh lại không phải, Núi tự cao sao nước tự sâu, Một phen sửa đều bằng không dễ. Là vật thế nào đồng biến khắp, Nhiều đại kiếp đến nay thấy, Một sóng vừa động vạn sóng theo, Nào khác anh nhi được từ mẫu. A cái đó là đồng đầy đủ, <詞>CỔ ĐỨC Cỏ nhỏ bao hàm khói đủ núi xanh, Tha hương xem giống cố hương, Thêm được gốc nào hoa quanh nhà. Vật gì a đồng được mất, Tròn sáng như hoa hồng như mặt trời, Tam cá sao con cháu ban đêm rải tiền, Ngày mai luống hết hư không bậy bạ. Làm sao sinh thôi đồng sinh sát, Hoa đào hồng a hoa lý trắng, Năm nay mất đi đại hoàng chu. Đến chỗ gặp nhau Lý-bát-bá. Cùng ai nói pháp đồng tiếng rống, Ăn uống ngôn ngữ đều dùng miệng, Yến nói oanh kêu lại không đồng, Gỗ thơm điêu khắc xà nhà lại biết đó. Cùng người nào đồng được nhập, Chồng cày bừa ruộng vợ dệt vải, Lặng lẽ nhìn việc nhà họ bận. Từ trước đến nay Thập trí vốn đồng chân, Nói trực tâm tinh diệu nhập thần, Nhớ lâu trong ba tháng Giang nam, Gió xuân nhẹ nước động sinh vây. Mười năm ở Thượng Hải tìm oán thù, Không được oán thù không chịu thôi, Hoa thược dược nở diện Bồ-tát, Lá cây cọ đêm dài ngăn đầu.  <卷>QUYỂN 2 (Đông Lâm đều thêm lời của Từ Minh) hạ. Có vị tăng hỏi như thế nào là câu “Tiếp sơ cơ?” Phân Dương nói: Ông là tăng hành khước. Đông Sơn nói: Chày Kim cang đập ngã Thiết sơn. Đông Lâm nói: Ánh sáng của chín bát không đáy chói sáng. Từ Minh nói: Một dao đoạn làm hai. Làm sao suy nghiệm câu của nạp tăng? Phần Dương nói: Phương Tây mặt trời mọc giờ mẹo. Từ Minh nói: Con thuyền Nhạc Dương thẳng suốt vào sóng. Đông Lâm tổng rằng: Ngọn cây đoác Thiên Thai đen nứt nẻ. Từ Minh nói: Hàn Sơn, Thập Đắc. Như thế nào là câu chánh linh hạnh? Phần Dương nói: Ngàn dặm đem đến trình mặt xưa. Đông Sơn nói: Dạ-xoa eo gối mắt đen trong. Tổng quát rằng: Đế giày đội bền ba ngàn dặm. Từ Minh nói: Đến ngàn đi vạn. Thế nào là câu định càn khôn? Phần Dương nói: Bắc Câu-lô châu nhiều gạo tẻ, Người ăn không tham cũng không sân, Một phen làm không tham cũng không sân. Đông Sơn nói: Kinh đến chùa Bạch Mã (3 0 7) Tăng đến năm Xích Ô. Tổng rằng: Nhân gian thiên thượng đều mùa xuân. Từ Minh nói: Trời cao biển rộng. Sư lại nói: Đem bốn câu nói đây, suy nghịêm nạp tăng trong thiên (Đại Ngu nói: Xét kỹ suy lường, đem bốn câu đây, suy nghiệm tăng trong thiên hạ, lại bị nạn tăng trong thiên hạ xét phá. Đại Huệ nói: Các người muốn biết Đại Ngu sao? Ba năm không đổi đạo của cha, đáng gọi là hiếu). <詞>BA LOẠI SƯ TỬ Phù Sơn Viên Giám chỉ bày chúng rằng. Phân Dương có câu sư tử, sư tử ấy có ba loại: Siêu tông dị mục. Tề mi cộng trục. Ảnh hưởng âm văn. Nếu như “ Siêu tông dị mục”, thấy lỗi ở Sư, có thể là giống có kham nhậm truyền trao. Nếu như “ Tề mi cộng trục”, thấy bằng cùng với Sư, thì giảm bớt phân nửa đức của Sư. Nếu như “Ảnh hưởng âm văn”, chồn hoang ỷ thế dị loại nào phân, nên bậc Thánh đức phó chúc rằng: Nếu sẽ thấy tướng, cần phải xét ký cùng kiếp, không được lỗ mãng, e lầm ấn khả người sau. <詞>TAM QUYẾT CỦA PHẦN DƯƠNG Phần Dương dạy chúng rằng: Phần Dương có Tam quyết, nạp tăng khó phân biệt, bàn luận hỏi thế nào? chống gậy bỗng nhiên đầu chống đỡ. Tăng hỏi: Thế nào là Tam quyết, Sư liền đánh, tăng lễ bái. Phần Dương nói: Cho ông bài tụng. Quyết thứ nhất: Tiếp dẫn không có thời tiết, Khéo nói không thể nêu bày, Mây xanh đầy trời trăng. Quyết thứ hai: Phóng ánh sáng biện rõ hiền triết, Tâm hỏi đáp lợi sinh, Nhổ ra cây đinh trong mắt. Quyết thứ ba: Người Hồ Tây Trú nói, Qua bến nước Tân-la, Đất Bắc cần Bân Thiết. <詞>TỪ MINH Quyết thứ nhất: Sơn hà đại địa tiết ra, Duy-ma mới điểm đầu, Văn Thù lại nhiều lời. Quyết thứ hai: Mở mắt ra xem thời tiết, Nói nín há liên can, Nửa đêm trăng mùa thu. Quyết thứ ba: Núi xa đường khó bước, Đất bằng thuyền dạo chơi, Trong mắt khinh nhật nguyệt. <詞>TỤNG CÚ PHÁP XƯỚNG Quyết thứ nhất: Ba cân tiền trong tay áo, Bỗng gặp Duy-ma kinh, Đề khởi ra ngăn đầu chống đỡ. Quyết thứ hai: Tháng sáu tuyết đầy trời, Nắng gắt không chỗ trốn, Thật là lạnh như sắt. Quyết thứ ba: Chữ bát không hai phẩy, Sao tăng gật đầu cười, Trong mắt lại đỡ nặng. <詞>TỤNG CỦA NGÀI ĐÔNG SƠN Quyết thứ nhất: Thật tuyệt vời, Tay cầm chùy vàng rồng, Đánh mặt trăng rơi bên trời. Quyết thứ hai: Khó phân biệt, Lưu ly trũng trên gối, Mã não lồi trong mâm. Quyết thứ ba: Rất siêu tuyệt, Mùa xuân hoa cỏ bốn mùa. <詞>TỤNG AN TRỤ Quyết thứ nhất: Đầu kim gọt mòn, Xuyên qua tai người Hồ, Mặt mũi sang thiếu. Quyết thứ hai: Giết người thấy máu, Người câm chịu đau, Không chỗ phân tuyết. Quyết thứ ba: Nắng xuân tuyết trắng, Nước suốt hoa đào, Trăng sáng đầu núi. Như thế nào là quyết thứ nhất? Cổ đức nói: Mỗi cành san hô nâng đỡ mặt trăng. Thế nào là quyết thứ hai? Cổ đức nói: Muôn dặm một miếng sắt. Thế nào là quyết thứ ba? Cổ đức nói: Bên trăm đầu cỏ đều tiết lộ. <詞>TAM CÚ CỦA PHẦN DƯƠNG Phần Dương thượng ra câu hỏi: Thế nào là người học cầm chỗ dao? Phần Dương nói: Da Châu đánh bại tượng. Thế nào là người học chuyển chỗ thân? Phần Dương nói: Phủ Thiểm tây mọc trâu sắt. Thế nào là người học chỗ rất gần? Phần Dương nói: Sư tử dạo chơi Tây hà. Sư nói tiếp: Nếu người từng được ba câu đây, đã biện được tam huyền, lại còn có ngữ tam yếu, cần phải dâng lấy. <詞>CHÂN CÚ CỦA THÚY NHAM Tăng hỏi: Thế nào là người học trước tác lực cú? Thúy Nham nói: Ngàn mặt trời chặt cây khô đốt một ngày. Thế nào là người học chuyển thân cú? Thúy Nham nói: Một vách tường trăm vách tường. Thế nào là người học thân thiết câu? Thúy Nham nói: Nhà đục đưa lên qua đầu thuyền. <詞>MƯỜI TÁM CÂU HỎI CỦA PHẦN DƯƠNG Phần Dương nói: Đại ý bỏ thật thầm hỏi hỏi khó hiện, phải biết đến ý, còn bao nhiều thì đều có thời tiết tướng ngôn thuyết cạn sâu chỉ so sánh đúng, không được vọng sinh xuyên tạc, kia đây không lợi ích. Tuy là nhân thiện, mà chiêu lấy quả ác, cần phải xét kỹ. Thỉnh ích: Có vị tăng hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? Tổ nói: Tức tâm là Phật. Triệu Châu nói: Trong nên chánh điện. Trình giải: Tăng hỏi Long Nha: Trời không thể che chở, đất không thể chở thời gian là thế nào? Long xuyên nói: Đạo là hợp như vậy. Xét hiện: Tăng hỏi Lâm Tế: Người học có một câu hỏi, lúc ở chỗ Hòa thượng như thế nào? Lâm Tế nói: Nói mau nói mau. Tăng suy nghó. Lâm Tế liền đánh. Đậu cơ: Vị tăng hỏi Thiên Hoàng: Khi tính nghi chưa dứt như thế nào? Thiên Hoàng đáp: Thủ một chẳng phải chân. Thiên tịch: Vị tăng hỏi ngài Ba Tiêu: Tột đại địa là con mắt trong, xin sư chỉ bày. Ba Tiêu nói: Gặp người nghèo cho ăn. Tâm hành: Vị tăng hỏi ngài Hưng Hóa: Người học phải trái chưa phân xin thầy phương tiện. Hưng hóa theo tiếng liền đánh. Thám bạt: Vị tăng hỏi ngài Phong Huyệt: Không hiểu thấu người, vì sao không nghi? Phong Huyệt nói: Linh quy đi đất bằng, sao khỏi kiệt lực chỉ dạy. Huyền Sao nói: Ông nghe tiếng khe nước im lặng chăng? Tăng nói: Nghe. Huyền Sao nói: Từ trong đây vào. Kình đảm: Vị tăng hỏi Lão Túc: Thế trí biện thông, đều không cần đưa ra, trả lại câu thoại đầu của ta. Lão Túc liền đánh. Trí: Vị tăng hỏi Vân Môn: Khi trố mắt không thấy biên tế là sao? Vân Môn nói: Soi xét. Cố: Vị tăng hỏi ngài Thủ Sơn: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh vì sao không biết? Thủ Sơn nói: Biết. Tá: Vị tăng hỏi ngài Phong Huyệt: Biển cả có châu, làm sao lấy được? Phong Huyệt nói: Lúc võng tượng đến ánh sáng chói rạng, ở Hàng Ly Lâu sáng ngập trời. Thật: Vị tăng hỏi Tam Thánh: Người học chỉ thấy Hòa thượng là tăng, thế nào là Phật là pháp? Thánh nói: Là Phật là pháp, ông biết đó sao? Giả: Vị tăng hỏi Kỉnh Sơn: Cái này là ở trong điện, cái đó là Phật sao? Kỉnh Sơn nói: Cái này là ở trong điện. Vị tăng hỏi Tổ sư: Tất cả các pháp, xưa nay là có cái đó là không? Tổ sư đáp: Ông hỏi rất rõ ràng, nhọc gì lại hỏi ta. Trưng: Vị tăng hỏi ngài Hiểu Châu: Tổ sư Tây lai làmviệc gì? Hiểu Châu đáp: Ông nói làm việc gì, tăng không nói, Hiểu Châu liền đánh. Minh: Ngoại đạo hỏi Phật: Không luận có nói hay không nói, Thế Tôn giây lâu. Ngoại đạo nói: Thế Tôn đại từ đại bi, khai mở màng mây mê mờ cho ra khiến ta được nhập. Mặc: Ngoại đạo đến chỗ Phật không nói mà đứng. Đức Phật nói: Rất nhiều ngoại đạo. Ngoại đạo nói: Thế Tôn đại từ đại bi khiến ta đắc nhập. Phàm có người học tihên lệch về ngôn cú, hoặc bị ngăn che tương lai, hiện rõ nhãn mục sư gia, hoặc trình tri kiến gánh vác đầu đội sừng, mỗi mỗi thử nghiệm, thảy đều đánh được, chỉ vì trực tiếp biết phá, hoặc chê hoặc khen, gương sáng đến đài, tại sao có thể hiện yêu tinh, sao có yêu quái ẩn hiện hình. PHÙ SƠN (tên Pháp Viễn) Sư Phù Sơn một khi chỉ bày chúng, nêu hết ngữ cú tông môn mà người học biên tập, xin tên Sư, Sư nhân đó góp nhặt đại khái, gọi đó là Phật Thiền Tông Giáo Nghóa Cửu Đời tập, bởi nói phỏng làm cho cửu lưu. <詞>GÁNH VÁC CHÁNH PHÁP NHÃN TẠNG Luận về lý chân thật, chứng thành Pháp thân, công chiếu dụng, làm thành Báo độ, bổn nhân của chư Phật đã vậy, mô phạm rộng lớn của các Tổ cũng vậy, năm bộ phận tông muôn phái cờ vải tinh màu lam, phần sáng của một ngọn đèn pháp tịch mười phương đông đúc. Lại trong kinh Hoa Nghiêm nói: Đức Như Lai không xuất thế, cũng không có nhập Niết-bàn. Xưa trên hội Linh sơn, Đức Thế Tôn cầm cành hoa sen xanh nhìn khắp chỉ bày bốn chúng, không có người nào hiểu ý lãnh hội được, duy có ngài Đại Ca-diếp, riêng lãnh hội ý chỉ Phật. Trong kinh nói: Đức Phật bảo ngài Ca-diếp: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, phó chúc cho ông, ông nên truyền khắp chớ để đoạn tuyệt”. Đức Thế Tôn khi sắp nhập Niết-bàn bảo ngài A-nan rằng: Mười hai bộ kinh, ông phải lưu truyền, Đức Phật bảo ngài Ưu-ba-ly rằng: Tất cả giới luật ông phải phụng trì (một phen làm thon trì) Ngài phó chúc cho ngài Đại Ca-diếp bài kệ rằng: “Pháp bổn pháp vô pháp, Vô pháp pháp diệt pháp, Nay lúc phó chúc vô pháp, Pháp pháp đâu từng pháp”. Thế là ngài Đại Ca-diếp thọ trì ca-sa của Phật, ở trong núi Kê túc, nhập định tịch diệt, đơi đức Di-lặc hạ sinh, hai tay giao phó (Cổ đức nói lời rằng: Chim đậu không có bóng cây, hoa nở không nẩy mầm, ba đào bốn biển lớn một vầng trời trăng sáng). <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN TRÍ Phật chánh pháp nhãn, Đích thân Ca-diếp nghe, Tổ nễ không hiểu, Tai họa đến con cháu. <詞>TỤNG CỦA ĐẠI HUỆ Không kiếp xa xôi không thể tính kể, Phật nhãn đâu từng biết được to lớn, Diệu thể xưa nay không có vị thứ, Chánh nhân đâu được có quy mô. Thái hư rộng lớn bụi trần sạch, Trí soi tròn sáng vật tượng khác, Từ đây núi hoa ngàn muôn đóa, Mặc tình họ Phan Lan đến cõi lừa. <詞>GÁNH VÁC TẠNG PHẬT PHÁP Luận về giáo ngoại Tam thừa, chư Tổ biệt truyền, trong vạn tượng bỗng nhiên riêng hiển lộ, mây trần chưa dứt, ngăn cách núi sông, suy tính sai khác, ngàn đời muôn kiếp, tam Hiền chưa hiểu, thập Thánh đâu biết, cắt đứt các dòng, làm sao đạt đến, Thánh nhân uyển chuyển đưa ra phương tiện không thôi, chạm khắc các hình mà không có công lao, thì huống gì là Như Lai Tạng ư? Đó gọi là tạng, bao quát các tạng Phật pháp ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, trong ấy có Đại thừa, Tiểu thừa. Giáo pháp Tiểu thừa nói về Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp Đại thừa nói về Bồ-tát, ở trong chi phần phân làm tám: Nghóa là ba tạng năm thừa. Ba tạng ấy là Kinh, Luật, Luận. Năm thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát bao gồm cả nhân thiên. Song thì giáo phân danh số, y căn bản lập ra, mà không lìa Nhất thừa. Trong kinh Pháp Hoa nói: Đối với đạo Nhất thừa phân biệt với thành ba. Lại nói: Còn không có hai thừa, hà huống có ba. Lại nói: Chỉ một sự thật đây, còn hai pháp chẳng phải chân. Đây nói rõ y căn bản lập quyền. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: Như Lai Tạng dùng pháp giới làm thể, Như Lai tạng không có mé trước sau, không có pháp thành hoại, không có ngôi vị tu chứng, dứt nghóa đối đãi, cho nên Văn Thù có bài kệ rằng: Một niệm khắp quán, Vô lượng kiếp không đi, không đến cũng không trụ, Như vậy rõ biết việc ba đời, Vượt ra các phương tiện thập lực. Thánh nhân nói liễu nghóa, bất liễu nghóa, Đều là y căn an lập, Chư Phật tùy nghi thuyết pháp ý thú khó hiện, Ba tạng năm thừa đều có tông chỉ. Đối với Nhất thừa gần đủ, đều là quyền lập. Duy có một bộ kinh Hoa Nghiêm, dùng pháp giới làm thể lượng, Phật cùng chúng sinh đồng một thể tánh, vốn không tu chứng, vốn không có đắc thất, không có phiền não có thể đoạn, không có Bồ-đề có thể cầu, nhân cùng phi nhân tánh tướng bình đẳng. (Cổ đức viết rằng: “Vốc nước trăng ở tay, Ngắm hoa hương đầy áo, Khe xưa suối lạnh vọt, Tùng xanh sau tuyết héo rụng”.) <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN (3 0 9) Tạng Phật pháp của ta, Cứu với chúng sinh, Trăm ngàn Tam-muội, Khảy móng tay viên thành. <詞>TỤNG CỦA ĐẠI HUỆ Mười phương nhiếp khắp không sót, Ba đời gồm thâu ở lúc này, Hiệu Thánh danh phàm đồng một lưỡi, Hình kém tướng khác không nhiều nẻo. Ngoài cửa nhà nhà tăng trưởng đạo yên, Sư tử con trong hang khắp nơi, Đánh phá bình sạch không một việc, Chim cuốc hót ở trăm cành hoa. <詞>CHỈ BÀY LÝ QUÁN Phàm thanh sắc không đến, đường ngôn ngữ khó nêu bày, xưa nay rõ ràng, từ trước đến nay không gián đoạn, dùng lời nói hiển bày đạo, uyển chuyển thành thời nay, dựng phất trần dương mày, ngõ hầu dạy bảo khắp, thượng só thiên nhiên, há nhận nêu bày, căn cơ trung hạ, lấy quy tắc đầu câu, đậu cơ bất diệu, qua ở người nào, lại nếu do dự, càng thêm đần độn. Lý quán đới: Lý tức chánh vị, trong vị ấy, mà không có một pháp không đồng thật tế, thật tế lý địa kia, không thọ một mảy trần. (Cổ đức viết lời rằng: Các sừng tuy nhiều mà một chân, Chuyển động dễ mở bày đường xưa, Không rơi vào cỏ tiêu nhiên). <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN Lý quán thâu hết, Muôn phái đòng dòng, Hoa tạng Tỳ-lô, Vật vật đầu đầu. <詞>TỤNG CỦA ĐẠI HUỆ Chân lý đâu từng lập một trần, Hô thành chánh vị sớm thân sơ, Chim gà nửa đêm kêu chỗ nào? Cây khô hoa nở ngoài kiếp xuân. Tên thủ thúy từ thường lợi vật, Đem tâm chấp trước đã trái chân, Ông xem cây hạt gọi Nê-hoàn, Từng nêu hai chân chỉ bày chúng. <詞>MỞ BÀY SỰ QUÁN Luận về mặt trăng chiếu đến hay không đến, trời đất che chở không được, khi kiếp họa nói thường an, khi muôn pháp dứt toàn thể hiển bày, tùy duyên bất biến, chỗ ồn thường vắng, một đạo ân quang ai không có phần. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chùa nói chúng sinh nói, ba đời cõi nước đồng thời nói. (Cổ đức viết lời: Tìm lửa hòa khói được, Gánh suối mang trăng về, Thạch trường không cây cối, Núi khép không động mây). <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN Sự quán vạn cõi, Mảy trần không lọt, Vạn tượng sum-la, Toàn cơ không lỗi. <詞>TỤNG CỦA ĐẠI HUỆ Chuyển chỗ đều rõ dứt vạn sự, Tùy duyên được chỉ lại nào cầu, Quần sinh tạo hóa nương lực đây, Một đạo linh quang gặp khắp nơi. Tức sự tức không thừa pháp, Toàn tâm toàn Phật có lai do, Lấp ngòi ngăn rạch không người biết, Thật cưỡi cõi trâu lại tìm trâu. <詞>MỞ BÀY LÝ SỰ TUNG HOÀNH Phàm chạm mắt là đạo, trong môn Phật sự, tuyệt tích vô tư thông suốt thật tế, viên dung sự lý, vận dụng song hành, khí lượng gánh vác, tùy cơ phó cảm, cửa gió lộ vải, đều ở đương chân, kiếm lập tông thừa, mọc nhiều chi tiết, ra cửa hỏi đường, chỉ đông vẽ tây, nhiều kiếp ngu dốt, làm sao phát khởi. (Cổ đức viết lời rằng: Trên đầu kim nhọn lại để cao chót vót, Trong hồng lô cháy sáng nổi sóng xanh, Vượn ôm con về trong núi xanh, Chim tha hoa rụng trước bích nham). <詞>ĐẠI VIÊN Lý sự tung hoành Chiếu dụng đều hành Bên này bên kia Giờ ngọ canh ba. <詞>ĐẠI HUỆ Trần trần thật tế vốn dung hòa Nêu thể bao gồm lý sự đồng Ứng vật hành tạm pháp không nhất định Tùy duyên lập lý tuyệt lưới lồng. Đầu sào có đường xe ngựa thông, Xuống gậy không không chạm tổ ông Ra vào tung hoành toàn thể dụng Mặt trời lặn nước chảy về đông. <詞>TÙY DUYÊN CHỈ BÀY Phàm chỉ bày: Là Thánh nhân chỉ bày ưng cơ tiếp vật. Khuât Khúc: Cởi bỏ y phục trân báu, mặc y phục thô xấu. Ngài Đồng An nói: Tạm mặc áo thô xấu nói là Phật, lại y phục trân báu gọi là gì? Y phục trân báu gọi là không xuất thế. Áo thô xấu gọi là xuất thế. Có vị tăng hỏi Hòa thượng Thạch Môn Triệt: Pháp sư Vân Quang là thế nào? Lại làm trâu đi. Môn Triệt nói: Hẹp hòi không cỡi được ngựa màu vàng, về đường lại mặc áo quần rách, sau khi Thánh nhân thành Phật, lại làm Bồ-tát, dẫn dắt lợi ích chúng sinh, đây gọi là không trụ vô vi bất tận hữu vi. Ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi ngài Duy-ma-cật: Bồ-tát làm sao thông suốt Phật đạo? Duy-ma-cật nói: Bồ-tát thực hành ở phi đạo, đây gọi là thông đạt Phật đạo. (Cổ đức nói rằng: Mây từ che khắp cõi vô liên, Cây khô không hoa nào ngại gì, Uyển chuyển thị phi từ quanh co đến thẳng, Lúc ấy tiêu tức hiển gió thông). <詞>BÀI TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN Uyển chuyển rủ lòng từ, Đánh hét đều thi thiết, Ẩn giấu mật chỉ, Thiết thật linh chi. <詞>BÀI TỤNG CỦA ĐẠI HUỆ Không mặc y phục trân báu là chỉ bày hàng sơ cơ, Hàng xuất thế tạm mặc áo thô xấu, Đường hẹp nối vòng qua đêm, Cố hương xa xăm bao nhiêu thời gian trở về. Tơ rủ ngàn thước câu lại quanh co, Lợi vật nhiều phương nói có từ bi, Ngừng luyến tiếc phong cảnh Trường An đẹp, Được tiện nghi là mất tiện nghi. <詞>KHÉO HÒA HIỆP ĐẦY ĐỦ Hòa thượng Phong Huyệt dạy chúng: Phàm tham học nhãn mục, căn cơ cần phải đại dụng hiện tiền, đừng tự câu chấp tiểu tiết, giả sử nói tiến đến trước được, cũng là ngăn trệ trong vỏ mê, dù dưới câu nói lợi ích tinh thông chưa khỏi gặp đường cuồng chấp, khuyên mọi người các ông phải là từ trước đến nay y tha tác giải, sáng tối hai nẻo, phàm Thánh tình nghi, nhất thời quét sạch, mỗi mỗi trực giáo như sư tử con rống một tiếng, vách đứng muôn nhận, ai dám nhìn thẳng, nhìn thì mờ mắt. (Cổ đức viết rằng: Một câu uyển chuyển hợp ngàn vận xưa, Ngàn lớp mây ngăn trăng đến ban đầu, Tơ rủ ngàn thước ý ở đầm sâu). <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN Khéo hợp chân cơ, Cảnh vật như như, Là phàm là Thánh, Không thiếu không đủ. <詞>ĐẠI HUỆ Cầm nắm đưa ra tác giải biết, Một chữ trong ấy đưa ra hai đầu, Đồng sinh đồng tử đầu từng hiểu, Đều buông đều thâu nêu nghi ở đời. Chiếu soi mật cóc tía sáng trong kho bích, Trời vỗ biển xanh ngập Tu-di, Nghe nhạc Thiều quên vị vui có dư, Mới biết lúc ấy đứng bên ngoài. <詞>KHÓA VÀNG ĐỀU KHÓA Phàm sau phân đăng Kê túc, Thiếu Lâm truyền thuốc đến đây, đều xiển dương huyền phong, cùng nhau làm Phật sự. Nếu nương lời nói làm căn cứ, pháp môn đoạn diệt, lại thành công tu tạo tác (một phen làm lại thành công tu trì), Tiên thánh tầm thường, mỗi mỗi hiển lộ mọi vật sáng sáng rõ, không cần do dự, cần phải nói liền. (Cổ đức nói: Gió thổi liễu bờ Nam, Hai phen đánh ao sen phía Bắc, Kên trắng xuống ruộng ngàn điểm tuyết, Một cành hoa trên cây huỳnh lộc). <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN Khóa vàng đều khóa Toàn tâm ấn khả Có cú không cú Ngàn hoa vạn đóa. <詞>TỤNG CỦA ĐẠI HUỆ Đột xuất toàn cơ lý sự huyền Vương lão thân đồng đêm đốt tiền Đồng nhàn được đường sáng như ban ngày Cất bước hồi đầu thẳng như dây đàn. Huyền yếu đều hành không nói khác Cơ duyên vừa đến không thể truyền Từ xưa đến nay đại đạo không câu chấp Tín thủ đem đến trăm sự đủ. <詞>BÌNH HOÀI THƯỜNG PHẬT Hòa thượng Lạc Phố chỉ bày chúng: Một câu nói sau cùng mới đến cửa ải hẹp, cần phải đem dứt bến, không thông phàm Thánh, tầm thường đến nói với mọi người, mặc tình từ trời xuống phồn vinh thịnh vượng, chỉ có ta không chịu. Cớ sao? Linh Quy đội bản đồ, tự chuốc lấy nát thân, phượng hoàng vòng quanh lưỡi vàng, toan đến trời cao, làm sao trông mong, bình thường bảo các ông, phải đối với minh tông ngoài ý chỉ, chớ đến trong đó nói lấy phép tắc. Cho nên nói: Căn cơ người đá giống như ông, giải xướng bài ca. Ông nếu giống như người đá khúc tuyết cũng nên hóa. Có vị tăng hỏi ngài Nam Tuyền: Thế nào là đạo? Tâm bình thường là đạo, như đạt được đạo bình thường. Thấy núi tức là núi, thấy nước tức là nước, tính thủ đem đến, cỏ không được không đâu không được, giả sử gió đến cây động, sóng khởi thuyền cao, xuân sinh hạ lớn, thu thâu đồng giữ, nào có sai khác, nhưng được gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an, biên phương yên tịnh, hợp đạo vua tôi, há ở vào thời xuất hiện kỳ lân phượng hoàng đến, mới hiển bày điềm lành, nhưng được lý trở về chân đạo thì sự mới thường thật, không có Thánh đáng cầu không có phàm nào đáng bỏ, trong ngoài lòng được yên ổn, tuyệt nhiên tự hợp, cho nên lời của các bậc Thánh nói, không lìa thế đế, tùy thuận thế gian, khế hội thì giữa đường thọ dụng, không khế hội thì thế đế lưu truyền. (Cổ đức nói: Trường nhân tiến chỗ khách, Thì nhớ được nhà khác). <詞>TỤNG CỦA ĐẠI VIÊN Trong lòng yên ổn thường thật Sự đủ lý xong Hiển bày trụ đèn lồng Không được không mất. <詞>ĐẠI HUỆ Lại không thể lại xen nhau vốn viên thành Gặp mặt vô tư một thể đồng Núi đông trên nước đi không ở Ngựa gỗ trong lửa đen hý kếu. Nhân gian chỉ thấy mây trăng nổi Ngoài trời