<經 id="n2000">HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC (QUYỂN 1 10) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 1 Sớ mời của phủ Gia Hưng. Lang tri Tử Dương Lân chủ quản học sự quân phủ Gia Hưng kiêm công sự tá nội quản khuyến nông triều thỉnh. Kính vì, ngôi chùa này chẳng tầm thường, là Thánh tích nơi vua Hiếu Tông đến, nơi trụ trì các núi đều vui mừng. Thừa tướng Công Quân chỉ thính đến. Những người ở trong viện muốn thỉnh một tác gia, kính Thiền sư Ngu Công Hư Đường vừa mới thừa mệnh là người khiêm nhường trốn tránh danh giá địa vị, nơi Hồ Nam (sông Vị) coi trọng công phu; vô tâm đối với muôn pháp, là một vầng trăng sáng trên sông Ngân trong trẻo; mỗi lời nói đều có mắt, cao như áng mây lưng chừng núi phía Bắc. Thật nên xông lấy hương giới, hương định, hương giải thoát, rồi đến quét sạch Phật giới, ma giới, chúng sanh giới. Hơn nữa, chỉ ngự chốn điện Phật trang nghiêm, chẳng dựa nương nơi hoàng giác trang nhiêm, đâu xứng với sự kính thờ của triều Thanh. Kẻ thần tử nghóa trong, bậc Bồ-tát nguyện rộng, thỉnh sư đề khởi chín dòng thiền, vì ta chúc thọ hai cung. Cầu vồng buông bên cạnh cầu, tranh xem phát sáng. Dòng suối lạnh bên đình nhớ đừng ngừng xe lùi bước, kính dâng sớ. Sở khuyến thỉnh của trụ trì các núi. Tỷ-kheo tự Tổ trụ trì thiền tự Báo Ân Quang Hiếu từ biệt thuyền pháp ở cửa sông. Tổ Lâm Tế, Sư Vận am, tiếng tăm lừng lẫy, từ biệt Quảng giác, đến ở Hưng Thánh, đến đi rõ ràng, đủ để khuyếch Trương quân ta, không làm hổ thẹn kẻ áo nạp. Kính vì: tân mạng Hòa thượng Hư Đường, được đế chân thật, hiện thân thanh tịnh, nhàn ẩn nơi hai núi Nam, Bắc; ai làm vang tiếng sấm nơi hai miền Đông Tây sông Triết. Huống nay cung rồng, thật đương bắc cầu vồng ở bãi giữa. Đại Thừa tướng từng thân hỏi ta rằng hiền bang quân không dối gạt tôi thì mau đến, mau đến, ít có ít có, Lư Khâu đến trước làm lễ, Phong Can há là kẻ lắm lời, Hoàng Mai cố gắng hạ sơn, thay Mã Tổ nói kệ phi tâm. Ngày mồng 01 tháng 05 niên hiệu Thiệu Định năm thứ hai, tại chùa Linh Ẩn, Sư nhận lời thỉnh thăng đường, chúc Thánh xong, bèn ngồi. Vị Tăng hỏi: Vượn kêu cửa động, vô tâm gối gió nằm ngang, giang đầu Trường Giang thật tốt, vứt dây ném cần câu, chỉ như Linh Sơn một phó không còn có người học. Sư đáp: Côn Luân nhai sắt. Vị Tăng nói: Dùng thứ gì để cắt đứt địa vị quan trọng? Sư đáp: Sẽ nói với ông đó là một con ngựa giỏi ra khỏi chuồng. Tăng sụyt một tiếng rồi lễ bái. Sư nói: Quả nhiên. Lại nói: Đại cơ ứng khắp, đại đạo không phương hướng, đến đi không để lại dấu vết, xoay chuyển hư không, động tónh không do tâm, làm tòa nhà lớn, binh theo ấn chuyển, tướng theo phù mà làm, gặp vật ứng duyên, tùy nơi làm chủ cho đến khi mạ tốt đơm bông, sông nước xinh đẹp về nguồn, phụng hoàng hiện dáng, kỳ lân hiện điềm lành, phát huy ý Tổ từ phương Tây đến, thành tựu cửa Hưng Thánh. Tuy vậy, rốt cuộc lấy gì để xét nghiệm, hồi lâu chẳng nói một lời, muôn loài nơi nào cảm tạ vô tư. Lại nêu đạo Tam Thánh: ta gặp người thì ra, ra thì không là người, còn Đạo Hưng Hóa, thì ta gặp người thì không ra, ra thì là người. Sư nói: Hai bậc đại lão, một người đánh trống ở nước Chiêm-Ba, một người múa ở nước Đại Thực. Nếu muốn xây dựng Lâm Tế chánh tông tựa như nối trúc để khều trăng. Sơn Tăng ngày nay xuất thế cũng không có Phật pháp đạo thiền, vì người chỉ một mực có miệng ăn cơm, bỗng có một người bước ra cảm ơn Hòa thượng đã chỉ dạy, liền cầm trượng đánh. Vì sao? Một không làm, hai không nghỉ, chỗ chẳng phong lưu cũng phong lưu. Sư Thượng Đường nêu: Long Tế dạy chúng rằng: Là trụ chẳng thấy trụ, chẳng phải trụ không thấy trụ, đúng sai đã bỏ rồi, trong thị phi tiến lấy là bậc trượng phu sáng suốt. Hướng về đạo thì đừng đi đường dưới núi, quả nhiên vượn hú tiếng nghe đứt ruột. Giải hạ tiểu tham: Kiết hạ ở Linh Sơn, kiết vốn không hề kiết. Hưng Thánh giải hạ, giải cũng không hề giải, giải - kiết đã không gò bó, đến đi không tạo tướng, cho nên đạo lấy Đại Viên giác làm chốn già-lam của ta, thân tâm an cư trong trí bình đẳng tánh; hét một tiếng, dây cỏ các phương cùng dùng đến, chỉ như vào đường hoa, qua hẻm liễu, dần dà đã qua chín mươi, đúng thời thủ chứng, thì thế nào? Hét một tiếng, nước có hiến chương, ba ngàn điều tội, lại cử công án Văn-thù qua hạ ở ba nơi. Sư nói: Ca-diếp đương thời tánh nóng, vội xuống một chùy, chớ nói Văn-thù qua hạ ở ba nơi, dù cho ông già mặt vâng chẳng có thần thông cũng phải dập trán xuống đất. Hôm sau thượng đường, gió thu rì rào, sông thu lạnh lẽo, ngàn cay muôn đắng vác tráp phủi nón, chòi canh của Trương Công, rồi lữ điếm nhà họ Lý; nhà cỏ am tranh làm chút khuôn phép. Tri phủ Ngô Trạng nguyên bỏ Lô Tổ, y cứ lập đá. Sư thượng đường, niêm trượng chủ nói: Ông già mặt vàng, sau rốt gặp ông ấy, ở nơi Tuyết Sơn sâu kín, sáu năm gập chân không dậy, từ đó về sau hơn ba trăm sáu mươi tội nói hết dây mơ rễ má mà rốt cuộc cởi bỏ không ra. Đại sư Đạt-ma từ Tây Thiên vượt mười muôn dặm mây nước đến đất này để bàn chân tin đứng được, cành lá lại mọc, nào ai biết được hai ngàn năm sau có liên quan đến chùa Hưng Thánh. Rào sụp tường đổ, đạo bặt người hoang sơ, may mắn thay gió mây gặp gỡ, có người có sức mạnh chẳng thí một tấc dao, nhổ cỏ trừ rễ liền thấy, đến ngày thái bình cất cao tiếng hát. Tuy như vậy nhưng có gì làm bằng cứ, chủ trượng sáng suốt, xét xử rõ ràng. Đêm ba mươi tiểu tham, lửa tàn tro lạnh, nhà nhà đốt trúc tiển sự nghèo. Tháng chạp hết xuân về, nơi nơi đốt tiền dẫn quỷ. Ba trăm sáu mươi ngày đầu đuôi gắn liền nhau, riêng phát triển việc sinh nhai, hai ngàn năm hàng đọng lại không đi. Đổi mới Tăng giá, gỗ vụn đốt ruộng thôn lạc, trâu trên mặt đất chẳng nhọc phải nhón tay, dùng kim cương mà rào cây dẻ, cây gai, cỏ bồng. Sắt chua thật tốt để thi hành và trình bày. Nam đến Bắc đi, xuyên suốt võ môn; mắt chim cốt, con ngươi chim ưng sao sanh câm ngọng, Hưng Thánh từ đây báo cáo, sớm thì đè mây xuống. Do đâu? Đất Giang Nam ấm áp, vùng hiểm yếu phương Bắc lạnh lẽo. Sư lại nói: Các phương nấu gan rồng tủy phượng, chốn này của ta thì hoang vắng hiu quạnh, không thể cúng dường, đến nơi rừng sâu núi thẳm không dấu người đến, lượm được một vật bay đến một nơi vô sư trong nhiều năm rồi, đêm nay hết lòng lấy ra, phân tuổi tác với mọi người, vị chủ trượng dè dặt làm mất tự nhiên. Tết Nguyên tiêu, Sư thượng đường nói: Đèn trần gian, vầng trăng cõi trời, có sáng có tối, có tròn có khuyết, việc nào tham? Quán tâm chưa nghỉ. Trong thất Hưng Thánh không có dầu, tránh khỏi chứng rùa thành ba ba. Tết Trung thu, Sư thượng đường, gió vàng thổi rơi lá. Hạt sương thu trong như ngọc. Không thể nhẫn nại làm bốn kẻ trong núi lạnh, không nói chỉ móm cười. Lại nói: Cười chuyện gì? Đánh phất trần đã có thể sáng tỏ như gương, đâu cần dùng cong vẹo như cần câu. Sư thượng đường, trời tạnh làm nhà, nhân dịp cắt lúc, góp nạp thuế vua rồi, vỗ vụng hát âu ca. Sư nói: Trong núi có thể gọi là gối cao vô ưu, tiếc chăng là ngồi trong đó. Hưng Thánh ngày nay cũng bắt tay làm nhà chỉ là chưa nạp thuế quan, lại có phần gặp người xưa chăng? Chủ trượng sáng suốt, tiếc rằng ngồi ở nơi này. Sư thượng đường, nêu: Dương Kỳ dạy chúng rằng: phướn mỏng ở Dương Kỳ. Mấy năm qua khí lực suy, gió lạnh làm tàn rụng lá úa, do mừng người xưa về. La La Lý cầm cây củi khô lên, lại hướng về chỗ không khói lửa. Sư nói: Hòa thượng Dương Kỳ quen được tiện lợi, tranh sao được, món ngon không hợp với người no. Về phương trượng mới, Sư thượng đường. Hoa thông, lá sen, cây dẻ, con cú mèo ngồi xổm, đuổi hổ báo mà nhóm họp đồ đệ thiền, ngồi gai góc mà làm hưng thạnh đảo châu báu, đó là mẫu trụ trì tiền bối. Hưng Thánh duyên mỏng, đạo không bằng xưa. Trong hai trăm ngày, bị sai làm các việc nặng nhọc, làm nhọc sức bọn người của ta mà thành nên trượng thất này, ngày nay dời về, thọ dụng chủ trượng sáng suốt như thế một chút. Có tâm bài bác Phật Tổ, không miệng cười các nơi. Luận Tạng chủ ở Kính Sơn đến, Sư thượng đường nói: Kẻ vô nghóa thì nào ai biết đến, miệng ăn tai điếc. Con lừa con đến cùng mỗi hơi chuyển mỗi tạng, phải quấy rốt cuộc khó bỏ, đại pháp đã suy yếu thì làm bẩn môi răng người. Sư thượng đường nói: gọt gậy tre tròn vuông, căng tấm thảm nhung hươu màu tím là chỗ dùng bình thường của nạp tử các vị. Như lầu sóng trăng nhảy vào mắt, ngàn Thánh tiểu vương nổi giận một đá đổ hồ uyên ương, làm sao gì sống được. Tiết Đông chí, tiểu tham trời đất bất nhân cho muôn vật là chó rơm. Nạp Tăng chẳng nhận cho chính mình là cây quạt cho nên ngơ ngẩn thường dùng mà không biết, phong cách xưa lại hăng hái, thực chất phát toàn bộ sự tuyên dương, lại chẳng nói một lời phát ra từ đáy chín vực sâu. Hào ban đầu không có Tượng, bắt đầu là tông của muôn hóa. Như xưa trọng đông lạnh nhiều, lại thấy quả châu cơm vải, làm sao sống? Phải không rơi vào sự biến đổi, u a u a, chỉ có thể tự biết. Lại nói: Các nơi đêm nay chất đầy mâm năm thứ quả, trong đó chiến chiến đấu đấu, nửa vàng nửa xanh, khiến mọi người nuốt nhổ không trôi. Vì sao? Vì Lê Trịnh Châu, táo Thanh châu, muôn vật không không lỗi, có xuất xứ tốt. Sư thượng đườn nói: trong cùng tận trời đất, vũ trụ chẳng một kẻ phát thật tâm về nguồn. Trong cùng tận trời đất không có một người nào biết danh từ Phật pháp. Đến nỗi gió Nghiêu bồng bềnh; mặt trời Thuấn rực rỡ. Ông già thô lỗ hát âu ca, ngư phủ vỗ bàn, hội gì? Hét một tiếng, sinh dấu vết. Về Tăng đường mới sửa, Sư thượng đường nói: Thạnh Sương ngồi không ngàn chúng, đã thấy chưa quên, Nam Tuyền dẫn trâu đi tuần Tăng đường, khất thực mà đấu giàu. Ngôi nhà cổ Hưng Thánh một khi đổi mới, ngồi nằm kinh hành mỗi người đều nên ghi nhớ lấy. Lại nói, nhớ gì? Hét một tiếng. Sư thượng đường, hoa dâm bụt đọng sương, lá ngô đồng gọi thu. Gặp cảnh, chạm vật tùy phận biết thẹn. Chủ trượng sáng suốt, trụ trụ. Các nơi nghe được đạo, ta nói thiền lão bà. Tết Trung thu, Sư thượng đường. Một năm có mười hai tháng, mỗi tháng một lần gặp nhau, ngoài ra đều là khuyết, giữa tối và sáng, mọc và lặn, hơn nửa số đó không nhìn thấy, chỉ có đêm nay vô cùng sáng trong, chẳng vật nào sánh bằng, bảo ta phải nói thế nào đây? Sư thượng đường, nêu việc Triệu Châu, nhân vị Tăng hỏi: Đệ tử mới vào tòng lâm, xin sư chỉ dạy. Châu nói: Ăn cháo chưa? Tăng đáp: Ăn cháo rồi. Châu nói: Rửa bát đi. Tăng ngay đó có tỉnh. Sư nói: Triệu Châu có tay vận dụng búa, vị Tăng đó có đủ tư cách đẽo gỗ. Tuy nhiên cũng là tại chỗ bán sẻ. Ngày kiết hạ, Sư hượng đường nói: các thiền hòa trong thiên hạ, sáng nay đều vào hang côi làm mánh khóe, Sơn Tăng tuy tháo nước giấu vảy, nhưng cuối cùng cũng chẳng cắt thịt đùi cò. Sư thượng đường, nêu việc Tuyết Đậu rằng: Núi xuân trùng điệp xen lẫn màu xanh, hồ xuân như trời biếc, lác đác trong trời đất, riêng đứng nhìn về đâu. Núi Nhũ tuổi già nhớ quê, Đông ngóng, Tây trông, Hưng Thánh há không biết. Sóng xuân ngoài cửa có sông, không có núi, bình thường chỉ không thể nhìn thấy. Vì sao? Đường đi tuy tốt, chẳng bằng ở nhà. Sư thượng đường nói: Kế vịt trời là đến hạc. Sau núi đầy sông. Nạp Tăng như dầu vào bột, lại biết núi báu bằng cái cân chăng? Biết được biển Nam đầu đông thấp, cho ông bàn bạc. Nếu không, chợ búa đình điếm, không lắng tai nghe nói. Sư thượng đường nói: Cuối xuân, y phục xuân nay đã may xong, năm sáu người đội mũ, sáu bảy trẻ đồng tử, tắm sông Di, phong cách ở múa vịnh cầu mưa rồi về. Phu tử than thở rằng: - Ta có một chút. Sư nói: Nhìn ngựa qua song cửa nên mới có việc đó. Có Nạp Tăng mặc áo đen, giữ gậy đen, cuối cùng chẳng nói cho ông nghe, nương ít thông cong gẫy, phảng phất đá rực rỡ. Nhận mùa Báo Ân, từ biệt chúng, Sư thượng đường. Lưu hồng bảy năm, duyên gần gũi đã hết, lại đến Thiên Ninh lo nợ khoa, thoát được thai lừa vào bụng ngựa, da lông nặng nhẹ không tranh nhiều. Kết thúc năm lục chùa Hưng Thánh. Ngũ lục thiền tự Báo Ân Quang Hiếu, phủ Gia hưng. Tham học là Khả Tuyên bày soạn. Sư nhập tự, thăng đường chúc Thánh xong, kế nịêm hương rằng: - Hương này đã bay đến nơi vô sự nọ nhiều năm rồi. Ngày nay khi nghèo cùng nhớ nợ cũ, chưa khỏi lấy ra cúng dường Hòa thượng tiên sư Vân Am, là vị chủ trước của thiền viện Vạn Tuế Hộ Thánh ở Cát Châu. Sư ngồi. Vị Tăng hỏi: Gà vàng gáy sáng, phụng ngọc ngậm hoa, che phủ Lâm Diên, thỉnh sư chúc Thánh. Sư đáp: Kỳ lân một sừng lên đảo nhỏ, loan phụng chín bao múa thần núi. Tăng hỏi: Đạo Tam Thánh gặp người thì ra, ra thì không là người, ý đó thế nào? Sư đáp: Đào đất chôn sâu. Tăng hỏi: Đạo Hưng Hóa, là ta gặp người thì không ra, ra thì là người là nghóa gì? Sư đáp: Dây câu vắt nước. Vị Tăng hỏi: Như phủ thị lang xét xử, thỉnh Hòa thượng khai đường giảng pháp cùng đưa vào chùa, có điềm lành gì? Sư đáp: E động đến người cả thành. Vị Tăng hỏi: Lại có chỗ vì người không? Sư đáp: Chỉ dưới da ngươi không có máu. Vị Tăng nói: Không do nhạn đêm đến, tranh nhìn thu cửa biển. Vị Tăng bèn lễ bái. Sư lại nói: Lá vàng che cửa, chủ trượng không đánh kẻ chết, hoa lau ôm gối, con lừa mù có gì sinh nhai, phần nhiều pháp chưa quên tình là do ẩn mà lộ, giáo hóa khắp cõi hồng trần. Thịt heo Bàn sơn tiên án, phát huy hùng cơ linh tựu, hiển bày mật chỉ Thiếu Lâm. Tuy vậy, sơn Tăng bình thường, chưa từng nói rõ chữ Không cho người, ngày nay việc đã không hộ mình, che lấp oai quang, thỉnh khắp mọi người cùng chứng minh Phật sự trong lều tranh, chủ trượng sáng suốt, đúng thì đúng, nhưng không hợp bước chân tới trước. Lại nêu Vương Thường Thị hỏi Lâm Tế rằng: - Tăng trong Tăng đường này có xem kinh không? Tế đáp: Không xem kinh. Lại hỏi: có tu thiền không? Tế đáp: Không tu thiền. Thị hỏi: Không xem kinh, không tu thiền, vậy làm gì? Tế đáp: Chỉ dạy họ thành Phật làm Tổ. Thị nói: Mạt vàng tuy quý nhưng rơi vào mắt thì thành bệnh. Sư đáp: Hay thay một cuộc cờ trắng đen đã phân rõ, chỉ một đời sau cùng không ai biết được chỗ hạ cờ. Giữa đêm, tiểu tham: vì sao cùng mọi người gặp nhau, nếu là thế đế gặp nhau thì ấm lạnh đã xong. Nếu là Phật pháp gặp nhau thì hỏi đáp đã khắp. Huống chi kẻ nạp Tăng lông mày như mũi tên, mắt tựa chuông đồng, chưa nêu đã biết trước, chưa nói đã hiểu thì nói gì đến gặp nhau hay không gặp nhau. Tuy vậy, sơn Tăng mới đến đây chẳng hay giống bếp dựa cửa cao thấp bao nhiêu, chưa khỏi từ đầu bị lỗi, vì sao? Vì đây kia phải biết. Lại nêu việc Pháp Tăng dạy chúng: Vốn muốn ẩn sâu trong hang núi ở ẩn qua ngày nhưng Thanh Lương lão nhân lại chưa rõ công án nên nêu ra để giúp ông ta liễu ngộ. Thường có vị Tăng đến hỏi thế nào là chưa liễu công án. cháu. Đăng bèn nói rằng: Việc tổ tiên không liễu thì tai họa đến con Sư nói: Pháp Đăng buông ra quá xa, thu lại quá dè sẻn. Vị Tăng đó thân làm bụi bám cao dao trắng, nghóa khí yếu hèn, xem xét tương lai vẫn không liễu, sơn Tăng ở bảy năm trong tiểu viện, kéo đất mang nước tay chân chưa từng khô, ngày nay mới lãnh chùa Báo Ân, người việc vội vàng, nếu chưa liễu công án thì không dám nêu ra. Vì sao? Vì sợ làm oan uổng, nhục nhã Tiên sư. Hôm sau, vì Hoàng đế Huy Tông, Sư thượng đường nói: Cổ Phật quá khứ cũng đã lâu không biết ứng cơ chúng sanh ở nơi đâu, loài người khó thấy được sắc vàng tím, trong hư không chỉ nghe nhạc cõi tiên kêu vang. Sư thượng đường, nói: Báo Ân có ba điều không biết các nơi: thứ nhất nói được làm không được, thứ hai, làm được nói không được, thứ ba, là dần dần chủ trượng sáng suốt, người nghèo trí ngắn, ngựa ốm thì lông dài. Sư thượng đường, nêu việc Dương Kỳ hỏi Từ Minh: con chim ẩn náu hót líu lo, từ biệt mây trời vào núi loạn thì thế nào? Minh đáp: Ta đi vào nơi cỏ hoang; ông lại vào xóm làng sâu. Kỳ hỏi: quan không chứa kim, lại mượn một hỏi được không? Minh bèn hét. Kỳ nói: Hét hay lắm. Minh lại hét. Kỳ cũng hét. Minh hét liền hai tiếng. Kỳ bèn lễ bái. Sư nói: Hạ cây gỗ vào thôn sâu là duyên nuôi con, Từ Minh vì sao hét liền hai tiếng? Sư thượng đường: Nầy chủ trượng, miệng bình thường nói ba ba, ta có thể thả, có thể đoạt, có thể giết, có thể cho sống, lại hỏi Pháp sư Viễn: ông ấy vì sao không quá khe hổ, thì nói không được, lại hỏi: bệnh ở đâu? Sư thượng đường: Rừng khe lá rụng, nhạn lạnh tiếng kêu lạnh, thấy thành công án, khó thay khó thay. Trăm món lòng gan, sắt tròn vành vạch, cùng gió vắt lên lan can ngọc. Đông chí tiểu tham. Trời lạnh người lạnh, đầu kim vót sắt, giọt nước giọt đông. Bánh vẽ đỡ lòng, ráng đỏ thiêu Phật gỗ, chó đói gặm đầu lâu. Kiếng trong không trải khăn, trong bánh hồ tìm chất nước. Từ trên lão đây đã nắm không vững, không khỏi tùy dịp bỏ bớt, bèn thấy ấm tiêu, dương phát triển, nhỏ đi lớn đến, giảm bớt ràng buộc, tro bay nắng nóng, trên gấm thêm hoa, như đất không có âm dương thì sự biến đổi cũng không. Chủ trượng sáng suốt, trăng như giương cung, ít mưa nhiều gió. Lại nêu việc Đông Sơn đêm đông ăn bánh rán, kế hỏi Thái Thủ tọa: có một vật đen như sơn, thường ở trong động dụng, trong động dụng thâu không được, qua ở nơi nào? Thái đáp: Qua ở trong động dụng, Sơn kêu thị giả bưng bánh rán lui. Sư nói: Đều nói đất vàng vẫy tay, Giang Lăng gật đầu mà không biết rằng rắn dài nép trăng, chưa thấy thua thắng, xem xét lại thì kiếm bỏ đã lâu. Lễ Thiên cơ, Sư thượng đường, Nam nhạc bảy mươi hai ngọn, đỉnh hoa một muôn tám ngàn trượng. Nhìn không thấy ranh giới, ngửa mặt trăng vô ngần, lấy số vô cùng này để chúc Thánh minh quân. Ngày Phật thành đạo, Sư thượng đường, mỗi ngày mỗi giờ, đến đêm mùng 08 tháng chạp trên mắt bỏ yên lông mày, đông tây không làm, Nam Bắc hồ nghi. Từ giáo, muôn xưa gió nghiệp thổi. Sư thượng đường nêu: Lâm Tế kêu thị giả truyền lời đến Đức Sơn. Thị giả nói: Đức Sơn muốn đánh người. Tế đáp: Ngươi cứ đi, nhưng đợi khi ông ta cầm bảng thì giựt lấy và đập lại ông ta một bảng, bảo đảm sẽ không đánh ngươi. Thị giả y theo lời dạy quả nhiên không bị đánh mà về, kể lại như Lâm Tế, Tế nói: - Trước nay ta nghi ông ấy. Sư nói: Đều nói rằng Đức Sơn chỉ hiểu việc nước nông dương, vậy mà không thể hạ câu rơi đầu sâu, mà không biết rằng cha con Lâm Tế bị Đức Sơn chôn trong đống cỏ hoang đến nay kéo thân không dậy nổi. Sư thượng đường, cầm chủ trượng nói: Nếu như vậy, thì các nơi chắc chắn không chịu, không như vậy thì mỗi người tự kiểm trách riêng. Xem đúng vậy, không đúng vậy, cái nút dây mũi con nghé rửa sạch dưới đáy hồ đựng rượu. Báo Ân có một phương tiện, mọi người có thích không? Hồi lâu dựa chủ trượng. Đêm cuối năm tiểu tham: Sư cầm chủ trượng, chưa có thế giới, chưa có Phật Tổ đã có chủ trượng này, trở ngại đông, trở ngại tây, đến khi thế giới thành lập, Phật Tổ ra đời làm hưng thịnh, như xưa vảy vảy da da, dẻ dẻ cau cau, Đức Sơn mượn lỗ mũi ông ta để nêu ra hỏi, ba tiêu răng sứt, bất giác lọt gió, làm cho các thiền hòa thiên hạ, mỗi người đều theo sau gót chân ông ta, năm cùng tháng tận đều không chuyển đổi thân, chỉ do tiết mục không phân, rơi vào tay Báo Ân. Ta cũng không thể xem xét phân tách được ông. Chỉ cần mọi người biết rằng ba mặt trời cùng mọc trong hư không thì muôn loài hoặc được thoát hoặc không được thoát, lấy chủ trượng vẽ một cái, đại chúng lui về. Lại nêu Hương Lâm, nhân vị Tăng hỏi: muôn khoảnh ruộng hoang ai làm chủ? Lâm đáp: Xem xem tháng chạp hết. Sư nói: Hương Lâm tuy có thể ngồi đến thái bình, nếu không thông vật nghóa, hỏi Báo Ân muôn khoảnh ruộng hoang ai làm chủ, một hơi chạy năm trăm dặm, lại không quày đầu. Vì sao? Như thời tiết này, ai dám ôm nắm nhiều ruộng đất? Tết Nguyên tiêu, Sư thượng đường nói: Đẹp thay một cái chén đèn nhỏ, không ai đây chọn kia bỏ, nếu bỏ được rõ ràng, đường trước hẻm sau, biếc lục xanh hồng đều là mạt vàng trong mắt. Lại hỏi: là cái chén nào? Sư thượng đường, nêu việc Tuyết Phong, Nham Đầu, Khâm Sơn đến Hà Bắc lễ Lâm Tế, trên đường gặp Thượng tọa Định, Phong hỏi: Hòa thượng Lâm Tế có khỏe không? Định đáp: Đã tịch rồi. Tuyết Phong, Nham Đầu cùng lo lắng, than thở. Lại hỏi: Bình thường có câu nói gì dạy đệ tử chăng? Định đáp: Trên cục thịt đỏ có vô vị chân nhân, thường ra vào trước mặt mọi người. Chưa chứng thì theo đây mà khán xem. Khâm hỏi: sao không nói chẳng phải vô vị chân nhân? Định bắt lại nói: - Vô vị chân nhân và chẳng phải vô vị chân nhân tướng khác nhau bao nhiêu? Nói mau, nói mau. Khâm sơn biến sắc không thể đối lại. Tuyết Phong, Nham Đầu khuyên giải. Định nói: Nếu không khám hai lão mủ đông này, gặp kẻ giết ngươi thì ngươi thành con quỷ đái dầm. Sư nói: Thượng tọa Định tuy đối vật thu thuế, làm sao tranh với Tuyết Phong, Nham Đầu cho được? Có người xuất gia, tại gia được ra, đổi chén trà cúng dường ngươi. Thỉnh Thủ tọa thượng đường. Ngọc trong đá thì ấm, châu dưới vực thì đáng yêu. Kẻ chính nhân ở chốn tòng lâm thì giữ nghiêm cương mục chánh pháp, ứng cơ thông biết, cho thuốc độc là cam lồ, lấy vô minh đương đầu từ bi, muốn thấy kẻ đó chăng? Chủ trương sáng suốt, hạ tòa và đại chúng bái thỉnh Hòa thượng Cam Lộ quay lại đệ nhất tòa. Sư thượng đường nêu việc Nam Tuyền nhân Triệu Châu hỏi: Người có hiểu biết đi về đâu? Tuyền đáp: Nhà đàn việt trước núi làm một con bò đực. Châu nói: Cám ơn câu đáp của sư. Tuyền nói: Canh ba đêm qua trăng đến cửa sổ. Sư nói: Ông thầy già họ Vương cứu một con dao con, tuy bén nhưng bị Triệu Châu dùng cách giảm ông táo nên dường như đánh vỡ Thái Châu. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường nói: Ông già Thích-ca hai ngàn năm trước mơ một giấc mơ đến nay chưa tỉnh. Làm cho con cháu nói mớ trong mộng, cám dỗ người sau. Báo Ân ít ỏi không địch lại số đông, chỉ đành trở tay đấm ngực, trời ơi, trời ơi! Sư thượng đường nêu bài tụng Linh Vân thấy hoa đào ngộ đạo, Huyền Sa rằng: - Nào có đáng gì? Dám bảo đảm lão huynh chưa giác ngộ thấu suốt rằng: một người đi trước không đến, một người đi sau lại thái quá. Báo Ân bình thường mắt thấy được mũi. Vì sao? Vì gió xuân mấy độ rơi mưa hồng, sâu cạn đâu từng liếc mắt nhìn. Sư thượng đường, cây gậy của Đức Sơn như giọt mưa. Nếu đánh không được, dưới da không có máu. Lâm Tế hét tựa sấm chạy. Nếu hét không được, lỗ tai không nghe. Dù cho đánh ngộ, hét tỉnh thì Báo Ân chưa hẳn gật đầu. Vì sao? Vì biết ta lầm ta. Sư thượng đường nêu hoàng hôn cởi vớ đi ngủ, sáng thức dậy lại bó chân. Đêm đến gió thổi hàng rào ngã, tri sự thỉnh khắp, kẻ tớ chẻ nan tre buộc lại. Sư rằng: Các nơi đều nói ông Thuấn ngồi trong chỗ vô sự mà nào biết ba đông cây khô nở hoa, chín hạ lạnh đỉnh núi Tuyết. Ngày kiết hạ, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Đức Sơn tiểu tham không trả lời, có người hỏi thì ba mươi gậy. Đó là ý gì? Sư đáp: Vẽ cọp thành con chồn. Vị Tăng hỏi: Triệu Châu tiểu tham phải trả lời, có người hỏi sẽ làm sao? Sư đáp: Câu liêm cột dây. Vị Tăng hỏi: Chỗ dụng của Triệu Châu và Đức Sơn chẳng phải một thứ sao? Sư đáp: Quỷ giành nhau thùng sơn. Vị Tăng hỏi: Khi Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ, vì sao trăm chim ngậm hoa dâng? Sư đáp: Vũ Lăng sắc xuân sớm, nhà xây trên bục cao thì bóng mát nhiều. Vị Tăng hỏi: Sau khi gặp vì sao trăm chim không ngậm hoa dâng? Sư đáp: Kính vỡ không soi lại được, hoa rơi khó trở lại cành. Vị Tăng hỏi: Chỉ như học Tăng, hạ này nương tựa Hòa thượng, có phương tiện gì? Sư đáp: Cháo thô, cơm nhạt tùy phận qua ngày. Vị Tăng hỏi: Nếu không lên lầu nhìn sao biết biển xanh sâu? Sư đáp: Kẻ giặc là người thân trong nhà. Lại nói: Hình tiếng chưa có điềm thì gom góp tích cực, ngôn ngữ hành vi mới rõ ràng, khó tìm ảnh hưởng, cho nên Đức Thích-ca đóng cửa thất ở Ma-kiệt, tịnh danh ngậm miệng ở Tỳ-da, cho đến Tây Thiên hai mươi tám vị, Đông độ sáu vị, thiên hạ lão mũ đông, dùng hết cơ quan, không có chỗ nào tay bắt, chỉ đành bằng cao thì xuống, lấy hai ngàn năm trước dùng không được đến cùng. Xỏ mũi kẻ nạp Tăng trong thiên hạ, gọi đó là cấm túc hộ sanh, đúng thời thủ chứng, càng thấy ngổn ngang, Báo Ân tu hành mệt mỏi thì chưa theo lệ mà điên đảo. Chủ trượng sáng suốt, không do tay bắn chim điêu, ai biết Lý tướng quân? Lại nêu: Lục Tổ nhân vị Tăng hỏi: Ý chỉ Hoàng Mai ai được? Tổ đáp: Người hiểu Phật pháp được. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng có được không? Tổ đáp: Không được. Vị Tăng hỏi: Vì sao không được? Tổ đáp: Ta không hiểu Phật pháp. Sư nói: Núi cao nước chảy, Tử Kỳ xưa khéo nghe. Tuy nhiên ba mươi năm sau sẽ có người mắng Báo Ân. Hôm sau, Sư thượng đường, nói: Quát Thích-ca, hét Di-lặc, phong độ nạp Tăng như vua. Vì sao sáng nay cỏ tự trói. Đánh phất trần, tìm lửa và khói được, gánh suối mang trăng về. Sư thượng đường nêu: Dược Sơn lâu không thượng đường, Tri sự thưa rằng: - Đại chúng đã lâu mong Hòa thượng chỉ dạy. Sơn đáp: Đánh chuông, nhóm họp các nơi về rồi, sơn bèn đóng cửa lại. Tri sự hỏi: đã hứa thượng đường với đại chúng, vì sao không làm theo lời nói. Sơn đáp: Kinh có kinh sư, luận có luận sư, tranh sao được với lão Tăng? Sư rằng: Người xưa làm những việc tổn thương lòng bi, trong đó có mũi tên. Vị Tăng lúc ấy vừa thấy đóng cửa, bèn vẽ dưới đất một vòng tròn, mỗi người tự tản đi, bảo đảm Dược Sơn mở cửa không được. Ngày đại kî của Hoàng đế Huy Tông, Sư thượng đường nói bậc Thánh không thôi, chốn xa xỉ không thôi. Tiên trượng lung lay đi không trở lại, theo giáo sáu hợp gió trong lành dậy. Sư thượng đường nêu: Nam tuyền ở am, có một vị Tăng đến, Tuyền nói: - “Ta lên núi làm việc, giờ trai làm cơm ăn xong, đem một phần đến”. Vị Tăng ăn xong, nhất thời đem cảnh nhà ra kể lại, rồi lên giường nằm. Thấy lâu không đến, Tuyền bèn về, thấy Tăng năm, Tuyền cũng nằm, Tăng bèn dậy đi, Tuyền nói ở sau: trước đây khi ta ở am, có một kẻ tu đạo lanh lợi, đến nay không thấy. Sư bảo: Lão sư vương! Nếu không chú ý đầu dùi bèn thì vị Tăng đó có muốn dậy đi chưa được. Tuy nhiên, đá ghét măng tre mọc xiên, bờ treo hoa mọc ngược. Sư thượng đường nêu: Động Sơn nhân vị Tăng hỏi: Lạnh, nóng đến trốn tránh thế nào? Sơn đáp: Sao không đến nơi không có lạnh, nóng? Vị Tăng hỏi: Thế nào là chốn không có lạnh, nóng? Sơn đáp: Khi lạnh, lạnh giết xà-lê; khi nóng, nóng giết xà-lê. Sư rằng: Lúc ấy vị Tăng cười khẩy một tiếng, bảo đảm Động Sơn không có đường ẩn thân. Sư thượng đường, mới thấy an cư lại gặp giữa hạ chăm chỉ miệt mài, quỷ thần chẳng lường được nguyên do, Phật Tổ phân biệt nó không ra. Học trò Báo Ân lại có loại người đó hay sao? Nhà Báo Ân không ham ân huệ suông. Sư thượng đường nêu: Hàn Sơn Tử nhân chúng Tăng nướng cà, kế đem xâu cà đánh vào lưng một vị Tăng, vị Tăng quay đầu, Sơn giơ cà ra hỏi: Là gì? Tăng đáp: Kẻ bị bịnh điên. Sơn nói với các vị Tăng đứng bên cạnh: anh ta nói là Tăng phí phạm bao nhiêu tương muối. Sư nói: Kẻ khinh địch thì chết, vị Tăng đó có cam chịu chăng? Báo Ân nếu thấy ông ta giơ cà lên hỏi là gì liền tạo khí thế đoạt lấy cà rồi đánh. Sư thượng đường. Mỗi khi Ngũ Tổ dạy chúng, bên này thảy ra một câu, bên kia thảy ra một câu, dường như thảy ra một câu, dường như mùa đông ăn dưa chấm tuyết, kêu la làm ám hiệu chánh truyền của Đông Sơn Dương Kỳ, nào biết rằng: pháp luật có ra thì việc dâm sanh khởi, việc lâu thì nhiều biến đổi. Sư thượng đường, nêu: một hôm, Đức Thế tôn lên tòa, chúng họp yên rồi, Văn-thù bạch chùy thưa: quán kỹ pháp của bậc Pháp Vương, pháp bậc Pháp Vương là như vậy. đức Thế tôn bèn xuống tòa. Sư nói: Đúng thì đúng, chỉ là nêu chùy hơi nặng một chút. Thỉnh Giám thu thượng đường, ruộng đất vô sanh, có trồng có thu. Thời tiết đến tự nhiên chín. Kẻ nạp Tăng mở miệng ít hơn ông ta một lúc cũng không được. Nếu chẳng phải bản sắc nhân thì khó dứt được sự rò rỉ, nhưng cái gì là người bản sắc này? Chủ trượng sáng suốt, công. Giải hạ, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Ba tháng an cư nay đã mãn, công dụng của chín tuần như thế nào? Sư đáp: Trước mắt như xưa vẫn chăm chăm. Vị Tăng nói: Tây Thiên dùng hạ lạp để nghiệm xét, nổi tiếng lắm thì chết sớm. Sư rằng: Thùng sơn này. Vị Tăng nói rằng: Đa tạ chỉ dạy. Sư nói: cây hoàng liên chưa phải là đắng. Lại dựng phất trần nói: Như vậy thì dễ, không như vậy thì khó. Như vậy thì dễ, có thắt có cởi, cởi chảo thả thuyền. Không như vậy thì khó. Có thỉ có chung, không việc gì không làm. Các phương buộc tằm sống làm kén, trâu đực sinh con. Chỗ ta đây mua mũ xem đầu, liệu cơm gắp mắm, bất giác cũng đã qua một hạ. Sáng dậy mở bao vải, mỗi tự đường ai nấy đi. Đường phía trước bỗng có người. Nói rằng không cần phải kiêng tên ông già Báo Ân. Vì sao? Vì đánh phầt trần, gió thu thổi sông Vị, lá rơi đầy Trường An. Lại nêu: xưa có vị lão túc, một hạ không làm thầy dạy cho chư Tăng. Có vị Tăng than rằng: Tôi chỉ luống qua một hạ, chẳng dám mong Hòa thượng giảng Phật pháp, chỉ mong được nghe hai chữ chánh nhân cũng được. Lão túc nghe vậy đáp: Xà lê chớ nói sớm, nếu luận chánh chân một chữ cũng không có. Nói xong gõ vào răng nói rằng: Ta vô cớ nói như vậy, nhà hàng xóm có vị lão túc nghe thấy nói rằng: Thật là một nồi canh ngon, bị hai cục phân chuột làm dơ đi. Sư rằng: Ba người gánh ván, một kẻ tương đối hơn một chút, Báo Ân một hạ treo trống đợi chùy. Hai chữ Phật pháp không ai hỏi được. Vì sao không nhân vào nước, tranh thấy bậc trên? Hôm sau, Sư thượng đường. Trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi thường có một chỗ hiểm, là do mọi người xem xét không ra. Nếu xem xét ra, có lẽ anh là người trên cầu Thiên Tân. Nếu xem xét không ra thì uống phí tinh thần trong chín mươi ngày. Lại hỏi cái nào một chỗ? Chủ trượng sáng suốt. Hừ, hừ. Sư thượng đường nêu: Vân Môn nhân Động Sơn đến, hỏi: Vừa rồi từ đâu đến? Sơn đáp: Tra Độ. Môn hỏi: Hạ ở chỗ nào? Sơn đáp: Báo Từ ở Hồ nam. Môn hỏi: khi nào lìa nơi đó. Sơn đáp: Ngày 25 tháng 0 8. Môn rằng: Tha cho ông ba gậy. Hôm sau, Sơn hỏi: hôm qua được Hòa thượng tha cho ba gậy, chẳng biết lỗi ở đâu? Môn đáp: Đồ túi cơm, Giang Tây, Hồ nam cứ vậy mà đi. Nghe vậy Sơn có tỉnh. Sư nói: Thấy chết thì chấp tạ, mới là diện mạo vốn có của nạp Tăng. Động Sơn lầm đâu giống Vân Môn lầm. Sư thượng đường nêu: Triệu Châu nhân vị Tăng đến từ biệt, Châu hỏi: đi đâu? Tăng đáp: Đi các nơi học Phật pháp. Châu rằng: Chỗ có Phật không được ở, chỗ không có Phật mau đi. Ngoài ba mươi dặm gặp người không được hành động sai. Tăng hỏi: Cùng gì không đi? Triệu đáp: Bẻ hoa dương, bẻ giương hoa. Sư rằng: Cung tay thần do mũi tên cơ bản, Triệu Châu dùng nó đều trúng đích, vì sao vị Tăng đó từ hàng ngũ Xích Mi đến. Tạ Hòa thượng Nam Thiền Vân Hác và Duy Na, Sư thượng đường nói: Đạo nhân gặp nhau như mây bay lên hư không, như nước chảy xuống khe. Bình luận ông Trương râu dưới cằm không sâu, mắng nhiếc các nơi giả lúa ướt ăn cơm. Bỗng có một người bước ra nói rằng: Khẽ tiếng, khẽ tiếng. Duy Na lệnh nghiêm không được nói điều hay dở của người, sơn Tăng chỉ đành thôi nghỉ. Vì sao sức vua Vũ không đều khắp, tiếng của Hoàng hà chảy về Tây. Sư thượng đường nêu: Hưng Hóa thấy người đến tham học bèn lên pháp đường. Hóa bèn hét, vị Tăng cũng hét, Hóa lại hét, Tăng lại hét. Hóa cầm bảng, Tăng lại hét. Hóa nói: Ngươi khán vật này, giống như làm chủ, vị Tăng suy nghó, Hóa bèn đánh. Thị giả nói: Vị Tăng vừa đến có gì xúc phạm? Hóa đáp: Chính là nó. Cũng có quyền, cũng có thật, có cũng có chiếu, cũng có dụng. Ta giơ tay ngang mặt anh ta hai lần bèn đi không được, dường như bọn mù không đánh còn đợi lúc nào? Sư rằng: Cưỡi ngựa trên dao kiếm, giấu thân trong ngọn lửa. Học trò Hưng Hóa không làm việc ngoài bổn phận, vô cớ bị vị Tăng đó phát ra một đòn khéo léo, lại làm đổ gốc chỗ thị giả. Sư thượng đường nói: Các vị đều bị thanh sắc chuyển, sao không vỗ tiếng khi chưa động. Đến trước pháp đường đi một hai lượt. Tuy nhiên, Báo Ân lại châm lửa chiếu vào mặt các vị. Ngày khai lò, Sư thượng đường nêu: Đan Hà đốt Phật gỗ. Sư rằng: Đơn Hà như con sâu trốn rét trong gỗ. Viện chủ tình cờ thành văn. Báo Ân ngày nay khai lò, lại không có Phật gỗ để đốt. Chỉ có chút lửa vô minh thường ở trước mặt mọi người. Ngày ngắn đêm dài, mỗi người tự lưu ý. Ngày Đông chí, tiểu tham: Đức Thích-ca đã diệt, Di-lặc chưa sanh, thời tiết như vậy Đông đi cũng được, Tây đi cũng được. Không duyên cớ, ngồi quay mặt vào vách ở Thiếu Thất, ngoài sân tuyết rơi, theo người trong một vòng, như vác một gánh nặng một trăm hai mươi cân lên đỉnh trán dê. Đến vặn hỏi lý do của nó thì vẫn không ra chiếc quần vải nổi bật mầu đỏ. Báo Ân im lặng thật lâu trước điều quan trọng này, chẳng cần phải nói mau. Lại nêu: Hòa thượng Ngũ Tổ pháp diễn dạy chúng: chỉ ăn trái, ai để ý tới việc bẻ hái cây. Sư rằng: Ở đây không chán bỏ lão ông, được gì mà không biết chỗ đến. Trái cây Báo Ân sang hèn, giá cao thấp mỗi người cũng cần biết. Sư thượng đường nêu: người xưa nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là việc mùa đông đến? Đức đáp: Kinh đô, ra khỏi đại hoàng. Sư nói: Vàng dùng đá thử, người dùng lời nói thử. Người xưa tự nói, toàn bích mà về, không biết thân ở trong cỏ. Cảm tạ chấp sự, Sư thượng đường nói: Một nhảy một ngòi, sư tử chau mày ren. Một mới một cũ, khí hòa như mùa xuân, Báo Ân thước chẳng bằng tấc, gầy được ngồi si, vì sao? Vì trong nhà có người. Sư thượng đường, nêu: Lâm Tế vào kinh, dạy bảo rằng: Nhà thường thêm bát, đến một cửa nhà, một người đàn bà nói: Quá không chán sống. Tế rằng: Cơm cũng chưa có, sao nói quá không chán sống? Bà ấy bèn đóng cửa. Sư rằng: Ruồi thấy máu do chim cốt bắt chim ngói, cùng đến đá báo thù. Keo, sơn đánh nhau, khó nâng chỗ cướp bóc thành phong lưu. Lễ thiên cơ, Sư thượng đường. Một câu định nên trời đất, xưa nay đều vâng theo. Máy bắt cọp tê giác, Thánh phàm chẳng làm, lấy đó để giúp cho sự biến hóa vô vị. Bốn biển yên lặng. Lấy đó để chúc viên ngọc bích tôn quý các nước dâng. Đến ngày Thánh đản, dự định mở tiệc trân kỳ. Một câu vô tư, làm thế nào nêu cho giống. Chủ trượng sáng suốt. Tối tăm tiêu mất nhờ tuyết bên khe, nhẹ đỡ mai đầu gò. Hòa thượng Kinh Sơn Vô Chuẩn đến, Sư thượng đường nêu: Ngưỡng Sơn nói rằng: Nếu sư thúc Đông Tự có mặt Huệ Tịch không đến nỗi vắng lặng. Sư nói: Ngưỡng Sơn uống nước nơi mạch đất quý. Báo Ân nghèo lâu mới giàu, đâu dám bắt chước không hỏi mượn con đường nhỏ mà đi. Vì sao? Vì đánh phất trần, dời hoa và bướm đến. Mua đá được nhiều vân. Đêm cuối năm, tiểu tham. Năm ngoái nghèo chưa phải nghèo. Giữ gốc cây đợi thỏ. Năm nay nghèo thật là thiệt nghèo, nhận giặc làm con. Năm ngoái nghèo không đất cắm dùi, chó lười cột cây xuân khô. Năm nay nghèo cả dùi cũng chẳng có, ôi hợp với kẻ giặc. Đúng thế, đúng thế ba trăm sáu mươi ngày tuần hoàn không thôi. Không phải như vậy, không phải như vậy, bảy mươi hai khí hậu đi rồi trở lại. Ôm trụ cầu tắm gội, rốt cùng chẳng biết bắt chước nguyên xi, lại Tăng thêm vọng tưởng, cứ mãi lăng đến đầu thắt gút, mắt đen lúng liếng như xưa. Báo Ân chẳng có phương tiện chăng? Chủ trượng sáng suốt, ông trời thật oan uổng. Lại nêu: Sơ Sơn dạy chúng. Năm lão Tăng thông suốt tất cả trở về trước thì hiểu được việc bên rìa pháp thân, khi thông suốt tất cả, rồi thì hiểu được việc trên pháp thân. Sư nói: Người xưa sáng suốt sửa đường xuyên núi, vượt qua tăm tối phơi bày trời xanh. Sơn Tăng vào niên hiệu Đoan Bình thứ hai ở tại núi này, lấy dài bù ngắn, tùy phận qua ngày, nếu là việc bên rìa pháp thân, thì sào phủ dắt trâu uống nước, Hứa Do rửa tai. Giữa ngày, Sư thượng đường nói: Mỗi năm đều là năm tốt, mỗi ngày đều là ngày tốt, vì sao có mới có cũ? Nếu nói được một câu cách thủ sẽ cho ngươi bánh xe sắt gác chân đỉnh núi, số cát như đáy đại dương. Nếu không, lửa trời thiêu dốt không hết, gió xuân thổi lại sinh. Sư thượng đường cử nêu: Dược Sơn dạy chúng: ta có một câu đợi trâu đực sanh con sẽ nói cho ngươi nghe. Lúc đó có vị Tăng bước ra nói: Trâu đực đã sanh con rồi sao chưa nói? Sơn gọi thị giả mang đèn đến, vị Tăng đó bèn lùi về chúng. Sư nói: Vị Tăng đó quay về chúng mau quá, bỏ qua Dược Sơn. Sư thượng đường nói: Gió xuân như dao, mưa xuân như chất bổ, học trò nạp Tăng đâu nên rầu ró, ủ ê. Sư thượng đường nêu: Tư Phúc nhân vị Tăng hỏi: Người xưa cầm chùy, dựng phất trần, ý chỉ thế nào? Phúc nói: Người xưa như vậy. vị Tăng lại hỏi, Phúc bèn hét. Sư nói: Đại chúng tốt như trước ngựa đánh nhau. Nếu vị Tăng đó như vậy, có gì là Tư Phúc? Tết Đoan ngọ, Sư thượng đường nói: Nhân gian có bốn trăm lẻ bốn bệnh, bệnh nào cũng có thuốc, chỉ có bệnh vặt khó trị, phải là Thiện Tài tiện tay bốc. Chỉ có điều đúng bệnh cho thuốc. Nếu không có được thuốc của bệnh Không thì làm sao? Thuốc của bệnh Không nầy, chủ trượng sáng suốt, trước phải ăn kiêng. Sư thượng đường, bão lạnh mới khởi, sương ngọc bắt đầu rơi, ve sầu kêu cao trên cây ngô đồng, dế ngâm ở thềm cổ. Phát huy Lâm Tế nơi Hoàng Bá, ý chỉ ăn gậy ai chịu gánh vác? Phải ngoài ngôn ngữ mà biết chỗ về, là cán cân chấm giấm. Sư thượng đường nêu: Huyền Sa hỏi Kính Thanh rằng: Chẳng thấy một pháp là tai họa lớn, ông hãy nói thử, chẳng thấy pháp gì? Thanh chỉ cây cột ngoài trời nói: Chẳng phải không thấy pháp đó sao? Sa đáp: Triết giang nước trắng trong, gạo từ ngươi ăn, Phật pháp chưa có mặt. Sư rằng: Cũng hay “chẳng phải hai chữ”, hội chăng? Mây lạnh bao phủ đá vắng, trăng sương chiếu hồ trong. Trở về viện, Sư thượng đường nêu: Cao Đình cách sông thấy Đức Sơn, bèn đi ngang qua nhanh. Về sau khai pháp thừa kế Đức Sơn. Sư rằng: Cao Đình chỉ thấy đầu dùi bén, chẳng thấy lỗ tra vuông. Đương thời nếu qua sông đâu chỉ ở viện thôi sao? Có người hiểu được Chủ trượng, hai tay bảo ban. Nếu không, mây nơi đầu núi nhà không tận, nước chảy dưới đá quá bận rộn. Ngữ lục Báo Ân đáp. Ngữ lục khai sơn thiền tự Hiển Hiếu, phủ Khánh nguyên. Thị giả Vô Ẩn biên soạn. Sư nhập tự, Sư thượng đường. Chúc Thánh xong, kế niêm hương, phụng vì cải cách luật là thiền công đức chủ thị đọc, Thượng thư Tư Bồi Lộc định liệu. Sư bèn ngồi. Sư nói rằng: Sen xanh thoáng nhìn, móm cười biết đường về, thay thế truyền thừa; khó lường được sự lan rộng, đến nỗi trời đất chuyển dời, cọp gầm rồng kêu, châu về hợp phố. Vân Sơn cải quán nên nói rằng: Bậc đại nhân có đại trí, đại cơ đắc đại dụng, cắt lỗ tổ ong để làm hạng sư tử (lấy lồng chim sẻ nhốt đại bàng), biến gai góc thành rừng chiên đàn, gió thơm bay khắp chốn, thỏ cáo che dấu vết; lấy đó dựng pháp tòa, lập tông chỉ, lấy đó báo ơn vua, cha mẹ giúp đỡ sự giáo hóa đạo Thánh. Tuy vậy, khi vua quan mừng hội một câu thì làm sao? Kích phất trần, chín muôn dặm chim bằng mới xòe cánh, một ngàn năm chim hạc bay lượn. Lại nêu: Tọa chủ Lương Toại tham Ma cốc, Cốc thấy đến bèn mang cuốc đi cuốc cỏ. Hôm sau, lại đến, Cốc bèn đóng cửa, Toại nhân đây khế ngộ, nói rằng: Hòa thượng chớ khinh Lương Toại. Nếu không đến thăm Lương Toaị thì đã bị mười hai phần giáo làm hại cả đời. Bèn bán nhà, giảng một thời, dạy chúng rằng: Chỗ biết của Toại mọi người không biết, Lương Toại biết khắp. Sư nói: Lễ chẳng phải ngọc bạch nên không bày nhạc, chẳng phải chuông trống nên không truyền, phải thì phải, lượng tài năng để bổ chức, tựu trung có chút sai lầm, chỉ có điều là không có người xem xét nêu ra. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Kim Ngưu mỗi ngày vào giờ trai, tự lấy cơm múa ở trước Tăng đường, cười ha hả nói rằng: Bồ-tát ăn cơm đi. Sư rằng: Bằng với phổ đồng cúng dường, ai biết trong cơm có sạn. Tiết Đông chí, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Âm u tiêu hết, một dương lại sinh. Nạp Tăng đến đây chuyển thân thế nào? Sư đáp: Chuột chui sừng trâu, vị Tăng nói: Hòa thượng quá ít phương tiện. Sư đáp: Người có lòng nhân thấy vậy gọi đó là Nhân. Lại nêu: Triệu Châu nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ phương Tây đến? Châu đáp: Cây bách trước sân, vị Tăng nói: Hòa thượng chớ đem cảnh dạy người. Châu đáp: Ta không đem cảnh dạy người. Sư rằng: Triệu Châu bỏ mình lợi người, trăng sáng trong đêm thường gặp người chống tay lên thanh kiếm, bỗng có người hỏi Hiển Hiếu thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Chỉ đành nói với kẻ đó rằng: Núi sâu chẳng khác qua, suốt ngày nghe vượn hú. Sư thượng đường, nói mà đủ thì suốt ngày chỉ nói đạo. Nói không đủ thì suốt ngày nói toàn về vật. Thử hỏi: đạo và vật là một hay hai? Nếu nói là một, vì sao khách núi cao, chủ núi thấp? Nếu nói là hai, thì vì sao trời đất một ngón tay, muôn vật một ngựa, mầu đen ở trong, chỉ trong năm tới tằm, và lúa mạch chín, cho bé La-hầu-la một đồng tiền. Sư thượng đường. Con cuốc chẳng bằng về, gà tre bùn trơn trợt, núi sâu trong vách đá, ai nói không Phật pháp, có Phật pháp? Nạp Tăng chỉ có ba chiếc vớ. Sư thượng đường nêu: Trường Tư Lang Hạ thấy vị Tăng hỏi, Tư đáp: Mỗi bước chân đều là chỗ chứng minh cho ngươi, có biết chăng? Tăng đáp: Không biết. Tư nói: Ngươi ì ra không biết, nếu biết, thì ta làm được gì? Tăng bèn lễ bái, Sư nói: Râu mép dài (Trường Tư) thòng xuống làm cần câu, dây gàu ngắn không thể múc suối sâu. Vị Tăng đó buông lầm, hãy cho hai má một tát, còn phần ngươi làm, rừng phụng la hét. Sư thượng đường, dường như hôm nay, Đại sư Đạt-ma thêm ít nhiều vẻ vang. Nếu càng tiến bước tới trước thì đã chẳng phải. Sư thượng đường, Hiển Hiếu tận lực cũng chỉ thực hành được hai cơ trung và hạ. Nếu không thực hành được cơ hướng thượng, Chủ trượng sáng suốt, bất giác bước ra cười nhạt rằng: - Bậc đại trượng phu đều là con người, sao không dạy hắn thoát khỏi cái rọ mõm, tháo sừng phải mang. Như người tại gia bái tướng, nói gì hướng thượng, hướng hạ? Sơn Tăng nói: Chủ trượng sáng suốt, nếu ông là tác gia, ta chẳng bằng ông. Đêm cuối năm, tiểu tham. Năm đến năm đi, đón mới đưa cũ. Sơn Tăng chẳng được khinh mọi người dù là một chút, đủ là ba mươi ngày, thiếu là hai mươi chín ngày. Mọi người chẳng được khinh sơn Tăng dù là một chút. Đã biết chủ khách chẳng khinh nhau, hai bên ăn cơm cần nói về việc mắc nghẹn. Nạp Tăng có riêng một thửa ruộng. Đầu năm đến cuối năm kiếm sống trong đó, chỉ có điều giẫm đạp không được. Dù đạp được sẽ làm mai một tánh linh của mình, cô phụ bậc Thánh đời trước. Thử hỏi là ruộng đất gì? Kích phất trần, xuân đến cỏ tự sinh. Ngày đầu năm, Sư thượng đường. Cầm chủ trượng không được nói Phật pháp đầu năm mới. Mặt mũi các thiền hòa vốn im lặng, nào chịu nghe thời theo tiết, Hiển Hiếu xưa nay như trí huệ dưới bóng liễu, chủ trượng sáng suốt, cúi mong, chồn và bò trắng, bước vậy mà đi. Mỗi mỗi cỏ nước thường ngọt, không đến nỗi miệng dài lông cằn cỗi (ốm o gầy mòn). Sư thượng đường nêu: Đại Ngu từ biệt Quy Tông, Tông hỏi: ông đi đâu? Ngu đáp: Đi học năm vị thiền ở các nơi. Tông nói: Chỗ ta đây có thiền nhất vị, vì sao không học? Ngu đáp: Thế nào là thiền nhất vị của Hòa thượng? Tông bèn đánh. Ngu nói: Tôi hội rồi. Tông kêu: nói lại xem. Ngu định mở miệng. Tông lại đánh. Sư nói: Đúng từ đúng, mầu xanh có ra từ mầu lam nhưng xanh hơn mầu lam, nếu lúc hai mũi nhọn giao nhau, băng xanh từ nước nhưng lạnh hơn nước, cho nên chưa thể. Giải hạ, Sư thượng đường nói: Trước ngày rằm thì nghỉ ngơi, sau rằm thì trụ. Đang ngày rằm thì nghỉ ngơi cũng chẳng thể được, trụ cũng chẳng thể được. Do đâu? Huống chi mọi người trong ngày rằm, pháp môn mỗi người chứng được chưa từng mỗi mỗi xem xét. Lấy chủ trượng quơ một cái. Qua. Sư thượng đường nêu: Vân Môn nhân vị Tăng hỏi: đầu thu cuối hạ, đường phía trước bỗng có người hỏi, chẳng hay phải nói thì nói gì với kẻ ấy? Môn nói: Đại chúng lui xuống! Tăng hỏi: lỗi chỗ nào? Môn đáp: Trả ta tiền cơm chín mươi ngày. Sư nói: Vị Tăng đó là ngày cỏ của Vương Tiểu Ba. Vân Môn tuy sự thả ra, đoạt lại có thể thấy được, nhưng chưa khỏi trong tối bị trúng tên. Sư thượng đường, Sơn Tăng giống hệt như người ôm ngọc, nhưng thiếu việc khóc lóc trước gió. Chẳng nói rằng cả thế giới không có người, chỉ có điều đáng tiếc. Sư thượng đường nêu: Huyền Sa dạy chúng: các nơi đều nói tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp ba thứ người bệnh thì làm sao tiếp? Người bị mù giơ chùy, dựng phất trần thì không thấy. Kẻ điếc không nghe được ngôn ngữ tam muội, kẻ câm dạy hắn nói lại nói không được, nếu tiếp không được thì Phật pháp không linh nghiệm. Sư nói: Hễ là bệnh thì đâu chỉ có ba loại? Huyền Sa e người không thể tiếp, lại lo Phật pháp không linh nghiệm. Lão Tăng chẳng tiếc lông mày thử tiếp ba loại người này xem chủ trượng sáng suốt. Kẻ đui, điếc, câm đến gần đây, lại chủ trượng sáng suốt, không được cô phụ lão Tăng, nếu không hội, lại cho ngươi câu chú thích ở dưới. Chủ trượng sáng suốt, bình thường gan dạ dốc sức với người, biết nhau lại ngớ ngẩn như chẳng biết nhau. Sư thượng đường, bình thường mở được miệng mà khép không được. Ấy chẳng do ngôn ngữ, nếu qua ngôn ngữ, nước Ma-kiệt-đề bèn thành hữu danh vô thực, rốt cuộc ở chỗ nào? Chủ trượng sáng suốt, đêm đi tuần phạm nhân. Sư thượng đường: Mỗi năm ngày mồng 09, hoa vàng mọc chân hàng rào, mắt cười rạng rỡ. Thu nay hạn hán, chưa thấy cành hoa nào, khiến cho ông già phần Dương có một câu nói, có thể ứng theo thời tiết. Thử hỏi là câu nào? Hét một tiếng. Ngữ lục Hiển Hiếu hết. Ngữ lục Thiền tự Khai Thiện ở Thụy Nham, thuộc phủ Khánh Nguyên. Thị giả Phạm Duyệt biên soạn. Sư nhập tự, chỉ sơn môn, ra ra vào vào, cùng các vị chung một con đường này, do đâu không biết phạm vi cửa cao thấp bao nhiêu? Hét một tiếng. Theo phương trượng, nơi lò rèn có rất nhiều sắt lụt, cái nào cũng bị ó kềm, bị búa. Chủ trượng vẽ nói: Người có lỗi đứng qua một bên. Chỉ pháp tòa, nói như dựng nhà ngói, ngồi như núi cao, y cứ vào thấp, bằng, cao, răng cắn rào rạo. Sư niêm hương, chúc Thánh xong, thu áo rồi ngồi, nói rằng: Thần Ly-Lâu ra hết sức mà sóng bạch ngút trời, giăng lưới dường như vô tâm, lòng bàn tay thần châu chẳng trải qua cơ hóa, làm thế nào thấy nhau? Có vị Tăng bước ta liền hét, Sư cũng hét. Tăng vẽ một vòng tròn rồi lễ bái. Sư nói: Sức lạ loạn tâm thần. Lại nói: Đại đạo chỉ ở trước mắt, nếu trước mắt khó thấy, muốn biết chân thể của đại đạo, không lìa thanh, sắc, ngôn ngữ. Nói vậy giống như bẻ có lường hư không, nạp Tăng không cầu các bậc Thánh, không trọng tánh linh mình, chớp lông mày sớm đã lầm qua, nói gì thanh sắc ở đầu lưỡi; dã can kêu, sư tử gầm, ngoài ba ngàn dặm không dám ngước mắt. Dù cho Lâm Tế, Đức Sơn, đánh và hét theo nhau, nên thỉnh hạn chế bớt các bậc cao các lại. Vì sao? Vì kích phất trần, từ sau trống vàng mất tiếng, chỉ nghe dân Nghiêu gõ trên đất mà ca. Lại nêu: Hoàng đế Thái Tông của bổn triều nâng bát báu lên hỏi tướng công Vương Tùy: đã nâng ngọn đại Dũ lónh lên không nổi, vì sao âu ở trong tay quả nhân? Tướng công chẳng trả lời được, sau đó Từ Minh đáp thay: cổ tay bệ hạ có sức. Sư nói: Hội mừng của vua tôi, mặt trời chiếu trên hư không, nếu là ngọn đại Dũ lónh, thì vật về có chủ. Đương đêm, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Nghe Hòa thượng có nói: Kẻ nạp Tăng không cầu các Thánh, không trọng tánh linh của mình, ngay đầu mối cũng là không. Sư rằng: Nghe dạy chỉ hiểu một phần. Vị Tăng hỏi: Chỉ như dưới ba cây rui nhà, hiểu rõ việc ngoài lề nào? Sư đáp: Hai người đá nói chuyện với nhau. Vị Tăng hỏi: Như vậy Lâm Tế, Đức Sơn lại lùi ba ngàn? Sư đáp: Cũng e như vậy. Vị Tăng hỏi: Trời, người giao tiếp, hai bên được gặp nhau, một câu là gì? Sư đáp: Mọi người ở chỗ này. Vị Tăng hỏi: Chẳng phải chỉ đại chúng thấy ánh sáng mà đệ tử ra nhỏ nhưng ngộ lớn. Sư đáp: Con quỷ có tâm ăn cắp. Vị Tăng lễ bái. Sư cầm chủ trượng nói: Nếu hổ khâu ta trở xuống, như đứa con nhà giàu nhiều đời không dám xài ẩu một đồng, mỗi mỗi sanh ra mặt mũi độc ác, lòng dạ chật hẹp, chỉ do gia pháp quá nghiêm, đến nỗi gia đình vắng vẻ. Sơn Tăng chẳng hứng thú, cũng đâm sầm vào bảo xã này, bị người gọi là cháu đích tôn của Tùng Nguyên, có thể gọi là cái danh có được một cách bừa bãi. Đêm nay đã duỗi ra thì không co lại, không khỏi nhón lấy ra một điểm nhỏ từ chỗ không ai nhìn vào, cũng dạy mọi người biết mười hai đỉnh núi vốn có cỏ tiên linh chi. Chủ trượng sáng suốt. Lại nêu: Thủ tọa Cảm hỏi Pháp Xương: ngày xưa, thiền phương Bắc nấu trâu trắng đất lộ. Đêm nay phân tuổi có sự sắp bày nào? Xương đáp: Tháng chạp tuyết rơi suốt ngày trắng xóa, gió xuân ép ngặt sự lạnh của cửa. Cảm hỏi: đại chúng ăn gì? Xương đáp: Chớ hiềm lạnh nhạt không mùi vị, một no có thể tiêu các đói muôn kiếp. Cảm hỏi: Chẳng hay người nào mua sắm? Xương đáp: Người không biết hổ thẹn thì chỗ đến cũng không biết. Sư nói: Thủ tọa Cảm lúc ấy nếu nghe câu “một no có thể tiêu các đói muôn kiếp” thì đáp rằng: “Cảm tạ Hòa thượng cúng dường”, bảo đảm Pháp Xương sẽ bỏ nghèo làm giàu. Nguyên chính, Sư thượng đường: Gia Hy, Kỷ Vận, Thuần Hựu khai đồ, lịch số đã dài, quay lui khó đếm. Thử hỏi: hôm nay là ngày mấy? Chủ trượng sáng suốt, đầu năm Tân Sửu, quạ bay thỏ chạy. Lễ Thiên cơ, Sư thượng đường nói: Hoàng hà có trên bản đồ, sông lạc có trên sách, sấm sét biến hóa, quỷ thần chẳng đoán được lý do. Thử nói là điềm lành gì? Hồi lâu, bậc Thánh lại sinh. Sư thượng đường nêu: Triệu Châu nhân vị Tăng hỏi: chí đạo không khó, chỉ vì chọn lựa; người đương thời có ở tổ, ở hang không? Châu đáp: Từng có người hỏi ta, mãi năm năm trời giải thích không được. Sư nói: Người thấy đại dương thì khó đi dạo trên biển, môn đồ của bậc Thánh khó thể nói lời không duyên cớ. Vị Tăng đó khó thấy được ông già Triệu Châu. Cảm ơn Duy Na, Sư thượng đường nói: Cổ Phật chỉ ở đầu chùy, mỗi ngày hô tới hô lui, chẳng phải chỉ cương lónh trong sáng nghiêm chỉnh, mà mỗi mỗi đều phải phần Tăng lữ. Hưng Hóa năm đó dụng tâm sai, trăng sáng há ở cây san hô hay sao? Sư thượng đường nêu: thị giả ngài Triệu Châu báo rằng: Đại vương đến. Châu đáp: Đại vương muôn phước. Thị giả nói: Chưa đến. Châu rằng: Sao lại nói đến? Sư nói: Triệu Châu tuổi già nghe việc không rõ ràng. Thị giả, vương lệnh đã đi, còn ở ngoài cửa. Sư thượng đường nêu: Lâm Tế nhân Triệu Châu đi dạo núi đã đến sau viện rửa chân, Lâm Tế bèn hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Châu đáp: Đáng để lão Tăng rửa chân. Tế đến gần phía trước làm tư thế nghe. Châu rằng: Hiểu thì liền hiểu, cắn mổ làm gì? Tế bèn về phương trượng. Châu nói: Ba mươi năm hành cước, hôm nay lỡ bị người giải thích. Sư rằng: Kẻ cướp vàng thì không thấy người khác, người tranh giành thiên hạ thì không thấy núi. Sư thượng đường nêu: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: người lặng lẽ thì tâm thức nhỏ nhiệm lưu trú. Không đến được mấy năm? Ngưỡng Sơn không dám đáp, hỏi lại: Hòa thượng không đến mấy năm rồi? Quy đáp: Lão Tăng không đến đã bảy năm. Quy Sơn lại hỏi: người lặng lẽ (tịch) thì thế nào? Ngưỡng đáp: Trí tuệ lặng lẽ (huệ tịch) chính thật ồn ào. Sư nói: Người xưa đến hết lẽ huyền vi còn e tẩu tác, người nay chỉ để ý anh chàng Mạnh Bát nói, đều là kẻ phạm năm tội nghịch nghe sấm. Sư thượng đường nêu: Giáp Sơn dạy chúng: nếu nói việc này thì phải múa kiếm. Nếu không múa kiếm, ngư phủ ở ổ. Sư nói: Giáp Sơn chưa được đều hóa với vật, đến nỗi thành hạng núp bóng cỏ, nhận lừa làm ngựa. Kiết hạ, tiểu tham. Đó là lúc nào? Sao không tiện lấy? Tây Thiên trán rộng, chiên-đà-la, buông dao xuống nói, ta là một trong số ngàn Đức Phật, đáng giết tánh nóng, nếu là đồ đệ nạp Tăng thì còn phân nửa được nhắc tới. Nhưng huống chi lập ra kỳ hạn ngồi giữ hóa thành, so sánh với Trương Lân, thỏ cũng không gặp nghỉ cày cấy việc bình thường, phần nhiều nhằm vào ba câu trước, hai câu sau mà đặt một ranh giới, cho mọi người chỉnh đốn tay chân. Nếu cũng biết hổ thẹn thì trong chín mươi ngày không được quên lão Tăng. Lại nêu: Hòa thượng Quy Sơn - Đại An dạy chúng: câu có câu không như dây leo cây. Đây là chỗ tham vấn của Sơ Sơn. Sư nói: Sư chú lùn đương thời nếu nhằm vào chỗ chưa đại tiện của Quy Sơn mà từ cái liếc qua được thoát, tránh được làm hạng nhận lầm thinh sắc đoán đông đoán tây. Nay đã lộ liễu, ngàn xưa về sau há nói không có người hay sao? Chủ trượng sáng suốt, ngưng, ngưng, đuổi người không nên đuổi lên. Hôm sau thượng đường. Có một người mỗi ngày tiêu hết muôn lượng vàng. Thánh chế cũng vậy, chỉ có điều không ai nhận ra, nếu có người nhận ra sẽ cho kẻ đó mỗi ngày tiêu muôn lượng vàng. Sư thượng đường nêu: Ngũ tiết mới tham Thạch Đầu, Tiết nói: - Một lời khế nhau thì ở, không khế liền đi đầu vẫn ngồi, Tiết bèn đi, Đầu nói: Xà-lê, Tiết quay đầu lại. Đầu nói: Từ sanh đến già chỉ là cái đó, quay đầu chuyển não làm gì? Tiết ngay lời đó đại ngộ. Sư nói: Cột chở thì đến, thòng bao thì về. Sư thượng đường, nêu: Nham Đầu dạy chúng: Hễ là xướng dạy cần phải trong vô dục lưu xuất ra ba câu. Chỉ có điều lý luận hiểu thì hiểu được nhưng muốn đi không đi, muốn ở không ở. Hoặc có lúc ở mãi không đi, hoặc có lúc cứ mãi không ở. Ứng Am niêm rằng: Ông lão trên cần biết nói năng chút ít. Sư nói: Nham Đầu nếu đi một trượng, Ứng Am chỉ đi tám thước, nếu Nham Đầu đi một thước, Ứng Am chỉ đi hai tấc. Vì sao? Vì xưa nay lấy gốc tu hành, không dám nghi ngờ bỏ nhân quả. Ngũ lục của Thụy Nham hết. Ngữ lục của thiền tự Diên Phúc, núi Vạn Tùng, phủ Khánh Nguyên. Thị giả Đức Dật biên tập. Sư nhận lời mời ở Khải Hà, từ biệt chúng thượng đường, cầm gậy chống nói rằng: - Việc này thuộc phần nhà thông thái, chẳng thể nói năng gì, chẳng thể để lại dấu vết gì. Nếu lời nói hành vi đều mất, còn rơi vào hai kiến chấp thường và đoạn, huống chi sáng dạo tối ở, chủ khách rõ ràng, vịt trời ngắn hạc dài, đây kia biết có. Tuy làm mây trên đỉnh núi Vạn Tùng cô độc, cuối cùng lại nhớ tảng đá ông già đỉnh Hà Phong. Một khúc gió thổi riêng có âm thanh hiếm, sông ra núi dài, làm thế nào ấn ngón tay? Chủ trượng sáng suốt. Lại nêu: Trường Khánh dạy chúng: đánh và nói cùng sánh vai qua, việc một đời tham học đã xong, là con rùa linh kéo theo cái đuôi. Sơn Tăng từ khi lui khỏi ngọn Chi phong, gửi nhờ dấu tích ở đây, trải qua ba lần lạnh nóng, lại hơn người xưa nhiều. Nay qua biển núi có thể chẳng có cảm giác vin dựa, soạn thành một bài kệ để bày tỏ sự chia tay che giấu gốc nghèo, làm biếng ra đóng cửa. Mây sáng như đưa lại như đón, nhân chớ chấp tay nơi kinh hành, trông mong nghe Sa tuyền nhiễu Minh. Sư nhập tự, thượng đường, chúc Thánh xong bèn ngồi. Vị Tăng hỏi: Một câu trước khi có âm thanh, không rơi vào thường cơ, chuyển vị trí, công thành, làm thế nào gặp nhau? Sư rằng: Hỏi không bản lãnh. Vị Tăng hỏi: Thử hỏi thiên tử muôn năm nghóa làm sao? Sư đáp: Cỏ lành sanh vận đẹp, hoa rừng kết thành vào đầu xuân. Vị Tăng nói: Đến chín châu bốn biển sấm động gió cuốn. Sư nói: Ra cửa chỉ e không đến trước. Vị Tăng hỏi: Thế nào là cảnh phúc kéo dài. Sư nói: Trời cao che không hết. Vị Tăng hỏi: Thế nào là người trong cảnh? Sư đáp: Trăng đến giữa đỉnh núi vẫn chưa về, vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Trước cửa Ca-diếp mỗi người đầu đã đạp lên nhưng hỏi thì nói không biết. Lão Hồ mang đến mọi người đều biết có, hỏi thì bèn nói không hiểu. Nạp Tăng như con nhím không ai ở bên cạnh, cho nên nhiều kẻ nghe tiếng chuông thì mỗi vị mặc y bảy điều, hiểu như vậy thuần là thích sự biến hóa của vô vi, đuổi tìm trở lại gió từ thuở thái cổ, liền thấy cày ruộng đào giếng, sáng làm chiều nghỉ, tự nhiên không dám trái phạm và lở dở thời gian. Tuy vậy, rốt cuộc lấy gì để xem xét? Kích phất trần, đất cao hạc múa ngoài Oai Âm, tam đảo hoa rợp đại khối sơ. Lại nêu: Hoàng đế Hiếu Tông hỏi Thiền sư Phật Chiếu: Đức Thế tôn sáu năm trên núi Tuyết đạt thành điều gì? Phật chiếu tâu: định rằng bệ hạ quên mất. Sư nói: Hội Vua tôi mừng, trời chiếu ngày đến, hòa giải then chốt chủ yếu của tạo hóa, phấn phát đại dụng của sấm sét. Tuy vậy, có biết thái bình vốn không có hình tượng chăng? Đương đêm, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: An cư cấm túc thì ở Tây Thiên lệnh nghiêm, Hòa thượng sao biết rõ mà cố phạm? Sư đáp: Không nhân con đường của tiều phu làm sao đến nhà Cát Hồng? Vị Tăng hỏi: Văn-thù qua hạ ba nơi vẫn chưa giải quyết được các nghi ngờ. Hòa thượng đến từ Hà phong, lòng người mong đợi, có khác với Văn -thù bao nhiêu? Sư đáp: Việc hay không ở chỗ vội vàng. Vị Tăng hỏi: Bậc đại thiện tri thức chẳng lẽ không có phương tiện hay sao? Sư đáp: Lão Tăng không dám, vị Tăng lễ bái. Sư nói: Khinh ta thì được. Lại nói: Mọi người ở đây, ai dám khinh các vị! Nếu mỗi người nói đầu biết đuôi, bỏ đi cái gánh nhân ngã, tự nhiên ngươi cao pháp thân dài, người lùn pháp thân ngắn. Mục tiêu Thu tử chẳng có chỗ nhìn vào. Sơn Tăng bình thường, không hề cho người chú thích, nếu ngươi cách núi thấy khói biết chỗ có lửa thì làm sao được? Đêm nay đã đưa ra thì không thu lại, chưa khỏi đông cầm tay nhón, lại thầy thuốc làm chết ngựa. Lại nêu: Tuyết Đậu dạy chúng: Long Tuyền lập nên: dao búa là đồng, sắt, bén lụt khác nhau xa. Ngựa tồi và ngựa hay cùng đi một đường, chậm nhanh có khác. Cân nhắc, cân nhắc, một ra một vào, nửa đóng cửa mở, dòng chảy phẳng lặng, thử phân biệt tại gia, xuất gia. Sư nói: Biết rõ một đời cửa rồng, chỉ có điều tâm tìm kiếm chưa diệt. Sơn Tăng là hạng đạo thô hèn, vừa nhìn liền về, đâu có gì tha thiết. Sư thượng đường nêu: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: chúng sanh trên mặt đất nghiệp thức mang mang, không có gốc để nương cậy, đệ tử làm sao biết được nó có hay không? Ngưỡng đáp: Ta có chỗ nghiệp. Lúc đó có Tăng đi ngang trước mặt, Ngưỡng kêu: Xà-lê! Vị Tăng quay đầu lại. Ngưỡng nói: Cái đó chính là nghiệp thức mang mang, không có gốc để nương cậy. Sư nói: Ngưỡng Sơn có tấm gương soi biết người, chỉ là chỗ dùng thái quá. Sơn Tăng thì không như vậy. Ông ta quày đầu, ta dập đầu, bẻ nửa vở ba, nắm vạt thấy khuỷu tay. Ngài giải chế, Sư thượng đường nói: Giới giữ gìn mạng sống cho ngỗng như tuyết, hạnh giữ hạ lạp như băng, cũng là con trâu lửa của Điền Đan. Nạp Tăng sáng thì ba nước Ngô, chiều thì trăm nước Việt, chính ngồi ở chỗ này. Vạn Tùng có nói, chỉ có điều mọi người chưa chịu gật đầu. Sư thượng đường nêu: Triệu Châu hỏi Thù du, lên pháp đường, Đông rình Tây rình. Du đáp: Làm gì? Châu đáp: Tìm nước. Du hỏi: chỗ tôi một giọt cũng không, tìm cái gì? Châu dùng chủ trượng lần theo vách mà ra. Sư nói: Nói rằng một giọt cũng không có, làm cho sóng dậy ngút trời mà nào biết rằng Triệu Châu tự nhiên vô cớ đánh mất một cây gậy. Treo chuông mới, cảm tạ giám thâu. Sư thượng đường nói: Vật lớn ngàn cân đã tự lên lầu, ki châu muôn hộc đã vào kho. Nạp Tăng ôm bụng thăng đường, khai đơn mở bát, thử hỏi nhận ơn lực của ai? Chủ trượng cao, chẳng phải khách Thiếu Lâm, khó thể bàn chuyện sân tuyết. Sư thượng đường nêu: Ngưỡng Sơn nhân vị Tăng hỏi: pháp thân có nói pháp hay không? Ngưỡng đáp: Ta nói không được, có một người khác nói được. Vị Tăng hỏi: Người nói được ở chỗ nào? Ngưỡng Sơn đẩy gối ra. Quy Sơn nghe thấy bèn nói: Người lặng lẽ dùng kiếm chém việc, trên. Sư nói: Diệt mất tông Quy Ngưỡng, đi chỉ do lời nói này. Sư thượng đường nêu: Triệu Châu hỏi vị Tăng: có đến chốn này chăng? Tăng đáp: Có đến. Châu nói: Uống trà đi. Lại hỏi vị Tăng: có đến chưa? Vị Tăng đáp: Chưa đến. Châu nói: Uống trà đi. Sư nói: Triệu Châu một lần đánh trúng, một lần đánh không trúng. Vạn Tùng thấy Tăng cũng không mời trà, cũng không hỏi. Vì sao? Vì từ khi pháp của bậc hiền Thánh đến, không hề sát sanh. Sư thượng đường nêu: Đức Sơn nhân vị Tăng hỏi: các Thánh xưa đã đi về đâu? Sơn đáp: Làm gì, làm gì, vị Tăng nói: Sắc điểm mắt thì rồng ngựa phi, ba ba què chui đầu ra. Sơn thôi nghỉ. Hôm sau Sơn tắm, Tăng đưa trà qua, Sơn vỗ lưng vị Tăng nói: Công án hôm qua nghóa làm sao? Tăng đáp: Ông già này hôm nay mới bắt đầu liếc nhìn đất, Sơn lại thôi. Minh Giác niêm rằng: Đức Sơn đã làm trái với người, vị Tăng đó lại đồng chịu oan ức. Sư rằng: Đều nói loài rắn của Hằng Sơn vừa đụng đến thì đầu đuôi nó cùng ứng trả. Nào biết rằng một được một mất. Tuyết Đậu đúng thì đúng nhưng người bên cạnh không cam lòng, muốn thấy Đức Sơn ở xa. Tết Nguyên tiêu, Sư thượng đường. Đêm nay nơi nơi đều đốt đèn để dâng Thượng đế, Vạn Tùng theo lệ cũng đốt một chén thỉnh khắp bốn Thánh sáu phàm đồng vào trong bóng mây. Đầu nhô đầu chìm, nếu có kẻ không vào thì cầm cây gậy của Đức Sơn lên đánh ngay xương sống. Vì sao? Vì Phật Đăng Minh ở quá khứ, ánh sáng của Ngài vốn tốt lành như vậy. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường: Hôm nay thì có, ngày mai thì không, ông già Thích-ca suốt đời bán đi tính nóng nảy, sắp chết tự nhận thiếu sót, đến đỗi khiến con cháu đời sau mỗi mỗi lấy tôm làm mắt. Bậc trượng nhân Vạn Tùng, con quạ trên nóc nhà cứu nó thử xem. Cầm gậy lên thổi một cái. Sư thượng đường: Tan nhà nát cửa, phá tổ diệt tông, chẳng vướng mắc dù một sợi tơ, phá tổ diệt tông ngoài hình trạng, kẻ đó chỉ hiểu được câu thay thế, chưa có con mắt thấu suốt. Nếu rửa mặt rờ lên mũi, nếm trà ướt miệng, hẹn cho kẻ đó được phân nửa nạp Tăng, chưa thể hoàn toàn giở bát mà ăn cơm. Sư thượng đường, đặt một ranh giới, nói: - Bốn phương tám mặt dứt bị ngăn che, đầu một sợi lông thu vô biên biển cõi nhiều như bụi. Không thâu không buông, miệng Vạn Tùng tựa như đá tảng, bọn các ông cũng nên cứu lấy. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Bạch Vân Thụy dạy chúng: người xưa để lại một lời nửa câu, chưa thấu suốt thì như đụng tường sắt. Bỗng một ngày kia thấu suốt mới biết chính mình là tường sắt. Thử hỏi: như nay làm sao thấu suốt? Lại nói: Tường sắt, tường sắt. Sư nói: Bạch Vân e người không hiểu, chỉ lo y văn giải nghóa. Nạp Tăng chứa muôn hình trạng ở trước mắt, nắm hư không trong lòng bàn tay còn là chuyển cú, huống chi là việc ngoài rìa đó. Sư thượng đường nêu: Lâm Tế dạy chúng: ta ở trong hội của Tiên sư hỏi đại ý Phật pháp, ba lần đều bị đánh bằng cây phất trần bằng cành cây hào. Như nay nghó lại một hồi, ai là người thực hành? Bấy giờ có vị Tăng bước ra nói: Tôi thực hành, Tế cầm gậy, Tăng định tiếp lấy, Tế bèn đánh. Sư nói: Vị Tăng đó thật ra chỉ cần thấy Lâm Tế. Sư thượng đường, giơ gậy. Mặt đỏ chẳng bằng lời nói thẳng. Nói nói, dự gậy nói nói: Gậy nầy chẳng mắc bệnh điếc thì mắc bệnh câm. Sư thượng đường nêu: Nham Đầu hỏi vị Tăng: từ nơi nào đến? Tăng đáp: Từ Tây Kinh đến. Đầu hỏi: Hoàng Sào về sau có thu được kiếm không? Tăng đáp: Thu được. Đầu tiến đến trước mặt, ngửa cổ nói: “Phật”. Tăng nói: Đầu sư đã rơi, đầu cười ha hả. Về sau Tăng đến Tuyết Phong, Phong hỏi: từ đầu đến? Tăng đáp: Từ Nham Đầu đến. Phong hỏi: Nham Đầu gần đây có câu nói gì? Tăng kể lại việc trước, Phong đánh ba mươi gậy đuổi ra. Sư nói: Vị Tăng đó đương thời nếu nhằm ngay chỗ Nham Đầu cười mà biết cơ thì dù gậy của Tuyết Phong dài nữa cũng đánh không được. Đến Song lâm, từ biệt chúng, Sư thượng đường, hơi thở vào không ở ấm giới, hơi thở ra không dây dưa muôn duyên. Vì sao? Vì bỏ Vạn Tùng vào Song Thọ. Hiểu được chủ trượng, nếu không cột được cao các thì tự cười mình một đời không có định lực, hành tàng phần nhiều bị gió nghiệp thổi.  HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 2 Sư nhập tự, chỉ sơn môn nói: Không nhọc búng ngón tay, đâu có liên quan đến tư duy, sẵn đủ môn hộ, người đến mới biết. Chỉ điện Phật nói: Trước Thích-ca, sau Di-lặc, thử hỏi vị nào là chánh chủ, hét một tiếng. Cầm thiếp. Mây nước bình thường hoặc ngưng hoặc chảy, ban đầu không cố định, do đâu được cái này vào tay, bèn ở lại trong đây, thử hạ một chuyển ngữ xem. Chư sơn thưa thớt, ở ắt chọn gần gũi. Cái gương chẳng làm ngưng nước, sáng tối xâm chiếm nhau, do đây có lời này. Sơn môn thưa thớt, đóng cửa lại, đều là tự trong nhà mình, đâu cần phải lời lẽ đãi bôi. Ngầm gọi người, không tin, nghe lấy văn sau. Chỉ pháp tòa, chứa cỏ góp đá, nói có bàn không, lấy xưa còn xa, xỉ, cùng lúc nhón lấy, vì sao? Vì có một con đường. Sư thăng đường, chúc Thánh xong lên tòa ngồi, nói: - Đa số kẻ thiện xa bắn ra sẽ trúng vận đích. Nếu không trúng đích, thì uổng phí mũi tên, không hề có kẻ thiện xạ chăng? Thử bắn một mũi tên xem. Vị Tăng hỏi: Không từ trời xuống, không từ dưới đất lên, núi Tu-di từ đâu có? Sư đáp: Nói đột xuất khó biện bác. Vị Tăng nói: Chỉ lấy tin tức chân thật này để chúc Ngô hoàng muôn ức xuân. Sư đáp: Tổ tránh được gió, hang tránh được mưa. Tăng hỏi: Chốn Song Thọ cao quý, nơi bậc Đại só thùy hóa, Ứng am Vân tôn, nay dấu vết của bậc cao đạo Hư Đường còn ngay thẳng hay chăng? Sư đáp: Tội lừa dối người lại thêm tội. Sư đáp: Ngăn sao được chuyện đúng sai? Đã vào tai người dù có lấy nước ngàn sông cũng rửa không sạch. Sư nói: Mặt đỏ chẳng bằng lời ngay. Vị Tăng hỏi: Như Phán phủ trực viện thị lang mời Hòa thượng đến ở ngọn danh sơn này có phương tiện gì? Sư đáp: Kiếm vào tay người cầm. Vị Tăng hỏi: Có thể lộ cho để tử chút tin tức chăng? Sư đáp: Chốn đỗ quyên hót, hoa bay lả tả. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Một sợi tơ không vướng, vượt qua sự nhỏ nhặt, góc cạnh, thoát khỏi vô y còn chưa phải cực tắc. Kẻ nạp Tăng này đến đi chẳng nhờ hình dáng, động tịnh chẳng do tâm, vận thầm vô phương, các cơ chóng hiển. Chợt thấy mây vàng đỉnh núi, cây sắt nhú cành, bên hoa trắng nhỏ, không gió nổi sóng, nơi nơi đều là cảnh giới Phổ môn, đầu đầu đều là đạo tràng của Di-lặc, không ứng muôn duyên, sống động tự được. Cho đến mưa Nghiêu gió Thuấn, cùng vui thái bình, tiều hát ngư ca, đều ân hưởng sự Thánh hóa, rốt cuộc lấy gì để chứng nghiệm? Phẩy phất trần. Nham Sa bước vào tường lân ẩn, phượng trắng nhàn bay đến cây biển. Lại nêu: Mân vương thỉnh La Sơn khai đường Ngài lên tòa, lấy tay vén y Tăng-già-lê, nhìn khắp đại chúng rồi ngồi xuống. Vua đến gần trước cầm tay Sơn nói: Hội Linh Sơn nào khác hôm nay. Sơn đáp: Rõ ràng ông là kẻ thế tục. Sư nói: La Sơn đương thời ra một chiêu này chẳng ngờ, làm kinh động đại chúng, nhờ gặp đại vương, là người trong Phật pháp, nay bỗng có người hỏi Bảo Lâm mới, chỉ nói với hắn rằng: Đã không có kẻ tri âm thì tự nhiên đầu ngay đuôi lọt. Đương đêm, tiểu tham, Sư nói: Rõ ràng xưa nay phần nhiều bói mò đoán bậy, đêm nay đã vì các ngươi phá bỏ các quẻ văn, mời từ từ bước ra bàn bạc. Hỏi đáp xong, sư lại nói: Khách là vị tướng sư của chủ nhân, chưa đến Bảo Lâm thì thôi, đã đến Bảo lâm, không ra mắt mọi người khiến trong đây có một vài kẻ lờ mờ, là những kẻ quen biết trước đây, đã chỉ ra cái linh gió trong pháp hành đạo kêu loạn xạ, nắng Lương Bảo Công dẻo miệng nhiều lời, bèn thấy hòa khí giữa chủ khách, đôi bên không nghi ngại, tuy vậy hãy nói: trong cung Từ Thị hôm nay nói pháp gì? Gậy cao, dao thép tuy bén nhưng không chém kẻ vô tội. Lại nêu: bậc Đại só Thiện Tuệ núi này nhân gặp Tung đầu-đà người Thiên-trúc nên đã hỏi rằng: - Ta và ông cùng phát thệ trước Đức Phật Tỳ-bà-thi, nay cung trời Đâu-suất vẫn còn y bát, ngày nào về lại làm bậc Đại só, nhìn vào hình trong nước thấy lọng cái tròn sáng? Đại só đáp: Trong lò rèn nhiều sắt ròng, thầy thuốc nhiều người bệnh. Sư nói: Thật đáng tức cười. Đương thời đợi ông ta vừa nói mời Đại só nhìn hình trong nước thì phải cầm lấy cây chùy gỗ bách đánh vào miệng thì còn cứu được một nửa. Lại nói nào sắt ròng lò rèn, thầy thuớc, người bệnh v.v… ngược lại, kiếm rút ra đã lâu. Sơn Tăng bình thường theo lý không theo tình thân, chẳng vì Đại só mà làm chủ, như không có đêm khuya, xin cẩn thận. Sư thượng đường nêu: Yến Quốc sư dạy chúng: nơi Cổ sơn môn hạ không được ho, vừa lúc ấy có một vị Tăng ho lên một tiếng. Sơn nói: Làm gì đó? Tăng đáp: Bị cảm mạo, Sơn nói: Cảm mạo thì được. Sư nói: Đúng thì đúng, gò đất là nơi tập bắn cung. Nếu cứ mãi như vậy thì đạo dứt người thưa. Kiết, hạ tiểu tham: Gậy cao chẳng cần Thiện Tài ngưng niệm, Di- lặc búng tay, thỉnh khắp bốn Thánh sáu phàm vào kho đại quang minh này, làm chủ bạn với nhau, mau chóng nói bệnh thiền giúp người mù được sáng, người điếc được nghe, kẻ bị trói được thoát, trong thời hạn chín mươi ngày đó, riêng chứng pháp này, rồi sau thăng đường Song Thọ, vào thất tức canh, lên chốn không trăng sao, so sánh sự nặng nhẹ của nó để thưởng cho sự lao nhọc, hội chăng? Gậy cao, lực mạnh, ôi chao! Lại nêu: khi Hòa thượng Thiên Bình Y còn hành cước, tham Tây Viện, Tây Viện thường nói: Chớ nói hiểu Phật pháp mà tìm một câu nêu thoại cũng chẳng có. Một hôm, Tây Viện vời đến nói: Tùy y. Bình ngẩng đầu, Viện nói: Sai, Bình đi hai ba bước. Viện lại nói: Sai, Bình đi hai ba bước. Viện nói: Chính người đến hai lần sai, Tây Viện nầy sai, thượng tọa sai. Bình đáp: Là tùng y sai. Viện đáp: Sai. Bình thôi nói. Viện bảo: Nên ở lại đây qua hạ, đợi cùng người lên tòa bàn bạc cả hai cùng sai. Bình đương thời đứng dậy đi. Về sau ở viện, Bình nói với chúng rằng: Thời gian đầu khi ta hành cước bị gió thổi đến chỗ trưởng lão Tư Minh, bị ngài liên tục nói ta sai hai lần, lại giữ ta ở lại qua hạ để bàn bạc, ta không nói lúc nào sai, khởi bước khi đến phương Nam là đã sai từ sớm rồi. Sư nói: Tánh buông lung thì răn việc trộm cắp, sửa sanh nhan sắc thì răn việc dâm. Hạ song lâm này có người bàn bạc hai lần sai lầm chăng? Hôm sau, Sư thượng đường. Kẻ nào cũng đầu đội trời chân đạp đất. Vì sao? Vì đạp bóng hai ngàn năm trước thì nhất động cũng chẳng được. Chẳng có kẻ không đạp bóng chăng? Gậy cao, đúng thì đúng, chỉ là hôm nay không đến. Cảm tạ Đầu thủ, cầm phất trần thượng đường. Dùng đàn bái tướng để cầu làm sống dậy sự tinh túy của đất nước. Dùng phất trần để truyền dạy cho người. Muốn thấy kẻ só khô tâm, mây vàng dưới núi, chốn long tượng quay về, chốn bạc xứ Hư Đường, trước dẫn chứng rằng rùa là con ba ba. Ngày kî khai sơn, Sư thượng đường: Chánh pháp, tượng pháp biết được mấy năm. huống lại cầm nhón chẳng ra. Kẻ tài giỏi chịu đựng không thể ra nâng đỡ sự xấu, đoạt lấy sự tốt. Đã chưa có được chỗ bổ xứ thì chẳng như vậy mà đi, là đi chẳng đi, gậy cao, lộ. Sư thượng đường, nêu: Hưng Hóa nhân vị Tăng hỏi: khi bốn phương tám mặt đến thì thế nào? Hóa đáp: Đánh chính giữa, vị Tăng bèn lễ bái. Hóa nói: Hôm qua đến phó trai trong xóm, suốt dọc đường mãi bị gió mưa vần cũ, vào trong tòa cổ miếu tránh được. Sư nói: Hưng Hóa bị vị Tăng đó tìm ra được cây búa cùn bèn hạ cờ từ cột cao xuống. Lúc ở nhà Bảo Lâm, nếu thấy hắn lễ bèn thôi, chứ sao lại dạy kẻ đó vác một tấm bảng luống uổng qua một đời. Sinh nhật Đại só, Sư thượng đường: từ sau khi Tung đầu-đà nói vỡ lẽ đến nay chẳng ra ngoài. Là tay tài giỏi, vô cớ khi nghèo nhớ nợ cũ, lại khen thói xấu ở nhà. Muốn thấy Đại só hay chăng? Gậy cao, tay không nắm đầu bừa, đường bộ cỡi lưng trâu. Sư thượng đường nêu: trên đường Đài Sơn có một bà lão hễ có Tăng hỏi: đường này dẫn đến đâu? Bà đáp: Cứ đi thẳng, Tăng vừa bước. Bà nói: Ông thầy giỏi, vị Tăng bèn đi. Triệu Châu nghe vậy, nói: - Để ta đi hỏi bà ấy. Châu đến cũng hỏi như trước, bà lão cũng đáp như vậy. Châu về viện nói bà lão đã bị ta khám phá rồi. Sư nói: Bà lão đó bày tận nơi chẳng tấc cỏ mọc nổi. Triệu Châu chẳng làm gì tháo vát giỏi giang mà cứ muốn khám phá bà ấy. Dường như kẻ vác áo quan của người về nhà mình khóc. Chẳng kẻ nào làm chủ cho Triệu Châu chăng? Gậy cao, khám qua xong, vừa nói liền đánh. Sư thượng đường. Vị muối trong nước, chất giao thanh trong mầu sắc, Tổ sư chỉ nhận thấy tương tự, nào khác kẻ nước Sở cho gà là chim phượng. Chỗ nầy của ta tha hồ cho ngươi ba đầu sáu tay, tận cùng lai cơ cũng chẳng có chỗ cho người ghé họp. Vì sao? Quen dùng miệng mắng nhiếc Tăng ngũ hồ. Sư thượng đường nêu: Vân Môn dạy chúng: đến được chạm mắt không vướng, đạt được danh thân cú thân, tất cả pháp không, núi sông mặt đất là tên, tên cũng không thật có, gọi là tam-muội tánh hải đều đủ, giống như chaẳng có gió, sóng vòng quanh, cho đến quên tai còn giác, giác tức là Phật tánh, gọi là người vô sự, càng nên biết có một khiếu hướng thượng. Sư nói: Đại sư Vân Môn hôm nay vào trong đầu lâu của các ông ngang ba dọc bốn, thấy các ông không biết không hay nên nói rằng: - Đất rộng người thưa, ít kẻ gặp gỡ. Giải hạ, tiểu tham. Có vị Tăng hỏi: Thời gian dài đã hết, đầu túi vải mở, Giang Nam, Giang Bắc vẫn dòng sông xưa, lá vàng hoa vàng đều là sắc thu. Đệ tử lúc đó thế nào? Sư nói: Đào đất chôn sâu. Vị Tăng hỏi: Vậy thì cây cau cây dẻ vác ngang không nhìn ngó đến người, thẳng vào ngàn muôn ngọn núi. Sư nói: Sương ướt giầy cỏ nặng. Vị Tăng hỏi: Nếu không thả mồi câu làm sao biết ao xanh là sâu? Sư bèn hét, vị Tăng lễ bái. Sư lại hỏi: một chiếc lá rơi trời đất vào thu, nhận đứa ở làm chồng. Một hạt bụi làm nên mặt đất mênh mông, vẫn còn dấu vết, đầu thu cuối hạ, nên thẳng đến chốn muôn dặm không một tấc cỏ. Cỏ tranh khô dẫn lửa, ra cửa liền là cỏ, thấy người giàu sang thường vui vẻ, chớ để tâm mình như lửa đốt. Đúng vậy, đúng vậy, dây leo bốn đường cùng lúc nhổ sạch, không như vậy không như vậy. Dụng công trong chín tuần chứng nghiệm vào đêm nay. Mười châu ba đảo tha hồ ngao du. Nhạn tha hồ vào ra núi Thiên thai, chỉ như Vân Môn nói trả ta tiền cơm chín mươi ngày, lại là nghóa gì? Lại nêu: nhân Lâm Tế đến từ biệt, Hoàng Bá hỏi: đi đâu. Tế đáp: Chẳng phải Hà nam thì Hà bắc. Bá bèn đánh. Tế nắm gậy lại và tát Bá một cái. Bá cười ha hả. Gọi thị giả đem thiền bảng và phất trần của Tiên sư Bá trượng đến. Tế cũng kêu thị giả đem lửa đến. Bá nói: Ngươi cứ mang đi, sau này sẽ ngồi trên đầu lưỡi của mọi người trong thiên hạ. Sư nói: Sáng tối hợp nhau thì sẽ có hai đại só. Ngặt nỗi về lâu thành lệ, Bảo Lâm có vị Tăng ra từ biệt liền đánh một gậy ngay lưng, vì sao? Thà rằng rêu mọc nơi đây, quyết không dẫn người đi làm giặc. Sư thượng đường nêu: Vân Môn nhân vị Tăng hỏi: vượt Phật vượt Tổ là lời nói thế nào? Môn đáp: Bánh nhà Hồ. Sư nói: Chim sợ cành cong, kẻ nào thấy được Vân Môn nên khéo vì ta mà từ biệt. Thí chủ bố thí ruộng làm giỗ kî Đạt-ma, Sư thượng đường, Đại sư Đạt-ma e các ông đút cơm đằng mũi nên đành phải từ Tây Thiên đến. Ngài thấy đã hiểu được chút phần lại trở về Tây Thiên. Nay có đạo nhân Lưu Thiện Phú, giữa đường thấy bất bình, xả bỏ đất tốt mầu thí cho thường trụ, mỗi năm đều thiết cúng ngày nầy. Muốn xỏ được mũi hắn, nay đúng vào lần cúng thứ nhất. Thử hỏi: ông già đó còn đến hay chăng? Gậy cao, mạt vàng tuy quý rơi vào mắt thành bệnh. Niêm hương ngày kî đầu của Đạt-ma. Phá chấp nhất của sáu tông, đạo trùm năm xứ thiên trúc, cắt đứt mỗi nghi của Nhị tổ, làm vẻ vang Hoa Hạ, cho đến há răng, xuống thuốc độc đều do lẽ nầy. Ngậm lời chiếc bóng vượt lưu sa, rực rỡ thay ánh trăng, trước núi đẹp nhữ vẽ. Đốt hương, dâng trà, kính mến di âm. Một niệm muôn năm. Phong vị chân chính thì không mất. Sư thượng đường nêu: Hoàng Bá dạy chúng: bọn các ông là bọn nát rượu hư hỏng, hành cước như vậy đến đây mới có được như hôm nay? Lại có ai biết rằng trong nước Đại Đường không có Thiền sư chăng? Đương thời có vị Tăng bước ra hỏi: như các phương tín đồ lãnh chúng, nghóa là gì? Bá đáp: Chẳng thể nói là không thiền, mà chỉ là không có thầy. Sư nói: Những kẻ nói năng này phần nhiều là sai lầm. Chân thật mà nói, sương mù ướt lông beo, chưa từng hạ thực. Gia cầm nuôi cho lớn mạnh rốt cuộc để làm người sợ. Chỉ biết tâm nuôi dưỡng kẻ só đó mà không biết trong tro lạnh rắn lửa đốt mặt. Thấu suốt thân kiến của Hoàng Bá thì chẳng cần phải kî đến chốn bọn nát rượu hư hỏng mà gặp gỡ. Tiết Đông chí, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Văn-thù là thầy của bảy Đức Phật, sao chẳng thể làn cho người nữ xuất định? Sư nói: Quỷ nhà được trọng. Vị Tăng hỏi: Võng Minh là Thanh văn ở phương dưới, do đây làm xuất định được. Sư đáp: Nửa bức toàn phong. Vị Tăng hỏi: Không rơi vào nhân quả do đâu đọa vào loài chồn hoang? Sư đáp: Đào hồ không đợi trăng, hồ thành trăng tự đến. Vị Tăng hỏi: Không lầm nhân quả do đâu thoát kiếp chồn hoang? Sư đáp: Gấm bao đá lạ. Vị Tăng hỏi: Khi lão quán gặp Tăng làm bún thì thế nào? Sư nói: Có tiền khiến quỷ phải đi. Vị Tăng hỏi: Khi Lỗ tổ gặp Tăng, quay mặt vào vách thì thế nào? Sư đáp: Tấc cỏ chẳng mọc. Tăng nói: Đệ tử hôm nay ra nhỏ gặp lớn, bèn lễ bái. Sư đáp: Sau ót thiếu một chùy. Lại nói: Mặt áo lòi khuỷu tay, cửa nát nhà tan, muốn biết bì cực cực thái lai, tự nhiên có thời tiết riêng. Nạp Tăng canh nào cũng mộng thấy mỗi ngày đều trôi qua được là người tài giỏi. Nào ai quản được việc ngươi lười giặt? Không mở bày ngọa đơn, dù cho điều khiển được mười hai thời, gầy đến bên mép sanh mốc meo. Bảo Lâm như vậy báo cáo, chỉ đánh trái cầu tịnh khiết, chớ có trộn bùn với nước làm cho vật biến đổi chăng? Đến gần phía trước, ta muốn biết ngươi cầm gậy, khá lâu vẽ thành ngọn núi cao chín nhận, mảnh đất không bằng tấm chiếu. Lại nêu: Minh Chiêu dạy chúng, chúng vừa nhóm họp, Chiêu rằng: Chỗ này đầu gió hơi lạnh, nên về chỗ ấm áp mà thương lượng. Bèn xuống tòa. Chúng theo đến phương trượng, Chiêu bèn đánh, nói rằng: Vừa đến chỗ ấm liền thấy ngủ gật. Sư nói: Trong bóng tối la hét, trong hơi thở muôn người ắt có Minh Chiêu. Chỉ chưa thấy có tên lực kiết sức vứt bỏ áo giáp. Chẳng có kẻ đồng sống chết với nhau chăng? Hét một tiếng. Hôm sau, Sư thượng đường, cảnh vắng lặng, thanh bạch truyền đời, mới ứng muôn duyên, người đá tát tai, hiểu được trời đất hanh thông, tốt đẹp đều có lợi lạc, nếu không, đỉnh Hành Sơn có bia Thần Vũ. Tiết Thiên Cơ, Sư thượng đường: Gió mài đá qua nhiều kiếp, vừa cứng chắc lại nhuần tuyết. Cười nhạo ngọn thông côi chuyển vần thanh. Bốn biển đầy, khói yên sóng tịnh. Ngôi Nam đẩu mãi nhìn lão nhận tinh. Mùng 08 tháng chạp, Sư thượng đường. Vào không sâu trong núi, kiến địa không thoát, khiến phải đặt thùng nước đầy trên đầu. Vọng tưởng không tan, Bảo Lâm có kiến xứ nhưng không nói ra. Vì sao? Tháng chạp gió tuyết lạnh lẽo thổi, gấp rút tránh thân đã muộn rồi. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: tuyết phủ ngàn đỉnh núi, do đâu ngọn núi côi không trắng xóa? Sư đáp: Mất đi ít nhiều gió của Long vương. Vị Tăng hỏi: Lớn nhỏ lớn, hôm nay Hư Đường mất lợi. Sư đáp: Cánh tay chẳng thể ngoặt ra ngoài. Vị Tăng hỏi: Phổ Hóa lay chuông lưỡi gỗ, nương hư không mà đi. Chưa hỏi xem đi về đâu? Sư đáp: Ba lần chín là hai mươi bảy. Vị Tăng hỏi: Rốt cuộc đi về đâu? Sư đáp: Cắn que chùi phân của người chẳng phải là chó hay. Vị Tăng đáp: Đệ tử hôm nay ra nhỏ gặp lớn. Bèn lễ bái. Sư nói: Con quỷ nghèo. Lại nêu: Bách Trượng nhân vị Tăng hỏi: thế nào là việc đặc biệt? Trượng đáp: Ngồi một mình trên đỉnh Đại Hùng, vị Tăng lễ bái. Trượng bèn đánh. Sư nói: Bách Trượng vốn có đại cơ đại dụng. Nếu chẳng phải tay kiếm cùng nhau đáp trả thì dường như đã lạc thời. Đêm ba mươi tiết tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Tuổi cũ đuổi không đi, năm mới đón chẳng đến. Mới cũ vốn vô tình, đến đi ai định được? Sư đáp: Đá trước cửa dám gánh vác. Vị Tăng hỏi: Nếu năm cũ đã đi, năm mới sắp đến, nạp Tăng còn bị nóng lạnh làm biến đổi chăng? Sư đáp: Còn. Vị Tăng hỏi: Cái nào không biến đổi? Sư đáp: Con sư tử tuyết dưới thềm. Vị Tăng đáp: Vẫn nhảy chẳng ra. Sư nói: Trời xanh, trời xanh. Lại nói: Nơi nóng lạnh không đến có cây cột lộ thiên chứng minh. Năm tháng không thay đổi. Mắt đạo nhân sống động. Cho nên một năm có ba trăm sáu mươi ngày. Từ đầu năm tính đến cuối năm, không hề có ngày nào chẳng làm mà ăn. Hôm nay chính là đêm ba mươi tháng chạp, xem ra tro lạnh bốc lửa, cây khô lại tươi tốt. Lại suy xét kỹ càng, xưa nay đầu trước thì có nhiều tuyết. Bảo Lâm báo cáo như vậy. Tự biết rằng đày tớ nghèo nấu ăn, đứa ở đói cãi vã. Không được làm kẻ ồn ào, dự vào chuyện của người. Vì sao? từng trải nỗi khổ sương tuyết, hoa dương rụng cũng sợ. Lại nêu: Đêm cuối năm Bắc Thiền dạy chúng, năm cùng tháng tận, không thể cùng mọi người phân tuổi. Nấu một con trâu trắng ngoài đồng, thổi rượu gạo uống, nấu canh rau dại, đốt lửa bằng củi vụn, hát nhạc ruộng thôn, khỏi thấy dựa tượng dựa cửa nhà người, bèn xuống tòa. Khi đó có vị Tăng bước ra hỏi: Hòa thượng làm thịt trâu sao không thâu lại gân sừng? Bắc thiền ném mũ xuống, vị Tăng cầm lên nói: Trời lạnh trả nón lại cho Hòa thượng. Sư nói: Thổi tiêu khúc nhạc thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi. Sư thượng đường: mỗi ngày vọng tưởng trên bồ-đoàn không có chỗ cho ngươi chen tay vào, đến nỗi rong ruổi khắp chốn như vịt nuốt ốc. Sơn Tăng hôm nay không động hơi dạy các ngươi có chỗ để vào, hồi lâu vỗ tay nói: Một nửa vào được, một nửa không vào được. Sư thượng đường nêu: Bàng Cư só từ tạ Dược Sơn, Sơn cho mười vị thiền khách đưa đến trước cửa. Bàng chỉ mây trên hư không nói: Mây đẹp từng phiến không rơi vào chốn khác, đương thời có thiền khác tên. Toàn nói: Rơi xuống đâu? Bàng bèn tát cho một cái. Toàn nói: Cư só chớ nên qua loa. Bàng hỏi: Thế nào gọi là thiền khách? Lão Diêm vương chưa bỏ qua cho ngươi. Toàn đáp: Cư só nghóa là gì? Bàng lại tát. Sư nói: Tuy hai tát tai nhưng trong đó có đánh có xoa, có bắt có thả. Tiểu sư thiết cúng, Sư thượng đường nêu: Chương Kính nhân tiểu sư đi du phương về, Kính hỏi: ngươi rời đây đi đã bao lâu? Vị Tăng đáp: Đã tám năm. Kính hỏi: đã làm được việc gì? Tăng vẽ một vòng tròn trên đất. Kính hỏi: ngoài ra chẳng còn gì sao? Vị Tăng tiến đến gần gạch bỏ hình tròn, rồi làm lễ lui xuống. Sư nói: Thầy nghiêm có đệ tử giỏi, Nhị Lâm nuôi con chẳng bằng cha nhưng chỉ cần dạy nó cúng dường đại chúng, chẳng cần phải trình kiến giải. Vì sao? E lễ bạch sinh oán. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Linh Vân thấy hoa đào mở mà được ngộ, đệ tử mỗi ngày cũng thấy một hai cành, do đâu không ngộ? Sư đáp: Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình. Vị Tăng hỏi: Vì sao Huyền Sa không chịu hắn? Sư đáp: Hắn là kẻ trong nhà. Vị Tăng nói: Đệ tử đến chỗ đó như Hồ Tôn cắn gang. Sư đáp: Ngươi chớ chỉ lo đầu mặt. Vị Tăng đáp: Cần vẫn Hòa thượng gửi gắm. Sư lại nêu: Vân Môn hỏi Thủ tọa: núi sông, đất đai khác hay đồng với ta? Tọa đáp: Đồng. Môn hỏi: các loài trùng kiến khác hay đồng với ta? Tọa đáp: Đồng. Môn nói: Tốt lắm. Vậy sao phải tranh đấu lẫn nhau? Sư nói: Vân Môn dễ thấy, Thủ tọa khó thấy. Vì sao? Ấy là vì nó không nằm ở chỗ không biến đổi nên nói là đồng. Hòa thượng Trí Giả đến, Sư thượng đường, tắm gội trong tịnh bình, tu thân dưới cổ đào. Kia đây, tấc dài thước ngắn, nào ngại kẻ hèn nầy là kẻ rất gần gũi, gặp nhau thì vô sự, không đến lại nhớ nhung. Đỗ Quyên kêu dứt trăng như vẽ, nào tựa bình thường. Kiết hạ, tiểu tham: Việc này như giữa mày sáng tỏ, chẳng có một đầu mối nào hứa hẹn cả. Bị chướng ngại là do mắt trí của các ông không cao, đọa vào cõi này nên làm nhọc ta. Đại só Trúc Can đúng hạn kỳ tùy bệnh cho thuốc, đối với hàng trung cơ, hạ cơ. Nếu là bậc thượng lưu, đâu chịu nhận cơm nước của hạng như ông. Huống hạ này vừa vặn một trăm hai mươi ngày, các ông chen tay vào chỗ nào? Nếu không có chỗ chen tay thì cô phụ Đại só Trúc Can, nếu có chỗ chen tay, chớ đợi hết kỳ hạn mới mời nói thử. Vì sao? Vì lão Tăng nóng lòng muốn đặt để dưới cửa sổ sáng. Lại nêu: Thủ Sơn dạy chúng: Ôi chao cô gái khéo léo thay! Ném thoi không biết dệt, người xem nó đá gà: trâu nước cũng không biết. Ôi chao! Anh chồng vụng về, khéo giỏi không ai biết, đập vỡ cửa phụng lâm, mang ủng đứng trên nước. Sư nói: Thủ Sơn tự cho rằng được chánh truyền của Lâm Tế nên chẳng chịu làm loài dã can kêu, đến nỗi khiến cho con cháu trong thiên hạ kéo bùn mang nước. Hôm sau, Sư thượng đường nêu: Sư tổ Ứng Am xưa thôi việc ở Đương Sơn, gửi hạ tại Tịnh Minh, dạy chúng rằng: - Ba mươi ba châu, bảy mươi vị Tăng, má lừa cằm ngựa bị người ghét. Các phương nếu đủ tay lồng lưới, hôm nay chẳng có nguyên nhân nào đến Tịnh Minh. Sư nói: Muốn thấy rồng voi đương thời, đứa cháu vụng về non kém chẳng dám cắt xén bốc lột các nơi, chỉ có nhiều hơn được mấy châu, ở nơi tối mà báo đền cho nó. Vì sao? Gậy cao, khuyên anh không nên trồng gai góc, con cháu đời sau bị vướng áo. Sư thượng đường nêu: Hoàng đế Túc Tông hỏi Trung quốc sư: Trăm năm sau cần vật gì? Quốc sư đáp: Hãy làm một cái tháp không phải xây bằng gạch cho lão Tăng. Vua nói: Xin cho hình dáng của tháp. Quốc sư hồi lâu, hỏi: hội chăng? Vua đáp: Không hội. Quốc sư nói: Thần có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên hiểu rõ việc này. Quốc sư tịch, vua mời Đam Nguyên đến hỏi. Nguyên đáp: Sông Tương ở phương Nam, đầm ở phương Bắc, ở giữa có vàng ròng đầy cả một nước, họp người cùng thuyền dưới cây không bóng, không có bậc tri thức trên điện Lưu ly. Sư nói: Đương thời nếu vua Túc Tông ngay chỗ im lặng hồi lâu của Quốc sư mà hét một tiếng thì tránh khỏi đến Đam Nguyên mà rơi hầm lọt hố. Muốn thấy tháp không xây bằng gạch chăng? Gậy cao, khuyên anh uống cạn ly rượu này, không có người xưa nơi hướng Tây Dương Quan. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Tham học cần thật tham, thật tham nghóa là gì? Sư đáp: Rõ ràng, lặng lẽ. Vị Tăng hỏi: Thời gian dài đã qua hơn nửa, dường như nước lạnh ngâm bí đao. Hòa thượng có phương tiện gì? Sư đáp: Tinh tinh linh linh. Vị Tăng hỏi: Triệu Châu dạy chúng: “rửa chén bát đi”, vị Tăng đó liền ngộ, đó là ý gì? Sư đáp: Đốt giấy vàng mã để dẫn quỷ. Vị Tăng hỏi: Chúng tôi ăn cháo rồi, rửa chén luôn rồi, vì sao không ngộ? đáp. Sư đáp: Dưa ngọt cuống cũng ngọt, vị Tăng lễ bái. Sư nói: Quả nhiên. Lại nêu: một hôm Diêm Quan gọi thị giả đem quạt tê giác đến. Thị giả đáp: Đã rách rồi. Quan nói: Quạt đã rách vậy trả tê giác cho ta. Thị giả không Sư nói: Diêm Quan e thị giả không ở đó, mà quạt Nhị Lâm tháng nóng cần dùng, không cần phải nhọc đến thị giả. Nếu là tê giác sẽ nộp cho Quốc sư. Sư thượng đường: Nhị Lâm ban đầu không có nhà ở gần người. Cũng không đặt nhà ở chốn nào cả. Chỉ cần mọi người như sắt trong đất hóa thành đất thì sau có thể phát huy vượt hơn. Như người chở phân vào, ta rốt cùng phải làm sao? Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Pháp thân bệnh, sắc thân không yên, sắc thân bệnh, pháp thân không yên, làm sao tránh khỏi? Sư đáp: Bám trên miệng. Vị Tăng hỏi: Sắc thân bệnh thì có, còn pháp thân vì sao sinh bệnh? Sư đáp: Bệnh pháp thân là khổ nhất. Vị Tăng hỏi: Rất giống như ông già Duy-ma bệnh thay chúng sanh? Sư đáp: Ngươi biết ông ta chưa tường tận. Vị Tăng hỏi: Chẳng phải tay Phật che không được mà bởi lòng người dường như đợi nhàn. Sư đáp: Bỏ sóng cầu nước. Vị Tăng hỏi: Rốt cuộc thế nào? Sư đáp: Đợi mũi ngươi hết hơi mới nói cho nghe. Vị Tăng bèn hét. Sư nói: Kẻ sợ chết. Lại nói: Con bò đực mấy ngày nay không thích cỏ nước, ấy là do người chăn không kết quả. Nếu nói một hồi mà ăn cỏ, liền kéo mũi đem đến đó còn chưa phải là cách chăn bò. Vậy phải chăn làm sao? Gõ vào giường thiền nói: Rất sất sất, con súc sanh nầy. Xây kho Phụng lâm, Sư thượng đường. Phụng chẳng phải trúc đặc ruột thì không ăn, chẳng phải suối nước ngọt thì không uống. Do đâu lại ở thôn cầu ván? Gậy cao, chốn có rừng là nơi chân thật nghỉ ngơi, gió nhạt chỉ kêu giữa đêm yên tónh. Sư thượng đường nêu: Vân Môn nhân vị Tăng hỏi: Phật pháp như trăng đóng nước phải chăng? Môn đáp: Sóng lặng không nhìn thấu đường. Sư nói: Vân Phong nói thiền Vân Môn như đan trong bình đã luyện chín lần. Nếu quả là đúng thì e chưa đúng. Các nơi sớm tối chúc nguyện, muốn ông làm chủ cơm canh. Con chó ghẻ ở chỗ ta đây không muốn sanh lên cõi trời. Nếu ngươi tìm được một con đường nơi không kẻ qua lại, gặp cơ thanh thản tự do tự tại thì cùng một hạng với ta. Giải hạ, tiểu tham. Có vị Tăng hỏi: Đầu thu cuối hạ, phong độ nạp Tăng như vua, lìa khỏi song lâm, giữa đường thọ dụng thế nào? Sư đáp: Đạp trúng nát như bùn. Vị Tăng hỏi: Chỉ điều này là thọ dụng giữa đường chăng? Sư đáp: Nam thần bắc đẩu. Vị Tăng nói: Lãnh ý chỉ từ cây phất trần của sư. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Đi suốt một hạ trên đất già-lam mà không hề dám bước nặng. Đạp trúng một miếng gạch thường trụ, thời gian đến chầu đã hết, lấy gì để thưởng công? Nếu đếm từ đầu Thủ tọa ngốc cho đến thị giả Thánh Tăng đều xin thưởng công thì chỉ e mọi người nói rằng: Sơn Tăng không phân biệt Tăng tục, nếu lại so sánh nặng nhẹ sẽ càng thấy tuệ tâm của sơn Tăng không trùm khắp, làm sao được tương đương, nên nói rằng: Dưới sự trọng thưởng sẽ có dũng só, vì trọng thưởng cho nên không từ, kẻ nào là dũng só siêu việt? Cầm gậy chỉ nói là ông. Lại nêu: Lâm Tế giữa hạ lên núi thăm Hoàng Bá, thấy Bá xem kinh. Tế nói: Tôi vốn là vị Tăng già, xưa nay ngâm đậu đen, ở vài ngày lại rời đi. Bá đáp: Ông phá hạ đến đây, vì sao không ở hết hạ? Tế đáp: Tạm đến lễ bái, Bá bèn đánh, lệnh cho Tế phải đi. Tế đi được vài dặm, nghi việc đó lại về ở trọn hạ. Sư nói: Hoàng Bá đương thời nếu đại cơ đại dụng giết chết hết tâm trộm của Lâm Tế thì con cháu ngày nay cái đuôi không đến nỗi khô vàng, đào lâm chẳng ở lại đến trọn hạ? Hét một tiếng. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: thế giới rộng lớn như vậy vì sao nghe tiếng chuông lại đắp y bảy điều? Sư nói: Nước cạn không cá, luống nhọc buông câu. Vị Tăng hỏi: Thời gian dài đã qua, việc trung gian nghóa là gì? Sư đáp: Mãi không bắt không lại. Vị Tăng hỏi: Niệm tán trên lầu chuông, trồng rau dưới chân giường, sáng việc gì? Sư đáp: Lột da thấy xương. Vị Tăng nói: Thủ tọa Thắng nói rằng cọp dữ ngồi giữa đường. Sư nói: Xin ngươi cái bao ghế. Lại nêu: gà kêu giờ sửu sầu khởi lên, trả chiếc quần lủng, áo đơn lệch cũng chẳng có. Hình tướng ca-sa, ôi thôi! Có quần mà không có dây lưng, khố không có ông. Trên đầu năm ba đấu than đen, chỉ mong tu hành lợi cho người, ai biết thành bại không than thở. Sư nói: Triệu Châu mới về trên mặt lại thêm lúm đồng tiền. Lại đi trong chốn màn che năm màu, chỉ là ít được người nhìn thấy. Ngày kî Tiên sư Vận Am niêm hương: Lão Hòa thượng qua đời đã hai mươi lăm năm, có ai chống giữ cửa nhà. Tuy đi cùng ngày với Tòng Nguyên mà chẳng hội ba chuyển ngữ của Tòng Nguyên. Cha con đường ai nấy đi chẳng thấy mặt nhau, đến nỗi hôm nay thành lỗ mãng, sương lạnh, gió cao, ý thu sâu, đã lâu vô tâm tiến lê thử. Tết Trung thu, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Linh Sơn nói trăng, Tào Khê chỉ trăng, ý chỉ thế nào? Sư đáp: Khinh rẻ Hồ, Hán. Vị Tăng hỏi: Tạ Tam Lang có lỗi gì? Sư đáp: Lỗi vu báng người. Vị Tăng hỏi: Như vậy thì trên trời trăng sáng, trần gian trăng khuyết. Sư đáp: Quạ già ăn hàu. Vị Tăng vẽ vòng tròn nói: Cái này làm sao hiểu rõ? Sư đáp: Rõ thì sẽ mù. Vị Tăng nói: Cảm ơn sư chỉ dạy. Sư đáp: Thằng đa ranh. Lại nói: Ngôi đình đẹp đầy thuyền vẫn không đủ. Nam Tuyền lẹ chân đạp không trúng, trừ đáy mắt rối rít ra, đều thấy trăng quên ngón tay. Gậy cao, trăng sáng dần. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Ngưỡng Sơn nói với Hương Nghiêm rằng: Sư huynh hội được Như lai thiền, nhưng chưa mộng thấy Tổ sư thiền, ý này thế nào? Sư đáp: Rắn vào ống tre. Vị Tăng hỏi: Ngưỡng Sơn vô cớ bị oan ức. Sư đáp: Thoát không được với ông. Vị Tăng hỏi: Như Lai thiền nghóa là gì? Sư đáp: Tường sắt, tường sắt. Vị Tăng hỏi: Tổ sư thiền nghóa là gì? Sư đáp: Cõi sở mây lạnh, núi Việt gió ấm. Vị Tăng hỏi: Thế nào là thiền của Hòa thượng. Sư đáp: Ông là kẻ điên cuồng. Vị Tăng nói: Đệ tử từ nay không hỏi nữa. Sư đáp: Càng nên khám qua. Lại nêu: thượng tọa Thái Nguyên Phu: ban đầu tham Tuyết Phong phải vượt qua cửa mới gặp Tuyết Phong, bèn tham chủ sự. Hôm sau lại đến lễ bái nói: Hôm qua xúc phạm Hòa thượng. Phong đáp: Biết việc này, bèn thôi. Sư nói: Mọi người đều nói Tuyết Phong có cỏ hãm cọp, không có kiếm chém rắn mà chẳng biết rằng duyên nuôi con phải có sự khoan thứ. Tiết Trùng cửu, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Lý không biến đổi theo sự, sự không dời theo lý, ngày mùng chín tháng chín vì sao đánh trống thăng đường. Sư đáp: Sự lý không trói buộc được nó. Vị Tăng hỏi: Nó là kẻ nào? Sư đáp: Đầu nhẹ đuôi nặng, chân lê trên cát. Vị Tăng hỏi: Đã chỉ dạy sai cho người. Sư đáp: Sơn Tăng già yếu. Vị Tăng hỏi: Phần Dương nói “ngày trùng dương mồng chín hoa cúc mới”, ý nầy là gì? Sư đáp: Ta không cách con trâu, nên tự nhiên không nhiễm trần. Vị Tăng nói: Phần Dương hôm nay có lễ. Sư hỏi: thấy Phần Dương ở đâu? Tăng bèn hét. Sư nói: Tên không bắn sao. Lại nói: Hái cúc dưới hàng rào phía Đông, bỗng thấy núi Nam, Đào Tónh Tiết tuy kẻ tục nhưng lại có một số nạp Tăng nói thoại, tuy hắn là người đời Tấn nhưng chưa thể hoàn toàn tin được. Mở lò Tạ Thủ Tọa, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Triệu Châu nói: ta gọi là lửa, các ông không được gọi là lửa, ý nầy là gì? Sư đáp: Nhiễu câu tháp sách. Vị Tăng nói: Hôm nay được thấy Triệu Châu, sư hỏi: ngươi hội việc ông ta chống hồ lô ở vách phía đông chăng? Vị Tăng đáp: Cũng là việc cơm nước thường ngày trong nhà. Sư nói: Thằng nhỏ hỗ hương. Lại nói: Gió sương cho biết lá vàng chất đống như mây, như cảnh nhà ta lạnh lẽo. Có người nói: Ông già bình thường hay phấn đấu với nghèo không phấn đấu với giàu. Sơn Tăng cho rằng không đúng. Vì sao? Chỉ cần có kẻ ngốc thì tự nhiên khí ấm hợp nhau. Lần kî thứ hai của Đạt-ma, niêm hương: Thông lónh không thể thấy mây Tống, toàn thân đâu ở núi Hùng Nhó. Đá lửa, ánh điện ngoài ý định, trên song đào đường lại gặp nhau. Rốt cuộc đâu từng thiếu hai chiếc răng. Tuyết Phong, Lâm Tế truyền tâm, tro đốt tre yếm quỷ. Con cháu đời sau, ai đến làm canh thô cơm lạt cho ngươi phải hết lòng, gió thơm bốn biển khởi từ đây. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Bố Đại nhiều năm bơ vơ, Bàn Sơn thịt chó đầy bàn, trong tay Quan Âm có giỏ cá, chùy gậy của Đại só môn, sợi dây này khi đến trước mặt Hư Đường thì thế nào? Sư đáp: Tô rơ tô rô. Vị Tăng nói: Nếu phàm phu làm hiền Thánh hay hiền Thánh làm phàm phu thì đều có Hòa thượng trong số đó. Sư đáp: Chó cắn người. Vị Tăng hỏi: Bố Đại đến nơi đông đúc mở hết các món ra rồi cầm lên nói: Hãy khán xem. Đó là ý gì? Sư đáp: Không khám nghiệm mà tự thất bại. Vị Tăng hỏi: Thử hỏi cùng môn chùy bách bảng giống nhau bao nhiêu? Sư đáp: Nghèo đói cùng nung nấu. Vị Tăng hỏi: Giỏ cá trong tay thì không hỏi, chuyện thịt heo trên bàn nghóa là gì? Sư đáp: Quỷ thoát khỏi vỏ trứng trước cửa địa ngục. Vị Tăng hỏi: Không đưa ra câu hỏi nầy thì luống qua một đời. Sư bèn hét. Lại nêu: La Sơn mới tham, Nham Đầu hỏi: khi khởi diệt không ngừng thì thế nào? Đầu đáp: Ôi! Là ai khởi diệt? Sơn bỗng nhiên đại ngộ. Sư nói: Nham Đầu tuy thấy lỗ tra nêm nhưng làm liên lụy La Sơn ngồi trong chỗ khởi diệt không ngừng. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Nếu bàn về chiến đấu thì mọi người đều ra sức tại chỗ chuyển, đó nghóa là gì? Sư đáp: Đó lại là pháp chết. Vị Tăng hỏi: Pháp sống là gì? Sư đáp: Trương buồm ngược gió. Vị Tăng hỏi: Hôm nay Nhị Lâm tự vào cửa bại. Sư đáp: Tuổi già thành tinh. Vị Tăng hỏi: Người có sức mạnh vì sao giở chân không nổi? Sư đáp: Sư tử cắn người, con chó chạy theo cục đất. Sư nói: Ôm tang vật kêu oan. Vị Tăng hỏi: Nạp Tăng mắt sáng, vì sao dưới gót chân hồng, dây tơ không đứt? Sư đáp: Tham nhiều nhai không kỹ. Vị Tăng nói: Ngày xưa Tòng Nguyên, sáng nay Hòa thượng. Sư đáp: Nhớ kỹ lấy. Lại nói: Việc này vô cùng dễ, do tẩu tác lại cho là khó. Chỗ nào là tẩu tác? Mắt thấy tai nghe là tẩu tác, mũi ngữi lưỡi nếm là tẩu tác, đi chạy cầm bắt là tẩu tác, giác quan tiếp xúc theo duyên là tẩu tác, cho đến khởi tâm động niệm, tham thiền hỏi đạo, xuyên tạc xưa nay, phải quấy nhân ngã đều là tẩu tác, chỉ có một chỗ không tẩu tác khó có thể nói cho người nghe, nếu nói thì cùng một lúc đã là tẩu tác. Tiết Đông chí, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Đậu đen khi chưa nẩy mầm thì thế nào? Sư đáp: Vảy đen lồi lõm. Vị Tăng hỏi: Nẩy mầm rồi thì thế nào? Sư đáp: Vảy đen lồi lõm. Vị Tăng nói: Như vậy hiểu được gì? Sư đáp: Biết lấy vảy đen lồi lõm, ở chỗ không hiểu. Vị Tăng nói: Đệ tử đêm nay được người tại gia xem trọng, bèn lễ bái. Lại có vị Tăng bước ra hỏi: Thế nào là việc mùa đông đến? Người xưa nói: chốn Kinh đô xuất hiện đại hoàng nghóa là gì? Sư đáp: Chỗ ngắn (kém) mà tìm dài (giỏi). Vị Tăng hỏi: Bỗng có kẻ hỏi Hòa thượng chuyện mùa đông đến dần. Sư đáp: Sau khi tuyết rơi mặt thêm áo thì chắc chắn là lạnh. Vị Tăng nói: Bậc cổ đức xưa nay vẫn còn. Sư đáp: Ông là An Lộc Sơn. Lại nói: Tro lau chưa động, luật quản biết trước. Tối tăm đi, sáng suốt đến, không hề đổi đời. Cho nên nạp Tăng đúng sự đúng lý, xuồng chạy thuận dòng, nào biết rằng không có đất âm dương, gai góc lên đến trời có khế ước một bên, cỏ tật lê đầy đất, đến nỗi khiến cho những kẻ sinh ra ở mùa xuân, lớn lên vào mùa hạ chết rồi khó ở gần. Nhị Lâm bỏ qua một chiêu, rắc rối là vì lúc này. Lại nêu: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: việc giữa đông lạnh rét hằng năm và việc bóng mặt trời đổi đời thì thế nào? Ngưỡng Sơn bước đến gần, đứng khoanh tay. Quy Sơn nói: Thật lòng biết ông đáp câu này không được. Hương Nghiêm đến, kể lại chuyện trên. Nghiêm nói: Tôi trả lời được câu này, Quy lại nêu, Nghiêm lại bước đến gần đứng khoanh tay. Quy nói: Lại gặp kẻ im lặng không hội. Sư nói: Nếu Quy Sơn không có câu sau thì đã tự bao gộp cả mình trong đó. Chỗ dụng của ông ấy sao thái quá, đến nỗi then chốt đều bị lộ. Sư thượng đường, cầm phất trần. Vị Tăng hỏi: Trí bằng thầy thì kém thầy nửa đức, trí hơn thầy mới đáng được truyền trao, trí nào hơn thầy? Sư đáp: Chợt đến chợt đi, quét sạch xưa nay. Vị Tăng nói: Đệ tử có phần chiêm ngưỡng. Sư đáp: Ngậm miệng chó lại. Vị Tăng đáp: Nếu vậy thì Thủ tọa Tạng chủ thành giả có. Sư đáp: Nếu không khổ lòng thì ông không hiểu. Vị Tăng nói: Hơi rõ đôi chút, bèn lễ bái. Sư nói: Nhô đầu sớm là người giỏi. Lại nói: Núi sâu đầm lớn là chỗ ở của rồng voi, sấm sét biến hóa trong một lúc mà cỏ cây tự nhiên tươi sáng, dưới đào lâm chẳng có điềm lành nầy chăng? Gậy cao, nghi giết xà-lê. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Trời sắp có tuyết rơi nhưng chưa rơi, mai sắp nở hoa nhưng chưa nở, thật hay ý Tổ sư từ phương Tây đến, không kẻ cùng xuất gia. Sư đáp: Bịt tai trộm chuông. Vị Tăng nói: Hòa thượng đa số đã cướp của đệ tử. Sư đáp: Lão Tăng đã nói gì với ông? Vị Tăng đáp: Trước mặt lầm qua. Sư đáp: Trên tòa không có lão Tăng, trước mắt không có xà-lê. Vị Tăng đáp: Chớ đứng khoanh tay sau lưng Giáp Sơn. Sư đáp: Lão Tăng bị ông khảo đảo. Lại nói: Rõ ràng nói với ông được được, không được. Tự mọi người đôi mắt trong lạnh, ngồi trong chốn vô sự, đến khi Di-lặc ngay nay hạ sanh, hiện ba đầu sáu tay cũng cứu ngươi không nổi. Mùng 08 tháng chạp Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Ông già Thích-ca bỏ ngôi báu kim luân, đến núi Tuyết tu khổ hạnh sáu năm, trong đêm mùng tám tháng chạp, chợt thấy sao sáng mà ngộ đạo. Lại có đầu mối gì chăng? Sư đáp: Khiến người nhớ mãi Lý tướng quân. Vị Tăng nói: Về sau này nói một kho sắn bìm vương vít trên cành, tung tóe phẩn tiểu, đến nay chưa thôi. Sư đáp: Giòi trong thân sư tử. Vị Tăng ném tọa cụ nói: Khi chưa thấy sao sáng thì có tin tức nầy hay chăng? Sư đáp: Đem búi tóc (ông táo) đến nha môn. Lại Trác chủ trượng nói: Đúng thì đúng, cùng thì biến, biến thì thông. Chỉ như nửa đêm canh ba các sao chiếu sáng, chẳng biết đã thấy ngôi sao nào mà ngộ. Mau mau ra đây, hạ một chuyển ngữ, che lấp ông già này, bằng không sau khi mẹ để lại lời dạy, hối hận đã nương tựa Chủ trượng. Hòa thượng Hoa Tạng đến, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Tay tôi vì sao giống tay Phật? Sư đáp: Bà lão nhăn mặt bày xấu. Vị Tăng hỏi: Chân tôi sao giống chân lừa? Sư đáp: Từng đạp cây gậy của Triệu Châu. Vị Tăng hỏi: Mỗi người đều có sanh duyên, sanh duyên của đệ tử là gì? Sư đáp: Lười nhổ cây cà trước mặt người, muốn đi Nam xuyên làm hóa chủ. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Ta vốn không có tâm mong cầu, nay kho báu tự nhiên đến. Nhị Lâm chúng nhỏ, khô khô khan khan, mong mỏi đã lâu, gối san hô, vầng trăng báu sáng, tùy tiện lấy dùng, chỉ cần không được xúc phạm. Sư tượng đường: Phó Đại só bản tướng hiện, khiến người trong một vùng, mái trước gác sau vung vãi phẩn tiểu, gọi đó là thắng hội Long Hoa, chẳng hay sự chứng quả ở tương lai có như vậy hay không? Nếu không, thì Trác chủ trượng, núi xanh nước xanh, chèo ngắn, con thuyền côi. Hòa thượng Từ Vân đến, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Giữa đường gặp bạn đạo cùng sánh vai đi, việc tham học một đời đã xong thì thế nào? Sư đáp: Chim cu gáy trên cây. Vị Tăng nói: Chỉ e Hòa thượng chưa nhìn thấu người xưa. Sư đáp: Cùng đạo mới biết. Vị Tăng hỏi: Biết rồi thế nào? Sư đáp: Bao vải chứa đầy dùi, dùi nào nhọn sẽ lòi ra trước. Lại nói: Đi, ở vô tâm, co, duỗi có phép tắc, bày ra thì đầy khắp sáu hợp, sáu hợp còn chật, mua thì chỉ đáng một hào, một hào còn dư. Chúng sanh từ đâu mà có, Trác chủ trượng, bay qua đế hương, xa chạm sườn núi Nam. Sư thượng đường, nêu: Phong Huyệt nhân vị Tăng hỏi: im lặng vượt xa sự sâu sắc, làm sao thông suốt mà không chạm? Huyệt nói: nhớ mãi ba tháng ở Giang nam, nơi chá cô hót, trăm hoa tỏa hương. Sư nói: Phong Huyệt phá quan gặp kẻ địch, chẳng biết đã lầm qua là Tăng, Nhị Lâm có vị Tăng bước ra hỏi, cầm chủ trượng bèn đánh. Sư thượng đường, nêu: Triệu Châu nhân vị Tăng hỏi: một vật không ở tương lai thì thế nào? Châu đáp: Buông xuống. Vị Tăng hỏi: Một vật không ở tương lai thì buông xuống cái gì? Châu đáp: Buông không được thì gánh lên đi. Sư nói: Triệu Châu chích một mũi kim thật đặc biệt vào ngay chỗ đau của vị Tăng ấy. Chỉ có điều bệnh đã vào xương tủy, khó có thể cho thuốc. Sư thượng đường. Rõ ràng đạo không nằm trong ngôn ngữ thì đâu cần dùng đến ba tấc lưỡi. Lại đem ra đây. Hội được thì khi hoa ngô đồng rơi là mùa xuân chỉ còn phân nửa. Không hội thì ba chàng Đỗ, Vũ, Thôi trở về khi trăng quá canh ba. Sư thượng đường nêu: Bá Trượng khắp khuyên cuốc đất, một lần có vị Tăng vừa giở đầu cuốc lên bỗng nghe tiếng trống liền vứt cuốc xuống, cười lớn rồi về. Trượng nói: Giỏi thay! Người đó đã quán âm thanh được sâu xa. Về đến viện bèn kêu vị Tăng ấy hỏi: ông vừa đúng lúc ấy thấy được lý gì mà có thái độ như vậy? Vị Tăng đáp: Vừa lúc đói bụng nên nghe tiếng trống liền về ăn cơm, Trượng bèn cười to. Sư nói: Bá Trượng bị ông Tăng đó gạt ngay trước mặt, nếu là Nhị Lâm, nào ai để ý đến miệng ông. Chưa ra dấu liền đạp một đạp ngay ngực. Nụ cười của Bá Trượng và của vị Tăng đó có hơn kém nhau không? Hòa thượng Tây Bạch đến, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Ba ngày không nói năng, mép miệng sanh meo trắng, đệ tử đi ra hơn bốn ngày, nghóa là gì? Sư đáp: Đợi khi mép ngươi mọc cỏ xanh ta mới nói cho ông nghe. Vị Tăng nói: Nói nhỏ, nói nhỏ thôi, coi chừng vách có tai. Sư nói: Cũng muốn cho mọi người biết. Vị Tăng hỏi: Như kẻ bên mép mọc cỏ xanh thì có thuận tiện không? Sư đáp: Rất thuận tiện. Vị Tăng hỏi: Đâu là chỗ thuận tiện của nó? Sư đáp: Mặc cho trâu đánh ngựa đạp. Vị Tăng nói: Đệ tử không hội. Sư lại nói: Phong Huyệt phá mấy gian nhà, làm đan đinh bảy năm, sau làm người chánh truyền của Lâm Tế, đạo nhân Tây Bạch chính là người này, mây sâu rừng xưa, hai mắt lạnh lùng, âm lớn tiếng nhỏ đâu đồng với thường điệu? Ngày Phật đản sinh, Sư thượng đường. Tăng hỏi: Tường sắt, tường sắt gọi đó là Phật, thường đứng trong biển khổ, như ngày giáng sinh hôm nay là đúng hay đứng trong biển khổ là đúng? Sư đáp: Cả hai đều không đúng. Vị Tăng hỏi: Trên trời, dưới thế gian chỉ có ta là tôn quý nhất. Sư đáp: Thoát khỏi rọ mồm, tháo sừng mang vác. Vị Tăng hỏi: Thế nào là ba thước một trượng sáu lại đồng với dắt tay nhau về? Sư đáp: Ông hãy nói hắn có mấy cọng lông che mật, vị Tăng bèn hét, sư cũng hét. Trác chủ trượng lại nói: Hãy khán xem, chín rồng phun nước, tắm gội thân vàng, tướng lông tía tỏa ánh sáng đẩy lùi mọi bóng tối, đến nỗi lão Tỳ-kheo Gia Hòa què một chân đi đến chùa Quang Thái ở Quảng nam, ai cũng khen ngợi không kịp, vì sao? Vì vật thấy chủ mắt trợn đứng. Ngày kiết hạ, Sư thượng đường: Leo núi phải đến đỉnh, xuống biển phải đến đáy. Đến đỉnh mới biết sự rộng lớn của vũ trụ, xuống đáy mới biết sự cạn sâu của đại dương. Do đó, ông già Thích-ca của ta trải qua đúng chín năm mà thủ chúng, lại còn muốn bậc rồng voi trong Phật pháp biết độ cao của núi, độ sâu của biển. Nếu chỉ biết ăn no ngủ kỹ mà chẳng biết chút hổ thẹn thì kẻ đại tội đều bị mọi người cười chê. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Kiết hạ đã nửa tháng, nạp Tăng răng như rừng kiếm, miệng như chậu máu, có thể thấu suốt một câu của Hư Đường chăng? Sư đáp: Lão Tăng không hề sát sanh hại mạng. Vị Tăng nói: Hòa thượng quá kém từ bi. Sư đáp: Trong mả dễ đói no. Vị Tăng hỏi: Có một người thường ở nhà, không lìa giữa đường, hãy nói người nào đáng nhận trời người cúng dường? Sư đáp: Kẻ nào dù một giọt nước cũng không tiêu. Vị Tăng hỏi: Vì sao như vậy? Sư đáp: Ấy là do kẻ đó lăn quả cầu trong túi vải. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nêu: Tuyết Phong ngày kia gõ cửa phòng Hòa thượng Quán. Quán hỏi ai, Phong đáp: Phụng hoàng con. Quán hỏi: làm gì? Phong đáp: Ăn lão Quán. Quán bèn mở cửa, túm ngực áom bảo: Nói! Nói! Phong suy nghó, bị Quán đẩy ra. Tuyết Phong về sau nói: Lúc đó nếu ta vào được cửa lão Quán thì bọn rượu chè be bét các ông biết đường nào mà dò. Sư rằng: Tuyết Phong suy nghó bị lão Quán đẩy ra. Nếu so sánh chi ly thì vốn có trọng khinh. Chẳng biết đương thời Tuyết Phong hợp được lời gì thì vào được cửa lão Quán? Thượng đường nêu: Ngũ Tổ nói: Các trang trại mà không thu hoạch được thì cũng chẳng có gì đáng lo. Hàng trăm nạp Tăng mà chẳng kẻ nào thấu suốt được thoại đầu “Phật tánh của con chó” thì mới thật đáng lo. Sư nói: Ngũ Tổ thật giống với Tích phá quan trung thâu đồ thư. Thừa Thiên đoản Bồng viễn Hòa thượng gửi thư đến. Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Xưa vốn không lìa cái này, sáng nay cũng không đến, hãy nói ông già Thừa Thiên đi về đâu? Sư đáp: Đuổi người không được đuổi lên. Vị Tăng hỏi: Chẳng phải đi về nơi bất sanh bất diệt sao? Sư đáp: Ngươi chớ trêu chọc làm lão Tăng tức khí. Vị Tăng nói: Đụng đến nó thì ba độc khởi lên. Sư đáp: Ít nhiều kẻ mong mỏi chẳng tới. Vị Tăng hỏi: Khi Động Sơn thiên hóa thì thiết trai ngu si, Thừa Thiên thiên hóa thì thiết trai ngu si, Thừa Thiên thiên hóa có dặn dò gì không? Sư đáp: Có dặn dò. Vị Tăng hỏi: Dặn dò điều gì? Sư đáp: Dặn ngươi tới lui trước sau phải nhớ kỹ thoại đầu. Vị Tăng nói: Cũng lại là kẻ chẳng tiếc khẩu nghiệp. Sư lại nói: Xa mà không tới được thì gọi là ngắn, theo vết mà không được nên gọi là rối bong. Sóng sóng nước nước, đông đông tây tây, mũi câu thẳng đã treo hai ngọn núi, một mái chèo, hương tán, hoa lau, gió. Giải hạ, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Kẻ nạp Tăng, ngày 15 tháng 04, kiết không được, ngày 15 tháng 07 giải cũng chẳng được, rốt cuộc phải an thân lập mạng ở đâu? Sư đáp: Trên đầu kim nhọn té lộn nhào? Vị Tăng hỏi: làm sao được tự do tự tại? Sư đáp: Ngươi chớ chớp mắt trong rá đựng đá vôi. Vị Tăng nói: Có thể nói không luống qua thời gian một hạ. Sư đáp: Cái nhọn của dao chùy. Vị Tăng hỏi: Nếu đường phía trước bỗng có người hỏi thì hạ này Hòa thượng lấy gì để dạy người? Sư nói: Thêm nhiều giảm ít. Vị Tăng nói: Chư Phật ba đời cũng không hiểu nổi. Sư đáp: Sơn Tăng càng không hiểu nỗi. Vị Tăng nói: Hòa thượng đêm nay đã hết lòng nói hết với đệ tử, bèn lễ bái. Sư lại cầm gậy nói: Cứ như vậy mà đi, sớm đã ngoài đốt sanh cành, nếu càng so ngắn bàn dài, đâu chỉ Nhai châu muôn dặm. Nên có câu: dưới cửa mặt trời, mỗi ngày đều bằng ba thu, trước sân trăng sáng, mỗi giờ đều bằng chín hạ. Đâu cần khắc thuyền tìm kiếm, leo lên cây tìm cá. Cõi Tây thiên, cõi nầy Phật pháp yên ổn trầm lắng, Tỷ-kheo thời mạt đều không hổ thẹn, nói gì hai chữ chánh nhân, dâng lời để thưởng công nhọc. Người xưa không hiểu tùy cơ, Nhị Lâm chỉ mong cầu hiệu quả thực tế. Tuy vậy thử hỏi: chỗ đi của bảy Đức Phật, do đâu một tấc cỏ không sống. Mau ra đây cho một chuyển ngữ để bổ khuyết những nghi ngờ về cửa ải chín hạ. Gậy cao. Lại nêu: Nam Tuyền, Qui Tông, Ma Cốc cùng đi lễ bái Quốc sư Trung. Tuyền vẽ một vòng tròn trên đường nói: Nói được thì đi. Qui tông ngồi vào bên trong hình tròn. Ma Cốc giả làm người nữ lạy. Tuyền nói: Như vậy thì không đi. Tông hỏi: Vậy thì tâm gì mới đi? Sư nói: Vương lão sư đã bị người nói lộ, chưa phải là người giỏi. Ma Cốc bắt chước người nữ lạy được thấy Quốc sư. Hôm sau, Sư thượng đường. Suốt hạ không hề sớm nghó tối lo cho mọi người. Sáng nay thời hạn đã hết bỗng được tương ưng, mới biết núi là núi, sông là sông, xưa nay há không biết núi là núi, sông là sông hay sao, mà ngày nay mới biết? Nói núi là núi, sông là sông, nếu ngươi không tin thì ba mươi năm sau sẽ có người biết. Sư thượng đường: Cảm ơn người chấp sự, cây thông có chí nên mùa lạnh không tàn tạ, Trúc có khí tiết nên lòng trống, lặng lẽ. Kẻ áo nạp thì mạnh mẽ với điều nghóa, có thể tiêu biểu cho chốn tòng lâm, ngao du nơi biển của sự chém giết, tự nhiên mọi người gặp được nguồn của nó. Tết Trung thu, Sư thượng đường: Cầm gậy huơ một vòng tròn nói: Trong đây có một cây gọi là cây Ta-bà, bên dưới có một con thỏ thường xuyên ngồi giã thuốc, thường nhìn không được rõ, chỉ có đêm nay thấy rất rõ ràng, mọi người có thấy không? Gậy cao, nếu thấy thì không uổng ngước mắt. Bằng không thì sáng chẳng bằng tối. Sư thượng đường nêu: Mã Tổ nhân Bá Trượng lại đến tham vấn, Tổ đưa mắt nhìn cây phất tử ở góc gượng thiền. Trượng hỏi: dùng dây hay lìa đây dùng? Tổ đáp: Ông về sau mở miệng làm sao vì người? Trượng cầm phất tử dựng đứng. Tổ hỏi: dùng ngay đây hay lìa đây dùng? Trượng treo phất tử về chỗ cũ, Tổ hét một tiếng. Trượng nói: Ta điếc tai suốt ba ngày, ngay tất cả người trong thiên hạ nghe việc không rõ, gọi chuông là cái vò mới khế hợp với Mã Tổ. Sư thượng đường nêu: Quốc sư Phần Dương Vô Nghiệp dạy chúng: nếu còn một mảy may niệm tình phàm Thánh chưa dứt thì chưa thoát khỏi thai lừa, bụng ngựa. Bạch Vân lại nói: Cho đến một mảy may niệm phàm thành dứt hết cũng chưa tránh khỏi thai lừa bụng ngựa. Sư rằng: Hai đại lão đã từ nơi vô tâm mà chọn tuồng câu nói này. Gậy cao, gần đây vương lệnh hơi nghiêm. Khai lò, Sư thượng đường: Ở đây chẳng có cơ dụng cao xa mầu nhiệm gì để nói rõ với ngươi, già rồi thì sợ lạnh, chỉ muốn nói vài thoại đầu lò lửa. Thử hỏi nói thoại đầu lò lửa gì? E tro lạnh đậu nổ bắn vỡ mũi các ông. Ngày kî Đạt-ma lần thứ ba niêm hương, tông tích mười muôn dặm mây nước, bảy trăm năm người tỏ bày Tây Trúc, tròn mắt đen nhánh, gương mặt đen da nhăn, truyền y trao pháp làm cho bụi trần bốc lên, như nay màu đỏ lẫn lộn mầu hồng, tím là do rối loạn mà ra, chỉ có mùa xuân Thiếu Lâm năm lá một hoa thôi sao, nay gần xa tránh, dâng cỏ tầm ở khe này, muôn ngàn năm sau làm lụy cháu con. Sư thượng đường: Một lần ra ngoài vài ngày, núi, khe phong cảnh bày ra trước mắt. Khi về đánh trống thăng đường, đầu lại ngẩng lần nữa, hội chăng? Nhãn lực nhìn khắp nơi không bị người dối gạt. Tiết Đông chí, tiểu tham. Một hơi lên thuận, trăm vật nảy nở. Người lúc ấy biết có, biết có hay không biết có không bị thời tiết lạnh lão xô dời, thêm bớt không theo bốn mùa. Lặng mà khéo ứng siêu xuất mọi người. Nếu nói lông mày thước hai sinh ra dưới trán, đó vẫn chưa nhìn suốt người. Sơn Tăng bình thường miệng như mâm đá, không hề dễ dàng nói rõ cho người nghe. Nếu ngươi nhìn hiểu được chút phần, đậu đen nẩy mầm, trên vân năm mầu lại thêm chỉ, cũng là thời tiết bình thường, hãy nói đêm nay có đến ăn trái cây chăng? Gậy cao, nhai cơm mớm cho trẻ. Lại nêu: Ngũ Tổ nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là Đạo? Tổ đáp: Quận Thủy Bình. Vị Tăng lại hỏi: Thế nào là người trong Đạo? Tổ đáp: Tâm đỏ làm chủ. Sư nói: Ngũ Tổ sợ vị Tăng đó tín căn chưa sâu nên dặn đi dặn lại, hãy nói: văn tiết nằm ở chỗ nào? Đậu Nguyên, Hà Phách, Thái Hoa chính là người này. Sư thượng đường: Cảm tạ người cầm phất trần, cây phất trần này lỗi của nó như thổi sợi lông lên lưỡi kiếm. Người khéo sử dụng thì ngồi nơi yên ổn, kẻ không khéo sử dụng thì tổn thương ngón tay. Nhị Lâm chẳng có ngựa giỏi chẳng nhọc bóng roi chăng?, ném phất trần xuống, khán xem. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Vân Môn nhân vị Tăng hỏi: không khởi một niệm có lỗi hay không? Môn đáp: Đốt lửa chỗ lạnh. Vị Tăng hỏi: Học Tăng bôn ba bên ngoài suốt một mùa đông vậy có lỗi không? Sư đáp: Cán cân rơi xuống giếng. Vị Tăng hỏi: Bố thí rất nhiều cho thường trụ vì sao hoàn toàn không có chút công lao nào? Sư đáp: Chớ đến che hết ánh sáng của ta. Lại nói: Tận cùng của cơ dụng chỉ là một câu bố thí cho mọi người. Hồi lâu, Trác chủ trượng nói: Biển lớn nếu biết đủ thì trăm sông phải đổi dòng. Mùng 0 8-12, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Cây khô dựa núi lạnh, ba mùa đông không hơi ấm nghóa là gì? Sư đáp: Chân răng không nhỏ nước. Vị Tăng hỏi: Vì sao bà già đốt cháy am? Sư đáp: Tranh chấp với nhau. Vị Tăng nói: Hòa thượng cũng không được làm rối ren xuyên tạc công án của người xưa. Sư đáp: Không gửi gắm người làm trái. Vị Tăng hỏi: Ông già Hồ hôm nay thành đạo có điềm lành gì chăng? Sư đáp: Núi sâu tuyết chưa tan. Vị Tăng nói: Vâng vâng. Sư cầm phất trần chỉ một cái. Lại nói: Ông già Thích-ca sáu năm trong núi Tuyết, công hạnh tròn đầy, đến đêm mùng 08 tháng chạp tìm ra được một con đường cho người sau đi. Nếu nói ông ta thấy sao sáng mà ngộ thì ngọn lửa bài báng vẫn chưa tắt. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Mã Tổ nhân Bàng Cư só hỏi: “Không làm bạn với muôn pháp là người nào?” Nghóa là gì? Sư đáp: Xin chén cơm con làm. Vị Tăng hỏi: Như Mã Đại sư nói “đợi ông một hớp uống cạn nước Tây giang ta mới nói cho nghe” là nghóa gì? Sư đáp: Mổ bụng moi tim. Vị Tăng hỏi: Hãy nói ông già họ Bàng đưa ra câu hỏi này là đã hội rồi mới hỏi, hay chưa hội mà hỏi? Sư đáp: Hội rồi hỏi. Vị Tăng hỏi: Nếu hội rồi hỏi thì đâu còn ngộ nữa? Sư đáp: Không ngộ sao hội được. sao? Vị Tăng hỏi: Trước chúng trời người há chẳng có phương tiện hay Sư đáp: thằng đạp bùn. Lại nói: Ruộng đất nhà mình không chịu đi thực tiễn, lại chỉ muốn mạo danh mướn ruộng quan làm. Có biết Nhị Tổ lạy Đạt-ma ba lạy rồi về chỗ đứng chăng? Đêm ba mươi tết tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Năm cùng tháng tận, rùa đen leo lên tường chẳng phải là lời của Hòa thượng sao? Sư đáp: Chỉ đành tự tổn thương mạng mình. Vị Tăng nói: Nếu trong chúng bỗng có kẻ thông suốt cười nhạt một tiếng thì lão sư chưa khỏi nóng mặt đổ mồ hôi. Sư đáp: Ông hãy đến gần nghiệm lại ta xem. Vị Tăng đến gần rồi, Sư nói: Quả nhiên. Lại nói: Mỗi ngày mặt trời mọc ở hướng Đông, mỗi ngày mặt trời lại lặn ở hướng Tây. Kẻ vô vi vô sự hãy tìm kiếm kỹ càng. Đã là vô vi vô sự thì tìm kiếm cái gì? Nếu tìm sự yếu diệu của Phật pháp thì mỗi ngày trở dậy gọi, sai tôi tớ, nói Đông bàn Tây, chẳng có chi không nằm trong bóng của nó. Nếu tìm kiếm thì năm cũ chưa đi, năm mới chưa đến. Ông già họ Vương ở thôn đông giữa đêm đốt tiền, quỷ thần nhàn rỗi hoang dã đều no đủ. Trong đây lại chẳng có chỗ cho ngươi chõ miệng vào. Rốt cuộc thế nào? Phất phất trần, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, đều lấy tháng kiến dần làm đầu. Lại nêu: Hối Đường nhân vị Tăng hỏi: nhìn thế nào thì đó là một rưng trúc nhiều phúc? Đáp: Một hai cành nghiêng. Hỏi: Đệ tử không hội. Đáp: Ba bốn cành gãy, bỗng nhiên khế ngộ. Sư nói: Xưa nay phần nhiều biết trúc mà không biết nhiều phúc, hoặc biết nhiều phúc mà không biết trúc. Có người tại gia, xuất gia được ra thì cho phép ông tận mắt thấy Hối Đường. Sứ Phủ thăng tòa về, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Nói pháp trong thành Tỳ-da, bàn huyền dưới song thọ, thế nào là Đấng Bất động? Sư đáp: Rảo Đông chạy Tây. Vị Tăng hỏi: Đã là Đấng bất động vì sao còn rảo Đông chạy Tây? Sư đáp: Trước mặt không được nói mớ. Vị Tăng hỏi: Chẳng phải động thì bất động, bất động thì động sao? Sư đáp: Đảo châu báu gần kề, lại phải tiến thêm một bước. Vị Tăng hỏi: Bỗng đem cả động và bất động đày vào cõi nước Vô sanh, lại hỏi thế nào là Đấng Bất động? Sư đáp: Rảo Đông chạy Tây. Vị Tăng nói: Hòa thượng cũng chỉ cứu được một nửa. Sư đáp: Người tín căn ít. Lại nói: Hoặc ngón tay, hoặc bàn tay, đều là giáo mác của thái bình. Nhị Lâm chẳng có con đường tắt chăng? Trác chủ trượng, con thỏ không hề lìa hang. Tết Nguyên tiêu, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Hương Lâm nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là một ngọn đèn trong nhà? Lâm đáp: Ba người làm chứng thì rùa thành ba ba, ý là gì? Sư đáp: Tôi trai thấy tớ gái siêng năng. Vị Tăng nói: Học Tăng lạy tạ rồi đi. Sư đáp: Nương hư (không) tiếp lấy tiếng vang. Lại nói: Dùng lửa để đốt đèn sáng nối nhau gọi là ban ngày, dùng đèn nối tiếp lửa gọi là ban đêm; Ngày đêm liên tục, đèn liền nối tiếp nhau vô tận. Trong chỗ tối tăm bỗng khua trúng cây cột ở chỗ đất trống, quái lạ tưởng là ai. Hòa thượng Diệu Thắng đến, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Tuyết Phong thấy vị Tăng đến tham, cúi thấp đầu trở về am, đó là ý gì? Sư đáp: Ai biết dưới cái mũ có người sầu xưa này. Vị Tăng hỏi: Chẳng biết Nhị Lâm khi gặp vị Tăng đến thì tiếp thế nào? Sư đáp: Dùng tay dắt không vào. Lại nói: Chỗ sâu của sóng lớn đứng chân trần, mầu nhiệm không nhờ một mảy may, dụng của thế giới tạng Hương tích chẳng hơn một nắm tay. Như vậy ắt chỗ bằng phẳng lại cheo leo, hiểm trở, nơi đần độn lại khó lường. Thử hỏi đó là kẻ nào? Trác chủ trượng. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Tháng hai đã qua, tháng ba đã đến, hoa đào hoa mận rơi lăng xăng; cây dâu cây liễu thành bóng râm. Không trải muôn duyên làm sao quan tâm, hãy xem xét kỹ. Sư đáp: Bất giác hết ngày lại đến đêm, tranh dạy người tuổi trẻ. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng không có phương tiện sao? nào? Sư đáp: Gừng sống không bao giờ thay đổi vị cay. Vị Tăng hỏi: Có kẻ suốt mười hai thời không dựa một vật thì thế Sư đáp: Áo vải hôi hám phải cởi bỏ. Vị Tăng hỏi: Đã không dựa vào một vật nào còn cởi cái gì? Sư đáp: Nhai kỹ no lâu. Lại nêu: Đại Long nhân vị Tăng hỏi: sắc thân bại hoại, thế nào là pháp thân bền chắc? Long đáp: Hoa trên núi nở như gấm, nước khe trong xanh như mầu lam. Sư nói: Pháp thân bền chắc này cũng còn trên đất khổ. Có người hỏi Vân Hoàng như vậy, ngài chỉ trả lời người ấy rằng: Kẻ mặt dơ, ta là Trưởng lão đã hai mươi năm mà không hề nói lỗi người. Sư thượng đường nêu: Ô Cữu nhân có hai Thượng tọa Huyền, và Thiệu đến tham, Cữu hỏi: Vừa rời chỗ nào? Vị Tăng đáp: Giang Tây, Cữu bèn đánh. Vị Tăng nói: Cũng biết Hòa thượng có cơ yếu này. Cữu nói: Ông đã không hội. Thiền khách thứ hai bước đến gần, vị Tăng suy nghó. Cữu cũng đánh. Sư nói: Hai vị Tăng thấy Ô Cữu như lên cửa rồng. Kiết hạ, tiểu tham, vị Tăng hỏi: Bố Đại nhiều năm làm náo nhiệt chợ búa, Quán Âm suốt ngày mang giỏ cá, an cư cấm túc để mưu cầu việc gì? Sư đáp: Gõ bảng gỗ lên tiếng. Vị Tăng hỏi: Nếu vậy thì chỗ sâu kín đủ để thấy ánh sáng. Sư nói: sai một ly. Vị Tăng nói: Chỗ đáp của Hòa thượng thật cay, đệ tử làm sao hiểu rõ? Sư đáp: Hướng về không hiểu mà lãnh thọ. Lại cầm gậy nói: Nêu một việc thì mê lý, mượn một cơ thì mất dụng. Kẻ nạp Tăng trí dạo ngoài cảnh tượng, diệu nhập trong vòng, tựa như nhà thường có cơm trà không thiếu, bị ông già Thích-ca không lấy dây nhợ mà buộc gót chân, cho đến đông tây nam bắc đường đi không có chỗ bắt đầu. Do đó trong chín mươi ngày như giữ cái mã quý xưa, gọi là cấm túc an cư đúng kỳ thủ chứng, cũng chưa biết cái chứng được là việc gì, bỗng có kẻ không sợ nguy vong, nhấc đổ ngôi già-lam Viên giác, chửi rủa trí bình đẳng tánh, sơn Tăng chỉ đành có phần lui thân, vì sao? Vì Trác chủ trượng, già thì không có khả năng bằng gân sức. Lại nêu: Tuyết Phong dạy chúng: Tận cùng mặt đất rộng lớn gom lại như hạt lúa, ném ra trước mặt thùng sơn không hôi. Đánh trống mời khắp nơi nhìn. Sư rằng: Ông già Tuyết Phong đương thời như vậy mà không biết có hôm nay, Nhị Lâm hạ nầy cũng dạy mọi người kín kín như vậy, nhưng không nhất định phải thỉnh khắp. Nếu lại không hội thì tự ông cô phụ Tuyết Phong, không can dự đến Hư Đường. Hôm sau, Sư thượng đường. Các phương đúng kỳ thủ hiệu, không quên thời khắc, chỗ trong đây của ta núi một bên, sông một bên, tùy tiện đi đứng. Vì sao? Phất phất trần, bỏ nhỏ lấy lớn để đợi tri kỷ. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Dưới hội Lâm Tế, hai thủ tọa gặp nhau cùng hét một tiếng, ý là gì? Sư đáp: Tranh đấu nghèo không tranh đấu giàu. Vị Tăng hỏi: “Có vị Tăng hỏi rằng hai cái hét này có phân ra chủ khách hay không? Tế đáp: Chủ khách rõ ràng”, lại nghóa là gì? Sư đáp: Một tay che mặt trời. Vị Tăng hỏi: Nhị Lâm đứng đầu cơ dụng cao siêu mầu nhiệm, khó lừa mắt người, hai cái hét này là đồng hay khác? Sư đáp: Ngươi tự khám khán nó. Vị Tăng nói: Trước chúng trời người chẳng thể che đậy. Sư hỏi: Ông nói cái nào chủ cái nào khách? Vị Tăng bèn hét. Sư nói: Con quỷ thoát thân. Lại nói: Sư tử nhăn mày rên rỉ, voi đầu đàn về lo, tựa như chau hai lông mày, muốn thấy múa rìu chăng? Dựng phất trần lên, người Tân-la qua biển. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Có một câu đến thì ông nhổ lưỡi cày cấy. Không có một câu đến thì ngươi tự vời tai họa đến, nghóa là gì? Sư đáp: Người ra khỏi kia đây. Vị Tăng nói: Hòa thượng đem định đắp bờ cõi, không cho nước tiết ra. Sư đáp: Chẳng phải khách Thiếu Lâm. Lại nêu: Ngưỡng Sơn tham Đông Tự, mới bước qua cửa. Tự nói: Đã gặp nhau rồi, không cần lại đến. Ngưỡng hỏi: gặp nhau như vậy được chăng? Tự bèn về phương trượng, đóng cửa lại. Ngưỡng Sơn về kể lại với Ngụy Sơn. Ngụy hỏi: ông đã làm vậy với tâm gì? Ngưỡng Sơn đáp: Nếu không như vậy làm sao biết được ông ấy. Sư nói: Đông Tự bèn về phương trượng, là khuôn phép ngàn sau, Ngưỡng Sơn nói lại với Ngụy Sơn là nhân tà đánh chánh. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: “Lưu Thiết Ma tham phỏng Ngụy Sơn, Sơn nói: Con trâu cái nhà ông đã đến” nghóa là gì? Sư đáp: Một tên bắn ra trúng tim hồng. Vị Tăng hỏi: Lưu Thiết Ma nói: ngày sau trên Đài Sơn có trai hội lớn. Sơn làm tư thế nằm, Ma bèn đi ra. Sư nói: Quả nhiên. Tăng nói: Có thể gọi cả hai đều là tác giả. Sư đáp: Do bài báng kinh này nên bị tội như vậy, Tăng lễ bái. Lại nói: Sư thông suốt rộng rãi, sáng tỏ một cách phi thường, do đâu mà suốt ngày mắt chẳng nhìn thấy mũi? Nếu hạ được một chuyễn ngữ hợp với lão Tăng, thì dưới cây trong mả cho phép ngươi vọng tưởng. Bằng không thì lão Hồ sẽ thất vọng. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Mưa dai không tạnh thì làm thế nào? Sư đáp: Gặp canh thì biến. Vị Tăng hỏi: Mưa lâu bỗng tạnh thì thế nào? Sư đáp: Nơi nơi đều có thể phơi lông mi. Vị Tăng nói: Trả lời như vậy mọi nơi chưa hẳn chịu. Sư đáp: Dao cắt gà. Vị Tăng nói: Nhị Tổ lạy ba lạy rồi về chỗ đứng. Sư đáp: Vật để lộ nước sơn. Vị Tăng nói: Đạt-ma bảo: “Ngươi được phần tủy của ta”. Sư đáp: Nước đổ khó hốt lại. Vị Tăng hỏi: Đệ tử vừa thấy Hòa thượng thăng đường bèn ra lễ bái thì được gì? Sư đáp: Lúc khác không được thối lui. Vị Tăng đáp: Vui thay gạo, nước không giao nhau. Sư nói: Sớm đã thôi lui rồi, vị Tăng bèn hét, Sư cũng hét. Lại nói: Sơn Tăng bình thường không hề áp bức người, chỉ dạy mẫu mực lui bước, nhưng đã được tâm chết ý tiêu rồi thì tự nhiên không còn mê loạn phải vận sức để cầm thìa. Bằng không, đều là học lời lẽ của nhà họ Đỗ. Sư thượng đường, nêu: Bàng Cư só đến tham phỏng Lạc Phổ nhân, Bàng Cư só lễ lạy xong đứng dậy nói: Giữa hạ nóng bức, đầu đông ít lạnh. Phổ đáp: Chẳng sai. Bàng nói: Ông Bàng tuổi già, Phổ hỏi: sao lạnh không nói lạnh, nóng nói nóng? Bàng hỏi: bệnh điếc chăng? Phổ đáp: Tha ngươi ba mươi hèo. Bàng nói: Làm câm miệng ta, làm bít tai ngươi. Sư nói: Đương thời nếu Lạc Phổ ngay chỗ câu nói “ông Bàng tuổi già” hét lên một tiếng thì tránh khỏi kia đây ràng rịt. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Mùa nóng thì khí lạnh đi đâu. Sư đáp: Ông gãi ngay mụt nhọt của ta. Vị Tăng hỏi: Mùa lạnh thì khí nóng đi đâu? Sư đáp: Trên hàng rào khô tìm kiếm nước gì? Vị Tăng hỏi: Người không can hệ đến mùa lạnh thì ở đâu? Sư đáp: Tìm lấy trong chốn chợ búa ồn ào. Vị Tăng hỏi: Sau khi tìm được thì thế nào? Sư đáp: Ra khỏi ba cõi hai mươi lăm hữu. Vị Tăng nói: Vẫn chưa phải là cực tắc. Sư hỏi: thế nào là cực tắc? Vị Tăng liền hét. Sư đáp: Cũng chưa phải cực tắc. Lại nêu: Hòa thượng Thiên Đồng Khải nhân vị Tăng hỏi: Đệ tử trác trác đến đây thỉnh sư đích đích. Khải đáp: Chỗ ta đây ỉa một cái là xong, nói cái gì trác trác đích đích. Vị Tăng nói: Hòa thượng nói như vậy càng phải mua giày cỏ để đi hóa đạo. Khải gọi: Hãy đến gần đây, vị Tăng bước đến, Khải hỏi: lão Tăng trả lời như vậy có lỗi gì? Vị Tăng không đáp được. Khải bèn đánh. Sư nói: Vị Tăng đó vừa kêu đã đến, sao không tiện với bổn phận cỏ liệu. Chỉ do hạ dao không nghiêm, nên lại bị nhìn trộm qua tường vách. Giải hạ, tiểu tham: Mọi người cái mũi đều đã rơi mất, trong bóng gió thu vẫy đuôi lắc đầu. Lão An tuy khéo hỏi tìm dấu vết nhưng rốt cuộc lại khó tìm. Người vắng lặng chỉ biết quên thân dưới cây mà không hề cởi dây con bò bụng đen lộ ra khác hẳn, mây núi đầy mắt no ứ bụng, cỏ dại nối chân trời, không cần cây địch ngắn giục về, ngàn Thánh cũng không chỗ tìm, bỗng truyền cho công tử ra nói: Các vị là kẻ só tài năng, trong chín mươi ngày phó thác bóng cây đào này, chưa từng có chút công lao nào mà đạp vỡ một miếng này, chưa từng có chút công lao nào mà đạp một miếng ngói bùn của chốn thường trụ của ta, đâu được vui vẻ như vậy, sơn Tăng chỉ đành thay hắn cho một chuyển ngữ. Lại nêu: Công án Đức Sơn nâng bát. Sư nói: Đức Sơn như sư tử đi dạo, muôn thú đều run chân. Nham Đầu giả oai Ngài mà luồng gió rét còn ép ngặt người. Những kẻ về sau đều là kẻ bưng đất dựng cây. Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Khi Đại Tùy úp con rùa thì thế nào? Sư đáp: Nếu có thần chiếu soi thì không làm như vậy. Vị Tăng nói: Đầu thu cuối hạ, nạp tử đi lại, nhớ kỹ một chuyển ngữ đều giống như mọi người. Sư đáp: Khổ thay! Lại nêu Hòa thượng U Thê núi Thiên thai một hôm đánh chuông thượng đường. Chúng mới nhóm họp, Thê hỏi: ai đánh chuông? Vị Tăng đáp: Duy Na. Thê gọi: đến gần đây. Vị Tăng đến gần, Thê đấm cho một cái rồi về phương trượng. Sư nói: Thấp hèn như bùn cát, quý như vàng ngọc, lúc đó nếu khoan thai lên tòa thì đã cứu sống được vị Tăng đó. Tết Trung thu, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Trăng trên trời tròn, trăng ở cõi người chỉ là bán nguyệt, kẻ đó biết có nhưng chưa biết cái cây ở giữa trăng là thuộc về kẻ nào? Sư đáp: Kẻ có bằng cớ thích hợp thì được. Vị Tăng hỏi: Như thế nào thì cây quế hương trời rơi lăng xăng? Sư đáp: Ngươi từ sớm đã hiểu sai rồi. Vị Tăng hỏi: Mã Đại sư chơi trăng, kế có một người nói: “Thật đúng lúc để cúng dường”. Một người nói: “Thật đúng lúc để tu thành”, còn một kẻ bỗng bước chân đi, ý là gì? Sư đáp: Một mẫu đất có ba rắn chín chuột. Vị Tăng nói: Mã Đại sư nói: Kinh nhập tạng, thiền về biển, chỉ có Phổ Nguyện là vượt ngoài mọi vật. Sư đáp: Đánh lừa để ngựa biết. Vị Tăng lễ bái, Sư thở dài một tiếng. Lại nói: Cùng chuyển vận với mặt trời, xét vật một cách vô tư. Kẻ trong bóng tối trách áo cừu mùa đông, so bì với vải cây sắn. Lúc đêm đã khuya, khi các sao đuổi nhau, đáng thương không thấy ông già nơi ngôi đình đẹp, lạnh chiếu sóng biển dưới khoảng không mênh mông. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Nhìn thấy được sát can Tư Phúc, bèn quay gót với ba mươi là nghóa gì? Sư đáp: Thịt hôi ruồi đến. Vị Tăng hỏi: Nhìn thấy Tuyết Phong bèn tham hỏi việc chính, lại có nghóa gì? Sư đáp: Có ngôi lầu nào không cần sơn đâu. Vị Tăng nói: Nhìn thấy đỉnh nhọn của tháp Song Dương, Bảo Lâm liền liễu ngộ. Sư đáp: Tìm vàng trong cát. Vị Tăng nói: Hòa thượng cũng là kẻ tuổi già tâm cô độc. Sư đáp: Rao lỗi người không phải là kẻ hay. Lại nêu: Khâm Sơn cùng Nham Đầu và Tuyết Phong đến chỗ Đức Sơn, bèn hỏi: Thiên Hoàng cũng nói như vậy, rồng ở đầm cũng nói như vậy, chẳng hay Đức Sơn nói thế nào? Sơn đáp: Ông thử nêu Thiên Hoàng và Long Trạch để khán. Khâm suy nghó, Đức Sơn bèn đánh, liền đến chỗ Diên Thọ nói: Đánh ta quá ác. Sơn. Nham Đầu nói: Ông như vậy ngày sau không được nói gặp Đức Sư nói: Chỉ một Khâm Sơn suy nghó, Đức Sơn, Nham Đầu đều vào cửa bại, nếu là thượng khách ở cửa rồng thì sẽ gật đầu. Còn những hạng tiếng vang thì vào bất cứ một nơi chốn nào. Sư thượng đường. Tiết cửu cửu gọi là trùng dương. Dương Đức đã cứng chắc do nguyên hóa hòa hợp, phần kẻ áo nạp sáng tỏ được điều gì? Trác chủ trượng, giao. Sư thượng đường: Toàn bộ tạng giáo không ngoài việc quạ kêu, chim khách hót. Cửu kinh các sử không ngoài các chữ “chi hồ giả dã”. Hội được thì mây về hoa nhạc, nước về Tiêu tương, bằng không có bạn vừa đến dè dặt phải nhớ lấy. Lần kî thứ tư của Tổ Đạt-ma niêm hương, vẽ một vòng tròn. Con của Quốc vương nước Hương Chí, Sư Thần Quang chặt đứt cánh tay, mặt mũi tối tăm, e cũng là con cháu của họ, chẳng nên hoài nghi. Nên bậc Đại sư Viên Giác tî tổ Đạt-ma của ta khơi mở linh cơ, chóng giải Thích-các tông hữu vô, rỗng thếch chẳng có Thánh, nghóa bậc nhất sáng tỏ. Lương trước Ngụy sau, tướng nhân ngã cao; cõi Tây Thiên nầy tranh giành phải quấy, người ấy đã hết thời còn nghó chi đến vinh quang dư thừa. Nêu bày xong, dùng để đáp lại bóng từ. Sư thượng đường, nêu: Nam Tuyền nhân hai nhà thủ tọa tranh con mèo. Tuyền nói: Nói được thì không chém, hai nhà không đáp được, Tuyền bèn chém con mèo. Triệu Châu từ ngoài về, Tuyền kể lại chuyện đó, Châu cởi giày cỏ đặt lên đầu đi ra. Tuyền nói: Nếu có ông ở đó thì đã cứu được con mèo rồi. Sư nói: Triệu Châu mượn tay niệm hương muốn rửa oan cho hai nhà mà không biết rằng con mèo đã chết trong tay Nam Tuyền, đến nỗi ngày nay chuột quá nhiều. Tiết Đông chí, tiểu tham: âm ma bại phục, khí ấm chưa lên, tin tức kẻ nạp Tăng thật hay, nếu có thể ngay đó nhận lãnh, thêm bớt không theo bốn mùa, bèn thấy vách đá núi sâu, dấu vết người không khắp chốn, dây sắn bìm nát bò lan trên cành. Bằng như chưa thì quay về ngày cũ đếm lỗi lầm trên đầu ngón tay. Như âm ma bại phục, khí ấm chưa lên, là tin tức gì của kẻ nạp Tăng? Trác chủ trượng, cá bơi nước đục, chim bay lông rụng. Lại nêu: Ngụy Sơn gần lửa, kế hỏi Ngưỡng Sơn: suốt ngày hướng về lửa làm sao không có hơi ấm? Ngưỡng làm động tác hướng về lửa. Ngụy rằng: Ông chỉ được vật thể, năng sở chưa có. Ngưỡng hỏi: tôi thì chỉ như vậy, Hòa thượng thì làm sao? Ngụy cũng làm tư thế hướng về lửa. Ngưỡng nói: Hòa thượng chỉ được vật thể, năng sở chưa có. Ngụy nói: Đúng vậy! Đúng vậy. Sư nói: Mọi người đều nói Ngưỡng - Ngụy tuy có hai cái miệng mà chỉ có một cái lưỡi, nào biết rằng: gió trộm oai cọp làm cỏ ngã rạp, nước khinh rồng nằm ra núi trước. Đêm ba mươi tết, tiểu tham: Cái mới chưa biết, cái cũ đã qua, cái cũ chưa biết, cái mới đã đến, mới cũ chẳng biết nhau, mỗi vật lại sánh vai nhau, kẻ nạp Tăng cho là cực tắc, nào biết rằng canh ba giữa đêm, dựng xương sống dậy trên bồ-đoàn, ai quản cây kim đồng hồ ông đẩy tới thêm phần mau chậm, lại bị người gọi là Đại vương không có chuyển trí, huống chi như người lùn xem hát lên xuống theo người. Tuy nhiên, chỉ biết ngày ấm sanh cỏ thơm, nào ngờ gió xuân ám người. Lại nêu: Tăng hỏi Vân Môn: “Thế nào là một khúc Vân Môn?” Môn đáp: Ngày 25 tháng chạp. Sư nói: Công lao máu và mồ hôi của Vân Môn cao, đáng tiếc đã để trôi qua năm ngày. Nếu lúc đó nói được một câu đêm ba mươi cháng chạp thích hợp nầy thì vị Tăng đó sẽ khả quan hơn, nay đã qua không còn lỗi lầm, chỉ đành thuận theo thời mà giữ gìn chữ Ái, hỏi một khúc Vân Hoàng, chỉ nói với hắn nửa cách hành vân. Tết Nguyên tiêu, Sư thượng đường. Ngọn đèn thế gian chẳng bằng ngọn đèn tâm sáng vô cùng. Ngọn đèn tâm vừa thắp lên thì ngọn cỏ sợi lông trong biển cõi đều sáng tỏ như ban ngày. Trong đó, những điều bất thiện cần phải bỏ đi thì tuy có mà như không. Muốn thấy ngọn đèn tâm chăng? Trác chủ trượng, Ngưỡng Sơn đã khai khẩn, Quy Tông kéo đá. <篇> HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 3 * Sớ thỉnh của phủ Khánh Nguyên. Triều tán lang, tu soạn tại điện Tập Anh, tri phủ Quân phủ Khánh Nguyên, kiêm quản nội khuyến nông sử, kiệm đặt để Công hải chế Trần Phưởng Soạn. Lại Kính vì Tôn giả phát ra ánh sáng chỉ ra đất có tám việc lành, sáu việc cao quý. Dục Vương bưng xá lợi, hiện ra vùng mười châu ba đảo, là đạo tràng xưa của Đức Thích-ca. Cho đến chánh trượng thất của bậc giác tuyển từ bốn chúng, dứt bặt từ chốn cửu trùng, Trưởng lão Thiền sư Hư Đường ngu công là con thuyền từ trên biển tuệ, là tâm ấn chốn tông môn, hư đường chứa đầy trăng sáng mà không hề có chút bụi trần, ngọn gió mát lay động chốn rừng sâu, quét sạch mọi chướng ngại, làm chủ khắp các chùa nổi tiếng chốn Triết Giang, ngủ tạm trong chốn mây nhàn núi Linh ẩn, thích đến ngọn Ngọc Phàm, đưa ra một cành, bèn nương tựa tòa sư tử vàng, bên cạnh hành bốn câu, áo gấm về đông, lại truyền tiếp ngọn đèn, ngọn núi Linh Thứu, mặt hướng Bắc dâng hương kính ngưỡng, chúc thọ bậc Thánh. Cẩn sớ. Ngày mồng 07 tháng 04 niên hiệu Bảo Hựu thứ tư, tại am núi Linh Thứu, sư nhận thỉnh, ngày 19 nhập tự. Chỉ Sơn Môn, nói: Đạo ở khắp nơi, phương tiện thật nhiều, chỉ dễ thấy mà khó vào, mọi người đều phong độ như vua chẳng nhận cửa nhà. Chỉ điện Phật nói: Bên cạnh ông lão như chẳng có người, khắp nơi xưng tôn, ngày nay tự biết lý giảm ít, trả lại ta một tọa cụ, mở tọa cụ nói: Đại chúng hãy lui ra. Đến phương trượng, cầm ngang chủ trượng nói: Chẳng có người nào sanh ra liền biết, vào đến chỗ ta mua mũ đội đầu, chẳng bằng khóa mù gậy đui, dựa chủ trượng. Sư đến trước pháp tòa đốt hương nhìn cửa, tạ ân xong, nâng tờ sắc mầu vàng dạy chúng rằng: - Ràng buộc muôn vật, rung động trời người, gió tuyết hội họp, đến từ mặt trời, tha hồ phá rối biển, có miệng cũng khó kể hết. Cầm chế của chế phủ, tuyên bố sự mầu nhiệm của bậc Thánh, như mùa xuân đi các nước, đâu chỉ ba tất bút mới điểm ra? Nếu còn tri giải, cao hơn cơ quan thính giác. Cầm sớ của chư sơn đồng môn vào ra, không hề dối các ông, nếu che đậy thái quá thì sơn Tăng chỉ đành che tai. Chỉ pháp tòa: dưới gót chân mỗi người đều có tòa nầy, đâu cần dâng cao từ đất bằng, nếu ngươi đạp vững thì đăng vương có phần lui thân. Sư thăng tòa, niêm hương rằng: Nén hương này đốt từ trong lò, cung kính chúc thọ nay Thánh đế thượng hoàng muôn năm, muôn muôn năm, bệ hạ cung kính nguyện đức nhân của vua Nghiêu trùm khắp, đức của vua Thuấn ngày càng mới. Kế dâng hương rằng: Nén hương này đốt từ trong lò, kính phụng vì Đại thừa Xu sử quốc công cùng Tham chính tướng công trông coi xu mật cùng các quan văn võ thêm cao tài lộc. Lại nguyện: tôn sùng chùa miếu, đóng quân giữ yên cho dân tộc Hoa. Kế dâng hương rằng: –Nén hương này đốt từ trong lò, kính vì chế soái phán phủ, tập tuyển thị lang, cùng quan liêu văn võ các quận huyện thêm cao tài lộc. Lại nguyên: thạch trụ đất nước, Tổ Kim Thang nói: –Hương này đã tắt từ lâu, vô cớ bay hết tro tàn lại bốc lên ánh lửa, kính vì Hòa thượng Tiên sư Vận Am trước ở tại thiền tự Vạn Tuế, đạo tràng Sơn Hộ Thánh ở Kiết châu, đốt ở trong lò để bồi đáp pháp nhũ. Sư vén y ngồi xuống, nói lời khuyến tấn: trời người giao tiếp, hai bên được gặp nhau, chẳng có ai không thừa kế lời nói, không vướng mắc câu nói sao? Lúc đó, có vị Tăng hỏi: một lũ gánh ván bị người ghét, mười năm che đậy riêng khí phách mình ở mây sâu (núi cao), ngày nay rộng lượng tự thân bưng tờ sắc chỉ, Sư thật là vị thuốc linh, người học đến thỉnh sư chúc Thánh, Sư đáp: - Mây yên tịnh thì mặt trăng, mặt trời vận hành đúng pháp độ. Vị Tăng hỏi: Ngày xưa Phạm Vương thỉnh Phật ấy là vì chúng sanh, sáng nay Thánh chúa đặc sai là có điềm lành gì? Sư đáp: Trời cao che không hết. Vị Tăng nói: Như vậy thì bốn chúng được thấm nhuần ân đức rồi. Sư đáp: Nào có ai không thừa nhận. Vị Tăng hỏi: Chỉ như chế soái phán phủ, Tập soạn thị lang lấy đạo trung chính cương đại làm cách chọn người, có cho học Tăng mượn nước dâng hoa chăng? Sư đáp: Trước cửa Ca-diếp gió lạnh lẽo. Vị Tăng nói: Nếu vậy thì danh khắp thiên hạ. Sư đáp: Ông không được quên mất. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Ông già mặt vàng trên ngọn cây buông người ngược đầu xuống, trước trăm muôn chúng đã phó chúc Phật pháp cho các đàn việt có năng lực là các vua chúa, đại thần, đến nay hơn hai ngàn năm mà vẫn không thiếu kẻ hiền, khiến hàng Thích tử sa-môn chúng ta được đem tuệ mạng lưu thông mà giúp đỡ phong tục đất nước. Nếu nói quả có sự phó chúc Phật pháp là bài báng ông già mặt vàng. Nếu nói quả không có phó chúc Phật pháp thì ngày nay trong thành Vương-xá, bậc Thánh quân hiền thần kính phục, tôn sùng lẫn nhau, cho đến sanh linh trong biển đều được chiêm ngưỡng ánh sáng đẹp đẽ sáng trong. Sự tốt tươi của thông bách rốt cuộc lấy gì làm y cứ, Trác chủ trượng, bia tám chữ trên đỉnh Nam nhạc. Lại nêu: Hoàng đế Thái Tông của bổn triều nhân vị Tăng đến triều kiến, Đế Tuyên gặp, vị Tăng tâu: Bệ hạ còn nhớ được chăng? Đế hỏi: gặp nhau ở đây mà nay đến? Vị Tăng đáp: Từ ngày chia tay ở Linh sơn đến nay. Đế hỏi: lấy gì làm chứng? Vị Tăng không đáp, về sau Tuyết Đậu đáp thay: bần đạo đắc đắc mà đến. Sư nói: Rũ xiêm áo, chắp tay đón khách các nước đến, vị Tăng ấy chẳng phải không có câu trả lời, chăng may do oai trời ép ngặt người. Nửa đêm tiểu tham. Đêm nay lược bỏ phần cơ quan mầu nhiệm của Phật pháp, chỉ nói chút pháp môn lớn nhỏ cho mọi người trong buổi gặp gỡ ban sơ khi mới vào chùa. Mọi người lại không thể qua loa, mê loạn trong tình thức. Nếu nói xá-lợi bắt đầu từ tảng đá đen trên đầu núi, bay vào trong núi phát ra ánh sáng hiện điềm lành, điều này không ngoài việc mọi người từng biết. Nếu nói sáu nơi cao quý từ thành phố Bảo Tràng bốn mươi lăm dặm, cho đến Minh Châu thì điều này cũng đã được mọi người nhìn thấy, phải làm sao để không rơi vào tri kiến? Cho nên nói: Pháp lìa thấy nghe hay biết, nếu hành động với thấy nghe hay biết thì đó chỉ là thấy nghe hay biết chứ chẳng phải cầu đạo. Huống chi Cổ-Mâu-Thiền-Tùng, Tuấn-Nạp-Như-Thị mỗi người đều có kẻ để phó thác, nào ai chịu thọ nhận cơm, thức ăn do ông cúng tế quỷ? Bỗng gọi thị giả nói: Hãy đem cất bình trà của huyện Củng. Lại nêu: Thượng thư Trần Thao một hôm cùng các quan lên lầu, xa thấy mấy vị Tăng, giữa có một kẻ só nói: Những người đến đó đều là Tăng hành cước. Thượng thư nói: Chẳng phải, kẻ só hỏi: sao biết không phải? Thượng thư đáp: Đợi đến gần ta sẽ xem xét qua cho các ông xem, phút chốc Tăng đến, Thượng thư gọi: Thượng tọa, chư Tăng đều ngẩng đầu. Thượng thư nói: Không tin đạo. Sư nói: Mọi người đều nói dưới trời trong sáng, kẻ ngu muội lại rất đông, mà nào biết rằng: Trời đất trong quả bầu lại có mặt trăng, mặt trời riêng. Các vị sơn Tăng này đến gặp Dục Vương, đầu tiên gặp soái phủ tiết trai Trần Thị Lang, một hỏi một đáp, tràn đầy hòa khí. Nếu không có rất nhiều so sánh phân biệt thì thử hỏi giống Thượng thư Trần Tháo được bao nhiêu? Trác chủ trượng, nhàn rỗi nhìn cây vách núi càng nhìn càng đẹp, nhà vắng nghe tiếng suối chảy ra xa. Hành lễ đến đại từ, thỉnh Thượng Đường, hình dáng thấy hay không thấy, đối nhau đều có chuẩn xác. Sắc rõ rệt hay không rõ rệt, mò vớt không tăm tích. Nếu chuyển đến chỗ đó thì qua khỏi hay không qua khỏi, không bị vật có hình dáng ràng buộc, không bị sắc trần làm trở ngại, tự nhiên vượt lên địa vị Thánh ra khỏi mọi dấu vết lớn nhỏ, vuông tròn, khe núi mây trăng nơi nơi đều về, chim nước cây cối cùng nhau hiển phát, tuy như vậy mà ông già núi từ của ta chưa chịu gật đầu. Vì sao? Trác chủ trượng, vì trong bầu riêng có núi sông đẹp đẽ, rốt ráo không tìm được năm ngọn núi già. Lại nêu: Hòa thượng Đường Đầu Vật Sơ, nêu: Ngũ Tổ nói: Thế nào là ý Tổ sư từ phương Tây đến? Cây bách trước sân, hội thế nào là đúng? Sư nói: Lúc đó Ngũ Tổ có một thời gian làm cướp sơn lâm, tự nói đất rộng người thưa, nào biết rằng ngày nay bị ông già Từ Phong đào một đường cổ họng cho đến chỗ không lấy được hơi. Dục Vương đến đó, làm quyết đoán chính nơi phòng khách, chỉ đành bỏ qua, vì sao? Làm ơn được thì kết oán được. Hòa thượng chống gậy đến, thượng đường nêu: núi phẳng đầu hình cái chậu, như từ đất nổi lên mà nào biết ngọn núi cô độc thuở xưa, như đá chưa ngọc, nào biết ngọc đó không có vết, nếu được như vậy là xuất gia chân chính. Sư rằng: Bàn sơn thật ra chỉ cần xuất gia thì muôn pháp khôn cùng đến. Sơn Tăng xưa khi gởi thân ở Hà cốc cùng ông già Cức Lâm cũng như vậy. Chia tay hơn mười năm, ngày nay gặp nhau cũng như vậy. Thử hỏi: ý trong đó nói gì? Trác chủ trượng, như vậy như vậy mà thôi. Giải hạ, tiểu tham: Phòng sự nhỏ nhiệm mà lấp lại dần, thắp sáng nơi sâu kín cũng là nơi không có gió, sóng lượn quanh. Nếu lại lập ra chế độ an cư thì nào khác đập vỡ viên ngọc tìm bóng, kẻ nạp Tăng trí dạo ngoài muôn vật, khéo nhập trong trần hoàn, điểm phá Phật sống chưa hưng, không rơi vào khuôn sáo cũ xưa nay. Nói gì ao cá thanh kh- iết, ngọc kỷ thanh bạch, cho dù ngẫng được đầu lên thì sớm đã bãi biển nương dâu. Dục Vương đã nói thế nào? Không ra ngoài thường tình, như một câu đúng kỳ thủ chứng là câu gì? Trác chủ trượng, khéo học trí tuệ dưới cây liễu thì suốt đời không bắt chước dấu vết đó. Lại nêu: Vân Môn dạy chúng: người chết trên đất bằng nhiều vô số, kẻ ra khỏi được rừng gai là người giỏi. Lúc ấy, có vị Tăng bước ra hỏi: thế nào là tòa thứ nhất trong nhà có chỗ hay? Môn đáp: Tô rô tô rô. Sư nói: Vân Môn tựa như công tử Nhậm đặt một cây gậy trước năm mươi con bò thiến, đầu gậy treo biển đông. Sơn Tăng bình thường chỉ khéo nhảm nhí, không muốn nói lỗi của ngươi. Do đâu như vậy? Phất phất trần, quan nào vô tư, nước nào không có cá. Hôm sau, Sư thượng đường. Thời gian dài thì một trăm hai mươi ngày, thời gian ngắn thì chín mươi ngày, tháng hạ trùng kiến nhiều, ông già một vàng e ngươi rảo Đông chạy Tây sát sanh hại mạng nên đã lập quy chế để cấm. Sáng nay thời hạn đã hết, môn hạ Mậu Phong, chưa hề có người nào dám dễ dàng đặt chân xuống. Vì sao? Trác chủ trượng, e đạp trúng, phạm tội Đột-cát-la. Di thư của Hòa thượng Thạch Khê Kinh Sơn gởi đến, Sư thượng đường. Trước ngọn kê túc, bến đò Hoàng Mai, đi vòng đến Lãnh tuyền mấy khuỷu tay, nếu nói lăng tiêu chẳng phải truyền, rốt cuộc y pháp thuộc tay ai, dã can kêu, sư tử gầm, hư không đêm qua nhào lộn một cái. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Nhượng hỏi Mã Tổ: ngươi học ngồi thiền là học ngồi làm Phật; nếu học ngồi thiền thì thiền chẳng phải ngồi nằm; nếu học ngồi làm Phật thì Phật chẳng phải tướng định; đối với tướng lấy bỏ, không nên thủ xả. Sư nói: Nam Nhạc dẫn Mã Tổ vào trong sừng trâu làm kế sống của chuột, bỗng nhiên tìm được đường ra, chớ cười Nam Nhạc có lẽ đã ngồi ở bên trong. Sư thượng đường. Trời lạnh người lạnh, mọi người ở tại đây, hội được như vậy thì tấm sắt che ngăn cũng phải lùi ra một khe hở. Bằng không, vốn định giết rồng lại thành bắn cọp. Sư thượng đường nêu: Nham Đầu thấy Đức Sơn bèn hỏi: là phàm hay Thánh? Đức Sơn bèn hét Đầu bèn lễ bái. Về sau, Động Sơn nghe vậy nói: Đương thời nếu chẳng phải là người lớn tuổi thì cũng khó gánh vác nổi. Nham Đầu nghe thấy nói: Ông già Động Sơn chẳng biết tốt xấu, hiểu sai danh ngôn, ta đường thời một tay nâng, một tay cầm. Sư nói: Nham Đầu giống như Thượng tọa Minh đuổi theo Lô hành giả đến đỉnh ngọn Đại Dũ lónh, lại hồi hướng cùng là bạn đạo, rồi đi mất không có tin tức. Sư thượng đường nêu: Tuyết Phong dạy chúng: Đình Vọng Châu đã gặp gỡ ông chưa? Ô Thạch Nham đã gặp gỡ ông chưa? Tăng Đường Tiền đã gặp gỡ ông chưa? Sư nói: Chớ ngồi liền, chuốt rượu nhiều lần, sau khi chia tay thật ít gặp anh. Sư thượng đường, Nguyên tiêu cảm tạ Tri sự. Vị Tăng hỏi: Câu hữu câu vô, như sắn bìm leo cây, ý nầy như thế nào? Sư nói: Bưng nước, trăng trong tay, chơi hoa, hương đầy áo. Vị Tăng hỏi: Cây đổ bìm khô, câu về đâu? Sư đáp: Ném vàng đi, bưng viên gạch tầm thường. Tăng Ngụy Sơn buông chậu đất xuống, cười lớn ha hả, là nghóa gì? Sư đáp: Cõi trời chưa trọn vẹn, mà địa ngục đã thành trước. Lại nói: Nguyên tiêu Châu gia năm nay treo ngọn đèn đẹp cực kỳ, cùng vui với dân, chỉ có nơi hành lang của Mậu Sơn nửa sáng nửa tối, kẻ qua lại sánh vai cùng cây cột ở đất trống, lồng đèn ngang trán, vua Đăng Minh nghe được bèn ra, muốn hiển hiện phát ra ánh sáng bản thân để làm Phật sự lớn. Sơn Tăng sửa sang oai nghi với ông ta hét một tiếng, vì sao? Vì tự mình đã có tri sự Tăng, đâu cần nhọc sức cưỡng bức xuất đầu. Hòa thượng Tuyết Đậu đến, Sư thượng đường. Đỉnh núi Kim luân, bên đình Cẩm kính có một câu làm hại các nạp Tăng trong thiên hạ, chưa có kẻ nào hiệu đính và chấm câu được cả. Dục Vương lâu ngày há miệng ngậm bít mãi sao? Hãy nói: đó là câu gì? Trác chủ trượng, thấy nói phong tục thôn phía trước càng đáng ghét, hoa hạnh không có chỗ để tránh cái lạnh của mùa xuân. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường. Bậc Đại giác Thế tôn vì thấy chúng sanh chấp vọng là gốc, đương lúc trăm hoa tươi đẹp, rậm rợp phô vẻ tươi tốt thì Ngài thị hiện tướng nhập diệt. Bọn Tỳ-kheo các ông nếu nháy được một mắt ở chỗ đó thì Thích-ca là Thích-ca, Ba-tuần là Ba-tuần. Sư thượng đường, nêu: Dược Sơn xem kinh, kế có vị Tăng hỏi: Hòa thượng bình thường không cho người xem kinh vì sao lại tự xem? Sơn đáp: Ta chỉ muốn che mắt. Vị Tăng hỏi: Học Tăng có xem được không? Sơn đáp: Nếu ngươi xem thì đến da bò cũng phải lủng. Sư nói: Thầy không bằng đệ tử. Châm trà, kế Hòa thượng Thanh Lương đến, Sư thượng đường. Vị Tăng hỏi: Ngụy Sơn châm trà, kế hỏi Ngưỡng Sơn: “suốt ngày chỉ nghe tiếng ông, chẳng thấy hình dạng ông”. Ngưỡng Sơn bẻ cây trà, ý là gì? Sư nói: Tiền ra khi việc nhà gấp. Vị Tăng hỏi: Ngụy Sơn nói: Ông chỉ được phần dụng, không được phần thể. Sư rằng: Ra cửa không cần phải dặn dò nhiều lần. Vị Tăng nói: Ngưỡng Sơn hỏi: chẳng hay Hòa thượng nói gì? Ngụy Sơn im lặng hồi lâu. dụng. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được phần thể, không được phần Sư nói: Cánh tay không bao giờ gập ngược ra ngoài. Lại nghó rằng: Triệu Châu có hỏi ngài Nam Tuyền rằng: Lễ lạy, đốt hương chỉ là việc ngày xưa. Nếu hằng môn Bồ-tát Thanh Lương nghe thoáng qua cũng phải chau mày. Kiết hạ, tiểu tham: Rừng chiên đàn thì chiên đàn vây quanh, dù tách ra từng miếng mà miếng nào cũng thơm. Rừng cây gai thì cây gai vây quanh, có chọn cành nào thì cũng đều đầy gai cả. Nên ông già Thích-ca của ta dùng trí bình đẳng tánh để nhiếp các Tỳ-kheo cùng vào biển đại Viên Giác. Trong suốt thời gian dài một trăm hai mươi ngày vất vả gạn lọc. Thành tựu tuệ thân, nếu không thấy có tướng cấm túc an cư thì nay chính phải lúc cùng làm gì? Trác chủ trượng, gậy tre hóa thành rồng, người ngu tát ao khuya. Lại nêu: Thiền sư Vónh Minh Diên Thọ trong hội của Quốc sư Thiều ở núi Thiên thai, tham phỏng khắp, kế nghe củi rớt phát ra tiếng, bỗng khế ngộ bèn nói: Đánh đổ chẳng phải là vật khác, ngang dọc chẳng phải bụi trần. Núi sông cùng mặt đất đều lộ hết thân Pháp Vương. Sư nói: Thiền sư Diên Thọ giống như kẻ cùng nho lên phủ có nhiều ngọc báu, hả hể vừa ý với tất cả mọi thứ, chỉ có điều bên trong có một chữ chưa rõ. Sư thượng đường: Tạ người cầm phất trần lúc thọ trai trong hạ, xưng một câu Nam-mô Phật đều đã thành Phật đạo. Nếu nói đến bờ sông Kim luân, đỉnh núi Côn Luân, công lao quy về đâu? Phất phất trần, hồng hồng, có cây chùy tất la nào mau đem ra đây. Sư thượng đường nêu: vị Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là một ngòn đèn trong nhà? Hương Lâm đáp: Có ba người làm chứng thì rùa thành ba ba. Sư niêm rằng: Hương Lâm hai mươi năm là thị giả Vân Môn, học được vài câu trong sách vở. Dục Vương thì không phải như vậy. Bỗng có người hỏi, chỉ nói với hắn. Hoàng thiên không tư lợi, chỉ có đức là phụ giúp. Hòa thượng Thạch Phàm đến, Sư thượng đường nêu: Vân Môn hành cước đến Cửu giang, Thượng thư Trần Thao thỉnh trai, kế hỏi: không hỏi đến sách Nho, ba thừa mười hai phần giáo cũng đã có giảng sư, thế nào là việc của nạp Tăng đi hóa đạo? Vân Môn đáp: Đã hỏi mấy người rồi? Thượng thư đáp: Mới chỉ hỏi Thượng tọa. Vân Môn hỏi: Chỉ hỏi thế này: thế nào là ý của giáo? Thượng thư đáp: Quyển vàng gáy đỏ. Môn nói: Đó là lời lẽ văn tự, thế nào là ý của giáo? Thượng thư đáp: Miệng muốn bàn mà từ ngữ biến mất, tâm muốn duyên mà lo toan đã quên, là đối hể với vọng tưởng, thế nào là ý của giáo? Thượng thư không đáp được. Môn hỏi: Nghe Ngài có xem kinh Pháp Hoa phải chăng? Thượng thư đáp: Không dám. Môn hỏi: Trong kinh nói, sản nghiệp quản lý đều không trái với thật tướng, hãy nói: cõi trời Phi phi tưởng đến nay có mấy người thoái vị? Thượng thư lại không đáp được. Môn nói: Thượng thư chớ vội vã, kẻ sư Tăng vứt hết mười kinh năm luận, đặc biệt vào chốn tòng lâm, mười năm hai mươi năm còn chưa ra sao, Thượng thư sao hội được? Thượng thư đáp: Tôi thật tội lỗi, bèn làm lễ. Sư nói: Thượng thư Trần Thao dùng vài lời trước mặt để khám nghiệm Vân Môn. Ngày nay bỗng có người hỏi Dục Vương thế nào là việc đi hóa đạo? Chỉ nói với hắn rằng: Ta cùng ông già Thạch Phàm hơn mười năm đi khắp chân trời góc bể còn tự mình không biết, ngày nay gặp lại đã hai mươi năm chỉ có được răng thưa râu bạc, nói cái gì là việc đi hóa đạo! Đợi hắn suy nghó, bèn hét cho hắn một tiếng. Vì sao? vì tìm lửa và khói được, gánh suối mang trăng về. Sư thượng đường. Núi trống không thì chẳng có người, nước chảy hoa thơm, Thu tử Mãn từ, lẫn lộn cả trí biện luận, loài chim thường sở trường ở nơi khoáng đãng, không cần dùng đến sự thông minh của nó nữa, vì sao? Kẻ biết pháp thì sợ. Sư thượng đường nêu: Bàng Cư só nhân ở dưới rào mại lộc bị ngã, con gái tên Linh Chiếu vừa thấy bèn đến nằm bên cạnh cha. Bàng hỏi: làm gì vậy? Chiếu đáp: Thấy cha té vội đến đỡ dậy. Sư nói: Cọp ghét mỏ gà, người nghe thì sợ, người sau cân nhắc không cao, nói rằng cả hai đều chơi nguy hiểm. Kiết hạ, tiểu tham: pháp vương Phá hữu, có môn đại Đà-la-ni gọi là Viên Giác, thành tựu tất cả giống trí, phá hoại tất cả pháp môn, bên bóng hình mộng huyễn tụ tập nạp Tăng bốn phương. Trong chín mươi ngày, đặt ra hạn kỳ, quyết phải đập vỡ thùng sơn thành tựu thân trí tuệ. Tuy như lịnh chế của Tây Thiên có tin tức này không? Trác chủ trượng: thần tiễn Lý Quảng phô trương thứ chữ Thảo. Lại nêu: Một hôm Châu Hành Quân vào chùa Nam Tế cúng dường trai Tăng, dâng hương xong, kế cầm lò sưởi xách tay đưa qua đưa lại nói: Ngay đó là đúng, ngay đó là đúng. Lúc đó, có vị Tăng hỏi: ngay đó là đúng cái gì? Hành Quân bèn hét, vị Tăng nói: Hành Quân là người trong Phật pháp, vừa vị hỏi bèn làm dữ. Hành Quân hỏi: ngươi làm dữ được không? Vị Tăng bèn hét, Hành Quân cũng hét, nói: Câu ở chỗ không nghi, lại kêu mọi người nhận lấy vị Tăng đó. Sư nói: Người ta nói bên ao của Vương Mẫu có một cây tên là bàn đào, ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm kết trái và lại đợi đến ba ngàn năm mới chín. Thử hỏi: Hành Quân có phần được gặp gỡ chăng? Trác chủ trượng, tham. Hòa thượng Tuyết Đậu Khiêm đến, Sư thượng đường, gõ vỡ vân mộng, xói dời thuyền ngọc, thừa lúc chuyển hư không, cả mặt đất không có một tấc đất. Nên ông già ta là người dừng nghỉ trên đỉnh núi diệu cao cô đỉnh, hòa trấu với bột đem bán, vực dậy tông phái, mới đến nửa đoạn đường đã đọa. Ngửi đất thổi cát, Tùng Nguyên là mắt của người, tìm nước ở cán cân, nước mắt chảy ra thì đau ruột, mọi thứ sinh diệt, kẻ thù ác, muôn cổ nghìn thu cũng không chết. Sư thượng đường, các nơi phần nhiều nói kiến địa, Mậu phong chỉ bàn về tông chỉ. Sáng tỏ kiến địa thì bị kiến địa định đoạt, tông chỉ chung là chấp vào tông chỉ. Như nay muốn bỏ kiến địa không sáng tỏ, tông chỉ không thông suốt thì ra đây làm ngọn lửa đầu tiên (cội nguồn) trở đi của Tùng Nguyên, không thì cũng khó. Giải hạ, tiểu tham. Thời gian dài một trăm hai mười ngày, chăm chăm làm mãi, tổ chim tài giỏi hai ngàn năm, lời xưa đổi mới, trâu đen nằm xuống nước, hội được như vậy thì, cái nhỏ nhiệm trong cái thô thì dễ, cái nhỏ nhiệm trong cái nhỏ nhiệm lại là khó, cho nên ông thầy già đất trúc là ta, xem xét thân không cẩn thận khiến làm trái với người, đến nỗi các Tỳ-kheo đời mạt phần nhiều lấy tôm làm mắt, một chúng Dục Vương khéo xem xét những biến đổi theo thời gian, đều nằm ngoài khuôn phép. Vì sao? Trác chủ trượng, có lúc nhặt được đá đầu khe, cả rêu và mây đều nằm trong bóng râm. Lại nêu: Thiền sư Thúy Tham Linh Tham dạy chúng rằng: Suốt một hạ nói đông nói tây cùng các huynh đệ, xem thử lông mày Thúy Nham có còn không? Bảo Phúc nói: Kẻ làm giặc thì tâm trống rỗng. Trường Khánh nói: Sanh. Vân Môn nói: Đóng. Sư nói: Ba vị đại lão mỗi người đưa một tay ra để nâng đỡ cây nhà Thúy Nham mà báo đáp Tuyết Phong, nhưng lại chỉ đồng lòng mà không đồng chí. Cảm tạ hai ban, Sư thượng đường: Rồng gặp mây thì linh, cọp được gió thì oai, chốn tùng lâm được người thì giềng mối chánh pháp được trang nghiêm, tự nhiên trên dưới đều sống an ổn. Sở dó như vậy là vì sao? Trác chủ trượng, năm trời lạnh biết thông bách về sau điêu tàn. Tết Trung thu, Sư thượng đường. Cõi người không có, cõi trời có, xưa nay chẳng ai thoát khỏi khuôn sáo cũ, bốn biển đẹp đẽ rửa hồn ngọc, chín đồng hoang mênh mông thỏ trắng chạy. Hàn Sơn tử không khép miệng thì cũng rơi lại sau bầy ngựa giỏi. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Pháp Tể - Kính Sơn nhân vị Tăng hỏi: khi dập tắt như tro thì thế nào? Tể đáp: Giống như người làm công thời nay. Vị Tăng hỏi: Sau khi làm thì thế nào? Tể đáp: Người cày không làm ruộng. Vị Tăng hỏi: Rốt cuộc thế nào? Tể đáp: Lúa chín không đem về sân, Hòa thượng Ứng Am niêm rằng: Gác phụng hương trầm. Tuyết rơi, đêm tổ lạnh, nửa song cửa sổ là trăng sáng, hòa khí dịu dàng. Sư nói: Một kẻ muốn nghèo, nghèo chẳng được, một kẻ ham giàu, giàu chẳng xong, nên biết nghèo giàu không ngang nhau, lại thỉnh mỗi người về đứng lại chỗ mình. Ngày kî Đại sư Đạt-ma niêm hương: cờ hiệu đỏ theo bước, tự nói thần cơ chẳng biện bác, cho đến đầu châu Bạch Lộ, chết dưới lời nói lão tiêu, thanh trầm nước Ngụy, bóng thoát khỏi cái trang côi, ngay pháp môn lúc giao mùa sắp vào thu, đau lòng nghó đến sự buông lung khi xưa, dâng lên loài cây cỏ ở khe nước này, duỗi ra ít đuổi theo xa, sương bay nơi hoang vắng mênh mông, cây ngã nơi sườn núi cao, mật vỡ tim nát, chưa nói đã nghẹn. Tiết Đông chí, tiểu tham. Một hơi ẩn náu, mâm mài tám cạnh quay giữa hư không, sáu hào vừa động, chim diêu không lông bay lên trời. Thời tiết nhân duyên đó không thêm bớt theo bốn mùa. Kẻ nạp Tăng mắt nhìn xa, ngồi ở đây cho đến khi tro cỏ lau chưa động. Hội được, Đặng Sư Ba ở Tây xuyên, ở dưới sườn núi bên trái Đông Sơn. Nếu chưa thì đó là thời tiết cây khô nở hoa. Vì sao? Trác chủ trượng, mùa đông không lạnh thì sau tháng chạp hãy khán. Lại nêu: người xưa nhân vị Tăng hỏi: thế nào là việc mùa đông đến? Người xưa đáp: Chốn kinh đô có ra đại hoàng. Sư nói: Trẫm nghe nói thời thượng cổ phong tục của nó sơ sái chất phác, lời vua nói như sợi tơ mà ai dám không nghe, bỗng có người nói Mậu sơn, chỉ nói với hắn rằng: Chống chọi lại sóng gió ngay cửa chắn gió và cửa biển thì cần có con người này mới được. Tân Thiên Đồng từ Tương Sơn đến, Sư thượng đường. Gương chứa vuốt chim ưng, mặt mũi đáng ghét, khai phát Nam nhạc, xuống núi giáo hóa, từ rừng Du đào, đối diện vua giảng kinh, không giữ cương giới, can phạm thanh bình, diệt được chánh pháp nhãn của Trung Phong, phá vỡ bồn cát thì lời nói mới được thực hành. Sư thượng đường nêu: Trường Sanh hỏi Linh Vân: khi hỗn độn chưa phân thì thế nào? Vân đáp: Cây cột ở chỗ trống mang thai. Sanh hỏi: sau khi phân thì thế nào? Vân đáp: Như áng mây điểm quá trong. Sanh hỏi: chẳng hay quá trong rồi còn điểm không? Vân không đáp được. Sanh nói: Như vậy thì hàm sanh không đến nữa, Vân cũng không đáp. Sanh hỏi: cho đến khi thuần trong không còn chút điểm gì thì thế nào? Vân đáp: Giống như chân thường lưu chú. Sanh hỏi: thế nào là chân thường lưu chú? Vân đáp: Như kiếng sáng mãi. Sanh hỏi: hướng thượng còn có việc nữa không? Vân đáp có. Sanh hỏi: việc hướng thượng là gì? Vân đáp: Đập vỡ tấm kiếng để gặp gỡ người. Sư nói: Vị tông sư có con mắt lớn trong thiên hạ đều nói đập vỡ tấm kiếng để gặp gỡ người cho là cực tắc, đâu biết rằng: Núi sâu nước lạnh, dặm trình của khách hơi xa, muốn biết hai ông già keo sơn hợp nhau thì trước phải hội lấy hai chỗ không đáp. Đêm ba mươi tết, tiểu tham: Xưa đi mới đến lười đưa đón, dưới mồ trong núi thấy hình khô, nhịn đến cuối năm, giấc mộng giữa đêm, ngồi đối diện chân đèn lạnh hai tuổi. Báo cáo như vậy đã rơi vào thời nay, không liên quan đến công lao thì làm sao mà tất cả đều giống? Lão Tăng đêm nay nhịn cười không được, trước khi pháo trúc chưa nổ, mở một con đường sống cho mọi người và dạy họ biết ngày sau chắc chắn là một buổi sáng của năm đủ, nếu chưa phải thì làm sư tử ở Tây Hà. Lại nêu: Mễ Hồ tham phỏng Vương Thường Thị, ngay lúc đang phán quyết công việc, xong việc thường thị mới thấy, cầm bút lên ra dấu, Hồ hỏi: có phán quyết được hư không chăng? Thị vứt bút trở về nhà, Mễ hồ vô cùng nghi ngờ. Hôm sau, đến nhờ Hoa Nghiêm, Nghiêm mời trà Thường Thị, rồi hỏi: Hòa thượng Mễ Hồ có lời lẽ gì mà không được gặp gỡ. Thị đáp: Sư tử cắn người, con chó đuổi theo cục đất. Mễ Hồ nghe được, ra ngoài cười lớn nói: Ta hội rồi. Thị hỏi: thử nói xem. Hồ nói: Thỉnh Thường Thị ra đề mục. Thị bèn đưa một chiếc đũa lên. Hồ nói: Con chồn hoang thành tinh. Thị đáp: Kẻ này đã ngộ suốt. Sư nói: Mễ Hồ đương thời khi mới thấy đưa bút lên bèn vào địa vị khách, dùng cán bút làm vật quý trên bàn tiệc, vô cớ lại đặt tiệc trà, làm lụy đến Hoa Nghiêm, hắn dập đầu xuống đất, chỉ như Thường Thị nói kẻ này ngộ suốt rồi, đâu là chỗ ông ta ngộ suốt? Thử hạ một chuyển ngữ xem. Ngày đầu năm, Sư thượng đường: Vật đổi sao dời, bỏ cái cũ, xây dựng cái mới, đất mầu mỡ chưa động, thương lượng lập xuân, Thái công có ý buông câu, phu tử vô tâm được lân. Sư thượng đường nêu: Dược Sơn và Đạo Ngô, Vân Nham dạo núi, kế thấy một cây có hai gốc, một gốc khô, một gốc tươi. Sơn bèn hỏi: tươi đúng hay khô đúng. Vân Nham đáp: Tươi đúng. Sơn nói: Nếu vậy thì mọi nơi đều sáng sủa, xán lạn. Đạo Ngô nói: Khô đúng. Sơn nói: Nếu vậy thì khắp nơi đều khô héo, nhạt nhẽo. Bỗng Sa-di Cao đến, Sơn cũng hỏi như vậy. Cao đáp: Tươi thì mặc tươi, khô thì mặc khô. Sơn quay lại nói với Đạo Ngô và Vân Nham. Chẳng đúng chẳng đúng. Sư nói: Dược Sơn nói câu “Chẳng đúng chẳng đúng” làm giảm ít nhiều oai quang của Đạo Ngô và Vân Môn. Sư thượng đường nói: Mỗi người đều có chân thể linh giác diệu minh, nhưng do có sự chướng ngại của kiến nên chẳng thể quơ ngang ngọn mác mà tạo ra một mảnh đất không nghi, ấy là do công cố gắng tôi luyện không thiết tha nên rơi vào sấm lậu. Phải làm sao? Nếu được tấm gương linh hiển hiện tiền thì lão Tăng chẳng tiếc lông mày mà dứt bỏ kiến chướng này cho các ông, vứt chủ trượng xuống. Nhân có việc, Sư thượng đường: Trên trời có mây, có thể che mặt trời mặt trăng, làm rơi mưa ngọt. Đất có nước, có thể đưa thuyền sang bờ kia, tươi nhuận cây cối đã héo khô. Người có tâm, sẽ làm hưng khởi họa phúc, điều phục cương nhu. Rõ được cả ba điều này thấy lý quy về một đạo, sở dó như vậy là vì sao? Trác chủ trượng, chim bằng to lớn khi sải cánh che cả mười châu, chim én, chim sẻ ở bên bờ rào kêu chiêm chiếp. Sư thượng đường nêu: Triệu Châu nghe Sa-di hét tham. Châu nói: Thị giả bảo hắn đi, Sa-di cẩn thận bèn đi. Châu nói với vị Tăng bên cạnh: Sa-di được vào cửa, thị giả ở bên ngoài. Sư nói: Ép ngặt tằm dệt tơ thì dễ, muốn bò đực sanh con thì rất khó. Ngày 14 tháng 06 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Bảo Hựu Sư gặp nạn, ngày 13 tháng 07 sư nhận Thánh chỉ miễn tội cho. Cảm tạ việc đó, Sư thượng đường, La Thái Úy ở Đô thành nộp tấu chương để cảm tạ, khi đi sương sớm làm vơi hết nóng bức, ngày về tiếng thu vang khắp buổi hoàng hôn. Ân thấm nhuần trùng trùng lớp lớp, lấy gì báo đáp, ngước nhìn nơi cao cao vời không bóng mây mà chúc cho, mãi mãi bền chặt. Ngữ lục thiền tự Tuệ Chiếu Bách Nham. Thị giả Tự Tảo biên tập. Ngày 25 tháng 08 niên hiệu Cảnh Định thứ nhất sư nhập tự, thượng đường, Tăng hỏi: Hòa đàm dễ thấy, tri thức khó gặp, học Tăng ra đây thỉnh sư chúc Thánh. Đáp: Oai Âm chợt phát ra bên nào nhìn. Hỏi: Bảo Thọ khai đường, Tam Thánh đẩy ra một vị Tăng, Bảo Thọ bèn đánh, là ý gì? Đáp: Đường lát gươm tuy nguy hiểm nhưng người đi đêm lại nhiều. Hỏi: Tam Thánh nói: Đối người như vậy chẳng phải chỉ làm mù mắt vị Tăng nầy mà còn làm mù hết mắt người trong thành Trấn Châu. Bảo Thọ vứt chủ trượng xuống rồi quay về phương trượng, lại có nghóa là gì? Đáp: Lại cầm kim vàng may thật kín. Hỏi: Hôm nay Hòa thượng khai đường chúc Thánh, bỗng có người đẩy một vị Tăng ra thì phải làm sao? Đáp: Đốt phân bò, lấy hương đó để cúng dường, hắn cũng chưa phải là ngoài phận. Hỏi: Do đâu như vậy? Đáp: Ấy là do hắn là kẻ áo nạp bản sắc. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Lý trời Thích trở lại, nơi khe núi ấy mở mắt cười, muôn lòng hưởng ứng, tin hiểu đạo này không lừa người, cho nên chân không che lấp ngụy, cong không che giấu thẳng, tự nhiên cỏ rạp khi gió qua, thái bình có đường, chỉ như đích thân đến Bách Nham, một câu này nghóa là gì? Tùng xanh không ngại người qua lại, nước nơi hoang dã vô tâm tự đến đi. Lại nêu: Tu-bồ-đề tọa thiền trong núi, các vị trời mưa hoa xuống khen ngợi, Tôn giả nói: Ai mưa hoa khen ngợi trong hư không. Đáp: Ta là Phạm Thiên. Tôn giả hỏi: vì sao ông khen ngợi? Phạm Thiên đáp: Ta trọng tôn giả khéo nói Bát-nhã Ba-la-mật- đa. Tôn giả hỏi: ta không hề nói một chữ Bát-nhã nào, vì sao ngươi lại khen ngợi? Phạm Thiên đáp: Tôn giả không nói, ta cũng không nghe, không nói không nghe là chân thật nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, và lại động đất, mưa hoa. Tuyết Đậu nói: Lánh chỗ ồn tìm nơi yên tónh, trên đời chưa có một nơi chốn như vậy. Ông ta an tọa trong núi cũng bị một bọn hồ đồ đến bắt mà bắt chẳng được ông già đó. Hỏi câu: “ai trong hư không mưa hoa khen ngợi?” Là từ sớm đã thấy chỗ thất bại rồi. Câu: “Ta trọng Tôn giả khéo nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa”, nước dơ bỗng từ trên đầu trút xuống. Câu “ta không hề nói một chữ Bát-nhã”, đi trong cỏ. Câu “Tôn giả không nói, ta cũng không nghe”, biết cái gì xấu tốt, đều giống như bọn này chăng? Chỗ nào có hôm nay? Lại triệu đại chúng đến nói: Tuyết Đậu may mắn là người vô sự, các ngươi đến đây tìm cái gì? Cầm gậy cùng lúc sấn tới. Sư nói: Tuyết Đậu tuy không khéo về binh cơ huống chi là ngầm hợp với Tôn - Ngộ. Ngày nay, Bách Nham khai đường chúc Thánh sao không có ai mưa hoa cúng dường? Phất phất trần, kẻ giặc không vào cửa nhà cẩn thận. Khai lò, Sư thượng đường nêu: Người xưa nói pháp được xương thịnh, ngày nay khai lò, không có một vị Tăng hành cước nào, chỉ có mười tám bậc cao nhân ngậm miệng ngồi quanh lò. Sư nói: Dù cho đạo pháp xương thịnh cũng không do nhà sang giàu, phong lưu há do mặc áo nhiều hay sao? Bách Nham hôm nay khai lò, không cần nhóm họp các pho tượng đất sét, nơi đất tới tăm hơn hẳn nơi khác một nước. Vì sao? Vì răng mọc lông, cái chùy cũ, đêm khuya nghe tiếng nước ngồi bên lò. Tạ ơn thủ tọa, Sư thượng đường: Trác chủ trượng, chết hết tâm trộm của kẻ áo nạp trong thiên hạ mới gọi là đề mục này. Trác chủ trượng, chết hết tâm trộm của kẻ áo nạp trong thiên hạ rồi chuyển đến chỗ nào? Lại rơi xuống chuyện công lao. Vì sao? Được vừa vặn tương ưng nhau. Trác chủ trượng, mắt của trời người là Thượng tọa trong thiền đường. Buổi sáng, Sư thượng đường: Một năm lại một năm, số tuần hoàn không đủ, thượng nhân Bổn Phận Diện, giống như ngọn cách la. Chỉ có Lão nhân Nam Cực, đánh trống trời ba tiếng, nhìn về cửa Bắc mà chúc. Vì sao? Trác chủ trượng, nguyện vua ta muôn phước. * Ngữ lục thiền tự Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu, ở phủ Lâm An. Thị giả Chí Nguyên, Văn Hành biên tập. Ngày 16 tháng giêng niên hiệu Cảnh Định thứ năm sư nhập tự. Chỉ ra cửa, cửa ngoài không đóng, vượt qua thiên hạ mà không có cầu, hội được thì cho phép ngươi thăng đường, vào nhà này. Chỉ điện Phật, Bậc muôn đức cao vời vợi, co duỗi, hiện mất, phương tiện tuy nhiều nhưng do các ông không thấy đảnh tướng của Như lai, chỉ Duyên quá gần. Sư đến trước pháp tòa, đốt hương nhìn về cửa khuyết, tạ ân xong, bưng tờ sắc vàng dạy chúng: Tam-muội của Đức Thế tôn do chính tiếng ngọc miệng vàng của Ngài phó chúc, kiểm xem nấm linh chi sắc bùn tím, trong thành chốn cửu trùng chim phụng ngậm đem đến thấm ơn mưa móc, pháp môn hưng thạnh chói sáng, diệu chứng trước khi phát ra tiếng, rung động lòng người. Học trò thưa thớt, khói nhạt nhẽo, đá lung linh. Từng mặt như đứa tớ nhìn trộm, ngàn muôn ngọn núi, đầy hòa khí bên trong. Chỉ pháp tòa: Pháp lấy không làm tòa, dở bước ắt Thích-ca ngay trước mắt, Di-lặc ở sau. Hãy nói, chính giữa nói pháp gì? Chợt bước lên tòa. Sư thăng tòa, niêm hương nói rằng: Một nén hương này đốt ở trong lò, cung kính chúc trên Hoàng đế Thánh cung muôn năm, muôn năm, muôn muôn năm bệ hạ, kính nguyện. Thiên cơ mãi thịnh vượng, mặt trời Thuấn sáng mãi, thành nên bài thơ nhã, chúc cho ba đức rực rỡ rộng lớn. Kế niêm hương rằng: Một nén hương này đốt từ trong lò, cung kính chúc trung cung Hoàng hậu Thánh cung muôn phước. Một nén hương này chúc Hoàng Thái tử điện hạ thêm cao phước thọ. Một nén hương này kính vì Thái tuyền cung sư xu sứ, Đại thừa tướng quốc công, Đại tham tướng công, Xu mật tướng công cùng các quan văn võ trong triều đều thêm lộc toán. Kính nguyện: nâng cao Nghiêu Thuấn, dưới nhìn Y, Chu, nhóm họp các phong tục nhã nhặn ngàn năm, che lấp sắc xuân của muôn phước. Một nén hương này kính vì phán phủ vỗ yên, đại khanh đề lónh, đô vận điện soạn đại khanh và quan liêu các quận huyện đều thêm lộc toán. Kế niêm hương rằng: Đây là Thái úy do Môn Ty đề cử, cung phụng Thánh chỉ, đưa nhập tự, hỏi nhân duyên tám mươi tuổi đi hóa đạo của Triệu Châu để nương nhờ lộc toán. Hương này phần nhiều là giàu mua nghèo bán, hiếm gặp chủ thuyền Nam Phiên. Ngày nay trời người đều hội, không dám giấu trong túi. Đốt ở trong lò, kính vì Hòa thượng tiên sư Vận Am trước trụ thiền tự Vạn Tuế, đạo tràng Sơn Hộ Thánh ở Kiết Châu để báo đáp pháp nhũ. Sư vén y ngồi, lại nói: Đấng Đại giác Thế tôn trong hội Linh Sơn phó chúc cho quốc vương, các quan, các đàn na ngoại hộ hữu lực phải lưu thông con đường đạo là tánh mạng của trời người này, chớ để dứt mất. Nay ắt trời người đều hội, chúc thành khai đường, chẳng lãnh hội được ý chỉ này chăng? Lúc ấy, có vị Tăng hỏi: trên đảnh môn có con mắt chiếu sáng cả trời đất, danh giá vang xa, bốn biển đều nghe, Thừa tướng trước mặt nhận câu hỏi của thiên tử, chiếu thư từ chốn cửu trùng bay ra khỏi mây sâu. Tổ Trung Hưng nói: Chính vào lúc này một câu mà hợp cơ thì nguyện nghe. Chúc Thánh sư nói: Núi Nam chầu cửa Bắc, đêm đêm nhìn sao sáng. Vị Tăng nói: Chỉ dùng một pháp vị vô tâm, kính chúc trời Nghiêu mặt trời Thuấn sáng tỏ. Sư nói: Gió lặng, mặt trời mặt trăng vận hành đúng thời tiết, tuyết ngưng trời đất vào xuân. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Xuân đến Hồ sơn, trước nở hoa sáng cả vườn ngự uyển, người về Thượng quốc, Nam sơn hạc kêu thông xanh. Tráng hoàng đô là nơi đất linh, người tài; phủ Khuy Tử, trời trong trăng thanh, thấu suốt âm thanh mầu sắc, tài giỏi hơn hẳn các bậc, chẳng ngại thỏng tay vào chợ, rốt cuộc khó thoát khỏi lẽ biến hóa, lại nhìn cửa khuyết báo ân, chúc tán thế nào? Phất phất trần, bản đồ dài xa, trời Nghiêu cao rộng, muôn vật báo điềm lành vui với tâm Thánh. Lại nêu: Hoàng đế Thái Tông của bản triều nhân Tăng triều kiến, vua ban cho ngồi rồi hỏi: khanh từ đâu đến? Vị Tăng tâu: am Ngọa Vân ở Lư sơn. Đế hỏi: Ngọa Vân xa xôi không chầu trời (thiên) vì sao đến nơi này? Vị Tăng không đáp được. - Về sau, Đại sư Tuyết Đậu Minh Giác đáp thay: khó trốn khỏi khi sự biến đổi đến. Sư nói: Minh Giác vốn là người ăn rồi không quên. Đương thời nếu hỏi: Thần Tăng đến đây liền cung kính đến gần tâu rằng: Thỉnh bệ hạ chiếu cao gương trời, bảo đảm vua sẽ rất vui mừng. Nửa đêm, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Phật pháp xen lạm, không bằng ngày nay. Bậc chánh nhân vừa ra đời, đạo trời trở lại tốt đẹp. Thế nào là câu vì người? Sư nói: Kiếm trong tay người đất. Vị Tăng hỏi: Như Đức Sơn tiểu tham không trả lời, Triệu Châu tiểu tham phải trả lời, là ý gì? Sư đáp: Bao vải để trên đầu họ Trịnh dường như nặng. Vị Tăng nói: Đệ tử đêm nay ra nhỏ mà ngộ lớn. Sư đáp: Ngươi được cái gì? Vị Tăng bèn hét. Sư nói: Quả nhiên. Vị Tăng lễ bái. Sư cầm gậy nói: Ở đây đã là đỉnh cô độc Diệu cao, đâu cần đỉnh khác, gặp nhau gió vù vù, nước mát lành. Kẻ nạp Tăng chẳng thể nhìn lầm. Nếu nói cách sông vẫy tay thì chính là đi ngang. Đã mất bóng người còn nói gì đêm nay trả lời hay không trả lời. Khắp trời đều giăng lưới, kẻ nào không biết? Đã biết thì hiểu được chút phần. Như chốn đô thành có mười hai cái cửa, từ sáng đến tối xe, ngựa chạy nối đuôi nhau chật đường, mũ áo văn vật vào ra không dứt. Hãy nói: mỗi người đều cầm đó là vật gì? Nếu biết được thì đêm nay gặp nhau không uổng công đã bỏ ra, bằng không, Trác chủ trượng, tháp sắt cao ngút trời vẫn thường tồn trấn giữ, đêm khuya ai nghe tiếng phong âu. Lại nêu: Từ Minh nhân Tuyền Đại Đạo đến tham. Minh nói: Áng mây bay ngang miệng hang núi, du khách từ đâu đến? Tuyền hỏi: đêm xuống lửa ở đâu thiêu phần mộ người xưa? Minh nói: Chưa trải qua đạo, Tuyền bèn giả tiếng cọp. Minh đánh cho một tọa cụ. Tuyền đẩy ngã Từ Minh, Minh cũng giả tiếng cọp. Tuyền lùi người ra sau cười nói: Tôi đã tham hơn bảy mươi vị thiện tri thức mà chỉ có sư có khả năng kế tục chánh tông Lâm Tế. Sư nói: Trong chốn tùng lâm xưa nay đều nói: Từ Minh lúc ấy ngay câu cuối này hét một tiếng khiến Tuyền đối với đại đạo không có chỗ đặt chân. Đúng thì đúng, đâu biết rằng có sóng cao ngập trời mới chứa được con cá nuốt thuyền. Đêm khuya đứng mãi. Kiết hạ, tiểu tham. Vị đại tiên ở đất Thiên Trúc trong chín tháng hạ giăng lưới khắp trời, lung lạc kẻ nạp Tăng trong thiên hạ gọi là cấm túc hộ sanh đúng kỳ thủ chứng. Cho đến nội và ngoại đường Nam sơn, bày đơn xuống rập, mỗi người như cái cọc gang, chóng chọi cho đến mãn thời gian, mỗi người phải có những ghi chép lại về thiền để làm bằng chứng thưởng công. Tuy nhiên bỗng có kẻ lọt lưới, hướng đến chỗ chưa lập cấm chế, bên núi, bên sông, nói Đông nói Tây, chợt miệng quá đà nói trúng tên ông lão, lại nghóa là gì? Mau mau ra đây hạ một chuyễn ngữ, Trác chủ trượng, nói: Kết thúc công việc thì dễ, chuộc tội hơi khó. Lại nêu: Tuyết Phong lãnh chúng đến Phù Giang, bèn hỏi: Muốn gửi hai trăm Tăng qua hạ được không? Phù Giang cầm gậy huơ một cái nói: Không được. Sư nói: Hai ngọn núi cao chót vót cùng bày ra, đối diện nhau mà cách nhau ngàn dặm. Có người gửi qua hạ Nam Sơn, mở rộng Đông các, vì sao? Vì người kia đây xuất gia. Ngữ lục thiền tự Hưng Thánh, Vạn Thọ, ở Kính Sơn, thuộc phủ Lâm an. Tham học Duy Phần Văn Khải biên tập. Đầu giờ thìn ngày 25 tháng 08 niên hiệu Hàm Thuần năm đầu, sư nhập tự. Chỉ ra cửa: núi này không có đường, người đến học là ai? Hội được thì phủi tay cùng về, bằng không thì theo ta đến điện Phật, Thích- ca đóng cửa thất ở Ma-kiệt, vì sao ngồi ở đây? Lễ Bái, siêng năng đều dùng lễ. Phương trượng: Đầu cọp hàm én, mỏ chim, mang cá đều nạp khoản ở đây. Hãy nói: ở đây là chỗ nào? Trác chủ trượng. Tờ sắc hoàng cố ý bỏ kén chọn, vô tâm cày cấy chăn nuôi. Chốn cửu trùng giáng sắc như xuân, về khắp muôn đất nước, một đạo ân quang như ngàn mặt trời cùng chiếu, pháp môn phát triển rực rỡ, hốc núi sanh thu. Sở phủ. Mặt trời mọc thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ, hớn hở vui hòa như lên xuân đài. Hãy nói: nhận ân lực của ai? Cầm sở lên nói: Nghe. Sở của chủ sơn. Ra khỏi núi thì thấy, vào nhà thì biết, ổ gà tổ phượng. Sự sáng rỡ của vách lân cận đâu cần kẻ hèn này tô điểm. Sớ của Sơn Môn: Cần kiệm dựng được nghiệp nhà, lân phụng chốn tùng lâm, vào cửa vừa thấy, hòa khí có thể nắm lấy, biết tâm không nắm ở chỗ nhiều lần dặn dò. Pháp tòa, Chư Phật ra đời, Tổ sư từ phương Tây đến đều chẳng lìa được tòa này. Nếu tin thì mọi người tản ra. Bằng không, lại thêm một lần cúng dường các vị. Sư thăng tòa, niêm hương rằng: Hương này đốt ở trong lò, cung chúc: nay cung thượng hoàng đế Thánh muôn năm muôn năm muôn năm, bệ hạ kính nguyện, cầm cương tất cả kim luân, nối gót thuần phong của ba đời, lịch báu mở ra điềm lành, hưởng vận lớn muôn năm. Kế niêm hương rằng: Hương này đốt trong lò, cung vi Hoàng Thái hậu trên nương nhờ Thánh thọ. Cung nguyện Mẫu nghi thiên hạ nuôi sanh linh như con mình, có công phò giữ xã tắc, giúp đỡ, khen ngợi sự tạo hóa của bậc Thánh minh. Hương này đốt trong lò, cung vi nay trên Hoàng hậu hai cung thiên quyến, cung nguyện thọ như cây thông muôn tuổi, như chim hạc ngàn tuổi. Khen ngợi minh quân có công xây dựng nghiệp đế. Hương này đốt trong lò, kính vì Thái Tuyền Đại thừa tướng, Xu Sử quốc công, Đại Tham tướng công, Xu Mật tướng công, cùng trăm quan văn võ trong triều đều thêm lộc toán. Kính nguyện, đức yên bốn bể, oai răn ba bên. Hương này đốt trong lò, kính vì phán phủ vỗ yên, đề lónh đại Giám thị lang, đô vận phu văn đề lónh thị lang, quan liêu các quận huyện đều nương nhờ lộc toán. Kính nguyện: vây cánh thanh triều, cái bể thợ rèn lê thứ. Hương này kính vì Hòa thượng Tiên sư Vận Am, trước trụ ở thiền tự Vạn Tuế, đạo tràng Sơn Hộ Thánh, ở Cát Châu. Sư vén y ngồi, lại nói: Động dây đàn thành biệt khúc, lá rơi biết thu, là chuyện hữu biên mà nạp tử các ngươi biết. Do đâu Hoàng hà chảy về hướng Bắc, nếu biết vật lý sẽ thông hiểu được chút ít. Bằng không, có nghi cứ thưa hỏi. Lúc đó có vị Tăng bước ra hỏi: gà vàng gọi sáng, Phụng ngọc ngậm hoa, một câu đầu cơ, thỉnh sư chúc Thánh. Đáp: Khe suối, thông xanh có phục linh. Vị Tăng hỏi: Như vậy thì chín châu bốn biển sấm động gió chạy. Đáp: Tổ sợ gió, hang sợ mưa. Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ nhất? Đáp: Chẳng phải là câu thứ hai. Vị Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ nhất. Đáp: Núi Tu-di. Vị Tăng nói: Như vậy thì tim hoa quỳ nghiêng về phía mặt trời. Đáp: Khó có kẻ biết ơn. Vị Tăng hỏi: Hoàng đế Thái Tông nhân Tăng triều kiến, vị Tăng tâu rằng: “Bệ hạ còn nhớ chăng”, là ý gì? Đáp: Đem kinh trong chùa ra hỏi vặn. Vị Tăng hỏi: Vua nói “gặp nhau chỗ nào đến đây?” Vị Tăng đáp: “Từ khi từ biệt ở Linh Sơn cho đến nay?” có đầu mối gì hay không?” Đáp: Cán cân bằng gang bị sâu khoét. Vị Tăng hỏi: Như hôm nay chúc Thánh khai đường có điềm lành gì? Đáp: Hoa thu chiếu sáng trong mắt. Vị Tăng nói: Tiếng suối sau nửa đêm, sắc núi khi hoàng hôn. Đáp: Nhận định sai bàn tinh, vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Thời yên, đạo hanh thông, trời trong đất yên ổn, một người ngay thẳng cúng vô vi, muôn vật đều có chỗ được, dã khách trong núi, đều nhờ ơn vua, ca bài ca thái bình, cùng vui với xóm làng ruộng vườn, đâu cần kỳ lân hiện điềm lành, phụng hoàng lai nghi, chỉ mong đạo vua yên bình, tự nhiên phong vật tươm tất, lại biết ơn báo ơn, một câu nghóa làm sao? Trác chủ trượng nói: Diệu xướng do nhờ tuổi thọ của Thiên tử, khói trong lò là điềm lành, phong tục đất nước trong sáng. Lại nêu: Thái Tông Hoàng đế của bản triều khi vào chùa Đại Tướng Quốc thấy vị Tăng xem kinh, hỏi rằng: Khanh xem kinh gì? Đáp: Kinh Nhân Vương Hộ Quốc. Vua hỏi: đã là kinh của quả nhân vì sao lại nằm trong tay khanh? Tăng cung kính lui đi không đáp. Tuyết Đậu: Hoàng thiên không có thân thích, chỉ có đức là giúp đỡ, lại nghóa là gì? Trác chủ trượng, bốn bể đều quy về trong sự cảm hóa của vua, ba bên ai dám phạm bờ cõi. Nửa đêm, tiểu tham. Có vị Tăng hỏi: lời lời lời, gió thổi tuyết rơi, mặc mặc mặc sấm vang chớp giật, trong lỗ sợi tơ ngó sen cưỡi đại bàng, bình thường bụi rơi xuống vầng trăng bên trời, chưa biết người nào được cơ dụng nầy. Đáp: Đầu dài ba thước biết là ai, đối nhau không nói một chân đứng. Vị Tăng nói: Như vậy thì trong thành chốn cửu trùng truyền bá đạo thơm khắp nơi. Đáp: Cũng là Ba-tư vào chợ ồn ào. Vị Tăng hỏi: Vương Thường Thị tham phỏng Lâm Tế, đến Tăng đường, kế nói: “Cả Tăng đường nầy còn xem kinh không?” Tế đáp: “Không xem kinh”. Ý nói gì? Đáp: Rượu gặp tri kỷ mới uống. Thường Thị hỏi: “Có ngồi thiền không?”. Tế đáp: “Không ngồi thiền” là nghó gì? Đáp: Dẹp loạn càn khôn đến thái bình. Vị Tăng hỏi: “Đã không xem kinh, lại không ngồi thiền, rốt cuộc làm gì?”. Tế đáp: “Toàn dạy họ làm Phật làm tổ”, là ý gì? Đáp: Tánh mạng lão Lâm Tế rơi vào trong tay Thường Thị. Vị Tăng hỏi: Đêm nay bỗng có một nạp Tăng ra nói rằng: “Bắt thua rồi”, ý làm sao? Đáp: Ngươi bắt thua Thường Thị, bắt thua Lâm Tế, vị Tăng nói: Đều không phải như vậy. Sư hỏi: vậy rốt cuộc ra sao? Vị Tăng bèn hét. Đáp: Dưa ngọt sanh ra hồ lô đắng. Vị Tăng nói: Chẳng do mắt trời gần làm sao biết sao ngưu lạnh. Đáp: Rất kî loạn kim, trùy, vị Tăng lễ bái. Sư lại nói: Năm ngọn núi côi cao chót vót, muôn hang cốc mây lạnh. Người người ôm lòng báo ơn Phật Tổ, mỗi mỗi đều có mắt phân biệt rồng rắn. Toàn khách toàn chủ, toàn thả toàn thâu. Bên bờ Oai Âm biệt lập sinh nhai. Không kiếp trở về trước, đột ngột có ra chính mình, khen cơ trách hai, nêu một tỏ ba, không vượt hóa nghi, làm sao thấy nhau? Trác chủ trượng, chim trắng nhìn cái núp mình bên trong, núi xanh dứt hẳn chỗ tối tăm. Lại nêu: Thiền sư Quốc Nhất núi nầy nhân Mã Tổ sai Tăng mang thư đến, trong thư vẽ một vòng tròn, Quốc sư mở thư nhìn thấy, bèn chấm một chấm trong vòng tròn rồi dán thư lại trả về. Sư nói: Đáng tiếc cho đường thời chỉ đành lưu lại trên án. Mặc cho mặt trời nướng gió thổi, chẳng phải chỉ ngồi chặt đứt đầu lưỡi Mã Tổ, cũng khiến nạp Tăng trong thiên hạ chẳng có chỗ sờ mó. Sự việc đã qua rồi, lại còn chỗ gốc thay Quốc sư chăng? Trác chủ trượng. Sư thượng đường: Núi cao sông sâu, mây nhàn gió lặng. Phật pháp rất mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ trung hòa, turng hòa thì hãy đặt để, chủ khách rõ ràng, lại nghóa là gì? Trác chủ trượng, ngoài việc nhặt củi, múc nước suối, nấu trà ra, còn dựa gậy nhàn ngắm mây đến đi. Tạ hai ban, Sư thượng đường nêu: Thạch Đầu dạy chúng rằng: Ngôn ngữ động dụng chẳng giao tiếp nhau. Dược Sơn nói: Chẳng phải ngôn ngữ động dựng, cũng chẳng giao tiếp nhau. Đầu nói: Chỗ ta đây kim chích không vào. Sơn nói: Chỗ ta đây như trồng hoa trên đá. Sư nói: Trí bằng với thầy thua thầy nửa đức, trí cao hơn thầy mới có khả năng truyền dạy. Vả lại trong chỗ hơn kém lại có kẻ áo nạp được ra chăng? Trác chủ trượng. Khai lò, Sư thượng đường nêu: Bách Trượng nhân Quy Sơn đứng hầu, đêm đã khuya, Trượng nói: Xem trong lò có than không? Quy bươi kiếm rồi nói: Không có. Trượng cúi người bươi tìm thấy một cục than nhỏ, nói: Ông nói không có vậy vật này là gì? Quy Sơn ngay đó ngộ. Sư nói: Đêm động phòng hoa chúc, khi bảng vàng ghi danh hẳn là lúc vui thích. Đương thời nếu tiếp tục tham phỏng Mã Tổ thi cửa nhà Quy Sơn chưa đến nỗi tịch mịch. Sư thượng đường nêu: Ngưỡng Sơn ở chỗ Sơn Sơn chăn trâu đá. Thượng tọa Thiên Thái hỏi rằng: Trăm muôn sư tử hiện trên trăm ức đầu sợi lông, nghóa là gì? Ngưỡng không đáp bèn trở về. Trong lần đứng hầu Quy Sơn, bỗng Thượng tọa Thái đến. Ngưỡng nói: Vừa đúng hỏi trăm ức đầu sợi lông có trăm ức sư tử, há chẳng phải là Thượng Tọa sao? Thái đáp: Phải. Ngưỡng hỏi: chính lúc này hiện trước lông hay hiện sau lông? Thái đáp: Bây giờ không nói có trước sau. Ngưỡng Sơn bèn phẩy tay áo đi ra. Quy Sơn nói: Lưng rồng đã gãy rồi. Sư nói: Ngưỡng Sơn chỉ muốn Quy Sơn chứng minh tự cho rằng trong chỗ tối được tiện nghi. Thượng tọa Thái lúc ấy đợi ông ta hỏi: “hiện trước sợi lông, hay hiện sau sợi lông” chỉ cần ngẩng mặt lên trời cười lớn một tiếng, Ngưỡng Sơn có muốn phẩy tay áo ra đi cũng chẳng được. Sư thượng đường. Mỗi người đều biết có một câu thoại đầu sanh tử nầy, cho đến tiến lùi, vái chào khiêm nhường, lời lẽ thù tạc mỗi mỗi đều hiểu rõ ràng, do đâu mà khốn cùng đi, bèn không biết chỗ vơi. Nếu có người hay làm Phật sự trong mộng, như trong tối lấy vật, thử hỏi bệnh nằm ở đâu? Hôm nay Kính Sơn không tiếc lông mày, khắp vì mọi người bỏ đi những thứ chướng ngại, khiến mọi người đều đến được mảnh đất chất phác, thọ dụng không cùng tận, có tin được hay không? Trác chủ trượng, tự cầm bình đi mua rượu trong xóm, chẳng mặc áo lại làm chủ nhân. Sư thượng đường nói: Phật pháp nằm ở ngay thẳng, không nằm ở chỗ thịnh vượng. Ở chỗ ngay thẳng thì quỷ thần chẳng đoán được nguyên do, ở chỗ thịnh vượng thì quỷ thần có thể ganh ghét phước của Phật pháp. Năm ngọn núi vốn không thuộc trong đó, do đâu suốt ngày cứ nhỏ nhoi. Phất phất trần, sương và cỏ lau đầu bờ đều là ngọc, một tiếng vang trong trẻo bỗng sợ bay. Tạ ơn Trưởng lão Nghiêm Bảo Diệp mới được tiến cử, Sư thượng đường. Côn sơn như phiến ngọc, một cành rừng quế, không đáng gọi là quý, đáy sông bờ rừng, ba bốn mười năm, nói đông nói tây, đó gọi là quý, lại có ba chuyển ngữ của Tùng Nguyên, đi vào rừng rậm để lưu thông. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Tử Hồ dạy chúng rằng: Ba mươi năm qua lại Tử Hồ, hai thời cơm cháo là khí lực Tổ, vô sự lên núi đi một vòng, hãy nói: người đương thời có hội không? Sư nói: Tử Hồ tuổi già tâm cô độc, đi chỗ này chỗ nọ, lại hỏi người rằng hội hay không? Kính Sơn núi cao non thẳm trải ra trước mặt, lại gặp tuyết lạnh chưa thể đi được, đợi mùa xuân cho tuyết tan, phải đi một hai lần, nhưng không hỏi người hội hay không. Vì sao? Vì Phất phất trần, lấy trăng nước làm thí dụ, xưa nay đã nhiều, nay ta không phải như vậy, phải nói với nó gì đây? Tham. Đêm đông, tiểu tham. Vị Tăng hỏi: Đông đến mặt trời mọc, nước trên núi đông chảy, nhân duyên thời tiết xin được nghe pháp yếu. Đáp: Cũng chỉ là pháp nhất định. Vị Tăng hỏi: Đã là nước trên Đông Sơn chảy, do đâu lại thành pháp nhất định? Đáp: Miệng lão Tăng là cửa tại họa. Vị Tăng hỏi: Đông Sơn đêm đông ăn quả tử, kế hỏi Thủ tọa: có một vật đen như sơn thường ở trong động dụng, trong động dụng lại thu không được, hãy nói lỗi ở chỗ nào? Tọa đáp: Lỗi ở trong động dụng. Động Sơn sai thu dọn bàn trái cây, ý đó như thế nào? Đáp: Ngựa quan đá nhau. Vị Tăng hỏi: Đêm nay Hòa thượng bỗng hỏi Thủ tọa: có một vật đen như sơn thường ở trong động dụng, trong động dụng thu không được, hãy nói lỗi ở chỗ nào? Thủ tọa Kính Sơn cũng đáp: Lỗi ở trong động dụng, thì lại có nghóa gì? Đáp: Cho ông ta hai mâm trái cây. Vị Tăng hỏi: Chỉ giống như Động Sơn sai thu dọn quả trác, Kính Sơn lại được thêm một mâm, có hơn kém chăng? Đáp: Ấy là do ông ta là kẻ vác bản. Vị Tăng hỏi: Đệ tử đêm nay mượn oai quang của đại chúng mà hỏi riêng một câu được chăng? Đáp: Con quỷ ăn trộm đáng ghét. Vị Tăng bèn hét. Đáp rằng: Quả như vậy. Vị Tăng lễ bái. Sư nói: Ngày ngắn đêm dài, bóng mặt trời lại quay thêm một vòng. Cao đến thấp đi, hồng quân chuyển từ chín uyên, âm ma ẩn nấp thì mầm đạo sinh dương khí phát ra không có đất cứng, sai sử được mười hai thời thì nguyên tửu đại hán, liêu tinh bạc lễ, bị mười hai thời sai khiến, lậu ấp, ngõa ngói còn không cam lòng, tha hồ dạy dùng ống cỏ lau thổi tro. Trong đây vốn không có sự cảm tạ một cách vòng vèo quanh co. Bỗng có một người bước ra nói: Lão sư chưa thoát khỏi tình lượng, bị hai mươi bốn khí sai sử, bảy điên tám đảo, sơn Tăng chỉ đành thôi nghỉ. Vì sao? Nhà giàu sanh con hiếu, nước mạnh có mưu thần. Lại nêu: Mã Đại sư hỏi Dược Sơn: Chỗ thấy của ông gần đây thế nào? Sơn đáp: Lột hết da chỉ có một thứ chân thật. Mã Tổ nói: Sở đắc của ông có thể gọi là hợp cả tâm thể, phân khắp bốn chi. Đã vậy sao không lấy ba nan tre mà cột da bụng lại rồi tùy chốn mà lên núi ở đi. Sơn đáp: Ta là người thế nào mà dám nói ở núi. Tổ đáp: Không hề có việc đi hoài mà chẳng trụ lại, không hề có việc ở hoài mà không đi. Muốn lợi ích điều không lợi ích, muốn làm điều không chỗ làm thì nên làm một con thuyền, chớ ở lâu nơi đó. Sư nói: Mã Đại sư mượn tay làm việc, chửi rủa con cái ông ta. Hãy nói: Dược Sơn do đâu không chịu kế thừa Mã Tổ? Bước ra hạ một chuyển ngữ thử xem, bằng không thì đêm tới mời Thủ tọa nói rõ cho chúng nghe. Cảm tạ Thủ tọa, Sư thượng đường nói: Tuệ mạng của Phật Tổ nguy ngập như treo sợi tợ. Nếu không cầu khai dạy cho đàn hậu côn thì làm sao vãn hồi nguyên khí chốn tòng lâm? Ông già Kính Sơn không ở Nam nham nói: “Kính” vốn không tư lợi, tùy thân mà hiện, không vốn chẳng có dấu vết, nhân hình tượng mà bày ra. Muốn biết chỗ quy về của muôn đức, an ủi sự mong mỏi của muôn loài, rồng bay thì mây nổi, cọp gầm thì gió sinh. Đêm ba mươi tết, tiểu tham. Có vị Tăng hỏi: Vào đêm cuối năm, rùa đen bò lên vách, chẳng phải đó là lời lẽ của Hòa thượng sao? Sư nói: Tuổi già tâm cô quạnh, tạm thời ngổn ngang. Vị Tăng hỏi: Có chỗ chuyển thân chăng? Sư đáp: Nếu nói có thì ông sẽ chấp trước có không. Vị Tăng nói: Phần nhiều tựa như khách và đệ tử Kính Sơn. Sư đáp: Ít nhiều những kẻ hiểu sai thoại đầu. Vị Tăng hỏi: Bắc Thiền nấu trâu trắng ở chỗ trống. Hòa thượng đêm nay phân tuổi lấy gì phân tuổi cho mọi người? Sư đáp: Bên trái dưới chân Động Sơn. Vị Tăng nói: Như vậy thì đại chúng sẽ no đủ các đức, bèn lễ bái. Sư đáp: Tham nhai nhiều thì không nhai kỹ. Sư lại nói: Vào ngày cuối năm, ông già họ Vương ở thôn Đông, đêm đốt tiền, tháng chạp hết xuân về, trên lầu có người thường khuyến uống rượu, lấy đây để phát huy sự mầu nhiệm mà Phật Tổ không truyền bá, lấy đây để khế chứng công của nạp Tăng. Bất luận là bỏ cũ xây mới thế nào, chỉ cần biết thời tiết, lại kết giao một cơ đầu, làm sao hiển lộ. Trác chủ trượng. Chỉ thích thanh đài ngày đầu năm, biếng nhìn họ Hàn tiễn cùng văn. <篇> HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 4 PHÁP NGỮ KHAI THỊ CHO TRƯỞNG LÃO BỒNG LAI TUYÊN Bản sắc nạp Tăng phải thấu cửa mắt, gió lay cơ động, phải biện đến cơ, che chở làm chỗ ẩn mật, không rơi vào trước thinh sau cú. Đã được chỗ diệu dụng, ra vào tự nhiên. Trờ che đất chở đâu thể cho nương tựa vào cỏ cây, đồng ngày mà nói ư? Cứu lừa mù ở phương Bắc, ban đầu đến đầu thác Cao An, đã không thể dẫm đạp. Lại trở về trong núi của Hoàng Bá, tìm đầu bày bóng, xem lão già kia nghiệm mặt, người vừa gặp liền vứt ra hết tìm đạo. Đến đến, đi đi có gì mong. Tuy chưa dùng thủ đoạn độc ác, chính là bỏ chết hoàn toàn. Lại chung cho cái khoản cách kiện tụng. Chỉ là tâm lão bà tha thiết vẫn còn sợ không thật. Hướng đến chỗ nguy lại cho một tát nói: Đại ngu lắm lời, đợi thấy cho ông ta một tát. Điều này quá như giọt dầu, ít tự sức của mắt không đến, táng thiên mất mạng không nghi ngờ. Nhưng nước bước đã cao, bày vẽ cạm bẫy. Lại cho Hoàng Bá một loi nói: Nói gì đợi thấy, tức nay liền đánh. Đã đem yên ngựa làm cằm dưới a phủ. Cha con biến động, đã không hàn nối, hãy nói: dẫn dắt kẻ cuồng điên, tham đường đi! Tất cả đều tiện nghi, đâu có thể so, thời nay lạm cứ. Học hành dùng thật pháp, đùng lồng đèn để học, lấy liêu xá ẩn tiện. Nuôi nâng nhân tài, nhường cơm nhịn áo. Như tính toán tiếp nối, để dẫn dắt lẫn nhau, muốn hưng thạnh bổn tông. Khổ thay khổ thay! Âm chuẩn tuyệt rời. Tôn túc xưa nay, động đến mũi kiếm, tìm người còn không được một nữa. Huống gì cách thức dây mực? Nếu là bản sắc chân chánh, nạp Tăng thấu được cửa mắt, chưa hẳn cam tâm chết dưới ngôn cú của Hoàng Bá và Lâm Tế. <詞>KHAI THỊ CHO THỊ GIẢ DIỆU NGUYÊN BỊ BỆNH Đức Phật là Đại Y Vương, khéo quán sát các bệnh. Chúng sanh tin mà uống thì bệnh liền khỏi. Bởi xưa nay, rất đúng bệnh này. Từ sáu năm Tuyết Sơn, tư chất cỏ cây, đến đêm mùng 8 tháng chạp bệnh này đã nặng. Đối với chỗ vô tâm, được sách mới này. Lạ thay! Tất cả chúng sanh có đức tướng trí tuệ của Như lai nhưng vì vọng tưởng chấp trước mà không chứng đắc. Bởi vậy, lúc đầu Đức Phật đến vườn Nai, ba tháng điều căn, năm vị được độ. Chính là khéo dùng thuốc này. Chẳng phải chỉ xán đại sư cạn, sư thúc sâu. Bệnh trở nguy thì sẽ chết. Mà Tây Thiên đất này có mắt tông sư lớn. Chỉ có bệnh này. Dù cùng khắp đủ cơ thấu vào mắt người sống, cũng không biết nguyên nhân bệnh này. Nhưng cùng ấn trao, dần dần dùng bệnh này độ thoát chúng sanh đại địa. Khiến người ngồi người đứng đều được khinh rẻ tiền của. Nay xem nguồn gốc bệnh của sư được đúng sai ư? Không đúng. Ngoài lặng trong lay, hình lưu thần đến, ra đây vào kia, nhọc mà vô ích, chính là bệnh vô thường của thế gian thường hiện tiền. Thuốc của Như lai không được cứu ư? Nếu như dẫm đạp nguồn gốc bệnh thật của Như lai, thì tự nhiên bệnh bỏ thuốc trừ, bị bệnh như thế thì bệnh chẳng thể nào không khỏi. <詞>CHỈ DẠY THỊ GIẢ VÔ ẨN Sơ cơ học đạo, như vượn ở núi sâu, bị dây sắt buộc trụ, thấy người thì mắt sinh. Mặc cho nhảy nhót, được hình suy khí. Sau đó, dạy dùng kỹ nghệ, hoặc sử dụng thương giáo, gánh nước đá cầu, làm thuần thục rồi mới bỏ sợi dây này được. Trước gió trăng rọi bờ nước chân mây, mặc cho tự nhiên. Bỗng nhiên gọi một tiếng. Đại Tôn đến, ông ấy bỗng xuất hiện trước mặt; và hỏi kỹ về điều ông ta đã học. Bèn như trong nước phát lửa. Như thể như thế rốt ráo đâu thể không có diệu dụng, có một số người nói: Hư đường tuổi già tâm lẽ loi, thật không biết rằng chó không chọn lựa nhà nghèo. <詞>CHỈ DẠY CHO THỦ TỌA NHƯ TÚC Danh thật tương đương, hành, giải đều đủ. Dùng tâm bình đẳng đối đãi nạp Tăng bốn phương mới có thể y cứ vào giường khúc lục. Lại phải tám hướng chịu địch, gặp cơ hội dẫu đoạt, tà chánh không thật có mà tiến lên trước. thấu đến chỗ Phật Tổ đắm mắt không kịp làm cho người học tâm ý chết mất, bèn có thể bỗng nhiên nổi lên, bỗng nhiên biến đổi. Mới có thể xứng đề mục này. Mới có một chút không cho lãnh nhận với người, đó là người tội của Phật pháp rồi. Huống chi quanh co nửa sống nửa chết, bị hai mươi bốn khí, bảy điên tám đảo làm chủ không thành. Giống như kẻ thường muốn làm cho tòng lâm hưng thạnh, làm tiêu chuẩn cho hàng hậu học chẳng là khó ư? Người xưa nói: Đạt-ma Đại sư đi tay không, về tay không, đã là về bụi thì hót đất. Cong là thời nay. Hoàng Mai bảy trăm vị Tăng người người đều ít cầu Phật pháp. Chỉ có một hành giả ở Lô Sơn không biết chữ, chuyên lo giã gạo. Cho nên ý bát Tây Độ bí mật truyền trao. Bởi cửa này không dễ hội họp. Như xưa có linh cốt, chẳng đợi giương mày nháy mắt, khéo léo phương tiện, ngay đó đạp lên hang ổ mũ đông của lão già. Toàn thân gánh vác, điều đi tay không, về tay không há không vui hay sao? Lo gì danh thật, hành giả không rõ ràng ở thời gian. <詞>CHỈ DẠY THIỀN NHÂN TỬ VĂN Kẻ anh tài ngày xưa đặc biệt đi xa ngàn dặm, không tìm cầu châu báu, chỉ xin một lời. Nhà sư đã dùng bất định, chưa khỏi trình thẳng vào con đường tắt cốt yếu của đạo. Dù trong da có máu, ngoài lời nói biết quay về cũng không thêm gì. Gần đây, gió này rất thịnh mới nhập chúng trước, dùng trục lưng con trâu tìm pháp ngữ, dùng làm thi thiết cho môn đình tham học. Chỗ tha thiết này chính là trong điều vô sự. Mà đại phương lão trọc lại dù có có biện luận, chia cắt văn chương, theo cách thức đó, làm cho Tỳ-kheo mới học uống nước dãi chồn hoang này toàn thân khó thoát, thật là đáng thương. Lỗ Tổ gặp vị Tăng ngồi yên xoay mặt vào vách. Ma Cốc thấy vị Tăng bèn đóng cửa lại. Điện chớp, đá xẹt lửa, lãnh hội và không lãnh hội đều rơi vào thứ hai. Đâu chịu ta tốt ta lành, rơi vào ngôn ngữ. Cho nên núi cao nước chảy, chỉ quý tri âm, cửa của Trịnh Vệ mau phải bịt tai. <詞>CHỈ DẠY LÝ TÂN ÂN Ở VÔ BA Tổ sư Đạt-ma, từ Tây Thiên trải qua mười muôn dặm mây nước, mới đến đất này. Trước gặp vua Lương, tấu dùng tiến chuông vàng đại lữ. Tuy trời nghe vô tư mà âm tiết mất yếu chỉ. Bèn dứt dòng thuyền cơ, xoay mặt vào vách Thiếu Lâm, ngay đó quyét sạch, vách đứng muôn thước, năm tháng đã xa, gió thơm bốn phương thổi đến. Có người danh tướng hẹp hòi mà cầu như vậy. Hướng đến vách núi muôn thước lãnh hội được ý chỉ, lạy ba lạy rồi vẫn đứng yên. Tổ nói: Ông được thần tủy của ta, xuống đây đã đến, phân Tông chia phái, truyền đặc một điều vách đứng muôn thước, cờ bày khắp thiên hạ, sáng như trời sao. Đây chẳng phải là lực lượng lớn, căn khí lớn, nhân duyên lớn. Cuối cùng khó gom về. Mùa Thu năm ngoái nóng như lửa đốt, dưới gác xa mang cô đảnh, xây dựng lều tranh được lấy phong cách. Lúc phát lời đã biết là người trong Phật pháp. Só Đại Phu thời nay tôn tước sùng lộc miệt mài, nhưng đâu phải nhàn. Chia thời đến đây, tự chẳng phải là Linh Sơn đích thân thừa ghi gốc rễ nơi tánh. Xưa khắc vậy ư? Đây lại tắm gội, phi lộ khúc hay, tự hỗ tự thẹn, đối với đạo tha thiết, thành thật có thể biết. Giống như túc nghiệp sâu dày, thân rơi vào trần lao. Như trước đây hướng về một niệm chưa khởi thì chiếu phá luân hồi sanh tử không rơi vào tình lượng Thánh phàm, lại là La-hán xuất trần có cửa gì để nhìn lượng, có văn lý gì để suy, có sanh tử gì để sợ, có Phật đạo gì để tham. Vòng sắt biến thành cửa từ bi thanh tịnh, lại không cho một mảy thiếu sót, cho nên người xưa nói một lời nửa câu làm thuốc hay cho đời, muốn trị chúng lăng xăng hằng ngày. Bệnh chấp có chấp không, thật chẳng biết lại chấp bệnh làm thuốc, thật là đáng thương. Như điều dạy, điều lo, điều làm. Như có hai người đây đều là phù trần, buộc niệm chỗ khởi như có thể suy cung chỗ suy nghó lại là có ba người, ba người là một người, một người là ba người. Cho đến trăm ngàn muôn ức người chính là một người, một người chính là trăm ngàn muôn ức người, và một người hướng đến nước Tân-la-đàn-đặc quét sạch khoản đất, trở về nói là ông hay là ai? Người đến đây lại như Thiện Tài vào lầu các Di-lặc, cảnh giới thắng diệu ở ngay trước mắt. Chỉ sợ niềm tin sâu không có, càng thêm mê muội, chỉ hướng về chỗ công phu gánh vác không có chỗ sở đắc thọ dụng lại là đồng đệ nhất. Dứt khoát chọn pháp môn nhanh nhất, các đệ tử tuy biết bệnh này mà không có người nào bỏ được bệnh nầy, nên tự làm chướng ngại. Xin hướng về vách núi muôn thước, khán tự nhiên không lo không bận. <詞>CHỈ DẠY CHO TÂM THIỀN NHÂN NGƯỜI NHẬT BỔN Phật pháp rất quan trọng. Ban đầu không có phương cực khác nhau. Chỉ cần người đó gánh vác, bất quẩn uần khí khái, tinh thần mạnh mẽ, ngay đó quét sạch tất cả được mất, đúng sai. Tin được thì được định, trơ trọi lẻ loi không lập sanh nhai, tónh chiếu vô tư, linh nhiên tự đắc, dè dặt không được hướng về hang ổ vô minh, vọng đi bói toán, còn ý nghó thật là mình chứng Thánh, cửa hoặc không thông, lại phải chuyển hướng bên nào. Như trời xanh sấm chớp nổi gió, tự nhiên người người ra thì ngại mới cho sự mầu nhiệm của điều quan trọng, rõ ràng khớp nhau. Không lo đại sự hành cuộc không xong. Không buồn niệm lậu sanh tử không thoát, tạm đến đất vô y vô dục. Lý sự lẫn lộn viên dung, công huân dứt bặt, đối đãi mới có thể ra khỏi nhà báu của mình, cứu giúp cô lậu hay không cô lậu. Xa tít cá kình nỗi sóng, tham tìm tri thức, nay thì muốn trở về cố đô. Trăng thanh gió mát, chỉ có mặt trời mới đến được. Lại đem sở đắc trước đây dẫn dắt đại căn, làm cho người Nhật Bản đều thành Phật không sót, thành thật không cung kính. Nếu còn tri kiến, thì rơi vào bờ cõi, lại phải qua biển lần nữa thì quả đấm đều không phát bậy. <詞>CHỈ DẠY CHO HÀNH GIẢ TRÍ TRIỀU Ưu-bà-tắc là một trong số bốn chúng trong hội của Phật, tinh tấn khổ hạnh, kính thờ Phật Tăng, trước đạo nghiệp mà sau được độ. Đức Thế tôn nhập diệt, đạo pháp xa dần đến năm nước Thiên-trúc. Nhà Phật nhà Tăng chẳng thể không có. Đợi giáo vào Trung quốc dịch tiếng phạm, ngôn ngữ Trung quốc gọi đó là hành giả. Bởi xứng là có đức có hạnh. Số đó đã rộng, người đời Đường đến nay bày quan lập cục, thi kinh được độ. Cho đến xuống biển đều là kẻ giỏi, ruột trải qua lạnh nóng, cuối cùng kinh thảo luận. Để thử sở nghiệp, lúc ấy vị Tăng được khoa cử, quan cấp Hoàng điệp; thế phát làm Tăng. Sau đó, vai mây đỉnh tơ bao lần gian khổ, không ngại đường xa ngàn dặm, tìm thầy học đạo. Cuối cùng học được tánh mạng trời người, rượu thấm đã lâu, văn chương bày tỏ, vương thân tôn lễ làm thầy trời người, một lời một câu sáng suốt cao siêu, làm pháp cho hậu thế, luận chung xưa nay này. Đại thể người xuất gia. Sau khi truyền về phía Nam, thì thấy giáo pháp ta ngày càng hưng thịnh. Phát xuất giấy lụa đổi thành giấy xấu. Ngõ hầu muốn người được ít, người vào hiếm hoi. Thật không biết, vật tùy sự chuyển, một khi rơi vào cõi lợi, trăm kế dẫn dắt dùng mưu kế tiến nạp. Được thì hình phục tuy khác, thăng trầm rối ren, mất thì khôn cùng bí lối, già chôn ở núi sông. Muốn như tiền nhân vui dạo trong biển giáo, mong tìm văn nghóa, thử sở đắc mà mang pháp phục, thì không thể được. Trí Triều việc gần lại lâu, hễ thấy nạp Tăng qua lại hoặc khám biện dẫn nghiệm, hoặc giận mắng quở trách. Ẩn vào vách ghế nghe, kích khởi thiện bổn. Dâng giấy hạ bái, nguyện cầu thuốc pháp. Lão Tăng bất giác cười lớn. Tuy không có Phật cũng biết phát sáng, tùy bút cô thuật khái lược trong muôn một để đáp công lao. Nhưng lại không có một chút đạo lý Phật pháp, ô nhiễm nhó căn ông, hãy suy nghó điều đó. --------------------------------- <詞>TỰA VÀ BẠT LỜI TỰA KINH KIM CANG Vào thành ôm bát, rửa chân ngồi kiết-già may mắn thương xót chúng sanh. Không do gì được Thiện Hiện đến nói ít có. Khéo léo mất hết. Dù phân phân chữ chữ, nói hết sắn bìm, cuối cùng chú giải không ra. Thiền nhân Tử Hưu biết chỗ bại trận, suất ba mươi hai người, sức thẹn với tuyết. Như ở trước đầu mảy may chưa nêu, cứu được ông già mặt vàng (Đức Phật), có thể không vó đại thay hay sao? Như dẫn giấy hàng mực, kiếm bỏ lâu rồi. <詞>LỜI BẠT PHẠM THƠ TÂM KINH Ba điểm như móc câu nằm ngang, như trăng tợ sao. Lão Hồ dùng hết then chốt, một đời lấy làm không ra. Như ghi thêm quanh co. tự cho được ngoài biển. Đâu khác người nước Sở cho gà là phượng. Muốn được như thế, phải dùng hết đại địa, Sư dịch kinh mắt sáng, không có chỗ mở miệng mới hợp với ý chỉ nầy. <詞>LỜI BẠT ỨNG AM HÒA THƯỢNG THƯ Viên Ngộ nói: Kỳ Châu tử được thì được, sau ót thiếu một chày. Khi thấy trâu gò hổ qua cửa, bỗng nhiên đốn thoát. Khởi núi Đông chính là tiếp tục hệ thống. Như trời sáng các sao bị che mất. Hễ lời nói văn tư rơi vào giang hồ. Người được như được dạ quang, người nói cảm như thế. Thường qua lại với các nạp Tăng núi Liên Hoa, nhìn thấy sách, sức bát ngăn chặn phong độ bay lượn khiến cho người kính nể. <詞>CHÂN TÁN - TỰ TÁN Không mở miệng mắng người, thì không thấy được lòng từ, không nêu bày bệnh của nạp tử thì khó có thể biểu hiện thầy mình. Dường như cửa ương thêm họa. Không thì Phượng Lâm Tra, thợ vẽ thành thục không biết y, tóc bạc là ai? Trưởng Lão Bồng Lai Tuyên thỉnh. Cơ thốt mổ, đến bờ vừa đè, hổ gầm rồng kêu, hai lần chín là mười tám. Tuyên Thiền tự là ghét kẻ thù. Học y đâu chỉ đảnh môn lòa. Diệu Nguyên Thủ tọa Thỉnh. Đạo không thể truyền, dung mạo không thể vẽ, ngồi lạnh tuyết sâu. Hổ nhìn trăm quái, nguồn xa dòng dài diệt chánh Tông, không bì lừa mù đuổi đại đội. Thị Giả Vô Ẩn thỉnh. Đấu đấu la la điện đuổi sấm rượt, rủ tay chưa dạo ra ngoại phép thường. Hư không bỗng xuất hiện mảy may. Trước mắt khó cấm mật. Tàn tạ có ai biết. Cha trộm dê, con làm chứng. Theo giáo muôn xưa gió đen thổi. <詞>BỔN LẬP TẠNG CHỦ THỈNH Núi xuân muôn trùng, nước thu một vết. Bỗng nhiên bóng gió cầu chân nơi nào? Tóm lại ra vào toàn sống toàn giết. Tòng lâm tấm tức, kỳ lân một sừng. <詞>THỊ GIẢ VÔ BỔ THỈNH Suy tính vụng như tu hú, lão hiên ngang mà hổ nghe, chắc chắn ý mất. Người thấy khó nhìn, đến đầu không biết chủ trong khách, trúc bề sơn đen huơ trên mặt, ai cho thầy trò không giúp nhau? <詞>THỦ TỌA PHÁP VÂN THỈNH Ôi! Làm sao biết được, trời lạnh khán không lên mắt. Tay mặt dời đông đổi Tây. Khéo léo phá nghi cho nạp Tăng. Đi đến chỗ cùng bờ, ngồi xem mây nổi trôi. <詞>TRƯỚC HẠ LONG LÂM CÁO HƯƠNG GIẢNG CHUNG CHO ĐẠI CHÚNG Thị giả pháp vân biên tập. Tông sư thời xưa là người dứt khoát. Có hỏi điều gì, chỉ đến chỗ hỏi. Cho là phá chấp, ban đầu không thật nghóa. Sau đó đóa sanh vời lấy tên. Hình ở ngữ ngôn, liền có phổ thuyết. Phổ thuyết phát xuất ở Hòa thượng Chân Tịnh, Chư Phật ba đời đều có Phổ Thuyết chẳng thể không có giận mắng quở trách, đánh hét dạy khuyên. Làm cho tâm của nạp tử mạnh mẽ tiến lên. Tông sư đời nay có Phổ Thuyết, còn nhiều văn thể. Chẳng thấy người xưa dứt khoát làm chỗ cho người. Giống như trong nhà luận bàn sách tấn, và công đã theo, là thuốc dán trên lời, chẳng thể chữa bệnh cho người. Mặc dù trên dòng phân phân truyền tập sâu kín để làm bổn tham thật không biết, trong kho của vua không phải như dao. Đức Sơn nói: “Cũng không có Phật, không có Tổ: Đạt-ma vốn là lão chòm râu đỏ, ông già Thích-ca là qua chùi phân, mười hai phần giáo là sách qủy thần, bốn quả ba hiền là giữ mả xưa. Qủy đều tự cứu không được. Chính là một kỳ phương tiện, chính là vẽ rắn thêm chân”. Lâm Tế nói: Sơn Tăng ngày trước từng hướng vào trong tỳ-ni, lưu tâm khoảng mấy mươi năm, mong tìm kinh luận. Sau đó mới biết biểu hiện cứu đời. Chính là một lúc vất đi, phát ý tham thiền, gặp thiện tri thức, mới được mặt đạo sáng tỏ, phân biệt được chánh tà. Chẳng phải là ngay khi mẹ sanh liền hội. Đây cũng là lời của người xưa không luống dối, người học thời nay không được sự mầu nhiệm đó. Bệnh ở chỗ tự tin không kịp, bệnh ở chỗ được mật thị phi, bệnh ở chỗ ngã kiến thiên chấp, bệnh ở chỗ rập khuôn hạn lượng, bệnh ở chỗ cơ cảnh không thoát, bệnh ở chỗ được ít cho là đủ, bệnh ở chỗ một thầy một bạn, bệnh ở chỗ chi tông biệt phái, bệnh ở chỗ địa vị câu thuc, bệnh ở chỗ tự đại rõ một đời nhỏ không được. Mấy loại bệnh này là mối chướng đạo, mọi người đều có. Muốn ở đương nhân thối bước lau chùi sạch hết làm cho vào làm vô môn, hướng lên một đường xưa, mênh mang không câu không kiểm, không chướng không ngại, nắm để dùng xoa sát. Đắm thì giết, cơ hội đến dẫu đoạt không có mảy may ngưng trệ như chuyển viên đá trên ngàn thước. Một ngày nọ, ánh sáng lành mảy may phát hiện, làm quy cách cho đời sau, thật chang phải là cung kính. Nếu có một niệm mong cầu Phật pháp lại bị hai chữ Phật pháp che lấp. Như dầu vào bột, cầu thoát không có đường. Sơn Tăng từ nhỏ có ý ham học, ngồi một, hai năm, lược không có chỗ vào. Nhưng biết mắt tâm đều sạch. Sau này giữa biển hồ, tuy gần gũi người vẫn thấy ông chẳng phải người trong đó. Loài trùng ai chịu lượt bỏ, nhưng gió đến thăm bóng mặc cho đi ở. Sau ở Kim Sơn, gần Tiên sư Liên Am, vời đến luận được cho vào thất, chỉ là không được hạ ngữ. Mới mở miệng liền nói. Ông hãy thong thả, không cần nhà rộng. Trong thất thường dạy nhân duyên buồm xưa chưa treo. Mới mở miệng liền mắng, một ngày ở lâu của thị giả, suy nghó điều đó, thuyền xưa chưa treo, có gì khó hội. Thật ra chỉ là một việc, trước đây chưa phát, việc một niệm trước đây chưa khởi, giả Tăng cũng là người trái. Lại giáo Tông sư đến vào hang khác. Đầu núi thấy ông ta đến ở rõ ràng, lại cản miệng với ông ta. Gọi là được người một trâu, trở về người một ngựa. Sao không dạy người hạ ngữ được, liền gánh một gánh kiến giải đến phương trượng trinh hỏi, tiếng chưa bặt. Tiên sư nói: sao ông không hợp lấy miệng chó. Trong đất lặng mật thật thể lấy đi. Mỗi ngày mặc cho người đến đây, luận bàn phải quấy người xưa có gì mong mỏi, kịp về trong bâu, bất giác buồn bả. Bỗng nhiên hội được buồm xưa chưa treo, hành giả thanh tịnh không vào. Niết-bàn, thoại đầu gần cạn khác dần dần thông hiểu. Ngày mai nghe đánh trống vào thất, Tiên sư thấy ta khí mạo hơi không đồng lại bỏ lời buồn xưa chưa treo. Hỏi ta: Nam Tuyền giết mèo, Sơn Tăng bèn hạ một chuyển ngữ nó: Mặt đất chỗ không nổi, Tiên sư cúi đầu mỉm cười. Tuy như thế qua được nữa năm, tâm đầu vẫn ồn náo, bị người kéo, vẫn bỏ không được. Sau đó xem lời sớ tháp Sơn Thọ, khoảng ba, bốn năm, một ngày trong sự vô tâm bổng nhiên hội được thời tiết, cổ Phật Đại lãnh phát ra ánh sáng mới được tự tại, không bị người chê. Đem thoại đầu trước đây xem lại đem đến, vừa xem thật chẳng khác với điều thấy ngày trước. Tin biết việc này quyết không ở nơi ngữ ngôn, đến khi dạo núi ngắm sông, hạ ở Ngọc Tuyền thuộc Hinh Môn. Nhân xem Giác Phạm Tăng Bảo truyền yết kiến Thượng tọa nêu nhân duyên hỏi Thượng tọa Lang Da, Lang Da hỏi: vừa rời chỗ nào? Cử nói: Triết Giang. Da nói: Đi thuyền hay đi bộ? Đi thuyền. Thuyền ở chỗ nào? Dưới bước chân. Da nói: Không liên quan đến lộ trình, một câu là thế nào? Cử ném tọa cụ nói: Trưởng lão Đỗ Soạn như gai như gốc, bèn bỏ đi. Đến sáng Lang Da qua hỏi: Có phải Thượng tọa Cử không? Vừa đến không được có tướng ngang ngược. Cử hét nói: Trưởng lão năm nào đến Phần Dương? Ta ở Triết Giang nghe danh ông đã lâu, kiến giải chỉ như thế, đâu được danh vang khắp vũ trụ. Lang Da nói: Mỗ giáp tội lỗi, bèn lễ bái Chỗ gặp nhau như thế, phần hiểu biết trong phạm vi truyền bá. Lại đến mặt dưới thêm mấy câu nói: Lang Da từng lấy đây nêu việc Từ Minh. Cử thấy chỗ mới có thể rõ mà ông mang đọc đâu cho là người? Sơn Tăng đến đây, biết giác chán nản than mãi. Nếu quả như thế thì có nhiều người tại gia xuất gia, hai vị đại só gặp nhau như rồng xanh giỡn châu ngọc, nhạn đói lấy thức ăn, có gì lộn xộn. Nếu thảo luận điểm tốt của Từ Minh như thế, biết quy cách tri kiến rộng lớn. Từng giải thích kinh Lăng-nghiêm, nâng đỡ văn về Tông thọ giáo, khắp tòng lâm. Há chịu lấy từ vô ích, người học đời sau mắt lòa. Ở Nam Nhạc hai năm muốn thỏa luận một đồng nhân quyết hồ nghi này mà không thật có. Dẫn đến Vân Cư, trong liêu có một bộ Đại Tuệ Quảng Lục, đoán nhiều người nói có thiền giả Mai Dương khi đến ở viết được bỏ ở trong thất, mượn đến xem mới hai, ba quyển. Chính là đánh vào thoại đầu. Đại Tuệ nói: Ta thường cười Hồng Giác Phạm, muốn nói lầm loạn xuyên tạc. Lúc ấy, Thượng tọa Cử nói: Trưởng lão Đổ Soạn như gai gốc. Đã trình Lang Da lên Phạm Thiên, Sơn Tăng thấy thể như hạt tuyết trong nắng, lại chứng được sở chấp của kẻ hèn. Đại tuệ thật dứt, bặt mấy câu sau Tông Nhãn. Lại nói: Đây là cảnh giới Đại Nhân Văn-thù, Phổ Hiền; Phàm tình chẳng thể lường được. Lại nói: Giác Phạm ở trong chân tình, lúc phát minh không nhiều, nhân việc xuất viện, lìa thầy rất sớm, cho nên có chỗ đến, không có chỗ đến. Lại như soạn nhân duyên Long Nhã tham Thúy Vi. Nhã hỏi: thế nào là ý chỉ Thiền tông? Vi nói: lấy thiền bản cho ta. Nhã lấy thiền bản cho Thúy Vi. Vi nhận lấy rồi đánh. Nhã nói: Đánh thì mặc đánh, nhưng vẫn không có ý chỉ thiền tông. Lại hỏi Lâm Tế: Thế nào là ý chỉ Thiền tông? Tế nói: Đem bồ-đoàn đến cho ta. Nhã đem bồ đoàn cho Lâm Tế. Tế nhận lấy rồi đánh. Nhã nói: Đánh thì mặc đánh, nhưng vẫn không có ý chỉ Thiền tông. Lại hỏi Đỗng Sơn: Thế nào là ý chỉ Thiền Tông? Sơn nói: Đợi nước chảy ngược dòng ta sẽ nói cho ông nghe. Ông ta đến đây đường tâm dứt bặt khéo léo hết, chỉ được lễ bái. Người học sau này mắt mình không rõ thấy ông ta nối pháp Đỗng Sơn. Sơn bèn nói: Lúc ấy, thấy Thúy Vi, Lâm Tế, chưa thấu một con chó sủa rỗng, ngàn con vượn hú thật. Vân Môn yết kiến Mục Châu, Phát Minh lại nối pháp Tuyết Phong. Chỉ có Tuyết Đậu thấy thấu suốt cốt tủy ông ta. Trong bài tụng xưa xoay mặt vào vách bèn nói: Long Nhã trong núi, rồng không mắt. Lời này gay go khó gần. Bởi chỗ dùng của ông ta nhiều loại này. Chỉ như tụng Lăng-nghiêm biện chỗ thấy. Khi ta không thấy, sao không thấy chỗ ta không thấy? Nếu thấy chỗ không thấy tự nhiên chẳng phải là tướng không thấy kia. Nếu không thấy chỗ ta không thấy, thì tự nhiên chẳng phải vật, nói gì chẳng phải ông. Thích-ca thoát bạch bày tịnh, nói được bao nhiêu phần hiểu. Ông ta lại tụng nói: Toàn voi toàn trâu nhặm không khác. Xưa nay tác giả cùng tên tìm. Như nay muốn thấy lão đầu vàng, cõi cõi bụi bụi ở nửa đường. Thí như người mù sờ voi, tuy biết là voi mà không thấy toàn diện con voi. Như bồi bếp biết con trâu. Tuy biết con trâu mà chưa biết được toàn diện con trâu. Như đến chỗ toàn diện con voi, trâu gọi đó là lý cực tình quên. Tuyết Đậu lại nói: Ông dù được đến toàn diện con trâu, voi cùng với huyễn nhặm đâu khác. Lại đem Đức Thích-ca chỉ ra cho người một lúc vung bỏ hết. Chỗ dụng của lão này, động đến chính là lọc sạch chất độc. Giác Phạm lại nói: Tuyết Đậu lấy phần tội nước chết rồng mù, rõ ràng là hợp ý Tổ sư lại làm pháp hội tử. Ông ta phân minh nói: Long Nhã trong núi rỗng, rồng không mắt nước chết không hề dây gió xưa, thiền bản, bồ-đoàn không thể dùng chỉ cần giao phó cho Lô Công. Người nầy và Trưởng lão Đỗ Soạn như gai như gốc là giữa anh và em. Tuyết Đậu sợ người không hiểu, lại thành một bài tụng. Lô Công phó rồi cũng đâu nương nhờ. Ngồi tựa thôi tiếp nối đèn Tổ chịu đối mây chiều về chưa hợp. Núi xa vô hạn xanh biếc tầng tầng. Trong đây ngàn cửa muôn nhà, một khi đánh thấu chẳng phải Giác Phạm, không biết chỗ phóng của Tuyết Đậu. Bởi dùng ở một lúc, mất ở ngàn xưa, người học đạo nếu không biết một lần con cháu nhà Hồ chết làm sao phân biệt được chánh tà. Nếu không được một lần con cháu nhà Hồ sống làm sao thoát được sanh tử. Vừa đến như cho nhiều dụng cụ nhà. Nạp Tăng chín mươi ngày tạm treo bình bát. Nếu đẩy đè không thấu thì cô phụ Đại sư đi giáo hóa. Nếu đẩy đè thấu được như bình thường người tại gia tôn kính lại vui mừng. Nếu không được như vậy thì đợi Di-lặc hạ sanh hóa duyên kiếp Không lại vào Niết-bàn, lại xuất đầu đón nhận chưa hết, chưa được làm xong. Vì sao? Gõ phất trần khuyên anh được chỗ mặc y ngồi, chớ bẻ cành thông rũ vết rêu. Đứng lâu. Linh Ẩn Lập Tăng giảng chung cho đại chúng. Thị giả Tịnh Đàm biện tập. Bên bờ Oai Âm một điều, nạp Tăng đời xưa quên thân mạng về sức đi. Việc quan trong là niêm hoa, xoay mặt vào vách gió không rơi, để tính báo ân sâu Phật Tổ. Mấy năm nay, tòng lâm điêu tàn, người học không có bổn tông, thấm dần việc học bên ngoài, vô minh chứa nhóm. Tuy ngàn trăm ở thành bầy, chưa nghe có như hơ nóng mai rùa, có thể vì cuối đời diệt chủng tộc nhà Hồ, thật là đáng thương. Nếu là hành cước như thế, gặp người như thế thì đối với lợi danh rất nhẹ, hại rất nặng đến khi đầu bạc răng lông, khi đèn lẻ riêng chiếu, xa không bằng tinh tấn tu nghiệp lành. Ruộng nhà ông đi ở tự do. Bởi không thường hiểu biết, ác tri ác giác, Sơ sơn tâm tìm đạo rất tha thiết. Ngày nọ, ở trong hội Quy Sơn nghe dạy chúng rằng: Cao só đi hành hóa, phải ngủ say trong thinh sắc, ngồi nằm trong thinh sắc mới được. Sơ Sơn liền bước ra hỏi: Thế nào là câu không rơi vào thinh sắc? Quy Sơn liền về phương trượng. Lão già biết bệnh ông ta ở đây hướng đến chỗ ngàn Thánh, đắm mắt không kịp, thông tin tức rồi lại ngồi. Trấn gia đường, không bày sừng đẹp, đã không khế hợp lại bỏ Hương Nghiêm. Nghiêm hỏi: sao không ở lại? Sơ Sơn nói: Mỗ giáp không có duyên với Hòa thượng. Nghiêm nói: có nhân duyên gì không khế hợp? Thử nêu xem? Sơ Sơn nêu lời trước đó. Nghiêm nói: Tôi có chỗ nói, bèn bảo rằng: lời nói phát ra chẳng phải tiếng, trước sắc chẳng phải vật. Lời này là đối cơ Quy Sơn. Điểm phát cho Sơ Sơn. Kẻ lùn này nghe được, mắt liền sống động. Bèn nói vốn trong đây có người bèn dặn Hương Nghiêm. Mỗ giáp lại đi sư huynh có chỗ ở, lại đến gặp nhau. Đến chiều Quy Sơn hỏi Hương Nghiêm: Xà-lê lùn hỏi rằng thinh sắc ở đâu? Nghiêm nói: đã đi rồi. Quy Sơn nói: nói với ông điều gì? Nghiêm nói: Tôi đáp lời ông ta: lời nói phát ra chẳng phải tiếng, trước sắc chẳng phải vật. Quy Sơn nói: Ông ta nói những gì? Nghiêm nói: Ông ta bằng lòng. Quy sơn bật cười, nói: Ta sẽ bảo gã lùn này có ưu điểm, vốn chỉ ở trong đây. Ông trước đây, nêu có chỗ ở, gần núi không có củi đốt, gần sông chẳng có nước uống. Hòa thượng Ứng Am nói: Như nay bàn luận lời nói phát ra chẳng phải tiếng, trước sắc chẳng phải vật, thật là khó được. Lại muốn hội lời nói của Quy Sơn, người đi giáo hóa còn truy tố ra được không? Chẳng trái trong đất, cứng cổ tự cao. Nếu ngang dọc không phân thì không thể gọi là bản sắc của nạp tử. Sơ Sơn lại trong hạ trong Chùa Kim Loan ở Hồ Bắc, giữa đêm nghe Tăng nêu: Trường Khánh ở Phúc Châu, Hòa thượng giải an dạy chúng: Hữu cú, vô cú như nhân duyên sằn bìm dựa cây. Sơ sơn nghe được nói: Ta có một chuyển ngữ muốn hỏi giả lão. Hạ xong, vào đất Mân yết kiến Hòa thượng giải an, lại gọi là Hòa thượng Quy Sơn. Bùi Tường Quốc soái ở đất Mân từ Quy Sơn được mời trụ ở Trường Khánh. Sớ Sơn đến đó gặp sư đắp tường bùn. Sơ Sơn lại hỏi: Hữu Cú vô cú như sắn bìm tựa cây là lời của Hòa thượng phải không? Quy Sơn nói: Phải. Sơ Sơn nói: Bỗng nhiên cây ngã dây khô cú trở về chỗ nào? Quy Sơn ném bùn xuống, cười ha ha trở về phương trượng. Sơ Sơn nói: Tôi ngoài ba ngàn dặm bán vải thô, đặc biệt vì việc này mà đến đây. Hòa thượng vì sao chẳng cho tôi nói. Quy Sơn nói: Thị giả lấy tiền đưa cho xà-lê lùn này đi! Ngày khác chỉ có mắt rồng chấm phá cho ông. Sau đó đến Minh Chiêu nêu lời như trước đây. Chiêu nói: Quy Sơn đầu thẳng đuôi thẳng, chỉ là không gặp tri âm. Sơ Sơn nói: Bỗng nhiên cây ngã dây khô, cú trở về chỗ nào? Chiêu nói: làm cho Quy Sơn cười mới chuyển. Sơ Sơn ngay đó tỉnh ngộ, nói: Thì ra Quy Sơn trong sự cười có dao. Như nay nhà huynh đệ chỉ biết nhìn trước, không thể nhìn sau. Ông mới tìm trong sự cười của Quy Sơn chính là lầm rồi. Phải hướng về chỗ hữu cú, vô cú, như sắn bìm leo thân cây, hạ được một chuyển ngữ, thân thiết lược đi mắt dưới nhiều cách tố nhàn mới khỏi được. Quy Sơn, Minh Chiêu về Thiên cổ gặp người xem xét. Nếu ông một bề nhận buông bùn xuống, cười về phương trượng làm cho Quy Sơn cười mới chuyển, thiền mù chứng lòa. Là như thế trôi đi, chỉ nhận được miệng đầy sắc thinh người khác. Về phần ông đều chẳng có lúc ngộ nhập làm đến chỗ cùng cực, cuối cùng thành lời đọa. Sơ Sơn lại về Đỗng Sơn. Ngày nọ nghe ban đêm muốn lấy Tam- muội Bảo Kinh truyền ở Vân Nham mật phó cho Tào Sơn. Sơ Sơn núp mình dưới ghế trộm nghe. Lúc phó xong, ra vỗ tay cười lớn nói: Đỗng Sơn thiền có phân phó rồi. Cũng là lời ghi gặp ngộ bổn. Sau đó, không lỡ hẹn với Hương Nghiêm, lại xây dựng Đăng Châu. Một hôm, Hương Nghiêm thượng đường, có vị Tăng bước ra hỏi: Không kính các Thánh, không trọng tánh linh của mình là thế nào? Lời này của Thạch Đầu, làm cho lúc Nam Nhạc từng khởi lời hỏi nầy. Hòa thượng Nhượng nói: Ông hỏi Thái Cao sanh, sao không hỏi hướng dưới, thà muôn kiếp đắm chìm không cầu các Thánh giải thoát. Bèn trở về Thanh Nguyên. Lúc ấy, Hương Nghiêm đáp lới Giả Tăng nói muôn cơ thôi đi. Ngàn Thánh không mang Sớ Sơn ở dưới tòa, nôn mửa ra tiếng: Là nói gì ư? Nghiêm hỏi: Ai? Chúng nói: Sư Thúc. Nghiêm nói: Không dạ Sơn Tăng? hỏi. Sơ Sơn ra trước chúng nói: Đúng vậy. Nghiêm nói: Sư Thúc nói có được không? Sơ Sơn nói: Nói được. Nghiêm nói: Thử nói xem. Sơ Sơn nói: Nếu dạy tôi nói thì phải trở về lễ thầy mới được. Nghiêm liền xuống tòa, bày tọa cụ lễ ba lạy, chuẩn bị bước đến Sơ Sơn nói: Muôn cơ thôi xong, còn có vật. Ngàn Thánh không mang, cũng từ người mà được. Sao không nói chịu dạ không được toàn? mình. Nghiêm nói: Chịu là chịu cái gì? Dạ là dạ ai? Sơ Sơn nói: Chịu là chịu ngàn Thánh. Dạ là dạ tánh linh của Nghiêm nói: Dù ông như thế cần hai mươi năm đi đại tiểu tiện, giả sử ở núi, gần núi không có củi nấu. Gần sông không có nước uống, rõ ràng nhớ lấy. Sau đó ở Sơ Sơn quả nhiên lời ký đến hai mươi bảy năm bệnh nặng nói: sư huynh Hương Nghiêmm lời ký ta ba mươi năm đi đại tiểu tiện, nay thiếu ba năm. Mỗi lần đến giờ ăn xong lấy tay móc ra nôn, thật đúng với lời ký trước. Sau đó hỏi Kính Thanh chịu nặng không được hoàn toàn, ông làm sao? Thanh nói: Toàn trở về chịu nặng. Sơ Sơn nói: chẳng được hoàn toàn không. Thanh nói: Trong đó không chịu đường lối. Sơ Sơn nói: Ý Tăng mới bị bệnh, nạp Tăng đến đây. Suy cùng ra được không? Thấy được gan ruột của hai đại lão không? Lúc ấy, nếu Hương Nghiêm đáp được cho giả Tăng rõ ràng thì ắt xuống tòa lễ bái Sơ Sơn. Sơ Sơn nếu điểm phá được điều sáng tỏ của Hương Nghiêm. Đâu được chịu hoạn đi đại tiểu tiện. Đến đây, phải có mắt nạp Tăng mới được. Sơn Tăng ngày nay, đường thấy không bằng lại phải đoạn công án cúng dường nạp tử bốn biển năm hồ, Hương Nghiêm đáp giả Tăng, nói như rùa thần mang tranh vẽ, Sư Thúc lùn Chiêu hoạn đi đại tiểu tiện, thuận nước xuôi thuyền. Nếu dạy người hết mọi người trên mặt đất đi đại tiểu tiện ngược cũng chưa hẳn có người gật đầu ngang. Vì sao? Vì một câu nói hợp đầu, muôn kiếp buộc cọc lừa. Cho nên vàng dùng đá để thử, người dùng lời nói để thử. Nếu ông nói mắt rõ ràng, thiên hạ ngày nay há nói không người đến đây làm cho thông minh gượng nhớ không được, làm cho biện báo nhớ nói không được, phải là ông tự biết thẹn một lần mới là rốt ráo. Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan yết kiến Dương Thứ Công Ngoại Tập. Trung gian có một bài kệ phát minh tông chỉ Tào Động: Đan Sơn Loan Phượng đến gác. Bí Điện âm nhạc tấu chín thành. Lão quê không biết nhà vàng quý, sáu đường như lắng nghe tiếng roi đánh, bèn nói: Ông ta là người quá lượng thấy suốt tâm tủy người xưa. Khi Đỗng Sơn làm Quý Liên, sợ pháp môn suy vi. Cố dùng ba câu Kim Cương Bát-nhã bày năm vị, vua tôi, lập ba loại tham lậu. Như lò lớn luyện nấu kẻ học vấn không ra gì. Nếu một người có một chấp, xưa nay văn khế khoán ước, tiếp nối ruộng vườn cha ông. Sau này Đại Tuệ nhân Phổ Thuyết, dương Đông đánh Tây, ít có sự suy tính. Người học đã không có chánh tri kiến, thường như kẻ lùn xem lý lịch, nếu năm vi Đỗng Thượng có thể bàn luận nhẹ nhàng thì ba huyền yếu, bốn khoa chọn, bốn chủ khách, bốn chiếu dụng của Lâm Tế cũng có thể nghó bàn. Như mười trí đồng Chân của Phần Dương, chín đới của Phù Sơn, ba cửu của Hoàng Long. Như bình khí của quốc gia bất đắc dó. Ban đầu không có thật nghóa, Phật Nhãn ở trong hội Ngũ Tổ, phân hóa mới trở về Phật Quả. Mới thấy liền nói: ba câu lâm Tế là thế nào? Phần Minh là dục hang dẫn giặc. Ông ta một đêm suy nghó, sáng hôm sau bảo Phật Quả rằng: nhân duyên ba câu ta hội được rồi, trước đảo lộn ngón tay cái nói: Đây là câu thứ nhất. Lại đảo lộn ngón tay nói: đây là câu thứ 2, bèn đạp Phật quả một cái nói: Đây là câu thứ ba rồi cười lớn bỏ đi. Phật quả nói lại việc ấy với Ngũ Tổ. Tổ nói: ông ta thích như thế, động dây đàn khúc khác, lá rơi biết thu về, Vô Vi Tử đã bị Bạch Vân, biết làm một bài kệ gởi rằng: Mười năm nghe danh Dương Thứ Công Có văn chịu mở tông phong ta Chia ba thành sáu thêm một chút Đáng được Kim ô nửa đêm hồng. Thứ công do đây đến Thư Quận, mới hỏi Hòa thượng Thủ Đoan lúc nửa đêm ắt biết chỗ đến của lão này. Ngày mai thượng đường bèn nói: Người từ xưa đến nay nói lý nói sự, như trúc gai cỏ bắp, người hội thiền lại nhiều như vậy. Như khều trăng trên trời, đêm đến bỗng nhờ hỏi được, vốn là người bổn phận trong nhà, mỗi mỗi ngắn dài, nồi lớn nồi nhỏ, tuy chưa từng mỗi mỗi xem qua. Xem số mục ông ta cũng thật rõ ràng. Đáng gọi là như ngày ở Đông khê, lúc hoa nở năm cánh, định lấy vàng vòng đúc làm cái chuông, nói một cách sợ sệt, không thể tin được. Về phần người thông minh nước sữa trộn nhau. Thiên hạ ngày nay ai là người có bổn phận trong nhà, chẳng nói hoàn toàn không, chỉ là chánh nhân khó được. Hòa thượng Mộc Am Vónh ở Cổ Sơn nói đi Chiết Giang, nạp tử đến Tùng Nguyên Tú Nham thì nghỉ, Am không dùng các đại lão, đều vào đất Mân xem tác lược, tự cho là cửa Thạch môn có thể vào. Một hôm, gọi Cổ Sơn mở thất. Cơ cao dụng tuyệt vời, thong dong tự tại. Đều che áo nhìn nghiêng chẳng dám hội họp. Được một, hai hạ mỗi người đi một phương, xem đến lão này chỉ có thể người chết, không thể là người sống được. Chỉ có Tú Nham còn nhỏ ở lại. Khoảng niên hiệu Gia Định, Sơn Tăng ở Phía Tây Tháp A -dục Vương thấy lão nói thời sự Cổ Sơn bèn lấy tay chỉ Mộc Am Chân nói: Ta cô phụ Lão Hòa thượng. Lại chỉ Phật Chiếu Chân nói: Ta bị lão già chuyển thoại đầu, cảm mà nửa khóc nửa cười, buồn vui lẫn lộn, trong lòng hẳn có việc, bình thường đề xướng phần nhiều là ca xướng. Trong hội Hòa thượng ngũ Tổ cũng có một vị Tăng là Thượng tọa Giác. Ngày nọ ở trong thất, nêu Thích-ca Di-lặc là đứa ở. Ông ta là ai? Ông ta chuyển ngữ nói: Đâu bày ba đen lý bốn. Ngũ Tổ như vậy. Viên Ngộ ở Thị Tư nói: Hòa thượng lại khóm ông ta xem, sợ chưa thật. Ngày mai lại gọi Cổ Sơn vào thất, Tổ lại nêu lời hỏi trước đây. Tăng hỏi: nói gì? Tăng định mở miệng thì bị tổ đánh vào bụng một cái nói: chẳng phải vị Tăng ngay đó tỉnh ngộ. sau này thấy môn đình Ngũ Tổ vắng vẻ, lại trở về trong hội Phu Thiết Cước Trương Lư. Sau đó, ra đời ở Khai Thánh ngoài Thành Hòa Châu vì lão phu niệm hương nói: Mặt trời bỗng một chấm đau trong lòng, chỗ đau phát nhợt mà chết, dòng dõi không có nguồn, tự hiển nghiệm như thế. Thiên hạ ngày nay, tông phong nối kế như gai gốc. Nếu mỗi mỗi lo ung nhọt mà chết lúc nào thì xong. Lại lúc ấy biết nhân quả, tự biết đến thế nào? Đây nhờ vị Đường đầu. Nếu chúng sơn dã được thọ bài thì nêu lời cho huynh đệ. Đây cũng là trọng trách của tòng lâm. Đã không dám ở yên, sợ sớm chiều vì các ông mở thất gặp nhau. Xưa nay dùng trù thất rèn luyện cho là trọng, Pháp sư thời này không nghiêm, nạp tử thật không khinh ý. Pháp môn bao la thống nhất ở đây. Từ Minh yết kiến Phân Dương, hai năm không cho vào thất. Ngày nọ ấm ức trong lòng, đến phương trượng tha thiết thưa: Đệ tử chưa rõ việc lớn sanh tử, mang quân lữ mà đến, nay lại hạ nữa, chưa được làm cho đệ tử và Chúng vào thất, sợ mất đi bổn chí xuất gia, mong Hòa thượng từ bi, Phân Dương giơ gậy đánh nói: Ông là ác tri thức gì đến giúp ích ta? Từ Minh mới nghe hối hận từ tạ. Phần Dương lấy tay bịt miệng Từ Minh, Minh bỗng nhiên đại ngộ, đây chính như Đại tướng quân lâm trận đánh nhau một dao đứt làm hai đoạn, lại thấy hơn thua, mới nghó thì mất lợi. Như việc nêu vừa đến, Sơ Sơn yết kiến Quy Sơn lại khám biện Hương Nghiêm, có thể một biết một thấy, một cơ một cảnh, năng sở suy lường diệu lý? Ông nếu có linh cốt từng gieo hạt giống Bát-nhã. Trên bồ-đoàn đẩy được một sợi tơi một sợi, hướng đến xa ngoài ngôn ngữ được vào tay là chỉ thấy được Sơ Sơn, khám biện Hương Nghiêm, cũng tiện biết Phần Dương, Từ Minh, thầy trò Đạo hợp. Nếu không như thế lại phải mua mấy đôi dày cỏ dẫm khắp bốn thiên hạ nói khắp cho mọi người biết ta là Tăng hành cước, gặp người nói thiền nói đạo, miệng như xe sợi, chẳng chạy một chiêu. Như chú chuột chui vào rừng trâu: Đầu đường đã không có chỗ cậy nhờ, thì bốn đại năm uẩn chia lìa. Tình trạng ngàn khổ muôn khổ, không thể nói không thể biết. Người xưa nói: Đường trước mênh mang, chưa biết về đầu? Bỗng nhiên có lẽ không quay nhìn sinh tử, ta vì chúng mà kiệt sức. Sơn Tăng nói: ông hãy ở đợi ta mang thẻ đến bàn luận. Đứng lâu, cẩn thận. Lập Tăng Nhận Thẻ, giảng chung cho đại chúng. Một câu cổ Phật nói không đến, Ngọc chuyển Châu về. Một câu Lão Hồ không đem đến, lấp hang lấp hố, nói không đến, không đem đến. Cười chỉ Văn-thù ở Ngũ Đài. Lại đi như thế đã rơi vào khuôn phép của mọi người. Cho nên người xưa dạy người tham thiền trước phải tham lấy thiền trong Niết-bàn đường. Lúc ấy, truyền tông tâm Phật, tiếp nối tuệ mạng của Phật, hãy gác qua một bên. Vì sao? Vì Niết-bàn chính là nơi thiết yếu của sanh tử. Nhãn quang muốn rơi chưa rơi, hỏa phong muốn tan mà chưa tan. Như dao cắt thịt, như mũi nhọn đâm vào tim. Lúc ấy, phải được dùng muôn một, chẳng hay chẳng biết, bi đẩy vào trong bụng ngựa thai lừa, cuối cùng khó mà ra được. Người xuất gia phải dùng roi, dưới ca-sa mất đi thân mạng. Muôn kiếp không có được. Hằng ngày chẳng phải chỉ lo lý hội việc nhàn rỗi của người. Về phần ông, vô lượng kiếp đến nay như sóng lớn vỗ bờ không hề dừng nghỉ, mỗi ngày mười hai thời, một lúc nào không đi làm, một cháo một cơm không đi làm hay sao? Bàn luận ngôn ngữ không đi làm sao. Bổng nhiên đánh vào cái khó bèn rơi vào trong âm giới. Đầu ra đầu vào. Khi ông tinh một đoạn lẽ loi rõ ràng như vậy. Ai làm chủ: đã không có người làm chủ, hỏa phong chưa tan, hồn dương chưa bay đã thành cách người sống. Thật khó thật khó. Gậy đánh đầu người đá, tìm tôi luận bàn sự thật. Tiết vật chống biến hóa, đạo pháp sắp suy. Có người chí ở chỗ tha thiết thành khẩn này tìm thầy chọn bạn, như lửa cháy đầu, đều không vì áo thân cơm miệng. Xem núi dạo sông, ngày đi xa tít. Nếu ông thật tin được, không dạy một ngày bị ông lấy thấu được trăm ngàn pháp môn vô lượng nghóa mầu xong, có khả năng thành tựu tất cả pháp. Phá hoại tất cả pháp, ra khỏi ba cõi hai mươi lăm hữu, thông suốt tất cả vô chướng ngại. Hoa xuân lá thu, mây phủ chim bay đều trong năm tạng, không một việc nào chẳng khế hợp với chân như, không một pháp nào chẳng thuận với chánh lý. Tự là sáng tối qua lại không thể đến chỗ thông dong tự tại, có người nói học tham lâu, dẫn đến ngày tòng lâm chính khí mất đi, tuệ mạng Phật Tổ dứt bặt. Lại như Tỳ-kheo tâm học mới vào cửa, trước lấy chưa rõ việc lớn sanh tử làm lời thả nón, ngồi được một năm nửa năm, đã không khéo dụng công thì không có chỗ vào. Bèn khởi dụng tâm sai, dẫn vào hang vô minh. Dùng văn ngôn nghóa cú làm việc học lợi ích cho hằng ngày. Năm tháng đã qua. Khí dần càng cao, mùi tâm ngày càng xa. Thật không biết, được mất nơi tâm, nung nấu vạn trạng. Muốn như Lâm Tế ba năm không ra khỏi Tăng đường không thể có được. Xem ông ta một sáng hăng hái sợ động chúng, cơ hội đến thông biến. Như nhạn khỏe thích chim Dao, nắm gió nắm trời, muốn tìm dấu bóng, hoàn toàn không thật có. Muốn đến ruộng đất này phải mau theo trước, học hiểu hai đường sáng tối. Lấy dạy toàn than như thỏi sắt nóng, cùng sự chết làm láng giềng. Lấy thoại đầu của một người xưa, ném ở trước mặt. Như thả cho kẻ thù được sống, ngày đêm như ngồi tự có thời tiết xuyên thấu. Thật không được ngồi yên. Khi ngồi phải dùng phương tiện, trong đã không có chủ tể lao nhọc tinh thần cho ông. Người xưa nói: Tâm không cảnh vắng “Chỉ là trệ lâu không thông, tham thiền phải tham câu văn lưu loát, không tham câu què quặt, dưới câu què tiến cử được, tự cứu không được. Đây là hành trình giới hạn của Tỳ-kheo mới học. Trong đó kẻ tham lâu sẽ bước lên chân trời cao rộng. Cũng có bậc thầy đánh đầu, không gặp đoạn mạnh bạo. Ngồi nhìn đất, tuy cam tâm khô chí quên thân, đục nó, đón nó, chọn nó lọc nó, nhưng quan trọng mình thấy mà thôi. Không thể cởi đi lớp áo hư thối. Một sáng khi duyên chín muồi, đi ra làm cho người ứng cơ không tốt. Bởi vì được trong cảnh giới cao siêu, bị người đến che lấp lại biện họ không ra. Cho nên người tính thông minh, phần nhiều không đắc đạo. Người tự cao phần nhiều hổ thẹn học hỏi người dưới mình. Lý này rõ ràng trong hội Pháp Nhãn có một vị Tăng gọi ông ta là Giám Viện. Nương tựa Pháp Nhãn đã lâu. Hễ thăng đường tiểu tham, vào thất hay Phổ Thuyết đều không đi. Một hôm, Pháp Nhãn thấy ông ta liền nói: Huynh là hậu dinh, ban ngày không rõ ràng. Sao không hỏi việc. Giả Tăng nói: Mỗ Giáp thật chê Hòa thượng không được. Từng yết kiến Hòa thượng Thanh Phong được pháp môn an vui. Cho nên khi hết tham, Pháp Nhãn nói: Ông do nhân duyên nào mà được vào? Giả Tăng nói: Từng hỏi thế nào là chính học nhân. Thanh Phong nói với ta, đồng tử bính đinh đến xin lửa, ta liền ở trong đây. Pháp Nhãn nói: khéo lời, chỉ sợ ông hiểu lầm. Giả Tăng không mất một tấc câu ba thước dây, một móc câu là thượng đạo. Bính đinh thuộc về lửa, lấy lửa tìm lửa, lấy chính mình tìm chính mình. Pháp Nhãn cười lớn nói: Ta nói với ông! Ông không hội ý của Thanh Phong Giả Tăng trống khởi vô minh, đứng dậy đi về phía trước, là ông ta thời tiết nhân duyên Bát-nhã chín muồi. Đi được hai, ba ngày bỗng suy nghó nói: Hòa thượng Pháp Nhãn là nhục thân Đại Só năm trăm chúng, nói ta không đúng, ắt có ưu điểm. Trở về đầu thành xin sám hối. Pháp Nhãn nói: ông hãy hỏi ta. Giả Tăng hỏi: Thế nào là chính đệ tử? Pháp Nhãn lớn tiếng nói: Đồng tử bính đinh đến xin lửa. Giả Tăng bỗng nhiên đại ngộ. Sơn Tăng bình thường, nhiều lần muốn hỏi huynh đệ, như chỗ hỏi đáp cũng chẳng khác. Đâu là chỗ ngộ của giả Tăng. Lúc đó, người chân tay chưa ổn không khỏi hớn hở, muốn được tự tại. Làm như giám viện lại gặp Pháp nhãn một lần, để biểu hiện kinh nghiệm tham lâu. Nhưng Đại đạo Hư Huyền, chân Tông bô trước không được mà tìm. Người có sống mà biết, người có học mà biết, mỗi người mặc khí thế của họ. Ai là người sống mà biết, là Hòa thượng Triệu Châu. Mới mấy năm theo bổn sư đến Nam Tuyền thỉnh giới. Bổn sư trước làm nhân sự cho Hòa thượng Nam Tuyền. Dẫn sa-di lễ bái, vừa đến Nam Tuyền nghỉ ngơi. Đến chỗ Ngài nằm làm lễ, Nam Tuyền nói: ông thọ nghiệp ở đâu? Triệu Châu nói: Thụy Tượng. Nam Tuyền nói: Ông còn thấy Thụy Tượng không? - Đệ tử không thấy Thụy Tượng, tức nay thấy Như lai nằm. Nam Tuyền vật thấy, mắt chủ dựng đứng, bỗng ngồi dậy hỏi: Ông là sa-di có chủ phải không? Triệu Châu nói: Đệ tử không dám. Nam Tuyền nói: Thế nào là chủ của ông? Triệu Châu đến gần vỗ tay nói: Đầu xuân còn lạnh, kính mong Hòa thượng muôn phước. Đây chẳng phải huân tập từ vô lượng kiếp thuần thục thì đâu thể đến đây. Tuy chưa được chỗ sâu kín cùng cực, xem đề mục ông ta tự phân hiểu, há chẳng phải sống mà biết ư? Tăng đạo giả lúc này người trong huyện Diêm Quan hành cước đến ở Linh Vân, Phúc Châu gặp Sư thượng đường ông ta liền bước ra hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? Linh Vân nói: việc lừa chưa đi, việc ngựa đã đến. Như thế tham học ba vị đại lão Tuyết Phong. Huyền Sa, Linh Vân hai mươi năm mà chưa thể tỉnh phát. Ngày nọ trong hội Tuyết Phong nhân cuộn rèm bỗng nhiên đại ngộ. Liền có đầu cơ tụng: Huyền Sa bảo Tuyết Phong rằng, sợ là ý thức chú thuật, lại phải khám qua mới được. Lăng Đạo giả bổng ở trước mặt, Tuyết Phong nói: Đạo giả đầy đủ đầu- đà nhưng chưa chịu vậy. Ông thật chính khế ngộ thì phải nói xem Tăng đạo giả tiếp miệng, lại nói một bài tụng. Chỉ lộ thân trong muôn tượng, là người tự chịu mới thân. Năm xưa nhầm tìm giữa đường, ngày nay xem lửa trong nước Tuyết Phong, quay nhìn Huyền Sa nói: Đây gọi là chú thuật được không? Há chẳng phải trọng mà biết ư? Người đời nay dùng hết cơ tâm, muốn đến mảnh ruộng kia thật khó được. Sau đó, vua đất Mân thỉnh trụ ở Trường Khánh, vì thấy nạp Tăng lộ thân trong muôn tượng, liền dùng khóa miệng quyết nói: trong muôn tượng chỉ lộ thân là bỏ muôn tượng hay không bỏ muôn tượng. Bậc rồng voi trong hội đều hạ ngữ không được. Cho đến Pháp Nhãn, Tu Sơn Chủ ngộ không đều không khế, liền đến Nam Tuyền. Môt hôm, muốn ra ngoài hồ, về đến Chương Châu, trong thành mưa tầm tã không ngớt, bèn vào tiểu viện bên thành trốn mưa, nhặt củi khô vào Tăng đường, cho vào lò để sưởi ấm. Mặc cho luận bàn ba cõi duy tâm, muôn pháp Duy thức. Cho đến luận trời đất đồngcăn với ta, muôn vật cùng một thể với ta. Bỗng có một vị Tăng đến phụ lửa, liền hỏi: núi sông đất đai với Thượng tọa là đồng hay khác? Tu Sơn Chủ nói: Không khác. Lão Tăng đưa hai ngón tay rồi bỏ đi. Lúc ấy, mới biết chính là Thiền sư Địa Tạng Lâm. Không khỏi trong bụng mỗi người đều có nghi. Mưa hơi tạnh, nghiệp đã thành hành, Lão Tăng lại đến tiễn đưa, đi đến trước điên Phật chỉ Hoa Đàn Thạch nói: Các vị vừa đến nói ba cõi duy tâm. Hãy nói: khối đá này ở trong tâm hay ngoài tâm? Pháp Nhãn nói: ở trong tâm. Địa Tạng nói: Người hành cước đặt khối đá trong lòng bao nhiêu không tự tại, ba người này ném gậy, Lão Hòa thượng tham này mỗi người có một khế ngộ, danh đồn khắp thiên hạ. Sau này một tông của Pháp Nhãn thịnh hành ở thế gian. Bởi từ trong mạch khí của Tuyết Phong Huyền Sa đến. Cho nên gọi cha có ruộng nhà, ông có ân đức. Ông xem Tuyết Phong vừa xuống núi trước mua một cái đầu. Buộc vào khăn tay, đi khắp nơi kết duyên, thề không ăn cơm ở Tăng đường. Cho đến trong hội Đức Sơn, trước xem làm thức ăn, cho đến ba lần đến Đầu Tử chín lần lên Đỗng Sơn ngàn cay muôn khổ, thành tựu đạo nghiệp. Sau đó xây dựng chùa chiền mở hội đại pháp thí, nhóm họp một ngàn năm trăm chúng. Thường nói: một ngàn năm trăm bố nạp, lão Tăng mới đến đây. Lại như Hòa thượng Huyền Sa tinh tấn tu hạnh đầu-đà. Ban ngày khai ruộng trồng lúa, dẫn nước tưới tẩm. Ban đêm siêng làm hương đèn, quét sân. Vua Mân bất thời tuyên, vào nói pháp ở trong cung trở về lại khổ hạnh nóng lạnh không dễ. Ông xem ông ấy dạy chúng rằng: Giống như bóng trăng sông Thu, tiếng chuông đêm vắng, theo tiếng đánh không thiếu, chạm sóng mà không tan, còn là việc bên bờ sanh tử. Há là lời nói tầm thường của Đạo sư. Lại như Hòa thượng Dược Sơn dạo núi đến Lễ Dương, thấy mọi người có một tòa núi đẹp, liền muốn xây dựng đạo tràng ở đó. Trăm họ không theo, bèn vào trong chuồng trâu của người ngồi thiền. Mọi người phiền hà không thôi. Bèn dắt trâu về nhà dù lửa thiêu đốt chuồng trâu ông ấy vẫn ngồi thiền trên nền của chuồng trâu. Thái thú nghe được mua ngọn núi ấy xây một am cốc đặt tên là “chuồng trâu” cúng cho Ngài. Sau này trở thành tòng lâm, chúng Tăng đông đảo. Cho đến Vân Nham, Đạo Ngộ, Thuyền Tử, Cao Sa-di Lý Tường Tướng Công cho là mảnh đất truyền đạo. Thường nói: Lão Tăng Vô Phước, không dám ăn chung với chúng. Mỗi ngày chỉ ăn hai chén cháo. Chủ tọa thấy đầu mắt ông ta sáng suốt nhất định bảo chớ bày cơm nước. Một hôm, không đến Tăng đường, Tạng ở phương trượng đợi Dược Sơn đến thượng đường, vào cửa thấy cái nồi thở ra một cái liền vạch ra chính là lá rau vàng ít nấu. Dược Sơn nói: Lão Tăng gần đây không có sức bồi chúng như thế là mười năm rồi. Nay bị Thủ tọa quán phá, chớ cho bên ngoài biết. Liền có bột mà ăn, có chuồng châu mà ngồi thiền. Người xưa khắc khổ đến chỗ cực nầy. Cho nên soi sáng đời sau, con cháu đến nay không dứt. Lại như Thiền sư Bách Trượng Đại Trí chủ trương một ngày không làm là một ngày không ăn. Chín mươi lăm tuổi rồi, cái bừa con dao, áo tơi chiếc nón không hề rời thân. Hoàng Bá, Ngũ Phong, Bình Điền, Cổ Linh, Quy Sơn, Lại An, ấy là những bậc tài giỏi không nhận Ngài làm việc, Ngài lén bỏ đi. Bách Trượng nói. Lão Tăng vô phước, ngồi trên tín thí, liền bỏ ăn mà chết. Lại như lão Nam ở Hoàng Bá vào thất trở lại khóc. Có người hỏi nguyên do liền nói: Lão Tăng là người tội trong Phật Pháp, một nhà đường huynh đệ, không có một người hạ được một chuyển ngữ thích đáng, pháp môn hưng suy cũng có thể biết rõ. Trong thất thường niệm tán trên lầu chuông, trồng rau dưới chân giường. Thủ tọa Thắng hạ một chuyển ngữ nói Mãnh hổ ngồi giữa dường. Ông ta liền thối Hoàng Bá, tự ở am Tích Thúy với Thủ tọa. Người xưa vì tha thiết pháp môn mà như thế, thiết tha vì đạo như thế. Huynh đệ ngày nay nếu có thể ngưỡng đón phong tục thượng cổ không đợi đè trâu ăn cỏ. Chăm chú như vậy, tự thành tông đức bốn phương truyền tụng, há không vó đại ư? Thật không cô phụ lão vung một tay đỡ nóng. Người chưa rõ việc mình cẩn thận chớ phát ra nhiều lời mới. Lời mới là sự tốt đẹp mà mình có được, không thể hội thông với sự tốt đẹp mà bậc tiên Thánh truyền. Thật sợ đạo xưa chìm mất, Sơn Tăng và kẻ giang hồ giữ đạo, qua lại bàn luận, phần nhiều dẫn lời di ngôn việc làm xưa của bậc tiền bối, để khuyên nhau, ngõ hầu sáng rực thêm, được thấy tình trạng của người xưa. Phu tử là một đời Nho Tông, noi theo mà không làm, nếu làm e rằng phu tử không có văn chương ư? Vì thấy sự suy vi khắp nơi. Lễ nhạc hư hoại, sách thi thơ định lễ nhạc, lập giáo chia chẻ để làm rõ đạo nghiêu Thuấn, Vũ Thang, Văn Vũ, Chu Công, để ban cho đời sau, Dương Tử soạn Thái Huyền Chân Kinh, người trong thiên hạ cho là chẳng đúng, cho là Phu Tử không hề soạn kinh, lấy những từ được chọn rồi để đệ tử làm ra. Dương Tử nói: Đời không biết ta, chính là có Tử Vân sống lại. Từ Hán đến nay đạo Dương Tử thịnh hành. Đại để lập ngôn, chỉ cần phải đúng. Về Thiên cổ, người há không biết. Nay tiết đến thì gần, ở lâu vào liêu thất của Thủ tọa nhập thất, biết rất không tiện, ngại sơn môn thỉnh người thứ lớp, Phương trượng nhận thể, đã là lúc duyên hội đủ. Vì đạo nghóa, bèn nêu một số điều của người xưa để làm ân cần cho đời sau. Kế già suy phát lời quá đáng, mong huynh đệ cứu giúp thật may vô cùng. Nhớ lại Quy Sơn ngồi hơ lửa, hỏi Ngưỡng Sơn: Suốt ngày ngồi nơi lửa vì sao không có hơi âm? Ngưỡng Sơn làm thế hướng về lửa. Quy Sơn nói: Ông chỉ được vật thể, năng sở không còn. Ngưỡng Sơn nói: Đệ tử chỉ như thế, còn Hòa thượng thế nào? Quy Sơn cũng làm thế hướng về lửa. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được vật thể, năng sở không còn. Quy Sơn nói: Đúng thế! Đúng thế! Đều gọi là Quy Sơn truyền khí mà nhận, thật không biết nghóa của cha con mỗi người tự trái phạm. Đêm nay, bỗng có vị nạp Tăng bước ra nói: Lão Hòa thượng! Ông cũng chẳng cần xem xét hết người xưa. Dưới nhà khách, đông đến rất lạnh. Lại ở cô phong tuyệt đỉnh, hơi ấm của ông ai mà không biết. Sơn Tăng chỉ được lấy tay che mặt, thâu tóm sóng mòi, vì sao? Biết ta tội ta, đêm khuya đứng lâu. <篇> HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 5 Đức Thế tôn lên cõi trời Đao-lợi nói pháp cho mẹ, vua Ưu-điền nhớ Phật. Ánh sáng vàng tím chiếu khắp núi sông. Nhân gian trên trời nhiều ý khí, từng sai Văn-thù thống lãnh đồ chúng. Trong thành Tỳ -da hỏi Duy-ma. Thế tôn, nhân vua Càn-Thát-Bà tấu nhạc. Lúc ấy, núi dông đất đai đều lên tiếng đàn. Ca-diếp đứng dậy múa, vua Càn-Thát-Bà hỏi Ca-diếp: Há chẳng phải là A-la-hán, các lậu đã hết, sao lại có tập khí dư thừa? Đức Thế tôn nói: Thật không có tập khí dự thừa, chớ phỉ báng pháp. Có kiếm ba thước, có thể yết kiến nước Triệu, mắt trông ngàn dặm, khó thấy sợi tơ. Đường đường vòi vọi, Đại sư ba cõi. Đức Thế tôn nhân ngoại đạo hỏi: bất luận có lời hay không lời, Phật im lặng hồi lâu. Có người sức mạnh đều là khác. Đợi nhàn rũ tay liền tương ưng. Thế nào nửa đêm mặt trời Phù tang đẩy lên tầng trên hết núi Tu-di. Vua nước Kế-tân, cậy kiếm hỏi Tôn giả Sư Tử: Đêm khuya thanh vắng chân trời rơi xuống chậu vàng, trên gối khô, ngô đồng tàn chuyển mới, đổi nước thương gió nhẹ nhàng chỉ, keo khó nối được người đứt ruột. Bà già đốt am. Vách sắt và mây tan từng áng, núi đen bỗng xuất hiện trăng tròn đến trúng chỗ tối sáng, ngoài trời xuất đầu ai giải xem. Đồng Tử Thiện Tài tham học năm mươi ba vị thiện tri thức. Cuối cùng đến lầu các Di-lặc. Cảnh giới đại nhân thật khó đến. Sau khi đến làm sao nói cho người, chẳng phải sức tri kiến của đương nhân. Chớ dùng tri kiến phân biệt thân sở. Đạt-ma yết kiến Lương Vũ Đế. Tiếng ngọc thổi đến đài phụng hoàng. Điện xưa thâm trầm sáng chưa mở. Đầy đất hoa rơi xuân đã qua, rậm rạp không tan vẫn rêu xanh. Kinh Lăng-nghiêm nói: Lúc ta không thấy, sao chẳng thấy chỗ ta không thấy? Đá nhuộm chẳng phải ngọc, nước trong chẳng phải vàng, Đại vũ quyết về Tây. Bồn chồn khóc lóc mà chìm trên cạn. Đẹp hề, xa hề, đá xưa cối nay. Xưa có vị lão túc, một mùa hạ không nói pháp cho Sư Tăng. Trời lạnh buốt, khóc buồn hang thu, mới biết biển xanh, bèn chèo thuyền xa thẳm. Nghe nói nguyên do từng rửa tai. Đáng thương Sào phủ liền đánh trâu. Kinh Duy-ma chép: Người thí cho ông không gọi là ruộng phước. Núi xanh mây trắng, khe xanh trăng lành, vẽ hổ thành cáo, chỉ được một cái. Đại sư Trí giả ở Nam Nhạc ngộ Tam-muội Pháp Hoa. Thật dùng chân pháp cúng dường Như lai. Hoa ở núi sau nở chỗ hiểm nguy. Một đêm cuồng phong thổi nuốt hết. Cỏ hoa vô số điểm rêu xanh. Lão tử nói: Nhìn không thấy gọi là Di. Lắng không nghe gọi là hiếm, nắm không được gọi là nhỏ, ba thứ nầy không thể vặn hỏi. Tiên trâu xanh: Đi không hư truyền thường dùng rơi vào bên đoạn trong hư không. Tự là một đời nhiều vận xấu. Đêm khuya chỉ đứng trước cổ hoàng. Thiền sư Nam Nhạc Tư Đại nhân Chí công sai người truyền ngữ, một hớp nuốt hết Chư Phật ba đời. Răng như cây kiếm, mắt như chuông, dây đàn đứt keo nối không được. Chỉ cần tri âm lắng tai nghe. Phu Tử nói: Sáng nghe đạo chiều chết cũng cam. Tấm biển mới bày thấy bậc Thánh. Chớ đem sinh tử so thân sơ, Đài xanh lịch ngày phiền anh xem, một năm phải có một mùa xuân. Gái đẹp lìa hồn. Đi điếu phải có hoa đào, sau xe tang là giấy tiền, khách môn hạ lão Hồ thà xuống suối vàng. Điều Đạt phỉ báng Phật. Đầu núi muôn trượng bỏ đi được. Không biết nơi nào tìm thây chết, gió nghiệp thổi lên sống tỉnh lại, lại hỏi như nay là lúc nào? Cô gái xuất định. Sông quê nổi thuyền nhẹ. Khói ấm sanh rau đỏ, tối đến nhìn trên hồ. Đầy người đi đánh cá. Vương Thường Thị hỏi: Lâm Tế hỏi: Nhất đường Tăng còn xem kinh không? Việc đến vô tâm không nên khinh, quạ đen ngỗng trắng còn hoài nghi. Tự chẳng đích thân thấy lão đầu vàng, đâu dám gặp người tiết lộ cho y. Dương Đại Niên tham Hòa thượng Quảng Tuệ Liên, phát minh có bài tụng, tám gốc mài đi trong bàn không. Sư tử lông vàng biến thành chó. Định lấy thân che Bắc Đẩu, cần phải chắp tay sáng trời Nam. Đá trắng đục đục, dấu ngọc đẹp của anh. Nhạc này của Quân Tử, trần tháo thượng thư, một ngày cùng các quan lên lầu. Nhìn thấy các vị Tăng có một vị quan nói: Đến đây đều là Tăng hành cước. Thượng thư nói: chẳng phải. Vị quan nói: sao biết là chẳng phải? Thượng Thư nói: Đợi gần cùng các ông khám qua. Chốc lát Tăng đến. Thượng Thư vời đến nói: Thượng tọa! Tăng ngưỡng đầu. Thượng Thư nói: không tin đạo. Lý đều từng gò ao, tuy biến khó phân giúp tự trốn, đưa người lầu cao thôi ngóng. Rõ ràng có thể thấy lông thu. Bàng cư só sắp thị tịch, đầu dựa vào gối của Địch Tướng Công, dặn rằng: Chỉ nguyện rỗng không các điều có, cẩn thận chớ thật các điều không. Muốn biết chỗ cùng nguồn, người nào là chỉ mê. Bóng trời ngoài gà chó. Đào mận tự thành lối đi. Bùi Tướng Quốc hỏi vị Tăng: xem kinh gì? Vị Tăng đáp: Xem kinh Vô Ngôn Đồng Tử. Bùi nói: Có mấy quyển? Có hai quyển. Đã là vô ngôn vì sao lại có hai quyển. Vị Tăng không đáp được. Từng rơi hốt ngoài cỏ sương đá, lại đỡ đi thô đến Đường Thiên, chỉ lấy bốn biển rủ khăn tay, tôm cua cá rồng làm một xâu. Hoàng bá ở chỗ Nam Tuyền làm Thủ tọa, bằng lòng lễ xin thí tài. Ném qua ném lại rồi trinh thí. Trước cửa địa ngục quỷ mắt sáng, nhìn phá đầu lâu ngoài gan ruột, trên đỉnh Ma-ê một lớp sáng. Lục Hằng Đại Phu hỏi Nam Tuyền: Pháp sư Triệu cũng kỳ quái. Ghi chép muốn gõ cửa nhà trời, thường không có người để cùng bàn. Nhân được già sống nhe tay bỏ, gió đến bất chợt tối mất hồn. Trấn Sử Thiền Đường ở trên giới, hễ thấy Tăng liền hỏi: Nếu khế hợp thì giữ lại ở một đêm. Có hai vị Tăng, từ chỗ Mã Đại Sư đến, liền hỏi: Đại Sư có phương tiện gì? Vị Tăng nói: Tức tâm là Phật, liền bị đuổi đi. Lại có hai vị Tăng đến, ông cũng hỏi như trước. Tăng nói phi tâm phi Phật, cũng bị đuổi đi. Dưới tướng làng xanh lập công huân, thao lược xong toàn riêng thấy anh. Vừa từ lòng son đến báo quốc, bên chước đâu chưa từng nghe. Hàn Sơn, Thập Đắc biết trước Quy Sơn đến Quốc Thanh thọ giới. Linh Sơn một bề bia ký, ba lần đích thân làm quốc vương, cây gậy lại tìm biết xa gần. Rõ ràng trời đất lướt vàng đen. Lục Tổ gọi môn nhân nói: ta muốn về Tân Châu. Hưng khởi ở trời tận đầu trời Nam, chưa đi trước đã đến Tân Châu. Khi đến không miệng đi không bạn, đâu lại man mác lá vàng thu. Hòa thượng Nhượng nói: Đạo Nhất nói pháp ở Giang Tây, chẳng thấy gởi tin tức đến. Tâm lão bà ngày ngày lo lắng, sợ rơi vào trong hủ gia vị nhà người. Tin tức đến sau Hồ Loạn, Giang Tây Tông phái lưu thông tốt. Trung Quốc sư hỏi Tử Lân cung phụng. Từ đâu đến? Từ thành Nam đến. Thành Nam cỏ mầu gì? Cỏ mầu vàng. Sư liền hỏi Đồng tử: Thành Nam cỏ mầu gì? Cỏ mầu vàng. - Chỉ Đồng Tử cũng có thể trước rèm ban cho Tử Đối Ngự Đàm huyền. Muốn đảo lộn hết ruột khô, ra cửa bất chợt lại dặn dò, khuyên anh nên trở về sớm. Chớ đợi gió xuân mắt liễu xanh. Mã Tổ nhân Bách Trượng tái tham. Cơ loại nhái lại khác nhau. Lao bay lửa tung đầu lâu không, tâm trộm chết đều khó làm sống, bỗng thấy Kim ô ra biển đông. Bách Trượng và chồn hoang. Không rơi vào nhân quả, chợt xuất hiện chồn hoang. Tâm người như sắt, phép quan như lò lửa. Không mê mờ nhân quả, thoát được thân chồn. Trên đỉnh không xương, dưới cằm có râu. Hoàng Bá nhân Lâm Tế từ Đại Ngu về. Nhổ cây gió thổi xào xạc, mây mưa che phủ trong đó. Ngàn muôn sóng vỗ kinh trời đất. Đến biển mới biết tin chẳng thông. Hương Sơn bốn lần đánh trống: Giày cỏ là đội thông làm cài, giống như thanh nhãn trái mắt. Ngữ âm chỉ ở dưới hiện gió, suốt ngày không người chẳng đến thềm. Giáp Sơn nói: Giữa đường thấy rắn chết chớ đánh chết. Chiếc giỏ không đáy đựng đem về. Kẻ vác bản không ràng buộc, Thủ Dương Sơn chết đói, thề không ăn gạo nhà Chu. Giáp Sơn nói: Ta hai mươi năm ở núi này, không hề nêu một việc trong tông môn. Có vị Tăng hỏi: Thừa Hòa thượng có nói hai mươi năm ở núi này, không hề nêu một việc trong tông môn phải không? Sơn nói: Đúng. Tăng xô nhào giường thiền. Sơn liền thôi. Đến hôm sau, phổ thỉnh đào một cái hố, sai thị giả thỉnh vị Tăng nói lời thoại hôm qua đến. Sơn nói: Lão Tăng hai mươi năm chỉ nói lời vô nghóa, nay xin Thượng tọa đánh chết lão Tăng, chôn dưới hầm. Nếu không đánh chết Lão Tăng thì Thượng tọa tự đánh chết chôn trong hầm này, vị Tăng nầy cuốn hành trang lèn đi. Hải Liên Bằng bận rộn nắm trời trăng, ánh sáng đêm thấu bên sao Đẩu ngưu. Chẳng chỉ đặt kiếm nhiều kế sống, Ba tư mắt lòa đầy đại đường. Một hôm, Ma cốc ngồi trong trướng giấy, dùng khăn tay che đầu. Phi vân vào thấy liền làm tiếng khóc, hồi lâu đi ra pháp đường nhiễu quanh giường thiền một vòng rồi trở lại. Cốc bỏ khăn tay đi và ngồi. Vân nói: Trong cái chết được sống, trong muôn không có một. Cốc xuống giường làm thế kéo tọa cụ. Vân đến đứng gần nói: Trước chết sau sống, ông có chịu không? Cốc nói: chịu thì chịu, sư hỏi làm gì? Vân đẩy ra nói: biết, lời nói trước của ông không phụ lời sau. Năm mươi cười ông ta trước trăm bước. Làm sao cưỡi ngựa hơn cưỡi trâu? Không cần so sánh nhiều hay ít. Về đến núi nhà thì thôi. Phong Huyệt nhân vị Tăng hỏi im lặng, nói nang liền quan đến lìa sự mầu nhiệm. Lấy ngọc làm chim bổ các, lấy chuột làm châu, rõ ràng hư không bao la. Thủ Sơn dạy chúng: Các Thượng tọa không được hét mù hét loạn. Bình thường nói với ông, khách thì thỉ chung khách. Chủ thì thỉ chung chủ, khách chẳng có hai khách, chủ chẳng có hai chủ. Nếu có hai khách hai chủ, hai người thì đều thành kẻ mù. Cho nên ta đứng ông phải ngồi, ta ngồi ông phải đứng. Ngồi thì ngồi với ông, đứng thì đứng với ông, tuy như thế, mắt nhanh chống mới được khách chủ có đều sai khiến bên ngoài. Hành Tăng cần phải ra khỏi thường tình, không dừng ở chỗ nước mở cửa. Nửa đêm trăng đến không dám sáng. Nam viện, nhân vị Tăng hỏi trên cục thịt đỏ, vách đứng ngàn thước há chẳng phải là lời của Hòa thượng ư? Viện nói: Đúng vậy. Vị Tăng xô nhào giường thiền. Viện nói: Ông xem kẻ mù làm loạn. Vị Tăng suy nghó. Viện liền đánh, đuổi ra. Trời trăng không sáng giết khí nổi. Ca sấu trời cổ chiến vượn khỉ. Đánh gọi được thẳng xuống lần lượt, kẻ kia không còn ngẩng đầu lên. Đặng ẩn phong từ biệt Mã Tổ, Tổ nói: Đi đâu? Đến Thạch Đầu. Đường Thạch Đầu trơn. Ngàn cây tùy thân, gặp trường làm vui, liền đi. Đến Thạch Đầu nhiễu quanh giường thiền một vòng, dộng tích trượng một cái, hỏi: Là Tông chỉ gì? Đầu nói trời xanh trời xanh. Phong không đáp được, trở về nêu cho Mã Tổ nghe, Mã Tổ nói: Ông đi ngay, đợi ông ta nói trời xanh trời xanh ông bên hử hai tiếng. Phong lại đi, vẫn hỏi như trước, Đầu bèn hử hai tiếng, Phong không đáp được, trở về nêu cho Mã Tổ, Tổ nói: Ta nói cho ông nghe đường Thạch Đầu trơn, đường Thạch Đầu nguy hiểm người khó đến. Người đến mới biết trơn như rêu, hai lần qua ba lần về tuy té nhào, toàn thân cả bàn lại đi về. Nam Tuyền ở Am, bấy giờ có một vị Tăng đến. Tuyền nói: Ta lên núi làm việc, giờ thọ trai ăn cơm xong đem một phần cơm đến. Vị Tăng ấy ăn xong, đem việc nhà một lúc đập nát, lên giường nằm mãi. Tuyền thấy lâu không đến, trở về thấy vị Tăng nằm, Tuyền cũng đến nằm, vị Tăng bỏ đi. Quần ngắn áo dài khăn trắng, ô hô dưới trăng, mau đẩy vòng, gặp nhau trên đường Lạc Dương, đều là người buôn bán qua lại. Nam Tuyền nói: Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải Đạo. Hôm qua nhân đi qua Trúc Viện Tây, bọn trẻ nhà bên khóc cách khe. Núi lạnh nước trôi nửa vàng rơi. Vô số chim về đậu trên cành. Càn phong dạy chúng: Pháp thân có ba thứ bệnh, hai thứ ánh sáng. Đủ lá cầm đến rõ sớ này. Tự xưng linh nghiệm, đời không ai bằng. Vẫn trở lại, người đời Đường dịch, mới có người biết là Phạm Thư, Lang Da nhân vị Tăng hỏi thanh tịnh bổn nhiên. Không bày cạm bẫy, không vung kiếm nhọn, một mũi xuyên cành dương mắt thần không nháy. Nghó lại ngày xưa Lý tướng Quân. Cơ bắn hổ còn kém. Đại Từ dạy chúng: Sơn Tăng chẳng biết lời đáp, chỉ là biết bệnh? Lúc ấy, có vị Tăng ra. Đại Từ liền về phương trượng. Nhẹ như bông, nặng như núi, chân trời góc đất đi lại về. Lá vàng tàn khi tiết tháo bày, bên ao vẫn là đá sặc sỡ. Đức Sơn khất thực. Chỗ nghó Đức Sơn hỏi Nham Đầu, đưa đến toàn nhà một khối sầu, cha lại chú con, con chú cha. Oan oan tương báo bao giờ thôi. Tuyết Phong hỏi vị Tăng: Từ đâu đến? Từ Triết Trung đến. Đi thuyền hay đi bộ? Không liên can đến thuyền, bộ. Làm sao đến đây được? Có gì cách ngại? Phong đánh đuổi ra. Sau mười năm vị Tăng lại đến, Phong lại hỏi: Từ đâu đến? Từ Hồ Nam đến Hồ Nam cách đây bao xa? Không cách. Phong dựng đứng phất trần nói: Còn cách cái gì? Nếu cách thì không đến Phong lại đánh, đuổi ra. Sau Tăng ở, hễ thấy người liền mắng Tuyết Phong. Có bạn đồng hành nghe được hỏi: Huynh đến Tuyết Phong có ngôn cú gì? Liền mắng như thế, vị Tăng nêu lời trước bị bạn Đồng hành mắng nói rõ cho ông ta. Lúc ấy, buồn khóc, thường ban đêm đốt nhang xa lễ Tuyết Phong. Nghe nói núi Mân có nhiều trùng độc. Ngàn phương trăm kế tránh không được. Trong cái chết có hồn ma thúc giục, một mạng về phương khác mới thôi. Tuyết Phong ở am. Có vị Tăng gõ cửa. Phong đích thân ra nói: Là gì? Tăng cũng nói: là gì? Phong cúi đầu trở về am. Tăng nói việc này Cho Nham Đầu, Đầu nói: Lúc ấy nếu ta nói câu cuối cùng với y, thì thiên hạ không làm gì được Tuyết Phong. Đỡ qua cầu nước hỏng. Bạn về thôn trăng sáng, chỉ biết đường đi xa, bất giác lại hoàng hôn. Tuyết Phong nhân Tam Thánh hỏi: Cá vàng vào lưới, lấy gì làm thức ăn. Gậy tân-la liền trông bát, Phong gia nạp tử điều gì không giống như xem đến đen như mực, ai có thể nặng so với nhẹ. Tuyết Phong tự làm bài minh trên tháp rằng: Gió lạnh cỏ Kiêm mưa làm Thu, tựa cửa vô ý ra mắt các quan, năm tới lại quyết trận rồng rắn. Lấp bắc an Nam một đường thâu. Tuyết Phong nói: chư Phật ba đời hướng vào lửa đỏ, xoay bánh xe đại pháp. Vân Môn nói: lửa đỏ nói pháp cho Chư Phật ba đời. Chư Phật ba đời đứng lắng nghe. Lửa đỏ rực lại là khi nói. Trăm ngàn Chư Phật đều cau mày. Phạm âm sâu xa khó giải thích, chỉ cho Thiều Dương Lão Tuyết biết. Thuyền Tử dặn Giáp Sơn: sau nầy, chỗ ẩn thân của ông phải không có dấu vết. Thuốc dán rõ ràng nói được thân. Chẳng biết bên trong chân hay ngụy. Siêng năng dạy bảo người nữ si. Chớ dùng phương thư mê người sau. Ban đầu Giáp Sơn trụ chùa Kinh Khẩu, nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân? Sơn nói: Pháp thân vô tướng. Lại hỏi: Thế nào là pháp nhãn? Sơn nói: Pháp nhãn không dấu vết. Lúc ấy, Đạo Ngô ở dưới tòa bật cười. Sơn thưa: sau đó giải tán chúng. Rồi tham Thuyền tử có sở ngộ, sau đó về nhóm họp đồ chúng, Đạo Ngô sai vị Tăng đến hỏi: Thế nào là Pháp thân? Sơn nói: pháp thân vô tướng. Lại hỏi: Thế nào là pháp nhãn? Pháp nhãn không dấu vết. Tăng trở về nói lại với Đạo Ngô. Ngô nói: Kẻ đó lần này mới thấu suốt. Mới thấy hoa xuân vềchỗ trên ở. Lại gặp lá thu rơi vào tường cung, suy nghó việc đời như lật bàn tay, ai được sống mãi mà không chết. Triệu Châu nhân vị Tăng từ biệt, bèn dặn: Chỗ có Phật không được ở, chỗ có Phật, không Phật không được ở. Ngoài ba ngàn dặm không chỗ nương. Triệu châu được mất da miệng sáng. Lại là giả Tăng biết ra sao. Triệu Châu hỏi Thù Du. Đường đời sóng gió chỉ tự biết, thấy người phần nhiều không nhướng mày, gọi đèn cách đêm viết gọi giấy, chẳng hay nhà giàu lại thấy ai. Cây Bá trước sân của Triệu Châu. Có hỏi tự biết không chỗ đáp. Lại đem cây bá ở trước sân. Gió táp mưa sa bao năm tháng, không giống gốc thông có nấm sinh. Lưu khắc Ma hỏi Quy Sơn. Xuân núi ấm đào thứ lớp hồng, chập chờn chú bướm đậu cành thơm. Bỗng nhiên, một trận cuồng phong đến, nép vào cành hoa chẳng thấy đâu. Nam tuyền, Quy Tông, Ma Cốc cùng đi lễ bái Trung Quốc sư, mỗi người đem tài sản mình có đi kinh doanh. Lên nước như trời tốt theo tình, chưa ra khỏi cửa trước toan tính, làm sao đến được thành Phượng Hoàng, Đan Hà hỏi Trung Quốc sư: Gặp sư đang ngủ, thấy thị giả Đam Nguyên. Dấu vết vốn từ lâu lánh Tần, cửa động vòng sâu xuân đài xưa, hoa rơi chỉ biết chảy theo dòng, có kẻ tìm mùi thơm đến người xinh. Huyền Sa hỏi Kính Thanh: Không thấy một pháp là lỗi lầm rất lớn, Tuyết Phong cửa cao các con thịnh. Lại có thể nặng tình quý hơn trời. Lấy việc nhà tuy tượng tự, cũng có người tham cỏ chẳng rơi. Huyền Sa hỏi Thượng tọa Thái Nguyên Phu: Vừa gặp đánh nước trên lầu nước. Sa nói: nhìn nhau. Phu nói: đã gặp nhau rồi. Sa nói: Gặp nhau trong kiếp nào? Phu nói: Chớ nhắm mắt ngủ. Sa thưa với Tuyết Phong rằng: Đã khám phá rồi. Phong hỏi: Khám phá cái gì? Sa nói lời trước đó cho Tuyết Phong nghe. Phong nói: Ông làm giặc rồi. Voi đầu đàn voi con đều theo nhau. Người trên bờ xem hai chân dẫm xéo, cỏ thơm ăn kỹ biết no đủ, trở về không đợi đầu ngày cúi. Nham Đầu dạy chúng: Hễ xướng giáo thì phải từ trong sự vô dục tuôn ra ba câu, chỉ là lý luận. Nhai đi nhai lại, muốn đi không đi, muốn ở không ở, có khi một bề không đi, có khi một bề không ở. Tam Văn Mại mò tìm con sóng, mò hến mò cua được mấy năm, Nghịch Thuận, khuyết ưu khỏi phải nói. Nhà ai bếp mà không có khói. Nham Đầu nhân Sa Thải qua hạ tại nhà Cam Chí, đang vá y thì chí đi qua. Đầu lấy kim làm thế đâm, Chí liền sửa y muốn tạ lỗi, vợ hỏi: Làm gì vậy? Chí nói: nói không được. Vợ nói: cũng phải cho mọi người biết. Chí nêu lời trước đó cho vợ nghe. Vợ nói cách ba mươi năm sau ai muốn biết một lần uống nước một lần nghẹn. Con gái nghe nói: Ai biết tánh mạng người khắp đại địa bị mũi nhọn Thượng tọa đâm vào đem đi. Nữa đêm canh ba đến tìm lửa. Ta mắng ông, ông mắng ta. Gọi nhau qua lại đã về chưa. Cũng có kẻ không y ngồi trong cỏ. Thạch Đầu nhân Dược Sơn hỏi: ba thừa mười hai phần giáo đệ tử còn mù mờ. Một lớp núi, một lớp mây. Đi hết chân trời thật khổ thay. Bỗng nhiên về ngồi trong nhà ghi chép. Hoa rơi chim hót là một Xuân, Quy Sơn nói: lão Tăng sau trăm năm làm con trâu trong nhà đàn việt ở trước núi. Sau trăm năm con sợ không người biết, tên họ vẫn đề ở hông trái. Vào nước vào bùn khó thả chăn. Ngưỡng Sơn chỉ được cưỡi nửa bên. Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Từ đâu đến? Từ trong ruộng đến. Một ngày phải đến năm, ba lần. Có khi vui vẻ, có khi giận hờn. Thay đầu đổi mặt thôi chớ nghi. Vốn là người ở dưới bức rèm. Cổ Sơn Yến Quốc Sư dạy chúng: Môn hạ cổ sơn không được ho hen, trong hư không một mũi tên chín lớp thành. Môn phong lão Tuyết đều có tiếng. Chỉ nói cấm ban tuyên hiệu lệnh. Bên nào là không cho người đi. Hòa thượng Pháp Hoa Cử hỏi Lang Da: Bờ xanh Tró gấm kêu, nước chiếu cá lân vàng, đâu được khách ở kinh đô, cùng hát trên đài xuân. nào? Hưng Hóa nhân vị Tăng hỏi: bốn phương tám hướng đến thì thế Hòa nói: Đánh vào trung gian. Bụi khói ải Bắc bao năm lặng, cỏ cây Giang Nam bốn thời tươi không cần đặc biệt chia cương giới, muôn dặm núi sông giống tay băng Hòa thượng Đỗng Sơn Thông từng tự gánh củi lên núi, giữa đường gặp một vị Tăng hỏi: trên núi có củi sao lại gánh lên núi? Sơn thả củi xuống đất nói: Hội không? Tăng đáp: không hội. Sơn nói: Ta phải đốt. Lần này đi chẳng định bao giờ về. Lần này đi phải đến núi Ngũ Đài, nếu qua chỗ Mạn-thù phát ra ánh sáng. Ân cần là ta nhớ trở về. Vân Môn dạy chúng: Tách nửa xẻ ba, lỗ kim ở chỗ nào? Vì ta mỗi mỗi lấy ra xem. Tự nói thay: Trên, giữa, dưới. Năm xưa từng gõ cửa Mục Châu. Phụ nghóa quên ân lúc đợi nhân. Nghe nói tiếng Ngô (đất ngô) đều biến hết. Ngôn ngữ giống như đất Nam Man. Vân Môn nói: Người chết trên đất bằng vô số kể. Tiếng như ngọc kêu lặng bên nghe. Không tin người ẩn chẳng thấy ông. Hoa trôi về biển thường vắng lặng, áo gấm còn đem xông xạ hương, đêm đông Đỗng Sơn uống trà. Gậy chống trời chống đất đen như sơn, không chia ngày đêm là vật gì. Lấy đến ném đi trong hầm phân. Hương sen trong lửa phảng bay qua. Hòa thượng Bảo Phước Triển nhân vị Tăng hỏi: Tuyết Phong bình sanh có ngôn cú gì? Được như linh dương treo sừng. Ta không thể làm đệ tử của Thuyết Phong được. Một đời chưa rõ ngôn cú gì. Được như linh dương hóc mang sừng, đánh vỗ tự nhiên đều cùng múa. Không cần dê con mặc cánh mây thổi. Hòa thượng Đại Tùy Chân nhân vị Tăng từ biệt. Tùy hỏi: đi đâu? Đi Nga My lễ bái Phổ Hiền. Tùy dựng nhất trần nói: Văn-thù Phổ Hiền ở trong đây. Tăng vẽ một tướng vòng tròn, ném về phía sau lưng. Tùy nói: Thị giả đem cốc trà cho vị Tăng đi. Bao la muôn cây mưa hoa lê. Ngọc đống bên bờ nước muốn trôi khoảnh khắc Dương Ô lên Thái Bạch. Lúc nào thì không thấy dấu chân. Hòa thượng Pháp Vân Cảo dạy chúng: Lão Tăng ở trong màn trướng ba năm vui vẻ. Phượng bay ở Phủ cùng bày tỏ. Năm ấy núi Hoa lở nát tám mươi dặm, các ông hậu sanh như ca bầu, nơi nào biết được. Cách nước người nào ca cành trúc. Động tình người suy cùng u thẳm. Đêm khuya vào đơn vào điệu. Gió mát trăng thanh ít người nghe. Long Tế dạy chúng: Đầy đủ pháp phàm phu, phàm phu không biết. Đầy đủ pháp bậc Thánh, bậc Thánh không hội. Dung Phong gượng muôn trượng, chưa nói đủ đau lòng, nếu duyên mây không đi. Đâu biết sao Đẩu lạnh. Ba Tiêu dạy chúng: ông có gậy ta cho ông gậy. Ông có phải cho ngay mặt, hắn không tay lưng đoạt đem đến, bỗng nhiên ban đêm hóa rồng đi. Mây đen chim gió xe trời đất. Hòa thượng Quảng Đức Châu nhân vị Tăng hỏi: Thừa giáo có nói A-Dật-Đa không dứt phiền não, không tu thiền định. Phật thọ ký người này thành Phật không nghi, lý này thế nào? Đức nói: Muốn lại hết, tro lại không. Vị Tăng nói: Muốn hết, tro không, thì thế nào? Đức nói: Người sầu chớ nói với người sầu, nói với người sầu, sầu chết người. Nắm thả tùy thời tuy có chuẩn, ra cửa vào cửa e khó bàn. Đường Trường An anh phải đến, chớ đến thôn vắng ngồi trong cỏ. Tư Phúc dạy chúng: Cách sông thấy Tư Phúc dựng phướn liền về. Nhìn thấy dựng phướn quay đầu đi, ba mươi gót chân khinh chế đáp. Người nói hoa vườn trên ở ngàn cây, không thắng nhà tiên mười hai lầu. Lão tổ hễ thấy vị Tăng đến tham thì liền ngồi xoay mặt vào vách. Tuyền Thạch bệnh nặng không thể chữa. Chuông sáng ngân đến lúc chiều. Câu thiên nhiên rốt cuộc khó được, mấy lần trước gió bậm miệng cau mày. Tu Sơn Chủ, Ngộ Phòng, Pháp Nhãn đi hóa đạo đến viện Địa Tạng đụt mưa, nhóm lửa nói đạo. Địa Tạng vào phụ lửa liền hỏi. Núi sông đất đai với Thượng tọa là đồng hay khác. Địa Tạng giơ hai ngón tay rồi bỏ đi. Thoại đầu lò lửa bao nhiêu thứ. Chính mình cùng lúc làm sao xem. Thẳng xuong đứng lên trình hai tay, núi sông đất đai đen bao la. Thúy Vi cuối hạ dạy chúng: Một hạ cùng huynh đệ nói Đông nói Tây. Phát ngôn trước phải lòng không thẹn. Sai việc cần phải xử lý đúng, chớ học kế không tin dặm tường. Từ sáng đến tối bàn luận sai. Tuyết Đậu ở Thúy Phong. Lúc ấy, có mấy Tăng đến Tuyết Đậu nói: Phải mới đến không? Táng nói: phải. Đậu nói: Tham đường đi. Vị Tăng vừa đi, Đậu lại gọi nói: đến đây! Vị Tăng quay đầu. Đậu nói: Động Đình khó được sư Tăng đến, cho ông uống một cốc trà. Câu vào cửa trước đã báo. Gọi đi gọi lại đầu thứ hai, người đến đây không biết vị trà. Lộn xộn không mua thuyền Động Đình. Phần Dương dạy chúng: biết được cây gậy, việc hành cước xong, bình mạn học đồ rồng. Người nói uổng phí công, từ người chẳng thân đến, khó luận bàn cùng thông. Từ Minh nhân Tuyền Đại Đạo đến tham, Minh nói: Áng mây vàng ở miệng hang. Một văn một võ cùng giao nhau. Nói hết anh hùng mỗi khác nhau, cùng đến Trường an chầu Thánh chúa, tánh danh đều là đạt thông trời. Hoàng Long trong thất nói: niệm tán trên lầu chuông. Tiếng tán trên lầu giúp sắc thái, bỗng nhiên đột xuất lão già nua, xa xa đường xưa không cách trở, một mắt như linh ai dám hỏi. Dương Kỳ thiết trại ngày kî của Tử Minh. Một tượng gỗ khắc thành, nửa hình Thần nửa hình quỷ. Ca cổ lúc tan trời chưa sáng. Còn lại mảnh trăng lạnh não nùng. Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan nói: việc này như đầu núi muôn thước. Đều biết buông tay lại đến đáy. Chỉ là bỏ mạng không được, Pháp hoa ngày nay không động đầu sợi lông. Dạy mọi người đi đến ném gậy xuống. Nghó từ chỗ hiểm buông thân, người nào bàn luận không cau mày, bất động mây may đích thân đến, da mắt che lấp núi Tu-di. Hòa thượng Bửu Minh Dũng dạy chúng. Thích-ca bốn mươi chín năm nói pháp, không hề nói một chữ. Ưu-Ba Cúc Đa, trượng thất đầy thẻ, không hề độ một người. Đạt-ma không ở Thiếu Thất, Lục Tổ không ở Tào Khê. Ai là con cháu, ai là người giác ngộ trước. Khói ấm đất dính khí dân động, vừa mới mưa phá ruộng xuân, bờ đê xa tít vô bờ mé. Cỏ đồng hoa nhàn lần lượt sanh. Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn nhân vị Tăng hỏi: Việc về Lâm Tế thế nào? Tổ nói: Người phạm năm tội nghịch nghe sấm. Người phạm năm tội nghịch nghe sấm rất ân hận, bình thường đâu dám nói với người, từ sau sáu mươi đáp nhẹ nhàng. Lừa Tế Bắc gọi là bất lãng truyền. Ngũ tổ nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Tổ nói: miệng là cửa họa, hầm hầm hố hố, hiểm hiểm nguy nguy, một lời dễ phát, bốn ngựa khó đuổi theo. Phật Nhãn dạy chúng: Ngàn nói muôn nói không bằng chính mặt thấy dẫu không nói cũng tự rõ ràng. Dụ về dao báu của Vương Tứ. Dụ về những người mù sờ voi. Trong thiền học, việc cách sông vẫy tay, việc Đình Vọng Châu gặp nhau, việc núi sâu cao vòi vọi, đây đều chính mắt thấy không phải nói. Thà biện nhân gian đúng và sai, đời sau gặp mặt lại như mày, không nhân nói việc năm nay. Muôn xưa ngàn thu nào biết được. Thiền sư Hổ Khưu Long tham học với Tử Tâm. Tâm hỏi: ông là Tăng gì? Khưu nói: là Tăng hành cước. Ông là Tăng thôn nào? Mà đi chân lừa chân ngựa? Khưu nói: Quảng Nam Man nói gì? Sao không lớn tiếng nói? Tâm nói: Lại có nạp Tăng nín thở, bèn giữ lại qua hạ. Trong khách chê nhà nát, chân trời nhiều người xưa, khéo nhớ viết vô xứ, thoại xưa được bàn lại. Tuyết tan đá chưa mất. Mai đào trước phá xuân. Bồi hồi đầu có hẹn. Đến đây nối mùi trần. Đại Tuệ ở trong thất nói: gọi làm cành trúc thì đánh dã can kêu. Mất hết sanh nhai, không dễ mở miệng. Ứng Am nói: Câu nói không được, Không ở Thiên Thai, định ở Nam Nhạc. Sau khi Kỳ-bà đi không tín tức, người bệnh long bong ngày gõ cửa, trăm cỏ tự biết người không biết, buồn rầu ứa lệ ở bờ rào. Mật Am đập vỡ chậu cát. Là đập vỡ chậu cát, xô nhào bên núi tối, đỉnh môn kẻ mù thật ngàn xưa lụy cháu con. Sư tổ Tùng Nguyên, Lâm Tế thị tịch có để lại ngữ lục, người đại lực lượng vì sao kéo chân không nổi. Chỗ sức khó khéo nói cho anh, ngựa hay đâu nhọc lại bị roi, vừa vụt lên tầng trời ba mươi sáu, đến khi cốt phàm cũng thành tiên. Mở miệng không ở trên đầu lưỡi. Hàm hồ một đời không phân rõ, mở miệng không hề ở đầu lưỡi. Gió nghiệp muôn xưa thổi không hết. Lại theo trăng sáng qua La-phù. Nạp Tăng Minh Nhãn, vì sao dưới gót chân tợ lụa hồng không đứt. Dưới chân không đứt tợ lụa hồng, đánh vỡ trời đất tự tại đi. Lấp hang lấp hố không nơi nào có, trở về vẫn là hai mày ngang, Dương Hùng Trước Đại Huyền: Liền nói: đời không ai biết ta, lúc ấy có Tử Vân sống lại, đây cũng là lời hổ thẹn. Nhờ con họ Thích, sự che chở của Đại Thánh. Mỗi khái niệm tuệ mạng này như tơ treo. Làm nhiều ăn ít, lại khẩn chí hết sức lâu ngày mới được. Đi tuần lễ các Tổ khắp Hồ Tương. Đối cảnh suy người bèn lấy cơ duyên tinh áo. Lúc ấy làm bài tụng. Từ khe rồi lại núi, chỉ hơn bốn mươi tắc. Hạ Tân Sửu tạ sự, Chi Phong. Phân rèm bày hang. Duyên dứt hang sâu. Lại lấy Phật Tổ trở xuống. Đều là kẻ công khách tục nạp cơ khế đời Đường. Cuối cùng thành một trăm tắc. Lúc đầu không chọn sự hơn kém của Nho, Thích, Đạo. Chỉ tìm sự ngay thẳng chân chánh mà thôi. Lúc ấy, hoặc ngưng, hoặc chảy. Hoặc sống hoặc chết, chẳng thể trói buộc, không thể lý sai. Người trong đó, vừa thấy liền tỏ, đâu dám lén thưởng thức. Kích tiết với nhau, thẳng muốn báo một trong muôn phần Phật Tổ là điều ta nguyện. Ngày tốt năm Nhâm Dần niên hiệu Thuần Hưu thứ 2, Trí Ngu kính ghi.  HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 6 THAY RIÊNG Nêu: Một hôm Đức Thế tôn thấy Văn-thù đứng ngoài cửa liền nói: Nầy Văn-thù! Văn-thù! Sao không vào đây. Văn-thù nói: Con không thấy một pháp nào ngoài cửa, vì sao Đức Thế tôn dạy con vào cửa? Nói thay: người khai mở cho ta là nhiều. Nêu: Thế tôn nhân ngoại đạo hỏi: Hôm qua nói pháp gì? - Nói pháp định. Lại hỏi: Hôm nay nói pháp gì? Nói pháp bất định. Hôm qua nói định, hôm nay sao nói bất định? Vì hôm qua định, hôm nay bất định. Nói thay ngoại đạo, nhìn nhau rồi bỏ đi. Nêu: Thế tôn sắp nhập Niết-bàn, Văn-thù thỉnh xoay bánh xe pháp lần nữa. Đức Thế tôn quở trách rằng: Ta trụ thế bốn mươi chín năm không hề nói một chữ. Ông lại thỉnh xoay bánh xe pháp là ta có xoay bánh xe Pháp ư? Nói thay Văn-thù rằng: Đức Thế tôn cuối cùng ân cần. Nêu: Lương Võ Đế thỉnh Phó Đại Só giảng kinh, Đại só mới lên tòa, gõ thước vào bàn một cái rồi xuống tòa. Vua ngạc nhiên. Chí Công liền hỏi: Bệ hạ có hội không? Đế nói: không hội. Chí Công nói: Đại Só giảng Kinh xong rồi. <詞>THAY VÕ ĐẾ NÓI THẬT LÀ ÍT NGHE Nêu: Trung Quốc Sư nhân Hoàng Đế Túc Tông hỏi: Sư ở Tào Khê Đắc pháp gì? Sư nói: Bệ hạ có thấy một áng mây trên bầu trời không? Vua nói: thấy. Sư nói: Đinh đóng trên vách núi. <詞>NÓI THAY: TÀO KHÊ Ở ĐÂU Nêu: Trung Quốc Sư hỏi Nam Tuyền. Từ đâu đến? Tuyền nói: Từ Giang Tây đến. Sư nói: Có đem được hình Mã Đại Sư đến không? Tuyền nói: Chỉ là thế. Sư nói: sau lưng dần dần. Tuyền lại thôi. <詞>THAY NAM TUYỀN, DÙNG CHÂN CHÀ MỘT CÁI RỒI ĐI Nêu: Trung Quốc Sư nhân Ma Cốc đến, liền rung tích một cái, bỗng nhiên đứng yên. Sư nói: ông đã như thế đâu cần yết kiến ta? Cốc lại dộng tích trượng một cái. <詞>NÓI THAY: ÔNG ĐƯỢC THẤY TA Nêu: Trung Quốc Sư nhân Ngu Quân Dung hỏi: Lúc sư ở núi Bạch Nhai, tu hành thế nào? Sư gọi Đồng tử, lấy tay xoa đầu nói. Sợ hãi lời ngay, sợ hãi rõ ràng, lời ngay rõ ràng. Sau này chẳng bị người chê. Quân Dung không đáp được. <詞>NÓI THAY: ĐỆ TỬ ĐẾN ĐÂY LẠI KHÔNG LỄ PHẬT. Nêu: Phong Can nhân Hàn Sơn Tử hỏi: Gương xưa không mài làm sao chiếu sáng? Can nói: Ao nước không hình bóng, vượn tìm trăng đáy nước. Sơn nói: Đó là không chiếu sáng. Hàn Sơn, Thập Đắc đều làm lễ mà lui. <詞>THAY NÓI: NHÂN TA DẪN ĐẾN ĐƯỢC Nêu Hòa thượng Bố Đại thường đeo đãy vải và chiếu rách đi lại khắp đường. Trong túi vải chứa đầy chén bát, cây, dép, cơm cá, Trà, thịt, gạch đá, cây đất. Hoặc ở chỗ đông người bày nhưng vật trong túi ra, nói: khán khán. Lại mỗi mỗi đem ra hỏi người: mọi người gọi là gì? Chúng không đáp được. <詞>NÓI THAY: VỢ XẤU NHƯỚNG MÀY Nêu: Vô Trước đến Đài Sơn. Văn-thù hỏi: Đại Đức từ nơi nào đến? Vô Trước đáp: Từ Phương Nam đến. Phương Nam Phật pháp trù trì thế nào? Tỳ-kheo thời Mạt phát ít vâng giữ giới luật. Có bao nhiêu vị? Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm. Vô Trước lại hỏi: Hòa thượng lúc nầy trụ trì thế nào? Phàm Thánh đồng cư, rồng rắn lẫn lộn. Bao nhiêu chúng? Trước ba ba sau ba ba. <詞>NÓI THAY: BAO NHIÊU KHÔNG ĐẾN ĐÂY. Nêu: Vô Trước đến Đài Sơn gặp Văn-thù uống trà, sau đó Văn-thù lấy ra chén pha-lê hỏi: Phương Nam còn có thứ này không? - Không Bình thường lấy gì uống trà? Vô Trước không đáp được. <詞>THAY VỪA VÁI CHÀO LIỀN ĐỨNG DẬY Nêu: Nam Tuyền dạy chúng: Vương lão sư bán thân rồi, có người mua không? Lúc ấy, có vị Tăng bước ra thưa: Đệ tử mua Tuyền Không làm sang, không làm hèn làm sao mua Vị Tăng không đáp được. <詞>NÓI THAY: NẾU CÓ NGƯỜI KHÁN VIỆC NẦY THÌ ĐỆ TỬ CŨNG KHÔNG TỪ BỎ Nêu: Nam Tuyền dạy chúng: Pháp thân có bốn đại, có người nào nói được thì cho ông ta sợi dây quần. Đạo Ngô bước ra, nói: Tánh đất chẳng phải không, không chẳng phải phải tánh đất. Đây là địa đại, ba đại còn lại cũng vậy. Tuyền không trái lời trước bèn cho dây quần. <詞>THAY ĐẠO NGÔ: GÕ VÀO RĂNG LẤY QUYẾT Nêu: Hoàng Bá dạy chúng: Các ông đều là kẻ uống rượu cặn hành cước như thế, chỗ nào có ngày nay. Có biết trong nước Đại Đường không có Thiền sư chăng? Lúc ấy, có vị Tăng bước ra nói: như các vị lãnh đồ chúng thì làm sao? Nói: chẳng nói không thiền, chỉ là không có sư. <詞>THAY TĂNG NÓI: CHỊU ƠN SÂU THÀNH THAY THẾ. Nêu: Triệu Châu ở chỗ Nam Tuyền. Lúc ấy, ở trên lầu giếng, thấy Tuyền đi qua liền thả một chân nói: cứu tôi cứu tôi. Tuyền dẫm đạp trên thang lầu, đánh nói: 1, 2, 3, 4, 5 Châu đầy đủ oai nghi lên phương trượng nói: vừa đến cám ơn Hòa thượng cứu tôi. <詞>NÓI THAY: LÃO TĂNG KHÔNG TIỆN Nêu: Tây Đường nhân giữa đường gặp thiên sứ bèn mời ở lại thọ trai bỗng lừa kêu, Sứ nói: Đầu-đà. Đường ngẩng đầu. Sứ chỉ con lừa, Đường lại chỉ Sứ, Sứ không nói được. <詞>NÓI THAY TỘI LỖI CỦA HẠ QUAN Nêu: Quy Tông nhân Lý Bột hỏi. Núi Tu-di chứa hạt cải, Bột liền không nghi. Hạt cải chứa núi Tu-di chẳng phải là vọng ư? Tông nói: Nghe nói sứ quân đọc muôn quyển sách phải không? Đúng vậy. Tông nói: Thân chỉ to như cây dừa, muôn quyển sách để chỗ nào? Lý Công cúi đầu mà thôi. <詞>NÓI THAY: LÝ SẼ CHO LÀ KHÔNG NGƯỜI Nêu: Đại Mai nhân Bàng Cư Só hỏi: Nghe tiếng Đại Mai lâu rồi, chẳng hay mai chín chưa? Mai nói: Ông hướng về chỗ nào mà nói? - Trăm thứ lộn xộn. Mai nói: Còn Ta hạt đến. <詞>NÓI THAY: BÌNH XUẤT Nêu: Thù Du nhân Triệu Châu lên Pháp đường, nhìn Đông nhìn Tây, Thù Du nói: Thế nào? Tìm nước Ta trong đây một giọt nước cũng không có tìm cái gì? Châu dựng gậy tựa vách rồi đi ra. <詞>NÓI THAY: CHỚ NÓI ĐƯỢC TIỆN NGHI Nêu: Đỗng Sơn nhân vị Tăng hỏi: Trong ba thân thân, nào nói pháp? Sơn nói: Ta thường ở đây tha thiết. Sau đó, Tăng hỏi Tào Sơn: Đỗng Sơn nói: Ta thường ở đây tha thiết, ý chỉ thế nào? Tào Sơn nói: Muốn chặt đầu đem đi. Tăng lại hỏi Tuyết Phong Phong dùng gậy đánh vào miệng, nói: Ta cũng từng đến Đỗng Sơn, vị Tăng không đáp được. <詞>NÓI THAY: HƠI THỞ GẤP GIẾT NGƯỜI Nêu: Thạch Thất nhân Hạnh Sơn vào nhà giã gạo, gặp nhau bèn nói: không dễ đi. Thật nói: có gì không dễ? Mở bát tâm đựng đem đến không che lồng bàn đem đi, Hạnh không nói được. <詞>NÓI THAY: DƯỚI LONG MÔN Nêu: Chương Kính nhân Tiểu Sư du phương trở về, liền hỏi ông rời nơi đây bao nhiêu năm rồi? Từ lúc rời Hòa thượng gần được tám năm. Kính nói: Làm được việc gì? Tiểu Sư đến chỗ đất vẽ tướng vòng tròn. Kính nói: Chỉ cái này thì có riêng. Tiểu sư vẽ phá tướng vòng tròn, làm lễ mà lui. <詞>THAY NÓI: NHÀ KHÔNG CÓ SỨ NHO THÌ KHÔNG THÀNH QUÂN TỬ Nêu: Tuyết Phong nhân vị Tăng từ biệt, hỏi: Đi đâu? Đi lễ bái Hòa thượng Kính Sơn. Nếu Kính Sơn bỗng hỏi ông: lúc này Phật pháp thế nào thì ông nói làm sao? Đợi hỏi thì nói Phong liền đánh. Lại về hỏi Cảnh Thanh: Giả Tăng qua chỗ nào cũng đều ăn gậy. Thanh nói: hỏi được Kính Sơn thì hết khốn. Phong nói: Kính Sơn ở Chiết Trung, làm sao hỏi được hết khốn. Thanh nói: không thấy nói, xa hỏi gần đáp ư? Phong liền thôi. NÓI THAY DÂY MỰC LỖ BAN Nêu: Tuyết Phong từ biệt Đỗng Sơn, Sơn hỏi: đi đâu? Đi về núi. Lúc ấy từ đường nào ra? Từ núi Vượn Bay mà ra Nay đi về đường nào? Đi đường núi Vượn Bay. Có một người không đi từ núi Vượn Bay ông có biết không? Không biết. Vì sao không biết? Ông ta không có mắt mũi. Ông đã chẳng biết vì sao biết không có mắt mũi? Phong không đáp được. <詞>NÓI THAY KHÔNG DÙNG MẮT THẤY Nêu: Tuyết Phong nhân Cổ Sơn đến thăm, mới vào cửa Phong túm ngực áo nói: là gì? Sơn khế ngộ, giơ tay làm ra vẻ múa. Ông thực hành đạo lý ư? Đâu có đạo lý gì? Phong Ấn khả <詞>THAY CỔ SƠN NÓI: HÒA THƯỢNG KHÔNG XEM THƯỜNG TRẺ CON Nêu Linh Vân hỏi vị Tăng: Đi đâu? Đi đến Tuyết Phong. Ta có thư gởi Tuyết Phong. Nói: Thỉnh Vân cởi giày, ném trước mặt. Vị Tăng liền đi. Phong hỏi Từ đâu đến? Từ Linh Vân đến. Hòa thượng có khỏe không? Có thư gởi cho người, nói rồi cởi giày, ném trước mặt. Phong liền thôi. <詞>NÓI THAY: NGHÓ ÔNG CÒN ĐẾN Nêu: một hôm Trường Khánh thăng đường, chúng nhóm họp, Khánh kéo một vị Tăng ra nói: Đại chúng lễ bái giả Tăng nầy. Lại nói: Giả Tăng có rất nhiều tài. Lại dạy đại chúng lễ bái. Chúng không đáp được. <詞>NÓI THAY: ĐƯỢC ĐƯỢC ĐƯỢC Nêu: Linh Thọ nhân có vị ni đưa bình bát cho Sư, liền bày ra hỏi: Cái này từ đâu ra? Ni nói: Từ Định Châu ra Thọ liền đập bể. Ni không nói được. <詞>NÓI THAY: ĐỆ TỬ KHÔNG HỢP Ý HÒA THƯỢNG Nêu: Hòa thượng Vân Cư Ưng nghe dưới núi có một vị Tăng ở am, sai thị giả đưa dây quần cho Tăng. Vị Tăng nói: Ta tự có cái khố do mẹ sanh rồi, sau đó không nhận Lại sai thị giả đi hỏi: khi mẹ chưa sanh mặc cái gì? Vị Tăng không nói được. <詞>NÓI THAY CHỈ DAM CÙNG CHÂN Nêu: Vân Môn có nêu Mã Đại Sư nói: Tất cả ngôn ngữ là Tông của Đề-bà. Lấy đây làm chủ, liền nói: lời tốt chỉ là không có người hỏi ta. Lúc ấy, có vị Tăng liền hỏi: Thế nào là Tông của Đề-bà? Môn nói: Tây Thiên chín mươi sau loại: Ông là loại thấp nhất. <詞>LỄ BÁI THAY RỒI LUI Nêu: Vân Môn hỏi Thủ tọa: núi sông, đất đai là đồng hay khác với ông? Thủ tọa nói: Đồng. Môn nói: Vì sao chiến tranh nối tiếp nhau. <詞>THAY THỦ TỌA THÈ LƯỠI ĐỨNG NGHIÊNG Nêu: Vân Môn hỏi vị Tăng: Từ đâu đến? Tăng đáp: Lễ tháp đến. Môn nói: Dối ta Tăng nói: Đệ tử thật lễ tháp đến Môn nói: năm giới cũng không giữ Vị Tăng không nói được. <詞>NÓI THAY: MỖ GIÁP VỪA VÀO ĐẠO Nêu: Hòa thượng Diệp Huyền Tỉnh hỏi vị Tăng: Buổi chiều vào rừng, buổi sáng rời chỗ nào? Vị Tăng nói: Đệ tử không hề tham thiền. Huyền nói: Ông hiện đời đọa vào địa ngục. Vị Tăng không nói được. <詞>NÓI THAY AI KHÔNG THỪA ÂN Nêu: Diệp Huyền hỏi vị Tăng: vừa rời chỗ nào? - Vừa rời huyện Tương Châu Diệp kéo đồng tử, đánh một tát, liền hét đuổi ra. Vị Tăng không nói được. <詞>NÓI THAY: XUỐNG NƯỚC THẤY NGƯỜI CAO. Nêu: Hàn Văn Công hỏi vị Tăng: Nghe nói Sư giảng được Triệu luận phải không? Phải Công nói: Triệu có bốn thứ không đổi dời phải không? Phải. Công đập bể tách trà nói: Cái này là đổi dời hay không đổi dời? Vị Tăng không nói được. <詞>NÓI THAY: KHÔNG TRẢI QUA MỘT VIỆC KHÔNG LỚN THÊM MỘT TRÍ Nêu: Một hôm, Lạc Phố nhân Thị giả nói: Pháp sư Triệu soạn được bốn luận, thật là kỳ quái. Phố nói: Pháp sư Khải thật kỳ quái, lại không thấy Tổ Sư. Thị giả không nói được. Nói thay: Đập cỏ rắn sợ. Nêu: Hòa thượng Bảo Ứng Ngung nhân vị Tăng hỏi: từ trên các bậc Thánh đi về chốn nào? Ứng đáp: Không lên cõi trời, không xuống địa ngục. Vị Tăng nói: Còn Hòa thượng thế nào? Ứng đáp: Có biết Hòa thượng Bảo Ứng rơi vào chỗ nào không? Vị Tăng suy nghó. Ứng gõ phất trần vào miệng, lại gọi vị Tăng đến gần, nói: làm cho hợp với hạnh của ông. Lại đánh một phất trần. Thay chỗ Tăng suy nghó, lấy mắt nhìn, dùng tay chỉ. Nêu: Chân Điểm hung ở trong hội Hòa thượng Quy Tông Nam làm Thủ tọa. Lúc ấy, Quy Tông hỏi: Thừa Thủ tọa thường vì người mà nêu thoại đầu người nữ xuất định phải không? Không. Xa xỉ không tiết kiệm, tiết kiệm thì không xa xỉ, vì sao nói không? Nếu là bổn phận nạp, Tăng cũng không được thiếu muối tương, Tông gọi Thị giả báo với Điển tọa, ngày sau chỉ nấu cháo trắng. Nói thay: phụ tâm người không buông nợ. Nêu: Thiền sư Thạch Sương Khánh chư nhân vị Tăng từ biệt, Sương hỏi: Đi thuyền hay đi bộ? Gặp thuyền đi thuyền, gặp bộ đi bộ. Sương nói: Ta nói nửa đường hơi khó. Vị Tăng không nói được. Nói thay: vội vàng nghiêng ngửa không quên gửi gắm. Nêu: Minh Chiêu đến chỗ trưởng Lão Tuyền Châu Thản. Thản nói: Về tham học, chỗ một người cũng phải đến, chỗ nửa người cũng phải đến. Chiêu liền hỏi: Chỗ một người thì bất luận. Chỗ nửa người là thế nào? Thản không nói được. Sau đó sai Tiểu Sư hỏi Chiêu, Chiêu nói muốn biết nửa người không? Cũng chỉ là kẻ chơi cục bùn. Thay Trưởng lão Thảnh lại được lễ tạ. Nêu: Thiền sư Hạc Lâm Tố nhân vị Tăng gõ cửa. Lâm hỏi: ai? Vị Tăng. Chẳng những là Tăng mà Phật đến cũng không được. Vì sao Phật đến cũng không được? Chẳng phải chỗ ông đến. Nói Thay: không uổng bán đi vải thô. Nêu: Hòa thượng Vụ Châu Tấn Kiến một đời không nuôi Sa-di, có Tọa chủ nói: Hòa thượng tuổi lớn sao không nuôi một tiểu sư để lo lắng, hầu hạ. Nếu có người nào mắt mù, tai điếc, miệng câm đến thì ta nhận. Tọa chủ không đáp được. Nói thay: Mỗ giáp có thể rưới quét. Nêu: xưa có vị Lão túc hỏi một vị Tọa chủ: Sớ sao giải nghóa lược rộng thế nào? Sao giải sớ, sớ giải kinh. Kinh giải gì? Tọa chủ không nói được. Nói thay: Khán lấy khoa đầu. Nêu: Hòa thượng Thiên Thai U Thê, một hôm chuông đổ thượng đường, chúng mới nhóm họp liền hỏi: ai đánh chuông? Vị Tăng nói: Duy Na. Đến gần đây. Vị Tăng đến gần. Thê cho một chỏ rồi về phương trượng Nói thay: Chỉ sợ Hòa thượng có ưu điểm riêng. Nêu: xưa có một vị hành giả theo Pháp sư vào điện Phật, hành giả hướng về Phật hỉ nhổ. Pháp sư hỏi hành giả vì sao hỉ nhổ trước Phật? Hành giả nói: Sẽ đến chỗ không có Phật cho mỗ giáp hỉ nhổ. Sư không đáp được. Nói thay Mình rắn đuôi ba ba. Nêu: xưa có vị Tăng đến gặp Thúy Nham, gặp lúc Thúy Nham không có nhà, liền gặp chủ sự. Chủ sự nói: Tham kiến Hòa thượng chưa? Chưa. Sự chỉ con chó, nói: Thượng nhân muốn thấy Hòa thượng chỉ lễ bái con chó này. Vị Tăng không nói được. Nói thay bày biện Thúy Nham thì được. Nêu: xưa, nước Cao-ly đến Tiền Đường khắc tượng Quán Âm rồi đưa lên thuyền, nhưng tượng không nhúc nhích. Do đó thỉnh vào cúng dường chùa khai Nguyên ở Minh Châu Sau đó, có người hỏi: không cõi nào chẳng hiện thân. Tượng Thánh sao không đi về nước cao-ly? Nói thay: chỗ thuần thục khó quên. Nêu: xưa, có vị Tăng đến Tào Khê, nhân giữ y bát, Tăng đưa y lên nói: Đây là núi lớn đưa không nổi. Tào nói: vì sao ở trong tay Thượng tọa? Vị TTăng không nói được. Nói thay: người nhân thấy cho là nhân. Nêu: xưa, có vị Tăng ôm bát đến nhà Trưởng giả, bỗng bị chó cắn, Trưởng giả nói: Rồng mang một sợi tơ, chim cánh vàng không nuốt, Đại đức mặc toàn pháp phục vì sao bị chó cắn. Vị Tăng không nói được. Nói thay: Dưa ngọt ngọt đến gốc. Nêu: xưa, có vị thí chủ vào viện, cúng dường Tăng chúng tính theo năm. Chủ sự nói: Trước Thánh Tăng để một phần. Thí chủ nói: Thánh Tăng bao nhiêu năm? Chủ sự không nói. Thay chỉ bày ngược. Nêu: Hòa thượng Tương Châu Triết nhân đàn việt thỉnh Thủ tọa khai đường, chủ sự đến bạch, Triết nói: Đúng thì đúng nhưng thiếu ngộ. Thủ tọa nghe nói buộc hành trang đi nơi khác. Triết dùng gậy đánh, đuổi ra. Nói thay: không dám cô phụ Hòa thượng. Nêu: xưa có vị đạo só ở trước điện ngồi quay lưng về phía Phật. Vị Tăng nói: Đạo só chớ quay lưng về phía Phật. Đạo só nói: Thân Phật đức lớn đầy khắp pháp giới, dạy ta ngồi chỗ nào? Nói thay Quên con là người của giáo khác. Nêu: Thúy Vi Vô Học Thiền sư hỏi Đan Hà: Thế nào là thầy chư Phật? Hà mắng nói: may tự đang thương đời, có cần cầm khăn không? Vi lui thêm ba bước. Hà nói: “Lầm”. Vi liền tiến tới. Hà cũng nói “lầm” Vi kiểng một chân xoay mình mà đi. Hà nói: Được thì được, cô Phụ thầy của Chư Phật. Nói riêng “lầm, lầm” Nêu Trung Quốc Sư nhân Tây Đường Tạng và Mã Tổ đem thư đến. Sư hỏi: Thầy Ông nói pháp gì? Tạng đi từ Tây qua Đông rồi đứng lại. Sư nói chỉ riêng có cái này, chẳng còn có không? Tạng đi từ Đông qua Tây rồi đứng lại. Sư nói Người này là Mã Tổ, Nhân giả làm thế nào? Tạng nói: Đã trình với Hòa thượng rồi. Biệt Tây đường hậu Ngữ nói: khi đến dạy xin lấy sách về. Nêu: Mã Tổ nhân có vị Tăng ở trước vẽ bốn lằn, ba lằn trên thì dài, ba lằn dưới ngắn. Liền bảo: không được nói một lằn dài, ba lằn ngắn, lìa bốn câu dứt trăm phi phi, thỉnh sư đáp. Tổ vẽ một đường nói: không được nói một đường dài, ba đường ngắn, đáp cho ông rồi. Biệt thỉnh chỗ đáp: Nói tuổi Lão Tăng phải ở hố. Nêu: Nam Tuyền dạy chúng: Mã tổ ở Giang Tây nói tức tâm tức Phật. Vương lão sư thì không như vậy, nói chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, nói thế có lỗi không? Bấy giờ, Triệu Châu ra lễ bái rồi lui. Kế đó, có vị Tăng hỏi Triệu Châu: Thượng tọa lễ bái ý thế nào? Châu nói: Ông hãy đến hỏi Hòa thượng. Vị Tăng lại hỏi Nam Tuyền: vừa rồi ý Thượng Tòa Thẩm nghó thế nào? Tuyền nói: Ông ta lãnh hội được ý lão Tăng. Riêng ngồi xoay mặt vào vách. Nêu: Quy Tông cắt cỏ, có vị Tọa chủ đến tham, bỗng thấy con rắn bò qua, Tông liền chặt đứt. Chủ nói: Nghe tiếng Quy Tông đã lâu vốn là sa môn hạnh thô. Tông nói: Ông thô hay ta thô? Nói riêng: Tâm tốt không được quả báo tốt. Nêu: Ma Cốc hỏi Lâm Tế: Đại Bi ngàn tay ngàn mắt, mắt nào là mắt chính? Tế nói: Đại Bi ngàn tay ngàn mắt, thế nào là mắt chính? Nói mau nói mau. Cốc kéo Lâm Tế ngồi xuống giường thiền. Tế bèn đứng dậy nói: chẳng hay Cốc nghó gì? Tế bèn hét, kéo Cốc ngồi xuống giường thiền, Cốc bèn đi ra. Biệt Lâm Tế không xét chỗ. Nói: Dã Hồ tinh liền dậy đi. Nêu: Hòa thượng Tây Đường Tạng, một hôm khi giảng chung cho đại chúng nói: nhân quả rõ ràng đâu thể làm gì được. Bấy giờ, có vị Tăng bước ra dùng tay bươi đất. Đường nói: làm gì vậy? Tăng nói: cứu tôi, cứu tôi. Đường nói với Đại Chúng: Sư Tăng còn khá một chút. Vị Tăng rũ tay áo bỏ đi Đường nói giòi trong xác sư tử tự ăn thịt sư tử. Biệt Tăng rũ tay áo bỏ đi, nói: chớ phạm người gieo mẹ. Nếu Vân Nham hỏi Bách Trượng mỗi ngày khiu khu là vì ai? Trượng nói: Có một người cần. Nham nói: Vì sao không dạy y tự làm? Trượng nói: Cuộc sống ông ta không nhà cửa. Biệt: Bách Trương nói xưa nay tôn quý. Nêu: Hòa thượng Tam giác ấn dạy chúng: nếu nói việc này, nháy lên lông my, chính là lầm quá. Lúc ấy, Ma Cốc bước ra hỏi: Nháy lên lông mày thì bất luận, thế nào là việc này? Giác nói: lầm quá rồi. Cốc liền xô nhào giường thiền, Giác liền đánh. Biệt, Ma Cốc mới hỏi nói ngậm sắt mang yên. Nêu: Lỗ Tổ nhân Đỗng Sơn đến tham, Lễ bái xong đứng hầu chốc lát rồi ra. Rồi vào lại, Tổ nói. Chỉ như thế, chỉ như thế, cho nên như thế. Đỗng sơn nói: Phần lớn có người không chịu. Tổ nói: Làm sao dùng miệng ông để biện. Đỗng Sơn liền hầu gần mấy tháng. Biệt, Đỗng Sơn lời trước nói. Không ngại đường hiểm nguy đến yết kiến Hòa thượng. Nêu: Hòa thượng Mã Đầu Phong Tạng ở Từ Châu dạy chúng: Biết mà không biết chẳng phải là không biết mà nói không biết. Nam Tuyền nói: Như thế theo sư nói mới được một nửa. Biệt: Nam Tuyền nói sáu tai không cùng mưu. Nêu Hòa thượng Tề Phong nhân Băng công hỏi: Từ đây đến Phong Đỉnh xa mấy dặm? Phong nói: Đi đến nơi nào? Đá Cứng đáng chết không được hỏi. Phong nói: là bao nhiêu? Một, hai, ba. Nêu: Hòa thượng Mễ Lãnh ở Hồng Châu, dạy chúng: chớ vượt qua đây? Lúc ấy, có vị Tăng hỏi: Chưa rõ thế nào là chớ vượt qua đây? Là không ra. Vị Tăng ấy sau đó hỏi Trường Khánh thế nào là không ra? Khánh nói: Ông định gọi là gì? - Biệt Trường Khánh nói: nghe tiếng từ lâu. Nêu: Hòa thượng Quảng Tuệ Chân nhân Phong Huyệt hỏi: khi sa thải vào niên hiệu hội xướng. Hộ pháp thiện thần đi chỗ nào? Tuệ nói: Thường ở trong chợ, nhưng lại không có người thấy. Huyệt nói: Ông thấu suốt rồi. Biệt Phong Huyệt nói: Biết ông sức yếu. Nêu: Hòa thượng Từ Minh ngày đông yết thị trước Tăng đường, làm tướng này…, nếu người biết được, không lìa bỏ bốn oai nghi. Thủ Tọa vừa thấy liền nói với chúng: Hòa thượng hôm nay phóng tham. Vị Thủ tọa khác nói: Mỗ Giáp thay Hòa thượng xuống Diên Thọ đường, nêu: Đao Ngô nhân vị Tăng hỏi: Bồ-tát không có thần thông. Vì sao dấu vết khó tìm. Ngô nói: Người đồng đạo mới biết. Tăng nói: Hòa thượng có biết không? Ngô nói: không biết. Vì sao không biết? Ngô nói: Đi! Ông không hội lời ta nói. Biệt nói: chỉ tương tự như duyên. Nêu: Kim Phong giơ gối lên nói: tất cả mọi người gọi là cái gối, Kim Phong nói: không đúng. Vị Tăng nói: Chẳng hay Hòa thượng gọi là gì? Phong giơ cái gối kê lên nói: như thế thì y theo đó mà thực hành. Nói: Ông gọi là gì? - Cái gối Phong nói rơi vào hang ổ Kim Phong. Vị Tăng khác nói: chỗ cái gối tách mặt liền ném. Nêu: Khâm Sơn và Tuyết Phong cùng Nham Đầu ngồi thiền, Đỗng Sơn đi pha trà, Khâm Sơn nhắm mắt. Đỗng sơn hỏi: Đi đâu? Đi vào định. Định vốn không cửa, từ đâu mà vào? Biệt, Khâm Sơn nói: Ngày này khốn, Nêu: Huyền Sa nhân vị Tăng hỏi: hết cùng tận các thế giới mười phương một hạt ngọc sáng, vì sao học nhân không hội? Sa nói: hội làm gì? Biệt, Huyền Sa nói: Ông đâu được tự làm tổn thương sanh mạng mình. Nêu Huyền Sa lúc đầu đến huyện Bồ Điền, Bách Hý đón Ngài. Hôm sau, hỏi Trưởng Lão Tiểu Đường: Hôm qua nhiều duyên ồn ào đi đâu hết rồi? Tiểu đường nhất góc cà-sa lên. Huyền Sa nói: Thật không có liên quan. Biệt Tiểu Đường nói: lãnh hội từ bi rất sâu. Nêu: Huyền Sa và Địa Tạng nói chuyện trong phương trượng. Đêm khuya bèn nói: cửa thị giả cách cửa ông, ông làm sao ra được? Địa Tạng nói: Cái gì gọi là cửa? Biệt, Địa Tạng nói cha con một nhà. Nêu: Ngưỡng Sơn hầu Quy Sơn, bỗng nghe chim kêu. Quy Sơn nói: Y nói việc lại là đường tắt. Không thể nói với người khác. Vì sao? Vì y nói rất ngay thẳng. Bao nhiêu pháp môn? Chữ tịch một lúc đẩy xuống. Việc đẩy xuống thì thế nào? Quy Sơn gõ vào giường thiền ba cái. Lời bạt của Biệt Ngưỡng Sơn nói Hòa thượng mù mờ thì không thể. sao? sao? Nêu: Hòa thượng Trường Khánh Lăng hỏi vị Tăng: Đi đâu? Tăng đáp: Đi Cổ Sơn. Cổ Sơn có câu cửa đá không khóa. Có người hỏi ông, ông nói làm Đêm qua ngủ ở Báo Từ. Cổ Sơn có câu cửa đá không khóa. Có người hỏi ông, ông nói làm Đêm qua ngủ ở Báo Từ. Nếu đánh vào cột sống ông thì thế nào? Nếu Hòa thượng thực hành gậy nầy thật không dối thì được trời người cúng dường. Dường như phóng qua. Biệt nói: Cầm lửa đi đêm. Nêu: Vân Môn hỏi Ba Lăng Tuyết Phong: Mở cửa Đạt-ma đến ý thế nào? Lăng nói: Trét vào mũi của Hòa thượng. Môn nói: Tu-la ác phát, cầm núi Tu-di nhảy lên phạm Thiên báo cho Đế-thích. Vì sao lại ẩn thân trong nước Nhật-bản? Lăng nói: Chớ có tâm hạnh như thế. - Ông nói trét là thế nào? Biệt, sau lời Ba Lăng nói tất cả đều già lớn. Nêu Hòa thượng Đỗng Sơn hễ có khách đến liền hỏi: “Con trâu đực của Quy Sơn” làm sao hội? Trước sau đều không khế hội. Tuyết Đậu đến cũng hỏi, Đậu nói làm gương mẫu cho người sau, Sơn định nói, Đậu lấy Tọa Cụ phất cho một cái rồi đi. Sơn nói: Hãy đến đây Thượng tọa. Đậu nói: Tham đường đi Biệt, chỗ Đỗng Sơn định nói là con trâu. Nêu: Quy Sơn thấy Hương Nghiêm Ngưỡng Sơn làm bánh, Quy Sơn nói lúc này Bá Trượng Tiên Sư đích thân thấy lý này. Ngưỡng Sơn và Hương Nghiêm nhìn nhau nói: Người nào đáp được lời này. Quy Sơn nói có người đáp được. Ngưỡng Sơn hỏi: ai? Quy Sơn chỉ con trâu đực bảo: nói nói. Ngưỡng Sơn đem một bó cỏ đến, Nghiêm đem một thùng nước đến trâu bèn cúi đầu uống. Quy Sơn nói: đúng thế đúng thế, không đúng thế, không đúng, hai người đều làm lễ. Quy Sơn nói: có lúc tối, có lúc sáng. Biệt, sau lời Quy Sơn nói nhọc mà vô công. Nêu: Dũng Tuyền nhân Tuyết Phong hỏi liền mở cửa. Phong kêu Tuyền nói: Bốn người khiêng Cái nào mấy người khiêng? Phong rung mình nói: Nói gì? Tuyền nêu lại. Phong nói Đi đi, ông ta không hội. Biệt, chỗ Dũng Tuyền nêu lại nói Hòa thượng yên ổn ngồi kiệu. Nêu: Đức Sơn nhân vị Tăng nhìn, bèn đến gần trước làm thế đánh. Sơn nói: Như thế là vô lễ, đáng ăn cây gậy trong tay Sơn Tăng. Tăng rũ tay áo bỏ đi. Sơn nói: Dù ông như thế, chỉ được một nửa. Vị Tăng xoay mình, liền hét. Sơn đánh nói: phải là ta đánh ông mới được. Vị Tăng nói: Các vị có người mắt sáng Sơn nói: Thiên nhiên có mắt. Vị Tăng banh hai mắt ra nói: “con mèo”, liền đi ra Sơn nói: Hoàng Hà ba ngàn năm một lần trong. Biệt, ta bình thường thích đánh người, hôm nay không được dừng tù trưởng trí. Nêu: Hòa thượng Đào Tràng Nột nhân vị Tăng hỏi: làm sao thấy được tánh nghe mà không tùy duyên? Nột nói: Ông nghe xem. Vị Tăng làm lễ. Tràng nói: Người điếc cũng hát khúc nhà Hồ, tốt xấu cao thấp tự không biết. Tăng nói: Tánh nghe rõ ràng như vậy. Tràng nói: Đá đứng trong hư không, lửa đốt ở trong nước. Biệt, Chỗ tánh nghe rõ ràng của vị Tăng, Gọi Tăng đến gần đứng chốc lát, suy nghó định hỉ nhổ. Nêu: Nam Tuyền hỏi vị Tăng: Đêm đến gió lành. Tăng nói: Đêm đến gió lành. Tăng nói: Đêm đến gió lành. Tuyền nói: Thổi gãy cành thông trước cửa. Tăng nói: Thổi gãy cành thông trước cửa. Lại hỏi Tăng: Đêm đến gió lành. Tăng hỏi là gió gì? Thổi gãy cành thông trước cửa, Là thông gì? Tuyền nói một được một mất. Biệt, lời nói sau của Nam Tuyền than thở sao sáng lẻ loi. Nêu: Văn-thù sai Thiện Tài tìm thuốc rằng: Tìm thuốc này đem đến đây. Thiện Tài tìm khắp đều là thuốc này, lại đến bạch rằng: Đều là thuốc này. Văn-thù nói: Tìm thuốc này đem đến đây. Thiện Tài lấy một cành cỏ đưa cho Văn-thù. Văn-thù giơ lên dạy chúng rằng: thuốc này cũng có thể giết người, cũng có thể cứu người. Biệt, Văn-thù nhận cành cỏ ngải rồi đưa cho Thiện Tài. Nêu: Thượng tọa Phu lúc đầu tham học với Tuyết Phong, qua cửa mới thấy Tuyết Phong, bèn tham tri sự. Hôm sau, lại đến lễ bái nói: Hôm qua xúc phạm Hòa thượng. Phong nói: Biết là chuyện thường bèn thôi. Biệt rằng: lúc ấy ta đến ngàn đi muôn. Nêu: Thạch Thê một hôm thấy thị giả bưng bát thượng đường liền gọi thị giả. Thị giả đáp: dạ. Thê nói: Đi đâu? Thượng đường thọ trai. Chẳng lẽ ta không biết ông thượng đường thọ trai. Ngoài ra chẳng nói gì cả. Thê nói: Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ông. Nếu hỏi việc bổn phận, đệ tử thật là thượng đường thọ trai. Không phải thị giả ta. Biệt rằng: Nếu không khám nghiệm lại, thì klhó để kết khoản. Nêu: Hòa thượng Nhật Dang Viễn nhân tuế thượng đường tham, Dung vỗ tay ba cái nói: Mãnh Hổ ở ngoài hiên, ai là kẻ địch? Tuế nói: chim Dao mạnh vù lên trời ai bắt được? Dung nói: Tất cả khó làm. Thôi đi, người chưa đoán công án. Dung dùng gậy múa rồi về phương trượng. Tuế không nói được. Dung nói: kẻ chết đi. Biệt rằng thua ta một lần. Nêu: thượng tọa Tuế đến chỗ Bách Trượng, Trượng nói: Xà-lê có việc hỏi được không? - Nay tự chẳng nói đâu cần dối. Trượng nói: Thâu được An Nam lại lo dẹp Bắc Tuế phanh bụng ra nói: đúng thế, không đúng. Trượng nói: Thật khó làm, thật khó làm. Biết thì được, biết thì được. Biệt rằng: Núi cao biển rộng mặt người tâm thú. Nêu: Hòa thượng Tây viện Tư Minh khi chưa ở Hứa Châu, Nghe Nam viện ở Nhữ Châu ra đời, vốn cùng đồng tham, liền bỏ nhân sự rồi nói: Đệ tử đổi Hòa thượng không thể là nhân sự được. Từ Hứa Châu đến lấy được một con dao cạo tóc ở Giang Tây lên Hòa thượng. Tây? Viện nói: Ông từ Hứa Châu đến vì sao lại có con dao cạo Giang Minh liền để trên tay Viện rạch một đường. Viện nói: Thị giả lấy. Minh rũ tay áo rồi bỏ đi. Viện nói a la la a la la. Biệt rằng Dung khoản khúc tựa cũ. Nêu: Thị giả Khuếch nhân Hương Nghiêm thượng đường. Ngày nay ban khanh vô úy. Nếu là con cháu Lâm Tế, Đức Sơn, Cao Đinh, Đại Ngu, Ô sào Thuyền Tử thì không cần như thế nào, như thế nào. Liền xin con dao đơn thẳng vào, Hương Nghiêm cho ông chứng cứ. Khuếch liền bước ra làm lễ, Đứng dậy rời hét, Nghiêm cũng hét. Khuếch lại hét, Nghiêm lại hét. Khuếch lễ bái rồi đứng dậy nói: Đại chúng khán, Gã này một bề thất bại, lại hét một tiếng vỗ tay về lại trong chúng, Hương Nghiêm về phương trượng. Lúc ấy, Duy Na Phong Huyệt Sung lên hỏi. Nghiêm nói: khách Chiết không thể chịu được, người giữ khuếch ngày nay đem lão Tăng cắt đứt. Như nay chúng nhóm họp đánh một gậy rồi đuổi ra. Huyệt nói: Điểm còn chậm. Huống gì Hòa thượng nói thái quá. Nói con dao đơn thẳng vào, ông ta là con cháu Lâm Tế, bổn phận như thế, Nghiêm mới thôi giận. Huyệt bước xuống nói việc này cho Khuếch. Khuếch nói: Ông sao như thế, kẻ khuyên lão, tôi chưa hỏi trước, sớm phải ăn gậy được lời nói và việc làm của ta. Nếu nay không đánh ta rập lấy lại ta. Lời nói này không hộp việc làm. Huyệt nói: Lời này đã làm. Biệt, Phong Huyệt nói: Khuếch huynh cũng trong quả cân tìm nước gì? Nêu: Dược Sơn nhân vị Tăng hỏi: ruộng bằng cỏ bụi, ít nai thành bầy, làm sao bắn được bụi trong bụi? Sơn nói: xem mũi nhọn. Vị Tăng buông thân té nhào. Sơn nói thị giả kéo ra. Vị Tăng liền đi. Sơn nói kẻ làm cục bùn có hạn gì? Biệt nói: Trong nhà cổ khó ở riêng. Nêu: Hòa thượng Trường Tỳ Khoáng hỏi vị Tăng: từ đâu đến? - Từ am Khống Thạch núi Cửu Hoa đến. Am chủ là ai? Là Tôn túc dưới Mã Tổ. Hiệu là gì? Không rõ pháp hiệu của vị ấy. Ông ta không rõ hay ông không rõ? Mắt tôn túc ở đâu? Nếu là am chủ đích thân đến, ngày nay cũng phải ăn gậy. Lại gặp Hòa thượng phóng qua mỗ giáp. Sau trăm năm giao phó cho sư Tăng cũng khó được. Biệt rằng người Hồ vào đất Hán. Nêu: Đỗng Sơn hỏi vị Tăng: Từ đâu đến? Dạo núi đến. Có đến đỉnh không? Đến. Trên đỉnh có người không? Không có người. Ông không đến đỉnh. Nếu không đến đỉnh sao biết không có người? Xà-lê sao không phải ở. Mỗ Giáp ở thì không bỏ. Tây Thiên có người không chịu. Biệt rằng: ở thì không bỏ, người biết nhau thì ít. Nêu: Hòa thượng Vân Cử Ứng nhân Thành Thượng Thư đưa đồ Cúng đến, hỏi: Như lai có mật ngữ, Ca-diếp không che giấu, lý này thế nào? Cư gọi: Thượng Thư! Thượng Thư đáp: Dạ. Hội không. Không hội. Nếu không hội, thì Như Lai có mật ngữ, nếu hội thì Ca-diếp không che giấu. Biệt: chỗ Thượng Thự không hội là: Ta không có tâm này, chắc chắn không có quả báo này. Nêu: Hòa thượng Lộc Môn chân nhân Quốc sư Thiều đến, hỏi: Vừa rời chỗ nào? Cốc ẩn, đêm ngủ ở Bàng Cư Só Nham. Môn nói: Trong mắt mắt, mắt nào là chính? Nghe tiếng Lộc Chân đã lâu. Một mảnh ruộng đất việc gì liên can đến ông? Quốc Sư nói: Thoại đầu ở đâu? Biệt: Quốc Sư nói: Đói không rảnh chọn thức ăn. Nêu: Hòa thượng Long Sách Phu, nhân vị Tăng dẫn một đồng tử đến, nói: Đứa trẻ này thường thích hỏi Phật Pháp, thỉnh Hòa thượng nghiệm xem. Sách sai sót trà bưng đến, uống trà cạn rồi đưa cho Đồng tử, Đồng tử định lấy, sách lại thụt tay nói: có nói được không? Tử nói: hãy hỏi đi! Tăng từ tốn hỏi: Đồng tử này kiến giải thế nào? Sách nói: Chỉ là Tăng một đời hai đời trì giới. Biệt, cùng giả Tăng làm một đường. Nêu La Sơn một hôm hầu Nham Đầu dạo núi, bỗng nhiên gọi Hòa thượng! Đầu nói: Cái gì? Sơn đến gần làm lễ gọi: Hòa thượng! Há chẳng phải ba mươi năm năm trước ở Đỗng Sơn mà lại không chịu Đỗng Sơn? Đầu nói: Đúng vậy! Không chịu Đức Sơn thì không luận, như Đỗng Sơn có điều gì thiếu sót? Đầu im lặng hồi lâu, nói: Đỗng Sơn giống Phật, chỉ không có ánh sáng, Sơn liền lễ bái. Biệt Nham Đầu nói ông kî huý riêng. <詞>KHEN NGỢI PHẬT TỔ. Lìa tượng Tuyết Sơn. Áo rách buộc xương gầy, tóc bạc che đầu xanh, thời tiết ở trên đời, lại như muốn ra núi. <詞>TƯỢNG CỔ DI ĐÀ Có nguyện độ sanh, duỗi tay tiếp dẫn, hàm sanh không đến, vật không thương xót. <詞>CƯ SÓ TỊNH DANH Sấm sét vang rền, đúng sai bỗng khởi. Thị bệnh Tỳ-da, hổ dữ không răng. <詞>VĂN-THÙ ÁO CỎ Là những sách nào, đọc không thành câu, áo ngắn tóc dài. Tay chân đều lộ. <詞>ĐẠI SÓ QUÁN ÂM Bình báu cành liễu thường trong tay. Lại đi trên cánh hoa sen xanh. Trong đời năm trược không cấu nhiễm, không dùng mắt từ nhìn chúng sanh. <詞>TRỜI RỒNG CUNG KÍNH Mây tan ngàn núi sáng, rồng thần ứng niệm đến, thượng só Bổ Đà Nham, tâm thức bao giờ nguôi. Cô gái nghèo chú nước qua biển. Cành liễu sống, chén nước linh. Một chú độc phát. Trăm dòng đều kêu, Thiện Tài cách biển tìm không được, Vô số núi xa lại loạn xanh. <詞>GIỎ CÁ Chiếu cố không rời tay, đề khởi lại cúi đầu, tự cười không người mua, mùi tanh thổi không thôi. <詞>NƯỚC, VÀ ĐÁ Chẳng phải nước, đá đáng nương. Chẳng phải âm thanh đến được, Hoa cười chim hót, viên thông chứng nhập. <詞>VIÊN TƯỚNG Trăng tối thì ẩn, trăng sáng thì hiện. Chúng sanh mê muội, xin không tái diện. <詞>CÁT VÀNG Róc rách tiếng nước chảy, hoài bão tình nghiêng hết, không biết mặt gió xuân, tuyết tan bóng mai xanh. Đại Só Kim Thư, tâm Kinh là viên tướng, Đại bi chú vào áo và thân. Dùng Ba-la-mật-đa, tròn đầy tướng ấy. Lấy hát la đát na nương thân này. Chú đất từ đây phát, trở lại nơi bổn nhân, không hiểu hai mươi lăm viên thông. Có linh tốt lành xuân che lấp. <詞>ĐẠI SÓ THIỆN TUỆ Muôn phái cùng nguồn. Tam giáo một lưỡi. Ôi! Tôn từ, lộng khéo thành vụng. <詞>ĐỘ LƯ Lòng không lá lau lạnh, gió lặng áo nhẹ bay, không được nhuộm thiên tử, không người biết họ tên. <詞>XOAY MẶT VÀO VÁCH Đá héo khô, chấm nốt ruồi áo hoang tàn, nước chết thả câu, đất bằng cưỡi thuyền, ban đầu khéo diện kiến vua Lương. <詞>TÂY QUY Nhìn vách chín năm. Hồ lô trôi sông, không tính thoát thân, gượng phân da tủy, chiếc dép hoảng hốt về phương nào? Sau đêm trăng sáng nghó hùng nhó. <詞>ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ Thái hư không mây, gương sáng không vết, như ý đưa tay. Mưa hoa lả tả. Kế yếu chỉ Nam nhạc không truyền. Thấy người ở hội Linh Sơn chưa giải tán. Diệu viên thể cực là tướng phi chân. <詞>TU BỒ ĐỀ Cầm đủ lá bối, nương lễ già. Giải không chưa tận, nói đúng nói sai, vô cớ dẫn dắt Kiều-thi. <詞>BỐ ĐẠI HÒA THƯỢNG Một vai mang không nổi, hai chân đi như bay, gió nghiệp đến lại cười hi hi, hỏi ông là ai ông chẳng biết. Trong mộng lên Đâu-suất, Diêm-phù đợi hạ sanh, chẳng trình túi u mê, ác độc đã lưu hành. <詞>BỎ GẬY NGỦ Năng sở đều quên, giả vờ nằm ngủ, một hơi không đến, trăm dòng vọt ra. <詞>HÀN SƠN, THẬP ĐẮC Dưới bếp trộm cơm Tăng, chân núi ôm hổ ngủ, biếng ngâm câu ngắm dài. Lại lấy sách phạm xem, thật là người xem trâu, thì dạ cũng phải thủng. Cái chổi không quên, tấc tâm chưa dứt, mắt lạnh nhìn người. Bao nhiêu cây gai, ôi! Bỏ đi lũ trẻ, thập đắc trong cỏ Phong Can. <詞>HÀ SƠN QUY MÌNH ĐỨNG Mắng Phong can là giả hán, đồ ống tre đầy sau thô. Chỉ ra dạy người thấy. Thật ra chỉ cần biết cơ, không muốn bày đầu bày mặt. <詞>THẬP ĐẮC CHỈ HƯ KHÔNG CƯỜI Guốc gỗ chổi tre, dính chân nắm tay. Gia Phong Cổ Phật heo bùn cho lở, chỉ trời cười lớn một tiếng, bỗng được đi ngược trên không. <詞>PHONG CAN CƯỠI HỔ. Muôn đức không đem đến, thú dữ tự thuần phục, vừa gầm ra khỏi rừng, bóng gió thổi cây. Chỉ biết duỗi tay buông tỉnh, bất chợt non xanh nước biếc. <詞>HÀN, SƠN THẬP DẮC HỎI THĂM. Trong hang vàng bạc tuôn ra, kia đây túi không một đồng, đánh nghèo không đánh giàu. Làm khéo léo tận cùng, hổ dữ đến phải chắp tay. <詞>HÀN SƠN LÀM THẾ NGÂM THÂN Một câu có cũng chưa, buồn rụng hết lông mày. Làm hết thế tay, nhờ ngược Duy-na nhớ được không, đến nay một mặc tuyên trời đất. <詞>THẬP ĐẮC MÀI MỰC HƠN BÚT Đầu đội mũ da cây, chân mang giày gỗ nát, có công mài mực hơn bút, không có hai ngàn sông tả cải binh. Chịu bại rồi. Trong chùa Quốc Thanh trộm cơm Phật vốn là ông. <詞>ĐẠO GIẢ TRỒNG THÔNG. Uất uất hang băng đẹp, tường gốc chính tay trồng, muốn biết dấu đến đi, núi cao lạnh xanh biếc. <詞>DẪM PHÁ LÃO LÔ Dùng trí giống như ngu, không người biện được trấu cám, cùng trăng giã, ý ở chỗ tự tại. <詞>THẦN QUANG THAM ĐẠT MA Thiền đá lạnh đến xương, thông tuyết chiếu mắt xanh, Đạo này nặng như núi, khó dùng tay báo đền. <詞>MÃ TỔ TIẾP TẢNG ĐÁ. Cỏ khô, núi muôn lạnh. Gần sáng vào lớp mây, một mũi không trúng hai, làm sao bắn một bầy. <詞>ĐAN HÀ GẶP BÀNG CÔNG Xa gần hết rào ông, ngôn bàn tai lại điếc, không biết đi nơi nào, gió Tây trong rèm cũ. <詞>LƯƠNG TOẠI YẾT KIẾN MA CỐC Đóng cửa lại mang bừa, mây dày đường lại xa, phải biết ngoài hình bóng, ruột gan đưa cho người. <詞>HÒA THƯỢNG DƯỢC SƠN Đem kinh phạm đối tịnh bình, một chữ không treo mắt, thường chuyển kinh như thế. <詞>HÒA THƯỢNG LẠI TOẢN Rừng Đá mãi lạnh, phân lửa có mùi, lâu bỏ cạn được, vị này rất lâu. Hòa thượng Chi Độn về hư đồ. Chịu lạnh cưỡi ngựa gầy, hai mắt xanh như thu, gởi lời Vương công nói, khiêng tiền mua Ốc châu. <詞>ÚC SƠN CHỦ Trời ấm khóa lừa ra, khe cầu khoản bộ hành, nhân nghó gặp chỗ ngã. Tấc cỏ không hề sanh. <詞>CHÁNH HOÀNG NGƯU Sáng xem mây trăng bay, chiều cưỡi trâu vàng về, chỗ núi cùng cầu gãy, cò trắng đâu được biết. <詞>TỎA CHỦ LƯỢNG Hư không mua được, tham cây gai trời, vừa gọi quay đầu, xét không dấu vết. Mặt trời treo đầu cành, vẫn là ẩn không được. <詞>TUYỀN ĐẠI ĐẠO RỬA THU ĐỒ Bỏ thân đi vào xa thẳm, đợi nhắm mắt lấy đầu rồng, gió nổi sấm giận chim bay thỏ chạy. Sợ bị Từ Minh mấy khuỷu tay. Xin khéo léo không nhiều. Ngàn cổ nướng cá miệng người, như lấy gậy trắng kéo xương sống, quát. <詞>MẶT TRỜI BUỔI SÁNG ĐỐI TRĂNG. Nóng lạnh không đến nơi, núi cùng đá tự khô, khóc than biết xương lạnh, tùy phần mà công phu, một quyển không đề mục. Cầm đến bên gốc đá, mắt mờ hiềm chử nhỏ, Hoa Phạm e khó phân. <詞>HÒA THƯỢNG TRIỆU CHÂU Mắt như trống, đầu như cây thìa, muốn biết Triệu Châu, tám mươi hành cước. <詞>ĐẠI SƯ LÂM TẾ Đầu gậy Hoàng Bá, dưới gân Đại Ngu, con cháu đời sau, ô yên thành mã. <詞>HÒA THƯỢNG PHỔ HÓA Dâng hình mắng giết Bàn Sơn. Đối chúng khinh chê Lâm Tế. Chỗ tỉnh sợ bóng trốn hình, trong chợ phá trời độn đất. Chốn sống ngoài thành Trấn Châu. Đến nay gà sợ chó cắn. <詞>ĐẠI SƯ VÂN MÔN Đáng phát Mục Châu, thoát khỏi Linh Thọ, Xích Thể lộ gió vàng, Sóng xanh chẳng thấu đường, chân sư đạp không thể đi, thôi đối càn Phong, Nam Nhạc đi. <詞>HÒA THƯỢNG HUYỀN SA Vượn bay không ra, dưới da có máu, câu cá phóng sanh, trong chết được sống. Như Tuyết Phong dùng sức quá lắm. Cười gốc Linh Vân chưa suốt, chỉ biết ý ở đầu câu, bất giác trong mắt dính phẩn tiểu. A ha ha. Ai biện khác, muôn khoảnh khói sóng vừa câu trăng mới. <詞>HÒA THƯỢNG THUYỀN TỬ Hơi nước lạnh lại thuyền nhỏ, Hoa dừng trên sông tìm nhau bàn. Phụ mạng đáy, vỗ miệng một cái. Chỗ gật đầu bao la không ít. Cha con sợ tương báo. Ai nói chuyển thân sớm, ra lau vàng vào rau đỏ. Thu thập tơ lụa, sông trời chưa sáng. <詞>THIỀN SƯ THÁI BẠCH HƯNG Dẫu lẫn lộn chôn sâu một áng mây, Tiên quan việc gì cùng nhau khổ, tu hành chẳng phải không linh nghiệm, lại làm người quan môn nhàn hộ. <詞>TÔNG AM CHỦ Giày cỏ trong cà-sa gót đỏ đi thành Đồng, chỉ là phá sinh nhai, chống đỡ nhà tử dương. <詞>HÒA THƯỢNG TỪ MINH VIÊN. Bỏ thấy cái vạc thần, dứt gọi lương thực nhà, không được pháp thoát tay. Đánh vỡ vụng lừa ông. <詞>HÒA THƯỢNG DƯƠNG KỲ PHƯƠNG HỘI Đầu tro mặt đất, lộng giả thành chân, lừa có ba chân, kỳ lân một sừng <詞>THIỀN SƯ TUYẾT ĐẬU TRÙNG HIỂN Ngưng mà không kết, hỗn mà thường sạch, núi lại đứng thẳng giống như mài bằng. Suy đạo của sư, hư không đóng cọc, Đức của sư đẹp, bền chặt trong sắc, Diệu cao muôn lớp. Xuân về kính gấm, ốc xanh vừa xoa, Động đình sau sương, ở đây ở kia, mới không vết trẫm, hoặc duỗi hoặc co, nước đến sông hồ, xa tưởng vết cao. Thật thành pháp ngã. <詞>THIỀN SƯ HOÀNG LONG NAM Nước ta Lặc Đàm, mây đoạt Hành sơn, bên cửa nhiều lỗ lưới, ai là người phụ ân. Dưới Hối đường có mát mẻ. <詞>HÒA THƯỢNG BẠCH VÂN THỦ ĐOAN Tiếp nhận ít then chốt, khám nghiệm không có mắt, thường thường hơi ngực đập. Chỉ cần nướng cỏ lau. <詞>HÒA THƯỢNG BẢO MINH DŨNG Nạp Tăng tánh tháo, giả vờ Tọa chủ, quét qua đầu bước cỏ thôn. Thẳng xuống vai gánh Phật Tổ. Dương Kỳ thầy ta, Bạch Vân bạn ta. Phượng kêu trên đài. Vượt qua xưa nay. <詞>HÒA THƯỢNG NGŨ TỔ DIỄN Đạo của thầy không thể được mà xưng, đức của thầy không thể được mà thuật, hạnh của thầy không thể được mà nghe, nghiệp của thầy không thể được mà thấy. Đạo đức, hạnh nghiệp nghe xưng thuật, người đời còn xa vời. Nếu gánh vác tuệ mạng ở bờ sắp ngã. Chuyển phàm phu lên bờ vực Thánh hiền, ấy gọi là lão nhân Đông Sơn, ta không được mà biết. <詞>THIỀN SƯ VIÊN NGỘ KHẮC CẦN. Thi Bích Nham Chê Nhũ Đậu, kích Cao Am, tựa Âu Phụ. Điều này người bàn luận không đến, nói chi phép trừ không văn ấn. Này người bàn luận không đến. Nói gì phép trừ không văn ấn. Tận tình ước gác qua chớ luận. Hoặc nói khen chê không ở giữa hai đầu. Lằng nhằng ông có ưu điểm riêng, quát. <詞>HÒA THƯỢNG HỔ KHƯU LONG. Thần cỏ yếu hèn, cốt khí mạnh bạo, vui ít sân nhiều, sang mua hèn bán. Hình bóng sư tử ba mươi năm, cho nên mắt Viên Ngộ là Hổ mù. <詞>THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ. Phụng vàng mới kêu, người ngọc mở cửa, gió lớn thổi mạnh, con trở về cha. <詞>THIỀN SƯ ĐẠI TUỆ. Trước không Thích-ca, Ssu không Đạt-ma. Mắng mưa chửi gió, cầu muốn làm lớn. Trúc đen như sơn, đánh loạn đánh xạ, là Phật là ma. Vạch mặt thì mắng. Do đó trời giáng lỗi này. Hành Dương Mai dương mười bảy năm chịu đựng đói khát. Lẽ gọi muôn dặm sống còn biết sai. Vốn là một ngôi sao không từng đổi qua. Kẻ trọc lòa bị người ghét. Trên cõi trời, dưới nhân gian không hai người mắng. <詞>HÒA THƯỢNG ỨNG AM Vạch tay và bụng, mò tìm cốt tủy hư không, mở mắt người sống, mù lại chính đảnh môn mình, từ đây biển vọt núi nguy, ấy là núi đông đang nối tiếp. <詞>HÒA THƯỢNG MẬT AM Hành cước không đến trước Đại Triệt đường, Cương yếu diệt tiêu nhà cửa Ứng Am, Chỉ liễu mắng dương, Thổi cát ngửi đất. Lại cười Tạ Lang mày dựng đứng. Muốn biết người cản núi. Đại trùng không đuôi chẳng phải hổ. <詞>HÒA THƯỢNG THẠCH SONG. Cò thu đậu thông, cốc lạnh nằm nước, cốt tủy lão Chi Phong không ở trong rõ ràng. Rời lâu sư khoáng tìm không vết, ngàn xưa muôn xưa chỉ là đây. <詞>HÒA THƯỢNG TÙNG NGUYÊN Trong thất thủy am, tranh một mũi nhọn, đánh được tai điếc. Từ đây gọi chuông làm bình, diệt đi chánh tông Dương Kỳ. Tự gọi là Thủy am để vào, lại nói không biết Trung Phong. <詞>TIÊN SƯ VẬN AM Hành cước chỉ tham Tùng Nguyên. Chính là tin đoán bán thất, lại nói Đông Sơn chánh truyền, giống như ngựa già nhai lúa. Gần đây nhân tình không mặt mũi. Dẫn được con cháu rộn ràng. Báo ân hết sức tán dương. Cũng là khoét thịt cổ cò. <詞>HÒA THƯỢNG NAM MINH BẤT AM NGỘ. Bay đến dưới núi. Đánh mất thẻ hộ thân, Nam Minh trong núi mắng quát Tổ sư Tam Bình. Xiển-đề phước mỏng. Mắt tục khó nhìn. Ấy là chùy cổ lão Bất Am. <詞>THỦ TỌA NAM NHẠC TU Mây mù đầy bụng đói, khói sương che áo rách. Chúc mừng Chùa Phong Đỉnh, mấy lần đối ánh tà. <詞>HÒA THƯỢNG LINH ẨN THẠCH CỔ DI. Mặt mày núi rất lạnh khí như mây, kéo lấy ông gỗ lớn. Điên đảo lên cây. Phẩm