<經 id="n2003">VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC (QUYỂN 1 10) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC Mạng mạch của bậc Thánh, đại cơ của chư Tổ thuốc hay đổi cốt thuật diệu nuôi thần, chỉ có Thiền sư Tuyết Đậu, là người đủ chánh chân siêu tông việt cách, đề cao chánh lệnh, chẳng bày khuôn phép, cầm kiềm chùy nấu Phật luyện Tổ, tụng ra các lỗ mũi hướng thượng của nạp tăng. Núi bạc vách sắt, ai dám dùi mài, con muỗi cắn trâu sắt, không có chỗ cắm mỏ, không gặp bậc tri thức, sao thâu được chỗ huyền vi. Xứ Việt chỉ có lão nhân Phật Quả. Lúc ở Bích Nham người học không hiểu nhưng cầu thưa hỏi, lão nhân thương xót rủ lòng từ chọn lọc chỗ uyên nguyên mổ xẻ lý, tại trận chỉ thẳng, chẳng lập tri kiến, Trăm tắc công án, từ đầu đến cuối, được các bậc lão hán thảy đều biếùt qua, nên biết ngọc bích của nước Triệu vốn không tỳ vết, Tương Như lừa dối Tần vương. Chí đạo thật không. Tông sư từ bi cứu tệä. Nếu thấy như thế, mới biết thấu được tâm lão bà. Nếu nệ cầu kẹt lời thì chưa khỏi giết hết dòng họ Phật. Phổ chiếu may mắn hầu Sư, được nghe những điều chưa nghe, bạn đạo biên tập thành sách, dùng lời vụng về, viết lời Bạt cuối sách. Ngày ba mươi cuối Xuân, năm Mậu Thân, niên hiệu Kiến Viêm, Đệ tử tham học Tỳ-kheo Phổ Chiếu kính tựa. Từ khi kinh Tứ Thập Nhị Chương truyền vào Trung Quốc, mới biết có Phật. Từ Tổ Đạt-ma đến Lục Tổ truyền y mới có ngôn cú. Câu: “Bản lai vô nhất vật” là Nam tông, câu: Thời thời thường phất thực là Bắc tông. Khi có thiền tông là có tụng cổ lưu hành ở đời. Người sau này trở lại mắng Phật chửi Tổ, không có việc gì mà không làm, lúc đó có người thâm đắc cách sống của nhà thơ ta. Xong gọi là Đệ nhất nghóa, đâu dùng ngôn cú. Tuyết Đậu và Viên Ngộ tâm lão bà Trương Vó Minh Viễn khơi lại đóng tro tàn, tái bản lưu hành tha thiết. Đại Tuệ cầm đuốc thiêu sạch. Ở Ngung Trung. Cũng đáng gọi là tâm lão bà tha thiết ấy vậy. Niên hiệu Đại Đức thứ 4 ( 13 0 0) năm Canh Tý, ngày mồng 8 tháng 4 Quí Sửu. Núi Tử Dương Sơn Phương Hồi Vạn Lý viết tựa. Bích Nham Lục do Viên Ngộ Đại sư trước thuật. Đệ tử lớn của Ngài là Thiền sư Đại Tuệ đốt sạch. Các pháp thế gian đều kî chấp trước, chỗ Thích Tử quy kính không ai bằng Phật, mà có khi vẫn phải quở, bởi có ta mà không có người, do ta mà không do người, bỏ mình theo vật chắc chắn phải mất chính mình. Phàm tâm và đạo là một, đạo cùng vạn vật là một, trùm khắp hư, đâu có gì mà chẳng phải đạo. Người tầm thường xem điều đó, hay thấy cái bị thấy, mà không thấy cái chẳng bị thấy. Tìm cầu nơi người, thì người nói cho. Như Đông Pha dụ mặt trời tìm qua kiếm lại càng xa càng mất. Phu tử ta, thể đạo còn muốn không nói, mà huống là nhà Phật là pháp xuất thế gian, mà có thể nơi văn tự ngữ ngôn tìm cầu được sao? Tuy nhiên cũng không thể bỏ, vì người trí ít, người ngu nhiều, người học rồi vì ít, người chưa học nhiều, Đại Tạng Kinh hơn năm ngàn quyển, đều vìø đời sau lập bày. Nếu có thể quên lời thì Đức Phật Thích- ca lẽ ra phải ngậm miệng, vì sao lại nói thao thao như thế. Lý của thiên hạ, vốn có trong tầm thường, mà vượt ra hình tướng tầm thường. Tuy dường dễ biết mà thật chưa dễ biết, không nhờ người chỉ dạy thì trọn đời không thể biết. Xưa nổi danh trong đời, chẳng phải anh hùng của ngàn người, cũng là bậc tuấn kiệt của vạn người. Kiếm Thái A là loại kiếm bén nhất trong thiên hạ, lên núi thì giết được cọp, xuống biển thì chém được rồng, người đều biết điều đó. Song người xưa có kẻ khéo dùng, leo thành mà chiến đấu, thuận gió mà vẫy vùng, ba quân vì thế mà đại bại, máu đổ ngàn dặm, thế đâu chẳng do năng sở của chính mình, lại còn nghi ngờ gì ư? Từ khi tôi nghe có quyển sách này, rất mực tìm kiếm. Họ Trương ở Ngung Trung mới khắc bản gỗ lại, đến nhờ tôi viết lời tựa, trợ giúp được thành công, lại đặt đầu trang của sách. Ngày lành tháng ba, năm Ất tî, niên hiệu Đại Đức thứ 9.Ngọc Sầm Hưu Hưu cư só, Siêu Thành Châu Trì, viết tại nhà trọ Quán Kiều sông Tiền Đường. Hỏi: Người làm thành và người thiêu hủy Bích Nham lục ai phải? Đáp: Cả hai đều phải. Từ Tổ Đạt Ma sang Đông độ riêng truyền tâm ấn, không lập văn tự, mà có các Luận thuyết Mạch, Quy không, quả thực ai làm điều đó. Cổ nhân nói: Không ở trong văn tự, mà không lìa văn tự, là lời của người thật biết, đã khiến cho mọi người cuốn rèm, nghe bản, đưa ngón tay chạm gót chân, rõ được đại sự. Nào có văn tự chi đâu? Từ việc đưa cành hoa, mỉm cười đến nay, cây phướn trước sân ngã, về sau mới liên quan đến ngôn cú, không có văn tự thì lấy gì truyền pháp , cho nên không thể bỏ vậy. Thường bảo sánh của Thiền tông là Công án, xướng từ đời Đường mà thịnh ở đời Tống đến nay vẫn còn. Hai chữ này trong thế gian là thủ trát quan đòi, cái dụng có ba: 1/ Xây mặt vào vách thành công, việc hành cước rồi một tiêu ch- uẩn cố định, loài dã hồ tinh dễ đọa, người mắt sáng khám biện, một quở một hét, cốt thấy lẽ thật, như lão quan cử ám luận tội địa ngục thấy rất rõ, tình thật không sót một mảy. 2/ Từ Lãnh Nam mới về, chưa uống nước Giang Tây, mất dê dễ khóc, kim chỉ nam trên hải bàn hướng về Nam, vì tâm từ bi tiếp dẫn một gậy, một tát cốt khiến chứng ngo, như quan Đình Úy chấp pháp, không tội thì tha, có tội thì phạt. 3/ Ăn lúa mạ khá nhiều cọc cột lừa quá chặt, chí học phải chuyên, màu tơ nhuộm dễ buồn. Đại thiện tri thức vì thế phó chúc, theo tâm chết trên bồ đoàn, một động một tham, như quan phủ ra các điều lệnh, làm cho người đọc biết luật pháp, niệm ác vừa sinh xoay trở về tịch diệt. Sách cụ phương, tạo công án, bày cơ cảnh, làm cách lệnh, với các sách thế gian Kim Khoa, Ngọc Điều, Thanh Minh, Đối Việt ban đầu nào vượt có khác. Tổ sư sở dó lập công án lưu truyền trong tòng lâm, là dụng ý như thế. Bởi vì thời mạt pháp, người cầu diệu tâm nơi giấy lau ghẻ, phó chánh pháp nơi miệng luôn bàn, điềm hết quỷ thần còn không rời sổ bộ. Đứng dựa cửa người mặc gọi anh chàng, kiếm đi rồi mà còn khắc dấu trên thuyền, thỏ chạy mất rồi mà vẫn còn ôm cây đợi, đầy bụng rối ren, hay hỏi ngôn chuyển ngữ, đối với việc lớn sinh tử vẫn không có liên quan đến. Chuông kêu tâm dứt phiền não dùng việc gì. Than ôi! Con Linh dương mọc sừng chưa thể dùng bóng hình tướng khắp tìm, người khéo học Liễu Hạ Huệ, há bước cũng được, chạy cũng chạy ư? Biết thế, ắt tâm của hai lão nhân đều đúng. Viên Ngộ thương xót con cháu quá nhiều, nên niên các bài tụng của Tuyết Đậu, Đại Tuệ tâm cứu người bị thiêu, vớt kẻ chết đuối quá năng nên đốt sạch Bích Nham. Đức Phật nói cả Đại Tạng Kinh màø nói “ Ta không từng nói một chữ”, há dối ta sao? Tâm của Viên Ngộ là tâm của Đức Phật nói kinh. Tâm của Đại Tuệ là tâm Đức Phật nói kinh, Vũ Lăng Nhan Tử dời chỗ đều như thế, xô đẩy như thế là cốt cho xe đi mà thôi. Đến nay đã hơn hai trăm năm, ở Ngung Trung, Trương Minh Viễn lại khắc bản lưu truyền sách này, có phải Tổ giáo hồi Xuân chăng? Hay đời có số chăng? Xong lưu hành sách này thật quan hệ thâm trọng như thấy nước cho là biển, nhận ngón tay làm mặt trăng, không những Đại Tuệ buồn lo, mà Viên Ngộ cũng ví họ gỡ niêm tháo chốt. Người xưa thảo chiếu có bài thơ rằng: “ Rõ ràng trên giấy Trương Công tử, Tận lực to lời gọi chẳng ừ. Muốn xem sách này, trước phải tham cứu lời đó. Rằm tháng tư, năm Giáp Thìn, niên hiệu Đại Đức thứ 15 ( 13 12). Tam giáo Lão nhân nghi. -------------------------------- VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 1 Sư trụ thiền viện Ninh Tuyền, Giáp Sơn, Lễ Châu, bình xướng Tuyết Đậu, hiển bày Hòa thượng Tụng Cổ Ngữ Yếu. KHAI THỊ:“ Cách núi thấy khói, tức biết có lửa, cách tường thấy sừng, liền biết có trâu. Nêu một rõ ba, mắt nhìn qua liền biết phân lượng, đây là việc tầm thường cơm nước trong nhà thiền. Đến như cắt đứt các dòng, Đông vọt lên Tây lặn xuống ngang dọc nghịch thuận buông nắm tự tại, chính lúc như thế. Hãy nói là chỗ hành lý của người nào? Thử xem ngôn ngữ của Tuyết Đậu. CÔNG ÁN: Lương Vũ Đế hỏi Đại sư Đạt-ma: Thế nào là Đệ nhất nghóa của Thánh đế? Đạt-ma đáp: Rỗng rang không Thánh. Vua hỏi: Người trước mặt trẫm là ai? Đạt-ma đáp: Không biết. Vua không lãnh hội. Đạt-ma liền qua sông đến đất Ngụy. Sau đó vua Vũ Đế đem việc này hỏi Chí Công. Chí Công nói: Bệ hạ có biết người này không? Vua nói: Không biết. Chí Công tâu: Đây là Đại só Quan Âm truyền tâm ấn Phật. Vũ Đế hối hận sai sứ đi thỉnh Đạt-ma trở lại. Chí Công tâu: Chẳng những bệ hạ sai sứ đi thỉnh chẳng được, cho dù cả nước đi thỉnh ông ta cũng không trở lại. GIẢI THÍCH: Đạt-ma thấy đất này có căn khí Đại thừa liền vượt biển đến, nên truyền tâm ấn, khai thị mê đồ, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Nếu thấy được như thế thì có phần tự do, không bị ngôn ngữ chuyển thoát thể hiện thành, liền ở lại cùng. Vũ Đế đối đáp, chỗ an tâm của Nhị Tổ, tự nhiên thấy được, không có một tình trần phân biệt, một dao cắt đứt thong dong tự tại, đâu cần phân đúng, phân sai, bàn bạc được mất. Tuy thế, khéo được mấy người. Vũ Đế thường khoác cà sa, giảng kinh Phóng Quang Bát-nhã, cảm được hoa trời rơi loạn ï đất biến thành vàng hiển đạo thờ Phật, ra chiếu cho thiên hạ cất chùa độ Tăng, y theo kinh giáo tu hành, mọi người đều gọi ông là Phật tâm Thiên tử. Vừa gặp Tổ Đạt-ma Vũ Đế liền hỏi: Trẫm cất chùa độ tăng có công đức gì? Đạt-ma đáp: Không có công đức. Như gáo nước lạnh tạt vào mặt. Nếu thấu được câu không có công đức này, thì bằng lòng cho ông thấy Đạt-ma. Hãy nói: “Cất chùa độ tăng tại sao không có công đức”. Ý này ở chỗ nào? Võ Đế cùng với Pháp sư Lũ Ước, Phó Đại só, Thái tử Chiêu Minh bàn luận về chân đế và tục đế. Theo trong kinh giáo nói: Chân Đế là nói rõ phi hữu, tục đế là nói rõ phi vô, chân tục không hai, tức là Đệ nhất nghóa Thánh đế, đây là chỗ huyền diệu của giáo pháp. Vua đem chỗ cực tắc đây hỏi Tổ Đạt-ma. Thế nào là Đệ nhất nghóa Thánh đế. Tổ Đạt-ma: Rỗng rang không Thánh, nạp tăng trong thiên hạ nhảy không khỏi chỗ này, Đạt-ma cho ông ta một dao cắt đứt. Ngày nay có người hiểu lầm trở lại cố tình huyễn hoặc người: Rỗng rang không có Thánh lại thích không dính líu. Tiên sư Ngũ Tổ thường nói: Chỉ rỗng rang không Thánh này, nếu người thấu đạt thì về nhà ngồi an ổn, còn bậc nhất đẳng thì giảng nói, không ngại cho ông ta đập bể thùng sơn. Tổ Đạt-ma thật kỳ đặc, cho nên nói: “Tham thấu được một câu, thì ngàn câu, vạn câu đồng thời thấu, tự nhiên quét sa- ïch phiền não, tâm được định. Người xưa nói: “Xương tan thịt nát đáp không đủ đền, một câu rõ ràng vượt trăm ức, Đạt-ma bổ thẳng vào đầu ông ta một phát, cũng đã ít nhiều lận đận. Đế không tỉnh ngộ, lại đem nhân ngã hỏi: Người đối trước mặt trẫm là ai? Tổ Đạt-ma từ bi quá lắm lại nhằm ông ta liền đáp “Không biết”, đến nỗi Vũ Đế sững sốt không biết chỗ rơi? Ấy là nói gì? Đến trong đó, có việc hay không việc, đem đến đều không kham. <詞>TỤNG: Hòa thượng Nghóa Đoan có làm bài Tụng: Nhất tiễn tầm thường lạc nhất điêu Cánh gia nhất tiễn dó tương nhiêu Trực quy Thiếu Thất phong tiền tọa Lương chúa hưu ngôn cánh khứ chiêu <詞>DỊCH: Một mũi tầm thường rớt một con Lại thêm một mũi tỏ lòng son Thẳng về thiếu thất ngồi trên đãnh Lương chúa thôi đừng có ngóng mong. Lại bảo: Ai ngóng mong vua không hiểu Đạt-ma âm thầm ra khỏi nước. Cái lão này chỉ đành bối rối. Bấy giờ, Hiếu Minh Đế đất Ngụy còn tại vị, ông là người chủng tộc người phương Bắc họ Thác-bạt, sau này mới gọi là Trung Quốc. Tổ Đạt-ma đến nước này cũng không yết kiến vua đi thẳng đến Thiếu Lâm, ngồi xây mặt vào vách chín năm, tiếp nhận Nhị tổ. Nơi xứ ấy gọi Ngài là Bích Quán Bà-la-môn. Sau đó Lương Vũ Đế hỏi Chí Công. Chí Công tâu: Bệ hạ có biết người ấy không? Vũ Đế bảo: Không biết. Hãy nói câu này cũng với câu “chẳng biết” của Tổ Đạt-ma nói như thế là đồng hay khác? Giống thì cũng giống, nhưng đúng thì không đúng. Nhiều người hiểu lầm nói: Trước kia Tổ Đạt-ma đáp ông là Thiền. Sau này Vũ Đế đáp với Chí Công, “chẳng biết” là chẳng biết nhau, thật nào có dính dáng. Lúc ấy Chí Công hỏi như thế, hãy nói: Đáp thế nào? Sao không đập một gậy tốt cho rồi chết, khỏi thấy bôi hồ trét lọ. Vũ Đế lại “ không biết”. Chí Công gặp lúc phải làm bèn nói: Đây là Đại só Quan Âm, truyền tâm ấn Phật, Đế hối hận liền sai sứ đi thỉnh lại. Thật chẳng ngại ngùng. Chính khi Chí Công nói: “Đây là Đại só Quán Âm truyền tâm ấn Phật”, cũng nên đuổi ông ta ra khỏi nước, vẫn còn khá hơn một chút. Tương truyền: Ngài Chí Công mất vào niên hiệu Thiên Giám thứ mười hai mà Tổ Đạt-ma sang Trung Quốc vào năm đầu niên hiệu Phổ Thông (5 2 0), cách nhau bảy năm, vì sao lại nói đồng thời gặp nhau. Đây ắt là sai. Theo truyện ghi: Như nay không luận việc này, chỉ cần biết đại cương thôi, vả lại nói: Đạt-ma là Quán Âm, Chí Công là Quán Âm thì ai là Quán Âm thật? Đã là Quán Âm vì sao lại có đến hai người, vì sao chỉ hai người mà thành đoàn kết đội. Thời Hậu Ngụy luật sư Quang Thống, Tam Tạng Bồ-đề-lưu-chi cùng Tổ Đạt-ma luận bàn, Tổ bài bác tướng, chỉ thẳng tâm, các vị này tâm lượng còn hẹp hòi, tự không kham nhiệm, dấy khởi tâm hại, nhiều lần để thuốc độc. Đến lần thứ sáu, do hóa duyên đã hết, đã được người truyền pháp nên không cần cứu nữa. Tổ ngồi yên mà tịch, được nhập tháp trên núi Hùng Nhó. Chùa Định Lâm thời Hậu Ngụy Tống Vân đi sứ đến núi Thông Lãnh, gặp Tổ tay quảy chiếc dép đi về Tây. Vũ Đế nhớ lại, tự soạn bia văn rằng: “Than ôi! Thấy đó mà không thấy, gần đó mà không gần, gặp đó mà không gặp, kim ấy, cổ ấy, oán ấy hận ấy. Lại tán: Tâm có vậy, nhiều kiếp mang thân phàm phu, tâm không vậy, trong khoảng sát-na liền lên Diệu giác. Hãy nói: Đạt-ma nay ở nơi nào? ( 14 1) sai làm cũng không biết. <詞>TỤNG: Thánh Đế khoánh nhiên Hà đương biện đích Đối trăm giả thùy? Hoàn vân bất thùy? Hoàn vân bất thức Nhân tự ám độ giang Khởi miễn sanh kinh cứu Hạp quốc nhân truy bất tái lai Thiên cổ vạn cổ không tương ức Hưu tương ức Thanh phong tập địa hữu hà cực. Thánh đế rỗng thênh Làm sao biện trúng Đối trẫm là ai? Lại bảo chẳng biết Nhân đây ngầm sang sông Há khỏi sanh gai góc Người cả nước mời chẳng trở về Muôn đời ngàn nhớ nhau rỗng Thôi nhớ nhau Gió mát khắp nơi nào có tột. Sư quay nhìn chung quanh nói: “Ở đây có Tổ Sư chăng?” Tự nói: “Có!” Gọi đến rửa chân cho Lão tăng” Cứ theo lời tụng công án này của Tuyết Đậu, giống như người giỏi múa kiếm Thái A, hươi lên hư không thênh thang mà không chạm đến lưỡi bén. Nếu người không có thủ đoạn này, vừa nắm đến liền chạm lưỡi đứt tay. Nếu là người có mắt sáng, thấy sư một đưa ra, một rút lại, một khen, một chê, chỉ dùng bốn câu, đủ quyết định một tắc công án. Đại khái Tụng cổ chỉ là “ nhiễu lộ nơi thiền”. Niên cổ đại cương, là “cứ khoản kết án” mà thôi. Tuyết Đậu vì ông ta, lôi ra bổ vào đầu liền nói: “Khuyếch nhiên, hà đương biện đích Thánh đế”. Tuyết Đậu ngay đầu hạ câu này, rất độc đáo. Hãy nói, cuối cùng làm sao biện trúng. Dù mắt sắt mắt tròng đồng, cũng tìm không được. Đến đây, dùng tình thức để suy đoán được không? Cho nên Vân Môn nói: Như chọi đá nháng lửa, như làn điện chớp, một cái này không rơi vào cơ tâm, ý thức, tình tưởng, đợi ông mở miệng, kham làm gì? Khi khởi so sánh thì đã quá xa rồi. Tuyết Đậu nói: Nạp tăng khắp nơi làm sao biện trúng. “Đối trẫm giả thùy” lại bảo Hoàn vân bất thức. Đây là Tuyết Đậu rất mực từ bi vì người mà lập lại. Hãy nói: “Rỗng rang” và “không biết” là một loại hay hai loại? Nếu là người đã liễu ngộ thì không nói mà hiểu, người chưa liễu ngộ thì nhất định, cho là hai, mọi người khắp nơi tầm thường đều nói Tuyết Đậu một phen chỉ. Đâu không biết, chỉ bốn câu tụng đã tột công án. Sau này vì lòng từ bi, tụng ra sự tích, Nhân tự ám độ giang, khởi miễn sanh kinh ức. Tổ Đạt-ma đến đất này vì gỡ niêm mở trói, nhổ đinh tháo chốt, dẹp trừ gai gốc. Không chỉ người thời bấy giờ mà người đời nay gót chân vẫn lún sâu mấy trượng Hạp quốc nhân truy bất tái lai. Thiên cổ vạn cổ không tương ức, không trượng phu. Hãy nói Đạt-ma ở nơi nào? Nếu thấy Đạt-ma, thì thấy chỗ rốt sau vì người của Tuyết Đậu. Tuyết Đậu sợ người theo cái thấy phàm tình, cho nên rút hẳn cây chốt cửa, bày mình, nói: Hưu tương ức Thanh phong táp địa hữu hà cực”. Đã dứt cái nghó, việc dưới gót chân ông là cái gì? Tuyết Đậu nói: Chính nay gió mát khắp nơi trên trời dưới trời chỗ nào thiếu? Tuyết Đậu nắm việc ngàn xưa muôn xưa ném đến trước mặt. Chẳng những Tuyết Đậu đương thời chỗ nào thiếu? Mà trên Sư lại sợ người chấp ở đây, lập lại phương tiện lớn tiếng nói: Ở đây có Tổ sư không. Tự đáp “có”. Tuyết Đậu ở trong ấy không ngại, vì người lòng son từng mãnh. Lại tự nói: “Gọi đến rửa chân cho Lão tăng giảm hết uy quang người. Đương thời đã làm đầy đủ bổn phận. Thử nói: Ý Tuyết Đậu ở chỗ nào? Đến đây gọi là lừa cũng đúng, gọi là ngựa cũng được, Danh mạo thế nào? Người thường bảo Tuyết Đậu sai sử Tổ sư, đáng tức cười không dính dáng. Hãy nói: Cuối cùng là thế nào? Chỉ cho Lão Hồ biết, không cho Lão Hồ hiểu. KHAI THỊ: Càn khôn chật hẹp, mặt trời trăng sao đồng thời tối. Dù cho gậy đánh như mưa trút, hét tựa như sấm rền cũng chưa đảm đang được việc được hướng thượng trong Tông thừa. Giả sử chư Phật ba đời chỉ có thể tự biết, lịch đại Tổ sư đồng đề chẳng lên. Một đại Tạng giáo chú giải cũng không nỗi. Nạp tăng mắt sáng tự cứu không xong. Đến đây làm sao thưa hỏi? Nói một chữ Phật đã phết bùn dính nước, nói một chữ thiền đã hỗ thẹn đầy mặt. Bậc Thượng só cữu tham không đợi nói điều này kẻ hậu học sơ cơ cần phải nghiên cứu. CÔNG ÁN: Triệu Châu dạy chúng: Chí đạo không khó, chỉ hiềm lựa chọn, vừa có ngữ ngôn, là chọn lựa hiểu? Lão tăng không hiểu, các ông có tiếc giữ không? Bấy giờ có vị tăng hỏi: Đã không hiểu thì tiếc giữ cái gì? Triệu Châu: Ta cũng không biết. Tăng: Hòa thượng đã không biết, vì sao lại nói không hiểu? Triệu Châu bảo: Hỏi việc thì được, lễ bái rồi lui. GIẢI THÍCH: Hòa thượng Triệu Châu bình thường nêu thoại đầu này “chỉ tại hiềm chọn lựa”, chỗ này Tín Tâm Minh của Tam Tổ nói: “Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, chớ nên yêu ghét, rõ ràng minh bạch, vừa có lựa chọn là minh bạch, hiểu như thế là quá sai rồi, giảo đính dán keo kham làm việc gì? Triệu Châu: Là chọn lựa hay là hiểu: Như nay tham thiền hỏi đạo, không ở trong chọn lựa, liền ngồi trong hiểu. Lão tăng không ngồi trong hiểu. Các ông có tiếc giữ hay không? Đã không ở trong minh bạch hãy nói Triệu Châu ở chỗ nào? Vì sao lại dạy người tiếc giữ? Tiên Sư Ngũ Tổ thường nói: Duỗi tay khỏi ông, ông làm sao hiểu? Hãy nói thế nào là chỗ duỗi tay? Hiểu lấy ý đầu lưỡi câu, chớ nhận tiêu chuẩn cố định. Câu hỏi của vị Tăng này quả là kỳ đặc, nắm Triệu Châu ở trong không liền tát. “ Đã không ở chỗ minh bạch thì tiếc giữ cái gì?” Triệu Châu không dùng gậy, dùng tiếng hét. Chỉ nói “ta cũng không biết”. Nếu không phải lão này, bị ông ta tát trúng liền quên trước mất sau, nhờ Lão tăng có chỗ an nhiên tự tại, cho nên đáp được như thế. Như Thiền tăng thời nay có hỏi đến cũng nói, “ta cũng không biết, không hiểu”, đây là cùng đường mà khác lối. Vị Tăng này có chỗ kỳ đặc mới biết hỏi: “ Hòa thượng đã không biết, vì sao lại nói không ở trong minh bạch”, lại khéo tát một cái. Nếu là người khác, thì quên hết đầu đuôi. Triệu Châu là bậc tác gia chỉ nói với y: “Hỏi việc thì được lễ bái rồi lui”. Vị Tăng này không làm gì được lão ấy, chỉ đành nuốt hơi ngậm miệng. Đây là bậc Đại thủ Tông sư, không cho ông lu- ận bàn huyền diệu, luận cơ, luận cảnh một bề lấy việc bổn phận tiếp người. Cho nên nói mắng ông tiếp lời, khặc nhỗ cho ông tạt nước. Thật không biết lão này bình sinh không dùng gậy, hét để tiếp người, chỉ dùng ngôn ngữ bình thường, mà mọi người không làm gì được. Bởi vì bình sanh ( 14 2) lão không có tính toán nhiều. Cho nên nắm ngang dùng ngược, nghịch hạnh thuận hạnh, được đại tự tại. Người thời nay không hiểu được, mặc dù nói Triệu Châu không đáp lời, không nói cho người. Trước mặt sai lầm. TỤNG: Chí đạo không khó, lời đúng câu đúng. Một có nhiều thứ, chỉ một loại, có chỗ gì rõ. Hai không hai ban. Chí đạo vô nan Ngôn đoan ngữ đoan Nhất hữu đa chủng Nhị vô lưỡng ban Thiết tế nhật thượng nguyệt hạ Hạm tiền sơn thâm thủy hàn Độc lâu thực tận hỉ hà lập Khô mọc long ngâm tỏa vị hàn Nan nan Giản trạch minh bạch quân tự khan. Bên trời nhật lên nguyệt xuống Trước lam nước lạnh núi sâu Đầu lâu thức hết hỉ nào lập Cây khô trổi nhạc xích chưa cùng. Khó khó, chọn lựa, hiểu anh tự xem. <詞>TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu biết chỗ rơi của lão, cho nên tụng. “Chí đạo không khó”, theo sau liền nói đầu “ Lời đúng câu đúng”. Dở một góc ba góc đều theo. Tuyết Đậu nói: “Một có nhiều thứ, hai không hai bảng” giống như ba góc trở lại một góc, ông hãy nói chỗ “lời đúng câu đúng”. Tại sao một lại có nhiều thứ, hai lại không có hai ban? nếu không có mắt sáng thì tìm ở đâu? Nếu thấu được hai câu này, thì người xưa nói đã nhồi thành một khối, như xưa thấy núi là núi, sông là sông, dài là dài, ngắn là ngắn, trời là trời, đất là đất, có khi gọi trời là đất, có khi gọi đất là trời, có khi gọi núi là sông, có khi gọi sông là núi. Cuối cùng làm sao được bình yên. Gió lay cây động, sóng nổi thuyền cao, Xuân sinh Hạ trưởng, Thu thâu Đông tàng. Một thứ tâm an lặng lẽ vắng bặt, thì bốn câu tụng này tuyệt hay, Tuyết Đậu có thừa tài, cho nên phân chia, đúc kết, toán ra, chỉ là trên đầu thêm đầu. Nói “Chí đạo không khó, lời đúng câu đúng”, một có nhiều thứ, hai không hai ban. Tuy không nhiều việc, mà trên trời khi mặt trời mọc thì mặt trăng lặn, trước lam khê núi sâu thì nước lạnh. Đến đây thì lời cũng đúng, câu cũng đúng. Tất cả là đạo, vật vật đều là chân, há không phải là tâm cảnh đều quên, nhồi thành một khối. Tuyết Đậu phía trước đội ngọn cô phong, phía sau là đuôi không ít. Nếu người tham thấu, tự nhiên giống thượng vị đề hồ. Nếu người tình giải chưa quên thì thấy lúng ta lúng túng, nhất định không thể hiểu được lời nói như thế. Đầu lâu biết hết hỉ nào lập. “Cây khô trổi nhạc xích chưa cùng” đây chỉ là chỗ qua lại thêm sáng tỏ. Tăng hỏi thế này. Triệu Châu đáp thế kia. Triệu Châu nói: Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, vừa có ngôn ngữ, là chọn lựa, là hiểu. Lão tăng không hiểu thì ông có tiếc giữ không? Bấy giờ có vị tăng ra hỏi: Đã không hiểu lại tiếc giữ cái gì? Triệu Châu nói: Ta cũng không biết. Tăng thưa: Hòa thượng đã không biết, vì sao lại nói không hiểu? Triệu Châu: Hỏi việc thì được, lễ bái rồi lui. Đây là công án người xưa hỏi đạo. Tuyết Đậu kéo ra quán xuyên tụng: “Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa”. Như người nay không hiểu ý người xưa, chỉ cứ ngậm lời nhai câu, biết bao giờ liễu ngộ. Nếu hàng tài giỏi thông phương mới có thể biện được lối nói này. Đâu không thấy Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Hương Nghiêm: Trong cây khô trỗi nhạc Tăng hỏi: Thế nào là người trong đạo? Hương Nghiêm: Con mắt trong đầu lâu. Sau đó có vị Tăng đến hỏi Thạch Sương: Thế nào là trong cây khô trổi nhạc? Thạch Sương: Còn kẹt hỉ. Thế nào là con mắt trong đầu lâu? Còn kẹt thức. Tăng lại hỏi Tào Sơn: Thế nào là trong cây khô trổi nhạc? Huyết mạch không dứt. Thế nào là con mắt trong đầu lâu? Khô không hết. Người nào được nghe? Tào Sơn: Cả đại địa mọi người đều nghe. Tăng hỏi: Không rõ rồng ngâm là chương cú gì? Tào Sơn: Không biết là chương cú gì mà người nghe đều mất ma- ïng. Lại có Tụng rằng: Khô mộc long ngâm chân kiến đạo Độc lâu vô thức nhãn sơ minh Hỉ thức tận thời tiêu tức tận Đương nhân na biện trọc trung thanh Dịch: Cây khô trổi nhạc thật thấy được đạo Đầu lâu không thức mắt vừa sáng Hỉ thức hết rồi tin tức hết Người đời nào biện trong trong đục. Tuyết Đậu có quả là tay cự phách, một lúc cùng với ông tổng hợp Tụng ra. Tuy thế, đều không có hai thức. Tuyết Đậu sau đó có chỗ vì người nói: “khó khó”. Chỉ hai chữ “khó khó” này cũng phải thấu qua mới được. Vì sao? Bách Trượng nói: tất cả ngôn ngữ, sơn hà đại địa, mỗi mỗi đều xoay về với mình. Tuyết Đậu tung ra rút lại, cuối cùng phải trở về với chính mình. Hãy nói: Chỗ nào là chỗ Tuyết Đậu vì người? “Chọn lựa rõ ràng anh tự xem”. Đã là sắn bìm tại sao tụng rồi lại nói: “Anh tự xem”. Khéo bày vẽ dạy may ông tự xem. Hãy nói, ý rơi vào chỗ nào? Chớ nói mọi người hiểu không được. Giả sử Sơn tăng đến trong ấy cũng chỉ là hiểu không được. KHAI THỊ: Một cơ một cảnh, một lời một câu, vẫn mong có chỗ vào. Trên da thịt lành khoét thành thương tích thành hang, thành ổ, đại dụng hiện tiền không còn cơ tắc. Lại mong biết có việc hướng thượng, bao trùm trời đất, lại tìm tòi không được. Như thế cũng được, không như thế cũng được, thật bé nhỏ thay! Như thế cũng không được, không như thế cũng không được, rất cao vót thay. Không kẹt được hai đường, làm sao mới đúng, xin thử nêu xem? CÔNG ÁN: Mã Đại sư bệnh, Viện chủ đến thăm hỏi: Hòa thượng thân thể thế nào? Mặt trời Phật, mặt trăng Phật. Mã Đại sư bất an Viện chủ hỏi: Mấy ngày này thân thể Hòa thượng thế nào? Mặt trời Phật, mặt trăng Phật. Bậc Tổ sư nếu không hãy việc bổn phận thấy nhau thì làm sao đạo này được chói rạng. Công án này nếu biết chỗ rơi là riêng bước trong hư không. Nếu không biết chỗ rơi thì thường thấy cây khô trước núi vẫn còn lầm đường. Nếu là bổn phận Tông sư đến đây phải có thủ đoạn, cướp trâu của người cày, đoạt cơm của người đói, mới thấy chỗ vì người của Mã Đại sư. Hiện nay có nhiều người nói: Mã Đại sư tiếp viện chủ nực cười không dính líu. Nay ở trong chúng phần nhiều hiểu lầm. Trừng mắt nói: Ở đây mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng, thật chẳng có liên quan chút nào. Đến năm lừa cũng chưa mộng thấy, chỉ làm sai lầm việc của người xưa. Đến như Mã Đại sư nói như thế, ý ở chỗ nào? Có người nói: Rót cho một chén thuốc đau bụng, có lỗ mũi gì?. Đến đây làm sao được bình yên. Cho nên nói: Con đường hướng thượng ngàn Thánh không truyền, học giả nhọc hình như khỉ chuyền cành, chỉ mặt trời Phật, mặt trăng Phật, rất là khó thấy. Tuyết Đậu đến đây cũng là khó tụng, song vì thấy thấu được, nên Sư dụng hết công phu trong lúc bình sinh, chỉ chú ra, mọi người muốn thấy Tuyết Đậu không? Hãy xem văn sau đây: Nhật diện Phật, nguyệt diện Phật Ngũ đế, Tam hoàng thị hà vật? Nhị thật niên lai tằng khổ thân Vị quán kỷ hạ thương long quật Khuất, kham quật thuật Minh nhãn nạp tăng mạc khinh hốt. Dịch: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật, Ngũ đế Tam hoàng ( 14 3) là vật gì? Hai mươi năm lại từng cay đắng, vì anh bao phen xuống hang rồng, cúi com nơi nạp tăng mắt sáng chớ xem thường. <詞>GIẢI TỤNG: Khi Thần Tông tại vị, tự cho bài tụng này là nói mát nước nhà nên không cho vào đại tạng Kinh. Tuyết Đậu trước niên: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật, lại nói: “Ngũ đế tam hoàng là vật gì?” Hãy nói: Ý Thuyết Đậu thế nào? Chính đã nói rồi. Liền đó chú thích lý do: “ Thả câu bốn biển, chỉ câu rồng to”. Một câu này đã rõ. Phần sau Tuyết Đậu tự tụng ra lý do bình sanh dụng tâm tham tầm, “hai mươi năm lại từng cay đắng, vì anh bao phen xuống hang rồng”. Giống cái gì? Giống như người xuống hang rồng lấy hạt ngọc. Sau lại đập vỡ thùng sơn, sẽ bảo là thật độc đáo? Trước sau chỉ tiêu được câu: “Ngũ đế Tam hoàng là vật gì? Hãy nói: Lời Tuyết Đậu rơi vào chỗ nào? Phải tự lui lại xem, mới thấy được chỗ Sư rơi. Há không thấy thị giả Hưng Dương Phẩu trả lời câu hỏi của Viễn Lục Công: Rồng Ta-kiệt ra khỏi biển, càn khôn động, thấy mặt nhìn trình nhau việc thế nào? Hưng Dương Phẩu đáp: Chim cánh vàng ở trong vũ trụ, trong đó ai là người xuất đầu? Viễn Công hỏi: Bỗng gặp xuất đầu lại thế nào? Phẩu: Như cáp bắt chim cưu. Anh không tin trước đầu lâu nghiệm mới biết thật. Viễn: Như thế thì cúi mình bày ngực, thoái thân ba bước. Phẩu: Con Rùa đen Dưới tòa Tu-di, chớ đợi gỏ đầu mới thoái lui. Ngũ đế Tam Hoàng là vật gì, phần nhiều người ta không thấy được ý của Tuyết Đậu. Chỉ biết nói mát nước nhà. Nếu hiểu như thế chỉ là cái thấy phàm tình. Đây chính là Tụng Công Tử Hạnh của ngài Thuyền Nguyệt nói: Áo gấm theo hoa tay cầm cáp, Nhàn đi dáng mạo càng thư thả Gặt lúa gian nan có biết chi, Ngũ đế Tam hoàng là vật gì. Tuyết Đậu nói: Cúi, cam nói, “nạp tăng mắt sáng chớ xem thường”. Nhiều người ở trong hang rồng tìm kế sống. Dù cho trên có mắt, trong khuỷu tay có linh phù, nạp tăng mắt sáng soi khắp tứ thiên hạ. Đến đây cũng chớ xem thường, phải là ông cẩn thận mới được. KHAI THỊ: Thanh thiên bạch nhật không được chỉ Đông vẽ Tây, thời tiết nhân duyên cần phải tùy bệnh cho thuốc. Hãy nói: buông cũng tốt, nắm cũng tốt, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Đức Sơn đến Qui Sơn, mặc áo kép lên pháp đường. Từ Đông sang Tây, từ Tây qua Đông, quay nhìn nói: Không! Không! Rồi đi ra. Tuyết Đậu trước ngữ: Khám phá xong. Viêm Ngộ: Lầm, quả nhiên! Đức Sơn ra đến cửa lại nói: Cũng không được lôi thôi. Bèn đầy đủ oai nghi mới vào ra mắt. Qui Sơn ngồi yên. Đức Sơn đưa tọa cụ lên nói: Hòa thượng! Qui Sơn định nắm lấy cái phất trần. Tuyết Đậu trước ngữ khám phá xong. Viên Ngộ: Lầm! Quả nhiên! Đức Sơn quay lưng lại pháp đường, mang giày cỏ liền đi. Đến chiều Qui Sơn hỏi Thủ Tòa: Người vừa đến khi nãy ở đâu? Thủ Tòa: Khi ấy ông xây pháp đường, mang giày cỏ đi ra. Qui Sơn nói: Giả này về sau lên đỉnh Cô Phong dựng chiếu am cỏ quở Phật mắng Tổ. Tuyết Đậu trước ngữ: Trên tuyết thêm sương. (Viên Ngộ lầm), quả nhiên. GIẢI THÍCH: Giáp Sơn hạ ba “chữ điểm”, mọi người có biết không? Có khi lấy một cọng cỏ dùng làm thân vàng một trượng sáu. Có khi lấy thân vàng trượng sáu dùng làm một cọng cỏ. Đức Sơn vốn là giảng Sư, giảng kinh Kim Cang ở Tây Thục. Trong Kinh nói: “Kim Cang Dụ Định, trong Hậu Đắc Trí phải, ngàn kiếp học oai nghi Phật, muôn kiếp học tế hạnh Phật, sau mới thành Phật”. Thế mà những con phương Nam (Thiền Sư) bèn nói “Tức tâm tức Phật”, Đức Sơn phát giận, gánh Bộ sớ sao đi hành cước, thẳng đến phương Nam phá bọn ma. Xem ông phát giận như thế, cũng là kẻ hung tợn. Ban đầu ông đến Lễ Châu, trên đường gặp bà lão bán bánh, mới thả gánh kinh xuống, mua bánh ăn điểm tâm. Bà lão: Ông gánh vật gì đó? Đức Sơn đáp: Kinh Kim Cang Sớ Sao? Bà lão hỏi: Tôi có một câu muốn hỏi, nếu Hòa thượng trả lời được thì tôi cúng dường bánh điểm tâm, bằng không được thì xin mời đi nơi khác mua. Đức Sơn bảo: Cứ hỏi. Bà lão hỏi: Kinh Kim Cang nói: Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Vậy Thượng tọa điểm tâm nào? Đức Sơn câm lặng. Bà bèn chỉ đến tham vấn với Long Đàm. Vừa tới cửa Sơn liền hỏi: Nghe danh Long Đàm lâu mà đến đây “Đàm” lại không thấy, “Long” cũng không hiện. Hòa thượng Long Đàm ở trong nhà bước ra nói: Ông đến gần Long Đàm! Sư liền đãnh lễ liền lui ra. Đến nửa đêm Sơn vào thất đứng hầu, canh đã khuya. Long Đàm nói: Sao Ngài không đi ngủ đi. Sơn liền trân trọng vén rèm đi ra, nhìn thấy bên ngoài trời tối đen. Sơn trở lại nói: Bên ngoài trời tối đen, Long Đàm lấy cây đèn đưa cho Đức Sơn. Đức Sơn vừa cầm, Long Đàm liền thổi tắt. Đức Sơn bỗng tỉnh ngộ, lễ bái Long Đàm. Long Đàm: Ông thấy cái gì mà lễ bái? Đức Sơn: Con từ nay về sau không còn nghi đầu của các Hòa thượng trong thiên hạ. Hôm sau Long Đàm Thượng đường nói: Trong đây có kẻ răng như cây kiếm, miệng tơ chậu máu, đánh một gậy không quay đầu, ngày sau sẽ lên đỉnh Cô Phong lập nên đạo của ta. Đức Sơn bèn đem Sớ sao ra trước pháp đường nổi lửa đốt nói: Cùng các huyền biện, như một sợi lông ném trong hư không, tột chỗ khôn khéo của đời, như một giọt nước nhỏ xuống hồ to, nói xong Sư liền đốt sạch. Sau khi nghe Qui Sơn giáo hóa hưng thịnh. Đức Sơn đến Qui Sơn tức là tác gia gặp nhau. Đến nơi chiếc bị Sư cũng không cởi, đi thẳng lên pháp đường, từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông ngoái nhìn nói: Không! Không! Bèn đi ra. Hãy nói: Ý thế nào? Có phải điên không? Nhiều người lầm hiểu cho là kiến lập, hoàn toàn không dính líu. Xem ông thế ấy, quả là kỳ đặc. Cho nên nói: Xuất chúng phải là kẻ anh linh, thắng địch chính là con sư tử. Thi Phật, nếu không có con mắt như thế, dù trải ngàn năm cũng chẳng làm gì? Đến đây phải là thông phương tác giả mới thấy được. Vì sao? Phật pháp không có nhiều việc, ở đâu mang lầm tình kiến. Đó là tâm cơ họ rối rắm sanh nhiều thứ nhọc nhằn. Do đó Huyền Sa nói: Giống như bóng trăng thu dưới đầm, tiếng chuông đêm vắng, tùy đánh tùy động mà không thiếu, chạm sống sóng mà không tan, đây vẫn là việc bên bờ sinh tử. Đến ( 14 4) đây cũng không được mất, thị phi, cũng không có huyền diệu độc đáo. Nếu không có huyền diệu độc đáo thì làm sao biết ông ta từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông. Hãy nói Ý thế nào? Lão Qui Sơn cũng không quản ngại ông ta. Nếu không phải là Qui Sơn cũng bị ông ta bẻ gãy rồi. Xem ông ta và Qui Sơn là tác gia gặp nhau, mặc dù ngồi xem thắng bại, nếu không biện sâu đến Tông phong thì đâu có thể như thế. Tuyết Đậu trước ngữ: Khám phá rồi, giống như cọc sắt, trong chúng cho đó là lời bình. Tuy nhiên tại hai bên lại không đứng vào hai bên. Tuyết Đậu làm sao biết được ông ta nói “khám phá rồi”. Chỗ nào là chỗ khám phá. Hãy nói khám phá Đức Sơn hay khám phá Qui Sơn. Đức Sơn liền đi ra cửa, cần phải nhổ gốc, tự nói: Cũng không được lôi thôi, cần phải cùng với Qui Sơn vạch, ngũ tạng tâm cang, một bãi pháp trường. Lại đầy đủ oai nghi mới trở lại gặp nhau. Qui Sơn ngồi yên, Đức Sơn đưa tọa cụ nói: “Hòa thượng! Qui Sơn toan nắm cây phất trần, Đức Sơn liền hét, phủi tay áo mà đi ra. Thật là kỳ đặc. Trong chúng nhiều người nói: “Qui Sơn sợ Đức Sơn gì có dính líu. Qui Sơn cũng không bận. Cho nên nói: Trí hơn cầm thú nên được làm cầm thú, trí hơn người nên được làm người. Tham được loại thiền này dù cả đại địa sum-la vạn tượng, thiên đường, địa ngục, cỏ cây con người, súc vật, đồng thời một tiếng hét, ông ta cũng không quản, lật đỗ giường thiền, hét tan đại chúng cũng không nhìn lại, cao như trời, dày như đất. Qui Sơn nếu không quét sạch thoại đầu của người trong thiên hạ, khi ấy nghiệm ông ta cũng rất khó. Nếu không phải là một ngàn hai trăm năm mươi ( 1. 250) thiện tri thức thì đến đây phân chia cũng khó rành rõ. Qui Sơn là người ngồi trong buồng the tính toán mà thắng được kẽ địch bên ngoài ngàn dặm, Đức Sơn xây lưng pháp đường mang giày cỏ liền đi ra. Hãy nói ý thế nào? Ông nói Đức Sơn hơn hay thua? Qui Sơn như thế là hơn hay thua? Tuyết Đậu trước ngữ: Khám phá rồi là ông hạ công phu, thấy được chỗ tột cùng sâu sắc của người xưa, mới có cái kỳ đặc như thế, quả thật độc đáo. Tuyết Đường nói: Tuyết Đậu đặt hai cái khám phá, chia làm ba đoạn mới rõ công án này. Giống như người bàng quan phán đoán hai người chiến đấu. Quy Sơn đến chiều tối mới hỏi Thủ tọa: Người mới vừa khi nay ở đâu? Thủ Tòa: Khi ấy ông ta quay lưng pháp đường mang giày cỏ đi ra. Qui Sơn: Gã này về sau lên đỉnh Cô Phong, dựng am cỏ mắng Phật quở Tổ. Hãy nói Ý chỉ của ông ta thế nào? Lão Qui Sơn không phải hảo tâm. Về sau Đức Sơn mắng Phật chửi Tổ, làm gió làm mưa, vẫn không ra, khỏi hang quỉ của Qui Sơn, bị lão này thấy thấu bình sanh chi tiết. Đến đây gọi là Qui Sơn thọ ký cho Đức Sơn được không? Nói là đầm to chứa núi lý hay đẹp cọp được không? Nếu như thế thật buồn cười không dính dáng, Tuyết Đậu biết được chỗ rơi của công án, dám cùng với ông phán đoán. Lại nói: “ Trên tuyết thêm sương”. Lập lại nêu lên cho người thấy. Nếu thấy được thì bằng lòng cho ông cùng Qui Sơn, Đức Sơn Tuyết Đậu đồng tham. Nếu không thấy, được thì tối kî không cho sinh tình giải. <詞>TỤNG: DỊCH: Nhất khám phá Nhị khám phá Tuyết thượng gia sương tằng hiểm đọa Phi kî tướng quân nhập Lỗ đính Tài đắc hoàn toàn năng kỹ cá. Cấp tẩu quá Bất phóng quá Cô phong đãnh thượng thảo lý tọa Đốt! Một khám phá. Hai khám phá. Trên tuyết thêm sương từng hiểm đọa Phi dạy hướng quân vào Lỗ Đình. Về được hoàn toàn hay mấy kẻ chạy nhanh qua, chẳng bỏ qua. Trên đỉnh Cô Phong ngồi trong cỏ. Ối! TỤNG GIẢI: Vì sao thế? “Vì rắn rồng dễ biện, thiền tăng khó lừa”. Tuyết Đậu tham thấu công án này chỗ chi tiết khúc mắc đặt ba câu, go, lại tụng ra: “Trên tuyết thêm sương từng hiểm đọa”. Đến như Đức Sơn giống ai? Giống Lý Quảng bẩm tánh bắn giỏi, Thiên tử phong cho làm tướng quân Phi Kî, vào sâu triều đình nước Lỗ, bị Đơn Vu bắt sống. Bấy giờ Lý Quảng bị thương, quân giặc cột dây giữa hai con ngựa để Lý Quảng nằm chở đi. Lý Quảng giả bộ chết, thấy bên cạnh có một người Hồ ngã cưỡi con ngựa giỏi, Lý Quảng vung mình lên lưng ngựa xô người Hồ ngã xuống, cướp lấy cung tên, quất ngựa chạy về Nam, giương cung bắn lui những kẻ đuổi theo, nhờ đó được thoát. Kẻ này có thủ đoạn như thế, nếu trong chết được sống, Tuyết Đậu dẫn vào trong bài tụng, để so sánh Đức Sơn tái yết kiến Qui sơn, như trước bị Qui Sơn mà nhảy ra được. Xem cổ nhân thì thấy đến, nói đến, hành đến, dụng đến, quả là bậc anh linh, có tư cách giết người không nháy mắt, mới có thể đứng kham thành Phật. Có người liền đó thành Phật, tự nhiên có tư cách giết người không chớp mắt mới có phần tự do tự tại. Hiện nay có người hỏi đạo, sờ trên đầu dường như khí khái của nạp tăng, vừa đảnh nhẹ thì lưng gãy đùi đứt bảy phần tám mãnh, không còn một chỗ nào dính liền. Cho nên người xưa nói: “Tương tục cũng rất khó. Xem Qui Sơn Đức Sơn như thế, há là kiến giải lăng xăng? Lại hoàn toàn có được mấy người? “Chạy nhanh qua” Đức Sơn hét một tướng bèn đi ra. Giống như Lý Quảng bị bắt, sau lập kế, bắn một mũi tên giết một tướng Phiên, chạy ra khỏi triều đình nước Lỗ. Tuyết Đậu tụng đến đây rất có công phu. Đức Sơn xây lưng pháp đường mang giày cỏ đi ra, là nói lên được cái tiện nghi. Đâu biết, lão này như trước không cho người xuất đầu. “ chẳng bỏ qua”. Đến chiều Qui Sơn đến chiều hỏi Thủ Tọa: Người vừa đến khi nãy ở đâu?? Thủ Tòa thưa: Ngay lúc đó, ông ta đã xây lưng về pháp đường mang giày cỏ đi ra. Qui Sơn nói: Sau này gã đó sẽ lên đỉnh Cô Phong dựng am cỏ mắng Phật chửi Tổ. Đâu từng bỏ qua, quả là độc đáo. Đến đây Tuyết Đậu vì sao nói “trên đỉnh Cô Phong ngồi trong cỏ”. Lại hét một tiếng, hãy nói: Rơi vào chỗ nào? Phải tham vấn ba mươi năm. KHAI THỊ: Phàm dựng lập Tông giáo phải là kẻ anh linh, có tư cách giết người không chớp mắt, mới có thể ngay đó thành Phật. Cho nên chiếu dụng đồng thời, co duỗi đều xướng, lý sự chẳng hai, quyền thật đều hành, cởi mở một phen, kiến lập nghóa môn thứ hai, dù cắt đứt rối ren, hậu học sơ cơ khó mà khế ngộ. Hôm qua như thế, việc không thành. Ngày này lại như thế tội hơn trời. Nếu là người mắt sáng một điểm ông ta cũng không được. Hoặc chưa như vậy, duỗi thân trong miệng cọp không khỏi tiêu thân mất mạng, thử nêu xem! CÔNG ÁN: Tuyết phong dạy: Chúng khắp đại địa thâu tóm lại như hạt thóc, ném trước mặt, chẳng hiểu thùng sơn, đánh trống phổ thỉnh xem. GIẢI THÍCH: Trường Khánh hỏi Vân Môn: Tuyết Phong nói như thế còn có chỗ xuất đầu không? Vân Môn: Có. Trường Khánh: Làm thế nào? Vân Môn: Không thể đều làm kiến giải của Dã hồ tinh. Tuyết Phong nói: Xấp trên không đủ, xấp dưới có dư, tôi sẽ vì ông làm sắn bìm. Sư cầm gậy đưa lên nói: Có thấy Tuyết Phong không? Quát! Lệnh vua hơi nghiêm, không cho cướp giựt người đi chợ. Đại Quy Triết nói: Ta lại cho ông trên đất thêm bùn. Sư cầm gậy đưa nói: Xem lên! Xem! Tuyết Phong đem phân đến trước mặt mọi người quát, vì sao phân thối mà không biết? Tuyết Phong dạy chúng: Cả quả đất nắm lại lớn bằng hạt gạo. Người xưa tiếp vật lợi sinh, có chỗ kỳ đặc, chỉ là không ngại khổ nhọc. Sư ba phen Đầu Tử, Chín lần đến Động Sơn, mang thùng thông đến nơi làm trưởng, cũng vì thấu thoát việc này. Khi đến Động Sơn làm trưởng trai phạn. Một ngày nọ, Động Sơn hỏi Tuyết Phong: Làm gì? Tuyết Phong: Đãi gạo. Động Sơn: Đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát? Tuyết Phong: Cát gạo đều bỏ. Động Sơn: Đại chúng lấy gì ăn? Tuyết Phong: Liền úp chậu lại. Động Sơn: Ông có nhân duyên với Đức Sơn, liền chỉ đường đến yết kiến. Vừa đến Đức Sơn liền hỏi: Việc Tông thừa từ trước học nhân có phần không? Đức Sơn đánh một gậy hỏi: Nói cái gì? Nhân đây Tuyết Phong bèn tỉnh ngộ. Sau đó ở Ngao Sơn trở tuyết. Sư bảo Nham Đầu: Lúc ta ăn gậy của Đức Sơn giống như cái thùng lũng đáy. Nham Đầu hét nói: Ông không thấy nói người “ từ cửa vào không phải là của báu trong nhà, phải là trong hông ngực của mình lưu xuất, để giáo hóa chúng sinh khắp nơi, mới có chút phần tương ưng, Tuyết Phong bỗng nhiên đại ngộ, lễ bái nói: Sư huynh! Ngày nay mới là thành đạo Ngao Sơn. Người ngày nay người xưa chuyên môn dạy người sau y theo quy củ. Nếu thế chính là phỉ báng người xưa, gọi là làm thân Phật ra máu. Người xưa không cẩu thả như người ngày nay, há dùng một lời nửa câu để thỏa bình sinh sao? Nếu dựng lập Tông giáo, tiếp nối thọ mạng của Phật, cho nên thốt ra một lời nửa câu tự nhiên quét sạch đầu lưỡi của người trong thiên hạ, ông không đắm vào ý để tình giải, liên quan đến chỗ đạo lý, xem lời dạy của Tuyết Phong. Biết Sư đã từng gặp bậc tác gia nên mới có rèn luyện tác gia. Hễ nơi ra một lời nửa câu, không phải là tâm cơ ý thức suy nghó ở trong hang quỷ tìm kế sống, hẳn là siêu quần bạt tụy, quét sạch cổ kim, không dùng chưa luận bàn, chỗ dùng của nhà người, đều là như thế. Ngày nọ Sư dạy chúng: Núi Nam có con rắn to mũi nó như con Ta- ba, các ông cần phải cẩn thận đề phòng. Bấy giờ Lăng Đạo giả ra giữa chúng nói: Như thế thì ngày nay giảng đường có người táng thân mất mạng? Sư lại nói: Khắp đại địa là con mắt của Sa-môn. Các ông đi tiêu nơi nào? Sư lại nói: Nhà Vọng Châu gặp ông. Núi Ô Thạch gặp ông rồi; trước tăng đường cùng ông gặp nhau. Bấy giờ Bảo Phước hỏi Nga Hồ: Trước tăng đường hãy gác qua một bên. Thế nào là nhà Vọng Châu, núi Ô Thạch gặp nhau? Nga Hồ đi nhanh về phương trượng. Sư thường nêu lời loại này dạy chúng như nói: Khắp đại địa nấm lại bằng hạt gạo. Lúc này có thể dùng hình thức suy đoán được không? Phải là đập tan lồng lưới, được mất,phải quấy đồng thời buông sạch, thong dong tự tại tự nhiên thấu được sự rối ren, mới thấy chỗ dùng của người. Hãy nói: Ý Tuyết Phong ở chỗ nào? Nhiều người dùng kiến giải phàm tình nói: Tâm làm chủ của vạn vật, cả đại địa đồng thời trong tay ta. Thật tức cười không dính dáng. Đến đây phải là kẻ chân thật, thấy thấu suốt xương tủy, lại không rơi vào ý tưởng tình tư. Nếu là kẻ có bản sắc hành cước của nạp tử, thấy ông ta như thế, đã là lôi thôi vì người rồi vậy. Xem Tuyết Đậu tụng: Ngưu Đầu một Mã đầu hồi Tào Khê cảnh lý tuyệt trần ai Đả cô khán lai quân bất kiến Bách hoa Xuân chí vị thùy khai. <詞>Dịch: Đầu trâu mất Đầu ngựa về Trong mắt tào Khê gương chẳng nhơ Đánh trống đến xem anh chẳng thấy Trăm hoa Xuân đến nở vì ai? GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu tự nhiên thấy người xưa, chỉ tiêu mạng mạch kia, bằng một lần vạch ra, liền vì đó tụng. “Đầu trâu mất, Đầu ngựa về”. Hãy nói: Luận về việc gì? Nếu thấy được suốt, như sáng ăn cháo, trưa ăn cơm, chỉ là tầm thường. Tuyết Đậu từ bi ngay đầu vừa dùng một chùy đập nát, một câu cắt đứt chỉ là quá ư cao vót như đập đá nháng lửa, như làn điện chớp chẳng bày mũi nhọn, không có chỗ cho Ông gá nương. Hãy nói: Nhằm vào ý căn tìm được không? Hai câu này đồng thời nói hết rồi. Đến câu thứ ba, Tuyết Đậu lại thông một tuyến đường, lược bày một chút phong quy, sớm đã rơi vào cỏ. Câu thứ tư thẳng bon rơi vào cỏ. Nếu nhằm lời mà sinh lời, trên câu sinh câu, trên ý sinh ý, khởi hiểu, không chỉ lụy đến Lão tăng, mà còn cô phụ Tuyết Đậu. Câu của người xưa tuy như thế, nhưng ý không như thế, hoàn toàn không phải là đạo lý trói buộc người. “Trong vắt Tào Khê gương chẳng nhơ”. Nhiều người nói lắng tâm lại là gương, lại tức cười không dính dáng. Mặc cho suy tính đạo lý biết bao giờ liễu ngộ. Đây là bổn phận thuyết thoại, Sơn tăng không dám không theo bổn phận. Hai câu: “Đầu trâu mất, Đầu ngựa về”, Tuyết Đậu nói rõ ràng rồi. Chính vì người không thấy. Cho nên Tuyết Đậu lôi thôi tụng ra như thế. “Đánh trống đến xem anh chẳng thấy”, người ngu có thấy không? Lại nói với ông “Trăm hoa Xuân đến vì ai nở”, nghóa là mở trong cửa nẻo cùng ông một lúc chân mày mở ra. Kịp khi Xuân đến, nơi hang sâu khe vắng ngày về trước, chỗ không người, trăm hoa vẫn đua nở, ông thử nói nở vì ai. CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Mười lăm không hỏi ông (nửa Hà nam nửa Hà bắc, ở đây không nhận ngày âm xưa). Sau ngày mười lăm ngày về sau nói cho một câu xem (không khỏi từ sáng đến tối thiết kî nói, ngày mai là mười sáu, ngày tháng như nước chảy. Sự tự đáp thay nói: Ngày nào cũng tốt. GIẢI THÍCH: Vân Môn ban đầu tham vấn Mục Châu, Mục Châu đối đáp nhanh như điện xoay chuyển, thật là khó nương gá. Sư bình thường tiếp người vừa vào cửa liền nắm lại nói: Nói! Nói :Khởi suy nghó, liền bị xô ra, nói: Cây dùi cùn thời Tần, Vân Môn yết kiến đến ba phen mới gỏ cửa. Mục Châu hỏi: Ai? Vân Môn thưa: Văn Yển. Mục Châu vừa mở cửa, Sư liền chậy ùa vào. Mục Châu nắm lại bảo: Nói! nói! Vân Môn suy nghó, bèn bị Châu xô ra, một chân còn trong ngạch cửa, Mục Châu đóng ập cửa lại, nghiền dập chân của Vân Môn, Môn đau quá la to bỗng nhiên đại ngộ. Sau này ngữ mạch tiếp người, khảng theo mẫu mực của Mục Châu. Vân Môn ở nhà với Trần Tháo Thượng Thơ ba năm. Mục Châu chỉ đến chỗ Tuyết Phong. Đến nơi Sư liền ra chúng hỏi: Thế nào là Phật? Tuyết Phong bảo: Chớ nói mớ. Vân Môn bèn lễ bái ở lại ba năm. Một hôm, Tuyết Phong hỏi: Chỗ ông thấy thế nào? Vân Môn thưa: Chỗ con thấy cùng với các Thánh từ xưa không đổi dời một mảy may. Thiền sư Linh Thọ hai mươi năm không mời chức Thủ Tọa, thường nói: Thủ Tọa ta sanh. Lại nói: Thủ Tọa ta chân trâu. Lại nói: Thủ Tọa ta hành cước. Ngày nọ bảo đánh chuông, sai chúng ra trước cổng tam quan đón Thủ Tọa. ( 14 6) Trong chúng đều ngờ lạ. Quả thật Vân Môn đến bèn thỉnh vào liêu Thủ Tọa nghó ngơi. Người thời đó gọi Linh Thọ là Thiền sư Tri Thánh, việc quá khứ vị lai đều biết trước. Ngày nọ Quảng Chủ là Lưu Vương sắp cử binh, đích thân vào viện thỉnh Sư xem việc tốt xấu. Linh Thọ đã biết trước an nhiên ngồi tịch. Quảng Chủ tức giận hỏi thị giả: Hòa thượng bệnh khi nào? Thị giả đáp: Sư không hề bệnh, Sư viết có một phong thư bảo Hầu Vương đến thì trao. Quảng chủ mở ra thấy một lá tấm thiệp viết: Con mắt người trời là Thủ tọa trong chùa. Quảng Chủ hiểu ý liền dừng binh, thỉnh Vân Môn xuất thế trụ ở Linh Thọ, sau đó mới trụ Vân Môn. Sư khai đường thuyết pháp, có Cúc Thường Thị đến hỏi: Quả Linh Thọ chín chưa? Vân Môn đáp: Trong năm nào được tin nó sống. Lại dẫn Lưu Vương trước kia làm người khách bán nhang. Sau Lưu Vương phong tên thụy cho Linh Thọ, là Thiền sư Tri Thánh, Linh Thọ đời đời chẳng mất thần thông. Vân Môn có ba đời làm vua, cho nên mất thần thông. Ngày nọ Lưu Vương vời Sư, cùng với một số tôn túc vào cung nhập hạ. Các vị đều cho người trong cung thưa hỏi và thuyết pháp. Chỉ có Vân Môn không nói, cũng không có người thân cận, có một vị Trực Điện viết một bài kệ dán trên vách điện Ngọc Bích nội dung là: <詞>TỤNG: Đại trí tu hành mới là thiền Thiền môn nghi hoặc bất nghi huyên Vạn ban xảo thuyết tranh như thật Du khước Vân Môn tổng bất ngôn. DỊCH: (Đại trí tu hành mới là thiền. Cửa thiền nên lặng chớ nôn huyên. Muôn điều khéo nói đâu bằng thật. Chỉ có Vân Môn thảy ngồi yên). Vân Môn bình thường thuyết pháp thích nói, nói thiền ba chữ: Cố, Giám, Di. Lại nói thiền một chữ. Như có vị Tăng hỏi: Giết cha giết mẹ sám hối trước Phật, giết Phật giết Tổ sám hối ở đâu? Vân Môn đáp: Lộ (bày). Lại hỏi: Thế nào là Chánh pháp nhãn tạng? Vân Môn đáp: Phổ (khắp) Quả là không cho suy luận, đến chỗ bằng phẳng lại mắng người: “Nếu hạ một câu nói, giống như cây cọc sắt. Về sau, xuất phát bốn người hiền triết: Động Sơn Sơ, Trí Môn Khoan, Đức Sơn Mật, Hương Lâm Viễn đều là bậc Đại tông sư, Hương Lâm Viễn đều là Đại tông sư. Hương Lâm mười tám năm làm thị giả. Khi tiếp ông, Sư chỉ gọi: Thị giả Viễn! Viễn đáp: “Dạ”. Vân Môn nói: Là cái gì? Như thế đến mười tám năm, một hôm Viễn đại ngộ. Vân Môn nói: Từ nay về sau. ta không còn gọi ông nữa. Vân Môn bình thường tiếp người hay dùng thủ đoạn của Mục Châu. Thật là khó bề gá nương, lối rèn luyện tháo chốt nhổ đinh. Tuyết Đậu nói: Tôi thích cơ phong của Thiều Dương ( Vân Môn) mới định, cả đời nhổ đinh rút cho người. Sư có vấn đề dạy chúng rằng: Ngày mười lăm về trước không hỏi ông, ngày mười lăm về sau nói cho một câu xem, quét sạch ngàn sai, không thông phàm Thánh. Tự đáp thay: “Ngày nào cũng tốt”. Câu “Ngày mười lăm về trước” là quét sạch ngàn sai. Câu “Ngày mười lăm về sau”. Cũng quét sạch ngàn sai không nói ngày mai là ngày mười sáu. Người sau này mặc dù theo lời sinh kiến giải, có dính dáng chút nào, Vân Môn lập Tông Phong, phải là có chỗ vì người. Hỏi xong, lại tự đáp thay: “Ngày nào cũng tốt”, lời này thông suốt cổ kim, từ trước đến sau một lúc quét sạch, Sơn tăng nói như thế cũng là theo lời sinh kiến giải, người giết không bằng tự mình giết, vừa khởi đạo lý, là rơi hầm rớt hố. Trong một câu của Vân, đều đủ ba câu, vì Tông chỉ của Sư như thế, một câu cần thiết phải quy về tông. Nếu không như thế chỉ ức đoán, người chưa am tường pháp Phật. Việc này không luận bàn nhiều, mà người chưa thấu lại phải như thế. Nếu thấu được thì thấy ý chỉ của người xưa, xem Tuyết Đậu nói: <詞>TỤNG: Khứ khước nhất Niêm đắc thất Thượng hạ Tứ duy vô đẳng thất Từ hành đạp đoạn lưu thủy thanh Túng quan tà xuất phi cầm tích Thảo nhung nhung <詞>Dịch: Yên mịch mịch Không sanh nham ban hoa lang tịch Đờn chỉ kham bi Thuấn nhã đa Mạc động trước Động trước tam thập bổng. Bỏ đi một. Nắm được bảy Trên dưới bốn phương không không đồng bậc Thong dong đạp dứt tiếng suối reo. Phỏng xem vẽ được dấu chim bay Cổ tốt xanh rì Khói trắng bạc Không sanh bên núi hoa rơi loạn Khảy tay làm bạn thân hư không Chớ động đến Động đến cho ân ba mươi gậy TỤNG GIẢI: Tụng cổ của Tuyết Đậu tài tình như thế, ngay đều dùng kiếm Bảo vương kim cang hươi một cái. Rồi sau mới lược bày một số phong quy. Tuy vậy hoàn toàn không có hai lối hiểu. “Bỏ đi một, nắm được bảy, đa số người hiểu theo lối tính số, bảo: “Bỏ đi một” là việc ngày mười lăm về trước, Tuyết Đậu thẳng hai đầu hạ câu ấn phá xong, lại bày cho người thấy được “bỏ đi một, nắm được bảy”. Tối kî việc nhằm vào ngôn cú tìm kế sống. Vì sao? Vì bánh in đâu có nước. Người ta phần nhiều rơi vào ý thức, cần phải hướng đến trước khi ngôn ngữ chưa sinh mà hiểu lấy mới được, đại dụng hiện tiền, tự nhiên thấy được. Cho nên sau khi Đức Thích-ca thành đạo, Ngài ở nước Ma-kiệt- đà, trong hai ngày suy nghó thế này: “ Tướng của các pháp rỗng lặng không thể dùng lời để nói, ta thà không thuyết pháp, mau nhập Niết- bàn”. Đến đây tìm chỗ mở miệng không được. Vì phương tiện nên Phật thuyết pháp cho năm vị Tỳ-kheo rồi đến ba trăm sáu mươi hội. Giáo lý nơi trong một đời đức Phật, chỉ là phương tiện. Cho nên “cởi đồ trân báu mặc áo thô sơ”, bất đắc dó đến chỗ hạn hẹp trong đệ nhị nghóa môn, để dụ dẫn các đệ tử. Nếu nhằm trên chỗ toàn vẹn dạy người, thì cả trái đất không có một người, nữa người. Hãy nói thế nào là Đệ nhất cú? Đến đây Tuyết Đậu trình bày một số ý dạy người thấy, Sư chỉ trên không thấy có chư Phật, nhìn xuống không thấy có chúng sinh, ngoài không thấy có sơn hà đại địa, trong không thấy có kiến văn giác tri, như người chết sống lại, ngắn dài tốt xấu, nhồi thành một khối, mỗi mỗi đem lại cũng không thấy khác. Rồi sau ứng dụng không mất thích đáng, mới thấy chỗ Tuyết Đậu nói “ Bỏ một, nắm được bảy”. Trên dưới bốn phương không đồng bậc”. Nếu thấu được câu này dù được trên dưới bốn phương không đồng bậc, sum-la vạn tượng cỏ cây người vật đều hoàn toàn bày gia phong của chính mình. Vì thế nói: <詞>TỤNG: DỊCH: Vạn tượng chi trung độc lộ thân Duy nhân tự khẳng mãi phương thân Tích niên mậu hướng đồ tung mích Kim nhật kháng lai hỏa lý băng. Ở trong hiện tượng riêng bày thân Chỉ người tự nhận mới là gần Năm xưa lầm nhắm trên đường kiếm Nay mới nhìn ra lò lửa băng. Trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý, Người đời đa số bỏ gốc theo ngọn. Nếu trước được gốc tự nhiên gió thổi cỏ rạp, nước đọng lại thành hồ; “Thong dong đạp bặt tiếng suối reo” hành động thư thả, tiếng nước chảy ào ào cũng nên đạp dứt. “Phỏng xem vẻ được dấu chim bay”, ngước mắt nhìn xem, dù là dấu chim bay dường như cũng vẽ ra được. Đến đây, vạc dầu, lò lửa thổi, liền tắt, cây kiếm núi dao hét cũng tan, chẳng phải là không vì việc khó, Tuyết Đậu đến đây, vì lòng từ bi, sợ người ngồi trong cảnh giới vô sự, lại nói: Xanh rì, khói trắng bạc, cho nên che lại được có mênh mông, khói mịt mù. Hãy nói cảnh giới của người nào? Bảo là ngày nào cũng tốt,được không? Đáng tức cười không dính dáng. Chính là “Thong dong” đạp bật tiếng suối reo” cũng không phải, dù xem tả dấu chim bay cũng không phải “ cỏ xanh rì” cũng không phải, “khói rắng bạc” cũng không phải. Tuy tất cả đều chẳng phải, chính là “Không sanh bên núi hoa rơi loạn”. Cũng phải chuyển qua bên kia mới được. Há không thấy, phải Tu Bồ-đề nhập định chư thiên mưa hoa khen ngợi. Tu-bồ-đề hỏi: Trong hư không ai là người đã mưa hoa ca ngợi? Chư thiên: Tôi đây, là Đế Thích thiên. Tôn giả: Vì sao ông khen ngợi? Chư thiên: Tôi tôn trọng Tôn giả nói Bát-nhã ba-la-mật hay quá. Tôn giả: Đối với Bát-nhã ta chưa từng nói một chữ tại sao ông khen ngợi. Chư thiên: Tôn giả không nói, tôi không nghe, không nói không nghe là chân Bát-nhã. Trời Đế Thích lại mưa hoa khắp mặt đất. Tuyết Đậu cũng làm tụng rằng: <詞>TỤNG: DỊCH: Vũ quá vân ngưng hiển bán thiên Sổ phong như họa bích thôi ngôi Không sanh bất giải nham trung tọa Nhãn đắc không hoa động địa lai. Mưa tạnh mây tan sáng nửa trời Vẻ ra mấy ngọn núi chập chùng Không sinh chẳng hiểu ngồi trong núi Liền được Thiên hoa tán khắp nơi. Thiên đế đã mưa hoa đầy mặt đất. Đến đây lại ẩn núp nơi nào? Tuyết Đậu lại nói: <詞>TỤNG: DỊCH: Ngã khủng đào chi đào bất đắc Địa phương chi ngoại giai sung tắc Mang mang nhiễu nhiễu tri hà cùng Bát diện thanh phong nhạ y nhắc Tôi ngại trốn đi trốn chẳng được, Bên ngoài đại phương đều đầy ngất Lăng xăng rối rắm biết sao cùng Tám hướng gió lành thầm mặc áo. Dù được lột trần toàn thong dong, trọn đều không có mảy may lỗi lầm cũng chưa phải là cực tắc . Cuối cùng phải thế nào mới đúng. Nếu xem tiếp văn dưới đây: “ Khảy móng tay làm thảm thần Hư không”. Phạm ngữ Thuấn-nhã-đa, Trung Quốc dịch là Hư không thần. Lấy hư không làm thể, không thân xúc chạm, được hào quang Phật chiếu mới hiện được thân. Khi ông nếu Ông giống thần hư không thì Tuyết Đậu đang khải móng tay buồn thảm. Tuyết Đậu lại nơi: “Chớ động đến”. Khi động đến thì sao? Ngày trời sáng trong, mở mắt ngủ khò. KHAI THỊ: Một câu trước tiếng, ngàn Thánh không truyền, chưa từng thân cận, như cách đại thiên. Giả sử đến trước tiếng biện được, quét sạch lưỡi của người trong thiên hạ, cũng chưa phải là kẻ tánh tháo. Cho nên nói: Trời không thể che, đất không thể chở, hư không không thể dung, trời trăng không thể chiếu, chỗ không Phật chỉ xưng tôn quý, tạm khá hơn một chút, hoặc chưa như vậy, thấu được mảy lông trên đầu, phóng đại hào quang, đại ngộ triệt để, đối với pháp được tự tại tự do, tiện tay nắm lấy không có gì là không sai phải. Hãy nói được cái gì mà kỳ đặc như thế. Lại nói: Đại chúng hiểu không? công lao trận mạc trước đây không người biết, chỉ cần luận bàn thêm che thay công. Việc hiện nay hãy gác lại, công án Tuyết Đậu lại thế nào? Xem lấy văn sau: CÔNG ÁN: Tăng hỏi Pháp Nhãn: Tuệ Siêu Xin hỏi Hòa thượng Thế nào là Phật? Pháp Nhãn đáp: Ông là Tuệ Siêu Thiền sư Pháp Nhãn có cơ đồng thời thốt trác, lại đủ dụng đồng thời thốt trác; mới có thể đáp lời như thế. Cho nên nói siêu thanh vượt sắc, được đại tự tại, tạm thời thủ xả sống chết ở ta, thật là độc đáo. Nhưng công án này, mọi người bàn luận rất nhiều, người hiểu theo tình giải không ít. Họ không biết người xưa, phàm dạy một lời, nửa câu đều như chọi đá nháng lửa, điện xét ngày đó mở ra một lối thẳng, người sau mặc dù đi trên ngôn cú làm chỗ hiểu nói: Tuệ Siêu chính là Phật, cho nên pháp Nhãn đáp như thế. Có người nói: Giống như cưỡi trâu tìm trâu. Có người nói: Chỗ hỏi là đúng, đâu có liên quan gì. Nếu hiểu như thế, không chỉ cô phụ chính mình, cũng chính là chịu khuất phục người xưa. Nếu muốn thấy toàn cơ của ông ta, trừ bỏ kẻ thị phi đánh một gậy không quay đầu, răng như cây kiếm, miệng tợ như chậu máu, nhằm ngoài ngôn ngữ biết chỗ trở về, mới có chút phần tương ưng. Nếu mỗi mỗi khởi tình giải, là khắp cả đại địa là kẻ diệt chủng tộc nhà Phật. Tuệ Siêu thiền khách ngay đây được ngộ, bình thường Ông ôm ấp tham cứu mới được ngay một lời nói như thùng lũng đáy, chỉ như Tắc Lâm Viên ở trong hội của Pháp Nhãn, cũng không từng tham thỉnh nhập thất. Ngày nọ Pháp Nhãn hỏi: Giám Tắc sao không nhập thất? Tắc thưa: Hòa thượng đâu biết, con ở nơi chỗ Thanh Lâm đã có chỗ thâm nhập. Pháp Nhãn: Ông thử nêu xem. Tắc thưa: Con hỏi thế nào là Phật? Thanh Lâm: Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa. Pháp Nhãn: Lời khéo, e rằng ông hiểu lầm, nên nói lại xem. Tắc: Bính Đinh thuộc về lửa, lấy lửa tìm lửa. Như con là Phật mà lại đi tìm Phật. Pháp Nhãn: Giám Viện quả nhiên hiểu lầm rồi. Tắc không giận dữ quảy hành lý qua sông. Pháp Nhãn bảo: Người này nếu quay lại thì có thể cứu; nếu không quay lại thì không thể cứu. Tắc đi nửa đường tự nghó: Pháp Nhãn là thiện tri thức của năm trăm người có thể gạt ta sao? Bèn trở lại tái tham vấn. Pháp Nhãn nói: Ông hỏi ta, ta đáp cho ông. Tắc hỏi: Thế nào là Phật? Pháp Nhãn đáp: Bính đinh đến xin lửa. Tắc ngay đó ngộ đạo. Hiện nay có người, trừng mắt làm giải hội; nên nói người không thương tích thì chớ làm thành thương tích. Công án này, người tham cứu lâu, hễ nghe cử liền biết chỗ rơi? Pháp Nhãn cho đó là mũi tên chọi nhau, lại không dùng Ngũ vị quân thần, Tứ liệu giản. Chỉ luận “mũi tên nhọn chọi nhau” là gia phong của Tông Pháp Nhãn, dưới một câu liền thấy, đối diện mặt trời liền thấu. Nếu suy tìm trong câu cú, rốt cuộc tìm mó không được. Pháp Nhãn ra hành đạo có năm trăm chúng, bấy giờ Phật pháp rất hưng thịnh. Quốc sư Thiều theo Sơ Sơn đã lâu, tự cho là đã được yếu chỉ, bèn gom góp văn tự đảnh tướng của Sớ Sơn lúc bình sanh, dẫn chúng đi hành cước. Đến trong hội Pháp Nhãn. Sư không vào thất, chỉ bảo đồ đệ theo chúng vào thất. Một hôm Pháp Nhãn thượng đường, có một vị tăng hỏi: “Thế nào là giọt nước nguồn Tào? Pháp Nhãn: Là một giọt nước nguồn Tào. Tăng ấy mờ mịt thối lui. Quốc sư Thiều ở trong chúng nghe vậy liền tỉnh ngộ. Sau, Sư hoằng pháp nối pháp Pháp Nhãn, Sư có bài tụng trình: <詞>TỤNG: DỊCH: Thông huyền phong đãnh Bất thị nhân gian Tâm ngoại vô pháp Mãn mục thanh san Đỉnh núi thông huyền, Không phải nhân gian, Ngoài tâm không pháp, Đầy mắt núi xanh. Pháp Nhãn ấn khả nói: “Chỉ một bài tụng kế thừa tông ta. Về sau ngươi có bậc Vương Hầu kính trọng. Ta chẳng bằng ngươi. Xem người xưa, ngộ như thế là đạo lý gì? Không thể chỉ dạy Sơn tăng, phải tự mình trong mười hai giờ, tinh thần phấn chấn giống như thế, cùng cổ nhân đảm nhận. Ngày khác đến ngã tư đường duỗi tay vì người, cũng không phải việc khó. Cho nên tăng hỏi Pháp Nhãn: Thế nào là Phật pháp? Pháp Nhãn đáp: Ông là Tuệ Siêu, có chỗ nào cô phụ nhau. Không thấy Vân Môn nói: Nêu không đoái nhìn, tức là sai biệt, toan suy nghó tư biết kiếp nào ngộ. Bài tụng của Tuyết Đậu sau đây thật là sáng rỡ, thử nêu xem! <詞>TỤNG: DỊCH: Giang quốc xuân phong xuy bất khởi Chá cô đề tại thâm hoa lý Tam cấp lãng cao ngự hóa long Si nhân du hố dạ Đường thủy” Giang quốc gió Xuân đùa chẳng dấy Vườn hoa rậm rạp chá cô hót Ba cấp sóng cao cá hóa rồng Sông Đường kẻ ngu đêm vẫn tát. Tuyết Đậu là bậc tác gia, đối với chỗ người xưa khó gặm, khó nhắm, khó thấu, khó thấy, gút mắc của cổ nhân mà, tụng ra cho người thấy, thật là độc đáo. Tuyết Đậu nắm được chìa khóa của Pháp Nhãn. Lại biết chỗ rơi của Tuệ Siêu, lại sợ người sau ngay lời nói của Pháp Nhãn hiểu lầm, cho nên mới tụng ra. Vị tăng này hỏi như thế. Tức là: giang quốc gió Xuân đùa chẳng dấy. Vườn hoa rậm rạp chá cô kêu. Hai câu này chỉ là một câu. Hãy nói ý của Tuyết Đậu ở chỗ nào? Giang Tây, Giang Nam nhiều người hiểu là hai thứ: Câu “Giang quốc gió Xuân đùa không dấy” tức ca tụng ông là Tuệ Siêu, chỉ tin tức này, dù Giang quốc gió Xuân đùa không dấy “Vườn hoa sân rạp chá cô hát: dùng để ca tụng mọi người luận bàn lời này ồn náo giống như chim chá cô hót trong vườn hoa, có dính dàng gì. Đâu không biết ( 14 8) hai câu này của Tuyết Đậu chỉ là một thôi, muốn được không thêm không bớt. Rõ ràng nhằm ông nói ngôn ngữ cũng có đầu mối, che trời che đất. Tăng hỏi thế nào là Phật? Pháp Nhãn: Ông là Tuệ Siêu. Tuyết Đậu tụng: “Giang Quốc gió Xuân đùa thổi không dấy. Vườn hoa rậm rạp chá cô kêu”. Ngay đây lãnh ngộ được, đáng là bậc riêng bước trong không. Nếu ông khởi tình giải thì, ba đời sáu mươi kiếp cũng chưa hiểu. Câu thứ ba, thứ tư của Tuyết Đậu quá sừ từ bi, vì người một lúc nói phá. Chỗ Thiền sư Siêu đại ngộ là như: Cấp sóng cao cá hóa ra rồng, sông Đường kẻ đêm vẫn tát. Võ Môn ba lớp sóng, bến Mạnh chính là Long môn. Võ Đế đào ba cây. Nay ngày mồng ba, tháng ba, lúc hoa đào nở, do sự cảm ứng của trời đất, con cá nhảy qua được Long Môn, thì trên đầu mọc sừng, ở cổ có bờm, đuôi có lông, tụ mây mà đi. Con nào nhảy không được thì bị điểm trán quay lại. Người ngu nhằm trong lời nói mà nhai gặm, giống như ban đêm tát nước sông Đường để bắt cá-sao không biết. Cá đã hóa rồng rồi. Sư ông Nghóa Đoan có bài tụng rằng: <詞>TỤNG: DỊCH: “Nhất văn Đại Quang tiến Mãi đắc ca du tư Khiết hướng đỗ lý liễu Đương hạ bất văn cơ” Một đồng tiền đại quang, Mua được cái bánh ngon Nuốt vào trong bụng, Ngay đó hết đói rồi, Bài tụng này rất hay, chỉ có lời văn rất vụng. Tuyết Đậu tụng rất khéo, không làm bị chạm lưỡi đứt tay. Lúc xưa Khánh Tạng Chủ hỏi người: Thế nào là ba lớp sóng cao cá hóa rồng? Ta cũng chưa chắc. Ta lại hỏi ông hóa làm rồng rồi tức hiện nay ở chỗ nào? KHAI THỊ: Hiểu thì trên đường, thọ dụng như rồng được nước, như cọp tựa núi. Không hiểu thì thế đế lưu truyền, dê đực chạm rào, ôm cây đợi thỏ. Có khi một câu như sư tử ngồi xổm, có khi một câu như Bảo Kiếm Kim Cang Vương, khi một câu quét sạch ngôn ngữ của thiên hạ. Có khi một câu theo mòi đuổi sóng. Nếu trên đường thọ dụng thì gặp tri âm biết cơ nghi, biết lỗi lầm cùng nhau chứng minh. Nếu thế đế truyền bá người một con mắt, có thể quét sạch mười phương, vách đứng ngàn nhẫn. Cho nên nói: Đại dụng hiện tiền, không còn phép tắc. Có khi đem một cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu. Có khi đem cái thân vàng trượng sáu làm một cọng cỏ. Hãy nói: Nhờ đạo lý gì, có biết không? Thử câu xem. CÔNG ÁN: Cuối hạ Thúy Nham dạy chúng: Một hạ đã đến nói cho huynh đệ. Xem lông mày của Thúy Nham có còn không? Bảo Phước nói: Làm cướp biết cướp. Trường Khánh nói: sanh. Vân Môn nói: Quan. GIẢI THÍCH: Người xưa sáng tham chiều thỉnh. Thúy Nham đến cuối hạ lại dạy chúng như thế, song quả thật cao vọt, quả thật trời đất rung động: Cả, đại tạng kinh 5048 quyển; không khỏi nói tâm nói tánh, nói đốn nói tiệm, lại có tin tức ngày không? Hàng nhất đẳng là thời tiết ấy. Thúy Nham thật là độc đáo. Xem Sư nói như thế. Hãy nói ý của Sư rơi vào chỗ nào? Người xưa thả một cần câu, hoàn toàn không luống uổng, phải là có cái đạo lý vì người. Đa số người hiểu sai nói: Thanh thiên bạch nhật, lời nói không suy nghó, không có việc mà sinh ra việc. Cuối hạ trước tự nói lỗi, trước tự kiểm điểm, tránh được người khác kiểm điểm thật đáng tức cười. Loại kiến giải này cho là diệt chủng tộc nhà Phật. Nhiều đời Tông sư xuất thế, nếu không dạy người đều không có lợi ích mong làm cái gì? Đến đây nhìn được thấu mới biết người xưa có thuật đoạt trâu của người cày cướp cơm của người đói. Người nay hỏi đến liền nghiền ngẩm nơi ngôn cú, mau hiểu ngay đừng suy nghó; thấy người trong nhà tự nhiên biết chỗ đi của họ, thiên biến vạn hóa, gút mắc khó khăn, rõ ràng có con đường thoát thân, mới hay vì người đối đáp như thế. Lời này nếu không kỳ đặc, thì ba người Vân Môn, Bảo Phước, Trường Khánh đua nhau thù xướng làm gì? Bảo Phước nói: Làm cướp biết cướp. Nhân câu này, gợi lên nhiều thứ kiến giải phàm tình. Thử nói: Ý của Bảo Phước là Tối kî nằm trong câu tìm người xưa. Ông nếu sinh tình khởi niệm, thì móc tròng con mắt của ông. Đâu không biết Bảo Phước hạ một chuyển ngữ, là cắt đứt gót chân của Thúy Nham. Trường Khánh nói: Sanh vậy. Nhiều người nói: Trường Khánh đi theo gót chân của Thúy Nham, cho nên nói sanh, vẫn không dính sánh. Không biết Trường Khánh tự xuất kiến giải của khác cho nên nói sanh. Mỗi người đều có chỗ xuất thân. Ta hỏi ông chỗ nào là chỗ sanh? Là hàng tác gia. Bảo Kiếm Kim Cang Vương, trước mắt thẳng đó liền dùng. Nếu người đập tan kiến giải tầm thường; chặt đứt thị phi, mới thấy được chỗ thù xướng của Trường Khánh. Vân Môn nói: Quan, quả là kỳ đặc, song khó tham cứu. Đại sư Vân Môn phần nhiều dùng Nhất tự, thiền để dạy người. Tuy trong một chữ phải đủ ba câu. Xem cổ nhân gặp cơ duyên đối đáp, một cách tự nhiên so với người thời nay là khác xa về hình thức. Câu nói: Cổ nhân ý quyết không có ở trong đây. Đã không ở trong đây, hãy nói ở chỗ nào? Cũng phải tham cứu cẩn thận mới được. Nếu là người mắt sáng, có thủ đoạn chiếu trời chiếu đất, thủ đoạn khéo léo thẳng xuống. Tuyết Đậu dùng chữ Quan hòa cùng ba cái kia xâu thành một chuỗi tụng ra: <詞>TỤNG: DỊCH: Thúy Nham thị đồ Thiên cổ vô đối Quan tự tương thù Thất tiền tạo tội Lão đão Bảo Phước Ức dương nan đắc Lao lao Thúy Nham Phân minh thị tặc Bạch khuê vô điểm Thùy biện chân giả Trường Khánh tương am Mi mao sanh dã. Thúy Nham dạy chúng Ngàn xưa không dối. Chữ Quan đáp nhau. Mất tiền tạo tội. Bảo Phước gian nan. Đè năng khó được. Ai biện được chân giả. Thúy Nham nói nhiều Rõ ràng là cướp. Bạch khuê không vết. Ai biện chân giả. Trường Khánh hiểu nhau. Lông mày như vậy.. TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu nếu không từ bi tụng ra cho người thấy như thế thì đâu thể gọi là thiện tri thức. Người xưa như thế, mỗi mỗi đều là việc bất đắc dó làm ra. Người học sau này bám vào ngôn cú của người chuyển sinh ra cái hiểu biết phàm tình. Do đó không thấy được ý chỉ của người xưa. Như nay bỗng có người lật đổ giường thiền, hét tan đại chúng, quở y được. Tuy vậy, cũng phải đến chỗ điền địa này mới được. Tuyết Đậu nói: “Ngàn xưa không đối” ta chỉ nói: Xem lông mày Thúy Nham còn không? Có chỗ nào độc đáo mà ngàn xưa không đối? Phải biết người xưa thốt một lời nửa câu, không phải là tầm thường phải là có con mắt định càn khôn mới được. Tuyết Đậu nói một lời nửa câu như kiếm báu của Kim cang vương, như Sư tử ngồi xổm, như chọi đá xẹt lửa, như điện chớp. Nếu không phải là đảnh môn có mắt, sao thấy được chỗ rơi của người xưa? Lời dạy chúng này, hẳn là ngàn xưa không đối, còn hơn gậy của Đức Sơn, hét của Lâm Tế. Thử nói: Tuyết Đậu ( 14 9) vì người, ý ở chỗ nào? Ông lại làm sao biểu Tuyết Đậu nói “ Ngàn xưa không đối”? Chữ “Quan” đáp nhau, mất tiền tạo tội, ý này thế nào? Dù là mắt thấu quan, đến đây cũng phải cẩn thận mới được. Hãy nói Thúy Nham mất tiền tạo tội hay Tuyết Đậu mất tiền tạo tội hay là Vân Môn mất tiền tạo tội? Nếu ông thấu được thì chấp nhận cho ông có con mắt, “Bảo Phước gian nan, đè nâng khó được”, là đè nén mình, nâng người xưa. Hay nói: Bảo Phước ở chỗ nào đè, chỗ nào nâng? Thúy Nham nói nhiều, rõ ràng là cướp. Hãy nói Sư cướp cái gì: Mà Tuyết Đậu lại nói là cướp. Tối kî theo ngữ mạnh của người chuyển. Đến đây phải là tự có phẩm hạnh mới được. “Bạch Khuê không tỳ”, là tụng Thúy Nham giống như Bạch Khuê; không có chút tỳ vết! Ai biện được chân giả, có thể nói là ít có người biện được. Tuyết Đậu có tài lớn, cho nên từ đầu đến cuối quán xuyến hết, cuối cùng mới nói Trường Khánh am tường, chân mày Sanh. Hãy nói: Sanh ở chỗ nào? Để mắt xem gấp. KHAI THỊ: Gương sáng hiện trên đài, đẹp xấu rõ ràng, Kiếm Mạc-Da trong tay, sống chết không biết lúc nào. Hán đi Hồ đến, trong cái chết lại có cái sống, trong cái sống có cái chết. Hãy nói! Đến đây lại thế nào? Nếu không có mắt thấu quan làm chỗ chuyển thân, đến đây rõ ràng hẳn không làm sao được. Hãy nói thế nào là con mắt thấu quan, chỗ chuyển thân, thử nêu xem! CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là Triệu Châu?Triệu Châu đáp: Triệu Châu: Cửa Đông cửa Tây, cửa Nam cửa Bắc. Phàm người tham thiền hỏi đạo, nghiên cứu cùng tột chính mình, tối kî chọn lựa ngôn cú. Vì sao? Há chẳng thấy Triệu Châu nói: “Chí đạo nan văn, Duy hiềm giản trạch! Lại không thấy Vân Môn nói: “Như nay thiền lữ ba người năm người dụm đầu nói ồn ào. Lại nói: Cái này là thượng tài ngữ cú, cái kia là “tựu thân xứ đã xuất” ngữ cú. Không biết người xưa phương tiện vì kẻ hậu học sơ cơ tâm địa chưa rõ, chưa thấy bổn tánh, bất đắc dó mà lập phương tiện ngữ cú. Như Tổ sư Tây Lai chỉ truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Ở đâu có ngôn ngữ như thế, phải là chặt đứt ngôn ngữ; thấy sự thật vượt mức bình thường, thấu thoát được, có thể gọi là như rồng gặp nước; như côp kia núi, tham vấn bậc tiên đức đã lâu, có người thấy mà chưa thấu, thấu mà chưa tỏ phải thưa thỉnh. Nếu thấy thấu được mà thưa thỉnh thì phải xoay quanh trên ngôn cú, không có mắc kẹt người, tham thỉnh lâu ngày, như đưa thang cho kẻ trộm, kỳ thật việc này không ở trên ngôn cú. Vì thế Vân Môn nói: Việc này nếu ở trên ngôn cú thì ba thừa, mười hai phần giáo, há không có ngôn cú sao? Đâu cần Đạt-ma từ Tây Trúc đến, trong mười tám câu hỏi của Phần Dương, câu hỏi này gọi là Nghiệm chủ vấn, cũng gọi là Thám Bạt Vấn. Tăng đặt câu hỏi này thật là kỳ đặc, nếu không phải Triệu Châu cũng khó đáp được. Vị Tăng này hỏi: Thế nào là Triệu Châu. Triệu Châu là bổn phận tác gia bèn trả lời: Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc. Tăng thưa: Con không hỏi ông Triệu Châu này. Triệu Châu: Vậy ông hỏi Triệu Châu nào? Người sau gọi là Vô sự thiền, thật là lừa người không ít. Vì sao? Bởi Tăng hỏi Triệu Châu mà Triệu Châu