thường thấy hàng núi ngang Chớ cho tâm bình thường là đạo Tâm nghó đã ở thành Thiết vi. Phù Sơn nói: Nếu pháp môn viên cực, vốn đủ mười số, nay đây có bốn mươi chín, đã vì các người nói rõ. Lại có một, các người lại được gì, nếu cũng thấy được thân thiết phân minh, lại mới ra nói xem, nói được tương ưng, thì thông chín điều trước, đạo nhãn viên minh. Nếu cũng thấy mà không thân thiết thì nói không tương ưng, mà chỉ y ngôn ngữ của ta, do vì đã hiểu thì gọi là báng pháp, không có lẽ đó, các người đến đây như thế nào? Chúng đều mờ mịt, Sư bèn quát mắng giải tán. <詞>TAM QUAN CỦA HUỲNH LONG Nam Thiền sư hỏi Long Khánh Nhàn Thiền sư rằng: Mỗi người có cái sinh duyên. Hòa thượng tòa sinh duyên chỗ nào? Khánh Nhàn đáp: Sáng sớm ăn cháo trắng, đến chiều lại cảm thấy đói. Nam Thiền sư hỏi: Tay ta sao giống tay Phật? Khánh Nhàn đáp: Trăng xuống chơi đàn tỳ-bà. Thiền sư hỏi: Chân ta sao giống chân lừa? Khánh Nhàn đáp: Con cò trắng đứng tuyết không đồng màu. Ngài Huỳnh Long thường lấy ba chuyển ngữ đây, đưa ra hỏi người học. Phần nhiều không khế hợp với ý chỉ kia, mà cư só Phan ở Nam châu tiếp nối hưng thạnh lâu dài, lại hỏi lý do kia. Huỳnh Long nói: Đã qua Tam Quan, dựa vai đi thẳng, đâu biết có Quan lại, từ Quan lại hỏi được chăng? Đây là chưa thấu được Tam Quan, lại tự làm bài tụng rằng: Tay ta làm sao giống tay Phật, Thiền nhân ngay đó nắm bắt, Bất động can qua nói ra, Ngay đó siêu Phật vượt Tổ. Chân ta chân lừa đều đi, Mỗi bước đạp vô sinh, Hội được mây thâu trăng sáng, Mới biết tung hoành đạo đây. Sinh duyên có nói người đều bỏ, Nước không làm sao lìa được tôm, Chỉ thấy mặt trời mọc phía Đông, Ai có thể khế hợp được với trà của Triệu Châu. (Trong Ngữ Lục Lô Sơn Văn Cơ Phật nói: Xưa thấy thủ tòa Quảng Biện bắt Nam Thiền sư viết tụng Tam Quan, đọc tụng không sót, gần đây thấy Ngữ Lục các phương, không đầy đủ, lại nhiều sai lầm, nên đây chú phá). <詞>VĂN TỤNG CỦA NGÀI CHÂN TỊNH Tay ta làm sao giống tay Phật Lại che giấu làm sao hiện tốt xấu Nếu là con sư tử Dã can lừa dối mà mở miệng. Chân ta sao giống chân lừa Ẩn hiển ngàn muôn sai lầm Muốn mở nhãn tình Kim cang Xem lấy thiện ác trước mắt. Mọi người có cái chỗ sinh duyên Nhận mặc áo rồi lại mất đường Hư không rộng lớn mây bay trăng hoa nở Đông tây nam bắc theo ông đi. <詞>CẢNH PHƯỚC THUẬN (Người đất Thục, tiếp nối Nam Thiền sư) Trường giang mây bay nước chảy cuồn cuộn Bỗng nhiên cuồng phong sóng lại cao Không biết ngư gia ý huyền diệu Lại ở trong gió thổi sóng. Nam Hải Ba Tư vào Đại Đường Người có của báu riêng lại thương lượng Hoặc khi gặp nghèo hoặc khi sang Mặt trời đến phía Tây bóng dần dần dài. (Lão Hòa thượng Huỳnh Long có nói cái sinh duyên, Sơn Tăng nối tiếp ông, ngày nay vì ông nêu ra, vì ông nêu con mèo, riêng giải bắt lão chuột). <詞>NAM ĐƯỜNG TÓNH (Tên Đạo Hưng người đất Thục, tiếp nối Ngũ Tổ) Tay ta sao giống tay Phật Lò rèn kèm búa cái chổi Từng nấu kim thân tử ma Ánh sáng chiếu Thất tinh Ngưu đẩu. Chân ta sao giống chân lừa Đánh giáp cờ hồng lấp lánh Ngồi giữa đoạn trăm chiến trường Diệu dụng sáu thao ba lược. Mọi người có cái sinh duyên Xem nghe cuối ngước xoay vòng Đầu đội mặt trời mặt giữa vũ trụ Trong lòng ẩn chứa ngoài biện oai quyền. <詞>TỤNG CỦA VIÊN NGỘ Tay ta sao giống tay Phật Tùy phần đưa hoa chặt liễu Bỗng nhiên rờ đầu rắn Chưa khỏi gặp một hơi khác. Chân ta sao giống chân lừa Triệu Châu lướt qua cầu đá Bỗng nhiên làm quả cầu da Ngã đổ ba núi Ngũ nhạc. Mọi người có cái sinh duyên Thân ngồi xổm không đi sâu vào đất Nếu cũng da mắt hé mở Người khác lo đáy thùng chích xuyên. <詞>TỤNG THUYỀN ĐƯỜNG Tay ta tay Phật Mười tám mười chín Mây tan trăng tròn Người đi đêm chạy. Chân ta chân lừa Bỏ qua một chấp Vợt tre Bàng Công Thìa gỗ thanh bình. Người người sinh duyên Luật Bắc thiền Nam Đạo ta Vũ Hốt Hoa dừng chống thuyền. <詞>HẢI ẤN TÍN VẠN AM Tay ta tay Phật Người nào không có Ngay đó phân minh Cần gì cuồng chạy. Chân ta chân lừa Đạp lướt cao thấp Qua mưa rêu xanh Mây tan mặt rời sáng. Hỏi ông sinh duyên Khắp nơi không nghi Nói thẳng tâm không bệnh Ai luận phải và quấy. Tay ta sao giống tay Phật Không cần nghó trước tính sau Thế gian nhiều ít người si Chỉ là theo người đi sau. Chân ta sao giống chân lừa Toan bàn gặp độc dược khác Lại thấy tướng áo trắng chạy Từ trước lại không có quan tước. Người người có cái sinh duyên Người vậy cây đầy nhà Mượn hỏi đông gần nhà tây Tây Thiên mười muôn tám ngàn. <詞>NAM ĐƯỜNG BIỆN NGHIỆM MƯỜI MÔN Sư Nam Đường chỉ bày chúng rằng: Phàm tham học chí yếu, không ra ngoài cái tối sơ và câu rốt sau. Người thông suốt được, việc bình sinh xong, kia hoặc chưa như vậy, lại cùng ông phân làm mười môn, mỗi người dùng ấn chứng tự tâm, xem được thỏa đáng cũng chưa. Phải tin có giáo ngoại biệt truyền. Phải biết có giáo ngoại biệt truyền. Phải hiểu vô tình thuyết pháp cùng hữu tình thuyết pháp không hai. Phải thấy tánh như trong bàn tay phân minh rõ ràng, mỗi mỗi ẩn mật của ruộng đất. Phải đủ pháp nhãn lựa chọn, Phải noi theo đạo huyền như chim bay. Văn võ song toàn. Phải dẹp tà hiển chánh. Phải đại cơ đại dụng. Phải đi đến trong dị loại. Mười môn đây, mọi người cũng chưa được thỏa đáng. Nếu chỉ là đóng cửa lo tính, một mình rõ tự thân, không ở thời hạn đây. Nếu muốn gánh vác tiếp nối giống thách chánh tông, phải rõ mười môn cương yếu đây, mới ngồi được giường cây khúc lục, sẽ được người rong thiên hạ lễ bái, có thể cùng Phật tổ làm thầy. Nếu không được điền địa như thế, chỉ một bề luống uổng, giờ khác ngày khác, vua Diêm-la, chưa thả ông được, có như thế mọi người người mới đưa ra chứng cứ, cho bằng không đâu không lập dụng lâu dài. <詞>MÔN ĐÌNH LÂM TẾ Tông Lâm Tế, đại cơ đại dụng, ra khỏi lưới lồng, ra khỏi hang ổ, hổ chạy rồng bay, sao băng điện chớp, trời chuyển đất quay, ý khí trời nổi giận, để duy trì khác thường, co duỗi bắt lại buông ra sống chết tự tại, thế nên chỉ bày tam huyền, tam yếu, tứ tân chủ, tứ liệu giản, Kim cang vương bảo kiếm, sư tử cứ địa, tham can ảnh thảo một tiếng hét phân chủ khách, chiếu dụng đồng thời thực hành, người trung hạ căn đến, đoạt cảnh không đoạt pháp, người trung thượng căn đến, đoạt cảnh đoạt pháp không đoạt nhân (một phen làm đoạt pháp không cảnh là sai), hàng thượng thượng căn đến, nhân cảnh cả hai đều đoạt, hàng xuất cách đến, nhân cảnh đều không đoạt. Tứ Tân chủ: Nhà sư có lỗ mũi, gọi là chủ trong chủ. Người học có lỗ mũi, gọi là chủ trong khách. Nhà sư không có lỗ mũi, gọi là khách trong chủ. Người học không có lỗ mũi, gọi là khách trong khách. Cùng khách chủ của Tông Tào Động không giống nhau. Tam huyền: Huyền trong huyền, huyền trong thể, huyền trong câu. Tam yếu: Trong một huyền đủ tam yếu, tự là trong một cái hét, thể nhiếp tam huyền tam yếu. Kim cang vương bảo kiếm: Một đao đoạn hết tình giải. Cứ địa sư tử: Phát lời nhã khí oai thế chấn lập, trăm thú run sợ, các ma vỡ não. Thám can: Tham dò ông có nương thầy hay không nương thầy, có lỗ mũi hay không có lỗ mũi. Ảnh thảo: Khinh lờn làm giặc, nhìn ông thấy cũng không thấy. Một tiếng hét phân khách chủ: Trong một tiếng hét, tự có khách có chủ. Chiếu dụng đồng thời hành: Trong một tiếng hét, tự có chiếu có dụng. Một tiếng hét không làm dụng của một tiếng hét. Trong một tiếng hét đủ loại tam huyền tam yếâu, Tứ tân chủ, Tứ liệu giản như vậy, đại khái tông phong của Lâm Tế, không quá như thế, muốn biết Lâm Tế như thế, sét đánh ngang tai ầm vang, đất bằng nổi sóng gió. Sơn Đường biện rõ môn tam huyền. Lâm Tế nói: Một câu nói, phải đủ tam yếu, một huyền phải đủ tam yếu, đại cơ đại dụng họ cho dùng câu danh số, bỏ dẹp tà, khắp nơi hỏi đáp huyền yếu, cũng chỉ nói thế nào là đệ nhất, đệ nhị, đệ tam. Ngài Phần Dương nói kệ: Tam huyền, Tam yếu sự khó phân, Được ý quên lời đạo dễ gần, Một câu rõ ràng gồm muôn vật, Trùng dương cửu nhật hoa đào mới. Chủ tháp rất xưa mới phá là. Huyền trong câu, huyền trong thể, huyền trong huyền, Mà tam yếu thì nói việc không thực hành, Giao phó các người lừa dối mà thôi. Thiên đây nói rõ môn hộ của Lâm Tế, hơn nữa theo đến tam huyền, tam yếu, thì rơi vào vết xe đổ của tháp chủ, không thể không biện rõ. YẾU QUYẾT (Sơn Đường biện rõ ràng) Đại hùng đang tiếp nối cương tông Lâm Tế, nhân đó hỏi Hoàng Bá từ Tây Trúc đến, đau xót cùng với ba trận Ô Đằng, bèn đến Đại Ngu đánh phá, đích thân nắm lấy ba cái xương sườn, ngay lời nói thấy tâm lão bà, mới biết Phật pháp không nhiều người, tiếng sét nổ vang, vuốt râu hùm, mổ tung ở bên cục thịt đỏ, đến nơi nắm tay không, sao bay pháo tre nổ, băng tan núi lở, nước càng đi lên, đi trên kiếm nhọn, đều là quyển điện máy, đại dụng xoay vòng, xích thủ giết người, đưa đao thẳng vào, nhân cảnh đều đoạt, chiếu dụng đều hành, sáng đầu đến, tối đầu đến, Phật cũng giết Tổ cũng giết, biện rõ xưa nay ở tam huyền tam yếu, suy nghiệm long và ở một chủ, một khách, vượt ra khỏi lưới lồng, không còn ý giải, cầm kiếm Kim cang bảo vương, quét trừ cây trúc tinh linh, phấn chấn toàn oai sư tử, bầy chồn sợ vỡ mật, cuối cùng chánh pháp nhãn tạng, cuối cùng lại ở bên lừa mù, thấu xương thấu tủy, mà huyết mạch thông suốt, thấu đảnh thấu đáy, mà càn khôn riêng hiển bày, miên mật không tiết lộ, căn khi tương truyền, bởi tông tổ ấy cao minh, từ trên chói sáng. Đó là tông phong của Lâm Tế. <詞>BÀI TỤNG CƯƠNG TÔNG CỦA CỔ ĐỨC (Đây có sai lầm) ?? ?? Tám phương toàn địch dày mờ mịt Long xà đều ẩn ra khỏi da vảy Mưa sấm đồng bày kế lược hoang đường Điểm Phật tổ là tiếng giọt nước Giang sơn rốt cuộc đều thơm tho Hướng trở về đường minh Giao Xa Thuyền Ba Tư rơi vào làng Sở. <詞>TÔNG VÂN MÔN Sư húy Văn Yển con họ Trương ở Gia Hưng. Khi thọ giới Cụ túc xong du học khắp nơi. Đầu tiên Sư tham học với Hữu Chân Trần Tôn Túc phát minh tâm yếu. Ngài Hữu Chân chỉ đến tham kiến Thiền sư Tuyết Phong, lại nhờ Sư ấn khả. Ban đầu đến Linh thọ, khai pháp tiếp nối Tuyết Phong, sau dời đến chùa Quang Thái Vân Môn, đạo ấy khai mở, người học trong thiên hạ, nghe danh mà đến, sau hiệu tông Vân Môn. <詞>TAM CÚ Sư dạy chúng rằng: Càn khôn che khắp, Mắt rất nhanh nhẹn, Không liên quan đến vạn duyên. Làm sao sinh thừa đương, Chúng không đối đáp, Tự nói thay rằng: Một vòng phá tam quan. Sau đến Đức Sơn Viên Minh Mật Thiền sư, bèn lìa lời ấy thành tam cú, nói câu che khắp càn khôn, cắt đứt các dòng cú, tùy sóng theo câu sóng. (Viên Ngộ nói: Vốn chân vốn không, một sắc một vị, chẳng phải không diệu thể, không ở nơi do dự, rỗng suốt rõ ràng, thì bao hàm càn khôn). Lại nói: Vốn chẳng phải giải hội, sắp xếp tương lai, một chữ không mất, vạn cơ liền dứt, thì cắt đứt các dòng. Lại nói: Nếu cho họ gặp nhau, từ mầm hiện rõ đất, nhân lời biết người, tức tùy sóng theo sóng. <詞>TỤNG TAM CÚ CỦA PHỔ AN ĐẠO Càn khôn và vạn tượng Địa ngục và thiên đường Mọi vật đều chân hiện Đầu đầu đều không tổn. Chất chứa thành núi lớn Mỗi mỗi đều trần ai Lại bàn luận huyền diệu Băng tiêu ngói đổ. Miệng nói lanh lợi Cao thấp đều không thiếu Lại như ứng bệnh cho thuốc Dự đoán rất kịp thời. <詞>CHÂN THÚY NHAM Càn khôn cho khắp sự rõ ràng Cần gì đặc biệt báo động Người cứng nắm múa chuông ông đến hướng Đông Không để cành hoa ở chỗ xinh đẹp. Cắt đứt các dòng vì để bàn luận Hằng sa chư Phật dám nêu bày Sao dời đẩu chuyển càn khô đen Hỏi có mảy may thật không còn. Tùy theo sóng gió mặc tình cao thấp Buông ra bắt lại lý sự đồng Ban chút lòng từ khinh hậu học Ngặt gì mưa ngập ngăn bùn đất. <詞>HỎI ĐÁP Quy Tông Thông (tiếp nối sự giúp đỡ của Quy Sơn). Hội Tam Tổ (tiếp nối bổn hoài Thiên Y). Vân Cư Khánh (lời nghiêm nghị của Vân Lài). <詞>NIỆM THỦ SƠN (tiếp nối dòng Phong Huyệt) <詞>THIÊN TRỤ TÓNH Như thế nào là câu che khắp càn khôn? Tống nói: Mặt trời mọc phương Đông lặn hướng Tây. Tổ nói: Hải yến hà thanh. Vân Cư nói: Đúng. Thú Sơn nói: Đại địa dày đặc màu đen. Thú Sơn lại nói: Khắp trời quanh đất. Sư lại nói: Đáy biển nổi hồng trần. Thiên Trụ nói: Chỉ nghe âm vang gió, biết là mấy ngàn sào. Thế nào là cắt đoạn các dòng cú? Tông Thông nói: Rắn sắt ngang đường xưa. Tổ nói: Nước rỉ không thông. Vân Cư nói: Thoạt qua. Thủ Sơn nói: Không thông phàm Thánh. Sư lại nói: Đến kịp vừa bỏ qua. Sư lại nói: Thân khắp ngoài ba cõi. Thiên Trụ nói: Đêm qua nổi gió lạnh, sáng nay sương đầy đất. Thế nào là tùy theo câu sóng gió? Dưới con thuyền Dương Châu. Tổ nói: Ba Tư Tra rơi xuống nước. Vân Cư nói:………………………………………. Hoát Sơn nói: Muốn nói lại nói. Sư lại nói: Có hỏi có đáp. Sư lại nói: Từ đây đi Tây Thiên mười muôn tám ngàn. Thiên Trụ nói: Nắng xuân ấm áp hoa đẹp lộng lẫy, tiếng oanh vàng hót líu lo cả rừng. <詞>TRỪU CỐ Sư thường thấy vị tăng, dùng mắt xem xét, tức gọi là (giám), hoặc nói là (di) mà người chép. Mà người ghi chép nói là cố giám di. Sau đến ngài Đức Sơn Viên Minh Mật Thiền sư, san khắc bỏ chữ cố, chỉ gọi là giám di, nên tòng lâm gọi là trừu cố, nhân đó làm bài kệ lưu thông, lại gọi đó là đài tiến thẳng lượng. Bài kệ nói: Gặp nhau không dương mày Ông đông tôi cũng tây Ràng đỏ xuyên biển xanh Mặt trời quanh núi Tu-di. <詞>TỤNG BẮC THÁP TỘ Ngài Vân Môn để ý cười đùa, Suy nghó gặp suy nghó của họ, Mặc tình là Trương Lương đa tri khéo léo, Đến đầu rốt cuộc cũng phải khó thi thiết. <詞>VĂN CHÂN TỊNH Vân Môn cố để ý, Tự có lý do, Một điểm không đến, Thôi dừng nghỉ thôi. <詞>LẠI QUAN LỆ TỬ Quan Lệ Tử Vân Môn, Nghỉ ngơi ít người biết, Có khi một phen gợi ra, Đại địa ?? ?? ??. <詞>MỘT CHỮ QUAN Vị tăng hỏi Sư: Thế nào là kiếm Vân Môn? Sư nói: Tổ. Thế nào là trong huyền? Sư nói: ?? Thế nào là xung mao kiếm? Sư nói: Xương khô. Sư lại nói: Thum thủm. Thế nào là Chánh pháp nhãn? Sư nói Phổ: Trong ba thân, thân nào nói pháp? Sư nói yếu: Thế nào là căn cơ khạc nhổ? Sư nói tiếng vang, giết cha giết mẹ, trước Phật sám hối, giết Phật giết Tổ, đến chỗ nào sám hối? Sư nói: Phát lồ. Thế nào là ý của Tổ sư Tây lai? Sư nói: Sư Linh Thọ một chỗ điểm làm sao trên kia? Sư đáp, Sư nói: Mưa lâu không tạnh bấy giờ làm sao? Sư nói: Tráp xuyên tường trộm ánh sáng bấy giờ như thế nào? Sư nói: Đúng nương xưa nói rồi, tức nghiệp chướng xưa nay không, chưa xong phải lại nợ trước, chưa xét Nhị Tổ là hiểu hay chưa hiểu. Sư nói chắc chắn. Một hôm Sư dạy chúng: Người lãnh hội Phật pháp, như cát sông Hằng, trên đầu trăm ngọn cỏ, nói đem một câu đến, tự nói đủ. Sư hễ đối cơ dụng nhiều đáp ứng đây, cho nên tòng lâm xem đó, gọi là một chữ quan. KỆ CƯƠNG TÔNG (tiếp theo, mới) Viên Hình Khang thị ngăn ngại không rõ, Mê sâu hư tán kích phát nước lạnh, Khi cánh phượng dang ra vượt qua kho bích, Lên tám ngọn núi lớn sẽ nương chỗ nào? La cơ hay là đối đối cơ mê, Thấu suốt cơ trần xa xăm trần dừng lại, Xế chiều giữa trưa ai có nhớ, Vì thấu suốt sự cách mê tình. Hết thời gian nương rừng hoang, Người luống suy nghó ngăn ngại bề ngoài, Chao ôi mong trái sức lực, Thiền tử xuyên giữa mày rủ. Trên không thấy trời dưới không thấy đất, Lại ngăn yết hầu chỗ nào xuất khí, Ta cười thì nhiều, ta mỉm cười thì ít. CƠ DUYÊN (mới thêm) Có vị tăng hỏi: Trong mười hai giới làm sao không luống qua được? Sư nói: Ông tại sao chấp một câu hỏi. Tăng nói: Người học không lãnh hội, xin thầy nêu ra Sư viết thành bài kệ: Nêu ra không suy nghó liền sai lầm lẫn nhau Toan suy nghó kiếp nào ngộ (Truyền Đăng). Hỏi ngài Tuyết Phong: Thế nào là người tự mình học? Tuyết Phong nói: Để trong lỗ mũi. Tăng đưa ra giống Sư. Sư nói: Ông làm sao lãnh hội. Tăng ấy suy nghó lại. Sư cũng đưa ra bài tụng chỉ bày như trước (Tuyết Phong Quảng Lục). Thượng tòa Phước Lãng nhân vị tăng hỏi: Thế nào là thấu suốt câu pháp thân? Sư nói: Thân ẩn trong Bắc đẩu. Phước Lãng nhân suy nghó ý chỉ ấy, vội đi. Sư vừa thấy liền giữ lại nói: Phước Lãng suy nghó nói mau. Sư mượn đó khai bài kệ rằng: Vân Môn cao vót mây trắng thấp Nước chảy nhanh cá dạo chơi không dám ngừng Vào cửa rồi hiểu biết Nhọc gì lại nêu bàn trong nghiền cán. Phước Lãng đại ngộ (rút ra trong Đăng Lục). <詞>TAM CÚ BA LĂNG (tiếp nối Vân Môn gọi là Hiệu Giám Tòng Lâm gọi là Giám Đa Khẩu) Tăng hỏi Ba Lăng: Như thế nào là tông Đề-bà? Ba Lăng đáp: Tuyết đựng trong chén bạc. Thế nào là xung mao kiếm? Ba Lăng đáp: Cầm mỗi cành san hô để mặt trăng. Tăng hỏi Tổ ý và giáo ý đồng hay khác?. Ba Lăng nói: Gà lạnh lên cây, vịt lạnh dưới nước (Vân Môn nghe lời đây nói: Ngày sau, khi giỗ lão tăng, các ông chỉ nêu ba chuyển ngữ đây để cúng dường lão tăng đủ). <詞>BÀI TỤNG CỦA TUYẾT ĐẬU TÔNG CỦA ĐỀ-BÀ Lão tăng mới mở đầu mối khác, Giải nói tuyết đựng đầy trong bát, Chín mươi sáu cái phải tự biết, Không biết lại hỏi trời bên trăng, Tông Đề-bà tông Đề-bà, Dưới cờ đỏ nổi gió mát. <詞>LẠI TỤNG XUNG MAO KIẾM Muốn bằng không bằng Rất khéo léo nếu ra tay Hoặc ngón tay hoặc bàn tay Dựa trời chiếu tuyết. Rất đẹp mài giũa không được Thợ giỏi lau chùi chưa hết Mỗi mỗi nhánh san hô chống đỡ mặt trăng. <詞>TRẠM ĐƯỜNG CHUẨN THEO TỤNG Ý TỔ DẠY Ý Gà lạnh lên cây Vịt lạnh dưới nước Thời tiết không tha thứ nhau Xưa nay hiển lý tự nhiên Tùng lạnh mười dặm thổi gió mát Dòng nước một tiếng khe chưa dứt. <詞>MÔN ĐÌNH VÂN MÔN Tông chỉ Vân Môn đoạn tuyệt các dòng, không cho suy nghó, phàm Thánh không khác, tình giải không thông. Vị tăng hỏi: Thế nào là Tuyết Phong trâu bùn rống? Sư nói: Trời đất đen. Thế nào là ngựa gỗ Vân Môn hí? Sư nói: Núi sông đi! Thế nào là người tự mình học? Tăng nói: Du sơn ngoạn thủy. Tăng hỏi: Khi cơ duyên hết, làm sao? Sư nói cùng ta nắm lấy điện Phật lại, cùng ông thương lượng. Thế nào là thấu suốt câu pháp thân? Sư nói thân ẩn trong Bắc đẩu. Thế nào là giáo ngoại biệt truyền? Sư nói đối các câu hỏi sắp đến, đại khái tông phong Vân Môn, nguy hiểm cao vót, người khó với đến, chẳng phải bậc thượng thượng căn, thì ai có thể nhìn núi phảng phất? Vân Môn nói rõ ngữ cú, tuy có cắt đứt dòng căn cơ, hơn nữa ý không theo sóng, pháp môn tuy khác, mà lý quy về một mối. Muốn thấy Vân Môn chống gậy vọt nhảy lên trời, chư Phật nói pháp trong chén nhỏ. <詞>YẾU QUYẾT Một phái Thiều Dương, xuất hiện ở nguồn Đức Kiệu, ban đầu thấy Hiểu Châu đưa ra cái khóa thời Tần, nhờ tiếng tượng cốt, thoát ra khỏi gông trên cổ chân, khiến lỗ mũi chuột, ba ba ở núi đến trước mặt, đánh cá chép ở biển Đông, mưa nghiêng bồn, gọi là đề ba câu then chốt, chọn lấy một chữ cơ phong, thân ẩn trong sao Bắc đẩu, dời bước trước nước núi đông, xem xét rõ ràng, không phạm mảy may, bề ngoài bung ra bắt lại, trước nói định đoạt, đúng là tên nhọn có lối, tường sắt không cửa, lật đường giây sắn giăng bủa, lại cắt kiến giải thường tình, mạnh mẽ đâu cho nắm bắt, sấm sét không kịp suy nghó, bởi kiến đế ấy thông rộng, tự nhiên thọ dụng rộng lớn, hoa nở linh thọ, kết trái hương lâm Phật tổ chấn tích quyền hành, khai nhân thiên nhãn mục, luận nguồn nào trong dòng nào đục, gốc rậm nhánh khô, vọng lập nhân duyên đạo nhãn, lầm làm thanh sắc sai biệt xuyên tạc lẫn nhau, chấp trước ngôn ngữ, chịu lấy hổ thẹn với tổ tông, có lỗi với hậu học, đây là tông phong Vân Môn. Sư gặp vị tăng ắt để ý đặc biệt, gọi đó là “giám tăng suy nghó thì gọi là “di môn nhân ghi chép là “cố giám di”. Sau ngài Viên Minh lén sang khắc bỏ chữ cố, gọi đó là “trù cố”. Con cháu mất ý chỉ ấy, phải tiếp nhận tông tế của người, do nổi giận gọi đó là đề tư, gọi đó là bất mậu thanh sắc, gọi là cử cứ tiện tiến, tương truyền dùng làm đạo nhãn. Bắc Tháp Tộ thường việc ấy nên làm bài kệ: “Có trách nhiệm là Trương đa trí giỏi Đào đầu ở đây lời cũng khó thi thiết”. Trong thiên đây, gọi là vọng lập đạo nhãn nhân duyên, lầm làm thanh sắc sai biệt, là chỉ đây vậy (tiếp theo). <詞>BÀI TỤNG CƯƠNG TÔNG CỦA CỔ ĐỨC Cây nêu chống khắp càn khôn Được chỗ bàng hoàng lại bàng hoàng Dòng nước khe Đông chảy về khe Tây Mây nổi núi Nam xuống núi Bắc. Sinh ở Thiết Vận thêu gấm đất Thục Xưa lá tùng quỳnh rơi vào mâm châu Xoay vần chưa tính đã tàn mưa Chân không trét bùn qua uất đơn.  <卷>QUYỂN 3 TÔNG TÀO ĐỘNG Hòa thượng Đổng Sơn, húy Lương Giới, họ Du sinh ở Cối kê. Sư đảnh lễ Thiền sư Ngũ Tiết Sơn Mặc xuất gia, đắc pháp với Thiền sư Vân Nham Đàm Thanh. Ban đầu ở Quân Châu Đông Sơn, tạm khai năm ngôi vị khéo tiếp nhân năm căn, xiển dương một âm rộng hoằng muôn phẩm, tung hoành bảo kiếm, đoạn tuyệt các chấp, khéo hoằng truyền hài hòa, cắt đứt xuyên tạc dị đoan, tối được đắc pháp với Thiền sư Tào Sơn Đam Chương, hiểu rõ tông chỉ ấy, khúc xướng kế hoạch hay, đạo hợp với Quân thần, thiên chánh lẫn nhau. Bởi do trên Đổng Sơn cờ huyền phong khắp thiên hạ, nên tông tượng các phương, đều cùng nhau suy tôn tông chỉ ấy, gọi là tông Tào Động. <詞>NGŨ VỊ QUÂN THẦN Có vị tăng hỏi Tào Sơn: Chỉ quyết của năm vị Quân thần. Tào Sơn nói: Thánh vị tức thuộc về không giới, xưa nay không có vật. Thiên vị tức sắc giới, có muôn hình tượng. Thiên trung chánh: Là bỏ sự nhập lý. Chánh trung thiên: Bỏ lý đến sự. Kim đới: Thầm ứng hợp với các duyên, tùy theo các cõi, chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh, chẳng phải chánh chẳng phải thiên, nên gọi là “Hư huyền đại đạo vô trước chân tông”. Các bậc tiên đức từ trước, suy tôn một vị đây, tối diệu tối huyền, phải nên xét kỹ biện rõ. Quân là chánh vị. Thần là thiên vị. Thần đến với quân là Thiên trung chánh. Quân thân cận với thần là Chánh trung thiên. Quân thần đạo hợp, là lời Kim đới. Lúc bấy giờ có vị tăng bước ra hỏi: Thế nào là Quân? Sư Tào Sơn nói Diệu Đức tôn quý trong vũ trụ, cao sáng trong thái hư. Thế nào là Thần? Sư nói: Linh cơ hoằng Thánh đạo, chân trí lợi quần sinh. Thế nào là Thần đến Quân? Sư nói: Không rơi vào các dị thú, ngăn tình về Thánh đế. Thế nào là Quân thân cận Thần? Sư nói: Diệu dung tuy bất động, đuốc sáng vốn không thiên. Thế nào là Quân thần đạo hợp? Sư nói: Rõ ràng không có trong ngoài, dung hòa trên dưới đồng. Sư lại nói: Do nói Quân thần thiên chánh: Là không muốn phạm với trung, nên Thần xứng với Quân không dám trái lời. Đây là pháp tông yếu của ta, nhân đó Sư làm bài kệ: Người học trước phải biết tự tông Không đem chân tế tạp ngoan không Diệu minh thể tận biết cảm xúc Lực ở gặp duyên không thừa cơ tốt. Nói ra trực giáo đốt không chấp Ẩn tu phải cùng người xưa đồng Không thân có việc vượt đường rẽ Không sự không thân rơi vào trước sau. <詞>TỤNG CỦA ĐẠI DƯƠNG Không lập công huân ngồi miếu đường Quần thần đâu dám về thanh thiên Cấm điện thăm thẳm rất tôn nghiêm Vắng lặng không người đêm chưa sáng (Quân). Văn kinh võ vó định Trung Hoa Giai cấp khắp nơi giúp quốc gia Công nghiệp đã thịnh thêm cửu tích Cùng với thần khí của Quân khế hợp đôi chút (Thần). Ngôi vị tôn xưng cửu ngũ (4 5) không từng ở Thường với quần thần cùng một đường Ẩn sâu hậu cung trị thiên hạ Khỏi dạy Di Dịch mong tỉnh lại (Quân thân cận Thần). Mỗi niệm càng trung không dám khinh Mỗi mỗi kính trọng con trượng phu Ông xem ngàn dặm đạo Trường An Đèn ngọc đều trở về lầu gác (Thần đến Quân). Thần chủ quên nhau điện xưa lạnh Muôn năm cây hòe tuyết dầy đặc Ngàn cửa ngồi đóng lặng như nước Chỉ có dương rủ múa khói xanh (Quân thần đạo hợp). Trong không có đường suốt Trường An Linh chi bên ngoài ai dám vịn Bảo điện rêu mọc rất tôn quý Canh ba trời hồng đen dày đặc (tổng tụng). <詞>HỎI ĐÁP Vị tăng hỏi: Thế nào là Chánh trung thiên? Phần Dương nói: Ngọc thố rất sáng, đầu đêm sau đêm gà vàng phải báo trước canh năm. Đạo Ngô Chân nói: Các ông đến tham kiến Đại tiên. Hoằng Trí Giác nói: Mây bay đầy hư không, nhà trống trăng tròn. Tông Thúy Nham nói: Hoa ấu trước chưa chiếu. Hoa Nghiêm Giác nói: Thâm canh lại đêm sáng trúc rèm. Thế nào là Thiên trung chánh? Phần Dương nói: Mảy may thành đại thọ, Giọt nước thành sông hồ. Đạo Ngô nói: Muôn sông ngàn núi sáng như gương. Hoằng Trí nói: Lão nhi tóc bạc thẹn soi gương. Thúy Nham nói: Đoàn cây loan không thiếu dư. Hoằng Giác nói: Trời sáng người giặc nhảy vào giếng xưa. Thế nào là Chanh trung thiên? Phần Dương nói: Đất hạn mỗi đóa hoa sen nở. Người học nói: Sau khi nở như thế nào? Phần Dương nói: Nhụy vàng tơ bạc nương sương ngọc, Cao tăng không ngồi đại Phụng hoàng. Đạo Ngô nói: Càn khôn sáng lạnh đất sấm sét. Hoằng Trí nói: Mày sương râu tuyết lửa chặn giữa phát ra, Đường đường trọn không rơi vào thời nay. Thúy Nham nói: Khắp cõi tuyệt may trần. Trí Giác nói: Trăm hoa nở nhờ ở mùa xuân. Thế nào là kiêm trung chí (Tịch Âm nói: Phải làm thiên trung chí, thuyết ấy ở sau). Ngài Phần Dương nói: Ý khí không từ trời đất mà được, Anh hùng há nhờ bốn mùa thúc giục. Đạo Ngô nói: Thi thiết tung hoành không sợ sệt. Hoằng Trí nói: Đại dụng hiện tiền không giữ phép tắc. Thúy Nham nói: Công gặm cắn cười trước. Thúy Nham nói: Mưa tuyết gặp nhau không chỗ tránh. Thế nào là kim trung đáo? Ngài Phần Dương nói: Ngọc nữ quăng máy thoi chạm vào nhau, Người đá đánh trống tiếng thùng thùng. Đạo Ngô nói: Trắng đen chưa phân trước đã qua. Hoằng Trí nói: Đêm sáng ngoài rèm sắp xếp lớp học sớm, Trên điện Không Vương tuyệt tri âm. Thúy Nham nói: Thập đạo không truyền tin. Thúy Nham nói: Hai đầu cắt đoạn không nương tựa, Tâm pháp đều vong mới được huyền. TỊCH ÂM CHÁNH NĂM VỊ SAI LẦM (tiếp theo) Đạo càng lăn trì, đối với danh kiện nêu bày ngôi vị, cũng lầm loạn không thứ lớp. Như chánh trung thiên thiên trung chánh, lại chánh trung thiên thiên trung chí. Sau đó dùng kiêm trung đáo bao gồm thành năm vị. Nay bèn đổi thiên trung chí thành kiêm trung chí, không hiểu nghóa ấy như thế nào? Mà lão sư đại nạp, cũng vui mừng không biết quái lạ, thật đáng cười (Vân Cả đề văn tự thiền lời của Hoằng Trí). BÀI TỰA NĂM VỊ (của ngài Đơn Hà) Phàm trắng đen chưa phân, khó thành kia đây, sau đen vàng, phương vị tự tha, thế là mượn đen quyền chánh, nhờ chánh chỉ bày thiên, chánh bất tọa chánh, nửa đêm rỗng sáng, thiên bất tọa thiên, trời sáng âm u, toàn thể tức dụng, cây khô hoa nở, toàn dụng tức chân, rừng thơm không ham, suy tàn kiêm đới đến tận huyền diệu. Ngọc phụng kim loan phân chia không thấp. Thế nên oai âm na bạn. Làm sao dứt lời? Uyển chuyển thành thời nay do người thi thiết, nêu bày sơ lược chỗ thấy để chỉ bày phương góc, trông mong các bạn đồng tâm, thường vui sướng vỗ tay. <詞>BÀI TỤNG NĂM VỊ (Đây y theo Tăng Bảo Truyện làm thiên trung chí) Chánh trung thiên: Đêm tối canh ba trăng chưa hiện Lạ chi cùng gặp cùng không biết Ẩn ẩn vẫn còn mang hận nhiều. Thiên trung chánh: Rạng đông lão bà gặp gương xưa Rõ ràng đối diện đâu riêng chân Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng. Chánh trung lai: Đường cái không cách trần ai Chớ nên phạm húy vua đương kim Dã thắng tiền triều cắt lưỡi tài Thiên trung chí: Hai kiếm giao nhau cần gì tránh Tài ba như sen chiếu trong lửa Nguyên vẹn nơi mình Chí xung thiên. Kiêm trung đáo: Không rơi không có ai dám hòa Mọi người trọn muốn vượt dòng thường Tan hiệp trở về ngồi trong tro. <詞>BÀI TỤNG CỦA KHẮC PHÙ ĐẠO Chánh trung thiên: Nửa đêm đầm trong trăng ngay tròn Văn Thù trong hộp thanh xà rống Ngựa tốt được ra khỏi ải Tỳ-lô cũ. Thiên trung chánh: Diễn nhừ ngọc dễ mê gương xưa Đáng cười cưỡi trâu lại tìm trâu Tịch nhiên bất động ấn Tỳ-lô. Chánh trung lai: Trúc phụng tơ rồng ngồi đài câu Cao tăng không phạm húy đương kim (3 15) Che giấu mũ hoa lại cười một hồi. Kiêm trung chí: Ba ba nổi giận rộng chạy chín sông sôi Nêu bày cái thiếu cố tìm được nguồn bốn Xô đổ Côn lôn không nơi nương dựa. Kiêm trung đáo: Cờ rồng sớm bày ra đường phố đón Lược khai trước lầu Tiên Trượng Tầm thường lạm chạm huy hiệu đương kim. <詞>TỤNG CỦA PHẦN DƯƠNG (Sư Phần Dương để Chánh trung lai ở đầu, mà Chánh trung thiên thiếu) Chánh trung lai: Kim cang bảo kiếm phất thiên khai Một chút thần quang khắp thế giới Mặt trời chiếu sáng tuyệt trần ai. Thiên trung chánh: Khán thủ Pháp vương hành chánh lệnh Thất kim thiên tử đều tùy thân Tự mình giữa đường tìm gương vàng. Chánh trung thiên: Sét đánh thình lình cơ phong để mắt xem Đá nhá lửa chớp sáng cũng là chậm Suy nghó so lường cách ngàn núi. Kiêm trung chí: Ba năm lông vàng răng móng đủ Ngàn tà trăm quái ló đầu ra Gào thét một tiếng đều nép phục. Kiêm trung đáo: Đại hiển vô công thôi tạo tác Trâu gỗ mỗi bước đi trong lửa Bậc chân Pháp vương diệu trong diệu. Thai cứu năm vị phải nên biết, Mảy may vừa động liền trái nhau, Kim cang thấu hợp ai hiểu được, Chỉ có Na Tra đệ nhất cơ, Mở mắt lại khiến ba cõi tịnh, Rung linh lại khiến cửu thiên về, Suy nghó nghó mũi nhọn lại oai. (Tổng tụng) <詞>TỔNG TỤNG CỦA TỪ MINH Thiên trung quy chánh rất u huyền Chánh đi thiên đến lý sự toàn Phải biết chánh vị chẳng phải ngôn thuyết Triệu chứng lờ mờ thuộc có duyên. Kim chí đi đến khởi diệu dụng Đáo kim nào lại theo ngôn thuyên Ra ra đâu được bao gồm thế giới Mênh mông không nương tựa chim nói huyền. <詞>PHÙ SƠN VIỄN Chánh trung thiên: Kiếp không xa xăm vốn tịch nhiên Xuống mé Kim cang lại lên nhào Linh cơ trên tay khắp đại thiên. Thiên trung chánh: Trong kiếp trần mênh mông thanh tịnh Gần đường tẻ buông tay tiện đường về Không bóng trước đường đề chánh lệnh. Chánh trung lai: Sau đỉnh tròn ti sáng đài xưa Tuy nhiên chiếu thấu nhân thế gian Không phạm mũi nhọn tuyệt điểm ai. Kiêm trung chí: Diệu dụng tung hoành dứt suy nghó Trước sau giao chiến tự huyền huyền Tướng đứng thần quang đều lanh lợi. Kiêm trung đáo: Bên ngoài cơ sáng tiếtt tháo dài Rõ biết vạn loại không thể hết Ai có thể lại thủ ở áo huyền. <詞>TỤNG CỦA THẢO ĐƯỜNG Chánh trung thiên: Sao Giác ngủ trong nhà Côn lôn Máy thoi thạch nữ tiếng thùng thùng Người gỗ ra nhảy múa trước đình. Thiên trung chánh: Đầm trong xuất ấn trao vầng bóng Mọi người đều đến giữa bóng tròn Bóng mất đầm khô ai biện rõ bóng. Chánh trung lai: Mỗi đóa hoa sen nở trong lửa Mầm gốc đâu phải vật tầm thường Diệu dụng chẳng phải đồng ứng thế tài. Kiêm trung chí: Cơ phong giao nhau tuyệt kî húy Trượng phu kia ấy lộ ra anh hùng Chỗ điểm không đến thành phân tán. Kiêm trung đáo: Trâu sắt ăn hết cỏ lan biên Lại hỏi trâu nghé ở chỗ nào? Chỉ điểm đông tây được một báu. <詞>TỤNG CỦA HOẰNG TRÍ Chánh trung thiên: Ngân hà hết xanh biết lạnh ngập trời Nửa đêm nghé gỗ gõ cửa trăng Trong tối sợ phá người ngọc nữ. Thiên trung chánh: Hải vân hẹn đảnh thần tiên Người về râu tóc bạc như tơ Thẹn với đài Tần chiếu bóng lạnh. Chánh trung lai: Đêm trăng cá côn trường ra khỏi giáp Lưng lớn chạm trời chấn động cánh mây Đường chim bay lượn khó bao gồm. Kiêm trung chí: Gặp mặt không cần kiêng kî nhau Phong tục không tổn ý huyền Trong ánh sáng có đường thiên nhiên khác. Kiêm trung đáo: Cây chấn ngăn Bắc đẩu trời lệch chưa sáng Hạc mộng mới tỉnh khí sương lạnh Ổ xưa bay ra đáo vân tùng. <詞>TỤNG TỰ ĐẮC Chánh trung thiên: Hỗn độn mới phân trước nửa đêm Chuyển động bên người gỗ sợ phá mộng Tuyết lau đầy mắt ngủ không được. Thiên trung chánh: Trăng báu vây quanh kim điện lạnh Dương sáng không phạm tốt rút thân Mắt xoay bóng chuyển đỉnh núi tây. Chánh trung lai: Bên lệnh vua phân bày hóa tài Mặt trời sáng mới lên sa giới tónh Linh nhân không từng ngại mảy trần. Kiêm trung chí: Đại đạo Trường An nhàn dạo chơi Khắp nơi vô tư không hợp không Pháp pháp đồng quy về nước vào nước. Kiêm trung đáo: Mây trắng ngừng ở núi nhà đẹp Đập nát châu ly long minh nguyệt Côn lôn vào biển không tiêu hao. <詞>NGŨ VỊ TÂN CHỦ CỦA MINH AN (Ngài Minh An ghi chép có sai khác) Minh An nói: Chánh trung thiên, chính là rủ lòng từ tiếp vật, tức tân trong chủ. Câu thứ nhất đoạt nhân. Thiên trung chánh, có chiếu có dụng, tức chủ trong tân. Câu thứ hai đoạt cảnh. Chánh trung lai, chính là thọ dụng đặc biệt, tức chủ trong chủ. Câu thứ ba nhân cảnh đều đoạt. Kiêm trung chí, chính là phi hữu phi vô, tức tân trong tân. Câu thứ tư nhân cảnh đều không đoạt. Kiêm trung đáo, xuất cách tự tại. Lý tứ cú tuyệt ba phi, diệu của diệu tân vốn không. <詞>NGŨ VỊ CÔNG HUÂN CỦA ĐỘNG SƠN (Bài tụng) Hướng phụng công cộng công công công Vị tăng hỏi Sư: Như thế nào Hướng? Sư nói: Lúc ăn cơm làm sao? đói. sinh? Sư lại nói: Đắc lực phải quên no, dứt hết lương thực lại không (Đại Huệ nói: Lúc hướng làm thế nào? Hướng nghóa là thú hướng việc đây, nói lúc ăn cơm làm sao Nghóa là việc đây không phải lúc ăn cơm không có công huân mà có gián đoạn) Chánh chủ đến từ vua Nghiêu, người đón dùng lễ cong lưng rồng, có khi ồn ào qua bên đầu, đến chỗ văn minh đón Thánh triều. Thế nào là phụng? Sư nói: Lúc trái làm sao? Sư lại nói: Chỉ biết quý của Chu Tử, cô phụ người bản lai. Đại Huệ nói: Phụng chính là phụng của thờ phụng. Như người thờ phụng bậc Trưởng thượng, trước hết phải cung kính, rồi sau mới thừa phụng. Hướng chính là sở lập của công huân, vừa hướng đến liền có ý thừa sự. Nói lúc trái làm sao? Nghóa là việc đây không gián đoạn, lúc phụng đã vậy, mà lúc trái cũng vậy. Nói trái tức như nghóa phụng. Bởi phụng trái đều là công huân. Giặt sạch đồ trang sức vì ai Trong tiếng chim cu khuyên người trở về Trăm cỏ rụng hết khóc vô tận Lại đến phụng thờ ở núi sâu. Thế nào là công? Sư nói: Lúc buông bỏ cái bừa làm sao? Sư nói: Buông tay ngôi đoan nhiên Mây trắng lượn ở núi sâu. Đại Huệ nói: Công tức dụng. Đáp câu: Lúc buông bỏ cái bừa làm sao sinh? Đem cái bừa nói dụng, buông bỏ cái bừa là vô dụng. Ý của Sư dụng cùng vô dụng đều là công huân. Mùa xuân bên ngoài cây khô hoa nở Ngược lại cỡi ngọc tượng kỳ lân quý Mà nay ẩn ngoài ngàn ngọn núi cao Trăng sáng gió mát công của mặt trời đẹp. Thế nào là cộng công? Sư nói: Sắc không được. Sư lại nói: Phấn trắng khó dấu vết sâu, Trường An không ở lâu. (Đại Huệ nói: Cộng công: nghóa là pháp cùng cảnh địch nhau). Đáp câu: Sắc không được. Chính là pháp cùng cảnh không được thành một sắc khi chánh dụng lag hiển rõ vô dụng, vô dụng tức dụng. Nếu lầm một sắc là thành mười lời chết. Tông chỉ của Đổng Sơn nói tránh mười cái thành, nên nói sắc không, chính là lời sống. Chúng sinh chư Phật không xâm phạm nhau Núi tự cao hề nước tự sâu Muôn ngàn sai khác rõ hết việc Chim ngói khóc ở trăm hoa mới. Thế nào là công công? Sư nói: Bất công. Sư lại nói: Rõ ràng không có chỗ trái Ngoài đây lại cầu ở đâu. Đại Huệ nói: Công công: nghóa là pháp cùng cảnh đều không, là vô công dụng đại giải thoát. Cho nên bất cộng chính là không có pháp có thể chung. Nghóa của bất cộng, hoàn toàn quy về bên công huân. Như pháp giới sự sự vô ngại đây vậy, trước mặt ông vô ngã, trước mặt ta không có ông, nên đường núi hẹp, trong đây không có lão tăng, trước mắt không có Xà-lê vậy. Nói như vậy, đều là hướng đến nương theo, hằng ngày ở trong bốn oai nghi, thành tựu thế xuất thế gian, không đâu không đầy đủ, gọi đó là “công huân ngũ vị”). Đầu sừng vừa mọc đã không thể kham, Đem tâm cầu Phật rất hổ thẹn, Từ kiếp không xa xăm không người biết, Chịu đến phương Nam theo năm mươi công công. (Lại nói: Đã nói năm vị công huân, đó là đạo vậy. Người xưa kia ý quả như vậy sao? Nếu chỉ như thế, thì rất có kỳ đặc, chỉ là miệng truyền tâm trao rất hợp ý. đã không như vậy, làm sao nói ý người xưa). <詞>CÔNG HUÂN HỎI ĐÁP (Công của ngài Thúy Nham) Có vị tăng hỏi ngài Thúy Nham: Thế nào là chuyển công tựu vị? Thúy Nham nói: Buông tay không nương toàn thể hiện, lên thuyền nhỏ có người đánh ngủ ở Hoa lư? Thế nào là chuyển vị tựu công? Thúy Nham nói: Nửa đêm đầu non tăng gió lặng, Một tiếng lão vượn kêu ở cây cao. Thế nào là công vị đồng bày? Thúy Nham nói: Lúc ra cửa không đến đường, Bụi bay đầy mắt tuyệt điểm trần. Thế nào là công vị đều ẩn? Thúy Nham nói: Trâu bùn uống hết trăng đầm trong, Ngựa đá thêm roi không xoay đầu. <詞>NGŨ VỊ QUÂN THẦN CỦA TÀO SƠN (Tụng và tựa) Luận về chánh: Thì trắng đen chưa phân, điềm báo chưa phát sinh không rơi vào các Thánh vị. Thiên: Điềm báo đã đến, nên có sum-la vạn tượng ẩn hiển diệu môn. Bạch y tuy lạy nhau, Việc đây không phải kỳ đặc, Nhiều đời trâm anh, Khi nói dứt lời mất hồn. Giờ tý đúng chánh vị, Minh chánh ở quân thần, Chưa lìa cõi Đâu-xuất, Quạ gà đi trên tuyết. Kết băng lạnh trong lửa Hoa dương tháng chín bay Trâu bùn kêu mặt nước Ngựa gỗ hí theo gió. Vương cung mặt trời mới lặng Ngọc thố không thể lìa Chưa được ý chỉ vô công Nhân thiên sao quá chậm. Rõ ràng cắt giấu việc Điềm báo mất khó rõ Oai âm vương chưa rõ Di-lặc há hoang mang. <詞>BẢN ĐỒ NGŨ VỊ CÔNG HUÂN Chánh trung thiên (đản sinh nội viện). Quân vị hướng, khi trắng đen chưa phân (một phen làm chưa phân). Thiên trung chánh (triều sinh ngoại viện). Thần vị phụng lồ. Chánh trung lai (chưa sinh nương ẩn). Vua nhìn thần. Công vô ác hữu ác. Kiêm trung chí (hóa sinh thần dụng) Thần hướng vua cộng công đều không quan hệ nhau. Kiêm trung đáo (nội sinh bất xuất) Quân thần hợp công công không đương đầu. <詞>THẠCH CHỦ ĐÁP NGŨ VỊ VƯƠNG TỬ Thế nào là vương tử đản sinh? Thạch Chủ đáp: Quý Duệ loại phi thường Trời sinh vị chí tôn. Thế nào là triều sinh vương tử? Thạch Chủ đáp: Bạch y là túc phục Thẳng chí cấm trong đình. Thế nào là chưa sinh vương tử? Thạch Chủ đáp: Đường tu mới biết quý Lần tiến không biết tôn. Thế nào là hóa sinh vương tử? Thạch Chủ đáp: Thánh oai không so sánh Thần dụng không thể tính. Thế nào là nội sinh vương tử? Thạch Chủ đáp: Trọng vi dứt hơn thua Điện vàng nằm gió mát. Đại Huệ nói: Dùng vòng tròn một phần đen một phần trắng, làm chánh trung thiên trở lại chỗ trắng nói đen, cũng không được chạm vào chữ đen, phạm tức là phạm húy. Ngài Đổng Sơn nói: Chánh trung thiên đầu đêm canh ba trước trắng sáng, gọi canh ba là hắc, đầu đêm là hắc, trước trắng sáng là hắc, đây có thể xoay vầng không xúc phạm húy. Lại nói: Dùng vòng tròn một phần trắng một phần đen, làm thiên trung chánh, trở lại chỗ đen nói trắng, không được xúc phạm chữ trắng. Bài tụng của ngài Đổng Sơn: Lão bà mất ánh sáng gặp đường xưa. Không nói minh cùng với bạch, mà nói mất ánh sáng cùng gương xưa, đây có thể xoay vần chữ minh cùng chữ bạch mà không chạm húy. Bởi mất ánh sáng là sáng trong tối, gương cưa cũng là sáng trong tối lão bà đầu bạc. Nghóa là nói xoay vần chữ bạch. Lại nói: Chánh trung lai không có con đường chặn giữa, ra khỏi trần ai. Nghóa là phàm có ngôn cú, đều không có xướng chặn giữa, liền tự hợp nhiệm mầu, không đâu mà không từ chánh vị trung lai, hoặc sang hoặc tối, hoặc đi hoặc đến, đều là nhiệm mầu hợp với thông tông. Phàm một vị đều đủ năm việc đây. Như bàn tay có năm ngón, không thiếu không thừa. Đại Huệ nói: Kiêm trung chí, nghóa là bao gồm trắng và đen, bao gồm thiên chánh mà đến. Sao gọi là chí? Như người về nhà chưa đến mà đến, biệt nghiệp chính là ở nơi đường làm việc bên người, cũng có thể xoay vần, diệu ở trước thể. Lại nói: Kiêm trung đáo, là bao gồm bốn vị trước, đều hợp với diệu mà về chánh vị, gọi đó là tích hợp trọn quy về ngôi trong tro, cũng là nói chỗ đen xoay vầng với chữ hắc, nên nói “khôi”. Đại Huệ nêu ra ngài Tào Sơn hiểu liền nói: Nói lý nói sự giáo lý cóvăn hiểu rõ, đạo giáo ngoại đơn truyền trực chỉ, quả nc chăng? Nếu quả như vậy, bài thơ của Tào Sơn rất hay. <詞>BÀI TỤNG NGŨ VỊ VƯƠNG TỬ (Thạch Chủ ra đề tụng ngộ bổn) Đản sinh (nội thiệu ngài Đại Huệ nói: Chánh vị căn bản trí, chính sinh ra các ông Thái tử). Thiên nhiên quý đời sau vốn chẳng phải công. (Không nhờ tu chứng vốn tự viên thành) Đức hợp càn khô nuôi thế long. (Vốn tự có trong tôn quý) (3 17) Trước sau một ngày không nhiều thứ. (Vốn không tạp niệm) Cung nhân sáu nhà không tông khác. (Sáu căn chỉ một cơ) Trên hòa dưới hợp thuận âm dương. (Trước sau một mé) Cùng khí liền cành đồng một món đồ. (Chỉ chung không hai) Muốn biết đản sinh cha Vương tử. (Phải biết trên hết lại còn có một người) Người cỡi lưng hạc ra khỏi lồng bạc. (Ngàn bậc Thánh bất truyền) <詞>TRIỀU SINH (Độ sinh con tể tướng đã rơi vào thiên vị liên quan đến đại công huân, cũng nói là ngoại thiệu thần chủng) Khổ học luận về tình thế chớ đông nhiều (có tu có chứng) Đưa ra việc phàm đã vượt luân thường. (Tuy có tu có chứng vốn có tựu trọng tôn quý) Thơ thành năm chữ tam đông tuyết. (Nhiễm ô không được) Hạ bút phân hào bốn biển mây. (Không thủ chấp) Tích công vạn quyển rõ Thánh đại. (Đại công tu chứng) Nhất tâm trung hiếu giúp minh quân. (Biết có người hướng thượng mới được trọng phụng) Mơ muối không phải sống biết được. (Tu chứng lại đồng) Bảng vàng nào nhọc hiển đến huân. (Không nhờ tu chứng không đợi công huân) <詞>VỊ SINH (Có tu có chứng vị quần thần) Ở lâu hang núi dụng công phu. (Có tu có chứng) Giường cỏ cửa phên giữ chí cô. (Chẳng nhận không đợi công huân một trần không nhiễm) Mười năm thấy nghe tâm tư bỏ. (Mới hoàn toàn chịu trọng) Một thân đông hạ không áo lụa. (Quả thật tưới vẩy bóc lột khô) Lắng trong buồn xem suy nghó tam thu. (Một trần không nhiễm) Bậc thanh nhã cao danh thượng triết. (Người học có thể lấy việc làm vương tôn quý) Nghiệp đến khoa cao báo đáp chí cực. (Bổn nghiệp thành tựu) Gần đây thần tướng không đúng đường. (Tuy nhiên như vậy công huân không phạm) <詞>HÓA SINH (Mượn vị minh công, vị tướng quân) Sắp nhân vị vua làm truyền bá duy trì. (Phân Phật liệt tổ) Vạn dặm sơn hà khắp oai chánh. (Chánh lệnh phải thi hành) Vầng trời hồng ngưng cõi dưới. (Có từ trong tôn quý) Xanh mởn gió lạnh khi lửa nóng. (Khi oai chánh khắp ai dám phạm lệnh) Cao thấp há bỏ vâng theo tôn ti. (Biết có cao thấp mới hiểu kính trọng) Đường năm khố mới xa gần đều biết. (Vì cho là dính tro) Diệu ấn thủ trì mây khói lặng. (Ai dám đương đầu) Phái Dương Na chịu tiết lộ chút thiên cơ. (Trước sau công huân không phạm) <詞>NỘI SINH (Cũng là nội thiệu, căn bản đồng đưa ra, đông đản sinh) Cửu trùng thâm sâu lại nào tuyên nói. (Không ngôn không thuyết chánh lệnh phải thi hành) Đưa ra tệ hại từ trước đến nay hiển bày diệu truyền. (Uyển chuyển vì thời nay) Kính phụng một người trời đất quý. (Phụng trọng nội sinh cha Vương tử) Từ các đạo khác tự phân quyền. (tuy nhiên nói sáu chỗ, cốt yếu ở một loại căn cơ) Tử La Trương hợp quân thần phân chia. (Vào nước khác không có tướng lạ thể đồng một nước) Rèm cửa vàng rủ xuống đều ngăn cấm. (Thiên hạ đều thành chánh lệnh phải thi hành) Vì phương hóc ông quan còn luyến tiếc. (Chánh là huyễn sinh con) Bèn đem tiền lá vàng ngưng khóc. (Không khỏi tạm câu hỏi đây) <詞>BÀI TỤNG TRÍ KHÉO QUYỀN TẠM ĐẢN SINH Lúc quý đời sau lần lượt luống không Ngọc bội leng keng ở Đông cung Trăng chiếu sáng ở phủ triều quân Mãi