tháo quả mắng trời, thấy đất không nhìn. Cắn răng cắn lưỡi, đá đi bụi bay, Thiếu Phong có riêng kiếp hồ xuân. <詞>PHÁP SƯ LINH SƠN CỔ VÂN TÚY Ba lần nhìn nhau hiển bày cơ, mười môn bất nhị bày dấu vết, như trăng in nước sáng tận sâu. Như Xuân ở hoa hương thấy áo. Ấy là anh giáo Tường, đích bắc phong. Bắt lấy đem đến không như y, theo giáo khắp đất không người biết. <詞>PHÁP SƯ NGỌC TUYỀN PHỔ MINH Vàng đá tơ trúc. Khó xếp vào tiếng. Mây xanh gió mát khó đồng điệu, ngọc sáng trong sạch hoa tín dung thông. Diệu ở ngoài có không. Há rơi vào trong không giả. Mở sống phục bút. Chỗ nào hình dung. Đây là đến Am thường Chuẩn của Lão tử. Chịu cùng người có thơ có họa, ghi chép để lại tiếng thơm chùa Linh Uyển, rõ ràng ngàn xưa kính cao dấu vết. <詞>VOI GIÀ XUỐNG NÚI. Chuông vàng đêm đánh chín lớp thành, sáu năm trở về đổi hình gầy, đợi được tâm mắt chúng sanh sống, Tuyết Sơn vẫn là xanh vời vợi. <詞>DUY MA THỊ HIỆN BỆNH Một đời môi mép lao xao, lòng muốn dắt đi đoạt chợ, giả bệnh Thành Tỳ-da-ly. Dẫn được nhiều quỷ dã thần nhàn, cúi đầu Tịnh Danh, ta không biết ông. <詞>BỐ ĐẠI QUAY ĐẦU CƯỜI ĐẦU LÂU Ôi! Đầu lâu, có hoang một đống, che mắt vừa cười, muôn hốc mây thâu. Ba giáo hợp một mặt Rùa chứng vô công, hội ba về một, mỗi người có một mặt không muốn bày ra. <詞>HÒA THƯỢNG LẠI TOẢN. Gối đá rêu xanh, Dây núi hình lục. Ban ngày vội đi khoai nước chưa chín. <詞>HÒA THƯỢNG HÀ TỬ Khe xanh bóng lạnh, lấy tôm làm mắt, không có rào dậu, đông kéo tây dắt. <詞>ÚC SƠN CHỦ Lăng xăng đạp lên trời đất đen, lừa mù không thích dùng móng đi. xanh. Từ đây không đến Trà xuyên thượng, nước sông tự chảy bóng núi <詞>TRÍ HOÀNG NGƯU Sừng trâu bình đồng treo khói sáng, khe núi phần nhiều thiên vãng, không biết rõ việc ngâm tình hiểm, thổi rơi gió thu bên quạ trắng. <詞>TRIÊU DƯƠNG CHUẾ NẠP. Kim không thịt phụ không đủ, bên trời sáng tựa núi khe, sợ thấy lá vàng bay, chưa gió cau mày trước. <詞>ĐỐI NGUYỆT LIỄU KINH Muốn liễu mà không thể liễu, trăng đầu núi tròn lại khuyết, chỉ như hãy thôi xem. Đêm khuya gió thổi lạnh. <詞>HÀN SƠN THẬP ĐẮC Trên đá Ngữ Phong bên khe thông. Thật là khéo léo. Chớ mắng Phong Can. - Cây bá trước sân thượng trúc, Pháp Sư Nguyệt vẽ tượng. Dày nặng như núi. Rộng lớn như biển, đỏ xanh có thần chớ nghó dấu vết, Tăng hay bút tốt, khó so dấu vết, như xuân về khắp nước. Gió xuân thổi bốn phương, như cóc bạc ra nước, muôn tượng che bóng. Chính là Tông chủ của ba giáo, dung thông đại pháp. Thiền giả của Hòa thượng Vô Chuẩn thỉnh tán vẫn đứng hầu. Đổi tròn đến vuông thì khổ, ép vuông thành tròn thì cực. Đục tạo không vào, là cửa nhà Vô Chuẩn, Ngũ Phong vòi vọi đợi nhìn, muôn tượng chuyển xoay ai xem, sương rơi nước rớt con về cha. Pháp sư Bảo Nghiêm Sùng Biện Nột vẽ tượng. Thân khô như củi, mắt sáng như điện soi sáng đến đỉnh đài. Phẩm tháo tông ngoài núi, vung vẫy trách cửa ngộ, không rơi vào tướng văn tự, lấy “Nột” làm “Biện”, lấy giới làm ngại, giơ ngang đuôi trần muôn tượng sum la đều tuôn ra. Hòa thượng Bảo Lâm Viễn dạo núi Tượng Sư Tôn thị hành. Đức lạp đều cao. Cành con càng xanh, siêng tiết kiệm khổ tiết. Khởi lại nghiệp tốt, lấy khí già vận dư, nhìn thẳng các phương, góc my rũ tuyết. Gậy trúc đóng sương, đi bộ có người gió mát đáng theo, lặng thường đạo xưa, ngoài kiếp lơ là. <詞>LỄ THÁP TỔ Bảo Phong Mã Đại Sư Lưỡi thông mũi thẳng, trâu đi hổ nhìn, chỉ là khuôn hình. Chuyển thêm điếc trái. Sông lạnh muôn trượng hề, ao sông không sóng. Núi báu ngàn trượng, Phù-đồ cao ngất, tám mươi bốn người. Còn ở học địa. <詞>THIỀN SƯ ĐẠI MAI THƯỜNG Trong tiếng chuột nhắt. Điên đến đảo đi. Bụng lừa cằm ngựa. Không cần chú giải. <詞>THIỀN SƯ LONG NHÃ ĐỘN. Thúy vi mé bắc, đầu tay ngắn. Hang nước chảy ngược mới đến nhà. Tuổi già chân cẳng phải mang tất, không thể tùy nơi đạp cát bùn. <詞>THẠCH SƯƠNG NGÀN NGÔI MỘ TĂNG. Muôn chỉ hoát nhiên, một đường về, đầu lâu đối đối mắt như mày. Phải biết một mầu rõ bên ngoài. Sanh tử làm sao dựng được y. <詞>ĐẠI SƯ THẠCH SƯƠNG TỪ MINH Sông bao núi vây hang sư tử, lông vàng rực rỡ từ đây ra, Dã can đã chết cáo thỏ buồn, tòng lâm thiên hạ lại ồn náo, ta đến không dám bước đi lại. Núi rậm vòng vòng gió mát sanh. Ba lạy không lời đi ra cửa. Ống khói một tiếng ngang lưng trâu. <詞>THIỀN SƯ MINH CHIÊU KHIÊM Dây dài dây ngắn quấn quanh tháp, dùng mắt gọi rộng sợ là, y ném xuống mâm bùn vỗ tay cười, Sư từng nhầm lẫn Xà-lê lùn. <詞>HÒA THƯỢNG MỤC HỘ ĐỊNH THÂN Mục mục thuần đến năm tháng nhiều, đến nay vỏ rớt chưa tiêu ma. Chớ hiềm cắt đứt khe nước chảy, còn có thiền nham treo duyên la. <詞>ĐẠI SƯ MINH GIÁO Cây đạo lấy thục giữa Hoàng Hựu, sức đỡ chỗ nguy khó bao nhiêu. Nhân nghó người ngày nay an nhiên, nhẫn thường không đình trúc mấy cành. <詞>THÁP HÒA THƯỢNG GIÁC PHẠM Ở ĐỒNG AN Thiền nói văn tự, bao trùm hư không, mắng chủ tháp xưa, không rõ yếu chỉ, khen chê đè nâng, lưu hành lại thôi. Phượng đậu núi cao cắm rõ ràng, hoa rơi chim hót ai an ủi. <詞>PHẬT SỰ Sa-di cạo tóc. Khe sâu thìa dài. Núi cao am chủ từng cắt tóc, chẳng gió tranh biện phước. Ấn Tông cho Lão Lô, nên đi Châu La. Nối vết cao nầy. Cức lâm thỉnh hai Sa-di phó y. Chỗ làm kín đáo chẳng những cắt đứt mà thành. Chuyển tay phó đến, thầm hợp Tam-muội bảo kính, hai người đỉnh thọ là nhà chân khắc. <詞>TÍCH TRỰC TUẾ TRÌ BÁT, CẦM ĐUỐC Chả tay trúng cái xẻng. Theo giáo ruộng đất hoang vu, bày ra không có bát. Chẳng láy Hương tích phương trên, chúng đã no đức. Nằm cao rừng mây. Đồng tử bính đinh thầm nung nấu, ở đây muốn tìm con đường sống. Chẳng phải đường sống sương không, trăng rơi chỗ vượn hú. <詞>VĂN BÂN TẠNG CHỦ CẦM ĐUỐC. Văn chất nho nhã, Riêng đi mình đứng, một đại tạng giáo, chủ rõ không bằng. Lửa đến cháy, nước đến thấm. Liếc ông chuyển đầu đến, Ngoài đồng gió xuân mau. Thượng tọa Bả Cước Kiệt làm khám. Kiệt đẩu thiền họa. Hành lý là riêng. Chân cao chân thấp, Đông liếc Tây nhìn. Chỗ chuyển tự nhiên, vui nhộn. Thượng tọa Kiệt Hưng khó ngăn, khoản khoản ra cửa. Đường Linh Sơn trơn. <詞>THƯỢNG TỌA CHẤN KHỞI CỐT Muôn dặm thấy Linh Sơn, sửa thế gặp tiếng hét, cửa chuồng sanh tử. Khi giao đánh suốt, lửa tàn mây lạnh, hương mù quế. Chân đầu khắp nơi trời đất rộng. <詞>THƯỢNG TỌA THIỀU NHẬP THÁP. Luyện qua rồi, leng keng có tiếng, Phượng tự bay đến. Đâu cần chín lần đổi mà thành. Thu thập về nơi nào? Nhiều núi xanh ngoài mây. <詞>THƯỢNG TỌA THIỆN MỤC BẮT ĐẦU LÀM KHÁM. Chăn được thuần, khó trói cột. Kéo dây mũi ra, Đông đụng Tây chạm, cấm ngược ông lau, ngược gió thổi, mưa qua hồ núi. Cỏ xuân tươi. <詞>THƯỢNG TỌA HỮU BỔN KHỞI CỐT Có đến do không có bổn cứ. Chân nhỏ giày cỏ rộng núi vòi vọi xương bày. Bổn Thiền nhân đi nơi nào, đảo châu báu ở gần, tiến thêm một bước. <詞>THƯỢNG TỌA VÓNH GIA TRỤ BẮT ĐẦU LÀM KHÁM. Trụ thì không chùa, chùa thì không trụ, Vách sắt núi bạc. Trời đỏ chỉ bước. Canh ba trăng chiếu chỗ quê vượn hú. Người ở núi ưng nhìn thác đổ. <詞>THƯỢNG TỌA CHI BẮT ĐẦU LÀM KHÁM. Gò hang linh cấm, mày Chi tím rộng, đã qua cửa sinh tử. Gật đầu còn tự cho. Ra cửa bờ liễu đang uốn mình. Cò vàng đậu cành nói rõ ràng. <詞>CHẤT TRI KHỐ TỎA KHÁM Không kiểu ngụy, thường ngay thẳng, trăm đứng ngàn ngang, đối bổn thâu tức, chất tri khố về chiều, cũng thu lấy chìa khóa. <詞>THƯỢNG TỌA YÊN CẦM ĐUỐC. Nạp Tăng về nguyên xứ, cầm đuốc ba tấc. Tánh tháo vô minh, cái kèn cái loa không ra khỏi đây. Thượng Tọa Yên nghèo lâu vừa giầu. Xem xem được vào tay đi, nép bó lửa xuống, đại chúng chẳng cần mắt nóng. <詞>THƯỢNG TỌA ĐẠO HƯNG CẦM ĐUỐC. Đạo không chỗ cứ núi sâu khe lạnh, một niệm chưa khởi cửa chết đường sống, muốn biết hai chỗ thu công, biết lấy đồng tử bính đinh. Đồng tử bính đinh, ném bó lửa xuống, khéo léo phục sự. Hy Hòa Sứ Quân xin đi cầu mới Đoan Bình: Bước bước khoan thai ngoài trời xanh. Quay đầu mới biết là hóa thành. Đại chúng có biết không? Ngày xưa thuyền ngang gẫy bờ, thường lo mối bệnh. Sử nghịch cùng đường, thường than sao chưa về. Bởi vậy, Bang hầu rũ tay cứu dòng cư só phấn đoạt cơ lưu. Từ chỗ hiểm đắp nổi căn cơ. Đến hư không cố thành thế giới. Lồng trắng cây khói. Vẫn ít thắng du rộng lớn. Trăng rơi thành giang. Phảng phất ở Lạc Dương. Nói gì liền núi xuyên sông, mong vượt thông đất Ngô. Nam đến Bắc đi như đến nhà lấy tay làm tướng vòng tròn. Chân đầu từ đây trời đất rộng, nguyện lực vẫn đồng kiếp đá vững. <篇> HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 7 Kệ tụng Thích Tuyết Đậu thấu suốt hai cửa. Ca-diếp nghe đàn tranh đứng dậy múa. Uyên Minh nghe Chuông cau mày. Tức canh nhà nhỏ ngồi nguy. Nửa cửa đông trời vui vẻ. <詞>ĐẠI CÔNG KHÔNG TỂ. Đầu khe bích ngọc thôn lá vàng. Không nghe chim hoa đến bờ dậu. Thời tiết mê man tợ thức, Tăng núi bán tròn mới thổ lộ. <詞>KHÉO ỨNG VÔ PHƯƠNG Hai chân dẫm nát rừng lá hiếm, đến đi không can lìa sâu xa. Linh cơ chưa chuyển trước đã chiếu, Dấu vết dính từ chỗ nào về. <詞>DUYÊN ĐỐI Giường đá nép trăng mộng hồn lạnh. Khe nước tả chân bóng gầy thanh. Bình thường xốc vác tự quên mình. Ngoài đời không biết ai đáng thề. <詞>QUÂN TỬ CÓ ĐIỀU SUY NGHÓ Thuyền lẻ mười muôn dặm, gởi mạng ở dòng nguy, năm hoa thoảng bay đi, Pháp thần châu đã thu. <詞>XEM TÔNG CẢNH LỤC. Trăm quyển chẳng văn tự, tìm tòi biển tạng sâu, Lão hồ ba tấc lưỡi, kính chủ mấy lòng sanh, sức phá lưới trần lao, khóa chặt vàng nhiều kiếp, về nguồn như ở đâu, Hoa sơn linh cầm gọi. <詞>TRÙ ẤN Áo mặc hoa vàng khắc ngựa xám, đưa soi mấy lần trong trăng sáng. Thượng giới Hoàng Hà không qua lại. Thẳng đến như nay chưa có công. <詞>TIÊU ẤN Giày sắt không, đáng ôm sương gió, tuổi già trở về nằm giường đá, một đôi mắt đen xinh lay láy. Nửa theo bóng mây treo đường lạnh. <詞>VỀ NHẠN PHONG CHIỀU NHÌN Bóng trúc lẻ loi rơi ngoài sông. Nhìn hết về mây che lại bay. Thân thế xa xăm tâm tự hứa. Mấy độ đến đây đứng tà dương. <詞>AM CỦA BÀNG CƯ SÓ Ở HÀM DƯƠNG. Cư só năm ấy dụng tâm lầm, toàn nhà không ổn đến ngày nay, kéo rào dậu ngắn không người mua, hiu hiu gió tự thổi đầy rừng. <詞>LÊN NÚI CHÚC DUNG. Các núi ở Nam Nhạc có bảy mươi hai, chỉ có Chúc Dung là cao nhất, với chín ngàn bảy trăm ba mươi trượng. Nhìn xuống biển xanh như sợi tóc. Đỉnh xa vòi vọi xa phủ phục, cửa hoa ngũ lao đến tường tiêu, vua phong lão Tăng ngày không việc, hứng đến lấy tay xua mây hồng. <詞>CHÙA PHƯƠNG QUẢNG Khánh ngọc trong mây không thời vang, đèn vàng ngọn cây mãi sáng đêm, đất thắng chính duyên người ít đến. Cửa nhà xưa nay không hề đóng. <詞>HỎI TRIỆU DÃ VÂN KHÔNG GẶP Nghó lâu nhàn đối lão Duy Na, muốn nói chúng sanh bệnh rất nhiều. Trượng thất không do cửa sắt hạn, không phải dễ thấy lỗi người quê. <詞>TIỀN ĐƯỜNG VIÊN THƯ KÝ Mặc ai lấy cá trên cành trúc, bỏ thân lấy được đầu lâu khô, Trở về đi lên trên hồ Tây, cỏ trâu sóng cò không nhìn loạn. Di Tạng chủ trở về Triều Dương, tòng lâm sâu xa thấy lão thành, giang hồ hẹn ta lại đồng minh. Quê hương chưa nói gió bảo bùng, Tuyết xuân mới tan mới hỏi đường. <詞>CẦU GÃY Lừa mù một đạp hai đầu không cùng với đường, thường lại không đồng. Tấc bước lại thành cách ngàn dặm. Rộn ràng thường ở giữa chặng đường. <詞>HỎI NAM HỒ HỐI NHAM GIĂNG CHỦ Toan đường mê lại tán hoa người, trăm muôn mênh mông vô cùng khổ, bặt xứ gặp cỏ sống lối sông, Tôn giả Định Ưng là tiền thân. <詞>TẠ AM NGỘ ĐỚI Gánh vác thành đông lão Tịnh Danh, vườn rau bỏ rồi lại trai Tăng. Mài dao mài đá xem đỡ hết, cư só ruột gán sắt đã thành. <詞>NHÌN HÌNH VẼ NÚI SÔNG CỦA THIỀN GIẢ ƯU HƯU Xa gần đâu nhiều đường, khói đem tấc thước tìm. Hướng đến rẽ đỉnh núi. Nay đã khắp Thần Châu, nước lạnh rừng xanh chiều, lạnh sanh giếng thu ngọc, viên bồ lạnh tương đối, thời cùng nói đầu núi. <詞>TÌM MÈO Trong nhà mới sanh mèo mắt hổ, ngàn vàng cho ta không cần đổi, nhà lạnh cố là không bắt chuột, muốn thân trở mình thời lên cây. <詞>THÔNG THIỀN KHÁCH TIẾN NẠP Sau khuỷu tay nạp Tăng có linh phù. Mặc ai từ chối có và không, mảnh ván không thể nào gánh được, cũng lại như cũ tận hồ lô. <詞>ĐƯA TĂNG ĐẾN AM LONG TRUYỀN BẤT. Thật là đặt ngang máu ướt đầy, sắt làm gan ruột cũng cau mày. Vào được cửa lại là khoản chết, Bất Am chưa hẳn chịu nuôi y. Xem tranh Quán Âm xoay lưng Thủy lục: Đại só Cát Tương bỏ toàn thân. Bàn cho đường mê hết vòng khổ. Đáng tiếc chúng sanh khó giáo hóa, cõi trời địa ngục làm mới lại. <詞>ĐÊM VẮNG Ở HÀ CỐC Chấp ngày chứa gò hang, Minh cơ chưa sách huân, bồn sanh tiêu triệu cổ, giường đá bạn về mây, thắng sự biết như hứa. Đời thừa không chỗ nghe, đèn hoa lại cùng cười, đâu thể bổ mảy may. - Đưa thị giả Tiên. Nửa sợ gió xuân lạnh chưa tỉnh, ra cửa không sức ba lần gọi. Các phương rũ tay như linh nghiệm, chiều thu nên về tìm râu hổ. VĂN ĐƯA TRÂU XẤU. Như xương lạnh treo da lại vô tâm lực, bỏ cày bừa. Giang hồ đều có đất nhàn, huống là cỏ gió xuân mãi mãi. <詞>ĐEN VÀNG KHÔNG CHÂN. Muôn vật tự toàn bích, tráng lệ đâu thể bằng. Trăng cao bóng thông nhỏ, gió nhanh phải cúi đi. Ai lấy xanh đỏ vào, khó đem lụa trúc đề. Núi lạnh đáng cười, ta dắt tay cách bùn mây. <詞>ĐEN TRẮNG LỖI GÌ Thế sự loạn như gai, tình người chưa đến nhà, mưa mãi ở viện sâu. Nát tan hoa sau đình. Lời xưa bao giờ khác. Sách âm chưa có bờ, Khói tối hợp bốn phương. Nơi nào mọc cà hồ. <詞>TẠ CHI PHONG GIAO THỪA TUỆ TRÀ Chọn chữ nhã phương ra núi nam. Vị chân đâu dễ lấy mà than, từng ở gốc thông xông bậc tuyết. Đến nay răng má còn dư ngọt. <詞>RỪNG GAI Phương biển bay đến không dám đậu. Vẫn là mới chích nhọn như chùy. Bao la ra được, ra không được, chỉ chịu bỏ thân đến thì biết. Triệu Khai Phủ hỏi Hà Cốc, Kế là vận tạ. Cờ tướng thấy ngoài trời, thăm thẳm đến trong hang, nhìn lớp có khép nép, núi linh mây tự khai. Áo thiền ngồi đá tối, lá có phất bụi xanh, nghiệp huân ở trên khói, khó dạy ẩn câu đài. Trà gởi lầu tư lệnh. Gió ấm chim trước náo rừng thơm. Ra sấy phong đề dâng Chí công, mai xanh tự đến đều tay vạc, tạm thời múc nước nghe gió thông. Tiến tọa chủ Giám. Giấy đèn thổi hết còn xa về, mãi đến nay tâm chưa thành tro. Thạch đài, hoa tươi chỉ nửa bánh. Không biêt nướng sao ai lại đến. Tăng Lễ Bổ Đà. Dấu lẽ đã qua biển cửa Đông, Ngô vật khe núi mây muôn lớp, một lẽ đứng lên lại một lễ. Chẳng biết nơi nào thây viên thông. Tiễn Thiền giả Đằng. Biệt chi nham ta vẫn chủ tình, Trăng tùng đường lạnh bay hoa đẹp, cổ đồng treo cao biết chỗ nào. Từng nghe tiếng nước trăm sông chảy. Dạo Thê Hà xem. Trên biển nhiều dấu cũ, tìm bia mới được tên, Tiên thành bếp đỏ lạnh, đất mây ấm hoa sanh. Có hạc lâu không chết, thấy người mãi muốn kêu. Đàn Tây chiếc áo lông, biết ta không làm nông. Tăng đến Kim Lăng. Đêm khuya trăng sáng ở trong sân. Trùng kêu ở trong lá thanh sa. Biết ta tấc lòng như tấc sắt, không biết nước Năm mấy dặm đường. Gởi Pháp Sư Hối Nham Phật Quang. Đối văn sách giải thông người đến, phá câu phân khoa làm người khó, chẳng thấy Đàm Dương đốt sao sớ, đầu gậy giơ lên còn lạnh buốt. Xương Lão hiệu Trúc Khê. Sơ sơ bóng xanh rượu đã lạnh, Tiết cao hư tâm đâu được tên, không thấy nơi nước chảy trăng sáng, như khi gió dẫn tiếng phượng con. Đàm Lão hiệu Cổ Thuỷ. Nhà cửa giao lông mới là vô, Thần Võ khó cùng cạn và sâu, khéo lấy chớ ngưng dòng tin tức, Bao là làm mưa sống tòng lâm. Phổ Thiền giả về Tây. Bóng mai ít có lá lan thơm. Cỏ nước trong Ngô hành trong việt. Ruộng hoang chạm mắt không người chọn, khoản khoản trở về mang trăng cày. Chữ Tăng chỉ trúng. Lựa thật mà ăn, chọn cây mà đậu, Linh linh tự rõ. Vật vật khó bằng. Thu che ổ không ngủ ẩn, mộng phá trăng in khe trong. Thị giả Duyệt Kính Đàm. Mưa qua trời gió lặng, sóng lớn như đúc thành, chẳng cần phải soi chiếu. Xấu gian tự rõ ràng. Mục Đồng. Khe khói ấm, đầu cỏ đang phì, đêu dạy trâu no nằm phơi nắng. Cuốn đồng lai vào vùng xa xa, thổi hết gió xuân không tự biết. Ngữ phủ. Lá cô bồ lạnh trời chiều xuống, gãy bờ thuyền ngang nước vây quanh, chỉ có cành trúc ở sông Tương, không hề dể thăng xuống đống cá. Tằng Thiền nhân Duy Chi. Đương đầu vừa dạ chưa là thân, Đại đạo khó đem phần nói nín, không nghe sáo trên sông gió chiều, một tiếng phá hết trời mây xanh. Tập Thiền nhân đến Thái Bạch. Rõ ràng không thể minh, tiếp tục lại ai nghe, trên biển có si dứt, trong núi không bạch đinh, gió trời xanh tiếng lặng, trăng sương xuống sông lạnh, ông đi quên bàn luận, lớp núi còn chưa mở. Vạn Tùng Sơn Tặng Trương Tỉnh Nguyên. Đục cửa không, chẳng thể không thông, lặng như giếng xưa soi dáng thu. Nhạc trời tự được thuật trong đạo, khi dẫn gió mát thổi muôn thông. Tăng dạo Thai Nhạn. Âm chỉ mất đi chẳng thể nghe, cuộn áo về nam luận với ai. Rồng nước thu, cầu đá trơn trợt, được được nên gõ cửa Tôn giả. Giường lại quái tùng. Cán dao cành rồng khéo cuộn khúc. Vẫy vẫy râu râu lại sanh lạnh, lúc nằm không thích tự bỏ đi. Chỉ đến xem chỗ tiếng nước chảy. Tăng về đất việt. Lệ kích gió rẽ bờ cửa Thu. Vén y nơi nào lên thuyền lan, vô phương mới là biết có phương, theo Kỹ Sư Châu Nê ốc. Viễn Trần Can. Mở cửa trồng cây trúc, đục đá đào thành ao, trăng khuya tìm đến đây, khổ nhọc mấy ai hay. Dạo Kim Hoa Động Thiên. Vi vu nghe bên bờ sông lặng, đến đây tiên phàm thước tấc phàn, hạc ra đi bao giờ trở lại. Cửa đông suốt ngày giăng mây lạnh. Gởi Vụ Thủ Triệu Ngọc Đường. Nho Thích cùng khoa người đến ít. Đạo Dung dứt hẳn xem tinh vi. Hòa bên trên đường công còn ngồi, lặng xem áng mây lạnh kéo về. Đề Thư Họa thập hậu. Phát huy nhiều cổ tích, vui bỏ sắc tơ kia, bỏ đi xem Hằng nga, khi vốn sáng mà dẫu đen, thất trống rồng tự xúc chạm. Thần cây lâu sanh thương. Được nơi nào có cảm, tìm vạch ông nên nghó. Đêm đông dạy Thị giả Tuấn. Giữ được củi đen khí nóng về, đêm khuya lớp lạnh dễ thành tro. Nhân suy nghó Bách Trượng lại bỏ đi. Chuyển khiến mắt Quy Sơn không mở. Linh trúc quyền hành thưa hỏi vị thủ Hội song lâm. Không đem một chữ hiển tông nay, tuỳ chỗ núi sông trong mắt lão, tưởng thấy hoa vàng vẫn biết mình. Chưa dung trăng sáng chiếu về nhà. Tây thục gọi là Đạo Só: Xưa cùng kiết hạ ở núi Nhạc, sau ba mươi năm mặc y Tăng-già-lê, lại hội ở song lâm. Chẳng bái tinh đàn chẳng bước không, bày mũi đến công phu xuống chết, lò đất chỗ sâu đốt lá hồng, từng nhớ ba đời vẫn nói không. Diễn Tăng sử Tiền Nguyệt Lâm. Khe phát linh cỏ bên góc miệng. Gãy bờ bay qua bức người lạnh, nếu nói lệ Tổ có truyền thụ. Ca-diếp không nhân dựng phướn ngược. Uyên Thiên nhân đến Nhũ Phong. Uyên mặc tiếng sấm khéo phát cơ, độn cặn khó xuống chùy môn đỉnh, Dương xanh lá vàng ép cùng quê, mau mau trở về thấy ẩn đi. Cây La-hán. Lạy hạt giống Như Lai, Bi sanh trong đời mạt, Cành cành thành quả nhỏ. Lá lá hiện thần thông. Trăng biển phân bóng trong, hướng trời theo gió thoảng, nguyện chỉ mê chính mình. Thấy đây thoát lồng chim. Lên Tứ Minh Thủ Hoàng Thị Lang từ biệt Diên Phước. Mưa hóa nhân luyện đức càng thơm. Như xuân vật vật tự sanh thành, năm trước là nước từng xem chánh, lại cùng sông ngân vẫn trong xanh. Giường đá lâu rồi nằm rừng mây, sáu mươi tơ bạc hai tóc xâm, chín nổi trên biển, tâm đã thôi, chọn khe suối ta nhìn bóng cây. Gởi am chủ Tịch Chiếu. Xa dẫn vết cao tiếp che bồn, một nhà khô tịch là tiền thân. Trong bóng Tú Phong nhàn dụi mắt, thấy tận tuyết sâu chưa đến người. Dạy Thiền Nhân Tổ Cung. Yù tỏ rõ ràng như thân ông, nhìn mà không thấy dụng vô cùng, nghó tâm lại muốn nắm kéo lại, một mảnh lá thu rơi trời không. An Tọa Chủ đổi Y. Lương có lần rõ cửa Ma Cốc, không chê ông xử chia khách chủ, ông nhìn ông lão ở hư đường, hai tay chấm vai ngồi mây trắng. Thiên Trúc đưa Tăng đến Xương Ba. Tiêu nhiên ngưng mặt dẫn bóng thu, buồn qua biển đông chim trắng bay, bất tức bất ly tuy tự chịu, biển núi ai vì nói Kinh Vương. Động tónh đều chiếu. Nêu thôi nơi chốn thầm, luống xưng Tăng đất Tống, trăm năm nên tự bỏ, một cơm nêu là nhờ, gió ấm đấu chim hạc, khói tan bày khối đá. Phân cùng nước mây ngọt, suốt ngày mặc chuyển giao. Vật ngã đều quên. Ở đời nhiều bất khí, tình gọi tận phương biết, có mắt treo vách không, vô tâm hợp tổ sư, áo xuyên tùy tay bổ. Khách đến chậm xuống thềm. Hoặc hỏi ông lão ở hư đường, hết lòng nói với ông. Tuệ Thiền nhân đến vạn niên. Chuột vào ống tiền khéo đã cùng, mười năm dấu vết mắt đầu không, như nay lại hỏi đường ruộng bằng, nhà núi nửa ữa thổi lá vàng rơi. Dạy minh Thiền giả. Mặt xoay vách phong quy vắng lặng, con cháu xoay vần lập điều mới, không biết chặt tay về việc gì, máu chảy sâu không tuyết chưa tan. Tề thiền giả đến đạo tràng. Núi theo chỗ hiểm tự cô khởi. Đá bay đến bên hồ sông lạnh, cửa nhà đã nạn con lại đi, chờ rời tuyết sâu đứng trước sân. Lệ Đạo nhân Tự Phất nói. Thân đoạ hư không như mộng biết, muôn cơ cắt đứt mặc thiên chân, chỉ có lưu được miệng mẹ sanh, việc này làm sao nói với người. Linh Sơn nghe vượn ăn, Thủ tọa Tổ bảo không truyền. Rồng dữ nhân duyên hội bắc trai, sấm chớp Nam nhạc đến khe gai, rông đến như gọi không người nêu, ai nghe vượn lẻ kêu dưới trăng. Đáp cư Só Giác Như. Khi giác thể như như bất biến, đuổi theo muôn tượng vào mảy may. Trong thành Tỳ-da không người biết, một mặt điện chớp chỉ tự biết. Bắc Sơn am Cư. Tổ gánh đều khó gánh, núi dừng đều dang nương, thích nhàn hiềm ngày ngắn, gặp hứng chẳng biết về, khe kêu géo bắt hổ, trăng sáng cánh cửa mở, sống thừa chẳng nghó khác, thua hơn bỏ bên ngoài. Hai Thiền nhân Cung và Khâm đến Trường canh. Khó huynh khó đệ chưa biết hết, giống độc xưa nay mắt chở my. Nêu đến sông ngân chỗ có mây, chín núi lạnh ngọc toả ao trong. Thưa hỏi trong thất của thượng nhân Nguyệt. Ao trong ở trúc mây nhà sâu, muôn cơ rõ hợp tâm đạo nhân, có cửa chẳng phải không người đến, tự là vết linh không thể tìm. Gởi Thị giả Đông Hồ Phổ. Trước tiếng chưa nêu đã biết trước, từng dùng vượt cơ hại Quốc Sư, chổ hiểm phân hơn thua cùng ai, bãi cỏ hoa Tần am cũng nghi. Tiễn Xà-lê Thái. Giống cây rơi vườn biệt chi, nón thu đi qua bên mặt biển, trên cát có người bắt được hổ, bảo rằng Kinh Lao không hề giải. Tiễn Thiền giả Kính. Chim trắng bên sáng thu nghó xa, gặp người chưa nói răng đã lạnh. Năm khác Thất Tổ tranh đầu sừng, ngoài mây đi về lược mượn xem. Phổ Thiền nhân về Sớ Sơn. Núi xưa anh đến sông thu mộng, huống là trùng ngâm trăng đến song, không trụ Chùa Kinh Hoa Nam Đãng, pháp thân trở về hỏi cây khô. Lập Thiền nhân bình sơn. Vẫn là thế xa tiếp chân mây, có đường đâu từng người thở vội, đầm rộng đã biết ẩn không được, hoa lạ cỏ linh tự xanh xuân. Tuyên Tri khách về Giang Tâm. Rèm gió thân mây bao lần vậy, liền hỏi bến đâu tợ đến nhà, cửa cong nửa tựa ngoài liễu rũ, nước xuống nươc 1ên chỉ tự biết. Gởi tiết Duy Na. Mấy độ quên lời thoại khắc khách, âm hưởng tòng lâm cho ai nghe? Sông núi đêm thu đối trăng lẻ, đáng nhớ mây đỉnh Bắc núi cao. Đáp Lý Tân Tư Tuệ Trúc Trượng. Một mảnh ngọc xanh gởi người đêm, xa hơn cung châu chín tiết tháo. Thêm được lão đến sông núi hưng. Chỉ trời rõ đá nhìn mây trôi. Nguyên Tạng chủ du phương. Mắng chửi Cù-đàm nói khoát không, năm nay phân ngoài ghét tâm tình, núi Ngô sông Việt lại gặp nhau, phóng ra con sâu cắn đại trùng (hổ). Được nuôi: Đất hẹp trời rộng nghe xưa nay, phát cỏ phân được nửa khe mây, có khi mộng thức ở trước cửa, lười nghe trước núi hưu kêu bầy. Lãnh Tuyền tiễn văn Thiền giả đến Thiên Thai. Ngày Tuệ lý gọi vượn, lúc Cát Tiên thành đạo, đất hơn người khó đến, đến đi ai được biết. Tiễn Thiền nhân Tín. Lời thành tín là gốc đạo, ra cửa câu phải phân biệt, khe núi đến mắt biết thẹn thùng, chớ học tòng lâm no thấy nghe. Chánh Thiền giả về am. Dấu linh rộng lớn là bặt khái, người đến đua nhau khác nhiên hội, mây loạn chỗ sâu ở am Thiền, vượn lẻ gọi bầy ngoài song cửa. Văn Thiền Nhân đến ai Bắc đường. Cuộn áo về đông khóc ước khăn, lan rừng hương thoảng hai tháng xuân, trời đất bao la mở mắt cười, chẳng biết ai là người thân đáp. Gởi Thủ tọa Tuyệt Đậu Túc. Mũi nhọn sáng không hề dính bụi, lau chùi mài tâm đã thành tro, đêm thu không cấm vượn gọi trăng, cùng ai lên điến đài diệu Cao. Diễn Củng, Cung Tam Thiền đức đến Quốc Thanh. Ai biết ba ẩn trong tịch liêu, nhân thoại tim thề biệt Thứu Phong, tiễn nhau trước cửa có trúc dài, vì anh lá là nổi gió đưa. Đưa Tăng đến đất Nghiêm. Đối liễu mới nói song cửa lá, lại nắm dây rừng phá khói tan, lãnh lấy câu Đồng giang đến nhà, Tử Quy kêu trước bóng trăng tỏ. Tiễn Phùng Thị giả. Nung nấu tinh vi lại thấy người, giày xanh đạp phá mấy lớp mây, Linh Thứu lẻ loi đến biệt ta, chỉ có bóng thu đáng cùng phân. Bổn Thiền nhân đốt củi. Chỉ vì đến cuối, khô không hết, dầu cho thấy lửa cũng khó thổi. Năm nay năm ngoái tiêu ma đi, không cho gió xuân tự mang y. Hư thất Nhai Tuyền Ứng. Tiếng trời phát trúng lặng, núi cao xa sinh mây, có đến chẳng mắt nghe, không chỗ đủ tâm lắng, áo thiền rách tơi tả, bóng trăng vào song cửa, công lớn không chủ tể, dẫu ông tự nói ra. Đề Ngư Kỷ. Cành thu tựa đài đá, chim Cát đoán mù mờ, cành cỏ có khi lay, mấy sáng cá không đến. Điện Nham Tượng giả. Chỗ lành chưa bày ba tấc lưỡi, mắt thần vừa chớp lại không khác, Quý Hàm bỏ nhà cho phụ chết, người biết biển hồ mới thấy lớn. Chủ Am Đại Nghóa. Chân núi buộc vòng thất đầu nhọn, trên khe mới khai mấy mẫu ruộng, già rồi không thể lại xòe tay, tựa trúc ngưng mắt đưa khói lạnh. Phó Thiền Nhân Không Cốc. Sâu xa chẳng rộng chẳng quanh co, trong đó có thần chỉ biết xem, chưa mở miệng trước đã đáp dạ, khi nghe chớ bị nhó căn chê. Đưa Tiễn Sư Vô Nhị Về Trung Xuyên. Thận giang đến hỏi Xuân Trúc Sơn, Quý ông tìm thấy đã được người, chớ học khách hướng ngang chưa về, đến nay đất bụi đầy khăn áo. Hiên này. Một hạt đôi một cây, thừa thải tự bày ngang, ai nghó lại ai tức, hồn nhiên không mới cũ. Mai xưa. Ngàn năm cây rêu không thành xuân, ai tin hương sâu giống hồn ngọc, sương tuyết đầy rừng không trăng rọi, thắp đèn thổi góc làm hoàng hôn. Hiên Độc Phảng. Dấu vết rộng như dòng sông xanh, vẽ mái chèo không gần lưới cá. Có khi mộng rơi xuống sông thu, sáo ngắn nằm ngang thổi năm tháng. Đình Hà Quang. Vết linh tuyên phù đâu dễ lương, cố muốn tường thái phát trời che, gió thật không theo ba mùa lạnh, mãi đến ngày nay cây cỏ thơm. Thị giả Vịnh không chịu Tạng Chủ Dục Vương. Cướp không ruộng đất thân tự do, mắt đấy vô tâm đống sách cổ, tìm bàn chánh âm ai nghó được? Điệu cao vẫn là ngăn hàng mây. Minh Tri Khách giang tâm hỏi Trúc Phong. Vẫn là sương gió mãi không khô, trước sau đâu lâu cố công phu, câu rừng cây có ngàn lớp quân, trên sông trở về nhớ được không. Đối tuyết. Bờ cõi lạnh trong ướt mây si, mũi tên bắn lén nước hoa xuân, nhiều lời trước gió mới lớp trúc. Đáng nghó người đêm khuya trước sân. Viện Thông Trúc Trì về am Thứu Phong. Đỉnh Thứu tâm xoay động, bên ao bóng dần thừa, một đời không định lực. Bảy mươi còn đổi chỗ, mưa nhỏ thấm gốc thông, gió mát thổi kiệu trúc. Nơi mây trắng trông nhau, kéo lê từ rãnh nước. Vận của Hòa thượng Bạch Vân, lễ tháp Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội. Đền bái Tổ núi Đông, núi cao trời chưa giữa, xa nhìn tâm đã đủ. Nhiễu phải khởi điểm nào, chim kêu sợ người đi, hoa bay qua hương nước. Tây giang nanh móng còn, không hề thẹn Phần Dương. Lễ Tháp Đại Ngô Lôi Thiên ở Thạch Sương. Linh Cốt Tổ Sư thấy thì khó, trong tiếng sét đánh qua núi khác. Cha con chỉ duyên cơ không kín, lại thành cửa thị phi ngàn xưa. Tánh Tông Tập của Tạ Mộng am Cư Só. Tánh vốn không Tông mộng cũng chẳng, muôn cơ khó thấy một chân cơ, có khi tối hợp với trời đất, cười xem hoa xuân lá thu bay. Gởi Trưởng Lão Sùng Phúc Nguyên. Một tóc ngàn câu đến lúc này, trước gió không nói lại cau mày, nguồn thông mạch chính sẽ khô kiệt, sâu phát nguồn linh lại là ai. Khải Tạng chủ hiệu dữu lãnh. Tông nam Tổ Bắc tranh chỗ y, mưa rửa gió mài đá còn mới, vết linh đâu biết sau ngàn năm, tùng lâm còn có người thời xưa. Bạch Từ gởi Mộng Tù. Lúa vàng giã nát như mài ngọc, người say mùi gió chịu thấm môi, thoạt đầu lò lửa phiền anh nêu, chớ làm dính răng kéo răng người. Tịnh Phát Ngô Sanh. Vừa ý nhiều mây nước. Tìm tối hỏi người biết. Từng ở dưới Trúc phong, khi hôi thấy khe báu, khéo lý mấy cọng tóc, sáng hai chấm mày, bỗng quên chỗ tâm tay, sao nói không như đây. Thôn Lạc Đồ. Một năm ruộng lúa chín, ngoài vũ nhạc trời chân, lại không đánh trống kèn. Cũng là người thái bình. Tự Vũ Tức Canh. Lá dày hơi ấm khói, xương mềm nhuyễn lông thơm, Sào hứa rũ tiết trong, đến dòng không quên anh. Tiễn Đạo giả Bà Dương Phục. Gặp gỡ đạo nhân, hai mắt đen, áo quần tả tời đón gió xuân. Chịu lấy trăm hài làm đất bùn, lặng cười muôn việc như rối bông. Ngày nay tổ đạo mỏng như giấy. Ngói sành điện gọi người náo nhiệt. Chánh âm lại làm một sợi treo, hai tay gối bụng khóc như mưa. Đi đi không tiếc hai cọng my, khéo léo tận thời mới thấy y. Gởi Cư Só Hoàng Vụ Thích Trang. Cúi đầu thân hạt vàng Tỳ-da. Trong tỉnh thấy nhiều người trong náo. Lại đem việc đầu cửa không hai, thời và hư không giảng luận sâu. Gởi Thủ tọa Tuyết Đậu Tánh. Dưới núi Chúc Dung đốt lá hồng, Ứng mộng trong núi nhìn mây trắng, dấu chân chưa dạy dễ dàng thấy, ai biết ngoài trời có người nghe Tiễn Mậu Thị Giả. Lá cây rời cành khí sương lành, đầu hổ mang sừng mở ra thiền, Đông Tây Nam Bắc không người ở, mau mau trở về nói tinh này. Ngày xuân đối gương. Không trụ lại càng mới. Vốn là chân trong huyễn, tóc xưa nay đổi bạc, mắt già còn tinh thần, việc đời khó xem xét. Hoa Lăng cũng có bụi, gió đông bay lên cỏ, bất chợt lại có xuân. Tiễn Bình Thư Ký. Gương tâm mãi mài tóc loang lổ, chiếu soi xưa nay không hề nhàn, đã biết sở đắc lìa văn tự, đây cách thiền đậu phải có núi. Pháp Quang Tạng chủ đi từ Nam Từ: Ba gọi dưới cây thẹn long cấm, biển hồ tùng lâm đã tìm khắp. Quên đi vườn bay đường khi cũ, cuối cùng không chán tâm ban đầu. Thật Thiền giả Quy Tỉnh. Linh Sơn thiền khởi chưa ôn tịch, lại hỏi Triều Dương qua thuyền biển, hỏi đường Tỉnh Thọ ngày xuân lặng, tâm càng nhớ mãi bên mây trắng. Cảnh Hòa thượng Hiệu Thạch Am. Núi không là thất, cửa cỏ cây, trời khu toàn không rìu tạc vết. Hoa chim không đến mây tự trôi. Chịu đấm bàn tin tức với ai. Khả Thiền nhân về Giang Tâm. Thường nghó chùy nhất hận khó báo, lẻ loi tìm về trăng đang thu. Thượng đường nếu tình tướng vòng tròn, Sư liền mắng lầm thất ngu ngốc. Tiễn Tăng TỈnh Mẫu. Mười năm đến đi Chiết Đông Tây, mang được đầu nam lộ phục trì. Nhân nói lão núi lúa cỏ cây, không cấm đến thu nghe sa kê. Gởi Đô Tỉnh La Thái Uý. Biển bao núi dục khí như xuân, nội tướng tiếng hoa nghe trong ngoài, giềng mối cầm đình trời rồng kín, vàng đá nhuộm lây lò vua xông. Tịnh Đàm Tạng Chủ Du Phương. Tòng lâm hoang lạc nước mây lạnh, mùi gió chua cay lời chuyển khó, ẩn ẩn một cành ở ngoài trời, chẳng biết nơi nào chọn người an. Thị giả Đức Duy Tuần Lễ. Núi cây lây động như hỏi bến bờ, Gió nhè nhẹ kết nở hoa mới. Các nơi không cần vẫy tay nhiều. Tự có người tìm hương theo ngửi. Thông Tạng chủ đến Nam Quốc. Người xuân trường Hoài dã đốt xanh, sáu triều để việc rõ trong gương. Đến bờ khéo lợt đường rêu khám, hơn nữa không người biết tên họ. Lập Tạng chủ đi Tam Cù. Một hội Linh Sơn đã bảy năm. Tấc lòng như mũi sắt trời xa. Do đâu trở về suy việc trước, nói đến cành tiêu đá cũng thủng. Đoan Thư Ký đến thành vân đòi mạng. Không dạo Trượng Uyển đến Kỳ Viên, có con gió xuân đang phải biết gốc cành chỗ xa đến, giếng đỏ Cát Trên bên mây lạnh. Khánh Tạng Chủ đến Nam Bình. Từng hướng phương khác về sổ sách, tòng lâm có chí bày quân ta, trời lạnh tuổi già lại tìm cũ, chớ phụ giày xanh đạp mây đóng. Thị giả ẩn đi Nhũ Phong Đậu nghó sậu tuyết xưa, hết bờ bày núi nguy, đến đây khó mang đỉnh, tìm Sư bán nhiều đơn, không thời khí tuyết nặng, mang mãi tiếng khe lạnh, lấy được câu vào cửa, trở về nói ta xem. Gởi người xưa Từ Phong. Xuân mặt hồ về vật lý rõ, hoa nước vô số điểm bèo xanh, nhân đi nếu hỏi Hòa Am Chủ, chưa hẳn dấu lẽ ở hai linh. Vô bổ thị giả du phương. Tan tác ngày xanh đạp sương sáng, gặp người khuất chỉ hỏi các nơi. Có không tìm đếm ngày quay lại, bên đống lửa phân nói khuyết ưu. Cái Thiền nhân đến Nhạn Đãng. Gió cao cây rơi Thu núi Nhạn, roi khởi không vẫn mũi trâu hang, cỏ thôn bức đầu ngăn không ở, Đại phương chỗ nào cũng ruộng tốt. Thị giả Cung đến đất cái. Sông Hán mây mù chảy về Đông, mò hến bắt tôm chưa thôi nghỉ, lá liễu nửa tàn thu bờ lạnh, anh về không miệng cười đầu núi. Tặng Cư Só Hứa. Nghi núi không lấy phướn Bàng Công, rủ tay chôn sâu chùy của lão. Soang soảng các nơi mãi chưa thôi, đầu mắt bịp bợm ít người biết. Tặng Đạo Hữu Diệu Hỷ Xã. Gẫy đến trên mũi kim Diệu Hỷ, lấp phá hư không chẳng ngại ngùng. Ngày xưa, Duy-ma nay xã bạn, gặp nhau mỗi người có thần thông. Dạy Thiền nhân Trí Quang người Nhật-bản. Ẩn ẩn thuyền côi bặt biển đến, hư không điêu tàn núi sắt tan. Trong nước Đại Đường không tri thức, mắt mình mở được vốn từ đâu? Tiễn Thiền nhân Vónh Gia Tổ ý. Biết được ý đầu mối Tổ Sư. Xa xôi ngàn dặm rõ tri âm. Đương cỏ vừa hét đã quên tình, về hứng như là Hổ rời rừng. Thi giả Tâm Quy Tỉnh. Lá rơi lả tả, trăng đầy sân, thu đến mộng nhiều sau lão nhân, biển sông in bãi biết chờ ta, chẳng phải mây nhiều đóng mở riêng. Đến Minh Thư Hoài. Lưu Thái Chẳng ẩn sâu, đâu chịu lại núi cũ, chưa thể quên dấu bóng, đều là ngại nhân gian, tóc bạc ngâm bên ngắn, đàn trong nói chuyện nhàn, giang hồ có mộng lạ, ngày nào ra cửa thông. Thủ tọa Hải hiệu Nộ Đào. Lo nước lo dân ngày đêm sợ, ngã trời ngã đất làm sấm kêu, ông hãy bỏ phiền não đi thôi, trăm dòng đến một sáng như trong. Thiên Trúc Ngọc Luân Sư đến Giác Hải. Diệu Chỉ chỉ tìm từ ngoài câu, mây trắng đã thấy rèm trong thất. núi sông sâu thẳm nhiều phượng lân, cách đây ngang dọc một lưới thâu. Hạ Khế Sư am Cư. Chiếu ngang mây núi muôn tượng về, Đạo nhân mắt độc vì ai mở, gọi trẻ phóng trúc tưới ngoài hoa, sửa sang lò trà đợi khách đến. Tập Nhượng Đồ. Đi hẳn có thầy, tiến đến làm lễ, rõ ràng tâm quân tử, đối mặt nổi sóng gió. Sơn Hạnh khai thị cho Thị giả Tư Mục. Nước xuân xanh bóng nổi, bóng núi chảy vào khe, nhân suy nghó khéo chăn, tùy phần nhận chút ít. Vân Cốc Thuật Só. Ra thì vô tâm đáp có tiếng, rõ ràng trời đất cũng khó ghi. Thật đúng chẳng có chỗ thần thông, nghe nói năm nay linh ngoài phần. Tuyên giả Nhậm Đình. Vào đá vào cây biết phân số, triện xưa triện nay công đâu khó, chỉ nhờ khắc khéo mất chân thể, không thấy toàn văn ở thế gian. Thế Tiễn Lâm Vinh. Nhiều nghề anh làm được, dưỡng sanh chỗ nào gần, trong rương ba tấc sắt, ngoài mây một thân nhàn. Đen trắng chẳng bao nhiêu, tu sửa càng mất chân, sợ lạnh nên ít chặt, chưa thẹn người đạp khe. Thất Thao Quang. Ánh sáng trồng hoa bên giậu trúc, toàn thân lá núi áo lông lạnh, chẳng biết hang bằng mấy lần đổi, khi thấy mây tan theo trở về. Tam Hữu Đường. Khách lành quan xanh gặp anh đây, năm lạnh không bớt tinh thần cũ. Có khi phẩm tự luân giao thái. Thường có người phong cách xa hội Hiên Bích Chiếu. Mũi gỗ tựa núi khéo đào ao, đã biết tả hình đến người ít, một hộp ngọc lạnh ngồi đến lâu, chỉ thấy từng đôi chim trắng bay. Ao Hà Y. Mặt nước xanh động đến mưa sa, gió đến mấy lần tựa lan can, chẳng biết có bao nhiêu hơi ấm, Lão tử mỗi năm được chống lạnh. Nhạc Lâm Cổ Độ. Khế ông đến làm thuyền cứu người, hai bờ núi xanh nhẹ nhàng trôi, chèo núi thuyền ca không đến chỗ, biết lòng chỉ có đầu lão Nham. Trường Đinh khói mưa. Quanh co nước xa bên sông tỏ, cò cát gió tạnh rỉa lông cánh, dù cho vòng khe thâu thập được, giang hồ chớ làm họa đồ xem. Đáp Lý Ký Hiên. Ký ngạo biết nơi nào hành tàng, chẳng một can tâm không biệt chỉ, kêu nói có đến nguồn, chưa nói trước thông lý, tiếng thơ không ở lời, hẹn nhau Chùa Hồ Thượng, nắm tay nghe vượn kêu. Thị giả Duy, hiệu là Khúc Giang. Nguồn mạch cuồn cuộn đầu bờ xưa, qua lại đều làm ngại thuyền đi, không gió kính khởi tìm ngàn sóng, đến biển mới biết là ngược dòng. Thị giả Nguyên người Nhật-bản đến Thai Nhạn. Đạo Sư nghiêm minh khéo báo đáp, cầu đá qua rồi hỏi rồng sông, một hoa một cỏ người đều thấy, là anh biết cơ riêng gật đầu. Dạy thị giả Nội Ký Tháo. Năm nay Tế Bắc rời Hoàng Bá, căn cơ tìm lửa đào chưa ra. Ngày nay con cháu mở mắt sống, Lão Nam vốn là người đọc sách. Đức Tín Tây Thượng. Ra cửa lá khe rơi lả tả, muốn đi lại tìm chủ nhân cũ. Dưới lối chẳng bỏ đá ở lưng, hoa Lăng xưa không can đến xuân. Nhâm Tuất lên chỗ ngài Tuyết Đậu. Kính gấm. Mặt ao mênh mông nước chiếu không, gió xuân bóng hoa rơi đồng xanh, tựa lan định làm cỏ đầu xem, đã rơi vao tay áo của Sư. Diệu cao Tùng khô đá già cây rũ rượi, đến đây hư không dần biết thấp, sức chân hết lúc đã hứng xa, cùng ai dắt tay lên thềm trời. Tuyết bay. Gió đen có nhiều hoa nhẹ, trời bày bờ am thế muốn nghiêng, đến đây chỉ biết võ lúa lạnh, đêm khuya ai nghe tiếng nước chảy. Thủy Tiên. Lòng thơm sạch ngoài trần, Đạo vận hương trong tuyết, tự là cốt thần tiên, nhọc gì lại rửa son. Mặc trúc. Đầu lông không đến chỗ, tinh thần thật đáng lấy, chẳng thể nghe đàm huyền, sáu tháng thêm lớp áo. Triết Giang Triều Đồ. Thế giận tự sợ thật chẳng nghó, lắng lòng người thấy lóng xương lạnh, bình sanh một cặp mắt sóng gió. Ngày nay cửa sáng không nhẫn xem. Lão Dung Ngưu Đồ. Thuần đi tự quên chăn, áo xanh trong bóng liễu, không ăn cỏ ngoài cây, biết là mấy gió xuân. Lương giai quên cơ đồ. Tầm thường quên vật ngã, không can thiệp hiếm ngang. Mộng rơi bên thu lạnh, theo giáo lại đổi dời. Thường Mục Khê Viên Đồ. Sương rơi ở rừng không, vừa kêu ngàn núi lặng, bồi hồi thật hữu tình. Nhọc sanh phát tỉnh sâu. Ôm con men chỗ nguy, hứng thú ở cao xa, một chuông yên lòng, gió nghiệp thổi không dứt. Gánh cò. Mỏ cát đầu sườn núi. Gánh khổ ở trong bóng. Hứng thú bỗng đến một hơi ngàn dặm. Lá liễu thổi thu, nước trời mênh mông, che bóng mất tâm, ý không ở nói. <篇> <卷>QUYỂN 8 qua. Tham học Dó Văn Vô Bổ pháp Quang biên tập. Sư xuất thế lúc đầu ở chùa Hưng Thanh, phủ Gia Hưng. Phủ sở đã ôn tập trước, Huyện Sớ Tri Phủ Lục Ban ẩn soạn. Hiếu Tông ở đạo tràng Hương Thánh là nơi Ngài đã đặt chân Thủ tọa Linh ẩn, Thừa tướng vâng mệnh thỉnh đến. Câu đối là bóng mát của tường trúc, thường treo hoa, cúi mong Trưởng Lão Tân Mạng Thiền sư Hư Đường, lòng dạ sâu sa, dấu chân giang hồ. Cười trong mặt ông ôn hòa đâu dễ che lấp tài hoa. Rời sông trên thuyền chịu vậy tải, hẳn không mạng nước kéo bùn. Nếu dạy làm hý trường, mặc lây trước sáng sau dứt. Nguyện theo chúng thỉnh. Ân tuệ vừa đến, đưa tiễn Nguyên Công. Tuy tự cười sự bén sắc của mũi nhọn mua rượu dẫn đến đào lệnh, sao dám tử bỏ lời thề Liên xã. Tạ Thọ Đầu thượng đường, vị Tăng hỏi: Đạo giả, trồng thông mượn đường nhà họ Chu, sau này làm tổ thứ năm. Ý này thế nào? Sư nói: Lồng đèn tro trên vách Thiên Thai. Vị Tăng nói: Bạn thẳng năm là thọ Đầu cây lâm. Được phước báo gì? Nói cho ông nghe cũng không khó. Vị Tăng nói: Thế thì cá chép trên cây há miệng cười, rùa đá nháy mắt làm láng giềng? Sư nói: chớ vọng tưởng. Vị Tăng nói: Nếu như thế thật là mau chết. Sư nói: Cần gì phải dặn dò. Vị Tăng nói: Đệ tử cũng phải trong một cây chỉ là chưa có người giao cuốc. Sư nói: sao không tiện lãnh. Tăng nói: Cám ơn cuốc của Hòa thượng, đoạn lễ bái. Sư nói: được ít cho là đủ. Sư bèn nói: Lâm Tế trồng thông, Lão Lô dẫn cối. Ngưỡng Sơn giao lúa, Địa Tạng cày ruộng, biển bày một đoạn gia phong của Nạp Tăng làm tiêu chuẩn xưa nay của tòng lâm. Nhị lâm đến đây vì sao dựng lông ngược, gõ phất hàn từng ở chỗ ruộng núi kêu. Sắt làm gan ruột cũng đứt ruột. Sư thượng đường, Mèo có công uống máu, Hổ có đức khởi thây chất, nạp Tăng được gì không bia ký. Núi Nam nổi mây, núi Bắc để mưa thì hãy gác qua, vì sao hoa đào máu hồng, Hoa mận mầu trắng? Sư thượng đường, nêu: Nam Tuyền dạy chúng. Vương lão sư bán thân đi. Có người nào mua không? Vị Tăng bước ra nói: Tôi mua. Tuyền nói: không làm sang, không làm hèn, ông làm sao mua? Vị Tăng không nói được. Triệu Châu nói: Năm nay cùng Hòa thượng làm một áo vải. Sư nói: Nam Tuyền bị giả Tăng vừa đè chết đi mười phần. Triệu Châu hết sức đã không có chỗ cứu chỉ được buồn giúp. Ngày Phật đản, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: không lo làm sư tử rống dưới cây. Vốn có, chỉ trời chỉ đất, còn có đầu mối không? Sư nói: Chớ tin lời thẳng trong thẳng, phải đề phòng người bất nhân. Vị Tăng nói: Đệ tử y cứ vào khoản kết án, Hòa thượng đâu được năm tội nghịch nghe sấm? Sư nói: giắc cần giặc kéo. Tăng nói: Thế thì ngày 8 tháng 4 không hề sanh, ngày 15 tháng 2 không hề diệt. Sư nói: Chưa phải là cùng tột. Vị Tăng nói: Trời người trước chúng tin nhận vâng làm. Sư nói chém đầu tìm sống. Sư lại nêu: Tào Sơn nhân vị Tăng hỏi: Khi Phật chưa ra đời thì thế nào? Sơn nói: Tào Sơn không bằng. Sau khi ra đời thì thế nào? Không bằng Tào Sơn. Sư nói: Tào Sơn làm việc trong lỗ kim, thấy ông già mặt vàng chưa hết, bỗng có người hỏi Dục Vương, chỉ nói với ông ta: Thùng Sơn lúc nhỏ tắm Phật. Sư thượng đường: mới hỏi tất cả đều nói, chỉ là điều kịp nói nguyên do, mười cái có năm chiếu, không biết Dục Vương rơi vào chỗ nào. Đè xuống diệt ánh sáng, vì ông từ đầu chú giải một thiên. Hồi lâu nói: Như nói không thể nói hết. Kiết hạ, tiểu tham: Lão Hồ thiếu răng, mười muôn dặm mang được cái không có mùi vị đến, lưu bố các tòng lâm trong thiên hạ, khiến một mỗi mặt không có nhà xí. Nhìn lúc dài lúc ngắn chỉ muốn treo. Bỗng nhiên tánh người giết không hợp, thấy Phật giết Phật, thấy Tổ Giết Tổ. Nghe Giới Định tuệ, mắng chưởi không thôi. Tuy như vậy, nhưng Dục Vương hạ nầy, có người này không? Dộng tích trượng, lưỡi cuốn lên vòm họng. Sư thượng đường nói: một chữ Phật, ta không thích nghe, người đời bán rượu ba thăng. Thà nước đồng sôi rót vào miệng, chứ không nhận thức ăn của người có tín tâm, đất này không có vàng hai lạng, hội được hai không thành hai. Không như vậy thì hoa phải phát liền đêm, chớ đợi sáng gió thổi. Tết đoan ngọ, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Văn-thù sai Thiện Tài tìm thuốc. Tài nói: chẳng có thứ nào không phải là thuốc, ý này thế nào? Sư nói: Dẫn ra sen rơi gió. Vị Tăng nói: Thiện tài lấy cỏ đưa cho Văn-thù. Văn-thù nói: Thuốc này cũng có thể giết người, cũng có thể cứu sống người, là ý thế nào? Sư nói: một người truyền dối, muôn người truyền thật. Vị Tăng nói: Đệ tử bị bịnh khắp thân, làm sao cứu chữa? Sư nói: Dù là tay Phật cứu chữa ông cũng không được. Sư bèn nói: Ngày nầy là tết giữa trời, việc tốt chẳng được không nói. Đạo só thiếu răng, ngậm nước thư phù, chỉ trời quyết chọn. Mắt đỏ đậu gai. Một khi diệt tàn, chỉ có Hư đường bảy lồi tám lõm. Sư thượng đường nói: Trâu Hoài Châu ăn lúa, ngựa Ích Châu sình bụng, thiên hạ tìm người cứu, nương heo trên xương đùi. Hòa thượng Đỗ Thuận, áo vải chim cốt hỏi, cuối cùng khó cởi. Lông mày Dục Vương đụng nát Tu-di, lỗ mũi uống khô biển lớn, lại có một bạn ưu điểm, gặp người chỉ là không nói. Sư thượng đường, tra tra nhá nhá như con sư tử. Ta trong đây cũng phải khám nghiệm ông. Bừng bừng lẫy lừng như tìm cỏ nơi bóng cành trúc. Ta ở đây cũng phải nghi ông, tuy cỏ lúa không phân nhưng chẳng thể nào muối rớt trong tương. Giải hạ, Sư thượng đường, giơ gậy nói: hạnh nguyện sở tu, pháp môn sở chứng, mỗi mỗi đầy đủ, vì sao vào hạ đến nay không biết có sâu trong gạo. Nếu hạ được một chuyển ngữ, thì cho ông phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Nếu không như vậy, dộng gậy, chỉ biết trong cán chày có người đứt ruột. Sư thượng đường nói: cái gì cũng tin sách, chẳng bằng không có sách, biết được chữ không bằng quên chữ, Ngũ kinh và Tứ thư của các nhà hiền triết bọn ông ca ngợi, một Đại Tạng giáo, đều là phương thức rõ ràng đối vật thu thuế, cần gì bàn luận, một chiếc thuyền lá chở cả Đại Đường. Sư thượng đường nêu: vị Tăng hỏi Vân Cư: Núi sông đất đai từ đâu mà có? Cư nói: Từ vọng tưởng mà có. Vị Tăng nói: Tôi nghỉ ra một thoi vàng được không? Cư só nín thin. Sư nói: Vân Cư im lặng, giả Tăng không có đất ẩn thân. Trung thu thượng đường nêu một bước sáng nứt hết muôn tượng, có một tắc hào bóng rớt ngàn sông, vì sao thường đêm nay tham nhìn trên trời, gõ Phất trần, chỉ vì rõ ràng cùng tột, lại làm cho sở đắc chậm. Khai lò, Sư thượng đường: biết lạnh biết nóng là cơ thứ hai, thế nào là cơ thứ nhất? Dộng gậy, không được động, động thì đốt mặt. Khuê Nguyệt Đán tạ Bỉnh Phất, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Không biết sự lớn nhỏ của trăng, cái cửa của năm là người nào? Thứ nhất không bằng kẻ than thở. Vị Tăng nói: Ta cũng không biết. Tăng nói: Lão Hòa thượng cũng bị sai sử bảy điên tám đảo. Sư nói: Ông cũng thoát không được. Đâu làm gì được đệ tử, kẻ không vào bảo xã. Sư nói: Đâu dễ thối khoản. Vị Tăng nói: Huyền Sa không xuống núi, Bảo Thọ chẳng qua sông. Rừng Sa-la hạ nay nhiều thùng sơn phải làm sao? Sư nói: Người người như hổ đói gieo xuống vực sâu. Người người như gió thổi lá sen. Vị Tăng nói: Cánh tay Hòa thượng không cong hướng ra ngoài. Sư lại nói: mũi tên vàng lấy màng, tự bệnh khó chữa, kiếm bén vụng hư không, trốn đấu không kịp, đầu giống cầm ngang đuôi trần, dùng đè cơ đến. Sống chết tuy khác, đối dương có tiêu chuẩn. Người nào được tam-muội này! Dộng gậy một, hai, ba, ba, hai, một. Đêm ba mươi tết, tiểu tham, vị Tăng hỏi: Thiền hòa và qủy, sáng nghó chiều suy, được đầu kết giao. Bắc Thiền nấu trâu trắng ở chỗ trống, rừng cây lấy gì chia năm? Sư nói: Vòng vàng cỏ lúa. Vị Tăng nói: Hơn gia phong Bắc Thiền kia nhiều rồi. Sư nói làm sao nuốt? Vị Tăng nói: Trăm thứ lẫn lộn. Sư nói: Tái phạm không tha. Vị Tăng nói Pháp xướng lại nói Tuyết tháng chạp trắng đầy trời, gió mát bức cửa lạnh. Sư nói: Cũng ở sau lưng Bắc thiền vỗ tay. Vị Tăng nói: Hòa thượng nêu ra một câu Bắc Thiền xem! Sư nói: Vàng ròng tự có giá của vàng ròng. Vị Tăng nói: Cũng là mua tướng phướn đầu. Sư nói: Ông nghiệm được vừa vặn. Vị Tăng nói: Gia phong cổ Phật như đêm ba mươi tháng chạp, mũi của Tổ Sư, ngày mai chắc chắn là sang năm mới, phủi dũ ruột phẩn nói với y. then chốt huyền diệu mới không kín mật, đã thấy nháy mắt biết giá gạo ở Hấp châu. Lo lắng, gậy già đánh không quay đầu. Hành tàng bị hai mươi bốn khí đẩy đi. Có khi giống như con hổ nhìn cối xay dùng sức nước. Ta cũng ai có thể quản được? Theo giáo mặt trời đốt gió thổi, tuy như thế, lại không liên quan đến thời nghi, một câu thế nào? Gõ phất trần, mai núi trước phá ngọc, liễu sông chưa lay động vàng. Lại nêu: Người xưa nhân vị Tăng hỏi: Năm cùng tháng tận thì thế nào? Người xưa nói: Đông thôn vương lão đêm đốt tiền. Sư nói: Về sự cũng đến, về lý cũng đến, lý sự viên dung. Hội hết vật ngã, Sơn Tăng năm nay như nước ngâm nước. Lý sự nắm bắt ông ấy không được, bỗng có vị Tăng hỏi: Năm cùng tháng tận thì thế nào? Hòa tiếng liền đánh. Vì sao? Thêm một năm cũng không biết. Ngày Phật đản, Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Hai ngàn năm trước thiên hạ thái bình, hai ngàn năm sau sóng gió bảo táp. Cơ của Vân Môn tuy có sống chết, nhưng cắt đứt mạng sống của ông ấy không được. Sáng nay Phật pháp giao phó cho Dục Vương, chẳng hay làm sao lập bày? Sư nói: Nước độc đầu tay khoát Vị Tăng nói: Lạ gì các nơi Ngày nay mất lợi. Như mắt nhìn bốn phương, ý đó thế nào? Đã rơi sau Nhiên Đăng. Thế thì ông già mặt vàng xoay lưng về đất gọi là cong. Sư nói: Đúng thế. Khí gấp giết người. Sư lại nói: Bảy bước đi khắp còn phảng phất, chỉ trời chỉ đất không rõ ràng, đúng sai đã lọt tai người bên cạnh, rửa đến năm lừa cũng không sạch. Sư thượng đường, nêu: vị Tăng hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? Tổ nói: Ngay nơi tâm là Phật. Sư nói: Mã Đại sư một mũi tên thấu vào tim, vì trong đó bặt tin tức, ngày nay xem thử, oai linh hết rồi. Trung thu không trăng, Sư thượng đường nói, vị Tăng hỏi: Mã Tổ ngắm trăng chính lúc ấy là thế nào? Tây Đường nói: Chính là cúng dường, ý này thế nào? Sư nói: Đào đất chôn sâu. Vị Tăng nói: Bách Trượng bảo: Chính như tu hành Sư nói: Như cọc cột lừa. Vị Tăng nói: Nam Tuyền rũ tay áo bỏ đi, là thế nào? Sư nói: Một đầu xương lấy đi, chẳng biết trăng sáng rơi vào nhà ai. Vị Tăng nói: Tổ nói Kinh về Tạng, thiền về biển, chỉ có nguyện khắp vượt ra ngoài vật. Sư nói: Đường không nhặt vật rơi. Vị Tăng nói: Hoặc có người hỏi Dục Vương thế nào? Sư nói: đẩy xem. Vị Tăng lễ bái. Sư nói: Ánh sáng bay vào nhà ngọc, bóng rơi vào sông Thu. Lúc ấy người biết có, vì sao Hàn Sơn Tử duỗi tay chẳng thấy bàn tay: Hội được. Chính là đêm rằm, nơi nào có dáng đẹp của người con gái. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thích-ca chưa rời Đâu-suất đã xuống cung Vua. Vì sao lại có sanh diệt? Sư nói: không nhân câu hỏi của ông, Đại Chúng nào biết. Vị Tăng nói: Quá khứ đã hai ngàn năm, vì sao còn sáng rực? Ở nhân gian: Sư nói: Chỉ nai làm ngựa. Sư liền nói: Tạm giấu hóa cơ. Theo lời thỉnh của Ba-tuần kia, lại rũ phương tiện, để hiện thân ma chết bèn thấy ngày này là có, ngày mai thì không. Muốn thấy Thích-ca không, dộng gậy xuống. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Vì sao Huyền Sa không xuống núi? Sư nói: Vì nhận giặc làm con. Tăng hỏi: Vì sao Bảo Thọ không qua sông? Người lìa quê hương nghèo. Vị Tăng hỏi: Huyền Sa Bảo Thọ ngàn dặm cùng gió. Hòa thượng vì sao thọ một người? Không thọ một người. Sư nói: Người Hồ uống sữa. Vị Tăng nói: Ngày nay tội tự nhận bại trận Sư nói: miệng cá mỏ chim, Tăng nói: Hư Đường cũng phải não môn sát đất. Sư nói: Lão Tăng tu hành vô lực. Sư liền nói: Phật Pháp hỗn loạn thật không như ngày nay, bình thường hết lời, chỉ cần mọi người không bị chê, muôn một vào trong đầu lâu. Thiệt khó ra được, Nhị lâm bao như thế, miệng là cửa tai họa. Thượng đường có khẩn yếu đều ở sau cột sống, không khẩn yếu thường thường để trước đầu lâu. Như nay hợp lại thành một, gọi ấy là hỗn tạp dung hợp vô bờ, hãy xem như thế, không như vậy, giọt nước tấc tơ báo đáp có ngày. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Đức Sơn ôm bát lên phương trượng, ý chỉ thế nào? Sư nói: Sang mua hèn bán. Vị Tăng nói: Nham Đầu nói: Lão già chưa hội, câu cuối cùng là thế nào? Sư nói: Đánh chùy lặng trong chợ ồn náo. Vị Tăng nói: Đức Sơn hỏi Nham Đầu ông không chịu Lão Tăng ư? Đầu mật khải ý lại thế nào? Sư nói: quỷ tìm lúa, Phật nhảy tường. Vị Tăng nói Đức Sơn hôm sau thăng đường, quả nhiên bình thường không đồng đầu vỗ tay cười lớn nói: Lão hãy vui hội câu cuối, lại thế nào? Sư nói: Bị dao làm thương tích dễ chết, lời ác khó tiêu. Vị Tăng hỏi: Thế nào là câu cuối? Sư nói: Ông khám biện Nham đầu hay khám biện lão Tăng? Vị Tăng nói chim nghóa, giấy quý dường như lãnh hội qua. Sư nói bị sức thần loạn Sư liền nói: Chạm cát khắc ngọc, cắt sắt chặt định, sáng chói nằm trong đất lạnh. Vì sao? Thời đại thái bình không được giam nhốt nam nữ nhà người. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Pháp thân vô vi không rơi vào các số, vì sao có sanh có diệt? Sư nói: Ai lại không biết! Vị Tăng nói: Nếu dùng sắc thấy ngã như hạt bụi trong hư không. Sư nói: mặc cho nhảy vọt. Vị Tăng nói: Thích-ca có lỗi gì, lược không lộ tin tức? Sư nói: bóng đêm trăng sáng, phần nhiều bì đè kiếm. Vị Tăng nói: chỉ nghe gió qua trúc, bất giác tuyết đầy núi. Sư nói: Biết lỗi thì bỏ. Sư bèn nói: Ông già mặt vàng mỗi ngày cùng mọi người đè vai đẩy chân, không hề thiếu thời gian, vì sao nói sáng nay nhập diệt? Nếu ông thấy được phần hiểu, ân trở về có lý do, không như vậy, thì trong điện Phật tự đứng dậy, tự té xuống. Tạ Chấp Sự Thượng đường, vị Tăng hỏi: Bên đông cũng có người, bên Tây cũng có người, ở giữa làm sao? Sư nói: một chấm đen như sơn. Vị Tăng nói: còn thích lãnh hội lời Hòa thượng. Sư nói: ân tuệ từ dưới cây liễu. Vị Tăng nói: Bỗng có người đông tây không phân, nam bắc không rõ, có dùng ông ta không? Sư nói: đâu được không dùng. Vị Tăng hỏi: Dùng ông ta thế nào? Sư nói: Bẻ bờ đông đắp bờ Tây. Vị Tăng nói: Đáng gọi là nạp Tăng hiểu việc. Sư nói: Ông không được xía mồm. Sư bèn nói: Ngày A-Dật-Đa hành đạo, các hóa Phật ở phương khác đều tụ hội đến, hư đường bạc duyên, đạo không bằng xưa. Tự thổi tự vả, tùy lý phân qua. Chỗ qua người theo, đều chẳng bổ ích. Khoét mắt Văn-thù, chặt cổ Phổ Hiền, đập tòa Duy-ma, đốt áo Ca-diếp. Những hạng người này khó để gần gũi. Vì sao? Vì chỉ biết khắc mình theo người. Bất chợt răng môi lạnh buốt. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường, núi Linh Thứu lở, gió chướng nổi lên, Thiện loại vỗ ngực rơi lệ. Ma quân vui mừng. Thích thì muốn cho nó sống, ghét thì muốn nó chết. Đâu chỉ có hai ngàn năm trước mà thôi. Gió xuân đồng nội hoa nở tươi đẹp. Vàng oanh trên cành hót rõ ràng. Ngày kî của Đại Sư Viên Giác, Sư niêm hương: Gió qua sông gởi ngọn lau xanh. Đêm khuya nhớ người điện vàng. Tây Thiên đất này bán không được, ngàn xưa muôn xưa thành lộn xộn. Lúc sáng của tháng lành hoa nở năm cánh ai gọi dấu kín ánh sáng dấu vết ấy. Chén chè xông lò muốn để tiếng, rõ ràng đối mặt không biết nhau. Trưởng lão Sùng Phúc Nguyên ở Tuyền Châu đến, Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Dương Kỳ nói: Rút cổ lại tối than thở, Bạch Vân thì nói giống như sắp lấy chồng trị bướu, khi chết tay chân không phân biệt, Ngũ Tổ lại nói: Đi không thành bước, không nói thấp tiếng, mũi vẫn không đột ngột. Cho đến Viên Ngộ, Hỗ Khưu, Ứng Am, Mật Am, Tùng Nguyên, Vân Am đều đẽo ngọc khua vàng, cách chiếm nhà này có người đạp được mạch nầy không? Dộng gậy, rồng rắn dễ biện, nạp tử khó xem thường. Sư thượng đường, đóng một giờ hai, vô biên cảnh giới một mảy may thu, thu hai niêm ba, đầu núi muôn thước. Chân đứng một mình, dùng lời không đến nơi xuyên thấu lỗ mũi ma vương, lấy thức ăn chưa đến miệng, lấp nghẹt cố họng của nạp tử, lồng đèn cột trụ thầm hợp lông mày. Ngựa gỗ, ngựa đá chạy điên đảo, đã có hiệu dụng như thế, đặc biệt như thế thì cửa nhà Dục Vương chưa đến Tịch liêu. Vì sao? Vì gõ phất trần nói: con cháu đời sau thôi vọng tưởng, chim chú Cô Kêu phải phải là gió xuân. Sư thượng đường, tiếng kêu chuông trống, có thể tiết lễ nhạc, về quyền hành chân chánh có thể định nhẹ nhàng. Nhưng tỳ-kheo ta là đệ tử Phật, có đạo có đức, có nhân có nghóa, kiết hạ đã một tháng, nghiệp thức mênh mang, thật không ở chính mình, thật là đáng thương. Bỗng nhiên có người răng như cây kiếm, miệng như bồn huyết, đi ra liền hét, suy nghó rồi vỗ tay. Lão nói nói ông hãy ở lại, ta năm nay bảy mươi bảy tuổi rồi, ông hãy giúp ta một chút. Kẻ kia quay đầu nhìn một cái, cười nhạt rồi bỏ đi. Hãy nói: Ông ta cười cái gì? Dộng gậy đến ta lấy cây đào, báo đáp lấy châu ngọc. Sư thượng đường, nêu: khi Hưng Hóa chưa ra đời, Sư thường nói: ta hành cước ở phương Nam, vừa gặp thì đầu gậy không hề bỏ người hội Phật pháp. Đại giác nghe được nói: Lúc nào bị gió nghiệp thổi vào môn hạ của Đại Giác. Hóa một hôm quả nhiên đến, Đại Giác thỉnh Sung Viện Chủ, Đại giác gọi Viện Chủ nói: Ta nghe ông nói hành cước ở phương Nam, đầu gậy không hề bỏ người hội Phật pháp. Ông có mắt gì? Hóa liền hét. Đại Giác giơ gậy, Hóa suy nghó, Giác liền đánh, Hóa lại hét, Giác lại đánh. Ngày tới, Hóa đi qua pháp đường. Giác gọi Viện chủ. Ta mãi nghi hai tiếng hét hôm qua của ông, nói cho ta xem. Hóa nói: Ta ở chỗ Tam Thánh được câu khách chủ, đều bị sư huynh bẻ ngược rồi, xin pháp môn an vui. Giác nói: Kẻ mù, đến đây chịu bại trận, cởi áo nạp ra, chịu đánh một trận. Hưng Hóa bỗng giác ngộ dưới cây gậy của Đại Giác nói: ngày nay ta mới biết tiên sư ở chỗ Hoáng Bá, ý chỉ ăn gậy. Sư nói: tiến bước nơi cây sào trăm thước, chưa phải là hiểm. Bấy giờ, đầu gậy của Đại Giác như không có mắt sống, Hưng Hóa muốn thấy chỗ ngộ của Lâm Tế cũng chưa được. Mấy ngày gần đây có bọn mù lòa, không phân biệt tinh thô, mặc cho hét Hồ hét loạn. Sư thượng đường, như hằng sáng, hằng ngày, thấy thành thọ dụng. Ngàn khó muôn khó, nhân suy nghó Lâm Tế đánh Hoàng Bá đây giống như Hoa Đình móc cành câu. Tạ Hòa thượng Đoan Nghiêm thượng đường, có ý đợi không đến. Vô tâm bỗng gặp mặt, đầu tóc rũ rượi, mắt sáng như điện, nói hết sóng gió biển hồ, gạo củi đắt rẻ, lại có một chỗ ít người biết gõ phất trần cũng là my trên mày. Sư thượng đường nói: Đức Sơn vào cửa liền đánh, Lâm Tế vào cửa liền đánh, Hư Đường vào cửa liền mắng, Đức Sơn vào cửa liền đánh gọi là đánh được không? Lâm Tế vào cửa liền đánh gọi là đánh được không? Hư Đường vào cửa liền mắng gọi là mắng được không? Đã gọi là đánh không được, lại hét không được, mắng lại mắng không được, cuối cùng gọi là gì? Gõ phất trần, bình sanh gan ruột nghiêng với người, biết nhau vẫn như không biết. Đêm đông, tiểu tham. Bóng tối xua tan mặt trời mọc. Lại thấy đi trên nước núi đông, cười nhạt lão Vân Môn nhiều lời. Lại ngày mai giờ ngọ đánh canh ba. Nếu thấy được như thế, quần vải trắng chẳng phải không giặt, không được đổi thế. Gương sạch nằm riêng, chẳng phải không bày, ngưòi không công phu nhàn nhã, xem người xưa chín mươi chín trăm trăm, gian nan vất vả thành được mặt mày gì. Dộng gậy một đông hai đông khoanh tay ngang ngực. Sư thượng đường nêu: Thiền sư Vân Phong Duyệt ban đầu tham học với Đại Ngu dạy chúng rằng: Mọi người tụ hội ăn dưa rau, nếu ăn một cọng dưa thì vào địa ngục như tên bắn. Phong lấy làm lạ, cầu tham đường. Sau đó đến phương trượng thưa hỏi, Chi nói: Phật Pháp không sợ mục nát, ta chịu lạnh không nhàn, đâu rảnh nói Phật pháp cho ông, hãy đi nơi khác. Sau đó lại đến thưa, Chi nói: Phật pháp không sợ mục nát, ta chịu đói không nhàn. Đâu rảnh nói Phật pháp cho ông. Phong lại đi trì bát, ngày về, lại đến phương trượng thưa hỏi, Chi nói: Phật pháp không sợ mục nát Đường Ty thiếu người. Lại Sung ta làm Duy-Na. Bỗng một hôm, thấy sau Tăng đường có thùng dầu cháy liền tỉnh ngộ. Vội vàng đến phương trượng, Chi đón cưới nói: Duy Na lại thích Đại Sự rồi, lại lễ bái mồ hôi đổ, không một lời đi ra. Sư nói: Đại Ngu không bày châm biếm, bệnh của Vân Phong rất nặng, người sau chỉ xuống không rõ. Mặc hướng đến chỗ trị bịnh xem. Sư đến Nhũ Phong, đại chúng thỉnh thượng đường, môn hạ Tuyết Đậu đều là bậc thượng căn lợi trí. Đền gần thì rợn tóc gáy, nhìn thì tinh thần hoảng hốt. Người đến đây ai dám vọng thông tin tức. Lại gặp Đường Thượng Tây giang là người trong nhà, chưa khỏi lầm gió đưa buồm. Cho nên nói: Giữa đường gặp đạo bạn cùng qua vai việc một đời tham học đã xong. Tuy như thế lại là bậc lợi căn lợi trí, việc tham học đã xong. Làm sao gặp nhau. Dộng gậy, gió trước đình gương gấm lạnh giá, diệu cao cô đảnh tuyết phủ đầy, Sư ở tháp Thứu Phong Linh Ẩn, dứt bặt Thế đế, nạp tử thưa hỏi bèn lập ba câu hỏi để chỉ dạy, đều khiến cho nói. Mắt mình chưa rõ, vì sao lấy hư không làm quần vải. Vẽ đất làm chuồng thấp vì sao người thấu không qua. Xuống biển đếm cát, vì sao kiểng chân trên đầu mũi kim nhọn. Lâm An Phủ Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Thiền Tự Hậu Lục Tham học Đạo Chuẩn Hy Hội Chiêu Hiền biên tập. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Hoàng Bá đánh Lâm Tế thì thế nào? mù. Sư nói: Bức tằm sống làm kén. Vị Tăng nói: Lâm Tế đánh Hoàng Bá thì thế nào? Sư nói: Đông làm xuân sai khiến. Vị Tăng nói: Nếu Hoàng Bá và Lâm Tế như thế thì cả hai đều Sư nói: Hoàng Bá và Lâm Tế đã nhiều năm, nay mới gặp tri âm. Vị Tăng nói: Hoàng Bá và Lâm Tế có lỗi gì? Sư nói: Như rùa cõng tranh. Vị Tăng nói: Trong đó có được mất hay không? Sư nói: Ăn gậy rồi cho khoản. Vị Tăng nói: Nếu Hòa thượng như thế cũng là kẻ mù, liền lễ bái. Sư nói: Nhà không có trẻ sai. Sư liền nói: Xét về mắt tai không đủ để chia vật lý, nói về tình thức không đủ để định công huân. Sơn Tăng từ khi vào viện đến nay mỗi ngày làm việc không rảnh rỗi. Lại rảnh đâu mà phân vật lý định công huân. Sư gõ phất trần nói: Lão đã trì trai từ nhỏ đến nay, thấy người vô lực, xuống giường thiền. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường, nêu: Thế tôn sắp nhập Niết-bàn ở trước chúng trời người lấy tay xoa ngực, nói khắp với đại chúng: “Các thầy khéo xem thân sắc vàng tím của ta. Ngày nay thì có ngày mai thì không, chiêm ngưỡng cho đầy đủ, chớ để sau này hối hận”. Sư nói: nếu lúc ấy Sơn Tăng ở trong hội thì chỉ nói một cách nhẹ nhàng. Đức Thế tôn giơ lấy cái giã kia ở chỗ khác. Nếu hạ được một chuyển ngữ thì khỏi được ngày nay trịnh trọng. Sư thượng đường: Biết tâm đạt đến gốc, ngồi dưới giếng mà nhìn trời, lý cùng tánh tận, mò trăng đáy nước. Bơi qua hai lớp cửa, lại hướng đến chỗ đi đứng nằm ngồi, mượn mũi của người thở ra. Dù như thế còn đọa vào bốn bịnh của kinh Viên Giác là làm sao? Được thong dong tư tại đi. Dộng gậy nói: Nhớ mãi trong ba tháng Giang Nam chỗ chim Chá Cô Kêu hương hoa. Sư thượng đường, nêu: Thiền sư Đoạn Tế có lần cùng Vị Tăng khác đến núi Thiên Thai. Đi mấy ngày gặp nước sông lên, không qua được, chống gậy đứng hồi lâu. Dị Tăng ấy lấy nón làm thuyền nổi lên rồi qua, Đoạn Tế nói: nếu ta biết sớm sẽ bẻ gẫy cổ của ông là mau. Vị Dị Tăng khen rằng: Đạo nhân mạnh bạo, ta chẳng thể sáng bằng. Sư nói: Đạo nhân mạnh bạo khó gần gũi, sông chảy trong nón nghiệm làm nhà nhớ xưa cao nhân đi nơi nào, đêm khuya cùng trăng qua bãi cát. Hòa thượng Tạ Tân Thừa Thiên, thượng đường nói: Núi Thái lở sụp đâu có linh để nương gá, dây đàn đứt có thể nối liền, chiếu cố thời mạt vận, mạch chính sẽ chìm. Không nhân đậu nóng tro lạnh, đâu được thịt của Vân Phong ấm. Cho nên Sư Tổ Tùng Nguyên nói: Bại hoại nhiều năm cây chổi dợi nhàn lấy ra định tông cương, có loại tiêu cách thiên nhiên khác, không hơn Mạnh Bát Lang ở các nơi. Đây là khí lão này bất bình. Nay đối trước chúng trời, người gửi gắm Hòa thượng Thạch Phàm ở bờ thành Cô Tô, mở ra còn thơm. Làm cho nạp Tăng trong thiên hạ biết có núi Đông đáng tiếp nối. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Vô Trước đến cúng Đài Sơn gặp Văn-thù đón tiếp nói: Tôn giả từ phương nào đến? Vô Trước nói: Từ phương Nam đến. Văn-thù nói: Phương Nam Phật pháp trụ trì thế nào? Trước nói: Tỳ-kheo thời mạt phát ít vâng giữ giới luật. Văn-thù hỏi: có bao nhiêu chúng? Hoặc ba trăm hoặc năm trăm. Vô Trước lại hỏi: Hòa thượng lúc này trụ trì thế nào? Văn-thù nói: Phàm Thành đồng cư, rắn rồng lẫn lộn. Lại hỏi: có bao nhiêu chúng? Văn-thù nói: Trước ba ba, sau ba ba. Sư nói: Lúc ấy, đáng cho Vô Trước một tát, nói là bao nhiêu đợi ông ta suy tính cho một hét. Lúc ấy đã phóng qua, nay thì lại thành không được, bỗng có người hỏi Nam Sơn làm sao trụ trì? Lấy tay chỉ trời dạy: hoặc hỏi bao nhiêu chúng, lấy tay chỉ đất nói đợi ông ta suy nghó cũng cho một tiếng hét, vì sao? Sư gõ phất trần nói: Kiếm vì bất bình mà lìa hộp báu, thuốc nhân cứu bịnh mà ra khỏi bình. Ngày Phật hạ sanh, Sư thượng đường nói: Khi Thế tôn mới hạ sanh, tay chỉ trời đất nói: Trên trời, dưới thế chỉ có ta là tôn quý nhất? Cũng là nửa đêm lấy được tích trượng. Sau này, Đại sư Vân Môn nói: Nếu lúc ấy ta thấy thì sẽ một gậy đánh chết cho chó ăn. Quý ở chỗ thiên hạ thái bình, dâng Phật không muợn nhiều hương. Nam Sơn ngày nay muốn cùng lão Hoàng Bá thở ra, dộng gậy nói: Lồng chim rớt xuống biển cá ba ba chết. Kiết hạ, Sư thượng đường, giơ gậy nói: cây gậy tónh lâu suy nghó động muốn ra phát huy quy cách nghiêm ngặt trước hai ngàn năm cổ Phật. Muốn nghiệm công dụng chín mươi ngày của nạp Tăng, nhìn phải liếc trái, sáng tụng chiều suy nghó. Trực giác vào rừng không động cơ, vào nước không động sóng, để biểu thị đức hành cước theo người. Dộng gậy nói: cây gậy pháp yếu điều ông nói trước đây, chín hạ núi sơn mỗi mỗi theo. Ông cũng dùng giáo để định mới được. Giữa hạ, Sư thượng đường, dộng gậy bảy ngày kiểng chân trên cát, còn tự không biết đại sư Tứ Tổ, sáu mươi năm lưng không đụng chiếu, không hề hội đi. Thấy long tượng trước, bốn mươi lăm ngày trước đã qua, bốn mươi lăm ngày sau thỉ làm sao: Bỗng có kẻ mắt sáng bước ra nói: Xin Sư thưởng công: Chỉ nói với ông ta: hai quan tiền áo, ba vị thức ăn, cầm tay nhau dắt lên đài cao. Sư thượng đường, nói: Triệu Châu hỏi vị Tăng: Từ đâu đến? Vị Tăng nói: Từ Tuyết Phong đến. Châu nói: Tuyết Phong gần đây có ngôn cú gì dạy đề chúng không? Vị Tăng nói: Đại sư nói: Hết mặt đất là sa môn một mắt. Các ông đi đại tiểu tiện nơi nào? Châu nói: Ông nêu qua núi thì gởi cho ta cái cuốc đi. Sư nói: Triệu Châu lấy một hạt đào ngọt đổi được một cây lê chua. Nếu có người hỏi Tịnh Từ có ngôn cú gì dạy chúng thì chỉ nói với y rằng ông nhất định hỏi ta, nếu hỏi người khác sẽ đánh dạy miệng mồm ông. Sư thượng đường, giơ gậy nói: Hòa thượng Thủ Sơn Thượng đường, Phần Dương bước ra chúng nói, Bá Trượng cuộn chiếu, ý chỉ thế nào? Sơn nói: Áo lông phất ra toàn thể hiện. Dương hỏi: ý chỉ thế nào? Sơn nói: Chỗ voi đầu đàn đi bặt dấu vết cáo. Dương nhờ đây đại ngộ, nói: Trăng không giới sông xanh muôn xưa, hai ba lần mò lấy mới biết, lễ bái mà lui. Bấy giờ, Hòa thượng Diệp Huyền Tỉnh là Thủ tọa hỏi Chiêu Huynh: Lúc ông đến thấy cái gì? Liền lễ bái. Dương nói: Chính là chỗ tôi buông thân bỏ mạng. Sư dộng gậy nói: Phượng hoàng sinh Phượng hoàng, sư tử sinh sư tử. Giải hạ, tiểu tham: Gọi gió cắn ngón tay, cạnh bên nêu không người, trăm số thành bầy, không thuộc về sự giáo hóa của nhà vua. Cho đến lời nói tiến cử thưởng công lao. Bèn ở trong tối lấy vật, lúc ấy có một người, nửa người, biết nhân biết quả. Đỉnh ở trên đầu sừng trán, không dám vọng có đi làm. Bỗng nhiên lỡ chân đạp chết một con kiến, rồi nói thoại đầu không viên. Chỉ như đồ tể Quảng Ngạch ở Tây Thiên, buông dao giết mổ, ta là một trong số ngàn Phật thì lại thế nào? Hạ được một chuyển ngữ, mặc cho bình sành khác thổi mùi hương. Lại nêu: Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn nói: Ta là kẻ thiền ngoài da từ Hư Đường xuống, cũng nhảy mấy cái, không bằng thiền lưu lý các nơi. Sư nói: Ngũ Tổ vẫn là bắp tay, Trống da gà Tịnh Từ không nhọc đánh lại. Một số người liền nói: Hư đường tuổi già tâm đơn lẻ. Thật chẳng biết, nhà giàu chê ngàn miệng ít, nhà nghèo hận một thân nhiều. Hôm sau, Sư thượng đường nêu: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Ông một hạ không lên công án. Sư nói gia pháp quy sơn nghiêm ngặt. Chỉ vì Ngưỡng Sơn không dám nói húy Tổ. Đến nay không hiểu. Hội được một hạ cũng không luống qua, không như vậy thì đường xá nguy hiểm, mỗi người nên cẩn thận. Tạ Tân Cựu Chấp sự giam thu, Sư thượng đường nói: Tiến lùi có thường, trừ bỏ đặc biệt, đó là tiến. Như núi xanh mây trắng mở ngăn tự tại, ấy là lùi vậy. Như hang núi sanh ao thu nước yên lặng, muốn biết tiến lùi như một. Tự nhiên hòa khí có thể được. Chỉ như liềm cắt lúa cắt được mấy đầu tổ Sư, ra lộ tin tức xem. Sư thượng đường nêu: Hòa thượng Đạo Ngô nhân vị Tăng hỏi: Bồ-tát không có thần thông vì sao dấu vết khó tìm? Ngô nói: Người đồng đạo mới biết. Vị Tăng nói: Hòa thượng có biết không? Ngô nói: không biết. Vị Tăng nói: vì sao không biết? Ngô nói: Trừ ông không hội lời ta. Sư nói: không biết hai chữ đã là tiêu tan cổ họng của giả Tăng, không lý do gì vì vật mà thương xót, tối lộ góc tốt. Bỗng có người hỏi Bồ-tát Nam Sơn không có thần thông vì sao dấu vết khó tìm? Liền giơ gậy lên đánh. Vì sao lão Tăng không từng quản việc nhàn của người? Trung thu, Sư thượng đường nói: Hoặc ẩn hoặc hiển, có thiếu có dư là cái gương vô tư của trên trời, là cây đèn chiếu ban đêm của nhân gian. Bình thường là luận ba năm chỉ có đêm nay sáng ngoài phần, tuy nhiên là điều Cổ Sơn nói. Tạ chấp sự, Sư thượng đường nói: Trên thuyền chẳng tán công, ngự xe có Phương chỗ. Đánh sào thuyuền, đánh sào thuyền. Lay mái chèo, lay mái chèo. Chạm sóng đèn gió trời đất rộng. Đến đi chẳng ngại biển Đông Tây, gõ phất trần nói: Lửa bạn được người. Sự thượng đường nêu: Dược Sơn hỏi Thạch Đầu: ba thừa mười hai phần giáo tôi biết sơ sài, có nghe ở phương Nam có chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, thật chưa rõ. Chỉ mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy. Đầu nói: Như thế cũng chẳng được, không như thế cũng chẳng được. như thế, không như thế đều cũng chẳng được, ông làm thế nào? Sơn suy nghó hồi lâu. Đầu nói: Ông không có nhân duyên ở đây, Giang Tây có Mã Đại Sư, ông hãy đến đó sẽ nói cho ông hiểu. Sơn đến đó, chuẩn bị hỏi lời trước. Mã tổ nói: Ta có khi dạy y nhướng mày nháy mắt, có khi không dạy y nhướng mày nháy mắt. Ở đây không đúng. Vị tTăng ngay đây tỉnh ngộ, liền lễ bái. Mã Tổ nói: Ông thấy đạo lý gì? Sơn nói: Mỗ giáp khi ở Thạch Đầu như muỗi trên sừng trâu sắt Sư nói: Ép núi Thái, vượt biển Bắc, không cho là khó, nói vô vị, lấp bít miệng người. Tuy nhiên, vì sao Đức Sơn ngộ dộng gậy xuống đất? Sư thượng đường nêu: Vân Môn nhân, vị Tăng hỏi: giết cha giết mẹ sám hối trước Phật, giết Phật, giết Tổ sám hối ở đâu? Môn nói: Lộ bày. Bỗng có người hỏi Tịnh Từ. Chỉ nói rằng biết, có được tương ưng không? Lại nói: con đường của Vân Môn, cái biết của Tình Từ, quyền hành thường đang nắm không buông đầu cân thấp. Khai lò, Sư thượng đường tạ giáng ban tiền lại che Tăng đường, uyên ương xếp hàng, bặt tham lậu trong đường cây khô. Lò hồng, hừng hực, lại nóng dưới y của nạp Tăng. Có thể ngồi quên kiếp Không, sức nghiên cứu tâm tông. Theo giáo lá vàng khối mây khơi đưa đến sương gió ngăn sáng, vàng đẹp ngọc quý, xuống từ chín lớp ngồi nằm kinh hành, ngưỡng đầu đội đức. Ngày Kî Đại Sư Đạt-ma, Sư niêm hương nói: Ta là trời, ông là chó, thần cơ hùng biện, khó để vòng quanh đều sắc bén. Cửa Ngụy vườn Lương, thiền khô xoay mặt vào vách, được để ẩn các dụng. Đeo ấn Tây Thiên không văn tự, mặc áo đơn không truyền của Đông Độ, nhầm người chặt tay an tâm, cho đến cửa miệng thiếu răng. Ngày kî nầy đến, than vận suy mạch chánh sẽ chìm. Muốn ánh sáng khác, tạm bày món cúng, lúc ấy tháng lành, đèn khuya xông lò. Sư thượng đường nói: Dặn dò tổn đức anh, chẳng nói thật có công. Mặc theo biển xanh đổi, đều không vì anh thông, đáng cười, đáng cười. Được như thế vào bùn vào nước. Núi nam miệng tợ tảng đá. Mọi người cũng cần tiến thủ. Tạ ơn ban ruộng, Sư thượng đường: vào nhà là giếng, đầu đường thêm vây quanh. Người người biết nói, giống linh cỏ lạ, từ đất phát sinh. Vì sao giơ thìa buông muỗng lại là quá sai, bốn quận chín ấp điều làm một chỗ lấy công bình sành khác thổi hương, chỉ cần cứng dường khắp cả. Chín tầng giáng chỉ, lấp nước đều biết, bổn sắc nạp Tăng làm sao luận báo dộng gậy đi đến chỗ nước cùng, ngồi xem mây nổi. Sư thượng đường nêu Lỗ Tổ thấy vị Tăng đến bèn ngồi xoay mặt vào vách, đúng thì đúng không treo hồ lô, chua càng chua, nhưng chưa có người bặt tin tức. Nam Tuyền nói: Ta bình thường nói hướng đến chỗ Phật chưa ra đời hội lấy, còn không được một người, nửa người, ông ta như thế năm lừa đi. Sư nói: người nhân thấy đó gọi là nhân. Người trí thấy đó gọi là trí. - Đến lễ, tiểu tham: Năm nay lạnh hơn cái lạnh năm ngoái, năm ngoái không có băng. Năm ngoái lạnh hơn năm nay. Năm nay có tuyết, năm ngoái lạnh ngày 12 tháng 11 là ngày viết về mây. Ngày 24 tháng 11 năm ngoái lạnh là sáng đến tiết. Thời gian không trái nhau, vật vật còn cặp đối nhau. Nhà nạp Tăng có, có người không bị hai mươi bốn khí đẩy dời. Rừng bên sông sờ con rận thẹn kêu, có người không bị hai mươi bốn khí quản mang, bỏ nhà thất nghiệp trải nhiều trần ai. Còn có người không liên quan đến tạo hóa chăng? Gõ phất trần, khí dương chưa trở lại thổi ngọc. Mai đồng trước đã phát cành hướng Nam. Lại nêu: Hòa thượng Tư Phước nhân vị Tăng hỏi: Người xưa giơ chùy dựng phất trần, ý chỉ thế nào? Tư phước nói: Người xưa như vậy. Vị Tăng hỏi lại, Tư Phước hết, nói: người xưa là con mắt thế nào? Sư nói: Kẻ khéo nhìn quỷ thần chẳng lường được lý do. Hội thị liền hội, không như vậy thì đến đêm thỉnh Thủ tọa vì mọi người lấy ra. Hôm sau, thượng đường nói. Vận xấu đổi dời, trời nam mãi đến, cá chép biển đông, bụng trống nhấc râu. Mũi Ba ba Nam sơn duỗi may nhả khí. Chỉ có lão Triệu Châu không có ý trí lấy chiếu rách. Ngủ trong ngày, Đường Tịnh Từ thấy không bằng, nói tô rô tất rị, vì sao? E lão này quay lại xét người trong đất thì tiện. Ngày 8 tháng chạp, Sư thượng đường nói: Bỏ muôn thừa tôn vinh, chịu sáu năm đói lạnh, không rời tòa cỏ, thành Đẳng Chánh Giác. Tốt thì tốt nhưng không có đầu mối nói, đêm ngày 8 tháng chạp bỗng thấy sao sáng, hoát nhiên đại ngộ. Cho đến khiến cho con cháu đời sau bói Đông bói Tây. Tịnh Từ báo cáo như vậy, còn có phần gặp ông già mặt vàng hay không. Dộng gậy sáng khô mờ đường mây. Vô sự bày Tào ty. Thăng đường nêu: sau Tăng đường, Triệu Châu hỏi một vị Tăng: Đại chúng đi hướng nào? Vị Tăng nói: Lên núi Phổ thỉnh. Châu lấy trong tay áo ra một con dao nói: Lão Tăng trụ trì khẩn việc thỉnh Thượng tọa cắt đứt mạng sống. Vị Tăng ném dao bỏ đi. Sư nói: Triệu Châu qua đầu gậy khắp nơi tìm nước. Lúc ấy giả Tăng nếu cùng bổn phận lo liệu mặc cho bình khác thổi hương. Sư thượng đường nêu: Vân môn hỏi vị Tăng: Từ đâu đến? Từ Tây Thiền đến. Tây Thiền gần đây có ngôn cú gì không? Vị Tăng xòe hai tay ra. Môn đánh vào lòng tay. Vị Tăng nói: Thoại của giáp còn. Môn xòe hai tay. Vị Tăng không nói được. Môn liền đánh. Sư nói: cơ điện chớp lửa xẹt thì đâu làm gì được Vân Môn, tánh mạng rơi vào trong tay giả Tăng. Sư thượng đường nêu: Giáp Sơn ở Hạc Lâm thuộc Kinh Khẩu, vị Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân? Sơn nói: Pháp thân vô tướng. Thế nào là Pháp nhãn? Pháp nhãn không dấu vết. Lúc ấy, Đạo Ngô ở dưới tòa bật cười. Giáp Sơn xuống tòa liền thỉnh Đạo Ngô hỏi: Mỗ giáp vừa đến, lời giả Tăng đáp chắc có chỗ không phải mong chỉ giáo. Ngô nói: Như là người xuất thế. Hòa thượng chưa có thầy. Giáp Sơn nói: Đệ tử nói như thế được không? Ngô nói: Mỗ giáp nói không được, ở đây cách Hoa Đình có Hòa thượng Thuyền Tử lại có thể rõ điều này, bèn giải tán chúng. Sư nói: Kẻ vác bản, muôn con trâu kéo không quay đầu, nói gì pháp thân vô tướng, pháp nhãn không dấu vết, lấy tọa cụ ném, chẳng những quét sạch thoại đầu của Đạo Ngô mà còn khỏi Giáp Sơn đánh rơi trong nước, hội không? Dộng gậy, sau đêm trong tiếng suối, sắc núi lúc chiều tà. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường nói: Pháp thân vô vi không rơi vào các số, vì sao lại có sanh diệt? Hội được như thế cho ông mỗi ngày triển đơn mở bát, đích thân thấy ông già Thích-ca. Hoặc chưa được như vậy thì chỉ sắt hóa thành vàng dễ. Khuyên người dứt bỏ thị phi là khó. Sư thượng đường nêu: Lương Sơn nhân vị Tăng Viên Đầu hỏi: Giặc nhà khó phòng ngừa thì thế nào? Sơn nói: Biết được không thành oán. Vị Tăng nói: Biết rồi thì sao? Sơn nói: rộng hướng vào trong cõi nước Vô sanh. Vị Tăng nói: có phải là tiện chỗ ông ta an thân lập mạng hay không? Sơn nói: Sóng khởi không thành sóng. Tăng nói: Bỗng nhiên sông nghiêng núi ngửa đến thì sao? Lương Sơn xuống tòa, nắm tay, vị Tăng nói: Chớ dạy làm ướt gốc áo cà-sa của Lão Tăng. Sư nói: Đến là mũi tên nhọn trước, đi là sau điện. Không vì làm cho ra khỏi lớp vây. Đâu thấy giặc cỏ đại bại, tuy nhiên hãy nói giả Tăng cam chịu hay không? Gõ phất trần. Tết Thọ sùng thượng đường, nói: đến người sắp chết, bày có hình nghi, mở tư chất đặc biệt, che đầy tướng lành của núi trời, hội không? Dộng gậy nói, chỉ biết quả đào chín trên sông, bất giác trong bình ngày tháng dài. Sư thượng đường, nêu: Đại Sư Vónh Gia nói: Tất cả số câu chẳng phải số câu, cùng với linh giác ta đâu liên can. Linh giác mầu sáng há chẳng phải là số câu. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đâu chẳng phải lá số câu? Thường ngày núi kêu hang đáp, gió nổi nước vọt, há chẳng phải là số câu hay sao? Tuy như thế lại gác qua, Đại Sư Vónh Gia Chân giác ở nơi nào? Dộng gậy, trên môi có chó khách lốm đốm, thoại đầu phải đế đô đóng. Sư thượng đường, đục vàng giũa ngọc, cỏ thối hóa thành đom đóm. Ngồi đáy giếng nhìn trời, bùn nhão có gai. Đúng thì đúng. Như người ăn mía, bên trong đều ngọt. Vì sao trời nghiêng về Tây bắc. Đất lấp Đông nam. Lễ Mãn tán thọ sùng, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Thánh Mẫu ở Đông Thành sinh cùng với Phật, không mong thấy Phật thì thế nào? - Mắt đỏ đánh đầu củi lửa. Tăng nói: một ngày thấy Phật, lấy tay che mặt, trong lòng mười ngón tay đều thấy Phật lại thế nào? Sư nói: Rượu gặp tri kỷ uống, ngâm thơ cho người biết thưởng thức. Vị Tăng nói: chỉ như Hoàng Thái hậu và Phật cùng sinh, hãy nói có hơn kém gì? Sư nói: nhẹ như lông tơ, nặng như núi. Vị Tăng lễ bái. Sư lại nêu những điều hỏi của Thiền khách: Thánh Mẫu ở Đông Thành cùng sinh với Phật, không mong thấy Phật. Mỗi khi thấy Phật đến liền tránh. Một hôm, không tránh kịp liền lấy tay che mặt, mười ngón tay đều thấy Phật, liền thành một bài tụng. Thánh Mẫu Đông Thành ngồi đài sen. Chúng sanh trên mặt đất đang mở mắt. Sanh cùng thời Phật không thích thấy Phật, một thân khó thành hai Như Lai. Ngày Phật đản sanh, Sư thượng đường nói: Ngày 15 tháng 2 Phật nhập diệt. Ngày 8 tháng 4 Phật sống lại. Hư Đường mỉm miệng cười, mặt đất bặt người đi, hội được như thế đâu cần chín rồng phun nước tắm gội thân Phật. Hoặc chưa được như vậy, gõ phất trần nói: Người ở trên lầu vẽ bán rượu kích động đến trà của Triệu Châu. Kiết hạ tiểu tham, vị Tăng hỏi: Tây Thiên lệnh cũ, Đông độ cùng vâng theo, các vị cũng y như vậy, bình hồ lô vẽ. Vì sao Tịnh Từ không vào Bảo xã? Sư nói: Nếu không ngủ cùng giường thì đâu biết bị xỏ mũi. Vị Tăng nói: người Tây Thiên lấy tháng chạp làm nghiệm. Người ở Đông Độ lấy gì làm nghiệm? Sư nói: Thùng Sơn nghiệm ngụy. Vị Tăng nói: vì sao lấy thùng sơn để nghiệm? Sư nói: Thùng sơn đựng đầy cơm cho người ăn. Vị Tăng nói: Như thế thì đánh vào chuông Đế-thích ở tầng trời Ba mươi ba. Sư nói: Lão Tăng khóa cửa không nghiêm. Vị Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Lời Hồ Tiếng Hán dịch lại mất chân thật, Tây Thiên đất này lại là mê lầm. Ngày 16 tháng 4 mỗi năm chân đến trước, chân lùi sau. Không dám trái điều việt đưa ra. Xem cần thận, mồ hôi ướt như mưa. Dù nêu được đầu chính là ruộng dân thành biển. Môn hạ Tịnh từ hủy Phật báng pháp, không vào các số. Còn cứu không được một nửa, huống chi non xanh nước biếc đếu là an cư, hoa cười chim hót đều là cấm túc. Sơn Tăng đêm nay, cắn định răng cửa, phòng qua một đường. Dộng gậy. Lại nêu: Hòa thượng Càn Phong dạy chúng: Pháp thân có hai thứ bệnh hai thứ ánh sáng, mỗi thứ đều thấu được, mới biết ổn tọa. Vân Môn bước ra trước chúng nói: Người trong am cốc vì sao chẳng biết việc ngoài am? Càn phong cười ha ha. Vân Môn nói: Còn là chỗ nghi của người học. Phong nói: Ông là tâm hành thế nào? Môn nói: Cũng cần Hòa thượng gửi gắm. Phong nói: Như thế mới biết ổn tọa. Sư nói: Dạ đánh vào vàn, ống sáo không lỗ. Tuy nhiên Vận ra khỏi trời xanh, âm tiết ấy điều có thể mất, chỉ hội được một hạ dễ dàng qua được. không như vậy, thì đêm đến thỉnh Thủ tọa vì chúng niệm ra. Tạ Bỉnh Phật, hạ trai, Sư thượng đường nói: Thà sắt nóng quấn thân chứ không tán tâm mà mặc áo người. Thà nước đồng sôi đổ vào miệng, chứ không tán tâm mà mặc áo người. Thượng tọa nêu: Được như thế thì khuấy Trường Giang làm đề hồ, biến mặt đất thành vàng ròng cúng dường Thượng tọa, cũng chưa phải là phần ngoài. Chợt không chịu ăn, không chịu mặc, đâu có nhiều thù thắng. Bỗng có người tu pháp cúng dường, lại làm sao? Dộng gậy, sanh tâm nhận thí thì bị Tịnh Danh cười. Sư thượng đường, nêu: Thiền sư Cửu Phong Từ Tuệ, nhân Quy Sơn dạy chúng: mọi người các ông, chỉ được đại cơ, không có đại dụng, Từ Tuệ kéo thân đi ra. Quy sơn gọi, lại không quay đầu. Quy Sơn nói: Ông này kham làm Pháp khí. Sư nói: Cửu Phong dễ thấy, Quy Sơn khó thấy. Nếu là Tịnh Từ thì không như vậy, đợi ông ta gọi, không quay đầu, đưa đến quan cho một ngàn roi. Vì sao? Giúp ông ta mua giầy cũ hành cước. Sư thượng đường, nêu: Mã Đại Sư nhân vị Tăng hỏi: Lìa bốn câu, dứt trăm phi, thỉnh sư chỉ thẳng ý từ phương Tây đến. Đại Sư nói: hôm nay ta mệt mỏi không thể nói cho ông được, hỏi Ngài Trí Tạng thì biết. Vị Tăng hỏi ngài Trí Tạng. Tạng nói: hôm nay ta đau đầu không thể nói cho ông được, hỏi Huynh Hải đi! Tăng hỏi Huynh Hải, Hải nói: Ta đến đây lại không hội, hỏi Hòa thượng đi! Vị Tăng hỏi Đại Sư. Đại Sư nói: Tạng đầu trắng, Hải đầu đen. Sư niệm rằng: Đều gọi là giả Tăng bị cha con Mã Đại Sư xỏ mũi, thật không biết cha con Mã Đại Sư bị giả Tăng xỏ mũi. Hội được đầu Tạng trắng, đầu Hải đen, hơn kém đã phân. Không như vậy thì dễ phân phấn trong sương, khó biện mai trong tuyết. Giữa hạ, Sư thượng đường nêu: Mã Tổ nhân Bàng Cư só hỏi: Người không tỏ xưa nay, thỉnh sư cao minh để mắt. Mã Tổ ngay đó nhìn Cư só nói: một loại đàn không dây, chỉ sư đàn được hay. Mã Tổ nhìn thẳng lên, Cư só lễ bái. Tổ về phương trượng. Cư só theo sau nói “làm khéo thành vụng”. Sư nói: ai làm khéo thành vụng? Nếu là Mã Sư làm khéo thành vụng, thì nửa hạ trước đã qua. Nếu là cư só làm khéo thành vụng thì còn có bốn mươi lăm ngày, định ra được khỏi cho ông tham. Sư thượng đường, nói: Bình thường hết lời chẳng thể không nói. Nếu là tin không được, không phải tin không được chỉ là có trở ngại chút ít. Hãy nói, trở ngại cái gì? Dộng gậy nói, tin không được. Sư thượng đường, nêu: Mã Đại Sư lên tòa, nhân Bàng Cư só hỏi: Người không làm bạn với muôn pháp là ai? Đại Sư nói: Đợi ông một hớp uống hết nước Tây giang ta sẽ nói cho nghe. Sư nói: Mã Đại Sư tiếp tám mươi bốn vị thiện tri thức. Cửa nhà hơi lung lay, lung lay bị Bàng cư só đạp, đáng được phơi gan bày ngực. Có người hỏi Tịnh Từ: Người không làm bạn với muôn pháp là ai? Liền giơ gậy lên đánh, vì sao? Rượu gặp tri kỷ uống, thơ ngâm cho người hiểu. Tạ Giám Thâu, Sư thượng đường nói: Liềm cắt cỏ chưa bày sắc bèn. Bao nhiêu Tổ Sư xin mạng cân đo, suy lường, quyền hành trong tay. Cơ mặt một lạng không sai, phải biết hai chỗ thu công, lấp đi bụng của nạp Tăng. Lấp rồi thì thế nào? Dộng gậy, nói: Lâm Tế đánh Hoàng Bá. Sư thượng đường, nêu: Sư Tổ Tùng Nguyền sắp thị tịch dạy chúng: Huynh đệ tham lâu người đang đi trên đường chỉ có ách không thể dùng đậu đen. Đạo của Lâm Tế sẽ bặt hết, thương xót thay. Sư nói: Thiếu Thức Phong giống như gậy tựa cưỡi ngựa, tuy không có nỗi lo hết tuyệt, nhưng chưa khỏi kẻ bàng quan chê cười. Giải chế, tiểu tham: vị Tăng hỏi: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Ông một hạ không lên, ở dưới làm được cái gì? Ngưỡng Sơn nói: Cày được một thửa ruộng, trồng được một sào lúa. Quy Sơn nói: Ông không luống uổng qua một hạ. Sư nói: Xuống cây cao, vào hang tối. Vị Tăng nói: Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng làm được cái gì? Quy Sơn nói: Ban ngày ăn, ban đêm ngủ. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng cũng không luống qua một hạ, ý này thế nào? Sư nói: Cha không từ, con không hiếu. Vị Tăng nói: Ngưỡng Sơn nói rồi thè lưỡi. Quy Sơn nói: Ông đâu được tự làm tổn thương mạng mình? Sư nói: Nhưng chẳng phải là người phạm năm tội nghịch nghe sấm. Vị Tăng lễ bái. Sư nói kiếm ở trong tay người. Sư bèn nói: Dụng chùy không có đất, không dư một mắt che trời đất, riêng có sanh nhai. Ai lấy tấc bóng tiêu qua ngày. Một trăm hai mươi ngày trường kỳ cấm chế, ông ta không ở Nam Thiên Thai, Bắc Ngũ Đài, tám muôn tế hạnh tìm kiếm không có cửa, ngày Đâu-suất đêm Diêm Phù. Nạp Tăng dùng hộ sanh này, sanh sống điều hộ, cấm túc nầy, mà chân không té. Xoa gậy đội gió bốn phương, đãy bát túi giày lại gánh lên. Đường trước bỗng có người hỏi nghe núi Nam một hạ, vì hai chỗ linh Vân không đáp, đào luyện người học, ông nói được chưa? Hoặc suy nghó, Vân Lão Tăng thuộc người khác, chưa khỏi lại lên núi tắt một lần. Từ giã chúng đến Kính Sơn, Thượng đường nói chùy cân lấy được nước ra. Người đã hét ra được mồ hôi, cơ đến ứng biến, tùy phần biết sai. Thừa lúc đẩy lên đầu Ngũ Phong, tuy nhiên thuyền côi cùng qua sông. Còn có nhân xuân hai hạ một đông, có thể không theo cảm kích dộng gậy, chỉ có đường có thể lên lại cao người cũng đi.  HƯ ĐƯỜNG HÒA THƯỢNG NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 9 lục. Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự ở Lâm An Phủ Kính Sơn Hậu Tham học là Chánh Nhất Tịnh Hỷ Thượng Hiền biên tập. Sư thượng đường, mở đầu lệnh tiết, muôn việc từ mới, biết Văn- thù, mực Phổ Hiền, viết sự sự đại kiết. Từ đây thường ở rộng hơn, trừ sạch chồng chất, Đẩu nam mãi thấy sao lão nhân. Ngũ phong vòi vọi tựa hư không xanh biếc. Tạ tri sự, Sư thượng đường nói: Dương Kỳ gặp chăn giấy, ra vào kho ba mươi năm. Ra sức giúp đỡ Từ Minh, chùa Dụng Đô không chút dầu thường trụ. Mua chén lớn tạo thức ăn cúng dường đại chúng. Sau làm mạng Sư đời kế, tiêu chuẩn tòng lâm. Huống chi núi long này nổi tiếng thiên hạ, người đến tức là cây phi phàm. Người ở đều là thôn nhà, từ đây mỗi ngày gió xuân kéo về nguyên khí của quốc sư. Lại khâm phục người được một câu làm sao. Lão Tăng tám mươi năm vô số được thua xem núi lại ngắm mây. Sư thượng đường, nêu: Quy Sơn nhân hái trà, bảo Ngưỡng Sơn rằng: Suốt ngày hái trà chỉ nghe tiếng ông, chẳng thấy hình ông, Ngưỡng Sơn lay cây trà. Quy Sơn nói: Ông chỉ được dụng, không được thể. Ngưỡng nói: chẳng hay Hòa thượng thế nào? Quy Sơn im lặng hồi lâu, Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được thể, không được dụng. Quy Sơn nói: Cho ông hai mươi gậy. Sư nói: Quy Sơn sợ Ngưỡng Sơn không ở, nên thường quản chế. Ngưỡng Sơn thừa nghiệp cha, đâu dám vọng làm. Nếu là thể dụng đổi nhau, phóng qua cây gậy đều là tháng thứ hai. Kiết hạ tiểu tham, vị Tăng hỏi: Quy chế kiết hạ của Như Lai, cấm túc hộ sanh nhà nạp Tăng, sáng dạo Tây Thiên, chiều về Đông độ làm sao quản chế được ông ta? Sư nói: Chỉ nên tự vui mừng, không kham trì tặng anh. Tăng nói: Nếu thế thì không rời đương xứ, thường vắng lặng, tìm thì biết. Anh không thể thấy. Sư nói: Cho đói gặm xương khô. Vị Tăng hỏi: Chỉ như lấy Đại Viên giác làm già-lam của ta, thân tâm an cư, trí bình đẳng tánh, tâm như người thợ vẽ khéo léo, ý như người thở vẽ khéo léo là thế nào? Được thân tâm an cư đi. Sư nói: Thấy người không biết cười, làm vật không biết tên Vị Tăng nói: Tôi mùa hạ nay tín nhân vâng làm. Sư nói: Lưỡi sắt mồm đinh bị người ghét. Sư bèn nói: Linh phong thắng cảnh, rồng thần biến hóa, ra vào khó lường lý do. Ngoại vật người cao, không sợ núi cao, mong gió mang đến, không vì núi hiểm tìm ngọc, nước đỏ tìm châu đâm vào não vào bồn keo. Chính như lấy thân đè dao trắng. Lúc đến hạ chế, mục đích là hộ sinh, tánh đất hết bụi. Không sanh có thể hộ lại trong chín mươi ngày, tinh tu phạm hạnh, thành tựu thân tuệ một câu là thế nào? Dộng gậy sau tuyết mới biết tiết tháo cây thông cây bá. Việc khó mới biết tâm của kẻ trượng phu. Lại nêu: Hòa thượng Mục Châu nhân khi Tây Phong thưa hỏi: bày trà quả nói thoại. Châu nói: Trưởng lão hạ nầy an cư ở đâu? Phong nói: Ở Lan Khê. Mục Châu nói: Bao nhiêu chúng? Hơn bảy mươi Tăng. Lấy gì dạy đồ chúng? Phong dơ quả cam lên. Châu nói: Thật mau chết. Sư nói: Mục châu tuy không dùng cơ hiểm đè kéo chân Vân Môn nhưng khách chủ rõ ràng như vậy. Bỗng có vị Tăng hỏi Kính Sơn có bao nhiêu chúng? Trong ngoài hơn bảy mươi Tăng. Rồi lại hỏi bình thường lấy gì dạy chúng. Hòa tiếng liền hét, đợi ông ta suy nghó thì nói: Đệ tử Kính Sơn ai dám vuốt râu hổ. Hôm sau Sư thượng đường nói: Chốc lát lạp nhân hộ tuyết, chư vị sợ có, ta trong đây hủy Phật báng pháp, không vào số chúng. Còn cứu không được nữa. Huống gì trong chín mươi ngày như quỷ giữ mả thì làm sao được chứng nhập? Gõ phất trần, tu tâm luyện hạnh, ba đời Phật oan. Tạ Bỉnh Phất, hạ Trai Tăng, Sư thượng đường; cơm cháo hai thời, xuống đất thưa hỏi, tiến lùi từ nhường. Gọi đó là lễ, đánh chuông chặt trống, ấy gọi là nhạc. Cả hai đều đủ, ba đức sáu vị, từ trời mà xuống. Đánh hét đuổi nhau, từ đâu mà sinh khởi hội, cho nên gió thơm thổi hoa héo lại mưa hoa mới, không như vậy, thì dặn dò tổn đức anh. Sư thượng đường nói: Anh chơ thích mát mẻ, mát mẻ như lửa, như nước sôi. Anh chớ ghét lửa nóng, lửa nóng như tuyết như băng. Chớ thích cũng chớ ghét, chưa phải là chỗ tiêu dao. Sau khi Dương Thứ Công tự thấy Hòa thượng Thiên y Hào dù có lanh lợi biện phẩm tháo các vị, đều gọi là hậu thân Tỳ-kheo Pháp Tạng. Một mình Kính Sơn thật chưa tin, rốt ráo đây là ai? Dộng gậy Triêu dương xanh vẫn giảng, kẻ ở cuối đời Phật. Sư thượng đường, nói: Qua làm quạ kêu, hạc làm hạc kêu. Người hết cả mặt đất không biết lỗ huyệt. Bỗng có người bước ra nói: Trong Đại Đường có người, Lão Tăng không biết co chân thè lưỡi, vì sao gọi là không người? Tạ Giám thu, Sư thượng đường, nói: Lúc chín rồi, người thế gian việc tốt người đều nghe. Liềm cắt vừa nêu, chứa bát không đáy chứa hư không, xưa nay tình chung sai biệt, bên đầu gậy đường sống. Hãy nói: Qua lại no đức. Chủ là người nào dộng gậy, nhà ở phía Đông cửa biển. Cây dâu là sáng trước nhất. Giải hạ, tiểu tham: Đại giác Thế tôn mãi đến năm mươi ba đời đích tôn. Tỳ-kheo Mỗ giáp thấy Thiền Tự Vạn Thọ Hưng Thánh ở Kính Sơn vâng lời dạy của Phật, theo pháp chế của Phật, ngày 15 tháng 4 không cần đi thẻ ngồi cỏ, cùng dòng thiền bốn biển, cùng đây an cư trong chín mươi ngày, trong bốn oai nghi, không một khoảnh khắc tạp dụng thân tâm. Chứng được quả A-la-hán, pháp thân vô lậu này, ra sống vào chết, được đại thọ dụng, lại nghi ngờ gì, bỗng có kẻ ra nói: Lão Hòa thượng cuối cùng có bằng cứ gì: Sơn Tăng dạy y đến phía trước hạ tiếng nói với y, ông uy được ổn thì thôi. Lại nêu: Hòa thượng Kính Thanh hỏi vị Tăng: Vừa rời chỗ nào? Vị Tăng nói: Tam Phong. Kiết hạ ở đâu? Ngũ Phong. Đánh cho ông ba mươi gậy. Vị Tăng nói: Mỗ giáp có lỗi gì? Bởi ông ra một tòng lâm vào một tòng lâm. Sư nói: Động dây đàn khúc khác, là rơi thì biết thu, trong núi tan hạ, đâu có nạp tử, Đông đi Tây đi. Bỗng có người hỏi: dè dặt không được nói: Qua hạ ở Kính Sơn. Nói thì đánh vỡ đầu lâu ông, vì sao? Dộng gậy. Rượu gặp tri kỷ uống, ngâm thơ cho người biết. Hôm sau, Sư thượng đường, nói: nón trên đầu, bao dưới lưng, ngàn dặm muôn dặm đường vòi vọi. Giữa đường bỗng nhiên đánh Thượng tọa Đỉnh nói: Triệu Châu vách đông treo hồ lô ý thế nào? Cởi nón xuống nói với y: hạ nay ta ở Kính Sơn, từng thấy Hòa thượng Hư Đường nói. Lại đợi ta suy nghó xem, đợi ông ta suy nghó, đấm vào bụng một cái, đội nón lên đầu liền đi. Tạ thư ký, Tạng Chủ Duy Na, Tri khách thị giả. Thượng đường lễ nhạc kiêm cung, tiến thối từ nhường, tiêu chuẩn tòng lâm hậu học cỏn con. Chỉ cho phu tử không biết một chữ mang lụy đến Lão Hồ. Nói được không hết, nói dù không làm cho thanh cao, nghiệm người cao mắt hãy đặt qua một bên, bỗng như Đan Hà đến hỏi Quốc Sư làm thế nào? Dộng gậy ba lần, không được tiết lậu. Sư thượng đường, nêu: Vân Môn dạy chúng: ba thừa mười hai phần giáo, Đạt-ma Tây lai, phóng qua thì không thể. Sau đó, đến Đại sư Tuyết Đậu, Đại sư nêu rồi, sau đó liền hét, nói: Đại chúng! Khéo hét rơi vào chỗ nào? Nếu cần mũi trời xa phải là người biện lấy một tiếng hét. Sư nói: Hai Đại só thừa thừa gia Pháp, thật không biết, có chỗ rò rỉ, Kính Sơn thì không như vậy, nếu muốn Mũi trời xa thì phải bỏ một tiếng hét này. Ngày Kî Hòa thượng Vận Am, Sư niêm hương: Hồng ba tra la kiệt tiết, trời xoay đất chuyển khó phân biệt, không làm cho Tùng Nguyên Tỉnh số tiền, dùng vòng miệng của Tăng quyết định, đồng chết không đồng, đặc biệt thành vết đường trong bóng gió thu lại la liệt, nghóa dứt tình quên bốn mươi năm, lúc nào đợi được rùa thành ngao. Sư thượng đường, nào không bằng tónh, bận không bằng nhân, Tónh náo đều hết gọi là được lý, quy Tông sự lý bặt, vòng trời đang giữa trưa làm sao bàn luận? Gõ phất trần, nói chẳng đi đường dưới núi. Bỗng nhiên tiếng vượn kêu đứt ruột. Sư thượng đường, nêu: lúc Ngưỡng Sơn ngồi thiền bỗng có một vị dị Tăng từ hư không đến, làm lễ đứng trước sân. Ngưỡng Sơn hỏi: vừa rời chỗ nào? Vị Tăng nói: Sáng nay vừa rời Tây Thiên. Ngưỡng Sơn nói: Sao đến chậm vậy? Tăng nói: Dạo núi ngắm sông. Ngưỡng Sơn nói: Thần thông diệu dụng chẳng thể không có Xà- lê, Phật pháp phải cần lão Tăng. Vị Tăng nói: Đặc biệt đến Đông Độ lễ Văn-thù, lại gặp tiểu Thích-ca. Sư nói: Ngưỡng Sơn bày khắp lưới trời, tụ tập dưới Vân Phong, thêu dệt có biết, không do gì bị tiểu quả Thinh Văn dùng dưa đông ấn, đương đầu một đạp lại thôi đi. Nếu đến môn hạ của Kính Sơn thì phải nghiệm qua mới được. vì sao? Gõ phất trần, lễ chẳng phải lụa ngọc mà không biểu lộ, nhạc chẳng phải chuông trống mà không truyền. Khai lò, Sư thượng đường: Kính Sơn tuổi già tâm đơn lẻ, muốn nói sống ở lò lửa, cuối cùng không nói cái cây nhà phía Đông dài, phía Tây ngắn. Chỉ cần mỗi ngày chén bát hai lần ướt. Bỗng nhiên ngồi đến càng sâu, đầu lông sao hiện, mỗi người tự cứu lấy lông mày. Ngày kî Đạt-ma, Sư niêm hương: ứng lời sấm của Bát-nhã-đa-la, mới khởi lên không sai, phá mối nghi của Tạm Tạng Lưu-chi, văn chương sắc bén nghiệm khắc từ đây, sáu tông che bóng, chánh phái lưu thông, hoa năm cánh, khắp nơi thổi hương. Biển dựng núi đỉnh đều thấm dòng Thánh. Tháng lành xuân ít. Cỏ cây năm phô, soi sáng lầu. Đâu này, ít làm cho theo kính mến. Hãy nói: Đại sư có đến không? Cắm hương nói: không rõ, không rõ. Sư thượng đường, nêu: Đức Sơn nhân Thị gia khuếch hỏi: Từ trên các bậc Thánh đi về đâu? Sơn nói: thế nào, thế nào? - Thật dấu bay rồng, ngựa đạp đầu ngao. Sơn thôi nói. Hôm sau, Sơn ra vừa Tắm đi ra, Khuếch đưa trà cho Sơn, Sơn vỗ vai Khuếch một cái nói: Công án hôm qua thế nào? Khuếch nói: Lão già hôm nay mới biết chỗ nhìn. Sơn lại thôi. Sư nói đều là Đức Sơn hai chỗ thôi, là duyên nuôi con. Thật không biết trong chợ náo đánh chùy tỉnh, chết trong nước bày cùm ngựa. Sư thượng đường, sáng chuông chiều trống, sáng cháo ngọ cơm, mỗi mỗi thấy nghe biết. Chê ông ta là một chấm nhỏ không được, bèn hỏi về Quy Tông chém rắn, Đại Tùy che rùa, lại đi không được, hãy nói: Chướng ngại chỗ nào? Bỗng có người trong chúng y bát đạo bạn, nạp Tăng có bản sắc, ra bày tin tức, cúng dường đại chúng cũng hợp thời tiết. Đông đến tiểu tham, Âm cực dương sinh, lý theo sự biến, là hai dụng cụ gia gia của nạp Tăng. Nếu một 1 niệm biết về thì không bị lạnh nóng đổi dời. Tự nhiên linh phái quán thông, khí ấm tiếp nhau nói dù cho tro bay, lụa tơ thêm luyến cũng là cách tố nhàn thế nào. Bỗng nhiên người bên cạnh không chịu, bước ra nói: không liên can đến hóa cơ, xin sư chỉ dạy: Sơn Tăng chỉ nói với ông ta đất hồ đông kéo trúc, tuyết ở giang Nam mai ở Á. Lại nêu: Hòa thượng Lạc Phổ nhãn có Bàng cư só đến tham, lễ bái đứng dậy nói: Đầu hạ nóng dần, giữa đông bớt lạnh. Phổ nói: Chớ lầm. Só nói: Bàng Công tuổi già. Phổ nói: Sao không lạnh lại nói lạnh? Nóng lại nói nóng? Só nói: Sợ điếc làm sao? Phổ: Cho ông ba mươi gậy. Só: Ngọc lại miệng ta, lấp đi tai ông. Sư nói: Lạc Phổ tham lộ trình quá mau, không biết lầu phượng sai quá. Lão Bàng mật dụng Kim châm, bất giác mũi nhọn đã bày biển, xem xét đem đến, cả hai đều không rõ. Hãy nói: Cái gì là ông ta không rõ, đêm đến thỉnh Thủ tọa, vì chúng nói rõ. Hôm sau, Sư thượng đường, một hơi không nói, phát tự chín dòng. Lúc đầu một vạch không giống, đổi thành Tông muôn hóa. Vẫn là vật mây trình hiện điềm lành. Núi rừng đổi xem. Bỗng có kẻ hướng đến âm dương trước chưa phán, đánh bể thùng sơn lại thế nào? Nếu như thề thì sắc sống cũng phải nát. Tạ chấp sự, Sư thượng đường nêu: Địa Tạng nói: Các nơi bao la nói Thiền đâu bằng ta ở đây cày ruộng bày cơm. Sư nói: Đều gọi là Địa Tạng ngồi một đi bảy, thật không biết lộn ngược giày gai đến tợ đi. Kính Sơn thấu cùng tột thiên văn, nghiên cứu địa lý đến chỗ người không biết, cuối cùng là thế nào? Dộng gậy nói: một công hai chuyện. Sư thượng đường, nêu: Hòa thượng Càn Phong nói: Nêu một không được nêu hai, phóng qua một cái rơi vào thứ hai. Sư nói: Càn Phong quen chú giải cho người. Kính Sơn thì không như vậy. Nêu một cũng không được, nêu hai cũng không được, phóng qua cũng không được, lấy trụ cũng không được, vì sao? Dộng gậy, lại thêm một chú giải. Đêm ba mươi tết, tiểu tham, lại tính tiễn tháng chạp khán xem, chạy đến kết giao bé nhỏ hồi xuân. Ngày ngày thường đến thêm một tuổi, thêm một chén thì mũ Bàng Công dính đất. Giảm một chén thì mắt lão Lý say, phát sân theo giáo thì tháng chạp tuyết đầy trời, nói gì tuổi phần tể ngưu, đều là có tên mà không thật. Nói thức ăn để giúp cho đói. Kính Sơn chẳng có điều chương, chỉ cần biết thời, biết tiết. Chỉ như đèn xa chiếu tónh, giữ đêm ba mươi tết, lấy gì mà quan tâm xem xét. Dộng gậy, chớ hiềm vợ già không có mâm ngũ quả, cười chỉ trong lò mùi lúa khoai. Lại nêu: Quy Tông nhân tiểu Sư từ biệt, Tông hỏi Đi đâu? Đi các nơi học thiền năm vị. Ta đây có thiền một vị, vì sao không học? Thế nào là thiền một vị của Hòa thượng? Tông liền đánh. Vị Tăng nói: đệ tử hội rồi. Hãy nói xem. Vị Tăng định mở miệng. Tông lại đánh. Sư nói đúng thì đúng, sự về kiếm nhọn nhưng lại hết cách vô dân. Lệnh của Kính Sơn đi một nửa, cong là ngày nay. Nêu y theo thực hành thì trước pháp đường cỏ chẳng cao một trượng, chính là sợ không có người khán am Thiên Dịch. Buổi sáng, Sư thượng đường: diều bay đến trời, cá lội đến biển, bốn phương bái lạy múa ca, tám hướng tuyên truyền, cười xem mặt trời hồng lên lan can. Hãy nói. Năm mới sáng là điềm lành gì? Dộng gậy, thiên tử ngoại ô phía Nam. Tạ hai ban tân cựu, Sư thượng đường: có khách có chủ, có lễ có nhạc. Gọi là tòng lâm mai đàn là chủ. Chính tâm thành ý đãi vật như xuân ấy là khách. Tiêu chuẩn hậu học, quyền hành thông biến, bỗng như khách chủ dung hội, lễ nhạc thống nhất, thì ra sao? Dộng gậy, nói rồng càng không tin. Quả nhiên đoạt được tiêu chuẩn tốt trở về. Đêm rằm tháng giêng Sư thượng đường: Sáng ngày mồng một tháng giêng lễ giao tiếp, trời đất đều tâu Thánh Thiên Tử. Cảm được mà treo đến một tháng để dâng Thượng Đế. Chốn Kinh đô xanh hồng ngọc lục, các ngõ hẻm như ban ngày. Trong thiền môn cũng có năm thứ đèn, có truyền đăng, Quảng đăng, Phổ Đăng, Tục Đăng, biên đăng, các đèn nối nhau, tuần hoàn vô tận, hãy nói, Kính Sơn là đèn gì? Dộng gậy, tường vách có tai. Sư thượng đường, nêu: Bảo Phúc nhân vị Tăng đứng hầu, Phúc nói ông có tâm thô như thế. Vị Tăng nói: Chỗ nào là tâm thô của đệ tử. Phúc lấy một cục đất đưa lên nói: ném ở bên ngoài Tăng, ném rồi lại hỏi: Phúc nói: Ta thấy ông đánh gõ, cho nên nói tâm ông thô. Sư nói: Trước mặt cho ông thấy Tuyết Phong, sau mặt chưa dám hứa, vì sao? Gõ phất trần, nói vàng dùng đá thử, người dùng lời nói thử. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường: Trời không văn, đất không lý, chợt đi chợt đến như trăng in đáy nước. Năm tháng đã đi, Ba-tuần được thời cái quách bày hai chân. Uống ánh sáng Tăng vui mừng, vừa bi vừa hỷ, Đào lý gió xuân một lý quán thông. Tăng Tử đáp: dạ. Sư thượng đường, nêu: cái thấy lúc thấy, cái thấy chẳng phải cái thấy, thấy còn lìa cái thấy, cái thấy không thể sáng bằng. Sư nói: Ông già mặt vàng, thật không tiếc khẩu nghiệp, nay làm một câu, chú giải cho mọi người đi. Gõ phất trần. Sư thượng đường, nêu: Trường Thủy hỏi Lang Da: Thanh tịnh bổn nhiên vì sao bỗng sanh ra núi sông đất đai. Lang nói: Thanh tịnh bổn nhiên, vì sao bổng sanh núi sông đất đai? Trường Thủy ngay đó tỉnh ngộ. Sư nói: Xin hỏi mọi người: chỗ hỏi giống nhau, đáp cũng chẳng khác. Trường Thủy vì sao ngộ? Kính Sơn lại chú giải cho mọi người một lần. Gõ phất trần, thanh tịnh bổn nhiên vì sao bỗng sanh núi sông đất đai. Sư thượng đường, Đầu hạ Thành hòa, trăm loài tốt tươi, gặp người cao thượng bốn biển tìm sâu nghiên cứu cạn. Bỗng nhiên hét một tiếng uống hết trăm sông, không còn một giọt nước, đốt hết Tu-di, không mất một ngọn lửa. Ai giải thích được nguyên do, thông mập trúc gầy, dù bảy việc theo thân. Kính Sơn nói chưa phải. Vì sao? Gõ phất trần, Phật Đỗng Sơn không có ánh sáng, Hàn Tín lo lâm triều. Kiết hạ, tiểu tham: Chùa Na-lan-đà Tây Thiên, không hề cấm túc. Pháp lệnh nghiêm ngặt, trong vườn Cấp Cô Độc, không lập kỳ hạn. Được đạo giả nhiều bởi Đại giác Thế tôn ta có mắt trời, túc mạng thông chân thật. Xem con cháu Đông Độ, không thọ giới luật, tâm ngao du đường tà. Cho nên hạ chế để cấm, làm cho trong bốn mươi chín ngày mau chứng đạo quả. Sơn Tăng nghe được bất giác khắp mình nổi ốc, không dám dự nghe, vì sao? Gõ phất trần, nhưng trì giới gà chó, không học Thiền Tổ Sư. Lại nêu: Tọa Chủ Lương Toại tham học với Hòa thượng Ma Cốc. Vừa thấy đến liền mang bừa vào vườn rau, lược bỏ không nhìn. Lần sau, Lương đến, tham cốc liền đống cửa. Lương gõ cửa. Cốc hỏi: “Ai?, Toại lên tiếng chưa dứt hoát nhiên đại ngộ, nói: Hòa thượng chớ chê Lương Toại, nếu không đến yết kiến Hòa thượng thì bị kinh luận làm lầm đi một đời, sau đó nói với chúng, chỗ biết của Lương Toại, mọi người không biết, chỗ biết của mọi người, Lương Toại đều biết. Bài tụng rằng: Chỗ biết của mọi người thì Lương Toại biết, chỗ biết Lương Toại mọi người không biết, suy nghó mưa lâu hoa tả tơi, không tả lòng buồn nói với ai? Hôm sau, Sư thượng đường, nêu: một sáng ba mắt cơ, thù lạng là thế nào? Toàn thân không được, thả sông mây núi, không đến thì không thể, vì sao? Vì suốt năm đời an định. Lại trong quy chế của Như Lai phải dùng loại khoa nào làm pháp thức cho người sau. Sư thượng đường, làm một giơ hai, chưa rõ qua cửa, ngồi một đi bảy, hội được thì đống lửa trời cháy rực, như đến đảo châu báu mát mẻ. Không hội thì châu báu mát mẻ như ngồi trên dóng lửa, núi dao. Lại phải như Nhan Tử ngồi quên mới có phần công phu. Sư thượng đường, nêu: Triêu Phụng Quách Công Bổ thỉnh Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn thượng đường, Triêu Phụng ở trước Pháp tòa đốt hương, nói: một nén hương này đốt ở trong lò là mây ánh sáng trùm khắp pháp giới cúng dường Thiền sư, sư huynh đương đầu ta. Lại nguyện, ở trền tòa Phương Quảng trong mây, khai mở điện môn phóng ra hình tướng Tiên sư, miêu tả cho mọi người. Vì sao như thế? Mây trăng bờ núi gặp nhau, đến sáng nay việc khác nhau. Đêm lặng nước lạnh cá không ăn, một lò hương tan núi Bạch Liên. Tổ bèn nói: Nẵng mồ tát đát đa bát la dã: đúng thế đúng thế mấy lần nhìn mây trăng trên khe, hoa mai vàng nở rộ trong tuyết, không đúng, không đúng, liễu non sợi kim tuyến, nhưng phải ứng thời mà đến. Không thấy Bàng Cư só hỏi Mã Đại Sư: Người không làm bạn với muôn pháp là ai? Đại Sư nói: đợi ông một hớp uống hết nước Tây giang rồi ta sẽ nói cho ông nghe. Đại chúng! Một hớp uống hết nước Tây giang, sông sâu muôn trượng đến cùng, rõ ràng chẳng phải cầu của Triệu Châu, trăng sáng gió mát đâu thể bằng. Sư nói: Lời nói thường có chỗ nào sờ nắm, đều từ trong vô y, vô dục tuôn ra tam-muội này. Có chỗ nói: Cờ gặp địch, đàn gặp tri âm, ai lại không nói như thế. Đợi Hư Đường đổi kiếp xương đầu, lại cho ông một chuyển ngữ. Giải hạ tiểu tham, kết tập pháp tạng, khắc kỳ thủ chứng. Đây là quy tắc lớn lao của bậc Tiên Thánh. Kiết tập pháp tạng, cốt yếu muốn tuệ mạng lưu thông khắc kỳ thủ chứng, quý ở tình lượng đều thoát. Kính Sơn hạ nầy một chúng, hiện tướng đại nhân, mỗi người không biết nhau. Chủ khách kia đây trộm lấy, nói chi biết rõ mà cố phạm. Cho đến, tạm nói đến tiến thưởng công lao. Chính là chỗ không mở miệng. Hãy nói là tòng lâm gì. Dộng gậy, Ngựa Hàn cắn bờ cỏ thơm, Tải Tung trâu nằm bóng liễu xanh. Lại nêu: Hoàng Bá nhân Lâm Tế lên núi, hỏi: Ở mấy ngày rồi từ biệt. Bá nói: ông phá hạ, sao không hết hạ rồi đi? Tế nói: Tạm đến thăm hỏi. Bá liền đánh, làm cho Tế đi. Tế đi mấy dặm nghi việc ấy lại trở về hết hạ. Sư nói: Nếu lúc ấy Lâm Tế một đi không không trở lại, làm cho Hoàng Bá treo trống đợi chùy, mới có một chút hơi thở của nạp Tăng. Không vì lý do gì lại về hết hạ. Vẫn là muối rơi vào trong tương, hãy nói ngoa ngụy ở chỗ nào: gõ phất trần, sẽ không như vậy, nay thì quả nhiên. Hôm sau, Sư thượng đường: gió thu thổi sáng đường, mưa thu đẩy lửa thu. Khách môn hạ Tổ Sư, không nơi nào chẳng tham hỏi. Đường trước bỗng đánh vào kẻ miệng vàng, lưỡi gỗ thì làm sao? Dộng gậy, lại thích việc lớn liễu xong. Sư thượng đường, nêu: Hòa thượng Ngũ Tổ Giới hỏi vị Tăng: vừa rời nơi nào? Tăng nói: Đông Kinh. Có thấy Thiên tử không? Hằng năm một lần ra ao Kinh Minh. - Có lễ đáng tha, không lễ khó cho đi ra. Sư nói: giả Tăng nếu đích thân từ kinh đô đến cũng chê ông ta không được Trung thu tiễn Kính Không Tây Đường đến Tam Tháp. Thượng đường cửa nhà đạo xưa, tháp mang sông lạnh, chẳng phải vẫy tay tự đến. Ai dám chạy ngang mà bỏ trên đường. Cảnh Đức, thượng đường Thiền sư Kính Không che lấp các tiền bối điển hình, có Tôn túc lễ mạo, vẽ vang triều mạng. Làm sáng con đường xiển Tông, tụ núi Thủ Long, không thể vin theo. Đáng được Hàn Sơn vỗ tay, Thập Đắc hoan hô. Vì sao? Dộng gậy, đêm nay một vòng đầy sáng, khắp nơi nào không. Sư thượng đường, nêu: Tuyết Phong ở Đỗng Sơn vo gạo nấu cơm. Sơn hỏi: đãi cát bỏ gạo, hay là đãi gạo bỏ cát? Phong nói: Cát gạo đều bỏ. Sơn nói: Đại chúng ăn gì? Phong úp chậu lại. Sơn nói: Ông có duyên với Pháp, hợp với Đức Sơn. Sư nói: Á Khưu Tử Lâm, tùy biến chẳng phân, gậy kiếm thì đuổi theo Đỗng Sơn nói Tuyết Phong duyên ở Đức Sơn. Chẳng biết là pháp tướng gì, Phong sau nầy nối pháp Đức Sơn. Đây lại lỗi là đồ của Quý Hàm ư? Khai lò, Sư thượng đường, nêu: Lò lửa của Triệu Châu, không có lời khách chủ, nhiều năm không người nêu lên, lò lửa Kính Sơn, không có lời khách chủ thì thế nào? Mỗi ngày chỉ mặc lý luận. Phép tắc nồi cháo xây thất tắm, căng pháp cổ tao thuyền sông, lại lỗi như thế. Đâu rảnh nêu lời lò lửa. Xuân đến lại cần, giả Tăng đường đổi hành đường, đứng đi lên thứ lớp, thời tiết như thế mới có thể đóng cửa làm việc. Ngày kî của Đại Sư Đạt-ma, Sư niêm hương, nhìn phía đông, Trung quốc có căn khí Đại thừa, vượt biển Việt, Hán mà đi. Xa đến đất Đan Khuyết triều Lương, một lời ăn hợp như xuân, cuộn y áo về Bắc. Bẻ cổ hỏi bến, tin biết lời sấm không dối người. Tìm suy nghó húy nghiêm ngặt, thổi lúa rau nem, nước chảy ít tiếng, dâng đàn sắp đứt không biết sẽ nối tiếp trần thơm. Sư thượng đường, nêu: Phong Huyệt dạy chúng: nếu lập một trần, quốc gia hưng thạnh, lão quê buồn rầu, không lập một trần, quốc gia táng mất, lão quê an vui. Sư nói: Phong Huyệt chỉ cần người tương tự. Thật không biết trời nghiêng Đông nam, đất lở Tây bắc. Hội được thì ban ngày cùng Thượng nhân Nghóa Hoàng du hý đại cảnh an quốc. Lúc ấy, được mất vinh nhục tự có thể biết. Dộng gậy nói: Tham. Sư thượng đường, bình thường thích Công kích bịnh của thiền, không biết bệnh là nguồn đạo. Muốn biết nguyên do nguồn đạo thì phải đi bộ đi thuyền, nhân suy nghó Bùi Tướng Quốc Đại Đường, soạn một bài tựa Kinh Viên giác, một chữ một nghóa, rung động trời, người. Lại suy nghó. Bổn Triều Ôn Quốc Công, chế giải sáu bào Thiền Tụng, vừa khen vừa chê. Khẩu nghiệp rõ ràng, chẳng phải y tuyệt loại xưa, Phật cũng không độ người vô duyên. Đêm đông, tiểu tham, các vị Tăng hỏi: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn giữa đông việc mỗi năm rất lạnh, việc vận xấu đổi dời thế nào? Ngưỡng Sơn Vỗ tay, tiến đến gần. Sư nói: Cha làm dê, con làm chứng. Vị Tăng nói: Quy Sơn nói: Tình biết ông đáp thoại đầu không được. Sư nói: Cha con một nhà hòa khí như xuân. Vị Tăng nói: Hương Nghiêm đến chỗ Quy Sơn nêu lời trước đây. Nghiêm nói: Lời mỗ giáp đáp còn nghiêng lệch. Quy Sơn lại nêu: Nghiêm cũng vỗ tay đến gần trước rồi đứng, ý này thế nào? Sư nói: Ly lâu hành xứ sóng cuộn trời. Vị Tăng nói: Quy Sơn nói lại gặp Tịch Tử không hội. Sư nói: Khủy tay đều không cong ở ngoài. Tăng nói: Đêm nay bỗng có kẻ ra hỏi Hòa thượng. Việc giữa đông rất lạnh mỗi năm, việc vận xấu đổi dời thì thế nào? Làm sao đáp cho ông ta? Sư nói: Lão Tăng cũng chỉ đáp cho như vậy. Sư nói: Kiếm bỏ lâu rồi. Vị Tăng lễ bái. Sư liền nói: Sơn Tăng đợi danh của Trưởng lão đã bốn mươi năm Trong bốn mươi năm ở mười chùa viện. Lúc ấy, luận nay khảo xưa, nói đông nói Tây, đều là sự bày vẽ cửa nhà, chỗ tha thiết không hề nói được một chữ, nay là thời tối năm thứ hai, tiết đến vẽ mây. Lại không giống như bốn mươi năm trước, chưa từng mở miệng nói một câu phân hiểu thì thế nào? Lại nêu: Một hôm, Quy Sơn đang nằm, Ngưỡng Sơn đến Quy Sơn nằm xoay mặt vào vách. Ngưỡng Sơn nói: Mỗ giáp là đệ tử của Hòa thượng. Không cần hình thức. Quy sơn làm tư thế ngồi dậy. Ngưỡng Sơn liền đi ra. Quy Sơn gọi: Tịch Tử. Ngưỡng Sơn quay đầu, Quy Sơn nói: Nghe lão Tăng nói mớ. Ngưỡng cúi đầu làm tư thế nghe. Quy Sơn nói vì ta hậu khán. Ngưỡng Sơn lấy một chậu nước và một cái khăn tay. Quy Sơn rửa mặt mới ngồi, Hương Nghiêm vào đến. Quy Sơn nói: Ta vừa cùng Ngài Tịch Tử làm một thần thông, bậc thượng, không đồng với tiểu tiểu. Nghiêm nói: Mỗ Giáp ở mặt dưới, sẽ biết được rõ ràng. Quy Sơn bảo: ông thử nói xem. Hương Nghiêm liền một chén trà đem đến. Quy sơn nói: Hai ông trí tuệ thần thông còn hơn Mục-kiền-liên. Sư nói: Nguồn phái Quy Sơn đến năm thì thời dần dần suy vi. Hãy nói vì sao như thế? Dộng gậy, còn hơn Mục-kiền-liên. Hôm sau, Sư thượng đường, một hơi thầm lặng trở về, trăm loại tốt tươi Quân Tử nói mãi. Cột trụ hỏi tham, tiểu nhân nói mất, lồng đèn làm múa. Nghóa phát sinh ra ở năm được mùa. Lại đạo rất xưa, Quốc sư vui mừng hỏi thế nào? Đông đến lạnh ăn một trăm lẻ năm. Tạ Bỉnh Phất, đông trai Sư thượng đường: dùng Phật pháp huyền diệu bố thí cho người như chim sẻ lấp biển cả. Dùng đề hồ thượng vị cúng dường người, như lọc sạch trong mật, ông ấy tập theo nhân duyên xưa, Phật cũng cứu ông ta không được. Kính Sơn rõ như gương nghiệp. Ở đây không có chỗ cho ông tính tiện nghi. Buổi sáng, Sư thượng đường, trong tháng chạp ba lần bạch, nguyên chánh khí hòa, trời đất mở ra rộng lớn, muôn vật được thứ lớp. Vì sao một năm có ba tuổi tốt. Nếu gọi là dư thành tuổi, thì ai không biết. Sơn Tăng bình thường nói: người trong thiên hạ an ta mới an, khiến cho xá nhân thông sự, cẩn thận cho tìm, vì sao khí thường như thế? Xá nhân thông sự, không dời một bước, vây bốn thiên hạ, đánh một lần, vô sự không biết, chẳng chỗ nào không biết, trở về vui tươi. Quả nhiên có năm được mùa. Sơn Tăng nói: Lấy gì làm căn cứ. Xá nhân thông sự nói: đô thành hang hẻm, chợ quán, thôn lạc, hương phường, củi gạo rau cải, trăm vật thanh liêm công bình, hai lần lúa sau tuyết, rõ ràng nhìn xem là điều năm được mùa. Sơn Tăng lại hỏi: Ngoài ra còn tin túc gì không? Ông ta nói: Đầu cây dâu nghe vải cốc, mục đồng cày trâu trong bóng gió xuân. Sơn Tăng nói: Xá nhân thông sự ông quả nhiên, danh đức tin nhau. Hướng về Lão Tăng xuân, có tiền mua bánh dầu cúng dường ông. Ông ta xoay mình một vòng, vỗ tay cười lớn mà đi. Sơn Tăng chỉ nghi, tuy nhiên, hãy nói ông ta cười cái gì? Ngày 16 tháng giêng, vì Trưởng lão Tân Khánh Viễn, Sư thượng đường, không biết bao nhiêu tuổi, không biết tháng lớn nhỏ, lo ngại như thế, chỉ ba mươi năm một sáng mắt sống, liền thấy buổi sáng chỉ đến cửa hướng về Khánh Viễn. Nhà nạp Tăng lặng đi dùng kín. Được linh nghiệm như thế, lại lên ngựa thấy đường, một câu là thế nào. Dộng gậy Giang Nam xuân tin sớm. Tử Quyết đã duỗi tay. Sư thượng đường, trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu, bí mật ở Hình Sơn. Hình Sơn thì bất luận, thế nào là một vật báu? Có phải là Thượng Đại Nhân Khưu Ất tî không? Quát, đáng biết lễ. Sư thượng đường, nêu: Sơ Sơn xây dựng Thọ Tháp. Tri Sư bạch rằng: Lấy bao nhiêu tiền cho thợ? Sơn nói: Lấy ba đồng cho thợ, lấy hai đồng cho thợ, lấy một đồng cho thợ. Nếu nói được cho ông đích thân xây Thọ Tháp. Vị Tăng ấy mờ mịt. Sau đó, có vị Tăng nói lại với đại Lãnh, Lãnh nói: có người nào nói được không? Vị Tăng nói: Không có người nào nói được. Lãnh nói: Ông trở về nêu cho Hòa thượng: nếu đem ba đồng cho thợ, đời nầy quyết không được tháp. Nếu lấy hai đồng cho thợ, Hòa thượng cho người cùng ra một tay. Nếu lấy một đồng cho thợ, mang lụy đến thợ, râu tóc rơi rớt. Vị Tăng trở về nêu cho Sớ Sơn, Sơn lễ bái nói: Đại Lãnh Cổ Phật, phát ra ánh sáng đến trong đây. Tuy nhiên cũng là hoa sen trong tháng chạp, Đại lãnh nghe được nói: Ta nói như thế chính là lông rùa dài mấy thước. Sư nói: Hai Đại lão hướng trên đầu Kim, sắt mòn định đúc kiếm, giết Phật giết Tổ, đâu thể chưa có người điểm ngang đầu. Thọ Tháp của Kính Sơn là đệ tử nối pháp của Tiến Nghiêm, ở Côn Sơn, là báu tạo nên, cũng không biết giá trị của nó. Hãy nói Cổ Phật Đại Lãnh phát ra ánh sáng đến trong đây, cách nhau bao nhiêu? Dộng gậy; Nhiều năm ngày âm lịch như có thể dụng, khỏi bị quan đi tuần chỉ ra. Sư thượng đường, Đức Sơn tham Long Đàm, Sơn mới thấy liền hỏi: nghe tiếng Long Đàm đã lâu mới đến đây, Đàm (đầu) không thấy mà Long (rồng) cũng không hiện. Đàm nói: Ông đích thân đến Long Đàm, đến đêm đứng hầu, sao không đi xuống. Đức Sơn liền cẩn thận, vén rèm đi ra thấy bên ngoài tối đen, lại trở vào nói bên ngoài tối đen. Đàm đốt đèn đưa cho Sơn, Sơn định nhận, Đàm liền thổi tắt. Sơn ngay đó đại ngộ, rồi làm lễ. Đàm nói: Ông thấy đạo lý gì? Sơn nói: Đệ tử từ nay về sau, không nghi thoại đầu của các Hòa thượng trong thiên hạ nữa. Hôm sau, Đàm lên tòa nói: có thể trong đó có kẻ răng như cây kiếm, miệng như chậu máu, một gậy đánh không quay đầu, lúc khác ngày khác, hướng lên đỉnh Cô Phong mà xây cất am tranh lập đạo ta. Sơn dùng sớ sao để trước Pháp đường lấy lửa, đề khởi rằng: thấu cùng các huyền biện, như sợi lông bày trong hư không, Kiệt thế sa cơ, như giọt nước rơi xuống sông lớn, nói xong liền đốt. Sư nói: Phân biệt mắt rắn rồng, cơ bắt hổ, đã có từ xưa. Chỉ vì lầm mà chỉ bày, cho đến phá nhà tan cửa, còn có người biện ra được không? Hét một tiếng xuống tòa. Hải Tây Đường đến, Sư thượng đường, suy văn trời, cùng lý đất, dùng âm dương đổi số, hướng đến bên bóng cỏ chỉ đầu số qua, không có một ngôi sao rơi rớt. Hãy nói Triệu Châu vách đông treo hồ lô, trong số nào hội được, việc đồng một nhà, không như vậy, thì phần nhiều hướng đến bờ cỏ xanh ở Động Đình, trời Sở không rộng, chẳng biết về. Kiết hạ, tiểu tham, vị Tăng hỏi: Người đều khổ nóng bức, ta thích ngày hạ dài, gió xông từ Nam đến, điện các sinh mát mẻ. Đây là câu đối của người xưa. Đại Tuệ nghe được đập vỡ thùng sơn. Hãy nói: Tiết văn ở chỗ nào? Sư nói: Chỗ nào thấy Đại Tuệ? Vị Tăng hét: cũng là rửa đất trong bùn. Sư nói: Quả nhiên. Vị Tăng nói: Đức Sơn tiểu tham không lời đáp. Có hỏi, nói cho ba mươi gậy, ý này thế nào? Sư nói: Giấm chua đâu cần treo hồ lô. Lại nói: Có vị Tăng ra lễ bái, Đức Sơn liền đánh thì thế nào? Sư nói: cờ sắt, trống sắt. Lại nói: vị Tăng nói Mỗ giáp thoại cũng chưa hỏi, vì sao đánh Mỗ Giáp? thì thế nào? Sư nói: Nghóa phát sinh năm được mùa. Lại nói: Sơn nói: Ông là người ở đâu? Tăng nói: Người Tân-la. Sơn nói: Chưa vượt qua thuyền, đáng cho ba mươi gậy là thế nào? Sư nói: Tánh mạng của Đức Sơn rơi vào trong tay vị Tăng này. Lại nói: chỉ Đức Sơn như thế, thưởng y hay phạt y? Sư nói: Kiếm nắm trong tay người. Lại nói: giả Tăng là kẻ sóng nghịch, quen làm thủy triều vì sao Đức Sơn thấy ông ta mà không phá. Sư nói: Ông lại bị mọi người thấy phá trừ rồi. Vị Tăng nói: như đêm nay bỗng có người bước ra nói: Mỗ giáp nói mà chưa hỏi, vì sao đánh Mỗ Giáp? Chẳng hay Hòa thượng đáp thế nào? Sư nói: Ta không giống tâm lão Bà của Đức Sơn. Vị Tăng nói: Mắt sáng Tông sư thiên nhiên có. Sư nói: giặc là thân trong nhà. Sư bèn nói: Truyện xưa không văn, mới có chế, chín tuần cấm túc đập bình tìm trời, ba tháng hộ sinh, bày đàn nấu hạc. Cho đến làm cho kẻ có chí không có chỗ thư giãn. Dẫu chẳng có cơ sống chưa khỏi phần chỗ cái nghe. Lão Tăng đêm nay không tiếc lông mày, làm phương tiện, làm cho hiện tiền bảy chúng chín hạ không có bỏ phí. Có tin được không? Rừng bên suối thiết tha mài giũa, ắt có lúc tu chứng. Không như thế, thì mỗi người xin thu về khoa trên. Lại nêu: Dũng Tuyền nhân Tuyết Phong hỏi, bèn mở cửa. Phong vào Kiệu rồi, Tuyền nói ở đây có bốn người khiêng, ở kia có mấy người khiêng? Phong vươn mình nói: nói gì? Tuyền nêu lại. Phong nói đi đi cũng không hội. Sư nói: cơ lửa xe ánh chớp có mắt lớn, cuối cùng khó hội họp. Dũng Tuyền trong dòng nguy mất đi cánh tay. Tuyết Phong quá lời, sau lúc ấy nếu là Kính Sơn đợi ông ta vươn mình hỏi: nói gì? Chỉ nói với ông ta xin Hòa thượng an ổn ngồi kiệu, chẳng phải chỉ quét sạch đầu lưỡi của Tuyết Phong, mà cũng làm cho mũi kim của người trong thiên hạ không vào. Hôm sau, Sư thượng đường, Đại giác Thế tôn trước hai ngàn năm, trong vườn Cấp Cô Độc một ngàn hai trăm năm mươi tỳ-kheo nhóm họp. Đến ngày an cư, khởi kiểu vẽ cách đến nay dây dưa chưa thôi. Ngày nay bỗng có người bước ra nói. Ta trong này là trời đất trong ao không có ngày tháng. Không vào bảo xã của ông, Sơn Tăng chỉ được an bài dưới cửa sáng. Vì sao? Kỳ lân tốt lành. Nêu đời ít gặp. Tạ ơn Thủ tọa Quang ở Phước Châu Bỉnh Phất: Sư thượng đường, sâu độc rất kinh thông, không mong mà hội, không hẹn mà đồng kéo núi bày đá. Kéo vòng vàng lúa cỏ ra. Bỗng cột trụ nhà, dọa giết lồng đèn. Không biết loại độc ở đâu, vốn là trong cửa có trùng. Sư thượng đường, bày ngày sửa xếp, dạy đều một vị, thôi đi thôi đi, mịt mù vắng lặng đi. Gọi là người đắc đạo. Thật không biết, chưa hề mở miệng, trước phạm húy nước, chỉ như lìa ngôn thuyên bặt nương tựa, các nơi làm sao tiếp nhận? Ngày đoạn ngọ, Hy Hòa ân Vónh Cốc gửi thư đến, Sư thượng đường, ngọ thấy năm gọi là tiết Trung thiên. Dương đức đã bền chắc. Nguyên hóa đã sửa, cả đại địa đều là nhạc. Lại như người trị không được không bệnh, hãy nói người nào là người không bệnh? Dộng gậy, hỏi lấy lão Băng cốc. Giữa hạ, Sư thượng đường, nêu: Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: Thế nào là Đạo. Tuyền nói: tâm bình thường là Đạo. Có nhờ hướng đến không? Nghó thì trái. Không nghó thì đâu biết là Đạo? Đạo chẳng thuộc về biết, chẳng thuộc về không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu thật thì đạt đạo không nghi, rộng như hư không há có thể gượng cho là đúng sai? Triệu Châu lễ bái. Sư nói: một hạ chín mươi ngày, đã qua bốn mươi lăm ngày trước nung gạch mãi thành đống. Nếu là nói bốn mươi lăm ngày sau lão Tăng chẳng thể không nói. Nếu không nói lại sợ, mọi người thấy nghi, lại buồn chủ cậy gậy, cẩn thận phân khán, dộng gậy, một tách thành nhiều lớp. Sư thượng đường, lửa oai ba lần phục thì không là khổ. Gió mát bốn lần đến, không là vui. Trong vui có khổ người không biết, trong khổ có vui người không hội, vạch hư không huơ bên ngoài tượng, một đời vác bản, chết không hối hận. Sư thượng đường, một tiếng hét phân khách chủ, chiếu dụng một khi thực hành hãy nói khách chủ làm sao phân. Nếu phân được, thì phạm tội đột cát la, nếu phân không được phải xét lại lòng mình. Sư thượng đường, nêu: Hưng Hóa dạy chúng “Ngày nay không cần như thế nào, như thế nào, lại xin một dao vào thẳng”. Hưng Hóa chứng cứ cho ông. Lúc ấy, có trưởng lão Văn đức ra lễ bái đứng dậy rồi hét, Hóa cũng hét, Đức lại hét, Hóa cũng hét, Đức lễ bái trở về chúng. Hưng Hóa nói: nếu là người khác cho ba mươi gậy, một gậy cũng so không được, vì sao? Bởi một tiếng hét của Văn Đức không làm dụng một tiếng hét, liền xuống tòa. Sư nói: Hán Cao Tổ lừa Hán Tín mà giết. Thân tuy chết, tâm ấy có chết hay không? Hưng Hóa cho Văn Đức ba mươi gậy, hòa khí như xuân. So khách chủ gặp nhau thì là xa của xa. Giải hạ tiểu tham, vị Tăng hỏi: Đầu Thu cuối hạ, túi vải khai mở, thời tiết nhân duyên, thỉnh sư chỉ bày. Sư nói: Nếu không có nước chảy, thì nên qua núi khác. Vị Tăng nói: Đệ tử đến đây, đâu giống không hỏi Sư nói: Dặn dò tổn đức anh. Vị Tăng nói: Mã Đại sư nhân vị Tăng hỏi, lìa bốn câu dứt trăm phi, thỉnh sư chỉ thẳng ý Tây lai, ý này thế nào? Sư nói: ném thân vào hang hổ. Vị Tăng nói: Mã Đại Sư nói: nay ta mệt mỏi, không thể nói cho ông, hãy đến hỏi Trí Tạng xem thế nào? Sư nói: Tham lộ trình mau quá, bất giác vào rừng làm cướp Vị Tăng nói: Tăng hỏi Tạng, Tạng nói: hôm nay ta nhức đầu không thể nói cho ông, hãy hỏi Huynh Hải, ý ấy thế nào? Sư nói: Thần gào qủy khóc họa đến cửa riêng. Vị Tăng nói: Tăng hỏi Hải, Hải nói: Ta đến đây lại không hội, lại thế nào? Sư nói: Chê trong cõi nước Vô Sanh. Vị Tăng nói: Cha con Mã Đại Sư mỗi người có một bệnh, có người chữa được không? Sư nói: Trước tự chữa được, ông mới chữa được họ. Vị Tăng nói: Đệ tử không bệnh, đâu cần cứu chữa. Sư nói: Toàn thân là ung nhọt, mà không chịu gánh vác. Tăng lễ bái, cám ơn lời thoại đáp của Sư. Sư nói: Biết lỗi thì sửa đổi. Sư liền nêu: Sông xanh, đá trắng, nép trăng tựa mây, nhà trúc đường tranh lòng vui thích ý. Có thể gọi bỗng quên thân thế, bặt tục sâu xa không do đâu cấm túc an cư. Phật pháp sáng ở nơi mình. Khắc kỳ thủ chứng, công hạnh thời thời thượng tâm, chỉ biết khuôn phép hợp người, đâu được vào dòng quên sở, nhà nạp Tăng làm được chủ, nắm được định? Không bị người chê, lại lấy công là thế nào? Dộng gậy, một cây rơm thơm mãi chưa nhàn, sáu vòng vàng tặng tiếng vang xa. Lại nêu: Đỗng Sơn dạy chúng. Đầu thu cuối hạ nhà huynh đệ, đông đi Tây đi. Phải thẳng hướng muôn dặm không tấc cỏ, truyền đến Am chủ Lưu Dương. Am chủ nói: Sao không nói ra cửa lại là cỏ. Nhân cơ cảm hợp nhau này nói khắp trong trời đất. Kính Sơn thì không như vậy. Bỗng có vị Tăng ra từ biệt, chỉ nói với ông ta, thu nắng còn nóng định sửa chiếc nón, sao nhanh như thế. Hãy nói cùng hai Đại lão cách nhau bao xa, người đàn bà xấu cau mày. Hôm sau, Sư thượng đường, gõ phất trần một cái, nói: Đội nón mang bao đi ngoài mây. Người trở về đều không lên Long Phong. Lại dộng gậy một cái, giữa đường bỗng nhiên đánh Thượng tọa Định. Bị ông ta đương đầu nói không rõ, ông làm sao chỉ đối với ông ta? Lại dộng phất trần, không cần mãi khuyên rượu, tự có người biết sầu. Lại dộng gậy một cái, Tạ Đô Tự, Duy Na Tạng Chủ, Tri Khách, Thị giả. Sư thượng đường, ép mền giấy mặc cho từng lớp. Từ minh trách nhiệm bị người phạt nấu cơm, lại dạo núi. Hưng Hóa cầu hiền thật mau. Chủ khách thấy nhau chưa nêu mà biết trước. Như Triệu châu nhiễu giường thiền là thế nào? Dộng gậy xuống chớ cười nhà cửa quốc sư lạnh, già đến không có sức kêu ba lần. Sư thượng đường, nêu: Thạch Sương Phổ Hội qua đời, chúng thỉnh Thủ tọa trụ trì. Thị giả Kiền thưa: Tiên Sư nói: Thôi đi thôi đi, một cây luyện trắng đi, một niệm muôn năm đi. Rõ việc thì thế nào? Nếu hội được thì trụ trì nếu hội không được thì không thể. Tọa nói: Rõ một việc bên một sắc. Kiền nói: Chưa hội ý tiên sư. Tọa nói: Trang Hương đến, khói hương đoạn xứ. Nếu đi không được thì không hội ý của Tiên Sư. Khói hương chưa dứt, Thủ tọa thoát đi, Kiền quay lưng về phía Thủ tọa nói: Ngồi thoát đứng mất thì được, phải cần hội ý của Tiên Sư. Sư nói: Một người đi đỉnh núi cao cao, một người đi ở đáy biển thấp thấp, chẳng phải khó cùng ở với người, phần nhiều truy tố phải rõ ràng là sao? Là việc rõ ràng, dộng gậy xuống. Tết Trung thu, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Hàn Sơn Tử đêm nay thấy trăng. Vì sao vỗ tay cười lớn? Sư nói: Trong mắt dính cắt không được, trong tai dính nước không được. Vị Tăng nói: Đêm nay có người phát cười không? Sư nói: dù có dao trong sự cười cũng phải khám qua. Vị Tăng nói: Nhớ Mã Đại sư ngắm trăng nói: Chính như thế thì thế nào? Tây Đường nói: Đáng cúng dường, ý chỉ thế nào? Sư nói: Tấc đinh vào cây. Vị Tăng nói: Bách Trượng nói như đang tu hành thì thế nào? Sư nói: Trước cửa địa ngục qủy thoát ấn. Vị Tăng nói: Nam Tuyền phất tay áo bỏ đi, ý này thế nào? Sư nói: Chỉ duyên bước đến quá lắm vậy, bất giác toàn thân bùn nước. Vị Tăng nói: hãy nói ba đại lão hạ ngữ có thắng bại hay không? Sư nói: nhàm chán Mã Sư bao nhiêu? Vị Tăng nói: Mã Đại sư nói kinh quy về Tạng, Thiền quy về biển, Chỉ có Phổ Nguyện điều vượt ngoài vật, lại thế nào? Sư nói: Dưới núi gió sanh hổ làm con. Vị Tăng lễ bái. Sư nói: Lễ bái thì được. Sư bèn nói:Không gian lắng trong các ngôi sao che sáng. Bình thường phần nhiều luận ba, năm. Chỉ có đêm nay sáng ngoài phần, dẫn được ngựa Ba Ky, gọi con gọi cái, dù dạo chơi, dù mỗi người trình cơ nguy, cuối cùng ra khỏi bóng không được, chẳng biết có ai ra khỏi bóng hay không? Ra thì hạ một chuyển ngữ, cúng dường đại chúng. Không như vậy, thì Sơn Tăng tự nói đi! Sư thượng đường, nêu: Hòa thượng Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Lâm Tế nói: xẹt đá chẳng kịp, điện chớp không tìm. Từ trên các Thánh dùng pháp gì dạy người? Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng thế nào? Quy Sơn nói hễ có lời nói đều không thật nghóa. Ngưỡng Sơn nói: Quan không dung tha, tư thông xe cộ. Quy Sơn nói: đúng thế đúng thế. Sư nói: Đúng thì đúng, cha con hợp cơ, như nước vào nước. Chỉ sợ năm tháng đã qua lâu mà thành xấu. Có thể cứu được người xấu này không? Dộng gậy. Sư thượng đường, chưa nêu mà biết trước, chưa nói mà trước đã lãnh hội Nam Thiên Thai, Bắc Ngũ Đài thì được. Nếu nói tướng Cửu Nghi Thái Hoa Cao thì khác, thì chưa thể, nhà nạp Tăng, sáng núi chiều sông đầy mắt kín tai, tìm Phật pháp sâu mầu làm gì, không như vậy thì sáng tranh chiều tranh, buồn vui ở ông. Ngày Kî thứ hai mươi của Đại Sư Viên Giác, Sư niêm hương. Thời đại cuối cùng của Tây Thiên, bắt đầu thời ở Đông Độ. Chật vật Lương Ngụy, hình bóng theo nhau. Ngồi núi lạnh ít, đường rẽ ủy rắn, sẽ gọi truyền riêng chỉ thẳng. Ai biết một nắm tơ rối, người mắng, người hận, lo làm thầy của người, nay thì cành khô lá rụng, tốt tươi đâu mong có chịu khuất chỗ không có tuyết. Gió đến chỉ nên tự mừng reo. Bày ra lễ cúng dường, xin soi xét? Khai lò, đời chúng Tăng đơn bát, về gác ngàn Tăng, Sư thượng đường, cất nhà chẳng phải tài lớn khó lấy làm trọng trách. Chúng an ổn rộng lớn, chẳng phải lượng biển thì khó nạp các dòng. Từ đầu đổi làm tay không biến thông. Liêu Đại giác không cho chìa khóa bàn, còn gác ngàn Tăng chỉ bày hơn ba trăm đơn, chỉ được có loại lửa trong lò. Tự nhiên khí ấm hợp nhau, đã là gác ngàn Tăng, vì sao chỉ an ba trăm đơn. Dộng gậy xuống. Đêm Thư Vân tham, vị Tăng hỏi: Bắc Thiền nấu trâu trắng ở chỗ trống. Đỗng Sơn kéo lui quả của Thủ tọa Thái, ý nầy thế nào? Sư nói: Đánh nhà nghèo, không đánh nhà giàu. Vị Tăng nói: có hơn kém không? Hơn thì đồng hơn, kém thì đồng kém. Chỉ như Kính Sơn quả cây đêm đông quý, lấy gì chia cho người đêm đông. Sư nói: Sắt gỉ. Vị Tăng nói: Thế thì hơn Bắc Thiền, Đỗng Sơn nhiều. Sư nói: hộp với miệng chó. Vị Tăng nói: Đệ tử đến ban đêm, trái cây còn có phần không? Sư nói: Chỉ có ông không phần. Vị Tăng nói: Cám ơn trái cây của Hòa thượng. Sư nói giặc nhà khó ngăn giữ. Sư bèn nói: sáu hào chưa động, một hơi thầm quay về, không lên cành cỏ kéo lấy cành, đầu cây không bóng trước phá đài hoa. Mặt trời ấm trong ao, thất rỗng không sanh trắng Phật Pháp kéo ở đầu mũi. Nước chảy có ai đàn điệu xưa, đây là thời tiết nhân duyên, chỉ gọi phàm Thánh, hiệu lịnh trời người, chỉ bước khắp phương, làm con mắt đời, còn có thay đổi không? Dộng gậy, nửa đêm dậy ngồi thoa gối. Đầu sợi lông trăng hiện trước nạp Tăng. Lại nêu: Hòa thượng Ngọc Tuyền Hạo dạy chúng: giữa đông nghiêm lạnh, quần vải nổi đỏ, chẳng phải không giặt, chẳng được đổi thay. Sư nói: quần vải của Hạo nghèo lâu mới giàu, ở trong con mắt con mở sâu thế giới. Ra ngã ba đường miệng gọi to một tiếng nói: Đất rộng người thưa, người gặp nhau ít. Hội được cười lãnh lấy đi. Không như vậy, đêm đến thỉnh Thủ tọa làm phẩm đề cho mọi người. Sư thượng đường, không có giữa lấy có, chỗ thiếu tìm hơn là nạp Tăng ông, dây lỗ kim qua bên sự. Nếu ông không bị người chê. Dẫu một cỏ thì Tu-di vòi vọi, đoạt được một cảnh nước biển hơn sóng. Dù đoạt có thể xem, còn bị các nơi dứt bỏ và cắt đứt. Kính Sơn lặng lâu yếu chỉ này, không dám dự nghe. Sư thượng đường, nêu: Hòa thượng Ba Tiêu dạy chúng: Ông có gậy ta cho ông gậy, ông không có gậy ta lấy gậy ông. Hòa thượng Chân Tịnh nói: Ông có gậy ta lấy gậy ông, ông không có gậy ta cho ông gậy. Sư nói: Xin mỗi người buông gậy xuống, hãy nói ba chuyển ngữ còn có hơn kém không? Gõ phất trần. Triều Đình cầu tuyết, Sư Thượng đường, nói: Từng mảnh tuyết không rơi vào chỗ khác. Có vị Tăng bước ra, lớn tiếng nói: Rơi vào chỗ nào? Sư nói: Chớ làm hoa dương, hoa liễu bay. Lại nói: Đức Thế tôn nói pháp, Đại phạm Thiên vương, dâng hoa ba-la mầu vàng, ý này thế nào? Sư nói trên gấm lại thêm một lớp hoa. Vị Tăng nói: Thế tôn cầm hoa lên đưa cho đại chúng thấy, chỉ có Tôn giả Ca-diếp mỉm cười, là thế nào? Sư nói: Vật thấy chủ mắt dựng đứng. Vị Tăng nói: ngày nay Hòa thượng nói pháp, bỗng có người dâng hoa, chẳng hay làm sao hiển bày? Sư nói: Sắc xuân trong động người khó thấy. Vị Tăng nói: Chỉ như đế Quan muôn cổ xe, tin sâu đạo này, xa giáng ngự hương, mong cầu tuyết lành, một câu ứng cầu lại thế nào? Sư nói: Khí hòa là điềm được mùa. Vị Tăng nói: Như thế thì khó trốn Hóa Dục. Sư nói người biết ơn thì ít. Sư bèn nói: sáu hoa hiện điềm lành, cảnh giới Phổ Hiền toàn rõ ràng, ba lần bạch ứng cầu. Người chưa có sắc vàng thì tránh chiếu. Bỗng khiến một sắc của trời đất, cỏ cây nói lên sự tốt lành, bình nguyên hai lúa, tươi tắn đáng xem. Biển đứng núi dựng, đều thầm sông Thánh, nguyện rộng vô vi, ơn lớn khó đền, chẳng phải hương mai đồng quê sông biển. Trong tuyết một cành hoa, thời thịnh vật tốt. Cúng tạ xong lại nói: Lo dân thương vật che uy trời, quét sạch trời đất tiến vào bốn Di. Trước thả mai tháng chạp, ngưng tuyết lành. Kế dạy sắc xuân đến ao ngọc. Triều đình giáng ban hai mươi độ điệp, nói, vào thường trụ tu tạo. Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Chùa Cổ Kính Sơn, nhà lão Tăng suy tàn, ý trời như hoàn lạc, hai lần nhờ tuyên ban. Người học trên đây, nguyện nghe pháp yếu. Sư nói: mũi của người người xa tít trời xanh, người người cảm ơn mang đức. Vị Tăng nói: Mã Đại Sư nhân vị Tăng hỏi: Thế nào là yếu chỉ thiền Tông? Mã Đại Sư nói: ông nói gì? Sao không đến gần? Ý này thế nào? Sư nói: lưới trời trăm ngàn lớp. Vị Tăng nói: Giả Tăng đến gần, lại nêu lời trước đây bị Mã Tổ đạp té nhào, vị Tăng đứng dậy cười lớn nói, trăm ngàn nghóa mầu, vô lượng pháp môn đều trên đầu một sợi lông. Biết được cội nguồn, lại cười ha ha là thế nào? Sư nói: xin con nhặt được tích trượng. Vị Tăng nói: Hôm nay, bỗng có người hỏi Hòa thượng thế nào là yếu chỉ Thiền tông; chẳng hay là đáp với họ thế nào? Sư nói: Sau tuyết các núi vẽ không bằng. Vị Tăng nói: Đệ tử ngày nay ra nhỏ gặp lớn. Sư nói: Ông được cái gì? Vị Tăng liền hét. Sư nói: Sư tử lông vàng. Sư bèn nói: Núi kêu hang đáp, gió nổi nước vọt, đây đều là nhân duyên thời tiết. Chẳng phải một hào chớ lấy. Chặt cây chan chát ở đỉnh núi, độ điệp của Tăng giáng xuống ở Trung Thiên, mang đức ngày càng mới. Lúc thời vận vừa tới đặc biệt, sùng đường từ đây dễ nêu. Ơn vua khó thể đáp đền, thề siêng thiền tụng, Ngưỡng đáp rộng rãi. Phàm những điều thấy nghe, đều được diệu chứng. Cung tạ xong, lại nói: một năm gần chín mươi thứ Chướng ngại tòng lâm. Rõ ràng như vậy, gió sương năm tháng sâu, vẫn hay đâu thể vượt Phật Tổ? Tấc thương thật có thể lượng lòng trời. Đêm sáng trăng, Sư thượng đường, kiêm tạ trưởng lão Tử Nham: vị Tăng hỏi: ngày tháng tỏa đức trời, núi sông vua lớn ở, đệ tử lên, thỉnh sư chúc Thánh. Sư nói: Tổ biết gió hang biết mưa. Vị Tăng nói: Ngày nay Hòa thượng Tinh Nghiêm đến làm sao chỉ tiếp? Sư nói: Trà nước xong đưa về vị Tri khách. Vị Tăng nói: thế thì lễ gặp qua ngôi nhà nhỏ. Sư nói: ông không được đến đây ồn ào mỏ miệng. Vị Tăng nói: Từ Minh nhân Tuyền đại Đạo đến hỏi, Minh nói: Áng mây ngang miệng hang, người đi đến nơi nào? Tuyền nói: Đêm đến lửa ở đâu? Thiêu đốt phần mộ người xưa, ý nầy thế nào? Sư nói: Đạp trời làm giếng bị người ghét. Vị Tăng nói: Từ Minh lại nói: Chưa ở lại nói, Tuyền bèn làm tiếng hổ là nghóa thế nào? Sư nói: Tuyền vội ra cửa nhà. Vị Tăng nói: như Hòa thượng ngày nay lìa ngôn cú, làm sao gặp người? Sư nói: Rực rỡ day dưa kéo không đứt. Vị Tăng nói: Lại thích lãnh hội lời. Sư nói: nói nghịch tai. Sư bèn nói: Chỗ khởi tinh nhuệ: núi đông chánh mạch thầm thông. Chấn lãnh sum nghiêm, gia pháp Tùng Nguyên còn. Đi vậy. Sông xanh mây trắng ra vào không câu nệ, là Trụ. Cây bá xưa đầy sương, năm lạnh không thay đổi, lại không hẹn mà gặp, một câu làm sao phó chúc? Dộng gậy, chỉ nghó tháp Thiên Mục, thôi đi lời qua sông qua bãi. Đêm ba mươi tết tiểu tham, vị Tăng hỏi: Trước cửa đốt trúc thông tin tức. Đâu hẳn làm mới lại nêu thoại đầu. Sư nói: Chích não vào bồn kéo. Vị Tăng nói: Tro lạnh lửa tàn. Luật năm nói hết. Làm sao giao tiếp đầu câu? Sư nói: trong nhà không điềm quái, đâu cần đóng Đào Phù. Vị Tăng nói: Lão Hòa thượng có phước, cải quán Kính Sơn. Sư nói: Qủy cùng trêu ghẹo. Vị Tăng nói: Hòa thượng Dương kỳ nhân. Đêm ba mươi tết xem danh Khu Na. Bảo Thượng nhân Tương Trung Đoan rằng: cái thẻ của ông không như ông ta, ý này thế nào? Sư nói: Tơ rũ ngàn thước, không câu cú thường. Vị Tăng nói: vị Tăng ấy nói: nghóa là gì? Dương Kỳ nói: Ông ta muốn người cười, còn ông sợ người cười. Vị Tăng ngay ấy lúc đó bỗng quên thấy biết, còn thật sự không? Sư nói: Áo vải hôi nên cởi bỏ. Vị Tăng nói: Kính Sơn đêm ba mươi tết chỉ xem trăm hý, đệ tử bỗng nhiên ngộ ai chứng minh? Sư nói: Quét đóng bụi, lại thèm đánh gõ. Vị Tăng nói: Hòa thượng hết lời khen ngợi người học. Sư nói: Kiếm chặt răng. Sư bèn nói: Già không cấm lạnh, bên núi bên sông tắm nắng. Xuân về vườn tiên, ngắn dài theo mới. Ca múa mừng năm trong tòng lâm, gấm mầu thêu gối, mở cửa thái bình. Bôn hạ nạp Tăng chẳng có điều chương. Mỗi ngày mông tỉnh tọa, chẳng biết tháng năm dể đổi dời. Dù kéo không đến, ai mở bát ăn cơm. Như thế, hội đi thẳng mục chân như, hoặc không như vậy, lại đêm ba mươi tháng chạp một câu lại thế nào? Dộng gậy, cây già nằm sóng lạnh bóng động, khói quê cỏ nổi buổi tà dương. Lại nêu Hòa thượng Quy Sơn, dưới núi có một am chủ. Ngưỡng Sơn đi nghiệm nói rằng: Hòa thượng trong núi nói: nhiều người chỉ được đại cơ mà không được đại dụng. Am chủ cho là thế nào? Am chủ nói: nêu lại xem. Ngưỡng Sơn nêu lại, bị am chủ đạp vào hông, Ngưỡng Sơn về nói lại với Quy Sơn, Sơn cười ha ha. Sư nói: Quy Sơn cười ha ha là cười Ngưỡng Sơn hay cười am chủ? Rõ được mới biết, một đạp là có chỗ rơi. Một buổi sáng tháng giêng, Sư thượng đường bốn đạt rộng lớn, vô biên vô biểu. Vì sao có mới có cũ? Hội được thì cách Hán Dương này không xa, trước lầu hạc vàng, Châu Anh vũ. Tạ Lưỡng ban, Sư thượng đường, Long tượng tham lẫn nhau, chủ khách đổi lẫn nhau. Tòng lâm hưng thạnh, hai bài tựa được người, một nước có một Thiền sư, ra cười lớn ha ha. Bất giác đánh mất lỗ mũi. Vì sao? Vì vui mừng mà được, rằm tháng giêng, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: một đèn sáng phát ra trăm ngàn ngọn đèn, các đèn nối nhau. Hãy nói: một ngọn đèn từ đâu mà ra? Sư nói: Bình sanh không thuật với người. Vị Tăng dùng Tọa Cụ vẽ tướng vòng tròn, chẳng biết có phải từ trong đó sinh ra hay không? Sư nói: Kẻ làm bóng sáng. Vị Tăng nói: nếu là nạp tử làm việc, mỗi mỗi đều biết chỗ rơi. Sư nói: còn ông biết chỗ rơi không? Vị Tăng nói: người học giống như lấy vật ở trong tối. Sư nói: Ông là người tìm trong núi. Vị Tăng lễ bái, nói: Cám ơn lời đáp của sư. Sư bèn nói: Rằm Thượng nguyên, khắp nơi đốt đèn, đô thành hang hẻm, chợ búa quán xá, người xem rất đông. Chỉ là đèn đến bên mắt, mắt đến bên đèn, hội được mới là người nhìn đèn. Nếu không như vậy thì phần nhiều đi trong đất tối. Tạ Mã An nhân xả Tăng đường, bốn mươi giường thiền và tọa cụ, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông. tông? Sư nói: một mũi tên phá ba cửa, rõ ràng đường sau mũi tên. Vị Tăng nói: có vị Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là ý chỉ Thiền Châu nói: Cây bá trước sân. Ý nầy thế nào? Sư nói: làm người phương tiện hơn tu hành. Vị Tăng nói: Có vị Tăng hỏi Vân Môn: Không khởi một niệm, có lỗi không? Môn nói: Núi Tu-di thế nào? Sư nói: Kẻ Tô vũ giữ tiết mà về. (Tô Vũ người Trung Thần đời hán) vị Tăng lễ bái. Sư bèn nêu: mười ba nàng, họ Trịnh theo một vị ni lên núi Quy Sơn, Sơn nói: Sư cô ở đâu? Ny nói: Ở bên sông Nam Đài. Sư bèn hét, đuổi ra. Lại nói: Sau lưng lão bà ở chỗ nào? Mười ba hàng tiến lên phía trước đứng chắp tay. Quy Sơn lại hỏi ba mươi nàng nói như trình rồi. Sơn nói: Đi! Hai người đến Pháp đường. Ni nói: mười ba nàng bình thường nói: Ta hội thiền. Miệng như kiếm bén. Ngày nay bị đại sư hỏi. Đều không đón được một lời, mười ba nàng nói khổ thay! Khổ thay! Là mắt thường vậy, nói ta hành cước. Ông phải cởi áo quần xuống cho mười ba nàng mặc. Sư nói: người xưa nói: chịu nặng không được toàn, có bị người xem xét. Huống gì chưa quên cái thấy của mình. Nghó họ mới là Bồ-tát Sơ địa không muốn trưng cầu. Ngày Phật Niết-bàn, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: dùng thân tâm này phụng thờ chúng sanh trong các cõi nhiều như bụi, ấy gọi là báo ơn Phật. Sư nói: Chỉ một mình ông có con cháu phạm năm tội nghịch. Vị Tăng nói: Đức Thế tôn sắp vào Niết-bàn, lấy tay thoa bụng, nói với đại chúng: các thầy khéo xem thân sắc vàng của ta, ngày nay thì có, ngày mai liền không, chiêm ngưỡng cho đầy đủ, không thì sau này hối hận, ý này thế nào? Sư nói: Đến núi ngắm sông, mắt đặc biệt một nơi sầu. Tăng nói cả Đại chúng trời người đều rơi lệ, chỉ có Ba-tuần vui mừng là sao? Sư nói: Dưa ngọt thì ngọt tận gốc, bầu đắng thì đắng tận rễ. Vị Tăng nói: Hãy nói Ba-tuần là đệ tử ai? Sư nói: Là đệ tử Phật. Tăng nói: Đã là đệ tử Phật vì sao lại hớn hở vui mừng? Sư nói: Ba đài phải cần mọi người xô đẩy. Tăng nói: Ngày nay bổng có người ra thương xót, là thế nào? Sư nói: Chẳng phải quyến thuộc của ta. Vị Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Cây xuân dây dưa đã lại thích thiên hạ thái bình. Đây là tỳ-kheo đời mạt pháp. Phật kî thiền ngữ, nhẹ nhẹ, mỏng mỏng, lấy ngã mạn làm tông. Còn biết Kim quan đại giác Thế tôn trước khi chưa nhấc không? Dộng gậy. Sư thượng đường, nêu: vị Tăng hỏi ngài Pháp Nhãn: Hòa thượng Tuệ Siêu Tư: Thế nào là Phật? Pháp Nhãn nói: Ông là Tuệ Siêu. Bài tụng của Hòa thượng Tuyết Đậu rằng: Gió xuân giang Quốc thổi không nổi, chim cô chá kêu trong hoa rậm. Sóng cao cấp ba cá hóa rồng, người ngu giống như ao nước đêm. Sư nói: Pháp Nhãn thật ra mở bảo dẫn dắt giả Tăng, còn có cách nói không hết. Có người hỏi Kính Sơn: thế nào Là Phật? Chỉ nói với ông ta. Ông lấy giỏ gánh nước. Vây quanh núi Tu-di một trăm vòng, tự gọi không có một giọt tràn lan. Còn chưa nói với ông, vì sao? Vì một chữ Phật há có thể mở đầu hay sao? Sư thượng đường, chúng sanh thời đại cuối cùng, hy vọng thành đạo không làm cho cầu ngộ. Chỉ nghe nhiêu Tăng thêm ngã kiến. Tâm tức miệng giận, phẩm tháo đương đời lặng nhục bậc tiên đức. Muốn được lấy cỏ tranh che đầu, như nước lửa mau. Định muốn ra tuyên phát, diệu uẩn bình thời, mở bảo dẫn dắt kẻ sau. Thật không biết. Có người mắt sáng còn. Hư Đường già rồi, không có sức biện mình cho người. Chỉ như Tu-ma xưng tốt mà thôi. Vì sao? Vì có thế đều dạy từ đất dậy, lại cao không thể nào có trời. Thánh Chế Đêm tham, vị Tăng hỏi: Nạp Tăng ba tháng an cư, chín tuần cấm túc, rõ việc bên nào? Sư nói: Đền cũ không có tượng đất. Khu vực khác có người sâu kín. Vị Tăng nói: Nếu như thế thì một hạ, công không luống uổng. Sư nói: Ẩn thân bày bóng. Vị Tăng nói: Chỗ thị giả Quốc sư tìm quạt con tê giác, ý thế nào? Sư nói: Nhân gió thổi lửa. Tăng nói: Thị giả nói quạt đã rách rồi. Quốc Sư nói: Quạt đã rách còn có tê giác, ta đến thì thế nào? Sư nói: già không có lý do gì vào cỏ hoang. Vị Tăng nói: Đầu Tử nói: không từ bỏ đem ra, chỉ sợ đầu sừng không hoàn toàn. Ý nầy thế nào? Sư nói: Ông sau kỳ đi không có tin tức. Vị Tăng nói: Tuyết Đậu nói ta muốn đầu sừng không hoàn toàn. Sư nói: Đều ra bóng của ông ta không được. Vị Tăng nói: Tạ lời đáp của Sư. Sư nói: Chỗ không người chặt cổ nhìn ông. Sư bèn nói: Hạ nay nạp tử bốn phương nhóm họp, cứ Bồ-tát thừa, tu hạnh vắng lặng, trong chín mươi ngày chăm chỉ siêng năng. Không dám vọng có đi làm. Một hôm, bỗng thấy thuyền sắt nổi trên nước, không thể nói là lực quái thần loạn, đương tự thể dẹp yên. Nếu thân dẹp yên được không cô phụ sợ lập kỳ hạn của bậc Tiên Thánh. Cuối cùng thu công. Nếu chưa như vậy, mắng đầu không chí giải cho người. Lại nêu Khâm Sơn. Nham Đầu và Tuyết Phong hành cước, trong lúc uống trà, Nham Đầu nói: Nếu như thế ta dứt khoát không được uống trà. Tuyết Phong nói: Mỗ Giáp cũng vậy. Sư nói: Xưa nay gần thầy chọn bạn là khó. Khâm Sơn mới đưa đến Khinh lễ, bèn có người động tòa của ông ấy. Kính Sơn thì không như vậy, chỉ có người đến bèn thỉnh, treo cao túi bát ăn no trà cơm thường trụ, mặc cho ngắm núi nhìn sông. Lỗi như thế thật không được tiết lậu. Vì sao? Dộng gậy, vì sợ trăm chim dâng hoa không lối. Hôm sau, Sư thượng đường, Thanh quy của Bách Trượng rộng lớn xưa nay, ẩn thì hư không bặt dấu. Dùng thì khiến bao la. Kính Sơn tuy nghóa khí mây bạc đâu thể chưa có lập bày Tăng đường. Lại Thánh chế hạ, nay làm sao giảng rõ. Dộng gậy nói: Hạ tọa đều cùng làm lễ, không đến các liêu bái bạch. Tạ Bỉnh Phất hạ trai, Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Nhớ được hỏi Tăng Vân Môn: Thế nào là Chỗ Chư Phật xuất thân? Môn nói: Đi trên sông núi phía Đông, ý này thế nào? Sư nói: đầu lưỡi không ra khỏi miệng. Vị Tăng nói: Viên Ngộ nói: Nếu là Thiên Ninh thì không như vậy. Thế nào là chỗ Chư Phật xuất thân? Chỉ nói với họ xông gió từ nam đến, Điện các sanh mát mẻ, là thế nào? Sư nói: Cũng không quá nhiều. Vị Tăng nói: Đại tuệ nghe được liền ngộ là thế nào? Sư nói: Bỏ toàn thân vào địa ngục. Vị Tăng nói: Ngày nay bỗng có người hỏi Hòa thượng thế nào là chỗ Chư Phật xuất thân? Chưa rõ làm sao đáp cho họ? Sư nói: Ngã ba đường ít người biết. Vị Tăng lễ bái nói: Tạ lời đáp của Sư. Sư nói: Chùy không nghe tiếng vang. Sư bèn nói: Hai thí tài, pháp, bình đẳng không khác nhau, vì sao đường Nam núi cao, đường Bắc núi thấp? Hội được một câu như thâm cam lộ, lông xương bỗng sạch. Vào được một đũa như uống đề hồ. Chiều tàng nhiều đức Kính Sơn, một bên như không người cả hai đều không nhận. Vì sao? Dộng gậy, trâu đực lạnh chiều về bãi dâu, Bờ ngắn không chủ tự nở hoa. Sư thượng đường, nêu: Vô Tận Trương Thừa Tướng, cùng Ngọc Tuyền Bố côn Hạo Hòa thượng, ban đêm nói với Vô Tận rằng: Đỗng Sơn nói cũng thật kỳ quái, đỉnh Ngũ Đài mây bốc lên như cơm. Trước thềm điện Phật đầy phẩn chó, muốn rõ pháp thân. Hạo nói: cũng thật đặc biệt. Nó chỉ tụng được việc bên pháp thân, không tụng được việc hướng thượng pháp thân. Vô Tận Tháo Thục âm nói: Thế nào là việc hướng thượng pháp thân? Hạo vội gọi chỉ chưa đến, thì sơn vàng trác thượng. Đại Thư nói: một đêm mưa tầm tã, đánh ngã nhào hàng rào nho. Tri sự thỉnh khắp sức người hành giả chống đỡ treo treo. Chống chống treo treo đến khi trời sáng. Vẫn đáng thương xót sinh linh. Ném bát cười lớn, vô tận vì họ vào đá. Sư nói: Đều gọi là hai đại lão, dù vô ngại biện, rõ cơ sống chết. Tăng không biết, kiếm tuệ cầm rồi, mỗi người có hơn kém. Giữa hạ, thượng đường, sự đến cùng chỗ thì khó nói. Lý đến cùng chỗ thì khó rõ. Sự đến cùng chỗ thì khó nói, mắt sông miệng biển tự ý dồi dào như nước sóng dây. Lý đến cùng chỗ thì khó rõ mây tỏa vừng trăng. Sông nhỏ núi lớn. Làm sao được hai cảnh cách mây. Bỗng có nạp Tăng ra nói: Dù lý sự đều hết cũng là thuốc bệnh trị nhau. Sơn Tăng nói: Ông là cỏ chim đầu nửa hạ, đợi ông ấy suy nghó liền lấy gậy đánh. Trong Thiên Tăng đường, Lương Thượng đường, vị Tăng hỏi: Nhớ Đức Thế tôn do đất bùn nên lấy tóc che bùn, dâng hoa Phật Nhiên Đăng. Ý nầy thế nào? Sư nói nung gạch làm cho đông. Vị Tăng nói: Như thế Phật Nhiên Đăng chỉ chỗ bày tóc nói: Phương này nên xây một ngôi chùa, là thế nào? Sư nói: Việc nhân dặn dò mà khởi. Vị Tăng nói: Trong hội có Trưởng giả hiền vu cầm cọc cắm chỗ chỉ nói: Xây chùa đã xong, ý nầy thế nào? Sư nói: Cao ra ông ta một đầu. Vị Tăng nói: Như thế thì các trời rải hoa, khen ngợi có phần sư nói: Quy y Phật, pháp, Tăng. Vị Tăng lễ bái. Sư nói: Hồng hồng. Sư bèn nói: Công Thần trốn nhà. Đại giác khai móng, sáu trăm năm hưng phế khán thường, một muôn chỉ nhà lão dừng thân. Từ đầu đổi làm đặc biệt điều mới. Thừa thời gá tâm sắt đá, đàm tiếu tế hội gió mây, sáu rồng khởi múa, năm phượng tranh cao, không cần đá đứng kỷ công, chỉ thấy nghe này không rõ. Bỗng có người đạo lưu xuất cách bước ra nói: Lão Hư đường, đúng thì đúng, dùng huyễn tu huyễn, có diệu lý gì? Bỗng nhiên thành khí nghiệp này. Sơn Tăng chỉ nói với ông ta: Từ trước đều thuần là mùa thu Mậu Thìn. Khởi công đến ngày 10 tháng 6 năm Kỷ Tî là khánh thành. Sư thượng đường, nêu: Thế tôn nhân phạm chí Hắc thị giơ cao cành hoa ngô đồng vui mừng dâng cúng. Thế tôn nói: hãy buông xuống. Phạm chỉ thả hoa ngô đồng bên tay trái. Đức Thế tôn lại nói: Thả xuống. Phạm chí nói: Phạm chỉ thả cành hoa bên tay phải xuống. Thế tôn lại nói: Buông xuống. Phạm chí nói: nay hai tay con đều không có, chẳng hay buông cái gì? Thế tôn nói: ông buông sáu trần bên ngoài, sáu căn ở trong, giữa sáu thức, là ông khỏi sanh tử. Phạm chí ngay lập tức ngộ pháp nhẫn Vô sanh. Sư nói: Thế tôn vẽ rắn thêm chân, lúc ấy đợi ông ta nói nay con hai tay đều không, chẳng hay buông cái gì? Chỉ nói với y ông buông không xuống thì gánh đi. Nếu hạ được một chuyển ngữ thì Sơ Tăng Đông Độ không giống như ngoại đạo Tây Thiên. Giải hạ, dạ tham, vị Tăng bước ra chúng nói: Đêm nay tiểu tham không vấn thoại. Sư nói trong hũ không hề có ba ba bò. Vị Tăng hỏi: chín tuần cấm túc cá vào lưới, ba tháng an cư chim vào lồng, sống chết tận thời tằm làm kén, làm sao thấy được ba lớp ý này thế nào? Sư nói: Một chùy đánh thành trăm vỡ vụn. Vị Tăng nói: Nếu như thế, tánh tháo của nạp Tăng không ra khỏi Hòa thượng. Sư nói: đến gậy không ở trong tay. Vị Tăng nói: thế nào là chín tuần cấm túc cá vào lưới. Sư nói: Vợ trẻ cưỡi lừa a gia kéo. Tăng nói: Thế nào là ba tháng an cư chim vào lồng? Sư nói hướng đến đỉnh phi Nhạc nay đã trùm khắp Thần Châu. Vị Tăng nói: Thế nào là sống chết tận thời như tằm làm kén? Sư nói: Lời nói là hạt mầm tâm. Vị Tăng nói: Thế nào là thấu được ba lớp? Sư nói: Kim tuyến trong mắt cá. Vị Tăng nói: Nhớ Đỗng Sơn dạy chúng: Đầu thu cuối hạ, nhà huynh đệ đi đông đi Tây, phải đi chỗ muôn dặm không tấc cỏ. Ý này thế nào? Sư nói: Trong bắp đùi có cắt nhiều thịt. Vị Tăng nói: Sau đó có vị Tăng nêu cho am chủ Lưu Dương. Am chủ nói: Sao không nói ra cửa lại là cỏ, là thế nào? Sư nói: Bên đuôi cân so nặng nhẹ. Vị Tăng nói: Đỗng Sơn nghe được liền nói: Trong nước Đại Đường có thể có mấy người chịu ông ta hay không chịu ông ta? Sư nói: Mua mũ hợp đầu. Tăng nói: Như mới xây Thiên Tăng đường, đã tự xong công. Huynh đến còn có người đi Đông đi Tây hay không? Sư nói: Tạm thời trong bao. Vị Tăng lễ bái. Sư nói: Phải như thế mới được. Sư bèn nói: Vào hạ đến nay, đều không có thời tiết làm việc, mỗi ngày chỉ biết lên gác Thiên Tăng giữ vị trí. Lên liêu Đại Giác xem mây bay. Sóng sóng khế khế nói qua rồi chín tuần, tuy như thế, dù bảy Đức Phật ra đời cũng tìm chỗ khởi của ông ấy không được, thời đến tự tứ. Đầu dây vượt tự lấy buộc được, vì sao? Vì ông ta là nạp Tăng mắt sáng, đều không chịu xem kết quả nhỏ nhỏ. Lại nêu Hoàng Bá ở tròng hội Nam Tuyền làm Thủ Chúng, một hôm bưng bát ngồi vị trí của Nam Tuyền, Nam Tuyền vào Tăng đường hỏi: Trưởng Lão hành đạo bao nhiêu năm? Bá nói: Trước Oai Âm Vương. Tuyền nói: Vẫn là con cháu của Vương lão sư, xuống đi! Bá ngồi vị trí thứ hai, Tuyết Đậu nói: Đáng tiếc Vương Lão sư chỉ thấy đầu chùy bèn. Nếu lúc ấy ta là Nam Tuyền, độ y nói trước Oai Âm Vương, bèn ngồi vị trí thứ hai, khiến cho Hoàng Bá một đời dậy không nổi. Sư nói: Minh giác một đời, Long môn mãi làm xưa nay, vượt qua làm trước. Đúng thì đúng thuận nước căng buồm, nếu như thế pháp của sư ở đâu. Hôm sau, Sư thượng đường, đuổi đại bàng trong lỗ tơ ngó sen, nạp núi Tu-di trong mắt sâu bị. Đây là trong chín mươi ngày của nhà nạp Tăng. Du hý pháp môn. Sáng nay mở ra áo vải. Lại một câu thu công là thế nào? Giọng gậy, vũ trụ sáng, hang núi sanh thu. Tạ Duy Na, Tri khách, thị giả, Dục Chủ, Sư thượng đường: Một chùy chưa nêu sợ người nghe, không có lệnh thanh nghiêm, ba lần đóng kín mới mở nghiệm đến khách, đỉnh môn mắt sống. Chỉ như không cấu, không rửa trần, rốt ráo là rửa cái gì? Dộng gậy, Đam Nguyên hầu Quốc Sư lâu, ắt có thể biết. Triều Đình cầu mưa, Sư thượng đường, hỏi đáp xong. Sư nói: Thần vốn không linh, kính cầu thì linh, kính mà cầu khẩn, đã linh thì có thể lấy hư không ở trên bàn tay, đuổi quỷ hạn ở gốc trời, giăng mây mù ở khắp nơi. Rót mưa ngọt ở chín vùng quê. Người đánh cá ca hát khói vọt. Hoặc gọi là năm giàu đủ, Tiều phu xướng thôn mây, cùng vui sự biến hóa của thái bình. Tuy như thế, lại các quan hội ăn mừng, một câu là thế nào? Dộng gậy rõ rõ, sanh xuống sâu xa ở trong đó. Triều đình sáng tổ chức đại lễ cầu tạnh, Sư thượng đường, hỏi đáp không ghi. Sư nói: Sự rộng lớn của trời đất, lấy hiếu làm gốc, bậc Thánh lập giáo, lấy lễ làm đầu, lấy hiếu làm gốc, thì cảm trời đất, động lấy lễ làm đầu, thì dâng Thượng Đế, kính Tổ Tông. Cho đến xoay vần tạo hóa, vận kín xa cơ, trăng đầy hư không, mây thâu mặt núi. Đây vẫn là chuyển cứ, thế nào là một câu đặc biệt? Dộng gậy, sáng lập đại lễ, sáng sớm trời lành. Trung thu không trăng, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Trường Sa và Ngưỡng Sơn ngắm trăng. Ngưỡng Sơn nói: Người người đều có một cái, vì sao dùng không được? Ý này thế nào? nào? Sư nói: Cơ lớn là gốc của người tính toán. Vị Tăng nói: Trường Sa nói: Đúng là nợ ông dùng xem lại thế Sư nói: Không có Văn Ấn Hồ loạn lấy. Vị Tăng nói: Ngưỡng Sơn nói: Ông vì sao bị Trường Sa đạp nhào, đứng dậy nói. Sư Thúc ngay đó dường như có con hổ, có đầu mối hay không? Sư nói: Chưa phải là kẻ tánh tháo. Vị Tăng lễ bái. Sư nói: Chỗ ngắn tìm dài. Bèn nói: Người thế giới sắc vàng thấy trăng thì vui, vì họ ngồi trên đất tịnh khiết, từ đầu đến cuối thoát không được. Đỗng Sơn Tách hợp trở về ngồi trong than. Bởi tông chỉ của Tào Động lấy than cho là chánh vị, hội được, mới xem xét được Mã Đại Sư. Không như vậy, thì một trục xe ngồi trong kho than. Sư thượng đường, tỉnh đến cùng cực, không biết động thì hư, động đến cùng cực, không biết tỉnh thì ứng, động tónh nhất loạt, diệu ở Trung đạo, nhà nạp Tăng được tam-muội này, khuấy Trường Giang thành đề hồ. Biến mặt đất thành vàng ròng, chưa phải là phần ngoài, không như vậy, dộng gậy, hạt lúa này ăn cây trám xanh. Khai lò, che lại điện Phật, Sư thượng đường, vị Tăng hỏi: Đức Sơn vào cửa liền đánh, Hòa thượng vào cửa lập một loại mới, ý này thế nào? Sư nói: Ông mới vào cửa, trước xỏ mũi ông. Vị Tăng nói: Như thế thì mỗi người lập môn phong đi. Sư nói: Thấp tiếng thấp tiếng, tường vách có tai. Vị Tăng nói: Việc này hãy thôi, nhớ Triệu Châu dạy chúng Ta trước ba mươi năm ở trong lò lửa, nói lời không có khách chủ. Ý này thế nào? Sư nói: Đến lấy năm mươi con trâu, giơ tay móc biển xanh. Vị Tăng nói: như thế là lời có khách chủ. Sư nói: Bỗng chim bên bờ rào quyết không đi. Vị Tăng nói: Đáng gọi là sắc lửa xuân trong lạnh ấm. Tâm ấn Tổ Sư đích thần truyền. Sư nói: Quả nhiên nhảy không ra. Vị Tăng nói: Triệu châu nói: không lời chủ khách, đến này không người nêu, lại thế nào? Sư nói: Tôn Tẩn rất si. Vị Tăng nói: Ngày nay Kính Sơn khai lò, còn cho người học bàn luận hay không? Sư nói: Chém đinh chặt sắt chưa phải là tác gia. Bèn nói: Có tuyết có sương, có lạnh có nóng, bốn mùa thay đổi. Biến hóa khác nhau. Sơn Tăng năm nay tám mươi lăm tuổi, Xương lạnh như băng mới nghe chữ ấm, giơ tay mà tạ. Vì sao? Miễn được lão đến gạt tro làm lửa. <篇> <卷>QUYỂN 10 Kệ tụng: Sư vào Tịnh Từ lên tòa, hỏi đáp xong. Bỗng Thiên Sứ đến cửa, truyền phụng Thánh chỉ, hỏi: vì sao Triệu Châu tám mươi năm hành cước, vì sao Hư Đường tám mươi năm ở núi? Sư liền nêu: Triệu Châu một hôm hành cước đến Lâm Tế. Lúc mới rửa chân, Lâm Tế hỏi: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Châu nói: Đừng gặp Lão Tăng rửa chân. Tế đến gần trước làm thế nghe. Châu nói: Hội thì liền hội, lải nhải làm gì? Tế về phương trượng đóng cửa lại. Châu nói: Lão Tăng tám mươi năm hành cước, ngày nay lại bị con lừa này giành, bèn thành một bài tụng. Thiên Sứ Dương Dô biết dây tấu, mặt Long Đại Vui cho lúa năm mươi thạc, lụa một trăm cuộn, khai đường an chúng, tiếp lấy lương thực, giữ lấy Tăng đường tệ lậu. Phô tấu chỉ mong ôn Thánh, ban hết ruộng nước, một năm thu thuế hơn ba mươi thạch, đều khỏi thuế quan, nhưng ban xuống khoảng mười vạn quan, lại che Tăng đường, tụng rằng: Triệu Châu tám mươi năm hành cước. Hư đường tám mươi lại trụ núi Chẳng có một cơ khôi Phật Tổ. Động mặt rồng trong chín lớp thành. ------------------------------ <詞>GỞI TẬP KHÁNH KHAI SƠN Như ý đến cung Thi Thích Phạm, hoa mưa lả tả thấm gió xuân. Tự thẹn già rồi không linh cốt. Ngày ở mây sâu nghe tiếng chuông, Canh Tónh Học Lâm Phủ phán Du Thiên trạch Am vận. Đạo xưa gồm thiền đến, mình đi được mấy năm, trời đất nương định lực, tâm trăng duyên trước gương, một người tónh khó học, ba đời nói chưa vàn, già rồi lại có hẹn, không ở bên núi Bắc. Đáp Cư só Đỗng Dương Quảng Giám thừa. Mặt đất lành lạnh xuân Đỗng Dương, biến đổi trời đất muôn vật mới. Thả xuống sắn bìm nhấc không nổi, chẳng biết buộc ràng bao nhiêu người. Đưa thị giả Liễu dạo núi Thiên Thai. Luyến tức nêu cao hứng đâu cùng; gió thu ở trong lá lau vàng, việc rồi chưa rõ như dẫm lửa. Mây trăng chốn sau thấy người quê. Tri khách Lai ở Từ Phong đến Nhũ Đậu, chiêm lễ tháp Minh Giác. Bên hồ hỏi đường vào mây sâu, mười năm hương lòng vừa mới đốt. Không thấy ẩn rồi chân ẩn xứ, gió sáng tỏ bày lá cùng nghe. Thị giả Hiền hiệu là Mộc Ông. Ghi chép vựa tròn như là si. Chim hoa gió xuân tự quên cơ. Năm nay tuổi lớn đều vô dụng, mặc tòng lâm tranh đúng sai. Gởi Thị giả Đạo Sam. Lững thững gia phong mặc là chân, thuật ra đều là không thành vần. phần. Đâu như giường tre ngâm đêm vắng, trăng đến hoa reo có cỏ Thị giả Chuẩn về tỉnh. Núi không, cây mục mây nhẹ bay, mặt đành sương gió bao dặm đường, trăng sáng rọi sông về mộng vội, vào cửa trước mừng lão nhân tinh. Thiền giả Thanh Du phương. Gió vàng gội tắm hoa cúc thu, gai kỷ giữa đường chỗ nào đi. Gò lau len lỏi cùng với nhau, sợ y chưa phải cùng dòng anh Thiền giả Khuê hiệu Thạch Ông. Trốn ngoài kiếp không đã xanh um, dạo núi ngắm sông được mấy năm, nghe nói nghe kinh từng chấp nhận, già đến vô lực phụ trời xanh. Cư só Cù hiệu Vô Tri. Gặp duyên chạm cảnh đều mờ mịt, đất rộng trời cao ở bên nào, một chấm đã rõ vượt muôn vật, không biết gương kia lấy tròn bên. Tặng Đạo nhân Diệu Khiết: Diệu tâm minh khiết khế như như, bước đi rõ ràng nữ trượng phu. Gia phong bàng lão thật không hai đẩy lùa giá cao cho ai bán. Phế Tự. Chiều thu vào điện xưa cỏ hoang, hoa tàn tạ không người coi sóc, đêm lặng lặng nghe gió lay nói, như mắng đàn na không gật đầu. Vượt núi. Ốc xanh cờ loa vây sông hồ, bóng lạnh ngồi mài bụi gương xưa, thôi hỏi chớ quay nhìn đá bọt, nhân gian sợ có người đứt ruột. Hắc Hý Đồ sanh, Thiện lão Dung Ngựu. Cỏ cây truyền chân sức bút cao, đội núi Ngưu ở một hào công Đi này chớ nghi đi Thiên Thai, nhẫn làm cô Tăng qua Thạch Kiều Đề hình họa Tịnh Nghiệp. Luyện hạnh tu thân kết oán Phật, không hề nói răng đã lạnh trước, già đến không đi nhìn bốn phương, vui được Diêm-phù nhãn giới rộng. Dạy Tuệ Linh làm Tăng. Tánh Tuệ làm sao thấy tánh thông. Cần dạy linh nghiệm hiển Tông ta. Thừa thời đi xuống rơi hông đá, cười dâng y bát kế Tổ phong. Phật Sự. Thị giả Tuệ Minh biên tập. Ngày 11 tháng 3 đầu niên hiệu Hàm Thuần, cung phụng Thánh chỉ, được chọn vào đại nội phổ thuyết, trước ở điện Kỷ Diêm, xe đám táng Thiên Lý Tông Hoàng Đế vào chánh điện niêm hương, ngữ lục Sư không cho ấn hành. An hiếu thùy từ khế túc huân. Kiệu vua cung điện ra cửa vàng, trời đất ngày tháng không ánh sáng, cỏ cây đều thấm nhuần ân ngày xưa. Kính mong liệt văn, Nhân vũ, An hiếu Hoàng đế, Dáng Phượng rồng, biểu thị mặt trời, lòng nhân của vua Nghiêu, đức của vua Thuấn, cứu đời giúp dân. Rũ y khoanh tay, bốn mươi năm hiển đạo kế minh, mười ba lá thời khang vật thịnh, trời bình đất yên, mười phương cõi nước quả viên, thẳng thắn Tây Thiên đường sống. Ngàn hoa dâng đủ, trăm báu nghiêm thân. Trong hư không nhạc trời đón rước, mặt đất rung chuyển sáu cách. Nay cũng thứ lớp, theo trái nghiêm giá. Phụng trọng xuân hành, một câu vô tư, làm sao nói hội, đuốc sâu, cây tím lâu gác hiện, trăm ngàn Chư Phật cùng ngao du. Dương Ngự Nhạc Phụng Thánh Chỉ, thỉnh định mỗi tháng niệm Phật. Mỗi tháng niệm Phật, những điều Thiền sư giới viên, từ đầu nhất Định Phật Quang làm đầu ba mươi ngày, đến Thích-ca Thế tôn, rồi lại ban đầu, còn như xâu hoa, mới mới không trụ, niệm niệm không dừng. Miệng tụng, tâm nghó, ánh sáng phát hiện, làm phước trời người. Niệm này Phật cảm nghiệm tinh thành, nhưng đương ngày của tháng ít. Ông già mặt vàng không có chỗ niệm. Nếu đến ở ngày đầu thì Phật Định Quang lại không có chỗ niệm. Bởi vậy cuối cùng được đi, Pháp Vương vô Thượng. ngay trong niệm này, vòi vọi bất động, hiện bày tốt lành, khiến cho Đinh Quang không trước, Thích-ca không sau, trong mười hai thời, bỏ ba làm hai, gọi đi gọi lại, đều ứng khắp Đại thiên, thống nhiếp pháp giới, rõ ràng không ngăn ngại. Mặc cho lưu thông, thật gọi là công thành hạnh mãn. Đô tỉnh Đổng tiết sứ khởi Quan. Rét biết tiếng hoa ra cửa cấm, hành tàng phần nhiều hợp cơ trời, định lực tròn sáng người đều có, khéo được tâm truyền đời ít oi. Đô Tỉnh Tiết sứ Thái Úy Đổng Công khí nuốt Phật Tổ, mắt che trời đất, lòng son dâng lên, thì khí liệt nghiêm ngặt, giềng mối sân cấm, thì gió qua cỏ rạp, tùy ngọc dứt loại, ngọc không dấu vết, nhân gian muôn sự chỉ như hứa. Cười lớn một tiếng, trời đất hư không, nay cũng áng mây khe núi, khắp nơi đón gặp, rừng cây nước chim, một câu ra cửa thế nào, Phủ Quan nói: Trời cao có trăng ngàn cửa chiếu, đường lớn không người chỉ tự đi. Thang Chánh Ngôn thỉnh vi Hòa thượng Tiền Long Lãm Vân Phong Đức vào Tháp. Kiếp hỏa từng nung da mặt sắt, từ trước không thả giá cúi đầu. Có khi ngoài mây lộ tin tức, môn phong hiểm trở đến thì mê, người nào một đời gánh ván. Cắn gừng hét giấm, mắt Phật khó nhìn, hai chỗ ở núi, khi ở khi đi, Thánh Phàm chẳng biện, định thối toàn thâu tiết chiều tín duyên đến Ứng Công kích xưa, đập ván chưa niêm. Sao lớn lặn trước, nay thì xá- lợi lưu đầy, phẩu ngọc hàm nầy. Tuy nhiên. Chưa nhìn âm dễ, đâu có thể mặt mũi còn. Còn thấy ma đề khởi xương nói: Trong tháp thu không được, không âm dương dất nổi mây sấm. Kính Sơn Hình Du vào Tổ đường Tịnh Từ Chó đá mới buộc điệu xưa, năm nay tấu vào ống sáo người Hồ, vận xuất bao la tầng tối thượng, người nghe người hòa đều không đủ. Gió trời thổi Tan rơi Tây Hồ, cây cỏ khí Nam nước xuân xanh. Đêm khuya đối nhau nói cùng ai, trong vô vị thứ bồi bày Tổ. Sư nhìn Thư ký. Núi Mân sông Chiết xanh rì. Đi ở mênh mang quên vết bóng. Đi vội thu nhìn sửa áo thiền, không biết trời đất ai biết nhau. Có biết nhau nhưng không chuẩn đích. Núi Nam ngọn lửa đang bốc cháy, ông hãy nhìn là lửa mầu gì? Khả cung Tạng Chủ Tiến tới, đứng khoanh tay, hơn năm ngàn quyển, chú rõ không kịp giặt dũ y, tùy ý đi, đạo nhân buồn bã, không có nón, lửa không cháy, nước không thấm. Vách sắt núi bạc từ đây vào. Tú lão Đông Sơn Thỉnh làm Tiểu sư nhất Thị giả Một lời gọi liền lãnh hội, thường không cô phụ Quốc sư. Lại gọi không quay đầu, chỉ vì tham dặm trình rất xa. Mây núi vừa che, đêm mưa mới thâu, chuyển được thân trong ánh lửa, đãy Bát phó chúc thuộc vẫn còn. Thị giả Bổn nhiên. Thanh tịnh bổn nhiên, khói bay vùn vụt, vượt qua hai lớp cửa. Phóng ra ngoài trời. Thị giả nhiên, sẽ hóa ta cô phụ ông, ông vốn cô phụ ta, trộm mắt nhìn lên đài Niết-bàn. Quả nhiên làm được công phu chết. Thiền giả Bổn Trực ở Triều Châu. Người gầy quê khô tàn, ngộ được quyết truyền tâm, cây không rễ. Vừa trồng lại sống. Không biết bóng lạnh rơi bên nào. Chỉ biết gió xuấu nổi cuối trời, Thiền giả Trực thôi phân biệt, ngay lò không tránh sắt nóng. Đức Viên Đường Chủ. Hạnh không đức, khuôn phép không viên. Chết thì sống, bệnh thì khỏi, tấc lòng phần nhiều ở bên lò thuốc, ai ủi tất thật khó nói, tuyết trong lửa vô minh. Phật Tổ oan. Trụ chùa Tỉnh Phó. Dùng tâm lặng soi, giữa trưa trốn bóng. Dùng diệu quán không, mộng lớn mới tónh, muôn dặm bao la, áng mây bay. Đâu như trăng đến ngàn đỉnh núi, chùa Tónh Phó chót vót một mình. Cọng rau sau lửa điểm liền lãnh hội Thiền giả Chí Nghóa. Quay lưng Pháp đương mang giày cỏ đi, nạp Tăng nghóa dứt tình quên. Nhìn mới biết rời chúng đi. Nó rời không đến phương. Chuyển vào lò lửa núi Nam, không giữ linh quang của mình, mấy cọng xương khô chống đỡ trời đất, một con thuyền lá chở nước Đại Đường. Phật sự. Chỉ một sự thật này, còn hai tức chẳng chân, rõ ràng minh bạch, còn rơi pháp trần, mình chỉ tham thiền nửa hạ, hành cước mắt mang đi mấy xuân, hay gõ xẹc lửa trong lò lạnh, không cần chén trà nghiệm khách đến. Tạm đến Thiền Giả Như Thị. Lưng được bốn bộ kinh lớn, cuối cùng không biết như thế, mình rỗng không gõ vào bình phong phía Nam. Qua cửa trước lãnh hội ý chỉ. Đống lửa núi dao đang đợi nhàn, đi đến không ở trong gió xuân. Lăng Tiêu Phong niệm am chủ. Chánh niệm hiện tiền, bảy điên tám đảo, dựng đứng nắm tay phân khách chủ, nghiệm người mắt sống như Diêu ưng. Khi nào thiền tịnh không chiếu, đỉnh núi Lăng Tiêu người xem mây, trời lạnh người không vào lò lửa. Tổ Tú lão túc. Được đâu ở tại y bát, báo vượt quá Nam Tuệ Năng, Bắc Thần Tú. Trong lòng rỗng không chẳng một vật, Đạo nhân như ra khỏi chính mình. Chánh như tà, sống như chết, một người không có roi gai góc, chẳng dạy chạm đến vô minh khởi. - Thiền giả như Tùng: Đêm đến gió lành, thổi gãy cành thông trước sân, từ Nam từ Bắc từ Tây từ Đông, phá dưới núi không cùng sấm, cành khô lá rụng tháng hết năm cùng, mài rửa tuyết sương ngăn được lạnh, người quay lại mới biết hơ lửa ấm. Trực Tuế Duy Hiểu. Mong sao cày cấy, làm sao vỗ tay cắm bừa, phá sáng đốt ruộng hơn, như trồng ruộng đổi lấy cơm. Gần chế mau kéo đơn. Nhưng bản sắc đạo só, lại như gọi không quay đầu, lửa sáng nói pháp cho ông. Thượng Tọa Diệu Liên. Ra sông hoặc chưa ra sông, nạp Tăng chưa nêu trước biết, có con ắt có phòng, động đến ngại răng cửa người, thôi luận nửa ao sương rơi, hãy xem bóng xanh sóng nổi, như nay đổi trồng trong lửa. Ngoài kiếp gió hương đến chưa thôi, đến chưa thôi ném bó lửa nói: thôi phải sắn bìm. Thọ Đầu Tổ Dụng. Hoàng Mai không rơi đá bên hông, đỉnh núi chỉ trồng thông mong mưa, hơn bốn mươi năm nay có nghiệm, dài dài ngắn ngắn dùng vô cùng, ý Tổ chưa được vào tay, muôn duyên trước lấy đốn không, chẳng có cuốc nơi nào làm, một lúc phân phó đồng tử bính đinh. Pháp Ngữ. Pháp Sư Thục nước Cao-ly in tạng kinh. Như đà ngậm ngọc, chẳng tinh soi đâu biết được chân, Đạo ở chính mình. Nếu tìm bên ngoài khó thể đạt đến mầu nhiệm nhất, soi nó chẳng tinh thì ẩn sâu kín, tìm nó không thông thì bao la. Muốn rõ thể của nguồn đạo, chẳng phải một sáng một chiều mà tìm được. Bởi lão sư ở Thiên Trúc ta giữ chí không bền, bỏ muôn thừa tôn vinh, chịu sáu năm đói lạnh. Đêm mồng tám tháng chạp, bỗng thấy sao sáng, không rời tòa cỏ, vào cảnh giới không nghó bàn, nói một đại tạng sắn bìm, lung lạc ngày tháng trời đất, bao gồm âm dương tạo hóa, cho đến hữu tình, vô tình. Đều ra khỏi bóng người không được, ba Hiền, mười Thánh tâm đều nghiêng ngửa, ngoại đạo, thiết ma đều khoanh tay, có thể đền ơn vua, cha mẹ, phong tục sâu dày, trấn bỏ tà ngụy, người sắc bén càng nhiều, cuối cùng lại nói: đâu từ vườn Lộc dã, cuối đến sông Bạt-Đề. Bởi vậy giữa hai chỗ, không hề nói một chữ, đáng chết lậu tạm còn. Từ đây chìa khóa cửa không nghiêm, bèn thấy phương khác, việc khác. Xích huyện Thần Châu, Hải Tạng Kim Văn, không nơi nào chẳng có, đâu chỉ phá một hạt bụi, lấy ra quyển kinh này mà thôi? Pháp sư Thục nước Cao-ly là quyến thuộc của lão sư Trúc Độ, huân tập đã sâu, đi thuyền vượt biển đến, xa đến một thân, nguyện đầy mười tạng, trải qua phong sương, chí ấy càng đốc thúc, tìm tri thức khắp nơi, tìm những điều chưa nghe, hoặc có thể chưa mở Kinh, vào pháp môn chữ a nầy thì hơn năm ngàn quyển, đều là thiết thực, hãy nói: thiết chữ gì? Bỗng nhiên da mắt đầy, không được quên lão Tăng. Tháng tám mùa thu Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Định Tống đời lão Hư Đường viết tại Tây Am ở Tuyết Đậu, thuộc Tứ Minh. Trưởng Lão Tuyết Bồng Minh, đến Hòa Hưng Quang Hiếu, lão Tuyết Bồng Minh, theo đó có ngày. Từ Dục Vương qua Đông Sơn dưới nhà khách, ấm áp như xuân. Sức của lão này, ở Nam Bình tại tòa thứ nhất. Bỗng ao hồ có sự sủng ái của Công Tuyển. Hai năm lại hơn tập ở Song Kính, vẫn về tòa thứ nhất, quần tâm mừng như nay lãnh triều mạng, xa đến Hòa Hưng Quang Hiếu, đến núi mãi cứ mấy lời, lấy hạnh của Tổ, giơ chùy không đụng đất, không còn một mắt, che trời đất, sáo sắt thổi ngang, có hơi không nuốt đầm mây mộng, khói sóng xa xăm, mãi chèo vẫn vậy, cỏ cây sương tuyết lạnh tương nghi. Mấy lần tỏ bày nhàn đối trăng, uyên ương nơi hồ sâu không hẳn rũ tơ, đầu sông Trường Thủy, cá lành tự được, câu đến núi làm sao gửi gắm. Gió phiêu phiêu hề thổi áo. Gió lành lạnh hề tiếng thơ. Tháng 9 mùa Thu năm Mậu Thìn niên hiệu Hàm Thuần, Hư Đường Lão Tăng viết ở hiên Bất Động, là năm tám mươi bốn tuổi. ------------------------------------- <詞>LỜI BẠT NGỮ LỤC CỦA THIỀN SƯ LONG CHÙA KIẾN TRƯỜNG NGƯỜI NHẬT BẢN Vào đời Tống có tên là Nạp, tự lấy hiệu là Lan Khê, một cành trúc cao có ra ở núi cao muôn dặm Nam, hỏi ở Ngô Việt. Dương Sơn lãnh ý chỉ, cuối cùng không biết vô minh, chân dẫm ngàn câu, chiu tiễn pháp gia Tùng Nguyên, cưỡi thuyền ở biển lớn, đi trong nước Nhật-bản, trầm tónh tiếng sấm, ba lần đốc trách, nửa ngàn mạnh bạo. Năm tháng lâu bèn thành chọn biên, nhẫn thiền đợi lâu nơi sân tuyết. Xa hỏi Tứ Minh chỗ khắc lời không kịp. Việc quan trọng chánh phái lưu thông, dùng không tận thời, dè dặt, nhìn rừng hết khát. Lời bạt ngữ lục của Thiền sư Tuyết Phong Sương Lâm Quả. Các bậc Tôn túc dưới Đại Tuệ còn có nhiều vị. Con cháu dưới Hổ Khưu còn nhiều tỉnh số. Đủ trăm khiến có hạn, tỉnh số cùng vô cùng. Mắng ông trời ba lần truyền mà đến Sương Lâm. Muôn cây đang tiêu tàn, hưng khởi trời tốt. Đây bởi chuyên tỉnh số mà được, người khéo quán lục nầy thì được thăng đường nhưng chưa thể nhập thất. Chân tán. Trưởng Lão Khánh Viễn Tuấn thỉnh. Già không chết, tâm chưa thành tro, động đến ác phát trời xanh sấm giận, dắt được đầu hổ cằm yến, đua nhau khởi họa tòng lâm, gậy bèn lãnh hội, vì sao là Tuấn ư? Tịnh Đàm Tạng Chủ Thỉnh. Người dễ chịu khó cùng nói. Đầu trúc bề tiếc rẻ như vàng, gốc giường Thiền ủy như đất, Tịnh Đàm Tri tạng khéo biết cơ, phân ra khách chủ trong ánh diện sáng. Trưởng Lão Dó Văn thỉnh. Trời đất bất nhân, phát sinh yêu quý này có cơ cướp doanh cướp trại. Không thích giới, xả từ bi, sẽ phải chìm đắm, pháp môn điêu tàn. Làm sao kế thừa phải của Tùng Nguyên. Sau gian nan lớn vượt tinh thần, mắng người miệng độc như ong. Tân Kiến Tịnh Từ Thiên Tích Trang Thỉnh. Không mong mà gặp, không hẹn mà đồng, bóng trời xán lạn, hòa khí dung thông. Thời vận tới gặp Thánh chúa hai triều. Trung hưng miếu tốt thiền lành. Ruộng tốt gậy trời bằng như ngói. Ngồi đối giông linh hằng năm được mùa. Đồ Đệ Tông Phúc Kiến Thí Thủy Am thỉnh. Như là rũ lòng từ không nhà cửa. Ngọc đẹp đã phân đáng xem. Phạm nghi bỗng nêu hề khó nhìn. Đinh Lăng Tiêu Phong người nhìn mây. Trong Phổ Hóa đường Tổ thứ nhất. Tri Khách Thiệu Minh người Nhật Bổn thỉnh. Thiệu đã rõ ràng, nói không mất tông, đầu tay làm nìa. Vòng vàng cỏ lúa, trong nước đại Đường không có người hội, rồi lại theo dòng qua biển Đông. Thiền Tử Bà Khê thỉnh. Khí giận phun người, thật không nên phạm. Tuy có che lông mật. Lại không nghiệm mắt người, đúng cũng chê, sai cũng chê, định cắn răng cửa, một đời gánh ván. Thiền gỉa Quang thỉnh. Mới thì vui, lâu thì chán, trăng sáng bóng đêm, thường gặp đè kiếm, nhưng tin được kịp, tự có kinh nghiệm. Không thì độ tự ghế ngọc tả bóng mộng ta, sau khi tự tan chiếu ngôn âm không tiếp nhau hai mươi năm, nay lên Kính Sơn thỉnh tán bút mực chỉ khuyên và viết. Kính mà xa, thân mà sơ, soi gương âm phủ, khéo định tiêu mòn. Lăng tiêu cao mà các núi nhiễu quanh, biển mênh mong mà bóng đêm lẻ, con về đến cha, ta chẳng biết ông. Kính Sơn Tây Liêu Chúng Lão Lang thỉnh. Sương Nghiêm khí ác, núi rỗng trăng sáng. Biến khí chất có được vót nhọn không bằng. Giơ lên thì Phật tổ chẳng biết, thả xuống cỏ cây đua nhau sanh. Lần lượt đến Lăng Tiêu tám mươi bốn, ai biết tên lớp chín lớp thành, dốt. Diệu Nguyên có bái xem sư mười hội ngữ. Như Nam Bình Song Kinh, đề xướng rất nhiều, đáng tiếc chưa khắc hết. Xưa từng hầu sư ở Lăng Tiêu, do có lời thỉnh này không đáng. Nạp Tử ở tòng lâm ngày nay đều muốn lưu truyền, kính ghi chép thành hậu tập. Còn người xem ngoài lời nói biết quay về thì lời nói thầy ta đâu có thừa. Ngày Phật thành đạo năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Hàm Thuần, Tiểu sư Tân sai trụ trì Phúc Châu Cổ Sơn nối pháp, Diệu Nguyên kính ghi. Tiểu sư ghi kéo áo thừa mệnh công san hành. <詞>MỚI THÊM VỀ HÒA THƯỢNG HƯ ĐƯỜNG Sắc lai Trụ Trì Lạc Dương Vận Thọ Pháp Tôn Tỳ-Kheo Tông Trác Tập Tán Thiền Hội Đồ. Hoàng Bá lễ Phật, nắm tay Tuyên Tông. Thân bảy thước màu đỏ, trán có hạt Châu tròn, hỏi liền đấm, gan lớn tâm thô, chẳng phải Thiên Tử Trung Thiên. Giống như gọi ngựa làm lừa, mọi người đặt hồ lô trên nước. Triệu Vương hỏi Triệu Châu: “Châu Không xuống giường thiền”: kiên mà Không cương, nhu mà Không nhược, bảy trăm lão ông con giáp phải cần dùng một chút này. Bày đất vua đến Không xuống giường phong cao ngàn xưa làm tiêu cách. Túc Tông hỏi Trung Quốc sư mười thân Điều Ngự. Muôn thừa rũ áo đứng hỏi nghiêm. Chỗ đáp Quốc sư thật lờ mờ. Ai biết tháng mười lớp sương trong, một trận gió đến một trận lạnh. Lý Tường Tham Dược Sơn. Đậu đen số vô cùng, thông xanh che không hết, tỳ-kheo già ốm gầy. Ngay đây ta Không ẩn, lại đề mây nước chảy quanh ngăn, thêm được hoa trong mắt người bên cạnh. Hàn Dũ thấy Đại Điên: Lông đánh bản, sáo không lỗ, lược muốn xin một lời, hư không nổi sấm chớp, cơ đến không biết chuyển thân. Lại theo sắc thinh khác chẳng phải sắc thinh, ngoài hồ Động Đình ngàn núi xanh. Trang Tông Tuyên Hưng Hóa hỏi đáp. Hội mừng vua quan hoát toàn cơ. Trăm ức ngàn sông đều quy về. Nhắc lên thái bình báu vô giá, trời đất nơi nào chẳng sáng soi. Thuận Tông hỏi Thiền sư Nga Hồ Đại Nghóa. Một câu đương cơ mở cửa trời. Biển rộng núi xa đâu đợi nhà. Kham cười dưa đông thẳng dài. Lại thành quả bầu cong cong. Văn Tông hỏi Chung Nam Sơn Cáp Lợi Thụy tướng. Đập Không mở, đánh Không bể. Người nói Đại só ứng thân, ta cũng nghi ông ấy chân thật. Chung Nam tương ưng họa. Thích động mặt rồng, trăm quan đều mừng. Ai biết, chẳng có trời đầy qua. Bàng cư só hỏi Mã Đại Sư. Dấu đầu bày bóng hỏi lý do, lại lấy hết sức Tấn giang đáp. Quay đầu mắt không trời đất hẹp, chẳng biết thân ở đường dạo chơi. Đan Hà thấy cô Linh Chiêu. Oan có đầu nợ có chủ. Thiên nhiên muốn hỏi ông Bàng, đúng là đánh vào cô gái này. Lường hết của riêng nhà, dưa ngọt gốc đắng, do đây trên dưới chẳng biết đồng. Vú sữ bó anh bận bò đất đỏ. Cả gia đình Bàng Cư Só cùng nói lời Vô sanh. Làm khổ thổi cơm cùng cực khổ. Cha con không cùng đường. Mọi người đều thoát trứng. Muôn khoảnh Tương Giang rửa không trong, khúc điệu Vô sanh lúc nào tỏ. Bàng Cư Só lợp nhà đều đi. Thần ra quỷ vào, theo tiếng nhưng hư không, một ngọn lửa này, tà pháp khó qua cùng lấy mắt cà làm ngọc sáng. Cười lăn Tây Thiên mắt Hồ sáng. Ngày Thanh minh, niên hiệu Thiệu Định năm thứ tư ở Thánh Hưng gia Hòa Trí Ngu vì thị giả Diệu Nguyên kính tán. Hòa thượng Cúc Lâm gởi thư đến. Nhân nhớ Thân phong đến ghế ngọc, năm ngoái trăng hoa xuống ao mây, chưa hết một năm lại thệ ta, bỏ hết đèn xuân mắt không giao. Kim sanh lỗ lớn. Giả trên mũi kim, hành tàng trong mây nước. Tâm pháp chẳng mầu nhiệm, tự là đầu tay thông. Tiền bối để nhiều kệ. Áo linh ra nhiều công. Sáng sớm nơi nào đi. Lá vàng qua khe gió. Lâm thiền nhân về Dự Chương. Cẩn thận lấy nhìn mặc soi linh biết, dùng ở mất dê thẹn ở đây. Chớ bảo Tây Sơn tin tức tốt, phải biết sông biển có tên tìm. Vân Sơn tiểu cảnh. Xa xa đám khói bạc, xanh xanh cổ thụ chiều, chân trời thật chưa đủ, đối ám này mất hồn. Cô Sơn. Tối tối xanh xanh trong tầm nhìn, xa tít không cùng với các núi. Mây trắng tan đi trời biển tỏ, muốn thấy nhân gian Không đường thông. Hòa Bỉnh Phấn Lý Quân Ngũ Kệ. Đêm khuya ai đứng ở Thiếu lâm, thấy thành công án chẳng cần tìm đồi núi lâu ngày khó mòn đi. Đối nhau bỗng nhìn sắt làm tâm. Trình tốt tuyên truyền là có năm. Trước mắt phân hiểu bị người chê. Nhà mình lạnh ấm biết nơi đến. Xương già xưa nay Không sợ lạnh, lớp ngàn câu nặng một hào nhẹ. Như mãi tướng úy khách tinh. Dù nghó thông lạ làm cây ngọc, trăng cao như cũ vẫn xót thương. Sáng nghe vua quan chúc mừng, sáu đường như ban ngày, không mê cảnh giới Phổ Hiền phải nên hỏi, khi vời tay đến thấy bùn đỏ. Bên lò quở trách được rất nhiều, mảnh đá Không tội đêm ngày giũa, lại lấy điệu thương làm tuyết vịnh, thơ ma khó dịch thắng Tu-la. Sũng Hòa Ngũ Kệ. Điệu cao khó nối, chưa khỏi mắng là, cúi xin cười nắm. Trí Ngu lại bái. Tặng Thiền Khách Trí Nhân: Trong chiến trường pháp cây thắng cờ. Thoại đầu đâu giống hỏi đầu nguy. Người xưa giảm bếp thêm chỗ binh, dè dặt giao nhọn sai quá y. Lời hỏi hành giả Trí nhân: Nén hương thỉnh lời, lấy đây tặng bạn, đến Tết Quý Hợi niên hiệu Cảnh Định. Hư Đường Lão Tăng viết ở Tây Am Tuyết Đậu tặng tri khách Nam Phổ người Nhật-bản. Gõ sân cửa cẩn thận đo mài, đầu đường hết chỗ lại trải qua, rõ ràng nói với lão Hư Đường, con cháu biển đông ngày chuyển nhiều. Rõ tri khách từ khi phát minh, muốn nói về Nhật-bản. Tìm tri khách Chiếu thông Thủ tọa, trưởng Lão Nguyên, tụ đầu nói gia tư trong hội Long Phong. Áo giấy cầu pháp ngữ. Lão năm nay tám mươi ba, vô lực suy tìm. Làm một bài kệ tặng hành sắc, muôn dặm trình để dùng đạo phóng vệ. Mùa thu Đinh Mão, niên hiệu Hàm Thuần ở Đại Đường Kính Sơn. Trí ngu viết ở hiên Bất Động. Chuông Đổ Phật sự. Nấu vàng luyện ngọc, luyện Thành đúc Phàm, không nhờ kiền- chùy, liền thành đại khí. Sương trong trăng tỏa. Chứng viên thông môn tam-muội. Mây nhạt trời thấp, phá mộng khốn khổ hôn mê, thọ đồng không hữu, giữ mãi hóa thành, một chùy trước nhất, làm sao nói hội một tiếng chuông đổ, kiếp đá có vầng mặt trời, lúc hồng âm vô tận, Chuông đổ ở Hóa Thành, một ngày tháng 10 mùa đông năm Mậu Thìn, niên hiệu HàmThuần. Trụ ở Hư Đường Kính Sơn (Trí Ngu Viết). Đáp Thơ Trưởng lão Bồng Lai Tuyên. Trí ngu khởi lại Thiền sư Lai Đường Đầu Vô Thị. Ngày 1 tháng 2 kẻ hèn đến thâu nhưng thư tặng. Lại xét rõ duyên pháp trụ trì. Tăng hơn là ủy. Những lời nói tâm túng, lòng người lại nhọc. Đương thể cổ phong, Địa Tạng nói. Các vị nói thiền bao la, đâu bằng ta cày ruộng đổi cơm. Lời nói bình thường, phần lớn có ruộng đất. Phong Huyệt thấy phá thất mấy gian. Người Không anh em bảy năm. Quy Sơn ăn hạt dẻ chín năm, đây đều là sự nghiệp Triết nhân. Soi sáng đời sau như thế, chỉ sợ không có tâm xa xôi. Nay thì lợi đạo giao hành, không thể dương mắt. Huống bồng Lai Hải Thượng danh sơn, nơi tiền bối hành đạo, tự làm thối bước trung hậu thành thật, lấy tòng lâm làm niệm, tự nhiên duyên thắng Bát-nhã khởi, đâu lo người không tuyên lao nhọc, khuyên là thỉnh thừa ân nhỏ nhoi. Hai tháng không nghó tốt, vận qua lại như thế, linh ẩn đã thoát, chọn bạn tương đồng mà thôi. Lão Quang sợ đầu tháng ba vào viện, dời đơn về chỗ tháp thờ Tùng Nguyên. Ngõ hầu nhãn căn thanh tịnh, lại được bạn bè huynh đệ giang hồ giúp đỡ. Uống trà nói đủ lời. Gởi đến đều xướng đã mỗi mỗi điểm tường, trao đến sư gởi đi, duyên mới tin lang mẫu. Tháp trụ mấy thời. Phàm sư này đặt từ dễ lời. Cẩn thận chùy nhọn xưa nay. Rõ hết đại ý, chỗ phóng dao khá nghiêm, chẳng giống các vị rửa đất trong bùn xuân, tuyên khéo nên điệu nhiếp, đến chúc bất tận. Ngày 28 tháng 2, Trí Ngu sửa lại. Dạy Quyền Tịnh Thị Thu. Việc của người xuất gia là thanh tịnh siêng năng sách tấn ba nghiệp, không làm kẻ trần tục ô nhiễm. Lão phu chợt đến, cúi đầu cẩn thận giáo dục, để cho soi sáng điều răn trước đây. Tâm mình rỗng rang sạch trong, học nghiệp khắp thân. Để rõ bổn chí của người xuất gia. Nếu Không như vậy xin mở ra đây. Bài tụng giã từ thế gian: Tám mươi lăm năm, Phật tổ không biết, thẳng lưng bèn đi. Thái hư bặt dấu. Hành trạng Sư húy là Trí Ngu, họ Trần, người Tượng Sơn thuộc Tứ Minh, lấy hiệu là Hư Đường, nhà gần ấp đến chùa Phổ Minh cách nhau một dặm đừơng, có núi. Tổ Ngài muốn bói xem chỗ mồ huyệt gọi là tương hợp. Đất này cao thì che chở con cháu được giàu có hưng thịnh, thấp thì sẽ phát sinh dị Tăng. Tổ nói: nguyện được dùng chí phụ tông Phật ta. Và Tổ an táng chưa được mấy năm thì mẹ họ Trịnh nằm mộng thấy một vị lão Tăng ốm gầy, đi đến xin cơm. Nhân đó có thai và sinh ra Ngài. Buổi chiều mới sanh lại một lần nữa bà mẹ nằm mộng như trước. Năm Ngài mười hai tuổi cha mẹ dẫn sư về lệ phần mộ Tổ. Nói việc này, Sư như có điều nhớ lại. Đến năm mười sáu tuổi không có ý nghó trải qua việc đời. Cha mẹ thấy có dị tướng, lưỡi thẳng, mũi ngay, bèn cho xuất gia với các Sư Tăng chùa Phổ Minh. Một hôm, sư nghe tụng thơ Đỗ Công Bộ Thiên giang. Thời dài mặc hiển hối, Thu đến liền rõ ràng. Dù bị mây nhỏ che. Có thể suốt đêm trong, bỗng có cảnh phát, bỏ thân rời quê nhà, nương với Hòa thượng Tuyết Đậu Hoán, Hòa thượng Tịnh Từ Trung Kiểu, ngoài công việc, chỉ ngồi thiền. Hai lão vỗ về yêu mến. Phải trái thường bỏ qua. Nói qua Kim Sơn, Hòa thượng đóng thất, vừa thấy rất có tàinăng khí phách nói chuyện đến chiều không mệt. Lúc này, sư Tổ Vận Am tạ sự chân đến Thiên Ninh, giải ngữ thoại sau. Thấy Ngài có thái độ phi phàm, chưa mấy lần đến đạo tràng, dẫn sư qua Tráp Thượng xuất gia làm thị giả lo những chuyện lặt vặt; Hễ vào thất, thường nêu nhân duyên buồm xưa chưa treo, không cho hạ ngữ. Suy nghó điều đó, lời buồn xưa chưa treo, có gì khó hội. Thật ra chỉ là một chút sự trước khi chưa phát, đâu được không dạy người hạ ngữ. Xây dựng phương trượng, thông kiến giải, tiếng chưa băt, Am nói: Sao không lấy miệng cho. Thầm kín thể hội lấy trong đất lặng. Sư về liêu bất giác buồn phiền, bỗng nhiên hội được lời buồm xưa chưa treo, lời Hành giả thanh tịnh không nhập vào Niết-bàn. Hôm sau vào thất, lại hỏi Nam Tuyền chém mèo là thế nào? Sư nói: Mặt đất chở Không nổi Am cúi đầu cười nhẹ. Từ đây trải qua các cửa của Đại lão cùng với Thạch Phàm, Diễn Thúc kết minh đạo chơi sông nước đến lễ Tháp Tổ, Tọa hạ Hình Môn Ngọc Tuyền. Nhân suy nghó viện ngô Tế ở tháp tho Sơ Sơn, nhân duyên phát minh, siêng lo tham cứu. Nhân đến Lô Sơn, tuyết lớn trăng dầy. Ở Đông lâm sáng qua đường, đêm ngồi trong trạng thái vô tâm, hội được thời tiết đại lãnh, Cổ Phật phát ra ánh sáng, tử đây ngưng trệ tan vỡ. Lúc này, Không có Hòa thượng Nhị Nguyệt Chủ Phúc Nghiêm, bèn đến Long Tượng. Sư đến nương, được coi sóc điển tạng, có Thủ tọa Tu cùng tham thạc học. Sư về Nam Nhạc, bóng Không sa núi. Chưa từng dễ dàng chịu có thể các vị khắp nơi. Sư cùng bàn chuyện xưa nay lại che lấp lời hẹn lớn, thật cùng khế hợp. Có Hòa thượng Bắc Thiền Lễ cơ biện sâu xa, nạp tử ít, được bước lên cửa. Một hôm, sư hỏi, lớn tiếng nói: “Mới đến cùng xem khán”. Lễ nói: Trưởng lão Không ở. Sư nói: Đã được tin tức tốt của chân nhân. Lễ ra gọi hành giả nói: vị Tăng mới đến ở đâu? Sư chỉ cột trụ nói: Hòa thượng hỏi sao ông không đáp? Lễ nói: Từ đâu đến. Sư nói: Phúc Nghiêm Lễ nói: Hành lý ở đâu? Sư nói: Ở Đán qua đường. Lễ nói: Ta Không hỏi hành lý của ông. Sư thưa: Vậy là hành lý nào? Môn hạ Bắc Thiền lấy không được, nghiêng đảo Không chịu bỏ. Do đó, về Chiết Giang đến Tịnh Từ, thấy Hòa thượng Tịnh Từ, Tịnh hỏi: Ông còn biết chỗ cha mẹ sanh toàn thân lò hồng đỏ rực ở trong rừng gai chăng? Sư nói:Vật tốt Không vội vã. Tịnh bèn theo sau đánh cho một chỏ. Sư xòe hai tay nói: Hãy chầm chậm. Lúc cười Hòa thượng ông ở Linh Ẩn, lấy chức cũ Hổ Khưu, sai sư ân sự cử trụ khang đến Quảng giác, Sư hết sức từ chối. Trung hiến Sử vệ vương bỉnh, đều trục, Gia Hòa Thiên Ninh biệt Phố nghe danh sư, ra đời Hưng Thánh. Thiêu Định năm thứ hai lại dời đến Báo Ân, Khai Phủ tồn Canh Triệu Công, để tỏ rõ hiển hiếu, hết lòng thỉnh khai sơn. Lại dời đến Thụy nghiêm, hai năm xin lui, đống cửa mở ba. Cuối cùng thành tụng cổ đại biệt. Diên phước Hư Tịch Thị Lang Hoàng Cong, cố thỉnh chủ đến, kế dời đến Bảo Lâm. Năm thứ năm nạn giặc cường bạo, trở về dưới tháp Tùng Nguyên, Hòa thượng Đông Cốc chủ lệnh tuyền, muốn nêu lập Tăng, sợ không thành tựu. Nạp tử hai, ba lần lễ thỉnh. Sư từ đó khai thất giảng chung cho đại chúng, hạ ba chuyển ngữ, Không có gom về, năm Mậu Ngọ niên hiệu Bảo Hựu, Dục Vương Hư Tịch thiền nạp đề nghị bày xin. Có Từ Tiết Trai Thượng Chư Trần Công, các vị vui vẻ bàn luận, đặc biết cùng phô tấu. Tháng tư năm nay lãnh việc chùa, ba năm ngô chế Tướng tin sàm, ôm ấp lời oán, làm Nhục sư muốn cho tổn đức, sư vui vẻ tự như, từ đầu đến cuối kháng cự, đều không biến sắc. Thánh chỉ tuyên bày phóng thích, làm kệ dâng tạ nói: Thời qua hiển bày trừ nóng bức, ngày về tiếng thu đầy chiều tà, ân sâu lớp lớp lấy gì báo, nhìn chỗ không mây chúc trời cao. Xưa Ngu Dư Thượng Thư Điển Hương Quận, đặc biệt lấy Kim Văn (Văn Tự khắc trên Chuông) kéo dài ra, ép ngặt ở cảnh chiều. Trở về nhàn dưới Tháp Minh Giác. Nạp tử sống trọn đời ở đó, năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Định có chiếu chỉ, mời trụ chùa Tịnh Từ, Nạp tử đến nhóm họp. Nhà đơn Không dễ dàng, nửa ở ngoài nhà vua nghe triệt nhà, ban cho trăm xấp lụa làm màn, năm trăm thạc gạo, mười quan tiền. Mùa Thu năm ấy lại ban cho hơn ngàn mẫu ruộng. Ngày nay là Tích Trang. Tháng 10, Đế Minh vời sư vào cung, đối linh phổ thuyết. Hai cung ban cho ân trạch nhiều. Mùa Thu năm Đinh Mão dời về Kính Sơn. Tháng 10 mùa Đông, triều đình xuống hương sai sứ Thọ Tuyết hỏi hoài vọng của sư, Sư nói: Đêm nay quả đến lúc Không sảng khoái. Sứ về tâu vua ban cho hai mươi điệp lụa bằng khoản bạc, một Tăng đường, một dục đường (nhà tắm) hành đường mới. Trong công tác nhỏ, còn khuyên chúng không biếng nhác, ân hai triều được sủng ái. Sẽ ban cho lụa, xây am nhỏ ở phía Đông đình Vọng Vân. Lại nói trời sông, thì xây tháp làm nơi về ở ẩn. Sư một đời tánh không thông phương. Ít hợp với người cùng thời. Việc đến không khoan thai, lời thốt ra thì rõ ràng không đứt quãng. Bởi vậy người học sợ mà kính Ngài. Năm thứ 20 Sư thường nêu hai chỗ Không đáp của Linh Vân hỏi nạp tử. Ít có người khớp ý sư. Ngày 5 tháng 10 năm Kỷ Tî, là Kî tổ, niêm hương xong. Sư bỗng bị bệnh nhẹ, qua ngày thứ hai viết kệ, tắm gội sạch sẽ. Ngồi thẳng mà tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, năm mươi ba hạ lạp, đệ tử nối pháp mười mấy vị, ngữ lục hai quyển, được lưu hành ở đời. Môn nhân phụng toàn thân nhập tháp. Ngày 11 tháng 10 niên hiệu Hàm Thuần thứ 10 Tân Đáp sai Trụ Trì phủ Khánh Nguyên Thiền Tự Thanh Lương nối pháp Tiểu Sư. Tổ ông ở đời, ngữ lục hai quyển, in ấn lưu hành khắp nơi. Niên hiệu Hàm Thuần năm thứ hai Đời Tống đến tiếp tục ghi hậu tập đã thành ba quyển, những bản Triều chưa in ấn lưu hành. Tiên sư thường nói mà việc chưa thành là vì người sau này không có chí mạnh mẽ. Nhưng vẫn có sai sót, bèn thêm mấy tờ ở cuối hậu lục, khắc ở Long Tường. Ngày khai lò, năm Quý Sửu niên hiện Chánh Hòa. Con cháu vụng về Kính ghi.