<經 id="n2001">QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ (QUYỂN 1 9 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ Ngữ lục thượng đường Thiền viện Đại Thánh Phổ Chiếu ở Tứ châu. Thị giả biên tập thành sách. <卷>QUYỂN 1 Sư thọ thỉnh ở Trường Lô, đưa sớ lên bảo chúng rằng: Ngôn ngữ đạo đoạn văn tự tánh không, đến đây có thể nói rằng: Cá kình nuốt hết nước biển, để lộ ra nhánh san hô, các vị lại hiểu chăng? Điều ấy có lẽ chưa đúng, lại làm phiền đến người tri âm, vì ta mà nói để phá nghi. Tuyên sớ xong, Sư nhận được pháp y từ tay của Hòa thượng Trường Lô, bèn đem lên trình rằng: Đầu-đà Tây Trúc đợi ông suốt năm, hành giả Đông Sơn nửa đêm truyền thông, vừa đến Đại Dữu lónh đầu, cố gắng nhấc lên không nổi, mà nay ở Trường Lô thượng đường hai tay nâng lên dặn dò tương lai, các vị lại biết được tin tức gì trong đó, một mạch liền cành đồng việc lớn, trời quang vô ảnh Xuân đầu cây. Bèn chỉ pháp tòa nói rằng: Trẩm triệu chưa hưng thịnh, biết phải mượn công nói vị, ảnh hưởng vừa lộ, lại phải mượn vị nói công, các vị lại biết gì về điểm cuối cùng của tướng ấy, bước một bước chân đã vượt qua ngoài phàm Thánh, khắp người không ứ đọng có không công. Liền đến tòa, có vị tăng hỏi: Nhiều lần làm công mệnh còn phiền chim phượng ngậm đến, một tấm lòng thanh thản bỗng bị một luồn gió mát khuấy động, như đề cao ý Tổ, làm sao trình bày rõ ra? Sư nói: Gió thổi thì cỏ cây nghiêng ngã, nước chảy đến đâu ngòi thành đến đấy. Lại nói rằng: Một tiếng lớn làm chấn động cả trời đất, thiền nhân bốn biển đều được nghe. Sư nói rằng: Cảm ơn ông đã chứng minh. Lại hỏi rằng: Đây vẫn là ứng thời tiết và nhân duyên, như yên lặng bất động, trí đã soi khắp cả mười phương rộng lớn vô tư, đạo đã đi đến lạc quốc lại làm sao? Sư nói: Tri âm không ở chỗ nêu nhiều lần. Tăng hỏi: Ba đời che giấu tung tích, mà chân giả bỗng không, Bi Trí vừa khởi thì pháp luân liền chuyển, như trong môn gõ xướng, vì sao được không rơi vào thời nay? Sư nói: Không trả lời ông lời này. Lại hỏi: Như thế thì ngựa ngọc đi trên tuyết về nửa đêm, tất cả không để lộ một chút cơ hội. Sư nói rằng: Lại phải biết quay người trên đường mới được. Lại hỏi rằng: Gà vàng gáy vào canh ba, phượng ngọc đậu vào lúc nửa đêm. Sư nói: Quả thật phải như thế, Sư bèn đặt tên không được, hình dung không được, xưa nay thanh tịnh không bị nhiễm ô, vốn tự viên thành không cần mệt nhọc tu chứng, nấu tan vạn hữu, đường đường vững vàng điều khiển chân thừa, hòa hợp các duyên, xứ xứ hiển dương việc ấy. Các nhân giả, ngày nay sơn hà đại địa, cỏ cây rừng rậm đồng thời thành đạo với Giác thượng tọa, một âm thuyết pháp lại chứng minh gì? Giây lát lại nói rằng: Gặp nhau đây biết có tri âm, đâu cần phải gió mát động trời đất. Trình bày xong lại nêu có vị tăng hỏi Tào Sơn: Khi Phật chưa ra đời thì như thế nào? Tào Sơn đáp: Tào Sơn không bằng. Tăng hỏi: Sau khi ra đời như thế nào? Sơn đáp: Không bằng Tào Sơn. Sư nói: Phật và Tào Sơn một hiện một mất có thể nói rằng lấy đầu làm đuôi, lấy đuôi làm đầu, cẩn thận nhìn thì Phật và Tào Sơn trọn không xuất thế, Giác thượng tọa ngày nay không phải bại hoại gia phong, mà còn phải gánh vác đến sự việc, dám hỏi các vị lại nói có riêng sở trường gì? Giây lâu lại nói rằng: Trâu trắng uống cạn nước không nguồn, trời sáng cưỡi gió luồn qua cửa ngọc, chúng đứng lâu từ phục chỉ trân trọng. Tối hôm ấy tiểu tham dạy chúng rằng: Hộ Minh giáng tích phá tan nhà cửa, Đạt-ma truyền tâm kéo đi cướp chợ, bọn nạp tăng chúng ta vốn là phận sự, căn bản không thiếu một chút xíu bằng đầu sợi tơ, không ngoài phần một đầu sợi tơ, từ xưa đến nay linh minh rộng suốt, đâu cần người mài cối xay, đâu cần người xử phân, thật là trong không một sợi tơ buộc kiến, ngoài không có cơm canh tụ ruồi, lại là nguyên nhân gì? Điều ấy có lẽ chưa đúng, không tránh khỏi chỉ giải thích cho rõ nghóa, đổi ngoài gia phong khi chưa có điềm, ngựa đen ba canh lên gà ô, mà nay muốn chuyển cơ luân, sát sát trần trần lại là ai. Trình bày xong lại nêu, có vị tăng hỏi Long Nha rằng mặt trăng không có ánh sáng phản chiếu, khi ngọc thố không có ý làm bạn với trăng thì như thế nào? Nha đáp rằng: Vua Nghiêu, Thuấn còn có hóa ở trong. Sư nói rằng: Chà các thiền đức, Long Nha lão tử, khéo hiểu gặp dịp thì chơi hòa quang lẫn vào thế tục. Giác thượng tọa ngày nay cũng như thế, lại tướng ủy biết gì? Trời cùng mây trắng sáng, nước hòa trăng sáng mùa Thu, đứng lâu trân trọng. Ngày kế từ tạ chúng, thăng tòa nói rằng: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng gió đi ( 2.) ngàn dặm, không cách đầu sợi tơ, bỏ hết tình trần, tin tức trong đó, hoa lau trên sông, trăng sáng mùa Thu, chợt xa chúng từ xin hãy trân trọng. Vào chùa thượng đường nói rằng: Người xưa nói khắp mười phương thế giới là cửa giải thoát, nắm tay kéo không vào, ngày nay Giác thượng tọa, ý muốn rộng thỉnh các vị vào cửa lại có người được vào chăng? Nếu cũng vào được liền gặp nhau trên pháp đường Phổ Quang, có thể nói là tôn khách hòa hợp, lý sự viên dung, lại làm sao gặp nhau, lại biết chăng, mạng lưới bảo châu không hướng đến và quay lưng với nhau, ánh sáng mình và người nhất thời soi khắp. Tối hôm ấy tiểu tham bảo chúng rằng: Pháp tùy pháp hạnh, pháp tràng tùy chỗ mà kiến lập. Hôm qua trên sông Trường Lô mà hôm nay quang trung phổ chiếu, bọn nạp tăng không thể dùng yên lặng, hay nói vội mà suy lường, không thể dùng đến đi mà cầu, từng bước không có tương lai, tâm tâm không xứ sở, chỉ được chánh không lập huyền thiên không liên quan đến sự nơi nơi không thấm lọt, mật mật thường hiện tiền mới được. Dám hỏi các vị, xét cho cùng hướng đến chỗ nào gặp Giác thượng tọa? Giây lâu lại nói rằng: Động tối không có ý câu nệ cửa khóa, ngang dọc nào liên quan đến người hai đầu. Lại nêu Triệu Châu hỏi tăng: Ông từng đến đây chăng? Tăng đáp: Từng đến. Triệu Châu nói: Uống trà đi! Lại hỏi tăng: Từng đến đây chăng? Tăng đáp: Không từng đến. Châu bảo: Uống trà đi! Sư nói rằng: Đến và không đến, uống trà đều giống nhau, không kẹt và cơ quan, đâu không có mánh khóe, lại không có gia phong rộng rãi, há là theo sóng đuổi theo sóng, chỉ hiềm một nổi là lựa chọn không có phân sơ, biết được lão Hòa thượng Triệu Châu. Thượng đường nói rằng: Các thiền đức! Rộng lớn mà tinh lanh, bổn quang tự chiếu, yên lặng mà thuận theo, đại dụng hiện tiền, ngựa gỗ hý gió, không vận bước thời nay, trâu bùn ra biển, vụ Xuân mở kiếp không, các vị lai biệt chăng? Giây lâu lại nói rằng: Chỗ vẫy tay của người ngọc, lại mầu nhiệm ở đường về. Thượng đường, có vị tăng hỏi: Thế nào là tông Quy Ngưỡng? nào? Sư nói: Một nắm đấm nhảy không ra. Lại hỏi rằng: Thế nào là tông Lâm Tế? Sư đáp: Một cây gậy và một vết sẹo. Lại hỏi rằng: Thế nào là tông Vân Môn? Sư đáp: Lấy bỏ trước mắt. Lại hỏi: Thế nào là tông pháp nhãn? Sư đáp: Sơn hà đại địa, đại địa sơn hà. Lại hỏi rằng: Thế nào là tông Tào Động? Sư đáp: Chó đen móng bạc vụn, voi trắng cưỡi côn luân. Lại hỏi rằng: Chưa biết tông phong của Hòa thượng, lại làm thế Sư nói rằng: Khi thức nói cho ông nghe, Sư bèn nói rằng: Mây núi bay chầm chậm sông nước mênh mông, chánh không cư vị, thiên không liên quan đến bàng, hiển mà không lộ, ẩn mà càng lộ, vượn hú cây xưa âm thanh nghe sốt ruột, hạc ngụ tùng khô giấc ngủ dài. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Lạc Phố, cúng dường trăm ngàn chư Phật, không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm, chưa biết được trăm ngàn chư Phật có lỗi gì, vô tâm đạo nhân có đức gì? Phố nói: Một mảnh mây trắng giăng ngang miệng hang, bao nhiêu chim bay về đều vì mê tổ. Sư nói: Huynh đệ tốt trong lòng biện bạch, ngoài lượng tham quan, không có cơ hội tiếp xúc trần cảnh, diệu phần chân chiếu, lại biết chăng? Tháng tuyết cỏ lau trên sông lạnh tảng sáng gió lao xao, bãi cát tiếng hải âu kêu. Thượng đường nói rằng: Gió bấc thổi tạo nên sắc lạnh, thích khẩu lưu ân quang, xứ xứ đều gặp nhau, rõ ràng không che giấu, núi sông không cách biệt, cỏ cây đều phô dương, chùa Phật nói chúng sanh nói, lưỡi Tỳ-lô rộng dài. Các thiền đức, tận mười phương thế giới, sơn hà, đại địa, cỏ cây, rừng rậm chỉ là một cái đầu lưỡi của Tỳ-lô-giá-na, các vị có nghe chăng? Nếu nghe được trong đây vẫn là việc kiến hóa đầu môn, lại nói không rơi vào hóa môn, một câu làm sao nói? Giây lâu lại nói rằng: Quay người theo cha không mục tiêu với lấy mũ hoa không được tên. Thượng đường nêu rằng: Trước ngày rằm, có miệng nói không được, sau ngày rằm, vô tâm lại tự nhiên, đúng ngay ngày rằm, một câu làm sao nói? Giây lâu lại nói rằng: Mây bao phủ không làm thành chiếc áo, hoa cười không nở mầm. Thượng đường nói rằng: Vừa phô bày nữa đêm thanh vắng, quế cung thỏ phun sương lạnh, sáng tối lẫn lộn không rõ chỗ ai phân biệt được chỗ thiên, chánh trong đó, cho nên nói: Chánh vị tuy ngay nhưng lại lệch, thiên vị tuy lệch nhưng lại tròn, khi chánh như thế làm sao phân biệt. Giây lát lại nói rằng: Rõ ràng cơ trước song chiếu mắt, đường đường ngoài tượng xuân vạn năm. Đông chí thượng đường nói rằng: Âm thịnh thì dương ẩn, giảng đạo sinh thành, rỗng lặng mà soi, cạnh phân duyên kiến hóa, chỉ được ngẩn lên cúi xuống thuận hóa, ứng tiếp không thiếu. Các vị lại biết chăng? Cảnh tịnh ai nghi ngờ tượng sai khác, tục hư tự ứng hợp đồng âm. Thượng đường nói rằng: Rõ ràng trăm ngọn cỏ, rõ ràng ý của Tổ sư, đối với họ chưa từng là một, đối với ta chưa từng khác, nếu chỉ ngay đây liền đúng, nhằm thẳng vào đầu, xúc chạm vào chỗ kiêng. Nếu nói đây không đúng thì ẩn tránh chỗ nào, cho nên nói, không phải không trái, không thân mà cũng không sơ, ba đời Như Lai đồng tuyên bày ng- hóa này. dám hỏi các vị, lại nói rốt ráo là nghóa gì. Giây lát lại nói rằng: Đem đoạn văn dài dưới đây trao đến ngày sau. Thư đến Trường Lô, thượng đường nêu, linh cơ chưa chuyển, khó nhìn thấy vết xanh trắng, bảo ấn cầm quyền, thầm truyền đạt rộng rãi vị chánh, thiên, tin tức trong bình, cướp ánh sáng xuân bên ngoài, về nơi khác một hơi liền cành phải là đồng thân cộng mệnh, sáng đầu quay nghiêng, trong tối phụ họa, chỉ được cùng gió bay đi ngàn dặm, các vị lại thể hội được chăng? Trăng sáng khắp không trung soi xuống dòng nước lấp lánh, huynh đệ đều đang hợp cùng thuyền. Thượng đường nói rằng: Cư tịnh mà càng soi sáng, lần lượt chuyển biến mà thường như, thân uốn ngoài hiện tượng ánh sáng, mắt khéo ứng có trong vật, chỉ được đầu đầu không ứ đọng vật vật thuận chân, cho nên nói bàng phần đế mệnh là truyền trì, vạn dặm núi sông bố chánh uy. Lại thế nào là việc bàng phần, có biết chăng. Đêm trăng gà vàng truyền ý sáng, đường cỏ thơm rảo bước gấm mây. Lại nêu Trần Thượng Thư hỏi Tư Phước. Phước thấy đến liền vẽ một vòng tròn. Thư thưa rằng: Đệ tử đến như thế, sớm thì không kẹt vào phương tiện. Lại vẽ một vòng tròn Phước bèn về phương trượng đóng cửa lại. Sư nói: Tư Phước vẽ vòng tròn, Thượng thư nói như thế … Thượng Thư nói như thế há không phải rơi vào cái gút thòng lọng của Tư Phước rồi ư! Tư Phước liền trở về phương trượng đóng cửa lại chẳng phải là rơi vào thòng lọng của Thương thư rồi ư. Một đè xuống, một dương lên, một đoạt lấy, một buông thả đều ra một bàn tay, thức tỉnh việc này, lại nói là việc gì? Rùa lớn uống cạn nước biển xanh, giữ lại được san hô đối trăng sáng. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Động Sơn: Thế nào là Phật hướng thượng nhân? Sơn đáp: ( 3.) Phi Phật. Sư nói: Động Sơn nói như thế chỉ là đoạn gia phong, không thông được nước đọng, thấy nghe không kịp, vết tâm đều tiêu mất, đến đây lại phải hiểu sự biến đổi ấy khiến người không mệt mỏi, chỉ được rồng xanh thoát cốt, phượng ngọc sanh con, lại làm sao? Nói đạo lý thông biến này, lại biết chăng? Gió mát lùa khắp mái chèo, trăng sáng đuổi theo thuyền đến. Thượng đường nêu Tắc giám viện ở trong hội của Pháp Nhãn, một hôm Nhãn hỏi: Ông ở đây bao lâu rồi? Tắc đáp: Con ở đây đã ba năm rồi. Nhãn hỏi: Ông là hậu sanh, bình thường sao không hỏi việc? Tắc đáp: Con không dám dối Hòa thượng, từng ở chỗ Thanh Phong được an lạc này. Nhãn hỏi: Ông nhờ đâu mà nói được an lạc. Tắc đáp: Từng hỏi thế nào là tự thân người học? Phong đáp: Đồng tử Bính Đinh đến tìm lửa. Nhãn nói: Nói hay lắm, chỉ e rằng ông không biết. Tắc nói: Bính Đinh thuộc về hỏa, đem hỏa tìm hỏa, đem chính mình tìm chính mình. Nhãn nói: Chỉ là tình biết mà chưa hiểu, Phật pháp nếu như vậy thì không tồn tại đến ngày nay. Tắc buồn bực liền đứng dậy ra về, đến giữa đường lại nói rằng: Hòa thượng là một trong năm trăm thiện tri thức, nói mình không đúng, nhất định có chỗ hay đây, bèn quay trở lại sám hối tạ lỗi, liền hỏi rằng: Thế nào là học nhân tự mình? Nhãn nói: Đồng tử Bính Đinh đến cầu lửa. Tắc ngay nơi lời nói liền đại ngộ. Sư nói: Trước đến nói như thế lại không hiểu, sau đến cũng nói như thế lại ngộ. Lại nói: Quan Liệt Tử ở đâu? Giác thượng tọa có bài tụng: Đồng tử Bính Đinh đến cầu lửa Sóng Nam Hải lỗ mũi lớn này Đầu lưỡi của kiết liêu hiểu được biết là khó Trực hạ mà nay chiếu được phá Chiếu mà phá thì chẳng luống công, Biết ông đã hiểu được xuyên suốt Cũng đã từng nằm chung một giường, Khiêm hạ thoát hết lưới nghi cũ, Bôi ảnh xà ngồi lại một lát. Thượng đường nêu, tâm không tự tâm mới là tâm, mắt không thấy mắt mới là mắt, đường đường không vết bóng, rõ ràng dứt tư duy, sáng khắp chung quanh, thỏ ôm trăng đêm, chim trả bay ngang qua biển, vầng sáng núi thu, chỉ cần đến tận chỗ sâu xa huyền diệu mới hiểu việc gánh vác. Lại nói, việc gánh vác làm thế nào? Trí không thấu đáo tối kî nói năng. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Động Sơn rằng: Hòa thượng bệnh, có kẻ không bệnh chăng? Động Sơn đáp: Có. Tăng hỏi: Người không bệnh lại có đến thăm Hòa thượng không? Động Sơn đáp: Lão tăng thấy ông ta có phần. Tăng hỏi: Lúc Hòa thượng thấy ông ta thì như thế nào? Động Sơn đáp: Thì không thấy có người bệnh. Sư nói rằng: Được qua được lại, được lại được qua, ta thấy ông ta có phần, ông ta thấy ta không như vậy, ngay lúc như thế làm thế nào thể hội? Giây lát lại nói: Sương đêm còn dày không thấy đỉnh, gió Xuân còn đó không đâm chồi. Thượng đường nói rằng: Cơ luân chưa động, ảnh tượng đều quên, không vết có thể tìm, hợp thể với hư không, không nhà có thể ngồi, tận pháp giới để thành thân, sau đỉnh côn lô xem ánh sáng thần, Thuấn nhã phần trước sống động mắt, ngay lúc ấy làm thế nào bước đi? Giây lát lại nói: Khi tay chỉ hư không thì rung chuyển trời đất, đường về ngựa đá ra khỏi lồng tơ. Thượng đường nói rằng: Do tư duy không thấu đáo, một tấm linh minh, rộng lớn yên tónh không nương tựa, mười phương thông suốt, Ma- kiệt bế môn không thuyết pháp, Thiếu Lâm diện bích hỏi tri âm. Nếu là bản sắc nạp tăng thì chưa nêu giai đoạn tiến thủ trước. Thượng đường nêu, một không phải là hai không thành, ở giữa như vậy độc lập, pháp như vậy mà song hành, nhành liễu mềm bắt đầu đu đưa theo sức gió, trên cỏ kim thiêu vết đốt xanh, một điểm linh quang soi khắp trời đất, lại nghi ngờ chỗ nào không rõ ràng. Các thiền đức! Chỗ rõ ràng làm sao thể hội? Trong lúc rỗi rãi thì sờ vào lỗ mũi, khi bận rộn thì thay đổi tròng mắt. Thượng đường nêu: Hoàng các buông rèm, khó truyền thư nhà, Tử la màn khép, thầm lau trân châu, ngay lúc ấy, thấy nghe có chỗ không tới, nói năng có chỗ không kịp, làm thế nào thông suốt được tin tức này? Giây lát lại nói: Mộng về đêm, màu sắc tô vào tỏa sáng, cười chỉ gia phong Xuân rực rỡ. Thượng nguyên dạy chúng rằng: Nửa đêm ai truyền ngọn đèn vô tận, trên ghế Hoàng Mai có lẽ là Lô Năng, rỗng sáng tự soi chẳng phải sức tâm dặn dò tòng lâm rõ việc tăng, có thế giới của Phật dùng ánh sáng làm Phật sự chiếu khắp, ngày nay cũng như thế, lại biết chăng? Đèn liền cánh phượng đường đường soi sáng, trăng ấn Nga Mi thấy đầu mặt. Thượng đường nói: Gió Xuân hiu hiu thổi, mưa Xuân lác đác nơi, một loại thấm ướt rộng khắp mười phương, cam thảo được ngọt, hoàng liên bị đắng, thiên ý khởi tùng lâm, dưới mái hiên nhà âm thanh ồn ào cửa sổ. Cổ đức từng nói: Đã không mê bình thường dạy người nam nữ xấu. Đại chúng đã không mê lấy gì dạy trai giá xấu, lại biết chăng? Xuất thân còn có thể dễ, thoát bỏ thân thể nói lại khó hơn. Tiểu tham thượng đường nêu, Huyền Sa nói rằng: Lao lung không chịu dừng, kêu gọi không quay lại, cổ Thánh không sắp xếp, đến nay không có chỗ ở, căn cứ vào môn hạ Phổ chiếu, chỉ thành tựu được việc làm bậc vác tấm ván. Đến đây lại phải nắm cho chắc, gọi phải quay đầu, thoái vị đón nhau, mượn công gặp nhau, chỉ được đồng thanh tương ứng, nhã hợp cung thương, đồng đạo quên nhau, không phân giai cấp, lại biết chăng? Cò trắng đến lập Đông tuyết rơi thì có màu khác nhau, trăng sáng hoa lau không giống loài hoa khác. Thượng đường nói rằng: Không rơi vào sự tập trung trống rỗng, thể trước bước đi không mê chiếu dụng, trong ồn ào mà phân thân, có thể nói rằng độc lập mà không thay đổi, đi khắp nơi mà không nguy hiểm, lại biết chăng? Mảy tơ tằm không mắc lên con thoi, văn hoa ngang dọc ý tự khác. Thượng đường nêu, mãnh liệt khắp trong nước, vô tư như như mùa Xuân, đây là duyên sanh của muôn pháp, linh chiếu diệu trong vòng, lìa nhiễm mà thanh tịnh, đây là nơi nghó của chúng sanh, chỉ cần chỉ ngọc xuyên qua lỗ kim khâu, kim khâu dẫn chỉ ngọc đi tắt qua mới có thể tham lẫn nhau, trở mình thông hơi, lại biết chăng? Bảo ấn đương phong diệu, lớp lớp gấm hở ra. Thượng đường nêu, pháp giới không một mảy bụi, tâm như trăng tròn, bổn quang soi lại chưa mầm mống trước, mà nay ngay nơi đó rõ ràng. Rõ ràng như Nam Tuyền hai mươi năm vì sao như vậy, mạt vàng tuy quý nhưng rơi vào mắt thì thành nhậm. Thượng đường nói rằng: Gốc sáng phá trừ u tối, xem thấy ánh sáng sau đỉnh Côn luân, lặng chiếu bao hàm cả hư không, có mắt trong thân Thuấn Nhã, sợi chỉ câu chưa rơi xuống, tôn quý khó gọi, phải nương vào người nhà thông sự, bày diễn hiệu lệnh của nhà nước, truyền ra lời nói của nhà vua, Xuân quang phát ra vạn dặm, lý mượn việc bên ngoài có thể viên ứng, chỉ được trần trần thấy Phật, sát sát nghe kinh, liền hiện thân tể quan mà vì đó thuyết pháp, muốn tự tay mình tiếp dẫn đến người, lại nói, ngay lúc ấy, làm sao nói đạo lý bên ngoài này, lại biết chăng? Không thấy đạo cửu phong, sắc lệnh khắp thiên ( 4.) hạ, vua không lưu hành. Thượng đường nói: Tâm không thể duyên, miệng không thể bàn bạc, chỉ cần lùi bước gánh vác, thực sự kiêng tránh, nhằm thẳng vào đầu, xúc chạm chỗ kiêng, trăng trong gió lạnh bến đò xưa, thuyền đêm rẽ chuyển hồ lưu ly tham. Thượng đường nói rằng: Nhạn đến, oanh đi đều làm Phật sự Quan Âm, hoa đồng cỏ nội đều tuyên dương diệu đức gia phong, người hiểu được chỉ là cưỡi lên âm thanh, bước qua màu sắc, vượt lên trên thấy nghe, mới hợp với người khác. Lại nói: Bước đi của Phổ Hiền lại làm sao? Động dung truyền rộng đường xưa không rơi vào vắng lặng. Thượng đường nói rằng: Thể càng rỗng mà ứng khắp, dụng càng thật vì thường như, cho nên người xưa nói rằng: Núi xanh mây trắng là cha, mây trắng núi xanh là con, mây trắng suốt ngày nương dựa, núi xanh vẫn không hay biết. Đại chúng đã suốt ngày nương tựa vì sao lại không biết, lại biết chăng? Chim rừng tự hót, hoa tự nở, không dính dáng gì đến mỏm đá dưới tòa ngồi của thiền nhân. Ngày giỗ của Bồ-tát Đại Thánh, thượng đường niệm hương rằng: Một nén hương này, phụng về ngày viên tịch của Đại Thánh Đẳng Từ Phổ Chiếu Minh Giác Quốc Sư, dụng báo ân huy, trang nghiêm thánh hóa, huống gì Bồ-tát che chở đạo đồng, ba đời phô bày thể nhất như, sanh linh được giáo hóa, mười phương hiện thân ứng biến, đạo vận lòng từ bình đẳng, trí có thể soi khắp, lực thánh phò trì đến tông xả, chân tâm rộng lớn đến giáo môn, thệ cùng chúng sanh đồng viên chủng trí. Bèn đến tòa nhắc nhở chúng rằng: Đáng sanh không sanh, mượn ánh sáng hiện ba mươi sáu ứng thân, nên diệt không diệt, quên chiếu nhiếp trăm ngàn ức thân, chỉ như tuyệt đến đi, không động tónh, ngay lúc ấy, hướng đến chỗ nào để thấy được Bồ-tát Đại Thánh. Giây lát lại nói rằng: Đúng chỗ không ngồi ngay, thế thì đi hai đầu. Ngày giỗ Đại Hồng, thượng đường, có vị tăng hỏi: Thế nào là đích ý của Hồng Sơn? Sư đáp: Năm xưa nhớ được, mà nay lại quên rồi. Lại hỏi rằng: Có thể nói là gà vàng ấp trứng ban ngày, thỏ ngọc mang thai đêm? Sư đáp: Sóng cao ba cấp cá hóa rồng, người ngốc còn tát nước ao đêm. Sư bèn nêu, Động Sơn Vân Nham: Sau trăm năm chợt có người, hỏi xa xôi được cái chân thật của Sư, nói gì với người đó? Vân Nham, giây lát nói rằng: Chỉ là đây. là Sơn đứng suy nghó mãi. Nham nói: Giới xà-lê gánh vác việc này cũng rất khó, ông ta sau này cần phải cẩn thận. Sơn bèn từ tạ lui ra. Sau đó vào ngày giỗ của Vân Nham, Động Sơn đến, có một vị chân tăng hỏi: Vân Nham nói “ chỉ là đây” mà chưa rõ lại biết có chăng? Sơn nói: Nếu không biết có, hiểu thế nào nói như thế? Hoặc biết có, đồng ý thế nào nói như thế? Sư đáp: Tấm lòng của lão bà, chính là đạo nuôi con, thủ đoạn của nạp tăng vẫn là cơ hội cướp cha của người khác, tri ân báo ân, trong câu uyển chuyển có vẻ bằng lòng không bằng lòng, ngoài mức độ thức tỉnh, đây là Động Sơn. Hoặc có người hỏi: Phổ Chiếu từ xa được sự chân thật của Sư, nói gì với người đó? Giây lát lại nói rằng: Tâm không phụ người, mặt không sắc hổ thẹn. Thượng đường nói rằng: Chiếu và duyên chiếu lẫn lộn không hai, tâm và tâm pháp hòa lẫn không khác, cho nên nói như hạt châu phát sáng, ánh sáng lại tự soi, lại biết chăng? Trăm hoa trên đầu Hòa thượng Nhàn, mua hết phong lưu không kẹt tiền. Thượng đường nói rằng: Mây lặng bầu trời bao la phong nhật hòa, thái bình Tiều, Mục cùng hát ca, nạp tăng no cơm không việc khác, mật mật cơ tiền nghịch con thoi ngọc, cho nên nói: Trên điện lưu ly Ngọc nữ ném con thoi, trăng sáng trước nhà, người đá vỗ tay, làm thế nào, bước đi được tương ưng như thế? Trong tối rút xương ngang, ngoài sáng ngồi trên đầu lưỡi tham. Thượng đường nêu, vị muối trong nước, sắc trộn lẫn nhựa xanh, thể nghiệm có căn cứ, lấy đó vô hình, khi dùng thầm lặng, chỗ vắng lặng lại sáng suốt, là bản giác của chư Phật, chính là diệu linh của chúng sanh, rộng lớn ngàn dặm để làm lượng, phá vi trần mà thoát ra. Lễ tắm Phật, thượng đường nêu, thanh tịnh đầy khắp là nước pháp tánh, chân giác linh minh là thân pháp tánh, đồng nước là thân, mới hiện ra việc tắm gội, khắp người là nước mới thành tựu duyên ly cấu, ngay lúc ấy làm sao biện bạch? Giây lát lại nói: Như trong tịnh lưu ly, hiện ra tượng vàng thật. Thượng đường nêu, máy ngọc nghiêng ngửa, đường tơ đầu con thoi ai phân. Cửa trăng bị mở, quang cảnh trong nước tự khác, gà vàng gáy sáng, thạch nữ chơi Xuân, thản nhiên chim nói không gặp người nơi rộng lớn như vậy mà đi một mình, lại biết không rơi vào ngưng động rỗng, quay lại vẫn tốt chăng? Cả đầu tóc bạc lìa hang đá, nửa đêm xuyên qua mây vào chợ. Nêu, Trí thủ tọa lập tăng, thượng đường nói rằng: Ai đem đôi mắt sống độïng nhìn không kiếp, ta nói tông chi nhiễm Xuân lớn, tài năng lỗi lạc, không giấu được, môn hạ Thanh Nguyên có tường lân. Thượng đường, có vị tăng hỏi: Người xưa nói, trước tiên hướng đến bên kia để gánh vác, lại đến bên đây lau chùi, bên đây lau chùi thì không hỏi, làm sao bên kia ấy gánh vác? Sư đáp: Chiếu toàn thể không nương tựa, khắp mình không ngăn cách. Lại hỏi rằng: Như thế thì thuyền mua được cá vẫn tươi, lội lên tuyết mua về rượu ngon? Sư đáp: Đến nơi đây cũng không có cái thanh sắc nhàn rỗi này. Sư bèn nói: Sờ tay phía trước vách núi cao vạn nhẫn, mới thấy còn kỳ diệu. Hiện thân ở ngã tư đường mới có thể ứng hiện viên mãn, xoay đầu hữu tình dạo bước bên kia người chết đi trên đường của người sống, lưỡi của người sống trong miệng của người chết, lại biết chăng? Diệu viên không ẩn chiếu, đại dụng không hợp cơ. Thượng đường nêu, Đức Thượng tòa đến chỗ Tào Sơn, Sơn hỏi: Bồ-tát tại định, ngửi được mùi hương tượng qua sông, xuất hiện kinh gì? Đức đáp: Kinh Niết-bàn. Sơn hỏi: Nghe trước định hay nghe sau định. Đức đáp: Hòa thượng lưu. Sơn nói: Nói tức là giết đạo, chỉ nói được bát thành. Đức hỏi: Hòa thượng làm thế nào? Sơn đáp: Nhận lấy dưới bến sông. Sư nói rằng: Đức Thượng tọa thật đã biết bệnh này, Tào Sơn khéo biết thuốc, nếu biết như thế, có lẽ còn có phần an lạc, việc ấy có lẽ chưa đúng, không tránh khỏi làm thầy thuốc trị ngựa ngựa chết. Lấy việc liên quan để kêu công, đích thực nghe được hương tượng qua sông, mọi người thể hội. Thượng đường nói rằng: Lác đác không khác vết bánh xe, thầm thầm cách huyền công, trăng chuyển bờ hoa lau, nước mùa Thu nuốt chửng cả bầu trời, lại biết chăng? Muốn biết đản sanh cha vương tử, hạc bay vút lên bầu trời, ra khỏi lồng bạc. Thượng đường nói rằng: Pháp pháp không ẩn giấu, dựng đứng lỗ mũi của Văn-thù, bước đi không định hướng soi suốt gót chân Phổ Hiền, như tướng đại nhân của Tỳ-lô-giá-na, lại làm thế nào? Giây lát lại nói: Đêm yên tónh nước lạnh cá không ăn mồi, đầy thuyền rỗng chở trăng sáng về. ( 5.) Thượng đường nêu, Đức Thế Tôn hỏi Văn-thù rằng: Này Văn- thù! Sao ông không đến nhập môn? Văn-thù thưa: Bạch Thế Tôn, con không thấy có một pháp ở ngoài môn. Sư nói: Đại só Văn-thù, bị một câu hỏi của Thích-ca lão tử, luôn bị lạc mất phương hướng, thảo luận không được với môn hộ, lại nói con không thấy có một pháp ở ngoài môn. Huyền Giác nói rằng: Là nói nội môn, hay nói ngoại môn, các vị lại biết chăng? Phần thưởng không cấp cho quân só thời thái bình, tai họa không vào cửa của nhà cẩn thận. Thượng đường nói rằng: Trăm hài cốt đều tan vỡ, một vật trấn trường linh, mây trắng làm cho núi xanh đều xinh đẹp, núi xanh chuyển đường đón mây trắng, không từng chết không từng sống, dây thừng vàng xỏ mũi trâu bùn, nửa đêm kéo ra biển cày. Thượng đường nêu, thạch trụ du phương đến chỗ của Động Sơn. Sơn bảo rằng: Có bốn hạng người, một người nói hơn Phật tổ, một bước đi không được, một người thì hành hơn Phật tổ, một câu nói không được, một người nói được làm được, một người nữa thì nói không được làm không được. Thạch Trụ bước ra giữa chúng nói rằng: Một người nói hơn Phật tổ, một bước đi không được chỉ là không có lưỡi không cho phép đi; một người hành hơn Phật tổ, một câu nói không được, chỉ là không có chân không cho phép nói; một người nói được làm được chỉ là nắp hộp tương xứng; một người nói không được làm cũng không được như đoạn mạng rồi mà cầu sống lại. Đây là thạch nữ mang gông mang xích. Động Sơn nói rằng: Xà-lê phần mình làm thế nào? Thạch Trụ nói rằng: Thông tất cả phần mình, sáng suốt rực rỡ vắng lặng. Sơn nói: Chỉ như ánh sáng đẹp soi khắp trên biển lại làm thế nào? Thạch Trụ đáp: Người huyễn gặp nhau, vỗ tay cười ha ha. Sư nói: Một lời nói khắp mười phương, vạn cuốn đều không được, một bước đi khắp tám phương rộng lớn, bốn ngựa đuổi theo không kịp, chỉ cần người không lưỡi giải thích, người không chân có thể đi mới được. Nói không được hành không được chỉ là không có hơi thở, có chỗ dùng gì? Lại nói: Người huyễn gặp nhau, vỗ tay cười ha ha lại làm sao? Giây lát lại nói: Niệm niệm phan duyên tất cả cảnh, tâm tâm vónh đoạn các phân biệt. Thượng đường nói: Một xương sống sanh ra chư Phật, sanh tức là vô sanh, chuyển đại pháp luân trong vi trần, chuyển vô sở chuyển, chỉ được niệm niệm thấy vật, tướng không khác tức là chân, khắp nơi nghe kinh, không rơi vào tai thì mới vi diệu. Tuy như thế, ánh sáng đầu cửa người rõ việc liền được. Như khách chủ chưa rõ, ảnh tượng chưa đủ thì làm sao bước đi. Giây lát lại nói: Gió mây chưa phạm ánh sáng, nước mưa hợp cùng mùa Thu. Ngày Thánh tiết, thượng đường nêu: Xưa nay tôn quý, mượn làm đản sanh, một bước thầm dời đổi, toàn thân hợp thể, căn cứ theo gốc của thái bình, nắm giữ nguyên tố của tạo hóa, tận hư không đồng thọ mà trường linh, đều cùng sáng với nhật nguyệt mà không tối. Một đạo lý dưới gót chân của bậc Thánh, thần ứng vạn cơ. Lại nói: Bước đi của người này làm thế nào? Bình phong ngọc rũ áo y tự thẳng cong, vạn phương giáo hóa hòa hợp vào vô vi. Thượng đường nói rằng: Bình thường vừa nói nửa câu, có khi cũng cởi bỏ được những dính mắc trói buộc, có chỗ dựa để vuốt cát sờ đất. Phần nạp tăng đều là thừa pháp, như nói năng đạo đoạn tâm hành xứ diệt, lại làm thế nào? Giây lát lại nói: Mây trời thâu nửa đêm, trăng sáng ở giữa đỉnh núi. Thượng đường nói: Tánh giác diệu minh, bổn giác minh diệu, ngang bằng với thái hư cùng đạo với vật tình, ứng sắc ứng thanh, tùy nghe tùy nhìn, bước vào ba đời mà chẳng đến đi, lẫn lộn vạn duyên mà không ngay thẳng hay nghiêng đổ, lại biết chăng? Khi mây càng xuống thấp chim nhạn bay ngay, trăng đêm rơi vào chỗ cáo vượn kêu. Thượng đường nêu, Lý Cao tướng công hỏi Dược Sơn: Thế nào là đạo? Sơn chỉ lên trời lại chỉ xuống bình nước trong hỏi rằng: Biết chăng? Tướng công đáp: Không biết. Sơn nói: Mây ở trên trời xanh, nước ở trong bình. Sư nói rằng: Mây ở trên trời xanh nước ở trong bình, mấy người lầm nhận là bàn tinh, Dược Sơn tám chữ chạy ầm ầm, vừa đến mà nay nói đại hạnh. Ngày mở lò, thượng đường nói rằng: Tro lạnh phát ra ngọn lửa gia phong cũ thích hợp cho người thọ dụng, áng mây bay đến tận trên lò, khắp mình không công dường như bất đồng. Nhớ lại, Tuyết Phong nói rằng: Ba đời chư Phật đều hướng về ngọn lửa mà chuyển đại pháp luân. Huyền Sa nói: Ngọn lửa vì ba đời chư Phật mà thuyết pháp, ba đời chư Phật lập tức nghe. Sư nói: Hướng vào đây thân tâm nhất như, ngoài thân không thừa, nói là nghe, nghe là nói. mới biết trước mắt không có xà-lê, trong đây không có lão tăng, điều ấy có lẽ chưa đúng, than lấy trên đầu lò lửa. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi ngài Thanh Bình rằng: Thế nào là Đại thừa? Bình đáp: Giống dây. Tăng hỏi: Thế nào là Tiểu thừa? Bình đáp: Quan tiền. Tăng hỏi: Thế nào là hữu lậu? Bình đáp: Bờ rào chắn. Tăng hỏi: Thế nào là vô lậu? Bình đáp: Cái thìa gỗ. Sư nói: Nghèo thì nghèo như Phạm Đơn, vụng về thì vụng về như Bàng-đặc, nếu lại không thể chuyển động, không thể thương lượng, không có chỗ đóng đinh như thế, cho nên nói sai một li đi một dặm lại nói cuối cùng làm thế nào? Không thấy nói, đấu đầy cân chùy trụ. Thượng đường nói: Bệnh của Phật bệnh của pháp, thuốc của Phật thuốc của pháp, bản sắc nạp tăng, đều không nhiễm trước, gặp cơm thì mở miệng, muốn đi phải dời chân, tự phải hiện thành, ai có thể tạo tác, có thể nói rằng nói đầy thiên hạ không có lỗi khẩu nghiệp, đi khắp thiên hạ không có oán ác, lại biết chăng? Chớ đem phải trái đến phân biệt với ta, phù sanh bóp méo cũng không liên can đến nhau. Thượng đường nói: Vạn cơ chấm dứt, ngàn Thánh không rời bỏ, cha mẹ chẳng phải là người thân của ta, chư Phật chẳng phải là đạo của ta, bản sắc nạp tăng, đến đây có một con đường sống, chỉ là sanh diệt không thể dời đổi, sai khác không thể chuyển, bội trần hiệp giác, thì vật khế hợp thần, chư Phật chúng sanh, bản lai bình đẳng. Đại chúng đã bình đẳng, là chư Phật vónh viễn được, chúng sanh chưa được như vậy. Lại nói: Thịt cá sai lầm ở chỗ nào? không cho phép đi đêm, sắp sáng phải đến. Mùa Đông, thượng đường, có vị tăng hỏi: Khi một hào chưa động, như thế nào? Sư đáp: Càn ba vạch liền, Khôn sáu vạch đoạn. Lại hỏi rằng: Có thể nói là cuốn đất, gió bấc lạnh lùng trơ trọi, khắp nhà mây phủ mát mẻ? Sư nói rằng: Chính lúc như thế, ông nói một mặt trời cũng chưa sanh. Lại nói: Thỏ ngọc nằm liền mây, gà vàng hướng về mặt trời gáy. Sư nói: Sức mùa Xuân không khắp nơi, cây khô cũng trổ hoa. Sư bèn nói rằng: Tông chỉ bàng thông quan trọng, kiệt sức mà chuyển bước, tạo hóa quan hệ với chánh tri bình yên, âm cực thì dương sanh, Xuân duyên dày khắp rừng lạnh, tin ấm áp thầm truyền đến cây khô, chỉ được trăng mọc vào nửa đêm, mây bay núi trống, ngay lúc ấy, trong mộng ánh mắt sống động, cho nên nói, ngay ánh sáng có bóng tối, chớ đem bóng tối gặp nhau, ngay trong bóng tối có ánh sáng, chớ lấy ánh sáng mà nhìn nhau. Sáng tối đều tương đối. Ví như bước trước sau, ( 6.) lại biết chăng? Hào tượng cổ trên lưng rùa khô, vị cấn nương văn mù mờ biến động. Từ biệt Chùa Đô Giám, thượng đường nói: Nạp tăng phải chăng chỉ là gia phong, ẩn hiện cối xay vào lẫn lộn, sư tử ném lại toàn bộ về cha, linh dương mang sừng không đồng công, cho nên nói: Động như mây bay, dừng như cốc thần, ngay dụng mà thường tịch lặng, ở chỗ tối mà càng sáng, lại biết chăng? Quả Bồ-đề viên mãn, hoa nở bắt đầu có một thế giới. Thượng đường nói: Mây lạnh dày đặc, tuyết trắng mênh mông, trên đường dứt bỏ nhiều công việc, nhà mê một sắc, nếu chưa đến mức độ này thì phải cất bước về phía trước, nếu rơi vào công huân này, cần phải quay lại để gặp nhau, việc gặp nhau ấy lại làm sao? Giây lát lại nói rằng: Khắp người không có chỗ phân biệt, nhằm ngay vào đầu không có công ngồi. Thượng đường nêu, Hòa thượng Thuyền Tử, dặn dò Hiệp Sơn, ông ta sau này chỉ cần chỗ ẩn thân không tung tích, chỗ không tung tích chớ ẩn thân. Ta ở chỗ Dược Sơn ba mươi năm chỉ nói việc này. Sư nói: Ẩn thân cần phải không có tung tích, Hồ tăng mắt xanh, khó biện bạch. Chỗ không có tung tích chớ ẩn thân, các môn rộng lớn thông hiểu các trần, một mình đến sẽ gọi là bạn bè, trong ồn ào chợt gặp lại cố nhân. Cành liễu ngậm vàng còn sợ lạnh, hoa mai phá tuyết đã thành mùa Xuân. A Nùng ngàn mắt khắp thân mình, khéo ứng vô phương xứ xứ chân, lại làm sao việc xứ xứ chân ấy? Lại biết chăng? Phụ Tử ở Ích châu, Ngưu Tất ở Hoài châu. Thượng đường nói rằng: Một điểm trong vòng soi rất nhỏ, chỗ trí không công lại còn biết duyên tư tịch đều không có việc khác, nửa đêm sao bắc đẩu rơi trên sông ngân hà, nếu hướng vào đây nắm được ánh mắt này thì liền chiếu phá được sanh tử. Cho nên người xưa nói vọng dừng thì vắng lặng tự sanh, vắng lặng sanh thì thấy biết tự hiện, thấy biết sanh thì tịch lặng tự diệt, rõ ràng chỉ là chân kiến, lại nói thấy cái gì? Như hạt châu phát ra ánh sáng, ánh sáng lại tự soi. Ngày tết, thượng đường nói rằng: Gà gỗ báo sáng, gái đá (thạch nữ) ca Xuân, mọi vật đều mới mẻ, mọi người đều lãnh tuổi, môn hạ của Dã lão lại không chịu chúc mừng, đã không chịu chúc mừng thì cũng như cha con Tôn Tân, làm sao không bị đứt huyết mạch. Kim vàng chỉ ngọc, làm sao được tương tục, lại biết chăng? Giây lát lại nói rằng: Liếc mắt nhìn tuyết rơi trắng trên đỉnh núi, ngẩng đầu Xuân đến đốt vết xanh. Lại vào viện, thượng đường nói rằng: Thoát khỏi giống như chim thoát ra khỏi lồng, mây nước sẽ cùng đến như cũ, mù mờ giống như khúc nhạc vừa được nghe, lại bị gió thổi sang điệu khác. Lại nói rằng: Đến mà không có chỗ tới, đi không có chỗ đến, bước đi như thế, mười phương bám ông không được, ba cõi chuyển ông không được, xét đến cùng thì rơi vào chỗ nào? lại biết tướng ấy chăng? Nền chùa cổ trước tháp, gia phong thanh đạm như xưa. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Trung Quốc sư rằng: Trong giáo lý chỉ thấy hữu tình thành Phật, không thấy vô tình được thọ ký, lại ngàn Phật ở Hiền kiếp, ai là vô tình thành Phật? Quốc sư đáp: Như khi Hoàng thái tử chưa lãnh ngôi vị, chỉ có một mình thôi, nhưng sau khi lãnh ngôi vị rồi thì cả quốc độ đều thuộc về vua, há có quốc độ lảnh ngôi vị khác ư! Thời nay chỉ có hữu tình được thọ ký thành Phật, mười phương cõi nước đều là thân Phật Giá-na, được như thế lại có vô tình được thọ ký ư! Sư nói: Phật trong chùa hiện thân khắp nơi, chùa trong Phật, trần trần đều như vậy, lại biết được chăng? Giây lát lại nói: Sáu nước tự thanh việc rối bời, một người riêng lẻ xây nền tảng thái bình. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi ngài Hộ Quốc rằng: Thế nào là bổn sanh cha mẹ? Hộ Quốc đáp: Đầu không bạc ấy vậy. thân. Tăng hỏi: Chưa biết lấy gì dâng hiến? Ngài Hộ Quốc nói: Ân cần không cơm nước, trước nhà không hỏi Sư nói: Nhà sanh kẻ hở, mắt soi ánh sáng trong , vẫn chưa phải là chỗ an thân lập mệnh của nạp tăng. Lại nói: Cuối cùng làm thế nào? Giây lát lại nói: Canh ba trăng đêm soi vào tổ lạnh, rừng ngọc quý không phải là chỗ trọ của hạc ngàn năm. Thượng đường nói rằng: Bẻ chốt cửa trong hư không, ứng xử cơ phong, vừa vặn hợp nhau liên miên không dứt, thí như Thánh vương không vì người chầu quanh mà trị, hiền thần ra làm quan chuẩn theo chánh sách mà thi hành, tâm hiệp hai nghi, đức trùm vạn vật, liền có thể thống nhất thiên hạ, họ như người bảo vệ biên cương, đều là việc bổn phận của quan. Các vị thực hiện, lại từng tương ưng như thế chăng? Giây lát nói: Khéo ấn thủ trì khói yên tónh, ngay mặt trời ấy chịu lộ một chút căn cơ. Thượng đường nói: Rộng lớn rỗng rang như thế, sáng suốt rõ ràng, linh quang không u tối, trí chiếu soi vô tư, trong đám chiến tranh, nền tảng thái bình là mảnh ruộng đất xưa của chính mình, quay đầu về cõi thanh tịnh, tức là bổn phận gia phong của nạp tăng, lại biết chăng? Ngõ hẻm không cưỡi ngựa mệnh sắc, quay đầu lại bị rách chiếc áo đơn. Thượng đường nói: Không thể dùng sắc thấy, không thể dùng âm thành cầu, gió lặng hoa còn rơi, chim kêu núi lại tối tăm, bốn con đường lớn rõ ràng tự sáng, sáu cửa lạnh như Thu, lại ngồi không chỗ nghi ngờ, hình cung nổi lên trong chén. Thượng đường nói: Một mưa một tạnh, việc ấy rõ ràng, sáu trần rối ren, thế giới cao ngất, nhất tâm vắng bặt, muôn pháp đều bình đẳng, thở được ra hơi là nhờ lỗ mũi của ông, thấy được thấu suốt là nhờ đôi mắt của ông, lại biết chăng, có duyên không phải là bạn bè của tôi, cặp lông mày vô dụng lại là anh em. Thượng đường nêu, Động Sơn và Mật Sư bá dạo núi, thấy một con thỏ trắng chạy qua, lại làm cuộc đối thoại như sau: Mật nói: Đẹp thay, thật giống áo trắng bái tướng Sơn đáp: Mật hỏi: Ông lại làm thế nào? Sơn đáp: Nhiều thế hệ trâm anh, tạm thời bị xem thường. Sư nói: Ngay trong ngày vặn hỏi người, nhà cũ giàu có, anh em thành nhau, Tôn Tân trao đổi với nhau, đột nhiên sáng trên đường mắt không mở, đêm sáng ngoài rèm máy xoay chuyển, cưỡi trâu đội mũ từ khác lạ đến, trăm lần luyện vàng ròng đều không đổi sắc. Thượng đường nói rằng: Ánh sáng chuyển về đêm, tự nhiên cây khô cũng trổ hoa, đưa tay vào khéo được ruộng hoang không kén chọn cỏ, có thể nói là thế giới như vậy, chúng sanh như vậy, trần trần như vậy, sát sát như vậy, niệm niệm như vậy, ngay lúc ấy, lại không có pháp khác, biết chăng? Máy quay tơ không đeo con thoi trên đầu, văn hoa ngang dọc, ý tự khác. Thượng đường nói rằng: Chưa có vết trắng xanh đâu liên quan tới ly vi, ngồi đoạn đầu báo hóa thân Phật, không thấy tướng thành trụ hoại, cho nên nói toàn thân buông xuống, mới hiểu sự gánh ( 7.) vác. Như thế nào là việc gánh vác? Giây lát lại nói: Xuân ở mười châu tất cả loài hoa đều điêu tàn, rừng cây san hô mặt trời sáng chói. Thượng đường nói rằng: Trăng lòng tròn sáng, nghóa trời sáng suốt, rỗng rang trong soi chiếu, soi chiếu trong rỗng rang, trên không mọc cành chim mới tỉnh, đầu không bóng cây Xuân không già, áo dơ tạm treo từ giống đến, ra cổng tiện tay bứt lấy cỏ. Thượng đường nêu, mười sáu khai só trong hội Lăng-nghiêm, nhân lúc tăng tắm, theo thường lệ vào phòng, chợt ngộ nhân nước, đã không sạch trần cũng không sạch thân thể, ở giữa an nhiên, được không chỗ lìa, thế nên, diệu xúc tuyên bố rõ, thành trụ cột của Phật tử. Sư nói: Tâm không thấy tâm, trước cơ có mắt, nước không rửa sạch nước, ngay nơi đó thông thân. Cho nên nói, tánh nước thật không, tánh không thật là nước, bản nhiên thanh tịnh, rộng khắp pháp giới, như chỗ nói rõ của Diệu xúc, làm sao thể hội, chớ cho người khác tưới nước bẩn, cần phải nóng lạnh tự mình biết. Nêu, Tông thủ tọa lập tăng. Thượng đường nói rằng: Trong rừng chiên-đàn trổ ra một cành, trong nhà Chiên-bặc, cùng phân nửa tòa, chỉ được người gỗ vẫy tay, gái đá gật đầu, chỉ ngọc qua cửa chia làm hai đường rẽ, cẩn thận xem đầu đuôi, kim vàng khâu vá hai cái khóa chặt chẽ, không lộ đầu mũi nhọn. Ngay lúc ấy, lại nói người nào phân biệt được. Giây lát lại nói rằng: Lại biết chăng? Có thể trong hội có con cháu, tự hiểu truyền giữ gia pháp. Khai mở Thánh tiết Càn Long. Thượng đường nói rằng: Miễn ông quay người, toàn thể kế thừa sự nghiệp của vua cha, đoan nghiêm đứng chung quanh, ứng cơ trao phó công cho bầy tôi, có thể nói là đạo khế hợp, ân lưu bố khắp nước, tự nhiên hóa vô vi, không ra lệnh mà làm, các vị lại biết chăng? Thể của Thánh nhân hợp đạo trời đất, quốc thái dân an, chính là phải thời. Thượng đường nói rằng: Đánh trống đoạt cờ, thường thường làm việc trong ánh sáng, máy dừng con thoi nghỉ, thường thường ngâm vào nước dơ, như của nạp tăng ẩn dưới gót chân, không có tổ cũ chớ ghé vào, cây nguyệt không có vượn hú, tổ mây không có hạc ở, huyền vi và tận loại khó bằng nhau, thiên thủ đại bi khó tìm kiếm. Ngữ lục thiền viện Phổ Chiếu của Đại Thánh ở Tứ châu (hết). ------------------------------------- <詞>NGỮ LỤC THIỀN VIỆN THÁI BÌNH HƯNG QUỐC Ở THƯ CHÂU Thị giả Tông Pháp biên soạn Sư trở về viện vào ngày hai mươi ba tháng tư niên hiệu Tónh Khang thứ hai, thượng đường có vị tăng hỏi: Thế nào là khách trong khách? Sư đáp: Lộ bần sầu giết người. Lại hỏi rằng: Thế nào là khách trong chủ? Đáp: Cưỡi ngựa ra cửa vàng. Hỏi: Thế nào là chủ trong chủ? Đáp: Chống tay lên đốc kiếm, ai dám ngang bướng xúc phạm. Lại hỏi: Hướng thượng lại có việc chăng? Sư đáp: Có. Hỏi: Thế nào là việc hướng thượng? Đáp: Vá chăn che đầu muôn sự dứt. Sư bèn nói: Chà, các thiền đức, gió trăng đầy đầu, dạo đi trong cảnh thật sáng, mây núi trước mặt, ngồi xem nhà trong sạch, phô bày thời xưa thường như, đến nay không thay đổi, quay mình đi theo đường chim bay, đội sừng lẫn lộn thời gian lưu truyền, liền có thể hưng thịnh nước nhà, mới hiểu được Phật sự vẻ vang. Lại nói, làm thế nào thực hiện được tương ưng như thế? Giây lát lại nói: Cây cuốc vàng không động đất, linh miêu ở chỗ sanh, đứng lâu chúng từ xin trân trọng. Thượng đường nói rằng: Đạo tròn đầy không thiếu, trí ứng không hụt, ánh sáng thông đầu kiếp rộng, bóng soi vào các duyên. Cho nên nói: Trần trần như vậy, sát sát như vậy, niệm niệm như vậy, pháp pháp như vậy, chưa từng có một mảy may thiếu. Các vị lại biết chăng? Nếu hiểu rõ trong đây thì tất cả đều vô sự, thể dụng đâu ngăn phân hay không phân. Thượng đường nói rằng: Hóa ngoại cùng đường, người đá chặt trán, kiếp trước gió chuyển, ngọc nữ lắc đầu, tin tức trong đây khó thông, ngay nơi đó đầu mũi nhọn không lộ. Cho nên nói: Động thì bóng hiện, biết thì trần sanh, ngay lúc ấy, làm thế nào thông được tin tức này? Giây lát lại nói: Đêm đến ngựa gỗ qua đầm nước, sợ đánh thức trâu bùn lật xuống thủy triều. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Lỗ Tổ: Thế nào là nói lời không nói? Tổ hỏi lại: Miệng ông ở chỗ nào? Tăng đáp: Con không có miệng. Tổ hỏi: Thường ngày ông ăn cơm bằng gì? Tăng không nói, Tổ liền đánh. Sư nói rằng: Bước đều thì yên ổn, chỗ nguy hiểm dứt tuyệt lưới nghi, hạnh sâu xa thể vi diệu, tiếp nhau trên đất bằng. Lỗ Tổ ngày thường chỉ biết giữ định, đến lúc này lại được chuyển, bệnh lâu dùng thuốc, thuốc qua cần thầy thuốc nói có thể làm sống lại cánh tay đã gãy. Có hiểu chăng? Chớ nói cửa rồng ba tầng sóng, mà nay đất liền vô hạn đắm chìm người. Thượng đường nói: Nguồn gốc sâu xa của tận cùng vạn hóa, được một trụ xứ chân thật, thể không mà hiểu rõ, không liên quan tới căn môn soi khắp mà liên miên, đều siêu vượt tưởng trần, chỉ được quang cảnh đều đoạn, tâm pháp cả hai đều quên, tuyệt vời riêng tồn tại, rộng lớn sáng trong, sanh diệt đến đi, không ngã biến đổi, liền có thể ứng duyên vô ngại, lặng chiếu mất công. Cho nên có vị tăng hỏi Đầu Tử rằng: Thế nào là chỗ an lạc của Hòa thượng? Tử đáp: Cô bé để chỏm bạc đầu tơ. Sư nói: Các thiền đức, ngay sáng có tối, ngay nơi tối có sáng, trong ồn náo mông mênh, lặng lẽ im lìm, trong lặng lẽ im lìm biết rõ ràng, lại biết chăng? Giây lát lại nói: Đi đến chỗ sơn cùng thủy tận, lúc ngồi ngắm mây bay. Thượng đường nêu, Bách Trượng hỏi Quy Sơn: Môi mép yết hầu hợp lại, nói đem một câu đến. Sơn nói: Lại thỉnh Hòa thượng nói. Sư nói rằng: Cha con Đại Hùng rất thong dong, tin tức truyền thông đến kiếp không, con cóc lạnh nằm kêu không tỉnh dậy, phù sơ trăng đơn quế lờ mờ. Thượng đường nêu, Hiệp Sơn đến chỗ Quy Sơn làm điển tọa, một hôm Quy Sơn hỏi: Hôm nay ăn rau gì? Hiệp đáp: Hai năm cùng một Xuân. Quy Sơn nói: Cố gắng tu sự. Hiệp nói: Rồng trú trong tổ phụng. Sư nói: Tôn Tân trao đổi với nhau, cành lá sum sê, xanh trắng chưa có vết, tối sáng lẫn lộn, các vị phân biệt được chăng? Một lát lại nói: Lệch hay ngay đều không từng lìa bản vị, vô sanh liên quan tới nói nhân duyên. Thượng đường nói: Tâm không chỗ gởi, hình không chỗ nương, chân không chỗ bước, lời không chỗ nói không thể thấy mà gọi là sờ, không thể được mà nghiền ngẫm, sum-la ngang bằng dụng ấy, thái hư đồng với thể ấy, đến tiên đi dạo cũng trong loại ấy, khéo ứng cũng khác trong trần. Cho nên Tổ sư nói: Chân tánh tâm địa tạng, không đầu cũng không đuôi, ứng duyên mà hóa vật, phương tiện gọi là trí, lại thế nào là trí phương tiện ứng duyên ( 8.) hóa vật, lại biết chăng? Chớ trách vô cớ đến liên tiếp khuyến khích uống rượu, từ khi chia tay sau này ít có cơ hội gặp lại ông. Thượng đường, có vị tăng hỏi: Thế nào là người đi tới? Sư đáp: Mây trắng bay vào tận khe núi, núi xanh dựa bầu trời cao. Lại hỏi rằng: Thế nào là người đi lại? Sư đáp: Tóc bạc cả đầu rời hang đá, nửa đêm xuyên mây vào thành phố. Lại hỏi: Thế nào là người không đến không đi? Sư đáp: Thạch nữ gọi lại mộng ba cõi, người gỗ ngồi đoạn sáu môn cơ. Sư bèn nói: Trong câu nói tông thì dễ, trong tông phân tích thì khó, Giây lát lại nói: lại biết chăng? Gà lạnh chưa báo sáng, thấp tho- áng người đi qua núi tuyết. Thượng đường nói: Tuyết theo rồng, gió theo hổ, núi tuyết quả cầu lăn Hòa Sơn đánh trống, đến đây ý không lập huyền, cơ không dừng ngọ, vừa vặn tương đương dùng không hết, nói ta nhìn thủng chuyện vui thần múa. Sư thọ thỉnh về viện Viên Thông Sùng Thắng ở Giang châu, thượng đường giơ gậy lên bảo chúng rằng: Các thiền đức, gậy chống của nhà nạp tăng, yên tónh mọi người, tất cả duyên đều không liên quan tới hai đầu, cho nên có thể ứng các biến. Các nhân giả hãy nói, khi ứng các biến, làm thế nào mà thấy, lại biết chăng? Hổ ngồi xổm, rồng cuộn tròn, tư thế chưa nghỉ, bóng mây dáng núi lạnh hướng về nhau. Trình bày xong lại nêu, Hiệp Sơn dạy chúng rằng: Lão tăng đến đầu đường xưa bố trí một cuộc tuyển chọn này, nếu là một mình tiến đến thì sẽ phóng qua, nếu là người trong đó thì có một đường khác, trước mắt xà- lê không có pháp, ý ở trước mắt, cũng chẳng phải là pháp trước mắt, chẳng phải chỗ được của tai mắt. Sư nói: Hiệp Sơn có thể nói là mua tiện bán quý, biến sống thành chín, chỉ ở ngay trước mắt, lại biết chăng? Nước men theo bên trúc chảy ra, gió từ trong hoa tỏa ngát hương. Từ tạ chúng, thượng đường nói: Đến cũng đến như thế, đi cũng đi như thế, mây trắng đưa ta ra khỏi núi, trăng sáng theo người quá độ, trong đó kim chỉ nhỏ bé, không phải bình thường lỗ mãng, có thể nói, người đi đến nhà, con nhỏ theo cha, thiên viên lẫn lộn, phải biết không mang các duyên, khi quay sang đường rẽ, phải biết thầm dời một bước, hiểu rõ rành rành, là người về nhà, xanh xanh tối tối là chỗ đến nhà, thời tiết con theo cha, hợp làm sao hội thoại. Giây lát lại nói rằng: Lô Sơn thảo luận với nhau. Ngữ lục thiền viện thái bình hưng quốc ở Thư Châu (hết). ------------------------------------------- <詞>NGỮ LỤC THIỀN VIỆN VIÊN THÔNG SÙNG THẮNG Ở HUYỆN LÔ SƠN TỈNH GIANG CHÂU Thị giả Tông Vinh biên tập Vào ngày mười tám tháng mười niên hiệu Kiến viên năm đầu, Sư đến thiền viện Đông Lâm khai đường, tri phủ trợ giúp chùa đưa sớ cho Sư, Sư nhận được trình dạy đại chúng rằng: Phải biết ngay nói một vi trần, rộng chứa không ngoài, mới tin đại thiên quyển kinh, xuất từ trong đó, chữ nghóa rõ ràng sáng sủa, tối kî thấy nghe mê mờ, các vị nếu đi thẳng như thế, không nói lải nhải, việc ấy có lẽ chưa đúng, lại phiền nêu lại. Tuyên bày sớ xong, Sư thăng tòa niệm hương rằng: Một nén hương này, cung kính vì chúc mừng rước tới. Nay Thượng Hoàng đế bệ hạ vạn tuế, vạn tuế vạn vạn tuế. Phục nguyện: Thánh tâm hợp đạo, được nguồn gốc âm dương tạo hóa, sáng suốt vô tận, bình đẳng chở che lâu thành yên ổn. Kế đó niệm hương rằng: Một nén hương này, phụng vì đại thần chấp chính, lưỡng chế người hầu cận thông phán đại phu, tri phủ giúp chùa, kịp đến tất cả phủ văn võ quan lại, bổng lộc trang nghiêm. Phục nguyện: Trí soi như trước, thể đồng đạo lâu. Phụng. Một người mà tất cả thời tiết, muôn vạn vật cho là như mùa Xuân, đến trong an tông miếu làm ngoại hộ pháp môn. Lại niệm hương khấn rằng: Đây một nén hương cúng dường Tùy Châu Đại Hồng Sơn Đệ Tứ Đại Thuần Hòa Thượng, dụng báo đáp ân pháp nhủ. Bèn đến ngồi. Trưỡng lão ở Đông Lâm bạch: Pháp Diên chúng long tượng, nên quán Đệ nhất nghóa. Sư nói: Chỉ như Đệ nhất nghóa đế, lại làm sao quán, miên miên mật mật, Phật tổ ở trong đó, không cho dính vào mắt, rõ ràng, thầy trò ở chỗ ấy truyền tâm cho nhau, không thể nghóa bàn, khó làm cuộc hội thoại, trong chúng không có hướng đến môn đầu hưng hóa gõ xướng chăng? Tăng hỏi: Ngày xưa Đức Phật ở nước Ba-la-nại, chuyển đại pháp luân, rưới nước cam lộ nhuận khắp quần sanh. Ngày nay Đại Thủ thỉnh Sư, chưa biết có điềm lành gì? Sư đáp: Gió bấc thổi mưa thành tuyết, ý trời giục mai nở hoa. Lại hỏi rằng: Một trận mưa khắp cõi hà sa quần sanh vónh viễn được hồi sinh? Sư hỏi: Trong phần của ông lại có thấm nhuần chăng? Lại hỏi rằng: Trong mưa thấy trăng sáng, trong lửa múc suối nước trong? Sư hỏi rằng: Lại đi về đâu? Lại nói: Phật tổ viên thông cơ thượng đầu, ngựa ngọc hý dưới trăng. Sư nói: Năm ngày sau gặp lại nhau. Tăng hỏi: Nam Tuyền có thư, nói với Thù Du rằng: Lý theo sự mà thay đổi, rộng lớn không ngoài, sự được lý dung chứa, vắng lặng chẳng phải trong, chưa biết ý chỉ như thế nào? Sư đáp: Nước men theo bên trúc chảy ra, gió từ trong hoa tỏa hương thơm ngát. Lại hỏi rằng: Tác gia Lô Bị vốn phân kiền chùy? Sư nói: Khen ngợi cũng khen ngợi không kịp. Sư bèn nói rằng: Từ trên chư Tổ, lấy tâm ấn tâm, đặc biệt không ngoài được một mảy may khen pháp, chỉ cần soi suốt căn nguyên cùng cực ngọn nguồn, được ngồi vậy, nước giáp chân trời, lẫn lộn vẻ mùa Thu, bàng phần vậy. Trăng soi ngân hà, càng soi sáng đêm tối mênh mông, thật là lẫn lộn không được, chủng loại khó giống nhau, dứt công huân không chỗ phân biệt, ở nước sống lâu đến sau vạn hóa, linh nhiên không nguồn gốc, thể tánh duyên ở trước một niệm, kỳ diệu còn có nơi, đến đây có thể nói rằng từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật, bèn chính là pháp theo pháp hành pháp tràng tùy chỗ kiến lập, tức là nhất như ở trong vạn biến, trụ Tam-muội ở trong các trần. Cho nên nói: Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, vì không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Các thiền đức lại thể hội được chăng? Giây lát lại nói: Máy quay tơ không treo trên đầu con thoi, văn hoa ngang dọc ý tự khác (lời cảm ơn không chép). Lại nêu, Hòa thượng Mục Châu khai đường, thăng tòa liền hỏi: Viện chủ có ở đây chăng? Tăng chánh đáp rằng: Có. Lại hỏi: Thủ tọa có ở đây chăng? Tăng chánh đáp: Có. Lại hỏi: Duy-na có đây chăng? Tăng chánh đáp: Có. Châu nói rằng: Ba đoạn khác nhau, thâu về khoa trên, nghóa khác văn dài, giao ở những ngày tới, liền xuống tòa. Sư nói: Hòa thượng Mục Châu, chữ thập đã mở ra, hai tay trao gởi, nếu cũng bước về phía trước liền được kiêng tránh ngay trước mặt. Mục Châu khai đường viên thông, vì các vị kiểm điểm xong rồi vậy. Viên Thông khai đường, các vị hãy nói rốt cuộc làm ( 9.) thế nào? Gặp nhau sẽ có biết tri âm, cần gì gió mát động trời đất. Trường lão Đông Lâm bạch rằng: Đế quán pháp, pháp vương pháp của Pháp vương như thế nào? Sư liền xuống tòa. Sư vào viện thượng đường nói rằng: Khi đi đạp lên tuyết giống như khi đến, đến đi trên đường một sắc mê, khéo quay người, khách là chủ, tông gia chánh kiến trao toàn đề. Các thiền đức, ba năm trước khách ở nơi đây, Sơn Môn Thậm Hà mời hội ngộ, ngày nay lại đến ứng duyên quét rửa, đều nhờ vào đạo lực của đại chúng che chở, ngày một tiêu khiển. Các nhân giả! Khi đi không ra khỏi cửa, khi đến không vào cửa, núi mảnh khảnh có xương, mây lơ lững không chân, về nhà thờ phụng ông bà, xong chuyện trở về con cháu, mây nước thông phương só, hẹn nhau báo ân Phật, như ân của bậc Đại Giác Thế Tôn ngang bằng hư không biến pháp giới, làm sao báo ân? Lại biết chăng? Không Tỏa Tử giấu đầu chơi, gãy chân Đương Nhi ra tay đỡ. Mùa Đông, thượng đường nói: Luật mấu chốt xoay chuyển, vẻ va- ïch hào trong bát quái, dương trong âm tuy sanh mà chưa có hình tượng. Dụng trong tịch, tuy chiếu nhưng càng rỗng rang, đến đây phải luôn cân nhắc việc sinh sát, phải biết động tónh. Các vị thể hội được chăng? Giây lát lại nói: Đêm sáng chủ ngoài rèm, không rơi phía thiên chánh. Thượng đường nêu, trăng lặn trời sáng, tuyết phủ núi lạnh, gió thổi vi vu, mây bay chầm chậm, tướng lưỡi rộng dài, không có chỗ rút vào, pháp thân tịnh diệu, không chỗ che phủ, đến đây như thế nào? được đầu mối tương ưng, lại biết chăng? Áo tơi nói lá bán vàng ròng, mấy chỗ gặp nhau gọi không hay. Nhân mùa tuyết rơi, thượng đường nói: Các thiền đức, cùng mây hiển điềm lành, đại địa lộ ánh sáng. Như gia phong thanh bạch này, giống như thời tiết khô lạnh, vô cùng sáng suốt, ai biết người dẫn lên tuyết mê, một sắc đều ngang nhau, tối kî ôm gốc cây tự khốn đốn. Đến đây làm thế nào thực hành, được siêu thoát. Giây lát lại nói: Lại biết chăng? Công đều mất nơi nương tựa là quay người biết rõ đường. Thượng đường nói: Trong nếu không động thì bên ngoài ắt không loạn, đây là biết tòng lâm có hảo hán, nhưng nay biết được không phải là uổng phí. Tự mình binh mã cần gì chiến đấu, nhân tâm không sanh, cảnh duyên tự đoạn thể như hư không, không bờ vách. Trời lạnh trăng sáng trên trung phong, một đoạn ánh sáng rửa sạch si ám. Thượng đường nói: Nạp tăng phải lọc đầu lâu khô, lộ ra oai âm ngoài đời xem, năm tháng không thể dời đổi chỗ, người này chịu cùng mâm với ông. Ngày tết, thượng đường nói: Sắc lạnh ngàn đỉnh núi, cũng biết nước tuyết mất nhà, xúc xứ tiếng hoan hô, đã chúc Xuân gió thổi vào luật, việc ấy nảy sinh không có hình tượng, chỗ ân huệ không nhẹ, phải nói đến hóa vô vi, mới tin đại công không chủ tể. Cho nên nói: Thánh nhân không rỗng tâm địa mình, vạn vật đều do ta tạo, lại làm sao thể hội được tương ưng, lại biết chăng? Hàn mai khả ái trong soi tuyết, chưa hiềm dương điểu khéo ca Xuân. Thượng đường nêu, này các thiền đức tuyết phủ đầy trước ngõ rẽ, chân giẫm trên đất pha-lê, Xuân sanh về lộ, chim trả giấu mình trong cánh, công huân chưa động, cảnh mê một sắc, chỗ kế thừa gia pháp, đạo dứt các láng giềng. Các vị lại biết chăng? Mưu thần, mãnh tướng nay ở đâu, gió mát vạn dặm chỉ tự biết. Sư ở Đông Lâm, thượng đường nói: Này các thiền đức, chìa khóa đoạn dứt các dòng, tuyết mây cùng màu, phóng đi một đường, trần sát rỗng thân giả mượn vị minh công, không ngại tùy phương làm chủ, lại thoa vào tuyệt đẹp ngăn ngại gì chỗ xúc chạm là nhà, đầu đầu hòa hợp nhân duyên, vừa vặn hiện thành công án. Cho nên người xưa nói: Tâm rộng khắp mười phương, không ở tất cả chỗ, các vị lại biết chăng? Giây lát lại nói: Động tối không có ý đóng khóa cửa, ngang dọc liên quan đến người hai đầu. Thượng đường nói: Sanh sanh tử tử, dấu vết luân hồi không cùng, tịch tịch tónh tónh, chân chiếu cơ bất muội, mây nương vào núi mà là cha, công trong đây tựu về công, trăng trong nước mà làm nhà, ngay nơi đó trụ không chỗ trụ, lìa thấy nghe hay biết, có trí, chẳng phải tâm phân biệt, lìa đất nước lửa gió có thân chẳng phải tướng hòa hợp. Cho nên nói: Tánh tứ đại tự hồi phục, như con được mẹ. Các thiền đức, làm thế nào thực hành tương ưng, lại biết chăng? Trời lạnh, trăng soi sáng nửa đêm, ai cùng soi bóng lạnh với hồ trong. Sư thúc của Bảo Phong thiên hóa, thượng đường nói: Năm lần chín là bốn mươi lăm, gió xuân thổi dứt mưa trước núi, cưỡi mây đi về lại tâm gì, quay lưng lại bồng bềnh không chỗ tìm, không chỗ tìm biết hay không biết? Ngồi đoạn mười phương lại là ai? Đông Phất-vu-đại Uất-đơn-việt, Tây Cù-da-ni Diêm-phù-đề. Thượng đường nói: Bóng chuyển trước thể, mây trắng là cha núi xanh, ánh sáng phân sau đỉnh, gió ấm thành xuân cây khô, luôn được tám mặt tinh xảo, mười phương thông suốt, ứng cơ nghi mà hiểu rõ, thuận biến hóa để liên miên. Cho nên người xưa nói: Một câu, nên nói không nên chiếu, một câu nên chiếu không nên nói, một câu nên nói nên chiếu, một câu không nên nói không nên chiếu. Các thiền đức, làm thế nào biết được viên mãn? Giây lát lại nói: Ngồi lùi đầu lưỡi tham hoạt ý, ngoảnh lại lỗi mũi phân biệt duyên sanh. Thượng đường nói: Gió không vang tiếng, mưa không vỡ khối, cũng biết mùa Xuân nước xanh như da trời, giành được mùa Xuân núi như than đen, vật đông đảo hề, ai sinh sản ai tươi tốt, đạo liên miên hề, tự mua tự bán, nhấc chân tròn diệu mà pháp pháp hàm chứa, vạn tượng đều quán mà tâm tâm dứt đối đãi, nhà nạp tăng phóng ánh sáng lớn được đại tự tại. Kiếp thành, do ngã tương tùy mà thành. Kiếp hoại, do ngã tương tùy mà hoại. Ngồi đoạn càn khôn mà xưng tôn, quay vần âm dương mà làm chủ tể, các thiền đức hãy nói tu công đức gì, trụ Tam- muội nào? Ông vừa bước về phía trước, dám nói chẳng phải là cảnh giới chung. Thượng đường nói: Thanh sắc thấy nghe ồn ào rộng lớn, giống như đứa bé khi đấu bách thảo, hai nhà đưa ra một cách, gặp nhau không nói gật đầu cười, buồn cười, buồn cười, mọi người đều nói: Hương Ng- hiêm đánh trúc tiếng vang mà minh tâm, linh vân thấy hoa đào mà ngộ đạo, lại đứng đắn chăng? Ngay lúc ấy, đến thì không bảo, mà nay bảo thì không đến. ( 10.) Tiết khai mở Càn Long, thượng đường nói: Các thiền đức, mây gấm đón mặt trời, điện ngọc truyền xuân, ánh sáng lành hiện ở nhà tôn quý, điềm lành ứng việc đản sanh, vạn xe bảy báu, gần gũi cha con kế thừa nhau, cửu trùng một người, lại cùng anh em hòa hợp, các vị lại biết chăng? Giây lát lại nói: Hồ lớn gió ấm khắp viêm đức, hy hòa thiều nhật tẩy hàn tư. Trưỡng lão Thiên Trì đến, thượng đường nói: Rỗng tâm có thể làm, mây trắng bay lên ngọn nguồn cột đá, có ứng không trái ngược trăng sáng in trên mặt nước Thiên Trì, nhân duyên là việc tình cờ, cảm ứng đạo giao, có lúc am cỏ chằng chịt trên đỉnh Cô phong, quở Phật mắng Tổ. Có khi xuống đỉnh Diệu cao, núi khác hoặc gặp nhau, các vị lại biết chăng? Không ở chánh vị phải đến từ bên cạnh, như vàng thật này trải qua trăm lần luyện. Ngày mùng tám tháng tư, thượng đường nói: Màu lưu ly xanh biếc nước trong sáng, thân sáng sắc vàng đá trong suốt, tẩy tịnh mới biết không bị bẩn, Thích-ca lão tử đản sanh lúc này, nếu cũng thực hiện như thế thì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đản sanh lúc nào, lúc nào tắm rửa, việc ấy chưa đúng, sai lầm rồi vậy, không chỉ hai ngàn không trăm tám mươi (2 0 8 0) năm, sao những ba đời sáu mươi kiếp. Tiết Càn Long, thượng đường nói: Thân tôn quý trong địa vị tôn quý, liên miên không dứt chuyển kim luân, sát trần thọ lượng không cùng, đây là chỉ nhân cũ của trời đất. Khai mở tiết Thiên Thân, thượng đường nói: Thể đồng thọ với trời đất, thì không biến đổi không chìm, dụng cùng soi chiếu với nhật nguyệt, thì không tối không thiếu, theo địa vị tôn quý ngồi đoạn mười phương, mượn duyên đản sanh, ân huân vạn hối, các vị lại biết chỗ tác dụng của người này chăng? Giây lát lại nói: Kim luân tổng nhiếp tứ thiên hạ, vạn tượng tròn thâu trong một ấn. Thượng đường nói: Nửa tháng năm nhà nông bận rộn, xa hạt ruộng tâm thì mùa Thu thành cơm, lại nói lúa chín không đến sân, thiền hòa tử, một thân rõ một thân, hai mắt đối hai mắt, trong đây tơ tóc đầu không kẻ hở, con cáo nước bọt kết lại nghi gì, ngồi lại trong mâm cung rơi vào chén. Tiết Thiên Thân, thượng đường nói: Điềm lành phủ trùm mây gấm, phải biết ngày đản sanh của Thánh chủ, quý trọng trao cho kim luân, lại kế thừa địa vị tối cao của vua cha, đó là tôn quý, chịu đọa hai ba, đó là thọ lượng, số vượt hơn muôn ức, trời đất hợp đức, nhật nguyệt cùng phát sáng, nhiếp cõi nước mười phương thành một nhà, xem chúng sanh bốn biển như con đỏ, thì mới co duỗi vô ngại, dù đoạt tự do thuận theo đại đạo mà vô vi, ứng hợp quần cơ mà không sai lầm, các vị có biết chăng? Ba đời mà đến tuân theo Thánh hóa, bát huyền trở đi gội tắm thuần nhân. Sư đến ngày mùng ba tháng sáu đi khỏi viện, từ biệt chúng thượng đường nói rằng: Nạp tăng đi thì dáng như mây nước, tình cờ rơi vào sự lôi kéo để leo lên, xuất hiện đúng thời. Ngày nay lại trở về khe rừng, được thuận tiện biết rõ được thuận tiện. Các thiền đức, lại làm thế nào thì được chỗ thuận tiện. Giây lát nói: Từ nay thường chuyên việc của mình là quay lại không làm buồn người khác. Ngữ lục Viên Thông ở Giang châu (hết) -------------------------------------- <詞>NGỮ LỤC THIỀN VIỆN NĂNG NHÂN Ở GIANG CHÂU Thị giả Pháp Trừng biên tập Sư đến ngày mười ba tháng sáu niên hiệu Kiến Viêm thứ hai vào viện. Thượng đường nói rằng: Một trần nổi dậy thâu cả đại địa, một đóa hoa nở khắp thiên hạ là mùa xuân. Nạp tăng bất thường phải như thế mới được, liền chính là tất cả thời, tất cả xứ, nhậm vận tự tại ứng dụng không có hiệu quả. Các vị biết chăng? Gió thổi cỏ nằm, nước chảy đến đâu ngòi rãnh thành đến đấy. Thượng đường nói: Này các thiền đức, niệm hết thì trí sáng, bình ngọc dẫn bước, thần rỗng thì soi xa, gương báu thì chứa nhiều ánh sáng, ứng vạn hóa mà không thích hợp, không rơi vào các số, nhấc chân sáng suốt mà riêng soi, không ngoài trần khác, lại làm sao, thực hiện được tương ưng như thế. Giây lát nói: Chim trả đạp đổ nước mưa trên lá sen, chim loan dội thủng sương mù nơi rừng trúc. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Động Sơn: Khi bốn núi gần sát nhau là như thế nào? Sơn đáp: Lão tăng trước đây ít hôm, cũng từng qua lại dưới rèm phòng người ta. Tăng hỏi: Ngoái lại hay không ngoái lại? Sơn đáp: Không ngoái lại. Tăng hỏi: Chưa biết dạy ông đi đến chỗ nào? Sơn nói: Đi trong vùng đất đã khai hoang. Vị tăng ấy trân trọng liền nhập diệt. Sơn dùng gậy chỉ nói rằng: Xà-lê chỉ biết đi như thế, không biết đến như thế. Sư nói rằng: Chỉ biết đi như thế, loài chim ở sa mạc ban đêm trú ngụ ở cây thương châu. Không biết đến như thế, Thạch Duẫn luồn qua rêu đường xưa, các vị lại biết được chăng? Chớ nói cá côn cá voi không có vây cánh, ngày nay đích thân theo đường chim bay trở về. Thượng đường nói: Tí tách gió tây, hơi kiếm nổi lên, trời xa nước đồng cùng một mùa thu, nạp tăng nghỉ được thời tiết này, ngồi chiếu ánh sáng lạnh trong không lưu chảy. Các thiền đức, Tổ sư nói: Tâm tùy muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật có thể lặng lẽ, lại thế nào là chỗ chuyển? Biết chăng? Biết nhà Báo Sơn sáu cửa sáng, phải biết cây mây một tiếng gà gáy. Lâm trưởng lão ở Thiên Ninh tỉnh Chân châu hạ pháp ban thủ. Sư thượng đường nói rằng: Năm lá một hoa, không phải là sức xuân bình thường. Mười phương một sắc, đâu từng có chủ ý trang nghiêm, chuyển bộ máy trên đất lưu ly, trăng sáng trước nhà dời bước, ngay lúc ấy, con có còn công của cha, trò có hợp đạo của thầy, các vị lại biết được chăng? Giây lát nói: Lồng ngọc thả ra hạc ngàn năm, khéo phân tích khi dời bước đầu tiên. Tiến đạo só thỉnh, thượng đường nói: Mơ mơ màng màng trong đó có vật, thăm thẳm mênh mông trong đó có chất tinh túy, chất tinh túy trong đó thì không có hình dáng, vật trong đó thì không có tên, ứng phồn thịnh mà thường tịch, chiếu không kiếp mà riêng hiệu nghiệm, ngộ thì cõi cõi thấy Phật, chứng thì trần trần xuất hiện kinh, cửa ngõ mở rộng, cũng chia làm ba giáo, thân tâm hẹp nhỏ cũng hạn cuộc thành Nhị thừa, cảnh chân vô cùng vô tận khéo quán sâu rộng, đại phương không ngoài độc lập đi khắp nơi, các vị lại biết chăng? Giây lát nói: Rỗng như hang, thần uốn không chết, đạo trước tiên giống như trời tự sống lâu. Thượng đường nêu, Định thượng tọa đến tham kiến Lâm Tế và hỏi rằng: Thế nào là đại ý đích thực của Phật pháp? Lâm Tế bước xuống giường thiền tát cho một cái, Định đứng suy nghó mãi. Tăng đứng bên cạnh nói: Định thượng tọa, sao không lễ bái! Định mới lễ bái hoát nhiên đại ngộ. Sư nói rằng: Hoàng Bá truyền đến, Lâm Tế dùng, Định thượng tọa chạm vào cửa quay, rộng lớn một niệm quên duyên, lặng bặt mười phương vô ký, hiện tiền không cần sắp xếp, ngay nơi đó nhọc nhằn gì dự tính, chỗ không phong lưu cũng phong lưu, khi có chí khí thêm chí khí. Thượng đường nêu, Động Sơn nói rằng: Đầu mùa Thu cuối mùa Hạ, hoặc Đông hoặc Tây, chỉ cần đi đến nơi vạn dặm không mọc một cọng cỏ. Giây lát lại nói: Như vạn dặm chỗ không có một cọng cỏ lại làm sao đi? Sau này tăng nêu lên hỏi Thạch Sương, Sư nói rằng: Ra cửa liền là cỏ. Minh An nói: Dù là không bước ra khỏi cửa cũng là cỏ đầy tràn mặt đất. Sư nói rằng: Ra cửa là cỏ, trải qua thời gian xanh tươi rậm rạp, lá vàng rơi biết mùa Thu đến, rơi vào chỗ tối đen, đến đây phải thể chuyển linh cơ, chỗ ấn chưa thành văn mới được, lại xét cùng chăng? Giây lát lại nói: Nước trong trai mang thai, tầng mây xanh rồng rút cốt. Ngữ lục thiền viện Năng Nhân tỉnh Giang châu (hết). ------------------------------------- <詞>NGỮ LỤC THIỀN VIỆN SÙNG PHƯỚC HUYỆN TRƯỜNG LÔ TỈNH CHÂN CHÂU Thị giả Tông Tín biên tập. Đến ngày rằm tháng chín niên hiệu Kiến Viêm thứ hai, Sư vào viện, thượng đường nói rằng: Lúc như thế, chỗ như thế, đi như thế, lúc như thế, chỗ như thế, đến như thế, người đến cũng ở trong nối liền đến nhà, người đi cũng mượn phần đường bên cạnh, trăng sáng trải khắp mặt sông, cỏ lau tuyết soi đầu ngõ, rõ ràng chỉ là một người, uyển chuyển trở về chốn cũ. Các thiền đức, bản sắc cứng rắn được là ruộng đất, lại phải biết có công huân đến cùng khi hoàn toàn thành tựu thì thoát bỏ toàn thân, Tổ sư kế thừa nhau, cùng một sắc màu, sau gánh vác sự nghiệp, các vị lại biết chăng? Giây lát lại nói: Máy chuyển bánh xe ngọc trời đất yên lặng, khéo hợp bảo ấn ngay lúc gió. Sư vào ngày hai mươi chín tháng chín, đến chùa Thiên Ninh ở châu này khai đường, phát vận người học nội các, dâng sớ cho Sư, Sư tiếp sớ giây lát nói rằng: Thiện Tài Di-lặc, gặp nhau có duyên khảy móng tay, cư só Văn-thù, đối đáp đến chỗ quên lời, khéo khế hợp ở trong đây, lại tri âm ngoài phương khác cũng ứng đến nay chính là phải thời, sẽ cùng trùng tuyên nghóa này, tuyên sớ xong, học só Tri Phủ, dâng sớ cho Sư, Sư tiếp sớ lại nói rằng: Tùy hô mà ứng, hang rỗng có âm thanh vô tận, đối hình tượng mà lộ ra, gương tròn thì có sự soi chiếu không riêng, suy nghó giống nhau, pháp pháp hiện thành, việc ấy có lẽ chưa đáng lại phiền nêu lại, tuyên sớ xong, Sư thăng tòa niệm hương rằng: Đây một nén hương, cung kính vì, nay dâng hoàng đế bệ hạ vạn tuế, vạn tuế vạn vạn tuế. Phục nguyện: Trời đất chứa đựng trong tâm Thánh, nhật nguyệt trợ giúp ở trong đức sáng, nền tảng vua miên viễn, không thể cùng tận số lượng, thể chí hóa mênh mông, thí vật vật ở thật thà nhân hậu. Kế đến niệm hương rằng: Một nén hương này phụng vì đại thần chấp chính, hai chế người hầu cận các học phát vận, học só tri phủ, thông phán, quan giúp việc văn võ quan lại toàn phải đều nguyện phụng thờ tổ quốc một cách trung thành, khen ngợi đại nghiệp của một người, chuyên tâm du đạo, thể công đầu vạn hối, phước tuệ sáng suốt trang nghiêm, tuổi thọ dài lâu, lấy ân cha mẹ mà cho bá tánh, dùng lời dặn dò của Phật tổ để hộ tòng lâm. Lại niệm hương rằng: Một nén hương này là tin tức truyền tông của Tổ sư, chính là lúc lấy mẫu mực của nạp tăng, mấy lần nêu hình như cho người, đây thật là chỗ không quên được, cúng dường Thuần Hòa thượng đời thứ tư, núi Đại hồng tỉnh Tùy châu, dùng báo đáp ân pháp nhủ, bèn đến tòa ngồi. Trưởng lão Thiên Ninh bạch rằng: Chúng long tượng Pháp Diên, phải quán Đệ nhất nghóa. Sư nói: Nếu luận Đệ nhất nghóa đế, lại làm thế nào quán? Quy ngưỡng tông của các Thánh mà làm thầy, tâm truyền của nạp tăng mà làm Tổ, ở ngoài giáo hóa mênh mang, ra khỏi đường trước nhỏ bé không hình không tên, khó nghó khó bàn, đến đây phải biết có thời tiết kiến hóa gõ xướng đầu ngõ. Trong chúng chẳng có nạp tăng biết việc chăng? Bước ra gặp nhau. Lúc bấy giờ có vị tăng hỏi: Vừa dịp sớ phát vận nói, kềm búa trong tay, cần phải có mưa pháp chan hòa, ngay lúc ấy, nguyện thấy phương tiện của tác gia. Sư nói rằng: Nửa đêm quạ con đầu đội tuyết, trời sáng thằng câm ôm đầu về. Lại nói: Bảo ấn làm gió mát, lớp lớp như gấm thêu. Sư nói: Trời sáng cùng mây trắng, nước chảy hòa trăng sáng. Lại hỏi: May gặp vì sao sáng trên chiếu, vận đẹp linh quang cơ bậc nhất. Sư nói: Ông nay chỉ hỏi cơ thứ mấy? Lại nói: Sương rừng phượng ngọc sanh con, trăng soi ngoài cửa gà vàng gáy sáng. Sư nói: Chỉ cần như thế. Tăng hỏi: Ngày xưa hưng hóa đạo, ta gặp người thì không ra, ra thì vì người. Tam Thánh nói: Ta gặp người thì ra, ra thì không vì người, chưa rõ hai vị tôn túc có chỗ trái nhau chăng? Sư nói: Ráng trời và thiên nga cùng bay, nước mùa Thu và bầu trời một màu, lại nói, như thế thì mùa Xuân có hoa lan, mùa Thu có hoa cúc mỗi thứ tự tỏa hương. Sư nói: Lại đi như thế. Lại nói: Dám hỏi Hòa thượng lại vì người ra hay không làm người ra? Sư nói: Động vẻ mặt rẽ đường xưa, không rơi vào cơ lặng ngắt. Lại nói: Ngặt vì rỗng sanh không hiểu, ngồi trong hang núi, sinh được hoa trời đến động đất. Sư nói: Ngày nay gặp người kiểm điểm. Lại hỏi: Còn cho phép người học chú thích dưới đây chăng? Sư nói: Cho phép. Lại hỏi: Cắt đứt chỉ năm màu dưới chân, lấy lại đài xuống ngựa ở Trường Lô? Sư đáp: Không chỗ dưới chân ông. Sư bèn nói rằng: Thích-ca xuất thế, vì vọng tưởng mê say che lấp của chúng sanh mà nói các loại pháp. Đạt-ma Tây lai vì đạt tới việc hiện thành viên mãn mà truyền một tâm, nói các loại pháp vậy. Dùng nêm đánh bật nêm, truyền mật mật tâm, dùng thẻ hợp thẻ. Các nhân giả, một khoảng ánh sáng, ánh trăng rực rỡ ngậm sương đêm, một bình không khí trong lành, nước nặng tróu và trời thu, không mà không không rộng lớn tự soi, có mà không có, trong vắt như còn, pháp thân tròn đầy, mà không đến đi, mọi vật khó thoát ra ngoài nó. Phật nhãn thấy suốt mà cùng khác, trần trần đều vào trong đó. Cho nên người xưa nói: Sum-la và vạn tượng, một pháp đã ấn, nếu biết được như thế, mới biết tất cả chỗ đều là bản thân của ông, tất cả chỗ đều là ánh sáng của ông, tất cả chỗ là đạo tràng của ông, tất cả chỗ là việc làm Phật của ông. Tuy như thế, hãy nói, ánh sáng đều mất, lại làm sao biết? Giây lát lại nói: Ngựa ngọc bằng tuyết đi về nửa đêm, linh dương mang sừng trăng lặng về hướng tây, trình bày xong lại nêu: Bảo Thọ khai đường Tam Thánh cử ra một vị tăng, Bảo Thọ liền đánh. Tam Thánh nói rằng: Vì người như thế lại làm mù mắt người trong cả thành Trấn Châu, Bảo Thọ liền xuống tòa. Sư nói rằng: Khách thiền gặp nhau, tự có cái hay về trau chuốt, chỗ làm của tác gia vốn không có vết dao búa, hãy nói ngay lúc ấy làm thế nào? Lại biết chăng? Ảnh thảo làm yếu bản sắc người ngăn dòng cơ đối người đang làm. Trưởng lão Thiên Ninh bạch rằng: Quán chắc pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như vậy. Sư liền xuống tòa. Thượng đường nói rằng: Sáu cửa không đóng, theo dạy vạn pháp, thông đồng, bốn con đường lớn không có một vết chân, phải chăng không nhận một trần, cho nên nói mắt thấy sắc giống mù lòa v.v… tai nghe tiếng giống như tiếng vang, liền có thể ngủ say trong thanh sắc, ngồi nằm trong thanh sắc lại biết được chăng? Tâm có mặt cùng khắp mười phương, không có trong tất cả chỗ. Sơn đáp: Một cọng cỏ tranh sau khi cháy. Sư nói: Rỗng mà linh không mà kỳ diệu, một điểm quang minh bèn sinh ra mấu chốt của Phật, rộng suốt mười phương, là sào huyệt của Thánh phàm, lại biết chăng? Giây lát lại nói: Có thể than thở ngày xưa dung nhan như ngọc, chẳng khen lúc về mái tóc pha sương. Thượng đường nói rằng: Mặt trời soi ban ngày, trăng chiếu ban đêm, trời trong mà cao, đất dày mà thấp, không phải chỗ của ta là công lớn, không thể trốn là chí hóa, nêu lên củ cải ở Trấn Châu, đáp lại giá gạo ở Lô, Lăng, a lỗ lặc kế Tát-bà-ha, làm người tốt nên biết lễ. Thượng đường nói: Độc lập không thay đổi, đi khắp nơi không nguy hiểm, chớ ngờ bụi trần đầy mắt, phải tin ba cõi do tâm tạo, bày ra hàng ngàn ngọn núi nhưng hướng về đỉnh núi cao, biết trăm sông mà đến biển cả. Các thiền đức, biết được như thế vậy, cuốn rèm trừ bỏ chướng ngại, thùng sơn theo trước không vui. Thượng đường nói: Trong vòng ẩn chiếu, rồng ẩn trong mây ngậm cây khô, ngoài lượng thật sáng, thỏ già đùa nghịch ánh trăng đêm, đường con thoi trước máy, thạch nữ có thể phân chia con dấu sau cùi chỏ, người gỗ được dùng, chỉ được một con dấu ấn khắp hư không, pháp giới lại không sót dư, các vị lại thể hội được chăng? Sáu cửa thông ý sáng, đại địa dứt bụi bặm. Thượng đường nói: Đây là gia phong, rõ ràng nhập vào lẫn lộn, ánh trăng soi sáng lều cỏ bên sông, ban đêm màu nước nuốt hư không, với tay treo vách núi, phân thân trong vạn tượng, đường về lên đường chim bay, vừa vặn là thần thông. Trang Thượng về, thượng đường nói: Mây vàng ở phần ruộng phía Nam, lúa trổ bông, tuyết trắng ở Trung châu cỏ lau thành hoa, quay thuyền về đúng hướng nhàn rỗi của mình, một mái chèo đến nhà trong đêm gió mát. Các thiền đức, Trường Lô bình thường không lưu bố thế đế với các vị, thật trong đó đi đến, hãy nói, các vị lại làm sao đi? Giây lát nói: Ai dám đè nén người lương thiện là thấp kém. Tiết Thiên Ninh, thượng đường nói: Đồng thọ với trời đất, không dùng hết tuổi tác ấy, vật và ta cùng một tâm, không dùng cho phân ra trong ngoài lấy pháp làm cõi thì không phương gốc, lấy trí làm thân thì không ủng hộ và phản đối. Các thiền đức, hãy nói, người này làm sao thực hiện, lại biết chăng? Nước giao cho một người đặt Thuấn hóa, ân đến bốn biển, kính trọng lòng nhân của vua Nghiêu. Thượng đường nói: Không kiếp có chân tông, trước khi nói hỏi bản thân mình, bỏ hết công việc mới, trong sạch gia phong cũ, lộ rõ ngoài ba thừa, lác đác trong một ấn, nhưng đến làm loại khác, vạn phái tự hướng về phía Đông. Thượng đường nói: Đạo kéo dài dùng cũng không động, đạo kéo dài tịch cũng không diệt, khó khăn của hàng Nhị thừa rơi vào không không, chúng sanh chấp mê ở phân biệt, Bồ-tát nhỏ nhặt ở tiến tu, chư Phật nhiều lời trong diễn thuyết. Các thiền đức, một câu vi diệu xuất hiện ba thừa, một niệm nhàn công đức vượt trên vạn kiếp, trăng nước mênh mông, nhàn rỗi chèo thuyền, tuyết mây chầm chậm đường rẽ dứt, rõ ràng linh diệu chỉ mình ta biết, hùng biện như ngù ngờ, khéo léo như vụng về. Thượng đường nói: Vừa vặn không khâu lụa mỏng, rõ ràng không che giấu, đỉnh núi Linh thứu há truyền cho Ca-diếp, Thiếu Lâm đâu trao lại cho Thần Quang, hiện thành các chỗ hợp câu đầu, người người đầy đủ hương tri kiến, hư không thuyết pháp sum-la nghe, không vướng da môi giải thích ra. Các thiền đức, trong mười hai thời thật là ngợp mắt đầy tay rồi, lại biết được chăng? Giây lát nói rằng: Người bàng quan mỉm cười, người trong cuộc lại mê. Hòa thượng Tư Phước đến, thượng đường nói: Chỉ ngọc kim vàng khó tương tục, nơi kiếp bình không là vi diệu, ném vào cửa, hương rừng khói ấm gió xô tuyết, trăng soi vào hang, nước lạnh bóng dời núi, bên trong có lẽ mượn công mới được việc, lúc ấy thoái vị không biết nhàn rỗi, việc tông gia miên miên mật mật, bố thí nhiều người chớ hà tiện. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi cổ đức rằng: Trên đường Tào Khê, lại có người thế tục bàn luận không? Đức đáp: Lục Tổ là người Lô hành. Sư nói: Này các thiền đức, ngay nơi đó không có hang ổ, không cần tìm cái gì đặc biệt, ngọc sáng vốn không có vết, khắc văn để tang đức của vua. Thượng đường nói: Xưa nay ruộng đất không có bờ mé, căng mắt ra nhìn ánh sáng lạnh thành một mảnh, tin tức bình trầm Phật cũng mê. Guồng máy luân chuyển nghiêng ai có thể phân biệt, xem thử núi tuyết dưới núi che phủ người, trâu trắng kéo dứt dây cỏ gai. Thượng đường nói: Lúa non nẩy nở biết cây đầy mùa Xuân, chỗ mát lạnh lại cần ấm áp, lúc nóng khô lại cần nước thấm ước. Nếu có thể như vậy, thì mới có thể vuông có thể tròn, có thể cong có thể ngay, ngay lúc ấy, làm thế nào thể hội? Lại biết chăng? Chí công không phải là Nhàn Hòa thượng, đao tên thường ở đầu giường nằm. Ngày tết, thượng đường, có vị tăng hỏi: Năm cũ đã qua, năm mới đã đến, chưa biết vô vị chân nhân, ngày nay tuổi thọ bao nhiêu? Sư đáp: Cũng cần thêm một tuổi trên đầu. Lại hỏi: Như thế thì ứng thời nhận thần giúp đi? Sư nói: Phần ông thì làm sao? Lại nói: Chỉ được gió thổi cỏ rạp, nước đến đâu ngòi rãnh thành đến đó. Sư nói: Người già trăm tuổi rõ ngọn đèn đêm. Sư bèn nói thêm rằng: Khí trong trẻo thành mùa Xuân, tiếng tốt đẹp vào trong luật là chỗ oai hùng phải biết ngoài cửa treo rừng tàn héo, lúc đến liền xin tức nhiên là cây khô nở hoa, gà vàng gáy báo sáng, ngọc nữ đăng cơ, một khoảng phong quang tất cả thời tiết, như thời tiết đến thì lý ấy tự sáng rõ, lại làm sao biết được, mượn vật của đàn bà lễ bái mừng tuổi đàn bà, mua hết quang cảnh không tốn tiền, khi đến nhằm vào mặt, không tránh né, trong người này có lẽ có duyên sanh. Thượng đường nói: Một lời đạo đoạn không động da môi, một lần nhấc lên không phí sức lực, chỉ được treo miệng trên vách, khéo hiểu rõ người ấy, ý ngay trước mắt, viên thành các việc, liền có thể nói lúc yên lặng, lúc nói, nhàn khi dụng, dụng khi nhàn, hãy nói ngay lúc dụng như thế nào? Giây lát nói: Cự linh giơ tay không nhiều con, chia phá Hoa Sơn ngàn vạn lớp. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Cửu Phong rằng: Thế nào là đầu? Phong đáp: Mở mắt ra không biết sáng. Tăng hỏi: Thế nào là đuôi? Phong đáp: Không ngồi giường vạn năm. Tăng hỏi: Khi có đầu không đuôi như thế nào? Phong đáp: Cuối cùng là không quý. Tăng hỏi: Khi có đuôi không đầu như thế nào? Phong đáp: Tuy ăn no nhưng không có sức. Tăng hỏi: Khi được đầu đuôi tương xứng là như thế nào? Phong đáp: Con cháu đắc lực trong nhà không biết. Sư nói: Này các thiền đức, mây theo rồng, gió theo hổ, khách đến nhà nước chảy về biển, đầu đuôi ngay thẳng, trong ngoài thông đồng, khắp nơi nhận định máy trâu sắt, nửa đêm trình bày đầy đủ sâu xa sự biến hóa của báo, tuy như thế, cũng chỉ là chỗ đắc lực của con cháu. Như trong nhà không biết, lại làm sao? Giây lát nói: Ngoài cửa có mây theo lấp đường mòn, trong tòa không soi sáng hơn đốt đèn. Thượng đường nói: Sát sát trần trần là ta, không chỗ giấu thân, khắp xứ khắp nơi đều gặp hắn, người này đủ mắt, trăm hoa trên đầu, đầu ngõ phố xá nhộn nhịp, lẫn lộn không được không cùng loại, loại không như nhau hoàn toàn thấm qua, phải biết là chỗ của nạp tăng, đại dụng hiện tiền, rộng giáo hóa người nửa điên nửa cuồng, trâu vàng tự ca tự múa, các vị lại biết chăng? Nhờ gió thổi lửa, dùng sắc không nhiều. Thượng đường nêu, Lỗ Tổ hễ thấy có vị tăng nào đến thì liền quay mặt vào vách. Nam Tuyền nói rằng: Ta bình thường hướng về người mà nói, gánh vác trước kiếp không, khi Phật chưa ra đời đích thân lấy, còn không được một cái hay nửa cái, hình như ông đi vào năm con lừa ấy. Sư nói rằng: Lỗ Tổ tận lực vì chúng, Nam Tuyền trong nhà chê xấu bên ngoài khen ngợi, Trường Lô kiểm điểm như thế, lại còn có người kiểm điểm Trường Lô chăng? Có kiểm điểm hay không hãy tạm gác qua, chỗ Lỗ Tổ vì người làm thế nào? Lại biết chăng? Hợp mâm không đáy đựng không hết, cái bát xuyên tâm, thúc giục tương lai. Thượng đường nói: Trong giống có khác, công lao mất chức vị thành tựu, trong khác có giống, mượn công ở chức vị, thầm dời một bước chuyển đường huyền bí, toàn thân buông xuống cướp bình không, ẩn ẩn mật mật, nhanh nhẹn, ghi nhớ mây dày phải biến thành báo, tự nhiên nước ứ rồng không ẩn. Thượng đường nói: Lân rồng không phải là tốt, châu ngọc không phải là quý, mắt nạp tăng mở ra thấy suốt cội nguồn sanh tử, cội nguồn sanh tử, Đệ nhất nghóa, tâm chư Phật, lỗ mũi của Tổ sư, truyền đăng của Thiếu Lâm, Linh Sơn thọ ký, tùy theo trình độ cao thấp, đây thế nào kia thế nào? Mượn các nhân duyên, thần thông du hý, có khi ngũ giáo tam thừa, có lúc tam đức lục vị, có lúc việc đầu ngõ, nơi nơi trong sạch gia phong, người người thấy trở thành công việc. Ngay lúc ấy, hãy nói làm sao thấy đó thành thọ dụng, lại biết chăng? Giây lát nói: Gió thổi cỏ rạp, nước chảy đến đâu ngòi thành đến đấy. Thượng đường nói: Một, hai, ba, bốn, năm, Hòa Sơn đánh trống trâu vàng múa, khi đến bổ vào mặt, nhìn vào xem, toàn thân buông xuống không quay lại. Các thiền đức, như lúc không quay lại thì làm thế nào? Giây lát nói: Ngàn cân vừa mới kéo lên, tự có người phát cơ. Thượng đường, có vị tăng hỏi Ký Đắc, tăng hỏi Ba Lăng: Thế nào là tông Đề-bà? Lăng đáp: Trong bát bạc đựng tuyết, chưa biết ý này như thế nào? Sư nói: Như rơi vào trong một sắc. Lại hỏi: Như thế thì thuyền rỗng chở đầy trăng, người đánh cá trú trong hoa lau? Sư hỏi: Sau khi xoay lại làm thế nào? Lại hỏi: Khi rồng được nước càng thêm khí thế, hổ gặp núi càng thêm dữ tợn. Sư nói: Tạm thích nhưng chớ giao thiệp. Lại nói: Thỉnh Hòa thượng nói. Sư nói: Muốn biết đản sanh cha hoàng tử, hạc bay vút lên bầu trời thoát ra khỏi lồng bạc. Sư bèn nói: Công việc như hôm nay trao phó cho người cũ, sớ trên trang đầu trải qua thời gian lại quen, ngân hà trăng soi lẫn Trường giang, ánh sáng trong mờ mịt đều một sắc đến thời tiết rơi vào công huân, nằm vững phải biết quay người lại, xoay được rồi biết nhau chăng? Rét cùng cực mặt miệng đen nứt nẻ. Thượng đường nói: Hôm nay là ngày giáng sinh của Thích-ca lão tử, Trường Lô không giảng thiền, vẽ kiểu này cho các vị, như ở lúc trong thai của Ma-da làm sao? Sư dùng cây phất trần vẽ, như khi dùng nước trong sạch tắm sắc vàng lại làm sao? Sư lại vẽ, như đi bảy bước mắt ngoái nhìn bốn phương, tay chỉ trời chỉ đất, thành đạo thuyết pháp, thần thông biến hóa, trí tuệ biện tài, bốn mươi chín năm, có hơn ba trăm hội thuyết pháp, nói xanh nói vàng, chỉ Đông vẽ Tây, nhập bát Niết- bàn, lại làm sao? Sư vẽ và nói rằng: Nếu là nạp tăng đủ mắt, nhất định cũng gật đầu khen việc ấy có lẽ chưa đúng, mỗi mỗi đều trải qua mới được. Thượng đường nói: Sáu căn trở về nguồn, linh minh triệt để không gì hơn, tánh tứ đại phục hồi, khắp người trong sạch không một mảy bụi chỉ được dứt nhân duyên đoạn tương tục, lẫn lộn xưa nay, lẫn lộn giống khác, các vị biết được chăng? Chim khôn không mộng trên cành mới mọc, hoa nở không có bóng Xuân trên đầu cây. Thượng đường nói: Tột đỉnh thấu đáy, người thấu suốt cội nguồn, là khi nào bước đi lại mất đầu đường, người tùy cao tùy thấp hợp vuông hợp tròn, là lúc nào hợp nhãn, lại mất chỗ. Các thiền đức, làm sao thực hiện được thông đồng nhất quán? Giây lát lại nói: Người tài giỏi giống như hoa sen trong lửa, nhà người tự có ý vút trời. Tiết Càn Long, thượng đường nói: Chủ trời đất, cao quý của biển núi, chặt chẽ không kẻ hở, trường tồn mãi mãi, đều cầm cán tạo hóa, khéo được nguồn gốc sanh thành thọ lượng của người này vậy. rồng phun mưa dầu rửa sạch xương núi, người này thần minh vậy. Cóc bám sương trong xoa hồn nguyệt, ngay lúc ấy, mắt Thuấn nhìn xuống, được Thánh che chở theo Phật học Phật. Ngày nay chúc trên mày Nghiên là tri ân báo ân của chúng ta. Thượng đường nói: Này các thiền đức, cùng che chở với trời đất, cùng thấm nhuần với ân tuệ, cùng sanh thành với cỏ cây, cùng tới lui với nước mây, cùng tốt xấu với quỷ thần, cùng âm dương với thời gian. Cho nên nói: Vạn vật tự có công, phải nói chỗ dùng cùng cực, việc còn gói đậy kín, theo lý phải chống mũi tên, ngay lúc ấy làm thế nào, được bao che mũi tên, lại biết chăng? Khắp cõi không từng che, khắp người không bình thường. Thượng đường nói: Cần gì lại nêu lên, toàn thể hiện oai hùng, khi thời tiết nóng ẩm mưa cỏ thơm theo gió tỏa mùi hương, mầm mạ non mới nhú xuyên qua vết nước cạn, sức yếu muốn cắt đứt sợi liễu dài, trong mười hai mâm ngừng hoan hô khen ngợi, rõ ràng xúc sự vừa ngang nhau. Mùa kiết hạ, thượng đường nói: Một trần có vô lượng quốc độ, một niệm vượt qua vô lượng số kiếp, một thân hiện vô lượng chúng sanh, một thể hợp vô lượng chư Phật. Cho nên nói: Lấy viên giác làm già-lam của ta, thân tâm an cư bình đẳng tánh trí, như thế thì không thể dùng nơi chốn làm giới hạn, không thể dùng thời gian làm hạn chế, mình, người hòa hợp, thì nước sữa như nhau, chủ bạn tham kiến lẫn nhau, thì bóng và gương soi nhau, như cấm túc hộ sanh, lại đối thoại như thế nào? Giây lát nói: Tâm tâm không niệm khác, bước bước không mất phương hướng. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Lỗ Tổ rằng: Thế nào là không nói năng? Tổ hỏi: Miệng ông ở chỗ nào? Tăng đáp: Con không có miệng. Tổ hỏi: Thường ngày ông ăn cơm bằng gì? Tăng không nói, Tổ liền đánh. Sư nói rằng: Chỉ biết nắm cổ rắn chết, không thể vuốt râu mãnh hổ, khi đó đợi người khác hỏi miệng ông ở chỗ nào, liền hét một tiếng, phủi tay áo đứng dậy đi. Dù hiểu toàn cơ của Lỗ Tổ, thường thường làm động tác không kịp. Thượng đường nêu, Bách Trượng Niết-bàn, Hòa thượng hỏi Nam Tuyền rằng: Từ trên các bậc Thánh, vẫn còn có người không vì người thuyết pháp chăng? Ngài Nam Tuyền đáp: Có. Bách Trượng hỏi: Thế nào là không vì người thuyết pháp? Tuyền đáp: Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật. Trượng nói: Nói xong vậy. Tuyền nói: Con chỉ như thế, Hòa thượng lại như thế nào? Trượng nói: Tôi không phải là thiện tri thức, biết thế nào có nói hay không nói? Tuyền đáp: Con không hiểu. Trượng nói: Ta rất kém nhưng cũng vì ông nói. Sư nói rằng: Này đại chúng, quan hệ xoắn xuýt của Vương lão sư, bị Hòa thượng Niết-bàn cắt đứt rồi, quan hệ xoắn xuýt của Hòa thượng Niết-bàn lại không bị động. Không chỉ bỏ qua việc cũ, cũng chính là tận pháp không có người. Tuy nhiên như vậy, lại kiểm điểm được chăng? Như ngày nay đoạt được ngọc bích liên thành, chủ tướng Tần như tất cả mất thân. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Trí Môn rằng: Khi hoa sen chưa nhú lên khỏi mặt nước là như thế nào? Ngài Trí Môn đáp: Hoa sen. Tăng hỏi: Sau khi ra khỏi nước như thế nào? Môn đáp: Lá sen. Sư nói: Tòng lâm phần nhiều là ra khỏi mặt nước hay chưa ra khỏi mặt nước, bàn bạc hoa sen lá sen, ta cũng biết ông vẽ chân cho rắn, lại có người truyền khẩu lệnh, có người đoán nghe tiếng hư không, vẫn chưa bị tiêu diệt, Trường Lô vì ông mà lấy lại rồi, mới biết Trí Môn là người không chắc nhất định. Ngày nay Trường Lô phần lớn giống như treo bình trà vững chắc. Nêu, Thủ tọa lập tăng, thượng đường nói rằng: Nhà ta trồng cỏ xưa nay là khó, lỗ kim tài trí xuyên qua đầu sợi chỉ, chỗ lẫn lộn chờ đợi nhau nắm tay ông, đến lúc không cùng mâm với ông, nhưng đến đại dụng tung hoành ấy, hướng đi toàn công quay nghiêng xem, việc ấy phải nhờ Sư ấn khả, luân hồi sanh tử không dính dáng nhau. Thượng đường nêu, có vị tăng hỏi Vân Môn rằng: Giết cha giết mẹ, đối trước Phật sám hối, giết Phật giết Tổ, hướng vào đâu để sám hối? Ngài Vân Môn đáp: Lộ Sư nói rằng: Này các thiền đức! Không gốc vá bít rèm nhỏ, tùy tâm tự tại, ngay nơi ấy giải thích, lại biết chăng? Một pháp hữu dư nắm không được, một pháp vô dư cũng lại trừ đi. Thượng đường nói rằng: Đến không chỗ theo, đi không chỗ hướng về, đạt một lý đều bình đẳng, thấy tướng không của các pháp, tảng sáng mây tan mặt trời lộ rõ, mưa đến quá giờ nước suối dâng cao, soi thể độc lập thường trụ nhất như, ứng chân không mượn sum-la vạn tượng, không cần ông lại khởi tư duy, tự có người phổ đồng cúng dường. Sư cao tiếng gọi rằng: Thiền Hòa Tử ngừng nghỉ, nếu không thọ thực là tôn quý đọa. Thượng đường nói rằng: Diệt mà không diệt, hợp thể với hư không mà linh hoạt. Sanh mà không sanh, đồng dụng với sum-la mà vi diệu, kiếp trước không có điềm báo trước, thân sau có nhà, hạc mộng trong tổ lạnh, trăng sáng rực trong rừng xanh, rồng ngâm vịnh suốt đêm, mây chập chờn dựa vào cây khô. Các thiền đức, ngay lúc ấy không sanh diệt, dứt đến đi, hay có nạp tăng thực hiện, lại thể hội được chăng? Giây lát nói: Khói tuyết ngậm cỏ lau xanh biếc trên đầu cát, gió thu đùa cỏ bợ trên sông. Thượng đường nêu, Thuyền Tử dặn dò Hiệp Sơn rằng: Chỉ cần ẩn thân ở chỗ không tung tích, chỗ không tung tích chớ ẩn thân, ta ba mươi năm ở chỗ Dược Sơn, chỉ nói việc này. Sư nói: Này các thiền đức, núi lạnh cỏ lạ, ngồi được thành công, trăng sáng mây trắng khi bước phân bóng, ngay lúc ấy làm sao bước đi? Giây lát nói rằng: Hang tối không có ý khóa chặt cửa, ngang dọc liên quan người hai đầu kia. Thượng đường nói rằng: Này các thiền đức, mây vô tâm mà tự nhàn rỗi, trời không ranh giới mà có thể nới rộng thêm, đạo không hình mà ứng hiện rộng khắp, tinh thần không lo nghó mà thường an ổn, theo đó cũng không thấy vất chân đi, đón nó cũng không thấy bước đầu đến, một tạng giáo chỉ được khen ngợi, ba đời Phật chỉ có thể dửng dưng, đuốc sáng nhà trống, người đàn bà dệt vải xoay mũi nhỏ của con thoi máy, nước sáng đêm thanh vắng, lão đánh cá mặc chiếc áo tơi chèo thuyền đêm trăng lạnh. Các thiền đức, lại từng được mức độ và thời tiết này chăng? Có lẽ chưa được như vậy, đừng nêu lộn xộn. Thượng đường nói rằng: Đại chúng, ép mè thì được dầu mè, nấu gạo lùn thành cơm, lại tòng lâm của ta ăn no rồi tham kiến lão hán. Nạp tăng hành đạo quý ở tấm lòng bình lặng, cần gì đến thời cơ mới tranh giành thay đổi. Công việc tự nhiên, gia phong được hiện, thuận theo dòng nước liền có gió, đưa thuyền đến bờ, Hàn Sơn, Thập Đắc cười ha ha, tâm này dặn dò tri âm phân biệt. Ngữ lục thiền viện Sùng Phước ở huyện Trường lô tỉnh Trân châu (hết). * Ngày Tiểu tham, Sư bảo chúng rằng: Này các huynh đệ, tơ tằm không treo trên máy, người gỗ thầm ném con thoi vàng, văn hoa chưa rõ ràng. Thạch nữ cầm ấn ngọc trước, khéo biết đất canh tác, há liên quan tới duyên xuân, sáng láng nhà chính, đâu liên quan tới ý hiểu biết, đều chẳng phải cô lập trăng trước gió, vượn hú trên cây, lệch một bên há đi một mình, bãi cù lao xanh biếc ngoài sương mù, cò trắng trú ngụ, trong ánh sáng tài năng chưa hiện, lúc ẩn thì tài năng lỗi lạc, hợp thông đều mang theo tài hèn, liền thấy phạm vào mũi nhọn tổn thương tay, máy sáu cửa dừng, điều ấy cần phải uyển chuyển đến gần tham cứu, rặt một loại công lao đầy đủ, tối kî nhằm ngay đầu ấn bể, nằm mộng dùng tay mở cửa trăng, quay người gạt đổ vòng ngọc, mới có thể thoát ra tính khí của mình, mới tránh khỏi ngồi giường chõng của người khác. Trâu bùn cất bước, đã nẩy mầm duyên kiến hóa. Ngựa gỗ hý gió chính là việc lợi sanh, làm sao thực hiện được tương ưng như thế? Giây lát lại nói: Lại biết chăng? Nửa đêm dây câu ngừng tìm kiếm, gió thu lùa nhẹ qua mặt hồ lấp lánh ánh trăng. Tiểu tham nói rằng: Này các huynh đệ, nếu nói về việc này, cùng gió đi ngàn dặm, kia và ta đâu có xa xôi gì, há hình và tiếng mà có thể cách nhau ư! Mây trên cao đùa nhẹ, lộc cây cát ngậm mùa xuân, chạm vào chỗ ở hiện ánh sáng này, trăm sông cùng một vị, tận mười phương thế giới mà đều là nhà của ta, ngay vạn tượng sum-la mà lại không có pháp khác khắp người không ứ đọng, lau tay không bắt chước, quay về một phía gặp nhau, hợp nhau nói về việc gì lại biết chăng? Giây lát nói rằng: Vào cửa tóc bạc cười thêm tuyết, con ếch lên bờ từ bùn dơ. Trình bày xong lại nói rằng: Sóng dâng phủ thuyền, tuyết vẩy ướt trên không, mười năm trong lòng vương gió từ, như nay lúc gặp nhau trên nhà giảng dặn dò trong lúc uống trà cười nói. nhớ Bảo Phước hỏi Nga Hồ, tiên sư Tuyết Phong nói rằng: Đình Vọng châu đã gặp ông rồi, đỉnh Ô thạch đã gặp ông rồi, trước tăng đường cũng đã gặp ông rồi. Trước tăng đường thì lại hết giờ, đình Vọng châu, đỉnh Ô thạch gặp nhau ở chỗ nào? Nga Hồ bước nhanh về phương trượng. Bảo Phước liền vào tăng đường. Tuyết Đậu nói rằng: Hai lão túc ấy chỉ biết Tuyết Phong nắm chắc. Như Giác thượng tọa, vừa đến với Hòa thượng Trường Lô, trước tam môn chấp tay chào hỏi phương trượng dẫn đầu việc đời, chấp tay đứng dậy uốn mình bắt tréo tay. Các vị gặp nhau như thế cũng chỉ là phóng hạnh, hãy nói chỗ nắm chắc làm sao gặp nhau, lại biết chăng? Hạc và ngỗng đều đầu đội tuyết mà ngủ, trăng sáng sợ động hay chần chừ. Tiểu tham nói rằng: Này các thiền đức, trước đầu lâu xưa nay vốn có linh nghiệm soi suốt đỉnh Tỳ-lô. Ngựa ngọc qua cửa ải mới nửa đêm, gà gỗ gáy trăng vừa đúng canh ba, lưa thưa sạch vết toàn công chuyển, rõ ràng ánh sáng sanh mượn vị minh, lại mặc tệ y rủ tay giáo hóa, hợp đồng thuyền thuận dòng lưu hành, huynh đệ ruộng đất này phô bày suốt xưa nay, là việc phần trên vốn có của ( 15.) các vị, chỉ là một niệm mê, bị các duyên lôi kéo, cho nên không được tự tại, vất vả bậc tiên giác khác kiến lập hóa môn, cũng chỉ khuyên các vị như thế, tự ngừng nghỉ đi, ngừng nghỉ tức là Bồ-đề, tâm trong sáng thù thắng không từ người mà được liền biết, đêm sáng ngoài rèm, trong tối nghịch con thoi máy, trăng sáng trước nhà, khéo dùng kim chỉ, ngày dài giống như gương, công đầy đủ thoát khỏi ba duyên kia, đại địa như mây, qua một màu ở chỗ ngồi khác, lúc ấy xoay chuyển, chạm vào chỗ tài năng lỗi lạc, căn căn trần trần đều là Phật sự, từng bước đi đều là đạo tràng, vừa đúng hiện thành, không một mải mai dời đổi. Đến đây Tổ sư không có pháp trao cho người ngoài phận sự, chư Phật không truyền tâm cho người ngoài phận sự, vốn không dư thừa, đâu có phải thiếu hụt. Như nay bên trái lập các đàn-việt, bên phải lập nạp tăng Trường Lô, cần gì phải tham cứu tìm tòi, thiền lúc nào không có, đâu dùng sám hối, tội ở chỗ nào được đến, tự nhiên thì vật khế hợp với tinh thần, phải chăng trái trở về thường hợp đạo, chớ nói vị lai Phật thọ ký cho ông, đâu nhờ Phật quá khứ chứng minh cho ta, như ông hiện tại đây không thể đắc tâm, chính là thường trụ vô lượng thọ Phật, các vị nếu hướng vào đây, thấu đỉnh thấu đáy, suốt gốc suốt ngọn, biết được chăng, có việc gì? Có lẽ chưa đúng. Trăm chim không đến mùa Xuân lại qua, không biết ai là người đến am, trình bày xong, nêu Tam Tổ hỏi Nhị Tổ rằng: Con có nhiều tội chướng xin sám hối thầy được chăng? Nhị Tổ nói: Đem tội đến cùng ông sám hối. Tam Tổ thưa: Tìm tánh tội rõ ràng không thể được. Nhị Tổ nói: Cùng người nữ sám hối tội xong. Tam Tổ liền lễ bái. Sư nói: Tam Tổ tự té tự đứng dậy. Nhị Tổ ngoài lầu xây lầu. Tối nay thiện hữu, Hải Lăng hỏi Giác thượng tọa cầu sám hối, nếu cũng hướng vào trong đây, vết tâm đều lẫn lộn, trên thân không có bệnh nhọt, danh tướng vừa khởi lên, rửa đất trong bùn cuối cùng làm sao? Trăng lạnh trên không giữa ngọ, tùng lạnh sương phủ đầy vạt áo. Tiểu tham nói rằng: Các huynh đệ, mười phương không có vách mới, từ xưa đến nay vốn không ngăn lan can, bốn phía cũng không có cửa, chỉ trong đây chính là chỗ của người, có thể nói rằng thông đường tin tức, hiệp đường ngay gió, điều ấy có lẽ ngược lại trở về muộn, liền là gõ đầu gõ trán. Ngay lúc ấy làm thế nào? Giây lát nói: Ngựa ngọc bằng tuyết đi về nửa đêm, linh dương đội sừng, trăng lặng về phía Tây. Trình bày xong lại nói rằng: Các huynh đệ, ba đời chư Phật không biết có, kiểm soát không đến, bò đực trắng, cáo, đầy tớ lại biết có đến thì không kiểm soát, cần gì hoạt động thần thông, chỉ diệt trừ tri kiến ấy, mây bắt đầu bay cũng như hiện tượng của sao xếp như hạt châu, trăng lên cũng như ánh sáng soi khắp trên sông. U mê như người ngớ ngẩn, nhà người tự có nhà thông thái phân tích. Ngay lúc ấy, hãy nói làm sao phân biệt, chỉ hướng đạo ba năm một nhuận. Tiểu tham nói rằng: Các huynh đệ, đại công vừa chuyển, mượn làm đản sanh, một sắc nếu tan đi mới gọi là tôn quý. Trong tế dời chân, hạc bay ra khỏi lồng bạc, trong vị quay đầu lại, trăng soi đất vàng, chánh không riêng trì trệ, riêng tự song hành, buông mở thì ba đời đều không có chỗ rỗng trống. Cho nên nói: Tận mười phương thế giới là một con mắt của ông, tận mười phương thế giới là bản thân ông, tận mười phương thế giới là ánh sáng của ông, tận mười phương thế giới là môn giải thoát này. Chỗ nào chẳng phải là chỗ thành Phật của ông? Lúc nào không phải là lúc ông thuyết pháp? Không nghe nói Hộ Minh không từ Đâu-suất giáng sinh, một bánh xe tròn đầy, chuyển khắp mười phương. Trình bày xong lại nêu, có vị tăng hỏi ngài Thanh Lâm rằng: Con thẳng đến là như thế nào? Lâm đáp: Rắn chết ngay đường cái, khuyên ông chớ có nắm đầu. Tăng hỏi: Lúc nắm đầu thì như thế nào? Lâm nói: Mất mạng căn của ông. Tăng hỏi: Khi không nắm đầu như thế nào? Lâm đáp: Cũng không có chỗ tránh né. Tăng hỏi: Ngay lúc ấy như thế nào? Lâm đáp: Bỏ đi. Tăng hỏi: Chưa biết, hướng đến chỗ nào để đi? Lâm đáp: Cỏ rậm không có chỗ tìm. Tăng nói: Hòa thượng cũng phải cần để điều mới được. Lâm vỗ tay nói rằng: Một loại là hơi độc này. Sư nói: Tăng ấy biết hỏi. Thanh Lâm biết đùa, có thể nói là sâu xa không phạm, trở lại tham vấn lẫn nhau, nắm chắc yết hầu mới là người tài giỏi, chạm vào hơi độc khác không phải là tác gia. Hãy nói, ngay lúc ấy, cuối cùng làm sao? Giây lát nói: Túi không đáy đựng đem đi, rổ không đáy được lấy đến. Tiểu tham nói rằng: Lúc ấy nơi ấy là mảnh đất an cư của các huynh đệ, lại đầu đuôi cũng không, mà việc hôm nay mình không nắm bắt được, liền có lời đối đáp lại, khuôn mẫu của Phật trước để lại, cấm túc an cư, chỉ cần các vị cẩn thận đi từng bước, không khởi tưởng niệm chúng sanh, bỏ hết nhanh trí, bỏ hết phan duyên, một mực nghỉ ngơi, cùng giáo đến đấy, mở giáo tận cùng, chớ nương tựa, chứ dừng lại, luôn làm cho không có một chút dính mắc, mới gọi là người biết làm công việc, người biết nối gia nghiệp. Cho nên người xưa nói rằng: Như người ở nhà ba mươi năm lo gia nghiệp gì không làm, như ngài Vân Cái hỏi Thạch Sương rằng: Muôn cửa đều mở thì không hỏi, mà khi muôn cửa đều đóng thì như thế nào? Sương hỏi rằng: Việc trong nhà thì làm sao? Cái không nói, trải qua nửa năm mới đến thưa rằng: Không có người nhận được hắn. Sương nói rằng: Đạo là quá sát đạo chỉ nói được một nửa. Cái hỏi rằng: Hòa thượng lại làm sao? Thạch Sương nói: Không có người biết được hắn. Cái liền đảnh lễ, các huynh đệ, con đến thì cha đi, công đầy đủ thì chuyển đường động phạm thì đầu sừng mọc, xấu xa vụng về bộc lộ, dù trên điện lưu ly, ngọc nữ lắc đầu, trăng sáng trước nhà người đá vỗ tay cũng chỉ là việc bên bàng tham. Đến đây ba đời chư Phật ngắm nhìn không tới, lịch đại Tổ sư khen chê không được, lão Hòa thượng trong thiên hạ chú thích cũng không được, mới có chút phần tương ưng. Như nay muốn được đi như thế chăng? Lại xoa đầu mở trung gian buông xuống, lấy trước đầu lâu, sau tứ đại, tình hình bên rong có lẽ dẫn được tương lai, mới tin đạo. Trong mười phương thế giới chỉ có pháp Nhất thừa, lại không có một giọt thấm ướt, chỉ được trần trần sát sát Phật Phật Tổ Tổ, chớ nói Phật Tổ an cư ở trong sát trần, căn bản lớn thì liền đúng, dự tính thì lời nói là chặt cây ra làm hai mảnh, mù mờ thì không được nhất như. Không thấy Vân Môn đưa gậy lên bảo chúng rằng: Gậy hóa thành rồng, nuốt mất càn khôn rồi, sơn hà đại địa được đến đâu. Này các huynh đệ, Vân Môn đón lấy mười phương thế giới và tất cả chúng sanh đều kết chế ở trên đầu gậy, có thể nói là một trần nhập vào chánh thọ, các trần Tam-muội khởi, thời gian ngắn ngủi một kiếp cho là một ngày, kéo dài một ngày cho là một kiếp, há chỉ dùng một mùa hạ làm thời gian, một chỗ làm nơi chốn. Tổ không nói chăng, tông chẳng phải gấp rút hay trì hoãn, một niệm vạn năm, bất kể còn hay không còn, mười phương trước mắt, nếu có thể thực hiện như thế thì được, tương ưng thì biết, lấy pháp giới làm bến bờ, lấy viên giác làm già-lam. Hãy nói: Thế nào là người trong già-lam? Giây lát nói: Cò nương vào tổ tuyết còn hiểu được, quạ rơi vào nước sơn lập sự khó biết. Trình bày xong lại nêu, có vị tăng hỏi Động Sơn rằng: Lạnh nóng đến làm thế nào tránh? Sơn hỏi lại: Sao không hướng đến chỗ không có lạnh nóng? Tăng hỏi: Thế nào là chỗ không có lạnh nóng? Sơn đáp: Lúc lạnh, lạnh chết xà-lê, khi nóng, nóng chết xà-lê. Sư nói: Một mâm đen trắng xen nhau bày ra sanh sát trong đó mài giũa tinh vi, người đốn củi nghi ngờ đụng ngay đầu, không biết túi không rách nát, cán rìu. Tiểu tham nói rằng: Tâm sanh diệt hết là tịch diệt, thời tiết cột sương mang thai. Tâm tịch diệt khởi là sanh diệt, thạch nữ sanh con biết nói năng, dùng thời vạn tượng không dư thừa, chỗ dừng nhấc chân không có chỗ trống, dây leo cây khô ngã cười ha ha, nhớ gió mát trăng sáng như cũ. Triệu Châu hỏi Đầu Tử rằng: Huynh đệ không vào cửa, không ra khỏi cửa, đứng trên đỉnh núi cao cao hiện thân ấy, đi vào biển sâu không giấu vết chân. Người gỗ nắm ấn, ngay gió thổi văn hoa chưa lộ ra. Ngọc nữ ném con thoi, ngay đó máy quay tơ không treo lúc ấy lại hợp thế nào trở thành đùa giỡn, lại biết chăng? Thầm dời một bước, sáu cửa sáng không giới hạn quang cảnh đại địa là mùa Xuân. Tiểu tham, có vị tăng hỏi: Thế nào là thiên trong chánh? Sư đáp: Trời sáng cùng mây trắng. Lại hỏi: Thế nào là chánh trong thiên? Sư đáp: Nước chảy cùng trăng sáng. Lại hỏi: Thế nào là từ trong chánh đến? Sư đáp: Chớ nói cá côn cá voi không có lông cánh. Ngày nay đích thân theo đường chim bay trởø về. Lại hỏi: Thế nào là tột cùng trong thiên? Sư đáp: Đương cơ không trở về lẫn nhau, giáp mặt kẻ địch không sau trước. Lại hỏi: Thế nào là đến trong kiêm? Sư đáp: Bảo điện không có người không đứng hầu, không trồng cây ngô đồng tránh được chim phượng đến đậu. Lại hỏi: Năm chỗ đã được Sư chỉ bày, hướng thượng lại thêm có việc chăng? Sư đáp: Có. Lại hỏi: Thế nào là việc hướng thượng? Sư đáp: Ban đầu có thể cắt lưỡi, ai dám đương đầu, Sư bèn nói thêm rằng: Ứng duyên không ngưng đọng, đức dùng không lẻ loi, trên đầu trăm cỏ, tiến được rõ ràng tâm của Tổ sư, trong sáu trần chồng chất, nhặt được con mắt thấy rõ chính mình, trên cục thịt đỏ, vô vị chân nhân, đầu ngõ chợ ồn ào, kẻ mạnh giàu sang, đường đường không mơ hồ, vừa đúng hiện thành, dù phá hai không thành một, vẫn là việc kiến hóa môn đầu một cái chân thật, thời tiết như thế, thân không cần cha mẹ hòa hợp, đạo không mượn trời đất sanh thành. Giây lát lại nói: Mười châu Xuân hết hoa điều tàn, mặt trời sáng chói rừng cây san hô. Lại nêu, Quán Khê hỏi Mạc Sơn rằng: Thế nào là Mạc Sơn? Sơn đáp: Không lộ đỉnh. Quán hỏi: Thế nào là Mạc Sơn chủ? Sơn đáp: Chẳng phải các tướng nam nữ. Quán hỏi: Sao không biến đi? Sơn đáp: Chẳng phải thần chẳng phải quỷ biến gì đây? Quán từ đây vào thất. Sư nói: Chẳng phải nam, chẳng phải nữ, không phải thần không phải quỷ, không phải Phật cũng không phải vật, chỉ biết mây trắng vô tận, ai biết núi xanh ở trước mắt, ban đêm biết lấy bỏ hạt châu của rắn. Ao lạnh bỏ xuống xương rồng xanh, bình thường kéo đứt sợi tơ màu tím, trên trời hay nhân gian nhận không được, việc nhận không được, xưa nay không có hang ổ. Tiểu tham nói rằng: Này các huynh đệ, một chiếc lá rơi thiên hạ là mùa Thu, một trần khởi thâu cả đại địa, đưa lên cùng khắp cả pháp giới, ứng dụng không hiệu quả, buông xuống cũng thanh tịnh bản nhiên, rỗng sáng dứt đối đãi, bọn nạp tăng có lúc tìm đến gậy sừng thỏ, đi vòng khắp thiên hạ, đi không có tướng đi, liền biết mây nước là xà-lê, xà-lê là mây nước. Có khi ngồi tòa pháp không, ngồi đoạn đầu báo thân, hóa thân Phật. Trụ tướng vô trụ mới thấy được gia phong là chính mình, chính mình là gia phong, chỉ được hai tướng động tónh, hiểu rõ không sanh, như thế cũng được không như thế cũng được, như thế không như thế đều được. Tuy nhiên như thế, không thấy đạo, dù cho là khách vui vẻ, thiếu kém giống như ở nhà nghèo. Lại nêu, có vị tăng hỏi Cửu Phong rằng: Cuối hạ ở Tây Thiên phần nhiều có người đắc đạo quả, Hòa thượng trong đây lại có chăng? Phong đáp: Có. Tăng hỏi: Là ai vậy? Phong đáp: Đầu đội trăng nửa đêm, chân giẫm lên đất vàng. Tăng hỏi: Lại chuyển chăng? Phong hỏi lại: Làm sao không chuyển? Tăng hỏi: Thế nào là chuyển? Phong đáp: Xưa nay đã nghe rồng rút xương. Sư nói rằng: Không giữ công không được sắc, người ngọc chưa soi đúng đài gương, thạch nữ không lên cung trăng xuống máy, có thể nói rằng rồng ngậm cây khô, còn mang niềm vui ở trong, đầu lâu và mắt còn mang thức ở trong, chỉ là trí không khắp nơi. Khi đã chuyển đường hãy nói hợp làm sao biết? Giây lát nói: Lại biết chăng? Lau sậy dễ biết tướng lẫn lộn với tuyết, trời nước khó phân biệt hợp đồng mùa Thu. Tiểu tham nói rằng: Căn bản là một thông minh, chia thành sáu hòa hợp. Cho nên nói rằng: Ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi ngửi mùi hương, ở lưỡi nói năng, ở tay thì cầm nắm, ở chân thì đi chạy, cửa cửa đều thông, nơi nơi hiện, không che giấu chớ tránh nhau. Thích- ca lão tử phân ngàn trăm ức hóa thân, Quán Âm Bồ-tát có đủ bốn vạn tám ngàn tay mắt, vận đại thần thông, phóng đại quang minh, hiện tướng công đức, làm việc trang nghiêm, nhưng đối với báo hóa môn đầu thì được trên thật tế địa đều dùng một chút cũng không được. Như tứ đại tan hoại ngũ uẩn không, sáu căn tối tăm, bảy thức bỏ hết, suốt đời mánh khóe đều làm không được, hiểu biết suốt đời đều quên hết, thân thuộc giữ lại không ở, thích chơi đùa sẽ không đi, không nhà có thể ngồi, không nơi có thể an, được không có một chút chỗ cho phép thật làm sao thực hiện? Lại biết chăng? Giây lát lại nói: Đêm đến mây tan sao bắc đẩu rơi, lấy được lỗ mũi lại mất miệng. Lại nêu, Định Sơn nói rằng: Trong sanh tử không có Phật, thì chẳng có sanh tử. Hiệp Sơn nói rằng: Trong sanh tử có Phật thì không mê sanh tử, cùng đến hỏi Đại Mai, được ngồi lại một lúc, không thể phân sơ nhưng mà công án hiện thành, Giác thượng tọa không tránh khỏi đưa ra một bàn tay và chặt gãy đi, có chỗ chớ tuân theo, biết phải dời bước trong công, không chỗ chớ dừng lại, lại phải chuyển thân trong vị, hãy nói, rốt cuộc như thế nào? Lại biết chăng? Trăng đêm có ánh sáng soi qua cánh đồng, mây trắng không mưa bọc núi Thu. Tiểu tham nói rằng: Này huynh đệ, rỗng lặng mà linh, không mà diệu, chỗ dụng không công việc, lúc tịch lại sáng vằng vặc, theo nguồn gốc của nhất như, phải biết ngàn sai khác, người trong đây không ngay không đổ, không bệnh không chết, không sanh không già, chỉ tự chứng để tương ưng, chẳng suy nghó mà có thể đến, xưa vượt qua trận gió mát một mảnh mùa Thu, màu trăng ánh sáng lạnh trên sông soi nhau. Lại nêu, Hòa thượng Động Sơn đang có bệnh. Tăng hỏi: Bệnh của Hòa thượng lại có người không bệnh chăng? Sơn đáp: Có. Tăng hỏi: Người không bệnh lại đến thăm Hòa thượng chăng? Sơn đáp: Lão tăng thăm người khác có phần. Tăng hỏi: Lúc Hòa thượng thăm người khác như thế nào? Sơn đáp: Thì không thấy có người bệnh. Sư nói rằng: Đã không thấy có bệnh, thì không thấy có người chết, cũng không thấy có sanh cũng không thấy có già, bốn tướng không thể dời, ba đời không thể chuyển đổi, ngay lúc ấy, lại làm sao thăm người khác. Giây lát nói rằng: Lại biết chăng? Khỏi mở con mắt tròn sáng thanh tịnh, biết dùng người kiết tường an lạc. Tiểu tham nói rằng: Này các huynh đệ, thể trong sạch rỗng rang mượn đường có thể đến, duyên sai khác, tùy tâm tự hết. Rắn chết làm sống lại, ngựa hay kéo được trở về, mới tin được mây núi chầm chậm, nước sông cuồn cuộn khắp nơi đều vào tông này, đầu đầu không có pháp khác. Ngay lúc ấy, lại biết chăng? Ráng mây sa và vịt lẻ loi đều bay, thu thủy và trường thiên một màu. Lại nêu, có vị tăng hỏi Triệu Châu rằng: Thế nào là Triệu Châu? Triệu Châu đáp: Cửa phía Đông, Nam, Tây, Bắc. Sư nói: Này các huynh đệ, bốn cửa của Triệu Châu luôn mở không trở ngại sự qua lại của các vị, ngã tư đường phố, người gọi to, cửa hàng mua bán không nghi ngờ nhau, thấy được như thế mới biết, Triệu Châu lão tử và nạp tăng lấy mạt vàng trong mắt ra, bỏ vết bùn trên mũi rồi vậy, lại gốc ngọn chăng? Trăng tròn đến trung thu, gió lạnh từ tháng tám. Tiểu tham nói rằng: Này các huynh đệ, hành hành không tung tích, ngựa đá bị roi vàng, trụ trụ không dựng lại, người gỗ gõ cửa ngọc, mượn công nói vị, chỗ dụng ở thể, mượn vị nói công, chỗ thể ở dụng. Dù thực hành như thế đi được mười phần trăm vẫn là bên việc bàng tham. Hãy nói: Khi không mượn thì rơi vào chỗ nào? Giây lát lại nói: Lại biết chăng? Người xưa nằm trên chòm sao ngàn đỉnh, Phật tổ không nguyên nhân biết được hắn. Lại nêu, Lục Tổ hỏi Nhượng Hòa thượng rằng: Từ đâu đến? Nhượng đáp: Từ chỗ An quốc sư, Tung sơn đến. Tổ hỏi: Vật gì đến như thế? Nhượng trải qua tám năm sau mới đến nói rằng: Nói giống như một vật thì không được. Tổ hỏi: Lại cần tu chứng chăng? Nhượng đáp: Tu chứng thì không thể không, ô nhiễm thì không được. Sư nói: Xưa nay không giống nhau chỗ nào lại bị nhiễm ô? Nhưng mà đoán định hướng thì chạm đến, bỏ phí thời giờ thì trái. Hãy nói ngay lúc ấy làm thế nào? Lại biết chăng? Đầu cao ba thước biết là ai, đối lập nhau không nói đứng một chân. Tiểu tham nói rằng: Này các huynh đệ, bản nguyên không sóng gió, cõi chân thật dứt giới hạn bến bờ, người gỗ bước trăng theo, xoay nghiêng công huân hết, nhà nạp tăng phải đến mảnh đất này, có thể nói là kim vàng lỗ nhỏ, chỉ ngọc mũi dài. Lúc ấy diệu trí nối liền mới được mười phần thông suốt, không ngăn ngại dòng nước xiết qua lưỡi dao, nhọc nhằn gì dừng cái thoi dừng bộ máy. Mắt tinh anh soi thân ngoài kiếp, chết máy vận bước thời nay, mới tin rằng chúng sanh và quốc độ đều đồng một pháp tánh. Hãy nói rốt cuộc được sức ân của ai? Lại biết chăng? Khi ngón tay chỉ lên không trời đất chuyển, quay đầu lại thì gió trăng thuộc về nhà của ta. Lại nêu, có vị tăng hỏi ngài Hộ Quốc rằng: Thế nào là bổn sanh cha mẹ của Hòa thượng? Hộ Quốc đáp: Đầu không bạc là đấy. Tăng hỏi: Chưa biết đem vật gì để kính dâng? Hộ Quốc đáp: Ân cần không cơm gạo, trước nhà không hỏi thân. Sư nói rằng: Khi khói nước cách nhau, xa xôi ý nguyện còn, gió mây hợp lại một chỗ, hướng đi công còn lại, dù cùng một sắc thành một nhà, còn chưa hợp thể với người kia. Hãy nói rốt cuộc như thế nào? Giây lát nói rằng: Người gỗ nói nửa đêm, không cho người ngoài biết. Tiểu tham nói rằng: Đất nước lửa gió không mượn, tất cả không giữ lại lại tiêu dao tự tại, gia phong rộng lớn và yên tónh bằng hư không, ruộng đất rỗng rang sáng suốt chẳng phải ngày đêm, đường chim bay phải biết cất chân là khó, huyền cơ không thể treo trên đầu dây tơ, trong giống có khác, trong khác có giống, đều chìm đắm đến tận đáy không có khe hở. Cho nên Hòa thượng Hoàng Long Tân nói rằng: Cò trắng nương vào tổ tuyết, trong đồng có dị; quạ nhảy vào nước sơn đen, trong dị có đồng, Hoàng Long lão tử tuy là tông khác nhưng lại được điều kỳ diệu của nhà ta. Lại phân biệt được chăng? Gà vàng mổ bể trứng lưu ly, thỏ ngọc đẩy mở cửa biển xanh. Lại nêu, có tăng hỏi Triệu Châu rằng: Chó có Phật tánh chăng? Châu đáp: Có. Tăng hỏi: Vì sao xô vào là túi da này? Châu đáp: Vì nó biết mà cố phạm. Tăng lại hỏi: Chó có Phật tánh chăng? Châu đáp: Không. Tăng hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì sao chó lại không có Phật tánh? Châu đáp: Vì nó có nghiệp thức tồn tại. Sư nói: Triệu Châu nói có, Triệu Châu nói không, Phật tánh của chó, thiên hạ phân sơ, mặt đỏ không bằng lời nói thẳng, tâm chân chớ trách lời nói thô, bảy trăm giáp tý lão Thiền Bá, phân lừa gặp người đổi tròng mắt. Tiểu tham nói rằng: Này các huynh đệ, một nhà nạp tử thường rỗng rang trong sáng mười phương thế giới sinh nhai ở đây, ánh sáng soi đầu lâu và mắt trong đêm tối tin tức ngậm hoa trên cây khô vào mùa Xuân sắc sáng nương vào mây bay chầm chậm, vẻ trời mờ nhạt, trăng chênh chếch, tay Mẫu-đà-la khắp người ấy. Ngày nay gặp chỗ liền bôi cát, các vị lại chịu được chăng? Nếu là hảo hán đại trượng phu thì nên cắt bỏ, nối tiếp gia phong của Tổ, vào các cõi của chư Phật, không chịu vùi đầu cỏ hoang, dây mơ rễ má chướng chân, ngay nơi đó quang minh chính đại, núi cao đồ sộ đứng lẻ loi một mình, cốt yếu nhất vẩy nước phơi ra đất. Không nghe nói, động thì bóng hiện, giác thì trần sanh đến đây như trải qua làn nước có chất độc hại người cũng không được thấm một giọt nước của họ. Hoặc cũng tựa cửa của họ, bị họ dạy bảo, vào trong thành phố của họ, ngồi giường ghế của họ có thể làm gì? Ao xanh biếc giống như chiếc gương, rồng xanh không nằm, trời xanh không có mây, thỏ khó ẩn, thạch nữ múa tay áo, người gỗ lắc đầu, hài thêu quay nghiêng, ngọc đường lạnh, roi vàng tránh chỉ nhà giàu có quyền quý hay biết. Từ đây hoa mọc trên gấm. Phật hiện ra ở thế gian, mở môn phương tiện, chỉ tướng chân thật, không tránh khỏi lấy không làm có, phá hai thành ba, bôi đất bôi cát trên mảnh đất trong sạch thì đầu cửa ngõ báo hóa không thân cũng không sơ, bậc Hiền thánh thuở xưa, người đến truyền ngôn ngữ, kẻ hậu học sơ cơ lại tiến cử được chăng? Nếu muốn mau tương ưng sớm làm xong thì đem tri kiến trước kia tham học được gì, thương lượng được gì, truyền trao được gì, nhất thời gấp lại mà phân biệt rõ, chớ đem đầu một sợi tơ đến đóng đinh hay là sắp xếp liền thấy không giống nhau, nhưng tri thức từ đầu đến cuối vào trong cảnh biến hóa kia, tự nhiên tất cả chỗ được làm chủ, nắm được chắc, cũng không có một thừa có thể chế ngự được, cũng không vạn hạnh có thể tu, cũng không có ba cõi có thể ra, cũng không vạn pháp có thể liễu. Ông nếu nói thoát ra ba cõi thì liền hư hoại ba cõi. Ông nếu nói ở trong ba cõi thì liền ngăn ngại ba cõi. Nếu cần liễu muôn pháp thì muôn pháp rối loạn, nếu cần chuyển vạn pháp thì vạn pháp quấy rối. Đến đây chỉ cần không thoát ra ba cõi, không ở trong ba cõi, không hoại ba cõi, không ngăn ngại ba cõi, không chuyển vạn pháp, không liễu ngộ vạn pháp, không rối loạn, không quấy nhiễu liền thấy riêng thân hiển lộ, chính là bậc hảo hán thoải mái, không trở ngại giấc ngủ trong thanh sắc, nằm ngồi trong thanh sắc dứt các đối đãi, ánh sáng luôn hiện tiền, hoa giác ngộ nở ra, siêu thoát tình cảnh mới tin vốn không tu trì, không từng nhiễm ô, trong vô lượng kiếp vốn dó có đầy đủ, viên đà đà địa từng không có mảy may thiếu thốn, từng không có một chút dư thừa. Giác thượng tọa nói như thế đều là lời thừa, như búa sắt không lỗ chống đỡ trên dưới giống nhau, các vị nói như thế đã biết vì sao không thay đổi? Lại biết chăng? Gặp nhau không uống trở về không, trăng sáng gió mát cũng cười người. Lại nêu, có vị tăng hỏi Phong Huyệt rằng: Rộng lớn trong trần, như thế nào làm chủ? Phong Huyệt đáp: Sơn nhân không có mắt có thể bẻ xương, chợ ồn ào gặp nhau chấp tay kinh sợ. Sư nói: Các nhân giả, tâm tâm không cảm xúc, xứ xứ gặp nhau, chỉ trong đây là gia phong của Văn-thù, chỉ đây là thân tướng của Phổ Hiền, không động bước mà dạo chơi trên lầu các của Di-lặc, không nghe lại cái nghe chính mình mà vào phổ môn của Quán Âm. Giác thượng tọa chỉ biết đương cuộc là mê, không nhìn người bàng quan mỉm cười, lại thông tin tức này, bèn dựng đứng cây phất tử nói rằng: Ba đời chư Phật, lịch đại Tổ sư, Thiên Hạ lão Hòa thượng, lão hán Phong Huyệt, ấy là một hàng lỗ mũi của Thiền Hòa Tử, đều bị cây phất tử của Giác thượng tọa xâu lại, lại biết chăng? Trong tòa cũng có khách Giang nam, gà gỗ không gáy trước người. Dùng phất tử đánh xuống giường thiền một cái rồi xuống tòa. Tiểu tham nói: Thích-ca xuất thế, oan uổng mình chết người. Đạt- ma Tây lai ép người lương thiện làm việc thấp hèn, y truyền cho Ca- diếp dường như đúng mà sai, pháp trao cho Thần Quang đem không làm có, chỉ vì Tổ sư không rõ, đến đổi làm cho tai hại đến con cháu. Từ đây năm lá một hoa, các vị phân soi sáng hoặc đều nêu ngay đối chiếu, đại dụng đại cơ. Hoặc mượn vị nói công, mượn công nói vị, đầu gậy thủ chứng, dưới tiếng hát gánh vác, đưa một cọng cỏ hóa thành thân vàng cao một trượng sáu, ở trong thọ dụng hiện ngàn tay mắt, hoặc quay người đi trong cõi hữu tình, xoa tay đi bên nào, phần lớn cơ khí không đều, bèn thấy phương tiện ấy rất nhiều, đường trải khắp trời, dây mơ rễ má đầy đất, nếu vạn dặm không có một ngọn cỏ, đất sạch lại làm mê lòng người, trường không, sạch trơn chấm bụi, trời xanh phải ăn gậy, lại bèn kẹt chân trên đường Oai Âm, thân quay ngang đầu hưng hóa môn, bước bước không chạm vật, tâm tâm không xứ sở cẩn thận kiểm điểm tương lai, đều là việc ở gần công huân. Không nghe người xưa nói: Chư Phật không xuất thế bốn mươi chín năm thuyết pháp, Tổ sư không Tây lai, Thiếu Lâm có diệu kế. Nếu người biết Tổ Phật đúng chỗ liền siêu việt, huynh đệ hãy nói thế nào là Phật tổ chưa sinh thời, câu đúng chỗ thì siêu việt, lại biết chăng? Cánh tay dài, tay áo sơ mi ngắn, chân gầy giày cỏ rộng. Ngữ lục thiền viện Sùng Phước ở Trường lô tỉnh Chân châu (hết).  QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ <卷>QUYỂN 2 TẬP TỰA TỤNG CỔ NIÊM CỔ CỦA GIÁC HÒA THƯỢNG Ở TRƯỜNG LÔ Phàm lý tột cùng siêu vượt bậc danh tượng, chân trí vượt ra ngoài sự nghó bàn. Phật Phật Tổ Tổ dùng tâm ấn khả cho nhau, lá lá hoa hoa diệu nghiêm ở thân cây, môn đình nghiêm ngặt mà oai linh chót vót, đều nối thạnh tông mình phái nhánh mở rộng ra xa, mà dòng rẽ rất nhiều cuối cùng cũng trở về biển cả, phó cho phân biệt ở cây gậy và phất tử, và nấu nung trong lò chùy, đạo do người này gánh vác, rộng lớn nuốt cả vào ngực, thần ứng cầu khí, đầy đủ phương tiện mềm dẻo, làm con rùa cắn của vạn đời, minh giác đề xướng ở trước nó, đuổi theo ngựa giỏi đi ngàn dặm, người nào bước theo sau nó. Hòa thượng Trường Lô trích ra hai trăm mục cơ duyên của cổ đức, tụng để tuyên bày nghóa ấy, đón lấy để lay động mạng lưới ấy, truyền rộng ánh sáng của hai hai hội Hoài, Nhuyên, nối tiếp gót chân trăm năm của Tuyết Đậu, nát thành ý xuân, gió đông ấm áp mà núi được mây gấm, trong trẻo là nét mùa Thu, nửa đêm lạnh lẻo mà nước ôm trăng ngọc bích, dù quyết định có khuôn phép, hướng tới xả tâm nào, phát sạch cây cối um tùm mà mở mang con đường thẳng, tụng thấy được sức kiềm chế của người xưa, tiếng sấm chấn động mà phá tan nhà trú ẩn, nêu rõ ràng tất cả khâu chủ yếu của sự việc, miên mật khế hợp đồng, vuông tròn hợp nhau, lỗ tròn và vuông không sai lệch, búa rìu mất vết, quanh co thông nhau, giống như con kiến kéo sợi chỉ xuyên qua hạt châu, bồi hồi gần nhau như rồng làm mây rãi mưa khắp. Cục thịt đỏ chỉ lộ ra chân thường, mắt đầu lâu cạn khô lậu thức, bọc kín mũi tên, bóng cỏ thăm dò cái sào, thoát công luân mà kiếp không chẳng phải nhà, lưu truyền phương tiện mà khắp mình là tay, rửa chà gương loạn, không khí trong lành thổi xếp vân mộng, dính thêm dây cung phượng, nhã vận tấu khúc tuyết lâu, thiền nhân Pháp Nhuận biên tập để thành sách, lớp trẻ nối tông tự mà làm nơi dẫn dắt. Kể vào ngày tự tứ niên hiệu Kiến Viêm thứ ba. Tụng cổ của Giác Hòa thượng ở Phổ Chiếu tỉnh Tứ châu. Thị giả Pháp Nhuận Tín Ngộ biên tập. Nêu, Đức Thế Tôn một hôm thăng tòa, Văn-thù bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Quán chắc pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như thế? Đức Thế Tôn liền xuống tòa, có bài tụng rằng: Một khoảng chân không có thấy chăng? Liên miên biến hóa con thoi của mẫu lý, Dệt thành gấm cổ, ngậm vẻ xuân, Không Ngại Đông quân lộ sợ ngưng trệ như thế nào. Nêu, Lương Vũ Đế hỏi Đại sư Đạt-ma rằng: Thế nào là Thánh đế Đệ nhất nghóa? Đạt-ma đáp: Rộng lớn không Thánh. Đế hỏi: Đối với trẫm thì đúng. Đế không khế hợp được. Tổ Đạt-ma liền vượt qua sông đến chùa Thiếu Lâm, ngồi quay mặt vào vách chín năm. Tụng rằng: Rộng lớn không Thánh, tới cơ hội thẳng tắp, Được không phạm vào mũi mà múa rìu, Lỗi không quay đầu mà rơi vào cái nồi đất, Lác đác lạnh ngồi ở Thiếu Lâm, Lặng lẽ hoàn toàn nêu ra chánh lệnh, Trăng thu trong sáng quay bánh xe sương, Dòng sông nhạt nhẽo sao bắc đẩu rơi trong đêm, Sửa lại y bát trao cho con cháu, Từ đây trở thành thuốc trị bệnh cho người, trời. Nêu, Quốc vương Đông Ấn Độ thỉnh Tổ thứ hai mươi bảy là Bát- nhã đa-la thọ trai. Vua hỏi: Thế nào là không xem kinh? Tổ đáp: Bần đạo hít vào không ở cõi âm, thở ra không liên quan tới các duyên, thường chuyển kinh như thế, có trăm ngàn vạn ức quyển. Tụng rằng: Mây chầm chậm ngắm trăng, Ngọc đẹp ngậm ánh sáng, Ngựa gỗ dạo xuân, ngựa hay không dàn, Dưới mày một đôi mắt biếc sắc lạnh, Xem kinh đến đó thì thấu được da trâu, Tâm hiểu biết vượt lên trên kiếp rộng lớn, Sức anh hùng phá trùng vây, Then chốt diệu viên chuyển linh cơ, Hàm Sơn lại quên con đường đến, Thập Đắc cùng dắt tay nhau về. Nêu, Đức Thế Tôn theo thứ tự đi kinh hành với chúng, lấy tay chỉ xuống đất nói rằng: Nơi đây thích hợp cho việc xây dựng cõi Phạm. Đế- thích đem cọng cỏ cắm trên đất ấy nói rằng: Cõi Phạm đã xây xong. Đức Thế Tôn mỉm cười. Tụng rằng: Trăm hoa trên đầu, xuân vô biên, Tiện tay đưa đến thân dùng được, Công đức tụ nơi thân vàng cao trượng sáu, Có thể làm chủ trong cõi trần, Vùng ngoài vòng giáo hóa khách tự đến, Chỗ làm kế sanh nhai tùy phần đều đủ, Chưa nghi ngờ mánh khóe không bằng người. Nêu, có vị tăng hỏi ngài Thanh Nguyên rằng: Thế nào là đại ý Phật pháp? Nguyên đáp: Gạo ở Lô lăng giá cả thế nào? Tụng rằng: Thái bình làm sự nghiệp, không hình tượng, Gia phong của Dã lão rất trong sạch, Miễn là thôn ca xã uống, Nào biết đức của vua Vũ, lòng nhân của Nghiêu. Nêu, tăng hỏi Mã Đại sư rằng: Lìa bốn câu dứt trăm lỗi, thỉnh sư chỉ thẳng cho con biết ý Tây lai. Đại sư đáp: Hôm nay ta mệt mỏi rồi không thể nói cho ông biết, đến hỏi ngài Trí Tạng đi. Tăng hỏi Tạng, Tạng hỏi: Sao ông không hỏi Hòa thượng? Tăng đáp: Hòa thượng dạy đến hỏi Ngài. Tạng nói: Tôi hôm nay nhức đầu quá không thể nói cho ông nghe được, ông hãy đi đến hỏi Hải huynh đệ. Tăng đến hỏi Hải, Hải đáp: Tôi đến đây lại không biết. Tăng nêu ra cho Đại sư nghe, Đại sư nói: Đầu của Tạng trắng, đầu của Hải đen. Tụng rằng: Thuốc làm bệnh soi gương ở Thánh trước, bệnh làm thầy thuốc ắt cũng là ai đó, đầu trắng đầu đen có thể là con của một nhà, có câu không câu cơ hội ngăn dòng chảy, đường đường ngồi đoạn đầu lưỡi, đáng cười, cái dùi cũ của lão Tỳ-da. Nêu, Dược Sơn đã lâu không thăng tòa, viện chủ bạch rằng: Đại chúng đã lâu muốn được chỉ dạy, thỉnh Hòa thượng vì chúng mà thuyết pháp. Sơn cho phép đánh chuông, chúng mới tụ tập, Sơn thăng tòa, giây lát liền xuống trở về phương trượng. Viện chủ theo sau hỏi rằng: Hòa thượng vừa đến hứa vì chúng thuyết pháp vì sao không dạy một lời nào? Sơn nói: Kinh có kinh sư, luận có luận sư, làm sao trách được lão tăng. Tụng rằng: Trẻ con ngây ngô hết lòng nín khóc vì tiền, Bốn ngựa kéo giỏi đuổi theo gió nhìn bóng roi, Mây quét trường không, tổ hạc trên cung trăng, Lạnh thấu vào xương không thành giấc ngủ. Nêu, Bách Trượng thượng đường, bình thường có một người già đến nghe pháp, theo chúng tản đi. Một hôm không chịu đi, Bách Trượng liền hỏi: Người đứng đó là ai vậy? Lão nhân thưa rằng: Con ở quá khứ vào thời Phật Ca-diếp, từng ở núi này, có một người học hỏi rằng: Người đại tu hành còn rơi vào nhân quả không? Con trả lời ông ta rằng: Không rơi vào nhân quả, bèn bị đọa làm thân chồn năm trăm năm, nay xin Hòa thượng thay thế chuyển ngữ dùm con. Bách Trượng nói: Không mê nhân quả. Vị lão nhân ấy ngay lời liền đại ngộ. Tụng rằng: Nước một thước sóng một trượng năm trăm năm trước không làm gì được, không rơi nhân quả không mê nhân quả thương lượng vậy. Theo trước đâm vào ổ dây chằng chịt, a ha ha biết chăng? Nếu là ông rơi rơi rớt rớt, không ngăn ngại lập cập ăn nhịp của ta, thần ca đền thờ múa tự thành khúc, vỗ tay tiếng đệm cuối trong đó. Nêu, Nam Tuyền, một hôm hai nhà Đông và Tây tranh giành một con mèo, Nam Tuyền thấy bèn nêu lên rằng: Nói được thì không chém chúng không đáp được. Tuyền chém đứt mèo làm hai khúc. Nam tuyền lại đem lời nói trước hỏi Triệu Châu. Châu bèn rút giày cỏ ra đội lên đầu. Tuyền nói: Ông nếu đến đúng lúc thì cứu được mèo. Tụng rằng: Mây nước hai đường đều chia nắm giữ, Vương lão sư có thể nghiệm chánh tà, Dao bén chém đứt, đều mất tượng, Ngàn xưa khiến người thích làm nhà, Đạo này chưa mất, tri âm có thể khen thưởng, Khoét núi thấu ra biển chỉ kính trọng Đại Vũ, Luyện đá vá trời chỉ có người hiền Nữ Oa, Lão Triệu Châu có nghề kiếm sống, Giày cỏ đội trên đầu rõ ràng một chút, Dị trung lại cũng lại là chiếc gương sáng, Chỉ có vàng thật này là không lẫn lộn cát. Nêu, trên đường Đài Sơn có một bà già, có một vị tăng hỏi rằng: Đường Đài Sơn đi chỗ nào? Bà già đáp rằng: Đi đường thẳng, tăng vừa đi thì bà già rằng vị Sư này lại đi như thế vậy. Tăng trình lên Triệu Châu. Châu nói rằng: Cần cho khám phá qua, Châu cũng hỏi như trước. Ngày kế, thượng đường nói rằng: Ta khám phá bà già rồi. Tụng rằng: Tuổi già được thông thạo không truyền bậy, Triệu Châu cổ Phật nối Nam Tuyền, Rùa khô mất mạng vì hình vẽ, Ngựa hay đuổi gió lụy triền khiên, Khám phá thiền lão bà rồi, Nói với người trước không đáng tiền. Nêu, Đại sư Vân Môn nói rằng: Ánh sáng không xuyên qua có hai loại bệnh, tất cả nơi không biết trước mặt có vật là hoàn toàn thấu được tất cả pháp không, nơi ẩn hiện dường như có vật này giống nhau, cũng ánh sáng không xuyên qua. Lại pháp thân cũng có hai loại bệnh, được pháp thân, là pháp chấp không quên đã thấy vẫn còn, rơi vào ở bên pháp thân, là thẳng một mạch, dù thấu qua cũng không được, cẩn thận kiểm điểm tương lai, có hơi thở gì cũng là bệnh. Tụng rằng: Sum-la vạn tượng có lẽ cao ngất, Xuyên qua không trở ngại đôi mắt, Quét môn đình kia ai có sức, Giấu kín trong tâm trí người tự thành tình, Thuyền ngang qua cánh đồng, Bao hàm thu xanh biếc, Chèo vào hoa lau soi sáng tuyết, Chuỗi gấm lão đánh cá ôm về chợ, Một chiếc lá bay nhẹ đi trên ngọn sóng. Nêu, Địa Tạng hỏi Tu Sơn chủ rằng: Ông từ đâu đến? Tu đáp: Con từ phương Nam đến. Tạng hỏi: Phương Nam gần đây Phật pháp như thế nào? Tu đáp: Là nơi bàn bạc rộng lớn. Tạng hỏi: Thế nào ta làm ruộng trong đây được cơm ăn? Tu đáp: Tranh sao được ba cõi. Tạng hỏi: Ông gọi cái gì là ba cõi? Tụng rằng: Lối nói quanh co chỉ gượng làm, Lưu truyền tai miệng thì rời rạc, Làm ruộng được cơm là việc trong nhà, Không phải đủ lãnh hội người không biết, Lãnh hội đủ biết rõ không chỗ cầu, Tử Phòng trọn không quý phong hầu, Quên cơ hội trở về cùng chim cá, Rửa chân sóng biếc mặt nước mùa Thu. Nêu, Lâm Tế sắp tịch diệt, dặn dò Tam Thánh rằng: Ta sau khi tịch diệt các ông không được diệt mất chánh pháp nhãn tạng của ta. Thánh thưa: Làm sao dám diệt mất chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng. Tế nói: Bỗng có người hỏi ông thì làm sao trả lời? Thánh liền hét. Tế hỏi: Ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta ngay cạnh lừa mù này diệt mất. Tụng rằng: Tin tưởng nửa đêm truyền y cho Lô Năng, Quấy rối Hoàng Mai bảy trăm tăng, Lâm Tế một cành chánh pháp nhãn, Lừa mù diệt mất bị người ghét, Suy nghó giống nhau, Tổ Tổ truyền đăng, Biển bằng phẳng biến hóa cá côn chim bằng, Chỉ có danh ngôn này khó gần bắt chước, Phần lớn phương tiện mở ra cuồn cuộn. Nêu, Khuếch Thị giả hỏi Đức Sơn, từ trên các Thánh, hướng chỗ nào để đi? Sơn hỏi: Là gì? Là gì? Khuếch đáp: Sắc lệnh chỉ định rồng ngựa bay, rùa què lú đầu ra, Sơn liền dừng. Những ngày tới Sơn tắm rửa ra. Khuếch uống trà với Sơn, Sơn vỗ vào lưng Khuếch một cái. Khuếch nói: Lão hán này mới bắt đầu liếc xuống đất, Sơn lại dừng. Tụng rằng: Gặp mặt đến khi làm thì biết, Có thể trong lửa đá ánh điện chậm, Luân cơ mưu chủ có ý sâu, Lừa dối nhà quân sự địch không nghó xa, Phát ra nhất định trúng lại lừa bịp ai, Sau não thấy má người khó xúc phạm, Dưới mày đụng đến mắt, Hắn được liền thích hợp. Nêu, Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Ông từ đâu đến? Ngưỡng Sơn đáp: Từ trong ruộng đến. Sơn hỏi: Trong ruộng có bao nhiêu người? Ngưỡng cắm cây cuốc xuống, khoanh tay mà đứng. Sơn nói: Nam Sơn phần lớn có người cắt cỏ tranh. Ngưỡng giơ cuốc lên liền đi. Tụng rằng: Già rồi cảm thấy đa tình nhớ con cháu, Mà nay hổ thẹn khởi gia môn, Phải cần nhớ lấy Nam Sơn nói, Ghi lòng tạc dạ cùng báo ân. Nêu, Ma Cốc cầm tích trượng đến Chương Kính, đi nhiễu thiền sàn ba vòng vẫy tích trượng một cái rồi đứng thẳng. Kính nói rằng: Phải phải. Cốc lại đến Nam Tuyền nhiễu giường thiền ba vòng vẫy tích trượng một cái rồi đứng thẳng. Tuyền nói rằng: Không phải, không phải. Cốc hỏi: Chương Kính nói phải vì sao Hòa thượng nói không phải? Tuyền nói rằng: Chương Kính thì phải, ông thì không phải. Đây là sức gió đã chuyển cuối cùng trở thành bại hoại. Tụng rằng: Phải và không phải, cuộn nút thắt dễ coi, Dường như kìm nén, dường như bốc lên, Khó huynh khó đệ, buông ra, kia đã đến thời, Đoạt lấy, ta có chỉ ý gì? Gậy vàng vừa vẫy cây nêu Thái cô, Ba lần nhiễu giường dây nhàn du hý, Quấy rối tòng lâm sinh phải trái, Tưởng tượng trước đầu lâu thấy quỷ. Nêu, Pháp Nhãn hỏi Tu Sơn chủ rằng: Một li một tí có khác, trời đất cách xa, ông làm sao biết? Tu đáp: Sai một li, trời đất cách xa. Nhãn hỏi: Như thế lại thế nào được? Tu đáp: Con chỉ có như vậy, Hòa thượng lại như thế nào? Nhãn đáp: Sai một li trời đất cách xa. Tu liền lễ bái. Tụng rằng: Cái cân nhỏ bé ngồi vào liền nghiêng đổ, Vạn đời cân nhắc soi sáng bất công, Phân lượng cái nhỏ nhặt thấy được ngọn nguồn, Tóm lại trộm lấy bàn tay tinh ta đã định. Nêu, tăng hỏi Triệu Châu rằng: Chó lại có Phật tánh chăng? Châu đáp: Có. Tăng hỏi: Đã có vì sao lại đâm vào túi da này? Châu đáp: Vì nói biết mà cố phạm. Lại có vị tăng hỏi: Chó có Phật tánh không? Châu đáp: Không. Tăng hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì sao chó lại không có? Châu đáp: Vì nó có nghiệp thức tồn tại. Tụng rằng: Chó có Phật tánh, chó không có Phật tánh, Lưỡi câu ngay chủ yếu tìm cá bỏ mạng, Khách theo không khí tìm mùi hương mây nước, Ồn ào hỗn tạp làm phân sơ, Mênh mông mở rộng lớn ra, Chớ trách nhà ta không cẩn thận lúc đầu, Chỉ một chút vết nhỏ lại bỏ khuyên ngọc, Vua Tần không biết Lạn Tương Như. Nêu, tăng hỏi Vân Môn rằng: Không khởi một niệm, lại có lỗi không? Môn đáp: Núi Tu-di. Tụng rằng: Không khởi một niệm, núi Tu-di, Mặt trời đẹp, thí pháp y không bỏn sẻn, Muốn đi ngàn tầm không được trèo, Biển xanh bao la mây trắng an nhàn, Chớ đem lông tóc để vào trong đó, Mượn âm vận của gà khó lừa dối ta, Chưa chịu mơ hồ tha qua cửa. Nêu, Địa Tạng hỏi Phán Nhãn: Thượng tọa đi đâu? Nhãn đáp: Hành Cước quanh co. Tạng hỏi: Việc hành cước là thế nào? Nhãn đáp: Không biết. Tạng nói: Không biết rất thân thiết. Nhãn hoát nhiên đại ngộ. Tụng rằng: Nhưng nay tham cứu đủ giống như đương thời, Tháo hết rèm nhỏ đến không hay biết, Tùy ngắn tùy dài không cắt may, Tùy cao tùy thấp tự công bằng, Nhà cửa giàu có tạm thời dùng tiết kiệm, Mức độ sống nhàn nhã tin dời bước, Việc hành cước ba mươi năm trước, Rõ ràng cô phụ một cặp lông mày. Nêu, Vân Nham quét đất, Đạo Ngô nói rằng: Sanh rất nhỏ. Nham nói: Phải biết có người không nhỏ. Ngô nói: Như thế thì có tháng thứ hai. Nham đưa cái chổi quét lên hỏi rằng: Đây là tháng thứ mấy? Ngô liền thôi. Huyền Sa nói rằng: Chính là tháng thứ hai. Vân Môn nói: Đầy tớ trai gặp đầy tớ gái niềm nở. Tụng rằng: Mượn đến tạm thời ông hiểu rõ môn đầu, Được dùng tùy nghi thì liền dừng, Xương voi trước hang núi làm tay cho rắn, Chỗ làm thuở nhỏ tới già mới biết thẹn. Nêu, Nham Đầu đến chỗ Đức Sơn, vừa bước vào cửa liền hỏi rằng: Là phàm hay là Thánh? Sơn liền hét. Nham Đầu lễ bái. Động Sơn nghe nêu rằng: Nếu không phải là ông già thì rất khó gánh vác. Đầu nói rằng: Lão hán Động Sơn không biết tốt xấu, ta đương thời một tay nâng lên, một tay khai phá. Tụng rằng: Trắc trở đến thời cơ thâu tóm quyền bính, việc có oai nhất định làm, nước có lệnh không trái phạm, khách còn tôn kính mà chủ kiêu ngạo, vua kî can gián mà bề tôi nịnh hót. Ý Nham Đầu hỏi Đức Sơn một tay nâng lên một tay khai phá thấy tâm hạnh. Nêu, Lỗ Tổ hễ thấy tăng đến liền quay mặt vào vách. Nam Tuyền biết được nói rằng: Ta bình thường nói với ông ta, gánh vác kiếp không trước. Lúc Phật chưa ra đời biết lấy không được một cái hay nửa cái, ông ta đi vào năm con lừa như thế. Tụng rằng: Trong nhạt nhẽo có mùi vị, khéo vượt lên trên tình cảm, liên tục còn giống như trước, ngớ ngẩn như ngu ngốc, đạo quý, ngọc chạm văn để mất đi mộc mạc, hạt châu ở đầm sâu mà tự tốt đẹp, không khí rất trong lành vắng lặng mờ nhạt, mùa Thu nóng, một áng mây nhàn từ xa phân trời nước. Nêu, ngài Vân Phong dạy chúng rằng: Nam Sơn có một con rắn mũi rùa, các ông, các vị, cần thiết phải thích coi. Trường Khánh nói rằng: Hôm nay trong giảng đường phần lớn có người tán thân mất mạng. Tăng nêu lên Huyền Sa, Sa nói rằng: Phải là Lăng huynh mới được, nhưng tuy như vậy ta thì không như thế. Tăng hỏi: Hòa thượng làm thế nào? Sa đáp: Dùng Nam Sơn làm sao, Vân Môn lấy cây gậy ném đến trước mặt Phong ra tư thế sợ hãi. Tụng rằng: Huyền Sa quá cứng rắn, Trường Khánh thiếu dũng cảm, Nam Sơn mũi rùa chết không dùng, Trong gió mây sẽ mọc sừng trên đầu, Quả thật thấy ánh sáng đẹp, Bắt tay làm, bắt tay làm, Trong ánh điện bắn lên thấy biến đổi, Ở ta cũng có thể tiêu trừ có thể kêu gọi, Ở người khác cũng có thể bắt có thể buông, Việc ấy như ngày nay trao phó cho ai? Miệng lạnh người bị thương không biết đau. Nêu, Diêm Quan một hôm gọi Thị giả, đem đến cho ta chiếc quạt tê giác. Thị giả thưa: Quạt bị rách rồi. Quan nói: Quạt đã rách, thì mang đến cho ta tê giác. Thị giả không trả lời. Tư Phước vẽ một tướng tròn trong đó viết một chữ Ngưu. Tụng rằng: Quạt rách đòi tê giác, Chữ trong vòng tròn có nguyên do, Ai biết quế ngàn năm có hồn phách, Khéo làm sáng trưng một chút Thu. Nêu, Ngưỡng Sơn chỉ Tuyết Sư Tử nói rằng: Còn có ai hơn được màu này chăng? Vân Môn nói rằng: Đương thời bèn xô đổ. Tuyết Đậu nói rằng: Chỉ biết xô đổ mà không biết đỡ dậy. Tụng rằng: Một ngã một đứng dậy, Tuyết Đình Sư Tử, Dè dặt ở nơi phạm mà mang lòng nhân, Mạnh mẽ ở việc làm mà thấy nghóa, Ánh sáng trong chói mắt như quên nhà, Rõ ràng quay gót lại rơi vào địa vị, Nhà nạp tăng biết rõ vô ký, Cùng chết cùng sống, đây sao kia sao? Ấm áp dấu hiệu mai nở, Xuân đến cành lạnh, Mát mẻ bão lớn lá rụng, mùa Thu nước trong lênh láng. Nêu, Pháp Nhãn lấy tay chỉ bức rèm. Lúc ấy có hai vị tăng cùng đi cuốn bức rèm. Nhãn nói rằng: Một được một mất. Tụng rằng: Tùng thẳng, gai cong, hạc dài vịt trời ngắn, người đời nghóa lớn lao, đều quên trị loạn, cầu an, kỳ lân giấu vảy ở ao sâu; buông thả, cũng là chim bay lượng thoát khỏi vướng bận, không có Tổ sư nào Tây lai, bên trong có lẽ được mất nửa tướng, có bồng theo luồng gió mà chuyển trên không, thuyền cắt dòng nước mà đến bờ, trong đây nạp tăng linh lợi, xem lấy phương tiện mát mẻ. Nêu, tăng hỏi Hộ Quốc rằng: Khi hạc đứng trên cây tùng khô như thế nào? Quốc đáp: Một trận dưới đất. Tăng hỏi: Khi nước rõ đông lại như thế nào? Quốc đáp: Sau khi mặt trời mọc, một trận? Khi Hội Xương sa thải, Hộ pháp thiện thần, hướng chỗ nào để đi? Quốc đáp: Hai bên tam môn, một trận này. Tụng rằng: Chí lớn lộ rõ tóc mai chưa phải Thu, Nam nhi không hận không phong hầu, Suy tư trong sạch truyền khách nhà, Rửa tai đầu suối trâu không uống. Nêu, Phong Huyệt ở nha môn Dónh châu. Thượng đường nói rằng: Tâm ấn của Tổ sư giống như máy trâu sắt, đi thì ấn đứng đứng thì ấn phá, chỉ như không đi không đứng, ấn cũng đúng, không ấn cũng đúng. Lúc ấy có một trưởng lão Lô Pha bước ra hỏi rằng: Con có máy trâu sắt, thỉnh thầy đừng dựng ấn. Huyệt nói: quen câu cá kình cá nghệ nơi nước trong há thấm, lại than ếch nhái nhảy trên bùn cát. Pha đứng suy nghó mãi. Huyệt hét một tiếng và hỏi rằng: Trưởng lão sao không nói tiếp? Pha dự tính. Huyệt bèn lấy phất trần đánh một cái hỏi rằng: Còn nhớ câu thoại đầu chăng? Thử nêu lên xem? Pha định mở miệng, Huyệt lại đánh một cái nữa. Mục chủ nói: Pháp của Phật và pháp của vua giống nhau. Huyệt hỏi: Ông thấy gì đây? Mục đáp: Ngay đoạn không đoạn, trở lại gây ra rối loạn cho mình. Huyệt liền xuống tòa. Tụng rằng: Máy trâu sắt ấn dừng ấn phá, đi thấu qua đỉnh Tỳ-lô, lại đến ngồi trên đầu lưỡi của hóa Phật. Phong Huyệt nên cân nhắc, Lô Pha bị đọa, đầu gậy hét ra, ánh điện lửa đá, sáng suốt rõ ràng, như hạt châu trên mâm, chớp mắt nhướng mày lại trôi qua. Nêu, tăng hỏi Đại Tùy rằng: Hỏa kiếp sáng rực, cõi đại thiên đều tan hoại chưa, biết đây hoại hay không hoại? Tùy đáp rằng: Hoại. Tăng hỏi: Như thế thì đi theo người khác chăng? Tùy đáp: Đi theo người khác. Tăng hỏi Long Tế rằng: Kiếp hỏa hừng hực cõi đại thiên đều hoại, chưa biết đây hoại hay không hoại? Tế đáp: Không hoại. Tăng hỏi: Vì sao lại không hoại? Tế đáp: Vì đồng cõi Đại thiên. Tụng rằng: Hoại không hoại theo người khác, đi cũng là cõi Đại thiên, trong câu rõ ràng không có máy móc khóa, đầu chân phần nhiều bị vướng dây chằng chịt, biết chăng? Việc rõ ràng đinh ninh đến chết, tâm biết đưa ra chớ bàn bạc, còn ta sẽ được tướng mua bán. Nêu, Vân Môn hỏi rằng: Cổ Phật và lộ trụ giao hảo với nhau là cơ thứ mấy? Chúng im lặng. Tự nói thay rằng: Núi phía Nam có mây bay, núi phía Bắc mưa rơi. Tụng rằng: Một luồng ánh sáng thần, Ban đầu không che giấu, Vượt qua liền thấy duyên, Đúng mà không đúng, Ra khỏi tình cảm tính toán. Thường mà không thường, Hoa trong hang núi nhiều chừ lỗ tổ ong thành mật. Hoa rừng nở thêm tươi tốt chừ xạ tê làm hương thơm, Tùy loại ba thước một trượng sáu, Chỗ chạm đến rõ ràng lộ hiên ngang. Nêu, Ngưỡng Sơn hỏi tăng: Ông là người xứ nào? Tăng đáp: Người U châu. Sơn hỏi: Ông lại suy nghó trong đó chăng? Tăng đáp: Thường suy nghó. Sơn hỏi: Năng nghó là tâm, sở nghó là cảnh, vật trong đó như sơn hà đại địa, lầu đài điện các, người vật v.v… trái tâm suy nghó mà suy nghó, còn có rất nhiều cách chăng? Tăng đáp: Con đến đây đều không thấy có. Sơn nói: Tín vị thì đúng, nhân vị chưa đúng. Tăng hỏi: Hòa thượng chưa có chỉ thị khác chăng? Sơn đáp: Có, không có thì không đúng, theo chỗ thấy của ông, chỉ được một màu đen, được ngồi mặc áo, tự xem phía sau. Tụng rằng: Không ngoài mà chứa đựng, không ngại mà hòa hợp, bức tường cửa cao lớn khóa kín lớp lớp, rượu thường ngọt nên khách nằm, cơm tuy no nhưng nghề sụp lở, chọc thủng hư không chừ, gió nương cánh kỳ diệu, đạp lật biển xanh chừ, sấm đưa rồng dạo chơi. Nêu, Tam Thánh hỏi Tuyết Phong rằng: Cá vàng lọt lưới, chưa biết lấy gì làm thức ăn? Phong đáp: Đợi ông thoát ra khỏi lưới thì nói cho ông nghe. Thánh nói: Một ngàn năm trăm người thiện tri thức, thoại đầu cũng không biết. Phong nói: Việc trụ trì của lão tăng phiền phức. Tụng rằng: Làn sóng vừa lên mây sấm đưa nhau, Nhảy lên rõ ràng xem đại dụng, Đốt đuôi rõ ràng qua cửa vũ, Vảy tươi tốt chưa chịu ngâm vào vại dưa muối, Lão thành người không sợ chúng đông, Quen gần kẻ địch ban đầu không sợ, Duyên cớ qua loa như năm lượng nhẹ, Chồng chất cánh nào nặng ngàn cân, Danh cao bốn biển còn ai bằng, Đứng thẳng tám ngọn gió thổi không động. Nêu, Phong Huyệt nói rằng: Nếu lập một trần nước nhà hưng thịnh, không lập một trần nước nhà diệt vong. Tuyết Đậu đưa gậy lên hỏi rằng: Còn có nạp tăng cùng sống cùng chết chăng? Tụng rằng: Nước sông vị trắng xóa nổi lên câu cá, sao giống Thủ Dương kiểm người đói, chỉ trong một trần phân bất thường, danh cao, công lao và sự nghiệp cả hai đều khó lẫn lộn. Nêu, Lạc Phố đến tham học Hiệp Sơn, không lễ bái mà đứng ngay trước mặt. Sơn nói: Gà đậu trong tổ phượng, chẳng phải cùng loại của nó. Phố nói: Từ xa hướng về gió, xin Sư một lần tiếp nhận. Sơn nói: Trước mắt không có xà-lê, trong đây không có lão tăng. Phố liền hét. Sơn nói: Dừng dừng, hãy chớ qua loa vội vàng, mây trăng thì giống, núi khe đều khác, cắt đứt chót lưỡi của người trong thiên hạ thì không thể không, làm sao dạy người không có lưỡi biết nói? Phố không nói. Sơn liền đánh. Phố từ đây thừa nhận. Tụng rằng: Lắc đầu lắc đuôi không có vảy nhọn, Triệt để không dựa vào sự giải thích để quay người, Cắt đứt chót lưỡi dù có phương pháp, Kéo trở lại lỗ mũi thần thông vi diệu, Ban đêm ngoài rèm chừ, Gió trăng như ban ngày, Cây khô trước núi chừ, Mùa Xuân hoa cỏ sinh sôi nảy nở, Người không lưỡi, người không lưỡi, Chánh khiến đều nêu một cầu gần gũi, Một mình bước trong vòng biết rõ rồi, Mặc theo thiên hạ vui vẻ hân hoan. Nêu, Mã Đại sư bất an, Viện chủ hỏi: Hòa thượng gần đây tôn vị như thế nào? Đại sư đáp: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật. Tụng rằng: Mặt trời, mặt trăng, sao chảy điện cuốn Gương đối hình tượng mà vô tư, Hạt châu trên mâm mà tự xoay chuyển, Ông không thấy vàng luyện trăm lần trước kềm búa, Dưới thước dao một máy lụa. Nêu, Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Chợt có người hỏi tất cả chúng sanh chỉ có nghiệp thức mênh mang không có gốc có thể nương tựa, ông làm sao xét nghiệm? Ngưỡng đáp: Nếu có tăng đến thì gọi lại nói rằng: Mỗ giáp, tăng quay lại bèn nói rằng là gì? Đợi y nghó ngơi, nói rằng không chỉ nghiệp thức mênh mang cũng chính là không có nguồn gốc có thể nương tựa. Sơn nói: Lành thay! Lành thay! Tụng rằng: Vừa gọi quay đầu biết ta chăng? Rương trăng hi-la lại thành móc câu Con ngàn vàng vừa lưu lạc, Đường cùng mờ mịt có chút buồn. Nêu, Lâm Tế dạy chúng rằng: Có một vô vị chân nhân thường ra vào trước cửa của các ông, người sơ tâm chưa chứng cứ hay xem thử. Lúc bấy giờ, có vị tăng hỏi: Thế nào là vô vị chân nhân? Tế bước xuống giường thiền nắm lấy, vị tăng ấy nghó ngơi. Tế nói rằng: Vô vị chân nhân là que phân khô. Tụng rằng: Mê ngộ trái nhau, khéo truyền mà giản dị, Mùa Xuân trăm hoa đua nở chừ, Một lần thổi, sức quay vòng chín trâu vừa kéo, Đáng tiếc cát bùn cạy không ra, Rõ ràng tắc đoạn mắt cam tuyền, Bỗng nhiên chọc thủng chảy khắp nơi. Sư lại nói rằng: Nguy hiểm. Nêu, tăng hỏi Triệu Châu rằng: Con mới vào tòng lâm, xin thầy chỉ dạy? Châu hỏi: Ăn cháo xong chưa? Tăng đáp: Ăn cháo rồi. Châu nói: Rửa bát đi. Tụng rằng: Ăn cháo xong dạy rửa bát, Hoát nhiên tâm địa tự hợp nhau, Ngày nay khách tòng lâm tham đủ, Hãy nói trong có ngộ không? Nêu, Vân Môn hỏi Càn Phong rằng: Xin Sư trả lời. Phong đáp: Đến lão tăng chưa? Môn nói: Như thế thì con đến muộn vậy. Phong hỏi: Như thế nào, như thế nào? Môn đáp: Sẽ nói vượn trắng lại có vượn đen. Tụng rằng: Đuôi dây cung bọc nhau, lưới châu đối nhau, Bắn ra trăm phát đều trúng mà không uổng từng mũi tên, Nhiếp chúng rộng lớn mà ánh sáng vô ngại, Được câu nói tổng trì, trụ Tam-muội du hý, Kỳ diệu trong đó cũng uyển chuyển thiên viên, Nhất định như thế cũng tung hoành tự tại. Nêu, Lạc Phố lúc lâm chung bảo chúng rằng: Nay có một việc hỏi các vị, cái này nếu đúng thì trên đầu đặt thêm một cái đầu, nếu nói không đúng thì chặt đầu tìm sống. Lúc bấy giờ, Thủ tòa nói rằng: Núi xanh thường nhấc chân, dưới ánh mặt trời không khêu bấc đèn lên. Phố hỏi là thời tiết nào nói lời này? Có Thượng tọa Ngạn Tùng, bước ra nói rằng: Đi hai con đường này xin thầy không hỏi. Phố nói: Chưa đến lại nói. Tùng thưa: Con nói không hết. Phố nói: Ta không cần ông nói hết hay nói không hết. Tùng thưa: Con không có Thị giả chỉ đối với Hòa thượng, Phố liền thôi. Đến tối gọi Thượng tọa Tùng đến hỏi rằng: Hôm nay ông chỉ đối đáp rất có nguyên do, hợp thể được đạo tiên sư, trước mắt không pháp, ý ngay trước mắt, người khác không phải là pháp trước mắt, chẳng phải là chỗ đến của tai mắt, hãy nói câu nào là khách, câu nào là chủ? Nếu chọn ra được dặn dò túi bát. Tùng thưa: Không biết. Phố nói: Ông biết mà? Tùng thưa: Con thật không biết. Phố hét một tiếng nói rằng: Khổ thay, khổ thay! Tăng hỏi: Tôn ý của Hòa thượng như thế nào? Phố nói: Thuyền từ không chèo trên bóng nước trong, kiếm hiệp phí công thả ngỗng gỗ. Tụng rằng: Mồi mây câu trăng câu bến trong, Tuổi già lòng cô độc chưa được vảy cá, Sau một khúc ly tao lại đi về, Trên sông mịch la chỉ người tỉnh. Nêu, có vị tăng hỏi Trung Quốc sư ở Nam Dương rằng: Thế nào là bổn thân Lô-xá-na? Quốc sư đáp: Đem bình nước trong đến cho ra. Tăng đem bình nước trong đến. Quốc sư nói: Lại về ngồi yên chỗ cũ. Tăng lại hỏi: Thế nào là bổn thân Lô-xá-na? Quốc sư đáp: Cổ Phật quá khứ rất lâu. Tụng rằng: Chim bay trên không cá lội dưới nước, Sông hồ quên nhau, mây trời đắc chí, Tâm đoán định một chút đối diện ngàn dặm, Tri ân báo ân nhân gian có bao nhiêu? Nêu, La Sơn hỏi Nham Đầu rằng: Lúc khởi diệt không dừng như thế nào? Đầu ủa một tiếng hỏi lại rằng: Là ai khởi diệt? Tụng rằng: Chặt đứt dây chằng chịt của lão, Đập vỡ hang ổ của cáo, Báo khoác sương mù mà đến biến đổi vằn, Rồng cưỡi sấm mà thay xương cốt, Chao ôi khởi diệt xôn xao là vật gì? Nêu, có vị tăng hỏi Hòa thượng Hưng Dương phẩu rằng: Sa-kiệt ra biển càn khôn yên lặng, gặp mặt trình nhau việc như thế nào? Dương đáp: Cánh chim kỳ diệu lớn bằng vũ trụ, trong đây ai là người ra mặt? Tăng thưa: Khi chợt gặp người ra mặt lại làm sao? Dương nói: Giống như chim cốt cưu, ông bất giác ngồi trước lầu kiểm nghiệm mới biết thật. Tăng nói: Như thế thì khoanh tay ngay bụng lùi ra sau ba bước. Dương nói: Quạ rùa dưới tòa Tu-di, chớ đợi nói lại vết sẹo nhỏ trên trán. Tụng rằng: Sợi chỉ câu xuống hiệu lệnh, Thiên tử trong vùng rộng lớn, Tướng quân ngoài biên giới, Không cần sấm nổ sâu nở, Đâu biết gió thổi chặn đường mây bay, Máy liên miên chừ, Tự có kim vàng chỉ ngọc, Trước ấn rộng lớn chừ, Vốn không có chim khắc vằn trùng. Nêu, kinh Viên Giác chép rằng: Ở tất cả thời, không khởi vọng niệm, ở các vọng tâm cũng không ngừng diệt, trụ cảnh vọng tưởng không thêm hiểu biết, ở trong không hiểu biết không rõ chân thật. Tụng rằng: Sừng sững hiên ngang ngay thẳng, Nơi ồn náo đâm vào đầu, Nơi yên ổn đặt bước, Tuyết đường đặt bước đứt ta tự do, Đầu mũi hết bùn ông thôi chặt, Chớ động vào, vì ngàn năm nên trong giấy gói dược. Nêu, Đại sư Đức Sơn Viên Minh bảo chúng rằng: Đi đến tận cùng, chỉ được ba đời chư Phật miệng treo trên vách, còn có một người, cười lớn ha ha. Nếu biết người này thì việc tham học xong. Tụng rằng: Thu giữ đoạn khâm hầu, Gió sờ mây lau, mùa Thu nước lạnh, Vảy chớ nói là không có vị, Câu hết sóng xanh chỉ có một lưỡi câu trăng. Nêu, có vị tăng hỏi Triệu Châu rằng: Thế nào là ý Tổ sư Tây lai? Châu đáp: Cây bách trước sân. Tụng rằng: Mày cao tuyết giăng ngang, Mắt sông ngậm mùa Thu, Cửa biển vỗ sóng, lưỡi thuyền lái đi, Tay dẹp loạn, lo liệu thái bình, Lão Triệu Châu ơi lão Triệu Châu, Rối loạn tòng lâm đến chết cũng chưa thôi, Uổng phí công phu làm xe hợp tuyến đường xe chạy, Vốn không mánh khóe cũng bít khe lấp rãnh. Nêu, Duy-ma-cật hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: Những gì là Bồ-tát nhập vào pháp môn không hai? Văn-thù-sư-lợi đáp: Theo ý tôi thì đối với tất cả pháp không ngôn không thuyết, không chỉ bày không biết, lìa các câu hỏi đáp, ấy là vào pháp môn không hai. Vì thế Văn-thù-sư-lợi hỏi Duy-ma-cật hỏi rằng: Chúng tôi đều tự nói rồi, nhân giả nên nói: Thế nào là Bồ-tát nhập vào pháp môn không hai? Duy-ma-cật im lặng. Tụng rằng: Mạn Thù thăm bệnh lão Tỳ-da, Không hai cửa mở thấy là nhà, Ngoài là đá mân trong thuần túy ngọc, Ai thưởng thức giám định, Quên trước mất sau chớ bàn bạc thở than, Nhỏ nhoi ôm lấy ngọc chưa mài giũa chừ, Sân nước Sở tổn hại kẻ só, châu báu rực rỡ chừ, Thành Tùy, đoạn rắn, không phá hết một chút tì vết, Thô tục vẩn đục không rõ ràng một chút. Nêu, Động Sơn cúng dường chân thứ của Vân Nhan, bèn nêu chân thoại xa xôi trước kia. Có vị tăng hỏi rằng: Vân Nham nói chỉ đây là, ý chỉ ấy như thế nào? Sơn đáp: Nếu không biết có thì sao hiểu được lời nói như thế? Nếu biết có làm sao chịu nói như thế? Tụng rằng: Làm sao biết nói như thế, Gà gáy canh năm nhà rừng đều sáng. Làm sao chịu nói như thế, Hạc ngàn năm già với mây tùng. Gương báu trong sáng nghiệm chánh thiên, Máy ngọc quay nghiêng xem đều được, Ngoài cửa gió lớn chân động chừ, bước dài liên miên, Cha con mềm dẻo chừ, thanh quang rộng lớn. Nêu, Tuyết Phong lúc ở am, có hai vị tăng đến lễ bái, Phong thấy họ đến liền lấy tay nhấc cửa am phóng mình ra hỏi rằng: Là gì? Tăng cũng nói: Là gì? Phong cúi đầu trở về am. Sau đó vị tăng ấy đến yết kiến Nham Đầu. Đầu hỏi: Từ đâu đến? Tăng đáp: Từ Lónh nam đến. Đầu hỏi: Có lần nào đến chỗ ngài Tuyết Phong chưa? Tăng đáp: Từng đến. Đầu hỏi: Có nói câu gì? Tăng nêu lời trước kia. Đầu hỏi: Ông ta nói gì? Tăng đáp: Ông ta không nói gì cả chỉ cúi đầu trở về am. Đầu nói: Ôi! Ta ngay lúc đầu không nói với ông ta câu cuối cùng, nếu nói với y thì người trong thiên hạ không làm gì được lão Tuyết. Tăng đến cuối mùa hạ, nêu lại lời nói trước kia mà thỉnh ích. Đầu hỏi: Sao không hỏi sớm? Tăng đáp: Chưa dám dễ dàng. Đầu nói rằng: Tuyết Phong tuy cùng cái sống với ta nhưng không cùng cái chết với ông, muốn biết câu cuối cùng chỉ đây là. Tụng rằng: Trau dồi, biến thái động thức ăn, Gậy Cát Pha hóa rồng, Con thoi của nhà thợ gốm ở ẩn, Đồng cái sống chừ, có số, Đồng cái chết chừ, không nhiều, Câu cuối cùng chỉ đây là, Gió thuyền chở trăng lềnh bềnh trên nước mùa Thu. Nêu, Pháp Nhãn hỏi Giác thượng tòa rằng: Đi thuyền đến hay đi theo đất liền đến? Giác đáp: Đi thuyền đến. Nhãn hỏi: Thuyền ở chỗ nào? Giác đáp: Thuyền ở trong sông. Sau khi Giác lui ra, Nhãn lại hỏi vị tăng bên cạnh rằng: Ông nói vị tăng này vừa đến đủ mắt hay không đủ mắt? Tụng rằng: Nước không rửa được nước, vàng không được vàng, Mê màu lông mà được chim, Không có dây cung đàn nào mà đàn không vui, Bện thừng tranh treo có nhiều việc, Mất hết tâm Bàn cổ chân thuần. Nêu, Tào Sơn hỏi Đức thượng tọa rằng: Pháp thân chân thật của Phật vẫn như hư không, ứng theo vật mà hiện hình, như trăng trong nước, làm sao nói đạo lý ứng hiện này? Đức đáp: Như con lừa nheo mắt nhìn vào giếng. Sơn nói: Nói thì hoàn toàn giết đạo, chỉ nói được tám mươi phần trăm. Đức hỏi: Hòa thượng lại như thế nào? Sơn đáp: Như giếng nheo mắt nhìn kỹ lừa. Tụng rằng: Lừa nhìn kỹ giếng, giếng nhìn kỹ lừa, Trí chứa đựng không ngoài, Chứa đựng trong sạch có thừa, Phía sau khuỷu tay ai chia ấn, Trong nhà không chứa sách, Việc máy quay tơ không treo trên đầu con thoi, Hoa văn ngang dọc, ý tự khác. Nêu, Hoàng Nghiệt bảo chúng rằng: Các ông chỉ là những anh chàng bã rượu ăn uống lu bù, và hành cước với cái gì, chỗ nào có hôm nay? Lại biết trong nước Đại Đường không có Thiền sư chăng? Lúc bấy giờ, có một vị tăng bước ra hỏi rằng: Chỉ như chư vị các nơi giúp đỡ môn đồ, dẫn dắt chúng lại làm sao? Nghiệt đáp: Ta không nói không có thiền mà chỉ nói là không có thầy. Tụng rằng: Phần khác, nhuộm tơ tằm quá ba hoa, Quả liền hoa liên kết phá hỏng thế hệ của Tổ, Khéo nắm cán la bàn tạo hóa, Mây nước dụng cụ ở nặn đúc, Dứt bỏ nhiều vụn vặt, diệt trừ, Dụng cụ xem sao để bình luận thước ngọc đao vàng, Lão Hoàng Nghiệt xem xét kỹ cái tơ cái tóc, Ngồi đoạn gió Xuân không phóng lên cao. Nêu, Vân Nham hỏi Đạo Ngô rằng: Bồ-tát Đại Bi, dùng nhiều tay mắt làm gì? Ngô đáp: Như người nửa đêm đưa tay ra phía sau lưng sờ gối. Nham nói rằng: Tôi hiểu vậy. Ngô hỏi: Ông làm sao hiểu? Nham đáp: Khắp thân là tay mắt. Ngô nói: Nói thì hoàn toàn giết đạo, chỉ nói được tám mươi phần trăm. Nham hỏi: Sư huynh làm sao? Ngô nói: Khắp mình là tay mắt. Tụng rằng: Một lỗ trống rỗng, tám phía tinh xảo, Không hình dạng không riêng tư, Xuân đến quy luật không lưu lại, Không ngăn ngại, trăng đi trên hư không, Mắt báu trong sạch, cánh tay công đức, Cả người đâu giống khắp thân ấy, Tay mắt hiện tiền tỏ rõ toàn cơ, Đại dụng tung hoành, kiêng kî gì? Nêu, Tuyết Phong ở chỗ Đức Sơn làm đầu bếp nấu cơm. Một hôm cơm chín trễ Đức Sơn lấy bát đến pháp đường. Phong hỏi: Lão hán này, chuông chưa reo, trống chưa vang mà bưng bát đi đâu? Sơn bèn trở về phương trượng. Phong nêu lên Nham Đầu. Đầu nói: Ít nhiều Đức Sơn, không biết câu cuối cùng. Sơn nghe bèn sai thị giả gọi Nham Đầu đến hỏi: Ông không bằng lòng lão tăng chăng? Nham Đầu bèn thầm gợi ý cho Đức Sơn, Sơn bèn thôi. Đến ngày mai thăng đường, quả nhiên khác với bình thường, Nham vỗ tay, cười và nói rằng: Sau này người trong thiên hạ không làm gì được y. Tụng rằng: Câu cuối cùng biết chăng? Cha con Đức Sơn quá hàm hồ, Trong tòa cũng có khách Giang nam, Chim chá cô chớ hót trước người. Nêu, Mật Sư Bá đi kinh hành với Động Sơn, bỗng thấy một con thỏ trắng chạy qua trước mặt. Mật nói rằng: Xinh đẹp thay! Sơn hỏi: Làm sao? Mật nói: Như áo trắng bái tướng. Sơn rằng: Già rồi còn nói như vậy. Sơn nói rằng: Ông lại làm thế nào? Sơn đáp: Trâm anh lâu đời, tạm thời xem nhẹ. Tụng rằng: Sức đề kháng sương tuyết, một bước lên mây, Hạ Huệ bỏ nước, Tương Như qua cầu, Tiêu Tào mưu lược hay thành danh, Sào Hứu thân tâm muốn tránh Nghiêu, Sủng, nhục đáng sợ rất tự tin, Chân tình tham cứu dấu vết ngư, tiều lẫn lộn. Nêu, Tôn giả Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu rằng: Khi một vật không đem đến như thế nào? Châu đáp: Buông xuống đi. Nghiêm hỏi: Một vật không đem đến, buông xuống cái gì? Châu đáp: Như thế thì gánh lấy đi. Tụng rằng: Không phòng hạnh tế thua thế chủ động, Tự biết tâm thô thẹn đụng đầu, Cục phá giữa thắt lưng búa rìu nát vụn, Rửa sạch cốt phàm cùng tiên dạo chơi. Nêu, kinh Kim Cang chép rằng: Nếu bị người khinh thường, người ấy có tội nghiệp đời trước, lẽ ra đọa vào đường ác, vì đời nay bị người khinh thường nên tội nghiệp đời trước được tiêu diệt. Tụng rằng: Nối liền công và tội, dính vào nhân quả, Ngoài gương Diễn-nhã-đa cuồng chạy, Đầu gậy đánh vỡ bếp, Vỡ bếp rồi đến chúc mừng nhau, Lại nói trước kia cô phụ ta. Nêu, có vị tăng hỏi ngài Thanh Lâm rằng: Lúc con đi thẳng như thế nào? Lâm đáp: Rắn chết ngay đường cái khuyên ông chớ nắm đầu. Tăng hỏi: Khi nắm đầu như thế nào? Lâm đáp: Mất mạng căn của ông. Tăng hỏi: Khi không nắm đầu thì như thế nào? Lâm đáp: Cũng không có chỗ tránh. Tăng hỏi: Ngay lúc ấy như thế nào? Lâm đáp: Bỏ đi. Tăng hỏi: Chưa biết đi chỗ nào? Lâm đáp: Cỏ khuya không có chỗ tìm. Tăng hỏi: Hòa thượng cũng phải đề phòng mới được. Lâm vỗ tay nói rằng: Bậc nhất là hơi độc này. Tụng rằng: Tam lão thầm quay tay lái, Chiếc thuyền côi đêm tối quay đầu, Hoa lau hai bên bờ tuyết, Mùa Thu khói nước cả mặt sông, Sức gió đẩy buồm đi không phải chèo, Tiếng sáo gọi trăng đến Thương châu. Nêu, Lưu Thiết Ma đến yết kiến Quy Sơn. Sơn hỏi: Lão bò cái, ông đến à? Ma hỏi: Những ngày tới Đài sơn có đại hội trai tăng, Hòa thượng có đi không? Sơn buông mình nằm xuống. Ma liền bước ra. Tụng rằng: Trăm trận thành công luôn thái bình, Nhu hòa ai chịu khổ tranh cân nhắc, Roi ngọc ngựa vàng rỗi suốt ngày, Trăng sáng gió mát giàu có một đời. Nêu, có vị tăng hỏi Càn Phong rằng: Mười phương Bạc-già-pha- ïm (Phật) cửa Niết-bàn chỉ có một đường vào, chưa biết đầu đường ở đâu? Phong đưa gậy vừa vẽ vừa nói rằng: Ở trong đây. Tăng nêu lên hỏi Vân Môn. Môn đáp: Phiến Tử Bặc nhảy lên cõi trời Ba mươi ba dựng lỗ mũi của Đế-thích, cá chép ở biển Đông, đánh một gậy, mưa dường như là chậu đổ, biết chăng biết chăng? Tụng rằng: Bắt tay làm lại mã y sắp chết, Hương của hồn trở lại sắp làm nguy hiểm ông. Một kỳ kẹp chặt khắp thân xuất mồ hôi, Mới tin nhà ông không tiếc mày. Nêu, Mễ Hồ bảo tăng hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Thời nay có người lại giả ngộ chăng? Sơn đáp: Ngộ thì không thể không có, ngặt vì rơi vào đầu thứ hai. Tăng trở về nêu lại cho Mễ Hồ nghe, Hồ rất bằng lòng. Tụng rằng: Phần đầu thứ hai ngộ phá được mê, Phải mau lau tay bỏ mơn đăng, Công chừ chưa hết thành ngón tay cái chai, Trí cũng khó cảm giác cắn rốn, Thỏ già mâm băng mùa Thu rơi nước mắt, Chim rét trên cây ngọc trời sáng gió lạnh lẽo, Đem đến Đại Ngưỡng phân biệt thật giả, Ngọc có vết tự nhiên không quý bằng ngọc trắng. Nêu, Triệu Châu hỏi Đầu Tử rằng: Khi người đã chết mà sống lại như thế nào? Đầu đáp: Không cho phép đi đêm, sắp sáng phải đến. Tụng rằng: Thành hạt cải, kiếp đá khéo cùng xưa, Mắt linh hoạt soi rộng lớn trong vòng, Không cho phép đi đêm, sắp sáng phải đến, Tin nhà chưa chịu trao phó cho Hồng Ngư. Nêu, Tử Chiêu thủ tòa hỏi Pháp Nhãn: Hòa thượng khai đường, kế thừa ai? Nhãn đáp: Kế thừa Địa Tạng. Chiêu nói: Quá cô phụ tiên sư Trường Khánh. Nhãn nói: Mỗ giáp không biết một chuyển ngữ của Trường Khánh. Chiêu nói: Sao không hỏi? Nhãn liền hỏi: Trong vạn tượng một mình lộ thân, ý thế nào? Chiêu bèn dựng đứng phất tử. Nhãn nói: Đây là chỗ của Trường Khánh học được, Thủ tòa phần mình thì sao? Chiêu không nói. Nhãn hỏi: Chỉ như trong vạn tượng một mình lộ thân là chuyển vạn tượng hay không chuyển vạn tượng? Chiêu đáp: Không chuyển. Nhãn nói: Hai cái. Tăng theo tham vấn hai bên đều nói rằng: Chuyển vạn tượng. Nhãn nói: Trong vạn tượng một mình lộ thân. Tụng rằng: Lìa niệm thấy Phật, phá trần xuất kinh, Hiện thành gia pháp, ai lập môn đình, Trăng đuổi theo thuyền đi trên sông sạch, Xuân theo màu xanh đốt vết trên cỏ, Chuyển hay không chuyển nghe theo lời căn dặn, Nhiều đường thì không xác định trở về liền được, Lúc xưa tùng cúc vẫn hương thơm lừng. Nêu, tăng hỏi Thủ Sơn rằng: Thế nào là Phật? Sơn đáp: Cô dâu cưỡi lừa bọn a đầu dắt. Tụng rằng: Cô dâu cưỡi lừa bọn a đầu dắt, thể đoạn phong lưu được tự nhiên, có thể chế giễu bắt chước con gái nhà hàng xóm, thêm xấu cho người không được đẹp đẽ. Nêu, tăng hỏi Cửu Phong rằng: Thế nào là đầu? Phong đáp: Mở mắt không biết sáng. Tăng hỏi: Thế nào là đuôi? Phong đáp: Không ngồi giường vạn năng. Tăng hỏi: Khi có đầu không có đuôi như thế nào? Phong đáp: Cuối cùng là không quý. Tăng hỏi: Khi có đuôi không đầu như thế nào? Phong đáp: Tuy no nhưng không có sức. Tăng hỏi: Khi chỉ được đầu đuôi tương xứng như thế nào? Phong đáp: Con cháu đắc lực trong nhà không biết. Tụng rằng: Com-pa quay tròn, ê-ke vẽ vuông, dụng hạnh trong nhà giấu, Chim đần độn đậu trên cây lau, Dê tiến thoái phạm vào bờ rào, Ăn cơm người ta, nằm giường nhà mình, Mây bay cuồn cuộn dẫn đến mưa, Mốc kết thành sương, chỉ ngọc xỏ xuyên qua mũi kim, Tơ gấm không đứt nhả ra ruột con thoi, Thạch nữ dừng máy chừ, cảnh ban đêm hướng đến giữa trưa, Người gỗ xoay đường chừ, bóng trăng dời đến giữa. Nêu, kinh Hoa Nghiêm chép rằng: Ta nay rộng thấy tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không chứng được. Tụng rằng: Trời che đất chở, thành cục thành khối, khắp pháp giới mà vô biên, phân tích lân hư mà không có ở trong, tận đến chỗ sâu xa vi diệu, ai phân biệt được ủng hộ và phản đối. Phật tổ xuất hiện, trả nợ khẩu nghiệp, hỏi lấy Nam Tuyền, Vương lão sư, mỗi người chỉ ăn một cọng rau. Nêu, có vị tăng hỏi Hiệp Sơn rằng: Khi bỏ trần lao gặp Phật là như thế nào? Sơn đáp: Chỉ cần múa kiếm, nếu không múa kiếm thì ông già đánh cá ở trên ổ. Sau đó tăng nêu hỏi Thạch Sương rằng: Khi bỏ trần lao được gặp Phật là như thế nào? Sương đáp: Hắn không có quốc độ, gặp hắn ở chỗ nào? Tăng trở về nêu lên Hiệp Sơn. Sơn thượng đường nói rằng: Thiết lập môn đình không bằng lão tăng, nhập lý bàn luận sâu, vẫn so sánh trăm bước của Thạch Sương. Tụng rằng: Kiếm phẩy trâu, hơi rửa binh khí, Ra oai dẹp loạn quy công lại là ai? Trong một ngày gió thổi cát bay trong bốn biển, Vua rũ áo hóa mình vô vi. Nêu, Nam Tuyền dạy chúng rằng: Ba đời chư Phật không biết có, báo, nô bộc, bò đực trắng lại biết có. Tụng rằng: Tập tễnh dẫn dắt, lông dài lòa xòa, Trăm không thể lấy, một không chỗ kham, Lặng lẽ tự biết ruộng đất vững vàng, Vút lên cao ai bảo dạ bụng đần độn, Khắp pháp giới tự nhiên thành cơm, Xâu liền lỗ mũi khởi tin tham đủ. Nêu, Tiến Sơn chủ hỏi Tu Sơn chủ rằng: Biết rõ tánh sinh không sinh, vì sao bị sinh giữ lại? Tu đáp: Măng tre cuối cùng thành cây tre như nay làm nan dùng, lại được chăng? Tiến nói: Ông hướng phía sau tự ngộ chăng? Tu đáp: Con chỉ như vậy, ý chỉ của Thượng tọa như thế nào? Tiến đáp: Đây là phòng của Giám viện, đó là phòng của Điển tòa. Tu liền lễ bái. Tụng rằng: Bỗng rơi mất, nương cao nhàn không gò bó, nước nhà bình yên ít dính dáng đến người, một số lực lượng phân giai cấp, gột rửa thân tâm dứt thị phi, thị phi dứt, đứng thẳng rộng rãi mới không có vết cũ. Nêu, Thúy Nham cuối hạ dạy chúng rằng: Một hạ đã đến vì huynh đệ nói năng, xem lông mày của Thúy Nham ở đâu? Bảo Phước nói rằng: Người làm giặc tâm rỗng rang. Trường Khánh nói: Sanh vậy. Vân Môn nói: Cửa ải. Tụng rằng: Người làm giặc tâm quá gan dạ, Rõ ràng tung hoành đối cơ cảm, Bảo Phước, Vân Môn cũng rũ mũi lừa môi, Thúy Nham, Trường Khánh có giới hạn gì? Vừa nói ý câu nhất tề xóa bỏ, Chôn vùi chính mình cũng ngậm hơi nuốt tiếng, Làm lụy tông trước, quay mặt vào vách tường, vác bản. Nêu, Ngưỡng Sơn hỏi Trung Ấp rằng: Như thế nào là nghóa Phật tánh? Ấp đáp: Ta nói một thí dụ này cho ông nghe, như trong nhà có sáu cửa sổ đều để một con khỉ ở đó, bên ngoài có người gọi rằng đười ươi, khỉ liền trả lời. Như vậy cả sáu cửa sổ đều gọi đều trả lời. Ngưỡng hỏi: Như khi khỉ ngủ lại làm sao? Ấp liền xuống giường thiền nắm chặt Ngưỡng nói rằng đười ươi ta với ông gặp nhau. Tụng rằng: Rét ngủ nhà tuyết mùa màng hư hại, La môn hiu quạnh đêm không mở, Vườn rừng lạnh lẽo xem bất thường, Mùa Xuân gió thổi bay một loạt bụi ống tre. Nêu, tăng hỏi Tào Sơn rằng: Khi áo linh cữu không treo lên là như thế nào? Sơn đáp: Tào Sơn hôm nay mãn tang. Tăng hỏi: Sau mãn tang như thế nào? Sơn đáp: Tào Sơn thích nghiêng ngã vì rượu. Tụng rằng: Trong sạch môn đình hàng xóm xung quanh cũng sạch, Quanh năm quét cửa không cho bụi bám, Chỗ ánh sáng xoay trăng nghiêng tàn, Khi hào tương phân lại lập chi dần, Mới mãn tang liền gặp mùa Xuân, Say rượu bước cuồng ca hát bỏ mặc khăn rơi, Xỏa tóc như mọi còn ai lo quan tâm đến Thái bình vô sự rượu điên người. Nêu, tăng hỏi Pháp Nhãn rằng: Thừa pháp có nói từ gốc vô trụ vốn lập tất cả pháp, thế nào là gốc vô trụ? Nhãn đáp: Hình nổi lên chưa phải chất, danh khởi chưa chắc danh. Tụng rằng: Mất tung tích đoạn tin tức, mây trắng không nguồn gốc, gió mát màu gì, bung lọng khô, mà không tâm, nắm mặt đất mà có sức, rõ suốt nguồn gốc sâu xa của thiên cổ, tạo mô phạm của vạn tượng, sát trần mới biết, xứ xứ Phổ Hiền, mở cửa lầu các, đầu đầu Di-lặc. Nêu, ngài Thụy Nham hỏi Nham Đầu rằng: Thế nào là lý bổn thường? Đầu đáp: Động. Nham hỏi: Khi động như thế nào? Đầu đáp: Không thấy lý bổn thường. Nham đứng suy nghó mãi. Đầu nói: Bằng lòng thì chưa thoát khỏi căn trần, không bằng lòng thì vónh viễn chìm đắm trong sanh tử. Tụng rằng: Hạt châu tròn không lỗ, ngọc lớn không mài giũa, Chỗ quý của đạo nhân không có cạnh và góc, Lại chịu nhận đường rỗng không của căn trần, Thoát thể không nương vào việc sáng suốt. Nêu, Thủ Sơn dạy chúng rằng: Câu thứ nhất tiến cử được thì cùng Phật tổ làm thầy; câu thứ hai tiến cử được thì làm thầy của trời, người; câu thứ ba tiến được, tự cứu không xong. Tăng hỏi: Hòa thượng câu thứ mấy tiến được? Sơn đáp: Canh ba trăng lặng xuyên qua chợ. Tụng rằng: Đầu lâu của Phật tổ xỏ thành một xâu, Cung lộ ra nặng tróu thầm dẫn tên, Cơ yếu của trời, người phát ngàn cân, Mây dồn dập bay vùn vụt, Trong đây người xem chuyển biến, Gặp hèn thì sang gặp sang thì hèn, Được ngọc trai không hình tượng chừ, chí đạo miên viễn, Du Nhẫn mất trâu chừ một tấm lòng son. Nêu, có vị tăng hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Hòa thượng biết chữ chăng? Sơn đáp: Tùy phần. Tăng bèn đi vòng bên phải một vòng hỏi: Là chữ gì? Sơn vẽ chữ thập trên đất. Tăng đi xoay bên trái một vòng rồi hỏi: Là chữ gì? Sơn sửa chữ thập thành chữ vạn. Tăng vẽ một tướng tròn dùng hai tay nâng lên như thế Tu-la che mặt trăng mặt trời và hỏi rằng: Là chữ gì? Sơn bèn vẽ một tướng vòng tròn chung quanh chữ vạn. Tăng bèn làm thế Lâu-chí. Sơn nói: Đúng thế, đúng thế, ông khéo giữ gìn. Tụng rằng: Đường bao quanh trống rỗng không dư dật, Hư không ấn chữ chưa thành hình, Khéo vận bánh xe trời, cái trục đất, Thầm bày văn kinh của vũ vó, Buông xuống nhặt góp, một mình đi khắp nơi, Nảy sinh mấu chốt sâu xa trời xanh cản điện, Mắt ngậm ánh sáng tía, ban ngày thấy sao. Nêu, có vị tăng hỏi Vân Môn rằng: Thế nào là lời nói siêu Phật vượt Tổ? Môn đáp: Bánh Hồ. Tụng rằng: Bánh Hồ gọi là lời nói siêu Phật vượt Tổ, Trong câu vô vị nếu là tham, Nạp tăng một hôm như biết no, Mới thấy mặt Vân Môn không hổ thẹn. Nêu, Trường Sa sai tăng đến hỏi Hội Hòa thượng rằng: Lúc chưa thấy Nam Tuyền như thế nào? Hội im lặng giây lát. Tăng hỏi: Sau khi thấy như thế nào? Hội đáp: Không thể có khác. Tăng trở về nêu lại cho Trường Sa nghe. Sa nói rằng: Người ngồi trên đầu cây sào trăm mét, tuy nhiên được vào chưa phải thật, đầu cây sào trăm mét phải tiến bước. Mười phương thế giới là toàn thân. Tăng hỏi: Làm sao tiến bước trên đầu cây sào trăm mét? Sa đáp: Núi Lãng châu, sông Lễ châu. Tăng nói: Không biết. Sa nói: Bốn biển năm hồ trong quyền cai trị của vua. Tụng rằng: Người ngọc nằm mộng tỉnh vì một tiếng gà, Liếc mắt sanh nhai sắc sắc như nhau, Có tin gió sấm thôi thúc ra khỏi chỗ ẩn nấp, Không nói đào lý tự thành lối đi, Sức cày ruộng kịp thời tiết, Ai ngại ruộng xuân không có cẳng chân bùn. Nêu, Long Nha hỏi Thúy Vi rằng: Thế nào là ý Tổ sư Tây lai? Vi bảo: Đem thiền bản qua đây cho ta. Nha lấy thiền bản đến cho Thúy Vi, Vi nhận được liền đánh. Nha nói: Đánh thì mặc sức đánh, quan trọng vẫn còn không có ý của Tổ sư. Lại hỏi Lâm Tế rằng: Thế nào là ý Tổ sư Tây lai? Tế bảo đem bồ đoàn đến cho ta. Nha đem bồ đoàn đến cho Lâm Tế, Tế nhận được liền đánh. Nha nói: Đánh thì mặc sức đánh, quan trọng vẫn còn không có ý của Tổ sư. Sau đó Nha ở viện, có vị Tăng hỏi rằng: Năm ấy Hòa thượng hỏi Thúy vi Lâm Tế ý Tổ sư, hai Tôn giả biết chăng? Nha đáp: Biết thì biết nhưng quan trọng lại chưa có ý của Tổ sư. Tụng rằng: Bồ đoàn, thiền bản đối Song Nha, Việc gì đương cơ không làm nhà, Ý chưa thành bỏ mắt sáng , Sợ sẽ lưu lạc ở chân trời, Hư không treo kiếm ấy, Sao Hán lại nổi bè, Không mầm cỏ mở tàng hương tượng, Ngày nay giang hồ chướng ngại gì? Thông phương bến đò sang sang có thuyền xe. Nêu, Huyền sa đến huyện Bồ Điền, Bách Hý ra đón. Ngày hôm sau hỏi Tiểu Đường Trưởng lão: Hôm qua rất nhiều chỗ ồn ào, đi chỗ nào? Tiểu Đường nâng vạt ca-sa lên. Sa nói: Tài liệu rơi, mất giao thiệp. Tụng rằng: Giấu thuyền trong khe tối, nguồn trong tựa mái chèo, cá rồng chưa biết nước là mạng sống, bẻ gãy đũa không ngăn được chuyện phiếm quấy rầy. Sư Huyền Sa, lão Tiểu Đường, bao bọc mũi tên, dò sào bóng cỏ, rùa ẩn rúc trong tổ sen, vảy đẹp nghịch lớp rong chơi đùa. Nêu, Vân Môn nói rằng: Thanh văn ngộ đạo thấy sắc sáng tâm, Bồ-tát Quán Thế Âm đem tiền mua bánh Hồø, buông tay xuống lại là bánh bao. Tụng rằng: Ra cửa nhảy lên ngựa quét pha trộn vội vã, Muôn nước chiến tranh tự xóa sạch, Mười hai xứ mất ảnh hưởng nhàn rỗi, Ba ngàn thế giới phóng ánh sáng sạch. Nêu, Quy Sơn hỏi Đạo Ngô rằng: Ông từ đâu đến? Ngô đáp: Từ chỗ khám bệnh đến. Sơn hỏi: Có mấy người bệnh? Ngô đáp: Có người bệnh có người không bệnh. Sơn hỏi: Người không bệnh, không phải là trí đầu-đà sao? Ngô đáp: Bệnh và không bệnh đều không liên quan tới việc của hắn nói mau, nói mau. Sơn đáp: Nói được cũng không giao thiệp với hắn. Tụng rằng: Thức hay đâu từng qua miệng, Thần y không thể bỏ vào, Nếu còn, hắn vốn chẳng phải không, Đến trống rỗng, hắn vốn chẳng phải có, Không diệt mà sanh, không mất mà thọ, Hoàn toàn vượt lên được oai âm, Một mình bước sau không kiếp, Được yên ổn ư, trời che đất chở, Vận chuyển ư, quạ bay thỏ chạy. Nêu, Hòa thượng Câu-chi, thông thường nếu có người hỏi chỉ dựng đứng một ngón tay. Tụng rằng: Thiền đầu ngón tay của Lão tử Câu-chi, ba mươi năm trở lại đây dùng không hư hại, tin có phương pháp của Đạo nhân bên ngoài, rõ ràng không xem vật thế tục trước mắt, sở đắc rất đơn giản, thi hành và kiến thiết càng rộng rãi, cõi đại thiên biển đổ vào đầu sợi lông, vảy rồng vô hạn rơi vào tay ai, trân trọng tùy ông cầm cần câu. Sư lại dựng đứng ngón tay nói rằng: Xem. Nêu, Túc Tông đế hỏi Trung Quốc Sư rằng: Trăm năm sau chỗ cần vật gì? Quốc sư đáp: Cùng lão tăng làm tháp liền này. Đế thưa: Xin Sư ra kiểu tháp. Quốc sư giây lát hỏi: Biết chăng? Đế nói: Không biết. Quốc sư nói: Tôi có một đệ tử phó pháp tên là Đam Nguyên, biết rõ việc này. Sau này Đế Triệu Đam Nguyên đến hỏi ý này như thế nào? Nguyên nói: Tướng ở phía Nam, nói ở phía Bắc, bên trong có vàng đầy đủ một nước, dưới cây không bóng hợp cùng thuyền, trên điện luôn luôn không hiểu biết. Tụng rằng: Lẻ loi hồi hồi đầy đủ đà đà, thị lực đều ở chỗ cao chót vót, trăng lặn xuống nước đầm sâu, bầu trời đêm màu thẩm, mây thân núi gầy nhiều vẻ mùa Thu, vị bát phong, chánh khí hòa của ngũ hành, thân trước tiên ở trong thấy đến chăng? Cha con Nam Dương chừ, lại như biết có, Phật Tổ Tây trúc chừ, không thể làm gì được. Nếu Lâm Tế hỏi Hoàng Nghiệt rằng: Thế nào là đại ý đích thực của Phật pháp? Nghiệt liền đánh, ba lần như thế, bèn từ tạ Hoàng Ng- hiệt đến yết kiến Đại Ngu. Ngu hỏi: Ông từ đâu đến? Tế đáp: Từ chỗ Hoàng Nghiệt đến. Ngu hỏi: Hoàng Nghiệt có câu nói gì? Tế thưa: Con hỏi đại ý đích thực của Phật pháp ba lần đều bị ăn gậy ba lần, không biết có lỗi hay không có lỗi? Ngu nói: Hoàng Nghiệt lão bà như thế, làm ông bị khốn đốn, lại đến hỏi có lỗi hay không lỗi. Tế ngay lời nói đại ngộ. Tụng rằng: Chim non chín bọc, ngựa thiên lý, rõ ràng gió thổi qua ống địch, linh cơ phát trục quay, đến lúc bổ vào mặt, phi điện khẩn, chỗ mây mê thủng mặt trời cô độc, vuốt râu hổ thấy chăng? Đây là đại trượng phu hùng mạnh. Nêu, Sơ Sơn đến chỗ Qui Sơn liền hỏi: Được Sư có nói, có câu hay không có câu? Như dây dựa vào thân cây, bỗng cây ngã dây khô, câu về chỗ nào? Qui Sơn cười lớn ha ha. Sơ nói: Con trải qua bốn ngàn ( 4. 000) dặm mua về chiếc khăn vải, Hòa thượng đâu được đùa nhau. Qui Sơn gọi Thị giả lấy tiền trả lại cho Thượng tọa, bèn dặn dò rằng: Phía sau có rồng một mắt bị ông châm thủng. Sau này Sơ đến chỗ Minh chiêu nêu lời trước Chiêu nói: Qui Sơn có thể nói là đầu ngay đuôi ngay, chỉ tiếc là không gặp được người tri âm. Sơ lại hỏi: Cây ngã dây khô, câu về chỗ nào? Chiêu đáp: Lại làm cho Qui Sơn đổi cách cười mới. Sơ ngay lời nói có tỉnh ngộ, bèn nói rằng: Qui Sơn chủ yếu trong cách cười có con dao. Tụng rằng: Dây khô cây ngã hỏi Qui Sơn, Cười lớn ha ha, há bình thường, Trong cười có dao nhìn được thấu, Nói nghó không đường dứt cơ quan. Nêu, kinh Lăng Nghiêm chép rằng: Khi ta không thấy, sao không thấy chỗ không thấy của ta? Hoặc thấy hay không thấy tự nhiên chẳng phải tướng kia không thấy. Hoặc không thấy chỗ không thấy của ta, tự nhiên chẳng phải vật, sao chẳng phải ông? Tụng rằng: Biển xanh chảy khô, Tràn đầy hư không, Lỗ mũi nạp tăng dài, Đầu lưỡi cổ Phật ngắn, Tơ luồn châu qua chín khúc, Máy ngọc vừa mới quay, Ngay đó gặp nhau ai biết hắn, Mới tin người này không hợp bạn. Nên Động Sơn dạy chúng rằng: Đầu mùa Thu cuối mùa Hạ, huynh đệ hoặc Đông hoặc Tây, cần phải đi vạn dặm nơi không có một cọng cỏ. Lại hỏi: Chỉ như vạn dặm nơi không có một cọng cỏ, làm sao đi? Thạch Sương nói: Ra khỏi cửa liền là cỏ. Đại Dương nói: chỉ nói không ra khỏi cửa cũng là cỏ khắp đất. Tụng rằng: Cỏ mọc khắp nơi, trong cửa ngoài cửa ông tự thấy, trong rừng cây có gai, đặt bước thì dễ, ngoài rèm đêm tối quay người thì khó, xem thử mất loại nào? Hãy theo lão mộc cùng ốm lạnh, sẽ đuổi theo gió Xuân vào sẹo đốt. Nêu, Ngưỡng Sơn nằm mộng đến chỗ ngài Di-lặc ở tòa thứ hai. Tôn giả bạch rằng: Hôm nay sẽ thuyết pháp ở tòa thứ hai. Sơn bèn đứng dậy bạch rằng: Pháp Ma-ha-diễn lìa bốn câu, dứt trăm lỗi, cẩn bạch. Tụng rằng: Trong mộng giới thiệu tăng tham học bậc kỳ cựu, liệt Thánh ngồi san sát bên phải, việc nghóa phải làm, kiền chùy kêu, thuyết pháp Vô úy như Sư tử hống, tâm an như biển, gan dạ như sao Đẩu, mắt cá giao tuôn lệ, mổ ruột ếch có hạt châu, nói mê ai biết tiết lộ cơ của ta, mày to, nên cười nêu xấu của mình, lìa bốn câu dứt trăm lỗi, cha con Mã Tổ bệnh không thuốc chữa. Nêu, Nam Tuyền vì Lục Tuyên Đại phu nói rằng: Triệu Pháp sư cũng rất kỳ lạ, hiểu đạo trời đất cùng một gốc, vạn vật đồng một thể. Tuyền chỉ cây Mẫu đơn trước sân nói rằng: Đại phu. Lúc bấy giờ mọi người thấy một cây hoa này giống như mộng. Tụng rằng: Soi suốt nguồn căn lìa tạp hóa nhỏ nhiệm, xôn xao ẩn hiện thấy cửa ấy, du thần ngoài kiếp hỏi có gì? Nhìn vào trước thân biết còn đẹp, hổ gầm đỉnh núi gió thổi vi vu, rồng ngậm chầm chậm, động mây tăm tối. Khi Nam Tuyền điểm phá người mộng, phải biết hiên ngang thêm vào chỗ cao quý. Nêu, Vân Môn Đại sư nói rằng: Trong càn khôn, trong vũ trụ có một vật quý báu, bí mật ở trong hình dáng núi, sách lồng đèn đi về phía điện Phật, đem tam môn đến trên lồng đèn. Tụng rằng: Lấy hết phần thừa lòng thỏa mãn việc tốt, về đến chỗ nào để sinh nhai, lão tiều Lạn Kha nghi không có đường, treo bình trên cây ông khéo có nhà, sông đêm sóng vàng hiện lên bóng nguyệt quế, gió Thu tuyết dàn trận ôm lấy hoa lau, cá lạnh không nuốt được mồi, khởi hết giọng hát trong lại xoay chiếc bè. Nêu, Lỗ Tổ hỏi Nam Tuyền rằng: Người không biết hạt châu ma- ni, đích thân lấy được trong Như Lai tạng, thế nào là tạng? Tuyền đáp: Là Vương Lão sư qua lại với ông ấy vậy. Tổ hỏi: Cái không qua lại? Tuyền đáp: Cũng là tạng. Tổ hỏi: Thế nào là châu? Tuyền gọi rằng: Sư tổ. Tổ ứng đáp: Dạ. Tuyền nói: Đi đi, ông không hiểu lời của ta. Tụng rằng: Phân biệt phải trái nói được mất, Ứng tâm chỉ các lòng bàn tay Qua lại hay không qua lại, Chỉ đó, đều là tạng, Luân vương thưởng người có công, Hoàng Đế được võng tượng, Xoay trục quay máy, có thể mánh khóe, Nạp Tăng mắt sáng không lỗ mãng. Nêu, Động Sơn bất an. Tăng hỏi: Hòa thượng bệnh còn có người không bệnh chăng? Sơn đáp: Có. Tăng hỏi: Người không bệnh lại đến thăm Hòa thượng chăng? Sơn đáp: Lão tăng thấy người khác có phần. Tăng hỏi: Lúc Hòa thượng thấy người khác như thế nào? Sơn nói: Thì không thấy có bệnh. Tụng rằng: Bỏ mất túi da thối, xoay cục thịt đỏ, ngay đầu lỗ mũi thẳng, lập tức đầu lâu khô, lão thầy thuốc không thấy khối u xưa nay, tuổi trẻ thấy nhau đến gần tai nạn, khi cánh đồng ít màu mỡ, mùa Thu nước mưa lênh láng rút, chỗ mây trắng đoạn dứt núi cũ lạnh, phải diệt trừ chớ lú lẫn, xoay hết vô công vào vị trí của hắn, cô tiêu không cùng mâm với ông. Nêu, Lâm Tế hỏi Viện chủ rằng: Từ đâu đến? Chủ đáp Từ châu Trung Điều Hoàng Mễ đến. Tế hỏi: Bán ra hết chăng? Chủ đáp: Bán ra được hết. Tế lấy gậy vẽ một cái nói rằng: Lại bán ra được cái này chăng? Chủ liền hét. Tế liền đánh. Kế đó Điển Tòa đến, Tế nêu ngữ thoại trước Tòa nói: Viện chủ không hiểu ý của Hòa thượng. Tế hỏi: Còn ông lại làm sao? Tòa liền lễ bái. Tế cũng đánh. Tụng rằng: Toàn cơ của Lâm Tế phẩm chất cao, đầu gậy có mắt phân biệt mùa Thu diệt trừ chồn thỏ gia phong nghiêm ngặt, biến hóa cá rồng sấm nổ lửa thiêu, kiếm làm sống người, đao giết người, dựa vào trời soi tuyết lợi bới lông, một loại khiến làm mùi vị khác, chỗ rất đau là ai gặp. Nêu, Cửu Phong làm Thị giả cho Thạch Sương, Sương thị tịch. Sau này chúng muốn thỉnh thủ tòa trong đường tiếp tục trụ trì, Phong không chịu bèn nói rằng: Đợi tôi hỏi qua, nếu hiểu được ý của Tiên sư, như phụng dưỡng tiên sư. Bèn hỏi, Tiên sư nói: Ngừng đi nghó đi, một niệm vạn năm, tro lạnh cây khô, một cây lụa trắng, hãy nói biết việc gì? Tòa đáp: Biết việc toàn một loại. Phong nói: Như thế thì chưa hiểu ý của Tiên sư tồn tại. Tòa nói: Ông không chịu gói hương nào của tôi đem đến. Tòa bèn thắp hương khấn rằng: Con nếu không hiểu ý Tiên sư thì khói hương bay đến đâu, thoát ra không được, nói vừa xong liền ngồi thoát. Phong bèn vỗ vào lưng tòa nói rằng: Tọa thoát lập vong không thể không có, ý Tiên sư chưa mộng thấy còn. Tụng rằng: Một tông của Thạch Sương đích thân truyền cho Cửu Phong, thoát ra theo khói hương căn cứ phái khó thông, Hạc làm tổ trên cung trăng, khởi mộng ngàn năm, nhà tuyết người mê một loại công, ngồi đoạn mười phương như điểm trán, thầm dời một bước thấy rồng bay. Nêu, Đồng Quang Đế bảo Hưng Hóa rằng: Quả nhân thu được một vật báu ở Trung Nguyên, chỉ là không có người trả giá cả. Hóa nói: Mượn của báu của bệ hạ xem thử. Đế dùng hai tay vuốt từ đầu đến chân. Hòa nói: Của báu của bệ hạ ai dám trả giá. Tụng rằng: Ý của quân vương nói tri âm, thiên hạ ái mộ hoa quỳ, hoặc hương thật, đem ra của báu vô giá của Trung Nguyên, không giống ngọc nhà Triệu vàng nhà Yên. Của báu của Trung Nguyên trình Hưng Hóa, một đoạn ánh sáng khó định giá, nghiệp đế có thể làm thầy của muôn đời, bánh xe vàng soi sáng tứ thiên hạ. Nêu, có vị tăng hỏi Động Sơn rằng: Trong ba thân, thân nào không rơi vào các số Sơn đáp: Tôi thường ở trong tất cả số này. Tụng rằng: Không nhập thế chưa theo duyên chỗ bình không có gia truyền, cỏ tần trắng, mùa Thu gió hiu hiu trên sông chiều, bến xưa thuyền về một dãy khói. Nêu, tăng hỏi Vân Môn rằng: Thế nào là trần trần Tam-muội? Môn đáp: Cơm trong bát, nước trong thùng, mở miệng thấy nỗi lòng tìm tri kỷ, định suy nghó liền rơi vào hai ba cơ, đối diện chợt thành ngàn vạn dặm. Sư Thiều Dương cân nhắc một chút, nghóa đoạn vàng chừ, ai cùng giống như, tâm chẳng phải đá chừ chỉ có thể như vậy. Nêu, có vị tăng hỏi Giác Hòa thượng ở Lang Nha rằng: Thanh tịnh bản nhiên, vì sao bỗng sanh ra sơn hà đại địa? Giác hỏi lại: Thanh tịnh bản nhiên, vì sao bỗng sanh ra sơn hà đại địa? Tụng rằng: Thấy có hay không có, lật tay úp tay, người trong núi Lang Nha không rơi vào phía sau Cù-đàm. Một trăm mục tụng cổ của Giác Hòa thượng ở Phổ Chiếu tỉnh Tứ châu (hết). Quyển hai: Quảng Lục của Thiền sư Hoằng Trí.  <卷>QUYỂN 3 NIÊM CỔ CỦA GIÁC HÒA THƯỢNG Ở TRƯỜNG LÔ TỈNH CHÂN CHÂU Thị giả Hạnh Tùng biên tập. Nêu, Đức Thế Tôn nhân ngày tự tứ, Văn-thù có ba lỗi trong mùa hạ, Ca-diếp muốn tẩn xuất Văn-thù, vừa đến gần cái dùi trống bèn thấy trăm ngàn vạn ức Văn-thù. Ca-diếp dốc hết thần lực của mình nhưng không thể nhấc nỗi cái dùi. Đức Thế Tôn bèn hỏi: Ca-diếp, ông tẩn xuất Văn-thù nào? Ca-diếp không đáp. Sư nói rằng: Đầu-đà kim sắc có tâm không gan, đương thời chỉ theo lệnh mà làm, chớ nói trăm ngàn vạn ức Văn-thù, chỉ Cù-đàm mặt vàng này cũng cùng tẩn xuất. Nếu có thể như thế không chỉ chân phong chót vót, cũng khiến cho người đời sau biết môn hạ nạp tăng ta, rõ ràng ông không được rỗi rải như Phật Tổ. Nêu, Ngọa Luân nói rằng: Ngọa Luân có mánh khóe, có thể cắt đứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm không khởi, Bồ-đề ngày càng tăng trưởng. Lục Tổ nghe được hỏi rằng: Huệ Năng không có mánh khóe, không đoạn dứt tư tưởng đối cảnh tâm thường khởi, Bồ-đề làm sao tăng trưởng? Sư nói: Hoa quỳ hướng về mặt trời bông liễu rủ theo gió. Nêu, Bách Trượng thượng đường, đại chúng mới vân tập, dùng gậy nhất thời đánh đuổi đi, lại gọi rằng: Đại chúng, chúng quay đầu lại. Trượng hỏi: Là gì? Hoàng Nghiệt thượng đường, đại chúng mới vân tập, dùng gậy nhất thời đánh đuổi đi, lại kêu rằng: Đại chúng. Chúng quay đầu lại. Nghiệt nói: Trăng giống như vòng cung, ít mưa nhiều gió. Tuyết Đậu nói rằng: Nếu là Tuyết Đậu, họp chúng lấy gậy đánh rồi thôi. Sư nói: Làm mai mối, cầu chim bồ câu thẳng mũi câu câu cá đều có phương pháp tiếp vật lợi sanh. Nếu là lấy lồng này không thôi, kêu gọi hảo hán không quay lại, lại làm sao? Lấy gậy gõ vào đài hương một cái. Nêu, Nam Tuyền, Quy Tông, Ma Cốc, lễ bái Trung Quốc sư, Tuyền vẽ một tướng tròn ở trên đường nói rằng: Nói được thì đi. Tông ngồi trong tướng tròn, Cốc làm người nữ lễ bái. Tuyền nói: Như thế thì không đi. Tông hỏi: Là tâm hạnh gì? Sư nói rằng: Ta đương thời nếu thấy liền đến xóa hết tướng tròn, không chỉ đập bể sào huyệt của Nam Tuyền mà cũng chính là dạy Qui Tông không có chỗ dính mắc thân. Ma Cốc trình mánh khóe không được. Tuyền nói: Như thế thì không đi, thật vậy, thật vậy. Nêu, Động Sơn đến Bắc Nham. Nham hỏi: Ông từ đâu đến? Sơn đáp: Từ Hồ Nam đến. Nham hỏi: Quan sát sứ họ gì? Sơn đáp: Không được họ. Nham hỏi: Tên gì? Sơn đáp: Không được tên. Nham hỏi: Lại lý sự chăng? Sơn đáp: Tự có màn che hành lang. Nham hỏi: Lại ra vào chăng? Sơn đáp: Không ra vào. Nham nói: Há không ra vào ư! Sơn phủi tay áo đi ra. Nham những ngày tới, gần sáng vào giảng đường gọi Động Sơn đến bảo rằng: Hôm qua hỏi, Thượng tọa đáp không xứng ý Lão tăng, suốt đêm không an nay thỉnh Thượng tọa một chuyển ngữ khác, nếu thích ý Lão tăng thì liền ăn hết cháo làm bạn nhau qua mùa Hạ. Sơn thưa: Thỉnh Hòa thượng hỏi. Nham hỏi: Không ra vào? Sơn đáp: Sự sống rất tôn quý. Nham bèn khai cháo cùng qua mùa Hạ. Sư nói: Chủ trương môn hộ, tự có người bên cạnh đến, chung qua- nh im lặng uy nghiêm ai dám nhìn thẳng, mượn công thi thiết, chuyển vị nắm lấy, đều thành phần quyền của tả hữu, không phạm một đường tôn quý, lại biết chỗ tôn quý chăng? Bảo điện không người không đứng hầu, không trồng ngô đồng tránh được chim phượng đến đậu. Nêu, Pháp Đăng khai đường, bảo chúng rằng: Sơn tăng vốn muốn ở ẩn Nham đậu, lại do Lão nhân Thanh Lương có công án bất liễu, hôm nay đi ra, vì người khác phân tích. Tăng hỏi: Thế nào là công án bất liễu? Đăng liền đánh và nói rằng: Tổ sư bất liễu làm hại đến con cháu. Tăng hỏi: Lỗi ở chỗ nào? Đăng đáp: Lỗi ở ta làm hại đến ông. Sư nói: Vị tăng này nếu là Lão hán này bước ra liền xô ngã xuống giường thiền, không chỉ tự mình có đường xuất thân, cũng không thấy bất liễu của Tổ sư làm hại đến con cháu. Nêu, Hương Nghiêm nói rằng: Như người leo lên cây, miệng ngậm cành cây, tay không vịn vào nhánh, chân không đạp lên thân cây. Bên dưới có người hỏi ý Tây lai, hoặc không đáp trái lại câu hỏi của người khác, hoặc đáp lại tan thân mất mạng, ngay lúc ấy làm sao thì phải? Có Thượng tọa Hổ Đầu nói rằng: Trên cây thì không hỏi, chưa leo lên cây thỉnh Sư nói. Hương Nghiêm cười lớn ha ha. Tuyết Đậu nói rằng: Trên cây nói thì dễ, dưới cây nói thì khó, Lão tăng lên cây vậy. Gởi đến một câu hỏi. Sư nói: Thượng tòa Hổ đầu là ác tặc này, dùng tay vô nghóa, đánh không phòng nhà, thường thường làm tay chân không phân biệt, Tuyết Đậu là cơ nghi khác, biết Lão hán không lỗi, đến đây cũng chỉ được giấu thân lộ hình. Lại biết chỗ làm của Hương Nghiêm chăng? Ba ngàn kiếm khách nay ở đâu, riêng cho phép Trang Chu thấy thái bình. Nêu, có vị tăng hỏi Phong Huyệt rằng: Nói nín liên quan tới lìa vi tế, thế nào là thông không phạm? Huyệt đáp: Nhớ mãi Giang Nam trong ba tháng, chỗ gà gô gáy trăm hoa tỏa mùi hương. Tuyết Đậu nói rằng: Mổ bụng khóc tâm. Sư nói: Lộ trùng trục, tròn trónh chỗ đất ven núi, chỉ là không có góc hở. Hãy nói không có góc hở của Phong Huyệt sao giống không góc hở của Tuyết Đậu, lại biết chăng? Hòa quang sinh sự, đưa tới dốc sức làm thành nhà. Nêu, Huyền Sa hỏi Kính Thanh rằng: Người xưa nói không thấy một pháp là tai họa lớn ông hãy nói không thấy pháp gì? Thanh chỉ vào cây cột lộ ra nói rằng: Không phải pháp này sao? Sa nói: Trong Triết giang nước trong gạo trắng xưa nay ông ăn. Phật pháp chưa nằm mộng thấy còn. Sư nói Kính Thanh lúc ấy trả lời như thế, Huyền Sa cuối cùng nói như thế lại hợp nhau chăng? Như vậy thì Kính Thanh từ lâu không khởi mộng Phật pháp, cũng phải cùng tham với Huyền Sa mới được. Nêu, am chủ Liên Hoa đưa gậy lên bảo chúng rằng: Người xưa đến đây vì sao không chịu dừng. Chúng im lặng. Tự nói rằng: Vì đường khác không đắc lực. Lại hỏi: Cuối cùng như thế nào? Lại tự nói rằng: Ngọn cây cau gánh ngang không nhìn thấy người, đi vào ngàn đỉnh núi vạn đỉnh núi. Sư nói: Gánh vào không gánh ra, bản sắc người ở núi, suy nghó phần lớn nuốt hết chư Phật, Phổ Nhãn không thấy Phổ Hiền, hãy nói, bệnh ở chỗ nào? Bỗng nhiên đưa gậy lên cao một cái nói: Quan không cho cây kim thông đồng riêng tàu xe. Nêu, Tuyết Phong nói rằng: Cơm bày ra bên sàn ngồi, người đói chết vô số, nước biển bên chỗ ngồi người khát chết vô số. Huyền Sa nói: Cơm bày ra trong chỗ ngồi, đói làm chết người vô số, nước biển ngập đầu khác giết người vô số. Vân Môn nói: Khắp người là cơm, khắp người là nước. Sư nói: Tôi thì không như vậy, cơm bày ra trong chỗ ngồi phình lên giết người vô số, nước biển ngập đầu dần dần giết người vô số, vì vết đau trước ư, không nuốt, vì lỗi sau ư, không nhả, như Vân Môn nói: Khắp người là cơm khắp người là nước, đến đây không có chỗ cho ông nuốt nhả. Nêu, tăng hỏi Trí Môn rằng: Khi hoa sen chưa nhú lên khỏi mặt nước, như thế nào? Môn nói: Hoa sen. Tăng hỏi: sau khi ra khỏi mặt nước như thế nào? Môn đáp: Lá sen. Sư nói: Linh quy không nhớ điềm, vỏ trống không nhọc nhằn luồng qua. Nêu, tăng hỏi Tịnh Chúng rằng: Khi hoa sen chưa nhú lên khỏi mặt nước như thế nào? Chúng đáp: Hoa sen đầy cả sông hồ. Tăng hỏi: Sau khi ra khỏi mặt nước như thế nào? Chúng đáp: Lá rụng không biết mùa Thu. Sư nói: Lý Lăng giữ khí tiết hảo hán, Phan Lang cưỡi lừa ngược. Nêu, ngài Vân Cái hỏi Thạch Sương rằng: Muôn cánh cửa đều mở thì không hỏi khi muôn cửa đều đóng như thế nào? Sương hỏi: Trong giảng đường mọi việc làm thế nào? Cái không nói, trải qua nửa năm mới nói rằng: Không người nào tiếp được hắn. Sương nói: Nói thì rất giết đạo, chỉ nói được tám mươi phần trăm. Cái hỏi: Hòa thượng làm sao? Sương nói: Không người nào biết được hắn. Sư nói: ruộng đất vững vàng chắc chắn, kî rơi vào công huân, dán sát người bộ quần áo, biết nên cởi bỏ, trong tông phân biệt rõ, ngoài lượng chuyển cơ, phải cẩn thận mới được. Dị trong đồng, suy xét rõ ràng còn có thêm mù mờ. Dị trong dị, chỉ là khó đến chỗ cực diệu, lại đến chỗ xoay nghiên của cha con Thạch Sương chăng? Ngọn nến sáng người ngọc mới phá mộng, đêm lạnh thanh nữ chưa đăng cơ. Nêu, Mục Châu bảo chúng rằng: Phanh ra cũng tại ta, gom vào cũng tại ta. Tăng hỏi: Như thế nào là phanh ra? Châu đáp: Chín lần ba bằng hai mươi bảy. Bồ-đề Niết-bàn, chân như giải thoát, tức tâm tức Phật, ta lại nói như thế, ông lại làm sao? Tăng nói: Mỗ Giáp không nói như thế. Châu nói: Chén rơi xuống đất, lá trở thành tám mảnh. Tăng hỏi: Thế nào là gom lại? Châu khoanh tay mà ngồi. Sư nói: Chỗ dùng của Mục Châu chỉ là ba dài năm ngắn, bảy dọc tám ngang, bỏ ở trước mặt, ném về sau não, không ngăn trở điều kỳ lạ. Như vậy thì thiết lập môn đình, tự là một nhà, đàm đạo nhận lý sâu xa, không cánh đi trăm bước. Nêu, kinh chép rằng: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai. Pháp Nhãn nói rằng: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là không thấy Như Lai. Sư nói: Thế Tôn nói Như Lai thiền, Pháp Nhãn nói Tổ sư thiền, hiểu được rất đặc biệt, không hiểu cũng khen nhau. Nêu, Mã Tổ thấy tăng đến liền vẽ một tướng tròn nói rằng: Vào cũng đánh không vào cũng đánh. Tăng liền vào. Tổ liền đánh. Tăng nói: Hòa thượng không đánh được con. Tổ dựa vào cây gậy mà dừng. Sư nói: Nhanh nhẹn bước qua cửa, ý ở trong nhà, người đủ mắt rõ ràng phân biệt lấy. Nêu, Tăng hỏi Quảng Đức rằng: Thế nào là người linh lợi? Đức đáp: Duy-Ma không rời phòng của Phương trượng, Văn-thù chưa đến đã biết trước. Lại hỏi: Thế nào là người linh lợi? Đức đáp: Vết bẩn dính vào áo lót màu đen tranh đua giặt. Lại hỏi: Thế nào là người linh lợi? Đức đáp: Rắn độc ở Cổ mộ đầu đội sừng. Sư nói: Một câu nắm chắc cửa quan trọng, một câu không còn kỷ cương phép tắc, một câu thể dụng song chiếu. Nếu người nào hiểu được, có lẽ ông linh lợi, lại là ngọn nguồn chăng? Rùa khô khéo ở trong tay của Tôn Tân, một vạch hào sáng rõ chia mười chữ nhỏ. Nêu, Tuyết Phong hỏi tăng rằng: Đi đâu? Tăng đáp: Đi Phổ thỉnh. Phong nói: Đi. Sư nói: Chớ động vào, động vào ba mươi gậy. Vân Môn nói: Theo lời nói biết người, lại là vẽ chân cho rắn. Nêu, Tiềm Nguyên nhân dịp Bảo Cái đến gặp nhau, Nguyên bèn cuốn rèm vào phương trượng ngồi. Cái trở về chỗ tiếp khách. Nguyên sai Thị giả chuyển lời rằng: Xa liên lạc nhau không dễ, còn Cách Tân ở viện, vừa nói xong, Cái liền đánh một tát tay. Thị giả nói: Có Hòa thượng đường đầu ở viện, chớ đánh con. Cái nói: Chỉ là có Hòa thượng ở viện, cho nên đánh ông. Thị giả trở về nêu lên Nguyên. Nguyên nói: Còn Cách Tân ở viện. Sư nói: Rõ ràng còn Cách Tân tại viện. Như vậy thì mỗi mỗi kia, tự là một nhà, lại làm sao được cùng sống cùng chết, cùng mệnh sống liền cành, trong bóng tối, rút xương ngang, ngoài ánh sáng, ngồi trên đầu lưỡi. Nêu, Bảo Phước hỏi Trường Khánh rằng: Bàng Sơn nói quang cảnh đều mất, lại là vật gì? Động Sơn đáp: Quang cảnh đều mất, lại là vật gì? Theo hai lão túc đều chưa tiêu diệt ở, thì làm sao được tiêu diệt đi? Khánh im lặng giây lát. Phước nói: Lòng biết ông làm ăn trong hang quỷ. Khánh hỏi: Ông lại làm sao? Phước nói: Hai tay đỡ trâu nước qua đầu gối. Sư nói: Đều mất, chưa mất, đoạt người đoạt cảnh, vì sao Bảo Phước không bằng lòng Trường Khánh. Thái bình vốn là tướng dựng lên, không cho phép tướng quân thấy thái bình. Nêu, Càn Phong bảo chúng rằng: Pháp thân có ba thứ bệnh hai loại ánh sáng, cần phải thấu suốt được mỗi thứ. Lại khi có chiếu dụng đến, hướng lên một lỗ. Vân Môn bước ra hỏi rằng: Người trong am vì sao không biết việc ngoài am? Phong cười lớn ha ha. Môn nói: Vẫn là chỗ nghi của con. Phong hỏi: Ông là tâm hạnh gì? Môn thưa: Cũng cần Hòa thượng tìm ngọn nguồn. Phong nói: Chỉ cần vững vàng như thế mới được chỗ ngồi yên. Môn đáp: Dạ dạ. Sư nói: Ngồi được bệnh đã vào xương tủy, dùng được ánh sáng không xuyên thấu qua, dù ông tung hoành mười chữ, xoay tròn một máy cũng chưa biết có còn một lỗ hướng lên lại được chỗ ngồi yên chăng? Đến cuối trăng đêm, sương tùy ý rơi vào khe trước. Nêu Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Ông suốt mùa Hạ không thấy lên, ở phía dưới làm việc gì? Ngưỡng đáp: Con cuốc được một mảnh ruộng, xuống được lượt giống. Quy Sơn hỏi: Mùa Hạ này ông không luống công? Ngưỡng hỏi: Mùa Hạ này Hòa thượng làm gì? Quy Sơn đáp: Một bữa cơm chính ngọ, một giấc ngủ sau đêm. Ngưỡng nói: Mùa Hạ này Hòa thượng cũng không luống công, nói xong bèn thè lưỡi. Quy Sơn hỏi: Tịch Tử sao được tự làm hại mạng mình? Sư nói: Trẻ nên nỗ lực, già tâm hợp lúc, suốt mùa Hạ này đều không luống công. Vì sao Ngưỡng Sơn nói xong thè lưỡi. Nếu kiểm điểm ra thì tai họa không vào cửa nhà người thận trọng. Nêu, Triệu Châu nói rằng: Chỗ có Phật không được ở, chỗ không Phật mau đi qua. Sư nói rằng: Trầm không trệ tịch, chạm tay vào bị cảm mạo, đều không phải là chỗ đi đến của nạp tăng, chỉ cần chớ vào chợ của người, chớ ngồi giường chõng của người khác. Chánh không lập huyền, thiên không theo vật, mới có thể nắm chặt cho phép đi qua, có phần tự do. Nêu, Lâm Tế, Thủ tòa lưỡng đường đều hét, tăng hỏi Lâm Tế lại có khách, chủ chăng? Tế đáp: Chủ khách rõ ràng. Sư nói: Đao giết người, kiếm sống người, ở trong tay Lâm Tế. Tuy như thế, đương thời liền cùng một tiếng hét. Dù họ có thần thông rất tỏ rõ cũng chỉ được cùng một sở thích. Nêu, Động Sơn hỏi Ẩn Sơn rằng: Thế nào là chủ trong chủ? Ẩn đáp: Từ lâu không ra khỏi cửa. Động Sơn hỏi: Thế nào là khách trong chủ? Ẩn Sơn đáp: Núi xanh che mây trắng. Động Sơn hỏi: Chủ khách cách nhau bao nhiêu? Ẩn Sơn đáp: Sóng vỗ trên sông Trường giang. Động Sơn hỏi: Chủ khách gặp nhau có nói với nhau lời gì? Ẩn Sơn đáp: Gió mát phủi sạch trăng. Sư nói: Chủ cũng là mây che tướng đỉnh đầu, khách cũng là tuyết đè cạnh lông mày, cách nhau cũng là môn ti có hạn, lời nói cũng là ngọc lay động tiếng vàng. Bốn câu này của ta, hãy nói giống hay khác Ẩn Sơn? Người tòng lâm có mắt thử thỉnh phân biệt xem. Nêu, Vân Môn nói rằng: Phật pháp đại sát hữu chỉ là đầu lưỡi ngắn. Sau đó Tự nói rằng dài. Sư nói: Đại sư Vân Môn tuy tự đứng tự ngã, quan trọng còn xe không đẩy ngang, lý không đứt khúc. Nêu, Quy Sơn cùng Ngưỡng Sơn hái chè. Quy Sơn nói: Suốt ngày chỉ nghe tiếng của ông mà không thấy hình dáng của ông. Ngưỡng liền lay động cây chè. Quy Sơn nói: Ông chỉ được dụng của nó. Ngưỡng Sơn nói: Chưa biết Hòa thượng như thế nào? Quy Sơn im lặng giây lát. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được thể của nó. Quy Sơn nói: Đánh ông ba mươi gậy. Sư nói rằng: Quy Sơn, Ngưỡng Sơn, cha cha con con, tòng lâm đều nói mỗi vị được một cái cọc, không ngờ trời sáng cùng mây trắng, nước hòa cùng trăng sáng mùa Thu. Nêu, trong hội Lăng-nghiêm, Đức Thế Tôn bảo chúng rằng: Nếu có thể suy ra tận gốc là tâm của ông thì nhận giặc làm con. Tu Sơn chủ nói: Nếu có thể suy tận gốc không phải tâm ông thì nhận con làm giặc. Sư nói: Như nay suy rộng ra là con hay là giặc mua mũ đội đầu, ăn cá bỏ xương. Nêu, Trường Khánh nói rằng: Luôn giống hôm nay, lão Hồ có hy vọng. Bảo Phước nói: Đều giống hôm nay lão Hồ tuyệt vọng. Sư nói: Giàu ghét ít ngàn miệng, nghèo hận nhiều một thân. Nêu, tăng hỏi Thạch Sương rằng: Chân thân lại xuất thế chăng? Sương đáp: Không xuất thế. Tăng hỏi: Chân thân thế nào? Sương đáp: Miệng bình lưu ly. Sư nói rằng: Khắp thân đến hết, triệt để vô công, xoa tay có thể đến, tùy chỗ được dùng, lại biết lão hán Thạch Sương chăng? Ngay đường không vết bóng, khắp cõi không từng che. Nêu, tăng hỏi Tuyết Phong rằng: Khi khe suối lạnh xưa như thế nào? mũi. Phong đáp: Trố mắt nhìn không thấy đáy. Tăng hỏi: Người uống như thế nào? Phong đáp: Không vào từ miệng. Tăng nêu lên Triệu Châu. Châu nói: Không thể vào từ trong lỗ Tăng lại hỏi Châu: Khi khe suối lạnh xưa như thế nào? Châu đáp: Đắng. Tăng hỏi: Người uống như thế nào? Châu đáp: Chết. Tuyết Phong nghe được nói rằng: Triệu Châu cổ Phật, từ đây không trả lời. Sư nói: Đỡ tông thừa đứng thẳng phải là bậc thầy. Tuyết Phong phân biệt thân tâm của một ngàn năm trăm thiện tri thức. Triệu Châu dùng ông lão một trăm hai mươi làm thủ đoạn của nhà tuổi già, không trở ngại kỳ lạ. Như nay trong chúng theo lời nói mà xác định ý nghóa, rối loạn uổng người xưa. Như vậy thì cùng nhau làm việc tốt đẹp, dường như có tri âm, ghi lòng tạc dạ, hiếm khi gặp được tấm gương sáng. Nêu, Quốc sư ba lần gọi Thị giả, Thị giả ba lần đáp lại. Quốc sư nói rằng: Sẽ nói rằng ta cô phụ ông, ai biết ông cô phụ ta. Sư nói: Trong đạo nhân nghóa, trên phận sự thầy trò, cứ gọi có thể đáp lại, nói thật không nói dối. Hãy nói có cô phụ hay không cô phụ, ngọc sáng không có tì vết, khắc văn mất đức. Nêu, tăng hỏi Thiều Sơn rằng: Phải trái không ở khắp nơi, lại có câu chăng? Sơn đáp: Có. Tăng hỏi: Là câu gì? Sơn đáp: Một mảnh mây lẻ loi không bày ra kẻ xấu. Sư nói: Khắp người hồi hổ, không chạm vào tôn nghiêm, Bàng Đề thoái vị nên phải uyển chuyển, lại thấy tướng của Thiều Sơn là chỗ nào chăng? Dốc sức xô đầu cha vào trong. Nêu, có vị tăng hỏi Lâm Tế rằng: Thế nào là kiếm thổi lông? Tế đáp: Việc tai họa, việc tai họa. Tăng liền lễ bái. Tế liền đánh. Tăng hỏi Ba-lăng rằng: Thế nào là kiếm thổi lông? Lăng đáp: Nhánh san hô đỡ mặt trăng. Sư nói: Đao giết người, một sợi lông cũng không qua, kiếm sống người, một mải mai cũng không tổn thương, lúc có ý chí càng thêm ý chí, chỗ không phong lưu cũng phong lưu. Nêu, Động Sơn nói rằng: Thể được người tiến lên Phật, mới có phần nói năng. Tăng hỏi: Thế nào là người tiến lên Phật? Sơn đáp: Chẳng phải Phật. Pháp Nhãn nói: Phương tiện gọi là Phật. Sư nói: Hai lão túc cách nhau bao nhiêu chỉ là đao đao giống nhau, ngại gì Ngư lỗ sai, lệch đến đây cần phải chuyển cơ ngoài kiếp, phóng tên trước gió, quay ngang mình gánh vác, buông tay gánh vác, đủ loại mắt này mới được, lại phân biệt được chăng? Dễ phân biệt phấn trong tuyết, khó phân biệt than trong mực. Nêu, Tu Sơn chủ nói rằng: Đầy đủ pháp phàm phu, phàm phu không biết, đầy đủ pháp Thánh nhân, Thánh nhân không hay. Nếu Thánh nhân biết thì giống phàm phu, phàm phu nếu hay tức là Thánh nhân. Sư nói: Thâu được An Nam, lại lo phía Bắc hiểm yếu phía Bắc. Đến đây việc thật thành, nhất thời bay đi, mới được chỗ ngồi yên ổn, lại là ngọn nguồn chăng. Cùng một lòng bình lặng, lẫn lộn tự hết. Nêu, Thạch Thê hỏi Thị giả rằng: Ông đi đâu? Thị giả đáp: Đi lên trai đường. Thê nói: Ta há không biết ông đi trai đường. Thị giả hỏi: Ngoài lời này ra còn nói gì khác? Thê đáp: Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ông. Thị giả thưa: Nếu hỏi về việc bổn phận thì con quả thật là đi lên trai đường. Thê nói: Không lầm làm Thị giả của ta. Sư nói: Bỏ qua thì không được, như nay chỉ túm được lỗ mũi đau, đập bể được bộ xương mới được tránh gặp lừa mù đuổi theo đại đội. Cho nên nói người chết vô số trên đất bằng, xuyên qua được rừng gai góc là người tài giỏi. Hãy nói: Vừa đến vị tăng nay xuyên qua được chăng? Nhiều giả dối không bằng ít mà thật thà. Nêu, tăng hỏi Pháp Nhãn rằng: Hai chữ thanh sắc, làm sao thấu đáo được? Nhãn đáp: Nếu đại chúng biết được chỗ hỏi của vị tăng này thì thấu được sắc không khó. Sư nói: Trước kia không hiểu, chỉ vì giặc trong nhà khó phòng ngừa, ngay nơi đó rõ ràng lại đến am cỏ nghỉ ngơi. Nêu, Hiệp Sơn nói rằng: Trước mắt không có pháp, ý ở trước mắt, người khác không phải là pháp trước mắt, chẳng phải chỗ đến của tai mắt. Sư nói: Lão tử Hiệp Sơn, mở miệng túi vải đem của cải quý báu lạ ra rải ở trước mặt các vị. Ngay lúc ấy lại làm sao? Đi đường không lượm của rơi, quân tử khen tốt. Nêu, Triệu Châu nói rằng: Nắm chặt con mắt càn khôn, liên miên không lọt ra một mảy may, ta muốn ông biết, ông lại làm sao biết? Sư nói: Lại xét đến cùng chăng? Dù ông biết được trong đây bảy lỗ tám lỗ, ta cũng biết ông ra không khỏi vòng vẽ của Triệu Châu. Nêu, Kính Thanh hỏi Linh Vân rằng: Khi hỗn độn chưa rõ ràng, như thế nào? Vân đáp: Cột lộ mang thai. Thanh hỏi: Sau khi phiền não thì như thế nào? Vân đáp: Như làn mây điểm bầu trời. Thanh hỏi: Chỉ như bầu trời có bị điểm chăng? Vân không đáp. Thanh nói: Như thế thì hàm sanh không đến. Vân cũng không đáp. Thanh hỏi: Luôn được thuần trong, khi hết điểm thì như thế nào? Vân đáp: Vẫn là chân thường trôi chảy. Thanh hỏi: Thế nào là chân thường trôi chảy? Vân đáp: Giống như gương thường sáng. Thanh hỏi: Chưa biết hướng thượng lại có việc chăng? Vân đáp: Có. Thanh hỏi: Thế nào là việc hướng thượng? Vân đáp: Đập bể gương ra, cùng ông thấy nhau. Sư nói: Rõ và chưa rõ, máy ngọc ban đêm chuyển động. Điểm và không điểm, con thoi vàng vứt bỏ trong đêm, chỉ là cùng một sắc thuần trong chưa được mười phần trăm an ổn. Hãy nói: Đập bể chiếc gương ra thấy nhau ở chỗ nào? lại biết chăng? Sau mùa Thu phẳng lặng, thỏ nuốt ánh sáng, khi nước trong, rồng xanh lột xác. Nêu, Thạch Củng thượng đường: Bèn trương cung lắp tên, Tam Bình phanh ngực hứng lấy. Củng nói rằng: Một trương cung, hai chiếc tên, ba mươi năm chỉ bắn được một nửa Thánh nhân này. Sư nói rằng: Thạch Củng không bỏ thói quen Tam Bình nhân đó chống lệnh, lại nói rằng ba mươi năm, một trương cung hai chiếc tên, chỉ bắn được nửa Thánh nhân này, há không phải là suy bụng ta ra bụng người. Phần lớn sóng không đến đáng sợ, đến rồi khó tìm được loại cá vừa ý. Nêu, tăng hỏi Vân Môn rằng: Thế nào là pháp thân thanh tịnh? Môn đáp: Nhụy hoa rửa. Tăng hỏi: Khi thường đi như thế thì như thế nào? Môn đáp: Sư tử lông vàng. Tuyết Đậu nói rằng: Rất không có duyên cớ. Sư nói: Giặc đến phải đánh, khách đến phải tiếp đãi. Vân Môn, Tuyết Đậu cả hai đều làm nhà, trong đây chớ có người thường đi như thế chăng? Tối kî gõ đầu gõ trán. Nêu, tăng hỏi Tào Sơn rằng: Con về đến cha, vì sao cha hoàn toàn không quan tâm? Sơn đáp: Lý hợp như đây. Tăng hỏi: Ân cha con ở đâu? Sơn đáp: Mới thành ân cha con. Tăng hỏi: Thế nào là ân cha con? Sơn đáp: Dao búa chẻ không ra. Sư nói: Chim trả buông rèm, dây tơ chưa rơi xuống gấp lại màn tử la, thấy nghe khó thông, phạm vào động đầu sợi lông, đêm tối trăng lên ngoài cửa, thầm dời một bước, hạc bay ra khỏi lồng bạc, lại biết chăng? Thoát thân cùng một sắc màu không mất bóng, không ngồi cùng gió rơi vào đại công. Nêu, Bạch Thủy nói rằng: Trong mắt không được dính cát, trong lỗ tai không được để nước vào. Tăng liền hỏi: Thế nào là cát không được dính vào mắt? Thủy đáp: Ứng chân vô song. Tăng hỏi: Thế nào là trong tai không được để nước vào? Thủy đáp: Trắng nuốt không nhơ bẩn. Sư nói: Lão tử Bạch Thủy, có thể nói là lớn mà không ngoài, nhỏ mà không trong, đầy đủ ngàn biến vạn hóa, chỉ tay không thân suông, không được một giọt một trần, chỉ là đầy mắt đầy tay, lại thấy chăng? Đặt chân không có nơi nhàn rỗi, biết tâm có mấy người. Nêu, Thạch Đầu tham kiến Đồng khế rằng: Trả lời lẫn nhau hay không trả lời lẫn nhau? Tăng hỏi Vân Môn rằng: Thế nào là trả lời lẫn nhau? Môn chỉ đầu bản nói rằng: Không thể gọi là đầu bản. Tăng hỏi: Thế nào là không trả lời lẫn nhau? Môn đáp: Đây là đầu bản. Sư nói: Chót lưỡi của Thạch Đầu không xương trong mắt của Vân Môn có gân. Trong ngàn xưa thanh quang hiển hách, như nay phải nắm tay cùng đi, chỉ cần như thế mới biết không như thế. Sau đó không giao thiệp, lại biết chăng? Tuổi trẻ từng quyết trận rồng rắn, tuổi già ngược lại cùng con trẻ hát ca. Nêu, Ba Tiêu nói với chúng rằng: Ông có chống gậy, ta cùng ông chống gậy, ông không chống gậy, ta đoạt lại gậy của ông. Sư nói: Ông có thì tất cả có, ông không thì tất cả không, có không, tất nhiên là tương nhân và đoạt lấy việc gì của Ba Tiêu. Ngay lúc ấy, làm sao là ông chống gậy. Nêu, có vị tăng hỏi Hương Nghiêm rằng: Thế nào là đạo? Nghiêm đáp: Rồng ngâm trong cây khô. Tăng hỏi : Thế nào là người trong đạo? Nghiêm đáp: trồng mắt trong đầu lâu. Tăng nêu lên Thạch Sương, thế nào là rồng ngâm trong cây khô? Sương đáp: Còn mang hỷ tại. Tăng hỏi: Thế nào là mắt trong đầu lâu? Sương đáp: Còn mang thức tại. Sư nói: Vua ở trong cửa, bề tôi không ra khỏi cửa. Nêu, Đại Nhó Tam Tạng đắc tha tâm thông, đến yết kiến Túc Tông Đế. Đến nhờ Trung Quốc sư kiểm nghiệm. Tạng thấy Quốc sư liền lễ bái đứng về bên hữu. Quốc sư hỏi rằng: Ông đắc tha tâm thông chăng? Tạng đáp: Không dám. Quốc sư hỏi: Ông hãy nói lão tăng hôm nay ở chỗ nào? Tạng đáp: Hòa thượng là thầy một nước sao được ở Tây xuyên xem đua thuyền. Quốc sư lại hỏi: Ông hãy nói lão tăng ngay bây giờ ở chỗ nào? Tạng đáp: Hòa thượng là thầy một nước đâu được ở trên cầu Thiên Tân xem khỉ đùa nghịch Quốc sư hỏi lần thứ ba: Lão tăng ngay lúc này đang ở đâu? Tạng không biết chỗ đi. Quốc sư quát một tiếng, nói rằng: Con cáo rừng này, tha tâm thông ở chỗ nào. Sư nói: Tam Tạng không thấy Quốc sư thì lại vứt bỏ. Ông hãy nói Quốc sư tự biết chỗ rơi chăng? Nếu nói tự biết thì trăm chim ngậm hoa, chư Thiên cúng dường chưa có ngày chấm dứt. Hãy nói ngay lúc ấy rơi ở chỗ nào? Nêu, Đại Phu Lục Tuyên hỏi Nam Tuyền rằng: Trong nhà đệ tử có một tấm đá, có lúc ngồi có lúc nằm, muốn khắc làm tượng Phật được chăng? Tuyền đáp: Được. Lục hỏi: Không thể không được chăng? Tuyền đáp: Không được. Vân Nham nói rằng: Ngồi thì là Phật, không ngồi thì chẳng phải Phật. Động Sơn nói: Không ngồi là Phật, ngồi là chẳng phải Phật. Sư nói: Chuyển công đến vị trí, chuyển vị trí đến công, lại cha con trên động của người. Hãy nói ý của Nam Tuyền thế nào? Quả thật là kim dùi qua không được. Nêu, có người phụ nữ nhập định trước Đức Phật. Đức Phật dạy Văn-thù xuất định, Văn-thù bèn vận thần lực đẩy lên cõi Phạm Thiên làm xuất định người nữ ấy không được. Đức Phật bèn nói rằng: Phương dưới có Đại só Võng Minh, có thể xuất được định này. Trong khoảnh khắc Võng Minh đến, Đức Phật bảo xuất định. Võng Minh khảy móng tay ba tiếng, người phụ nữ ấy liền xuất định. Sư nói: Hoặc định hoặc động, ngay người này đùa giỡn, lông hồng nhẹ mà không nhẹ, Thái sơn nặng mà không nặng, lại biết lỗ mũi của lão Cù-đàm ở trong tay ta chăng? Nêu, Tuyết Phong và Tam Thánh lần lượt đi kinh hành thấy một bầy khỉ. Phong nói: Như bày khỉ này mỗi con đều có một chiếc gương cổ trước mặt. Thánh hỏi: Trải qua nhiều kiếp không tên, sao lấy ánh sáng làm gương cổ? Phong đáp: Sanh vết vậy. Thánh hỏi: Biết thoại đầu của một ngàn năm trăm thiện tri thức chăng? Phong đáp: Việc trụ trì của lão tăng phiền phức. Sư nói: Đương thời nếu thấy Tuyết Phong nói Sanh vết nhưng người bên cạnh đáp rằng: Dạ dạ. Hãy nói vì sao như vậy? Giành thì không phải, nhường thì có thừa. Nêu, Trường Khách bảo chúng rằng: Đã thu nhặt trong sạch rồi, người ở gần thì ta tìm, bỗng nhiên đánh vào xương sống ông một gậy. Có một gậy này đến với ông, ông phải có đủ sự hổ thẹn. Nếu không có một gậy này đến ông, ông nhằm vào chỗ nào mà biết? Sư nói: Miệng chết ăn cơm thường trụ, nhón chân nằm trên giường dài, tìm người biết hổ thẹn này khó được. Lại biết gậy của Trường Khánh rơi xuống đất chăng? Sấm nổ núp vào nhà, điện cháy đuôi, nảy sinh ra một tài năng lỗi lạc. Nêu, Bàng Sơn nói rằng: Nếu nói tức tâm tức Phật, thì ngày nay chưa vào chỗ huyền vi. Nếu nói: Phi tâm phi Phật cũng là chỉ vết chân rất mẫu mực. Sư nói: Có tiền không biết sử dụng, biết sử dụng lại không có tiền. Hãy nói làm sao được mười phần trăm, cưới vợ tuổi trẻ, phải là con bạc đầu. Nêu, Kim Phong bảo chúng rằng: Sự còn đóng nắp hộp, lý cần phải chống mũi tên. Nếu ai nói được, Kim Phong này chia nửa viện cho người đó ở. Lúc bấy giờ, có tăng bước ra lễ bái. Phong nói: Thôi thôi, gặp nhau dễ được tốt, cùng ở khó vì người. Sư nói: Trong trọng thưởng, ắt có dũng phu, vị tăng này muốn cưỡng lấy, Kim Phong lại không chịu. Lại biết cò và trai giữ chặt nhau, cả hai đều rơi vào tay của lão đánh cá. Nếu cũng phân biệt được nắp hộp và mũi tên, Kim Phong sẽ dâng cả viện bằng cả hai tay. Nêu, tăng hỏi Tào Sơn rằng: Khi Phật chưa xuất thế thì như thế nào? Sơn đáp: Tào Sơn không bằng. Tăng hỏi: Sau khi xuất thế thì như thế nào? Sơn đáp: Không bằng Tào Sơn. Sư nói: Phật và Tào Sơn, chủ khách trao đổi với nhau, xuất thế và không xuất thế, đều có một con mắt, chưa có ai đi mãi mà không đứng, đứng mãi mà không đi. Lại biết chăng? Động tối không có ý khóa cửa, ngang dọc nào liên quan đến người hai đầu? Nêu, Vân Môn bảo chúng rằng: Chỉ được nhìn thấy không đọng lại. Đạt được tất cả pháp không danh thân cú thân. Sơn hà đại địa là danh thân cũng không thể được, gọi là Tam-muội tánh hải đều đầy đủ, vẫn là không có gió, sóng bủa quanh, chỉ bị mất tri giác. Giác tức là Phật tánh, gọi là người vô sự. Lại phải biết còn một lỗ hướng lên. Sư nói: Chủ khách không hài hòa, cả hai đều có lỗi, mỗi mỗi bị hai mươi gậy. Như hướng lên một lỗ hở, lại làm sao? Tê ngưu nhờ ngắm vầng trăng mà mọc sừng, voi bị sấm nổ giật mình hoa vào răng. Nêu, Càn Phong bảo chúng rằng: Nâng một không nổi nâng hai, bỏ qua một tác phẩm rơi vào thứ hai. Vân Môn bước ra nói rằng: Hôm qua có người từ Thiên Thai đến lại đi đến Kính Sơn. Phong nói: Những ngày tới không được rộng thỉnh. Sư nói: Ngồi đoạn mười phương, ngàn công việc tuyệt đường, buông một sợi dây vạn phái hướng về tông. Hai bậc tôn túc mở rộng gia phong mới thấy nạp tăng đi đến. Lại xét đến cùng chăng? Có thái bình Thiên tử ở trong vùng rộng rãi, máy chảy tâm tướng quân ở ngoài biên ải. Nêu, Nham Đầu từ biệt Đức Sơn. Sơn hỏi rằng: Ông đi đâu? Đầu đáp: Tạm từ giả Hòa thượng xuống núi. Sơn hỏi: Sau đó ông làm sao? Đầu đáp: Không quên Hòa thượng. Sơn hỏi: Ông dựa vào đâu mà có lời nói này? Đầu nói: Há không nghe trí bằng Thầy thì giảm nửa đức Thầy, trí hơn Thầy mới có thể truyền trao. Sơn nói: Đúng thế, đúng thế, khéo tự giữ gìn. Sư nói: Đức Sơn ngày thường xuống gậy, không lập Phật tổ, đến thời tiết này được Lão bà như thế, tuy là duyên dưỡng tử, đâu tránh được người đời sau kiểm trách. Đợi y nói trí hơn Thầy mới có thể truyền trao, cầm gậy liền đánh ngang sống lưng. Nêu Nam Tuyền nói rằng: Vương Lão sư, chăn một con trâu đực, định đi về khe phía Đông không tránh được nhà quan đánh thuế lúa non, định đi về khe phía Tây, không tránh khỏi nhà quan đánh thuế lúa non, như thế nào tùy phần nộp chút ít, đều không thấy được. Sư nói: Nam Tuyền chăn trâu, có thể nói là kỳ lạ, thật sự tất cả nhưng chỗ phòng ngừa không được. Vì sao như vậy? Là vì ông ta tùy phần nộp chút ít. Nêu Hoàng Nghiệt hỏi Bách Trượng rằng: Từ việc truyền thừa cho nhau trên, Hòa thượng làm sao chỉ bày cho người? Bách Trượng vẫn ngồi nguyên. Nghiệt thưa: Con cháu đời sau sẽ truyền trao gì? Trượng đáp: Sẽ nói ông là người này, liền trở về phương trượng. Sư nói rằng: Lời nói khắp thiên hạ, không có lỗi ở miệng, đi khắp thiên hạ không có ác oán. Còn Bách Trượng, Hoàng Nghiệt không phải là không biết có nhưng chỉ quan trọng lời đại hạnh này, lại biết Bách Trượng trở về phương trượng chăng? Trong rừng gió thổi lá rơi, hóa ngoại nước trời thu. Nêu Ngưỡng Sơn hỏi Tăng rằng: Ông ở đâu gần hay xa? Tăng đáp: Con ở Lô Sơn. Ngưỡng Sơn hỏi: Từng đến đỉnh Ngũ Lão chưa? Tăng đáp: Chưa từng đến. Ngưỡng nói: Xà-lê chưa một lần dạo núi. Vân Môn nói rằng: Lời này đều là lòng từ bi, nên có lời nói ra đời. Sư nói rằng: Vân Môn tuy biết được bên trong của Ngưỡng Sơn nhưng ngặt vì chỉ biết ông ta có một mà không biết hai. Hãy nói ý Ngưỡng Sơn như thế nào? Vô hạn phong lưu giở trò mệt mỏi, tránh người chỉ điểm thích Lang Quân. Nêu Tam Thánh nói rằng: Ta gặp người liền đi ra, đi ra thì không vì người. Hưng Hóa nói: Ta gặp người thì không ra, ra thì liền vì người. Sư nói: Đọa vậy, đọa vậy. Ngày nay không phải là giảm thanh quang của người xưa lại phải tăng thêm tiết khái của người đời sau. Nếu là bản sắc hảo hán thì cầm ấn của Tổ sư, chuyển máy trâu sắc, nắm gậy nhất thời xuyên qua, mới thấy thủ đoạn của nạp Tăng. Nêu Tam Tạng Thanh Minh yết kiến Mân Vương. Vua thỉnh Huyền Sa kiểm nghiệm Thanh Minh. Sa quay lại sau lấy chiếc rìu đồng hỏa đánh lò lửa sắt. Hỏi rằng: Là tiếng gì? Tạng đáp: Là tiếng đồng sắt. Sa nói: Đại vương chớ bị người nước ngoài lừa dối. Sư nói: Lý khế hợp là thần, cùng tử được của báu trong chéo áo, tình giàu có là vật, lực só mất hạt châu trên trán, Tam Tạng chỉ biết nhìn về phía trước, Huyền Sa không thể ngoái lại phía sau, lại biết chăng, tội vu khống người, dùng tội thêm vào đó. Nêu có vị Tăng hỏi Trường Sa: Làm sao chuyển được sơn hà đại địa trở về mình? Trường Sa hỏi lại: Làm sao chuyển được mình trở về sơn hà đại địa? Sư đáp: Tuy chủ khách trao đổi với nhau nhưng bùn và nước chưa phân rõ, hoặc kéo rách lỗ mũi như thế không như thế thâu tóm không được lại làm sao hợp? Như hôm nay lệnh của vua rất nghiêm ngặt không cho phép người cướp giật lộng hành ở chợ. Nêu Quán Khê nói rằng: Ta ở chỗ Lâm Tế được một cái thìa, ở chỗ Mạt Sơn được một cái thìa. Lại nói: Mười phương không có vách che, bốn phía cũng không cửa nẻo, phơi bày rõ ràng, không nắm bắt được. Sư nói: Quán Khê nói như thế, hãy nói là chỗ Lâm Tế được hay chỗ Mạt Sơn được? Tuy nhiên một mũi tên bắn trúng hai con diều hâu, ngặt vì có khi đi giết có khi ngồi giết, lại làm sao vừa khớp được, gom lại hay buông ra đều tại ta, đưa đến ném đi lại do ai. Nêu Tăng hỏi Mục Châu: Ý của Tổ và ý của giáo giống hay là khác? Châu đáp: Núi xanh núi xanh, mây trắng tự mây trắng. Sư nói: Nếu hướng vào đây thì biết được Mục Châu, Thích-ca xuất thế, Đạt-ma Tây lai, tóm lại là kẻ không giữ bổn phận, lại biết được chăng? Cánh tay dài mà tay áo ngắn, chân gầy mà giày cỏ rộng. Nêu Nam Viên một hôm tự nấu nước tắm, có vị Tăng hỏi vì sao Hòa thượng không bảo Sa-di làm? Viên vỗ tay ba cái. Tăng đem việc ấy nêu lên Tào Sơn. Sơn nói: Cùng là tiếng vỗ tay như nhau, tự trung là việc kỳ lạ của Nam Viên, thiền một ngón tay cái của Câu-chi, bởi vì chỗ lãnh ngộ không thấu đáo. Tăng lại hỏi: “Nam Viên vỗ tay há chẳng phải là việc làm của kẻ nô tỳ sao?” Sơn đáp: “Phải”. Tăng hỏi: “Hướng thượng lại có việc chăng?” Sơn đáp: Có. Tăng hỏi: Thế nào là việc hướng thượng? Sơn nói: Chao ôi! Tên nô tỳ này. Sư nói: Biết cao thấp, biết sang hèn, Nam Viên là tác giả, phân biệt ngọc đá, vàng thau. Tào Sơn không xuất thế, vị Tăng này tuy biết dùi mài trau dồi cũng chỉ kẹt vào việc của những kẻ nô tỳ, lại biết chăng? Phóng khoáng tràn trề, cả hai không tổn hại vẫn là đêm sáng khách ngoài rèm. Nêu Vân Môn dạy chúng rằng: Trước ngày rằm thì không hỏi, sau ngày rằm thì nói đem một câu đến, mỗi ngày đều là ngày tốt. Sư nói: thuộc bổn mạng của người hổ, thuộc tướng xung của người hầu. Nêu Thọ Thánh nói rằng: Nửa tháng trước dùng lưỡi câu nửa tháng sau dùng cái dùi. Tăng liền hỏi: Ngay lúc nửa tháng như thế nào? Thánh đáp: Trâu bùn đạp bể ánh trăng trong ao nước trong. Sư nói: Hai đầu được dùng, Thọ Thánh là tác giả, ngay nơi đó quên công thì ai thể hội được phóng hạnh cũng trao đổi nhau tôn khách, nắm chắc cũng không giữ được dấu vết của ta, lại có người thể hội được chăng? Ban đêm ngọc nữ ném con thoi, dệt gấm ở nhà phía Tây. Nêu Tăng hỏi Tào Sơn: Thế gian vật gì quý nhất? Sơn trả lời: Mèo chết là quý nhất. Tăng hỏi: Vì sao mèo chết là quý nhất? Sơn trả lời: Không ai trả giá. Hàng hóa của Tào Sơn không vào hàng chợ, ông xem kỹ, chỉ không đáng giá một đồng tiền, Tào Sơn gặp hèn thì quý, ta trong đây gặp quý thì hèn, hãy nói có chỗ trái nhau chăng? Nêu Đại Từ dạy chúng rằng: Sơn Tăng không biết trả lời, chỉ biết lúc bệnh. Có vị Tăng bước ra, Từ liền trở về phương trượng. Tuyết Đậu nói: Tuyết Đậu biết bệnh không trả lời. Hoặc có vị Tăng bước ra liền đánh thẳng vào sống lưng. Sư nói: Đại Từ, Tuyết Đậu, cả hai đều là tác giả, hoặc lại chỉ nhìn trước mắt không đề phòng dưới chân. Hoặc có người không biết tốt xấu, không hỏi bậc hảo hán Đông Tây, đi ra liền lật đổ giường thiền, dù ông có toàn cơ đại dụng cũng chỉ e rằng lén lút sắp đặt không phân biệt nổi, ngay lúc ấy lại biết mắt bệnh chăng? Nêu có vị Tăng hỏi Tuyết Phong: Bậc Thanh văn thấy tánh như thấy trăng ban đêm, Bồ-tát thấy tánh như thấy mặt trời ban ngày, chưa rõ Hòa thượng thấy tánh thì như thế nào? Phong đánh ba cái. Sau đó hỏi Nham Đầu, Nham Đầu đánh ba tát tay. Tuyết Đậu nói: Tùy bệnh cho thuốc, lại đánh ba cái, theo lệnh mà đi, đánh tất cả, bao nhiêu. Sư nói: Tuyết Đậu vội vàng trong chốc lát, luôn luôn làm cho người sau hiểu, lại đâu ngờ Tuyết Đậu, Nham Đầu là lão hán không có phép tắc cố định. Nêu viện chủ Vân Nham đến thạch thất trở về. Nham hỏi: Ông đi vào thạch thất để khán thoại đầu, vì sao trở về? Viện chủ không trả lời. Động Sơn trả lời thay rằng: Trong đó đã có người chiếm rồi Nham hỏi: Ông lại đi làm gì? Sơn đáp: Không thể đi đoạn tuyệt nhân tình. Sư nói: Cúi đầu lại mất kim, mở mắt nhặt được chỉ, chỉ không có đầu mà chẳng qua, kim không lỗ vì khó xỏ, đến đây loan giao tục huyền, phải là Động Sơn mới được. Nêu Nam Tuyền và Triệu Châu ngắm trăng, Châu hỏi: Bao giờ mới được cái này? Tuyền đáp: Vương Lão Sư hai mươi năm trước, cũng từng như thế. Sư nói: Hai mươi năm trước hãy gác lại, hai mươi năm sau lại thế nào? Lại biết hành vị của Vương Lão Sư chăng? Trong nhà không có linh sàng, nhà vẩn đục không có con hiếu. Nếu có vị Tăng hỏi Huyền Sa: Thế nào là tháp không có mối nối? Sa đáp: Một mối nối lớn như thế này. Sư nói: Thấy thành công án, nếu ông nói theo các dữ kiện mà kết thúc công án, ta biết ông chưa biết Huyền Sa. Nếu có người hỏi Trường Lô, chỉ hướng đạo, bốn gốc pháp, hãy nói biết Huyền Sa hay không biết Huyền Sa, người có đủ mắt hãy phân biệt xem. Nêu Cổ đức nói rằng: Suốt ngày niêm hương chọn lửa, không biết thân là đạo tràng. Sư nói: Gã cố tình huyễn hoặc người, có giới hạn gì? Huyền Sa nói: Suốt ngày niêm hương chọn lửa, không biết đây là đạo tràng chân thật. Sư nói: Tám mươi ông kỳ lạ, ông ra sân nhà không phải là trò chơi trẻ em. Hãy nói: Lợi hại ở chỗ nào? Có trí hay không có trí, tính toán ba mươi dặm. Nêu Tăng hỏi Long Nha: Thế nào là ý Tổ sư Tây lai? Nha đáp: Đợi chim rùa bằng đá hiểu lời, thì sẽ nói cho ông nghe. Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là ý Tổ sư Tây lai? Lâm đáp: Ngồi lâu thành nhọc. Sư nói: Một câu ngửa lên càng cao, một câu dùi càng cứng, một câu thấy ở trước, một câu chợt ở sau, lại phân biệt được chăng? Một tấm lòng son biết thiếu người, một đống trước mặt thấy là hiếm. Nêu Lương Thiền Khách hỏi ngài Khâm Sơn: Khi mũi thốc phá ba cửa ải thì thế nào? Sơn đáp: Bỏ qua người đứng đầu coi sóc trong ải. Lương nói: Như thế thì biết lỗi nhất định sửa đổi. Sơn hỏi: Còn đợi lúc nào? Lương nói: Người khéo bắn tên không kẹt vào một chỗ, liền đi ra. Sơn gọi: Xà-lê hãy đợi một tí. Lương quay đầu lại, Sơn giữ lại nói rằng: Một mũi thốc phá tan ba cửa ải thì hãy gác qua một bên, thử cùng Khâm Sơn bắn tên xem. Lương nghó ngơi. Sơn đánh bảy gậy rồi nói: Hãy nghe, gã này nghi ngờ ba mươi năm. Sư nói: Núi cao chứa nhóm, bình bể nước tan, thì người ấy biết có, chủ khán cùng ta thả người chủ coi sóc trong ải, lại làm sao hợp? Có người nói ngay lúc ấy liền hét, ngay lúc ấy liền tát. Như vậy thì tạm thời nhắm mắt dùng thì được, quả là chưa phải chủ ở trong ải, lại thể hội được chăng? Ngay tại đường không ngồi ngay thẳng, nào tới máy hai đầu kia. Nêu Triệu Châu và thị giả Viễn đấu thua không đấu thắng. Châu nói: Ta giống như con lừa một đầu. Thị giả nói: Con giống như ruột con lừa. Châu nói: Ta giống như phân của lừa. Thị giả nói: Con giống như vi trùng trong phân lừa. Châu hỏi: Ngươi ở trong đó làm gì? Thị giả nói: Qua mùa Hạ. Châu nói: Đem bánh đến đây. Sư nói: Ngọn cây cao cao không nẩy mầm, ánh trăng thấp thấp không với tới, mắt tự tranh được trước, tính toán nhờ đánh thắng cướp. Nêu Huyền Sa dạy chúng: Các vị đều nói tiếp vật lợi sanh, chợt gặp ba thứ bệnh thì làm sao tiếp được, người mù quơ gậy dựng phất ông ta lại không thấy, người điếc, nói Tam-muội, họ cũng không nghe, người câm, dạy hắn nói lại nói không được. Nếu tiếp độ người này không được thì Phật pháp không linh nghiệm. Có vị Tăng thỉnh ích Vân Môn. Môn nói: Ông lễ bái. Tăng lễ bái. Môn lấy gậy, vị Tăng lui ra sau. Môn nói: Ông không phải là người mù, lại gọi đến trước mặt. Tăng đến gần. Môn nói: Ông không phải là người điếc, là gì biết chăng? Tăng đáp không biết. Môn nói: Ông chẳng phải là người câm. Vị Tăng ấy ngay đây có chỗ tỉnh ngộ. Sư nói: Vân Môn khai triển, Tăng này trả lời thật. Hãy nói, ngộ ở chỗ nào, bệnh không cứu, khó thể châm ngải. Nêu có vị Tăng từ giả ngài Đại Từ. Từ hỏi: Ông đi đâu? Tăng đáp: Con đi Giang Tây. Từ nói: Đem Lão tăng đi được chăng? Tăng đáp: Không chỉ Hòa thượng, mà còn có người hơn Hòa thượng cũng không thể đem đi được. Sư nói: Đại Từ cùng bạn không được, vị Tăng này chẳng thà đi một mình cũng phải là như thế mới được, dù cho Đại Từ là cổ Phật cũng không làm gì được gã tăng này. Hãy nói đặc biệt có sở trường gì? Nêu có vị Tăng hỏi Thạch Sương: Trong khoảng gang tấc vì sao không thấy mặt của Sư? Sương đáp: Đạo của ta, khắp cõi chưa từng ẩn. Tăng lại hỏi Tuyết Phong: Khắp cõi chưa từng ẩn, ý chỉ như thế nào? Phong đáp: Chỗ nào không phải Thạch Sương. Sư nói: Thạch Sương, Tuyết Phong cách nhau bao nhiêu chỉ là ngàn dặm vạn dặm. Nếu có người hỏi Trường Lô, khắp cõi chưa từng ẩn, ý chỉ rốt ráo thế nào? Chỗ nào là Thạch Sương? Nêu Tam Bình Tụng nói rằng: Chỉ cái thấy nghe này chẳng phải là thấy nghe, lại không có thinh sắc có thể trình lên ông, trong đây nếu hiểu hoàn toàn vô sự thì thể dụng đâu ngăn ngại, phân biệt hay không phân biệt? Sư nói: Ngay lúc gặp nhau không giao thiệp, sáu cửa không đóng, ngã tư hoàn toàn không có dấu chân, khắp nơi là ánh sáng, toàn thân không quay lại phía sau, máy tơ không treo con thoi, hoa văn ngang dọc ý tự khác. Nêu có vị Tăng từ giả Đại Tùy. Tùy hỏi: Ông đi đâu? Tăng đáp: Con đến Nga My lễ Đức Phổ Hiền. Tùy dựng đứng cây phất nói: Văn- thù Phổ Hiền đều ở trong đây. Tăng vẽ một vòng tròn ném ra phía sau. Tùy bảo thị giả đem một ly trà cho vị Tăng này. Sư nói: Biết pháp thì sợ hãi, khi địch thì mất mạng, lọc sữa trong nước là con ngỗng chúa. Nêu Huyền Sa thấy Cổ Sơn đến thì vẽ một vòng tròn. Sơn nói: Mọi người ra không khỏi vòng tròn này. Sa nói: Lòng biết ông làm ăn trong thai lừa bụng ngựa. Sơn nói: Hòa thượng lại thế nào? Sa nói: Mọi người ra không khỏi vòng này. Sơn nói: Hòa thượng lại được như thế, con vì sao không được? Sa nói: Ta được, ông không được. Sư nói: Huyền Sa ỷ thế khi người, lấy mạnh hiếp yếu. Bởi vì ông ta mở được, xoay ra được, hai người như nhau, vì sao nói ta được ông không được, việc ấy khó che giấu, việc ấy không hợp phương không rõ ràng. Nêu Tuyết Đậu nêu: Cổ đức nói rằng: Mắt không được dính bụi, tai không được để nước vào, chợt có gã này tin chắc và nắm vững thì không bị người che giấu. Tổ, Phật nói giáo là tiếng vang, bát nóng gì, liền xin treo túi bát lên cao, bẻ gãy gậy, quản lấy một viên đạo nhân vô sự. Lại nói: Trong mắt chứa được cả núi Tu-di, trong tai chứa được nước của biển cả, một gã thông thường được người thương lượng. Phật, Tổ nói giáo như rồng được nước, như Hổ dựa núi, lại phải quảy túi bát, gánh ngang cây gậy, cũng là một vị đạo nhân vô sự. Lại nói: Như thế cũng không được, không như thế cũng không được, sau đó không giao thiệp. Trong ba vị đạo nhân vô sự, chọn ra một vị làm Thầy. Sư nói: Tiệt trừ càn khôn, kiến lập thế giới, hòa quang lẫn thế tục, đều có chỗ hay, hãy nói: chọn một người kia làm Thầy. Bỗng đưa gậy lên nói: Xỏ qua rồi. Nêu Động Sơn hỏi Mật Sư Bá: Làm gì? Mật đáp: May vá áo quần. Sơn hỏi: Việc may vá áo quần thế nào? Mật đáp: Mỗi mũi kim đều giống nhau. Sơn nói: Hai mươi năm đồng hành, nói lời này. Mật hỏi: Trưởng lão lại làm sao? Sơn nói: Mặt đất lửa nổi lên. Sư nói: Mặt đất lửa phát ra, bên trong không chứa một cọng tóc, Côn luân Nam Hải, trời lạnh không mang bít tất, Tổ Tổ truyền cho nhau, một đầu va chạm. Nêu Thượng Thư Trần Thao và các quan đứng trên lầu thấy các vị Tăng từ xa đi tới. Có vị quan nói: Vài ba vị thiền khách. Trần nói: Không đúng. Vị quan ấy hỏi: Sao biết không đúng? Trần đáp: Đợi đến sẽ nghiệm qua. Tăng đến dưới lầu, Trần nói Đại Đức, Tăng ngẩng đầu lên. Trần nói: Không tin nói không đúng, vị quan lúng túng. Sư nói: Trần Thượng Thư là kẻ trộm giỏi, che Trường Lô một tí cũng không được. Nêu Tuyết Phong làm điển tọa ở Động Sơn, một hôm đang vo gạo thì Sơn hỏi: Vo cát bỏ gạo hay vo gạo bỏ cát? Phong đáp: Cát hay gạo đều bỏ một lúc. Sơn hỏi: Đại chúng ăn cái gì? Phong liền úp bồn lại. Sơn nói: Ông mai sau chỉ thấy người. Sư nói: Tuyết Phong chỉ lo từng bước lên cao mà không biết giày cỏ đứt gót chân. Nếu cũng ngay lệch uyển chuyển gõ xướng đều làm, tự nói là khí hợp nhau, cha con hợp ý nhau. Hãy nói: Động Sơn không tán thành ý của Tuyết Phong ở chỗ nào? Muôn dặm không mây trời có lỗi, ao biếc như trăng trong gương khó đến. Nêu có vị Tăng hỏi ngài Ba Tiêu: Có một người không bỏ sanh tử, không chứng Niết-bàn, Sư lại dẫn dắt chăng? Tiêu đáp: Sơn Tăng biết tốt xấu sơ sài. Sư nói: Ba Tiêu tuy biết tốt xấu, nhưng không thể dẫn trâu cày ruộng, lấy thức ăn của người đói. Như nếu hôm nay có người hỏi Trường Lô thì liền họa tiếng đánh, vì sao như vậy? Ta từ xưa đến nay không biết tốt xấu. Nêu ngài Đại Từ dạy chúng rằng: Nói được một trượng không bằng làm được một thước, nói được một thước không bằng làm được một tấc. Động Sơn nói: Nói được làm không được, làm được nói không được. Vân Cư nói: Lúc làm không có con đường nói, lúc nói không có đường làm, lúc không làm không nói, hợp làm đường nào? Lạc Phó nói: Làm và nói đều không được thì bổn sự còn, làm và nói đều được thì bổn sự mất. Sư nói: Dứt phải trái mất tung tích, gặp nhau không quen mặt, quen mặt không gặp nhau. Các tôn túc đều có chỗ hay, như nay trên chót lưỡi không có cửa thập tự, dưới gót chân không có chỉ ngũ sắc, muốn làm thì làm, muốn nói thì nói. Nếu có người hỏi Trường Lô: Thế nào là muốn làm thì làm? Đáp: Bước. Thế nào là muốn nói thì nói? Đáp: Ừ. Nêu Hòa thượng Thủy Lạo hỏi Mã Đại sư: Thế nào là đại ý của Phật pháp? Mã Tổ đạp một cái té nhào. Thủy Lạo hoát nhiên đại ngộ, đứng dậy cười lớn ha ha rồi nói: Trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghóa, chỉ hướng lên đầu một sợi lông thì biết được nguồn gốc. Sư nói: Mã Đại sư không nên bỏ qua, đợi y đứng dậy nói như thế, chỉ hỏi một sợi lông nhỏ này từ đâu đến, đợi y nghó ngơi liền tống một đạp. Nêu Cổ đức nói rằng: Trường là trường pháp thân đoản là đoản pháp thân. Sư nói: Hãy nói thần Thuấn-nhã-đa gọi là pháp thân gì? Giây lát nói: Biết chăng? Không thể nói tu hú bỏ hạc, san gò lấp hang. Nêu Hòa thượng Bố Đại tụng rằng: Di-lặc thật Di-lặc. Sư nói: Kẹp bể khuôn mặt, phân thân nghìn trăm ức. Sư nói: Đụng nhằm lỗ mũi, thời thời chỉ thời nhân. Sư nói: Mở to mắt nhìn, thời nhân đều không biết. Sư nói: Trước mặt kiêng dè. Sư lại nói: Túi da ngu si chặn đường cắt hẻm, đích thực không chỗ tránh né lại làm được chăng? phía sau não thấy gò má, chớ cho qua lại. Nêu Triệu Châu nói: Chí đạo không khó chỉ hiềm một nổi là lựa chọn, vừa có ngôn ngữ thì phân biệt ngay điều ấy rõ ràng Lão tăng không ở trong rõ ràng, điều ấy ông còn tiếc chăng? Lúc đó có vị Tăng hỏi: Hòa thượng đã không ở trong rõ ràng thì tiếc cái gì? Châu nói: Ta cũng không biết. Tăng hỏi: Đã không biết vì sao nói không ở trong rõ ràng? Châu nói: Hỏi sự thì được. Tăng lễ bái rồi lui ra. Sư nói: Vị Tăng này cũng dùi mài nhưng không thể thấy cơ mà thay đổi. Triệu Châu cũng trau dồi, dường như sự không hiểu, trong chúng chỉ gánh vác đạo, lùi thân thì có phần, nào ngờ dốc sức xách lên, lại hiểu chăng? Gạch giòn đập vào đóng băng liền đáy. Nêu Mục Châu hỏi Trưởng lão Vũ Lăng: Hiểu rõ thì đầu sợi lông nuốt cả biển lớn, mới biết đại địa là một vi trần là gì? Lăng: Hỏi lại: Hòa thượng hỏi ai? Châu đáp: Ta hỏi Trưởng lão. Lăng hỏi: Sao không lãnh thoại? Châu đáp: Ta không lãnh thoại, ông không lãnh thoại. Sư nói: Mục Châu, Vũ Lăng đều nói không lãnh thoại, giữa hai vị ấy có tham nhìn sóng bạc lại lạc mất tay chèo, bèn dựng cây phất nói: Xem. Nêu Nam Tuyền nhân lúc đến trang trại, tình cờ trang chủ dự bị tiếp rước tôn kính. Tuyền hỏi: Lão Tăng bình thường ra vào không cho người khác biết, vì sao bài biện sẵn như vậy? Trang chủ thưa: Tối qua thần Thổ Địa báo. Thị Giả liền hỏi: Đã là đại thiện tri thức vì sao lại bị quỷ thần nhìn thấy? Tuyền nói: Trước Thổ địa lại thêm một phần cúng dường? Sư nói: Trường lô thì không như vậy, nếu nghe Trang chủ này nói như thế, liền nắm chặt lại nói: Buông ông không được, vì sao như vậy, không thấy đạo lại nói phải trái, chính là người phải trái. Nêu Tăng hỏi Động Sơn: Luôn luôn siêng năng lau chùi, chớ cho dính bụi trần, vì sao không được truyền y bát? Sư nói: dù nói xưa nay không một vật cũng chưa được y bát. Hãy nói: Người nào được? Tăng nói ra chín mươi sáu chuyển ngữ không khế hợp, cuối cùng nói: Giả sử tương lai cũng không được y bát của ông ta. Sơn rất đồng ý. Tuyết Đậu nói: Ông ta đã không được con mắt ấy, tương lai nhất định sẽ bị mù. Sư nói: Trường Lô thì không như vậy, chỉ cần tương lai, nếu không được đến thì làm sao biết không được, chỉ cần không được, nếu được, làm sao tránh khỏi tương lai, tương lai nhất định được con mắt ấy không được, đây là mù. Lại biết chăng? Soi toàn thể không nương tựa toàn thân khế hợp đại đạo. Niêm cổ một trăm tắc xong. Bài tựa sau. Tôi vừa định về Hoài Nam, nằm mộng thấy có vị Tăng dẫn đến một nền chùa xưa, có khoảng mười mái chùa lớn, trên bảng có đề chữ lớn là Thấp Châu, vàng ngọc sáng ngời. Thức dậy rất là kỳ lạ, từng nói với người không thể bói được. Mấy tháng sau, chủ phổ chiếu, chúng tranh cãi đến án ngục. Tôi sanh ở sông Tứ nhưng lại làm quan qua lại hơn hai mươi năm, lo tónh tâm tư duy nhàn rỗi vô sự, vì muốn chấn hưng, đệ tử đi đến cửa quyền quý đều vì địa vị, chí của tôi không thể quyết định. Lúc bấy giờ Tuyết Phong ở Trường Lô cùng một ngàn năm trăm Tỳ-kheo câu hội, nay cư só Đồng Giác làm Thượng thủ cùng chúng cử ra, tôi bèn khuyến thỉnh cố gắng thực hành lời dạy của Tổ, không có sợ hãi, xa gần đều quy y, ngoài cửa người đứng chật ních. Người khác gặp nhau, hỏi người cùng quê thì họ nói là người Thấp Châu. Chợt xét lại giấc mộng hôm qua đều phù hợp với thẻ bài. Người nghe đều cúi đầu đảnh lễ khen ngợi, đều cho rằng việc này không thể không ghi lại. Nhưng cầm bút lên thì lười biếng. Lui về ở Thanh Giang hai năm. Huệ Từ Thượng Nhân, từ Thiên Đồng đi qua Tuyết Phong, giữ hai lão viết ra, hỏi thăm ân cần thành khẩn. Ra khỏi Thiên Đồng, niêm đề cơ duyên của Cổ đức, nhân đó mới chép sơ lược việc trong giấc mộng. Sau đó viết ra, chẳng phải một mình có thể tôi luyện thiền lưu, lại vì việc hưng thạnh của tòng lâm. Ngày 22 tháng 11 niên hiệu Thiệu Hưng thứ tư, cư só Hương Lâm tên là Hướng Tử Yên viết.  QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ <卷>QUYỂN 4 NGỮ LỤC CỦA GIÁC HÒA THƯỢNG Ở NÚI THIÊN ĐỒNG, MINH CHÂU Thị giả Phổ Sùng Pháp biên soạn. Vào ngày mùng hai tháng 11 niên hiệu Kiến Viêm thứ ba Sư thọ thỉnh thượng đường, có vị Tăng hỏi: Mây lành bay chầm chậm hiện rõ trên đỉnh núi, lung linh ven mỏm đá, khí lành liên miên, thế nào là một câu trước tiên. Sư nói: Khí lành liên miên. Lại nói: Đây giống như là con nói vậy. Sư nói: Chót lưỡi của ông là chót lưỡi của ta. Tăng lại nói: Một lời bao gồm vạn tượng, một câu dừng cả quần cơ. Sư nói: Là một câu ấy. Tăng lại hỏi: Xác thực không kèm thêm, rõ ràng không che giấu. Sư nói: Cần phải gót chân chấm đất mới được. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Phật pháp cũng không bằng rất nhiều hạng, chỉ cần các vị trong tất cả thời, buông bỏ thân tâm, nhanh nhẹn dứt khoát, không dính một sợi tơ, rộng lớn yên tónh không cần nương tựa tâm địa sáng suốt, không chút mê muội, tu tập như thế thì được hợp tất cả thời một cách tự nhiên, tất cả thời ứng hiện rõ ràng không chút bụi bặm, có lẽ là chỗ chướng ngại của ông, liền có thể chuyển ngàn Thánh hướng về phía sau mình mới gọi là nạp Tăng. Nếu cũng dựa vào tông phái khác, theo xử phân người khác, nhận trà hồ của người, há chẳng phải là lừa mù lợi dụng vào hàng ngũ ư! Đã như vậy thì cuối cùng như thế nào? Tự không quay về, quay về liền được, ngũ hồ phủ khói sóng có ai tranh. Ngày Đông chí thượng đường có Tăng hỏi: Đổi dây chuyển trục quay lại là một mặt trời mọc, càn khôn bên kia lại có tin tức này chăng? Sư nói: Nhật nguyệt không chỗ đến, cổ kim không thời tận. Lại nói: Núi lạnh trở lại ấm áp, hoa cười không mầm nhánh. Sư nói: Như là người ngoại đạo. Lại hỏi: Thế nào là người trong môn đạo? Sư nói: Không được gọi tên. Tăng lễ bái. Sư nói: Âm cực thì dương sanh, sức cùng thì địa vị thay đổi, rồng xanh rút xương mà ngẩng cao, báo đen đội sương mà biến đổi, muốn đem đầu lâu của ba đời Phật mà xỏ làm một xâu chuỗi, chớ nói đầu sáng đầu tối, quả thật mặt trời mặt trăng này, dù ông đong đầy cân bằng cũng thay đổi ta mua quý bán bần. Các thiền đức, lại biết chăng? Hạt minh châu trên mâm, không động tự xoay. Nêu Tuyết Phong hỏi Tăng đi đâu? Tăng đáp đi Phổ thỉnh. Tuyết Phong nói: Đi. Vân Môn nói: Tuyết Phong nhờ lời nói mà biết người. Sư nói: Chớ động vào, động vào ba mươi gậy. Vì sao như vậy? Ngọc sáng không tỳ vết, khắc văn mất đức. Thượng đường nói: Này các thiền đức, nét mây mới thủng, ý tuyết đã về, tâm trong sáng say mà tỉnh, sắc sáng mắt mê mà chuyển, được hoàn toàn vượt qua không mượn cớ, riêng cởi bỏ không nương tựa bên trong có lẽ thông tông, có mấy người được tài giỏi. Các thiền đức, đây là miên mật, chuyển thời tiết công phu, lại thể hội được chăng? Giây lát lại nói: Lúc đầu yên ổn không nói, dê ngây nằm, tin tức rõ ràng trao cho ai tham cứu. Thượng đường nói: Tốt đẹp còn trong vắt, không phải là không, thật soi sáng suốt không phải là có, lại hướng vào đó lùi bước xem, mây trắng bay đi, núi xanh héo hắt. Thượng đường nêu: Một hôm Pháp Nhẫn đang ngồi, bỗng chỉ vào bức rèm trước mặt. Lúc ấy có hai vị Tăng cùng đi cuốn vào. Pháp Nhãn nói: Một người được một người mất. Sư nói: Lỡ đi như thế, thân đi như thế, lúc lỡ thì lỡ được, lúc thân thì thân chân thật, quen nhau khắp thiên hạ, biết lòng được mấy người. Thượng đường nói: Rộng lớn thanh tịnh không bờ mé mà trí cùng nó đều bằng, rộng ứng vô phương mà thần lại biết, trí rỗng rang sáng suốt tự soi, thần dụng miên miên không công việc, liền có thể ở tất cả thời tất cả chỗ phóng ánh sáng lớn, làm đại Phật sự. Cho nên nói: Núi sông không ngăn cách, ánh sáng thấu khắp nơi. Lại không nghe nói: Nếu có người muốn bước vào cảnh giới Phật, phải tịnh ý mình như hư không xa lìa các tướng và các chấp, làm cho tâm vô ngại, làm sao thực hiện được tương ưng như thế, trăng nước lặng lẽ đối nhau, tùng gió lặng trong chưa dứt. Thượng đường nêu: Động Sơn hỏi Hòa thượng Ẩn Sơn: Hòa thượng thấy đạo lý gì liền ở núi này? Ẩn Sơn đáp: Ta thấy hai con trâu bùn tranh nhau vào biển, mãi đến nay mà chưa có tin tức. Sư nói: Này các thiền đức, mùa Thu lơ thơ núi héo hắt, trăng rụng xuống đầm không, ý mây nước tiêu điều, dứt đường công huân. Hãy nói: Ngay lúc ấy làm sao thể hội? Ngọc xoay máy chuyển, cười ha ha. Lập tức gặp nhau không biết nhau. Thượng đường, có Tăng hỏi: Trên đầu trăm loài cỏ, bỏ mất lúc bình thường như thế nào? Sư nói: Toàn thể của sự vật không nương vào hoạt động sáng suốt. Tăng nói: Như thế thì khắp cõi không từng ẩn giấu. Sư nói: Biết lấy Câu-chi một ngón tay cái. Tăng nói: Một đêm rơi mưa hoa, khắp thành có dòng nước thơm. Sư nói: Thật sự kiêng tránh vò đầu gõ trán. Sư bèn nói: Ba ngàn thế giới thâu vào trong một ấn mà chữ nghóa sáng sủa rõ ràng. Tám vạn pháp môn, ở trong hạt bụi nhỏ mà khoa mục đầy đủ. Các thiền đức, thiền một ngón tay cái của Hòa thượng Câu-chi, thọ dụng ba mươi năm, há chẳng phải tướng mười phương ư! Tám mặt tinh xảo, thấy thành bình đẳng, người dạo chơi tự tại lại biết chăng? Thấy họ hào quang rực rỡ, làm việc nghịch bóng phong lưu. Thượng đường nói: Các thiền đức, nuốt hết ba đời Phật, vì sao mở miệng không được? Soi thủng người bốn thiên hạ, vì sao nhắm mắt không được? Rất nhiều bệnh đau, cùng ông một lúc bỏ hết, lại làm sao được mười phương tướng? Biết chăng? Hoa nở rộ núi liền sắc trời, phóng ra hoàng hà được âm thanh của biển. Thượng đường nêu: Đạo Ngô, Tiềm Nguyên cùng đi đến một nhà phúng điếu. Nguyên vỗ vào quan tài nói: Sống chăng, chết chăng! Ngô nói: Sống cũng không, chết cũng không nói. Nguyên hỏi: Vì sao không nói? Ngô nói: Không nói, không nói. Nguyên về giữa đường nói với Ngô rằng: Hòa thượng nhất định phải nói cho con biết, nếu không nói, con sẽ đánh Hòa thượng. Ngô nói: Đánh thì mặc đánh, nói thì không nói. Nguyên liền đánh. Sư nói: Đạo Ngô nói như thế đã là bịt tai trộm chuông, lại bị đánh bậy một trận, giống như mất tiền mà còn bị tội, các vị lại hiểu chăng? Giác Thượng tọa có bài tụng: Sống ư, chết ư! Không nói không nói, chỉ biết chó dại nổi cáu đuổi theo khối thịt, ai thấy rắn chết, sợ ra cỏ, dán mắt nhìn trong gia lâm xem, trên không nẩy mầm, mùa Xuân mặt trời mọc buổi sớm. Thượng đường nói: Này các thiền đức, người trong núi tới lui, biết được núi xanh chính là thân, núi xanh là thân, thân là mình, lại dính mắc căn trần ở chỗ nào? Vì các thiền đức bị núi án trước mặt vậy. Chỉ như câu trên đỉnh núi chúa, lại làm sao nói? Nếu ông nói được mới biết đi đến nói như thế, như là khách núi buổi sáng hứng lấy việc bên lề. Các thiền đức, nếu chủ không biết có khách thì không có phương pháp ứng thế. Nếu khách không biết có chủ thì không thấy ra khỏi trần lao. Hãy nói, khi lý sự tròn đủ, khách chủ đúng thời thì làm sao? Giây lát hỏi: Lại biết chăng? Nửa đêm người gỗ gõ cửa trăng, trời sáng chim Phượng cười ngậm hoa. Thượng đường nói: Mây trên núi từng dãi mênh mông nước dưới núi chảy róc rách, thử hỏi trong đó mây nước người lại ở chỗ nào cầu nơi mình. Các thiền đức, tâm không chỗ trụ, thì pháp lìa thấy nghe, trí không chỗ duyên thì đạo vượt lên trên tình thức. Linh vân chỉ bé nhỏ biết hoa đào, ba mươi năm ngu si nay mới có trí tuệ, phần trên của các người lại thế nào? Trong mắt không có đường gân thì nghèo suốt đời. Hòa thượng Chân-yết vào núi, thượng đường Tăng hỏi: Gặp nhau lại vô sự, không đến lại nhớ ông, thế nào là việc gặp nhau? Sư nói: Cười tóc bạc phủ xuống đỉnh, mắt xanh lạnh soi người. Lại nói: Như thế thì tướng lông mày, kết chót mũi chống nhau. Sư nói: Lại phải biết có thời tiết đồng thân cùng mệnh. Tăng hỏi: Thế nào là thời tiết đồng thân cùng mệnh? Sư đáp: Dao búa chẻ không bể. Sư bèn nói: Này các thiền đức: Rừng ngọc đắm trong trăng, núi Đan chim Phượng hoàng non bay luyện lên xuống, mùa Thu tuyết lau nổi, cát trắng chim Nhạn theo nhau thành chữ nối nhau. Trong bóng tối luồn sợi chỉ, khéo vào lỗ kim, phát minh tâm địa, tổng cộng là một ngọn đèn soi sáng linh đài lại không có bóng khác. Núi xanh là cha xưa nay cao ngất, mây trắng là con phiêu bạc khắp nơi. Tuy ngàn dặm cùng gió nhưng đó dường như một sợi tơ không xa cách, đường rẽ gần như dứt cần phải chuyển vị lưu thông, ngôn ngữ cùng tận nơi đây lại cho mượn ánh sáng mà đặt bày. Các thiền đức, thời tiết như thế, nơi chốn như thế, truyền giữ như thế, kiến lập như thế, cũng phải là người như thế mới được. Dám hỏi các vị thế nào là người như thế? Việc đạt bày? Lại biết chăng? Hòa thượng Nguyên Thượng ở ?? Cáp nói: Đầu cành đường Lê xuân thêm rực rỡ. Thượng đường nêu: Bàng cư só hỏi Mã Đại sư: Không làm bạn lữ với muôn pháp là ai? Mã Sư nói: Chờ một miệng của ông hút hết nước Giang Tây thì nói cho ông nghe. Sư nói: Hút hết nước Giang Tây, nói cho ông nghe, Mã Sư không bằng lòng rơi vào đám cỏ hoang, ba ngàn cõi đều thành mùa Thu, trăng sáng san hô lạnh soi nhau. Thượng đường nói: Bên trong bao hàm cả ánh sáng, trăng khuya thông tới sừng tê giác, chuyển động trong đó bỗng địa lôi ngà voi trắng, khéo ở bàng tham, chớ xúc phạm đến bậc tôn quý, ở Thiếu Lâm xây mặt vào vách chín năm, việc xấu trong nhà không muốn truyền ra ngoài. Nhị Tổ lập tức lễ ba lễ, ấp úng ai biết bên trong nhạy bén, Thiên Đồng ngày nay cũng hoàn toàn vô cớ. Thượng đường nói: Cô Cung Trường dạo chơi mây nước mà nay dừng bỏ, một chấm nhỏ phá tan tăm tối, sáng rõ ràng, mười phần hợp thể đầm mát mẽ. Trong bóng tối phải thấu qua lỗ kim may, đổi chỗ lại ẩn trong đầu sợi chỉ ngọc, gia phong ngoài kiếp ngày nay phân biệt, hắn thật là bạn bè với ta. Thượng đường nói: Cách vách thấy sừng ắt biết là trâu, cách núi thấy khói ắt biết là lửa. Hãy nói: Các vị ắt biết có thế nào? Lại biết chăng? Tiếng chim ríu rít âm thanh báo sáng, hương mai buổi sớm tin tức mùa Xuân. Thượng đường nêu, hai Thượng tọa Thâm và Minh thấy một con cá chép nhảy ra khỏi lưới của người đánh cá. Thâm nói: Huynh Minh đẹp nhó! Một con giống y như nạp Tăng này. Minh nói: Tuy như thế nhưng làm sao giống đương lúc không đâm đầu vào lưới. Thâm nói: Ông thiếu chỗ ngộ. Sư nói: Trong vạn tượng, toàn thể sự vật đều có duyên sanh, sau cùng một sắc, quay người phải phân biệt con đường, hoàn toàn như vậy thật là một vị nạp Tăng. Hãy nói: Chỗ hành vi của nạp Tăng thế nào? Khéo nắm chắc ấn không chữ xóa đi, móng ngựa trọn không dính bụi bùn. Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thế nào là người Phật Tổ không dám gần? Sư nói: Núi cao xinh đẹp tiếp giáp bầu trời xanh biếc. Lại hỏi: Thế nào là Quỷ thần không thể lường được người? Sư đáp: Hoàng Hà hòa làm một dòng. Lại nói: Như vậy thì gió Tây có thể làm lá rụng, trăng sáng tách theo dòng. Sư nói: Thế nào là gậy giết chết hoặc cứu sống của nạp Tăng? Tăng lại hỏi: Hòa thượng làm sao có thể bịt tai trộm chuông? Sư nói: Chẻ trán hướng về mặt trời mọc. Sư bèn nói: Này các thiền đức, mây tối phủ mái nhà, phải biết chim khôn mệt mỏi bay về rừng, bóng sáng xoay quanh núi, chợt thấy rắn chết giật mình ra khỏi cỏ, ngọc nữ trước máy đường thoi, tuyệt hậu còn trở lại, tiếng ca trên lưỡi người gỗ, không từ bên trong hát ra, vững bước trong bình kiếp không, oai âm ngoài thế giới lắc đầu, phải là chứng cứ của những người tri âm, chỉ như ứng biến thuận theo duyên, lại hợp hành vi như thế nào? Tơ máy không treo đầu con thoi, đường nét ngang dọc ý tự khác. Thượng đường nói: Máy trước kiếp, ấn sau khuỷu tay dùng mà không có vết, rồng không mà không cùng, là ai đã tạo ra cõi Đại thiên, ra khỏi tâm trí tự rỗng rang sáng suốt, ông muốn bỏ vết bùn, thợ đá không keo kiệt cân vận. Bèn lớn tiếng gọi rằng: Thiền Tăng hiểu rồi nên gánh vác, trông nom lỗ mũi. Nêu Hòa thượng Chân-yết nhập thất. Thượng đường nói: Mười muôn dặm mang y bát mà đến, muốn truyền giữ im lặng không nói. Bốn ngàn dặm bán khăn vải mà đến, không làm gì được, cười lớn ha ha, xới cỏ che giấu thành công của người khác, khép cửa đẩy ra ánh mặt trời rực rỡ, có người theo chánh lệnh mà gánh vác, có người từ chối ý kiến bên cạnh mà nhìn xuống đất. Kinh Khẩu lại tham kiến Thuyền Tử, mới hay thầy bạn ân sâu. Lâm Tế lại yết kiến Đại ngu mới tin lòng từ bi tha thiết Thiền sư. Xưa đã như vậy nay cũng nên như vậy. Xuống tòa, đại chúng cùng kéo đến thỉnh Hòa thượng Chân-yết vì chúng mà nhập thất. Thượng đường nói: Tiết Thiên Trung, ngày mùng năm tháng năm xem sanh sát trên đầu trăm loại cỏ, cam thảo, hoàng liên tự đắng ngọt, người nghiên cứu phụ tử phân lạnh nóng, cỏ thơm cỏ hôi khó giấu cặp móng vuốt, mùi vị đâu che giấu trăng nghiên, tròn sáng biết rõ trong tâm niệm, Ma-ha Ca-diếp có thể phân biệt các thiền đức, phân biệt là ý Tôn giả Ca-diếp từ lâu đã diệt hết ý căn, rõ biết viên minh không theo tâm niệm lại làm sao được vừa khớp? Người bình không nói, nước bình không chảy. Thượng đường, Triệu Châu đến chỗ Vân cư. Cư hỏi: Lão Đại sao không tìm chỗ ở? Châu hỏi lại: Chỉ cho tôi ở chỗ nào? Cư nói: Trước núi có nền chùa cổ. Châu hỏi: Hòa thượng sao không tự tại. Vân Cư liền thôi. Sư nói: Ông ở ta cũng ở, mười phương ba đời, nhất thời gom lại, trăng mây say sưa lìa thủy tê, quay người đụng ngã cây san hô. Thượng đường Tăng hỏi: Vạn máy không dừng, ngàn Thánh không mang là ai? Sư nói: Dưới nước Kim cương là côn luân sắt. Lại hỏi: Xưa nay không có bè bạn chỉ có một mình chăng? Sư nói: Gặp nhau bàn việc gì? Lại nói: Gió mát thổi trăng trong. Sư nói: Một câu lúc ấy rõ ràng cần đề khởi bên cạnh. Lại nói: Như thế thì thông suốt cổ kim, bao quát cả trời đất. Sư nói: Lại là kẻ nô lệ. Lại hỏi: Không rơi vào kẻ nô lệ lại làm sao? Sư nói: Cổ kim gồm cả không được, trời đất rộng lớn khó bao trùm. Sư bèn nói: Này các thiền đức, vốn tròn vốn linh diệu rộng lớn trải suốt từ xưa đến nay mà có loại, hòa vào thái hư mà vô hình, gia phong ngoài kiếp đạm bạc, ruộng đất trong bình rộng lớn bằng phẳng, khi nhìn ánh mắt muốn đứt, thân ở tâm duyên chưa xảy ra, mây ôm lấy ý tuyết, hạc mộng thăm thẳm trời chuyển nét Thu chừ Hồng bay biền biệt, chỉ lặng lẽ mà tự soi, vốn sâu mà đều trong vắt, tư tưởng tập trung mà kết thành khí giới, hay biết mà lưu chuyển làm chúng sanh, tình nhiều ít mà có sự phân rẽ sáu đường, người có trí nhiều ít mà phân biệt ba thừa, cảnh chân thật thì thực hành liền thấy Phật, đạo khéo léo mà phá trần xuất hiện kinh, giống như minh châu ứng sắc, tợ như hang rỗng mà truyền âm thanh, chỉ như siêu phàm nhập Thánh, chuyển vị tùy duyên. Hãy nói: Đường ngộ nhập ở chỗ nào? Lại thể hội được chăng? Giây lát lại nói: Gió sớm rửa sạch khói hoàng hôn, thấp thoát núi xanh một lối vàng. Thỉnh Duy-na Tạng chủ tri khách Thị giả, thượng đường nói: Dùi gỗ chưa kêu, chư Phật ở quốc độ nào? Bánh xe máy chưa quay, Nhất thừa không thuộc về danh ngôn, khách chủ lẫn nhau, cư só cần gì chắp tay vái chào, gia phong thích hợp, Quốc sư không cần phải gọi ba lần, có thể như thế vậy, bên trong dứt công huân, bên ngoài không góc cạnh, lại thể hội được chăng? Trăng kêu trâu bùn có thể vào biển, gió thét ngựa gỗ biết chơi Xuân. Hòa thượng Thiện Quyền Trí, Hạ pháp Từ thư, thượng đường có Tăng hỏi, còn nhớ Tăng hỏi Tào Sơn: Khi mặt trời chưa mọc, như thế nào? nào? Sơn nói: Tào Sơn cũng từng đến như thế, xin hỏi ý này như thế Sư nói: Trí tuệ không khắp nơi, khó ra khỏi danh ngôn. Tăng lại nói: Cuộn tơ thêu trông về núi xa thấp thoáng, quay mũi thuyền ghé vào gần bến xưa. Sư hỏi: Lúc đến bến thì làm sao? Lại nói: Buồm căng gió mát, mái chèo xuyên qua trăng sáng. Sư nói: Lại là đuổi theo từng lượn sóng. Lại hỏi: Sau khi mặt trời mọc thì như thế nào? Sơn đáp: Còn cân nhắc Tào Sơn chặng đường nửa tháng, lại làm sao? Sư nói: Đường chia rõ ràng, đường sinh hóa, tin tức trong đây liền thành công. Tăng hỏi: Con cháu đắc lực trong nhà không biết? Sư hỏi: Chỉ như người trong nhà như thế nào để gần gũi? Tăng nói: Rỗng lặng trong sáng tự soi, không nhọc nhằn tâm sức. Sư nói: Vẫn còn cách mây nước. Tăng nói: Làm sao được 100%. Sư nói: Không giữ châu báu chế ngự mới được. Sư lại nói: Muôn dặm Tây lai ngồi ở Thiếu Lâm, từng ngọn đèn nối nhau đến ngày nay, trâu bùn tranh nhau cùng về biển, khi chỉ ngọc kết nhau khéo hợp kim khâu, không rơi vào đầu mối liên miên của Tổ, nhất định không quên được lòng từ bi của bà già. Khúc nhạc không đàn reo trước gió biết có người tòng lâm thưởng thức âm thanh, chỉ như đèn đèn nối nhau, ăn ý với nhau, huyết mạch không có chỗ dứt đoạn, làm sao thực hiện? Lại thể hội được chăng? Chim Phỉ thúy đạp đổ nước trên lá sen, cò trắng tung thủng khói Trúc Lâm. Ngay buổi tối tiểu tham nêu, có vị Tăng hỏi ngài Cửu Phong, Tổ Tổ truyền thừa cho nhau nên truyền việc gì? Phong đáp: Thích-ca keo kiệt, Ca-diếp giàu. Tăng hỏi: Thế nào là Thích-ca keo kiệt? Phong đáp: Vì không có vật cho người. Tăng hỏi: Thế nào là Ca-diếp giàu? Phong đáp: Là mạnh thường quân trong nước. Tăng nói: Xin hỏi: Việc truyền cho nhau là thế nào? Phong đáp: Người già trăm tuổi trẻ con chia đèn tối. Sư nói: Mọi người đều đầy đủ, mỗi cái đều trọn vẹn đến nơi đến chốn, có khi thắp thì không được, ta cũng vì ông không được, có lúc được thì không thắp, ta cũng chướng ngại ông không được. Các thiền đức, vị trí ngoài sáng thì tháo hết rèm nhỏ, trong tối mượn công lại thêm màu sắc, lại biết chăng? Rồng xanh lột xác, trăng chuyển về đêm, Báo đen đổi vằn mây trong sáng. Thượng đường có vị Tăng hỏi: Thế nào là người hướng đi? Sư đáp: Vắng lặng không dấu vết. Tăng lại hỏi: Thế nào là người đến? Sư đáp: Sáng suốt rõ ràng có tin tức. Tăng hỏi: Thế nào là người không đến không đi? Sư đáp: Lại ngồi trên chót lưỡi của ông, mới thấy lỗ mũi của ta. Tăng nói: Tạ ơn Thầy đã chỉ dạy. Sư bèn nói: Trải qua nhiều đời Tổ căn cơ như chạm điện độn căn khí không khai ngộ, ba đời Phật biện luận giống như sông huyền rót vào chén không đầy. Lại biết có sức biết chỗ người chăng? Trời lạnh mặt trời thấp, hai người cùng một bát. Thượng đường nói: Bồ-đề không cây, gương không đài, trong sáng không chút bụi, chỗ soi dễ phân phấn đều trong tuyết, lúc chuyển khó phân biệt than trong thỏi mực, chim bay về không trú trên đầu bóng cây, hoa đang nở trên nhành không mầm, gặp phải thời tiết gió mây, mùa lạnh con thoi ra mép trong một tiếng sấm. Thượng đường nói: Vân Môn thêm tâm vững vàng tự biết tùy sóng theo sóng. Lâm Tế biến thông phương tiện, họ có thể bóng cỏ thả câu. Hãy nói môn hạ của Thiên Đồng hợp thế nào? Khai ao không chờ trăng, ao thành trăng tự đến. Một ngày nào đó của tháng mười thượng đường nói: Năm khai lô là sáng nay, hơi ấm ngầm tới gọi Tào tôi, đáng tiếc ráng đỏ thiêu Phật gỗ, trở lại làm cho việc chủ rụng lông mày. Các thiền đức, viện chủ chỉ biết đói đến ăn cơm, lại không biết có rất nhiều sự việc,Đơn Hà chỉ biết lạnh thì hướng đến lửa, cũng không biết có rất nhiều sự việc môn hạ của Thiên Đồng chợt có gã này, tài nghệ như thế, tính khô ráo như thế cũng nhắm vào cột sống liền đánh, vì sao như thế, nên đoạn hay không đoạn? Ngược lại chiêu lấy rối loạn. Thượng đường nói: Rắn không vào, chim bay không qua, ta nói mọi người ở trong, ba canh trăng sáng xuống núi Tây, một trận sương trong rời cây lạnh. Thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là lời nói siêu Phật vượt Tổ? Sư đáp: cao thì đáp cao, thấp thì đáp thấp. Tăng nói: Lời nói vô vị nhét lấp miệng người? Sư hỏi: Ngày nay vì sao nhét lên người không dừng? Tăng nói: Phải tin lời nói khắp thiên hạ không có lỗi về khẩu nghiệp. Sư nói: Thực sự kiên tránh dán răng vào. Sư bèn nêu có vị Tăng hỏi Văn-thù: Đạt-ma lại là vị Tổ chăng? Ngài Văn-thù đáp: Không phải Tổ. Tăng hỏi: Đã không phải Tổ, sao dùng chữ Tây lai? Văn-thù đáp: Vì ông không tiến cử Tổ. Tăng hỏi: Sau khi tiến cử, như thế nào? Thù đáp: Mới biết không phải Tổ. Sư nói: Người nào là Tổ, địa vị gia phả cao cả, là gốc của nhị nghi là mẹ của muôn vật, môn kiến hóa chưa muốn chuyển cơ, trên thực tế làm sao tiến bộ, một dãy núi xanh thông nhau, trăng rụng vượn lạnh hú bỏ chỗ. Ngày Đông chí thượng đường, trong cảnh giả tạm, ba đời vừa mới đổi dời, nhà lao vững chắc, thấp thoáng một mặt manh động, trụ mà vô trụ, thầm vận chuyển cơ luân, sanh mà vô sanh khéo vượt qua ảnh sự, cho nên mượn hư không làm thể, lấy sum-la làm dụng, đi khắp thiên hạ cúng dường mà bất động, tròn nhiếp trong một ấn, rộng lớn mà không ngoài, chỉ như sanh mà vô sanh làm sao thể hội? Lại biết chăng? Muốn hỏi tin tức mùa Xuân, hoa mai tự không biết. Thượng đường có Tăng hỏi: Trăm bộ hài cốt đều vỡ tan, một vật trấn trường linh, thế nào là vật trường linh? Sư nói: Sâu còn ngoài quần tượng, đứng thẳng trước vạn cơ. Tăng nói: Như thế thì nhà nghèo lúc bị cướp không thể hết. Sư nói: Trước đầu lâu, sau túi da. Tăng hỏi: Ngay lúc ấy là diện mục gì? Sư đáp: Gã mắt ghèn có chỗ rất chung lời. Sư bèn nói: Cục thịt không chủ, kiếp không có nhà trong sạch mười phần công việc, to lớn ngang bằng một khoảng sinh nhai, cửa trăng gió cao chừ mây đọng lối xưa, sóng lặng trên sông chừ chiếc bè nổi trong đêm. Các thiền đức, do tâm mà thành muôn pháp hóa Phật hiện ngàn hoa, phải nhanh kéo mũi trở về hương tương, kiêng cử, ngay tại chỗ chạm vào rắn chết. Thượng đường nói: Kiếp hỏa như thiêu là việc tro kiếp không không xứ có linh đài, lại không đẹp xấu thành vết bẩn, đẹp xấu đều từ trong đây mà đến. Thượng đường nói: Một tánh tròn sáng, ánh sáng trong đây phát ra rực rỡ, sáu căn hổ dụng, tay mắt toàn thân tùy nghi, liền có thể mắt làm Phật sự của tai, tai làm Phật sự của mũi cho nên nói: Người đá căn cơ giống như ông, cũng biết hát ca, nếu ông giống người đá thì bài ca tuyết cũng phải họa theo, có thể như vậy, ở trong tất cả trần trở thành Nhất thiết trí, không thấy dạy trung đạo, nếu sắc trần thanh tịnh hoặc Bát- nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc trí Nhất thiết trí thanh tịnh, không hai không hai phần, không riêng không đoạn, các vị lại biết chăng? Giây lát lại nói: Cha con Tuyết Sơn có thể không ngoài, trăng nước giao tình tự có duyên. Thượng đường nói: Lôi kéo để leo lên tâm tướng hòa hợp, bù nhìn Bằng Đầu trình mánh khóe, đập bể bức bình phong trở về quá khứ vị lai, nhà núi ruộng đất rõ ràng rộng lớn, xóa bỏ tình trần, chảy khô sóng thức, rỗng sáng dẫm lên chỗ một bình gió trăng mơ lạnh quay người chừ tuyết mây muôn trượng. Thượng đường nêu, có vị Tăng hỏi Tào Sơn: Ông trở về với cha vì sao cha hoàn toàn không quan tâm đến? Sơn đáp: Lý hợp như đây. Tăng hỏi: Ân tình cha con ở đâu? Sơn đáp: Ban đầu thành ân tình cha con. Tăng hỏi: Thế nào là ân cha con? Sơn đáp: Dao búa bổ không đứt. Sư nói: Trăng sáng ngã ba đường, núi xanh mái nhà, lùi bước chuyển công, đồng thân cộng mệnh, đến bên trong mới có đạo lý biết dao búa chặt không dứt. Lại làm sao thể hội, lại biết chăng? Soi tất cả thể không nương tựa, khắp người hợp đại đạo. Thượng đường nói: Chót lưỡi một miếng thịt, môi miệng hai miếng da, trong đó không cố định, phận ngoài chớ nghi ngờ. Triệu Châu cổ Phật, Vân Môn Thánh sư, rõ ràng đầu máy không dính sợi tơ, tự nhiên, đào lý thành đường đi, ấy là gió Xuân tác ý thổi. Thượng đường nói: Rất sáng không đáy, linh dị không căn, án sơn đi khắp không thấy có nhà, rưới khô sóng thức không thấy có dừng, gái đá kéo mở chìa khóa vàng, người gỗ quay động bánh xe ngọc, mới tin đạo từ nơi kim khẩu Phật nói ra, từ pháp hóa sanh đặng pháp phần của Phật, các Phật vị lai từng như thế, thực hiện được tương ưng chăng? Giây lát lại nói: Cùng dây câu kéo lưỡi móc lên, mặt nước mênh mông tan trăng sáng. Thượng đường Tăng hỏi: Ngài Hiệp Sơn nói: Vượn ôm con về sau non xanh, chim ngậm hoa rơi trước núi biếc? Pháp Nhãn nói: Ta ba mươi năm làm cảnh ngữ hội, không làm cảnh ngữ hội, lại là gì? Sư nói: Trăng khuyết rơi xuống rừng thưa, mây trắng ôm đá hang sâu. Tăng nói: Vừa đi không còn công phu, lại đến thì được diệu. Sư nói: Gã đóa căn lại đi như thế. Lại hỏi: Khi không đi như thế thì như thế nào? Sư nói: Một dòng nước Xuân ở giữa dòng hoa. Lại hỏi: Chỉ như con đường núi hiện lên, tê ngưu do ngắm trăng vằn mọc sừng, voi bị sấm giật mình hoa vào ngà, lại như thế nào? Sư nói: Ông lại ép nước trên bánh hồ. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Nhành liễu rủ, oanh vàng nói trơn, giàn hoa mở rộng, bướm gấm bay vội vàng, trong thấy nghe nhắc thông tin tức, ai được tiên sinh trỏ tấm sắt. Bèn đưa gậy lên bảo chúng rằng: Thấy chăng? Lại đưa lên một cái hỏi: Lại nghe chăng? Bỏ mất ngọn lau, cân lượng bằng nhau. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Vân Môn: Giết cha giết mẹ, sám hối trước Phật, giết Phật giết Tổ thì sám hối ở đâu? Môn đáp: Lộ. Sư nói: Lộ siêu tông vượt Tổ, người nói, hắn đốt trở lại hương hồn, ta nói y đánh trống thoa độc, khổ khổ lại thêm khổ, cắn văn nhai chữ, khư khư nếp cũ, trên xướng dưới theo, trước nhìn sau trông, mở nút ba gói có tiền mới, kẻ giàu không làm như thế. Thượng đường nói: Dùng ánh sáng mé xưa mà xóa sạch đêm tối lâu dài, dùng pháp giới trí phá trừ lưới nghi trần kiếp, sanh diệt liên miên mà không đến nhà chân tịnh, lôi kéo để leo lên quấy rối mà không đến cảnh giới viên minh, mặc ngoài nó thay đổi, riêng rỗng rang trong ta, bước vào đường tròn, thể mất việc huyễn. Cho nên người xưa nói: Vật có trước trời đất, vô hình vốn vắng lặng, hay làm chủ muôn vật, không tàn héo theo bốn mùa, hãy nói là cái gì? Giây lát lại nói: Cá kình nuốt hết nước biển, lộ ra nhánh san hô. Thượng đường nói: Tổ biết gió, hang biết mưa không cần sắp xếp, tự thành nề nếp, rõ ràng không có duyên, ở giữa tình cờ vui vẻ gì? Chim rừng cá hồ, một nụ cười quên mất ông. Hãy nói làm sao thể hội tương ưng như thế? Biết chăng? Biết được rất đặc biệt, không biết cũng khen ông. Thỉnh Thủ tọa thượng đường. Trắng không màu mà ở trước các màu cao quý, nước không vị mà đứng đầu các vị, đạo không nguồn gốc mà phổ biến khắp trời đất, pháp không có tướng định mà hoặc đó hoặc đây, hang thường rỗng mà tiếng vang có thể hô ứng, gương tự sạch mà bóng hay tùy loại. Nạp tăng chân thật được thân tâm này thì đại dụng tung hoành không thể độ lượng. Các thiền đức, hãy nói ai là người không thể độ lượng, lại thể hội được chăng? Giây lát lại nói: Khéo vượt qua niệm đầu, đứng thẳng trước vạn cơ. Thượng đường, Tăng hỏi: Nắm chắc mắt càn khôn, khi liên tục không lọt một mảy may là như thế nào? Sư nói: Nước biển trong rộng chứa cá kình, trời lạnh bắn bánh xa cóc hẹp. Lại nói: Diệu minh chẳng soi khắp, màu sắc chưa sanh trước. Sư nói: Thế nào là mắt ông nhìn được thấu? Tăng nói: Sừng tê ngưu vừa thấu bóng sao trăng, thần châu chín khúc, kiến luồn chỉ qua. Sư nói: Lại phải chuyển vị đến công, bàng tham dung hợp mới được. Tăng nói: Đáng được chỗ người ngọc vẫy tay, lại khéo quay lại. Sư hỏi: Ngay lúc quay lại, thế nào là khéo? Tăng nói: Khắp nơi nhờ cây dương đều có thể buộc ngựa. Sư nói: Đây là việc giữa đường. Tăng hỏi: Khi không liên quan tới đường đi thì thế nào được dụng? Sư nói: Áo sách thì nón cỏ bồ bán bằng giá vàng, khắp nơi gặp nhau gọi không biết. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Chân không chẳng phải là rỗng không, diệu hữu chẳng phải hữu, là gốc sanh thành vạn vật tức là mẹ của trời đất tạo hóa, góc vuông không thể định chỗ ở ấy, kiếp số không thể cùng tận thọ mạng ấy, môn đình rộng lớn, phong sắc như mùa Thu, ruộng đất rỗng sáng, trăng sáng như ban ngày đạt một niệm chưa khởi, ở đại công mà không gìn giữ, năm ngõ đường, ngựa gỗ hý vang, nơi ngã tư đường trâu đá bỏ chạy, khắp nơi gặp nhau, khắp nơi là hắn, khắp người là mắt, khắp người là tay. Thượng đường nêu, có Tăng hỏi ngài Thủ Sơn: Thế nào là Phật? Sơn đáp: Cô dâu cưỡi lừa ông nội kéo. Sư nói: Chót lưỡi của nạp Tăng thật là điều tự do, trong hồn nhiên có lẽ không có cái dùi và lưỡi câu, luân phiên thợ mộc không truyền cho con, bồi bếp giao du dùng dao không có trâu nguyên vẹn. Thượng đường nói: Thân chẳng phải bụi trần tụ hợp sáng suốt khéo tồn tại, tâm chẳng phải tình duyên âm thầm tự giác ngộ, thể của nó vượt ra các chướng ngại, dụng của nó được đại tự tại, không đi không đến, chẳng sáng chẳng tối, ứng sắc ứng thanh, mất đối mất đãi, bánh bao bánh Hồ Quán Thế Âm, ta lại phải làm nhà mua bán. Thượng đường nói: Giàu có muôn đức, vâng lời ảnh sự cao ngất, lang thang không chút mảy trần, giữ vững lời lẽ suy nghó dứt bặt, gia phong vắng lặng tự soi, riêng dạo cảnh giới chân thường, lấy lên cũng nhanh nhẹn, ngàn sai muôn khác không lẫn lộn được, buông xuống cũng thoải mái, mười phương ba đời tìm không ra dấu vết. Cho nên người xưa nói: Lao lung không chịu trụ, kêu gọi không quay đầu, bậc Thánh xưa không an bài, đến nay không có chỗ ở. Hãy nói làm sao thực hành được tương ưng như thế, lại biết tướng ấy chăng? Giây lát lại nói: “Đi đến chỗ tận cùng của nước, lúc ngồi ngắm mây bay”. Thượng đường có Tăng hỏi: Gió tùng, nước chảy là pháp môn nhập lý của Quán Âm, hoa đồng cỏ nội chính là cảnh mở bày thiền cơ của Phổ Hiền, nạp Tăng chỗ làm hợp thế nào? Sư nói: Buông tay đi trên lộ trường an, mọi sự mọi vật đều tự tại. Tăng lại nói: Như vậy thì sáu cửa không che, ngã tư không dấu vết. Sư nói: Mắt tai không đem đến, tùy nghi được thọ dụng. Tăng nói: Quán Âm mua bánh hồ, buông tay là bánh bao. Sư hỏi: Phần ông thế nào? Tăng nói: Theo giáo bít che lấp rãnh, hòa bùn hợp nước. Sư nói: Hồ tam hắc tứ không biết nhau. Sư bèn nói: Tất cả sắc không làm chướng ngại mắt mở bày thiền cơ trong pháp môn của Văn-thu; tất cả thanh không làm lay động tai, thấu triệt trong pháp môn của Quán Âm, tất cả dụng không ràng buộc thân, tất cả ứng không làm trái sự, liền ẩn hiện trong pháp môn của Phổ Hiền, đoạt cảnh cũng như lừa nhìn giếng đoạt người như giếng nhìn lừa. Ba ngàn thế giới trăm ức thân, không cần sắp xếp chỉ là thế. Thượng đường nói: Hoa chim không đến Xuân luống qua, trên núi Ngưu Đầu có người lười mỏi, vì tự tâm thanh tịnh nên vốn vô tác, buông xuống rất nhiều khổ đau vất vả. Mùa kiết hạ, thượng đường nói: Trụ tướng vô trụ dấu vết qua lại ai dấy lên, đắc tâm vô đắc, công phu của vật và mình tự mất, gói trọn vẹn không ra ngoài, mười phương thế giới là già-lam này, bình đẳng không khác, tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc của ta, trăm sông đều chảy về biển cả mà thành một vị, vạn pháp trở về tánh mà thành một nhà, chỉ như ý hộ sanh cấm túc lại làm sao? Lãnh hội được chăng? Lệch hay ngay không từng lìa bổn vị, vô sanh liên quan tới lời nhân duyên ấy. Thượng đường nói: Lấy cái màng ở trong mắt, trong hư không nào lại có hoa, quân tử trên đường không nhặt của rơi, dân không xâm nhiễu, nhà nhà thái bình. Thượng đường nêu: Kính Thanh hỏi Tăng: là tiếng gì? Tăng đáp: Tiếng giọt mưa trước thềm nhà. Thanh nói: Chúng sanh điên đảo mê lầm chạy theo vật. Tăng hỏi: Hòa thượng lại làm sao? Thanh nói: Đến không mê. Tăng hỏi: Đến không mê ý chỉ như thế nào? Thanh đáp: Xuất thân còn có thể dễ, thoát thể nói là khó. Sư nói: Tiếng giọt mưa trước thềm, hỏi ông cần sáng suốt, ngay đó thành sự việc đã rồi, giữa đường làm chủ liên minh, cõi cõi thấy Phật, trần trần xuất hiện kinh, chẻ núi Hoa ra liền sắc trời, bỏ qua Hoàng hà được tiếng biển, chỉ như Kính Thanh nói: Xuất thân còn có thể dễ, thoát thể lại khó hơn, lại làm sao? Biết chăng? Các Thánh trước gió khó che mắt, biết có Tào Sơn hiểu Kính Thanh. Thượng đường nói: Chỉ có gia phong này, tám mặt đều tinh xảo, chòm sao Bắc đẩu vắt ngang mà sông mờ nhạt, nằm mộng thấy hạc bay mà tổ rỗng không, trong công lùi bước chính là vị, trong vị dời thân lại mượn công, chỗ khéo léo rõ ràng, trong giống có khác, chỗ trong suốt rỗng lặng, trong khác có giống, tùy nghi mà bánh xe máy uyển chuyển, khéo ứng cơ quan thông suốt, cho nên nói: Phật tử ở nơi đây tức Phật thọ dụng, kinh hành và ngồi nằm thường ở trong đó, các thiền đức hãy nói: Việc trong đó là thế nào? Giây lát lại nói: Ao biệt muôn đời trăng cõi không, nhiều lần lao lung mới cần biết. Thượng đường Tăng hỏi: Như hạt châu phát ra ánh sáng, khi ánh sáng lại tự soi, như thế nào? Sư đáp: Canh ba trăng soi trên nhánh san hô. Tăng lại hỏi: Như thế thì rỗng không mà linh, không mà diệu? Sư hỏi: Đầu lâu của Thượng tọa máu chảy hết chưa? Tăng hỏi: Thế nào là tấm lòng son? Sư hỏi lại: Ông hãy nói: Bên cạnh Oai Âm là ai? Tăng nói: Ô Trương Tam, Hắc Lý Tứ. Sư nói: Quả nhiên chảy chưa hết. Tăng hỏi: Thế nào là được triệt để? Sư nói: Không cần cưỡng danh ngôn. Sư bèn nói: Rỗng rang thanh tịnh không ô nhiễm, trời tạnh không mây mà nước mùa Thu không gió động, tự giữ trong sạch, bình ngọc không bụi, gương nước không dơ, được mức độ như thế cũng lại phải mượn ánh sáng để định nghóa, mượn đường đi qua, tâm ấy khế hợp hư không, dụng ấy đồng muôn vật, nơi ồn ào náo nhiệt lại cưỡi trâu ngược, khi bối rối có thể mang bít-tất lộn, các vị lại làm thế nào để thể hội? Xác thực ngang dọc đều được khéo léo, đi vốn từ nơi khác đến. Thượng đường nêu: Lỗ Tổ hễ thấy Tăng đến liền quay mặt vào vách. Nam Tuyền nói: Tôi ngày thường nói với mọi người: Đảm đương trước kiếp không, thể hội khi Phật chưa ra đời, còn không được một cái nửa cái, giống như ông năm con lừa như thế đi. Sư nói: Pháp của Lỗ Tổ xuất hiện sanh kẻ ác lệnh của Nam Tuyền phát ra khởi dối trá. Thiên Đồng không bị người xưa kiểm điểm, cũng cần các vị thể hội, lại biết chăng? Dây tơ đầu sào từ nơi ông làm, không phạm vào sóng nước trong, ý tự khác. Thượng đường nói: Tâm vừa khởi thì lỗi, miệng ứng tiếng thì sai, dù có đại thần thông, được đại thọ dụng, lại chưa hợp với người kia. Hãy nói: Không phải cảnh thượng cơ là người nào? Giây lát nói: Nói nín không cùng khắp, xưa nay không dứt thời. Thượng đường nói: Kỳ lân ngọc, côn luân sắt, dây vàng ở trong tay hắn, bước về trăng hoàng hôn. Tiết khai mở Thiên Thân, thượng đường nói: Người trong địa vị cửu trùng tôn quý, bức tranh sao sáng chầu quanh sao bắc cực, công việc bốn mùa ngọc sáng hài hòa, gia phong muôn đời vận chuyển bánh xe vàng, phân biệt muôn tượng thuần hóa rộng khắp, bao trùm cả trời đất, ôm lấy chí nhân, tính đến không thể cùng thọ lượng, Nam sơn xanh biếc cả mùa Xuân. Thượng đường nói: Người bình thường không nói, nước bình không chảy, gió lặng hoa vẫn rơi, chim kêu núi càng tối; chỉ thiên chân không thiếu không thừa, không ở trong có lẽ kẹt vào đầu sợi tơ. Thượng đường Tăng hỏi: Lý trong suốt rỗng rang, lúc rốt ráo không thân như thế nào? Sư đáp: Hoa văn chưa có vết tích, tin tức khó truyền ra. Tăng nói: Thầm dời một bước chuyển đường huyền, khắp người buông xuống kiếp bình không. Sư nói: Khi đản sanh gần kề cha, hợp thể không có di chiếu. Tăng hỏi: Lý đã như vậy, sự lại thế nào? Sư đáp: Rõ ràng vừa trở lại việc phần hóa, mười phương ứng cơ lại trở ngại gì? Tăng nói: Trần trần đều hiện thân vốn có. Sư nói: Xuyên qua tất cả sắc, vây quanh tất cả tâm. Tăng hỏi: Như lý, như sự, lại làm sao? Sư đáp: Trên đường gặp rắn chết chớ đánh giết, rổ không đáy đựng đem về. Tăng nói; Vào chợ có thể hú một tiếng dài, về nhà mặc áo ngắn. Sư nói: Người gỗ ca trên đỉnh núi, gái đá múa bên khe suối. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Tịnh soi mà chăm chú, thấy rõ tánh xưa nay, rỗng rang tướng mà vi diệu, thường quán thân tự tại, đứng thẳng không nương tựa, sáng suốt tuyệt đối đãi, trường tồn miên viễn, được gọi là Vô Lượng Thọ, giữ lâu như như nên hiệu là Bất Động Tôn, chẳng phải có chẳng phải không, không già không chết, tâm địa sáng sủa như sóng vàng phá tan đêm đen, trong suốt như giếng ngọc bao hàm mùa Thu, chỉ chứng tương ưng nói truyền không được, thế thì ngay thời tiết tương ưng là gì? Giây lát lại nói: Lại thể hội được chăng? Muôn năm tùng thẳng tuyết lấp sâu, một dãy núi cao mây che khuất. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Hiệp Sơn: Thế nào là Phật? Sơn đáp: Vị này không khách chủ. Tăng hỏi: Bình thường cùng ai đối đáp? Sơn đáp: Văn-thù và ta mang nước đi, Phổ Hiền vẫn chưa bẻ hoa về. Sư nói: Không chiếm công, không cùng bạn thoát thể trong đó qua một lượt, tỉnh mộng thuyền trôi sóng ánh trăng, mắt tuyết lạnh ôm bến hoa lau. Tiết Thiên thân hết, thượng đường nói: Mênh mông phủ khắp, tròn đủ cùng tột hóa vô vi, liên miên tồn tại, một mình soi sáng Thánh thần chẳng tư lự, rộng lớn ba ngàn thế giới, bình ổn nước nhà, kéo dài mãi mãi ức vạn đời này, tuổi thọ cao, ở vào địa vị tôn quý, mượn duyên đản sanh, ứng cơ giáo hóa rũ áo làm chủ, các vị có biết chỗ thọ dụng của người này chăng? Vua Nghiêu có lòng nhân, vua Thuấn có đức hiếu đủ thuần hóa, trời đất lâu dài ngưỡng mộ Thánh minh. Hòa thượng Dương Sơn cuộn lại sách của pháp quyến. Thượng đường nói: Hoa năm cánh của Tổ phát linh căn, thật quả là biết ân biết báo ân, Đại Ngưỡng chưa quên hội chùa Đông. Huyền Sa tiếp nhau Tuyết Phong còn, thoi máy đổi chỗ khó thông đường, châm hạt cải hợp thời có diệu môn, lỗ mũi phóng quang ra hơi nhanh, năm đó hoàn toàn phủi sạch hết vết bùn, thế thì thầy trò khế hợp nhau, huyết mạch lưu thông, thời tiết ấy nơi ấy, việc truyền tâm trao tay làm sao thể hội? Giây lát nói: Phóng túng phải xem công sau vị, diệu viên cần đến sắc trước nhà. Thượng đường nói: Một tháng mưa, nửa mùa Hạ mát mẻ, bồ-đoàn thiền bản ngồi ngang nhau, trâu bùn đạp bể ánh trăng trong ao trong suốt, bóng sáng mênh mông đêm chưa tàn. Thượng đường nêu, Tăng hỏi ngài Triệu Châu? Vạn pháp quy về một, một quy về đâu? Châu đáp: Ta ở Thanh châu may một chiếc áo vải nặng bảy cân. Lại nữa, có vị Tăng hỏi ngài Văn-thù: Vạn pháp trở về một, một trở về chỗ nào? Văn-thù đáp: Hoàng hà chín khúc. Sư nói: Chín khúc Hoàng hà, áo vải bảy cân, ngựa Hồ hí vang phía Bắc, chim Việt làm tổ phương Nam. Nạp tăng vừa đúng đến chỗ chân thường, nói không dối người, mặt không hổ thẹn. Thượng đường có vị Tăng hỏi: Rỗng rang mà trường linh, khi bổn quang tự chiếu như thế nào? Sư đáp: Linh cơ bất động rõ ràng vi diệu, trong đây hoàn toàn ngầm xét chưa có điềm trước. Tăng lại nói: Đầu đội trăng nửa đêm, chân đạp đất hoàng kim. Sư hỏi: Ngay lúc ấy làm sao xoay nghiêng lại? Tăng nói: Người ngọc vỡ mộng bởi một tiếng gà gáy, xoay nhìn nghề kiếm sống đủ màu sắc. Sư nói: Chỉ biết đến như thế, không hiểu đi như thế. Tăng hỏi: Lúc đi như thế là thế nào? Sư đáp: Cũng cần bậc thượng nhân dùi khoan trong đây. Sư bèn nói: Tứ đại không mảy trần, thanh tịnh bản nhiên thể đầy đủ, sáu căn chợt mất, linh minh rộng lớn tinh thần dạo chơi, như gió mạnh đi trên hư không, giống như thuyền rỗng lướt trên sóng, ở kia cũng vốn không trốn tránh, ở nơi ta cũng khó dứt đón mời. Cho nên nói: Thánh nhân rỗng suốt lòng mình, vạn vật đều do ta tạo, biết vạn vật làm rồi thì đó chỉ là Thánh nhân, thế thì cao ngất ngay thẳng làm sao biết được làm rồi? Lại thể hội được chăng? Tâm ở khắp mười phương, không ở tất cả chỗ. Thượng đường nói: Đến tận kiếp không rõ chính mình, có không, không sa đọa, vượt qua sanh tử, thuyền chở trăng đêm câu sóng xanh, gia truyền trong sạch chỉ như vậy. Ngày giải hạ thượng đường nói: Lấy pháp làm giới cũng có thể rộng suốt mà dứt phương hướng. Lấy trí làm thân cũng có thể lưu thông tất cả mà quên kia đây, rễ mọc dưới bồ-đoàn mà chỉ một đầu sợi tơ thì trụ tâm vô trụ, mây bay đầu gậy đi khắp tứ thiên hạ thì làm tướng vô tác như mây giống hình chim hạc, bậc hảo hán đi như thế cần phải biết có ta mới có thể tôn kính chỗ khách, người người ngồi đắp y đi như thế, lại phải biết được hắn mới thấy trong chủ mà dụng. Cho nên người xưa nói: Mượn công biết vị, dụng ở chỗ thể, mượn vị biết công thể ở nơi dụng, nạp Tăng có thể như thế. Thân tâm riêng giải thoát, động tónh cả hai đều quên, mây nước là xà-lê, xà-lê là mây nước, các vị từng thực hiện như thế chăng? Con ngỗng uống nước có thể chọn vị thuần khiết, ong lấy mật hoa không làm tổn hại mùi hương khác. Thượng đường nêu: Tăng hỏi ngài Vân Môn: Đầu thu cuối hạ, phía trước chợt có người hỏi làm sao đáp lại? Môn đáp: Đại chúng lui về phía sau. Sư nói: Đại chúng lui về phía sau khéo vượt qua cối giả, không cần sắp xếp, cần gì phải tranh đấu, động dây đàn qua khúc khác, ai là tri âm, giãn ruột, nhỏ mật hắn mở miệng, tòng lâm thực sự chớ bàn bạc bừa bãi, ba đời chư Phật không biết có. Ngày Trung thu thượng đường, cảnh giới thanh lương, một bầu không khí trong lành bao hàm mùa Thu, thân tâm minh bạch, nửa đêm sương mù ôm cả ánh trăng, linh nhiên tự chiếu rộng lớn rỗng rang, lôi kéo leo lên đoạn sanh diệt, ra ngoài tình lượng có không, các vị lại đến mảnh ruộng này lại có thể đi như thế chăng? Giây lát nói: Chặt hết nguyệt quế trong trăng ánh sáng trong lại càng nhiều. Tiết thiên ninh thượng đường nói: Trời trong trời, chủ trong chủ, gia thế kim luân truyền muôn đời, lùi bước ở địa vị tôn quý, mượn công lại làm duyên đản sanh, trên ấn rộng lớn rỗng rang không vết bẩn, rõ ràng đầu máy có chuyển xoay, kiếp số không thể biết thọ lượng, trong suốt còn ở ngoài hình tượng, tự kéo dài. Các thiền đức, lại thấy được phá chỗ hành vi trong đây chăng? Giây lát nói: Riêng chiếm lấy phương hướng then chốt thành cha ông, chủ trì thế giới giao cho con cháu. Phạm Tướng công vào núi thỉnh thăng tòa nêu: Bùi Tướng quốc đến thăm Hoàng Bá, Bùi chỉ bức tranh treo trên vách hỏi: Tượng vẽ ở đây, cao Tăng ở đâu? Bá lớn tiếng gọi Tướng công: công đáp dạ. Bá nói: Là gì? Công ngay sau lời nói có tỉnh ngộ. Sư nói: hãy nói: Bùi Tướng quốc có tỉnh ngộ được gì? Giây lát nói: Đừng trách ngồi xuống liên tiếp khuyên uống rượu, sau khi từ biệt nhau hiếm khi gặp lại ông. Thượng đường nói: Ái kết thành thân, tưởng trong thành cõi, từ đây lênh đênh trên biển sanh tử, soi suốt nguồn trong không vẩn đục, mới biết bọt huyễn đồng vô ngại, vẻ thu sáu cửa, duyên tứ đại hư hoại, rõ ràng một chân thường tự tại, trăng sáng chan hòa chừ lau tuyết mê mắt, gió mát tiễn nhau chừ thuyền đêm về mau. Thượng đường nói: Giấu núi trong đầm, giấu thuyền trong khe, nhất chân không thể giấu, sợ ông đầy cao xa vời vợi, truyền gia trong sạch có phong quy, tròn đầy không cạnh góc. Thượng đường nêu, Tăng hỏi ngài Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Ngài Hương Nghiêm đáp: Rồng ngâm trong cây khô. Tăng hỏi: Thế nào là người trong đạo? Nghiêm đáp: Tròng mắt trong đầu lâu. Sư nói: Nếu có thể đi như thế, nói năng có chỗ không được, suy nghó có chỗ không kịp, Hãy nói: Làm sao đi được tương ưng? Lại biết chăng? Gió thoáng qua khói cát lau ôm tuyết, thuyền quay ngang bờ ruộng chỗ nước mùa Thu. Thượng đường nói: Gió bấc phẩy qua, lại thổi Thu qua, thời tiết lạnh lẽo nên nhóm lửa, cũng mặc Oai Âm dạo ngoài đời, nhàn rỗi ngồi trong lễ đường cây khô, lúc trần kiếp không lại có nhà, nói chỗ vòng tròn rỗng vốn vô ngã, sáng suốt không mê muội lặng lẽ mà biết, y bát Thiếu Lâm truyền trao Huệ Khả. Các thiền đức, đây là thời tiết Tổ Đạt- ma truyền trao cho Nhị Tổ. Lúc ấy mọi người hãy nói Thiên Đồng có truyền trao hay không truyền trao? Giây lát nói: Thương người nghèo thậm chí chỉ còn xương, ta nói máy sơ ý không tiếc này. Thượng đường hỏi: Một điểm sáng không che giấu rõ ràng con sò nuốt ánh sáng ban đêm, lúc này xoay chuyển bánh xe máy, thể dụng nguyên lai đều không trở ngại, thế nào là mượn công biết vị, dụng ở chỗ thể? Sư nói: Lúc ánh sáng ở trong thể thường trong trẻo, thể ngậm ánh sáng lại sáng soi. Lại hỏi: Thế nào là mượn vị biết công? Thể ở chỗ dụng? Sư đáp: Lúc rối loạn ẩn hiện, chỗ ồn ào náo nhiệt lại an nhàn. Lại nói: Trăng đêm chiếu sáng cả Cổ Độ, mây trắng không mưa quấn lấy núi mùa Thu. Sư nói: Hàm Đan học theo bước nhà Đường. Sư bèn nói: Núi xanh không cần mây trắng chầu, mây trắng không cần núi xanh trông nom, mây thường lồng vào núi, núi lồng mây, núi xanh tự nhàn mây tự thong thả. Các thiền đức, nếu hiểu được như thế mới biết, mượn công biết vị dụng ở nơi thể, mượn vị biết công thể ở nơi dụng, thể dụng không riêng mới chính là xướng đạo. Hay nói thế nào là thời tiết thể dụng không riêng, nước men theo bờ trúc chảy ra, gió thổi hương hoa bay đến. Thượng đường nói: Văn vẻ thông thoáng, cầm ấn truyền tông của Phật tổ, ánh sáng phá trừ đêm tối, nối tiếp ngọn đèn soi đời của người trước, lúc này không rơi vào tư duy, nơi nào lại có thể uyển chuyển. Cho nên: Hòa thượng Thuyền Tử nói, chỗ ẩn thân không tung tích, chỗ không dung tích chớ ẩn thân. Ta ở chỗ của Dược Sơn ba mươi năm chỉ biết việc này. Các thiền đức, hãy nói: Biết là việc gì? Lại biết chăng? Giây lát nói: Rùa về biển, buổi tối yên tónh thủy triều rút xuống, mặt trăng vắt qua ngân Hà đêm tối rõ ràng. Thượng đường nói: Lúc đi lại còn giống như lúc đến, trăng sáng hoa lau đêm tối không lạc đường, xoay máy chèo đi về nơi đâu, mùa Thu chói mắt cắt trời nước thấp. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Triệu Châu: Chí đạo không khó chỉ hiềm một nỗi là lựa chọn, lúc ấy người có hang ổ chăng? Châu đáp: Từng có người hỏi ta đến nỗi năm năm phân sơ không ra khỏi. Sư nói: Hãy nói: Triệu Châu trả lời ông ta hay không trả lời ông ta? Người mắt sáng thấy được đầu xương ló ra của ông ta, Thiên Đồng không tránh khỏi, đưa ra cước chú, năm năm phân sơ không ra khỏi, một câu vốn không kẻ hở, chỉ biết suy qua thương lượng, ai tin trả giá rõ ràng, biết nhau nhanh nhẹn, ngờ lạ nhau lỗ mãng, đâu thể cùng người biết việc mắng nhau, không thể cùng người không biết việc nói năng. Thượng đường nói: Rất tròn không che giấu nhau mùa Đông không lạnh tháng chạp đến thăm. Thượng đường nói: Thể rỗng rang có chiếu soi, gương không đối cảnh mà thường sáng, dụng chặt chẽ không công, hạt châu nếu ở trên mâm mà tự xoay, lôi kéo lên không thể kết nhau, sanh tử không thể dời đổi nhau, cho nên nói: Ngay trong sáng có tối, chớ đem bóng tối đối đãi nhau, ngay trong tối có sáng, chớ đem ánh sáng tiếp nhau, ví như bước trước sau, lại làm sao được tương ưng? Giây lát nói: Ngoài vật chỉ cưỡi voi ngàn dặm, vạn năm dưới tùng đánh chuông vàng. Thượng đường, một trận sương trong sắc lạnh ngàn đỉnh núi, bên trong là ai thấy quay nghiêng, gia phong kế thừa chẳng phải công, vỗ lưng bỗng giật mình trẻ con nói lối. Cho nên Cửu Phong nói, kế thừa là công kế thừa rồi là chẳng phải công. Hãy nói làm sao thực hiện, giây lát nói: Trong thô phân biệt tế còn có thể biết, tế trong tế lại mong gì? Thượng đường Tăng hỏi: Mây Thu lại núi lạnh, công huân đến hết, ao trống trăng lặn, tôn quý khó nhìn trộm, ngay lúc ấy làm sao thực hiện? Sư nói: Chiếu hết thể không nương tựa, toàn thân hợp đại đạo. Tăng nói: Chặt đứt con đường suy nghó, không rơi vào cơ thứ hai thứ ba. Sư nói: Nói một câu trước rất rõ ràng. Tăng nói: Bảo ấn ngay phong diệu, khâu mở lớp lớp gấm. Sư hỏi: Lúc bệnh, ngay chưa rõ ràng lại làm sao phân biệt? Tăng nói: Rỗng rang không mất soi, soi không mất rỗng rang. Sư nói: Vẫn là thời tiết lệch ngay qua lại. Tăng hỏi: Khi không liên quan đến lệch ngay thì làm sao? Sư nói: Ngoài cửa có mây theo cắt đứt đường mòn ngồi giữa không soi đèn sáng. Sư bèn nói: Trống không bặt dấu vết, một chút cũng không mê man, lặng lẽ quên lời, một cơ tự chuyển, Thích-ca Di-lặc đến thời tiết này không dám xưng thầy, Đạt-ma Lão Lư đến chỗ này không dám gọi Tổ. Các thiền đức lại biết chăng? Kim vàng đủ hai móc, hợp đường ẩn giấu tất cả. Thượng đường nêu: Có Tăng hỏi Thạch Sương: Thế nào là chỗ sâu xa của Hòa thượng? Sương đáp: Chìa khóa không tua, lắc hai đầu. Sư nói: Làm trước không được cuối cùng thái quá, vừa tiếp xúc trung gian thấy chăng? Vừa rõ hình đen trắng sanh sát, liên lụy người đốn củi chặt cành nát vụn. Đông chí thượng đường, điềm trước khế hợp gốc, tuyệt hậu trở về tông, phong cách luật trong bài tiềm thông, bánh xe trong trục quay âm thầm chuyển động, khéo phát đáy của chín vực sâu, ân đức lưu truyền đầu vạn hóa, thư nhà đi xa sẽ thấy trước thiên về chữ nhạn, mây trong động biến thành mưa, biết cây khô rồng ngâm sống lại, mặc cho cảnh vật thay đổi, không ngăn ngại công việc của đạo nhân. Các thiền đức lại biết chăng? Một hơi không nói bao hàm cả cảnh tượng, vạn linh chỗ nào tạ vô tư. Thỉnh Thủ tọa, thượng đường: Băng sanh nước đồng, cung kính truyền oai phong Bắc Đế, tuyết phá suối mai tiết lộ tin tức Đông Quân, nắm chắc vậy, Thuấn Nhã Đa cũng cần vỏ kê buồn biết lạnh, cho phép đi qua. Người nữ Căng-già lại biết ngửi mùi hương biết vị hòa hợp, quy cũ phiền hà dao thướt, điều hòa há phí diêm mai, thân tâm khéo léo có thể ngang bằng vật, bản lónh đủ nhiếp đồng sự, ngay thời tiết ấy, thuận theo cơ nghi ấy. Hãy nói: Là ai có khả năng hiểu rõ việc ấy, lại biết chăng? Ấm áp quay về, không khí đến nhiều nơi, Xuân ở trên cành cây thứ nhất trong rừng rậm. Thượng đường, trí rỗng rang mà sáng suốt, thần vắng lặng mà thông, dứt lạnh chuyển về đêm, trăng bạc lơ lững trên không trung. Chỗ làm của Nạp tăng nên như vậy, bốn phương tám mặt đều tinh xảo. Thượng đường nêu: Có Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Thế nào là ý Tổ sư Tây lai? Châu đáp: Cuối năm không đốt tiền. Sư nói: Thiên đồng hôm nay không tránh khỏi bị các vị bửa tách ra, tông sư của Lão đại, nói ra lời vốn không có bia ký. Lại nói: Cuối năm không đốt tiền, thảo luận gì về ý của Tổ sư Tây lai, cọ rửa hết những tỳ vết nhỏ, nghiền ngẫm không được mùi vị, đất lạnh xem ra mánh khóe không có, Triệu Châu cổ Phật khá một chút. Thế nào là chỗ Triệu Châu khá một chút? Há không nghe nói: Không tu tập thiền không luận nghóa bày ra đây phá giấc ngủ trong ngày yên lặng, muốn dự đoán cõi trời Đâu-suất ở thượng phương, cũng không có mặt trời đốt phía sau như vậy, bỗng có một lão hán bước ra hỏi: Tôi cũng ngủ như thế được chăng? Chỉ nói với nó chỉ sợ chưa từng mộng thấy. Ngày tết thượng đường: Bầu trời xanh rộng, mặt địa đều nhuần, sáp bôi giúp rửa sạch, chánh khí phụ thổi ra hơi, cơ luân chuyển mà khéo phát trục căn bản, ống sáo thổi điều hòa đẹp đẽ thành luật mới, núi lạnh trở lại ấm áp cây khô sống lại, khắp nơi trải mùa Xuân người người nhận tuổi, phần nạp tăng vốn tự vô sanh, trước nhà Dã Lão cần gì phải chúc nhau, Vì sao như vậy? Càn khôn hợp đạo không vô ngại cỏ cây mọc lên xanh tốt định có kỳ. Thượng đường Tăng hỏi: Nghe âm thanh ngộ đạo, thấy sắc sáng tâm, người biết có, làm sao không tin tức này? Sư nói: Không mang căn trần đến, lúc bình thường được dụng. Tăng nói: Đầy mắt, đầy tai dứt tuyệt tơ hào. Sư hỏi: Ở giữa đó làm sao thấu qua? Tăng nói: Chuông lạnh tiễn trăng tàn, biết chỗ rụng hoa mai. Sư nói: Lại theo thanh sắc khác chuyển. Tăng hỏi: Lúc không theo thanh sắc khác chuyển thì như thế nào? Sư đáp: Góc vang của tiếng chuông. Tăng nói: Tạ ở Sư chỉ dạy. Sư bèn nói: Theo hướng mắt tuyết mê, sạch đối với sắc lạnh của ngàn đỉnh núi, vào rừng hoa tín thầm truyền một chút ân Xuân, vật tập hợp nẩy mầm, chân cơ xoay chuyển, sanh bất sanh mà thêm gì? Làm không làm mà chẳng siêng, không thể dính mắc động tónh, không thể kẹt vào địa vị. Cho nên nói: chỉ một thân vững chắc, tất cả hiện trong trần, hiện thân hư không thì lặng lẽ vô ngại, hiện thân quốc độ thì khắp nơi gần gũi nhau, hiện thân chúng sanh thì tâm tâm thuận theo thế tục, hiện thân chư Phật thì niệm niệm chứng chân, được tất cả chỗ trở về Đà-la-ni tròn đủ Nhất thiết chủng trí Ba-la-mật. Các thiền đức, đây là việc thọ dụng của bậc Đại tự tại, lại biết chăng? Hóa quyền diệu ở trong tay Đông Quân, thước ngọc dao vàng thầm cắt đứt. Thượng đường nói: Chỉ có một chân tâm, cắt đứt ba duyên ai thăng trầm, thế là trở thành mười pháp giới, lục đạo luân hồi tự chướng ngại, không thấy một pháp tức là Như-lai mới được gọi là Quán Tự Tại, thấy kỳ lạ hay không kỳ lạ, kỳ lạ ấy tự hoại, thần tiên từ đâu đến, bậc Thánh cũng ở đâu. Lúc gõ gậy xuống bếp táo rơi xuống vỡ tan, một tấm rỗng sáng dứt trong ngoài. Thượng đường nêu, có Tăng hỏi Mục Châu: Khi vái chào Thích- ca không lễ bái Di-lặc như thế nào? Châu đáp: Hôm qua có người hỏi, đuổi ra rồi. Tăng hỏi Hòa thượng sợ con không thành thật. Châu nói: Chiếc gậy không còn, cán chổi tạm thời cho ba chục. Sư nói: Này đại chúng, đuổi trâu cày ruộng cướp lấy thức ăn của người đói, mới có thủ đoạn của tông sư, Thiên Đồng không tránh khỏi theo sau khen ngợi, lệnh của tướng quân nghiêm túc rồi đi, tám hoang bốn biển cần trong sáng, rút gươm ra khí thế bắn sao Ngưu, rửa sạch bụi thấy thái bình. Thượng đường, mưa Xuân rửa vườn rừng, gió Xuân lay động manh rèm, trăm thành người đã quay về, đàn chỉ mở lầu các, nhập môn đều là gia phong của Phật, ánh sáng lưới trời chiếu sáng nhau. Thượng đường nói: Ba mươi sáu vật nhất thời trống không, chỗ rỗng không, không không, tự quang thông, xoay nghiêng chót núi không lộ đỉnh, chẳng phải tướng nam nữ chủ nhân ông, chủ nhân ông mượn bạn có thể đến dùng chẳng hết, lão Câu-chi trên đầu bách thảo, vô số cõi nước là gia phong, thế thì con đường ngộ nhập qua lại nguồn ẩn hiện lại làm sao thể hội? Lại biết chăng? Ngoài vật riêng cười voi ngàn dặm, tùng vạn năm đánh chuông vàng. Thượng đường nói: Lôi đá vác đất, đánh trống múa vũ, ý không lập huyền, cơ không dừng ngọ, đạp rách giày cỏ đi chân trần, thấy việc thành không dung hợp, không dung hợp, trời rồng không chịu giấu Huyền Sa, rằn ri trước mặt vốn là Hổ. Thỉnh Hòa thượng Diên Thọ. Thượng đường nói: Ăn ý với nhau, tiếng thơ lưu truyền đời đời. Tự mình quang minh không che giấu, vô số cõi nước nói như thế, tướng lưỡi rộng dài biết giải bày, đại chúng làm sao được nói khắp nơi như vậy? Lại biết chăng? Nước men theo bờ trúc chảy ra gió thổi hương đến từ đóa hoa. Thượng đường nêu, ngài Minh An dạy chúng rằng: Một câu phải biết ẩn chiếu, một câu phải biết toàn chiếu, một câu phải biết hiệp chiếu. Aån chiếu không hợp căn cơ, toàn chiếu đường thời nay, hiệp chiếu vật ngoài thân, thông minh chủ trong chủ. Sư nói: Hiệp chiếu chuyển hết công, ẩn chiếu chưa độ đời, toàn chiếu không mất cơ, các vị nếu thể hội được, được chờ hiểu rõ như thế, có lẽ các ông là Nạp tăng có tay mắt khắp người, hoặc chưa như vậy thì dùi Thiên Đồng châm vào vậy, câu hết trăng trong sóng biếc vào một lưỡi câu, trăng thấp khói đêm trên cây nối liền thuyền, gà lạnh hăng hái gọi trời sáng, cười đáp gió Xuân trăm hoa dịu dàng, trong ngoài yên bình tự do tung hoành, chí công không phải Hòa thượng Nhàn tướng dao thước đỡ đầu cây gậy. Thượng đường, Tăng hỏi: Thí như thượng khách nơi bể khơi nằm mơ thấy đi chơi thuyền, khói sóng bến trăng tùy hình phóng khoáng, ngay lúc ấy, không tiện phải đến tận chỗ chăng? Sư đáp: Mù mờ vẫn có thêm công, phảng phất lại ngã màu. Tăng nói: Về đêm trăng sáng soi ngàn đỉnh núi, đỉnh núi ngập tràn lại không lộ. Sư nói: Xoay mình hướng về nhà mình, mây trắng vẫn phủ đầy như cũ. Tăng hỏi: Đây vẫn là thời tiết soi lại, làm sao được đi vững vàng như thế? Sư đáp: Ngựa ngọc tuyết đi về nửa đêm, Linh dương mắc sừng, trăng lặng về Tây. Tăng nói: Có thể nói là công không công, quay mình đi gần cha. Sư hỏi: Ngay lúc gần cha lại có tin tức chăng? Tăng đáp: Gió mát bến xưa cảnh đêm lạnh lẽo. Lúc này thâm sâu không được đẹp. Sư nói: Lại đưa mũ bảo hoa lên cởi bỏ hết vết bẩn tôn quý. Sư bèn nói: Lại buông bỏ buộc kéo, trâu trắng bước đi vững vàng, chưa đạp con thoi dệt, lòng ngọc nữ thanh nhàn, dáng vẻ lạnh lùng như mây chiều trên núi lượng trong sáng như ánh trăng chiếu trên ao thu, có thể đi như thế liền biết trong lặng có vị, trong soi có thần là chỗ truyền trao của chư Phật, Nạp Tăng vốn được. Cho nên nói: Thí như thượng khách của bể khơi mộng thấy dạo thuyền chơi, khói sóng bến trăng theo tình phóng khoáng. Các thiền đức, đây há chẳng phải là ruộng đất xưa nay ư? Lại làm sao thực hiện? Giây lát nói: Bình băng không đáy người đến bơi lội, trong suốt lá lách, ruột, lông, xương thoải mái. Thượng đường nói: Rộng lớn không thể lường được bờ mé của nó, trong sáng chừ còn một chút, khéo léo không thể biết được tên của nó, linh nhiên tự chiếu Thích-ca do đây mà đóng thất, Tịnh Danh do đây mà im lặng, Thiếu Lâm chín năm dạy bảo, các vị thể hội được chăng? Nửa đêm Mộc Đồng gõ cửa trăng, trời sáng phượng ngọc ngậm hoa cười. Thượng đường nêu: Một hôm Trường Sa xem kinh Đại Phật Danh, có một vị Tú Tài hỏi: Trăm ngàn chư Phật, chỉ thấy tên ấy, xin hỏi ở quốc độ nào? Sa đáp: Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hạo đề hậu, Tú Tài lại từng đề chưa? Tú đáp: Chưa từng đề. Sa nói: Vô sự cũng nên đề lấy một bài. Sư nói: Vô sự đề lấy một bài, ta không rơi vào phía sau của người khác, một chút khoan thai râu miệng lớn, rượu đậm đặc nồng lẫn rượu nhà. Trong say vẫn nói chưa thấm môi, bị người hỏi đến lại đánh tay, không đánh tay, ba năm một lần nhuận vào mùa đông sau Đông chí. Tống Hóa chủ thượng đường nói: Tiết tiểu tuyết ly ti rửa sạch sắc trời, xuân mới từ từ vào vết đốt, ba ngàn cõi hiện chẳng phải vật khác, trăm ức phân thân có diệu môn, con mây trắng là dụng của núi xanh, cha núi xanh là gốc của mây trắng, xin nhắn mây trắng định quay đầu, núi xanh không được thấy gốc chật hẹp. Thượng đường nói: Vừa mưa vừa nắng che chở sanh thành, hoa đào giặt gấm mà đẹp, dương liễu đùa theo gió mà nhẹ, quyết khơi suối rừng phát tiếng vang, giam giữ chim rừng họa tiếng, rõ ràng trong thấy nghe được vi diệu, lại nghi chỗ nào không rõ ràng. Thượng đường, mây mở núi xanh ngang đầu nhà, mưa dừng dòng nước dâng ngập cửa, Nam mô Quán Thế Âm của mỗi nhà, tránh né không kịp mũi ngang nhau. Không chỉ mũi ngang nhau, cũng chính là cùng thấy cùng nghe, cùng ngửi cùng nếm, cùng thân cùng ý, đồng đắc đồng trí. Các vị lại làm sao thể hội? Không nghe nói: Quả mãn Bồ-đề tròn, hoa nở thế giới khởi. Thượng đường nói: Này các thiền đức, Linh Vân thấy hoa đào ngộ đạo, chính là thời tiết như hôm nay, các vị đều là bậc trượng phu hảo hán lại có mắt thấy được thấu chăng? Có tâm biết được rõ không? Nếu như chưa được như vậy Thiên Đồng vì các ông mà cước chú. Linh Vân lại biết ngắm hoa đào, mắt lão lạnh lùng như hôm nay, nêu lên một chút lại có núi án trước mặt, cột cửa thẳng hàng không nghiêng lệch. Thượng đường nói: Một niệm rỗng thông, mười phương cùng khắp, vạn hữu tự bình mải trần không lập, lý trí tâm thầm đến nhà, Phật tổ miệng nhàn rỗi treo trên vách, chân cảnh vắng lặng, linh cơ rõ ràng, gương nước không tì vết, bình ngọc không trống, gió ve vuốt một mảnh trời xanh lạnh ngắt, nước nhiễm trăng bạc rất rõ ràng, hồ nước ẩn hiện, vực cùng thông đến chỗ phát sanh, lúc ấy xoay nghiêng ruộng đất nẩy mầm, ấm ám trở về, vườn rừng hoa đẹp, mùa Xuân đến, không giống vô tư không chỗ không, đàn chỉ cửa mở thấy Di-lặc. Hàng xóm đặt bày sữa cháo, thượng đường nói sữa cháo năm nay được khéo sanh, tâm khai thành đạo thấy ngôi sao, mà nay mỗi mỗi đi như thế, vẫn so với Cù-đàm nửa tháng đăng trình. Các thiền đức, chẳng phải lúc đầu so sánh tám niệm ba tướng sao? Chẳng phải so sánh tướng Phật trước Phật sau sao? Chẳng phải là so sánh tướng người khác là Thánh ta là phàm phu sao? Nếu là bậc hảo hán này, diệt trước sau đoạn cổ kim, tất cả Thánh phàm nhất như đồng dị, chỉ cần đi như thế, lại biết chăng? Mà nay ngộ đạo thấy ngôi sao chính là chỗ ăn cháo của Như Lai. Thượng đường nêu, trong kinh Kim Cang chép: Là pháp bình đẳng không có cao thấp, là tên A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Sư nói: Cao là cao, thấp là thấp, lớn là lớn, nhỏ là nhỏ, xanh là xanh, vàng là vàng, vuông là vuông, tròn là tròn. Vì sao nói đạo lý này là pháp bình đẳng? Các vị tất cả thời làm sao thực hiện được chân thật các không cao thấp này? Hoặc chưa đúng cưỡng làm chùy trác vậy. Người bình không nói, nước bình không chảy, voi lớn ở Gia Châu, trâu sắt ở Hiệp Phủ, chớ trách Phù Tang chiếu trước tiên. Phần lớn nhà ở cửa biển. Thượng đường nói: Bóng ngậm gương tông, tâm sanh thì tất cả pháp sanh, bước vào đạo tràng, tâm diệt thì tất cả pháp diệt, ánh sao rực rỡ phủ trời đêm, hoa đẹp tỏa sắc mùa Xuân người gỗ thầm chuyển hóa cơ, mảy may không sảng khoái, gái đá toàn nâng không ấn, văn vẻ chưa sáng. Cho nên nói: Không một không khác, không đi không đến. Các thiền đức, làm sao thực hiện được tương ưng như thế? Sáu cách thần dụng không chẳng không, một hạt tròn sáng sắc chẳng phải sắc. Thượng đường Tăng hỏi: Nhớ có vị Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là Tổ sư Tây lai? Châu đáp: Cây bách trước sân. Xin hỏi ý này như thế nào? Sư đáp: Bỗng miệng liền nói không cần bàn bạc. Tăng nói: Nếu nói lúc ấy từng có lời nói, đáng thương cô phụ lòng Triệu Châu. Sư hỏi: Ông chẳng phải muốn cho biết miệng sắt thở ra hơi sao? Tăng hỏi: Thế thì nay lại thiếu cái gì? Sư nói: Liệu quay lại chớ giao thiệp. Tăng nói: Hòa thượng hãy nói Triệu Châu hôm nay ở chỗ nào? Sư nói: Ông hỏi ai? Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Bình yên như gió lặng chẳng rung cành, mưa không vỡ mảnh, biết không biết chừ tùy ý, rộng lớn yên tónh chừ đại phương không ngoài, kiểng chân chừ đại công không làm chủ, vững vàng chừ tâm an như biển. Thượng đường nói: Hùng vó hiên ngang, chỉ biểu hiện trong mọi cảnh tượng, rõ ràng rành rành, gặp nhau trên đầu bách thảo, ta không thấy có người khác ngoài phần, người khác không thấy có ta ngoài phần, người khác không ngoài ta thì thanh sắc trần tiêu mất, ta không ngoài người khác thì thấy nghe tình thoát, cho nên nói: Thế giới như thế, chúng sanh như thế, trần trần như thế, niệm niệm như thế, hãy nói: Thế nào thực hiện được tương ưng? Lại biết chăng? Nhất cơ thầm vận động, trục quay yên lặng, bóng muôn vật chuyển động gương tâm rỗng không. Thượng đường nêu, có Tăng hỏi Tào Sơn: Khi áo linh không treo lên là thế nào? Sư đáp: Tào Sơn hôm nay trọn hiếu. Sư nói: Chỗ làm của Nạp Tăng, bỏ hết công huân, trội hẳn tình lượng, mới có thời tiết xuất thân, lại không tránh khỏi chỉ chú trong đó, chỗ kín của công huân quay người khó, sau khi quay, gia phong lại biết riêng, núi củ đen sẫm, màu xanh tràn ngập mắt tiêu tan sương tuyết giặt áo tơi. Thượng đường nói: Nói ra suy nghó mà thường khéo lại ngồi chót lưỡi, thoát hình xác để độc linh, nắm được lỗ mũi. Cho nên nói: Trước không kiếp Oai Âm chỉ có một bầu trời, ngự lầu xem săn bắn, không phải cắt cỏ tranh bờ ruộng. Ngay lúc ấy, khéo léo không trải qua duyên, hình ảnh không vào đời. Hãy nói: Trong đó người nào sẽ biện bạch, lại hiểu chăng? Đầu đội trăng nửa đêm, chân đạp đất hoàng kim. Thượng đường nói: Nhất tâm vạn tượng, vạn tượng nhất tâm, không gần không xa, rất cạn rất sâu, cùng chỉ nó với càn khôn, cùng chiếu soi nó với nhật nguyệt, vàng thành đồ dùng mà mỗi đồ dùng đều là vàng, trong suốt như cây san hô, thơm lừng như rừng chiêm bặc, đại dụng tự tại cũng được châu trong búi tóc của Luân Vương,ngay tiếng hòa hợp cũng tấu cung đàn sư tử, lông tóc không mất viên dung, gương soi hình tượng, hình xác không ngại rỗng thông, âm thanh xuyên qua vách có thể như thế cũng khéo vượt qua, từ xưa tới nay rõ ràng ở ngày hôm nay. Các Nhân giả hãy nói: Như hôm nay rõ ràng là việc gì? Lại biết chăng? Vững như đại địa có thể giữ vật, rộng lớn như hư không, không vướng một cây kim. Trì bát trở về, thượng đường nói: Sanh diệt đến đi, vốn là Như- Lai-Tạng, thanh tịnh sáng suốt, rỗng rang thông thoáng, sáu cửa ta đã dứt phan duyên ba cõi hắn không thân tướng. Người trên đường vô sanh biết chọn Vạn Hồi Hòa thượng. Thượng đường nói: Không thể được một, không thể được khác, ta như thế kia cũng như thế, hai hàng mi hiện thân Diệm Quang, đầu trăm cỏ dương ý Tổ sư, trở về mây ai khiến đến núi xanh, hoa rụng tự được trôi theo dòng nước. Thượng đường nêu Khuếch thị giả hỏi Đức Sơn: Từ trên các bậc Thánh đi về đâu? Sơn hỏi: Thế nào? Thế nào? Khuếch đáp: Sắc điểm rồng ngựa bay, ba ba què ló đầu ra. Sơn liền thôi. Hôm sau tắm rửa ra, Khuếch đưa trà qua cho Đức Sơn, Sơn vỗ lưng khuếch một cái. Khuếch nói: Lão Hán này hôm nay mới liếc xuống đất. Sơn lại thôi. Sư nói: Ở nhà tôn quý, không dính một chút bụi trần chợt gặp nhau trên đường, chỉ là một loại màu sắc, Đức Sơn, Khuếch thị giả đều là người rõ việc một trăm phần trăm (100%) vì sao bị Thiên Đồng kiểm điểm, lại biết chăng? Nạp Tăng đoạt được ngọc liên thành, Tần chủ tướng như Ma-la quy. Thượng đường nói: Nhàn rỗi như mây, rỗng rang như hang khéo ứng vô phương, Đông, Tây, Nam ,Bắc, sanh sát trong cuộc, mới lạc đường, mất búa lại về không được. Nếu là Lão hán này, lúc ấy đi tức là đi, dừng tức là dừng đi cũng đi như thế, đi không chỗ đi, đến cũng đến như thế, đến không chỗ đến. Các vị lai thể hội được chăng? Trước đề cao đen trắng câu nệ trước, thắng hết tung hoành mười chữ cơ. Thượng đường nói: Vững vàng ở trong đó, linh nhiên rỗng không hay không rỗng không, một con trâu vừa uống nước, năm ngựa không hý gió, trong vị mất tin tức, đầu máy có biến thông, việc Tam thiên đại thiên đàn chỉ vào Viên dung. Thượng đường nói: Tam giới duy tâm, duy tâm tam giới, tất cả pháp không quán tự tại, khắp nơi là ánh sáng khắp nơi là thân, là trở về bọt bóng đồng vô ngại, nhả mây như núi, nuốt như biển, rõ ràng không có lông tóc ở ngoài nó, vạn tượng sum-la đều là nhà mình, chỉ cái bụng hư không to lớn. Ngày mùng tám tháng tư, thượng đường nói: Thân Phật sáng rỡ không cấu bẩn, tánh nước trong sạch thường không vẩn đục, giáng sanh tắm rửa việc cát tường, hoặc dùng để mở môn công đức, só só hòa hòa tăng khẩu nghiệp, chấp nối lại thêm trần kết, mọi người tịnh tẩy toàn thân Phật, triệt để rõ ràng trong sáng, lâu dài chư Phật tắm thân ta. Ngày nay chúng Tăng tắm Phật, mình và người rộng cúng dường đều bình đẳng, án nga nga nẳng tam bà phược phiệt nhật la hồng. Thượng đường nói: Lúc đi tức là đi, đặc biệt dựa vào đâu. Lúc dừng thì dừng rộng lớn độc linh, trải qua vạn biến hóa mà không có mình cầu công, trụ nhất như mà không có mình tàng dụng. Cho nên Triệu Pháp sư nói: Cốt huyền cơ ở chỗ chưa phát sinh triệu chứng, giấu minh vận ở chỗ liền hóa. Lại không nghe Hòa thượng Tam Tổ nói: Tôn sùng chẳng vội mời, một niệm vạn năm, không gì không tồn tại, mười phương trước mắt, các thiền đức hãy nói làm sao thực hiện? Lại hiểu chăng? Khai ao không chờ trăng, ao khai xong trăng tự đến. Thượng đường nêu: Tào Sơn hỏi Đức Thượng tọa: Bồ-tát đang nhập định, nghe Hương Tượng vượt qua sông, xuất hiện kinh gì? Đức đáp: Kinh Niết-bàn. Sơn hỏi: Nghe trước định hay nghe sau định? Đức đáp: Hòa thượng lưu vậy. Sơn nói: Nói thì quá sát đạo, chỉ nói được một nửa. Đức nói: Hòa thượng như thế nào? Sơn nói: Tiếp lấy dưới bãi sông. Sư nói: Bến đò thâm trầm lặng lẽ, màu sắc sáng trong chỗ lẫn lộn ngang bằng công, nhìn kỹ xoay nghiêng, dây vàng ròng tuột khỏi tay côn lên lỗ mũi rủ xuống ghìm không được. Thượng đường nói: Trường là pháp thân lâu dài, đoản là pháp thân ngắn ngủi, hư không đã là sắc, đại địa lại chẳng phải trần, thấy được thấu Tổ A-na-luật, buông được vững thần của Thuần-nhã-đa, nhẹ nhàng đùa giỡn cùng chim âu trắng, hớn hở mộng, dạo xuân hồ điệp, kẹp đầu kẹp mặt xô đến, trong mắt không gân suốt đời nghèo. Thượng đường nói: Không thể được mà có, không thể được mà không, yên lặng tiệt đoạn mười phương, im lìm một cảnh rỗng rang trong sáng, đẹp xấu có thể che khuất gương trong, xanh vàng chẳng phải ta nhuộm minh châu, chùa lớn không thể đóng khóa trăng, đêm đến lưu bóng ở san hô. Thượng đường nêu. Động Sơn đến chỗ Hưng Bình, liền lễ bái. Bình nói: Chớ lễ bái kẻ bất tài này. Sơn nói: Lễ bái người chẳng bất tài. Bình nói: Nó lại không nhận lễ. Sơn nói: Nó cũng từng không lễ. Sư nói: Hắn chẳng phải là kẻ bất tài, không lễ không nhận, trước đời Oai Âm, sau đảnh Tỳ-lô, nắm chắc ngày dài trong bình, chạm vào lỗ mũi rắn xanh trong hộp, lương y dặn dò người bệnh, uống thuốc không bằng kiêng ăn. Ni thỉnh thượng đường nói: Chẳng phải tâm chẳng phải vật, chẳng phải trời chẳng phải người, chẳng phải Tăng chẳng phải tục, Nam Bắc Đông Tây chẳng phải ta tìm, dài ngắn vuông tròn chẳng phải ta lường, trâu uống nước sông Hằng thỏ ngủ trong hốc trăng, triệt để linh minh phá tăm tối, Mạc Sơn cao chót vót tướng đỉnh không hình, mài sắt biến thông đầu lưỡi không xương. Thỉnh lần lượt Đường Thủ tọa, Tàng chủ thượng đường nói: Nhà ta hằng ngày chọn trường khai, đỗ đạt tâm không có đại tài, chớ đem nhành quế chẻ vụn vặt vì nó và trăng ôm ấp đem đến. Lại nêu: Động Sơn dạy chúng rằng: Muốn biết việc này như người ta nuôi được ba đứa con trong châu cần được một đứa, trong huyện cần được một đứa, trong thôn cần được một đứa, một đứa có thể được dùng tiền ở trong nhà, một đứa có thể được dùng tiền của bên ngoài, một đứa không được dùng tiền của bên ngoài cũng không được dùng tiền của trong nhà. Hãy nói đứa nào hợp ở trong châu, đứa nào hợp ở trong huyện, đứa nào hợp ở trong thôn? Có Tăng bước ra hỏi: Ba đứa chẳng biết nặng nhẹ chăng? Sơn nói: Phải. Tăng hỏi: Thế nào là chỗ xuất thân của người này? Sơn đáp: Biết có lại không biết có là chỗ xuất thân của người này. này. Tăng nói: Xin hỏi người này từ nay trở đi phải không? Sơn đáp: Cũng từ nay trở đi. Tăng nói: Như thế thì thuộc về công vậy. Sơn nói: Đúng. Tăng hỏi: Gọi là công gì? Sơn đáp: Gọi là công vô công. Tăng hỏi: Người này lại biết có người trong châu không? Sơn đáp: Biết có thì mới biết kính trọng. Tăng hỏi: Thế thì người trong thôn đều biết lỗi? Sơn đáp: Đúng. Tăng hỏi: Thế nào là chỗ lỗi của người này? Sơn đáp: Không biết có gọi là người nhàn rỗi, là chỗ lỗi của người Sư nói: Có một người có thể chánh quy củ, bên trong thì nghiêm tịnh. Có một người có thể chuyển cơ luân, bên ngoài thì khéo ứng xử. Có một người lùi một bước đồng với người trong nhà, tiến một bước hợp với người bên ngoài, mới thể hội được biết có lại không biết có, công vô công, các vị lại biết chăng? Hướng đi chớ bảo mê một sắc, lùi lại phải biết mượn công người. Kiết hạ thượng đường nói: Các thiền đức, mười phương đại địa là một thân ta, liền có thể cấm túc. Mười phương chúng sanh là một hảo hán của ta, mới biết hộ sanh cấm túc, từng bước không đi ngông, hộ sanh tâm tâm không vọng động. Cho nên nói lấy đại viên cảnh làm già- lam của mình, thân tâm yên ở bình đẳng tánh trí, ta cấm túc vậy, không ngại các vị cấm túc, ta hộ sanh không ngại các vị hộ sanh, chư Phật đồng đến đạo này, mọi người đều trụ pháp này vậy. Lại biết chăng? Kia và ta rỗng không không chướng ngại, mình người pháp pháp vốn dung thông. Thượng đường nói: Mười phương pháp lữ cùng an cư, chỗ chiếu thân tâm của mây trăng rỗng không, bãi lau xoay nghiêng hạc trắng bay, mất cơ khe rừng lẫn lộn tiều phu và ngư phủ, vết sẹo như tận ánh sáng không bờ mé, hạt nhỏ nẩy mầm niệm có dư, gặp nhau dưới hành lang không hét, lại cho Hưng Hóa rải trân châu. Tiết Thiên Thân thượng đường nói: Thánh nhân đầm tính, thần trí dung thông, ngang bằng đấng sanh thành che chở thể tạo hóa âm dương, đại thiên thế giới, thanh bình cũng chỉ là một nhà, trăm ức thân mây ứng hiện cũng rõ không pháp khác, bàn về tuổi thọ ấy thì chẳng cùng kiếp số, nói về công đức ấy thì vẫn ngưỡng trời cao. Các thiền đức lại biết chỗ thọ dụng đại tự tại của người này chăng? Chỗ máy động bánh xe vàng mới chuyển, xu triền thái điện lúc đản sanh. Thượng đường nêu: có Tăng hỏi Hòa thượng Trí Môn: Thế nào là Phật? Môn đáp: Đạp rách giày cỏ đi chân trần. Tăng hỏi: Thế nào là việc hướng thượng của Phật? Môn đáp: Gánh mặt trời mặt trăng trên đầu gậy. Sư nói: Đạp rách giày cỏ đi chân trần, gánh mặt trời mặt trăng trên đầu gậy, Trí Môn quả thật được gia phong của Tổ, phóng ra lưỡi rộng dài của Vân Môn, đại trí như ngu, khéo léo như vụng về, dụng hết công phu tham không thấu, chớ thêm đống trên đất bằng, đừng đóng cọc trong hư không. Thượng đường nói: Giữa đường khách lâu nhớ núi nhà, một con đường nhỏ thông vào núi lạnh, trông nhìn chỗ trời mây thâu lụa trắng, trăng tàn qua cửa rớt mâm vàng, mười phương đều mất mắt mới thấy rộng lớn, ba đời đều nuốt bụng biết bao la, biến hóa thời tiết Côn Bằng, mây bay chín vạn xem gió xoáy. Thượng đường Tăng hỏi, nhớ có vị Tăng hỏi Hiệp Sơn: Thế nào là lý chân thật? Sơn đáp: Đá sanh cỏ không gốc, núi ngậm mây không động, ý này thế nào? Sư nói: Dời bước trong bóng tối, giấu mình ngoài ánh sáng. vết. Lại nói: Có thể nói là trong hư không không đọa ứng xử mất dấu Sư nói: Cũng cần phải một trăm phần trăm (100%) bản sắc hảo hán mới được. Tăng nói: Con xin hỏi Hòa thượng thế nào là lý chân thật? Sư đáp: Chỗ xanh xanh đen đen quay lại, xoay chỗ rõ rành rành. Sư bèn nói: Giữa trưa nóng, đêm sâu mát, bình nước ai lại đến trung ương, thân tâm chỉ được vuốt trăng mây, phổi lá lách vừa mới rửa tuyết sương, chớ giữ chỗ một sắc, chớ ngồi giường vạn năm, người ngọc xoay nghiêng con thoi máy chuyển động, phân biệt kỹ phương ngay lệch bên trong. Tống Giám Thâu thượng đường nêu: Nam Tuyền nhân có lần cắt lúa, có Tăng hỏi: Đường Nam Tuyền đi chỗ nào? Tuyền đưa lưỡi liềm nói: Liềm này của ta mua ba mươi tiền. Tăng nói: con không hỏi lưỡi liềm, chỉ hỏi đường Nam Tuyền đi chỗ nào? Tuyền nói: Lưỡi liềm này của ta dùng rất nhanh, lúc ấy mua ba mươi đồng tiền, đường rẽ của môn hạ Nam Tuyền thông suốt, nhắn người đi đường tác phẩm đặc sắc lừa giết nhau. Mắt nạp Tăng bị tòa núi cản trở, mà nay thấy thấu rõ đường đường, đại địa rải đến thành một khối, nếu đại chúng cũng như vậy, thì hạt ngũ cốc rơi vào chỗ khác không được. Thượng đường, trong thân ra cửa trong cửa ra thân, mây trắng có thể làm khách, trăng sáng biết theo người. Thượng đường nêu, có ngoại đạo hỏi Đức Phật: Không hỏi có nói, không hỏi không nói. Đức Thế Tôn im lặng, giây lát thưa: Xin Đức Thế Tôn đại từ đại bi vén làn mây mê mờ cho con, khiến cho con được ngộ nhập. Ngoại đạo lui ra rồi, A-nan bạch Phật ngoại đạo có sở chứng gì? Đức Thế Tôn nói: Như ngựa giỏi trên đời chỉ thấy bóng roi liền chạy. Sư nói: Một câu siêu nhiên, ngựa hay, bóng roi, nói ra, im lặng lý hợp vuông tròn, vận cân khéo léo khách chủ đáng thương, kỹ xảo thành thạo, cha con không truyền, chớ đem hào tượng mà tìm mai rùa, vừa rơi vào việc phải trái năm con lừa. Thượng đường đứng sừng sững một mình không bị hình xác trói buộc, đi khắp liên miên không bị góc vuông trở ngại, khéo vượt lên ngoài vật, sáng đầy bình. Con mây trắng, gió thâu hơi lạnh bầu trời trong sạch. Cha núi xanh, khói ngậm một dãy thu gầy. Hãy nói làm sao được tương ưng như thế, biết chăng? Đêm sáng chủ ngoài rèm không rơi vào phía ngay lệch. Hòa thượng Dục Vương Thông gởi thư đến thượng đường nêu: Hòa Sơn dạy chúng: Học tập nghóa là hỏi, tuyệt học gọi là gần gũi. Vượt qua hai điều này ấy là thật quá mức, lúc ấy có vị Tăng bước ra hỏi: Thế nào là chân quá? Sơn đáp: Biết đánh trống. Sư nói: Lão hán Hòa Sơn, nhân thời tiết ấy được làm liền làm, Thiền sư Dục Vương nhân thời tiết ấy được nghỉ liền nghỉ. Cho nên không đập bể trống này. Các thiền đức, ngay lúc ấy buông tay liền đi. Hãy nói: Rơi vào chỗ nào? Giây lát lại nói: Đầu bờ lau biếc ngậm tuyết, trên khe nước trong lạnh có mùa Thu. Giải hạ thượng đường. Tăng hỏi: Người xưa nói, mười phương cùng tụ hội, mỗi mỗi đều học vô vi, đây là trường tuyển chọn Phật, tâm rỗng không đỗ đạt trở về, ngay lúc ấy như thế nào? Sư nói: Trong sạch trọn không chỗ nương tựa khắp người không cách qua. Tăng nói: Thế thì bạch y lễ bái. Sư nói: Lại chẳng nắm được lúc này. Tăng hỏi: Làm sao được không rơi vào lúc này? Sư nói: Vượt ra ngoài kiếp không, một điểm tự sáng soi. Tăng hỏi: Người này có rơi vào giai cấp không? Sư đáp: xưa nay không lập tượng, chỗ này chẳng đặt tên. Sư bèn nói: Thần hang soi xét tượng tâm mây bóng trăng nhàn rỗi không làm chủ ở công, rõ ràng không riêng ở ứng, chớ hỏi ngay lệch, ai bàn động tónh, tự vuông tự tròn, ai thiếu ai thừa có thể đến làm trong chúng sanh, thường ở đại định Na-già, mây nước tùng lâm người tự thoải mái, quả thật như vậy cũng phải mừng nhau. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Vân Môn: Đầu mùa Thu cuối mùa Hạ, phía trước chợt có người hỏi, làm sao đáp? Môn đáp: Đại chúng lại ra sau, nạp tăng đi đến há cần cơ quan, nào phép thể cứu, áo tơi ông lão quen sóng dữ, mái chèo không cho thuyền phóng trược. Thượng đường cha mẹ đã sanh mắt biết thấy cõi tam thiên, đưa lên lại án núi ai ngăn trở ta. Dù cho đầy đủ voi không đầy đủ trâu, chưa tránh khỏi nương vào trước lại trở ngại, nhà nạp Tăng thật mừng vui, vật và ta đều rỗng không, lẫn lộn thành một khối. Lại dính mắc căn trần ở chỗ nào? Chỉ Quán Tự Tại đường đường này. Thượng đường nêu, Tăng hỏi ngài Nghiêm Đầu: Lúc xưa khi buồm không treo như thế nào? Nghiêm đáp: Lừa ăn cỏ sau vườn. Sư nói: Không gây sự không ăn ý, không theo duyên không trả lời, đây là ra khỏi tuyến đường xe chạy, thoát khỏi cối giã chỗ kẻ hảo hán làm, các vị làm sao biết, bình sanh gan dạ nghiêng ngã lòng người, quen nhau giống như không quen nhau. Thượng đường nói: Thể linh tự rỗng rang, núi xanh u tối thu gầy, dùng đầy vô ngại, mây trắng bồng bềnh ngày nhàn rỗi, trạng thái động tónh như vậy, đi lưu lại vết tự tại. Cho nên nói: Đến đi không do vật nên không có đồ đựng mà không có hình. Động tónh không do tâm nên không cảm mà cũng không ứng, các vị thể hội được chăng? Ngay thẳng nghiêng lệch chưa từng lìa bản vị, vô sanh thì sao liên quan tới nhân duyên. Thượng đường nêu, Lưu Đoan Công hỏi ngài Vân Cư: Mưa từ đâu đến? Cư đáp: Từ câu hỏi của Đoan Công đến. Sư nói: Mưa từ đâu đến, không lìa chỗ hỏi, sum-la đại thiên, ra ngoài tâm trí, rỗng rang trong soi chiếu, động trong yên lặng, phần nạp Tăng thường giống nhau, sương lạnh thấm tùng khí đêm trong mát, cầm thú hoảng bay mộng nguyệt sào. Thượng đường, chỗ vị hồi công, hóa Phật vào mười phương có thể thọ nhận cúng dường rộng khắp, trọng dụng hợp thể, chí nhân dạo chơi ba cõi, mà lúc đầu không hiện thân, như mây bay ra khỏi hang núi, do vô tâm, giống như trăng nhiễm xuống dòng sông mà có ứng, có thể như thế. Không còn không mất không hoại không tạp. Cho nên trong giáo nói: Một đóa hoa một nước Phật, một lá một Thích-ca, đều ngồi đạo tràng Bồ-đề, trong chốc lát thành Phật đạo. Các thiền đức, có biết chỗ căn trần đều là chỗ thọ dụng của Thích-ca Lão Tử chăng? Nêu ở chỗ chuyển không lưu tình thì phồn hưng vónh viễn ở định Na-già. Tiết Thiên Ninh thượng đường nói: Chủ trong chủ, nên phân biệt lấy, động phạm uy nghiêm xem kỹ quy cũ, quý trọng không thể được tên ấy, thọ không thể cùng số ấy, thủy triều bốn biển sương rơi núi tiên, mây muôn dặm mở rộng bầu trời. Thượng đường nêu, Trường Khánh nói: Thà nói A-la-hán có ba độc, chớ không thể nói Như Lai có hai lời, không nói không lời, chỉ là không có hai lời. Bảo Phước hỏi: Thế nào là lời nói của Như Lai? Khánh đáp: Người điếc làm sao được nghe. Bảo Phước nói: Sớm biết ông hướng về đầu thứ hai mà nói. Khánh hỏi: Sư huynh thế nào? Phước nói: Uống trà đi. Sau đó Tuyết Đậu nói: Chỗ không có trăng sóng trong lặng, có chỗ không gió mà sóng dậy. Nếu có người hỏi Thiên Đồng thế nào là lời Như Lai thì trả lời họ rằng: A-la-phả tả nẳng. Lời các thiền đức nói giống hay khác với người xưa. Các vị nếu cũng chưa biết lại bị chẻ đứt ra. Trường Khánh có thể giữ, Bảo Phước có thể làm, bản lónh của Tuyết Đậu ngang dọc, đầu lưỡi của Thiên Đồng hung ác. Nếu cũng biết rõ thì sẽ nắm tay ông cùng đi. Nếu chưa như vậy thì mỗi người tự gắng sức. Thượng đường: Tay Văn-thù xoa đảnh Thiện Tài, trí Phổ Hiền khắp thân pháp giới. Đây là hai đầu được dùng, thế thì qua lại trung gian lại thế nào? Gà vàng mổ bể trứng lưu-ly, thỏ ngọc đẩy tung cửa bích lạc. Các thiền đức, một câu có quy ra không tìm kiếm, một câu khó dung hợp không kiêng tránh, một câu thông biến hóa khiến người không mệt mỏi. Nếu có thể như thế mới có chỗ thọ dụng đại tự tại của Nạp tăng. Lại biết chăng? Tô Tần từng đeo ấn của sáu nước, có lẽ do còn thỏa mãn một bầu gió, rõ ràng không có tướng khác có thể thông biến, đáng cười tăng Diêu vẻ chí công. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Hòa thượng Nam Nhạc Nhượng: Đúc tượng như gương, sau khi tượng thành gương sáng hướng đến chỗ nào đi? Nhượng đáp: Như khi là Đại đức Đồng Tử, tướng mạo ở đâu? Tăng hỏi: Thế thì sau khi tượng thành vì sao không soi chiếu? Nhượng đáp: Tuy không soi chiếu, lừa dối người khác một chút không được. Sư nói: Linh cơ chưa động, đường vòng vào trước, cực lý cũng khéo được cùng thông, thuận việc cũng tạm thời phân mượn, không vật nào không có tư riêng chắc gì, cần gì? Hồn trăng đẹp nhiễm đáy nước. Luật Xuân chầm chậm ở trong hoa cao lớn hiên ngang, huy hoàng rực rỡ ba ngàn đại thiên một mình đi khắp. Thượng đường, hiệp chiếu trong vòng tin tức bình trầm phương ngoài độc tồn, thuyết linh dứt đối đãi, miên mật không tiết lộ, rộng lớn không bờ mé, trong rỗng liên tục mà lý dứt danh ngôn, tròn đủ một trăm phần trăm (100%) cũng nói không cạnh góc. Các thiền đức, đây là nhà Niết-bàn của chư Phật, nền an táng của chúng sanh tất cả các pháp từ đây phát sanh, tất cả huyễn duyên, từ đây diệt tận. Hãy nói: Ngay thời tiết như thế lại làm sao thực hiện. Giây lát nói; sương trời trăng lặn sắp nửa đêm, ai cùng đầm trong soi bóng lạnh. Thượng đường nêu, Đạo Ngô và Tiềm Nguyên cùng đến một nhà tang phúng điếu, Nguyên vỗ vào quan tài nói: Sống ư, chết ư! Ngô nói: sống cũng không nói, chết cũng không nói. Sư nói: sống cũng không nói, chết cũng không nói, thấy không lấy suy nghó khó được, dụng dứt mà trường linh, thể rỗng rang mà tự vi diệu, đường xưa vắng vẻ không ai bước, tuyết rửa núi xanh sớm biết lạnh. Thượng đường, diệu viên rỗng rang trong một mảnh, không biết ta đoạn trừ, trừ sạch các duyên ngoại hóa, không cần ta phân tỏ, lúc nào đưa vào kế thừa kế thừa rồi chẳng phải công, chuyển chỗ đản sanh, sanh rồi khởi chiếu, ứng rõ trong soi chiếu, chỗ ứng vô tâm. Cho nên nói: Động như mây bay, dừng như cốc thần. Lại làm sao được để như thế? Vô tâm thể hội được đạo vô tâm, thể hội được là đạo tâm cũng dứt. Thượng đường nêu, Phong Huyệt dạy chúng rằng: Nếu lập một trần gia phong hưng thịnh, không lập một trần, gia phong diệt vong. Sư nói: Lập một trần làm sao sanh thọ dụng, vì sao Dã lão nhăn nhó, không lập một trần làm sao sanh thọ dụng vì sao Dã lão ca tụng. Lại hướng vào trong đó chỉ chú. Có bao nhiêu tâm vui, bao nhiêu tâm buồn, dễ xem hai đầu này của Dã lão, gia phong bình lặng trong như gương, núi Thủy Sấu trống không giống mùa Thu, thủ đoạn thông biến thân tâm tự do, chẳng sợ gió sóng và tuyết bao lấy thuyền, một lần kéo ba ngọn núi sụp đổ trên biển, sáu con rùa lớn liền mắc vào móc câu vàng. Các thiền đức, cần phải thể hội như thế, cần dùng như thế, làm sao biết? Núi đẹp liền trời đẹp, Hoàng hà chuyển trục quay. Thượng đường nói: Lớn mà không ngoài, nhỏ mà không trong, hợp hư không mà không thiếu không thừa, lẫn lộn muôn vật mà thành viên thành khối, không ra không ở, không mất không hoại, ta không tranh đấu với vật, vật không làm ngại ta, người đạt đạo gặp nhau trên đường, không đem im lặng đáp nhau, phóng ánh sáng trong ba ngàn cõi, thôi hò hét trong toàn cuộc song lục. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Động Sơn: Lạnh nóng đến làm sao tránh? Sơn hỏi: Sao không đi trong chỗ không nóng lạnh? Tăng hỏi: Thế nào là chỗ không nóng lạnh? Sơn đáp: Khi lạnh lạnh giết xà-lê, khi nóng nóng giết chết xà-lê. Sư nói: Nếu bàn về việc này giống như hai nhà đánh cờ, ông không đối đúng nước cờ của tôi thì tôi che giấu ông. Nếu biết được như thế mới hiểu ý Động Sơn, Thiên Đồng không thể xuống chú cước này. Bên trong xem không nóng lạnh, ngay nơi đó biển xanh chảy được khô. Ta nói rùa lớn hay cúi đầu, cười ông bên cát nghịch cần câu. Thượng đường, Tăng hỏi: Thừa sư có nói tùy duyên không trụ tướng, ứng sự không xúc vật, ngay lúc ấy thế nào? Sư nói: Hiện thân đến thuyết pháp, Quán Thế Âm tùy loại. Tăng nói: Giả sử dứt bặt tung tích. Sư hỏi: Nói Đông nói Tây làm sao phân biệt được cái dứt bặt tung tích? Tăng đáp: Cá kình nuốt hết nước cả, lộ ra nhánh san hô. Sư hỏi: Phải đi đến chỗ nào? Tăng hỏi: Thế thì dứt bặt tung tích, lại làm sao? Sư nói: Lời nói mang vẻ sâu xa mà không có đường, đầu lưỡi nói mà không nói. Tăng nói: Đầu mối con thoi nhỏ bé, nói nín khó đạt tới. Sư nói: Chỉ sợ không như thế. Sư bèn nói tiếp: Vắng lặng là gia pháp của Thanh Nghiêm, mênh mông cuồn cuộn là môn đình của Quang Hiển, giữ gia pháp thì mất phương vỗ về biết ứng biến, lập môn đình thì mất đạo an ổn an nhàn. Nếu cũng đuổi trâu cày bừa, đoạt lấy thức ăn của người đói, phải có loại phương tiện này mới được. Thế thì nhà nạp Tăng làm sao thực hiện? Biết chăng? Cửa trong thân, thân trong cửa, vật trong mắt, mắt trong vật. Thượng đường nêu, có tăng hỏi Đại sư Vân Môn: Thế nào là lời nói siêu Phật vượt Tổ? Môn đáp: Bánh Hồ. Sư kết luận: Lão Vân Môn có thể định nghóa, bánh hồ Phật Tổ đều vượt qua, só só hòa hòa một tấm da, uốn nắn dối dang ba tất lưỡi, không phải là chủ ý mở rộng gia phong, cũng chẳng phải ăn ý hợp thời tiết, đúc sắt sống xong không lỗ chùy, tròn vành vạnh khó chêm vào. Các thiền đức, hãy nói: Thiên Đồng ngày nay xuống nêm hay không xuống nêm, người mắt sáng phân biệt lấy. Thượng đường: Mây tuyết sáng trong không chút bụi, một màu trong công lại buông ra, đánh thức giấc mộng của mục đồng mặc áo tơi, kéo lỗ mũi trâu trắng bảo về. Thượng đường: Không pháp có thể nói, Thích-ca đóng cửa ở đất Quang diệu, có ý truyền thừa. Đạt-ma quay mặt vào vách ở núi Thiếu Thất, tri âm là gương, lặng soi là thần, Đạo hợp trong vòng mà có trí giao du, nói khắp thiên hạ mà mà miệng không lỗi. Nếu có thể như thế mới biết đạo là lìa chữ nghóa dứt ngôn ngữ, thanh tịnh diệu minh là chỗ dạo chơi cũ của các vị, làm sao biết? Biết chăng? Gà vàng mổ bể trứng lưu ly, thỏ ngọc kéo mở cửa Bích lạc. Ngày Đông chí, thượng đường: Hào tượng âm dương là tông này, giết chết cứu sống cơ đầu xem biến thông, ngọc nữ lui mình vị sau công, người gỗ dẫn bước giống trong khác, một trần không nhận có thể rỗng rang rộng lớn, muôn vật không sót bỏ lại dung thông, mượn được nhân duyên thành hiện dụng, tám mặt tinh xảo tất cả gia phong. Thượng đường nêu: Bàng cư só nói: Mười phương đồng tụ hộ, mỗi mỗi học vô vi, đây là trường tuyển Phật, tâm rỗng không đỗ đạt quay về. Sư kết: Đã là vô vi, làm sao học. Nếu tâm cũng rỗng không, lại làm sao đỗ đạt? Biết chăng? Nếu chưa như vậy Thiên Đồng lại phải giải bày. Uống cạn nước biển cả, xô ngã núi Tu-di, rộng lớn linh thông lại là ai? Rừng chiên-đàn tỏa hương thơm, sư tử con gầm rống ra khỏi hang, cõi Tam thiên hiện ra một tiếng khảy móng tay, tám vạn pháp môn khai mở chân mày hai chưa sử dụng, biết không biết, làm không làm, đạo cùng khắp mười phương, tâm vượt ra ức kiếp, bóng lưu ở muôn vật khí phân trời đất. Ngày tết, thượng đường: Mưa đêm rửa sạch bụi bên núi, chúa Xu- ân lo liệu Xuân núi nhà, lớn lao trong bình không có năm mới, cây khô trước núi có người xưa, lạnh nóng không đến, lấy pháp giới làm chỗ, răng tóc không già, lấy hư không làm thân, ngồi vào im lặng có ý tương truyền, trên sông khô cạn mất bến đò. Thượng đường: Sanh không phải là có, động và tịnh theo nhau, diệt không phải là không, xứ và trí đồng nhau. Cho nên nói: Như gương soi vật, vật chẳng phải ngoài duyên, như hạt châu tỏa ánh sáng, ánh sáng lại tự soi, nhân duyên có chỗ không đến, sanh tử có chỗ không kịp. Ngay lúc ấy, làm sao thể hội, nửa đêm đầu quạ đội tuyết, sáng ra người câm ôm đầu về. Thượng đường: Sanh diệt kéo nhau lên không chạm vào người, một năm vừa hết lại gặp Xuân, sum-la mượn được làm dụng khác, pháp giới lẫn lộn trật tự là thân ta, không nhận tạp độc tự nhiên thuần chân, đưa lên lại ngàn sai mất kia đây, nhồi thành một mảnh không căn trần. Thượng đường nêu, Quán Khê hỏi Mạc Sơn: Thế nào là Mạc Sơn? Sơn đáp: Không lộ đỉnh. Khê hỏi: Thế nào là Mạc Sơn chủ? Sơn đáp: Chẳng phải các tướng nam nữ. Khê hét một tiếng rồi hỏi: Sao không biến đi? Sư đáp: Chẳng phải thần, chẳng phải quỷ, biến cái gì? Sư kết luận: Chẳng phải tướng nam nữ, vượt ra suy lường có, không, thấu trước vạn cơ, vượt lên trên ba cõi, cùng mà thông, đơn giản mà thỏa đáng, tùng ngậm trăng chừ đêm lạnh, suối chở mưa mà tràn ngập mùa Xuân. Thượng đường Tăng hỏi: Long môn vừa phát ra tiếng sấm chấn động, vũ trụ ướt dầm dề, là thế nào? Sư hỏi lại: Thấu qua chăng? Tăng nói: Giả sử lay động càn khôn, lắc bờm vẫy đuôi. Sư nói: Cũng cần phải là thủ đoạn của lớp người này mới được. Tăng nói: Người xưa nói khi một đám mưa đã làm giống nẩy mầm có khác là như thế nào? Sư đáp: Ông là Hoàng liên đắng tận cuống. Tăng nói: Đến đây thỉnh Sư chỉ dạy một lời. Sư nói: Thứ nhất là đừng nên hỏi, thứ hai là chớ nên dừng. Tăng nói: Đại thiên đồng một thấm nhuần, vạn vật đều đâm chồi nẩy nở. Sư nói: Trên cây không rễ lại có chút tin tức chăng? Tăng nói: Âm dương không khắp nơi, trăm cỏ đều nhú mầm. Sư nói: Phải như thế mới được. Sư bèn nói: Ống sáo chân phong u tối qua sáng đẹp, Xuân ân có lẽ ở cành thơm, Chí công không phải là Nhàn Hòa thượng, bên đầu chiếc gậy có cái kéo, nhà nạp tăng tuy vô tâm mà rộng lớn có thể ứng, có ứng mà vừa vặn vô vi, lại có thể biến thông như thế chăng? Mất cơ chớ trách khuôn mặt lạnh, được dụng ngại gì phổi ruột nóng. Thượng đường: Oanh ca hầu hoa làm đẹp, cho phép việc như Xu- ân ở trước nhà, đạo sâu mà dụng mất cơ là mua hết phong lưu không tính tiền. Thượng đường nêu, Lưu Thiết Ma đến thăm Qui Sơn. Sơn nói: Lão bò đực ông mới đến. Ma hỏi: Những ngày tới đây có đại hội trai ở Đài Sơn, Hòa thượng đi không? Sơn buông mình nằm xuống. Ma liền đi ra. Sư kết luận: Lưu Thiết Ma yết kiến Tử Hồ, ăn gậy mà đến liền có thể thông biến. Đại Qui Sơn sau khi tham yết Bách Trượng đá bình nước trong, đều đủ thần thông này, nói nín đều đến, kia đây đồng gia phong. Hãy nói chỗ hai lão túc dạo bước thế nào? Biết chăng? Chỉ được ý trong đàn, vất vả gì phải có tiếng trên cung đàn. Thánh Tiết, thượng đường: Thọ ngang bằng núi Nam, vị cao như sao Bắc đẩu, cơ vận chuyển trước vật, thể đồng lâu xa, sáng vượt hơn mặt trời mặt trăng, soi khắp nơi u tối, đức hợp càn khôn, rộng lớn không bờ mé. Ngày mùng tám tháng tư thượng đường: Tánh nước rỗng lặng trong suốt, trí thân trong lặng tròn sáng, trong đó không tắm gội thân, ngay nơi đó biết không mảy bụi, có thành Phật có giáng thần, có bờ kia có bến mê, sỉ sỉ hòa hòa ban đầu này, nối liền nhân này, đến thời tiết Thích-ca Văn, nước dơ chợt đổ trút xuống đầu không giận, cần gì niệm sức Quán Âm kia, tự nhiên lại kẹt ở người này. Các Nhân giả, thế thì lúc cán muỗng ở trong tay các ông, phải làm thế nào? Không do một việc, không lớn môt trí. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Vân Môn: Không khởi một niệm lại có lỗi chăng? Môn đáp: Núi Tu-di. Sư kết luận: Không khởi một niệm, lại nói Tu-di một miếng thịt trên chót lưỡi, da ở hai bên môi miệng, Vân Môn được dụng khéo như, một số đông không rơi vào phải trái, biết hay không biết. Thượng đường Tăng hỏi, nhớ Tăng hỏi ngài Phong Huyệt: Nói nín liên quan tới lìa vi tế, thế nào thông không phạm? Huyệt hỏi: Nhớ mãi Giang Nam trong ba tháng, chỗ gà gô gáy trăm hoa nở, ý chỉ thế nào? Sư nói: Hỏi Đông đáp Tây, đầu lưỡi không xương. Tăng hỏi: Phong Huyệt há chẳng phải là lão hán biệt cơ nghi biết dừng lỗi? Sư nói: Ông hãy nói ý Phong Huyệt thế nào? Tăng: Vàng ròng làm xong anh vũ ngọc, một âm thanh động làm gà gô bật tiếng gáy. Sư nói: Vừa đến lại viên thành, mà nay rất nhiều tạp vụn. Tăng: Muốn viên thành cũng không khó. Sư: Mùa Đông không lạnh, xem sau tháng chạp. Sư bèn nói: Vắng bặt một niệm chưa sanh khởi, cây cột mang thai phân biệt được không, gió quét sạch mây trắng chưa lên, bầu trời trống rỗng rộng lớn trong sáng dứt bờ mé, đạo không rễ thần không gởi, tâm không vật, trí không duyên, đứng một mình cao chót vót mà không nương tựa, tất cả tự chiếu linh, vạn vật làm xong, điều ấy chỉ có bậc Thánh nhân thôi. Ngay lúc ấy làm sao thể hội? Biết không? Trăng đuổi theo thuyền đi sông trong trắng, Xuân theo trên cỏ đốt vết xanh. Thượng đường nêu, Thạch Đầu hỏi Trường Tư: Ông từ đâu đến? Tư đáp: Từ trong núi đến. Đầu hỏi: Kho thóc lớn trên đỉnh núi một nhà công đức, lại thành tựu chăng? Tư: Thành tựu lâu rồi, chỉ thiếu điểm nhãn. Đầu: Không muốn điểm nhãn sao? Tư: Thì thỉnh. Thạch Đầu thỏng một chân xuống, Tư liền lễ bái. Đầu: Ông thấy gì mà liền lễ bái? Tư: Giống như lò hồng một chấm tuyết. Sư kết luận: Đỉnh núi mắt công đức, mỏi chân thỏng xuống bình thường, lò hồng một điểm tuyết, ngay đó rộng lớn mất nương tựa. Thượng đường: Việc suốt đời trên đầu trăm cỏ, trước cổng chợ ồn ào trăm ức thân và đều có lẽ như ảnh hưởng nhàn rỗi, thể sáng kiếp không người bên đó, người bên đó có chỗ nào, mây trắng cắt ngang chỗ đẹp của núi xanh, dứt duyên khác chỉ tự giữ, kiết hạ phải dạy người nhà, có nói liền là tiếng dã can, không nói tự nhiên sư tử hống. Kiết hạ, thượng đường: Phàm Thánh thông đồng cùng một nhà, ruộng đất tịch quang xem nghề kiếm sống, mà nay tâm không chọn Phật, tự có vườn rộng lớn nở hoa giác ngộ. Cấm túc chín tuần xem chưa cất bước ở chỗ trước, hộ sanh ba tháng, thể không thân tâm chạm vật, nhiều thân an cư trong một thân, một thân biện đạo trong nhiều thân. Cho nên nói: Pháp thân chư Phật vào tánh ta, tánh ta cùng hợp Như Lai. Lại nói: Lấy Đại viên giác làm già-lam của ta. Nếu có thể như thế lại có việc gì? Làm sao thể hội được hợp với Như Lai? Biết chăng? Chớ hiện thân tướng trong ba cõi, tiệt đoạn mười phương tánh sáng rỗng không. Thượng đường: Diệu trạm không tỳ vết, rõ ràng tự soi sáng, hợp thể cũng không rỗng không mà có, thuận việc cũng không ngại mà thông, không làm mà làm, không trụ mà trụ, mây vô tâm mà tự mưa, hang có thần mà tự trống không. Nhà nạp tăng có thể hiện thành như thế, có thể chuyển biến như thế, có thể thọ dụng như thế, có thể vuông tròn như thế, mới được tất cả chỗ ứng dụng không thiếu, biết chăng? Sum-la vạn tượng một pháp ấn, bên trong lại không có vết sai biệt. Tiết Thiên Thân, thượng đường, ba ngàn thế giới phát ra tiếng khảy móng tay, trăm ức trang nghiêm nhóm hợp ở hóa thân, bến thọ vô cương đồng đạo cửu, hà sa kiếp số đều thành Xuân. Thượng đường, Thế Tôn không thuyết pháp, Ca-diếp không lãnh hội, im lặng đến giờ lương tự vui mừng. Các núi vốn ở gốc mây trắng. Thượng đường: Chỗ nói không hại gân cốt, trong câu có chỗ suy xét, chỗ làm không mang vết sẹo, trong dụng được vi diệu, có thể thực hiện như thế tự nhiên không thấy lộn xộn rối ren. Cho nên nói: Thường vắng lặng, thường rõ ràng, chư Phật không tìm cầu, chúng sanh đoạn tin tức. Nếu có thể gánh vác như thế, lại có ứng dụng gì không cùng khắp, lại có sanh tử nào có thể sánh. Đến lúc ấy người xưa lại nói: Giống như thuộc về công, làm sao chuyển được hợp với người xưa? Biết chăng? Ngoài cửa có mây theo cắt lối đi, ngồi bên trong không soi hơn đèn sáng. Thượng đường, Tăng hỏi: Chim nhạn bay qua không trung, bóng ín trên sông lạnh, Nhạn không có ý để lại tung tích, nước không có tâm lưu hình, xin hỏi hành vi như thế nào? Sư nói: Đạo vô tâm thì có thể như vậy, chưa được vô tâm cũng rất khó. Tăng: Đường chim bay không tung tích, hư không dứt dấu vết. Sư: A-nhó lại làm đạo lý đi. Tăng: Không làm đạo lý làm sao? Sư: Ngọc sáng vốn không tỳ vết, khắc văn, táng đức ông. Sư bèn nói: Về gốc được ý chỉ, lá rơi biết mùa Thu, nắm được lỗ mũi lại mất đầu lưỡi, soi thấu suốt đỉnh ba đời Phật, nắm chắc cổ áo của nhiều đời Tổ, giếng ngọc đựng ngọc bích, bình nước cắt ngang dòng, các pháp không tịch làm tòa là phải ở chỗ đỉnh tù. Thượng đường ngay chỗ sanh ra, ngay chỗ diệt mất ba đời Như-Lai truyền trao cho nhau ấn này, người đá tùy ý nằm trên khói lạnh, ngọc nữ lắc đầu xem biết thư. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Vân Môn: Khi lá rụng cây trơ trọi thì thế nào? Môn: Thân bày gió thu. Sư kết luận: Con của Tuyết Phong, cháu của Đức Sơn, dây mơ rễ má kéo xoay khó cùng rễ gốc, chặt đứt các dòng thấy đáy nguồn, tương ưng bao hàm đồng trời đất, dài dài ngắn ngắn không tiết tấu, miên miên mật mật biến đổi trật tự, theo sóng đuổi theo sóng như thế, lên thuyền liền đến cửa trước nhà. Thượng đường, Thiên Đồng, một mùa Hạ cùng ở chung với huynh đệ, lỗ mũi của các vị thở ra hơi nhanh không? Nếu cũng thở ra hơi được nhanh thì ba đời chư Phật và ông nắm tay nhau đi, lịch đại Tổ sư cùng ông ra vào cùng một cửa. Nếu chưa như vậy thì không chỉ mang đến phiền phức cho Tông trước mà cũng chính là chôn vùi chính mình, dám hỏi các vị, thế thì lỗ mũi lại làm sao ra hơi? Có biết cho chăng? Núi xanh chuyển chỗ nước chảy trăng, khi lá lạnh rơi gió chở mùa Thu. Giải hạ, thượng đường: Trước ngày mười lăm, trên đầu không đội mũ bảy báu, sau ngày mười lăm, dưới chân kéo đứt chỉ ngũ sắc, trên đầu không đội mũ bảy báu, ngồi ngay không thấy ngồi, dưới chân kéo đứt chỉ ngũ sắc, đi thẳng không thấy đi, nhìn thấu hai đầu. Dù đạo Vua tôi hòa hợp, cha con hòa thuận, trên điện Lưu-ly ngọc nữ lắc đầu, trăng sáng trước nhà người đá vỗ tay, lùi một bước trước núi cao vạn nhẫn buông tay, tiến một bước, xoay mình đầu sào trăm thước, sanh diệt đến đi, động tónh ẩn hiện, chỉ nhóm lại ở lúc này, rất nhiều cơ yếu, cho phép đi qua, nắm giữ lại, đều ở nơi ta. Hãy nói: Ngay lúc ấy thì thế nào? Biết chăng? Đi trước không đến còn mất mình, cuối cùng vừa qua lại mượn công. đến? Thượng đường nêu, Lưu Đoan Công hỏi Vân Cư: Mưa từ đâu Cư đáp: Từ chỗ câu hỏi của Đoan Công đến. Sư kết luận: Đoan Công hỏi chỗ đến, đường thẳng tắt chớ đi vòng, Thiện Tài khắp nơi đều gặp Di-lặc khảy móng tay ra tiếng mở lầu các. Thượng đường: Xem thử gương nước tịnh bình ngọc lạnh, một chỗ trong dài suốt giơ chân dễ, rất rõ ràng quay người khó, toàn thân xoay lại đầu lưỡi ngắn, xoay lại toàn thân lỗ mũi rộng. Thượng đường nêu, có lần Bảo Phước và Trường Khánh dạo núi, Phước dùng tay chỉ về đất phía trước nói: Chỉ có nơi này chính là đỉnh cô độc Diệu Phong. Khánh nói: Đây tức là chỗ đáng tiếc. Sau đó nêu lên Kính Thanh. Thanh nói: Nếu chẳng phải là Tôn Công, liền thấy đầu lâu khắp đồng. Sư kết luận: Thủ đoạn của người sống, công phu đi dạo, phải đến thời tiết như thế, mức độ như thế mới được. Bảo Phước không đi lầm một bước, Trường Khánh không nói vọng một câu. Lúc ấy nếu không phải là Tôn Công, đầu lâu khắp đồng, có số gì? Lão Kính Thanh ơi là lão Kính Thanh, thái bình dường như tất cả không quấy rối, lông tóc không mọc bình ổn dứt, chỉ cái như như này vốn là đạo. Tiết Thiên Ninh, thượng đường: Cha một người, Thầy của trăm vua, đạo cơ có thừa chừ động như bốn thời, thọ lượng vô cương chừ lượng đồng trời đất, đại công không làm chủ, chí hóa vô vi, diệu chừ tuy nói rõ nhưng trí cũng không biết, đây là vua cha đản sanh, chỗ ẩn kín chân thật, các vị có biết cho chăng? Tạm treo y bẩn nói là Phật, lại trang điểm trân ngự lại nói ai. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Nghiêm: Rồng ngâm trong cây khô. Tăng: Thế nào là người trong đạo? Nghiêm: Tròng mắt trong đầu lâu. Sư kết luận: Tai ứng tiếng mà không vang, mắt có chiếu soi mà mất duyên, rất tròn trong nhiều kiếp thanh quy, sanh tử, tử sanh không khắp nơi, mây vuốt sắc Thu nước liền trời. Thượng đường: Rừng lạnh thấm sương, trăng sáng trơ trọi sóng, thời tiết như thế nạp Tăng ra sao? Một niệm rộng lớn không thấy có mình, cùng cực mười phương không thấy có nó, khắp cõi khắp thân không có phía sau, chớ bảo đầu dây rơi vào con thoi máy. Mỡ lò, thượng đường Tăng hỏi: Ráng đỏ thiêu đốt cây cối ý chỉ của Phật như thế nào? Sư: Trời lạnh phải đến chỗ có lửa, ôm áo lông tùy ý đứng chen nhau. Tăng: Đêm lạnh càng khuya càng đốt một mình. Sư: cũng phải trông nom lông mày mới được. Tăng: Lò hồng khắp thân, mới là tri âm. Sư: Vô minh lâu dài là việc không liên quan đến nó. Tăng: Thế thì viện chủ, vì sao râu mày rụng xuống. Sư: cũng giống bịnh đau của Thượng tọa. Tăng: Không biết làm khách, làm phiền chủ nhân. Sư: Lại bản sắc của nó, thủ đoạn của lão hán mới được. Sư nói: Mùng một tháng mười, gió mưa gây ra lạnh lẽo ý trời làm, vùng tùng lâm yên lặng, hôm nay khai lò Phật gỗ tránh lửa đốt, không suy xét, đại chúng ráng đỏ không suy xét, sao giống viện chủ không suy xét. Sư lại nói: Bổn hợp liền dừng lại như thế, Thiên Đồng không nhịn được cười, vì ông và các vị mà cước chú này. Ráng đỏ sắp lầm thì lầm, mày râu của viện chủ rơi rụng, mọi người và ông như điếc như mù, rối loạn giết ông không phải ác. Thượng đường nêu: Đại phu Lục Tuyên hỏi Nam Tuyền: Hòa thượng họ gì? Tuyền đáp: Họ Vương. Đại phu: Vương còn có quyến thuộc không? Tuyền: Bốn quan không lẩm cẩm. quan. Phu: Vương ở vị nào? Tuyền: Điện ngọc mọc rêu. Tăng nêu lên hỏi Tào Sơn, ý chỉ điện ngọc rêu như thế nào? Sơn: Không ở chánh vị. Tăng: Khi chợt gặp tám phương đến chầu như thế nào? Sơn: Nó không nhận lễ. Tăng: Cần gì đến chầu. Sơn: Trái thì chém. Tăng: Trái là việc phần quan, xin hỏi ý ông như thế nào? Sơn: Then chốt bí mật không được ý chỉ. Tăng: Như thế thì công việc điều hòa, hoàn toàn quay về tướng Sơn: Ông lại biết ý của Vua chăng? Tăng: Bên ngoài không dám luận bàn. Sư: Chỗ sâu xa, hạnh vi tế, lúc ẩn hiện, nhìn kỹ. Nếu có thể như thế, suốt thấu ngọn nguồn, bàng tham dung hợp, uyển chuyển hư huyền, không xúc chạm tôn quý con thoi ngang qua máy, kim lộ xỏ chỉ qua. Cho nên nói trong câu biết tông thì dễ, trong tông mà phân biệt thì khó. Ngay lúc ấy hãy nói có biện bạch hay không biện bạch? Nếu nói có biện bạch lại không bí mật. Nếu nói không biện bạch lại không sáng suốt, ngay lúc ấy làm sao biết? Biết chăng? Lão nhân Tam Tạng nhan sắc như ngọc, đồng tử vạn tuổi mái tóc như sợi tơ. Thỉnh Hòa thượng Bảo Ninh thượng đường: Vừa xem thấy hình đen trắng sanh duyên, chữ thập ngang dọc biết chiết tuyền, được thế liên quan xông thẳng vào miệng hổ, biến thông nghi giết tiên Lang Kha, đến đây lại có người không vò đầu bóp trán chăng? Hạ Tòa thỉnh Hòa thượng Bảo Ninh thuyết pháp cho đại chúng nghe. Tống giam thâu, thượng đường: Một ngày không làm, một ngày không ăn, ngừng là vô tâm, giành được là sức, rõ ràng chỉ là gia phong này, biết được làm ruộng được cơm ăn. Nhớ Địa Tạng hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tăng: Phương nam đến. Tạng: Phật pháp phương Nam như thế nào? Tăng: Thương lượng rộng lớn. Tạng: Sao giống ta trong đây, trồng ruộng được cơm ăn? Tăng: Thế nào là ba cõi? Tạng: Ông gọi cái gì là ba cõi? Sư kết luận: Duy tâm duy thức, bình ra bình vào, bằng dao vàng, ngay như thước ngọc, ông gọi cái gì là ba cõi, thật đây không từng bỏ sót hạt. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Nam Tuyền: Khi vái chào Thích-ca không lễ Di-lặc như thế nào? Tuyền: Hôm qua có người hỏi như thế, nhân tiện đã ra rồi. Tăng: Hòa thượng sợ con không chân thật? Tuyền: Cây gậy không còn, tạm thời dùng cán chổi đánh cho ba mươi cái. Sau đó Tuyết Đậu nói: Nam Tuyền chỉ có lòng lấy ngọc nhưng không có ý dứt bỏ thành, Sư kết luận: Kiểm điểm đem đến Tuyết Đậu cũng hay, cho ba mươi gậy vì sao không thấy đạo, nên đoạn hay không đoạn, trái lại dẫn tới loạn cho mình. Các vị biết cho chăng? Thiên Đồng không tránh khỏi chú thích, Vương Lão sư đủ chí khí, phải trái gọi là đãng tình, dựa vào trời soi chiếu tuyết phát ra tia sáng nhoáng quét hết kéo thuyền ngược gió tiến lên muôn ngàn dặm. Tiến Phước Chuyên Sử Trì Thư, thượng đường: Một cành mọc ra rừng chiên-đàn, muốn thấy hương thơm an ủi lòng chúng, không phụ sức lão huynh khai đục, ngay lúc gió, ông và hạc kêu âm. Lại nêu A- nan hỏi Ca-diếp, Đức Thế Tôn ngoài việc truyền ca sa Kim Lan, còn truyền vật gì khác không? Ca-diếp gọi A-nan, A-nan đáp dạ. Ca-diếp nói: Cây sào ngã trước cửa chùa. Sư kết luận: Cảnh lược trước cửa ngã cây sào, tin tức trong đây truyền trao khó, thị giả láu lónh có thể biết, mâm đi trên hạt châu, hạt châu xoay trên mâm. Người Lục Nghi thỉnh thượng đường nêu: Đại Phu Lục Tuyên hỏi Nam Tuyền: Đệ tử đích thân từ Lục Hợp đến, trong kia lại có thân không? Tuyền đáp: Ghi chép rõ ràng nêu lên tác giả. Sư kết luận: Không, không thể có, đầy đủ thân không bờ mé, diệu không thể mất, dụng đầy đủ không bờ mé, ở trời giống trời, ở nơi người giống với người, ở kia đồng với kia, ở đây đồng với đây. Tuy trời, người, kia, đây nhưng quả thực không hợp với nó. Cho nên chủ không tự chủ mới có thể chủ tất cả chỗ, khách không tự khách mới có thể làm khách tất cả chỗ. Nếu có thể được như thế, không chỉ nhìn thấu Nam Tuyền mà cũng biết chỗ sanh tử của Lục đại phu, biến thái ngang dọc không gò bó thân, còn biết được trăng sáng theo người như có theo, mây trắng làm mưa cũng vô tâm. Thượng đường, Tăng hỏi: Chỗ đoạn ngôn ngữ bặt tư duy, làm sao bàn bạc? Sư: Giọt nước không thấm vào đá được. Tăng: Mổ không vào. Sư: Nếu ông kẹt vào miệng này làm sao? Tăng: Cũng phải hướng vào trong đó bàng thông tin tức này. Sư: Ông thử dung hợp nói một câu xem. Tăng: Thuyền theo trăng sáng sóng chuyển tâm, nhà ở hoa lau xem bến đò. Sư: Lại phải buông xuống toàn thân mới được. Tăng: Ngay lúc toàn thân buông xuống như thế thì như thế nào? Sư: Lúc sờ vào lỗ mũi, mới là chính ông. Sư nêu: Minh An tụng: Không đi trên đường tâm xứ, chớ ngồi ở công vô xứ, có không cả hai đều lìa, rộng lớn, trời đất rỗng không. Sư: Công huân tiêu tan, giai cấp hết, tôn quý không biết tên, oai nghiêm không được gần, con lùi một bước mà gần cha, bề tôi xoay người đến cung vua, ngay lúc ấy làm sao ? Máy chuyển bánh xe ngọc nghiêng, khéo hợp ngay nơi gió. Thượng đường nêu: Tiệm Nguyên một hôm đang ngồi trong trướng giấy có vị Tăng đến vén màn nói chào Thầy. Nguyên dùng mắt nhìn ông ta giây lát nói: Biết chăng? Tăng: Không biết. Nguyên: Việc trước bảy Phật, vì sao không biết? Sư kết luận: Sáng trong không tăm tối, kéo dài như tồn tại, là tướng đảnh hộ trì của ba đời Phật, là mạng căn truyền thừa của nhiều đời Tổ, lại làm sao biết? Biết chăng? Tổ phụ đầu xanh sợ ở vị, con cháu tóc bạc tối đi ở riêng. Thượng đường: Đạo khế hợp như như, chẳng phải có chẳng phải không, tónh lặng như thần ở nơi hang, ứng cũng như vật ở vật châu, rõ ràng không có chỗ trụ, soi không mất rỗng rang, cây gậy không hình mà hai người chống, Thanh Hoa sắp đến gương, Thâm Mật giữ ở Nguyên xu, cơ luân văn vẻ khéo cùng sơ, sắc trời rộng lớn trong veo, mùa Thu ôm lấy trăng tròn, tú lăng trùng điệp, mây cuốn núi gầy. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Tịnh Quả: Thế nào là tâm xưa nay? Quả: Tê Ngưu nhờ ngắm trăng mà vằn mọc sừng, voi bị sấm giật mình hoa vào ngà. Sư kết luận: Bất tức bất ly, chẳng lấy chẳng bỏ, tự Đông tự Tây, ai trên ai dưới, ngoằn ngoèo cũng thuận thế tục mất công, chợt ngay cũng phải chân thật không mượn. Hãy nói làm sao biết? Biết chăng? Trong hạt châu có lửa ông phải tin, không hướng bên trời hỏi mặt trời. Thượng đường nêu, Tăng hỏi Huyền Sa: Thế nào là tháp kẻ hở? Sa: Chỉ một kẻ hở lớn nhỏ này. Sư: Chỉ một kẻ hở lớn nhỏ này đầy đủ rõ ràng cho Lão hán ở tùng lâm, gật đầu lời nói dặn dò thỏng tay đầu lưỡi dối hay không dối, người người đặt bước đường Trường An. Thượng đường nêu, Vân Cư hỏi Tăng: Kinh ông đang xem là kinh gì? Tăng: Kinh Duy-ma-cật. Cư: Không hỏi kinh Duy-ma, kinh đang xem là kinh gì? Sư kết luận: Không hỏi kinh Duy-ma, đang xem là kinh gì? Đại thiên cuốn ra phá trần tình, vị muối trong nước, xanh keo trong sắc, trước máy có đường khéo hỏi tên vừa hình nói vật xa xôi, lại là hòn bùn đổi tròng mắt. Đông chí, thượng đường: Một mặt trời mọc vạn vật nẩy mầm, ẩn hiện có hình tượng, vắng vẻ không hình bóng, ruột con sò ngậm diệu uẩn, sừng tê giác sáng thông tới ngôi sao, dụng thầm kín, hạnh vi tế, bổn trí dung thông thầm hợp với lý, đất trống trâu trắng no béo phì, người ôm nón tơi, kéo cày ở núi tuyết. Thượng đường: Sáng nay ngày hai mươi lăm tháng chạp, Nạp tăng một khúc hòa Vân Môn, ai đem tiết tấu làm rối loạn Khổng Khiếu, không đến vết thương búa rìu, lưỡi không xương, mắt có gân, mới thấy tài năng của Lão tử Thiều Dương, vỗ vỗ nguyên lai tất cả là lệnh, lý minh la liễu la minh lăng. Thượng đường: Phật Phật thuyết pháp chỉ thành lá vàng cho trẻ thôi khóc, Tổ Tổ truyền tông lại là đấm vào hư không để dọa nhau, đến đây ắt phải tự nghỉ ngơi, tự ngộ, tự biết Phật là thân mình làm thành, pháp chẳng phải bất khả tư nghì trao cho mà được. Nếu có thể như thế, là bậc Hảo hán Đại trượng phu, là Nạp Tăng chân chính, một đại sự của mình, các huynh đệ lại làm sao được đi bình ổn, chỉ cần được tan tuyết tự nhiên mùa Xuân đến liền. Thượng đường nêu, Triệu Châu hỏi Tăng: Từng đến đây chưa? Tăng: Từng đến. Châu: Uống trà đi, lại hỏi Tăng, Tăng đáp chưa từng đến. Châu: Uống trà đi. Viện chủ hỏi: Từng đến bảo uống trà đi, không một lần đến vì sao cũng bảo uống trà đi? Châu gọi viện chủ, viện chủ đáp: Dạ. Châu bảo uống trà đi. Sau này Kính Thanh hỏi Tăng: Triệu Châu, uống trà đi, là gì? Tăng liền đi. Thanh nói: Hàm đan học đường bộ. Tuyết Đậu đưa lên nói: Vị Tăng kia không phải là người Hàm Đan vì sao học đường bộ? Sư nói: Uống trà đi, uống trà đi, rõ ràng chỉ người không nói khác, gia phong bát ngát không có cơ quan, ai nói Triệu Châu lừa viện chủ, khổ khổ, đến Hàm Đan học đường bộ, vừa vặn đi trên đường Trường An, rõ ràng có mắt như trời mù. Kính Thanh nói Hàm Đan học đường bộ, Tuyết Đậu nói Tăng nói không phải là người Hàm Đan vì sao học đường bộ? Lại biết chăng? Đăng Cơ thì mất, khi địch là chết. Ngày Tết thượng đường: Sáng Tết tọa thiền vạn sự tự nhiên, tâm tâm dứt đối đãi, Phật Phật hiện tiền, tuyết trên sông rất trong sạch, Tạ Lang vừa lòng thuyền câu cá. Thượng đường: Muôn cây tiều tụy, điều này không tàn rụng ba Xuân phô bày tươi tốt, điều này không thay đổi. Ở trước trời đất, ở sau các duyên, ngoại ma nhiễu loạn dồn dập cùng đồng sự, khắp cả trong đó mà có dư, Phật tổ sỉ sỉ hòa hòa cùng đồng thân, ở nơi trong đó lặng lẽ mà không làm, ông động cũng là ta tự yên tónh, ông yên lặng cũng là ta tự làm, muốn giống mà không được giống, muốn khác mà không được khác, thế thì ngọn nguồn ẩn hiện, làm sao biện biệt? Biết chăng? Không hỏi tạo hóa ai nắm cán, hướng đến nhân duyên ta thấy gốc. Thượng đường nêu, Tử Hồ thấy Lưu Thiết Ma đến liền hỏi: Ông chẳng phải là Lưu Thiết Ma chăng? Ma: Không dám. Hồ: Xoay bên trái, xoay bên phải. Ma: Hòa thượng chớ điên đảo Hồ bèn đánh. Sư kết luận: Thấy đó không lấy, nghó đến ngàn dặm, Lưu Thiết Ma hoàn toàn không thể thấy cơ mà biến, Tử Hồ bèn ỷ thế khinh khi người. Hãy nói, việc trong đó thế nào? Chẳng phải là đuổi trâu cày ruộng đoạt lấy thức ăn của người đói sao? Quả là chẳng phải như thế, ông nói sao biết? Có biết cho chăng? Không nghe nói: Vô sự lên núi đi một vòng, lúc mượn để hỏi người biết không? Hoà thượng Hồng Phước Thông vào chùa thượng đường, tăng hỏi: Lúc chánh không lập huyền, thiên không phụ vật thì như thế nào? Sư: Kim vàng đủ hai lỗ, hợp đường ẩn tất cả. Tăng: Ngoài vật chỉ cởi voi đi ngàn dặm, đánh chuông vàng dưới gốc tùng vạn năm. Sư: Lại phải bước qua một bước mười phương có thể hiện thân. Tăng: Lúc tay chỉ hư không trời đất chuyển quay đường về ngựa đá ra khỏi lồng lụa mỏng. Sư: Siêu phương là vật bỏ. Sư bèn nói trăng hoa lau trông bốn hướng liền nhau, xoay mình trên người hợp cùng thuyền, mượn công tự có việc băng tham, rõ ràng đầu máy xem chánh thiên. Cho nên nói: Thiên không phụ vật ,chánh không lập huyền, nếu hành vi như thế thì hoa mầu Bồ-đề trang nghiêm khắp, tuỳ theo chỗ ở thường an lạc. Thượng đường nêu, Động Sơn hỏi Ẩn Sơn. Sơn: Thế nào là chủ trong chủ? Ẩn sơn: Suốt năm không ra khỏi cửa. Động Sơn: Thế nào là khách trong chủ? Ẩn sơn: Núi xanh che mây trắng. Động Sơn: Khánh chủ cách nhau bao nhiêu? Ẩn sơn: Sóng trên sông Trường giang. Động Sơn: Khách chủ gặp nhau nói gì? Ẩn sơn: Gió mát phẩy qua trăng sáng. Sư kết luận: Tịnh không liên quan gì với duyên, chiếu không đối vật, dụng không có tướng đến đi, lẫn lộn không có tâm mình và người. Nếu có thể như thế, vững vàng tinh xảo. Lại biết chăng? Việc uyển chuyễn hư huyền không rõ rệt, sáng tối chỉ đầy đủ ở trong bóng. Tiển hóa chủ thượng đường: Mây vô tâm thành mưa ở nơi nào, một hữu vị là hoa nhà ai, một bát ở thượng chia được cơm, trở về một mùi thơm tỏ khắp thành tỳ da. Phải là nhân duyên hợp nhau, cơ cảm cũng hợp nhau ngay lúc ấy làm sao thực hiện? Một ánh trăng hiện khắp tất cả sông, trăng trong tất cả sông được nhíp trong một trăng. Đến Kiết tường thượng đường, tăng hỏi: Lắng nguồn nước trong, còn mái chèo chiếc thuyền côi, quay đầu thuyền, đi đến chỗ nào. Sư nói : Trăng sáng soi xuống không gian lạnh, trời xanh không có chim bay. Tăng: Như thế thì rửa chân lên thuyền đi. Sư: Đến nhà, một câu làm sao nói? Tăng: Chờ đến hang núi linh lung thì nói cho Hoà Thượng nghe. Sư: Còn ngăn cách nơi bến sông. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Làn khói nhẹ là nhà nạp Tăng, biết vật đón Xuân khí tượng đẹp, dòng nước lưu lạc hoa không, hạn ý, dạo núi, tin tức trao Trường Sa. Nhớ lại một hôm ở Trường Sa dạo núi trở về Thủ tòa hỏi: Đi đâu về? Sa: Dạo núi về Tòa: Đến chỗ nào? Sa: Trước theo cỏi thơm đi lại theo hoa rơi về. Tòa: Rất giống ý Xuân. Sa: Cũng hơn mùa thu giọt sương đọng trên hoa sen. Sư kết luận: Thân tâm nhất như, vật và ta đồng một thể, không cần chuyển sơn hà đại địa về mình, cũng không cần đem mình làm sơn hà đại địa. Như hạt châu phát ra ánh sáng, ánh sáng lại tự soi, tất cả thời tất cả chỗ làm sao được thấy thành thọ dụng? Biết chăng? Nhàn đỉnh núi dáng nương vào cạnh núi cao, muôn ngọn sáng âm thanh trở về hết trên biển. Thượng đường dạy chúng nêu, có tăng hỏi Tịnh quả: Thế nào là bản sinh cha mẹ? Quả: Đầu không bạc Tăng: Lấy gì phụng hiến? Quả: Ân cần không gạo cơm, trước nhà không hỏi cha mẹ. Sư kết luận: Đời mộng ngăn kiếp bình rộng, người nào lùi bước xem bên trong gấu biến vằn mà sương mù nặng, rồng không nằm mà đầu lạnh muốn khiến cho hai mặt mọi người lạnh, cần phải rõ khô đầu lâu trước. Xương Quốc Quy, thượng đường: Cá côn cá kình vẫy trong sóng ra làm thanh du. Rồng voi trong hang trở về yến tọa. Hiện tiền dụng cũng mênh mông ngăn ngại gì, bên trong đều nêu lên, cũng không, không có lời nói, lại làm sao được như thế, tự phải không quay về liền được, khói sóng Ngũ Hồ có ai tranh. Thượng đường: Hoa đào trong sóng chấn động vẫy cá dài, vừa nhẫy qua cửa rồng xem hóa thân, biết chắc rõ việc mười phương ba đời Phật, vô thỉ đích đích Xuân của mình. Dạy chúng nêu, Bàng cư só hỏi Mã Tổ: Không làm bạn lữ với vạn pháp là ai? Mã tổ: Chờ một miệng ông hút hết nước Tây Giang thì nói cho ông nghe. Sư kết luận: Hút hết nước Tây Giang nói cho ông nghe, gia phong của Mã Sư không qua loa, cắt dòng nước một mái chèo tan khói lạnh, trời nước cùng mà thu trong xa tít. Ngày giỗ của Hoà Thượng Đại Hồng Thượng đường nêu, ngày giỗ Mã Tổ Nam tuyền quải chân thắp hương, hỏi đại chúng rằng: hôm nay cúng dường Tiên sư lại đến chăng? Lúc ấy Động Sơn bước ra nói: Đợi có bạn liền đến. Tuyền: Tuy là hậu sinh nhưng có thể chạm trỗ mài dũa. Động Sơn: Hoà Thượng không đè ép người tốt làm kẻ hèn. Sư kết luận: Khách mây trắng trong vị bạn núi xanh, mượn công để xem trao đổi lẫn nhau, hợp mâm không đáy, qua tay đánh bát, xuyên tâm cơm khắp người. Thượng Đường: Mây Xuân nhẹ nhàng bay, mưa Xuân tỏ khắp, hoa nỡ miệng cười liễu nhúm này, ngã tử yến, nhấm vàng anh, trong rừng thanh sắc có đường rẽ, lỗ mũi gia phong chạm vào nhau, không riêng Quán Âm Đại Só biết. Thượng đường nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: lúc vua cầu tiên Đà-bà thì như thế nào? Châu Khúc đích thân bắt chéo tay. Tuyết Đậu đưa lên nói: tìm muối cho ngựa. Sư kết luận: Tuyết Đậu 100 năm trước làm nhà, Triệu Châu 120 tuổi Cổ Phật, Triệu Châu nếu phải Tuyết Đậu thì không phải, Tuyết Đậu nếu phải Triệu Châu thì không phải. Hãy nói: Cuối cùng như thế nào? Thiên Đồng không tránh khỏi xuống cước chú, sai một mảy may, mất một ngàn dặm, biết thì đập cỏ làm rắn kinh sợ, không biết thì đốt tiền dẫn quỹ, ruộng hoang không chọn lão Câu-chi, chỉ hôm nay đưa thư thay đến. Dạy chúng nêu, Trường Khánh có lúc nói: Thà nói A-la-hán có ba độc chớ không thể nói Như Lai có hai lời, không nói không nói năng chỉ là không có hai lời. Bảo Phước hỏi: Thế nào là lời nói của Như Lai? Khánh: Người điếc sao nghe được. Phước: Sớm biết hướng đến đầâu thứ hai của ông nói. Khánh: Thế nào là lời nói của Như Lai? Phước: Uống trà đi. Sư kết luận: Đầu thứ nhất, thứ hai dường như có, dường như không có câu, tiệt đoạn đường rẽ, miên mật mà không thông giọt nước sông, đập bể hố cối giã, bằng phẳng mênh mông mà chỉ là phong quy, lại biết chăng? Quen nhau khắp thiên hạ biết lòng được mấy người. Thượng Đường: Khách trong chủ, chủ trong khách,hợp nhau quay đầu xem bên trong, trăng sáng tròn trặn đến nửa đêm, Côn Luân ôm lấy cây san hô. Thượng đường: Nước không rửa sạch nước, vàng không lấy vàng, mắt không lấy mắt, tâm không dụng tâm, có thể như thế, thì không rơi vào căn trần thức, như thế liên quan quá khứ hịên tại, và vị lại trong mê chợt gặp Đạt Ma, đâu từng có chủ ý làm tòng lâm. Kiết hạ thượng đường: Ta ở ông cũng ở, ta đi ông cũng đi, kết chế thuận theo chư Phật, cấm túc hộ mạng chúng sinh, khoá vàng không tua động hai đầu, linh tê có vừng chính giữa sáng, trâu bùn vào biển đang nửa đêm, gà gỗ gáy trăng xen năm canh, mây dựa núi là cha con, mắt buộc mày là anh em ba đời đồng tham, thành một việc hợp tông gia, đại thiên các lượng phá vi trần, xuất kinh của mình, rừng ngọc quỳnh từng tấc đều quý, chiên-đàn từng mảnh đều thơm, tất cả vạn vật có rất nhiều sự ngang nhau, tâm tâm pháp pháp không có một ngôi sao, từ ngoài đến, lau lau đánh đánh túi da ngu si. Quì quặt thiếu thốn thường chẳng khinh, không phải không trái luôn im lặng chẳng phải phàm chẳng phải Thánh chỉ sáng suốt, làm sao thực hiện được tương ứng như thế? Ngồi dựa bồ đoàn không việc khác, trọn ngày lặng lẽ cảm tạ thái bình. Dạy chúng nêu: Tăng hỏi Thanh Bình: Thế nào là hữu lậu? Bình: Cái vợt bằng tre. Tăng: Thế nào là vô lậu? Bình: Cái thìa bằng gỗ. Tăng: Thế nào là tiểu thừa? Bình: Cái dây xâu tiền. Tăng: Thế nào là đại thừa. Bình: Dây bên giếng. Sư kết luận: Cái vợt bằng tre, thìa gỗ, dây xâu tiền, dây giếng hiện thành thọ dụng, gia phong rộng lớn yên tónh, sinh nhai buông được duyên xem thư, phật pháp lại kẹt ở chỗ nào? Không cần sắp xếp chỉ theo như thế tự nhiên tâm địa thường an lạc. Thượng đường: lặng lẽ luôn hợp thời tiết, đèn đèn không dứt ánh sáng, giữa đó đặt chân đều không đất, nhìn tận đáy rỗng của bình ngọc… Thượng Đường Tăng hỏi: Thế nào là đại công nhât sắc? Sư: Toàn toàn vượt lên không vết tích, không rơi vào bộ máy cổ kim. Tăng: Thế nào là một sắc trước chánh vi? Sư: Thượng bình đẳng với mười phương pháp, ở tất cả chỗ có thể trang nghiêm. Tăng: Vạn tượng sum la đồng một ấn toàn thân khắp cõi hiển lộ đường đường. Sư: Thật như thế nào thì được. Sư bèn nêu: Cảnh Thanh hỏi Tào Sơn: Tâm thẳng mẹ rêu là thế nào? Sơn: Người khó đắc đạo. Thanh: Đi đến chỗ nào? Sơn: Chỉ thấy rêu mọc, không biết đi chỗ nào. Sư kết luận: Trong câu biết tông thì dễ, trong tông phân biệt thì khó, cũng cần phải đến thời tiết này mới được. Sắc chuyễn không thấy thân, công không biết vị, rất thương thợ mộc cùng đẻo bùn, không phạm vào mũi ba thước của Tổ Sư, sau khi con cháu đi ai cùng giữ thanh bần, khi quan dân đều lui, riêng mình khó xưng tôn quý. Thượng đường: Bình thường xoa bóp, ngay trước mặt lại kiêng kî, đáng thương Phó Đại Só mất lầu các khắp nơi. Thượng đường: Thầm lặng mà linh diệu không liên quan đến dấu vết, liên tục sử dụng, nên không theo gốc rễ hạt châu trong mâm phỉ thúy, không động tự xoay, ảnh trong gương pha lê không nhận mà đến. Nếu có thể như thế cũng đều khéo hợp ngọc đái, Uyển chuyển thiên viên đều đến chỗ không nghó bàn, lại làm sao biết? Quả mãn bồ-đề tròn đủ, hoa nở thế giới hiện. Dạy chúng nêu, tăng hỏi Phong Huyệt: tất cả Chư Phật và pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều từ kinh này mà ra, thế nào là kinh này? Huyệt: Nói khẻ. Tăng: Làm sao thọ trì? Huyệt: Không nhiễm ô Sư kết luận: Đến hỏi kinh này, nói khẽ đại thiên cuộn lại từ trong vi trần ra, ba đời chư Phật từ trong miệng sinh, trời được một trong, đất được một yên ổn, hư không không nương tựa, hang không đầy đủ, ma- ha bát-nhã ba-la-mật, mặt trời lặn ngư phũ, tiều phu ca thái bình. Đầu thùng nạp sớ thónh thượng đường nêu, Tăng hỏi Vân Môn: thế nào là trần trần tam muội? Môn: Cơm trong bát, nước trong thùng. Sư kết: Trần trần tam muội, bó bó không ngoài, ngàn đónh núi nhỏ đều hướng đến tòa núi cao, trăm sông đổ về biển , lại không có một pháp nào chẳêng phải Như Lai, chỉ đường đường quán tự tại nay. Thượng đường: Trăm thành đều dạo khắp lại đến Văn-thù không thấy thân mình, chỉ sờ đỉnh mình các vị có biết cho chăng? Lão nhãn đến xem ngọn núi xanh hài rách đi đến gỗ mây trắng. Giải hạ, Thượng đường nêu, Động Sơn dạy chúng: Đầu mùa Thu cuối mùa Hạ, anh em kẻ Đông người Tây ắt phải đi đến chỗ xa vạn dặm không một tấc cỏ, đã không Đông không Tây vì sao cần đi đến chổ xa vạn dặm không một tấc cỏ? Lại biết chăng? Đi mà không đi cùng gió ngàn dặm, trụ mà không trụ, một niệm vạn năm, như thế cũng trụ mà không có công trụ, đi mà không có tướng đi, hang rỗng có thần , yên tónh mà ứng, mây đơn côi vô tâm, động cũng an nhàn. Cho nên nói: Thân Phật đầy đủ khắp pháp giới hiện khắp trước tất cả quần sinh, tuỳ duyên đến cảm ứng đều cùng khắp, mà thường ngồi ở tòa bồ-đề này làm sao được vững vàng kín đáo như thế? Thiên Chánh không từng lìa bản vị, vô sinh nào liên quan lời nói nhân duyên. Tống Giám Thâu, thượng đường: Địa Tạng trồng ruộng được nhiều cơm, Nam Tuyền mua lưỡi liềm cắt lúa, Lục Tổ mang đá giã gạo rõ rành rành, trâu vàng bưng bát cười ha ha, hiện thành thọ dụng, phân hiểu đến chăng? Người xưa được no như thế tham việc giết, các ông chớ sợ nhiều đắng cay. Thượng đường: Khó, khó, khó việc sai khiến tình khó, tình đều tròn sáng một hạt lạnh, Đại Pháp Nhãn không lừa dối nhau, trước mặt không phá trở ngại đè núi ngang nơi đó không có bến biết sóng khô. Khai lò, thượng đường: Cây có lữa hại thân, người có lữa hại thần, cây không lữa không sống, người không có lữa không thành, đất, lữa, gió cũng lại như vậy, bốn đại châu biến đồng pháp giới, mỗi mỗi châu biến khắp không chướng ngại, chỉ là lúc châu biến khắp không chướng ngại, tự nhiên không hoại, không thể không hoại, hành vi như thế nào? Được thời tiết nay, biết chăng? Một hạt lúa ở ruộng hoang, không làm cỏ, tự nhiên nảy mầm. Sa-di thỉnh, thượng đường nêu, Tăng hỏi Nhượng Hoà thượng: Như gương đúc tượng, sau khi tượng đúc xong ánh sáng về chỗ nào? Nhượng: Như lúc Đại đức làm đồng tử, tướng trạng đi đến chỗ nào? Sư kết: Chỉ là liền đúng, chẳng phải tượng chẳng phải gương, ai chủ ai khách, gì là thiên, gì là chánh, kẻ hở chẳng phải ta khinh cái vồ không lỗ, chuy thù chằng phải ta định cân không cỏ hoa cân, chợt đưa gậy lên làm thế khuấy lên nói: Hãy tạm đem cây gậy nay khuấy biển xanh, khiến cho cá rồng ở biển kia biết nước là mạng sống. Thượng đường: Phải biết gió động tâm lay động cây, quả thấy mây sinh tánh khởi vi trần, mưa dầm chừ mặt trời chói lọi, gật đầu Di-lặc biết phân thân, trong thân ra cổng Di-lặc thế tôn, trong cổng ra thân Quán Âm Đại só, nhập lưu quên chỗ, có thể đi như thế, tuỳ lúc dạy người cũng có thể đến như thế, hành vi của các vị lại được chỗ kết quả của bậc hảo hán làm, đầu gường hữu ích cái kéo bén, trong ồn ào mất cơ túi da đần độn. Thượng đường: Bình ngọc chạm chân chung quanh rộng lớn, khéo ở trong đó xoay nghiêng xem, nhìn gương công quên lỗ mũi thẳng, mồ hôi chảy biết tất cả đâu lâu khô, mà còn là thời tiết gì? Ban đêm chắn ngang Hoàng hà sáng toả, sương rửa sao bắc đẩu lạnh. Bằêng Thị lang thỉnh thượng đường, Tăng hỏi: Khi một sợi tơ không cách thì như thế nào? Sư: Hợp cùng thuyền đi song song Tăng: Việc trong đó thế nào? Sư: Dao búa bén bổ không vào Tăng: Thế nào là câu xác thực gặp nhau? Sư: Màu trắng hoà cùng mây trắng, sắc trời mang lấy nước mùa Thu. Tăng: Thế thì Lý tướng quốc tham yết Dược Sơn lại còn gốc ngọn không? Sư: Người lỗ mãng lại đi như thế. Tăng: Dạ, dạ. Sư: Người Hàm đan học Đường bộ. Sư mới nói: Thôi đi dừng đi, dứt nói năng, dứt suy nghó, rộng lớn không chỗ tựa, kỳ diệu không chỗ trụ, chuyễn cỏ rõ ràng, vận bước liên tục, thần du phương ngoài linh đài, đạo khế hợp chỗ rỗng không trong vòng, đếùn như thế vậy giấu mình mây trắng nhà ngoài mây, như thế mà về chạm chân núi xanh đường dưới núi, uyển chuyển cùng, thông, bàng tham dung hợp, 100% thu được trở về hương hồn, cùng môït loạt đến đánh vào trống độc, bằng lòng tiếp xúc hơi rắn chết, muốn vuốt râu mãnh hổ, lại mượn công không bàn bạc mà ăn khớp với nhau, cây khô rồng ngâm mà nổi mây, báo Nam Sơn biến đổi mà đội sương mù, buộc vào ống xuân, ảnh rọi vào cửa sáng, trăm ức dáng bên ngoài chia ba ngàn thể lộ,đại kinh được rút ra ở trong vi trần, cổ Phật gặp nhau ở cây cột, trải qua nhiều đời Chư Tổ, chỉ sinh sống ở đây, tất cả chúng sinh đồng thời diệt độ, đại dụng lửa đá chậm, toàn cơ điện quang nhanh, só só hòa hòa vậy. Hỏi như cắt, đáp như rọc, ầm ầm soang soảng vậy. Hét như sấm nổ, đánh gậy như mưa, Phật Động Sơn đối ba cân mè, áo vải của Triệu Châu nặng bảy cân, nói lửa không phải ta đốt môi, nói nước không phải ta thấm ướt khố, không phải không trái, quy gì củ gì? Cây gậy có thể đem đến, túi bát dặn dò lúc đó. Thượng đường: Không đối không đãi có kèm có mang, vật cơ rõ ràng, nhãn giới rỗng không, cột nối tiếp nhau chừ mũi tên, vừa vặn tương ứng chừ bao trùm, biển lớn chứa trong sợi lông, Diệu phong thu vào trong hạt cải, người không thấy hữu dư của mình, ta mới biết không ngoài mình, soi sáng khắp thế gian hẹn cùng tham, Bổ-đạt-lạc-già Quán Tự Tại. Dạy chúng nêu, Kính Thanh hỏi Tào Sơn: Lý trong sáng rỗng rang khi rốt ráo không thân thì như thế nào? Sơn: Lý thì như vậy, sự lại thế nào? Sư: Trí không khắp nơi, uyển chuyễn cùng thông. Thanh: Như lý như sự. Sư: Tế trong thô, thô trong tế. Sơn: Lừa dối Tào Sơn một người thì được làm gì được mắt của các thán. Sư: Chân không che nguî, cong không giấu ngay. Thanh: Nếu không có mắt của các Thánh làm sao biết không như thế? Sư: Biết lỗi mà sữa lỗi, biết sai mà trở lại. Sơn: Quan không cho kim, tư thông xe ngựa. Sư: Cưỡi trâu đội mũi mặc áo lót mang giày, hiểu, làm không chạm đến con đường thời nay. Thượng đường: Kiếp trước vận bước, ngang thân ngoài đời, thật chứng không thể dùng ý mà được, ngay lúc ấy, rỗng rang thanh tịnh giữ lại chút không khí, mây trắng đoạn ở núi lạnh, điểm linh quang phá tối tăm, trăng sáng theo thuyền đêm mà đến. Cho nên nói: ngay trong sáng có tối, chẳng do bóng tối gặp nhau,ngay trong tối có ánh sáng, không do ánh sáng mà thấy nhau. Hãy nói: Hành vì thế nào? Thiên chánh không từng lìa bản vị, vô sinh liên quan tới nhân duyên lời nói. Thượng đường tăng hỏi: Khi tuyết phủ ngàn đỉnh núi thì như thế nào? Sư: Giọt nước giọt băng. Tăng: Ánh sáng trong lạnh chiếu mắt, màu sắc hoang dã mênh mông làm mê mờ nhà.Sư: Trâu trắng nơi đất trống đi đâu?Tăng: Ở đây. Sư: Lại từ sừng đầu sanh ra. Tăng: Rốt cuộc đi đâu? Sư: Nơi chốn khi chuyển thân, núi côi vốn không trắng. Dư lại nói: Lặng lẽ chìm chìm, sáng sủa mênh mông. Tuyết khắp mười phương, mây mờ bốn hướng. Một sắc trong ảnh là ai ngồi lấy công huân, đầu gậy trăm thước ai khắp thông mánh lới. Lúc như thế phải phân biệt những nhỏ nhặt, nơi như thế phải sáng tỏ đích đáng. Đuổi không đi con trâu trắng nơi đất trống. Thấu qua được hương tượng qua sông. Nhìn tận nguồn gốc nó như chỉ tay, như thế bỏ hết, không có pháp có thể truyền, như thế chẳng đến, có ai cùng thanh cao. Thượng đường: Ba đời chư Phật không biết có, đao đao đát đát nêu cái xấu của nhà. Đày tớ cáo, bò đực trắng chẳng biết có, què quặt thiếu thốn có thể tự giữ gìn. Đùa mũi con ba ba chừ nhớ Nam Sơn, xuyên qua pháp thân chừ giấu bắc đẩu. Gió thổi cây mai đầu núi tuyết trắng, xuân cầm tơ vàng lên cành liễu. Thiên Đồng cũng muốn không thấm môi, ba chén rượu nguồn trong nhà thanh bạch, mọi người nếu kiểm điểm ra được, sớm biết việc hôm nay, hối hận cẩn thận lúc ban đầu, nếu buông một sợi dây nói do gió thổi lửa, dùng sức không nhiều. Dạy chúng nêu: Vân Cư hỏi Triệu châu: Anh cả sao không tìm một chỗ trụ? Châu: Kêu tôi đi đâu ở? Cư: Trước núi có nền chùa cổ. Châu: Hòa thượng sao không tự ở? Sư: Ông ở như thế, ta cũng ở như thế, làm nghề tương tự nghèo hợp nhau lại. Mười phương không vách, bốn mặt không cửa. Không áo che chỗ xấu, không bông chống lạnh, ngay đây không chiếm công, trong cái thấy chỗ chuyển, hái hoa ong tập họp cành không nảy mầm, trăng rằm chim ở cây không bóng Lấy hoa ong tụ tập cành không mầm, trăng nằm chim đậu cây không bông. Thượng đường: Ba tấc lưỡi, hai tấm môi, thời vô thó đến tìm giết người, biết làm không dạy khuê lộ rừng, ai tham kiến Vân Môn. Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là việc thuộc về nạp y? Lâm: Tháng chạp lửa đốt núi. Sư nói: Ông già tùng lâm thích nói thiền, không đem thiền chống bên da miệng, hang sâu núi xa trống rỗng không hình tượng, chỗ nào người gọi ứng không đầy đủ. Ngày tết thượng đường tăng hỏi: nóng lạnh giao nhau, mới cũ dời đổi, làm sao nói đạo lý nay không đổi dời? Sư: Đêm qua còn là tháng chạp, ngày nay lại gặp mùa Xuân. Tăng: Như thế thì dời đi. Sư: Kẻ ngu bị gì mà chết gấp. Tăng: Cũng cần mọi người biết có. Sư: Việc biết có là thế nào? Tăng: Vàng ròng liễu trên bờ đê, tuyết trắng mai trên đónh núi. Sư: Cũng phải là trong mắt có gân mới được. Sư lại nói: Cả đầu tóc bạc mấy phần hồi Xuân mới tin thân nhàn rỗi giống như người ngu si, ngay nơi đó nói giáo vững vàng yên ổn. Lại đem pháp gì làm căn trần, pháp không căn trần, tâm không ủng hộ hay chống đối, đạo khế hợp tự nhiên, đạo khế hợp tự nhiên vậy, mỗi ngày đều là ngày tốt, mỗi năm đều là năm tốt, thước dao của chúa Xuân cắt cây hoa, trao cho quá đầu gậy thiền. Thượng đường: Ba cõi không có pháp, tìm tâm chỗ nào? Gió nỗi hổ gầm,sương mù nổi rồng ngân,trong bùn có chân, trong tơ tằm có kim, hoa chim cánh tường gọi nhau gì, mười phần việc Xuân đến gia lâm. Dạy chúng nêu, Định Thượng Tọa hỏi Lâm Tế: Thế nào là đại ý phật pháp? Tế bước xuống giường thuyền thộp lấy định tát một cái bèn buông ra. Định đứng mãi. Tăng bên cạnh hỏi: Định Thượng tọa sao không lễ bái? Định mới lễ bái bỗng nhiên đại ngộ. Sư nói: Không rơi vào trước sau, chỉ vượt qua cổ kim, gọi quay về giấc mộng ngàn năm, loài chim bay ra khỏi chín tầng cao không dừng đậu. Chớ nghi ngờ, chỉ hư không này giống nhau với tâm, ngay nơi đó ánh sáng của một cái vồ bắn toé ra , cắt viên đạn mới xuất hiện lò vàng. Tiễn hóa chủ thượng đường: Tiếng vang trong hang núi, ảnh trong gương nước, tâm trong mây trắng, lượng trong thái hư, ứng cơ cũng chợt co chợt duỗi, theo lệnh cũng giữ tất cả bỏ tất cả, ba ngàn thế giới, ông lôi kéo để leo lên, trăm ức phân thân mánh khoé của ông, gió thổi làm thuyền không rẽ sóng, cho nhận thông đồng tướng vô trụ, một lời tiễn nhau biết hay không biết, ngàn tăng ở trong bát của ông. Thượng đường nêu, Dược Sơn đã lâu không thăng đường, viện chủ bạch rằng: Đại chúng đã lâu muốn được chỉ dạy xin Hoà thượng thuyết pháp cho đại chúng nghe. Sơn cho phép đánh trống, chúng mới vân tập, Sơn thăng hoà, giây lâu thì trở về phương trượng. Viện chủ hỏi: Hoà thượng vừa đến hứa thuyết pháp cho chúng nghe, sao không chỉ dạy một lời? Sơn: Kinh có kinh sư, luận có luận sư, sao lại trách lão tăng? Sư kết luận: Gia pháp đơn giản nghiêm khắc chẳng phải hai chẳng phải ba, trăng đến biết nước trong, mây tan lộ núi lạnh, chân cơ tự đắc, chỗ hay ai tham, không phải sau khi Văn-thù bạch chùy, cũng phải ngàn xưa khuất phục Cù-đàm. Ngày mùng tám tháng tư, thượng đường: tánh nước rỗng không, trong sạch, ánh sáng pháp giới thân, mù mờ chỗ hiện bạch. Chính là người đản sinh, không tắm thân không rửa sạch bụi, khéo tiếp xúc tuyên rõ ngộ nhận nước, xin hỏi năm ấy do việc mà đi, vì sao hôm nay lại đến gần gủi? Giờ này hai ngàn năm trước, chỉ trời chỉ đất Sư tử hống, Vân Môn ở trong loạn lạc nhớ thái bình, đập giết không trở ngại nuôi chó đói, chỉ Đông nói Tây, lấy không làm có, nước dội ông, ông không giận, mà nay xem ông nhận thế nào? Phật dạy: Không thọ các thọ, ấy gọi là chánh thọ. Nếu như thế thì một giọt nước nhỏ không rơi vào chỗ khác. Dạy chúng nêu, Tăng hỏi Triệu Châu: Con mới vào tòng lâm xin thầy chỉ dạy. Châu: Ăn cháo chưa? Tăng: Ăn cháo rồi. Châu: Rửa bát đi. Tăng hoát nhiên đại ngộ. Sư kết luận: Ăn cháo rồi, rửa bát đi, pháp viên thành đúng quy cũ như vậy, đáng thương họ Diệp sợ rồng thật, lại trách Tạ lang bắt nạt mãnh hổ, tăng nay lại hỏi làm sao ngộ, xưa nay lỗ mũi đầu lớn thõng xuống, không cân sắp xếp tự biết rõ xứ sở. Thượng đường: Nói thì mất chân thật, lìa tướng danh tự, biết thì trái ngược với ngu, là tướng tâm duyên. Có thì trái ngược với tánh lìa tướng ảnh tượng, không thì tổn thương thân, lìa tướng tịch diệt, nói năng như thế rất giống như rửa cục đất trong bùn, nhà nạp tăng cuối cùng làm sao? có biết cho chăng? Với các cần câu vừa rút lên theo lưỡi câu, mặt nước mênh mông tan trăng sáng. Hóa chủ Cán Liêm thỉnh thượng đường nêu, Trung Quốc sư hỏi Tử Lân cung phụng giảng được luận Duy thức không? Lân đáp: Không dám. Quốc sư: Ý chỉ của duy thức như thế nào? Lân: Ba cõi do tâm, vạn pháp do thức. Quốc sư chỉ bức rèm hỏi: đây là gì? Lân: Bức rèm. Quốc sư: Trước bức rèm ban cho tử y, đối vua nói kinh, năm giới cũng không giữ. Sư kết luận: Một việc nay xác thực rõ ràng lại còn Trung Quốc sư khác mới được, tâm không khác tâm mà pháp không khác pháp, pháp không khác pháp mà tâm không khác tâm, nơi nơi đều rỗng rang thông suốât, biết có sáu cửa sổ gió trăng, tất cả ra trở ngại lại không có một chút bụi bặm. Dạy chúng nêu, có lần Bảo Phước dạo núi với Trường Khánh, Bảo Phước chỉ đất trước mặt nói: Chỉ trong đó liền đúng núi đẹp đỉnh đơn côi. Khánh: Đúng thì đúng nhưng rất đáng tiếc. Tuyết Đậu nói: Ngày nay cùng dạo núi với lão hán nay mưu tính cái gì? Sau đó nêu lên Kính Thanh. Thanh nói: Nếu chẳng phải là tôn công thì thấy đầu lâu khắp đồng. Sư kết luận: Biến đại địa thành vàng ròng, khuấy sông dài làm sửa tô lạc Bảo Phước phải như thế, không có gió đâu cần nổi sóng, đất bằng đâu chịu nổi gò, Trường Khánh phải như thế, ý Tuyết Đậu khắc bài minh trên đảnh chuông, Kính Thanh nói thái bình không có hình tượng, lại làm sao biết? Dã Lão không biết sức của vua Nghiêu, Thuấn, đánh trống tùng tùng tế thần sông. Dạy chúng nêu, Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn từ đâu đến, Ngưỡng Sơn đáp: Từ trong ruộng đến. Quy sơn: Trong ruộng có bao nhiên người? Ngưỡng Sơn cắm cây cuốc xuống, bắt tréo tay mà đứng. Quy Sơn nói: Nam Sơn phần lớn có người cắt cỏ tranh. Ngưỡng Sơn đưa cuốc lên liền đi. Sư kết luận: Ngưỡng Sơn làm như thế ngay nơi đó lại không có điều khác. Quy Sơn nói như thế trong đây giống như đưa người khác đến. Hãy nói cuối cùng như thế nào? Ân cần tạ tự thâu can đảm, uốn lượn lại là ruột phổi của lão khác. Tiễn Giám chủ, thượng đường: Bùn bùn nước nước suốt năm làm nghề nông, thu nhặt đem đến trong cối giã, thổi cơm thơm dẻo chia ngàn bát, bụng được no hết mệt mỏi. Hãy nói: Được no là thiền hay là cơm? Lại thế nào? Nói đạo lý hết mệt mỏi rã rời nay, há không nghe Dược Sơn nói què quặt thiếu thốn, trăm xấu xí, ngàn vụng về lại qua thời như thế cuối cùng được lực ân huệ của ai? Bốn phương tám hướng liên tục đánh nhau, ban đầu ứng khắp không sót hạt. Dạy chúng nêu, Động Sơn nói: Đầu Thu cuối Hạ anh em hoặc Đông Tây, ắt phải đi vạn dặm đến chỗ không một tấc cỏ, các người có biết chăng? Cùng một màu là phải chuyễn đại công không phải ta chiếm, hạt châu chạy trên mâm ngọc bích, mâm lăn châu lập tức biển xanh nhận trăng sáng, nhà ta tự có đầy tớ Côn lôn. Hãy nói: Hành vi như thế nào? Bầu trời rộng thoáng, mây cuốn mưa, khe suối chứa nước trong suốt ôm lấy mùa Thu. Giải hạ, thượng đường tăng hỏi: Lúc mở đầu túi vải thì như thế nào? lầu? Sư: Mặc cho lấp rãnh nước, bít khe núi. Tăng: Một mảnh trăng xuất hiện trên biển, có mấy gia nhân lên Sư: Lại phải bước một bước nữa mới được. Tăng: Cho dù sáng sớm đến Tây Thiên tối trở về nước Đại Đường, cũng phải là người dưới gót chân không chấm đất. Sư: Thượng Tọa làm sao tránh khỏi lỗi này? Tăng lễ bái. Sư: Ngàn dặm trông về quê hương. Sư bèn nói: Trước ngày 15 vừa vặn nắm chắt, đè trán ông đụng xuống đất, sau ngày 15 tạm thời cho phép đi qua, lỗ mũi của y chọc trời mãi tha cho trẻ sờ mó cột gậy, khám phá Tổ các phương, làm sao giống người truyền giữ túi bát, hoa năm cánh liên kết nhau, nói năng như thế chính là việc trước 15 lại làm sao? giây lát nói: Sắc rừng lại không ngăn cách núi ánh sáng bầu trời luôn tương thông với nước. Dạy chúng rằng: Có mà không có, tình trần trừ sạch mà độc linh, không có mà có, khéo ứng sai khác mà không sai lầm. Cho nên tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Nghiêm đáp: Rồng ngâm trong cây khô. Hỏi: Thế nào là người trong đạo? Đáp: Trông mắt trong đầu lâu. Lại nữa có tăng hỏi Phong Huyệt: Thế nào là đạo? Huyệt đáp: Năm con phượng trước lầu. Hỏi: thế nào là người trong đạo? Đáp: Hỏi Hoàng thành, lại hành vi của các vị thế nào? Được trước sau quán triệt, trong ngoài đều thông đồng. Lại biết chăng? Ong hút hoa làm mật lá lách mùa Xuân lạnh, mặt trăng phun sương không khí ban đêm trong vắt. Trì bát trở về thượng đường: Khất thực Triết Tây Tô và Tú, người người thờ Phật nhà nhà đều giàu có, thu nhặt gần được ba vạn xâu tiền, còn tự mình không thể cúng dường miệng chúng. Cho nên nói: Ăn cơm phải là miệng chúng, làm việc phải là sức chúng, xưa nay tin tức truyền nhau, Thiên Đồng nói chấm dứt chỗ lương thực nay, mỗi ngày hai lần ướt bát chén. Vân Môn Đại sư nói: Cơm há chẳng phải là chính mình, do gì mà đem chính mình lại ăn chính mình. Có người nói: Một sợi lông nuốt cả biển lớn, hạt cải dung chứa cả núi Tu-di, liệu quay lại chớ giao thiệp, làm sao nói được vừa hợp, lại đưa ra căn trần mới ra khỏi chướùng ngại, lại không có mảy may hạt gạo nào mà không thông nhau. Dạy chúng nêu, Bách Trượng hỏi Quy Sơn: Hợp yết hầu hai môi lại, nói đem một câu đến. Sơn: Lại thỉnh Hoà thượng nói. Tăng: Không từ chối nói cho ông biết, chỉ e rằng về sau mất con cháu của ta. Sư kết luận: Lại thỉnh Hoà thượng nói ba đời chư Phật cũng vừa ngã. Sư Thích ca lão Tịnh Danh tâm soi nhau ở Tỳ-da và Ma-kiệt, mỏi mệt Hạc ban đêm dời tổ, rắn linh trời lạnh bò vào cỏ, chánh thiên xoay nghiêng chừ diệu viên đều được. Thí chủ xem kinh thỉnh thượng đường: Kinh chép: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai. Pháp nhẫn nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là chẳng thấy Như Lai. Sư kết luận: Hành vi thế nào? Được 100%, công lao sự nghiệp sức tranh anh hùng, thời Lưu Hạng đến thái bình ngồi hưởng lộc hậu, người đời Hi Hiên người đời. Thượng đường nêu, tăng hỏi Trí Môn: Lúc hoa sen chưa nhú lên khỏi mặt nước thì như thế nào? Môn hỏi lại: Sau khi hoa sen ra khỏi mặt nước thì như thế nào? Môn nói: Lá sen. Sư kết luận: Chỏ dùi vào mai rùa khô nạp tăng mở miệng thấy tim gan, hoa sen lá sen ra hay chưa ra, làm hết công phu khó chuyển giác. Hạ tự pháp thư, thượng đường tăng hỏi: Aùnh sáng soi chiếu thế gian thì không hỏi, việc truyền gia trong sạch thì như thế nào? Sư: nước trong cá kình ở biển rộng, khí lạnh tỏ ra thiêm luân hẹp. Tăng: Nước non theo bờ trúc chảy ra gió thổi mùi hương từ trong hoa bay đến. Sư: Phải tin cửa rồng không có khách ngụ. Tăng: Cành quế khô héo cùng trăng ôm đem đến. Sư: Cũng cần đích thân đến một lần mới được . Sư bèn nói tiếp: Không được kiêng tránh vật có đầu, lúc ấy ông liên luî đến người khác, mà nay người khác liên luî đến ông, đến sanh nhà ta làm việc tương tự, kim chỉ xỏ liên tiếp nhỏ trong nhỏ, Ca Diếp A Nan không biết nhau, người người đều tự trụ trong tam muội, trong đó chuyển công huân bên đây được du hí, cuối cùng lại phải đến tận cuống rễ, nhìn hút theo mùa Thu nơi bóng man mác xanh xanh một màu trời liền nước. Kiết hạ, thượng đường: Đến trường tuyển Phật, phân biệt việc hành cước, cấm túc, không thể lầm dời một bước, hộ sinh không thể động phạm một sợi lông, thấy suốt toàn thân của mình, bốn đại ra khỏi chướng ngại, lại được chỗ ở xưa nay, một dải trong suốt rỗng rang, làm sao thực hiện được tương ưng như thế? Chẻ tách núi hoa tựa bầu trời xanh biếc, bỏ ra dòng xoáy của Hoàng Hà. Tiết Thiên Thân Thượng đường: Trong nước thọ của người có lòng nhân, rộng lớn không có bờ mé, người tôn quý chí hóa không ngoài, có lượng dung chứa rộng lớn như thế, có đầy đủ việc trang nghiêm rộng lớn như thế. Hãy nói thọ dụng của người này hợp thế nào? Lại có biết cho chăng? Tạo hóa âm dương nhàn rỗi chắp tay, được bình trời đất thầm rủ áo, Tiễn Giám Thâu, thượng đường: Địa Tạng trồng ruộng làm nghề nghiệp mưu sinh, lưỡi liềm của Nam Tuyền có thể thâu cắt, hằng ngày lòng yên ổn liền thôi, tự nhiên hạt gạo không dứt bỏ, không dứt bỏ không dễ dàng, ông cũng không thiếu ta, ta cũng không thiếu ông, hai nhà khách chủ bằng nhau, bốn góc đều đổ xuống đất, bình yên như gió lặng chẳng rung cành, mưa không bể khối, đây là tòng lâm tham tận đáy thâu về trâu nước thuần thục, kiểm tra đem đến rơi theo loại. Tào Sơn nói: Làm trâu đực là theo loại rơi xuống. Thái Dương nói: Làm trâu đực là chỗ quay người của Sa-môn, vì sao lại được theo loại rơi xuống, mười năm quay về không được. Quên mất lời nói khi đến. Thượng đường: Giữa mùa Thu dần dần mát mẻ, bồ đoàn đặt vững vàng gường nối dài, thân tâm trong suốt thấy đáy vực. Dòng sông mờ nhạt thu phai mờ ánh sáng, Nhị Tổ không kém, Thiếu Lâm không giỏi, tương truyền cười giết Oai Âm Vương, ông không có sở đắc ta không có chỗ che giấu, bốn phía không vách được tự nhiên rộng rãi, tin thanh quy muôn đời minh bạch, đêm lạnh nhả trăng núi xanh xanh. Trung thu thượng đường nêu, Mã Đại sư cùng Nam Tuyền Bách Trượng, Tây Đường ngắm trăng. Tổ hỏi: Ngay lúc ấy thì như thế nào? Tây Đường nói: Chính nên cúng dường. Bách Trượng nói: Chính nên tu hành. Nam tuyền phất tay áo liền đi. Tổ nói: Kinh trở về tạng, thiền trở về biển, chỉ có nguyện khắp riêng vượt ra ngoài vật. Sư kết luận: Kinh trở về tạng, thiền trở về biển cúi đầu quy y, chắp tay đầu đội, Vương lão sư vượt ra ngoài vật, 20 năm trước đến như thế mà nay đi hết màu sắc nhàn. Thượng đường: Tháng 9 lại Trùng dương, hoa cúc nương vào màu vàng cũ, Uyên Minh là say không phải là rượu, mênh mông tâm dạo nơi rộng rãi, nếu biết được cũng là thời tiết nay, không biết cũng là thời tiết nay. Hãy nói ở trong đây làm sao biện bạch, biết chăng? Nơi vắng vẻ nhìn sự giàu sang của người khác, nhàn rỗi không ngại chít khăn đầu? Dạy chúng nêu, Vân Cái hỏi Thạch Sương? Vạn cửa đều mở thì không hỏi khi vạn cửa đều đóng thì thế nào? Sương nói: Việc trong nhà thế nào? Cái không đáp, sau đó nửa năm đến nói: Không người tiếp được hắn. Sương nói: Nói thì nói rất ghê gớm,chỉ nói được 80%. Cái nói: Hoà thượng thế nào? Sương nói: Không ai biết được hắn. Sư kết luận: Không người tiếp được hắn quyền quý bức bách Mã Tương Như, quả thật đến trên cầu nhớ rõ sách đầu cột. Không người biết được hắn, cuộc cờ làm say gã tiều phu, quay đầu nát cán búa, biển cả đều khô cạn. Tiết Thiên minh, thượng đường: Bình nước trong sạch mượn công gọi là đản sinh, ẩn ngọc gia truyền, thoái vị gọi là vua cha, thọ lượng vạn vạn năm, hưởng thụ yên tónh mà tôn trọng, nhân duyên ngàn ngàn cõi, động thành con, lại biết chỗ thọ dụng của người nay chăng? Giây lát nói: ngửa càng cao khoan càng cứng, đón ở trước theo ở sau. Dạy chúng nêu: Ngưỡng Sơn nằm mơ thấy đến chỗ của Di-lặc ở tòa thứ hai, Tôn giả bạch rằng: Hôm nay tòa thứ hai phải thuyết pháp, Sơn đứng dậy bạch rằng: Pháp Ma-ha-diễn lìa bốn câu dứt trăm lỗi, kính bạch. Ngưỡng Sơn nêu lên Qui Sơn. Qui Sơn nói: Ông đã lên địa vị của Thánh. Sư kết luận: Ngọc nữ đêm tối chuyển động máy, tơ gấm rõ ràng nhả bụng thoi, trời nước trong biếc toàn công đều rơi xuống, tuyết trăng trong lạnh một màu say. Các Thiền đức, toàn công bị rơi, một màu còn say, làm sao biết được vừa khớp tương ưng? Tạm quải áo dơ nói là Phật, lại trang sức trân báu thì gọi ai? Dạy chúng nêu: Trong Giáo nói: Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, thật không có pháp có thể đắc, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký cho ta. Sư nói: Đúng thì đúng, vẫn giống ở một sợi chỉ. Lại nói: Thích-ca tự là Thích-ca, Nhiên Đăng không cần thêm một chút, không cần đốt tiền dẫn quỷ, cần gì câu giặc phá nhà, ông trong đó châm không vào ta ở đây trồng hoa trên đá. Thượng đường: Các kiến nếu hết dè dặt chó truy tìm, vừa mới có phải trái rối loạn mất tâm. Các Thiền đức, các kiến nếu tận, tự nhiên tất cả thời đều bình thản, sừng sửng hiên ngang. Đây là thân biến khắp của nạp tăng, vốn có đủ mắt, tâm diệu viên giác, nếu có một sợi tơ một sợi dây, ở đó làm trước làm sau liền thấy rối ren. Hãy nói: Làm sao biết? Người bình không nói, nước bình không chảy. Dạy chúng nêu: Thanh Nguyên hỏi Lục tổ . Tổ: Nên làm ở chỗ nào thì không rơi vào giai cấp. Tổ nói: Ôâng từng làm được gì? Nguyên nói: Thánh Đế cũng không làm. Tổ: Rơi vào giai cấp nào? Nguyên nói: Thánh Đế còn không làm, có giai cấp gì? Tổ: Đúng thế, đúng thế. Sư kết luận: Không rơi vào giai cấp, sáng suốt vượt ra, ba thời đâu cần sắp xếp, mười phương tự nhiên Chỉ ngũ sắc không phải ta duy trì, mũ bảy báu là ai nghiêm sức. Thượng đường nêu: Tăng hỏi Hương Lâm: thế nào là việc trong nạp y? Lâm: Tháng chạp lửa đốt núi. Sư kết luận: Hương Lâm, lửa tháng chạp đốt núi, gióng cửa như nay lộ hết ra, không trở ngại cơ phong có thể tự tại, vun kiếm hư không, không thành vết. Nhân tuyết, thượng đường: Nếu như thế cũng khó được, trong sáng mênh mông cuồn cuộn không kẻ nứt trên ngọc, lời người cùng gió đi ngàn dặm, ta nói mười phương lẫn một màu, lẫn một màu phải chuyển nghiêng lệch, vừa mới chuyển nghiêng, xuyên qua cửa ngăn, giao tiếp ông suốt đời nay giải thoát, rùa hạc nhà ta tự thành tiên, đêm qua cửa rồng không khách ngụ. Thượng đường: Trong sạch truyền nhà tuyết trăng sáng, trong bình ngọc có chỗ xoay người, tình khô thức hết, dứt công huân, bất giác toàn thân vào đế hương. Hoà thượng Chân Yết vào núi, thượng đường nêu: A-nan hỏi Ca- diếp: Đức Thế Tôn ngoài việc truyền y kim-lan ra còn truyền vật gì? Ca-diếp gọi: A-nan, A-nan đáp: Dạ Ca-diếp: Cây sào ngã trước cửa. Sư kết luận: Một nước có thể quay lại một cuộc cờ, tiên tức là chỗ,khéo chỉ một chút, điểm khai mắt sống phân sinh sát, không làm thầy thuốc chạy ngược xuôi cứu ngựa chết, cây sào lại ngã trước cửa, vừa nắm đẩy ra ai chứa giấu, công phu mài giũa lão thành người, vùng đất tròn không góc cạnh. Người thị cấm mang thẻ bài nước Cao-ly, trai tăng chúc thọ, Thượng đường: Lấy pháp giới làm lãnh thổ, láy tắm Phật làm nhân duyên, thống lãnh vạn nước thành một nhà, quán chúng sinh như con đỏ, che chở ngang bằng trời đất, nhật nguyệt soi sáng đức ấy, bao dung bằng biển núi , núi sông chầu tông ấy, tuổi tác kéo dài ngàn muôn ức, tập hợp ở thọ mạng, một hai ba đời thành vật tượng, xuất hiện từ gốc đạo, trang nghiêm không bờ mé, diệu dụng không thể nghó bàn, soi sáng không mê muội, giáo hóa cùng tột khó trốn tránh, rộng lớn không thiếu sót, đại công không làm chủ, đầy đủ là tam-muội đại tự tại của bậc chí nhân thọ dụng. Cho nên nói: Vô biên cõi, mình người không cách đầu sợi lông, cổ kim mười đời trước sau không lìa ở đường niệm. Ngay lúc ấy làm sao biết? Có cho chăng? Vạn tượng sum la ảnh hiện ở trong, một hạt tròn sáng chẳng trong ngoài. Thượng đường: Đơn thương thẳng vào độc mã chợt ra, trong ánh điện gấp xem xoay nghiêng, sấm giật án núi liền sụp lỡ, người chậm chạp bịt tai không kịp,nhớ lại Lâm Tế nói: Ta ở chỗ Tiên sư ăn gậy ba lần giống y như nhành ngãi phủi, như nay muốn ăn một gậy, ai là người xuống tay? Lúc ấy có Tăng bước ra nói có con xuống tay. Tế đưa gậy cho Tăng, Tăng định tiếp lấy, Tế liền đánh. Sư kết luận: Lâm Tế đặc biệt tìm người không đến nỗi qua loa chịu thiệt, Tăng nay vội vã mở lời liền thấy dễ dàng tụng đầu. Lúc ấy vừa nghe nói như thế sao không liền cùng thủ đoạn của nạp tăng thấy vật không lấy, ngàn năm khó quên. Thượng đường: 33 người không được mà làm thầy, 28 đời không được mà xưng tổ, nạp tăng biết được bổn mạng nguyên thần, dám mở lớn miệng như thế. Hãy nói làm sao biết, đích thân đến bốn vách trông không của kiếp trước, tự nhiên thể hết thấy toàn thân. Tết thượng đường: Sự đổi mới của thời tiết, lòng nhân của trời đất, cỏ cây tiến mùa Xuân, hưởng của hào tượng, sinh trong dương hoà, vật hợp lại đều tươi tốt, chuyển máy ngọc, biến gấu sương, gia phong được thấy, thần ở trong hang mây bay ra khỏi khe núi, dụng ấy không siêng năng. Hãy nói làm sao biết? Có biết chăng? Chỉ được tuyết tan đi, tự nhiên mùa Xuân đến. Nêu sách ghi Tạng chủ lập Tăng, thượng đường: một ngọn đèn soi sáng trăm ngàn ngọn đèn, việc này tông gia ai cũng biết, tương truyền Thiếu thất Tuệ Khả chặt cánh tay, Hoàng Mai dặn dò Tuệ Năng lưng đeo đá giã gạo. Thế nào là tương truyền? Việc xếp ngọn lửa, có biết chăng: Ruộng đất sáng sủa thật phá bóng đêm, khí tượng tòng lâm tự thành Xuân. Dạy chúng nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Con mới vào tòng lâm xin thầy chỉ dạy. Châu hỏi: Ăn cháo chưa? Tăng đáp: Ăn cháo rồi. Châu bảo: Rửa bát đi. Sư kết luận: Nghe nói anh hùng khổ chiến tranh, đường rẽ bốn phương tự khó đi, mà nay dẫm bước trên đường Trường An, mới tin nước nhà lâu thái bình. Dạy chúng nêu, trong giáo nói: Một sợi lông nuốt biển cả, hạt cải dung nạp cả núi Tu-di Hãy nói: Sợi lông làm sao nuốt biển cả, hạt cải làm sao nạp núi Tu-di? Có người nói: lớn không có tướng lớn, nhỏ không có tướng nhỏ, một tướng không có tướng ấy là thật tướng, nói như thế quả thực không có hơi thở của nạp tăng. Hãy nói, phần nạp tăng lại thế nào? Ai gặp được Tu-bồ-đề. Trong tất cả pháp vào tam-muội. Thượng đường: từng đến xem trong núi nhà, ngân hà rửa trăng trời hết lạnh, lúc nay lại mất miệng mẹ sinh, mới tin xưa nay lỗ mũi rộng. Dạy chúng nêu, có vị tăng hỏi Đầu Tử: Một Đại tạng giáo lại có việc đặc biệt chăng? Tử đáp: Diễn ra một đại tạng. Sư kết luận: Diễn ra một đại tạng rõ ràng vượt qua các duyên, tùng cong tuỳ thẳng cũng là dòng nước xoay quanh núi, tuỳ cao tuỳ thấp cũng là thuyền rỗng lướt trên sóng. Dạy chúng nêu, ngài Linh Vân nói: 30 năm nay tầm kiếm khách, mấy lần lá rụng lại trổ cành, sau khi vừa thấy hoa đào mãi đến nay không còn nghi. Huyền Sa nói: Hay thì thật hay nhưng dám đảm bảo là lão huynh còn chưa triệt ngộ. Sư nói: Linh Vân ngộ hoa đào, Huyền Sa vẫn chưa chịu, lộ rõ tâm nay, nơi ẩn hiện đặt thân chưa yên ổn, đặt yên ổn, tám lượng vốn là nửa cân, đầu móc đuôi cân có thể bằng nhau. Tiễn hóa chủ, thượng đường: Một vật trường linh đều ứng khắp mười phương, cưỡi lên âm thanh, bước qua sắc, vượt qua cái nghe nhìn, rộng lớn cũng có thể ngang dọc, như như cũng có thể động tónh, người học đạo tham thiền lâu năm ở tòng lâm giống người nay, lấy cơm không hỏi nồi đất nhà ai. Đức Phật dạy: Thường đi khất thực là thanh quy, trong tất cả bữa ăn, chánh mạng nay, nếu ngửa miệng ăn, cúi miệng ăn, đều gọi là tà mạng, thế thì khi dùng thức ăn chánh mạng cúng dường người tham đủ thì như thế nào? Đầy bình nghiêng không ra, đại địa không người đói. Thượng đường: Một trận mưa thấm ướt, các mầm rễ đều cử động, xanh vàng đều thành dáng vẻ của nó, dài ngắn đều tùy theo dụng của nó, kéo dài cũng khéo có máy tơ, lẫn lộn cũng rộng lớn không có góc hở. Nếu người hỏi ta như thế nào, dám nói rằng không thích thùng sơn. Thượng đường: Tất cả âm thanh đều là âm thanh của Phật, tất cả sắc đều là sắc của Phật, ở trong đó không có một mảy may tai họa, lại biết chăng? Chớ đem thịt đỏ làm thân tướng, ai đem bụi nhàn làm chướng ngại con mắt. Dạy chúng nêu, ngài Vónh Gia nói: Lấy không được, bỏ không được, không thể trong được chỉ như vậy được? Sư nói: Nếu khắp người đi trong tất cả pháp, cũng là có sở đắc, nếu rộng lớn ở trong tất cả dụng cũng là có sở đắc. Hãy nói: Trở về gốc đến đáy không thể đắc thì làm sao được? Chuyển sắc chuyển công con gia pháp tử, sau trăng sáng hoa lau gặp nhau. Cúng dường Thánh, thí chủ thỉnh thượng đường: tâm tâm trí thông, Phật Phật đạo đồng, mười phương đầy đủ, tám mặt tinh xảo, lúc thí đủ ba thừa giáo, chỗ ngồi là tất cả pháp không, ứng cúng mà đến có thọ cái không thọ, độ đời mà xuất hiện được công của không công , động mà thường tónh, lúc dùng càng mạnh, nơi nơi không trái ngược, trăng đêm trong nước, mọi vật ứng ở đây, gió Xuân trên hoa. Thế thì trong giáo nói thân Phật đầy khắp pháp giới hiện khắp trước tất cả quần sanh. Một thân Phật đã khắp pháp giới, như ngàn thân Phật ở chỗ nào? Lại hiểu chăng? Âm thanh không ngưng đọng nhạc điều hòa, ánh sáng và bóng hòa lẫn nhau càng chiếu đèn. Thượng đường: Nhân duyên hòa hợp mà sanh, sự sống không thể sanh ra sự sống. Bóng sanh từ hình, tiếng vang sanh từ âm thanh. Muôn vật, sum la từ cao ngất, hư không rộng lớn không thiếu đủ, thăm thẳm mêng mông, sáng tỏ rõ ràng, cái tinh túy bên trong phải cái tình bên ngoài, thấy đức Phật từ ngàn xưa của nhà mình, được kinh rộng lớn của chính mình, trong trẻo chừ, nếu còn một vật không dấu vết, thiện ác không đi cùng ta. Nếu sau khi đáp ứng một phần thì thế nào? Vật vật hiện thành Quán tự tại, người người đầy đủ Thường Bất Khinh. Thượng đường: Nói Thiền nói đạo, hư không đóng đanh cái cọc; thể diệu thể huyền, trên mũi tên làm nhọn thêm. Nếu ba thời dứt, bốn đại không, trên không vin ngước, dưới dứt tự thân, trong không có dây buộc kiến, ngoài không có cơm bu ruồi, sạch trùng trục đỏ tuồn tuột, chính ngay lúc như thế là cái gì? Thượng đường: Một lời chạm húy, phép luật tự không chấp nhận. Một chữ vào cửa công, trâu kéo cũng không ra, trong lòng huynh đệ ngươi không được nắm chân chữ gốc, nếu có cái khác chưa hết, ngàn đời muôn kiếp làm lụy đến ngươi, tàng sáu cứ như rùa cẩn thận co lại, cục xương nào có quẻ, vân gì. Thiền hòa tử có bệnh đau như thế, cần một phen xuyên qua này. <篇> <卷>QUYỂN 5 TỰA NGỮ LỤC TIỂU THAM CỦA HÒA THƯỢNG THIÊN ĐỒNG GIÁC Ông già Thiên Đồng sớm do Anh Diệu Hán Đông…. Hán Đông, đạo pháp dần dần hưng thịnh ở Giang Hoài, rộng lớn bao trùm Ngô Việt, kinh hành đã đến đô ấp làm khuynh hướng, một thời dòng danh thắng tranh hướng về nhưng không kịp. Cuối nên hiệu Kiến viêm ứng duyên bổ xứ chân núi Thái-bạch ven biển Đẩu tuyệt, bện cỏ làm nhà an thiền, người học đến đi thường đến mấy ngàn, Sư bèn dẫn dắt chúng đến chỗ vắng lặng, nhô cao như giơ gốc cây mà tập hợp đầy ngoài cửa, không cho phép trọn im lặng nên ngay chánh tòa nêu lên, hoặc tuỳ theo sự thừa hỏi mà dạy pháp yếu, hoặc nhân lý mà kết thúc lời nói mở đầu, môn nhân Nhiếp Âm liền ghi chép, thời gian không bao lâu đầy tràn ở giản biên, chỉ ngộ bổn chánh phái, nối tiếp thô thiển mà chỉ tồn tại, bổn tông Thái Dương, mấy lần sụp đổ mà lại mọc lên, trải qua ba bốn đời đến đây được nối hưng thịnh, sét đánh ngay hư không, rung động cửu địa, câu mầm nứt nạnh tự nhiên sống tươi tốt, mà nguyên khí hồng đạo tạo kia ban đầu há có ý ư! Học đồ mới đến đọc sách nay mà biết tiếng ứng trong hang, biết ý nghóa nay mà đồ dẫn giống nước, mới tin Phật và chúng sinh đều được ân lực, há là lời hư dối ư! Bài tựa tham học Bằng Ôn Thư, trừ nhật, năm đinh tî niên hiệu Thiệu Hưng. Tiểu tham của Giác Hoà Thượng núi. Thiên Đồng, Minh châu. Thị giả Trung Dực Đàm Tượng biên soạn Tiểu tham tăng hỏi: Linh Vân ngộ hoa đào ý chỉ như thế nào? Sư đáp: lực của mắt không có khắp nơi Linh Vân lại hợp đạo. Tăng nói: Chính là ban ngày ban mặt. Sư hỏi: Chỗ thấy của Linh Vân thế nào? Tăng: Vừa thấy hoa đào không khỏi mắt dính mạt bụi. Sư hỏi: Trong mắt của Thượng tọa có gân không? Tăng: Mà nay không đánh trống dịch nay. Sư: Lừa mù lợi dụng đại đội. Tăng: Thế thì Huyền Sa vì sao lại nói: Hay thì có hay đấy nhưng dám bảo đảm lão huynh chưa triệt ngộ. Sư: Đây là thời tiết dung hợp của nạp tăng. Tăng nói: Cũng là cây quạt tháng chạp. Sư bèn nói: Linh Vân thấy hoa đào ngộ đạo, đạo rốt ráo thì vật khế hợp với thần mượn sự hiển bày lý là nói gì. Đến đây lại đưa tất cả mắt, buông xuống tất cả thân, khắp người đến như thế, thấy triệt để như thế mới thông với tâm mình, hợp thể vạn tượng là đạo khác, 30 năm đến tầm kiếm khách, mấy lần lá rụng lại trổ cành. Từ sau khi vừa thấy hoa đào mãi đến hôm nay không còn nghi ngờ. Các huynh đệ, việc làm như thế trong 30 năm của y, nếu hôm nay chịu ngừng chịu nghỉ chịu buông chịu bỏ, thường dạy mở rộng, thứ nhất chớ đem đến, đem đến không giống nhau, liền có thể cưỡi lên tiếng bước qua sắc, vượt lên trên cái thấy, thấu qua cái nghe. Tất cả đều tự tại tất cả chỗ đều thông suốt, tất cả chỗ đều ứng hiện,tất cả chỗ đều viên thành, chỗ nào lại có một mảy may cách ngại cho nên tu tập vạn hạnh hoa trên không tọa thiền đạo tràng trăng trong nước, hàng phục quân ma trong gương, thành tựu quả vị Phật trong giấc mộng. Nếu là thời tiết như thế há chẳng phải là giải thoát sao? Vừa vặn tương ưng trong tam-muội như huyễn, không chỉ là mắt thấy sắc như thế, tai nghe tiếng như thế, nhẫn đến căn căn trần trần, lớn lớn nhỏ nhỏ thảy đều như thế. Há không nghe Hòa thượng Thạch Đầu nói cửa cửa tất cả cảnh, dung hợp hay không dung hợp, dung hợp mà lại liên quan nhau, không thế thì nương vào vị trụ. Nếu hướng vào đây thông suốt căn trần. Sáng soi pháp giới, kia tức là đây, đây tức là kia, lại không có tướng qua lại, đây là thời tiết dung hợp, thế thì không y vị trụ lại thế nào? Trường là dài, đoản là ngắn, cao là cao, hạ là thấp, cho nên nói: nét Xuân không cao thấp, cành hoa tự ngắn dài, Huyền Sa vì sao nói hay thì có hay đấy nhưng dám bảo đảm lão huynh chưa triệt ngộ. Đây là bóng cỏ dò sào, hãy nói rốt cuộc như thế nào? Đạo vô tâm là có thể như vậy, chưa được vô tâm cũng rất khó. Tiểu tham, Tăng hỏi: Thế nào là câu Hòa Thượng thân thiết vì người? Sư nói: Vằn màu chưa có vết, lúc đầu tin tức khó truyền. Tăng nói: Có thể cho rằng rỗng sáng tự soi, không nhọc tâm lực. ấy. Sư nói: Cao chót vót không nương tựa vật, linh linh trãi qua duyên Tăng hỏi: Thông thường là thời tiết 100% chăng? Sư đáp: xem thấu qua bên ấy mới có đường siêu thoát. Tăng nói: mở đầu chiếc khoá vàng xem thấp thoáng quang cảnh phải việc bên ấy. Tăng hỏi: thế nào là việc bên ấy? Sư đáp: đi trên điện lưu ly, vồ ngã phải vỡ tan. Sư lại nói: các huynh đệ, nếu là một việc này lại phải rõ mới được, nếu các ông rõ, liền có thể vượt lên trên Tỳ Lô vượt qua Thích Ca làm pháp thân tịnh diệu, ra khỏi hố mắt kim cang, ông chỉ ngưng đi khi ngừng được hết, thì sáng suốt không mê muội lại phải lùi bước về chính mình, mới có thể tương ưng triệt để, lúc này nếu có soi độc tại, giống như đới công tại. Há không nghe nói: con về với cha vì sao cha hoàn toàn không đoái hoài tới? Lý hợp như đây, ân cha con ở chỗ nào mới thành ân cha con? Thế nào là ân cha con? Dao búa chặt không đứt. Lại nói: Vương Tử đản sinh là phải có cha, lúc vừa chuyển thân thì không thấy có, lúc ấy gọi là Diệu tận. Thầm khế hợp. Nếu là biết được chỗ cao chót vót, dời một bước trong đây như hạt châu phát ra ánh sáng, ánh sáng lại tự soi lại có đạo lý nối tiếp này, phải quay đầu nhìn bổn vị cố vị. Quay đầu liền có thể mạnh bước qua thời nay, trời sáng không biết sáng, soi tỏ không lạc ảnh, thuỳ ứng không liên quan duyên, nắm được thân này hướng đến chỗ rộng lớn ào ào, tự nhiên không bị tạp vật. Cho nên nói: ngay đây thấy nghe chẳng thấy nghe lại không có thanh sắc có thể trình ông, trong đây nếu rõ ràng hoàn toàn vô sự, thể dụng ngại gì rõ hay không rõ. Các huynh đệ, người tham thiền gỏ xương đánh tủy là làm như thế. Có một số người bèn nói: trước khi chưa nói đã là đạo rồi: Ông không thấy đạo thì lời nói sâu xa mà không có đường lối, đầu lưỡi nói mà không nói cắt đứt chót lưỡi của người trong thiên hạ thì không thể không có, đâu dạy người không lưỡi biết nói. Lại không nghe tăng hỏi Cổ đức rằng: Thế nào là tâm xưa nay của Hoà Thượng? Cổ đức đáp: Tê ngưu nhờ ngắm trăng vằn mọc sừng, voi bị tiếng sấm động hoa vào ngà. Nếu biết được rõ ràng rồi thì mới bước lên đầu vạn pháp không bị vạn pháp chướng ngại, đến lúc ấy,không lập ngôn ngữ, không câu nệ hình bóng, cho nên nói: chư Phật không ra đời, 49 năm thuyết pháp, Tổ Sư không tây lai, Thiếu Lâm có diệu quyết chư Phật đã không ra đường sao có 49 năm nói pháp, Tổ sư đã không từ phương Tây đến vì sao Thiếu lâm có diệu quyết? Phải tin lời nói pháp ấy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ, trong đây không thay đổi một mảy may, không động một chút, lúc ấy một câu ném đất lại thành tiếng vàng, liền biết thiên trong chánh, một vầng trong sáng ngang giữa trời. Nếu phân biệt được như thế thì nói năng cũng hay lúc im lặng cũng hay, lúc nói thường im lặng, lúc im lặng thường nói, liền có thể vượt lên tứ không, ra ngoài ba cõi, đây là việc làm của người siêu thoát. Hãy nói làm sao thực hiện được như thế? Chim trả đạp đỗ hạt mưa trên lá sen, chim diệc tung thủng khói trúc lâm. Tiểu tham, tăng hỏi: Hoa lau trăng tuyết lúc ấy một màu còn say, nước đồng mùa Thu rỗng không, vẫn còn đại công chỗ này làm sao được sắc chuyển quên công. Sư đáp: Qua lại như được đường, hai chỗ không ngại nhau. Tăng nói: Ngọc xoay máy chuyển cười ha ha, ngay dưới đây gặp nhau không quen nhau. Sư nói: Lại rơi vào đại công. Tăng hỏi: Bên ấy không giữ điện không vương, làm sao chịu cày ruộng hướng về vầng mặt trời? Sư nói: Sớm như thế lại rõ ràng một chút. Tăng hỏi: Thế thì khi được chỗ vừa khớp thì như thế nào? Sư đáp: Chỗ kín đáo khó nói, trong nhỏ bé không động. Tăng hỏi: Gọi được trở lại, thông đường không chỗ trở ngại lại làm sao? Sư đáp: Nơi ấy gặp nhau không xa cách Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt. Sư bèn nói: Là của cải trong nhà ta là mọi người của bạn, là ba đời chư Phật, là sáu đời Tổ sư, mỗi mỗi phần mình, sáu lần sáu là ba mươi sáu, sinh tâm trong đây thì trái ngược, độâng niệm liền sai. Nếu có người nào, bốn góc chạm đất nhấc mình không động, cũng rõ ràng một chút, liền có thể hướng đến chỗ sáng suốt thời nay, rõ ràng không có một pháp kẹt ở kia, rõ ràng không có một pháp kẹt ở ta, tự tại nhân gian không có tướng qua lại kia đầy đủ là ta, ta đầy đủ là kia, pháp pháp trụ tự vị, cho nên nói tánh tự bình đẳng, không bình đẳng thì cứ như thế mà đi là một nạp tăng rõ việc, càng nên lui bước, càng nên quay về mình, liền biết tánh tứ đại tự hồi phục. Như con được gặp mẹ, trong đây không kẹt một chút, không treo một sợi tơ, xoay chuyển cái vỏ lủng hợp với hư không, hợp là gì? Nếu không hợp thì làm sao phân biệt hư không? Nếu có hợp thì lại thành hai cái, lúc ấy cần mắt sáng rõ ràng, cần thân sạch sẽ, xoay chuyển cơ luân, liền có thể hướng đến tác dụng hôm nay. Nếu biết được đầu mối xưa nay, tất cả tâm đều là pháp này, thản nhiên bình đẳng, vừa vặn đầy đủ liền biết quả bồ-đề tròn đủ, hoa nở thế giới hiện, nếu lúc 100% như thế, thiên Tăng này, mà người thời nay lại nói thiền Tào Động không cho phép nói nhiều, im lặng thì đúng. Ta cũng nói, ông lúc ấy quá lỗ mãng, ta cũng biết ông ngay đó suy lường, nào ngờ rỗng không mà linh diệu. Há không thấy,Tăng hỏi Thạch Môn: Thế nào là gia phong của Hoà thượng? Thạch Môn đáp: Ngoài vật chỉ cưỡi voi ngàn dặm, đánh chuông vàng dưới gốc tùng vạn năm, đi như thế ấy thì được, thấu triệt như thế, không bị chìm trong nước ứ chết. Lại không thấy có tăng hỏi Lương Sơn: Chẳng phải là chỗ an thân lập mệnh của Hoà Thượng sao? Sơn đáp: Rồng không ẩn trong nước chết. Tăng hỏi: Thế nào là rồng trong nước sống? Sơn đáp: Đầm biếc không nhả sương. Nếu ông biết được, người chết chính là người sống này. Nếu ông biết được người sống chính là người chết này, cần phải tỉnh táo ở nơi vắng vẻ im lặng, rõ ràng trong chỗ ồn ào, liền biết thường sống trong chết, không bị hư không chướng ngại, thường chết trong sống không bị vật ngăn ngại, có không phải là có, không không phải là không. Hòa thượng Ba Tiêu nói: ông có cây gậy, ta cho ông cây gậy, ông không có cây gậy ta lấy cây gậy của ông. Cho nên Lục Tổ nói: Đất tâm hàm các loại, mưa rưới khắp thảy đều nảy mầm, đã ngộ được hoa tình rồi quả bồ-đề tự thành tựu. Mới biết ngay chỗ xuất sinh tuỳ chỗ diệt hết trân trọng. Tiểu tham Tăng hỏi: Mã Tổ Thăng đường Bách Trượng cuốn chiếu, ý chỉ thế nào? Sư đáp: Cũng biết chót mũi vẫn còn đau. Tăng nói: Tuy cha con biết nhau nhưng cũng là lợn lành chữa thành lợn què. Sư hỏi: Ông có biết chỗ đau chưa. Tăng làm thế cuốn chiếu. Sư nói: Ba cấp sóng cao cá hóa rồng, người ngu si vẫn tát nước ao đêm. Tăng hỏi: Thế thì một tiếng hét của Mã Tổ, Bách trượng điếc tai ba ngày lại là gì? Sư đáp: Tiếng ở nơi tai, tai ở trong tiếng. Tăng nói: Có thể nói là căn trần rụng hết, tin tức bình trầm. Sư nói: Thực tế không cưỡng châm chuỳ. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Có lần Mã Tổ cùng đi với Bách Trượng, nghe tiếng kêu của vịt trời. Tổ hỏi: Là tiếng gì? Trượng đáp: Vịt trời. Tổ hỏi: Đi đâu? Trượng đáp: Bay qua. Tổ vặn lỗ mũi Bách Trượng, Bách Trượng kêu đau. Tổ nói: Đâu từng bay qua. Trượng chợt tỉnh ngộ. Hôm sau Tổ thăng đường, Trượng cuốn chiếu, ông thấy thời tiết gặp nhau của họ ở đâu? Như nay có loại người hay bịa đặt ra chuyện liền nói: Ông vừa thăng đường, tôi liền cuốn chiếu, có chỗ dụng gì? Quả tình là ngàn dặm muôn dặm. Sau đó Bách Trượng đến tham kiến Mã Tổ nữa, bị Mã Tổ hét một tiếng điếc tai ba ngày, thế thì một tiếng hét của Mã Tổ lại ngoài phận sự rõ được việc chăng? Nếu cũng là lúc này đảm đương không dưới đất cỏ lại là dòng chảy của nghiệp thức. Nếu là ngồi được trọn làm được, một sợi tơ, một hạt tấm lập không được gọi là gì? Lại tham yết Mã Tổ, trong đó môït ly một tí cũng không cho. Nếu ngoài phận sự rõ được một chút thì không gọi là điếc tai ba ngày. Không nghe Tuyết Đậu nói luyện vàng ròng cao độ lẽ ra không đổi màu. Mà nay có những người, thể hội không thấu đáo, thấy không xuyên suốt, dùng câu, dùng chuỳ, làm đạo làm lý chôn vùi chính mình còn liên luî đến tiên tông. Nếu rửa không sạch sẽ, e rằng không thành công lại thêm một lớp gọi là rửa cục đất trong bùn. Sau này Hoàng Bá hỏi: Từ tông thừa trên, chỉ bày thế nào? Bách Trượng im lặng giây lát Bá nói: Không thể dạy người sau đoạn dứt. Trượng nói: Sẽ cho ông là người này, người xưa cũng có thời tiết như vậy, tuy lìa nói năng mà nói năng đầy đủ, tuy ra khỏi âm hưởng mà âm hưởng rõ ràng, vì sao Bách Trượng lại nói: Ta sẽ coi ông là người này. Có người nói chỗ im lặng là đúng, há không nghe ngoại đạo hỏi Phật: Không hỏi có nói, không hỏi không nói? Đức Thế Tôn im lặng giây lát, ngoại đạo tán thán: Đại từ đại bi, đã vén tấm mây mê muội cho con, khiến cho con được vào. A-nan hỏi: Ngoại đạo có sở chứng gì, mà nói “khiến cho con được vào”? Thế Tôn nói: Như con ngựa giỏi ở đời thấy bóng roi thì chạy. Lại không thấy: Túc Tông đế hỏi Trung Quốc sư: Sau khi mất cần vật gì? Sư đáp: Xây cho lão tăng tháp vô phùng (không kẽ nứt). Đế nói: Xin dạy kiểu tháp, Quốc sư giây lát nói: Biết chăng? Đế trả lời không biết. Quốc sư nói: Ta có đệ tử phó pháp tên là Đam Nguyên, lại rõ việc nay xin mời đến mà hỏi. Đế hỏi Đam Nguyên. Nguyên đáp: Sông Tương ở phía Nam, đầm ở phía Bắc, trong đó có vàng đầy một nước, hợp thuyền dưới cây thông bóng, trên điện lưu ly không có tri thức. Đây là thời tiết trao tay của chư Phật chư Tổ, liền biết lúc im lặng một chữ, một chút cũng không thiếu. Lúc nói một lời một câu không ngoài phần, nói nín không khắp nơi, cổ kim không tận thời, hành vi thế nào? Thiên chánh không từng lìa bổn vị không sinh đâu liên quan nói nhân duyên. Tiểu tham, tăng hỏi, nhớ lại có Tăng hỏi. Vân cư: Tăng rốt cuộc như thế nào? Cư nói: Ở núi tốt. Tăng: Chưa hiểu ý này thế nào? Sư: Ở núi tốt. Tăng hỏi: Thế thì người chưa đến lúc bốn bên không có đường làm sao đặt chân? Sư nói: Hãy ngồi dưới núi. Tăng hỏi: Chợt bị người khác tìm được một con đường sống lại làm sao? Sư hỏi: Từng qua được đỉnh Phi Viên chưa? Tăng đáp: Một bước lại một bước, mây trắng sâu càng sâu. Sư nói: Lại là dây mơ rễ má tràn ngập dưới chân. Tăng hỏi: Thế thì đỉnh núi Phi Viên cuối cùng cao bao nhiêu? Sư đáp: Phải là người quê ở đó qua mới được. Tăng nói: Qua rồi vậy. Sư nói: Giống như là gót chân không chấm đất. Sư bèn nói: Chỗ làm của người ẩn mật 100%, quả là không có góc hở, dứt góc nhọn mới có thể tròn đủ, tất cả chỗ thâu gồm không được, liền có thể tất cả chỗ lăn đi được, có lúc phải nói thì nói vừa vặn tương ưng. Cho nên Tăng hỏi Vân Cư: Tăng cuối cùng như thế nào? Cư đáp: ở núi tốt. Có người nói: Núi là thể không thay đổi, ngoài chỗ xanh xanh tối tối có liên quan gì? Có người nói: Mây trắng một lớp lại một lớp đây là thời tiết trong đây có liên quan gì? Nếu biết được là ở núi tốt có chỗ nào không được, ứng cơ mà đáp tuỳ câu hỏi mà trả lời, há không phải là vừa vặn tương ưng? Nếu ông đảm đương, gánh vác, làm Phật, làm Pháp, thì thấy không tương ưng, là dụng bình thường như thế của hắn. Nếu là nạp Tăng chân thật, gật đầu cho phép. Nếu không như thế lại thành ngàn lớp vạn lớp. Người xưa nói: Một lời nói tận mười phương, mảy may chưa nêu lên, đây là lời như thế, liền biết núi là núi, sông là sông, người là người, pháp là pháp, thế giới như vậy trần trần như vậy pháp pháp như vậy, niệm niệm như vậy, tăng giảm chừng đầu sợi tơ trong đây cũng không được. Nếu có một chút đạo lý lại là bảy hoa tám nứt. Há không thấy nói ở tất cả thời không khởi vọng niệm, ở các vọng tâm cũng không diệt trừ, ở cảnh vọng tưởng không thêm cái biết, ở không có biết, không phân biệt chân thật, ngay lúc ấy làm sao thực hành, một lòng bình đẳng một khối trọn vẹn tự hết. Tiểu tham Tăng hỏi: Rộng lớn mà không bờ mé, không lập một trần, trong mà riêng tồn tại, ứng khắp mười phương, ngay lúc ấy như thế nào? Sư đáp: Cũng không có mười phương có thể ứng hiện. Tăng hỏi: Như hư không hợp hư không, như nước trở về với nước. Sư nóùi: Đúng thì liền đúng giống cái gì? Tăng nói: Cũng phải chú thích chỉ bày rõ ràng. Sư nói: Ôâng thử chú thích chỗ rõ ràng xem! Tăng nói: Trăng khuya có ánh sáng toả khắp bến đò xưa, mây trắng không mưa bọc lấy núi mùa Thu. Sư nói: Chánh vị xoay nghiêng trong đó, thiên vị trở về bên trong. Tăng hỏi: Không liên quan đến việc qua lại là ai? Sư nói: Chủ ngoài rèm đêm sáng. Tăng nói: Mây trắng phủ núi xanh, đỉnh núi xanh không lộ. Sư nói: Như việc bên thiên chánh. Tăng hỏi: Lúc không rơi vào thiên chánh thì thế nào? Sư nói: Rơi. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Vốn không như nhiều việc, làm đi làm lại liền có nhiều việc. Như nay lại từ trong nhiều viêïc giảm đi giảm lại, phải đến chỗ không nhiều việc. Chỉ ông bình thường khởi diệt là sinh tử, nếu sinh diệt hết tức là bản lai thanh tịnh không thể chú thích chỉ bày, không thể đoán định. Hàn Sơn nói: Tâm tôi giống như trăng thu, ao biếc trong suốt, đến nổi sáng vằng vặc như trăng thu, còn sợ không đúng. Lại nói: không vật nào có thể sánh nổi, dạy ta nói thế nào? Đã là không vật làm sao nói? Cho nên nói: Không thể cũng không thể, lời nói này cũng không nhận, cho đó là xa tuyệt đối không gởi,tất cả chỗ gởi không được, đây là tâm có khắp nơi, đâu hướng đến chỗ nào? Sạch trùng trục đỏ tuồn tuột một mảy may lập không được, thế thì vừa đến Thượng tọa hỏi: Trong mà riêng tồn tại, ứng hiêïn khắp mười phương, nói với nó cũng không có mười phương có thể ứng hiện, lúc ấy còn có đạo lý đáng có chăng? Lẫn lộn gọi là khối lớn, nếu là người hiểu rõ thì luôn đích thực nhanh nhẹn, người không hiểu rõ liền thấy bận bịu vất vả, cần phải như hạt châu phát ra ánh sáng, ánh sáng lại tự soi, nhưng tuy là việc đầu thứ nhất, lại phải phân biệt ở đầu thứ hai. Nếu có một chút náo động, lúc này liền theo nghiệp mà lưu chuyển chỗ ngừng được hết, không thể ngừng tức là bồ- đề, tâm sáng trong thù thắng không từ nơi người mà được. Đại sư Vónh Gia nói: Lấy không được bỏ không được, từ không thể được chỉ như vậy được, há chẳng phải là 8 chữ mở ra hai tay trân trọng trao phó. Tiểu tham,Tăng hỏi: Nhớ lại có tăng hỏi Thiều Sơn: Phải trái không khắp nơi, còn câu nào không? Sơn đáp: Một mảnh mây đơn côi không lộ nét xấu, ý chỉ như thế nào? bóng. Sư nói: Bên trong có một chút khó nói cho người nghe. Tăng hỏi: Sau khi nói như thế nào? Sư đáp: Đầu mọc sừng. Tăng nói: Nếu như vậy thì xấu xí, vụng về lộ ra đi. Sư nói: Việc phân hóa trong loài khác, ngại gì gặp nhau trong Tăng hỏi: Tay nắm quá đầu gậy, gặp mùa Xuân điểm dị hoa. Sư hỏi: Còn cái chân thật hay không? Tăng nói: Đến nỗi mọi việc là mọi vật. Sư nói: Mười năm chưa về được, lại quên đường lúc đến. Tăng hỏi: Vì sao lại như vậy? Sư nói: Ắt phải quên mất mới được. Sư bèn nói: Việc tham thiền thật ra phải thoát sinh tử, không thoát khỏi sinh tử gọi chết? Thế nào là thoát? Nếu một niệm mê gốc theo tình, lôi kéo vào tất cả chỗ rắc rối quấy nhiễu, đã sống ở chỗ không tự tại lại từ chỗ không tự tại mà chết. Nếu là người hiểu rõ,vốn không có chỗ xưa nay, dụng rõ ràng như thế liền ở trong tất cả thời, tất cả chỗ thông suốt không nương tựa,trong muôn vật xuất hiện một đầu địa, lúc ấy không mang bốn đại năm uẩn đến mới có con đường siêu thoát. Ngày 30 tháng chạp vẫn đi như thế, nghóa là đến không có chỗ bắt đầu, đi không có chỗ đến, lúc ấy thanh tịnh không có duyên lôi kéo, rộng lớn không nơi chỗ, ba thời đoạn sáu cửa không cho nên nói: Mênh mông vậy, chói sáng vậy, ra ngoài nghó bàn, nghó không thấu đáo,bàn không kịp, tâm niệm vừa khởi liền thành lưu trú. Nếu là tất cả tâm niệm đều dứt, không có thiên đường để ông đến, cũng không có địa ngục để ông vào, mười phương hư không thuần tịnh không nhơ, rộng lớn sáng suốt, tỉnh táo đến như thế là nơi sinh của chư Phật, Bồ-tát, gieo hạt giống si ái là chỗ sinh của chúng sinh, trong đó thiện ác đều mang liền thành đường thiện đường ác. Nếu thiện ác như mây nổi thì sinh diệt đều không có chỗ, trong đây chúng sinh và Phật lập không được. Hoà thượng Lục Tổ nói: Không nghó thiện không nghó ác ngay lúc ấy trả lại bản lai diện mục của Thượng tọa Minh lúc cha mẹ chưa sinh. Các huynh đệ, chưa dừng thì dừng đi, chưa thôi thì thôi đi. Nếu các ông dừng được hết, nghỉ được yên ổn, ngàn Thánh không thể dắt, chỗ không thể dắt là chính ông không cần làm đạo lý, cắn chữ nghóa, đánh hét cẩu thả, đều là nghiệp thức lưu chuyển. Nếu lại lấy nó phân xử, bị nó chỉ bày ghi chú lại là nương theo cỏ dựa vào cây, ắt phải vô sư trí, tự nhiên trí thấy tính không giữ lại Phật, đại ngộ không còn thầy mới có một chút hơi thở của nạp Tăng. Hãy nói: làm sao thực hiện được đoạn sinh tử vượt ra Thánh Phàm, hợp cùng thuyền dưới cây không bóng, không tri thức trên điện lưu-ly. Tiểu Tham tăng hỏi: Tôn giả Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu: Khi một vật không đem đến thì như thế nào? Châu nói: Buông xuống. Lý này thế nào? Sư đáp: Đống đầy đầu ép buộc đến, toàn thân đều sửa sạch. Tăng nói: Lại đưa căn trần tất cả đều không, rộng lớn khắp tận châu sa giới. Sư nói: Cũng không có đạo lý cùng khắp. Tăng hỏi: Như thế nào đáp âm vang trong hang mà thường rỗng, hạt châu phát ra ánh sáng mà tự soi? Sư nói: Vẫn là thời tiết ứng hiện. Tăng: Làm sao được tương ưng thích hợp. Sư: Kiếm mất đã lâu, ông chớ khắc thuyền. Tăng hỏi: Thế nào là đoạt người không đoạt cảnh? Sư đáp: Ẩn hết thân mình khắp cõi đều bóng hiện. Tăng hỏi: Thế nào là đoạt cảnh không đoạt người? Sư đáp: Rộng lớn quét sạch không còn đường tơ kẻ tóc, nơi nơi phân thân khắp đại thiên. Tăng hỏi: Thế nào là người cảnh đều không đoạt? Sư đáp: Hôm qua là ngày 29 sáng nay là ngày 3 0. Tăng hỏi: Thế nào là người cảnh cả hai đều đoạt? Sư đáp: Chặt đứt chót lưỡi. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Huynh đệ có người nói: 30 năm 20 năm, 3 năm, 5 năm, ở tòng lâm làm như thế, cũng nói ta tham thiền học đạo nếu không biết đến cùng có chỗ dụng gì? Ông chỉ cứ buông, dạy trong tâm địa tất cả đều không, tất cả đều tận, đây là thời tiết xưa nay. Cho nên nói: Tất cả đều từ tâm địa sinh ra, trừ bỏ tất cả sinh vẫn là tâm địa xưa nay, tâm địa nay bình đẳng biến khắp, phổ khắp không có bất tại, không có bất mãn đã là tướng sinh trên tâm địa, khắp mười phương thế giới không có một mảy may từ bên ngoài mà đến, đều phát hiện từ trong đây liền biết muôn pháp là ánh sáng của tâm các duyên do tánh biết, vốn không có người mê ngộ, chỉ cần hôm nay rõ, tâm không hình ảnh, đối duyên liền soi. Cho nên mượn hư không làm thể sum la vạn tượng, mượn sum la vạn tượng làm dụng của hư không. Tất cả các pháp đều là duyên ảnh vọng tưởng trên tâm địa, thí như nước trong do gió mà thành sóng, do gió lặng nên tướng động theo gió mà mất, chẳng phải nước mất. Trong tâm địa của ông còn rất nhiều tướng thiện ác vv… liền là sóng trên nước, gió lặng sóng dừng chẳng phải là nước mất. Tướng thiện ác mất chẳng phải tâm diệt, một việc trọng yếu xưa nay không không được. Nếu là người ngồi thiền, gió bụi động cỏ, tự xem được ra, không thể nói là nói kinh nói luận. Đây là Tổ Sư Mã Minh nói như thế, hiểu một phần đích thực là hiểu một phần. Các vị, nếu được thời tiết như thế, tự nhiên vừa vặn. Người xưa nói: Người ngồi đầu sào trăm thước tuy được vào nhưng chưa là chân thật cần tiến bước hiện toàn thân ở mười phương thế giới, đây là ứng hiện toàn thân, có lúc đoạt người không đoạt cảnh, đầy dẫy ở trong tất cả pháp, Bồ-tát Quan Thế Âm đem tiền mua bánh Hồ, buông tay xuống lại là bánh bao, nào được tất cả thanh sắc nhàn đến, có lúc đoạt cảnh không đoạt người, biết được trên đầu trăm cỏ, đầu ngỏ chợ ồn ào lảnh hội lấy. Ngăn phố chặn ngõ hai túi da, tất cả chỗ đánh vào gõ vào, có lúc người cảnh đều không đoạt bình thản các pháp hiện thành, người bình không nói, nước bình không chảy, phương đồng đến là tòa phương Đông. Cho nên Tôn giả Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu: Lúc một vật không mang đến thì thế nào? Châu đáp: Buông xuống đi. Tôn giả hỏi: Một vật đã không đem đến buông xuống cái gì? Châu nói: Như thế thì gánh vách đi, há chẳng phải là thời tiết ấy ư? Có lúc người cảnh cả hai đều đoạt, tin tức hết góc hết thấu đỉnh thấu đáy, như hạt châu phát ra ánh sáng, ánh sáng lại tự soi, việc xoay tròn như thế mới là nạp Tăng này nếu không như thế trong 12 thời qua lại chỗ nào trân trọng? Tiểu tham Tăng hỏi: Thế nào là thời tiết kim chỉ thông suốt? Sư đáp: Cẩn thận đi đem đi, kín đáo đến trong đó. Tăng nói: Có thể than lúc đi nhan sắc như ngọc, lại thở lúc về tóc tợ sương. Sư hỏi: Buông hai đầu ra, ở giữa làm sao phân biệt. Tăng nói: Việc xấu trong nhà không thể nêu ra ngoài. Sư hỏi: Một câu đặc biệt lại nói thế nào? Tăng nói: Đến trong đây thoát khỏi một sắc, thân không tuân theo đồng phong. Sư nói: Liên tục tọa sát. Tăng nói như lại có vị Tăng hỏi Vân Cư: Chỗ hoàn toàn vô học, thế nào lập thân? Cư đáp: Không có chỗ lập thân. Tăng hỏi: Phật sự lao nhọc gì? Cư nói: Không đồng hưng hóa, xin hỏi ý này như thế nào? Sư đáp: Vừa giống thượng thân mới đến thường đi như thế. Tăng nói: Quả thực là có miệng khó nói. Sư nói: Không đồng Hưng Hóa. Tăng lễ bái. Tăng hỏi nhớ lại Vân Nham hỏi Đạo Ngô: Bồ-tát Đại bi. Vì sao dùng rất nhiều tay mắt? Ngô hỏi lại: Như người nửa đêm đưa tay ra sau sờ gối, xin hỏi ý này thế nào? Sư nói: Vô tâm có thể tác dụng, tác dụng tự vô tâm. Tăng nói: Như thế thì tinh xảo tám mặt tám mặt tinh xảo. Sư nói: Nơi ứng hiện không đem đến, khắp người có thể biến thái. Tăng hỏi:Vì sao nói? Ngô lại nói: Nói tức là nói rất ghê gớm, chỉ nói được 80%. Sư nói: Phần thời tiết này biến thân và thông thân. Tăng hỏi: Thế thì biến thân và thông thân cách nhau bao nhiêu: Sư đáp: Chỉ cách đầu một sợi tơ liền thành ngàn vạn dặm. Tăng hỏi: Khi cắt được đầu một sợi tơ thì như thế nào? Sư đáp: Vừa hợp với thời ấy. Sư bèn nói: Tăng hỏi Vân Cư: Chỗ hoàn toàn vô học như thế nào lập thân? Cư đáp: Không có chỗ lập thân. Tăng hỏi: Phật sự nhọc nhằn gì? Cư đáp: Bất đồng Hưng Hóa, đến đây dính một chút không được, là phải triệt để và bỏ hết, không có chỗ biện bạch đạo lý của ông, không có chỗ mù mờ phảng phất của ông, như buông tay vách đá, ngay dưới buông hết được mới hợp với chỗ làm của Vân Cư, chỉ là lúc này không đồng Hưng Hóa. Lại Vân Nham hỏi Đạo Ngô: Bồ-tát Đại Bi dùng nhiều tay mắt làm gì? Ngô đáp: Như người nửa đêm đưa tay ra sau lưng sờ gối, lúc này có rất nhiều tay, có rất nhiều mắt, lại không khởi trước sau lại không khởi lên suy nghó, ngay lúc ấy điều có thể ứng hiện là gì? Há không nghe nói: ở nơi mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi mùi hương, ở lưỡi nói năng, ở tay cầm nắm, đi đứng ở chân, biết được gọi là Phật tánh, không biết gọi là linh hồn, nếu ông làm đạo lý làm an bài liền là nghiệp thức lưu trú. Cho nên Hòa thượng Trường Sa nói: Người học đạo mà không ngộ chân thật chỉ là nhận thần thức trước kia, gốc sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay người ngu gọi là người xưa nay là phải triệt để trở về mới biết biến thành như thế. Nếu ông nhận thanh sắc nhận cầm nắm, nhận mặn nhạt đều không đúng, chỉ buông hết thần thức liền ứng với điều gì? Như gương soi vật, như hang trả lại tiếng vang, là do Thích- ca lão tử phân ngàn trăm ức thân, Bồ-tát đại Bi có ngàn tay mắt, nhập chánh định trong thân nam tử, từ định dậy trong thân nữ nhân một trần nhập vào chánh thọ, Tam-muội dậy ở các trần. Hãy nói: Ngay lúc ấy thì thế nào? Giương cánh chạy nhanh mây sáu phương, gió xoáy thổi quậy nước bốn biển. Tiểu tham Tăng hỏi: Khi trên không dựa dẫm dưới dứt tuyệt tự thân thì như thế nào? Sư đáp: Khắp trời khắp đất. Tăng nói: Khắp nơi đều gặp nhau. Sư hỏi: Ông gặp ở đâu? Tăng nói: Trong muôn vật, chỉ lộ toàn thân. Sư nói: Hãy nói quay muôn vật hay không quay muôn vật? Tăng nói: Hai đầu đều cắt bỏ, trong thông suốt đầu thẳng đến đuôi cũng phải đẩy ngã. Tăng hỏi: Thế nào là khắp trời khắp đất? Sư đáp: Phải là Thiên đồng mới được. Tăng nói: Vừa vặn cùng đầu mũi của Hòa thượng chống nhau. Sư nói: Chỉ cái vừa vặn này cũng không tiêu tan được. Tăng nói: Lại rỗng không muôn vật. Sư nói: Nó rỗng không là gì? Tăng hỏi: Rốt cuộc như thế nào? Sư nói: Thiên đồng hôm nay thật khó biện giải. Tăng nói: Cưỡi trâu đi bộ, tay không xới đất. Sư nói: Như thế ấy cũng tàm tạm. Sư bèn nói: Chân thật khắp nơi, rộng lớn và yên tónh không nương tựa lại gọi là gì? Làm hàng rào khắp mười phương lại gọi là gì? Làm cơ duyên cho ba đời, không nhận một trần, chỉ thân tự thọ dụng này, đều rộng khắp mười phương. Đã biết rộng khắp thì trên đầu các pháp, trong tâm chư Phật đầy đủ bản thể, lại có việc gì đến? Chỉ là một trần cũng là bản thể của ông, là bản tâm của ông, cũng là bổn tướng của ông, cũng là bổn trí của ông cho nên nói: Nếu sắc thanh tịnh, hoặc trí Nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Bát-nhã ba-la-mật- đa thanh tịnh, không hai không hai phần, không khác không đoạn các huynh đệ, là phải như thế, các ông có từng không đắc tâm duyên chưa, có từng không đắc thân tướng chưa? Nếu các ông không đắc hết, không chỉ là không mà lúc ấy sáng suốt, rõ ràng, rõ ràng trong hư không. Nếu lúc ấy thì không phải là không, rõ thấu thời tiết đến cũng như vậy, biểu cũng như vậy, ở trong trần cũng như vậy, ở trong Pháp cũng như vậy, không có chư Phật nào mà không như vậy, không có chúng sinh nào mà không như vậy, chúng sinh cũng đầy đủ như vậy, chư Phật cũng đầy đủ như vậy, chúng sinh buông rơi được, chư Phật nâng được lên, là vì chư Phật và chúng sinh đồng thân cộng mệnh, chỉ một niệm này vốn đồng pháp giới, cho nên nói: Trên không dựa dẫm dưới tuyệt thân mình, đích thực là lỗi lạc, rộng lớn mênh mông, ngay lúc ấy làm sao thể hội, ngôn ngữ đạo đoạn chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, trân trọng Tiểu Tham Tăng hỏi: Triệu Châu nói: Đạo tột cùng không khó, chỉ hiềm nổi lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn, là rõ ràng, lão Tăng không ở trong rõ ràng thì ông có tiếc nuối che chở? Triệu Châu đã không ở trong minh bạch thì đi đến chỗ nào? Sư đáp: Bình thường không có lổ, chỗ này dứt tia sáng. Tăng nói: Thế thì khắp nơi đạp vào lỗ mũi của Triệu Châu. Sư nói: Lại là có chủ ý đến cách xa 3000 dặm. Tăng hỏi: Ý Triệu Châu thế nào? Sư đáp: Người không có chổ sơ hở mới biết. Tăng nói: Lúc ấy có vị Tăng bước ra hỏi: Hòa Thượng đã không có trong minh bạch, tiếc nuối che chở cái gì? Châu đáp: Ta cũng không biết, vị tăng này tuy biết hỏi như thế nhưng phần lớn giống như chó mực đuổi theo cục xương. Sư nói: Ngày nay lại thêm một cái nữa. Tăng nói: Con lúc ấy nếu là tăng kia thì chỉ cần đưa tọa cụ lên nói rằng: Con bình thường không giám chạm nhầm Hòa thượng. Sư nói: Lại là cửa chồng trên cửa. Tăng nói: Tăng ấy lại hỏi: Hòa thượng đã không biết vì sao lại nói không ở trong minh bạch? Châu nói: Việc hỏi đã xong, lễ bái rồi lui ra, Triệu Châu miệng đinh lưỡi sắc vì sao lại hổ thẹn mà dừng lại? Sư nói: Ta cũng biện giải không ra. Tăng hỏi: Đến đây có chổ biện giải không? Sư nói: Chớ nói Thiên Đồng không biện giải, đến thời Triệu Châu cũng bị dựa ngã. Tăng nói: Sẽ gọi là râu Hồ đỏ lại có người Hồ râu đỏ. Sư nói: Chỉ một câu này tàm tạm một chút. Tăng hỏi: Thế thì Hòa thượng và Triệu châu cách nhau bao nhiêu? Sư nói: Thiên Đồng lại là người Thấp Châu. gió. Tăng nói: Hoa hướng dương hướng về mặt trời, liễu rũ theo chiều Sư nói: Bình thường không có việc tốt, có chủ ý lừa gạt. Sư bèn nói: Nạp tăng làm được, buông được vững vàng tự nhiên, từng bước đạp xuống không luống công phu, từng câu nói rõ không luống âm vận. Cho nên Triệu Châu nói: Chí đạo không khó chỉ hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn rõ ràng, lão Tăng không ở trong minh bạch thì ông lại che chở tiếc nuối chăng? Nếu là chí đạo không khó chỉ hiềm lựa chọn, đích thực không một mảy may, thời tiết đặc biệt, chớ rơi vào minh bạch, buông xuống được tất cả, có gì bằng nhiều việc. Cho nên nạp tăng, vừa có Phật pháp thiền đạo liền thích ăn gậy đau. Tăng nói: Hòa thượng đã không ở trong minh bạch thì che chở tiếc nuối cái gì? Châu nói: Ta cũng không biết, ông xem, nó trả lời thì ra nắm lại xẹt cái đạo lý biết tận đáy này không được. Tăng lại nói: Hòa thượng đã không biết vì sao nói không ở trong minh bạch? Châu nói: Việc hỏi liền được, lễ bái rồi lui ra. Triệu Châu đến chỗ cực tắc thì có thể đẩy qua, lão hán này bình thường thẳng quá, không có chổ sơ hở, dứt góc nhọn, đến đây dường như bị Tăng kia kẹp chặt trên vách, dường như có sơ hở có góc nhọn. Sau này Tuyết Đậu tụng rằng: Chí đạo không khó, đầu mối lời lẽ, một, có nhiều thứ, hai, không hai loại, giữa trời trên mặt trời dưới mặt trăng, trước mái hiên núi sâu, nước lạnh, đầu lâu biết hết thích đứng đâu? Rồng ngâm cây khô, tan chưa khô, khó khó. Chọn lựa rõ ràng ông tự xem, hắn nói: Khó khó, lựa chọn rõ ràng ông tự xem, ở đây bỏ lựa chọn bỏ rõ ràng, phải hợp với Triệu Châu, huynh đệ đã vượt qua lựa chọn liền nói trên mặt trời dưới mặt trăng trong bầu trời, trước mái hiên núi sâu sông thì lạnh, đã vượt qua minh bạch liền nói đầu lâu biết hết thích đứng đâu? Rồng ngâm cây khô, hai câu này lại là thời tiết thiếu minh bạch trong động, chỗ làm của Triệu Châu đích thực là sờ góc ca- ïnh. Cho nên Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Nghiêm đáp: Rồng ngâm trong cây khô. Hỏi: Thế nào là người trong đạo? Đáp: Tròn mắt trong đầu lâu. Sau đó Tăng hỏi Thạch Sương: Rồng ngâm trong cây khô ý chỉ như thế nào? Sương đáp: Vẫn còn hỷ. Hỏi: Mắt trong đầu lâu ý chỉ thế nào? Đáp: Vẫn còn thức. Huynh đệ các ông đi thể hội xem, bỏ giáo và đắc đi, bặt tin tức đi, thấu thiệt đi. Cho nên nói: Sau khi chuyển công một sắc xem tự nhiên liền có thể hiểu trong tất cả thời dứt thấm dột, xuyên qua thanh sắc, không xứ sở, mất tung tích, liền biết, điều cùng cực trong đó cũng triệt để như thế mà cùng cực, việc đến trong đó cũng hoàn toàn như thế mà đến, chỉ ở trong đó, ẩn hiện đều hết. Nếu là người trong đó thì biết Thiên Đồng đêm nay đại sát sự rò rỉ, cắn răng cắn lợi, giết Phật giết Tổ vậy. Người tính nóng nảy, đều chân thật biết được quyết định không có gốc căn cứ, bên kia cũng không có gốc căn cứ bên đây cũng không có gốc căn cứ. Người không hiểu rõ ở trong tất cả lời nói, lại thêm một tầng nữa, phần các vị làm sao hợp? Nếu là người phóng khoáng trong đó tự có chỗ làm. Trân trọng. Tiểu tham, tăng hỏi: Cuốn rèm mắt đối diện ngàn đỉnh núi đẹp, lúc đóng thất nghe tiếng hót của trăm chim, ngay lúc ấy, lại có Phật pháp chăng? Sư nói: xuyên qua thanh sắc rồi không nương tựa, thường tự tại trong tất cả Pháp. Tăng nói: Sơn hà và đại địa đều lộ thân Pháp vương. Sư hỏi: Ngay lúc ấy làm sao đảm đương gánh vác? Tăng nói: Há không nghe nói: muôn sự muôn vật là gia phong cổ Phật. Sư nói: Việc ấy phải cẩn thận mới được. Tăng nói: Cổ nhân nói: Là thấy chẳng phải thấy, thấy chẳng phải là thấy, cây cột lồng đèn trước mắt. Vì sao nói chẳng thấy đây? Sư nói: Căn trần rõ ràng không nương tựa, xác thực tự thông nhau. Tăng nói: Mọi vật đều như vậy, các Pháp đều như vậy. Sư hỏi: Ông làm sao được như thế? Tăng nói: Mọi sự không đêm đến, luôn luôn được thọ dung. Sư nói: Cũng phải gót chân chấm đất mới được. Sư bèn nói: Thanh tịnh vô tướng, diệu minh bặt duyên, một mảnh ruộng này, xưa nay dời không được, tất cả pháp sinh, tự là các pháp sinh, rõ ràng không dính dáng đến việc khác, tất cả pháp diệt tự là các pháp diệt rõ ràng không liên quan gì đến việc khác, từ xưa đến nay vốn không hề vay mượn, rộng lớn khắp nơi không có chỗ nào không đến, ngay lúc ấy còn mé lớn không? Nếu có bờ cao lớn tức là ở bổn tâm của ông tự là giới tột cùng. Ngay lúc không có bờ mé đều hợp với hư không, rõ ràng không phải rỗng không, tột đỉnh tột đáy, ở giữa không một mải trần, nếu như thế lẫn lộn không ngăn cách đây là một nơi xuất sinh của chư Phật chư Tổ. Đây là chổ kiến tập của sơn hà đại địa. Chổ xuất sinh của hữu tình cũng như thể nơi kiến lập của vô tình cũng như thế. Cho nên nói: Hữu tình và vô tình cũng một thể nơi nơi đều chân Pháp giới, đến lúc ấy núi là núi lúc này, sông là sông lúc này sum la muôn vật cùng đất nước gió lửa của ông đều kiến lập lúc ấy. Nhẫn đến tướng dài ngắn vuông tròn vv… Lại không có khác, vừa khỏi tâm phân biệt liền thành tướng sai khác, tâm ông không phân biệt bình đẳng và bình đẳng, lại không bình đẳng suốt ngoài suốt trong, khắp giữa khắp bên cạnh thuần là chổ thấy vốn chân thật của ông. Nếu trong tâm địa có một chút nghi ngờ che lấp thì bên trong bị gân cốt trói chặt, bên ngoài bị núi sông mê muội, mệt mỏi ngã ở đường mê, vội vã ở cửa quan. Nếu rõ ràng liền có thể ẩn hiện ngay lúc này, ngay chổ ẩn hiện vi diệu lại biết được không? Mái chèo không cho thuyền thoát, qua lại trọn không mang túi nổi. Tiểu Tham Tăng hỏi: Khi sạch vết bẩn, ánh sáng mới hiện, tánh tâm Pháp đều quên tức là chân thật, xin hỏi, lý này thế nào? Sư đáp: Rộng lớn yên tỉnh rõ ràng không nương tựa, linh minh chỉ tự soi. Tăng nói: Có thể là trăng in bóng đầm trong, lò hương chùa cổ. Sư nói: Được bặc tin tức với cái gì? Tăng nói: Chỉ còn là tâm từ pháp biển lộ, pháp theo tâm mà sinh. Sư nói: Đều không như thế, chỉ được một câu hỏi. Tăng nói: Hãy đợi lúc khác. Tăng hỏi: nhớ lại các vị Tăng hỏi Phong Huyệt, nói nín chưa trừ hết vọng tâm phân biệt đối đãi, thế nào mà không phạm? Huyệt đáp: Nhớ lại Giang Nam trong ba tháng chổ gà gô gáy, hương trăm hoa, xin hỏi trong đó là chổ nào? Sư nói:Vượt ra vạn vật ra khỏi danh ngôn. Tăng nói: Lộ lộ. Sư hỏi: Thấy cái gì mà nói như thế. Tăng hỏi: Thế nào là một tấm lòng son, lòng son một tấm? Sư nói: Chỗ nói năng đạo đoạn vốn chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại. Tăng nói: Tuyết Đậu nói: Mổ bụng khoét tâm, ý này thế nào? Sư nói: Quả thực không có chổ hiểu ý rõ ràng của ông. Tăng hỏi: Thế thì Hòa Thượng nói hoà quan sinh sự, đẽo gọt đốc thúc thành nhà, lại thế nào? Sư nói: Sợ ông vào suy nghó, đoạn người làm mánh khóc. Tăng hỏi: Vẫn đảm đương được chổ hỏi của tăng này chăng? Sư đáp: Giống thì liền giống, mù mờ ngàn vạn dặm. Tăng hỏi: Nếu chợt có người hỏi Hòa thượng nói tín chưa trừ hết vọng tâm phân biệt đối đãi, thế nào là thông không phạm? Sư nói: Án a lô tặc kế tát bà ha. Tăng nói: Tin nhận vâng làm. Tăng hỏi nhớ lại Triệu Châu đến chổ Vân Cư. Cư hỏi: Lão đại sao không tìm chổ ở? Châu đáp: Dạy con ở chổ nào? Cư nói: Trước núi có nền chùa cổ? Châu hỏi: Hòa Thượng sao không tự ở? Xin hỏi ý chỉ thế nào? Sư nói: Tất cả chúng sinh đều đến đây tất cả chư Phật cũng lại như vậy. Tăng hỏi: Xin hỏi nền chùa cổ, đầu đường ở chổ nào? Sư nói: Nước trong cá kình biển rộng, lạnh buốt vầng trăng hẹp. Tăng nói: Sương ẩm lạnh ngàn đỉnh núi, lồng mây lạnh muôn cây. Sư nói: Lại chuyển kiếp công mới hợp với người kia. Tăng nói: Sao rụng trăng mờ không tin tức, vân lâu tan khách chén rượu khô. Sư hỏi: Ngay lúc ấy thế nào biện bạch. Tăng nói: Nước đầy miệng sương lạnh thấu xương, tin tức trong đây bàn luận với ai? Sư nói: Lại tàm tạm được. Sư bèn nói: Tâm là căn pháp là trần, hai tánh giống như vết trên gương, lúc trần cấu hết ánh sánh mới hiện, tâm pháp cả hai đều quên tánh tức chân, đến lúc này tất cả đều rơi xuống mới được, ngay lúc rơi xuống, kia và ta đều không kẹt vào xứ sở. Cho nên nói: Tâm rộng khắp mười phương không ở tất cả chỗ, lúc này không phải tất cả tâm, lúc này không phải tất cả pháp, cho nên khắp tất cả chỗ. Tăng hỏi Phong Huyệt: Nói nín chưa trừ hết vọng tâm phân biệt đối đãi, thế nào tâm không phạm? Huyệt nói: Nhớ hoài Giang Nam trong ba tháng, chổ gà gô gáy, hương trăm hoa, huynh đệ thêm một đầu sợi tơ giảm một mảy lông cũng không được, quả thực bốn cạnh lõm xuống đất nhấc lên không động. Nếu phân biệt được như thế, há chẳng phải vừa vặn hiện tiền sao? Mang máng nể tình, phảng phất lập hội, liền thành câu nói khờ lý giải, rốt cuộc chưa có phần trong sạch, nước giải cáo rừng ngay nơi dưới nôn ra hết, có việc gì? Huynh đệ vốn là như vậy, chỉ trong tâm địa không lập một trần, liền biết kia không đến, đây không đi, trong không ở, nếu cũng lãnh hội được việc trước mặt, lại bỏ mất việc sau lưng. Hoặc cũng lý giải được việc sau lưng lại quên việc trước mặt, nếu không ở trước mặt, sau lưng lại có việc gì? Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại vắng lặng liền có thể rửa sạch hết vết nhơ. Tuyết Đậu lại nói: Mổ bụng khoét tâm, đến đây dùi gõ không được. Vừa đến thì Tăng hỏi: Nói nín chưa trừ hết vọng tâm phân biệt đối đãi, thế nào nói lên không phạm? Sơn Tăng đối lời này nói “a lộ tặc kế ta bà ha’, điều ấy phải như thế mới được. Nếu là người biết rõ, vừa vặn nói Thiên Đồng 100%. Nếu không biết rõ, nói năng ấy, đạo lý ấy có thời tiết tương ứng gì? Lại không nghe Triệu Châu hỏi Đầu Tử: Lúc người đã chết mà sống lại thì thế nào? Đầu Tử đáp: Không cho đi ban đêm, sắp sáng phải tới, nếu biết được lúc này liền biết ngay trong lúc sáng có tối, chớ vì bóng tối gặp nhau, ngay trong tối có sáng, không vì ánh sáng thấy nhau, tất cả chỗ pháp diệt, lúc này rõ ràng thường còn, lúc tất cả pháp sinh lúc này rỗng không thường tịch, phải biết trong chết có sống, trong sống có chết. Triệu Châu lại đến chỗ Vân Cư, Cư hỏi: Lão Đại sao không tìm chổ ở ? Châu nói: Bảo con ở chỗ nào? Cư nói: trước núi có nền chùa cổ. Châu hỏi: hoà thượng sao không tự ở? Nếu không đến đây gọi là gì? Ruộng đất nghỉ ngơi, phải biết ngay chỗ này diệt hết, kiến lập từ đây, liền thấy ngay chỗ xuất sinh. Há không nghe Tu Sơn chủ sửa nghi thức an táng, tất cả chư Phật, tất cả chúng sinh đều an táng ở chỗ này. Tuyết Phong nói: Huynh đệ cộng mười chữ, đồng tâm đặt một nghi thức, sau khi củi hết lửa tắt mật thất nhừ như bùn, trân trọng. Tiểu tham tăng hỏi: Người ở mức độ điềm đạm kín đáo làm sao cất bước? Sư nói: Bên trong dời một bước, trăng sáng đuổi theo lượn sóng. Tăng nói: lúc tiến một bước tràn đầy ánh sáng. Sư hỏi: Ngay lúc ấy làm sao tiến? Tăng nói: Khi xoay người ở kiếp bình không, phong quang bên trong vẫn không rơi xuống . Sư nói: Trăng mới mọc thì mờ, phảng phất sao lại dời. Tăng hỏi: Thế thì lúc chưa tiến một bước, lại an thân lập mệnh ở chỗ nào? Sư nói: Sông ngân trong suốt không có sóng, nửa đêm trăng thu vắt ngang. Tăng hỏi: Người có du hí thần thông làm sao đặt mình? Sư nói: Hãy nói thần thông du hý tự hợp như thế nào? Tăng nói: Sáng tỏ không mê muội, rõ ràng thường biết. Sư nói: Quả là chưa siêu thoát. Tăng hỏi: Ai dám trái lại. Sư nói: Ứng hiện tất cả chỗ một mảy may cũng không để lại dấu vết. Sư lại nói: Việc động trần kiếp chỉ ở trong chớp mắt, nếu trong chớp mắt mé trước sau đều đoạn, lúc này đều vị không được. Trước trần kiếp chỉ là việc gì? Ba đời chư Phật mong ông cẩn thận không dính mắc, sáu đời Tổ sư nhìn kỹ gót chân ông không được, dù như Phật như Tổ chỉ là ở bên cạnh nhìn trộm, ngưỡng mộ khen ngợi có phần, trọn không dám hướng ngay đầu nói được một câu, dù ông làm hết phương tiện bày hết thông thái, muốn đương đầu nói một câu cũng không được, người bản sắc tự ở bản vị. Cho đến tất cả chư Phật xuất thế xâm phạm ta cũng không được tất cả chúng ta xuất hiện cũng không xâm phạm được ta, trước kiếp trần là một chỗ tọa cụ, là chỗ ở của ông, người người đến thời tiết này, kia không xâm phạm ta, ta không xâm phạm kia, pháp giới sáng rỡ, vốn không một mảy may cách vượt. Lúc này biết được thủng liền gọi là chư Phật, nếu ông trái giác hiệp trần liền là cảnh giới của chúnh sinh, nơi làm được lại có việc gì đến, phải điềm đạo kín đáo bình thường. Cho nên nói: Đến chính giữa, trong không có đường cách trần ai, nhưng có thể không phạm vào chỗ kiêng kî ngày nay, cũng hơn tài cắt lưỡi của triều đại trước. Hoặc là đến đó, tự nhiên tất cả đều không chạm vào, thẳng tới chỗ ồn ào đông nghịt, quả là xa xôi lẫn lộn không được, kia tự là kia, ta tự là ta, một con đường sáng suốt mênh mông không ai dám làm chướng ngại trong đó, là chổ hành vi của nạp tăng, dù như hạt cải nhỏ, một con đường trong đó cũng lớn như thế. Đây là cảnh giới chân tâm của ông. Nhẫn đến hoặc lớn hoặc nhỏ hoặc vuông hoặc tròn, đầy đủ rất nhiều chổ vi diệu tương ứng như thế. Cho nên nói: Phật tử ở nơi đây tức là thọ dụng của Phật, kinh hành và ngồi nằm, thường ở trong đó. Trân trọng. Tiểu tham, tăng hỏi: Đến tận nguồn gốc sâu xa, gốc rễ rõ ràng ứng hiện cùng khắp không mê hoặc can cơ đời sau. Thế nào là chánh pháp nhãn tạng đới? Sư đáp: Chỗ làm của nạp Tăng thầm lặng, máy tơ uyển chuyển trong đó. Tăng hỏi: Thế nào là Phật pháp tạng đới? Sư đáp: Tất cả chỗ văn ngôn xướng thuyết lúc Tổ sư chư Phật truyền tâm. Tăng hỏi: Thế nào là lý quán đới? Sư đáp: Là trần trụi, đỏ tuồn tuột. Tăng hỏi: Thế nào là sự quán đới? Sư đáp: Sáng rõ ràng, thường nhẹ nhàng thuận theo tất cả. Tăng hỏi: Thế nào là lý sự ngang dọc đới? Sư đáp: Trong đó ló đầu ra ứng thế, biện pháp phân tông không cùng đường. Tăng hỏi: Thế nào là bày uyển chuyển đới? Sư đáp: Uyển chuyển phải trái từ cong thẳng, biết tin tức thông thoáng lúc này. Tăng hỏi: Thế nào là diệu hiệp kiên đới? Sư nói: Chuyển hết rồi không nương tựa, ngay chỗ đó đều siêu việt. Tăng hỏi: Thế nào là đới hai khóa kim vàng? Sư đáp: Chánh đi thiên đến tự dung hợp, tin tức bí mật trong đó đều đầy đủ. Tăng hỏi: Thế nào là đới tâm bình đẳng tự nhiên thường chân thật? Sư nói: Lúc ông hỏi ta đáp quả thật không ngoài phần. Tăng hỏi: Chín đới đã được thầy chỉ bày, hướng thượng còn có việc không? Sư nói: Giống hệt như họp mặt ngũ sai. Sư bèn nói tiếp: Chỗ đến của chư phật, chỗ truyền của chư tổ, chỗ chứng của nạp Tăng, chỗ đắc của chúng sinh. Nếu cũng biết rõ ràng, môn phái trong đó, cách cửa nhất thời đánh thấu qua, chỗ nào không tương ứng, cho nên chín đới của Hòa Thượng Phù Sơn đều là chỗ làm chu toàn của Nạp Tăng, chánh Pháp nhãn tạng đới vậy, là chỗ thần truyền tâm của Tổ ta, lúc này không thể thông phong được, linh tự có mắt, soi được thủng, nâng được lên, xuyên qua được, tìm ra được, thật là vừa vặn chu toàn là phật pháp Tạng đới. Tất cả ngôn ngữ, một đại tạng giáo lúc nói ngang dọc không có một câu ngoài phần, cho nên nói: Trong bốn mươi chín năm chưa từng nói một chữ là lý quán đới, lúc này giống như trời xanh không mây, nước trong không sóng, ngay nơi đó xuyên qua được, rộng lớn không nương tựa, khéo bặc dấu vết là sự quán đới, mọi sự mọi vật, tâm tâm pháp pháp căn trần, nơi nơi xứ xứ, không mãi mai từ ngoài mà đến, liền có thể tung hoành rửa sạch bụi đời, chỉ có tâm tự tại rõ ràng không một vật, là lý sự tung hoành đới. Bên trong có thể ra bên ngoài có thể về, trần trụi gội rữa sạch sẽ không thể nắm, liền có thể nhô lên ở trong chỗ đông đảo ồn ào, chỗ rõ rành rành, thường thuận theo thời tiết vắng lặng, rõ ràng không có chỗ đông đảo ồn ào, là khuất khúc thuỳ đới vậy. Ông Đông ta Đông, ông Tây ta Tây, ông Nam ta Nam, ông Bắc ta Bắc, tự tại trong đó vốn không một chút thừa pháp là diệu hiệp kiêm đới vậy, lúc ấy siêu tông vượt cách, công hết trí quên, thầm có thời tiết hợp thể mới gọi là diệu hiệp là kim châm song toả đới. Lúc này chánh có thể đến thiên, thiên có thể đến chánh, ở trong đó chưa từng ứng sự, con có thể được cha, bề tôi có thể cung phụng vua đều có thể ở trong gia đình, chưa hiện tướng trạng liền biết, thọ dụng bên trong là bình hoài thường thật đới. Tất cả các việc trãi khắp tất cả mới có thể ứng sự, tự nhiên đống đất sụp xuống bốn góc, ở chỗ Tăng giống Tăng ở chỗ tục giống tục, ở cao giống cao ở thấp giống thấp tuỳ duyên đến cảm hóa, đuổi sóng theo sóng liền không trái lại, rõ ràng không chướng ngại nhau, ở trong không chướng ngại tự nhiên vừa vặn, cho nên nói đạo vô tâm là có thể như vậy, chưa được vô tâm cũng rất khó. Tiểu Tham Tăng hỏi: Nhớ lại Hòa Thượng Động Sơn, có ba đường học là điểu đạo, huyền lộ triển thủ thế nào điểu đạo? Sư đáp: Ứng xử không dấu vết, một chút cũng không chướng ngại thân. Tăng: Thế nào là huyền lộ? Sư: tròn như bầu trời, không thiếu không dư. Tăng hỏi: thế nào là triển thủ? Sư đáp: Dụng xác thực của đương cơ, đương cơ dụng xác thực. Tăng hỏi: Thế thì người xưa lại nói: Biết nối tiếp cây không gốc thì có thể khâu tiêm đèn biển, xin hỏi nối tiếp cây không gốc là gì? Sư đáp: Tuyệt tự sống lại, tri âm là đúng Sư bèn nói: Nếu nói về việc chân thật này thì vốn lìa tất cả hình trạng, lìa tất cả huyền hóa, lìa tất cả phù phiếm mới gọi là việc chân thật. Thật tướng là tướng vô tướng, chân tâm là tâm vô tâm, chân đắc là đắc vô đắc, chân dụng là dụng vô dụng. Nếu như vậy lại là chỗ làm rộng rãi này, lại là chỗ làm chân thật này, tột cùng của tất cả pháp, tánh của nó như hư không ngay lúc ấy lại không nó không được, tuy không mà diệu tuy rỗng mà linh, tuy tónh mà thần, tuy lặng mà soi. Nếu có thể như vậy, trước trời trước đất, một việc trọng yếu, sinh tử là hình ảnh, trong đó tuỳ theo mộng huyễn mà lưu chuyển, ở trong tất cả cảnh giới, đặc biệt không có một chỗ đắt lực, biết được thủng, phân biệt được suốt, gọi quay lại, tìm được ra, ở tất cả các pháp, cùng hình bóng mà sinh ra, ở tất cả các tướng, cùng huyễn hóa mà dùng, như điện như ảnh, như mộng như tiếng vang, rõ ràng không có một chút chân thật, bản nhiên thanh tịnh, lúc này cùng khắp pháp giới đều như vậy, cho nên nói: pháp theo pháp làm, pháp trang tùy theo chỗ kiến lập, chỗ nào chẳng phải là chỗ phóng ánh sáng của các vị: chỗ nào chẳng phải chỗ được thọ dụng của các vị? Chỗ nào không phải chỗ hiện thần thông của các vị? Chỗ nào chẳng phải là chỗ làm Phật sự của các vị? Nếu nói về việc mang cái vỏ lảng này, ở tất cả thế gian, ở trong tất cả các pháp, không bị tất cả các pháp chướng ngại, nhưng thích hợp liễu thoát sinh tử cuối cùng đi như thế, cho nên nói: Biết nối tiếp cây không gốc, có thể khểu ngọn đèn biển, lúc này chỗ dứt hơi thở, làm sống được, bắt chỗ mất ánh sáng sáng được ra, lại phải bước qua một bước, các pháp đều như thế, chỗ biến chuyển của chính mình, như trong thân ta hiện tất cả tướng, tất cả tướng trang nghiêm trong thân ta, lúc này cũng không thấy có tướng nghèo giàu, nam nữ, phải trái, được mất sai khác… vì các vị có chấp tướng, cho nên không thể hợp pháp giới với hư không… Có vị Tăng đến chỗ Hiệp Sơn, Sơn hỏi: ông từ đâu đến? Tăng đáp: Từ Động Sơn đến. Sơn hỏi: Động Sơn có lời gì chỉ dạy đệ tử? Tăng đáp: Ngày thường dạy con ba đường học. Sơn hỏi: Sao gọi là ba đường? Tăng đáp: Huyền lộ, điểu đạo và triển thủ. Sơn hỏi: thật có lời này chăng? Tăng đáp: Thật có. Sơn nói: Quỷ giữ bạc giấy ngàn dặm, đạo nhân trong rừng thương xót. Nếu ông biết hết tất cả pháp liền thấy mười phương không có tường vách, bốn bên cũng không có cửa, đều không nương tựa, đều không có nhân duyên, lúc này thấy được há chẳng phải là một đường học ư? Có thể nhập thế, tất cả pháp tiêm nhiễm không được, tất cả pháp lôi kéo không được, há chẳng phải là một đường học ư? Kỳ hoặc xanh xanh vàng vàng chỉ Đông vạch Tây, pháp ấy trụ ngôi pháp tướng thế gian thường trụ, há chẳng phải là một đường học sao? Mọi người phải chân thật đến thời tiết như thế mới được. Nếu ông không từng đến đó liền bị Hiệp Sơn nói là quỷ giữ giấy bạc ngàn dặm, đạo nhân trong rừng thương xót. Tiểu tham Tăng hỏi: khi công huân đã hết, quang cảnh đều quên thì như thế nào? Sư đáp: Bên trong không có câu đọc, ngay dưới đó lại gặp nhau. Tăng hỏi: Thế thì ngay lúc gặp nhau là mặt mũi gì? Sư đáp: Kéo lỗi mũi dài một thước. Tăng nói: Thô xấu mặc cho ông ghét, không mang sắc khói sương. Sư nói: Thầm xem chuyển xoay trong đó, lúc ấy một bước phải sáng suốt. Tăng hỏi: Thế thì người xưa nói cây cột mang thai, ý chỉ thế nào? Sư đáp: Mang máng còn lợi công, thấp thoáng chưa soi rõ. Sư lại nói: Trong pháp của Phật chân thật khắp nơi, ắt phải đến tận thời nay hoàn toàn vượt lên kiếp không, lúc ấy siêu thoát, buông được rơi xuống, mười phương không tường vách, vừa tuyên dứt phương góc. Há chẳng phải là chỗ lộ trần trụi sao? Ở trong đó phân biệt rõ, thể được diệu, tất cả hình bóng sinh tử đều kiến lập không được, tất cả đạo lý danh ngôn đều chạm không được, chính là toàn thân ông, chính là lỗ mũi của ông, há không thấy sao? Kính Thanh hỏi Linh vân: Lúc hỗn độn chưa rõ thì thế nào? Vân đáp: Cây cột mang thai. Thanh hỏi: Sau khi rõ thì thế nào? Vân đáp: Như mảnh mây điểm bầu trời. Thanh hỏi: Thế thì bầu trời lại còn nhận điểm không? Vân không đáp. Thanh nói: Thế thì loài hàm sinh không đến? Vân cũng không đáp. Thanh hỏi: Đến nỗi thuần trong lúc ấy như thế nào? Vân đáp: Giống như chân thường lưu trú. Thanh hỏi: Thế nào là chân thường lưu trú? Vân đáp: Giống như gương sáng mãi. Thanh hỏi: Hướng thượng còn có việc không? Vân đáp: Có Thanh hỏi: Thế nào là việc hướng thượng? Vân đáp: Đập bể gương cùng ông gặp mặt. Huynh đệ biết được trọn lúc này dù rỗng không không nó cũng không được, mới thấy thời tiết của cây cột mang thai, rõ ràng chút ít, dời dấu vết bèn thấy thời tiết mảnh mây điểm bầu trời, bầu trời trọn không nhận điểm, Linh Vân đến cắm lưỡi vào trong đó không được, lúc loài chúng sinh không đến, quả thực là cửa miệng hẹp đến nỗi thuần trong dứt điểm, giống như gương sáng mãi, như là chân thường lưu trú, lúc ấy có biện bạch, nơi như thế có trí dụng, phải biết hướng thượng lại có việc tồn tại, cho nên nói: Đập bể gương cùng ông gặp gỡ, trong đó phát ra ánh sáng đoạn công huân, hợp với người ấy. Minh An nói: Chiếu khắp thể không nương tựa, khắp người hợp đại đạo, đây là chỗ chân thật của chư Phật chư Tổ, dung hợp trong diệu, chuyển xoay trong huyền, hình bóng sinh tử chưa từng manh nha, đây giống như việc trước kiếp không. Quả thực chưa từng gặp trời người, lại phải dời một bước rộng, được đại thọ dụng nơi đông đảo ồn ào, trong muôn vật, ta đã hiện thân, chỗ này ngang bằng với tất cả pháp, ta và các pháp cùng hiện cùng ẩn, cùng sống cùng chết, không có một việc nào mà không từ đây sinh ra, tất cả các pháp đều từ đây sinh ra. Cho nên nói: Trời đất cùng một thể với muôn vật, nếu đến lúc đó có nhãn căn nhó thức ngoại phần nào, có sắc tượng âm hưởng ngoại phần nào là sự tận cùng của bày tỏ tận cùng, sáng giữa sáng bên cạnh của nạp tăng, tất cả đều đến thời tiết đem đến. Ngày 30 tháng chạp tự nhiên toàn thể đi như thế. Hãy nói: Ngay lúc đi như thế nào? Trương Khiên tìm hết nguồn nước dữ, xô ngã côn luân không nương tựa. Tiểu tham, tăng hỏi: Hai bên đều không lập, trung đạo không cần an, ý chỉ như thế nào? Sư đáp: Trong đó không có chỗ cho ông đặt bước. Tăng nói: Bậc Thánh xưa không an bài, đến nay không xứ sở. Sư hỏi: Trong tăng đường nhịn cháo nhịn cơm là ai? Tăng nói: Trong 12 thời đến nỗi quá no. Sư nói: Quả nhiên là tăng cháo cơm. Tăng hỏi: Rốt cuộc dạy họ hướng đến chỗ nào để nắm? Sư nói: Ngoài trời không còn đường đi, trong đó riêng mình phải tỉnh táo. Tăng nói: Ngẩng đầu còn ánh chiều tà vốn là trụ ở phương Tây. Sư nói: Chỗ lẫn lộn không để lộ tin tức, đến lúc không bạn lữ. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Tất cả chỗ thâu gồm không được, tất cả thời bao trùm không khắp. Cho nên nói: lao lung không chịu trụ, kêu gọi không quay đầu, bậc Thánh xưa không an bài, đến nay không xứ sở. Nếu là người làm như thế quả thật là cùng khắp trời đất, Đông Tây Nam Bắc bốn góc trên dưới, quả là không chỗ trống, liền lao lung không chịu trụ. Đã lao lung không chịu trụ liền kêu gọi không quay đầu, không chỉ Thích-ca Lão-tử mà Đạt-ma Đại sư cũng làm như thế. Nếu là vọng tưởng của ông hết, vừa đúng không rơi vào niệm thứ hai, ngay lúc đó có quay lưng gì? Có vật và ta gì? Có gì là kia đây cứ mãi hỗn loạn không được, xếp loại không xong, vì sao như vậy? Vì ở trong tất cả thời, tất cả xứ sáng suốt rõ ràng, không bị vật khác che lấp, không bị vật khác bao trùm, chỗ nào không phải là con đường xuất thân của Thượng tọa? Cho nên nói: Chỉ lộ thân trong muôn vật, chỉ có người tự bằng lòng mới gần gũi, năm xưa sai lầm tìm kiếm trong đường, ngày nay xem lại băng trong lửa, nếu phân biệt rõ như thế, lúc này một mảy may kẹt không được. Nếu có một đầu sợi lông liền bị ba cõi chướng ngại, ngay lúc ấy, cũng không có ba cõi có thể ra, cũng không có ba cõi có thể vào, lẫn lộn giống như một hạt minh châu, bản sắc nạp tăng phải làm như thế. Tiểu tham, tăng hỏi: “ Nhớ Hòa thượng Động Sơn dạy chúng rằng: “ nếu nói về việc này, giống như người ta nuôi được ba đứa con, trong châu phải được một đứa, trong huyện phải được một đứa, trong thôn cần được một đứa, thế nào là người trong châu?” Sư nói: Tôn quý không biện pháp, người nào được họ tên? Tăng hỏi: Thế nào là người trong huyện? Sư đáp: bước chân ngay cửa, vừa hỏi đường, mù mờ biện bạch liền thông tin tức. Tăng hỏi: thế nào là người trong thôn? Sư đáp: Hòa quang đồng trần đến như thế, khắp nơi bất động không ngoài phần. Sư bèn nói: Nạp tăng làm được chu toàn, lo gì nói không được, lo gì làm không được, nếu ông không từng chân thật, đến không được một trăm phần trăm, chu toàn liền có sai sót. Nếu là người không có sai sót này thì lời nói của chư Phật chỉ là cái này, việc Tổ sư làm cũng là cái này, phần mọi người đầy đủ viên mãn, ở giữa đó có đảm đương, có gánh vác, có tỉnh phát, có rõ ràng, lúc chợt có gián đoạn không thể mênh mông cuồn cuộn thành một mảnh gọi là người tu tập. Nếu là việc làm của bậc đại trượng phu, vừa tiêu ra liền xong, vừa nôn ra liền hết, bên trong không giữ lại một sợi tơ, chính giữa không giữ lại một sợi tóc, tâm quá khứ không thể nắm bắt được, tâm vị lai không thể nắm bắt được, tâm hiện tại cũng không thể nắm bắt được, khắp mười phương là tâm này, tận ba đời là pháp này, sao không liền tháo đáy thùng đi, chỉ vì trong tâm địa của ông suy nghó loạn xạ, va chạm rối loạn ở trong vọng tưởng, đan dính, sắp xếp, chắp nối, lúc nào mới được triệt ngộ, nếu ông ngay đây có thể buông xuống, không thấy thân này, không thấy thân này, lúc này đầy hư không khắp pháp giới, chỉ là một mình ông, ba đời chư Phật xuất thế cũng ở trong thân ông mà xuất thế, tất cả chúng sinh điên đảo trong thân ông, cho đến ba cõi chín địa, lớn nhỏ vuông tròn đều là chỗ hiện hình bóng trong chính thân ông, cho nên Hòa thượng Động Sơn nói: Nếu nói về việc này như người ta nuôi được ba đứa con, trong châu cần được một đứa, trong huyện cần được một đứa trong huyện cần một đứa, ông hãy nói: Đứa nào là người trong châu, đứa nào là người trong huyện, đứa nào là người trong thôn? Nếu một niệm sạch hết rộng lớn và yên tónh không nương tựa, ba đời chư Phật, trông tướng đảnh của ông cũng không được, là chỗ làm này, rõ ràng sáng suốt, lặng lẽ mà biết, sáng soi rực rỡ, tỉnh táo rành rành, hiểu rõ là việc làm này, tuỳ cao tuỳ thấp, chiếu xanh chiếu vàng, sát sát trần trần, tâm tâm pháp pháp, là chỗ làm này, nếu ông biết rõ xỏ làm một xâu, há chẳng phải là thời tiết của nạp tăng ngang dọc đều đến ư? Liền biết huyền trong huyền vượt trên Tỳ-lô, vượt cả Thích-ca .Huyền trong thể, tất cả chỗ tự nhiên biến khắp. Huyền trong câu bô lô ba la bày ra tướng lưỡi rộng dài, há chẳng phải là thời tiết, là thọ dụng đầy đủ của nạp tăng ư? Là chỗ làm của ông là chỗ làm của ta, là chỗ làm của chư Phật chư Tổ, lại có Tăng tục nam nữ gì? Nếu không bị sinh tử lưu chuyển, không bị cảnh giới mê hoặc, thì sống cũng do ta chết cũng do ta, cởi bỏ cái vỏ rò rỉ như xem truyền nhà, như là thay đổi y phục. Nếu làm sơ sài không đến nơi, thì nhận thân là mình, tác vật làm vật khác, đã quên đường cũ, liền mất chánh nhân, đến đi tự nó ngăn cách. Nếu biết được diệu chiếu hết lo gì không kết quả. Ngay lúc ấy làm sao biện bạch? Thành tựu như thế, há không nghe lục Tổ nói: Tâm địa dung chứa các loại, mưa rưới khắp thảy đều nẩy mầm. Đốn ngộ hoa tình rồi, quả bồ-đề tự thành. Tiểu tham Tăng hỏi: Ánh sáng cực tịnh sáng tỏ lặng soi trùm cả hư không, Thích-ca Lão tử bốn cạnh sụp xuống đất trong đất, bọn Nạp Tăng làm sao chuyễn mình? Sư nói: Bên trong khởi dụng ngang dọc, khắp nơi vô tâm thích hợp lẫn nhau. Tăng nói: Xác thực không kiêm đới, rõ ràng không che giấu. Sư nói: Ứng xử toàn chân chẳng cho mượn, suy lường do dự cách ngàn núi. Tăng nói: Khi khoá vàng lay động không xúc phạm, sóng biết trăng lòng thỏ thường đi. Sư nói: Giống như thời tiết chưa ra được. Tăng hỏi: Lúc bên trong ra được thì thế nào? Sư nói: Trên đường gặp rắn chết chớ đập giết, làm cái làn sách đem về. Sư bèn nói: Phật phật trao tay, Tổ tổ truyền tâm, cũng không có một việc an bài của người, khác cũng không nhận phần một chuyễn ngữ của nơi khác, Nạp Tăng tự chứng tự đắc, trong thì sáng, rỗng thì linh, lặng mà có thần, dụng mà xung, ở bên trong thì soi không sót ở bên ngoài không liên quan đến duyên, chỉ có sáng suốt soi tận đáy, ở bên đây không bị các pháp xoay chuyễn, ở bên kia không bị tịch diệt gò bó, cho nên nói: vời vợi kiếp không không thể thâu, há làm trói buộc với trần cơ. Nếu có thể đi như thế, sinh tử rõ ràng không trói buộc được ta, nhân duyên rõ ràng không lôi kéo ta, ở trong nhân duyên sinh tử vừa vặn tự tại, lúc sinh đến trục lăn lại không có tướng khác, ngay lúc không có tướng khác ở các pháp thật chuẩn xác tất cả, tất cả các tướng tức là tự tâm, cho nên nói: Muôn pháp là ánh sáng của tâm, các duyên do tánh mà biết, nếu có thể ở trong tất cả chỗ tất cả thời không bị các duyên lôi kéo là người đại trí tuệ, phá trần làm ra kinh quyển lượng bằng ba ngàn cõi, chỉ là tâm diêu tịnh minh của các vị. Ở trong tất cả trần, tất cả cõi ngang bằng với pháp giới trong sáng như trăng tròn, ánh sáng diệu minh thường chiếu ở trong các duyên, ló một đầu ra. Người xưa nói: Ngay chỗ thấy nghe này chẳng thấy nghe, lại không có thanh sắc có thể trình ông, trong đây nếu biết tất cả vô sự thì thể dụng ngại gì rõ không rõ. Nếu có thể đi như thế thì nghe tiếng liền ngộ đạo, thấy sắc liền sáng tâm, đến lúc này không bị tất cả pháp chướng ngại, mọi vật đều là chính mình, tâm tâm dứt các duyên, chỗ nào không thành đẳng chánh giác, chỗ nào không chuyển đại pháp luân, chỗ nào không độ thoát chúng sinh, chỗ nào không nhập bát-niết-bàn. Nếu nói về việc này thì bất luận là Tăng tục, không do gần xa. Nếu một niệm của ông tương ưng, soi thể độc lập, vật và ta đều như như, tất cả thời tròn đủ, rõ ràng, sạch trùng trục, đỏ tuồn tuột, rỡ rỡ hiện tiền, ở tất cả thời thành Phật làm Tổ, chỉ vì ông buông không xuống, tự xây bức tường giới hạn liền thấy có mình và người, là ông tự chướng ngại ba cõi, ba cõi há từng chướng ngại ông ư? Nếu tự không làm chướng ngại, liền là thân rộng khắp, tâm rộng khắp, là người đại tự tại, cho nên người xưa nói: Nếu có một pháp thì Tỳ-lô rơi vào phàm phu, vạn pháp nếu không thì Phổ Hiền mất cảnh giới của mình, hãy nói làm sao được vừa vặn tương ưng: có biết chăng? Hư không ai chịu treo một vật, biển cả tự nhiên tỏa trăm sông. Tiểu tham, tăng hỏi: Nhớ lại có vị Tăng hỏi Hiệp Sơn thế nào là đạo? Sơn đáp: Thái dương tràn ngập mắt, muôn dặm không treo một áng mây, ý như thế nào? Sư đáp: soi sáng rõ ràng khúc vô tư, ngay dưới đó đảm đương không liên quan đến sự việc. Tăng nói: Sạch trùng trục đỏ tuồn tuột. Sư hỏi: Có từng như thế không? Tăng nói: Thể vô tâm đắc đạo vô tâm, tể được vô tâm đạo cũng không? Sư nói: người này thật được tự tại. Tăng hỏi: nếu chợt có người hỏi Hòa thựơng thế nào là đạo, lại thế nào? Sư đáp: Ngã tư đầu phố thôi chặt trán. Tăng nói: Nhỏ ra lớn gặp. Sư nói: Ông có từng giẩm vào chưa? Tăng nói: Gặp nhau không đưa ra, nêu ý liền biết có. Sư nói: Trường an trăng đêm sáng từng nhà, mấy chỗ biểu diễn ca nhạc mấy chỗ buồn. Tăng hỏi: Nhớ lại Quy Sơn có một lần hái chè, hỏi Ngưỡng Sơn rằng: suốt ngày chỉ nghe tiếng ông, không thấy hình ông. Ngưỡng Sơn đu đưa cây chè, ý chỉ thế nào? Sư đáp: Trước mặt hiện rành rành, toàn thân sống động. Tăng nói: Ngưỡng Sơn lại hỏi Quy Sơn, Quy Sơn yên lặng giây lát, ý chỉ thế nào? Sư đáp: Cắt đứt hai đầu đường, ở giữa không cách một sợi tơ. Tăng hỏi: Trong đó còn được mất chăng? Sư đáp: Một cái được thể, một cái được dụng. Tăng hỏi: Thế thì Thiên Đồng sáng nói chiều nói là còn biết thể biết dụng? Sư đáp: Chót lưỡi không le ra khỏi miệng, ông chớ loạn châm chuỳ. Sư bèn nói: Bọn nạp tăng làm được khéo léo, ruộng đất tự nhiên vững vàng kín đáo, thọ dụng không trở ngại sự trong sạch thanh cao, có lúc giống như con diều hâu giỏi bắt chim câu, bắt được bắt không được liền đi như thế, có lúc giống như con mèo ngơ ngẩn chờ chuột, chờ được chờ không được, chỉ giữ như thế, cứ thế bắt cho được, đợi cho được, dù thể hay dụng tự nhiên có chỗ tỉnh ra, cho nên Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, suốt ngày chỉ nghe tiếng ông không thấy hình ông, Ngưỡng Sơn đu đưa cây chè. Quy Sơn nói: Ông chỉ được dụng Ngưỡng Sơn hỏi: Hòa Thượng thế nào? Quy Sơn yên lặng giây lát, Ngưỡng Sơn nói: Hòa Thượng chỉ được thể. Người được thể không bị sinh tử dao động, người được dụng sự tung hoành không bị ngừng trệ. Nếu không bị vật bên ngoài chướng ngại, không bị tịch lặng bên trong giam giữ, uyển chuyển qua lại tự nhiên thành một nhà, mới biết Quy sơn được thể, Ngưỡng Sơn được dụng, cha con nhà họ có chỗ gần nhau, cũng có thời tiết đoạt lấy nhau. Nếu làm được triệt để mới biết cha con Quy Sơn, đều không luống uổn, lúc thể ở trong thể thời được dụng, lúc dụng ở trong dụng thì được thể. Cho nên nói: Mượn công biết vị, dụng ở trong thể, mượn vị biết công, thể ở trong dụng, hãy nói lúc hoàn toàn không mượn thì như thế nào? Thiên chánh không từng lìa bản vị vô sinh nào liên quan nói nhân duyên. Tiểu tham tăng hỏi: nhớ lại ngài Nam Tuyền hỏi một am chủ: thế nào là chủ trong am? Chủ đáp: Trời xanh, trời xanh, ý này như thế nào? Sư đáp: Hôm nay lại thêm oán khổ. Tăng nói: Nam Tuyền nói trời xanh thì lại dừng. Thế nào là chủ trong am? Chủ nói: Biết thì liền biết, không cần lo lắng. Nam Tuyền phủi tay áo liền đi, ý này lại như thế nào? Sư nói: Hôm nay thượng tòa lo lắng ghê gớm. Tăng nói: Am chủ tỏ hết nỗi lòng, Nam Tuyền thật là trượng phu. Sư hỏi: Là thế chăng? Sư bèn nói: Nếu nói về việc thông thường này ắt phải hiểu rõ một chút, có một đầu sợ lông vượt qua, phạm lỗi đầy trời, nơi chứng đắc của chư Phật chủ Tổ, chính là chỗ chứng đắc của nạp Tăng. Nếu trên đầu ông có Phật Tổ, làm sao thấy được chính mình. Nếu không thấy được chính mình lúc này, lập Phật không được lập tổ, người pháp không được, ngay dưới đó rộng lớn cùng khắp tất cả, ngay lúc buông xuống, thuần là chính mình vì sao gọi là Phật gọi là tổ. Tổ không phải là người thứ hai, Phật là bậc tỉnh giác sáng suốt, đây là thời tiết tựu đến của nạp tăng chân thật. Nếu chân thật tự đến, mới tiết gọi quay lại được, được dụng tại chỗ cho đến thấy nghe hay biết, lộn xoay cúi ngữa, đều là dụng của trục quay như thế, không cách một đầu sợi tơ. Nếu ông không được thời tiết ấy thì lúc sinh không biết sinh ở chỗ nào, lúc tử không biết tử ở nơi đâu, đã không rõ nơi sinh, thì không biết có chỗ tử. Nhẫn đến không biết đất nước lửa gió, thấy nghe hay biết, liền gọi là hình bóng huyễn hóa, thì không thấy người bản lai, người bản lai cũng tuỳ phần gọi là dụng bên con cháu. Cho nên nói: Ta có sáu anh em đều vì ta lo việc thành gia thất, nếu ông không biết có liền gọi là sáu giặc tự cướp gia bảo vậy. Mắt thấy sắc trở thành đứa con tước đoạt gia kế trang nghiêm của ông, tai nghe tiếng trở thành đứa con tước đoạt gia kế trang nghiêm của ông, cho đến hương vị xúc pháp thảy đều như thế, như thế phải hiểu rõ mới được. Các huynh đệ, có từng được như thế chăng? Không nghe Nam Tuyền hỏi am chủ: thế nào là chủ trong am? Chủ đáp: Trời xanh, trời xanh. Tuyền hỏi: Trời xanh lại dừng. Thế nào là chủ trong am? Chủ đáp: Biết thì liền biết, không cần lo lắng. Nam Tuyền tay áo liền đi. Lúc ấy bèn một cái đẩy ra dụng. Nếu có một số đạo lý Phật pháp, lại trở thành tất cả tâm duyên vong tưởng xen lẫn nhau, hiện thành công án, như thế phải suốt thấu ngọn nguồn, nếu không có như nhiều tâm duyên vọng tưởng, tự nhiên ló một đầu ra, giống như dòng xoáy trên sông Hoàng Hà, ở tại nơi mắt thì nói thấy, Linh Vân thấy hoa đào liền ngộ đạo, ở tai nói là nghe, Hương Nghiêm vừa nghe thấy tiếng trúc mà sáng tâm. Bình thường ông nghe tiếng trống liền đến giảng đường. Thấy đi ăn liền biết đi ăn cơm, lúc ấy ngay nơi đó đi thế nào? Đều không phải là đạo lý, chỗ nào không tương ứng. Vừa có phải trái thì lộn xộn thất tâm, ông có từng ở trong 12 thời không lý lẽ không suy nghó chăng? Bình thường ông có từng điềm đạm kín đáo khăng? Đã nói tất cả đều là chính ông, thì không thấy có tướng khác. Đại sư Vân Môn nói: Cơm há chẳng phải là chính ông sao, cớ sao lại lấy mình ăn mình? Trong lúc buông xuống được phải là ngừng hết. Nếu có một đầu sợi tơ thì không thấy, nếu thấy thì thấy chỗ sinh. Cho nên noí: Nếu đi đến tận thì cũng là ba đời chư Phật treo miệng trên vách, giống như một người cười lớn ha ha, nếu biết người này thì việc tham học đã xong, trân trọng. Tiểu tham, tăng hỏi: Miên mật không cho kẹt vào mắt, sáng suốt rõ ràng cùng truyền tâm, thế nào là tâm truyền? Sư nói: Lúc lẫn lộn không hình bóng, lúc rõ ráng bặt dấu vết. Tăng nói: Bảo ấn đương phong diệu, từng lớp gấm mở ra. Sư nói: Máy tơ lúc đầu không đặt, trong đó khéo không dấu vết. Tăng nói: Tâm rỗng không đỗ đạt. Sư nói: Ông nói lúc tâm rỗng không đỗ đạt được chỗ nào? Tăng nói: Cả thế giới đều nói không, ngôi vị, đương cơ phải rõ chỗ sâu xa này. Sư nói: Thì đỗ thì mặc ông đỗ, xuất chúng mặc tình ông xuất chúng. Tăng nói: Nhớ lại có vị tăng hỏi Đạo Ngô: Thế nào là chỗ gắng sức của người học? Ngô đáp: Ngàn vạn người gọi không quay đầu, ý chỉ thế nào? Sư nói: Chỗ làm của người vác bản. Tăng hỏi: Thế nào là chỗ gắng sức của người học? Sư đáp: Lúc cơ luân chưa chuyển ngay nơi đó được đảm đương. Tăng hỏi: Nhân sư vừa nói: Lúc đầu không đặt máy tơ, trong đó khéo không dấu vết, ngay lúc đó có biện bạch không? Sư đáp: Đẩy mở cửa trăng sáng, không khí giống như mùa Thu. Tăng nói: Núi không mây thong dong, mảnh trăng đêm tìm đến nhau. Sư nói: Khi một sắc chuyển lại giống một sắc Tăng nói: Triệu Châu nói phật bùn vì sao không qua nước? Sư đáp: Tan nát hết. Tăng hỏi: Phật vàng vì sao không qua lò? Sư đáp: Nung tan hết. Tăng: Phật gỗ vì sao không qua lửa? Sư: Thiêu cháy hết. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Mọi việc trọng yếu này ắt phải mỗi người tự được, mỗi người tự chứng, có thể vượt qua sinh tử, có thể xuyên qua cổ kim, có thể đồng đắc với Phật, tổ. Cho nên nói: tất cả chúng sinh đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước mà không chứng đắc. Nếu ông lìa vọng tưởng, chấp trước thì không có một chút việc, như nay nhận đất nước lửa gió làm mình, há chẳng phải là vọng tưởng chấp trước ư? Gọi cái gì là mình? Chỉ là vọng tưởng suy nghó phân biệt của ông là vọng tưởng thấy nghe hay biết ắt phải dừng lại đưược không, không vô tướng trong sáng bặt duyên, rộng hợp cùng pháp giới hư không, lúc này là bản thân của ông. Nếu lúc ấy thấy suốt rõ ràng như hư không không thể treo kim. Lúc ấy đã lìa tướng sống, có tướng chết gì? Cho nên nói: hai thứ sinh diệt vốn lìa bỏ ấy gọi là thường chân thật, đây gọi là lý vô sinh, thì hắn không thể sinh thì không chết, thế thì trước khi bào thai chưa có thì ông kệt ở chỗ nào? Nếu nói là tướng trạng gì? Lúc này nếu giống như một vật thì trở thành chướng ngại, không được tên không được hình dáng có thể như thế, lại được chỗ ở nơi bản sở. Nếu không hiểu rõ, biết không thủng sao biết được như thế, cho nên nhọc nhằn Phật xuất thế, Tổ sư kiến lập, phần mỗi người đều đầy đủ, lúc này không có tướng nam nữ sai khác v.v…. thuần nhất thanh tịnh diệu minh gọi là tướng chân thật. Tất cả đều hết, liền thấy Triệu Châu nói: Phật bùn không qua nước, Phật gỗ không qua lửa, Phật vàng không qua lò. Đến đây, có nhân duyên, có hình tướng, có danh tự, đều lập không được. Nếu ngồi trông nhà chân Phật, lúc này ba đời chư Phật, ngữa mặt nhìn không kịp, lịch đại Tổ sư truyền giữ không được, lão Hòa Thượng trong thiên hạ nói ngang nói dọc nói không được, chỉ do mình chứng ngộ mới được. Như người uống nước nóng lạmh tự biết, chỉ riêng mình biết rõ, người khác không thể thấy biết. Nếu lúc này biết rõ liền biết hoà lẫn tối trong sáng, công đều khó chuyển giác, sức tàn quên tiến thoái, khoá vàng mạng lưới căn phòng Nếu phân biệt được như thế, đục vào xương tủy của chư Phật, được mạng mạch của Tổ sư. Nếu không được thời tiết như thế thì lại đi vào luân hồi sinh tử, địa ngục thiên đường lúc nào ngừng dứt, chỉ vì ông vốn chưa từng thành làm Tổ. Nếu như ông đã từng thành Phật làm Tổ thì lưu chuyển ông, hiểu rõ ràng ở trong địa ngục súc sinh đều được tự tại biết rõ ràng đều là cảnh giới sở diện của tâm ta. Cho nên ở trong địa ngục như có được niềm vui ở cõi Tam thiền, đem cái vỏ rò rỉ này, trời người mặc tình thọ dụng như thế. Trong thân hoặc nam hoặc nữ cũng giống như chỗ thành Phật thành tổ, tất cả chỗ mê không phải là Phật, tất cả chỗ hoại không phải là pháp, tất cả chỗ lẫn lộn không phải là tăng, phần ông đầy đủ Tam bảo. Lại không nghe Bàng cư só nói: mười phương đồng tụ hội, mỗi mỗi học vô vi, đây là trường tuyển Phật tâm không đỗ đạt trở về. Nếu tâm địa rỗng rang thanh tịnh thì chính là thời tiết đỗ đạt. Nếu có đầu một sợi tơ liền trở thành chướng ngại pháp. Đến đây thiện ác giống như vành mũ nhọn rơi mất hai đầu. Thân tâm lúc này rộng lớn như pháp giới, rốt ráo ngang bằng hư không, rõ ràng xác thực, liền biết cành vàng gõ cửa ngọc, âm thanh vút tận bầu trời xanh biếc. Nếu đều từ đây xuyên qua được, rõ ràng mà biết, rành rành mà soi, bước một bước ứng thế, đi trên đầu các pháp, lúc này núi là núi sông là sông. Nếu thành tựu đầy đủ, núi là núi sông là sông, nhỏ là nhỏ lớn là lớn. Được mức độ như thế, lúc nào mà không thành đạo, lúc nào không thuyết pháp, lúc nào không vì người, lúc nào không biết mình cho nên Tuyết Phong nói: Khắp đại địa túm lại, như hạt ngô hạt gạo, ném về phía trước, thùng sơn không biết, đánh trống mời khắp xem. Nếu thấy được xuyên suốt thì phá một vi trần làm ra quyển kinh đại thiên, nhưng trong tâm địa không kẹt một chữ cước. Tự nhiên tất cả chỗ thông đạt. Hãy nói: Ngay lúc ấy như thế nào? Núi sông không cách xa, nơi nơi là ánh sáng. Tiểu tham, Tăng hỏi: Nên xem tánh pháp giới tất cả do tâm tạo, chính lúc ấy như thế nào? Sư hỏi: Ba cõi cửu địa được đến nơi nào? Tăng nói: Pháp khởi từ chỗ không, người tham cứu bên trong. Sư nói: Quả mãn bồ-đề tròn, hoa nở thế giới hiện. Tăng nói: Có thể nói là một sợi lông nuốt hết biển cả, hạt cải chứa núi Tu Di. Sư nói: Đem ba cửa để trên lồng đèn cũng không ngăn ngaị. Tăng hỏi: Thế thì trong mười pháp giới, pháp giới nào là gần nhất? Sư đáp: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật,chẳng phải vật. Tăng nói: Đầu sợi lông cũng không mê mờ khắp sa giới. Sư nói: Đã là mê đầu nhận bóng. Tăng nói:Nhớ lại có vị tăng hỏi Vân Môn thế nào là pháp thân? Môn đáp: Lục bất thâu, ý này như thế nào? Sư đáp: Siêu phương thì biết. Sư bèn nói: Đây là nơi nào? Đây là thời tiết gì? Mở trường tuyển Phật vậy. Mọi người hướng vào đây, tâm không đỗ đạt. Nếu tâm địa ông không rỗng không thì tất cả nơi liền trở thành trở ngại. Nếu tâm địa ông rỗng không thì lại không có Đông, Tây, Nam, Bắc, sạch trọi trơn, trần trùng trục, lúc này không cho thân là thân không cho tâm là tâm, tâm này lúc này không lập vọng tưởng, thân này lúc này không lập sắc tụ, rõ ràng tự biết, trong sáng thường còn, lúc này là gì? Có từng phân biệt được không? Tất cả pháp sinh thuộc về nhân duyên, tất cả pháp diệt cũng thuộc nhân duyên, phải biết xưa nay rộng lớn sáng suốt, rỗng rang vắng lặng, ba cõi chín địa, chỗ nào đến được? Trời đất cùng cội nguồn với ta, vạn vật cùng một thể với ta, lúc này nếu nhìn được thấu, xuyên được thủng thì là thầy của ba đời chư Phật, Tổ của sáu đời Tổ sư, mẹ của tất cả chúng sinh, muôn sự muôn vật, sơn hà đại địa, cỏ cây hiện vật đều là những vật hiện ra từ trong tâm mình. Liền biết thân trái ở trong tâm, như một chùm bọt nước trong biển cả mà thôi. Nếu ông theo hình ảnh khác, tự nhiên rộng lớn yên tónh không nương tựa. Cho nên nói: Tánh của bốn đại tự hồi phục như đứa con gặp được mẹ. Trân trọng. Tiểu tham, tăng hỏi: người xưa nói: Nhạn bay qua không trung, bóng soi dưới sông lạnh, nhạn không có ý để lại dấu vết, nước cũng không có tâm gữi lại hình bóng, xin hỏi: hành vi thế nào? Sư nói: đạo vô tâm thì có thể là như vậy, chưa phải vô tâm cũng rất khó. Tăng nói: kinh hành đường chim không dấu vết, nằm ngồi như hư không bặt vết tích. Sư nói: Ông lại nói đạo lý đi. Tăng hỏi: Không nói đạo lý lại thế nào? Sư nói: Ngọc sáng không tì vết, khắc chữ mất đức. Tăng nói: Hòa Thượng cũng phải nói đạo lý. Sư nói: Nghe việc không chân thật, gọi cái chuông là cái chum. Tăng hỏi: Kiến lập tông phái đều là một nhà, tông phong của năm phái lại cho phép người học lần lượt thưa hỏi chăng? Sư đáp: Ông thử hỏi xem! Tăng hỏi: Thế nào là tông Vân Môn? Sư đáp: Mở miệng thấy ruột gan, chớ bàn bạc lộn xộn. Tăng hỏi:Thế nào là tông Lâm tế? Sư đáp: Chỗ đau đích thân bị Hoàng Bá đánh, lúc tỉnh lại lãnh cái tát của Đại Ngu. Tăng hỏi:Thế nào là tông Tào Động? Sư đáp: Trong bóng tối cần dung hợp, ngoài ánh sáng lại quay người. Tăng hỏi:Thế nào là tông Pháp Nhãn? Sư đáp:Một lời nói khắp mười phương một mẩy may chưa ngước mắt nhướng mài. Tăng hỏi: Thế nào là tông Quy Ngưỡng? Sư đáp: Bát đóa bằng mây buộc lại làm sáng tỏ một điểm, cha con lại cùng cành. Tăng hỏi:Tông phái của năm nhà nhờ thầy chỉ dạy, ý chỉ nhiệm mầu vượt mức bình thường việc ấy thế nào? Sư đáp: Chim trả đạp đổ nước mưa trên lá sen, cò trắng chim loan xông thủng khói trúc lâm. Sư lại nói: Nếu nói về việc tham học ắt phải làm đến chỗ điềm đạm kín đáo bình thường mới có thể tự tại ở tất cả chỗ, siêu việt tất cả chỗ rõ ràng không có pháp ngoài phần rõ ràng không có tâm ngoài phần. Cho nên vừa đến Tăng hỏi: Nhạn bay trên không bóng rơi trên sông lạnh, nhạn không có ý để lại dấu vết, nước không có tâm lưu lại bóng hình. Nếu có thể như thế thì mới có thể đi trong chúng sinh, người xưa nói như thế há là làm đạo lý ư? Há là liên quan đến tình giải tư duy ư? Tự nhiên thích hợp vô tâm, tất cả hợp đạo. Hòa Thượng Bàng Sơn nói: Giống như đất nâng lên núi không biết cao trơ trọi, như đá ngậm ngọc đâu ngờ ngọc không tì vết. Nếu có thể như thế là chân thật xuất gia, các vị có từng thực hiện như thế chăng? Dù thực hiện được như thế là thời tiết thọ dụng bình thường tự tại tất cả chỗ, đó là trong chỗ nghiêm ngặt tuy có phương pháp ẩn thân, đâu giống toàn thân vào đế hương, là phải thể hội được trong đó, dừng được hết, buông xuống được, nhỏ phải khô, tròn sáng rõ ràng, liền biết công hết mất nương tựa, xoay mình biết lộ huyền. Thời nay huynh đệ thể hội với đạo phần nhiều chỉ ngồi, hai đầu thành lỗi lầm, không thể uyển chuyển bàng tham, thiên chánh qua lại, thọ dụng một trăm phầm trăm, không nghe người xưa nói: Liễu ngộ được sinh tử, không rõ trước mắt, bệnh ở trước mắt, rõ được trước mắt, không rõ sinh tử, bệnh ở trong sinh tử, cho nên Tuyết Đậu lại nói: ruộng đất kín đáo. Phật Tổ không thể biết, vì sao nhất chân không lên, thần thông dạo chơi, qủy thần không thể lường, vì sao buông chân không xuống. Nếu được tương ứng chu toàn, ắt phải ứng hiện ở chỗ rỗng rang linh không, chỗ ẩn mình mất dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn mình, thông biến khiến cho người không mỏi mệt, tay mắt khắp thân, vừa vặn hiện thành mới là chỗ đại thọ dụng của nạp tăng. Nếu có thể như thế, liền ở tông Vân Môn thấy được đại triệt đại ngộ, bô la ba la, rõ ràng không có lời nói ngoài phần, rõ ràng không có Phật pháp ngoài phần, liền biết Lâm Tế hét một tiếng đứt sợ tơ máy, đầu gậy mở con mắt chân chánh ba huyền ba yếu, khách chủ rõ ràng không có chỗ cho ông ghé vào, không có chỗ yên ổn cho ông, lãnh hội được như thế mới biết chỗ làm của Pháp Nhãn. Núi cao sông sâu, tùng dài bách ngắn, muôn sự muôn vật, mắt nhìn thấy gặp duyên, tự nhiên thò ra một đầu, cho nên cha con Ngưỡng Sơn cùng gió ngàn dặm, một sợi tơ một mảnh lông nhỏ liền bị trở ngại ở trong sinh tử, không thể siêu thoát, đều bị tất cả ngôn ngữ lưu chuyển ở trong thấy nghe, không thể thông đạt, không thể tự do, không nghe có vị Tăng hỏi ngài Cửu Phong: Thế nào là người hướng tới. Phong đáp: Vẻ lạnh ôm cây khô, hết nước mắt không quay đầu. Tăng hỏi: Thế nào là người chẳng đến? Phong đáp: Hoa lau trổ trong lửa, gặp mùa Xuân giống hệt mùa Thu. Tăng hỏi: Thế nào là người không đến không đi? Phong đáp: Dê đá gặp hổ đá, gặp nhau sớm muộn dừng, phải vừa vặn tương ưng như thế, lý sự đều thông suốt, qua lại không chướng ngại mới được, lại phải biết có ngôn ngữ không khắp nơi, chỗ phải trái không kịp, cho nên nói: Tất cả tính câu hay không tính câu có liên quan gì với linh giác của tôi. Hãy nói: Làm sao được tương ưng như vậy, nói đế huyền mà không có đường, chót lưỡi bàn luận mà không bàn luận. Tiểu tham, tăng hỏi: Nhớ lại Hòa thượng Phù Dung có bốn chuyển ngữ, thế nào là khéo ca hát, không dính dáng gì đến lưỡi? Sư đáp: Cửa đóng không mở, rồng không có câu rồng. Tăng nói: Đến tận huyền vị không còn nương tựa. Sư nói: Theo nhau đến chỗ vốn chẳng có bóng người, rõ ràng đường về điểu đạo huyền. Tăng hỏi: Thế nào là sợ rắn chết bò ra khỏi cỏ? Sư đáp: Lại đến như thế cũng không trở ngại. Tăng nói: Khi tay chỉ hư không trời đất chuyển, đường về ngựa đá ra khỏi lồng tơ. Sư nói: Trên đầu mọc sừng. Tăng hỏi: Làm sao tránh được lỗi này. Sư đáp: Thiên Đồng phải tránh khỏi lỗi này, không cho mang luî con cháu. Tăng hỏi: Tắc như thế vừa tuyên ra liền chết. Sư hỏi: Vừa đến là câu chết hay câu sống? Tăng đáp: Một là không được mở, hai là không được hướng. Sư nói: Lại là dùi rùa đập ngói. Tăng hỏi: Thế nào là hiểu châm ngậm xương khô? Sư đáp: Trong đây tỉnh táo biến động ban đầu, lúc () tin tức có nguyên nhân. Tăng nói: đầu đội trăng nửa đêm, chân đạp đất hoàng kim. Sư hỏi: người thô nói chuyện tào lao gì? Tăng hỏi: Thế nào là việc tế? Sư đáp: Linh tê một điểm thông, là phải đi như thế. Tăng hỏi: Thế nào là cưa sắt múa ba đài? Sư đáp: Ngồi ở chỗ ngồi thọ dụng, đứng ở chỗ đứng gánh vác. Tăng hỏi: Có những vì sao đều chầu quanh phương bắc, không có sông nào mà không hướng về phương Đông. Sư nói: Ngàn dặm muôn dặm chớ liên quan. Tăng nói: Nam đẩu bảy bắc đẩu tám. Sư nói: Sớm như thế cũng tàm tạm Sư bèn nói: Nạp tăng có hành vi chu toàn, nạp tăng biến thông uyển chuyển, vừa tuyên thì có thể ngồi chết, muôn dặm không mây, chẳng liền đi như thế chăng? Cho nên nói: Đến nỗi ban ngày ban mặt còn thích ăn gậy, việc ấy phải có một con đường sống trong ấy, cũng không cần động tác, cũng không cần kêu gọi chính là lúc hỗn độn chưa rõ ràng, mới thấy cây cột mang thai, lúc đó thấy xuyên suốt liền có câu siêu Tỳ-lô vượt Thích-ca, phân biệt ở trong đó như thế, tỏ như thế, biết như thế, sáng như thế, tỏ như thế, lúc ấy thông thạo một đường, cho phép ông gánh vác, buông một tuyến đường cho phép ông đảm đương, quay đầu trông về nhà, đã là dời bước rồi, soi thấu chỗ quay đầu dời bước, mới biết từ bên trong đến, là chỗ hành vị của nạp tăng, là chỗ phát minh của nạp tăng, có từng hiểu rõ một trăm phần trăm như thế chăng? Nếu lại làm biến động, làm khơi thông liền thấy theo nhau đến, vừa bước qua cửa liền nhập thế, trong mọi việc đều đầy, trong các pháp đều đủ, cho nên Hòa thượng Phù Dung nói: Khéo xướng ca không động lưỡi, dùng ba tấc thế nào? Người hiểu rõ nêu lên liền gật đầu biết có, lại nói: Rắn chết sợ bò ra khỏi cỏ, trong đó bổng nhiên được thoát qua trên đường vô sinh lại là trường sinh. Hiểu châm ngậm xương khô, ở trong đó nói được một câu, ở trong đó thông được một đường, điểm được, mở ra phân biệt được rõ là thời tiết đảm đương bên trong đó, ba đài múa của cưa sắc, đến đây đều ứng hiện tất cả chỗ, viên thành tất cả chỗ, tác động tất cả chỗ, siêu việt tất cả chỗ, mọi việc đều thông, mọi việc đều rõ, người thông đạt là phải biết sợ trong bóng tối. Nếu thấy được xuyên suốt như thế thì túi bát nhà ta có chỗ truyền trao. Nếu chẳng phải như nơi trao gởi. Trân trọng. Tiểu tham tăng hỏi: Khi sạch trọi trơ, trần trùng trục, hành vi thế nào? Sư đáp: Trước kiếp không không có chỗ trụ người này trọn không liên quan đến suy nghó. Tăng nói: Mái chèo không cho thuyền trôi qua lại trọn không mang túi nổi. Tăng đáp: Quay đầu đường giữa cây tùng, mù mờ trăng lại sáng. Sư nói: Giống thì có giống như đúng thì chưa đúng. Tăng hỏi: Thế thì khi qua lại được khéo léo thì như thế nào? Sư nói: Người gõ cửa đem hài đi, gái đá trời sáng đội mũ về. Tăng nói: Trời đêm chưa sáng mây rừng vắt ngang, bến xưa không gió trăng đêm tháng năm. Sư hỏi: Thế thì ứng cơ thông biến lại phải thế nào? Tăng đáp: Tay nắm gậy quá đầu, gặp Xuân điểm hoa lạ. Sư nói: Người chết vô số trên đất bằng. Tăng hỏi: Khi ứng cơ rốt ráo làm sao thông biến? Sư đáp: Quán âm mua bánh hồ, buông tay là bánh bao. Sư lại nói: Đây là một việc không lường rất trọng yếu, chư Phật đã chứng một việc trọng yếu này, vì các vị mà phóng quang thuyết pháp. Tổ sư ngộ một việc trọng yếu này, dặn dò trao phó cho các vị. Nếu là người hiểu rõ không từ Phật không từ Tổ, học thiền học đạo, học Phật học pháp chỉ là chính mình, chịu ngừng chịu nghỉ chịu buông chịu bỏ, lúc ấy không dính dáng một sợi tơ, không lưu một hạt tấm, nói giao hợp với trời đất, ngang bằng hư không, tất cả việc đều tiêu tan, tất cả tâm đều hoà lẫn, cuồn cuộn mênh mông là thể của một người chân thật. Nếu đầu sừng này đều hết, bặt dứt tung tích đoạn ngõ rẽ, quên tâm ý, là thời tiết không sinh không tử tột đỉnh này không bảo ông lùi một bước cũng không bảo ông tiến một bước, ba đời chư Phật cùng chứng lúc này, sáu đời Tổ sư cùng ngộ lúc này, nếu lúc này sáng suốt soi thấu lặng lẽ thể hội được, nếu biết được pháp sinh thì cùng với muôn sự vật, loài xuẩn động hàm linh, đều là một đường ở trong đó, đều là một tánh ở trong đó. Cần phải biết được tướng ban đầu, nếu không thấy tướng ban đầu thì trở thành sai lệch, liền thuộc về lưu chuyển, các vị có thấy được tướng ban đầu chưa? Phật đản sinh lúc ấy, Tổ ra đời lúc ấy, lúc này không biết liền đi theo đất nước lửa gió, sắc tướng âm hưởng, lớn nhỏ, cao thấp, nếu lúc này biết được dời một bước của ta, được một câu là câu của ta, cho nên nói: một người đã qua chín người cũng qua, một người không qua mang luî đến chín người, tất cả việc đều là chính mình, tất cả pháp đều là chính mình, ở mắt làm Phật sự của sắc giới, ở tai là Phật sự của thanh giới, hương vị xúc pháp đều là Phật sự. Như người có sáu anh em bị mất cả một gia nghiệp. Hòa thượng Nam Tuyền nói: Ta lúc mười tám tuổi đã biết thành gia lập nghiệp nếu lúc ấy biết không thấu, sau này nhìn vách đá mà khen ngợi, đã bỏ kiếm lâu rồi, lại đặt chuyện là trong pháp căn cảnh, nói nghe há chẳng phải là Phật ư? Thấy há chẳng Phải là Phật ư? Dùng căn cảnh thức làm đạo làm lý, dù ông sắp xếp được thuận tiện, chấp nhặt được thành công nhưng xa đã xa rồi, lúc ấy không rõ là tay hay chân, lại thất điên bát đảo rửa đầu mặt được sạch ở chỗ nào? Đặt yên ổn tay chân ở nơi nào? Ông chỉ một niệm đi vạn năm, meo trắng bên khóe miệng liền có thời tiết tương ưng. Người xưa không từng đem một lời một câu vì người bên ấy, chỉ dạy ông biết bên ấy lại đến thực hiện ở bên đây. Nếu không biết bên kia đem một tri một kiến, gọi tên tâm địa ở trong đây rối loạn xem là bao nhiêu tưởng niệm trôi chảy, trong một sát na mấy lần sinh diệt. Nếu biết được bên kia thì sinh cũng hết, tử cũng tận cho nên nói: sinh diệt cả hai vốn lìa ấy gọi là thường chân thật. Lại nói: nghe chỗ nghe tận, giác chỗ giác không, không giác cực viên, không chỗ không diệt, sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền, đến lúc này mới nhập vào cảnh giới viên thông, cho nên hai mươi lăm đại só đã chứng viên thông đều là lùi bước chính mình, đến nỗi ngữi hương xem mũi đều có một chỗ nào, cần phải tận cuội nguồn thấu suốt gốc ngọn, mới là chỗ ở của ông, nhưng người bình thường ngày nay nói năng trên sách thiền làm đạo làm lý làm Phật làm pháp, lúc nào mới liễu ngộ, ông chỉ cần thường nghó ngơi, không chạy theo đất nước lửa gió, liền thường ra khỏi sinh tử. Người xưa nói: thứ nhất không có mang đến, mang đến không giống nhau, hoặc mang đến là phải bay mất. Tôn giả Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu: Khi một vật không có mang đến thì thế nào? Châu đáp: Buông xuống đi. Dương hỏi: Một vật đã không đem đến buông xuống cái gì? Châu đáp: như thế thì gánh lấy đi. Huynh đệ ngày thường đừng gánh đến, chính là một đạo nhân vô sự, trong ba cõi không bao giờ hiện thân tướng, bản sắc bậc hảo hán phải như thế trân trọng. Tiểu tham, tăng hỏi: Phương Đông nói pháp phương Tây nghe, phương Tây nói pháp phương Đông nghe, ý này thế nào? Sư đáp: Làm dùng qua lại như thế là gì? Tăng nói: Một lớp sóng vừa động các lớp sóng khác động theo. Sư nói: Dù pháp giới có giao nhau tận cùng cũng là nạp tăng phí sức. Tăng nói: Há không nghe nói một trần nhập vào chánh thọ, các trần tam-muội khởi ư? Sư hỏi: Khi một trần nhập chánh thọ thì thế nào? Tăng nói: Bị Hòa thượng hỏi một câu đến nỗi trong nách túa mùa hôi. Sư hỏi: Các trần tam-muội khởi lại phải như thế nào? Tăng đáp: Đông Tây Nam Bắc bốn phía trên dưới. Sư nói: Đưa ra như thế lại nói xem. Tăng hỏi: Đưa ra thì không thể không, đặt ở chỗ nào? Sư nói: Trong đây không có chỗ cho ông cắm lưỡi vào. Tăng hỏi: Phương Đông nói pháp phương Đông nghe, phương Tây nói pháp phương Tây nghe, ý này thế nào? Sư đáp: Các pháp trụ ở vị, mình mỗi mỗi không gặp nhau. Tăng nói: Giống như nước hòa với nước, như vàng hợp vàng. Sư hỏi: Khi vàng nước hợp nhau thì thế nào? Tăng đáp: Đến nỗi mập mờ lầm lẫn. Sư nói: Quả là không như thế. Tăng hỏi: Sư lại thế nào? Sư đáp: Nam đẩu bảy bắc đẩu tám. Tăng hỏi: Phương Đông nói phương Đông không biết, phương Tây nói pháp phương Tây không biết, ý này thế nào? Sư đáp: Đất lạnh lẽo đi như thế. Tăng nói: Giống như đất vác núi, như đá bao ngọc. Sư nói: Lại dính vào trong đây. Tăng nói: Phải nói khắp thiên hạ không có lỗi ở miệng Sư nói: Ông hãy nói lấy gì làm miệng. Tăng nói: Ở ngay dưới lỗ mũi. Sư hỏi: Vậy có cái gì khó biết? Tăng hỏi: Lìa cái này gọi cái gì là miệng? Tăng hỏi: Thế thì phương Đông nói pháp, khắp mười phương thế giới nhất loạt thuyết pháp, ý này thế nào? Sư đáp: Đem lồng đền vào trong cây cột lộ thiên, dời ba cổng qua điện Phật. Tăng nói: Khắp người là thế, khắp cõi là thế. Sư nói: Cuối cùng không an bài, rốt cuộc không có ngoài phần. Tăng hỏi: Phương Đông không thuyết pháp, khắp mười phương thế giới đều không thuyết pháp, này thế nào? Sư đáp: Ông lại dùng cái chót lưỡi này là gì? Tăng nói: Đúng đúng, liền lễ bái. Sư bèn nói: Khắp mười phương thế giới là một nạp tăng này, di động không được, liền có thể lấy tánh thuyết pháp, dùng tánh nghe pháp, chạy theo phương hướng xứ sở, cao cao thấp thấp, nơi chạm đều ứng, giống như trăng sáng khắp bầu trời cho nên nói: Người nên dùng thân Tỳ-kheo để được độ liền hiện thân Tỳ-kheo mà vì họ thuyết pháp, người đáng dùng thân cư só, tể quan, Bà-la-môn được độ liền hiện các thân mà vì đó thuyết pháp, vì sao như vậy? Vì Quan Thế Âm không tác tướng, liền có thể tuỳ chỗ mà ứng hiện, có thể tuỳ chỗ độ thoát, mỗi nạp tăng đều đầy đủ như thế. Ôâng chỉ cần thứ nhất không đem thân tướng đến thứ hai không đêm đạo lý đến. Nếu không đem thân tướng đến thì có thể thuyết pháp ở tất cả chỗ. Nếu không đem đạo lý đến thì có thể thọ dụng ở tất cả chỗ, nhập vào tất cả pháp thế gian lìa chữ tâm này không được, thế gian, xuất thế gian chỉ bình đẳng như thế, ông có biết tướng ban đầu của sắc pháp chăng? Nếu biết được tướng ban đầu của sắc pháp thì núi sông mặt đất, cỏ cây rừng rậm Đông Tây Nam Bắc, dài ngắn cao thấp đều từ chỗ ấy mà đến. Liền mới tuỳ theo dài ngắn cao thấp, không cần ngay tại chỗ thêm bớt một sợi tơ, tức là tất cả tướng sắc pháp đều đầy đủ, ông có biết tướng ban đầu của tâm pháp chăng? Nếu biết được tướng ban đầu của tâm pháp liền ở tất cả các chỗ có thể mọc ra một đầu, vừa vặn tương ưng, rõ ràng không lẫn lộn, tức là tướng đầy đủ tướng của tất cả tâm pháp, đây giống như pháp giới ứng hiện, nếu ngồi đoạn tất cả tâm, lại nêu tất cả sắc, tháo được hết, buông được xuống. Ngay lúc ấy là cái gì? Các vị có biết được nguồn gốc chăng? Có biết được bổn tổ không? Cho nên tăng hỏi Văn-thù: Đạt-ma là tổ chăng? Văn-thù đáp: Không phải tổ. Tăng nói: Đã không phải tổ cần gì tây lai? Thù nói: Vì ông không tiến cử tổ. Tăng hỏi: Sau khi tiến cử thì như thế nào? Thù đáp: Mới biết không phải là tổ. Hãy nói: Thế nào là tổ? Ánh sáng lành soi không tắt, chân khí chạm lại sinh, trân trọng. Tiểu tham tăng hỏi: Nhớ lại hoà thượng. Đức sơn nói: Đi đến tận cùng đến nổi ba đời chư Phật treo miệng trên vách vẫn còn có một người, cười lớn ha ha, xin hỏi vị tăng nào là người này? Sư đáp: Khi toàn thân không hình bóng trong đó lại có mắt. Tăng nói: Xoay người dẫm lên thiết côn luân, mới tin gió đen thổi không vào Sư nói: Là phải đi như thế. Tăng hỏi: Ngay khi gió thổi không vào còn được một lời nữa câu không? Sư đáp: Gió thổi vào. Tăng nói: Tám mặt tinh xảo tự dung hợp cao vút một phương ai dám trộn nhìn. Sư nói: Chính là câu trên đầu gió. Tăng hỏi: Thế thì câu sau gió lại thế nào? Sư đáp: Thiên Đồng lại quên mất rồi. Tăng lễ bái. Sư bèn hỏi: Ba đời chư Phật, sáu thế hệ Tổ sư chỉ là bậc minh tâm liễu sự, các vị có rõ được tâm mình chưa? Có rõ được sự của mình chưa? Nếu các ông rõ được tâm, biết được việc thì không có một mảy may ngoài phần, không có mảy may thiếu thốn, sạch hết thoát được rồi, khắp người đi như thế, nói năng có chỗ không thấu đáo phải trái có chỗ không kịp, như muỗi đậu trên sắc nóng không được, rõ ràng là không ngoài nhân duyên, biết không có hình ảnh khác, soi và chiếu cả hai đều vắng lặng, ở trong vắng lặng có thể chứng tiệt diệt là chính bản thân ông. Nếu thủng lũng đáy như thế, thì đất nước lửa gió, năm ấm, mười tám giới đều quét sạch không còn thừa, thế nào là sạch không được, cho nên Đức Sơn Viên Minh Đại sư nói: đi đến cùng đến tận ba đời chư Phật treo miệng trên vách, còn có một người cười lớn ha ha. Nếu biết người này thì việc tham học hoàn tất. Các huynh đệ lúc hơi thở dừng, chỗ đoạn tung tích phải đủ mắt mới đựơc, lúc ấy rõ ràng không chìm đắm, sáng tỏ không đối đãi, liền có thể mạnh bước tự nhiên, ứng hiện khắp nơi, vào một trần ngồi đạo tràng trong tất cả trần, vào một chỗ làm phật sự tất cả chổ, đến nỗi cỏ cây rừng rậm, núi sông đại địa còn có một sự việc ngoài phần đều chỉ là chỗ hiện hình của ông, là chỗ thuyết pháp của ông, là chỗ xuất thân của ông, đến các môn như thế, trụ các pháp như thế, chính giữa không có tướng qua lại, chỉ là hình diệu sáng suốt bặc đối đãi, là chính bản thân các vị. Nếu đối đãi với các pháp thì không thành chính mình. Nếu là thân rỗng không thì nhãn xứ không, nhãn xứ không thì đắc xứ không lấy chính mình hợp chính mình, ở trong tất cả các pháp như không hợp không, giống y như nước hoà vào nước, đâu cần phân tích, đâu cần yên ổn, cho nên nói: giống như đất đội núi không biết chỗ cao trơ trọi của núi, như đá ngậm ngọc không biết ngọc không tỳ vết, lúc này bình đẳng bình đẳng, không sinh diệt không qua lại, không xấu tốt, không lấy bỏ, vừa khớp là tướng bình đẳng. Nếu có một chút phần xúc chạm nhau liền thành trở ngại. Nếu ông trừ sạch hết thì tự nhiên đầy đủ, buông xuống đi, tự nhiên được thành tựu. Nếu ở tất cả chỗ có trăm điều vụn vặt, lớn nhỏ, vuông tròn, chỗ thấy lập sắc không được, toàn sắc là thấy, chỗ nghe lập thanh không được toàn âm thanh là nghe, cho đến hương vị xúc pháp cũng lại như vậy, có từng đến như thế chăng? Nếu cũng đến như thế, mới biết tánh tự bình đẳng người không bình đẳng. Trân trọng. Tiểu tham nói: Này các huynh đệ! Bầu trời một màu, chưa buông bình nước mùa Xuân đến, kiếp không không có mãi trần, cây khô đã ngậm về thư hoa, người đá ngưng gõ nhịp, ngọc nữ bỏ đăng cơ, trăng tròn núi lạnh, ánh sáng vằng vặc không soi, tuyết đóng đường xưa, theo cảnh ban đêm lại quên vượn ngồi gãy cành hướng dương, chim khôn đậu vào cành cây không bóng. Ngay lúc ấy Thánh Phàm sao lập, Phật Tổ khó đạt tới, hóa khắp cõi trần bặt công huân, đoạn tuyệt tướng vũ trụ mười phương, lúc chở mượn đường, buông tay đường về, Côn luân chưa giẫm trăng mạn thuyền, phong cảnh đất Hồ truyền vào đất Hán, lòng rỗng vào chợ mắt lạnh nhìn người, thì thầm chót lưỡi, nói hết tâm sự bình sinh, kéo dài lỗ mũi, đâu ngăn ngại chạm vào gia phong, cửa trong thân, thân trong cửa, vật trong mắt, mắt trong vật, thấy sắc cũng là Di-lặc mọi nơi, nghe tiếng cũng là Quán Âm các chỗ, Văn-thù ở trong trí vô sai biệt thị hiện có thân sai biệt, Phổ Hiền ở cảnh có sai biệt, nhập định không sai biệt, tất cả chỗ tự nhiên chánh thọ, mười hai thời pháp là thiền-na của ông, mê gặp Đạt-ma lại ai giống, trâu đực trắng ly nô lại biết có, cho nên nói: Chánh vị tuy ngang như lệch, thiên vị tuy lệch nhưng lệch, ngay lệch uyển chuyễn rời rạc, hạt châu trong tay lại rơi xuống đất mất, hành vi như thế vẫn là bản sắc của nạp tăng chẳng? Cẩn thận kiểm điểm đem đến, vẫn chưa phải là chỗ siêu thoát của chúng ta, rốt cuộc như thế nào? Giây lát nói: Bảo điện không người không đứng hầu, không trồng ngô đồng tránh khỏi chim phượng bay đến. Tiểu tham nói: Vua gần vị quan còn ngưng đọng, khi con gần cha vẫn còn hiếu dưỡng, cửa ngọc chưa lộ ra chính là mê một sắc công huân, bảo ấn đều ra chưa chịu lộ ra văn vẻ lúc nào, có từ thực tế, kiến lập hóa môn, thỏng tay đường về, khắp người không ứ đọng, cho nên nói: Pháp thân vô tướng, ứng vật mà lộ ra, bát nhã vô tri đối duyên mà chiếu, trúc xanh xanh biết, hoa vàng tươi tốt, thư tay đưa đến, tùy chổ thể hiện rõ ràng không mình người, ai là căn trần, chỉ lộ bản thân, tự nhiên chuyển vật, tâm không tâm khác, mà pháp không pháp khác pháp không pháp khác mà tâm không tâm khác, không nghe nói: Phật tử ở nơi này, tức là phật thọ dụng thường còn ở trong đó, kinh hành và ngồi nằm, các huynh đệ làm sao thực hiện được, tương ứng như thế? Nhanh chóng ngừng đi nghỉ đi, có cũng không đem đến, không cũng không đem đi, hiện tại lại có việc gì? Người gánh hai đầu đều rơi, cùng gánh bay mất mới được liền là người tự do. Nếu không bay thì lúc khác ngày khác chỉ thành người gánh vác này. Như nay nói nghe, thật khó có người này. Nếu lấy bốn đại làm người thuyết pháp nghe pháp thì bốn đại là trần, chẳng phải người thuyết pháp nghe pháp. Nếu lấy năm uẩn làm người thuyết pháp nghe pháp, năm uẩn là vọng, chẳng phải là người thuyết pháp nghe pháp. Nếu đem hư không làm người thuyết pháp. Các huynh đệ ắt phải một niệm tương ưng, đoạn bờ trước sau soi thể độc lập, vật và ta đều mất, sáng rõ ràng, tròn vành vạch, phơi bày rõ ràng, chính là không hỏi mà tự nói. Nếu thể hội đến như mức độ này là người chân thật nghe pháp. Ngay lúc ấy nói nghe đồng thời, năng sở đều dứt. Từng không có như ngoài trí năng chứng ở như cũng không có trí ngoài như làm trí sở chứng. Sau đó nhìn thấy bặt đối đãi, muôn pháp đều tồn tại, phải tâm ông không biết, trái tâm ông không hay, không thể không hiểu, không biết không thể không biết, chỉ cái không hiểu biết này đặc biệt cũng rất kỳ lạ. Triệu Châu hỏi Đại Từ: Bát-nhã lấy gì làm thể? Từ đáp: Bát-nhã lấy gì làm thể? Châu cười lớn ha ha. Hôm sau Châu quét đất, Từ đến hỏi: Bát-nhã lấy gì làm thể? Châu buông cây chổi quét xuống đất cười lớn ha ha. Các huynh đệ, Đại Từ Triệu Châu hai vị cổ Phật, một lần gặp nhau không ngăn trở kỳ tuyệt, lại làm sao thương lượng, trong ánh sáng trình mánh khoé người này đoán trong ủng, động ngón tay cái, ai biết có, có biết chăng? Thôi nói, thần phong giấu trong nụ cười, phải biết mũi tên ma rơi trước gió. Tiểu tham, tăng nói: Các huynh đệ, người xưa nói: Nếu bàn về việc này, ví như khách trên biển xanh mộng đi thuyền lan, khói sóùng bãi trăng mặc tình phóng khoáng, nạp tăng phải biết có những thủ đoạn mới được, ở chỗ không tóc treo chiếc thuyền chìm, trăng chở gió đi, nước đậu mây nằm, khói sóng vạn khoảnh, mặc tình đến đi, một vịnh lau trắng chợt ẩn chợt hiện không ở hai bờ há, lưu chảy trong ứ đọng sao! Trời đêm chưa sáng, mây rừng vắt ngang, bến xưa không gió trăng nửa đêm , nếu cũng là mảnh buồm không treo, mái chèo ngắn chợt dừng trời nứơc lẫn lộn, không dấu vết, gia phong thanh đạm hiện còn. Bèn dựng cây phất lên nói: Ngay lúc ấy mái chèo lại ở trong tay của Giác Thượng tòa liền đẩy mây theo sương, cắt sóng ngược dòng mặc tình sóng nhàn nhã, tung hoành biến thái, cho nên nói: Dừng thuyền thông thạo thế nước nâng chèo ngăn sóng lớn, nhưng cắt dứt cơ các dòng thì nói rõ không kịp, lại như câu theo sóng đuổi sóng, lại làm sao nói? Muốn biết chăng? Mùa Đông không lạnh, đêm nay có vẻ lạnh, nhớ lại Tăng hỏi Tào Sơn: Tuyết phủ ngàn núi vì sao đỉnh núi cô không trắng? Sơn đáp: Phải biết có khác trong khác. Tăng hỏi: Thế nào là khác trong khác? Sơn đáp: không rơi vào sắc của các núi. Sư nói: Chỗ hỏi của vị Tăng này giống như chim phượng non lìa tổ không để lại dấu tích, lúc Tào Sơn trả lời giống như rồng rút xương, bỏ hết góc nhỏ bé, dù cho ngàn dặm cùng gió, mười phương một màu cũng chưa phải là chỗ bỏ thân mạng của nạp tăng, cuối cùng thế nào là chỗ bỏ thân mạng của nạp tăng? Vật thần không có chỗ tìm, đài mâm khô tận đáy. Tiểu tham nói: Buông kết duyên, chánh niệm vô tư, thỏng tay bên kia, tinh thần dạo chơi bờ chân thật, mây núi ẩn ẩn, tăng nước y nhiên, nhà cửa thầm lặng, thoi máy thầm chuyển động, sáu cửa sổ chưa sáng, rực rỡ một tấm hư minh, ba đời yên bình, dừng lại mười phương chiếu suốt, trâu trắng no béo về nằm yên ổn trên núi tuyết, chim phượng ngậm hạt trân châu trên cây ngọc, thiên chánh lẫn lộn, há nơi nào có không hợp đường thông tông ư? Đương gió phải khéo vượt lên đến vị, không thuộc về tôn nghiêm, bàng tham dụng hợp lại nhờ sức của ông, một mình đi ngoài hình tượng, soi thủng kiếp không, chưa gặp duyên khác, chỉ biết chính mình, người gỗ hết công, nửa đêm cúi đầu nhặt kim vàng, thạch nữ cơ về, trời sáng ra tay xỏ chỉ ngọc, ngay lúc ấy mười phương ba đời chưa có thể nói là thấy, cõi Tây thiên này ai dám xưng là Tổ. Nếu cũng là trâu bùn cất bước, ngựa gỗ hí gió, sông băng nổi lửa, lửa mọc hoa sen, chính là vào đưa thư tay. Hãy nói: Hành vi thế nào được tương ưng như thế? Ao biếc vạn cổ trăng cõi không, nhiều lần cực nhọc mới nên biết. Các huynh đệ ruộng đất này có từng thực hành đến cùng không? Đến triệt để như thế, phải biết có thời tiết ứng dụng của toàn thân. Không nghe Đại sư Vân Môn nói: Ánh sáng không thông suốt, có hai loại bệnh, không rõ tất cả chỗ, trước mặt có vật, thông được tất cả pháp không, thấp thoáng dường như có vật này, cũng là ánh sáng không thông suốt. Pháp thân cũng có hai loại bệnh, được pháp thân pháp chấp không quên, chính mình thấy giống như còn, rơi xuống bên pháp thân. Dù thấu qua được nhưng phóng qua thì không được. Cẩn thận kiểm điểm đem lại có hương vị gì cũng là bệnh, các vị có bệnh này chưa? Nếu chưa có bệnh này, cũng cần trước tiên bị qua mới được. Nếu lâu bị bệnh này, phải nhanh chuyển lại, thế thì nước xanh trước mặt núi xanh đáy mắt có được tương ưng với mình không? Nếu chưa được tương ưng thì trở ngại nhau rất nhiều, dù tương ưng cũng có chỗ trở ngại, phải cần thực hiện thế nào, há chẳng phải là ánh sáng không thông suốt hai loại bệnh ư? Pháp thân bị bệnh, các vị có biết chăng? Cho dù công dụng đều tỉ mỉ cũng phải chuyển lại, nếu chuyển hết có hương vị gì? Há không nghe có vị tăng hỏi lạc Phố: Tịch là gốc của pháp vương, động là mầm của pháp vương, thế nào là pháp vương? Phố dựng dứng cây phất lên. Tăng: Đây giống như cây sáo của pháp vương. Phố nói: Rồng không ra khỏi động, ai làm gì được? Huynh đệ xem cổ đức không giữ một góc, đem một lời nửa câu dẫn dụ người sau, rất là thẳng tắt. Nếu là bậc đại trượng phu, hướng vào trong đây một lần thổ ra liền hết, một lần đi giải liền xong, không hoài nghi một chút gì? Như nay ăn một hạt cơm mặc một chiếc áo, ắt phải dạy thực tế, tự không xem thường và ngạo mạn. Nếu không như vậy thì là lừa dối bậc hiền mắng bậc Thánh, phải rất cẩn thận, chớ chỉ lúc qua như thế, khó hẹn ngày thoát ra. Nhớ lại có vị tăng Tân La hỏi Vân Cư: Là gì phải khó nói như thế? Cư đáp: Có gì khó nói? Tăng nói: Thỉnh Hòa thượng nói Cư nói: Tân la, Tân la. Sau đó Hòa thượng Hoàng Long Tân nói: Vân Cư muốn gặp tăng Tân La vẫn còn cách nhau một biển cả. Huynh đệ cũng phải là lão hán Hoàng Long mới được. Giác Thượng tòa, con đường đêm nay thấy không bằng phẳng, muốn trút giận cho Vân Cư, cẩn thận kiểm điểm đem đến. Hoàng Long muốn gặp Vân Cư, vẫn còn cách đỉnh núi, trong chúng không có ai không chịu làm Hoàng Long chăng? Đi ra gặp Giác Thượng tòa có chăng? Nếu không đêm nay không tránh khỏi lại bị bổ tách rơi ra. Vân Cư trả lời như thế, chỉ sợ vị tăng ấy ra không được, Hoàng Long nói như thế, lại sợ người đời sau trở về không được. Giác Thượng tòa nói đây vẫn còn cách núi, lại thế nào? Thực sự kiên tránh từ sai lầm này đến sai lầm khác. Tiểu tham nói: Pháp không đến đi, không chuyển động thì có lúc đoạn tiệt mười phương trên đỉnh núi côi, có khi ở đầu ngõ ồn ào phân thân trăm ức, cho nên nói: đi lại không do hình tượng nên không có vật nào không phải hình tượng, động tónh không do tâm nên không có cảm thì không có ứng. Nói như thế, kiến lập trong hóa môn liền được, phần đạo nhân đều dùng không được. Huynh đệ thế thì hành vi của đạo nhân như thế nào? Nhớ lại một đoạn công án của người xưa nêu cho các vị, thử bàn bạc xem. Thuở xưa Ý Thượng tòa hỏi Động Sơn: Thế nào là như như khắp ở trước, không như như khắp ở trước? Sơn đáp: như như khắp ở trước, không như như khắp cũng ở trước. Ý nói: Như như khắp, phân hơn kém. Chẳng như như khắp phân hơn kém. Sơn nói: Như như khắp, phân hơn kém; không như như cũng khắp phân hơn kém. Ý hỏi: vì sao phân chia kia vậy? Sơn nói: Cũng phân chia cũng không phân chia. Ý hỏi: Thế nào là phân chia? Sơn đáp: Như như khắp. Hỏi: Thế nào là không phân? Sơn đáp: Không như như khắp. Ý nói: Chẳng phải là việc khắp người hay không khắp người. Sơn nói: Không phải là đạo lý này. Ý hỏi: Là đạo lý nào? Sơn đáp: Là đạo lý như như khắp, chẳng phải như như khắp, lại hỏi: Ý Thượng tọa muốn biết chăng? Giống như bà lão tám mươi tuổi gả cho đứa bé ba tuổi tuy lớn tuổi lại bị nó quản thúc không được tự do. Sau đó Tăng nêu lên hỏi Tào Sơn: Thế nào là lão bà tám mươi tuổi. Sơn đáp: Đầu bạc hoa râm khắp đầu tuyết. Tăng hỏi: Thế nào là đứa bé ba tuổi? Sơn đáp: Không làm chủ Tăng hỏi: Vì sao không làm chủ. Sơn đáp: Không nghe nói đứa trẻ ba tuổi tất cả qua không được Tăng hỏi: Đã là lão bà tám mươi tuổi vì sao lại gả cho đứa bé ba tuổi. nó. Sơn đáp: Đến tuổi giống lão bà tám mươi tuổi mới biết cư xử với Sư nói: Huynh đệ đã nêu tắc xong, lại thực hiện thế nào? Nếu là bậc đức cao tham đã lâu thì ngay dưới đây không nghi ngờ, sau đó tiến kẻ sơ cơ, phải rất cẩn thận. Giác Thượng tọa đêm nay không tiếc lông mày, vẽ chân cho rắn. Ý Thượng tọa hỏi: Như thế rất giống như tay nắm cành quỳnh, đêm gõ cửa ngọc, gọi người dậy mặc áo không vết khâu, sợ chim khác đến ngủ trên cành không mầm. Động Sơn trả lời như thế, có thể nói là chẻ bụng con trai phát ra ánh sáng ngàn năm, giơ cao chùy vàng đập bể nát. Ông già Tào Sơn khéo tận dụng việc thầy truyền pháp cho đệ tử, phần lớn gia phong hưng thịnh người tài giỏi. Cha nghiêm con tài, mãi đến nay tông phong chưa sa ngã, gia pháp thường còn. Dám hỏi các vị thế nào là gia pháp của Tào Động? Muốn biết chăng? Cá kình dài uống hết nước biển xanh, Côn luân ôm hết cành san hô. Tiểu tham nói: Một khoảng ánh sáng tuyên rõ, có không chiếu phá bỏ tình trần, ngay đầu chạm qua khỏi trời xa, lui bước đảm đương càng thêm mới, trong cung Tử cực chim ôm trứng, thỏ đẩy bánh xe trong sóng sông ngân, cần phải khéo tay dắt đến dụng trăm ức phân thân thật khắp nơi. Huynh đệ mảnh ruộng này, há liên quan đến duyên mùa Xuân. Trong thiên, chánh đến đi này, ngay đó lìa sự nhỏ nhiệm ra vào. Sáng mắt trong chốn tối tăm, ẩn thân trong ánh sáng. Mượn vị làm sáng tỏ công, thể ở trong dụng, mượn công làm sáng tỏ vị, dụng ở trong thể, tràn ngập khắp thân, bờ kia buôn tay, chiếu dụng đồng thời, người và cảnh đều đoạt. Lại từ bản địa xây dựng, khắp nơi không còn khuôn phép, nắm lại liền dùng, không thể không được. Đi, đứng, ngồi, nằm, nhướng mày chớp mắt đều là vận dụng đại thần thông làm Phật sự quan trọng. Thế nên môn nhơn vào cửa Lâm Tế thì Ngài liền hét, Đức Sơn vào cửa liền đánh, Hòa thượng Đả Địa có Tăng đến hỏi thì chỉ đập đất một phát, Hòa thượng Câu-chi có tăng đến hỏi thì đưa ngón tay lên, Quy Tông ném đá, ngài Vân Cư dọn đất, đâu không phải là đại cơ đại dụng chăng? Nào có ngăn ngại gì? Ta cùng các người ngày thượng đường 2 lần, khai đơn mở bát không thích hợp tương ứng sao? Chỉ vì tình sanh trí cách, thức chạy theo việc, quay lưng với giác hợp cùng trần, gá vào cảnh, dông duổi theo vật, không được tự do. Nhưng nay, hoặc thấy hoặc nghe, hoặc nói, hoặc nín, lập tức thấu triệt đi. Vẫn là trong cửa xuất thân, trong thô biết được nhỏ nhiệm. Ngay như trong nhỏ nhiệm biết nhỏ nhiệm, lại ghi nhớ được điều gì? Lục Tuyên Đại phu hỏi Hòa thượng Nam Tuyền: Ngài họ gì, Nam Tuyền đáp: Họ Vương. Họ Vương có quyến thuộc không? Quần thần không mê. Vua ở vị nào? Điện ngọc sanh rêu. Sau này có vị tăng đem chuyện này hỏi Tào Sơn: Ngọc điện ngọc sanh rêu là ý chỉ gì? Tào Sơn đáp: Không ở chánh vị. Chợt gặp tám phương đến triều đình thì thế nào? Y không nhận lễ. Vậy cần gì đến triều? Vi phạm thì bị chém Vi phạm là việc bổn phận của thần. Chưa biết ý vua thế nào? Chỗ quan trọng sâu xa không có ý chỉ? Công điều hòa lý, đều thuộc về thần. Hãy nói ý vua thế nào? Phương ngoài ai giám luận bàn. Đúng thế, đúng thế! Sư nói: Tào Sơn là một tay kiệt xuất, rất kî đối đầu, nhưng vị tăng này trước sau đều kiệt xuất hoàn toàn không chạm nhằm, mỗi mỗi đều hiểu thấu thoát, dung hợp uyển chuyển khi tham vấn đối phương. Nhưng khi kiểm lại kỷ càng, vẫn còn nặng về cung phụng, còn rơi vào công huân, chưa được đồng thân cùng mạng, một hơi liền cành, làm sao tham thiền, để hợp cùng y, hội được chăng? Tiếp nối thì chẳng phải là công, nhưng chẳng phải hình sắc, còn mượn công thì chỉ tạo thêm duyên đản sanh. Tiểu tham Sư nói: Mùa đông chư huynh đệ lao động, nói những chuyện gì? Hoặc nói Phật, nói Tổ, thì đều vùi chôn mình. Nói thiền nói đạo, thì mang lụy đến các tông xưa, thế thì giải tán đi. Lại nhọc nhằn nhưng không thành công, việc bất đắc dó, mới đưa ra tắc công án để các bậc kiệt xuất thương lượng xem! Còn nhớ, Hòa thượng Ngưỡng Sơn chỉ Sư Tử Tuyết nói: Có gì hơn được màu này chưa? Vân Môn thưa: Lúc đó thì lật đổ hết. Tuyết Đậu nói : Chỉ biết lật đổ, không biết nâng đở Sư nói: Lời này cả chốn thiền môn có kẻ phần nhiều làm cơ phong, gặp nhau thương lượng, có phải vậy chăng? Nếu không được như thế, lại phải thế nào? Thượng tọa Giác, đêm nay không thương tiếc hai hàng lông mày, bên cạnh đưa ra một tay, muốn gặp người xưa. Ngưỡng Sơn nói như thế, rất giống máy lụa. Vân Môn khéo hiểu cắt dài. Tuyết Đậu chỉ bổ túc thêm ngắn. Ba tôn túc mỗi người có sở trường riêng, Thiền tăng cuối cùng nhận người nào làm tắc. Chỉ mong gió Xuân có nhiều sức, cùng một lúc thổi vào cửa của ta. Nếu như vậy thì hãy hội đi? Thì mới có tay cứu sống. Có được con mắt siêu xuất, không chỉ là môn báo hóa, tám phương chống cự, cũng chính là trên đỉnh Tỳ-lô, chữ thập dọc ngang. Nếu chưa được như vậy, thì không khỏi nói lại kệ. Thiền tăng nắm được thiền cơ, tròn sáng dứt hết các thứ, phải nên lật đổ, lại muốn nâng đở. Ngựa ngọc uống cạn suốt trăng sáng, trâu bùn cày phá đất lưu ly, mang lông đội sừng trong khác đến, khắp nơi nhơn loại được mấy người.  QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ <卷>QUYỂN 6 PHÁP NGỮ CỦA HÒA THƯỢNG GIÁC Ở THIÊN ĐỒNG MINH CHÂU Tỳ-kheo Phổ Sùng soạn. Gương sáng rộng lớn chiếu soi tất cả, mở được then chốt nhiệm mầu của cơ phong, tin tức phong thái đều đúng. Người có được chánh nhãn sâu sắc biết rộng. Có phải chăng! Sư ở dưới đỉnh thái bạch, long tượng tôn trọng kính cẩn. Chùy gõ, chạm đục, diễn đạt ngôn ngữ ý văn đều tinh đạt, hoặc só thứ tin đạo lại đến thăm phương này, hoặc mây, nước phần vệ lại thỉnh Sư chỉ dạy đều phải bày ở trước. Phóng bút thì ứng hiện, ngay danh tự mà nói theo hỏi mà trả lời cho nên thành pháp ngữ. Nhặt chọn một hai điều để soạn lại. Chao ôi! rổng rang thênh thang, tràn ngập mênh mông, chưa từng tạo sự sâu xa cùng tột này. Đã ghi chép lại điều này, phải là bật thần ngộ diệu khế mới gật đầu khen ngợi. Mảnh đất rổng rang thênh thang, đó là xưa nay sẳn có, phải ở trong cảnh tịnh siêng lau chùi các tập khí vọng duyên huyễn hóa, từ đó đạt được thanh tịnh tròn sáng, rổng rang không hình tượng, cao ngất không nơi nương tựa, chỉ có bản chơn chiếu thênh thang tiêu hết cảnh giới bên ngoài. Thế nên nói, rõ ràng thấy không một vật, mảnh tâm này không bị sanh diệt chi phối, cội nguồn lặng lẽ chiếu tận đáy, hay phát sáng hay xuất hiện, thấy rõ ràng các trần, rỗng rang không chỗ nào gặp. Thấy nghe đều là diệu, vượt ra ngoài thinh sắc kia. Dụng khắp nơi gương chiếu không sót không ngăn ngại, tự nhiên tâm tâm pháp pháp sanh nhau. Người xưa nói! Vô tâm lãnh hội được đạo vô tâm, Lãnh hội được đạo vô tâm cũng phải dừng, vào trong quan phủ ý thanh tịnh ngồi im lặng, du phương vào trong chốn mầu nhiệm của hoàn cầu, phải tham cứu như vậy. Đạt được chỗ chơn thật, chỉ có ngồi yên thầm tham cứu, thật sâu mới đạt được. Không bị nhân duyên bên ngoài lôi cuốn, tâm này rỗng rang bao dung tất cả, sự chiếu này nhiệm mầu có chuẩn mực. Bên trong không suy tư phan duyên, rỗng rang chỉ biết không mê mờ. Linh diệu nhưng dứt đối đãi mà tự đắc được. Chỗ đắc ấy cũng không kẹt vào tình thức, phải hiểu rõ thênh thang không nương tựa, cao ngất tự thần diệu, mới không theo tướng trần cấu. Chỗ này không còn sở đắc, thanh tịnh nhưng sáng ngời, sáng nhưng thông, thì mới thuận theo để tiếp nhận sự việc, việc gì cũng không ngăn ngại, như mây phiêu bồng chốn núi xanh, trăng chơ vơ trôi dạt vào khe suối, khắp nơi thần biến sáng ngời, rõ ràng không kẹt tướng, thật là tương ưng, giống như bao trùm mũi tên. Lại giáo dưỡng thuần thục lãnh hội an ổn, tùy theo nơi đều rõ ràng. Dứt góc cạnh không đạo lý, giống như bò đực trắng, ly nô đi như thế, gọi là bậc thành tựu. Thế nên nói: Người đạt được đạo vô tâm cũng như vậy, chưa được vô tâm cũng rất khó. Rộng lớn không giới hạn, thanh tịnh phát sáng. Linh thông nhưng không ngại, sáng nhưng không chiếu, có thể nói rỗng rang nhưng tự sáng, sáng tự thanh tịnh, vượt khỏi nhân duyên, không còn năng, sở, diệu này vẫn còn, chiếu này cũng thênh thang, lại không thể dùng hình tượng, ngôn ngữ có không diễn đạt. Lại ở trong này đóng chặt cơ phong chính yếu cứu sống, tùy theo đó ứng hiện không chỉ đại đụng không ngăn ngại, mà còn ở khắp nơi, trục quay không theo duyên thì không rơi vào các loài, ở trong đó tùy thích an lạc. Ở kia đồng với kia, ở đây giống đây, lẫn lộn không còn điểm để phân biệt. Thế nên nói: Như đất đở núi nhưng đất đâu biết núi cao, như đá ngậm ngọc nhưng nào biết ngọc không tỳ vết. Nếu được như thế thì xứng đáng là bậc xuất gia. Hàng xuất gia phải lãnh hội như vậy. Gia phong thiền tăng, tâm niệm phải khô lạnh dứt hết các duyên, chỉ còn lau chùi mảnh đất tâm này, cần phải nhổ sạch bãi cỏ hoang đến tận ranh giới, rõ ràng không còn mảy nhiễm ô. Linh nhưng sáng, rộng nhưng rạng rỡ, chiếu thấu triệt trước thể, đến nổi sáng bóng trong suốt, không dính mảy trần, thì nắm được cơ phong mầu nhiệm. Kiệt xuất hơn người. Vào không loài khác không xâm phạm lúa mạ người, mặc tình thong dong, dong ruổi tự tại, không còn kẹt vào chỗ an bài, chính là cái cày phá mảnh đất không kiếp. Lại như thế đi. Rõ ràng không mê mờ, khắp nơi đều hiện thành. Một niệm muôn năm, tướng vô trụ ban đầu. Thế nên nói: Đất tâm chứa các hạt giống, mưa thắm đều nảy mầm. Đã ngộ được hoa tình, quả Bồ- đề tự thành. Y chẳng cần tu chứng, sẳn có xưa nay. Y không nhiễm ô, thấu triệt thanh tịnh. Ngay chỗ đầy đủ thanh tịnh, sáng được mắt này, chiếu thấu triệt thoát tất cả, lãnh hội sáng ngời bước vào chốn an lạc, sanh tử không còn gốc rễ, ra vào không lưu dấu tích. Chiếu sáng trên đảnh, rỗng rang nhưng linh diệu, bản trí ứng duyên, tuy tịch nhưng sáng. Thật là đạt đến chỗ không còn chính giữa hai bên, dứt trước sau, mới được thành một khối. Căn căn trần trần ở khắp nơi, tướng lưỡi rộng xuất hiện, truyền ngọn đèn vô tận, phóng quang trùm khắp, làm Phật sự vó đại. Y không mượn một mảy pháp bên ngoài, chính là việc trong nhà mình. Phân thân vào cõi trần, chạm vào việc thì hiện trước, không còn một chút cảnh bên ngòai. Trời đất đồng căn, vạn tượng một khởi đều biến hóa tự nhiên, không bị thôi thúc lôi kéo, là đạt được đại tự tại chăng? Gió thổi trăng soi cùng vật không ngại nhau, nhưng sau lui về, cho phép trong đó gánh vác. Trí chuyển lý viên mãn, công quên quả vị đầy, không rơi vào địa vị tôn quý. Vào trần hòa quang, vượt khỏi riêng chiếu sáng. Mới biết đạo, tiếp nối là dụng công, tiếp nối chẳng phải nhờ công này. Thoát hết thân này, phát ra ánh sáng, vạn cơ không chỗ đến, ngàn Thánh không truyền. Chỉ có tự chiếu soi chứng sâu, thầm thầm tương ứng. Minh vốn là phá tối, chơn là chiếu soi sâu xa. Sự hiện hữu ấy không dùng phàm tình lường được, đều vượt qua tất cả. Diệu ở trong thể, công chuyển được ngoài kiếp, thì mới tùy duyên hiệp với trần, nhưng không ngại các trần. Tâm tâm không xúc chạm vật, từng bước không kẹt trong đường, gọi là tiếp nối gia nghiệp chăng? Đã thấu triệt thì rất gần gũi. Đập thủng hư không e rằng trống rỗng, lạnh nhạt thuần chơn, như vậy là đập phá được tập khí chất chồng nhiều đời. Tập khí trần cấu nhiều đời sạch hết thì bản quang hiện tiền. Chiếu phá đầu lâu, không còn vật khác, thênh thang mênh mông như trời nước mùa Thu, như trăng, tuyết một màu. Mảnh đất này không còn giới hạn bờ cõi phương hướng, thênh thang một mảnh không bị chấp vá lôi kéo, phải ở trong đó thoát hết mới được, chính khi thoát hết ấy, tâm nghó miệng bàn, ngàn dặm vạn dặm còn không biện bạch đạo lý? lại đâu có chỗ để chú thích, gả phải là thùng lủng đáy mới tin được. Thế nên nói, chỉ chứng mới tương ưng được. Chỗ tương ưng xoay chuyển nhập thế, du hý Tam- muội. Hiện rõ ràng âm thanh sắc tướng, ngay đây không còn dấu vết, mình người không còn qua lại, chỉ ở trong đó không thọ nhận. Chỉ chỗ không thọ nhận này, bao hàm cả pháp giới, sum la vạn tượng của hư không không còn sót lại mảy may.Người có bản sắc phải thể nhận như vậy để nghiên cứu. Chỗ dụng công của Thiền tăng, rỗng rang không dính mảy tơ, thênh thanh trong sáng. Như gương chiếu gương không ngoài cảnh giới, không có trần duyên khác. Tự chiếu rõ ràng, tất cả không nhận, gọi là đảm nhận. Đảm nhận như vậy, trí chiếu sâu xa nhưng không mê mờ, đạo hợp với thể nhưng không trụ. Từ chỗ vô trụ này, ứng hóa hợp với căn cơ, thích hợp với vô lậu, đúng là không ô nhiễm, như tiếng vang nhiệm mầu trong hang. Sư lướt gió trên không, không ngăn ngại tự do, không chỉ dứt điềm xưa, mà còn linh diệu không làm y mờ tối được, hoàn toàn bước vào mảnh đất này, tất cả đều an ổn, tất cả đều thảnh thơi, con trâu trắng sờ sờ tuyền một màu trắng, đi theo đi không được, phải đích thân chứng đích thân đạt mới được. Thầm lặng tự trụ, như như lìa duyên, sáng tỏ không trần, ngay đây triệt ngộ từ xưa đã đến được chỗ này, không phải hôm nay mới có. Từ gia phong xưa trước nhiều kiếp, rõ ràng không mê mờ, linh diệu một mình sáng. Tuy nhiên như vậy, mặc dù một mảy không sanh, một trần không dính, khô lạnh lặng hết, muốn đến cảnh giới này ra khỏi sanh tử, không có chổ này, ngay đây phải thoát được. Rốt ráo không còn một mảy suy tư, lặng không còn duyên lự, lùi bước buông tay là triệt để, thì mới phát sáng ứng thế. Vật vật dung hợp nhau, khắp nơi đều thích hợp. Thế nên nói: pháp pháp không ẩn dấu, xưa nay thường hiển bày. Chỗ chơn thật của Thiền tăng ở điểm tu tập, chiếu thấu nguồn cội tế trong tế, lẫn lộn ánh sáng, một màu không vết, phải chuyển thân trong ấy mới được. Cho nên nói nối tiếp gia phong, máy tơ không quay, ánh sáng vắng bặt, đến cha một đường tắt, diệu ở trong thể, bụi bặm sạch, chi tiết hết, hiểu không nổi. Quay đầu thì chứng, trí tuệ khám phá mới đến được, thì mới ra giáo hóa được. Hoa lau đêm trăng sáng, khi xưa đưa thuyền sang sông, cây kim sợi chỉ, khi ấy chuyển cơ phong, nhập thế ứng duyên, trần trần đều như vậy, pháp pháp không khác, thuận buồm xuôi gió, tự nhiên không ngại. Chư Phật chư Tổ không chứng điều gì khác, đều đến chổ khô kiệt này, Đoạn ba đời, lặng vạn cơ, ngay đây không còn mảy may đối đãi. Phật linh hoạt tự chiếu, nhiệm mầu thấu căn nguyên, biết được tận đáy, phân thân ứng sự, mỗi cửa đều phóng quang, vật vật hiện bóng, thì biết đều từ đây lưu xuất. Trên tất cả trăm đầu ngọn cỏ, rõ ràng không còn phương cách cùng ta tạo nhân tạo duyên, toàn thân thấu triệt như vậy. Rỗng rang không tỳ vết, chiếu sáng chẳng phải là tình trần, sáng thấu sâu lắng thanh tịnh, dứt hết dấu vết trần, tự biết như vậy, như vậy tự rõ ràng. Mảnh đất tâm thanh tịnh sáng nhiệm mầu đó là bản sở nhiều đời chưa từng biết, chỉ vì còn nghi ngại vô minh, tự làm ngăn cách. Trí rỗng rang thênh thang, bên trong quên công huân, ngay đây thoát hết gánh nặng, chuyển thân đến chánh vị, mượn đường đi đến. Linh cơ vận tốt, gặp việc đều chơn, lại không còn mảy trần là vật từ bên ngoài đến vậy. Pháp pháp tự nhiên, nhiệm mầu vượt qua đường ngôn ngữ, nên thấy không gián đoạn, cho đến núi rừng cỏ cây, chưa từng không phát ra việc này. Thoáng nhìn phá tan mới biết tướng lưỡi rộng dài, khắp nơi ẩn náu không được. Người nói thì có người nghe, người nghe tức là có người nói. Căn trần dung thông, lý trí lẫn lộn, mình người đồng một tâm, pháp, lại ở trong đó phân giải. Tuy nhiên như vậy, nhưng thông suốt trước mắt, phải mau thâu về, làm nghề sống trong nhà, mới được ngồi an ổn. Đạo đi vòng quanh đến chổ rỗng rang quên hình tượng, cực tịnh tự sáng. Sáng chỉ tự chiếu, hướng đến chổ trần cảnh chưa từng tạo căn trần không có tỳ vết, đạt được sự mầu nhiệm dứt đường trôi lăn trong sanh tử, chỉ theo gốc tạo hóa, ở trong đó một mảy tơ chút bóng dáng tiền trần cũng không dính, chỉ chứng mới được tương ưng, từ đây một cái đánh thì đại thiên thế giới đều hiện bày. Vật vật đầu đầu thật là nơi ta phóng quang nói pháp, phân thân trăm ức. Riêng chiếu nhưng thần kỳ, đặc biệt không rơi vào danh sắc. Tròn ứng với vô công, chiếu rỗng rang nhưng bao hàm, hang rỗng nhưng vang. Buổi đầu không kẹt vào thấy nghe, thật là tự tại không ngại, du hý thần thông tam-muội. Nếu lãnh hội được như vậy, đến đâu mà không được lợi ích. Mở một đường có mắt ứng thế đối duyên, chính xác không bị rơi mất, vạn duyên vùi chôn không được. Dưới trăng nước gió lướt qua tùng, ánh sáng không lẫn lộn với ta, âm thanh không cản trở ta. Ứng hiện đầy đủ, vượt khỏi không còn bị hình tượng trói buộc. Phân thân giáo hóa tùy theo việc, thích hợp không trái nhau. Vẫn là thoát khỏi lưới trần chưa đến được nhà mình. Khô hết các duyên, không rỗng lặng, lặng lẽ nhưng sáng, sạch nhưng chiếu. Hư nhưng bao dung, thênh thang nhưng ứng, không cùng ngoại cảnh đối nhau, rõ ràng linh hoạt, vào mãnh đất tâm này, mới biết được Tổ sư. Thấy thật tướng của thân, thấy Phật cũng như vậy. Nếu chánh niệm lãnh hội được chính mình không phải cảnh bên ngoài, thì thích hợp dứt đối đải suy nghó luận bàn. Phật Phật tâm tâm thuần nhất không hai. Thiền tăng lặng lẽ dạo chốn không tịch, rỗng rang linh hoạt thông suốt, bằng hư không vượt qua trần kiếp, cao ngất không còn điểm nương tựa, sáng ngời không suy nghó được, đây là chỗ trụ của mình. Cơ chuyển hóa phân thân, nhiều đời ứng với việc, chiếu sáng vô công dụng không dấu tích. Mây thanh thản bay nước trôi xuôi, không còn ngăn ngại, ngay đó thuần thục an ổn, tất cả dời đổi không được, mới không bị duyên trần kéo lôi, thể nhận được chơn thật. Nơi sanh ra cháu ngoại là Tổ, chỗ xuất xứ dòng gọi là nguồn. Thấy thông được nguồn này, thì biết được cha ông, biết được bản tâm bất động từ xưa đến nay chưa từng lưu chuyển, không bị sanh diệt chi phối. Tuy nhiên không theo, nhưng có tất cả bóng dáng sự tưởng, gọi đều liền đứng dậy bước qua. Rõ ràng thoát khỏi căn trần, vượt khỏi tri kiến không bị bao phủ. Tình không tưởng đọan, tự nhiên rõ biết tròn sáng. Phiêu bồng trong chốn vạn tưởng, nhưng nó không lẫn lộn. Ở trong các trần rỗng rang, trăm ngàn tam-muội, mỗi môn đều trang ng- hiêm. Pháp pháp đầy đủ lại phải thâu nhận về. Khi trở về xứ sở cũ ở trong nguồn này, thờ phụng Tổ tiên, hợp lại thành một, mới thấy được toàn thân. Lặng lẽ chiếu khắp trời Thu lặng, chiếu không thấy có dụng công chiếu, cắt đứt ánh sáng này, cái này hoàn toàn vượt chơn đến tận thời tiết. Nguồn tịnh thể linh sáng, then chốt rỗng không, cơ linh hoạt, bản minh sáng tỏ, trong đó phát hiện được, liền đưa ra. Ở trên từng mỗi việc, đều hợp nhau đầy đủ, cùng đồng với trời đất, vạn tượng ngang nhau, bằng phẳng thênh thang, ngang ngang dọc dọc. Trời đồng trời, người đồng người, ứng thân này, hiện tướng kia, nhưng thuyết pháp, hay lãnh hội được thể viên mãn như vậy, rỗng rang không chướng ngại. Cọp làm gió, rồng làm mưa, thích hợp bên nhau. Trong đó vốn không kẹt vào ý thức, điều này là việc tự nhiên. Sự biến hóa của thiền Tăng, hay dùng nhân duyên để hòa hợp, chính là như thế. Đến nhưng không hiện, đi mà không ẩn, vào khắp nơi một cách thần kỳ. Tất cả nơi không lẫn lộn, phiêu bồng trên đầu vạn tượng, sáng tỏ trong bóng sum la, rõ ràng không mảy may khoảng cách. Cơ phong xuất hiện lẫn lộn, đích thực là câu đến nhà, cần phải tham thiền. Mây tan gió lặng, trăng thu bàng bạc, nước trời không bờ bến, chỗ tận cùng này thấu triệt mới được. Đạo chẳng phải Tổ truyền. Khi Tổ chưa sang, giăng bủa khắp nơi, tự nhiên rỗng rang không tỳ vết, linh linh không gặp gỡ, chỉ soi thẳng nhân duyên, thường linh hoạt lìa hình xác, thế nên nói là Tổ. Chỉ chứng mới tương ưng được, không thể trao tay. Phật Phật đạt được, lấy đây làm tột cùng, phân thân ứng hóa, hoa hoa cành lá, căn căn trần trần, trí đạt được tam-muội. Vạn cơ không không nhiễm loạn được ta, một trần không ngoài ta, thần kỳ vượt ra ngoài ngàn quyển kinh lớn, nơi nào có được việc bóng thì có thể được. Nguồn trong tịch lặng, chiếu thấu đáy cội nguồn. Chỗ này rỗng lặng nhưng linh hoạt, rỗng rang nhưng sáng. Tuy chiếu soi hình tượng trong gương mình, nhưng không ảnh hưởng nhau. Lúc này thoáng nhìn phá được, vẫn còn công đảm nhiệm biệt bạch, phải lùi lại, mới đến được hoàn trung. Trong ấy phát sáng, một mình cao ngất, lại tháo gỡ hết sự dụng công tạm thời, gọi là đản sanh. Đây mới là ra vào vi diệu, rõ ràng kỹ lưỡng, hay phân thân thì phải làm được các việc. Có dấu ấn để ấn khả vạn tượng, ấn này không tỳ vết. Dạo vào cõi nước đối duyên, tự mình thọ dụng trần trần tam-muội. Dụng này tự tăng lên, không thể tràn đầy. Mây che hang rỗng, trăng sáng khe trong, không ra không ở, vượt ra ngoài sự giáo hóa. Nay chỉ dạy không đắc không hướng, ở khắp nơi, trở về chốn xưa, mảy may chưa từng dao động. Khập khểnh dắt dìu, nhiều điều xấu xa vụng về tự nhiên thuận lợi. Triệu Châu rửa bát, uống trà, không kẹt vào sự an bài. Xưa nay đều hiện thành, nếu là có mắt, thì mỗi mỗi đều nhìn thấy được, mới là chỗ dụng công của Thiền tăng. Nghiên cứu sự mầu nhiệm của tông phong Phật học, tâm phải thanh tịnh lắng thần quán sát bên trong, thấy thấu tận cùng pháp, không bị cuống rau mảy tơ làm chướng ngại, rỗng rang không hình tượng. Như nước mùa Thu, sáng tỏ trong suốt. Như trăng đêm khuya, chính lúc như thế, sáng tỏ không hôn mê, trong lặng không cấu, thường tịch thường sáng. Tịch này cũng không có nhân đọan diệt, diệu này không có ảnh sự xúc chạm. Rỗng rang thanh tịnh tròn sáng, nhiều kiếp chưa từng dời đổi, không mê mờ, hay lặng hay biết, bước vào chổ tột cùng hay được an ổn. Ấm ngọc bên cạnh, vừa mở hồi cơ, phân thân ứng thế. Xứ sở thế gian, cảnh tượng khác nhau đều do mình tự lập, cùng bốn đại của ta xuất hiện, đâu có chỗ nào ngại. Đã là tất cả không ngại, mình người tướng không khác nhau, tự tha không khác danh tự. trong rừng thinh sắc, phiêu bồng vượt lên, sáng tỏ lẫn nhau. Thế nên nói núi sông không ngăn cách, ánh sáng chiếu thấu khắp nơi, phải lãnh hội như vậy. Mảnh tâm linh minh, từ xưa chưa từng thay đổi, ngang nhau không có bờ mé, lớn bằng không dính vết cấu. Dạo chơi trong đó, mây lang thang tựa núi, gia phong thanh nhàn luận bàn. Trăng thu soi bóng nước, cảnh giới sáng trong. Đích thực đến xứ sở này, thì biết được ruộng tâm đất pháp, là từ cội nguồn sanh ra vạn tượng, chủng tánh không khô héo, hoa lá khắp pháp giới. Thế nên nói: Một hạt giống ở ruộng hoang, không nhổ mạ tự tốt. Đạo nhơn vốn không có chổ trụ. Mây trắng che núi xanh, trắng sáng bủa giăng khe nước. Mây tan núi hiện, trăng làm lạnh nước. Một thời thu bao dung, thấu triệt không bờ mé, các trần đều không đến với ta, vạn hóa lặng không thay đổi được ta. Ngồi ở trong đó, được an ổn, thì có thể một bước chuyển thân, ứng cơ nhập thể, vốn là một câu siêu phương. Thế nên nói sáu cửa không đóng, ngả tư không đi, khắp nơi không thể lẫn lộn được, lặng lẽ chưa từng động đến, y hoàn toàn đều biết chỗ đi. Trong lòng rỗng rang bằng thái hư. Thủ đoạn phân biệt bằng vạn tượng. Một trần không phần ngoài mới có thể ứng biến. Một chút không lưu, mới có thể trụ được. Trong rỗng rang nhưng hay ứng. Thọ và không thọ ngang nhau, giao thiệp bên ngoài nhưng thường rổng rang. Trụ vô trụ đồng. Gia phong Thiền tăng, ở khắp nơi nhập Tam- muội, phải đi như vậy. Mười phương pháp giới đều từ một tâm khởi ra. Khi tâm tịch lặng các tướng đều hết. Cái nào là kia, cái nào là ta. Chỉ lúc ấy không có tướng sai khác, ngay đây một trần không lập, một niệm không sanh. Sau khi thoát được bào thai túi da trước, một điểm diệu minh, tròn lẫn lộn, không có phương cõi giúp dấu vết, ngay đây không mê mờ được. Chổ không mê mờ được, gọi là tự tri, chỉ chổ tự biết này gọi là bản đắc, hiểu được không ngoài bổn phận của mình đạt được thấu suốt, rỗng rang thênh thang, nhiệm mầu nhưng không hình tượng, nghe đúng nhưng không âm vang. Thế nên nói: Chẳng phải chỗ đến của tai mắt, chỗ này chỉ có khế ngộ mới đến được. Trong đó phát sáng, hiện bóng khắp nơi, khắp nơi là đạo, vật vật là y, đều là cảnh giới thọ dụng của Thiền tăng, hơn nữa không cần mượn những điều của người khác, phải đích thân thân chứng mới được. Nhà ta trồng cỏ phải làm như vậy. Liễu đạt tất cả pháp không, thì tâm tâm được tự tại, khắp nơi đều thấu thoát. Xưa nay một khoảng ánh sáng không nơi nào không biến khắp để tùy duyên hóa độ. Gặp vật thì thành tông, thần kỳ chiếu các duyên, thênh thang không đối đãi. Gió lay tùng, trăng soi nước, thanh đạm hợp nhau, không có tâm qua lại, không tướng ngăn ngại. Ở trong đó rỗng rang nhưng bao dung, ứng hóa bên ngoài nhưng không nhiễu loạn. Như mưa Xuân hoa nở, như gương chiếu hình tượng, mênh mông trong chốn ồn náo, tự nhiên xuất hiện một đầu. Ruộng đất đều ổn định, khắp nơi đều xanh tốt. Lúc cuộc sống thanh thản thì thấy được không kiếp, không còn hệ lụy mảy duyên trần, không mảy tơ nào làm chướng ngại. Rỗng rang tột cùng nhưng sáng ngời, thanh tịnh nhưng sáng chói, từ ngày xưa sáng tỏ không mờ. Việc ngộ đạo này, nếu gật đầu biết có, không còn theo duyên sanh diệt, không trụ đoạn thường, phải biến hóa ứng hiện thì cùng với sum la vạn tượng chung sự ứng hóa này, phải trụ trong lặng lẽ thì cùng với trời đất bao trùm đồng với đạo này. Ra vào co duổi, tất cả đều ở trong ta. Bản sắc của Thiền tăng, thâu nắm như vậy mới được. Ban ngày thấy mặt trời, ban đêm thấy mặt trăng, không lừa nhau một thời tiết, đây là chổ hành vi an lạc của Thiền tăng, tự nhiên không góc cạnh vết khâu vá. Nếu muốn an lạc như thế, phải thấu triệt ý căn lặng lẽ giã gạo dệt vải mới được. Nếu không lặng lẽ, thì phải ngồi cắt đứt, buông hết, đạt được tất cả chiếu soi thấu suốt, cảnh huyền hóa đều quên, buông hết thân tâm, căn trần đều thanh tịnh, tự nhiên biết rõ bản lai diện mục, thọ dụng đầy đủ. Tất cả nơi không còn đeo mang, tất cả thời đều tương ưng. Ở trong sáng có tối, trong tối có sáng, thuyền chở đầy trăng, đêm ngủ bờ hoa lau, một đoạn sáng ngời, quả nhiên như thế. Sáng ngời thanh tịnh, tầm mắt không nhìn tận bờ cõi, lặng lẽ rỗng rang, tâm duyên không đến bờ cõi kia, thật là người tham cứu đạt đến chổ tận cùng. Nếu tin được mảnh đất bản hữu của ta thì Phật ma xâm phạm không được, trần cấu nhiễm không được, vuông tròn đều thích hợp, tham thiền mới đến được, thì diệu dụng hằng sa, hoàn toàn bằng nhau. Từ mảnh tâm này phát sanh, từ mảnh tâm này đạt được tất cả, điều này mọi người đều có. Nhưng hướng đến trước vì ta nhìn thử xem, người biết có thì gật đầu biết nhau. Phật tánh hay ứng hiện tất cả, trên đỉnh môn, mắt tự chiếu toàn thân, vừa thâu vừa buông, không trong không ngoài, đại thiên cùng ta đồng xuất hiện. Ba đời tự nhiên siêu thoát, rỗng rang không bờ mé, chiếu sáng một mình. Lúc này ảnh tượng đều hết sạch. Hết sạch không được u hiển linh diệu dứt đối đải, không bị chi phối sanh diệt. Khi đạt đến mảnh đất này, rỗng rang không còn chổ nương tựa, duyên trần không nhiễm, lúc này thầm hợp cảnh giới, bao trùm mũi tên, hoàn toàn không trái ngược, du hý Tam- muội thì thuộc thọ dụng của người này. Mắt đảnh, dấu hiệu nơi khủy tay là việc hiện tiền truyền trao của Thiền tăng, phải lãnh hội hoàn toàn. Ngay khi thiền sinh lãnh hội, không đọng lại không chảy trôi, không thuần không tạp. Chỗ nhỏ khô hết chuyển được cơ, khi vào chốn ồn náo vẫn sáng mắt, biến khắp tất cả, rõ ràng không ngại, trăng theo nước chảy, gió đùa cỏ, rực rỡ đẹp cực kỳ, hoàn toàn không lẫn lộn với ta. Thế nên nói: Hạng không bằng vượt khỏi đường, ứng hiện đúng thời, cho phép y đi như thế. Trên trăm đầu ngọn cỏ thâu thập đem về nên làm gì? Đắp y ngồi nhìn lại phía sau. Việc ngộ đạo này hoàn toàn không ở chổ học, phải ở chổ thân tâm thênh thang lượng rộng lớn bằng hư không. Tự nhiên đều đầy đủ khắp nơi, linh hoạt không mê muội được, rõ ràng không lẫn lộn. Trăng theo nước chảy, mưa theo mây bay. Rốt ráo không bằng chấp nhận tâm, hay thành tựu như chấp nhận sự. Nhưng chớ đem mình ngăn ngại vật, tự nhiên y không bị vật làm chướng ngại, thân tâm nhất như , ngoài thân không vật nào khác, đồng thể đồng dụng, một tánh một tướng, căn căn trần trần, ngay đây dứt đối đãi. Thế nên nói: Thánh nhơn không có tự mình, không nơi nào không được, trước mắt như thế, rõ ràng như thế, thì biết: Thâu vào buông ra, trở thành con trâu trắng sờ sờ, đi theo đó cũng không được. Hành giả đi đứng như mây trôi vô tâm, trăng đều ứng hiện khắp nơi, không bị tất cả cảnh làm chướng ngại. Nó sáng tỏ trong vạn tượng, cao ngất vượt ra khắp nơi, tùy duyên tiếp xúc, không nhiễm không tạp loạn, cùng với kia đồng dụng, cùng với ta đồng thể. Ngôn ngữ không truyền đạt được, tư duy không đến được, vượt khỏi dao động, dứt đối đãi, uyển chuyển không cần dụng công. Diệu đắc vượt ngoài sự suy lường của tâm thức, thọ dụng trong đường, thừa đương trong nhà, liễu sanh tử vượt khỏi nhân duyên, thấy đúng sự linh diệu vốn không chổ trụ. Thế nên nói: Tâm biến khắp mười phương, nhưng không ở tất cả chổ. Chổ trở về cũng như trăm sông đều đổ về biển cả, đều đạt đến một vị, thi hành cũng như gió cuốn sóng đều đến bờ kia, đâu không phải là đến trong nguồn chơn, đâu không phải đạt được đại dụng hiện tiền. Gia phong Thiền tăng tùy cơ ứng biến đều thích hợp như thế. Lại từng lập tâm tưởng đến trần duyên, điều này phải lãnh hội đầy đủ. Chơn tịnh không tỳ vết, công huân cùng tận, trong đó lại không biết được chổ. Dù không biết được, tức là toàn thân, nhãn căn không thấy được, cũng không thể làm lu mờ được nó. Đạt được chổ phát quang, trong sáng chiếu khắp, tuyết lẫn với hoa lau, trăng thu sáng chơ vơ, thì có cơ hội dung hợp, soi nhìn con đường, chợt đưa ra lại, ứng dụng thích hợp. Khắp nơi đều ở trong ta, vượt lên khỏi vạn tượng. Thiền của Câu Chi một ngón tay, ba mươi năm thọ dụng không hết. Người đạt được sự nhiệm mầu đơn giản, cho nên lặng lẽ không nói, người đạt được dụng an nhàn, cho nên ứng hiện không xúc phạm vật, dạo chơi với đạo, làm chủ bằng tiền, lý cố nhiên là như thế. Chợt hướng trong đó dính một mảy tơ hạt bụi, thì cơ quan chính ngại không thông suốt được, chổ vô ngại của Thiền cơ mà không chuyển được. Trong chổ rỗng không bao hàm tất cả có, chổ có cũng bao hàm khoảng không, thì có việc gì? Đầu đuôi cội nguồn mạnh mẽ nhưng không hình tượng, động nhưng có ứng hiện. Thường khám phá thấu triệt, cao ngất hiện sừng sững, một mình thiêng liêng sáng tỏ, đều chưa mang một chút duyên bên ngoài. Khi một mình sáng ngời, cho đến cùng vạn tượng đồng ra, đồng chìm, chỗ các trần Tam-muội khởûi. Thanh tịnh như hải ấn, xoay chuyển như châu la bàn. Thênh thang biến tất cả, nhìn chăm chăm không duyên khác, có thể nói thời tiết một mình chiếu sáng vô tư. Đêm trăng hiện sáng cả mặt nước, gió Xuân thổi nên hoa nở, không nhờ công dụng tự nhiên tròn đủ. Nhân nhân duyên duyên, quả quả báo báo đều ở trong đây không ngoài bổn phận, phải biết cảnh sáng đều quên, lại là vật gì? Gia phong tăng quê mùa dùng một bình bát để sinh sống, chỉ vạn tượng làm sản nghiệp. Tướng kia đây như cảnh trong gương, như trăng trong nước dung hợp không ngoài. Trước không lập ngã tướng thì vật vật chẳng phải duyên khác. Một tướng không tướng, đều là lò không có việc khác, hoàn toàn như vậy, hiểu được ứng dụng. Đường thoi trước máy không thông, ngoài cảnh căn trần đều quên, lúc này phải lui bước về nhà, mới có phần tu tập tham thiền. Mây đen một màu, tuyết phủ ngàn núi, xem thông suốt khi ấy mới thấy được toàn thân. Người hành đạo, lời nói và suy tư phát ra đều mầu nhiệm. Ngay chỗ chơn thật tự có đường vào. Lại không tỏ đạo lý, rỗng rang thầm hợp, trăng trôi theo nước, gió đẩy hư không, tự nhiên không xúc chạm không ngăn ngại, vượt khỏi chiếu dụng kia. Tuy chiếu nhưng không có tỳ vết, tuy dụng nhưng không có dấu vết. Nhập Tam- muội ở trong các trần cảnh, thâu vạn tượng ở trong một ấn, hết rỉ chảy, không tạo tác, gọi là Thiền tăng xong việc. Lại phải nhớ có con đường về nhà mình, mây tan trời lạnh, thu sơ xác núi gầy, đó là trụ xứ của mình. Thiền tăng sẵn có mảnh đất tâm, rộng trong sạch bằng phẳng to lớn, nhìn không thấy bờ cõi. Ở trong đó cày mây trồng trăng, sáng tỏ rỗng rang, thọ dụng nhà mình, hoặc ra hoặc vào, mặc thâu mặc buông, đến nỗi trời đất đồng với nó, vạn tượng đồng sanh diệt cùng nó. Cao ngất chênh vênh, từ đâu đến. Lặng lẽ thênh thanh đến hướng nào? Có thể nói thênh thang không dung nạp được, đại địa không chống chở nổi. Nhiệm mầu nhưng không hình, thênh thang nhưng không tên, có không không tận cùng. Thánh phàm bặt đường mới có khi đến nhà được. Chính lúc như thế, được cái gì? Vạn khoảnh mắt lạnh trong chiếu tuyết, người ra sức cày rất đẹp. Thân tâm khô lạnh, lau sạch mảnh đất tâm, làm sạch hết bụi trần, một cảnh rỗng sáng. Mưa tạnh trăng sáng, sắc Thu mây núi, xanh xanh thăm thẳm, trong lặng thiêng liêng, tự chiếu cội nguồn, không chỉ cành lá, lúc ấy đến chốn này, vượt xa cảnh duyên, không giới hạn kiếp số, một niệm vạn năm, hoàn toàn không thay đổi. Từ đây ứng hiện, hang rỗng mây bay động tịnh tự như, thuận theo trần cảnh, thường ở trong Tam-muội. Thế nên nói: Na-già thường tại định, không lúc nào không định. Nhiệm mầu sáng tỏ, thiêng liêng chiếu soi, quấy rối cũng không được, không thể nói có nó, chùi nó không mất, không thể gọi là không có. Vượt ra ngoài suy tư của tâm, lìa khỏi dấu vết cảnh tượng. Nó rỗng rang nhưng nhiệm mầu. Chổ mầu nhiệm thể nhận được linh thông, chổ linh thông gọi là trở về. Thân mây tâm trăng, tùy theo phương phát hiện, ngay đó cũng không tung tích tùy theo nơi phóng quang, ứng vật không trái nhau. Vào trần không lẫn lộn, vượt qua tất cả cảnh ngại, chiếu phá tất cả pháp không, ở trong duyên sai khác nhập trí thanh tịnh, du hý Tam- muội, nơi nào không được, phải lãnh hội chơn thật như vậy. Đạt được thể không quên duyên, chiếu soi khắp vượt khỏi ảnh tượng, một điểm kỳ diệu, sáng tỏ không mờ, tâm quá khứ, hiện tại, vị lai dứt, duyên bốn đại dứt hết, rỗng sáng thanh tịnh nhiệm mầu, một mình sáng tỏ nhiều kiếp, thiền tăng thực hiện được như vậy thì không bị sanh tử trói buộc. Đang khi thực hiện vực thẳm buông tay, không còn nắm bắt, đường dưới chân cắt đứt, vượt lên một bước, Phật Phật Tổ Tổ đều không đến được mảnh đất chiếu diệu chơn thật của ta, gọi là tự kỹ, đó là lúc nối gia nghiệp, mới không còn kẹt vào tư duy. Lại bị lưu chuyển, rỗng rang mà linh hoạt, tịnh mà thường chiếu.Trăng sáng hoa lau, lẫn lộn trong sáng, một mình chèo thuyền vào, uyển chuyển không ngại, chân thật lúc này, lúc này ai mở mắt được. Đi dạo khắp nơi, không chặng giữa hai bên, dứt góc, cạnh, xoay vòng quanh trái đất, lại phải rỗng rang không vẩn đục, trăng lạnh thu trong, ánh sáng xóa tan màn đêm, mây gấm hoa đẹp, khí tượng ngày xuân, chơn tính thông suốt, cơ luân bên nhau, đều là thọ dụng của Thiền tăng. Ta không bị trần cảnh làm mờ, vạn pháp là tâm quang, từng bước siêu phương, đường chim không ngăn ngại. Ứng thế sáng tỏ, hang thần không siêng năng, trong ấy không được lẫn lộn, ý loại nào không đều, sát sát, trần trần, tâm tâm, niệm niệm, buổi đầu không phát tướng, thu- ần sáng nhất chơn, điều đó chẳng đến, khi trong dụng được diệu, hoặc thu nhận duyên khác, chỉ một mình sáng tỏ, chùi rửa không tỳ vết, quét sạch không còn gì. Cô minh riêng chiếu, hàm hiểu tột cùng, trí đạt được rỗng rang, sự cách quang ngoại, đó là cao ngất một thời không sanh diệt chăng? Phải là người bước về nhà, nghi tình câu này mới được. Thiền tăng du hóa, tâm phải thênh thang, trong đó không có chút bụi trần, mới ứng hóa tốt được, không bị vật làm chướng ngại, không bị pháp ràng buộc, đường đường ra vào trong đó có phần tự tại. Ý vừa khởi vọng liền dập tắt ngay, phải thể nhận thuần thục, tự do dạo trên vạn cơ mũi dao nhọn, không tiếp xúc không trái nhau, bao trùm mũi nhọn, hoàn toàn không trái ngược, hướng ra ngoài thâu thập hiểu biết, không còn lậu hoặc, gọi là người thành tựu gia nghiệp, lại từ nơi nào trở về? Mây trắng vào hang, trăng lên núi từ từ, có khi đồng thể với cha. Thế nên nói, ba người đở một cây nằm trên gường, trong ngoài rõ ràng không tỳ vết, nhồi nặn thành một khối, nhàn hạ như mây tan mưa tạnh, trong như nước mùa Thu. Các bậc thiện nhơn hãy ghi nhớ việc này mới được. Một mảnh đất nhà ta, sạch rộng sáng ngời, sáng tỏ tự chiếu. Rỗng rang không duyên mà linh, tịch không suy tư mà giác, mới là Phật Tổ hóa hiện ra vào, là bản xứ đản sanh Niết-bàn. Kỳ diệu thay! mỗi người đều có, nhưng không thể lau chùi mài dũa sáng trong được, bất giác mê mờ, vì bị ngu si che mờ trí tuệ nên chịu lưu chuyển luân hồi, một niệm chiếu phá được thì vượt ra ngoài trần kiếp, quang minh sáng ngời, không còn bị quá khứ, hiện tại, vị lai chuyển biến, bốn tướng vô thường chi phối. Phật tính chiếu sáng, từ xưa đến nay lẫn lộn đồng dị, là mẹ của tất cả tạo hóa, nơi nào đại thiên phát cơ, đều hiện hết hình ảnh trong đó, hãy lãnh hội chân thật. Mắt ứng cơ, thân du hóa, thênh thang nhưng linh, tịch nhưng chiếu, trong vạn tượng vượt ra tất cả, không bị bụi trần chôn vùi. Không bị trần duyên câu thúc. Trăng đi trên không, mây ra khỏi hang, không tâm mà chiếu, vô tư mà làm, là chiếu sáng, là thấm nhuần, hoàn thành như thế, trong sanh thoát ra, dùng được tiêu tan, gọi là xuất thân trong cửa, lúc đó cần phải lãnh hội mới kế thừa được gia nghiệp. Hư không làm tòa, tịch lặng làm nhà. Diệu nhưng chẳng phải có, vì y không bị duyên lôi kéo. Chơn chiếu chẳng phải không, vì y không bị rơi vào thường. Riêng chiếu rỗng rang, trong lặng vượt ngoài suy lường. Phật tánh du hóa khắp nơi không bờ cõi, nơi nào phát cơ, tự nhiên được vô ngại tạo dụng khắp nơi. Đạo nhơn du hóa ứng duyên, phiêu bồng tự tại, như mây thành mưa, như trăng đi mãi, như mộc lan ở chốn u tịch, như Xuân về với muôn vật. Nó làm vô tâm, nó ứng cũng có chuẩn, đó là chổ việc làm của ông đã xong, lại phải trở về chỗ cha, đi trong chỗ an ổn. Buông thân chốn thanh tịnh, một mình tiêu biểu không bè bạn, thấu đến con đường bờ kia của Oai Âm Vương, mới có thể khắp hết chính giữa hai bên, thấu tận đáy và đỉnh, sống chết buông nắm có phần tự do. Thênh thang nhưng tự linh, thanh tịnh nhưng tự sáng, hay chiếu khắp nhưng không chấp vào công chiếu, hay hiểu rõ nhưng không nhọc vào duyên tưởng, vượt ra ngoài có không, vượt khỏi sự tư duy của tình thức, chỉ chứng mới tương ưng được. Không từ người được. Phật Phật Tổ Tổ, lá lá hoa hoa, mọi việc đều liên tục nhau. Khi ứng không chấp vào tướng, chỗ chiếu không ngại duyên thì mới được sáng tỏ không mê mờ. Chỉ gia phong này, khắp nơi đều hiện hữu, mặc cho y thâu nhận. Đạt được cốt tủy của đạo mới xây vững vàng nền móng, liền lá liền cành thì lưu truyền mới được. Thiền tăng khám phá được, kỳ diệu thay Tổ sư Tây lai ý, thành tựu được nhiều việc. Ngoài chi tiết ra còn phát sanh cành lớn bụi trong mắt. Lại có một gã, cắm đầu làm vô hạn mánh khóe, khắc ghe tìm kiếm, khi nào mới được triệt ngộ. Nhưng nay ngay đây buông hết đi và buông sạch sành sanh, một mảy tơ, một hạt gạo đều không còn trong tâm, hoàn toàn đều thanh tịnh, tự nhiên có chỗ triệt ngộ, nhồi thành một viên tròn sáng, linh thông nhưng diệu, thì biết, xưa nay không thiếu một chút, không sót gì khác, chỗ ngôn ngữ không đến được, chỗ thấy nghe không sao bì kịp. Như tê giác thông thái, như trai có thai. Chổ sáng ngời là nơi bước vào chơn thật nhà mình, phải có tinh thần lãnh hội. Phật Tổ xưa nay, vốn không có tăng tục, nhưng mỗi người phải thật thân chứng chổ chơn thật, gọi là nhập vào tâm tông Phật, thấu triệt tận nguồn pháp. Ngài Huệ Năng là người bán củi, vừa đến Hòang Mai liền nói, con muốn làm Phật. Tổ dạy ra nhà sau đeo đá giả gạo, ngay đó Ngài đạt được gương tâm dứt trần cấu, tự chiếu soi rõ ràng. Nữa đêm Ngài được Ngũ Tổ truyền y, vượt qua ngọn Đại Dữu, tín y để xuống tản đá, Thượng Tọa Minh ra sức nhấc không nổi. Mới biết, người này chứng được đạo chơn thật. Nhưng nay không thối hiền nhường Thánh, như mặt áo, ăn cơm, niệm không suy nghó điều khác, tâm tâm không nhiểm ô, thân thoát được không kiếp. Vực thẳm buông tay, thấu thoát tận đỉnh đáy căn trần, minh riêng chiếu, thấu triệt nhiệm mầu, tự nhiên tâm hoa khai phát, ứng hiện cõi nước, đâu từng ngăn cách biến đổi, thì mới vào loài khác đi đường chim, tự tại không bị chướng ngại. Thiền tăng nhà ta, cho rằng siêu thoát sanh tử, phải làm cho thân khô tâm lạnh thấy tận cội nguồn, trong lặng rỗng rang chiếu sáng, vượt ra được năm uẩn bốn đại, khi nhân duyên chưa hòa hợp, các căn chưa thành, bào thai chưa tựu, hình thức chưa mấy động. Sáng được con mắt này, đâu ngại gì không liễu được sanh tử. Khi liểu được sanh tử như vậy, thì lổ mũi Tổ Sư, mạng mạch Thiền tăng, nắm lại buông ra, ta mới có phần tự do. Thế nên nói, vọng dừng thanh tịnh sanh thì biết hiện hữu, biết sanh thì tịch tự diệt, rõ ràng chỉ cần thấy chơn thật. Dứt hết thôi hết, miệng lên meo, trong lưỡi mộc cỏ, ngay đó buông hết tất cả, sạch trơn thanh tịnh, chùi trơn bóng. Như nước mùa Thu, như trăng in trên không, trong sáng như vậy, phải biết có một con đường chuyển thân. Khi chuyển thân được, thì không còn mặt mũi dạy ông biện bạch. Chổ không biện bạch, lại làm mờ cũng không được, đó là thấu đỉnh triệt đáy, cùng câm tột nguồn, ngàn Thánh vạn Thánh không có đường nào khác, thần kỳ trên đường trở về, mượn đường đi, trong sáng có tối, chổ dụng không tung tích. Thân phiêu bồng trên trăm đầu ngọn cỏ trong chốn phồn hoa, từng bước rõ ràng. Tự nhiên cưỡi tiếng lướt sắc, vượt nghe phóng tầm nhìn như thế, mới là việc gia phong Thiền tăng. Tâm vốn dứt duyên, pháp vốn không lời, Phật Phật Tổ Tổ, cũng là bắt đắc dó mới hướng đến cửa ý nghóa thứ hai. Có hỏi đáp cũng để thức tỉnh cho chúng sanh. Đến trong đó khêu ra một gã ngu muội. Thế nên Đức Sơn nói: Tông ta không lời lẽ, cũng không một pháp cho người. Vốn là mọi người tự đến tự được, mới có phần nói chuyện, nhưng ngay đây sạch hết vọng niệm trần cấu. Trần cấu nếu sạch, rỗng rang sáng bóng, không còn bờ không còn chính giữa hai bên, nhồi thành một viên sáng rỡ, chiếu khắp mười phương, ngồi dứt quá khứ, hiện tại, vị lai. Tất cả ngôn ngữ và nhân duyên, đến đây một chút trần cũng không dính được. Chỉ lặng lẽ tự biết, linh linh riêng chiếu cùng Thánh không khác, ở phàm không giảm, vốn chỉ là việc ngộ đạo của người xưa, đâu phải là chuyện bên ngoài ư ? Lầm nhận là ruộng đất chơn thật, gã thân chứng như vậy, thì có thể vạn cơ ứng hiện vào các cảnh, diệu dụng linh thông, tự nhiên không ngại. Thanh tịnh không ô nhiễm là thân này, chiếu sáng không duyên theo cảnh là mắt này. Mắt trong thân, không liên quan đến căn môn. Thân trong mắt, không phải là sắc hội tụ. Thế nên nói: Không có trí ngoài như là năng chứng ở như, cũng không phải như ngoài trí là trí sở chứng. Có thể nói: Phật là Phật của nhà pháp, pháp là pháp của nhà Phật. Thiền tăng đến được trong này, mới biết được mình từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh. Người được phần Phật pháp có xác thực chăng? Hai đầu đều ngồi cắt đứt, chỉ là người từ xưa đến nay, phải lãnh hội như vậy. <篇> <卷>QUYỂN 7 HÒA THƯỢNG GIÁC NÚI THIÊN ĐỒNG MINH CHÂU CHÂN THẬT KHEN NGỢI Thị giả Thanh Tốt Pháp Cung soạn Ngô Truyền Bằng Lang Trung viết lại, từng được Lý Bá Thời họa tượng đệ nhất Tổ Trung Quốc, Tướng Nho dùng tượng để tán, nói kệ dựa vào việc Ngài đến không cầu gì, đi cũng không được gì. Sa mạc vắng vẻ một mình vượt thông lãnh vạn dặm. Thanh tịnh truyền đời chừ chín năm ngồi yên lặng, cây kim hạt cải ném vào nhưng nhiệm mầu không thể gọi tên, sai mảy may nhưng hư không không chịu nổi, biết lỗi nên sửa đổi, biết khó nên thối lui, ai đi ai đến, tự mua tự bán. Phải lánh mặt đi chữ đầy mắt ô hoa, nhìn tận chân trời chừ cách thân biển cả. Ngô Hưng Biện Trưởng lão lấy tượng vẽ Đạt-ma thỉnh tán: Đạp lau vượt sóng, quải chiếc dép về Tây. Tìm pháp khí Trung Quốc, Phó Đại só đào lên chỉ thấy còn chiếc y. Ngài im lặng chín năm, ấn khả linh tri của Nhị Tổ. Tê giác biển say trăng mà choáng váng, Hàn Ô mang tuyết mà bay. Trước cơ tự đạt được chữ mắt đảnh chiếu khắp. Trong mê gặp nhau chừ đầu mũi chúi xuống. Nước tỏ thu trong chừ hồ sáng lạng, mặt trời lặn sau rặng núi chừ mây gấm soi. Chơn tán Hòa thượng Bảo Phong Chiếu Mây mơn mởn bao quanh núi, nước lồng cả mặt trời mặt trăng, chiếu thấu thể trước, trong suốt sau thân. Đầu cơ đường thoi phân biệt rõ ràng, lỗ kim chỉ gai buổi đầu thấu suốt. Bao hàm vạn tượng chữ kia không sót lại, ngồi dứt mười phương chừ ta không còn rỉ chảy. Đệ tử Bạc Hiền Nhơn dùng bức lụa viết. Tượng Thiền sư Viên Ngộ qua hang núi, cao đệ là Long Nhị ở Hổ Khâu đứng hầu, ngày mùng 8 tháng 2 Bính thìn niên hiệu Thiệu Hưng, Tôi đi khất thực qua nhà ông ấy ở Tô Đài, đưa ra chỉ bày, lại thỉnh nhiều lần liền tùy hỷ tán rằng. Tông Phật ở đời tâm truyền cho ta, một cái đấm tạo kế sống, một tiếng hét thành gia phong, bóng cỏ trình cơ. Tam Thánh bị mù, vàng ròng đem ra luyện. Bá Trượng bị điếc, giàu có còn dư rộng lớn nhưng hưng thạnh. A-nan đa văn, Ca-diếp đầu-đà, Mục-kiền-liên thần thông, Xá-lợi-phất phát trí tuệ, chơn đắc không cần mượn ứng hiện, rất giống công không làm chủ. Trăm sông quanh co chừ tự nhiên đều về biển cả, vạn tượng sum la chừ không thể cuốn vào không. Thượng nhơn Pháp Trừng đến Trường lô, Liễu sư huynh vẽ tượng cầu tán. Ngạo tuyết tùng cô liêu, ôm mây đá gầy, mầu nhiệm có cũng như không có, riêng chiếu không cũng như chẳng không. Vạn tượng không thể trốn khỏi ấn của Không vương, các sắc không nhiễm hạt châu linh xà của ta. Gà vàng kêu lạnh chừ biết đêm khuya, ngọc thố vui đùa chừ thấu đến băng trong hủ. Từ thủ tòa vẽ tôi ở giữa tùng đá xin tán. Lặng lẽ ngồi một mình, dựa gậy ủ rũ. Mây ôm đá mà không hình tượng, tùng gọi gió nhưng có tiếng. Ứng hiện chừ mâm châu không xoay mà tự quay. Trong vắt chừ giếng ngọc múc nước lại càng sâu. Các trần không dính chừ không khí vô cùng trong lành. Ba mé không nương tựa chừ một mảnh tâm nhàn. Thiền nhân vẽ tả chân xin tán. Lặng lẽ truyền chơn, làm sao chỉ bày. Tánh trăng không tối, hoa tâm mãi Xuân. Thanh tịnh bao dung chừ hải ấn. Ứng hiện không trái chừ hang thần. Thấy mặt trình nhau kiêng không được, phiền anh vì tôi tây sạch thanh bần. Khe xưa nước thấp, rừng lạnh Thu về. Núi thênh thang mây tự tại, nước trong trăng hợp lại. Nói tâm chẳng phải đời ứng dụng, lại ngại nơi nào không phong lưu. Ta là ai, thích hợp nhau. Lông mày mọc xuôi đuôi mắt, lỗ mũi áp sát môi, lặng lẽ cơ luân nơi nào chuyển, người ngọc đạp vỡ phệ lưu ly. Tình đời khéo luận biện. mắt hỏm mũi lồi, có khi đối diện mây nước không thể hiển bày gia phong. Mộng hạt nằm lạnh chừ hồn trăng khóc sương. Thăm thẳm bao la nhìn không thấu chừ sắc Thu tận chân trời. Xác xơ yên tỉnh, quy tắc nghiêm khắc. Vạn cơ thanh nhàn, một vị thanh đạm. tâm tông nêu lên giản dị thầm lặng, thủ đọan quét sạch góc nhọn. Mùa lạnh không biến đổi chừ lòng rỗng như tre, đạo diệu khó truyền chừ có miệng như câm. Buổi đầu khô lạnh không thể mở được gia phong. thần lặng lẽ dạo thấu kiếp không. Bên trăm đầu ngọn cỏ việc hưng hóa, tự nhiên sắc Thu nước trời đồng. Giống và khác từ mảy may cách xa ngàn dặm. Chân và không chân, rộng lớn mảy trần. Lý không sanh chừ như chuyện mộng. Nhiệm mầu bất tử cũng như hang thần. Thấy tận cội nguồn, mới là ta, biết rõ biến thái không ai khác. Thân tâm thênh thang, vận dụng vô ngại, giống như hoa tạo mật, như giếng nhìn lừa. Ngoài không vết tích chừ hiện khắp thênh thang, trong không hình tượng chừ đạo tròn thường rỗng lặng. Ngồi một mình quên cơ chừ tự tại không chướng ngại. Nắm tay cùng đi chừ ai dám thân sơ. Gậy tựa góc gường, tạm gọi là Trụ trì. Từ lâu im lặng như miệng bị kẹp, một tiếng cười nhướng lông mày. Mây nước ai hỏi nhau, gia phong tự không biết. An cư rõ ràng chừ sông trăng trên không đi. Lặng lẽ không hình tượng chừ mưa tạnh trời quang. Dung mạo xưa gầy cứng, trăng côi giữa mây theo nhau giống như có, lầm nhận hay không? Trong ba ngàn cõi giới, ai là người biết bên ngoài, trong mâm mười hai không đến nổi thua. Ngồi lạnh gường Hồ, cái ấy cao ngất. Hư không xướng chừ vạn tượng hòa. Ngộ đạo thênh thang có trí du hóa, nói khắp thiên hạ không có lỗi miệng. Gia phong lặng lẽ, mây tan trời không, trăng hiện đêm thái bình, trời nước đều Thu. Người truyền mắt mày, ta nói tột cùng. Tua hoa thụ phấn ong làm mật, xâu vỏ chảy hồn sừng tê thông. Ai nói vật bằng nhau, đều quên phẩm đề, khinh môi mũi thẳng tuột che mắt dưới hai lông mày thấp, đại thiên đồng vào ấn, ba đời chưa phân ranh giới, chém trán nhìn không thấu, tâm dự tính suy nghó vẫn mê. Ngồi khô trong sạch trang nghiêm, chơn tông luận bàn kịch liệt rõ ràng không khác tướng, vạn hóa đều đồng tham. Đầu trâu lại biết bệnh lười, chim mổ không cần ngậm hoa. Cam phận ở núi ba bó nan, an nhàn tiếp khách áo bảy cân. Hoa được giống ai, áo xanh đen giường Hồ, dường như đi âm thầm, tới lui lờ mờ. Động Sơn khâu gấm, Vân Nham dệt lụa, công quên kỳ diệu tận xem tin tức. Nước đồng thu tàn chim trắng bay. Mặt gày gò má cao, mày gốc mắt sâu, im lặng không chổ trụ. Nhiệm mầu nhưng hiện nay cá lặn nước lạnh, hạc mộng rừng trăng, phân thân ứng tiếng hiện sắc, vỗ tay nhà nhà Quan Thế Âm. Thân trong mộng viết ra, đạo này chơn không chơn. Khô lạnh thu trong mắt, nguồn lặng miệng lên meo, đạo tròn ai nói không hình tượng, hang rỗng xưa nay có thần, cha con không truyền một chút diệu, ông lão bạc đầu đẽo bánh xe. Tay vẽ chưa biết nhau, tâm lặng ai cùng biết, ngàn núi xét chân mây. Trăng rửa nước gợn sóng, ngồi thỏng hai tay xây mặt vào tường đối duyên hai mày ngang. Sợ rùa thụt đầu chừ thẹn có điềm này, chim khỏi lượn chừ tình không còn trói buộc. Bệnh hết nhưng còn vàng da, thói quen hết không vội vàng. Cảnh thanh nhàn cho phép lãnh đạm, thầm hiểu mới lâu dài. Linh tê thông một chút choáng váng, trai già chứa ngàn năm áng sánh, nhưng nay theo nhau khắp nơi, khắp nơi chân thật hiện rõ ràng. Lớn không ngoài, nhỏ không trong. Một chừ có mặt khắp nơi tâm địa thanh tịnh không mảy trần, núi thịt an nhàn không chướng ngại. Đạo thênh thang dứt đầu mối, in trên không đâu có văn vẻ. Gió lạnh buốt chừ Thu vào núi sâu xa. Sóng lao xao chừ trăng bạc ngàn biển xanh. Ngồi thiền lặng lẽ, rỗng rang không còn trần duyên, ai kế thừa tuyết trắng. Ta được trăm xanh, cơ vạn pháp mở ra hai nắm, ngàn vị tăng gánh được một vai. Bướm đùa sinh động chừ vật đều mộng Xuân, bay cao thăm thẳm, chừ chữ chết trong trong khói thu. Không phải hình tượng như vậy, đất cứng nổi dáng vẻ mô phỏng, từ xưa đến nay vạn pháp đồng cội nguồn, rốt cùng lượng bằng hư không. Bên trong hai Triết nói thiền, bên ngoài ba sông mạnh miệng. Ẩn sâu trong ấy, lợp khói nằm mây, đại dụng hiện tiền, xuôi thuyền lướt sóng. Hoa thành công mấy phần, tinh thần khát trong sạch, thu cao trăng chuyển, trời lạnh lẽo sông vắt ngang, xuất gia nếu được, xứ thế dường như vô tình. Nhưng nay trong chốn ồn ào ngộ được, giãn lông mày ra mắt càng sáng. Cao cao chỉnh tề, quy cũ thiền môn, héo héo gầy gầy, tư thái cây khô. Tông thừa miệng treo vách, thầy bạn mày đống tuyết, ở núi vụng vềø ba bó nan, đối trăng cơ kêu qua một tơ. Giữa lông nghiêng ngã đầu tóc bạc, đồng tử xanh trong mắt, ăn chỉ nặng một vai. Môn phong bốn vách rỗng, các tông không gặp tông nhà diệu, muôn lo không dao động tâm thợ giỏi. Nước đồng nội thu tự gầy, núi khô xuân mơn mởn, gường Hồ đặt thong thả an ổn, lặng lẽ ngồi quên cơ. Điện dẫn vào cây phất, mây vào tấm y. Vị phân thiên chánh chừ, đạo vượt ra nhỏ nhặt. Cốt cách chất phát, tinh thần càng ngây thơ. Thân nhàn không bị trói buộc, trầm tónh không lừa nhau. Mưa tạnh hết Thu chừ, thiên hà xoay chuyển. Hết sương đêm tàn chừ, trăng lạnh vào hang. Hai nắm tay đưa lên không, một gánh nặng vai, khả năng vốn không kham. Tâm vốn không dụng, viện chim oanh hương của hoa, nhà ong đong mật, khi hét điếc tay ba ngày, đầu mũi bị kéo đau một năm. Miệng vuông mũi thẳng, mày có đuôi, mắt sâu hỏm chưa lắp được núi non, nên làm chướng ngại chốn thiền môn. Vạn tựơng không còn dư một pháp, ba đời không thấy được tâm. Bầy nhạn mất mà khói lạnh thờ ơ, hoa lân lặng mà nước Thu trầm lặng. Chỉ một gia phong cùng tận nhưng lại thông, ở đó bên trong kế thừa bên ngoài tiếp nối. Ở trong cho phép chuyển công mượn công, đến chỗ cùng cực nhưng lặng lẽ, diệu dụng nhưng mạnh mẽ, khí ôn hòa nhưng Xuân sống động, tâm trong lặng nhưng Thu rỗng rang. Theo nhau đến chừ, khắp nơi đồng khế ngộ. Tóc dài đội tuyết, xương gầy núi ngang, thân tâm lạnh nhạt, mây trăng cao nhàn. Ba bó tre chừ, đạo tình tự khô. Năm cánh hoa nở chừ, tin Xuân nào ít. Ngồi tọa thiền tâm không thầm dạo chơi, cát lạnh tuyết phủ lau vàng, gió nhẹ Thu phủ bạch tần. Tỉnh lặng lâu chừ, núi cằn cỗi cây già. Động không trói buộc chừ, mây trôi nước chảy. Hai lông mày chúi xuống, hai mắt trong xanh, nhìn vào vạn tượng sum la, lại không thiếu dư mảy tơ. Sương Thu lão hạc mộng, trăng tàn đêm tan trên đỉnh tùng. Mượn hư không làm thân, vạn tượng bên nhau làm bạn, tự tại khắp nơi trong lòai người, kiểm điểm lại ai biết được một nửa, xem xem! Núi xanh chênh vênh, mây trắng bạc ngàn, trong đó cho phép mục đồng về hay không về, trâu sắt kéo dứt dây vàng. Thu đến cây già, nước xuống cát dâng. mày mềm, xương cứng tối sáng nặng nhẹ, lỗ mũi tý sửu quan hệ nhau. Thân tâm đều sáng, tung tích lưu truyền phát đạt. Im lặng ngồi giường Hồ chừ, không muốn nói đen nói trắng. Gậy tựa vách an nhàn chừ, ai vẽ Tây chỉ Đông. Tóc sắp trắng như tuyết, mặt vàng như lá chè, xúc chạm mắt ba góc, quên lời miệng bốn phương, trăng sáng đầu tùng hạc mộng, gió thơm dưới sen rùa ẩn, thanh tịnh phát sáng sáng tự chiếu, hư không chim in dấu không rõ ràng. Điềm nhiên nhìn thẳng, núi rỗng rang nước lạnh. Sông Hán vắt ngang nhưng nhỏ bé thấm nhuần, mây mù gom tụ nhưng Thu thênh thang. Như con học báo thù chừ, mắt giận thành ba góc. Vô vị chân nhân chừ, một cục thịt đỏ au. Già rồi cảm thấy tuyết thấm tóc mai, thanh tịnh như tâm Thu, ngồi khô lạnh như khúc gỗ, im lặng tham thiền lâu năm. Phong vận đìu hiu chừ, gió mát núi cằn cõi. Tánh linh trong sáng chừ, trăng rơi đầm sâu. Tâm thái hư, thân vạn tượng, trăng trơ trọi trong nước, Xuân trên cành hoa đẹp, nhưng nay gặp nhau khắp nơi, trong mắt không gân một đời nghèo. Đạt được nguồn thầm lặng, không cần văn tự giấy mực, công truyền đạt hiện bày, không thể hình dung. Thu sang nước đồng nội, trăng soi rỗng lặng, hình tướng danh tự, vẫn gọi là Thiên Đồng. Gió nắng rát da mặt, núi mùa Thu mặt mày, cảnh thanh nhàn tan mây nước. Tính chất thơ ngây xuất phát từ nai, ngây ngô Thiếu Thất chín năm, cơ cơ Tào Khê một tối. Cùng gốc tận nguồn, xuất tủy gõ xương, chiếu sáng cung thỏ già, lạnh tận hang rồng xanh. Danh mạo các người chừ lắc tay không được, vạn tượng sum la chừ đều gật đầu. Hoàn toàn không mánh khóe, thân tâm lạnh nhạt. Trăng tàn tự chiếu rõ, gian mây tự tại, trên không đủ, dưới còn dư. Thiếu Thất dối truyền y bát. Tào Khê không biết viết văn thư. Một dáng công quay về, sấm nổ mây tụ, vạn tượng đều tan. Gió trăng về đêm, hang rỗng không có thần. Cỏ cây vui mừng Xuân về, nhưng nay nơi nào không phân thân. Khi nói không mượn miệng, chỗ dùng không nương thân. Trời lạnh chim không bay, đầm trong cá không lội, mở mắt tỏ tinh thần, cỏ đồng nội hoa nhàn hạ Xuân tự tại. Mưa tạnh mây tan, núi lạnh nước Thu, tâm mình tự chiếu, ngôn ngữ hình tượng đều dứt. Tràn đầy 10 phương nhưng trí hiện, thênh thang ba đời dùng thần dạo. Rỗng rang bên ấy ngại vách Đông Tây, trăng sáng chèo thuyền đi Nam, Bắc. Mặt mũi phong trần, thân tâm như tro lạnh, cá kình uống cạn nước biển, hiện bày san hô. Rùa ẩn vào bùn nhưng phù dung nở, thường đi lại trong ấy, biến thái cũng như sấm nổ đoành đoành biến đổi biết đã già lạnh nhưng lại khô. Núi xưa Xuân đến muộn, đầm trong Thu lại sớm. Tâm không hình tượng, bóng trăng chưa về. Vật không đua tranh, gió thổi ngã nghiên. Chỉ một cục thịt đỏ này, nói rất sạch và kỳ lạ, hằng ngày lười như trâu, độ đời ngây ngô như Bố Đại. Không rỗng rang nhưng lại rỗõng không, khhông tự tại nhưng lại tự tại, pháp pháp chỉ là tâm. Trần trần Tam – muội, hỏi y là giả hay là thật, hai hình thái nay thi đua. Lông mày rủ xuống không buồn, mắt sâu không ác, lỗ mũi duỗi xuống miệng hẹp nhỏ. Trăng sáng xua tan màng đêm chừ, nước đồng nội đều tỏ ngát Thu. Mất hình sắc tan màn sương chừ, gian mây vào hang, hay lầm lẫn. Chữ thập dọc ngang chừ, vi diệu sáng tỏ. Ai biết chớp mắt, nhướng mày, mỗi lần cười tay chân quờ quạng. Giữ được sự giản dị im lặng của người xưa, được sự bình thường của Nam Tuyền. Tâm sáng trăng theo, vật sinh động như mùa Xuân, hung đúc căng khí cũng là mô phạm lớn nhỏ, theo thiền môn cũng là quy cũ vuông tròn. Thợ vẽ thoát khỏi y, tinh thần rõ ràng hơn. Cỏ không nảy mầm ẩn vào hương tượng, hợp rắn độc không kẽ hở, tiếng sấm Xuân báo hiệu cho muôn loài, hơi ấm phát đến ngàn hoa, tưởng là người Giang Bình thấy được cười. Năm ngoái vừa qua lại đến chăng? Mây và cây xanh thăm thẳm, suối đá rõ ràng, ngồi dựng gậy trong ấy, tâm này tự rỗng rang. Mênh mông trăng Thu trơ trọi, gió Xuân trải nhẹ chốn rừng sâu, cá dạo dưới khe ngọc nước lạnh, nhạn sinh con ẩn vào khói vũ trụ bao la. Mắt rỗng không không có mảy tơ hạt cải, tâm rỗng rang bao dung biển núi, cùng nhau nhồi thành một khối, vẫn còn nói cười bày tông tích. Bên ấy treo kiếm ở hư không, nước chết không chứa rồng. Chuyển sắc chuyển công là con gia pháp tử, sau khi trăng sáng hoa lau sẽ gặp nhau. Nổi giận trợn mắt, ruột khô bụng rỗng, mặt lạnh không xúc chạm, khí trong vốc cũng được, nương vào tiên chèo thuyền lên tinh hà, cầm rìu ngọc sửa trục quay trăng, thấy đúng pháp chỉ dùng tâm. Khế hội vi diệu thần tức vật. Mũi dọc mày ngang, lặng lẽ vào trong đó, thanh tịnh không vọng tưởng, nước Thu khắp trời không còn sắc tướng, gió Xuân trên cây cỏ thấy dạo tơ. Mở ra nắm lại chừ chi chút này. Lão tuyết phủ khắp nơi mặt đầy đặn mơn mởn, quỷ nghèo lạnh thấu sương. Đạo nhơn vọng tình sạch, chửi Phật mắng tổ, vung đất tung cát. Trăng sáng tê giác đùa chừ choáng váng cả sừng kia, voi sợ sấm chừ ngà nổi vân, chưa nắm được gia phong chừ thế đế lưu truyền chăng? Phong vận trong sáng mắt giống như cười, vào sâu thẳm trong đại đạo thênh thang, lặng lẽ nắm then chốt chính của căn cơ chúng nhơn, ở trong chốn ồn náo tùy duyên, trong chỗ rổng rang phân chia chiếu, các bậc tác gia dùng thủ đoạn nhổ đinh tháo chốt để nuôi dưỡng chính mình. Ngàn lông tơ bên nhau chừ đều cầu tham thiền. Gường Hồ thân be bé, lặng lẽ ngắm được trần cảnh nhưng thần kỳ, kêu tỉnh mộng nhiều kiếp, nhỏ giọt khô hết bến bờ biển cả, thênh thang không mảy trần, gió trăng càng xoay, cứu sống nhân loại như vật trong mắt, một chút tinh hoa lên đến Xuân. Hiểu được sự vi diệu, chưa phải là vết tích điềm tốt. Thấu suốt được nguồn tạo hóa, phải căn cứ vào điểm chính của sự sống chết. Đạt đến sự rổng rang những riêng được tồn tại. Đang sáng mà ẩn chiếu. Lãnh hội thiền phát chừ, lỗ mũi xuôi xuống. Bô hô la la chừø miệng trông hung dữ. Đuôi mày mắt sáng tỏ, tự yêu thích tình cảnh, người ghét lạnh mặt. Một áng mây ra khỏi núi tâm, một bóng trăng chơ vơ soi mình dưới đầm, dứt sự sót thương phân thân trăm ức, tràn ngập cả ba ngàn cảnh giáo hóa. Cục thịt đỏ xỏ nhiều lỗ, bên ngoài da bao bọc một túi xương thúi, đã là không được may mắn, lại đem y ra mô tả. Một cây gậy làm bạn, ba đời chư Phật ai dám xưng Sư. Cá kình giận dữ uống cạn nước biển cả, trăng sáng rực rỡ cành san hô. Khí thế sâu thăm thẳm, phong cách cao ngất ngưỡng, mây nằm mộng khí nuốt tám chín, đạo tung thiếu rơi vào hai ba, giữ một hào nắm được cơ sanh thành, nắm được thủ đọan tháo đinh nhổ chốt hun đúc của chữ Tổ, nắm lại buông ra tiêu tan chí lớn nhưng bao hàm biển cả. Chính giữa chừ không nơi nương tựa, dùng cũng không tỳ vết. Trăng dù hay hiện bóng, mây tự không sanh được chân, sống cao ngất các trần không xen lẫn được, sáng rõ ràng nhiều kiếp trường tồn, đi bên nhau trong chốn ồn ào, ánh sáng Tam- muội tỏ ra khắp nơi. Không dùng luận câu thúc, không dùng thiền buộc niệm, nói pháp không thông, âm thầm dạo khắp nơi, Xuân đến trăm đầu cỏ cây, ao hồ trăng sáng soi bóng, ngại gì khắp nơi biết nhau. Tỳ-kheo Thiên Đồng có biết chăng? Tóc bạc tuyết lạnh núi, mắt xanh khe thu xưa, hiện thân không rơi vào các loài, phân bóng theo từng hạng, ngày kia quả nhiên thấy được đảnh tướng, mây trong giống như khắp đầu núi. Thân mây trắng, trăng tâm lạnh. Tính linh như nai, phong vận rừng núi, không rơi vào hai đầu chừ không sáng không tối. Hoàn toàn vựơt khỏi ba mé chừ khi xưa là ai? Nói thì không nói được, họa thì họa không xong, thư thái hít thở an lành. Giữa chốn thanh tịnh cảm thấy nhẹ nhàng, tónh nhưng không kẹt vào hình tượng, động nhưng không theo thức tình. Mười phương ba cõi không chổ an ổn, thấy rõ các duyên đi khắp nơi. Đầu tròn áo vuông, tỉnh lặng là then chốt cơ linh hoạt. Trời không mây lành lạnh, đắm trong trăng quyến luyến, việc giáo hóa hoàn toàn thành tựu như cây trổ hoa, lặng lẽ như băng trong bình hay tin Xuân về. Nắm được cảnh tượng, thân đối cơ. Sáu căn nhiếp vào một chỗ. Tam- muội khởi các trần. Vào đêm trăng sáng trai mang thai, loài sâu ngủ đông thức dạy khi có sấm mùa Xuân về. Thủ đoạn này chừ người truyền trao khéo ứng cơ. Xem xem lặng tỉnh thấy manh mối, ngân hà ước sao đẩu, trăng lặng cóc lạnh, thể không còn góc cạnh, dụng không còn loang lỗ, không cần khen vẫn gánh vác được, đã thấy song song lục ở trong mâm. Núi mùa Xuân dường như mơn mởn, tuyết mùa xuân vừa khô. Trong lặng lẽ có câu, dùng cũng không cơ. Không đến mà đến chừ, không rơi vào lồng ba cõi. Vô trụ mà trụ chừ là phạm vi đất trời. Ngồi thiền an ổn, cây gậy xỏ ngay trái lê quay ngang, nắm gia pháp ngũ tông. Theo minh chủ của vạn tượng, giữa mùa Thu gió mát, trăng sáng thênh thang. Khuôn mẫu mây nước chừ không thể nói thiền. Quy cũ thiền môn chừ không lệnh mà thực hành. Đuôi này mắt hỏm, miệng rộng cười ha ha. Một khối can đảm cao ngất, tâm rộng thấu mươi phương. Xuân lặng lẽ về với vạn tượng, tuyết lấm tấm điểm trên đỉnh núi nhỏ. Đến như thế chừ không cần tìm nhau. Ngồi trên sàn gỗ cầm tích trượng, hung đúc thành gương mẫu Phật Tổ, cứu sống khí tượng tùng lâm, ông không đến vuốt râu hùm, thì ai dám gãi ngứa cho rắn. Ca-sa trên vai, gậy cầm trong tay, chưa động sáu hào, đưa ra vừa tỏ, thân thân theo nhau xứ này, ngay mặt không cần húy kî. Cười miệng có quai, vui ở đuôi mày. Lặng lẽ chiếu tận đáy nguồn ba thừa dứt ràng rịt, trăng thu trong sáng, xua tan bóng đêm. Có khi gậy để ngang trên đùi, thông thường mặt mũi này bị người ghét. Động nhưng tónh, hư nhưng ứng, khí thuần chất đạt đến nhu hòa, thần lóng lặng như ngưng đọng, ở Thiên Đồng, hoàn toàn ẩn hiện. Lô Lăng gạo trăm đồng một thăng, cỏ Triệu Châu nửa ngàn đồng một cân, trụ trì lãi nhãi như vậy, đủ để giết hại tánh mạng. Tỉnh hay không, sau não nêm thêm đinh. Gian mây cuộn mưa, nước đồng nội quyện đầy sắc Thu. Nhất tâm dứt đối đãi, lục xứ không thâu nhận, mặt mũi này biết nhau chăng? Việc trong ngực giản dị, hơi ấm trên mặt, đầu bạc theo ta già. Mắt xanh thấy nhiều người, một thân biết hổ thẹn, ngàn bát bên nhau làm sao? Ngồi trên chiếc giường gỗ lặng thinh, thỏ đẩy trăng đến ngân hà. Tóc bạc lấm tấm, tâm chiếu linh diệu, ứng vật hiện hình. Trời cùng nó trong sáng, đất cùng nó thanh bình. Mây đồng nội bay cuồn cuộn chừ trăng núi đứng chong chong. Gia phong nghèo tự hổ thẹn, mặt mũi xấu bị người chê. Điểm sơn mắt có góc, cắt mũi không còn nhọn, lông đầu lạnh phủ tuyết, bớt sau ót thầm tiêu như muối. Nói diệu bàn huyền chừ miệng không lanh lợi. Mắng Phật quở Tổ chừ điên cuồng dọa nạt dân quê. Gường thiền thầm lặng, không đắc mà đắc, tâm trộm không còn, thanh bần thấu xương, Thu đến thấu gia phong người ca giao. Sương tan thỏ vào hang trong ảnh vạn tượng chừ tự tại không ngại. Trên đầu trăm cỏ chừ tùy hiện tùy ẩn. Mắt dưới lông mày, nhún vai lạnh thấu xương, đạo và cảnh không còn trói buộc, thiền có khả năng can đảm dũng mãnh. Nước trong chảy nhưng trăng theo, núi xanh cằn cỗi nhưng ôm ấp mây. Các duyên rỗng lặng chừ nêu lên da đầu. Một câu vi diệu chừ lỗ mũi đẹp. Hãy nói mặt mũi nào, lại đất cứng không gió nổi sóng, giữa chốn lặng lẽ tâm tư chiếu, liễu liễu nương vào ai truyền tận tủy. Cò trắng chiều Thu rơi vào khói cát, trăng sáng lạnh nằm bên hoa lau. Phân thân nơi này, như thần khe núi. Trăng có ứng, Thu vô tư, đi đến đường Mả năm dang hai tay, tất cả môn chỉ là người này. Hư nhưng thông, dụng nhưng mạnh mẽ, thầm dạo ngoài suy lường, chiếu thẳng rỗng rang. Mây nước một thân gầy, gia phong bốn rách rỗng, gặp nhau có tri kỷ, chỉ điểm biết anh ta. Hai mắt lạnh xanh, nước Thu lạnh buốt. Nửa đầu tóc bạc, tuyết mùa Xuân lấm tấm, sương mù trên núi dày đặc báo vằn biến hiện, trăng xinh đẹp xuyên qua vườn tùng tỉnh mộng hạc. Diệu ứng vuông tròn chữ rõ ràng không có pháp bên ngoài. Trần duyên sai khiến chừ buổi đầu ta chưa từng qua. Lão hạc với tùng lẻ loi, suối lạnh đá gầy, gương chiếu cảnh tượng, hang vọng tiếng, vạn duyên lẫn lộn không phải không có, một điểm linh minh chẳng phải là không. Trong lặng vi diệu ứng hiện chừ cơ luân linh họat. Bằng Tuyên giáo (Tuệ Nhẫn) tả chơn thỉnh tán. Thế rừng núi, hình ảnh trăng nước. Sấm lặng trong cửu địa, Xuân ở trên trăm hoa, tùy duyên nửa khép nửa mở, truyền trao toàn thu toàn buông. Nguồn gia phong thầm lặng, ngang dọc khéo léo. Đạo vượt khỏi tình trần, vạn pháp đều bình đẳng, tâm vượt khỏi chướng ngại, mười phương đều thênh thang. Bạc Liểu cố Bảo Nghóa viết Chơn thỉnh tán của tôi. Linh linh nhưng chơn thật, lặng lặng nhưng thần kỳ. Lông mày che mắt, lỗ mũi thẳng lấn át môi, trên ngàn hoa đâu cần hỏi Phật, trên đầu trăm cỏ tự nhiên có Xuân, trong một mảy trần đến nói pháp, trong ba ngàn thế giới phân thân tự tại. Đại sư Ô Đơn Mật Ấn Nhân công chơn tán. Miệng ngậm mắt như cười. Bên ngoài ứng nhưng mạnh mẽ, bên trong rỗng nhưng chiếu, toàn thân buông ra là toàn thân, một điểm riêng linh thường liễu liễu. Thiện hữu Lục Thuyên viết chơn thỉnh tán. Mây đồng nội tình thái nhàn nhã, núi mùa Thu phong cốt gầy. Chơn chiếu thầm lặng nhưng linh. Sâu dày dằng dặc nhưng linh. Khúc gỗ bồ đòan tròn chừ trong sáng truyền đời. Lão hạc tùng xanh chừ mùa lạnh đến rồi đi. Luật sư Tán Pháp Vân Thăng. Mây ung dung nhưng chưa tụ, hồn trăng trong nhưng không đi. Nghiêm tịnh thân tâm nương luật trụ, rỗng sáng tâm thênh thang chỉ ngao du với đạo. Dáng thanh tao lạnh lùng chừ lông đầu phủ tuyết. Cô liêu không sắc tướng chừ tâm chiếu bao hàm thu. Chống tích trượng là Trưởng lão tả chơn cầu tán. Gỗ già Xuân đến muộn, núi lạnh tuyết phủ sớm. Nước thủy triều xuống bày rừng san hô, thênh thang trăng sáng tỏ. Giữ im lặng tự như, đối duyên thì thích hợp, đến được đi được, tùy dậy, ngã. Đầm rồng khám phá được Thiên hoàng, Mã Tổ đạp nhào nước ngập lụt. Bắt chước Duy-na vẽ tượng thầy già bệnh thỉnh tán. Cành phù dung, con đan san, tự tin được một chút, Tam – muội ước lược ai biết. Xan hô trăng lạnh soi bóng, hổ phách lão tùng thắm ướt. Các duyên bỗng trong sạch chừ dáng thu khắp núi. Vạn thái biến thông chừ hoa đẹp xuân son. Châm lửa. Vì Thượng nhơn Đôn, Sư châm lửa nói: Ban ngày ban mặt triều Đại niên, xưa nay liễu mềm đứng đón gió, tạm biệt thiền Đôn quay trở về. Thuyền lên bến đò nhìn về sóng, sáng rõ ràng tịch đìu hiu, vạn kiếp ngàn đời một niệm khởi, ngồi dứt mười phương không xoay lại, nơi nào mới thấy xuất hiện một mình? Nếu không được như vậy, thì cuối đầu lãnh nạp. Vì thượng tọa Liễu Trần, Sư châm lửa nói: Liễu nơi không liễu đâu có bụi trần, trần không tự trần đâu cần liễu. Trần đã tiêu hết liễu cũng không. Lúc này diệu hợp với viên thường là đạo. Đại chúng hãy tha thiết chớ nên giống như cá gặp khó khăn ẩn ao lớn, chim bị bệnh đậu cành lau. Hãy dứt hết góc cạnh mau hồi đầu, không nơi không phải việc bên ngoài. Vì thượng tọa Thành Sư châm lử nói: Thiền nhơn đạt được tông phong phải phù hợp và phụng hành. Bỏ nhà sáu hòa hợp chỉ còn lại một tinh minh. Nếu nay làm chủ nên đi về nơi nào? Lạnh quá y rơi vào nhà múa rối, chính lúc như vậy, hãy nói, Thượng tọa Thành rơi vào chốn nào? Có lãnh hội được chăng? Mộng hạc không sợ trăng sáng lạnh, rồng nằm dài sợ đầm trong xanh biếc. Vì Thượng tọa Liễu Tri, Sư châm lửa: Linh linh không mê mờ, liễu liễu thường tri. Tổ Sư ấn khả căn cơ kia, ngày nay biết được chính xác chăng? Không sợ đốt hết áo đi đường. Vì ba vị tăng Sư châm lửa: Ngay trong sanh tử không sanh tử. Nêu lại công án Sơn Tử trước mặt, trong không sanh tử chỉ bày sinh tử, trước cửa nhà nhà là bó đuôc. Bó đuốc vốn như vậy cũng chưa phải như vậy. Đức Quyền Tổ Quán Tuệ Trân ngày nay không cần trở lại. Vì Thượng tọa Đạo Trí, Sư châm lửa nói: Đi như thế, người xưa nói trí không biến khắp. Kî nhất nói rõ ra. Thượng tọa Giác không biết tốt xấu còn giải thícg đầu đường vô sanh cho vị tăng này, còn sanh còn diệt thuộc nhân duyên, khóc hết sạch đến khi cành lạnh xác ve, một đường chuyển thân có lãnh hội được chăng? Vượt ra khỏi cỏ vàng, sừng rắn chỉ trời. Vì hai vị tăng Sư khai thị nói: Nghóa Phưởng và Tổ Nhu ngày nay gặp nhau cùng một đường, đi như trăng lạnh tận chân núi, đến như mây trăng giăng trên không. Xưa nay dê không có sừng, xưa nay thỏ cũng không sừng, cảnh trần tiêu hết bên việc không kiếp, người gỗ tay cầm thẻ sáng. Vì hai vị tăng Sư khai thị nói: Tông Cảnh Nghóa Triết sáu môn bặt tông tích, khi đường xưa đi lại, vượn thương xót cây phong lâu năm, hạc mộng tuyết phủ hoa lau, gió mát quay về, thuyền sắt chở đầy trăng mênh mông. Vì hai vị tăng Sư khai thị: Thượng tọa Tông Nhân, Thiền sư Khánh Tập khi còn sống chung một bổn Sư, khi chết chung một đường trà tỳ. Nhân duyên sanh tử dường như có kỳ hạn. Trời trong nước lạnh thành một màu, mới cùng chèo thuyền hổ phách lưu ly. Các Nhân giả chính lúc như vậy nên làm gì để lãnh hội? Hạc, oanh cùng đạp lên tuyết ngủ, trăng sáng sợ hãi khởi hai nghi đều muộn. Vì hai vị tăng Sư khai thị nói: Nói hay, văn giỏi, nếu hôm nay giả từ ra đi, không được cùng dự đêm trừ tịch ở Vân đường, biết đến nơi nào ăn năm mới? Khi đi muốn biết đường Chánh Thiên, ngày về bình luận lại thiền chân thật, một câu hết năm này sang năm nọ đến đêm lão Vương thôn đông đốt tiền. Thượng tọa Nghóa hằng ngày rất bận, vô thường thúc giục thì liền ra đi. Bản địa xưa nay sẵn có hạt giống. Núi xưa trở về không hành trình. Tánh lửa trong chơn không, tánh chơn không trong lửa, toàn thể rỗng rang là ánh sáng. Thiền nhân giống như phụng liệng, đến số khó thoát được. Lục xứ lẫn lộn không hình bóng dấu tích, mười phương không lập một mảy thu, đường trứơc đẹp vì có nhiều chỗ nhấp nhô không giống Thiên Thai qua cầu đá, chính khi ấy thì thế nào? Trâu đất đạp phá trăng đầm trong, đầu xừng chênh vênh mũi thật cao. Thủ Hòa tịch muốn trà-tỳ, khi đó luật nước không cho trà-tỳ, không chịu làm thức ăn nguội cho núi sông, không biết sanh ra nơi nào? Như thế thân này đã mất, thân kia chưa sanh, vừa thoát khỏi thân này đi vào chốn nào? “ Vững vàng điều khiển trâu đất cày biển cả, cởi ngựa sắt lên núi Tu-di”. Sông nước, mây trôi dần dần xa bãi cỏ. Hoa rụng xuân tàn khi khách ra đi. Người xưa đi thuyền nghe người không thấy, phải ghi nhớ kỹ thời kỳ tới. Thượng tọa Ngưng biết hay chăng? nước lờ đờ trâu đất nằm ngoan hiền. Khói giăng giăng phụng ngọc dáng thư thái, đánh trống chèo thuyền trời sắp sáng, mảnh buồm treo cao thuận gío lướt. Con trâu đá ẩn dưới chân núi, chọn lựa đều quên từng bước bình yên, đầu sừng cúi nơi đường về, cửa động sâu vắng mây trắng bay, tham thiền như thế vẫn là anh tài mãi đến cuối năm mới hướng đến việc này. Hãy nói một đường chuyển thân, lại làm gì? Không kiếp không nơi an ổn? Hoa ưu đàm nở trong lửa. Diệt mà chẳng diệt, sanh mà chẳng sanh, đầu lâu lông mày bồ đào anh, người gỗ vẫy tay đón gió xuân, gái đá lắc đầu đêm khí trong lành. Chư nhân giả, chưa từng đi mãi mà không đứng, chưa từng đứng mãi mà không đi. Tánh lửa trong chơn không, tánh chơn không trong lửa, toàn thân là ánh sáng thanh tịnh, chính khi ấy, thì nên đi như thế. Khi trăng tròn sáng ở đường tắt, xưa nay mặc áo rách cởi bỏ trân châu, mây trắng chắn đứt chốn gia sơn, lại bỏ hết chỉ còn màn trời chiếu đất, bảy mươi năm một trường mộng mị. Một ngàn vị tăng có nhân duyên chốn này, tốt xấu không hỏi việc ngày nay, chết sống đâu làm gì được người ấy. Sống không nói, chết cũng không nói, việc này lẫn lộn không kẻ hở. Niệm hết không còn câu cá, niệm khởi ném vào lưới chim. Thượng tọa Hỷ hiểu không? Không hỏi phải trái đều buông hết, đến nhà xưa liền quay đầu, trăng lạnh lờ mờ khói cây sao. Ba cõi từ tưởng có, trăm năm thành mộng du, chợt bị gió giặc thổi kiếp hỏa đến, hoàn toàn biển cả tiêu diệt thành bọt. Thượng tọa Cao cho về hưu, thoát khỏi lục xứ, thả ra hai đầu, mây núi có đường bằng như đá mài, trăng sáng không người lạnh giống Thu. Bốn đại phân ly, sáu căn rỗng lặng. Người đạt được chân thật không ra không vào, rõ ràng sau lửa một cộng rau liễu. Kî nhất gặp nhau không biết nhau. Bồ-đề chèo thuyền Bát-nhã, trong biển sanh tử mặc tình ngang dọc. Đã do trước gió đạt được vi diệu, đâm đầu trong chốn ồn náo ngại gì, có thủ đoạn cần đi liền đi, tùy theo cao thấp làm ngựa làm trâu. Khi chưa thấy đạo, phải biết ngậm một cọng cỏ, ngay đó gần gũi có nguyên nhân. Nếu không được như vậy, đến vực thẳm nhìn mắt cọp, đặc biệt một trường sầu. Khí khái kiên cường không tiết lộ, nước ứ không thông. Hành vi Thiền tăng mầu nhiệm không tung tích. Đóng cửa ba thu chừ người về chốn nào? Trời không bốn vách chừ trăng lên giữa núi. Nhãn quang mất vỏ khí thế tiêu tan. Sáu căn không bị như khỉ vượn nhảy nhót, sạch sành sanh lặng, theo y phá nhà đốt chảy đồng hoang. Về đi khách lắc đầu cười, chim ó kéo dứt dây tơ hồng, đang lúc như thế thi hành thế nào. Im lặng giây lâu nói: Ngồi cắt đứt hai đầu, khi xưa vượt qua gió dông yên, thuyền đến bờ tế hạnh từng bước. Thu mát trăng thanh hạc dời tổ. Sanh mà không sanh, diệt mà không diệt. Về đây chừ mảnh tuyết lò hồng. Đại chúng, bốn con rắn đang hủy diệt trong một cái hộp, sáu giặc đang phá nhà, cái không rỗng rang hiển bày. Chỉ đem nó tham cứu một đời, lại dùng một đời tham cứu nó, cái gì là nó? Im lặng giây lâu nói: Toàn thân đuốc tuệ phóng ánh sáng, tánh lửa trong chân không, tánh chơn không trong lửa. Rắn thay xác, ve lột da, một điểm linh quang làm sao mở trói. Gia phong Thiền tăng Tổ theo thượng tọa, đen trắng chưa phân đưa ra tỏ liền. Gió Xuân thổi mộng về nhớ quê hương. Đại đạo không trần dưới chân vững vàng. Đêm này đều hiu tùng trăng lạnh, Tổ xưa không thấy học ngàn năm. Sanh cũng không nói, tử cũng không nói sâu xa không người đến. Ngày nay vì Thượng tọa Liễu Tông chỉ ra năm đường, mở một đường. Chánh qua, thiên lại chừ thỏ tắm ngân hà, xuất ly vào vi diệu chừ vươn kêu trăng trên cao. Đường tắc cứu sống không phải đường nào khác. Hư như linh chừ rỗng rang nhưng diệu. Triệu Châu từng hỏi ông bán dầu, không cho đi đêm mà gần sáng phải tới. Chư Đại Đức, nếu hội được trong ấy, sanh trước trời đất nhưng không là trẻ, sanh sau trời đất nhưng không già, biết được người cầm chổi thiên thai, lạnh cứng có tuyết không người quét. Vô vị chân nhân thường ra trước mặt, thần thông du hý ngày càng rối ren. Nếu nay bỏ được cây cuốc lớn, đại địa sơn hà không có chổ tồn tại. Đại chúng hãy nói : Từ đâu đi, phải biết ngoài mây ngàn đỉnh núi, riêng có tùng linh thiêng đội sương lạnh. Vì Hòa thượng Dục Vương Thông xây khám thờ, Sư nói : Thu lấy khí khoát đạt nuốt thu, ngựa kí xổng chuồng, chim ó kéo đứt bao tay, nhiệm mầu ngoài quần tượng, cơ chuyển một mảy tơ hướng đến gió tây bắc rụng lá, lui về trăng thanh tan theo dòng. Nhập tháp Sư đưa xương lên nói: Thân ung dung mộng đời về hưu. Một hang núi căn bệnh thuyên giảm, có sức gánh vác nay mới biết, biết rõ hang tối không dấu thuyền. Về đi thôi chừ có nhớ được đường chăng? Lá rơi về cội, Thu trải đất trời. Ngoài kiếp rỗng sáng chừ tâm chiếu sáng tự tại. Trong bình rộng rãi chừ tiên dạo tự tại không ngại, chính lúc như vậy, phải đi như vậy. Nhập tháp Sư nói: Mộng cõi đời tan dạo về bên ấy. Diệu tịnh chơn minh thu trăng thanh. Lý trí như như dấu tích phân hóa, thiên chánh rõ ràng đầu cơ chuyển. Rồng ngủ mùa Đông phải than van cây khô. Mắt linh hoạt đâu ngại chiếu đầu lâu, hãy nhớ lấy hàng hàng đường thông suốt biến hóa, núi xanh ủ rủ mây trắng bay. Nhập tháp Sư nói:Duyên hội tụ thành thân, uẩn hoại thành trần. Người qua lại trên đường trường xanh, nhưng nay buông tay về nhà, lặng sắc tướng hàm chứa một vầng trăng thu. Nhập tháp Sư nói:Trí vào chốn rỗng rang hợp với bản chơn. Mùa Thu sương tan trăng trong sáng không mảy trần, hoàn toàn trong sáng việc truyền đời, một điểm linh minh chủ nhân xưa, cắt đứt tình duyên mộng ba đời, nước nhỏ cạn sóng thức bốn bờ thênh thang. Không nên ngồi giường hẹp của y, cơ chính vạn hóa xoay chuyển mầu nhiệm. Nhập tháp Sư nói: Hình thể thiêu tan chỉ còn xương. Xương tan ra vốn không phải có vật, một đoạn linh quang không che dấu, đều chan chứa khắp đất trời. Trường Bồ –đề biến thông, hang Niết- bàn khai phát. Nhạn bay về hướng Nam chừ đến ngoài mây trắng, vỡ mộng hạc bay chừ ẩn trong trời xanh. Nhập tháp Sư nói: Xương tan thành tro dứt nhân duyên, gió yên tùng lặng trăng tròn vành vạnh. Đi thì đi phải nhớ lấy, trong bình chỉ là một gia thiên, khi nào phải chuyển xoay? Lúc thối là chánh lúc tiến là thiên, trong sáng thanh tịnh Tỳ Lô Phật, không sợ bùn đất xoay tròn nhau, thông minh cứ đi như vậy. Nhập tháp Sư nói: Huyễn diệt chẳng phải không, viên giác chẳng phải có. Rỗng rang nhưng thường linh là ai? Tử nhưng không mất gọi là thọ, gió lặng tan hết trời trong thênh thang, cây lắc lư rơi xuống núi lạnh thấu xương. Trở về mãnh đất rỗng sáng, nửa đêm trăng sáng trên không như ban ngày.  QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ <卷>QUYỂN 8 LỜI MINH KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG GIÁC Ở NÚI THIÊN ĐỒNG MINH CHÂU Thị giả Đạo Kinh Tịnh Giác soạn. <詞>Hòa Thượng Vận Chơn Yết Tung 114 bài về kinh Viên Giác. Đại Quang Minh tạng. Thiền tăng khơi dạy cơ trâu sắt, thầm chiếu linh thông là ai? Bóng thỏ trong trăng chìm trong mây đất mẹ. Cá biển nằm mộng cành san hô. Phong vận Phật pháp hiềm nỗi lắm lời, gia phong Lỗ Tổ biết mượn mày, ngồi ngay thẳng tâm thênh thang hư sáng, trải qua nhiều kiếp khó đổi đời nó. Chương Bồ-tát Văn-thù Sư -lợi. Đại só Văn-thù hưng khởi chơn phong, trí rửa sạch vô minh và tối tăm nhiều kiếp. Bệnh mắt vừa hết hoa đóm tự tiêu. Linh quang riêng chiếu vọng tưởng tiêu tan, người gỗ từng bước tiến về ngôi vị ban đầu, ngọc nữ hồi cơ lại mượn kiếp. Nắm giữ cương lónh xem thủ đoạn, nhà nhà biến thái là thần thông. Chương Bồ-tát Phổ Hiền. Nghề nghiệp sinh sống nhà anh vốn của thiên nhiên, khắp nơi đều thấy Phổ Hiền, tê giác soi thấy bóng trăng sao. Thần Châu Cửu khúc mặc áo kiến, giác không thứ lớp quên góc cạnh, huyễn tự tiêu dung được viên thông, diệu ứng toàn thân không xoay lại, hoa củ ấu ngày xưa không nhuộm càng xinh. Chương Bồ-tát Phổ Nhãn. Ai từ đạo tràng Phổ Nhãn đến, mở được lưới châu trước nhà Thiên Đế, ánh sáng trong suốt thành một đoạn, trong ấy thanh tịnh dứt không còn mảy trần. Lý sự chơn không quán bao trùm nhau, chiếu soi căn trần không còn tối tăm. Khi thích hợp nhau, trên vách thợ gốm nổi con thoi ánh sấm. Chương Bồ-tát Kim Cang Tạng. Vàng rồng ra khỏi quặng dứt hết nghi trước, thuyền sang bờ đâu biết chổ nào luống dối. Động mắt y khuấy đục nước trong. Nhóm đom đóm vô ngã đốt núi tu-di, mắt hết nhậm hết thấy hoa lăng xăng. Cơ đến mới biết nhanh hơn sấm chớp, biết được thì am đầy, ma bên ngoài đâu thể đến được bờ rào. Chương Di-lặc. Gốc si hạt giống ái phải dùng sức cuốc mới sạch gốc. Một đoạn linh minh là nền tảng xưa, trồng cỏ người trời càng hiểu ý, niêm hoa Tôn giả phá nhan cười, Đại Só Ngư Hành phải tạm biệt, Bố Đại ngây ngô tăng cúi đầu, đầu mũi khắp nơi gõ vào nhau, cảnh giới duy tâm không lừa ai. Chương Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ. Trước khi liễu ngộ, chỗ trước đó chẳng phải khó, nhưng nay từng bước đến Trường an. Tâm sắc rửa sạch không còn đường tơ, pháp tánh viên dung ẩn vào các vật, việc xưa nay vốn giải thoát, mấy người đến đây không còn mập mờ, vọng không khởi diệt được thành công, nên cười gió phướn động cây sào trong chùa. Chương Bồ-tát Oai Đức Tự Tại. Mở cửa Tam quán không ngưng trệ, gặp được đường đi đi đến mới thôi. Gương chiếu hình tượng tâm không chỗ trụ, lầu chuông ra khỏi chướng ngại có nguyên nhân, trên đỉnh có mắt như Thiên Chủ, lá bùa hộ thân sau khủy tay giống các nước chư hầu, ứng thế độ sanh dạo biển huyễn, trăng sáng chèo thuyền lướt sóng đi. Chương Biện Âm Bồ-tát. Diệu viên đơn phức dứt hai bên, ngũ ngũ cơ luân khó lẫn lộn, âm điệu đàn sáo nghe hợp luật. Máy dệt tơ ra gấm Văn Quan, thân tâm đều phân khắp nơi ứng hiện, ngàn tay ngàn mắt không lừa dối được, như trai mai mối cho ông lão sử dụng, Hòa Canh không còn thấy chua mặn. Chương Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng. Nguyên nhân chứng ngộ phải nắm vững ưu điểm, thoát ra được nhiều lớp tuyết thêm sương. Tướng chúng sanh vẫn còn lang bạt, gốc thọ mạng trừ được, tự hét cuồng. Rồng thay xương thì trời sắp mưa, cá côn thay vảy lại được gió đến. Người nước Trịnh gỡ sạch hết bùn trên ruồi, mới thấy được ánh sáng lỗ mũi ban đầu. Chương Bồ-tát Phổ Giác. Bệnh và thuốc chống nhau cả hai khó bỏ, nhà thiền mình tâm hoa phát sáng. Bản tánh sáng tỏ chẳng cần tu chứng, hằng ngày tỏ rõ đâu cần truyền trao. Chân bước cao lên khoảng trời trống không, biết được kế sống, lòng tin thành phương tiện như lá vàng dụ con nít nín khóc. Thời gian vụn vặt đi trên bùn đất, nực cười ốc, trâu tự trào nước bọt. Chương Bồ-tát Viên Giác. Chọn nơi, theo tay nhận tiêu cầu, trong thời gian dài ngắn vào xã lưu. Sau khi giác cơ trói buộc tự mở, đến khi ngộ thầm thầm khó nhận, vô cùng no đủ cỏ Tuyết sơn, một màu lẫn lộn trâu hiện lồ lộ, gió quét sạch nước trời, bệnh mắt hoa lành, trăng sáng trời thu chiếu hoa lau. Chương Bồ-tát Hiền Thiện Thủ. Phật nói Đà-la-ni, vừa nghe tên thù thắng liền thực hiện nhân duyên, nhìn thẳng tâm tủy truyền trao nhau. Không phải truyền trao bằng tai miệng, chỗ đạt được đến cơ nhanh như điện nháng, biển cả mêng mông dung chứa sông về, không phải tình lão bà tha thiết phân chia, chịu để lại văn tự khám phá Ni-kiền. Tổng tụng. Mục đồng ca hát vui Xuân về, trong đó trang nghiêm bằng rừng công đức, đưa tay chắn dứt vực thẩm biết đường cứu sống, ẩn thân trong kiếp không kî nhất cơ nặng nề, chưa chuyển được sóng thức không được nhiều con, không treo dạ môi còn một lời, Phật tổ tâm hợp lời ngoài dấu tích, đốt hương ngồi thanh tịnh cùng nhau truy tìm. Hòa thượng Dự ở núi Biệt Hồng. Vọng niệm chưa lặng, lại có một người ở núi khác, bóng nhạn soi trong nước, tâm mây khách trên sông, đều ở như vậy, dù ngàn dặm cũng gần nhau. Sâu xa một ấn tỷ, năm màu hồng hư hoại cùng trình bày, đường về lên đường chim, cây hoa Xuân một vườn Thủ tọa Biệt Mãn. Đan San tổ phụng lạnh nương nhau, hổ thẹn như nay hai cánh bằng, ngoài mây liệng kêu cùng sánh đôi, giữa núi tìm ăn tạm chia lìa, khắp trời quang đãng ngậm hoa ngọc, cây châu làm tổ bóng trăng soi, đưa đến nước ngọt sau khi hội, mới đem lời mới rửa sạch trần. Thủ tọa Biệt Hoàn. Đứng giữa sân tuyết trống xưa rơi vào khách, Đan San nắm tay đạp bụi trần. Người đá khám phá hiểu được trở về nhà xưa, ngọc nữ sợ ánh sáng chẳng chuyển thân, ý dạo sông hồ nhiều mơ mộng, đường đệ hồi đầu trở thành Xuân. Chốn tùng lâm suy tàn thấm nhuần ân, sấm gió bên tai thức giấc côn trùng ngủ Đông. Cùng với Giai Tri Thương. Tuệ Năng giã gạo giống chút chút, trong bảy trăm người chỉ có được một người kiệt xuất, nửa đêm truyền y có căn cứ, trước cơ nhận được như gương không tỳ vết, Tổ sư giã gạo nhàn như thế. Nếu nay ông không bỏ cát, giếng xưa Thu trước niệm khô lạnh, nhợ vàng câu được ễnh ương ngọc. Cùng với Nhân Điển tọa. Đi hành khước sáng tỏ được việc mình, thấy phù dung tô điểm thêm vô thường. Ngựa đen đạp sương vốn không tỳ vết, cá trắng thổi nước không tiếng. Hợp cỏ từng làm khóa vô ích, ra tay nâng đỡ bẻ gãy chân đảnh, bỏ gạo bỏ cát còn chưa được, phải có thiên chánh cùng đi khắp. Cùng trắng bày tỏ. Nhà kín đèn sáng rực, hủ không dưới bóng trăng lặng lẽ, ai nói điện xưa này không Phật, chỉ ngay lúc ấy có Phạm âm. Ngày rằm tháng 10 cùng Pháp thượng nhân đi Nam cốc. Đà sách kêu khắp rừng nồng ấm, đến hang rỗng mắt say đắm, lá vàng còn đẹp hơn Thu ngày khác, cây gấm nào cấm có gió sau sương, càng lên núi rắn bò thêm uốn khúc, cầu vồøng vắt ngang vực thẳm nước về đinh đông, ai tiếc việc bình sanh vị kịch liệt, truyền trao trong uống trà cười nói. Một cây gậy một đôi giầy đi là đủ, thảo luận sâu xa bạn khách thân tình, nửa đêm cùng ông nói chuyện ở hang rỗng, an ủi tôi hằng ngày tâm ngây ngô như nai, nằm gường nhàn nhã mộng non nước, vào suối lạnh thành âm tơ đồng, về lại thiền viện Dư Thành bên ngoài, chắc chắn là nghó đến gia lâm. Tri tạng Biệt Giác. Một hạt đậu nức trong tro lạnh, đầu sừng chênh vênh đỉnh mở mắt, ngọc xanh trong mâm châu lóng lánh, trên điện lưu ly trăng qua lại, người gỗ nhìn bóng ánh sáng đi, gái đá khoát mây nửa đêm đến, thiên, chánh công thành phải chuyển vị, vào làng duỗi tay đầy đủ. Cùng với Thị giả Nặc. Khi mộng chén trà tay tự nâng, Quy Sơn ý tốt chuyển then chốt đạo, tự gọi chủ nhân rồi tự đáp, ai sai Tôn giả gọi ba lần. Ngày sanh tử đến có biết chăng? cô phụ tuổi trẻ là có chăng? Người xưa đạt được đạo nơi hành vi cử chỉ, biết không hạ thủ công phu trong việc nhỏ. Cùng với thị giả Cảo. Đạo Ngô năm đó không chịu nói, dần dần đến nguồn không thương lượng, linh cốt tiên Sư nay vẫn còn, không cần cầm xuổng lên pháp đường Đưa Thiền giả Thông đến Tương Dượng. Tổ xưa lạnh buốt nằm Tây Kha, tỉnh mộng nhớ lại rất sợ hải. Gió mưa khắp sông nhạn bay loạn, ngoài đảo gia sơn treo áo tơi của ngư ông. Thôn Bạch Dương rơi vào Bàng cư só, tháp đá xanh chứa đại ca, đêm vắng mỏi mệt tựa vào tùng xanh, thỏ đẩy ánh trăng sáng xuống ngân hà. Tri khách Tông. Một niệm thênh thang sạch bụi trần, trong mắt đầu lâu mở lông mày, phượng ngọc ngậm hoa Xuân không già, gà vàng gọi trăng mộng ban đầu, kiếm xưa trong hộp sáng can đẩu, trên vách thoi lạnh sâu chập phá sấm sét, Phật Tổ vào làng giáo hóa việc thành, rào chê ly cốc dồn đống đầu mũi. Cùng với bậc sơ thiền. Trong động gia phong rỗng sáng tỏ, trâu trắng cày đứt chân núi xanh, nhưng nay nơi nào cũng không gặp y. Lỗ mũi chúi xuống gõ vào nhau, A Thứ Thứ mới tin từ đây không mở trói được . Cùng với Sung Duy-na May thoi chưa hoạt động nhưng đã thành tựu, một điểm hư linh vào vòng đạo, trong ánh trăng sáng thấy được mình. Ngoài bóng mây trắng đến gia sơn, ngao vàng gần đêm rơi vào thủy triều, ngựa ngọc hý báo tin Xuân về, thuật lợi ứng tâm đều có thể, khi thoát được mọi việc đâu liên quan nhau. Tiễn đưa tăng về Dự Chương Tỉnh Thân. Khách phòng chân mộng gió cành không an, nhà tối nhớ lão nhân Sao, nhật tâm trở về cỏ tuyên hoa vàng, ngàn dặm tìm nhau chìa vôi kêu. Cây cây Đan Phong lá vàng rơi, tùng tùng lau vàng tuyết trôi nổi. Tây Sơn thấu tỷ mưa Thu rửa, cửa sổ cuốn rèm xa xa màu xanh Cùng với thiền nhơn giản Đạo Hư minh xua tan tâm trạng mùa Thu, thửa ruộng che phủ nhìn xuống tấm gỗ, định khởi muốn nhìn sao Hán, thỏ, hồi cơ mất hết trâu núi tuyết. Cùng thị giả Diễn Cò trắng định ngờ việc thệ nguyện lạnh lẽo, gậy lê ném vào xả không có gì khó. Gió lau hoa tuyết thu bên bờ, thuyền chở trăng sương mênh mang đêm phủ trùm lên biển, thân tâm thênh thang chạy theo mộng, sông hồ hôi thối dạo quanh co, ngày khác truyền vật ngoài y, gọi liền quay đầu đến cây sào chùa. Hiển thiền nhân xin tụng Chổ hiển bày cơ phải ẩn, lúc bận trí tự nhàn, trâu đất mới ra biển, ngựa hay lại đến cửa ải, nước lạnh trong trăng soi, mây bay lặng lẽ tựa núi, nắm vững đường về phân hóa, không tạo tiếc rẻ nhà xưa. Nhờ thiền nhân xin gạo cầu tụng Bát quải đầu gậy xin đơn khâu. Ra sức khám phá thanh bần một điểm sầu, mưa đỏ mấy phen hoa đã lão, mây vàng vạn khoảnh lúa mùa Thu, đối duyên tay mắt toàn thân phải, ứng vật cơ quay càng u nhàn, lý về Thiền Dương nói chuyện bánh Hồ, da bụng cột tre no. Tống Duyên Thượng nhân cầm bát. Duyên khất thực nhân gian một tích trượng, khói núi xanh tuyết trơn khô khan, mảy gió chưa chấp nhận thiền trong chốn ồn ào, vừa xem mây gấm lạc vào hóa cơ, tự gắng sức cúng dường chốn tòng lâm, ai ngại bụi trần dùng quạt che áo chở về tăng no cơm thượng nhân, cùng nhau núi Xuân ca hái rau vi. Cùng với pháp thượmg nhân nam cốc qua ở với Hoàng. Khói nhạt mây xanh nước chảy ve ve, họ Hoàng buổi đầu an bình được tự tại, khắp nơi dê si không thu thập, tịch dương rơi xuống làm nhiễu loạn bờ dậu. Đá lúc nhúc mây dày tìm nước đồng nội, lão ngại ta đi tự do chung tình non nước thuần là rượu, đêm nay gường trúc ngũ thật say. Cùng với PhụThiền nhân. Dạo khắp nơi vuốt râu hùm, kiếp không trong hủ mò có chăng? Trăng gió khắp nơi trăng chưa chuyển vào tận tủy sông núi bệnh khó nâng, kim để vào hạt cải cơ không trái, tiếng đàm loan thôi thấu đạo không khô, về chốn tùng lâm xem nghi vũ, Đan san xuất xứ chín bọc chim non. Cùng với TungThiền nhân. Gặp nhau trên đỉnh đá đen, thường gặp trên đường trường sanh chính là khi dạo núi, hoa rụng cỏ thơm phủ mơn mởn. Vận Đoan Lăng-già cùng với Thủ tọa Sanh. Ngồi trong túp lều cửu giang đông, cảnh trong gương dung hòa trong vuông tấc, thân Thuấn-nhã-đa đêm ngồi thiền khán, tay Mẫu- đà-la lúc dùng thông, duyên sanh ai biết có hay không có, tự biết lặng chiếu không chẳng không, hợp với đạo Quan Âm hay ứng, tre điêu tàn mưa tơi tả gió tùng. Trong ngực bình sanh núi ngoài mây. Ngày nhàn dạo núi, có khi rảnh chống gậy đi, chỉ biết một đời vui hang rỗng, nhớ tưởng mười phương chim vượn theo. Thấy rõ Thu bao núi gội mưa, ý người thanh tịnh gió than với tùng, trở về dạo chơi vui bất tận, ai gọi trăng hoàng hôn đánh chuông. Từ biệt thượng thư Lục. Ngàn dặm đồng phong đức không lẻ loi, tâm Thu trăng sáng chiếu bình rỗng, hai đầu ngồi cắt sanh tử nào, một điểm viên mình khác có chăng, ngựa gỗ lạnh hý lũy cỏ xanh, trâu đất Xuân trồng ít mây trăng, thấy nghe Phật sự ai xoay lưng, chỗ dùng toàn cơ chuyển then chốt chính của đạo. Cư sỹ Siêu Nhiên, được hỏi đạo ở Thiền sư Bảo Phong Tường, và muốn làm bài trường ca trở về để cảm tạ tôi cùng gặp nhau điếu viếng, để tẩm bút nói câu kế thừa. Cửa cửa thông đến đường trường an, quen tay vói lấy vẫn thích hợp, gót chân đạp đến cửa Triệu Châu. Thân vàng trượng sáu một cọng cỏ, ta ban đầu gặp gỡ là người trong này. Pháp pháp viên thông thấy được hoài bão, gậy giầy bên nhau đến đạo tràng, không học si thiền quét sạch cửa, trời xanh mây trắng một đường thông, đi đường chim ai tìm kiếm. Sư Bảo Phong là con ngựa non, hợp nhau nhưng nay buồn quá muộn, Bàng vẫn uống hết nước Giang Tây, gọi Câu Chi lại đựng một ngón tay, trâu đất ra sức cày mùa Xuân không kiếp, người gỗ bưng báu núi Hình ra, về đi thôi hết vuốt râu hùm. Trong rừng gay gốc mặc tình ngả nghiêng, ánh nắng chói lói ban trưa đẹp. Qua Vương Ngạn cùng ở ngoại ô. Buổi sáng hiện bày dâu tằm, mây đêm cuộn vào khe núi, họa đồ Duy-ma chưa cuốn lại, rõ được việc nhà nông bắt đầu nhàn Cùng với Phước châu Mãn Thiền nhơn. Nhưng nay sau khi từ biệt riêng dặn dò, gia phong Tào Động chưa thành câu, trăng đầy rừng phượng lạnh không mộng, năm xưa xác rùa đốt vẫn còn linh, buồn bã không chạm vào đầu rắn độc, mục đích phải tỏ như sao tê giác, lại phải buông ra dang hai tay, lúc ấy gặp nhau nhìn đình châu. Bỏ ăn xuất gia. Sương sớm gậy lê dựng bên cô thiền, gia sơn xin ăn có ý để bớt duyên, lầm đường thuận gió kêu hỏa trúc, bay trên nóc nhà mờ mắt ánh khói tùng, canh thu, ba ba gỗ có vị thật, cây kê cơm trưa không có mùi tanh, ai nói khách nằm giường không ổn thỏa, ta không cành chạy mua sơn tiền Lễ tháp Đại Dương Minh An được câu trung đạo. Mãi tưởng nhớ cảnh đẹp đều là giấy cỏ và gậy, cầu vòng vắt ngang khe lạnh, đường tối mây mơn mởn, chim cưu trên cây nơi sườn núi gọi mưa, điền gia gà báo sáng, tâm này ai nói sáng, đi nhiễu tháp ba vòng. Duy Thiền nhân ra xin cầu tán. Then chốt sáng tỏ chuyển hóa cơ, xuất môn khí tượng ngát khắp nơi, khe sáng đẹp rửa sạch gấm hồng, liễu mềm trước gió xe tơ vàng ròng, rỗng rang không chướng ngại, lẫn lộn không mất ta, khắp nơi gặp nhau là ai, biết được khách lo gì thấy Phật, đùa người bán có mày dài. Diệu thiền nhơn ra xin cầu tụng. Kiếp hủ mênh mông rửa sạch duyên ma, chỗ diệu quán chơn tự thấy được, đích thực chưa nẩy mầm sáng được thật tế, linh linh vô đắc vào thiền sâu, nắm gió xoay biển cá côn lột vảy, trăng sáng cát lạnh cò không ngủ, gặp việc hòa nhập hay chuyển biến, ngại gì sóng cả kéo thuyền không. Thủ tọa triết Quế Chương gần đây từ Song tuyền đến nhân đó viết câu tặng cho. Gia lâm nằm yên một tổ mây, chán làm khách am nhà Lương, bẻ quế đưa tay chạm trăng lạnh, ngậm mắt châu cùng mộng du Xuân, sân không còn thấy chim mưa hoa, lộc nai hay đến kêu thần hang … năm lão phương lâm về nhà hỏi, cười nói với nhau đầu trắng mới. Ngày mồng mười đầu năm giáp thìn Tuyên hòa, tôi muốn khăn gói theo sông Hoài từ Đông xuống Cẩm Quan, Thường thiền nhân chắp tay thỉnh, nhân đó ở lại ba tuyệt: Núi hoa khám phá nụ hoa hồng mùa Xuân, hổ thẹn vô tư công tạo hóa, ai sợ năm tháng đầy cây xuân, phải lắng nghe chim hót nói gia phong. Bụng rau nào dính một chút sầu, chỉ biết ngủ Xuân Đông như cháo, ngoài mộng tìm minh nơi nào có, trẻ em châu nhung đầu tóc xanh. Điềm nhiên ai lưu tâm, dưới trăng sóng bạt ngàn gió lướt qua rừng cây, khác nhau gặp nhau xác định nơi nào, rõ ràng nói với chỉ như nay. Tiễn đưa tọa chủ Đồng về thượng đảng. Trăng thỏ thanh tịnh muốn phun sương, khách giữ thói quen về vung tay, ai nói quét sạch sự dơ bẩn của danh ngôn, ta cười hun thành hương tri kiến, gom đá làm đồ chúng đầu dễ gật, ngộ được lý không giảng nghóa khó lường, đến nhà đem việc trầm cảnh nói thích nghi, không đối cơ khác phát huy phương cõi. Biển giác cá kình dài lột cảy, trời xanh sừng sững trăng sáng sau lưng, trong ngực thêng thang nuốt mây mộng, mép mày say sưa thấu thái hành, giường an tónh mỗi lần đến thành bầu bạn, một cây gậy đến nơi khác nuốt vào bụng người, về sau thăm tôi trước tiên truyền cánh nhạn, đến nơi khác cắt cỏ hoang ba đường. Ngoài rèm đêm sáng trăng sương đầy trời, thiền tăng lại quên việc gia cơ, cây khô than với mây phải chiếu soi bên trong, rắn chết có độc càng đề phòng, nghe đàn đứng dậy múa là thói quen của ngài Ca- diếp, buông gương thấy mất đầu là Diễn-nhã Đạt-đa điên, đúng là phải nhiều lần cắt cánh ruồi, lỗ mũi Tổ sư phải phóng quang. Am Đại Minh để lại kệ. Sơ lược tắt về sự lưu chuyển môn hạ, núi treo ngang cửa sổ đầu mái hiên nhà. Khi ý Đại Minh xưa đúng, đêm sương trăng đến bên hiên nhà. Tâm tri Trang cầu tụng. Người tự do trồng trăng cày mây, ruộng đất rõ ràng hợp với chơn, chỉ có màu vàng nhìn ra lửa nấu thành cơm, trâu trắng hôm nay đã chăn thành thục, luôn luôn tìm kế sống trên đầu cuốc, ngoài vật gia phong thân khắp nơi, mùa Thu nhìn toàn là lúa kê, no người tùng lâm sáng tinh thần. Cùng với Đông thiền nhân. Bạch Tần gió Thu đầu sông, chim xanh mộng theo cát nước chảy, trong sáng phát đạt trăng lên cao, thuyền chở đầy vào bãi hoa lau, vừa ý nên mừng đi về, sáu ngao phụ gánh về, khói sóng tuyết tan Thu lưỡi câu. Thuần Bạch Thiền nhơn cầu tụng. Trăng sáng hoa lau chưa được như, sáng trong tự chiếu xưa nay hư, ngồi cắt đứt mười phương phải lấy mũ, một tướng công thành phải buông cuốc. Người đá lưng chuyển sau khi trở về ngôi vị, đầu đài ngựa giỏi qua cửa ải ban đầu, khắp cả pháp giới thấy thân tướng, mới tin Tào Sơn giếng thấy lừa. Am mây Lặc Đàm tình cờ làm. Ánh mặt trời mây hồng phủ nửa am, sương núi mới ám chim gọi gió, không biết người ở trong cửa sổ, mắt mờ xông bếp trăm lự không. Vận Siêu Nhiên cùng Đại sư Triết Quế Giác và lão Giản Phương trượng Bụng bó ba bó tre, điềm nhiên nằm gia lâm, Đại Ngưỡng tịch cơ sâu, dụng nhanh như Trường Sa Cảnh Sầm, ngọc khua ở hang rỗng khe suối, trúc thưa trăng xuyên bóng vàng, nơi Sư thúc Đông Sơn, đạo này chưa nổi chìm. Mượn âm vận của Tuyết Đậu tiễn cư só Siêu Nhiên Triệu Biểu chi khi ở Lặc Đàm. Một miệng uống cạn nước Giang Tây, gia phong Mã Tổ đề bạt lên, lão Bàng cúi đầu nối trần thơm, xưa, nay ai được như vậy. Đạo Siêu Nhiên cùng với người giao hảo, du nam ý thênh thang chẳng phải nhiêu ích cho nhau, gió mát thấu xương mắt xanh lạnh, giếng ngọc hủ băng cứng không tan, một giường duy nhất Tịnh Danh nằm, không trụ không nương thoát rỗng rang, nguồn thầm lặng mới là toàn đề. Pháp môn bất nhị khai mở ngày ấy, Phật sự viên thành tưởng quay về. Ra khỏi cửa đường hẻm bằng như lòng bàn tay, đến nhà con gái chỉ đầu tròn, đối nhau không nói được chơn thật. Rừng Nam nơi ở mới. Rừng núi bãi trúc xanh um, tôi nương tựa tónh dưỡng ở sâu, một đời tự túc vị nhạt nhẽo, ba đời bên ấy được tâm nhàn. Hang mây chưa thành ý ra khỏi hang núi, gió tùng hay tạo thành âm ven biển, vô cùng trong trẻo hứng thú cùng ai, tưởng có Ốc châu rừng Chi Độn. Tiễn đưa thượng nhân Tung đến ở am. Thế gian tạp nhiễm làm tăng trưởng bướu cổ ở người, về nằm bao phủ ánh sương trăng, được phép trong đó chuyển công lìa vi diệu, hủ ngọc đêm múc nước giếng lưu ly. Lời nhà tôi nghiền ngẫm hiểu khô cứng, no say về hai mắt lạnh, mây nước rành rành được ung dung, ngoài việc sáu cửa ai ngăn chặn. Bụng thiền phải bó chặt như trúc bề, hãy xem trâu đực tự cày ruộng, truyền riêng không bán ba ngàn dặm, tai cây ai nghi hai mươi năm, một câu hợp đầu tôn khách họp, ngồi cắt đứt mười phương thiên chánh viên, khi khác ném gậy đến thăm nhau, vả lại chớ vô cùng bận rộn mờ về tay không. Nấu măng dương xỉ có tỳ vết giàu bên Xuân, ai xem hiểu thừa kế người trong am, trời cúng hoa lạ công chưa thành, rồng ngâm cây khô bệnh khó hết, đêm thiền biến chất đều im lặng, ngày nằm ngại gì chim mỏi bay, ngày sau đến lại khám chư Tổ, ai câu được cá đuôi đỏ. Vinh Thượng Nhân Phát làm người quản lý việc trà dầu ở La-hán đường xin tụng. Thoát được mộng biết nhân duyên. Phật Phật tâm đều quên trước sau. Một điểm linh minh ngoài ba cõi, rất tịnh diệu trước vạn cơ, tôi luyện tự được môn đồ chốn tòng lâm, du hỷ ngại gì trên trăm đầu ngọn cỏ, trần cõi dọc ngang đều là việc hóa độ, người lập gia phong chỉ gió nắm tay lên không. Tâm thượng nhân khất thực cầu tụng. Người đi tâm khất thực, gió Xuân mênh mông rửa sạch chốn tòng lâm, khe tùng hương mơn mởn phấn vàng, bãi trúc xanh xao bao trâm ngọc, nấu nồi đất phân ngọc đầy đều bát, bình sạch đêm khuya múc trăng trong hồ sâu, trở về rửa sạch trong ánh sáng, đường xưa bụi trần không bẩn vàng. Thăm Dương Tài Thúc không gặp để kệ ở trai đường. Gọi gậy đứng lặng dưới nhà mây, núi lạnh Xuân về tìm bạn hữu, khói nhiễm cỏ mờ ba đường đen. Tuyết ban mai bừa đất lúa mì dưới chân, muốn cầu lời chơn phải sạch tưởng trần, nào sợ núi gió sanh lúa, không thấy Thi lang về Trương Anh, khi xanh xao đối với đá xương bồ. Giải Thủ tọa và chức sự Thư ký chào nhau dùng kệ từ biệt. Chim câu ra về hay kêu ra âm, gió chiều rụng lá thu trong rừng, đường cát mờ mịt nước dâng mêng mông, màng đêm dần dần phủ trùm núi, nhiều người đội mũ tự tỉnh thức, kéo tay áo bạn mới biết nhau, xin cùng cao nhàn không được thỏa nguyện, đóng cửa nằm yên tâm thanh thản. Tình cờ thành dạy chúng. Dương liễu mềm yếu trước gió, chuối bị mưa đập tiếng lạnh, chớ lấy thấy nghe cho là đúng, ai đem thinh sắc lừa nhau. Thành Thị giả cầu tụng. Nguồn chơn không bị gió làm lay động, bóng thỏ trong trăng in dưới nước trong, tình khô chỉ điềm nhiên, thầm lặng vị thiền no, gia phong mới mở rộng. Nghóa đệ nhất năm ấy, cơ quay chuyển có nơi, vạn hóa đưa ra trong khẩy móng tay. Ngày 28 mùa Đông canh tý, trời trong lành ấm áp, cùng với Thượng nhơn đi Nam Lộc. Ngang thì sườn núi lưu chuyển, dọc thì vang thanh trong. Cây thẳng che mát suối, lạnh nhưng không khốn khổ, đến rừng tre nhà người, uống trà rồi trở về. Chân mây chốn đẹp xưa chưa đến. Hạnh thanh tịnh phát huy trí tuệ quên cả gồ ghề. Ai không gầy ít tựa vào gậy, ta cùng u nhân đồng tâm thưởng thức, men theo bờ khe tự