khấu đầu bệ vua Nghiêu lại nhờ công. <詞>TRIỀU SINH Học vấn sách thư đức hạnh toàn Kim môn bỏ lớp văn sách tử vi Đài tinh không tự lìa áo câu Đâu được phụng thờ Thánh nhan. <詞>VỊ SINH HÓA SINH NỘI SINH Nghèo đến ngày nay rất thanh nhàn Vui buồn quạnh hiu một vật không Lại muốn lên làm Cửu Bao Phụng Mây lờ mờ che một vầng trăng. Lệnh vua truyền xuống cửu thiên Trong ngoài cấm Thánh hóa thân tuyên Về đường lại giữ kim ấn đẹp Chánh khiến từng không một chữ truyền. Thế phụng ngựa rồng đại trượng phu Thiên nhiên rất tôn quý lục cung Điện xưa rêu phong không người đến Thứ lớp mắt phàm biết không được. <詞>VÓNH GIA HÂM MỘ NGŨ VỊ CÔNG HUÂN Đến chỗ gặp nhau vốn không biết, Có lúc không biết lại gặp nhau, Sứ Tương không mắt lại nhìn thấy, Sư Khoáng sư Khoáng thính giác giống như điếc (hướng). Kim vàng thêu uyên ương khắng khít, May gấm lụa dài dằng dặc, Đến treo vườn xuân người không biết, Họ dẫn ong bướm qua đến nhiều (phụng). Nhan sinh ngõ hẹp không thể lo, Trọn ngày như ngu thích tự do, Lời dối quên hết được lợi ích, Nhiều người ni phụ một tràng buồn (công). Đạo só Hoài Nam mặc áo chân hồng, Chớ cho rằng tình vong sắc là không, Ngọc đàn cúng tế ban cho quyền bính suy lường, Bước nhẹ một khúc đối gió xuân (cộng công). Cao Hán mới lập trong sung túc, Ba thước suối rồng đế nghiệp an, Đợi được con cháu thành lễ nhạc, Xưa nay không cùng ông làm bạn (công công). <詞>THUYẾT TỊCH ÂM VƯƠNG CHỦNG NỘI THIỆU NGOẠI THIỆU Tịch Âm nói: Đây như trong Đường Quách khiến cho bốn mùa bình thường, đều xưng là Vương, song chẳng phải hữu chủng, là do ân cần lao nhọc mà có, như cung kính Tần Vương Minh Hoàng Cao Tổ, thì do nhà sinh Đế Vương đều là hữu chủng, chẳng phải do ân cần lao nhọc mà có, gọi đó là “nội thiệu”, không của công. Tiên thánh tôn quý gọi đó là “ngoại thiệu”, là mượn công nghiệp mà thôi, nên lại gọi đó là “tá cú”. Thiền sư Tào Sơn Chương lược nói bài kệ: Diệu minh thể tận biết xúc phạm Xúc ở trong gặp duyên không mượn. Thiền sư Vân Cư Hoằng Giác nói: Trên mỗi đều rõ thông trên mỗi vật Chỉ kêu làm xong việc người Trọn không kêu làm tôn quý Toan biết một đường tôn quý tự sai biệt. <詞>BA LOẠI ĐỌA CỦA TÀO SƠN Tào sơn nói: Phàm tình Thánh thấy là đường huyền kim tỏa, cần phải xoay chuyển. Luận về thủ chánh mạng thực. Phải đủ ba món đọa: Mang lông đội sừng. Không đoạn sắc thanh. Không thọ thức ăn. Có Bố Nạp hỏi: Mang lông đội sừng là đọa thế nào? Tào Chương đáp: Là loại đọa. Hỏi: Không đoạn sắc thanh là đọa thế nào? Tào Chương đáp: Là tùy đọa. Hỏi: Không thọ thức ăn là đọa thế nào? Tào Chương đáp: Là tôn quý đọa. Tào Chương lại nói: Phàm thầm hợp với tâm ban đầu mà biết có là loại đọa. Biết có mà không ngại sáu trần, là tùy đọa. Ngài Duy-ma-cật nói: Lục sư ngoại đạo là thấy của ông, thầy của ông đọa ông cũng đọa theo. Mới có thể lấy thức ăn. Thực: Là chánh mạng thực. Thực là căn cứ sáu căn môn đầu kiến văn giác tri, chỉ không bị cái khác nhiễm ô sẽ bị đọa, lại không phải đồng. Ngài Minh An nói: Ba loại đây phải hiểu chuyển vị mới được. Là làm con trâu tơ là loại đọa. Nói Sa-môn chuyển thân ngữ, là việc trong dị loại, nếu không hiểu ý đây, tức có ngăn trệ, đây là muốn ông một niệm vô tư, tức có đường xuất thân. Hòa thượng Đại Châu nhân tọa chủ Duy-ma hỏi: Trong kinh nói: Lục sư ngoại đạo kia là thầy của ông, thầy của ông bị đọa, cũng đọa theo, việc ấy cho ông không gọi là phước điền, cúng dường ông là đọa ba đường ác, chê bai Phật hủy pháp, không vào số chúng, trọn không được diệt độ, ông nếu như vậy mới có thể thọ thức ăn, nay xin Thiền sư chứng minh vì tôi giải nói. Ngài Đại Châu nói: Mê theo sáu căn gọi là lục sư, tâm mong cầu bên ngoài Phật gọi là ngoại đạo. Hữu tình được bố thí không gọi là phước điền, sinh tâm thọ cúng dường đọa trong ba đường ác. Ông nếu chê bai Phật, là không chấp cầu Phật. Hủy pháp là không chấp cầu pháp. không vào số chúng là không châp cầu tăng. Trọn không được diệt độ, là trí dụng hiện tiền. Nếu hiểu như vậy, thì được ngay thực ăn pháp hỷ thiền duyệt. Không đọa vào sắc thanh là đọa theo, do không rõ sắc thanh nên theo đó mà đọa, phải đến với thanh sắc mới có đường xuất thân. Thế nào là một câu ngoài sắc thanh? Đáp: Thanh không phải là thanh, sắc không phải là sắc, nên nói không đoạn, bàn tay phải bàn tay nào của ngón tay. Không thọ thức là tôn quý, phải biết bên đó, thi hành bên đây, nếu rỗng không vị đây, tức đọa vào tôn quý. CHÁNH MẠNG THỰC (tiếp theo) Ngài Tịch Âm nói: Trong Du-già Sư Luận nói: Chết có ba loại: Nghóa là thọ mệnh hết, phước hết, bất tî bất bình đẳng, phải biết cũng là chết phải thời phi thời, hoặc do tâm thiện, hoặc do tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký. Thế nào là thọ mệnh hết? Cũng như có một tùy cảm, thọ lượng mãn hết nên chết đây gọi là thời tử. Thế nào là phước hết nên chết? Cũng như có thiếu một của cải nên chết. Tại sao bất tî bình đẳng nên chết? Như Đức Thế Tôn nói: Chín nhân chín duyên, chưa hết thọ mạng mà chết. Những gì là chín? Nghóa là ăn không có chừng mực, ăn đã không đúng, không tiêu ăn lại, sống không nhã ra, chín không giữ lại, không cần thuốc men, không biết về mình, hoặc tổn giảm hoặc lợi ích, trái thời trái chừng mực, làm việc phi phạm hạnh, đây gọi là chết phi thời, phải lấy đây quán sát mới biết giờ mà ăn, tức không chết uổng gọi là chánh mạng thực. Ngài Hoàng Bá nói: Thời nay vừa ra khỏi chúng, chỉ muốn biết nhiều hiểu nhiều, rộng cầu văn nghóa, nói là tu hành, không biết biết nhiều hiểu nhiều trở thành ngăn trệ, như cho trẻ uống nhiều sữa, tiêu cùng không tiêu, thảy đều không biết. Hàng Tam thừa học đạo đều giống như đây, đều gọi là ăn không tiêu. Ăn không tiêu, đó gọi là hiểu biết không thông, đều là độc dược, bỏ hết bờ mé sinh diệt, ở trong chân như, vì không có việc đây, lấy đây nên biết, ngài Tào Sơn tôn quý chánh mạng thực, lập ba món đọa. <詞>BẤT ĐOẠN SẮC THANH ĐỌA, TÙY ĐỌA, TÔN QUÝ ĐỌA Ngài Tịch Âm nói: Trong kinh Duy-ma nói vì hoại tướng hòa hợp, nên lấy giấu ăn, vì không thọ nên lấy thức ăn ấy, do tưởng không tụ, vào nơi tụ lạc chỗ thấy sắc cùng với mù v.v… chỗ nghe tiếng cùng với tiếng vang v.v… chỗ ngửi mùi hương cùng với gió v.v… nếm thức ăn không phân biệt được, thọ các xúc chạm như trí chứng, biết các pháp như huyễn tướng, không có tự tánh, không có tha tánh, vốn tự không sinh, nay thì không diệt. Đây là lập lý do không đoạn sắc thanh đọa. Lại nói: Ngài Tu-bồ-đề không gặp Phật không nghe pháp, ngoại đạo lục sư kia, là thầy của ông, nhân đó ngài xuất gia, thầy ông bị đọa ông cũng đọa theo, mới có thể lấy thức ăn, đây là lập lý do tùy đọa. Lại nói: Chê bai Phật hủy pháp, không vào số chúng, trọn không được diệt độ. Ông nếu như vậy, mới có thể nhận thức ăn, đây là lập lý do tôn quý đọa. Ông từng xem xét ngài Tào Sơn, ông tự so sánh Lục Tổ không biết hổ thẹn. Do họ buông lung tình của Thánh phàm có đại phương tiện. Ngài Nam Tuyền nói: Ba đời chư Phật không biết có ly nô bạch cổ lại biết có, bèn nói không bằng Tào Sơn dựng lập một chữ đọa. <詞>BÀI TỤNG BA MÓN ĐỌA CỦA NGÀI TỊCH ÂM Xôn xao nhưng làm việc nghỉ ngơi đồng Trong chén bạc đựng đầy tuyết Nếu muốn bò đực khác Cùng với bò đực nào khác. Có nghe đều không nghe Có thấy vốn không vật Nếu đoạn cầu sắc thanh Gỗ cây bỗng nhiên sẽ thành Phật. Sinh ở nhà đế vương Nào lại có tôn quý Tự phải mặc trân bảo Xem thấy kinh lạ gì? ( tôn quý) VÀI ĐIỀU CỦA BÁ TRƯỢNG (Ba loại tụng và tổng) Mặc quần áo rách đứng dậy Cỏ bỏ khố nương sinh Đi dạo vào cỏ hoang Quên đi đường Trường An. Lầu Tần ca dạ nguyệt Ngụy thiếu say gió xuân Sau nước nhà mất ngã nghiêng Tin tức làng xóm không biết. Một mình ngồi non đỉnh Quanh lưới tuyệt đường về Đáng thương một đôi chân Không từng đến nhân gian (tôn quý). Mây không luyến tiếc núi xanh Gương không thích xấu xí Chưa thấu suốt cửa quan của quỷ Tùy chỗ thành khuôn sáo cũ (tổng). Mang lông đội sừng tùy loại tự tại: Đầu sừng dính bùn đất Hiện rõ ràng thân đây Bờ dương xanh cỏ thơm Chỗ nào không xưng tôn. Thấy sắc nghe tiếng tùy chỗ tự tại: Vượn kêu trăng đêm sương Hoa cười xuân vườn tâm Mênh mông trong hồng trần Mọi người là cố nhân. Lễ tuyệt bách liêu tôn quý tự tại: Họa đường không xiềng khóa Ai dam vượt qua cửa Không ngạc nhiên không khách khứa Trước nay không thấy người. <詞>TỔNG TỤNG (3 19) Đêm qua ngủ thân hoang Sáng nay đi dạo vườn Xưa nay không thứ lớp Chỗ nào tìm tung tích. <詞>BA LOẠI SẤM LẬU Sư nói với ngài Tào Sơn rằng: “Ta ở chỗ tiên sư Vân Nham đích thân in ấn Bảo Cảnh Tam-muội Sự, gạn cùng pháp yếu, nay đem trao cho ông, ông khéo hộ trì, không để đoạn tuyệt, gặp bậc chân pháp khí, mới có thể truyền trao, cần phải bí mật, không được hiển bày, e đem lưu truyền, diệt mất tông ta. Đời mạt pháp người phàm nhiều trí kém, nếu muốn hiện rõ chân ngay của bậc thượng nhân, có ba loại: Kiến sấm lậu: Căn cơ không lìa ngôi vị đọa ở biển độc, khéo ở chuyển vị. Ngài Minh An nói: Vì chấp ngăn ngại ở sở tri. Nếu không chuyển vị, tức còn ở trong một sắc. Đã nói tham lậu, chỉ có thể ở trong chưa hết thiện, phải hiện rõ tung tích mới được tiếp nối huyền cơ diệu dụng. Tích sấm lậu: Trí thường trái bỏ, chấp nơi thiên khô. Ngài Minh An nói: Vì tình cảnh không đủ ngăn trệ ở thủ xả, trước sau đềi thiên khô xem xét không khắp, là biết lưu chuyển cùng khắp. Việc giữa đường bên bờ cần trong mỗi câu lìa nhị biên không ngăn trệ tình cảnh ( 1- Làm việc giữa đường chưa đến bên bờ). Nói sấm lậu: cho rằng khéo mất tông căn cơ mê mờ trước sau trí kém cỏi không ra ngoài ba loại đây. Ngài Minh An nói: Thể diệu thất tông, là ngăn trệ ở con đường ngôn ngữ mất tông chỉ, căn cơ mê mờ trước sau. Nghóa là căn cơ ám muội, chỉ ở trong ngôn ngữ tông chỉ không đầy đủ. Trong mỗi câu phải là có trong ngôn ngữ không ngôn ngữ, mới được diệu chỉ mật viên. <詞>BÀI TỤNG TAM SẤM LẬU CỦA ?? ĐÀM CHIẾU Thiên hạ núi khe u tịch chân hẳn Ai có thể đưa tay cùng dạo chơi Quay đầu bỗng nghe tiếng đỗ quyên Cười chỉ mây trắng đi về nghỉ (kiến). Năm xưa từng làm khách tham huyền Khắp nơi thăm hỏi huyền cơ cùng yếu mạch Canh tàn mực đen dính áo đen Nói đến người khác cửa miệng hẹp (tình). Trên đảnh người gỗ nhẹ mở miệng Thạch nữ bên khe thầm điểm đầu Có thể cười vào năm Lý Thái Bạch Đêm đến lại ngủ thuyền câu cá (ngữ). <詞>BA CÁCH TIẾP NGƯỜI CỦA NGÀI ĐỘNG SƠN Có vị tăng đến ngài Thiểm Sơn, Thiểm Sơn hỏi: Chỗ rất gần lìa. Tăng nói: Ngài Động Sơn. Thiểm Sơn nói: Động Sơn có câu nói gì? Tăng nói: Hòa thượng nói: Ta có ba cách tiếp người. Ngài Thiểm Sơn nói: Có ba cách gì? Tăng nói: Cách chim nói khó hiểu giang tay. Thiểm Sơn nói: Thật có ba cách đây sao? Tăng nói: Hay Thiểm Sơn nói: Cầm giữ ngàn dặm dưới rừng cướp bóc người nói buồn. Sai đó ngài Phù Sơn Viên Giám nói: Không nhờ lá vàng rụng, sao biết là mùa thu (hoặc nói: Tôn túc nêu luận mà nói, cầm giữ thiên lý sao, một mình đạo nhân dưới rừng, hoặc nói chấp trì thiên lý bát một mình đạo nhân dưới rừng). <詞>BÀI TỤNG BA LOẠI CƯƠNG YẾU CỦA TÀO SƠN Khóa vàng đều khóa đủ Đường hẹp đều ẩn hết Bảo ân ngay diệu không Trùng trùng đều thêu gấm. Xen nhau sáng trong tối Công đều chuyển khó biết Sức hết quên tấn thối Khóa vàng mạng lưới giày (khóa vàng đường huyền) Lý sự đều không liên quan Chiếu lại tuyệt u vi Trái gió không khéo vụng Lửa chớp sáng khó tìm. (Ba phen không đọa phàm Thánh lại nói lý sự không liên quan). <詞>TAM CÚ CỦA MINH AN Bình thường không sinh câu Diệu huyền không câu riêng Thể sáng không hết câu. Lúc bấy giờ có vị tăng hỏi: Thế nào là bình thường không sinh câu? Ngài Minh An nói: Mây trắng che núi xanh Núi xanh không lộ đỉnh. Như thế nào là diệu không câu riêng? Ngài Minh An nói: Bảo điện không người đứng hầu Không trồng ngô đồng không phương đến. Thế nào là thể minh vô bận cú? Minh An nói: Lúc tay chỉ hư không trời đất chuyển Đường về Thạch mã ra khỏi váy quần. <詞>LANG DA BIẾT ĐÁP TAM CÚ Lang Da nhân vị tăng tu thỉnh ích thứ lớp bèn nói: Sơn Tăng cũng có ba câu báo đáp Đại Dương. Vị tăng hỏi: Thế nào là bình thường không sinh câu? Lang Da nói: Trước nói không có ý chỉ Câu sau dứt đuổi tìm. Hải Ấn nói: “Ễnh ương ba chân bỏ ba ba lớn”. Thế nào là diệu huyền không có câu riêng? Lang Da nói: Điểu phụng không dừng lại không bóng cây Ngọc thố đâu từng xuống trời xanh. Hải Ấn nói: Mây trắng che núi xanh. Thế nào là thể diệu không chết câu? Lang Da nói: Ba đông cây khô trổ Chín hạ hoa tuyết bay. Hải Ấn nói: Trên đỉnh Tu-di sóng ngập trời. Lang Da nói: Đem ba câu nói đây cúng dường Hòa thượng Đại Dương dần xuống tòa. <詞>BỐN CẤM NGỮ CỦA TÀO SƠN (Hoặc nói đầu từ ngữ) Chớ đi chỗ đường tâm Không quảy bát đến y Cần gì đúng như thế Rất kî lúc chưa sinh. <詞>KỆ CỦA MÔN PHONG (Gỗ phù dung tự được sáng) <詞>XƯỚNG HAY KHÔNG LIÊN QUAN ĐẾN LƯỠI Sát sát trần tràn khắp nơi bàn Không khảy tay Thiện Tài tham Không sinh cũng hiểu thông tiêu tức Mưa hoa trước đảnh chim không hót (Phù dung). (Đại) Như như tịch diệt tợ vô tình Một câu xưa nay vốn hiện thành Lưỡi vận rộng dài vốn không gián đoạn Tuyết Phong gặp nhau mong về Châu hưởng (tự được). Phật xưa vòi vọi thể rộng dài Lưỡi tơ xen nhau sáng sát trần bày Cũng biết không phí mẹ sinh lưỡi Trên đảnh sân quế hoa khéo bày (Cổ đức). <詞>RẮN CHẾT SỢ RA CỎ Mặt trời nóng gió thổi cỏ trong đất Chạm độc khí kia lại quay về Đất tối bỗng mở miệng chết Trường An y cũ tuyệt người đến (Phù dung). (7) Roi vàng xa chỉ ngọc đường lạnh Sợ tướng quân đêm ra quan ải Kiếm báu bốn biển trong Dựng cờ một phen quét tuyệt ngoan si (tự được). Rắn chết đánh giết Lộ Sương Nha Không roi đáy đầy hôi chớ thêm Đã là khéo gọi phải khéo để Chạm độc kia mất vợ nhà (Cổ đức). <詞>GIẢI CHÂM KHÔ CỐT NGÂM (3) Trong cái chết được sống là phi thường Mật dụng lại khác biệt có tăng trưởng Nửa đêm đầu lâu ngâm một khúc Sông băng phát lửa lại trong mát (Phù dung). (8) Cung lậu trầm trầm màu đêm đậm Đèn tắt lửa hết tuyệt tri âm Người gỗ chuyển vị dây ngọc sáng Thạch nữ nằm mộng sương đầy áo (tự đắc). (4) Công tề công hóa ý chỉ nào sâu Đâu để trọng yếu lại thâm trầm Cha con không truyền chân bí quyết Giải kim cốt khô làm rồng ngâm (Cổ đức). <詞>THIẾT CƯ MÚA TAM ĐÀI (6) Không lạc điệu cung thương Ai biết hòa một trận Bá Nha bỏ chỗ nào Khúc đây xưa nay dài. (9) Trâu sắt không sừng nằm vách núi Roi đi như bay thấy cũng thế Phố náo nhiệt người đi khắp không gặp Diều hâu mở mắt qua Tân La (tự đắc). Càn-thát-bà vương trống như sấm Linh sơn hiến nhạc chưa không hồi Sóng biển cuồn cuộn động Tu-di Nào ngại của sắc múa tam đài (Cổ đức). <詞>XƯA NAY KHÔNG GIÁN ĐOẠN (Ngài Hoằng Trí ghi chép lời của chủ gia không thấy có đề cổ kim không gián đoạn, riêng Phù dung có bài tụng đây) (5) Một pháp vốn muôn pháp không Trong ấy sao được ngộ viên thông Toan cho rằng Thiếu Lâm đoạn tiêu đức Hoa đào xưa vẫn cười gió xuân. (Cổ đức lập đề được bài tụng rõ ràng) <詞>NĂM CHUYỂN VỊ TRONG HÒM THANH XÀ HỐNG Bảo kiếm xiên ngang trời sắp sáng Rửa sạch ma Phật ép người lạnh Trong hòm thầm ẩn chỗ phát sáng Nạp tử luống đem chánh nhãn xem. <詞>KIM VÀNG ĐI LẠI ĐẾN Đại đạo trong sáng đường Trường An Qua lại đâu từng có gián đoạn Tối đi sáng đến cơ phong không lộ bày Ông ấy ban đầu không rơi vào trung biên. <詞>TẦN CUNG CHIẾU SÁNG LẠNH Phòng nham xem vắng lạnh như băng Khéo được chân phù linh khắp nơi Chuyển đổi không nương công tựu vị Hồi đầu lại mất Sở vương thành. <詞>NGŨ THIÊN NGÂN SÁNG CHÓI Ngũ thiên sáng chói riêng vòng ngọc Một điểm sáng phân minh soi hồ Rồi bước lại đi dạo biển huyễn Mười phương sa giới đại tỳ-lô. <詞>NÚI SÂU ẨN BẠCH NGẠCH Bạch Ngạch ẩn sâu khói mù mờ Trong cái lạ đến cũng tự kinh sợ bầy Cỏ sâu thẳng xuống không chỗ tìm Xúc chạm nhẹ nhàng họa đến cửa. CƠ PHONG CỦA TÀO ĐỘNG (Phần Dương) Lầu gác trăng ngàn nhà Sông hồ thu muôn dặm Hoa lư không khác màu Bạch điểu xuống các bồi. ( 16) TÔNG CHỈ (Cổ đức) Tào động xuống môn đính lý sự toàn Bạch vân nham xuống đâu ngủ yên Mặc dầu cây khô nở hoa Chiếu lại đồng hoa không gặp tiền. Cổ đức phân ba loại công huân (thêm mới) <詞>MỘT SẮC CHÁNH VỊ Không bóng trong cây chim không đậu Thềm không thầm thầm đến bên đợi Núi lạnh cỏ hoang đâu từng xanh Ngồi ngay vòi vọi mất đường mê. <詞>MỘT SẮC ĐẠI CÔNG Trâu trắng trong tuyết tìm không dấu vết Công hết siêu nhiên thể chứa mênh mông Bóng trăng hoa lư trời chưa sáng Linh miêu nhậm vận cắt gió xuân. <詞>MỘT SẮC THỜI NAY Đầu lâu thức hết chớ nhiều điều Miệng chó vừa mở rơi hai ba Trong ánh sáng hằng ngày phải tiến gấp Núi xanh chỉ ở trong mây trắng. <詞>BÀI TỤNG CỦA HOẰNG TRÍ MƯỢN BỐN ĐIỀU Mượn công nói rõ vị Cây Tần gió chưa dừng đêm chưa sáng Nước trời trong xanh cùng thu sáng Thuyền không phạm bờ đông tây Phải tin cây sào người dùng ý tốt. Mượn vị rõ công Sáu hộ thông suốt đường không mê Trong bóng thái dương không đương cơ Tung hoành khéo mở vô tư hóa Chính xác đi từ đường chim trở về. <詞>VAY MƯỢN KHÔNG VAY MƯỢN Biết tận ngọt đắng trăm đầu cỏ Mũi không dây cột cuộc sống an nhàn Không biết có lại thành biết có Mới tin Nam Tuyền kêu làm trâu. <詞>TOÀN SIÊU VIỆT KHÔNG VAY MƯỢN Sương nặng gió im cảnh tịch liêu Ngọc quan kim tỏa tay lưỡi gõ Tùng lạnh đêm hết không tiếng kêu Hạc già dời nghỉ ở không trăng. <詞>MÔN ĐÌNH CỦA TÀO ĐỘNG Tông Tào Động, gia phong cặn kẽ ngôn hạnh tương ưng, tùy cơ lợi vật, đến nói tiếp người, xem chỗ họ đến, bỗng có thiên trung nhận chánh, bỗng đồng bỗng dị, chỉ bày các việc dùng năm vị thiên chánh, năm vị công huân của bốn tân chủ, năm vị quân thần, năm vị Vương tử, nội ngoại thiệu. Năm vị thiên chánh, chánh trung thiên, là thể khởi dụng. Thiên trung chánh, là dụng quy về thể. Kiêm trung chí, là thể dụng đều đến. Kiêm trung đáo, thể dụng đều dứt. Tứ tân chủ, không đồng với ngài Lâm Tế. Chủ trong tân, thể trong dụng. Tân trong tân, dụng trong dụng, trên đầu để trán. Chủ trong chủ, vật và ta đều vong, nhân pháp đều hết, không liên quan đến chánh thiên. Năm vị công huân, là nói rõ tham học công vị cho đến phi công vị. Năm vị quân thần, là nói rõ hữu vi vô vi. Năm vị Vương tử, là nói rõ nội thiệu vốn tự viên thành. Ngoại thiệu có chung có thủy. Đại khái gia phong của Tào Động chẳng qua là thể dụng, thiên chánh, tân chủ, để rõ một đường từ trước, phải thấy Tào động như thế, Phật tổ chưa sinh ngoài kiếp không, chánh thiên không rơi vào cơ có không. YẾU QUYẾT (Sơn Đường) Một phái tân phong hà ngọc phân dòng, mới nhờ qua nước gặp khe, khéo thấy vô tình thuyết pháp. Ngày nay không chạm, dang tay thông huyền, nêu bày năm vị chánh thiên, phân ba món tham lậu, đêm sáng ngoài rèm, thần thối vị do triều quân, trước đài gương xưa, ông chuyển thân mà đến cha tuyết phủ muôn năm cánh tùng, nửa đêm đang sáng, mây ngăn một dải núi cao, trời sáng không lộ bày, nẻo đường dày đặc, vực trí hố sâu, lặng chiếu kiếp không về trước, lặng yên một bình gió trăng, ngồi thấu trước Phật Oai Âm Vương, lặng trong đầy mắt khói sáng, không hoa nở trên mầm cành, không phượng múa trên đầu bóng cây, mây tơ không treo, trong ấy hai khóa kim vàng (3 2 0), thêu vẽ trong tung hoành cho tối xâu chuỗi ngọc, đều khởi minh xướng, giao phong chỗ biết có thiên nhiên, đều mang bỗng đến trên cây khô, ai có thể làm chủ không cần chánh vị, nào thủ đại công, đến hết thời nay, đâu để tôn quý, cắt đứt lưới chấp tình trần, nắm mở khóa vàng huyền quang, khéo hiệp đầy đủ, rõ ràng trong giống xen dấu vết, bình thường lòng thường thật, rõ ràng ẩn thân trong tro, co duỗi không rơi vào công huân, qua lại không biến đổi, muốn để mầm khác sum sê, quý ở sâu vốn gốc tốt, nếu không phải củi đá dã nhân, sao thấy Tân Phong khúc tử (củi đá dã nhân là hiệu riêng của Phù Sơn Viên Giám). <詞>BÀI TỤNG CƯƠNG TÔNG CỦA CỔ ĐỨC Khói mây che đường ai có thể tìm, Gà đen đi mưa xông dương diệm, Cầu vồng đỏ xuyên lầu cười hòa, Ách đúng là ngay là tiếng nói cười. Kinh dịch nói tiếng sằng sặc, cầu vồng đỏ xuyên lầu hòa theo tiếng cười, đây là trong không ngôn ngữ có ngôn ngữ, nhiều người làm ách của âm ách là sai, đầm rộng hoa lư ẩn trong tuyết, thuyền dạo chơi dừng chỗ sâu thả dây câu cá, ngay cửa buồn rầu không soi gương thả tóc xiên dưới mày núi xanh. <詞>TAM-MUỘI BẢO KÍNH Pháp như thế, Phật tổ thầm trao, Nay ông được đó, Nên khéo giữ gìn, Như chén bạc đựng tuyết, Trăng sáng che cò, Loại đó chẳng đồng, Lẫn thì biết chỗ, Ýù không ở lời, Cơ đến cũng đến, Động thành hang ổ, Sai rơi đoái giữ, Xúc chạm đều sai, Như đống lửa lớn, Chỉ bày màu vẽ, Tức thuộc nhiễm ô, Nửa đêm sáng tỏ, Trời sáng chẳng bày, Vì vật làm phép, Dùng nhổ các khổ, Tuy chẳng hữu vi, Chẳng phải không nói, Như đến gương báu, Hình bóng thấy nhau, Ông chẳng phải y, Y chính là ông, Như trẻ trong nôi, Năm tướng đầy đủ, Chẳng đi chẳng lại, Không dậy không đứng, Tu oa! tu oa! Câu có câu không, Trọn chẳng được vật, Vì lời chưa rõ, Lại lìa sáu hào, Thiên chánh xoay vần, Chồng chất thành ba, Biến hết thành năm, Đến như vị cô trị, Như chày Kim cang, Chánh trung khéo gộp, Gõ xướng đồng cử, Thông tông thông độ, Gộp hẹp gộp rộng, Yên lặng thì tốt, Chẳng nên phạm nghịch, Thiên chánh hồi hổ, Không thuộc mê ngộ, Thời tiết nhân duyên, Lặng lẽ rành rõ, Nhỏ vào chẳng hở, Dứt hết phương sở, Sai không mảy may, Chẳng hợp luật lữ, Nay có đốn tiệm, Duyên lập tông thú, Tông thú phân minh, Tức là quy cũ, Tông thông thú cực, Chân thường lưu chú, Ngoài yên trong loạn, Cột ngựa dẹp chuột, Tiên thánh thương họ, Vì làm đàn độ, Tùy kia điên đảo, Lấy đen thành trắng, Tưởng điên đảo diệt, Để tâm tự hứa, Hợp dấu vết xưa, Xin xem trước xưa, Phật đạo đã thành, Mười kiếp quán cây, Như hang của cọp, Như trạm của ngựa, Do có thấp kém, Bàn báu xe quỷ, Do có sợ hải, Mèo nhà bò trắng, Nghó do sức kéo, Trăm bước bắn trúng, Tên nhọn sắp chạm, Sức khéo làm gì, Người gỗ vừa ca, Ghi đá đứng múa, Tình chẳng thức đến, Đâu cho suy nghó, Thần phụng nơi vua, Con thuận nơi cha, Không thuận bất hiếu, Không phụng chẳng phụ, Làm thầm kín dụng, Như ngu như dại, Chỉ hay tiếp nối, Gọi chủ trong chủ.  <卷>QUYỂN 4 TÔNG QUY NGƯỠNG Sư húy Linh Hựu, ngài họ Triệu ở Trường khê Phước châu, đắc pháp giới với ngài Bá Trượng Hoài Hải. Ban đầu Ngài đến Đại Quy ăn trái, uống nước khe, hơn mười năm mới được cùng ngài Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch Thiền sư, chấn hưng tông đạo, nên các phương gọi Ngài là tông Quy Ngưỡng. <詞>BA LOẠI SINH Sư nói với Ngưỡng Sơn rằng: Ta dùng gương trí làm tông yếu, đưa ra ba loại sinh. Đó là: Tưởng sinh. Tướng sinh. Lưu chú sinh. Trong kinh Lăng-nghiêm nói: Tưởng sinh là trần, bị thức tình làm cấu uế, cả hai đều lìa, thì pháp nhãn của ông ứng thời trong sáng, ại sao không thành Vô thượng tri giác. Tưởng sinh tức tâm hay suy nghó tạp loạn. Tướùng sinh tức cảnh bị suy nghó rõ ràng. Lưu chú vi tế đều bị trần cấu, nếu có thể sạch hết mới được tự tại. Sau có vị tăng hỏi ngài Thanh Phật Trung Thiền sư: Thế nào là Tưởng sinh? Trung Thiền sư nói: Thỏ ngắm trăng. Thế nào là Tướng sinh? Trung Thiền sư nói: Sơn hà đại địa. Thế nào là lưu chú sinh? Trung Thiền sư nói: Vô gián đoạn. BÀI TỤNG TƯỞNG SINH (của Thạch Phật) Âm thầm đi người đời không biết Trong ấy đã đi nhiều nẻo Như ngọn đèn cháy lung linh giữa hư không Vội vàng về đến sớm là chậm. <詞>TƯỚNG SINH Pháp không một mình sinh mà nương cảnh sinh Mảy may chưa hết bèn trội hơn Hồi quang một tiếng động lại trở về Thanh vắng nằm mộng bỗng nghe hai mắt sáng. <詞>LƯU CHÚ SINH Trần trần thanh sắc rõ không cùng Không lìa ngày nay trong nhật dụng Kim tỏa huyền quang có thể cắt đoạn Trở về cố hương mau như gió. <詞>KHỞI NHÂN VIÊN TƯỚNG Làm viên tướng: Ban đầu ở Nam dương Trung Quốc Sư đem trao cho thị giả Đam Nguyên, Nguyên vâng theo sấm ký truyền đến Ngưỡng Sơn, bèn gọi là tông phong Quy Ngưỡng. Ngũ Phong Lương Hòa thượng ở Minh châu, thường chia ra năm mươi công án. Minh Giáo tung Thiền sư, là bài tựa khen cái đẹp của đạo Lương Hòa thượng nói, tổng cộng có sáu tên. Nghóa là: Viên tướng, ám cơ, nghóa hải, tự hải, ý ngữ và mặc luận. Đam Nguyên nói với Ngưỡng Sơn: Quốc Sư truyền viên tướng cho sau đời Tổ sư, chín mươi bảy câu, trao cho lão tăng Quốc sư lúc thị tịch, lại nói tôi rằng: Sau khi ta diệt độ ba mươi năm, ở phương Nam có một Sa-di, đến xiển dương đạo đây, truyền trao thứ lớp, không để đoạn tuyệt, ta biết rõ sấm ký đây là ở nơi ông, ta nay giao phó cho ông, ông phải phụng trì. Ngài Ngưỡng Sơn được rồi bèn đốt sấm ký. Đam Nguyên một hôm nói với Ngưỡng Sơn rằng: Đến chỗ truyền viên tướng, phải bí mật thâm sâu. Ngưỡng Sơn nói: Đốt rồi. Đam Nguyên nói: Đây là chủ Tổ truyền nhau đến đây, sao đốt đi. Ngưỡng Sơn nói: Ông vừa xem rồi biết ý kia, nhưng dụng mới được không chấp bổn vậy. Đam Nguyên nói: Trao cho ông liền được, người đến như thế nào? Ngưỡng Sơn đáp: Hòa thượng muốn chép lại một bổn. Ngưỡng Sơn bèn chép lại trình lên, không sai khác một chút. Đam Nguyên một hôm thượng đường, ngài Ngưỡng Sơn ra giữa chúng làm tướng tròn, lấy tay nhấc lên làm trình thế, lại chấp tay đứng. Đam Nguyên dùng hai tay giao nhau làm chỉ bày. Ngưỡng Sơn đến trước ba bước, làm thế người nữ lạy, Đam Nguyên gật đầu, Ngưỡng Sơn liền lễ bái, đây chính là viên tướng đã tự khởi. <詞>ÁM CƠ Ngài Ngưỡng Sơn đích thân đến chỗ Đam Nguyên, trao chín mươi bảy món viên tướng, sau ở chỗ Quy Sơn, nhân tướng tròn đây đốn ngộ, sau có người nói: Chư Phật mật ấn đâu dễ nói sao? Lại nói: Ta ở chỗ Đam Nguyên đắc thể, ở chỗ Quy Sơn đắc dụng nói: Cha con hợp cơ, nên có viên tướng đây, so sánh biện rõ vài điều, hoặc họa tướng ?? Mới biết ý, hoặc tướng ?? Mới đoạt ý, hoặc họa tướng ?? Mới bằng lòng, hoặc họa tướng tròn mới chấp nhận người khác thấy ý, hoặc họa tướng tròn ??, hoặc chấm hoặc phá, hoặc ném đi, hoặc nâng lên, đều là thời tiết nhân duyên vừa có viên tướng, liền có khách chủ, chủ sinh sát tung đoạt cơ quan nhãn mục ẩn hiện quyền thật, bèn vào đất Lịch nghỉ ngơi, hoặc lúc rảnh rỗi Sư làm việc, biện cái khó thay đổi cơ phong, chỉ quý đương nhân đại dụng hiện tiền. Một hôm có phạm tăng đến tham kiến Ngưỡng Sơn vẽ lên đất tướng tròn đây chỉ bày, vị tăng đến trước làm thêm tướng tròn ?? Rồi lấy chân xóa đi, Ngưỡng Sơn dang hai tay, vị tăng phất tay áo đi liền. Ngưỡng Sơn nhắm mắt ngồi, có vị tăng lén đến đứng bên Sư, Ngưỡng Sơn mở mắt thấy, bèn vẽ trên đất tướng tròn ?? Cố ý chỉ bày vị tăng ấy, vị tăng không nói. <詞>NGHÓA HẢI Ngưỡng Sơn ở chùa Quán Âm Hồng Châu, sau bữa ăn cháo đến ngồi thiền, có vị tăng đến lễ bái, Ngưỡng Sơn không ngó. Tăng hỏi Ngưỡng Sơn: Biết chữ chăng? Ngưỡng Sơn nói: Tùy phần. Vị tăng đi quanh bên phải một vòng, là chữ gì? Ngưỡng Sơn vẽ trên đất chữ thập. Vị tăng lại đi quanh một vòng bên trái, là chữ gì? Ngưỡng Sơn bèn đổi thành mười chữ vạn ??. Vị tăng lại vẽ tướng tròn dùng hai tay nâng lên, như thế Tu-la đỡ mặt trời mặt trăng rồi nói là chữ gì? Ngưỡng Sơn vẽ tướng ?? Để đối. Vị tăng bèn làm thế rất yếu. Ngưỡng Sơn nói: Đúng vậy! đúng vậy! đây là chư Phật đã hộ niệm, ông đã như vậy, ta cũng như vậy, khéo tự hộ trì. Lành thay! lành thay! vị tăng lễ tạ rồi nương hư không mà đi. Lúc bấy giờ có một người nói: Trải qua năm ngày sau hỏi Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn nói: Ông lại thấy chăng? Người nói: Thấy ra khỏi cửa nương hư không mà đi. Ngưỡng Sơn nói: Đây là La-hán Tây Thiên, đặc biệt đến thăm dò tông chỉ của ta. Người nói: Mỗ giáp tuy thấy các thứ Tam-muội đây, không biện rõ được lý ấy. Ngưỡng Sơn nói: Ta lấy nghóa giải thích cho ông, đây là tám thứ Tam-muội, giác hải biến thành nghóa hải, thể đồng tên khác. Nhưng nghóa đây hợp lại có nhân, có quả, tức thời, khác thời, tổng biệt không lìa ẩn thân Tam-muội. Hòa thượng Ngũ Quan Liễu Ngộ cùng với Ngưỡng Sơn lập huyền hỏi huyền đáng tướng ?? Đây cả hòm rương ngăn che, cũng gọi là nửa tháng đợi tướng tròn. Nếu đem tướng đây hỏi việc đó, lại đem nửa tháng để đối đáp. Ngưỡng Sơn bèn nói: Cả hòm ngăn che. Đáp do ngăn che hòm, nên nói hòm ngăn che tương xứng, do hiện tướng trăng tròn. ?? Đây gọi là ôm ngọc cầu soi tướng, nếu đem tướng đây đến hỏi, tức ở trong ấy viết chữ gì để đáp, tướng đây gọi đó tìm gương tốt. Đáp là biết ngọc xuống tay, ?? Đây gọi là dẫn vào, tương tục. Lại đem tướng đây đến hỏi, chỉ ở bốn chữ ?? (khư) thêm chữ nhân (??) Để đáp, bèn hỏi dẫn vào. Đáp dắt tiếp. Người nói: Tiếp tục thành tướng đồ báu. ?? Đây gọi là đã thành tướng đồ báu. Nếu đem tướng đây đến hỏi, chỉ ở trong viết chữ ?? (thổ hoặc độ) để đáp. ?? Đây gọi là tướng chỉ của huyền ấn, riêng vượt qua các tướng, không chấp ý giáo sở nhiếp. Nếu là rất lanh lợi, thì đối diện phần họ suy nghó, thì không thấy. Tam Tổ nói: Sai một hào ly cách xa trời đất, nếu không đủ chánh nhãn, đâu có thể hiện rõ đây được, như ông trông mong nghe đàn cầm của Bá Nha, như Đề-bà hiểu tướng ngài Long Thọ, dụ như gà ấp trứng thốt trác giống nhau, trí độn nông cạn, hết khó liền sáng, như mù thấy sắc mà chuyển lầm. <詞>BIỆN RÕ ĐỆ BÁT THỨC ?? Đây là chúng sinh, đều có sáu thức, thêm một thức không gọi là bảy thức, thức không được gọi là đệ bát thức, cũng gọi là tám vị vương tử, cũng gọi là bát giải thoát, cũng gọi là bát trượng phu, tổng cộng có ba mươi hai tướng, đây là quả tướng nhân trí báo đáp, cũng gọi là bát thức, thức thứ bảy thứ tám không lìa nhau, nên đến làm tiên phong, đi là rốt sau, cho đến suy tìm quá khứ, phan duyên hiện tại, suy nghó vị lai, ba tế sáu thô, năm ý, sáu nhiễm, bảy thức, phân kia phân đây phân phải phân trái, bát A-lại-da thức gọi là Bạch tịnh thức, vốn không có tì vết, không Phật không chúng sinh, không nhân cũng không ngã. Cổ đức nói: Lại-da Bạch tịnh vốn không ngu, ba tế phân thời có sáu thô. Nói Ba tế, Sáu thô thấy ở tông môn sau trong tạp lục sau bốn trí đệ thất mạt-na. Tám muôn bốn ngàn từ đây mà có, đại thiên sa giới làm phàm phu, tâm mộng ràng buộc vốn chẳng phải có, mắt bệnh hoa đốm hư không biết là không, trỏ bàn tay thành mười điều thiện, y nhiên xích thủy được huyền ngộ, trong nhân thứ sáu thứ bảy chuyển, thứ năm thứ tám quả vị viên mãn, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quán sát trí. Trái lại quán thức thứ tám thành Bất động trí, rỗng không không có trong ngoài gọi là Đại viên cảnh trí (3 2 3), tức một thể. Bình đẳng tánh trí là hiệu chung. Dùng Diệu quán sát trí thâu nhiếp sáu căn, sáu trần, sáu thức, mười tám giới nhẫn đến tám muôn bốn ngàn trần lao, chuyển thành Sở tác trí, chung quy về Đại viên cảnh trí, tức một thể. Đệ ngũ thức chính là ký trí thức chuyển Thành sở tác trí, Thành sở tác trí chuyển nhập Diệu quán sát trí, Diệu quán sát trí chuyển nhập Bình đẳng tánh trí, Bình đẳng tánh trí chuyển nhập Đại viên cảnh trí, tức một thể, là tôn sư của ông. Nếu có người vấn nạn năng chuyển, tức chuyển thức ở đâu. Trong kinh Lăng-già nói: Phật răn ngài Đại Huệ: Đầu đêm giữa đêm sau đêm, thường dùng Diệu quán sát trí, phải sạch hiện dòng, thức chuyển sáu căn Thành sở tác trí, như khi ngửa tay không nên úp tay ở đâu, cũng như băng khi thành nước bất tức có khác, nên nói: Phiền não tức Bồ-đề. Căn cứ hai bộ luận Bách pháp duy thức, chỉ lấy nghóa kia, không chấp ngôn cú. Lục Tổ Đại sư nói kệ rằng: Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh Bình đẳng tánh trí tánh vô vô Diệu quán sát trí chấp không công Thành sở tác trí đồng viên cảnh. Thức thứ năm thứ sáu thứ bảy quả nhân chuyển, nhưng chuyển tên thức không thật tánh. Nếu ở chỗ chuyển không lưu tịnh, phồn hưng hằng ở na-dà định (sâu diệu bảy bình nhân địa chuyển năm thành tám trong đại quả viên). <詞>NGƯỠNG SƠN LÂM CHUNG PHÓ PHÁP KỆ Một hai hai ba ông Bình thường mắt lại ngước xem Hai miệng không có một lưỡi Đây là tông chỉ của ta. <詞>LONG ĐÀM TRÍ DIỄN LÀM BỐN BÀI TỤNG Một hai hai ba ông Chữ ngưu gió mát mát thổi Phật đến có thể không đến Người bèn tranh kỷ cương. Bình thường mắt lại ngước xem Con cháu lại có khác Chưa biện rõ đầu môi Ra cửa đều mất lợi. Hai miệng không một lưỡi Thôi thôi không cần nói Tăng Tây Thiên lại đến Chim rùa kêu làm ba ba. Đây là tông chỉ của ta, Cất tiếng lải nhải Cảnh trí xuất hiện ba đời Thổi đến đại phong dừng. <詞>TAM NHIÊN ĐĂNG Tam Nhiên Đăng trong lục của Tào Sơn, chẳng phải Ngưỡng Sơn nói, mà Tào Sơn nói. Trước nhiên đăng có hai loại: Chưa biết có là đồng với loại sữa của máu huyết. Biết có cũng như lúc ý chưa nẩy mầm, mới được bổn vật, đây gọi là trước nhiên đăng. Một loại biết có, qua lại nói năng, thị phi thanh sinh, cũng không thuộc về chánh chiếu dụng, cũng không được ghi nhớ, đồng loại với sữa của máu huyết, là tiết lộ bên sự, đây gọi là sau nhiên đăng, chính là việc ba đời hết, trong ngoài tình vong, được vô gián đoạn, đây mới được chánh nhân nhiên đăng, bèn nói được ghi nhớ (đây nói thấy sự uyển tổ đình đã thâu ở tông Quy Ngưỡng trước không muốn thay đổi). <詞>BÀI TỤNG CỔ ĐỨC Giải hạnh phân minh châu đi vòng quanh Chưa thể thoát hết bao nhiêu nạn Như bình rót nước không rơi rớt Cách biển gió ánh sáng lạnh ngủ nhìn (Trước nhiên đăng). Không thấy minh châu thấy đi vòng quanh Trời đẹp yên tónh đêm tối dày đặc Xưa nay mười đời không thêm bớt Đưa lên đầu trâu để trên đuôi (Chánh nhiên đăng). Hỏi chỗ phân minh đáp chỗ thân Trần trần sát sát đều gặp ông Một tiếng ngoài chim vàng núi xanh Chiếm đoạt phong quang làm chủ người (sau nhiên đăng). NGỮ TAM CHIẾU (Hương Nghiêm) Tâm nghó miệng mở cách núi sông Tịch nhiên không nói cũng bị trách Co duỗi không cùng lại không hết Cuốn lại tuyệt tích đã thành nhiều (Chiếu bổn lai). Bất động như như muôn sự dứt Đầm trong suốt đáy chưa từng chảy Trong ấy chánh niệm thường tương tục Thiên tâm trăng sáng thâu hết mây mù (Tịch chiếu) Trong bốn oai không từng thiếu Xưa nay lúc ban đầu không gián đoạn Địa ngục thiên đường không biến đổi Xuân đến dương liễu xanh như bỏ (Thường chiếu). <詞>MÔN ĐÌNH QUY NGƯỠNG Tông Quy Ngưỡng, cha từ con hiếu, lệnh trên dưới nghe theo, ông muốn ăn cơm ta lại cho canh, ông muốn qua sông, ta lại chống thuyền, cách núi thấy khói, lại biết là lửa, cách tướng thấy sừng, lại biết là trâu. Quy Sơn một hôm mời khắp hái trà, kế tiếp nói với Ngưỡng Sơn rằng: “Suốt ngày chỉ nghe tiếng ông không thấy hình ông” Ngưỡng Sơn: Rung cây trà. Quy Sơn nói: Ông chỉ được dụng mà không được thể. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng nhe thế nào? Sư im lặng hồi lâu. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được thể mà không được dụng. Quy Sơn nói: Tha ông ba mươi gậy, nhẫn đến Ngưỡng Sơn qua nước. Hương Nghiêm điểm trà, đẩy tà vẹt gỗ ra làm tọa cụ, cắm cái xẻng đứng đưa xẻng đi, đại khái tông phong của Quy Ngưỡng, nêu duyên rõ dụng bỏ cơ đắc thể, không qua được đây, muốn thấy Quy Ngưỡng như thế, trăng lặn đầm không in bóng, mây ra khỏi núi có áo. YẾU QUYẾT (Sơn Đường Thuần) Ngài Quy Ngưỡng ở Giang tây tham cứu tông đây, chỉ nhân bươi tro lửa mà khai ngộ, lại thấy phát hiện đầu củi khô, đá ngược tịnh bình, phần nhiều được ở Quy Sơn, khiến được đất lúc ra ở giếng, đại cơ phấn chấn rung ở mé cửa, cắm cái xẻng xuống, không ngại số người phân minh, đẩy gối đầu ra, chính là việc trên dùng mũi kiếm, đủ câu bờ nguy hiểm, có cơ hổ sa vào hố, đại thiền Phật, cùng với bốn giềng mối khiến thực hành có căn cứ. Kinh Niết-bàn gọi chung là mà thuyết, quý ông mắt sáng, thầm hợp với căn cơ, dung hòa cảnh trí, trong viên tướng, quý đại gia xướng hòa, vốn ở mộng hơn thần thông Thu Tử, đặt hông viết chữ, mà đầu sừng chót vót, suy nghiệm người trong nhà, mà lưng sư tử bẻ lìa từ cú tuyệt bách phi, một dùi đập nát, có hai miệng không có một lưỡi, chín khúc châu thông, đương cơ phải hiện tông kế hoạch, vì rất nhiều người nông cạn, đạo truyền ngàn xưa gọi là chấn động hai núi. Tuy nhiên nhánh phái nguồn dòng xa lìa, ai thấy chân quy nghiễm nhiên, đây là tông phong của Quy Ngưỡng. <詞>BÀI TỤNG CƯƠNG TÔNG CỦA CỔ ĐỨC Bán vàng phải gặp người mua vàng, Trả giá có cao thấp đều không liên quan, Chỉ hồng hai sợi xuyên biển núi, Hồ trong vạn khoảnh chấm sao. Trong vòng ẩn hiện bỏ gối ngọc, Trên chiếu vuông tròn phủi bụi trần, Thiên quan xoay chuyển dời đổi nhà cửa, Ai chịu nuốt tiếng phát ra Tần to lớn. <詞>TÔNG PHÁP NHÃN Sư húy Văn Ích con họ Lỗ ở Dư Hàng, đắc pháp với Chương Châu La-hán Sâm Thiền sư, ban đầu ở Sùng Thọ Vũ Châu, kế đến ở Thanh Lương Kiến Khang, chấn hưng đạo Tuyết Phong huyền sa, lý sau chủ sau, Thụy là Đại Pháp Nhãn Thiền sư. Một giọt nước Tào Nguyên, không như vậy y vị thứ trụ thì tông ta kỳ đặc hưng thạnh, chuông vàng dưới hàm nào, người hiểu được, ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức Pháp Nhãn đây đã lập cương tông vậy. <詞>SÁU NGHÓA TƯỚNG HOA NGHIÊM Sáu nghóa tướng đây, nên một mà gồm thâu, trên mỗi mỗi pháp, có sáu nghóa đây. trong kinh là hàng Sơ địa Bồ-tát nói. <詞>BÀI TỤNG SÁU NGHÓA TƯỚNG Sáu nghóa tướng Hoa Nghiêm, Trong cái đòng lại có khác, Khác hoặc khác với đồng, Hoàn toàn chẳng phải ý của chư Phật. Ý của chư Phật tổng biệt, Đâu từng có đồng dị, Trong thân năm tử lúc nhập định, Trong thân người nữ không để ý, Không để ý vạn tượng, Rõ ràng không có lý sự. <詞>LUẬN SÁU NGHÓA TƯỚNG HOA NGHIÊM Nếu muốn rốt ráo khỏi đoạn chấp thường kiến biên kiến tà kiến, phải rõ sáu môn nghóa tướng Hoa Nghiêm, thì mới có thể trụ pháp ra làm, tự vong năng sở, tùy duyên độnh tịnh không ngại có không, đủ đại tổng trì, rốt ráo không lỗi. Sáu nghóa tướng đây là biện rõ pháp thế gian, tự tại vô ngại, chánh duyên hiển khởi, lý vô phân biệt. Nếu chấp thiện, được biết môn tổng trì, không rơi vào các chấp, không thể bỏ một lấy một, song lập song vong, tuy tổng đồng thời rườm rà phát khởi không có, mặc dù đầy đủ sai biệt, vắng lặng chẳng phải không, không thể dùng tâm biết pháp giới, không có văn tổng biệt, căn cứ trong biển quả, tuyệt ý chỉ thành hoại, nay y nhân môn trí chiếu, cổ đức đại khái dùng dụ. Sáu tướng: Tổng Biệt Đồng Dị Thành Hoại. Tổng tướng: Thí như một nhà là tổng tướng, rui v.v… là biệt tướng, rui v.v… là các duyên hòa hợp làm nhà, đều không trái nhau, chẳng phải làm vật khác, nên gọi là tướng đồng, rui v.v… các duyên, qua lại lẫn nhau, mỗi mỗi không đồng gọi là dị tướng, rui v.v… các duyên, một và nhiều tướng thành gọi là thành tướng, rui v.v… các duyên đều trụ tự pháp vốn không khởi, nên gọi là tướng hoại, thì biết chân như xuất thế gian bao gồm các pháp được được tên chung, hay sinh các duyên thành hiệu riêng, mỗi pháp đều đồng là đồng tướng, tùy tướng không đồng xưng là dị môn, kiến lập cảnh giới cho nên xưng thành, tự vị bất động mà thành hoại. Lại nói: Tổng tướng, một hợp nhiều đức. Biệt tướng, vì nhiều đức chẳng phải một. Đồng tướng, vì nhiều nghóa không trái nhau. Dị tướng, vì nhiều nghóa không giống nhau. Thành tướng, vì do các nghóa duyên khởi đây thành. Hoại tướng, các duyên đều trụ tự tánh không lay động. Sáu tướng nghóa trên đây, là trong hàng Sơ địa Bồ-tát, quán thông tất cả pháp môn thế gian, hay nhập vào tông pháp giới, không rơi vào chấp đoạn thường. Nếu một bề riêng theo hạnh vị mà trái tông, hoặc một bề đồng, mất tiến tu mà trầm tịnh, cho nên mỗi vị tức ngôi vị Phật rõ ràng, lớp lớp rèn luyện bổn vị bất động, đây thì đồng dị đều đồng, lý sự không sai, nhân quả không thiếu, mê ngộ hoàn toàn sai khác, muốn luận về đại chỉ, sáu tướng lại đồng trong mộng qua sông. Nếu ước về chánh tông, hàng thập địa cũng như dấu chim bay giữa hư không. Nếu ước về viên tu, thì đoạn hoặc đối trị tập khí, chẳng phải không có lý hạnh giúp nhau, thiếu một không thể được. Thế nên ngài Phổ Hiền dùng hạnh hội lý, môn căn bản không bỏ, thấy trong tông cảnh lục. <詞>TỨC VẬT KHẾ THẦN Cần cầu công thắng tích, Lý khế hợp với người xưa đồng, Đồng đắc diệu chỗ nào? Khe tùng gió Tây bắc. <詞>CHỈ BÀY CĂN CƠ Ta có một lời, Thiên thượng nhân gian, Nếu cũng không hiểu, Duyên xanh núi xanh. <詞>TRÊN ĐẢNH TỲ-LƯ Nhất chân gồm thâu không được, Muôn loại không thể bao gồm, Con muỗi mọc sừng, Cá chạch lên Ngũ Đài. <詞>TRƯỚC CỬA CA-DIẾP Thấy mặt hiện rõ ràng Toàn cơ không che giấu Chùa dựng ngược đầu sào Phù Tang trên mặt trời hồng. <詞>BA CÕI DUY TÂM Ba cõi duy tâm muôn pháp lắng trong Mâm vòng trâm xuyến một đồng vàng Thềm sáng cỏ xanh tự sắc xuân Bờ cách vàng anh hót hay giữa hư không. <詞>VẠN PHÁP DUY THỨC Không từng lập công huân xuất thế Vạn nước văn minh cỏ cây tốt tươi Dã Lão không biết lực Nghiêu Thuấn ?? ?? Đánh trống tế thần sông. <詞>TẠNG Không dời tất bước vượt Hằng sa Địa ngục thiên đường đều một nhà Trong vị Phật tổ đoạn tiêu tức Nào ngại thưởng hết hoa Lạc Dương. <詞>TÔNG PHONG CỦA THIỀU QUỐC SƯ Đỉnh núi Thông huyền không phải nhân gian Ngoài tâm không pháp đầy mắt núi xanh. Từ liệu giản của Thiều Quốc Sư (Cổ đức, Bá Trượng) NGHE NGHE (Phóng) Lén nhà mở khóa vàng Nhàn bước dưới cửa tùng Dày đặc toan không có lỗ sáo Thổi sáo Phượng hoàng dạo mây (Cổ đức). Khi sông thu cạn trong Trăm cò hòa theo đảo khói Lành thay Quán Thế Âm Toàn thân vào cỏ hoang (Bá Trượng). NGHE KHÔNG NGHE (thâu) Tùng xưa bàn Bát-nhã U tịch chim gọi chân như Huống chi có chỗ trở về chân Trường An há ở lâu. Hiểu lời chẳng phải ngàn lưỡi Có thể nói há là tiếng Không biết thường hiển lộ Đạo vừa có thiếu đủ. KHÔNG NGHE NGHE (minh) Dương điểu kêu tiếng nghen Hoa đào nở tươi cười Giày có gậy trúc xanh Trọn ngày tự bồi hồi. Sóng sinh vốn là nước Tánh không theo vuông tròn Trừ khi đồ vuông tròn Đêm hồ tôn vóc tiền. <詞>KHÔNG NGHE KHÔNG NGHE (ám) Đêm trăng sáng gan mật Gió tùng xuyên xương sọ Thoát nhiên ngoài thanh sắc Rất kî phạm nguy đầu. Lý sự cả hai đều vong Người nào dám suy lường Lôn Côn nước đục không gặp khe hở Khắp cõi không từng ẩn. <詞>(325) PHÁP NHÃN MÔN ĐÌNH Tông Pháp Nhãn, lấy tướng tên nhọn để câu ý hợp cơ , ban đầu thì thật hạnh hạnh như vậy, sau thì kích phát, lần phục nhân tâm, trừ bỏ tình giải, điều cơ thuận vật, gạt bỏ phai mờ ngăn trệ, các thứ cơ duyên, không nêu rõ hết, quán xét đại khái ấy, gia phong Pháp Nhãn, đối bệnh cho thuốc, xét định thân ông, tùy theo căn khí ấy quét trừ tình giải. Muốn thấy Pháp Nhãn, nhân tình dứt hết chỗ lưu dấu tích, phá nhà theo giáo bốn tướng không. YẾU QUYẾT (Sơn Đường Thuần) Đại Pháp Nhãn của ngài Thanh Lương, thành Vương Hóa Thạch Đầu, Thú Minh Địa Tạng chỉ, liền thấy nhà thờ tổ Huyền Sa, bỏ muôn tượng mà không bỏ muôn tượng, trước nói riêng hiển bày toàn thân, có đầu sơ tơ không có đầu sơ tơ, trong câu đã thầm truyền tự mình, tâm không pháp liễu, tình hết chấp trừ, ngay mảy trần hiểu rõ ràng, bao gồm biển cả, sáng suốt đại địa, đầu lâu thường liên quan đến thế giới, lỗ mũi xúc chạm gia phong, lớp lớp Hoa tạng xen nhau, mỗi mỗi lưới châu tròn sáng, cho đến phong kha nguyệt thử, hiển lộ chân tâm, suốt xưa nay mà hiện thành, tức Thánh phàm thành một mối, tiếng truyền ngoài biển, đạo đầy trong vũ trụ, suy nghiệm rõ ràng trước mắt rõ ràng thành nhó thạch vẫn còn, là tông phong Pháp Nhãn đây. <詞>TỤNG CƯƠNG TÔNG CỦA CỔ ĐỨC Một điểm linh đài sáng xưa nay, Sừng sững to lớn không trầm ngâm, Trong bóng sum lá xen nhau hiện, Trước cửa thánh sắc qua rất sâu. Áo hạ mây hiện ngàn núi xanh, Thu tàn gió đông chạy muôn nhà, Pháp nhó miên mật không thiếu sót, Thổi ra các nơi hiệp bâu ao.  