đáp: Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc, thì là đáp cái thành Triệu Châu. Ông hiểu như thế, là gả nhà quê, lại là hiểu Phật pháp, chỉ đây chính là phá diệt Phật pháp. Như lấy mắt cá so với viên minh châu; giống thì giống, nhưng phải thì không phải. Lão tăng nói: Không ở Hà Nam, chính là ở Hà Bắc. Hãy nói là hữu sự hay vô sự. Cũng cần phải cẩn thận mới được. Viên Lục Công nói: Chỉ rốt sau có thấu rõ thì mới đến lao quan, ý của kim chỉ nam không phải là nơi ngôn ngữ. Mười ngày một trận gió, năm ngày một trận mưa, an bang lạc nghiệp; vỗ bụng múa ca, gọi là thái bình, gọi là vô sự, không phải mù tịt mà gọi là vô sự. Cần phải tháo được chốt cửa, ra khỏi rừng gai góc, lột trần, sống thong dong như người bình thường thuở trước. Do đó ông hữu sự cũng được, vô sự cũng được, tự do tự tại, hoàn toàn không chấp không, định có. Có người nói: “Xưa nay không có một việc, chỉ gặp trà uống trà, gặp cơm ăn cơm. Đây là đại vọng ngữ, chưa được cho là được, chưa chứng cho là chứng. Xưa nay chưa từng tham thấu được, thấy người thì nói tâm, nói tánh, nói huyền, nói diệu, bèn cho đây là lời cuồng. Xưa nay vô sự. Quả là người mù dẫn đám mù. Thật không biết khi Tổ sư chưa đến, ở đâu gọi trời là đất, gọi núi là sông. Vì sao Tổ sư từ Tây Vức đến? Các nơi thăng đường vào thất, nói cái gì? Toàn là tình thức suy lường. Nếu là tình thức suy lường ấy hết, mới thấy thấu được. Nếu thấy được thấu như xưa là trời vẫn là trời, đất vẫn là đất, núi là núi, sông là sông. Người xưa nói: Tâm là căn, pháp là trần, hai loại này giống như vết trên gương. Đến điền địa này tự nhiên lột trần, hoàn toàn thong dong. Nếu cùng tột lý luận cũng chưa phải là chỗ an ổn. Đến đây nhiều người hiểu lầm cho là cảnh Vô sự, Phật cũng không lễ bái, hương cũng không đốt, giống thì cũng giống nhưng đến chỗ thoát thể, thì không phải, vừa mới hỏi thì dường như là cực tắc, vừa chụp đến thì lúng ta lúng túng, ngồi nơi chỗ bụng rỗng lòng không cao, đến ngày ba mươi tháng chạp quơ tay chụp ngực thì đã là muộn rồi vậy. Tăng hỏi như thế, Triệu Châu đáp như thế. Hãy nói làm sao dò tìm. Như thế cũng không được, không như thế cũng không được. Cuối cùng là thế nào? Chỗ này là chỗ vấn nạn nên Tuyết Đậu đưa ra, trước mặt chỉ dạy người. Một nọ hôm Triệu Châu đang ngồi, Thị giả báo rằng: Đại vương đến. Triệu Châu hoảng hốt nói: Đại vương vạn phước. Thị giả nói: Bích Hòa thượng chưa đến. Triệu Châu: Lại nói đến rồi. Tham đến đây, thấy đây quả thật là kỳ đặc. Nam thiền sư niêm: Thị giả chỉ biết báo khách, không biết thân ở nơi quê vua. Triệu Châu vào cỏ tìm người bất giác toàn thân lấm bùn. Chỗ chân thật này, các người có biết không? Xem lấy bài tụng của Tuyết Đậu. <詞>TỤNG: DỊCH: Cú lý trình cơ phách diện lai Thước-ca-la nhãn tuyệt tiêm ai Đông Tây Nam Bắc môn tương đối Vô hạn luân chùy kích bất khai. Trong câu trình cơ vạch mặt ra. Bụi trần chẳng dính mắt Ca-la Nam Bắc Đông Tây cửa đối nhau Biết bao chùy sắt đập chẳng ra GIẢI TỤNG: Triệu Châu đối mặt thiền cơ như bảo kiếm Kim Cang Vương, ông do dự lập tức lấy đầu ông. Sư luôn luôn ở trước mặt để móc con mắt ông. Tăng này dám nhỗ râu cọp, đặt ra câu hỏi dường vô sự sinh sự, không ngờ trong câu có cơ. Ông đã trình cơ ra. Triệu Châu cũng không cô phụ câu hỏi của ông, cho nên cùng trình cơ đáp. Không phải Triệu Châu đáp mọi người đều như thế. Người thấu suốt tự nhiên khế hợp dường như có sự an bày sẳn. Có một ngoại đạo tay cầm con chim sẽ đến hỏi Phật: Ngài hãy nói con chim trong tay con sống hay chết? Thế Tôn bèn bước ra cửa nói: ( 15 0) Ông nói ta ra hay vào? (Có bản nói: Thế Tôn đưa tay ra hỏi nắm hay mở?) Ngoại đạo: Không đáp, được liền lễ bái. Lối nói này tương tợ công án ở đây. Người xưa tự là huyết mạch không đứt, cho nên nói: Hỏi nơi chỗ đáp, đáp ở chỗ hỏi. Tuyết Đậu thấy thấu suốt như thế bèn nói trong câu cú trình cơ vạch mặt ra. Trong cú có cơ, như mang hai ý: Dường như hỏi người, dường như hỏi cảnh, Triệu Châu không dời đổi một mảy may, liền nói: Cửa Đông, Nam, Tây, Bắc. Câu tụng: “Trần ai chẳng dính mắc”. Đây là ca tụng Triệu Châu người cảnh đều đoạt, nhìn trong câu trình cơ để đáp cho vị Tăng. Đây gọi là có cơ có cảnh, mới chuyển liền chiếu phá tâm mật của ông ta. Nếu không như thế thì khó mà lập được câu hỏi của vị tăng. Thước-ca-la-nhãn là tiếng Phạm, Hán dịch là Kiên cố nhãn cũng gọi là Kim cang nhãn, soi thấy vô ngại, không chỉ soi thấy mảy tơ, ngoài ngàn dặm mà còn định tà quyết chánh, biện được mất, cơ nghi biết dứt lỗi lầm. Tuyết Đậu nói: “Cửa Đông, Nam, Tây, Bắc đối nhau, biết bao chùy, sắt đập chẳng ra”. Chính là chỗ thấy của Tuyết Đậu như thế, các ông lại làm sao cửa này được mở? Hãy tham cứu kỹ xem. KHAI THỊ: Như thế, như thế, không như thế, không như thế. Nếu luận chiến tất cả đứng nơi chỗ chuyển, cho nên nói: Nếu hướng thượng chuyển liền được Thích-ca, Di-lặc, Văn-thù, Phổ Hiền, ngàn Thánh, vạn Thánh. Các bậc Tông sư khắp thiên hạ đều nuốt hơi ngậm miệng. Nếu hướng hạ chuyển thì bò bay máy cựa, hàm linh chuyển động đều phóng đại quang minh; mỗi mỗi đều vách đứng vạn nhẫn. Nếu như không thượng không hạ, làm sao bàn luận, có điều theo điều, có lệ theo lệ thử nêu xem! CÔNG ÁN: Mục Triệu Châu hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tăng bèn hét. Mục Châu: Lão tăng bị tiếng hét của Ông. Tăng lại hét. Mục Châu: Sau ba hét, bốn hét sau đó làm gì? Tăng: Không đáp được. Mục Châu liền đánh, nói: Kẻ cướp rỗng. GIẢI THÍCH: Phàm là người dựng lập Tông giáo phải có con mắt bổn phận Tông sư. Có tác dụng bổn phận của Tông sư. Mục Châu cơ bén nhạy, như điện chớp, thích khám phá các Tọa chủ. Bình thường Sư nói ra một lời, nửa câu giống như là rừng gai gốc, để tay chân không đến được. Sư vừa thấy Tăng đến liền nói: “Hiện thành công án, tha cho ông ba mươi gậy”. Có khi thấy Tăng liền nói: Thượng tọa, Tăng xoay đầu lại. Mục Châu bảo: Gả cố chấp. Lại dạy chúng: Chưa có chỗ vào, phải được chỗ vào, đã được chỗ vào, không được cô phụ lão Tăng. Mục Châu vì người phần nhiều như thế. Tăng này cũng khéo mài giũa, song đầu rồng đuôi rắn. Chính khi ấy nếu không phải là Mục Châu. Cũng bị ông ta làm loạn một trận. Như Mục Châu hỏi: “Vừa từ đâu đến”. Tăng liền hét. Hãy nói ý chỉ thế nào? Lão già này cũng không rối loạn, từ từ nói với ông ta. Lão tăng một tiếng hét của ông dường như nhận lời của ông ta được một phần. Lại dường như nghiệm ông ta, nép thân qua một bên xem ông ta thế nào? Tăng này lại hét, giống thì giống nhưng đúng thì không đúng. Bị lão này xỏ mũi bèn hỏi: Ba tiếng hét, hét bốn tiếng, hét sau rồi làm gì? Quả nhiên tăng này câm họng. Mục Châu liền đánh nói: Kẻ cướp rỗng này, thật nghiệm người đến chỗ chính xác, buông lời liền biết tri ân. Tiếc thay vị tăng này câm họng, nên bị Mục Châu nói kẻ cướp rỗng. Nếu là mọi người bị Mục Châu nói ba tiếng hét bốn tiếng hét sau thì thế nào? Nên đáp thế nào để khỏi bị ông ta gọi kẻ cướp rỗng? Ở đây nếu là biết sống chết, rành tốt xấu, chớ dừng lỗi lầm. Mặc ai ba hét, bốn hét thế nào? Bởi vị tăng này câm họng, bị lão ấy kết án. Nghe Tuyết Đậu tụng ra. <詞>TỤNG: DỊCH: Lưỡng hát dữ tam hát Tác giả tri cơ biến Nhược vị kî hổ đầu Nhị câu thành hạt hán? Niêm lai thiên hạ dữ nhân khan. Hai hét cùng ba hét. Tác giả biết cơ biến không phải là tác gia đâu thể nghiệm được, chỉ sợ không như thế. Nếu bảo cưỡi đầu cọp Cả hai thành mù hết. Đem ra thiên hạ cho người xem TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu không ngại có chỗ vì người. Nếu không phải là tác gia chỉ hét hồ hét loại thôi. Cho nên người xưa nói: “Có khi một tiếng hét không có cái dụng của tiếng hét. Có khi một tiếng hét có cái dụng của tiếng hét. Có khi hét như sư tử ngồi xổm. Có khi tiếng hét như kiếm báu Kim Cang Vương”. Thiền sư Hưng Hóa nói: Ta thấy các ông ở Đông lang hét, bên Tây lang cũng hét, chớ có hét hồ hét loạn. Dù hét đến Hưng Hóa bay bổng lên cõi trời ba mươi ba, lại rớt xuống đất, chết ngất, đợi khi tónh lại, ta sẽ nói với các ông là chưa phải: Vì sao? Hưng Hóa chưa từng nén châu ngọc trong màn trướng tía cho các ông. Các ông chỉ thích hét hò hét loạn làm gì? Lâm Tế nói: Ta nghe các ông đều học tiếng hét của ta. Ta lại hỏi ông: Giảng đường phía Đông có tăng đến, giảng đường phía Tây có tăng đến, hai người đều hét như nhau. Vậy người nào là khách, người nào là chủ. Nếu các Ông phân khách chủ không được, sau này không được học đòi lão Tăng. Cho nên Tuyết Đậu tụng: “Tác giả biết cơ biến”, Tăng này tuy bị Mục Châu thâu tóm, song y có biết chỗ cơ biến? Hãy nói: Chỗ nào vị tăng này biết cơ biến. Thiền sư Trí ở Lộc Môn điểm vị tăng này nói: Người biết cách thì sợ. Nham Đầu nói: Nếu luận chiến tất cả đều đứng tại chỗ chuyển. Hòa thượng Tử Tân ở Hoàng Long nói: “Vật cùng tắc biến, biến tắc thông”. Chỗ này là chỗ Tổ sư quét sạch lưỡi của mọi người trong thiên hạ. Nếu ông biết cơ biến nêu được liền biết thế nào? Có một nhóm người nói: Cần đợi ông ta nói ba hét, bốn hét làm gì. Mặc cho hét, nói gì ba mươi hét ,hai mươi hét. Hét đến lúc Phật Di- lặc hạ sinh cho đó là cưỡi đầu cọp. Nếu thấy biết như thế, không biết Mục Châu đúng thế, phải thấy vị tăng này rất xa. Như người cưỡi đầu cọp cần phải trong tay có dao và biết chuyển biến mới được. Tuyết Đậu nói: Nếu như thế “ Cả hai đều mù”. Tuyết Đậu giống như cầm gậy Ỷ Thiên Trường kiếm, oai phong lẫm liệt. Nếu hiểu ý của Tuyết Đậu tự nhiên ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời đều hiểu, liền thấy phần tụng sau của Tuyết Đậu tụng, chỉ là chú giải, lại nói “ai là kẻ mù”. Hãy nói: Là khách, mù hay chủ mù. Hay là khách chủ đồng thời mù không? “Đem thiên hạ ra cho người xem”. Đây là chỗ sống. Tuyết Đậu một lúc tụng xong rồi. Vì sao lại nói “Đem thiên hạ và người xem”. Hãy nói làm sao xem? Mở mắt xem hay nhắm mắt xem? Lại có người tránh khỏi được chăng? Thần nghe, lối Tam thừa mở rộng, pháp giới vô bờ, biển trí bao la, mười phương an ổn. Bấy giờ có ma quân đua nhau nổi dậy, xâm phá ruộng tâm, sáu giặc đã mạnh, tâm vương kinh động, sáng khởi trăm quái, chiều sinh ngàn tà, mê hoặc chân như, quấy nhiễu pháp thể, đường lối Bồ-đề, cách tuyệt không thông, phá hoại Niết-bàn, tổn thương Tam bảo, châu ngọc vô vi đều bị trộm lấy, đại tạng pháp tài đều bị cướp đoạt, trần lao che mặt trăng, lửa dục nóng đốt, nổi trôi nơi thành pháp, thiêu đốt cảnh Thánh. Thần thấy bạo loạn như thế, sợ Phật pháp khó tồn tại, bèn bàn luận cùng Ba-la-mật, đồng làm mũi tên diệt, bỏ quên tánh không làm xứ mật cho tìm ma quân. Nay thấy truân chuyên trong núi Ngũ Uẩn, có hơn tám vạn bốn ngàn chúng đã biết thế lực của thân tính trong sát-na, bèn điểm hùng binh trong mười tám cõi, đồng thời lập thể không làm tên; người người đều có sức vô ngại, mỗi mỗi đều có năng lực dõng mãnh, thẳng tâm làm công thấy tánh, một chánh bỏ đi loạn trăm tà, mang giáp kiên cố, cầm kiếm Tam-muội, cung trí, tên thiền kiếm tuệ sáng soi huấn luấn trong cửa Đại thừa. An ổn trong núi tịch diệt, dựng cờ trên núi Tam Minh, bày ra bên lối Bát chánh, sai tánh đại giác, làm tướng cầm đầu dạo khắp bốn phương, tìm xét dấu tích vọng tưởng, cắt đứt lối vô minh. Lại sai vua từ bi phá dẹp tam độc, tướng soái nhẫn nhục chinh Phật thành sân si, quân tinh tấn trừ loài yêu ngạo mạn, thích cầm quân đánh giặc xan tham, lùng soát những quân ma đại náo, khí sát xông tới trời. Thần bèn thống lãnh Ma-ha, một lúc đều vào ta lúc ấy, mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi mùi, lưỡi không biết vị, thân không xúc chạm, ý không phan duyên, nhất chí hướng về trước, niệm niệm không thối, bỗng chốc ma quân bại trận, sáu giặc bị tóm thâu, chém giết vô số, quét trừ lũ giặc, bắt sống vọng tưởng, tán sống vô minh, thống lãnh thẳng vào thành Niết-bàn, dùng kiếm tuệ chém đứt làm ba đoạn, rừng phiền não bấy giờ bị chinh phục, núi nhân ngã hóa làm vi trần, lưới ái si gặp lửa trí thiêu đốt, rừng tà kiến bị gió tuệ dập tắt, nhân đây mà tam minh sáng lại, tứ trí được tròn đầy, trong ngoài không tỳ vết, rỗng rang thanh tịnh, tâm vương ngồi điện hoan hỷ, chân như lên lầu giải thoát, tự tánh dạo chơi nơi nhà vô ngại, ba thân ngồi tòa pháp không, từ đây pháp giới yên tónh, vónh viễn đoạn hết phiền não, cùng qua bờ sinh tử, cùng đến bờ Bồ-đề, ma quân đã thối, hợp bày tấu lên.  <卷>QUYỂN 2 KHAI THỊ: Đại cơ của Phật tổ hoàn toàn mừng trong tay, mạng mạch trời người, đều nhận yếu chỉ, một câu một lời lúc nhàn, kinh động quần chúng, một cơ, một cảnh phá gỡ gông cùm tiếp cơ hướng thượng, khởi việc hướng thượng. Hãy nói người nào từng như thế, có biết chỗ rơi không, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Hoàng Bá dạy chúng nói: Mọi người các ông đều là bọn ăn hèm, hành cước như thế chỗ nào có ngày nay? Có biết trong nước Đại Đường Thiền sư không? Bấy giờ có vị tăng ra thưa: Chỉ như Thiền sư các nơi dẫn dắt đồ chúng lại là gì? Hoàng Bá nói: Không nói không thiền chỉ là không sư. GIẢI THÍCH: Hoàng Bá thân cao bảy thước, trên trán có viên ngọc tròn bẩm tánh hiểu thiền. Sư đi dạo Thiên Thai, trên đường bỗng gặp một vị Tăng cùng vui cười, như người quen cũ, nhìn kỹ là người đã chết có chút ít tướng lạ. Nên hai người cùng đi, khi qua khe suối chảy mạnh. Sư chống gậy cầm nón đứng lại, tăng ấy dẫn Sư đi qua. Sư nói: Mời qua trước. Tăng kia liền vén áo bước trên sóng như đi trên đất bằng. Qua rồi vị Tăng gọi: Qua đây! qua đây! Sư quở: Gã tự độ này, ta biết là quái sẽ chặt bắp đùi ông. Tăng ấy khen: Thật là pháp khí Đại thừa, nói xong biến mất. Ban đầu Sư đến Bách Trượng. Trượng hỏi: Vòi vọi rõ ràng, từ đâu đến? Hoàng Bá: Vòi vọi rõ ràng từ Trung đến. Bách Trượng: Đến vì việc gì? Hoàng Bá: Không có việc gì khác. Bách Trượng thầm khí trọng ông ta. Ngày kế Hoàng Bá từ giả Bách Trượng. Trượng hỏi: Đi về đâu? Hoàng Bá: Đến Giang Tây lễ bái Mã Đại sư. Bách Trượng: Mã Đại sư đã tịch rồi. Ông hãy nói Hoàng Bá hỏi như thế là biết mà hỏi hay là không biết mà hỏi. Sư lại nói: Con mong ước đến lễ bái, phước duyên cạn mỏng. Không kịp đến yết kiến được. Xin hỏi bình thường Ngài có lời dạy gì mong được nghe nhắc lại? Bách Trượng nêu nhân duyên của Tái tham Mã tổ. Tổ thấy Ta đến liền dựng phất trần lên. Ta hỏi: Ngay đây dùng hay rời đây dùng? Tổ bèn treo cây phất trần ở góc giường thiền im lặng hồi lâu Mã Tổ hỏi ta: Ông sau này câm miệng lại làm sao giúp người? Ta lấy phất trần đưa lên. Tổ nói: Ngay đây hay lìa đây? Ta lấy phất trần máng ở góc giường thiền. Tổ Chấn chinh oai nghi hét một tiếng. Lúc ấy ta điếc tai đến ba ngày. Hoàng Bá hoảng hốt le lưỡi. Bách Trượng nói: Sau này Ông nối pháp của Mã Đại sư chăng? Hoàng Bá: Chẳng phải thế! Ngày nay nghe Sư nói mới thấy được đại cơ đại dụng của Đại sư. Nếu nối pháp với Mã Đại sư thì sau này sẽ mất hết con cháu của con. Bách Trượng nói: Đúng vậy, đúng vậy! Thấy bằng thầy thì kém thầy nửa đức. Trí thì hơn Sư, mới kham truyền trao. Chỗ thấy của ông ngày nay có tác dụng vượt hơn thầy. Mọi người hãy nói: Hoàng Bá hỏi như thế, là biết mà cố hỏi hay là không biết mà hỏi? Phải đích thân thấy chỗ hành lý của cha con họ mới được. Một hôm Hoàng Bá lại hỏi Bách Trượng: Tông thừa từ trước làm sao chỉ dạy? Bách Trượng im lặng giây lâu. Hoàng Bá nói: Không thể làm cho người sau đoạn tuyệt. Bách Trượng: Toan bảo ông là một cá nhân, liền đứng dạy đi vào phương trượng Hoàng Bá và Tướng quốc Bùi Hưu là bạn phương ngoại. Bùi Hưu trấn nhậm ở Uyển Lăng nên mời Sư đến quận đường, đem quyển sách của ông viết trao cho Sư xem. Sư nhận rồi để dưới tòa, không mở ra xem. Sư im lặng hồi lâu hỏi: Hiểu không? Bùi Hưu thưa: Không hiểu. Hoàng Bá: Nếu chỉ bày trên giấy mực thì chỗ nào có Tông ta? Bùi Hưu làm bài tụng khen rằng: <詞>TỤNG: Tự tùng Đại só truyền tâm ấn Ngạch hữu viêc châu thất Xích thân Quải tích thập niên thê Thục thủy Phù hôi kim nhật độ Chương Tân Bát thiên long tượng tùy cao bộ Vạn lý hương hoa kết thắng nhân Nghó dục sự Sư vi đệ tử <詞>DỊCH: Bất tri tương pháp phó hà nhân. Kể từ Đại só truyền tâm ấn, Chiếc thân bảy thước trán minh châu. Chống gậy mười năm nương đất Thục. Hôm nay cởi sóng Chương Tân. Tám ngàn long tượng theo chân bước. Muôn dặm hương hoa kết nhân lành. Mong muốn thờ thầy làm đệ tử. Chẳng biết pháp gì gửi người. Sư cũng không có vẻ vui bèn nói: Tâm như đại hải vô biên tế Khẩu thổ hồng liên dưỡng bệnh nhân Tự hữu nhất thông vô sự thủ Bất tằng chi ấp đẳng nhàn nhân. Dịch: (Tâm như biển lớn không bờ mé, miệng nhả sen hồng nu- ôi bệnh thân, tự có một, hai tay vô sự, không từng tom góp người đợi nhàn). GIẢI TỤNG: Sau đó Hoàng Bá cơ phong cao vút bén nhạy, Lâm Tế ở trong hội, Mục Châu làm Thủ tọa hỏi: Thượng tọa ở đây bao lâu rồi sao không đến hỏi. Lâm Tế: Dạy con hỏi lời gì thì mới được? Thủ Tọa: Sao không hỏi thế nào là đại ý Phật pháp? Tế liền hỏi, ba lần bị đánh đuổi ra. Lâm Tế từ giả Thủ Tọa nói: Nhờ Thủ Tọa bảo ba lần đi hỏi, ba lần đều bị đánh, e rằng nhân duyên không có ở đây, nên tạm thời xin xuống núi. Thủ Tọa: Nếu ông đi nên đến từ giả Hòa thượng rồi sẽ đi. Thủ Tọa định đi thưa với Hoàng Bá rằng: Lời hỏi của Thượng tọa thật hiếm có được. Sao Hòa thượng không đục đẽo cây to che mát cho người sau? Hoàng Bá nói: Ta đã biết. Lâm Tế đến từ biệt. Hoàng Bá nói: Ông không nên đi nơi khác, hãy thẳng đến bến Cao An để yết kiến Đại Ngu! Lâm Tế đến Đại Ngu thuật lại những việc trước đây cho Ngu nghe và hỏi “Không biết con có lỗi gì?” Đại Ngu: Hoàng Bá thật từ bi như thế, muốn làm cho ông triệt ngộ, thếmà ông hỏi: Có lỗi gì? Lâm Tế bỗng đại ngộ nói: Phật pháp của Hoàng Bá không bao nhiêu Đại Ngu nắm lại bảo nói: Ông vừa nói nói có lỗi gì, mà nay lại nói Phật pháp không nhiều. Lâm Tế nhằm hông của Đại Ngu thoi ba cái. ta. Đại Ngu nói: Hoàng Bá là thầy ông, không liên can gì việc của Ngày nọ, Hoàng Bá dạy chúng nói: Đại sư pháp Dung ở núi Ngưu Đầu, nói ngang nói dọc, vẫn chưa biết chốt hướng thượng”. Bấy giờ, dưới hội Thạch Đầu Mã Tổ, thiền tăng đông đảo, nói thiền nói đạo. Tại sao Sư lại nói như thế? Cho nên dạy chúng nói: Các ông đều là kẻ ăn hèm, hành cước như thế, làm trò cười cho thiên hạ, chỉ thấy tám trăm, một ngàn người liền ra đi, không thể cam chịu sự ồn náo. Trong đây đều dễ như thế, thì làm gì có việc ngày nay. Đời Đường ưa mắng người bằng câu “kẻ ăn hèm”. Nhiều người nói Hoàng Bá mắng người Ta. Người mắt sáng tự thấy chỗ rơi của Sư, đại ý thả một câu, câu người hỏi: Trong chúng có Thiền khách không tiếc thân mạng, nên hiểu liền ra chúng hỏi: Hiện nay các nơi dẫn dắt đồ chúng lại thế nào? Cũng nên cho một tát. Lão này quả nhiên bối rối lại bày vẽ nói: Không nói không thiền, chỉ là không sư. Hãy nói ý ở chỗ nào? Tông chỉ của Sư từ trước có khi nắm, có khi buông, có khi giết chết, có khi tha, có khi buông, có khi thả. Dám hỏi quý vị: Thế nào là sư trong thiền? Sơn tăng nói như thế vùi đầu chết cho rồi. Lỗ mũi của quý vị ở chỗ nào? Im lặng hồi lâu nói: Xỏ qua rồi! <詞>TỤNG: DỊCH: Lẫm lẫm cô phong bất tự khoa Đoan cư hoàng hải định Long Xà Đại trung thiên tử tằng khinh xúc Tam độ thân tao lộng trảo nha. Cô Phong chẳng tự khoe Ngồi yên biển cả định Long xà Đại Trung Thiên tử từng bị tát Ba trận thân đùa nanh vuốt nhe. Bài tụng này của Tuyết Đậu giống như bài Chân Tán của Hoàng Bá. Song chúng ta không hiểu theo Chân tán thì dưới câu liền có chỗ xuất thân. Nói rõ ràng: “Phẫm liệt Cô Phong chẳng tự khoe”, Hoàng Bá dạy chúng như thế, lại không phải là tranh thắng người thua mình tự trình tự khoe. Nếu hiểu tin tức này, mặc cho bảy dọc, tám ngang, có một mình khi đứng trên đỉnh Cô Phong; có khi duỗi thân trong chợ, há có thể giữ lấy một gốc, càng buông càng không hết, càng tìm càng không thấy, càng gánh càng nhận chìm. Người xưa nói: Không có cánh bay khắp thiên hạ, có danh truyền ở thế gian, tận tình bỏ đi đạo lý Phật pháp, huyền diệu kỳ đặc. Một khi buông lại khá một chút, tự nhiên hiện thành chỗ phạm. Tuyết Đậu nói: “Ngồi yên biển cả định long xà” là rồng hay là rắn, vào cửa đều nghiệm được, gọi đó là con mắt định rắn rồng, máy bắt cọp tê giác. Tuyết Đậu lại nói: “Định long xà chừ mắt nào chánh, cầm hổ hủy chừ cơ chẳng toàn”. Lại nói: “Đại Trung Thiên tử từng bị tát, ba trận thân đùa nanh vuốt nhẹ”. Hoàng Bá đâu chỉ nay hiện thủ đoạn ác. Từ trước đến nay là như thế. Đại Trung Thiên tử theo truyện Tục Hàm Thông chép. Đường Tuệ Tông có hai người con là Mục Tông, và Tuyên Tông. Tuyên Tông chính là Đại Trung. Năm mười ba tuổi Mục Tông rất thông minh, thường thích ngồi thiền. Khi Mục Tông đang tại vị, nhân bãi triều sớm. Đại Trung lên ngồi long sàng, làm thế quần thần kinh bái. Đại thần thấy vậy cho là tâm phong, liền tâu lên Mục Tông. Mục Tông thấy vậy liền vỗ về nói: Em ta chính bậc anh tài của Tông ta. Niên hiệu Trường Khánh thứ tư, Mục Tông băng hà. Ba người con của Mục Tông: Kính Tông, Văn Tông, Vũ Tông. Kính Tông tiếp ngôi vị của cha., được hai năm thì thoái vị. Văn Tông kế vị được mười bốn năm, sau đó Vũ Tông lên ngôi. Vũ Tông thường gọi Đại Trung ngày xưa lên long sàng của cha mình bèn lôi ra giết chết rồi đem bỏ ở sau vườn, dùng nước nhơ rưới lên cho sống lại. Sau khi tónh lại Đại Trung lén trốn vào hội của Hòa thượng Chí Nhàn ở Hương Nghiêm, xuất gia làm Sa-di. Chưa thọ cụ túc giới. Đã theo Hòa thượng du phương đến Lô Sơn. Nhân Hòa thượng làm bài thơ Bộc Bố: Xuyên vân thấu thạch bất từ lao Địa viễn phương tri xuất xứ cao. (Xuyên mây soi đá biết nhọc nào. Xa tết mới hay xuất xứ cao). Hòa thượng Chí Nhàn ngâm hai câu này suy nghó mãi, muốn cho Đại Trung thỗ lộ ngữ mạch xem thế nào. Đại Trung tiếp nói: Khê giản khởi năng lưu đắc trụ Chung quy đại hải tác ba đào Khe suối đâu thể giữ lại được Đều về biển cả dấy ba đào. Chí Nhàn Hòa thượng thầm biết Đại Trung không phải là người tầm thường. Sau đó đến trong hối Diêm Quan thỉnh Đại Trung làm thư ký, Hoàng Bá làm Thủ tọa ở đó. Ngày nọ, Hoàng Bá đi lễ Phật, Đại Trung thấy hỏi: Không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu Tăng. Vậy lễ bái để cầu gì? Hoàng Bá: Không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng, mà thường lễ như thế. Đại Trung nói: Dùng lễ như thế làm gì? Hoàng Bá liền tát tai. Đại Trung nói: Quá thô. Hoàng Bá nói: Trong đây còn gì thô tế. Hoàng Bá tát tai. Sau đó, Đại Trung lên ngôi, ban cho Hoàng Bá hiệu là Sa-môn Thô Hạnh. Tướng quốc Bùi Hưu ở trong triều, tâu xin ban hiệu là Đoan Tế Thiền sư. Tuyết Đậu biết rõ chỗ huyết mạch xuất xứ ấy nên ứng dụng rất thiện xảo. Hiện nay có người đùa nanh vuốt chẳng, bèn đánh. KHAI THỊ: Dao giết người, kiếm cứu người, là phong cách của người xưa, cũng là then chốt của thời nay. Nếu luận bàn về giết thì không chạm đến mảy lông. Nếu luận bàn về cứu thì tan thân mất mạng. Cho nên nói: Con đường hướng thượng ngàn Thánh không truyền, học giả nhọc mình, như khỉ bắt bóng”. Hãy nói: Đã là không truyền vì sao lại có nhiều công án rối ren? Người có mắt sáng thử nói xem! CÔNG ÁN: Tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ: Thế nào là Phật? Động Sơn đáp: Ba cân mè. GIẢI THÍCH: Công án này rất nhiều người hiểu lầm hẳn là không nhai gặm, không chỗ cho ông mở miệng. Vì sao? Nhạt nhẽo mà không mùi vị. Người xưa đã nhiều lần đáp câu hỏi Phật. Hoặc nói trong điện, hoặc nói ba mươi hai tướng, hoặc trong rừng dưới núi tre trúc. Tăng đến Động Sơn lại nói ba cân mè, không ngại quét sạch lưỡi người xưa. Nhiều người hiểu lời này nói: Động Sơn lúc ấy ở trong kho cân mè. Có vị Tăng hỏi nên đáp như vậy, hoặc nói: Ông là Phật lại đi hỏi Phật, nên Động Sơn đáp vòng vo cho gã chết. Hoặc nói, chỉ ba cân gai này lại là Phật. Thật hoàn toàn không dính dáng. Nếu Ông ngay câu nói của ( 15 3) Động Sơn hiểu như thế, tham kiến đến lúc Di-lặc hạ sinh cũng chưa nằm mộng thấy. Vì sao? Vì ngôn ngữ chỉ là dụng cụ để chuyển tải đạo lý. Sao không biết ý của người xưa, không quản tìm cầm trong ngôn cú, có cơ phong gì? Không thấy người xưa nói: Đạo vốn không lời, nhân lời mà hiển đạo. Kiến đạo tức quên lời. Nếu đến đây phải là ta đến cơ thứ nhất mới được. Chỉ ba cân mè, giống như con đường Trường An, cất chân lên để chân xuống đều là phải. Câu nói này so với câu bánh hồ của cũng đồng một loại: Quả là khó hiểu. Ngũ Tổ tiên sư tụng rằng: <詞>TỤNG: Tiện mại dâm bản hán Thiếp bình ma tam cân Thiên bách niên trệ hóa Vô xứ trước hồn thân DỊCH: Kẻ hèn đầy cố chấp Đo lường ba cân mè Trăm ngàn năm mắc kẹt Không chỗ để an thân. Ông chỉ thu thập được ý tưởng tình trần, suy lường được mất phải quấy, một lúc hết sạch tận thì tự nhiên lãnh hội. <詞>TỤNG: DỊCH: Kim ô cấp ngọc thố tốc Thiện ứng hà tằng hữu khinh xuất Triển sự đầu cơ kiến Động Sơn Ba miết manh qui nhập không cốc Hoa thốc, cẩm thốc cốc thốc Nam địa trúc hề Bắc địa mộc Nhân tư Trường Khánh Lục Đại Phu Giải đạo hiệp tiếu bất hiệp khấp Di! (Mặt trời chóng, mặt trời gấp, Khéo ứng đâu từng có khinh xuất, Triển sự đầu cơ thấy Động Sơn. Què trạch rùa mù, vào hang trống. Hoa nhóm nhóm gấm nhóm nhóm. Tre đất Nam chữ cày đất Bắc, Nhân nghó trượng phu Trường Khánh Lục Đại Phu. Cười không nên khóc Khéo nói nên cười không nên khóc. Dì!) Tuyết Đậu thấy được thấu, nên ngay nơi đầu nói: “Mặt trời chóng, mặt trăng gấp” Động Sơn“Ba cân mè” không có hai thứ. Mặt trời mọc, mặt trăng lặn, ngày nào cũng như vậy. Người nhiều tình giải mặc dù nói mặt trời là con mắt trái, mặt trăng là con mắt phải, đến mới hỏi liền trừng mắt nói: “ Thật không có gì dính dáng gì ở đây. Nếu hiểu như thế thì một tông của Đạt-ma quét sạch. Cho nên nói: “Thả câu bốn biển chỉ câu rồng to, cách ngoại máy huyền vi tìm tri kỷ. Tuyết Đậu là người ra khỏi ấm giới, đâu có loại kiến giải này. Tuyết Đậu nhè nhẹ gõ cửa đánh vào cây bày một chút để cho ông thấy, bèn hạ cước chú nói: “ Khéo đâu từng khinh xúc”. Động Sơn không khinh thường đáp lời cho tăng này. Như chuông chịu đóng, như hang nhận tiếng vang, lớn nhỏ tùy ứng, không dám khinh xúc, Tuyết Đậu đồng thời bày hiện tâm can ngũ tạng ra, cho các ông rồi. Tuyết Đậu có bài tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Tónh nhi thiện ứng Đỗ diện tương trình Long xà dị biện Bất tại đa đoan Nạp tử man man Kim chùy ảnh động Bảo kiếm quang hàn Trực hạ lai dã Cấp trước nhãn khan Tónh mà khéo ứng Thấy mặt trình nhau Chẳng tai đa đoan Rắn rồng dễ biện Thiền tăng khó lừa Chùy vàng bóng động kiếm báu quang hàn Ngay đây thẳng lại Để mắt chóng xem. Môn hỏi: Ông từ đâu đến? - Tra Độ. Mùa Hạ ở chỗ nào? Động Sơn: Chùa Báo Ân ở Hồ Nam. Vân Môn: Bao giờ rời môn ấy? Động Sơn: Ngày hai mươi lăm tháng tám. Vân Môn: Đánh cho ông ba gậy hãy tham đường đi! Chiều lại Sư vào thất đến gần thưa: Con có lỗi gì? Vân Môn: Túi cơm Giang Tây, Hồ Nam là như thế. Động Sơn ngay đó ngộ đạo liền nói: Sau này con đến nơi không có người cất am tranh, không chứa một hạt gạo, không trồng một cọng rau, thường tiếp đãi Đại thiện tri thức trong mười phương lui tới, hoàn toàn vì họ mà nhổ đinh, tháo chốt, lột chiếc mũi thịt mỡ, cỡi chiếc áo hôi thối khiến người sạch sẽ thong dong, làm cho đại ngộ làm con người vô sự. Vân Môn nói: Thân bằng, cây dừa mà mở được cái miệng to thế. Động Sơn bèn từ biệt ra đi. Chỗ ngộ lúc ấy của Động Sơn là ngộ lập tức, há đồng với cái thấy nhỏ hẹp. Sau này xuất thế ứng cơ, câu “ba cân mè”. Mọi người khắp nơi chỉ lời đáp Phật. Như hỏi: Thế nào là Phật? Đáp: Trong rừng dưới núi tre trúc tươi. Hoặc đáp: Đồng tử Bính Đinh đến tìm lửa, thế là chỉ trên Phật tìm Phật. Tuyết Đậu nói: Nếu biết triển sự đầu cơ hiểu như giống như “què trạnh rùa mù, ba vào hang trống”. Biết ngày tháng, năm nào mới tìm được lối ra. Câu: “Hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm”. đây là tăng hỏi Hòa thượng Trí Môn: Động Sơn nói ba cân mè ý chỉ thế nào? Trí Môn nói: Hoa nhóm nhóm gấm nhóm nhóm hiểu không? Tăng: Không hiểu. Trí Môn nói: Tre đất Nam chừ cây đất Bắc. Tăng trở về kể lại cho Động Sơn. Động Sơn nói: Ta không nói cho ông, mà nói cho đại chúng, bèn thượng đường nói: Nói không bày việc, lời không khế cơ thiền pháp, người theo lời sẽ mất mạng, người kẹp vào ngôn cú là mê. Tuyết Đậu phá kiến chấp của người, cố ý dẫn làm nhất quán tụng ra. Người sau lại chuyển sang tình kiến nói: Gai là hiếu phục mặc để tang cho cha mẹ, còn cây trúc là gậy hiếu. Cho nên nói: Tre đất Nam chừ cây đất Bắc, hoa nhóm nhóm gấm nhóm nhóm là quan tài, vẽ hoa cỏ. Có biết thẹn không? Thật không biết “ Tre đất nam chừ cây đất Bắc cùng với ba cân mè chỉ là giống như kêu cha và ba vậy. Người xưa đáp một chuyển ngữ quyết định ý này không như thế giống như Tuyết Đậu nói: “ Mặt trời chóng, mặt trăng gấp, đại khái là một thứ nói rộng ra, chỉ là vàng thau khó biện, tôm tép khó phân, lòng từ bi tha thiết của Tuyết Đậu muốn phá nghi tình của ông, lại dẫn người chết. Nhân nhớ Trường Khánh Lục Đại phu khéo nói, khéo cười, không nên khóc. Nếu luận về bài tụng của Sư, chỉ ba câu đầu đồng thời tụng xong. Ta lại hỏi ông: Chỉ là ba cân mè, Tuyết Đậu lại có nhiều sắn bìm? Chẳng quá vì quá từ bi nên như thế. Lục Hoàn Đại phu Tuyên làm quan giám sát ở Tuyên Châu đến tham vấn Nam Tuyền. Khi Nam Tuyền qua đời, Tuyên nghe vậy vào chùa tế vong rồi cười ha hả. Viện Chủ nói: Tiên sư cùng Đại phu có nghóa thầy trò, sao ông không khóc? Đại phu thưa: Nói được thì khóc. Viện chủ không nói được. Đại phu khóc lớn nói: Trời xanh! trời xanh! Tiên sư cách đời xa vậy! Sau này Trường Khánh nghe vậy bèn nói: Đại phu nên cười không nên khóc. Tuyết Đậu mượn của ý này nói: Nếu ông làm loại tình giải này, chính nên cười chớ nên khóc, đúng thì đúng. Rốt sau có một chữ thật quái gỡ nói: “Chao”. Tuyết Đậu có rửa sạch không? KHAI THỊ: Mây dừng nơi đồng rộng, khắp nơi không chứa. Tuyết phủ hoa lau, khó phân dấu vết. Chỗ lạnh thì lạnh như băng tuyết, chỗ nhỏ thì nhỏ như hạt gạo, chỗ sâu thì mắt Phật khó thấy; chỗ kín thì ma ngoại đạo khó lường. Nêu một rõ ba nên gác lại thôi; quét sạch đầu lưỡi của người trong thiên hạ làm sao nói? Là việc phần thượng của người nào. Thử nêu xem! CÔNG ÁN: Tăng hỏi Thiền Sư Ba Lăng: Thế nào là tông Đề- bà? Ba Lăng: Trong chén bạc đựng tuyết. GIẢI THÍCH: Công án này nhiều người hiểu sai lầm nói: Đây là tông của ngoại đạo, có liên can gì? Tổ thứ mười lăm là Tôn giả Đề-bà cũng là một trong số ngoại đạo, nhân gặp Tổ thứ mười bốn là Tôn giả Long Thọ thả cây kim trong chậu Long Thọ rất trọng vọng cho Đề-bà là bậc pháp khí, nên truyền tâm tông Phật, tiếp nối làm Tổ thứ mười lăm. Kinh Lăng-già ghi: “Phật nói tâm chính là tông; vô môn làm pháp môn. Mã Tổ nói: Hễ có ngôn cú là tông của Đề-bà. Chỉ lấy cái này làm chủ, mọi người là Thiền khách đã từng thể cứu tông của Đề-bà chăng? Nếu thể cứu được thì chín mươi sáu thứ ngoại đạo ở Tây Thiên bị ông nhất loạt hàng phục. Nếu thể cứu không được thì không khỏi mặc ngược áo ca sa. Hãy nói phải làm thế nào? Nếu nói là ngôn cũng không liên can. Nếu nói không phải ngôn cú cũng không liên can. Hãy nói ý của Mã Đại sư ở chỗ nào? Về sau Vân Môn nói: Mã Đại sư khéo nói năng chỉ là không người hỏi. Có vị tăng liền hỏi: Thế nào là Tông Đề-bà? Vân Môn: Chín mươi sáu thứ ngoại đạo ông là hạng chót. Xưa có một vị tăng từ giả Đại Tùy. Đại Tùy hỏi: Ông đi đâu? Tăng: Đi lễ bái ngài Phổ Hiền. Đại Tùy dựng phất trần lên nói: Văn-thù, Phổ Hiền đều ở trong đây. Tăng vẽ một tướng tròn lấy tay nâng lên trình Sư, lại ném ra sau lưng. Đại Tùy nói: Thị giả đem trà đến đây đưa cho tăng này. Vân Môn nói: Ấn Độ chém đầu chặt tay, ở đây tự lãnh hội lấy. Lại nói: Cờ đỏ ở trong tay ta. Ở Ấn Độ, người luận nghị tay cầm cờ đỏ, người thua lại mặc ca sa, từ cửa hông ra. Tại Ấn Độ muốn tổ chức luận nghị phải được lệnh vua. Ở trong chùa lớn đánh chuông, đánh trống rồi, sau đó mới luận nghị. Khi ấy ngoại đạo ở trong chùa tăng phong cấm chuông trống cho đó là sa thải. Bấy giờ Tôn giả Ca-na-đề-bà biết Phật pháp có nạn bèn vận thần thông, lên lầu đánh chuông muốn đuổi ngoại đạo. Ngoại đạo bèn hỏi: Ai đánh chuông trên lầu vậy? Đề-bà nói: Chư thiên. Ngoại đạo: Chư thiên là ai? Đề-bà: Là tôi. Ngoại đạo: Ta là ai? Đề-bà: Ta là ông. Ngoại đạo: Ông là ai? Đề-bà: Ông là chó. Ngoại đạo: Chó là ai? Đề-bà: Chó là ông. Bảy lần cật vấn như vậy ngoại đạo biết mình thua mới chịu tự mở cửa. Đề-bà lên lầu cầm cờ đỏ xuống. Ngoại đạo nói: Sao Ngài không ở sau? Đề-bà: Sao ông không ở trước? Ngoại đạo: Ngài là người hèn. Đề-bà: Ông là người tốt. Như thế cứ hỏi đáp qua lại Đề-bà dùng biện tài vô ngại để bẻ gãy do đó mới quy phục ngoại đạo. Bấy giờ Tôn giả Đề-bà tay cầm cờ đỏ nghóa là người thua đứng dưới lá cờ. Ngoại đạo đoạn chém đầu tạ lỗi. Đề-bà ngăn họ, giáo hóa họ cạo tóc vào đạo. Bấy giờ Tông của Đề-bà rất thịnh hành. Sau này Tuyết Đậu dùng sự việc này mà làm tụng. Ba Lăng ở trong chúng được hiệu là Giám-đa-khẩu, thường vác tọa cụ đi hành cước; nhận được đại sự dưới gót chân Vân Môn, nên rất kỳ đặc. Sau này Sư xuất thế nối pháp Vân Môn. Trước Sư ở Nhạc Châu Ba Lăng, mà không gửi thư pháp từ. Chỉ dùng ba chuyển ngữ dâng lên Vân Môn. Thế nào là đạo? Người mắt sáng té xuống. Thế nào là Xuy Mao kiếm? San hô từng cành chở ánh trăng? Thế nào là tông của Đề- bà? Trong chén bạc đựng tuyết. Vân Môn nói: Sau này ngày kî của lão tăng, chỉ nêu ba chuyển ngữ này là báo ân đầy đủ. Sau này quả nhiên không tổ chức trai kî. Theo lời dặn của Vân Môn chỉ nêu ba chuyển này. Xong mọi người mới đáp lời này phần nhiều là đáp về sự. Chỉ có Ba Lăng nói như thế, thật là cơ phong cao vót quả thật khó hiểu không bày một chút sắc bén, tám mặt địch vây, rõ ràng có lối thoát thân, có cơ nguy hiểm, thoát cái kiến chấp nhân tình. Nếu luận về cảnh giới thanh tịnh và bình đẳng đến đây cần phải thấu suốt nhà mình rồi. Lại phải gặp người mới được. Vì thế nói: Đạo Ngô múa hốt đồng người hiểu. Thạch cũng giương cung tác giả am. Lý này nếu không thầy ấn thọ, toan đem pháp gì đề huyền đàm, Tuyết Đậu theo sau vì người tụng ra: <詞>TỤNG: DỊCH: Lão tân khai Đoan đích biệt Giải đạo ngân uyển lý thạnh tuyết Cửu thập lục cá ứng tự tri Bất tri khước vấn thiên biên nguyệt Đề-bà tông! Đề-bà tông Xích phạn chi hạ khởi thanh phong. (Lão Tân Khai Quả thật khác Khéo nói thứ nên chén bạc đựng đầy tuyết Chín mươi sáu thứ nên tự biết Không biết lại hỏi bên trời trăng. Tông Đề-bà, tông Đề-bà Dưới lá cờ đỏ gió mát lành. Lão Tân Khai, Tân Khai là tên thiền viện. Quả thật khác là lời, Tuyết Đậu ca ngợi. Hãy nói chỗ nào là khác? Tất cả ngữ ngôn đều là Phật pháp. Sơn tăng nói lời như thế thì thành đạo lý gì, Tuyết Đậu bày tỏ một chút ý mình bằng câu: “Quả thật khác”. Về sau mở toang ra nói: Biết nói trong chén bạc, đựng đầy tuyết, lại cùng ông để lời cước chú, “chín mươi sáu thứ nên tự tri”, thua rồi mới được. Nếu ông không biết thì hỏi trăng trên trời. Người xưa từng đáp lời này nói hỏi lấy trăng bên trời. Tuyết Đậu tụng rồi, sau này phải có lối sống, có câu sư tử nhảy ngược. Lại đề khởi nói cho ông nói: Tông Đề-bà, tông Đề-bà, dưới lá cờ đỏ gió mát lành”. Ba Lăng nói: “Trong chén bạc đựng tuyết”. Vì sao Tuyết Đậu lại nói “ Dưới cờ đỏ gió mát lành”. Có biết Tuyết Đậu giết người không dùng dao chẳng? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là là giáo lý một đời? Vân Môn đáp: Đối một nói. GIẢI TỤNG: Trong dòng thiền gia muốn biết nghóa Phật tánh, phải quán nhân duyên thời tiết. Đó gọi là “giáo ngoại biệt truyền”, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Đức Thích-ca bốn mươi chín năm thuyết pháp, gồm ba trăm sáu mươi hội, khai mở đốn tiệm, quyền thật gọi là giáo lý một đời. Vị Tăng này đưa ra hỏi Vân Môn rằng: “Thế nào là giáo lý một đời?” Vân Môn sao không giải nói cặn kẻ cho ông ta, lại nói với ông ta: Lời nói đúng. Vân Môn bình thường trong một câu phải đủ ba nghóa, ấy gọi là câu cái hộp trùm càn khôn, câu theo sóng, cắt đứt các dòng, bỏ đi lấy lại, tự nhiên kỳ đặc, như chặt đinh cắt sắt, khiến người nghóa giải, suy nghó chẳng được. Một đại tạng giáo, chỉ tiêu có ba chữ, bốn phương tám hướng, không có chỗ cho ông đào xới. Nhiều người hiểu lầm nói: Việc đối cơ nghi một thời nên nói thế. Lại nói: sum-la và vạn tượng đều là chỗ ấn của một pháp; gọi ấy là “ Đối nhất thuyết”. Lại có nói: Chỉ là nói một pháp kia. Quả thật không có gì dính dáng, không chỉ không hiểu mà lại vào địa ngục nhanh như tên bắn. Thật không biết, ý của người xưa không phải như thế. Cho nên nói: Tan xương nát thịt chưa đủ đền, một câu hiểu rõ vượt trăm ức, thật là kỳ đặc. Thế nào là giáo lý của một đời, chỉ tiêu được câu “lời nói đúng”. Nếu ngay đó lãnh hội được thì có thể trở về nhà ngồi yên ổn. Nếu không lãnh hội được thì hãy lắng nghe xử phân. <詞>TỤNG: Đối nhất thuyết Thái tuyệt cô Vô không thiết chùy trùng hạ khiết Diêm phù thọ hạ tiếu ha ha Tạc dạ Ly long áo giác chiết Biệt biệt Thiều Dương lão nhân đắc nhất quyết. <詞>DỊCH: Lời nói đúng Rất cô tuyệt Chùy sắt không lỗ thêm hạ chốt Dưới cây Diêm-phù cười ha ha Đêm qua Ly long sừng bẽ gãy Riêng biệt lão Thiều Dương được một mảnh. “Lời nói đúng, rất cô tuyệt”; Tuyết Đậu ca ngợi như thế cũng không kịp. Câu nói này độc thoát cô, nguy quang tiền tuyệt hậu như vực thẳm vạn trượng, cũng như trăm vạn quân trận, không có ( 15 5) chỗ cho các ông vào, chỉ là lầm quá ngặt cô nguy. Người xưa nói: Muốn được thân thiết, chớ có lấy điều hỏi để hỏi. Hỏi ở nơi chỗ đáp; đáp ở nơi muốn hỏi. Thật là cô tuấn. Hãy nói chỗ nào là chỗ cô tuấn? Người trong thiên hạ làm gì cũng chẳng được. Vị tăng này cũng là hàng tác gia, cho nên nói hỏi như thế. Vân Môn lại đáp như thế, thật giống như “chùy sắt không lỗ thêm hạ chốt”. Tuyết Đậu sử dụng văn ngôn rất khéo léo. Câu dưới cây Diêm-phù cười ha ha. Trong kinh Khởi Thế nói: Phía Nam núi Tu-di có cây phệ lưu ly ánh sáng chiếu châu Diêm-phù đều màu xanh. Châu này lấy tên đại thọ nên gọi là Diêm-phù-đề. Cây này bề cao bảy ngàn do-tuần, dưới cây ấy có vàng Diêm-phù-đàn, cao hai mươi do-tuần. Vì vàng do dưới cây ấy sinh ra, gọi là cây Diêm-phù. Cho nên Tuyết Đậu tự nói: “Dưới cây Diêm-phù cười ha ha. Hãy nói ông ta cười cái gì? Cười “đêm qua Ly long sừng bẽ gãy”. Chỉ được chiêm ngưỡng, ca ngợi Tuyết Phong có phần. Vân Môn nói: “Lời nói đúng” giống cái gì? Giống như Ly long sừng bẻ gãy. Đến đây nếu không có việc này đâu có thể nói lời như thế. Tuyết Đậu đồng thời tụng rồi, rốt sau lại nói: “Riêng biệt; lão Thiều Dương được một mảnh”, sao không nói được hoàn toàn, thế nào chỉ được một mảnh? Hãy nói một mảnh kia là chỗ nào? Dù xuyên qua người thứ hai. KHAI THỊ: Dao giết người, kiếm cứu người chính là phong quy của thượng cổ, là then chốt của thời nay. Hiện nay cái gì là dao giết người, kiếm cứu người, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Không phải cơ trước mắt, cũng chẳng phải việc trước mắt là thế nào? Vân Môn đáp: Lời nói ngược. GIẢI THÍCH: Tăng này quả là hàng tác gia, khéo hỏi như thế. Về mặt tham vân gọi là thỉnh ích. Đây là trình giải lời hỏi, cũng là câu hỏi Tàng Phong. Nếu không phải là Vân Môn cũng không sao đáp được. Vân Môn có thủ đoạn này, ông ta đã đem câu hỏi đến, bất đắc dó mới trả lời. Vì sao? Vì hàng Tông sư tác gia như gương sáng trên đài, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Người xưa nói: Muốn được thân thiết chớ đem câu hỏi đến hỏi. Vì sao? Hỏi ở nơi đáp, đáp ở nơi hỏi. Chư Thánh trước đây đâu từng có một pháp ban cho người. Ở đó có thiền để nói cho ông? Nếu ông không tạo nghiệp địa ngục tự nhiên không Chiêu quả địa ngục. Nếu ông không tạo nhân thiên đường tự nhiên không thọ quả thiên đường. Tất cả nghiệp duyên đều tự làm tự chịu. Người xưa đã phân tích rõ ràng Ông. Nếu luận bàn việc này không ở trên ngôn cú, thì ba thừa mười hai phần giáo há không phải ngôn cú sao? Lại đâu cần Tổ sư từ Ấn sang. Tắc trước nói “lời nói đúng”, ở đây lại nói “lời nói ngược” chỉ đổi một chữ vì sao lại có ngàn sai vạn biệt? Hãy nói: Điêu ngoa ở chỗ nào? Cho nên nói pháp tuy pháp hành, cơ pháp dựng lập bất cứ nơi nào. “Không phải là cơ trước mắt, cũng không phải là việc trước mắt”, chỉ trừ một điểm đương đầu. Nếu là người có trí tuệ, một điểm cũng không lừa được. Kỳ thật Vân Môn cưỡi ngựa giặc đuổi giặc. Có người hiểu lầm nói: Vốn là lời của chủ, lại trái người khách nói. Cho nên Vân Môn nói: “Lời nói ngược”, có ăn nhằm gì đâu, chết gấp! Vị Tăng hỏi không phải cơ trước mắt, cũng không phải việc trước mắt thì thế nào? Vân Môn không đáp lời khác, chỉ nói với ông ta “lời nói ngược”. Vân Môn một lúc đả phá ông ta đến đây nói lời nói ngược. Cũng giống như da thịt lành khoét làm thương tích. Vì sao? Dấu tích của ngôn từ là lý do mây trắng muôn dặm mà khác đường. Giả sử một lúc không có ngôn cú, cột trụ, lồng đèn, đâu từng có ngôn cú, có hiểu không? Nếu không hiểu, đến đây phải là chuyển động mới biết chỗ rơi. <詞>TỤNG: DỊCH: Đạo nhất thuyết Phân nhất tiết Đồng tử đồng sanh vị quân quyết Bát vạn tứ thiên phi phụng mao Tam Thập tam nhân nhập hỗ huyệt Biệt biệt Nhiễu nhiễu thông thông thủy lý nguyệt. Lời nói ngược, Chia một mãnh Đồng chết đồng sống vì anh giải. Tám vạn bốn ngàn không phải lông phượng, Ba mươi ba người vào hang cọp, Riêng riêng Lăng xăng lộn xộn trăng trong nước. Tuyết Đậu quả là tác gia, ngay một câu liền “chia một mãnh”, rõ ràng cởi mở một phen, nắm tay ông ta cùng đi; ông ta xưa nay có thủ đoạn không tốt dám cùng ông dùng phương tiện, đồng sống đồng chết. Cho nên Tuyết Đậu tụng như thế, thật ra không khác. Chỉ cần gỡ niêm cởi trói; nhỗ đinh tháo chốt. hiện nay lại nhân ngôn cú chuyển sinh cái hiểu phàm tình. Như Nham Đầu nói: “Tuyết Phong tuy cùng sống với ta mà không cùng chết với ta”. Nếu không phải là người toàn cơ thông suốt được tự tại, đâu có thể cùng ông đồng sống đồng chết. Vì sao? Vì ông ta không có nhiều chỗ được mất, thị phi. Cho nên Động Sơn nói: Nếu muốn nhận ra con người hướng thượng chân hay ngụy có ba loại Sấm lậu. 1/ Tình sấm lậu; 2/ Kiến sấm lậu; 3/ Ngữ sấm lậu. Kiến sấm lậu là cơ phong lìa địa vị, rơi vào biển độc. Tình sấm lậu. Trí còn nghịch. Ngữ sấm lậu: Diệu thể mất tông, mịt mờ cơ phong từ đầu đến cuối. Ba thứ sấm lậu này nên tự biết. Lại có ba huyền: Thể trung huyền, cá trung huyền, huyền trung huyền. Người xưa đến cảnh giới này toàn cơ đại dụng, gặp sống thì cùng sinh với ông, gặp chết thì đồng chết với ông, duỗi thân trong miệng cọp, phòng được thủ đoạn, ngàn dặm vạn dặm theo ông mang đi. Vì sao ông ta được một thủ đoạn này mới được, tám vạn bốn ngàn không phải là lông phượng, tám vạn bốn ngàn chúng trong hội Linh sơn, không phải là lông phượng. Nam tử nói: Đời Tống có ông Tạ Siêu Tông, người ở đất Trần quận Dương Hạ, là con của Tạ Phụng, học rộng văn chương lỗi lạc, trong triều đình không ai sánh kịp, là bậc nhất người đương thời ông giỏi văn chương nên làm chức Vương phủ Thường Thị, mẹ của ông tên là Ân Thúc Nghi một hôm nằm mộng thấy Liêu Tống làm bài tấu. Vũ Đế xem văn rất mực khen ngợi nói: Siêu tông thật có lông phượng. <詞>Cổ thi: Triều bãi hương yên huề mãn tụ Thi hành châu ngọc tại huy hào Dạo thi thế chưởng ty luân mỹ Trì thượng như kim hữu phụng mao. Dịch: Triều bãi khói hương mang đầy áo Thơ thành châu ngọc ở bút lông Muốn biết chỉ tơ trong tay đẹp Hiện tại trên hồ đó phụng mao. Ngày xưa trong hội Linh Sơn bốn chúng vân tập, Thế Tôn đưa cành hoa, chỉ có Ca-diếp mỉm cười. Ngoài ra không ai biết Tông chỉ gì? Cho nên Tuyết Đậu nói: “Tám vạn bốn ngàn chẳng phụng mao, ba mươi ba người vào hang cọp”. A-nan hỏi Ca-diếp: Ngoài chiếc y Kim lan, Thế Tôn truyền trao có truyền pháp gì nữa không? Ca-diếp gọi: A-nan! A-nan đáp: Dạ. Ca-diếp nói: Cây phướn trước chùa ngã. A-nan liền ngộ. Sau đó Tổ Tổ truyền nhau, Tây Thiên nơi này có ba mươi ba vị, có kẻ vào hang cọp. Người xưa nói: Không vào hang hổ đâu được làm con của hổ, Vân Môn là loại người này, khéo có thể đồng sinh đồng tử. Tông sư vì người phải đến như thế, cứ ngồi trên giường tre xả được dạy ông đả phá, cho ông tìm mép hổ, cũng phải là đến phải đất ruộng mới được. ( 15 6) Đầy đủ bảy việc tùy thân có thể đồng sống đồng chết, người cao thì đè xuống, người thấp thì nâng lên, người không đủ thì cho, người ở ngọn cao chót vót cứu họ vào đám cỏ hoang, người rơi vào đám cỏ hoang thì cứu họ lên ngọn chót vót. Ông nếu vào vạc sôi lò lửa thì ta cũng vào vạc sôi lò lửa, thật ra không có gì lạ. Chỉ cần cho ông gỡ niêm cỡi trói, nhỗ đinh tháo chốt, gỡ cái đồ mang trên sừng. Hòa thượng Bình Điền có một bài tụng rất hay: <詞>TỤNG: DỊCH: Linh quang bất muội Vạn cổ huy du Nhập thử môn lai Mạc tồn tri giải. Linh Quang không tối Sáng rỡ muôn đời Vào được cửa này Chẳng còn tri giải. Câu: Biệt biệt, lăng xăng lộn xộn trăng trong nước, quả thật có con đường thoát thân, cũng có cơ cứu người. Tuyết Đậu đưa ra dạy người tự mình ngộ sanh, chớ theo ngữ cú của người. Nếu ông theo người khác chính là “ lăng xăng lộn xộn trăng trong nước” như nay làm sao được bình yên, bỏ qua một phen. KHAI THỊ: Đạo không ngang người đứng cô nguy, pháp chẳng thấy nghe, nói nghó đều bắt. Nếu có thể qua thấu rừng gai góc, biết khai mở trói buộc của Phật tổ, được ruộng đất an ổn. Chư thiên không biết đường dâng hoa, ngoại đạo không có cửa để trộm nhìn, suốt ngày đi mà chưa từng đi, trọn ngày nói mà chưa từng nói, mới có thể tự do tự tại, xoay cơ thốt trác, dụng kiếm giết cứu. Dù được như thế, phải biết lập phương tiện giác hóa, một tay nâng lên một tay đè xuống còn khá một tí. Nếu là việc trên bổn phận còn không liên can. Thế nào là việc bổn phận, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Cảnh Thanh: Học nhân (thốt) kêu, thỉnh sư (trác) mổ. Cảnh Thanh nói: Sống được không? Tăng nói: Nếu chẳng sống bị người cười chê. Cảnh Thanh nói: Cũng là kẻ trong cỏ. GIẢI THÍCH: Cảnh Thanh nối pháp Tuyết Phong, cùng với những người đồng thời như Bổn Nhân, Huyền Sa, Sơ Sơn, Thái Nguyên Phù đồng thời yết kiến Tuyết Phong. Sau khi đắc yếu chỉ, thường dùng cơ thốt trác khai thị cho học nhân, khéo ứng cơ thuyết pháp. Sư dạy chúng nói: Phàm là người hành cước, phải có con mắt ứng dụng đồng thời, có ứng dụng đồng thời, mới gọi là nạp tăng như mẹ muốn mổ mà con không được không kêu, con muốn mổ mà mẹ không được không kêu. Có vị tăng ra hỏi: Mẹ mổ con kêu, về phần Hòa thượng thành được việc gì? Cảnh Thanh nói: Tin tức hay! Tăng nói: Con mổ mẹ kêu, về phần học nhân thành được việc gì? Cảnh Thanh nói: Lộ bày mặt mũi. Cho nên môn hạ của Cảnh Thanh có cơ tương ứng, tăng này cũng là khách môn hạ của ông ta, biết được việc trong nhà của ông ta, cho nên hỏi như thế. Học nhân kêu thỉnh sư mổ, lời hỏi này rõ ràng ( tá sự minh cơ mượn sự rõ cơ) ở đó như thế. Con kêu mà mẹ mổ, tự nhiên giống như cùng thời. Cảnh Thanh cũng tốt có thể gọi là đánh đạp tương ưng, mắt tâm chiếu nhau, bèn đáp nói: “Có được sống không?” Tăng ấy cũng tốt cũng biết cơ biến, dưới một câu có khách có chủ, có chiếu, có dụng có sống có chết. Tăng nói: Nếu không sống bị người cười chê. Thanh nói: “Cũng là kẻ trong cỏ”. Bậc nhất là phương tiện nói pháp, Cảnh Thanh quả là kẻ thù đoạn xấu. Tăng này đã hiểu lời hỏi như thế. Vì sao lại nói “cũng là kẻ trong cỏ”. Cho nên bậc tác gia phải có con mắt như thế, như chọi đá nháng lửa, như điện chớp, kết được hay không được, chưa khỏi tan thân mất mạng. Nếu như thế liền thấy Cảnh Thanh nói kẻ trong cỏ”. Sở dó Nam Viện dạy chúng: Mọi người khắp nơi chỉ có con mắt phối hợp thiền cơ mà không có cái dụng phối hộp thiền cơ. Có tăng ra hỏi: Thế nào là dụng phối hợp thiền cơ? Nam Viện nói: Tác gia không thốt trác, mất đi phối hợp thiền cơ. Tăng nói: Là chỗ học nhân còn nghi. Nam Viện nói: Thế nào là chỗ nghi của ông? Tăng nói: Mất. Nam Viện liền đánh. Tăng ấy không chấp nhận, Nam Viện liền đuổi ra. Sau đó tăng đến Vân Môn, ở trong chúng hội nêu lại những lời trước đây. Có một vị tăng nói: Cây gậy của Nam Viện gãy, tăng ấy hoát nhiên ngộ. Hãy nói: Ý ở chỗ nào? Tăng ấy trở về yết kiến Nam Viện thì Sư đã tịch rồi. Vị Tăng lại yết kiến Phong Huyệt, vừa mới lễ bái, Phong Huyệt nói: Có phải là vị tăng lúc ấy hỏi tiên sư phối hợp thiền cơ chăng? Tăng: Phải. Phong Huyệt: Ông lúc ấy hiểu cái gì? Tăng: Con buổi ấy như đi trong ánh đèn. Phong Huyệt: Ông đã hiểu. Vậy hãy nói là đạo lý gì? Tăng này đến chỉ nói: “Con buổi đầu như đi trong ánh đèn”. Vì sao Phong Huyệt bảo ông ta: Ông đã hiểu. Sau này Thúy Nham niêm rằng Nam Viện tuy nhiên toan tính trong màn, đâu ngờ đất rộng người thưa, kẻ tri âm quá ít. Phong Huyệt nói Nam Viện lúc ấy đợi hắn ta mở miệng đánh vào đùi tay xem ông ta thế nào? Nếu thấy công án này thì thì thấy chỗ tăng này mà Cảnh Thanh gặp nhau, mọi người thế nào, tránh được ông ta nói là kẻ trong đám cỏ. Cho nên Tuyết Đậu thích ông ta nói là kẻ trong cỏ bèn tụng ra: <詞>TỤNG: DỊCH: Cổ Phật hữu gia phong Đối dương bất biếm bác Tử mẫu bất tương tri Thị thùy đồng thốt trác Trác giác du tại xác Trùng tạo phác Thiên bạ nạp Tăng đồ danh mạo. Cổ Phật có gia phong Đối nêu bị lật đuổi Mẹ con không biết nhau Thì ai đồng kêu mở Kêu biết còn trong vỏ Lại bị vỗ Cả thảy nạp tăng theo danh mạo. GIẢI TỤNG: “Cổ Phật có gia phong” Tuyết Đậu tụng một câu xong rồi. Phàm là người xuất đầu dù bên cạnh không được, nếu gần bên được thì muôn dặm Nhai Châu, vừa xuất đầu bèn rơi trong cỏ. Dù chẳng tiêu một cái ấn tay. Tuyết Đậu nói: “Cổ Phật có gia phong” không phải ngày nay như thế. Đức Thích-ca mới sinh ra một tay chỉ trời một tay chỉ đất mắt nhìn bốn phương nói: “Trên trời dưới trời chỉ có ta là cao quý. Vân Môn nói: Khi ấy nếu thấy đập một gậy chết tốt rồi cho chó ăn; mới mong thiên hạ thái bình. Như thế mới đền được ân lớn. Vì thế cơ thốt trác đều là “ Cổ Phật gia phong”. Nếu đạt lời nói này thì có thể cho một đấm ngã nhào ở lầu Hoàng Hạc, đạp một đạp nhào Châu Anh Võ. Như đống lửa lớn gần nó thì cháy hết mặt mày. Như kiếm Thái A toan hươi thì tan thân mất mạng, người này chỉ là người thông suốt được đại giải thoát mới có thể như thế. Nếu mê nguồn kẹt câu nhất định dựng lời nói này không được. “Đối nêu bị lột đuổi”, chính là một khách một chủ, một hỏi một đáp, đối với chỗ hỏi đáp bèn có lột hết, gọi đó là “Đối nêu bị lột đuổi”. Tuyết Đậu biết rõ việc này, cho nên chỉ cần hai câu, là tụng xong. Về sau chỉ là rơi trong cỏ, vì ông chú phá. Mẹ con không biết nhau, thì ai đồng kêu mổ, mẹ tuy mổ nhưng không thể đến kêu, con tuy kêu nhưng mẹ không thể mổ, hai bên đều không thể biết nhau. Ngay lúc kêu mổ là ai đồng kêu mổ? (2 5 7) Nếu hiểu như thế thì vượt ra câu sau của Tuyết Đậu không không nổi. Vì sao? Hương Nghiêm nói: “Con kêu mẹ mổ, con biết không vỏ, mẹ con đều quên, ứng duyên không lầm, cùng nói xướng hòa, diệu huyền độc cước. Tuyết Đậu không ngại rơi trong cỏ làm sắn bìm. Tụng nói một chữ “Mỗ” là chỉ Cảnh Thanh đáp nói “Lại được sống không?” Tụng nói chữ “Biết” là chỉ vị Tăng này nói. Nếu không sống thì bị người chê cười. Vì sao Tuyết Đậu lại nói: Còn trong vỏ. Tuyết Đậu đá nháng phân biệt trắng đen trong cơ điện xẹt chia nối góc. Cảnh Thanh nói: “Cũng là kẻ trong đám cỏ”. Tuyết Đậu nói: “Lại bị vỗ”. Chỗ khó này chính là Cảnh Thanh nói: Cũng là kẻ trong cỏ, gọi Cảnh Thanh đổi con mắt của người được không. Câu này là còn ở trong vỏ không? Hẳn là không can thiệp, vì sao thế? nếu hiểu được thì hành cước khắp thiên hạ, vẫn có phần báo ân. Sơn tăng nói lời như thế cũng là kẻ rơi trong cỏ cả khắp nạp tăng theo danh mạo, ai là người không danh mạo, lại làm lụy đến nạp tăng trong thiên hạ. Hãy nói Cảnh Thanh thế nào là chỗ của vị tăng kia? Nạp tăng trong thiên hạ nhãy chẳng khỏi. KHAI THỊ: Dạy chúng nói: Chặt đinh cắt sắt mới là bổn phận Tông sư, né tránh tên đao đâu có thể làm tác giả thông phương. Chỗ dùi châm không vào, hãy bỏ qua một bên, khi sóng dậy ngất trời thì thế nào. Thử nêu xem nêu. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Hương Lâm đáp: Ngồi lâu sinh nhọc. GIẢI THÍCH: Hương Lâm nói: Ngồi lâu sinh nhọc có hiểu không? Nếu hiểu được, trên đầu trăm cỏ dứt hết chiến tranh. Nếu không hiểu thì lắng nghe phân xử”, người xưa hành cước, chọn bạn đồng hành, vạch cỏ xem gió. Lúc này Vân Môn giáo hóa ở Quảng Nam, Hương Lâm qua đất Thục cùng với Nga Hồ Cảnh Thanh lúc này trước tham kiến Hồ Nam Báo Ân, sau đó mới đến trong hội của Vân Môn làm thị giả mười tám năm, ở chỗ Vân Môn, đích thân được nghe Sư ngộ tuy muộn, song quả thật là bậc đại căn khí, ở Vân Môn hầu hạ mười tám năm, Vân Môn thường chỉ gọi Viễn Thị giả, Hương Lâm đáp “dạ”. Môn nói: Là cái gì? Hương Lâm lúc bấy giờ cũng hạ ngữ trình kiến giải với hành vi dối trá, hoàn toàn không khế hợp. Một hôm Hương Lâm la to: Con đã hiểu. Môn nói: Sao không nói một câu hướng xem? Hương Lâm lại ở ba năm trong thất Vân Môn, khớp đại cơ biện, hơn phân nửa vì thị giả Viễn, tùy chỗ nhập tác. Vân Môn phàm có một lời, một câu đều nhằm vào chỗ thị giả Viễn. Sau khi Hương Lâm trở về đất Thục, ban đầu ở cung Thủy Tinh tại Đạo Giang, sau đó trụ chùa Hương Lâm ở Thanh Thành, Hòa thượng Tộ ở Trí Môn người Chiết nghe Hương Lâm giáo hóa thịnh hành, bèn đến đất Thục tham lễ. Hòa thượng Tộ là thầy của Tuyết Đậu. Vân Môn tuy tiếp người vô số, nhưng bấy giờ đạo hạnh chỉ có một phái của Hương Lâm là thịnh hành, trở về Tứ Xuyên trụ viện bốn mươi năm, tám mươi tuổi mới tịch. Thường nói: Ta bốn mươi năm mới nhồi thành một khối. Sư Dạy chúng: “Phàm hành cước, tham tầm tri thức, phải mang mắt mà đi, cần truy tố, xem cạn sâu mới được, trước phải lập chí. Thích- ca Như Lai khi ở bậc nhân địa, phát một lời, một niệm, đều là lập chí”. Sau đó tăng hỏi: Thế nào là một ngọn đèn trong thất? Hương Lâm: Ba người làm chứng rùa thành ba ba. Lại hỏi: Thế nào là việc của nạp y. Hương Lâm: Tháng chạp lửa đốt rừng. Xưa nay đáp ý Tổ sư rất nhiều, chỉ có một tắc này của Hương Lâm là quét sạch lưỡi của người trong thiên hạ, không có chỗ cho ông suy tính làm đạo lý. Tăng hỏi: Thế nào là yếu chỉ của Thiền tông? Hương Lâm: Ngồi lâu sinh chán, có thể gọi là lời vô vị, câu vô vi, nói lời vô vi dập tắt miệng của người không có chỗ cho ông hít thở, muốn thấy liền thấy. Nếu không thấy tối kî khởi hiểu biết. Hương Lâm từng gặp bậc tài giỏi cho nên có thủ đoạn này. Có ba câu thể điệu, nhiều người hiểu lầm nói. Tổ sư Tây Lai chín năm nhìn vách há không phải là ngồi lâu sinh chán? Có cơ phong gì, không thấy chỗ người xưa được đại tự tại, ông ta chân đạp đất, không thấy biết đạo lý Phật pháp tạm thời ứng dụng, gọi là pháp tùy pháp hành, pháp tràng dựng khắp nơi, Tuyết Đậu nhân nơi gió mà thổi lửa; người bên cạnh chỉ ra một cái nửa cái. <詞>TỤNG: DỊCH: Nhất cá lưỡng cá thiên vạn cá Thoát cước lung đầu tá giác đà Tả chuyển hữu chuyển tùy hậu lai Tử Hồ yếu đả Lưu Thiết Ma. Một cái hai cái ngàn vạn cái Lột bỏ dây dàm tháo yên cương Xoay tả xoay hữu tùy kẻ sau Tử Hồ cần đánh Lưu Thiết Ma. Tuyết Đậu liền đó như chọi đá nháng lửa như làn điện. Đẩy ra cho ông thấy, ông nghe nơi liền hiểu mới được. Sư quả là con cháu trong thất mới có thể nói như thế. Nếu có thể thẳng xuống liền hiểu như thế, quả là người độc đáo. Một cái hai cái ngàn vạn cái. “Lột bỏ dây dàm tháo yên cương”, tâm không chấp trước mê hoặc, không bị nhiễm sinh tử, không bị kiến giải của Thánh phàm ràng buộc. Trên không có chỗ vin theo, dưới tuyệt hẳn mình người, giống như Hương Lâm, Tuyết Đậu, đâu chỉ là ngàn vạn cái, đáng được người khắp thiên hạ đều như thế. Phật trước Phật sau đều như thế. Nếu trong ngôn cú khởi hiểu biết như Tử Hồ đánh Lưu Thiết Ma. Vừa lên tiếng liền đánh. Tử Hồ tham kiến Nam Tuyền cùng Triệu Châu, Dương Sa Cảnh Sầm Đại Trùng đồng tham. Bấy giờ Lưu Thiết Ma dựng am dưới núi Quy Sơn được mọi người đều kính nễ. Một hôm, Tử Hồ đến hỏi: Có phải là Lưu Thiết Ma chăng? Thiết Ma: Không dám. Tử Hồ: Xoay trái hay xoay bên phải. Thiết Ma: Hòa thượng chớ có điên đảo. Tử Hồ: Theo tiếng liền đánh. Hương Lâm đáp câu hỏi của vị Tăng: Thế nào yếu chỉ Thiền tông? Lại nói: Ngồi lâu sinh chọc. Nếu hiểu được như thế, xoay bên trái xoay bên phải tùy hậu lai. Hãy nói Tuyết Đậu tụng ra như thế ý trị chỗ nào? Vô sự thì tốt thử nêu xem? CÔNG ÁN: Túc Tông Hoàng đế hỏi Trung Quốc sư: Sau khi tuổi Sư cần vật gì? Quốc sư: Xin xây tháp Vô Phùng cho lão Tăng. Đế: Xin Sư cho kiểu tháp. Quốc sư im lặng hồi lâu nói: Hiểu không? Đế: Không hiểu. Quốc sư: Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này xin ngài đến hỏi Đam Nguyên. Sau khi Quốc sư tịch. Vua đến Đam Nguyên hỏi ý này thế nào? Đam Nguyên: Phía Nam sông Tương phía Bắc cái đầm. Tuyết Đậu trước ngữ: Một tay vỗ không kêu, ở giữa vàng ròng đầy một nước. Tuyết Đậu trước ngữ: Núi hình cây gậy hình núi, dưới cây không bóng nên đồng thuyền. Tuyết Đậu trước ngữ: Sông trong biển lặng, trên điện lưu ly không tri thức. Tuyết Đậu trước ngữ: Nêu rồi vậy. GIẢI THÍCH: Túc Tông, Đại Tông đều là con cháu của Huyền Tông khi còn làm Thái tử, thích tham thiền. Vì nước có nhiều trộm cướp, Huyền Tông dời sang đất Thục. Vào đời Đường, vua ở Trường An, bị An Lộc Sơn chiếm cứ sau đó dời về Lạc Dương. Khi Túc Tông lên nhiếp chánh thì Quốc Sư Huệ Trung ở am trên núi Bạch Nhai thuộc Đặng Châu, nay là đạo tràng Hương Nghiêm. Hơn bốn mươi năm Quốc sư không xuống núi, đạo hạnh đồn đến tai vua. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai vua sai Trung sứ với Ngài vào cung, dùng đãi Sư theo lễ thầy trò rất là kính trọng. Quốc sư thường nói về đạo Vô thượng cho vua nghe. Sư thối triều, đế tự đưa xe Ngài đi, các quần thần trong triều đều có tỏ vẻ bực tức, muốn tâu lên vua nhưng không tiện. Quốc sư có tha tâm thông, khi thấy vua liền tâu: Tôi ở trước trời Đế Thích, thấy Thiên tử Túc Tán nhanh như làn điện chớp. Vua càng thêm kính trọng. Đại Tông lên ngôi, lại mời Quốc Sư ở chùa Quang Trạch, mười sáu năm, tùy cơ thuyết pháp. Niên hiệu Đại Lịch thứ mười, Quốc sư thị tịch. Hòa thượng Thanh Tỏa ở phủ Sơn Nam xưa cùng đi với Quốc sư. Quốc sư từng tâu lên vua mời về triều vua mời Hòa thượng ba lần nhưng không được. Hòa thượng mắng Quốc sư đam mê danh lợi, luyến trước nhân gian. Quốc sư phục vụ liên tiếp ba triều đại. Cha con vua đều thích tham thiền. Theo tham khảo Truyền Đăng Lục, đây chính là câu hỏi của Đại Tông. Còn hỏi Quốc sư” Thế nào là mười thân Điều Ngự”, mới là lời hỏi của Túc Tông. Quốc sư duyên hết sắp nhập Niết-bàn bèn từ biệt Đại Tông. Đại Tông hỏi: Quốc sư sau khi trăm tuổi cần vật gì?: Chỉ là một câu hỏi bình thường mà ông già không gió nổi sóng, nói: Xây cho Lão tăng cái tháp Vô Phùng. Hãy nói Thanh thiên bạch Phật như thế là sao? Xây tháp là được rồi, vì sao lại nói Xây tháp Vô Phùng? Đại Tông quả người tài giỏi cho ông một cái tát, liền nói “xin Sư cho kiểu tháp”. Quốc sư im lặng hồi lâu nói: Hiểu không? Kỳ quái cái này thật khó tham cứu. Quốc sư bị vua tát một cái, liền miệng như tấm biển. Tuy như vậy, nếu không phải lão này cơ hồ té nhào rồi, nhiều người nói chỗ Quốc sư không nói chính là kiểu tháp này. Nếu hiểu như thế thì một tông của Đạt-ma quét sạch. Nếu cho rằng im lặng là phải thì kẻ câm cũng hiểu Thiền. Há không thấy ngoại đạo hỏi Phật: Không hỏi có lời hay không hỏi không lời? Thế Tôn im lặng. Ngoại đạo lễ bái khen ngợi: Thế Tôn đại từ đại bi vạch đám mây mờ cho con, làm cho con được vào. Sau khi ngoại đạo đi rồi A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có sở chứng gì mà nói được vào? Thế Tôn đáp: Như con ngựa giỏi ở thế gian vừa thấy bóng roi liền chạy. Đa số người nhắm vào sự im lặng mà hiểu thật có gì mà hiểu. Ngũ Tổ Tiên sư nêu nói: Mặt trước là trân châu mã não, mặt sau là mã não trân châu. Bên trái là Quán Âm, Thế Chí, bên Tây là Văn-thù, Phổ Hiền, ở giữa có là cờ bị gió thổi kêu hồ lô! hồ lô. Quốc sư hỏi không? Vua nói: Không hiểu, cũng tạm được. Hãy nói không hiểu cùng với cái không hiểu của Võ Đế là đồng hay khác? Tuy nhiên giống thì giống mà đúng thì chưa đúng. Quốc sư nói: Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên, thông hiểu việc này. Vua muốn rõ hãy đến hỏi ông ta. Tuyết Đậu niêm: “ Một tay vỗ không kêu”. Đại Tông không hiểu thì tạm gác lại, Đam Nguyên có hiểu không? Chỉ tiêu được câu: “xin Sư cho kiểu tháp”. Mọi người trên quả đất không làm sao được. Ngũ Tổ Tiên Sư nêu: Ông là Thầy của một nước vì sao không nói mà đẩy qua cho đệ tử. Sau khi Quốc sư thị tịch Vua vời Đam Nguyên hỏi ý này thế nào? Đam Nguyên đến trả lời thay cho Quốc sư, lời Hồ tiếng Hán nói đạo lý tự nhiên hiểu được lời của Quốc sư. Chỉ nói một bài tụng: Bên Nam sông Tương, bên Bắc cái đầm. Khoảng giữa có vàng ròng đầy một nước Dưới cây không bóng nên đồng thuyền Trên điện lưu ly không tri thức”. Đam Nguyên gọi là Ứng Chân, là thị giả của Quốc sư. Sau đó Sư ở chùa Đam Nguyên ở Kiết Châu. Bấy giờ Ngưỡng Sơn đến tham yết Đam Nguyên, Đam Nguyên nói: Tánh ác không thể phạm. Ở không được, Ngưỡng Sơn trước đến tham yết Thiền sư Tánh Không. Có vị tăng hỏi Tánh Không: “Thế nào là yếu chỉ của Thiền tông?” Tánh Không: Như người ở trong giếng ngàn thước, không nhờ tấc dây thoát ra được người này tức là đáp Tây lai ý cho ông. Tăng nói: Gần đây Hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng vì người mà nói Đông nói Tây. Tánh Không liền gọi: Sa-di! Kéo ra tử thi này ra. Sau đó Ngưỡng Sơn Sơn đem hỏi Đam Nguyên: Thế nào là người trong giếng ra được? Đam Nguyên bảo: Dốt, đồ ngu si. Ai ở trong giếng? Ngưỡng Sơn không khế hợp. Sau đó hỏi Quy Sơn: Sơn bèn gọi Tuệ Tịch. Sơn đáp: Dạ. Quy Sơn nói: Ra rồi. Ngưỡng Sơn liền đại ngộ nói: Con ở chỗ Đam Nguyên được thể, ở nơi Quy Sơn được dụng. Cũng chỉ một bài tụng này; dẫn người tà giải biết bao sự người hiểu lầm nói: “Tương là tương kiến, đàm là đàm luận. Ở giữa có tháp Vô phùng. Cho nên nói: Trong có vàng ròng đầy một nước. Vua và Quốc sư đối đáp là “dưới cây không bóng nên đồng thuyền”. Vua không hiểu nên nói “Trên điện lưu ly không tri thức”. Lại có người nói: Tương là phía Nam Tương châu, đàm phía Bắc Đàm châu, ở giữa có vàng ròng đầy một nước, phải là tụng nhà Quan. Liếc mắt nhìn xem nói: Cái này là tháp Vô phùng, nếu hiểu như thế, không ngoài kiến chấp phàm tình, chỉ hạ bốn chuyển ngữ của Tuyết Đậu lại làm sao hiểu? Người thời nay không biết ý của người xưa. Thử nói: Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm ông làm sao hiểu? Ở giữa vàng ròng đầy một nước ông làm sao hiểu dưới cây không bóng nên đồng thuyền vua không hiểu, nên nói: Trên điện lưu ly không tri thức, ông làm sao hiểu. Nếu thấy tương ưng như thế, thật thỏa mãng thư bình sanh, phía Nam sông Tương, phía Bắc cái Đầm, Tuyết Đậu nói: Chạm tay không sóng vỗ bất đắc dó nói cho ông, ở giữa có hoang kim đầy cả nước. Tuyết Đậu nói: Núi hình giống cây gậy. Người xưa nói biết được cây gậy, việc tham học một đời đã xong. Dưới cây không bóng nên đồng thuyền. Tuyết Đậu nói: Sông trong biển lặng, đồng thời mở hoác cửa nẽo, thủ đoạn khéo léo, “Trên điện lưu ly không tri thức”. Tuyết Đậu nói: “Niêm rồi, vậy một lúc nói cho ông rồi, không ngại khó gặp, gặp được cũng tốt chỉ có có một chút nhận lầm theo lời sinh kiến giải, từ đầu đến cuối nắm rồi, lại khá một chút. Tuyết Đậu phân rõ một lúc hạ ngữ rồi. Đoạn sau chỉ tụng tháp Vô phùng: <詞>TỤNG: DỊCH: Vô phùng tháp Kiến hoàn nan Trừng đàm bất hứa thương long Tăng lạc lạc Ảnh đoàn đoàn Thiên cổ vạn cổ dữ nhân khan. Tháp Vô phùng Càng khó thấy Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn Từng lộng lẩy Bóng tròn tròn Ngàn xưa muôn xưa cho người xem. TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu ngang ban đầu nói: “Tháp Vô phùng càng khó thấy”. Tuy nhiên riêng bày chẳng giấu, song mà khi cần thấy lại khó thấy, Tuyết Đậu từ bi tha thiết lại vì ông nói: “Đàm trong không cho rồng to cuộn. Ngũ Tổ Tiên sư nói: Tụng cổ của Tuyết Đậu một quyển ( 15 9). Tôi chỉ thích một câu: “Đàm trong không cho rồng to cuộn”, vẫn còn tạm được. Nhiều người đến chỗ Quốc sư im lặng để làm kế sống. Nếu hiểu được như thế một lúc lầm rồi. Không thấy nói: Rồng nằm chẳng chọn nước đọng chỗ không, có trăng sóng yên; chỗ có không gió nổi sóng. Lại nói: Rồng nằm hằng sợ đầm trong biếc. Nếu loại này, dù cho nước dậy mênh mông, sóng bủa ngập trời, cũng không ở trong chỗ đó uốn khúc. Tuyết Đậu đến đây tụng đã xong. Phần sau một chút trí tuệ tô đắp nên cái tháp Vô phùng. Theo sau nói: Tầng lồng lộng, bóng tròn tròn, ngàn cổ vạn cổ cùng người xem. Ông làm sao xem? Hiện nay ở chỗ nào? Dù cho ông thấy được rõ ràng cũng chẳng nhận lầm một tiêu chuẩn cố định. KHAI THỊ: Một hạt bụi dấy lên tóm thâu đại địa, một cành hoa nở, thế giới bừng dậy. Chỉ như khi hạt bụi chưa dấy lên, hoa chưa nở làm sao để mắt? Cho nên nói: Như chặt một cuộn tơ, một chặt thì tất cả đều chặt. Như nhuộm một cuộn tơ, một nhuộm thì tất cả đều nhuộm. Chỉ như nay cắt đứt sắn bìm, tìm ra được của báu nhà mình, cao thấp đều ứng, trước sau không sai, mỗi mỗi đều hiện thành. Nếu chưa như vậy, thì xem lấy văn dưới. CÔNG ÁN: Hòa thượng Câu Chi, phàm có ai hỏi chỉ đưa một ngón tay. GIẢI THÍCH: Nếu hiểu được trên đầu ngón tay thì cô phụ Câu Chi, nếu không hiểu trên đầu ngón tay, thì như đúc gang làm đồ dùng. Hiểu cũng như thế, không hiểu cũng như thế, cao cũng như thế, thấp cũng như thế, đúng cũng như thế, sai cũng như thế. Cho nên nói: Một bụi vừa dấy lên thì cả đại địa toàn thâu, một cành hoa chớm nở thì cả thế giới rúng động, một sợi lông sư tử trăm ức sợi lông hiện. Viên Minh nói: Lạnh thì khắp trời đất đều lạnh, nóng thì khắp trời đất đều nóng, sơn hà đại địa thấu xuống suối vàng, vạn tượng sum-la, thông tận hư không. Hãy nói vật gì kỳ quái như thế? Nếu biết được, không mất một cái ấn tay. Nếu không biết được thì chướng ngại dẫy đầy. Hòa thượng Câu Chi là người Kim Hoa Vụ Châu, lúc đầu ở am có một ni tên Thật Tế, đi thẳng vào am không lột nón xuống, cầm tích trượng nhiễu quanh giường thiền ba vòng rồi nói: Nói được thì lột nón, hỏi như thế đến ba lần Câu Chi không đáp được, ni bèn bỏ đi. Câu Chi nói: Trời sắp tối cô hãy tạm ở lại một đêm. Ni nói: Nói được thì ngủ lại. Câu Chi cũng không đáp được. Vị Ni liền đi. Câu Chi than: Ta tuy là kẻ trượng phu mà không có khí trượng phu liền tức giận muốn rõ việc này. Toan bỏ am đi các nơi tham kiến, làm người hành cước tôi luyện. Đêm đó thần núi đến mách rằng: Không nên rời nơi này. Ngày mai có nhục thân Bồ-tát đến, thuyết pháp cho Hòa thượng. Quả nhiên ngày mai Hòa thượng Thiên Long đến am, Câu Chi đón tiếp trình bày mọi sự trước đây. Thiên Long chỉ đưa một ngón tay lên, Câu Chi bỗng nhiên đại ngộ. Lúc ấy trịnh trọng chuyên chú cho nên thùng sơn lũng đáy. Sau đó hễ có ai hỏi. Ngài chỉ đưa một ngón tay lên. Trường Khánh nói: Thức ăn ngon không hợp cho người no ăn. Huyền Sa nói: Nếu lúc ấy ta thấy thì sẽ chặt đứt ngón tay. Huyền Giác nói: Huyền Sa nói như thế ý thế nào? Vân Cư Tích nói: Chỉ như Huyền Sa nói như thế là bằng lòng với y hay là không bằng lòng. Nếu bằng lòng tại sao nói chặt đứt ngón tay. Nếu không thừa nhận Sư thì Câu Chi lỗi ở chỗ nào? Tiên Tào Sơn nói: Chỗ thừa nhận của Câu Chi quá sơ sài, chỉ nhận được một cơ, một cảnh nhảy lên một bậc liền vỗ tay quơ múa, thấy Tây Viên rất là kỳ quái. Huyền Giác lại nói: Câu Chi đã ngộ chưa? Vì sao thừa đương quá sơ sài. Nếu là không ngộ sao lại nói: “Ta được một ngón tay thiền của ngài Thiên Long mà thụ dụng suốt đời không hết. Hãy nói ý của Tào Sơn ở chỗ nào? Đương thời quả nhiên Câu Chi không hiểu, đến sau khi ông ta ngộ, phàm có ai hỏi chỉ đưa một ngón tay. Vì sao ngàn người, vạn người, bủa vây ông không được đập phá, không vỡ? Nếu ông dùng làm ngón tay để hiểu, quyết định sẽ không thấy ý của người xưa; loại thiền này dễ tham mà khó hiểu. Như người thời nay mới hỏi cũng đưa ngón tay dựng bàn tay chỉ là mê hoặc người. Cần phải là thấu triệt xương tủy, thấy thấu suốt mới được. Trong am của Câu Chi có một đồng tử, khi ra ngoài bị người ta hỏi: Hòa thượng bình thường lấy pháp gì dạy người? Đồng tử đưa một ngón tay lên. Khi trở về kể lại cho thầy, Câu Chi bèn lấy dao chặt đứt ngón tay của đồng tử, đồng tử kêu la bỏ chạy ra. Câu Chi gọi một tiếng đồng tử quay đầu lại, Câu Chi lại đưa một ngón tay lên đồng tử hoát nhiên ngộ giải. Hãy nói: Thấy đạo lý gì? Cho đến khi thị tịch Sư bảo chúng rằng: Ta được thiền một ngón tay của Thiên Long, suốt đời dùng không hết, có hiểu không? Sư đưa một ngón tay lên rồi hóa. Sau đó, Minh Chiêu Độc Nhãn hỏi Sư thúc Thâm ở chùa Quốc Thái: Người xưa nói: Câu Chi chỉ niệm ba lần chú bèn được gọi là siêu việt tất cả mọi người. Vì sao niệm chú ba lần cho người? Thâm cũng đưa một ngón tay lên. Minh Chiêu thưa: Không nhờ ngày nay thì đâu biết được khách Qua Châu. Hãy nói: Ý thế nào? Bí Ma bình sinh chỉ dùng một cái gậy, Hòa thượng Đả Địa phàm có ai hỏi chỉ đập xuống đất một cái. Sau bị người giấu mất cây gậy, lại hỏi: Thế nào là Phật? Sư chỉ há miệng, cũng là một đời dùng không hết. Vô Nghiệp nói: Tổ sư xem đất này có bậc căn khí Đại thừa, chỉ truyền riêng tâm ấn, vạch bày lối mê. Người được không chọn lựa ngu hay trí, phàm cùng Thánh. Vả lại nhiều hư dối không bằng ít mà chân thật. Bậc đại trượng phu hiện nay, dù dứt bỏ hết, chóng dứt muôn duyên, vượt khỏi dòng sinh tử, thoát khỏi cung cách thường tình. Dù có quyến thuộc trang nghiêm không cầu mà tự được, Vô Nghiệp cả đời hễ ai hỏi điều gì chỉ nói: “Chớ vọng tưởng”. Cho nên nói: Thấu một chỗ là ngàn chỗ vạn chỗ đồng thời thấu một cơ sáng là ngàn cơ vạn cơ đồng thời sáng. Người thời nay đều không như thế, chỉ thích buông thả ý theo tình giải, không hiểu được chỗ cốt yếu của người xưa. Ông ta vẫn có bộ máy nhanh chỗ xoay chuyển khéo. Vì sao chỉ dùng một ngón tay? Phải biết Câu Chi đến đây có thể chỗ sâu kín vì người. Cốt hiểu được bớt nhọc sức biết mấy. Viên Minh nói: Lạnh thì khắp trời đất đều lạnh, nóng thì khắp trời đất đều nóng, sơn hà đại địa thông suốt cô nguy, sum-la vạn tượng triệt để chỗ hiểm nguy. Chỗ nào được thiền ngón tay này? <詞>TỤNG: DỊCH: Đối dương thâm ái lão Câu chi Vũ trụ không lai cách hữu thùy? Tằng hướng thượng minh hạ phù mộc Dạ đào tương cộng tiếp mạnh qui. Đối Dương rất thích lão Câu Chi Vũ trụ không này có những gì Từng đến bể sâu thả cây nổi Sóng đêm vỗ cùng tiếp gã manh