uyển chuyển. Bờ cây già cao um tùm. Phía Tây khe xin lửa nấu trà trong trúc nhà người lầu âm khánh. Từ biệt Ngũ tổ Sơn Duyệt chúng. Đông Sơn tụ tán cũng tiến thân. Hoa tỏa hương thơm dáng liễu tan trong khói, khẳng định xứ, căn, trần chẳng phải một. Khi dùng thì ngàn mắt thích hợp ngàn ngàn. Trong tháp Tổ có việc truyền nhau, ngoài núi người không lãnh hội đuợc thiền, ngày sau đạt được lời viên đốn, chưa hiềm nghi gõ gối gọi xuân ngủ. Ngũ Tổ Thiền nhân Tương cầu tụng. Gió Đông ngưng thổi mưa ướt hoa. Trên sông Hoài núi đẹp xanh đáng kể, buột giầy muốn tìm núi Bắc Nam. Cuộn y lại từ biệt Tổ Đông Tây. Cá vực chim bồ một nhà ồn náo. Bãi trúc khe rau hai đũa ngọt, khắp nơi gặp nhau ghi đựoc gì? Đêm lạnh trăng trên cây san hô. Thượng nhân Vân trì bát xin tụng. Rừng mây gió tuyết chiều thon thon. Nhỏ giọt tiếng lạnh biết dưới thềm. Một chút tâm cầu khẩn nguyện gậy giầy. Việc giáo hóa viên mãn do rèn luyện, ánh sáng như lau trăng không ngại. Thêu hoa lạc cỏ Xuân không hiềm nghi. Phân thân trăm ức khắp cõi nước, thấy nghe nghiêm kính ai đưa ra. Thượng nhân Thanh trì bát cầu tụng. Hoa lau đầu suối mắt liễu xanh, khi ăn trì bát ở thành Chúng Hương. Các nơi gần kề quyết ngờ đầu bạc trắng. Từ lâu khách tự mến tâm cảnh tịnh. Nghó mãi tuyết lạnh đích thân trình bày, không quên nước ấm nguyện đến chim hạc. Gã Tòng Lâm no ấm biết nhau thật ro. Măng, dương xỉ núi Xuân thứ tự mọc. Tiễn đưa thiền nhân Quảng. Gió ấm kéo khách xuống đỉnh mây. gặp việc không tâm tức dạo thiền. Mắc tội biết ngay biến thân báo, ra khỏi cửa phải biết cởi ngược trâu. Khói xông gậy vào đường tắt Thanh La. Thuyền chở trăng về châu Bạch Điểu, trong ngoài ngang nhau còn công bặt tông tích, bỗng nhiên trời nước đều thành Thu. Đại nhân Cần thăm, đặc biệt làm thơ tặng. Nếu ông qua đến cửa ta, biết ngay Lương Tọai chí càng thành khẩn phá vi trần được quyển kinh, khi vạn tượng rối ren mắt rỗng rang, cùng với đời chi ly ai ý xấu. Người kỳ lạ gầy ốm góc cạnh tự vết Thu, về hưng thạnh đến nhà ẩn trong rừng, trăng sáng khắp núi xua tan bóng đêm. Tiễn đưa Thượng nhân Kim về Thủy Nam. Từ xưa đến nay nương vào sự gánh vác. Trên trăm đầu ngọn cỏ đâu có góc nhọn, nửa đêm vỗ tay cười với trăng, không thấy cóc ba chân phun sương, kiếp không có câu khá mầu nhiệm ông đi ai nói chuyện với ta, sau khi thấy thái bình Sư thượng đường, dám làm phiền ta đưa ra rõ ràng. Tiễn đưa Thiền nhân Giác. Trăng sáng nhà trống khách không ở. Hoành Tương cảnh đẹp dạo làm thơ, đường về nhiệm mầu không để bóng, trời nước từ nay một dáng Thu. Tiễn đưa thượng nhân Nguyện về quê hương. Đầu suối mua thuyền về bãi Ngạc, chèo thuyền gió mát giữa đêm trăng, đi hết núi thiều đến nửa tháng, con mây trắng đến cha núi xanh, câu cuối cùng ông lão Nham Đầu, đến đây sẽ biết hỏi không lời. Tháp không vết nứt trước gió sắc cao. Rỗng rang không ngăn cách mảy tợ. Dặn dò ở đây đi mau phải về. Con nhà ta phải toàn tài, không ngồi hai đầu đường sáng tối. Trong thiên về rồi trong chánh đến, từ trong hông ngực cái ha ha phong lưu biết được bao nhiêu. Từ Lô Sơn Triết quế đầu rào treo phan về sau, nhìn về hồ Bành Lãi, cầm gậy đi qua trước thất sơn tăng nói kệ. Cây rơi vào núi xương gầy, nước rút cát lưu dấu. Thuyền đánh cá đùa cả ngày trên sông, một chiếc lá hồng nhẹ nổi. Việc trong mắt chẳng phải thế tục. Tâm đạo nhơn nếu vượng lên, tiến lên đầu can phướn, mây nước mở gia phong. Ra khỏi Khang Lô qua sông Hoài sơn lạy tháp chư Tổ làm giữa đường Thuyền nhám cát bờ nước oai linh. Xuân trên bờ bùn sâu bẩn dây, quay đầu lại Khang sơn nhớ kết xã, tình thật nhà tổ việc truyền đăng, con cháu tiến lên sân tuyết được. Tuệ Năng cột dây giã gạo được y bát. Ngồi thất Thiếu Lâm xoay mặt vào vách chiếu soi, tâm địa trong sáng ánh như băng. Cùng với tôn giả Tuyền. Lông tơ buộc áo thân hình khô héo. Việc trong ngực một mình tỉnh ngộ, quên cơ ứng với dụng thì nhiệm mầu. mắt linh hoạt lạnh nhìn chỗ rỗng linh lợi, lời hay mây đẹp một mảnh Xuân. Khí trong mai tuyết biết sao rơi, nhưng nay công hết nương đầu trâu, chim hoa không đến gió quét sân. Nhắc đến bạn đạo trong Du am và giản am. Người chơn thật khắp mười phương, đến khắp nơi hiện bày rõ ràng. Ngỗng chúa uống sữa để nước lại, ong ở nhà hoa chọn được hương. Tâm như gương chiếu sáng không tỳ vết, đạo thênh thang thấy được thần quang, hay đến chốn chợ ồn náo trụ trong Tam-muội, chim bay trên không không lưu dấu. Đạo giả Vận Truyền dao viện Lạc Tinh. Gió dựng cát gốc lúa lớn cứng, lạnh bao hàm sao đá nước chảy cong cong, lên thuyền muốn qua cửa sổ, vin vào lan can nghi là bản đồ họa. Mây lau núi chứa ngọc chương xanh, mặt trời nổi trên sông vòng vàng tía, năm lão quay đầu vẫy gọi ta. Bạn rừng núi không ngại đêm gõ cửa. Thượng nhân Hoài bước ra xin cầu tụng. Giường Hồ phủ lông tơ sợ Xuân lạnh. Người xi năn Hoài đi vào chốn hoang vắng tuyết khô, tin gió vào hoa phơi bày rực rỡ, hồn trăng rơi xuống nước rửa mâm vàng. Tịnh Danh nhận cơm mất nhiều sức. Từ Thị mở cửa khảy móng tay, trong ấy đạt được diệu là thọ dụng của Phật, tất cả thành kiến không dối nhau. Một người coi sóc việc đèn dầu trong điện hóa Phật và điện tăng đường cầu tụng. Đèn Phật ai thắp sáng thay ta, nếu hoa sen nở tỉnh mộng, hương cỏ có tâm giữ trong sáng. Hoa lan tốt tươi không chân xanh lạnh sâu, thầm cày hóa bên ngoài rào biết ban đêm. Thật chiếu trong hủ bất giác tối, việc truyền gia thế cháu con, từ giáo sáng rỡ hiển môn đình. Thiền nhân Lượng trì bát xin tụng. Gia lâm một chiếc gậy bay, chỗ nấu khói xanh thoang thỏang, lặng lẽ trang nghiêm dựng bản thiền. Rỗng rang thông suốt cơ chuyển hóa. Khe lạnh nhiễm sắc thu, trăng lạnh đêm sáng khắp, không học sự thanh cao của Tây sơn, đây đi phải về sớm. Thiền nhơn Sơ trì bát xin tụng. Phật sự tạm thông cửa Hưng Hóa, khi dùng cân, rìu không dấu vết, toàn cơ vượt khỏi mé trầm luân, một câu nhổ sạch cội gốc sanh tử. Gió mát rửa sạch đá mài dứt sạch phiền, trăng sáng sắp theo đêm đài mờ, ngổng chúa chỉ uống vị tinh túy, nước sữa phân rõ ràng không lẫn lộn như ta. Qua Am Bát-nhã. Nhiều lớp hiên gầy dựng trên đầu lan can gãy. Các đảo thanh vi lạnh khắp gối, mắt nhìn hiểu cát chảy theo nước, thưởng thức tâm chơn cùng mây nổi trên bờ, chia đều sắc đồng nội nhà nối liền ánh sáng trên sông điểm phá đuổi theo thuyền, hiểu được nghóa sâu xa của tông không Bát-nhã sum la vốn không ngại người thôi. Am Đăng vân. Đối khe xanh, cỏ sương bày lối đi thâm sâu, mong ta mê đồi hang, biết ai lầm bụi đất. La Môn nhìn sâu vắng, mây, bậc đá bước cao, thấp, vượn chim chưa bỏ nhau,cùng người ở cây khói. Tiễn đưa Đạo giả Truyện về tỉnh mẹ. Đêm đến sương dọa cuống quýt vàng, xin xùng người về nhớ hương lạnh, đến ngày bước qua cửa phải chuyển hết, đầu bạc không phải mẹ của ta. Diệu hết công viên đến chỗ sâu xa, nếu người hiểu đúng cỡi trâu về, áo tơi nón gió hành lý cũ, hợp ý rõ ràng trên trăm đầu ngọn cỏ. Thiền giả Viên cầu tụng. Thân tâm khô kiệt mọi điều không nghó. Tròn lặng tự chiếu khi kiếp không. Gương trí diệu minh ào lưu vết cấu, linh cơ rỗng rang không qua mảy tơ. Đích thực đầu lâu nhìn mắt sống. Tỏ rõ cõi nước dụng giữa mày, phải như vậy thừa đường đi? Lỗ mũi chúc xuống biết chư Tổ. Ba tuyệt trên đường Tà Xuyên vọng về Lư Sơn. Vị chơn thật dốc lòng dựa cây gậy già. Tiếng gió rít lên qua rặng tùng, không người nói chuyện cảnh viên thông, cười nhìn mây bao phủ đá ở đỉnh cao. Thanh sơn dạo bước quang eo suối. Tơi ông lo lưới trẻ dao động, ngày sinh xưa cởi cá đi, người nhà trên bờ họ Đào là ai. Nước từ núi Ô Thạch chảy quanh về trước, người đi trên bờ Tà Xuyên lặng lẽ củi dâu dưới miếu cổ, ta đến không có rượu làm say Uyên Minh. Đại sư Diệu Trạm cầu tụng. Diệu thì không thô, trạm thì không lẫn lộn. Diệu trạm nhưng chiếu, sáng bóng không tỳ vết. Mây núi là chủ, trăng nước không cội nguồn, thân ngồi lặng lẽ, thênh thang hàm dung sáu môn, lỗ hỏng gió vào tạo thàng tiếng, hoa chịu ơn xuân, truyền nhau việc này, con con cháu cháu. Thiều cốc viết bài ký Tuyệt cú viện Thắng Quả. Gió bụi mịt mờ quyện với khói sông, lặng lặng chèo thuyền dường như có không, năm lão nhìn lại si dứt tuyệt, y nên ngờ ta đạt được công phu Tiểu sư Tuệ Quả xin muối cầu tụng. Bên trong vị còn thiếu chút ít. Lô Sơn thành tựu một nhà dương xỉ, măng, xin việc ông đi qua lau sậy vàng. Người có tâm nguyện ở cát trắng hải âu, nhà nhà đều dùng muối nấu canh, thôn thôn quét tuyết muốn lún ủng, vị đến thiền tăng mới nằm nghỉ trong trăng, viên thông chỉ là bờ vực sống. Thiền nhơn Huy xin muối cầu tụng. Lô Sơn đạm bạc đã nhiều thời, ai cùng tòng lâm rửa sạch hình dáng bại hoại, vì yêu băng biển để giúp vị trà, không ngại mưa Xuân phá cành hoa. Việc Tiên Đa-bà rõ biết hạnh, thân Thuấn-nhã-đa thích hợp khắp chốn, ý vui cắt đứt dòng thuyền đến bờ kia, đầu sông thuận gió xem cột cờ. Tiễn đưa Thiền nhơn Nguyên qua Trường Lô. Tổ nơi bờ sông đặt cành lau, rừng rậm tốt tươi quả đến đây. Sư môn anh em biết tên xưa, duyên pháp khắp nơi bị chậm trễ, trên cát nguyện lạnh hải âu ngờ tối, đầu nhà chữ thảo giờ nhạn đến, trăng sáng đò xưa phô bày rõ, ngàn dặm đồng phong không cách mảy tơ Lên am Vân Đỉnh miệng mỏng nói dựa gậy nói kệ. Thang tuyết lên đỉnh mây, đến tìm Sư áo rách. Phá mõm núi nước liền một mạch, quế, tùng nửa vành trăng, thông hiểu tánh hươu, nai ngây dại, chán dáng hang gò no nê, nhớ lời dẫn dắt không đi, đứng lâu tựa cành gậy. Thiền nhơn Cảnh cầu tán. Chỗ lẫn lộn cần phải nhìn một bên, lúc này diệu ở trên đầu mảy tơ. Mây nhàn cuộn mưa trời thu rộng hoát, trăng sáng lan tỏa đêm nước lạnh. Chèo thuyền rẽ sóng trắêng xóa hoa nhỏ vụn, gặp mộng kinh hải biết ảnh tròn, cơ chơn phân hiện chuẩn khắp nơi, lại ra lau vàng cầm cần câu. Đạo nhơn Vận Tuyền qua Hương lâm. Khói tùng tre rậm thông đường tắc. Bến vắng đá trắng lạnh leng keng, Ngãi Thiền đúng là dòng cam giá. Hương lâm lại thổi gió hoa chiêm-bặc, một khe lạnh dẫn ra ngoài vùng biên cương. Ngũ lão xinh đẹp ngồi ôm ấp, viết phẩm bình cửa sổ ý sâu xa, lạnh nhạt tin tức không giống như sấm chớp. Bậc giáo hoá viên mãn cùng với đại chúng Viên thông xin nói kệ tiễn đưa. Qua cửa thiền tăng thêm nhiều người, gường Hồ phá ngã thầm đạt được vị chơn. Đầu lâu đạo sống trước có chỗ, dùng tiến lên cục thịt đỏ vô trần. Tâm nguyện lau, măng xã Bạch Âu. Mắt mộng thấy cành hoa bướm mùa Xuân, tỏ rõ viên thông ý vô tận, khắp nơi ngã tư khách trong chủ. Tiễn đưa Thiền nhơn chiếu đến Hồ Nam. Hoành nhạc đón thu ngọc bích gầy, sông Tiêu Tương gợn sóng gió nứt lưu ly. Ban đêm thuyền chở trăng nhanh như tên, về đi thôi chừ hết hỏi bờ bến. Về chốn xưa Nam Lộc Cành dây kết bạn vui chơi, ôm giữ thói quen khó an ổn tìm chốn xưa. Mây nước mộng tưởng một mình ẩn, mắt ngắm nhìn rừng núi bốn cửa sổ rỗng, áo thu chưa ấm sợ mưa nhiều, cơm trưa không muối rau mềm ngọt, về đầu cảnh cũ thực hiện chí nguyện, đạo đồng chim tổ cùng cá vực. Lễ thiền sư Thanh Ba Tiêu Cháu Đại Ngưỡng đến yết kiến Ba Tiêu, phải tỏ viên tướng mới biết đam mê nguồn. Hoành sơn mưa khói rửa xương thu, gió thổi từ khe suối lướt nhẹ qua mặt còn dấu nắng. Lá xương bồ gầy nước, đá đẹp, cây tỳ-bà thầm lặng hiên cửa sổ, đầu gường ai dựng cây gậy, xin ta khúc thành thật tìm chân mây. Trong đường Ba Tiêu. Mưa mù mịt đường khách đầu sườn núi, trong núi nhà người nấu bay khói, ánh nước trúc hạc trợn mắt, gió lốc nhạn bay tà tà. Trong đường Đại Dương. Lòng người trung thành chốn đẹp, đầu giường mượn sức dây xưa. Gió làm cây lá tan tác là tả, núi thu sương gầy gai góc. Hai bài kệ lễ tháp Minh An Lão Sư tịch không người kế thừa, tháp đá đứng nhiều năm, dặn dò kim vàng chỉ ngọc, hổ thẹn keo loan với dây đàn phụng. Giường đá nằm lạnh cọp thiền, mùa Thu thềm hoang vắng trùng cỏ nhảy, còn niệm trung thành nhớ trình mọi việc, không lời đứng gió Tây lạnh lẽo. Gác bình ngọc tụng. Gió sương ma sát sạch thu trong rỗng, trăng tắm ngân hà sáng phần ngoài. Lặng lẽ trong hủ ngọc tự chiếu, nhà truyềg thanh bạch mầu nhiệm gọi tên. Đưa tăng về châu Phủ. Không chịu làm bạn với mây rừng lạnh lẽo. Sơ sơn về yết kiến Xà-lê Ải, chẳng phải câu cột khô nếu sáng tỏ sẽ muốn trở lại quy phục tê giác. Tiễn đưa bậc đứng đầu tông tịch Lộc môn. Dệt cỏ an lành cúng thiền gia, một mảnh lưu ly trơn không tỳ vết, cửa đống vảy vảy nước không chảy, cửa sổ đóng dần dần mây mới đông. Ngồi lạnh gió trăng thu bồ đào, nghỉ chân giang hồ mộng chim âu, nhưng nay khắp chốn tìm người xưa, thầm thầm còn nhớ đầu mũi đau. Trạch am tụng. Rồng ngọc lột vảy, ghi việc trong am hết sạch. Thiền ở tổ phụng gấm, đi đường sương hang cóc, uống bên bờ trăng sáng này, rửa xương vi trần kia. Năm lá Xuân Thiếu Lâm, gia phong chưa bị mai một. Lên đình ba núi Thanh Lương. Gió bông mưa hoa một Xuân tàn, chưa chán đình này đêm dựa lan can, ẩn ẩn ba núi ôm sông trăng, cảnh giới trong mát bày tùng lạnh. Tiễn đưa thượng nhơn Viên đến Long Thơ. Lão sư đầu đỏ không lựa chọn. Sông núi xanh tốt ngọc ao Ngô. Vạn pháp sáng rỡ vào tề quán, trong bỗng mảy tơ vốn không lập, đạo nhân về làm khách dưới núi, lộc sương măng trúc mây côi bay, đến lúc Xuân đầy hang trâu đá, rau dương xỉ ai cùng chia phần. Thị giả Cử cầu tụng. Gió Thu sạch cốt phiền, hằng ngày giác ngộ thanh tịnh, tướng cùng sự thiền khô, đã nuôi no chính mạng. Lão trăng tắm ngân hà, hồn phách sáng rực rỡ, vị chơn vào bụng ai, chỉ biết trăm niệm lạnh ý Xuân dần sâu, tiễn khách đến cúi chân núi nhà ruộng, qua lại trên đường lại gặp Thượng nhơn pháp nhân đó viết vài lời để ghi lại việc gặp gỡ…. Dâu xanh bóng liễu đường trước núi, chân lúa mì thấm đượm một trận mưa. Đường rừng dương là Xuân nhà xưa, mắt lạnh Linh vân hợp đầu ngữ. Một đám mây dài dài rửa mưa hoa, trúc sâu mới nghe lời Tử Quy. Thanh sơn mây trắng ta định cư, lòng khô nào tư lự về. Chim dâng cành hoa làm lời Xuân, ngày gió rực rỡ khô khan mưa sớm, nước non phì nhiêu cây cỏ vui mừng, tiếng thơm và việc cả hai hiện bày không tính được. Hoa về đường tắc chim chiều kêu. Nhà bếp nấu khói gió đưa từng làn, phía tây cửa sổ xưa có gường sườn trúc, duỗi chân xếp tay trở thành sinh động. Cách một năm gặp nhau ốm thấy kinh. Gió đứng đầu khe nói ít giờ. Tình khép khách lên vách đá cạnh bờ nước câu cá, bốn bề mây phủ một áo tơi. Tụng ba ấn dạy chúng. Ấn hư không, ấn nước, ấn bùn. Không lời đào, lý thành đường tắt, nộp thuế theo phân chia, chăn trâu khắp nơi suối nước. Ấn bùn, ấn không, ấn thủy, sấm lẹ không bằng bịt tai, bỗng nhiên cửa lầu gác mở tiêu được nhẹ nhàng như khảy móng tay. Ấn nước, ấn bùn ấn không, ai truyền xưng gia phong tổ, mắt mộng bóng mê mờ một sắc, chuyển thân thể hợp toàn không. Thiền nhân Cơ ra xin cầu tụng. Phân thân khắp cõi nước thấy cơ hoá, khói xanh mấy nhà nấu buổi trưa, ngồi xoay mặt vào vách quán chiếu việc tùng lâm, ôm bát xin duyên mây nước đói. Chim ra khỏi hang thứ lớp truyền Xuân. Thuyền gợn sóng người ưa trăng theo nhau, trở về quyết có câu tham thiền từ lâu, cười biết thiền khô chỉ ngoài da. Thiền nhân Tâm ra xin cầu tụng. Muốn nhìn Thu sớm rừng gió yếu, lúa quyện mây vàng phù hợp tâm thành thật. Diệu ấn trong tay nào ngoài vật, trong ngực rỗng rang không dung chứa một cây kim. Nhà ai nấu nồi đất tuyết thơm, đêm sau thuyền về chèo vàng mềm, rửa chân bồ đoàn trên phiến đá tùng, quanh rào non nước có thanh âm. Thiền nhân hóa duyên muối cầu tụng. Đãi bùn cát rửa sóng nấu khô, một tấm chiếu người băng tuyết lạnh, đạt được ý thử sức hoa sen nổi, thầm biết tùy sức vào mâm rau, vạn duyên tốt đẹp giúp sức nhau, nhiều người hoà hợp tin không khó, không tượng có thần ít khám qua, mắt viên thông ở đầu lưỡi. Gởi Hòa thượng Đại Hồng. Uống trà từ biệt khỏi La môn, tiễn nhau còn nhớ nắm tay ấm, đoạn nhạn mấy khi về chữ bó buột, bèo theo chỗ nằm mọc rễ, gió Thu ngoài cửa sổ ôm lau tuyết, mộng lạnh đầu gường rơi hồn trăng, cán bụi trần năm tới luống nhọc chuyển, lại nghó viên hồng cùng chậu nấu. Tiễn đưa thủ toạ Trí về quê hương. Đầu tóc bạc như tuyết rơi vào thanh bần. Nằm lâu rừng gió mộng chuyển thân, một cảnh linh diệu về đến quê hương. Sáu căn rỗng rang ứng hợp người đến, trăng thu gió mát lan tỏa âm hồn sáng, mây nước trong rồng lột xác bày xương, con cháu phải ra sức chấn hưng gia pháp, hạnh này chưa thể lụn bại theo khách. Lão nhân Tung sơn làm sáu bài kệ tiễn đưa. Không thể an dưỡng tuổi già nơi chân rừng, phải xin ân thừa để phủi tóc, rửa chân biển cả việc năm lạnh, cuối cùng bạn tốt đến Thạch Xương Bồ Xắn áo lạ lùng không phải ta ở, nhớ việc xin thành tựu nay hợp thời. Sấm động biết chắc côn trùng ngủ Đông dậy, Xuân lạnh không cần buộc chặt càng hoa. Rít rít tiếng chim kêu như khách tình. Hàng hàng mắt liễu nhìn người xanh. Bạn xưa dốc lòng Xuân sanh thành vạn vật. Múc nước dưới khe trăng vào bình. Trong mộng kết sầu ba việc biến đổi. Tỉnh giác lại vui một khối Xuân. Thời tiết oanh hoa rửa sạch suy sụp. Không tin còn lạnh rét đến với người. Phục hình tượng đúng chí nguyện. Việc sông hồ không quên nhau. Cam châu bạch điểu thu thành hàng ngũ. Lửa chài, Tôn canh hương cỏ bồng. Ứng duyên phân bóng trăng đến ao. Dạo thế vô tâm như mây ra khỏi hang. Thoả ý trở về chóp đỉnh nhà, đám rau cùng nhau gắng sức cuốc. Tiễn đưa Thượng Nhân Uyên. Tơ đỏ không dùng treo ngô đồng đốt. Một khúc Tân Phong để tiễn ông. Đêm sau lão gió tùng tỉnh lặng, nhiều loài cầm thú không thấy trăng xuyên qua hang trống. Tiễn đưa Thiền Nhơn Bình về bãi Ngạc. Thuyền nổi trên nước Xuân đi về. Trong nhà có ruộng tốt thì có cơm canh. Khách về từ lâu một chút mây liệng, Nằm ổ xưa xem trăng canh ba. Người nghi ta ở chóm đỉnh nhà, ông đi rồi ai giúp ta bẻ gảy cùm chân, vì hỏi Nham Đầu cùng quỷ tử, khi nào giống lúc sống này? Am Tư Thánh muốn qua viên thông. Ta buổi đầu bơi thuyền đến cửu giang. Tìm sâu lan nhã núi rồng xanh, vẽ vương Ma-cật tựa lan can. Tạ thơ Linh Vận mở cửa sổ. Bàn Ngải thiền cao siêu giống luyện vàng. Luận bàn pháp thân phong nhã chẳng phải cọc khô. Mộng về chính là đường viên thông, trăng lạnh phương trên gõ tiếng chuông. Lên am tường vân yết kiến Thủ Tọa Minh Đông Lâm. Chặt cây ngâm nga sưng ở bụng, già nua chống gậy lên bậc sương dày, leng keng rơi vào hang suối sữa vang, sáo đàn đến cửa tùng thơm ngát, đêm lạnh cao mưa đông một màu. Thanh tịnh rỗng lặng mây sớm lan tỏa ngủ quang, xã tan gánh cây khô còn để dấu, y râu tóc mắt xanh nửa sóng biển. Cùng Trưởng Lão Tín ở Thiên Trì. Cuối năm tùng Lâm náo nhiệt lau gai, trong đó tỏ mắt biết rắn rồng, đang đi năm đường ta biết việc, ngồi một mình trên núi y là tác gia, Phật pháp từ đây như nhai sáp, bạn bè đi ở đây giống đoàn sa, hồi âm thư không gởi tư duy hết, ngàn dặm đồng phong hết so sánh. Chu Hy viết lệnh Bình âm, 80 ngày chí só về. Lui về thỏa thích dạo đường xưa, gia lâm lúa gạo vừa thành Thu, lau vàng chiếu tuyết cát đầu nhà, trăng sáng sóng nổi thuyền cửa sông, đường cày ai theo sau phu tử, nay bỏ thiền kết bạn với Lão Tăng. Thử hỏi củi dâu hỏi đầm Đào Bành, phong vị thuần chơn tướng giống chăng? Tú tài Chu xuất gia cầu tụng. Mục tiêu tâm giải thoát pháp mão Đan hà, mượn sức cắt chút cỏ trước nhà. Ở trên bế tắc không phải than mất ngựa. Trong bát thật muốn đoạn nghi rắn, nhớ mãi cam lồ rửa cốt trần. Ý Tòng Lâm mở giác hoa, khi xưa trăng sáng cành lau qua tuyết, một hủ sắc Thu thuộc nhà ta. Mục đồng. Lão bò đực bước đi an ổn. Kẻ áo tơi si ca cười nhiều, ngoài vật buổi đầu không trần bại, trong ngực riêng có vườn gò đồi. Dạo động chơn ty. Hoa đào rửa gấm lạnh nước Xuân, cửa động dáng ngọc phát hoạ lan can. Tam phong xanh rậm phủ cửa nhà, chín giếng nổi sóng tuyết tung tóe, tiền thân Tượng Đế vốn lão Ngữ, việc sau hang thần ai thấy Nữ Lang thân gầy thanh đạm bạc nửa đầu, đợi khi nào xin hoàn Ngũ sắc. kinh. Giữa Xuân qua núi Pháp Hoa Long Thơ, tìm am xưa đạo giả tụng Đường tắt vào hang sâu, đến tìm am đạo giả. Âm phạm nay lặng lẽ, mưa hoa còn thườn thượt. Ban đêm trăng sáng nửa nhà, đèn xanh lạnh một khám thờ, mộng theo ca hát thổi đi, mượn đường qua Giang Nam. Thiền nhân Nguyệt ra xin cầu tụng. Đạp tuyết đến nhà người, đầu cơ không sai. Hồn trăng thông mạch nước, tin Xuân vào hoa mai. Đi tìm hương thơm nấu, rộng thênh thang bó cật tre, phương trên chia Phật sự, trước tiên ta qua Tỳ-da. Thiền Nhân Uyên ra xin cầu tụng. Thấu triệt cội nguồn xanh bao hàm thu, đạo ai sáng lạnh ngưng động không thông, nhìn quanh hoa lau cùng trăng sáng, lại không một vật chướng ngại đầu thuyền, qua lại đạt được vi diệu dọc ngang tự do. Con ngao lớm đớm vội vã kéo ra, chính là núi tiên ngừng nghó. Cư só Trung Tử ở am Tức giác đến thăm Diệu Phong rồi đi về Tây, làm năm bài thơ tiễn đưa. Việc cảnh hay đến thăm tôi, chống gậy hơi giống du tăng. Ngồi an nhàn đạt được lời thú vị, đáy lòng rộng lớn bao dung băng. Mộng lạnh buổi sớm trăng treo đầu tùng, trăng thu xưa giếng hàm tân. Chí đạo trăm nhà chung dấu vết xe, đồng phong ngàn dặm thành xóm giềng. Khi trước muốn xuống thang tuyết, mở lại phong linh hướng mặt trời, đến đây dặn dò chim hoa, không đến chốn Xuân đình lộn xộn. Trở về ba đường cỏ Xuân, nằm mộng một vòng áo tơi, tóc bạc đèn nọc xua tan bóng tối, bên cửa sổ tối rửa sạch sóng vàng. Đạo nhơn ngoài đời vẫn còn, bình trong am lúa không chứa, khách đi rồi không dung chứa rỗng không, kéo áo cùng nhau chia rau. Tiễn đưa Thượng Nhân Nguyệt về quê hương. Gió Tây cây ngã bày xương. Trăng Thu trong nước sóng rửa hồn, ý khách về nằm chân Tứ Minh, ba đời chư Phật miệng ngậm thiền. Đại thiên đều hoại ta không hoại. Ba mươi sáu tướng không tối. Kiếp không soi thấy hạt giống tạo hóa, hồi đầu ứng vật không căn trần. Ngày hạ an cư đến hiên phía Đông Thượng Nhân Thật, trúc tắm mưa kiểu mới, nhân đây làm câu ca. Thác Long ra khỏi Tòng Lâm, thoát gấm bày duyên mới, cất chứa dẫn đầu sừng, thầm thầm chia đều tiết mục. Dáng ngoài trần xinh đẹp, mây mù ngọc lạnh trơn. Xanh tốt rợp mát cửa sổ đông, tâm mắt quét sa- ïch tục ác. Lặng lẽ rỗng rang đạo tình. Gầy ốm thấy phong cốt, ban cho ta Xuân bất diệt, vì ai khúc vô huyền, dây sắn sườn núi việc ngủ Đông, chỉ sợ sấm chớp mưa thúc giục, không thể ở lại nhà cao, song bích nhìn nhau lạnh nhạt. Triều chu Tái Hoà kính dâng yết kiến. Đến hạ nhân Lâm, cởi mũ quế lục triều, thân nhàn càng tôn sùng đạo. Tâm lặng mắt chiếu xanh. Ta ô độc chân thật, cái gì long đong như ngọc. Muốn học Đào Uyên Minh, phong thái cao khác tục. Mây trắng tâm không định . Nuí xanh cốt cách kỳ đặc, chiụ theo khách Liên xã cùng tấu khúc vô huyền. Phật xanh một niệm bình đẳng, kiếp Nhật há kéo dài. Đồng nghiêng che người xưa, đạo còn nhờ nhìn kỹ. Có ý định đem trâu đá cho Thượng Nhân Ngộ. Trâu thuần thục không cần roi lôi kéo, nằm hướng về nguồn xưa bên cây xanh, hang xuân ruộng ngọc nhìn giống xưa, Tuyết sơn cỏ thơm no rồi ngủ, đầu lưng cốt cách quý chuyển tải phong phú. Lỗ mũi khắp bờ tạo sông lớn. Đi đường khác đi rơi gào thét chớ quên đất trống khi chưa nảy mầm. Ban đêm mưa ngủ ở Long Môn sáng sớm bên đài Linh Quang lễ tháp ngài Phật Nhãn. Vừa lên Long Môn nhớ cảnh xưa, từng đợt sóng oai linh hướng đến người, rửa trần làn mây rửa mưa hoa. Mượn sức Thiên cù phá sấm sét làm tỉnh côn trùng ngủ đông. Đến khe gánh đầy nước. Phù đồ thờ cốt núi ngọc suy tàn. Muốn biết Phật nhãn không chướng ngại, phải đến đài Linh Quang ban ngày. Qua núi đầu cọp. Núi sừng sững thênh thanh như trời xanh đầu cọp. Mây mơn mởn trước núi sáng cỏ cây. Trúc nhả mầm gấm mưa Xuân no. Tùng ngậm phấn vàng ngát hương đồng nội. Gường đá co chân đi xa mỏi mệt. Cảnh đạo rửa tâm ngồi liền quên. Phương trên nấu cơm đi lan-nhã, chưa thể học ngu si lo khỏe mãi. Thượng nhân Trần ra xin cầu tụng. Khẩy móng tay nhẹ liền mở cửa, trăm ức thân hiện trăm ức cửa, hiện nhân duyên nhiệm mầu thông khắp nơi, việc này viên minh biến khắp cõi. Núi giữa hoa lấy mật râu vàng. Trên liễu oanh truyền xuân mắt xanh. Ngày về gọi nhau cơm đầy bát, cùng lúc giao phó người học thiền lâu. Từ biệt Tú tài trâu. Tiếng hay danh lợi nghe nói đến như dạo mộng, chịu đi xa nhà ngủ trên mây. Tình cao trong sáng bao núi ngăn trở chí, bản chất thanh đạm thầm tìm bạn tùng đá, ưa gia phong ta đập vào mắt thanh tịnh. Hỏi y về thời sự thầm lắc đầu, sáng nay tiễn đưa chia ly về ngồi một mình, rỗng rang đối diện khói lò nổi chử triện. Dạo viện Vân Thê làm kệ tặng Lão thiền Thâm ở núi. Đỉnh Tiêu Phong đỏ tiá đồ vàng. Phong linh âm vang náo trời xanh, đất trong lan ngọc ẩn hành đạo, dưới bậc thang mây mới lợp lều, hoài bảo giang sơn tốt không xấu, trăng sương hiên cửa sổ thường trong sáng. Mắt lão lạnh xanh bạn Da-xá, thắp hương tâm say sách Trúc Tiên. Cùng với thiền giả Quán. Thênh thang tịnh vào đạo tràng giác. Một đoạn trước thể xưa nay sáng. Cô thiền giống như chấp vào kiến giải. Thầm chiếu rõ ràng giống như xoay mặt vào vách. Thu sáng hoa lau tuyết hai bờ. Đêm lạnh nguyệt quế một thuyền sương, hình dáng xa xưa đường đi về, chữ nhạn thấp thấp đúng tịch dương. Thiền nhân phát tâm cầu tụng. Muôn chỉ bày đều theo nhau thành chánh quán, bước ra xin nằm trên bồ đoàn. Mưa lấm tấm chốn tỉnh lặng, mây trôi nhẹ. Trong trẻo như gió chà xát nước Thu lạnh, hết nhéo đầu mũi vẫn thấy đau. Ngồi mới tin đầu lâu khô, hoa lau trăng sáng việc ai, người ở giang hồ cầm cần câu. Trưởng giả Kiết Tường cỏ mơn mởn, hương nhẹ lên cơ thông góc đường. Hết nhéo như người trình việc đã xong, đến được cùng ta mở gia phong, thầm dạo hai bờ ngoài lau tuyết. Ngồi mãi Ngũ Hồ trong khói nước, không chấp nhận ngủ Xuân mộng hồ điệp, thoải mái dẫn đến kiếp bình không. Tiễn đưa thượng nhân Tùng đem thơ đến kinh tây. Choàng áo che đầu người tự chiếu. Trên nhà trăng sáng chuyển cơ luân, chịu truyền ngàn dặm lời chìa vôi. Muốn Xuân hoàn toàn vui vầy, đồng phong núi tuyết cho là việc hàng ngày, Thạch Đầu bó nạn tre xưa rực rỡ. Gia Lâm về nằm an ổn mãi, mắt đều trong sáng không thấy thân. Tú tài Tưởng Tân Thần cáo biệt làm thơ tặng. Nhà tuyết cao lạnh ta từng qua. Mai thưa thớt đẹp đẽ tuyết lâm kha. Tiếng người Tống Sở keo kiệt không khuất phục, thử đến tông sấm sét khoa Liên Xã, hội sau phát nguyện như vẫn còn, thực hành đến này sạch niệm không còn gì, gió Xuân mát mãi quanh lan can, tuyết trắng trước lầu thuyền đùa thoi. Thiền nhân Tân ra giáo hoá ở Trản Thác xin tụng. Lời uống trà đi lan các nơi, tụ hội luận bàn nắm cán dài, dựa vào y hay ra lệnh, cùng trần hòa ánh sáng. Đầu lưỡi kiệt liêu hòa ánh sáng không xương. Lỗ mũi duỗi xuống thầm ngửi hương. Trản Thác đạt được lời này, thọ dụng của ta đúng lúc bình thường. Ngày 3 tháng 3 năm giáp thân niên hiệu Tuyên Hoà, chùa Sơn Cốc gặp lại, lúc đó muốn xuống Trường Lô. Gió ấm ở sơn cốc, xanh tía mùi hương quyến rủ lan tỏa. Xuân thênh thang công tâm, không thiên lệch đây kia, buổi đầu không hình tượng, việc vinh nhục cũng tự nhiên. Mặt mây nhạt như chim hạc, sắc cỏ mơn mởn khói bay, mầm trúc bao khố beo, dương xỉ đâm chồi như nắm tay trẻ con, xây đắp phong phú đáng thích, răng, má ngọt cũng thuận tiện. Non nước rửa sạch niệm trần. Gió mây biết duyên trước. Sông lau nhớ đạo nhân, hai ngàn chúng ủng hộ. Mắt đảnh môn soi đời, trong hông nực biển nuốt sông, đồng với chim non tổ Đan Sơn. Lông đủ liệt khắp nơi, nhưng nay muốn tụ hợp ở, gặp nhau mà quên năm, cầm roi thúc xe ngựa, không hổ thẹn không có nệm lót nhiều màu. Hải âu trắng đi thành hàng ngũ, nước nấu với rau, vỗ về trâu đá xanh. Mắt không vượt cao hơn, đến chợ An Huy, mua thuyền sa Lang, hồi đầu cảm tạ chư Tổ. Chỗ đạt được pháp giác ta, ngọn đèn trí tuệ sáng mãi không mờ, tâm hoa thơm ngát liền cành, ngày sau hàng con cháu, không ngại trước sum la. Muốn qua Trường Lô cùng thượng nhân Thân nhà Ngư phủ. Bờ cây leo muốn cắt đứt góc, cửa biển chiếu cói đùa gió mát. Thuyền không rít hưng khởi không vực thẩm, quay đầu sông núi dáng khói xanh. Một sông lau tóc mi bạc trắng, nhưng nay an ủi thăm hỏi nhau, gió mát đêm tỉnh lặng khi trăng sáng mắt tròn ngập ánh sáng dưới tơ câu. Dạo Quy Sơn cùng Học só Hà Ngũ một đêm Tào Khê nay đúng thời. Vónh gia thấy được chưa quên đều này. Thế nào gió sông Hoài cản ngăn hành sắc? không chống gậy được cùng nhau tham, đây phải ban ngọc bích đẹp, rựt rỡ trút xuống trong ngực, lời văn sắc bén chống với ai. Thiền duyệt lặng lẽ vui thích lại tìm ta, hẹn anh vào xã quên thời sự, mùa Xuân hoa nở đầy ao. Đạo ở Kim Lan đầu mối chưa xong, trở lại vui với đời đúng là niềm vui anh nhi. Tiễn đưa thiền nhơn Tuệ đến Cảng nhập khẩu gạo. Thạch Lương đưa ra điểm rõ ràng nhất, hàng nghìn hàng vạn một hạt giống. Ngày về cơm thơm sỏ lỗ mũi, gọi nhau múa dưới nhà. Bánh Vân Môn, trà Triệu Châu, trong ấy rõ ràng đạt được chút ít. Thấy công án biết được vị, một ngàn hai trăm thiền tăng. Mở bó nan tre bụng rỗng rang, ông đi ai lo nồi đất lạnh, mây ướt nước đón nhau thuyền đến bờ, việc tham học lâu không dối nhau. Hoa lau trăng sáng nước mênh mông. Gió đẩy thuyền như tên phá ánh sáng lạnh. Đích thân đến Lô lăng gạo giá bao nhiêu, khi ấy mở miệng thì bằng nhau. Nhân tiện đến Giang Tây, dặn dò lời Bàng công, trở về chính là toàn thân lơm, ngay đây mọi người biết thân ta. Thuyền nổi đến sông Hoài thăm Thiền sư Quy Sơn. Gió sương vù vù quét sạch chốn hoang dã. Cát um tùm, vảy mắt sạch hết. Bến sông Hoài từ từ sang chân núi Quy, mây hán phân chia tháp nhạn nhọn, bên rào ngọn mai điểm Xuân, ngoài sân bóng tùng trăng xiên xiên, huống nữa Thiền gia không cho ở trọ, thường đến thưa hỏi không hiềm nghi. Cùng với bạn Hoàng Đạo. Đầu ngươì mỡ cháy tâm thôi, đến dự lũ lượt thầm dạo bước. Tê giác choáng váng đến lúc đêm hồn trăng. Nhạn đi mất xứ bặt dáng Thu, trăm năm phân phó ba cây rui dưới Vạn tượng chênh vênh một đầu ngón tay, trở về lười nhát không mánh khóe, trước am chim hoa không tìm nhau. Thuyền bồng bềnh ở nước Sương yết kiến Tri huyện Hàn khắc Minh. Gió nam buồm căng bụng, nửa đêm qua bến sông, cá kình làm gợn sóng biển trăng mới lên. Núi tiên tìm cố nhân. Sóng lạnh ngàn dặm tuyết. Khói ấm xuân mười châu. Thành tựu lời Lê Xương, rất thẹn ta bắt chước nhíu mày. Thiền nhân Xung cùng Thúy Sơn ra xin cầu tụng. Trở về gia sơn tuyết chưa tan. Đến sau giờ tuyết xanh góc cao, hoát nhiên ngay đó đoạn ba méù, trong này xuất sắc rút một mảy tơ. Hóa bát không ngại dạo biển huyễn, thuyền rỗng lo gì lái sợ sóng, Nhân duyên thuần thục kéo hai tay, chớ học nhà ta mất bả rượu. Thiền nhân Lợi phát tâm xin khai khẩn ruộng biển Đàn độ, lên chức hẹn tìm xa. Lợi tha mới gọi tâm xuất gia. Xin nhận ngay thẳng thì tòng lâm no.. Cày cuốc không nghi ngại bùn nước sâu. Mặt đất thật bằng mùa Xuân trồng ngọc. vết sóng cạn trong trăng nổi vàng. Cấy ruộng cơm nhiều việc nhà ta, một đoạn quy tắc được lão sâm. Thiền nhân Trạm khai khẩn ruộng cầu tụng. Thiền tăng muốn xây dựng gia phong này, thúc giục trâu già trong bùn nước. Xông pha chốn lẫn lộn ngã bóng trăng sáng. Khi chuyển cày xong gốc mây trắng. Làm ruộng gian khổ theo tổ ta, nấu cơm thơm no con cháu. Việc này khi về an ổn trên bồ đoàn, gương tâm tròn lặng vết xưa quên. Tiểu sư Trí Khoan cùng với Quốc Thanh làm lời thỉnh. Vào một bát là cuộc sống, tự đến nhà Hàn Sơn, Thập Đắc. bóng ngày câu ngọc lưu lại như trăng leo qua cửa. Xuân đượm phấn vàng mật hoa phòng, cõi Phật nấu trưa mùi hương thơm ngát ăn cơm Vân Môn no bụng đánh răng. Chuẩn theo thần thông mượn nơi nào. Cư só Tịnh Danh ở Tỳ-da. Thượng nhân Linh xin muối cầu tụng. Hun đúc y trải qua bao gian nan. Lò nóng hừng hực nhìn trong đầu. Trong ấy rõ được sắc bóng từ xưa nay. Ngay biển cá hút khô khốc, phát triển gia phong sắp xếp mỏng nhạt, thấm vị nhiệm mầu phá chua cay, đạo nhân vui thích có ngày về, tuyết ôm mái tranh bất giác lạnh. Thiền nhân Đoan xin muối cầu tụng. Lò lửa nóng hực kết băng sương, nhà nông thu hoạch khéo có cách, gốc lưỡi phải nhờ vị nước mây. Đầu mũi giúp nhau hương dương xỉ và rau vi, quét sạch nhà tranh nhàn đống tuyết. Ngồi chiếu mâm vàng tịnh phát quang. Đạo nhơn đi rồi thành tựu việc, hương thấm nhuần ta tưới bụng khô Giảng đạo cho cháu. Từ biệt con sông hơn năm năm. bên biển hỏi thăm nhau chưa nghi ngại. ý sơn lâm cùng thế sự bao giờ dứt. Dáng gò hang gặp Thu càng gầy, hẹn đạo ta canh tân kế sống, người nghỉ đấu thơ công phu dày, con gái lấy chồng con trai lấy vợ ai làm việc nhà, cư só còn tâm theo ngựa con. Lân Nguyệt đường cầu tụng. Áo phước điền ta là người xuất trần. Tìm chổ xây nhà cao với Nguyệt Lân. Trên gường đao vàng hương cắt quế. Trong hộp búa ngọc lạnh sửa vòng. Lạnh gầy vỡ mộng không hiềm bệnh. Thanh bạch truyền đời không hổ thẹn nghèo. Ngoài cửa sóng lặng chèo thuyền đi gật đầu trăng già lặng lẽ phân thân. Khéo hiện không tiếp xúc Mây nước ra khỏi cửa mênh mông, cùng nhau hiện, đáp nhau làm ngang nhau, trong tất cả thời không có niệm thứ hai. Tuyết Phong ở đây tạ Linh Quang. Đại công không chủ tể. Tin tức nhà ta thầm nhìn bên trong, chỗ xem rỗng rang mảnh trăng hàn, một sắc là công phải chuyển hết. Thạch Sương cuối cùng đầu lâu khô Gởi Tri huyện Đồng ở Thạch Sầu. Lều tranh đầu sông xa truy Đào, đấu gạo từ nay lười thắt. Sông Hán trượng phu cam chịu ngập. Cư só Kỳ Sơn chán chim kêu. Tâm thu trăng sáng đêm tương chiếu. Đầu tuyết gió ấm thổi không tan. Thân ở đời vòng tay giao phí mộng, tùy theo hồ điệp đến bên hoa. Ngày mồng hai sau thượng nguyên qua am sư Khiêm. Ngang sông một đường tắt chia hai núi. Cây cối xanh um ban ngày cũng tối. dòng nước nhỏ băng lạnh có xương. Mây nhàn nước lạnh không cội gốc, thong thả xóm nhỏ đến nương cơm. Không lo ngủ xuân đến gõ cửa, cửa ghế xông lò lay chử triện, gường rùa lời trần đối với trong ấm. Thiền nhân Ứng khai khẩn ruộng cầu tụng. Gió lốc cầm gậy ra khỏi yên la. Thân tâm hành khất rất vội vàng, mủi kim nhỏ ném vào chỉ ngọc, thoi vàng chạy qua nơi âm thầm trong máy ứng duyên từng tảng mây thành mưa. Trăng tròn vành vạnh chiếu trên sóng, ý trọn vẹn liền quay đầu, ổ xưa nằm lạnh tuyết lâm ha. Hai thiền nhân Cung và Giám trông coi việc nấu nước xin tụng Xem nấu chảy vàng đưa vào khuôn, không ngại miệng rộng bụng khoan thứ. Đạt được diệu xúc mắt toàn thân, trên cục thịt đỏ thanh tịnh phóng quang, thiền tăng hoàn thành được ban thưởng, đàn na giúp đỡ chấp nhận ném gậy. Thử hỏi tâm này bạn Lăng-nghiêm, khế ngộ đạo viên thông chỉ là thông thường. Vàng trong khuôn nấu rọt ra ngoài bờ lan, trên hội Lăng-nghiêm phân phó cho khách. Nói rõ xúc chạm mầu nhiệm y có đủ mắt, mảy trần không nhận toàn thân ta, rơi vào chốn lạnh nóng quên cả nước, đón nhận hòa ấm giống được Xuân. Cửa bể lò rèn un đúc nhau thành dụng cụ, sức nuốt mây mộng đúng người này. Bảo Đà đi thuyền đến thăm sư huynh Chơn Yết Người đến đích thân thấy được Quan Âm xưa, dấu tích giáo hoá nay ở núi nhỏ trên biển. Máy khói ngoài phần xương núi xanh, trong trời nước thấy được tâm bạch vân. vết thuỷ triều ngập bờ từng góc tuyết. Hồn trăng nổi sóng vàng rực rỡ. Căn cảnh nhất như năng sở đoạn, viên thông dạo bước pháp môn sâu. Đạt được đến tìm huynh Chơn Yết, một mình chèo thuyền thuận sóng lướt, nối liền từng đoạn chữ nhạn trong mây, hải âu nhàn hẹn từ xa đến trên cát. Dầu trong vị mới nấu trà đỏ, phương xưa thuần mật thấm tỏi vàng, biển núi chỉ là cung cấp mâm với đũa, một đoạn gia phong không thế tình. Cùng với bạn lành Xương Quốc. Điều khiển thuyền lướt sóng cập vào bờ cát, riêng Nhăm tăng ở núi thành thực vài lời, mộng trao Trang Chu làm bướm ngoài cửa sổ, hết nghi thích rộng mưa thúc giục rắn trong rượu, nhà đêm không ngại tuyết ít trăng. Xuân trên núi biết mưa hoa, tưởng tượng núi xưa đường đi về, chiếu cửa gấm mới mắt lầm nhà. Thượng nhân Hoá trì bát xin tụng. Nay chuyện giáo hóa trao hết anh, trở về lại ta nghiệm con cháu, các trần chánh thọ đầy trong bát, một câu bao hàm che hết chậu, nơi khác gặp người biết đỉnh tuyết, ăn cơm nhà mình biết Vân Môn, tâm này chịu gánh sức đàn na, khai phá cơ chơn báo ân thí chủ. Thiền nhân Đoan khai khấn đất xin tụng. Mảnh đất thiền tăng có nguyên do đến, ý này cùng nha đưa ra hỏi đàn việt. Mùa xuân cày đất vén mây gấm buổi sáng, bờ trăng chia cắt luyện sáng lạnh, khi no buộc bụng ba bó nan tre, thành công dời thân sào năm thước, hợp nhau xem quy củ, tiếng trong hang hình trong gương giống nhau. San coi viêc tắm rửa cầu tụng. Trình bày xúc nhiệm mầu không rửa trần, trên hội Lăng-nghiêm người ngộ tâm, cá lặn hang sâu sào dò nước, hình hài cây khô một trời Xuân. Giọt nước lượng đồng tánh pháp giới. Lông tóc cấu tịnh thân rỗng rang, vườn nam nên hỏi khảy móng tay, chỗ dụng thầm thầm hang có thần. Thượng nhân Truyền xin muối cầu tụng. Người ở gần biển không làm ruộng. Cuộc sống thanh bạch là gia truyền. Bấm kêu tuyết dâng ngang chân núi, bờ ra bùn cát mặn hoa sen nổi. Sắc ngọc lạnh ra sức luyện. Dương xỉ rau vi thấm đượm hòa hợp duyên, đầu lưỡi nhiệm mầu có mắt viên thông, ngồi cắt đứt tùng lâm ngũ vị thiền. Thượng nhân Sùng xin Mặc Am tụng. Am này ở trong thầm lặng, thượng thủ bạch chùy mới đồng tham. Sắt mài rất sáng không điên đảo, thấy đúng Mạt Sơn không nam, nữ, ngồi trong nước trời hay trong trẻo, trước cửa mưa hoa dài thườn thược. Chứng được lời diệu vượt danh tướng, không mượn lông mày cười Thúy Nham. Tuyết tạnh gởi Lưu Điện soạn. Da dê nửa bộ trải giường, gia phong lạnh nhạt giống lão Bàng Thân ẩn dễ dàng nơi Bắc đẩu. Thảnh thơi há miệng hút giang tây, đèn khám đốt gần hương lay ghế, lều tranh ngồi thuyền tuyết ánh lên cửa sổ. Phương ngoài bạn tư duy với trần, trong ngực người an ổn giã gạo. Dư Diêu Hồ thêu Quán Âm cầu tụng. Đường chỉ thầm thầm qua mũi kim vàng, mỗi mũi kim niệm Quán Thế Âm, tịnh diệu trang nghiêm thành tướng hảo, ánh sáng cảm ứng phát ra thân tâm, sông ngang luyện sắc trăng nổi trên nước, mưa thấm cành hoa xuân ngát rừng. Trong thấy nghe còn đường siêu việt, khắp nơi Phổ môn chấp nhận tìm nhau. Ngày kî Đan Hà. Gió mát trăng sáng cảnh vắng lặng. Cá kình hoa phun tuyết nước mênh mông. Một điểm linh thiên người nào biết, hoài bão ngàn năm sáng cả đêm. Duy-na Giám xin Nguyệt Đường tụng. Bánh xe quế ai đem búa ngọc sửa, gió bên thềm cuốn cho phép lưu nhua, cửa sổ rỗng rang sáng không thấy tối. Thân tâm trong sạch rửa sạch thu. Hạc mộng tổ lạnh vách tùng quế, cá sợ sóng động câu nổi nước, thân gầy ngồi giường Hồ hương dao động, trong bình lặng chiếu thầm dạo bước. Một thiền nhân ra xin cầu tụng. Ánh chớp trước núi mưa Xuân khô, vận khí tòng lâm sạch suy tàn. Nước trong ngọc khơi khỏi thuyền đi xa, trên cần câu cá vàng nặng nhợ, giờ ngọ không ngại chia nồi cơm. Ngàn tăng vô niệm tụ tập trên bồ đoàn, hoá cơ diệu ứng phù hợp khắp nơi, toàn thân tay mắt không lừa dối. Qua am Thượng nhơn. Trở về dây leo móc lên khói che phủ. Câu trăng cày mây mệt cũng thế. Trên núi dưới núi nuốt lời Phật. Khe Đông, khe Tây chăn trâu hát. Hai mươi năm nấm cây không còn nghi. Một cái nắm tay được dụng gì? bình sanh làm hết nhàn mánh khóe. Cá đỏ không làm sao muối dưa. Bạn Vương Đạo ở Tuyền Châu bỏ chiếu tre xin tụng. Thu vào giường ngủ nước một phương, giang hồ gió trăng ngồi mát mẻ, khí mát bông bềnh tiên dạo chơi, thân nơi khói trời chim trắng bay. Đại sư Chân Giới cầu tụng. Bấc thơm ngồi giạ lông dê,… tâm thầm thầm trụ thiền. Quế tiên mầm hang thỏ. Thần chân vực rồng đẹp. Việc nhà mình thầm chiếu, ra theo bầy động duyên, ứng cơ chia tay mắt, không chỉ có ngàn ngàn. Từ biệt giảng Sư Thông dẫn năm bài kệ. Năm trước qua ta còn ít thành thật, thật là an ủi hằng ngày, đặc biệt sau này nhận được thư và tụng, vì bận xin ăn không rãnh trả lời. Thu đến khí trong được gặp nhau thăm, cùng dạo thuyền không được viết chữ không rõ ràng, rất thẹn với thời sau. Đặc biệt khách đến lén nhìn từ xa. Nhìn nhan tùng vái chào về giảng đường, Thu ngang hai mắt xanh. Mây phủ bay hạt dành thơm, đoạt pháp hội bậc chí khí cao ngất. Mọi người kinh ngạc râu tóc ta sóng xanh, giường trúc ngang nhau đêm nói thầm, sông Hán mài rửa sao đẩu sáng. Tháng năm nhân gian nấu mỡ, gió mát đối trần tiến lên, đá gật đầu minh chứng. Mượn miệng hư không giảng giải huyền. Theo loại thân Phật phân bách ức. Ra khỏi hồng trần bằng tam thiên, chưa rãnh hẹn nhau an ổn trên bồ đoàn, riêng đến chốn mưa hoa. An ủi Phật tâm chưa tiêu điều. Rừng đen cao ngất còn tài cao. Tri kiến xông hương đầu lưỡi bén, danh ngôn cấu tịnh mắt góc cao. Chân đạp mây gấm lạnh đến Trăng, núi tiên suy sụp rãnh câu ngao, toại nguyện chấp nhận theo Ma cốc, tiếng tăm cao nhất Tào ta mạnh. Hôm qua thư đến hẹn gặp tôi, hành lý để lâu chưa thành nó, lê vàng táo đỏ mới là Thu. Lão Bàng tóc mày trắng làm sao được, cùng nhau hái rau vi mây mơn mởn, không ngại chặt cây mưa ướt tơi, đứng trước giường thầm lặng hương lay triện, trăng trong bên cửa sổ treo nữ la. Theo xin ăn đáp giáo chậm, chắc rằng tâm chiếu chưa nghi nhau, ba năm hẹn bạn cùng liên bích, ngàn phong đồng dâm cách mảy tơ, đánh đàn tranh mới mọc mầm vàng ra khỏi bùn, hoa dâm bụt lạnh đỏ bên dậu, mưa tạnh nắng ngưng chiều trời sáng, đến Nhạn Môn chữ đầu dưới chân. Mẹ Trịnh Thông phán tán và dẫn. Mẹ bác Só Trịnh Võ Công ăn chay 50 năm. Đối với bốn oai nghi động tịnh thường niệm Phật Tam – muôi; càng về già càng siêng năng, ban đêm không giãi đãi. Đến năm tuổi vào ngày mồng tám tháng tám gà gáy canh một là ngồi an nhiên ra đi. Bác Só viết đầy đủ gởi cho tôi. Nhưng sự ràng buộc của người già, thân hình như kén sắp lột xác được tự tại không lo sợ đều nhờ sức chánh niệm. Dùng tâm không tình cấu huân đều xấu, thường tròn lặng rỗng lặng riêng chiếu, thì dấu tích huyễn mộng, hoát nhiên tiêu hết, thế nên đất nước bị sụp đỗ, lửa gió tiêu tan đều thuận theo như như. Việc này đáng khen, nhân đó nói kệ tán thán: Pháp hỷ là thức ăn. Từ bi là nhà ở. Tin Phật là trở về. Xem thân là tạm mượn. Chỉ chuyên trụ chánh niệm, đi ngoài trần nhưng không tỳ vết. Cơ nhàn vạn tượng đều sáng. Mắt linh hoạt đầu lâu dưới mày kia quên cũng là mộng điệp hiện ve sầu, tự đạt được cũng là mây muộn xạ hương. Thần dạo thanh tịnh chừ trời nước đồng Thu. Tân ấn diệu minh chừ trăng gió xua tan bóng đêm. Thiền nhân Cơ phát tâm xin ruộng. Biết rõ thoi máy xem vòng quay. Thiền tăng có ngàn ngàn tay mắt, muốn biết cơm phương trên Bạch Vân, xuất phát từ ruộng phụ quách ï mây vàng, suối vàng tưới mát trăng đầu suối. Trâu cày mỏi mệt khói phủ đầu non, hoà bùn với nước việc nhà ai, tham thiền lâu thiền không ngoài phận. Thiền nhân Hư phát tâm xin ruộng Hoài bão rỗng thênh thang xin đi dạo. Cơ duyên khắp nơi nhất định gặp nhau, đại nghóa cuốc đất liền buông tay, được ý quên lời thầm gật đầu, trâu trắng cày về núi trăng sáng, đạo vàng cắt đứt Thu mây thôn giã, ngồi kiết già mãi toàn thân no, rõ ràng một bữa no không còn lo. Sớm đi Ninh hải, giữa đường Thọ Ninh qua Phụng Hóa. Biết đường tắt thoảng hương một trận mưa hồng, đào vách núi đá oai linh lên thềm không. Lời chim khuyên về Xuân hơn nửa, nhờ cơm nhà người ngay giữa trưa. Núi lạ xanh lạnh bất ngờ đứng trước đài, khe nước xanh mềm mại thông nhau, hoa dương chính là bèo trôi, dấu tích lại theo dòng nước Đông. Mưa trở ngại núi Phú Thuyền. Chống gậy lên Đảnh Phú Thuyền, lấy tạm cành tre làm gường ngủ. Non nước viền rèm biết thuộc ta, khói mù đầy gối mộng dạo tiên, biết đến hang măng hái dưa rau, rảnh đem hoa vào nhà kết thành đường, tưởng tượng mưa dưới núi xinh đẹp, Xuân lạnh vẫn có thể nằm giạ dê. Bạn tốt Hành Thông xin tụng. Gia phong rõ ràng như trăng rửa sương, đêm lạnh đạo nhơn ngồi giường dây. Thân an ai bắt chước thỏ ba hang. Phản chiếu tự như rùa lục tàng. Nghi như rắn cuộn tròn trong chén rượu. Diệu đồng mật ong được phòng hoa. Thầm dạo uyển chuyển đến nguyên cực, rỗng thênh không bờ bước phương xa. Đạo nhân Diêu xin tụng. Từ bi là việc phương tiện, ứng xứ có công phu, ứng biến tuỳ thanh sắc, mâm tròn hạt châu lăn. Thích Trạch Dân ngày rằm tháng giêng cúng dường 3 vị tăng xin tụng. Nhà anh nấu cơm biết rau vi, ngày cúng y phước điền ba vị Sư. Ly nổi trên biển lên sau bờ, giữa mây bay gậy khi qua cửa. Bồ liễu y đầy dẫy hương khí mới, khách qua lò đón lão mây bạc.Thí nhận tâm bình đẳng xưng khen nhau, trăng theo dòng nước xuống ao Xuân. Thiền nhân Thời bước ra xin tụng. Già có thể dưới cối gạo không giã. Vừa ra phiền nhau thành biến thông, hương thoảng từng làn xem gạo chính. Mưa nhiều thấy năm trúng mùa. Tay cầm bản vỗ truyền đại Só. Dao cắt gậy quế Lương Chí công, diệu ứng quần cơ dứt đối đãi, Thu trong sông nhạt trăng đi trên không. Thượng nhân Tiên ra xin cầu tụng. Bát vá đem đến dũng cảm vào… nhà nhà kết nhân duyên thù thắng, ba ngàn cõi trọng Phật từ bi, 500 đời gọi tiên nhẫn nhục. Thơm ngát tùng lâm dần dần Xuân, ánh sáng theo dòng nước trăng xin đẹp. Việc tham học thiền lâu cùng cung cấp cho ngàn tăng, rửa chân ngồi thiền trên bồ đoàn cây khô. Hành giả Phổ Uyên xin tụng. Thoát hết cơ trần chơn xuất gia, tâm địa hằng giữ bình lặng là kế sống, cắt cỏ pháp đường theo chúng tăng, nhà giã gạo truyền y làm Tổ Trung Hoa, muốn biến hổ dưới núi Thạch Đầu, ngộ rỗng rang bóng cung rắn trong chén rượu, khô lạnh như thế tịnh tu đi, hạt giống Phật từ nay hết so sánh. Thượng nhân Diệu Tuệ xin tụng. Trong diệu có tuệ riêng tỉnh sáng. Trước cơ rõ ràng tự linh chiếu. Lão thỏ mộng lạnh ngủ hồn tịnh, thật tê giác tâm say đến cả sao. Dạo khắp các cõi tham học chư Phật. Trí phá bụi trần ra đại kinh, đá gật đầu vẫy đuôi trần, ngồi nhà mưa hoa một phen thơm. Thiền nhân Tông bước ra xin tụng. Vạn điều sinh sống một bát về. Tông tùng lâm còn thầm lặng không căn cơ, đường cày tự tin ta khô lạnh, diệu dụng phiền nhau anh phát huy, cây vả leo bên rào mùa Thu lan khắp, nữ la nơi cửa sổ trăng mơ màng, thời thời xứ xứ biết tin tức, vật tượng đền đen vào phạm vi. Tiểu sư Tuệ Quả mang thư cho Hòa thượng Chơn vết Tuyết phong. Tổ chim rãnh rỗi miệng kêu mãi. Tuyết già cúi đầu hết vào am, sanh tử đồng câu rốt sau, cũng nên ngàn dặm hỏi đồng tham. Huynh giải đến lễ bổn sư Tuyết Phong. Nam Sơn đi gặp Sư Tuyết Phong. Khe xưa suối lạnh nhìn chăm chăm. Triệt để không tỳ vết mới biết mình. Còn đường chuyển thân lại tên ai, con về chốn cha nào cầu quan tâm, mây từ núi đến không đợi gió thổi. Nhà tây cơ gọi dệt thành gấm, rún thoi lặng lẽ bay sơi tơ. Cùng am chủ Biện. Trên câu Giáp sơn được cá thơm, năm ấy không sân gậy hét. Hướng thẳng trước kiếp phân tay mắt, nguyên do có thể ngoài giáo hóa cơ cơ xoay, phải là kẻ dưới mày có gân, mới khế ngộ thấu triệt người không lưỡi, chiếu thấu tông mình biết vi tế, mặc cho thiên hạ hân hoan vui mừng. Non nước Xuân Giáp Dần, sau cơn mưa đến thăm tri huyện Vương Uyên Minh. Ai bảo Xuân chôn vui giầy răng, yểu điệu La môn ghi sai lạc cỏ um tùm tùng cúc đường tắt Uyên Minh. Núi khe rất đẹp nhà Ma-cật. Đèn Phật thầm chiếu lạnh không mất, đối cảnh gương tâm thanh tịnh không tỳ vết, lại nghe cư só Dung rất lười, chim ngoài sân mấy phen hoa rơi. Thiền nhân phát tâm đánh chuông xin tụng. Sương mù lan toả khắp hang núi. Gác đêm khi vừa gõ, theo gió qua đỉnh núi. Gọi trăng đến la song, hưởng ứng hang truyền vang, tiếng bay xa không ngại sông. Mộng về biết ý trời, hồ điệp mất cả đôi. Bảo Phước bậc truyền giáo xin tụng. Dạo cảnh tiên Mai Phước múc giếng khô. Nhưng nay mây nước yên ổn trong thiền. Môn hạ Thanh Nguyên cất vẫy sừng. Đầu giường Hoàng Bá vuốt râu cọp. Người học cây bá trước sân đứng trong tuyết. Nhà đàn-việt nấu cơm mềm như nấu châu, đem ý xin về chốn tòng lâm ấm. Tùng ăn áo sen rất khô gầy. Thượng nhân Nhữ xây viện Diên Thọ xin tụng. Tùng lâm còn thanh quy Bá Trượng, xây nhà an dưỡng cho Sư già, bệnh. Dựa ghế tâm lặng lại tự chiếu, đốt hương ngồi một mình dứt niệm khác, nhiệm mầu chánh niệm không ba đời, thanh tịnh hết mờ trăng một thềm, ý này muốn hỏi nơi nào? Cư só Tỳ-da biết nhau nhiều . Thăm Hoàng cấp sự thừa, đến Bảo Đà lễ đại só Phổ Môn để lại kệ. Thiền nổi ai sợ cửa biển, đến trượng thất tìm thượng nhân kia. Lời xưa muốn tìm mắt xanh cũ. Tâm bạn không thoải mái đầu mới bạc trắng. Ông hoàng nằm giường dê hàng dậu buổi chiều, họ Mai tiên dạo Xuân đảo núi. Bánh Hồ bánh bao xem thủ đoạn, Quán Âm diệu trí ở khắp nơi. Thiền nhân Khuyếch làm ruộng xin tụng. Ruộng đất rộng lớn không gai góc. Mong hết hủ ngọc gương băng bằng, màu trắng lờ mờ mây ôm cày. Một mảnh luyện quang trăng phân đường cày, ý vì thiền tăng kéo giầy tre. Sức đàn-na trợ giúp cơm canh, sẽ thấy trâu vàng cười gọi nhau, khí tượng tòng lâm không tranh nhiều. Tiễn đưa sửa đường phố ra xin. Ngọn ngao trên biển bao phủ ráng chiều, bạn Mai Tiên xưa có sinh sống, ngủ yên mộng rơi vào trăng ba núi, thổi khí ấm thành một chuổi hoa treo, lái thuyền theo gió tìm trưởng giả, đến phân chia nồi cơm đất vào nhà ta, đợi anh về quét sạch màng nghi khác, bóng co cong trong chén không phải là rắn. Rời Thiên Đồng đến học só thái thú Ngô. Ba cột năm hợp không tìm thứ khác, chìm lóm lượn đi lượn lại cười vụng về. Vọng lập phải trái uổng dụ ngựa. Vui đồng kia đây biết quán cá. Sương mù tan cốt núi trọc hiện, đáp tiếng vang hang thần tàng phải rỗng rang, không làm dơ bẩn danh tự nhân gian, thân mây trăng tâm vốn như như. Vệ lên làm người giúp việc ở dinh qua. Ngày 29 tháng chạp, gọi tôi đem rau cơm, ung dung vân tập ở nhà phía Tây, trong danh sách gọi là lục trạm. Ý là sáu xứ ngừng nghỉ lại đồng với một trạm nhiên, hơn nữa xin lời nhân đó làm kệ. Sóng gió chưa thấy được nguồn linh. Lục xứ quên công thể trong lặng, tánh các pháp rỗng không mới được toà, vừa khẩy móng tay thì mở cửa, hàng rào hàn mai rơi Xuân mới sớm, tuyết đồng bên cửa sổ ban đêm không mờ. Vạn duyên sum la tâm ấn ấn, vượt thoát căn trần nhiệm mầu không tỳ vết. Nhờ tuyết chỉ dạy người hành thiền. Nhà nhà trồng ngọc khắp nơi nơi, ai bao áo khói tiến bước chậm, ngàn dặm đồng phong hết ngăn cấm, mười phương một sắc chấp khư khư, tỉnh mộng sáng ngời hai đầu đoạn. Ngồi an ổn thân tâm ba cõi không. Gia truyền trong sạch việc thiền tăng, trong đó chuyển xứ xem công phu. Phù thập ngũ Lang xin tụng. Bỏ trần lao rộng lớn mà sáng, tâm không linh chiếu hợp chưa nảy mầm, diệu tận nguồn cùng thành bản đắc, xưa nay chúng sanh cùng Phật đồng. Trong tròn rỗng chấp nhận được dạo chơn, tê giác cách nước thông được điểm Thu. Cơ ứng vô tư lên đường chim, diệu đồng trăng sáng tónh theo dòng. Mồng tám yết kiến giảng sư Chơn Ngộ Tây Khê. Mưa hoa Pháp hội tự thơm trong bát chè mới nhận triện tơ xanh, mềm mại làm cây liễu bị gió cắt, lạnh ướt nhuî mai tuyết lấm tấm, không nghi ngại quyển vàng che mắt, cố ý phá vi trần lấy quyển kinh. Khí lớn suy nghó nuốt ba đời chư Phật, con cháu chưa làm bại gia phong. Thiền nhân Vân cầm bát xin tụng. Mây nước ngàn tăng cùng thầm cày, phiền anh xin ăn ra khỏi núi. Dương xỉ rau vi mưa đêm nảy mầm lạnh chân. Đào lý gió Xuân dệt thành gấm. Hang rỗng vừa kêu đồng hưởng ứng, châu tròn các màu hợp thành ánh sáng. Lên phương trên chia cơm thơm, trước tiên vì ta thấy Tịnh Danh. Thượng nhân Phương cầm bát xin tụng. Cuộn y biết được liên thành, ý muốn lên phương trên chia nấu, tăng và bát dùng cơm về ba nan tre no. Nhà ong hợp mật trăm hoa thơm. Tơ liễu bạn oanh điệu môi trơn. Mây gấm nhà người chiếu sáng mắt. ứng biến dọc ngang thấy mánh khóe, can mộc theo thân quen gặp trường. Cùng cư só Lý. Trong tâm thiền khô sạch rối ren, một chút hư minh lặng vẫn còn, cõi cõi nước nước thành tịnh độ, hoa hoa lá lá phát căn linh, vô tâm rất giống mây bị ướt, có chiếu lẫn lộn như trăng xua đi bóng tối, có duỗi dọc ngang đều ở ta, người chơn thật được môn tổng trì. Thiền nhân Sum cầm bút xin tụng. Sum la vạn tượng vốn đồng căn, việc này rỗng thông có hoá môn. Đương cơ rõ ràng vốn không dễ. Đại dụng khắp nơi không tỳ vết. Mảnh tâm sáng nhiệm mầu gia truyền tổ. Tòng lâm tham thiền lâu nhờ cây con cháu, duyên đến trở về xoay mặt vào vách, trời Thu rỗng trăng nước hoàng hôn nối tiếp nhau. Ngày mồng năm sau lập xuân thượng nhân Bổn vận. Tuyết quanh lầu gác đồng sở tá, mai xanh cành liễu mềm. Mùi hôi núi rừng vào lời mới, gió trăng trong lòng tôn khoa xưa, mộng trao bắp tay cong xuân rất khốn, khí như chai lão thế nào thầy mưa bác sấm ưa ganh ghét nhà thợ gốm thâu thập thoi trên vách. Thiền Nhân Lương làm ruộng xin tụng. Một mảnh ruộng tốt nhìn không bờ, khi xưa Phật Tổ truyền nhau nhiều, bốn phía mốc ruộng ai làm bạn. Cây ở trung tâm tự nở hoa, dạy người mây mùa Thu cuộn dáng liềm. Tiếng roi thúc giục trâu mặt trời Xuân tà tà, trở về thâu thập trao việc cày, chí khí thiền tăng hơi hơi giống. Thiền nhân cổ bước ra xin cầu tụng. Thân đại thiên giáo hóa khắp nơi, gương xưa không trần hang có thần, mới tin theo nhau không thể hỗn tạp, rõ ràng riêng bày là người nào. Lang trung giang cầu tụng. Tâm địa thanh tịnh thênh thang không bờ mé, một đoạn ánh sánh phá mê xưa, xoay chuyển vòng cơ việc phân hoá, trăm ngàn Tam- muội thấy khắp nơi. Mưa tạnh ngẫu nhiên làm dạy Thiền giả. Mưa mau tạnh mau ăn lạnh, việc tốt lành cao ngất đuổi theo buổi sáng tốt lành, bông liễu đùa gió ngờ thành tuyết, cây du khắp đất tiền mua được Xuân, sấm nhả tinh túy hoa trà bày nanh vuốt, khí ấm về dương xỉ đâm chồi như bàn tay xoè. Hoa đào vui mắt theo bươm bướm, ai giống Linh vân biết người xưa. Thượng nhân Lai làm viện Diện Thọ xin tụng. Dọn sạch gai gốc xây Lâm A xưa, tâm Bá Trượng lo nhiều đối với việc già bệnh, thấu triệt có không mới được ta, phần duyên sanh diệt không liên quan điều khác. Hang mây lạnh bao quanh đá gốc tùng, trăng sáng đầu núi treo gốc nhà, nếu ông ân cần thành tựu lời này, trong thành Tỳ-da hỏi Duy-ma. Thiền nhân Đạo phát tâm làm ruộng xin tụng. Đạo nhân muốn xin một túi tiền, vì ta bị cách chức gánh vác ruộng thành ngoài, nước cạn cởi trâu khoác trăng sáng, mây dày hạ cày phá khói Xuân, diệu dụng sức cày việc nhà ta, ngồi chiếu chơn cơ thiền chính mình, gởi lời đàn-việt giúp hảo tướng, nhiều năm dài ăn cơm duyên với tăng. Lấy vần của học só Hà dạy cho thị giả Tượng. Ngọn tùng cao xanh tốt cỏ cầm bao quanh, mùa lạnh dáng kiêu gặp phải tuîết sương, rối ren điêu tàn gió qua vận núi rừng, hết khó khăn khí tụ hình hang núi, trăng sáng mây tan trong lòng lạnh lẽo, núi Thu nước Thu góc mắt xanh, mài gạch ai hỏi lời Mã Tổ, phát diệu rùa khô một linh sáng. Mộng Tề xin tụng. Hương thoảng mưa hoa bay lất phất. Xuân khốn ngại gì hứng thú xếp tay ngồi. Ba lời chư Phật truyền nhau lời mớ, tỉnh giác vô ngã hư cháu con. Coi sóc dầu đèn hóa điện đường điện xin tụng. Nhà rộng trong sáng chiếu soi bồ đoàn, tiếp nối đèn chơn chưa rụi tàn. Lặng lẽ không nói miệng lên meo. Ánh sáng không mất tấc lòng lạnh, sen nở trông giống sóng Thu nhẹ. Tỉnh mộng thầm nghi biết lậu khô. Thập pháp giới thân còn lưu bóng, mình người thấu triệt như xem gương. Thượng Nhân Hải trông coi nhà tắm xin tụng. Khí tượng ấm áp nửa bờ rào. Quả bầu điều hoà lạnh nóng, đến nổi thân đều là nước, biết ngay cục thịt đỏ rõ không trần cấu, diện mục bụi bặm đều rửa sạch, hình hài hang núi rửa sạch Xuân. Tuyên nói tiếp xúc nhiệm mầu Phật tử ở, trên hội Lăng-nghiêm có người này. Ty lý Thời xin tụng. Rửa sạch gương tâm hết bụi trần. Bản tế linh minh tự chiếu thần, trong ấy hồi cơ tròn sáng tỏ, phân hoá thân trăm ức đại thiên. Đại sư Hành Nguyệt xin tụng. Mưa tạnh, đêm sáng mãi, trăng đi trên không. Ánh sáng chơn xua đi bóng tối thầm lặng bên trong. Một chút linh hư ấy ứng hiện, gương tròn mười phương chiếu mạnh mẽ. Đầu gường lò triện nổi tía lạnh. Đèn lồng trên vách đối diện với hồng lạnh, tông thừa trong ấy còn tin tức, bồ đoàn phướn giấy gia phong xưa. Thượng nhơn Tề phát tâm trông coi nhà La-hán xin tụng. Tu kết duyên với tăng nhân thanh tịnh, dầu xanh chè trắng cùng củi đen. Năm trăm thánh tôn giả mày rộng. Một ngàn hành khước ta. Nhà mây dáng cỏ hoa sen nở. Khí ấm lò đất kỳ lân nằm. Ma ngủ không đến ngồi thiền an. Ánh sáng tự chiếu tâm thầm lặng. Con gái bạn đạo Hoa Đình Cố đều xuất gia cầu tụng. Con gái đắp cà sa, để lại thân nhàn chốn tại gia, không tạo hầm hố xem giác địa, phải phá sạch bụi rậm trồng hoa ưu-đàm. Chấp nhận đầu bắc đẩu hang sâu. Uống hết nước tây giang mới hơi giống. Thoát ba cõi không còn ảnh tượng, cuộc sống đẹp như cư só Tịnh Danh. Tiễn đưa sứ Minh Chuyên. Thênh thang không nương tựa thái hư. Khắp nơi chổ nào không gặp y, công thành mắt lạnh hai đuôi mày. Chiếu hết cả thân đến nhiều kiếp, Đại Ngưỡng thầm biết ý Đông Tự. Huyền Sa biết rõ thư Tuyết Phong, đem về buộc trong lòng ba bó nan, búa vàng theo nhau ở khắp nơi. Thiền nhân Nguyệt bước ra xin cầu tụng. Một tháng ở trong nước, động theo thuyền đi lại, phân thân được như thế. Khắp nơi đều thích hợp. Sông biển rơi toàn bích, rồng cá cắn giây câu, trở về thật vui mừng, đều được thôi tham sâu. Thiền nhân Ứng ra xin cầu tụng. Tuỳ xứ ứng thân thấy rõ ràng, hay thuận nhân duyên không trái chơn. Đầu cọp trên cây trình mánh khóe. Đầu lông sư tử bày tinh thần, hằng ngày tự nhận được tự do, khó truyền lại kinh nghiệm lâu năm. Hương ngát đầy thành cơm trong bát, khắp chốn tòng lâm mênh mông Xuân. Vương quan sát cầu tụng. Xem bên trong rỗng rang thanh tịnh, một điểm cực linh châu lăn trong mâm, thầm lặng toàn thân rõ có mắt, phân biệt rõ ràng ứng diệu không tỳ vết, trăng lưu dấu sông hồ mênh mông, hoa cây reo mừng bắt đầu vào xuân, côn bằng biến hoá đúng thời tiết, bèn cởi sừng dê nương theo gió. Học só Triệu xin tụng. Trước thân sau thân riêng linh linh, tất cả Như Lai đều xuất phát từ kinh này. Khô hết tâm cuồn thì thấy tướng, nước thu trời trong trăng vằng vặc Chu cán biện xin tụng. Rửa sạch bụi trần trăm niệm Thu. Nguồn lặng lẽ chưa chia dòng, trong đó tự chiếu ngoài nhân duyên, nước trong xinh đẹp trăng bồng bềnh Thượng nhân Cửu ra xin tụng. Thiền tăng hăng hái tọa thiền, quải bát lạnh dây buộc vai gầy, Bóng tối tiêu vô tư xem trăng sáng, hoa sen nở không nhiễm bùn. Các việc tâm này mây nước đói, duyên cơm cháo nhà người nơi nào, gởi lời lão cư só Tỳ-da, hợp nhau không ngại gọi Xuân ngủ Khuyên toạ thuyền Cơ chính yếu của chư Phật, Tổ, không gặp việc mà biết, không đối duyên mà chiếu, không gặp việc mà biết, thì biết này tự nó vi diệu, không đối duyên mà chiếu, thì chiếu này vốn nhiệm mầu. Biết này tự vi diệu, chưa từng suy tư phân biệt. Chiếu này nhiệm mầu chưa từng quên, suy nghó chưa từng phân biệt, biết này không gặp được nhưng kỳ diệu, chưa từng quên. Chiếu này không chấp giữ mà rõ ràng. Nước trong thấu đáy chừ cá lững lờ bơi. Rỗng rang không bờ bến chừ chim bay thăm thẳm. Bài minh và tựa chuông núi Thụy Nham. Thụy Nham ở Tứ Minh, cảnh non nước đẹp. Trong lòng thênh thang nhưng nuốt nhả mây gió. Buông thỏng tay chân nhưng rữa sạch tuyết dâng. Xây dựng chốn lan nhã tốt lành ở trong này. Cột nhà rong biển xanh, cửa sổ đơn sơ xiêu xẹo, chiếu nhau rực rỡ, gậy lê bên áo, gõ cửa ném thẻ. Khách mây nước, rậm rạp hai ngàn ngón tay, Phạm Công Toàn cúng chuông lớn nặng 40 đấu để thức tỉnh say mê, để đày tin tức, khiến cho bốn phương trong nước nghe được tiếng, mà biết được chốn ăn ở, cô xin bài minh ở tôi ghi rằng: Phía tây biển có chùa xưa, đến tôn điểu đạo về bên Vân Thê. Tùng lâm nhận được thì bạn quý đến ở, chấn hưng quy củ đầy đủ đao thước, quanh mười hai ngọn núi xanh rì ngọc kêu leng keng. Đại hạ chúng vân tập tầng lầu trên hư không, cao bình công ta thí cho ai thanh tịnh. Mang pháp vónh khí lên núi Tiên Đồng, trong rỗng ngoài cứng nói sáng phá tối. Nhìn lên mặt trăng đến cửa đưa quạ xuống núi, chày đánh tiếng chuông du dương không chướng ngại. Một niệm nghe trọn vẹn các trần tự tại. Mười phương đồng hội một tiếng theo nhau. Ong hút hoa, kiến hôi cọp gọi gió rồng làm mây. Tôn khách thành thứ tự ăn ở dung nhau. Pháp tử vững vàng, tông Phật rộng lớn. Cuối tháng đêm tàn sương sớm trong lạnh. Hủ vàng âm đoạn ngọc rỉ bến khô. Gối mộng tỉnh sâu thiền gia chánh quán. Động theo sau tỉnh ở trở lại ban đầu âm vi diệu không nơi nào tìm được. Gởi vận lớn này đến chốn u trầm kia. Tiếng lẻng kẻng đập vào tai tâm thanh tịnh lặng lẽ. Thần ứng ở hang gió thổi qua rừng. Lâm râm từ từ nghe lại ban đầu, căn trần chợt quên tánh giác rỗng rang. Nắm không hết nhưng buông không cùng. Chơn minh rõ ràng tịnh trí như như. Tiếp xúc vào nó thì tiếng vang đoanh đoanh to lớn. Ngay đó diệt hết ngay đó phát sanh. Hóa bướm bóng tan trả nghiệp cá thanh tịnh. Non biển sâu thẳm trời đất bằng phẳng. Bài minh am Bản tế Bản tế bình đẳng không có xưa nay, đâu rơi vào các số mục một tâm tròn diệu. Một tâm tròn sáng tự chiếu linh nhiên. Vượt khỏi sanh diệt dung thông chánh thiên. Dung thông chánh thiên trong đó quên dụng công. Chim loan bay khỏi gương ngọc hạc ra khỏi lòng vàng. Ở như thế Phật Tổ đồng chứng. Tông đồng chứng Tịnh Danh thầm lặng. Bài minh am Chí du. Lao trắng cao tòa thứ nhất đến thiền Lão Huynh từ lâu theo nhau. Xây dựng sâu diệu đạo tạm cho là đạt sâu xa. Nắm được trần điều mục mây đến thiền tăng, ngày ấy nói với tôi: Sự động tỉnh của thiền gia như yến bay, thường ở trong đó. Phật dạy các tỳ-kheo không nên buông lung tâm ý, ở nhà một mình là hơn cả, đã gọi là am, là chổ ở của ta, thầy có thể gọi tên, tùy theo câu trả lời. Chí du: Hễ người tu đạo là Chí du. Thực hiện sự rỗng rang dữ diệu minh, hấp thụ tinh túy sống thanh bạch, cắt đứt vực thẳm buông chân, thân sanh chốn không kiếp, giữ được nhiệm mầu, quên hết đối đãi. Tự nhiên ứng hiện không phương sở. Tiếng vang trong hang trăng đáy nước. Khắp nơi không ngại. Tâm tâm nhất như. Mình và người đều quên. Phải trái tiêu hết. Vuông tròn lớn nhỏ, rõ ràng không còn khó khăn. Nếu được như thế đi vào trong nhân thế, khế hợp du hỷ tam-muội, đây mới có thể gọi là Chí du. Chỗ ở của thiền tăng đâu cần phải chôn mình trong túp lều tranh, cao ngất ngoài trần, vì nhân duyên làm bài minh: Đạo nhân Chí du, rõ ràng không nơi chốn. Từ đây về sau biết đâu, tìm đâu để ở. Dấu tích từ xưa đến nay, ngôn thuyên đều diệt. Nước lạnh nuốt hư không, mây phủ thành tuyết rất là rõ ràng. Lại phải xoay quanh một bên, ngay đây gặp nhau, ai biết trong này, biết cũng quay đầu. Khói lạnh núi thu, lặng lẽ tự được. Dằng dặc Chí du, Chí du dằng dặc. Trời trước đất sau, thể hợp hư không, lý vạn tượng viên tròn. trong này thong dong, cơ nhanh như chớp, nên bao trùm mười phương. Thông chung một ấn, thông đồng một ấn, mười phương dung hợp, bónh trong gương tiếng vang trong hang, trăng trong nước gió đùa thông. Khi ứng hiện thì tự nhiên, ai chánh ai thiên, rõ ràng dứt tư lự, thích hợp chu toàn, về lại nhà xưa, hoa lau vàng rơi. Thuyền đêm lâm râm, hồn quế ng- hiêng lệch, Chí du như thế, thực hành chơn thật, không rơi người trời, có bao giờ mây thành băng đâu. Gia phong vắng tanh, không thể lải nhải, thân tâm khô khan, thuốc pháp trong mát, nơi xứ hẹn nhau, dựng am mà ở, ngoại lượng khó nhìn, chủ của trong chủ, Chí du như vậy, chân lạc như vậy, truyền cơ tối thượng dẫn chiêu thứ nhất. <詞>QUẢNG LỤC KỆ TỤNG CỦA THIỀN SƯ GIÁC Ở NÚI THIÊN ĐỒNG TẠI MINH CHÂU Năm vị. Thiên trong chánh: Trong xanh tinh hà lạnh thấm khắp, nửa đêm mục đồng gõ cửa nguyệt, trong tối kinh phá ngọc nữ ngủ. Chánh trong thiên: Biển mây nương ước đảnh núi thần, người về tóc tai tơ trắng rủ, thẹn đối Tần Đài lạnh chiếu ảnh. Từ trong chánh: Trăng đêm kình lớn trải vảy bày, lưng lớn xoa trời chấn động cánh mây, liệng dạo đường chim bay loại khó bao quát hết. Đến trong kiêm: Thăm mặt chẳng nên kî húy nhau, phong hóa không tổn huyền ý, trong sáng có đường trời khác vậy. Đến trong kiêm: Đẩu bính giăng bày trời chưa sáng, Hạc mộng vừa tỉnh hơi sương lạnh, ổ củ bay ra mây tùng ngã. Năm Vương tử đản sinh. Sao tỏa điện vàng lúc giáng sinh, xứng thể áo cung che da tuyết công đến chuyển thân toàn hợp, cha trong sáng ngầm đánh xe ngọc dời. Sáng sinh. Tâm hùng thoát lược chiến văn trường, thẳng nắm mây rủ kéo rồng bày, Quỳ Hoắc dâng vua vị quý, bằng lòng về đi thấy sáng ng- hiêm. Chưa sinh. Cam phận lẽ trong giữ cố cùng, cửa đường lặng lẽ gió chánh tây. Một réo bèn là phụng ngô sinh, chẳng hay bay lại trong loài cò. Hóa sinh. Tơ luân truyền được ra tướng cung, tuyên hóa thành Xuân loại chẳng bằng, khéo nắm ngay đường không chữ Ấn, vó ngựa trọn chẳng nhiễm bụi sình. Nội sinh. Tuổi diệu con trời từ hai con ngươi, Tôn quý oai nghiêm trấn sáu cung, phép bước xưa nay chẳng ra cấm, người mồ chỉ được tụng gió thơm. Bốn khách chủ: Khách trong khách. Tâm sự bình sinh buộc đầu mày, đầy mặt gió bụi, tóc mai bạc, đại để ra cửa không kỷ thuật, ngày nay làm sao lối bần sầu. Chủ trong khách. Chẳng mến bán buôn lợi vạn vàng. Chiều lại đường xưa hỏi tiếng nhà. Rành rẻ được báo song thân khỏe. Tránh sao khó bình mừng sợ tâm. Khách trong chủ. Ngự lầu thổi sừng sáu đường nghe. Ngựa vàng tướng quân ra thành cấm. Ngoài ngỏ hóa quyền rất có chuẩn. Chẳng thương phong vật đến thái bình. Chủ trong chủ. Chẳng động xe vàng muôn đức toàn. Rêu cung ngậm nguyệt chưa bày ban. Ngay đầu chữ húy trong vòng cấm. Ai dám mơ hồ phạm thánh nhan. Bốn khoa chọn đoạt người chẳng đoạt cảnh. Lười hỏi ai giữ quyền tạo hóa. Đầu cửa việc Xuân chánh ồn ào. Mưa tạnh sắc hoa sáng như gấm. Gió ấm tiếng oanh trơn tợ đàn. Đoạt cảnh chẳng đoạt người. Nhàm thừa đường khách chợt nhớ nhà. Phản phất xuân nhiều hết tuyết hoa. Đáy trăng đường núi thông dẫm gót. Tâm về chưa ổn cách ráng mây. Người cảnh cả hai đều đoạt. Bải tần sinh hoàng đêm muốn tàn. Sông bạc sáng lòa tử vi lạnh. Sao dời trăng tối không tin tức. Lầu mây chén rượu cạn khách tàn. Người cảnh đều chẳng đoạt. Mười phần hoa sự thuộc hơi ca. Cười vào bụi thơm vữa nát dạo khắp. Hoàng đạo thái bình không húy kî. Dọc ngang xứ nào chẳng phong lưu. Mượn công rõ vị. Ngọn tần ngừng gió chánh giữa đêm. Nước trời xanh biếc cùng ánh Thu. Trăng thuyền chẳng đụng bờ đây đó. Phải biết người sáo dụng ý hay. Mượn vị rõ công. Sáu cửa rổng thông đường chẳng mê. Thái dương trong ảnh chẳng đúng cơ. Ngang dọc khéo rung không riêng hóa. Vừa đúng đi theo đường chim về. Mượn mượn chẳng mượn mượn. Biết hết ngọt cay trăm ngọn cỏ. Mũi không dây kéo được vui chơi. Chẳng biết có đi thành biết có. Mới tin Nam Tuyền nói làm trâu. Toàn vượt chẳng mượn mượn. Sương căm gió buốc cảnh lạnh lùng. Cửa ngọc khóa vàng tay run mở. Tùng lạnh đêm thâu không tiếng rít. Hạc già dời đậu ổ trăng không. Kim chỉ xâu thông. Vời vợi núi xanh dính Thu gầy. Lông tóc sơ sài phong cốt cũ. Mây trắng là con nương lâu ở. Gió trong mượn lực đỡ ra hang. Nhân gian mưa đủ bèn về lại. Tạnh nhạt lạnh rõ đồng đi đến. Trong ấy tin tức khéo chẳng truyền. Mây trắng vô tâm núi xanh thọ. Chân thân. Lúc một lá rơi thiên hạ Thu. Xứ chẳng phong lưu lại phong lưu. Người gỗ lùi bước dây vàng đứt. Ngay đó không cơ dẫn trâu sắt. Ứng thân. Trong mâm song lục tin tia sáng tràn ngật. Gió lướt cỏ đè trăng cong tạnh. Ngăn đường bít lối đảy da ngu. Di-lặc lúc nào chẳng hạ sinh. Trong cửa ra thân. Vô vị chân nhân viên thịt đỏ. Đại thiên sa giới dính đầu lông. Rành rành chẳng mượn việc nhà khác. Xứ dụng toàn công chỉ cái này. Trong thân ra cửa. Phóng khoáng trở lại rừng gai gốc. Té cưỡi trâu tự say ngâm ngâm. Ai ghét khói mưa ồn tơi nón. Chỉ bởi hư không chẳng treo kim. Nhân xem Tiểu Thích-ca ở Ngưỡng Sơn nói thành Xướng Đạo hai bài Cởi hết các duyên không chẳng không. Lặng vô biên tố dụ khó đồng. Phải biết nguyệt trai vật trong ruột. Thể lấy mây trong tê giác thông. Dựng hóa vào phòng đường chim vượt. Xoay lối lại diệu hiển gia phong. Thái bình người dạo về lại vậy. Mai tuyết mày sương trong chuyển công. Một niệm toàn siêu đầu nhiều kiếp. Người ngọc ngồi ngay xe trâu bạc. Qua lại dạo khắp nương tham diệu. Xoay đầu giữa đường vật lớn thay. Lễ Tháp Tam Tổ Thiền Sư Trí Giám. Đạo không chọn lựa, sông sâu núi vút, trăng lạnh trời xanh, chẳng nảy mầm cành lên Xuân hoa giác, không đầu cây ảnh ổ chim linh. Trụ trời cao vợi chừ tinh hà rối sạch, trâu đá gầm rống chừ động mây sinh bạc. Lễ Tháp Tứ Tổ Thiền Sư Đại Y. Tổ đạo đã truyền. Hoàng mai tuổi diệu. Bào huyễn chợt diệt. Trắng sạch không hình. Chân tướng rành rành chiếu lửa mở. Giáo âm lặng lẽ tỏa gió linh, tùng lão trăng treo lạnh vừa đêm. Hạc rét ổ mây mộng chưa tónh. Lễ Tháp Ngũ Tổ Thiền Sư Đại Mãn. Hoàng mai quả chín, ngó sen trắng hoa khoe, hỏi chỉ Phật tánh chủng khác thai phàm, áo truyền nam lãnh người đem đi, tùng già núi tây ta trở lại, song mượn thành hết việc, một chén gió trăng bụi lắng không. Lễ Tháp Thiền Sư Đầu Tử Thanh. Tháp tàng cốt ngọc, mây ân eo núi, vết trần ngoài sạch, đạo sáng trong bày, xuyên chỉ ngọc của kim vàng tiếp, keo loan của tơ phụng, chén Xuân còn mà hoa thơm cây úa, hạc đêm hót mà trăng rọi ổ không, gia phong thanh đạm chừ trâu đá uống nước, cháu con ngoan đẹp chừ trụ trời vuốt mây. Tán thán chân hình sư tổ Phù Dung. Mắt phụng hình hạc, tông môn lớn lao, lượng ngoài dẫn dắt, tiếng trước đánh xướng, cứ lệch chừ kiếm dài cậy trời, ứng cơ chừ châu sáng tại tay, Thái Hư có trăng chừ thỏ già ngậm sương, biển lớn không gió chừ kình hoa thổi sóng. Bài minh Mặc chiếu. Lẳng lặng quên lời, rành rành hiện trước, lúc soi rõ vậy, thể ở linh thiêng, linh thiêng riêng chiếu, trong chiếu lại diệu, trăng mốc tinh hà, tùng tuyết núi mây, tối mà càng sáng, ẩn mà càng hiện, hạc mộng khói lạnh, nước ngậm Thu xa, lắm kiếp không không, tướng cùng sấm đồng, diệu còn nơi mặc, công quên trong chiếu, diệu côn sao còn, tinh tinh phá tối, đạo của mặc chiếu, căn của lìa vi, suốt thấy lìa vi, thoi vàng máy ngọc, chánh thiên uyển chuyển, tối sáng nhân nương, nương không năng sở, đến thời hồi hổ, thuốc thiện kiến, đánh trống xoa độc, hồi hổ đến thời, giết muôi tại ta trong cửa ra thân, đầu cành kết quả, mặc chỉ chí ngôn, chiếu chỉ ứng khắp, ứng chẳng lạc công, ngôn chẳng xin nghe, muôn tượng sum la, phóng quang nói pháp, kia kia chứng minh, mỗi mỗi hỏi đáp, hỏi đáp chứng minh, vừa đúng tương ưng, trong chiếu mất mặc, bèn thấy xâm lăng, chứng minh hỏi đáp, tương ưng vừa đúng, trong mặc mất chiếu, lẫn thành thừa pháp, mặt chiếu lý tròn, sen nở mộng tỉnh, trăm sông về biển, ngàn non hướng núi, như ngỗng chọn sửa, như ong hút mật, mặc chiếu đến được, xoay tông nhà ta, tông gia mặc chiếu, thấu đảnh thấu đáy, thân Thuấn-nhã-ta, tay Mẫu-đà-la, thủy chung một đạo, biến thái muôn sai, họ Hòa dâng ngọc, tướng như vân tay, đương cơ có chuẩn, đại dụng chẳng cần, thiện tử trong vòng tướng quân ngoài ải, việc của nhà ta, trúng khuôn trúng khổ, truyền đi các phương, chẳng cần lời khắp. Bài minh thất tịnh lạc. Sắc thấy tiếng cầu, giữ đạo chưa chánh, tự được đến vực, thường lạc ngã tịnh, tịnh đó là thường, lạc đó là ngã, hai thứ giúp nhau, như củi cùng lửa, ngã lạc vô cùng, tịnh thường vô chung, lắng còn ngoài tượng, trí chiếu trong hoàn, trong hoàn tự rổng, chẳng có chẳng không, kín vận linh cơ, khéo chuyển chốt huyền, chốt huyền cơ chuyển, vốn điềm sáng hiện, tâm duyên chưa mầm, ngôn tượng sao biện, biện đó là ai, rành rành tự biết, bao gồm tuệ nhà, chẳng lẫn tư duy, tư duy chẳng lẫn, hoa lau chiếu tuyết, một đoạn ánh sáng, rổng rang ngời suốt, ngời suốt vô phương, đầu chẳng che giấu, lúc cưỡi thì ra, xen hóa thì xướng, xen hóa tùy nghi, tịnh lạc chẳng dời, không ngậm Hải ấn, vừa đúng không khuyết, công của không khuyết, trong ngoài rỗng chứa, pháp pháp tuyệt đãi, môn môn rổng thông, môn của rổng thông, đường của dạo đùa, rơi rụng căn trần, lau rưới trông nghe, trông nghe lên chức, tay mắt ngàn ngàn, kia mất cần cần, ta thường miên miên, diệu của miên miên, chưa vết điềm triệu, lạc của trong tịnh, chiếu của trong mặc, nhà của mặc chiếu, phòng của tịnh lạc, ở an quên nhọc,bỏ hoa lấy thật, minh của lấy thật, không được mà nói, lành thay hết hỏi, vào môn chẳng hai. Bài ký Tăng đường. Phàm, cười ấm ở Linh Sơn, ngồi lạnh ở Thiếu thất, Đông Tây rành rành ba mươi ba truyền, Lão Lô trao y bát mà trốn, khuyết sự hiển bày, mở đóng hút bày, gợn sống sáng lánh, há miệng mà nói, bày tâm mà ứng, đạo truyền khí nhận, nguồn sâu dòng dài, Nam nhạc thanh nguyên, thay dùng được người, hoặc nín chỗ có tông, sâu ngầm xa trốn, quét vết ngoài đời, nghiên cứu tử sinh, ăn tùng mặc sen, ẩn ổ ngồi cỏ, tối mà chẳng tỏ, trì dưỡng lão thành, có mộ phong đó, bắt chước mà thân đó, cày trồng giả thổi, hái múc nấu nướng, rau khe thóc đồi, cỏ khô tự chịu, xa xôi nhóm nhiều, mới dựng tăng đường mà gồm nhận đó, trai nằm nơi cỏ, thầy bạn đồng sự, mổ trình cắt trí, đuổi học xua tự, khéo hết tâm không, tông thông mắt sống, phát vượt ở thi thiết, quả đó năng mà đủ vậy. Cuối niên hiệu Kiến Viêm (1 13 1) người bệnh loạn ly, tương Hán Giang Hoài, binh lửa tràn lan, các tôn túc chốn tòng lâm bỏ phế tám chín phần mười, áo lông bình tích, đến ẩn ở Đông nam, Tứ minh thiền tịch, vốn hiệu Tiểu Lô sơn, từ quận về phía Đông sáu mươi dặm, Đạo tràng thiên đồng, núi xoay quanh mà khí sâu, tùng nghiêng lệch mà da nứt nẻ, vách xanh nấm mọc, khói mờ mà xinh đẹp, cầu vồng gối khe, bụi rửa mà sạch bày, tôi ở núi bốn năm, mười phương đến học, mây tới nước đến, phòng chẳng có thể chứa hết, Tỳ-kheo hạnh sâu, xa lại thưa rằng: Bạn Bách Đình ngồi bày qua đêm dưới rèm, hết không tầm xích cùng nhận đơn bát, muốn chiêu mộ tịnh tín xây thêm lớn đường đó được chăng? Tôi chấp nhận rồi mà thợ khai mở rừng. Búa vang đến hang, hơn một năm mà đá tảng bày cột xếp, rường giăng xà khoét, trích xuyên bày, rui ngói vảy che, trước sau mười bốn gian, hai mươi giá, ba hành lang ngang qua, hai giếng trời, bạch ốc hứng mưa dưới không tường bậc, dọc hai trăm thước rộng mười sáu trượng, cửa sổ sàn giường sâu sáng nghiêm khiết, muôn chỉ ăn nghỉ vượt lay dung cùng, mới đầu dự tính từ mùa Đông năm Nhâm tý (1 13 3) thuộc niên hiệu Thiệu Hưng ( 1 13 1-1163 thời Nam Tống) công thợ hoàn tấc ở mùa xuân năm Giáp dần (1 13 4) tổng chi phí tiền giấy hơn mười lăm ngàn. Đông ấm Hạ mát ngày hương đêm đèn, mở bát ăn cơm, rửa chân mà ngồi, cày cấy chăn giữ trong khoảng đó, dùng tịch lắng mà răn dắt, Thu chứa giếng cổ người Xuân hóa cơ, sâu chừ lặng thành, đẹp chừ dùng sáng, nước đầy khoa mà chảy, hang tùy gọi mà vang. Lý hợp bình đẳng, trí ứng tự nhiên, động tỉnh oai nghi, khuyên ngăn cùng ích, kiểm trách rò rỉ, mài ngời vết sẹo, nhuận ráp sáng lòa, mài giả sừng khuê, nêu cao xa đến, tìm vẽ người xưa, cho tâm giúp sức, đồng chẳng bẻn lẻn. Ôi! Khí yếu học tệ, mong dễ muốn nhanh, dùng cơ giới làm lối đi, phóng đảng làm đến, cày ở không lời, đuối không chỗ gặt, đánh ở cương biên, thắng không chỗ về, thấy nghe thánh quen, hiểu biết chìm tâm, điều Phật Tổ trách, ngoại ma được tiện, mầm xấu lầm lỗi đó, trị chẳng thể thư thả, lên gò của Côn Lôn, tháo nước của sông nguồn, rửa dơ của gan mật, tẩy màng của tâm mắt, vết sinh diệt mất mà diệu còn, dấu có không sạch mà quá lượng, mộng của đêm dài phá, nghi của nhiều kiếp trừ, chí của xuất gia thưởng, việc của hành cước xong, cùng theo bè bạn, ngõ hầu bao nhiêu? <篇> QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ <卷>QUYỂN 9 Chân tinh tấn mà lìa vọng, pháp cúng dường dùng không lỗi, diệu trang nghiêm dùng theo duyên, tuệ phương tiện mà chẳng buộc, tánh không Tỳ-lô mà trí thân rõ ràng, chân lông Phổ Hiền mà pháp giới lớp lớp, ngưỡng đó cao, khoan đó chắc, nhuộm chẳng thâm, mài chẳng mỏng, san hô biển cả hồ đêm uống ánh sáng đó, chiêm-bặc tòng lâm xuân luật rửa sắc lạnh đó, ngang vật bướm bay ở mộng, cắt dòng quạ đến nơi thề, tứ minh lung linh chùa núi. Buộc phên ở núi ba mươi năm, chúng nhóm ăn nhờ, đích thân ra trì bát, nhưng thừa hóa só, theo khất để cúng, tả huyễn nghi phải lời xấu, tùy xứ thấy người được nói quyền, tăng biên muốn khắc, nhà xấu chớ bày, vả lại phàm biết đó là ngu, nói đó là mất, tổ chứng minh đó thân đến, Phật chỉ dạy đó sợ mê, mặt xoay vách liền đèn, tâm không phát sáng, thần dạo sâu đó, linh linh tự chiếu mà thể hư, đạo được toàn đó, miên miên còn mà dụng tế, lỗ mũi xe chở chẳng nổi, đầu lưỡi kềm gắp chẳng bày, ý tổ cùng mà thông, Phật sự sáng mà đủ, kiếm múa không mà dọc ngang không trở ngại, châu nhận ảnh mà cùng theo đến nhà, chim mây không rõ, gió linh tự ngân, lời của trùng thu, văn của mọt gỗ, tương truyền Phật tuyển khí đồng, hướng đạo tông chỉ nói phân nửa, Tỳ-kheo (Sư Nghiễm) xin vì đó dẫn. Ngày an cư mùa Hạ năm Thiệu Hưng thứ hai mươi bảy (1157 thời Nam Tống) Chánh Giác ghi. Các bài tán thán chân dung của Hòa thượng Hoằng Giác ở Thiên Đồng tại Minh châu (Thị giả Sư Nghiễm biên). Thiên đồng (Hoằng Giác) khất thực đến Hoàng Nham, thượng nhân Dụng Tường họa vẽ tượng sáu đời tổ sư, dể tán thán mà gửi gắm, phàm sở dó làm tổ là, rõ ngay đầu việc thứ nhất, nhân duyên kiến lập, đều phần cháu con. Tổ chẳng nói ư? Chẳng cùng phàm Thánh đồng giẫm xéo, vượt hẳn gọi đó là Tổ, chi nhiều phái xa ứng hóa cơ dụng, khéo được cội nguồn, tự nhiên tùy thuận, đó chẳng nói có thể dụ, nay tùy hỷ cúi đầu tán thán rằng. Sư tổ Thiền sư Đạt-ma. Tây trao chẳng rõ, Đông hành cùng xét, Đại thừa khí xa, Thiếu Lâm Xuân sớm, chín năm mặt vách, cầu người mà gấp, ba lạy tủy truyền, được nối mà hiền, hoa lau trăng sáng thuyền đêm chuyển, nước xa trời thấp sắc Thu liền. Tổ thứ hai Thiền sư Đại tổ. Đứng tuyết ngang rốn, chặt tay cầu pháp, có chí quên ở thân, không tâm hợp ở mình, rành rành thường biết, biết đó kín nhiệm, diệu chẳng mượn miệng, đích tự truyền y, toàn công nhờ thời tiết của cha, nhóm chuyển hư không hết chỗ nương. Tổ thứ ba Thiền sư Giám Trí. Đạo không chọn lựa, tông chẳng kéo bắt, sống chết ngoài dính, trong sạch gia truyền, tìm tội tánh không, rổng rang đại đồng, diệu hết mất năng cảnh, cơ xoay chẳng mượn công, rổng sáng tự chiếu chẳng tâm thức, biển trắng linh tê đêm phách thông. Tổ thứ tư Thiền sư Đại Y. Trao y khuất hung, cầm ấn Tỳ-lô, sư ngồi Tây sơn, danh truyền Đông chấn, phấn của ong mặc chừ đượm của mật Xuân, châu của ruột trai chừ mang của cóc đêm, khí xa trình lành, cành linh phát nương tựa, ngưu đầu tiếp được cư só Dung, chim hoa chẳng lại bận ngoài am. Tổ thứ năm Thiền sư Đại Mãn. Con của tỳ nữ, dòng dõi hai núi, truyền y đời xưng ở tuổi diệu, trồng tùng ta thẹn với rụng răng, trước sau hai thân, xưa nay một tâm, loan lẻ gió múa gương lưu ly, kình lớn trăng lộng rừng san hô, bát bồn người kiệt liêu sắp nói, mấy đêm Xuân phường không tiếng cối. Tổ thứ sáu Thiền sư Đại Giám. Tiều phu Quảng Nam, Hành giả Hoài Tây, ngọc sáng lăn mâm vàng ròng ra đúc, thấu ảnh tượng chừ Thánh phàm không được đồng trần, tiếp ánh sáng chừ, gia thế tự nhiên chẳng đêm, muôn sao phò đẩu lên cao, trăm sông về biển xuống thấp, bỏ bát đáy mà trốn, dắt không nổi mà khẩn gọi, chẳng phải lay của phướng gió, bày tình vượt của tức vật, lá rụng về cội chừ đến thời không miệng, trăm ngàn tam-muội chừ chín trâu một lông. Lão sư Thiên Đồng trước lúc chưa hạ bút, lỗ mũi Tổ sư một lúc xỏ tức xong vậy, việc chẳng được thôi, lại rút ra ngữ thoại này, ngay mặt chỉ thẳng, khiến người đọc tán thán này không còn tán thán khác, ngay lời biết về tức tự tán thán vậy, thấy Tổ ấy không Tổ khác, có thể trong đó thầm hợp tức tự Tổ vậy. Phàm như vậy thì chính là mắt mày của Phật Tổ mà phong thái chẳng bày, năm lá một hoa tùy xứ sắc Xuân, reo gọi đêm ngày, ai chẳng cùng Tổ sư đồng dậy đồng ngồi đồng hiện đồng ẩn ư? Ngưỡng Sơn nói: Chẳng nói thấy, chỉ là chẳng riêng,(lời bạt của Chân Yết Thanh Liễu). Thiền sư Thiên Đồng ở Minh châu làm tán thán tượng họa sáu đời Tổ sư, ý chân lời diệu, vượt Phật vượt Tổ, bậc mắt sáng khoảng bút mực tự nhiên có lỗ hổng, chẳng phải học của văn tự chương cú thế gian, sở năng phản phất vậy. Ngày thường rất phong phú, hận chưa tận thấy đó vậy, hậu học đọc bài tán thán này mới biết Đại thiện tri thức ngụ diệu ý ở bản đây, có thể quên ư? Ngày mồng mười tháng ba năm Quý Hợi (1 14 3) thuộc niên hiệu Thiệu Hưng ( 1 13 1-1163 thời Nam Tống) Lão Thiền Só Khuê viết. Trưởng lão Tông ở Tuyết Đậu tả tượng sư, đem trao Tri Sự Thiên Đồng treo ở vách khám, xin lời ghi trên đó. Diệu tạng tuyệt gần, rốt ráo không thân vậy, lý chân của thanh hư, u linh riêng thần, khoảnh khắc trở sắc vậy, trí thân của tự chiếu mây lạnh có ý tuyết, trời xa liền bến Thu, duyên khởi Phật chủng, giác sinh huyễn trần, nói nhỏ lời êm, vận của phụng con Đan sơn, mắt sâu mày điệp, má của sư tử rừng đàn, mượn vị khách chủ giữa đường, mượn công vua tôi trong cửa, nước động ngược dòng, trông mây hang núi nửa chịu, rượu nghiêng ngã Tào Sơn, biết hết thuế chưa đủ bần, gỗ cong đầu sàn nắm đuôi trần (bụi), tâm truyền một câu trao người đó. Trưởng lão Ngộ ở Đại Ninh tả tượng Sư xin lời. Tròng mắt sống, đầu lâu khô, diệu tại ly vi chuyển xứ trông, cá ẩn dưới nước mà sẹo Thu càng biếc, hạc nằm tùng mà mộng trăng còn lạnh, thần của ứng hô ở cốc, châu tùy sắc lăn mâm ảnh hưởng dính mày ai được dụng, đẻo bùn thừa đất lỗ không tràn. Trưởng lão Huy ở Vạn Thọ tả tượng Sư xin lời tán. Không mà không vết, miên miên thể đó như còn, cao mà chẳng đàn, vừa vừa dùng đó chẳng siêng, ánh sáng phá trăng đêm lạnh nhạt, mây ra núi không được mà được, chẳng nghe mà nghe, truyền của Thiếu Lâm lẳng lặng, cười của Linh Sơn vui vui, rồng sấm cùng tiển cá đốt đuôi, báo mây mù chợt khoác đường vằn rõ ràng của cọp, cùng vật bay bay chừ, mộng trôi tợ theo hồ điệp đi, mất cơ mênh mang chừ thanh nhàn lại cùng cò trắng phân. Trưởng lão Tụy ở Bảo Phước tả tượng Sư xin tán. Trẻ ăn táo mà răng vàng, già no muối mà bướu mất, thỏ phần trăng phách vào tê giác, ong hút hoa đượm về phòng mật, nguồn sâu dòng dài, thể rõ dụng sáng, vợi vợi rành rành, hừng hực sáng láng, triện đàn hương tiêu im không nói, dây quạ cùng bạn dựa giường dây. Trưởng Lão Vinh ở Thanh Đàm tả Sư tượng cầu tán. Nhà non nước chừ lặng quên xứ sở, bạn cá chim chừ động quên ngươi, thầm thầm có được ai truyền, tông của đích đích tự cử, chén băng Xuân chưa về mà vết dơ không ít, rừng ngọc trăng đã lên mà rất sáng trong. Lắng còn cái tông thừa đây, chịu hoại trai gái nhà người, bát của Hoàng Mai cười trộm đêm, y của Thiếu thất nghi cùng buông tuồng, vuông suốt quả đất, tròn cùng bầu trời, thần phát sâu mà hang rổng ứng gọi, tiếng ra ngại mà chuông sương chợt đánh. Trưởng lão Cung ở Quang Hiếu tả tượng Sư cầu tán. Hỏi thân chẳng thân, truyền thì chẳng chân, lặng thành tánh đó, không chiếu mà thần, lắng còn mà không tượng, u linh mà tuyệt gần. Lò khuôn đỏ mà đúc vật đó, thổi gió mây mà tạo Xuân đó, kiến lập các huyễn, phát minh rất thuần, khua búa dao bén của tay thợ, bỏ bụi mũi thẳng của ruồi bùn. Đẻo đó có tin, nhận đó khó người, tùng nghiêng lệch chừ riêng đỡ xa nơi tuyết thử, đá của dao động chừ mấy phá nát ở sấm sân. Trưởng lão Dực ở Năng Nhân tả tượng Sư cầu tán. Câu dành cước thân, vết ở núi bày, im có thừa vị, nói lại mất chân, vàng phát vang mà không ngại, ngọc đẻo văn đo mất thuần, khí vũ trong ngực, tinh thần dưới mày, hổ sinh ba ngày ăn hơi trâu, biển rộng muôn dặm nuốt thuyền xếp hàng. Tánh được toàn kéo mũi, tâm truyền chẳng treo môi. Gia đình trong sạch chừ riêng lập bậc lưng ngang, có cục gai hồng chừ thường quán người kha lạng. Trưởng lão Tuệ ở Nam Minh tả tượng Sư cầu tán. Tóc bạc chừ núi xanh tuyết lạnh, mắt lạnh chừ nước xa Thu về, cơ tự chuyển chừ đẩu đêm có chuôi, khí tự trong chừ, tinh hà không sóng, hang ứng tiếng mà mất tượng, ngọc nhận sắc mà chẳng sẹo, bể cả sóng vổ chừ bằng mà lặng, bầu trời mây cuộn chừ rổng mà thoáng, muôn hóa khởi diệt chừ thầm thấy mối đó. Trưởng lão Tiệm ở Tổ Ấn tả tượng Sư cầu tán. Nhìn lỗ ai truyền, thân tâm tự nhiên, soi ngậm muôn tượng biển nuốt trăm sông, máy gấm động mà tơ màu qua, chỉ ngọc xâu mà kim vàng liền, nói pháp nương miệng, nạt người tay không, bình đẳng chớ dời chừ mặc cho hạc dài mà kiêu ngắn, tung hoành theo biến chừ hào khôn đứt mà càn liền. Trưởng lão Chiếu ở Tịnh Cư tả tượng Sư cầu tán. Chân thừa không cửa chừ Phật Phật đạo đồng, quay mặt vào vách có câu chừ tổ tổ tâm không, lắng ở phương ngoài trí vào trong vòng, mượn công rõ tịch mặt, mượn bạn vào nơm lồng, mười phương bao quanh, ba đời lẫn lộn, cõi cõi bụi bụi đều nói pháp. Thấy nghe kéo nhau tự tương thông. Trưởng lão Chiếu ở Báo Nguyện tả tượng Sư cầu tán. Nước Thu mà trong, trăng lạnh mà sáng, muôn cơ ngừng bỏ, ba khoảng đều bình, trần tiêu chẳng đến pháp thân ở, huyễn khởi lại từ miệng Phật sinh, che của trời cao, đở của đất rộng, chư tổ cùng đó đồng đạo. Các loài cùng đó đồng hành, lông rùa phẩy mà nắm dọc, sừng thỏ chống mà quỳ ngang. Lại không một vật mượn lại, vẩy tay tăng quyết làm chứng thành. Trưởng lão Nhân ở Năng Nhân tả tượng Sư cầu tán. Tánh gương sáng lớn, tâm trí bình đẳng, thỏ già nằm lạnh chừ trong rõ ràng hang của trăng sáng, kình lớn lộng biển chừ sáng sáng rừng của san hô, ngàn dặm tuyết bay sóng xa tít, trăm sông triều vọt nước sâu vời, bằng đánh côn lột xác, tử hòa hạc kêu râm, tùy ứng về dạo mũi nhọn, cùng gặp có thưởng âm. Thủ tòa Huệ tả tượng Sư cầu tán. Nghi dung chợt suy, gắng gỏi kém lười, lung linh chùa núi,, yểu điệu tùng mây, đẹp lạnh cúc chiều thu, vang trong chuông sướng sớm. Cõi cõi bụi bụi tam-muội, tri âm xứ nào chẳng gặp nhau. Giám tự Chương tả tượng Sư cầu tán. Mờ mờ mịt mịt, nhạn lạnh ảnh mất Thu xa khói xanh, vắng lặng tỏ rõ, tằm già kén thành mà gió cao lá rụng, thiên cơ lúc lắng sống, đạo xoay xứ rổng linh, bể đó chứa núi đó trấn, trời đó mạnh đất đó yên, biển chuyển, bằng đánh, khí vũ bốc ra mà nuốt thuyền cá thoát, sương khoác báo biến văn chương rực rỡ mà thổi gió hổ mạnh, đèn của Thiếu Lâm chưa nối chừ lưng người Lạc Dương ngang sân tuyết, y của Hoàng Mai muốn truyền chừ, bước tổ thợ săn dời cối chày, vật chẳng đáng tình mà chân mau, vảy xếp hoặc đốt đuôi chừ điện lửa hơi tanh, các trần ảnh hưởng cao vót, tam-muội du hý nơi ngắm nghe, què chân thiếu tay hành đó tự tin, há miệng hòa hòa lời đó chẳng nghe, gia pháp lạnh nhạt con cháu yên vui, tâm tuổi già mà tùng bách thử tuyết, sắc trong trắng chừ sông Hán ngậm sao, hạc kêu râm gầy mà thọ, rùa ổ sen nhỏ mà già, cuộc cờ chưa tan, cháy búa gã tiều. Tham đầu Trí Thư cùng các Hành giả tả tượng Sư cầu tán. Lưng đài răng nghê da gà tóc hạc, Tây Bắc xuất gia, Đông Nam hành cước, chọn Phật đến không giác giác không, vì người trừ thuốc bệnh bệnh thuốc, hang đêm mây sinh, đầm Thu trăng rụng, thiên chánh cơ xoay, vuông tròn chuôi đục, mộng xuân hồ điệp hớn hở mà vật bằng, đồng minh nơi hoang dã cò trắng bay bay mà nhàn vui, khéo xúc không đáng xung nên làm gì, kiếm đó múa không, đây kia chẳng sẹo, châu đó nhận ảnh mà tự tha giống nhau, khí vận góc núi, âm chỉ đè cán, què chân thiếu tay có xa vời, há miệng hòa hòa chẳng không đòi tìm. Hương sát Thôi ở Dương Thọ tả chân dung cầu tán. Hình nghi vất vả, khí mạo lạnh khô, mây đồng tự rổi, cây núi ai già, tánh nguyên lắng mà khéo còn, thể vốn chân mà không rõ, đời huyễn ứng các duyên, ruộng hoang chẳng chọn cỏ, gió khói trông đoạn chừ ảnh lớn mờ mờ, nước trời gặp nhau chừ dáng Thu vời vợi. Tiền Lang trung tả chân dung cầu tán. Tâm sáng thắng tịnh, dung hợp xưa nay, sông Hán khí trong Thu rộng, sáng Ngưu đẩu sáng lạnh đêm sâu, cơ rành rành chừ thoi gấm nhả tơ, đường miên miên chừ chỉ ngọc liền kim, trăng loáng biển san hô, Xuân xoay rừng chiêm-bặc, pháp pháp biến thông tay nghề, trần trần không ngại nỗi lòng, gương sáng ai ghét vật sai biệt, núi không tự đáp âm hợp đồng. Trương Hán hương tả chân dung cầu tán. Đảnh che tuyết trắng, mắt giăng sóng biếc, sương trong đượm chuôi đẩu, vách xưa treo thoi rồng, hoa của Thiếu Lâm chưa già, gương của Tào Khê chẳng lau, chỗ được bao nhiêu, nhà truyền chẳng nhiều, no lời mây nước ba cây nan, móc hết giang hồ một tấm tơi. Trương Giám thuế tả chân dung cầu tán. Dò xét sâu xa từ đầu, lắng còn như rổng, thể sáng vô tận, khí trong có thừa, tuyết của Thái hành che thất, băng của Hoàng hà chở xe, mốc báo biến cọp vằn, rồng sấm cá đốt đuôi, khói mây đượm thấm, cây cỏ rạng ngời, căn căn trần trần rành rẽ, pháp pháp niệm niệm như như, hành giả thung phường được y bát, tâm truyền khả tín chẳng còn ghi. Trí Tuyên Trực Tuế tả tượng Sư cầu tán. Đầu sương râu tuyết, mắt hang mày núi, Côn Lôn nguồn ta cứ, hồn hậu tục ai giữ, nơi nhạn qua mất trời Thu rộng, khí hoa lúc đượm ngày Xuân dài, các trần không ngại, khéo xúc không lầm. Thiềân nhân và Hóa chủ tả chân dung cầu tán. Mây giăng mày đó, tuyết phủ đầu đó, không không nuôi tuệ, đau đáu quên duyên, trăng chiếu san hô chừ, biển phát sáng mà chẳng đêm, tùng sinh hổ phách chừ, căn nâng mỡ mà có tuổi, tánh chỉ bình đẳng, Đạo pháp tự nhiên, chày linh ở tại nắm, gậy phất ở ngay tay, mốc báo khoác đồng của cây tử, rồng sấm rống sông của hoa đào, mây nước Thu tùng lâm cùng khí vận của lão thành, khe núi cây cỏ Xuân từng ủ gây nơi gió khói, lực học của cháu con, gia truyền của Phật tổ, ải của kim chỉ qua, chiếu của khám đèn tỏa, hướng đạo long môn không khách trọ, mà nay rùa hạc thảy thành tiên. Khí trong nước Thu, cốt lạnh cây khô, liễu mắt xanh Xuân sâu, đầu bạc núi tuyết sớm, đủ tướng đại nhân vậy, không rơi chẳng sợ, có lực lượng lớn vậy, gió thổi bèn ngã, cái chút diệu xứ khó truyền, hướng đạo thợ vẽ thảo thảo. Tùng tiết già cứng, góc núi sương sớm, cò nhàn cát mịt mịt, nhạn mất khói xanh xanh, hào tượng càn liền khôn đoạn, hình khí quy tròn củ vuông, chợ náo gặp nhau liền cùng tợ, nhà Đông thìa ngắn nhà tây dài. Vực im lặng còn, đạo vượt thấy nghe, chân chiếu vốn có, diệu hết mới huân, thần của cốc rổng chừ đại thiên giới khắp, ảnh của trăng sáng chừ trăm ức thân phần, không trụ, bình nổi nước trôi; tự do, chim bay mây chuyển, được đó có cứ, dụng đó chẳng cần. Miệng rộng mũi lớn, thần tónh tâm không, tuyết bờ lau vượt xa, nước trời Thu sắc đồng, đêm lạnh bắc đẩu duỗi chuôi vàng, trăng rụng núi Tây giấu cung ngọc, chân cơ uyển chuyển, huyễn trú viên dung, Phật xưa tự nhiên giao cây cột nơi đất trống, sấp ngữa tay xem biến thông. Giữa hang núi là dương xuân của cây cỏ, gió trên sông hồ tinh thần của khói, râu tóc tuyết đồng, mặt mày bờ Thu, vực lắng lạnh hang của cóc, tròn sáng dưỡng lão quý của con trai, bước bước vào trần cửa cửa ra thân, chớ buồn chỉ mối chừ cháy đuôi cong, vừa ý trên móc chừ rực vây tiêu. Loại thân nhàn chớ thâu, tình tâm lắng chẳng lưu, mảnh trăng tự tỏ rõ, may lẽ buông dằng dặc, lông đầu suy bạc tuyết núi cao, mày mắt lạnh trong Thu khe xưa, nắm tợ gió Xuân chút con diệu, buông đến cỏ cây mười phương đều. Thái hành quanh mâm, Hoàng hà rỉ rả, gan mật sáng sạch, lồng ngực rổng rang, gió lành chưa sinh, răng má, tuyết trắng đã lên mày rau, im của thiếu thất không thuyết khác, cối của Hoàng Mai chẳng hay sách, thấy suốt xưa nay mặt mắt người, danh ngôn sao dám vọng phân rành. Sống thức giọt khô, da bụng buộc rổng, miệng vụt sóng mà biển rộng tóc rủ tuyết mà núi lạnh, khéo truyền gia pháp mắt đầu lâu, xảo huyễn thần thông viên thịt đỏ, căn tùy lại vậy, đánh đục không sẹo. Núi phủ tuyết chừ một đầu bạc, nước Thu sâu chừ hai mắt xanh, quẻ hào mới làm tượng, da cốt tự thành hình, hổn độn phác về trước, âm dương linh chưa phân, đạo truyền Phật chẳng ra đời, nghóa đủ chớ mở đề kinh, ứng chừ mây trăng dùng vậy sấm sét có giữ mà biển chứa chấn non, không ngăn mà đoạn cành bình trôi. Si ngồi thuận vậy, núi không hang khô, lìa nhiệm vào ra, thiên chánh qua lại, ngàn năm tùng của hổ phách chừ ổ hạc mộng lạnh, nữa đêm trăng của san hô chừ kình lộng sóng rét, toàn công đều hết, mượn đường nào khó, chuyển bước mà xoay tùng lâm vậy, bờ bờ hòa khí, buông miệng mà nói sông Hán vậy mênh mông vọt sóng, đường gặp tác giả, ai dám cùng khi. Khéo truyền ở chân, chuyển nghiêng mà thần, gót đỏ kiếp không đường về đi, đầu bạc nhờ bạn người chẳng đến lại, không tâm phân vật ngã xứ nào dính căn trần, khói liễu oanh hoa ồn mênh mông, thời tiết thái bình đại gia Xuân. Tỏ rỏ tròng lạnh, li ti tóc mai gầy, dáng của hang gò, vận của ráng khói, ngồi yên tâm không, sum la mà hải ấn, trung rổng vậy, càn mà thành ly, trong động vậy cấn mà biến chấn, mây trôi mà dụng nổi, điện chế mà có nhanh, người thợ săn chẳng rước bụi trần, tổ Hoàng mai thân truyền cúi trông. Tâm chót vót truyền, rành rẽ quên duyên, hoa rụng sương bạc, may rải núi xanh, kiệu ngọc thỏ đẩy mà rửa mở sắc đêm, lồng bạc hạc ra mà bay qua khói lạnh, mượn công rõ vị, nhờ bạn vào triền, ưng không sản mà lý đến bình đẳng, dụng chẳng cần mà đạo đó tự nhiên, cùng gặp người biết, bèn cho mở tay. Đảnh tuyết chống Xuân, mắt lạnh bắn người, áo tơi sông hồ mưa, đẩu phù sông Hán ngập, vụng quên có chừ ôm bình, khéo chẳng truyền chừ bánh xe xoay, chim hang hoa núi tự thanh sắc, mười phương hiện khắp sát trần thân. Khí mạo vời vợi, mắt mày ấm áp, một mạch đó phân phái phát nguồn của Côn Lôn, trăm sông đó nuốt sóng lạc căn của san hô, gió khói trong xa sẹo của Thu, cỏ cây tươi tốt ân của Xuân, thoi của vách xưa chừ cốt của sâu rồng, ngọc của đầm lạnh chừ hồn của trăng đêm, râu già mai suy, đảnh tuyết cằm tơ, đầu vuông tợ đẻo, miệng chậm như chày, gặp nhau nhàn thọ dụng, quen ăn rơi tiện nghi, giày cỏ giá tiền trình tôn túc, nước tương tiền trả ngọc lão sư, pháp chẳng xứng tình chừ, bình đẳng được học của định tuệ, tâm không chỗ trú chừ, tự nhiên thấy thời của ly vi. Tùng đá năm lạnh, mây trăng cao nhàn, đồng tuyết trên râu tóc, sóng Thu khoảng chặn mày, dùng giữ chuôi trí, lắng vào vòng đạo, giác tâm rành rẽ, việc huyễn lổ lang, cỏ cây tinh thần chừ, phong lưu tự được, tùng lâm khí tượng chừ tin Xuân ai lận. Tuyết lấn rể tóc, Thu sinh khóc mắt, trăng sáng khách đầu suối, gió trong tăng trên lầu, sóng vút đuôi trần chừ dẫm đạp rồng voi, gió xoay sừng dê chừ biến hóa côn bằng, chúa thề Phật sự rất bị người ghét. Ba sông người thật, hai triết khách xả, lắng còn gần lý trí, khéo xúc ra căn trần, dây chim hành cước việc tòng lâm, búa lụt ở núi thân mây nước. Hình hài cây khô, dấu vết mây đồng, chiếu chừ sắc đêm trăng sờ, im vậy đầm không Thu vào, ba ngàn cỏi bày nửa thân, chín muôn dặm thành một hơi, tùy loại ứng duyên, nào những trăm ức. Vời vợi núi có vết Thu, nhạt nhạt mây không cội cũ, vào cực đáy của nhất mặc, ra thành cửa của tam muội, dụng chẳng cần, lặng như còn, lắng chẳng trong chừ khuấy chẳng đục. Sơn đen tròng mắt, thiếp và nghiệp da mặt, trí lắng trăng tạnh cùng chiếu, thân nhàn mây đồng chẳng ngăn, gần bôi nắm tay trần tôn túc, nỏn nà đầu gật vương lão sư, kim chừ chỉ chừ sáng khâu tối vá, âm chừ luật chừ tự đánh riêng thổi, đạo ấy là ai, cháu của phù dung chừ con của Đan Xuất. Núi vời vợi tuyết sớm, sông thăm thẳm Thu trước, lắng vậy ứng của hang rổng, động vậy của mây nhàn, tự gần phương ngoài chuyên lặng, ai cùng trong hoàn đến chơi. Dáng của mây núi, vẻ của nước trăng, dung của biển lớn, lượng của thái hư, nhận vậy đích đích vô tâm, ứng vậy đầu đầu lìa tướng, tuy duyên có chiếu chừ, diệu mà chẳng vết, suốt đáy mất nương chừ, không mà chẳng rổng. Im có tâm truyền, ngừng sắp cùng trông, ổ khói hạc mộng, hang trăng cóc lạnh, trong lắng muôn duyên giấu lỗ mũi, trông cười trăm việc thấy đầu mày, mà nay râu tóc điểm nữa bạc, hướng đạo tùng lâm trải trăm khó. Chỉ là người ấy, đến xứ phân thân, trăng khoảng giữa muôn sông, Xuân trên đầu trăm hoa, chẳng ngoài một pháp, chẳng nhận các trần, sinh xứ thục vậy sơ xứ thân, lúc im nói vậy lúc lắng thần. Bát bồn dính cơm no lại mừng, gậy chống vào tay đói buông sân. Một tướng không tướng hư không đồng lượng, một thân nhiều thân vật tượng đều Xuân, động vậy mây ra núi, lắng vậy thần ở hang, hiện hình nói pháp vậy cõi cõi trần trần. Nhìn nhìn biến thái hào đoan, gió Xuân chẳng lở tuyết đầu lông, sắc Thu tự xoa tròng mắt lạnh, cười thêm nhìn lỗ hai mày rung, tham no da bụng ba ran rổng, ngồi cong sàn cây, nắm gậy dây chim đúc khuôn dáng của Phật tổ, tràn khí tượng của tòng lâm, ngơi đến miệng hổ vuốt râu, ai lại dám đầu rắn gải ngứa. Núi, lạnh đeo vết tuyết, tin Xuân vào rể hoa, tạo hóa há không cán, phần kẻ hèn tự có cửa, hiện hiện ẩn ẩn vậy đều nhờ ân đây. Đầu lâu rỉ khô, lỗ mũi thấy rổng, trống không ba khoảng chẳng lập hào đoan, mặt mắt gió sương giết, thân tâm trăng nước lạnh, tình trần sạch hết chừ muôn tượng đều trông. Mây lạnh tự cao, mắt đói khá lớn, dây chim gầy nắm tay, gỗ cong im ngồi yên, không lời mà riêng linh, có xướng mà ai hòa, Thu sờ sắc nước chừ, trong sạch vết sẹo, Xuân vào cành hoa chừ khéo quên trình khoa. Tóc suy nửa bạc, mặt cười điểm hồng, nước đồng Thu không tượng, tòng lâm Xuân có công, hoa tốt phân bướm mộng, trời xa mất hồng bay, mượn hơi phân thân mấy vậy, cùng theo Nam Bắc Tây Đông. Đầu lưỡi thịt một miếng, miệng môi da hai mảnh, có lúc nói đạo đàm thiền, chợt vậy sấm oanh chớp chế, muôn cơ ảnh tiêu, một sắc công chuyển, xưa nay không vật gương chẳng đài, Hán Hồ chẳng vết nào chỗ thấy. Gió xem si lắm, hài già sinh, góc mày râm biết nặng, hơi mũi lắng lại trong, trời đất chưa hình tượng, một điểm tròn sáng, sương rửa đẩu ngưu ướt, Thu tạnh sông Hán giăng, chớ đem hào hốt sẹo không tánh, hướng đạo trong hoàn thái bình dài. Thân tâm bình thường, mặt mắt tro cỏ, im nói một câu, sáng tối toàn gồm, cơ như chớp lóe trên trời, động phát dương sấm của trong đất, biến hóa cùng thông có nhiều sự, hướng đạo cùng theo cái gì lại. Lặng ngồi giường hồ, lâu mà càng thơm, im mất vết đen trắng, ng- hèo chẳng biết xanh vàng, trú không tướng chừ che giấu của rùa, hành không phô bày chừ liệng của chim, trăng tỏ rõ mà cá nuốt sáng, hoa thơm thơm mà ong hút âm, cùng theo lại vậy xúc xứ ràng rành. Dưới mày mắt sâu, trên trán cốt nhô, nói thiền miệng hẹp, thọ đạo tâm không, nhàn nhàn không mánh khóe, im im có gia phong, mảnh trăng rửa lau Thu lại bạc, trăm hoa chấm nhiễm Xuân hay làm. Tối mà sáng, rổng mà đầy, nước cùng sắc trời Thu, trăng trào lưu đêm ngày bình, không tại chẳng tại, không sinh chẳng sinh, các trần tùy dạy đổ, muôn hóa được dọc ngang, im im đại toàn chừ vách treo miệng nhàn, đành rành chánh thọ chừ ai dán tên xấu. Dạng sư tăng ấy, mặt mắt đáng ghét, danh sờ lại chẳng tợ, che giấu lại nào từng, hư không rổng không công phu treo kiếm, biển xanh sâu có mánh khóe khêu đèn, đẩu tẩu đầu-đà đủ, linh lung đạo giả cao, vào Mân hỏi gì như cái năng. Tâm nhàn chẳng bị thân ngại, cơm no vẫn ghét lắm lời, diệu ứng các cơ sống cao vợi, im truyền một câu tròn đà đà, trình tợ xong vậy, lại cùng biết chăng. Ống mũi thẳng vành mắt