NHÂN THIÊN NHÃN MỤC <卷>QUYỂN 5 TÔNG MÔN TẠP LỤC NIÊM HOA Vương Kinh Công hỏi ngài Phật Tuệ Tuyền Thiền sư rằng: Trong nhà thiền nói Đức Thế Tôn niêm hoa, vậy rút ra ở kinh nào? Tuyền Thiền sư nói: Trong tạng kinh cũng không chép. Kinh Công nói: Tôi bỗng ở Hàn uyển, thấy ba quyển kinh Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi, nhân đó xem, trong văn kinh đã chép rất rõ. Phạm Vương đến Linh sơn, lấy hoa kim sắc Ba-la dâng lên Phật, xả thân làm giường tòa, thỉnh Phật vì chúng thuyết pháp, Đức Thế Tôn đăng tòa niêm hoa (đưa cành hoa) chỉ bày chúng, trăm vạn nhân thiên, thảy đều mờ mịt, chỉ có Kim Sắc Đầu-đà, phá nhan vi tiếu. Đức Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm thật tướng vô tướng, giao phó cho ngài Ma-ha Đại Ca-diếp”. Kinh đây phần nhiều bàn việc đế vương thỉnh Phật hỏi, cho nên bí mật mà người đời không biết được. <詞>BA THÂN Ba thân nghóa là Pháp báo, Hóa thân, Pháp thân Tỳ-lô-giá-na, Tàu dịch là Biến nhất thiết xứ. Báo thân Lô-xá-na, Tàu dịch là Tịnh mãn. Hóa thân là Thích-ca Mâu-ni, Tàu dịch là Năng nhân tịch mặc, ở trong thân của chúng sinh, tức tịch trí dụng. Tịc tức Pháp thân, trí tức báo thân, dụng tức hóa thân. Trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương nói: Tất cả Như Lai có ba loại thân, nhiếp thọ đầy đủ Vô thượng Bồ-đề. Hóa thân: Đức Như Lai xưa ở trong Tu hành địa, vì các chúng sinh, tu các món pháp, được sức tự tại tùy ý chúng sinh, tùy cõi chúng sinh, hiện các món thân, đây gọi là hóa thân. Ứng thân: nghóa là các Đức Như Lai, vì các Bồ-tát nói pháp chân đế, khiến họ hiểu rõ sinh tử Niết-bàn là một vị, vì trừ thân chấp chúng sinh sợ sệt vui tạm, vô biên Phật pháp mà làm gốc, như thật tương ưng, như như sức trí bổn nguyện, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, bóng dáng viên quang, đây gọi là ứng thân. Pháp thân: Vì trừ các chướng phiền não, thân thứ ba là chân thật có. Vì hai thân trước, làm căn bản, vì sớ sao? Vì lìa pháp như như, lìa trí vô phân biệt, tất cả chư Phật không có pháp khác. Lại nữa, chư Phật lợi ích tự tha. Tự lợi ích, là pháp như như. Lợi ích tha, là như như trí. Lại trong kinh An Lạc nói: Ngũ phần pháp thân, do pháp tánh phân biệt, giới hương nhiếp thân, định hương nhiếp ý, tuệ hương nhiếp loạn, giải tuệ nhiếp đảo kiến, độ tri nhiếp vô minh, đây là năm phần hương, anh lạc thân kia. <詞>BỐN TRÍ Đại viên cảnh trí (như gương tròn lớn hiện các sắc tượng). Bình đẳng tánh trí (quán tất cả pháp thảy đều bình đẳng). Diệu quán sát trí (khéo quán các pháp vô ngại mà chuyển đổi). Thành sở tác trí (thành bổn nguyện lực ứng hiện làm việc chuyển tám thức mà thành bốn trí). Bí tàng thuyên chú nói: Phật chuyển tám thức mà thành bốn trí, thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí, thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, thức thứ sáu thành Diệu quán sát trí, thức thứ năm trước Thành sở tác trí. Thức chỉ có phân biệt, trí hay quyết đoán. Trong Đại thừa trang nghiêm luận nói: Chuyển tám thức thành bốn trí, gom bốn trí đủ ba thân. Cổ đức nói: Nhãn v.v… năm thức là Thành sở tác trí. Ý là Diệu quán sát trí, thuộc về Hóa thân, Mạt-na là Bình đẳng tánh trí, thuộc về Báo thân, A-lại-da là Đại viên cảnh trí, thuộc về Pháp thân. Ngài Trí Thông Thiền sư, đọc kinh Lăng-già, đến chỗ “thiên dư biến” mà không hiểu ba thân bốn trí, Ngài đến Tào Khê hỏi Lục Tổ. Tổ nói: Ba thân: Thanh tịnh pháp thân là tánh của ông, viên nằm trong báo thân là trí của ông, thiên bá ức hóa thân là hạnh của ông. Nếu lìa bổn tánh nói ba thân, tức gọi là hữu thân vô trí, nếu ngộ ba thân không có tự tánh, tức gọi bốn trí Bồ-đề, nghe bài kệ của ta: Tự tánh đủ ba thân Phát minh thành bốn trí Không lìa duyên thấy nghe Siêu nhiên lên Phật địa Ta nay vì ông nói Tin chắc hằng không mê. Chớ học tìm cầu trọn ngày nói Bồ-đề, ngài Trí Thông nói nghóa của y trí có thể được nghe chăng? Tổ nói: Đã khế hội ba thân, lại nói rõ bốn trí. Nếu lìa ba thân, lại bàn bốn trí, đây gọi là có trí không thân, tức đây có trí lại thành vô trí, lại nói kệ rằng: Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh (8) Bình đẳng tánh trí tâm không bệnh (7) Diệu quán sát trí chấp không công (6) Thành sở tác trí đồng viên cảnh (5). Năm tám (quả) sáu bảy (nhân) quả nhân chuyển, chỉ dùng danh ngôn không có thật tánh (chuyển tên không chuyển thể). Nếu ở chỗ chuyển không lưu tình, hưng thịnh thường ở Na Dà Định (truyền đăng). Nhãn nhó tỷ thiệt thân ý sáu căn sáu trần sáu thức. <詞>NĂM THỨC CHUYỂN THÀNH SỞ TÁC TRÍ Kinh Bát-nhã nói: Sáu căn sáu trần thành mười hai xứ, thêm sáu thức hòa hợp thành mười tám giới. trong Khởi tín luận nói: Do bốn loại nghóa pháp huân tập. Tịnh nghóa là chân như. Nhiễm nghóa là vô minh. Vọng tâm nghóa là nghiệp thức. Bốn vọng trần nghóa là sáu trần, trong kinh Lăng-nghiêm nói: Sáu thức tạo nghiệp, bị chiêu cảm theo ác báo từ sáu căn mà ra. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: Nhãn nhó tỷ thiệt thân tâm ý các tình căn, do đây thường lưu chuyển, mà không có năng chuyển. Trong Khởi tín lại nói: Ba cõi hư ngụy, duy tâm sở tác, lìa tâm thì không có sáu tràn cảnh giới. Trong luận Tỳ-bà-sa hỏi: Tâm ý thức có gì sai khác? Đáp: Không có sai khác, tức tâm là ý, ý tức là thức, đều đồng một nghóa, như lửa cháy, cũng gọi là diễn cũng gọi là sí. Kinh Bát-nhã lại nói: Nếu như thật biết tự tánh đều không, đây là người có thể học sáu căn sáu trần sáu thức vậy. Tổ sư nói: Hiện khắp đều bao gồm sa giới, thâu nhiếp ở một vi trần. Thức gọi đó là Phật tánh, không biết kêu làm tinh hồn. Song tuy như vậy, sai lầm rất nhiều, hiểu lầm không ít. <詞>TRÍ ĐỆ THẤT MẠT-NA CHUYỂN THÀNH BÌNH ĐẲNG TÁNH Trong kinh Lăng-già nói: Mạt-na nói: Tàu dịch là nhiễm ô ý, hằng thẩm tư lương, nên cũng gọi là truyền tống thức. Đức Phật cùng Đại Huệ nói: Nói rộng có tám, lược nói có hai, trong hiện thức chấp làm ngữ thuộc về Lại-da, ngoài phân biệt sự thức chấp làm ngã thuộc về tiền lục thức. Chân tức thức thật tánh, cũng thuộc phần tịnh Lại-da, nên có thô tế: Nghóa là tam tế lục thô. Thô tế hai thức, đều y vô minh trụ địa mà khởi, do căn bổn vô minh, động tịnh tâm kia, mà khởi thức tế, y thức tế đây, chuyển khởi tâm thô, dùng vô minh làm gốc y vô minh làm nhân, sinh tam tế bất tương ưng tâm, y cảnh giới làm duyên, sinh ba thô tương ưng tâm, cho nên nói: Thô tế hai thức, đều đủ hai nhân, mới được sinh trụ. Hiện thức: Trong Khởi tín nói: Bất tương ưng tâm, y bất tư nghì huân nên được trụ, hiện thức đây là chỗ hiện cảnh giới, động hiển tâm kia, khởi các việc sóng thức. Phân biệt sự thức: Trong Khởi tín nói: Là tương ưng tâm, y cảnh giới nên được sinh, y bổn tâm nên được trụ, một thức đây, đều là vô minh, huân tập chân như, thành nhiễm duyên khởi. Trong luận nói: Phải biết vô minh hay sinh tất cả pháp nhiễm, tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác. Trong Chủ kinh yếu tập nói: Thức từ dưới lên đến rốn sắp lên diệt sinh trong loài người, lên đến tâm diệt, không mất thân người, lên đến đầu mặt diệt sinh cõi trời, đến đỉnh diệt hằng đoạn luân hồi. Từ trên xuống đến lưng diệt vào đường quỷ, xuống đến chân diệt, sinh vào địa ngục. Trong luân nói nếu lìa vọng niệm, thì có tướng của tất cả cảnh giới, duy có một chân tâm. <詞>A-LẠI-DA THỨC CHUYỂN THÀNH ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ Trong bộ Tông Cảnh nói: Đệ bát thức phần nhiều dị thục tánh, cũng gọi là Hàm tàng thức, cũng gọi là bát Vương tử, cũng gọi là bát Giải thoát, cũng gọi là bát Trượng phụ, tổng cộng có ba mươi hai tướng, đây là quả tướng nhân trí báo đức. Thứ bảy thứ tám không lìa nhau. Kinh Giải Thâm Mật nói: Bát thức đây hay phát khởi ở tiền lục thức chuyển thức, đệ bát thức cho rằng trong đời trước do thiện, bất thiện nghiệp làm nhân, chiêu cảm sinh đệ bát dị thục tâm là quả. A- lại-da đây, tức chân tâm, không thủ tự tánh, tùy theo duyên nhiễm tịnh không hợp mà hợp, hay hàm chứa tất cả cảnh giới chân tục, gọi là Hàm tàng thức. Như gương sáng không cùng ảnh tượng hợp nhau, mà hợp ảnh tượng, cũng gọi là Như Lai tàng thức. Trong Dà-đà nói: Các pháp ở tàng thức, thức ở pháp cũng vậy, lại xen làm nhân tướng, cũng xen làm quả tướng. Kinh Lăng-già nói: Nếu không chấp các chấp của Nhị thừa ngoại đạo, mới có thể như thật tu hành, kẻ phá luận ác kiến của họ, và xả ngã chấp v.v… có thể dùng diệu tuệ. Sở y thức, tức bốn trí chuyển thành tám thức, vào ngôi vị Như Lai tự chứng, là nói cùng chư Phật đồng đắc đồng chứng. Trong kinh Lăng- già Đức Phật bảo Đại Huệ rằng: Song các thức kia không khởi niệm đây, chúng ta đồng thời triển chuyển làm nhân, mà đối với tự tâm sở hiện cảnh giới, phân biệt chấp trước, đồng thời khởi đó, không có tướng sai biệt, đều rõ tự cảnh. Chú giải rằng: Các thức v.v… kia, đều rõ tự cảnh, đây gọi là bát thức đều có thể phân biệt tự phân cảnh, không biết chỉ là tự tâm vọng hiện. Nói sắc là cảnh của nhãn thức, nhẫn đến Kiến phần của A-lại-da, là cảnh của thức thứ bảy, chủng tử căn thân khí giới, là cảnh của Tàng thức. Nhưng tám thức đây, lìa Như Lai tàng, không khác tự thể, do vì chúng sinh không biết, chấp thành tên của tám thức, chư Phật chứng đắc, hành thành dụng bốn trí. Nếu mê mờ thì bát thức có tên là Chấp tàng, thất thức có tên Nhiễm ô, lục thức khởi tình biến kế, ngũ thức theo tướng căn trần. Nếu rõ biết Lại-da, thành thể viên cảnh, trì môn công đức, mạt-na thành nguồn bình đẳng, một tự tánh của mình, đệ lục khởi diệu quán sát, chuyển chánh pháp luân, năm thức khác khởi công sở tác, đưa ra tích Ứng hóa, đây thời nhất tâm không động, thức trí tự phân, không chuyển thể kia, mà chỉ chuyển tên thức, không phân lý thức, mà phân sự thức, chỉ phục sáu thức, không thủ cảnh trần nên gọi là thức diệt, thế nên lìa tâm cảnh, văn lý đều rỗng không, tức trần thức nêu bày lượng có căn cứ, cuồng tâm không biết, hết thì Bồ-đề, cấu tịnh tâm sáng, xưa nay là Phật. <詞>ĐỆ CỬU A-ĐÀ-NA THỨC Cũng gọi là thuần tịnh thức. Trong Hợp luận nói: Mượn nói A-dà- na thức (hán dịch là chấp trì) là đệ cửu thuần tịnh thức, như các thức thứ năm sáu bảy tám v.v… thường dấy cửu thức làm chổ nương tựa, phàm ngu không hiểu, vọng chấp làm ngã, như dòng sóng nước không lìa thể nước, các sóng ngòi lấy nước để nương, cho nên thức thứ năm sáu bảy tám thường dùng tịnh thức để nương. Sao gọi thức thứ chín là Tịnh thức? Vì hàng Nhị thừa trụ lâu trong sinh tử nghiệp chủng thức thứ sáu, thứ bảy, thứ tám có sợ sệt, sợ họ khó tin, phương tiện ở ngoài chủng sinh tử, riêng lập tịnh thức, khiến bi trí dần dần được sinh, đạt thức thành trí (3 2 7). Trong kinh Thâm Mật có bài tụng: “A-dà-na thức rất vi tế Tất cả chủng tử như bộc lưu Ta ở phàm ngu không khai diễn Sợ họ phân biệt chấp thành ngã”. Xét các thuyết nói về ba thân bốn trí, chọn lựa trong các kinh luận dẫn chứng rõ ràng, cùng với Quy Ngưỡng hiện chỗ thức liên quan đến đại tướng, có thể giúp tham cứu thiền chánh tu, không đi lên đường nhỏ mà đi đường chánh, nên tôi có chọn lấy, thường thường những bậc đồng dòng phái ắt cho rằng, tôi riêng truyền tông trực chỉ, sao mượn đây làm, đâu không biết, người học đạo, là chỗ rất khốn khổ của tâm ý thức, rỗng sáng tự chiếu, vốn tự không nhà, phong cảnh lung lay bỗng nhiên luống làm, bậc nhân só thông hiểu cũng chưa tránh khỏi, huống gì người hạ căn? Có thể không sức phương tiện quán chiếu, chuộng nhân kia mà lột bỏ thuyết kia, phá hư vọng kia, đập hang ổ kia, tức chỗ ta thọ dụng, đều là Đại viên cảnh trí, vàng ròng muôn lần luyện, không trở lại quặng. <詞>THẠCH ĐẦU THAM ĐỒNG KHẾ (Tuyết Đậu viết lời) Tâm phật ở Ấn Độ Cõi Trúc tâm Đại tiên Đông Tây thầm truyền trao Căn tánh có lợi độn Tổ đạo không phân nam bắc Nguồn linh thật trong sáng Như sông có nhiều nhánh Chấp sự vốn là mê Khế lý cũng không ngộ Mỗi vật bày cảnh giới Hòa lẫn chẳng hòa lẫn Hòa lẫn nên có quan hệ Hòa lẫn nên không phải một thể Sắc giới vốn khác chất tượng Như âm thanh có vui buồn Sắc hợp với chí đạo và trung đạo Rõ ràng như câu thơ trong đục Tự đại xoay về tự tánh Như con tìm được mẹ Lửa nóng gió lay động Nước ướt đất cứng chắc Mắt đối sắc, tai đối âm thanh Mũi đối mùi, lưỡi đối vị Mỗi mỗi nương pháp tánh Như nhánh lá nương cội cây Gốc ngọn đều về tông Cao thấp thảy dùng lời nói này Ngay trong “Minh” có “Ám” Ngay trong “Ám” có “Minh” Chớ đem tướng “Minh” để tìm tướng “Ám” Minh, Ám đều tương đối Ví như bước trước sau Vạn vật tự có tác dụng Nên nói chỗ tác dụng và nơi chốn Sự tồn tại như hộp với nắp Lý ứng hợp như tên chỏi nhau Tiếp thu nên lãnh hội tông chỉ Chẳng cần tự lập quy cũ Chạm mắt không lãnh hội đạo lý Như chẳng thể dùng chân bước đi Bước đi không dính dáng đường xa gần Kẻ mê, với đạo cách xa như sông núi Kính thưa các bậc tham thiền Thời gian chớ để luống qua. Ngài Tịch Âm nói: Tôi thường tham khảo sách đây, tổng cộng hơn bốn mươi câu, mà dùng sáng tối bàn luận phân nửa, thiên đầu nói: Linh nguyên trong sạch sáng suốt chi phái thầm lưu chú, mới biết căn y của sáng tối ở nơi đây. Lại nói: Tối hợp với lời nói thượng trung. Câu sáng suốt trong đục là Điều-đạt khai phát vậy, cho đến chỉ về tông ấy mà chỉ bày tông thú chia rằng: Bổn mạt phải quy tông, tôn tuy dùng lời nói: Cho nên dưới câu sáng tối của bài tựa rộng, liên kết to lớn không thôi, chẳng phải thiếu sắc pháp hư dối, chính là rõ lời kia vậy. Ngài Động Sơn ngộ được ý chỉ đây, có thuyết ngũ vị thiên chánh, đến trong câu Lâm Tế và môn của Huyền Vân tùy theo sóng ngòi, mà không khác vị, mà trái bỏ vâng lời, lại trong tưởng tượng sáng tối có chỗ tướng ẩn hiển, cũng không lầm sao? <詞>NĂM LỜI HỎI Đây bởi người đương thời luống uổng nghóa học, tướng cùng thuyết, luống dối tiên thánh, chẳng phải hủy thiền tông, mà Tự Thông Thiền sư hỏi Đạt Quán Đónh Hòa thượng, tổng cộng có năm lời hỏi muốn kẻ sai lầm, nên biện rõ ràng. Vị tăng Tự Thông hỏi Đạt Quán Đónh Hòa thượng: Trong các kinh luận nhiều nhà nói: Tây Thiên từ Thích-ca đến Tôn giả Sư Tử, Tổ sư truyền nhau đến đây đoạn tuyệt, kỳ thật như thế nào? Đạt Quán đáp: Ôi nói như thế là tâm sinh diệt vậy, đâu không biết là pháp quý trọng người, như đom đóm đấu chọi với ánh sáng mặt trời, chim tước lấp đầy biển xanh thì luống nhọc hình hài, vả lại hai mươi bốn Tôn giả Tổ sư, độ Bà-xá-tư-đa, gồm rút ra ở Đạt-ma-đạt, duyên ấy chép đủ ở bài tựa Linh Triệt của Sa-môn Cối Kê đời Đường, Sa-môn Chu Lăng Pháp Cự đã biên trong truyện Bảo Lâm, và căn cứ Tam Tạng Chi Cương Lương Lâu bên Thiên Trúc tiến ngay tiếp nối pháp yếu, nói rõ Tôn giả Sư Tử gặp nạn do việc trước truyền y phó pháp, bắt đầu từ ngài Ca-diếp, huyết mạch thẳng xuống, tổ Bà-xá-tư-đa thứ hai mươi lăm, tổ hai mươi sáu không bằng Mật-đa, tổ hai mươi bảy Bát-nhã Đa-la phó chúc Bồ-đề-đa-ma, tức Sơ tổ đời Đường. Nguyên Chi Cương Lương Lâu Tam Tạng đến Trung Hoa, đến chùa Bạch Mã Lạc Dương, lúc bấy giờ tức nhằm vua Tiền Ngụy nói vào năm Tân tî thứ hai Cảnh Nguyên khanh công. Tôn giả nhập diệt mới hai năm, từ đây rõ biết, kinh luận của các sư, mờ mịt cho hậu côn. Than ôi ngại vì? Hỏi rằng: Đại sư Đạt-ma, từ Thiên Trúc mang bốn quyển kinh Lăng-già đến phải chăng? Đáp là không, việc tốt đó vậy. Vả lại Đạt-ma đơn truyền tâm ấn, không lập văn tự, thẳng chỉ tâm người thấy tánh thành Phật, há có bốn quyển kinh Lăng-già sao? Thiền sư Tự Thông nói: Trong Bảo Lâm Truyện cũng nói như vậy. Quán Đónh Hòa thượng nói: Nói về tu không rảnh để thảo luận rõ, thử vì ông nói rõ. Kinh Lăng-già có ba nhà dịch, mà dịch bốn quyển đầu, chính là Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà, bên Thiên Trúc đời Tốâng dịch, mười quyển kế thời Nguyên Ngụy Bồ-đề Lưu-chi dịch, Lưu-chi cùng Đạt-ma đồng thời, về sau Độc Dược Đạt-ma vậy, bảy quyển sau, đời Hậu Thiên đời Đường ở Điền Tam Tạng Thật Xoa-na-đà dịch, lấy đây căn cứ, trước sau hư thật nên biết. Ngưỡng Sơn Huệ Tịch Thiền sư, cũng từng biện rõ việc ấy. Hỏi rằng: Truyền pháp hệ không phiên dịch, trong việc truyền trao pháp tạng không có bài kệ đây, cho đến các nhà phần nhiều nói không căn cứ, xin chỉ dạy. Đáp rằng: Ôi con cháu chi phần phải quấy phát khởi, không thể căn cứ, chi bằng Đạt-ma chưa vào cõi đây đã hiểu đời Đường nói: Vì sao biết, ban đầu gặp vua Lương Võ đáp hỏi, việc ấy liền có thể biết. Sau lại Nhị tổ Tuệ Khả Đại sư mười năm phụng trì, cho đến đứng ngoài tuyết chặt cánh tay, chí cầu nghiệp Tổ chí cầu thành khẩn. Sau Đạt-ma bảo rằng: Ta có một ca-sa giao cho làm tin, ở đời ắt có người nghi rằng: Ta người Tây Thiên, ông ở cõi đây, được pháp thật tin ông phải dùng lời Ta làm chứng cứ. Lại nói: Từ Thích-ca Thích Sư đến Bát-nhã Đa-la, cho đến với Ta, đều truyền y tiêu pháp, truyền pháp để lưu lại bài kệ. Ta nay giao phó cho ông, kệ nói: Ta xưa nay ở cõi Quy Tư Truyền pháp cứu mê tình Một hoa nở năm lá Kết quả tự nhiên thành. Nhân dẫn bài kệ từ trên các tổ mỗi mỗi truyền trao, trong truyền pháp ấn để khế hợp chứng tâm, ngoài giao phó ca-sa do định tông chỉ, lấy đây thì biết, Đạt-ma giao phó quyết nghi cho Nhị Tổ. Đây chính là đơn truyền miệng trao, đâu rảnh phiên dịch? Hỏi rằng: Pháp môn nhất tâm tam quán của Tôn giả Thiên Thai cùng với ý Tổ sư như thế nào? Đáp rằng: Ông nếu không hỏi ta khó quán xét lời, ta từng thấy trong giáo pháp nói: “Ta có chánh pháp nhãn tàng, giao phó cho Đại Ca-diếp”. Hơn nữa không ở trong Tam thừa ngũ giáo, vốn là giáo pháp của Phật tổ, đều có truyền trao. Xưa nghe Đại sư ở trong tạng được ngài Long Thọ tạo Trung luận, xem đến quyển thứ tư, phá các việc của các pháp tánh có định tánh thì không có nhân quả, như trong bài tụng nói: “Nhân duyên sở sinh pháp Ta nói tức là không Cũng gọi là giả danh Cũng gọi là nghóa trung đạo”. Bài tụng kế rằng: Chưa từng có một pháp, Không từ nhân duyên sinh, Thế nên tất cả pháp, Đều là không giả. Từ đây thuật nhất tâm tam quan nói không, giả, trung. Nếu căn cứ ý giáo, đại khái một bài kệ đều thành bốn câu, để thành ý kia, người trí lìa thành tam quan giống như nhanhsum sê, lại chưa rõ truyền trao, nhân đây lại nói: Xa bẩm thọ ngài Long Thọ, do Long Thọ là Tổ, gần bẩm thọ tư đại thì nên biết. Nếu ở thế gian vâng theo bẩm thọ, ta e đời sau ắt có người thông minh lanh lợi, không xem kinh Phật, tự bẩm thọ Thích-ca, há như vậy sao bởi do người trí đầy đủ phước đức trí tuệ biện tài, nhiều đời làm đế sư, thành thuyết một nhà, lời nhiều lý hay, mà con cháu đời sau, xưng truyền giáo Tổ, chính là hủy bỏ tư tư Tôn giả. Đích thân phó pháp cùng Bà-xá-tư-đa cho đến cõi đây Lục Tổ truyền y phó pháp, dùng làm tà giải, than ôi ta nếu luận đủ, tức thành thị phi, ông tự hiểu rõ. Hỏi: Từ Đạt-ma đến cõi đây nhân đâu mà các Tổ sư nói giáo, cùng chư Tổ Tây Thiên đến Lục Tổ sắp lên không đồng. Đầu trâu một tông Bắc tú hà trạch, Nam Nhạc Nhượng thanh nguyên tư, ngôn cú lần khác, kiến giải sai khác, các đảng sư môn xen nhau hủy thạnh. Như thế nào được dứt tranh cãi? Đáp: Lạ thay lời hỏi đây, vả lại Tổ sư đến cõi đây, như một cây con đem trồng dưới đất, nhân duyên hòa hợp nẩy mầm, trồng từ Đạt- ma và Nhị Tổ, nhánh lá tức phó cho môn đồ tổng trì giáo dục, đến hai vị Tổ là trồng, ba vị Tổ là mầm, nhẫn đến Lục Tổ là giống, Nam Nhạc Nhượng là mầm, Ngưu Đầu Thần Tú Hà Trạch v.v… đều là nhánh lá, san hô, sinh con cũng nhiều, giống ấy lại theo gió đất, hái lấy là quý lá, được nhánh quý nhánh, cũng như cây ở Nam sao là cây quít, ở Bắc là cây chanh, tuy hình vị có biến đổi, mà cội gốc có biến đổi sao? Giống như mặt trời ở phía Đông là sớm mai, ở phía Tây là buổi chiều, mặt trời cũng theo phương hướng mà xoay chuyển, thì bóng cũng xoay. Mà hư không thì không chuyển, lại quái lạ gì, ông chỉ rõ được nội tâm, mà không tùy theo ngoại pháp kia. Nội tâm là thoát khỏi sinh tử. Ngoại pháp: Là theo ái ố, ái ố sinh thì cách xa Phật tổ, vì ông rảnh rỗi, then chốt phát ra từ chánh tông và ngôn cú thẳng tắc, đều thuật ở sau bài tựa, khiến người học hiểu rõ chính gốc nó. <詞>BÀI TỰA CỦA NHÀ TỈNH MỘNG SO SÁNH LẠI TÔNG PHÁI NĂM NHÀ Tăng Đạo Nguyên ở Cảnh Đức Giang Ngô thời Hoàng Triều, tập Truyền Đăng ba mươi quyển, từ Tào Khê