qui. TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu hiểu bốn mươi sáu văn chương, đại triệt ngộ phàm là công án lạ lùng kỳ đặc, riêng thích liền tụng. Hai câu: Đối Dương rất thích lão Câu Chi, vũ trụ không nay có những gì? Người học đè người nay nâng người xưa, hoặc khách, hoặc chủ, một hỏi một đáp, đối mặt nắm giữ, có chỗ vì người như thế. Cho nên nói: “Đối Dương rất thích lão Câu Chi”. Hãy nói Tuyết Đậu thích Câu Chi cái gì? ( 16 0) Từ lúc trời đất khai mở đến nay lại có người nào? Chỉ là một lão Câu Chi. Nếu là người khác cần tham tạp nhạp, chỉ có lão Câu Chi, chỉ dùng một ngón tay cho đến suốt đời. Người bấy giờ phần nhiều hiểu sai nói: “Sơn hà đại địa cũng không người cũng không pháp cũng không. Dù cho vũ trụ một lúc không cũng vẫn còn một lão Câu Chi. Thế là không dính dáng. “Câu từng đến biển sâu thả” cây nổi, như nay gọi đó là biển sinh tử, chúng sinh ở trong biển nghiệp, vừa ra lại vào không rõ chính mình, không có ngày ra khỏi. Lão Câu Chi từ bi tiếp vật, ở trong biển sinh tử dùng một ngón tay tiếp người, giống như thả khúc gỗ nổi tiếp rùa mù, giúp cho chúng sinh đến bờ giác. Câu: Sóng đêm cùng tiếp gã manh qui”. Kinh Pháp Hoa nói: Như rùa một mắt gặp bọng cây nổi, không còn sợ bị chết chìm. Bậc đại thiện tri thức tiếp được một người như rồng như cọp, dạy họ đến thế giới có Phật, cùng làm chủ khách, thế giới không có Phật quét sạch địa vị quan trọng. Tiếp được con rùa mù đâu cần gì? KHAI THỊ: Bồi non đáp núi, va tường chạm vách, dừng suy nghó, lặng cơ, một trường khổ cực. Hoặc có người hay lật nghiêng biển cả, đạp ngã núi Tu-di, hét tan mây trắng, đậo nát hư không, ngay đó một cơ một cảnh, quét sạch lưỡi của người trong thiên hạ, không có chỗ ông nương cậy. Hãy nói từ xưa đến nay người nào từng làm như thế, thử nêu xem. tông? tông. tông. CÔNG ÁN: Long Nha hỏi Thúy Vi: Thế nào là yếu chỉ của Thiền Thúy Vi: Đem thiền bản đến đây cho ta. Long Nha lấy thiền bản đem đưa Thúy Vi Thúy Vi lấy liền đánh. Nha: Đánh thì mặc đánh, quả là không có yếu chỉ của Thiền Long Nha lại hỏi Lâm Tế: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Lâm Tế nói: Đem bồ đoàn đến cho ta! Long Nha lấy bồ đoàn đem đến cho Lâm Tế. Lâm Tế lấy bồ đoàn liền đánh. Long Nha: Đánh thì mặc đánh, quả thật không có yếu chỉ Thiền GIẢI THÍCH: Hòa thượng Thúy Vi nói: Lúc ấy như thế, nạp tử thời nay không có tâm huyết. Quy Sơn Triết nói: Thúy Vi Lâm Tế có thể gọi là bổn phận Tông sư. Long Nha giống như vạch cỏ xem gió, không ngại làm gương soi cho người sau. Sau đó Sư ở viện có tăng hỏi: Lúc ấy Hòa thượng có chấp nhận hai tôn túc ấy không? Long Nha: Chấp nhận thì chấp nhận. Chỉ là không phải ý chỉ Thiền tông. Long Nha nhìn trước ngoái sau, cho thuốc đúng bệnh. Đại Quy thì không như vậy, đợi y hỏi Hòa thượng lúc ấy có chịu hai tôn túc ấy không, rõ hay không rõ, nhằm vào xương sống đánh, đánh chẳng những đỡ vững Thúy Vi, Lâm Tế cũng không cô phụ người hỏi. Thiền Sư Thông Thạch Môn nói: Long Nha không có người tát được vẫn đáng thể bị nạp tử đẩy mạnh, móc một con mắt. Tuyết Đậu nói: Lâm Tế, Thúy Vi chỉ biết chặt đứt đường ngôn ngữ, dứt bặt mọi nghó suy. Lúc ấy nếu tôi là Long Nha, đợi y đòi bồ đoàn, thiền bản tôi sẽ ném vào mặt y. thiền Sư Giới ở núi Ngũ Tổ nói: Hòa thượng được mặt mày như thế. Hoặc nói: Tổ sư bị đất dính đầu. Thiền sư Tân ở Hoàng Long nói: Long Nha đoạt trâu của người cày, cướp đoạt cơm của người đói, đã rõ thì rõ. Vì sao là không phải yếu chỉ của Thiền tông, hiểu không? Đầu gậy có mặt sáng như mặt trời. Muốn biết vàng ròng thì nên thử lửa. Phàm kích dương yếu diệu, đề xướng Tông thừa, nhằm dưới cơ thứ nhất rõ được; có thể quét sạch lưỡi của người trong thiên hạ. Nếu do dự thì sẽ rơi vào cơ thứ hai. Hai ông lão này tuy đánh gió đánh mưa kinh thiên động địa vẫn chưa từng đánh được kẻ có mắt. Người xưa tham thiền rất cực khổ, lập chí khí đại trượng phu trèo đèo lội suối, tham kiến các bậc tôn túc. Long Nha trước tham kiến Thúy Vi, Lâm Tế, sau đó tham kiến Đức Sơn, bèn hỏi học nhân cầm kiếm Mạc-da, toan lấy đầu Sư, thì thế nào? Đức Sơn đưa đầu nói: Đây. Long Nha nói: Đầu sư rơi rồi Đức Sơn mỉm cười mà thôi. Kế đến Động Sơn, Động Sơn hỏi: Ông từ đâu đến? Long Nha: Đức Sơn. Động Sơn: Đức Sơn có dạy câu gì không? Long Nha kể lại sự việc trước đây. Động Sơn nói: Ông ta nói gì? Long Nha: Sư không nói. Động Sơn: Chớ nói là không nói, hãy thử đem cái đầu rơi của Đức Sơn trình cho Lão tăng xem? Long Nha ngay đó tỉnh ngộ bèn đốt hương từ xa vọng về Đức Sơn lễ bái sám hối. Đức Sơn nghe vậy nói: Lão Động Sơn không biết tốt xấu gã này chết không biết lúc nào, cứu được dùng vào chỗ nào? Mặc y gánh đầu Lão tăng đi khắp thiên hạ. Long Nha căn tánh thông minh, mang một bụng thiền hành cước, thẳng đến Trường An yết kiến hỏi: Thế nào là yếu chỉ của Thiền tông? Thúy Vi: Đưa thiền bản đến đây cho ta. Long Nha lấy thiền bản đưa cho Thúy Vi. Thúy Vi nhận liền đánh. Nha nói: Đánh thì mặc đánh quả thật chẳng phải là ý của Tổ sư. Lại hỏi Lâm Tế: Thế nào là yếu chỉ của Thiền tông? Lâm Tế: Đem bồ đoàn đến đây cho ta. Long Nha lấy bồ đoàn đem đến đưa cho Lâm Tế. Lâm Tế lấy liền đánh. Long Nha nói: Đánh thì cứ đánh, quả thật không phải là yếu chỉ của Thiền tông. Sư đặt câu hỏi, cốt muốn thấy lão già ngồi trên ghế dựa; cũng cần rõ một đoạn đại sự của chính mình, có thể gọi là lời nói không hư cuống, cơ không rối loạn xuất phát từ chỗ làm công phu. Như Ngũ Duệ đến tham vấn Thạch Đầu, tự ước hẹn nói: Nếu một lời khế hợp thì ở, không khế hợp thì đi. Thạch Đầu cứ ngồi, Ngũ Duệ vẫy tay áo đi. Thạch Đầu biết ông ta là bậc pháp khí liền khai thị. Ngũ Duệ không lãnh hội ý chỉ của Thạch Đầu, liền từ biệt đi ra. Ra đến cửa Thạch Đầu gọi: Xà-lê! Ngũ Duệ quay đầu lại. Thạch Đầu nói: Từ sinh đến tử chỉ là cái này. Nhìn lại chính mình chớ tìm đâu khác. Ngũ Duệ ngay đó đại ngộ. Ma Cốc cầm tích trượng đến Chương kỉnh đi nhiễu quanh giường thiền ba vòng, chống tích trượng đứng im. Chương kỉnh nói: Đúng! Đúng! Ma Cốc đến Nam Tuyền cũng dùng những hành động như trước Nam Tuyền nói: Không phải, không phải. Đây là bị sức gió chuyển động, cuối cùng thành bại hoại. Ma Cốc nói: Chương kỉnh nói đúng đúng, vì sao Hòa thượng nói không phải? Nam Tuyền nói: Chương kỉnh đúng, ông không đúng, người xưa không ngại, nắm giữ thông suốt một việc này. Người thời nay mới hỏi hoàn toàn không có một chút công phu. Ngày nay chỉ là như thế, ngày mai chỉ là như thế. Ông nếu chỉ như thế tận đời vị lai cũng chưa có ngày liễu rõ, cần phải phấn chấn tinh thần mới có đôi phần tương ưng. Ông xem Long Nha phát ra một lời hỏi: - Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Thúy Vi đáp: Đem thiền bản đến đây cho ta. Long Nha đem đến Thúy Vi nhận lấy liền đánh. Long Nha lúc ấy lấy thiền bản, há không biết Thúy Vi muốn đánh mình? Cũng không được nói Sư không biết. Vì sao lại đem thiền bản đưa cho ông ta? ( 16 1) Hãy nói đương cơ thừa đương hợp thời phải thế nào? Sư không đến chỗ nước sống để mà tự vào trong dòng nước chết để tìm sinh kế, một bề làm chủ tể, nói đánh thì mặc đánh, quả thật không phải là ý của yếu chỉ Thiền tông. Lại đi đến Hà Bắc tham kiến. Lâm Tế hỏi như trước. Lâm Tế nói: Đem bồ đoàn đến cho ta. Long Nha đem bồ đoàn đến cho Lâm Tế, Tế lấy rồi đánh. Nha nói đánh thì cứ đánh, quả thật không phải là yếu chỉ của Thiền tông. Hãy nói hai bậc tôn túc ấy lại nối pháp khác nhau. Vì sao chỗ đáp lại tương tợ, chỗ dụng lại cũng một loại? Nên biết người xưa một lời một câu đều mẫu mực. Sau đó Sư ở viện có vị tăng hỏi: “Hòa thượng lúc ấy thấy hai vị tôn túc là bằng lòng hay không bằng lòng?” Long Nha nói: Bằng lòng thì bằng lòng, quả thật không phải là yếu chỉ của Thiền tông, có gai trong bùn lầy, tha cho người, đã rơi vào cơ thứ hai, lão này định vững, chỉ làm được tôn túc dưới môn đình của tông Tào Động. Nếu là môn hạ của Đức Sơn, Lâm Tế, phải biết chỉ có sinh nhai. Nếu là Sơn tăng thì không như vậy, chỉ nói với ông ta, bằng lòng thì chưa bằng lòng quả thật là không phải là yếu chỉ của Thiền tông. Ông không thấy có vị tăng hỏi Đại Mai: Thế nào là yếu chỉ của Thiền tông? Mai đáp: Thiền tông không có ý. Diêm Quan nghe vậy nói: Hai thây liệm một kiểu vô quan tài. Huyền Sa nghe vậy nói: Diêm Quan đúng là thiền sư thứ cừ. Tuyết Đậu nói: Ba cái cũng có. Chỉ như tăng này hỏi yếu chỉ Thiền tông thì đáp với ông ta Thiền tông không có yếu chỉ. Nếu ông hiểu như thế thì rơi vào cảnh giới vô sự. Cho nên nói: Cần tham câu sống chớ tham tử cú, lãnh hội nơi hoạt cú muôn kiếp không quên; lãnh hội nơi tử cú tự cứu không được. Long Nha nói như thế hẳn là toàn thiện. Người xưa nói! Nối được nhau cùng rất khó. Một lời, một câu, của người xưa đều là mẫu mực, trước sau chiếu soi nhau, có quyền có thật, có chiếu có dụng, khách chủ rõ ràng ngang dọc đổi nhau, nếu muốn biện luận chỗ thân thiết ấy. Long Nha tuy không lầm Tông thừa, đâu ngờ rơi vào mé thứ hai. Đương thời Hai tôn túc đói bồ đoàn, thiền bản, Long Nha không thể không biết ý mà cần dùng được việc trong hông ngực của mình. Tuy nhiên như thế, quả là dùng được quá tuyệt. Long Nha hỏi như thế, hai vị tôn túc đáp như thế, vì sao lại không có yếu chỉ Thiền tông? Đến đây cần biết riêng có chỗ kỳ đặc. Tuyết Đậu đưa ra để cho người xem. <詞>TỤNG: DỊCH: Long Nha sơn lý long vô nhãn Tử thủy hà tằng chấn cổ phong Thiền bản, bồ đoàn bất năng dụng Chỉ ưng phân phó dữ Lô Công. Trong núi Long Nha rồng không mắt. Nước chết đâu từng chấn cổ phong Thiền bản bồ đoàn không thể dụng Chỉ nên phân phó lão Lô Công). GIẢI THÍCH: Tuyết Đậu cứ nghỉ kết án, Sư tuy tụng như thế. Hãy nói ý ở chỗ nào? Chỗ nào là không mắt? Chỗ nào là trong nước chết? Đến đây phải là người có biến thông mới được. Cho nên nói: Đầm trong không cho rồng to cuộn, nước đâu từng có rồng to. Đâu không thấy nói: Nước chết không chứa rồng. Nếu là rồng sống cần phải đi trong chỗ nước dậy mênh mông sóng vỗ ngập trời. Điều này nói Long Nha đi vào trong nước chết, bị người đánh. Sư lại nói: Đánh thì cứ đánh, quả thật không phải là yếu chỉ Thiền tông. Vời được Tuyết Đậu nói: Nước chết đầu từng chấn cổ phong. Tuy như thế, hãy nói Tuyết Đậu giúp đỡ Sư hay là làm giảm phong quang của Sư? Nhiều người hiểu lầm nói: “Vì sao chỉ nên phân phó lão Lô Công”. Thật không biết lại là Long Nha phân phó cho người phần lớn tham thỉnh phải là biện về cơ thượng mới thấy chỗ gặp nhau của người xưa. Thiền bản bồ đoàn không thể dùng. Thúy Vi nói: Đem thiền bản đến cho ta Long Nha đưa cho ông ta, há không phải sinh nhai trong nước chết, rõ ràng là tặng rồng xanh, chỉ vì Sư không biết cưỡi, là không dùng được. Chỉ nên phân phó lão Lô Công, thường gọi là Lục Tổ chẳng phải, không từng phân phó cho người. Nếu nói phân phó cho người, phải dùng đánh người, lại thành cái gì? Xưa Tuyết Đậu gọi là Lô Công, Sư đề “Hối Tích Tự Di” rằng: <詞>TỤNG: NGHÓA: Đồ họa đương niêm ái động đình Ba tâm thất thập nhị phong thanh Nhi kim cao ngọa tư tiền sự Thiên đắc Lô Công ỷ thạch bình. Bức vẻ năm kia thích Động Đình Bảy mươi tuổi lẽ thích non xanh Như nay nằm thẳng suy việc trước, Thêm được Lô Công tựa thạch bình. Tuyết Đậu muốn đi trên đầu của Long Nha, lại sợ người hiểu lầm, cho nên riêng tụng muốn giải nghi cho người. Tuyết Đậu lại niêm: <詞>TỤNG: Lô công phó liễu diệc hà bằng Tọa ỷ hưu tương kế Tổ đăng Kham đối mộ vân qui vị hiệp Viễn Sơn vô hạn bích tằng tằng. DỊCH: (Lão này cũng chưa dứt bặt được. Lại làm một bài tụng: Lô Công giao phó gì làm bằng Ngồi tựa thôi đem nối Tổ đăng Cam đối mây chiều về chưa hiệp Núi xa vô hạn vách tầng tầng). Câu: “Lô Công giao phó gì làm bằng”, tức có gì làm bằng cứ, phải hiểu ở nơi đây mới được. chớ ôm cây đợi thỏ, trước đầu lâu một lúc đập tan, không có một chút việc ở trong lòng; dạy cho cảnh giới của người triệt ngộ, lại đâu nhất định phải cậy nhờ. Hoặc ngồi, hoặc tựa, không dùng đạo lý của Phật pháp. Cho nên nói: “Ngồi tựa thôi đem nối Tổ đăng”. Tuyết Đậu một lúc niêm xong. Sư có chỗ chuyển thân, trước sau tự lộ tin tức, có một chút ưu điểm nói “Cam đối mây chiều về chưa hiệp”. Hãy nói ý của Tuyết Đậu ở chỗ nào? Lúc chiều tối mây trở về hợp hay không hợp. Ông nói là gì? Câu “Núi xa vô hạn vách tầng tầng”, y xưa đánh vào trong hang quỷ. Đến đây được mất thị phi một lúc quét sạch cảnh giới của người đại triệt ngộ, mới khá một chút. Núi xa vô hạn vách tầng tầng. Hãy nói là cảnh giới của Văn-thù? Hay là cảnh giới của Phổ Hiền? Là cảnh giới Quán Âm? Đến đây hãy nói là việc của người nào?  VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 3 KHAI THỊ: Dựng pháp tràng, lập Tông chỉ trên gấm thêu hoa. Lột dây dàm, tháo yên cương là thời tiết thái bình. Hoặc là biện được câu kiến giải, nêu một hiểu ba, hoặc chưa như vậy, thì phải lắng nghe như cũ xử phân. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Tri Môn: Lúc hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào? Trí Môn: Hoa sen. Tăng: Sau khi ra khỏi nước thì thế nào? Trí Môn: Lá sen. GIẢI THÍCH: Trí Môn: Nếu là ứng cơ tiếp vật còn khá một chút. Nếu là cắt đứt các dòng, ngàn dặm vạn dặm. Hãy nói hoa sen này lúc ra khỏi nước và chưa ra khỏi nước là một hay là hai? Nếu thấy được như thế, chấp nhận cho ông có chỗ vào. Tuy vậy, nếu là một thì mịt mờ Phật tánh, không biết chân như. Nếu nói là hai thì tâm cảnh chưa quên rơi vào kiến giải, không lúc nào dứt. Hãy nói ý của người xưa thế nào? ( 16 2) Thật ra không nhiều việc. Cho nên Đầu Tử nói: Ông chớ nên đắm trước vào danh ngôn số cú, nếu rõ các sự thì tự nhiên không chấp trước tức là không có nhiều vị thứ không đồng; ông nhiếp thuộc tất cả pháp, tất cả pháp nhiếp thuộc ông không được, xưa nay không có được mất mộng huyễn như nhiều danh mục không thể cưỡng an lập danh tự cho họ, cuồng dối mọi người các ông được không. Các ông hỏi cho nên có lời nói, nếu ông không hỏi bảo ta nói cái gì cho ông thì được tất cả việc. Muốn biết nghóa của Phật tánh phải quán nhân duyên thời tiết. Vân Môn kể lại vị tăng hỏi Vân Môn rằng: Khi Phật chưa ra đời thì thế nào? Vân Môn đưa cây phất trần lên. Tăng nói: Sau khi Phật ra đời thì thế nào? Vân Môn cũng dựng cây phất trần lên, Vân Môn nói: Phía Trước đánh được, phía sau đánh không được. Lại nói: Không nói ra đời, cùng không ra đời, chỗ nào có thời tiết y hỏi. Người xưa một hỏi, một đáp, đúng thời đúng tiết không có nhiều việc. Nếu ông tìm ngôn cú, thì hoàn toàn không dính dáng, nếu ông có thể thấu được lời nói trong lời nói, thấu được ý trong ý, thấu được cơ trong cơ, làm cho thấy được sự vô dụng của ngôn ngữ, mới thấy chỗ đáp của Trí Môn. Hỏi Phật chưa ra đời thời thế nào? Khi Ngưu Đầu chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào? Lúc ban sơ hỗn độn chưa phân thì thế nào? Lúc cha mẹ chưa sinh thì sao? Vân Môn nói: Từ xưa đến nay chỉ là một đoạn sự, không phải, không quấy không được, không mất, không sinh và không chưa sinh. Người xưa đến đây, phóng một đường có ra có vào. Nếu là người chưa hiểu rõ chóng tường đỡ vách, nương cỏ tựa cây, hoặc dạy ông ta buông hết, hoặc đánh cho y chạy vào cỏ hoang rậm rạp. Nếu là người được thì trong hai mươi sáu thời không nương tựa một vật. Tuy không nương vào một vật, nếu là lộ một cơ một vật làm sao tìm ông ta. Tăng nay hỏi rằng: Hoa sen lúc chưa ra khỏi nước thế nào? Trí Môn đáp: Hoa sen, bèn chỉ đấu một hỏi một đáp, quả là kỳ đặc, mọi người khắp nơi cho đó là điên đảo trong đó như thế. Không thấy Nham Đầu nói: Quý nhất là trước khi chưa mở miệng, còn khá một chút chỗ tiết lộ cơ của người xưa bày vẽ rõ ràng. Như người học thời nay không ngộ được ý của người xưa để cho trôi qua, lý luận ra khỏi nước và chưa ra khỏi nước có can hệ gì? Có một vị Tăng hỏi Trí Môn: Thế nào là thể Bát-nhã? Trí Môn: Con trai ngậm ánh trăng sáng. Tăng: Thế nào là dụng của Bát-nhã? Trí Môn: con thỏ mang thai. Xem Sư đối đáp như thế, người trong thiên hạ thảo luận không được mạch ngữ của Sư. Hoặc có người hỏi Giáp Sơn: Khi hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào? Giáp Sơn đáp: Lồng đèn cột trụ. Hãy nói là khác hay giống với hoa sen? Sau khi hoa sen ra khỏi nước thì thế nào? Giáp Sơn đáp: Đầu gậy khêu nhật nguyệt, dưới chân bùn lún sâu. Ông hãy nói đúng hay sai? Chớ nhận lầm kiến giải chủ quan Tuyết Đậu quá từ bi, đả phá tình giải của người, cho nên tụng ra: <詞>TỤNG: Liên hoa hà diệp báo quân tri Xuất thùy hà như vị xuất thì Giang Bắc, Giang Nam vấn Vương lão <詞>DỊCH: Nhất hồ nghi liễu nhất hồ nghi. Hoa sen lá sen báo anh biết Khỏi nước sao bằng chưa khỏi thì. Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương lão Một hồ nghi dại một hồ nghi. TỤNG GIẢI: Trí Môn vốn người Chiết Giang, được vào đất Tứ Xuyên tham vấn Hương Lâm. Khi đã triệt ngộ Sư trở lại trụ trì chùa Trí Môn ở Tây Châu. Tuyết Đậu là con của Sư, thấy được chỗ cùng cực huyền diệu nói: “ Hoa sen, lá sen báo anh biết, khỏi nước sao bằng chưa khỏi thì.” Ở đây muốn người ngộ ngay lập tức. Sơn tăng hỏi: Khi chưa ra khỏi nước thì thế nào? Đáp “cột trụ lồng đèn”. Sau khi ra khỏi nước thì thế nào? “Là đầu khêu nhật nguyệt, dưới chân bùn lún sâu”. Ông chớ nhận lầm theo kiến giải chủ quan. Hiện nay, người gặm vào ngôn cú có bao nhiêu? Ông nói: Khi ra khỏi nước là thời tiết gì? Khi chưa ra khỏi nước là thời tiết gì? Nếu đến đây thấy được cho phép ông đích thân thấy Trí Môn. Tuyết Đậu nói: “Nếu ông không thấy thì đến Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương Lão”. Ý của Tuyết Đậu nói: Mặc dù ông đến Giang Bắc, Giang Nam, hỏi tôn túc ra khỏi nước, chưa ra khỏi nước, Giang Nam thêm được hai câu, Giang Bắc thêm được hai câu, một lớp thêm lớp, dần dần sinh nghi. Hãy nói lúc nào được hết nghi? Như con chồn hoang đa nghi đi trên khối băng lắng nghe tiếng nước. Nếu không có tiếng mới dám qua sông. Người tham học “một hồ nghi lại một hồ nghi”. Đến bao giờ mới được an ổn. KHAI THỊ: Lớn không gì ngoài, nhỏ bằng lân hư, bắt thả chẳng phải ai khác; cuộn lại buông ra do ở nơi ta. Nếu muốn gỡ niêm mở trói, quét sạch việc quan trọng, mỗi vách đứng ngàn nhẫn. Hãy nói là cảnh giới của người nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tuyết Phong dạy chúng: Núi Nam có con rắn to, mọi người các ông phải đề phòng. Trường Khánh nói: Ngày nay trong giảng đường có người tán thân mất mạng. Có vị tăng kể lại cho Huyền Sa. Huyền Sa nói: Phải là Lăng huynh mới được. Tuy như thế, tôi thì không như thế. Tăng nói: Hòa thượng thế nào? Huyền Sa: Dùng núi Nam làm gì? Vân Môn lấy gậy ném trước mặt Tuyết Phong làm thế sơ. GIẢI THÍCH: Nếu Ông an ổn thì mặc tình an ổn nếu đã phá thì đả phá. Tuyết Phong, Nham Đầu và Khâm Sơn là bạn đồng hành. Ba phen đến Đầu Tử chín lần lên Động Sơn, Thượng Động Sơn, sau đó tham kiến Đức Sơn, mới đập vỡ thùng sơn. Một hôm Sư hối thúc Nham Đầu đi tìm Khâm Sơn đến quán trọ tại Ngao Sơn gặp tuyết rơi. Nham Đầu suốt ngày chỉ ngủ khò. Tuyết Phong một bề tọa thiền Nham Đầu hét: Ngủ đi! Cả ngày ngồi giống như thổ địa trong bảy thôn. Ngày sau ma mị trai gái nhà người. Tuyết Phong tự lấy tay chỉ vào ngực nói: Tôi ở đây chưa yên, không dám tự dối lừa. Đầu Tử nói: Ta bảo ông lên đỉnh Cô Phong dựng am tranh xiển dương đại giáo, sao còn nói những lời này. Tuyết Phong nói: Tôi thật chưa yên. Đầu Tử: Ông nếu thật như thế, theo cái thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ đúng tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ không đúng tôi dẹp bỏ. Thanh bèn nêu thấy Diêm Quan thượng đường nêu nghóa sắc không? Được cái chỗ nào? Đầu Tử nói: Cách đây ba mươi năm tối kî nêu. Tuyết Phong lại nêu thấy Động Sơn qua sông tụng được cái chỗ vào. Đầu Tử nói: Nếu như thế tự ngăn không được. Sau đó đến Đức Sơn hỏi việc về Tông thừa trước đây, học nhân có phần không. Đức Sơn đánh một gậy nói gì? Ta lúc ấy như thùng sơn vỡ. Đầu Tử bèn hét nói: Ông không nghe nói: Người từ cửa vào không phải của báu trong nhà. Tuyết Phong nói: Làm sao ông ta làm cho đúng. Đầu Tử: Ngày sau nếu muốn xiển dương đại pháp ( 16 3) mỗi mỗi từ trong lòng mình lưu xuất, cùng ta che trời che đất. Tuyết Phong ngay đó đại ngộ, bèn lễ bái, đứng dậy nói rằng: “Ngày nay mới là Ngao Sơn thành đạo. Sau đó đến trú núi Tượng Cốt ở đất Mân, làm bài tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Nhân sinh thúc hốt tạm tu du Phù thế na tăng đắc cửu cư Xuất lãnh tài đăng Tam thập nhị Nhập Mân tảo thị tứ tuần dư Tha phi bất dụng tần tần cử Kỷ quá ưng tu triền triền trừ Phụng báo mãn triều Chu Tử quí Diêm vương bất phạ bối kim ngư Kiếp người nhanh chóng tợ phù du Cõi tạm ai từng được ở lâu Ba chục thêm hai vừa xuất lãnh Bốn mươi tuổi lẽ trở về Mân Kia sai chẳng thiết thường thường nhắc Mình quấy cần nên gấp gấp trừ Kính bảo cả triều hàng sanh quí Diêm vương chẳng sợ mũ kim ngư. Sư thượng đường dạy chúng: Mỗi mỗi che trời che đất, lại không nói huyền nói diệu, cũng không nói tâm nói tánh, đột nhiên lộ bày, như đám lửa lớn gần nói sẽ bị thiêu đốt mặt mày. Như kiếm Thái A động đến sẽ tan thân mất mạng. Nếu lắng lòng dừng cơ thì không có liên can gì? như Bách Trượng hỏi Hoàng Bá: Từ đâu đến? Hoàng Bá: Nhỗ nấm dưới núi đại hùng đến. Bách Trượng: Thấy cọp không? Hoàng Bá làm tiếng hỏi gầm. Bách Trượng đưa rìu lên làm cái thế chặt. Hoàng Bá liền đánh Bách Trượng một cái. Bách Trượng ngâm ngâm cười trở về thăng tòa dạy chú nói: Núi Đại Hùng có một con cọp các ông phải đề phòng. Lão Tăng ngày nay đích thân gặp Triệu Châu phàm thấy tăng bèn hỏi từng đến lúc này ư? Nói: Từng đến, hoặc nói không từng đến. Triệu Châu đều nói: Uống trà đi. Viện chủ nói: Hòa thượng bình thường hỏi tăng từng đến và không từng đến Ngài đều nói uống trà đi ý chỉ thế nào? Triệu Châu gọi: Viện chủ? Viện Chủ đáp: Dạ. Triệu Châu: Uống trà đi! Môn hạ của Tử Hồ đứng nơi tấm bảng. Trên tấm bảng ghi. Tử Hồ có một con chó, trên lấy đầu người ở giữa lấy lưng người, dưới lấy chân người. Suy tính thì táng thân mất mạng, hoặc đích thân đến mới gặp nhau. Sư liền hét nói: Xem con chó! Tăng mới quay đầu. Sư trở về phương trượng giống như Tuyết Phong nói: Núi Nam có một con rắn cái ông phải đề phòng. Chính lúc như thế ông làm sao đối đáp, không theo lối cũ thử nêu xem. Đến đây phải hiểu câu kiến giải mới được tất cả ngữ ngôn của công án nêu được lại biết thế nào. Xem ông ta dạy chúng như thế, lại không nói hạnh nói giải cho ông, có đem tình thức suy lường được không, là con cháu của nhà ông ta, tự nhiên nói được thì tốt. Cho nên người xưa nói: Thừa lời phải hiểu tông, chớ tự lập quy củ lời nói phải có kiến giải. Nếu là lời nói không lìa lối mòn rập khuôn thì rơi vào biển độc. Tuyết Phong dạy chúng như thế có thể gọi là lời nói vô vị, lấp bít miệng người. Trường Khánh, Huyền Sa đều là người trong nhà của ông ta mới hiểu được lời của ông ta như thế. Chỉ như Tuyết Phong nói Nam Sơn có một con rắn mọi người có biết thế nào không? Đến đây phải là mắt thông phương mới được. Không thấy Chơn Tịnh có bài tụng rằng: Đả cổ lộng Tỳ-bà Tương phùng lưỡng hội gia Vân Môn năng xướng hòa Trường Khánh giải bày da Cổ khúc vô âm vân Nam Sơn niết tỷ xà Hà nhận tri thở ý Đoan đích thị Hoàng Sa. <詞>DỊCH (Đánh trống khảy tỳ-bà Gặp nhau hai nhà hiểu. Vân Môn khéo xướng hòa Trường Khánh giỏi theo a Nhạc xưa không âm vận Rắn to ở núi Nam Người nào biết ý đó Quả thật là Huyền Sa). Chọi đá nháng Trường Khánh đáp như thế là ý thế nào? Như chọi đá nháng lửa, như làn điện chớp, mới có thể lãnh ngộ được. Nếu có một mảy may bỏ không hết bèn lãnh ngộ ông ta không được. Thật đáng tiếc, nhiều người ngay nơi lời nói của Trường Khánh sinh tình giải, nói trong giảng đường mới có chỗ nghe, bèn táng thân mất mạng. Có người nói: Vốn không có một, việc cỏn con, trên chỗ bình thường. Nói lời này cho người nghi, người nghe Sư nói: “Núi Nam có một con rắn to” ông liền nghi. Nếu hiểu như thế nào có dính dáng. Chỉ trên lời nói của ông ta tìm sinh kế, đã không hiểu như thế lại làm sao hiểu như thế. Sau đó có vị tăng kể lại cho Huyền Sa. Huyền Sa nói: Phải là Lăng huynh mới được. Tuy như vậy, tôi thì không phải vậy. Tăng nói: Hòa thượng lại thế nào? Huyền Sa đáp: Dùng núi Nam làm gì? Nhưng xem trong lời nói của Huyền Sa có chỗ xuất thân bèn nói: Dùng núi Nam Sơn làm gì? Nếu không phải là Huyền Sa cũng khó đáp được. Như Tuyết phong nói: “Núi Nam có một con rắn tỏ. Hãy nói! Nó chỗ nào? Đến đây phải là người hướng thượng mới hiểu lời nói như thế. Người xưa nói: Trên thuyền Tạ Tam Lang câu cá, không thích rắn to ở núi Nam. Đến lượt Vân Môn lấy gậy ném trước mặt Tuyết Phong làm bộ sợ. Vân Môn có thủ đoạn dối người, không chạm mũi nhọn, bên sáng đánh được, bên tối cũng đánh được. Sư bình thường vì người, như múa kiếm Thái a, có khi bay lên trên lông mày của người, có khi bay ngoài ngàn dặm lấy đầu người. Vân Môn ném gậy làm bộ sợ, lại không phải là dối gạt người. Ông ta có tàn thân mất mạng không? Tông sư tác gia, hoàn toàn không tìm sinh kế trên một lời, một câu. Tuyết Đậu vì thích Vân Môn khế chứng được ý của Tuyết Phong. Cho nên tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Tượng cốt nham cao nhân bất đáo Đáo giả tu thị lộng xà thủ Lăng sư, Bị sư bất nại hà Tán thân thất mạng hữu đa thiểu? Thiều Dương tri, trùng bác thảo Nam Bắc Đông Tây vô xứ thảo Hốt nhiên đột xuất trú trương đầu Phao đối Tuyết Phong đại trương khẩu Đại trương khẩu hề đồng thiểm điện Dịch khởi mi mao hoàn bất kiến Như kim tàng tại Nhũ Phong Tiền Lai giả nhất nhất khán phương tiện. Núi tượng cốt cao người không đến Người đến phải là tay đùa rắn Sư Lăng, Sư Bị không làm gì được Tàn thân mất mạng có bao nhiêu. Thiều Dương biết, lại vạch cỏ Nam Bắc Đông Tây không chỗ xét Bỗng nhiên đột xuất cây gậy này Ném trước Tuyết Phong há miệng to. Há mở miệng to chừ như điện sấm Suy nghó nhanh lại không thấy Hiện nay ẩn tại ngọn Nhũ Phong. Người đến mỗi mỗi xem phương tiện Tuyết Đậu lớn tiếng hét: Xem dưới chân. GIẢI TỤNG: Tượng Cốt núi cao người không đến, người đến phải là tay đùa rắn”. Dưới ngọn Tuyết Phong có núi tượng cốt, cơ phong của Tuyết Phong cao vời ít có người đến chỗ của ông ta. Tuyết Đậu là người trong nhà ông ta, lông cánh tương tợ, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, phải tác giả thông phương mới cùng chứng minh. Chỉ con rắn to này cũng quả thật khó lừa, phải là hiểu dối trá mới được. Nếu không hiểu dối trá lại bị rắn làm tổn thương. Ngũ Tổ Tiên sư nói: Con rắn này phải có cơ không làm tổn thương chân tay. Đối với trên bảy tấc của ông ta một nắm, một trụ, lại nắm tay cùng đi với Lão tăng. Trường Khánh, Huyền Sa có thủ đoạn này. Tuyết Đậu nói: Sư Lăng, Sư Bị không làm gì được nhiều người nói Trường Khánh, Huyền Sa không làm sao được cho nên Tuyết Đậu động vào Vân Môn lại được không dính dáng. Thật không biết, trong ba người, có không, được mất, chỉ là có thân sơ. Lại hỏi mọi người chỗ nào là chỗ không làm sao được của Sư Lăng, Sư Bị. Tàn thân mất mạng có bao nhiêu. Bài tụng này Trường Khánh nói ngày nay trong giảng đường có người tàn thân mất mạng ( 16 4). Đến đây phải là tay đùa rắn, cẩn thận mới được. Tuyết Đậu ra cửa Vân Môn cho nên một lúc gạt bỏ đi. Chỉ còn một cái Vân Môn nói Thiều Dương biết bỏ lớp cỏ, bởi vì Vân Môn biết Tuyết Phong nói núi Nam có một con rắn thế nào cho nên gạt bỏ đi lớp cỏ. Tuyết Đậu tụng đến đây lại có chỗ vi diệu nói: Nam, Bắc, Đông, Tây không chỗ bàn, ông nói ở chỗ nào? Bỗng nhiên đột xuất ra cây gậy xưa nay chỉ ở trong này. Ông đừng nên nhầm trên cây tìm sinh kế. Vân Môn lấy gậy ném trước mặt Tuyết Phong làm bộ sợ. Vân Môn lại lấy cây gậy làm cái dụng con rắn to. Có khi Vân Môn nói: “Cây gậy hóa thành rồng, nuốt hết càn khôn; sơn hà đại địa chỗ nào còn?” Chỉ là một cây gậy, có khi làm rồng, có khi làm rắn. Vì sao như thế? Đến đây mới biết người xưa nói: “Tâm tùy theo vạn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật sâu xa. Tụng nói: Ném trước Tuyết Phong há miệng há miệng chừ giống như điện chớp. Tuyết Đậu có nhiều tài năng đưa ra con rắn độc của Vân Môn nói: Chỉ như “há miệng to chừ như điện sấm”. Nếu ông suy tính thì tan thân mất mạng. “Suy nghó nhanh, lại không thấy” là đi ở chỗ nào. Tuyết Đậu tụng rồi phải tìm sinh kế cho người, đem con rắn của Tuyết Phong tự tay đùa giỡn, không ngại sống chết tạm thời. Cần thấy không? Hiện nay ẩn tại ngọn núi Phong Nhũ. Phong Nhũ chính là núi Tuyết Đậu. Tuyết Đậu có bài tụng rằng: “Cửa đá bốn bên nhìn trời hẹp, Tịch liêu không cho mây trắng bay.” Trường Khánh, Huyền Sa, Vân Môn đùa xong mà không thấy. Lại nói: “Hiện nay ẩn tại núi Nhũ Phong, người đến mỗi mỗi xem phương tiện”. Tuyết Đậu vẫn còn kẹt. Không nói liền dùng, lại lớn tiếng quát: “Xem dưới chân”. Xưa nay có nhiều người đưa ra nhận xét những điều tóm tắt quan trọng của Tông môn. Hãy nói: Từng làm tổn thương người hay không làm tổn thương người? Sư liền đánh. KHAI THỊ: Ngọc lấy lửa thử, vàng lấy đá thử, kiếm lấy lông thử, nước lấy gậy dò. Cho đến môn hạ của nạp tăng một lời một câu, một cơ một cảnh, một ra, một vào, một xô, một đẩy, cốt thấy sâu cạn, muốn thấy thì hướng đến lưng. Hãy nói lấy gì thử nêu ra xem? CÔNG ÁN: Bảo Phước, Trường Khánh dạo núi. Bảo Phước đưa tay chỉ nói: Nơi đây lại là núi Diệu Phong. Trường Khánh: Đúng thì đúng, thật đáng tiếc. Tuyết Đậu bình rằng: Ngày nay cùng gã này dạo núi tính toán cái gì? Hãy nói rơi chỗ nào? Lại nói: Sau trăm ngàn năm không nói không, chỉ là ít. Sau đó nêu cho Cảnh Thanh nghe. Cảnh Thanh nói: Nếu không phải là Tôn Công, bèn thấy đầu lâu khắp ruộng đồng. GIẢI THÍCH: Bảo Phước, Trường Khánh, Cảnh Thanh đều nối pháp với Tuyết Phong; ba người cùng đắc cùng chứng. Cùng thấy cùng nghe, cùng nêu cùng dùng, một ra, một vào cùng xô đẩy nhau. Bởi vì ông ta là người cùng sinh, nên nói đến biết chỗ rơi? Ở trong hội Tuyết Phong thường hỏi đáp chỉ có ba này. Người xưa đi đứng ngồi nằm cho đây làm chỗ niệm. Cho nên cử đến liền biết chỗ rơi. Một hôm dạo núi, Bảo Phước lấy tay chỉ nói: Chỉ nơi đây chính là đỉnh núi Diệu Phong, như nay thiền lữ hỏi như thế lại chỉ miệng như tấm ván, may gặp hỏi Trường Khánh. Ông nói Bảo Phước nói như thế là tính toán cái gì? Người xưa như thế, muốn nghiệm ông ta có mắt hay không có mắt là người ở trong nhà ấy, tự nhiên biết chỗ rơi. Nên đáp: Đúng thì đúng, thật đáng tiếc! Hãy nói: Trường Khánh nói như thế ý chỉ thế nào? Không thể một bề, giống thì giống, ít được thảnh thơi không việc gì may mà Trường Khánh biết phá ông ta. Tuyết Đậu bình rằng: Ngày nay cùng gã này dạo núi mưu tính cái gì? Hãy nói rơi vào chỗ nào? Lại nói: Sau trăm ngàn năm không nói không; chỉ là ít. Tuyết Đậu biết vỗ ngực giống như Hoàng Bá nói không nói không thiền, chỉ là vô sư”. Tuyết Đậu nói như thế, quả là hiểm hóc. Nếu không phải là đồng thanh tương ưng, đâu được kỳ quái cố nguy như thế. Đây gọi là lời bình, rơi vào hai bên. Tuy rơi vào hai bên nhưng không trụ hai bên. Sau đó Sư kể lại cho Cảnh Thanh nghe. Cảnh Thanh nói: Nếu không phải là Tôn công liên trông thấy đầu lâu đầy đất. Tôn Công là họ của Trường Khánh. Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là đỉnh Diệu Phong? Triệu Châu: Lão tăng không đáp lời của ông. Tăng: Vì sao không đáp lời này? Triệu Châu: Nếu ta đáp lời, sợ ông rơi trên đất bằng. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Tỳ-kheo Đức Vân ở trên đónh Diệu Phong lâu nay không xuống núi, Thiện Tài đến tham cầu học bảy ngày không gặp. Một ngày nọ lại gặp nhau ở ngọn núi khác. Yết kiến xong, Đức Vân vì Thiện Tài nói một niệm pháp môn ba đời, tất cả chư Phật, trí tuệ quang minh phổ kiến”. Đức Vân đã từ lâu không xuống núi, vì sao gặp nhau ở núi khác? Nếu bảo Đức Vân xuống núi. Trong kinh giáo nói: “Tỳ-kheo Đức Vân từ lâu không xuống núi, thường ở trên đỉnh Diệu Phong. Đến đây, Đức Vân và Thiện Tài xác thực quả là ở đâu? Về sau, Lý Thông Huyền tạo sắn bìm, tạo rất khéo nói: Ngọn Diệu Phong là một pháp môn nhất vị bình đẳng, mỗi mỗi đều là chân thật, mỗi mỗi đều là hoàn toàn, nhằm chỗ không được, không mất, không phải, không quấy tỏ bày. Cho nên Thiện Tài không gặp đến chỗ xứng tánh, như mắt không tự thấy, tai không tự nghe, tay không tự tiếp xúc. Như dao không tự hại, lửa không tự đốt, nước không tự rửa. Đến đây trong kinh giáo thật từ bi có chỗ vì nhau. Cho nên bỏ qua một phen vào nghóa môn thứ hai, lập khách lập chủ, lập cờ cảnh, lập hỏi đáp. Cho nên nói: Chư Phật không ra đời cũng không có Niết-bàn, phương tiện độ chúng sinh, cho nên hiện việc như thế. Hãy nói: Cuối cùng làm sao thoát được Cảnh Thanh, Tuyết Đậu nói như thế, đánh vào tương ưng. Cho nên người khắp sơn hà đại địa lâu khắp ruộng đồng. Cảnh Thanh chứng như thế, hai người kia dùng như thế đưa ra Tuyết Đậu làm bài tụng rất rõ ràng sau đây: <詞>TỤNG: DỊCH Diệu phong có đãnh thảo ly ly Niệm đắc phân minh phí dữ thùy Bất thị Tôn Công biện đoan đích Độc lâu trước địa kỷ nhân tri. (Diệu Phong vót có xanh rì, Nắm được rõ ràng gởi đến ai Không phải Tôn Công bàn thấu đáo Đầu lâu khắp đất mấy người hay). GIẢI TỤNG: Câu “Diệu Phong cao vót cỏ xanh rì”. Trong cỏ nghiền ngẩm có ngày nào xong. Câu: “Nắm được rõ ràng gửi đến ai”. Chỗ nào là chỗ rõ ràng? Không phải Tôn Công biện chân thật. Tôn Công thấy đạo lý gì? Bèn nói: Đúng thì đúng, thật đáng tiếc thay! Đến câu “Đầu lâu khắp mặt đất, mấy người hay”. Các ông có biết chăng? KHAI THỊ: ( 16 5) Đỉnh núi đứng cao Mù! Ngoại ma không thể biết. Đi sâu trong biển sâu. Mắt Phật nhìn không thấy. Dù cho mắt tợ sao, băng cơ như điện chớp. Chưa khỏi như linh qui kéo kê đuôi. Đến đây phải thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Lưu Thiết Ma đến Quy Sơn. Sơn nói con trâu cái ông đến rồi hả? Thiết Ma nói: Ngày mai ở Đài Sơn đại hội thiết trai Hòa thượng có đi không? Quy Sơn nằm dài ra. Thiết Ma liền đi ra. GIẢI THÍCH: Lưu Thiết Ma như chọi đá nháng lửa, như làn điện chớp, suy nghó thì tan thân mất mạng. Thiền đạo nếu đến chỗ khẩu yếu, đâu có nhiều việc. Hai vị là hàng tác gia gặp nhau, như cách tường thấy sừng liền biết là trâu, cách núi thấy khói liền biết là lửa, đẩy đến hiền động, lay thì chuyển. Quy Sơn nói: Lão tăng sau trăm năm xuống nhà đàn việt dưới núi làm con trâu tơ, bên hông trái có đề năm chữ: Quy Sơn Tăng Linh Hựu. Chính lúc như thế gọi là Quy Sơn tăng hay gọi là con trâu tơ? Như hiện nay bị người hỏi đến cam chịu bối rối. Lưu Thiết Ma tham học đã lâu, cơ phong tuyệt vời người đời gọi là Lưu Thiết Ma, dựng cái am cỏ cách Quy Sơn mười dặm. Một hôm đến hỏi Quy Sơn. Quy Sơn thấy Thiết Ma vừa đến bèn nói: Con trâu cái già người mới đến hả? Thiết Ma thưa: Ngày mai ở Đài Sơn có đại hội thiết trai, Hòa thượng có đi dự không? Quy Sơn nằm dài ra, Thiết Ma liền đi ra. Ông xem đó dường như nói, chuyện thường không phải thiền, không phải đạo, gọi là vô sự hiểu được không? Quy Sơn cách Đài Sơn, mấy ngàn dặm. Vì sao Lưu Thiết Ma hỏi Quy Sơn có đi thọ trai. Hãy nói ý chỉ thế nào? Lão bà này hiểu được lời nói của Quy Sơn, nên tơ đến thì chỉ đi, bên buông bên bắt, đối đáp lẫn nhau. Như hai tấm gương soi chiếu nhau, không có hình bóng để xem, cơ cơ tương ưng, cú cú hợp nhau. Như người thời nay ba lần gọi không quay đầu. Lão bà này một chút dối người cũng không được. Cái này không phải là tình kiến thế đế, như gương sáng trên đài, ngọc châu trong tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Do lão bà biết có việc hướng thượng cho nên như thế. Hiện nay chỉ chú trọng hiểu là vô sự. Ngũ Tổ Diễn Hòa thượng nói: Chớ đem hữu sự làm vô sự hữu sự thường theo vô sự sinh. “Nếu ông tham thấu được thấy như thế, giống như người bình thường nói, phần nhiều bị ngôn ngữ ngăn ngại, cho nên không hiểu. Chỉ có tri âm mới hiểu được. Như Càn Phong dạy chúng rằng: Nêu một không được nêu hai, bỏ qua một phen rơi vào câu thứ hai. Vân Môn ra chúng nói: Hôm qua có một vị tăng từ Thiên Thai đến lại đi đến Nam Nhạc, Càn Phong nói: Ngày nay điển tòa không được phổ thỉnh. Xem hai người kia, buông thì đều buông, ta nắm thì đều nắm. Qui Ngưỡng cho đó là cảnh trí gió thổi, bụi dấy cỏ lay, tham cứu đến tận đầu mối cũng gọi là câu cách thân, ý thông mà lời cách. Đến đây phải là vạch trái xoay phải mới là tác gia. <詞>TỤNG: DỊCH: Tằng kî thiết mà nhập trùng thành Sắc hạ truyền văn lục quốc thanh Du ác kim tiên vấn qui khách Dạ thâm thùy cộng ngự nhai hành. Từng cưỡi ngựa sắt vào trùng thành Sắc lệnh truyền ra sáu nước thanh Vẫn nắm roi vàng hỏi khách về. Đêm khuya đường vua ai đồng hành. GIẢI TỤNG: Bài tụng của Tuyết Đậu ai cũng cho là rất hay. Trong một trăm bài tụng, bài tụng này là có ý nghóa nhất, đến chỗ rất vi diệu, thêm thể phân minh tụng ra. “Từng cưỡi ngựa sắt vào trùng thành”, khen Lưu Thiết Ma đến như thế. Câu: “ Sắc lệnh truyền ra sáu nước thanh”, ca tụng Quy Sơn hỏi như thế. Câu “Vẫn nắm roi vàng hỏi khách về” là lưu Thiết Ma nói: Ngày mai Đài Sơn mở đại hội, Hòa thượng có đi dự không? Câu: “Đêm Khuya đường vu ai đồng hành”, là Quy Sơn duỗi thân nằm xuống Thiết. Ma liền đi ra, Tuyết Đậu có tài điệu này, chỗ cấp thiết thì tụng cấp thiết, chỗ chậm rãi thì tụng chậm rãi. Phong Huyệt cũng từng niêm đồng với ý của Tuyết Đậu. Bài tụng mọi người đều khen hay. <詞>TỤNG: Cao Phong đỉnh lập Ma ngoại mạc năng tri <詞>DỊCH: Thâm tham hải để hành Phật nhãn thứ bắt kiến. Trên đónh cao phong đứng Ngoại ma nào hiểu chi Dưới đáy biển sâu đi Mắt Phật nhìn không thấy. GIẢI TỤNG: Xem Quy Sơn duỗi thân nằm, Thiết Ma bỏ đi ra. Nếu che khắp đồng thời tìm đường không thấy. Tụng của Tuyết Đậu ý rất hay, đúng là “từng cưỡi ngựa sắt vào trùng thành” nếu không đúng thì cùng đắc cùng chứng, đâu có thể như thế. Hãy nói được ý gì? Đâu chẳng thấy vị Tăng đến hỏi Phong Huyệt: Quy Sơn nói: “Con trâu cái già đến rồi hả?” Là ý chỉ gì? Phong Huyệt: Mây trắng dây rồng vàng múa. Tăng hỏi: Lưu Thiết Ma nói: “Ngày mai Đài Sơn mở trai hội, Hòa thượng có đi dự không?” Ý chỉ thế nào? Phong Huyệt: Trong lòng sóng xanh, mặt trăng động. Tăng: Quy Sơn làm cái thế nằm là ý chỉ thế nào? Phong Huyệt: Già đến thân gầy ngày vô sự. Nằm cao ảnh ngủ ngọn núi xanh. Ý này cũng đồng với Tuyết Đậu. KHAI THỊ: Cơ không lìa vị trí, rơi vào biển độc, lời nói không sợ đám đông, rơi vào dòng tục. Bỗng như chọi đá nháng lửa phân biệt biệt trắng đen, trong khoảng điện chớp biện biệt được sống chết, có thể quét sạch mười phương, vách đứng vạn nhẫn, lại biết có thời tiết như thế không. Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Am chủ Liên Hoa Phong đưa gậy lên dạy chúng: Người xưa đến đây vì sao không chịu trụ? Chúng không đáp được. Tự đáp thay: Vì đường lối của họ không đắc lực. Lại nói: Rốt cuộc thế nào? Tự đáp: Gánh ngang cây gậy không nhìn người, đi thẳng ngàn núi vạn núi. GIẢI THÍCH: Mọi người biện được am chủ Liên Hoa Phong không? Gót chân cũng chưa dính đất. Khi nước mới lập, Sư dựng am trên đỉnh Liên Hoa ở núi Thiên Thai, người xưa sau khi đắc đạo, ở trong am tranh thất đá, nấu rễ rau rừng trong nồi mẻ ăn qua ngày, không cầu danh lợi, phóng khoáng tùy duyên, nói một chuyển ngữ, cốt báo đền ân Phật Tổ, truyền tâm ấn Phật. Vừa thấy tăng đến, Sư bèn giơ gậy nói: “Người xưa đến đây vì sao không chịu trụ”. trước sau hơn hai mươi năm, hoàn toàn không có một người nào đáp được. Chỉ một câu hỏi này cũng có quyền, có thật, có chiếu, có dụng. Nếu ai biết được cái bẩy của Sư thì không tiêu một cái ấn tay. Ông hãy nói: Vì sao hai mươi hai mươi năm chỉ hỏi như thế? Đã là hành vi của Tông sư vì sao chỉ giữ một cây cọc? Nếu ở trong đây thấy được, tự nhiên không đi trên tình trần. Trong hai mươi năm có bao nhiêu người cùng Sư phê phán đối đáp trình kiến giải, làm hết mọi cách. Dù có người nói được cũng không đến chỗ cực tắc của Sư. Huống là việc này, tuy không ở trong ngôn cú, không phải ngôn cú thì không thể biện luận. Đâu chẳng nghe nói: Đạo vốn không lời, nhân lời hiển đạo? Vì thế, nghiệm người đến chỗ cùng tột, mở miệng là tri âm ( 16 6). Người xưa nói một lời nửa câu cũng không khác, cốt thấy ông “biết có” hay “không biết có”. Sư thấy người không hiểu cho nên tự thay lời nói: “Vì đường của ông ta không đắc lực”. Xem Sư tuy tự nhiên khế lý, khế cơ, chưa từng mất đi tông chỉ. Người xưa nói: Nghe nói cần hiểu tông, chớ tự lập quy củ. Người nay mặc dù được thì được, vẫn là hỗn độn tạp. Nếu trước bậc tác gia đem ba yếu ngữ “ấn không, ấn thủy, ấn nê” mà nghiệm, bèn thấy gỗ vuông ráp lỗ tròn, không có chỗ vào vậy. Đến đây tìm một người đồng đắc, đồng chứng, lúc đó căn cứ vào đâu mà tìm? Nếu là người “biết có”, khai mở hoài bảo thông tin tức có gì không được. Nếu không gặp tri ân nên ôm lòng chịu. Thử hỏi các ông cây gậy là đồ dùng tùy thân của nạp tăng. Vì sao lại nói đường sá không đắc lực? “Người xưa đến đây không chịu trụ”. Thật ra mạt vàng tuy quý nhưng rơi vào mắt cũng thành bệnh. Hòa thượng Thiện Đạo ở Thạch Thất bấy giờ bị sa thải, thường lấy gậy dạy chúng: Chư Phật quá khứ cũng như thế, chư Phật vị lai cũng như thế, chư Phật hiện tại cũng như thế. Tuyết Phong một hôm ở trước tăng đường đưa gậy lên dạy chúng rằng: Cái này chỉ vìø người trình độ trung, hạ căn. Lúc ấy có vị tăng ra hỏi: “Bỗng gặp người trình độ thượng thượng căn thì thế nào?” Tuyết Phong cầm gậy lên rồi bỏ đi. Vân Môn nói: Tôi thì không giống Tuyết Phong đập phá tan hoang. Tăng hỏi: Chưa rõ Hòa thượng thế nào? Vân Môn bèn đánh. Phàm tham vấn không có nhiều việc. Vì ông bên ngoài thấy có sơn hà đại địa, bên trong thấy có thấy nghe hiểu biết, trên thấy có chư Phật để cầu, dưới thấy có chúng sinh để độ, cần phải một lúc nôn ra hết. Sau đó, trong mười hai thời, đi đứng nằm ngồi nhồi thành một khối. Tuy ở trên đầu sợi lông mà rộng như đại thiên sa giới. Tuy ở trong vạc dầu lò lửa mà như ở cõi nước An lạc. Tuy ở trong bảy trân tám bảo mà như ở trong túp lều tranh vách lá. Việc này nếu là người thông phương, tác giả đến chỗ thật của người xưa, tự nhiên không phí sức. Sư thấy không có người lãnh ngộ ý mình, lại tự nói: Rốt cuộc thế nào? Lại không được Sư tự nói: Vác cây gậy ngang vai, tuyên bố không thèm nhìn ai cả, vào thẳng muôn núi, ngàn non, ý này là thế nào? Hãy nói: Chỉ chỗ nào là đất, quả là trong câu có mắt, ngoài lời có ý, tự đứng tự ngã, tự thả tự nắm. Há không thấy Tôn giả Nghiêm Dương đi giữa đường gặp một vị Tăng, bèn đưa gậy lên hỏi: Là cái gì? Tăng: Không biết. Nghiêm Dương nói: Một cây gậy cũng không biết, lại lấy gậy vạch xuống đất nói: Biết không? Tăng nói: Không biết. Nghiêm Dương nói: Hang đất cũng không biết. Nghiêm lại lấy gậy quảy ngang vai nói: Hiểu không. Tăng nói: Không hiểu. Nghiêm nói: Cây gậy ngang vai không thèm nhìn ai, thẳng vào muôn núi ngàn non. Người xưa đến này vì sao không chịu dừng trụ. Tuyết Đậu có tụng rằng: “Ai đương cơ nêu không lầm ít có. Phá hoại cao vót, nung chảy huyền vi. Nhiều lớp cổng to từng mở rộng. Tác giả chưa đồng về, thỏ ngọc chợt tròn chợt khuyết, quạ vàng tợ bay mà không bay. Lão Lô không biết đi đâu tá? Mây trăng nước trôi thảy nương nhau. Vì sao? Sơn tăng nói: Sau não có má chớ cùng qua lại, liền khởi so sánh trong liền là núi đen hang quỷ tìm sinh kế. Nếu thấy triệt, tin thấu thì ngàn người vạn người tự nhiên bủa vây không trụ, làm thế nào không được, động tác tự nhiên có sống có chết. Tuyết Đậu hiểu ý của ông ta nói vào thẳng ngàn vạn núi non mới được thành tụng, muốn biết chỗ rơi. Hãy xem Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Nhãn lý trần sa nhó lý thổ Thiên phong vạn phong bất khẳng trụ Lạc hoa lưu thủy thái man man Dịch khởi mi mao hà xứ khứ? Bụi cát trong mắt, đất trong tai Ngàn vạn núi non không chịu dừng Hoa rơi nước chảy trôi mang mác Vạch đứng lông mày xem nơi nào? DỊCH NGHÓA: Tuyết Đậu tụng rất hay, có chỗ chuyển thân, không giữ một góc. Liền nói: “Bụi cát trong mắt, đất trong tai”. Câu tụng này ý nơi am chủ Liên Hoa Phong khi nạp tăng đến đây thì trên không ngữa vin dưới bắt chính mình, trong tất cả thời như si như dại. Nam Tuyền nói: Người học đạo như si độn cũng khó được. Thiền Nguyệt Thi nói: Thường nhớ lời hay của Nam Tuyền, như người ngu độn vẫn còn hiếm. Pháp Đăng nói: Người nào biết ý này, làm cho ta nhớ Nam Tuyền. Nam Tuyền lại nói: “Bảy trăm Cao tăng đều là người hiểu Phật pháp chỉ có hành giả Lô không hiểu Phật pháp, chỉ hiểu đạo thôi cho nên được y bát của Ngũ Tổ.” Hãy nói: Phật pháp và đạo cách nhau bao xa? Tuyết Đậu niêm: “Trong mắt dính cát không được, trong tai dính nước không được. Nếu có người tin được thì ở được, không bị người lừa dối, thì ngôn giáo Phật tổ có khác gì tiếng khua bát. Mời treo đãy bát trên cao bẻ gậy bỏ chỉ giữ một tên đạo nhân vô sự. Lại nói: Trong mắt chứa được núi Tu-di, trong tai chứa được nước biển cả, bậc này chịu người thương lượng. Ngôn giáo Phật tổ như rồng được nước, như cọp tựa núi, lại phải mang túi bát, vác cây gậy ngang vai cũng là một tên đạo nhân vô sự. Lại nói: Như thế cũng không được, không như thế cũng không được, sau này không dính dáng, trong ba vị đạo nhân vô sự cốt chọn một người làm thầy, chính là người có khả năng đúc sắt thành dụng cụ đúc sắt. Vì sao? Vì người này gặp cảnh giới ác; hoặc gặp cảnh giới kỳ đặc, đến trước mắt thảy đều như mộng. Không biết có sáu căn, cũng không biết có sáng chiều. Dù đến điều này tối kî giữ tro lạnh nước chết thẳng, vào trong chỗ tối mịch mờ, cũng phải là có lối chuyển thân mới được. Người xưa nói: Chớ giữ núi lạnh cỏ xanh, ngồi đợi mây trắng bay chẳng khéo. Cho nên Am chủ Tường ở ngọn Liên Hoa núi Thiên Thai nói: Vì họ không đủ sức vượt đường sá, phải đi vào thẳng muôn núi, ngàn non mới được. Hãy nói thế nào là muôn núi ngàn non. Tuyết Đậu chỉ thích ông ta nói Vác cây gậy ngang vai chẳng thèm để ý đến ai, vào thẳng muôn núi ngàn non. Cho nên tụng. Hãy nói đi nơi nào? Có biết được lối đi không? Câu: “Hoa rơi nước chảy trôi man mác”, hoa rơi lả tả, nước chảy róc rách, cơ điện chớp trước mắt là gì? Nhưng mặt mày đi nơi nào? Tuyết Đậu vì sao không biết chỗ ông ta đi? Như Sơn tăng nói: Cây phất trần đưa khi nảy hãy nói nay ở chỗ nào? Các ông nếu thấy được thì cùng với Tường am chủ ở ngọn núi Thiên Thai Liên Hoa đồng tham. Nếu chưa thấy được thì, dưới ba cây đòn tay, trước cái đơn bảy tấc, thử tham tham cứu tường tận xem. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Bách Trượng: Thế nào là việc độc đáo? Bách Trượng: Ngồi một mình trong núi Đại Hùng. Tăng lễ bái: Bách Trượng liền đánh. GIẢI THÍCH: ( 16 7) Gặp cơ duyên đủ mắt, không đoái nguy vong. Cho nên nói: Không vào hang cọp đâu bắt được cọp con. Bách Trượng bình thường như cọp thêm cánh. Tăng này cũng không sợ sống chết, dám vuốt râu hùm nên hỏi: Thế nào là việc kỳ đặc? Tăng này cũng đủ mắt sáng nên. Bách Trượng cho ông gánh vác, nói: “Ngồi riêng núi Đại Hùng” Ông liền lễ bái nạp tăng phải biện biện ý trước khi chưa hỏi mới được. Vị Tăng này lễ bái khác với lễ bái hằng ngày, cũng phải là đủ sáng mắt mới được. Chớ đem gan mật bình sinh trút cho người, biết nhau lại như không biết nhau. Chỉ xem vị tăng này hỏi: Thế nào là việc kỳ đặc? Bách Trượng nói: “Ngồi riêng núi Đại Hùng”. Tăng lễ bái. Bách Trượng liền đánh. Xem ông ta buông xuống thì một lúc đều đúng, thu lại thì quét sạch dấu vết. Hãy nói vị Tăng lễ bái ý chỉ thế nào? Nếu nói là tốt thì tại sao Bách Trượng đánh ông ta. Nếu nói là không tốt thì ông lễ bái có chỗ nào không được? Đến đây phải là biết hay dỡ, trắng đen, đứng trên ngàn ngọn núi mới được. Vị Tăng này lại lễ bái, giống như giống như nhỗ râu cọp, chỉ chỗ làm sao chuyển thân. May gặp Bách Trượng có con mắt, trên đãnh môn, trong tay có thần phù, chiếu thấu thiên hạ, biện rõ cơ phong cho nên liền đánh. Nếu là người khác thì không làm gì được ông ta. Vị Tăng này dùng cơ khế ngộ cơ, dùng ý bỏ ý, cho nên lễ bái . Như Nam Tuyền nói: Văn-thù, Phổ Hiền canh ba hôm qua bị Phật thấy, pháp thấy, mỗi người bị đánh hai mươi gậy; liền đi thẳng ngọn núi Thiết Vi. Bấy giờ Triệu Châu ra chúng nói: Hòa thượng đánh dạy ai chịu đòn? Nam Tuyền nói: Vương Lão sư có lỗi gì? Triệu Châu lễ bái, nhà Tông sư giống như không thấy chỗ thọ dụng của ông ta, mới đến chỗ đương cơ giả dối, tự nhiên sống trong đất lao nhao. Ngũ Tổ Tiên Sư thường nói: Như thằng mù cưỡi ngựa. Ông chỉ thường dạy thấy nghe sắc thanh một lúc quét sạch. Nhất định làm chủ được, mới thấy Bách Trượng. Hãy nói: Lúc bỏ qua thì thế nào? Hãy xem bài tụng của Tuyết Đậu. <詞>TỤNG: Tổ Vức giao trì thiên mã câu Hóa môn thơ quyện bất đồng đồ <詞>DỊCH: Điện quang thạch hỏa tồn cơ biến Kham tiếu nhân lai loát hổ tu. Đất Tổ danh lừng thiên mã câu Cuộn bày cửa hóa chẳng đồng đường Điện quang đá nháng còn cơ biến Cười ngất người kia vuốt râu hùm. GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu thấy tột mới tụng ra. Thiên mã câu là con ngựa chạy một ngày ngàn dặm, chạy dọc chạy ngang nhanh như bay. Tuyết Đậu tụng ý nói Bách Trượng ở trong đất Tổ, bên Đông chạy sang bên Tây, bên Tây chạy sang bên Đông, một đến một đi, thật không ngại một tí, giống như ngựa thiên mã câu, theo có thể cùng ruổi, mới thấy chỗ tự do. Cái người này tự là được đại cơ đại dụng của Mã Tổ. Tăng hỏi Mã Tổ: Thế nào là đại ý Phật pháp? Tổ liền đánh nói: Nếu ta không đánh ông thì người trong thiên hạ sẽ cười ta. Lại hỏi: Thế nào là ý chỉ Thiền tông? Tổ: Ta sẽ nói cho ông, ông đến gần đây! Tăng đến gần. Tổ đánh bạt tai nói: Sáu cái không đồng mưu. Thế là đủ thấy ông ta được đại tự tại. Trong chỗ dựng lập trong hóa môn, hoặc cuộn lại hoặc bày ra có khi bày không ở chỗ cuộn, có khi cuộn mà không ở chỗ bày. Có khi cuộn, bày đều không có, cho nên nói cùng đường không cùng dấu vết. Câu tụng này nói Bách Trượng có được thủ thuật ấy: “Điện quang đá nháng còn cơ biến”. Tuyết Đậu tụng: Là nói tăng này như chọi đá nháng lửa, chỉ có một chút cơ biến. Nham Đầu nói: Bỏ vật là thượng, chạy theo vật là hạ. Nếu luận về pháp chiến thì mỗi mỗi phải ở chỗ chuyển. Tuyết Đậu nói: “Bánh xe từng chưa chuyển. Chuyển ắt chạy hai đầu”. Nếu chuyển không được, có dùng chỗ nào? Bậc Đại trượng phu phải biết một chút cơ biến mới được. Người thời nay mặc dù cung ứng kinh phí cho người, bị người xỏ mũi, có gì mong liễu ngộ. Vị Tăng này trong điện xẹt lửa nháng khéo được cơ biến liền lễ bái. Tuyết Đậu tụng: Cười ngất người kia nhỗ râu hùm” là nói Bách Trượng giống như con cọp to, cười ngất vị tăng này đến vuốt râu hùm. KHAI THỊ: Hởi một đáp mười nêu một rỏ ba, thấy thỏ thả chim ưng, nhân gió thổi lửa, không tiếc lời nói thôi chẳng hỏi chi. Chỉ hỏi như khi vào hang cọp thì thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Khi lá rụng cành khô thì thế nào? Vân Môn: Thân bày gió Thu. GIẢI THÍCH: Nếu ở trong đây mà lãnh ngộ được, mới thấy chỗ vì người của Vân Môn. Nếu chưa được như vậy thì vẫn là chỉ nai cho là ngựa, mắt mờ tai điếc, người nào đến cảnh giới này. Hãy nói: Vân Môn đáp lời người hay là xướng họa cho người: Nếu nói đáp lời người thì nhận lầm theo kiến giải chủ quan. Nếu nói xướng họa cho người thì không dính dáng gì. Đã không như thế, cuối cùng thế nào? Nếu ông thấy thấu suốt thì lỗ mũi của nạp tăng không nhọc một cái ấn tay. Nếu chưa được như vậy, vẫn là đi vào hang quỷ. Phàm dựng lập Tông thừa cũng phải là toàn thân gánh vác, không tiếc lời nói, duỗi thân trong miệng cọp, mặc cho nó lôi ngang kéo dọc lết. Nếu không như thế đâu thể vì người được. Vị Tăng này đặt câu hỏi thật là hiểm hóc. Nếu lấy việc tầm thường nhìn ông chỉ giống như tăng nhàn rỗi. Nếu theo môn hạ của nạp tăng, trong mạng mạch, xem quả thật có chỗ hay. Hãy nói: Khi lá rụng cành khô là cảnh giới của người nào? Trong mười tám lối hỏi, lối hỏi này là “Biện chủ”, cũng gọi là “Tá sự vấn”. Vân Môn không đổi dời một mảy lông. Chỉ nhằm ông nói: “Thân bày gió Thu”. Đáp rất hay, cũng không dám cô phụ câu hỏi của người. Bởi vì chỗ hỏi kia ông ta có mắt chỗ đáp cũng chính xác. Người xưa nói: Muốn được thân thiết chớ đem lời hỏi để hỏi. Nếu là tri âm, nêu lên liền biết thế nào rồi. Ông một bề bàn luận mạch ngữ của Vân Môn thì lầm rồi. Chỉ là trong câu của Vân Môn phần nhiều thích dẫn kiến giải nhân tình. Nếu hiểu theo tình giải chưa khỏi mất mạng con cháu của ta. Vân Môn thích cưỡi ngựa giặc đuổi giặc như thế. Không thấy tăng hỏi: Thế nào là chỗ không suy lường? Môn: Thức tình khó lường. Tăng này hỏi: Khi lá rụng cành khô thì thế nào? Môn: Thân bày gió Thu. Trong câu quả thật quét sạch việc quan trọng không thông Thánh phàm, phải hiểu Sư nêu một hiểu ba, nêu ba hiểu một. Nếu trong ba câu đó mà tìm thì nhổ tên sau ót. Trong một câu của ông ta phải đủ ba câu, câu bao trùm trời đất (phú cái càn khôn) câu theo sóng đuổi gió, (tùy ba trục lãng), câu cắt đứt các dòng, (cắt tiệt chúng lưu) tự nhiên thích hợp nhau. Trong ba câu của Vân Môn dùng câu nào để tiếp người, thử biện xem? Tụng rằng: <詞>TỤNG: DỊCH: Vấn ký hữu Tông Đáp diệc du đồng Tam cú khả biện Nhất thóc liêu không Đại dã hề lương tiêu táp táp Quân bất kiến Tịnh y Hùng Nhó nhất tòng tòng. Hỏi đã có tông, Đáp cũng vẫn đồng Ba câu khá biện Một mũi băng không Đồng ruộng chừ vèo vèo gió mát Trời dài chừ lấm tấm mưa thưa Anh thấy chăng Thiếu Lâm ngồi lâu chưa về khách ( 16 8) Lặng nương Hùng Nhó một rặng tùng. GIẢI TỤNG: Người xưa nói: Nương lời cần phải hiểu tông, chớ tự lập quy củ, người xưa nói không sai, cho nên nói: “Phàm hỏi một việc cũng phải biết xấu tốt một tí. Nếu không biết tôn ty, không biết sạch dơ, tha hồ nói loạn có chỗ nào lợi ích. Phàm thốt lời nhã hơi, phải như cái kềm, cái nhíp có gông, có cùm, phải tương tục không gián đoạn mới được. Chỗ hỏi của tăng này có tông chỉ, chỗ đáp của Vân Môn cũng vậy. Vân Môn bình thường dùng ba câu tiếp người đây là cực tắc. Tuyết Đậu tụng công án này với công án của Đại Long tương tợ. “Ba câu khá biện”, trong một câu đủ cả ba câu, nếu biện được thì thoát ra ngoài ba câu. Một mũi bằng chữ “thốc”, là mũi tên bắn đi rất xa, phải mở to mắt nhìn mới thấy được. Nếu thấy được rõ ràng có thể trong một câu khai triển cả đại thiên sa giới. Đến đây tụng xong. Tuyết Đậu có nhiều tài cho nên triển khai tụng ra: Đồng ruộng vèo vèo gió mát, Trời dài chừ lấm tấm mưa thưa Hãy nói: Là tâm hay là cảnh, là huyền hay là diệu. Người xưa nói: “Pháp pháp không ẩn tàng, xưa nay thường hiển lộ”, Tăng hỏi: Khi lá rụng cành khô thì thế nào? Vân Môn đáp: “Thân bày gió Thu”. Ý của Tuyết Đậu chỉ là một cảnh như trước mắt, gió thổi lất phất không phải gió Đông nam tức gió Tây bắc, cấn phải hiểu như thế mới được. Nếu ông hiểu thiền đạo lại không dính dừng. “Anh chẳng thấy Thiếu Lâm ngồi lâu chưa về khách” khi Đạt-ma chưa về Tây Thiên, chín năm ngồi xây mặt vào vách lặng yên. Hãy nói: rụng cành khô “thân bày gióThu”. Nếu đến đây thì hết sạch phàm Thánh xưa nay, càn khôn đại địa nhồi thành một khối, mới thấy chỗ đích xác vì người của Tuyết Đậu, Vân Môn. “Lặng nương Hùng Nhó một rặng tùng”. Hùng Nhó tức là Thiếu Lâm tại Tung Sơn, ở Tây Kinh. Phía trước núi Thiếu Lâm có ngàn vạn lớp tùng sau núi cũng có ngàn vạn lớp tùng. Mọi người thấy chỗ nào? có thấy chỗ Tuyết Đậu vì người không? Cũng là rùa linh kéo lê đuôi. CÔNG ÁN: Nam Tuyền tham kiến Hòa thượng Niết-bàn ở núi Bách Trượng. Bách Trượng hỏi: Chư Thánh xưa nay có người nào không thuyết pháp cho người không? Nam Tuyền: Có. Bách Trượng: Thế nào là người không thuyết pháp cho người? Nam Tuyền: Không phải là tâm, không phải Phật, không phải vật. Bách Trượng: Nói rõ rồi. Nam Tuyền: Còn chỉ như thế, Hòa thượng thế nào? Bách Trượng: Tôi không phải là thiện tri thức, đâu biết có nói hay không nói. Nam Tuyền: Con không hiểu. Bách Trượng: Tôi đã nói cho ông rồi. GIẢI THÍCH: Đến đây cũng không dùng tức tâm hay không tức tâm, không dùng phi tâm, hay bất phi tâm, thẳng xuống từ đầu đến chân, một sợi lông mày cũng không, còn khá một chút. Tức tâm phi tâm, Thiền sư Thọ cho đó là “Biểu thuyên” “già thuyên”, đây là Hòa thượng Niết-bàn tức là Thiền sư Pháp Chánh. Khi xưa, ở nơi Bách Trượng làm Tây đường bảo đại chúng khai điền nói đại nghóa, lúc ấy Nam Tuyền đã tham kiến Mã Tổ rồi, chỉ cần đến các vị tài giỏi khắp nơi quyết tra- ïch. Bách Trượng đạt câu hỏi khó đáp, nói các bậc Thánh xưa nay có ai không nói pháp cho người không? Nếu là sơn tăng thì bịt tai đi ra. Xem lão này một trường rối loạn. Nếu là bậc tác gia nghe Sư hỏi như thế liền biết phá được. Nam Tuyền cứ theo cái thấy liền đáp “có”. Thế là Mạnh? Bát Lang. Bách Trượng bèn đem lầm làm lầm, theo sau nói thế nào là không nói pháp cho người. Nam Tuyền nói: Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật, lão này thích nhìn trăng trên trời, làm rơi mất ngọc châu trong tay. Bách Trượng bảo: Nói rồi vậy! Thật đáng tiếc, vì phá cho ông. Lúc ấy đánh cho một gậy dạy cho ông ta biết được cái đau đớn. Tuy nhiên như thế, ông hãy nói chỗ nào là chỗ nói, theo cái thấy của năng thuyên, không phải tâm, không phải Phật, không phải vật, không từng nói. Lại hỏi các ông vì sao lại nói, nói rồi nơi lời nói của ông ta lại không có dấu vết. Nếu nói ông ta không nói, vì sao Bách Trượng lại nói như thế, Nam Tuyền là người biến thông, bèn theo sau một lần nói: Tôn chỉ như thế Hòa thượng thì thế nào? Nếu là người khác, chưa khỏi biện giải, không thể làm gì được Bách Trượng là người tài trí, chỗ đáp thật độc đáo bèn nói: Tôi không phải là thiện tri thức, đâu biết có nói không nói. Nam Tuyền bèn nói không hiểu, là hiểu mà nói là không hiểu. Chẳng phải là thật không hiểu. Bách Trượng nói: Ta mạnh dạn nói cho ông rồi. Hãy nói, chỗ nào là chỗ chết, nếu là lúc kể vướng mắc, hai cái tuôn trào. Nếu là hai đều là lúc tác gia, như gương sai trong đài thật ra đầu trước cả hai đều tác gia, đầu sau cả hai đều phóng qua. Nếu là kẻ có mắt sáng, thì rõ ràng nghiệm lấy. Hãy nói làm sao nghiệm ông ta. Xem Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Tổ Phật tùng lai bất bị nhân Nạp tăng kim cổ cạnh đầu tẩu Minh cảnh đương đài liệt tương thù Nhất nhất diện nam khán Bắc đẩu Đẩu bỉnh thùy, vô xứ thảo Niêm đắc tỷ khổng, thất khước khẩu. Phật tổ xưa nay chẳng vì người Nạp tăng xưa nay đua nhau chạy Gương sáng tại đài tướng lạ bày Mỗi mỗi mặt Nam nhìn Bắc đẩu. Chuôi sao duỗi không chỗ tìm Nắm được lỗ mũi mất đi miệng. GIẢI THÍCH: Phật Thích-ca ra đời bốn mươi chín năm chưa từng nói một lời, trước từ cõi Quang Diệu sau đến sông Bạt-đề, ở trong khoảng giữa chưa từng nói một chữ. Nói như thế, hãy nói là có nói hay không nói: Hiện nay đầy Long cung tràn Hải tạng; lại thế nào bảo là không nói? Hãy nghe Tu Sơn Chủ nói: “Chư Phật không ra đời, bốn mươi chín năm nói. Đạt-ma không từ Tây Trúc đến. Thiếu Lâm có diệu quyết. Lại nói: Chư Phật không từng ra đời, cũng không có pháp nói cho người, chỉ xem tâm của chúng sinh, tùy cơ ứng bệnh mà cho thuốc, bèn có ba thừa, mười hai phần giáo. Thật ra Tổ Phật từ xưa đến nay không từng nói cho người. Chỉ cái không nói cho người này, phải tham cứu tường tận. Sơn tăng thường nói: “Nếu là thêm một câu, nếm ngọt ngào như đường mật, chín chân xem ra quả là thuốc độc. Nếu nhằm xương sống đánh, nhìn miệng vả, đẩy ra ngoài, mới là thân thiết vì người. Nạp tăng xưa nay đua nhau chạy khắp nơi cũng phải hỏi, không đúng cũng hỏi, hỏi Phật hỏi Tổ, hỏi hướng thượng, hướng hạ. Tuy thế, nếu chưa đến chỗ điền địa này cũng thiếu không được. Như “Gương sáng tại đài tướng lạ bày”, chỉ dùng một câu, có thể biện được rõ ràng. Người xưa nói: Sum-la và Vạn tượng ( 16 9) là một pháp ấn. Lại nói: Sum-la và vạn tượng đều ở trong đó mà tròn đầy. Đại sư Thần Tú nói: Thân là cây Bồ-đề Tâm như đài gương sáng Phải luôn luôn lau chùi Chớ để bám bụi bặm. Đại Mãn nói: “Ông ta chỉ ở ngoài cửa”. Tuyết Đậu nói như thế. Hãy nói ở trong cửa hay ở ngoài cửa? Các ông đều có một tấm gương xưa. Sum-la vạn tượng, dài ngắn vuông tròn đều hiển hiện trong đó. Nếu ông hiểu được ngắn dài, tìm tòi không được. Cho nên Tuyết Đậu nói: Gương sáng tại đài tướng lạ bày “Mỗi mỗi hướng Nam nhìn Bắc đẩu”. Đã là hướng Nam, vì sao lại xem sao Bắc đẩu? Nếu hiểu được như thế mới thấy chỗ gặp nhau của Bách Trượng và Nam Tuyền. Hai câu này là tụng chỗ Bách Trượng khám nghiệm. Bách Trượng nói: “Ta không phải là thiện tri thức, đâu biết có nói không nói”. Tuyết Đậu đến đây tụng được rơi vào trong nước chết, sợ người hiểu lầm lại tự đưa ra nói: “Tức trước mắt chuôi sao duỗi, ông lại đến chỗ nào tìm ? Ông mới nắm được lỗ mũi, mất đi miệng, nắm được miệng, mất đi lỗ mũi rồi vậy. KHAI THỊ: Cá bơi trong nước đục, chim bay lông, rụng biện rõ chủ khách, phân rành trắng đen, giống như gương sáng trên đài, minh châu trong tay, Hán đến hiện Hán, Hồ đến hiện Hồ, bày thanh hiển sắc. Hãy nói vì sao như thế, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đại Tùy kiếp hỏa cháy rực đại thiên đều hoại, chưa biết cái này hoại hay không hoại? Đại Tùy đáp: Hoại. Tăng hỏi: Như thế thì theo ông ta đi. Đại Tùy đáp: Theo ông ta đi. GIẢI TỤNG: Hòa thượng Chân Như ở Đại Tùy nối pháp với Thiền sư Đại An, là người huyện Diêm Đình, Đông Xuyên, tham kiến hơn sáu mươi thiện tri thức. Xưa khi trong hội Quy Sơn Sư làm hỏa đầu. Một hôm Quy Sơn hỏi: Ông ở đây nhiều năm mà không biết đặt câu hỏi xem thế nào? Đại Tùy: Thưa Bảo con hỏi cái gì mới được. Quy Sơn: Sao ông không hỏi thế nào là Phật? Đại Tùy lấy tay bịt miệng Quy Sơn. Quy Sơn: Sau này Ông tìm người quét đất cũng không. Sau đó trở về Đông Xuyên, trước cất quán trà trên con đường lên núi Bằng Khẩu để tiếp đãi người qua lại trải qua ba năm. Sau đó Sư mới khai đường dạy chúng trụ ở Đại Tùy. Có vị Tăng hỏi: Kiếp hỏa cháy rực, đại thiên đều hoại, chưa biết cái này có hoại không? Vị Tăng này chỉ y cứ theo kinh điển để hỏi. Trong kinh giáo nói: Thành trụ hoại không, ba kiếp tam tai nổi lên, hoại đến cõi trời Tam thiền. Vị Tăng này xưa nay không biết chỗ rơi của thoại đầu. Cái này là gì? Nhiều người dùng kiến giải phàm tình nói: Cái này là bản tánh của chúng sinh. Đại Tùy nói: Hoại. Tăng nói: Như thế thì theo ông ta đi! Đại Tùy nói: Theo ông ta đi. Chỉ cái này, nhiều người dùng kiến giải phàm tình tìm kiếm không được. Nếu nói theo ông ta đi thì ở đâu? Nếu nói không theo ông ta đi, lại tại sao không thấy? Nên nói: Muốn được thân thiết, chớ đem lời hỏi để hỏi. Sau đó có vị tăng hỏi Tu Sơn Chủ: “Kiếp hỏa cháy rực đại thiên đều hoại, chưa biết cái này hoại hay không hoại? Tu Sơn chủ: Không hoại. Tăng: Vì sao không hoại? Chủ: Vì đồng với đại thiên. Hoại cũng làm chết người, không hoại cũng làm chết người. Tăng ấy không hiểu lời của Đại Tùy nói; song ông ta cũng không ngại lấy việc này làm niệm, mang nghi vấn này thẳng đến núi Đầu Tử ở Thư Châu, Đầu Tử hỏi: Từ đâu đến? Tăng: Đại Tùy ở Tây Thục. Đầu Tử: Đại Tùy có dạy ngôn cú gì? Tăng kể lại sự việc trước đây. Đầu Tử đốt hương lễ bái nói: Tây Thục có Cổ Phật ra đời ông hãy nên trở lại mau! Tăng ấy trở về Đại Tùy thì Đại Tùy đã thị tịch. Vị tăng này một trường rối loạn. Sau đời Đường có vị tăng Cảnh Tuân đề Đại Tùy: Rõ ràng không pháp khác. Ai nói ấn Nam Năng. Một câu theo lời họ Thiền tăng chạy lúa ngàn. Dế lạnh kêu đống lá Quỷ đêm lễ lồng đèn. Ngâm xong ngoài song lẻ Bồi hối hận chẳng cùng. Vì thế dưới đây Tuyết Đậu dẫn hai câu tụng ra. Hiện nay không được hiểu là hoại. Cũng không được hiểu là không hoại, cuối cùng hiểu thế nào? Mở to mắt xem! <詞>TỤNG: Kiếp hỏa quang trung lập vấn đoan Nạp tăng du trệ lưỡng trùng quan Khả lân nhất cú tùy tha ngữ Vạn lý khu độc vãng hoàn. DỊCH: Kiếp hỏa sáng ngời hỏi thành câu Nạp tăng còn kẹt hai lớp cửa, Đáng thương chỉ một lời theo đấy Muôn dặm nhọc nhằn riêng tới lui. Tuyết Đậu đương cơ tụng ra, trong câu có chỗ xuất thân. “Kiếp hỏa sáng ngời hỏi thành câu, Nạp tăng còn kẹt hai lớp cửa”. Chỗ hỏi của vị tăng này trước ôm ấp hoại cùng không hoại là kẹt hai cửa. Nếu là người đắc nói hoại cũng có chỗ xuất thân. Hai câu: Đáng thương chỉ một lời theo đây lời, muôn dặm nhọc nhằn riêng tới lui, là nói vị tăng này mang câu hỏi đến Đầu Tử, lại trở về Đại Tùy đáng gọi là muôn dặm nhọc nhằn. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Nghe Hòa thượng tham kiến Nam Tuyền có phải không? Triệu Châu đáp: Trấn Châu phát xuất củ cải to. GIẢI THÍCH: Vị Tăng này cũng thuộc hạng tham kiến lâu ngày, trong hỏi quả là có mắt. Đâu ngờ Triệu Châu là bậc tác gia liền “Trấn châu phát xuất củ cải to”. Đáng gọi là lời nói vô vị, bít lấp miệng người. Lão này giống như kẻ cướp ban ngày, ông vừa mở miệng bèn móc mắt ông. Nếu là kẻ anh linh ngang đó trong khoảng đá nháng điện vừa nghe nói đến liền đi. Nếu lắng suy nghó dừng cơ phong không khỏi tan thân mất mạng. Ở Giang Tây Trừng Tán Thánh Phán gọi đó là hỏi Đông đáp Tây, bảo là không đáp lời, không nên vào lồng vào rọ của người. Nếu hiểu như thế đâu được. Viễn Lục Công nói: Đây là nhìn bên nằm trong Cửu Đới (chín bộ môn mà Thiền sư Pháp Viễn lập ra). Nếu hiểu như thế khi mộng cũng chưa mộng thấy, lại còn liên lụy đến Triệu Châu. Có người nói: Ở Trấn Châu từ xưa đến giờ sản xuất củ cải to, người trong thiên hạ đều biết, Triệu Châu từ khi đến tham kiến Nam Tuyền người trong thiên hạ đều biết. Vị Tăng này hỏi lại: Được nghe Hòa thượng tham kiến Nam Tuyền phải chăng? Cho nên Triệu Châu trả lời với ông ta. Trấn Châu xuất từ củ cải, lại được không dính líu, đều không hiểu như thế, cuối cùng hiểu thế nào nhà ông ta tự có đường thông. Không thấy tăng hỏi Cửu Phong: Từng nghe Hòa thượng tham kiến Diên Thọ phải không? Triệu Phong: Lúa trước núi chín chưa? Chính là đối được Triệu Châu đáp cho tăng này, rỗng như chùy sắt không lỗ. Lão Triệu Châu là người vô sự, ông hỏi nhè nhẹ, lại đổi mắt của ông. Nếu là người biết có thì nhai kỹ rồi nuốt. Nếu là người không biết có giống như hỗn độn nuốt trái táo. Trấn Châu phát xuất củ cải to. Thiên hạ nạp tăng tuân theo Chỉ biết từ xưa đến nay Đâu biện cò trắng quạ đen. Giặc giặc. Lỗ mũi Nạp tăng từng nắm được ( 17 0). Trấn Châu phát xuất củ cải to. Nếu ông chấp đó làm cực tắc thì sớm đã lầm rồi. Người xưa dắt tay nhau lên núi cao chưa tránh khỏi người bàng quan cười, mọi người đều biết nói đây là cực tắc. Cuối cùng lại cũng không biết chỗ cực tắc. Cho nên Tuyết Đậu nói: Nạp tăng trong thiên hạ tuân theo. Chỉ biết từ xưa đến nay sao biện biệt được cò trắng, quạ đen. Tuy biết người đời nay đáp như thế, người xưa cũng đáp như thế, đâu từng phân biệt được trắng đen. Tuyết Đậu nói: Phải đến trong khoảng đá nháng điện xét mới biện được cò trắng, quạ đen. Công án đến đây tụng xong. Tuyết Đậu xuất ý nhằm chỗ sống linh động và nhằm các ông nói lại nói: “Giặc! Giặc! Lỗ mũi nạp tăng từng nắm được”. chư Phật ba đời cũng là giặc, lịch đại Tổ sư cũng là giặc, khéo hay làm giặc, khéo hay làm giặc móc tròng mắt người, mà chẳng trầu tay chân, chỉ riêng một Triệu Châu. Hãy nói chỗ nào là chỗ Triệu Châu khéo làm giặc? Trấn Châu phát xuất củ cải to. <卷>QUYỂN 4 KHAI THỊ: Động thì bóng hiện, giác biết thì bang sinh. Nếu không động không giác thì không tránh khỏi vào hang chồn hoang. Tin thấu triệt, không có một mảy may chướng ngại, như rồng gặp nước, như cọp dựa núi ném đi cũng là ngói gạch phát sáng, nắm lại thì vàng ròng mất sắc. Công án của người xưa chưa khỏi phủ che. Hãy nói là bình luận việc gì, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Ma cốc cầm tích trượng đến Chương Kỉnh nhiễu qua- nh sàn thiền ba vòng, chấn tích trượng đứng lặng. Kính nói: Phải phải. (Tuyết Đậu bình rằng: Lầm). Ma Cốc lại đến Nam Tuyền nhiễu giường quanh thiền ba vòng, dộng tích trượng một cái rồi đứng yên. Nam Tuyền nói: Không phải, không phải. (Tuyết Đậu bình rằng: Lầm.) Ma Cốc lúc ấy nói: Chương Kỉnh nói là phải, Hòa thượng vì sao nói không phải? Nam Tuyền: Chương Kỉnh thì phải, mà ông không phải. Đây là bị sức gió chuyển cuối cùng thành bại hoại. GIẢI THÍCH: Người xưa đi hành cước, đi khắp tòng lâm đều lấy việc này làm niệm. Muốn biện được lão Hòa thượng nằm mãi trên giường tre, có mắt hay không có mắt. Một lời tương khế với người xưa thì ở, một lời không khế hội thì đi. Xem Ma Cốc đến Chương kỉnh nhiễu quanh giường thiền ba vòng dộng tích trượng một cái rồi đứng yên. Chương kỉnh nói: Phải! Phải! Phải Đao giết người, Kiếm cứu người, phải là bổn phận của bậc tác gia. Tuyết Đậu nói: Lầm! Rơi vào hai bên. Nếu ông hiểu được hai bên thì không thấy ý của Tuyết Đậu. Ma cốc đứng yên lặng. Hãy nói là việc gì? Vì sao Tuyết Đậu nói là sai lầm? Chỗ nào là chỗ sai lầm của ông ta. Chương kỉnh nói phải, chỗ nào là chỗ phải? Tuyết Đậu như ngồi đọc phán ngữ, Ma Cốc gánh chữ phải đi đến Nam Tuyền vẫn nhiễu quanh giường thiền ba vòng, dộng tích tượng một cái rồi, đứng yên. Tuyền nói: Không phải! không phải! Dao giết người, kiếm cứu người, phải là bổn phận của Tông sư. Tuyết Đậu nói: Sai lầm. Chương kỉnh nói “phải! Phải!” Nam Tuyền nói “không phải không phải” ấy là giống hay khác. Người trước nói là phải, vì sao sai lầm? Người nói không phải vì sao sai lầm? Nếu lãnh ngộ trong câu của Chương kỉnh thì tự cứu cũng không được. Nếu lãnh ngộ trong câu của Nam Tuyền tiến được thì đáng được cùng Phật tổ làm thầy. Tuy như thế, Nạp tăng phải tự nhận mới được chớ có một bề lấy miệng người mà biện biệt, Ma Cốc hỏi một loại như nhau. Vì sao người nói phải? Người nói không phải? Nếu là người thông phương, người được đại giải thoát nhất định phải có sinh kế. Nếu là người cơ cảnh chưa quên, chắc chắn kẹt hai đầu. Nếu muốn biện rành cổ kim quét sạch ngôn ngữ của thiên hạ, phải hiểu rõ hai chữ “lầm” này mới được. Cho đến Tuyết Đậu tụng cũng chỉ tụng hai chữ “lầm” này. Tuyết Đậu muốn đưa ra cái chỗ hoạt bát cho nên như thế. Nếu kẻ không có khí phách, tự nhiên không nhằm trong ngôn cú khởi hiểu biết, không nhằm trên cọc cột lừa khởi đạo lý. Có người nói: Tuyết Đậu thay Ma Cốc hạ hai cái “lầm” này. Có dính dáng gì? Thật không biết, người xưa bình rằng: Quét sạch then chốt, bên này cũng phải, bên kia cũng phải, cuối cùng không ở hai đầu. Khánh Tạng chủ nói: “Dộng tích trượng nhiễu quanh giường thiền, phải và không phải đều lầm. Thật ra cũng không ở tại đây”. Vónh Gia đến Tào Khê tham kiến Lục Tổ nhiễu quanh giường thiền ba vòng dộng tích trượng một cái đứng yên. Lục Tổ quở: Phàm là bậc Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám môn tế hạnh. Đại Đức từ đâu đến mà “sinh đại ngã mạn” như thế. Vì sao Lục Tổ lại nói “ông sinh đại ngã mạn”? Điều này nói là phải, cũng không nói không phải, phải và không phải đều là phiền não buộc ràng. Chỉ có Tuyết Đậu hạ hai chữ “lầm” còn tạm một chút. Ma Cốc nói: Chương kỉnh nói phải. Vì sao Hòa thượng nói không phải? Lão này không tiếc lời nói, bày vẽ không ít. Nam Tuyền nói: Chương kỉnh đúng mà ông không đúng. Nam Tuyền có thể gọi là thấy thỏ thả chim ưng. Khánh Tạng chủ nói: Nam Tuyền giết lầm lải nhải không phải chính là thôi, lại cùng với ông ta đi ra nói. Đây là bị sức gió chuyển, cuối cùng thành bại hoại. Kinh Viên Giác nói; Ta nay thân này do bốn đại hòa hợp ấy là tóc lông, móng răng, da thịt, gân xương, tủy não bụi nhơ đều trở về với đất. Máu mũ, nước mũi, nước miếng, đều trở về với nước, hơi ấm trở về với lửa, động chuyển trở về với gió. Bốn đại chia lìa nay thân hư vọng này ở chỗ nào? Ma Cốc cầm tích trượng nhiễu quanh giường thiền ba vong đã là bị sức gió chuyển, cuối cùng thành bại hoại. Hãy nói cuối cùng việc phát minh tâm tông ở chỗ nào? Đến đây phải là kẻ vững chãi mới được. Há không thấy Trương Chuyết Tú Tài tham kiến Thiền sư Trí tạng ở Tây Đường hỏi: Sơn hà đại địa là có hay không? Ba đời chư Phật là có hay không? Trí Tạng: Có. Tú Tài: Sai lầm. Trí Tạng: Tiền bối từng tham kiến người nào đến? Trương Chuyết: Tham kiến Hòa thượng Cảnh Sơn đến. Tôi có hỏi lời gì, Cảnh Sơn đều nói không. Trí Tạng: Ông có quyến thuộc nào? Tú Tài: Có hai người vợ quê, hai con khờ. Lại hỏi: Cảnh Sơn có quyến thuộc gì? Tú Tài: Cảnh Sơn là cổ Phật, chớ phỉ báng Ngài. Trí Tạng: Đợi khi ông giống Cảnh Sơn, sẽ nói tất cả không. Trương Chuyết lặng thinh. Phàm tác là bậc gia Tông sư, cần vì người nở niêm cởi trói, nhổ đinh tháo chốt, không thể chỉ giữ một bên, bỏ trái chuyển phải ( 17 2) bỏ phải chuyển trái. Xem Ngưỡng Sơn đến Trung Ấp tạ lễ thọ giới. Trung Ấp thấy Ngưỡng Sơn đến, ngồi trên giường thiền vỗ tay nói: “Hòa thượng”. Ngưỡng Sơn liền sang đứng bên Đông, lại sang đứng bên Tây, lại sang đứng ở giữa. Sau đó tạ giới xong, lại lùi ra sau đứng. Trung Ấp hỏi: Chỗ nào được Tam-muội này? Ngưỡng Sơn nói: Được ấn ở Tào Khê. Ấp: Ông nói Tào Khê dùng Tam-muội này để tiếp người nào? Ngưỡng Sơn: Tiếp Nhất Túc Giác. Ngưỡng Sơn hỏi Trung Ấp: Hòa thượng ở chỗ nào được Tam-muội này? Chỗ nào mà nói lời như thế? Há không phải là nêu một rõ ba, kẻ thấy gốc chạy theo ngọn. Long Nha dạy chúng nói: Phàm học nhân tham kiến phải thấu qua Phật tổ mới được. Hòa thượng Tân Phong nói: Thấy ngôn giáo Phật tổ như sinh vào nhà oan gia mới có phần tham học. Nếu không thấu được tức bị Phật tổ lừa. Bấy giờ có tăng hỏi: Phật tổ có tâm dối người không? Long Nha: Ông nói giang hồ có tâm ngăn ngại người không? Lại nói: Giang hồ tuy không có tâm ngăn ngại người tự là người lúc ấy qua không được. Cho nên giang hồ (sông hồ) lại thành ngăn ngại người. Không được nói sông hồ không ngăn ngại người. Phật tổ tuy không có tâm dối người mà người không thấu được thì Phật tổ thành dối người không được nói Phật tổ không dối người. Nếu thấu được Phật tổ thì người này qua được Phật tổ, phải là thể hội được ý của Phật tổ, mới cùng với hướng thượng đồng với người xưa. Nếu chưa thấu được thì dù học Phật, học Tổ vạn kiếp cũng không có hẹn ngày tỏ ngộ. Lại hỏi: Thế nào là không bị Phật tổ lừa? Long Nha: Phải tự ngộ. Đến đây phải là như thế mới được, vì sao làm người phải thấu triệt, giết người phải thấy máu? Nam Tuyền, Tuyết Đậu là loại người này, mới dám đưa ra nhận xét những điều tóm tắt quan trọng của tông môn. <詞>TỤNG: DỊCH: “Thử thố bỉ thố Thiết kî niêm khước Tứ hải lãng bình Bách xuyên triều lạc Cổ sách phong cao thập nhị môn Môn môn hữu lộ không tiêu sách Phi tiêu sách Tác giả hảo cầu vô bệnh dược”. (Đây lầm kia lầm Tối kî nắm lấy Bốn biển sóng dừng Trăm sông triều xuống Cổ sách phong cao mười hai cửa. Mỗi cửa có đường vào tịch mịch Chẳng tịch mịch Tác giả thích cầu thuốc không bệnh.) Bài tụng này giống như công án Đức Sơn đến yết kiến Quy Sơn. Trước đem công án làm thành hai chuyển ngữ, xâu thành một chuỗi. Sau đó tụng ra. Đây lầm kia lầm, tối kî nắm lấy. Ý của Tuyết Đậu nói: Chỗ này một cái lầm, chỗ kia một cái lầm. Tối kî nắm lấy. Nắm lấy tức trái, phải là như thế, làm thành hai cái “lầm” này, đáng được bốn biển sóng yên, trăm sông triều xuống quả là gió mát trăng thanh. Nếu ông hiểu được hai chữ “lầm” này thì không có việc gì. Núi là núi, sông là sông, dài tự dài, ngắn tự ngắn, năm ngày một ngọn gió, mười ngày một trận mưa. Cho nên nói: “Bốn biển sóng dừng yên trăm sông triều xuống”. Mặt sau tụng Ma Cốc cầm tích trượng nói: “Cổ sách phong cao mười hai cửa”. Người xưa dùng roi để khuyên răn, nhà nạp tăng dùng gậy để răn. Tây vương Mẫu trên hồ Diêu Trì có mười hai cửa đỏ. “Cổ sách” tức là cây gậy, gió mát cao hơn mười hai cửa đỏ, chỗ Thiên tử và Đế Thích ở cũng có mười hai đỏ. Nếu hiểu được hai cái “lầm” này thì trên đầu gậy phát hào quang sáng, cổ sách cũng dùng không được. Người xưa nói: Biết được cây gậy thì việc tham học một đời đã xong. Lại nói: Không nêu hình sự hư luống, gậy báu của Như Lai gần dấu vết. Loại này đến đây bảy điên tám đảo, trong tất cả thời, được đại tự tại. Môn cửa có đường vào tịch mịch. Tuy có đường vào tịch mịch. Tuyết Đậu đến đây tự biết bày vẽ, lại đập phá cho ông. Tuy như thế cũng có chỗ “chẳng tịch mịch”. Mặc dù là tác giả khi không bệnh cũng nên trước tìm thuốc này uống mới được. KHAI THỊ: Mười phương quét sạch ngàn mắt liền mở, một câu cắt đứt dòng muôn cỏ dứt bặt, có đồng sinh, đồng tử không? Hiện thành công án xếp đặt chẳng được văn tự của người xưa, thử nêu ra xem? CÔNG ÁN: Thượng tọa Định hỏi Lâm Tế: Thế nào là đại ý Phật pháp? Lâm Tế xuống giường thiền nắm đánh một tát tai rồi xô ra. Định đứng im. Vị tăng đứng bên cạnh nói: Thượng tọa Định sao không lễ bái? Định liền lễ bái, bỗng nhiên đại ngộ. Giải thích: Xem ông ta như thế, thẳng ra thẳng, vào thẳng đi thẳng đến, chính là Chánh tông của Lâm Tế, có tác dụng gì? Nếu thấu được có thể lật trời làm đất, tự được thọ dụng. Thượng tọa Định chính là hạng người này, bị Lâm Tế đánh một chưởng, lễ bái đứng dậy liền biết chỗ của ông ta. Ông ta là người phương Bắc tính tình bộc trực, sau khi đắc pháp lại không ra hành đạo, sau đó hoàn toàn dùng cơ của Lâm Tế cũng không ngại kẻ thông minh. Một hôm, Sư đi giữa đường gặp Nham Đầu, Tuyết Phong và Khâm Sơn. Nham Đầu hỏi từ đâu đến. Định trả lời: Từ Lâm Tế đến. Nham Đầu: Hòa thượng mạnh khỏe không? Thượng Tọa Định: Đã viên tịch rồi. Nham Đầu: Ba người chúng tôi, tìm đến lễ bái, nhưng phước duyên cạn mỏng, nên gặp lúc đã quy tịch, chưa rõ hằng ngày Hòa thượng có ngôn cú gì không? Xin Thượng tọa nhắc lại vài tắc xem. Thượng Tọa Định: Nêu một hôm Lâm Tế dạy chúng: Trên khối thịt đỏ lòm có một vô vị chân nhân, thường theo các ông ra vào, người chưa chứng cứ hãy xem! Bấy giờ có tăng ra hỏi: Thế nào là Vô vị chân nhân? Lâm Tế nắm lại: Nói! Nói! Tăng suy nghó. Lâm Tế xô ra, nói: “Vô vị chân nhân là que phân khô”. Liền trở về phương trượng. Nham Đầu bất giác thè lưỡi. Khâm Sơn nói: Sao không nói phi vô vị chân nhân. Thượng Tọa Định nắm đứng dậy nói: Vô vị chân nhân và phi vô vị chân nhân cách nhau bao xa? Nói mau! nói mau! Khâm Sơn không nói được khiến mặt vàng thành xanh. Nham Đầu, Tuyết Phong đến trước lễ bái thưa: Vị Tăng này mới học không biết tốt xấu, xúc não Thượng tọa, cúi mong từ bi tha thứ. Thượng Tọa Định: Nếu không phải là hai lão này xin, sẽ giết thằng nhóc con này. Một hôm, Sư đi, trai hội ở Trấn Châu về đến cây cầu đứng nghó gặp ba vị Tọa chủ, một người hỏi: “Thế nào là chỗ sâu của sông Thiền đến tột đáy? Thượng Tọa Định toan ném y xuống cầu, hai vị tọa chủ vội ngăn lại nói: Thôi! Thôi! Y xúc phạm Thượng tọa mong từ bi tha thứ. Thượng Tọa Định: Nếu không phải là hai Thượng Tọa xin thì y sẽ xuống tột đáy. Xem thủ đoạn của Sư toàn là tác dụng của Lâm Tế. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Đoạn Tế toàn cơ kế hậu tung Trì lai hà tất tại thung dung Cự Linh đài thủ vô đa tử Phân phá Hoa Sơn thiên vạn trùng. Đoạn Tế toàn noi dấu sau. Mang về nào hẳn tại thong dong Tay mạnh cự Linh nào mấy kẻ Đập vở Hoa Sơn lớp muôn ngàn. GIẢI THÍCH: Tuyết Đậu tụng: “Đoạn Tế toàn cơ noi dấu sau Mang về nào hẳn tại thong dong”. Đại Cơ đại dụng của Hoàng Bá chỉ riêng lâm Tế là kế thừa dấu vết. Nắm được đem ra không cho nghó bàn. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Như ta ấn ngón tay hải ấn phát quang, ông vừa khởi tâm, thì trần lao khởi trước.” Hai câu: “Tay mạnh Cự Linh nào mấy kẻ. Đập vở Hoa Sơn nào mấy kẻ Cự Linh có thần lực rất lớn, dùng tay chẻ xuống ngọn Thái Hoa, làm cho nước phun lên chảy vào sông Hoàng Hà. Thượng tọa Định nghi tình như đất chồng thành núi, bị Lâm Tế đánh cho một chưởng ngói vỡ băng tiêu. KHAI THỊ: Đông Tây không biện, Nam Bắc không phân, từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng, lại nói là y ngủ gật không? Có khi mắt sáng như sao băng, lại nói y sáng suốt không? Có khi gọi Nam làm Bắc. Hãy nói là có tâm hay vô tâm? Là đạo nhân hay thường nhân? Nếu nhằm trong ấy thấu được mới biết chỗ rơi, mới biết người xưa như thế, không như thế. Hãy nói là thời tiết gì? Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Trần Thái Thượng Thư đến tham vấn Tư Phước, Phước thấy Thượng Thư đến liền vẽ một vòng tròn. Trần Tháo: Đệ tử đến như thế thật là không may mắn huống gì lại vẽ một vòng tròn. Phước liền đóng cửa phương trượng. Tuyết Đậu nói: Trần Tháo chỉ có một mắt. Thượng Thư Trần Tháo Bùi Hưu, và Lý Cao là đồng thời. Hễ thấy tăng nào đến, trước thỉnh thọ trai, kế cúng ba trăm tiền, sau là khám biện. Một hôm, Vân Môn đến tham kiến hỏi: Trong sách Nho thôi chẳng hỏi chi, ba thừa mười hai phần giáo tự có tọa chủ. Thế nào là việc hành cước của Nạp tăng? Vân Môn: Thượng thư từng hỏi bao nhiêu người rồi? Trần Tháo: Chính nay hỏi Thượng tọa. Vân Môn: Nay hãy tạm gác qua một bên, thế nào là giáo ý? Trần Tháo: Quyển vàng trục đỏ. Vân Môn: Cái này là văn tự ngữ ngôn, thế nào là giáo ý? Trần Tháo: Miệng muốn bàn mà lời mất, tâm muốn duyên mà suy nghó mất. Vân Môn: Miệng muốn nói mà từ mất vì đối đãi có lời. Tâm muốn duyên mà suy nghó mất vì đối vọng tưởng. Thế nào là ý của giáo? Trần Tháo: Không đáp lời nào. Vân Môn: Nghe nói Thượng thư xem kinh Pháp Hoa chăng? Trần Tháo: Phải. Vân Môn: Trong kinh nói: “Tất cả nghề nghiệp sinh sản đều trái với thật tướng vô tướng.” Hãy nói: Phi phi tưởng thiên nay có mấy người thối vị. Trần Tháo: Không trả lời. Vân Môn: Thượng thư chớ qua loa. Nhà Sư tăng đem ba bộ kinh, năm bộ luận để vào tòng lâm, mười năm, hai mươi năm còn chưa được gì. Thượng thư lại đâu biết được. Trần Tháo lễ bái nói: Con quá tội lỗi. Lại một hôm ông, cùng các quan liêu lên lầu, nhìn thấy mấy vị tăng đi đến. Một vị quan nói: “Người đi đến đây đều là Thiền tăng”. Trần Tháo: Không phải. Quan Thượng Thơ: Sao biết không phải? Trần Tháo: Đợi đến gần cùng ông khám qua. Tăng đến trước lầu. Trần Tháo gọi: Thượng tọa. Tăng ngẩng đầu lên. Thượng Thư bảo các quan: Không tin nói chỉ có một mình Vân Môn, ông khám phá không được, ông ta tham kiến Mục Châu. Một hôm, đi tham kiến Tư Phước, Phước thấy đi đến liền vẽ một vòng tròn. Tư Phước chính là Tôn Túc của Quy Sơn, Ngưỡng Sơn, bình thường thích lấy cảnh tiếp người, thấy Trần Tháo, Thượng thư bèn vẽ một tướng vòng tròn. Đâu biết Trần Tháo là một người tài giỏi không bị người dối lừa, biết tự kiểm điểm nói: “Đệ tử đến như thế thật là không may mắn, đâu chịu lại vẽ một vòng tròn. Tư Phước đóng cửa lại, công án này gọi “Trong lời biện đích, trong câu tàng cơ. Tuyết Đậu nói: “Trần Tháo chỉ có một mắt.” Tuyết Đậu có thể gọi là có con mắt trên đãnh. Hãy nói ý ở chỗ nào? Cũng khéo cho một vòng tròn. Lúc ấy nếu là mọi người làm Trần Tháo, chịu hạ được lời như thế, tránh được Tuyết Đậu nói ông ta chỉ có một mắt. Cho nên Tuyết Đậu trở lại tụng rằng: <詞>TỤNG: Đoàn đoàn châu nhiễu ngọc san san Mã tải lư đà thượng thiết hoàn Phân phó hải sơn vô sự khách <詞>DỊCH: Điếu ngao thời hạ nhất khuyên loan. Tròn tròn châu nhiễu ngọc san san Ngựa chở lừa lôi đến thuyền sắt Giao gửi núi sông khách vô sự Câu ngao nên thả một vòng tròn. GIẢI THÍCH: Tuyết Đậu lại nói: Nạp tăng trong thiên hạ nhảy không ra khỏi. Hai câu: “Tròn tròn châu nhiễu ngọc san san, ngựa chở lừa lôi thuyền sắt”. Tuyết Đậu ngay đầu bài tụng rằng chỉ tụng cái tướng vòng tròn. Nếu hiểu được thì giống như cọp mọc sừng. Một chút này phải là thùng sơn lũng đáy, được mất, thị phi một lúc buông bỏ. Lại không muốn lấy đạo lý để hiểu, cũng không được lấy huyền diệu để hiểu. Cuối cùng hiểu thế nào? Cái này phải là “Ngựa chở lừa lôi đến thuyền sắt”. Ở đây xem mới được, chỗ khác thì không thể “giao gửi, phải là đem đi “giao gửi núi sông cho khách vô sự”. Nếu trong lòng ông có một chút việc thì thừa đương không được. Ở đây phải là hữu sự, vô sự, trái tình thuận cảnh, hoặc Phật hoặc Tổ, không làm gì được, người này mới đáng thừa đương. Nếu có thiền nên tham, có phàm thanh tình lượng, quyết định thừa đương không được. Thừa đương được rồi thì làm sao hiểu? Tuyết Đậu nói: “Câu: ngao nên thả một vòng tròn. Câu ba ba phải thả lưỡi câu mới được mới được. Cho nên Phong Huyệt nói: “Quen kình nghê ngâm đồng ruộng, lại than ếch nhảy trên cát bùn”. Lại nói: “Ba ba lớn chớ đội ba ngọn núi chạy. Tôi muốn dạo chơi trên đãnh bồng.” Tuyết Đậu lại nói: “Nạp tăng trong thiên hạ nhảy không ra khỏi”. Nếu là ba ba lớn thì hoàn toàn không khởi kiến giải nạp tăng. Nếu là Nạp tăng thì hoàn toàn không phải kiến giải ba ba to. CÔNG ÁN: Ngưỡng Sơn hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tăng: Từ Lô Sơn đến. Ngưỡng Sơn: Có dạo năm ngọn núi không? Tăng: Không từng đến. Ngưỡng Sơn: Xà-lê không từng dạo núi. (Vân Môn nói: Lời này đều là vì cớ từ bi nên nói lời rơi trong cỏ) GIẢI THÍCH: Nghiệm người đến chỗ đích xác, thốt lời liền tri âm. Người xưa nói: Không lường bậc đại nhân, nằm trong ngữ mạch. Nếu là có con mắt, trên đãnh môn. nếu được thì biết ý. Xem một, hỏi một đáp, rõ ràng phân minh, Vân Môn vì sao lại nói: Lời này đều là vì cớ từ bi nên nói lời rơi trong cỏ. Người xưa đến đây ( 17 3) như gương sáng trên đài, minh châu trong tay, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán, một con ruồi bay qua cũng không lọt. Hãy nói: Thế nào là duyên cớ từ bi nên nói rơi trong cỏ cũng quả là hiểm hóc. Đến điền địa này phải là một cá nhân mới có thể đề khởi. Vân Môn niêm rằng: “Vị tăng này chính từ Lô Sơn đến. Vì sao lại nói: “ Xà-lê không từng dạo núi?” Một hôm, Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Có tăng các nơi đến con lấy cái gì nghiệm họ? Ngưỡng Sơn: Con có chỗ nghiệm. Quy Sơn: Ông thử nêu xem? Ngưỡng Sơn: Con bình thường thấy tăng đến chỉ đưa cái phất trần lên nhằm y nói! Các nơi có cái này không? Đợi họ nói có thì nói với họ cái này thì thôi chẳng hỏi chi. Chỉ hỏi cái kia thế nào? Quy Sơn: Đây là manh vuốt của người hướng thượng. Há không thấy Mã Tổ hỏi Bách Trượng: Từ đâu đến? Bách Trượng: Trên núi xuống. Mã Tổ: Trên đường có gặp một người không? Bách Trượng: Không từng. Mã Tổ: Vì sao không từng gặp. Bách Trượng: Nếu gặp thì sẽ kể cho Hòa thượng nghe. Mã Tổ: Ở đâu được tin tức này? Bách Trượng: Con tội lỗi. Mã Tổ: lại là Lão tăng tội lỗi. Ngưỡng Sơn hỏi Tăng cũng giống loại này. Lúc ấy đợi ông ta nói từng đến núi Ngũ Lão không? tăng này nếu là người cụ nhãn chỉ đáp “Việc họa”. Lại nói: Không từng đến. Tăng này đã không phải là tác gia, Ngưỡng Sơn sao không cứ lệnh mà hành khỏi thấy phần sau có nhiều sắn bìm. Ngưỡng Sơn lại nói: Xà-lê không từng dạo núi. Cho nên Vân Môn nói: Lời này vì cớ từ bi nên nói rơi trong cỏ. Nếu là lời ra khỏi, thì không như vậy. <詞>TỤNG: Xuất thảo nhập thảo Thùy giải tầm thảo Bạch Vân trùng trùng <詞>NGHÓA: Hồng nhật cảo cảo Tả cố vô hà Hữu hệ dó lão Quân bất kiến Hàn Sơn Tử Hành thái tảo Thập niên quy bất đắc Vong khước lai thời đạo Ra cỏ vào cỏ Ai biết tìm cầu Mây trắng hàng hàng Trời hồng rỡ rỡ Quay trái không tỳ Liếc phải đã lão Anh thấy chăng Hàn Sơn Tử Đi quá sớm, Mười năm về không được Quên mất đường quay lại. GIẢI THÍCH: Hai câu: Ra cỏ vào cỏ, ai biết tìm cầu. Tuyết Đậu lại biết ý của ông ta. Đến đây một tay đưa lên một tay đè xuống. Mây trắng hàng hàng, trời hồng rỡ rỡ. Giống như cỏ xanh, mây xám xám, đến đây không có phàm tình, không có một chút Thánh; khắp cõi không từng ẩn, mỗi một che lấp không, gọi là cảnh giới vô tâm, lạnh không biết lạnh, nóng không biết nóng, tất cả đều là đại giải thoát môn. “Quay trái không tỳ liếc phải là đã lão”ø. Hòa thượng Lại Toản ẩn cư trong thạch thất Hành Sơn, Đường Túc Tông nghe danh của Ngài liền sai Sứ đến triệu thỉnh. Sứ đến thất của Ngài thỉnh rằng: Thiên tử có chiếu Tôn giả lúc ấy đứng dậy tạ ân. Lại Toản mới lấy phân bò nhóm lửa lấy khoai nướng ăn, trời lạnh buốt nước mũi chảy lòng thòng. Sứ giả cười nói: Xin Tôn giả lau nước mũi. Lại Toản nói: “Đâu rảnh vì người thế tục lau nước mũi”. Trọn không đi, sứ trở về tâu, Túc Tông rất khâm phục Ngài. Giống như loại này trong veo, trắng tinh không chịu người xử phân, hẳn là nắm được định, như sắt thép đúc thành, chỉ như Hòa thượng Thiện Đạo bị sa thải, sau không trở lại làm tăng, người đời gọi là hành giả Thạch Thất hằng ngày giả gạo Sư quên dở chân. Tăng hỏi Lâm Tế: Hành giả Thạch Thất quên dở chân, ý chỉ thế nào? Lâm Tế: Chết chìm trong hố sâu. Pháp nhãn viết bài tụng Viên Thành Thật Tánh: “Lý tột quên tình vị, làm sao có dụ bằng, đến lúc trăng khuya lạnh mặc, hồn nhiên rơi xuống trước khe, quả chín vượn hái, núi dài tợ quên đường, ngưỡng đầu trời đã lặn, vốn là ở Tây phương”. Tuyết Đậu nói: Anh thấy chăng Hàn Sơn Tử, đi rất sớm, mười năm trở về không được, quên mất đường quay lại. Thi Hàn Sơn Tử: Muốn được chỗ an thân Núi lạnh được bảo tồn Gió nhẹ thổi tùng lay Đến gần nghe tiếng hay Dưới có người tóc điểm sương Ngâm nga đọc Huỳnh lão Mười năm về không được Quên mất đường quay lại. Vónh Gia nói: “Tâm là căn, pháp là trần, hai thứ ấy như vết dơ trên gương, khi vết dơ hết thì ánh sáng mới hiện, tâm và pháp đều quên thì tánh tức chân”. Đến đây như ngu như dốt, mới thấy công án này. Nếu không đến điền địa này, chỉ đi trong ngôn ngữ, nào có rõ ràng. Dạy chúng nói: Định rồng rắn, phân ngọc đá, rành trắng đen quyết do dự. Nếu không phải là trên đảnh môn có mắt, trong tay có thần phù, luôn đương đầu sai lầm. Nếu như chỉ thấy nghe không lầm, thanh sắc thuần chân. Hãy nói là đen hay trắng, là cong hay ngay. Đến đây làm sao biện? CÔNG ÁN: Văn-thù hỏi Vô Trước: Từ đâu đến? Vô Trước: Phương Nam. Văn-thù: Phật pháp phương Nam trì thế nào? Vô Trước: Tỳ-kheo thời mạt pháp ít duy trì giới luật. Văn-thù: Bao nhiêu chúng? Vô Trước: Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm. Vô Trước hỏi Văn-thù: Lúc ấy duy trì thế nào? Văn-thù: Phàm thánh Đồng cư, rắn rồng hỗn tạp. Vô Trước: Bao nhiêu chúng. Văn-thù: Trước ba ba, sau ba ba. Giải thích: Vô Trước dạo núi Ngũ Đài, đến nơi hoang vắng, Văn- thù hóa một ngôi chùa, tiếp Sư ngủ một đêm bèn hỏi: Từ đâu đến? Vô Trước: Phương Nam. Văn-thù: Phật pháp phương Nam duy trì thế nào? Vô Trước: Tỳ-kheo thời mạt pháp ít duy trì giới luật. Văn-thù: Hoặc ba trăm hoặc năm trăm. Vô Trước lại hỏi Văn-thù: Lúc ấy duy trì thế nào? Văn-thù: Phàm thánh Đồng cư, rồng rắn hỗn tạp. Vô Trước: Bao nhiêu chúng. Văn-thù: Trước ba ba, sau ba ba. Uống trà, Văn-thù đưa chén pha lê lên hỏi: Phương Nam có cái này không? Vô Trước: Không. Văn-thù: Bình thường lấy cái gì để uống trà? Vô Trước câm họng, bèn từ biệt ra đi. Văn-thù sai đồng tử Quân Đề tiễn ra cổng. Vô Trước hỏi Quân Đề: Vừa nói trước ba ba, sau ba ba là bao nhiêu? Đồng tử nói: Đại Đức! Vô Trước đáp: Dạ. Quân Đề nói: Là bao nhiêu? Lại hỏi: Đây là chùa nào? Quân Đề chỉ mặt sau chùa Kim cang. Vô Trước: Quay đầu nhìn thì. Chùa và Đồng tử đều ẩn mất không thấy, chỉ là một hang trống. Chỗ ấy sau này gọi là hang Kim cang. Sau này có tăng hỏi Phong Huyệt: Thế nào là chủ trong núi Thanh Lương? Phong Huyệt: Một câu không rãnh. Vô Trước hỏi: Đến nay vẫn làm tăng đồng nội. Nếu muốn tham thấu bình bình thật thật, thật sự, lãnh ngộ ngay lời nói của Vô Trước tự nhiên ở trong dầu sôi lửa bỏng cũng không nghe nóng. Ở trong băng giá cũng không lạnh. Nếu muốn tham thấu làm cho cô nguy như kiếm báu Kim cang lãnh hội trong lời nói của Văn-thù, tự nhiên nước dội không thấm, gió thổi không vào. Không thấy Địa Tạng Quế Sâm ở Chương Châu hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tăng: Phương Nam. Địa Tạng: Nơi ấy Phật pháp thế nào? ( 17 4) Tăng: Tranh cải ồn ào. Tạng: Đâu giống như quê ta cày ruộng thổi cơm mà ăn. Hãy nói: Cùng với chỗ đáp của Văn-thù là giống hay khác? Có người nói chỗ đáp của Vô Trước không đúng, chỗ đáp của Văn-thù cũng có rồng, có rắn, có phàm, có Thánh, có dính líu gì, có biện được trước ba ba sau ba ba không? Mũi tên trước cạn mũi tên sau sâu. Hãy nói là nhiều ít? Nếu thấu được ở đây thì ngàn câu vạn câu chỉ là một câu. Nếu ở trong một câu này cắt đứt được thì trụ được, chính lúc ấy đến cảnh giới này. <詞>TỤNG: Thiên phong bàn khuất sắc như lam Thùy vị Văn Thù thị đối đàm Kham tiếu Thanh Lương đa thiểu chúng Tiền tam tam dữ hậu tam tam. Vây quanh ngàn núi sắc dường chàm Ai nói Văn-thù là đối đàm. Cười ngất Thanh Lương bao nhiêu chúng. Trước ba ba và sau cũng ba ba. Hai câu: “Vây quanh ngàn núi sắc dường chàm, “Ai nói Văn-thù là đối đàm”, có người nói: Tuyết Đậu chỉ niêm một lần, không từng tụng được. Chỉ như tăng hỏi Pháp Nhãn. Thế nào là một giọt nước của nguồn Tào Khê? Pháp Nhãn: Là một giọt nước của nguồn Tào Khê. Lại có vị tăng hỏi Hòa thượng Giác ở Lang Nha: Thanh tịnh bản nhiên tại sao nói sinh ra sơn hà đại địa? Giác: Thanh tịnh bản nhiên tại sao nói sinh ra sơn hà đại địa; không thể gọi là niêm một lần nữa. Minh Chiêu hiệu Độc Nhãn Long có tụng, ý có che trời che đất tụng, trùm khắp sa giới thắng già lam. Đầy mắt Văn-thù là đối đàm. Ngay lời nói không thể mở Phật nhãn, quay đầu chỉ thấy núi Thúy Sơn. Trùm khắp sa giới hơn già-lam. Đây chỉ cho chùa hóa hiện trong cỏ, gọi là cơ có quyền có thật song hành. Đầy mắt Văn-thù là đối đàm, ngay lời nói không biết mở mắt Phật, quay đầu chỉ thấy núi Thúy Sơn. Chính lúc như thế gọi là cảnh giới Văn-thù, Phổ Hiền, Quán Âm được không? Quả thật không phải là đạo lý này. Tuyết Đậu chỉ đối cái dụng của Minh Chiêu lại có làm chỉ. “Vây quanh ngàn núi sắc dường chàm”, lại không làm tổn thương kẻ phạm. Trong câu có quyền, có thật, có lý, có sự. “Ai gọi Văn-thù là đối đàm”. Một đêm đối đàm không biết là Văn-thù. Sau này Vô Trước ở Ngũ Đài làm điển tòa. Văn-thù thường hiện trong nồi cháo, bị Vô Trước quậy cháo rồi đánh. Tuy như thế “giặc đi qua rồi mới dương cung”. Chính lúc hỏi: “Phật pháp phương Nam làm sao duy trì” liền nhằm xương sống đánh cho một gậy còn tạm được một chút. “Cười ngất Thanh Lương bao nhiêu chúng”. Trong cái cười của Tuyết Đậu có dao. Nếu hiểu được chỗ cười này liền thấy ông ta nói trước ba ba sau ba ba. CÔNG ÁN: Một hôm Trường Sa dạo núi, trở về đến cửa Thủ tòa hỏi: Hòa thượng từ đâu đến? Trường Sa: Đi dạo núi về. Thủ tòa: Đến núi nào? Trường Sa: Trước theo cỏ thơm đến, sau theo hoa rụng về. Tòa: Thật là giống ý Xuân. Sa: Cũng hơn giọt sương Thu trên hoa sen. Tuyết Đậu bình rằng: Tạ lời đáp. Giải thích: Đại sư Chiêu Hiền ở Lộc Uyển, Trường Sa. Nối pháp với Nam Tuyền, cùng Triệu Châu, Tử Hồ làm bạn. Sư cơ phong rất bén nhạy. Có người hỏi về kinh giáo thì lấy kinh giáo đáp, cần tụng thì đáp tụng. Ông muốn dùng tác gia gặp nhau thì dùng tác gia gặp nhau. Ngưỡng Sơn bình thường cơ phong là bậc nhất. Một hôm cùng với Trường Sa ngắm trăng. Ngưỡng Sơn chỉ trăng nói: Ai ai cũng có cái này chỉ là dùng không được. Trường Sa nói: Được rồi, ta sẽ dùng thay ông. Ngưỡng Sơn: Sư thúc thử dùng xem! Trường Sa tống ngưỡng Sơn một đạp té nhào. Ngưỡng Sơn đứng dậy nói: Sư thúc giống như cọp. Do đó Người đời sau gọi ông là Cảnh Sầm. Một hôm dạo núi trở về, Thủ tòa cũng là người trong hội của Sư, hỏi: Hòa Thượng đi đâu về? Trường Sa đáp: Đi dạo núi về. Thủ Tòa: Đi núi nào? Trường Sa: Trước theo cỏ thơm đến, sau theo hoa rụng về, phải là người quét sạch mười phương mới được. Người xưa ra vào chưa từng không lấy việc này làm niệm. Xem khách chủ ông ta đổi nhau, đương cơ chặt thẳng, mỗi bên không duy. Đã là dạo núi vì sao lại hỏi đến chỗ nào đi về? Nếu là thiền lữ như thời nay bèn nói đến đình Giáp Sơn về. Thấy rõ người xưa không có một mảy đạo lý so sánh. Cũng không có chỗ trụ trước. Cho nên nói: “ Trước theo cỏ thơm đến, sau theo hoa rụng về.” Thủ tòa liền theo ý của ông ta nói: “Rất giống ý Xuân”. Trường Sa nói: Cũng hơn giọt sương Thu trên hoa sen. Tuyết Đậu nói: “Tạ lời đáp:. Đó là thay lời rốt sau, cũng rơi vào hai bên, cuối cùng không ở hai bên. Thuở xưa có Tú Tài Trương Chuyết xem kinh Thiên Phật Danh, hỏi: Trường Sa trăm ngàn chư Phật chỉ nghe danh, chưa rõ ở quốc độ nào? Có giáo hóa không? Trường Sa nói: Hoàng Hạc Lâu sau khi Thôi Hạo đề thi Tú Tài từng đề hay chưa? Chuyết Tú Tài đáp: Chưa từng đề. Trường Sa: Được đề một thiên cũng tốt. Cảnh Sầm một đời vì người là, châu hồi ngọc chuyển, cần người đối diện liền hiểu. <詞>TỤNG: DỊCH: Đại địa tuyệt tiêm ai Hà nhân mãn bất khai Thủy tùy phương thảo khứ Hựu trục lạc hoa hồi. Luy hạc kiều hàn mộc Cuồng viên khiếu cổ đài Trường Sa vô hạn ý, Đốt. Đại địa không mảy bụi Người nào mắt chẳng mở Trước theo cỏ thơm đến Sau theo hoa rụng về Hạc gầy đâu cây lạnh. Vượn cuồng kêu cổ đài Trường sa ý vô hạn. Ôi! GIẢI THÍCH: Hãy nói công án này cùng với chỗ Ngưỡng Sơn hỏi tăng từ đâu đến? Tăng nói: Lô Sơn đến. Ngưỡng Sơn: Từng đến núi Ngũ Lão chưa? Tăng: Không từng đến. Ngưỡng Sơn: “Xà-lê chưa từng dạo núi”, biện trắng đen xem là đồng hay khác? Đến đây phải là mưu chước hết, ý thức mất, sơn hà đại địa, cỏ cây người vật không có một chút rơi rớt. Nếu không như thế, người xưa gọi đó là còn ở trong cảnh giới thắng diệu. Vân Môn nói: Đến nỗi sơn hà đại địa không có một mảy may lỗi lầm, vẫn là chuyển cú. Không thấy tất cả sắc, mới là “bán đề”, lại phải biết có cơ hội “ toàn đề” một đường hướng thượng, mới biết “ngồi an”. Nếu thấu được như trước núi là núi, sông là sông, mỗi thứ ở bản vị của nó, mỗi cái hiện bày bổn thể, như cái vô của người mù. Triệu Châu nói: Gà gáy sớm, buồn thay còn lận đận, quần đùi lót vẫn không; hình tướng ca sa có chút ít. Quần không phấu, không ống, trên đầu tro xanh nấm ba đấu, vốn là tu hành lợi tế người, ai biết trở thành kẻ vô dụng, nếu được chân thật, đến cảnh giới này, người nào mắt không mở, dù cho trịch ngộ, tất cả chỗ đều là cảnh giới này, đều là cơ hội này, mười phương rỗng rang, bốn mặt cũng không cửa. Cho nên nói: “Trước theo cỏ thơm đến sau theo hoa rụng về ( 17 5) Tuyết Đậu quả thật khéo ông ta, dán một câu, liền thành bài thi: Hạc gầy đậu cây lạnh Cuồng kêu cổ đài. Tuyết Đậu dẫn đến đây tự biết ló đuôi, bèn nói : “Huyền Sa ý vô hạn, ối như đang mộng chợt tỉnh” Tuyết Đậu tuy hạ một tiếng hét cũng chưa cắt đứt được. Nếu là Sơn tăng thì không như vậy. “Trường sa ý vô hạn, đào đất lại chôn sâu. KHAI THỊ: Cơ điện chớp luống nhọc suy tư, tiếng sét trên không nào bịt tai nào kịp, trên đều cắm cờ đỏ, sau lỗ tai hươi hai kiếm. Nếu không phải là mắt nhanh tay lẹ thì làm sao chụp được. Có người cúi đầu suy nghó, ý căn so lường. Thật không biết trước đầu lâu thấy vô số quỷ. Hãy nói: Không rơi vào ý căn, không rơi vào được mất, bỗng có người cử biết như thế làm sao đáp, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Bàn Sơn nói: Ba cõi không có pháp, thì tìm tâm nơi nào? GIẢI THÍCH: Hòa thượng Bảo Tích ở Bàn Sơn phía Bắc U Châu là bậc tôn túc dưới Mã Tổ. Sau đó xuất phát một Phổ Hóa. Sư sắp tịch bảo chúng rằng: Có ai sẽ được hình của ta không? Chúng đều vẽ hình trình Sư. Sư quở. Phổ Hóa ra thưa: Con vẽ được. Sư: Sao không trình cho Lão tăng? Phổ Hóa liền nhào lộn một cái rồi đi ra. Sư bảo: Gã này về sau như kẻ điên tiếp người. Một hôm, Sư dạy chúng: Ba cõi không có pháp, tìm tâm nơi nào, bốn đại vốn không, Phật ở nơi nào ngọc tuyền (một thứ để xem thiên văn) bất động, lặng tónh không vết, mặt nhìn như trình, lại không có việc khác. Tuyết Đậu nêu hai câu tụng tụng, hẳn là lẫn lộn vàng ngọc. Không thấy nói: Bệnh sốt rét cách nhật không nhờ thuốc lừa, lạc đà. Sơn tăng vì sao nói: Theo tiếng liền đánh, chỉ vì ông ta mang gông đi cáo. Người xưa nói: Nghe tiếng khen ngoài câu, chớ nhằm trong ý tìm cầu. Hãy nói: Ý người xưa thế nào? Liền được chạy nhanh, điện chớp sao băng. Nếu suy nghó, dù có ngàn Phật ra đời cũng tìm kiếm không được. Nếu là vào sâu cửa kín, tột cùng xương tủy, thấy thấu được thì Bàn Sơn một trường thất bại. Nếu nương lời hiểu Tông chuyển trái chuyển phải thì Bàn Sơn chỉ được một cây cọc. nếu là lê bùn dính nước, chuyển trong khối sắc thanh, cũng chưa nằm mộng thấy Bàn Sơn. Ngũ Tổ Tiên Sư nói: Thấu qua bên kia mới có phần tự do. Ông không nghe Tam Tổ nói: Tội lỗi của chấp, nhất định vào nẻo tà, buông nó sẽ ung dung tự tại. Nếu đến trong đây nói không có Phật không có Pháp, là chung vào hang quỷ. Người xưa gọi là hầm sâu giải thoát, vốn là nhân thiện mà chuốc quả ác. Cho nên nói: Người vô vi vô sự, gặp nan khóa vàng, phải đến tột cùng mới được. Nếu nói được trong chỗ không lời, đi trong chỗ không đi được gọi đó là chỗ chuyển thân, ba cõi không có pháp tìm cầu tâm nơi nào. Nếu ông dùng kiến giải phàm tình thì sẽ chết trong ngôn cú. Chỗ thấy của Tuyết Đậu bảy hầm tám hố cho nên tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Tam giới vô pháp Hà xứ cầu tâm Bạch Vân vi cái Lưu tuyền tác cầm Nhặt khúc lưỡng khúc vô nhân hội Vũ quá dạ đường thu thủy thâm. Ba cõi không có pháp Tìm cầu tâm nơi nào Lấy mây trắng làm lộng Dòng suối xanh khảy đàn Một bản hai bản không người hiểu. Mưa xuống hồ đêm nước thu sâu. GIẢI TỤNG: “Ba cõi không có pháp, tìm cầu tâm nơi nào’. Tuyết Đậu tụng ra giống như cảnh giới Hoa Nghiêm. Có người nói: Tuyết Đậu xướng ra không đúng. Nếu là người sáng suốt thì không hiểu như thế. Tuyết Đậu đến bên cạnh ông ta nêu hai câu nói: “Lấy mây trắng làm lộng Dòng nước xanh làm đàn”. Tô Đông Pha tham kiến Chiếu Giác có bài tụng rằng: “Tiếng suối chảy như chiếc lưỡi dài rộng, sắc núi đâu chẳng là thân thanh tịnh. Đêm đến tám vạn bốn ngàn kệ. Hôm khác làm sao nói cho người. Tuyết Đậu mượn suối chảy làm chiếc lưỡi dài. Cho nên nói một bản hai bản không người hiểu. Không thấy Hòa thượng Kiền ở Cửu Phong nói: Có biết được mạng không? Nước chảy là “mạng”, trạm tịch là “thân”. Ngàn sóng đua vỗ là gia phong của Văn-thù. Một sáng trời trong là cảnh giới Phổ Hiền, dòng nước khảy đàn, một bản, hai bản không người hiểu; khúc điệu này cũng phải là tri âm mới được. Nếu không phải người ấy thì nhọc nhằn nghiêng tai. Người xưa nói: Người điếc cũng xướng khúc nhạc Hồ, hay dở cao thấp đều không nghe. Vân Môn nói: Ngước không nhìn tức thoát khỏi. Suy nghó thì kiếp nào mới ngộ được. Ngước là thể nhìn là dụng. Trước khi chưa ngước. Trẫm chạy trước khi chưa phân thấy được, quét sạch việc quan trọng. Nếu điềm trước chạy vừa phân mà thấy được thì có chiếu dụng. Nếu điềm sau khi phân mà thấy được thì rơi vào ý căn. Tuyết Đậu từ bi quá lắm đến nói với ông “Mưa xuống hồ đêm nước Thu sâu”. Một câu tụng này từng có người bàn luận. Khen Tuyết Đậu có tài hàn lâm. Câu “Mưa xuống hồ đêm nước Thu sâu” phải mở mắt to nhìn nhanh nếu chậm trễ nghi thì bàn luận không ra. KHAI THỊ: Nếu luận về Tiệm, trái thường hợp đạo, trong chợ. Nếu luận về Đốn thì không để lại dấu vết, ngàn Thánh tìm cũng không được. Nếu không lập đốn tiệm lại thế nào một lời nói của người giỏi, một cây roi của thằng nào hay chính lúc này ai là tác giả, thử nêu xem. CÔNG ÁN: Phong Huyệt ở Nha Môn tại Vónh Châu thượng đường nói: Tâm ấn của Tổ sư giống như trâu máy bằng sắt nó đi mà ấn thì nó đứng lại, nó đứng thì ấn nó đi, chỉ như không đi không đứng thì ấn đúng hay không ấn là đúng. Lúc ấy có Trưởng lão Lô Pha ra hỏi: Con có con trâu bằng sắt xin Sư đừng để tay ấn. Phong Huyệt: Quen câu cá kình nơi sông lớn, lại than cóc nhảy cát bùn. Lò Pha suy nghó. Phong Huyệt hét: Trưởng lão sao không nói lên? Lô Pha suy nghó. Phong Huyệt lấy phất trần đánh cho một cái. Lại nói: Nhớ thoại đầu không, thử nêu xem? Lô Pha toan mở miệng, Phong Huyệt lại đánh cho một phất trần nữa. Mục Chủ nói: Phật pháp giống Vương pháp. Phong Huyệt nói: Thấy đạo lý gì? Mục Chủ nói: Nên đoạn hay không đoạn, trở lại chuốc loạn. Phong Huyệt liền xuống tòa. Giải: Phong Huyệt chính là tôn túc của Lâm Tế. Lâm Tế lúc đầu ở trong hội của Hoàng Bá đi trồng tùng. Hoàng Bá nói: Núi sâu trồng nhiều tùng làm gì? Lâm Tế nói: Thứ nhất là làm cảnh cho sơn môn. Thứ hai là làm gương cho người sau. Nói xong đào đất tiếp tục ( 17 6) Hoàng Bá nói: Tuy như thế ông đã ăn hai mươi gậy rồi. Lâm Tế lại tiếp tục đào đất rồi thở dài. Hoàng Bá nói: Tông ta đến đời ông thì hưng thịnh ở đời. Quy Sơn Hiệt nói: Lâm Tế như thế, giống như đất bằng trợt té. Tuy nhiên, gặp nguy không đổi mới là đại trượng phu. Hoàng Bá nói: Tông ta đến đời ông hưng thịnh ở đời, giống như thương con mẹ không biết dơ uế. Sau đó Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Hoàng Bá lúc ấy chỉ dặn dò một người là Lâm Tế hay còn người nào khác không? Ngưỡng Sơn nói: còn chỉ vì niên đại lâu xa, chẳng dám thưa trước với Hòa thượng nghe. Quy Sơn nói: Tuy thế. Ta cũng cần biết, thử nêu xem. Ngưỡng Sơn: Một người chỉ Nam, Ngô Việt thì đi, gặp Đại Phong thì dừng. Đây chính là sấm chỉ Phong Huyệt vậy. Lúc đầu Phong Huyệt tham kiến Tuyết Phong năm năm, nhân thưa thỉnh Lâm Tế vào giảng đường, hai vị thủ tọa Đông đường và Tây đường đều hét một cái. Tăng hỏi Lâm Tế: Có khách chủ không? Lâm Tế: Khách chủ rõ ràng. Phong Huyệt: Chưa rõ ý thế nào? Tuyết Phong: Tôi lúc xưa cùng Nham Đầu và Khâm Sơn đến yết kiến Lâm Tế giữa đường nghe tin Lâm Tế thị tịch. Nếu muốn hiểu lời khách chủ phải tham kiến bậc tôn túc tông phái ấy. Sau đó Phong Huyệt lại tham kiến Thụy Nham. Thụy Nham thường tự gọi: Ông chủ Tự nói: “Dạ.” Lại nói: Tónh tónh lấy. Ông ta sau này không bị người dối lừa. Phong Huyệt: Tự đưa ra nhận xét về điều tóm tắt quan trọng của tông môn có gì khó. Sau đó ở Lộc Môn Tương Châu làm thị giả cho Quách Qua Hạ. Quách chỉ Sư đến tham kiến Nam Viện. Phong Huyệt nói vào cửa phải biện chủ, thỉnh Sư chỉ rõ. Một hôm, Phong Huyệt tham kiến Nam Viện kể lại những việc trước đây: Con chỉ đến thân cận. Nam Viện nói: Tuyết Phong là cổ Phật. Một hôm yết kiến Cảnh Thanh. Cảnh Thanh hỏi: Từ đâu đến? Phong Huyệt: Từ Đông đến. Cảnh Thanh: Qua sông nhỏ không? Huyệt Phong: Thuyền vượt ngoài khơi, sông nhỏ không thể chở. Cảnh Thanh: Sông gương núi vẻ, chim bay không qua, ông chớ trộm nghe lời di huấn. Phong Huyệt: Mênh mông còn khiếp thế mong luân. Liệt Hán buồn bay qua Ngũ Hồ. Cảnh Thanh dựng phất trần lên hỏi: Đâu làm sao được cái này? Phong Huyệt: Cái này là gì? Cảnh Thanh: Quả nhiên không biết. Phong Huyệt: Ra vào co duỗi, cùng Thầy đồng dụng. Cảnh Thanh: Chuôi gáo nghe tiếng rỗng. Ngũ mê và nói sàm. Phong Huyệt: Đầm sâu chưa núi hàng phục cọp. Cảnh Thanh: Tha thứ tội lỗi, phải ra mau đi. Phong Huyệt: Ra thì mất, liền đi ra đến pháp đường, tự nghó Đại trượng phu, công án chưa xong, há lại chịu thôi. Sư trở về phương trượng thấy Cảnh Thanh ngồi thưa. Vừa rồi con trình kiến giải có xâm phạm đến tô nhan, nương vào từ bi của Hòa thượng, chưa ban tội trách. Cảnh Thanh: Vừa từ phía Đông đến, há không phải là Thúy Nham lại? Phong Huyệt: Chính Tuyết Đậu ở phía Đông lộng báu. Cảnh Thanh: Không tìm dê mất cuồng giải dứt, lại đến trong này đọc tập thơ. Phong Huyệt: “Giữa đường gặp kiếm khách phải trình kiếm, không phải thi nhân chớ nói thơ”. Cảnh Thanh: Thơ mau đậy lại, tạm mượn kiếm xem? Phong Huyệt: Người sành mang kiếm đi. Cảnh Thanh: Không chỉ xúc phạm phong hóa Cũng tự phơi bày lầm lẫn. Phong Huyệt: Nếu không chỉ phong hóa Đâu rõ tâm cổ Phật. Cảnh Thanh: Sao gọi tâm cổ Phật? Phong Huyệt lại nói: Lại chấp nhận. Sư nay có gì? Cảnh Thanh: Từ Đông đến nạp tử đậu bắp không phân. Phong Huyệt: Chỉ nghe không lấy, mà lấy đâu được ép lấy mà lấy. Cảnh Thanh: Sóng lớn ngàn tầm, Sóng lặng không lìa nước. Phong Huyệt: Một câu cắt dòng vạn cơ lột hết Huyệt liền lễ bái Thanh lấy phất trần gõ ba cái nói: Giỏi thay! Hãy ngồi uống trà. Phong Huyệt vừa đến Nam Viện vào cửa không lễ bái. Nam Viện nói: Vào cửa phải biện chủ. Phong Huyệt: Thỉnh Sư chỉ rõ. Nam Viện lấy tay trái đánh vào gối một cái, Phong Huyệt bèn hét. hét. Nam Viện lấy tay phải vỗ vào gối một cái, Phong Huyệt cũng Nam Viện đưa tay trái lên nói: “Cái này tức từ xà-lê”. Lại đưa tay phải lên nói: “Cái này là thế nào?” Phong Huyệt nói: “Mù” Nam Viện liền chỉ cây gậy. Phong Huyệt nói: Là gì? Tôi đoạt lấy gậy đánh vào Hòa thượng, chớ bảo không nói. Nam Viện liền ném cây gậy nói: Ngày nay gã Chiết mặt vàng cướp lấy rồi. Phong Huyệt: Hòa thượng giống như cầm bát không được, dối nói không đói. Nam Viện: Xà-lê có từng đến đây không? Phong Huyệt: Là lời gì? Nam Viện: Khéo léo hỏi lấy. Phong Huyệt: Cũng không được bỏ qua. Nam Viện: Hãy uống trà đi, các ông xem, bậc tài trí tự là cơ phong cao vót. Nam Viện cũng chưa biện được Sư. Đến hôm khác, Nam Viện chỉ hỏi bình thường: Hạ này ở chỗ nào? Phong Huyệt: Ở Lộc Môn cùng nhập hạ với thị giả Khoánh. Nam Viện: Vốn đích thân thấy bậc tác gia đến. Lại nói: Ông ta nói gì với ông? Phong Huyệt nói: Từ đầu đến cuối chỉ dạy con một bề làm chủ. Nam Viện liền đánh đuổi ra khỏi phương trượng nói: Gã này là kẻ thua trận, có dùng làm gì? Từ đây Sư chấp nhận ở Nam Viện làm Tri viên. Một hôm Nam Viện đến vườn nói: Một gậy phương Nam làm sao thương lượng? Phong Huyệt: Khởi thương lượng kỳ đặc. Lại hỏi: Ở đây Hòa thượng làm sao thương lượng? Nam Viện đưa gậy lên nói: Dưới gậy vô sinh nhẫn, gặp cơ duyên không nhường thầy. Ngay đó Sư hoát nhiên đại ngộ. Lúc này Ngũ đại ly loạn, Mục Chủ Vónh Châu thỉnh Sư nhập hạ tại Vónh Châu, bấy giờ tông của Lâm Tế rất thịnh hành. Ông ta phàm là hỏi đáp dạy chúng không ngại ngữ cú mới mẻ, thêu hoa cờ gấm, chữ chữ đều có rơi rớt. Một hôm Mục Châu thỉnh Sư thượng đường dạy chúng: Tâm ấn của Tổ sư giống như cơ trâu sắt buông đi thì ấn còn, nắm tức ấn vỡ. Chỉ như không buông, không nắm, ấn đúng hay không ấn là đúng? Vì sao? Không giống cơ của người đá, ngựa gỗ, lập tức giống như cỏ trâu sắt, không phải như chỗ cảm động của ông. Ông mới buông tức ấn còn nguyên, ông mới nắm thì ấn liền vỡ, khiến ông nát trăm mãnh. Chỉ như không buông, không nắm, ấn là phải hay không ấn là phải? Xem ông ta dạy như thế đáng gọi là lưỡi câu có mồi. Lúc ấy dưới tòa có Trưởng lão Lô Pha cũng là tôn túc trong tông Lâm Tế, dám ra cùng ông đối đáp, chuyển thoại đầu của Sư, đặt một câu hỏi rất kỳ đặc. Hỏi: Tôi có cơ trâu sắt, xin Sư chẳng để tay ấn? Đâu ngờ Phong Huyệt là bậc tác gia, liền đáp: Quen câu cá kình ở sông lớn, lại than ếch nhảy ra bùn cát”. Đây là trong lời có tiếng vang. Vân Môn nói: Thả câu bốn biển chỉ câu rồng to. Cách ngoại huyền cơ vì tìm tri kỷ. Sông lớn lấy trâu to làm mồi câu, lại chỉ câu được một con ếch. Lời này vẫn không huyền diệu, cũng không có đạo lý suy xét. Người xưa nói: Nếu nhìn trên sự xem thì dễ, nếu nhằm dưới ý căn suy xét thì không dính líu. Lô Pha dừng lại suy nghó, thấy ông ta không lấy, ngàn năm khó gặp. Đáng tiếc thay! Cho nên nói: Dù giảng được ngàn kinh luận, Lâm Tế buông miệng khó. Thật ra Lô Pha muốn bàn lời hay để đáp, không muốn hành lệnh. Bị Phong Huyệt một bề dùng cơ phong treo cờ đánh trống, một bề bức bách. Chỉ được không làm gì được. Ngạn ngữ nói: Trận thua không bị chối cấm quét. Đương lúc phải bàn cách đánh địch. Đợi ông bàn luận được thì đầu rơi xuống đất. Mục Chủ cũng tham kiến Phong Huyệt đã lâu biết nói Phật pháp giống Pháp vương. Phong Huyệt nói: Ông thấy cái gì? Mục Chủ: Đúng đoạn không đoạn, trở lại chuốc loạn ( 17 7). Phong Huyệt chỉ là một khối tinh thần, giống như trái hồ lô trên mặt nước, đụng nó thì chuyển động, khéo tùy cơ thuyết pháp. Nếu không tùy cơ thì trở thành vọng ngữ. Phong Huyệt bèn xuống tòa. Chỉ như Tông Lâm Tế chỉ có bốn chủ khách, người tham học cần phải cẩn thận, như khách chủ gặp nhau, có bàn luận khách chủ đến đi, hoặc ứng vật thấy hình toàn thể làm dụng, hoặc cầm cờ quyền hỷ nộ, hoặc hiện nửa thân, hoặc cưỡi sư tử, hoặc cưỡi tượng vương. Như có người học chân chánh liền hét, trước đưa ra một bồn keo, thiện tri thức không biện cảnh này, bèn lên cảnh ông ta làm gương mẫu. Học nhân bèn hét, trước người không chịu buông, đây là bệnh trầm trọng bác só không trị được, gọi làm khách xem chủ. Hoặc là thiện tri thức không đua ra vật theo chỗ hỏi của học nhân liền đoạt, người học đến chết không buông. Đây là Chủ xem khách. Hoặc học nhân ứng làm một cảnh thanh tịnh đưa trước thiện tri thức, Thiện tri thức biết được là cảnh, ném học nhân xuống hầm. Học nhân nói: Thiện tri thức rất hay. Thiện tri thức liền nói: “Ối! Đồ không biết tốt xấu”. Học nhân lễ bái. Đây gọi là Chủ xem chủ. Hoặc có học nhân mang gông, đeo cùm ra trước Thiện tri thức, Thiện tri thức liền đặt cho học nhân thêm gông cùm nữa. Học nhân vui vẻ, cả hai không biết. Đây là Khách xem khách. Chư Đại đức! Sơn tăng đưa ra vì biện ma rõ cảnh lạ, biết tà chánh. Như tăng hỏi Từ Minh: Khi một tiếng hét phân khách chủ, chiếu dụng đồng thời, hành là thế nào? Từ Minh liền hét. Lại Hòa thượng Hoằng Giác ở Vân Cư dạy chúng rằng: Thí như sư tử chụp voi, cũng dùng toàn, chụp thỏ cũng dùng toàn lực. Khi ấy có tăng hỏi: Chưa rõ là toàn lực gì? Vân Cư: Lực không dối. Xem Tuyết Đậu tụng. <詞>TỤNG: DỊCH: Cầm đắc Lô Pha khoa thiết ngưu Tam huyền khoa giáp vị khinh thù Sở Vương thành bạn triều tông thủy Tát hạ tằng linh khước đảo lưu. Bắt được Lô Pha trâu sắt khóc Tam huyền binh khí vẫn chưa dùng Bên thành Vương Sở nhằm đông chảy Một hét từng làm đảo ngược dòng. GIẢI TỤNG:Tuyết Đậu biết Phong Huyệt có loại Tông phong này, nên tụng: “Bắt được Lô Pha trâu sắt khoe, Tam huyền binh khí vẫn chưa dùng”. Lâm Tế có “ba huyền, ba yếu”. Phàm trong một câu phải có đủ “ba huyền”, trong một huyền phải có “ba yếu”. Tăng hỏi Phong Huyệt! Thế nào là “câu thứ nhất”? Phong Huyệt! Ấn “Ba yếu” khai một điểm đỏ, không được suy nghó phần chủ khách. Tăng: Thế nào là “câu thứ hai”? Phong Huyệt: Biện giỏi há dễ Vô Trước hỏi. Bọt nổi không mang nỗi cơ dòng. Tăng: Thế nào là “câu thứ ba”? Phong Huyệt: Chỉ xem nhà hát đùa người máy, Rút dây đều bỡi người núp trong. Trong một câu của Phong Huyệt có đủ binh khí Tam huyền, bảy việc tùy thân, không khinh suất đáp người. Nếu không như thế, làm gì được Lô Pha. Phần dưới Tuyết Đậu muốn đưa ra cơ phong của Lâm Tế, chớ nói là Lô Pha mặc dù là bên thành Sở Vương sóng dậy ầm ầm nước nổi ngập trời, hoàn toàn chảy về phương Đông, chỉ cần một tiếng hét, cũng phải chảy ngược lại. KHAI THỊ: Giữa thọ dụng đường như cọp tựa núi, thế đế lưu bố như vượn tại vườn. Muốn biết nghóa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên, muốn lọc luyện vàng ròng phải là lò luyện của bậc. Hãy nói người đại dụng hiện tiền lấy gì thử nghiệm. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là pháp thân thanh tịnh? Vân Môn: Hoa thược lan. Tăng: Khi thế ấy đi thì sao? Vân Môn: Sư tử lông vàng. GIẢI THÍCH: Mọi người có biết chỗ hỏi của tăng này và chỗ đáp của Vân Môn không? Nếu biết được thì hai miệng đồng một cái lưỡi. Nếu không biết thì không khỏi lầm lẫn. Tăng hỏi Huyền Sa: Thế nào là pháp thân thanh tịnh? Huyền Sa: Mũ giọt giọt, người có mặt Kim cang thử biện xem? Vân Môn không giống người khác, có lúc giữ vách đừng ngàn nhẫn, không có chỗ cho ông suy nghó. Có khi mở cho ông một đường cùng sinh cùng tử. Ba tấc lưỡi của Vân Môn rất sâu kín. Có người nói: Đó là lối đáp tín thái. Nếu hiểu như thế, thử nói Vân Môn rơi chỗ nào? Cái này là việc trong nhà, chớ hướng ra ngoài suy tìm. Cho nên Bách Trượng nói: Sum-la vạn tượng, tất cả ngôn ngữ, đều trở về chính mình, làm cho lăn trùng trục, nhằm chỗ sông linh động chỗ. Lại nói: Nêu suy nghó bàn luận thì rơi vào “câu thứ hai”. Vónh Gia nói: “Pháp thân ngộ rồi không một vật. “Bản nhiên tự tánh thiên chân Phật”. Vân Môn nghiệm vị tăng này, tăng này cũng là người trong nhà của Sư, vốn là tham kiến đã lâu, biết việc trong nhà Sư nên tiến ngữ: Khi thế ấy đi thì sao? Vân Môn nói: Sư tử lông vàng. Hãy nói: Là chấp nhận hay không chấp nhận, là khen ông ta hay chê ông ta. Nham Đầu nói: Nếu luận chiến thì mỗi người ở chỗ chỗ chuyển. Lại nói: Ông ta tham vấn hoạt cú, không tham tử cú, lãnh ngộ nơi hoạt cú muôn kiếp không quên, lãnh ngộ trong tử cú tiến được thì tự cứu chưa xong. Lại có vị Tăng hỏi Vân Môn: Phật pháp như trăng đáy nước phải không? Vân Môn: Sóng trong không đường thông. Lại nói: Hòa thượng từ đâu mà được? Vân Môn: Hỏi lại thì đâu đến. Tăng: Chính khi ấy đi thì sao? Môn: Đường quan san trùng điệp. Phải biết việc này, không ở trong ngôn cú, như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện ánh chớp, thấu được hay không thấu được chưa khỏi tán thân mất mạng. Tuyết Đậu là người trong đó, liền ngay đầu tụng: Hòa thược lan Mạc man han Tỉnh tại xứng hề bất tại bàn Tiện nhậm ma, thái vô đoan Kim mao sư tử đại gia khan. <詞>DỊCH Hoa thược lan Chừ chớ hoang mang Hoa ở cân không bàn Liền như thế, không có mối mang. Sư tử lông vàng mọi người xem. TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu đồng hội, đánh một điệu rung dây phát ra những bản kỳ diệu, mỗi câu phán xét ra đây. Một bài tụng không khác cách niêm cổ. “Hoa thược lan” liền nói: Chớ hoang mang. Mọi người đều nói Vân Môn: Dùng tín thái đáp, thảy điều khởi tình giải hiểu Vân Môn. Cho nên Tuyết Đậu có bổn phận giản trạch, nên nói: Chớ hoang mang. Bởi vì ý của Vân Môn không ở chỗ Hoa thược lan. Cho nên Tuyết Đậu nói: Hoa ở cân chừ không ở bàn. Một câu này rất mực rõ ràng. Trong nước vốn không trăng, trăng ở trên trời xanh. Câu: “Hoa ở cân không ở bàn”. Hãy nói: Cái nào là cân, nếu biện rõ thì không cô phụ Tuyết Đậu. Người xưa đến đây quả thật từ bi, rõ ràng nói với ông. “ Không ở trong này ở bên kia”. Hãy nói bên kia là chỗ nào? Tại một câu đầu bài tụng này tụng xong phần sau bài tụng là vị Tăng này nói: “Khi thế ấy đi thì sao? Tuyết Đậu nói: Vị Tăng này không mối mang”. Hãy nói: Đầu sáng hợp hay đầu tối hợp? Hiểu rồi nói như thế, hay không hiểu nói như thế? Sư tử lông vàng mọi người. Lại thấy sư tử lông vàng không? Mù! KHAI THỊ: Thôi đi, thôi đi, cây sắt trổ hoa. Có chăng? Có chăng? Cũng bị thua. Dù đại triệt ngộ cũng không ra khỏi lỗ mũi ông. Hãy nói tiếng lầm lẫn chỗ nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Lục Hoàn Đại phu nói chuyện với Nam Tuyền. Lục Hoàn nói: Pháp sư Triệu nói: “Trời đất và ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng một thể”, thật là kỳ quái? Nam Tuyền chỉ cây hoa trước sân với đại phu nói: Người bấy giờ thấy cành hoa này giống như mộng. Lục Hoàn Đại phu tham kiến Nam Tuyền đã lâu, bình thường đạt tâm nơi lý tánh, khảo cứu Triệu Luận. Một hôm ngồi bàn luận, đem hai câu này cho là độc đắc. Hỏi: “Pháp sư Triệu nói: Trời đất và ta đồng một gốc, vạn vật cùng ta đồng một thể, thật là kỳ lạ? Pháp sư Triệu là cao tăng đời Tấn, cùng Đạo Sanh, tăng Duệ, Đạo Dung đồng là môn hạ của Cưu-ma-la-thập, gọi là Tứ Triết. Lúc nhỏ Tăng Triệu thích đọc sách Lão Trang. Sau đó nên có chỗ ngộ. Mới biết Lão Trang chưa đạt đến tận thiện, Sư tổng hợp các kinh tạo thành bốn bộ luận (bát Nhã Vô Tri Luận, Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận và Niết Bàn Vô Danh Luận). Ý của Lão Trang cho rằng: Hình trời đất lớn, hình ta cũng vậy, đồng sinh trong hư vô, Trang sanh chỉ luận tề vật. Triệu Công đại ý. Đại ý luận về tánh đều quy về chính mình. Như trong luận Sư nói: Phàm bậc chí nhân rỗng rang không hình tượng mà vạn vật đều do ta tạo, hiểu vạn vật về chính mình chỉ có bậc Thánh nhân. Tuy có Thần có người, có Thánh, có Hiền mỗi loại khác nhau nhưng đều đồng một tánh một thể. Người xưa nói: Hết cả càn khôn đại địa chỉ là chính mình, lạnh thì khắp trời đất đều lạnh, nóng thì khắp trời đất đều nóng. Có thì khắp trời đất đều có, không thì khắp trời đất đều không, đúng thì khắp trời đất đều đúng, sai thì khắp trời đất đều sai. Pháp Nhãn nói: Người người người, ta ta ta. Nam Bắc Đông Tây đều tốt tốt, không tốt tốt. Nhưng chỉ có ta là không tốt. Cho nên nói: “Trên trời, dưới đất chỉ có ta là quý nhất”. Thạch Đầu xem Triệu Luận đến chỗ hội vạn vật về chính mình” mà hoát nhiên đại ngộ. Sau đó viết quyển “ Tham Đồng Khế “. Chẳng ngoài ý này. Xem ông hỏi như thế. Hãy nói đồng gốc gì, đồng thể gì. Đến đây quả thật kỳ đặc, há đồng với người thường, không biết trời cao, đất dày, há có việc như thế. Lục Hoàn Đại phu hỏi như thế, kỳ thì rất kỳ, chỉ không ra ngoài ý của kinh. Nếu nói ý của kinh là cứu cánh. Thế Tôn vì sao niêm hoa, Tổ sư từ Tây Trúc đến làm gì? Chỗ đáp của Nam Tuyền dùng lỗ mũi của Nạp tăng, và ông ta đưa chỗ đau ra, phá hang ổ của ông, liền chỉ cây hoa trước sân, gọi Đại phu nói: Người bây giờ thấy cành hoa này như mộng, như dẫn người đi lên núi vạn trượng xô nhào làm cho họ mất mạng. Nếu ông trên đất bằng mà xô nhào thì cho Phật Di-lặc hạ sinh cũng không làm cho người mất mạng, cũng như người trong mộng, muốn thức không thức được, nhờ người gọi mới tỉnh. Nếu Nam Tuyền không có con mắt, quyết định sẽ bị ông ta bày vẽ rồi. Xem Sư nói như thế, thật khó hiểu. Nếu là chớp mắt linh hoạt nghe được như mùi vị đề hồ. Nếu là người chết nghe được thì trở thành độc dược. Người xưa nói: Nếu ngay nơi việc mà thấy thì rơi vào thường tình, nếu hướng đến ý căn mà suy tính thì chẳng được. Nham Đầu nói: Đây là sinh kế của người hướng thượng chỉ lộ bày một chút trước mắt, như điện chớp. Đại ý của Nam Tuyền như thế có thủ đoạn bắt con tê, con cọp, định rắn rồng. Đến đây phải tự hiểu mới được, đâu chẳng nghe nói; một con đường hướng thượng ngàn Thánh không truyền, học giả nhọc nhằn như vượn bắt bóng. Xem Tuyết Đậu tụng: <詞>DỊCH: Văn kiền giác tri phi nhất nhất Sơn hà bất tại cảnh trung quan Sương thiên nguyệt lạc dạ tương bán Thùy cộng trừng đàm chiếu ảnh hàn. Hiểu biết thấy nghe chẳng phải một Núi sông nào ở tại gương xem Trời sương trăng lặn đêm đã khuya Ai với đầm trong soi bóng lạnh. GIẢI THÍCH: Lời của Nam Tuyền ít mê, lời của Tuyết Đậu mê nhiều. Tuy nhiên nằm mộng, thấy một giấc mộng đẹp. Phần trước nói nhất thể, ở đây nói không đồng. “Hiểu biết thấy nghe phải một”. Núi sông nào ở tại gương xem”. Nếu nói xem ở trong gương sau đó mới hiểu rõ thì chẳng rời cái gương. Sơn hà đại địa, cỏ cây rừng rậm chớ lấy gương soi. Nếu lấy gương soi thì thành hai đoạn. Chỉ nên núi là núi, sông là sông, mỗi pháp trụ vào bản vị của nó. Tướng thế gian thường trụ. “Núi sông nào ở tại gương xem”, hãy nói xem ở nơi nào? có hiểu không? Đến đây hướng về “trời sương trăng lặn đêm đã khuya”, bên này vì ông làm rõ rồi, bên kia ông tự độ lây. Lại biết Tuyết Đậu lấy việc bổn phận sự vì người không? Ai với đầm trong soi bóng lạnh”, là tự soi hay cùng người soi? Phải là tuyệt cơ tuyệt giải mới đến cảnh giới này. Hiện nay cũng không cần đầm trong cũng không đợi trời sương trăng chính nay làm gì?  VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 5 KHAI THỊ: Chỗ thị phi giao kết, Thánh cũng không thể biết. Khi nghịch thuận ngang dọc, Phật cũng không thể biện, là kẻ tuyệt thế siêu luân, hiển bày tài năng của bậc Đại só, nhằm trên tảng băng đi, chạy trên kiếm bén, thật là như sừng trên đầu kỳ lân, như hoa sen trong lò lửa, cái thấy siêu phương, mới biết đồng đạo. Ai là người khéo tay, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Triệu Châu hỏi Đầu Tử. Người chết lúc sống lại thì thế nào? Đầu Tử nói: Không cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến. GIẢI THÍCH: Triệu Châu hỏi Đầu Tử: Người chết khi sống lại thời thế nào? Đầu Tử đáp: Không cho đi đêm, sáng ngày phải đến. Hãy nói: Là cơ hội gì? Sáo không lỗ nắm đến liền gõ nhịp ca hát. Đây gọi là hỏi nghiệm chủ, cũng gọi là hỏi tâm hành. Đầu Tử, Triệu Châu mọi người khắp nơi đều ngợi khen, được cái biện luận siêu quần. Hai vị tùy nối pháp khác nhau mà cơ phong lại giống. Một hôm, Đầu Tử thiết trà đãi Triệu Châu, tay đưa bánh cho Triệu Châu. Triệu Châu ngó lơ hoài. Đầu Tử sai cư só đem bánh cho Triệu Châu. Châu lễ cư só ba lạy. Hãy nói ý Triệu Châu thế nào? Quả là Triệu Châu nhằm trên căn bản nêu việc bổn phận vì người. Có vị tăng hỏi: Thế nào là đạo? Đáp: Đạo. Thế nào là Phật? Đáp: Phật. Lại hỏi: Khi khóa vàng chưa mở thì thế nào? Đáp: Mở. Hỏi: Khi gà vàng chưa gáy thì thế nào? Đáp: Không có âm vang. Sau khi gáy thì thế nào? Đáp: Đều là lúc tự biết. Một đời Đầu Tử hỏi đáp đều như thế. Xem Triệu Châu hỏi: Người chết lúc sống lại thì thế nào? Ông ta lại nói: “Không cho đi đêm, sáng ngày phải đến”, quả thật như chọi đá nháng lửa, tợ điện chớp, phải là người hướng thượng như ông ta mới được, người chết đều không có đạo lý Phật pháp huyền diệu, được mất, phải quấy, dài ngắn. Đến đây chỉ thế ấy thôi đi. Người xưa nói đó là trên đất bằng người chết vô số, qua được rừng gai gốc là kẻ tài ba, phải là thấu qua bên kia mới được. Tuy nhiên, như người thời nay đến ruộng đất này, thật khó được. Nếu có nương tựa có giải hội thì không có dính líu. Hòa thượng Vónh Quang ở Chiết Trung gọi đó là thấy không tịnh khiết. Ngũ Tổ Tiên sư gọi đó là mạng căn không đoạn, phải là một phen chết đi sống lại mới được. Hòa thượng Vónh Quang ở Chiết Trung nói: Lời nói sắc bén như cửa quê xa vạn dặm, phải cần vực thẳm buông tay, tự chịu đảm đương, sau khi chết đi sống lại, dối anh không được, ý chỉ phi thường, người che giấu được ư? Ý của Triệu Châu hỏi như thế, Đầu Tử là hàng tác gia cũng không cô phụ lời hỏi kia. Chỉ là tuyệt tình bặt dấu, quả thật khó hiểu, chỉ lộ ra một chút trước mặt. Cho nên người xưa nói: Muốn được thân thiết chớ đem lời hỏi để hỏi, hỏi tại chỗ đáp, đáp tại chỗ hỏi. Nếu không phải Đầu Tử, bị Triệu Châu hỏi cũng khó đáp được, chỉ vì Đầu Tử là bậc tác gia, nhắc đến liền biết chỗ rơi. <詞>TỤNG: DỊCH: Hoạt trung hữu nhãn hoàn đồng tử Dược kî hà tu giám tác gia. Cổ Phật thượng ngôn tằng vị đáo Bất tri thùy giải tác trần sa. Trong sống có mắt lại đồng chết Thuốc kî đâu cần Tạc chiếu gia Cổ Phật thượng ngôn tằng vị đáo Chẳng hay ai biết ném trần sa. TỤNG GIẢI: Trong sống có mắt còn đồng chết. Tuyết Đậu là người biết có, cho nên dám tụng. Người xưa nói: Ông tham hoạt cú, không tham tử cú.” Tuyết Đậu nói: “Trong sống có mắt lại đồng chết”. Đâu từng chết, trong chết có mắt đồng người sống. Người xưa nói: Giết hết người sống mới thấy người sống, cứu hết người chết mới thấy người chết. Triệu Châu là người sống cho nên hỏi về chết, nghiệm lấy Đầu Tử như tánh thuốc kî vật. Cho nên như đem đi thử nghiệm. Cho nên Tuyết Đậu nói: “Thuốc kî đâu cần chiếu tác gia”. Đây là chỗ hỏi của Triệu Châu. Phần sau là Tụng của Đầu Tử: “Cổ Phật còn rằng từng chẳng đến”, chỉ chỗ người chết đi sống lại. Cổ Phật cũng không từng đến, lão Hòa thượng trong thiên hạ cũng không từng đến. Dù Ông già Thích-ca, hay Tăng Bích Nhãn Hồ cũng phải tham lại mới được. Cho nên nói: “Chỉ cho Lão Hồ biết, không cho Lão Hồ hiểu”. Tuyết Đậu tụng: “Chẳng hay ai biết ném trần sa”. Có vị Tăng hỏi Trường Khánh: Thế nào là mắt của thiện tri thức? Trường Khánh: Có nguyện chẳng ném cát. Bảo Phước nói: Không nên ném Lão Hòa thượng trong thiên hạ cứ ở mãi trên giường gỗ, dùng gậy, tiếng hét, dựng phất trần, gõ vào giường thiền, hiện thần thông, làm chủ tể đều là ném cát. Hãy nói làm sao khỏi được? KHAI THỊ: Chỉ làm một việc là nhắm thẳng vào bản tâm, kẹt nước mắc lầy, nhịp hát đồng thời, núi bạc vách sắt. Nghó bàn thì trước đâu lâu thấy quỷ. Suy nghó thì ngồi dưới hắc sơn. Mặt trời sáng soi, gió mát hiu hiu thổi. Hãy nói người xưa có chỗ lầm lẫn không? Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Cư só Bàng Uẩn từ giả Dược Sơn. Dược Sơn bảo mười vị thiền khách tiễn đến đầu cửa. Cư só chỉ tuyết trên trời nói: Tuyết đẹp quá từng mảnh không rơi chỗ khác. Bấy giờ có Toàn thiền khách nói: Rơi chỗ nào? Cư só đánh một tát tai. Toàn nói: Cư só không được thô xuất. Cư só: Ông xưng là thiền khách như thế, Diêm vương chưa buông thả ông. Toàn: Cư só thế nào? Cư só bèn đánh một tát tai nói: Mắt thấy cũng như mù, miệng nói như câm. Tuyết Đậu nói: Chỗ mới hỏi chỉ nắm mảnh tuyết liền đánh. GIẢI THÍCH: Cư só Bàng Uẩn tham kiến Mã Tổ Thạch Đầu, hai chỗ có tụng, lúc đầu yết kiến Thạch Đầu bèn hỏi: Không cùng vạn pháp làm bạn là người nào? Nói chưa dứt bị Thạch Đầu bịt miệng liền tỉnh ngộ nên làm Tụng: Việc hằng ngày không khác Chỉ ta tự bất chợt Người người không thủ xả Nơi nói không làm trái. Đỏ tía gì là hiệu Núi xanh tuyệt điểm trần Thần thông cùng diệu dụng Gánh nước bửa củi tài Về sau tham kiến Mã Tổ. Lại nói: Không cùng vạn pháp làm bạn là người gì? Mã Tổ: Đợi ông uống hết nước Tây Giang, tôi sẽ trả lời ông. Bàng Uẩn cư só hoát nhiên đại ngộ, làm bài tụng rằng: Mười phương đồng tụ hội Người người học vô vi Đây là trường tuyển Phật Tâm không thi đỗ về. Vì ông ta là tác gia, sau này dựng chùa chiền. Những lời được khen. Đến Dược Sơn, Bàng Hoàng đã lâu bèn từ giã Dược Sơn. Sơn rất trọng ông ta, bảo mười thiền khách tiễn đưa, lúc này gặp tuyết rơi cư só chỉ tuyết nói: Tuyết đẹp từng mảnh không rơi chỗ khác. Thiền khách Toàn nói: Rơi chỗ nào? Só bèn tát một bạt tai, thiền khách Toàn đã không hành lệnh, cư só hành phân nửa. Lệnh tuy hành. Thiền khách Toàn trả lời như thế cũng không phải ông ta không biết chỗ rơi, đều có cơ phong, nắm mở không đồng. Xong có nơi cư só không đến, cho nên rơi xuống giá của ông ta khó thoát khỏi cái lồng của ông. Cư só liền tát nói cho đạo lý rằng: Mắt thấy như mù, miệng nói như câm. Tuyết Đậu nói: Chỗ hỏi trước chỉ nắm viên tuyết đánh, Tuyết Đậu như thế, muốn không cô phụ lời hỏi của thiền sư Toàn, chỉ vì căn cơ chậm lụt. Tạng chủ Khánh nói: Cư só cơ như điện chớp, đợi ông nắm viên tuyết đến bao giờ? Tuyết Đậu tự tụng chỗ đánh của ông ta rằng: <詞>TỤNG: DỊCH: Tuyết đoàn đả, tuyết đoàn đả Bàng lão cơ quan một khả bả Thiên thượng nhân gian bất tự tri Nhẵn lý nhó lý tuyệt tiêu sái Bích Nhãn hồ Tăng nam biện biệt. Viên tuyết đánh, viên tuyết đánh Cơ quan lão Bàng không nắm được Trên trời nhân gian không tự hay Trong mắt trong tai lắm thích thú. Thích thú lắm. Hồ Tăng mắt xanh khó cũng biện.) Mảnh tuyết đánh, mảnh tuyết đánh, Cơ quan lão Bàng không nắm được.” Tuyết Đậu cốt đi trên đầu của cư só. Người xưa lấy tuyết để rõ việc bên nhất sắc. Ý Tuyết Đậu nói: Lúc ấy nếu lấy viên tuyết đánh cư só dù có cơ pháp thế nào cũng khó lãnh hội được. Tuyết Đậu tự khoe chỗ đánh của ông ta. Thật không biết có chỗ bị thua. “Trên trời nhân gian không tự biết, trong tai trong mắt lắm thích thú. Trong mắt cũng là tuyết, trong tai cũng là tuyết. Chính là trụ một bên vật cũng gọi là việc bên sắc của cảnh giới Phổ Hiền, cũng gọi đó là nhồi thành một khối. Vân Môn nói: Dù được hết càn khôn đại địa không có một mảy may lầm lẫn, vẫn là chuyển cú. Không thấy một sắc vật mới là “bán đề” (thiền pháp được nêu ra không hoàn toàn triệt để). Nếu muốn “toàn đề” phải biết có một đường hướng thượng mới được. Đến đây phải là đại dụng hiện tiền, kim đâm không vào, không nghe người khác xử phân. Cho nên nói: Ông ta tham hoạt cú, không tham tử cú. Người xưa nói: Một câu hợp đầu ngữ muôn kiếp cọc buộc lừa, có vào chỗ nào. Đến đây. Tuyết Đậu tụng xong, lại chuyển cơ nói: “ Thích thú lắm, dù cho Hồ Tăng mắt xanh cũng khó biện. Hồ Tăng mắt xanh còn khó phân biệt, lại bảo sơn tăng nói cái gì? KHAI THỊ: Định câu càn khôn, muôn đời cùng tôn trọng cơ bắt tô giác, cọp, ngàn Thánh khó phân. Liền đó không mảy che ngăn, toàn cơ tùy chỗ đồng bày. Muốn rõ kiền chùy hướng thượng, không phải lò lửa của tác gia. Hãy nói xưa nay có gia phong như thế không? Thử nêu xem. khỏi? đi. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Động Sơn: Khi lạnh nóng đến làm sao tránh Động Sơn: Sao không nhằm đi trong chỗ không lạnh không nóng Tăng: Thế nào là chỗ không lạnh, nóng? Động Sơn: Khi lạnh lạnh chết xà-lê, khi nóng nóng chết xà-lê. GIẢI THÍCH: Hòa thượng Tân ở Hoàng Long niêm Động Sơn lấy tay áo làm cổ dưới nách khoét bâu. Tăng này không thể nào cam. Như nay có người ra hỏi Hoàng Long. Hãy nói làm sao đuổi dẹp? Sư im lặng hồi lâu nói: An thiền không cần núi sông, diệt tâm lửa tự lành”. Mọi người hãy nói lồng bẩy của Động Sơn rơi vào chỗ nào? Nếu phân biệt được rõ ràng mới biết Động Sơn ngũ vị, hồi hỗ, chánh thiên, tiếp người, thật là kỳ đặc. Đến được cảnh giới hướng thượng này mới được như thế, không cần an bài, tự nhiên thích hợp. Vì thế nói: Ngũ vị. Kệ tụng: CHÁNH TRUNG THIỆN. Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền Mạc quái tương phùng bất tương thức Ẩn ẩn dụ hoài cựu nhật hiềm. (Đêm tối canh ba trăng chưa hiện Lạ chi cùng gặp cùng chẳng biết Ẩn ẩn vẫn còn mang hận phiền). THIÊN TRUNG CHÁNH. Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh Phân minh địch diện biệt vô chân Hữu cảnh mè đầu du nhận ảnh (Rạng đông lão bà gặp gương xưa Rõ ràng đối diện đâu riêng chân. Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.) CHÁNH TRUNG LẠI. Vô trung hữu lộ cách trần ai Đản năng bất xúc đương kim húy Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài (Đường cái không cách trần ai Chớ nên phạm húy vua đương kim Dã thắng tiền triều cắt lưỡi tài). THIÊN TRUNG CHI. Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị Hảo, thủ du như hỏa lý liên Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí (Hai kiếm giao nhau cần gì tránh. Tài ba như sen chiếu trong lửa Nguyên vẹn nơi mình chí xung thiên). KIÊM TRUNG ĐÁO. Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa Nhân nhân tân dục xuất thường Chiết hiệp hoàn qui khôi lý (Chẳng rơi không có Người người trọn muốn vượt dòng Tam hiệp trở về ngồi trong tro). Viễn Lục ở Phù Sơn lấy công án này làm mẫu cho Ngũ vị. Nếu hiểu được một tắc, thì tắc khác tự nhiên cũng dễ hiểu. Nham Đầu nói: Như trái hồ lô trên mặt nước; động đến thì liền xoay không mất một mảy khí lực. Có vị tăng hỏi Động Sơn: Lúc Văn-thù, Phổ Hiền đến tham thì thế nào? Động Sơn: Đuổi vào trong bầy trâu đi! Tăng: Hòa thượng vào địa ngục như tên bắn. Động Sơn: Hoàn toàn được tha lực. Động Sơn nói: Sao không nhằm vào chỗ không nóng không lạnh đi. Đây là chánh trung thiên. Tăng: Thế nào là chỗ không nóng không lạnh? Sơn: Khi lạnh lạnh giết xà-lê, khi nóng nóng giết xà-lê. Đây là Thiên trung chánh. Tuy Chánh lại Thiên, tuy thiên lại viên. Trong tập Lục của Tào Động có ghi chép đầy đủ kỷ lưỡng. Nếu là Lâm Tế thì không lắm sự. Loại công án này ngay đó hiểu ngay. Có người nói: “Rất tốt không lạnh nóng”. Có cơ phong gì? Người xưa nói: Nếu nhằm trên dao bén đi thì nhan, còn nhằm trên tình thức thì chậm. Không thấy Tăng hỏi Thúy Vi: Thế nào là Yếu chỉ của thiền tông? Thúy Vi: Đợi không có người đến ta sẽ trả lời cho ông. Sư đi vào trong vườn. Tăng thưa: Cho này không có người thỉnh Hòa thượng nói. Thúy Vi chỉ bụi tre nói: Cây tre này có dài như thế, cây tre kia ngắn như thế. Vị Tăng ấy bỗng nhiên đại ngộ. Lại Tào Sơn của hỏi Tăng: Nóng như thế thì tránh ở chỗ nào? Tăng: Trốn trong chảo dầu lò lửa. Sơn: Trong chảo dầu lò lửa làm sao tránh? Tăng: Các khổ không thể đến. Xem người trong nhà tự nhiên hiểu những lời nói của người trong nhà kia. Tuyết Đậu dùng việc trong nhà tụng: <詞>TỤNG: Thùy thủ hoàn đồng nhẫn nhai <詞>DỊCH: Chánh thiên hà tất tại an bài Lưu ly cổ điện chiếu minh nguyệt Nhẫn tuấn Hàn lô không thương giai. (Rủ tay như núi cao vạn trượng Chánh thiên đâu hẳn phải an bài Điện cổ Lưu ly soi trăng sáng Cam chịu Hàn Lô luống đến thềm.) GIẢI TỤNG: Tào Động ra đời hay không ra đời, có rủ tay hay không rủ tay. Nếu không ra đời thì mắt thấy mây xanh. Nếu ra đời thì đầu tro mặt đất. Mắt thấy mây xanh tức là đỉnh núi muôn trượng. Đầu tro mặt đất chính là việc rủ tay. Có lúc đầu tro mặt đất tức là núi vạn trượng. Có khi đónh muôn trượng tức là đầu tro mặt đất kỳ thật thỏng tay vào chợ như đứng một mình trên ngọn lô phong. Về nguồn mê tánh không khác với Trí sai biệt, tối kî chia hai đoạn để hiểu. Cho nên nói: “Rủ tay như núi cao vạn trượng”, hẳn là không có chỗ ông gá nghóa. “Chánh thiên đâu hẳn phải an bài”. Nếu đến khi dùng đến tự nhiên như thế, không tại an bài. Câu tụng này là chỗ đáp của Động Sơn. Phần sau nói: “Điện cổ Lưu ly soi trăng sáng, Cam chịu luống đến thềm”. Đây là tụng vị tăng đuổi theo ngôn ngữ. Tông Tào Đông có gái đá, ngựa gỗ, thùng không đáy, dạ minh châu mười tám loại, rắn chết v.v… Đại cương chỉ rõ Chánh vị như trăng chiếu soi điện Cổ Lưu ly như có bóng tròn. Động Sơn đáp: “Sao không đến chỗ không nóng không lạnh đi”. Tăng ấy giống như con chó Hàn Lô chạy đuổi bóng, vội vàng chạy đến bậc thềm chụp bóng trăng. Lại hỏi: Thế nào là chỗ không lạnh không nóng? Động Sơn: Khi lạnh lạnh giết xà-lê, khi nóng nóng chết xà-le, như con chó Hàn Lô theo đuổi bóng đến trên bậc thềm lại không thấy bóng mặt trăng. Con chó Hàn Lô rút từ Chiến Quốc Sách nói: “ Con chó của Họ Hàn là chó to lớn. Trung Sơn là con thỏ, là thỏ tinh lanh mới có thể đuổi bắt được con thỏ này”. Tuyết Đậu dẫn làm thí dụ cho vị Tăng này. Các ông có biết chỗ Động Sơn vì người không? Sư im lặng hồi lâu nói: Tìm con thỏ nào? CÔNG ÁN: Hòa Sơn dạy chúng: Tập học gọi là nghe, tuyệt học gọi là gần, qua được hai điều này gọi là thật sự quá. Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là? Thật sự qua? Hòa Sơn nói: Biết đánh trống. Tăng Lại hỏi: Thế nào là Chân đế? Hòa Sơn nói: Biết đánh trống. Tăng Lại hỏi: Tức tâm tức Phật thôi không hỏi làm chi. Chỉ hỏi, thế nào là phi tâm phi Phật? Hòa Sơn: Biết đánh trống. Tăng lại hỏi: Lúc người hướng thượng đến thì đón tiếp thế nào? hòa Sơn: Biết đánh trống. GIẢI THÍCH: Hòa Sơn dạy chúng: Tập học gọi là nghe, tuyệt học gọi là gần, qua được hai điều này là thật qua. Đoạn này trích trong Bảo Tạng luận. Học đến vô học gọi là tuyệt học. Cho nên nói: Nghe cạn ngộ sâu, nghe sâu không ngộ gọi là tuyệt học. Vónh Gia nói: Bao năm nay tôi học vấn cũng từng thảo sớ tầm kinh luận”. Tập học đã hết gọi là “ Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”. Đến chỗ tuyệt học mới gần với đạo, qua được hai điều học này gọi là thật sự qua. Vị Tăng này quả là thông minh liền đem lời này hỏi Hòa Sơn. Hòa Sơn nói: “Biết đánh trống”, nên nói là Vô Vi. Muốn rõ công án này phải là người hướng thượng mới có thể thấy được lời này chẳng liên quan đến lý tánh. Cũng không có chỗ luận bàn, ngay đó liền hiểu, như thùng thủng đáy, mới là chỗ an ổn của nạp tăng mới khế hội được yếu chỉ của Thiền tông. Vì thế Vân Môn nói: Tuyết Phong đá cầu, Hòa Sơn đánh trống. Quốc Sư ăn cháo, Triệu Châu uống trà đều là nêu lên việc hướng thượng. Lại hỏi: Thế nào là Chân đế? Hòa Sơn nói: “Biết đánh trống”. Chân đế thì không lập một pháp, còn Tục đế thì vạn vật đều đủ, chân tục không hai là Đệ nhất nghóa Thánh đế. Lại hỏi: Tức tâm tức Phật thì không hỏi làm chi, chỉ hỏi thế nào là phi tâm phi Phật? Hòa Sơn: Biết đánh trống. Tức tâm tức Phật để tìm cầu, nếu đạt đến phi tâm phi Phật thì khó, ít có người đạt đến. Lại hỏi: Khi người hướng thượng đến thì đón tiếp thế nào? Hòa Sơn: Biết đánh trống. Người hướng thượng là người thấu suốt. Bốn câu này mọi người cho là tông chỉ, Hòa Sơn chỉ như tăng hỏi Cảnh Thanh: Năm mới có Phật pháp không? Cảnh Thanh: Có. Tăng: Phật pháp năm mới thế nào? Cảnh Thanh: Mồng một tết vạn vật đều mới. Tăng: Cảm tạ lời đáp của Sư. Cảnh Thanh: Lão tăng ngày nay mất lợi. Giống như lời đáp này có mười tám loại mất lợi. Lại tăng hỏi Đại sư Tịnh Quả: Nhạn đậu tùng lẽ thời thế nào? Tịnh Quả: Một phen hổ thẹn dưới chân. Lại hỏi: Khi tuyết phủ ngàn núi thì thế nào? Tịnh Quả: Sau khi mặt trời mọc một phen hổ thẹn. Lại hỏi: Lúc hội xướng Thần Sa Thái hộ pháp đi chỗ nào? Tịnh Quả: Có hai kẻ ở ngoài ba cửa, một phen hổ thẹn, mọi người gọi đó là ba lần hổ thẹn. Lại Bải Phúc hỏi Tăng: Phật gì ở trong điện? Tăng: Hòa thượng phân biệt rõ xem. Bảo Phước: Đức Phật Thích-ca. Tăng: Không dối người thì tốt. Bảo Phước: Lại là ông dối lừa tôi. Lại hỏi tăng rằng: Ông tên gì? Tăng: Hàm Trạch. Bảo Phước: Lúc gặp khô cạn thì thế nào? Tăng: Ai là người khô cạn? Bảo Phước: Tôi. Tăng: Hòa thượng không dối người thì tốt. Bảo Phước: Lại là ông dối tôi. Lại hỏi tăng: Ông làm nghề gì mà nhận được nhiều như thế? Tăng: Hòa thượng cũng không nhỏ. Pháp làm thể lộ bày thân thể. Tăng: Hòa thượng không dối người thì tốt. Bảo Phưởc: Lại là ông dối ta. Lại hỏi Dục Chủ: Chậu rửa chân rộng bao nhiêu? Chủ: Xin Hòa thượng bàn xem. Bảo Phước làm thế bàn luận. Chủ: Hòa thượng không dối người thì tốt. Bảo Phước: Lại là ông dối tôi, Mọi người cho là Bảo Phước bốn lừa người. Lại như Tuyết Phong bốn thùng sơn đều là bậc tông sư từ trước, đều phát xuất từ yếu chỉ thâm diệu, làm cơ tiếp người. Phần sau Tuyết Đậu dẫn một đoạn, y theo Vô Môn dạy chúng, tụng ra công án này: <詞>TỤNG: DỊCH: Nhất duệ thạch Nhị ban thổ Phát cơ tu thị thiên quân nỗ Tượng Cốt lão Sư tằng đả cố. Báo quân tri Mạc mãng lỗ Điềm giả điềm hề khổ giả khổ. Một khuôn đá, Hai ban đất Phát cơ phải là ngàn quân nõ Lão sư Tượng Cốt tường đá cầu Nào giống Hòa Sơn “Biết đánh trống” Bảo anh hay Chớ bướng bỉnh Ngọt là ngọt chừ đắng là đắng. đá. TỤNG GIẢI: Một hôm Quy Tông công tán công cộng khiêng Quy Tông hỏi Duy-na: Đi đâu? Duy-na: Khiêng đá. Quy Tông: Đá lại theo ông kéo thì không được động cây trong lòng Mộc Bình khi thấy tăng đến tá túc, trước bảo khiêng ba đống đất. Mộc Bình có bài tụng dạy chúng: Núi Đông lộ hẹp, núi Tây thấp Mới đến chớ từ ba gánh đất Thương ông giữa đường đã nhiều năm. Rõ ràng chẳng hiểu lại thành tối. Sau đó có tăng hỏi: Trong ba gánh thì không hỏi làm chi. Chỉ hỏi việc ngoài ba gánh là thế nào? Mộc Bình: Thiên tử thiết luân hoàn trung lệnh. Tăng không đáp được lời nào. Mộc Bình liền đánh. Cho nên nói: “Một khuân đá hai ban đất”. “Phát cơ phải là ngàn quân nỏ. Tuyết Đậu lấy cây nỏ ngàn quân dụ cho lời này. Muốn thấy chỗ vì người của ông ta ba mươi cân làm một câu, một ngàn câu thì ba vạn cân. Phải là rồng to, cọp mạnh, thú dữ mới dùng đến cây nõ này. Nếu là chim hạc hay vật nhỏ không nên khinh thường mà phát ra. Vì thế không nên vì chú chuột gà, sử dụng đến cây nõ này. Lão sư Tượng Cốt từng đá cầu. Một hôm Tuyết Phong thấy Huyền Sa đến, liền đá ba trái cầu gỗ cùng một lúc, Huyền Sa liền làm thế chẻ bia. Tuyết Phong rất hài lòng. Tuy nhiên thảy là chỗ toàn cơ đại dụng, đều không bằng Hòa Sơn “biết đánh trống”. Bao nhiêu cắt đứt chỉ là khó hiểu. Cho nên Tuyết Đậu nói: Đại giống “biết đánh trống” của Hòa Sơn. Lại sợ người chỉ ở trên thoại đầu mưu tính mà không biết nguyên do lại sanh, lỗ mãng, cho nên nói: Bảo anh hay, chớ có bướng bỉnh, phải thật đến ruộng đất này mới được. Nếu thật không bướng bónh ngọt là ngọt chừ, đắng là đắng. Tuy nhiên Tuyết Đậu niêm lộng như thế, cuối cùng nhảy ra không khỏi. KHAI THỊ: Muốn nói thì nói, cả nước không ai bì. Muốn đi thì đi, toàn cơ không nhường. Như chọi đá nháng lửa như làn điện chớp, thiền cơ phát ra nhanh, như gió thổi, mau như nước chảy, gấp như đi trên dao bén đưa lên kiềm chùy, hướng thượng chưa khỏi mất cơ líu lưỡi. Đưa ra một đường, thử nêu xem. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Vạn pháp quy về một, một về chỗ nào? Triệu Châu: Ta ở Thanh Châu dệt một áo vải nặng bảy cân. Nếu nhằm chỗ một kích động liền đi mà hiểu được. Tự nhiên nước tụ thành đầm. Nếu do dự thì. lão tăng ở dưới gót chân ông. Chỗ cốt yếu Phật pháp, chẳng phải ở nhiều lời. Chỉ như vị Tăng này hỏi Triệu Châu: Vạn pháp quy về một, một về chỗ nào? Châu lại đáp: Ta ở Thanh Châu dệt một áo vải nặng bảy cân. Nếu phân biệt trên ngôn ngữ, thì lầm nhận tiêu chuẩn cố định. Nếu không phân biệt trên ngôn ngữ thì tại sao nói như thế? Công án này tuy khó thấy mà lại dễ hiểu, tuy dễ hiểu mà lại khó thấy. Khó thì núi bạc vách sắt, dễ thì liền đó tónh tónh, không phải là chỗ suy lường phải quấy cho ông. Lời này cùng câu Phổ Hóa nói “Ngày mai viện Đại bi có thiết trai”, không khác. ( 18 2) Một hôm, Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là yếu chỉ thiền tông? Triệu Châu: Cây bá trước sân. Tăng: Hòa thượng chớ lấy cảnh dạy người. Triệu Châu: Lão tăng chưa từng lấy cảnh dạy người. Xem ông ta như thế nhằm chỗ, chỗ chuyển không được mà chuyển được, tự nhiên che trời che đất. Nếu chuyển không được thì chạm đến thành kẹt. Hãy nói Triệu Châu có Phật pháp thương lượng hay không? Nếu nói có Phật pháp thì Triệu Châu đâu từng nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu. Nếu nói không có yếu chỉ Phật pháp, thì Triệu châu không từng cô phụ lời hỏi của ông. Há không thấy tăng hỏi Hòa thượng Mộc Bình: Thế nào là đại ý Phật pháp? Mộc Bình: Trái bí đao này lớn như thế. Lại Tăng hỏi Cổ Đức: Núi sâu vực thẳm vắng bặt không người, lại có Phật pháp không? Cổ Đức: Có. Tăng: Thế nào là Phật pháp trong núi sâu? Cổ Đức: Phiến đá to thì to, nhỏ thì nhỏ. Xem công án này điêu ngoa chỗ nào? Tuyết Đậu biết chỗ rơi của ông ta. Cho nên mở đường khai nghóa, tụng ra cho ông: <詞>TỤNG: DỊCH Biên tịch tằng ai lão cổ chùy Thất cân sam trọng kỷ nhân tri Như kim phao trịch Tây Hồ lý Hạ tải thanh phong phí dữ thùy. (Biên tịch từng đưa lão cổ chùy Áo vải bảy cân mấy người hay Như nay ném hẳn Hồ Tây ấy Hạ tải gió lành về gửi cho ai.) GIẢI TỤNG: Trong mười tám điều hỏi, câu hỏi này gọi là hỏi về biên tịch. Tuyết Đậu tuy: “Biên tịch từng đưa lão cổ chùy. Biên tịch là muôn pháp, đem về một mối. Vị Tăng này cốt xô đẩy Triệu Châu. Triệu Châu quả là hàng tác gia gặp chỗ chuyển không được, có con đường thoát thân, dám mở miệng nói: Ta ở Thanh Châu dệt một áo vải nặng bảy cân. Tuyết Đậu tụng: “Áo vải bảy cân mấy người biết. Như nay ném thẳng Hồ Tây ấy”. Muôn pháp quy về một, một cũng không cần, áo vải bảy cân cũng không cần, cùng lúc ném xuống Tây Hồ. Tuyết Đậu ở Thúy Phong Động Đình, có Tây Hồ “Hạ tải gió lành về gửi cho ai”. Đây là Triệu Châu dạy chúng. Nếu ông hướng Bắc thì vì ông mà thương tải, nếu ông hướng Nam thì vì ông mà hạ tải. Nếu ông từ Vân Cư, Tuyết Phong đến cũng là kẻ cố chấp. Tuyết Đậu tụng: Như gió mát này gửi cho ai. Thượng tải là vì ông nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu, dùng nhiều phương tiện. Nếu hạ tải thì không có những nghóa lý huyền diệu. Có người gánh một gánh thiền đến chỗ Triệu Châu, một chút cũng làm cho không sử dụng, đồng thời vì ông mà nhồi thành một khối, kh- iến sách trơn thong dong không còn một việc, gọi đó là ngộ rồi đồng với chưa ngộ. Như nay có người trọn làm vô sự để hiểu. Có người nói không mê, không ngộ, chẳng cần lại cầu, chỉ như khi Phật chưa ra đời, Tổ Đạt-ma chưa đến đất này không thể không như thế, dùng Phật ra đời làm gì. Tổ sư từ Tây Vức sang làm gì? Thảy như thế có liên can gì? Cần phải là đại triệt đại ngộ. Như xưa núi là núi, sông là sông. Cho đến tất cả vạn pháp đều hiện thành, mới làm người vô sự. Long Nha nói: Học đạo trước phải có ngộ, còn như từng dự hội đua thuyền. Tuy nhiên vẫn là gác xưa vườn nhàn, một phen gánh vác mới thôi. Chỉ như áo vải bảy cân này của Triệu Châu. Xem người xưa nói, như vàng như ngọc. Sơn tăng nói như thế mọi người có nghe không, đều là thượng tãi. Hãy nói thế nào là hạ tải? Dưới ba đòn tay nhà, xem lấy! KHAI THỊ: Một chùy liền thành siêu phàm vượt Thánh, nửa có thể mở trói tháo niêm, như đi trên tăng băng, chạy trên kiếm bén, ngồi trên khối thanh sắc, đi trên đầu thanh sắc. Diệu dụng dọc ngang hãy tạm gác qua, chỉ hỏi khoảng sát-na liền đi thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Cảnh Thanh hỏi tăng: Ngoài cửa là tiếng gì? Tăng: Tiếng mưa rơi. Cảnh Thanh: Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật. Tăng: Hòa thượng thế nào? Cảnh Thanh: Không quên mình. Tăng: Không quên mình ý chỉ thế nào? Cảnh Thanh: Thoát thân còn dễ, thoát thể rất khó. GIẢI THÍCH: Chỉ nói đây cũng phải lãnh hội. Người xưa dạy một cơ, một cảnh, cần tiếp người. Một hôm Cảnh Thanh hỏi tăng: Ngoài cửa là tiếng gì? Tăng: Tiếng mưa rơi. Cảnh Thanh: Chúng sinh điên đảo mình theo vật. Lại hỏi: Ngoài cửa là tiếng gì? Tăng: Tiếng chim bột kêu. Cảnh Thanh: Muốn được không chuốc nghiệp vô gián. Chớ phỉ báng chánh pháp Như Lai. Lại hỏi: Ngoài cửa là tiếng gì? Tăng: Tiếng rắn bắt ếch nhái. Cảnh Thanh: Sẽ bảo chúng sinh khổ, lại có khổ chúng sinh. Lời này cùng với công án trước đó lại không khác. Nhà nạp tăng thấu được trong đấy, không ngại tự do trong đóng sắc thanh. Nếu thấu không được lại bị câu nệ vào thanh sắc. Công án này mọi người gọi đó là lời “tôi luyện”. Nếu là “tôi luyện” chỉ thành tâm hành. Không thấy chỗ vì người của cổ nhân cũng gọi là thấu được sắc thanh: 1- Sáng đạo nhãn; 2- Sáng thanh sắc; 3- Sáng tâm tông; 4- Sáng vong tình; 5- Sáng diễn thuyết. Nhưng nếu ngại cẩn thận, sao khỏi thành hang ổ. Cảnh Thanh hỏi: “Ngoài cửa là tiếng gì?” Tăng: Tiếng mưa rơi. Lại nói: Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật, mọi người đều hiểu lầm, cho là cố ý chuyển người, quả thật không dính líu. Đâu không biết Cảnh Thanh có thủ đoạn vì người, gan to không nệ vào một cơ một cảnh, giết lầm không tiếc lời nói. Cảnh Thanh há không biết là tiếng của mưa rơi, đâu cần hỏi lại, phải biết người xưa tìm cần gắn lông bệnh cỏ để cốt nghiệm vị tăng này, vị tăng này cũng khéo xô đẩy liền hỏi: Hòa thượng thì sao? Cảnh Thanh: Vào bùn dính nước nói với ông ta “không quên mình”, tăng ấy quên mình theo vật là phải. Cảnh Thanh vì sao cũng quên mình, phải nghiệm trong một câu bèn có chỗ thoát thân. Vị Tăng này quá lầm lẫn cốt cắt đứt lời này bèn nói: Chỉ cái không quên mình ý chỉ thế nào? Nếu là môn hạ của Đức Sơn, Lâm Tế đánh hét mà thôi. Cảnh Thanh thông qua một bước, tùy ông ta giảng nói, bèn nói với ông ta rằng: “Thoát thân còn dễ, thoát thể rất khó. Tuy như thế, người xưa nói tương tục cũng rất khó”. Chỉ một câu của Cảnh Thanh làm cho vị tăng này rõ được đại sự dưới gót chân. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Hư đường vũ trích thanh Tác giả nan thù đối Nhược vị tằng nhập lưu Y tiền hoàn bất hội Nam sơn, Bắc sơn chuyển bàng bái. Nhà trống tiếng mưa rơi Tác giả khó đối đáp Nếu bảo từng nhập lưu Như trước lại chẳng hội Hội chẳng hội Núi Nam, núi Bắc mưa xối xã. <詞>GIẢI TỤNG: ( 18 3) Nhà trống tiếng mưa rơi Tác giả khó đối đáp”. Nếu nói là tiếng mưa thì quên mình theo vật. Chẳng nói tiếng mưa rơi lại làm sao chuyển vật? Đến đây mặc dù “tác giả khó đối đáp”. Vì thế người xưa nói: “Thấy bằng thầy tức thua thầy nửa đức, thấy hơn thầy mới khen truyền trao”. Lại Nam Viện nói: Sưới gậy Vô sinh nhẫn lâm cơ không nhường thầy. “Nếu bảo từng nhập lưu như trước không thể hiểu. Trong giáo có nói: Mới nghe một nửa, vào dòng quên chỗ, chỗ vào đã tịch lặng, hai tướng động tónh rõ ràng không sinh… Nếu nói là tiếng mưa rơi thì không phải. Nếu nói không phải tiếng mưa rơi cũng không phải. Ở trước tụng hai hét cùng ba hét. Tác giả biết cơ biến chính là bài tụng này. Nếu nói vào dòng sắc thanh cũng không phải. Nếu gọi là thanh sắc vẫn không hiểu được ý kia. Thí như lấy ngón tay chỉ mặt trăng mặt trăng không phải là ngón tay. Hiểu và không hiểu, núi Nam núi Bắc mưa xối xả. KHAI THỊ: Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ lưu chuyển, đất có nói gì đâu mà vạn vật sinh. Đi trong bốn mùa thì thấy được Thể, ngay nơi vạn vật sinh có thể thấy được Dụng. Hãy nói đi nơi nào thấy được nạp tăng, lìa ngôn ngữ động dụng, đi đứng nằm ngồi, môi mép cổ họng có phân biệt được không? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là Pháp thân? Môn: Sáu không thu. GIẢI THÍCH: Vân Môn nói: “sáu không thu” thật là khó lãnh ngộ. Nếu khi hình tướng chưa phân thì lãnh ngộ được. Đã là đầu thứ hai, nếu hướng đến sau khi hình tướng đã sinh mà lãnh ngộ lại rơi vào đầu thứ ba. Nếu phân biệt rõ trong ngôn cú hoàn toàn tìm không được. Lại cuối cùng lấy gì làm pháp thân. Nếu bậc tác gia vừa nghe nêu lên liền bỏ đi. Nếu lắng lòng lắng cơ hãy nghe phân xử. Thượng tọa Phù ở Thái Nguyên lên tòa vốn là giảng sư, ngày nọ lên tòa giảng về pháp thân: “Dọc cùng tận ba đời, ngang khắp mười phương”. Có một thiền khách ở dưới tòa nghe vậy cười. Phù xuống tòa nói: Tôi vừa có chỗ khuyết điểm nào mong thiền giả chỉ cho. Thiền giả: Tọa chủ giảng được một bên lượng của pháp thân, không thấy được pháp thân. Phù: Cuối cùng thế nào là đúng? Thiền giả: Nên tạm ngưng giảng hãy ngồi trong tịnh thất, nhất định tự thấy được. Phù theo lời thiền giả, một đêm tónh tọa, bỗng nghe chuông canh năm đổ, chợt đại ngộ, liền gõ cửa của thiền giả nói: Tôi hiểu rồi. Thiền giả: Ngài thử nói xem. Phù: Kể từ ngày nay về sau tôi không nắm lỗ mũi của cha mẹ sinh ra. Lại trong kinh giáo nói: Phật chân pháp thân giống như hư không, ứng vật hiện hình, như trăng trong nước. Lại tăng hỏi Giáp Sơn: Thế nào là pháp thân? Sơn: Pháp thân vô tướng. Tăng: Thế nào là pháp nhãn? Sơn: Pháp nhãn không tỳ vết. Vân Môn nói: “Sáu không thu”. Công án này có người nói: Chỉ là sáu căn sáu trần, sáu thức. Sáu cái này đều từ pháp thân sinh ra, nên sáu căn thu nó không được. Nếu hiểu theo phàm tình như thế quả thật không dính líu, lại lụy đến Vân Môn. Muốn thấy liền thấy, không phải là chỗ cho ông xuyên tạc. Trong kinh giáo nói: Pháp này không thể dùng năng sở suy lường phân biệt mà có thể hiểu, phần nhiều rước lấy kiến giải nhân tình. Cho nên trong một câu phải đủ ba câu, lại không cô phụ lời ông hỏi đúng thời, đúng tiết. Một lời, một câu, một châm, một vạch cũng có chỗ thoát thân. Cho nên nói: Thấu một câu thì ngàn vạn câu đều thấu. Hãy nói là pháp thân hay là Tổ sư? Tha cho ông ba mươi gậy. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục Bích Nhãn Hồ tăng sổ bất túc Thiếu Lâm mạn đạo phó Thần Quang Quyện y hựu thuyết qui Thiên Trúc Thiên Trúc mang mang vô xứ tầm Dạ lai khước đối Nhũ Phong túc. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu Hồ Tăng mắt xanh đếm không đủ Thiếu Lâm dối nói trao Thần Quang Cuốn áo lại bảo về Thiên Trúc Thiên Trúc mênh mang không chỗ tìm Đêm về lại đến Nhũ Phong. GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu thực tài ở chỗ không thưa hở, mở mắt tụng ra cho người thấy. Vân Môn nói: “Sáu không thu”. Vì sao Tuyết Đậu lại nói “một, hai, ba, bốn, năm, sáu”, liền nói Hồ Tăng mắt xanh đếm không đủ? Bởi vì “chỉ cho lão Hồ biết không cho lão Hồ hiểu”. Phải là trả lại cho con cháu trong nhà kia mới được. Như trên nói: “Một lời một câu đúng thời đúng tiết”. Nếu thấy được mới biết nói không ở trong ngôn cú. Nếu chưa như vậy, không khỏi làm kiến giải phàm tình. Ngũ Tổ lão sư nói: Thích-ca Mâu-ni Phật, làm con nhà hạ tiện. Cây bá trước sân, một, hai, ba, bốn, năm. Nếu thấy được ngôn cú của Vân Môn cùng tột thì đến cảnh giới này. Thiếu Lâm dối Thần Quang”. Nhị Tổ tên là Thần Quang, cho đến sau này lại nói “về Thiên Trúc”. Tổ Đạt-ma tịch được chôn cất dưới núi Hùng Nhó. Bấy giờ Tống Vân phụng sứ về Tây, đến ngọn núi phía Tây thấy Tổ Đạt-ma tay quảy chiếc giày trở về Tây Thiên… Sứ trở về tâu Thánh thượng, triều đình sai quật mồ lên, chỉ thấy để lại một chiếc giày. Tuyết Đậu nói: Thật ra việc này làm sao phân phó? Đã không phân phó, “cuộn y lại bảo về Thiên Trúc”. Hãy nói vì sao đất này lại có sáu vị thứ lớp truyền nhau? Ở đây quả thật kỳ quái phải là nắm được mới có thể nhập. Câu: “Thiên Trúc mênh mang không chỗ tìm, đêm về lại đến Nhũ Phong ngũ. Hãy nói hiện nay ở chỗ nào? Sư liền đánh nói: “Mù”. CÔNG ÁN: Vương Thái Phó vào Chiêu Khánh nấu trà. Bấy giờ, Thượng tòa Lãng cầm cái ấm đưa cho Minh Chiêu. Lãng lại lật ngược ấm trà lại. Thái Phó Truyền thấy hỏi Thượng tòa dưới lò trà là cái gì? Lãng: bưng lò. Thái Phó: Đã là thần bưng lò vì sao lật ấm trà? Lãng: Làm quan ngàn ngày mất ở một buổi. Thái Phó phủi tay áo bỏ đi. Minh Chiêu nói: Thượng tọa Lãng ăn cơm của Chiêu Khánh xong, đi ra ngoài sông đánh gốc cây cháy. Lãng hỏi: Hòa thượng thì sao? Chiêu Minh bảo: Phi nhân được cơ hội thuộc tiện ấy. Tuyết Đậu nói: Lúc ấy chỉ đạp nhào lò trà. GIẢI: Muốn biết nghóa Phật tánh nên pháp thời tiết nhân duyên. Vương Thái Phá biết Tuyền Châu, đã tham vấn nói Chiêu Khánh đã lâu. Một hôm nhân vào chùa, bấy giờ Thượng tọa Lãng nấu trà lật úp ấm trà. ( 18 4) Thái Phó cũng là hàng tác gia, mới thấy Lãng lật ngược ấm trà bèn hỏi Thượng tọa: Dưới lò là cái gì? Lãng nói thần bưng lò, quả thật trong lời nói có tiếng vang, đâu thể đầu đuôi trái nhau mất đi tông chỉ làm tổn thương, không chỉ cô phụ chính mình cũng lại dối gạt người khác. Việc này tuy không phải được mất, nếu nắm được vẫn là có thân sơ, trắng đen. Nếu luận việc này, không ở trong ngôn cú. Nếu ở trong ngôn cú phân biệt chỗ sống. Cho nên nói: Ông ta tham hoạt cú không tham tử cú. Theo Thượng tọa Lãng nói như thế, như chó điên đuổi theo cục đất. Thái Phó phủi tay áo bỏ đi, giống như không bằng lòng ông ta. Minh Chiêu nói: Thượng tọa Lãng ăn cơm của Chiêu Khánh xong lại đi ra ngoài sông đánh gốc cây cháy, (gốc cây cháy) tức là hoang dã lửa thiêu đốt cọc cây, gọi đó là hoang dã. Thượng tọa Minh Lãng không đi trong chỗ chân chánh, lại đi bên ngoài. Lãng vô mạnh nói: Hòa thượng lại thế nào? Chiêu Khánh nói: Phi nhân được cơ hội thuận tiện. Minh Chiêu tự nhiên có chỗ thoát thân. Cũng không cô phụ lời hỏi của ông ta. Cho nên nói: Chó dữ cắn người không nhe răng. Hòa thượng Quy Sơn Triết nói: Vương Thái Phó giống như đoạt ngọc, đáng được râu mép trên mắt. Bởi vì Minh Chiêu nhẫn không được nên không gặp tiện lợi ấy. Quy Sơn nếu là Thượng tòa Lãng thấy Thái Phó phủi tay áo bỏ đi, liền buông ấm trà xuống, cười lớn ha hả. Vì sao? Thấy đó không lấy, ngàn năm khó gặp. Bảo Thọ hỏi Hồ Đinh Giao: Đã nghe Hồ Đinh Giao từ lâu nay có phải không? Hồ trả lời: Phải. Bảo Thọ nói: Có đóng (đinh) được hư không không? Hồ Đình giao: Thỉnh Sư đập phá. Bảo Thọ bèn đánh. Hồ Đình giao không chấp nhận. Bảo Thọ nói: Sau này có ông thầy lạnh mồm chấm phá cho ông. Sau đó, Hồ Đình giao tham kiến Triệu Châu nêu những lời trước đây cho Triệu Châu nghe. Triệu Châu nói: Vì sao ông bị ông ta đánh? Hồ Đình giao nói: Không biết lỗi chỗ nào? Triệu Châu: chỉ một đường tơ này còn không thể được, lại dạy ông đập phá hư không? Hồ Đình giao liền thôi. Triệu Châu thay lời nói: Hãy đóng một đường tơ này. Ngay đó Hồ Đình giao tỉnh ngộ. Ở Mễ Thất Kinh Triệu đi hành cước về có một vị lão túc hỏi: Sợi dây kéo nước đứt bỏ ngoài đường, ban đêm mọi người cho là con rắn, xin hỏi thầy Thất khi thấy Phật gọi là gì? Mễ Thất nói: Nếu có cái để thấy tức đồng với chúng sinh. Lão túc nói: Cũng là quả đào ngàn năm. Quốc Sư Trung hỏi? Cung Phụng Tử Lân: Nghe nói Cung Phụng chú giải kinh Tư Ích phải không? Cung Phụng: Phải. Quốc Sư: Phàm chú kinh phải hiểu ý của Phật mới được. Cung Phụng: Nếu không hiểu ý, đâu dám nói chú kinh. Sư bèn bảo thị giả đem một chén nước, lấy bảy hạt gạo, một chiếc đũa để trên chén đưa cho Cung Phụng hỏi là nghóa gì? Cung Phụng: Không hiểu? Quốc Sư: Ý lão sư còn không hiểu, nói gì ý Phật? Vương Thái Phó và Thượng tọa Lãng, những lời như thế, người đổ không thống nhất. Tuyết Đậu sau này lại nói: Lúc ấy chỉ đạp nhào cái ấm trà. Minh Chiêu tuy như thế, hoàn toàn không bằng Tuyết Đậu. Tuyết Phong ở trong hội Động Sơn làm tri sự. Một hôm, đãi gạo. Động Sơn hỏi: Làm gì? Tuyết Phong đáp: Đãi gạo. Động Sơn hỏi: Đãi gạo bỏ sạn hay đãi sạn bỏ gạo? Tuyết Phong: Sạn gạo đều bỏ. Động Sơn: Vậy đại chúng lấy gì ăn? Tuyết Phong bèn lật úp cái chậu lại. Động Sơn: Nhân duyên của ông không phải ở đây. Bậc nhất đẳng tuy nhiên như thế đâu giống Tuyết Đậu nói “lúc ấy chỉ đạp nhào ấm trà, là thời cơ gì? Đến chỗ dùng của ông ta vượt nay suốt kia, có chỗ sống, linh hoạt tụng: <詞>TỤNG: NGHÓA: Lại vấn nhược thành phong Ưùng cơ phi thiện xảo Kham bi độc nhãn long Tằng vị trình nha trảo Nha trảo khai Sanh vân lôi Nghịch thủy chi ba kinh kỷ hồi. Đến hỏi nếu thành phong (gió) Ứng cơ chẳng khéo léo Đáng buồn một mắt rồng Chưa từng nhe nanh vuốt Nanh vuốt nhe Mây sấm dậy Sóng vỗ ngược dòng bao giờ về. GIẢI THÍCH: Hai câu: “Đến hỏi nếu thành phong, ứng cơ chẳng khéo léo”. Chỗ hỏi của Thái Phó giống như vận dụng rìu thành gió. Đây trích trong sách Trang Tử: “Người nước Sở lấy bùn trét vách, còn trống một lỗ nhỏ xúi bèn lấy bùn vò một hòn vào. Lúc ấy có một tí bùn rơi dính trên mũi ông ta, có người thợ bên cạnh nói: Ông đáp vào chỗ hỏng rất khéo. Tôi dùng cái rìu vót vết bùn trên sống mũi cho ông vết bùn dính trên mũi bằng con ruồi bảo người thợ đẽo nó. Người thợ mộc dùng chiếc rìu thành gió mà gọt sạch vết bùn, bùn mà không động đến mũi. Người đất Vónh mặt không đổi sắc, để nói cả hai đều khéo. Thượng tọa Lãng tuy ứng cơ, mà lời nói không khéo. Cho nên Tuyết Đậu nói: Đến hỏi nếu thành phong ứng cơ không khéo léo, đáng buồn một mắt, rồng chưa từng nhe nanh vuốt. Minh Chiêu nói được cũng rất kỳ đặc, song chưa có nanh vuốt dồn mây dậy mưa. Tuyết Đậu đứng bên chẳng nhận không nhịn nổi bèn thay ông nói ra. Tuyết Đậu thầm hợp ý của ông ta, tự tụng lời của ông ta nói đạp nhào lò tra. Nanh vuốt nhe, phát mây sấm dậy, sóng vỗ ngược dòng bao giờ về. Vân Môn nói: Không mong nhìn anh có tài sóng vỗ ngược dòng, chỉ có ý thuận dòng cũng được. Cho nên nói: Thượng tọa Lãng và Minh Chiêu thì ngữ cú như là chết. Nếu muốn thấy chỗ sống, chỉ xem Tuyết Đậu đạp nhào lò trà. KHAI THỊ: Đại triệt ngộ, đánh trống phất cờ, trăm vòng ngược lớp, nhìn trước ngó sau, cưỡi đầu cọp nắm lấy đuôi cọp, chưa phải là tác gia. Đầu trâu mất đầu ngựa về, công chưa phải là độc đáo. Hãy nói khi người quá lượng đến thì thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tam Thánh hỏi Tuyết Phong: Cá vàng phủng lưới. Xin hỏi lấy gì làm thức ăn? Tuyết Phong: Đợi ông ra khỏi lưới ta sẽ nói cho ông. Tam Thánh: Thiên tri thức của một ngàn hai trăm năm mươi người ( 12 5 0) mà câu thoại đầu cũng chưa biết. Tuyết Phong: Lão tăng trụ trì việc bề bộn. GIẢI THÍCH: Tuyết Phong, Tam Thánh tuy một ra một vào, một xô một đẩy, chưa phân thắng bại thua. Hãy nói: Hai vị Tôn túc này, đủ con mắt gì? Tam Thánh từ Lâm Tế nhận ấn ký đi khắp mọi nơi, đều được khắp nơi tiếp đãi. Xem câu hỏi của Sư bao nhiêu người tìm cũng không được. Vả lại không liên can đến lý tánh Phật pháp. Lại hỏi rằng: Cá vàng phủng lưới lấy gì làm thức ăn. Hãy nói ý Sư thế nào? Cá vàng phủng lưới bình thường không ăn bánh thơm của người không biết lấy gì để làm thức ăn? Tuyết Phong là tác gia, dường như nhàn rỗi. Chỉ lấy một, hai phần để đáp: “Đợi ông ra khỏi lưới ta sẽ nói cho ông”. Phần Dương gọi đó hỏi là “trình giải”. Tào Động gọi đó hỏi là “mượn việc”. Phải là siêu luân tuyệt loại được đại thọ dụng, trên đãnh có mắt mới gọi là cá vàng lọt phủng lưới. Nào ngờ Tuyết Phong là tác gia, không ngại làm giảm giá trị của người nên nói: “Đợi ông ra khỏi lưới ta sẽ trả lời cho ông”. Xem hai vị nắm vững phong cương chẳng lập văn tự, chặt đứt đường ngôn ngữ, vách đứng muôn trượng. Nếu không phải Tam Thánh. Chỉ một câu này bỏ đi không được, không là Tam Thánh một câu chẳng đi được. Nhưng Tam Thánh cũng là tác gia, mới biết trả lời. Thiện tri thức của một ngàn hai trăm năm mươi ( 12 5 0) người mà câu thoại đầu cũng chẳng biết. Tuyết Phong lại nói: “Lão tăng trụ trì việc bề bộn”. Câu này thật cao ngạo. Hai vị tác gia gặp nhau, một bắt, một thả, gặp mạnh liền yếu, gặp nghèo thì giàu. Nếu ông hiểu hơn thua thì chưa mộng thấy Tuyết Phong. Xem hai vị lúc đầu nguy hiểm cao vót, sau cùng cả hai đều là kẻ chết. Hãy nói có được mất, hơn thua không? Những vị tác gia khác, ắt không biết như thế. Tam Thánh ở nơi Lâm Tế làm Viện chủ, Lâm Tế sắp tịch dạy chúng: Sau khi ta diệt độ không được diệt chánh pháp nhãn tạng của ta. Tam Thánh ra thưa: Đâu dám diệt chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng. Lâm Tế nói: Sau này có người hỏi ông, ông làm sao? Tam Thánh liền hét. Lâm Tế nói: Ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta, đến con lừa mù này diệt rồi. Tam Thánh liền lễ bái. Sư thật đúng là đứa con của Lâm Tế mới dám đáp như thế. Tuyết Đậu sau này chỉ tụng cá vàng vọt lủng lưới, bày chỗ gặp nhau của tác gia, <詞>TỤNG: Thấu võng kim lân Hưu vấn đới thủy Diêu càn đản khôn Chốn liệp bãi vó. Thiên Xích kính phún hồng lãng phi Nhất thanh lôi chấn thanh tiên khỉ <詞>DỊCH: Thanh tiên khỉ thiên thương nhân gian tri kỷ kỷ. Cá vàng Thủng lưới Thôi bảo dính nước Rung càn động khôn Mau chấn đuôi quạt Ngàn thước cá kính phun sóng to, Một tiếng sấm vang gió mạnh thổi Gió mạnh thổi Thiên hạ nhân gian mấy người biết. GIẢI TỤNG: Cá vàng phủng lưới, thôi bảo dính nước. Ngũ Tổ nói: Chỉ một câu này tụng rồi. Đã là cá vàng vọt phủng lưới, há dính nước sao? nhất định phải ở nơi chỗ nước nổi mênh mông sóng ngập trời. Hãy nói trong mười hai thời lấy gì làm thức ăn? Mọi người hãy nhìn dưới ba cây đòn tay, trước cái đơn bảy tấc, thử định đúng xem? Tuyết Đậu nói: Việc này tùy phần niêm lộng, như loài cá vàng, khi”mang chấn đuôi quạt” thì rung càn động khôn. Câu: “Ngàn thước cá kính phun sóng to”. Tụng này là Tam Thánh nói: là thiện tri thức của một ngàn hai trăm năm mươi người ( 12 5 0) mà câu thoại đầu cũng không biết, giống như cá kình phun sóng to. Câu: “Một tiếng sấm vang gió mạnh nổi”. Là nói Tuyết Đậu Tụng: “Lão tăng trụ trì nhiều việc”. Đại khái ca tụng hai vị đều là tác gia. Hai câu: “Gió mạnh nổi, “thiên thượng nhân gian mấy người biết”. Hãy nói câu này rơi vào chỗ nào? Phiêu là gió. Đương lúc gió thổi mạnh, thiên hạ nhân gian mấy người biết. KHAI THỊ: Vượt qua giai cấp, siêu tuyệt phương tiện, cơ cơ tương ưng, cú cú tương hợp. Nếu không vào cửa giải thoát, được đại dụng giải thoát thì lấy gì soi rạng Phật tổ, Tông thừa Quy Giám. Hãy nói: Đương cơ cắt thẳng, nghịch thuận ngang dọc, tại sao nói được một câu xuất thân, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là Trần trần tam- muội? Vân Môn: Cơm trong bát, nước trong thùng. GIẢI THÍCH: Có phân biệt được không. Nếu phân biệt được thì lỗ mũi của Vân Môn ở trong tay của mọi người. Nếu phân biệt không được thì lỗ mũi của mọi người ở trong tay của Vân Môn. Vân Môn có câu chặt đinh cắt sắt. Trong câu này đủ cả ba câu. Có người hỏi liền nói: Cơm trong bát, hạt gạo đều tròn. Nước trong thùng, giọt giọt đều hiển rõ. Nếu hiểu như thế, lại không thấy đầu mối chỗ vì người của Vân Môn, Tụng: Bát lý phạn dũng lý thủy Đa khẩu a Sư nan hạ chủy Bắc Đẩu Nam tinh vị bất thù Bạch lãng thao thiên bình địa khỉ Nghì bất nghóa Chỉ bất chỉ Cá cá vô côn trưởng giả tử. Dịch: (Cơm trong bát, nước trong thùng Ông thầy lạnh mồn khó mở miệng Sao Bắc sao Nam vị khác nào Sóng bủa ngập trời đất bằng dấy Nghỉ chẳng nghó, dừng chẳng dừng Mỗi mỗi không quần con trưởng giả.) TỤNG GIẢI: Mặt trước Tuyết Đậu tụng Vân Môn đáp nói: Đáp một nói quá cao tột chùy không lỗ thêm hạ chốt. Mặt sau lại tụng lìa tứ cú tuyệt bách phi của Mã Tổ Tạng Đầu trắng, Hải Đầu đen, nạp tăng mắt sáng hiểu không được. Nếu thấu suốt được công án này thì thấy được ý của bài tụng này. Tuyết Đậu đương đầu liền nói: “Cơm trong bát, nước trong thùng”. Trong lời nói có tiếng vang, trong câu trình cơ.” Ông thầy lạnh mồm mở miệng”, theo sau bèn chú dưới gót chân cho ông. Nếu ông muốn tìm đạo lý huyền diệu trong đây, suy tính chuyển không mở miệng. Tuyết Đậu chỉ đến được nơi đây. Ông ta thích quét sạch trên đầu như thế. Sợ trong chúng có người mắt sáng nhìn thấu. Đến phần sau phải bỏ qua phen rồi cúi xuống vì kẻ sơ cơ, đã khái tụng ra dạy người thấy. Sao Bắc đẩu vẫn ở phía Bắc. Sao Nam vẫn ở phía Nam. Cho nên nói: “Sao Bắc sao Nam vị khác nào”. Sóng bủa trắng ngập trời đất bằng dây. Bỗng nhiên đất bằng dậy sóng. Lại làm sao nếu hướng lên sự thì dễ thấy. Nếu hướng đến ý căn tìm cuối cùng tìm không được. Điều này giống như cọc sắt, lung lay không được, nhổ không được. Nếu ông suy nghó muốn hiểu thì không hiểu được, dừng mà không dừng được, loạn trình mông lung. Chính là “mỗi mỗi không quần con trưởng giả”. Thơ của Hàn Sơn nói: “Sáu cực trẻ con khổ Chín duy luống tự bàn Có tài cũng vô dụng Vô thế đóng của bồng. Mặt trời trên núi vẫn tối khói hết hang còn mờ. Trong kia con trưởng giả Mỗi mỗi thảy không quần. Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục quyển năm. Tập này sau khi thắp lên ngọn đuốc tuệ lớn, thì gặp lúc binh khí nổi lên loạn lạc. Đời ít người khéo khắc bản. Nay được Bản Thục, hiệu chính đã xong, sợ trong đó rối ren không ít, cao nhân bốn phương sao chép thấy giáo đang cải đổi, bèn khắc thành chữ vàng, rất may mắn cho thiền tông. <篇> VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 6 KHAI THỊ: Vừa phải quấy, lăng xăng có mất tâm, không rơi vào giai cấp, lại không dò tìm. Hãy nói buông là đúng hay nắm là đúng? Đến đây nếu có một mảy may kiến giải, vẫn kẹt vào ngôn thuyên, còn mắc vào cơ cảnh, đều là nương tựa cỏ cây. Dù cho có ngộ đi nữa, cũng vẫn còn cách ý chỉ thiền rất xa. Có lãnh ngộ được không. Nếu chưa lãnh ngộ được, lại chỉ lý hội công án hiện hành, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Khi Tuyết Phong ở am, có hai vị tăng đến lễ bái. Tuyết Phong thấy hai vị tăng đến bèn đóng cửa am lại, phóng thân ra nói: Là cái gì? Tăng cũng nói: Là cái gì? Phong cúi đầu trở về am. Sau đó tăng đến Nham Đầu. Nham Đầu hỏi: Từ đâu đến? Tăng thưa: Từ Lãnh Nam đến. Nham Đầu nói: Từng đến Tuyết Phong chưa? Tăng thưa: Từng đến. Nham Đầu nói: Có ngôn cú gì? Tăng kể lại việc trước đây cho Nham Đầu nghe. Nham Đầu hỏi: Ông ấy nói gì? Tăng thưa: Không nói lời nào chỉ cúi đầu trở về am. Nham Đầu nói: Than ôi! Ta hối hận lúc trước không nói diệu chỉ rốt sau cho ông ta. Nếu nói với y thì người trong thiên hạ không làm gì được lão Tuyết. Tăng đến cuối hạ nhắc lại việc trước thưa hỏi. Nham Đầu nói: Sao ông không nói sớm? Tăng thưa: Không dám vô phép. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy đồng sinh với ta mà không đồng tử với ta. Biết diệu chỉ rốt sau chỉ là thế. GIẢI THÍCH: Phàm dựng lập tông giáo, phải là phân biệt roÕ đương cơ, biết tiến thối phải quấy; biết rõ sống chết, bắt, thả. Bỗng nhiên con mắt bị mù mờ, gặp người hỏi liền hỏi, gặp đáp liền đáp, đâu biết rằng lỗ mũi của ông ta nắm trong tay của người khác. Chỉ như Tuyết Phong, Nham Đầu đồng tham kiến với Đức Sơn. Tăng này thì tham kiến Tuyết Phong, kiến giải chỉ đến chỗ như thế. Cho đến khi tham kiến Nham Đầu cũng không từng thành được một việc; phiền toái cho hai lão lúc ấy, một đáp một hỏi, một bắt một thả. Mãi đến như ngày nay người khắp thiên hạ thành khúc mắc rối loạn, phân giải không được. Hãy nói ngoa ngụy chỗ nào? Tuyết Phong tuy du hóa các nơi cuối cùng ở Ngao Sơn Điếm, Nham Đầu nhân dạo chơi đến đó mới được đại triệt ngộ. Sau đó Nham Đầu bị sa thải ở bên hồ làm người đưa đò; hai bên bờ có treo một tấm bảng, người cần qua gõ vào tấm bảng một cái. Nham Đầu nói: “Ông qua bên kia” thì trong lùm lau, mái chèo chui ra. Tuyết Phong trở về Lãnh Nam ở am, tăng này cũng là người tham kiến đã lâu. Tuyết Phong thấy vị tăng đến lấy tay đóng cửa am lại, phóng thân ra nói: Là cái gì? Như nay có người hỏi như thế liền chụp lấy nghiền ngẩm. Vị Tăng này cũng lạ, chỉ đáp lại: “Là cái gì?” Tuyết Phong cúi đầu trở về am, thường gọi là không nói lời nào mà lãnh hội. Thường bảo đây là “Vô ngã” mà hiểu vậy. Tăng này tìm kiếm không được. Có người nói: Tuyết Phong bị vị Tăng này hỏi, phải lặng câm trở về am. Thật không biết ý của Tuyết Phong rất độc hại. Tuyết Phong tuy được tiện nghi, nhưng ẩn thân lộ hình. Sau đó, tăng này từ biệt Tuyết Phong, đem công án này nhờ Nham Đầu phán quyết. Đến nơi, Nham Đầu hỏi: Từ đâu đến? Tăng: Từ Lãnh Nam đến. Đầu nói: Từng đến Tuyết Phong chưa? Nếu muốn thấy Tuyết Phong chỉ một lời hỏi này cũng phải mở mắt to mà xem. Tăng nói: Từng đến. Nham Đầu nói: Có ngôn cú gì? Lời này cũng không phải rỗng không? Tăng này không hiểu, chỉ chạy theo ngôn ngữ. Nham Đầu nói: Ông ta nói gì? Tăng nói: Ông ta cúi đầu không nói lời nào trở về am. Vị Tăng này thật không biết Nham Đầu đi guốc trong bụng của ông mấy phen rồi. Nham Đầu nói: Than ôi! Ta hối hận ban đầu không nói với ông ta câu rốt sau. Nếu nói với ông ta câu rốt sau thì người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết Phong. Nham Đầu cũng là giúp mạnh không giúp yếu. Vị Tăng này như lối cũ vẫn mịt mù, không phân trắng đen, ôm một bụng hoài nghi, cho thật là Tuyết Phong không hiểu. Đến cuối hạ nhắc lại việc ấy để thưa thỉnh Nham Đầu bảo: Sao ông không nói sớm? Lão già này mưu mô làm sao. Tăng nói: Không dám vô phép. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy cùng sinh với ta mà không cùng tử với ta, cần biết câu rốt sau chỉ là thế. Nham Đầu quá mực không lời nói. Rốt cuộc các ông làm sao hiểu? Tuyết Phong làm tri sự trong hội Đức Sơn Phạm đầu. Một hôm thọ trai trễ. Đức Sơn bưng bát xuống pháp đường. Tuyết Phong nói: Chuông chưa đổ, bảng chưa đánh lão già này bưng bát đi đâu? Đức Sơn không nói lời nào cúi đầu trở về phương trượng. Tuyết Phong kể lại cho Nham Đầu nghe. Nham Đầu nói: Cả nhà Đức Sơn không hiểu diệu chỉ câu rốt sau. Đức Sơn nghe vậy bảo thị giả gọi ông ta đến phương trượng hỏi: Ông không chấp nhận lão tăng sao? Nham Đầu thưa thầm ý này. Đức Sơn đến ngày thượng đường, không giống như bình thường. Nham Đầu ở trước tăng đường vỗ tay cười lớn nói: Thật may thay cho lão hiểu được diệu chỉ câu rốt sau. Sau này người trong thiên hạ không làm gì được ông, tuy như thế, chỉ được ba năm. Công án này như Tuyết Phong thấy Đức Sơn không nói lời nào, sẽ bảo là được tiện nghi. Đâu biết là làm giặc rồi vậy. Bởi Sư từng làm giặc. Sau này cũng biết làm giặc. Cho nên người xưa nói: Diệu chỉ câu rốt sau mới đến “lao quan”. Có người nói Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Hẳn là hiểu lầm rồi. Nham Đầu thường dùng cơ này để dạy chúng: “Kẻ sáng mắt không hạng ổ, bỏ vật thì cao cả, theo vật thì thấp hèn. Diệu chỉ câu rốt sau này, giả sử thân thấy Tổ sư đến cũng lý hội không được”. Đức Sơn ôm bát đến pháp đường. Nham Đầu nói: Cả nhà Đức Sơn chưa hiểu diệu chỉ câu rốt sau. Tuyết Phong nói: Từng nghe nói người chột mắt vốn chỉ có một mắt. Thật không biết Đức Sơn là con cọp không răng. Nếu không phải là Nham Đầu biết được đâu biết được hôm qua không giống như hôm nay. Mọi người muốn biết diệu chỉ câu rốt sau không? Chỉ cho lão Hồ biết, không cho lão Hồ hiểu. Từ xưa đến nay, công án ngàn sai vạn khác, như rừng gai góc. Nếu thấu suốt được thì người trong thiên hạ không làm gì ông được. Chư Phật ba đời đứng dưới gió. Nếu ông không thấu suốt được thì tham Nham Đầu nói: “Tuyết Phong tuy cùng sinh với ta mà không cùng tử với ta chỉ một câu này. Tự nhiên có chỗ thoát thân. <詞>TỤNG: DỊCH: Mạt hậu cú Vị quân thuyết Minh ám song song để thời tiết. Đồng điều sanh dã cộng tương tri Bất đồng điều tử hoàn thù tuyệt Hoàn thù tuyệt Huỳnh đầu Bích Nhãn tu chân biệt Nam Bắc Đông Tây qui khứ lai Dạ thâm đồng khán thiên nham tuyết. Câu sau cùng vì anh nói Sáng tối song song đây thời tiết Đồng điều sinh mọi người cùng biết Không đồng điều tử lai đặc biệt. Lại đặc biệt Đầu vàng mắt biếc nên phân rõ Nam Bắc Đông Tây về qua lại Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi. GIẢI TỤNG: “Câu sau cùng vì anh nói”. Tuyết Đậu tụng diệu chỉ của câu sau cùng này với ý vì nhau toàn rơi trong cỏ, Tụng dù có tụng tột cũng chỉ được một chút sắc thái. Nếu muốn thấu suốt cũng chưa được. Thế mà dám mở miệng nói to “Sáng tối song song đấy thời tiết”. Vì ông mà mở một lối, cũng vì ông đã phá một câu rồi vậy. Sau lại cùng vì ông mà chú giải. Như một hôm Chiêu Khánh hỏi La Sơn: Nham Đầu nói như vậy, như vậy, không như vậy. Không như vậy là thế nào? La Sơn gọi: “Đại sư”. Sư “Dạ”. La Sơn bảo: Song minh cũng song ám. Chiêu Khánh lễ tạ lui ra. Ba ngày sau Chiêu Khánh lại hỏi Ngày trước nhờ lòng từ bi của Hòa thượng nhưng hiềm một nỗi, khán không ra. Ngài La Sơn nói: Nếu như vậy dựa vào Đại sư nghi chỗ nào mà đem ra hỏi? Chiêu Khánh nói: Thế nào là “song minh” cũng là “song ám”? La Sơn đáp: Đồng sinh cũng đồng tử. Bấy giờ Chiêu Khánh lễ tạ lui ra. Sau có một vị tăng hỏi Chiêu Khánh rằng: Lúc đồng sinh cũng đồng tử là thế nào? Chiêu Khánh nói: Ngậm miệng chó lại. Tăng nói: Đại sư nhận lấy miệng ăn cơm. Nói xong vị Tăng này đến hỏi La Sơn rằng: Lúc đồng sinh không đồng tử là thế nào? La Sơn đáp: Như trâu không sừng. Tăng hỏi: Lúc nào cũng đồng sinh đồng tử là thế nào? La Sơn nói: Như cọp mọc sừng. Câu rốt sau chính là đạo lý này. Trong hội La Sơn có tăng đem ý này đến hỏi ngài Chiêu Khánh. Chiêu Khánh nói: Kia đây đều biết. Cớ sao? Ta ở Đông thắng châu mà Tây Cù-da- nê châu cũng biết. Trên trời nói một câu mà nhân gian cũng biết. Tâm tâm biết nhau, mắt mắt chiếu nhau. Đồng điều sinh mọi người cùng biết, không đồng điều tử lại đặc biệt”. Thích-ca Đạt-ma cũng dò tìm không được. “Đông Tây Nam Bắc lại qua”. Có một vài cảnh giới tốt xấu. “Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi”. Hãy nói là song minh hay song ám, là đồng điều sinh đồng điều tử? Thiền tăng đủ mắt sáng, thử phân rành xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi ngài Triệu Châu rằng: Nghe tiếng cây cầu đá của Triệu Châu đã lâu, khi đến chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu đáp: Ngươi chỉ thấy cầu khỉ, nên không thấy cây cầu đá. Tăng nói: Thế nào là cây cầu đá? Triệu Châu đáp: Lừa đi qua, ngựa đi qua. GIẢI THÍCH: Ngài Triệu Châu có cây cầu đá do lý ứng tạo, đến nay nổi tiếng thiên hạ. Cầu khỉ là cầu gỗ bắc một cây. Vị tăng đó cố ý làm giảm oai quang của Triệu Châu cho nên hỏi: Nghe tiếng cây cầu đá của Triệu Châu đến nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu bèn nói: Ông chỉ thấy cầu khỉ, nên không thấy cây cầu đá cứ chỗ hỏi của vị tăng cũng chỉ là câu nói bình thường. Triệu Châu dùng câu để nhữ ông ta. Quả nhiên vị tăng này đã mắc câu. Sau đó lại hỏi: Thế nào là cầu đá? Triệu Châu đáp: Lừa đi qua, ngựa đi qua. Quả thật trong lời nói tự có chỗ xuất thân. Triệu Châu không giống như Lâm Tế, Đức Sơn, dùng gậy hoặc hét mà ông ta chỉ dùng ngôn cú sống chết. Công án này khéo léo xem. Chỉ như bình thường đấu với cơ phong. Tuy thế cũng thật khó nương gá. Một hôm Triệu Châu cùng với Thủ tòa xem cây cầu đá. Ngài Triệu Châu bèn hỏi Thủ tòa ai là người xây dựng cầu đó? Thủ tòa trả lời: Lý Ứng. Triệu Châu hỏi: Lúc tạo nhằm chỗ nào mà hạ thủ? Thủ tòa không đáp được. Triệu Châu nói: Bình thường nói cầu đá, đến khi hỏi hạ thủ chỗ nào thì không biết. Một hôm Triệu Châu quét đất có một vị tăng đến hỏi: Hòa thượng là thiện tri thức vì sao lại có bụi? Triệu Châu đáp: Nên ngoài vào. Lại hỏi: Già-lam thanh tịnh làm gì có trần? Triệu Châu đáp: Lại có một chút. Lại nữa tăng hỏi: Thế nào là đạo? Triệu Châu đáp: ngoài bức tường ấy. Tăng nói: Không hỏi đạo này chỉ hỏi đại đạo vậy. Triệu Châu đáp: Đại đạo thấu Trường An. Triệu Châu riêng dùng cơ này. Sư đến chỗ bình thật chỗ an ổn. Làm người lại không chạm dao bén đứt tay, tự nhiên cao vót, dùng được cơ này thật quá hay, Tuyết Đậu tụng: <詞>Dịch: Cô nguy bất lập đạo phương cao Nhập hải hoàn tu điếu cự nao Kham tiếu đồng thời Quán khê lão Giải vân phách tiễn diệc đồ lao. Vút siêu không lập đạo mới cao Vào biển cần câu được cá ngao? Cười ngất đồng thời cùng lão Quán Bảo rằng chụp tiễn uổng công lao Giải rằng bổ tên chỉ nhọc lao. GIẢI TỤNG: Câu “Vút siêu không lập đạo mới cao”. Tuyết Đậu tụng Triệu Châu chỗ bình thường vì người thường. Không lập huyền diệu, không lập cô nguy. Như các nơi nói: Đập nát hư không, đập tan núi Tu-di, đáy biển sinh bụi, Tu-di gợn sóng, mới gọi là đạo của Tổ sư. Sở dó đạo của ngài Tuyết Đậu, “ Vút cao không lập đạo mới cao”. Vách cao vạn nhẫn, hiển bày Phật pháp linh nghiệm kỳ đặc. Tuy nhiên một mình chót vót nguy hiểm, chẳng bằng không lập cô nguy. Chỉ bình thường tự nhiên chuyển đổi, không lập mà tự lập, không cao mà tự cao. Cơ xuất cô nguy mới thấy huyền diệu. Sở dó ngài Tuyết Đậu nói: “Vào biển cần câu được cá ngao”. Xem ra Sư là bậc tông sư có trí tuệ thong thả buông một câu, dùng một cơ, không câu tôm, hến, ốc, trai mà chi câu ngao lớn, quả là bậc tác gia. Một câu này dùng hiển bày phần đầu công án. “Cười ngất đồng thời cùng lão Quán” Tăng hỏi: “Nghe danh quán khê từ lâu, khi đến chỉ thấy một ao ngâm gai. Quán Khê nói: Ông chỉ thấy ao ngâm gai mà không thấy Quán Khê. Tăng nói: Sao gọi là Quán Khê? Khê nói: “ Chụp tên gấp. Tăng hỏi Hoàng Long: Nghe danh Hoàng Long từ lâu, bấy giờ đến chỉ thấy một con rắn khoang đỏ? Hoàng Long nói: Ông chỉ thấy một con rắn khoang đỏ, mà không thấy Hoàng Long? Tăng nói: Thế nào là Hoàng Long? Hoàng Long đáp: Kéo dài lê thê. Tăng hỏi: Bỗng nhiên gặp Kim sí điểu đến thì sao? Hoàng Long đáp: Tánh mạng khó giữ. Tăng hỏi: Như vậy bị chim ăn rồi? Hoàng Long nói: Cám ơn ông cúng dường. Đây là lập cô nguy. Cũng không khỏi tốn công sức. Rút cuộc không bằng Triệu Châu dùng lối bình thường. Thế nên Tuyết Đậu nói: “Chụp tên uổng công lao. Chỉ như ngài Quán Khê, Hoàng Long tam gác lại. Chỉ hỏi Triệu Châu nói: Lừa qua ngựa qua, làm sao hiểu, thử biện xem? KHAI THỊ: Khắp nơi không giác, toàn cơ phơi bày, chạm đến không kẹt, rõ ràng có cơ xuất thân. Dưới câu vô tư, mỗi mỗi có ý giết người. Hãy nói người xưa rốt ráo nhằm chỗ nào nghỉ ngơi? Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Mã Tổ và Bách Trượng cùng đi thấy một con vịt trời bay qua, mã Tổ hỏi: Là cái gì? Bách Trượng đáp: Bầy vịt trời. Mã Tổ hỏi: Đi đâu rồi? Bách Trượng đáp: Bay qua rồi. Mã Tổ liền véo lỗ mũi của ngài Bách Trượng. Bách Trượng đau quá la lên. Mã Tổ nói: Đâu từng bay qua. GIẢI THÍCH: Chính mắt thấy đến lại đầy đủ nhân chính của Bách Trượng. Mã Đại sư không có gió dậy sóng. Các người phải cùng với Phật tổ làm thầy. Tham cứu Bách Trượng phải tự cứu chẳng xong. Tham cứu Mã Tổ Đại sư. Xem trong mười hai giờ chưa từng chẳng ở trong ấy. Bách Trượng xuất gia từ thuở bé, học tập giới định huệ. Gặp lúc Mã Tổ xiển dương giáo hóa ở Nam Xương tận tâm nương đỡ. Hai mươi năm làm Thị giả khi trở lại tham ngay tiếng hét mới được đại ngộ. Hiện nay có người nói: Vốn không ( 18 8) chỗ ngộ, làm một cửa ngộ để dựng lập việc này. Nếu kiến giải như vậy thì cũng giống như trùng trong thân sư tử trở lại ăn thịt sư tử. Đâu không thấy người xưa nói. Nguồn không sâu thì sông không dài. Trí không lớn thì thấy không xa. Nếu dùng hiểu biết để kiến lập thì Phật pháp đâu có ngày nay. Xem Mã Tổ và Bách Trượng đi dạo vườn thấy con vịt trời bay qua, Mã Tổ há không thấy vịt trời hay sao? Vì sao lại hỏi như vậy? Vả lại ý của Mã Tổ nói rơi vào chỗ nào? Bách Trượng đi theo sau ông ta, Mã Tổ véo lỗ mũi Bách Tượng. Bách Trượng đau quá la to Mã Tổ nói: Đâu từng bay qua? Bách Trượng liền tỉnh. Ngày nay có người hiểu lầm, vừa hỏi đến liền la lên, buồn cười nhảy chẳng ra. Nếu học chưa hiểu chẳng nệ chạm bén đứt tay, chỉ cần dạy họ biết việc này. Vì thế nói, biết thì giữa đường thọ dụng, không biết thì truyền bá ở đời. Mã tổ lúc đó không nắm đứng thì chỉ thành truyền bá ở đời. Phải là thấy cảnh gặp duyên xoay trở dạy quay về chính mình trong mười hai thời không thiếu chỗ nào gọi là tánh địa minh bạch. Nếu chỉ nương vào cỏ dựa vào cây chấp nhận trước lừa sau ngựa thì có dùng chỗ gì? Xem Mã Tổ, Bách Trượng dụng như vậy. Tuy giống như sáng tỏ tinh linh mà ngược lại không trụ nơi sáng tỏ tinh linh. Bách Trượng chịu đau không nổi la lên, nếu thấy như vậy thì khắp cõi không giâu mọi nơi hiện thành. Vì thế nói, một chỗ thấu thì ngàn chỗ muôn chỗ đồng thơi thấu. Hôm sau, Mã Tổ thăng tòa, đại chúng vừa tụ tập, Bách Trượng đưa ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống tòa về phương trượng, lúc trở về hỏi Bách Trượng: Ta vừa thăng tòa chưa từng nói pháp. Vì sao Ông lại cuốn chiếu? Bách Trượng nói: Hôm qua bị Hòa thượng nắm lỗ mũi đau. Mã Tổ nói: Hôm qua Ông để tâm vào chỗ nào? Bách Trượng nói: Ngày nay lỗ mũi không đau nữa. Mã Tổ nói: Ông rất biết việc ngày nay. Bách Trượng làm lễ trở về liêu thị giả khóc. Bạn cùng liêu việc hỏi “ông khóc cái gì?” Bách Trượng đáp: Ông đến hỏi Hòa thượng. Thị giả bèn đến hỏi Mã Tổ. Mã Tổ nói: Ngươi đến hỏi ông ta xem? Thị giả trở về hỏi Bách Trượng. Bách Trượng cười ha hả. Thị giả hỏi: Ông vừa rồi khóc, sao giờ này lại cười? Bách Trượng đáp: Ta vừa rồi khóc giờ lại cười. Xem Sư sau khi ngộ lăn trùng trục ngăn chận không không đứng tự nhiên linh hoạt. Tuyết Đậu tụng rằng: <詞>TỤNG: DỊCH: Dã áp tử Trị hà hứa Mã Tổ kiến lai tương cộng ngữ Thoại tận sơn vân hải nguyệt tình Y tiền bất hội hoàn phi khứ Dục phi khứ. Hục phi khứ Khước bả trụ Đạo! đạo! Con vịt trời Mã Tổ thấy rồi cùng nhau nói Nói tột biển trăng mây núi lồng Như xưa chẳng biết lai bay mất Muốn bay mất Lại nắm đứng Nói! Nói. GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu ngay đầu tụng: “Con Vịt trời” Biết là mấy, “Mã Tổ thấy rồi cùng nhau nói. Câu tụng này Mã Tổ hỏi Bách Trượng “ Là cái gì? Bách Trượng đáp: Bầy vịt trời. “Nói tột biển trăng mây núi lòng” là tụng hỏi Bách Trượng “Đi đâu rồi” Mã Tổ vì Sư ý chỉ tự nhiên thoát thể. Bách Trượng như trước chẳng hiểu” lại nói “bay qua rồi”. Hai lớp lầm qua. Hai cây: “Muốn bay mất, lại nắm đứng”õ. Tuyết Đậu dựa vào điều khoản để kết tội. Lại nói: “Nói! Nói”. Đây là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân. Hãy nói: Nói cái gì? Nếu la đau là lầm. Nếy không la đau, lại làm sao hiểu? Tuyết Đậu tuy nhiên tụng rất hay, nhưng cũng nhảy không khỏi. KHAI THỊ: Vượt khỏi sinh tử, xoay lăn cơ quan, thảnh thơi chém đinh chặt sắt, tùy chỗ che trời che đất. Hãy nói là chỗ hành lý của người nào? Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Vân Môn hỏi: Từ đâu đến? Tăng đáp: Tây thiền. Vân Môn hỏi: “Tây thiền gần đây có nói câu nào không?” Tăng tay ra. Vân Môn đánh một cái tát. Tăng nói: Nói tại chỗ nào? Vân Môn ngược lại đưa hai tay ra. Tăng không nói. Vân Môn lại đánh. GIẢI THÍCH: Vân Môn hỏi vị tăng: Từ đâu đến? Tăng đáp: Tây thiền. Đây là đối diện mà nói. Giống như điện chớp không khác. Vân Môn hỏi: Gần đây có câu nói gì? Chỉ là lời nói bình thường. Vị tăng này quả thật là bậc tác gia. Lậït ngược lại để kiểm nghiệm Vân Môn liền xòe ngửa hai bàn tay ra. Nếu là người tầm thường gặp kiểm nghiệm này liền thấy tay chân rối loạn. Ông ta Vân Môn có cơ đá, lửa điện, ánh sáng, bèn đánh một tát. Tăng nói: Đánh tức là có lý do, tranh cãi làm sao đối phó được lời nói ở tại đâu? Vị tăng này có chỗ chuyển thân. Sở dó Vân Môn muốn khai mở, ngược lại đưa hai cánh tay ra, vị tăng không nói được Vân Môn đánh cho. Xem ra ông ta Vân Môn tự là tác gia, đi một bước biết một bước rơi vào chỗ nào. Biết xem cái trước mà giải được cái sau. Tụng nói: Hổ đầu hỗ vó nhất thời thâu Lẫm lầm oai phong tứ bách châu Khước vấn bách tri hà thái hiểm Sư vân phóng quá nhất trước. <詞>Dịch: Đầu cọp đuôi cọp một lúc thâu Lẫm liệt oai phong bốn trăm châu Lại hỏi tại sao mà quá hiểm Sư rằng phóng qua một nước. TỤNG GIẢI: Tuyết Đậu tụng được lời này rất dễ hiểu. Đại ý chỉ tụng cơ phong Vân Môn. Vì thế nói: “Đầu cọp đuôi cọp một lúc thâu”. Người xưa nói: Chân đầu cọp thâu nhận đuôi cọp. Câu thứ nhất tông chỉ rõ ràng. Tuyết Đậu chỉ căn cứ bản án để kết tội. Tích Vân Môn giòi chận đầu cọp, lại khéo nắm đuôi cọp, tăng đưa hai tay ra Vân Môn bèn đánh là dựa vào đầu hổ. Vị Tăng xòe ngửa hai tay, Tăng không nói Vân Môn liền đánh là nhận đuôi cọp. Đầu đuôi đồng thâu, mắt như sao băng, tự nhiên như chọi đá nháng lửa, tựa như luồng điện chớp, liền được: “Lẫm liệc oai phong bốn trăm châu”, khiến cho cả thế giới gió thổi vèo vèo. Lại hỏi tại sao quá hiểm, quả là có chỗ hiểm. Tuyết Đậu nói: Bỏ qua một phen. Hãy nói: Như nay không bỏ qua là sao? Tất cả người trong quả đất đều phải ăn gậy. Hàng thiền hòa tử ngày nay đợi khi Vân Môn tay ra cũng trả lại cho ông bổn phận thảo liệu. Giống thì cũng giống nhưng đúng thì chưa đúng. Vân Môn không thể chỉ như vậy mà bảo ông thôi, vẫn còn có việc khác. KHAI THỊ: Ẩn mật toàn chân, đứng đầu thủ chứng, dẫm trên nước để chuyển vật, mang đó thừa đương, nhằm chọi đá nháng lửa, lửa làn điện chớp, quét sạch lầm lẫn. Ở chỗ chân đầu cọp nắm đuôi cọp. Vách đứng ngàn nhẫn thì tạm gác lại, tha cho một phen lại có chỗ vì người hay không. Thử nêu xem. CÔNG ÁN ( 18 9): Đạo Ngô cùng Tiệm Nguyên đến nhà đang viếng cúng điếu thăm hỏi Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói: Sinh ư? Tử ư? Đạo Ngô nói: Sinh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên nói: Vì sao không phải nói? Đạo Ngô đáp: Không nói không nói, trở lại giữa đường. Tiệm Nguyên nói: Hòa thượng thích cùng đạo nào? Nếu không nói đánh Hòa thượng chết đi. Đạo Ngô nói: Đánh tức chịu đánh, đạo không phải đạo. tiệm Nguyên liền đánh. Sau đó đạo ta chuyển hóa. Tiệm Nguyên đến Thạch Sương đưa ra câu nói giống trước. Thạch Sương nói: Sinh cũng chẳng nói. Tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên nói: Vì sao không nói. Thạch Sương nói: Không nói! không nói. Tiệm Nguyên sau khi nghe lời nói có phần tỉnh ngộ. Một hôm Tiệm Nguyên vác cái xẻng ở pháp đường đi từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông. Thạch Sương hỏi: Làm gì vậy? Tiệm Nguyên nói: Tìm linh cốt của tiên sư. Thạch Sương nói: Nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt của tiêng sư? (Tuyết Đậu bình: Trời xanh, trời xanh. Tiệm Nguyên nói: Nên khéo gắng sức. Thái Nguyên Phù nói: Linh cốt tiên sinh vẫn còn). GIẢI THÍCH: Đạo Ngô cùng với Tiệm Nguyên đến nhà đàn việt cúng điếu, Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói: Sinh ư? Tử ư?. Đạo Ngô nói: Sinh cũng không nói, chết cũng không nói. Nếu nhằm dưới câu này mà nhập được dưới lời nói biết quay về. Chỉ chỗ này là then chốt thấu thoát sinh tử. Nếu không được như thế, thường thường đối diện lầm qua. Xem người xưa đi đứng nằm ngồi không ngại lấy việc này làm niệm. Vừa đến vào nhà người điếu tang Tiệm nguyên liền vỗ vào quan tài Đạo Ngô rằng: Sinh ử? Hay tử ư? Đạo Ngô không thay đổi một tơ hào đáp rằng: Sinh cũng không nói, chết cũng không nói. Tiệm Nguyên đối diện lầm qua chạy theo ngữ cú hỏi: “Vì sao không nói? Đạo Ngô nói: Không nói không nói. Đạo Ngô đáng gọi là những mảnh lòng son, mang sai lầm chính là sai lầm. Nguyên do tự mình không tỉnh táo. Trở về giữa đường lại hỏi: Hòa thượng mau vì con mà nói, nếu không nói thì con đánh Hòa thượng. Kẻ này biết cái gì tốt xấu, nên nói tâm tốt không được quả báo tốt. Đạo Ngô lòng từ bi như cũ nói với ta. “Đánh thì mặc đánh, nói thì không nói. Tiệm Nguyên liền đánh. Tuy nhiên như thế ngược lại ông ta thắng một nước cờ. Đạo Ngô như vậy máu nhỏ giọt giọt xuống đất mà Tiệm Nguyên cũng chẳng lãnh hội. Đạo Ngô bị Tiệm Nguyên đánh liền nói: Ông hãy đi, e Tri sự trong viện biết việc này sẽ gây họa cho ông. Thầm bảo Tiệm Nguyên đi là Đạo Ngô rất từ bi. Sau Tiệm Nguyên đến một viện nhỏ nghe hành giả tụng kinh Phổ Môn rằng: Muốn được Tỳ- kheo độ thì liền được Tỳ-kheo hiện thân nói pháp. Bỗng nhiên đại ngộ, Sư liền nói: Khi xưa ta lầm trách tiên sư, đâu biết việc này, không trên câu nói. Người xưa nói. Bậc đạo nhân không lượng, bị lời nói chuyển. Có nhóm người tình giải nói? Đạo Ngô nói: “Không nói! Không nói!” Tức là nói rồi vậy. Gọi lại đánh vào lưng ngã lộn nhào. Khiến người dò tìm không được. Nếu biết như vậy thì làm sao bình ổn. Nếu bước chân vào cõi thật, không cách một tơ hào, không thấy thất hiền nữ dạo chơi trong rừng Thi-đà, có vị chỉ vào thây chết hỏi rằng: Thây chết tại đây, người ở chỗ nào? Người chị lớn nói: Làm gì? Làm gì? Mọi người đều chứng Vô sinh pháp nhẫn. Hãy nói có bao nhiêu cái, ngàn cái, vạn cái chỉ là một cái. Sau Tiệm Nguyên đến Thạch Sương thuật lại việc trước, Thạch Sương như cũ nói: Sinh cũng không nói, chết cũng không nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao không nói? Thạch Sương đáp: Không nói! không nói Tiệm Nguyên liền ngộ mà đi. Ngày sau vào mai lên giảng đường đi từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông, ý muốn trình kiến giải của mình. Thạch Sương hỏi: Làm gì? Tiệm Nguyên nói: Tìm linh cốt tiên sư. Thạch Sương bèn chặt đứt gót chân của ông ta rồi nói: Ta ở trong ấy nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt của tiên sư? Tiệm Nguyên đã tìm linh cốt tiên sư. Tại sao Thạch Sương lại nói như thế? Đến đây nếu sinh cũng không nói thì tử cũng không nói. Ngay lời này tiến được mới biết từ đầu đến cuối đều là cơ thọ dụng. Nếu Ông khởi đạo lý suy nghó tầm tư, đúng là khó thấy. Tiệm Nguyên nói: Nên khéo gắng sức. Xem Sư sau khi ngộ, nói được tự nhiên kỳ đặc. Mảnh xương đầu của Đạo Ngô như kim sắc, khi đánh vào phát ra âm thanh của đồng. Tuyết Đậu bình: “Trời xanh! trời xanh”, ý rơi vào hai bên. Thái Nguyên Phù nói: Linh cốt tiên sư vẫn còn “tự nhiên nói được ổn đáng”. Đoạn văn này đồng thời đưa vào một bên, nhất thời. Hãy nói thế nào là chỗ tónh yếu? Thế nào là chỗ gắng sức. Đâu chẳng nghe nói. Một chỗ thấu ngàn chỗ, vạn chỗ, đồng thời thấu. Nếu nhằm chỗ chẳng nói chẳng nói thấu được là quét sạch đầu lưỡi thiên hạ. Nếu thấu không được phải tự tham tự ngộ, không thể dễ dàng qua ngày, đáng tiếc ngày tháng. Tuyết Đậu tụng rằng: Thố mã hữu giác Ngưu dương vô giác. Tuyệt hào tuyệt ly Như sơn như nhạc Huỳnh kim linh cốt kim du tại Bạch lãng thao thiên hà xứ trước. Vô Xứ trước Chính lý Tây quy tằng thất khước. <詞>DỊCH: Thỏ ngựa có sừng Trâu dê không có Bặt lông bặt sợi Như núi như non Linh cốt vàng ròng Nay vẫn còn đến Sóng dậy ngập trời chỗ nào đến? Chiếc dép về tây từng lạc mất. <詞>GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu riêng hội chú giải. Sư là con cháu Vân Môn. Phàm trong một câu đủ ba câu tôi luyện, nhằm chỗ khó nói nói phá, nhằm chỗ vạch không ra mà vạch ra. Theo chỗ khẩn yếu của ông tụng ra: Thỏ ngựa có sừng, trâu dê không có. Hãy nói thỏ ngựa vì sao có sừng? Trâu dê vì sao không sừng? Nếu thấy được lời trước, mới biết Tuyết Đậu có có chỗ vì người? Có người hiểu lầm nói, không nói là nói, không câu lại có câu, thỏ ngựa không có sừng ngược lại nói có sừng. Trâu dê có sừng ngược lại nói không có. Thật là không dính dáng. Đâu không biết. Người xưa thiên biến vạn hóa, hiện như thần thông như thế, chỉ vì đả phá cái hang quỉ tinh linh này của ông. Nếu thấu suốt được nói không mất một chữ: “Thỏ ngựa có sừng, trâu dê không sừng, bặt lông bặt sợi, như núi như non”. Bốn câu này như viên ma-ni bảo châu, Tuyết Đậu nhã ra trước mặt ông (190). Phần sau chỉ là căn cứ bản án kết tội Linh cốt vàng ròng nay vẫn còn, sóng dậy ngập trời chỗ nào đến? Tụng này của Thạch Sương và Thái Nguyên Phu, vì sao không có chỗ đến” “Chiếc dép về Tây từng lạc mất” linh qui kéo đuôi. Đây là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân vì người. Người xưa nói. Ông ta tham vấn hoạt cú không tham vấn tử cú. Đã quên mất một đóm lửa, vì sao lại đua tranh nhau. KHAI THỊ: Chư Phật chưa từng xuất thế, cũng không một pháp cho người. Tổ sư chưa từng phương Tây sang, bao giờ lấy tâm truyền trao. Chính vì bấy giờ người không hiểu, chạy theo tìm cầu bên ngoài, hoàn toàn không biết dưới gót chân mình có một đại sự nhân duyên, mà ngàn Thánh dò tìm không được. Chỉ như ngày nay thấy không thấy, nghe không nghe, nói không nói, biết không biết, từ chỗ mà đến được? Nếu chưa có thể thông đạt, hãy nhằm trong ngôn ngữ mà hiểu lấy. Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Thiền khách Lương Toại hỏi Khâm Sơn rằng: Một mũi tên mà mở ba cánh cửa là thế nào? Khâm Sơn nói: Dẫn ông chủ trong ba cánh cửa ra xem? Lương hỏi: Làm sao biết lỗi để sửa? Khâm Sơn đáp: Lại đợi lúc nào? Lương hỏi: Tên tốt bắn không trúng đích, liền bay ra. Khâm Sơn nói: Xà-lê lại đây! Lương quay đầu lại, Khâm Sơn đứng lại nói: Một mũi tên phá ba cánh cửa thôi chẳng hỏi chi. Thử vì Khâm Sơn bắn mũi tên xem? Lương suy nghó. Khâm Sơn đánh bảy gậy nói: Hãy cho gã này nghó ba mươi năm. GIẢI THÍCH: Thiền khách Lương Toại thật là một viên chiến tướng nhằm vào trong tay Khâm Sơn xoay trái lộn phải khiến rơi roi rớt dây. Từ đầu đến cuối tiếc rẻ sự mong đợi. Cung gãy tên mất, tuy nhiên vẫn như vậy. Tướng quân họ Lý tự có tiếng khen không được phong hầu cũng là nhàn vậy. Đây là một công án một xuất một nhập, một bắt một thả, đương cơ thấy mặt. Thấy mặt đương cơ nhanh, hoàn toàn không rơi vào nơi có không được mất, gọi là huyền cơ, nhìn qua thấy có chút ít lực lượng liền có chỗ sẩy chân. Vị tăng này cũng là hàng thiền tăng anh linh, đặt câu hỏi kinh quần. Khâm Sơn là bậc tác gia tông sư, liền biết chỗ rơi của câu hỏi. Câu hỏi: “Khi một mũi tên bắn xuyên qua ba cánh cửa là thế nào?” Ý của Khâm Sơn trả lời ông bắn được, thôi không hỏi làm chi. Thử dẫn ông chủ trong ba cửa ra xem? Lương Toại hỏi: “Làm sao biết lỗi để sửa”. Quả thật kỳ đặc. Khâm Sơn nói: “Lại đợi lúc nào?” Xem ra ông ta lấy cái gì đối trị? Chỗ hỏi của Khâm Sơn không có chút ít thiếu trống. Sau Thiền khách Lương Toại lại nói “Tên tốt bắn không trúng đích” phủi tay áo ra đi. Khâm Sơn vừa thấy ông ta nói thế, liền gọi”Xà-lê lại đây” Thiền khách Lương Toại quả nhiên nắm không đứng xoay đầu lại. Khâm Sơn bắt lại nói: “Một mũi tên phá ba cửa thôi không hỏi làm chi. Hãy vì Khâm Sơn bắn tên xem? Lương suy nghó. Khâm Sơn liền đánh cho bảy gậy, theo sau cho ông ta một câu chú, “hãy cho gã này nghi ba mươi năm”. Hiện nay một số thiền, thiền hòa tử nói: Vì sao không đánh tám gậy hay sáu gậy, mà chỉ đánh bảy gậy? “hãy vì Khâm Sơn bắn tên xem?” Liền đánh. Thế thì giống thì cũng giống, nhưng đúng thì không đúng Công án này, phải trong hông ngực không chứa tí xíu đạo lý so sánh vượt ngoài ngữ ngôn, mới có một câu phá ba cửa và có chỗ bắn tên. Nếu còn phải quấy thì dò tìm không được. Vị tăng này nếu là hảo hán thì Khâm Sơn cũng bị nguy hiểm, đã không thể hành lệnh này, chẳng khỏi đi ngược đường. Hãy nói chủ trong cửa rốt cuộc là ai? Xem Tuyết Đậu tụng! <詞>TỤNG: DỊCH: Dữ quân phóng xuất quan trang chủ Phóng tiễn chi đồ mạc mãng lỗ Thủ cá nhãn hề nhó tất lụng Xả cá nhó hề mục song cổ Khả lân nhất phốc phá tam quan Đích đích phân minh tiễn hậu lộ Quân bất kiền Huyền Sa hữu ngôn hề Đại trượng phu tiên thiên vi tâm Tổ. Chủ nhân trong cổng vì anh dẫn Những kẻ bắn tên chớ sơ hở Giữ con mắt chừ tai điếc rồi Bỏ lỗ tai chừ hai mắt tối Đáng thương một mũi phá tam quan Quả thật đường sau tên quá rõ Anh thấy chăng Huyền Sa có lời chừ Đại trượng phu tiên thiên là Tâm Tổ. Bài kệ này có mấy câu rút trong bài tụng Qui Tông. Ngày xưa Qui tông nhân làm bài tụng này nên đặt tên là Tụng Qui Tông. Trong tông môn cho là tông chỉ. Về sau Đồng An nghe chuyện bảo: Lương Công khéo bắn tên mà không trúng đích. Có vị tăng hỏi: Thế nào được trúng đích? Đồng An nói: Người chủ ở trong cửa là người nào? Sau có vị tăng thuật lại cho Khâm Sơn nghe. Khâm Sơn nói: Lương Công thế ấy cũng chưa khỏi được cái miệng Khâm Sơn. Tuy thế Đồng An không phải là tâm tốt. Tuyết Đậu nói: “Chủ nhân trong cổng vì anh dẫn”. Mở mắt cũng đúng, nhắm mắt cũng đúng, có hình, không hình đầu chặt làm ba khúc. Đệ tử bắn tên chớ sơ hở. Nếu bắn tên giỏi thì không sơ hở. Nếu bắn tên giỏi không sơ hở, nếu bắn tên dở mà bắn thì sơ hở. Lấy một con mắt ắt mù điếc, bỏ một lỗ tai ắt mù. Hãy nói lấy một mắt vì sao lại tai điếc? Bỏ tai vì sao lại hai mắt mù. Lời này không lấy bỏ, mới có thể thấu suốt được. Nếu có lấy bỏ thì khó thấy. Hai cây “Đáng thương một mũi phá tam quan”. Thiền sư Lương Toại hỏi: Một mũi phá ba cánh cửa là thế nào? Khâm Sơn nói: Dẫn ông chủ ra cửa xem. Cho đến rốt sau công án của Đồng An thảy là đường sau tên của. Rốt cuộc phải thế nào? Anh thấy chăng Huyền Sa có lời chừ Đại trượng phu tiên thiên là tâm Tổ. Bình thường cho tâm cực đắc Tổ tông. Trong đây tại sao trước khi trời đất chưa sanh vẫn cho là Tổ của Tông này? Nếu biết rõ thời tiết này, mới biết rõ ông chủ ở trong cửa. Quả thật đường sau tên quá rõ nêu, cần trúng đích sau mũi tên có đường. Hãy nói thế nào là đường sau mũi tên? Phải tự đem hết tinh thái mới được. Câu: “Đại trượng phu tiên thiên là tâm tổ”. Huyền Sa thường lấy lời này dạy chúng. Đây là Tụng Qui tông. Tuyết Đậu lầm dùng cho là lời của Huyền Sa. Hiện nay người tham học cho tâm này là Tổ tông dù tham đến đức Phật Di-lặc ra đời cũng chưa hiểu. là đại trượng phu, tâm vẫn là con cháu. Trời đất chưa phân đã là câu thứ hai rồi. Hãy nói chính khi ấy, làm sao trước trời đất? KHAI THỊ: Trước đã chưa thấu được. Như núi bạc vách sắt, đến khi thấu được rõ ràng, thì chính mình là vách sắt núi bạc. Hoặc có người hỏi phải làm sao? Chỉ nói với ông. Nếu nhằm trong đó bày được một cơ, thấy được một cảnh quét sạch chức vụ quan trọng không thông phàm Thánh, chưa là việc bên ngoài. Nếu chưa được như thế, xem lấy bóng dáng cổ nhân. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Chí đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa. Thế nào là không chọn lựa? Triệu đáp: Trên trời dưới đất, chỉ ta là hơn hết. Tăng thưa: Đây vẫn là giản trạch. Triệu châu hỏi: “Kẻ tớ ruộng nhà, chỗ nào là giản trạch? Tăng không đáp được. GIẢI THÍCH: Tăng hỏi Triệu Châu: Chí đạo không khó hiềm chọn lựa, Tín Tâm Minh của Tam Tổ mở đầu là hai câu này. Có nhiều người hiểu lầm. Vì sao? Chí đạo không khó? Cũng không phải là không khó? Chỉ là hiềm chọn lựa. Nếu như vậy thì trải qua một vạn năm cũng chưa mộng thấy. Triệu Châu thường dùng câu này hỏi người. Vị tăng kia đem câu này hỏi lại Triệu Châu. Nếu dựa vào trên lời nói để tìm thì vị tăng này là kinh thiên động địa. Nếu không dựa trên lời nói thì lại làm sao? Lại tham ba mươi năm, chốt cửa này phải xoay được mới mong mở ra. Vuốt râu hùm phải là cố thủ đoạn bổn phận mới được. Vị tăng này không ngại nguy vong. Dám vuốt cọp nói rằng: Vẫn còn chọn lựa Triệu Châu nhằm miệng liền bịt “Kẻ tớ ruộng nhà chỗ nào là chọn lựa? Nếu hỏi đến kẻ khác liền thấy chân tay rối ren đâu ngờ lão già này là bậc tác gia, nhằm chỗ động không được liền động, chỗ xoay không được liền xoay. Nếu Ông thấu được tất cả những câu cú ác độc mới biết được ngàn sai muôn trạng hý luận ở thế gian, đều là thượng vị đề hồ. Nếu đến chỗ thật, mới thấy từng mãnh lòng son của Triệu Châu. Kẻ tớ ruộng nhà mới là lương người Phước Đường. Mắng người giống như không ý trí. Vị tăng này nói “vẫn còn chọn lựa”. Triệu Châu bảo: “Kẻ tớ ruộng nhà, nào là chọn lựa”. Mắt của tông sư cần đến như thế ấy, như chim cánh vàng bay xuống biển nuốt rồng Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Tợ hải chi thâm Như sơn chi cố Văn manh lộng không lý mãnh phong Lữ nghị hám ư thiết trụ. Giống như biển sâu. Dường thể núi cứng Ruồi muỗi ở trong gió mạnh đùa Dế mèn, kiến lay cọc sắt Chọn ư? Lựa ư? Ngay hiên treo trống. GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu chú thích hai câu: “Giống như biển sâu, dường thể núi cứng. Tăng nói: Vẫn là chọn lựa. Rốt sau Tuyết Đậu đề khởi bảo cho được rống. Nếu biết được rõ ràng, sau này ông tự rõ. Tại sao? Đâu chẳng thấy nói: Muốn được thân thiết, chớ đem hỏi đến hỏi. Thế nên: “Ngay hiên treo trống”. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: “Chí đạo không khó chỉ vì hiềm nghi chọn lựa”. Phải là sào huyệt của thời nhân chăng? Triệu Châu đáp: Đã có người hỏi tôi, người hỏi tôi, mà mãi đến năm năm vẫn còn bối rối. GIẢI THÍCH: Triệu Châu bình sanh không hành gậy và tiếng hét mà dùng được còn hơn gậy và hét. Vị tăng này hỏi rất kỳ lạ. Nếu không phải là Triệu Châu thì khó mà đáp được. Bởi Triệu Châu là hàng tác gia chỉ nói với y. “ Đã có người hỏi tôi, mãi đến năm năm vẫn còn bối rối”. Chỗ hỏi vách cao ngàn nhãn, chỗ đáp cũng chẳng ở nhiều hương, nhẹ hơn. Nếu hiểu như vậy chính là đương đầu. Nếu không hiểu như vậy chớ so tính toán đạo lý. Không thấy Tông Đạo giả trụ Đầu Tử, lúc ở trong hội Tuyết Đậu làm thư ký. Tuyết Đậu dạy tham “ Chí đạo không khó chỉ vì hiềm chọn lựa”. Nơi đây có tỉnh. Một hôm Tuyết Đậu hỏi: “Chí đạo không khó, chỉ vì chọn lựa” ý nghóa thế nào? Tông nói: Súc sinh, súc sinh. Về sau, Tông ẩn cư ở Đầu Tử, hễ đi trụ trì thì đem cà sa, giày cỏ gói chục kinh sách. Tăng hỏi: Thế nào là tông phong của Đạo giả? Tông đáp: “Cà sa gói giày cỏ”. Có vị Tăng nói: Rút cuộc ý chỉ thế nào? Tông nói: Dưới chân trần toàn gai góc. Vì thế, nói cúng Phật chẳng ở nhiều. Nếu vượt qua được thì bắt, tha tại ta. Đã là một hỏi một đáp rõ ràng hiện thành tại sao Triệu Châu lại nói bối rới? Hãy nói là hang huyệt của thời nhân chăng? Triệu Châu ở trong sào huyệt đáp với ông ta. Phải biết việc này không ở trên ngôn cú. Có người tin được thì thấu xương thấu tủy, như rồng gặp nước, như cọp dựa vào núi. <詞>TỤNG: DỊCH: Tượng vương tần thân Sư tử hao hồng Vô vị chi đàm Tắc đoạn nhân khẩu Nam Bắc nhân khẩu Nam Bắc Đông Tây Ô phi thố tẩu. Voi chúa gầm gừ Sư tử gầm thét, Đàm luận vô vị, Bít lấp miệng người, Nam bắc đông tây, Chim bay thỏ chạy. GIẢI THÍCH: Triệu Châu nói: “Đã có người hỏi tôi, mãi đến năm năm vẫn còn bối rối. Giống như voi chúa gầm gừ, sư tử gầm thét, bàn luận vô vị, lấp bít miệng người, nam bắc đông tây, chim bay thỏ chạy”. Tuyết Đậu nếu không có câu rốt sau thì chỗ nào lại có Tuyết Đậu? Đã là chim bay thỏ chạy. Hãy nói Triệu Châu, Tuyết Đậu, Sơn Tăng rút cuộc rơi vào chỗ nào? KHAI THỊ: Tựa trời bao đất, vượt Thánh siêu phàm. Chỉ đầu trăm ngọn cỏ phát ra diệu tâm Niết-bàn. Khí giới tụ hợp điểm định nạp tăng mạng phái. Vả lại, nương vào âm lực người nào lại được như vậy sao. Thử đưa ra xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: “Chí đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa”. Vừa có nói năng là chọn lựa. Hòa thượng là người như thế nào? Triệu Châu đáp: Sao không nói hết lời này? Tăng nói: Cái đó chỉ nhớ đến trong đây. Triệu Châu nói: “Chí đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa”. GIẢI THÍCH: Triệu Châu nói “Chí đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa”. Như đánh vào đá phát ra lửa tợ như ánh sáng chớp nhoáng. Bắt thả giết sự sống được tự tại như vậy mọi nơi đều có ý nghóa. Triệu Châu có biện luận hơn hẳn mọi người. Bình thường Triệu Châu khai thị đại chúng có một Thiên nói: “Chí đạo không khó chỉ vì hiềm chọn lựa”, vừa có nói năng là chọn lựa. Đây rõ ràng lão tăng không ở trong minh bạch ( 19 2) các ông có tiếc giữ hay không? Bấy giờ có vị tăng hỏi: Đã không ở trong minh bạch lại tiếc giữ cái gì? Triệu Châu nói: Ta cũng không biết. Tăng nói: Hòa thượng đã không biết sao gọi là đạo? Trong đó không có chỗ rõ ràng. Triệu Châu nói: Hỏi việc tức được lễ bái rồi lui ra. Về sau vị tăng này chỉ bám vào chỗ sư hở kia đi hỏi Triệu Châu. Hỏi hẳn là kỳ đặc, nhưng chỉ là tâm hành. Nếu là người khác không làm gì được y, tranh luận đối phó Triệu Châu là hàng tác gia liền nói “Sao không dẫn hết lời này”. Vị tăng này cũng biết xoay mình thở ra liền nói: Con chỉ nhớ đến đó”. Dường như đã an bày. Triệu Châu tùy theo âm thanh nắm bắt trả lời, không cần tính toán. Người xưa gọi là tương tục, cũng là rất khó. Sư biện rồng rắn, phân tốt xấu, quả là hàng tác gia. Triệu Châu móc tròng mắt của vị tăng này mà không phạm vào mũi nhọn, không vướng vào tính toán, tự nhiên hay khéo. Ông gọi là một câu có cũng không được, gọi là câu không cũng không được, “ly tứ cú tuyệt bách phi”. Vì sao? Vì bàn luận việc này như đánh vào thạch hỏa, tợ như ánh sángchớp nhoáng, nhanh dính vào mắt mới thấy. Nếu còn suy nghó do dự thì không thoát khỏi táng thân mất mạng. Tuyết Đậu Tụng: <詞>TỤNG: Thủy sái bất trước Phong quy bất nhập Hổ bộ long hành Quỉ hào thần khấp <詞>NGHÓA: Đầu trường tam Xích tri thị thùy? Tương đối vô ngôn độc túc lập. Nước rưới chẳng dính Gió thổi không lọt Cọp bước rồng đi, quỷ than thần khóc, Đầu dài ba thước biết là ai? Đối diện không lời một chân đứng. GIẢI TỤNG: Câu: “Nước rưới chẳng dính, gió thổi không lọt cọp bước rồng đi, quỉ than thần khóc”. Khó có chỗ cho ông gặm nhấm. Bốn câu tụng này là lời đáp của Triệu Châu, giống như rồng bay, cọp nhảy. Vị Tăng này chỉ được một trường xấu hổ. Không những vị Tăng này, mà quỉ cũng than, thần cũng khóc, giống như gió thổi cỏ nghiêng. Hai câu cuối đáng gọi là người thầy được. “ Đầu dài ba tấc biết là ai?” Đối diện không lời một chân đứng. Có vị Tăng hỏi Cổ đức: Sao gọi là Phật? Cổ Đức đáp: “Đầu dài ba thước, cổ cao hai tấc”. Tuyết Đậu dẫn dụng, chưa biết quý vị có hiểu chăng? Sơn tăng cũng không biết. Tuyết Đậu một lúc thoát thể vẻ ra hình Triệu Châu rồi, quý vị phải cẩn thận chú ý xem. KHAI THỊ: Chư Phật và chúng sinh xưa nay không khác, mình và núi sông đâu có, sai biệt, vì sao lại lẫn thành bai bên? Nếu hay xong lăn thoại đầu quét sạch chức vị quan trọng, bỏ qua tức chẳng được. Nếu không bỏ qua thì tất cả quả đất không mất một nắm. Thế nào là chỗ xoay lăn thoại đầu. Thử nêu xem? CÔNG ÁN: Vân Môn cầm gậy dạy chúng: Cây gậy hóa thành rồng, nuốt càn rồi vậy, núi sông đất liền chỗ nào được? GIẢI THÍCH: Như Vân Môn nói cầm gậy hóa làm rồng, nuốt dứt càn khôn rồi vậy. Núi sông đất liền chỗ nào được? Nếu nói có thì mù, nếu nói không thì chết, lại thấy Vân Môn có chỗ vì người chăng? Trả cây gậy lại cho ta. Người nay không biết chỗ riêng bày của Vân Môn lại nói tức sắc minh tâm nương vật để hiển lý. Như Đức Phật Thích-ca bốn mươi chín năm thuyết pháp, không thể không biết nghi luận này. Vì sao lại đưa cành hoa, Ca-diếp mỉm cười? Lão già hồ đồ nói: Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp, đâu cần riêng truyền tâm ấn. Quý vị đã là môn hạ của tổ sư lại rõ được cái tâm riêng truyền sao? Trong ngực nếu có một vật, thì núi sông đất liền, tự nhiên hiện trước mặt, trong ngực không có một vật, thì bên ngoài không còn một mảy may. Nói gì lý cùng trí hiệp cảnh cùng thần hội? Vì sao? Bởi một hiều thì tất cả hiểu, một sáng thì tất cả sáng. Trường Sa nói: Người học đạo không biết chân, chỉ vì từ xưa nhận thức thần vô lượng kiếp nay góc sanh tử, kẻ si mê liền gọi người xưa nay. Nếu chợt đập tan ấm giới, thân tâm nhất như ngoài thân không dư, vẫn chưa được một nửa nói gì là tức sắc minh tâm, dựa vào vật mà hiển lý. Người xưa nói: Một hạt bụi vừa dấy lên, cả đại địa toàn thâu. Hãy nói là hạt bụi nào. Nếu biết được hạt bụi này, liền biết được cây gậy. Vừa đưa lên gậy lên liền thấy diệu dụng ngang dọc. Lời nói thế sớm thành là sắn bìm rồi. Năm ngàn bốn mươi tám (5 0 4 8) quyển có nói lời ấy không? Vân Môn có khi nhằm chỗ cây gậy đưa ra, toàn cơ đại dụng, vì người một cách linh động, Ba Tiêu dạy chúng. Lỗ mũi thiền tăng ở trên đầu gậy. Vónh Gia cũng nói: “Không phải là tiêu hình việc truyền rỗng. Gậy báu Như Lai còn dấu vết”. Vào thời Đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai trải tóc trên bùn để đón Đức Phật Nhiên Đăng. Đức Phật Nhiên Đăng dạy: “Chỗ này phải xây dựng một ngôi chùa”. Bấy giờ có một vị Thiên tử bèn cặm một cọng có nói: “Cất chùa xong” . quí vị hãy nói tin tức này từ chỗ ào được? Tổ sư nói: Đầu gậy thủ chứng, ngay nơi tiếng hét thừa đương. Hãy nói thừa đương cái gì? Bỗng nhiên có người hỏi: Thế nào là cây gậy? Chẳng phải là đánh ngã nhào sao? Chẳng phải là vỗ tay sao? Thảy đều là đùa lộng tinh hồn không dính dáng. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Trụ trượng tử thôn càn khôn Đồ thuyết đào hoa lãng bôn Thiêu vó giả bất tại noa vân quặc vụ Bộc tai giả hà tất táng đảm vong hồn. Niêm liễu giả. Vãn bất vãn Trực tu sái sái lạc Hửu cánh phân phân vân vân. Thất thập nhị bỗng thả khinh thứ Nhất bách ngũ thập nan phóng quân. Cây gậy này nuốt càn khôn Luống nói hoa đào sóng đưa Đốt đuôi nào bởi gom mấy cuộn mù Phơi mang nào hẳn vỡ mật mất hồn. Niêm rồi vậy Nghe chẳng nghe Phải là sạch trọi thong dong Nghó lại hỏi càng lăng xăng rối rắm Bảy mười hai gậy vẫn tha nhẹ Một trăm năm chục khó cho ông Sư cầm gậy xuống tòa, Bấy giờ đại chúng giải tán. Giải: Vân Môn vì người quanh co, Tuyết Đậu vì người nói thẳng cho nên báo hẳn hóa làm rồng, không nhập nói như thế “chỉ là cây gậy nuốt càn khôn”. Ý của Tuyết Đậu muốn khởi tình giải của người, nên nói “luống nói hoa đào sóng đưa chẳng cần hóa làm rồng. Bởi vì vũ môn có ba cấp sóng, mỗi năm đến tháng ba, hoa đào trôi theo những con cá lớn hay lội ngược nước, nhảy qua làn sóng, hóa thành rồng. Tuyết Đậu nói: Dù hóa làm rồng cũng nói suông. “Đốt đuôi nào bởi gom mây cuộn mù”. Cá nhảy qua được Vũ môn tự có lửa trời đốt đuôi của no, rồi gom mây cuộn mù bay đi. Ý của ( 19 3) Tuyết Đậu nói dù hóa làm rồng cũng chẳng ở gom mây cuộn mù . “Phơi mang nào hẳn vỡ mật mất hồn”? Lời Tựa của Thanh Lương Sớ chất chứa hạnh Bồ tát còn phải phơi mang ở Long Môn Bồ-tát. Đại ý nói cảnh giới Hoa Nghiêm chẳng phải chỗ của người đức nhỏ hẹp có thể đến được, như con cá không nhảy qua được Long môn, bị một điểm trắêng trên trán quay đầu trở lại phải chịu nơi vũng nước cạn, bãi cát phơi mang vậy. Ý của Tuyết Đậu nơi đã bị một điểm trắng trên trán trở lại ắt vỡ mật tan hồn. “Niêm rồi vậy. Nghe chẳng nghe” lại chú giải ở dưới. Một lúc vì ông quét sạch rồi. Quý vị phải “Phải là sạch trọi thong dong, thôi chớ lăng xăng rối rắm”. Nếu ông lăng xăng rối rắm thì mất đi cây gậy rồi. “Bảy mươi hai gậy vẫn tha nhẹ”. Tuyết Đậu vì ông tha nặng dùng cái nhẹ. Cổ nhân nói: Bảy mươi hai gậy thành một trăm năm mươi. Người ngày nay hiểu lầm lại theo tính số mục, lẽ ra phải bảy mươi lăm gậy, trái lại chỉ dùng bảy mươi hai gậy? Đâu chẳng biết. Ý của người xưa ở ngoài lời nói. Vì thế nói: Việc này không ở trong lời nói, khỏi bị người sau xuyên tạc. Lý do Tuyết Đậu dẫn dụng dù cho ông được sạch trọi thong dong, đáng lẽ cho ông bảy mươi hai gậy vẫn tha nhẹ. Nêu không được như thế thì một trăm năm mươi gậy khó tha ông. Một lúc tụng xong, lại cầm cây gậy trùng lớp với nhau, như vậy, cũng không có nhiệt huyết. Quyển thứ sáu - Phật Quả Viên Ngộ Thiền sư Bích Nham Lục. Ngung trung khắc bản Viên Ngộ Bích Nham lục. May mắn sự việc đã hoàn thành, người học thiền bốn phương được Tổ Đình sự uyển, Vạn Thiên Đối Qui. Bài tựa của Thiền tông. Thế Hãn đã thấy thêu, khắc bản gỗ, để truyền bá rộng rãi cho người học Thiền. Đây cũng là phương tiện tiếp dẫn mọi quần chúng. Xin đừng bỏ ngọc, rất may mắn bẩm. Trưởng Vó Minh Viễn ở Ngung Trung, khắc bản “Viên Ngộ Bích Nham Lục” đã hoàn thành. Người học Thiền khắp nơi thu được quyển “Tổ Đình Sự Uyển” “vạn Thiện Đồng Quy” và “Thiền Tông Văn Tự”. Đời rất hiếm có bản Ngữ Lục này. May thay có Cư só khắc lên bản gỗ để mở rộng Thiền Học. Đây cũng là phương tiện ban đầu tiếp dẫn người học. Xin đừng bỏ viên ngọc quý này. Bẩm bạch. <篇> PHẬT QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 7 KHAI THỊ: Dựng pháp tràng, lập tông chỉ, hoàn toàn do bổn phận của Tông sư. Định rắn rồng phân biệt riêng biệt tăng tục, phải là tri thức tác gia. Trên kiếm bán luận bàn sống chết. Trên đầu gậy biện cơ nghi, thôi chẳng hỏi chi. Chỉ hỏi việc riêng đứng trong hoàn vũ, một câu làm sao thương lượng, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Phong Huyệt dạy: Nếu lập một hạt bụi thì quốc gia hưng thịnh, không lập, quốc gia suy vong. Tuyết Đậu chống gậy nói: “ Lại Thiền tăng có đồng sinh đồng tử chăng? GIẢI THÍCH: Như Phong Huyệt dạy chúng: Nếu lập một hạt bụi thì, quốc gia hưng thịnh, không lập một hạt bụi, quốc gia suy vong. Hãy nói, lập một hạt bụi tức là đúng hay không lập một hạt bụi là đúng? Trong đây phải là đại dụng hiện tiền mới được. Thế nên nói: Giả sử trước câu nói tiến được, vẫn là kẹt vỏ quên niêm, dù cho dưới câu, chưa khỏi chạm phải cuồng kiến. Phong Huyệt là bậc tôn túc trong Tông Lâm Tế dùng ngay bổn phận thảo liệu. Nếu lập một hạt bụi thì, quốc gia hưng thịnh, lão quê buồn rầu, ý ở nơi lập quốc an bang, nhờ mưu thần tướng mạnh, rồi sau mới có kỳ lân xuất hiện, phượng hoàng bay về. Đó là điều lành thái bình vậy. Kẻ quẹ mùa đâu biết có việc ấy? Không lập một hạt bụi thì quốc gia tiêu vong, gió thổi xào xạc, lão quê vì sao ca hát, chỉ vì nước mất nhà tan. Tông Tào Động gọi đó là chuyển biến, không Phật không chúng sinh, không đúng, không sai, không tốt, không xấu, dứt bặt tăm tích cho nên nói: Mạt vàng tuy quí, nhưng rơi vào mắt thì thành bệnh. Lại nói: Mạt vàng trong mắt là bệnh y châu trên pháp là bụi. Tánh linh còn không trong, Phật tổ là người nào? Đại triệt ngộ tinh thần diệu dụng, không cho là kỳ đặc. Đến trong đây “Trùm chăn phủ đầu. Lúc này sơn tăng đều không biết”. Nếu càng nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu đều dùng không được. Vì sao? Vì nhà ông ta tự có cảnh thần tiên. Nam Tuyền dạy chúng: Bảy trăm Cao tăng ở Hoàng Mại đều biết Phật pháp và lòng người mà không được y bát của Tổ, chỉ có hành giả họ Lô không biết Phật pháp, thế mà được Tổ trao y bát. Lại nói: Ba đời chư Phật không biết có, mèo nhà trâu trắng lại biết có. Lão quê hoặc buồn rầu hoặc ca hát, làm sao biết? Hãy nói có con mắt gì lại thế ấy? Nên biết trước cửa lão quê, riêng có điều chương. Tuyết Đậu nêu cả hai lên rồi cầm gậy nói: Thiền Tông có đồng sinh, đồng tử chăng? Bấy giờ nếu có một người ra nói được một câu, cùng làm khách chủ. Khỏi bị Tuyết Đậu phần sau tự chỉ ngực. <詞>TỤNG: DỊCH: Dã lão tùng giao bất triển mi Thả đồ gia quốc lập hùng ki Mưu thần dũng tướng kim hà tại! Vạn lý thanh phong chỉ tự tri. Lão dốt từ đây chẳng nhướng mày Vả mong nước nhà lập nền tài Mưu thần dũng tướng nay đâu tá? Muôn dặm gió lành chỉ tự bay GIẢI: Vừa rồi song đề vậy, nắm một bên, cắt dài bù ngắn, bỏ nặng theo nhẹ. Vì thế nói: “Lão dốt từ đây chẳng nhướng mày, vả mong nước nhà lập nền tài, mưu thần dũng tướng nay đâu tá? Tuyết Đậu giơ gậy lên nói: Còn có Thiền tăng cùng sinh cùng tử chẳng? Giống như nói lại có mưu thần tướng giỏi chăng? Một cái miệng nuốt tất cả mọi người rồi. Do đó nói: Đất rộng người thưa, gặp nhau rất ít, còn biết nhau chăng? Ra chôn vùi, “Muôn dặm gió lành chỉ tự hay” là chỗ Tuyết Đậu chỉ ngực vậy. KHAI THỊ: Lấy vô sư trí phát ra vô tác diệu dụng, lấy vô duyên từ mà làm bạn tốt không mời mà đến. Ngay nơi một câu có sống, có chết một cơ có tha có bắt. Hãy nói là người nào mà từng đến như vậy, thử nêu xem. CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Trong càn khôn không gian vũ trụ có một vật báu tại hình sơn, cầm lồng đèn vào trong điện Phật, đem ba cửa đến trên lồng đèn. GIẢI THÍCH: Vân Môn nói: Trong càn khôn, không gian vũ trụ trong đó có một vật báu ẩn tại hình sơn. Hãy nói Vân Môn ý ở cần câu hay ở trên lồng đèn. Đây là mấy câu Bảo Tạng luận của pháp sư Triệu Châu, Vân Môn trích ra để dạy chúng. ( 19 4) Triệu Châu từ đó trở về sau tự do tạo luận, viết kinh Duy-ma, mới biết. Lão Trang chưa phải là hay tột. Triệu Châu bèn lễ La-thập làm thầy. Lại tham kiến Bồ-tát Bạt-đà-ba-la ở chùa Ngõa Quan, vốn được tổ Hai mươi bảy ở Tây Thiên truyền tâm ấn. Triệu Châu tạo luận rất sâu xa thâm thúy. Một hôm Triệu bị nạn sắp hành hình, xin dời lại bảy ngày để viết xong bộ luận Bảo Tạng. Vân Môn trích bốn câu trong Luận để dạy đại chúng. Đại ý nói: Làm sao lấy được viên ngọc báu vô giá ẩn trong ấm giới. Lời nói trong luận cùng với lời nói tông môn phù hợp nhau. Cảnh Thanh hỏi Tào Sơn: Lý của thanh hư rút cuộc không thân thì thế nào? Tào Sơn nói: Lý thì như thế, còn sự thì sao? Cảnh Thanh nói: Như lý, như sự. Tào Sơn nói: Lừa một mình Tào Sơn thì được, nhưng đối với con mắt chư Thánh làm gì được. Cảnh Thanh nói: Nếu không có con mắt chư Thánh thì đâu biết không như vậy. Tào Sơn nói: Ông chẳng cho lọt không mũi kim. Xe ngựa cũng qua. Vì thế nói: “trong càn khôn, không gian vũ trụ trong đó có một vật báu ẩn tại hình sơn. Đại ý người người đầy đủ, mỗi mỗi viên thành. Vân Môn đưa ra dạy chúng đã là thập phần có sẵn. Không thể giống tọa chủ chú giải cho ông. Sư vẫn mở lòng từ bi lại chú giải cho ông. Cầm lồøng đèn vào điện Phật đem ba cửa để trên lồng đèn. Hãy nói, Vân Môn nói như thế, ý tại chỗ nào? Người xưa nói: “ Thật tánh Vô minh tức Phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp thân”. Lại nói: tâm phàm mà thấy tâm Phật, hình tức là tứ đại ngũ ấm. Trong đó có một vật báu. Ẩn tại hình sơn. Cho nên nói: “Chư Phật ở tại trong tâm. Người mê tìm kiếm bên ngoài, trong ôm một vật vô giá báu không biết một đời thôi. Nói: Lại Phật tánh rõ ràng hiển hiện, trụ tướng hữu hình khó thấy. Nếu ngộ chúng sinh vô ngã mặt ta đâu khác mặt Phật? Tâm là tâm xưa nay, mặt là mặt thuở bé. Kiếp thạch khá đổi đời, trong đó không có biến đổi. Có người chỉ nhận linh linh sáng sủa ngọc báu, thế là không được dụng của nó, cũng không được cái diệu của nó. Vì thế động chuyển không được, khai mở không ra. Người xưa nói “ Vật cùng tắc biến, biến tắc thông”. Câu: Cầm lồng đèn đến trong điện Phật “Nếu là thường tình có thể đoán lường được”. Còn câu: “Đem ba cánh cửa để trên lồng đèn” thì đoán lường được sao? Vân Môn cùng với ông một lúc đánh phá tình thức, ý tưởng được mất, đúng sai. Tuyết Đậu nói: Tôi thích Thiền Dương tân định cơ. Một đời cùng với người tháo đinh nhỗ chốt. Lại nói: “ Ngồi trên giường gỗ biết bao nhiêu? Dao bén cắt đi khiến người mến Vân Môn nói: “Cầm lồng đèn vào trong điện Phật” một câu này đã cắt đứt rồi. Lại: “Đêm ba cánh cửa để trên lồng đèn”. Nếu luận việc này giống như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp. Vân Môn nói: “Nếu ông tương đương hãy tìm đường vào chư Phật như vi trần dưới gót chân ông, ba tạng Thánh giáo ở trên đầu lưỡi của ông chẳng bằng bãy ngộ đi. Hòa thượng ông! Chớ vọng tưởng, trời là trời, đất là đất, núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục. Sư im lặng giây lâu nói: “Đem án sơn trước mặt đến cho ta xem! Có một vị tăng hỏi: “Người học thấy núi là núi, thấy sông là sông, việc đó thế nào?” Vân Môn nói: Ba cửu vì sao từ trong này qua, e ông chết đi. Sư bèn lấy tay vẽ một nét hỏi: Lúc biết được là thượng vị đề hồ, nếu không biết được trở thành độc dược. Vì thế nói: lúc hiểu rõ hoàn toàn là không có thể hiểu. Chỗ huyền diệu nhất cần phải chê. Tuyết Đậu niêm rằng: Trong càn khôn, không gian vũ trụ, trong đó có một vật báu ẩn trong hình sơn treo trên vách. Đạt-ma chín năm không dám nhìn thẳng, mà nay nạp tăng muốn nhằm ngay xương sống đánh. Xem Sư là bổn phận tông sư của ông ta, rút cuộc không đem thật pháp trói buộc người. Huyền Sa nói: Bủa vây không chịu đứng, kêu gọi không quay đầu. Tuy nhiên cũng là rùa linh kéo lê đuôi. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Khán khán Cổ ngạn hà nhân bả điếu can Vân nhiễm nhiễm Thủy man man Minh nguyệt lô hoa quân tự khán. Hãy xem Bờ xưa người nào đem cần câu, Mây mịt mù Nước mênh mông Trăng sáng hoa lau ông tự xem. GIẢI TỤNG: Nếu biết được Vân Môn nói thì thấy Tuyết Đậu vì người, Tuyết Đậu nhằm hai câu sau của Vân Môn dạy chúng chú thích rằng: “Hãy xem” ông lại giương mày trừng mắt hiểu vẫn không dính dáng. Người xưa nói: “Linh quang độc diệu, huýnh thoát căn trần, thể lộ chân thường”, không câu nệ câu văn, tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật. Nếu chỉ nhằm chỗ giương mày trợn mắt ngồi như chết đâu có thể thoát được căn trần? Tuyết Đậu nói: “Hãy xem”. Vân Môn như như bờ xưa cầm cần câu. Mây lại mịt mịt, nước lại mênh mông, trăng sáng chiếu hoa lau, hoa lau chiếu trăng sáng. Chính là lúc như vậy là cảnh giới nào? Nếu ngay đó thấy được thì trước sau chỉ giống một câu. KHAI THỊ: Đường Ý không đến nên khéo đề ra, nói năng không kịp phải mau mở mắt. Nếu là điện chuyển sao xẹt lại có thể nghiêng thành đảo núi. Trong chúng có ai biện được, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Một hôm ở Nam Tuyền Đông Tự và Tây tự tranh nhau về con mèo. Nam Tuyền thấy liền đề khởi: Nói được thì không chém. Trong chúng không ai nói được. Nam Tuyền chém con mèo thành hai khúc. GIẢI THÍCH: Bậc Tông sư một động một tónh, một ra một vào. Hãy nói: Ý chỉ là thế nào? Câu chuyện chém mèo, trong tòng lâm khắp nơi bàn tán xôn xao. Có người nói: “Đề khởi là đúng. Có người nói “ở chỗ chém”. Hoàn toàn không dính dáng nếu lúc chưa đề khởi thì khắp nơi làm đạo lý. Đâu biết người xưa có con mắt định càn khôn, có cây kiếm định càn khôn. Ông hãy nói rốt cuộc ai là người chém con mèo? Chỉ khi Nam Tuyền đề khởi: Nếu nói được thì nếu được tức không chém. Bấy giờ bỗng có người nói được thì Nam Tuyền chém hay không chém? Vì thế nói chánh lệnh đương hành quét sạch mười phương. Xuất đầu lộ diện xem, ai là người trong đó. Kỳ thực bấy giờ vốn không chém, lời này cũng không ở chỗ chém hay cũng không chém. Việc này thật biết rõ ràng. Không phải tại ý tình trần mà thấy trị tội. Nếu nhìn trên ý kiến tình trần mà tìm thì cô phụ Nam Tuyền. Chỉ nhằm trên dao nhọn kiếm bén xem thì có cũng được, không cũng được. Vì thế mà người xưa nói “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Người nay không hiểu biến thông; chỉ dựa trên ngôn ngữ. Nam Tuyền đề xướng thế ấy, không thể dạy người hạ được lời gì? Chỉ dạy cần bảo người tự tiến. Mỗi mỗi tự dùng tự biết. Nếu không biết như vậy rút cuộc tìm tòi không dính mắc. Tuyết Đậu làm bài tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Lưỡng đường câu thị đổ thiền hòa Bác động yên trần bất nại hà Lại đắc Nam Tuyền năng cử lệnh Nhất đao lưỡng đạo nhậm thiên pha. Hai nhà đều hạng khách xoàng thiền. Khói bụi vạch tung vẫn mơ màng? Nhờ được Nam Tuyền hay hành lệnh, một đao hai khúc mắc thiên bàn. <詞>GIẢI TỤNG: Câu: Hai nhà đều là hạng khách đỗ thiền hòa, Tuyết Đậu không hướng về dưới tử cú, cũng không nhằm trước lừa, sau ngựa. Có chỗ vạch tung liền nói “Khói bụi vạch tung vẫn mơ màng” Tuyết Đậu cùng Nam Tuyền nắm tay cùng đi, một câu nói xong vậy. Thủ tọa của hai đường không có chỗ hết, đến nơi mặc dù vạch tung khói bụi, thâu sạch hết mà làm gì không được? “Nhờ được Nam Tuyền cho ông ta đoạn công án này, trước chẳng đến thôn sau không tới quán. Vì thế nói “Nhờ được Nam Tuyền hay hành lệnh, mặc thiên bàn”. Liền đó cho một dạo thành hai khúc. Hãy nói: Nam Tuyền y cứ lệnh gì? CÔNG ÁN: Nam Tuyền kể lại câu chuyện này, hỏi Triệu Châu. Triệu Châu liền cởi giày cỏ đội trên đầu. Nam Tuyền nói: Nếu khi ấy có mặt đã cứu Ông con mèo. GIẢI THÍCH: Triệu Châu là đệ tử Nam Tuyền, nói đầu hiểu đuôi. Nêu lên là biết. Nam Tuyền đến chiều thuật lại lời khi sáng hỏi Triệu Châu, Triệu Châu là lão tác gia, liền cỡi giày cỏ đội trên đầu. Nam Tuyền nói: “Khi đó nếu có mặt ông thì đã cứu được con mèo. Hãy nói thật thế ấy hay không thật thế ấy? Nam Tuyền nói: “Nói được thì không chém. Như chọi đá nháng lửa, giống như làn điện chớp. Triệu Châu liền cởi giày cỏ đội trên đầu đi ra. Ông ta hỏi hoạt cú, không hỏi tử cú. Mỗi ngày mới, mỗi giờ mới, ngàn Thánh đổi dời một mảy tơ cũng không được. Phải là vận dụng được của báu nhà mình, mới thấy toàn cơ đại dụng của Sư. Sư nói: Ta là Pháp vương, đối cơ được pháp tự tại. Nhiều người hiểu lầm nói: “Triệu Châu dùng phương tiện đem giày cỏ làm con mèo”. Có người nói: Đợi ông ta bảo: “ Nói được thì không chém. Liền đội giày cỏ đi ra tự là ông chặt con mèo, không can gì đến việc tôi. Vẫn không dính dáng, chỉ là huyễn hoặc người. Thật không ngờ ý của người xưa như trời che chở. Cha con, Sư hợp nhau cơ phong khế nhau. Bên này đưa đầu bên kia lại hiểu đuôi. Học giả ngày nay không biết chỗ của người xưa chuyển. Chạy rỗng trên đường ý suy tính. Nếu muốn thấy, chỉ cần đến chỗ của Nam Tuyền, ông ta chuyển chỗ Triệu Châu liền thấy. <詞>TỤNG: DỊCH: Công án viên lai vấn Triệu Châu Trường An thành lý nhậm nhàn du Thảo hài đầu đới vô nhân hội Qui đáo gia Sơn tức tiện hưu. Công án tròn rồi hỏi Triệu Châu Trường An thành ấy mặc nhàn du Giày cỏ không người biết, Về đến gia sơn thì mới thôi) GIẢI TỤNG: “Công án tròn đầy rồi hỏi Triệu Châu”, Tạng chủ Khánh nói: Như người kết án tám gậy là tám gậy, mười ba là mười ba, đã đoạn rồi lại đem ra hỏi Triệu Châu, Triệu Châu là con trong nhà ấy, hiểu ý chỉ của Nam Tuyền. Là người thấu triệt. Vướng mắc va chạm liền chuyển, đầy đủ đầu não của bổn phận tác gia, vừa nhắc đến liền đứng dậy đi ra Tuyết Đậu nói: “Trường An thành ấy được du nhàn” ló đuôi không ít. Người xưa nói: Trường An tuy vui nhưng không nên ở lâu. Lại nói Trường An rất ồn ào, nước tôi an ổn. Phải biết cơ nghi rành tốt xấu mới được. Đầu đội giày cỏ không người biết”, chỗ đội giày cỏ, một chút không có nhiều việc. Vì thế nói: Riêng ta có thể biết, riêng ta có thể chứng, mới thấy được Nam Tuyền, Triệu Châu, Tuyết Đậu đồng đắc đồng dụng. Hãy nói nay làm sao biết? “về đến gia sơn thì nói thôi”. Chỗ nào là gia sơn của Ông Ông ta đã biết. Hãy nói: Gia sơn ở chỗ nào? Liền đánh. KHAI THỊ: Vô tướng mà hiện, đầy mười phương mới rộng rãi. Không tâm mà ứng dụng, biến khắp các cõi mà không phiền. Nêu một rõ ba, mục cơ thù lượng. Dù cho gậy như mưa, hét tợ sấm dậy, cũng chưa xứng với hành lý của người hướng thượng. Hãy nói` thế nào là việc của người hướng thượng, thử nêu ra xem? CÔNG ÁN: Ngoại đạo hỏi Phật: Không hỏi có lời, không hỏi không lời?, Thế Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán: - Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mờ cho con, khiến con được vào, sau khi ngoại đạo bỏ đi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo chứng được gì mà nói “được vào”? Đức Phật trả lời: Như ngựa hay ở đời, thấy bóng roi liền chạy. GIẢI: Việc này nếu ở trên câu nói thì ba thừa, mười hai phần giáo há lẽ không có câu nào? Hoặc nói không nói là đúng. Vậy Tổ sư từ phương Tây sang làm gì? Từ trước đến đây chấp khá nhiều công án, rút cuộc làm sao thấy được chỗ rơi? Một công án này có nhiều người hiểu khác nhau. Có người nói làm thỉnh. Có người nói ngồi yên, có người nói lặng không đáp. Tức cười không dính dáng, biết bao giờ mò tìm đến được? Cơ hội dò dẫm được rõ rệt. Việc này hẳn đúng thật, không tại trên câu nói. Cũng không lìa trên câu nói, nếu hơi suy nghó thì liền cách xa muôn dặm û. Xem ra ngoại đạo kia, sau khi tónh ngộ mới biết, cũng không ở đây, cũng không ở kia. Cũng không phải đúng, cũng không phải không đúng. Là một cái gì? Thiên Y Hoài Hòa thượng tụng rằng: “Duy-ma chẳng nín chẳng làm thinh, ngồi im thương lượng thành lỗi lầm, trong giáp xuy mao ánh sáng lạnh, ngoại đạo thiên mà đều bó tay.” Hòa thượng Thường tham vấn Pháp Nhãn. Pháp Nhãn dạy khán câu này. Một hôm Pháp Nhãn hỏi: Ông khán nhân duyên gì Hòa Thượng Thường nói: Ngoại đạo hỏi Phật Pháp Nhãn nói: Ông thử nêu xem? Thường định mở miệng Pháp Nhãn nói: Dừng! Dừng. Ông toan nhằm chỗ im lặng mà hiểu ư? Thường ngay đó hốt nhiên đại ngộ. Về sau Sư dạy chúng rằng: Bá Trượng có ba quyết, uống trà trân trọng hết. Nghó nghị cùng tư duy biết ông chưa thấu triệt. Thúy Nham chân điểm, ngực niêm: Lục hợp cữu hữu. Xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi xen lẫn nhau, ngoại đạo hiểu kinh luận Tứ Phệ-đà. Tự nói: Ta là người Nhất thiết trí khắp nơi, tìm người luận nghị. Ông ta đặc câu hỏi cốt quét sạch lời nói của Thích-ca lão tử, Thế Tôn không tốn một mảy may khí lực. Ông ta liền tỉnh lấy, tán thán rằng: Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mờ cho con, khiến con được vào. Hãy nói thế nào là chỗ đại từ đại bi? Thế Tôn một mắt thông tam thế. Ngoại đạo hai tròng suốt Ngũ thiên. Qui Sơn thật như đưa lên nói: Trong lòng ngoại đạo chất chứa báu, thân cận Thế Tôn là cao đề. Sum-la hiển hiện, vạn tượng rõ ràng. Vả lại, ngoại đạo rốt ráo ngộ cái gì? Như nhân lúc chó bức tường đến cuối cùng không có đường ra. Ông ta cần quay về liền bèn hoạt bát, nếu so sánh là sai. Một khi bỏ hết sự tình tự nhiên triệt để phân minh. Sau khi ngoại đạo bỏ đi A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có chỗ chứng thế nào mà nói được nhập? Phật nói: Như ngựa hay ở đời thấy bóng roi liền chạy. Về sau các nơi nói. Lại bị gió đùa âm điệu khác. Lại nói: Đầu rồng đuôi rắn. Chỗ nào là bóng roi của Thế Tôn? Chỗ nào là thấy bóng roi? Tuyết Đậu nói: Tà chánh bất phân, lỗi do bóng roi. Chân Như nói: A-nan lại đóng chuông vàng bốn chúng đồng nghe. Tuy nhiên như thế, rất giống hai con rồng giành hạt châu,thêm lớn uy phong của người trí Tuyết Đậu Tụng: Cơ luân tằng vị chuyển Chuyển tất lưỡng đầu tẩu Minh cảnh hốt lâm đài Đương hạ phân nghiên xú. Nghiêm xú phân hề mê vân khai Từ môn hà xứ sanh trần ai Nhân tư lương mã khuy tiên ảnh Thiên lý truy phong hoán đắc hồi Hoán đắc hồi, minh chỉ tam hạn. <詞>DỊCH: Cơ luân chưa từng chuyển, Chuyển ắt chạy hai đầu, Gương sáng chợt đến đài, Ngay đó phân tốt xấu. Tốt xấu phân mây mu khai, Cửa từ đâu đấy sinh trần ai, Nhân suy ngựa giỏi nhìn bóng roi thấy, Ngàn dặm truy phong gọi được về Gọi được về khảy móng tay cái. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Cơ luận chưa từng chuyển, chuyển ắt chạy hai đầu”. Cơ là linh cơ của ngàn Thánh. Luân là mạng mạch của các người từ trước đến nay. Người xưa nói: “Linh cơ ngàn Thánh không dễ thân, rồng sinh rồng con chớ dõi theo, Triệu Châu đoạt được liền thành ngọc Tần chúa Tương Như dễ táng. Ngoại đạo nắm được đứng làm được chủ, chưa từng động đến. Vì sao? Ông ta nói: Không hỏi có lời, không hỏi không lời? Há chẳng phải là chỗ toàn cơ sao? Thế Tôn biết xem gió thả buồm, ứng bệnh cho thuốc. Vì thế im lặng giày lâu, toàn cơ đều khởi. Ngoại đạo hiểu được toàn thể biết bỏ, cơ luân liền lăn trùng trục. Cũng không chuyển về có, không chuyển về không, cũng không rơi vào được mất, không câu nệ phàm Thánh, hai bên một lúc quét sạch Thế Tôn im lặng giây lâu ông ta liền lễ bái. Ngày nay con người phần nhiều rơi vào chỗ không, không thế thì rơi vào chỗ có. Dù ở tại chỗ có không, hai đầu chạy Tuyết Đậu nói: “Gương sáng chợt đến đài, ngay đó phân tốt xấu”, cái này chưa từng động, chỉ mất nhiều thời gian, như gương sáng chợt đến đài, vạn tượng không thể trốn hình chất của nó. Ngoại đạo nói: “Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mờ cho con, khiến con được vào”. Hãy nói chỗ nào là chỗ vào của ngoại đạo? Đến đây cần phải tự tham tự cứu, tự ngộ tự biết mới được. Lại đối với tất cả nơi, đi đứng, nằm ngồi, không hỏi cao thấp, trong một lúc hiện thành. Lại không đổi dời một mảy may. Vừa khởi suy tính một mảy may đạo lý, liền bít lắp chết người, lại không có phần đi vào. Phần sau tụng “Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mù cho con, khiến con được vào”. Ngay đó bỗng nhiên phân biệt tốt xấu. Tốt xấu phân mây mù khai, cửa từ đâu đấy sinh trần ai?”. Cả quả đất là cửa đại từ đại bi của Thế Tôn, Ông nếu thấu được thì không mất một cái ấn tay. Đây cũng là mở cửa tận cùng. Đâu chẳng thấy Thế Tôn trong hai mươi mốt ngày tư duy việc như vậy, ta nên không nói pháp, mau vào Niết-bàn. “Nhân suy ngựa giỏi bóng roi thấy ngàn dặm truy phong gọi được về”. Con ngựa hay đuổi gió, thấy bóngroi liền chạy qua ngàn dặm, gọi về liền về. Ý của Tuyết Đậu là khen ông nói. “ Nếu là hàng anh tuấn mới có thể một cái động liền chuyển, một tiếng gọi liền về. Nếu gọi được về liền, khảy móng tay ba cái là điểm phá là tán ra. KHAI THỊ: Đương cơ thấy mặt, đề ra cơ hãm hổ chánh án bàng đề bày ra mưu lược bắt giặc, sáng hiệp, tối hiệp. Hai buông hai thu giỏi đùa rắn chết, lại là tác giả kia. CÔNG ÁN: Nham Đầu hỏi Tăng: Từ đâu đến. Tăng nói: Tây Kinh đến. Nham Đầu hỏi: Sau khi giặc Hoàng Sào qua rồi thâu kiếm, được kiếm không? Tăng nói: Thâu được. Nham Đầu đưa đầu ra nói: Hè!. Tăng nói: Đầu sư rơi rồi Nham Đầu cười ha hả! Về sau vị tăng này đến Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi: Từ đâu đến? ra. Tăng nói: Nham Đầu đến. Tuyết Phong nói: Có ngôn cú gì không? Tăng thuật lại lời nói trước, Tuyết Phong đánh ba mươi gậy đuổi GIẢI THÍCH: Phàm là người quảy bát, vạch cỏ xem gió, phải có con mắt mới được. Mắt của tăng này tợ như sao băng cũng bị Nham Đầu khám phá xong xỏ xâu lại. Bấy giờ nếu là kẻ kia, hoặc giết, hoặc sống, đưa ra liền dùng. Vị tăng lôi thôi này lại nói: “Thâu được”. Đi hành cước như thế lão. Diêm-la sẽ đòi tiền cơm ông, ông này đi rách bao nhiêu giày cỏ thẳng đến Tuyết Phong. Bấy giờ nếu có đôi phần mắt sáng liền biết liếc qua, há không thích sao? Một nhân duyên này có chỗ khúc mắc. Việc ấy tuy nhiên không được mất, mà được mất rất to. Tuy nhiên không lựa chọn. Đến trong đây ngược lại phải đầy đủ con mắt lựa chọn. Xem Long Nha khi còn đi hành cước đặt câu hỏi Đức Sơn: Người học nương kiếm Mạc Da, nghó lấy đầu sư như thế nào? Đức Sơn đưa cổ ra nói: Hè! Long Nha nói: Đầu sư rơi rồi. Đức Sơn liền trở về phương trượng. Sau Long Nha thuật lại Động Sơn nghe. Động Sơn nói: Khi ấy Đức Sơn nói thế nào? Long Nha nói: Sư không nói. Động Sơn nói: Sư không nói thôi không hỏi, chỉ hỏi cho mượn cái đầu rơi của Đức Sơn xem! Long Nha ngay câu nói đó liền đại ngộ, đốt hương hướng về Đức Sơn lễ bái sám hối. Có vị tăng truyền đến Đức Sơn. Đức Sơn nói: Lão già Động Sơn không biết xấu tốt, kẻ này chết để không ít thời gian vậy. Cầu được có chỗ dùng nào? Công án này với Long Nha là một loại. Đức Sơn trở về phương trượng tức trong tối rất nhiệm mầu. Nham Đầu cười lớn. Trong nụ cười của ông ta có độc. Nếu ai biện được, thì đi dọc ngang trong thiên hạ. Vị tăng này khi ấy biện được thì vượt khỏi ngàn xưa, khỏi bị khiển trách, dưới cửa Nham Đầu đã là một trường sai lầm. Xem ông lão, Tuyết Phong là bạn đồng tham nên biết chỗ rơi, cũng không cùng ông ta nói phá. Chỉ đánh ba mươi gậy đuổi ra khỏi viện. Khả dó trước bặt sau. Cái này là nắm lỗ mũi hàng tác gia nạp tăng, thủ đoạn vì người mà chẳng vì họ, thế này hoặc thế nọ, khiến họ tự ngộ. Bổn phận tông sư vì người có khi đậy kín bao phủ không cho xuất đầu. Có khi tung ra khiến cho chết dở, lại cần phải có chỗ xuất thân. Cả Nham đầu, Tuyết Phong ngược lại bị gã Tăng lôi thôi khám phá. Câu Nham Đầu nói: Sau khi giặc Hoàng Sào đã qua có thu được kiếm không? Các ông hãy nói: Ở đây nên hạ lời nào để khỏi bị ông ta cười, lại bị Tuyết Phong đánh đuổi ra. Trong cái lầm lẫn này. Nếu không đích thân chứng ngộ, cho có lanh mồm khẩu, cuối cùng cũng không thoát được sinh tử. Sơn tăng bình thường dạy người xem chổ chuyển của cơ quan này. Nếu suy nghó, xa đó lại càng xa. Đâu chẳng thấy Đầu Tử hỏi Tăng Diêm Bình: Sau khi giặc Hoàng Sào đã qua, có thâu được kiếm không? Tăng lấy tay chỉ đất. Đầu Tử nói: Ba mươi năm đùa cưỡi ngựa, ngày nay lại bị lừa đá. Xem vị tăng này quả là bậc tác gia. Cũng không nói thu được, cũng không nói thu không được, so với tăng ở Tây Kinh như cách trời biển. Chân Như niêm: Người xưa một người làm đầu, một người làm đuôi. Tuyết Đậu tụng: Hoàng sào quá hậu tằng thâu kiếm Đại tiếu hoàn ưng giả trị Tam thập sơn đằng khả khinh thứ Đắc tiện nghi thị lạc tiện nghi. <詞>Nghóa: Hoàng Sào giặc dứt từng thâu kiếm Cười lớn lại là tác giả tri Ba mươi gậy hãy còn tha nhẹ Được tiện nghi là mất tiện nghi. Hai câu: “Hoàng Sào sau khi qua từng lấy kiếm, cười lớn lại là tác giả tri.. Tuyết Đậu tụng vị tăng này cùng chỗ Nham Đầu: Cười to chỉ một chút này mà mọi người trong thiên hạ tìm không được. Hãy nói Sư cười cái gì? Phải là bậc tác gia mới biết. Trong cái cười này có quyền có thật, có chiếu có dụng, có chết, có sống. Ba mươi gậy lại còn tha nhẹ”. Tụng vị tăng này sau đến gặp Tuyết Phong, vẫn lỗ mãng như xưa. Tuyết Phong cứ lệnh mà hành, đánh ba mươi gậy đuổi ra. Hãy nói vì sao như thế? Ông muốn tận tình hiểu lời này không? “Được tiện nghi là mất tiện nghi”. CÔNG ÁN: Lương Vũ Đế thỉnh Phó Đại Só giảng kinh Kim Cang. Đại Só lên tòa, đập bàn một cái, bước xuống tòa. Vũ Đế ngạc nhiên, Chí Công hỏi: Bệ hạ có hiểu không? Đế nói: Không hiểu. Chí Công nói: Đại Só giảng kinh xong. GIẢI THÍCH: Lương Cao Tổ tức là Vũ Đế họ Tiêu, tự húy là Diễn, tự Thúc Đạt, lập công nghiệp cho đến nối ngôi nhà Tề. Sau khi lên ngôi, vua chú giảng Ngũ Kinh, kính thờ Lão Tử rất mực, tánh tình chí hiếu. Một hôm, ông suy nghó về pháp xuất thế, để đền đáp ơn cha mẹ, liền bỏ đạo Lão theo đạo Phật. Ông thọ giới Bồ-tát với pháp sư Lũ Ước, đắp ca-sa Phật, giảng kinh Phóng Quang Bát-nhã, để báo đáp song thân. Bấy giờ đại só Chí Công hiển bày tài nghệ mê hoặc mọi người, bị bắt giam trong khám. Chí Công bèn phân thân du hóa đến Thành Ấp, một hôm vua nhận biết nên cảm ngộ và kính trọng Chí Công. Chí Công có mật hạnh, ẩn hiện thật không thể lường. Bấy giờ ở Vụ Châu có bậc đại só ở núi Vân Hoàng, trồng hai cây tên là song thọ, tự xưng là Thiện Tuệ Đại Só. Một hôm ông biên thư bảo đệ tử dâng lên vua. Bấy giờ, triều đình cho ông không có tư cách của quần thần nên không nhận. Phó Đại Só vào thành Kim Lăng bán cá. Vũ Đế thỉnh Chí Công giảng kinh Kim Cang. Chí Công nói: Bần đạo không thể giảng, trong chợ có Phó đại só giảng được kinh này. Đế bèn hạ chiếu vời đại só vào cung. Phó Đại Só đã đến, lên giảng tòa, vỗ bàn một cái rồi xuống tòa. Đương lúc ấy bèn xô nhào một cái để khỏi thấy một phen ngổn ngang. Lại bị Chí Công nói: Bệ hạ có hiểu không? Đế nói: Không hiểu. Chí Công nói: Đại só giảng kinh xong Thế là một người làm đầu, một người làm đuôi. Chí Công nói như thế, mộng thấy Phó Đại Só không? Giống như là cố tình huyễn hoặc người, cái này rất kỳ đặc. Tuy là rắn chết biết làm sống lại. Đã là giảng kinh sao không chia làm hai? 1/ Như tòa chủ bình thường nói: Thể Kim Cang cứng chắc, không có vật nào phá hoại được. Dụng nó sắc bén cho nên có thể dẹp được muôn vật. Giảng nói như thế, mới gọi là giảng kinh. Tuy như thế mọi người đâu không biết Phó Đại Só chỉ nêu then chốt hướng thượng lược bày mũi nhọn khiến người biết chỗ rơi, vạch thẳng cho ông, vách đứng ngàn trượng. Vừa lúc bị Chí Công không biết tốt xấu lại nói đại só giảng kinh xong. Chính là tâm tốt mà không được báo đáp tốt. Giống như một chung rượu ngon lại bị Chí Công lấy nước đổ vào. Giống như một nồi canh ngon bị Chí Công bỏ vào một cục cứt chuột. Hãy nói đã không phải giảng kinh, cuối cùng gọi là gì? Tụng: Bất hướng song lâm ký thử thân Khước ư Lương độ nhạ ai trần Đương thời bất đắc Chí Công lão Dã thị tê tê khứ quốc nhân. <詞>DỊCH: Không đến song lâm gởi thân tàn Lại vào Lương độ dấy bụi vàng Bấy giờ không được Chí Công lão Cũng phải bôn ba đến nước ngoài. GIẢI TỤNG: “Không đến song lâm gởi thân tàn, lại vào Lương độ quét bụi vàng”. Phó Đại Só cùng Đạt-ma chung một đường đến Kim Lăng yết kiến Võ Đế. Đế hỏi: Thế nào là Đệ nhất nghóa Thánh Đế? Đạt-ma: Rỗng rang không Thánh. Đế: Người đối diện trước mặt trẫm là ai? Đạt-ma: Không biết. Chí Công: Đây là Quán Âm đại só, truyền tâm ấn của Phật. Đế hối hận, bèn sai sứ tìm Đạt-ma. Chí Công nói: Bệ hạ không thể sai sứ đi được, mà mọi người trong cả nước đi tìm ông ta cũng không được. Cho nên Tuyết Đậu nói: “ Bấy giờ chẳng gặp Chí Công lão, cũng phải bôn ba đến nước ngoài. Lúc ấy nếu không phải là Chí Công nói cho Phó Đại Só nghe cũng sẽ bị đuổi ra khỏi nước. Chí Công đã lắm lời. Vũ Đế cũng bị Sư lừa một trận. Đại ý của Tuyết Đậu nói: Chẳng phải Đại só đến đất Lương giảng kinh, vỗ bàn. Cho nên nói: “Không đến song lâm gởi thân tàn”. Ăn cháo, ăn cơm, tùy phần qua ngày. Lại đến đất Lương tay vỗ bàn như thế rồi xuống tòa. Chính là chỗ Sư làm dấy bụi. Đã là thù thắng thì mắt nhìn mây xanh, trên không thấy có Phật, dưới không thấy có chúng sinh. Nếu luận về việc xuất thế thì chẳng khỏi đầu tro mặt đất, đem không làm có, đem có làm không, lấy phải làm quấy, đem quấy làm phải, đem thô làm tế, ăn thịt uống rượu, nắm ngang dụng ngược khiến tất cả mọi người rõ được việc này. Nếu không buông bỏ như thế mãi thì đến Di-lặc hạ sinh cũng không có một nửa người ù. Phó Đại Só đã là dính bùn kẹt nước, may là có tri âm. Nếu không gặp lão Chí Công hầu như bị đuổi ra khỏi nước rồi. Hãy nói nay ở chỗ nào? KHAI THỊ: Lật cửa trời, lộn trục đất, bắt cọp rồng rắn phải là kẻ hoạt bát mới được. Câu câu hòa nhau, cơ cơ hợp nhau, từ xưa đến nay người nào được như thế, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh: Ông tên gì? Thánh đáp: Huệ Tịch. Ngưỡng Sơn: Huệ Tịch là tên ta. Tam Thánh thưa: Huệ Nhiên. Ngưỡng Sơn cười ha hả! GIẢI THÍCH:Tam Thánh là hàng tôn túc của Tông Lâm Tế. Còn nhỏ mà xuất quần vượt chúng. Đại cơ đại dụng. Ngang dọc trong chúng, tiếng đồn khắp nơi. Sau đó Tam Thánh từ giã Lâm Tế, ngao du khắp sông biển, khắp chốn tòng lâm đều tiếp đãi theo lễ khách quý. Từ phương Bắc đến phương Nam, đến Tuyết Phong hỏi: Cá vàng thoát khỏi lưới lấy gì làm thức ăn? Tuyết Phong nói: Đợi ông ra khỏi lưới ta sẽ trả lời cho ông. Tam Thánh: Là thiện tri thức của một ngàn hai trăm năm mươi người mà ( 12 5 0) thoại đầu cũng chưa biết. Tuyết Phong nói: “Lão tăng trụ trì công việc bề bộn”. Tuyết Phong cùng Tam Thánh đi thăm trang sở của chùa, giữa đường gặp một con khỉ bèn nói: Con khỉ này, có mang một mặt gương xưa. Tam Thánh nói: Muôn kiếp không tên, lấy gì làm gương xưa. Tuyết Phong: Có tỳ vết vậy. Tam Thánh nói: là thiện tri thức của một ngàn hai trăm năm mươi người mà ( 12 5 0) thoại đầu cũng không biết. Tuyết Phong nói: Sai lầm! Lão tăng trù trì công việc bề bộn. Sau đó đến Ngưỡng Sơn, Sơn rất thích sự thông minh lanh lợi của Sư nên đãi ở Minh song. Một hôm, có một khách đến tham kiến Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn hỏi: Làm quan ở vào địa vị nào? Quan thưa: Thôi làm quan rồi. Ngưỡng Sơn dựng phất trần lên nói: Có thôi được cái này không? Quan không đáp được. Mọi người nói thay cũng không khế hợp với ý của Ngưỡng Sơn. Bấy giờ Tam Thánh bị bệnh ở giảng đường Diên Thọ. Ngưỡng Sơn sai thị giả đem lời này hỏi ông ta. Tam Thánh nói: Hòa thượng có việc, lại bảo thị giả hỏi chưa rõ là việc gì? Tam Thánh nói: tái phạm chẳng tha. Ngưỡng Sơn thầm nhận Sư. Bách Trượng lúc ấy lấy bồ đoàn thiền bản giao phó cho Hoàng Bá, gậy và phất trần trao cho Quy Sơn. Sau đó Quy Sơn trao cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn đã chấp nhận Tam Thánh. Một hôm, Tam Thánh từ giã ra đi. Ngưỡng Sơn lấy gậy và phất trần trao cho Tam Thánh. Tam Thánh nói: Con đã có thầy rồi. Ngưỡng Sơn hỏi nguyên do của Tam Thánh thì ra chính là đệ tử nối pháp của Lâm Tế. Như Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh “Ông tên gì?” Đâu phải Ngưỡng Sơn không biết tên Sư. Tại sao lại hỏi thế ấy? Vì hàng tác gia phải nghiệm người biết cho chính chắn. Nên hỏi “Ông tên gì?”. Không nghó ngợi Tam Thánh đáp là Huệ Tịch mà không nói là Huệ Nhiên, là tại sao? Xem ra Sư có con mắt tự nhiên bất đồng. Tam Thánh thế ấy nhưng không phải là người điên một bề dụng ý cướp cờ đoạt trống ngoài lời của Ngưỡng Sơn. Lời này chẳng rơi vào thường tình, khó bề dò xét. Những kẻ có thủ đoạn này là làm sống được người. Vì thế nói người đó tham hoạt cú chẳng tham tử cú. Nếu theo thường tình thì dứt người chẳng đựơc. Xem người xưa kia nghó đạo thế ấy, phải dùng hết tinh thần mới được đại ngộ, đã ngộ rồi khi dùng cũng đồng chưa ngộ, giống người lúc đó, tùy phần một lời nửa câu, chẳng được rơi vào chỗ thường tình. Tam Thánh biết chỗ rơi của Ngưỡng Sơn, liền nói với Sư, con tên Huệ Tịch. Ngưỡng Sơn cốt thâu Tam Thánh, ngược lại Tam Thánh thâu Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn chỉ được trả đủa nói Huệ Tịch là ta, là chỗ phóng hành. Tam Thánh thưa: Con tên Huệ Nhiên, cũng là phóng hành. Vì thế sau đây Tuyết Đậu tụng: “Song thâu, song phóng nhược vi Tông”. Chỉ trong một câu đồng thời tụng xong. Ngưỡng Sơn cười ha hả! Cũng có quyền có thật, có chiếu có dụng, vì Sư có thủ đoạn chu toàn khéo léo. Thế nên, chỗ dùng được tự tại. Cái cười này khác với cái cười của Nham Đầu. Cái cười của Nham Đầu có thuốc độc. Cái cười này ngàn xưa, muôn xưa gió mát lạnh run. Tuyết Đậu Tụng: <詞>TỤNG: Song thâu song phóng nhược vi Tông NGHÓA: Kî hổ do lai yếu tuyệt công Tiếu bãi bất tri hà xứ khứ Chỉ ưng thiên cổ động bi phong. Hai thâu, hai phóng nếu làm Tông Cỡi cọp nguyên lai cốt bặt công Cười dứt biết đi về đâu tá? Chỉ nên thiên cổ động bi phong. GIẢI: Câu: Hai thâu hai phóng nếu làm tông”, phóng hành lẫn nhau làm chủ khách. Ngưỡng Sơn hỏi: Ông tên gì? Tam Thánh thưa: “Con tên Huệ Tịch” là song phóng. Ngưỡng Sơn nói: Huệ Tịch là tên ta. Tam Thánh thưa: “Con tên Huệ Nhiên” là song thâu. Kỳ thật là cơ hoán đổi lẫn nhau, thâu thì cả thảy đều thâu, phóng thì cả thảy đều phóng. Tuyết Đậu đã cùng một lúc tụng hết vậy. Ý Sư ta nói: Nếu không phóng thâu, nếu không đổi nhau, thì ông là ông, ta là ta, chỉ là bốn chữ. Vì sao trong đó lại ra vào cuộn duỗi? Người xưa nói: Nếu ông đứng thì ta ngồi. Nếu ông ngồi thì ta đứng. Nếu đồng ngồi đồng đứng thì cả hai đều là kẻ mù. Đây là “song thâu song phóng” có thể làm tông yếu. Câu: “Cỡi cọp nguyên lai cốt bặt công”. Có cao phong, cơ yếu tối thượng, cần cỡi liền cỡi, cần xuống liền xuống, chận đầu cọp cũng được, nắm đuôi cọp cũng được. Tam Thánh và Ngưỡng Sơn đều có cơ phong này. Câu “cười dứt biết đi về đâu tá”. Hãy nói Sư cười cái gì? Dù được gió mát. Vì sao cuối cùng lại nói: “Chỉ cần thiên cổ động bi phong”, cũng là chết mà không điếu. Một lúc vì ông chú giải xong, dú cho người cả thiên hạ gậm nhắm không vào được, chẳng biết chỗ rơi dù cũng không biết chỗ rơi. Quý vị có biết không? KHAI THỊ: Chỗ không gặm nhấm, tâm ấn Tổ sư như cỏ trâu sắt, thoát khỏi rừng gai gốc, hàng Thiền khách như một điểm tuyết trên lò lửa, trên đất bằng đại triệt ngộ thì thôi không hỏi, chỉ hỏi chẳng rơi vào chỗ vay mượn thì làm sao, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Nam Tuyền, Quy Tông, Ma Cốc cùng đi lễ bái Quốc sư Tuệ Trung. Đi giữa đường Nam Tuyền vẽ một vòng tròn trên đất nói: “Nói được thì đi”. Quy Tông bèn ngồi trong vòng tròn đó. Ma Cốc giả làm người nữ lạy. Nam Tuyền nói: Như thế thì không đi. Quy Tông nói: Là tâm hạnh gì? GIẢI: Bấy giờ Mã Tổ giáo hóa hưng thịnh ở Giang Tây. Thạch Đầu giáo hóa thịnh ở Hồ Tương. Quốc Sư Tuệ Trung giáo hóa ở Trường An. Quốc Sư đích thân gặp Lục Tổ rồi về đây. Khi ấy phương Nam những người đầu mọc sừng không ai không muốn đến nhà kia, vào thất kia. Nếu không như vậy thì bị người chê cười. Ba lão này muốn lễ bái Trung Quốc Sư, đi giữa đường làm một phen bại hoại này. Nam Tuyền nói: “Như thế thì không đi”. Đã là ai cũng nói được tại sao không đi? Hãy nói ý người xưa thế nào? Lúc ấy đợi Sư nói như thế thì không đi, liền đánh cho bạt tai. Xem Sư khéo léo thế nào? Vạn cổ chấn hưng tông phong, chỉ là một chút cơ yếu này. Cho nên Từ Minh nói: “Cần kéo chỉ ở đầu dây, vạch được nắm được liền như đẩy trái bầu trên mặt nước”. Nhiều người bảo là lời không thừa nhận nhau. Đâu không biết việc này chỗ tột cùng, phải lìa bùn rời nước, tháo chốt nhổ đinh. Nếu ông hiểu tâm hành là không dính líu. Người xưa chuyển biến rất khéo. Đến đây không được không như thế, phải là có sống có chết. Xem một người ngồi trong vòng tròn, còn một người làm người nữ lạy thật tài tình. Nam Tuyền nói: “Như thế thì không đi”. Qui Tông bảo: “Là tâm hạnh gì?” Kẻ tầm thường lại thế, cốt nghiệm Nam Tuyền. Nam Tuyền bình thường nói: “Gọi là như thế chính là biến chuyển rồi. Nam Tuyền, Quy Tông và Ma Cốc lại là người trong một nhà, một bắt, một thả, một chết, một sống, quả thật kỳ đặc. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Do cơ tiễn xạ viên Nhiễu thọ hà thái trực Thiên cú dữ vạn cá Thị thùy tằng trúng đích Tương hô tương hoán qui khứ lai Tào Khê lộ thượng hưu đẳng bộ. Do Cơ bắn khỉ Quanh vậy cây sao quá thẳng Ngàn người cùng muôn người Mấy ai từng trúng đích Gọi nhau kêu nhau về lại đi Tào Khê lộ ấy thôi tiến bước. Lại nói: Con đường Tào Khê đất bằng, vì sao thôi tiến bước? <詞>GIẢI TỤNG: “Hai câu: Do Cơ bắn khỉ, Quanh cây sao quá thẳng”. Do Cơ là người nước Sở, họ Dưỡng, tên Thúc, tự Do Cơ. Bấy giờ Sở Trang Vương đi săn bắn thấy một con vượn trắng bèn sai người bắn. Con vượn ấy chụp mũi tên tỏ vẻ vui đùa. Vương bèn sai quần thần bắn, không có người nào bắn trúng cả. Sở Vương mới hỏi quần thần, quần thần tâu rằng: Do Cơ là người bắn giỏi. Sở vương bảo Do Cơ bắn. Do Cơ mới dương cung con vượn liền ôm cây mà khóc khi mũi tên phát ra, vượn liệng quanh cây để tránh. Mũi tên cũng liệng quanh cây bắn chết con vượn. Mũi tên ấy là mũi tên thần. Tuyết Đậu vì sao lại nói bắn thẳng. Nếu rất thẳng thì không trúng. Đã là quanh cây vì sao Tuyết Đậu lại nói rất thẳng. Tuyết Đậu mượn ý đó, quả thật rất hay. Sự việc này trích trong Xuân Thu. Có người nói: “Qua- nh cây là tướng vòng tròn. Nếu đúng như thế, người này thật không biết tông chỉ của lời nói, không biết chỗ rất thẳng. Ba lão này khác đường mà cùng về một lối, đồng loạt rất thẳng. Nếu biết được chỗ đi của Sư thì thấu triệt không rời một tấc vuông, trăm sông khác dòng đồng về biển cả. Vì thế Nam Tuyền nói: Như thế thì không đi. Nếu là mắt chánh của nạp tăng nhìn thấy thì đó huyển hoặc chỉ là. Nếu gọi là huyễn hoặc lại không phải là huyễn hoặc. Ngũ Tổ Tiến Sư nói: Ba người ấy là Tuệ cự Tam-muội, Trang nghiêm vương Tam-muội. Tuy như thế, làm người nữ lạy, Sư hoàn toàn không biết theo làm người nữ lạy. Tuy vẽ vòng tròn, Sư hoàn toàn không hiểu theo vẽ vòng tròn. Đã không hiểu như thế, thì phải hiểu thế nào? Tuyết Đậu nói: “Ngàn người muôn người, mấy ai từng trúng đích”. Lại có mấy người, trăm phát trăm trúng. gọi nhau kêu nhau về tại đó. Tụng Nam Tuyền nói: “Thế ấy chẳng đi”. Nam Tuyền từ đây không đi. nên nói: “Tào khê lộ ấy thôi tiến bước?” Diệt sạch rừng gai gốc. Tuyết Đậu nắm không định. Lại nói: Con đường Tào khê bằng phẳng, vì sao thôi tiến bước? Con đường Tào khê dứt bụi tuyệt dấu bày rõ ràng bình thản, an nhàn. Vì sao lại thôi tiến bước? Mỗi người tự xem gót chân mình? KHAI THỊ: Người khéo một lời, ngựa hay một roi, một niệm muôn năm, muôn năm một niệm, cần biết thẳng tắt, trước khi chưa nêu. Hãy nói trước khi chưa nêu làm sao tìm cầu, xin nêu xem? CÔNG ÁN: Quy Sơn, Ngũ Phong, Vân Nham đồng làm thị giả hầu Bách Trượng. Bách Trượng hỏi Quy Sơn, bỏ đi cổ họng, môi mép làm sao nói? Quy Sơn nói: Thỉnh Hòa thượng nói. Bách Trượng nói: Ta không từ chối nói với ông, nhưng sợ sau này mất hết con cháu của ta. GIẢI THÍCH: Quy Sơn, Ngũ Phong và Vân Nham cùng làm thị giả hầu Bách Trượng. Bách Trượng hỏi Quy Sơn, bỏ đi cổ hầu, môi mép làm sao nói? Quy Sơn nói: Thỉnh Hòa thượng nói. Bách Trượng nói: Ta không từ chối nói với ông, nhưng sợ sau này mất hết con cháu của ta. Bách Trượng tuy như vậy, cái nồi đã bị người khác lấy đi rồi. Bách Trượng lại hỏi Ngũ Phong. Ngũ Phong đáp: Hòa thượng cũng phải dẹp hết. Bách Trượng nói: Chỗ không người, gạt bỏ đi cái bảng hiệu mà nhìn ông, lại hỏi Vân Nham. Vân Nham nói: Hòa thượng có hay chưa? Bách Trượng nói: Mất hết con cháu của ta. Ba người mỗi vị một nhà. Người xưa nói: Trên đất bằng người chết vô số, qua được rừng gai là người khéo tay, vì thế hàng tông sư đem rừng gai để nghiệm người. Vì sao? Nếu ở dưới câu thường tình nghiệm người không được. Nạp tăng phải trong câu trình cơ, trong lời phân biệt rõ mục đích, nếu là kẻ cố chấp phần nhiều chết trong câu cú, bèn nói bỏ đi cổ họng, môi mép thì không có chỗ mở miệng. Nếu là người biến thông, có sóng nghịch dòng, chỉ nhằm trên câu hỏi có lối đi, tay không bị thương tích. Quy Sơn nói: Thỉnh Hòa thượng nói. Hãy nói ý ông ta thế nào? Trong đây như chọi đá, nháng lửa, tợ làn điện chớp, nhân chỗ hỏi của Sư bèn đáp, tự có chỗ thoát thân, không tốn một mảy may sức lực, cho nên nói: “Ông ta tham hoạt cú chứ không tham tử cú. Bách Trượng lại không biện được ông ta, chỉ nói: Không từ chối nói cho ông, nhưng sợ sau này con cháu của ta mất hết”. Phàm bậc tông sư vì người nhổ đinh tháo chốt. Như người thời nay nói: “Đáp này không thừa nhận Sư không tiếp thu. Đâu không biết trong đó có một đường sanh cơ, vách đứng vạn nhẫn, khách chủ đổi nhau, sống hoạt bát. Tuyết Đậu thích lời của Quy Sơn, phong cách uyển chuyển tự tại, lại có thể quét sạch mọi kiến giải. Cho nên tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Khước thình Hòa thượng đạo Hồ đầu sanh giáo xuất hoang thảo Thập Châu Xuân tận hoa điêu tàn San hô thọ lâm nhật cảo cảo. Lại thỉnh Hòa thượng nói Đầu cọp mọc sừng ra cỏ hoang Mười châu Xuân hết hoa điêu tàn Rừng cây san hô ngày càng sáng. TỤNG GIẢI: Chỗ đáp của ba người này đều không đồng, có vách đứng vạn nhẫn, có chiếu dụng đồng thời, tự cứu không xong. Câu: “Lại thỉnh Hòa thượng nói”, Tuyết Đậu nhằm trong câu này trình cơ xong. Lại đến trong ấy đẩy nhè nhẹ làm cho người khác dễ thấy. Nói Đầu cọp mọc sừng ra cỏ hoang”. Chỗ đáp của Quy Sơn như trên đầu cọp mạnh mọc sừng. Tăng hỏi: “Khi đồng sanh chẳng đồng tử thì thế nào? Quy Sơn nói: Như trâu không sừng. Tăng hỏi: Đồng sinh cũng đồng tử thời thế nào? Quy Sơn nói: Như cọp mọc sừng. Tuyết Đậu chỉ một câu tụng xong. Sư có tài chuyển biến, lại nói: Mười châu Xuân hết hoa điêu tàn”. Trên biển có ba núi mười châu, lấy trăm năm làm một mùa Xuân. Tuyết Đậu nói phong cách, uyển chuyển bàng bạc. Mùa Xuân hết, trăm ngàn muôn cành hoa đồng thời điêu tàn. Chỉ riêng “rừng cây san hô chợt sáng rỡ không tàn rụng cùng mặt trời đoạt ánh sáng soi chiếu lẫn nhau, chính lúc như thế thật kỳ đặc. Tuyết Đậu dùng hình ảnh này để rõ câu “Lại thỉnh Hòa thượng nói”. Mười châu là chỗ phụ cận của các nước hải ngoại gồm (2 0 0) 1/ Tổ châu: Sản xuất mùi thơm. 2/ Doanh châu: Sản xuất cỏ thơm, ngọc thạch, nước suối như vị rượu. 3/ Huyền châu: Sản xuất thuốc tiên uống vào được trường sinh. 4/ Trường châu: Sản xuất mộc qua, ngọc anh. 5/ Viêm châu: Sản xuất lửa giặt vải. 6/ Nguyên châu: Sản xuất suối linh như mật. 7/ Sinh châu: Có núi sông không nóng lạnh. 8/ Phụng lân châu: Người ta lấy cái mỏ của chim phượng và sừng của con lân nấu làm cao. 9/ Tụ huyệt châu: Sản xuất loài sư tử đầu đồng, trán sắt. 10/ Đàn châu: Sản xuấtđá côn ngô làm kiếm, chén ngọc như bùn. Tạp Truyện San Hô Ngoại Quốc nói: Đại Tần về phía Nam trong biển rộng độ bảy, tám trăm dặm, đến châu San hô, đáy châu có bàn thạch, san hô mọc trên đá. Người ta dùng lưới sắt để lấy san hô. Lại Thập Châu Ký nói: San hô mọc ở Nam Hải, như cây cao hai, ba thước, có cành không có vỏ da, giống như ngọc màu đỏ, cảm với trăng mà sống, ở đầu cành đều có vầng sáng của mặt trăng. <篇> VIÊN QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 8 CÔNG ÁN: Bách Trượng lại hỏi Ngũ Phong: Bỏ cổ họng, môi mép thì làm sao nói? Ngũ Phong nói: Hòa thượng cũng phải dẹp hết. Bách Trượng: Chốn không người không, cứ bảng hiệu mà nhìn. GIẢI THÍCH: Quy Sơn chặt đứt đường ngôn ngữ. Ngũ Phong cắt đứt các dòng, một chút này ngay mắt nêu lên rút lại. Như hai con ngựa không đá nhau, không cho nghó bàn, lập tức liền gấp rút. Không giống như Quy Sơn bàn bạc thao thao. Như thiền lữ ngày nay chỉ đi dưới gió, không thể thoát được một đầu kia. Cho nên nói muốn được thân thiết chớ lấy hỏi để hỏi. Chỗ đáp của Ngũ Phong đương đầu quét sạch, quả thật thích thú.. Bách Trượng nói: Chốn không, người không cứ bảng hiệu mà nhìn. Hãy nói Sư hay không thừa nhận Sư là chết hay là sống, thấy ông ta tự do tự tại, chỉ cho ông ta một chấm. Tuyết Đậu tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Hòa thượng dã tinh khước Long xà trận thượng khán mưu lược Linh nhân trường ức Lý tướng quân Vạn lý thiên biên phi nhất ngạc. Hòa thượng cũng dẹp hết Trên trận long xà xem mưu lược Khiến người thương nhớ Lý tướng quân Muôn dặm bên trời cánh nhạn bay. GIẢI TỤNG: Câu: “Hòa thượng cũng dẹp hết, Tuyết Đậu ngay trong câu đẩy một cái “ Trên trận long xà xem mưu lược”. Bày hai trận thoạt ra thoạt vào, có thủ đoạn khéo léo, người có tài năng thao lược, một người, một ngựa xông vào trận long xà ra vào tự tại. Ông làm sao bao vây được họ. Nếu không phải là người này thì đâu có mưu lược như thế. Ba bài tụng này của Tuyết Đậu đều đun vào đó, bày Thốt ra lời như thế, giống như tên thần của Lý Quảng, “Muôn dặm bên trời cánh nhạn bay”. Một mũi tên nhất định bắn rơi một con chim, nhất định không bỏ qua. Tuyết Đậu tụng chỗ hỏi của Bách Trượng như một con chim nhạn, chỗ đạp của Ngũ Phong như một mũi tên. Sơn tăng chỉ lo ca ngợi Ngũ Phong, bất chợt đầy mình dính bùn nước. CÔNG ÁN: Bách Trượng lại hỏi Vân Nham: Bỏ đi cổ họng, môi mép thì làm sao nói? Vân Nham: Hòa thượng có hay chưa? Bách Trượng: Mất hết con cháu của ta. Vân Nham hai mươi lăm năm thị giả cho Bách Trượng. Sau theo Đạo Ngô đến Dược Sơn. Dược Sơn hỏi: Ông ở trong hội Bách Trượng làm việc gì? Vân Nham: Vượt khỏi sinh tử. Dược Sơn: Vượt khỏi chưa? Vân Nham: Vả không sinh tử. Dược Sơn: Hai mươi năm ở với Bách Trượng mà tập khí vẫn chưa trừ. Vân Nham từ biệt Dược Sơn đến tham kiến Nam Tuyền, sau trở lại Dược Sơn mới khế ngộ. Xem người xưa hai mươi năm tham cứu vẫn còn, nửa xanh, nửa vàng, dính da, dính xương không thể thoát nhanh chóng, đúng thì cũng đúng. Chỉ là trước không đến thôn, sau không tới quán. Không thấy nói: Có lời chẳng rời chỗ hang ổ, phiền não thoát được ư? Áng mây chắn cửa động, quên nguồn biết bao người. Tông Tào Động gọi là Xúc phá. Cho nên nói đạp sơn trượng lầu phượng hoàng. Người bấy giờ e phạm húy cái tên thời ấy. Cho nên nói: Rừng gai góc phải vượt qua mới được. Nếu không vượt qua từ đầu đến cuối còn vướng mắc, chặt không đứt. Vừa nói trước không lập thân, sau không tới quán. Vân Môn mặc dù đi kiểm điểm người khác, Bách Trượng thấy ông ta như thế, một lúc lôi ra đánh cho chết. Tuyết Đậu Tụng: <詞>TỤNG: DỊCH: Hòa thượng hữu dã vị Kim mao sư tử bất cứ địa Lưỡng lưỡng tam tam cựu lộ hành Đại hùng sơn hạ không đàn chỉ Hòa thượng có hay chưa? Sư tử lông vàng không tựa đất Hai hai ba ba lối cũ đi Dưới núi Đại Hùng khảy tay có rỗng. GIẢI TỤNG: “Hòa thượng có hay chưa?” Tuyết Đậu cứ bản tội luận án, đúng thì đúng, chỉ là sư tử lông vàng, đâu dè không tựa đất. Sư tử bắt các loài thú che giấu nanh vuốt, ngồi xổm trên đất chụp bắt con vật bất kỳ lớn nhỏ nó đều dùng toàn oai, dùng toàn lực của mình. Vân Nham nói: Hòa thượng có hay chưa? Chỉ nhằm trên đường cũ đi. Cho nên Tuyết Đậu nói: “Bách Trượng nhằm dưới núi Đại Hùng gãy tay rỗng”. KHAI THỊ: Phàm người thuyết pháp, không nói không dạy. Người nghe pháp không nghe, không được. Thuyết đã không nói, không dạy, chỉ bằng không nói. Nghe đã không nghe, không được, chỉ bằng không nghe. Song không nói không nghe vẫn thiếu đôi phần. Chỉ như hiện nay quý vị nghe sơn tăng ở đây, nói làm sao tránh được lỗi này? Người xuyên thấu cửa thiền cơ, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Mã Đại sư: Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Sư chỉ thẳng ý của Tổ sư tự sang? Mã Tổ bảo: Hôm nay ta mệt mỏi không thể nói cho ông được, hỏi nơi Trí Tạng đi! Tăng hỏi Trí Tạng, Trí Tạng đáp: Sao không hỏi Hòa thượng? Tăng: Hòa thượng dạy con đến hỏi nơi Ngài. Trí Tạng: Ngày nay ta đau đầu không thể nói cho ông được, hãy hỏi Hoài Hải đi! Tăng hỏi Hoài Hải, Hoài Hải nói: Đến đây tôi lại không biết. Tăng kể lại cho Mã Tổ. Mã Tổ nói: Tạng đầu bạc, Hải đầu đen. GIẢI THÍCH: Công án này, sơn tăng ngày trước ở thành đô tham kiến Chân Giác. Giác nói: Chỉ cần khán câu thứ nhất của Mã Tổ, tự nhiên một lúc khế hội được. Hãy nói vị Tăng này hiểu đến hỏi hay là không hiểu mà đến hỏi? Câu hỏi này thật là sâu xa. (2 0 1) Ly tứ cú tức là có, không, chẳng có chẳng không, chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không. Lìa bốn câu này thì dứt luôn cả trăm cái phi, mặc dù cho làm đạo lý, không biết thoại đầu, tìm đầu não mà không thấy. Nếu là sơn tăng, đợi Mã Tổ nói xong liền trải tọa cụ ra lạy ba lễ, xem Ngài sẽ nói thế nào? Lúc ấy Mã Tổ thấy tăng này đến hỏi “ly tứ cú tuyệt bách phi”, thỉnh sư chỉ thẳng ý chỉ Phật pháp cho con, thì liền chụp gậy đánh đuổi ra, xem ông ta có tỉnh ngộ hay không. Mã Tổ mặc dù đã giảng nói cho ông ta, mà gã này trước mặt lầm qua, bèn bảo đi hỏi Trí Tạng. Đâu không biết Mã Đại sư có tài biện sâu, vị tăng này mù mịt, đi hỏi Trí Tạng, Trí Tạng nói: Sao không hỏi Hòa thượng. Tăng thưa: Hòa thượng bảo con đến hỏi Ngài. Xem một chút này của ông ta đẩy liền chuyển, lại không có chỗ nhàn rỗi. Trí Tạng nói: Ngày nay ta đau đầu không thể nói cho ông được hãy đến hỏi Hoài Hải. Tăng này lại đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải nói: Ta đến đây không biết gì cả. Hãy nói, vì sao một người thì nói đau đầu, một người thì nói không hiểu gì cả, rốt cuộc thế nào? Tăng này lại trở về kể cho Mã Tổ, Mã Tổ nói: Tạng đầu bạc, Hải đầu đen. Nếu dùng lối tri kiến để suy đoán thì gọi là lừa nhau. Có người nói: Chỉ là đẩy qua cho nhau. Có người nói: Cả ba người đều biết câu hỏi của vị tăng này, nhưng không đáp. Thảy đều là mù, cùng một lúc đem thuốc độc để vào thượng vị đề hồ của người xưa. Cho nên Mã Tổ nói: “Đợi ông uống hết nước Tây Giang ta sẽ nói cho ông nghe”. Câu đó cùng với công án này một loại. Nếu hiểu được Tạng đầu bạc, Hải đầu đen thì hiểu được lời nói uống nước Giang Tây. Vị Tăng này đem một gánh mù mịt đổi được cái không an vui, làm nhọc nhằn cho ba vị tôn túc, dùng phương tiện nói pháp, rốt cuộc vị tăng này cũng không tỏ. Tuy như thế, ba tông sư lại bị gã cố chấp này khám phá. như người thời nay dù chạy trên ngôn ngữ làm kế sống nói bạc là hiệp đầu sáng, đen là hiệp đầu tối. Chỉ biết dùi mài suy tính. Đâu không biết một câu của người xưa cắt đứt ý căn, phải là nhằm trong chánh phái tự xem mới được thỏa đáng. Cho nên nói: Mạt hậu cú có thấu rõ mới đến được lao quan, giữ vững biên cương không cho phàm Thánh qua lại. Nếu luận về việc này giống như ngay cửa, để một thanh kiếm, suy nghó thì tan thân mất mạng. Lại nói: Thí như vung kiếm trên hư không, chớ luận bàn đến hay không đến, chỉ nhằm chỗ thủ đoạn khéo léo hiểu được. Người xưa nói: Cái thùng sơn này. hoặc nói: Dã hồ tinh. Hoặc nói: Kẻ mù. Hãy nói cùng một gậy, một hét là đồng hay là khác? Nếu biết thì ngàn sai vạn biệt chỉ là một loại, tự nhiên tám mặt chịu trận. Muốn hiểu Ngũ Tổ tiên sư nói: Tiên sinh phong hậu. Tuyết Đậu tụng: Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc Minh nhãn nạp tăng hội bất đắc Mã câu đạp sát thiên hạ nhân Lâm Tế vị thị bạch niêm tặc <詞>Dịch: Ly Tứ cú tuyệt bách phi Thiên thượng nhân gian duy ngã tri. (Tạng đầu trắng, Hải đầu đen Thiền Tăng mắt sáng hiểu không được Ngựa tơ đạp chết biết bao người Lâm Tế chưa là kẻ cướp giỏi Lìa tứ cú tuyệt bách phi Trên trời nhân gian chỉ ta biết). GIẢI TỤNG: Tạng đầu bạc, Hải đầu đen”. Hãy nói ý thế nào? Một chút này nạp tăng trong thiên hạ nhảy không ra khỏi. Xem Tuyết Đậu mặt sau hợp rất hay. Nói dù cho nạp tăng mắt sáng cũng hiểu không được chút tin tức này gọi là bí quyết thần tiên cha con không truyền. Đức Thích-ca thuyết giáo trong một đời cuối cùng chỉ truyền tâm ấn gọi là Kim Cang Vương Bảo Kiếm, gọi là chánh vị, giải thích như thế chính là việc không được lợi cho mình. Người xưa lộ bày một chút sắc bén. Nếu là người thấu suốt được là đại triệt đại ngộ, được đại tự tại. Nếu không thấu suốt được thì từ trước đến giờ không có chỗ ngộ nhập, càng nói càng đi xa. Ngựa tơ đạp chết người thiên hạ, Bát-nhã-đa-la ở Tây Thiên sấm ký cho Đạt- ma rằng: Nước Trung Quốc tuy bao la mà không có lối khác, muốn nhờ đi dưới chân của con cháu, gà vàng biết mổ một hạt lúa, cúng dường mười phương La-hán tăng. Lại Lục Tổ bảo Hòa thượng Nhượng rằng: Phật pháp sau này từ nơi ông, sau này sinh ra một con ngựa tơ đạp chết người trong thiên hạ. Về sau ở Giang Tây nối pháp truyền bá khắp thiên hạ. Bấy giờ gọi là Mã Tổ, Đạt-ma, Lục Tổ đều sấm ký là Mã Tổ. Xem hành động của ông ta quả nhiên khác. Chỉ nói Tạng đầu bạc, Hải đầu đen liền thấy chỗ đạp chết người trong thiên hạ. Chỉ một câu đen trắng này nói ngàn người vạn người, không phá được. Lâm Tế chưa phải là tên trộm giỏi. Một hôm Lâm Tế dạy chúng nói: Trên cục thịt đỏ có một con người thật không địa vị thường ra vào trước mặt các ông. Người chưa chứng cứ xem thư? Bấy giờ có vị tăng ra hỏi: Thế nào là một người thật không có địa vị? Lâm Tế xuống thiền sàng đưa gậy nói: “Nói nói!” Tăng không nói lời nào. Lâm Tế đẩy ra nói: Một người thật không địa vị là que phân khô. Tuyết Phong sau này nghe nói: Lâm Tế giống như tên giặc giỏi. Tuyết Phong muốn gặp Lâm Tế xem cơ phong của Mã Tổ càng hơn Lâm Tế. Đây chính là tên trộm giỏi. Tuyết Đậu một lúc xỏ lỗ mũi được. Lại tụng tăng này nói “lìa tứ cú tuyệt bách phi’ trên trời nhân gian chỉ ta biết. Lại chớ mưu sống trong hang quỷ. Người xưa nói: Hỏi nơi chỗ đáp, đáp nơi chỗ hỏi, chính là kỳ đặc, ông làm sao “Lìa tứ cú”, tuyệt bách phi. Tuyết Đậu nói: Chỉ có ta mới biết việc này. Dù ba đời chư Phật cũng nhìn không thấy. Đã là chính mình tự biết, mọi người trước hết tìm cầu cái gì. Đại Quy Chân Như nói: Tăng này hỏi như thế, Mã Tổ đáp như thế. Lìa tứ cú tuyệt bách phi, Trí Tạng, Hoài Hải đều không biết. Có muốn hiểu không, không thấy nói ngựa tơ đạp chết người trong thiên hạ. KHAI THỊ: Kiếm mạc da đặt ngang mũi tên bén cắt đứt ổ sắn bìm, gương sáng treo cao, trong câu dẫn ra ấn Tỳ-lô, chỗ Điền địa ẩn mật, mặc áo ăn cơm. Chỗ du hý thần thông làm sao gá nương, rõ ràng? Xem văn ở dưới. CÔNG ÁN: Hòa thượng Kim Ngưu mỗi khi đến giờ trai, tự mang thùng cơm để trước tăng đường múa rồi cười ha ha, nói: Bồ-tát con lại ăn cơm! Tuyết Đậu nói: Tuy như thế, Kim Ngưu không phải là tâm tốt. Tăng hỏi Trường Khánh: Người xưa nói: Bồ-tát con lại ăn cơm ý chỉ thế nào? Trường Khánh nói: Giống như nhân thọ trai, khánh tán GIẢI: Kim Ngưu là tôn túc dưới Mã Tổ, mỗi khi đến giờ thọ trai tự mang thùng cơm để trước tăng đường múa rồi, cười hả hả, nói: Bồ-tát con đến ăn cơm! Như thế hai mươi năm. Hãy nói ý Ngài ở chỗ nào? Nếu chỉ gọi ăn cơm, bình thường đánh bảng đánh trống cũng đủ báo hiệu rồi. (2 0 2) Tại lại tự mang thùng cơm, làm nhiều việc như thế? Có phải Ngài điên không? Có phải Ngài đề xướng kiến lập không? Nếu là đề xướng việc này sao không lên tòa Bảo Hoa Vương gõ giường thiền dựng phất trần, làm như thế để làm gì? Người thời nay đâu không biết người xưa ý tại ngôn ngoại. Tại sao không xem đề mục của Tổ sư lúc mới đến nói cái gì? Nói rõ ràng: “Giáo ngoại biệt truyền, chỉ riêng truyền tâm ấn”. Người xưa phương tiện cũng chỉ dạy ông ngay đó thừa đường đi. Người sau này vọng tự suy tính nói ở đâu có nhiều việc? Lạnh thì sưởi ấm, nóng thì hóng mát, đói thì ăn, mệt lại nghỉ. Nếu như thế là lấy nghóa thường tình để chú giải. Một tông của Đạt-ma quét sạch mà không biết người xưa trong hai mươi sáu thời niệm niệm không bỏ. Muốn rõ việc này, Tuyết Đậu nói: Tuy nhiên như thế, Kim Ngưu không phải là tâm tốt. Chỉ một câu này bao nhiêu người đã hiểu lầm. Gọi là thượng vị đề hồ, được đời quý trọng, gặp những người này trở thành độc dược. Kim Ngưu đã là người quanh co. Vì sao Tuyết Đậu nói không phải là tâm tốt? Vì sao lại nói như thế? Nhà nạp tăng phải có cơ sống mới được. Người đời nay không đến điền địa của người xưa, chỉ thích nói: Thấy cái tâm gì? Có Phật gì? Nếu dùng kiến giải như thế thì phá hoại lão tác gia Kim Ngưu rồi, phải xem cẩn thận mới được. Nếu chỉ ngày nay, ngày mai nói thích khẩu ắt thì không có ngày liễu ngộ. Sau này Trường Khánh thượng đường, có vị Tăng hỏi: Cổ nhân nói Bồ tát con đến ăn cơm, ý chỉ thế nào? Trường Khánh đáp: Giống như nhân trai khánh tán. Hoàn Tôn túc rất mực từ bi, bày vẽ không ít, đúng thì đúng, nhân thọ trai khánh tán, ông hãy nói khánh tán cái gì? Xem Tuyết Đậu tụng: Bạch Vân ảnh lý tiếu ha ha Lưỡng thủ trì lai phó dữ tha Nhược thị kim mao sư tử tư Tam thiền lý ngoại kiền hào ngoa <詞>Nghóa: Bóng mây trắng bạc cười ha ha Hai tay mang lại gửi cho va Sư tử lông vàng con quả thực Ngoài ba ngàn dặm thấy sai ngoa. GIẢI THÍCH: Câu: Bóng trắng mây cười ha ha” Trường Khánh nói: “Nhân trai khánh tán. Tuyết Đậu nói: “Hai tay mang lại gửi cho va”. Hãy nói chỉ là cho tăng ăn cơm hay có việc gì đặc biệt khác? Nếu ngay đó biết được chính xác thì đúng là con sư tử lông vàng. Nếu là con sư tử lông vàng thì nhất định không cần Kim Ngưu mang thùng cơm lại múa cười to. Ngoài ba ngàn dặm biết được chỗ bại hoại của ngài. Người xưa nói: Một niệm khởi lên không cần đè xuống. Cho nên nhà nạp tăng bình thường phải là vượt ra ngoài kiến giải mới được gọi bổn phận Tông Sư. Nếu chỉ y vào ngôn ngữ cũng không khỏi ló đuôi. KHAI THỊ: Gươm linh kiếm báu thường lộ hiện tiền, có thể giết người, cũng có lúc cứu sống người, ở đây ở kia đồng được đồng mất. Nếu muốn nắm chắc thì mặc tình nắm chắc, nếu muốn triển khai thì mặc tình triển khai. Hãy nói không rơi vào khách chủ, không câu nệ vào dung hợp là thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng ở trong hội của Hòa thượng Định Châu đi đến Ô Cữu. Ô hỏi: Pháp của Định Châu giống gì với ở đây? Tăng: Không phân biệt được. Ô Cữu: Nếu không khác thì về bên kia, nói xong liền đánh. Tăng: Gậy có mắt, không được đánh người vô cớ. Ô Cữu: Ngày nay đánh trúng một người, lại đánh ba gậy. Tăng liền ra đi. Ô Cữu: Gậy cong có người ăn. Tăng xoay mình nói: Đâu ở trong tay Hòa thượng được. Ô Cữu: Ông cần sơn tăng trao cho ông. Tăng đến lấy cây gậy của Ô Cữu, đánh Ô Cữu ba gậy. Ô Cữu: Gậy cong gậy cong. Tăng: Có người bị ăn gậy. Ô Cữu: Kẻ đánh người vô cớ. Tăng liền lễ bái. Ô Cữu: Hòa thượng lại như thế. Tăng: Cười ra đi. Ô Cửu: Dùng được như thế, dùng được như thế. Tăng ở trong hội của Hòa thượng Định Châu đến chỗ Ô Cữu. Ô Cữu là bậc tác gia. Mọi người nếu đến đây thì biết được hai người này bên ra bên vào. Ngàn cái vạn cái chỉ là một cái, làm chủ cũng như thế, làm khách cũng như thế, hai người cuối cùng hợp thành một nhà, một lúc cũng thăm dò về sự lãnh ngộ sâu hay cạn, khách chủ hỏi đáp, rốt cùng bậc tác gia xem Ô Cữu hỏi tăng này rằng: Pháp của Định Châu giống gì với ở đây? Tăng: Không phân biệt được. Lúc ấy nếu không phải là Ô Cữu thì khó làm gì được tăng này. Ô Cữu nói: Không phân biệt được thì về bên ấy, bèn đánh. Đâu thể tăng này là tác gia. Bèn nói gậy có mắt không được đánh người vô cớ. Ô Cữu một bề theo lệnh nói: “Ngày nay đánh trúng một người lại đánh ba gậy. Tăng này bèn ra đi. Xem hai người tự do tự tại đều là bậc tác gia liễu việc này, cần phải phân biệt rõ. Tăng này tuy ra đi. Công án này lại chưa rõ. Ô Cữu hoàn toàn muốn nghiệm chỗ thật của tăng, xem tăng này thế nào. Tăng này giống như mịt mờ, cho nên chưa thấy được ông ta. Ô Cữu lại nói: Gậy cong xưa nay có người ăn. “Tăng này cần chuyển thân nhả hơi, lại không làm gì được ông ta, chuyển nhẹ nói: Đâu ở trong tay Hòa thượng được. Ô Cữu là tông sư trên đãnh có mắt, dám nằm trong miệng cọp. Nếu ông cầu sơn tăng trao cho ông. Gã này là kẻ có linh phù. Chỗ nói: “Thấy việc thấy việc những không làm là không dõng mãnh”. Lại không suy nghó, đến gần cướp cây gậy trong tay của Ô Cữu, đánh Ô Cữu ba gậy. Ô Cữu nói: “Gậy cong, gậy cong”. Ông hãy nói ý thế nào? Đầu Thượng nói: Mời gậy vốn có người ăn, đến nỗi đến đây tăng đánh Ô Cữu lại nói gậy cong gậy cong. Tăng nói: Có người bị ăn. Ô Cữu nói: Kẻ đánh người vô cớ. Đầu Thượng nói: Vô cớ đánh một người, cuối cùng tự ăn gậy, vì sao cũng nói “người đánh vô cớ”. Lúc ấy nếu không phải vị tăng cứng cõi này lên cũng không làm gì được Sư. Vị Tăng này liền lễ bái. Cái lễ bái này rất độc địa, cũng không phải là cái tâm tốt. Nếu không phải là Ô Cữu cũng biết ông ta không biện luận. Ô Cữu nói: Lại đi như thế vị tăng này cười lớn đi ra. Ô Cữu nói: Tiêu được như thế, tiêu được như thế. Xem hai vị là hàng tác gia gặp nhau từ đầu đến cuối cùng khách chủ phân minh, đứt rồi khéo nói. Thật ra cũng chỉ là cơ hoán. (2 0 3) Ông ta đến đây cũng không nói có chỗ hỗ hoán. Chính là người xưa tuyệt ý tưởng tình trần, hai bên đều là tác gia, cũng không nói có được, có mất. Tuy là ngôn ngữ trong một lúc này, cả hai người hoạt bát đều có huyết mạch chỉ kim. Nếu có thể ở đây thấy được cũng chính là trong mười hai thời rõ ràng phân minh. Tăng này đi ra là cả hai đều buông rồi, cả hai đều thâu, gọi đó là đổi nhau. Tuyết Đậu chính như thế Tụng: Hô tức dị khiển tức nan Hỗ hoán cơ phong tử tế khan Kiếp thạch có lai du khả hoại Thương minh thâm xứ lập tu càn Ô Cữu lão! Ô Cữu lão! Kỷ hà ban? Dữ tha tiêu bích thái vô đoạn. Dịch: (Gọi thì dễ lại đuổi thì khó Cơ phong hỗ hoán hãy xem kỹ Kiếp thạch kiên cố vẫn bị hoại. Biển sâu thẳm chỗ đứng khô khan Lão Ô Cữu! lão Ô Cữu! Bao nhiêu thứ? Cho kia chiếc gậy không manh mối). Hai câu: “Gọi thì dễ đuổi thì khó”, hàng nhất đẳng là rơi trong cỏ. Tuyết Đậu rất mực từ bi. Thông thường nói: Gọi rắn thì dễ đuổi rắn thì khó, như lấy cái bầu thổi lên kêu rắn thì dễ, cần đuổi thì khó. Giống như đưa gậy cho ông ta thì dễ, lại giựt lại gậy đuổi đi thì khó, phải có bản lónh lão luyện mới có đuổi ông ta đi được. Ô Cữu là hàng tác gia, có thủ đoạn gọi được rắn, cũng có thủ đoạn đuổi rắn. Vị Tăng này cũng không phải hàng mù tối. Ô Cữu hỏi: Đạo pháp nào của Định Châu giống với đây? Chính là gọi tăng ấy, Ô Cữu bèn đánh là sai khiến tăng ấy. Tăng nói: “Gậy có mắt, không được đánh người vô cớ”, xoay lại vị trí của vị tăng này là gọi. Ô Cữu nói: “Nếu cần sơn tăng trao cho ông”, Tăng đến lấy gậy, đánh ba gậy. Là vị tăng đuổi, cho đến vị tăng cười lớn ra đi. Ô Cữu nói: Tiêu được như thế, sẽ tiêu được như thế”. Rõ ràng là đuổi được ông ta rất khéo. Xem cơ phong của hai người đáp đổi nhau, tơ qua chỉ lại, nhồi thành một khối, từ đầu đến cuối khách chủ rõ ràng. Có khi chủ lại làm khách, có khi khách lại làm chủ. Tuyết Đậu ca ngợi chẳng tiếc lời. Cho nên nói: “Cơ phong hỗ hoán chín chắn xem”. Câu: “Kiếp thạch cứng mà có thể hoại”. Nghóa là kiếp thạch này dài bốn mươi dặm, rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần, dày tám vạn bốn ngàn do-tuần. Năm trăm năm mới có người trên cõi trời đến dùng cái y năng ba lượng phất một cái. Rồi đi đến năm trăm năm lại đến, cứ như thế cho đến quét hết khói đá này là một kiếp gọi là kiếp thạch. Tuyết Đậu nói: Kiếp thạch cứng còn có thể hoại. Đá tuy cứng mà còn có thể tiêu ma hết. Cơ phong của hai vị này thiên cổ vạn cổ cũng không cùng tận. Câu: Biển sâu thăm thẳm chỗ đứng còn khô”. Biển mênh mông, sóng to nổi dậy, nước dâng ngập trời. Nếu bảo hai người này vào trong đó đứng, biển cả này cũng phải khô kiệt. Tuyết Đậu đến đây một lúc tụng rồi. Sau này lại nói: Lão Ô Cữu! Lão Ô Cữu! Bao nhiêu thứ?”