<經 id="n1998">ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC & TÔNG MÔN VŨ KHỐ (QUYỂN 1 30) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC Hán dịch: Thiền sư Đại Tuệ Nhập Tạng. <卷>QUYỂN 1 LỜI TÂU XIN ĐƯA NGỮ LỤC Thần Tăng Uẩn Văn thuần cho rằng đạo của Phật Tổ tuy văn tự ngôn ngữ chẳng đạt đến được nhưng muốn mở mang truyền bá đạo của Phật Tổ thì phải có phương tiện để làm sáng tỏ. Ví như ngón tay chỉ mặt trăng. Ban đầu, tay và trăng không liên can gì đến nhau. Nhưng về sau biết ngón tay là vật để chỉ mặt trăng; mặt trăng mới là nguyên do. Do vậy, thần mới lấy lời dạy trong Đại Tạng làm tiêu chuẩn cho thế gian. Nay ở chốn sơn dã hèn thấp này, thần được gặp Thánh minh và nhiều lần thấy ánh sáng trong lành mát dịu, bẩm thừa ân chỉ lời Thánh thì cao xa, người phàm chẳng thể hiểu được. Nay thần rất vui mừng vì nhà vua đã đoái hoài đến đạo. Chắc hẳn từ nay đạo được hưng khởi. thần cảm thấy rất vui và thành thật tỏ bày, vì ít khi đón nhận được ân đức bao la như trời bể này. Thầm nghó, các bậc tiên sư của thần trước ở Kính sơn, Thiền sư Đại Tuệ tên Tông Cảo, thông minh trí sáng, hiểu thấu chỗ tinh anh trong kinh điển nên được tiếp nhận vào dòng chánh truyền. Các vị đã khéo dùng phương tiện để khai thị cho hàng hậu học, còn vào ngày thường thì quý ngài đề xướng ngữ yếu. Thần đã ghi chép cẩn thận những lời nói quan trọng ấy và soạn thành bộ Quảng lục ba mươi ba quyển, bộ Ngữ lục mười quyển. Nay xin dâng lên ngài, rất mong ngài xem qua. Thần được nghe, vào niên hiệu Cảnh Đức, Hoàng đế Chân Tông đã hạ sắc lệnh đưa bộ Truyền Đăng lục của Đạo Nguyên vào tạng. Nay bộ Ngữ lục mười quyển này toàn là toàn bộ những câu nói quan trọng của bậc tiên sư, thần xin dâng lên ngài. Cúi xin Thánh ân y theo thể lệ trước mà ban bố sắc lệnh để đưa bộ Ngữ lục này vào tạng. Vì lời nói của các bậc tiên sư là bất hủ, làm lợi ích cho chúng sinh. Thần vô cùng cảm kích, biết ơn nên mới dâng lên bộ Ngữ lục này. Ngày 08 tháng 03 niên hiệu Càn Đạo thứ 7. Thiền sư Huệ Nhật, Uẩn Văn trụ trì thiền viện Năng Nhân ở Kính sơn. Kính trình. Phước Châu Đông thiền, Báo Ân Quang Hiếu, Thiền tự, Bổn Tự được tri phủ An Vũ Đại Quán Văn Công, Văn Ngự Chuẩn ngự phê và dưa bộ Ngữ lục mười quyển của Thiền sư Đại Tuệ vào Danh Sơn Đại tạng để lưu truyền mãi về sau. Trụ trì là thần Tăng Đức Tiềm xin khắc thành bản kinh. Tính tất cả là ba mươi quyển. Nay đưa vào Tỳ-lô Đại tạng để lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Thần xin đem công đức này kính chúc hoàng đế Diên Thánh thọ vô cương. Kính mong hoàng đồ bền chắc, phượng lịch trường tân, mặt trời Phật thêm sáng, bánh xe pháp thường chuyển. Tháng giêng, niên hiệu Càn Đạo thứ tám. Trụ trì là Tăng Đức Tiềm.  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 1 Đệ tử nối pháp Thiền sư Tuệ Nhật trụ trì Thiền viện Năng nhân ở Kính sơn là Uẩn Văn. Kính dâng. Ngày 21 tháng 7 niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 7, ở viện Minh khánh, phủ Lâm an, sư lên pháp tòa đưa tờ sớ lên bảo với đại chúng: - Tướng công Lưu Thủ đã nhập Tam-muội Thiện tri chúng nghệ. Trên đầu ngòi viết lông xưa phát ra luồng sáng rực rỡ. Sư ngồi yên không động đầu lưỡi diễn thuyết bốn mươi hai môn Bát-nhã Ba-la-mật. Giảng xong, sư hỏi đại chúng có tin chắc không? Néu ai còn nghi ngờ thì hãy trình bày để tôi nói lại, khiến người chưa nghe được nghe, người chưa tin phát khởi lòng tin. Đọc sớ xong, sư chỉ pháp tòa hỏi đại chúng: Có thấy không? Quét sạch con đường Phật xưa, chạy trốn ngàn yêu trăm quái. Cho dù là Tu-di Đăng Vương cũng mau lễ ba lễ. Nói xong, sư hét một tiếng, lên tòa niêm hương: Cung kính dâng nén hương này, kính cẩn vì bậc chí Tôn Bắc Biện. Thượng chúc Nam Sơn thượng thọ. Cung kính dâng nén hương này; phụng vì Lưu Thủ Đại Thừa tướng, Thư Văn võ quan liêu thường cư lộc vị. Cung kính dâng nén hương này. Hễ ai trộm nhìn thì tròng mắt liền khô, ngữi mùi thì não môn liệt. Gặp sang thì giá trị gấp đôi cõi Ta-bà. Gặp tiện thì không đáng một xu. Hôm nay, đối trước trời, người tôi hướng về Lô Trung đốt hương phụng vị thành Đô Phủ, Chiêu Giác Thiền tự, tiên Thiền sư đại Hòa thượng Viên Ngộ để báo ân pháp nhũ. Niêm hương xong, sư Thượng đường đánh kiền chuỳ, bảo rằng: Chúng Long tượng Pháp Diêncòn phải quán Đệ nhất nghóa. Xưa nay khắp nơi đều y theo lệ cũ. Cho đến cả ngàn Đức Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời đều lên tòa này nói pháp. Ít ra cũng gạn đục khơi trong. Nếu có người quyết trốn tránh thì lấy đâu ra chứng cứ! Lúc ấy, có vị Tăng bước ra lễ bái. Sư nói: Trên mặt tuyết thêm sương. Kế, có vị Tăng bước lên phía trước hỏi: Trời người đều tập trung ở trường tuyển Phật khai Tổ lịnh, phải khởi xướng thế nào? Sư đáp: Chim khờ bay ngược gió. Tăng hỏi: Khắp thế giới này vẫn không tìm được chốn về. Rõ ràng một điểm trong tòa đã tròn đủ. Có thể gọi là: Bồ-đề đã qua ba mùa xuân Đêm đêm hoa nở thơm lừng thế giới. Sư đáp: Xây dựng là dính mắc, đập phá cũng dính mắc. Tăng hỏi: Mùi hương thơm ngát tỏa từ lò. Trên tòa gió mát thổi hiu hiu. Sư bảo: Nói suông. Tăng hỏi: Vì sao vườn cây Thiếu Thất đua nhau nở hoa, nguồn nước phái Tào Động lại càng trong hơn. Sư đáp: Đó là chi thứ hai. Tăng hỏi: Tri âm thì chẳng cần đưa ra nhiều vấn đề dồn dập. Người thông suốt phải biết sợ sự mờ tối bên trong. Sư đáp: Lanh lợi đấy. Tăng hỏi: Hỏi một câu, đáp một câu là cô phụ tánh linh. Nêu lên chuyện xưa chuyện nay là làm chìm mất tiên tổ. Bỏ hai phàm trù này thì thế nào là đúng? Sư đáp: Hóa thân ra hai nơi để xem. Tăng hỏi: Đường độ hai, ba phen tỏ ra nghiêm túc, Tây Thiên cũng đã năm bảy lượt nhướng mày. Sư đáp: Trời không che riêng, đất không chở riêng. Tăng hỏi: Hỏi đáp như thế chứng tỏ đã trải qua một công phu tu tập lâu dài, một câu chúc Thánh xin sư mau trả lời. Sư đáp: Mặt trời, mặt trăng thường là thiên nhãn, chiếu thẳng ra chốc lát trở thành thọ sơn. Tăng hỏi: Sơn hà, xã tắc thêm khí lành, trời đất cỏ cây thấm nhuần ân? Sư đáp: Lại nói kệ nữa. Tăng nói: Xin sư cho phép người học được nêu lên tin tức của riêng mình. Sư bảo: Không được phép. Tăng thưa: Vậy con xin Hòa thượng nói. Sư bảo: Đã không cho phép còn nói cái gì? Tăng thưa: Xin được chẻ củi Chu Vân Thủ, để làm truyền thuyết mãi cho người. Sư bảo: Ở đây chỉ thiếu một câu. Lại có một vài vị Tăng tranh nhau đi ra. Sư bảo đứng lại, hỏi: - Nếu nghiền nát cả đất đai cỏ cây ra thành bụi. Mỗi hạt bụi có một cái miệng. Mỗi cái miệng có đủ tướng rộng dài vô ngại. Mỗi tướng lưỡi rộng dài phát ra vô lượng lời lẽ khác nhau. Mỗi lời lẽ có vô lượng nghóa mầu khác nhau. Như vậy số bụi ở trong đó có bao nhiêu nạp Tăng. Mỗi nạp Tăng có đầy đủ: Miệng, tướng lưỡi rộng dài, âm thanh, ngôn từ, nghóa mầu như thế, đồng thời đến trăm nghìn vấn đề khó khăn. Mỗi vấn đề lại khác nhau. Một tiếng ho của trưởng lão Kính Sơn cùng lúc giải đáp được tất cả các câu hỏi. Ngay lúc đó, ở giữa hư không làm được vô lượng, vô biên Phật sự rộng lớn. Mỗi Phật sự bao trùm cả thế giới. Cái gọi là một sợi lông hiện thần biến thì tất cả chư Phật đều nói kinh. Trong vô lượng kiếp đều giới hạn thì thế nào? Náo loạn môn đình thì được. Nhưng nếu dùng mắt chánh pháp để nhìn, để quan sát thì đúng là nghiệp thức mang mang không có một y cứ nào. Một điiểm nhỏ, môn hạ của Tổ sư cũng không dính mắc huống chi là câu nói nhanh, gọn làm hiển bày phong cách lời nói để thượng tông thừa không chìm mất, làm nạp Tăng cười nức mũi. Cho nên nói, một mảy đều lông cũng làm nghiệp nhân ràng buộc trong ba đường; liếc mắt đưa tình thì muôn kiếp phải bị gông xiềng trói buộc. Lời nói của bậc Thánh hay kẻ phàm đều là âm thanh luống dối; hình tướng đẹp đẽ hay xấu xí gì cũng là ảo sắc. ngươi tham lam tìm kiếm mà không biết mệt mỏi ư?nhưng nếu có ai chán nó thì trở thành cái hoạ lớn. Hãy xem các bậc tiên đức nói thế nào. Nếu như quốc gia không dùng binh khí mà chỉ dùng đức thì bổn phần sự cũng chẳng phải là đối đãi. Nay sơn Tăng nêu ra điều đó thì cũng giống như không mộng mà nói có mộng là thích bốc mũi bỏ lái. Nếu kiềm chế hành động, lời nói, việc làm của mình thì tương lai sẽ có chỗ khế hợp. Ngày nay cũng chỉ chống gậy mà không có ai hạ được độc thư hay sao? Nếu báo đáp được ân không ai có khả năng báo đáp là giúp thêm sự giáo hóa vô vi. Cũng như không làm điều gì trái ngược là giữ gìn của báu. Bỗng dưng sư rút lấy gậy, bảo: Ngang nhiên nêu lên, không tà, hoàn toàn là chánh khiến, chặt đứt ngu si để thế giới hòa bình, trí tuệ bỗng vụt sáng, sư hét một tiếng, tạ từ, tôi không ghi chép. Sư nêu tiếp: Hôm nọ, vua Thường Thị và ngài Lâm Tế đồng đến Tăng đường. Thường Thị hỏi: Tăng đường này ở xa, chúng Tăng xem kinh có được không? Lâm Tế đáp: Không xem kinh được. Thường Thị hỏi: Có học thiền không? Lâm tế đáp: Không học Thiền. Thường Thị bảo: Kinh cũng không xem, thiền cũng không học, vậy thật ra là làm cái gì? Lâm Tế đáp: Tất cả ngôn giáo đều y theo một việc là thành Phật hoặc thành Tổ. Thường Thị hỏi: Mạt vàng tuy quý nhưng rơi vào mắt thì làm xốn xang là thế nào? Lâm Tế đáp: Ta sẽ gọi ngươi là lão già mũi dãi lòng thòng. Sư bảo: Lão già Lâm Tế cầm chaỳ kim cương và kiếm báu của nhà vua, chí khí cao cường xông ra khắp vũ trụ, ngang dọc trong thiên hạ, xem mọi việc bình thường như bị một hình phạt nhẹ của vị quan này, liền thấy băng tan, ngói gạch vỡ, còn nói: vị quan này rất có sở trường, nghe được tất cả các bài tụng là việc ít có, hiếm thấy ở thế gian và xuất thế gian. Giống như chỉ thêm một ít gia vị vào canh là đủ sức xoay chuyển bánh xe chánh pháp của Như Lai. Ân đức sâu dày, tôi chỉ biết nể phục, trân trọng. Bậc Thượng thủ lại đánh bạch chùy, bảo: đúng là pháp quán của bậc Pháp vương, pháp của Pháp vương là như vậy. Lúc sơn Tăng chưa rời khỏi Tuyền châu, sư vào viện Tăng và cũng gặp mọi người. Phủ Lâm An cũng cho mọi người gặp sư. Thế rồi sư vào núi, đánh trống pháp, đi đứng, ngồi nằm uy nghiêm. Mội người ngơ ngác đưa mắt nhìn nhau. Nhưng vì sao lại không biết nhau cho thật rõ ràng. Sư quay lại bảo sở đắc còn trì trệ. Ngay buổi chiều tiểu tham, sư bảo: Đạo lớn ở ngay trước miệng, ở ngay trước mắt mà khó thấy, khó nhìn. Muốn biết chân thể của đạo lớn thì không thể lìa sắc thanh và ngôn ngữ. Sư cầm phất trần đưa lên nói “đây là sắc” rồi vỗ vào giường thiền bảo: Cái này là thanh. Sơn Tăng chỉ vào âm ba của cái miệng bảo: Đây là ngôn ngữ. Ngôn ngữ này là chân thể của đạo lớn. Sư hét một tiếng bảo rằng: Thấy, nghe này chẳng phải thấy nghe, không có thanh sắc nào khác để hiến tặng vua. Nếu ai hiểu được tất cả mọi việc trong thanh sắc này là “không” thì thể và dụng của nó phân mà bất phân. Còn nếu vừa phân chia, cũng dứt trừ thì giống như trời mưa xuống mặt đất thấm ướt. Nếu cơn mưa nhỏ thì đất ẩm ướt được hai mươi chín ngày; còn nếu mưa lớn thì được ba mươi ngày. Nếu không phân chia thì Kim cang và Thổ Địa lau chùi lưng, kỳ cọ xương cốt. Vị Tăng hỏi: Người xưa nói, một câu sau rốt mới đưa người học đến bờ mé, vượt khỏi bến mê không chung cho Phàm Thánh. Vậy câu rốt sau là gì? Sư im lặng hồi lâu đáp: Đừng nói mớ. Rồi sư vỗ vào giường Thiền, xuống tòa. Một hôm, sư Thượng đường bảo đại chúng, ngày xưa Dương Kỳ lão tổ vác cày, kéo bừa, tháo nước đẩy rất nhiều bùn để hiện thần thông cho con cháu xem. Xong việc, sư nấu trà trong những chiếc ấm khác nhau. Một hôm, sư lên pháp tòa cầm những cái ấm đưa lên, có vị Tăng hỏi Lợi Sơn: Các hình sắc đều trở về “không”, vậy “không” trở về nơi nào? Lợi Sơn đáp: Đầu lưỡi không lè ra khỏi miệng. Tăng hỏi: Vì sao như thế? Lợi Sơn đáp: Vì bên ngoài vốn như một. Sư bảo: Sự thì cất trong hòm kín nhưng lý thì ứng với mũi tên nhọn cắm bên ngoài. Muốn hiểu được thì phải quay về Lợi Sơn. Còn nếu là Kính sơn thì không như vậy. Có người hỏi, tất cả những gì có hình sắc đều trở về “không”, vậy “không” trở về chỗ nào? Hoa thược dược nở ra mặt Bồ-đề; chiếc lá rơi xuống chạm vào đầu Dạ-xoa. Vì sao như thế? Vì nếu bàn bạc và chấp nhận thì không lừa dối nhau. Sư lên pháp tòa nêu, ngài Nam Tuyền nói với Mã Tổ ở Giang Tây: tâm ấy là Phật. Vương lão sư vì sao không nói: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật? Vì sao hỏi còn có lỗi gì. Ngài Triệu châu lễ bái rồi đi ra. Lúc đó, có vị Tăng đến hỏi ngài Triệu Châu: Thượng tọa lễ bái rồi đi ra là thế nào? Triệu Châu đáp: Ông hãy hỏi Hòa thượng Thủ. Tăng đến hỏi, sư vừa khuyên răn Hòa thượng là ý gì? Ngài Nam Tuyền bảo là đã lónh hội được ý của lão Tăng. Sư bảo: Hai lão già này tuy khéo động đầu ngón chân trong đôi hia nhưng dứt khoát không biết hổ thẹn với người bàng quang trong thiên hạ. Ngày đại tường của Hòa thượng Viên Ngộ, sư niêm hương chỉ ra chân rằng: Châu này gió thổi cỏ linh lăng. Từ nay họ thích đánh nhau, còn đi vào chỗ ồn náo. Vì sao cảnh vắng lặng mà ưa làm náo động? Ngày này năm trước mới trở về nhà. Con đường ngày này năm trước vẫn nguyên vẹn không thay đổi. Sư quay sang hỏi đại chúng, vì sao con đường vẫn không đổi thay, phải giải thích thế nào đây? Một ngụm nước trong một vòm trời mát rượi, sư liền đốt một nén hương chiên đàn, dâng môt chén trà lên Hòa thượng. Sư Thượng đường cầm gậy hét một tiếng, may mà tiếng hét xuất phát từ lòng thương xót chúng sinh. Đặc biệt, lão Hồ vừa đánh vừa hét là thế nào? Sư ném gậy xuống, bảo: Tổ sư nói, một niêm bất sanh muôn pháp không sai lầm. Đã không sai lầm thì không pháp; đã bất sanh thì không có tâm, sẽ theo cảnh mà mất đi, cảnh sẽ năng mà ẩn chìm. Cảnh là từ năng cảnh; năng là từ cảnh năng. Đại tiểu Tổ sư lại làm tọa chủ kiến giải. Kính Sơn thì không như vậy. Mắt không tự nhìn; dao không tự cắt; ăn cơm để khỏi đói; uống nước cho đỡ khát. Đặc biệt, Lâm Tế, Đức Sơn còn rất say mê, uổng phí công sức vừa đánh vừa hét. Còn những công án vừa đánh vừa hét khác, Mạnh Bát Lang Hán, làm sao ngăn được? Sư Thượng đường nêu câu chuyện, ngài Tu-bồ-đề ngồi tónh tọa uy nghiêm, các vị trời rải hoa cúng dường. Tôn giả hỏi: Người nào trên hư không đã rải hoa khen ngợi ta? Con là Phạm thiên. Tôn giả hỏi: Vì sao ngươi khen ngợi? Con tôn kính Tôn giả vì Tôn giả khéo nói Bát-nhã. Ta không hề nói một chữ Bát-nhã, vì sao ông nói là khéo nói? Sư liền hét một tiếng, bảo: Chẳng phải đã lấp kín ngôn ngữ mà còn cái miệng của Phạm Thiên hay sao? Hai ngàn năm sau khỏi bị Đức Sơn xét nét. Vậy mà còn nói, ngài Đức Sơn không còn chỗ nào để người đời phê phán, tự hỏi, có chỗ nào là chỗ bị người đời phê phán là không đúng, là nhiều chuyện chăng? Sư Thượng đường bảo, đáy sông có bùn nên bò nhai sanh sắt. Kiều-phạm-bát-đề động đầu lưỡi, thần biển nổi giận lấy roi san hô quất vào nước, núi chúa Tu-di đau không tả xiết. Bá Trượng xuống gường Thiền. Sư Thượng đường tung ngọc bích làm cây thông cao một ngàn thước để ngã. Một con suối cắt đứt hồng trần liền nhận biết được mặt mũi xưa nay. Hãy gọi người đề thơ Đức Kiều. Sư đến chùa Hải hội ở huyện Lâm an, lên tòa cầm sớ nói với chúng: văn từ bóng bẩy nhưng chưa rõ ràng sáng sủa, nói lên sự đối đãi hai mặt. nếu văn chương bóng bẩy và rõ ràng thì ý nghóa được phơi bày. Văn đã không thông mà còn che đậy nên phải nhọc sức phân trần! Nếu giọng nói trong trẻo thì một khi tuyên sớ đã vang khắp rồi. Sư quay sang nhìn đại chúng, bảo: Tôi biết học só ở huyện này đã phô bày Đệ nhất nghóa đế cho mọi người. các ngươi có hiểu không? Nếu hiểu thì hôn nay xin đàn một khúc nhạc. còn nếu chưa được thì Kính Sơn sẽ đàn khúc Lục Sàng Thượng nói về “thoát không” Sư lên tòa niên hương, chúc Thánh rồi lại niêm hương rằng: Cung kính dâng nén hương này, chư Phật không biết, quỷ thần không hay. Chẳng phải là chỗ sanh ra của trời đất. Cũng không phải tự nhiên mà được. hôm trước trong thành đã từng nêu ra, trời người đều nhóm họp, bốn chúng cũng đến dự. Trong lúc ấy, sợ có người chưa biết dừng nên không tránh khỏi thấy cái mới mà nói toạc ra. Sư liền đốt hương đến tòa, có vị Tăng hỏi: cơ phong tốt mãi vần xoay, Bồ-tát hiện thân Tể Quan, mặt trờiPhật tỏa sáng, Lô lão xướng khúc thiếu lâm, chúc Thánh khai đường xin nghe pháp yếu. Sư đáp: Kinh trời động đất. Tăng hỏi: Tuy sư vừa nhỏ giọt nước suối Tào Khê nhưng bốn biển đã tuôn mưa đáp lại ta rồi. Sư đáp: Mùa thu chim nhạn mới bay về bốn biển. Tăng hỏi: Vua Kim Luân thống trị tam thiên thế giới; ngọc quý, ngỗng trời sống dai đến cả ngàn muôn năm. Sư đáp: Ai không mong muốn điều đó. Tăng hỏi: Tam Thánh nói, ta gặp người, người liền xuất hiện; xuất hiện thì chẳng phải là người. Yù chỉ thế nào? Sư đáp: Giết người không dùng dao. Tăng hỏi: Ngài Hưng Hóa nói, ta gặp người, người không xuất hiện; xuất hiện thì liền là người, là thế nào? Sư đáp: Đời sống con người cần gì đao kiếm. Tăng hỏi: Giữa lúc đi và chưa đi thì thế nào? Sư đáp: Hai đầu ở xa không có râu ria. Tăng hỏi: Chuyên làm lưu thông đi. Sư đáp: Hôm nay Kính Sơn mất sự lanh lợi. Phật pháp đến nay không ở chỗ hỏi đáp. Cứ hỏi mãi thì giống như Phổ Tuệ, Vân Hưng; còn giải đáp thì giống Phổ Hiền, Bình Tả. Nếu không biết yếu chỉ mầu nhiệm ấy chỉ trở thành những lời nói chơi, trong đạo có lợi ích gì? Cứ như thật mà bàn luận thì tất cả đều ghi ngờ cuồng loạn, đều là loanh quanh luẩn quẩn ngoài rìa. Cho nên bậc Đại giác Thế Tôn vì một việc nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời. Ngài dùng vô số phương tiện khéo léo, sâu xa mà thành tựu chúng sinh; khai thị cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật. Đầu tiên Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề, rồi Ngài đến vườn Nai. Đầu tiên giáo hóa Kiều-trần-như và chuyển pháp luân Tứ đế; bốn mươi chín năm hành hóa, Đức Phật nói pháp hơn ba trăm sáu mươi hội. Tùy theo căn cơ chúng sinh mà Phật nói pháp giáo hóa. Khiến cho tất cả mọi loài đều nghe pháp, hiểu pháp và thoát khỏi sinh tử. Sau cùng, lúc sắp nhập diệt, Phật ở trước trăm ngàn trời người đưa cành hoa lên cho tất cả mọi người nhìn thấy, chỉ có Kim Sắc Đầu-đà(Ngài Đại Ca-diếp) là mỉm cười, Phật nói: Ta có chánh pháp nhãn thạng Niết-bàn diệu tâm, nay giao phó cho ngươi. Từ Tây Thiên lần lượt truyền qua hai mươi tám vị, đến Đông Độ lần lượt truyền qua sáu vị. Các đại lão Hòa thượng lần lượt lấy tâm truyền tâm, nối tiếp nhau không để đứt đoạn. Nếu không biết yếu chỉ mầu nhiệm này thì đã chìm trong tri kiến, rong ruổi theo ngôn từ. Chánh pháp nhãn tạng lưu bố tới ngày nay phải là cái không cầu các Thánh, không trọng tánh linh của chính mình, là bậc đạo nhân xuất cách mới đảm trách được việc lớn lao này. Các ông không thấy ngày xưa Mã Đại sư ở Giang tây bảo hàng tri thức ở Tây Đường dâng một quyển sách nổi tiếng lên Kính Sơn, một Thiền sư của đất nước. Thiền sư của đất nước một khi mở địa bàn ra thấy tất cả tướng tròn đầy, liền tìm bút đối với Trí Tạng và chấm một chấm giữa tướng tròn đầy ấy. Trí Tạng quên mất việc ấy đâu phải là ngăn tin tức? Nếu thương lượng mà ngăn tin tức thì không đúng. Mọi người nên giải thích thế nào cho rõ? Lúc ấy làm sao thọ dụng? Vừa biết trong sớ của học só huyện có lời nói: Tướng tròn đầy của Mã Sư xa thanh quy cả ngàn dặm. Cơ phong của Lão Phong nhất thời đột phá các nghi ngờ. Đã phá được nghi ngờ thì việc đã rõ ràng dưới gót chân của mọi người. Việc lớn đã rõ thì mười hai thời xoay vần trong khoảnh khắc. Một tiếng ho nhẹ thì không chỗ nào chẳng phải là diệu dụng của Phật. Đã là diệu dụng của Phật thì chẳng phải từ người mà được; đã chẳng phải từ người mà được thì cũng chẳng phải từ chính mình; đã chẳng phải từ chính mình thì trong không phóng ra, ngoài không xâm nhập. Ngoài đã không xâm nhập thì vắng bặt các duyên ; trong không phóng ra thì trong tâm đã điều hòa, hơi thở ổn định. Hơi thở đã ổn định thì vắng các duyên ngoại. Tức tà thông với trí Nhất thiết không còn chướng ngại. Đã không còn chướng ngại thì chính là trí Nhất thiết, trí Thanh tịnh, vô nhị, vô nhị phần, vì vô phân biệt, vô đoạn. Ngay lúc đó là gì? chẳng phải là pháp thế gian cũng chẳng phải là pháp xuất thế gian. Nắm bắt được cuộc chiến giữa hai nước Chiêm-ba và Tân-la, há là phần ngoài ư? Tuy như vậy nhưng sự việc là ở đây. Như quốc sư Trung thì còn nói gi? Như sư Khâm bị sư Mã nghi ngờ, cuối cùng người nào thoát ra được? Nếu nhất định thoát ra được thì tôi đồng ý với các người: tất cả đều thoát khỏi sự ngăn cách của các đạo nhân. Trong số đó có người chưa đạt được. Kính Sơn y cứ theo sự nghi ngờ mà kết án. Im lặng hồi lâu, sư bảo: ở trong nhà nói là khách, nhưng đến cái nôm thì dễ mà bắt cá thì khó. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Trong hội Linh Sơn, Ca-diếp đích thân nghe; trước núi Thiếu thất, ngài Thần Quang được truyền tâm ấn thì hôm nay dưới pháp tòa này ai là người tri âm? Sư đáp: Sứt mẻ đầu lưỡi. Tăng hỏi: Có thể nói, họ Biện trên sân khấu có nhiều ngọc chưa mài giũa, Túc Cao Tân là môn hạ của Mạnh Thường? Sư đáp: Gạch đá vụn không nhọc lượm ra. Tăng hỏi: Trước mũi nhọn có gì khác, trong câu không có gì riêng tư? Sư đáp: Ai là người tri âm? Tăng hỏi: Phượng vàng múa trước vách Thiếu thất, gà ngọc hót trên đỉnh Kính sơn. Sư đáp: Lại là hai công án. Tăng hỏi: Ngài Đạt-ma từ Tây đến chỉ đơn giản là truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Còn Đức Sơn vào cửa liền cầm gậy; ngài Lâm Tế vào cửa liền hét, chẳng biết là giống nhau hay khác nhau? - Sư thở dài. Tăng hỏi: Thế nào là không rời chỗ này mà vẫn thường rõ ràng trong sáng. Tìm thì biết, anh không thể thấy. Sư đáp: Cá bơi trong nước đục. Tăng hỏi: Tại sao làm hỏng trái cân rồi dùng sắt rèn lại? Sư đáp: Dẫn dụ không chấp mắc. Tăng hỏi: Chỉ rõ một nơi để y ta quán sát mà sinh về. Sư bảo: Đánh cho ba mươi gậy. Tăng hỏi: Không chấp mắc mọi việc thì không tạo tác. Tạo tác, chấp mắc chẳng phải là sợi dây tự trói mình. Không chấp mắc, không tạo tác, trong khoảng khắc đồng tử Thiện Tài lên lầu, ma thầm chắp tay, ngài Phổ Hóa vào chợ rung chuông. Sư Thượng đường nêu câu nói của Bàng Sơn, ánh trăng tròn vạnh chiếu trùm muôn vật. Ánh sáng chẳng phải chiếu xuống cảnh vật, cảnh vật cũng không giữ ánh trăng. Ánh sáng và cảnh vật mất thì là vật gì? Ngài Đổng Sơn hỏi: Khi ánh sáng và vật chưa mất lại là vật gì? Sư đáp: Đàn cò trắng sà xuống ruộng ngàn muôn tuyết, chim hoàng anh bay lên mộït nhành hoa. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Quy ngưỡng đương thời chỗ gặp nhau, cắm xuống, chắp tay, ý thế nào? Sư đáp: Hai mắt đối với hai mắt. Tăng hỏi: Đứt một dây đàn biết âm thanh giảm, cha con đàn đến cách điệu cao. Sư đáp: Ông hãy nói chỗ cắm cuống, chỗ xoa tay. Tăng hỏi: Đầu trúc mối tơ từ sư làm, bất phạm thanh ba ý tự khác. Sư bảo: Lại đi đâu? Tăng thưa: Hữu cú vô cú giống như cây mây leo nhờ lên cây cổ thụ. Bích Nhãn Hồ Ly không biết rơi vào chỗ nào? Sư đáp: Còn hỏi rơi vào chỗ nào! Bỗng sư cầm gậy nhóm họp đại chúng đến bảo: Hãy xem! Hãy xem, đến thẳng đây mau nhìn vào. Rồi sư ném gậy. Ra khỏi Khanh Quy, sư Thượng đường nêu, sư ông ngũ Tổ ra khỏi đội ngũ trở về dạy chúng rằng: “Ra khỏi đội ngũ nửa tháng, mắt không thấy mũi. Cái mất lại là Tổ sư Thiền nhặt được xương cốt của họ Đổng. Hãy nói về đâu xếp đặt được”? một phần thờ Phật Thích-ca, một phần tờ tháp Phật Đa Bảo. Pháp Tôn của Kính Sơn ra khỏi đội ngũ hơn tám mươi ngày mắt mũi thường gặp nhau, cũng chẳng phải là thiền của Tổ sư có thể mất, cũng chẳng biết nhặt xương cốt của họ Đổng. Đã không nhặt xương cốt của họ Đổng thì không thờ Phật Thích-ca Mâu-ni, cũng không phụng thờ tháp Phật Ca-diếp. Cuối cùng được cái gì? ban đêm yên tónh. Nước lạnh, cá không ăn, thuyền chở đầy ấp ánh trăng về. Sư Thượng đường hỏi: - Ngày 25 tháng chạp năm ngoái có tin gì? Ngày 25 tháng chạp năm nay không có một tin tức gì? nếu có tin tức gì thì phần việc trên của các ngươi, Kính Sơn không tham dự. Nếu không có tin tức gì thì phần việc trên của Kính Sơn, các ngươi không có phần. Có người nói: Kinh Sơn chưa biết tin tức gì, bỗng sư cầm gậy bảo, không được động vào, động vào là đánh bể lưng lừa. Sư ném gậy, xuống tòa. Ngày mùng một tháng giêng, sư Thượng đường cầm cây gậy vẽ chữ váo hư không, bảo: buổi sáng cầm bút thì muôn việc đều tốt. Ngay lúc đó, Nạp Hựu Khánh không thể thích nghi. Nếu thực hành thế đế lưu bố khắp nơi thì rất khế hợp. Còn ở trong Phật pháp bàn bạc thì sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày rơi xuống đất. Sư giơ cao gậy, xuống tòa. Hôm nọ, sư Thượng đường bảo, bán sắt được vàng ròng; cầu mưa được ngọc tuyết. Ngọc Ngũ Phong mài thành thì hàng ngàn cây bạc đơm hoa kết quả, long vương ban xuống những điều tốt lành, Phổ Hiền hiện ra tướng xấu, pháp môn bí mật của chư Phật ba đời, hôm nay nhất thời đều tiết lộ. Tuy vậy, nhưng ở đây có một chỗ đáng nghi ngờ. Hãy nói, nghi cái gì? E rằng sau lúc mặt trời mọc còn để lại trò cười trên sân khấu. Sư Thượng đường bảo: Đêm rằm tháng giêng trời trong trăng dịu Đâu đâu cũng rực ánh đuốc đèn Ánh lửa lấp lánh ấm cả một vùng Thần đêm quên mất bệnh đau đầu. Sư Thượng đường nêu câu nói của một vị Tăng hỏi ngài Trường Sa: Làm sao xoay chuyển núi sông, đất đai về với mình? Trường Sa đáp: Làm sao xoay chuyển được mình về với sông núi, đất đai? Sư bảo: Chuyển xoay sông núi, đất đai về với mình thì dễ, chuyển xoay mình về với sông núi, đất đai là chuyện khó. Có người nói được câu không khó không dễ thì hãy đến Kính Sơn xin cây gậy ở trong tay ngài. Sư Thượng đường nói: Giữa mùa xuân năm ấy mưa mãi không tạnh, đây là tờ tráp của Vân Môn. Rồi sư quay sang nhìn đại chúng bảo: Trong tráp lại nói, thẹn vì sợ giết người. Cư só Bất Động đến, sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Ngài Kính Sơn dàn trận rồng rắn, cư só lẽ loi đơn chiếc, phải làm sao gặp nhau? Sư đáp: Lão Tăng đánh trống. Tăng hỏi: Có một con cọp già gõ vào răng nó? Sư đáp: Ông nghe tiếng sấm sét không? Tăng thưa: Chỉ là một đứa học trò được nuông chiều? Sư bảo: Nếu ta nói thì ông phải làm trăm món. Tăng hỏi: Chào mừng cuộc sống. Sư thở dài, bảo: Mắt không thì cả vũ trụ này không có một vật, Đại tọa đang mỉm cười, ai dám dòm lén? Chọn Phật chọn quan đều đã xong, cùng nắm tay đi trên đường, nhưng không cùng trở về. Hỏi đại chúng: Đã cùng đường lại nắm tay, vì sao không cùng về. Đừng lầm tiếng hạc với tiếng oanh vũ. Sư lại nêu ra câu hỏi của Lục Tuyên hỏi ngài Nam Tuyền: Ban đầu Pháp sư cũng rất kỳ quái, pháp sư giảng đạo trời đất và cho mình và vật vốn cùng một bản thể. Ngài Nam Tuyền bèn chỉ cây hoa trước sân, rồi gọi đại phu bảo: Khi ngươi thấy một gốc cây khô thì cũng giống như mộng. Sư đáp: Đó cũng là một công án được lưu truyền trong chốn tòng lâm hơn ba trăm năm nay. Trong thế gian có vô số vị Thiện tri thức ra đời nhưng chưa có ai phán đoán rõ ràng với ông ta. Hôm nay, Kính Sơn lại phán đoán với ông ta. Nếu xét về lý thì chẳng những Nam Tuyền coi thường ông ấy mà Lục Tuyên còn một điểm chưa được và cho dù như thế cũng chưa động đến một sợi lông dưới chân ông. Còn nếu xét về sụ thì chẩng những Lục Tuyên xem thường ông mà Nam Tuyền còn một điểm chưa được. việc đó cũng chưa phải là mộng thấy. Hiện tại mồ hôi của ông ta rất nặng mùi, có người đến mách: Nhiều người nói lý, nói sự với Kính Sơn là hướng về ông nói nhưng vẫn còn dính mắc đối với sự lý. Sư Thượng đường bảo: Một là không thể nào thành đôi mà hai cũng chẳng thể thành đôi. Sư hét một tiếng, hỏi là cái gì? Kiếm hiệu Cự Khuyết, Châu gọi là Dạ Quang. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Lão Đông Sơn cũng nêu ra như thế, lão sư Viên Ngộ cũng nêu ra như thế, chẳng biết sư nêu ra như thế nào? bốp. Sư đáp: Một tay không vỗ được, hai tay vỗ vào nhau kêu bốp Tăng hỏi: Vàng không dạt được vàng, nước không rửa được nước Sư đáp: Mình đã mắc lỗi cũng không biết! Tăng hỏi: Trên là trời, dưới là đất, làm gì có lỗi lầm. Sư đáp: Vàng không dát được vàng, nước không rửa được nước. Tăng hỏi: Đi ngay đến để mau nhìn thấy. Sư đáp: Không thoát ra khỏi cái cũ nên mới nêu ra. Vị Tăng hỏi ngài Đầu Tử: Đại tạng giáo điển còn dựa vào việc đặc biệt này không? Đầu Tử đáp: Diễn xuất Đại Tạng giáo. Có một vị lão Tôn túc nói: Giảng vào Đại Tạng giáo. Sư bảo: Giảng ra giảng vào gì cũng không ngoài hai lão. Nếu dựa vào việc đặt biệt thì ba đời sáu mươi kiếp cũng chưa nằm mộng thấy. Ngày nọ, Thiền sư Vô Thường thượng đường, vừa lên pháp tòa, chưa kịp đánh trống, sư đã vì mọi người vào bùn, vào nước. Mối quan hệ của sư với mọi người rất khắng khít. Kính Sơn không thể nào phủ thêm bùn lên trên đất. Sư xuống tòa. Sư Thượng đường gọi Vónh Gia đến bảo: - Trăng soi, gió thổi bóng thông dưới lòng sông, trăng sáng suốt đêm, chỗ nào là trăng? Phật tánh giới châu tâm địa ấn. Ráng mây đỏ là áo trên thân. Sư đáp: Đó là vị thầy thích cho ba mươi gậy. Còn hỏi lỗi ở đâu? Không hợp với việc trộm vật của thường trụ bỏ vào bát. Sư Thượng đường dạy: Nên như vậy, biết như vậy, thấy như vậy, tin hiểu chẳng sinh pháp tướng. Sư đưa cái phất trần lên hỏi: Cái phất trần của Kính Sơn này gọi là pháp tướng gì? Pháp tướng đã không thật có còn biết cái gì? Sư phất qua một cái, hỏi đây là pháp tướng, thế nào gọi là phất trần? Phất trần đã không thật có thì biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế còn có lỗi gì? Một câu chuyển thể làm sao sinh đạo? Hôm nay là sáng mồng một tháng tư, sư Thượng đường bảo: Toàn bộ sự vật ở đây đều không có tin tức, nạp Tăng phơi cỏ đã lâu mà chẳng khô. Còn ngày vui đầu đông nêu ra, hãy tham. Ngày làm lễ tắm Phật, sư Thượng đường, bảo: Sáng nay chính là tám tháng tư Mẫu hậu Ma-da sinh Tất-đạt. Chín rồng bên ngoài phun nước đến, Bỗng sen bảy báu từ đất hiện, Điểm ngực điểm hông xưng Độc Tôn Miệng nói những lời không khoe khoang, Đều thật trụ thế hơn bảy tuần. Bốn mươi chín năm khỏi buồn thương Ngờ có Vân Môn, lão Bả sư Ngay một gậy phải đánh cho chết. Người người đều nói đền ơn Phật Đem thâm tâm này thờ cõi bụi. Chỉ có Kính Sơn là không vậy. Đã không như vậy làm sao hợp? Sư xuống tòa, dộng gậy xuống hỏi đại chúng rằng: Có nghe gì không? Hỏi rồi sư lại đưa gậy lên nói: Bồ-tát Quán Thế Âm đến ở trên đầu cây gậy của Kính Sơn, miệng lẩm bẩm nói: Các hành pháp vô thường là pháp sinh diệt, sinh diệt diệt rồi, vắng lặng diệt hiện tiền. Sư cầm cái lư Tu-di trên tay rồi đi về hướng cái xích đu. Cứ như vậy thì làm sao thấu suốt được? Có khác gì so sánh mười muôn tám ngàn gậy. Còn hỏi, cây gậy của Kính Sơn có gì đặt biệt. Sư ném gậy nói: Không đáng nửa xu. Sư Thượng đường bảo: Kính Sơn không có một tấc ruộng vườn. Nay tuỳ nghi kết chúng duyên, lười bàn luận về đạo, biếng nói về thiền, dùng cây gậy để chọn ra mỗi thứ đều tròn đầy. Không dùng hơi thở, không dùng tâm và vọng tưởng khác. Mọi người ăn cơm rồi ngủ một giấc thật ngon. Ngủ ngon thì không thể không được. Nhưng nếu có người trong khi ngủ mộng thấy cơm và tiền thì làm sao? Có khác gì nghe mang máng một khúc nhạc rồi bị gió thổi qua điệu khác. Sư Thượng đường có vị Tăng hỏi: Pháp thân có ba thứ bệnh, bốn thứ ánh sáng. Ánh sáng thì bất luận, chẳng hay pháp thân còn có đủ bốn đại hay không? Sư đáp: Đầy đủ. Tăng hỏi: Thế nào là pháp thân? Sư đáp: Đất, nước, gió, lửa. Tăng hỏi: Thế nào là bốn đại? Sư đáp: Thùng sơn không lanh lợi. Tăng hỏi: Pháp thân hướng thượng còn có việc gì không? Sư đáp: Nếu hướng hạ thì hiểu được, nói rồi sư bèn nêu, có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Làm thế nào để vượt khỏi người thấp hèn? Ngài Kính Sơn đáp ông ta là heo bùn, chó ghẻ. Nếu ông ta có hỏi đầu lưỡi của ngài Kính Sơn có tự tại không thì tôi cũng đã biết ông ta là thùng sơn. Sư Thượng đường có vị Tăng hỏi: - Dứt muôn cơ duyên, ngồi một mình ở chỗ trống, giống như việc hướng hạ, thế nào là việc hướng thượng? Sư đáp: Trước mặt người ngu si không nói mộng. Tăng thưa: Lão Hòa thượng rất kín đáo. Sư bảo: Mắt mọi người cũng khó xem thường. Tăng hỏi: Như câu hỏi của một vị Tăng hỏi ngài Đổng Sơn: “Thế nào là Phật?” Ngài Đổng Sơn đáp là ba cân gai, là thế nào? Sư đáp: Cánh chim đại bàng xòe ra trùm cả mười châu, những con chim bay ngoài bìa cánh nó hót líu lo. Tăng hỏi: Hôm qua trời tạnh, hôm nay trời mưa. Sư đáp: Phân chia thời giờ không tương ứng. Ba ngày sau hãy khán, sư vỗ vào giường Thiền, xuống tòa. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Tình sinh, trí cách, tưởng biến, thể khéo, tình chưa sinh thì cách từ đâu được? Sư đáp: Vốn là cai túi đựng cơm. Tăng hỏi: Chưa rõ ý chỉ thế nào? Sư đáp: Cách. Bèn cầm gậy đưa lên bảo, Tam Thánh nói, ta gặp người thì người xuất hiện, xuất hiện thì chẳng phải là người. Sư dộng gậy xuống, bảo: Giặc trong thân đã hiển lộ, buông thả quá thì không thể được. Ngài Hưng Hóa nghe vậy nói: Ta gặp người thì người không xuất hiện, xuất hiện thì lại là người. Rồi dộng gậy xuống, bảo: giặc trong thân đã hiển lộ thì không thể buông thả quá. Đại phàm tông sư quyết đoán sai đúng nên phải mở mắt trí tuệ cho người. Không thể làm cái gậy vô tri vô giác ngày xưa. Còn nói, hai lão già này có lỗi gì? Sư ném gậy xuống tòa, nói: Rồng rắn dễ bàn luận, nạp tử khó xem thường. Sư lên pháp tòa, có vị Tăng hỏi ngài Đổng Sơn: Khi thời tiết nóng lạnh thì tránh né nơi nào? Ngài Đổng Sơn đáp: Sao không đến chỗ không nóng không lạnh? Tăng hỏi: Thế nào là chỗ không nóng, không lạnh? Ngài Đổng Sơn đáp: Nóng thì nóng giết xà-lê, lạnh thì lạnh giết xà-lê. Tăng hỏi lão Tôn Túc: Thời tiết thế nào gọi là nóng? Khi thời tiết nóng thì đến chỗ nào để ẩn tránh? Vị Tôn Túc đáp: Vào trong vạc nước sôi và lò than hồng để tránh nóng. Tăng hỏi: Ở trong vạc nước sôi và lò than hồng làm sao tránh được? Vị Tôn Túc đáp: Nhiều nổi khổ không thể kể đến. Sư bảo: Hai vị Tôn Túc, một người duỗi tay vào trong lạnh nóng; một người duỗi tay ra ngoài lạnh nóng. Người duỗi tay vào trong lạnh nóng vì không thấy có tướng lạnh nóng. Người duỗi tay ra ngoài lạnh nóng vì đồng với thân thể nóng lạnh. Cho nên ngài Kính Sơn hỏi mọi người cần bàn rõ được không? Nếu bàn rõ được thì nam Thiên Thai, bắc Ngũ Đài. Còn không bàn rõ ràng được thì hôm nay nóng như hôm qua. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Trong giao tiếp, bụi bụi nói, cõi cõi nói đều không xen hở, đều không biết lấy gì làm lưỡi? Sư vỗ vào góc phải của giường Thiền một cái. Tăng hỏi: Thế Tôn không nói mà nói rõ, Ca-diếp không nghe mà nghe hết. Sư gõ vào góc trái giường Thiền. Tăng hỏi: Biết ngày hôm nay khiến cho khỏi luống uổng công hạnh? Sư đáp: Biết bằng thức là rất dở tệ. Rồi sư nêu, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: Có biết người thấp hèn hay không? Ngài Nam Tuyền đáp: Nhà Đàn-việt trước núi làm một con trâu. Triệu châu bảo: Cám ơn câu trả lời đó. Nam tuyền nói: Canh ba đêm hôm qua trăng dọi vào song cửa sổ. Ngài Vân Phong bảo: Nếu Nam Tuyền không nói câu sau thì đã ngâm chăn mền đánh phá Châu Thái. Sư bảo: Lão Vân Phong mất còn một con mắt, thật không ngờ vì lời nói sau lập tức đánh phá Châu Thái. Sư Thượng đường nêu, ngài Hưng Hóa hỏi Duy-na Khắc Tân: Ông làm vị thầy dắt dẫn được bao lâu? Việc đó không đưa vào sự giữ gìn xã tắc. Ông hiểu rõ nên không vào hay không hiểu nên không vào? Đều là không gì. Ngài Hưng Hóa liền đánh, bảo: pháp chiến của Duy-na Khắc Tân đã thua, phạt năm quan tiền và phải thết đãi một bữa cơm ở trai đường. Hôm sau ngài Hưng Hóa tự đánh kiền chuỳ bảo: Pháp chiến của Duy-na đã thất bại, phạt năm quan tiền và bắt ông phải thết đãi một bữa cơm ở Thiền đường rồi đuổi ra khỏi viện. Hòa thượng Vân Cư Vũ nói: Vàng đã luyện nên không đổi mầu, sao ngài Hưng Hóa boả phải cẩn thận nghiêm mật? Chẳng những Duy-na Khắc Tân cũng khó đảm nhận tất cả mà ngày nay dường như chỉ thông thường chuyển hóa được một ít. Sư hỏi: Vân Cư nói chi? Chưa khỏi uốn thẳng một vật cứng bị cong. Kính Sơn thì không như vậy. Phải làm cho con cháu nể mặt, phải chuyển hướng xoay chiều mới được. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: ngài Lâm tế nói, sau khi ta tịch diệt, không được diệt mất chánh pháp nhãn tạng của ta. Tam Thánh bước ra bảo: Ai dám diệt mất chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng? Thế nào là chánh pháp nhãn tạng? Sư đáp: Kẻ giặc mặt sân, làm sao biết được chánh pháp nhãn tạng? Lâm Tế đáp: Có người hỏi thế, ông còn làm gì? Tam Thánh liền hét một tiếng, ý chỉ thế nào? Lâm Tế đáp: Ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta thì hãy đến đây. Ở gần bên con lừa mù thì không hiểu được, ý chỉ thế nào? Sư đáp: Lanh lợi đã tác động đến quân tử. Sư bèn nêu, vua nước Kế tân cần kiếm hỏi Tôn giả Sư Tử: Thầy đã đắc năm uẩn đều không chưa? Đã đắc uẩn không rồi. Thầy đã thoát được sinh tử chưa? Đã thoát khỏi sinh tử rồi. Có thể cho ta cái đầu của Tôn giả được không? Thân còn chẳng phải là cái ta có, huống chi là đầu. Vua liền chém đầu Tôn giả, đầu Tôn giả vừa rơi, sửa trắng phun vọt lên thành vòi, cao hơn một trượng, cánh tay vua tự rớt xuống. Tuyết Đậu bảo: Bậc tác gia quân vương đúng là đây. Hòa thượng Hoàng Long Ngộ Tân hỏi Tuyết Đậu: Đã là bậc tác gia quân vương, vì sao cánh tay rớt? Sư đáp: Mạnh Bát Lang Hán còn đi đâu? <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 2 Đệ tử nối pháp Thiền sư tuệ Nhật, trụ trì thiền viện Năng nhân ở Kính sơn là Uẩn Văn kính dâng. Sư Thượng đường bảo, sư ông Vân Đoan nói: Nếu được một giọt mồ hôi của Vân Đoan nhỏ lên một cọng cỏ thì liền hiện thành lầu quỳnh điện ngọc. Còn nếu chưa được một giọt mồ hôi của Vân Đoan nhỏ lên một ngọn cỏ thì cho dù có lầu quỳnh điện ngọc cũng bị ngọn cỏ che lấp. Sư bảo: Trên một ngọn cỏ hiện ra lầu quỳnh điện ngọc chắc chắn là điều đáng tin. Lầu quỳnh điện ngọc bị một ngọn cỏ che lấp chứ không bị ông ta coi thường. Kính Sơn nói gì? Vì nói chính mình đã là người nhỏ đươc giột mồ hôi. Nếu là ngươì chưa nhỏ được giọt mồ hôi thì không cắt đứt được điều nghi. Tiết Thiên Thân, sư Thượng đường đảnh lễ đấng Năng Nhân Tịch mặc ở thế gian, bậc chứa nhóm vô lượng phước đức cao quý, là bậc Kim Luân thống trị bốn thiên hạ, ban đến cho khắp chúng sinh sự an ổn vui sướng. Còn tri ân, báo ân gì? Im ặng hồi lâu, sư nói: Một năm ba trăm sáu mươi ngày chỉ có hôm nay là ngày tốt. Sư Thượng đường nêu, ngài Bách Trượng hỏi cư só Bàng Uẩn: Thạch Đầu được sức câu cuối cùng, có từng nêu ra câu giống người hay không? Cũng đã từng nêu ra câu giống người. Bách Linh hỏi: Nêu ra câu giống người nào? Cư só chỉ vào ngực mình, đáp: Bàng Công. Bách Linh hỏi: Ngay cả Diệu Đức không sinh cũng không kịp khen ngợi. Bàng cư só lại hỏi Bách Linh: Thầy Thạch Đầu được năng lực câu cuối đã từng nêu ra câu giống người chưa? Linh đáp: Đã từng nêu ra câu giống người? Bàng cư só hỏi: Nêu ra câu giống người nào? - Bách Linh đội mũ bỏ đi. Sư bảo: Câu nói đầu lưỡi. Nếu chẳng phải là Bàng Uẩn thì đã nêu ra câu sai giống người. Tuy như vậy nhưng bách Linh cũng đã thua Bàng Uẩn kia một keo. Vì sao? Vì ngay lúc ấy nếu không xé được cái nón để che đầu lâu thì còn mặt mũi nào để gặp ông ta và Bàng Uẩn kia. Sư Thượng đường nói: Tưởng điên đảo sinh thì sinh tử sinh; tưởng điên đảo diệt thì sinh tử chấm dứt. Chỗ sinh tử chấm dứt là tánh không Niết-bàn; chỗ tánh không Niết-bàn là mạt cám trong mắt. Niết-bàn đã không thì gọi cái gì là mạt cám trong mắt? Mây trắng bỗng bay đến ngọn núi cao, trăng sáng khó nói chiếu xuống Bích Thiên. Sư Thượng đường nêu, Vô Trước đến núi Ngũ đài đảnh lễ ngài Văn-thù Ngài Văn-thù hỏi: Đại đức từ đâu đến? Tôi từ phương Nam đến. Làm thế nào gìn giữ Phật pháp được ở phương Nam? Tỳ-kheo thời Mạt pháp ít vâng giữ giới luật. Có được bao nhiêu Tỳ-kheo? Khoảng trừ ba đến năm trăm vị. Vô Trước lại hỏi: Hòa thượng ở đây làm thế nào giữ gìn được Phật pháp? Văn-thù đáp: Phàm Thánh ở chung, rắn rồng lẫn lộn. Vô Trước hỏi: Chúng nhiều hay ít? Văn-thù đáp: Trước ba ba, sau cũng ba ba. Sư bảo: Nếu ngay lúc ấy Kính Sơn thấy thì đã đến nói với ông ta: Hòa thượng trụ trì như thế thật là không dễ. Sư thợng đường, có vị Tăng hỏi: Ngài Tuyết Phong năm lần bảy lượt đến Đỗng Sơn. Vì sao lại thành đạo ở Miết Sơn? Sư đáp: Nhà buôn bán ở Dương châu. Sau đến ở am tranh, có vị Tăng gõ cửa, Tuyết Phong ra hỏi: Ai đó? Tăng cũng hỏi: Ai đó? Như vậy có hơn kém gì không? Hơn thì tất cả đều hơn, kém thì tất cả đều kém. Tăng hỏi: Vì sao Tuyết Phong cúi đầu trở về am tranh? Sư đáp: Nghi ngờ là giết chết mọi người trong thiên hạ. Tăng hỏi: Có giống như trường hợp ngài Nham Đầu không? Nham Đầu đáp: Đúng thời ta sẽ đến, ông ta nói một câu sau rốt. Người trong thiên hạ đâu cấm được lão Tuyết! Thế nào là câu sau rốt? Sư đáp: Không ngủ chung gường đâu biết trong chăn có rận? Tăng hỏi: Ngài Nham Đầu nói: Tuyết Phong và ta cùng sinh chứ không cùng tử, biết câu sau rốt là đây. Ý chỉ thế nào? Sư đáp: Người xưa nói: dây leo xoắn quanh một thân cây để leo lên, cứ leo, leo mãi đến tận ngọn tùng. Mây trắng bàng bạc vượt khỏi thái hư. Muôn pháp vốn vắng lặng, chỉ có con người làm náo động. Lại trong giáo nói: phàm phu thấy các pháp và chuyển theo tướng của nó. Họ không hiểu pháp vốn vô tướng, vì thế không thấy Phật. Sư bèn đưa Phất trần lên, nói: Đây là tướng, kia là vô tướng. Sum la muôn tượng hiện đang bày ra trước mắt. Mắt thấy, tai nghe, tất cẩ đều là pháp thì đâu từng ồn náo. Đã không từng ồn náo thì đâu thể nói vật chuyển theo tướng. Sư lại đưa cái phất trần lên, bảo: “Cái này là vô tướng”, lại vì sao? Đã không hiểu rõ thì đến chỗ nào gặp Phật? còn bảo người xưa nói rất đúng, trong giáo rất đúng. Đúng là đúng cái gì? Nếu phân tích kỹ càng vấn đề này thì được tho- át ra. Phật Thích-ca không trước, Phật Di-lặc không sau, tuy như vây nhưng chưa tránh khỏi bị cái phất trần của sơn Tăng xỏ qua lỗ mũi. Sư lại đưa phất trần lên, bảo: Tùy tướng chuyển. Bị phất trần xỏ qua lỗ mũi là không tuỳ tướng chuyển. Bị phất trần xỏ qua lỗ mũi; bảy Đức Phật cũng bị phất trần xỏ qua lỗ mũi. Rồi sư quay sang nhìn đại chúng, hỏi: phải làm thế nào để thoát khỏi được lỗi này, nước cuối cùng chảy về biển, mây nhất định bay về núi. Sư vỗ giường Thiền, xuống tòa. Sư Thượng đường nêu, có một vị Tăng hỏi Mễ Hồ: Từ xưa các bậc Hiền có thấu đạt được lý chân thật hay không? Mễ Hồ bảo là thấu đạt được. Tăng hỏi: Làm sao thấu đạt được chân lý? Mễ Hồ đáp: Lúc ấy bỗng một tia sáng loé lên giả bán thành bạc cho Thiền Vu (vua nước Hung Nô) thì người nào ghi sổ sách? Vị Tăng không đáp được. Sư bảo: Nếu lúc ấy Kính Sơn là vị Tăng này thì đã hạ được câu chuyển ngữ để bịt miệng lão già này, hãy nói hạ câu gì? Sư im lặng hồi lâu, nói: Nếu giáo dễ được thì xem thường. Sư Thượng đường bảo: Hôm nay, sơn Tăng nấu cháo cúng dường đại chúng. Ăn cháo xong, đại chúng đồng đến điện Long Vương tụng niệm. Tụng niệm rồi xin đem của cải của hóa chủ đi đốt. Nhiều việc như thế, nếu là ý chỉ mầu nhiệm của Thiền tông thì chưa có công phu gì để nói được. Sư xuống tòa. Sư Thượng đường nêu: Tiên sư Viên Ngộ ở Giáp Sơn dạy chúng rằng: Thông thân là mắt thấy không đến; thông thân là tai nghe không rõ; Thông thân là miệng nói không dính mắc; thông thân là tâm soi không ra; thông thân là buông bỏ. Có người nói: nếu không có mắt thì làm sao thấy; không có tai thì làm sao nghe; không có miệng thì làm sao nói; không có tam thì làm sao soi gương. Nếu đến đây dứt bỏ được một tuyến đường thì mau đồng tham với cổ Phật. Hãy nói, người nào tham? Sư đáp: Tiếc thật! Không có Kính Sơn ở đây! Nếu có một đóm lửa thì chiếu soi được bao nhiêu gương mặt lão Hán? Tức là người bên cạnh, hôm nay không cam lòng đứng ra nói. Hòa thượng cũng là người Phổ Châu thì làm sao đén đó nói: Tây Thiên chặt đầu cắt tay, trong đây tự lãnh lấy. Sư Thượng đường nói: Trước ngày 15 câu nói của mọi người còn dinh mắc, lời nói của Kính Sơn thì không dính mắc. Sau ngày 15 câu nói của Kính Sơn bị dính mắc còn câu nói của mọi người thì không dính mắc. Còn lời nói ngay ngày 15 thì thế nào? Im lặng hồi lâu, sư đáp: Khắp cả. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Hư không bít lấp thì thế nào? Sư liền hét. Tăng thưa: Ngài Văn-thù, Phổ Hiền đến. Sư đáp: Hư không bít lấp, chỗ nào cho Kính Sơn gặp. Tăng cũng hét một tiếng. Sư bảo: Văn-thù, Phổ Hiền do lỗi gì mà ở dưới gót chân ông? Tăng suy nghó, sư liền đánh, bảo: Đạo Vónh Gia, rõ ràng thấy không một vật, không có người cũng không có Phật, tất cả muôn vật đều giống như bọt nước trong biển đại thiên sa giới; tất cả Thánh hiền giống như điện chớp. Có một lão túc dùng tay bóp lại, hỏi: Đã không một vật thì thấy cái gì thông suốt rõ ràng? Sư đáp: Hãy nói lão túc nói cái gì? còn đủ hai mắt không? Sư Thượng đường bảo, vua Thiết Luân ra sắc lệnh trong một vùng. Tháng hai, Phong Can cởi cọp vào chợ. Tháng ba, một con ba ba lớn chuyển minh trong mắt con tiêu minh. Sư cầm gậy, bảo: không có cái gì đồng sinh đồng tử. Đi ra thì gặp Kính Sơn chống gậy. Im lặng hồi lâu, sư nói: thấy việc nghóa chẳng làm thì có dũng khí gì? Sư ném gậy. Sư Thượng đường nói: Tâm sinh pháp diệt, tánh khởi tình vong. Ngộ được lý này, bỏ cái chấp quái gở kia có gì khó. Sư đưa phất trần lên bảo: Xem đây, nhìn đây, Quán âm, Di-lặc, Phổ Hiền, Văn-thù, tất cả đều đến nhóp họp trên đầu cái phất trần của Kính Sơn, phá đập dây mơ rễ má. Nếu thả ra thì miệng nói nhọc động lưỡi. Nếu giữ lại thì không cần lấy cái phất trần, sư phất một cái, vỗ vào giường thiền, xuống tòa. Sư Thượng đường nêu, Mục Châu hỏi Tăng Chánh: Giảng được luận Duy Thức không? Tăng Chánh đáp: - Không dám, lúc còn nhỏ đã đọc qua văn tự. Ngài Mục Châu cầm cái bánh đường bẻ làm hai, hỏi: Hai nửa này gọi là gì? Tăng Chánh im lặng. Mục Châu hỏi: Gọi là bánh đường hay chẳng phải bánh đường? Tăng Chánh đáp: Chẳng thể không gọi là bánh đường. Ngài Mục Châu lại gọi chú sa di đến hỏi: Hai mảnh này gọi là gì? Sa-di đáp: Gọi là bánh đường. Mục Châu bảo: Ông cũng giảng được luận Duy Thức. Sư bảo: Đúng thật, Tăng Chánh và Sa-di giảng được luận Duy Thức. Nhưng chỉ không thể biết cái bánh đường để đến nơi. Lão Mục Châu tuy là Thiện tri thức của một vùng, nhưng nếu là “ba cõi Duy tâm, muôn pháp Duy thức” thì rốt cuộc không hiểu được lý. Sư Thượng đường nói: Ba lần chuyển pháp luân nơi đại thiên. Pháp luân ấy thường thanh tịnh. Trời người đắc đạo, đó đã chứng minh Tam bảo thị hiện ở thế gian. Sư dộng gậy ba lần, rồi bảo: Đã ba lần chuyển pháp luân rồi, còn tin cái nào là Tam bảo thị hiện ở thế gian? Im lặng hồi lâu, sư bảo: Trong kho vua của ta không giống như đao này. Rồi sư vỗ bàn một cái. Sư Thượng đường bảo: Xưa kia Phật bảo năm trăm vị Tôn giả hàng phục một con rồng dữ. Các Tôn giả đều vận thần thông nhưng không hàng phục được. Bỗng có môït Tôn giả ở nơi khác đến, Phật bảo Tôn giả ấy hàng phục rồng dữ. Tôn giả đến trước rồng búng ngón tay, rồng liền quy phục. Sư nói: Thần thông của năm trăm vị Tôn giả cũng bằng với một Tôn giả phương khác, vì sao không hàng phục được rồng dữ? Thần thông của một Tôn giả nơi khác cũng bằng thần thông của năm trăm Tôn giả nhưng tại sao hàng phục được rồng dữ? Sư đưa phất trần lên hỏi: - Hiểu không? Tranh thêu đôi chim uyên ương xuất phát từ cung vua. Đừng so sánh sàng với người. Sư vỗ giường thiền, xuống tòa. Trần Bảng Nhãn đến pháp tòa, bảo: Trong giáo nói, lúc ta không thấy thì chỗ nào không tháy cái ta không thấy? Nếu thấy cái không thấy thì đương nhiên chẳng phải là tướng kia không thấy. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy thì tự nhiên chẳng phải là vật. Vì sao chẳng phải là ngươi. Sư ông Bạch Vân tụng rằng: Trước thiền đường lâu đã mang thai Sao không sinh đứa trẻ xinh đẹp Chưa hiểu ngôn ngữ đã làm phú Sau này chắc chắn đỗ Trạng nguyên. Sư nói: Xin hỏi các vị, các vị biết sư ông rơi vào nơi nào không? Nếu biết thì mới hiểu được Trạng nguyên. Nếu không biết thì Kính Sơn chỉ cho ông. Có lơi, không có lợi đều có thể đi vào chợ. Nếu còn chấp một cái thì sẽ rơi vào thứ hai. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thuý Nham dạy chúng rằng, mùa hạ nọ các huynh đệ cùng nói chuyện đông chuyện tây, xem lông mày của Thuý Nham ở đâu? Ý chỉ thế nào? Sư đáp: Từ đầu vốn là tội ấy. Tăng hỏi: Bảo Phước nói, làm giặc mà tâm rỗng tuếch thì làm gì được? Sư đáp: Con lừa chọn chỗ ẩm ướt để đi tiểu. Tăng hỏi: Trường Khánh là sinh, Vân Môn nói là quan, phải làm thế nào? Sư đáp: Đổ một giỏ phân với chổi lau cùn. Vị Tăng hỏi: Sau có vị lão túc nói: Thuý Nham không gío mà nổi sáng, làm sao thấy được? Rộng khắp nhưng chẳng phải Thánh cũng không do dự chần chừ. Che sắc, kî thanh hoàn toàn nhờ vào sức của họ. Chư Phật lấy đây để độ sinh; nạp Tăng lấy đây làm sinh mạng, phơi bày rõ rệt, thoáng đãng tự nhiên nhưng không thể nắm bắt được. Đi vẫn đi, ngồi vẫn ngồi; đói thì ăn cơm, lạnh thì đến hơ lửa. Xoay vần thế nào cuối cùng gọi là nạp Tăng? Không nghe sư ông Bạch Vân nói: “Có khi đầu chày nở hoa. ” Có lúc Phật đối diện trăm thứ xấu, Lý Công say mèm, tự là Trương Công, uống rượu đốt hết lông mi. LộTrụ vỗ tay cười ha ha v. v… Hãy nói Lộ Trụ vỗ tay đã thành tựu được sự nghiệp gì? Tham. Sư Thượng đường, cư só Liễu Nhân dọn cháo cúng dường tất cả các bậc long tượng trong thiền đường. Ăn xong treo bát để làm tấm gương cho tất cả những người từ Tây sang. Hôm qua là ngày giỗ Hòa thượng Viên Ngộ, sư niêm hương nói: Bậc Tôn Từ này ngày xưa khí tiết lẫy lừng, bốn phương thiên hạ nễ vì, tài năng vượt bậc, dùng lý trí phân tích sự việc thấu suốt sâu xa, tự nói, ta có thể dùng cây mộc hoạn tử để đổi lấy con mắt của mọi người trong thiên hạ. Thật không ngờ bị đứa con bất hiếu xỏ mũi, xách đầu đã ở trong tay Kính Sơn, hãy nói, lấy gì làm kinh nghiệm. Rồi sư đốt hương, nguyện: “Lấy đây làm kinh nghiệm. ” Sư Thượng đường nói: Năm ngoái người ngắm trăng trung thu, năm nay người ngắm trăng trung thu. Người của năm nay cũng là người của năm ngoái; trăng năm nay cũng là trăng năm ngoái. Sao vẫn có người nhìn việc này bằng một con mắt? Nếu nhìn được, Kính Sơn chia nửa viện cho y ở. Còn nếu xem không được thì trở về thiền đường uống trà. Sư Thượng đường nói: Người xưa nói là đã hiểu rõ muôn việc rồi. Sáng hôm nay là mùng một tháng chín, các ngươi đã làm gì rồi? Bỗng sư cầm gây bảo: không được gọi cầm gậy thì liền hiểu rõ, nắm bắt được, đã không gọi là cầm gây thì gọi là gì? sư ném gậy bảo: sai một ly đi một dặm. Sư Thượng đường nêu: Ngài Vân Môn đã nói biết chỗ đến. Hãy nói vào kiếp nào không có Tổ sư. Tự Đại nói: Ngày đó và ngày nay không liên can gì với nhau. Sư nói: Vân Môn cũng làm giặc, tâm rỗng không. Kính Sơn thì không như vậy. Đã biết chỗ đến hãy nói vào kiếp nào không có Tổ sư? Không định đập cỏ mà muốn rắn sợ. Sư Thượng đường bảo: Sáng nay là ngày mùng năm tháng năm, trời nửa ngày mưa, nửa ngày tạnh, mắt mũi của nạp Tăng nhất định phải kiêng hòa, bùn trộn đất. Rồi sư ngoái nhìn đại chúng, bảo: - Lo sợ chính là lo sợ; lanh lợi cứ việc lanh lợi, hỏi phớt qua mười người thì năm người không biết. Đã lo sợ còn lanh lợi! Vì sao không biết rơi vào chỗ nào? Vì không thấy đạo nên phải dặn dò. Sư Thượng đường cầm cây gậy dạy chúng rằng: Người ngu si dại dột gọi đây là cây gậy, người ngộ đạo cũng gọi đây là cây gậy. Tuy mê ngộ có khác nhưng cái thấy thì không khác. Cái thấy đã không khác thì người mê là theo sự dạy bảo mà mê; người ngộ là do sự dạy bảo mà ngộ, tất cả đều chẳng phải do việc này. Sư lại hỏi: hôm nay trong mắt các ngươi là mê, hay không thấy, hay khác? Sư hét một tiếng, dộng gậy, nói: Là từ đầu khởi lễ Tham Chính đến Thiên trúc để lên tòa pháp. Tăng hỏi: Lễ bái Đức Thích-ca mà không vái chào Đức Di-lặc thì thế nào? Sư đáp: Sẽ gọi Hòa thượng quên từ chối. Tăng hỏi: Ông nhớ thì thử nói xem. Tăng hỏi: Tuy nói không được nhưng cũng muốn không mất. Sư đáp: Nguyên do là không hiểu. Tăng hỏi: Sự việc đến nay đã gửi gắm cho ai? Sư đáp: Gửi gắm cho ông lão mù. Tăng hỏi: Tông Lâm Tế hoàn toàn dựa vào sức mình. Sư đáp: Việc này không liên can gì đến ông. Tăng hỏi: Bảy cô gái hiền thục ngày xưa đi đến rừng Thi-đà dạo chơi, một cô nói: Thây chết ở đây, người sẽ đem đi đâu? Cô khác hỏi: Làm gì, làm gì? Tức thời bảy cô đều ngộ Vô sinh pháp nhẫn. Sư đáp: Lấy trong cái đầu lâu. Tăng hỏi: Ánh sáng lấp lánh đẹp đẽ xưa nayvượt khắp trời đất vũ trụ. Sư đáp: Kho lúa này xấu quá. Vị Tăng hỏi: Tứ chủ bạ hiện giờ ở đâu? Sư đưa phất trần lên, đáp: Ở trong đây. Tăng hỏi: Ma-kiệt lưu truyền ngàn xưa, bèn nói: - Khéo đào đất tìm trời, nếu hiểu lý thì rõ chân vọng đều không. khải cáo, đến nỗi tâm tâm không tiếp xúc với muôn vật; niệm niệm cắt đứt phan duyên. Quán pháp giới trong một hạt bụi; thấy hạt bụi đầy khắp pháp giới. Trần trần, niệm niệm, pháp pháp đều là giáo thừa, chưa phải là chỗ nạp Tăng xả bỏ thân mạng. Nếu biết được chỗ của nạp Tăng xả bỏ thân mạng thì vào tử ra sinh được tự tại hoàn toàn. Lấy sinh tử làm sân khấu vui đùa mà không bị sinh tử làm trở ngại. Việc ấy không được vì chưa khỏi sắn bìm. Tánh mầu tròn sáng là lìa danh tướng. Xưa nay, không có thế giới, không có chúng sinh. Vì vọng có sinh, do sinh nên có diệt. Sinh diệt gọi là vọng; dứt vọng gọi là chân. Sư bèn quay lại nhìn đại chúng: Hôm nay Tham Chánh Tướng Công vì quên Nam chủ mất hết bảy thần mạng, sơn Tăng lên tòa này tuyên dương cho đại chúng nghe. Tăng tục đều đến hội này tham vấn, là cái gì? Nếu nói là dối hiện thì nay nói pháp, nghe pháp, trải qua nhiều kiếp vẫn truyền bá một thứ ánh sáng độc nhất, lại là vật gì? Nếu mắt là vọng thì thấy được sắc gì? Tai nếu là vọng thì nghe được âm thanh gì? Nếu mũi là vọng thì ngữi được mùi gì? Nếu lưỡi là vọng thì nếm được vị gì? Nếu thân là vọng thì có được cảm giác gì? Nếu ý là vọng thì sẽ phân biệt được gì? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không thuộc về vọng thì “nhất chân” nương vào đâu? Nó đã không chỗ y cứ thì chắc chắn bình đẳng. Tân đây mới biết chủ Bạc. Tuy ngày xưa sinh nhưng vốn không hề sinh, ngày nay tuy diệt nhưng vốn không hề diệt. Đã bất sinh bất diệt thì còn gọi gì là tánh mầu tròn sáng! Chân vọng, danh tướng đâu có chỗ an trụ. Sao gửi gắm tất cả? Một khi đằng thân thì thân vượt ngoài thái hư, lỗ mũi theo sự tôn kính trước tháp. Sư xuống tòa. Sư Thượng đường nói: Pháp thân chân thật của Phật giống như hư không. Sư cầm phất trần đập vào giường thiền một cái, bảo: Ứng vật hiện hình như trăng dưới đáy nước. Sư lại đứng lên, bảo: Có mắt như mù. Nếu nói thấy thì hãy nói đi. Ở trong, ở ngoài, ở giữa hay ở xung quanh cái phất trần này? Ông nói không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa thì sao thấy rõ ràng được? môn hạ của Kính Sơn thích ăn gậy. Sư vỗ giường thiền, xuống tòa. Sư Thượng đường nói: Bàng Sơn nói con đường hướng thượng ngàn Thánh không truyền. Từ Minh nói con đường hướng thượng ngàn Thánh không đúng. Kính Sơn nói con đường hướng thượng tiếng chim oan ương hót. Sư xuống tòa. Xuất Hương Quy thượng đường cử: Pháp sư Triệu nói động như mây bay, dừng như hang thần. Đã vô tâm ở đây, kia há có voi đi về. Tu Sơn chủ nói đi đi thật chẳng đi, giữa đường thích làm lành, lai lai thật chẳng lại, trên đường không gặp nguy. Sư bảo: Hai lão già này. Tiếc thật! Không có Kính Sơn ở đây. Nếu có thì cho trói hai ông lại quăng xuống sông Tiền Đường. Vì sao con người, sông núi và mặt trời mặt trăng xưa nay, lạnh thì khắp trời khắp đất đều lạnh. Nóng thì nóng khắp trong trời đất, đi đi lại lại động động tónh tónh lại có lỗi gì? Có một nạp Tăng bước ra nói: Kính Sơn nói gì thì cũng cột vào một bó quăng xuống sông Tiền Đường. Sơn Tăng lại nấu nước pha trà rồi đưa cho y uống. Vì sao như thế? Đại trượng phu vuốt râu hổ, chẳng lẽ là phần ngoài ư? Sư Thượng đường nói: Ngàn lời nói, muôn lời nói khen ngợi huỷ nhục, an lập mà nói, hay thuận theo thế tục mà nói; nói rõ ràng hay nói không rõ ràng đều là oản đạt khâu. Sư đưa gậy lên nói: Ngay người đây, biết giữ lấy cái này thì không bị sinh tử xoay chuyển; không bị nóng lạnh đổi dời, có nạp Tăng đến đạo tràng này cũng chỉ là cây gậy. Dùng cái biết để làm gì? Hiện nay có một loại cây Đổ Tuyển Hiền Hòa, phần nhiều là kiểu kiến giải này. Sư ném gậy, xuống tòa. Sư Thượng đường, ngày 15 tháng chạp, tuyết rơi là điềm tốt, điềm lành, chẳng phải là luống suông. Ngài Văn-thù hiện ra tướng lưỡi rộng dài, Đại só Phổ Hiền đước một cây cọc. Cây cọc ấy là thế nào? Khán cố lộ buộc vao sinh thiết. Sư Thượng đường nêu, có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Sai sót một mảy lông thì thế nào? Ngài Triệu Châu đáp: Cách nhau như trời với đất. Tăng hỏi: Không sai sót một mảy lông thì thế nào? - Trời đất xa cách nhau. Sư nói: Các người có hiểu câu nói của Triệu Châu hay không? Tập quán từ lỗi trước lầu ngũ phụng. Thủ ốc kim tiên gia thái bình. Sư Thượng đường, đưa cây gậy lên, bảo: Sáng nay là ngày 25 tháng chạp, mọi nơi đều hát khúc Vân môn. Kính Sơn theo lệ hòa âm thanh vào. Nói rồi, sư dộng gậy xuống đất, hỏi: Có nghe gì không? Không ai cấm đá làm nên ngọc. Lễ kỷ niệm ngày khai sơn, sư Thượng đường bảo: Lễ hội hôm nay, tổ sư Nhất Đại Giác ở núi này vì các người mà hướng đến tất cả mọi nơi chuyển pháp luân vô thượng. Tất cả đều là thời tiết đến nỗi đại địa lục chủng, mười tám tướng rung chuyển vang ra âm thanh lớn. Âm nhạc của các vị trời không trỗi mà tự vang, phàm các thứ ca vịnh tự nhiên hòa tấu trên hư không, hoa báu cùng lúc rơi xuống. Ngay lúc ấy là gì? Trần sa chư Phật, các Đại Bồ-tát, các A-la-hán, thiên long, bát bộ, quỷ thần… Mỗi loài đều nhóm họp đến hội, đều rất vui mừng khen ngợi: Hay thay! Ít có thay! Tổ sư Đại Giác khéo nói pháp này. Tất cả chúng tôi đồng đến đây để chứng minh. Chứng minh thì không có gì mà không được, thế nào là pháp này? Im lặng hồi lâu, sư đáp: Mây có thế bay ra khỏi núi; âm thanh của nước không đổ vào khe. Ngày mùng một tết, sư Thượng đường bảo: Ngày này năm ngoái cũng chỉ là cái này. ngày này năm kia cũng chỉ là cái này ngày này của những năm trước cũng chỉ là cái này. Ngày này của những năm trước trước nữa cũng chỉ là cái này. Ngày này năm sau cũng chỉ là cái này. Ngày này của những năm sau nữa cũng chỉ là cái này. Ngày này của những năm sau sau nữa cũng chỉ là cái này. Hãy nói cái này là cái gi? Niên hiệu Nguyên Chánh mở ra muôn vật đều mới, ngay lúc ấy Nạp Hựu Khánh không có gì chẳng hợp nghi. Sư hét một tiếng bảo: Tục khí khó trừ. Tri huyện họ Trần thỉnh sư lên tòa, Tổ sư nói: Thông đạt bổn tâm pháp; chẳng có pháp, chẳng có phi pháp. Lại gọi gì là bổn pháp? Bổn pháp làm sao sinh thông đạt? Ông già mặt vàng nói: Tâm không vọng chấp pháp quá khứ, cũng không tham chấp việc tương lai, không ở hiện tại mà có chổ trụ. Hiểu rõ ba đời đều vắng lặng. Sao các người còn ủy phó cho tất cả? Nếu chưa uỷ phó hết thì rõ ràng các vị là chú phá. Không trụ hiện tại, ấy gọi là định. Không dính mắc vào tương lai ấy gọi là tuệ. Không chấp vào quá khứ gọi là trí, cũng gọi là thiền Như Lai, thiền Tổ sư. Nếu dùng hai trong sáu thời mỗi ngày, như thế là thông đạt, như thế là liễu ngộ. Định ấy, tuệ ấy mỗi thứ đều như hư không, không có bờ mé. Định tuệ trí đã không có bờ mé thì người ngày nay dùng ánh sáng thần thông cũng không có bờ mé. Pháp môn giải thoát Ba-la-mật đã không có bờ mé, tâm vô trụ này cũng không có bờ mé. Vì tâm vô trụ này không có bờ mé nên ngày nay Kính Sơn dùng tâm không bờ mé này để nói pháp không bờ mé. Phụng vì thần tử Trần Á Khanh, chúc Ngô Quân Thọ lâu dài như trời đất cũng không bờ mé. Ngay lúc đó thì thế nào? Nếu y cứ vào thơi và tiết thì một câu làm sao nói? Sư đưa phất trần lên, bảo: đem thân tâm này thờ phụng trần sát thì gọi là báo ân vua ta. Sư xuống tòa. Sư Thượng đường, ngày 14, 15 tháng giêng, Kính Sơn khua chiên gõ trống, muốn biết diệu chỉ Thiền tông, xem nơi nào là thôn ca xã múa. Một ngày đẹp trời nọ, hoàng đế Huy Tông thượng đương, sư niêm hương rồi liền lên tòa bảo: - Thân từ trong vô tướng mà thọ sinh, giống như huyễn mà tạo hóa ra các hình tướng. Tâm thức huyễn vốn là không, tôi phước đều không, không có chỗ trụ. Trên từ các bậc Thánh không vị nào chẳng từ chỗ vô sở trụ để thành tựu chúng sinh. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện giáng thần vao trong bào thai mười tháng. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện đản sinh. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện đi bảy bước. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện vào trong cung vua. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện xuất gia. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện tu hành khổ hạnh. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện ngồi dưới gốc Bồ-đề thành chánh giác. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện hàng phục ma quân. Ở trong chỗû trụ thị hiện ngồi trong đạo tràng chuyển pháp luân đọ hữu tình. Ở trong chỗ vô sở trụ thị hiện thọ ký cho các Bồ- tát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ở trong chỗ vô sở trụ làm Phật sự rồi thị hiện Niết-bàn. Sư nhóm họp đại chúng đến, dạy rằng: Từ trên các bậc Thánh đã thị hiện như thế, hôm nay thần Tăng Tông Cảo cũng nói pháp như thế. Chỉ đem pháp như thế cung kính, vì Huy Tông Thánh Văn nhân đức lộ rõ hiếu hoàng đế và cung kính hoàng hậu, dùng đề trang nghiêm tiên giá. Kính nguyện không giữ tự tánh, khắp hiện trong trần sa, thân vững chắc giống như bậc thượng nhân kia trụ trong biển giải thoát, chẳng thể nghó bàn. Sư xuống tòa. Sư Thượng đường bảo: Tâm ấy chính là Phật. Phật không xa người. Vô tâm là đạo, đạo không ngoài vật, chư Phật ba đời dùng tâm này nói pháp, dùng đạo này độ sinh. Lấy đạo này độ sinh, vô chúng sinh để độ, dùng tâm này nói háp, vô có pháp để nói. Vô có pháp để nói mới là chân thật nói pháp. Vô chúng sinh để độ mới là độ sinh chân thật. Nên biết, chư Phật ba đời cũng như thế, hiện tiền đại chúng cũng như thế, sư đưa phất trần lên, hỏi: Có ung dung tự tại không? Rồi vỗ vào giường thiền, bảo: Đúng thế, đúng thế! Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Người không làm bạn với muôn pháp thì thế nào? Sư đáp: Trên trời, dưới đất ở đâu không có người này. Tăng hỏi: Vì sao lại ở dưới tòa của Kính Sơn? Sư đáp: Nhà không nhỏ khiến không thành quân tử. Liền bảo: Bụi bụi, cõi cõi không một mảy lông. Thể hiện oai nghi chững chạc trong cuộc sống hằng ngày. Chư Phật ba đời đứng ở dưới gió, Tổ sư nhiều đời hồn bay đảm tán. Hãy nói, y cứ vào đạo lý gì? Lại được cái kỳ đặc gì? Có tự do không? Nếu đã tự tại thì một niệm là muôn năm, muôn năm là một niệm, nếu chưa được tự tại thì người phía Đông ngồi ở rìa Đông, người ở phía Tây ngồi ở rìa Tây. Sư Thượng đường, bảo: Vừa hết một năm, xin chúc mừng năm mới. Sáng hôm nay là ngày mùng 1 tháng 2, vào chỗ chứng không thể bàn bạc. Ma-ha Bát-nhã Ba- la-mật. Sư Thượng đường, bảo: Phật vàng không chịu nỗi lò nung. Phật gỗ không chịu được lửa. Phật bùn không chịu nổi nước. Phật chân thật đang ngồi trong nhà. Hòa thượng Triệu Châu thổ lộ tâm tình như thế là báo đáp, có ai biết ân, báo ân không? Sư xuống tòa. Sư Thượng đường cầm phất trần đánh vào giường thiền, bảo: Hoàng thân nước Ma-kiệt-đề thi hành lịnh này. Chư Phật ba đời, mắt giống như lỗ mũi. Nạp Tăng chia phần trên thành việc gì? Không có đạo thì được gì? Tứ lăng tháp địa nói sẽ đem một câu tới, nếu nói không được thì Kính Sơn tự nói đi. Sư liền xuống tòa. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Bò của Hoài Châu ăn lúa, ngựa của Ích Châu căng bụng, thiên hạ đi tìm thầy thuốc. Quay nướng heo, phanh thây xé xác nó ra nhiều phần là thần thông diệu dụng, là pháp ấy như vậy. Sư bảo: Cũng chẳng phải thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải pháp ấy như vậy. Tăng hỏi: Rốt cuộc thì thế nào? Sư đáp: Lông mao dưới cầm dài tám mét. Đại đạo chỉ ở trước mắt, quan trọng là ở trước mắt mà khó thấy. Muốn biết chân thể của đại đạo thì không nên lìa thanh sắc và ngôn từ, nếu từ thanh sắc và ngôn từ để tìm chân thể của dại đạo thì giống như ở trong điện Hàm Nguyên còn tìm Trường An. Nói chung là chẳng được gì, rốt cuộc thì thế nào? Mưa xuống, chim trả trở mình bên lá sen; cò trăng xung phá khói Trúc Lâm. Sư tắm Phật rồi thượng đường, nói: Trong vườn Tỳ-lam không hề sinh, dưới cây song lâm không hề diệt, bất sinh bất diệt thấy Cù-đàm, trong mắt lại còn thêm mạt vụn. Cuối mùa hạ, sư Thượng đường, bảo: Ngày này khắp nơi trong tòng lâm không ai chẳng y cứ vao Bồ-tát thừa để tu hạnh vắng lặng. Lấy đại viên giác làm già lam của ta. Thân tâm an cư, bình đẳng trí tánh. Kính Sơn lại không như vậy. Trong chín mươi ngày thường các chư nạp tử cùng ăn cơm không gạo, uống nước không ướt. Nói lời hoa hoè mộng mị, còn nói đến việc tu hành gì? Cho chư Tăng ở các nơi giải hạ rôi, bao nhiêu người cùng đi. Im lặng hồi lâu, sư bảo: - Đem thâm tâm này phụng thờ trần sát chư Phật thì gọi là báo ân Phật. Sư Thượng đường, bảo: Thân, miệng, ý thanh tịnh thì gọi là Phật ra đời, thân miệng ý không thanh tịnh thì gọi là Phật diệt độ. Nay ta giao việc này cho ông đảm nhiệm, không hề luống dối. Việc này phải làm thế nào? Phải đảm nhiệm ra sao? Há không thấy Tăng hỏi ngài Quy Tông: Thế nào là Phật? Ngài Quy Tông đáp: Ta nói cho ông nghe, ông có tin không! Tăng hỏi: Hòa thượng nói lời thành thật chứ? Quy Tông đáp: Mắt kéo màng thì không thấy hoa đốm lăng xăng trên hư không. Sư bảo: Quy Tông đã bỏ một cái nguy lớn rồi liền thâu lại. Lúc ấy, vị Tăng này vỗ tay cười ha ha. Lão già Quy Tông đên chỗ nào để bày tỏ mặt mũi này? Xin hỏi các vị, hôm nay hợp tác thế nào? Một phen bất ngôn đều hữu tượng, nơi nào muôn linh chối từ vô tư?. Sư Thượng đường, ngày 25 tháng 4 trời quang mây tạnh bỗng đổ mưa. Trúc Độ Đại Tiên tâm thầm trao cho khắp nơi. Việc này giống như là nhân duyên thời tiết chứ chẳng phải phạm trù của môn hạ nạp Tăng. Hãy nói, thế nào là phàm trù của môn hạ nạp Tăng? Im lặng hồi lâu, sư bảo: Con hổ lớn ở núi Bắc cắn chết con hổ ở núi Nam. Sư Thượng đường nêu, Cao Đình lần đầu tiên tham vấn Đức Sơn, Cao Đình đừng bên này sông thăm hỏi ngài Đức Sơn ở bên kia sông. Đức Sơn đưa tay vẫy gọi, Cao Đình bỗng nhiên tỏ ngộ, liền băng ngay qua sông, chạy đến chố Đức Sơn. Ngài Đức Sơn cho phép y làm một nạp Tăng lanh lợi. Nếu muốn nối pháp Đức Sơn thì chưa được, vì sao cách một con sông mà được gặp Đức Sơn?. Sư Thượng đường hỏi: thế nào là trời xa thăm thẳm, ngàn lớp mây chỉ là sự đột nhiên, người xưa đã nói gì? Rất giống mắt nhặm thấy hoa đốm giữa hư không. Kính Sơn thì không như vậy. Thế nào là không sinh vọng tưởng, hiểu thông suốt xưa nay là mánh khóe của loài khỉ. Sư Thượng đường nêu: Lê Vũ Đoan Công lên mây ở để cảm ơn mưa, Đoan Công hỏi ngài Hoằng Giác: Mưa từ đâu đến? Hoằng Giác đáp: Từ chỗ Đoan Công hỏi mà đến. Đoan Công lễ ba lễ rồi vui vẻ lui ra. Đi được vài bước, Hoằng Giác lại gọi giật lại: Đoan Công! Đoan Công liền quay đầu lại, Hoằng Giác hỏi: Từ đâu đến? Đoan Công không trả lời, trở về nhà ba ngày sau thì qua đời. Sư bảo: Lê Vũ Đoan Công không nói trở về nhà ba ngày sau thì chết chính là đang gãi chỗ ngứa của Hoằng Giác. Nhưng không biết linh động, cứ khư khư một đường. Ban đầu, đợi y hỏi từ đâu đến rồi còn y theo trước lễ ba lễ rồi vui vẽ lui ra làm Hoằng Giác khởi nghi suốt ba mươi năm. Sư Thượng đường đưa gậy lên, hỏi đại chúng: Có thấy không? Rồi sư dộng gậy, hỏi: Có nghe không? Nếu nói thật thấy, thật nghe thì chính là kẻ theo âm thanh tìm sắc. Sư lại đưa cây gậy lên hỏi: Có thấy không? Sư lại dộng gậy xuống, hỏi: Có nghe không? Nếu nói không thấy không nghe chính là kẻ né sắc trốn thanh. Cuối cùng thì thế nào? Sư ném gậy, bảo: Cánh chim nhạn bị chín chỗ cản trở nên khó bay lên cao. Ngựa không thể chạy ngàn dặm mà coi thường sức gió. Sư Thượng đường nêu, Lỗ Tổ bảo: Hễ có vị Tăng nào đến tham vấn thì liền xoay mặt vào vách. Ngày nọ Nam Tuyền đến, Tổ cũng ngồi xoay mặt vào vách. Nam Tuyền đến chưởng vào lưng một chưởng. Tổ hỏi: Ai? Nam Tuyền đáp: Phổ Nguyện. Tổ hỏi: Làm gì? Nam Tuyền đáp: Cũng là tầm thường. Sư bảo: Thòng móc câu xuống biển chỉ mong câu được rồng dữ. Xem xét huyền cơ bên ngoài là tìm tri kỷ. Lão già Nam Tuyền tuy có căn cơ tốt nhưng vẫn biết nơi dừng. Còn nói chưa biết Lỗ Tổ rơi vào chỗ nào? Hôm nay trong đại chúng có ai biết Lỗ Tổ rơi vào chỗ nào hay không? Gần đến ngày giỗ, các vị hãy vào hang quỷ bói một quẻ xem. Giang Bảo thỉnh sư lên tòa, sư bảo: sinh là sinh của tử; tử là tử của sinh. Nếu hai đường thản nhiên bằng phẳng thì chẳng có kia cũng chẳng có đây. Đã không có sinh tử lại không có kia đây thì rõ đầu trăm ngọn cỏ, rõ ý của Tổ sư. Giống như trời che chở tất cả; đất nâng đỡ tất cả. Một niệm tương ứng nhất thời thanh tịnh. Sư nhóm họp đại chúng đến dạy: Đã không sinh tử chỉ là Đàn-việt cấp sự. Năm mươi bảy năm về trước là cái gì? Năm mươi bảy năm về sau là cái gì? Im lặng hồi lâu, sư tiếp: Đại chúng cùng lúc mở to mắt ra xem lông mày ta có bao nhiêu cọng? <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 3 Đệ tử nối pháp, Thiền sư Nhất Tuệ, trụ trì thiền viện Năng Nhân ở Kính sơn là Uẩn Văn, kính dâng. Sư Thượng đường nêu, có vị Tăng hỏi ngài Mục Châu: Một lớp đi một lớp thì không kể, khi chẳng dùng một lớp đi một lớp thì như thế nào? Mục Châu đáp: Hôm qua trồng cây cà, sáng nay trồng cây bí, sư nói: Chỗ cao xem không đủ, chỗ thâp, chỗ bằng cho là có dư. Ngày mai các ngươi ở trong thiền đường được ăn cà chua thoả thích. Còn có ai đến với trái bí đao nói được một câu không? Nếu nói được một câu thì hoặc Tăng, hoặc tục, hỡu tình vô tình, tất cả đều no bụng rồi lăng ra đất ngáy khò khò. Nếu nói không được thì trả lại tiền cơm cho ta. Sư Thượng đường, nói: Pháp là thường pháp. Đạo là thường đạo ép buộc phá cửa mặt chính. Điểm tức là không đến. Sư hét một tiếng. Sư Thượng đường nêu, có vị Tăng hỏi ngài Mục Châu: Thế nào là giải thích được lời nói? Mục Châu đáp: Áo quần rách thì xem đó mà vá lại. Tăng hỏi: Thế nào là giải thích được lời nói? Ngài Mục Châu đáp: Mong còn được ăn. Sư đáp: Cổ Phật Mục Châu khéo ứng cơ mà đến. Tuy như vậy nhưng chỉ mới được vào thành. Có người hỏi Kính Sơn, thế nào là một câu nói được giải thích? Tức là nói với ông, hỏi mười đáp một trăm có khó gì. Thế nào là chẳng phải một câu nói được giải thích? Sư hét một tiếng, bảo: Cái hầm phẩn tiểu. Nguî Thị Lang ở nhờ huyện Thường sơn thuộc Cù châu, chịu tang Nguî Cang, chỉ bố thí tịnh tài, vào núi tu tập, nương sống trong chốn núi rừng hoang vắng rồi thăng lên tòa này mở rộng Bát-nhã. Dung công đức này trước hết xem xét lại chính mình, sau xem xét tình thế rồi mới giảng nói Bát-nhã. Sau khi chết, ông vãng sinh về cõi An dưỡng, các ngươi còn nhớ không? Lão cư só này ba đời ở Hòa Châu, tiếp đãi Nguî Công chu đáo. Sơn Tăng Đại Quán lần đầu hành cước cũng đến nhà ông ấy. Lúc đó, Thị Lang còn nhỏ. Hôm nay ông đã làm quan và hết lòng vì đất nước. Tất cả đều do âm đức của ông đã vun bồi trong nhiều kiếp chiêu cảm. Ông ấy bình thường dốc chí tu học, thích đọc sách Phật; thường theo lão Nạp đến phương khác dạo chơi, tinh tấn tu phạm hạnh, thường đem Vương Phạm Chí, Thổ Mạn Đầu làm Phật sự; đem lời đạo lý nhắc nhở người dân giúp họ tỉnh ngộ, sống đúng đạo lý và lưu truyền đạo lý trong nhân gian. Ông thường xem xét những vẩn đục của người, nghe những điều chỉ trích về mình thì xem xét, sửa đổi cho tốt đẹp hơn. Có người đến hỏi han thì thâu nhiếp, giáo hóa họ. Lời nói của ngài chẳng phải là lời nói tầm thường ở thế gian. Lúc sắp nhắm mắt xuôi tay ngài vẫn nói cười như thường rồi ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Đây là cái ngài Tịnh Danh gọi là có thân thì có khổ, ngài nghó đến chúng sinh trong đường ác nên khởi tâm đại Bi: Ta đã được điều phục nên phải điều phục cho tất cả chúng sinh, nhưng chỉ trừ được bệnh cho họ chứ không trừ được tận gốc vô minh. Ngài bèn gọi đại chúng đến dạy: bệnh của Nguî Công đã giảm bớt, có thể chịu được nỗi khổ nhọc. Hôm nay sẽ tùy duyên giảng pháp cho những ai đến nghe. Như vậy đủ thấy sự linh nghiệm của việc học Phật của ngài. Hôm nay may mắn, các vị đồng đến hội nghe pháp, đồng chứng minh sự linh nghiệm này nhưng các ngươi còn vướng phải một điều là khi mình mượn lỗ mũi để thở thì phải biết thở theo cách nào. Đó chính là Chân Như Phật tánh, là Bồ-đề Niết-bàn. Phải biết bệnh gì? Chính là vọng tưởng điên đảo, là tham sân tà kiến. Tuy vậy, nhưng nếu lìa vọng tưởng điên đảo thì không có Chân Như Phật tánh. Nếu lìa tham sân tà kiến thì không có Bồ-đề Niết-bàn. Còn nói giảng giãi phân tích để giữ một phần, bỏ một phần thì bệnh ấy càng nặng thêm. Nếu không giãng giải, phân tích thì lờ mờ về Phật tánh, mù mịt về chân như. Cuối cùng đạo lý gì là trừ bệnh không trừ pháp? Có một người bình thường nghe điều gì đó liền nói: Chính pháp là bệnh, chính bệnh là pháp. Nhưng nếu có ngôn từ thì không có thật nghóa. Thuận chân như thì tất cả đều là điên đảo vọng tưởng; tham sân tà kiến đều là pháp. Theo điên đảo thì tất cả chân như, Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn đều là bệnh. Kiến giải thế nào mà nói ta khoác nạp y liền làm chủ tòa. Nếu chưa đến đó thì làm sao biết thây chết trên mặt đất nhiều vô số? Rõ ràng là vượt qua được rừng gai gốc là người giỏi. Không nghe người xưa nói: Hễ bày ra một pháp là có lỗi với Niết-bàn hay sao? Lời ta nói cũng như mộng, như huyễn, như thật mà chứng, như thật mà giãi; thật mà tu, như thật mà hành. Vì pháp như thật có thể tự điều phục khiến tâm đại bi phát khởi, thực hành vô số phương tiện lại có khả năng điều phục tất cả chúng sinh mà không có chúng sinh nào được điều phục và cũng không nghó mình là người điều phục. Lại không có tư tưởng điên đảo, không có tưởng tham sân tà kiến, cũng không có tưởng chân như tà kiến, Bồ-đề Niết-bàn, không có tư tưởng trừ bệnh, không có tư tưởng trừ pháp; không có tư tưởng giữ một bỏ một, giảng giải phân tích và không giảng giải phân tích. Đã không có những tư tưởng như thế thì một lời nói thanh tịnh, bình đẳng giải thoát này chính là phụng vì Trì Phục Nguî Cang mà suy đi nghó lại, xem xét tình thế thật kỹ càng rồi mới tuyên giáo. Lại nguyện hiểu rõ Tịnh độ duy tâm, thấy tự tánh Di- đà, phương đó, cõi này ở bất cứ chỗ nào cũgn được an vui, sư nhóm họp đại chúng, bảo: Nay các ngươi đã mượn lỗ mũi để thở nhưng Kính Sơn xin cái lỗ mũi để thổi luồng khí đi. Nói rồi sư hét một tiếng. Ngày giải hạ, sư Thượng đường, hỏi: Công án bắt đầu từ ngày 15 tháng 4 kết thúc vào ngày 15 tháng 7.Hôm nay trong hôïi này có rất nhiều người, ai cũng có lý, khó phân quyết. Trong chúng, ai có từ ngữ nào hình tượng bóng bẩy thì hãy đứng ra giải thích đề tài về tuyết xem. Cho dù có giảng giải, phân tích được thì cũng bới lên cho tan tuyết mới được. Sư Thượng đường nêu, Vân Môn nói: cho dù thấy không chấp mắc, đạt được danh thân, cú thân. Tất cả các pháp đều không; núi sông, đất đai là danh. Danh cũng không thật có nên gọi là đầy đủ Tam-muội tánh hải. Dường như không có sóng gió bao quanh, đến nỗi quên mất cái biết đối với giác. Giác tức là Phật tánh, gọi là người vô sự lại còn phải biết có then chốt trong việc hướng thượng. Đổ dầu để cứu lửa là việc vô ích. Giống như trên tuyết thêm sương, khiến người buồn não nề. Sư Thượng đường, nói: Bẻ bỏ bờ dậu phía Đông, sửa sang lại bức tường phía Tây, môn hạ của Kính Sơn hoàn toàn không mẫu mực nên lén nhìn mọi người trong Tăng đường bẻ hương chất vào bếp. Mỏ cú mèo cắn phá nóc điện Phật. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thúy Vi cúng dường cho vị La- hán; ngài Đan Hà đốt tượng Phật bằng gỗ, không biết trong hai vị tôn túc này, vị nào làm đúng? Sư hỏi: Người nào không đúng? Tăng hỏi: Trong khoảng giữa đã gửi gắm cho người nào? Sư đáp: Hãy cố gắng bắt chước làm theo. Tăng hỏi: Vì sao trên đầu gậy ngang đến thẳng đi. Sư đáp: Hoa mắt thì sao? Tăng hỏi: Phải nơi chốn của Hòa thượng không? Sư đáp: Phải. Đan Hà đốt tượng gỗ là không thuận theo nhân tình, Thúy Vi cúng dường La-hán là tuy phương Tỳ-ni. Nếu là môn hạ của Kính Sơn thì tất cả dùng không dính mắc, hãy nói môn hạ của Kính Sơn dùng cái gì? Nước sông mùa thu trong xanh nhưng chẳng được bao lâu thì mây trắng đã hòa khói đen. Lành thay! Toàn thân ngài Quán Thế Âm đẫ đứng giữa đồng hoang cỏ dại. Sư Thượng đường, sơn Tăng chưa ra khỏi quê nhà, trước đó tám mươi ngày, sư đã nói với đại chúng rằng: Hôm nay việc đã hoàn tất. Ngày nay làm xong việc gì? sư hét một tiếng, xuống tòa. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Ngàn Thánh cũng không đến nơi này, muôn pháp dùng không thiếu hụt, thế nào là cơ phong của Kính Sơn? Sư đáp: Nằm ngửa kiểng chân đúng là loài rồng, chẳng lẽ giấu mình trong nước ao tù hay sao? Tăng hỏi: Mênh mông mà toàn thể pháp giới rõ ràng. Rõ ràng mà cơ phong của Tổ sư riêng sáng? Sư bảo: Trời xoay bên trái, đất chuyển bên phải. Vị Tăng hỏi: Toàn thể đi đâu? Toàn thể về đâu? Sư đáp: Giết Xà-lê đi. Chân tâm vô trụ, chân chiếu độc tôn; chân tánh dứt phan duyên, chân kiến chẳng từ cảnh; chân trí vô ngại, chân như vô biên. Trên hợp với bổn nguyên chư Phật, dưới khế hợp với tâm địa chúng sinh, cho nên nói: Nơi nơi đều là chân như, trần trần đều là người xưa nay. Lời nói chân thật thì nghe mà không hiện, chánh thể đường đường không còn thân. Sư quay sang nhìn đại chúng, hỏi: Thế nào là chánh thể? Đến bờ xem mé mắt, mặt đất đều là sầu. Sư Thượng đường, bảo: Không hiểu đến nơi đến chốn thì rất kî chấp đạo, chấp đạo này trên đầu mọc sừng. Sư đưa phất trần lên bảo: trên đầu mọc sừng cũng là lừa, là ngựa. Có hiểu được gì không? Nếu hiểu được thì cứ ở trong loài khác mà làm, còn nếu không hiểu được thì nhiều kiếp đắm chìm. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi Đầu Tử: Lúc trăng chưa tròn thì thế nào? Đầu tử đáp: Thì nuốt ba bốn cái. Tăng hỏi: Khi trăng tròn thì thế nào? Đầu Tử đáp: Thì nhổ ra bảy tám cái. Sư bảo: Ba cái và bốn cái; bảy cái và tám cái, số mục rất rõ ràng, chẳng có người nào đếm hơn được. Im lặng hồi lâu, sư nói: Đạo só mặc áo một mảnh màu trắng còn chẳng phải là chân thố đại. Sư Thượng đường, Tăng lễ bái rồi đứng dậy hét một tiếng. Sư cũng hét. Tăng trở về trong chúng, sư bảo: Giống như lần thứ nhất ở đây. Một tiếng hét phân biệt được chủ khách, chiếu dụng nhất thời hành. Phải hiểu ý trong đây, giữa trưa đánh trống canh ba, hãy nói tiếng hét mới đây của vị Tăng này và tiếng hét của sơn Tăng, người nào là khách? Người nào là chủ? Chỗ nào là chiếu? Chỗ nào là dụng? Nếu ở đây phân biệt được thì cho phép ông đi khắp thế giới đại thiên. Còn nếu chưa giải thích được thì trong bình bát trống rỗng chỉ có muỗng đũa. Sư lại hét một tiếng. Ngày mồng một tết, đánh trống, sư Thượng đường, bảo: Năm mới đánh trống mới để ban bố pháp mầu mới đến khắp mọi nơi, tất cả muôn vật đều được tươi tốt, mới mẻ, mỗi thứ đều đến với khuôn phép, Đại só Phổ Hiền vui vẻ, do đó mở cửa nhà thả trăm voi đầu đàn chạy khắp mọi nơi, không biết chỗ nào tìm kiếm. Sư đưa gậy lên, bảo: Chỉ có cây gậy này là chẳng thuộc mới cũ, khi rảnh rỗi thì nuốt tất cả vào miệng, chỉ còn pháp thân. Sư ném gậy, hỏi: Là cái gì? Trong hạt hạch đào ngàn năm vốn là lòng nhân khi xưa. Sư Thượng đường nêu, có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Đệ tử mới vào tòng lâm, xin sư chỉ dạy. Triệu Châu hỏi: Ông ăn cháo xong chưa? Tăng hỏi: Ăn cháo xong rồi. Triệu châu bảo: Rửa bát đi. - Vị Tăng bỗng nhiên đại ngộ. Sư hỏi: Có thật vậy không? Vân Môn nói: Hãy nói là có chỉ dạy hay là không có chỉ dạy? Nếu nói có thì anh ta nói cái gì? Nếu nói không thì vị Tăng này đã ngộ rồi. Sư lại nói: Triệu Châu và vị Tăng này, nếu không có Vân Môn thì cả đời chịu khuất phục. Nay ở các nơi có một người mù thường rửa bát nói là hiểu rồi. Sư Thượng đường, nói: Hôm nay là ngày trăng tròn, có một công án cũ, hãy đốt đèn, đánh trống để mời tất cả mọi người đến khán, khán thì chẳng thể không thấy nhưng bỗng nhiên đèn tắt, dầu hết thì đừng có đánh trống mà khua vào cột. Sư Thượng đường, nói: Tâm của Đại tiên Trúc Thổ, khắp nơi thường gửi gắm, thế nào là thầm gửi gắm? Thế nào là tâm của tướng gửi gắm? Sư hét một tiếng, vỗ vào giường thiền, hỏi: Nói gì? Trương Chú Nhị Trạng Nguyên Chí thượng đường nêu, có một vị Tăng hỏi ngài Vân Môn: Thế nào là gia phong của Hòa thượng? Vân Môn đáp: Có người đọc sách đến báo. Sư bảo: Người đọc sách đã ở trong đây, làm sao gặp y? sư bèn quay sang nhìn đại chúng một lượt rồi bảo: Chẳng phải là kẻ thù thì không cùng ở một nơi. Sư Thượng đường nêu, có một vị Tăng hỏi ngài Đầu Tử: Thế nào là mười thân của bậc Điều Ngự? Đầu tử xuống gường dây đứng. Vị Tăng hỏi: Phàm Thánh cùng đi nhiều hay ít? Đầu Tử cũng xuống gường dây đứng. Sư bảo: Đầu Tử xuống gường dây nên sáng nay được tuyên dương, lừa trước, ngựa sau nên phải phòng ngừa loạn lạc. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Người tu hành chân chánh có rơi vào nhân quả hay không? Trước kia Bách Trượng đã nói là không rơi vào nhân quả thì làm sao đoạ làm thân chồn hoang? Sư đáp: Gặp người nhưng phải nói chuyện gì? Tăng hỏi: Như vậy, sau khi Bách Trượng nói là không rơi vào nhân quả thì làm sao thoát được thân chồn hoang? Sư đáp: Gặp người thì phải nói chuyện gì? Tăng hỏi: Có người hỏi Kính Sơn: Bậc tu hành chân chánh còn rơi vào luật nhân quả hay không? Không biết Hòa thượng đến nói gì với ông ta. Sư đáp: Đến nói với ông ta là gặp người phải biết nói chuyện gì. người tu hành chân chính rơi vào nhân quả, sư cầm phất trần gõ vào giường thiền, bảo: Cũng không lìa cái tin tức này. Rơi và không rơi đều là một câu nói, còn nói gì là nhân quả. Sư lại gõ xuống giường thiền, bảo: Tin tức của năm trăm năm về trướcở tại đây, không cần phải để tâm tìm cầu. Sư Thượng đường nói: Tổ sư dạy: Nếu mắt không ngủ thì các mộng đều tiêu trừ, nếu tâm không khác thì muôn pháp như một, đó là không ngủ nghỉ. Đó là tâm không khác. Hoa ở núi nở tợ gấm, nước suối trong xanh như da trời xanh. Sư Thượng đường, bảo: Cội nguồn gốc rễ của hữu tình là y theo biển trí để tìm vế nguồn. Tất cả đều hợp với tâm thức. Lấy pháp thân để làm thể. Nếu hiểu được cội nguồn này thì ngàn nguồn muôn nguồn cũng chỉ là một nguồn. Nếu hiểu được thể này thì ngàn thể muôn thể cũng chỉ là một thể. Cho nên nói: vô biên cảnh giới, ta người không xa cách dẫu bằng đâù sợi lông. Xưa nay mười đời, trước sau không lìa niệm này. tuy như thế nhưng bậc trượng phu tự có chí thấu trời xanh, thôi hướng về thực hành chỗ hành của Như Lai. Sư Thượng đường, bảo: Pháp không có tướng nhất định, do con người tạo nên. Sư dộng gậy, bảo: Pháp ấy chẳng phải tư duy, so sánh, phân biệt mà hiểu được. Hãy nói, không phân biệt, không suy nghó, so sánh thì thế nào? Sư dộng gậy, hét một tiếng, bảo: Hai vị thủ tọa Bổn và Nhan lập Tăng thượng đường, bảo: Con trâu cày trên mảnh ruộng đoạt mất thức ăn của người đang đói đổ vào biển cả, làm khuynh đảo Tu-di-lô, bắt sống cọp, tê giác, độc long (rồng dữ) dường như chưa phải là bổn phận sự của nạp Tăng. Thế nào là bổn phần sự của nạp Tăng? Hỏi hai vị tọa trong thiền đường. Sư Thượng đường dộng gậy, bảo: Quán âm Diệu Trí có khả năng cứu khổ thế gian. Trăm hoa đua nở màu sắc rực rỡ nhưng mới nhìn qua lại không thấy gì. Sư ném gậy, bảo: Sáng nay là ngày mùng 5 tháng 3. Sư Thượng đường, bảo: Tâm ấy chính là Phật, không còn Phật nào khác. Phật ấy chính là tâm, không còn tâm nào khác. Giống như bàn tay nắm (quyền) mở ra thành bàn tay mở (chưởng), giống như nước thành sóng. Sóng chính là nước, chưởng tức là quyền. Tâm ấy không thuộc về bên trong, không thuộc về bên ngoài, cũng không ở khoảng giữa. Phật ấy không thụoc về quá khứ, không thuộc về hiện tại hay vị lai. Tâm ấy, Phật ấy đều là giả danh. Đã là giả danh thì tất cả đại tạng giáo điển há là chân thật hay sao? Nếu đã không chân thật thì chẳng thể nói Đức Thích-ca, Lão Tử không mở miệng nói mà lè lưỡi dài ba tấc. Cuối cùng thì thé nào? Còn nếu biết làm những việc hay thì đừng hỏi khuôn phép trước. Sư Thượng đường nêu, Ngài Lâm Tế lần nọ làm thị giả ngài Đức Sơn, Đức Sơn quay lại hỏi Lâm Tế: Hôm nay lão Tăng có nhọc mệt lắm không? Lâm Tế bảo: Lão già nói mớ gì vậy? Đức sơn cầm gậy đưa lên, Lâm Tế liền lật đổ cái gường dây. Vân Phong bảo: Hai tác gia này, một người ép buộc, một người kiềm chế để hiển lộ phong cách và khuôn phép, rất giống như ngọn núi cao trên bàn tay. Tuy như vậy nhưng cũng bị mọi người cười cho. Sư hỏi: Lão già Vân Phong phê bình cái gì? Rất giống người Phổ Châu. Nếu như Kính Sơn thấy được thì đã cột lại quăng xuống sông rồi. Chẳng lẽ không thấy trai và cò giằng co nhau đều rơi vào tay ngư ông hay sao? Ngày tắm Phật, sư Thượng đường bảo: Các ông hãy lấy nước rửa sạch bụi trên tượng của Đức Như Lai. Bụi hết thì phiền não trong tâm chúng sinh đều được tiêu trừ, chồn cáo liền rống tiếng rống của sư tử. Sư Thượng đường nêu, Vân Môn hỏi Tào Sơn rằng: Thế nào là việc làm của sa-môn? Tào Sơn đáp: Ăn lúa gạo của thường trụ. Vân Môn hỏi: Lúc bỏ thì thế nào? Tào Sơn hỏi: Ông nuôi được chăng? Vân Môn đáp: Đệ tử nuôi được. Tào Sơn hỏi: Nuôi bằng cách nào? Vân Môn đáp: Cho mặc áo, ăn cơm đâu có gì là khó? Tào Sơn hỏi: Sao không nói là mang lông đội sừng? Vân Môn đáp: Lúc bóng tối đến thì thế nào? Sư bảo: Ngựa hoang dẫm đạp phá bụi gai. Tăng hỏi: Ngày mai trai giới trong viện Đại bi còn làm gì nữa? Sư đáp: Tuyết Phong nói rồi. Sư tiếp: Sáng đến thì đánh bên sáng, nếu mở mắt thấy tối đến thì đánh bên tối. Nếu nhắm mắt lại mà bốn hướng tám mặt đến thì xoay vần đánh cả hư không. Bày vẽ không ít, hư không nếu đến thì đánh cả hư không. Xem còn dính mắc chỗ nào. Nói chung không có gì đến cả. Nếu ngày mai trong viện Đại Bi không có trai giới thì một phen buồn rầu. Sư tiếp: Người xưa nói gì? Người nay nêu lên vấn đề gì? Ở trong tông thừa thành tựu việc gì? Sư hét một tiếng. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Tâm quá khứ không thật có, tâm hiện tại không thật có, tâm vị lai không thật có thì thế nào? Sư đáp: Chính miệng ngươi nói ra. Tăng hỏi: Không biết làm sao thọ trì? Sư đáp: Thọ trì thế nào, chắc chắn không cùng nhau kiếm tiền. Vị Tăng lễ bái, sư bảo: - Các Như Lai và đệ tử của Như Lai đời quá khứ đã thành tựu. Đời hiện tại, các Bồ-tát đã thành tựu, nay các vị đều nhập vào sự tròn sáng. Người học đời vị lai y theo pháp này. đã y theo pháp này thì chỉ như tâm quá khứ không thật có, tâm hiện tại không thật có, tâm vị lai không thật có. Ba đời đã không thật có thì y cứ vào đâu? Nếu hướng về trong đây biết quay về thì thở ra không vướng vạn duyên, thở vào không ở âm giới. Thường chuyển kinh như thế trăm ngàn muôn ức quyển. Chỉ như ngày hôm nay Đàn-việt xin Kính Sơn thỉnh một ngàn bảy trăm quyển. Cái được chuyển còn ở trong trăm ngàn muôn ức quyển hay không? Nếu ở trong đá thì theo Pháp tướng. Nếu không ở trong đó thì theo phi pháp tướng, cho nên kinh nói: Nếu theo Pháp tướng thì mắc kẹt vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Vậy khi nào định đoạt được? Nếu định đoạt không được thì ngày mai đến nói với ông. Sư Thượng đường nêu, có vị Tăng hỏi ngài Phong Huyệt: Khúc gỗ không có âm vận làm sao hòa âm được? Phong Huyệt đáp: Gà gỗ gáy ban đêm, chó rơm sủa buổi sáng. Sư bảo: Hoàng Diện, Triết tử này đáp câu nào cũng là con cháu Lâm Tế, không hiểu được pháp thiền. Hôm nay có người hỏi Kính Sơn: Khúc nhạc xưa không có âm vận làm sao phối âm được? Chỉ đến nói với ông ta: Gà gỗ gáy ban đêm, chó cỏ sủa trời sáng. Sư Thượng đường nêu, Tuệ Siêu hỏi Pháp Nhãn: Thế nào là Phật? Pháp Nhãn đáp: Ông là Tuệ Siêu. Tuyết Đậu bảo: Gió xuân khởi không gợn sóng nước, Chim cô nằm hót giữa nhụy hoa. Cá vượt sóng cao ba lớp thì sẽ hóa rồng Như người ngu ban đêm tát nước sông Tiền đường. Sư ông Bạch Vân bảo: Một câu văn giá trị bằng một quan tiền lớn, mua được một chiếc bánh dầu, ăn vào rồi thì không còn đói nữa. Hai vị tôn túc, một vị cho nghe tiếng chim cô hót, một vị cho mua bánh trét dầu để ăn. Nếu là Tuệ Châu thì Phật bảo chưa hiểu. Sư Thượng đường nghe âm thanh liền tỏ ngộ, thấy sắc tâm liền sáng tỏ, bỗng sư đưa gậy lên, bảo: Đây là sắc. Rồi sư dộng gậy, bảo: Đây là thanh, tất cả mọi người đều nghe thấy cả. Đó là tâm sáng. Đó là ngộ đạo. Sư hét một tiếng, bảo: Tham lúa gạo thì phải mất hết nửa năm trồng trọt, sư dộng gậy. Sư Thượng đường nêu, có vị Tăng hỏi ngài Lâm Tế: Thế nào là cõi nước Tam nhãn? Lâm Tế đáp: Ta và ông cùng vào trong cõi nước Tịnh Diệu mặc y thanh tịnh nói pháp thân Phật. rồi vào trong cõi nước Vô sai biệt, mặc áo Vô sai biệt, nói Báo thân Phật, vào trong cõi nước Giải thoát, mặc áo Quang minh, nói Hóa thân Phật. Sư quay sang nhìn dại chúng, bảo: Các ông có thấy lão Lâm tế hay không? Nếu không thấy thì Kính Sơn chỉ cho. Pháp thân, Báo thân, Hóa thân, chao ôi! Yêu quái! Yêu tinh! Tam Nhãn trong đất nước Phùng trước, cười giết vô vị chân nhân. Sư Thượng đường nêu, Trấn Phủ Đại vương hỏi Hòa thượng Triệu Châu: Năm nay Hòa thượng còn bao nhiêu cái răng? Triệu Châu đáp: Còn một cái. Vua hỏi: Còn một cái làm sao nhai thức ăn được? Triệu Châu đáp: Tuy còn một cái nhưng thức ăn đều đưa vào bao tử và tiêu hóa hết. Sư hét một tiếng, bảo: Ít khoe khoang. Sư Thượng đường nêu, có một vị Tăng hỏi Ngài Triệu Châu: Thế nào là không lầm đường? Ngài Triệu Châu đáp: Biết tâm thấy tánh thì không lầm đường. Sư bảo: Gậy đánh vào đầu tượng đá thì mau bàn luận sự thật. Không dùng làm thiền hội, không dùng làm đạo hội. Nếu muốn không lầm đường thì phải ảo tâm thấy tánh mới được, đó gọi là biết được tâm, thấy được tánh. Nếu cá nghe được điều gì thì liền nói trăng soi dưới nước, không có núi thì không có mây phủ quanh. Có kiến giải gì chính là Triệu Châu ra khỏi Tào Môn. Sư Thượng đường nêu, có một vị Tăng hỏi ngài Nam Tuyền: - Lúc trâu chưa gặp Mã Tổ thì vì sao trăm chim gắp hoa đến dâng cúng? Ngài Nam Tuyền đáp: Bước vững vàng trên từng cấp bậc của Phật. Tăng hỏi: Nghe lão sư Nhất Tuyến, Vân Môn nói Nam Tuyền chỉ giải từng bước từ thấp lên cao, từ trên trời rơi xuống đất. Sư bảo: Tuy trị khỏi bệnh mù mắt nhưng tai vẫn chưa nghe được, từng bước, từng bước lên cao; từ trên trời thả xuống đất thì chỗ nào được tin tứcn này? Có một vị Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là từng bước, từng bước lên cao? Vân Môn đáp: Lấp hang hốc, rãnh mương. Sư bảo: Cứu được một nửa. Sư Thượng đường nêu, Vân Môn hỏi Trực Tuế: Hôm nay làm gì? Trực Tuế đáp: Đi cắt cỏ tranh. Vân Môn hỏi: Cắt được bao nhiêu vị Tổ sư? Trực Tuế đáp: Ba trăm vị. Vân Môn hỏi: Sáng đánh ba ngàn roi, chiều đánh tám trăm roi. Nhà phía Đông cán gậy dài, nhà phía Tây cán gậy ngắn là thế nào? Trực Tuế không đáp được. Vân Môn liền cầm gậy đánh. Sư bảo: Trực Tuế không đáp được nhưng đã có ba trăm vị Tổ sư chứng minh. Vân Môn nói tuy đi nhưng vẫn còn đầu gậy không mắt. Sư Thượng đường nêu, Vân Môn nói: Thích-ca, Lão Tử và trời Đế Thích ở trên thiên đình cùng tranh cãi vấn đề Phật pháp rất ồn náo. Sư bảo: Lão già này hay lắm, đánh cho ba mươi hèo. Còn hỏi có lỗi gì. người vu khống thì chồng thêm tội. Sư Thượng đường nêu, Tam Thánh hỏi Tuyết Phong: Xuyên qua lớp lưới vàng thì lấy gì làm thức ăn? Tuyết Phong đáp: Đợi ông ra khỏi lưới rồi đến thăm ông. Tam Thánh hỏi: Một ngàn năm trăm vị Thiện tri thức không biết thoại đầu. Tuyết Phong đáp: Liên quan đến việc trụ trì của Lão Tăng. Sư bảo: Hai vị tôn túc, một vị thì thô như gò núi, một vị tế như mạt cám. Tuy thô tế không giống nhau nhưng gọi đến khinh ttrọng thì rất tốt. Hôm nay Kính Sơn chân thật nói với các ông phải đề phòng soi rùa làm vỡ ngói. Sư Thượng đường nêu: Một hôm Đức Thế Tôn và A-nan đi du hóa, gặp một ngôi tháp, Đức Thế Tôn đảnh lễ, A-nan hỏi: Đây là tháp thờ ai? Đức Thế Tôn đáp: Là tháp của chư Phật thời quá khứ. A-nan hỏi: Là đệ tử của ai? Đức Thế Tôn đáp: Đệ tử của ta. A-nan thưa: Phải nên như thế. Sư bảo: A-nan cũng phải nên như thế, biết làm thế nào khi ở giữa còn thiếu một chỗ! Nếu muốn lời nói suôn sẻ mạch lạc, muốn Đức Thế Tôn nói mình là đệ tử của Ngài thì lập tức hướng về Ngài. Còn phải lễ mỗ giáp ba lânh mới được. Nếu Đức Thế Tôn hỏi vì sao dạy ta đảnh lễ, ông còn hướng về nói, phải nên như vậy? Sư Thượng đường nói: Sắc, Tâm không hai; ta người chẳng khác. Bỗng sư đưa gậy lên, bảo: Nếu nói cái này là cây gậy thì nặn mắt thấy hoa; nếu không nói là cây gậy thì tan nhà nát cửa. Cuối cùng là gì? Sư ném gậy xuống, bảo: Xưa nay núi xanh chỉ gỡ được gai; nước chảy đâu từng tẩy rửa được phải quấy, đúng sai. Sư Thượng đường nêu, có lần Niệm Pháp Hoa và Chân Viên Đầu đứng cạnh Phong Huyệt. Huyệt hỏi Chân rằng: Như vậy, Đức Thế Tôn chẳng có gì không nói, Ca-diếp chẳng có gì không nghe. Chân đáp: Chim bồ câu và chim gáy hót trên cây. Nghóa là đang ở trong lùm gai. Huyệt bảo: Ông là người ngu si, có phước gì? Sao không thể cứu ngôn cú. Lại hỏi Niệm rằng: Ông làm gì? Niệm thưa: Nhíu mày nhớ đường xưa. Không rơi cơ tầm thường. Huyệt nói: Sao ông không trình bày kiến giải của mình cho Niệm Pháp Hoa. Sư hỏi: Nếu lúc ấy sơn Tăng thấy hai lão già nay thì nói gì? - Đào một cái hố thật sâu, chôn tất cả, dẫn trâu giẫm lên, rồi thả Chân Công ra mới được. sơn Tăng nói gì? Trừ quân cường bạo, giúp kẻ yếu đuối cũng chẳng phải là bịa đặt nào khác. nếu ông biết được chim bồ câu và chim gáy hót trong bụi gai thì biết được: “Nhíu mày nhơ đường xưa, không rơi cơ tầm thường.” Lời chuyển ngữ của hai vị này rốt ráo là một hay là hai? Nếu nói là một thì vì sao Phong Huyệt chỉ chấp nhận Niệm Pháp Hoa mà không chấp nhận Chân Viên Đầu? Nếu nói là hai thì vì sao tham vấn: Cò trắng và ráng đỏ cùng bay Nước sông thu và trời xanh cùng một màu. Sư Thượng đường nêu: Ngài Triệu Châu dạy chúng rằng: Không được để thời gian luống qua vô ích, phải thường nhớ nghó đến Phật, Pháp, Tăng. Thế nào là người học tự niệm? Ngài Triệu châu hỏi: Người niệm là ai? Tăng đáp: Không có bạn. Ngài Triệu Châu cười, bảo: Con lừa này. Sư bảo: Tuy vị Tăng này không có bạn nhưng tạo thành nhóm, thành đội la lối ồn ào nhiễu loạn chết người. Tuy ngài Triệu Châu thích một con lừa nhưng chỉ vì lừa không biết ăn cỏ. Đến ngày kî sư ông Ngũ Tổ, sư Thượng đường, bảo: Trước núi có một mảnh đất trống, vốn đã được ghi dấu ở đây. Sư chắp tay nghiêm trang thưa sư ông Ngũ Tổ: chỉ vì không khế hợp, đã bao lần mua, nay lại bán, chẳng lẽ là người Nha Bảo thương tùng trúc mà thổi ngọn gió mát này. Sư hét một tiếng, bảo: Đứa trẻ ăn mày thấy cái lợi nhỏ. Sư Thượng đường nêu, ngài Kim Phong dạy chúng rằng: Hai mươi năm trước lão Tăng có tấm lòng nhân từ, hai mươi năm sau lão Tăng không có tấm lòng nhân từ. Lúc đó, có một vị Tăng đứng dậy, bước ra thưa: Thế nào là hai mươi năm trước có lòng nhân từ? Ngài Kim Phong đáp: Hỏi phàm đáp phàm, hỏi Thánh đáp Thánh. Tăng hỏi: Thế nào là hai mươi năm sau không có lòng nhân từ? Ngài Kim Phong đáp: Hỏi phàm đáp phàm, hỏi Thánh đáp Thánh. Sư bảo: Lúc đó nếu Kinh Sơn thấy thì sẽ dẫn ông ta đến trả lời với sư ông Ngũ tổ, liền bóp miệng làm tiếng gáy của chim bồ câu, chim gáy, chim gõ v. v… Sư Thượng đường bảo, ngay nơi niệm mà lìa niệm, giác và phi giác, hữu tâm và vô tâm, hoặc thiện hoặc ác đều kết thành một khối, sắp sai thì liền sai, sư đưa phất trần lên, bảo: - Trên đầu cái phất trần này đã xâu lại một chùm rồi còn bỏ đi đâu? Nghiệp thức mang mang không có cội nguồn để y cứ. Hãy nói nghiệp thức mang mang và Thích-ca, Lão Tử cách nhau nhiều ít? Sư hét một tiếng, bảo: Quanh quẩn trong thung lũng nhỏ hẹp, sai lầm. Sư Thượng đường nêu, ngài Huyền Sa dạy chúng rằng: Các vị Tôn túc ở các nơi đều nói: Hóa độ chúng sinh, lợi ích hữu tình. Nếu có người gặp ba người bệnh tới thì làm sao tiếp xúc? Người mù cầm cái kiền chùy dựng trước mắt họ, họ cũng không thấy; người bị điếc cho dù nói lời Tam-muội họ cũng không nghe; người bị câm cho dù có dạy họ nói, họ cũng không nói được, như vậy thì làm sao tiếp xúc? Nếu tiếp xúc với những người ấy không được thì Phật pháp không có linh nghiệm. Có một vị Tăng thưa hỏi Vân Môn, Vân Môn bảo: Ông hãy lễ bái. Tăng lễ bái rồi đứng dậy. Vân Môn đưa gậy lên, Tăng lùi ra sau. Vân Môn bảo: Ông chẳng phải là người mù. Rồi sư bảo bước tới gần. Tăng liền bước đến. Vân Môn bảo: Ông chẳng phải là người điếc. Nói rồi, sư bèn đưa gậy lên, hỏi: Có hiểu không? Vị Tăng đáp: Không hiểu. Vân Môn nói: Ông chẳng phải là người câm. Vị Tăng ngay lúc đó liền tỏ ngộ. Sư bảo: Vị Tăng này tuy ngộ nhưng chỉ ngộ được thiền của Vân Môn. Nếu là thiền của Huyền Sa thì phải đổi lấy đôi giày cỏ mới được. Sư Thượng đường nêu, có lần Ngụy Sơn đi chung với Ngưỡng Sơn. Ngụy Sơn chỉ một thửa ruộng hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Thửa ruộng này đầu nào cao, đầu nào thấp? Ngưỡng Sơn đáp: Đầu này cao, đầu kia thấp. Ngưỡng Sơn bảo: Nếu sư không tin thì hãy đến giữa thửa ruộng ấy đứng xem hai đầu. Ngưỡng Sơn nói: Không cần phải đứng ở giữa, cũng chẳng cần đứng ở hai đầu. Ngụy Sơn hỏi: Nếu như lội sông xem sông thì sông có thể là một vật bằng phẳng. Ngưỡng Sơn đáp: Sông cũng không cố định, nhưng chỗ cao thì gọi là cao bình, chỗ thấp thì gọi là thấp bình. Ngụy Sơn im lặng. Sư bảo: Hiển bày các nhân tạng, các dụng khích lệ muôn vật mà không cùng bậc Thánh đồng lo. Đức sâu nghiệp lớn đến như vậy ư! Sư hét một tiếng. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thích-ca đóng cửa thất ở Ma-kiệt; Tịnh Danh im lặng ở Tỳ-da; Bàn tính chưa thành lại còn đầy đủ mánh khóe. Sư bảo: Bản tính chưa thành lại còn có đầy đủ mánh khóe. Tăng hỏi: Có hỏi có đáp tất cả chỗ phong lưu, không hỏi không đáp thì có Phật pháp chăng? Sư đáp: Nói gì vậy? Vị Tăng hỏi: Chưa biết đi về đâu? Sư đáp: Đi về chỗ không có Phật pháp. Sư tiếp: Có hỏi có đáp, có thả có thu, có chủ có khách, có giết chết, có tha cho sống. Lúc sống là lúc không giết chết, chính là đạo lý. Lúc giết chết là lúc không sống, chính là đạo lý. Nhà khách thì chẳng phải nhà chủ chính là đạo lý, nhà chủ chẳng phải nhà khách, chính là đạo lý. Nhà chủ chẳng phải nhà khách, chính là đạo lý. Đã là khách thì trước sau gì vẫn là khách. Đã là chủ thì trước sau vẫn là chủ. Khách chủ giao xen, đương môn tiếp kiếm, há không thấy thiền khách vừa hỏi: Thích-ca đóng cửa ở Ma-kiệt; Tịnh Danh im lặng ở Tỳ-da. Tính toán chưa thành mà còn có đủ mánh khóe. Sơn Tăng đáp: Ông ta bảo tính toán chưa thành lại còn có đủ mánh khóe. Các ông có hiểu không? Nếu hiểu được thì tất cả khách đều là chủ, chủ chính là khách. Tất cả thu là thả, toàn bộ thả là thu toàn bộ giết chết là cho sống, toàn bộ cho sống là giết chết, rồi sư hét một tiếng, hỏi: Việc này ở chỗ nào mà nói lời này? Tự bảo: Có một con đường ở trên cao người ta có thể đi bộ được.  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 4 Đệ tử nói pháp, Thiền sư Tuệ Nhật, trụ trì thiền viện năng nhân ở Kính sơn là Uẩn Văn kính dâng. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Vách đứng muông trượng có cho bàn bạc hay không? Sư đáp: Vách đứng muôn trượng không cho bàn bạc Vị Tăng hỏi: Biết rằng tim Hòa thượng cũng là một khối thịt đỏ? Sư đáp: Đã biết còn hỏi làm gì? Tăng hỏi: Thế nào là chân thật vách đứng muôn trượng không cho bàn bạc? Sư đáp: Đang ăn cơm mà nhai phải hạt cát. Tăng hỏi: Nếu như vậy thì cho đệ tử bước tới trước ba bước. Sư đáp: Ông không ngộ nên phải lùi ra sau ba bước mới đưọc. Sư nói tiếp. Nước Ma-kiệt-đà vì ở trên đường bằng, trước đỉnh Thiếu thất hoàn toàn không có cơ phong. Bàn huyền nói diệu cũng chỉ là giật gấu vá vai. Nêu lên điều xưa để làm sáng tỏ việc nay cũng chỉ là vung đất vãi cát chứ không liên quan gì đến việc của ta. Tuy như vậy nhưng cũng phải đến thửa ruộng này mới được. Thật đến thửa ruộng này thì phải gần gũi thế nào? Sư hét một tiếng, bảo chữa trị vết thương nhưng không trị được lại còn cầm đốt ngải cứu. Sư Thượng đường nêu: Ngài Nam Tuyền dạy chúng rằng. Canh ba đêm qua Văn-thù, Phổ Hiền đánh nhau. Mỗi người đều bị đánh hai mươi gậy, do đó mà ra khỏi viện. Ngài Triệu Châu bước ra khỏi chúng, bảo: Hòa thượng đánh răn dạy ai hiểu được? Ngài Nam Tuyền bảo: Vương Lão Sư có lỗi gì? Triệu Châu liền làm lễ. Sư bảo: Ngài Nam Tuyền không có lỗi, miệng hay rước họa. Ngài Triệu Châu Lễ bái, giặc cỏ đại bại, Kính Sơn không như vậy, kết án cứ nghi. Ngài Văn-thù Phổ Hiền còn lỗi một bên. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Hôm nay Phật phát ra ánh sáng trợ giúp cho việc phát hiện nghóa thật tướng thế nào là phát ra ánh sáng? Sư hỏi: Ông ăn cháo chưa? Tăng đáp: Đệ tử đã ăn cháo rồi. Sư hỏi: Ông có thấy ánh sáng không? Tăng đáp: Chẳng biết có thấy được không? Sư bảo: Xưa nay vốn đã không thấy, ngày nay Phật phát ra ánh sáng giúp cho phát hiện nghóa thật tướng. Sư đưa gậy lên bảo: Chư Phật thời quá khứ, chư Phật thời hiện tại, chư Phật thời vị lai đều ở trên đầu cây gậy của Kính Sơn, đồng phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp pháp giới mười phương. Đến nỗi núi sông, đất đai, muôn tượng sum la nhất thời lễ bái, sư dộng gậy xuống đất, bảo: “Hướng xuống văn dài, gửi gắm ở ngày sau. ” Sư Thượng đường nêu có vị Tăng hỏi ngài Đồng An. - Thế nào là gia phong của Hòa thượng? Ngài Đồng An đáp: Gà vàng ôm con trở về trời cao, Thỏ ngọc mang thai ỏ tử vi. Vị Tăng hỏi: Nếu đột nhiên gặp khách đến thì sẽ đối đãi như thế nào? Đồng An đáp: Sáng sớm vượn hái quả vàng quăng đi. Chiều tối chim phượng lại tha về. Sư bảo: Gia phong của ngài Đồng An vẫn kỳ quái, gia phong của Kính Sơn thì không như vậy. Có người hỏi: Thế nào là gia phong của Hòa thượng thì hãy đến ông ta hỏi. Đồn thời một bát cơm Hòa-la, thiền đạo đúng sai đều không biết. Bỗng gặp khách đến thì sẽ đối đãi ra sao, bánh hấp không vớt lên được. Ngày giải hạ, sư Thượng đường, giơ gậy lên, bảo: Một trăm hai mươi ngày hạ không thiếu, cột sương hiện thần thông, đèn lồng soi hang quỷ, thấu suốt mà không thấu suốt, lại đến đầu gậy để ông quyết định. Sư dôïng gậy xuống đất. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Lúc Tâm và Phật đều mất thì như thế nào? Sư đáp: Lão bà bán quạt, tay che mặt trời, sư nói tiếp: Tâm và Phật không hai, muôn vật và ta như một thì không còn thấy có tướng của tâm và Phật. Đã không thấy có tướng của tâm và Phật thì tất cả tâm là Phật, tất cả Phật là tâm. Đã không thấy có tên muôn vật và ta thì tất cả muôn vật là ta, toàn thể cái ta là muôn vật. Nếu mỗi ngày ứng dụng hai trong sáu thời. Chứng nhập như thế thì hoặc tâm, hoặc Phật, hoặc ta, hoặc vạn vật, thất điên bát đảo đều được thọ dụng. Sư liền lấy một cọng cỏ bện thành thân vàng cao trượng sáu, rồi tháo thân vàng cao trượng sáu này thành một cọng cỏ. Cho dù như thế nhưng phải đề phòng lỗi của môn hạ Kính Sơn. Đánh gãy lưng ông, ông cũng không nói. Sư Thượng đường nêu, giáo nói: Còn dùng phương tiện khác trợ giúp để hiển bày nghóa đệ nhất. Sư dộng gậy xuống đất một cái, bảo: Đây là phương tiện khác. Kia là nghóa đệ nhất. Sư ném gậy, bảo: Con đại trùng (hổ) trong nón giấy vừa cười vừa sợ người. Sư Thượng đường nêu: Cảnh Thanh hỏi Huyền Sa: Đệ tử muốn vào Tòng lâm, xin sư chỉ hộ đường vào. Huyền Sa bảo: Ông có nghe tiếng suối reo hay không? Cảnh Thanh đáp: Thưa có nghe. Huyền Sa bảo: Hãy từ trong đây mà vào. Cảnh Thanh ở đây biết chỗ nào. Sư ông Ngũ Tổ bảo: Quả thật là được vào, mặc cho bốn phương tám hướng. Nếu chưa được như vậy thì không được rời xa nơi đây. Sư bảo: Nếu như thật được vào thì phải lìa xa nơi đây. Nói xong, sư xuống tòa. Cư só Song Hòe Trịnh Vũ Công vì Thiền sư Phật Đăng vào tháp thỉnh sư lên tòa. Hỏi: Thế nào là men theo dòng chảy không dừng, chân chiếu không bờ mé nói tợ ông. Người lìa danh tướng thì khỏi phải thưa trình, thổi lông, gấp cần phải mài. Pháp huynh Thiền sư Phật Đăng đã hai mươi năm thổi sợi lông này. Với mắt trời của bậc siêu nhân lìa tướng lìa danh, phá tà bày chánh, đảo lộn cái dụng dọc ngang mà không đụng chạm đến mũi nhọn. Tất cả Phật sự to lớn đã trọn thành. Thật là chỉ có trước không có sau. Nói rồi sư quay sang nhìn đại chúng, bảo. Trong pháp hội hôm nay đúng là Thiền sư Phật Đăng đã thổi lại sợi lông, vì các ông mà vào bùn vào nước. Tất cả vì để nhắc đến thời tiết. Có ai còn nhớ ơn không? Nếu có công thì không lãng phí, có lẽ là chưa hẵn như thế nhưng Kính Sơn không khỏi ngạc nhiên còn nêu ra một câu nói xưa: Ngày xưa Hòa thượng Sơ Sơn xây Tháp Thọ xong thì giám viện đến bạch Hòa thượng Sơ Sơn. Hòa thượng Sơ Sơn hỏi: Ông trả bao nhiêu tiền cho người thợ? Giám viện thưa: Tất cả đều do Hòa thượng. Sơ Sơn hỏi: Vậy ông đem ba tiền trả công cho ông ta, đem hai tiền trả công cho ông ta, đem một tiền trả công cho ông ta. Nếu nói được thì cùng ta đích thân xây tháp. Giám viện không đáp được. Lúc đó, Hòa thượng La Sơn ở trong am trên Đại Lãnh. Khi giám viện đến đó, La Sơn hỏi: Ông từ đâu đến? Giám viện đáp: Từ chỗ Hòa thượng Sơ Sơn đến. La Sơn hỏi: Mấy ngày gần đây ông có nói lời gì không? - Giám viện liền kể lại những lời đã nói. La Sơn hỏi: Có ai nghe không? Giám viện đáp: Không có ai nghe. La Sơn bảo: Ông trở về nêu giống như Hòa thượng Sơ Sơn nói Đại Lãnh nghe nêu rồi bảo: Nếu đem vài quan tiền trả công cho người thợ thì Hòa thượng cả đời này chắc chắn không xây được tháp. Nếu đem hai quan tiền trả công cho người thợ thì Hòa thượng và người thợ cùng đưa ra một tay. Nếu đem một quan tiền trả cho người thợ thì giống như lông mi người thợ rớt xuống. Giám viện trở về kể lại cho Sơ Sơn nghe. Sơ Sơn liền hướng về Đại Lãnh lễ bái, than rằng: E là không người, Đại lãnh có cổ Phật. Thế rồi một luồng ánh sáng chiếu vào thân ta và tất cả chỗ này. Hòa thượng nói với Giám Viện rằng: Ông hãy đi đến Đại Lãnh nói là lời Hòa thượng giống như hoa sen nở vào tháng chạp. Giám viện bèn chuyển lới nói ấy đến La Sơn. Hòa thượng La Sơn bảo: Lông rùa đã dài ra mấy trượng. - Các ngươi có biết hai vị Hòa thượng này rơi vào chỗ nào không? Có lẽ là chưa được như thế. Cho nên Kính Sơn hôm nay sẽ là người xưa, người nay đã quyện thành một khối. Sơ Sơn đã đem một quan tiền, hai quan tiền, ba quan tiền để trả công cho người thợ. Còn cư só Long Hòe thì gom góp lại thành hai trăm ngàn đã vì Phật Đăng mà cám ơn người thợ rồi. Khỏi phiền giám viện tới lui hỏi người khác. Một đóa sen nở vào tháng chạp đã là rất hiếm. Thiền sư Phật Đăng đã hái về cắm trong tháp để làm chuẩn mực cho tòng lâm. Lông rùa dài mấy trượng để gửi gắm cho trời và Thiền sư tùy thời thọ dụng. Xin hỏi đại chúng: Hãy nói Kính Sơn có cho ở trong đó hay khoong Im lặng hồi lâu, sư nói: Chẳng phải là bên ngoài, vẫn là một người nhàn rỗi trong thiên hạ. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Có cõi Phật không được ở thì thế nào? Sư đáp: Ở thì tận đến gốc rễ. Tăng hỏi: Không có cõi Phật mà vội đi qua thì thế nào? Sư đáp: Xà-lê khởi động. Vị Tăng hỏi: Đệ tử đến chỗ nào thì đi dép? Sư đáp: Tháo gở lại chụp trên đầu, gỡ đầu lại dính vào sừng Vị Tăng hỏi: Đi hơn ba ngàn dặm mới gặp được người không còn lầm lạc thì thế nào? Sư đáp: Lầm, lầm! Vị Tăng hỏi: Một trăm hai mươi ngày hạ đã viên mãn, có người hỏi: Thế nào là lời nói của Kính Sơn thì làm sao trả lời cho họ? Sư đáp: Kính Sơn đã nói gì? Vị Tăng hỏi: Sao nói là lược dầy bằng trúc thì vướng mà không gọi là lược dầy bằng trúc thì quay lưng. Sư đáp: Sao ông biết? Vị Tăng hét một tiếng, bảo: Ba mươi năm sau có nhiều người cười nơi đây, sư nói: Đâu hẳn là ba mươi năm sau, mà ngay ngày nay đã có nhiều người cười rồi Tăng bèn nói: Bình thường thì nói cho mọi người nghe. - Nói là lược dầy bằng trúc vướng mắc chứ không nói lược dày bằng trúc quay lưng. Không được đem đến đây đảm nhận, không được tự ý bói một quẻ, không được phê bình, không được im lặng. Có người hỏi cuối cùng thì thế nào thì nên nói với họ rằng cũng không có rốt ráo, cũng không thế nào cả. Ngay lúc ấy thì thế nào? Bốn góc bịp đổ, chính các ông phải hứng lấy, phân biệt rõ ràng thân thể và tay chân thì mới vượt lên được và có thể phủ trùm ba cõi, đề xướng bốn sinh, có lẽ là phòng ngừa trước tai vạ. Chính vì căn tánh các người còn chậm lụt nhưng chẳng ai trách lầm Kính Sơn được. Sư Thượng đường nêu, Pháp sư Tăng Triệu nói: Các pháp không khác. Khởi nói: Tiếp nối mạng sống của vịt trời, cắt đứt mạng sống chim hạc, đỉnh núi cao bình yên với nhiều khe nước, về sau không khác gì hay sao? Đại Sư Vân Môn nói: Cái dài thì tự nhiên dài, cái ngắn thì tự nhiên ngắn. Sư nói tiếp: Chính là pháp trụ, pháp lập, là tướng thường trụ của thế gian. Nói rồi sư đưa gậy lên bảo: Cây gậy chẳng phải là pháp thường trụ. Sư lại cầm gậy nhóm họp đại chúng đến bảo: Nếu các ông móc con mắt ra thì có nhìn thấy pháp bất dị của Pháp sư Tăng Triệu ở chỗ nào hay không? Nếu gõ vào xương cho tủy chảy ra thì có thấy pháp thường trụ của Đại Sư Vân Môn ở chỗ nào không? Sư ném gậy, bảo: Khán phân thân (hóa thân) ở hai nơi, sư xuống tòa. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Tông của con không có lời nói, ngôn từ thật không có một pháp cho người thì thế nào? Sư đáp: Quả cân năm vị. Vị Tăng hỏi: Vì sao nhà ngoại Dương có mùi hôi? Sư đáp: Vì sao đầu lưỡi của ông lại chấm đất? Vị Tăng hỏi: Lại bị Hòa thượng dắt dẫn rồi. Sư liền đánh vị Tăng ấy. Vị Tăng hỏi: Ngài Càn Phong dạy chúng rằng: Nêu một thì không được nêu hai. Buông ra hơn một thì mắt kẹt vào thứ hai. Ý chỉ thế nào? Sư đáp: Dùng lông lạc đà để câu quả bí đao. Vị Tăng hỏi: Có cho đệ tử xoay mình hít thở cho thỏa lòng thỏa dạ hay không? Sư đáp: Cho phép ông xoay mình. Sư lại hỏi: Thế nào là hít thở cho thỏa lòng thỏa dạ? Tăng bước tới trước hít thở một hơi. Sư bảo: Kẻ vọc bùn này. Vị Tăng hỏi: Giống như Ngài Vân Môn nói: Người từ Thiên Thai đến rồi đi về Kính Sơn thì thế nào? Sư đáp: Chuột già ăn muối. Tăng hỏi: Làm sao biết được mùi vị của nó? Sư đáp: Ông mau lễ bái đi. Sư lại nói tiếp: Mưa đã lâu không tạnh, hôm nay bỗng nhiên trời tạnh. Việc của môn hạ Tổ sư cần gì trình bày. Sư Thượng đường nêu: Có vị Tăng hỏi ngài Vân Môn. Thế nào là mắt chánh pháp? Vân Môn đáp: Rộng khắp. Có vị Tăng hỏi ngài Phong Huyệt. Thế nào là mắt chánh pháp? Phong Huyệt đáp: Đui mù. Sư bảo: Hai vị tôn túc đều đáp một câu chuyển ngữ, có ưu khuyết gì không? Nếu nói có ưu khuyết thì thật là con mắt đui mù. Nếu nói không hơn kém thì đúng là rộng khắp. Rốt cuộc thế nào? Mây ngủ trên đầu núi vẫn không tan ra, nước chảy dưới khe vẫn không vội vàng. Trương Thị Lang đến thượng đường, có vị Tăng hỏi: Đại Điên vì Hàn Văn Công mà làm thủ tọa. Ý chỉ thế nào? Sư đáp: Cá ngát trên cần trúc mỗi ngày một ngàn dặm. Vị Tăng thưa: Đệ tử chưa hiểu, xin sư ban ân. Sư bảo: Còn phải gạn đục nơi đây lần thứ hai Vị Tăng hỏi: Thủ tọa giữ lại ba cái răng dưới để đi qua nơi nào? Sư đáp: Qua chỗ giữ răng Vị Tăng hỏi: Chẳng ai nhạo báng Thủ Tòa cả. Sư đáp: Ông thấy đạo lý gì? Nói gì? Vị Tăng hỏi: Ai biết được sóng khỏi ở xa, riêng được đắn đo suy nghó? Sư đáp: Ông chớ chê bai Kính Sơn. Vị Tăng hỏi: Hôm nay Thị Lang hỏi Hòa thượng được bao nhiêu tuổi? Sức khỏe thế nào? Sư đáp: Ông ấy nói là năm mươi hai tuổi. Vị Tăng hỏi: Nói là chê bai Kính Sơn có được không? Sư đáp: Ông đã xem thường Thị Lang. Người xưa nói: Tông môn của ta không có câu cú ngôn ngữ, thật không có một pháp cho người vì sao nói sớm đã ngâm toàn thân vào trong hầm phân rồi. Nếu muốn nhảy ra thì thân thể sẽ ra sao? Hỏi: Hướng Thượng, hướng hạ, ba yếu, ba huyền trong bát đầy tuyết, sao Bắc Đẩu chiếu lên thân là ý chỉ thế nào? Khởi không ở cạnh hầm phân còn đào hầm phân lên. Tuy như vậy nhưng nếu ở trong hầm phân mà biết hít thờ một chút thì mới biết chư Phật ba đời và tất cả Tổ sư qua các đời, các bậc Hòa thượng từ xưa đến nay đều biết hết. Tất cả đều ở trong hầm phân xoay bánh xe đại pháp có lẽ là phòng ngừa trước tai vạ. Chớ có nhảy xuống hầm phân. Sư Thượng đường nêu: Có lần Mã Tổ và Nam Tuyền, Bách Trượng, Tây Đường ở dưới ánh trăng Trung thu. Mã Tổ chỉ trăng bảo: - Thế nào là thời gian hợp lý? Tây đường nói: Đúng lúc tu hành. Bách Trượng nói: Đúng lúc cúng dường. Nam Tuyền phất tay áo, liền đi. Mã Tổ bảo: Kinh nhập vào tạng, Thiền trở về biển, chỉ có nguyện rộng vượt ngoài khắp các vật. Sư bảo: Các ngươi có biết bốn đại lão sư này rơi vào chỗ nào không? Nếu chưa biết thì hãy nghi bài tụng, đất nước thanh bình mới quý con cái hiếm, nhà giàu sang thì mới nuông chiều trẻ con, mọi người đều ra tay, kia đây không được lợi ích. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Pháp cụ túc của phàm phu mà phàm phu không biết thì thế nào? Sư đáp: Cũng là một tin tức Vị Tăng hỏi: Pháp cụ túc của bậc Thánh mà bậc Thánh nhân không biết thì thế nào? Sư đáp: Cũng là một tin tức Vị Tăng hỏi: Chẳng hay tin tức gì? Sư đáp: Gặp người không hiểu mà cười, giỡn với vật mà không biết tên Vị Tăng hỏi: Nếu không có dòng nước chảy thì có nên qua núi khác không? Sư đáp: Tu sơn chủ đến. Hỏi: Một người ở trên đỉnh Cô Phong không biết đường ra thì thế nào? Sư đáp: Cũng là một tin tức. Vị Tăng hỏi: Vì sao Hòa thượng xoay mặt về vách đứng cao muôn trượng? Sư đáp: Ông thử xoay về vách đứng cao muôn trượng nói một câu xem. ròng? Vị Tăng hỏi: Giảo trường Hà vì tô lạc mà biến mặt đất thành vàng Sư đáp: Nêu thư thả, chậm rãi. Một người ở trên đỉnh cô phong không có đường ra một người ở ngã tư đường cũng không xác định được hướng đi. Chẳng phải Thích-ca Văn cũng chẳng phải Duy-ma-cật, nếu đến đây nhận biết được mặt mũi thật thì mới hiểu được lời nói của Tu sơn chủ. Pháp cụ túc của phàm phu, phàm phu không biết, pháp cụ túc của bậc Thánh, bậc Thánh không hay. Nếu bậc Thánh hiểu thì chính là phàm phu; nếu phàm phu biết thì chính là bậc Thánh. Phàm phu, bậc Thánh ở trên đỉnh Cô Phong, ở nơi ngã tư đường hay ở nơi đây, nếu chưa biết được thì hãy chờ lạnh rồi khán. Sư Thượng đường nêu: Có vị Tăng hỏi sư ông Ngũ Tổ: Lúc Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ thì tại sao trăm chim gắp hoa đến hiến dâng? Tổ đáp: Nghèo và hèn là điều tệ xấu của người đời. Sư hỏi: Sư ông ngũ Tổ đã trả lời như thế nào? Tuy là khéo đến được Cô Phong nhưng lời nói đâu có làm người nghe kinh sợ. Kính Sơn cũng không nói hai lời chuyển ngữ. Nếu cùng gặp sư ông thì lúc Ngưu Đầu chưa thấy tứ Tổ tại sao trăm chim gắp hoa hiến dâng cho ngài rồi đậu trên nóc nhà tranh hót vèo von. Sau khi Ngưu Đầu gặp Tứ Tổ thì chim không gắp hoa hiến tặng nữa. Vì trong điện Phật đã đào được Đông Ty. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Nói nín, động tónh đều không can thiệp vào, không nói, không nín, không động tónh cũng không can thiệp vào thì thế nào? Sư đáp: Mình làm mình chịu. Sư nói tiếp tướng Phật và chúng sinh vốn không khác nhau chỉ vì mê ngộ nên đi khác đường. Tuy nói khác đường nhưng lúc mê đó đã từng ngộ, cho nên nói: Giống như thể của hư không chẳng có các tướng nhưng không chống đối các tướng kia phát huy trong nó. Nếu thường thấy được như thế thì mới tin rằng. Chưa lìa khỏi Đâu-suất đã giáng sinh vào cung vua, chưa thoát khỏi thai mẹ đã độ hết tất cả chúng sinh. Đó là lời nói chân thật, chẳng phải là cuống ngữ. Nếu tin được thì thọ dụng vô cùng, còn tin không được thì cũng đồng ý trong đây. Sư Thượng đường nêu: một không được nêu hai, nếu buông thả thì mắc kẹt vào thứ hai. Còn nếu nạp Tăng ăn cơm để no, uống nước để hết khát, không tiêu Vân Môn đến đi vòng quanh để lánh. Đã không cho tiêu Vân Môn đi vòng quanh để lánh sao hôm nay chỉ có ăn cơm để no, uống nước để hết khát. Nếu như thế cũng chỉ là Hoàng Long khéo léo. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Tay không mà cuốc đất, đi bộ lại cỡi trâu thì thế nào? Sư đáp: Lươn, cá luống vào chum dầu. Vị Tăng hỏi: E rằng có râu đỏ Hồ, lại có xích Hồ râu đỏ. Sư đáp: Người đi trên cầu, cầu chảy nước không chảy. Vị Tăng hỏi: Như Phó Đại só nướng cá trong quán rượu để tiếp đãi người, chẳng hay Hòa thượng nướng thứ gì để tiếp đãi người? Sư đáp: Hướng về tất cả mọi nơi để tiếp đãi người. Vị Tăng hỏi: Không biết Hòa thượng được bao nhiêu chỗ? Sư đáp: Chỉ có cây cột sơn này ông không biết. Sư nói tiếp. Tay không lại cuốc đất, trong cơm có đậu. Đi bộ mà cỡi trâu thì trong chốc lác mắc vào đầu ngón chân. Người đi trên cầu lừa chết bao nhiêu người. Cầu chảy nước không chảy, còn một ít so sánh thì làm sao nhấc lên được, mới tin mà nói. Di-lặc thật là Di-lặc, hóa trăm ngàn ức thân, lúc nào cũng chỉ dạy mọi người, nhưng người đều không hay biết. Sư vỗ vào giường thiền, xuống tòa. Sư Thượng đường có vị Tăng hỏi: Tất cả không có gì đến thì thế nào? Sư đáp: Nhíu mày nhớ đường xưa, không rơi vào tiểu cơ. Vị Tăng hỏi: Nếu cắt một sợi tơ thì tất cả tơ đều bị đứt hết. Sư đáp: Trẻ con nhà giàu đáng yêu. Vị Tăng hỏi: Nơi máy chuyển động như mê, như ngây dại. Sư hỏi: Máy chạy về hướng nào? Vị Tăng hỏi: Nơi chim gáy hót tỏa hương thơm. Sư bảo: Không còn dính chấp mắc. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng đã gặp Phổ Hóa ở đâu? Sư đáp: Mũi tên xuyên nắng hồng mới là người bắn chim. Sư đáp: Không dính mắc. Sư tiếp: Mũi tên xuyên nắng hồng mới là người bắn chim. Hãy nói, lúc mũi tên chưa lìa dây cung còn ở bên bóng nắng hồng thì có tin tức gì không? Lúc mũi tên đã lìa khỏi dây cung thì tin tức rơi vào chỗ nào? Nếu biết được chỗ mũi tên rơi xuống thì đầu mũi tên bắn phá ba cửa ải. Sau mũi tên đã vạch ra một con đường, nếu chưa được như thế thì tránh dưới nỏ. Sư Thượng đường nêu. Vị Tăng hỏi ngài Ba Tiêu: Không vướng vào các duyên, xin sư chỉ thẳng. Ba Tiêu đáp: Có hỏi thì có đáp. Sư bảo: Tuy Ba Tiêu khéo dùng các việc dao kiếm để xem xét tỉ mỉ tương lai rất giống như trốn bóng vào lúc giữa ngày, phụ lòng vị Tăng này. Hôm nay, có người hỏi Kính Sơn: Không dính mắc các duyên, xin sư chỉ ngay. Sư nói với ông ấy rằng. Tinh tinh tuy biết nói nhưng rốt ráo cũng là loài súc sinh. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi tâm ấn của Tổ sư có hình dáng giống như con trâu sắt, thì hãy gác lại, như chín năm xoay mặt vào vách đá thì thấu hiểu được việc gì? Sư đáp: Thân nằm ngang hợp với vũ trụ, đầu người nhô ra chỗ nào? Vị Tăng hỏi: Quảng một chiếc dép về Tây có còn đầu mối hay không? Sư đáp: Không còn đầu mối. Tăng nói: Con biết Hòa thượng dùng cơ phong này. Sư đáp: Đúng. Vị Tăng liền hét một tiếng, sư cũng hét, bảo: Vừa rồi khéo, một tiếng hét kinh trời động đất. Kính Sơn cũng hét theo. Hoàn toàn không được cái lỗ mũi. Nếu đã không hội được chỗ lỗ mũi, nếu hiểu một điều thì sẽ thông suốt hết tất cả, sẽ xỏ xuyên qua lỗ mũi của mọi người trong thiên hạ. Nếu đến chỗ trời đất rung chuyển chính mình lại bị người khác xỏ mũi. Ngay lúc đó làm sao tránh khỏi lỗi này. Than ôi! Không có chỗ đi, không có chỗ đi. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Chỉ đưa ra một chứ không được đưa ra hai. Nếu buông thả thì mắc kẹt vào thứ hai, đệ tử ngay lúc này thỉnh sư nêu ra một. Sư đáp: Y cứ vào lệ xưa sáu lần sáu là ba mươi sáu. Vị Tăng hỏi: Chẳng biết có đúng không? Sư đáp: Tuy một việc này là thật nhưng hai việc khác thì không thật. Vị Tăng làm lễ. Sư bảo: Nêu ra một chẳng được nêu hai. Buông thả là kẹt vào thứ hai. Giống như củ cải ở Trấn châu, chẳng biết trong Linh Chiếu lam có được không? Nếu vào trong đó hạ được một chuyển ngữ thì hôm qua có người từ Thiên thai đến rồi trở về Nam nhạc. Nếu hạ không được thì Tuyết Phong nói: Sư Thượng đường nêu: Có vị Tăng hỏi Lục Tổ. - Ý chỉ của Hoàng Mai ngài lãnh hội được không? Tổ đáp: Người hiểu Phật pháp thì lãnh hội được Vị Tăng hỏi: Hòa thượng có lãnh hội được không? Tổ đáp: Ta không hiểu Phật pháp. Sư liền gọi đại chúng đến hỏi: Các ông có thấy Tổ sư Không? Nếu Không thấy thì Kính Sơn chỉ ra cho, chuối rừng, chuối rừng có lá hay không? Bỗng một trận cuồng phong thổi đến, giống như trong chùa Đại tướng quốc ở Đông kinh, hành lang phía Đông của ba mươi sáu viện rơi xuống. Y ca sa của Hòa thượng họ Vương bị rách, cuối cùng thì thế nào, sư trở về thiền đường uống trà. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Một người ở trên cây, miệng ngậm một cành cây mà tay không vịn cành, chân không đạp cành, chẳng biết có trả lời được phần nào Không? Sư đáp: Đáp được một câu. Luân hỏi: Đệ tử hỏi trên cây, sao Hòa thượng lại đáp dưới cây? Vì ông ở dưới cây hỏi. Vị Tăng hỏi: Có được mắt của đại chúng hay không? Sư đáp: Đương nhiên kà Không được. Vị Tăng hỏi: Chỉ như cây chưa mọc, tin tức chưa dao động thì ngài Hương Nghiêm đến chỗ nào mà hiểu được câu thoại đầu này? Sư đáp: Vừa rồi từ thùng sơn đến. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng nói: Gọi là lược dày bằng trúc thì tiếp xúc, không gọi là lược dày bằng trúc thì gải lưng. Có phải là tùy chỗ người sử dụng hay không? Sư đáp: Không. Vị Tăng hỏi: Thế nào là thành bại, hư giả? Sư đáp: Hư giả, giống như người ở trên cây, miệng ngậm cành cây mà tay Không vịn cành chân, không bám cành. Ở dưới cây có người hỏi diệu chỉ của Thiền tông, nếu trả lời thì tang thân mất mạng, còn không trả lời thì trái với điều họ hỏi. Ngay lúc đó, Hương Nghiêm đã nói lời gì? Nếu như không chịu nương tựa thì gọi là Thượng tọa Hổ Đầu. Có một vị Tăng bước ra hỏi. Người ở trên cây thì không hỏi, người ở dưới cây lại nói một câu. Ngài Hương Nghiêm cười ha… ha… Sư bảo: Nguy hiểm. Kính Sơn ở, đây hai lần nguy hiểm. Có một lần như trời che khắp, đất chở hết. Lần khác gần như Không màng đến việc giao thiệp. Thế thì Kính Sơn đã chọn được cái gì? Nếu chọn ra được thì đích thân thấy được ngài Hương Nghiêm và làm cho Thượng tọa Hổ Đậu, không có nơi an thân lập mệnh. Còn nếu không chọn được thì nó sẽ trở thành công án của Kính Sơn. Để làm bàn đạp cho ông và người khác. Nên nói lược dày làm bằng trúc thì chải đầu, còn lược dày không làm bằng trúc thì gải lưng. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Trong giáo nói là tinh tấn chân thật, ấy là chân pháp cúng dường Như Lai. Nếu như con chó đã không có Phật tánh thì làm sao gọi là chân pháp. Sư đáp: Chỉ vì không có Phật tánh này nên gọi là chân pháp. Vị Tăng hỏi: Đệ tử y cứ theo điều mình thấy mà vẫn không đúng. Sư bảo: Ông thử đặt ra xem. Vị Tăng lễ bái. Sư bảo: Cái lễ bái này vẫn còn là bịa đặt. Sư nói tiếp: Là tinh tấn chân thật, gọi là chân pháp cúng dường Đức Như Lai. Con chó đã không có Phật tánh thì làm sao gọi là pháp chân thật? Sơn Tăng đáp: Chỉ vì không có Phật tánh này nên gọi là pháp chân thật. Các người có tin hiểu được không? Nếu tin hiểu được thì hội Linh Sơn vẫn còn nghiễm nhiên, còn nếu không tin hiểu không được thì hãy đợi Đức Phật Di-lặc ra đời để hỏi. Sư Thượng đường nêu có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Con từng nghe Hòa thượng đích thân gặp ngài Nam Tuyền, có thật vậy hay không? Ngài Triệu Châu đáp: Củ cải được sản xuất từ Trấn châu. Vị Tăng hỏi: Muôn pháp trở về một pháp, một pháp trở về đâu? Ngài Triệu Châu đáp: Ta ở Thanh Châu may một cái áo đơn nặng bảy cân. Lão phu Vân Cư Thuấn nói: Củ cải sản xuất ở Trấn Châu thì to, áo đơn ở Thanh châu thì nặng nên phải hiểu ý ở đây: Gà gáy vào canh năm. Sư hỏi: Vân Cư nói gì? Rất giống như nơi quen biết thân thiết thì rất khó quên. Nếu là Kính Sơn thì không như vậy, củ cải được sản xuất từ Trấn châu thì to, áo đơn ở Thanh châu thì nặng gấp đôi chỗ khác. Nạp Tử có hết lòng cầu tôn chỉ thì cũng giống như con muỗi chích vào đinh sắt. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thần thông du hí thì không thể không có, Tôn giả Phật pháp cần phải có lão Tăng mới được. Chẳng hay ông ta đã y cứ vào đạo lý nào? Sư đáp: Chỉ biết mở miệng cười chứ không biết đầu lưỡi dài. Vị Tăng hỏi: Hôm nay sao lại bị Hòa thượng cười? Sư đáp: Sao gọi là vang theo tiếng? Vị Tăng hỏi: Thần thông du hí thì chẳng thể không có. Tôn giả Phật pháp phải trở về với Kính Sơn, mới được sư hỏi: Ông có gặp Kính Sơn hay không? Tăng thưa: Ít khoa trương. Sư bảo: Có mắt như mù. Thần thông du hí rõ ràng là Ngưỡng Sơn Không hiểu. Điều quan trọng mầu nhiệm trong Phật pháp rõ ràng bậc La-hán không biết. Tuy đây kia Không biết nhau nhưng đâu có ai thiếu thốn. Đã không thiếu thốn thì cái dài là pháp thân dài, cái ngắn là pháp thân ngắn, cái tròn là pháp thân tròn, cái vuông là pháp thân vuông. Còn ngộ cái gì? Cho nên biết rằng: Cái dài thì chẳng phải dài; cái ngắn cũng chẳng phải ngắn; cái tròn cũng chẳng phải tròn, cái vuông cũng chẳng phải vuông. Tất cả đã không như vậy thì gọi cái gì là pháp thân? Sư hét một tiếng, bảo: Nhà tù ở Kịp Hợp Đình là trí lâu dài. Vào ngày vía, sư Thượng đường niêm hương xong, bỗng nhiên sấm dội vang rền, rồi cơn mưa liền trút xuống. Sư bảo: Rung sấm pháp, đánh trống pháp. Mây lành giăng phủ vẫy nước cam lồ, hôm nay sấm pháp đã vang rền, trống pháp cũng đã đánh rồi. Mây lành đã giăng phủ, nước cam lồ cũng đã vẫy xong. Đứng về sự cũng hợp, đứng về lý cũng hợp. Sự lý đã hợp thì còn nói gì nữa? Sư xuống tòa cùng đại chúng đến Đại Phật điện, khai bày với Càn Long Thánh tiết. Sư Thượng đường nêu, ngài Đổng Sơn hỏi Tam phong Am chủ. - Ông tên gì? Am chủ đáp: Nói được. Đổng Sơn hỏi: Sao không nói việc hướng thượng? Am chủ đáp: Nếu nói việc hướng thượng thì không gọi là nói được Đổng Sơn chắc chắn điều đó. Sư bảo: Nếu nói được việc hướng thượng thì không nói là được. Đã gọi là không nói được thì nói việc hướng thượng cũng Không thể được. Đã không nói việc hướng thượng thì làm sao hợp ý với Đỗng Sơn. Im lặng giây lát, sư bảo: Người trí nhờ nghe mà bỗng nhiên nắm bắt được, nếu chẳng đợi trong giây lát thì phải mất đầu. Hòa thượng Tuyết Đậu Trì thượng đường, có vị Tăng hỏi: Nếu sư chùa Đông là Thục Nhã còn thì Tuệ Tịch Không bị cảnh buồn tẻ vắng vẻ. Giống như ngày hôm nay, Hòa thượng Tuyết Đậu đã đến đây, chẳng hay phải tiếp đãi thế nào? Sư đáp: Xưa nay đều như vậy. Vị Tăng hỏi: Đâu phải một mình Kính Sơn không bị cảnh buồn tẻ vắng vẻ này? Mà là một ngàn bảy trăm chúng cũng có liên lụy. Sư hỏi: Ông thấy được đạo lý gì? Vị Tăng đáp: Hai cái gương cùng chiếu thấu suốt, không che lấp một dấu vết nào. Sư hỏi: Đập bể gương rồi, để ông cùng thấy. Vị Tăng hỏi: Hai cái miệng, một cái không có lưỡi. Đó là tông chỉ của con. Làm sao bàn luận được? Sư đáp: Kẻ ôm trụ cầu mà tắm, nắm dây neo mà lại xô thuyền đi. Vị Tăng hỏi: Nếu là tông chỉ của Lâm Tế thì phải làm thế nào? Sư đáp: Con chó ngậm miệng. Ngưỡng Sơn nói nếu sư chùa Đông còn thì Tuệ Tịch Không bị cảnh buồn tẻ vắng vẻ. Ngưỡng Sơn chỉ biết phần mình chứ không biết có người. Kính Sơn thì thì không như vậy. Nếu sư thúc Tuyết Đậu ở đây thì nạp Tăng trong thiên hạ không chịu cảnh cô quạnh buồn tẻ. Vì sao không thấy? Xưa kia, Tuyết Đậu có nói: Cây lạnh thì toàn cơ phong đáng chê cười. Nước mùa Thu nêu ra một nửa diệt khiến cho Bát cực đảnh mục đáng Không tự phân chia, cân đong để thấy người này, chứ xe của vua chạy nhanh. Sáng mùng bốn tháng giêng, sư Thượng đường, Nạp Tăng thả hạt dẻ xuống. Tuy không cho mặc chiếu nhưng mọi người đều xoay mặt vào vách. Đã Không cho mặc chiếu thì sao phải xoay mặt vào vách? Không thấy sư ông Bạch Vân có nói: Nhiều nơi thì thêm một số người, ít nơi thì bớt một số người hay sao? Ngày lễ tắm Phật, sư Thượng đường, bảo cây chuối không nghe tiếng sấm nổ, hoa quỳ không có mắt mà xoay theo hướng mặt trời. Thích-ca, Lão Tử đều vô sinh. Đúng vào sáng ngày này mỗi năm tất cả nơi đều làm lễ tắm Phật. Đã vô sinh mà còn tắm cái gì? Có điều thì vướng mắc vào điều, còn không có điều thì vướng mắc vào lệ. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Đạo không có chỗ nơi, nên nói đạo ở con người. Pháp thì thấy nghe, dứt nó ở trí. Lúc Không khởi một niệm thì có Phật pháp hay chăng? Sư đáp: Không có Phật pháp. Vị Tăng hỏi: Vì sao không có Phật pháp? Sư đáp: Vì ông đã trụ trong niệm này. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng y cứ vào đâu để biết đệ tử trụ trong niệm này? Sư đáp: Khởi niệm, không khởi một niệm chưa phải là chỗ các ông xả bỏ thân mạng. Một niệm vừa sinh giống như rồng được nước, như hổ về rừng. Toàn thể đi đâu? Toàn thể ở chỗ như thế thì lãnh hội được điều gì? Còn bán một trăm hai mươi đôi giày cỏ để đi du phương mới được. Vì sao? Vì trong khi nhà vua ta không có dao kiếm. Một hôm, Trương Thị Lang thỉnh sư lên tòa, có vị Tăng hỏi: Mười phương đồng nhóm họp, mỗi người đều học là vô vi. Đây là trường chọn người làm Phật, tâm không thi đậu trở về thì thế nào? Sư hỏi: Đề mục nói cái gì? Vị Tăng đáp: Sao cùng nhau vướng vào cây quế tiên? Cần phải bẻ cành cây thứ nhất ở trên cung trăng. Sư bảo: Hôm nay lão già này mới thưa. Vị Tăng hỏi: Tuy như vậy nhưng mùa hạ này quyết định làm Thiền trạng nguyên. Vị Tăng liền lễ bái rồi hỏi Thị lang: Ông đã thấy chỗ sao còn giống như năm ngoái. Sư đáp: Năm nay và năm ngoái chỉ cách nhau ba trăm sáu mươi ngày. Vị Tăng nói: Không ai chê Thị lang được, Thị lang không có tin tức này. Sư bảo: Đã không có tin tức này thì đã thấu hiểu nguyên do còn nói càn làm cái gì? Vị Tăng hỏi: Miệng của người xưa nói được cũng không liên can đến việc của mình. Hoài bảo của mình đã tuôn ra. Kẻ bàng quan bên ngoài có mắt mà như mù, có miệng như câm thì làm sao thưởng thức được? Trở thành Thiền trạng nguyên cũng không khó. Như thế mới vào của Kính Sơn chứ chưa thể vào nhà Kính Sơn được. Nếu vào được nhà Kính Sơn thì Thiền trạng nguyên bắt đầu dùng được, Thiền trạng nguyên mới dùng được. Nhưng nho trang nguyên thì không dùng được. Xin hỏi đại chúng mặt trước vì sao dùng được? Mặt sau vì sao không dùng được? Sư bèn quay nhìn xung quanh, hỏi: Các vị có biết Kính Sơn đi vào nơi nào không? Nếu biết chỗ rơi của Kính Sơn thì Thiền trạng nguyên chính là Nho trạng nguyên, Nho trạng nguyên chính là Thiền trạng nguyên. Hôm nay lại nêu lên Thiền và Nho. Hãy nói, nếu phải nói một câu thì làm sao nói? Nên biết khăng khăng tuyên giáo là cứu sống ông nội của trạng nguyên. Ngày giải hạ, sư Thượng đường bảo: Ngài Văn-thù an cư ba nơi, chí công chẳng phải là Hòa thượng Nhàn. Ngài Ca-diếp muốn thi hành chánh lệnh nhưng chưa khỏi trước mắt còn phải gặp quỷ. Hãy nói: Hôm nay việc gì đã xãy ra dưới cửa Kính Sơn? Sau khi sư xuống tòa, mọi người đều cảm động nên đãnh lễ ba lạy. Sư Thượng đường nêu: Có một vị Tăng hỏi ngài Vân Môn: Làm sao hiểu được pháp thân, cú thân? Vân Môn đáp: Tàng thân trong Bắc đẩu. Sư bảo: Lão Vân Môn nói cái gì? Chỉ đáp được pháp thân, cú thân chứ chưa thấu hiểu pháp thân cú thân. Hôm nay, có ai hỏi Kính Sơn thế nào là thấu hiểu được pháp thân và cú thân thì hãy đến để ông ta trả lời. Trong mắt tiêu minh phát ra chợ đêm, trên lưỡi con hổ đánh cái xích đu. Sư Thượng đường, bảo: Sáng nay là tết Đoan ngọ, ngài Văn-thù, Thiện Tài bận nên không đến, giết người cứu người thuốc không linh, chính là tự thêm ba cân sắt vào sau ót. Bỗng nhiên sư dộng gậy xuống đất, bảo trí lực nhiệm mầu của Bồ-tát Quán Thế Âm có công năng cứu khổ nạn cho thế gian. Rồi sư ném gậy, bảo con rắn nào đã chui xuống đất? Sư Thượng đường nêu: Mã Tổ bảo Trí Tạng quyển sách nổi tiếng phải là Quốc Nhất Tổ sư. Tổ sư mở ra thì thấy một hình tròn liền dùng bút chấm vào một chấm. Quốc sư Tuệ Trung ở Nam dương nghe được bảo: Khâm sư dường như bị Mã sư nghi ngờ. Sư đáp: Mã sư vào giữa mùa đông thì lạnh nóng. Còn Quốc Nhất Tổ sư vào đầu mùa hạ thì ấm dần ra. Tuy lạnh nóng khác nhau, nhưng kia đây đều là thời tiết. Quốc sư Trung vì sao lại nói Khâm sư như bị Mã sư nghi ngờ? Có còn ủy tất không? Không có gió mà lá sen lay lay thì chắc chắn có cá bơi lội. Sư xuống tòa. Sư Thượng đường nêu: Quốc sư nói: Lời dối trá cũng quay về với lẽ thường, hợp với đạo. Bàn luận về đến thì không để lại dấu vết. Ngài Vân Môn bảo: Đưa kiền chùy lên, dựng phất trần, cũng là thời gian trong khoảnh khắc. Nếu xem xét ở tương lai thì cũng chưa hẳn là không có dấu vết. Sư hét một tiếng, hỏi: Nói sảng cái gì đó? Nói rồi trong khoảnh khắc sư lại đưa phất trần lên bảo: Ngay trong một khoảnh khắc này, Kính Sơn đã đưa phất trần lên. Nếu tìm kiếm dấu vết trong đó thì cũng như đọa địa ngục, như bị tên bắn. Sư Thượng đường nêu, đạo của ta dạy chúng rằng: Cái cao lại chẳng do cao tột, giàu chẳng phải do phước đức cao vời, vui cũng chẳng phải do thiên đường, khổ chẳng phải do địa ngục. Người quen biết nhau thì đầy khắp trong thiên hạ, nhưng hiểu được lòng ta có mấy người? Sư bảo: Kính Sơn thì không như vậy: Cao thì ở tột đỉnh, giàu thì ở phước đức cao vời, vui ở nơi thiên đình, khổ ở địa ngục. Khi biết đo phía dưới cái mũ thì biết được nỗi buồn của người xưa. Sư Thượng đường nêu: Ngài Mục Châu hỏi Tú Tài: - Tiền Bối sửa sang kinh gì? Tú Tài đáp: Sửa sang kinh dịch. Mục Châu hỏi: Trong kinh dịch nói: Thiên hạ hàng ngày dùng mà không biết, chẳng hay họ không biết cái gì? Tú Tài đáp: Họ không biết cái đạo trong ấy. Mục Châu hỏi: Cái gì là đạo? Tú Tài không trả lời được Mục Châu nói: Quả thật là không biết. Sư bảo: Tú Tài tuy không nói nhưng đã thầm khế hợp với Mục Châu nhưng chỉ thiếu một phen sau rốt. Nếu lúc đó Kính Sơn nghe được câu nói “quả thật là không biết” của Mục Châu thì sẽ vỗ tay cười ha ha, cho dù biết được Mục Châu chẳng thua kém gì ông. <卷>QUYỂN 5 Đệ Tử nói pháp Thiền sư Tuệ Nhật, trụ trì Thiền viện Năng nhân ở Kính Sơn là Uẩn văn kính dâng. Ngày 23 tháng 11 niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 26, sư chùa Báo ân Quang hiếu, ở Minh châu, khai đường. Sau khi đọc sớ, niêm hương chúc Thánh thọ rồi sư liền đến tòa. Hòa thượng Thiên Đồng đánh bạch chùy bảo: - Pháp hội của hàng Đại thừa phải quán nghóa Đệ nhất. Sư bảo: Nghóa đế đệ nhất. Hòa thượng Thiên Đồng đánh một tiếng kiền chùy mà đâu có ai tri ân báo ân. Vị Tăng hỏi: Bảo Thọ khai đường, Tam Thánh hoành thân đều đồng ý giúp đỡ, đệ tử hiện muốn nghe chúc Thánh. Sư đáp: Da trâu bịt ngoài trụ cột. Vị Tăng hỏi: Trời cao đất dày vô cùng vô tận, công đức của Phật thật khó suy lường. Sư bảo: Ngàn Thánh cùng truyền bát không đáy. Vị Tăng hỏi: Bây giờ thì thế nào là chim mổ? Sư đáp: Nếu khán thì có phần. Vị Tăng hỏi: Có phải là việc biết ân báo ân hay không? Sư đáp: Mặc cho khoan ngọc, đập ngói. Vị Tăng hỏi: Không tính đến đức của Thượng thù thiên tử chỉ dựa vào trầm hương ngày hôm nay. Sư đáp: Tương đối rõ ràng hơn một tí Hỏi: Đức Thế Tôn đưa cành hoa sen lên, ngài Ca-diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, nay giao phó cho Ma-ha Ca-diếp”. Thế nào là chánh pháp nhãn tạng? Sư đáp: Nhổ cây đinh trong mắt. Vị Tăng hỏi: Thế nào là Niết-bàn diệu tâm? Sư đáp: Hãy mau lễ ba lễ. Vị Tăng hỏi: Nếu vừa rồi con trình bày vấn đề này thì làm sao biết được toàn bộ cơ phong Pháp vương đã hiện bày? Sư đáp: Biết. Vị Tăng hỏi: Như pháp hội ngày nay có khác gì với pháp hội Linh Sơn hay không? Sư đáp: Cùng khắp. Vị Tăng hỏi: Vì sao từ đây mặt trời Phật thêm sáng, gió đạo mãi thổi mát. Sư đáp: Vẫn là nước đục bắn vào người. Tăng lễ bái, sư liền bảo: Phật pháp sâu xa mầu nhiệm, lìa tướng lời nói, ngôn ngữ, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên, không thể dùng hữu tâm để tìm cầu; không thể dùng vô tâm mà nắm bắt được, không thể dùng ngôn ngữ để tạo tác, không thể dùng sự vắng lặng mà thông hiểu được. Giống như mặt trống bôi chất độc, một khi nghe tiếng trống ấy thì não vỡ thành trăm mãnh, giống như lửa dữ, đến gần nó lại còn cháy lan ra phía trước. Đúng là vách đứng cao muôn trượng, dẹp hết Thánh phàm, dù có trí như Thu Tử biện tài như Duy-ma chư Phật ba đời đồng thời xuất hiện, thì cũng phải độn thổ ba thước, có tự tại như thế, có thần thông như thế thì chỉ chất người cho lão Hồ biết chứ không đồng ý cho lão Hồ hiểu. Cho đến nhét giẻ vào miệng thì làm sao há được. Nhưng cho dù không dung chứa một cây kim mà tư thông với xe ngựa để phóng trên một tuyến đường thì vẫn phải có bàn luận với nhau. Bỗng sư dôïng gậy, hỏi: Có nghe hay không? Tất cả chướng ngại thì cuối cùng cũng tỏ ngộ, được niệm mất niệm chẳng phải không giải thoát, thành pháp, phá pháp đều gọi là Niết-bàn, trí tuệ, ngu si đều chung với Bát-nhã. Sư lại dộng gậy, bảo: Vầng mặt trời ngập tràn con mắt, muôn dặm không treo nơi một áng mây. Phật xưa và Lộ Trụ giao tiếp nhau, Tân-la và Chiêm-ba chiến đấu nhau thì bất luận. Các ông hãy y theo lời Mã Tổ nói: ngay nơi tâm này chính là Phật, làm sao bàn bạc, lại ủy tất chăng? Thái Bình vốn là Tướng Quân Trí, thế mà lại cho Tương Quân, gặp Thái Bình. Sư lại dộng gậy xuống đất, nêu: Quốc Vương Tây Thiên hỏi Tôn giả Ba-la đề rằng: Ta muốn thành Phật nhưng không biết thế nào là Phật? Tôn giả đáp: Thấy tánh là Phật Vua hỏi: Sư thấy tánh chưa? Tôn giả đáp: Ta thấy Phật tánh. Vua hỏi: Phật Tánh ở đâu? Tôn giả đáp: Tánh ở tác dụng. Vua hỏi: Tác dụng là gì mà nay ta không thấy. Tôn giả đáp: Hiện giờ là tác dụng ngay cả bản thân vua cũng không thấy. Vua hỏi: Có ở trong ta không? Tôn giả đáp: Chẳng phải vua không có tác dụng mà là vua không dùng, cho nên khó gặp. Vua hỏi: Nếu phải dùng thì chỗ nào xuất hiện. Tôn giả đáp: Nếu lúc xuất hiện thì có tám nơi. Vua hỏi: Hãy nói cho ta nghe tám nơi Phật tánh? Tôn giả đáp: Ở trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người; ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi gọi là phân biệt mùi, ở lưỡi gọi là bàn nói, ở tay gọi là cầm nắm, ở chân gọi là di chuyển, chạy đi. Hiện khắp đầy đủ. Hằng hà sa giới thâu nhiếp trong một hạt bụi. Người hiểu biết là Phật tánh, người không hiểu gọi là tinh hồn. Vua nghe lời nói ấy tâm liền tỏ ngộ. Sư bảo: Xin hỏi pháp hội của Đại chúng, hãy nói quốc vương Tây thiên có ngộ được Phật tánh không? Có ngộ được tinh hồn hay không? Nếu nói theo tám chỗ thì ngộ được, chỉ là tinh hồn, nếu lìa tám chỗ thì cái gì gọi là Phật tánh? Ở đây đã nhiều lần báo đáp được đầy đủ ơn Phật, ân vua. Nếu đã không báo đáp được thì vua A-dục vì những người dưới mà giải thích. Im lặng hồi lâu, sư đáp: Chim loan, chim trạc, kỳ lân đều xinh đẹp, hương chiên đàn cũng giống như hương hoa. Hòa thượng Thiên Đồng lại đánh bạch chùy, bảo: lặng quán pháp của bậc Pháp vương, pháp của bậc Pháp vương như vậy, sư nhóm họp đại chúng hỏi rằng: - Các người hãy ghi nhớ lời của Hòa thượng Thiên Đồng. Sư liền xuống tòa. Một hôm, sư vào viện bảo trụ trì nhóm họp đại chúng, dạy rằng: lò rèn dùng để tôi luyện ý nghóa cái sống cái chết, ghét cái kềm cái chùy, không lạ gì chủ nhân không mặt mũi. Pháp như thế nên không gượng làm. Pháp đã như vậy nên không cưỡng làm. Hãy nói: Câu đầu tiên là gì? Có ủy tất không? Bẻ hết cần câu lại trồng trúc, bất luận công trình liền nghỉ ngơi. Một hôm, sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Đột xuất phá vở tròng con mắt, bốn phương tám hướng vọt lên, phía Đông vọt lên phương Tây biến mất. Chỉ như ba bước của Dương Kỳ bước đi nhún nhảy của con lừa, ý chỉ như thế nào? Sư đáp: Chẳng có ý chỉ Vị Tăng hỏi: Chẳng phải chỉ chỗ này là chỗ thọ dụng của Dương Kỳ phải không? Sư đáp: Là chỗ thọ dụng của Dương Kỳ. Vị Tăng hỏi: Thế nào là quét sạch ngọc kỷ phong và người lúc ấy đều chắp tay? Sư đáp: Phẩm tựa, thứ nhất. Vị Tăng hỏi: Chẳng hay còn dính mắc chỗ nào, rơi vào chỗ nào? Sư hỏi: Ông hãy nói rơi vào chỗ nào? Vị Tăng hỏi: Sư là Pháp vương, đối với pháp được tự tại. Sáng đến Tây thiên, chiều về Đông độ thì thế nào? Sư đáp: Quảy chiếc dép cỏ. Vị Tăng hỏi: Cảm ơn Hòa thượng chỉ dạy Sư hỏi: Ông được cái gì? Vị Tăng đáp: Ngày hôm nay đích thân con thấy Đại Thiền sư. Sư đưa cái phất trần lên hỏi: Ông ở trước cái phất trần nhìn thấy hay ở sau phất trần mà nhìn thấy? Vị Tăng thưa: Trước sau nhất thời đều gom lại. Sư bảo: Xuyên qua cái lỗ mũi ông, đổi lại con ngươi ông Vị Tăng thưa: Hòa thượng phí sức làm gì? Sư hét một tiếng, bèn nêu: Hòa thượng Nam Tuyền mới vào viện, tri sự Thủ Đầu thỉnh vào phương trượng. Có vị Tăng hỏi: Sư trở về trượng thất sẽ chỉ dạy cho đệ tử điều gì? Ngài Nam Tuyền đáp: Canh ba hôm qua đã mất trâu, sáng nay thức dậy lại mất lửa. Sư bảo: Đầu tiên, Diệu Hỷ ở chỗ vua A-dục cũng chưa từng mất trâu, chưa từng mất lửa. Có người hỏi: Sư trở về trượng thất sẽ chỉ dạy cho người học điều gì? Sư nói với ông ta: đói thì ăn, khát thì uống, rảnh rỗi thì ngồi, mệt nhọc thì ngủ. Hãy nói: Ta và ngài Nam Tuyền giống nhau hay khác nhau. Nếu nói được thí chấp thuận ông là nạp Tăng. Nếu nói không được thì ba mươi năm sau mới vào trong phương trượng này sẽ nói với ông. Sư liền xuống tòa. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Ngài Đại Mai nói Tâm ấy chính là Phật. Ngài Mã Tổ nói chẳng phải tâm, chẳng phải Phật. Vậy ai đúng ai sai? Sư đáp: Cả hai đều đúng. Vị Tăng hỏi: Vàng không thể đục vàng, nước không rửa được nước. Sư đáp: Sao ông biết? Vị Tăng hỏi: Hương thơm cỏ dại ngàn năm trước ai cùng biết, gió mát xoáy đất đâu có cùng cực? Sư đáp: Lại bị gió thổi vào trong điệu khác Vị Tăng hỏi: Trong giáo nói: Lìa tướng nói năng, tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên thì cuối cùng bình đẳng không có đổi dời. Xin Hòa thượng lìa ngôn đẳng không có đổi dời. Xin Hòa thượng lìa ngôn ngữ nói tướng. Sư đáp: Hôm nay ông ở chỗ nào an thân lập mạng? Vị Tăng hỏi: Lông mày của Hòa thượng kết xoắn lại với nhau, hỏi đáp đều đầy đủ. Sư đáp: Tốt lắm, lìa lời nói tướng. Vị Tăng hỏi: Trắc trắc bình bình đề không dính mắc, lo lo buồn buồn nói vẫn là không. Sư đáp: Bẻ đầu ngọn của cần trúc kính mong liên tâm, sư bảo: Sáng nay là mồng một tháng chạp. Hàng năm đến tháng này là mọi việc sắp xong. Quá khứ, hiện tại, vị lai nhất thời đến nhập. Nói rồi sư đưa phất trần lên bảo: Chỉ có cái này là không vào để giữ gìn xã tắc. Vì sao như thế? Các ngươi không nghe nói có thể là chủ của muôn vật không suy tàn theo thời tiết bốn mùa. Một hôm, Thiên Đồng thỉnh sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: - Tạm mượn một câu hỏi cho là bóng cỏ thì thế nào? Sư đáp: Chẳng luống uổng công phu này. Vị Tăng hỏi: Nếu không thuận tiện thì Hòa thượng có trả lời không? Sư đáp: Vâng. Vị Tăng hỏi: Hôm nay làm thế nào để nghe được những điều chưa nghe? Sư đáp: Đã nghe được điều gì? Vị Tăng hỏi: Trước kia chưa đánh trống mà đã nghe Hòa thượng nói rồi. Sư hỏi: Nghe được điều gì? Tăng thưa: Con đâu biết Hòa thượng có lúc nhớ, có lúc không? Sư bảo: Sai lầm ở dưới gót chân. Vị Tăng hỏi: Ngài Triệu Châu hỏi một am chủ rằng có gì? Có gì? An chủ đưa nắm tay lên. Triệu Châu bảo: Chỗ nước cạn không thể chèo thuyền, ý này thế nào? Sư đáp: Quyền. Vị Tăng thưa: Ngài Triệu Châu còn hỏi am chủ, am chủ cũng đưa nắm tay lên, vì sao ngài Triệu Châu lại nói có dấu vết thì có đoạt lấy? Sư đáp: Chỉ là cái nắm tay. Vị Tăng thưa: Đã là cái nắm tay, vì sao hai chỗ đều bàn luận? Sư bảo: Ông nên xem hai chỗ ấy. Vị Tăng thưa: Chẳng hay hôm nay Hòa thượng có gặp Thiên Đồng và đại chúng ở một nơi không? Sư đáp: Có. Vị Tăng thưa: Ân lớn khó đáp đền, liền lễ sư ba lễ thưa: Thả lưỡi câu xa muôn dặm nhưng ô chùy trụ ngàn dặm. Lưới trời giăng bủa để đánh bắt cá côn cá kình. Đây là dụng tầm thường của lão Thiên Đồng. Hôm nay, vua A-dục đã bắt được, đã vào núi chiêm ngưỡng lễ bái. Khách nghe chủ phân tích rồi liền lên tòa này. Đến trong đây nói cái gì thì được? Có phải là nói tâm nói tánh hay không? Nói huyền nói diệu, nói lý nói sự được không? Tất cả đã không được. Không thể nghó ngợi gì. Đã không thể nghó ngợi còn không thể nói tâm, nói tánh, nói huyền, nói diệu, nói lý, nói sự, đâu không thể lưu bố thí đó được? Vậy làm sao gọi là thuận buồm xuôi gió, đó chưa phải là chỗ dụng của nạp Tăng. Tuy vậy nhưng tạm mượn uy quang của chủ nhân cho đại chúng dự vào thời tiết, hãy nói hôm nay là thời tiết gì? Loài sâu đo uốn thân là muốn duỗi ra. Đập nát hột đào mới thấy được nhân bên trong, nhân ở trong đã thấy thì đạo này nêu ra thường tình. Hãy nói ra một câu thường tình là gì? Còn gửi gắm hay không? Ánh sáng của con mắt lấp lánh phá tan bốn thiên hạ, chủ minh đây nói là người làm ruộng. Lại nói: Vừa đến Mông đường đầu lão nhân, Vị Tăng hỏi ngài Hương Lâm: Thế nào là nạp y hạ sư. Hương lâm đáp: Tháng chạp lửa đốt núi. Sư bảo: Đây là lời nói của Hương Lâm Thượng Đầu. Hôm nay cho vua A-dục đến Lâu sấu chưa dám hứa. Vì sao chưa dám hứa? Chọn người làm Phật nếu không như mắt này thì cho dù ngàn năm vẫn là trò hề. Sư Thượng đường bảo: Cùng gặp nhau nên không nêu ra, nêu ý thì liền biết có. Đấng sừng sững bất động, chân bước không rời đất. Đã là đấng Bất động thì đâu còn đi. Sư hét một tiếng, bảo: Y hi tợ khúc mới chịu nghe lại bị gió thổi vào điệu khác. Sư Thượng đường nói: Ngài Đan Hà đốt tượng Phật gỗ, lông mi của viện chủ rơi, chim bay lông rớt xuống đất, cá lội nước đục. Sư hét một tiếng, hỏi: Là gì? Phải biết kỳ lân thật sự chỉ có một cái sừng. Tham! Ngày đầu năm, sư Thượng đường bảo: Một năm có ba trăm sáu mươi ngày. Sáng nay là ngày đầu của năm. Mọi người có cái chủ nhân ông, trâu nước ngậm cái đuôi chuột già. Thậm sa vui đó là hỷ. Từ điện Phật đi ra ba cửa, Tăng đường thẳng vào trong nhà kho, nhà trù. Xin hỏi đại chúng có nghóa dời hay không? Tự nói: Có, làm sao không dời nghóa lệnh hành chánh của vua truyền về hướng Đông, hoa nở trên cành cây hướng Nam. Đến lúc Tư Phước thỉnh sư Thượng đường, cử Hòa thượng Hương Thành Thuận tụng bài Hoàng Long Tam Quan rằng: Lão Hòa thượng Hoàng Long, có ba câu nói chốt. Sơn Tăng nối pháp ngài, hôm nay vì vua nêu. Vì vua nêu, mèo con đã mở trói cho chuột già. Thiền sư Quảng Giám Anh thấy bài tụng này, liền nói. Tốt thì tốt, chỉ sợ người học làm việc luống uổng. Sư bảo: Lành thay lời nói thật, Sơn Tăng hôm nay cũng có bài tụng rằng. Lời nói của Hoàng Long bao trùm cả đất trời, từ xưa kín đáo không thông gió, hàng con cháu theo lệ này thừa hưởng. Tóm lại, mèo con thả chuột. Đến lúc Ngài Tuyết Đậu thỉnh sư Thượng đường, câu bình thường vô sinh; câu diệu huyền vô tư, câu thể minh vô tận. Một mũi tên nhọn bắn phá ba câu then chốt. Nhà kia vốn đã có chứng cớ, sao là nhà kia vốn đã có chứng cớ? Không ai còn lại vì từ trước đã có nhiều ý khí. Nhà kia đã từng đạp lên thượng đầu quan sư, lại nêu: Tăng hỏi Thiền sư Minh Giác: Thế nào là bổn nguyện của chư Phật? Thiền sư Minh Giác đáp: Vũ Trích Nham hoa. Sư nói: Thiên Phong hàn sắc, vũ trích nham hoa (ngàn mũi nhọn lạnh ngắt, mưa rơi xuống cánh hoa trên núi cao). Hôm nay cứ đúng thời đúng tiết, nếu là bổn nguyên của chư Phật thì không được động vào. Vì sao không được động vào? Chỉ có mình chủ nhân Tuyết Đậu ở đây. Đến lúc Khải Hà thỉnh sư Thượng đường, sư bảo, vừa đến Thiền sư Mông Đường Đầu Pháp Thúc nêu ngài Lâm Tế hỏi nhân duyên Long Quang. Khách nghe chủ phân tích đâu dám không y theo nghiêm lệnh lược cho các nhân hạ chú cước. Long Quang ngồi y trên tòa, tuy không nói nhưng nghe những điều ấy như sét đánh bên tai. Ngài Lâm Đường Đầu Pháp Thúc nói: Trong đó là chỗ ông bại chắc. Diệu Hỷ nói: “Đêm dài, đường xa, thôi đem lửa”, mọi người đều thổi tắt lửa, đi trong bóng đêm. Sư Thượng đường nêu: Một hôm, Ngưỡng Sơn cùng Lại An ngắm mưa. An nói: Thích mưa tịch xà-lê. Ngưỡng Sơn hỏi: Thích ở chỗ nào? - Lại An không đáp được. Ngưỡng Sơn bảo: Mổ giáp lại nói được. Lại An hỏi: Thích ở chỗ nào? Ngưỡng Sơn dùng tay chỉ mưa. Lại An liền thôi hỏi. Sư bảo: Một người chỉ biết xem mưa, một người chỉ biết chỉ mưa. Xem xét kỹ càng ở tương lai rất giống như cây đinh dao động mái chèo. Bấy giờ, A-dục đợi, ông ta nói được chỗ nào? Chỉ nói với ông ta: Giọt nước xuyên qua tròng con mắt ngâm cho thối rữa cái lỗ mũi, có một vị nạp Tăng đi đến, bảo: Vua A-dục cũng là cây đinh dao động mái chèo, còn hứa cho ông có đủ hai mắt. Sư Thượng đường nêu: Sư ông Ngũ Tổ nói: có một vị Tăng hỏi Ngài Triệu Châu: Thế nào là diệu chỉ Thiền tông? Triệu Châu đáp: Cây Bá trước sân. Sao biết? Tiện thì không phải vậy. Thế nào là diệu chỉ Thiền tông? Sao biết? Mới vừa bắt đầu vậy. Sư bảo: Có nên biết sư ông Ngũ Tổ không? Sau não thấy mặt chẳng ai tới lui sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Tham Thiền phải thấu rõ được võng trần lao, học đạo phải hẹn lúc thoát ra vòng già sinh. Núi bạc vách sắt không hướng bối, lồng vàng và cây táo gai không thường tranh giành. Đây là chỗ dụng tầm thường của học, chẳng hay chỗ thấy của Hòa thượng thế nào? Sư đáp: Ngày mùa xuân trời trong tạnh, chim hoàng anh hót. Vị Tăng thưa: Hôm nay ít ra cũng đại ngộ. Sư bảo: Nghe tiếng nước trên bờ đổ xuống dòng sông. Vị Tăng thưa: Từ trên bậc Thánh rốt cuộc sẽ là gì? Pháp làm sao bằng người? Sư đáp: Sẽ là gì? Pháp vì sao bằng người? Vị Tăng hỏi: Sao gọi Trúc bề là xúc, không gọi trúc bề là bối? Sư đáp: Tín nhận vâng làm, mau lễ ba lễ. Tăng lễ bái, sư bảo: Sáng nay là ngày 20 tháng 2, còn là Thanh minh hàn thực. Linh Vân không thấy hoa đào, đâu tin trong khúc cong có đoạn thẳng. Sư