sắp xuống phân thành hai dòng. Nam Nhạc Nhượng, Nhạc Nhượng truyền Mã Đại sư. Thanh Nguyên Tư, Tư truyền đến Thạch Đầu Thiên. Từ hai phái sắp xuống lại thành năm tông. Mã Đại sư truyền đến tám mươi bốn vị thiện tri thức. Trong có Bá Trượng Hoài Hải truyền đến hai người Huỳnh Bá, Vân Đại Quy Hựu, Vân Đại Quy Hựu sắp xuống truyền đến Lâm Tế Huyền, nên gọi là tông Quy Ngưỡng, tám mươi bốn người, lại có Thiên Vương Ngộ, Ngộ đắc pháp với Long Đàm Tín, Tín đắc pháp với Đức Sơn Giám, Giám đắc pháp với Tuyết Phong Tồn, Tồn truyền đến tông Vân Môn, tông Pháp Nhãn, Thạch Đầu truyền đến Dược Sơn Nghiễm Thiên Hoàng Ngộ hai người. Ngộ đắc pháp với Vân Nham Thịnh, Thịnh đắc pháp với Đổng Sơn Giới, giới đắc pháp với Tào Sơn Tịch, đây là tông Tào Động. Nay truyền đăng lại gồm thâu hai môn Pháp Nhãn, Vân Môn, quy về Thạch Đầu sắp xuống bị sai lầm. Duyên đồng thời ngộ đạo có hai người. Một người ngộ đạo ở chùa Tây Thiên Vương thành Giang Lăng là người Chử Cang, sau Thôi Tử Ngọc, tiếp nối Mã Tổ, vào ngày mười ba tháng tư năm mười ba niên hiệu Nguyên Hòa, Chánh Nghị Đại Phu Khâu Huyền Tố soạn Tháp Minh, văn mấy ngàn lời, tóm lược rằng: Mã Tổ truyền chú: Ngày khác không lìa chỗ xưa, Nên trở lại Chử Cang. Một người nữa ngộ đạo ở chùa Đông Thiên Hoàng thành Giang Lăng, người ở Đông Dương Vụ Châu, họ Trương, tiếp nối dòng Thạch Đầu, vào năm Đinh hợi thứ hai niên hiệu Nguyên Hòa ông thị tịch. Luật sư ghi chép soạn văn bia, hai văn bia chép xong, sinh duyên xuất rất rõ ràng, nhưng duyên đạo vốn lượm lặt ở tận Truyền Đăng Lục, chẳng phải đích thân đến tham khảo, chẳng qua uyển chuyển nhờ người thu nhặt mà được, việc ấy sai lầm có thể biết, từ Cảnh Đức đến nay, bốn biển trong thiên hạ, lấy truyền đăng làm căn cứ, tuy nêu bày căn cứ ngôi vị lập tông, không thể lược thêm, nghiên cứu biện rõ, chỉ có hai người thừa tướng Vô Tận cư só và Lữ Hạ Khanh thượng hội nghị trong việc tông môn. Họ thường nói: Thạch Đầu đắc pháp với Dược Sơn, Dược Sơn đắc pháp với Tào động một tông, giáo lý hạnh quả ngôn thuyết uyển chuyển. Hơn nữa Thiên Vương Đạo Ngộ sắp xuống, truyền đến Châu Kim Cang, trách gió mắng mưa, tuy Phật tổ, không dám thêm vào cơ phong kia, sợ tự Thiên Hoàng hoặc có sai lầm. Tịch Âm Tôn giả cũng từng nghi rằng: Đạo Ngộ giống như có hai người, xa ngài Vô Tận ở chỗ Đạt Quán Đónh, được ghi chép soạn bia tháp Đạo Ngộ Thiên Hoàng vào đời Đường, lại tham khảo đắc pháp với Khâu Huyền Tố làm kỳ tháp Đạo Ngộ Thiên Vương, đem ra chỉ bày khắp các phương rằng: Ta thường nghi Đức Sơn, Đổng Sơn, đồng từ Thạch Đầu sắp xuống, nhân đó đưa ra thủ đoạn sống chết không đồng, nay do Khâu Phù hợp hai lần ghi chép chứng cứ, rõ ràng, mới biết, ta chọn pháp suy nghiệm người không lầm. Tịch Âm nói: Ngài Khuê Phong đáp với Bùi Tướng Quốc, tướng trạng tông thú nêu bày sáu người tiếp nối Mã Tổ. Thú Sơn nói: Đạo Ngộ ở Giang Lăng, ở sau chú giải rằng: Bao gồm bẩm thọ ở Kỉnh Sơn, nay vọng đem hai tông Vân Môn, Lâm Tế cạnh tranh, có thể phát ra một tiếng cười, viết sơ lược đại khái để truyền rõ ràng, ngõ hầu biết chánh phái của năm nhà như vậy mà thôi. <篇> NHÂN THIÊN NHÃN MỤC <卷>QUYỂN 6 TÔNG MÔN TẠP LỤC TAM CÚ CỦA NHAM ĐẦU Cắn đi cắn đứng Muốn đi không đi Muốn ở không ở Hoặc khi một bề không đi Hoặc khi một bề không ở. (3 2 9) Sư thượng đường nói: Đại phàm xướng giáo, từ trong vô dục lưu xuất ba câu, chỉ là lý luận, cắn đi cắn ở, muốn đi không đi, muốn ở không ở, hoặc khi một bề không đi, hoặc khi một bề không ở, đều không biết phương sở, mắt sáng khe suối đất đột nhiên không có hang ổ. Nếu luận về chiến, mỗi mỗi phải là thủ đoạn cắn heo chó, nếu chưa thấu chưa rõ, cũng phải được bảy tám phần mới có thể nhập lập. Nếu từ trước đến nay nhãn mục di-lê-ma-la, hơn nữa không làm loạn lộ ra túi hồ đồ, lầm đánh gãy lưng ông, chớ nói không đạo. Xét ba câu của Thạch Đầu, cắn đi cắn ở là một, muốn đi không đi, muốn ở không ở là một, hoặc khi một bề không đi, hoặc khi một bề không ở là một, xưa vốn vốn dùng cắn đi là một, mà càng không để ý, hoặc khi câu một bề không đi, hoặc khi một bề không ở là sai, nay đã đúng, lược nêu thượng đường làm căn cứ. <詞>NĂM CÂU HỎI CỦA PHẦN DƯƠNG (Trong Thạch môn lục chưa thấy có lời đáp đây) Vị tăng hỏi: Thế nào là câu nhập môn? Phần Dương nói: Khách xa biết mình, Tạm ngồi cười ngâm nga. Thạch Môn Thông nói: Lục thân không biết nhau, Trong miệng nói xa đến. Vị tăng nói: Mù. Thế nào là câu trong môn? Phần Dương nói: Sắp xếp bốn tướng đứng, Tình ngưng vọng Thánh dung. Thạch Môn nói: Mật thất không thông gió, Một về nhà ngồi. Vị tăng nói: Nắm bắt. Rồi lại nói: Chủ trong tân. Thế nào là câu đương môn? Phần Dương nói: Tọa đoạn ngàn đường sai, Hào quang phát chiếu muôn cơ. Môn Thông nói: Cửa mở không cửa sổ, Để kiếm xem bốn phương. Lại nói: Trảm. Rồi lại nói: Chủ trong chủ. Thế nào là câu ra cửa? Phần Dương nói: Mở mắt nhìn giang sơn, Khắp cõi không biết nhau. Môn Thông nói: Oai nghi không ngay nhìn về Trường An. Lại nói: Giáng xuống. Thế nào là câu ngoài cửa? Phần Dương nói: Tiều phu đến đồng hoang, Cưỡi trâu thường gõ sừng. Môn Thông nói: Oai nghi ngay thẳng đến Trường An. Lại nói: Tân trong tân. <詞>ĐẦU TIÊN LUẬN BỐN MÓN BẤT BIẾN (Lời viết của cổ đức) Sương mù khắp núi Nhạc mà thường vắng lặng (cùng với trong mà không giao thiệp). Sông suối tranh nhau chảy mà không dòng (rảy nước mà không dính). Ngựa đồng trống phất phới mà không động (gió thổi không vào) Mặt trời mặt trăng rõ ràng mà không khắp (ánh sáng không trái). <詞>BỐN TẠNG CƠ PHONG CỦA NHÂM ĐẦU Bốn tạng phong: Sư đã lập vậy nghóa là căn cứ sự là toàn sự. Căn cứ lý là toàn lý. Vào đến là lý sự đủ. Đưa ra là lý sự hết. Người đời sau học, không căn cứ ý của người trước đã lập, vội đổi tựu thành tụ, khiến bần tăng đời sau nghi trong dòng tôn sư có vật, xuất nhập mà có thể chỉ bày, nên phải xét rõ. <詞>CỔ ĐỨC THÊM BÀI TỤNG CHO QUÁN ĐẠT ĐÓNH Gánh nước bửa củi không phải là trần Đầu đầu toàn hiện thân Pháp vương Thuyền nhỏ ngoài biển cả gợn sóng xanh Sóng to như núi phun bạch ngân (tựu sự). Căn cứ sự tạng phong sự riêng đủ Không ở trên lý mà thủ ngôn thuyên Vảy đẹp nếu không nuốt hương bánh Vẫy đuôi lay đầu giỡn sông xanh biếc (tựu sự). Ngay toàn thân hiển lộ đường đường Diệu thể trước nay không che giấu Gặp chỗ hiện thành khó hiện rõ Trần trần đều phóng hào quang trắng (tựu lý). Tựu lý tạng phong lý rất nhỏ Há từ trên sự lập hào ly Diều hâu bay ngoài trời rộng lớn Chịu cầm chim tước chết trong rừng (tựu lý). Toàn quyển điện cơ mấy người biết Chê lông mày trên đã là chậm Gặp mặt không biết mở kho báu Do dự xa lìa cỏ ngoài cửa (nhập tựu). Vào đến tạng phong lý sự bao gồm Đầm xanh gió thổi động mây sấm Vũ môn tháng ba hoa đào nổi sóng Đội sừng nâng đầu khỏi phơi má (nhập tựu). Oai quang lẫm liệt đầy thế gian Hiệu lệnh Pháp vương hợp đương nhiên Trước cửa đạo Trường An vạn cổ Một phen chim bằng đánh vạn dặm trời (xuất tựu). Ra đến tạng phong lý sự vong Trời cao mặt trời đỏ càng không ngại. Ông sấm bà sét nói phân minh Trong tiếng sét đánh lửa đá sáng (xuất tựu). <詞>TAM ẤN CỦA TÔNG MÔN (Thạch Môn Thông, Ngọc Tuyền Đạt) Một ấn ấn không Thạch Môn nói: Răng đứng lưỡi. Ngọc Tuyền nói: Vạn tượng thâu về ngàn gương xương. Một ấn ấn nước. Thạch Môn nói: Nói chuyện với người điếc. Ngọc Tuyền nói: Cóc tía nhảy bóng rơi trong ngàn sông. Một ấn ấn bùn. Thạch Môn nói: Trên đầu cắn gậy lẩm bẩm trong miệng. Ngọc Tuyền nói: Xem kỹ khi màn văn chưa phát. <詞>BÀI TỤNG CỦA TUYẾT ĐẬU Ấn không ấn nước ấn bùn Chữ nghóa rõ ràng lại mê Đại só Huỳnh Đầu không biết Dám hỏi ai được đích thân đề. Ấn bùn ấn không ấn nước Vòng đất sóng lạnh tranh nhau khởi Trong ấy lân rồng vô hạn Mấy chỗ tranh cầu ra miệng. Ấn nước ấn bùn ấn không Nạp tử không biện rõ đông tây Khai mở một lỗ phía trên Ngàn bậc Thánh đồng đứng dưới gió. <詞>BÀI TỤNG CỦA HOÀNG BÁ Ấn bùn ấn nước ấn không Bốn phương khéo léo đủ điều Biển cả rồng ngâm mây nổi Núi cao hổ gầm thành gió. Ấn không ấn nước ấn bùn Vật vật cao thấp đều đồng Nếu biết rõ ràng sắc văn Không ngại nam bắc đông tây. Ấn bùn ấn không ấn nước Bốn thứ sấm sét gió mây khởi Nhân lúc thẳng đến long môn Rất kî phơi má đốt đuôi. <詞>BÀI TỤNG CỦA VÂN PHONG Một phen ấn ấn bùn Hiền ngu cùng biết Vặn chuyển lỗ mũi Chùy vàng trên đầu. Một ấn ấn nước Luống há môi miệng Chưa qua dòng cát Sóng ngòi tranh khởi. Một ấn ấn không Mắt Thước-ca-la Đều chuông sau. <詞>VƯƠNG TỬ BA TRIỀU (Phần Dương Thiều Ngũ Tổ diễn Thúy Nham Phong) Tăng hỏi: Khi Vương tử chưa đăng triều như thế nào? Phần Dương nói: Lục cung ca khúc tuyết, tám nước nghe tiếng sáo, gặp nhiều người hỏi đường. Thúy Nham nói: Thâm cung tuy không xuất, Bên ngoài giáo hóa truyền khắp nơi. Lúc Vương tử chánh đương triều như thế nào? Phần Dương nói: Ngọc nhó không có văn chương Bạn bang cầu đầu cuối. Tổ nói: Thiên hạ thái bình Thạch Nham nói: Lương ban nương điện ngọc Mười đường đều đến triều. Sau khi Vương tử đăng triều như thế nào? Phần Dương nói: Y phục trắng hỏi điền ông Khắp cõi không biết nhau. Tổ nói: Ai luận tốt xấu. Thạch Nham nói: Ngư tiều ca chật đường Đã lão xướng được mùa. <詞>TỤNG CỦA PHẦN DƯƠNG Vương tử ba triều quý gồm tôn Xưa nay truyền nghe ai có thể phân Tám nước sáu cung toàn mỹ hóa Ấn của Phần Dương không rõ ràng. <詞>CHUYỆN SƯ TỬ CỦA HÒA THƯỢNG CHÂN MINH (Báo Ân phụ theo) Vị tăng hỏi: Lúc sư tử chưa ra khỏi hang như thế nào? Nam Minh nói: Gió mát đầy đất. Báo Ân nói: Mũi nhọn rườm rà. Sau khi ra khỏi hang như thế nào? Nam Minh nói: Bầy chồn bể não. Báo Ân nói: Ẩn thân không hiển lộ. Lúc muốn ra chưa ra như thế nào? Nam Minh nói: Sao thế? Mạng như tơ treo. <詞>BÀI TỤNG CỦA NAM MINH Ngồi cao chót vót như si giống không thể Bỗng nhiên chuyển đổi lại nương tựa Trăm năm yêu quái đều tiền phục Ẩn sâu ngàn vạn tầng trong núi mây. Một tiếng rống chấn động càn khôn Trong trăm bầy thú vỡ hồn mật Nước khe ngược dòng bóng núi chuyển Mắt tột không hoa loạn lang xăng. Muốn ra chưa ra ai có thể biết Ngồi xổm dưới đất chuyển thân cũng đại kỳ Thiên thủ đại bi khó dò dẫm Từ giáo ngàn xưa mọi người nghi. <詞>CHUYỆN KIẾM BÁU CỦA TRƯỜNG LÔ TỔ ẤN PHƯỚC (Thiên Trụ Tịnh, Thúy Nham Chi nương Thiên Tông) Vị tăng hỏi: Khi bảo kiếm chưa ra khỏi vỏ như thế nào? Tổ Ấn nói: Rít. Thiên Trụ nói: Như nay triều đại không người hỏi. Thúy Nham nói: Rất kî chấp đạo. Thiên Tông nói: Ánh sáng lạnh xuyên qua sao đẩu sao ngưu. Sau khi ra khỏi kiếm như thế nào? Tổ Ấn nói: Lội. Thiên Trụ nói: Vạn dặm núi sôngđạo thái bình. Thúy Nham nói: Thiên ma vỡ mạch. Thiên Tông nói: Ngàn binh dễ được Một tướng khó tìm. <詞>CHUYỆN LIÊN HOA (Thiên Trụ Tónh, Từ Minh Viên, Viên Giám Viễn) Vị tăng hỏi: Lúc hoa sen chưa ra khỏi bùn như thế nào? Trí Môn Tộ nói: Hoa sen. Thiên Trụ nói: Gốc sâu cành liền qua mưa tàn. Nam Minh nói: Nước sâu có lẽ không được. Viên Giám nói: Gạch cháy đập bể dính mắc rất lạnh. Sau khi ra khỏi nước như thế nào? Trí Minh Tộ nói: Gánh lá. Thiên Trụ nói: Nước trên đầu tiên thật hiếm có. Nam Minh nói: Không ngại qua lại xem. Thiên Trụ nói: Trong lòng phía Đông biển cả không nổi sóng gió. Sau khi nở như thế nào? Nam Minh nói: Hương phảng phất nam bắc. Sau khi kết hột như thế nào? Nam Minh nói: Nuôi cá nuôi ba ba. <詞>TỤNG CỦA TUYẾT ĐẬU Lá hoa sen báo ông biết Lúc ra khỏi nước chưa ra khỏi nước như thế nào? Giang bắc Giang nam hỏi Vương Lão Một hồ nghi rõ một hồ nghi. <詞>CHUYỆN PHONG HUYỆT CHIẾU GƯƠNG XƯA (Từ Minh Viên, Thúy Nham Chi, Đổng Sơn Thông) Tăng hỏi: Lúc gương xưa chưa lau chùi như thế nào? Phong Huyệt nói: Thiên mà vỗ mạch. Nam Minh nói: Tân La đánh trống. Thúy Nham nói: Chiếu phá đầu lâu thiên hạ. Động Sơn nói: Đây đến Hán Dương không xa Sau khi lau chùi như thế nào? Phong Huyệt nói: Cổ xe không đường. Nam Minh nói: Tây Thiên ca múa. Thúy Nham nói: Đen giống như sơn. Động Sơn nói: Bãi oanh võ trước lầu Huỳnh Hạc. <詞>CHUYỆN DIỄN TIÊN ĐÀ BÀ CỦA NGŨ TỔ Vị tăng hỏi: Lúc vua đòi Tiên dà bà như thế nào? Tổ nói: Thấu triệt Như thế nào là vua đòi tiên dà bà? Tổ nói: Loan giá chưa sắp xếp đồng hiệu lệnh. Thế nào là tiên đà bà? Tổ nói: Mắt dò nóng tai. Tăng lễ bái. Tổ nói: Diễn. <詞>GỌT CẢNH THANH HỎI PHONG HUYỆT VỀ SÁU PHÁP CẠO (Biệt Phong đáp thêm) Thế nào căn cứ lông cạo trần? Phong Huyệt đáp: Lá rơi không phiền người quét bỏ Tự có gió mát thành đến quét. Thúy Nham nói: Lông lạnh đứng cao. Thế nào là đến cạo da lông? Phong Huyệt nói: Hơi thở dù cho đầy đủ tiếng vang trong hang cốc thẳm. Tìm chân đâu được gặp phải người. Thúy Nham nói: Lạc chỗ không dừng ai giải xem. Thế nào là thịt cạo da? Phong Huyệt nói: Tháo xuống thẳng dạy Thiên Đế chịu. Na Tra thái tử không tha cho ông. Biệt Phong nói: Đạt Đónh xem chỗ hồng sang Sướng thích sát ông bình sinh. Thế nào là đến cốt cạo thịt? Phong Huyệt nói: Đề hồ đã tiêu thân hình lành Tánh hiển đường huyền không nhờ thuyền. Nham Phong nói: Phá cũng đọa. Thế nào là đến tủy cạo cốt? Phong Huyệt nói: Thích-ca đích thân gặp Phật Nhiên Đăng Thọ ký không nghe nói pháp âm. Biệt Phong nói: Tay không đến chỗ sức tranh chấp Chỉ như tủy lại như thế nào cạo? Phong Huyệt nói: Giả sử không hoa kết không quả Ngựa gỗ khó dạy người trời đuổi. Thuyết Phong nói: Giặc vào thành không. <詞>HỎI ĐÁP NĂM TÔNG Vị tăng hỏi: Thế nào là dưới sự Lâm Tế? Ngũ Tổ Diễn rằng: Ngũ nghịch nghe sấm. Hòa Sơn nói: Chiếu dụng đồng hành. Chánh Đường biện rằng: Ta trọn không đến ông nói. Hộ Quốc Nguyên nói: Giết người không chớp mắt. Tuyết Đường Hành nói: Lục hợp gặp bùn lầy. Tông Vân Môn, Tổ nói: Cờ hồng lấp lánh. Động Sơn nói: Lý sự đều đủ. Chánh Đường nói: Thang vàng trên ngựa gỗ. Hộ Quốc nói: Đảnh môn ba mắt chiếu sáng càn khôn. Tuyết Đường nói: Cờ hồng cao trong bóng sóng. Tông Quy Ngưỡng, Tổ nói: Đoạn bia ngang khắp đường xưa. Động Sơn nói: Ám cơ viên hợp. Tuyết Đường nói: Trước mắt không đường khác. Hộ Quốc nói: Xô đẩy không đến trước Ước khoảng không lui sau. Tuyết Đường nói: Trâu không sừng sắt ít ngủ nhà. Tông Tào Động, Tổ nói: Đem sách không đến nhà. Động Sơn nói: Thiên chánh hiệp đồng. Tuyết Đường nói: Hạc ngủ cành khô. Hộ Quốc nói: Tay cầm dạ minh phù Bao nhiêu cái biết trời sáng. Tuyết Đường nói: Đụng đầu không phạm. Tông Pháp Nhãn, Tổ nói: Người đi tuần suốt đêm. Động Sơn nói: Sao chỉ duy tâm. (3 3 1) Tuyết Đường nói: Rất kî trái giờ mất đợi. Hộ Quốc nói: Tên nhọn gặp nhau không biết nhau. Tuyết Đường nói: Tự bẻ gãy được lấy. <詞>TỤNG CỦA BẢO PHONG TỪ GIÁM Đầu đồng trán sắt oan trăm nhà, Một tiếng hét đều phân chiếu dụng, Thổi lông ba thước định vũ trụ, Sắp đi đến bên lừa mù (Lâm Tế). Ba câu đều đem xâu một chuỗi, Đồng nhàn giải, đến trước ngự lầu, Bao nhiêu hành khách chớp mắt, Cá chép biển Đông bay lên trời (Vân Môn). Một cái buông ra ngàn cái, Cái ky giải nói chuyện vô sinh, Thảo Đường ngủ há miệng lư đô, Tịch tử cần phải phá nguyên mộng (Quy Ngưỡng). Sân tía cửa vàng thêm xuân ấm, Điện ngủ không người hầu chí tôn, Trưởng ái trăm quan phân chỗ chức, Rộng gõ đèn ra kim môn (Tào Động). Khe quang dã sắc ngâm lầu đài, Một tiếng trúc xa nghe thấu đến mai rơi, Gió đưa đoạn mây về đỉnh núi, Trăng hòa dòng nước qua đến cầu (Pháp Nhãn). <詞>TÔNG YẾU CỦA NĂM NHÀ VIÊN NGỘ Toàn cơ đại dụng Đánh hét đuổi nhau Tìm người trên kiếm dao Trong điện sáng buông tay (Lâm Tế). Bắc đẩu ẩn thân Kim phong lộ thể, ba câu có thể biện rõ Một toàn liêu không (Vân Môn). Quân thần hợp đạo Thiên chánh giúp nhau Minh đạo đường huyền Kim vàng chỉ ngọc (Tào Động). Sư giúp xướng hòa Cha con một nhà Tối sáng theo nhau (Quy Ngưỡng). Nghe tiếng ngộ đạo Thấy sắc minh tâm Trong câu ẩn mũi nhọn Trong lời nói có tiếng vang (Pháp Nhãn). Năm nhà đổi tiếng thay điệu Khai mở diệu môn Thay đổi phong tục Trăm phương ngàn phía. Đều hướng về không trung xướng lên, khúc xướng là cơ ban đầu, nếu là dòng tuấn kiệt, không lưu lại dấu tích của trẫm, chuyển đổi hiển bày, cắt đoạn dây sắn, thế thì ngàn binh dễ được, một tướng khó tìm, vào cỏ tìm người, tạm thông một sợi chỉ phiưa trước có đường, toan đến thì trái, câu sau không riêng tư, động thành hang ở. Bảo kiếm của Linh Nham Thấy mắt đường đường Ngăn trệ trong vỏ mê Không không loại cỏ. NÊU BÀY BÀI TỤNG VÔ VI (năm tông) Chánh pháp nhãn tàng diệt bên con lừa mù, lão bà Hoàng Bá Đại ngu lắm lời (Lâm Tế). Thang vàng trên ngựa ngọc Sao người mê ban ngày Gặp đủ căn cơ giữ lại sấm sét Cũng là sư độn căn (Vân Môn). Một dài chia ngắn một ngăn chia dài Khúc thẳng vuông tròn Thấu hợp cung thương Khay bánh bên sông Khiến hồ tăng cười một tràng (Quy Ngưỡng). Núi Dan loan phụng đến a các Diện mật sáo gọi tân cửu thành Dã lão không biết quý huỳnh ốc Sáu đường còn nghe tiếng roi tịnh (Tào Động). Ngày ấm hoa tranh nhau nở Rừng sâu chim không sợ Thuyền đánh cá qua bờ nam Thủy triều rơi vào vào đầu thành đá (Pháp Nhãn). BA LOẠI PHÁP GIỚI (Cổ đức) Lúc Phật chưa ra đời như thế nào? Thiên hạ thái bình. Sau khi Phật ra đời như thế nào? Đặc biệt một tràng buồn. Lúc ra đời cùng với chưa ra đời như thế nào? Biết ân thì ít, phụ ân thì nhiều. Thế nào là thể của pháp thân? Núi hoa nở giống như tơ, khe nước trong xanh như màu lam. Thế nào là dụng của pháp thân? Suốt đêm ngồi mây đá, cây xuân mang theo tùng mưa. Thế nào là pháp thân? Cây liễu màu huỳnh kinh nhạt, Hoa lê hương trắng tuyết. <詞>NGŨ NHÃN Thế nào là Nhục nhãn? Thương ghét đâu từng đủ việc quý tham sân càng nhiều. Thế nào là Thiên nhãn? Lồng lộng không lọt, Rất rõ ràng phân minh. Thế nào là Tuệ nhãn? Đất vàng xa vẫy tay, Giang lăng thầm điểm đầu. Thế nào là Pháp nhãn? Núi xanh thường không hiển lộ, Khắp cõi không từng che ẩn. Thế nào là Phật nhãn? Từ bi lợi tất cả, Phương tiện có nhiều một. TAM BẢO (Cổ đức) Như thế nào là Phật? Chỗ nào không xưng tôn? Thế nào là pháp? Xe không xô đẩy ngang. Lý không đoạn khúc. Thế nào là tăng? Nhàn rỗi cầm quyển kinh đứng dựa tùng. Cười hỏi khách từ đâu đến. <詞>CHUYỆN DỰNG GẬY Thế nào là ông có dựng cây gậy? Cờ gặp địch thủ khó ẩn núp. Thế nào là ông không có dựng cây gậy? Đàn cầm gặp tri âm mới biết đàn hay. Thế nào là dựng cây gậy? Dẫn qua đoạn sông cầu. Bạn trở về thôn trăng sang. Ý CÂU (Cổ đức) Câu đến y không đến Khe xưa nước suối vọt Tùng xanh mang sương lạnh Ý đến câu không đến. Đá dài không có gốc cây Núi ẩn không động mây Ý câu đều đến Trời cùng mây trắng xa. Nước hòa dòng trăng sáng Ý câu đều không đến Trời xanh không chút mây Nước xanh sóng gió nổi. <詞>HỎI ĐÁP CỦA LỤC TỔ Đạt-ma một chiếc giày Chín năm ngồi lạnh không người biết Hoa ngũ diệp nở thơm khắp cõi Tổ nói: đập phá núi Thiết vi. Nhị Tổ một tay Xem thử ba thước tuyết Khiến người lạnh lông cốt Tổ nói: dẫn dắt thiên hạ. Tam Tổ tội một đời Tìm mà không thể được Vốn tự không tì vết Tổ nói: bóp mắt cùng sinh hoa. Tứ Tổ một tay Hổ oai hùng chấn động mười phương Thanh quang động vũ trụ Tổ nói: mắt sáng trăm bước oai. Ngũ Tổ một gốc tùng Không tính nêu cảnh trí Lại phải trang gia phong Ngũ Tổ một cây chày ?? ?? ?? ?? ?? Mới biết có cùng không. <詞>HỎI ĐÁP MƯỜI VÔ Nước vô vi, Hoàng thượng phục hay nằm cao Lúc đi ca Đế Vũ Không có hai cân chuẩn mực rất rõ ràng. Không có cội gốc, Không nhờ sức điểm sáng phía Đông Hoa ưu-bát thường nở. Không có đáy bát, Nhờ đến ẩn mặt trời măt trăng Buông bỏ chứa trong vũ trụ. Không có tơ đàn, Không phải tri âm chớ cùng khảy đàn Thuyền không đáy Rỗng không chở trăng sáng về. Khúc vô sinh, Một khúc, hai khúc không người hiểu Mưa đêm qua buồn bờ đê nước sâu. Sáo không lỗ, Đồng rãnh thổi một khúc Cùng hưởng thời thái bình. Không có chim khóa, Mở tháo khó động tay. Gương không đáy, Có thể thâu bốn biển cả Nhét vào ngũ Tu-di. MỘT TIẾNG HÉT PHÂN NĂM GIÁO (thêm mới) Tịnh Nhân đến Thiền sư Am Thành, đồng với Pháp Chân Viên Ngộ Từ Thọ và mười tám Đại Pháp sư, đều ở phủ của Lương Bật Thái úy Trần Công. Lúc bấy giờ, Tư Hạnh Huy Tông, xem pháp hội kia, người giỏi về Hoa Nghiêm, ở trong chúng hỏi các Thiền sư. Đức Phật ta lập giáo, từ Tiểu thừa đến Viên đốn, quét trừ có không, riêng chứng chân thường, rồi sau trung nghiêm muôn đức, nổi tiếng là Phật. Thiền gia một tiếng hét, chuyển phàm thành Thánh, cùng các kinh luận, trái bỏ tương tợ, nay một tiếng hét nếu có thể nhập năm giáo, đây là chánh thuyết, nếu không thể nhập, đây là tà thuyết, các Thiền sư nhìn Am Thành. Am Thành nói, như Pháp sư đã hỏi, không đủ lời đáp ứng của các Thiền sư. Tịnh Nhân tiểu trưởng lão, có thể để Pháp sư không mê hoặc, Am Thành kêu Thiện, Thiện đáp dạ! Thành nói: Pháp sư đã nói Phật pháp Tiểu thừa giáo, chính là nghóa hữu vậy. Đại thừa Thỉ giáo, chính là nghóa không, thừa Chung giáo, chính là nghóa hữu bất không. Đại thừa Đốn giáo, chính là nghóa tức có tức không, Nhất thừa Viên giáo, chính là bất không mà bất hữu, chính là bất hữu mà không. Như ta một tiếng hét, không chỉ có thể nhập ngũ giáo, cho đến trăm công kỹ nghệ chủ tử bá gia thảy đều có thể nhập. Am Thành bèn hét, một tiếng hét hỏi Thiện rằng: Lại nghe cái gì? Thiện nói: Nghe. Thành nói: Ông đã nghe, thì một tiếng hét đây là có, có thể nhập Tiểu thừa giáo. Thành trong