. Hoặc bắt, hoặc thả, hoặc chết, hoặc sống. Cuối cùng là bao nhiêu thứ? Câu: “Cho kia chiếc gậy không manh mối”. Cây gậy này ba đời chư Phật dùng, lịch đại Tổ sư cũng dùng, hàng tông sư cũng dùng, nhổ đinh tháo chốt, mở niêm, cỡi trói, đâu được dễ dàng trao phó cho người. Ý Tuyết chỉ dùng riêng, mau gặp vị tăng này lúc ấy chỉ triển khai cho ông ta, bỗng gặp kẻ khi hạn nổi sấm, xem Sư làm sao chống lại. Ô Cữu trao cán gậy cho người há không phải là thật vô lý? KHAI THỊ: Nhỏ như hạt gạo, lạnh tơ băng tuyết, bịt lấp càn khôn, lìa sáng dứt tối, chỗ thấp thấp xem có dư, nơi cao cao nhìn không đủ. Chặt đứt ngôn ngữ giúp người vào cửa, đều ở nơi đây còn có chỗ xuất thân không, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Đan Hà hỏi tăng: Từ đâu đến? Tăng: Dưới núi đến. Hà: Ăn cơm chưa? Tăng: Ăn cơm rồi. Hà: Người đem cơm đến cho ông ăn có mắt không? Tăng không đáp được. Trường Khánh hỏi Bảo Phước: Đem cơm cho người ăn có phần báo ân, vì sao mà không có mắt? Bảo Phước đáp: Người thí người nhận cả hai đều mù. Trường Khánh nói: Hết cơ rồi có thành mù không? Bảo phước: Nói ta mù được không? GIẢI TỤNG: Thiền sư Thiên Nhiên ở núi Đan Hà, tại Đặng Châu, không biết người ở xứ nào. Buổi đầu theo Sư học đạo Nho học, sắp vào Trường An ứng thí nghỉ ở quán trọ. Bỗng nằm mộng thấy ánh sáng trắng đầy nhà. Người đoán mộng nói: Đây là điềm hiểu không. Sau đó bỗng gặp một thiền khách hỏi: Nhân giả đi đâu? Đan Hà đáp: Đi thi làm quan. Thiền khách hỏi: Thi làm quan đâu bằng thi làm Phật? Đan Hà: Thi làm Phật phải đến nơi nào? Thiền khách: Nay Mã Tổ ở Giang Tây hành đạo ấy là trường tuyển Phật, nhân giả nên đến đó. Đan Hà bèn đi thẳng đến Giang Tây, vừa thấy Mã Tổ, liền lấy hai tay lột cái mũ trên đầu. Mã Đại sư quay nhìn nói: Ta không phải là thầy của ông. Hãy đến chỗ Nam Nhạc, Thạch Đầu đi! Sư đi thẳng đến Nam Nhạc lại làm ý như trước. Thạch Đầu nói: Xuống nhà trù đi! Sư lễ tạ đi vào theo chúng làm công tác, trải qua ba năm. Một hôm Thạch Đầu bảo đại chúng rằng: Ngày mai cắt cỏ trước điện Phật. Đến hôm sau đại chúng chuẩn bị xẻng cuốc để làm cỏ. Đan Hà lấy cái chậu đựng đầy nước sạch đến quỳ trước Thạch Đầu. Thạch Đầu nhìn vậy cười, bèn cạo tóc và nói giới cho. Đan Hà. Đan Hà bịt lỗ tai đi ra, liền đến Giang Tây lại yết kiến Mã Tổ Chưa tham lễ Sư vào tăng đường, leo trên cổ Thánh tăng mà ngồi. Bấy giờ đại chúng kinh ngạc liền thưa lên Mã Tổ. Mã Tổ đích thân đến xem thấy vậy nói: “Con ta là Thiên Nhiên”. Đan Hà bèn xuống lễ bái thưa: “Tạ thầy ban cho pháp hiệu”. Nhân đó mà có tên là Thiên Nhiên. Cổ nhân Thiên Nhiên siêu thoát như thế nên nói: Thi làm quan không bằng thi làm Phật. Trong Truyền Đăng Lục ghi ngữ cú của Sư thật là vách đứng ngàn nhẫn mỗi câu đều có thủ đoạn nhổ đinh tháo chốt cho người. Như hỏi vị tăng này từ đâu đến? Tăng đáp: Dưới núi đến. Vị Tăng này lại không thông chỗ đi. Giống như người có mắt khám phá ngược chủ nhà. Lúc ấy nếu không phải Đan Hà cũng khó nắm được Ông ta. Đan Hà lại nói: Ăn cơm chưa? Ban đầu chưa thấy được, lần thứ hai khám phá được ông ta. Tăng nói: Ăn cơm rồi. Kẻ mù mịt vốn không hiểu. Đan Hà nói: Người đem cơm cho ông ăn có mắt không? Tăng không đáp được lời nào. Ý của Đan Hà nói: Gã này cho ông cơm kham làm việc gì? Tăng này nếu là kẻ khác thử cho Sư một cái tát, xem Sư làm gì? (2 0 4) Tuy nhiên như thế Đan Hà cũng chưa buông tha. Tăng này lại nháy mắt không nói. Bảo Phước và Trường Khánh cùng ở trong hội của Tuyết Phong, thường nêu công án của người xưa để bàn luận. Trường Khánh hỏi Bảo Phước: Đem cơm cho người ăn là có phần báo ân, vì sao không có mắt? Không hẳn là hỏi hết trong công án, đại khái mượn lời này làm thoại đầu. Muốn nghiệm chỗ thích hợp của ông ta. Bảo Phước nói: Người thí người nhận đều là kẻ mù, sinh thay đến đây chỉ luận việc đương cơ, trong nhà có lối xuất thân. Trường Khánh nói: Hết cơ ấy lại thành mù không? Bảo Phước đáp: Nói ta mù được không? Ý của Bảo Phước cho rằng ta có mắt như thế, nói cho ông rồi. Có nói ta mù được không. Tuy nhiên như thế nửa úp nửa mở. Lúc ấy nếu là sơn tăng đợi ông ta nói hết cơ ấy có thành mù không thì nói với ông là mù. Thật đáng tiếc. Bảo Phước lúc ấy nếu hạ được chữ mù này thì tránh khỏi Tuyết Đậu có nhiều thứ sắn bìm. Tuyết Đậu chỉ dùng ý này TỤNG: Tận cơ bất thành hạt Aùn ngưu đầu khiết thảo Tứ thất nhị tam chư Tổ sư Bảo trí trì lai thành quá cựu Quá cựu thâm, vô xứ tầm Thiên thượng nhân gian đồng lục trầm. <詞>DỊCH: Tột cơ không thành mù Cột trâu cho ăn cỏ Ba mươi ba chư vị Tổ sư Bảo khí đến giờ thành lỗi quấy Lỗi quấy sâu không chỗ tìm Trên trời nhân gian đồng ngập chìm. GIẢI TỤNG: Câu: “Tột cơ không thành mù”. Trường Khánh nói: người tốt cơ kia đến có mù không? Bảo Phước nói: Bảo ta mù được không? Giống như “cột trâu cho ăn cỏ”. Phải đồng với ông ta tự ăn mới được, trong ấy lại cột trâu cho ăn cỏ. Tuyết Đậu tụng như thế, tự nhiên thấy được ý của Đan Hà. “Ba mươi ba chư vị Tổ sư Bảo khí đến giờ thành lỗi quấy”. Không chỉ lụy đến Trường Khánh mà còn đến hai mươi tám vị tổ Tây Thiên, Lục Tổ đất này, đồng thời chôn vùi. Đức Phật Thích-ca bốn mươi chín năm nói một Đại Tạng kinh, cuối cùng chỉ truyền một bảo khí này. Vónh Gia nói: Không phải nêu lên sự việc rỗng không. Gậy báu của Như Lai cận tung tích. Nếu là kiến giải của Bảo Phước thì bình báu đem đến đều thành lỗi lầm, lỗi lầm sâu không chỗ tìm, điều này vì ông nói không được, chỉ tìm chỗ ngồi yên, nhằm trong câu này câu kiểm điểm xem? Đã là lỗi lầm sâu dày. Vì sao không có chỗ để tìm? Điều này không phải là lỗi nhỏ, vì đem việc lớn Tổ sư cùng lúc ở trên đất bằng bị chìm ngập. KHAI THỊ: Cho nên Tuyết Đậu nói: “Trên trời nhân gian đều ngập chìm hết. Hướng thượng chuyển có thể xỏ mũi của mọi người trong thiên hạ. Giống như chim cắt chụp chim câu. Hướng hạ chuyển thì lỗ mũi của mình ở trong tay của người khác, như rùa ẩn trong vỏ. Trong đây nếu có người ra nói: Xưa nay không hướng thượng, không hướng hạ, dùng chuyển làm gì, chỉ nói với y: Ta cũng biết ông nhằm trong hang quỷ tìm kế sống. Hãy nói làm sao phân biệt được trắng đen. Im lặng hồi lâu, nói: Có cành vin cành, không cành vin nhánh, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là nói siêu Phật vượt Tổ? Môn đáp: Cái bánh bò. GIẢI THÍCH: Vị Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là nói siêu Phật việt Tổ? Vân Môn đáp: “bánh bò”. Nghe có cảm giác rợn óc dựng lông chăng? Hàng Thiền khách hỏi Phật hỏi Tổ, hỏi Thiền hỏi đạo, hỏi hướng thượng hướng hạ xong, lại chỗ không không thể đặt thành câu hỏi, mà hỏi siêu Phật Việt Tổ. Vân Môn là tác gia, nước lớn thì thuyền cao, đất nhiều thì Phật lớn, đáp rằng: “bánh bò”. Có thể nói đi không luống, không phí công Vân Môn lại dạy chúng: Ông đừng có thấy người nói ý của Tổ sư, bèn hỏi đạo lý siêu Phật vượt Tổ. Ông lại nói thế nào là Phật? Thế nào là Tổ? Rồi sẽ hỏi siêu Phật vượt Tổ. Như hỏi ra khỏi ba cõi. Ôâng đem ba cõi lại xem? Có cái thấy biết gì cản trở ông. Có sắc thanh Phật pháp gì có thể làm cho ông rõ, rõ cái cản trở gì, lấy cái gì làm cái thấy sai biệt, bậc cổ Thánh kia làm gì được ông? Thân đi làm vật, nói cái toàn thể toàn chân, mỗi vật đều là thể thì không thể được. Ta nói với ông đó là việc gì? Sớm đã chôn vùi rồi vậy. Hiểu được lời này thì biết được bánh bò. Ngũ Tổ nói: Phân lừa sánh với xạ hương. Nên gọi: Cắt đứt cội nguồn ấn chứng của Phật, vạch lá tìm cành, thì ta không thể. Đến đây muốn được khế hợp với thiền pháp chớ có đem lời hỏi để hỏi. Xem tăng này hỏi thế nào là lời bàn về siêu Phật vượt Tổ? Vân Môn đáp: Cái bánh bò, có biết hổ thẹn không? Có biết bày vẽ không? Có một hạng người chưa thấu rõ Phật pháp bèn nói: Vân Môn hành động hồ đồ chưa thực ngộ, bèn nói cái bánh bòø. Nếu như thế thì cho cái bánh bò cái thấy về lời bàn siêu Phật vượt Tổ, há có lối thoát, không phải là lấy bánh bò để hiểu. Lại không thể đèm điều siêu Phật vượt Tổ để hiểu, chính là lối thoát. So với “ ba cân mè” biết đánh trống, cùng một loại tuy nhiên chỉ nói cái bánh bòø, thật ra thì khó thấy. Người sau này phần nhiều nói: Lời thô, lời tế đều quy về Đệ nhất nghóa. Nếu hiểu như thế lại đi làm tọa chủ, một đời gầy dựng được nhiều tri giải. Như các thiền lữ thời nay nói: Lúc siêu Phật vượt Tổ chư Phật cũng đạp dưới gót chân, Tổ sư cũng đạp dưới gót chân, cho nên Tuyết Đậu chỉ đáp với ông ta là bánh bòø. Đã là bánh bò thì đâu hiểu được siêu Phật vượt Tổ, thử tham kỹ xem? Các nơi tụng rất nhiều, đều ở trong lời hỏi mà làm ngôn ngữ. Chỉ có Tuyết Đậu tụng rất hay, thử nêu xem? Tụng rằng: Siêu đàm thiền khách vấn thiên đa Phùng há phi ly kiến dã ma Hồ bính áp lai du bất trụ Chí hơn thiên hạ hữu hào ngoa. <詞>DỊCH: Thiền khách cao xa hỏi cũng nhiều Chắp vá mở rời thấy đó chăng Bánh bò hấp lại còn không trụ Đến nay thiên hạ vẫn sai lầm. GIẢI TỤNG: Câu: “Thiền khách cao xa hỏi cũng nhiều”. Lời này Thiền khách thích hỏi riêng, không thấy Vân Môn nói: Các ông vác gậy lên vai, nói ta tham thiền học đạo, liền tìm đạo lý siêu Phật vượt Tổ. Tôi hỏi ông: Trong mười hai thời đi đứng ngồi nằm, đi tiêu, đi tiểu. Cho đến con trùng trong hầm phân, buôn ở ngoài chợ bán thịt dê, lại có đạo lý siêu Phật vượt Tổ không? Nói được ra đây. Nếu không thì chẳng ngại ta đi Đông đi Tây, liền xuống tòa. Có người không biết tốt xấu vẻ một vòng tròn, thật làm thêm một lớp si mê, thêm gông cùm. Câu: “Chắp vá mở rời thấy đó chăng?” Chỗ hỏi của ông ta có tính cách chắp vá. Vân Môn thấy chỗ hỏi của ông ta mở rời, vì thế đem bánh bò đắp vá lấp bít chậm đứng. Tăng này còn tự không chịu trụ lại hỏi. Thế nên Tuyết Đậu nói: Bánh bò hấp lại còn không đứng. Đến nay thiên hạ vẫn hào ngoa. Thiền khách thời nay mặc dù ở trên bánh bò mà hiểu. Không như vậy thì ở chỗ siêu Phật vượt Tổ làm đạo lý. Đã không ở trong hai đầu này (2 0 5) cuối cùng ở chỗ nào? Ba mươi năm sau, đợi sơn tăng thay đổi xương cốt rồi sẽ nói cho ông. CÔNG ÁN: Xưa có mười sáu vị khai só đến nhà tắm chúng Tăng theo thứ lớp mà tắm, bỗng nhiên ngộ được nhân của nước. Chư thiền đức làm sao hiểu? Ngài nói: Diệu xúc tuyên minh thành Phật tử trụ, cũng phải đại triệt đại ngộ mới được. GIẢI THÍCH: Trên hội Lăng-nghiêm, Bồ-tát Bạt-đà-bà-la cùng sáu mươi vị khai só, mỗi vị đều tu phạm hạnh, mỗi người đều nói về nguyên do chứng được pháp môn Viên Thông. Đây cũng là một con số trong hai mươi lăm Viên Thông họ nhân lúc tăng đi tắm cũng đi tắm theo, bỗng nhiên ngộ được nhân của nước liền nói: “Đã không rửa bụi, cũng không rửa thân”. Hãy nói: Rửa cái gì? Nếu hiểu được thì được an nhiên, được điều chưa từng có. Ngàn người vạn người gần bên không được. Nên nói do không sở đắc chính là chân Bát-nhã. Nếu có sở đắc là tương tợ Bát-nhã. Tổ Đạt-ma bảo Nhị Tổ: Đem tâm ra đây, ta an cho. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không có. Một chút này chính là tánh mạng căn bản của nạp tăng, đều không hưởng được như nhiều văn tự ngữ ngôn. Chỉ tiêu cái bỗng ngộ được nhân của nước, tự nhiên liễu ngộ. Đã không rửa bụi, cũng không rửa thân. Hãy nói ngộ cái gì? Đến loại điền địa này một chút cũng không dính dáng được. Nói chữ Phật cũng phải kiêng kî. Ngài nói: “Diệu xúc tuyên minh thành Phật tử trụ”. Tuyên là hiển, diệu xúc là minh. Đã ngộ “diệu xúc thành Phật tử trụ”. Tức trụ Phật địa. Như người nay cũng vào nhà tắm cũng xúc chạm như thế, vì sao lại không ngộ? Rõ ràng là bị trần cảnh làm chướng ngại, dính vào xương tủy, cho nên không thể ngộ. Nếu đến đây rửa cũng không có sở đắc, xúc cũng không có sở đắc, nhân nước cũng không có sở đắc. Hãy nói là diệu xúc tuyên minh? Nếu nhằm trong đây liền thấy được, là Diệu Xúc tuyên minh thành Phật tử trụ. Người thời nay cũng xúc có thấy chỗ diệu không? Diệu xúc, phi thường xúc, cùng người xúc hợp thì thành xúc, ly thì phi. Huyền Sa leo núi dập một ngón chân. Cho đến cây gậy của Đức Sơn há không phải là diệu xúc? Tuy thế cũng phải đại triệt đại ngộ mới được. Nếu tìm tòi trên thân thì có gì dính dáng. Nếu như đại triệt đại ngộ thì đâu cần vào tắm, thì ngay trên đầu sợi lông hiện cõi Bảo Vương, ở trong vi trần chuyển đại pháp luân, thấu được một chỗ là đồng thời thấu được ngàn chỗ muôn chỗ, không phải giữ gìn một hang ổ, tất cả nơi đều là cửa Quán Âm nhập lý. Người xưa nghe tiếng thì ngộ đạo, thấy sắc minh tâm. Nếu một người ngộ thì phải. Vì sao mà sáu mươi khai só đồng thời ngộ? Thế nên, người xưa đồng tu đồng chứng, đồng ngộ đồng giải. Tuyết Đậu nêu cái ý giáo kia, làm cho người đến chỗ diệu xúc ngộ lấy. Tụng về con mắt giáo lý kia khiến người thoát khỏi giáo lý che phú tránh được nửa say nửa tỉnh. Cốt cho người thật phải đại triệt đại ngộ, tụng: Liễu sự Nạp tăng tiêu nhất cá Trường liên sàng thượng triển cước ngọa Mộng trung tằng thuyết ngộ viên thông Hưởng thủy tấy lai mạch diện thóa. <詞>DỊCH: Xong việc nạp tăng tiêu một cái Duỗi chân nằm mãi ở trên giường Trong mộng từng nói ngộ viên thông Nước thơm rửa xong thẳng mặt nhỗ. Giải: Câu: “Xong việc nạp tăng tiêu một cái”. Hãy nói xong được việc gì? Thiền khách tài giỏi nghe nhắc đến đứng dậy liền đi đâu cần thành đoàn kết nhóm). Câu “Duỗi chân nằm mãi ở trên giường”. Người xưa nói: Rõ ràng không có pháp để ngộ. Ngộ rồi trở lại mê. “Duỗi chân nằm mãi ở trên giường”, không ngụy cũng không chân. Cho nên trong lòng không lo một việc gì, đói thì ăn, mệt đi ngủ. Ý của Tuyết Đậu nói nếu ông vào tắm ngộ được diệu xúc tuyên minh. Ở trên phần nạp tăng vô sự, chỉ giống như trong mộng nói mớ. Cho nên nói “Trong mộng từng nói ngộ viên thông”. “Nước thơm rửa xong thẳng mặt nhỗ” Nói như thế chỉ là nước dơ đem đổ trên đầu lại nói viên thông cái gì? Tuyết Đậu nói giống như hạng người này, nên nhỗ ngay vào. Sơn tăng nói trên đất lại thêm một lớp bùn. KHAI THỊ: Đại dụng hiện tiền, không còn phép tắc, bắt sống nắm giam, không nhọc công lao. Hãy nói là người nào từng như thế, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đầu Tử: Tất cả tiếng có phải là tiếng Phật không? Đầu Tử đáp: Phải. Tăng: Hòa thượng chớ khua bát ra tiếng. Đầu Tử liền đánh. Tăng lại hỏi: Lời thô tiếng tế đều quy về Đệ nhất nghóa phải không? Đầu Tử đáp: Phải. Tăng thưa: Hòa thượng làm con lừa được không? Đầu Tử bèn đánh. GIẢI THÍCH: Đầu Tử chất phát được tài hùng biện siêu quần. Phàm có người đến hỏi, mở miệng liền thấy gan ruột, không phí sức, bèn quét sạch lưỡi của mọi người, có thể gọi là ngồi trong phòng kín tính toán quyết thắng ngoài ngàn dặm. Vị Tăng này dùng kiến giải Phật pháp thanh sắc dán lên đầu của Đầu Tử, gặp người bèn hỏi: “Đầu Tử là hàng tác gia biện tài vô ngại”. Vị Tăng này biết chỗ thật thà của Đầu Tử nên hạ đặt cái lồng bẩy khiến Đầu Tử bước vào trong. Cho nên có lời sau Đầu Tử lại làm cho rơi vào cơ của cọp; câu lời sau của ông nói. Vị Tăng này tiếp lời đáp của ông ta liền nói: thuộc chớ khua bát ra tiếng. Quả nhiên một câu thì được. Nếu là người khác thì không làm gì vị tăng này được. Đầu Tử có mắt sáng, theo sau liền đánh. Thiền sư có thủ đoạn kỳ đặc cần phải là bậc tài giỏi mới được. Chuyển trái cũng theo tự do tự tại, chuyển phải cũng tự do tự tại, tăng này đã đặt cái tròng, muốn đến vuốt râu cọp. Đâu ngờ Đầu Tử lại đi trên cái tròng kia. Đầu Tử liền đánh. Tăng này đáng tiếc có đầu mà không có đuôi. Lúc đó đợi Sư giơ gậy lên thì lật đổ giường thiền, dù cho Đầu Tử có toàn cơ cũng phải thối lui ba ngàn dặm. Lại hỏi: lời thô tiếng tế đều quy về Đệ nhất nghóa phải không? Đầu Tử cũng đáp là phải, giống như không khác. Tăng nói: Kêu Hòa thượng là con lừa được không? Đầu Tử lại đánh. Vị Tăng này tuy tạo sào huyệt nhưng quả thật kỳ đặc. Nếu là Trưởng lão ngồi trên ghế dựa, đảnh môn không có mắt, cũng khó bẻ gãy Sư. Đầu Tử có chỗ chuyển thân, vị tăng này cốt ý tạo cái đạo cốt làm đão lộn đạo lý của Sư. Rốt cuộc không làm gì được Đầu Tử. (2 0 6) Nham Đầu nói: Nếu luận chiến thì người người đứng tại chỗ chuyển, Đầu Tử buông ra thì rất chậm, thâu lại thì quá nhanh. Tăng này lúc ấy nếu biết chuyển thân mửa khí, ra đâu không làm được kẻ miệng như bồn máu. Hàng nạp tăng một không làm, hai không nghỉ. Tăng này không giỏi nhảy né, lại bị Đầu Tử xỏ mũi, tụng: Đầu Tử! Đầu Tử! Cơ luân vô trở Phòng nhất đắc nhị Đồng bỉ đồng thứ Khả lân vô hạn lộng triều nhân Tất cánh hoàn lạc triều trung tử Hốt nhiên hoạt Bách Xuyên đảo lưu nào quát quát. <詞>DỊCH: (Đầu Tử! Đầu Tử! Cơ luân không trở Buông một được hai Cùng đây cùng kia Đáng thương vô hạn người đùa sống Cuối cùng lại chết ở trong sóng Bỗng nhiên sống, Trăm sông chảy ngược tiếng ào ào). GIẢI TỤNG: Hai câu: “Đầu Tử! Đầu Tử! Cơ luân không trở. Đầu Tử bình thường hay nói: Ông nói chỗ thật của Đầu Tử bỗng nhiên xuống núi ba bước, có người hỏi ông thế nào là chỗ thật của Đầu Tử ông làm sao trả lời? Người xưa nói: Chỗ cơ luân chuyển, người tài giỏi còn mê, cơ luân chuyển là tự do tự tại hoàn toàn không cách trở. Cho nên Tuyết Đậu nói: “Buông một được hai”. Như tăng hỏi: Thế nào là Phật? Đầu Tử đáp: Phật. Lại hỏi: Thế nào là đạo? Đầu Tử đáp: Đạo. Lại hỏi: Thế nào là thiền? Đầu Tử đáp: Thiền. Lại hỏi: Lúc trăng chưa tròn thì thế nào? Đầu Tử đáp: Nuốt ba cái, bốn cái. Lại hỏi: Sau khi tròn thì thế nào? Đầu Tử đáp: Nhã ra bảy cái, tám cái. Đầu Tử tiếp người thường dùng cơ này, trả lời cho tăng này chỉ là một chữ “Phải”. Vị Tăng này hai lần bị đánh. Cho nên Tuyết Đậu nói: “Cùng đây cùng kia”. Bốn câu này một lúc tụng về Đầu Tử xong. Sau đó tụng về tăng này nói: “Đáng thương vô hạn người đùa sống”. Tăng này dám treo cờ đánh trống nói: Hòa thượng chớ khua làm ra tiếng. Lại nói gọi Hòa thượng là con lừa được không? đây chính là chỗ đùa sóng. Vị Tăng này làm hết khả năng, như trước chết chết trong. Câu Đầu Tử. Đầu Tử liền đánh. Vị Tăng rốt cuộc trong sóng đánh chết chìm. Tuyết Đậu cứu vị tăng này nói: “Bỗng nhiên sống” liền lật đổ giường thiền, Đầu Tử cũng phải thối ba ngàn dặm. Cho dù trăm sông ngược dòng chảy rì rầm, không phải chỉ thiền sàn chấn động, cũng chính là sông núi tan lở, trời đất u ám. Nếu mọi người như thế thì sơn tăng lại đánh trống thối lui. Quí vị đến nơi nào để an thân lập mạng. CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Trẻ em sơ sinh có đủ sáu thức không? Triệu Châu: Đánh cầu trên dòng nước chảy xiết. Tăng lại hỏi Đầu Tử: Đánh cầu trên dòng nước chảy xiết ý chỉ thế nào? Đầu Tử đáp: Niệm niệm không dừng. GIẢI THÍCH: Sáu thức này các nhà kinh giáo lập làm gốc chánh, sơn hà đại địa, trời, trăng sao đều nhân đây mà sinh khởi, đến là tiên phong đi là điện hậu. Người xưa nói: Ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức. Nếu chứng được Phật địa thì bát thức chuyển thành tứ trí. Trong giáo gọi là đổi tên không đổi thể. Căn trần thức là ba, tiền trần vốn không thể phân biệt, thắng nghóa căn có thể phát sinh ra thức, thức có thể hiển bày sự phân biệt của sắc, tức là đệ ý thức thứ sáu. Thức thứ bảy tên mạt-na thức, có thể chấp lấy tất cả các việc trong thế gian, làm cho con người phiền não, không được tự do tự tại, tất cả đều do thức thứ bảy. Đến thức thứ tám cũng gọi là a-lại-da thức, cũng gọi là Hàm tàng thức, nó hàm chứa tất cả chủng tử thiện ác. Vị Tăng này biết được ý của giáo, cho nên đến hỏi Triệu Châu đứa trẻ sơ sinh có đủ sáu thức không? Đứa trẻ mới sinh tuy đủ sáu thức mắt có thể thấy, tai có thể nghe. Xong chưa từng phân biệt được lục trần, tốt xấu, ưu khuyết, thị phi được mất, chúng hoàn toàn không biết. Người học đạo phải như đứa trẻ, lao nhọc về công danh, nghịch tình thuận cảnh, tâm không lay động, mắt thấy sắc giống như mù, tai nghe tiếng giống như điếc, như ngu như ngốc, tâm không lay động, như núi Tu-di. Đây chính là nhà của nạp tăng, chỗ chân thật đắc lực. Người xưa nói: Phải được nương nhờ muôn việc thôi. Lúc ấy sơn tăng đều không hiểu. Nếu có thể như thế mới có một chút phần tương ưng. Tuy nhiên như thế lừa dối ông ta một chút cũng không được. Núi vẫn là núi, sông vẫn là sông, không tạo tác, không duyên lự. Như mặt trời mặt trăng vận hành trên hư không không ngừng. Cũng không thể nói ta có nhiều danh tướng như trời che đất chở, vì vô tánh. Cho nên trưởng dưỡng vạn vật, cũng không thể nói ta có nhiều công hạnh, vì trời đất là vô tận, cho nên tồn tại lâu dài. Nếu có tâm thì có hạn lượng. Người đắc đạo cũng như vậy trong cái không công dụng mà thực hành công dụng, tất cả trái tình thuận cảnh đều dùng lòng từ nhiếp thọ. Đến đây, người xưa còn tự chê trách nói khi biết rõ thì không phải biết rõ, huyền huyền chỗ huyền còn phải là chê trách. Lại nói sự sự thông chừ vất vật sáng. Người thấu đạt nghe đó trong bóng tối sợ. Lại nói: vào Thánh siêu phàm không tạo tiếng, rồng nằm luôn sợ nước trong xanh trong đời người nếu được mãi như thế, đại địa đâu thể giữ lại một tên. Tuy nhiên như thế, cần phải nhảy ra khỏi sào huyệt mới được. Há không thấy trong kinh có nói: “Bồ-tát lên đến Bất động địa dùng trí vô công dụng chuyển đại pháp luân ở trong một hạt loại, ở trong tất cả thời đi đứng nằm ngồi không câu nệ vào được mất, mặc cho chảy vào biển Tát-bà-nhã”. Nạp tăng đến đây cũng không thể chấp trước, bất cứ lúc nào cũng tự tại, thấy trà uống trà gặp cơn ăn cơm. Cái việc hướng thượng này dùng một chữ định cũng không được, dùng chữ bất định cũng không được. Hòa thượng Thiện Đạo ở Thạch Thất dạy chúng nói: “Các ông không thấy lúc đứa trẻ ra khỏi thai đâu từng nói ta biết xem kinh giáo. Chính lúc như thế cũng không biết có nghóa Phật tánh, không có nghóa Phật tánh. Cho đến khi lớn lên mới học nhiều thứ mới biết được, bèn nói ta có thể biết ta, không biết là khách trần phiền não. Trong mười sáu hạnh, hạnh của anh nhi là hơn cả. Lúc oa oa khóc là dụ cho người học đạo lìa tâm phân biệt thủ xả. Cho nên khen ngợi anh nhi. Có thể so sánh ví dụ thủ chấp điều đó. Nếu nói anh nhi là đạo, người thời nay hiểu lầm. Nam Tuyền nói: Ta hơn mười tám tuổi biết tạo kế sống. Triệu Châu nói: Ta mười tám tuổi biết phá nhà cửa. Lại nói: Ta ở phương Nam hai mươi năm, ngoài hai bữa cháo cơm ra thì đều là chỗ dụng tâm. Tào Sơn hỏi tăng: Trong lúc Bồ-tát định nghe voi lớn qua sông làm rung động một vùng là trích trong kinh gì? Tăng đáp: Trích trong kinh Niết-bàn. Tào Sơn hỏi: Trước khi định nghe hay sau khi định nghe? Tăng nói: Hòa thượng trôi vậy. Tào Sơn nói: Dưới ao tiếp lấy. Lại kinh Lăng-nghiêm nói: Vắng lặng sâu vào, vắng lặng sâu vào thì biết được bờ mé. Lại kinh Lăng-già nói: “Tướng sinh chấp ngại, tưởng sinh ra vọng tưởng. Loạn tưởng phát sinh thì theo vọng mà lưu chuyển”. Nếu đạt đến vô công dụng còn ở trong tướng lưu chú, phải ra xuất được đệ tam lưu chú sinh tưởng mới được tự tại. (2 0 7) Cho nên Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Huệ Tịch con thế nào? Ngưỡng Sơn đáp: Hòa thượng hỏi kiến giải của con, hay hỏi hành giải của con? Nếu hỏi hành giải của con thì con không biết. Nếu là kiến giải thì giống như một bình nước rót vào một bình nước, nếu được như thế thì mới đáng làm thầy một cõi. Triệu Châu nói: “Đá cầu trên dòng nước chảy xiết”, chính là đại triệt đại ngộ. Lại khi đánh cầu trên dòng nước chảy xiết thì nháy mắt liền qua. Thí như kinh Lăng-nghiêm nói: Như dòng nước chảy mạnh, trông như lặng lẽ. Người xưa nói: Thí như dòng nước chảy mạnh, nước chảy không dừng, đều không biết nhau. Các pháp cũng như vậy. Chỗ đáp của Triệu Châu ý giống ở đây. Vị Tăng này lại hỏi Đầu Tử: “Đánh cầu trên dòng nước chảy xiết” ý chỉ thế nào? Đầu Tử đáp: Niệm niệm trôi chảy không dừng. tự nhiên giống với chỗ hỏi của tăng. Người xưa cộng hạnh miên mật, đáp được chỉ tợ như một cái, lại không cần tính toán. Ông vừa hỏi các ngài đã sớm biết ý của ông rồi. Sáu thức của đứa trẻ tuy vô công dụng, vẫn là niệm niệm không dừng, như dòng nước chảy ngầm, Đầu Tử đáp như thế, đáng gọi là cơ phong sâu dày. Tuyết Đậu tụng: Lục thức vô công thân nhất vấn Tác gia tầng cộng biện lai đoan Mang mang cấp thủy đã cầu tử Lạc xứ bất đình thủy giảm khai. <詞>DỊCH: (Sáu thức vô công trình lời hỏi Tác gia từng họp biện nguyên do Mênh mông nước chảy đánh cầu ấy Rốt ráo không dừng ai biết xem?) GIẢI TỤNG: Câu: “Sáu thức vô công trình lời hỏi”. Người xưa học đạo nuôi dưỡng đến chỗ này. Gọi là công năng của vô công năng. Giống như đứa trẻ. Tuy có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nhưng không thể phân biệt được lục trần ấy chính là vô công dụng. Đã đến điền địa này, chính là hàng long phục hổ, an nhiên tự tại. Người thời nay vạn cảnh trước mặt một lúc hết sạch đâu hẳn là từ Bát địa trở lên mới là như thế. Tuy nhiên chỗ vô công dụng, núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Tuyết Đậu mặt trước tụng rằng: “Trong cái sống có mắt phải đồng chết Thuốc kî đâu cần xét tác gia” Bởi vì Triệu Châu, Đầu Tử là tác gia. Cho nên nói: Tác gia từng họp biện nguyên do” Mênh mông nước chảy đánh cầu ấy Đầu Tử nói: “Niệm niệm không ngừng chảy”. Các ông có biết cứu cánh thế nào không? Tuyết Đậu sau này dạy người tự mở mắt to ra mà xem. Cho nên nói: “ Chỗ rung chẳng dừng ai biết xem? “Đây là hoạt cú của Tuyết Đậu. Hãy nói: “rơi vào chỗ nào?” <篇> <卷>QUYỂN 9 KHAI THỊ: Cướp cờ đoạt trống, ngàn Thánh không cùng, quét sạch lỗi lầm, muôn cơ không đến, không phải thần thông diệu dụng, cũng không phải bổn thể như nhiên. Hãy nói: Bằng cái gì mà được độc đáo như thế? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Dược Sơn: Khỏa ruộng cỏ thưa, nai hươu thành bầy, làm sao bắn được hươu trong hươu? Dược Sơn: Xem mũi tên. Tăng buông thân bèn nhào. Dược Sơn: Thị giả kéo kẻ chết này ra. Tăng liền đi. Dược Sơn: Kẻ vướng mắc có giới hạn gì? Tuyết Đậu nói: Ba bước tuy sống, năm bước phải chết. GIẢI THÍCH: Công án: Này Tào Động gọi là “Tá sự vấn”, cũng gọi là “Biện chủ vấn”, dùng để rõ đương cơ. Nai hươu tầm thường thì dễ bắn. Chỉ có hươu trong hươu, là vua trong loài nai là rất khó bắn. Loại hươu nai này thường đến trên bờ đá mài gạc giống như kiếm nhọn sắc bén, dùng để hộ mạng, bầy cọp cũng không dám đến gần. Vị Tăng này cũng giống tónh tónh dẫn đến hỏi Dược Sơn, để rõ cơ thứ nhất. Dược Sơn nói: Xem tên! Tác gia tông sư quả thật kỳ đặc, như chọi đá nháng lửa, như điện chớp. Há không thấy Tam Bình lúc đầu tham học nơi Thạch Củng. Củng vừa thấy Bình đến làm cái thế dương cung Thạch Củng nói: Xem tên! Tam Bình vạch ngực nói: Đây là tên cứu sống người hay là tên giết người Củng? Thạch Củng gảy tên ba cái. Tam Bình lễ bái. Thạch Củng nói: Ba mươi năm một dây cung, hai mũi tên. Ngày nay chỉ bắn được nửa Thánh nhân, bèn kéo dây cung bắn. Tam Bình sau đó kể cho Đại Điên nghe. Đại Điên nói: Đã là mũi tên của người sống, vì sao lại biện trên dây cung. Tam Bình không đáp lời nào. Đại Điên nói: Sau ba mươi năm muốn người nêu lời này cũng khó được. Pháp Đăng có bài tụng rằng: “Xưa có sư Thạch Củng Bỏ cung tên mà ngồi Như thế ba mươi năm Tri âm không một người Tam Bình đã trúng đích Cha con hợp nhau hòa”. Chín chắn suy nghó. Vốn là y bắn đất. Hành động Thạch Củng giống như Dược Sơn. Tam Bình có mắt trên đãnh môn ngay nơi một mũi tên liền trúng đích. Giống như Dược Sơn nói: Xem tên! Vị Tăng đó liền làm con hươu phóng thân nhào. Vị Tăng này giống như tác gia, chỉ là có đầu mà không có đuôi, đã làm cái tròng muốn bẫy Dược Sơn, Dược Sơn không thể là tài giỏi được, một bề bức bách đem đi. Dược Sơn nói: Thị giả kéo gã chết này ra. Giống như bày binh trận về phía trước. Tăng này bỏ đi cũng tốt, đúng thì đúng, làm sao không siêu thoát được, gỡ tháo tay chân, cho nên Dược Sơn nói: Kẻ vướng mắc có giới hạn gì? Dược Sơn lúc ấy nếu không có lời sau thì ngàn Thánh gặp người kiểm điểm. Dược Sơn nói: Xem mũi tên. Tăng này liền đến. Hãy nói là hiểu hay không hiểu? Nếu nói là hiểu vì sao Dược Sơn lại nói như thế? Kẻ vướng mắc đây là điều rất xấu. Chính như tăng hỏi Đức Sơn: Học nhân nhờ kiếm Mạc Da định lấy đầu của Sư thì thế nào? Đức Sơn đưa cổ ra nói: Chém đi. Tăng nói: Đầu Sư rơi. Đức Sơn cúi đầu trở về phương trượng. Lại Nham Đầu hỏi tăng: Từ đâu đến? Tăng: Tây Kinh đến. Nham Đầu: Sau trận giặc Hoàng Sào từng nhặt được kiếm không? Tăng: Nhặt được. Nham Đầu đưa cổ ra nói: Chém đi. Tăng nói: Đầu Sư rơi. Nham Đầu cười ha hả! Công án này đều là bẫy cọp. Giống như vậy chính là Dược Sơn mặc cho ông ta, chỉ là biết phá được, mặc cho bức bách đem đi. Tuyết Đậu nói: Tăng này ba bước thì sống, năm bước phải chết. Tăng này tuy giỏi xem mũi tên, phóng thân nhào. Sơn nói: Thị giả kéo gã chết này ra. tăng liền chạy. Tuyết Đậu nói: Chỉ e ngoài ba bước không sống, lúc ấy nếu nhảy ra ngoài năm bước thì người trong thiên hạ không làm gì được ông ta. Hàng tác gia gặp nhau, phải là chủ khách trước sau đổi nhau, không có gián đoạn, mới có phần tự do tự tại. Lúc ấy vị Tăng này không hoàn toàn, cho nên bị Tuyết Đậu kiểm điểm. Phần sau cũng tự dùng lời đó Tụng: (208) <詞>TỤNG: DỊCH: Hươu trung hươu Quân khán thủ Hạ nhất tiễn Tẩu tam bộ Ngũ bộ nhược hoạt Thành quần sấn hổ Chánh nhãn tùng lai phó lạp nhân. Hươu trong hươu Anh xem lấy Bắn một mũi Chạy ba bước Năm bước nếu sống Thành đoàn đuổi cọp Chánh nhãn từ đây trao thợ săn. Tuyết Đậu lớn tiếng nói: Xem tên! GIẢI TỤNG: Câu: “Hươi trong hươu, anh xem lấy”. Hàng nạp tăng phải có mắt, hươu trong hươi, có đều sừng hươu trong hươu, có then chốt có hành động, dù gặp cọp có cánh mọc sừng, cũng được toàn thân vô hại. Vị Tăng này lúc ấy phóng thân đến nói: Tôi là con hươu “Bắn một mũi, chạy ba bước”. Dược Sơn nói: Xem tên. Tăng liền đến. Sơn bảo: Thị giả kéo kẻ chết này ra. Tăng liền chạy đi. Cũng rất hay, song chỉ chạy được ba bước. “Năm bước nếu sống, thành đoàn đuổi cọp”. Tuyết Đậu nói “Chỉ e năm bước phải chết”. Lúc đó nếu chạy được ra ngoài năm bước thì sống, liền có thể thành đoàn đuổi cọp. Hươu trong hươu gạc nhọn như giáo, cọp thấy cũng phải sợ bỏ chạy. Hươu là chúa trong loài hươu thường dẫn bầy hươu đuổi cọp vào núi khác. Phần sau Tuyết Đậu tụng Dược Sơn cũng có chỗ đương cơ xuất thân. “ Chánh nhân từ đây trao thợ săn”. Dược Sơn thợ săn bắn giỏi, vị tăng này như con hươu. Tuyết Đậu nhân khi thượng đường nêu lên điều này, lớn tiếng nói một câu: “Xem tên!” Người ngồi, người đứng một lúc dậy không được. KHAI THỊ: Sợi tơ đầu sào có mắt mới thấy cơ cách ngoại hàng tác gia mới phân biệt. Hãy nói: Thế nào là sợi tơ đầu sào cơ cách ngoại, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đại Long: Sắc thân bại hoại. Thế nào là pháp thân kiên cố? Đại Long: Hoa núi nở dường gấm Nước khe trong như lam. GIẢI THÍCH:Việc này nếu nhằm trên ngôn ngữ giống như lấy gậy đánh mặt trăng, không dính dáng chút nào. Người xưa nói rõ ràng: Muốn được khế hợp với thiền pháp chớ đem điều hỏi để hỏi. Vì sao? Vì hỏi thì ngay nơi đáp, đáp ngay nơi hỏi. tăng này gánh một gánh lỗ mãng, đổi một gánh hồ đồ hỏi đặt câu hỏi hư dỡ không ít. Nếu không phải là Đại Long đâu được giáo hóa chúng sinh ở khắp nơi. Ông ta hỏi như thế, Đại Long đáp như thế khế hợp không xê dịch một mảy lông. Giống như thấy thỏ mới thả chim ưng, thấy lỗ hỏng mới rào cọc. Ba thừa mười hai phần giáo có thời tiết nhân duyên này không? Quả thật kỳ đặc, chỉ là ngôn ngữ vô vị, im lặng chẳng nói. Giống như chim tối về tổ cũ. Có người nói: Chỉ là tin miệng mới đáp. Nếu hiểu như thế đều là cắt đứt mạch của Phật giáo. Thật không biết, người xưa một cơ một cảnh, gõ cùm đánh còng một câu một lời, là vàng đẽo ngọc. Nếu là mắt của nạp tăng có lúc nắm có lúc buông, chiếu dụng đồng thời, người cảnh đều đoạt. Vừa buông vừa nắm, tạm thời thông biến. Nếu không có đại dụng đại cơ làm sao biết sự giáo hóa chúng sinh như thế. Giống như gương sáng làm đài, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Công án này giống như nói về hoa dược lan, như ý không đồng. Chỗ hỏi của tăng này không rõ, giống như chỗ đáp của Đại Long. Không thấy tăng hỏi Vân Môn: Khi cây lá điêu tàn thì thế nào? Môn: Thể lộ kim phong. Đây gọi là thiền cơ như hai mũi tên bay rất nhanh đụng vào nhau rất chính xác. Tăng này hỏi Đại Long: Sắc thân bại hoại, thế nào là pháp thân kiên cố? Đại Long: Hoa núi nở dường gấm Nước như khe trong lam. Giống như y về phía Tây Tần ta đi về phía Đông Lỗ. Ông ta đã đi như thế, ta thì không đi như thế trái với Vân Môn. Người kia đi như thế thì dễ thấy, người này không đi như thế thì khó thấy. Đại Long không ngại ba tấc kín đáo. Tuyết Đậu tụng rằng: <詞>TỤNG: DỊCH: Vấn tằng bất tri Đáp hoàn bất hội Nguyệt lãnh phong cao Cổ nham hàn cối Kham tiếu lộ phùng đạt đạo nhân Bất tương ngữ mặc đối Thủ bả bạch ngọc tiên Ly châu tận kích toái Bất kích toái Bất kích toái Tăng hà lỗi Quốc hữu hiến chương Tâm thiên điều tội. Hỏi từng không biết Đáp lại không không Trăng lạnh gió cao, đỉnh xưa thông lạnh Cười vui thay giữa đường gặp người đạt đạo Vua ngọc ly châu Chẳng lấy nói, im đối đãi cùng Tay cầm roi bạch ngọc, Đánh chẳng nát thêm dấu vết. Nước có hiến chương, thêm ba ngàn điều tội! GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu tụng được, rất có công phu. Trước tụng lời của Vân Môn. Lại nói: Hỏi đã có tông, đáp cũng có đồng. Cái này lại không như thế. Lại nói: Hỏi từng không biết, đáp lại không hiểu. Chỗ đáp của Đại Long đứng bên nhìn thật là kỳ đặc. Rõ ràng là ai hỏi như thế, trước khi chưa hỏi đã chuốc bại hoại. Chỗ đáp của ông ta giống như phụ thêm, ứng cơ hợp đạo. Núi hoa nở như gấm, nước khe như lam. Mọi người như ngày nay làm sao hiểu ý của Đại Long, chỗ đáp thật là kỳ đặc. Cho nên Tuyết Đậu tụng ra: Dạy người biết trăng lạnh núi cao, bèn đánh vào núi xưa thông lạnh. Hãy nói ý của ông ta làm sao hiểu. Cho nên vừa nói, sáo không lỗ, đánh nhằm phách nó, chỉ bốn câu này tụng rồi Tuyết Đậu lại sợ người làm đạo lý. Lại nói: “Cười vui thay giữa đường gặp được người đạt đạo”. Không đem lời im lặng nói. Việc này lại không phải là thấy nghe hay biết, cũng không phải suy lường phân biệt. Cho nên nói: “Thật là không gồm kẹt dụng riêng nào nương cậy. Giữa đường gặp được người đạt đạo, chớ đem nói, nín đáp”. Đây là bài tụng của Hương Nghiêm, Tuyết Đậu dẫn dụng. Tăng hỏi Triệu Châu: Không đem nói nín đáp, chưa rõ lấy cái gì đáp? Châu đáp: Trình đồ đựng sơn. Cái này lại đồng với lời vừa nói, không rơi vào tình trần ý tưởng của ông. Giống như cái gì? “Tay cầm roi bạch ngọc, đánh vụn ngọc ly châu”. Cho nên Tổ lệnh đương hành quét sạch mười phương. Đây là việc trên kiếm bén, phải là có hành vi như thế. Nếu không phải như thế thì cô phụ chư bậc Thánh từ trước. Đến trong đây cần không có một chút việc, tự có ưu điểm, bèn là chỗ hành lý của bậc thượng nhân. Đã không đập nát ắt có tăng tỳ vết, bèn thấy bày vẽ. Cuối cùng phải làm sao được? Nước có hiến chương, ba ngàn điều tội. Ngũ hình thuộc ba ngàn, không tội nào lớn hơn tội bất hiếu. Hiến là pháp, chương là điều, ba ngàn điều tội cùng một lúc phạm hết. Vì sao như thế, chỉ vì không lấy việc bổn phận tiếp người. Nếu là Đại Long chắc chắn không như thế. (2 0 9) CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng nói: Cổ Phật và cây cột chạm nhau là cơ thứ mấy? Tự nói thay: Núi Nam nổi mây, núi Bắc rơi mưa. GIẢI THÍCH: Đại sư Vân Môn giáo hóa hơn tám mươi thiện tri thức, sau khi Ngài viên tịch bảy mươi năm người ta mở tháp ra vẫn thấy Ngài như cũ, người ta thấy rõ ràng cơ cảnh chóng vánh. Phàm dạy bảo, ứng đối, thay nói rất cứng rắn. Chỉ công án này như đá nháng lửa, như điện chớp, chính là thần xuất quỷ nhập. Khánh Tạng Chủ nói: Một đại Tạng giáo có lời nói này không. Như người thời nay phần nhiều suy tính trên kiến giải phàm tình, nói Phật là thầy của ba cõi, cha lành của bốn loài. Đã là cổ Phật, vì sao lại chạm nhau với cột trụ. Nếu hiểu như thế cuối cùng mò tìm không được. Có người gọi là xướng lên không đúng. Thật không biết lời nói của nhà tông sư, tuyệt ý thức, tuyệt tình lượng, tuyệt sinh tử, tuyệt pháp trần, nhập vào chánh vị không còn một pháp trần nào cả, mới là suy tính về đạo lý, bèn buộc tay, buộc chân. Hãy nói ý của người xưa thế nào. Nhưng chỉ làm cho tâm và cảnh nhất như, thị phi tốt xấu lay động không được, bèn nói có cũng được không cũng được, có cơ cũng được không cơ cũng được. Đến đây nhịp nhịp đều là lệnh. Ngũ Tổ tiên sư nói: Cả thảy Vân Môn xưa nay mật nhỏ. Nếu là sơn tăng thì sẽ nói với sư cơ thứ tám. Vân môn nói: Cổ Phật và cột trụ giao nhau là cơ thứ mấy? Khoảng khắc lại bao trùm trước mắt. Tăng hỏi: Chưa rõ ý chỉ thế nào? Môn đáp: Một sợi dây bán ba mươi xu. Sư có con mắt định càn khôn. Đã không có người hiểu, sau đó tự thay nói núi Nam nổi mây, núi Bắc rơi mưa. Lại cùng với kẻ hậu học thông suốt vào đường lối. Cho nên Tuyết Đậu chỉ dạy người thấy chỗ định càn khôn của Sư. Nếu suy tính, lộ bày mũi nhọn thì đối mặt liền sai lầm. Chỉ cốt nguyên vẹn tông chỉ Vân Môn, và rõ cái cơ cao vót. Cho nên Tụng: <詞>DỊCH: Nam sơn vân Bắc sơn vũ Tứ thất nhị tam diện tương đổ Tân La quốc lý tằng thượng đường Đại Đường quốc lý vị đả cổ. Khổ trung lạc Lạc trung khổ Thúy đạo huỳnh kim như phấn thổ? Núi Nam mây Núi Bắc mưa Mặt cùng thấy Trong nước Tân-la từng thượng đường Trong nước Đại Đường chưa đánh trống Trong khổ có vui, Trong vui có khổ Ai nói vàng rồng như phân đất. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Núi Nam mây, núi Bắc mưa. Tuyết Đậu mua cái mũ đội đầu, xem gió mở buồn nhằm trên kiếm bén đạp dưới gót chân, dù Ba mươi ba Tổ mặt cùng thấy chớ hiểu lầm. Đây chỉ là tụng cổ Phật và cột trụ chạm nhau là cơ thứ mấy? Phần sau khai mở lối, giảng nói muốn thấy được ý của Sư. Từng thượng đường trong nước Tân-la. Chưa đánh trống trong nước Đại Đường. Tuyết Đậu, hướng đến chỗ diệu chuyển sao bay bèn nói: Trong khổ có vui, trong vui có khổ. Tuyết Đậu giống như đờ đẫn lúng ta, lúng túng, ở trong đây rồi. Cho nên về sau có một câu thơ Thiền Nguyệt Hành Lộ Nan, Tuyết Đậu dẫn ra để dùng. Thiền Nguyệt nói: Núi cao biển rộng người không lường Xưa đi nay đến chuyển xanh biếc Thiển cận nhẹ nổi chẳng giao nhau. Đất xấu chỉ biết sinh gai gốc. Ai nói vàng ròng như phân đất, Trương Nhó, Trần Như đoạn tin tức. đi đường khó, đi đường khó, anh tự xem. Đâu chẳng phải là đất rộng người thưa, La-hán Vân Cư. KHAI THỊ: Nói đúng không chỗ đúng, nói sai sai, đã không chỗ sai, được mất đều quên, sạch trọi trơn, trần trùng trục. Hãy nói trước mặt sau lưng là cái gì? Có một nạp tăng ra nói: Trước mặt là tam môn điện Phật, sau lưng là phương trượng nhã nghó. Hãy nói: Người này có mắt không? Nếu phân biệt được người này cho phép ông thấy người xưa đến. CÔNG ÁN: Duy-ma-cật hỏi Văn-thù-sư-lợi: Thế nào là Bồ-tát nhập Pháp môn bất nhị? Văn-thù đáp: Theo tôi thì đối với tất cả pháp không nói, không lời, không dạy, không biết, lìa các hỏi đáp, đó là nhập Pháp môn bất nhị. Bởi thế, Văn-thù-sư-lợi hỏi Duy-ma-cật: Chúng tôi đều tự nói rồi. Nay nhân giả hãy nói. Thế nào là Bồ-tát nhập Pháp môn bất nhị? Tuyết Đậu nói: Duy-ma-cật nói cái gì? Lại nói: Khám phá xong. GIẢI THÍCH: Duy-ma-cật bảo các Bồ-tát mỗi người nói về Pháp môn bất nhị. Bấy giờ có ba mươi hai Bồ-tát đều dùng hai kiến giải hữu vi, vô vi, chân đế, tục đế hợp làm thành một cái thấy làm Pháp môn bất nhị. Sau đó hỏi Văn-thù, Văn-thù nói: Theo tôi, đối với tất cả pháp không nói không lời, không dạy, không biết, lìa các hỏi đáp là nhập Pháp môn bất nhị. Bởi vậy, ba mươi hai Bồ-tát dùng lời để nói, Văn-thù dùng im lặng vô ngôn để nói, một lúc quét sạch ấy là nhập Pháp môn bất nhị. Thật không biết rùa linh kéo đuôi, khỏa dấu thành vết. Giống như cái chổi quét bụi, bụi tuy hết mà dấu chổi còn. Rốt cuộc vẫn như trước trừ bỏ tung tích. Bởi thế, Văn-thù lại hỏi Duy-ma-cật rằng: Tôi đã tự nói rồi, nhân giả sẽ tự nói thế nào là Bồ-tát nhập Pháp môn bất nhị? Duy-ma-cật im lặng, nếu là kẻ sống thì không đến ngâm trong nước chết. Nếu làm kiến giải như thế giống như chó điên đuổi theo cục đất. Tuyết Đậu chẳng nói lặng thinh, cũng không nói im lặng giây lâu ngồi. Chỉ vội vàng nói: Duy-ma nói cái gì? Chỉ như Tuyết Đậu nói như thế, lại thấy Duy-ma không? Mộng hay chưa mộng? Duy-ma-cật chính là cổ Phật thời quá khứ, cũng có quyến thuộc, giúp Phật giáo hóa, lại biện tài không thể nghó bàn, có cảnh giới không thể nghó bàn, có thần thông diệu dụng bất khả tư nghì, ở trong cái thất dung chứa ba vạn hai ngàn tòa báu sư tử, cùng với tám vạn đại chúng, cũng không rộng không hẹp. Hãy nói là đạo lý gì? Gọi là thân thông diệu dụng được không? Chớ nên có hiểu lầm. Nếu là Pháp môn bất nhị, tuy cùng đắc cùng chứng mới chính là cùng chứng biết. Chỉ có Văn-thù mới đáng cùng ông đối đáp. Tuy như thế có tránh được sự kiểm trách của Tuyết Đậu không? Tuyết Đậu nói như thế cũng muốn cho hai người này gặp nhau. Hỏi: “ Duy- ma nói cái gì. Lại nói: Khám phá Phật rồi. Ông hãy nói chỗ nào là chỗ khám phá. chỉ một chút này không câu nệ vào được mất, không rơi vào thị phi như vách núi vạn trượng, hướng lên xả bỏ được tánh mạng, nhảy qua được thì cho ông đích thân gặp Duy-ma. Nếu xả bỏ không được thì giống như bầy dê chạm bờ rào Tuyết Đậu cố nhiên là người bỏ được tánh mạng, vì thế Tụng! Đốt! Giá Duy-ma lão Bi sanh bắt áo não Ngọa tật Tỳ-da-ly Toàn thân thái khô cảo Thất thất thả tần tảo Thỉnh vấn bất nhị môn Đương thời tiện kháo đảo Bất kháo đảo Kim mao sư tử vô xứ thảo. <詞>DỊCH: Ối! Cái lão Duy-ma Sanh không buồn thảm Nằm bệnh Tỳ-da-ly Toàn thân quá gầy ốm Tổ sư Bảy Phật sang. Một thất hằng luôn quét Thưa hỏi môn bất nhị Lúc ấy liền tựa ghế Không tựa ghế Sư tử lông vàng không chỗ tìm. GIẢI TỤNG: Câu: Tuyết Đậu nói: “Ối! lão Duy-ma”. Trước hết hạ chữ “Đốt” để làm gì? Dùng kiếm báu của Kim Cang Vương, may ban đầu chặt đứt, cần phải sáng đánh ba ngàn chiều đánh tám trăm mới được. Phạn ngữ là Duy-ma-cật, Trung Hoa dịch là Vô Cấu Xưng, cũng gọi là Tịnh Danh. Chính là Như Lai Kim Túc thời quá khứ. Tăng hỏi Hòa thượng Giản ở Vân Cư đáp: Đã là Như Lai Kim Túc, vì sao lại nghe pháp ở trong hội của Đức Phật Thích-ca? Hòa thượng Giản đáp: Ngài không tranh nhân ngã, người đại giải thoát không câu nệ thành Phật hay không thành Phật. Nếu bảo Ngài hành mong thành Phật đạo, càng không dính dáng. Như kinh Viên Giác nói: “Dùng cái tâm luân hồi sanh kiến luân hồi vào biển Đại Tịch diệt của Như Lai đều không thể đến”. Vónh Gia nói: “Hoặc phải hoặc quấy người không biết, nghịch hạnh thuận trời chẳng lường”. Nếu thuận hạnh thì hướng đến quả vị Phật. Nếu nghịch hạnh thì vào cảnh giới chúng sinh. Thiền sư Thọ nói: “Dù ông mài luyện đến được điền địa này cũng chưa thuận được ý của ông. Đợi chứng Thánh vô lậu mới nên nghịch hạnh thuận hạnh. Cho nên Tuyết Đậu nói: “ Bi sanh không buồn thảm”. Kinh Duy-ma nói: Vì chúng sinh bệnh nên ta cũng bệnh. Buồn thảm thì lòng bi mất. Câu: “Nằm bệnh ở Tỳ-da-ly”. Duy-ma thị hiện bệnh ở thành Tỳ-da-ly. Thời Đường sách Vương Huyền đi sứ Tây Vức đến chỗ Duy Ma ở, dùng tay đo ngang dọc cái thất của Ngài chỉ được mười hốt, nhân đó gọi là phương trượng. Câu: “Toàn thân quá gầy ốm, nhân đem thân bệnh rộng thuyết pháp cho người: “Thân này là vô thường, không mạnh khỏe không chắn chắn là pháp chóng hoại, không thể tin cậy, là khổ não. Nhóm họp các bệnh là chỗ của âm giới nhập hợp thành. Câu: “Sáng bảy Phật Tổ sư”. Văn-thù là Tổ sư của bảy Đức Phật, theo lời dạy của Thế Tôn đến chỗ Duy-ma-cật hỏi bệnh. Câu: “Một thất hằng luôn quét”, trong phương trượng dẹp hết mọi vật, chỉ để lại một cái giường, đợi Văn-thù đến hỏi Pháp môn bất nhị. Cho nên Tuyết Đậu nói: “Thưa hỏi môn bất nhị. Lúc ấy liền tựa ghế”. Duy-ma miệng như tấm biển. Các thiền lữ thời nay nói: Không lời là tựa ghế. Chớ nhận lầm định kiến giải chủ quan. Tuyết Đậu lên vách núi vạn nhẫn lại nói “không tựa ghế”. Một tay đưa lên một tay đè xuống. Sư có thủ đoạn này quả thật linh động. Bài tụng trước nói Duy-ma nói cái gì? “Nay nói Sư tử lông vàng không chỗ”, không những lúc ấy mà nay cũng như thế. Lại thấy lão Duy-ma không? Tất cả sơn hà đại địa cỏ cây tòng lâm đều biến thành sư tử lông vàng, cùng tìm tòi không được. KHAI THỊ: Nắm giữ thế giới không sót một mảy may. Tất cả người trong quả đất đều quên gươm ngậm miệng là chánh lệnh của nạp tăng. Đảnh môn phóng quang, chiếu phá bốn thiên hạ, là con mắt kim cương của nạp tăng, một chấm sắt thành vàng, một chấm vàng thành sắt, chợt nắm chợt buông chính là cái gậy của nạp tăng. Quét sạch cái lưỡi của mọi người trong thiên hạ, cho dù không có chỗ nhã hơi, thối lui ba ngàn dặm, là bầu khí của nạp tăng. Hãy nói lúc không phải như thế rốt cuộc thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng đến chỗ của am chủ Đồng Phong bèn hỏi: Ở đây khi gặp hổ thì làm sao? Am chủ liền bắt chước tiếng cọp rống. Tăng liền làm cái thế sợ. Am chủ cười ha hả. Tăng nói: Lão giặc. Am chủ nói: Làm gì được lão tăng. Tăng thôi đi. Tuyết Đậu nói: Đúng thì đúng, cả hai người đều là ác tặc, chỉ biết bịt tai trộm nghe. GIẢI THÍCH: Tông phái đại hùng phát sinh bốn am chủ là Đại Mai, Bạch Vân, Hổ Khê, Đồng Phong. Xem hai người chính mắt thủ đoạn như thế. Hãy nói sai lầm ở chỗ nào? Người xưa một cơ, một cảnh, một lời, một câu, tuy nhiên xuất phát tạm thời. Nếu là chính mắt ngay thì tự nhiên linh hoạt. Tuyết Đậu niêm khiến người biết tà chánh, phân biệt được mất. Tuy nhiên như thế, về phần đạt thấu của Sư tuy ở nơi được mất lại không có được mất. Nếu dùng được mất để thấy được người xưa thì không có dính dáng. Người thời nay phải là đến chỗ không được mất, sau đó dùng được mất để phân biệt người, nếu một bề dụng tâm đi chọn lựa trong chỗ chọn lựa ngôn cú thì đến bao giờ mới tỏ rõ. Đại sư Vân Môn nói: Kẻ hành cước không nên đi chu du uổng phí, chỉ muốn được đưa ra nắm lấy lời nói không quan trọng, đợi lão Hòa thượng mở miệng liền hỏi thiền. hỏi đạo, hướng thượng, hướng hạ, thế nào làm sao cuốn đem bỏ đi, đi guốc trong bụng, đến ở bên lò lửa ba người, năm người, tụ đầu nói chuyện, thao thao bèn nói người này có tài nói, người này là trả đũa, người này nói lời về việc thượng đạo, người này là lời trong thể. Thể ở ông bà ở trong nhà ông, ăn cơm rồi chỉ nói mớ, bèn nói ta hiểu Phật pháp. Nên biết hành cước như thế thì năm lừa mới lãnh hội. Người xưa tạm thời gian đưa ra nhận xét về điều quan trọng của tông môn há có cái thấy hơn thua được mất thị phi. Đồng Phong yết kiến Lâm Tế lúc ấy ở trong am cỏ núi sâu, tăng này đến hỏi ở đây lúc gặp cọp thì làm thế nào? Phong làm tiếng cọp gầm, cũng giống như ước việc liền đi. Tăng này cũng biết đem sai lầm, làm sai lầm liền làm bộ sợ. Am chủ cười lớn. Tăng nói lão giặc này. Phong nói làm gì được lão tăng, đúng thì đúng cả hai đều không rõ; ngàn xưa gặp người kiểm điểm, cho nên Tuyết Đậu nói đúng thì đúng cả hai người đều là giặc, do chỉ biết bịt tai trộm linh. Hai lão này như sắp đặt trăm vạn quân trận, lại chỉ đánh cái chổi. Nếu luận về việc này phải là thủ đoạn người không chớp mắt. Nếu một bề thả mà không bắt, một bề giết chết không cứu sống, không khỏi gặp người chê cười. Tuy nhiên như thế người xưa cũng không lắm việc, xem hai người như thế đều là thấy cơ mà làm. Ngũ Tổ nói: Thần thông du hý Tam-muội, Huệ Cực Tam-muội, Trang Nghiêm Vương Tam-muội! Là người sau gót chân không dính đất. Chỉ đi kiểm điểm người xưa, bèn nói: Có được có mất có (2 11). Có người nói: “Rõ ràng am chủ bị thua, có gì dính dáng. Tuyết Đậu nói: Hai người gặp nhau đều có chỗ tha một phen. Tăng ấy nói: Ở đây thình lình gặp cọp thì làm sao? Đồng Phong bèn làm tiếng gầm của cọp, đây chính là chỗ bỏ qua. Cho đến Đồng Phong nói làm gì được lão tăng. Đây cũng chính là chỗ bỏ qua, mỗi hành vi một động tác rơi vào cơ thứ hai. Tuyết Đậu nói: Cần dùng thì dùng. Người nay nghe nói như thế, bèn nói: Lúc ấy đáng hành chánh lệnh. Chẳng phải trừng phạt cẩu thả. Vào cửa Đức Sơn liền đánh. Vào cửa Lâm Tế liền hét. Hãy nói: Ý của người xưa thế nào? Phần sau của Tuyết Đậu chỉ tụng ra như thế. Hãy nói cuối cùng làm sao tránh được bịt tai trộm linh. <詞>TỤNG: DỊCH: Kiến chi bất thủ Tư chi thiên lý Hảo cá ban ban Trảo nha vị bị Quân bất kiến Đại Hùng sơn hạ hốt tương phùng Lạc lạc thanh quang giai chân địa Đại trượng phu kiến dã vô Thấy đó không lấy Nghó đó ngàn dặm Cọp đẹp vằn vện Móng vuốt chưa đủ Anh không thấy Bỗng gặp nhau dưới núi Đại Hùng Rỡ rỡ tiếng vang rên dội đất Đại trượng phu thấy hay không Nắm đuôi cọp chừ vuốt râu cọp. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Thấy không lấy, suy nghó ngàn dặm”, đang ở chỗ không thể sử dụng. Đợi Sư nói: “Làm gì được lão tăng”, nên vì bổn phận giải quyết. Lúc ấy nếu hạ được thủ đoạn này, ông ta chắc chắn có lời sau. Một người chỉ biết buông không biết nắm. Thấy không lấy chính là mây trắng ngàn dặm, lại nói cái gì là “nghó đó ngàn dặm”. Hai câu: “Cọp đẹp vằn vện nanh vuốt chưa đủ, phải thì phải, cọp cũng biết ẩn mạnh giấu vuốt, tại sao không biết vồ người? Ba câu: “Anh không thấy, bỗng gặp nhau dưới núi Đại Hùng, Rỡ rỡ tiếng vang rền dội đất”. Một hôm, Bách Trượng hỏi Hoàng Bá: Từ đâu đến? Hoàng Bá: Nhỗ nấm dưới núi đến. Bách Trượng: Có thấy cọp không? Hoàng Bá liền làm bộ tiếng cọp rống. Bách Trượng ở sau lưng rút rìu ra làm cái thế chém. Hoàng Bá liền đứng liền tát. Đến chiều Bách Trượng thượng đường nói: Dưới núi Đại Hùng có một con cọp, mọi người lui tới phải đề phòng nó. Lão tăng ngày nay bị nó cắn một cái. Sau đó Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Điều Hoằng Bá nói cọp là thế nào? Ngưỡng Sơn: Tôn ý của Hòa thượng thế nào? Quy Sơn: Bách Trượng lúc ấy nên chém một búa cho nó chết. Vì sao đến như thế? Ngưỡng Sơn: Không phải như vậy. Quy Sơn: Ông thì thế nào? Ngưỡng Sơn: Không chỉ cưỡi trên đầu cọp, mà còn biết nắm lấy đuôi cọp. Quy Sơn: Huệ Tịch có câu rất vững vàng. Tuyết Đậu dẫn dùng để rõ phần trước công án. “Rỡ rỡ tiếng vang nền dội đất”. Một chút này có chuyển biến tự tại, muốn ở trong câu có lối thoát thân. Đại trượng phu thấy không. Có thấy không. Nắm đuôi cọp vuốt râu cọp, chưa khỏi một lúc bị xỏ mũi. KHAI THỊ: Giữ vững thế giới không sót một mảy may, cắt đứt các dòng không còn một giọt, mở miệng liền lầm suy tính liền sai. Hãy nói: Thế nào là nhìn xuyên thấu cửa ải thiền cơ, thử nói xem? CÔNG ÁN: Vân Môn nói: Mỗi người đều có quang minh, lúc xem không thấy tối mờ mờ. Thế nào là ánh sáng của quý vị. Tự thay nói: Nhà kho ba cửa. Lại nói: Việc tốt chẳng bằng không. GIẢI THÍCH: Vân Môn Trong thất nói lời tiếp người: Dưới gót chân các ông đều có một đoạn ánh sáng soi thấu xưa nay vượt hẳn thấy biết. Tuy nhiên ánh sáng, vừa hỏi đến lại không hiểu. Há không phải là tối mờ mờ ư? Lời nói này đến hai mươi năm dạy đều không có một người hiểu ý Sư. Sau Hương Lâm cầu xin thay lời nói. Vân Môn nói nhà kho ba cửa. Lại nói: Việc tốt chẳng bằng không. Bình thường thay nói chỉ một câu, vì sao ở đây lại hai câu. Câu trước là lược khai mở một đường cho ông thấy. Nếu là người tốt nghe nhiều nắm lấy liền đi. Ông ta sợ người kẹt ở đây. Lại nói: “Việc tốt cho bằng không”. Như trước cho ông quét đi. Như người thời nay nghe nói ánh sáng liền trợn mắt nói: “Cái nào là nhà kho, cái nào là ba cửa”. Vẫn không dính dáng. Cho nên nói: “Biết lấy ý đầu lưỡi câu, chớ nhận định chủ quan”. Việc này không ở nơi mắt, cũng không ở nơi cảnh, phải là đoạn tri kiến, dứt được mất, sạch trọi trơn bày lồ lộ. Mỗi mỗi trên phần của người hiện tại nghiên cứu lấy mới được. Vân Môn nói: “Đến đi trong ngày, phân biệt người trong ngày. Bỗng nhiên nửa đêm không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, chỗ từng đến thì vẫn được, chỗ chưa từng đến chỗ lấy một vật, lại lấy được không?” Tham Đồng Khế nói: Chính trong sáng có tối, chớ lấy tối xem nhau, chính trong tối có sáng, chớ lấy sáng gặp nhau”. Nếu quét sạch sáng tối. Hãy nói là cái gì? Cho nên nói: “Hoa tâm phát sáng chiếu sáng cõi nước ở mười phương. Bàn Sơn nói: “Ánh sáng không chiếu cảnh, cảnh cũng không còn, ánh sáng và cảnh đều quên, lại là vật gì? Lại nói: Cái thấy nghe, chẳng thấy nghe, không có sắc thanh đáng trình cho anh. Trong đây nếu rõ hoàn toàn vô sự thì thể dụng đâu ngại phân hay không phân”. Chỉ biết lấy một câu sau cùng rồi, lại đi du hý, cuối cùng không ở trong đó mà làm kế sống. Người xưa nói: Dùng gốc vô trụ mà lập tất cả pháp”. Không được ở trong đây mà huyễn hoặc người, lại không được hiểu là vô sự. Người xưa nói: “Thà chấp có như núi Tu-di, không nên chấp không như hạt cải”. Hàng Nhị thừa phần nhiều rơi vào cái chấp. Tuyết Đậu tụng: Tự chiếu liệt cô minh Vị quân thông nhất tuyền Hoa tạ thọ vô ảnhkhán thời thùy bất kiến Kiến bất kiến Đảo kî ngưu hề nhập Phật điện. <詞>DỊCH: Tự chiếu bày sáng cõi Vì anh thông một đường Hoa tàn cây không bóng Khi nhìn ai không thấy Thấy hay không thấy Cỡi ngược trâu vào điện Phật. GIẢI THÍCH: Câu: “Tự chiếu bày sáng cõi”, dưới gót chân mỗi người vốn sẳn một đoạn quang minh này, chỉ là bình thường dùng được thì tối. Cho nên Vân Môn Đại sư cho ông ta hết quang minh này, trước mặt ông. Thế nào là quang minh của các ông? Nhà kho ba cửa. Đây là chỗ Vân Môn bày cái sáng tối. Bàn Sơn nói: “Trăng tâm tròn sáng nuốt vạn tượng”. Đây chính là chân thường độc lộ. Sau đó “ Vì anh thông một đường”, cũng sợ người chấp chỗ kho trù ba cửa. Nhà kho trù ba cửa thì hãy theo. Buổi sáng hoa đã tàn, cây cũng không bóng, mặt trời lăn, mặt trăng lại tối, khắp cả càn khôn đại địa tối mênh mang. Các ông có thấy không? Lúc nhìn ai chẳng thấy. Hãy nói là người nào không thấy? Đến đây phải trong sáng có tối, trong tối có sáng, đều như bước trước, bước sau tự nên thấy. Tuyết Đậu nói: “Thấy hay không thấy”. (2 12) là tụng “việc tốt chi bằng không”. Nên thấy lại không thấy, lúc sáng lại không sáng. Câu “cỡi ngược trâu vào điện Phật” là đi vào trong thùng sơn vậy. Phải là ông cỡi ngược trâu vào điện Phật. Hãy nói xem là đạo lý gì? KHAI THỊ: Kẻ mắt sáng không hang ổ, có khi trên đỉnh Cô Phong cỏ rậm rì; có ở đầu chợ bày lồ. Bỗng khi phẫn nộ, Na-tra hiện ba đầu, sáu tay. Bỗng khi như mặt trời mặt trăng Phật, phóng từ quang nhiếp tất ca,û ở trong một hạt bụi hiện tất cả thân, tùy theo mỗi loài mà hiện dùng phương tiện dạy. Bỗng khi vạch ra lôi hướng thượng, mắt Phật nhìn không thấy, dù cho ngàn vị Thánh ra đời cũng phải thối lui ba ngàn dặm. Có người đồng đắc đồng chứng không, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Bệnh và thuốc trị nhau, tất cả đại địa đều là thuốc, cái nào là chính mình? GIẢI THÍCH: Vân Môn nói: Bệnh và thuốc trị nhau, tất cả đại địa là thuốc, cái nào là chính mình. Các người có chỗ xuất thân không? Trong hai mươi sáu thời tự, tự xem xét lấy vách đứng ngàn nhẫn. Gậy của Đức Sơn như mưa đổ. Tiếng hét của Lâm Tế như sấm dậy, tạm gác qua một bên. Thích-ca tự Thích-ca, Di-lặc tự Di-lặc chưa biết thế nào? Thường gọi là bệnh và thuốc hiểu nhau. Thế Tôn bốn mươi chín năm thuyết pháp hơn ba trăm hội, ứng cơ thiết giáo, đều là tùy bệnh cho thuốc như đem trái đắng đổi thành trái ngọt. Đã đào thải nghiệp căn của các ông, làm cho đại triệt đại ngộ. Hết cả đại địa là thuốc. Vậy ông sinh nhai chỗ nào. Nếu sinh nhai được thì bằng lòng cho ông có nơi chuyển thân nhã hơi, liền đích thân yết kiến Vân Môn. Nếu ông quay đầu do dự thì dù là sinh nhai không được mà Vân Môn ở dưới gót chân của ông. Bệnh và thuốc trị nhau, cũng chỉ là lời nói tầm thường, nếu ông chấp có thì nói cho ông là không. Nếu ông chấp không thì nói cho ông là có. Nếu ông chấp không có, không không thì quét bỏ ngu si nhơ nhớp cho ông, hiện thân vàng trượng sáu, đầu ra đầu vào. Chỉ như nay tất cả đại địa sum-la vạn tượng cho đến bản thân mình một lúc đều là thuốc. Đương lúc như thế lại gọi cái gì là mình? Nếu ông cứ một bề gọi là thuốc thì đến lúc Di-lặc hạ sinh cũng chưa nằm mộng thấy Vân Môn. Cuối cùng thế nào biết nắm ý then chốt. Chớ nhận định chủ quan. Văn- thù ngày nọ sai Thiện Tài đi tìm thuốc nói rằng: Hái thứ không phải thuốc về đây. Thiện Tài tìm khắp, thứ nào cũng là thuốc cả, trở về thưa Văn-thù: Thứ nào cũng là thuốc cả. Văn-thù nói: Tìm thứ phải thuốc đem về đây. Thiện Tài bèn hái một cành cỏ đưa cho Văn-thù. Văn-thù đưa lên dạy chúng rằng: Thuốc này cũng có thể giết chết người, cũng có thể cứu sống người. Đây chính là lời bệnh thuốc trị nhau. Vân Môn ở trong thất bình thường dùng tiếp đãi người. Một hôm, trưởng lão Kim Nga hỏi Tuyết Đậu: Sư là hàng tác gia tôn túc của Lâm Tế. Cùng với Tuyết Đậu luận bàn về điều bệnh thuốc trị nhau, nói chuyện một đêm đến trời sáng mới thôi. Đến đây dùng kiến giải suy lường so sánh thì không thể được. Sau đó Tuyết Đậu có bài tụng tiễn đưa ông ta nói: (Bệnh thuốc trị nhau thấy gian nan Vạn lớp then cài không mối mang Kim Nga đạo giả sang thăm hỏi Biển học sóng đùa một đêm khan). Phần sau Tuyết Đậu tụng được rất công phu, ý của Sư cũng ở nơi khách cũng ở nơi chủ tự có thể thấy vậy. Tụng rằng: <詞>TỤNG: Tận đại địa thị dược Cổ kim hà thái thố Bế môn bất tạo xa <詞>DỊCH: Thông đồ tự liêu khoánh Thố!Thố! Cả đại địa là thuốc Xưa nay sao quá lầm Đóng cửa xe chẳng tạo Đường thông tự rộng thênh Lầm! Lầm. Lỗ mũi thấu trời cũng bị xỏ. lầm”. TỤNG GIẢI: Hai câu: “Cả đại địa là thuốc, xưa nay đâu có Nếu ông hiểu là thuốc thì từ xưa đến nay một lúc đều lầm rồi. Tuyết Đậu nói: Có kẻ thường không biết cắt đứt gót chân của Đại Mai, chỉ cần nói đường đi rất nhanh. Sư đã biết cắt đứt gót chân Vân Môn. Vì một câu của Vân Môn làm mê hoặc người trong thiên hạ không ít. Vân Môn nói: “Cây gậy là sóng, cho ông thấu triệt cả đại địa là sóng, xem ông vừa ra vừa vào”. Hai câu: “Đóng cửa xe chẳng tạo, đường thông tự rộng thênh”. Tuyết Đậu nói: Vì ông thông một con đường. Nếu ông đóng cửa tạo xe, mở cửa ráp bánh, giúp được việc gì? Ta ở đây đóng cửa cũng chẳng tạo xe, mở cửa tự nhiên rộng thênh thang. Sư ở chỗ này lược bày một chút ít kẻ hở khiến người thấy. Sư vội nói: “Lầm! Lầm! “Liên tiếp đầu trước lầm đầu sau cũng lầm. Ai biết Tuyết Đậu mở một con đường cũng lầm. Đã lầm như thế là lỗ mũi tới trời cao vì sao lại bị xỏ, có muốn hiểu không, lại tham cứu ba mươi năm ông có cái gậy, ta cho ông cái gậy. Nếu ông không có gậy thì không khỏi bị người xỏ mũi. KHAI THỊ: Môn đình thi thiết, thủ đoạn tiếp dẫn người học và phương thức truyền thừa thiền pháp theo mỗi tông lại như thế, phá hai lập ba, nhập lý luận bàn sâu. Cũng phải là đại triệt đại ngộ, thích ứng trình độ, đập nát khóa vàng cửa huyền theo lệnh mà thi hành, đến nổi quét sạch dấu vết. Hãy nói: Lạ lùng ở chỗ nào? Người có mắt trên đảnh môn, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc lão túc khắp nơi đều nói tiếp vật lợi sinh, bỗng gặp ba loại người bệnh đến thì làm sao tiếp? Người mù thì đưa chùy dựng phất trần, nhưng họ lại không thấy. Người điếc thì nói Tam-muội mà họ không nghe. Người câm thì dạy họ nói mà nói không được. Phải làm sao tiếp? Nếu tiếp người này không được thì Phật pháp không linh nghiệm”. Tăng hỏi Vân Môn, Vân Môn đáp: Ông lễ bái đi! Tăng lễ bái rồi, Vân Môn lấy gậy đuổi tăng thối lui. Vân Môn nói: Ông không phải là người mù. Rồi gọi tăng đến gần. Tăng đến, Vân Môn nói: Ông không phải là người điếc. Vân Môn nói có hiểu không? Tăng thưa: Không hiểu. Vân Môn nói: Ông không phải là người câm. Tăng ngay đó tỉnh ngộ. GIẢI THÍCH: Huyền Sa tham cứu đến tuyệt tình trần lìa ý tưởng sạch trọi trơn, trần trùng trục mới biết nói như thế. mọi người bấy giờ cứ cấu nhau, bình thường dạy chúng nói các lão túc khắp nơi đều nói tiếp vật lợi sinh, bỗng gặp ba loại người bệnh đến thì làm sao tiếp? Người mù thì đưa chùy giơ phất trần mà họ lại không thấy. (2 13) Nếu là người điếc thì nói về Tam-muội nhưng họ không nghe. Người câm thì dạy họ nói mà họ nói không được. Lại làm sao tiếp độ. Nếu tiếp độ người này không được thì Phật pháp không linh nghiệm”. Như người thời nay, nếu làm mù điếc câm để hiểu thì tìm không được. Cho nên nói chớ chết trong ngôn cú, phải hiểu ý của Huyền Sa mới được. Huyền Sa thường dùng lời này để tiếp độ người. Có vị tăng đã ở từ lâu nơi chỗ Huyền Sa, ngày nọ thượng đường tăng hỏi Hòa thượng: Nói ba loại người bệnh, lại cho con nói đạo lý không? Huyền Sa đáp: Cho! Tăng liền trân trọng đi ra. Sa nói: Không phải, không phải. Tăng này hiểu được ý của Huyền Sa. Sau đó Pháp Nhãn nói: Tôi nghe Hòa thượng Địa Tạng thuật lại lời của vị tăng này, mới hiểu được câu Ba loại người bệnh”. Nếu nói tăng này không hiểu, vì sao mà Pháp Nhãn lại nói như thế? Nếu nói ông hiểu, vì sao Huyền Sa lại nói “Không phải! không phải?” Một hôm, Địa Tạng hỏi: Tôi nghe Hòa thượng nói về ba loại người bệnh phải không? Huyền Sa: Phải? Địa Tạng: Quế Sâm hiện có mắt tai mũi lưỡi, Hòa thượng làm sao tiếp? Huyền Sa bèn im lặng. Nếu hiểu ý của Huyền Sa, há ở trên ngôn cú kia, hiểu được tự nhiên khác biệt. Sau đó có vị tăng thuật cho Vân Môn. Vân Môn liền hiểu ý của ông ta và nói: “Ông lễ bái đi”! Tăng lễ bái. Vân Môn lấy gậy đẩy tăng lui. Tăng này thối lui. Vân Môn nói: Ôâng không phải là bệnh mù. Lại bảo: Đến gần đây. Tăng đến gần. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh điếc. Rồi hỏi: “Hiểu không?” Tăng đáp: “Không hiểu”. Vân Môn nói: “Ông không phải bệnh câm”. Tăng này ngay đó tỉnh ngộ. Lúc ấy nếu là kẻ này, đợi Sư nói lễ bái đi, liền đạp nhào thiền sàng đâu còn thấy vướng mắc. Hãy nói chỗ hiểu của Vân Môn và Huyền Sa đồng hay khác? Chỗ hiểu của hai người giống nhau. Xem người xưa dùng ngàn muôn thứ phương tiện, nhưng ý vẫn ở một điểm then chốt. Cả thảy đắng miệng chỉ giúp các ông sáng việc này. Lão sư Ngũ Tổ nói: “Người nói được lại không hiểu. Người hiểu lại không nói”. Nếu hai người đến tham kiến làm sao phân biệt được họ? Nếu biện không được, thì nhất định không thể mở niêm tháo chốt cho người được. Nếu được thì vừa thấy vào cửa, ta đã mang giày cỏ đi trong bụng ông ta chạy mấy lần rồi. Vẫn tự không tỉnh ngộ, còn tìm cái gì? Đi ra. Chớ toan hiểu theo mù, điếc, câm ngọng. Không nên suy tính như thế, cho nên nói: Mắt thấy sắc như mù, tai nghe tiếng như điếc. Lại nói: Mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng. Văn-thù thường chạm mắt. Quán Âm bịt lỗ tai. Đến đây mắt thấy sắc như mù, tai nghe tiếng như điếc, mới có thể không trái ý với Huyền Sa. Các ông có hiểu chỗ rơi của kẻ mù điếc câm không? Xem Tuyết Đậu: <詞>TỤNG: DỊCH: Manh lung ám á Yểu tuyệt cơ nghi Thiện thượng thiên hạ Kham tiêu kham bi Ly lâu bất biện chánh sắc Sự khoáng khởi thức huyền ty Tranh như độc tạo hư song hạ Diệp lạc hoa khai, tự hữu thì. Mù điếc câm ngọng Vắng bặt cơ nghi Trên trời dưới trời Đáng cười đáng thương. Ly Lâu không biện chánh sắc Sư Khoáng đâu biết tơ huyền Đâu như chỉ ngồi dưới song vắng Lá rụng hoa tàn tự đúng kỳ. Lại nói: Có hiểu không? Chùy sắt không lỗ. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Mù điếc câm, vắng bặt cơ nghi”. Tột cái ông thấy và không thấy, nghe và không nghe, nói và không nói. Tuyết Đậu cùng lúc quét sạch cho ông rồi. Đến nỗi kiến giải của người mù, điếc, câm ngọng, cơ nghi suy lường cùng lúc vắng bặt, đều dùng không được. Việc hướng thượng này có thể gọi là thật mù thật điếc thật câm. Vô cơ vô nghi. Trên trời dưới trời, đáng cười đáng thương. Tuyết Đậu một tay nâng một tay đè xuống. Hãy nói cười cái gì, thương cái gì? Đáng cười là câm lại không câm, điếc lại không điếc. Đáng thương là không mù mà lại mù, không điếc mà điếc. Câu Ly Lâu không biện chánh sắc, là không thế phân biệt được xanh vàng đỏ trắng, chính là mù Ly Lâu là người ở thời Hoàng Đế, con mắt ông rất sáng, ngoài trăm bước có thể thấy được vật nhỏ bằng sợi tóc Hoàng Đế đi dạo trên sông Xích Thủy làm rơi một hạt châu, sai Ly Lâu tìm mà chẳng thấy, sai Khiết cấu tìm mà chẳng được. Về sau sai Tượng Võng tìm mới được. Cho nên nói: “Khi Tượng Võng đến quang xán lạn, chỗ Ly Lâu đi sóng ngập trời”. Cái này để trên cao, dù là con mắt Ly Lâu biện chánh sắc của nó cũng không thể được. Câu “Sư Khoáng đâu biết tơ huyền”, đời Châu ở Giáng Châu, con của Tấn Cảnh Công là Sư Khoáng tự là Tử Dã giỏi phân biệt Ngũ âm lục luật. Cách núi mà nghe được bầy kiến cắn lộn. Khi ấy Tấn và Sở tranh nhau, Sư Khoáng chỉ khảy đàn cầm, vừa khảy dây đàn liền biết đánh Sở không thắng. Tuy như thế, Tuyết Đậu nói: “Ông còn chưa biết tơ huyền, người chẳng điếc lại điếc. Cái này tiếng huyền phát từ trên cao, dù là Sư Khoáng cũng biết được. Tuyết Đậu nói: Ông còn chưa biết tơ huyền, người chẳng điếc lại điếc. Cái này tiếng huyền phát từ trên cao, dù là Sư Khoáng cũng không biết được. Tuyết Đậu nói: “Tôi chẳng làm Ly Lâu cũng chẳng làm Sư Khoáng “Đâu bằng ngồi riêng dưới song vắng” lá rụng hoa nở tự đúng kỳ”. Nếu đến cảnh giới này, tuy thấy dường như chẳng thấy, nghe tợ chẳng nghe, nói dường chẳng nói, đói thì ăn cơm, mệt thì ngũ khò, mặc tình lá rụng hoa nở. Khi lá rụng là mùa Thu, khi hoa nở là mùa Xuân, tự có thời tiết. Tuyết Đậu vì ông một lúc quét sạch rồi vậy. Lại phóng một tuyền nói: “Có hiểu hay không? Tuyết Đậu thần nhọc sức mệt, chỉ nói được cái này “chùy sắt không lỗ”. Câu này phải liếc nhanh mới thấy được, nếu suy nghó thì trượt mất. Sư đưa cây phất tử nói: Lại thấy chăng? Lại gỏ vào giường thiền một cái: “Lại nghe chăng?. Bước xuống giường thiền nói: Lại nói được chăng? <詞>KHAI THỊ: Khắp thân là mắt thấy chẳng đến, khắp thân là tai nghe chẳng lập, khắp thân là miệng nói chẳng được, khắp thân là tâm soi chẳng ra. Khắp thân tạm gác qua một bên. Bỗng dưng không mắt làm sao thấy, không tai làm sao nghe, không miệng làm sao nói, không tâm làm sao suy xét. Nếu nhằm trong đây vạch ra một lối liền cùng với Cổ Phật đồng tham. Tham thì tạm gác qua một bên. Hãy nói: Tham cái gì? CÔNG ÁN: Vân Nham hỏi Đạo Ngô: Bồ-tát đại bi dùng nhiều tay nhiều mắt để làm gì? Đạo Ngô: Như người ngủ nửa đêm tay sờ tìm gối. Vân Nham: Tôi hiểu. Đạo Ngô: Ông hiểu cái gì? Vân Nham: Toàn thân là tay mắt. Đạo Ngô: Đạo thì giết đạo chỉ nói được tám thành. Vân Nham: Sư huynh thế nào? Đạo Ngô: Toàn thân là tay mắt. GIẢI THÍCH: Vân Nham và Đạo Ngô cùng tham kiến với Dược Sơn, bốn mươi năm không nằm ngũ. (2 14) Dược Sơn lập ra một tông Tào Động có ba người khiến đạo thịnh hành. Động Sơn môn hạ của Vân Nham. Thạch Sương môn hạ của Đạo Ngô, Giáp Sơn môn hạ của Thuyền Tử. Bồ-tát Đại Bi có tám vạn bốn ngàn cánh tay. Mẫu-đà-la Đại Bi có nhiều mắt, các ông có không? Bách Trượng nói: Tất cả ngữ ngôn văn tự đều quy về mình. Vân Nham thường theo Đạo Ngô tham hỏi điều nghi. Một hôm hỏi rằng: Bồ-tát Đại Bi dùng nhiều tay mắt làm gì? Lúc đầu đáng đánh cho ông ta để khỏi thấy có nhiều vướng mắc. Đạo Ngô từ bi không thể làm như thế, lại nói đạo lý cho Sư nghe, cốt muốn dạy cho Sư hiểu. Lại nói: Như người ngủ nửa đêm lấy tay sờ tìm cái gối. Lúc đó! Đêm khuya không có đèn lấy tay sờ tìm gối. Hãy nói mắt ở chỗ nào? Vân Nham bèn nói: ‘Tôi hiểu”. Đạo Ngô nói: Ông hiểu cái gì? Vân Nham nói: Toàn thân là tay mắt. Đạo Ngô nói: Cuối cùng chỉ nói được tám phần. Vân Nham nói: Sư huynh thế nào? Đạo Ngô: Toàn thân là tay mắt. Hãy nói khắp thân là đúng hay toàn thân là đúng? Tuy giống dính bùn mà lại thong thả. Người thời nay nói theo kiến giải phàm tình, khắp thân không đúng, toàn thân là đúng. Mặc dù gặm vào ngôn cú của người xưa, chết trong ngôn cú của người xưa. Thật không biết ý của người xưa ở trong ngôn cú. Việc này bất đắc dó mà thôi. Như nay chú thích lập cách thức nói: “Nếu thấu rõ được công án này thì bãi tham. Dùng tay sờ toàn thân, sờ lồng đèn cột trụ đều hiểu theo lời nói toàn thân. Nếu hiểu như thế thì phá hoại người xưa không ít. Cho nên nói: Ông ta tham hoạt cú không tham tử cú, cần phải tuyệt tình trần ý tưởng, sạch trọi trơn, trần trùng trục, mới có thể thấy được lời nói Đại bi. Không thấy Tào Sơn hỏi tăng: Tùy theo chúng sinh mà hiện hành, như trăng đáy nước thời thế nào? Tăng nói: Như lừa nhìn giếng. Tào Sơn: Thì giết chỉ nói được tám thành. Tăng: Hòa thượng lại thế nào? Sơn: Như giếng nhìn lừa. Thế là đồng với ý này. Nếu ông thấy trên ngôn ngữ thì hoàn toàn không thoát khỏi lưới lồng của Đạo Ngô, Vân Nham không được. Tuyết Đậu người tài giỏi, lại không nhằm dưới tử cú, mà nhằm trên đầu đi. <詞>TỤNG: DỊCH: Biến thân thị Thông thân thị Niêm lai du giáo thập vạn lý Triển sí Bằng đằng lục hợp vận Bác phong cổ đảng tứ minh thủy Thị hà ai ải hề hốt sanh Na cá hào ly hề vị chỉ Quân bất kiến Võng châu thùy phạm ảnh trùng trùng Bóng đầu thủ nhãn tùng hà khởi Đốt! Khắp thân phải, toàn thân phải Mười muôn dặm Đại bàng vỗ cánh bay lục hợp che Cuộn gió dậy sóng nước bốn biển. Bởi đâu bụi cuốn chừ chợt sinh Mảy may hề nơi ấy chưa dứt Anh không thấy Lưới châu rủ xuống bóng lớp lớp Đầu gậy tay mắt từ đầu khởi. GIẢI TỤNG: Hai câu: Khắp thân đúng, toàn thân đúng. Ối! Nếu nói vói sờ gối là đúng, dùng tay sờ tìm kẻ sống thân cũng đúng. Nếu dùng kiến giải như thế thì nhằm trong hang quỷ, cuối cùng khắp thân, toàn thân đều không đúng. Nếu muốn lấy tình thức để thấy câu Đại bi kia hẳn là vẫn cách mười muôn dặm. Tuyết Đậu đùa được một hoạt cú, nói “niêm ra vẫn cách mười muôn dặm”. Hai câu tụng chỗ kỳ đặc của Vân Nham và Đạo Ngô rằng: “Đại bàng vỗ cánh bay lục hợp che, cuộn gió dậy sóng bốn biển. Đại bàng nuốt sóng dùng cánh đập gió dậy sóng, nước bốn biển ấy rẽ ra ba ngàn dặm, liền bắt rồng ăn. Tuyết Đậu nói: Nếu ông là đại bàng có thể đập gió đánh sóng cũng là rất hùng tráng. Nếu dùng ngàn tay ngàn mắt đại bi để xem, chỉ giống như là một chút bụi trần sinh khởi. Lại giống như một mảy gió thổi chưa dừng. Đối với lời nói đại bi chính là chưa có. Cho nên nói: Trần ai nào bỗng sinh, mảy may nơi ấy chưa dứt. Tuyết Đậu là bậc tác gia một lúc quét sạch dấu vết rồi. Đâu ngờ phần sau vẫn là bày vẽ dẫn dụ. Vẫn y nguyên trong lồng, “Anh không thấy lưới châu rủ xuống bóng trùng trùng”. Tuyết Đậu dẫn minh châu trong lưới trời Đế Thích để làm pháp tắc. Hãy nói tay mắt rơi vào chỗ nào? ngại. Tông Hoa Nghiêm lập ra bốn pháp giới: Lý pháp giới: Nói rõ một vị bình đẳng. Sự pháp giới: Nói rõ toàn lý thành sự. Lý sự vô ngại pháp giới: Nói rõ lý sự dung thông lớn nhỏ vô Sự sự vô ngại pháp giới: Nói rõ một sự vào khắp tất cả sự, tất cả sự nhiếp vào tất cả sự, đồng thời cùng tham cứu vô ngại. Cho nên nói: “Một hạt bụi vừa dấy lên là tóm thâu đại địa, một hạt bụi bao gồm vô biên pháp giới, một hạt bụi đã vậy thì nhiều hạt bụi cũng vậy”. Lưới châu là trước pháp đường của cõi trời Đế Thích dùng Châu Ma ni làm lưới. Toàn thân là mắt này thấy không được, toàn thân tai này nghe không được, toàn thân miệng này nói không được. Toàn thân thì dùng châu ma-ni làm lưới. Phàm trong một hạt châu hiện ra trăm trong một hạt châu, chiếu xem lớp lớp chủ bạn vô tận. Đây là dùng để nói rõ pháp giới sự sự vô ngại. Xưa Quốc sư Hiền Thủ lập làm ngọn đèn để ví dụ bày ra mười cái gương, ở giữa lập một ngọn đèn. Nếu xem cái gương phía Đông thì chín cái gương soi vào đèn hiện rõ ràng. Nếu xem cái gương phía Nam thì gương cũng soi như vậy. Cho nên Thế Tôn mới thành Chánh giác, Ngài không lìa Bồ-đề đạo tràng mà lên các cõi trời Đao-lợi cho đến đi khắp nơi, bảy nơi chín hội nói kinh Pháp Hoa. Tuyết Đậu dùng lưới châu của Đế Thích chỉ bày sự sự vô ngại pháp giới. Xong nghóa của sáu tướng rất rõ ràng, tức chung tức riêng, tức đồng tức dị, tức thành tức hoại. Nêu một tướng thì đủ cả sáu tướng. Nhưng vì chúng sinh hằng ngày không biết. Tuyết Đậu nêu ra cái lưới châu của Đế Thích để so với sự Đại bi này chính là như thế. Nếu có thể ở trong lưới châu này rõ ràng được cây gậy thần thông diệu dụng, ra vào vô ngại, mới có thể thấy được tay mắt. Cho nên Tuyết Đậu nói: Tay mắt ở đầu gậy từ đâu khởi. Dạy ông thủ chứng gậy, hét để thừa đương. Chỉ như Đức Sơn hễ có người vào cửa Ngài liền đánh. Hãy nói tay mắt ở chỗ nào? Lâm Tế cũng vậy, hễ có người vào thì hét. Hãy nói tay mắt ở chỗ nào. Hãy nói Tuyết Đậu sau đó vì sao để lại chữ “đốt” tham. KHAI THỊ: một câu trước tiếng ngàn Thánh không truyền, một sợi tơ trước mặt hằng không thời gian cách, sạch trọi trơn, trần trùng trục, đầu rối bù, tai vểnh lên. Hãy nói tại sao, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Trí Môn: Thế nào là thể Bát-nhã? Trí Môn: Con trai ngậm ánh trăng. Thế nào là dụng Bát-nhã? Thỏ mang thai. GIẢI THÍCH: Trí Môn nói: Con trai ngậm ánh trăng, con thỏ mang thai, đều dụng ý trung thu. Tuy như thế ý của người xưa không phải ở con trai và con thỏ. Sư là hàng tôn túc trong hội của Vân Môn. Một câu: 1. Hàm cái càn khôn. 2, Tiết đoạn chúng lưu. 3, Tây ba trục lãng, cũng không thể an bài (2 15) tự nhiên vừa vặn, liền đến chỗ hiểm. Đáp lời cho vị Tăng này, lược bày đôi phần mũi nhọn thật là kỳ đặc. Tuy nhiên như thế, người xưa đều không thể đùa với bóng sáng, chỉ cùng với ông chỉ ra đường lối dạy người thấy. Vị Tăng này hỏi: Thế nào là thể Bát-nhã? Trí Môn đáp: Con trai ngậm ánh trăng, sông Hán có con trai, trong con trai có viên minh châu, đến tháng trung thu thì con trai nổi trên mặt nước, mở miệng ngậm ánh trăng rồi sinh ra ngọc châu gọi là Châu hợp phó. Nếu trung thu có trăng sáng thì châu nhiều, không trăng thì châu ít. Tăng hỏi: Thế nào là dụng Bát-nhã? Trí Môn đáp: Con Thỏ mang thai. Ý này cũng không khác. Con thỏ thuộc về âm. Trung thu mặt trăng mọc, nó há miệng nuốt ánh sáng mặt trăng liền mang thai, trong miệng sinh ra con, cũng là khi có trăng thì sanh con nhiều, khi không có trăng thì sanh con ít. Chỗ đáp của người xưa không nhiều sự việc. Chỉ mượn ý này để trả lời ánh sáng Bát-nhã. Tuy nhiên như thế, ta không ở nơi ngôn cú, tự là người đời sau chạy trên ngôn cú tìm kế sống. Bàn Sơn nói: “Trăng tâm tròn sáng trùm muôn tượng, ánh sáng không chiếu cảnh, cảnh cũng không còn, ánh sáng và cảnh đều quên lại là vật gì?” Người thời nay trừng mắt gọi là ánh sáng, chỉ sinh kiến giải của phàm tình, đóng cọc trên không. Người xưa nói: Các ông cánh cửa lục căn ngày đêm phóng đại quang minh, chiếu phá sơn hà đại địa. Không chỉ nhãn căn phóng quang, mà tỷ thiệt thân ý cũng phóng quang. Đến đây phải làm cho lục căn không còn một việc, sạch trọi trơn, trần trùng trục, mới thấy ý của lời này. Tuyết Đậu chính lúc Tụng: Nhất phiến hư ngưng tuyệt vị tình Nhân thiên tùng thử kiến không sanh Bạn hàm huyên thố thâm thâm ý Tằng dữ thiền gia tác chiến tranh. <詞>DỊCH: Một mãnh hư không bặt nghó bàn Người trời từ đó thấy không sinh Trai ngậm thỏ huyền thâm ý tuyệt Từng cùng thiền giả khởi chiến tranh. GIẢI THÍCH: “Một mãnh hư không bặt nghó bàn”, một câu của Tuyết Đậu tụng rất hay, tự nhiên thấy được ý của người xưa. Sáu căn vắng lặng là cái gì? Chỉ “một mãnh hư không ngưng tịch, không cần chạy trên trời tìm kiếm bàn, cũng không thiết đến người khác mà cầu, tự nhiên thường quang hiện tiền chỗ ấy vách đứng ngàn nhẫn. Hai chữ “Vị tình” ở Hán văn là tuyệt ngôn ngữ tình trần. Bài Tụng: Viên Thành Thật của Pháp Nhãn Lý cực vong tình vi Như hà đắc dụ tề Đáo đầu sương dạ nguyệt Nhậm vận lạc tiền khô Quả thục kiêm viên trọng Sơn diêu tự lộ mê. Cử đầu tân chiếu tại Nguyên thị trụ cơ tề. <詞>DỊCH: (Lý mất tình còn làm sao chỉ bày Đến lúc sương đêm mặc cho trăng soi trước khe Quả chín cho loài vượn, núi xa tợ đường mê Ngẩng đầu ánh sáng nhạt, vốn là ở phía Tây). Cho nên nói: “Tâm là căn, pháp là trần, hai thứ như vết trên gương. Vết bẩn hết thì ánh sáng mới hiện, tâm pháp đều quên tánh tức chân. Lại nói ba gian nhà tranh xưa nay ở, một vạch thần quang muôn cảnh nhàn. Chớ lấy thị phi phân biệt ngã, phù sinh xuyên tạc chẳng liên quan. Chỉ bài tụng này cũng thấy được “Một màng hư không bặt nghó bàn”. Câu “Người trời từ đây thấy không sinh”. Ngài Tu-bồ-đề ngồi thiền ở trong núi, chư thiên rưới hoa tán thán. Tu-bồ-đề nói: Ai là người mưa hoa ca ngợi trên hư không? Chư thiên nói: Tôi, là Phạm Thiên. Tôn giả nói: Tại sao ông tán thán? Chư thiên đáp: Tôi kính trọng Tôn giả khéo nói Bát-nhã ba-la- mật-đa. Tôn giả nói: Ta chưa từng nói một chữ Bát-nhã, tại sao ông ca ngợi? Chư thiên nói: Tôn giả không nói, tôi không nghe, không nói không nghe là chân Bát-nhã, lại rãi mưa hoa khắp nơi. Xem Tu-bồ-đề khéo nói Bát-nhã, mà không nói thể dụng. Nếu ngay đây thấy được thì có thể thấy Trí Môn nói: “Trai ngậm ánh trăng, thỏ mang thai”. Ý của người xưa tuy chẳng ở trong ngôn cú, mà chỗ đáp có ý sâu xa, gọi cho Tuyết Đậu nói: “Trai ngậm trăng, thỏ mang thai” đến đây “Từng cùng Thiền giả khởi chiến tranh” cùng. Thiền lữ trong thiên hạ bàn luận huyên náo, chưa từng có một người mộng thấy. Nếu muốn đồng tham với Trí Môn và Tuyết Đậu cũng phải chính mình mở mắt mới được.  