liền dộng gậy, bảo: là khúc cong hay? Là đoạn thẳng? Sư ném gậy, bảo: luống dối nhiều không bằng thật ít. Tham! Sư Thượng đường nêu: Tu sơn chủ bảo: là cây trụ mà không thấy cây trụ, chẳng phải cây trụ không thấy cây trụ. Thị phi đã dứt trừ rồi, trong phải quấy tiến thủ. Sư nhóm họp đại chúng rồi dạy: Phải quấy đã bỏ rồi mỗi người phải xét lại mình. Hãy nói quan sát chính mình là gì? Im lặng hồi lâu sư bảo: Chẳng phải mệnh lệnh bảo đánh vào cây trụ ở ngoài đồng. Sư Thượng đường, có vị Tăng hỏi: Có không? Có không? Am Chủ đưa nắm tay lên, còn là đầu môi không? Sư liền xuống tòa. Sư Thượng đường bảo: Người xưa nói thì giả đốt hương thành nhiều việc. Đại chúng hỏi han chuyển cái chấp mau đến chỗ sâu kín. Nói gì mà rất giống như không bị bệnh mà châm cứu. Ấn mắt thấy hoa đốm giữa hư không, nếu là vua A-dục thì không phải vậy. Thị giả đốt hương chẳng phải là phần ngoài đại chúng hỏi han, lý phải như vậy. Nếu làm việc Phật pháp mà bàn bạc thì thân còn sống đọa vào địa ngục. Sư xuống tòa. Ngày lễ tắm Phật, sư Thượng đường bảo, chưa lìa khỏi cõi trời Đâu-suất đã giáng sinh vào cung vua, chưa rời khỏi thai mẹ đã độ tất cả mọi người. Đó là sự hiện nêu ra, phu nhân Ma-da ở trong vườn Tỳ Lam vịn cành cây vô ưu, bên hông phải sinh ra Thái tử Tất-đạt. Cho đến chín rồng từ đất phu nước tắm thân vàng Thái tử. Từ dưới đất vọt lên hoa sen vàng để nâng chân Thái tử. Đây là phần tựa. Một tay chỉ trời một tay chỉ đất, rống tiếng rống sư tử. Trên hư không cho đến bốn duy không ai chẳng tôn kính. Đây là phần Chánh tông. Hôm nay A-dục chuyên làm việc lưu thông. Sư liền dôïng gậy xuống đất một cái, bảo: Ông già Thích-ca đến. Rồi sư đưa gậy lên bảo: Tịnh pháp giới Thân vốn không hiện ra và mất đi, nguyện lực đại Bi thị hiện thọ sinh. Bốn giai đọan khác nhau đã nêu trên thâu quy về khoa trên. Sư ném gậy nói hạ tọa và đại chúng đồng đến trên điện, lại giảng kinh đầu tiên. Châu xá nhân thỉnh sư lên tòa, có vị Tăng hỏi: Chư Phật ba đời đã nói rồi, Hòa thượng làm gì? Sư đáp: Lệnh này nước Ma-kiệt-đà đích thân thi hành. Vị Tăng hỏi: Việc hôm nay không như thế sao? Sư đáp: Kiếm đã bỏ lâu rồi, ông vừa khắc thuyền. Vị Tăng hỏi: Con biết Hòa thượng cắt đứt đầu lưỡi của Thiên hạ? Sư đáp: Quả thật không phải như vậy sao? Vị Tăng hỏi: Nói đầu mối thì rõ ràng như ban ngày, mở mắt thì người rơi vào nhà tù, vị Tăng liền lễ bái. Hỏi: Thích-ca Di-lặc vẫn còn là tôi tớ, chẳng hay họ là ai? Sư bảo: Ông là người ở thôn Nhất mai. Chớ có vì họ mà an danh lập tên. Sư nói: Người ở thôn ấy có tên gì? Vị Tăng hỏi: Lời nói trước ở đâu? Sư đáp: Rốt ráo ông nói người kia là ai? Vị Tăng thưa: Nhà không nhỏ khiến không thành quân tử. Sư bảo: Chưa tránh khỏi người di chuyển theo đôi chân. Hỏi: Thế nào là ý lớn của Phật pháp? Sư đáp: Lão Tăng không có ý lớn cũng chẳng phải như thế. Vị Tăng hỏi: Đã là không thì làm sao Hòa thượng được tin tức này? Sư đáp: Vua A-dục cũng không có tin tức này. Tin tức này, chư Phật ba đời nói không kịp, Tổ sư nhiều đời truyền không đến. Đã nói không kịp, truyền không đến thì Triệu Châu, Di-lặc cũng là tên gọi suông. Thích Ca, Di-lặc đã là tên gọi suông thì gọi cái gì là tôi tớ? Gọi cái gì là chủ? Cái nào là sinh? Gọi cái gì là tử? Cái nào là xưa? Cái nào là nay? Đã vô sinh lại vô tử, đã không xưa cũng không nay, sạch trọi trơn, dứt thừa đương. Trần trùng trục không có tổ hang. Như vậy thì thường thế giới mười phương không trong không ngoài. Đó là cõi Phật Tịnh Diệu, là Phật không thể suy nghó, bàn luận, là cõi Phật không thể lường, là cõi Phật không thể nói. Đã có những cõi Phật như thế. Như xá nhân cung sử nay mời Diệu Hỷ nêu lên đoạn này vì một nhân duyên lớn là truy tiến tiên tỷ Thái Phu nhân họ Du. Hãy nói, Phật ở đâu? Im lặng hồi lâu, Sư bảo: Một hạt bụi một cõi Phật, một chiếc lá moat Đức Phật Thích-ca. Sư Thượng đường bảo: Vừa hết hạ năm ngày, cây cột giữa đồng lại biết đầu mối bỗng đập vào cái chụp neon, khắp vì mọi người vào nhà, còn có ai biết hổ biết thẹn hay không? Im lặng hồi lâu, sư bảo: Mây trắng bỗng dưng bay đến mây xanh, trăng sáng khó chiếu xuống trời trong. Vào ngày vía, sư Thượng đường giống như người cầm thước đo hư không, lại có người đếm bước chân đi của chính mình. Hư không chẳng thể có bờ mé, tuổi thọ của vua cũng giống như thế. Lý thì như vậy, còn thì thế nào. Sư xuống tòa cùng đại chúng đến trước Vô Lượng Thọ Như Lai, năm vóc sát đất, khải kiến đạo tràng Thiên Thân Thánh tiết. Kính can bạch. Sư Thượng đường nêu: Ngài Mục Châu vừa thấy vị Tăng, bảo: - Hiện Thành công án, đánh cho ông ba mươi hèo. Tăng thưa: Mỗ giáp như vậy. Triệu châu liền đánh. Sư bảo: Tuy sáo không lỗ nhưng vỗ vào chiên để quyết định. Chính là năm âm thông suốt sáu luật hài hòa, chú ý xem xét ở tương lai. Chưa khỏi bị người bàng quan chê cười. Hãy nói: Ai là người bàng quan? Im lặng hồi lâu, sư bảo: không được động vào. Động vào là đánh gãy lưng lừa của ông. Sư Thượng đường bảo: Hôm nay là sáng mồng 5 tháng 5 trời mưa tầm tả. Ngãi nhân và môn thần nhóm họp chuyện trò với nhau. Hãy nói, họ nói gì? Thiền sư Tuyết Đậu dùng một cái miệng nuốt Phật Tổ. Sư Thượng đường nêu: Một hôm nọ ngài Phổ Hóa ở trước Thiền Đường của Ngài Lâm Tế ăn rau sống. Lâm Tế thấy, bảo: Rất giống con lừa. Phổ Hóa liền giả tiếng lừa kêu. Lâm Tế mắng: Là tên giặc. Phổ Hóa bảo: Giặc! Rồi liền đi ra. Sư bảo: Một tiếng lừa kêu, hai tiếng giặc, để cho các nơi làm nguyên tắc. Giặc chính, giặc cỏ thì không cần bàn luận. Mở cửa để đại thí không bít lấp. Sư Thượng đường, bảo: Đã mắc vào xưởng Tào sẽ đi từ sai đến sai. Cỡi lên Thánh Tăng thì cứ mãi an vui. Long tượng chà đạp, giày xéo chẳng phải là chỗ làm của lừa. Nực cười các nơi vọng sinh xuyên tạc. Thôi đừng xuyên tạc, kỳ lân tốt chỉ có moat sừng. Sư Thượng đường bảo, hôm nay là sáng mùng 5 tháng 7, hãy đánh trống thỉnh khắp, xem trời trong xanh không một gợn mây. Giống như thiếu hơn một nữa. Thế nào là một nữa đó, im lặng hồi lâu, sư bảo không có người quá giá đánh cho nhất quán. Sinh nhật của Kinh Thị Lang, thỉnh sư thăng tòa có vị Tăng hỏi: Vì sao con lừa ở Dương kỳ chỉ có ba chân. Sư đáp: Sa-di ăn cỏ nước. Vị Tăng hỏi: Như thế sao là trước mặt tặng quà nhau còn không dung hợp. Sư đáp: Chớ có lừa bịp Minh Đầu. Vị Tăng thưa: Đã là cỡi con lừa ngược cao to trở về, vì sao còn giết Hoàng Phiên Xước? Sư đáp: Chẳng phải cảnh giới của ông? Vị Tăng thưa: Quả táo nào là quả táo của ngày hôm nay? Sư đáp: Vẫn không cô phụ lão Tăng. Tăng thưa: Ân lớn khó đáp đền. Liền lễ bái. Sư bảo: Con lừa ở Dương kỳ chỉ có ba chân, ông đã cỡi lên một con lừa cao to trở về, còn giết Hoàng Phiên Xước. Diệu Hỷ ba mươi năm trước đã chú cước (đã đạp lên, nay bị lão Tăng này đối) trước chúng trời người chia cắt một phần ở trên. Không giống tiểu tiểu, đến nỗi Hòa thượng Dương Kỳ vỗ tay cười ha ha. Núi sông đất đai, muôn tượng sum la nhất thời ca múa. Lúc nào sẽ như thế, hãy nói, người nào làm chứng minh? Cho nên nói: Khắp nơi đều là chỗ chân thật, đặt vào nơi chân thật. Mỗi hạt bụi đều là người xưa nay. Lời nói chân thật thì âm thanh không hiện, chánh thể đường đường không còn thân. Thế nào là đường đường chánh thể chưa rời cõi trời Đâu-suất đã giáng sinh vào cung vua? Chưa ra khỏi thai mẹ đã độ tất cả mọi người? Há chẳng phải là đường đường chánh thể ư? Nếu là hội của đường đường chánh thể thì cô phụ Thích-ca, Lão Tử. Nếu chẳng phải là hội của đường đường chánh thể thì cô phụ chính mình, chính mình đã cô phụ thì làm sao được gặp ông già Thích-ca. Nếu vào trong đây khêu được một tuyến đường thì mới biết ông già Thích-ca đang ở cung trời Đâu-suất. Nương vào vầng mặt trời, voi sáu ngà giáng vào thai của phu nhân Ma-da, việc này chỉ là thị hiện. Lúc sinh Thái tử, thời tiết rất đạp. Đến khi một tay chỉ trời một tay chỉ đất, thái tử nói: “Trên trời, dưới thế gian chỉ có ta là tôn quý. ” Cũng là chỉ cho ta vì tất cả mà thị hiện tướng sinh. Nếu vào đây thấy được thì không riêng ông già Thích-ca hà hơi thở một hơi mà cùng với cha mẹ hà hơi. Không riêng sinh thân cha mẹ hà hơi mà cùng với luôn luôn loài hữu tình thở một hơi thở. Ngay lúc đó hãy nói, nương vào ân lực của ai, im lặng hồi lâu, sư bảo: Múa kiếm vung rìu, khai thị cho người. Sư Thượng đường nêu. Hòa thượng cầu chi, có ai hỏi điều gì thì chỉ đưa một ngón tay lên, lại tự giả trò, bảo: Ta ở chỗ trời rồng được Thiền ở đầu moat ngón tay, thọ dụng cả đời không hết. Sau này Long Da có bài tụng rằng. Câu-chi đưa một ngón tay nói cho vua biết, sáng sinh diều hâu bay trên trời cao. Nếu không có khả năng bay đến đỉnh Bạt sơn thì ngàn dặm quạ và ngựa không dễ cỡi. Sư bảo: Nếu Hòa thượng Dương Chi không được Long Da hà hơi thì dường như đã chôn vùi thiền ở đầu một ngón tay này rồi. Diệu hỷ đã nêu như thế sao, không khỏi theo sau cũng có chú cước. Một ngón tay của Hòa thượng Câu-chi, ăn cơm no rồi mới thôi. Lưng quấn mười muôn vòng, cưỡi hạc bay đến Dương châu. Sư Thượng đường bảo: Mưa lâu không tạnh, vừa tạnh lại mưa. Thiên đạo biến hóa, muôn vật được chỗ nơi. Mưa lâu không tạnh, im lặng hồi lâu, sư lại nhóm họp đại chúng đến dạy: lão già Vân Môn không bằng lòng. Tham! Tết Trung thu, sư Thượng đường nêu: Có lần Ngưỡng Sơn và Trường Sa ngắm trăng. Ngưỡng Sơn đưa tay chỉ trăng bảo: Mọi người đều có mặt trăng này, nhưng dùng không được Trường Sa đáp: Vậy thì mời ông dùng. Ngưỡng Sơn bảo: Làm sao dùng? Trường Sa bước gần tới trước đạp nhào Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn liền bảo: Xuống phía dưới giống như con hổ. Sư bảo: Một vầng trăng trong ánh sáng lạnh chiếu soi cả muôn dặm, người lanh lợi thì chiếc lá rơi cảm nhận được mùa Thu. Nói lời chân thật nghe trái tai. Nghỉ không nghỉ, thôi chẳng thôi, Tiểu Thích-ca có cơ hội lấp hang hổ. Hổ già lại không còn răng nanh. Lúc đang nhảy lên đâu vội vàng. Bỗng nhiên lộn nhào chẳng bằng ông. Trong chúng có người xuất gia tại gia nào được hai lão này nêu ra hay không? Im lặng hồi lâu sư bảo: Nếu có thì cũng đưa gậy đánh trăng. Sư Thượng đường, Triệu Châu từ viện Đông đi đến viện Tây. Nhà kín nát như bùn, khoét tám lỗ cho tròng áo đơn vào, đất trơ trọi vẽ cái sàng xảy gạo, sư hét một tiếng, hỏi là cái gì? Đầu mái hiên diêm mưa nhỏ giọt, gà đến canh năm thì gáy. Sư Thượng đường nêu, Hòa thượng Bàng Sơn nói: Giống như Kính Sơn ngọn núi cao lẻ loi vòi vọi như Thạch Hàm ngọc, chẳng biết ngọc không một dấu vết. Nếu được như thế thì mới là xuất gia chân thật. Sư bảo: Vua A-dục thì không như vậy. Nếu như vậy thì dụi mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Hòa thượng Thiên Đồng gửi thư đến. Sư nhận thư bảo: Người xưa nói: Một câu rốt sau mới đến cửa nhà lao phải dứt trừ bến mê, không chung cho Phàm Thánh. Rồi sư cầm bút viết. Đây là câu rốt sau của Hòa thượng Thiên Đồng dứt trừ bốn mê. Thường nêu lên tin tức. Còn gửi gắm không? Nếu như chưa gửi gắm thì lại thỉnh Duy-ma phân tích rõ ràng. Nói rồi, sư liền lean tòa, bảo: Cờ pháp đẩy cột pháp gãy, sông pháp khô cạn, mắt pháp tiêu diệt. Tuy như vậy nhưng chính là lời nói chân thật của Thiên Đồng. Hãy nói sự thế nào? Tri âm tri hậu còn ai biết? Ngày mùng một tết, sư Thượng đường bảo, hôm qua là ngày cuối cùng của tháng 12, hôm nay là ngày đầu tiên của năm mới. Trâu đi hổ đến nhanh that, lịnh Đông quân đã thi hành, thế sao là đã thi hành lịnh? Thụy tuyết là thế giới trải bạc rồi, mọi người nắm tay ở của Phổ Hiền. Vì Hòa thượng Phật Trí Dụ dời tháp, dùng tay chỉ huyệt, bảo: Diệu Hỷ và sư huynh đều là bậc viên ngộ. Diệu hỷ dời đến Kính Sơn, sư huynh dời đến đây. Tuy cùng sư huynh đồng sinh nhưng không cùng sư huynh đồng tử, tám lạng và nửa cân. Xanh hồng đối với bích tím. Có hợp thời không? Nên trở về cội nguồn để chỉ một câu thì thế nào? Im lặng hồi lâu, sư đáp; su huynh ca hát, trâu bùn gầm rống, sư đệ có lẽ quên tướng ngựa gỗ kêu, chợt mở mắt người sống trên đảnh. Dưới núi Mậu Sơn là chân quy.  <卷>QUYỂN 6 Đệ tử nối pháp Thiền sư Tuệ Nhật, trụ trì Thiền viện Năng nhân ở Kính sơn là Uẩn Văn kính dâng. Ngày 10 tháng giêng niên hiệu Thiệu Hưng thứ 28, sư nhận lời thỉnh đến trụ Thiền tự Quảng lợi ở núi A-dục Vương thuộc Minh châu. Mong được tạ ân. Sư đưa sắc chỉ, giải thích rộng cho đại chúng. Đạt-ma không đến Đông độ, Nhị Tổ không ở Tây thiên. Ánh thường quang của mọi người đều hiện tiền, mỗi người đều là vách đứng cao muôn trượng. Hãy nói: Từ đâu đến? Nếu biết được chỗ đến thì thọ dụng vô cùng. Nếu không đúng thì lại thỉnh ngài Duy-ma nói cho thật rõ ràng, cũng để mọi người hiểu được lời nói. Sư niêm hương chúc Thánh rồi lên tòa bảo: - Vượng khí mới ở trước Thiện pháp đường, sách trời đến từ chin lớp thành chỉ dựa vào một câu nói vô tư. Thượng chúc bệ hạ thọ ức muôn xuân. Ngày 28 tháng 2, sư ở Cảnh đức Linh ẩn thuộc phủ Lâm an khai đường, đưa tờ sớ lean, dạy chúng rằng: Đây là ông già Thích-ca trong bốn mươi chín năm nói pháp, hơn ba trăm sáu mươi hội nói không hết. Trọn tất cả ở trong nay đâu còn vướng vào văn tự. Hai tay gửi gắm Kính Sơn. Sơn Tăng đã trình bày nghóa mầu rõ ràng. Cứ giải thích như thế. Nếu phô diễn được ân vua, ân Phật thì nhất thời đã báo đáp nay đủ. Có lẽ không như vậy nên xin trình bày rõ ràng. Sư đối trước chúng đọc sơ. Đọc sớ rồi sư chỉ pháp tòa bảo: Trên đỉnh Tỳ-lô mọi người đều có chí đi trên đỉnh Tỳ-lô. Hỏi: Ở ngã tư có mười con đường không biết đi con đường nào? Mọi người phải biết đầu đường? Im lặng hồi lâu sư bảo khán! Rồi liền lean tòa niêm hương, chúc Thánh. Lại niêm hương rằng: Kính can dâng nén hương này. Ở cung trời Đâu-suất thì gọi là Tiên-đà-bà, ở cung trời Thiện biến hóa thì gọi là Đoạt ý, ở bên ao A-na-bà-đạt-đa thì gọi là Liên Hoa Tạng. Hãy nói, ở trong tay Kính Sơn gọi là gì? Im lặng hồi lâu, sư đáp: Chẳng những lão Viên Ngộ mà người xem thì có phần liền gặp chư Phật ba đời ra đời, chẳng dám chính mắt liếc nhìn. Sư liền đốt hương đến tòa Hòa thượng Linh Ẩn đánh bạch chùy bảo: - Những vị tài giỏi trong chúng hội nên quán nghóa Đệ nhất. Sư bảo: Nếu bàn về nghóa Đệ nhất thì năm thứ mắt không thể nhìn, hai tai khó nghe. Phải nghe kỹ, phải rõ ràng, phải tự quán. Tác là quán, gọi là chánh quán, nếu quán khác gọi là tà quán. Tà chánh chưa phân biệt rõ ràng, có nghi xin hỏi. Vị Tăng hỏi: Đấng Điều Ngự xuất thế, ba lần xoay bánh xe pháp ở cõi Đại thiên. Đạt-ma từ phương Tây đến chín năm ngồi xoay mặt vào vách núi Thiếu thất. Hôm nay Hòa thượng vì nước khai đường, chẳng hay vượt Phật vượt Tổ như thế nào? Sư đáp: Ở trong hư vội vàng vẽ chữ Vạn. Vị Tăng hỏi: Đến nỗi bốn chúng chiêm ngưỡng, muôn họ vui hát ca dao. Sư đáp: Lại bị Thượng toạ nói. Vị Tăng hỏi: Cho dù nói cũng chỉ được một nửa, chưa biết hướng về Phật; Hòa thượng nói được không? Sư đáp: Bát giác Ma bàn đi trong hư không. Vị Tăng hỏi: Đã được Túc Tông Đế hỏi Quốc sư Tuệ Trung: Thế nào là mười thân của Đấng Điều Ngự? Quốc sư Tuệ Trung đáp: Đàn-việt đi trên đỉnh Tỳ-lô, chẳng hay ý chỉ thế nào? Sư nói: Xưa nay đều rõ ràng. Vị Tăng hỏi: Đỉnh môn có mắt, đâu thể xem thường, vượt ngoài xưa nay mà làm là người biết. Sư bảo: Thâu nhiếp các câu hỏi ở hội Linh Sơn với câu hỏi hôm nay là giống nhau hay khác nhau. Sư đáp: Ta nghe như vầy. Vị Tăng hỏi: Thế nào là Linh Sơn đích thân thấy nêu, hôm nay lại được nghe lại. Sư hỏi: Nghe được việc gì? Tăng thưa: Hai cái đầu cùng ngồi đoán thì tám hướng nổi lên gió nhẹ. Sư hỏi: Ăn chay thì lưỡi dài ba dặm, Tăng lẽ bái. Lại có một vị Tăng khác bước ra, sư nói: Hỏi thoại đầu thì hãy dừng, giả sử câu hỏi như, trăm con sông tranh nhau vọt lên, câu trả lời như biển cả nuốt hết các dòng nước chảy. Chứa đựng tất cả các dòng nước, đến nỗi cái lưỡi của Duy-ma-cật và Thu Tử cũng vô ngôn, đối với bổn phận sự hoàn toàn không quan hệ. Hãy nòi: Đối với bổn phận sự nêu ra vấn đề gì? Sư đưa phất trần lên hỏi: Có thấy không? Rồi sư vỗ vào giường thiền hỏi: Có nghe không? Thấy nghe rõ ràng là cái gì? Hôm nay Thánh chủ ở đây được điều đó, dùng tâm ấn Diệu Minh, ấn chứng pháp giới hải Hoa Tạng ở mười phương. Chỉ ở trong một trần, ở trong một trần rủ y giáo hóa. Giảng nói công đức cao quý rộng lớn vô lượng vô biên giống như hư không, không thể suy nghó bàn luận. Thánh long rộng lớn như hư không, không thể suy nghó bàn luận. Thánh học rộng lớn như hư không, không thể suy nghó bàn luận. Cho đến Thánh trí, Thánh tuệ, Thánh từ Thánh thông tất cả đều rộng lớn như hư không, không thể suy nghó bàn luận. Cái không thể suy nghó bàn luận này cũng không thể suy nghó bàn luận, tất cả đều ở trong một hạt bụi, đều là thường phần của Thánh tâm. Chẳng phải giải bày ở một thuật khác, các quan văn võ nay nghẹt cả triều, được dùng diệu minh tâm ấn đến dưới gót chân của mọi người. Một ấn là ấn định, không còn một mảy lông tóc nào cho là tiết lộ. Cái gọi là việc vua việc dân. Những đều rõ ràng, những đều không khác nhau. Về sau sắp đến lúc co duỗi tự tại tha hồ quyết định. Đều là thường phần của tâm ta chứ không nương nhờ thuật khác. Hôm nay trong hội một Tăng một tục, hoặc nam hoặc nữ, hoặc sang hoặc hèn đều được dùng diệu minh tâm để ấn chứng cho, thì tùy theo căn tánh đều được thọ dụng, mỗi mỗi rõ ràng, mỗi mỗi đều không khác nhau, đều là thường phần của tâm ta, chẳng nhờ ở thuật gửi gắm không? Chỉ dựa vào một giọt nước Tào Khê mà khắp các cõi đều mưa dầm, báo đáp vua ta. Liền đem tất cả mảy may những pháp lành về Bát-nhã mà ở trên đã nêu mà chúc cho Thượng Hoàng đế tuổi thọ vô cùng. Kính nguyện đức nhân của vua Nghiêu trùm khắp, mặt trời mặt trăng của vua Tề sáng rỡ, đức vua Thang che chở, đều là sự vững chắc của đất trời. Cung Hoàng thái hậu, đại nội thiên quyến, kính nguyện đồng rõ chánh nhân Bát-nhã, đều được Kim cang chủng trí. Lại nêu vua Ba-tư-nặc hỏi Phật: Trong thắng nghóa đế còn có thế tục đế hay không? Nếu nói có thì trí không ứng với một, nếu nói không thì không ứng với hai. Nghóa một, hai là nghóa gì? Phật bảo, này Đại vương! Ông ở thời quá khứ chỗ Phật Long Quang từng hỏi về nghóa này, nay ta không nói ông cũng nghe. Không nói không nghe cũng là một nghóa, hai nghóa. Sư vời đại chúng nói: Rõ ràng hướng về đạo còn tự không biết, huống chi che lấp tương lai ngày nay. Có người hỏi: Trong thắng nghóa đế của Kính Sơn còn có thắng nghóa đế hay không? Nếu nói có thì không ứng với một, nếu nói không thì trí chẳng phải hai. Nghóa một, hai là nghóa gì? Chỉ nói với ông: Thứ nhất là sáng thay! Bầy tôi tốt thay! Gọi là một nghóa, cũng gọi là hai nghóa. Lúc chính đáng như thế còn có việc hướng thiện hay không? Hồi lâu sư nói: Mặc cho lớn cũng từ đất mà khởi, lại cao đâu thể được trời, lập ra các từ đã lâu, kính mong trân trọng. Hòa thượng Linh Ẩn lại bạch chùy nói: Quán rõ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như thế. Xuống tòa, vào viện thượng đường nói: Người xưa dạy rằng: Đi thì thật không đi, giữa đường khéo làm tốt. Đến thì thật không đến, giữa đường chớ bớt nguy. Xin hỏi đại chúng, đã không đi thì làm tốt cái gì? Đã không đến có gì bớt nguy? Diệu Hỷ rời Kính Sơn mười tám năm, nhưng nay trở về cũng không thấy có làm tốt, cũng không thấy có bớt nguy, ba cửa vẫn mở về hướng Nam như cũ. Vì sao như thế? Hồi lâu nói: Mà nay bốn biển trong như gương, hành nhân chớ cừu thù với con đường. Sư Thượng đường nói: Hôm nay ngày 15 tháng 3 đã mưa như trút. Nông phu vỗ bụng ca hát, muôn tượng sum la cũng múa may. Xin hỏi đại chúng: Nông phu vỗ bụng lý hợp như thế, muôn tượng sum là vì sao nổi lên múa? Còn gửi gắm không? Chẳng thấy nói: Một nhà có việc tốt dẫn dắt được trăm nhà bận. Sư Thượng đường nói: Phật tử ở đất này chính là Phật thọ dụng; thường ở trong đây kinh hành và ngồi nằm. Nói xong, sư gõ phất trần vào giường thiền nói: Trí Nhất thiết trí cùng khắp vô chướng ngại. Ông già Thích-ca đến, nói hôm qua, có người từ Lô Sơn đến lại được tin Giang Tây, miệng chén hướng lên trời, lồng đèn treo cột trụ, bốn phương tám hướng đến cùng một lúc, chính là không có chỗ ông tránh né. Đã không có chỗ tránh né thì làm sao bàn luận, còn gửi gắm không? Quay lại mà giao thiệp với nhau, nếu không vẫn là đứng. Ngày lễ tắm Phật, sư Thượng đường nói: Chín mươi bảy tướng đại nhân, trang nghiêm, vi diệu thanh tịnh pháp thân, thị hiện đản sinh ra khỏi thai mẹ; vì chúng sinh nên làm Phật sự. Lại thế nào là làm Phật sự? Hồi lâu nói: Hạ tọa và Thủ tọa đại chúng cùng vào biển nước thơm của Như Lai, giúp lão này xoay bánh xe đại pháp. Sư Thượng đường nêu: Tăng hỏi Triệu Châu đệ tử vừa vào tòng lâm, xin sư chỉ dạy. Ông ăn cháo chưa? Ăn cháo rồi. Rửa bát đi. Vị Tăng ấy ngay lời nói bỗng có tỉnh ngộ. Sư nói, các phương nêu lên rất nhiều, chú cước phía dưới cũng không ít. Chưa từng có một người nói ra rõ ràng. Ăn cháo rồi lại rửa bát, hãy nói: Còn biết chỉ bày hay không?Đậu đen xưa nay hợp với tương, Tỳ-kheo-ni nhất định là sư cô. Thượng đường nêu: Một hôm, Triệu Châu luận nghóa với thị giả Văn Viễn. Đấu thua không đấu thắng; người thắng thì thua bánh. Viễn nói: Xin Hòa thượng lập nghóa. Ta là một con lừa. Mỗ giáp là bao tử lừa. Ta là phân lừa. Mổ giáp làm con trùng trong thân lừa. Ông làm gì trong đó. Mổ giáp qua hạ trong đó. Hãy đem bánh đến. Sư nói: Văn Viễn qua hạ trong đống phân lừa, mặt đỏ không bằng nói thẳng. Triệu Châu tham chút lợi, thua được bánh, xem xét tương lai cũng là người Phổ châu đưa giặc. Hãy nói cuối cùng thế nào? Hồi lâu nói: Ngỗng đầu đàn chọn sữa, thật ra chẳng phải loài vịt. Sư Thượng đường nói: Chính khi nói tri kiến, tri kiến tức là tâm, tâm chính là tri kiến, tri kiến tức là ngày nay. Như ngày nay thì tạm gác qua. Cổ Phật giao tiếp với cột trụ, Chiêm-ba và Tân-la đối đầu, gặp nhau sau đỉnh Viên quang muôn dặm, Vân môn tàng thân trong Bắc đẩu. Mục Châu gánh củi, Triệu Châu hái trà, làm sao bàn luận. Bèn hét một tiếng nói: Nếu không hét thì trụ, giống như loạn đi sáu mươi con giáp. Xuống tòa. Sư Thượng đường nêu: Hòa thượng Đỗng Sơn cuối hạ dạy chúng: Đầu thu cuối hạ, huynh đệ đi đông đi tây. Cần phải đi chỗ muôn dặm không tấc cỏ. Người lần lượt hạ ngữ đều không khế hợp. Có vị Tăng truyền lời này đến Thạch Sương. Sương nói: Sao không nói ra cửa là cỏ. Đỗng Sơn nghe lời này chấp nhận, nói ở Lưu Dương có Cổ Phật ra đời. Sư nói: Muôn dặm không tấc cỏ, chỉ xin đi như thế, ra cửa lại là cỏ, mỗi người đều có y cứ, đâu bó buộc. Gió mát trăng rọi người Thư châu, thỏ lạnh dần xa duyên cỏ xuân. Trung thu, sư Thượng đường nói: - Người có tâm ngắm trăng, trăng vô tâm chiếu người, có không thành một khối, mới được hoảng hốt bèn dơ gậy dộng xuống đất nói: Cái này không thể không sợ; ném xuống, nói: Nếu biết đánh đổ chẳng phải vật khác, mới tin ngang dọc chẳng phải trần. Sư Thượng đường nói: Mới vào Trung thu tháng tám, lại ra rằm tháng chín, sư giơ gậy dộng xuống một cái nói: Chỉ có cái này không đổi, sư ném gậy xuống, nói: Một chúng tai nghe mắt thấy. Thượng đường nói: Một, hai, ba, bốn, năm, năm, bốn, ba, hai, một, lại lấp mấy ngàn lần đều không ra khỏi ngày nay. Hãy nói: Việc ngày nay thế nào? Hồi lâu sư nói: Gió sương thổi đất đến, pháp thân cũng bền chắc. Sư Thượng đường nêu: Bàn Sơn nói: Một con đường hướng lên ngàn Thánh, không truyền. Từ Minh nói: Một con đường hướng lên ngàn Thánh không như vậy. Sư nói: Không truyền, không vậy, miệng biển khó tuyên, trên đỉnh Tu-di thả thuyền sắt. Sư Thượng đường nêu: Tăng hỏi Tuyết Phong: Khe xưa sông lạnh thì thế nào? Trừng mắt không thấy. Khi uống thì thế nào? Không từ miệng vào. Triệu Châu nghe nên cười ha ha, nói: Không thể từ mũi vào. Vị Tăng lại hỏi: Khe xưa sông lạnh thế nào? Khổ. Uống thì thế nào? Chết. Tuyết Phong nghe vậy bèn nói: Triệu Châu cổ phật bèn từ xa làm lễ nói: Từ đây không lời đáp. Sư nói: Tuyết Phong không lời đáp, nghi giết bao nhiêu người. Triệu Châu nói khổ, mặt đỏ không bằng nói thẳng. Nếu là Diệu Hỷ thì không như vậy: Khe xưa sông lạnh thì thế nào? Đến sông đỡ mái chèo, ra núi giúp dân cày ruộng, khi xuống thì sao? Ngực bụng lạnh trong lời này có hai cánh cửa, nếu người phân biệt được, cho ông có mắt tham học. Lui về viện, sư Thượng đường nói: Đi là nhân lúc đứng, đứng là quả lúc đi, đi đứng và nhân quả không thể, không không thể, hét một tiếng nói ở đây là nơi nào, nói đi nói ở, nói nhân nói quả, nói có thể nói, không thể nói. Tuy như vậy, ở đậy lại có người có ưu điểm, hãy nói đáng ở đâu: Hồi lâu nói: Lý lại từ cử liên vần xướng; thôn ca xã múa lại mới mẻ. Nhân ngày vía, sư Thượng đường nói: Tâm đồng thế giới hư không; nói đồng pháp hư không, khi chứng được hư không, không phải, không quấy, không pháp. Đã không phải, không quấy, không pháp gọi là quả Phật Bồ-đề vô thượng, cũng gọi là chân như Phật tánh, cũng gọi là Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho nên nói: Bát-nhã ba-la-mật-đa có công năng sinh ra tất cả pháp chư Phật, có công năng sinh ra tất cả pháp, Bồ-đề giải thoát, có công năng thành tựu được pháp quốc vương vô thượng, có thể thành tựu được việc làm của chúng sinh. Ví như hạt ngọc Ma-ni, thể nó đầy đủ tính chất. Có công năng hàng phục được rồng dữ, các quỷ thần ác, có thể theo như ý sở cầu của lòng người. Lại thế nào là việc như ý? Hạ tọa và đại chúng cùng đến đại điện Phật, khải kiến Thiên thân, ngày vía kính bạch. Sư Thượng đường nêu: Pháp Nhãn hỏi Tu Sơn Chủ: Mảy may có sai, trời đất cách xa, ông làm sao hội? Tu Sơn Chủ nói: Mảy may có sai, trời đất cách xa. Nhãn nói: Thế thì hội đâu được. Mỗ giáp chỉ như thế, chẳng hay Hòa thượng thế nào? Mảy may có sai, trời đất cách xa. Tu lễ bái. Sư nói: Pháp Nhãn và Tu Sơn Chủ tơ đến lụa đi, miên miên mật mật chống đỡ môn phong Địa Tạng, có thể gọi là tròng mắt, ánh sáng sinh. Nếu là môn hạ Đức Sơn, Lâm Tế lại mua giày cỏ hành cước mới được. Vì sao như thế? Mảy may có sai, trời đất cách xa, chỗ nào đưa đến tin tức này. Sư Thượng đường nói: Sáng nay ngày mùng 5 tháng 5, đại quỷ vỗ tay, tiểu quỷ múa, bỗng nhiên gõ vào câu đối thần, hai tay vỗ bụng kêu oan khổ. Ngải nhân nói: Chớ nói khổ, bèn dộng gậy xuống đất một cái, nói chỉ có một chỗ chịu trở về. Trở về, không trở về, trở về mà lại giao thiệp, ném gậy xuống đất nói: Ông không y theo giai vị mà trụ. Tham! Sư Thượng đường nói: Nay là nửa tháng sáu nhớ được một tắc công án cũ, dộng gậy xuống đất một cái nói: Gậy này nuốt pháp thân, cột trụ bên cạnh trộm mắt nhìn, xem không xem lấy lên. Đời Tần độc ác, tuy như thế nhưng một tắc công án cũ này Diệu Hỷ mổ xẻ lại cho ông ta. Sư ném gậy xuống đất, nói: Muôn biệt và ngàn sai ta nói nhất quán. Giải hạ, sư Thượng đường nói: Một trăm hai mươi ngày cấm túc, ba mươi lăm ngày đi bên ngoài, lấy cái đấu nấu ấm trà khác nhau, trâu bùn biết làm sư tử hống. Sáng nay Phán Tuế đã châu viên, lấy được cái mũ mất cái miệng, lấy Đại viên giác làm già lam, bảy lần bảy vẫn là bốn mươi chín. Sư Thượng đường nói: Sông thu xanh cạn, sương trắng và khói bay, lành thay Quán Thế Âm; toàn thân vào cỏ hoang, trong cỏ không cần suy tính. Vì sao như thế? không biết vợ đại ca vốn là chị dâu. Sư Thượng đường nói: Một nửa xuân ngoài cửa, phòng núi đều không biết, đáng thương cây gậy, trong tối tự bẻ cành, bèn giơ gậy lên nói: Cái này là cây gậy, cái kia là bẻ cành, ném gậy xuống nói: Thẳng xuống cũng đến mắt thôi nháy. Sư Thượng đường nêu: Càn Phong dạy chúng: Nêu một không được nêu hai, nêu hai phóng qua, một rơi vào thứ hai. Vân Môn ra chúng nói: Hôm qua có người từ Thiên Thai đến, lại đi đến Kính Sơn. Càn Phong bèn gọi Duy-na nói ngày tới không được phổ thỉnh sư nói: Càn Phong rửa mặt sờ mũi, Vân Môn ăn cơm nhắm cát. Người bỗng gặp nhau vốn lại là kẻ thù xưa, tuy nhiên như vậy, chỉ cho lão Hồ biết, không cho lão Hồ lãnh hội. Sư Thượng đường nói: Lấy đi chẳng phải vật khác, ngang dọc chẳng phải trần, núi sông và đất đai, toàn bộ thân Pháp vương, nói xong sư dộng gậy xuống đất nói: Cái này là gậy, cái kia là thân Pháp vương. Lại giơ lên nói: Cái này là thân Pháp vương, cái kia là gậy, rồi ném gậy xuống đất nói: Đã lấy lại chẳng phải vật khác là cái gì? Đã là đầu lại chồng thêm đầu, sư hét một tiếng, nói: Lại là cái gì? Sư Thượng đường nói: Nay là đầu tháng 10, vì anh lại tính toán, hai cái năm trăm đồng, xưa nay là nhất quán, đỉnh môn đủ mắt người, nhớ lấy công án này. Nay Thượng hoàng đế lập kinh đô, sai nội tri khách vào núi cúng dường, La-hán chúc Thánh thỉnh lên tòa: Vị Tăng hỏi: Phật Di-lặc tương lai hạ sinh, trên đầu sợi lông hiện trời đất, hiện Thế Tôn Vô Lượng Thọ, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp hà sa giới. Năm trăm vị A-la-hán Thiên thai ở tùy duyên phó cảm chẳng phải không hoàn tất, song Kính Phong đầu lão tác gia, vượt các phương tiện làm sao nói. Sư bảo: Phật hiện tại, vị lai đều đồng một danh hiệu. Vị Tăng lại nói: Thế thì trên trời, dưới nhân gian phải guy y. Sư nói: Sư tử trong hang sư tử, chiên đàn trong rừng chiên-đàn. Lại nói: Có thể gọi pháp ấy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ. Sư nói: Cành trúc bén đón tâm sen. Lại nói: Chính đáng như thế chưa rõ là trăng gió nhà ai. Sư nói: Pháp đó trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ, đều nương ân lực này. Lại nói: Như thế thì một thân có nhờ trời đất rộng, muôn việc không lo trời trăng cao. Sư nói: Rồng được nước lại thêm ý khí, hổ gặp núi sắc thêm uy lực. Lại nói: Mới đạo đến đây chỉ được binh theo ấn chuyển, tướng theophù hiệu mà thực hành. Sư nói: Nạp Tăng lanh lợi khoảnh khắc liền chuyển. Lại nói: Người về nước lớn mới biết quý, nước đến sông đều màu xanh. Sư nói: Điểm. Vị Tăng nói: Chỉ như trong giáo nói, trời người đắc đạo đây làm chúng. Tam bảo ở đây hiện thế gian, lấy pháp màu này cứu chúng sinh, hễ thọ không lui thường vắng