chốc lát lại kêu Thiện: Lại nghe gì? Thiện nói: Không nghe. Thành nói: Ông đã không nghe, thì vừa đến một tiếng hét là không, có thể nhập Thỉ giáo. Am Thành ngó Thiện nói: Ta mới hét một tiếng, ông đã nói có, hét lâu tiếng tiêu mất, ông lại nói không, nói không vốn ban đầu thật có, nói có thì nay thật không, không có chẳng không, có thể nhập Chung giáo. Am Thành lại nói: Khi ta có một tiếng hét, chẳng chẳng phải là có, nhân không mà có, lúc không có một tiếng hét, không chẳng phải là không, nhân có cho nên không, tức có tức không, có thể nhập Đốn giáo. Am Thành lại nói: Ta có một tiếng hét đây, không làm dụng của một tiếng hét, có không không bì kịp, tình giải đều vong, lúc nói có mảy trần không lập, lúc nói không, cùng khắp hư không, tức một tiếng hét đây vào trăm ngàn muôn ức tiếng hét, trăm ngàn muôn ức tiếng hét vào một tiếng hét, là có thể nhập Viên giáo. Thiện Hoa Nghiêm không biết, khởi thân ở tòa đến trước bái lạy Am Thành. Thành lại nói với Thiện, không chỉ một tiếng hét là xong, nhẫn đến nói mới động tónh, tất cả thời tất cả chỗ, tất cả vật tất cả sự, khế lý cơ, cùng khắp không dư, thế là bốn chúng vui mừng, nghe những điều chỗ chưa nghe, long nhan rất vui, bảo tả hữu cận thần. Thiền sư có huyền đàm diệu luận như thế. Đại Úy thưa: Đây chính là dư luận của Thiền sư. <詞>PHƯƠNG NGỮ CỦA THIỀN LÂM Người thắp đèn nến Đại tượng qua sông Nhân cho vượt tường Đức Sơn La-hán. Phong hầu tiên sinh Tức sáu mái hiên Thành bình qua sông Đem nhục kế đem bỏ nha môn. Nửa đêm giáo hóa Núi vàng bờ gạch Xe chất kinh Đại thừa Thợ mộc mái hiên. Thạch tượng Gia châu Trưởng lão Hồ nam Diêm già qua trạng Người lùn tường đất. Thường châu đánh da Trâu người sừng rộng Tóc trong chùa ni Mua dầu thái bình. Cây quạt tháng chạp Nước gấp đánh cầu Treo chặt bình trà Cá canh Phong châu. Nước ngập Kim sơn Nước đá đeo lưng Hải đường Xương châu Thạch tượng Giản châu. Vân Cư La-hán Tiếng kêu rừng Phụng Ngựa giấy vào lửa Trương Lương nhân sách. Thái Công câu cá Bài tụng Lương Sơn Mèo con mang chùy Lý Tình tam huynh. Chống gậy xin con Chó gặm xương khô Ba Tư trì chú Phật đá mới xướng. Ngựa ăn rau cải Người lùn xem kịch Chó vàng qua sông Con thỏ ngắm trăng. La công soi gương Ba Tư lạc thủy Sáo nào chế luật Lư thân tiên sinh. Giày cỏ Tân La Người lùn qua sông Thổ địa Lữu Sơn Thổ địa Vân Cư. Đạo só đánh chày Tú tài đánh trâu Mâm khay trên tường Quả châu phạn bố. Lửa đốt thuyền hương Rắn vào ống trúc Bỏ con theo đạo Vân Môn đạo tột. Hưng hóa đạo tột Đạo tột Phân Dương Quy Ngưỡng đạo tột Tuyết Phong đạo tột. Ngưỡng Sơn đạo tột Huyền Diệu đạo tột Triệu Châu đạo tột Kim Ngư đạo tột. Phổ Hóa lắc linh Giang thêm chiều tuyết Đổng đình thu nguyệt Chùa khói chuông chiều. Mây tạch trên núi Cát bằng nhạn lạc Ngư thôn tối chiếu Bến xa thuyền về. Sông Tiêu sông Tương đêm mưa, Tiên Đà-bà Tinh tinh mang hài cỏ Xỏ kim trong đất đen. Một ngựa sinh ba dần Bạch trưởng lão Nga Mi Chưa rõ ba tam chín Thổ địa trong núi sâu. Trâu sắt trên con muỗi Đại tùng trong ồn ào Chuột già trừ diệt cây gừng Thấy Đại Thánh ở Tây châu. Lừa chọn chỗ ẩm tiểu Chim rùa đi đất bằng Không qua người thiết trai Tạ tam nương cân bạc. Quách Đại só mài mực Sao cháu ngược lên cây Đất đỏ phết sữa bò Đại vương trong quân doanh. Muỗng đũa trong tiệm cơm Đất đỏ vỏ cái ky Hồ tôn ăn lông trùng Lão quạ trong túi vải. Ngã tư đường trước bia Vẽ phong xa trên vách Hồ tôn cưỡi lưng ba ba Hồ tôn vào trong túi vải. Bốn tám ông quan đánh cờ Trịnh Châu ra cửa gặp Người trên cầu Thiên môn Biện tài gặp Tiêu Diệu. Chuột già trong ồn ào Vương đại tỷ đông thôn Ngó sen trên đá gồ ghề Ba Tư ăn hồ tiêu. Con mèo ăn thải phụng Cho cơm nhừ ló trà Tơ sen béo đại tượng Đại trùng xem xay bột. Ngựa nói người mua mực Mười tám mẫu ruộng tốt Đồng cốt nhờ gặp đồng cốt lớn Vương tiểu phá giày cỏ. Tám túi giá Tiểu từ thăm đại từ Ba Tư vào ồn ào Nửa đêm thả gà quạ. Thỏ uống sữa bò Chuông lầu mười hai trượng Chuột già ăn củ gừng Bào lão đưa đài đèn. Học đường bộ Hàm Đan Hàn Tín đi đến triều (3 3 3) Sư tử trong miếu xưa Đến bờ xem mí mắt. Ba Tư chiếu gương xưa Minh Công Tú trên biển Đưa Châu bán dưa Hán Người Phổ chẩu tiễn giặc. Từ trước đến nay huệ dưới liễu Lâu ngày cây hoa đến sớm Vỏ não trong Tô Lang Phan Giang đến cưỡi lừa. Thời Tần xe chui qua Mũ giấy trong đại trùng Trước nhà mua trái cây Quân tử có thể tàm. Người giữ công đức trời tối tăm Đầu sào trăm thước năm lần duỗi Xích Hồng nhai đánh bạch Hồng nhai Tạ Tam nương không biết chữ xả. Thừa nhận chị dâu không táo đỏ Chặt xe gió trên đầu sào Kịp hợp đánh phá Thái châu Đầy dầu trong lưỡi cát đồng. Giấy bạc trong núi Thái Ba Tư chân đỏ vào Đại Đường Đá tầm thường đầu ngã tư đường Khổng Minh khảy đàn trong miếu. Người Phước châu ăn quả vải Tạ Tam nương không biết chữ tứ Đất đây không có hai lạng vàng Người đời mua rượu ba thăng. <詞>KỆ CHÂN TÁNH Đạt-ma Tây lai chín năm diện bích, riêng Thần Quang đứng ngoài tuyết chặt cánh tay tự chứng, khéo nói không được, chỉ được nói tâm truyền, thượng căn đã khế hợp, lại muốn về Tây, còn thương căn cơ trung hạ, gượng để lại hai mươi chữ, gọi là kệ chân tánh trở lại đọc đó, thành bốn mươi vận, đều có chỉ thú, bởi vì lão bà tâm tha thiết, bậy bạ không ít, ngõ hầu con cháu đời sau, nhân ngón tay thấy mặt trăng, thảng như có một người đến trước chữ tánh chưa hiểu đại ý, sắc văn tự bày, không từ người khác được, lại cười lão Hồ rất tốt, hết sức cùng chủ trượng. Linh Ẩn Tuệ Chiêu Đại sư Khả Quang thuật <篇> <詞>DIÊN HỰU ĐẠI NGUYÊN TRÙNG KHẮC HẬU TỰA NHÂN THIÊN NHÃN MỤC Xưa Thiền sư Nham Chiếu ở Việt Sơn Hối ở trong thời Tống Thuần Huy, biên tập tông chỉ của năm nhà, gọi là “Nhân Thiên Nhãn Mục”, lưu hành trong tòng lâm, sự truyền chép đã lâu, không tránh khỏi sai lầm, bản chép tay kia cũng có nhiều chỗ khác nhau, lời này lời kia xen vào được mất, Lúc rãnh rỗi tham khảo chỗ đồng và dị, sai thì sửa lại cho đúng, thiếu thì thêm vào cho đủ, không thích đáng thì bỏ bớt đi, còn sợ chưa hay thì sắp xếp nguyên bổn. Năm tông cũng mất sự truyền thừa theo thứ lớp, nay sửa lại cho đúng. Đầu tiên sắp xếp Lâm Tế, Quy Ngưỡng. Bởi hai tông đây, đồng phát xuất từ Nam Nhạc, Mã Tổ trở xuống. Kế nêu bày Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, bởi ba tông đây đồng phát xuất từ Thanh Nguyên Thạch Đầu. Lại gần đây có người, mượn tên của Khâu Huyền Tố, ngụy soạn văn bia của Thiền sư Đạo Ngộ ở chùa Tây Thiên Vương thành Giang Lăng, ghi chép Thiên Vương tiếp nối dòng Mã Tổ rồi tiếp nối Long Đàm, Đức Sơn, Tuyết Phong, bèn thay đổi hai tông Vân Môn, Pháp Nhãn qua Mã Tổ sắp xuống thật đáng cười, xét đồ sấm Tâu Cựu ở Kinh châu, đều không có chùa Tứ Thiên Vương ở thành Giang Lăng, họ ngụy biện ra bia vọng lập nhân duyên ngữ cú ở Thiên Vương, sự thật là của Đàm Chiếu Thiền sư ở chùa Bạch Mã ở thành Tây. Sự thật Đàm Chiếu đây thuật đủ đồ sấm xưa ở Kinh châu, và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, được khảo sát, huống hà Thiên Hoàng tiếp nối dòng Thạch Đầu và Long Đàm, chép đủ trong Truyền Đăng Lục và Cao Tăng Truyện. Ngữ lục các sư là văn bia của Đức Sơn và Vân Môn, Pháp Nhãn sắp xuống, cùng kệ tông yếu của năm tông triều đại trước, có vài mươi chỗ, sáng như mặt trời ngôi sao, có thể xóa đi mê hoặc cho đời sau, có thể chứng cứ dối lầm biên tập trước sau, xưa nay An Lộ Phước Châu Đại Minh Lan Nhã, bèn khắc bản khác, cùng chung với thiền học. Người xem tập đây, trình bày cắt bớt dài dòng, mở miệng rõ ràng, không ở trên đầu lưỡi. Nếu họ chưa rõ, thì bỏ kiếm đã lâu rồi. <詞>LONG ĐÀM KHẢO XÉT Cảnh Đức Truyền Đăng Lục đời Tống, chép Đạo Ngộ Thạch Đầu thời Thiên Hoàng, mà không biết đồng thời có hai Đạo Ngộ: Từ Mã Tổ, ở chùa Thiên Vương thành Tây, Kinh châu. Từ Thạch Đầu, ở chùa Thiên Vương thành Đông, Kinh châu. Trải qua khảo sát Quy Đăng đời Đường, soạn biên của Nam Nhạc lời đáp của Khuê Phong, tông thú trạng giám được của Bùi Tướng Quốc và soạn bài minh tháp của Mã Tổ, đều có thể căn cứ, đến sau Đạt Quán Đónh dẫn phù sấm của Khâu Huyền Tôn chép vào của hai tháp minh bài, chép rất rõ ràng, đây không có thể nghi được. Nhưng trong Khâu Minh, do Long Đàm tin tiếp nối ngộ của Thiên Vương, đây thời không thể không nghi. Tôi từng khảo sát Ngữ Lục của Tuyết Phong, Tuyết Phong nói với Mân Vương, tự xưng được đạo trước Đức Sơn, Thạch Đầu, lại trong bài tựa Ngữ Lục của Cổ Sơn Yên Quốc sư, cũng xưng là Yến Vi Thạch Đầu năm dòng con cháu, hai sách đây ở vào thời ngũ đại, cách Long Đàm không xa, há phải quên ngay sở tự kia sao? Căn cứ theo đây thì biết, Long Đàm Tín là người đã tiếp nối, thì Thiên Hoàng ngộ chẳng phải Thiên Vương Ngộ, sở chứng kia đồng. Lại Long Đàm Tín, nhà ở hẽm Thiên Hoàng thành Đông, Kinh châu, lấy bán bánh làm sự nghiệp, hàng ngày đem mười cái bánh tặng cho Hòa thượng Thiên Hoàng, Thiên Hoàng mỗi khi ăn bánh xong, để lại một cái bánh nói: Ta cho bánh ông để con cháu ông hưởng âm đức. Đàm Tín một hôm tự nghó: Bánh là đem đi, sao để lại cho ta, chắc có tà ý, bèn đến hỏi. Thiên Hoàng nói: Là ông đem đến lại ông nào có lỗi, Tín nghe việc ấy, rất hiểu ý chỉ nhiệm mầu, nhân đó theo xuất gia. Thiên Hoàng nói: Ông xưa tôn sùng phước thiện, nay tin ta nói có thể gọi là Sùng Tín, do đó ân cần làm thị giả. Căn cứ theo đây thì biết, Long Đàm Tín đã tiếp nối, Thiên Hoàng chẳng phải Thiên Vương Ngộ, là chứng cứ thứ hai. Lại Sùng Tín một hôm hỏi Thiên Hoàng: Con tự đến không nhờ chỉ bày tông yếu. Thiên Hoàng nói: Ông tự đến, ta chưa từng chỉ bày tâm yếu cho ông. Sùng Tín nói: Chỉ bày chỗ nào? Thiên Hoàng nói: Ông nâng trà lên, ta tiếp đón ông, ông đi ăn ta vì ông nhận, lúc ông hòa nam, ta vì ông mà cúi đầu, có chỗ nào không chỉ bày tông yếu cho ông. Sư cúi đầu giây lâu. Thiên Hoàng nói, thấy thì ngay đó liền thấy, suy nghó liền sai, Sư ngay đó khai mở. Sư lại hỏi: Thế nào là bảo nhận? Thiên Hoàng nói: Mặc tình tiêu diêu, tùy duyên phóng khoáng, chỉ cần hết tâm phàm, riêng không làm tánh giải. Một hôm Sư lại hỏi: Từ trên thượng tướng truyền xuống việc thấp nhất như thế nào? Thiên Hoàng nói: Không phải ông hiểu đến chỗ không được. Sùng Tín nói: Cái đây mất người nhãn mục được đủ? Thiên Hoàng nói: Dễ hiểu ở Trường Lô, căn cứ đây thì biết, Long Đàm Tín đã tiếp nối: Là Thiên Hoàng Ngộ chẳng phải Thiên Vương Ngộ, đây là chứng cứ thứ ba. Nay ba đoạn sở chứng đây giới thiệu rõ như vậy, mà trong tháp minh của Khâu Huyền Tố, do Long Đàm nối tiếp Thiên Vương, sao được riêng khác. Xét biết, hiểu rõ người sau, vọng đem Sùng Tín, đổi vào trong tháp minh Thiên Vương, để tranh luận đầu mối, nhưng như vậy ắt đem ba đoạn văn sở chứng trước, một phen bút xóa đi, rồi sau có thể thành thuyết ấy. Hơn nữa, Trương Vô Tận thường nói: Cơ phong của Vân Môn giống Lâm Tế, phải là sau Mã Tổ, đây thời lời nói của người nhà quê ở Tề dông, xưa nay đồng bẩm thọ một thầy, mà cơ phong mỗi mỗi sai khác thì nhiều, sao đồng hết được. Như Vân Môn Pháp Nhãn, đồng phát xuất từ Vân Môn phải trở về Mã Tổ, thì Pháp Nhãn lại phải trở về Thạch đầu, như Đơn Hà theo cơ phong, không kém Lâm Tế, ?? ?? Cùng Tam Thánh, đều thất cơ ở Thạch thất, thì Đơn Hà theo Thạch Thất, lại phải đổi vào Mã Tổ sắp xuống? Lại như cha con Nam Tuyền, đều tiếp nối Mã Tổ, mà không dùng đánh hét, cha con Quy Sơn, đều tiếp nối Bá Trượng, mà không thời Cô Tuấn, lại phải đổi vào Thạch Đầu sắp xuống. Hơn nữa, tôi từng khảo sát toàn lục của Tuyết Phong, thiền ấy đủ các cách, Ba Lan rộng lớn, nên lời ấy, có khi giống Lâm Tế, có khi giống Tào Động, luống như Huyền Sa, Trường Lô, Khánh Bảo Phước Cổ Sơn An Quốc Thanh Cảnh v.v… đều như vậy. Tức Vân Môn tuy riêng dùng cơ phong vòi vọi mà thật ngữ không đầy đủ, cơ phong không xúc phạm, hơn nữa trải qua tham cứu Tào Sơn Sơ Sơn, Cửu Phong Càng Phong, lời ấy còn đầy đủ, như các lời ba loại bệnh hai loại ánh sáng, thì toàn vản Càng Phong, đây rất rõ ràng. Há có thể nói các việc ấy đồng với Lâm Tế đương tiếp nối Mã Tổ sắp xuống, môn đồ không biết, vốn khó biện rõ, những bậc cao minh, có thể khảo sát mà biết, nên làm là để bảo trí giả trong thiên hạ, xin xét kỹ rõ vậy (thấy trong Vónh Giác Vãng Lục). <詞>TRÙNG TU HẬU TỰA TẬP NHÂN THIÊN NHÃN MỤC Một chi pháp là năm tông, tông mỗi mỗi có ý chỉ thấu suốt chỗ quy về của ý chỉ, thì một pháp năm tông nêu ra không được dối, nay bèn không như vậy, đuổi bắt bóng dáng dấu tích của năm tông, lượm lặt dư thừa của lời trước, tông chỉ quả nhiên còn ở đây sao? Câu của người xưa là câu chết, mà đủ là của người sống, câu không có sống chết, không thì câu chết của người chết. Trong niên hiệu Thuần Hy, Việt Sơn có giới thiệu Hối Nham, bớt loại cốt yếu của cơ ngữ năm tông, nói là Nhân Thiên Nhãn Mục. Nạp tử đến nay truyền sao, người có sách ấy, luống như kho báu như chứng cứ, không có lý sai khác của Ngư Lỗ, mà xen nhau có các loại thêm bớt, riêng chưa biết bổn quả ban đầu phát xuất như thế nào, bênh tôi như vậy, kết lại những rườm rà để ứng đáp, gom góp lại làm cho đúng, tạm được điều cốt yếu, giúp người đời sau biết tiến đến tận cùng từ trên tông môn. Bở như thế đã tự ?? Nói hang ở ngôn cú, thời nay bệnh nặng của người học, trộm dùng lời dạy bảo luống không nghiên cứu kỹ, mà cho là lợi ích, đây là bệnh ngăn che, song đã bệnh, ngay đây mà uống thuốc, xem kỹ dùng như thế nào? Vả lại, tông chỉ không ở nơi đây vậy. Nếu chúngta từ đây mà càng luận rõ kế hoạch của tông, không bỏ xưa, há không phải dùng nhãn mục luận nhân thiên sao? Nhân sau khi viết sách, vào lúc Mậu ngọ năm kế Bảo Hậu, dừng lại sau hạ năm ngày, Từ Vân ở núi. <詞>BÀI TỰA CỦA VẬT SƠ ĐẠI QUÁN Đây là lý do viết sách, đủ thấy tựa bạt của ông Hối Nham Vật Sơ. Tuy nhiên, thời Triệu Tống hoàn toàn thạnh hành, nạp tử Nam Tuân truyền viết mà chẳng không có sai lầm ô yên thành mã bởi thế có thiền nhân ở nước Cáo, ý thông minh khắc chính, mới tự truyền đăng sắp xuống, đến tông phải năm nhà các bậc tôn túc chép riêng, không đâu không có chê bai, nghiên cứu kỹ để đối chiếu và sửa chữa, bè thành chân bổn, đó gọi là công của Mảnh Thị, không ở nơi Vỏ sắp xuống. Đạo nhân Tịnh Trí Hy Nhan Mộ Lận, vâng theo khắc bản, để truyền lâu dài, dụng tâm ấy cũng có thể cho rằng ân cần, người học thảng như suy nghó lý do nói Nhân Thiên Nhãn Mục, thì công không mất thi thiết. Mùng tám tháng giêng Quý mão Càn Nguyên, Quải Đường Tầu Quỳnh Lâm ghi. <詞>SƠ TỔ NHỊ TỔ TAM TỔ TỨ TỔ NGŨ TỔ LỤC TỔ Lão Hồ nhiều việc đến Tây lai, Hoa ưu-bát-la nở trong lửa, Lại là Lương Võ đãi một bữa, Trường Lô nước gấp thả thuyền về. Thiếu Lâm diện bích quá nhiều lời, Tiếp được môn nhân một tay đủ, Kinh Lạc đến nay ba thước tuyết, Trời lạnh nào ngừng suốt năm. Nước suối Tiềm xanh biếc, Thiên Trụ phong cao, Rõ ràng minh bạch, Không cách tơ hào. Trước nay kế sống bình thường như bàn tay, Đời sau con cháu dạo hải triều. Tháp Từ Vân, thầy thuốc giỏi Ngửa mặt trông ngửa mắt nhìn Đôi phong vòi vọi Biếng nhác chứa không được bát Tây Thiên Gặp trên đường thôn Huỳnh Mai. Tài công nào già Truyền y nào thiếu Trước thân sau thân Một mộng hai tỉnh. Hoa bạch ngọc nở phong đỉnh đầu Trăng sáng ngàn năm soi tướng lạnh. Đá mang lưng trong tiếng chày giã Lão Sư năng thêm không nhẹ Y bát Huỳnh Mai tuy đích thân được Còn so sánh Tào Khê vài mươi dặm. BẮC TÔNG (3 3 5) Soi gương thường thường phủi sẹo xưa Chim kêu hoa nở mấy xuân về Sen trắng phong đỉnh không tiêu tức, Bát sắc thâu người giả đạp. <詞>ĐẠO GIẢ TÀI CÔNG Trời mọc rồi làm, Chặt tùng làm vui, Xưa chặt bao lâu, Nay đầy hóc núi, Người đầu bạc đi trẻ nhỏ về, Cười đổ ngọn cây hạt ngàn năm. <詞>NGƯU ĐẦU VÓNH GIA VÂN MÔN Khi trời mờ mịt thấu mây trắng, Nhân gặp tông tượng chỉ bến mê, Ngậm hoa râm chim không buồn rầu, Không thấy người chủ xưa trong am. Rõ biết sinh tử không liên quan đến nhau Không đến Tào Khê cũng là nhàn Vừa bị Lão Lư dài một đêm Trọng giáo ngôn cú lạc nhân gian. Trục xuất cầu gỗ mê liễu nhãn Mược cái váy bà già bái bà già Một bầu tại sao còn chê nước ít Mắc nợ giây lát giá tiền xưa. <詞>TUYẾT ĐẬU Bốn ngày Ma-hê Hơn độn vào hang Thước ngắn tấc dài Một nhiều hai ít. Mây đi mây đến Mặt trời mặt trăng soi nhau Niêm hoa liễu ngộ Không nhọc mỉm cười. <詞>THIÊN Y Hết tuổi bảy mươi Chín tọa đạo tràng Khúc gai đường tùng Núi cao nước sâu. <詞>ĐẠI DƯƠNG ĐẦU TỬ VÂN NHAM Nón là khó thuốc áo tơi người không biết. Một tiếng trúc thu là rơi vào sông Tiêu sông Tương. Ly nô trâu trắng hỏi Côn Luân Khóa vàng không râu lén đóng cửa Như ý bảo châu chìm đáy biển Nhà gần lượm được giao con cháu. Một đôi hài hai da trâu Chim vàng kêu chỗ gà gỗ bay Nửa đêm mua dầu ông phát cười Đầu bạc mọc được đầu đen. Chân không che giấu dối Quanh có không che giấu thẳng Ma oán Tổ sư Túc đức nhân thiên. Hai ngàn tám trăm quả minh châu. Ba đời che giấu người trong ai biết. <詞>HUỲNH LONG Tay Phật chân lừa Sinh duyên ràng buộc Trong mây lão hạc lâu ba tiếng Đáy biển cá chép mọc hai sừng. <詞>BẠCH VÂN Đương kỳ trâu đá Tiên sinh một bò nghé Hoặc chạm thanh phong Hoặc kêu u cốc. Chuyển vuông thành tròn Phân ba thành sáu Mây trắng dưới núi cỏ dày đặc Một độ xuân đến một độ duyên. ---------------------------------- <詞>BÀI TỤNG MƯỜI CHỮ VÔ CỦA CỔ SƠN KHUÊ Cây không bóng. Đẹp phát xuân ánh sáng lay động bên ngoài Gốc mầm không từng nhiễm bụi trần Rậm rạp xanh biếc mây biên treo dài Thầm thầm cành lạnh chim không đậu. Trời chiều không rõ hoa ông rậm rạp Gió thu khó xếp đặt vận dài thảm thiết Vun trồng chịu đến không đâu có Không rơi vào xanh vàng trấn giữ bốn mùa. Chùy không lỗ. Trước Phật Oai âm từng nắm được Trong tay áo thầm che giấu không rõ ràng Tam quan đập nát sóng ngòi bằng Muôn pháp khai mở trời đất hẹp. Hình tròn thấy mặt lộ quy mô Rõ ràng viên thành cảm phục không sánh bằng Đề cao Tổ ấn phát quanh lạnh Gặp được Tỳ-đa miệng treo tường. Sáo không lỗ. Một khúc trước gió cảm phục điệu cao Ống tiêu vàng ống quản ngọc rườm rà luống nhọc Người gỗ tấu được bích vân hợp Thạch nữ thổi lại ấm hơn nhiều. Âm vận bỗng nhiên vượt thế giới Diệu âm quên nghe rõ thu hào Gặp nhau hoặc gặp người tri âm Thổi lên nhà Nùng bên ngoài cao. Tháp Vô phùng. Phật nhãn tròn xoe không thể thiếu Tột sự vòi vọi Thánh không biết Sương hương mấy lớp ẩn không được Một điểm sáng lạnh chiếu không giờ. Đầu lâu biết hết phương trở về Sắc tướng tình vong mới đến ông Thấy mặt đường đường khó biện rõ Long Liêu gọi ngược khó đề. Giỏ không đáy. Không nhớ công phu tạo tác thành Công thành làm đại khái tự tung hoành Rắn chết nếu gặp phải lấy đầy Vườn trà đều dẫn dắt đi liền. Bên ngoài thích đêm đề cao mặt trời mặt trăng Thời Võ môn nhặt được cá côn cá kình Treo cao trên đầu cây không bóng Chớ cùng người mù đánh dây sắn. Khóa không râu. Cầm đến rất kî lay hai đầu Thấy mặt cơ quan chớ thả đủ Buông tay ẩn mặt nhà bên đó Đợi nghi chỉ đường xa xôi. Trời xanh ngoài mây không có chốt khóa Nhiều kiếp xuân về mầm lạ lớn Phật tổ mở miệng đều chặt khóa Không liên quan môi mép mới toàn siêu. Không có chốt cân. Cân lạng không để lại phân mua bán Thương lượng không đến không cho ông Mâm định sắc sáng chốt cân khó biện Bình đẳng quyền hành thường tự biết. Người điếc thờ ơ mới có thể luận đúng Người mù mới hiểu sửa cao thấp Rảnh đến nắm bắt ngoài càn khôn Không chừng hạn Thiên long thầm nhíu mày. Bát không đáy. Dữu Lónh toàn đề chung dối truyền Lưới bắt muôn pháp chưa phải Hồn côn Vác đến cung ưng không liên quan đến tay No rồi rong ruổi không dính môi. Cho cơm tiền canh ai chịu nhận Nay bay lên chiếu xưa vượt hẳn Lãn Hán Triệu Châu nào thi thiết Phân phó tòng lâm biết mấy xuân. Đàn không dây. Không nhọc rìu búa điều khắc được Chịu sai Tiều Phu Ngô Đồng giả hợp thành Dứt hẳn sợi tơ niên luật mới Rõ không tiếng vang tấu âm huyền. Có khi đàn đến ngoài trời xanh Mấy độ nhàn càng xanh biếc hang sâu Buồn bã ít gặp khách xỏ tai Dòng nước khe yên âm vận trầm trầm. Thuyền không đáy. Nhàn rỗi đi khắp cỏ thơm vượt qua thấm thía Chỉ gần giữa đường đến dòng sông Thương Không phạm sóng trong lại đến bờ Về cưỡi trăng sáng nghỉ thả câu. Hoa lư ở sâu và mây đậu Lúc sóng gió cao mặc tình tánh bơi lội Tưởng nhớ hoa đình khói mưa khách Bao nhiêu tiếng xe qua thong thả. <詞>BAO QUÁT YẾU CHỈ CỦA NĂM NHÀ Lâm Tế: Năm Nhạc Mã Tổ Bá Trượng xoay chuyển, Lâm Hưng Nam Huyệt Thú Sơn Phân Từ Minh Nam Hội khai ra thành hai nối dõi. Tâm Xuất Tân Thanh Đoan Diễn Cần. Quy Ngưỡng: Bá Trượng phát từ Đại Quy Hựu. Hương Nghiêm Ngưỡng Sơn dích thân đắc tiếp nối, tháp Ba Tiêu Thanh ở phía Nam nối truyền con cháu chưa thấy tiếp nối đời sau. Tào Động: Thanh Thạch Dược Sơn Động Tổ, Vân Ưng Đồng An Phi Chi Phủ, Lương Sơn đích thân đắc với Đại Dương Huyền Đầu Tử Phù Dung Thuần Độc Bộ. Vân Môn: Thanh Thạch Thiên Long An Đức Sơn, Tuyết Phong Vân Môn Hương Lâm Viễn tháp Tuyết Đậu phía Bắc giao phó cho Thiên Y, hai bổn từ Tư Môn rất rõ. Pháp Nhãn: Tuyết Phong Bàng Xuất Huyền Sa Dị, Địa Tạng Pháp Nhãn Ích Tôn Quý, Thiệu Quốc Sư, Truyện Thọ Dữ Tân, Phật pháp mới sưu tập mà thôi. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 176