PHẬT QUẢ VIÊN NGỘ THIỀN SƯ BÍCH NHAM LỤC <卷>QUYỂN 10 KHAI THỊ: Vượt phàm tình lìa kiến chấp, tháo niêm gỡ chốt đề khởi tông thừa hướng thượng, dựng chánh pháp nhãn tạng, phải mười phương đều ứng thủ đoạn khéo léo, đến thẳng điền địa này. Hãy nói có đồng đắc đồng chứng, đồng sinh, đồng tử không, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Một hôm, Diêm Quan gọi thị giả đem cái quạt bằng sừng tê giác đến đây cho ta. Thị giả thưa: Quạt rách rồi. Quan: Quạt đã rách thì trả con tê giác lại cho ta. Thị giả im lặng không nói lời nào. Đầu Tử nói: Không từ chối đem ra, sợ đầu sừng không đủ. Tuyết Đậu nói: Ta muốn đầu sừng không đủ. Thạch Sương nói: Nếu trả Hòa thượng thì không như vậy. Tuyết Đậu nói: Con tê giác vẫn còn. Tư Phước vẽ một hình tròn, trong đó viết một chữ ngưu. Tuyết Đậu nói: Vừa rồi sao không đem ra? Bảo Phước nói: Hòa thượng tuổi cao, mời người khác thì tốt. Tuyết Đậu nói: Đáng tiếc nhọc công vô ích. GIẢI THÍCH: Một hôm, Diêm Quan gọi: “Thị giả đem cái quạt tê giác đến đây cho ta”. Việc này tuy không ở trong ngôn cú. Vì muốn kiểm nghiệm ý chí hành động một đời của con người, nên cần mượn lời để như thế để hiểu. Đến ngày ba mươi tháng chạp vẫn được đắc lực làm chủ, muôn cảnh đầy dẫy trông thấy mà chẳng động, có thể gọi là công của vô công lực mà vô lực. Diêm Quan là Thiền sư Tề An. Khi xưa dùng sừng tê giác làm quạt. Bấy giờ Diêm Quan há không biết cây quạt sừng tê giác rách mà cố hỏi thị giả. Thị giả thưa: “Cây quạt rách rồi”. Xem người xưa trong mười hai thời thường ở trong ấy sờ đến chạm đến. Diêm Quan nói: Quạt đã rách thì trả con tê giác lại cho ta. Hãy nói Sư cần con tê giác làm gì? Cũng chỉ muốn nghiệm người biết được chỗ rơi hay không? Đầu Tử nói: Không từ chối đem ra, sợ đầu sừng không đủ. Tuyết Đậu nói: Ta cần đầu sừng không đủ. Cũng muốn khế ngộ thiền pháp trong ngôn cú. Thạch Sương nói: Nếu trả Hòa thượng thì không như vậy. Tuyết Đậu nói: Con tê giác vẫn còn. Tư Phước vẽ một tròn, trong đó viết một chữ “ngưu”. Vì Sư nối pháp với Ngưỡng Sơn, nên bình sinh thích lấy cảnh để tiếp độ người nói rõ việc này. Tuyết Đậu nói: Vừa rồi vì sao không đem ra? Lại xỏ mũi kia vậy. (2 16) Bảo Phước nói: Hòa thượng tuổi cao mời người khác thì tốt. Lời này nói được thỏa đáng. Ba tắc trước nói dễ thấy, một câu này nói có ý xa xôi. Tuyết Đậu cũng đả phá xong. Sơn tăng ngày xưa ở chỗ Khánh Tạng Hội Chủ nói: Hòa thượng tuổi già, được đầu quên đuôi, vừa rồi dời cây quạt. Nay lại đòi con tê giác, khó mà hầu hạ, cho nên nói: Mời người khác tốt hơn. Tuyết Đậu nói: Đáng tiếc nhọc mà không công. Đây đều là cách thức hạ ngữ. Người xưa thấy thấu suốt việc này, tuy không đồng nhau nhưng nói ra được, trăm phát trăm trúng, phải có con đường xuất thân, mỗi câu không mất huyết mạch. Người nay bị hỏi đến, chỉ cần tạo đạo lý suy gẩm. Vì thế trong mười hai giờ cần người, gặm nhấm, dạy một giọt cô đọng một giọt. Cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng nhất quán. <詞>TỤNG: DỊCH: Tê ngưu phiến tử dụng đa thì Vấn trước nguyên lai tổng bất tri Vô hạn thanh phng dữ đầu giác Tận đồng vân vũ khứ nan truy. Cây quạt tê giác dùng đã lâu Hỏi ra như trước thảy không hay Đầu sừng với gió lành vô hạn Đều cùng mây mưa khó đi tìm. Tuyết Đậu lại nói: Nếu cần gió mát trở lại Đầu sừng mọc ra Xin thiền khách mỗi người hạ một chuyển ngữ. Hỏi rằng: Cây quạt đã rách trả con tê giác lại cho ta? Bấy giờ có vị tăng ra thưa: Đại chúng vào tăng đường tham thiền đi. Tuyết Đậu quát: Thả câu câu cá kình lại câu được con ếch. Rồi sư xuống tòa. GIẢI TỤNG: Hai câu “Cây quạt tê giác dùng đã lâu, hỏi ra như trước thảy không hay”. Mỗi người đều có sẳn cây quạt tê giác, trong mười hai thời hoàn toàn nhờ sức của nó, vì sao hỏi đều không biết? Thị giả Đầu Tử cho đến Bảo Phước cũng đều không biết. Hãy nói Tuyết Đậu có biết không? Vô Trước đến tham vấn Văn-thù khi uống trà. Văn-thù đưa chén pha lê lên hỏi: Phương Nam có cái này không? Vô Trước đáp: Không. Văn-thù nói: Vậy bình thường dùng cái gì để uống trà. Vô Trước im lặng không đáp được. Nếu biết chỗ rơi của công án này, thì biết được cái quạt tê giác có gió mát vô hạn. Cũng thấy được đầu sừng tê giác sừng sững. Bốn vị Trưởng lão này nói như thế, giống như sáng mây chiều mưa, một khi đi thật khó tìm theo. Tuyết Đậu lại nói: Nếu muốn gió mát trăng thanh trở lại, đầu sừng mọc trở lại, thỉnh thiền khách hạ một chuyển ngữ. Hỏi: Quạt đã rách thì trả con tê giác lại cho ta. Bấy giờ có thiền khách đáp: Đại chúng vào tăng đường tham thiền đi. Vị Tăng này đoạt quyền binh của chủ nhà, nói đến tột cũng khó nói, chỉ nói được tám phần. Nếu cần mười phần liền lật đổ giường thiền. Ông hãy nói vị tăng này có biết con tê giác hay không? Nếu biết tại sao lại nói như thế. Nếu biết vì sao Tuyết Đậu không chịu y? Vì sao nói: Thả câu cá kình chỉ câu được ếch nhái. Hãy nói cuối cùng thế nào? Quí vị vô sự, thử nêu xem? KHAI THỊ: Bản Nhạc điệu hay ngàn năm khó gặp thấy thỏ thả chim ưng một lúc thật tài, gom tất cả ngôn ngữ làm một câu, tóm thâu đại thiên sa giới làm một hạt bụi đồng sinh, đồng tử, rất thấu triệt, có người chứng cứ không, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Một hôm Thế Tôn thăng tòa. Văn-thù đánh chùy rằng quán rõ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như thế. GIẢI THÍCH: Thế Tôn trước khi chưa đưa cành hoa, sớm đã có tin tức này. Buổi đầu từ vườn Lộc uyển, cuối cùng đến sông Bạt-đề, từng dùng cây bảo kiếm Kim Cang Vương. Lúc ấy trong chúng có nạp tăng nhận được, tránh được sau này. Ngài đưa cành hoa khiến cả hội trường rối loạn. Thế Tôn lặng hồi lâu bị Văn-thù đẩy một cái liền xuống tòa. Lúc ấy cũng có tin tức này. Đức Phật Thích-ca đóng cửa thất, ngài Tịnh Danh im lặng đều giống như ở đây đã nói rồi. Như câu vua Túc Tông hỏi Trung Quốc Sư: Việc xây tháp Vô Phùng, lại như ngoại đạo hỏi Phật: Không hỏi có lời hay không hỏi không lời. xem hành lý của người hướng thượng, đâu từng vào hang quỷ tìm kế sống. Có người nói: Ý ở chỗ im lặng. Có người nói ở chỗ im lặng hồi lâu. Dùng có lời để rõ vệc không lời để rõ việc có lời. Vónh Gia nói: “Khi im lặng nói, khi nói im lặng” cả thảy đều hiểu như thế thì ba đời sáu mươi kiếp cũng chưa mộng thấy. Dù ông gánh vác được cũng không thấy có phàm có Thánh, pháp ấy bình đẳng không cao thấp, hằng ngày cùng với chư Phật nắm tay nhau đi. Phần sau, xem Tuyết Đậu tự nhiên thấy được bài tụng: Liệt thánh tùng trung tác giả tri Pháp vương pháp lệnh bất như tư Hội trung nhược hữu Tiên Đà Khách Hà tất Văn Thù hạ một chùy. <詞>DỊCH: Chư Thánh tòng lâm tác giả tri Pháp vương Pháp lệnh chẳng như đâu Hội này nếu có Tiên đà khách Nào thiết Văn-thù hạ một chùy. GIẢI TỤNG: Câu: Chư Thánh tòng lâm tác giả biết. Trong hội Linh Sơn có tám vạn đại chúng đều là các bậc Thánh, Văn-thù Phổ Hiền, cho đến Di-lặc, chủ bạn đồng hiểu phải là thiện xảo trong thiện xảo, kỳ đặc trong kỳ đặc, mới biết được ý của họ. Ý của Tuyết Đậu cho rằng chư Thánh trong chùa không có một người nào biết có, nếu có người tài giỏi mới biết như thế. Vì sao Văn-thù đánh chùy nói quán rõ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như thế. Tuyết Đậu nói pháp của Pháp vương làm cho không như thế. Vì sao vậy? Lúc ấy, trong đạo tràng nếu có kẻ tâm cơ linh mẫn thì cần chi Văn Thù phải dùng ngôn từ tiếp dẫn khai ngộ. Kinh Niết-bàn nói: Tiên Đà-bà một tên nhưng bốn thật: 1/ Là Diêm (muối); 2/ Thủy; 3/ Khí; 4/ Mã (ngựa). Có một trí thần hiểu rành bốn nghóa, vua nếu muốn rửa tay thì Tiên Đà-bà dâng nước. Khi ăn gọi Tiên Đà-bà liền dâng muối, ăn xong gọi Tiên Đà-bà thì đồ uống, muốn đi gọi Tiên Đà-bà liền dâng ngựa. Tùy ý ứngï dụng không sai chạy. Rõ ràng phải là người lanh lợi mới được. Chỉ như tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là vua đòi Tiên Đà-bà? Hương Nghiêm: Qua bên này đi. Tăng qua bên này. Hương Nghiêm nói: Ngu chết người. Lại hỏi Triệu Châu: Thế nào là vua đòi tiên Đà-bà? Triệu Châu bước xuống giường thiền cúi đầu khoanh tay rồi xuống tòa. Lúc ấy nếu có Tiên Đà-bà, trước khi Thế Tôn thăng tòa, vẫn còn so sánh đôi chút. Thế Tôn bèn thăng tòa liền xuống đã là không tiện rồi, đâu kham Văn-thù hạ một chùy, hẳn là làm mờ lối đề xướng của Thế Tôn. (2 17) Hãy nói thế nào là chỗ làm mờ? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đại Quang: Trường Khánh nói: Nhân thọ trai Khánh thán ý chỉ thế nào? Đại Quang liền múa. Tăng lễ bái. Đại Quang bảo: Thấy cái gì mà lễ bái? Tăng liền múa. Đại Quang: Đậy là Dã hồ tinh. GIẢI THÍCH: Hai mươi tám Vị Tổ Tây Thiên, sáu Vị Tổ Trung Hoa chỉ truyền một cái này. Các ông có biết chỗ rơi không? Nếu biết thì tránh được lỗi này. Nếu không biết thì vẫn là Dã hồ tinh. Có người nói: Là kéo lỗ mũi kia, đến gạt người. Nếu thật như thế thì thành đạo lý gì? Đại Quang thật khéo vì người, trong câu có con đường xuất thân, bậc tông sư phải nhổ đinh tháo chốt cho người, gỡ niêm cỡi trói mới gọi là thiện tri thức. Đại Quang liền múa, vị tăng này lễ bái. Sau đó tăng này lại múa, Đại Quang nói: Đây là Dã hồ tinh, không phải chuyển vị tăng, cuối cùng không biết rõ đúng đích. Ông chỉ biết thay nhau múa như thế đến bao giờ mới thôi. Đại Quang nói: Đây là Dã hồ tinh, câu này cắt đứt Kim Ngưu, thật là kỳ đặc. Vì thế nói: Kia tham hoạt cú không tham tử cú. Tuyết Đậu chỉ Thích Đại Quang nói: “Đây là dã hồ tinh”, cho nên tụng ra. Hãy nói: Đây là Dã hồ tinh” cùng với Tạng đầu trắng Hải đầu đen là đồng hay là khác? Lại biết chăng với “ thùng sơn”, “Sư tăng tốt” là đồng hay khác? còn chỗ gặp y. Tuyết Đậu Tụng: Tiền tiễn du khinh hậu tiễn thâm Thùy vân hoàng diệp thị huỳnh kim Tào Khê ba lãng như tương tợ Vô hạn bình nhân bị lục trầm. <詞>DỊCH: Tên trước còn nhẹ tên sau sâu Ai nói lá úa là vàng ròng Giống như sóng vỗ ở Tào Khê Vô số chúng sinh bị chết chìm. GIẢI TỤNG: “Tên trước còn nhẹ tên sau sâu”, Đại Quang liền múa là tên trước. Lại nói: “Đây là Dã hồ tinh” là tên sau. Đây là móng vuốt từ trước đến nay. Ai rằng lá úa ấy vàng ròng, Ngưỡng Sơn dạy chúng nói: “Các ông phải tự hồi quang phản chiếu, chớ nhớ lời tôi nói”. Các ông từ vô thỉ kiếp đến nay bỏ sáng theo tối, vọng tưởng sâu dày khó nhổ ra liền được. Cho nên tạm lập phương tiện để đoạt cái biết thô của ông. Như đem lá vàng dỗ trẻ con nín khóc, giống như đem quả ngọt đổi trái đắng. Người xưa lập ra tạm lập phương tiện để độ người, và làm cho trẻ con ngừng khóc, đến khi nín khóc thì là vàng không phải là vàng. Thế Tôn nói giáo một đời cũng chỉ nói là dỗ trẻ con ngừng khóc. Câu: “Đây là Dã hồ tinh”, chỉ cần đổi nghiệp thức cho kia. Trong đó cũng có quyền có thật, cũng có chiếu có dụng mới thấy có cơ phong của nạp tăng. Nếu hiểu được như chắp cánh cho hổ. Câu: “Giống như sóng Tào Khê” bỗng chợt học giã bốn phương tám hướng dù cho múa như thế. Một bề như thế, Vô hạn người thường bị chết chìm có chỗ nào cứu được? KHAI THỊ: Nghe một câu trước, ngàn Thánh không truyền trước mặt một sợi tơ thời gian vô hạn, sạch trọi trơn, trần trùng trục, con trâu trắng sờ sờ, trợn mắt, vểnh tai. Sư tử lông vàng thì tạm gác một bên. Hãy nói thế nào là con trâu trắng sờ sờ? CÔNG ÁN: Kinh Lăng-nghiêm nói: Khi ta không thấy tại sao không thấy cái chỗ ta không thấy. Nếu thấy cái không thấy thì tự nhiên không phải là tướng không thấy kia. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy, tự nhiên không phải vật, tại sao nói không phải ông? GIẢI THÍCH: Kinh Lăng-nghiêm nói: Khi ta không thấy, tại sao không thấy cái chỗ ta không thấy. Nếu thấy được cái không thấy, tự nhiên không phải là tướng không thấy kia. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy tự nhiên chẳng phải vật, tại sao nói không phải ông? Tuyết Đậu đến đây dẫn kinh văn mà dẫn không hết, nếu dẫn hết thì có thể thấy. Kinh nói: “Nếu thấy là vật, thì ông cũng có thể thấy cái thấy của ta. Nếu đồng thấy thì gọi là thấy cái thấy của ta. Khi ta không thấy tại sao không thấy cái chỗ ta không thấy? Nếu thấy được cái không thấy tự nhiên không phải là tướng không thấy kia. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy tự nhiên không phải vật, tại sao nói không phải ông? Vì văn nhiều không ghi hết. Ý của A-nan nói: “Thế giới, lồng đèn, cột trụ đều có tên gọi. Cũng muốn Thế Tôn chỉ ra các diệu tinh nguyên minh này gọi là vật gì, dạy ta thấy được ý của Phật. Thế Tôn nói: Ta thấy đài hương. A-nan thưa: Con cũng thấy đài hương, tức là cái thấy của Phật. Thế Tôn nói: Ta thấy đài hương thì dễ biết. Nếu khi ta không thấy đài hương thì ông làm sao thấy? A-nan thưa: Khi con không thấy đài hương tức là thấy Phật. Phật nói: Ta nói không thấy thì tự ta biết. Ông nói không thấy thì tự ông biết. Chỗ người khác không thấy ông làm sao biết được. Người xưa nói: Đến đây chỉ có thể tự biết, nói cho người không thể được. Chỉ như Thế Tôn nói khi ta không thấy tại sao không thấy cái chỗ ta không thấy. Nếu thấy được cái không thấy, tự nhiên chẳng phải là tướng không thấy kia. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy tự nhiên chẳng phải vật, tại sao nói chẳng phải ông? Nếu nói nhận thấy là có vật thì chưa thể quét dấu vết. Khi ta không thấy như linh dương treo sừng, tiếng vang dấu vết hơi thở đều dứt. Ông nhằm chỗ nào dò tìm? Ý của kinh trước là buông ra để phá, sau đoạt để phá. Tuyết Đậu mở ra chánh pháp nhãn tạng để tụng, cũng không tụng vật, cũng không tụng cái thấy và không thấy. Chỉ tụng thấy Phật. <詞>TỤNG: DỊCH: Toàn tượng toàn ngựa ế bất thù Tùng lai tắc tác giả cộng danh mô Như kim yếu kiến Hoằng đầu lão Sát sát trần trần tại bán đồ. Voi đủ trâu đắng mắt bệnh đồng Từ lâu tác giả thảy dò tìm Như nay cốt thấy lão già Ấn Cõi cõi trần trần ở giữa đường. GIẢI TỤNG: Câu: “Voi đủ trâu đầy mắt bệnh đồng”. Những người mù sờ voi, mỗi người đều nói khác nhau, trích trong kinh Niết- bàn. Có vị Tăng hỏi Ngưỡng Sơn: “Hòa thượng thấy người hỏi thiền, hỏi đạo bèn vẻ một vòng tròn trong đó viết một chữ ngưu. Ý thế nào? Ngưỡng Sơn đáp: Cái này là việc nhàn, nếu hiểu được không từ ngoài đến. Nếu không hiểu được quyết định không biết. Ta thử hỏi ông, các bậc tôn túc khắp nơi, ngay nơi thân ông chỉ ra cái gì là Phật tánh của ông? Nói là đúng hay im lặng là đúng? Có người cho nói là đúng thì như người mù sờ đuôi voi. Nếu cho im lặng là đúng thì như người mù sờ lỗ tai voi. Nếu ông cho chẳng nói chẳng nên nín thì như người mù sờ được lỗ mũi voi. Nếu ông nói vật vật đều đúng thì như người mù sờ bốn chân con voi. Nếu nói đều không đúng thì bỏ gốc rơi vào cái kiến chấp không. Như thế chỗ thấy của những người mù chỉ ở nơi con voi, mà danh từ tướng mạo sai biệt. Ông chỉ cần đúng có sờ voi, chớ nói thấy biết là đúng hay là không đúng. Tổ Sư nói: “Bồ đề bổn vô thọ Minh cảnh diệc phi đài Bổn lai vô nhất vật Hà xứ nhá trần ai.” Dịch: Bồ-đề vốn không cây, Gương sáng vốn không đài. Xưa nay không một vật, Sao nhiễm được bụi trần. Lại nói: Đạo vốn không hình tướng, trí tuệ tức là đạo, có kiến giải như thế, gọi là chân Bát-nhã. Người mắt sáng thấy được toàn bộ con voi. Như Phật thấy tánh cũng vậy. “Toàn ngưu” là trích từ sách của Trang Tử, Bào Đinh mỗ con trâu, nhưng chưa từng thấy toàn bộ con trâu, chỉ thuận lý mà mỗ vung đao tự tại không cần nhọc công, trong chớp mắt đầu sừng, chân thịt, đồng thời mỗ xong. Như thế 19 năm đao dao vẫn bén như gọi đó là toàn ngưu (toàn bộ còn trâu). Tuy nhiên kỳ đặc như thế, Tuyết Đậu nói: “ Giả sử được toàn tượng toàn ngưu và trong mắt có cườm lại không khác. Câu! Từ lâu tác giả thảy dò tìm”. Dù là tác gia mà đến đây tìm cũng không được. Từ Ca-diếp đến Tổ sư Thiên Trúc, Trung Hoa, lão Hòa thượng trong thiên hạ đều chỉ là miêu tả. Tuyết Đậu nói thẳng: “Như nay cầu thấy lão già Ấn”. Sở dó nói cần thấy tức liền thấy. Lại muốn tìm mới thấy được, thì cùng với thiền nghóa cách nhau rất xa. Lão đầu vàng chính là lão mặt vàng (chỉ Đức Phật). Như nay ông cần thấy thì cõi cõi trần trần ở giữa đường. Bình thường nói: “Một hạt bụi là một cõi Phật, một chiếc lá là một Thích-ca, khắp ba ngàn đại thiên thế giới, có bao nhiêu hạt bụi. Chính khi ấy vẫn ở giữa đường. Bên kia còn ở giữa đường không? Hãy nói ở chỗ nào? Đức Phật Thích-ca còn không biết được, bảo Sơn tăng làm sao nói được? KHAI THỊ: Chỗ có Phật không được trụ, ở đây thì đầu mọc sừng, chỗ không có Phật thì đi qua mau, nếu không qua mau thì cỏ mọc cao một trượng. Dù cho lột, trần ra, ngoài việc không có cơ, ngoài cơ không có việcï, không khỏi ôm cây đợi thỏ. Hãy nói đều không như thế thì hành lý thế nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Có khi Trường Khánh nói: Thà nói A-la-hán có ba độc chứ không thể nói Như Lai có hai thứ lời nói. Không nói Như Lai không có lời nói, chỉ là không có hai loại lời nói. Bảo Phước nói: Thế nào là lời nói của Như Lai. Trường Khánh nói: Người điếc đâu nghe được. Bảo Phước nói: Sớm biết ông đầu thứ hai. Trường Khánh nói: Thế nào là lời nói của Như Lai? Bảo Phước nói: Uống trà đi! GIẢI THÍCH: Trường Khánh và Bảo Phước ở trong hội của Tuyết Phong thường bàn luận với nhau. Một hôm, nói lời bình thường như thế này: Thà nói A-la-hán có ba độc, chứ không nói Như Lai có hai lời nói. Phạm ngữ A-la-hán, Trung Hoa dịch là sát tặc, lấy công năng làm rõ cái tên, có thể đoạn trừ tám mươi mốt phẩm phiền não, các lậu đã hết, phạm hạnh đã lập đây là quả vị A-la-hán vô học. Ba độc tức là tham sân si. Căn bản phiền não, tám mươi mốt phẩm còn tự đoạn tận huống gì là ba độc. Trường Khánh nói: “Thà nói A-la-hán có ba độc, chứ không nói Như Lai có hai lời”. Đại ý muốn hiển bày cái chân thật của Như Lai. Kinh Pháp Hoa nói: Chỉ một sự thật này, còn lại hai cái kia thì chẳng chân. Lại nói: Chỉ có pháp nhất thừa, không có hai thừa cũng không có ba thừa. Thế Tôn thuyết hơn ba trăm hội, theo căn cơ mà giảng nói, tùy bệnh cho thuốc, thuyết pháp vạn loại ngàn thứ hoàn toàn không có hai lời. Ý của Ngài đến đây, quý vị làm sao thấy được? Phật dùng một âm mà diễn nói pháp, thì điều Trường Khánh nói thật ra nằm mộng cũng không thấy lời nói của Như Lai. Vì sao? Giống như người nói ăn cuối cùng không thể no được. Bảo Phước thấy ông ta thuyết giáo bèn hỏi: Thế nào là lời nói của Như Lai? Khánh đáp: Người điếc đâu nghe được. Kẻ này biết những lúc khác ở trong hang quỷ tìm kế sống. Bảo Phước nói: Sớm biết ông nhấm trên đầu thứ hai. Quả thật đúng với lời kia. Lại hỏi: Sư huynh thế nào là Như Lai nói? Bảo Phước đáp: Uống trà đi! Cán thương đổi ngược bị người khác cướp rồi. Tất cả Trường Khánh mất tiền bị tội. Xin hỏi quý vị Như Lai có mấy lời, phải biết thấy được như thế, mới thấy được chỗ thất bại của hai gã này, kiểm điểm cẩn thận về sau phải ăn gậy, tha một lần cho ông lý hội. Có người nói: Bảo Phước nói đúng, Trường Khánh nói không đúng. Cứ theo ngôn ngữ sinh kiến giải, bèn nói có được, có mất. Thật không biết người xưa như chọi đá nháng lửa như làn điện chớp. Người nay không xem chỗ chuyển của người xưa, chỉ chạy theo ngôn cú, bèn nói Trường Khánh lúc ấy không tiện dùng, cho nên rơi vào đầu thứ hai. Bảo Phước nói: “Uống trà đi!” Là đầu thứ nhất. Nếu chỉ xem như thế đến Di-lặc ha sinh cũng không thấy được ý của người xưa. Nếu là tác gia thì không có kiến giải này, nhảy khỏi hang ổ ấy, con đường hướng thượng. Nếu ông nói! Người điếc đâu nghe được, có chỗ nào không đúng? Bảo Phước nói: “Uống trà đi!” Có chỗ nào là đúng? Càng không dính dáng. Cho nên nói “ông ta tham hoạt cú không tham tử cú”. Nhân duyên này giống với câu: “khắp thân đúng toàn thân đúng” một loại. Không có chỗ thị phi cho ông suy tính, phải là dưới gót chân của ông lột trần mới thấy được chỗ gặp nhau của người xưa. Ngũ Tổ lão sư nói: Giống như trước ngựa đánh nhau, phải là nhanh tay lẹ mắt. Công án này, nếu dùng mắt chân chánh để xem, đều không có chỗ được mất, phân biệt được mất, không có chỗ thân sơ, phân biệt cái thân sơ. Trường Khánh cũng phải lễ bái Bảo Phước mới được. Vì sao? Chỗ khéo léo dùng rất tài, giống như điện chớp sao băng. Bảo Phước quả trên nanh thêm nanh, trên vuốt sinh vuốt. Tụng rằng: Đầu hề đệ nhất đệ nhị Ngọa long bất giám chỉ thủy Vô xứ hữu nguyệt ba trừng Hữu xứ vô phong lãng khỉ Lăng thiền khách! Lăng thiền khác Tam ngoạt võ môn tao điểm. <詞>DỊCH: Đầu chừ thứ nhất thứ hai Rồng nằm không soi dòng nước đứng Chỗ không, có trăng sóng dừng Có chỗ không gió sóng dậy Lăng thiền khách! Lăng thiền khách Tháng ba Vũ Môn bị điểm trán. GIẢI TỤNG: Câu “Đầu hề thứ nhất thứ hai” Chỉ cần hiểu thứ nhất thứ hai, chính là trong nước chết tìm kế sống. Cơ léo này, ông chỉ hiểu được thứ nhất thứ hai thì dò tìm không được. Tuyết Đậu nói: “Rồng nằm không xem nước đứng, trong nước chết đâu có rồng ẩn. Nếu là thứ nhất thứ hai, chính là trong nước chết tìm kế, phải là chỗ sóng vỗ ngập trời mới có rồng ẩn. Giống như trước nói: Đầm lặng không cho rồng to ở. Lại nói: “Rồng nằm hằng sợ nước đầm trong” Lại nói: “Chỗ không có trăng sóng dừng”. Gió yên sóng lặng. Chỗ có, không gió sóng dậy”. Tuyết Đậu đến đây một lúc tháo gỡ lớp kiến giải phàm tình cho ông rồi. Sư có vần khác dạy thành văn lý, trong đó mở thêm một mắt cũng rất kỳ lạ. Lại nói Lăng thiền khách! Lăng thiền khách! Tháng ba Vũ Môn bị điểm trán. Trường Khánh tuy là con rồng vượt khỏi Long môn, lại bị Bảo Phước điểm một chấm trắng trên đầu. CÔNG ÁN: Triệu Châu dạy chúng ba chuyển ngữ. GIẢI THÍCH: Triệu Châu dạy chúng ba chuyển ngữ xong, sau đó lại nói: Chân Phật ngồi trong thất. Một câu này quá rõ ràng. Người xưa mở một con mắt đưa tay tiếp người, tạm mượn lời này làm thông tin tức. Cốt vì người. Nếu ông chánh lệnh toàn đề (thiền cơ lập bày mang sắc thái chánh tông, cũng là giáo pháp gợi ý hoàn toàn), thì trước pháp đường cỏ cao một trượng. Tuyết Đậu chê một câu bày vẽ sau cùng của Sư cho nên bỏ bớt chỉ tụng ba câu. Phật đất nếu vào nước thì tan rả, Phật vàng nếu vào lò thì chảy ra, Phật gỗ nếu vào lửa thì thiêu cháy rồi, có gì khó hiểu? Một trăm tắc tụng cổ của Tuyết Đậu suy tính lằng nhằng. Chỉ ba câu tụng này là có hơi hám của nạp tăng. Chỉ tụng này cũng thật khó hiểu. Nếu ông thấu suốt ba câu tụng này thì cho ông khỏi tham. <詞>TỤNG: DỊCH: Nê Phật bất độ thủy Thiền quang chiếu thiên địa Lập tuyết nhủ vị hưu Hà nhân bất điêu ngụy. Phật đất không vào nước Thần Quang chiếu trời đất Đứng ngoài tuyết không thôi Người nào không dối trá. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Phật đất không vào nước, Thần Quang chiếu trời đất”. Hai câu tụng này rất rõ ràng. Hãy nói vì sao lại dẫn Thần Quang? Nhị Tổ khi mới sinh có thần quan sáng nhà thẳng lên trời, lại một đêm có thần nhân xuất hiện bảo Nhị Tổ rằng: “Không bao lâu ông sẽ đắc đạo nên về phía Nam”. Nhị Tổ do gặp thần nên gọi là Thần Quang. Ngài cư ngụ vùng y Lạc, đọc hết các sách. Một hôm than rằng: Khổng lão, dạy thuật phong quy. Được nghe Đại sư Đạt-ma ở Thiếu Lâm, bèn đến đó tham vấn. Đạt-ma ngồi xây mặt vào vách, Quang chẳng nghe Đạt-ma dạy lời nào, Ngài tự nghó: Người xưa cầu đạo không tiếc thân mạng, chích máu cứu đói, trải tóc lên bùn, gieo mình xuống vực sâu để cọp đói ăn. Xưa còn như thế còn ta lại thế nào? Năm ấy, đêm mồng chín tháng mười hai tuyết rơi dày đặc, Nhị Tổ đứng dưới thềm đến sáng, tuyết ngập đầu gối. Đạt-ma thương xót hỏi: Ông đứng trong tuyết như thế để cầu việc gì? Nhị Tổ rơi lệ thưa: Chỉ mong Ngài từ bi mở cửa cam lồ, độ thoát chúng sinh. Đạt-ma nói: Con đường vi diệu của chư Phật từ xưa nay phải siêng năng tinh tấn, làm những việc khó làm, nhẫn những điều khó nhẫn, há dùng đức nhỏ trí kém tâm khinh mạn mà muốn được chân thừa ư? Không có lẽ đó. Nhị Tổ nghe Đạt-ma dạy, lòng mộ đạo càng tha thiết, bèn lấy con dao bén tự chặt đứt cánh tay trái, đến trước Đạt-ma, Đạt-ma biết là bậc pháp khí liền hỏi: Ông đứng trong tuyết chặt tay để làm việc gì? Nhị Tổ thưa: Tâm con chưa an, xin Sư an tâm cho con. Đạt-ma nói: Đem tâm ra đây ta an cho. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không có. Đạt-ma nói: Ta đã an tâm cho ông rồi đó. Sau đó Đạt-ma đặt tên cho Ngài là Tuệ Khả. Sau Tuệ Khả là Tam Tổ Tăng Xán, Đạt-ma đã truyền pháp rộng rãi ở núi Hoàn Công Thư Châu, dặn Khả rằng sau này Chu Võ Đế phá diệt Phật pháp sa thải chúng tăng. Sư đến núi Tư Không huyện Thái Hồ ẩn cư không ở chỗ nào cố định, hơn mười năm không người nào biết. Cao Tăng Truyện của Tuyên Luật Sư chép về sự việc của Tuệ Khả không rõ ràng. Tam Tổ Truyện nói: Diệu pháp của Nhị Tổ không truyền ở đời may mắn sau này gặp được chỗ của Ngài đứng trong tuyết. Vì thế Tuyết Đậu nói: “Đứng trong tuyết chưa thôi, người nào không dối trá”. Đứng trong tuyết nếu không thôi, đủ khiến cho bọn dối trá bắt chước theo. Một lúc chỉ thành dối trá tức là bọn dối trá. Tuyết Đậu tụng: “Phật đất không vào nước” là vì sao lại dẫn nhân duyên này để dùng? Sư tham đến dưới ý căn không còn một việc, an nhiên tự tại mới tụng được như thế. Ngũ Tổ Diễn bình thường dạy người xem ba bài tụng này. Đầu không thấy Hòa thượng Thủ Sơ có bài tụng dạy chúng: “Trên núi Ngũ Đài mây nấu cơm Trước nhà Phật cổ chó đái trời Trên đầu cột phan toan nướng bánh Ba đứa trẻ Hồ đêm rải tiền.” Hòa thượng Đỗ Thuận nói: “Hoài Châu trâu ăn lúa, Ích Châu ngựa no đầy, mọi người tìm thầy thuốc, chính heo đùi trái này, Phó Đại Só tụng: Lại nói: “Tay không cầm cây cuốc Bộ hành cưỡi trâu đi Trên cầu người qua lại Cầu trôi nước không trôi Người máy đá giống ông Cũng biết bài ca hát Nếu Ông giống người đá Bản tuyết nên cùng hòa”. Nếu hiểu được lời này thì hiểu được bài tụng của Tuyết Đậu: <詞>TỤNG: DỊCH: Kim Phật bất độ lô Nhân lai phỏng Tử Hồ Bi trong sổ cá tự Thanh phong hà xứ vô. Phật vàng không vào lửa Người đến hỏi Tử Hồ Trong bia có mấy chữ Gió mát chỗ nào không. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Phật vàng không vào lửa, người đến hỏi Tử Hồ”. Hai câu này cũng tụng xong, vì sao lại dẫn “người đến hỏi Tử Hồ”. Phải là hàng tác gia mới được. Hòa thượng Tử Hồ lập một tấm bia ở sơn môn, trên bia có ghi hàng chữ: “Tử Hồ có một con chó, trên cắn đầu người ở giữa cắn lưng người, ở dưới cắn chân của người, suy nghó thì tan thân mất mạng”. Phàm thấy người mới đến liền hét rằng: “Coi chừng chó”. Tăng vừa quay đầu, Tử Hồ liền trở về phương trượng. Hãy nói vì sao lại cắn Triệu Châu không được? Tử Hồ vào một đêm khuya, ở sau chỗ rửa mặt bắt trộm! Bắt trộm. Trong bóng tối gặp một vị tăng, nắm ngực kêu to Bắt được rồi! Bắt được rồi! Tăng nói: “Bạch Hòa thượng không phải là con”. Hồ nói: Đúng thì đúng. Chỉ là không chịu gánh vác. Nếu ông hiểu được lời này thì cho ông cắn chết mọi người. Gió mát thổi khắp nơi. Nếu chưa được như vậy, “trong bia có mấy chữ”, quyết định không thể được. Nếu muốn thấy Sư, chỉ thấu được hết mới thấy. Tụng rằng: <詞>DỊCH: Mộc Phật bất độ hỏa Thường tư phá Táo đọa Trượng tử hốt kích trước Phương tri cô phụ ngã. Phật gỗ không vào lửa Thường nhớ phá Táo đọa Cây gậy chợt đánh đến Mới biết cô phụ ta. GIẢI: Hai câu: Câu này “Phật gỗ không vào lửa này, thường muốn phá bếp lò. Tung Sơn phá táo đọa”. Hai câu này tụng xong. Tuyết Đậu nhân câu: “Phật gỗ không vào lửa, thường nghó đến Phá Táo Đọa, Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Sơn không rõ tên tuổi. Ngôn hạnh cao vời, thường ẩn cư ở Tung Sơn. Một hôm Hòa thượng dẫn đồ chúng vào trong núi có một cái miếu rất linh trong điện chỉ đặt một cái bếp lò dân chúng xa gần đua nhau đến cúng tế liên miên, sát hại sinh vật rất nhiều. Sư vào trong miếu lấy gậy đập phá cái bếp lò ba cái, rồi nói. Ông vốn là khối đất hợp thành, linh từ đâu đến, Thánh từ đâu hiện mà giết hại sinh mạng như thế? Lại lấy gậy gõ ba cái vào bếp lò, bếp lò bể ra. Chốc lát có một người, đầu đội mũ, mặc áo xanh, đứng trước mặt sư lễ bái nói rằng: Tôi chính là thần táo, thọ nghiệp báo đã lâu, nay nhờ Sư thuyết pháp vô sinh, tôi đã thoát được chỗ này, sinh lên cõi trời, lại đến tạ ơn sư. Sư nói: Tánh vốn có của ông chẳng phải ta gượng nói. Thần lại lễ bái rồi biến mất. Thị giả thưa: Chúng con hầu Hòa thượng đã lâu chưa nhờ chỉ bảo, Thần Táo được yếu chỉ gì, mà được sinh lên cõi trời. Sư đáp: Ta chỉ nói với y, người vốn là ai mà giết hại sinh mạng như thế, gạch đất hợp thành, linh từ đâu đến, Thánh từ đâu hiện. Thị giả im lặng không nói được lời nào. Sư hỏi: Hiểu không. Thị giả: Không hiểu. Sư: Lễ bái đi. Thị giả: Lễ bái. Sư: Bể rồi! bể rồi! rơi rồi! rơi rồi! Thị giả bỗng nhiên đại ngộ. Sau đó có người kể lại cho Quốc Sư Huệ An. Sư than rằng: Ông hiểu được vật ngã nhất như, thần Táo ngộ được điều này. Vị Tăng ấy là do ngũ uẩn hợp thành cũng nói bể rồi, rơi rồi, cả hai đều khai ngộ. Hơn nữa năm uẩn, bốn đại và đất bùn, ngói gạch là đồng hay khác? Đã là như thế, Tuyết Đậu vì sao lại dẫn cây gậy chợt đánh đến, mới biết cô phụ ta? Chỉ là chưa được cái gậy. Hãy nói: Tuyết Đậu tụng “Phật gỗ không vào lửa”, vì sao lại dẫn công án Phá Táo Đọa. Lão tăng nói cho ông, ý của Sư chỉ là dứt bỏ được mất, ý tưởng tình trần, tự nhiên thấy chỗ khế hợp của ông ta. KHAI THỊ: Nắm một buông một, chưa phải là tác gia, nêu một rõ ba vẫn trái với tông chỉ. Dù trời đất chuyển biến, bốn phương bặt tiếng, sấm vang chớp dậy, mây giăng mưa đổ, núi sông nghiêng ngã, chậu bể bồn nghiêng. Cũng chưa nêu lên được một nửa. Có người nào chuyển cửa trời xoay trục đất không, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Kinh Kim Cang nói: Nếu bị người khinh rẻ, người này do tội nghiệp đời trước, đáng lẽ phải đọa vào địa ngục, nhưng vì đời nay bị người khinh rẻ, nên tội nghiệp đời trước liền tiêu diệt. GIẢI THÍCH: Kinh Kim Cang nói: Nếu bị người khinh rẻ, người này do tội nghiệp đời trước, đáng lẽ phải đọa vào địa ngục, nhưng vì đời nay bị người khinh rẻ nên tội nghiệp đời trước được tiêu diệt. Chỉ căn cứ vào lời giảng bình thường chính là bàn luận ở trong kinh. Tuyết Đậu đưa ra bài tụng này, là muốn đả phá việc tìm kế sống trong hang quỷ của giáo môn. Thái tử Chiêu Minh phân khoa này là có thể sạch nghiệp chướng. Đại ý kinh nói, kinh này linh nghiệm. Người đời trước tạo ác nghiệp như thế, vì đời này lực của nghiệp thiện mạnh nên chưa thọ quả khổ. Do đời nay bị người khinh rẻ, nên tội nghiệp đời trước được tiêu. Kinh này vẫn có thể diệt được tội nghiệp trong vô lượng kiếp, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành không thọ nghiệp, lại đắc đạo quả Bồ-đề. Theo giáo môn thì tụng hơn hai mươi chương kinh này gọi là trì kinh. Có gì dính dáng. Có người nói: Kinh tự có linh nghiệm. Nếu như thế, ông thử đem một quyển đến chỗ trống xem nó có cảm ứng không? Pháp Nhãn nói: “Người chứng Phật địa gọi là trì kinh này”. Trong kinh nói tất cả chư Phật và pháp của Phật đều từ kinh này ra. Hãy nói gọi cái gì là Kinh này? Có phải là bìa vàng gáy đỏ không? Chớ có nhận lầm chủ quan. Kim Cang là dụ cho pháp thể kiên cố, không có một vật nào hoại được, vì dụng sắc bén nên có thể chặt đứt mọi vật, nghó đến núi thì núi lỡ, nghó đến sông thì sông cạn, căn cứ vào dụ để đặt cái tên. Pháp ấy cũng vậy. Bát-nhã có ba loại: Thật tướng Bát-nhã. Quán chiếu Bát-nhã. Văn tự Bát-nhã. Thật tướng Bát-nhã là trí chân thật, một đoạn đại sự đang ở dưới gót chân của các ông, sáng tột xưa nay, vượt hẳn thấy biết, lột trần lồ lộ. Quán chiếu Bát-nhã là cảnh chân thật, trong hai mươi giờ phóng quang động địa, nghe tiếng thấy sắc. Văn tự Bát-nhã là văn tự nói ra, tức như nay người nói kẻ nghe. Hãy nói là Bát-nhã hay không phải Bát-nhã? Người xưa nói: Người người đều có một quyển kinh. Lại nói: Tay không cầm quyển kinh, thường tụng như thế. Nếu căn cứ vào sự linh nghiệm của quyển kinh này, đấu chỉ chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành khỏi thọ quả khổ. Giả sử công năng của bậc Thánh cũng chưa phải là kỳ lạ. Bàng cư só nghe giảng kinh Kim Cang hỏi tọa chủ rằng: Kẻ tục có việc nhỏ muốn hỏi, không biết được không? Chủ nói: Có điều nghi gì thì cứ hỏi. Cư só: Không tướng ngã, không tướng nhân, đã không có tướng ngã, tướng nhân. Vậy ai là người giảng ai là người nghe? Tọa chủ không đáp được lời nào. Lại nói: Tôi theo văn để giải nghóa không biết ý này. Bàng Uẩn bèn có bài tụng rằng: Không ngã cũng không nhân Làm gì có sơ thân Khuyên Sư thôi đừng giảng Đâu bằng thẳng cầu chân. Tánh Kim Cang Bát-nhã, ngoài dứt mảy bụi trần, tôi nghe cùng tin nhận thấy, đều là giả danh. Bài tụng này rất hay rõ ràng, một lúc đã nói xong. Khuê Phong phân Khoa Tứ cú kệ nói: “Phàm vật gì có hình tướng, đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”. Nghóa của bốn câu kệ này, giống như người chứng Phật địa gọi là trì kinh này. Lại nói: “Nếu do sắc thấy ta, do âm thanh tìm ta, người ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai. Đây cũng là bốn câu kệ, nhưng trong đó nhận lấy nghóa nó thì đúng vậy. Tăng hỏi Hối Đường: Thế nào là bốn câu kệ? Hối Đường: Lời rơi rồi không biết. Tuyết Đậu ngay nơi “kinh này” đưa ra. Nếu có người trì “kinh này” tức là Bản địa phong quang. bản lai diện mục của các ông. Nếu theo lệnh Tổ mà hành bản địa phong quang bản lai diện mục cũng chặt thành ba đoạn, ba đời chư Phật, mười hai phần giáo không tiêu một cái ấn tay. Đến đây giả sử có vạn loại công năng cũng không thể xem xét được. Người thời nay chỉ cần tụng kinh, hoàn toàn không biết là đạo lý gì? Chỉ thích nói: “Tôi một ngày tụng được bao nhiêu, chỉ nhận lấy bìa vàng gáy đỏ, chạy theo những hàng chữ. Thật không biết tất cả đều từ tâm mình dấy khởi. Cái này chỉ là chỗ tụng vậy. Hòa thượng Đại Châu nói: Ở trong chất chồng mấy hòm kinh xem có phóng quang không? Chỉ do cái tâm phát trong một niệm của mình là công đức. Vì sao? Bởi Vạn pháp đều do tâm mình sinh, nhất niệm là linh, đã linh tức là thông, đã thông tức là biến. Người xưa nói: “Trúc biếc xanh xanh đều là chân như, hoa vàng rộ đều là Bát-nhã”. Nếu thấy được thấu triệt tức là chân như, chưa thấy thấu triệt được, hãy nói thế nào gọi là chân như? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu người biết rõ chư Phật trong ba đời, nên quán tánh pháp giới, tất cả đều do tâm tạo”. Nếu ông biết được, gặp cảnh gặp duyên, làm chủ làm tông. Nếu chưa rõ được, hãy lắng nghe xử lý. Tuyết Đậu mở mắt tụng đại khái, cốt rõ sự linh nghiệm của “kinh này”. Tụng rằng: <詞>DỊCH: Minh Châu tại Chưởng Hữu công giả thưởng Hồ hán bất lai Toàn vô kỹ lưỡng Kỷ lưỡng ký vô Ba Tuần thất đồ Cù Đàm! Cù Đàm Thức ngã dã vô? Minh châu trong tay Thưởng người có công Hồ Hán không đến Toàn không xét nét Xét nét đã không Ba Tuần mất lối Cù-đàm! Cù-đàm! Biết tôi cùng chăng? Lại nói: Khám phá xong. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Minh châu trong tay, thưởng người có công”. Nếu có người trì được “kinh này”, nghiệm người có công thì thưởng cho châu, người có công này được châu tự nhiên biết dùng. Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán, vạn tượng sum-la, ngang dọc hiển hiện. Đây là có công huân. Pháp Nhãn nói: Người chứng Phật địa gọi là trì “kinh này”, hai câu này là tụng xong công án. “Hồ Hán không đến, toàn không xét nét”. Tuyết Đậu vặn lỗ mũi, nếu có Hồ Hán đến, thì bảo ông hiện. (2 2 1) Nếu Hồ Hán đều không đến thì làm sao?Đến đây mắt Phật nhìn cũng không thấy. Hãy nói là có công hay là có tội, là Hồ hay là Hán. Thật giống như linh dương treo, chớ sừng, nói tiếng vang, dấu vết, đến hơi hám cũng không, nhằm chỗ nào mà tìm kiếm? Dù là chư thiên dâng hoa cũng không có lối, ngoại ma lớn nhìn cũng không có cửa. Cho nên Hòa thượng Động Sơn một đời làm trụ trì mà Thổ Địa tìm dấu vết của Động Sơn không thấy. Một hôm trước nhà trù vung vãi lúa thóc, Động Sơn khởi tâm nói: Vật của thường trụ đâu được vung vãi như thế. Thần đất thấy được Ngài liền lễ bái Động Sơn. Tuyết Đậu nói: “Xét nét đã không”, nếu đến chỗ không xét nét thì, Ba tuần cũng mất lối. Thế Tôn xem tất cả chúng sinh như con đỏ. Nếu có một người phát tâm tu hành thì cung điện của Ba tuần chấn động, liền đến quấy nhiễu người tu hành. Tuyết Đậu nói: Dù ma Ba tu- ần đến như thế, cũng phải khiến mất lối, không thể đến gần chỗ người tu. Tuyết Đậu lại tự vỗ ngực nói: Cù-đàm! Cù-đàm! Biết tôi không? Chớ nói là Ma ba Tuần, dù là Phật đến, lại biết tôi chăng? Ông già Thích-ca còn không thấy, Các ông nhìn chỗ nào mà dò tìm. Lại nói: Khám phá rồi. Hãy nói Tuyết Đậu khám phá Cù-đàm. Hay Cù-đàm khám phá Tuyết Đậu? Người mắt sáng, thử xét định? KHAI THỊ: Một hạ lăng xăng tạo sắn bìm, Tợ Hồ cột được Ngũ Hồ tăng, Kim cang bảo kiếm, ngay đầu chặt, Mới hiểu từ lâu trăm bất năng”. Hãy nói. Thế nào là bảo kiếm kim cang? Hiểu ngay đừng suy nghó. Thử bày mũi nhọn xem? CÔNG ÁN: Hòa thượng Thiên Bình lúc hành cước đến tham vấn Tây Viện. Thường nói: Chớ nói hiểu Phật pháp, tìm người nói cũng không có”. Một hôm: Tây Viện thấy Thiên Bình từ xa gọi. Thiên Bình ra đi! Tây Viện nói: Hãy ở lại đây qua hạ. Thiên Bình: Ngẫng đầu. Tây Viện nói: Lầm. Thiên Bình đi hai, ba bước. Tây Viện lại nói: Lầm. Thiên Bình đến gần. Tây Viện nói: Vừa rồi Hai chữ lầm này, là Tây Viện lầm hay Thượng tọa lầm. Thiên Bình nói: Tùng Ỷ lầm. Tây Viện nói: Lầm. Thiên Bình mới thôi, Tây Viện nói: Hãy ở đây qua hạ, đợi cùng với Thượng tọa bàn luận hai chữ lầm này. Lúc ấy Thiên Bình liền đi. Sau đó Thiên Bình trụ trì bảo chúng rằng: Ta lúc đầu hành cước bị gió nghiệp thổi, đến chỗ trưởng lão Tư Minh liền hạ hai chữ lầm này, Tây Viện bèn giữ ta qua hạ, đợi cùng ta thương lượng. Ta không nói khi ấy là lầm cất chân đi về Nam, ta mới biết lầm rồi. GIẢI THÍCH: Tư Minh trước tham vấn Đại Giác sau đó nối pháp tiền Bảo Thọ. Một hôm Tư Minh hỏi: Đạp phá hóa thành đến thì thế nào? Bảo Thọ đáp: Kiếm bén không chém người chết. Tư Minh nói: Chém! Bảo thọ liền đánh. Tư Minh mười lần nói “chém”, Bảo Thọ mười lần đánh, nói: Kẻ này chết nhanh thế, đem thây chết chống lại đòn đau, bèn nạt đuổi ra. Lúc ấy có một tăng hỏi Bảo Thọ rằng: Vừa rồi tăng hỏi rất có đạo lý, Hòa thượng nên phương tiện tiếp ông ta? Bảo Thọ cũng đánh đuổi vị tăng này ra. Hãy nói Bảo Thọ cũng đánh đuổi vị tăng này, chỉ vì ông ta nói phải nói quấy, hay chỉ có nói đạo lý, ý thế nào? Sau này cả hai vị đều nối pháp Bảo Thọ. Một hôm, Tư Minh đi yết kiến Nam Viện. Nam Viện hỏi: Từ đâu đến? Tư Minh: Từ Hứa Châu đến. Nam Viện: Đem được cái gì đến? Tư Minh: Đem được con dao ở Giang Tây đến dâng Hòa thượng. Nam Viện: Đã từ Hứa Châu đến vì sao lại có con dao Giang Tây? Tư Minh nắm tay Nam Viện bấm một cái. Nam Viện bảo: Thị giả nhận lấy. Tư Minh phất tay áo một cái rồi đi. Nam Viện nói: “A thích! A thích thích! Thiên Bình từng tham yết Sơn Chủ. Vì Sư đi khắp nơi tham được một chút thiền, ở trong bụng thiền, nơi nào cũng mở miệng nói tôi hiểu thiền hiểu đạo. Thường nói: Chớ nói hiểu Phật pháp, tìm người nói cũng không? Phân hôi thối lên cả người ta, mặc dù buông nhẹ. Ví như chư Phật chưa ra đời, Tổ sư chưa từ Ấn sang, trước khi chưa có hỏi đáp, chưa có công án, lại có thiền đạo không? Người xưa bất đắc dó đối cơ chỉ dạy. Người sau gọi là công án. Nhân Thế Tôn đưa cành hoa, Ca-diếp mỉm cười. Sau đó A-nan hỏi Ca-diếp: Thế Tôn ngoài việc truyền y Kim Lan ra, có truyền pháp gì khác không? Ca-diếp gọi: A-nan! A-nan đáp: Dạ. Ca-diếp nói: Cây phướn trước sân ngã. Chỉ như khi chưa đưa cành hoa, A-nan chưa hỏi, thì được công án từ chỗ nào? Dù được các nơi dùng con dấu bí đao để ấn chứng cho liền nói: Tôi hiểu Phật, hiểu pháp một cách lạ kỳ. Chớ bảo cho người ta biết. Thiện Bình chính như thế, bị Tây Viện gọi liên tiếp hai chữ “lầm”, khiến phải sợ hãi kinh hoàng, bối rối, trước không đến thôn, sau không dựng quán. Có người nói: Nói cái ý Tây sớm đã lầm rồi. Thật không biết ý hai “chữ lầm” của Tây Viện. Các ông hãy nói rơi vào chỗ nào? Cho nên nói: Ông ta tham hoạt cú không tham tử cú. Thiên Bình ngẫng đầu là đã rơi vào thứ hai, thứ ba rồi. Tây Viện nói: “Lầm”, Sư lại không nhận biết được chỗ minh bạch. Chỉ nói tôi có một bụng, chẳng cần người. Lại đi hai, ba bước Tây Viện lại nói: “Lầm” lại vẫn mịt mù như cũ. Thiên Bình đến gần, Tây Viện nói: Hai chữ lầm vừa rồi là Tây Viện lầm hay Thượng tọa lầm. Thiên Bình nói: Tùng Ỷ lầm. Đáng tức cười không dính dáng, đã là đầu thứ bảy, thứ tám rồi. Tây Viện nói: Hãy ở đây qua hạ, cùng Thượng tọa bàn luận về hai chữ “lầm” này. Thiên Bình lúc ấy liền đi, giống thì cũng giống, nhưng đúng thì chưa đúng, cũng không nói Sư không đúng, chỉ là đuổi không được. Tuy như thế lại có một chút hơi hám của nạp tăng. Sau đó Thiên Bình trụ trì dạy chúng rằng: Lúc ta mới hành cước bị gió nghiệp thổi đến chỗ Hòa thượng Tư Minh, bị liên tiếp hạ hai chữ “lầm”, bèn giữ ta ở lại qua hạ, cùng ta bàn luận. Ta không nói khi ấy là “lầm”, Ta bèn cất bước về phương Nam sớm biết “lầm” rồi. Gã này dù nói tột, chỉ là rơi vào đầu thứ bảy, thứ tám, trước sau đều không dính dáng. Như người thời nay nghe Sư nói lúc cất bước đi về phương Nam là biết lầm rồi, bèn suy nghó: Lúc chưa hành cước tự không có nhiều thiền đạo, Phật pháp, cho đến khi hành cước bị khắp nơi dối lừa, không bằng lúc chưa hành cước gọi đất là trời, gọi núi là sông, may không một việc. Nếu luôn dùng kiến giải của thế tục như thế thì sao không mua một cái mũ đội cho tất cả để qua thời. Có dùng được chỗ nào? Phật pháp không phải là đạo lý này. Nếu luận bàn việc này há có lắm rối ren. Nếu ông nói tôi hiểu còn ông ta không hiểu, gánh một gánh thiền chạy quanh khắp thiên hạ, bị người mắt sáng khám phá, một chút cũng không dùng được. Tuyết Đậu tụng ra như thế (222): <詞>TỤNG: DỊCH: Thiền gia lưu, ái khinh bạc Mãn đổ tham lai dụng bất trước Kham bi kham tiếu Thiên Bình lão Khước vị đơn sơ hối hành cước. Thố! Thố! Tây Viện thanh phong đốn tiêu thước. Dòng nhà thiền, thích đơn sơ. Đầy bụng tham rồi, Dùng không được Đáng thương đáng cười Lão Thiên Bình. Lại bảo ban sơ hối hành cước Lầm! Lầm! Tây Viện gió lành thổi tiêu sạch. Lại nói: Bỗng có nạp tăng ra nói lầm, Tuyết Đậu lầm đâu giống Thiên Bình lầm. GIẢI TỤNG: Hai câu: “Dòng nhà thiền, thích đơn sơ, đầy bụng tham rồi dùng không được”. Gả này hiểu thì hiểu, chỉ là dùng không được. Bình thường mắt thấy mây bay bèn nói: Tôi hiểu được nhiều ít thiền, cho đến khi gặp lò lửa vừa đốt vốn thì một chút sử dụng cũng không được. Ngũ Tổ tiên sư nói: “Có một hạng người thường tham thiền, giống như nấu bánh trong bình lưu ly, xoay trở không được, trút cũng không ra, chạm đến thì vỡ nát. Nếu muốn linh động, chỉ tham được cái thiền vỏ rách, leo lên núi cao, té xuống cũng không bể cũng không hư. Người xưa nói: Giả sử nghe chưa hết lời mà hiểu được ngay vẫn còn bị cho là kẻ ngu si đần độn. Dù ngay câu nói mà tinh thông, cũng chưa khỏi chạm đường sinh ra kiến giải cuồng loạn. Hai câu: Đáng thương, đáng cười lão Thiên Bình, lại cho là lúc đầu hối hận hành cước. Tuyết Đậu nói: Đáng thương cho Sư thuyết pháp cho người không được, đáng cười khi Sư hiểu một bụng thiền, lại sử dụng một chút cũng không được, “lầm! Lầm!” hai chữ này. Có người nói: Thiên Bình không hiểu là sai “lầm”. Lại có người nói: Không nói năng là “lầm”. Có dính dáng chăng? Thật không biết hai chữ “lầm” như xẹt đá nháng lửa tợ làn sấm chớp, là chỗ hành vi của người hướng thượng. Như cầm kiếm chém người, phải chặt cổ thì mạng căn mới dứt. Nếu chạy được trên đao kiếm bén này thì an nhiên tự tại. Nếu hiểu được hai cái lầm này, thì có thể được “Tây Viện gió lành thổi tiêu sạch”. Tuyết Đậu thượng đường nêu lời này, ý nói “lầm”. Tôi hỏi ông: Cái “lầm” này của Tuyết Đậu có giống gì với cái “lầm” của Thiên Bình. Hãy tham ba mươi năm! KHAI THỊ: Rồng ngâm, sương mù, khởi cọp rồng, gió nổi, thiền pháp xuất thế, vàng ngọc chạm nhau, tác lược của bậc thông phương như ha mũi tên chọi nhau, khắp cõi chưa từng ẩn, gần xa đồng bày, xưa nay phân biệt rõ. Hãy nói là cảnh giới của người nào, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Vua Túc Tông hỏi Quốc Sư Huệ Quang: Thế nào là mười thân Điều Ngự? Quốc Sư: Thí chủ đạp trên đảnh Tỳ-lô đi. Đế: Quả nhân không hiểu. Quốc Sư: Chớ nhận pháp thân thanh tịnh chính mình. GIẢI THÍCH: Hoàng đế Túc Tông khi còn là Thái tử đã tham yết Quốc Sư Huệ Quang. Sau đó lên ngôi vua lại càng cung kính Quốc Sư hơn. Mỗi khi Quốc Sư ra vào, vua đích thân đỡ lên xe. Một hôm, vua hỏi Quốc Sư: Thế nào là mười thân Điều Ngự? Sư đáp: Thí chủ dẹp trên đãnh Tỳ-lô. Bình thường xương sống Quốc Sư cứng như sắt, nhưng đến trước mặt Đế vương giống như bùn lầy. Tuy nhiên đáp được chút ít lại có cái ưu điểm. (Quốc Sư) nói: Ông muốn hiểu được thí chủ phải đi trên đãnh Tỳ-lô mới được, vua không tiến được bèn nói: “Quả nhân không hiểu”. Phần sau Quốc Sư thật là rườm rà. Lại chuyên chú vào một câu trên đó nói rằng: “Chớ nhận lầm pháp thân thanh tịnh của chính mình”. Cái mà ai cũng có, ai ai đều tròn đầy. Xem Sư một buông, một nắm, tám mặt bị địch. Không thấy nói: Người thầy giỏi ứng cơ lập giáo, xem gió thả buồm. Nếu chỉ tránh giữ một góc, đâu có thể hỗi hỗ. Xem lão Hoàng Bá tiếp người khéo léo, gặp Lâm Tế ba lần, ăn sáu mươi gậy. Lâm Tế ngang tiếp hét liền hiểu. Đến khi gặp Tướng Quốc Bùi Hưu thì thật rườm rà. Đây há chẳng phải là khéo làm thầy người. Quốc Sư Huệ Trung dùng phương tiện khéo léo để tiếp vua Túc Tông bởi vì ông ta có bản lãnh tám mặt chịu trận địch. Mười thân Điều Ngự tức mười loại thân thọ dụng. Ba thân: Pháp thân, hóa thân và báo thân, tức là pháp thân. Vì sao? Báo thân và Hóa thân không phải là Phật thật? Cũng không thuyết pháp. Pháp thân là một mảng trời không, linh minh tịch chiếu. Thượng tọa Phù Thái Nguyên, khi trụ chùa Quang Hiếu, Dương Châu giảng kinh Niết-bàn, có vị tăng du phương là điển tòa Giáp Sơn ở chùa Giáp Sơn vì trời trở tuyết, nên tạm ở lại chùa nhân đó nghe giảng, khi nói đến ba nhân Phật tánh, ba đức pháp thân, bàn rộng về lý vi diệu của pháp thân, điển tòa bỗng nhiên phát cười Thượng tọa. Phù nhìn thấy. Sau khi giảng xong, sai thị giả mời thiền Sư đến hỏi rằng: Tôi trí kém cõi, y văn giải nghóa, trong khi đang giảng thấy thượng nhân cười, tôi nhất định có chỗ thiếu sót, xin thượng nhân góp ý cho. Điển tòa nói: Tòa chủ không hỏi thì tôi không dám nói. Tòa chủ đã hỏi thì tôi không thể không nói. Tôi thật sự cười tòa chủ không biết pháp thân. Thượng Tọa Phù nói: Giải nói như thế, có chỗ nào không đúng? Điển tòa nói: Xin chủ tọa giảng lại một lần nữa. Thượng Tọa Phù: Lý của pháp thân ví như hư không, chiều dài tận cùng ba đời, chiều rộng suốt mười phương, đầy dẫy bát cực, bao quát hai nghi, tùy duyên đến cảm ứng khắp nơi. Điển tòa: Tôi không phải nói tòa chủ nói không đúng, chỉ biết được bên ngoài của pháp thân, thật chưa biết rõ pháp thân. Thượng Tọa Phù: Đã như thế, thiền giả hãy nói cho tôi rõ đi. Điển tòa: Nếu như thế, tọa chủ tạm ngưng giảng một tuần tónh tọa trong thất ngồi ngay lặng nghó, thu tâm, nhiếp niệm, những duyên thiện ác cùng lúc buông hết, tự tham cứu cùng tột xem. Thượng Tọa Phù y theo lời dạy, từ đầu đêm đến canh năm nghe trống đánh bỗng nhiên khế ngộ, liền đến gõ cửa thiền giả. Điển tọa hỏi: Ai đó? Thượng Tọa Phù: Tôi. Điển tọa quở: Bảo ông truyền giữ đại giáo, thay Phật thuyết pháp, nửa đêm tại sao say rượu nằm giữa đường vậy? Thượng Tọa Phù: Trước đây giảng kinh đã vặn tréo lỗ mũi của cha mẹ sinh ra rồi, từ nay về sau không dám như thế nữa. Xem ra sự kỳ lạ của Sư, há chỉ đi nhận cái chiêu chiêu,linh linh rơi vào trước lừa sau ngựa, phải là nghiệp thức không còn một mảy tơ tạm được, cũng chỉ một nửa. Người xưa nói: “Không khởi một mảy may tâm tu học, trong ánh sáng vô tướng thường tự tại”. Chỉ biết thường tịch diệt, chớ nhận thanh sắc, chỉ biết linh tri (trí tuệ) chớ nhận vọng tưởng. Cho nên nói: Giả sử vòng sắt trên đầu xoay định, tuệ viên minh đều không mất. Đạt-ma hỏi Nhị Tổ: Ông đứng trong tuyết chặt tay để làm việc gì? Nhị Tổ: Tâm con chưa an, xin thầy an tâm cho con. Đạt-ma: Đem tâm ra đây ta an cho. Nhị Tổ: Tìm tâm mãi mà không có. Đạt-ma: Ta đã an tâm cho ông rồi đó. Nhị Tổ bỗng nhiên lãnh ngộ. Chính lúc như thế pháp thân ở chỗ nào? Trường Sa nói: “ Bởi người học đạo chẳng biết chân, chỉ tại từ xưa nhận thức thần thức vô lượng kiếp rồi gốc son, thì kẻ si cho đó là người xưa nay”. Như người thời nay chỉ nhận được cái chiêu chiêu linh linh, bèn mê hoặc mọi người, có dính dáng gì. Như Quốc Sư Huệ Trung nói: “Chớ nhận pháp thân thanh tịnh của chính mình”. (2 2 3) Pháp thân của chính mình ông nằm mộng còn không thấy, lại nói gì chớ nhận. Giáo môn lấy pháp thân thanh tịnh làm cứu cánh. Vì sao lại không bảo người nhận? Không thấy nói “Nhận được như xưa lại không phải, ôi! đáng ăn gậy”. Hiểu được ý này, mới hiểu được Quốc sư nói: “Chớ nhận pháp thân thanh tịnh của chính mình”. Tuyết Đậu không thích tâm từ bi tha thiết của Quốc Sư, đâu ngờ trong bùn lại có gai. Há không thấy Hòa thượng Động Sơn tiếp người có ba con đường: Huyền lộ, Điểu đạo và Triển thủ. Kẻ học đạo sơ cơ hãy đi vào ba đường này. Có vị Tăng hỏi: Bình thường thầy dạy học nhân đi đường Điễu đạo. xin hỏi: Thế nào là con đường Điểu Đạo? Động Sơn: Không gặp một người. Tăng: Làm sao đi? Động Sơn: Phải dưới gót chân không vướng mắc. Tăng: Chỉ như thực hành con đường điểu đạo có phải là bản lai diện mục không? Động Sơn: Cái gì là điên đảo của Xà-lê Tăng thưa: Cái gì là chỗ điên đảo của học nhân Động Sơn: Nếu không điên đảo vì sao nhận người tớ làm chồng? Tăng thưa: Thế nào là bản lai diện mục? Động Sơn: Không đi con đường điểu đạo, phải cần thấy được điền địa này, mới có chút phần tương ưng, lập tức quét sạch dấu vết, nuốt sạch âm thanh của kinh giáo. Còn là môn hạ của nạp tăng, chính là kiến giải của Sa-di Đồng Hành, phải cần quay đầu trần lao, hưng khởi đại dụng mới được. Tuyết Đậu Tụng rằng: Nhất quốc sư diệc cưỡng danh Nam Dương độc hứa chấn gia thanh Đại Đường phù đắc chân Thiên Tử Tăng đạp Tỳ lô đãnh thượng hành Thiết chùy kích toái hoàng kim cốt Thiên địa chi gian cách hà vật Tam Thiên sát hải dạ trầm trầm Bất tri thùy nhập thương long huyệt. <詞>DỊCH: Một nước làm thầy cũng gương kêu Riêng nhận tiếng vang nêu Nam Dương Đại Đường nhà nhà vua tốt được Từng đạp trên đãnh của Tỳ-lô. Chùy sắt đập tan xương vàng ròng Trong khoảng đất trời nào có vật Ba ngàn cõi nước đêm lặng chìm Không biết ai vào hang rồng dữ. GIẢI THÍCH: Một nước làm thầy cũng giương kêu, Nam Dương riêng nhận tiếng vang nêu. Hai câu tụng này giống hệt như lời tán chân dung. Không thấy nói: “Chí nhân không danh” gọi là Quốc Sư. Cũng là gượng đặt cái tên. Đạo của Quốc Sư không thể so bì, hay tiếp người khéo léo như thế, cho Nam Dương là tài giỏi. Đại Đường dựng được chân thiên tử, từng đi trên đãnh của Tỳ-lô, mới thấy mười thân của Như Lai, mười thân hóa hiện trăm thân, cho đến trăm ngàn ức thân. Đại khái chỉ là một thân. Một bài tụng này lại để nói, sau đó tụng ông ta nói chớ nhận pháp thân thanh tịnh của chính mình, tụng được thì nước rưới cũng không được, thật là khó mở miệng nói. Chùy sắt đậïp tan xương vàng ròng. Câu tụng này nói “chớ nhận pháp thân thanh tịnh của chính mình”. Tuyết Đậu thật ca ngợi ông ta. Xương vàng ròng một chùy sắt đập nát rồi. giữa trời đất lại vật gì, phải là an nhiên tự tại, lại không có một vật nào mới có thể được, chính là bản lai diện mục, giống như “ba ngàn cõi nước đêm lặng chìm”. Trong nước biển Hương Thủy của ba ngàn đại thiên thế giới có vô biên cõi, một cõi có một biển. Chính lúc đêm khuya vắng đó, trời đất yên tónh. Hãy nói là gì? Rất kî làm cái hiểu nhắm mắt mở mắt. Nếu hiểu như thế là rơi vào biển độc. “Không biết ai vào hang rồng dữ” co chân duỗi chân, hãy nói là ai, lỗ mũi của mọi người một lúc bị Tuyết Đậu xỏ đi rồi. KHAI THỊ: Gây nhân gặt quả, từ đầu đến cuối đối mặt vô tư, vốn không từng nói. Bỗng có người ra nói một hạ xin hỏi, vì sao không từng nói. Đợi ông ngộ ta sẽ nói cho ông. Hãy nói là có mặt kiêng kî hay là chỉ có điểm ưu, thử nêu xem? CÔNG ÁN: Tăng hỏi Ba Lăng: Thế nào là xuy mao kiếm ? Ba Lăng: Từng cành san hô chỏi đến trăng. GIẢI THÍCH: Ba Lăng không khởi chiến tranh, bốn biển năm hồ bao nhiêu người lưỡi đều rơi xuống đất? Vân Môn tiếp người như thế. Sư là đích tử của Vân Môn, nên mỗi cái đều có đủ tác lược. Cho nên nói: Tôi thích cơ của Thiều Dương và Tân Định, một đời tháo đinh nhỗ chốt cho người. Lời này chính là chỗ như thế, trong một câu tự nhiên đủ ba câu: Họp cái càn khôn, triệt chúng lưu, tùy ba trục lãng. Đáp được cũng rất kỳ lạ. Viễn Lục Công ở Phù Sơn nói: Người chưa hiểu tham câu chẳng bằng tham ý. Người thấu được ý không bằng tham câu. Đệ tử của Vân Môn có vị ba tôn túc, câu xuy mao kiếm đều đáp bằng chữ “Liễu” Chỉ riêng Ba Lăng đáp hơn một “Liễu”. Đây là được câu vậy. Hãy nói chữ “Liễu” và cành san hô chỏi đến trăng là đồng hay khác? Trước đó nói ba câu có thể phân biệt được một mũi nhọn tới trời xanh. Muốn hiểu lời này, phải là dứt tình trần, lìa ý tưởng mới thấy được. Sư nói: Cành cành san hô chỏi đến trăng. Nếu làm đạo lý càng thấy dò tìm không được. Lời này là trích trong bài thơ Thiền Nguyệt Hoài Hữu: Dày như sắt trên núi Thiết Vi Mỏng như tơ áo tiên song Thành Cơ Thục chim non động bể trứng Kho nhà Vương Khải cất chứa khó đào. Nhan Hồi kẻ đói buồn trời tuyết Thông xưa ngọn thẳng sấm gãy nào Thạch Nữ áo tuyết bàn đào vắng Đèo vào long cung chân bước chầm chậm Rèm tơ chiếu bạc nào xa lạ Chẳng biết ly long mất châu báu. Biết không biết? “Ba Lăng rút một câu đáp mao kiếm” thật là thích. Thổi sợi lông trên kiếm thử xem sợi lông ấy đứt, chính kiếm bén gọi là (xuy mao). Ba Lăng chỉ theo chỗ hỏi đó mà đáp lời của vị tăng này, đầu rơi cũng không biết. Tụng rằng: Yếu bình bất bình Đại xảo nhược chuyết Hoặc chỉ hoặc chưởng Yû thiên chiếu tuyết Đại trị hề ma lung bất hạ Lương công hề phất thức vị kiệt Biệt biệt San hô chi chi chưởng trước nguyệt. <詞>DỊCH: Cần bình chẳng bình Quá khéo thành vụng Hoặc chỉ hoặc chưởng Ỷ thiên soi tuyết Đại trị chữ giũa mài không được Thợ khéo chừ lau quét cũng không xong Khác khác! Cành san hô chơi đến trăng. GIẢI TỤNG: Hai Câu: “Cần bình chẳng bình, quá thành vụng”. Xưa có một hiệp khách, đi đường thấy sự bất bình, dùng mạnh hiếp yếu, liền vung kiếm lấy đầu người mạnh. Cho nên nhà tông sư mi mắt ẩn kiếm báu, trong tay áo giấu chùy vàng để chặt đứt sự bất bình. “Quá khéo thành vụng”. Chỗ đáp của Ba Lăng muốn bình việc không bình. Vì lời của Sư rất khéo mà trở thành vụng. Vì sao? Vì Sư không đương đầu mà lại tránh đi trong chỗ vắng lén chắt đầu người, mà người không biết. Hai câu: Hoặc chỉ hoặc chưởng, ỷ thiên soi tuyết”, hiểu được như ỷ thiên trường kiếm. Người xưa nói: Trăng tâm tròn sáng, nuốt hết vạn tượng, ánh sáng không soi cảnh, cảnh cũng không còn, cảnh và ánh sáng đều quên lại là vật gì? (2 2 4) Bảo kiếm này hoặc hiện trên ngón tay, hoặc hiện trong bàn tay. Ngày xưa Khánh Tạng chủ nói đến đây bèn đưa tay nói: “Có thấy không? ” Cũng không hẳn ở trên ngón tay. Tuyết Đậu mượn đường đi qua, dạy ông thấy được ý của người xưa. Nên nói: Tất cả chỗ xuy mao kiếm. Cho nên nói: “Ba cấp sóng cao ca hóa rồng, người ngu còn tìm cá trong ao”. Tổ Đình Sự Uyển chép Tử Truyện Hiếu rằng: “Phu nhân của Sở vì trời nóng bức nên dạo đi hóng mát, bà đứng ôm cây trụ sắt, cảm thọ thai, sau đó sinh ra một viên sắt. Sở Vương sai tướng Can luyện làm kiếm, suốt ba năm mới thành hai thanh kiếm, một thư, một hùng. Can Tương lên giữ cây tốt còn, kiếm xấu thì dâng cho Sở Vương. Sở Vương cất trong giáp, thường nghe tiếng kêu buồn. vua hỏi quần thần, thần tâu: Kiếm có thư hùng. Nó kêu vì nó nhớ kiếm hùng. Vương giận dữ ra lệnh giết tướng Can Tương. Can Tương biết điều đó bèn lấy kiếm giấu trong cây cột nhà, dặn vợ là Mạc-da rằng: Mặt trời mọc cửa Bắc, cây tùng mọc núi Nam, cây tùng sinh nơi đá, kiếm ở trong đó. Sau đó bà vợ ông sinh ra đứa con trai đặt tên là Mi Gian Xích, năm mười lăm tuổi nó hỏi mẹ rằng: Cha con ở đâu? Mẹ kể lại sự việc xảy ra trước đó, suy nghó hồi lâu, rồi chẻ cây cột thấy cây kiếm trong đó. Ngày đêm muốn báo thù cho cha. Sở Vương cũng tìm cây kiếm, lệnh rằng ai bắt được Mi Gian Xích vun sẽ trọng thưởng. Mi Gian Xích nghe vậy liền trốn. Chợt có một người khách hỏi: Con có phải là Mi Gian Xích? Xích thưa: Phải. Khách bảo: Ta là Chân Sơn nhân, có thể báo thù cho cha của con. Xích thưa: Cha con ngày xưa vô tội, bị giết oan, nay ông thương xót, vậy có điều gì? Khách: Phải được đầu con và cây kiếm. Mi Giam Xích bèn dâng kiếm và đầu cho khách. Khách được kiếm và đầu trở về dâng cho vua Sở. Vua rất mừng. Khách nói: Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy nấu dầu và nấu nó thử. Vua bèn để vào trong đánh. Khách đưa cho Vương dối nói: Đầu này không rã. Vua đến nhìn, khách ở phía sau lấy kiếm chém đầu Vua bỏ đánh. Hai cái đầu ẩu đả nhau. Khách sợ Mi Gian Xích thua bèn tự vẫn để giúp Xích. Ba cái đầu đánh nhau, từ từ tan hết. Tuyết Đậu nói: “Kiếm này có thể tựa trời soi tuyết”. Bình thường nói: Ỷ Thiên trường kiếm, sáng hay soi tuyết”. Chỗ dùng này thẳng được, dù thợ giỏi lau quét cũng không xong. Thợ giỏi chính là Can Tương. Việc xưa đã rõ ràng. Tuyết Đậu tụng xong. sau đó tụng ra nói:” Khác khác, cũng rất kỳ lạ, chỉ có không giống với kiếm bình thường. Hãy nói: Thế nào là chỗ không giống đó? “Cành san hô chơi đến trăng”, có thể gọi là sáng trước tột sau, đứng riêng trong trời đất, không gì sánh bằng. Cuối cùng thế nào? Các ông đầu rơi? Lão tăng này có một kệ nhỏ tặng: Vạn hộc doanh chu tín thủ noa Khước nhân thất liệp ứng thôn xã Niêm đề bách chuyển cựu Công án Tát khước thời nhân kỷ nhân sa. <詞>DỊCH: Thuyền đầy vạn đấu vững tay chèo Nhân một nồi cơm nấu cả rắn Đưa ra trăm chuyển công án xưa Ném cát thời nhân bao mắt đầy. (QUYỂN MƯỜI - HẾT) ---------------------------------------------- Tụng Cổ Bách tắc của Thiền sư Tuyết Đậu là then chốt của người học đạo chốn tùng lâm. Trong đó lấy thí dụ của kinh luận văn sử Nho gia để phát minh việc này. Chẳng nhờ bậc Tông tượng có trí huệ sáng suốt mổ xẻ ra thì hàng hậu học không làm sao mà biết được. Lão sư Viên Ngô, khi còn ở thành đô, thì tôi cùng với mọi người thỉnh Ngài giảng nói. Sau đó Sư đến Đạo Lâm, núi Giáp Sơn khai mở cho học đồ. Ba lần đưa ra cương yếu của Tông lời nói tuy khác nhau nhưng ý chỉ là một. Đệ tử thu nhặt ghi chép lại. Đã hai mươi năm rồi sư chưa thử qua mà hỏi điều đó. Lưu truyền khắp nơi. Có người bài xích. Các phương toan nhân lời nói đó, cho đạo đó không tìm được manh mối, được mà toan cải đổi, thì sách này đã bị phế rồi. Học giả may mắn được nghe lời truyền của Ngài. Mưu Nhân Quan Hữu Vô Đảng Mùa xuân Ất tî niên hiệu Tuyên Hòa. Trùng San Viên Ngộ Thiền sư Bích Nham Lục Tập Sớ Tụng cổ Bách tắc của Thiền sư Tuyết Đậu, Viên Ngộ ghi cước chú. Riêng chỉ bày trong tòng lâm, dạy bảo tông chỉ Kinh, cơ phong của học nhân nhanh nhẹn, trí tuệ sáng suốt có thể lãnh ngộ được biết chỗ đến thật vô, nên đốt hết không lưu truyền. Sách này là chánh nhãn của chư Phật, là đại cơ của chư Tổ. Cả hai kinh kềm chùy không có một chút tỳ vết. Nay muốn sách này ra đời, cùng với tâm yếu Viên Ngộ lưu hành, là mặt trời trong đêm tối làm kim chỉ nam trong biển tuệ, thấy được rõ ràng, khai mở quần mê được viên thành, tất cả đều được lợi ích, rất may mắn thay! Mười bảy tuổi, Sư được Vân Môn, Mục Châu, có thể nói là khẩu đầu Tam-muội. Hai trăm năm không thấy Bích Nham, Tuyết Đậu. Bỗng gặp tay cao thủ như thế, đâu quên được cung tên nối nghiệp trước, chớ làm mất giống con cháu bước theo sau chân người. Ai buông câu mà câu được rồng. Có người sáng mắt đến làm cọc cột lừa. Việc này như Phiệt dụ, khi hiểu rồi phải quên nom. Nhà nhà thấu Trường An, trước hô sau ứng. Các thứ nhân duyên quy về con số lớn. Xưa phế nay hưng, chẳng ngại Sơn tăng lắm lời, toàn là tâm lão bà tha thiết. Không đọc sách Đông độ làm sao biết được ý Tây lai, hưng khởi lại một đời tông phong. Tuy không có chim Nam mà chỉ xem cá Bắc, lại có rất nhiều tin tức, nắm ấn đồng văn, đọc Vô Tận Dân Sớ. Lúc Viên Ngộ ở Giáp Sơn, tập thành sách này, muốn thiên hạ đời sau biết có sự huyên áo của Phật tổ, đâu phải việc ích nhỏ ư! Học giả Diệu Hỷ, Thâm Hoạn không có gốc đối với đạo, chìm trong tri giải do đó mà hủy báng, gọi đó là cha con mâu thuẫn. Nay cư só Ngu Trung Trương ấn bản lưu hành, nghóa thế nào? Nghóa xem nên tự rõ. Trung Thu Nhâm Dần niện hiệu Đại Đức Tỳ-kheo Pháp Tôn đời thứ bảy tại núi Thiền Đồng. Thiền sư Viên Ngộ bình xướng, Tụng cổ Bách tấc của Hòa thượng Tuyết Đậu, mổ xẻ lý huyền vi, chọn nhặt tỉ mỉ sâu xa, mở bày cơ dụng của chư tổ, khai nguồn tâm cho kẻ hậu học, huống gì diệu trí cô đọng, thần cơ âm thầm vận chuyển soi sáng vào cửa tối tăm, mặt trời lên thì sáng cả căn nhà tối, đâu thể nông cạn mà có thể biết hết được ư? Sau đó Thiền sư Đại Tuệ vì học nhân nhập thất hạ ngữ rất là mới sanh nghi và khám phá thì mũi nhọn tà tự bẻ gảy, lại cúi mình xin quy phục. Từ hàng phục nói: Lời ghi trong Bích Nham Tập, tôi thật không ngộ “Vì lo rằng, sau này có kẻ không hiểu rõ nguồn gốc, tự tiện phát ngôn mở miệng thô bỉ. Do đó nên Thiền sư Tông Cảo đốt sạch đế tránh sự tệ hại này. Nhưng biên tập thành sách và thiêu hủy sách này, dụng tâm không khác nhau thì đâu có hau ư? Trương Minh Viễn ở Ngung Trung ngẫu nhiên được quyển chép tay, lại được quyển Tuyết Đường San Bnả và Bản đời Thục, hiệu đính và in thành sách này, lưu thông muôn đời, bậc thượng căn đại trí xem qua một lần liền khai mở bản tâm, không còn nghi ngờ, há chẳng là bổ ích nhỏ sao? Ngày hội nghênh Phật năm Đinh Tî, niên hiệu Diên Hựu, Tỳ- kheo Đế Lăng, trụ trì ở Cảnh Sơn viết lời bạt. (2 2 5) Tử Cống là một nhà Nho rất có công đối với Thánh nhân Trung Quốc. Ngựa giỏi thấy bóng roi liền chạy, như Nhan Tử đuổi theo không kịp, chỉ trừng mắt nhìn. Thánh sư ta dạo chơi lâu ngày đâu có nói gì. trên hội Linh Sơn, tứ chúng vân tập. Thế Tôn đưa cành hoa mọi người đều ngơ ngác, chỉ có Tôn giả Ca-diếp mỉm cười cùng với giáo pháp chỉ là một, ngoài ra nói nghe đều mất hết, đồng một đốn triết huyền ngộ. Bấy giờ sẽ tham cứ không nhìn xuống mà thấy rõ ràng chìa khóa bí mật về trung thứ, đâu chỉ môn nhân càng mê hoặc nhiều. Dước ngàn năm lấy gì bỏ đi đám mây mê nhất quán. Vào thời khác Thiền sư Viên Ngộ Phật Quả ở thành đô trượng thất Giáp Sơn niêm đề Tụng Cổ Bách tắc của Tuyết Đậu. Đệ tử lớn của Ngài là Thượng tọa Đại Huệ Tông Cảo sợ học nhân câu nệ vào ngôn cú, mà cô phụ chư tổ, từ xưa bèn đem sách này đốt sạch bay lên quyện lại một khối, tự cho là hang rộng mênh mông đổ vào một giọt nước. Như Cổ đức Đức Sơn mua cái bánh dầu của lão bà. Bà nói Sớ sao này đã là tro lạnh. Đức Sơn liền lấy lửa đốt sạch bộ Sớ sao. Gió Xuân thổi sống lại, hoa rơi ở Bích Nham, núi như năm màu sắc, trải qua kiếp quá khứ, tro tàn lại đỏ rực không biết là thế nào? Nhiều rối ren, mỗi mỗi đều từ tay của cư só Trương ở Ngu Trung trồng cây không có bóng, toàn thể bại lộ. dù Bát-nhã vô thuyết, chư thiên rưới mưa hoa, một trăm bảy mươi tám năm, nạp tăng vượt qua, xỏ ngang lỗ mũi, từ trước chưa từng ngưỡi mùi báu xông lêm. Một hôm nước tụ thành mây ở trong tám vạn bốn ngàn lỗ lông, lan khắp cơ thể gọi là việc hiếm có, khó gặp, hai con của cư só tâm bị bệnh. Có người nói Kinh báu của lão Khắc Cần, Thượng Tọa Tông Cảo thiêu hủy Cảo, cư só không nên nhặt tro tàn mà làm cớ quang cảnh của ngày tháng, thọ quả báo như thế. Cư só nghó lời nói này đem chất vấn tôi. Tôi bảo môn nhân của Viên Ngộ mỗi người, mà Thượng tọa Cảo, Bích Nham, Tự Bích đâu được có nói. Thượng tọa Tông Cảo nhìn trăng quên ngón tay, chính là truy tìm cổ Phật, đốt lửa độc sáng trời, cây phướn đổ nhào, không thả một đồng tiền. Nếu người chưa từng biết trăng làm sao lấy trắng đỗ chỉ bảo. Có người nói Thượng tọa Tông Cảo đốt bộ sách này cháy sạch, cư só ngồi đây, ta bảo lúc Thượng tọa Tông Cảo thực sự cầm đuốc đốt sạch giấy cũ, luyện được giấy cũ thông hồng, duyên gì trong thất kín gió lại thông, lão Khắc Cần cầm mệnh môn cuống lưỡi không cháy, một ngôi sao tinh tán, trăng sáng trên núi. Trương cư só ở đó được tin tức này, đem một đoạn cơ gấm Tây Thục thiên nhiên, như cũ dệt thành dáng hoa ngày cũ, chủ ý làm thần bóng mát quở trách ủng hộ đến nay, kể ra sách này phù hợp với thời tiết nhân duyên ra đời. Trên ao Thanh Lương, thầy trò nhân duyên khế hợp thật đặc biệt hiếm thấy. công viết chép đọc tụng diễn nói cho người, được phước đức thù thắng, huống gì khắc trên đá vàng truyền bá rộng rãi khắp nơi, tâm bệnh căn bản của hai người con của cư só vốn không ở nơi đây. Kẻ làm khách vọng lấy tình thức để hiểu rõ, cư só duyên trước mắt mình không đủ suy tính dứt hết phúc họa, cùng dùng tình thức suy lường là cùng nhau đi vào hầm lửa, đâu có oan ư? Nhà họ Châu ở nước Bái có ba người con trai đều bị câm hết. Một hôm có một vị khách đến nhà bảo với Châu thị rằng: “Ông nên nội tónh (quán xét lại trong tâm) thì sẽ biết được tội lỗi trong đời trước của mình”. Châu Thị chợt nhớ ra lúc còn nhỏ thấy một tổ yến, bên trong có ba con chim nhỏ cùng một mẹ. Ông ta nghịch ngợm đem cỏ tật lê cho chúng ăn. Ăn xong, ba con chim đều chết hết. Con chim mẹ về nhìn thấy vậy cũng kêu gào thương khóc rồi cũng chết theo luôn. Từ đó Châu thị hối hận tự trách. Người khách bảo: “Ông đã biết hối hận như thế thì tội này đã tiêu”. Sau đó ba người con bổng nhiên nói được. Nhưng hai người con bị bệnh phong mà qua đời. Được việc có cũng như không. Vì sao lại hối nhận? Ghi rõ ràng theo kinh Bát-nhã nếu bị người khinh rẻ, thì người này đời trước tội nghiệp đáng lẽ đọa vào địa ngục, nhưng vì đời nay bị người khinh rẻ cho nên tội báo đời trước tiêu trừ. Cư só ngay đây tỉnh ngộ. Từ vô thỉ kiếp tạo các nghiệp, cần phải tiêu diệt, tức là tâm bệnh của hai đứa con ông. Như ba đứa con họ Chu ứng thời có thể nói được, thì không còn nghi ngờ. Thế Tôn trụ thế bốn mươi chín năm sáu mươi hòm văn tự, trùm khắp các cõi. Theo Thượng tọa Tông Cảo thì vạn năm một niệm còn lưu lại tung tích như thế còn hướng lên rừng thiền vô hạn thì bậc tôn túc có hai câu, rất đáng ghi nhớ. “Mặc cho ông tức tâm tức Phật, còn ta thì phi tâm phi Phật”. Từ nay về sau có người nào hủy báng chánh pháp của Như Lai, ông chỉ cần nói rằng: Mặc cho ông nói là Thượng tọa Tông Cảo, tôi chỉ nói là lão Khắc Cần. Nếu không như thế tức sợ đốt cháy diện môn, bốn trăm lẽ bốn bệnh, phát một lúc, đâu giống như tâm bệnh của hai đứa con của cư só. Không thấy người xưa nói: Nuôi con mới biết ân cha me. Cư só học Phật biết ân, đến già sám hối, ngày nào đó thành bậc có tác gia, thân vàng trượng sáu, không biết có thấy lão sư Khắc Cần mày dựng phất trần không. Nếu lãnh ngộ được một câu thì nói Phật tổ có thệ nguyện, tội nhẹ đi không làm liên lụy đến con cháu người. Tuy nhiên như thế lại không dính dáng. Hối Túc lão nhân Phùng Tử Chân cẩn đề. Ngày Trung nguyên, năm Đinh tî, niên hiệu Diên Hựu. Tập Bích Nham được lưu hành trước đây rất nhiều bản, nhiều quyển khiến người học phải chứa đầy rương trấp rất bất tiện. Cho nên tôi muốn làm loại chữ nhỏ lại, để thu bớt hàng lại đỡ tốn giấy, chỉ trong vòng một năm. Tức là mùa Thu năm Đinh Tî niên hiệu An Chánh đàn- việt tín tâm, góp công sức thuê thợ khắc chữ lên bản gỗ, việc xong rồi, mới lấy giá tiền khắc bản, đó là chí ban đầu của tôi. Nếu Bích Nham còn rối rắm thì tôi mời bậc hiền triết viết Tựa bạt cho thật hay, riêng tôi không nói lời nào, khắc thành quyển sách nhỏ gọn, đầy đủ lược và rõ ràng. Ngày mồng một tháng bảy cuối Thu năm Kỷ mùi, Niên hiệu An Chánh thứ 6. sắc trụ Hoa Viên Ngọc Đào Kính ghi. LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 175