sâu, lúc im tự biết đã mất miệng, xứ diệu ai hợp cùng truyền tâm, bèn cho thế chỉ như nay, trong ảnh biện lấy chừ cửa treo rừng tàn. Cái hình nghi ấy, gã cơm tùng lâm, núi Xuân có tuyết tóc suy bạc, nước Thu không gió mắt lạnh xanh, khéo rõ ruộng đất, sạch dơ sân cửa, muôn duyên chẳng cậy sống vời vợi, một sự chẳng dính không linh linh, cầm tay cho thuốc chừ ai tìm cỏ gốc, hỏi bến chỉ nguồn chừ tự được kinh tranh vẽ. Hình nghi nhạt như, bụng dạ rổng không, lười chẳng học Phật, dốt chẳng biết sách, lắng ứng các duyên mà không ngoài, im dung muôn tượng mà có thừa, bằng vật mà mộng bướm, vui tánh mà trông cá, hắn chính là ta chừ ta chẳng là hắn. Linh linh một vật, danh mô phỏng mà được, kình lớn ở vực của biển xanh, thỏ già nằm hang trăng sáng, đã bày chẳng thẳng, kéo ngay làm cong, chỉ đành lúc được hội cũng không, chẳng phải uống sắc chừ song lục trong mâm. Tợ thì chẳng phải, phải thì chẳng tợ, động chừ mây trôi, lắng chừ nước dừng, năng tùy duyên chẳng tùy loại, trên trăm đầu cỏ tìm lão tăng, trước trời đất tự thôi, chớ đem cái hình hài nay uổng treo môi răng kẻ khác. Lặng đè hai da, mừng nhướng hai mày, dáng Thu sắc nước trong, tin Xuân náo cành hoa, què chân mất tay, ngu ngu si si, xoa chạm gia phong chừ lỗ mũi xếp rủ. Nghe tên chẳng như thấy mặt, đô lô là một cái, gió bụi nơi ồn thường nhàn, đi chợ lúc sang chẳng hèn, ngọc tròn chẳng đánh chuyển, vàng ròng lâu mài luyện, xúc phạm cơ phong chừ, trời xanh lóe chớp. Râu tóc già thế, mày mắt trong sáng, Thu sinh trong nước đồng tuyết chiếu trên núi lạnh, tâm của biển lắng, lượng của nuốt sông, đầu đầu chẳng sai cơ nghi, xứ xứ cùng đến ổn đáng. Nương dạng vẽ hồ lô, gặp nhau biết hay không, luống qua rồi thành phong (đầy) mài kiếm, trông được phá hợp bãi trả châu. Tóc bạc lạnh núi có tuyết, mắt sâu giếng Thu lắng sóng, đục hỗn độn nào mất đại đạo.Nguồn Côn Lôn tự phát sông dài, một cười mười phương việc ba đời, chẳng ngại tùy xứ Tát-bà-ha. Núi cao tuyết sớm, sông sâu Thu trước, công luân cùng tột lùi một bước, trắng đen thời trước gầy một đàn, theo nhau lại vậy lại biết chăng, Nam Bắc Đông Tây được tự do. Thân chừ lá chuối, miệng chừ dây sắn, tuyết xin cơm người trời, sáng truyền đèn Phật tổ, cơ sống làm Xuân tượng, niệm lạnh sờ gió cao, kim vàng chỉ ngọc chừ ai ta sợi sợi. Tóc trắng màu tuyết tàn, mắt mang lạnh của Thu sâu, núi Xuân chưa ấm, nước đồng không sóng, gia phong sờ lỗ mũi, việc tốt lên đầu mày, nhân duyên ba đời chừ, nửa thân mà ứng, cỏi biển mười phương chừ một hớp mà khô. Lạnh ngồi không nói, dây lẽ tại tay, mảnh tim ngoài các tượng, một câu trước muôn cơ, thân nhàn mắt sống, mâm trơn châu xoay, hư không nên không vách chẳng ngại, giải rõ mười phương duyên ba đời. Đạo tùy duyên mà chẳng đổi, nguồn đến sóng mà chẳng khô, ăn của thiền duyệt chừ no bụng đó, tòa của pháp không chừ xếp chân đó, Thanh Nguyên tự mừng có sừng vảy, Hoàng Nghiệt ai ghét vuốt râu hùm. Nước đồng Thu trong, cóc lạnh đêm sáng, khí tượng năng rổng trắng, gia phong tự hổn thành, mũi khoái ống thẳng, mắt sân mọc sừng, thái hư đồng thể mà chợt rụng, muôn tượng đồng dụng mà cao vời, nhân gian có cơm no đảy da, im im ngu ngu tạ thái bình. Dáng già rủ rủ, năm tháng lấn khinh, nửa đầu sinh tóc bạc, cốt gầy da vàng bao, tình nhàn dùng mà sống, câu diệu im mà biết, sông rộng sao lạnh mây đêm lắng, trời không bốn vách gió bay bay. Mày rủ mà nhướng, miệng im mà vuông, rõ thấy đáy nguồn, cực tịnh phát sáng, hồn trăng bày sắc đêm, khí đẩu rửa sương Thu, ai ghét trên mắt sân mọc sừng, ta nói trước cơ ảnh chẳng rõ. Nhìn lỗ thế nào, tóc tuyết râu sương, Thu sáng hang trăng, Xuân phát bình băng, diệu hết lại dời bước, công quên liền buông cày, nhón lại tùy xứ thành tông yếu, hướng đạo người đây đức chẳng côi. Tóc bạc trên đầu, mắt xanh dưới mày, tuyết điểm rừng thông, Thu sáng nước đồng, muôn tượng tự cùng đến, một linh lại chẳng nhờ, im im một trần vào chánh thọ, rành rành các trần tam-muội dậy. Sạch mà trong thuần không một trần, thuần mà trong sạch có muôn ứng, tròng mắt sáng lỗ mũi ngay, lại sắp bẻ gân quậy biển cả, khiến cá rồng kia biết nước là mạng. Bể chứa trấn cao, sâu chừ cao chừ, im im mà được loại đó chẳng bằng, một mũi thẳng hai mắt thấp, ảnh tượng ngươi năng nửa bày, nói năng ai được toàn đề, Thiếu Lâm chín năm chừ si ngôi lạnh buot. Tóc bạc tinh tinh, cốt gầy khí trong, tuyết xâm núi trọc lóc, Thu tại nước đọng sâu, trôi hổ phách chừ khe tùng già, chiếu san hô mà sóng trăng sáng, ảnh rơi đại thiên rồi vậy, nào ngại xúc xứ cao vời. Nguyệt tê bị choáng váng, vụ báo nuôi vằn, có thông có biến, hoặc hợp hoặc phân, đêm lạnh sông rửa đẩu, núi nhuần đá sinh mây, diệu lắng trước thể sáng rành rẽ, từ giao thiên hạ vui hớn hở. Chẳng lạnh chẳng khô mà thu suy, chẳng sạch chẳng dơ mà Xuân lại, thần hư mà ứng, cơ phát mà xoay, phân thân Di-lặc, chấp tay Thiện tài, khảy móng phát tiếng chừ lầu gác cửa mở. Thân tâm trong yên, mặt mắt lạnh nghiêm, ổ khói lạnh xanh chim nằm mộng, gió sóng xanh sạch cá dạo ngầm, mênh mông chừ trông nghe tự diệu, nhàn nhã chừ thanh sắc chẳng dán. Nhìn nhìn khí vị trải khó khăn, trăm thành tim mật lão, Ba-nan- da bụng khoan, chiều Thu sông dài nhạt, sương trong bắc đẩu lạnh, há miệng hòa hòa chừ ghét lời lạnh, chấm chấm lòe lòe chừ thôi định gặp nóng khinh. Rèm sương tả dáng bệnh, cây lạnh được Xuân muộn, ở núi tự chịu buộc ba nan, trần lập mỗi phiền chau đôi mày, đầu trâu chẳng lười, đầu hổ chẳng si, cái việc mười thành lại tự biết, cơm bít bụng đói áo che rách, chẳng ngại rỉ rên con xuất gia. Núi gầy lạnh sớm, cây già khô trước, tâm ngầm ba cõi không, niệm động một trần chợp, thái hư ai cùng tăng thêm, muôn tượng nào từng khuyết thiếu, dừng như thần cốc tự biết, chịu đem thân nhàn cùng quấy nhiễu. Không tượng mà tượng, có nhiều khuôn mẫu, chẳng chân mà chân, chỉ cái hình thần, chợt trong vậy ngàn núi muôn hang mà Thu, sáng đẹp vậy các trần trăm cỏ mà Xuân, cái gì lại chừ xứ xứ cùng thân. Lẳng lặng mà biết, linh linh là ai, không tượng mà riêng còn lỗ mũi, có câu xứ chẳng treo da môi, đêm lạnh tinh hà rộng, sương trong chuôi đẩu buông, tùy duyên ứng thế vậy vừa đúng cùng theo. Mặt mắt núi rừng, thân tâm trăng nước, tuyết nào sớm mà hang xưa cao, Thu tợ trước mà đàm lạnh sâu, đầu có tơ gấm, đuôi chỉ kim vàng, ai bảo đạo lớn tự có biết âm. Thần lắng khí trong, tâm không mắt sáng, trong các trần chợt rụng, trong muôn tượng cao vời, đi thìø tùy, đến thì nghinh, ba đời dọc mười phương ngang, gió thổi bèn ngã phải tin nhau, vừa đúng ai từng cùng vật tranh. Râu tóc suy bạc, tuyết điểm rừng lạnh, mắt mày lạnh xanh, Thu sinh khe củ, ứng đó có thừa, dụng đó nào giới hạn, sóng gió chẳng quản chừ nhàn tợ hải âu nổi, nước trời liền nhau chừ xa theo nhạn về. Miệng vụng im im, thân nhàn vắng lặng, đi ở khéo dắt ấn đó, sống chết ai cùng đồng điều, vuốt râu Hoàng Nghiệt, đoạt gậy Ba Tiêu, mười phương ba đời chừ một câu toàn siêu. Truyền đó mất chân, hiểu đó mà thần, tỏ rõ trí viên mà có chiếu, thanh hư lý cực mà không thân, tâm nảy pháp pháp, ảnh rơi trần trần, một đoạn tinh sáng Xuân trên hoa. Chân đó giả đó, ai cùng miêu tả, tợ ta tợ ai, chớ vào tư duy, đất vuông thành củ, trời tròn thành quy, ba cõi lại không chút pháp thừa, một thân lại cùng mười phương nghi. Mày mắt tỏ rõ, râu tóc xanh xanh, rừng thưa đượm tuyết đồng, khe cũ lắng ánh sáng Thu, gấm thêu ai phân đường thoi nhỏ, lỗ kim mới xuyên chỉ dài, hạc mộng chưa sáng, chim bay không rõ, bằng mua bằng bán trả người đang đi. Sâu lắng mà sáng, chí hư mà linh, ta mất đen trắng, ai làm đỏ xanh, một chấm rơi chốt cơ, muôn duyên hình phân hóa, nước dưới trăng mà sáng sạch, mây ra núi mà nhẹ đầy, khéo ứng vô phương quả như đây, hồi đó tùy xứ lập sân cửa. Dáng cao vót, thầy của vụng dốt, lặng mà mất tượng, động mà biết thời, có miệng cần treo vách, không máy chẳng qua tơ, khí Thu trong mà tinh hà nhạt nhạt, bầu trời rộng mà sao đêm rũ rũ, mặt mày này chừ cùng ngươi theo nhau. Khí trong núi Thu, dụng sáng trăng nổi, một không chỗ gởi sáu chẳng được thâu, mặc chạy nhảy mà khác loại, sống lao nhao mà tùy dòng, trên trời dưới trời mây nước tự do. Thân lẽ mây nhàn, tóc già tuyết bạc, tùng lâm lỗ mắt trong, Hán Hà cửa miệng hẹp, ứng thời ai ngoài các duyên, rơi chuyển tự tiêu một sắc, vời vợi muôn tượng sum la, hướng đạo cùng người bằng ra. Thịt đỏ đục lỗ, cốt khô lót da, tự nhiên vô ngã, người nói là ai, hai tròng Thu chấm chấm, hai mai tuyết tơ tơ, gậy tựa đầu giường chẳng đi các phương hành cước, miệng treo trên vách muốn học người xưa trú trì, vực lắng có câu, thật được không thầy, ong ven núi Xuân hút hoa chiêm-bặc, chim biển mộng nằm cành san hô. Dáng của năm lạnh, tóc suy tơ tơ, truyền tỏ rõ, lắng còn miên miên, Thu không tạnh mà trời liền nước xa, sắc đêm rét mà sông giăng đẩu xoay, bằng mua bằng bán chừ cao đến thấp, vừa quy vừa củ chừ tùy vuông theo tròn. Tượng chừ chẳng chân, chân chừ chẳng tượng, diệu minh trước của bốn đại, tự ra trên của các duyên, chẳng nắm tâm truyền một chữ, có khí lượng nuốt trăm sông, tùy phương ứng khắp mà chẳng khuyết, rõ ràng đêm sáng ở tại tay. Im im gia phong, như như quy củ, khéo chẳng thể dùng lời truyền, chân chẳng thể dùng tướng lấy, tỏ rõ chén trăng, rổng trong bầu trời, vật ngã tình quên chừ ai phân mày ngươi. Trí phải chuyển sắc, sạch lại phát sáng, mắt sống chỉ tự chiếu, mày vui vì ai nhướng, vời vợi rành rành rực rực rỡ rỡ, chớ nói ta chừ gặp việc quay mặt vào vách. Trí sạch mà rõ ràng, thể không mà xa vợi, tâm trời sông nhạt trăng muốn lặng, tùng đảnh tuyết lạnh Xuân chưa tiêu, ba đời chuyển đổi chừ, khảy tay đoán được, muôn năm lâu dài chừ, một niệm toàn vượt, cái gì lại vậy, thuận gió vượt trên sóng. Lạnh của núi chừ mang tuyết, trong của nước chừ ngậm trăng, im mà linh chừ vời vợi khéo còn, lắng mà ứng chừ, trần trần ánh sáng tỏa, thấy suốt ly vi chừ mặc ra mặc vào. Một viên thịt đỏ, thưa thông vài lỗ, chỉ sắc chỉ thanh mới nghe mới nhìn, chẳng mượn ứng mà tức chân, chẳng ngoài hư mà thường chiếu, lâu dài ngồi im mất cơ đời, muôn dặm trời xanh tuyệt chim bay, gọi mày thợ vẽ nào được diệu đó. Tâm được mà chân, vật ứng mà thần, huyễn trú tam-muội, học rõ các trần, tiêu dao tự tại chẳng cùng pháp, mênh mông phóng túng vô biên thân, sáng sáng tỏ tỏ tùy dòng nguyệt, lá lá hoa hoa Xuân khắp nơi. Tình cho đó ngoài chừ nói đường nào thông, hình vỏ đó ngoài chừ phỏng họa nào đồng, một phương sáng có trăng, muôn tiêu thổi nhờ gió, ứng đó mà diệu, dụng đó mà xung, quần sao phò chứ vây quanh về bắc, hướng của dòng nước chừ cong bẻ về Đông. Cây đá hình hài, băng tuyết gan mật, một chấm diệu khó nói, mười phương cơ chưa cảm, rừng lạnh lay rơi chừ, ai vuốt râu của hổ già, biển xanh triều dâng chừ ai thăm má ngựa lão, im im lắng còn, rành rành vốn soi, phát dụng vậy liền càn đoạn khôn, duyên ứng vậy sáng ly tối khảm. Lạnh dính cốt của núi xanh, tuyết đè đầu của tùng già, hình khí trong mà có tượng, vết tâm sạch mà mất duyên, các trần chẳng nhận một ấn Thu toàn, lớn lớn nhỏ nhỏ chừ vuông vuông tròn tròn, thần quán lắng lắng, hòa khí dồi dào, khe ngọc trăng tỏ, rừng quỳnh phát Xuân, vừa đúng tương dung vậy nào đây nào kia, rành rành chẳng còn vậy đoạt cảnh đoạt người. Tâm không trăng cao, tóc bạc tuyết nhiều, khí nuốt trăm sông chừ miệng đó như biển, sóng cuốn muôn dặm chừ lưỡi dậy sóng, một câu chỉ thẳng, ba thừa riêng vượt, chợt sấm phá sâu ra khỏi đất bằng, gót đỏ đạp cầu vồng lên chín tầng mây, ảnh cỏ cười không thuật, lạn kha biết có củi. Mày mắt mười phần tinh thần một đoạn, non cao tuyết tan chậm, cây già Xuân lại lâu, khe cũ khách trăng sáng, núi xanh bạn mây bạc, mượn sáng xứ nào chẳng phân thân, cõi cõi trần trần ai biết gọi. Im im có được. Linh linh không nương, diệu cùng vào ra, chiếu suốt ly vi, muôn tượng đều thâu một ấn, tam-muội khắp tại các cơ, mà nay cái gì cùng đi theo, trọn ngày như ngu chẳng trái ta. Gấp gấp mà Thu, muôn hóa ngầm thâu, ngời ngời mà Xuân, các loài co duỗi, khoảng của trời đất ai tạo vật, phát của then chốt là người nào. Chữ bát mày thấp, bốn phương miệng rộng, sắc tóc tuyết tùng lạnh, ánh sáng mắt rực hang chớp, không của tay nải, sống của then chốt, khoảng đó chẳng mày an bài, trong ấy là ai tạo tác, ảnh cỏ chẳng rõ chừ, khéo xúc không vết, mất thân chẳng hết chừ, trường sinh có thuốc. Lạnh vậy mà Thu, mắt lạnh tâm ngưng, ấm vậy mà Xuân, miệng cười mày bày, rành rành trí không phân biệt, vời vợi nhân chẳng nghó bàn, mất cơ trả phác, được dụng lại thuần, khéo của đồ họa, nào có thần đó. Thu vào khóe mắt, Xuân sinh lỗ mũi, kềm vùi cứng ngoài, tiêu, đảy rổng trong, máy đời vụng của ôm hủ, đạo dụng khéo của đục bánh xe, ong hút hoa phòng chừ, sáp tỳ gây mật, tê say bầu quế chừ mũi thỏ lưu thông. Héo héo đầy đầy, què chân thiếu tay, dụng miên miên mà mây trôi, cơ rành rành mà điện chế, có lúc ngậm miệng nuốt sắt vậy, học ở núi bó cật, sinh chừ chẳng sinh, diệt chừ chẳng diệt, trăng của nước Thu chừ, tuyết của núi Xuân. Thân tâm tự nhiên, tùng đá mất tuổi, Xuân mây nhàn tợ hạc, Thu nước xa liền trời, rổng năng ngoài ứng, im giữ gia truyền, Đông Tây Nam Bắc cùng khắp bằng nhau. Một đống thịt đỏ, một đảy tanh hôi, vật nào dính ở trong, có ứng phát ở ngoài, khéo vào các cơ, im thành tam-muội, cái lúc buông tay dứt trước bờ, mới thấy hổn luân đánh chẳng nát. Giáo bày không dấu vết, tán đó tuyệt sườn bờ, mới phát danh ngôn bèn thành hình đoạn, trăng lau lẫn xứ cò kêu, trời nước liền lúc nhạn mất, mà nay đói hiện mười thành, hướng đạo chỉ được một nữa. Thanh bạch mà dạo, giang hồ Thu của gió trăng, biến thái mà thần, mây khói Xuân của cây cỏ, thể đó mà chân, dụng đó mà thuần chẳng Phật chẳng Tổ mà năng Phật năng Tổ, chẳng trời chẳng người mà năng trời năng người. Bốn đại không dơ, năm uẩn ngoài lại, trí tuệ còn về cha, nhân duyên đầu chẳng mưu, núi tây lạnh dưới trăng, biển Đông xoay sóng đêm, mỗi mỗi căn trần khéo xúc sự, ngàn ngàn tay mắt mở tùy nghi, chúng sinh thế giới rõ như huyễn, ảnh tượng nào trét linh đài tôi. Nhìn nhìn tâm không cốt lạnh, cây khô ấm chưa phát, đầu lâu trơn rỉ khô, Thu vào khóc mắt, Xuân sinh chót mũi, cùng gọi cùng kêu biết âm hội, làm ngã cán giết trước của ta. Cái đó người nào, khí trong cốt bần, mặt mắt ráng khói, tinh thần gò hang, nhị nghi tự nhiên một thể, muôn tượng há cùng đồng trần, trên sàn toàn oai trán bạc, đầu câu xứng ý cá cần đỏ. Ngươi là người nào, áo thâm bao thân, lắng ở trời không bốn vách, có xoay trăng đeo lớp vòng, mộng trong cảnh bướm nhàn có thú, lộ lớp ngực ve sạch không trần, cùng theo hóa sự vào giếng triền, trăm cỏ trên đầu gió khói Xuân. Dáng xưa mà lẻ, khí trong mà gầy, Thu sinh rừng hốc, trăng tại sông hồ, thể của thấy đạo đầy mà rổng, dụng của tùy đời có mà không, Phật Phật Tổ Tổ chỉ cái khuôn khổ. Tónh mà thuần lắng mà còn, hải nhật cây san hô, um tùm rể hổ phách, gia phong truyền cha ông, sự nghiệp giao con cháu, xoay đường khéo chạm rõ cơ dụng, cái là trăm ngàn môn tam-muội. Rừng lạnh khí trong, chiều bãi sóng lắng, tượng của tự do cùng theo mà gọi, dây lẽ nắm sơ sài, ba cật bụng trương phềnh chợ náo ai ghét cơ chín, tòng lâm người đạo no tham sống. Thanh bạch truyền nhà, lắng còn trao tay, cây rơi gió cao, nước sáng trăng ngày, hai tròng lạnh dùng mày, mãnh lưỡi nhàn lay miệng, tông thông vậy động nước nghịch dòng, hiếu mãn vậy rượu đảnh tào sơn. Tuyết lạnh phủ đầu, mây nhàn che vai, động tùy sau ngươi, tónh trú trước đó, bên đầu trăm cỏ câu lão tăng, trên đài ngàn hoa thiền cổ Phật, pháp pháp không ngại, tâm tâm kín truyền, sẹo của trăm chiến chừ gió mưa vết ngứa, cày của chín đồng chừ nước bùn xuyên cổ. Lắng còn của thể, sóng dệt cửa biển, mất vết của dụng Xuân vào rể hoa, ánh sáng chiếu hồn của san hô, gợn sóng phái nguồn của Côn Lôn, ảnh động phi phướng, tiếng dấy vượt tường, tónh do ứng nhiều, xung do đợi náo, dáng của kỳ ký chạy của ngàn dặm, lượng của mây mộng mốt của tám chín, khéo của đẻo bánh chừ dự định ai trao cái học của nhà hiếu thắng, thật của ôm hủ chừ sắp tự rưới vườn của trượng nhân. Dáng của năm lạnh, non cao tuyết tùng, lòng thanh bạch, trăng lạnh chuông sương, trồng ruộng lấy cơm, xuân nông của địa tạng, gương sáng chẳng đài, cối đêm của Hoàng Mai, trên đầu trăm cỏ hòa thượng nhàn, mà nay xứ nào chẳng gặp gỡ. Bản thể vô sinh, các trần huyễn thành, tóc bạc tuyết tràn đảnh, tròng xanh Thu tại sâu, khéo xúc không ngại, cơ dụng vượt tình, ngọc chạy chẳng lưu ảnh, hang rổng lại ứng tiếng, im im ngồi lạnh chỉ tự chiếu, trời không bốn vách trăng canh ba. Thần định khí bình, tâm không trí sáng, cơ đó lặng mà tự ứng, dụng đó rổng mà chẳng đầy, đầm lạnh trăng rơi, đêm tạnh sông giăng, nối trọn mất vị tổ, mượn công thành danh Phật, nhân duyên kiến lập đều như thế, cõi trần thế giới cùng chúng sinh. Sâu thoi chưa bay, da dẻ chẳng nắm, hổ già tợ vượn, lực mắt còn oai, đầu râu ổ sương tuyết, lưỡi má cơ sấm gió, khí mát thu cao sông Hán rộng, tạnh lạnh đêm trọn đẩu ngưu sáng, âm dương hào tượng, trời đất phạm vi, nhờ bạn lại vậy, cùng gặp ngõ hầu mấy? Nhị nghi đồng căn, muôn vật một nguồn, cơ sống cối của chốt lắng, tượng thành cửa của cái huyền, sâu mà chẳng tối, lắng mà như còn, dụng khéo xúc mà không ngại, thể chí hư mà không sẹo, vết xe ra cửa mà cùng qua, đào lý thành lối mà chẳng lời. Xuân của cây khô, buổi của Bàn Đào, thời tiết tự nhiên, chẳng phí tinh thần, nếm mổ hang phụng của đan sơn, dạo đạp bến rồng của đào hoa, một cơ rành rành, tam-muội trần trần, vật của trong mắt mắt trong vật, trong thân ra cửa thân trong cửa. Rổng thông tánh tình, hang rổng mà chẳng đầy, buông tan da ngực trọn nhuận mà chẳng ngưng, cái gì lại vậy, xúc xứ tương ưng. Mây gấm chiều tạnh, trăng ngọc đêm tỏ, diệu tâm không trú trú, huyễn sự chẳng sinh sinh, khoảng trời mờ mờ chữ nhạn mất, vết sáng lóng lánh sóng kình yên. Tỉnh lại lắng còn, triều lùi về rẽ của san hô, trí theo dụng chạy phái phát nguồn của Côn Lôn, sáng đẹp cỏ cây dâng tượng Xuân, đêm tạnh cá rồng nuốt hồn trăng. Núi hướng nhạc chạy, sông rảo biển nuốt, thuyền nổi nước mềm có lực, nhạn mất khói lạnh không vết, hai ba bốn bảy câu của truyền trì, trăm ngàn muôn ức môn của biến hóa, vãy tay trao tay, biết ân báo ân. Tiết lẽ lão toàn, tùng lâm năm lạnh, cơ dụng ngàn biến thời sự trăm khó, ngọc qua lửa mà càng nhuận, sen đẹp nơi nước mà thường khô, cái lười của đầu trâu miệng treo vách, bàn luận của đuôi trần lưỡi vụt nát, xúc sự không ngại chừ hư không khua kiếm, các ảnh chẳng dán chừ ngọc sáng lăn mâm. Tiết già hết phóng túng tùng ngạo tuyết, chân trí chứng lý, rồng ngâm mây, no tòng lâm mà trương sề bụng, thiện tri thức mà cao tài ngực, Xuân thành muôn vật chừ bình đẳng không tượng biển nuốt trăm sông, chừ tự nhiên có dáng. Trí lắng dụng xung, đạo sáng thể không, thanh bạch chuyển sắc, sâu nhiệm mượn công, trong câu nhất thừa nào hồi hổ, trên đầu trăm cỏ lại xa thông. Nhìn của đầu hổ, dung của đầu trâu, vừa si vừa lười, chẳng mưu mà đồng. Thu của sông hồ, trong vào hai tròng, Xuân của cây cỏ, ấm sinh hai môi, đầu lâu dưới mày mất tự chiếu, trên viên thịt đỏ người không vị, cửa cửa được dụng, bám nghề theo thân. Quán nhân duyên thân, lá chuối chẳng bền, ngộ đời huyễn hóa rụng của cây cẩn, buông khí của tùng lâm chừ, thời tiết Xuân dài, chia đèn của phòng kín chừ ánh sáng chẳng đêm, ứng vật hiện hình thấy nghe nhàn rổi. Tiết cao vợi mà lẽ của tùng già, tâm không không chừ gầy của rể tre, khí của tuyết sương, thân của gò hốc, đi lại của mây nước, khuôn phép của tòng lâm, buông mở lại thấp cùng biết cũng không. Mây thừa tiêu ở rổng tạnh, mãnh trăng lên nơi chén Thu, sáng trong hang hốc, ảnh hiện sông hồ, khác của trong loại, thù của trong vật, hổ sinh ba ngày ăn khí trâu, ngựa chạy ngàn dặm theo ngựa mẹ, thường âm có dùng, đức gần chẳng lẽ. Thân của hư không chừ khắp mười phương, tâm của Phật xưa chừ vượt ba sáng, được đó mà giấu, cao thay như Thu chừ, trăm lượng tự mát, dùng đó mà thơm, sáng thay như Xuân chừ muôn tượng thành chương, đức hình ngoài kích đạo tại khoảng giữa. Cõi cõi trần trần tùy ứng hiện thân, trăng của trăm sông, Xuân của trăm hoa, theo nghi tay mắt lẹ, lại ai dám bàn đầu cốt bần, đạo giao đức gần, chủ chủ khách khách. Ba đời hổn dung, cứ xưa nay mà hợp đồng, sáu cửa biến thông, tại ngày nay mà mất công, thả tiền án bánh hồ, buông tay lồng bánh bao, núi Nam nỗi mây chừ núi Bắc mưa đổ, Phật xưa bày trụ cùng kéo gia phong. Tuyết lạnh một đầu, mây Thu nữa vai, vực lặng cây cong, trăng đi trời tạnh, chuyển công năng đến vị, mượn bạn lại vào triền, cơ dụng vậy lìa hư khảm thật, biến thông vậy khôn đứt càn liền. Vô minh mà sáng, vô sinh mà sinh, lắng then chốt sống huyền voi cái thành, tùy duyên ứng dụng tung hoành, khéo xúc cửa cửa tình không ngại. Từ thân ra cửa tức vật khế thần, một cơ rành rành, tam-muội trần trần, gặp trường tạm rõ việc dạo đùa, hướng đạo chẳng không người huyễn hóa. Tâm không quán thân, mắt lạnh đối trần, xưa nay không vật, huyễn khởi thành Xuân, động như mây trôi mà ứng, dừng như hang rổng mà thần, cửa cửa tùy việc được tam muội, cơ dụng dọc ngang người chẳng đẹp. Núi Thu gầy mà trong, Thu nước mòn mà sạch, muôn pháp tự đều quán, một tiếng ứng khắp, vật của vuông tròn dính hư không, tùy lại tùy cho thừa không dư. Non lạnh dính tuyết, cây già ngậm Xuân, riêng linh mắt kiếp không, chẳng ngại thân miếng thịt, khô thiền ba rui chừ tự giữ im đó, chợt sạch bốn vách chừ, ai quản nghèo đó, sum la muôn tượng căn căn trần trần. Núi Thu mà gầy, nước Thu mà sạch, định gò hốc dáng của nghiêng què, bày chim vượn tánh của vượt lay, ly vi thấy suốt gốc cội, động tónh cần nghe rõ, dắt lại trên muôn pháp nhìn, lại mất một đầu tơ thừa. Tánh chẳng xa thông, cơ chẳng nhanh nhẹn, suy lười hẹp thấy nghe, mau chóng mất dáng nhẫn, một điểm Thu trong chừ hoa phù dung nở, muôn thái sống Xuân chừ dây sắn dẫn tràn. Râu tóc gợn xanh, hình dung vết lạnh, rừng Xuân đeo sẹo tuyết, núi mây nhiễm sắc Thu. Ánh sáng một điểm chừ, trai có chứa ở hoa trăng, thanh tịnh tám dây chừ chim chẳng bay mà trời biếc. Lại đó từ đâu, mây nổi non lẽ, đi đó đến đâu, trăng rơi nước lạnh, mà nay xứ xứ cùng theo đi, đích đích lẫn thân là tròng mắt, muôn tượng sum la cùng làm dụng, chẳng chịu ruồi bùn dán lỗ mũi. Như khuê như bích chạm văn mất đức, như mây như đá cứng nhuận là thức, trúc xanh vô tâm sắc năm lạnh, tùng già có ngạo lực tuyết sương, chiếu phá các duyên chừ hai mắt như sơn. Khí vũ chợt rơi, tinh thần tiêu tán, trần kiếp ngồi không, đời đời ở rỗi, nhàn nhàn nhạt nhạt mây cây khô, giọt rưới rưới mắt thông thân, sum la muôn tượng đồng cành, chớ nói cá nhân vác ván. Núi lạnh bày gió cao, nước gầy vết cát, kiếp không phải đến đáy, diệu dụng chẳng theo căn, tôøng phái ai truyền y bát, nhà người tự có cháu con. Trong như tùng tre tuyết, rổng sáng Hà Hán thu, tâm sâu tiết già việc năm lạnh, ẩn buông giường hồ dạo im im. Núi lạnh cốt gầy, rừng tuyết khí trong, muôn cơ nghó vót, một điểm ánh sáng, linh đó chẳng thể tưởng tượng, diệu chẳng thể đặt tên im tựa bồ đoàn ngồi trọn ngày, ngươi nói lúc nào chẳng thái bình. Một mảnh tâm rổng, mười phương lấp đầy, luật Xuân hành chừ phát hoa, gió Thu thâu chừ rơi cây, ai điều ai chăn, chẳng tổn thương chẳng xúc chạm, muôn tượng đồng tỏa ánh sáng, thái hư đều không cốt cao, trúng quy củ chừ, Đông Tây Nam Bắc. Mày mắt khe Thu xưa, râu tóc hang tuyết lạnh đi lại tùng lâm ra thân, xúc động dây sắn sinh lưỡi, phe phẩy nắm tay phá ải đánh tiết, mốc biến báo mà cỏ cây sáng, sấm đuổi muỗi mà đá núi rách. Cân của nhẹ nặng, soi của đẹp xấu, rành rành loại mà chớ bằng, đích đích lẫn mà chẳng lạm, thân đời nhàn nhàn, tình ruộng nhạt nhạt, nước Thu lắng lắng, cò sông lồng bồng, một chấm thấu đáy chừ tùng lâm nguồn thẳm, muôn hóa tiến lên chừ dây sắn cành lan. Nhìn vật mắt sâu, nói thiền miệng lẹ, một chấm chẳng dính hư không, muôn hóa ai phân khí giới, ứng các duyên mà khoảng sáu căn, vào các trần mà trú tam muội, nhỏ đó không trong lớn đó không ngoài. Cây già Xuân nào muộn, núi lạnh Thu rất sớm, vực im có chốn đẹp, lắng còn trước trời đất, tónh mất chỗ trú, động giải theo duyên, lau vàng trên hoài bờ Đông Tây, trăng sáng đầu bến thuyền Nam Bắc. Gầy mà lại già, cây lạnh chưa Xuân, lắng mà càng sáng, đầm xưa có trăng, trời xanh xanh mà không không không khuyết, mây nhàn nhàn mà chợt ra chợt vào, nhị nghi đồng căn, muôn vật một thể, chớ phân các duyên đây kia. Mắt sâu mày dài, miệng rộng mặt vàng, trăng Thu phá sắc đêm, khe xưa ngậm ánh sáng Thu niệm nẩy tự được tượng hiện ẩn, công chuyển chẳng rơi phương lệch chánh, nhón dậy năng lại ứng có dụng, kẻ xoay xúc xứ bày rành rành. Im mà chẳng ngưng, chiếu mà chẳng lưu, quan hệ hư mà sống, cơ luân chuyển xứ sâu, mây nhàn nhạt mà không mưa, nước đồng trong mà có Thu, cần đem bình đẳng một tướng như, dán tại đầu sum-la muôn tượng. Núi béo ôm mây, nước sáng rửa trăng, động theo thiên chánh lại qua, tỉnh thấy ly vi hiện ẩn, được cội nguồn của muôn tượng, biết hang hốc của các duyên, cùng theo lại vậy, chẳng sót mãy may. Trán cao cốt nổi, mắt sâu tàng thần, các duyên hốt hợp, một im thật ngon, tự được hổn thành vật ngã, ai năng bẻ nát căn trần, chẳng lại mà lại chẳng thấy thấy, hiểu mới biết âm thượng nhân kia. Tóc bạc nữa núi tuyết, tròng xanh hai mắt Thu, đích đích y trong vòng, miên miên dạo ngoài phương, hư không nói pháp nào cần miệng, muôn tượng sum-la tự gật đầu. Im im mà dạo, như như mà nói, cá lội đáy khe Thu, hạc mộng trăng đầu tùng, đại trí mà ngu chừ, đại khéo mà vụn. Lông đầu như hơi bạc, khuôn mặt khá là béo, tùng lạnh nghiêng què chừ tuyết tại đảnh, núi khô sẹo gầy chừ Xuân thêm áo, ngồi giường nắm gậy, mây rống chớp bay, vết sáng đã bày vậy là ai thấy ư?. Tóc râu già bạc, mày mắt cùng sầu, sáu cửa lạnh soi tuyết, một điểm lạnh sờ Thu, nơi khô dính gót trong ồn chích đầu , chốt lắng cơ sống chừ toàn buông toàn thâu. Mũi tợ cắt ống dài, mắt như chấm sơn sáng, ngồi giường cầm gậy chống, Hà Hán đêm lại sương, mây núi xanh xanh nước trời mênh mông, mắt Thước-ca-la ba góc, thân Thuấn-nhã-đa mười phương. Mặt mắt gió sương, thân tâm ánh Xuân, dùng thủ đoạn của giết sống chỉnh giềng mối của tông tổ, thu sinh nước đồng cá ngầm ẩn, trăng tại tùng lạnh hạc mộng dài. Cơ phong chẳng bén, thần quán chẳng trong, một chấm sau tro lạnh ba thừa gọi chén nóng, lịch đại Tổ cổ họng nắm chắc, mười phương tâm thủ đoạn buông đi, gió Xuân cắt cắt chừ vật tượng ngời ngời. Diệu của ngậm im. Vốn sáng tự chiếu, chân của soi vật trong mắt có gân, nhanh của hơi ra, đầu mũi có lỗ, căn của thấy đạo, yếu của đức tượng, xứ xứ tương ưng chừ chẳng thừa chẳng thiếu. Tình thái khoảng mây, thân tâm trăng lạnh, lỗ mũi nhanh ra hơi, đầu lâu trơn rỉ khô, vãy rồng dạo đạp chừ mưa đổ sấm rống, côn bằng biến hóa chừ, biển chuyển gió đánh. Diệu xứ khó truyền, sáng sáng trước tượng, sáng ngưng trăng tuyết, Thu liền nước trời, trăm ức phân thân tùy ứng sự, lại hiềm xứ nào chẳng chu toàn. Tóc bạc non tuyết lạnh, tròng xanh khe Thu xưa, thân tâm trăng sáng sờ đất ruộng, Hà Hán sương trong tẩy đẩu ngưu, biết vàng thau dùng chày móc, muôn hóa khu phân đầu gậy chống. Lắng ngồi giường hồ, khoảng nắm gậy chống, chánh niệm cắt tơ có, dậy nà không kỷ lưỡng, châu xoay trong mâm phỉ thúy, trăng tại trên cành san hô. Lúc im nói lúc nói im, mây trắng không định tâm, núi xanh có cốt lạ, nữa đêm trăng dời chừ thỏ già đẩy, trăm sông sóng lạc chừ kình lớn mất. Người ở núi, bình sinh quen bần, lạnh khô cốt xanh chướng nhàn nhạt thân mây trắng, đầu cây không ảnh chừ bày hạc mộng trăng, chẳng nẩy trên cành hái Xuân hoa ong. Riêng người đó khuyết tinh thần, gia phong trời xanh mất bốn vách, sự nghiệp mây bạc khoảng một thân, bến của khe xưa, Xuân của cây khô, nước cong bẻ mà về biển lớn, hoa lần mà đến giờ thơm. Im im mà ngồi, Phật Tổ khám phá, người lạnh cá lặng, trời không chim bay, nữa đêm mất trâu, bình minh lấy được lửa, chợt cuộn chợt, buông không thể chẳng thể. Tướng đầu nạp tăng, chẳng thể hướng gần, cúi mà dưới chín vực, ngưỡng mà trên lớp mây, dùng pháp giới là cương, dùng hư không làm lượng, trong chợ ồn Thích đề hoàn nhân, đầu trăm có Hòa thượng Câu Chi. Gia phong ta đến cùng mà thông, báo biến văn mà sương nặng, rồng lùi cốt mà đầm không, chỉ Nam vẽ Bắc, nói Tây nói Đông, gật đầu lay tay, giả cuồng dối điếc. Lông đầu suy bạc, tròng mắt lạnh xanh, miệng nhàn năng nuốt Phật, hư không biết giảng kinh, gương xưa ra hộp, thái a phát ra từ mài, buông được không nương, dụng được linh. Ứng hiện ban ban, đầu không khác mối, ngày Xuân hoa đẹp, trăng sáng nước lạnh, ranh vuông bốn góc đất giường, châu tròn một hướng lăn mâm, trình tợ biết cùng chẳng biết, xin ông chóng dán mắt nhìn. Sâu sâu chìm chìm, tâm chẳng thấy tâm, lý mất ẩn hiển, diệu vượt xưa nay, máy gấm tơ qua chặt không vết, khe ngọc nước trôi lạnh có âm. Bạn hẹn Hàn Sơn và Thập Đắc, vổ tay vừa cười lòng thanh thản. Động như mây ra núi, dừng như thần ở hang, không tâm ngàn thứ dụng, có ứng mười phương chân, thông hơi cùng phiền lỗ mũi, nói thiền chẳng treo miệng môi, ai biết ý trong im im ngồi, nuôi lớn hoa đàm Xuân ngoài kiếp. Tỉnh mà thần, im mà chân, tấc vuông tuyệt bốn vách, đại thiên thành một trần, nhón lại bên đầu trăm cỏ xem, mêng mông hoa hoa lá lá Xuân. Dáng yếu tình khô, khoảng mây trăng lẻ, ảnh tượng các căn cơ, trăm ức phổi ruột không, đầu rắn độc ít người gãi ngứa, miệng hổ dữ ai dám vuốt râu, có lúc biến thái chừ chớp cuộn sấm xua. Im im công phu ruộng tâm tự bừa, meo xanh đầy trên môi, bùn đẻo thừa lỗ mũi, Thiếu Lâm nào từng nói năng, Tào Khê chẳng biết văn thư, ai nói mánh khóe lẫn vụng về, tự tin gia phong vậy chẳng xa. Lắng mà chẳng lẫn, diệu mà còn hoài, nước Thu nào sắc, mây đồng không chân, nửa đêm trời không Hà Hán sạch, thỏ già rửa tẩy hồn trăng sáng. Vẽ ra vị tăng, lạnh nhạt bất tài, lặng lẽ cày ruộng đất, ra sức bừa dây sắn, vào biển trâu bùn tuyệt im tức, qua sông thỏ trăng có góc sáng, dẫn đi trong trần thành hóa sự, lại hiềm xứ nào chẳng tương ưng. Im giữ lạnh khô, tâm tâm thấy mối, lưu ly giếng Thu thấy lắng lắng, san hô cành trăng ảnh tròn tròn, đầu lâu mắt sống chừ vọng thức rỉ khô. Tónh mà không tượng, động mà không công, lắng chừ nước dưới Thu, ứng vậy gió đầu cây, khắp nơi tùy duyên thành Phật sự, vượt tình chỉ cái thần thông đó. Nhìn đó là mọi, nghe đó gọi hiếm, thật sắc thật thanh, nào phải nào quấy, Xuân núi nhuận mà mây nổi, Thu nước lắng mà trăng về, thấy nghe đoạn vết mà bên biến hóa, công huân nơi chuyển mà trong hết huyền vi. Hai mắt biếc, một mặt vàng, đầu lưỡi chẳng khua lỗ mũi khó giấu, thỏ già lặng đùa phách, linh tê thông được sáng, rành rành cơ cảm chừ nào cần tư lương. Vạch gió chừ gò cao, đùa trăng chừ thuyền rộng, một thân chẳng ngăn chừ, thời tiết thái bình, tám dây vô ngại chừ thanh bạch ai bằng. Động của khoảng mây, chảy của nước đồng, thể bình đẳng của muôn tượng, xong một thân mà tự do, cơ luân không kẹt chừ đẻo cán cùng gieo. Hoa năm lá, mè ba cân, ngoài không góc cao chừ trong không mầm yêu, tên đá chẳng phải hổ, rượu cung chẳng phải rắn, mất của ngàn dặm chừ, sai của hào ly, được chẳng nghó bàn chừ, tự gọi só của một khúc, trông tuyệt sườn bờ chừ người gọi nhà rộng lớn. Lời im im, như như dứt lo, nước đồng có Thu, khoang mây không mưa, mười phương ba đời chừ, vô ngã an bài, sáu đường bốn loài chừ chẳng ngũ phải tôi hàng. Trí cực thì giấu, lặng cực thì sáng, rung của sấm tiều tụy, thơm của hướng dương, chiêm vật báu mà mắt man biếc, sửa râu hoa mà ong đùi vàng. Trúng quy trúng củ chừ chợt tròn chợt vuông. Một khoảng thanh hư, mười phân minh bạch, mượn chừ là công, chuyển chừ chẳng sắc, trời che đất chở chừ, thể đó có thừa, sấm rền chớp ngăn chừ dụng đó chẳng lường, lúc tình chưa sinh làm sao cách. Thấy suốt dáng đó nhón ngay láy núi Án, ảnh lưu tâm soi, trí vào vòng đạo, Sư rổng chẳng nghe mà tiếng đó tự khắp, lìa son chẳng rõ mà sắc đó chẳng lận, một chấm tự nhiên chừ, khéo vượt quá vị hiện tại, mười phương bình đẳng chừ toàn gồm trong ngoài khoảng giữa. Xa đó chẳng chân, truyền đó chẳng thần, được mà không được, thân mà không thân, thể ly vi trí của chiếu suốt, vốn che chở nhân của sinh thành, ra số lượng của một hai ba, đồng phân thân trăm ngàn ức, dụng càng sáng vậy mắt của trong vật, khí chuyên dịu vậy khách của trong chủ. Trăng của đầm lắng, tuyết của núi xanh, thanh bạch gia phong linh minh sự nghiệp, trời Thu sạch không vết, mây đồng nhàn chẳng cùng, như nay hỏi bàng quan tạm nói nhìn hàng lối gì? Trước tượng của thể, tự nhiên của được, tâm không có dùng, đạo lớn ai truyền, cóc mặc cây san hô, trai chứa vực minh châu, khảy móng phân thân chừ ba ngàn đại thiên. Sơn chấm hai mắt, tuyết tơ nửa đầu, ủ rủ mất đôi nơi chuyển lại sâu, một loại cao nhàn chừ, mây thừa thâu tạnh, mười phương thanh bạch chừ mảnh trăng sờ Thu. Chủ của núi xanh chừ thể vốn bình đẳng, khách của mây trắng chừ dụng năng tự nhiên, ứng có thừa chừ thần chẳng thể lường, được chọn đó chừ, diệu chẳng thể truyền. Núi Thu cốt gầy, nước Thu thần trong, tùng non lạnh càng xanh, trăng khe đêm lại sáng, linh nhiên cây cong ngồi chẳng nói, bốn biển chín châu đều thái bình. Mặt mắt lạ lùng, khí vũ sâu trong, trăng khe đêm bạc, tuyết tùng lạnh sáng, thân của thuấn nhã chừ ai trước ai sau, mắt của Thủ-la chừ chẳng ngang chẳng dọc, cùng theo lại vậy, nước trôi bình nổi. Trời xanh xanh mà giữa mây, nước sâu sâu mà trăng lạnh, một điểm diệu tự được, buông thả bốn biện dùng sao hết. Râu tóc rủ bạc, da mặt nhạt vàng, trà tỉnh mắt ngủ cơm đỡ bụng đói, tình nông nhàn tự rộng, tâm địa sạch mà sáng, mây Thu mưa sông núi, trăng sáng sương Hà Hán, môn môn được dụng mất cơ giới, cái việc vẹn mười ai che giấu. Tóc bạc mà già, mặt vàng lại bệnh, cùng căn của địa thủy hỏa phong, được cán của thấy nghe hay biết, một khí chuyên dịu, các trần khéo ứng, ngụy xú mà hay quật trần mà tốt, hết thuốc đại địa, rõ trị phương điều hòa, thân khắp hư không biết duyên tánh của khởi diệt. Tónh mà chẳng rối, hoang mà chẳng văn, gò hốc thân tâm mê nai cộng, sông hồ trăng gió cò trắng phân. Tướng của toàn tâm, tâm của toàn tướng, tả thành cái ấy, liền ứng mà nay, trời xanh xanh chừ chim trắng mất, nước sâu sâu chừ cá hồng lặn, trăng câu mồi mây, chỉ ngọc kim vàng. Các việc lo liệu chừ, khéo ra oai âm. Phải chừ chẳng phải, riêng chừ chẳng riêng, nước lạnh chứa Thu, núi lạnh đeo tuyết, ấn gia truyền chừ khoảng giữa không văn, kim thường sử dụng chừ hai đầu không lỗ, thân của dạo đời giữa mây trăng, miệng của nói thiền ngòi Hà Hán, tự nhiên tùy thuận nhân duyên, hướng đạo chẳng trái thời tiết. Bạc của tóc chừ núi cao tuyết sớm, xanh của mắt chừ, khe cũ Thu trước, trăng tỏ rõ chừ tự có sáng thông tê giác, cỏ xanh xanh chừ ai năng đè cứng đầu trâu. Sọ trán cao lỗ mắt sâu, thợ vẽ chẳng biết, ai là tri âm sông hồ rỡ rỡ chừ trăng lại có phách, gò hốc nhàn nhàn chừ mây tự không tâm, mấy xứ gặp nhau chẳng thể gọi, áo tơi nón lá bán vàng ròng. Khí vũõ rổng rang, hình tượng khô cằn, một chấm phủ triệt linh, muôn năm bình không kiếp, dưới cửa Thanh Nguyên biết sừng lân, đầu giường Hoàng Nghiệt vuốt râu hổ, trong chết lại sống chừ, trong sống lại chết, trong không lại có chừ trong có lại không. Sân trời thoáng mà tổ tông sáng, gác đất rộng mà con cháu thịnh, khoảng giữa lỗ mũi, nhà mình thấp, ra hơi thông khoái lẫn chẳng ngăn, khôn sáu ngắn càn ba dài, no kẻ tùng lâm nghỉ mái vàng, năm nay tằm ăn hai lá dâu. Tròng mắt Thu tỏ rõ, tóc đầu tuyết dài dài, cơm bít da bụng no, trà rửa lưỡi má ngọt, nhà hẹp có sắc, cơ sự không kham, bò trắng lại biết có, mà nay giằng co hết si ngu. Miệng của Tỳ-lô ồn rầm rỉ, thân của Phổ Hiền nhàn bay bay, lý không chẳng đủ, sự chẳng cùng nhiều, thuyền nhỏ chấm chấm khói nước nổi, liễu mềm rủ rủ ánh cầu trúc. Nào cần danh cao của khôi đẩu, chẳng tại hào khí của núi sông, có miệng treo vách, mất trâu tấu dao, dọc ngang Phật dụng, phân tấc bầy con. Mây nước tánh điều, tùng lâm khí cao, da bụng buộc cật, bản răng sinh lông, thân mười phương dạng hư không buông, gạo hai thăng đầu gậy chống khêu. Bờ lạnh liễu suy, biếng lười nhìn si, ngồi ổn thật qua kiếp, tâm không Phật là ai, sáng mà rõ diệu, nhỏ mà vào lìa, trời trong Hà Hán rộng, sương lạnh chuôi đẩu rũ, nhờ bạn mà lại ứng cúng, phân thân tại xứ thành quy, bên đầu trăm cỏ Xuân mênh mông, lời của hoàng anh đối cành hoa. Cốt của hang hốc sâu mà lớn, khí của ráng khói ấm mà dung, im đó mà thông, ứng đó mà xung, mây đổ ra hang, trăng tạnh trôi trên không, mười phương ba đời chừ Nam Bắc Tây Đông. Mục tiêu của thanh bạch, trang nghiêm chẳng tiêu, Viên An nằm tuyết, Hứa Do bỏ bầu, chẳng nảy trên Xuân um tùm, dưới cây không ảnh Thu quạnh quẻ, nhờ bạn vào triền lại mua bán, gặp nhau chớ lạ chẳng tha nhau. Mày mắt đất đá, thân tâm lặng lẽ, muôn cơ tự dứt một điểm ai tham, hư không chừ mây tạnh cuộn hang, thanh bạch chừ trăng đêm rửa đầm, Xuân vào tùng lâm chừ dối nói hóa công trăm ức, thần dạo kiếp rộng chừ, cái ý thật vượt hai ba. Mũi thẳng miệng rộng mắt sâu mày thấp, đèn liền Thiếu thất phái tiếp Tào khê, vừa đúng lộn chẳng được, rành rành loại chẳng đồng, vỗ tay chung nói, dốc lực dắt nhau, gió Xuân man mát gió Thu lành lạnh. Tóc bạc mặt vàng mũi thẳng miệng vuông, mây nước tinh thần già, tòng lâm khí vị lớn, rắn xanh lúc bày sao tỏ rõ, chim trắng nơi mất khói xanh xanh, ấn không có cứ, ấn bùn thành chương, nhà nhà trước cửa cây bách con, đâu riêng Triệu Châu năng đối phất. Hai hạng sâu đẹp hai mày rủ thấp, mặt mắt nghiêm lạnh, thân tâm dùi cũ, mây nước dạo mâm, bình thường mộng hành cước, tùng lâm vắng im, trú trì ba mươi năm, cùng Hà Hán ở đỉnh của Côn Lôn, nguồn vực thân đến, nhón chuôi đẩu ở ngoài của hổn độn, Phật tổ còn nghi, biến thông chẳng mệt, thi vi tùy nghi, hướng đạo cỏi trần cơ dụng ẩn, lại hiềm đá lửa chớp sáng chậm. Tóc tuyết suy bạc mà ngày Xuân dài, mắt sáng lạnh biếc mà sóng Thu dâng, đượm của sắc hoa ong mật bận, mộng của bằng vật mà hồ điệp cuồng, thể không ảnh hưởng, cơ động âm dương, đuốc ngọc tónh điều sự nghiệp trời, gió un vạch phẩy văn chương nước, các trần tam- muội phân thân mười phương. Mắt ngang mũi thẳng, khí trong xương lạnh, ngoài tay mắt ứng lược vàng mau, trong thân tâm hồ ngọc chiếu bình rộng, cơ tơ giao dệt chừ, hoa Xuân tấu nhạc, cùng vật ngang bằng chừ mộng điệp tròn tròn, tánh quen suối rừng, thân tâm tin duyên cầu vồng dài Thu mưa chiếu tuyết dựa trời, đầu đầu vật vật tùy nghi nói, cõi cõi trần trần mỗi trú thiền, khéo xúc không ngại, huyễn thành tự nhiên. Không nói mà nói, im suốt nguồn đó, không dụng mà dụng, hư chứa động đó, cùng thông của hang lý, biến động của trí cơ, chiều tà bãi châu cò trắng thề, ngày đẹp vườn rừng hồ điệp mộng. Công chuyển kín giấu, tìm dấu vết mà vô phương, ảnh hiện càng rõ trải nhân duyên mà có thường, thân phân khắp cõi trần, lưỡi chống Phạm thiên lớn, tâm tâm chẳng chạm Bồ-đề dụng, pháp pháp không nương ánh sáng Bát-nhã. Mờ mờ mà giác, toàn chân tuyệt học, miệng biển tự nuốt lưỡi ngựa phải thụt, vườn lộn có sáng chừ thai của trai già, không đồng không vật chừ mai của rùa khô, các việc mà cùng thông, làm nhà chẳng nếm mổ, nói ra khoa mẫu dùng không góc cao, tùng lâm cười nhìn mặt nhau vậy, héo héo gầy gầy ba gậy đánh xoay đầu vậy hẹp hòi cẳn nhẳn. Tinh thần khỏe mạnh, hóa công mẫu thường, ta chuyển một cơ ai trì sáu soi, phải quấy sinh mưu của đoạt ngọc, trắng đen đánh chiếu của Lạng Kha, tạnh rộng mà sông giăng, đầm không mà trăng rụng. Tánh được nguồn vực, cùng thông tự nhiên, đầm lạnh rồng lột cốt, tùng già hạc thành tiên, không tâm mây bạc ra núi, có ứng trăng sáng nổi sông, gặp nhau nhờ bạn đời nhân gian, dạo đùa trần trần duyên tam-muội. Tóc râu suy bạc mà sương tuyết càng sâu, da dẻ xanh già mà tùng quế mổ nứt, hơn bốn mươi năm mà cùng thông một điểm, trăm ngàn tam-muội mà dạo đùa các trần. Mảnh trăng tại nước mây lẻ ra núi, tónh đó mà ứng, động đó mà nhàn, trong thể chẳng muốn toàn bày, xứ dụng chỉ nhìn một ban, lớp lớp lầu gác cửa mở vậy, Di-lặc chẳng cần nhẹ tay khảy. Cốt của đất đá chừ núi gầy, dáng của đẹp đẹp chừ nước béo, tâm không trú mà lại lâu, đức có gần mà chẳng lẻ, hư không nói pháp đá ngu lắng nghe, cùng kéo chứng minh lại rõ rõ, nào phiền Phật tổ phí công phu. Râu tóc suy tàn, núi không tuyết lạnh, mày mắt trong nhạt, nước đồng Thu về, một niệm muôn năm rõ trần kiếp, mười phương ba đời đồng chánh quán, phỉ thúy trời tạnh mà trong hư rổng suốt, san hô trăng biển mà sáng chiếu sóng trào, hiện hình nói pháp ứng cơ cảm, cười chỉ câu chi đầu trăm cỏ. Ngoài kiếp dạo thần, trong hoàn khế chân, u linh tự chiếu tuyệt học làm gần, biển lưu ly biếc, trăng nửa đêm, cây san hô đỏ Xuân năm dài, một hơi luôn dụi hòa quang đồng trần, tâm tâm chẳng chạm việc nạp tăng, vật vật không riêng thân cõi nước. Tónh đó chẳng tối, lắng đó như còn, động đó chẳng lẫn, dụng mà mất vết, vào thấy căn của ly vi, ra dạo cửa của huyễn hóa, xích thủy nên mất voi mà ngọc được, nghề của bồi bếp mới mất trâu mà dao chạy, trăm sông trướng biếc, ba trăng hồng nhiều, biển chẳng mất ở tin sóùng, hoa tự được ở ân Xuân. Mây trắng không rể, núi xanh có góc, tự được một câu khéo ra ba thừa, hòa khí mà Xuân hề trăm cỏ, ánh sáng mà chiếu nối ngàn đèn, vực lắng tâm truyền chư Phật hiểu, gia phong riêng hứa Thiếu Lâm từng. Im mà chẳng ngậm, nói mà dối bàn, Tu-bồ-đề tuệ không rành rẽ, Kiều-thi-ca mưa hoa dài dài, lại cùng cõi trần phân tay mắt, nào ngại cơ dụng thấy dùi kềm. Cá nhân tự được cổ Phật đồng tham. Mây không tâm mà chẳng buộc, hang có ứng mà cùng nghi, lắng ở thông cảm, tròn sáng rõ biết, tánh rộng rãi mà biển có nhận, khí đột ngột mà núi không dời, trăm năm chỗ thân sau cần vật, hỏi lấy Nam dương quốc sư Trung. Hình suy dáng lão, trúc gầy tùng xanh, đồng ăn phụng đan sơn, mây ngâm rồng cây khô, đối cơ lấy gì đáng gương đài, gõ ứng vừa như tùy dùi chuông, rõ không một vật trả cối là ta. Thầy của ngu dốt, dáng của khô khan, núi lạnh giọt dãi mắt già sinh ghèn, ngọc ân đá làm củ, châu dưỡng trai làm quy, ngắn dài cành hoa Xuân thứ lớp, Đông Tây sóng quậy trăng cùng theo. Tóc tuyết râu sương, Thầy non xưa ngồi lạnh mắt không kiếp, cơ sống mày dụng thời, Văn-thù tựa ngã Duy-ma-cật, Đế-thích ngưỡng tán Tu-bồ-đề, như nay ăn cơm đi xuống nhà, ai dám nhàn nhã khinh bậc đá. Thu sinh lông my, mây chứa tóc đầu, thấy qua lại của thiên chánh, được ẩn hiện của ly vi, khoảng khoảng mây của tạnh mưa, rỡ rỡ trăng của rửa sóng, cùng theo lại vậy vào các trần, khéo chạm môn môn tự siêu vượt. Tuyết của núi xa chừ lông tóc suy bạc, Thu của hốc lớn chừ góc mắt lạnh biếc, mây nước gan mật chừ đèn của đời Phật, tùng lâm sự nghiệp chừ mạch của Tổ tông, thoi rồng cơ gấm dao vàng thước ngọc, các trần tam-muội chừ trả ta tự do, nhị nghi muôn tượng chừ cùng vườn bằng ra. Ngàn năm hơi ấm, hổ phách rể tùng, nửa đêm sáng nuốt, san hô hồn trăng, hổn độn đục mở, đức vân xuống đảnh của diệu phong, Côn Lôn xô ngã, trương khiên tới nguồn của bến thề, mây của ra núi ý hàn rỗi, nước của mang khoa dòng thế chạy, các trần rành rỉ, tam muội môn môn, khéo xúc ứng duyên lại ra ngại, thành nhà sự nghiệp giao cháu con. Hình của trời cho, trăng ngời sông rộng, nghi của đất cho núi cao nước thấp, hoa đèn liền có cứ, đào lý im thành hàng, mười phương ba cỏi đời lẫn chẳng được, muôn tượng sum-la loại chớ bằng. Không của trời chừ tinh đẩu lạnh, rụt của biển chừ triều sóng về, cóc đẩy trăng dừng ba cẳng, báo của dưỡng mốc nhìn một ban, nhón ra cửa cửa hỏi cùng biết, tri am gật đầu ứng chẳng xan. Thật thấy không hình, thật được không danh, toàn vượt ảnh hưởng khéo ra trần tình, đêm lạnh sương thấm mà đẩu ướt, trời không tạnh rộng mà sông giăng, không trú mà trú, không sinh mà sinh, theo nhau lại đến gần cửa cửa, lầu gác chốt mở tiếng khảy tay. Tùng già có cốt, trúc gầy không thịt, tóc tuyết phủ đầu, mày sương ngời sáng, Tu-bồ-đề ngồi không mà đàm, Duy-ma-cật cuộn biện mà im, nhón lại xứ nào chẳng gặp gở, mặt trời Phật chừ mặt trăng Phật. Trúc lạnh gầy dài, tùng xanh già cứng, thân tâm sắt đá, gan mật sương băng, trời Thu lặng xa liền nước, khách nhạn mờ mờ mới mất hành, chẳng lại nhờ bạn, tùy sự thành chương. Vẽ ra hình dung lão tăng đáng ghét, Thu xanh mắt tuyết điểm góc mày, ngực thứ có gò hốc, miệng đầu không dây sắn, công quên tự cứ tòa Bồ-đề, chiếu khắp ai truyền đèn Bát-nhã, nhờ sáng thi vi, vừa đúng tương ưng. Thầy của thiên đồng, đảnh tuyết cằm tơ, ba cật kế ở núi, dây lẽ lúc ngang gối, đầm lạnh Thu đến sớm, không rổng trăng trôi chậm, dắt dậy tông gia ấn không chữ, cửa cửa xứ nào chẳng thích nghi. Im mà tàng, diệu mà sáng, vòng trăng hẹp, chuôi đẩu dài, đỡ lại cỏ cây Xuân đượm lộc, đoạt đi sông núi, sương rơi vàng, nơi thích đáng tự nhiên thành chương. Thân của mây nước, người của tùng lâm, lông mày dài che mắt, lỗ mũi thẳng khinh môi, nhàn nhã tây viện hai tiếng sai. Mau chóng Vân Môn một đường gần, chẳng chịu cắt thành trả đoạt ngọc, Tương Như can đảm đối đầu Tần mạnh. Cao vót như thế, lắng còn trước tượng, tào khê mờ giăng vẽ, Thiếu thất lại im truyền, thể chẳng giấu mà rành rành, dụng chẳng siêng mà miên miên, được vảy sừng chừ chân đầu đá, vuốt râu hổ chừ, Lâm Tế điên đầu khoảng rừng, trên vách như nay lừa chống dậy, tri âm tự nhiên nghe nói thiền. Sự chẳng tại dung, trí chẳng đến tông, đợi mây sấm mà đào vách sâu thoi, trao y bát Lô-lão trốn cối, tê thông trăng nửa đêm hạc mộng tùng ngàn năm, tóc trắng dáng xanh lão què gãy, thời nhân cùng cười chuông rồng già. Hình của cây khô, linh của thần hang, nước lạnh nhìn sắc Thu, trời không duỗi sao sớm, một điểm tâm sáng chừ gương chẳng đài, đại thiên quyển ra chừ, kinh phá trần. Nguồn dưỡng mà thẳm, đèn truyền chưa tàn, chiếu phân sáng rỡ trôi chảy gợn sóng, tạm thời lại suy kém, việc khách đâu khó khăn, trên Xuân đốt sẹo, lộc sinh đầu cỏ, không tâm làm nhuận mây dạo núi, có ứng chẳng lưu ngọc lăn mâm. Chẳng phải nơi nghó lường, không trú mà trú, lúc lìa danh tượng, chẳng làm mà làm, hương tượng bơi trong định, cóc lạnh chiếu lại dời, thế gian rành rành tướng hư không, việc người rợp rợp mầy hổn độn, câu tham no làm sao nêu, cơm xong sờ xoa cật da bụng. Ra vào ly vi, cơ của thiên chánh, biến thông động tónh cán của giết sống, bay chảy điện lửa chừ, giữ oai quyền của Lâm Tế, nắp đậy càn khôn chừ, được hiệu lệnh của Vân Môn, cùng theo bên đầu trăm cỏ, vừa đúng mới không thiếu thừa. Rõ tâm phi tướng rõ tướng là tâm, cao cầm mộng cây hổ phách lạnh, trăng biển sáng chiếu rừng san hô, bóng lay gió trúc vang phát chày Thu, muôn tượng sum la đều diễn nói, trên non Bảo Đà có tri âm. Lạnh nhạt nương nhau, thanh bạch trú trì, Thu giăng hai mắt, tuyết phủ đôi mày, thỏ già đẩy trăng Hà Hán rộng, nhạn khách mất khói tinh đẩu rủ, cùng thông có tự, cơ dụng thua ai, tiêu được mà nay một nháy, chẳng cần riêng gọi Sa-di. Im im thần lắng, vời vợi khí trong, trăng của Hà Hán rực rỡ mà chẳng đêm, gió của kiêm gia lạnh lạnh mà có tiếng, gặp nhau bèn nói lời vô sinh, muôn tượng sum la chứng minh. Đèn Phật chưa lạnh, hoa tổ chưa tàn, truyền đó nay đến ngươi, sự đó vốn lại khó, tòa phải các pháp không làm câu, kinh tại mảy trần phá xứ xem, mà nay trình tợ chớ nói khinh nhau. Khéo ra danh tượng, phi tâm phi tướng, hổn dung xưa nay là tướng là tâm, tóc bạc sớm sương dày, mắt lạnh nước Thu sâu, gởi lời hình núi cây gậy chống, mọi người cùng bạn làm tùng lâm. Biết được vốn chân, chẳng theo sinh diệt, mây tạnh xoa không, sóng Thu rửa trăng, trên đầu có cốt, đáy mắt không thịt, trăng phân bóng theo dòng, tâm nhàn mây ra cốc, muôn duyên tròn ứng chừ rộng khắp đại thiên, một điểm linh hư chừ im chiếu sâu riêng. Mắt lạnh mày dài, mũi ngay hơi lẹ, kia kia thường bất khinh, nhà nhà quán tự tại, lắng sáng mà không giữa, diệu dụng mà không ngoài, ai sợ cục thịt ngại thế giới. Trí sáng mà tàng, sạch cùng mà sáng, rắn bốn đại chẳng độc, khỉ sáu cửa chẳng bận, nhân duyên vẫn khéo ứng, cơ dụng càng tốt dài, thăm mặt gặp nhau ngoài nghó bàn, tự nhiên tùy xứ bày rành rành. Im mà sáng rổng mà chiếu mượn dụng chẳng tiếc, hợp thể không điềm, trâu đá nằm mà núi xanh lạnh, ngựa gỗ hý mà trăng sáng sớm, có những người, gặp nhau vừa tốt. Tuyết rửa non lạnh chừ núi rừng khí trong, Thu sinh khói nước chừ sông hồ sắc sáng, như gương sạch chừ đối các tượng, tợ hang rổng chừ tùy các tiếng, dạo đùa nhân duyên dụng tam-muội, tự nhiên chuyển xứ chẳng lưu tình. Mày mắt rõ ràng, gió liễu mềm xanh, tim mật thuần một, hoa đồng nhả đỏ, rốt không vật ngại người tự do, lại được Quán âm Diệu trí lực, liền thành chẳng cắt ai chịu nghỉ, Tương Như lại đoạt ngọc Tần vương. Chân chẳng chân, giả chẳng giả, ảnh đó hình đó thành huyễn thành hóa, căn môn tùy xứ kéo về được, thanh sắc tự nhiên cưỡi cùng nhảy, cày lật bò bùn của trăng biển, dạo khắp ngựa gỗ của mặt trời Xuân. Chân tóc điểm bạc, vành mắt đều xanh, tình khô rành rành, trí chiếu linh linh, hình hài như cây khô, dấu vết giống bình trôi, trăng sáng bốn biển tê đều quáng, Xuân tại trăm hoa ong hút hương. Cày roi ngang gối, áo nạp phủ vai, im làm Phật sự, tình quên duyên đời, gia phong không quét bốn vách, kế sống lạnh ngồi ba rui, thấy nghe thanh sắc ngoài cùng xét, phá sáng núi xanh đỗ quyên khóc. Tâm đó tuyệt duyên tro lạnh chẳng vậy, thân đó vô ngã lá chuối chẳng bền, riêng linh chừ vời vợi, lặng còn chừ miên miên, Xuân theo cành hoa dài ngắn, trăng tùy khí (đồ đựng) nước vuông tròn. Xanh lạnh mắt não, đen sạm da mặt, nơi Phật ma nung tiêu, lúc tự mình trú trì, kim hoặc liền chỉ, cơ chẳng treo tơ, gió trăng qua sông không sắc đêm, nước trời liền tạnh có dáng Thu. Vẽ là chẳng cùng ra thoát, chuyển thấy da mặt xấu ác, ong hút trăm hoa Xuân chẳng đói, thỏ uống sông dài đêm chẳng khát, vô sự mà thiền, đợi duyên mà làm, một cơ một răn ai cùng biết, trăm phát trăm trúng dây ngậm đuôi. Chân đó chẳng tướng, tướng đó chẳng chân, nhón chuyển bốn đại chẳng lập một trần, thể hợp hư không có chính mình, dụng khắp pháp giới không riêng người, một lá rơi chừ thiên hạ Thu, một hoa nở chừ thiên hạ Xuân. Mày bần tợ ngắn, mắt đói thấy lớn, miệng im thiền dạo mũi thông hơi lẹ, tâm chẳng nẩy nơi xứ chuyển cơ, quẻ chưa đoán là ai lại mua, ứng đời tùy duyên, nhà hẹp được sắc. Đi đến thanh bần, vác nào cay đắng, cao im ba rui già, bình sinh năm hợp bày, ý xuất gia là rõ thân, ở viện lại cùng lụy người, nước đồng liền trời trăng nữa đêm, tùng lâm hòa khí Xuân mười phương. Đầu tóc núi tuyết, vành mắt nước Thu, trăng bạc rửa Hà Hán, tạnh lạnh sờ đẩu ngưu, ý đẹp trong ngàn hoa, phong quang đầu trăm cỏ, như huyễn tam-muội chừ khéo được ưu du. Im im không nghó nhàn nhàn chẳng ngăn, Thu rửa sắc tinh hà, gió thổi sóng trăng mỏng, trước nhị nghi là ta, trong muôn tượng là ai, tợ khó bỏ lấy quyết định theo cùng. Trán cao mắt sâu, nên quét tùng lâm, người sợ mật lớn, ta tự vô tâm, im chuyển đường thoi cơ, ai ném kim bát nước, thăm mặt trình nhau xong vậy, nâng đầu xứ nào cùng tìm. Tiêu miệng mà thiền, ruột cật mà đói, thấu khỏi kiếp không tâm tướng nhỏ, chẳng thấy mảy thu thân lượng lớn, pháp hỷ làm ăn, pháp không làm tòa, cửa nhà tỳ-lô mở ra, gia phong Thiếu thất nhìn hết, nói khắp thiên hạ chừ mà không lỗi miệng. Ngồi giường hồ nắm chuôi trần, trong câu dậy ngã, đầu cơ thiên chánh, thật được ra nghó bàn, khéo ứng mất nhìn nghe, suốt cội nguồn nhị nghi muôn tượng, biết tánh mạng nhiều đời chư Phật, cong thẳng nghịch thuận chừ, mặc dọc mặc ngang, dài ngắn vuông tròn chừ nào thiếu nào thừa. Im nắm đuôi trâu, ai chọc râu hổ, trời nước liền sắc Thu, chuôi lớn đêm chuyển chốt, ứng chừ soi tượng, đáp chừ hang gọi, sum la muôn tượng, dọc ngang vậy cùng. Trăm loại ngàn dạng, hợp về một tướng, một tướng không tướng thức cũng không, rổng cùng hư không đồng lượng đó, sông nhạt Thu trong đêm lạnh trăng sáng, dắt nhau ra vậy lại nhân gian, rõ rõ rành rành trên các duyên. Tánh không không rễ, tánh nước không bờ, ứng chỗ biết lượng thành mộng thân đó, nhàn nhàn đối muôn tượng, vụt vụt ra các trần ngoài vật có vật chẳng gọi tên, nhân gian có người vô sự này. Da mặt hơi tím, tròng ngươi rất xanh, im đến then chốt, khéo được cửa sân, suốt thấy nhị nghi thành một thể, rõ biết muôn tượng chẳng hình khác. Huyễn khởi có hình, trí không không tên, Thu sinh hang trăng, mây biến thành càn, ma sa trăm chiến chai sẹo cũ, hướng đạo mà nay lão thái bình. Da xanh tùng già, sắc tối đồng tiêu, vi trần trần phá, một ấn in không, Đại thiên quyển kinh chuông ngông ngại, ba đời miệng Phật hang nuốt gió, sáu môn rõ dụng, hai mày có công. Mây đảnh chưa khô, sóng Thu càng lạnh, Vân Môn lưỡi chẳng ngắn, Bách Trượng mũi còn chua, tâm truyền một đèn tự sáng chiếu, miệng lật bốn biển nhìn sóng vỗ, khoảng giữa ải nửa đời trải qua trăm khó, đưa tin đầu nhà thôi hoan hô, mà nay song lục đã ở mâm. Tùng già da nức, trúc gầy đốt cứng, tóc bạc tuyết núi xa, tâm sáng đèn đêm dài, xoay cơ rành rành, tùy dụng vọt vọt, nhân duyên khéo xúc đầu không ngại, cái ấy linh lung tăng dưới núi. Đất nước gió lửa nhân duyên hợp đồng, thấy nghe hay biết, nhà cửa xa thông, tùy nghi mà được dụng, đến hết mà mất công, minh bạch máy xoay lại tự chuyển, gặp nhau ai biết ông nhà lớn. Râu tóc tuyết đồng, da dẻ núi Thu, vật đều thơm mộng điệp, tình hết bày ve khô, vết nghỉ nước về biển, sáng về sao chuyển chốt, trước lời dâng được còn bịt vỏ, sau hét nhận lãnh lại chạm đường, trên trời dưới trời chỉ cái khuôn mẫu. Tónh được căn đó, động ứng cửa đó, gia truyền theo Phật tổ, cơ dụng giao cháu con, đục mở hổn độn, phái phát Côn Lôn, mượn cùng khói sáng thành cây cỏ, hoa hoa lá lá hơi ấm ấm. Tóc suy tuyết bạc, mắt lạnh Thu xanh, vách đứng ngàn tầm công tiêu một sắc, thể được có gia phong, tâm truyền mất dấu vết, tổ sư Thiếu Lâm chừ há hiểu lời đường, hành giả Hoàng Mai chừ chẳng biết vẽ ngang. Mày cao ria xanh, mắt hốc hai biếc, chưa mở cửa sâu ai biết sông Chương, chẳng cần thỏ ngông trị ba lỗ, tự có vượn lẻ ứng sáu cửa, gánh nước bổ củi trình diệu dụng, sự nghiệp cháu con lại tùng tùng. Tóc tuyết râu sương áo gió quần khói, vỏ không lụy đến có thể bói, mọt gỗ chợt dùng thành sách, hổ báo mốc, cá rồng sấm, biến hóa lại ngày nào, vọt lên tợ có trước, hành lý lúc cũ hẳn nhiên thay, hướng đạo mà nay giếng nhìn lừa. Hình tiếng huyễn làm, nghe thấy trí theo, tự nhiên ra ngại bình đẳng nào nghi, ngời sáng mà tuyệt lụy, tròn ứng mà không vết, mà nay hỏi ngươi hãy nói là ai. Râu sương trán tuyết, bụng trúc da tùng, Hà Hán vổ bờ trời, chuôi lớn xoay chốt đêm trăng rừng san hô, kình lớn lộng ổ tùng hổ phách, hạc già gọi, chỉ nhợ đầu cần theo ông chạy, chẳng phạm sóng xanh ý tự khác. Vốn không nay có, giác không huyễn thọ, chân tướng nghiễm nhiên chừ trước của Oai Âm, diệu xúc ra ngại chừ sau của ảnh hưởng, công cực thì chuyển thân, nói thiền thì mượn miệng, nắm lấy vậy nước động ngược dòng, buông đi vậy, rượu đảnh tào sơn. Hình hài khô như, rừng hốc sâu ở, tóc suy tùng tuyết bạc, tình nhàn sương trúc hư, trí dạo không kiếp châu thai trai, diệu ứng nhân duyên giếng nhìn lừa, hổ báo mốc, cá rồng sấm, y bát Hoàng Mai dây dây tin, tâm truyền Lô lão chẳng biết sách. Lẻ của trăng khe, gầy của tùng non, Thu sinh mày mắt sương xâm tóc râu, tướng của các pháp rõ không tịch, tánh của diệu còn chẳng có không, một trần bay biển lớn, mảnh tuyết điểm lò hồng, ứng sự mỗi mỗi đều ra ngại tự nhiên khéo xúc sừng đường về. Đống đống lù lù, đầu lâu mắt mở, toàn thân buông xuống, nhờ bạn trở lại, một khảy tay vang câu lưu thông, lầu gác cửa cửa thấy Thiện Tài. Cốt gầy đất đá, lông tàn mỏng dài, ngồi lạnh núi mây tâm không trăng đầm, rổng ứng mất cơ mà như hang, thiền sâu có miệng mà như kềm, mâm châu chớ sót sắc đó, đãy dùi chớ bày nhọn đó, hoàng đạo thái mình mất sừng vút, tự nhiên mưa năm mà gió ba. Già ôm vết lả, tùng của năm lạnh, tónh ngậm vận xa chuông của sương sớm, dê của họ Hoàng dậy đá, thoi của nhà Đào hóa rồng, cõi cõi trần trần thấy thân tướng, môn môn xứ nào chẳng gặp nhau. Tơ của lông đầu, ghèn của khóe mắt, thân đó suy già, cùng đời chia lìa, tâm thiền khô rõ rõ, mũi kiếp không rủ rủ, sớm lạnh sương kết mỏng núi sông, đêm tạnh trăng đi chậm Hà Hán, nhờ bạn về lại cơ dụng diệu, chẳng tiêu khảy tay biết tri âm. Hình suy bồ liễu, tâm già sông hồ, cá lặng đường sóng tónh, hạc mộng ổ trăng lẻ, chẳng sắc hương tay tam-muội, phấn đính hai đùi râu hoa lý. Tuyết của non cao chừ lông đầu suy bạc, Thu của nước xa chừ mắt thoi lạnh biếc, khí trong đêm trọn chừ trăng thấp, đẩu lạnh sông không chừ bày khóc, cơ của mượn bạn, lực của dậy nhà, nhị nghi muôn tượng chừ cùng nhau lưu thông, mười phương ba đời chừ tự nhiên bằng ra. Rất vi rất tinh, không tượng không danh, truyền đó vậy im mà thành, được đó vậy rổng mà đầy, đêm trọn đuôi đẩu chuyển Thu cao Hà Hán rộng, người lại nhờ hỏi chừ chữ chánh nhân, cứt chuột chớ đem dơ canh tôi. Tâm không tự linh, tánh rõ phi tình, ngựa ngọc uống suối lạnh, trâu bùn cầy trăng đêm, trần trần trí khởi, vật vật huyễn thành nhị nghị muôn tượng ngang dọc nói, cùng với thời nay làm chứng minh. Lông đầu suy mỏng, núi Xuân sương làm, cỏi lòng thông rổng, cửa biển triều xuống góc, mày cao thì mắt sâu, ống mũi thẳng thì miệng rộng, u linh tuyệt đãi chừ, từng truyền tiếng thơm của cha ông, thần cốc chẳng chết chừ như được thuốc của tiên, gặp nhau núi riêng, khảy tay mở gác, đảy da ngu cắt lan can hẻm, đầu cốt thúi lấp ngòi bít hốc. Trời xanh không bờ, mây bạc chẳng ngăn, nước chảy ôm núi chuyển, chinh nhân đạp trăng về, nên dùng Tỳ-kheo người được độ, cái loại hình tượng đối cơ sau. Mây đồng nửa vai, tuyết lạnh một đầu, cây biển tháng san hô tùng núi năm hổ phách, mắt nhắm tìm chẳng thấy tổ, tâm không mới chẳng lưu thiền, sum la muôn tượng ngang dọc nói, cùng nhau chứng minh quyết thua ta. Trong chẳng thể hình, ngoài lại tuyệt xưng, diệu viên một câu, thông biến các thừa, lẫn mười cỏi tâm mà lắng niệm đó, nuốt ba đời Phật mà không ngực đó, cơ chân rành rành, ý tổ dây dây, thiên đi chánh lại chừ, nhàn nhàn thọ dụng, tròn quy vuông củ chừ vừa đúng tương ưng. Không im mà im, chẳng nói mà nói, đẻo phác hổn độn, khơi nguồn Côn Lôn, muôn tượng câu tổng trì, các trần môn tam-muội, pháp pháp tâm tâm thành Phật sự, hoa hoa lá lá nhận ân Xuân. Rành rành trí không, nhàn nhàn sắc dung, đầu lâu thường can thế giới, lỗ mũi sờ chạm gia phong, lắng lắng nguồn sông phỉ thúy biếc, tròn tròn ngày biển san hô hồng. Im im đạo dạo, linh linh phá u, đẩu khôi sáng chuyển đêm, Hà Hán khí lắng Thu, vào đời theo dòng, sân cửa rất đẹp, giày xanh đạp mưa lão Câu Chi, buông tuồng gió khói đầu trăm cỏ. Tâm tâm không trú, rõ rõ có cứ, Hà Hán giăng Thu, chuôi đẩu đượm mốc, Tu-bồ-đề ngồi thiền, Kiều-thi-ca mưa hoa, trai ngậm trăng sáng thỏ mang thai, khám phá Thiếu Lâm truyền câu cuối. Tiếp nối lần lượt, da thịt cốt tủy, hình phân nhà cổ Phật, hơi ra mũi Tổ sư, một cội nguồn đã lại, tam-muội trần toàn khởi, bình thản mênh mông tâm bình đẳng, rực rỡ huy hoàng trí tự nhiên. Râu tóc già mà phủ sương, tâm niệm sạch mà phát sáng, diệu chiếu lẫn ba đời, u linh không mười phương, miệng nuốt chư Phật mà chẳng là lớn, lưỡi chống Phạm thiên mà chẳng biết dài, cỏi trần không ngừng nói, chim quạ chẳng loạn hàng, bình đẳng là đạo, tự nhiên thành chương. Diệu minh tuyệt nghó, rổng lắng không bờ, trí không ba khoảng tánh dung nhị nghi, mượn công sáng rành rành, nhờ bạn già rủ rủ, văn thể tung hoành thành việc, đầu cơ mới chẳng treo tơ thoi. Dáng của rủ già, râu tóc như tơ, vị của sâu lắng tai miệng không sẹo, Thu cao ảnh sông rộng, mốc lạnh trăng trôi chậm, đáp gọi như ứng của thần hang, đối sự được tùy của sắc châu. Kiếp hồ rổng không, một câu viên thông, rêu mọc điện ngọc thể bày gió vàng, diệu hết chẳng biết xứ, sáng lùi lại mượn công, duyên của soi tượng, mà diệu xúc chẳng nhận, ứng của thần cốc mà tùy gọi chẳng cùng. Quy tròn củ vuông, kiêu ngắn hạc dài, nhật rơi sáo chăn thôn khói, hồ bằng cá cau trăng đêm. Pháp pháp bằng đều, tùy cao đến thấp, ngày Nam quỳ Thục hướng gió Bắc ngựa Hồ hý. Tuổi tác rủ rủ, râu tóc tơ tơ, trăng lạnh cây không ảnh, Xuân ở cành chưa vẩy mầm, được mất bẻ tay bít người ngựa, thua Lạng Kha gầy gốc tiều phu, thị hiện oai nghi mà chẳng khởi định diệt hết, chẳng do tâm niệm mà tự nhiên biết viên minh. Tóc tuyết mỏng dài, tâm già ngu ngốc, chỉ Nam nói Bắc, phá hai làm ba, giữ phù tiết của Tông phong, nắm dùi kềm của Phật tổ, luyện hình đúc vật khuôn mẫu diệu, trào lửa chảy vàng lò bệ đốt, ánh sáng chẳng dứt đèn đèn khám đêm. Học tuyệt cùng gần, danh sinh khách thật, tuổi trẻ việc hành cước, già lại làm người ở núi, gậy chống tuy không hai thăng gạo, hư không tự có thân mười phương, một cơ rành rành chừ tam-muội trần trần. Nói được một thước, hành được một thước, thân chẳng miếng thịt, tâm như vách tường, dùng mày sáng mười phương, chiếu đời hai mắt biếc, các trần tam-muội chừ tại ta tự nhiên, muôn tượng sum la chừ cùng nó bình ra. Vời vợi rành rành trí chẳng thể lường, rực rực rỡ rỡ, lắng tự nhiên sáng, tùng già tuyết tây sơn, sông sáng sương bắc đẩu, dùng đó mà hành, bỏ đó mà tàng, cuối tháng của rừng sâu kén ba giấc ngủ, mềm dịu của chỉ quanh cứng trăm luyện. Hình gầy già hèn, tiết lẻ năm lạnh, chiếu đảnh mắt đầu lâu, tùy duyên miếng thịt đỏ, sáu đường ba chợ tìm người đi, cùng gọi nhà nhà đều là đàn (= chủ). Im thành dụng kín, trí không lý được, tâm tổ nhiều đời chọn đồng khoa, miệng Phật ba đời nhàn treo vách. Cảnh già lấn tìm, suy hèn đến nay, râu sương tóc tuyết Xuân còn cạn, mắt hốc mày nhô Thu càng sâu. Chợt ngồi nhàn râm, đầm không trăng lặng, ba thừa thừa ngoài một ấn in tâm, sư tử theo hàng sư tử rống, chiên-đàn vây quanh rừng chiên đàn, các trần nói pháp các trần nghe, chớ bảo không người thưởng thức âm. Khói xanh xanh chừ chim trắng bay, nước mênh mông chừ cá vàng đùa, không mờ mờ chừ trí chẳng biết, giác mịt mịt chừ chỗ tánh vừa, ôm muôn tượng mà gồm nhị nghi, suốt ba khoảng mà khắp bốn phía, ảnh tượng lớp lớp, phẩm loại sai sai, phát huy vốn từ ta, điểm hóa lại do ai, vuông đó là củ tròn đó là quy, chẳng cần đặc biệt tạm thế qua thời, lù lù vọt vọt ngốc ngốc si si, què què lệch lệch mà héo héo gầy gầy. Nói thông răng rổng, tông thông câu sống, tòa thầy tâm không, bình kiếp bước rộng, đến vị rõ không cơ, Lạng Kha từng có dính, vẫy tay cùng theo cái gì lại, bên đầu trăm hoa sống vời vợi. Tánh trọn có thừa, thể gồm thái hư, tâm không rành rành đạo khế như như, đáp hưởng thần ở cốc, tùy duyên giếng nhìn lừa, hướng đạo trần trần trú tam muội, nào ngại xúc xứ cuộn mà buông. Hình dung già gầy, râu tóc tuyết bày, thể sáng mắt ngàn kiếp, tánh lắng muôn chốt cơ, biến thông từ xưa nhà nhà sống, mánh khóe mà nay vừa đúng không, một chỉ thiền đầu tùy xứ dụng, nhón lại trăm hoa đều câu chi. Một ấn in không, ba thừa chẳng cùng, trí rõ câu ly vi, thân phân đồng hộp nắp, Di-lặc chạy lại ngoài lầu gác, Văn-thù nhà ở phía Đông thành giác, tùy thân can mộc, khắp xứ gia phong. Chống gậy dựa giường im mà thành cỏ, trăng đêm thông tê giác, trời Thu mất nhạn hàng, viết suông tuyết lá chuối, thật đẹp sương phù dung, Thanh Nguyên hỏi giá gạo Lô lăng, sẽ có tri âm câu tư đáng. Im học Thiếu Lâm, lắng toàn bản tâm, u linh tuyệt đải rổng sáng tự nhận, chỉ ngọc kim vàng việc nhà đời, keo loan dây phụng lời non nước, tùy phương khéo ứng chẳng cần tìm nhau. Lìa đó mà vào, nhỏ đó mà ra, một khảy tay vang mở lầu gác, thân hiện cửa cửa ngàn muôn ức. Dứt đối đãi mà linh, không được mà danh, đến vị khó xong, mượn công chứng thành, hợp bạn ứng thời tiết, tùy việc phóng ánh sáng, thần ca xã múa nhàn tâm thích, khối mưa điều gió nhạc thái bình. Lý cực chẳng thân, trí sáng tự thần, ba duyên chưa làm một điểm gồm thuần, đường về khác loại, ra trải các trần, lom khom dưới trăng liền sóng nước, cắt cắt gió xiên dương liễu Xuân. Hạc đồng cốt gầy, tùng khe da thô, một thân nhàn mà mây trôi rừng hốc, hai mắt lạnh mà Thu vào sông hồ, trí đến không mà có. Lý cực có mà không, bằng vật bướm bay mộng ngày, tùy cơ ong xén râu hoa, mở miệng vậy dính, ngậm vậy dính, gió linh phát vang hang tùy gọi. Làm tăng vạch mổ, cùng đời chia lìa, tròng mắt xanh tỏ rõ, đầu tóc bạc tơ tơ, kiếp không có câu, thật đắc không thầy, mượn công phân chiếu dụng, mượn vị mở giữ dắt, muôn tượng sum la một lời nói, sao phải đặc biệt chống da môi. Diệu còn trước tượng, viên thành tự nhiên, đèn Phật chiếu tiếp, hoa tổ thơm liền, đồng huống ráng khói già, trời nước vết thu liền, tánh sinh không sinh, duyên trú không trú, tùy phần tuyết phân trai một chén, chẳng hiềm mây gởi nhà ba rui. Minh bạch không căn mênh mang hồn trăng, thanh hư chẳng lộn xanh xanh vết Thu, trời xanh nên có thể chịu gánh, chư Phật nhàn nhã miệng nuốt, tình không vượt vật vật, diệu xúc ứng môn môn, rõ biết đầu chẳng do tâm niệm, sắc vàng đầu-đà diệt ý căn. Tròng mắt chiếu người bến của khe Thu, lông đầu suy bạc, buổi sớm của sương tùng, rừng của hồ đỏ triều dâng mà kình lớn lộng sóng, ảnh của quế non trăng lạnh mà thỏ già đẩy bánh xe, rõ công mượn vị, khởi huyễn vào trần, bên đầu trăm hoa có thư thơm, ngang dọc chỉ điểm Xuân tự nhà. Tâm không tâm diệu vượt xưa nay, tướng của không tướng, chẳng còn tình lượng, cây lá rơi mà Thu mở, trăng qua núi mà triều dâng, liễu mềm theo gió, quỳ hoa hướng mặt trời. Im mà tónh chuyên, diệu toàn của thể, tình hết tánh truyền, tâm không giác viên, nhàn nhàn dạo đời huyễn, rõ rõ ứng duyên trần, lồng đèn bày trụ lẫn cơ dụng, trúc biếc hoa vàng thảy nói thiền. Trần sạch không thừa, thể sáng mà hư, Thu cao đêm trọn, sông rộng sao xa, uyển chuyển gần mà đến, thiên viên cuộn lại buông, sông đẹp quả như châu ngậm trai, ứng vật nào ngại giếng nhìn lừa. Lắng của nam đài, ứng của giữa ấp, biết tròn sáng, tánh bình đẳng, Lạng Kha tiều có cục, móc tuyết thuyền hoa đình, vạch ngực của tùng lâm rõ ràng, nắm cán của mây nước mát trong, động từ gió chuyển, nhàn nên trăng dừng, tâm nghe huống là thưởng âm, chung chiếu nào ngại đánh bảo. Mây nước dây lẻ, tùng lâm tăng già, sóng vọt khóe miệng tuyết chấm mày cao, Xuân dài thời tiết cùng liền nhụy, phá đêm ánh sáng tự chiếu đèn, trong không tơ mà nhiều kiến, ngoài không bả mà lắm ruồi, chẳng khởi diệt định, năng ứng nhiều hứng. Tóc tuyết râu sương, răng kình da gà, năm lấn bồ liễu, ngày tại bãi dâu, dụng chuôi lớn của trì trí, lắng giữ chốt nguồn của đạo, mà nay bên đầu trăm hoa khéo được một chữ Vân Môn cùng. Tông thừa Tào Động, già khó phát hưng, sóng Thu lay khóe mắt, tuyết Xuân điểm góc mày, một bước nhảy qua không kiếp, tâm lẻ đèn tương tục, đào của tây mẫu chừ cuối kết ba ngàn năm thật, côn của bắc minh xác bay chín vạn dặm bằng, san hô cành cành nâng trăng, phá vào Vân Môn tăng cẳng què. Tâm tâm tuyệt duyên, rành rành mất tuổi, nuốt Phật không ba đời, mở kinh đồng đại thiên, trí diệu quán ra ngại, ngày mới Xuân vô biên, bằng vật giường trúc hồ điệp mộng, cùng bay hớn hở đầu gió hoa. Diệu mà chẳng có, không mà chẳng không, ngồi lạnh bảng dưới sàn, bước chuyển hồ trước kiếp, trở sắc sáng mới phát, tri âm đức chẳng lẻ, dòng dài tin là nước đầy khoa, mâm chạy ngay như châu nhận ảnh. Răng thưa như nghê, da nứt như gà, muôn cơ chóng vót, một câu toàn đề, lắng còn biển tánh rộng, tâm tròn sáng đáy trăng, có tin gió sấm lại phá sâu, không lời đào lý tự thành hàng. Thân có ứng, người không vị, tùy phương mà thấy, diệu xúc mà thần, núi rừng rậm rợp Xuân tại cây, sông hồ lạnh nhạt Thu sinh bến, nói chẳng hợp cơ chẳng bày sự, Vân Môn một lối xưa nay gần. Tất cả tướng không tâm của sau đó, tất cả tâm không tướng của sau đó, hang sâu mây mọc , đầm lạnh trăng lên ứng nhân duyên bình định nhị nghi, rõ huyễn hóa sum la muôn tượng, vừa đúng chẳng nghi như chỉ trong tay. Thanh tịnh vốn vậy, hòa hợp nhân duyên nhuộm chẳng thâm mà mài chẳng mỏng, ngưỡng càng cao mà dùi càng cứng, theo đó không sau, đón đó không trước, không không không xứ mất trung biên, mà nay thư quen nhón lại dùng, đầu đuôi tương ứng chánh lại thiên. Thân già mà suy, căn lụt lại chậm, tạnh lạnh sông rộng, bầu trời đẩu rủ, tròn sáng ba con mắt, thọ dụng hai cọng mày, trần cỏi đại thiên, ngang dọc mà diệu xúc, ba thước trượng sáu truyện cười mà cùng theo. Ngồi quên phải quấy, im thấy ly vi, luyện sửa của Phật tổ, phạm vi của đất trời, đầu lâu mắt dưới mày, không kiếp cơ trong câu, Thanh Nguyên sắc đỏ bước kỳ lân, dược kiệu lông vàng oai sư tử, gặp nhau bắt tay, đường lớn đồng về. Kiếp không im dạo, linh nhiên phá tối, triều dâng sáng chiếu trăng san hô, biển rụt gợn sóng Thu phỉ thúy, ở đời không cầu, tùy duyên tự do, trăm ngàn tam-muội việc nhà nhà, vất vả Câu Chi một đầu ngón. Nói chân chẳng chân, nói tợ chẳng tợ, nhón chuyển đầu lưỡi dắt được mũi, gia phong không kiếp, đất ruộng nạp tăng, tâm tâm cùng tổ truyền nhau, Phật Phật thấy nó ra đời, một trần vào chánh thọ các trần tam-muội khởi. Hình mạo Xuân lạnh, lông đầu tuyết tàn, ngồi luống ảnh sinh diệt, lắng thấy đầu ly vi, cây san hô sinh biển đồi mồi, châu minh nguyệt lăn mâm lưu ly, giấu thiên hạ ở thiên hạ chừ, một tánh tự nhiên bình đẳng, ra thế gian ở thế gian chừ, muôn tượng ai dám khinh nhau. Trời đất ngậm sáng, âm dương hóa chương, ruột rau thanh bạch, táo răng lạt vàng, tùng lâm nhàn đi lại, mây nước già hành tàng, vàng của trăm luyện dẻo chừ, ngọc của chín thử ấm chừ cắt mở, tùy thân can mộc, làm trò gặp trường. Im im linh sáng, đống đống ngồi quên, sự nghiệp nạp tăng, văn chương tông ấn, ứng vật không ba đời, tùy duyên khắp mười phương, phân thân chẳng cần cùng hồi hỗ, khắp xứ ai năng làm giấu che, vời vợi rành rành rực rực rỡ rỡ. Mây nước thân già, tùng lâm người bày, lông tóc đã tuyết, hơi mũi còn Xuân, bình đẳng ứng duyên vậy, tâm tâm Phật Phật, tự nhiên nói pháp vậy cỏi cỏi trần trần, đường về lại diệu, đùa giả tượng chân. Núi đeo tuyết mà năm lạnh, nước ngậm trăng mà đêm lan, đối cơ chuyển vật, bóng cỏ tìm cần, trâu của dạo dao nhọn mở, cục của lạng kha tàn. Gió Tây mưa thâu khói mây sạch, bắc đẩu duổi chân Hà Hán khô. Hình tuy già xanh, sự vô cùng bận, vị chân nhai sáp, mặt lạnh vót sương, buông tay đi không kiếp, toàn thân vào làng vua, xoay đầu dạo đùa thành tam-muội, Xuân đến trăm hoa ong hút hương. Gỗ cong ngồi giường, quạ dây dựa bên, thiền lẻ một câu ba đời mười phương, đèn xanh ngậm hoa đêm rực rỡ, chim trắng muốn mất trời xanh xanh, xưa nay có ứng, ra ngại không đương. Tinh thần gò hốc, mây nước bày người, đèn tâm chẳng đêm cây đạo Xuân dài, thai châu dưỡng ở trai già, rồng sấm đạp nơi râu vảy, rực rỡ sáng ngời chừ hang của tỏ rõ, vời vợi bậc sóng chừ bến của hoa đào, trang nghiêm tam-muội, dạo đùa các trần. Im im có câu chừ tổ tổ truyền nhau, tâm tâm không trú chừ, linh linh tự nhiên, đá chứa ngọc mà núi ngời, vực ngậm châu mà sông đẹp, ngàn muôn cửa mở Di-lặc khảy, ba mươi năm dùng thiền Câu chi, việc một thừa, bên đầu trăm cỏ. Môn của nhị nghi, căn của muôn tượng, có không khó nghó xanh trắng chẳng vết, mượn công nối cha ông, việc xong giao cháu con, nhặt hương hoa gánh mật đùi ong, bằng vật mộng bay hồn hồ điệp, tức tướng lìa tướng, biết ân báo ân. Tuyết của Thái hành Xuân chẳng tiêu, trăng của Hoàng Hà đêm càng nhiều, gia phong chịu thanh bạch, thân thế tự vượt lay, ly vi khí nặng, ẩn hiện cơ điều, sáng rỡ gợn sóng đều đầy sạch, rừng cây san hô dâng triều cao. Tuyết quét chiều tạnh, nước nhận Thu trong, trời không bốn vách trăng lạnh canh ba, lắng còn mà riêng đứng, định ứng mà đi khắp, đạo của nhị nghi thành lại bình, ấn của muôn tượng hư chẳng đầy, hải âu trong tình ngoài cơ sự, chiều tà trên cát chưa lạnh thề. Thân già lại lười, yên ổn do giản đơn, tuyết trắng phủ đầu, hoa chim loạn mắt, tâm sáng truyền đèn Tổ, thủ đoạn phá gia sản, đến chẳng đến Triệu Châu uống trà, lui chẳng lui mục châu vác bảng, nhờ hỏi các người biết không vậy, núi xanh cốt đẹp mây nhàn tan. Hình hài khô khan, tấm lòng rổng sáng, sông Thu trăng đêm cây già bờ xanh, một cơ trước sắc tự uyển chuyển, muôn tượng trên đầu ai an bài, Vân Môn chống gậy, Triệu Châu giày cỏ. Tánh thành mà chẳng lập huyền vi, trí đến mà khó phân phải quấy, bầu trời mây vắng vẻ. Đêm lạnh trăng mơ màng, hồ điệp mộng hồn chừ ngày Xuân bay mà ngang vật, cò trắng thề việc chừ chiều tà nằm mà mất cơ. Da nứt tợ gà, răng thưa như nghê, các duyên bị dứt, một câu toàn nêu, đêm trăng tròn sáng chừ biển san hô rộng, mây chiều phá nát chừ, trời đồi mồi thấp. Da cốt gầy lạnh, khí mạo suy tàn, ngồi lạnh Thu sinh sông rộng, tâm không trăng rơi triều khô, thiện tài dạo khắp trăm thành rồi, lầu gác cửa mở ngón vừa khảy. Lão tăng non cổ, trăm việc chẳng hay, no dáng của tuyết đều rừng đồng gầy còn cao tiết, âm cốt của tùng đá năm lạnh già lại xanh cao, đến đi lại vung, xướng đáp đáng ghét, sân nghiêm ngược dòng đường nước động, hiếu mãn rượu đầu tầng Tào sơn. Linh linh mà không, rành rành mà dung, cơ của chánh thiên chuyển, đạo của Phật Tổ đồng, giếng ngọc có trăng, hồ băng không gió, con cháu đắc lực thành việc nhà, ảnh hiện các trần trong tam-muội. Tinh thần tự nhiên, Thu sớm Xuân trước, cuộn ngực gò hốc, nhiễu răng gió khói, lý vô sinh mà tâm truyền Tổ, thần chẳng chết mà đạo ra các tiên, xanh vàng thù tạc chừ, ngày của tướng quân tước nhọn, đen trắng hơn kém chừ, năm của tiều tử Lạng Kha. Im im mất lời linh linh thấy căn, trống đánh bôi độc, hương đốt hồn về, vật vật không tâm ảnh nhận gương, trần trần ra ngại tiếng vượt tường. Héo héo gầy gầy, bệnh khởi dáng gió, què què lệch lệch già lại sự nghiệp, ngồi ổn ba khoảng bình, tâm không trăm niệm tuyệt, sum la muôn tượng tin cao vợi, môn môn tam muội theo thi thiết. Tóc bạc răng rổng, mũi rũ miệng rộng, ngồi lạnh trăng nương nương, hơi trong Thu mênh mông, ly vi ra vào cửa mở, chánh thiên qua lại cơ sống, song biếc dáng già mắt có thân, rành rẽ bên đầu trăm cỏ thuốc. Tuệ mà năng định, định mà năng tuệ, không có ngắn dài đầu không khuyết thừa, lực định tuệ trang nghiêm, tâm tánh tướng bằng chứng, trí diệu quán sát chiếu chẳng công, trí thành sở tác đồng viên kính. Im im mà dạo, trăng lạnh trời Thu, đẹp đẹp mà khắp, mây trôi dòng nước, thân tâm không bờ bãi, cơ dụng có dùi câu, các trần tam- muội câu ngang dọc, người của phân giao đầu gậy chống. Khéo rõ thường còn, u linh chẳng tối, thiên chánh xoay trục cối, ly vi thấy đạo căn, nơi vi trần phá kinh lớn ra, lúc miệng lạnh mở Chư Phật nuốt, tùy duyên rõ rệt được dụng môn môn, thành lập việc nhà giao phó cháu con. Thần của ảnh, Xuân của vật, oanh trơn trơn của họng má, liễu rờn rờn của mày mắt, đùi ong phấn râu hoa, tỳ sáp men mật nồng, nhàn nhã thật rõ việc dạo đùa, đầu mối lại như người huyễn hóa. Lắng còn chẳng lẫn, linh minh chẳng tối, phái phân đáy Hà Hán, dòng khơi nguồn Côn Lôn, thấy nghe trọn lành thành một tướng, ảnh hưởng nên không sáu căn, thể vốn chân như năng lại cỏi của sinh diệt, dụng tùy sinh diệt tức vào môn của chân như, tùng lâm tham no ba cành cật, mây mộng nhàn nhã tám chín nuốt. Vực lắng vốn thành, chí hư chẳng đầy, thể ngậm sáng của đất trời, mười phương rõ suốt, dụng biến thái của âm dương muôn tượng cao vời, sẹo trăm chiến biết tin gió mưa rũ đầu lù lù lão thăng bình. Rùa chừ già chừ tay nắm quyết nghi, Sư chừ phạm chừ nâng lệch lo sai, định suốt đáy đó, tuệ cùng bờ đó, tên đụng đôi phá, châu xoay ảnh tùy. Im thành tánh đó. Tuệ nhuần định đó, rổng ứng sáu cửa quán thông ba đường, khéo léo mở quyền, chạm có rơi hốc, quái giết gã tăng, thuốc nhiều thành bệnh. Tổ tổ gia truyền, tâm tâm ấn toàn, hổn độn chưa chịu soi Oai Âm chẳng được chuyên, tiêu sấm văn do của răng voi, chống trăng năng vậy của sừng tê chóng, nước từ trúc lại chừ lộc chẳng mượn nhờ, gió từ hoa qua chừ, hương có nhân duyên. Tượng lấy mẫu họa, người thành huyễn hóa, được mất một giấy rút thăm phải quấy một ngựa, kiến lập tùng tùng, quyền hành tạm tạm, chẳng dán mà an, buông tuồng mà hoang dã, khoa cối chẳng còn, quỹ nghi nào rổi rãi, đói thì ăn no thì nghỉ, cứng thì gối, mềm thì lót, ra thế gian ở thế gian, giấu thiên hạ nơi thiên hạ, lại hỏi thế nào chi hồ giả dã. Xưa nay không vật, ngay xứ sinh ra, đầu tóc bạc của mỏng dài, tròng mắt đen một loạt, ái dám ở tôn túc, tăng tướng kính lão thành, hiện oai nghi trú diệt định, tùy ảnh hưởng phóng ánh sáng, biển đồi mồi sâu khó tìm trai của ngậm trăng, rừng san-hô lắng ai thấy kình của lộng triều. Lù lù im cày, trời thành đất bằng, một tâm không trú trú, muôn tượng chẳng sinh sinh, khởi nhà không kiếp câu trong hồ, mượn bạn thời nay đi trên đường, người quậy tùng lâm bảy tám xứ khiến đi mà cứ, nắm lấy cây gậy chống bốn mươi năm, Sư ngồi mà ngang, dụng đó chẳng tệ, hư mà chẳng đầy. Lắng ở nguồn tánh, dạo nơi cửa độ, động tónh ra ngại, vuông tròn chẳng vết, cây lạnh được Xuân chậm, cửa tuyết mất đêm tối, thông bít vậy hư lìa thật bít, biến hóa vậy, liền càn đoạn khôn, sáu hòa hợp mà không công chừ, thoát lược cỏi ba ngàn, muôn sai biệt mà có cứ chừ đều nương ân của một điểm. Cái hình dung ấy, duyên báo gặp gỡ, ẩn muôn đức ở chưa điềm, cắt sáu dụng ở không vết, tuyết trận huyết chiến, ruộng ngọc trải nông, ảnh hưởng như hang trống, tùy gõ như chuông sương, đầu sào chẳng phải gió phướng động, biết có việc này lại cối Lô. Tùng của khe biếc, hạc của ổ khói, đồng tánh nhàn nhàn, thân gầy vời vợi, sông ngậm trăng mà luyện dài, nước liền trời mà thu rộng một điểm phân rõ chừ mười phương hư rổng. Vết tượng mà không, thuần toàn mà có, âm dương chẳng lường tới thần, sinh diệt chẳng đến mà thọ, mười phương cõi hiện nửa thân, ba đời Phật chẳng tiêu một miệng, chỉ cái hình núi cây gậy chống, cùng ông xúc xứ theo nhau chạy. Mắt sâu trán cao, miệng rộng mũi thẳng, mây Thu tiêu chừ trời xanh mà rộng,trăng đêm lên chừ nước bạc mà lạnh, nhìn nhìn ảnh tượng tùy ứng chừ ngọc sáng lăng mâm. Dụng được ở mày, thể toàn ở mũi, hương tượng chẳng đàn, lông vàng không sợ, rõ sơ tâm của Văn-thù, vào huyễn trí của Phổ-hiền, xoay đường phóng khoáng biết chẳng biết, trong sáng Bát-nhã ai dạo đùa. Thân của mây nước, hơi của núi rừng, chẳng chuyên ở học, chẳng dạo ở nghề, im ngồi mà tâm không, khéo truyền mà đạo quý, gió Tây lạnh Thu trong có vết, Xuân dài xanh sạch mây không cuống, xưa nay chân tông Phật Tổ, chỉ là khắc thừa gia thế. Núi sáng lạnh điểm tuyết, nước sắc lạnh Thu, gan mật gương xưa sạch, thân thế bình nổi trôi, lưới voi mà châu được mất trâu mà nhọn dạo, phụng lành vào lưới chừ liền miết trên móc, thủ đoạn thông thường chừ già chẳng truyền thôi. Vực im mà sáng, lắng còn mà diệu, ba đời đều bình mười phương tròn chiếu, trăng tùy nước mà trôi, gió vào tùng mà thổi, gặp nhau sẽ có tri âm, hướng đạo tự nhiên đồng điệu. Mũi thẳng miệng bốn gốc, mày thấp mắt ba góc, im im câu khó truyền, sâu sâu ai chuyển chân, vào hồ của treo cây trời đất năng rộng, được cờ của Lạng Kha đen trắng chưa xay, như nay lại chẳng đảy giấu, đến xứ tùy nghi dính rơi. Rành rành thường biết, linh linh chẳng ân, diệu không ba đời, tròn gồm nhị nghi, mũi kim dài thông chỉ, rốn thoi nhỏ nhã tơ, ra hang mây bạc gió đoạn đưa, đầy khoa nước chảy trăng theo cùng, khắp ứng các cơ chừ tự nhiên hợp nghi. Các dòng nuốt biển, đầm lớn giấu núi, sờ mây trăng chừ con cóc mật lạnh, nằm sóng gió chừ cò trắng trong tình. Mây mắt tinh thần, thợ vẽ điểm trang, công chuyển huyền vi, rõ không tơ bả, trời Thu trong mà hơi sông lắng sáng, nước đêm bạc mà hồn trăng sóng sánh, vật vật đầu đầu ứng hóa thân vượt ra trước cơ có điển hình. Rổng rang mà sáng sủa, rõ không ảnh thừa, cao vậy mà còn, đâu có vết khác, tónh chẳng tượng vậy suốt thấy nguồn đó, động thuận duyên vậy, nảy phát rễ đó, dụng miên miên chừ quậy chẳng lẫn. Soi đó hiện tượng, hang đó tàng thần, sáu cửa tùy muôn loài, tam- muội vào các trần, trăng thông tê giác sớm, hoa đến mật phòng Xuân, cơ của rành rành quả sáng tỏ, lại hiềm xứ nào chẳng thân nhau. Nhãn mà sân bày mà vui, im truyền gia phong lỗ mũi, dụng giao thời tiết lông mày, buông xuống cơ ném mở bày rò rỉ, mười phương ba đời chừ đồng được đồng tham, nhị nghi muôn tượng chừ đồng nghe đồng nói. Nước dừng ôm trăng, núi không nhả mây, thanh bạch tự như, cao nhàn chẳng đàn, tánh linh gò hang chừ vượn hạc được bạn, tình vị sông hồ chừ cò lộ rẽ phân. Sương rửa đẩu khôi, thu sinh Hà Hán, hình yểu kiểu mà tùng lớn tham mây, khí lắng sáng mà thừa ngập lùi bờ. Tóc phau phau như núi tuyết, mắt lắng lắng như đầm Thu, gậy phất bạn già, tùng lâm no tham, muôn toàn chẳng một có, hai phá lại thành ba, môn môn rổng mà chánh thọ, vật vật mỗi tự thiền đàm, Xuân đình chẳng cần khoảng lộn xộn, hoa chim mà nay thôi ngậm rồi. Tóc bạc dáng xanh, ba cật ở núi, mở mắt bất chợt sáng, ngồi yên chẳng biết nhàn, khéo ứng toàn cơ dụng, linh minh vào vòng đạo, mà nay cùng bạn đi trong trần, lá dâu tiền Thanh ta chớ tiếc. Hành khởi giải tuyệt, toàn tông nói khuyết, căn căn trần trần chừ vốn tự hiện thành, Phật Phật tổ tổ chừ nào nhọc thi thiết, bản sắc nhà đang hành, thưởng âm cái thời tiết, ngày chậm dòng gió chuyển lưng liễu, dời rừng lời mền dịu lưỡi oanh. Mất trâu nhọn dạo, lưới voi châu được, cát mờ mờ mà cò lạnh, trời xanh xanh mà nhạn mất. Chân cuộn trên đá, nhân gian niệm khô, Thu sinh khóe mắt vui vào đầu mây, thân tâm của gò hốc lỗi lạc, gan mật của tùng lâm suy tàn, khe trăng mơ màng sương đêm rửa mài mà khí vận thanh bạch, tùng non nghiêng què tuyết mới tẩy rửa mà tinh thần xanh lạnh, hành cước giày rách, ở núi cật rộng, điểm dính phá lồng rơi, gọi lui ngã sào chùa, thời khắc thúc giục kén ba ngủ, gió mưa vổ sờ vết trăm chiến, ảnh tượng chịu soi, âm thanh qua tường, tịch mặc mắt đầu lâu, ánh sáng cục thịt đỏ, mây gấm duỗi Xuân chừ hoa dung sáng rỡ, sấm triều cuộn tuyết chừ cửa biển sóng dồi, hét của treo phất, đuổi xa của gậy chống, bánh Hồ bánh bao có biến thông mà cung chức nối tổ, hoa sen lá sen mất khoa cối mà phán quan nói thiền, theo nhau học bước, chớ tợ Hàm đan. Trưởng lão Quang ở Điểu Cự tả chân cầu tán. Cốt lạnh hơi gầy, đảnh tuyết cằm tơ, lười của đầu trâu, si của đầu hổ, cao ngất trốn thiền xứ, không không chọn thời Phật, chín muôn bằng gió đỡ sừng dê, ngàn năm thỏ trăng nằm mầy ngài, môn môn huyễn khởi, trần trần trí theo, hồ điệp mộng dạo chừ trang sinh bằng vật, đào hoa mắt lạnh chừ Linh vân chẳng nghi, đầu không góc vết, on chớ châm dùi, Ba lăng từng đối kiếm thổi lông, san hô cành cành chống trăng đêm. Thủ tòa Chân tả chân cầu tán. Biển giác nguồn lắng, tánh trời rổng bằng, tai mắt không càng xa, hơi thở tế lại trong, sương lạnh đẩu ướt, Thu nhạt sông rộng, đến đi của tùng lâm, ánh sáng đầu trăm cỏ, trăng của mày ngài chừ ba ngàn cõi biển, gió của sừng dê chừ chín muôn đường mây, da bụng tham no, gan mật lão thành, khua búa rất dễ, khí nhận rất khó sinh, vì ngươi một đẻo mũi trát bùn, theo giáo trông bốn phía người sợ. Giám tự Giáo tả chân cầu tán. Giường Hồ một điểm, trí dạo hang lý, thiên chánh qua lại, ly vi ẩn hiện, trên dưới hổn thành vậy căn của nhị nghi, đến đi bình đẳng vậy tắc của ba đời, khi có tùy ứng các trần, chẳng thể nói tợ một vật, tu chứng chẳng không, ô nhiễm chẳng được, chấn đó Đông đoài đó Tây, ly đó Nam, khảm đó Bắc, Thanh châu áo vải, Trấn châu la bặc, ngay gia hành trong mắt có gân, bản sắc kẻ đầu lưỡi không xương. Tiểu sư Thiền khách Trí Lâm tả chân cầu tán. Mây đá tuyết tùng, bạn của năm lạnh theo, trăng sớm chuông sương, âm dung của thanh bạch, tự vui vậy thôn ca xã múa, bằng lòng vậy sáo mục về nông, mưa cuồng dứt gió, nhà ẩn thần mà trốn trận, sấm rống chớp ngăn, chiến thiền tịch mà giao phong, mười phần nhàn rỗi, một loại lười nhác, núi xanh đến đi của mây bạc, bình nổi vết trôi của nước chảy, vạch mốc biến văn báo, ngâm mây lột cốt rồng, thân già nghề lẻ chừ khó trao con, trí bằng đức nửa chừ chưa thể truyền tông. Trịnh Thành Trung tả chân cầu tán. Trí chẳng năng biết, thức chẳng năng hay, một hơi nhẹ trong, … lạnh biếc, sen nở mộng tỉnh, mười phương xứ mất ở một thời, kinh lột bằng đánh chín muôn dặm thành ở một hơi. Vật ngã dung khắp, tự tha bằng ra, châu nhận sắc mà chẳng vết, kiếm khua không mà nào dấu, khoảnh khắc khảy vang, lầu gác Di-lặc mở vậy, có lẽ là rất sâu, cõi trần phân thân, lổ lông Phổ Hiền vậy đầu không bức hẹp. Vương Thừa sự tả chân cầu tán. Thoi xanh dáng tạp, dư phan chứa đá mà sáng núi, lão tiết năm lạnh, hổ phách ôm tùng mà trọn năm, khoảng Oai Âm chưa hưng, trước của hổn độn muốn tạc, tùng lâm đại nghóa chừ đạo tôn Bách Trượng, sát hải lắng sóng chừ trăng hiện ba ngàn, ta vì ngươi nói pháp, ngươi vì ta làm ruộng, cứ ngồi rễ tùng trên đầu đá, tri âm tin người tâm thần truyền. Tán thán chân dung của Hòa thượng Giác ở Thiên Đồng tại Minh châu xong. Đệ tử Hữu-phụng-nghị-lang-chủ-quản-Đài-châu-Sùng-đạo-quán- tứ-canh-ngư-đại Lý Đoan Dân kính cẩn cúng thí vốn liếng bổng lộc thêm hổ trợ khai bảng, cầu mong thiện lợi thêm lớn. Lộc toán. Ngày An cư mùa Hạ năm Đinh sửu (1 15 7) thuộc niên hiệu Thiệu hưng ( 1 13 1- 1163 thời Nam Tống) tiểu sư Tỳ-kheo Trí Tuyên mộ duyên khai bảng. Đệ tử kính phụng Tam bảo, Ngô Hưng vương Thủ Siêu cùng đệ tử nữ chương hai mươi tám vị, bằng tiểu mười ba nương tử cùng thí gia tài trợ duyên khai bảng, mỗi mỗi mong đáp bốn ân ba cõi, Tỳ-kheo Xung Nghóa ở Linh nhạc thí tài thêm khai bảng, mong đáp bốn ân ba cõi. (Tán thán chân dung của Hòa thượng Giác ở Thiên Đồng hết). --------------------------- <詞>GHI VỀ HÀNH NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG ĐƯỢC SẮC PHONG THỤY HIỆU HOẰNG TRÍ THIỀN SƯ Năm Tuyên hòa thứ sáu (1124 thời Bắc Tống) kính thưa Hướng Công tử để phát vận sự, mộng thấy vị tăng dẫn đến ngôi chùa cổ, trên bảng thiếp vàng viết chữ “Thấp châu” chẳng lường biết là gì, qua mùa Thu tháng chín, Phổ Chiếu Vương tự ở Tứ châu khuyết vị trụ trì, Hướng công nghe Sa-môn Chánh Giác ở tòa thứ nhất tại Trường lô là vị tiếp xướng tông Tào Động mà các hàng nạp tử rất tin hưởng ứng, bèn soạn đủ sớ và thiếp thỉnh bổ sung ở đó, khi đã đến, hỏi về quê quán, Sư nói là vốn ở Thấp châu, Hướng công mới tỏ ngộ mộng trước, nên càng thêm kính lễ, nên từ đó, Sư ngồi khắp bảy đạo tràng, tiếng tăm vang khắp thiên hạ, tên xưng là Đại só Đạt nhân ra ứng nơi đời làm thầy người trời, phàm đâu là ngẫu nhiên vậy ư! Sư vốn giòng họ Lý, thân mẫu người họ Triệu, đêm Sư ra đời ánh sáng phát ra từ phòng bà, mọi người đều lấy làm lạ, năm lên bảy mỗi ngày Sư đọc sách vài ngàn lời, qua ít ngày bèn thông rành Ngũ kinh, tổ thân phụ tôn sùng đạo, lâu tham ở con của lão nam. Tích Thúy là Thiền sư Phật-đà tốn từng chỉ Sư mà nói với thân phụ: “đứa trẻ này vượt xa chẳng đồng thường, không phải là người trong trần ai, nên cho nó xuất gia, ngày sau hẳn làm đại pháp khí”. Năm mười một tuổi, Sư được độ ở bản tôn chùa Tịnh Minh tại đồng quận, năm mười bốn tuổi Sư đắc giới với Sa-môn Trí Quỳnh ở chùa Từ Vân, Tấn châu, năm mười tám tuổi Sư ra dạo các phương, quyết biệt với lời của tổ đó nói: “Nếu chẳng phát minh việc lớn, thì chẳng trở về vậy” đến khoảng năm Tấn Giáng hoặc vì không có thầy nương tựa. Ấp Duẫn thấy Sư tài giỏi vượt thường nhân dùng chiếc quạt đang nắm mà dạy Sư rằng:”Hãy vì ta mà ghi một lời” Sư ứng tiếng, nắm bút ghi bài kệ lên đó, Ấp Duẫn rất vui mừng, vì xin giúp để đi, vượt sông qua Lạc, Sư tọa hạ tại núi Thiếu Thất, thường ngày hái nhặt rau lá cung cấp các vị tăng bệnh, rau tạm hết thì hái cả chồi thuốc tiếp tục đó, Sư dạo đến Long Môn, gặp vị tăng cùng quê, kéo Sư đồng trở về, Sư bảo: “Xuất gia hành cước vốn vì tham tầm tri thức rõ việc sinh tử, quê hương chẳng phải là chỗ nghó nhớ vậy”. Lưng bọc thẳng đến Hương Sơn ở Nhữ châu thành cây khô, vừa trông thấy thì sinh quý trọng, một ngày nọ nghe vị tăng tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa đến câu “Mắt cha mẹ sinh ra thấy khắp ba ngàn cõi” tự nhiên có sự tỉnh ngộ, vội đến trượng thất trình bày điều ngộ, Sơn chỉ hộp hương trên đài và bảo: “Bên trong là vật gì?” Sư đáp: “Là tâm hành gì” Sơn bảo: “Chỗ ông ngộ lại thế nào?” Sư đưa tay vẽ tướng một vòng tròn để trình đó, lại vứt ra sau, Sơn bảo: “Gã đùa cục bùn có hạn gì?” Sư nói: “Sai” Sơn bảo: “Chớ thấy người mới được” Sư ứng đáp: “Vâng” bấy giờ ở Đơn Hà Thiền sư Thuần giá đạo mới thạnh, Sư bèn đến đó, Đơn Hà hỏi: “Thế nào là chính mình ở không kiếp trở về trước?” Sư đáp: “Ếch ương đáy giếng nuốt mất trăng, canh ba chẳng mượn rèm đêm sáng” Đơn Hà bảo: “Chưa phải hãy nói lại” Sư định bàn luận, Đơn Hà liền đánh một chổi và bảo: “Lại nói chẳng mượn” Sư chợt ngộ bèn đảnh lễ, Đơn Hà bảo: “Sao chẳng nói lấy một câu?” Sư đáp: “Tôi ngày nay mất tiền gặp tội” Đơn Hà bảo: “chưa rảnh để đánh ông, hãy đi đi”. Lúc đó Sư vừa hai mươi ba tuổi vậy, Đơn Hà lùi ở chùa Đại thừa tại Đường châu, Sư cũng theo đó, ở núi có Hòa thượng Thăng, cũng là đệ tử nói dõi dòng pháp của Thiền sư Thuần-Đơn Hà, cử Sư lập tăng, Đơn Hà ở Đại Hồng, Sư trông coi ký thất, năm Tuyên Hòa thứ ba (1121 Bắc Tống) chuyển đổi thủ tòa, bấy giờ các Sa-môn Trí ở Kim Lật, Tông ở Tuyết Đậu, Ngộ ở Bảo Phước, Lưu ở Phụng Sơn đều theo Ngài Tham, qua năm sau (1 12 2) phân tòa ở Lô Sơn, Sa-môn chiếu ở Viên Thông dưới tòa Xiển Đề. Sa-môn Chân Hiết ở Trường Lô nghe danh tiếng Sư, bèn sai mang thư đến thỉnh mời, gióng chuông ra nghinh đón, đại chúng sợ nhìn, râu mày Sư kỳ lạ, toàn bộ đều đen, áo quần rách rưới, giày dép đều thủng, Chân Hiết sai thị giả lấy giày mới để đổi đó, Sư liền bảo: “Tôi đâu vì giày dép mà lại đây ư?” Chân Hiết cùng đại chúng khẩn thỉnh Sư ở tòa thứ nhất, bấy giờ đại chúng đông đến một ngàn bảy trăm vị, thấy Sư trẻ tuổi, mới đầu cũng lấy làm lạ đó, đến lúc cầm phất già giặn đối với người tham thỉnh, không ai chẳng tâm phục. Lại trải qua hai năm (1 12 4) sư ở Phổ Chiếu tại Tứ châu, mới thật sự ra đời nối dõi giòng pháp từ Hòa thượng Thuần, trước đó phân chùa một nửa làm cung thần tiêu, mà lại lưỡng Hoài đói khổ, bếp kho trống thiếu, vật thực cần của hai bữa dùng xen tạp đậu và gạo tẻ, Sư đến bảo thuần dùng lúa canh, vị tăng trông coi kho lẫm từ chối chẳng cung cấp, Sư lại bảo cứ như mới đầu, thế rồi Đàm-việt thay giao, hoàng đế Hy Tông (Triệu Cát 1 10 1- 1126 thời Bắc Tống) đến phương Nam, Sư lãnh chúng khởi cư, hoàng đến thấy chúng tăng trong chùa hơn ngàn vị, đứng đầy bên tả đường, phương bào chỉnh túc, oai nghi rất khả quan, sau đó, có sắc chỉ mời gọi Sư, Sư ra mặt nhận thánh ngữ, một nửa trở về lại chùa cũ, Sư nhận thỉnh mời mà chưa đến nơi. Luân tướng trong tháp Tăng-già có khói hương vụt bay lên hư không thẳng tỏa về hướng Đông Nam, lúc Sư vào chùa mới hết, năm Kiến Viêm thứ nhất (1127 thời Nam Tống) Sư ở Thái Bình tại Thư châu lại đến ở Viên Thông, Năng nhân tại Giang châu, từ Năng Nhân xong việc, Sư dạo đến Vân Cư, bấy giờ Thiền sư Cần viên Ngộ đang ở núi gặp lúc tại Trường Lô pháp tịch trống vắng, đại chúng đều muốn có được Sư, Viên Ngộ cùng An-định-quận-vương lệnh gọi, gắng sức cùng đi vào chùa, không bao lâu tăng tri sự báo cáo thiếu hụt lương thực, Sư im lặng không đáp, bấy giờ giặc cướp Lý Tại đang dàn trận ở biên giới, dẫn binh lính vào chùa, mọi người đều kinh sợ, Sư ngồi yên trên pháp đường đợi nó đến, dùng lời hay dẫn dụ đó, Lý Tại cúi đầu tin phục, lệnh lấy thóc vàng trên các xe để cúng chúng. Một phương cũng nhờ đó mà được an, mùa Thu năm Kiến viêm thứ ba (1129 thời Nam Tống) Sư qua sông đến Minh châu, muốn theo đường biển đến lễ bái Quán Thế Âm ở Bổ-đà, đường đi từ chùa Cảnh Đức của núi Thiên Đồng, vừa lúc tại đó khuyết chủ, đại chúng thấy Sư lại, nên mật báo cùng quận, Sư nghe phong phanh, bèn bỏ trốn đi, đại chúng vây quanh, trọn đêm mà đi chẳng được, bất đắc dó mà nhận sự thỉnh mời, chẳng bao lâu, người vị xâm phạm trong biên giới, các chùa đều từ tạ khiến vân du, một mình Sư đến là chẳng chống cự, hoặc lấy làm chẳng thể, Sư dẫn dụ đó rằng: “Ngày mai giặc đến, chùa sắp trống không, tức nay may mắn còn vì ta có, có thể chẳng cùng chúng chung đó ư?”. Thế rồi giặc đến, lên đảnh tháp để trông nhìn, như có trông thấy điều gì, bèn gom binh lính mà lùi không xâm phạm mảy may, mọi người đều mừng vui thán phục, cho là được thần giúp đỡ, Bá Tường nghe tên Sư đã từ lâu, mãi đến năm Mậu Ngọ (1 13 8) làm giáo thọ châu học, mới biết được mặt Sư, từng phỏng hỏi Sư từ nhỏ bỏ hết chu đạo, bóng tùng hơn hai mươi dặm, lầu hùng gác kiệt cao vượt muôn núi, hẳn đã gần chỗ chưa thấy, vào cửa thiền nhỏ nhặt muôn chỉ, im ngồi nơi thiền sàn, không tiếng nói cười, Bá Tường khoản hầu tham chính, dạo khắp Tương Hán Giang Tây, Nam nhạc, chưa có đâu thạnh như vậy, nghe các bậc tôn túc trưỡng lão ở các nơi đó đều nói: “Xưa kia tại Thiên Đồng tăng chúng chưa đầy hai trăm vị, lúc Sư đến, thì học giả khắp bốn phương tranh nhau tìm đến, như loài bay chạy hướng đến phụng, lân trăm sông đổ về biển cả, nay tăng chúng đã lên số một ngàn hai trăm vị vậy” mọi người đến càng nhiều, nên rồi phủ sắp khô, người trông coi hoảng sợ chẳng biết tính làm sao, đem sự việc lương thực của chư tăng sắp hết thưa Sư, Sư cười bảo: “Mỗi người đều tự có miệng chẳng phải ông lo vậy” nói chưa xong, người gác cổng báo rằng: “Có người giòng họ tiền ở Gia Hòa dùng thuyền chở ngàn hộc gạo đến ghé bờ vậy”. Tháng chín năm Thiệu Hưng thứ tám (1138 thời Nam tống) Sư có được sắc chiếu mời đến ở chùa Linh Ẩn tại phủ Diêm An. Lúc sắp ra đi, đại chúng buồn khóc, có vài vạn chim quạ cũng kêu hót buồn cảm theo Sư, trải qua vài giờ mới tan đàn, qua tháng mười lại có sắc chiếu trở về lại Thiên Đồng, trước sau gồm ba mươi năm Sư ở đó, chùa phòng có cả ngàn gian, không gì chẳng mới mẽ, khác thời ở Trường lô Tuyết Phong, lúc chúng tăng mới thạnh mỗi vị ở một nhà, riêng làm bốn năm, lúc tại Thiên Đồng nạp tử đã đông, Sư đem ý chỉ mình trao cho các thợ, làm một ngôi nhà để tăng chúng ở gồm một ngàn hai trăm vị, thảy đều dung thọ, hùng mạnh, đẹp đẻ sâu ẩn thật chỗ sáng kiến, tức giữa khoảng hai núi ngăn biển triều dâng mà làm ruộng ở đó, hằng năm thu nhập gấp ba lần so với trước, phàm vật tăng chúng cần thì thẩy đều đầy đủ, đây tuy là việc hữu vi nhưng người khác nghiêng nhìn chẳng dám ra tay vậy, Sư vui dạo trong đó, đúng ngày giục làm, đến tháng chín mùa Thu năm Thiệu Hưng thứ hai mươi bảy (1157 thời Nam Tống) chợt nhiên Sư đến trong thành ra mắt quận liêu và chỗ vốn từng qua lại. Lại đến Việt Thượng chào hỏi soái thú Triệu công Lệnh Ngận, nhân đến khắp các nhà Đàn-việt, như cùng họ từ biệt vậy. Qua ngày mồng bảy tháng mười, Sư trở về núi, dùng cơm dáng vẻ như thường, sáng mồng tám khoảng giờ Thìn giờ Tî (từ bảy-mười giờ sáng) Sư tắm gội thay y phục, ngồi trang nghiêm báo cùng đại chúng, ngoảy lại bảo thị giả lấy giấy bút viết thư gởi Thiền sư Đại Tuệ căn dặn việc hậu sự, Sư lại viết bài kệ tụng rằng: “Mộng huyễn không hoa. Sáu mươi bảy năm. Chim trắng khói mất. Nước thu liền trời”. Xong, vứt bút mà thị tịch, tôn trí trong khám lưu lại bảy ngày mà dáng mạo Sư vẫn như lúc sinh tiền, sư thọ sáu mươi bảy tuổi, năm mươi ba tăng lạp, Thiền sư Đại Tuệ ngay đêm có được thư bèn đến trong núi, đến ngày mười bốn, nghinh thỉnh toàn thân Sư an táng tại tháp Đông Cốc, các hàng tăng tục tiển đưa lên đầy núi chật hang, không ai chẳng thương khóc kính tiếc, từ ngày Sư thị tịch, mưa gió liên tiếp, đến lúc an táng thì hửng tạnh, việc xong, trở lại như mới đầu, Sư đầy đủ đại từ bi, dạy răn dẫn dắt chẳng nhọc mệt, các người ném thê nhập thất, ngầm hợp mật chứng đông nhiều chẳng thể ghi nhớ hết, Sư đối với thọ thí thì không tham mà hành thí thì không nhàm, gặp năm đói lạnh thiếu ăn, Sư dốc hết tài vật của mình và đem các vật thừa của tăng chúng, giúp đỡ để bảo tồn sự sống quên lo toan cả vài ngàn muôn người, Sư sống thường luôn bố thí, vàng lụa lắm nhiều đều giao về tăng chúng. Trượng thất Sư ở rổng rang, vận mặc áo quần cũ rách ăn cơm thường, chẳng phá lệ ăn đúng ngọ đến trọn cả đời, thường cắt tóc nhóm lại thảy đều sinh Xá-lợi năm sắc, hoặc tóc rỗng suốt bên trong, răng rụng Xá-lợi sinh ra chẳng ngớt, sau khi an táng mọi người cầu đảo, hoặc được ở đệm chiếu, hoặc được ở áo giày, toàn chỗ bất thường, chùa cách xa nước, Sư đục đá làm cái ngòi, mẹ con cùng ngậm, trai trù nhà tắm thảy đều đủ khắp, phụ nữ quan nhân mọi người vào chùa muốn rửa tay trong ngòi thì chợt nhiên nước vọt ra, phụ nữ sợ ngã, thời gian lâu mới tỉnh lại, có quán của Quý Nhân Tử ở phía tây pháp đường, rượu thịt tự mang theo, hoặc ngăn chẳng theo, bổng chốc mà trống pháp sấm động rơi nơi đất, Quý Nhân Tử kinh sợ mà bỏ đi, nay vẫn còn dấu vết sấm động vậy, một ngày nọ, có tiểu hành giả ngã té nơi đất mà nói rằng: “Ta là thần hộ già-lam cùng sánh lực với thần Thái bạch, nên khiến chúng tăng tụng thần chú hổ trợ ta” có kẻ bảo “Sao chẳng đem báo cùng đường đầu” thần bảo “ Ta nghe Hòa thượng Giác ở đây hơn mười năm vậy, mỗi khi đến tẩm đường muốn trông thấy đó tức liền đánh sợ chẳng thể bước tới, nên trọn chưa được biết đó vậy” Sư làm văn mới đầu chẳng lưu ý, đặt bút tức thành. Trung-thư-xá-nhận Phạm công Lương Quý thỉnh làm bài minh cho am Đại Dụng, đích thân viết trên đá, than rằng: “Cùng tín tâm minh của Tam tổ đồng sau trước vậy” sau khi Sư thị tịch năm tháng thì có sắc chiếu phong thụy hiệu là “Hoằng Trí Thiền Sư” tháp hiệu là “Diệu Quang”, Tham-tri-chính-sự Chu Công Quỳ làm bài minh đó. Phàm dấu vết ứng thế của Sư, xem đọc ở bài minh nơi tháp, nay đây chẳng thuật lại. Than ôi! Sự nghiệp đặc biệt của Sư đây có thể hình dung ở lời đó vậy, nếu là diệu dụng tung hoành thì chẳng dấu chẳng vết, toàn vượt trước không kiếp, rổng suốt ngoài Oai Âm, chẳng thể được mà phỏng bàn đó, lại chẳng phải chỗ của văn tự có thể biên ghi vậy. Ngày … tháng sáu năm Càn Đạo thứ hai (1166 thời Nam Tống) Tả-triều-phụng-đại-phu-thị-ngự- sử Vương Bá Tường ghi. Tỳ-kheo Ngộ Thiên khai bảng năm Mậu Ngọ (1 19 8) khắc ghi. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 175