lặng, thế nào là pháp màu. Sư nói: Sắt sống đúc thành thép lấy xong. Lại nói: Chỉ nhờ tin tức đúng này, cành vàng lá ngọc, muôn muôn xuân. Sư nói: Trên trời có sao đều chầu về Bắc đẩu; nhân gian không có nước chẳng chầu Đông. Vị Tăng lễ bái, nói: Ai không nói thế. Sư bèn nói: Muốn biết nghóa Phật tánh, nên quán thời tiết nhân duyên. Nếu thời tiết đến thì lý này tự rõ. Xin hỏi đại chúng thế nào là lý tự rõ? Sư giơ phất trần lên nói. Có thấy không? Lại gõ vào giường thiền nói: Có nghe không? Nghe thấy rõ ràng là cái gì? Nếu ở đây đề khởi được thì ân Phật, ân Hoàng đế cùng lúc báo đáp đủ. Nếu chưa được như vậy thì Kính Sơn phá bỏ sắn bìm đi. Lại giơ phất trần lên nói: Khán! Khán! Thế Tôn Vô Lượng Thọ ở Kính Sơn, đầu phất trần phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu bất khả thuyết bất khả thuyết, lại bất khả thuyết cõi Phật bụi nhỏ số thế giới, xoay bánh xe đại pháp trong các thế giới, làm Phật sự rộng lớn vô lượng vô biên. Trong đó, hoặc phàm hoặc Thánh, hoặc chánh hoặc tà, hoặc cỏ hoặc cây, hữu tình vô tình gặp ánh sáng này đều được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cho nên chư Phật ở đây mà được đầy đủ trí Nhất thiết chủng. Các đại Bồ-tát ở đây mà được thành tựu các Ba-la-mật, Bích-chi-phật, Độc giác cũng ở đây mà được. Ra đời không có Phật hiện thần thông ánh sáng, các chúng Thanh văn vào lúc ban đêm đến thỉnh. Năm trăm vị A-la-hán ở đậy mà được, đắc tám giải thoát và sáu thần thông. Trời người ở đây mà được, thêm lớn mười điềm lành. Tu-ll ở đây mà trừ được kiêu mạn; địa ngục ở đây mà được vượt lên Thập địa, ngạ quỷ, súc sinh, bốn cõi chín loài tất cả hữu tinh ở đây mà được, tùy theo căn tánh mà được thọ dụng. Đức Thế Tôn Vô Lượng Thọ phát ra ánh sáng rực rỡ làm các phật sự xong rồi, sau đó lấy nước trong bốn biển lớn rưới trên đảnh Thế Tôn Di-lặc, thọ ký cho A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, lúc bổ xứ làm Phật sự Thế Tôn Vô Lượng Thọ có thần thông như thế, có sự tự tại như thế, có oai thần như thế, đến đây còn có người biết ân báo ân hay không? Nếu có ra đời gặp được Kính Sơn chứng minh cho ông. Nếu không nghe lấy một bài tụng, pháp giới mười phương đến miệng người, pháp giới tất cả tức trong lưỡi, chỉ nhờ miệng và đầu lưỡi này, chúc anh ta thọ không ngừng dứt ức muôn năm nay thêm nguồn phước, như nước biển xanh mãi không hết, trong hang sư tử sinh sư tử, phượng hoàng định ra hang Đan sơn, là điềm tốt lành trùm khắp chín châu, cỏ cây côn trùng đều sung sướng. Cúi đầu việc không thể suy nghó bàn luận, dụ như sao nhiễu quanh trăng sáng. Vốn nay giảng nói diệu già-đà, chân thật nói trong nghóa đệ nhất. Du Ngự Cán thỉnh sư Thượng đường, nói: Chia cách hai mươi năm, bỗng gặp nhau như trăm vàng tinh luyện, hoàn toàn sắc không đổi, thỉnh ta xoay bánh xe pháp, thêm lớn nguyện Bồ-đề, thẳng xuống bặt mối nghi, bèn ngộ mặt mũi xưa nay. Sư Thượng đường nêu: Hòa thượng Viên Thông Tú dạy chúng: Thiếu lâm chín năm ngồi lạnh, vừa bị Thần Quang khán phá, như nay ngọc đá khó phân, chỉ được dây răng chỉ buộc, một cái này, một cái kia, lại một cái. Nếu là người mắt sáng thì đâu cần nói phá. Sư nói: Kính Sơn ngày nay không khỏi đuôi cho thân chuột. Cũng có một ít, Lão Hồ chín năm nói đọa, đáng tiếc lúc ấy phóng qua, lại cho kẻ im lặng chiếu; hang quỷ nhiều năm ngồi nhập định. Một cái này, một cái kia, lại một cái. Tuy nhiên khổ miệng dặn dò lại giống như gió qua đầu cây. Kết hạ, sư Thượng đường nói: Một năm một lần giải, một năm một lần kiết. Chỉ là việc này; đâu cần phải nói nhiều, không nói nhiều dính mắc. Cân, chùy cứng như sắt. <詞>BÀI MINH TRÊN THÁP THỜ THIỀN SƯ ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC Thiếu Sư Bảo Tín Quân Tiết Độ Sứ sung Lễ Tuyền Quán Sứ Ngụy Quốc Công Trương Tuấn soạn. Ngày 10 tháng 8 đầu niên hiệu Long Hưng, Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo thị tịch tại Minh Nguyệt đường ở Kính Sơn. Hoàng Đế nghe vậy bùi ngùi kính tiếc. Hoàng đế ra lệnh lấy Minh Nguyệt đường làm am Diệu Hỷ, ban thụy là Phổ Giác, tháp tên Bảo Quang, ân sủng càng rộng lớn. Môn đồ của sư chôn cất nhục thân ở sau am, sai Liễu Hiền đến thỉnh bài minh. Trước là vua khi làm phổ an Quận Vương nghe tiên sư thường sai nội đô giam đến Kính Sơn ra mắt sư. Sư làm kệ tặng vua, vua rất hài lòng. Khi vua ở Kiến Đề lại sai nội trị khách thỉnh sư ở trong núi nói pháp cho chúng, đích thân vua viết chữ lớn “am Diệu Hỷ” và rất khen ngợi gởi đến sư. Lại năm thứ hai vua còn tại vị bèn ban cho sư hiệu là Thiền sư Đại Tuệ. Năm tới lại ban tên Thần Hàn, vì ngự bảo ghi nhớ ân sủng, để phong cho sư nhưng sư đã thịc tịch. Kính mong chúa Thượng, Thánh thần, anh võ vốn không xuất thế- mà chỉ nhìn một kẻ phương ngoại như thế. Bởi sư họ Thích, gọi là người tài giỏi hơn người vào lúc ấy, trung thành, cảm cách được lý trời, cho nên trên động tâm của thần đều biết là đặc biệt. Than ôi! Thạnh thay! Từ Thánh hiền xưa lấy truyền tâm làm việc học, thành minh hợp thể, biến hóa hưng khởi. Giáo trong bốn phương chỉ tâm rỗng không làm rốt ráo giải thoát. Bởi được một mà không thấy các dụng, và chỗ cốt yếu ngộ nhập. Hoặc có mấy người tận tâm đối với việc làm. Đời sau ba tông đều thịnh hành. Lâm Tế Chánh truyền, gọi là được người, vượt ngoài thinh trần, không lập một pháp, cội nguồn dứt hẳn, lấy chứng làm cùng tột, chấn động khắp nơi, mọi việc làm không ngại như sư tử, du hý tự tại, được vô úy hoàn toàn. Đây vốn không thể lấy trí để biết, dùng thức để hiểu. Lâm Tế Lục truyền đến Dương Kỳ, Dương Kỳ tái thế, mà Thiền sư Viên Ngộ khắc cần, đắc pháp với Ngũ Tổ Diễn, trùm khắp hai triều đại, đạo ấy rất thạnh hành. Sư thật nối pháp ngài Viên Ngộ, càng sáng rực thêm. Sư húy là Tông Cảo, người ở Ninh Quốc thuộc Tuyên Châu, họ Hề, năm mười bảy tuổi làm phù đồ không muốn ở quê, theo thầy kinh luận, xuất hành bốn phương. Lúc đầu theo các Lão túc Tông Tào Động du hóa được người khen: Quả là ý Phật tổ, sau đó đến yết kiến Chuẩn Trạm Đường. Chuẩn thấy sư có lông mày liền với mắt; hồi lâu bảo sư rằng: Ông bàn luận đều trôi chảy, đặc biệt chưa thể địch lại với sự sống chết. Nay ta bị bệnh nguy khốn, ngày kia nếu gặp Xuyên Cần sẽ làm được việc của ông. Cần tức là sư Viên Ngộ. Chuẩn Trạm thị tịch, sư yết kiến thừa tướng Trương Công Vô Tận, tìm bài minh khắc trên tháp thờ của Chuẩn Trạm, môn đình của Vô Tận cao hơn thiên hạ. Người cũng ít thấy, một lời của sư khế hợp sáng chiều cùng trò chuyện; gọi am ấy là Diệu Hỷ, tự là Đàm Hối, lại bảo ông nhất định thấy sư Viên Ngộ, ta giúp ông đi. Sư chuẩn bị hành lý đến kinh đô thấy cần ở Thiên Ninh. Một hôm, Cần thăng đường, sư hoát nhiên ngộ, bèn thưa với Cần. Cần nói chưa, ông tuy có đắc nhưng đại pháp vốn chưa tỏ. Lại ngày nọ, Cẩn nêu Hòa thượng Diễn có lời hữu cú vô cú sư ngay đó được pháp an vui hoàn toàn. Cần vỗ tay nói: Mới biết ta không khinh ông, tự cho là ngang dọc phấn khởi, không có chỗ nào nghi ngờ trong lòng. Đại Tứ nói: như Tô Trương hùng biện, dụng binh của Tôn Ngô, như dẫm xéo nước chuyển đá tròn ở sườn núi ngàn thước. Các lão túc đều là yếu, chẳng phải bén. Lúc ấy, Hiền só đại phu thường tranh với ngài. Nhã là Hữu Thừa Lữ Công Thuấn rất tôn kính ngài, bèn tâu lên nên được ban cho ngài chiếc y màu tím hiệu là Phật Nhật Đại Sư. Hiểu sự thay đổi của nữ chân, muốn chọn lấy mười vị Thiền Tăng, sư cũng trúng tuyển, thế rồi được khỏi. Bởi như người có tướng bèn qua sông về phương Nam. Viên Ngộ Phương Chủ Vân Cư Tịch, bầu sư làm đệ nhất tọa, truyền trao cho chúng Tăng được mở mang rạng rỡ. Chẳng bao lâu sư vào núi Vân cư ở với Cổ Vân Môn, người học đến rất đông. Sau đó, do loạn nên tránh, chạy về Hồ nam, dần dần đến Giang hữu rồi vào đất Mân. Ở đó, sư cất am rồi ở đó. Lúc đó, người theo sư mới có năm mươi ba vị, chưa được năm mươi ngày mà đắc pháp được mười ba vị. Trước đây chưa từng có, sau này đều có, Giác Lập bèn ứng thỉnh cấp sự Giang Công thiếu minh. Ở am Vân Môn, nơi một khe nhỏ, Tuấn ở vào thời Thục. Cần chính lấy lời dặn của sư gọi là chân đắc pháp tuỷ. Tuấn đến chầu, rước sư đến Kính Sơn thuộc Lâm An, đạo pháp được hưng thạnh một thời. Trăm nhà đua nhau đến chỉ sợ sau nay lễ bái môn ấy, chỉ sợ không được thấy, cho đến không có chỗ dung, ngàn Tăng đại các cũng ở đó, gồm có hơn hai ngàn chúng đều giao lưu với Tuấn Ngải, lúc bất giờ gọi là Khanh. Như Thị lang Trương Công Tử Thiều là chẳng nghịch phản mà cuối cùng ở đây sư gặp họa. Bởi những người quan trọng e rằng họ bàn luận về sự xấu xa của họ. Đốt y hủy điệp đàn đều ở Hoành châu, mười năm sau dời đến Mai châu. Đất Mai Châu chướng khí tịch mace, môn đồ mang lương thực theo ngài, dù chết cũng không hối hận. Than ôi! Phải quấy mà lấy chân mặc vào tâm minh được ư? Lại năm năm, Thái Thượng hoàng đặc ân thả về, năm tới lại hoàn y phục cho Tăng. Hư tịch bốn phương đều đón rước. Sau đó, vì triều mệnh nên ở lại chùa Dục vương. Chúng nhóm họp ăn rất nhiều, nhưng không có mưu sinh, bèn khai hoang đất đến mấy ngàn khoảnh. Vua ban cho tên hiệu là Bát-nhã. Lại hai năm dời đến Kính Sơn, sư đến ở núi này, đao tục rất kính mến, thấy như thân thiết với mình. Tuy tuổi già mà dẫn dắt bậc sau không biết mỏi mệt. Sư ở Minh Nguyệt đường một năm, lúc sắp thị tịch đích thân viết di chúc và gởi đến Thanh Biệt Hữu Tướng Thang Công, lại tặng sách cho Tuấn, Liễu Hiền thỉnh kệ. Lại lấy bút viết chữ không thiếu loạn. Sư tuy là kẻ bên ngoài mà nghóa là đốc thúc gần gũi vua, thường kịp thời việc, thương vua, lo thời thế, thấy từ khí sư luận bàn rất chính xác. Buổi chiều từ Kính Sơn đến Châu Lăng thấy Tuấn, bèn rơi lệ nói: Người trước chẳng may không có người nối pháp. Mồ trách nhà nghèo lấy gì ngưỡng nguyện, xin một cấp sứ danh tịch công trọng, hễ có người chịu thì đi. Tuấn cũng bồn chồn, bèn tâu với tộc đệ là đạo nguyên thờ sư rất thân hậu. Sư đã về ở Minh Nguyệt đường, đội nắng đi về quê, sửa sang mồ mã mà còn như thế. Sứ vì Nho ta há chẳng phải là danh só? Mà học Phật cũng cao siêu tự lập ở đương thời, chẳng phải bậc tài giỏi trượng phu hay sao? Cuối cùng bị Quang Long dâng viễu vô cùng. Thật có dẫn đến như thế, vì thế ban cho ngự thư. Xây Các tạng ở am Diệu hỷ và với núi Bất ma này. Sư thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Tăng tục theo sư đắc pháp không chỉ mấy mươi vị mà còn đều có danh tiếng ở đời. Các bậc tiên sư Đỉnh Nho Tư Nhạc, Di Quang Ngộ Bổn, Thú Tịnh Đạo Khiêm, Tuân Phác Tổ Nguyên Xung Mật đều đã qua đời: Thái phu nhân nước Tần của ta cũng từng hỏi đạo với sư. Than ôi! Ta biết sư sớm thì tâm này mặc khế, chưa nói trước đồng, từ dung đáp nhận, mãi tới sáng hôm sau không mỏi mệt. Nhân gian rất vui ai cũng suy nghó, thật đáng tiếc sư không còn nơi rừng núi ban ân tuệ cho người. Nhưng lấy đạo mà xem thì đâu có thể ẩn hiện đến đi, tìm lại trong hài cốt sư, ta thật biết sư nên soạn bài minh, bài minh như sau: Tử sinh là một Chẳng tưởng chẳng nói Chứng triệt liễu ngộ Một dứt ngàn kiếp Than sư làm gì Hết lòng trung hiếu Muốn dắt quần mê Hướng về Chánh giáo Vui cười tức giận Phật sự sáng sủa Tình sinh trí cách Nghi báng sinh khởi Mặt trời vòi vọi Xưa nay chẳng dời Sư là đạo đức.  <卷>QUYỂN 7 Đệ tử nối pháp Thiền sư Tuệ Nhật trụ trì ở Kính Sơn là Uẩn Văn kính dâng. Lúc kiết hạ, sư dạy chúng: Hữu cú vô cú như sắn bìm leo cây, kẻ mạnh bạo bước đi như thế. Cơ không đến, lời không trao. Trong mắt dính trăm ngàn muôn ức núi Tu-di. Trong tai dính Vô lượng vô biên biển nước thơm. Cơ phó ngữ, ngữ đầu cơ. Trong mắt dính cát không được. Trong tai dính cát không được. Có gã bình thường nghe nói vậy bèn nói: Thấy trăng thôi nhìn tay, về nhà rồi hỏi đường đi, không biết móc câu rũ muôn dặm, ngựa ô đóng trú ngàn dặm, lưới trời giăng đầy đánh sóng, cá côn cá kình. Nếu là ếch nhái, con giun, ba ba què, rùa mù nhọc nhằn mắc câu, nhọc nhằn sa lưới, phải là người như thế mới biết việc như thế. Cho nên nói: Người chết tự có dao người chết, người sống tự có kiếm người sống. Có dao người cheat, không có kiếm người sống. Tất cả người sống chết không được, có kiếm người sống, không có dao người chết, tất cả người sống chết không được. Người sống chết được, người chết sống được, bèn có thể cắm lông rùa trên lưng trâu sắt, bẻ sừng thỏ bên hông người đá, không thực hành bàn luận kỳ đặc, không thực hành hiểu huyền bàn diệu, đâu cần chín tuần cấm túc, ba tháng hộ sinh, giữ cẩn thận người thợ săn không dây tự buộc. Phải biết khắp pháp giới mười phương không có người như mũi nhọn là không đúng. Mỗi chỗ mọi người an cư, bèn đi như thế, lại có việc ở, xin hỏi mọi người: Chỉ như người không chết không sống, đi ra thì làm sao chết làm sao sống. Nếu chết không được, sống không được, thì Phật pháp không linh nghiệm. Dù cho chết được, sống được cũng chưa phải là tác gia, về phần nạp Tăng không giao thiệp. Hãy nói nạp Tăng có ưu điểm gì? Sư im lặng hồi lâu nói: Tuy có đôi tay nhưng chưa từng tụ tập người nhàn, bèn hét một tiếng. Sư dạy chúng rằng: Đúng thế đúng thế, mũi nhọn không vào. Không như thế không như thế thìa gạt không lên, giữa như thế mà không như thế thì mặt quỷ đầu thần, giữa không như thế lại như thế, mang lông đội sừng a ha ha, hãy nói. Cười cái gì? Ta cười ngày xưa Đại sư Vân Môn có khi nói nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc rõ tâm, Bồ-tát Quán Thế Âm đem tiền mua bánh hồ, buông tay nói rằng xưa nay chỉ là bánh bao. Bèn hét một tiếng nói: Người không lo xa ắt có buồn gần. Sư dạy chúng, nêu: Một hôm, Vân Môn giơ gậy nói: Phàm phu cho là thật có, Nhị thừa phân tích là không, Duyên giác cho là huyễn có, Bồ-tát đương thể tức không. Nạp Tăng thấy cây gậy chỉ gọi là gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, đều không được động. Sư nói: Ta không giống lão nhânVân Môn lấy hư không vạch hang hốc. Bèn giơ gậy nói: Cây gậy chẳng thuộc về có cũng chẳng thuộc về không, chẳng thuộc về huyền, chẳng thuộc rỗng không. Sư dộng gậy xuống đất nói: Phàm phu, Nhị thừa, Duyên giác, Bồ- tát đều ở đây, mỗi người theo căn tánh sẽ được thọ dụng. Về phần nạp Tăng là hại hay là oan? Muốn đi không được đi, muốn ngồi không được ngồi, tiến một bước thì bị gậy làm mê đường, lùi một bước thì bị gậy xâu lỗ mũi. Chỉ nay chẳng có người chẳng cam chịu không? Thửù ra gặp nhau với cây gay, nếu không, sang năm có cành mới, não loạn gió thổi mãi không thôi. Sư dạy chúng rằng: Chư Phật quá khứ đã thành tựu cửa này. Sư giơ gậy dôïng xuống bên phải một cái nói, hãy lấy ở bên trái. Các Bồ- tát hiện nay mỗi vị nhập vào tròn sáng, nương nhờ pháp như thế, sư dộng một cái ở giữa nói, hãy lấy ở giữa, hai bên chẳng đứng, Trung đạo không cần an, trí Nhất thiết trí thanh tịnh, không hai không khác, không biệt không đoạn. Hôm qua, có người từ Hoài nam đến không được tin Giang tây nói rằng: Xuống sông giặc đã bình. Đầu núi Vân môn cày ruộng rộng ăn cơm, hỏi thiền đạo Phật pháp, miệng giống như tảng đá, bèn hét một tiếng nói: Vừa đến nhiều dây dưa, đi chỗ nào? Lại dộng gậy một cái nói: Có lợi, không lợi, không rời hành bố. Sư dạy chúng rằng: Từ khi Hồ loạn ba mươi năm, không thiếu tương muối, đỉnh môn có mắt nạp Tăng, đến đây hướng về nơi nào, nhưng oan có đầu, nợ có chủ. Vân Môn ngày nay cùng bùn với nước lại đốt lửa lên vết thẹo, muốn gặp nhau với Mã Sư, bèn thấy phất trần vẽ trước mặt một đường nói có thấy không: Bẽ hàng rào đông phụ vách Tây, mắt thấy thì chính tay quấy không kịp. Thích-ca, Di-lặc đưa tay vỗ ngực, Văn-thù Phổ Hiền cùng tiếng gọi, hét một tiếng nói: Dạ-xoa mặt ngựa mới cúi đầu. Ngưu đầu ngục tốt bèn khoanh tay. Sư dạy chúng rằng: Vónh Gia nói phi chẳng phải phi, thị chẳng phải thị, sai mảy may mất ngàn dặm. Thị thì long nữ đốn thành Phật, phi thì sao lành liền rời. Vónh Gia đích thân thấy Lục Tổ đến, nhưng lại ở trong thị phi. Vân Môn thì không như vậy, phi chẳng phải phi, thị chẳng phải thị. Ngước mắt nhìn trời, cúi đầu nhìn đất. Khi sợ hãi chỉ là sợ hãi, khi ngủ chỉ một bề ngủ, cũng không có Phật pháp để bàn luận, cũng không trần lao để trốn tránh. Có khi trong lúc ngủ bỗng thức, vốn là mèo rình bắt chuột. Sư dạy chúng: Người xưa nói: Chỗ người khác ở ta không ở, chỗ người khác đi ta không đi, chẳng phải cùng người khó lãnh hội; phần lớn tìm tòi muốn cho rõ ràng. Sư hét một tiếng nói: Còn có cái này, Vân Môn thì không như vậy. Chỗ người khác đi ta cũng đi, liếc hỷ nhìn sân không lý hội. Tân-la nửa đêm mặt trời sáng. Hãy nói với người xưa cách nhau bao nhiêu: thử định hãy khán. Dạy chúng: Tâm không phải Phật, trí không phải đạo, lão Nam Tuyền thân mã nhào. Đến mấy trăm năm nay, ở đây không có Thiện tri thức ra đời. Chưa từng có một người đỡ ông ấy dậy. Vân Môn ngày nay định dùng tim đèn treo núi Tu-di, thử đỡ dậy khán. Bèn giơ gậy nói: Nam Tuyền ngã nhào, Vân Môn đỡ dậy, ngã nhào đỡ dậy có khách có chủ, nạn Tăng mắt sáng bàn luận, dè dặt chớ lầm đạo lý. Đã cho bàn luận, vì sao không cho làm đạo lý. Hồi lâu sư nói: Mắng nhau dù ông tiếp miệng, chưởi nhau dù ông tát nước, dộng gậy một cái. Sư dạy chúng rằng: Các pháp vốn bặt đối đãi, chạm mắt không có ngăn ngại, chỉ vì chặt tay tìm tâm, bèn có người cầu sám hối, không có văn ấn đã thành, phó pháp truyền y nương nhau. Dẫn đến khiến lão Lê Huỳnh Mai, mang chày đá bên hông, e rằng có pháp và người. Hỏi lại nói không hội, dẫn được con cháu đời sau, đều là hàn lô trục khối, tuy muốn chống đỡ tông thừa nhưng đâu thể nhào đông đỡ tây. Xem xét cẩn thận tương lai chính là khiến người không thể chịu được. Nếu điều sai mà đi, một khi đánh phải dạy phấn nát. Có khi tónh tọa suy nghó chính trong đó thật đáng yêu. Hãy nói có gì đáng yêu? Cát sâu kết thân với Tu-la, Kim cang và Thổ địa chỉ lưng hét một tiếng. Sư dạy chúng, giơ gậy dôïng một cái nói: Tế không thông gió, đại thông xe ngựa. Đột xuất làm mặt trời, ai phân biệt được chân giả hư không có cán cầm, người không tay có thể lấy; lứa què đạp nhào hái giỏ trà, am tranh đầy cả ngói lưu ly, lại dôïng một cái. Giải hạ, sư dạy chúng: Đông Sơn muôn dặm một cây sắt. Lưu Dương vừa đánh nát trăm mãnh chữ. Cửa Vân Môn thường hiện tiền, lông mày Thúy Phong còn hay không? Bèn giơ phất trần nói: Đại sư Vân Môn đến, có thấy không? Nói xong, gõ vào gường thiền một cái nói: Một sáng hai che. Sư dạy chúng, nói: Pháp pháp xưa nay là pháp, vô pháp vô phi pháp, đâu ở trong một pháp, có pháp có bất pháp, giơ gậy lên nói: Cái này là cây gậy, cái kia là pháp xưa nay. Lại nói: Cái này là pháp xưa nay, cái kia là cáy gậy. Nay có người nào đoán được không? Nếu đoán ra được thì chẳng những tự có đường thoát thân, mà còn không bị người khinh. Nếu đoán không ra thì Vân Môn có nhiều lưỡi cũng mở miệng liền có lỗi, ngậm miệng chẳng mất, như thế như thế, bèn dộng gậy một cái nói: Một gậy hai làm, lại giơ gậy nói: Khán khán! Hàn Sơn, Thập Đắc quét sân, chuyển ngược cây chổi ở cột trụ, vứa lúc nhảy lên trời Đâu-suất-đà. Chạm phá lỗ mũi người ở cõi trời Phi phi tương, Tỳ-lô- giá-na Như Lại chịu đau không cấm, đi vào tàng thân trong gậy của Vân Môn, một chung Vân Môn cười ha ha, rằng: Lo liệu không giao thiệp, chính đáng như thế cột trụ và lồng đèn, vẽ lông mày thêm được bao nhiêu màu sắc, ánh sáng. Hồi lâu nói: Khi có ý khí lại thêm ý chí, chỗ không phong lưu cũng phong lưu. Sư dạy chúng rằng: Bỗng mở mắt chánh, ngàn Thánh không lường, từ một câu toàn đề muôn biệt ngàn sai đường dứt, thức không thể hiểu, trí không thể biết, chẳng phải Thánh, chẳng phải phàm, chẳng phải tâm, chẳng phải pháp. Toàn thể đến như thế, toàn thể trụ như thế. Không thấy Tỳ-da thị hiện bệnh, Văn-thù hỏi rằng: Cư só bị bệnh là tướng gì hay sao? Duy-ma-cật nói: Ta bệnh vô hình không thể thấy. Lại hỏi: Bệnh này là do tâm hay do thân? Đáp: Chẳng phải thân? Vì thân tướng lìa, cũng chẳng phải tâm, vì tâm như huyễn. Sư nói: Thân tướng đã lìa, tâm cũng như huyễn, ai là người thị hiện bệnh? Ai là người hỏi bệnh? Có chứng minh được không? Nếu chứng minh được thì thân bệnh và tâm bệnh của mọi người đều hết. Phật bệnh, pháp bệnh đều phân tán đi, lại chuyển được ba độc, làm ba nhóm tịnh giới, chuyển sáu thức thành sáu thần thông, chuyển phiền não thành Bồ-đề, chuyển vô minh thành đại trí, bèn đi như thế, còn gì là thuyết chỉ đế. Chưa phải rốt ráo. Lại một câu rốt ráo là nói gì? Hồi lâu sư nói: Người huyễn tâm thức vốn là không, tội phước là không, chẳng chỗ trụ. Nói xong sư hét một tiếng. Sư dạy chúng: Hoặc thị hoặc phi người không biết, đi nghịch đi thuận trời chẳng lường, cách núi người xướng, chim hạc nói, nhận lầm cá kèn mười tám cái phách, bèn giơ gậy nói: Cái này là phất trần đuôi trâu, không được bàn phải quấy, nghịch thuận, làm sao biết, làm sao lường. Hồi lâu sư nói: Không có người nào quá giá đánh cho ba trăm gậy, gõ vào gường thiền một cái, dạy chúng rằng: Vào nước không tránh giao lông, chính là sức mạnh của ngư phủ. Đi bộ không tránh cọp beo ấy là sức mạnh của người thợ săn. Người dao trắng đến trước mắt thấy chết như sống, Đó là cái dũng của tướng quân. Thế nào là cái dũng của nạp Tăng? Gan lớn tới trước xung đột qua, gan nhỏ kêu gào nói lý do. Bèn hét một tiếng, dạy chúng rằng: Có người suốt đời làm lành, có người suốt đời tạo ác. Người làm lành ngày nọ phạm giới trộm cắp. Người làm ác một niệm liễu ngộ tự tâm. Người làm lành phạm giới trộm cắp thì gọi là giặc, người làm ác liễu ngộ tự tâm gọi là Phật. Hai người cùng đến chỗ Vân Môn hỏi người nào đúng. Người làm lành lại là người ác, kẻ là giặc mà lại là Phật. Người làm ác mà lại người lành thì là sợ ác khinh thiện. Nếu hai người đều không làm thì thiện ác không rõ. Nếu quyết định chỉ Phật là người ác thì chiêu tội phỉ báng phật. Vào địa ngục như tên bắn. Nếu chỉ giặc là người lành thì chưa có người lành nào mà làm giặc. Đương nhân chưa có mắt trí, đến đây có người nào đoán được không? Nếu đoán không được thì Vân Môn vì mọi người đoán lại, giặc là làm người lành, Phật là làm người ác. Phật giặc, thiện ác không ngoài hai thứ cái này, có hội không? Bỗng sư dùng gậy vẽ một dường trước mắt nói: Giấy quý kiến long một tờ lãnh qua. Sư dạy chúng rằng: Trong rừng gai kheo co duối, ở chỗ trán lừa tìm Châu Thần, lấy được mỗ mũi rùa sống ở phía Nam, thừa hứng còn đến tìm râu cọp. Như tiêu chí này chưa phải là tác gia. Nếu đến Vân Môn không nhọc lấy ra, lại phải vào rừng không động cỏ, vào nước không dậy sóng, ngồi trong màn trường quyết hơn ngoài ngàn dặm, mới có chút phần tương ứng. Chính lúc như thế, một câu nghóa không thương xót chúng sinh là nói gì? Hồi lâu sư nói: Chỉ lấy cơm hướng đến chén vô tâm, chỉ có người nâng lấy khóa chân. Sư dạy chúng: Giơ gậy nói: Thôi khoe gậy xuống vô sinh nhẫn, bỏ đi mặt trời chế điện cơ, trước khi đại tiểu tiện bỗng đề được. Bèn dộng gậy xuống đất nói: Vừa đánh tự nhiên mất sở trí, hét một tiếng. Sư dạy chúng: Mới chạm môi thì rơi vào ngôn thuyên, không rơi vào ngôn thuyên thì chìm vào tịch mặc, chìm vào tịch mặc thì thành cuồng, dính mắc vào ngôn thuyên thì thành phỉ báng. Không lời, không phỉ báng, không mặc, không cuồng phải biết hướng lên chỉ có một đường. Người mắt sáng biết có chỉ là khó gần bên. Bèn giơ gậy nói: Cây gậy lại gần bên được, chỉ là chẳng biết có. Xin hỏi đại chúng: Gần bên được, không biết có, biết có gần bên không được là lúc như thế, cái nào ở trước cái nào ở sau? Nhưng nay trong chúng có người nào chẳng bị người khinh hay không? Thử ra đây định xem, khán! Hồi lâu nói: Nếu chẳng phải ruộng hoang bắn hổ đá, dường như giết nhầm Lý tướng quân. Dộng gậy một cái. Sư dạy chúng: Nhiều lúc không nói thiền, bên miệng sinh meo trắng. Đại chúng khổ nung nấu, bên lên cây cong xanh, chẳng luận tông năm nhà, không dẫn Truyền đăng lục, mới mở hai miệng da, nghiệp nhân chiêu cảm bạc phước, Thích-ca que chùi phân, Đạt-ma lão trọc thúi. Một người cong nói thẳng, một người thẳng nói cong, cả hai đại trượng phu, chịu phí mông của ông, mạ Phật báng Tổ sư, nhất định đọa ngục kéo lưỡi, Phật Tổ sinh kẻ thù, quỷ vương là quyến thuộc, tâm địa đen như mực, nước trong miệng tràn lan. Giống như trẻ xuất gia, định giết tộc Cù-đàm, sáng 30 tháng chạp, cười lớn lại thành khóc. Vời đại chúng đến nói: Có biết ông già thônVân Môn hay không? Từng nghe một khi no thì quên trăm đói. Nay thân sơn Tăng chính thế hét một cái. Dạy chúng nêu: Vị Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Rồng kêu trong cây khô. Thế nào là người trong đạo? Con mắt trong đầu lâu. Tăng lại hỏi Thạch Sơn: Thế nào là rồng kêu trong cây khô? Còn dính mắc vào hỷ. Thế nào là mắt trong đầu lâu? Còn dính mắc vào thức. Vị Tăng hỏi Tào Sơn: Thế nào là rồng kêu trong cây khô? Mạch máu không đứt. Thế nào là mắt trong đầu lâu? Khô không hết. Bèn có bài tụng: Rồng kêu cây khô thật thấy đạo. Đầu lâu vô thức, mắt vừa sáng. Khi hỷ, thức hết tin tức hết. Đương nhân đâu phân trong trong đục. Viên Ngộ Lão nhân nói: Một người thấu ngữ tham lậu, một người thấu tình tham lậu, một người thấu kiến tham lậu. Sư nói: Mọi người có chọn ra được không? Không tiếc lông mày vì mọi người nói rõ ràng. Hương Nghiêm Thấu Ngữ tham lậu, bị ngữ ngôn ràng buộc chết. Thạch Sương thấu tinh tham lậu; bị tình thức sai xử chết. Tào Sơn thấu kiến tham lậu, bị thấy nghe, hay biết hoặc giết, nói rõ ràng nói rồi, người có mắt biện lấy. Sư dạy chúng nêu: Đề-bà-đạt-đa ở trong địa ngục, Thế Tôn sai A-nan đến hỏi thăm rằng: ông ở trong địa ngục, có thể nhẫn chịu được không? Ta tuy ở địa ngục nhưng vui như ở trời Tam thiền. Đức Thế Tôn lại dạy A-nan truyền hỏi: Ông có cầu ra khỏi không? Đợi Thế Tôn vào địa ngục thì ta ra. A-nan nói: Thế Tôn là thầy ba cõi đâu có phần vào địa ngục? Thế Tôn đã không có phần vào địa ngục, ta đâu có phần ra địa ngục. Sư nói: Đã không có phần ra, không có phần vào gọi thế nào là lão Thích-ca? Gọi thế nào là Đề-bà-đạt-đa, gọi thế nào là địa ngục, còn có gửi gắm không? Tự mang bình đi vào thôn mua rượu, lại mặc áo đơn làm chủ nhân. Sư dạy chúng, nêu: Chiêu Khánh hỏi La Sơn: có người hỏi Nham Đầu, trong trần làm sao phân biệt được chủ? Dầu đầy trong cát. Ý thế nào? Sơn vời Đại Sư. Khánh đáp: Dạ. Sơn nói: Khỉ vào đạo tràng. Sơn lại hỏi Minh Chiêu: Nếu có người hỏi ông làm sao? Mũi tên xuyên bóng mặt trời hồng. Sư nói: Có hiểu không? Khỉ vào đạo tràng, mũi tên xuyên qua bóng mặt trời hồng, hai cái chùy xưa, gánh tuyết cùng lấp giếng. Sư dạy chúng, nêu: Chiêu Khánh Phổ Thỉnh gánh bùn, giữa đường dựng gậy hỏi Tăng: Bùn trên hang hay bùn dưới hang? Bùn trên hang. Khánh đánh một gậy. Lại hỏi một vị Tăng: Bùn trên hang hay dưới hang? Bùn dưới hang. Khánh cũng đánh một gậy. Lại hỏi Minh Chiêu: Chiêu thả gánh bùn xuống, vỗ tay nói. Thỉnh sư khán, Chiêu Khánh bèn thôi. Sư nói: Chiêu Khánh tuy thôi không làm sao được, Minh Chiêu không chịu. Vân Môn lúc ấy thấy ông ta, thả gánh bùn xuống nói: Thỉnh sư khán, cho một gậy vào hông, xem ông ấy tách hợp thế nào. Sư dạy chúng, nêu: Mục Châu hỏi vị Tăng: Vừa rời chỗ nào? Hà bắc. Hà bắc có Hòa thượng Triệu Châu, thượng tọa có đến đó hay không? Mỗ giáp vừa rời chỗ đó. Triệu Châu có ngôn cú gì dạy chúng? Tăng bèn nêu: Lời uống trà. Mục Châu nói: Hổ thẹn. Lại hỏi vị Tăng: Ý Triệu Châu thế nào? Chỉ là phương tiện trong một thời gian. Khổ thay Triệu Châu: bị ông đem đống phân vải rồi. Sau đó, đến chỗ Tuyết Đậu nói: Tăng này không thể chịu nổi, lấy phân vung vải hai vị Cổ Phật. Sư nói: Tuyết Đậu chỉ biết đống phân vải vào Mục Châu, Triệu Châu, thật không biết vị Tăng này bị Triệu Châu lấy phân vải, lại đến Mục Châu, lại gặp một lần vung vãi nữa. Chỉ là không biết nín thở, nếu biết nín thở thì chỗ nào có hai vị Cổ Phật. Sư dạy chúng, nêu: Vị Tăng hỏi Vân Môn. Thế nào là lời vượt Phật siêu Tổ? - Bánh bao. Sư nói: Vân Môn chính là giống bánh bao, không có đạo lý siâu Phật vượt Tổ. Sư dạy chúng, nêu: Đỗng Sơn nói: Phải biết có việc Phật hướng thượng. Vị Tăng hỏi: Thế nào là việc Phật hướng thượng? - Chẳng phải Phật. Vân Môn nói: Danh không được, trạng không được, cho nên nói chẳng phải. Sư nói: Hai vị Tôn túc nêu lên việc Phật hướng thượng như thế hãy chầm chậm. Việc ấy không đúng, thế nào là việc Phật hướng thượng? Kéo gậy đánh vào cánh tay, khỏi dạy y nguồn gốc Phật hướng thượng. Sư dạy chúng, nêu: Hòa thượng Thạch Môn Thông nói trước mười lăm ngày khi Phật sinh, sau ngày mười lăm chư Phật diệt. Trước ngày mười lăm chư Phật sinh ông không được rời chỗ này. Nếu rời chỗ này ta có móc câu móc ông. Sau mười lăm ngày chư Phật diệt ông không được ở đây. Nếu ở đây ta có cái chùy đánh ông. Hãy nói đúng ngày mười lăm dùng móc tức là là dùng chùy. Bèn có bài tụng rằng: Đúng mười lăm ngày móc, chuỳ cùng lúc hết. Bèn định hỏi thế nào, ngày quay đầu lại hiện ra. Sư nói phô bày ba huyền ba yếu, dựng lập Chánh tông Lâm tế phải là người như thế mới được. Tuy như thế, nương Vân Môn thì không như thế, trước ngày mười lăm chư Phật vốn không hề sinh. Sau ngày mười lăm chư Phật vốn không hề diệt. Trước ngày mười lăm ông nếu rời chỗ này ta cũng không dùng móc móc ông, mặc cho vác ngang cây gậy, buộc giày cỏ. Sau ngày mười lăm nếu ông ở đây ta cũng không dùng chùy đánh ông, mặc cho giơ gậy cao quảy túi bát. Hãy nói: Chính vào ngày mười lăm là thế nào? Sư bèn nói: Trước sau ngày mười lăm móc chùy luống làm gì, sáng nay ngày mười lăm chính là dùng móc chùy, làm sao dùng? Giữa đường gặp rắn chết chớ có đánh giết, giỏ không đáy đem về. Sư dạy chúng, nêu: Hòa thượng Bạch Vân Tường hỏi vị Tăng: không hoại giả đanh mà nói thật tướng là thế nào? - Đây là cái ghế. Bạch Vân xua tay nói: Đem túi giày đến. Vị Tăng không đáp được. Bạch Vân nói: Gã nói suông này. Vân Môn nghe nói: Phải là huynh Tường mới được. Sư nói: Vân Môn giúp mạnh không giúp yếu, đáng thương không biết hổ thẹn phải làm sao? Vị Tăng này lúc ấy nếu là gã này, đợi ông ấy nói đem túi này đến, liền xô nhào ông xuống giường, dù cho rằng Bạch Vân như cây kiếm, miệng như chậu máu cũng phân chia không được. Sư dạy chúng, nêu: Thạch Đầu hỏi Trường Tư từ đâu đến? Từ Lãnh nam đến. Đầu núi Đai Dữu phụ thêm công đức thành tựu chưa? Thành tựu lâu rồi, chỉ thiếu điểm mắt. Chớ nên điểm mắt? Tư bèn thỉnh. Đầu duỗi một chân xuống, Tư bèn lễ bái, đầu nói: Ông thấy gì mà lễ bái? Như hạt tuyết trong lò lửa. Sư nói: Trong chúng bàn luận rất nhiều. Hoặc nói không có mắt công đức có chỗ nào để chấm, hoặc nói có cần chấm mắt không, đợi ông ấy nói, bèn thỉnh đánh cho một gậy vào hông. Nếu như thế chưa khỏi ô uế công đức này. Vân Môn thì không như thế. Đợi lão nay duỗi chân xuống bèn nói Hòa thượng khởi động. Sư dạy chúng, nêu: Vương Đại Vương thỉnh ngài Cổ Sơn ở chùa Yên Giam trong hội Tuyết Phong. Tuyết Phong và Thượng tọa Phu đưa ra cửa, trở về đến pháp đường, bèn nói: Một mũi tên Thánh bắn vào chín lớp thành. Phu nói: Hòa thượng là y chưa ở. Phong nói: Ông ấy là người khấu suốt. Phu nói: Nếu không tin đợi mỗ giáp đi qua. Bèn đến giữa đường vịn cột trụ nói: Sư huynh đi đâu? Cổ Sơn nói: Đi trong chín lớp thành. Phu nói: Bỗng bị ba quân bao vây thì sao? Nhà ông ta tự có đường thông mưa. Thế thì lìa cung mất điện. Chỗ nào không xứng là tôn quý. Phu trở về nói với Phong: Như mũi tên bậc Thánh bị gãy. Rồi nêu lời trước đó cho Tuyết Phong nghe. Phong nói: Lời của họ còn. Phu nói: Lão này mủ đông, cuối cùng có tình quê hương. Sư nói: Trong chúng bàn luận rằng: Chỗ nào là chỗ mũi tên Thánh gãy, nói: Cổ Sơn không đáp lời ông ta là chỗ mũi tên Thánh gãy. Cổ Sơn không nói đạo lý là chỗ mũi tên Thánh gãy. Phê phán như thế thì chẳng những không biết Cổ Sơn mà còn không biết lão phu. Thật không biết Thượng tọa Phu Chính là kẻ giặc, ở trước mặt Cổ Sơn nhận một cuộc bại trận, hổ thẹn trở về, lại đến Tuyết Phong nhổ gốc, giống như nhà buôn bán ở Dương châu. Nếu chẳng phải Tuyết Phong có tướng đại nhân thì giặc này dung thân ở chỗ nào? Lúc ấy, đáng tiếc phóng qua, thành công án bất liễu. Nhưng nay có người nào vì người xưa thở ra hay không? Thử thở ra. Ta muốn hỏi ông chỗ nào là chỗ mũi tên Thánh gãy. Sư dạy chúng, nêu: Minh Châu nhóm lửa, vị Tăng bỗng hỏi: Trước mắt không có pháp, ý ở trước mắt, chẳng phải pháp trước mắt, chẳng phải chỗ đến của tai, mắt. Chưa rõ bốn câu này, câu nào là khách, câu nào là chủ Minh? Chiêu bươi lửa ra nói: Ông cùng ta ở tìm ra một lông mày xem. Vị Tăng nói: Chẳng những mỗ giáp mà hết cả người trên mặt đất đều mất thân mạng. Vì sao tự đem búi tóc vào sở quan? Sư nói: Vị Tăng này có đầu không có đuôi, Minh Châu có đuôi không đầu. Nếu người nói được câu trọn vein đầu đuôi, Vân Môn cho cây gậy. Sư dạy chúng, nêu: Nam Tuyền ngồi, một vị Tăng hỏi, vỗ tay đứng. Tuyền nói: Thật là thô tục. Vị Tăng chắp tay. Thật là Tăng. Vị Tăng không đáp. Sư nói: Chắp tay thật là Tăng, vỗ tay lại tục khí đều không như thế. Tôn thể không chỗ đốn, không chỗ đốn có lỗ mũi, án tô rô tô rô tất rị tất rị, hét một tiếng nói: là cái gì? Gần đây lệnh vua hơi nghiêm không cho dắt kéo đi cướp chợ. Sư dạy chúng: Ba mươi năm nay làm người cưỡi ngựa, sáng nay lại bị lừa kéo, đổ đất lấy được vàng lệ thuỷ, lấy lên lại là sắt Tân-la, báo cho mọi người biết là không khác. Đêm đến tuyết phủ Vân Môn, trời lạnh rùa đen thành ba ba. Đêm 30, sư dạy chúng: Đêm nay gọi sáng mai là sang năm, sáng mai gọi đêm nay là năm ngoái. Đã gọi là sang năm, thì đêm nay hợp lại, đã gọi là năm ngoái, thì sáng mai hợp đi. Sang năm, đêm nay không thấy đến, năm ngoái sáng mai định không đi. Đã không đến lại không đi, nghiệp thức mịt mù không bổn cứ. Trong gương đại viên bặt mảy trần, trong đó há có đủ gia nhàn. Cho nên khác này lại khác, ánh sáng phá trừ trăng ngày thu, Bàng công không rõ thân xưa nay giống như rồng bay thành ba ba què, các ông nhìn hay không nhìn gã lanh lợi, phải xem thời tiết, bốn mươi lăm tận chỗ lại gặp xuân. Lão Tăng sau tháng chạp cân ba cân sắt, hét một cái. Sư dạy chúng, nói: Đêm đến thỏ chạy đến hổ, ngày mai đi vào không đâu có. Dưới trăng san hô dài mấy nhánh, muôn tượng sum-la đều cúi đầu. Bỗng giơ gậy lên nói: Cây gậy không rên rỉ, nông phu lại khéo phân gian xấu, lúc Lý công say mèm té nhào, vốn là Trương Công uống rượu trong thôn. Nói cho mọi người mau quay đầu, dè dặt chạy bên ngoài si cuồng. Sư dạy chúng, nêu: Ma Cốc cầm tích trượng đến Chương Kính nhiễu quanh giường thiền ba vòng dôïng tích trượng một cái rồi đứng. Sư nói: Kim cang thuần đã xong, sắt sống đúc thành. Kính nói: Đúng thế. Sư nói: Trên gấm thêm hoa ba mươi lăm lớp. Cốc lại cầm tích trượng đến Nam Tuyền nhiễu quanh giường thiền ba vòng, doing tích trượng một cái rồi đứng im. Sư nói đã bại trận rồi. Tuyền nói: Không đúng, không đúng. Sư nói: Cùm lại thêm xiềng. Cốc nói: Chương Kính nói vì sao Hòa thượng nói không đúng? Sư nói: Người buồn chớ nói với người buồn. Tuyền nói: Chương Kính chính là thế, ông không đúng, đây là bị sức gió chuyển, đều thành bại hoại. Sư nói: Thử lấy lửa rọi xem mặt Nam Tuyền dày hay mỏng. Lại vời đại chúng nói: Vân Môn phê phán như thế. Hãy nói chịu hay không chịu ông ta? Sư dạy chúng, nêu: Hòa thượng Nam Nhạc hỏi Mã Tổ: Thế nào? Tổ nói: Từ lúc loạn laic ba mươi năm, không hề thiếu muối tương. Sư nói: Tuyết Môn thì không như vậy. Đêm mộng không rõ viết chữ đại cát nơi cửa. Dạy chúng rằng: Chim cắt hung bạo không bắt thỏ bên rào, hổ dữ không ăn thịt thúi. Đầu lông sao hiện tiền Bắc đẩu, cắt đứt cửa trời và trục đất. Sư dạy chúng, nêu Tăng hỏi Vân Long: Thế nào là pháp môn tâm địa? Không từ người mà được. Không từ người mà được là sao? Ở đây cách Hành Dương không xa. Sư nói Vân Môn thì không như thế, thế nào là pháp môn Tâm địa, không từ người được? - Không từ người được là sao? Khán dưới chân. <卷>QUYỂN 8 Đệ tử nối pháp Thiền sư Tuệ Nhật trụ trì Năng Nhân Thiền Viện ở Kính Sơn là Uẩn Văn kính dâng. Sư vào am dạy chúng: Đúng thế đúng thế, lý theo sự biến, không đúng không đúng, sự được lý dung. Giữ như thế không như thế, mênh mông không ngoài. Ở giữa thế nào? Vắng lặng chẳng trong. Vắng lặng chẳng trong, quán pháp giới trong một hạt bụi. Mênh mông chẳng ngoài, thấy một hạt bụi khắp trong pháp giới, không đầu không đuôi, không trước không sau, không xưa không nay, một lúc thanh tịnh, bèn đi như thế. Ngủ trong am tranh, ở lại ngoài cửa. Vì sao? Vì là giáo thừa nghiêm cách, chưa phải là việc bổn phận của nạp Tăng. Chính là ở giữa như thế, không như thế, ở giữa không như thế lại như thế, thẳng xuống nắm được ở đây. Đáng được chư Phật ba đời, Tổ sư lão Hòa thượng nhiều đời trong thiên hạ không có chỗ tìm. Lại nói trong cái gì, nói ngoài cái gì, nói lý gì, sự gì, nói pháp giới gì, nói một hạt bụi gì, lấy phất trần gõ vào gường thiền nói: Nếu ở đây chứng được thì ở trong vắng lặng, ngoài chẳng thường. Ở không chẳng bớt, ở có không thêm, không trụ hai đầu, không ở chính giữa. Càn Phong nêu một, không được nêu hai, phóng qua một cái rơi vào thứ hai. Chén của Mục Châu không rơi xuống đất thành bảy mảnh, có lỗi gì, hồi lâu sư hét một cái, nói: Dù đại cũng từ đất khởi, dù cao đâu thể có trời. Lại nêu: Vị Tăng hỏi Nham Đầu: Ba cõi đua nhau khởi là thế nào? Ngồi lại dính. Chưa rõ ý thế nào? Dời lấy Lô Sơn liền, tức nói với ông. Sư nói: Cổ Phật Nham Đầu rũ tay đầu núi muôn thước, vắt thân trong vạc dầu lò lửa. Vì long Từ bi nên nói cỏ rơi rụng. Ngày nay, nếu có người hỏi Vân Môn ba cõi đua nhau khởi là thế nào? Chỉ nói với họ vui lại khó gặp, chẳng hay ý sư như thế nào. Dời núi Vân môn đến tức là nói với ông. Dựng am, Lâm Tư Pháp vì xem xét kỹ lưỡng thỉnh dạy chúng: Phía Đông thành Phước châu có một đại trưởng giả. Ở Hải Dư Thượng phía Đông thành Phước châu trong số kiếp không nghó bàn nhiều như cát bụi, thừa sự cúng dường võ số Phật. Lành thay? Trưởng giả đời ít có, như hoa Ưu-đàm lâu lắm mới hiện, phát khởi tâm chân thật rộng lớn, chỗ không có Phật xây dựng A-lan-nhã. Như bậc trí nhân ngày xưa xây dựng chùa Phật, bẻ cỏ cắm đất liền thành tựu. Tâm này vững chắc như Tu-di, hoặc khen hoặc chê không dao động, chúng ma vương thấy cao quý như vậy tự tồi phục, trưởng giả nhìnthấy như mây nổi, biến diệt chốc lát không lâu bền, đời này nước Phật thời tiết đến, buông tay mà đi không quay đầu. Có con vâng theo nghóa làm hưng khởi nhà họ, chí nguyện thân tâm đều đỗ đạt, nhân giả thì thọ ngữ không dối, nên biết ngày nay cũng chưa từng chết. Ta đến ở A-lan-nhã này; không thấy trưởng giả sinh di hận, nên nói kệ này để nêu lên, đồng ở biển vắng lặng của Như Lai. Sư dạy chúng: chữ dó không thành chữ bát, chẳng phải mắt Thước- ca-la không thể nhìn, trên đầu sợi lông lại lấy ra, tức giận na-tra mất oai nghi. Sư dạy chúng: Trong một câu có ba huyền môn, một huyền môn có ba đường quan trọng. Lâm Tế nhỏ con chỉ đủ một mắt, bốn phương tám hướng đến chỉ đánh ở giữa, hết gió lại phơi mưa, trong miếu xưa được đi qua, lão Hưng Hóa mủ đông đặc, toàn chưa mộng thấy, chí đạo không khó chỉ e lựa chọn. Người lúc này hang hốc. Triệu Châu Cổ Phật, đúng được năm năm phần số không xuống. Rõ ràng ngỗng đầu đàn chọn sữa, thật chẳng phải loài vịt. Chỗ có Phật không được ở, chỗ không Phật mau đi qua, ngoài ba ngàn dặm gặp người không được nêu lầm, kéo đầu lại đổi mắt. Các ông không dùng khoan rùa đập ngói Bách Trượng bị Mã Tổ hét, đáng được bị ba ngày điếc tai, làm sao tính? Dè dặt trí lớn thôi tù, như thế không được, không như thế cũng không được, như thế không như thế cũng không được, bao gồm trong nguyên điện thôi hỏi Trường An, chớ nhận cầu yên lừa, làm a phủ dưới trán. Đã như thế, nói ở đây, đỉnh núi đứng cao cao, biển sâu sâu đi được không? Voi đầu đàn qua sông, cắt đứt dòng qua được không? Như chim cánh vàng xuống biển lớn nuốt rồng được không? Đã không cho như thế. Như nay không khỏi làm thầy trị ngựa chết, giơ gậy dôïng xuống nói: Mặt trời tràn mắt, muôn dặm không treo một áng mây, bàn siêu Phật vượt Tổ, đã là quét đất lấp sông rạch rồi. Hãy nói, vợt tre Thanh Bình đều tìm tiền quý, quả cầu Tuyết Phong lưa núi đánh trống, cuối cùng phần nạp Tăng, thành được việc gì? Còn gửi gắm tất không? Chớ đợi thị phi đến vào tài, từ trước tri kỷ trái lại là thù, lại dộng gậy xuống đất một cái hét một tiếng. Thiện hữu thỉnh dạy chúng: Tâm rỗng rang đỗ đạt không giai cấp, thẳng xuống vọng hòa tội tánh không, niệm bao la ba cõi đoạn, ngàn sai muôn khác đều viên thông, sư dạy chúng: trên đầu mũi nhọn thấu cửa trời, ý quên hoài niệm hai không cam, thẳng xuống trải qua ngàn muôn kiếp, tức nay thành Phật chưa cùng tham. Cho nên Tuyết Phong nói: Vọng Châu Đình gặp nhau anh rồi, Đỉnh Ô Thạch gặp anh rồi, trước Tăng đường gặp anh rồi. Nếu là kẻ lanh lợi, vừa nghe nêu, bỗng đứng dậy đi. Lại người không biết còn gửi gắm không, xuất đầu ngoài trời xem ai là người giống ta. Họ Trần soạn Khảo Tỷ Sám Tháp, thỉnh dạy chúng: Thân tướng Phổ Hiền không có hai, tám muôn bốn ngàn cõi chân lông, mỗi lỗ chân lông một Như Lai, mỗi Đức Như Lai một tháp miếu, Xá-lợi vững chắc thân Kim cang. Hư không có thể hoại, thân này không thể hoại, con gái họ Trần báo đáp cù lao, mỗi ngôi tháp miếu một chiêm lễ, đầy đủ bốn mươi tám ngàn lễ, hết lỗ chân lông không để sót. Cho nên được công đức không thể lường. Chính là giống hạnh nguyện Phổ Hiền dùng từ phụ nghiêm và từ mẫu, các hữu tình khắp cùng pháp giới, mãi là biển khổ chứng Bồ-đề, tâm được rỗng rang vượt bờ kia. <詞>NGỮ LỤC CỦA TIỂU HOÁT VÂN MÔN Ở TUYỀN CHÂU Sư vào am dạy chúng, nêu: Vua Ba-tư-nặc hỏi Thế Tôn: Trong thắng nghóa đế có thế tục đế hay không? Nếu nói là có thì trí không ứng với một, nếu nói là không thì trí chẳng phải hai, nghóa một, hai này thế nào? Đức Thế tôn đáp: Vào thời quá khứ ở chỗ Đức Phật Long Quang, vua từng hỏi nghóa này. Nay ta không nói, ông cũng không nghe. Không nói không nghe là nghóa một hay nghóa hai. Sư nói: Ông già Thích-ca của Đại thừa, Tiểu thừa bị kẻ tục nhàn kéo lỗ mũi, đáng được phần sớ không được. Ngày nay có người hỏi Vân Môn trong thắng nghóa đế còn có thế tục đế hay không? Nếu nói có thì trí chẳng phải một, nếu nói không thì trí chẳng phải hai, nghóa một, hai này thế nào? Làm sao phân giải? Hồi lâu sư nói: Cắm cành cỏ dựng chùa Phật, phá vọng tưởng trần ra khỏi quyển kinh. Dù lợi ích có rộng lớn các hữu tình, thành tựu vô biên việc ít có. Giơ gậy dôïng xuống một cái, nói: Chùa Phật đã xây, phá vọng tưởng thì trong hạt bụi có quyển kinh lớn, đốn tiệm, nghiêng lệch tròn đầy, quyền thật, bán mãn, mỗi mỗi rõ ràng, các thứ pháp môn, các thứ phương tiện, nhiều trí tuệ, nhiều nhân quả, nhiều cao quý, nhiều hạnh nguyện, nhiều trang nghiêm. Chỉ đối với Đàn-việt cấp sự trên đầu mây lông, lấy ấn diệu minh tâm một ân thì ấn nhất định, có tin được không? Nếu tin được, thì nay thành Phật không nhờ tu sửa. Chẳng những Đàn- việt cấp sự như thế mà còn đến quá khứ, hiện tại vị lai chư Phật nhiều như bụi, chư đại Tổ sư. Xưa đi nay đến, trí Nhất thiết trí kiết thoại đầu của lão Hòa thượng trong thiên hạ, cũng dùng ấn này ấn định, chẳng khác chẳng đồng, mỗi mỗi sáng mầu, mỗi mỗi đầy đủ. Tu như hạnh này, thành như việc này nguyện đầy như thế, được phước như thế, không xưa không nay, không đuôi không đầu, không thành không hoại, không ngộ không mê. Liễu đạt như thế, chứng nhập như thế, rốt ráo như thế. Cũng chỉ ở trên đầu sợi lông của Đàn-việt cấp sự, chẳng khác Thiện Tài vào lầu gác Di-lặc, pháp môn trần sa một lúc bỗng chứng vô lượng công đức, khắp nơi trang nghiêm, như lưới trời giao nhau, soi sáng viên thông lẫn nhau, cùng nhiếp vào, cùng làm chủ bạn. Mỗi mỗi cùng khắp, mỗi mỗi vô biên, đều làm cho vô số chúng sinh có thiện tâm hoặc không thiện tâm thấy những việc cao quý ấy đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sinh tư tưởng ít có, chẳng những Đàn-việt cấp sự như thế mà Vân Môn ngày nay cũng như thế. Chẳng những Vân Môn và cấp sự như thế mà hiện tiền Tăng tục đại chúng cũng mỗi mỗi bình đẳng, mỗi mỗi không khác, mỗi mỗi như thế. Chính lúc như thế, hãy nói: Là thắng nghóa đế ư hay là một nghóa? Hay là hai nghóa? Là nói hay là không nói? Là trí hay là vô trí? Là nghe hay là không nghe? Thử đoán xem. Nếu đoán ra được thì Đàn-việt cấp sự xây phòng báu lớn, làm Phật sự lớn, công không luống bỏ. Nếu đoán không ra thì Vân Môn vẽ rắn thêm chân. Ném gậy xuống, gõ vào gường thiền nói: Thấu qua núi Thiết vi Bắc đẩu, mặt nhìn về phía Nam. Ngày tắm Phật, sư dạy chúng: Một câu cuối cùng, trước âm thanh bày rõ ràng, che trời che đất, che thinh che sắc. Ông già mặt vàng được một cái. Bèn nói: Chưa rời Đâu-suất đã giáng cung vua. Chưa ra thai mẹ độ người đã xong. Cho đến mới sinh thì rung chuyển tất cả lưới thế giới, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất làm đại Sư tử hống nói: Trên trời, dưới thế gian chỉ có ta là tôn quý nhất. Vì một việc nhân duyên lớn là khai tri kiến phật, chỉ tri kiến phật, ngộ tri kiến Phật, nhập tri kiến Phật. Thật không biết sau mấy ngàn năm bị sư chân què muốn cho một gậy đập chết cho chó ăn, quý nhất là cho thiên hạ thái bình. Hãy nói: Ông già Thích-ca lỗi ở chỗ nào? Chẳng phải là chỉ trời chỉ đất miệng mở to phải không? Chẳng phải không hợp trống làm nam nữ nhà người phải không? Chẳng phải là khai tri kiến Phật, chỉ tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, nhập tri kiến Phật phải không? Nếu bàn luận như thế thì không chỉ phỉ báng ông già Thích-ca mà còn là cô phụ Đại sư Vân Môn. Đến đây nếu biết Vân Môn thế nào tức biết chình mình như thế. Hãy nói: Rơi vào chỗ nào? Hồi lâu sư nói: Ngày xưa sông xanh trăng không giới, hai, ba lần mò tìm mới ứng biết. Lại nêu Tăng hỏi Ngũ Tổ: Thế nào là Phật? Phạch ngực đi chân không. Thế nào là Pháp? Đại xá không thả. Thế nào là Tăng. Câu cá trên thuyền, cám ơn Tam Lang. Sư nói: Ba chuyển ngữ này, một chuyển ngữ đủ ba huyền ba yếu. Bốn liệu chọn bốn chủ khách, Đỗng Sơn năm vị, Vân Môn ba câu, trăm ngàn Pháp vương vô lượng nghóa mầu. Nếu người chọn được thì cho ông đủ một mắt. Kiết hạ dạy chúng: Hôm nay là ngày chúng ta kiết hạ, am Vân Môn Tỳ-kheo Tông Cảo, cùng với cục thịt đỏ của đại chúng vô vị chân nhân hiện tiền, thanh tịnh, lấy pháp giới làm già lam, đồng với các Bồ- tát trong bốn mươi chín ngày an cư. Khêu vòng Kim cang nuốt cỏ gai, làm Phật sự trong mộng, ma quân soi gương, ba nghiệp thanh tịnh, sáu căn trong sạch, bốn oai nghi của thân không có lỗi lầm. Huyền Khế Như Lai một trăm bốn mươi nguyện lớn, nối tiếp hạt giống Tam bảo không bao giờ dứt. Nếu tu chứng được như thế, an cư như thế, là bậc đại trượng phu, là xuất gia chân thật, không cần giữ cẩn thận như người thợ săn, như ngỗng giữ tuyết. Nếu chưa được như vậy thì vách phía Đông của Triệu Châu treo hồ lô. Chớ nói không nghi là tốt, gõ vào giường thiền xuống tòa. Dạy chúng: Vân Môn trưa hôm qua nằm mộng nói mớ thấy lướt trên một chiếc thuyền lá nhẹ, biển đại dương phía Đông mênh mông, cưỡi điện Phật mới sửa, vào trong hang kiến hôi, quanh co đi đến đầu đường ngã tư trong đó có muôn người ở. Thấy một nhóm nạp Tăng mạnh bạo trong miệng bàn huyền nói diệu, nên xưa sáng nay, nói Linh Vân thấy hoa đào ngộ đạo, Hương Nghiêm nghe tiếng trúc chạm mà rõ tâm. Tuyết Phong nhiều năm đánh cầu, Hòa Sơn thường dánh trống, sự còn bao gồm, lý ứng treo mũi nhọn, mới có mộng này. Bỗng nhiên bị lão Tăng đánh thức, vốn là tiếng giày dép của Thượng tọa Hỷ Thông Trụ Tam. Vân Môn tuy là mắt mở nhưng còn ở trong mộng chưa sợ. Thượng tọa Tam đến trước làm lễ bạch: Thỉnh Hòa thượng ngày tới giảng thiền cho chúng nghe. Vân Môn trong mộng đáp dạ. Ngày nay kích động trống pháp, đại chúng lên hãy nói, nói cái gì thì được. Hôm qua, mộng nói thiền, như nay thiền nói mộng, lúc mộng như nay nói, nói thì nói hôm qua mộng. Hôm qua nhắm mắt mộng, như nay mở mắt mộng, mọi nười đều nghe trong mộng. Vân Môn lại nói mộng trong mộng. Hồi lâu sư nói: Tiên Linh Sư Thần mở miệng cười. A-tu-la vương đánh nhảy khắp. Thần biến mất đi dạ Minh Châu, đánh phá núi Tu-di- lô xuyên bảy hang. Thượng tọa Tam Nhân thỉnh bàn thiền, đất bằng không gió sóng đến trời, thiền thiền không dùng tư long suy lường, chẳng liên quan đến văn tự ngữ ngôn. Ngước lên núi cao, khoan núi dựng đứng, chính là chẻ đầu núi, là cú phi cú, Lâm Tế dùng nó gọi là ba yếu ba huyền. Thiền thiền nuốt đi cỏ gai thấu ra vòng Kim cang, thôi luận bàn lão Triệu Châu. Cây bá trước sân, chớ hỏi Thủ Sơn, vợ cưỡi lừa ai là người dắt. Chỉ xin một lúc buông xuống, đương nhân bổn thể tự tròn đầy. Vời đại chúng nói: Lại nói đạo lý Châu Viên gì, trong mộng rõ ràng có sáu đường. Sau khi thức rỗng không chẳng có đại thiên, hét một tiếng. Ngày giải hạ, sư dạy chúng: Nạp Tăng gặp nhau chớ nghi ngờ, bốn đại kết đầu ngày nay mở, cột trụ mặc áo, Nam Nhạc đi, đèn lồng thêm trướng lên Thiên Thai, bỗng giơ gậy nói: Chỉ có Thượng tọa Vân Môn Mộc, suốt năm không đi cũng không đến, có khi chỉ nương vào bờ đê cũ, nhìn lén trước cửa xuống Mã đài. Ném gay, xuống tòa. Sư dạy chúng nêu một không được nêu hai, phóng qua một cái rơi vào thứ hai. Gặp sang thì hàn, gặp hèn thì sang. Xây dựng không có chỗ nào tránh, Nam Nhạc, Thiên Thai dường đi thông, anh hướng về Tây, tôi hướng Đông, gió từ hổ, mây từ rồng, hét một tiếng nói, đưa cờ lên dã chỗ khác, đấu nấu chè ấm khác nhau. Sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là đạo? - Thấu suốt một chữ. Sư nói thấu suốt một chữ lại không giống, mau chuyển đầu đến bày ba và bốn, xuống tòa. Dạy chúng nêu: Trong giáo nói: sinh diệt diệt rồi, vắng lặng hiền tiền. Sư nói: Thật sinh không thể sinh, thật diệt không thể diệt, vắng lặng bỗng hiện tiền, ếch nhái nuốt trăng đi. Sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Trăm hài cốt đều vỡ tan, một vật trường linh thì thế nào? Sáng nay lại gió nổi. Sư nói: Sáng nay lại gió nổi, chỗ chợ chớ cắm mỏ, chạm mặt vua Diêm-la lụy đến quỷ âm ty. Sư dạy chúng, nêu: Pháp Nhãn hỏi Giác Thiết Chủy: Vừa mới rời chỗ nào? Vừa rời Triệu Châu. Nghe Triệu Châu có thoại đầu cây bá phải không? Không. Qua lại đều cho là như vậy. Vị Tăng hỏi: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Châu nói: Cây bá trước sân, Thượng tọa đâu thể nói không. Giác nói: Tiên sư thật không nói thế. Hòa thượng chở huỷ báng Tiên sư. Sư đi nếu nói có lời này thì giác này lỗi lầm. Nếu nói hai bên đều không ngiao thệp lại Triệu Châu lỗi lầm. Dù đều không như thế chớ có thấu thoát một đường, vào địa ngục như tên bắn, cuối cùngthế nào? Giơ phất trần nói: Có thấy người xưa không? Hét một tiếng, sư dạy chúng, nêu: Hòa thượng Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Lục Tổ: Phải làm sao để không rơi vào giai cấp? Ông từng làm việc gì đến đây? Thánh đế cũng không làm. Rơi vào giai cấp gì? Thánh đế còn không làm thì đâu có giai cấp. Tổ rất khâm phục. Sư nói: Chớ lấy lời nhàn làm lời nhàn, thường các việc đều từ nhàn sinh. Sư dạy chúng, nêu: Bàng Cư só hỏi con gái là Linh Chiếu: Rõ ràng đầu trăm cỏ, rõ ràng ý Tổ sư, làm sao hội? Gã này đầu bạc răng vàng, sinh ra kiến giải này. Cư só nói: Sinh ra làm sao? Rõ ràng đầu trăm cỏ, rõ ràng ý Tổ sư. Sư nói: Cư só Bàng Uẩn đi trước mà không đến, con gái Linh Chiếu cuối cùng thái quá, dù cùng đi cùng đến, nếu đến Vân Môn, một hầm chôn đi, hãy nói: Lỗi ở đâu? Rõ ràng đầu trăm cỏ, rõ ràng ý Tổ sư. Sư dạy chúng, nêu: Vân Môn nói: Đầu trăm ngọn cỏ, đem một câu đến đây. Đại chúng không đáp được. Tự nói thay: Đủ. Lão sư Viên Ngộ nói: Mũi nhọn. Sư nói: Khắp. Lại nói: Đủ, mũi nhọn, mặt trời khắp giờ ngọ, lý tướng quân bắn hổ đá, tuy thấu qua bên kia, uổng phát ngàn tên nỏ. Sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Lúc bốn núi ép ngặt thì thế nào? - Không đường là Triệu Châu. Sư nói: Không đường là Triệu Châu, lão tướng đủ rèm cỏ, mở Nam và lấp Bắc. Ngay đó cùng lúc thâu. Lý Tham Chánh thỉnh sư dạy chúng nêu: Bùi Tướng Quốc vào chùa, thấy trên vách vẽ hình con voi, hỏi Viện chủ: Trên vách là gì? Chủ nói: Cao Tăng. Bùi nói: Hình nghi khả quan cao Tăng ở đâu? Chủ không đáp được. Bùi nói: Ở đây có thiền Tăng hay không? Lúc ấy, Hoàng Bá ở trong chúng, viện chủ nói: Có Thượng tọa Hy Vận rất giống thiền Tăng. Bùi bên vời Hoàng Bá nêu lời trước đây. Bá nói: Xin ông hỏi. Bùi nói: Hình nghi khả quan, cao Tăng ở đâu? Bá vời Tướng Công, công đáp dạ. Bá nói: Ở đâu? Bùi ngay lời nói lãnh hội yếu chỉ. Sư nói: Bùi Công lấy lầm làm lầm, thoát hết căn trần, Hoàng Bá tin miệng rủ lòng từ, chẳng phí tâm lực, như đất chọi núi, không biệt sự trơ trọi của núi. Như đá ngậm ngọc, không biết ngọc không dấu vết. Tuy thế, Hòang Bá chỉ có dao người chết, lại không có kiếm người sống, ngày nay, Đại Tư Tướng Công hoặc hỏi Vân Môn, hình dáng khả quan, cao Tăng ở đâu. Vân Môn cũng vời: Tướng công, Tướng Công đáp dạ. Vân Môn liền nói: Hôm này trong Thiền đường đặc biệt tạ ơn cúng dường, sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Cây bá trước sân. Hòa thượng chớ dùng cảnh dạy người. Ta không dùng cảnh dạy người. Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Cây bá trước sân. Sư nói: Cây bá trước sân, ngày nay nêu mới lại, đánh phá cửa Triệu Châu, đặc biệt tìm ngôn ngữ. Đã là đánh phá cửa, vì sao lại tìm ngôn ngữ? Lúc đầu sẽ gọi là cỏ tranh dài ngắn, đốt hết đất không bằng phẳng xưa nay. Thái Lang Trung thỉnh sư dạy chúng, vừa nghe nêu bèn thừa đương, thịt ngon không dấu vết lại khoét thêm, chạm mặt trên đâu cỏ luân khán, mới biết hai. Hai không thành hai, bỗng giơ gậy nói: Thấy mà không lấy, ngàn năm khó quên, chư Phật ba đời, Tổ sư nhiều đời, các lão Hòa thượng trong thiên hạ bị miệng gậy Vân Môn nuốt hết. Một Đại tạng giáo lấp hết sông rạch. Chính lúc như thế, dù cho Đức Sơn đánh như mưa trút, Lâm Tế hét như sấm vang, còn như trên lông trở đấu gân, trong giày động ngón tay, đâu có chỗ nào dùng. Câu nói như thế thật giết người lành làm giặc, không biết tốt xấu. Hoặc bị một nạp Tăng không tiếc tính mạng ra xô nhào xuống giường thiền, hét giải tán đại chúng, cũng trách họ không được, lại nay còn có không? Nếu không thì Vân Môn cứ kết án đi, dộng gậy một cái. Lại nêu, Bùi Tướng Quốc bưng một pho trượng quỳ thẳng trước Hoàng Bá nói: Xin sư đặt tên. Hoàng Bá nói: Bùi Hưu. Bùi Hưu đáp: dạ. Bá nói: Đặt tên cho ông rồi. Bùi làm lễ nói cảm ơn thầy đã đặt tên. Sư nói Bùi Công, Hoàng Bá có thể gọi như nước vào nước, như vàng thêm vàng. Tuy như thế, nhưng xem xét không rơi rớt. Ngày nay, Thái Lang Trung, hoặc bưng một pho trượng, thỉnh Vân Môn đặt tên thì nói Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ-lô-giá-na. Nếu nói cám ơn Thầy đặt tên thì nói, xuống núi không đi mauthì khó gặp. Chử Đại Phu thỉnh sư dạy chúng: Một câu thấu xương thấu tuỷ, ba yếu ba huyền dứt ngăn hộ. Trúc Càn hai mươi tám trường hợp đều mê. Thần đán sáu lần chưa ngộ, ta nói lời phải chẳng phải chánh tà, đương cơ thấy mặt thôi quay lại, ân cần vì đáp Vân Đài công. Nhạn mạnh không bắt cỏ bên rào. Thượng tọa Tuấn thỉnh sư dạy chúng: Giơ gậy dộng một cái nói: Văn-thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di-lặc. Lại dôïng một cái: Ca- diếp A-nan, Hàn Sơn, Thập Đắc. Lại dôïng một cái nói: Chỉ như thế, hoàn toàn là đúng, hoàn toàn là sai. Lại dôïng một cái nói: Không như thế trong toàn sai là hoàn toàn đúng. Như Lai nói một hợp tướng tức chẳng phải một hợp tướng, ấy gọi là một hợp tướng, phóng qua một cái, Thượng tọa Văn Tuấn đánh cho ba mươi gậy. Hãy nói là thưởng hay phạt? Ném gậy xuống nói: Nạp Tăng có mắt thử định xem. Sư dạy chúng, nêu: Ngoại đạo hỏi Phật: Bất luận là có nói, bất luận là không nói, Thế Tôn im lặng hồi lâu, ngoại đạo khen rằng: Thế Tôn đại Từ đại Bi, xoá tan đám mây mù cho con khiến con được nhập. Sau khi ngoại đạo đi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có sở chứng gì mà nói được nhập? Đức Thế Tôn nói: Như ngựa ngửi thấy bóng roi liền đi. Tuyết Đậu nói: Tà chánh không phân, lỗi do bóng roi. Sư nói: Tà chánh chia hai, chính do bóng roi. Sư dạy chúng: Tức tâm tức Phật chớ vọng cầu, phi tâm phi phật thôi bàn luận. Hoa tuyết bay trong bếp lửa hồng, một chút mát mẻ xua nóng bức. Sư dạy chúng nói: Đi không đến chỗ, nói không khó, nói không đến chỗ đi không khó. Đi nói khó đến, không khó đến lấy lại trước cửa đại án sơn. Cho nên nói: Kiếm báu Linh Phong, thường lệ hiện tiền, cũng có thể giết người, cũng có thể cứu sống người, tiến tới thì mất mạng, thối lui thì bình vỡ nước đổ, không tiến không lùi, trên không có kế lên trời, dưới không có cách vào đất. Chính lúc này, thế nào là một đường chuyển thân của nạp Tăng? Có gửi gắm không? Khéo tay trong tay trình khéo tay, tâm hồng trong tâm hồng. Sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là Triệu Châu? Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc. Chẳng phải hỏi cái này. Ông hỏi cái hào Triệu Châu. Sư nói vị Tăng này hỏi Triệu Châu, Triệu Châu đáp Triệu Châu, được người một ngựa, trả người một trâu. Người bình thường không nói, nước bằng không chảy, hội không? Chỗ thọ ân sâu phải thối trước, được ý bao la thì lại khéo thôi. Hòa thượng Viên Ngộ thương xót niêm hương: chỉ chân nói: Lão Hòa thượng này một đời nhiều lời quấy nhiễu tòng lâm, gần nay nghe đã tịch ở đất Thục rồi. Lại thích thiên hạ thái bình. Vân Môn năm xưa tuy từng gần gũi nhưng không ông ta nói chân chữ Nguyên. Cho nên ngày nay làm một phần cúng dường, rót một chén trà, đốt nén hương này, xông mũi ông ta, chẳng phải báo đáp ân đức. Chỉ muốn làm nhục ông ta thì được, vời đại chúng nói đã không nghe ông ta nói chân chữ Nguyên, lại không có ân đức đáng báo đáp. Vì sao làm trường cười đặc biệt này? Có gởi gắm không? Oan có đầu, nợ có chủ. Tình cờ trợt chân té ngã nhào, đến nay oan vào xương tủy, bèn đốt hương. Gần tối tiểu tham nêu Tăng hỏi Trường Sa: Nam Tuyền thị tịch ở đâu? Nhà Đông làm lừa, nhà Tây làm ngựa. Chẳng hay ý chỉ thế nào? Muốn cưỡi thì cưỡi, muốn xuống thì xuống. Sư nói: Ngày nay có người hỏi lão Vân Môn Viên Ngộ thị tịch ở đâu thì nói với họ: Vào địa ngục A-tỳ. Chưa rõ ý chỉ thế nào thì nói uống nước đồng nuốt sắt nóng. Có người hỏi cứu được không? Cứu không được. Vì sao cứu không được. Gã này nhà thường uống trà. Thiện hữu thỉnh sư dạy chúng, nói: Vọng tâm điên đảo tạo ra các nghiệp, trở về chân thừa tức sám hối, hai đầu chân, vọng đều thấu thoát, biển Nam bờ Bắc là Tân-la. Sư dạy chúng, nêu: Có lần Bách Trượng tham, có một ông lão, thường theo chúng nghe pháp, khi mọi người lui, ông lão cũng lui. Một hôm, mọi người lui mà ông lão không lui. Bách Trượng hỏi: Người đứng trước mặt tôi là ai? Tôi chẳng phải người. Thời Phật Ca-diếp ở quá khứ, tôi từng ở núi này, người học hỏi rằng: Người tu hành chân chánh còn rơi vào nhân quả không? Không rơi vào nhân quả? Năm trăm đời bị đọa làm thân chồn hoang. Nay thỉnh Hòa thượng thay cho một chuyển ngữ, mong thoát được thân chồn hoang, ông lão bèn hỏi: Người tu hành chân chánh còn rơi vào nhân quả không? Bách Trượng nói: Không mê mờ nhân quả, ông lão ngay đó đại ngộ, thoát được Thân chồn hoang. Sư nói: Không rơi và không mê mờ, nửa sáng và nửa tối; không mê mờ và không rơi; hai đầu đều bị kéo, năm trăm đời làm chồn hoang, ông nay đất tốt khinh đuổi ư? Hét một tiếng nói: Trong đó đã có khách Giang nam. Trước mũi nhọn thôi xướng chìm hạc. Sư dạy chúng, nêu: Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang một nhà nọ. Nguyên Vỗ quan tài nói: Sống hay là chết? Ngô nói: Sống cũng không nói, chết cũng không nói. Nguyên nói: Vì sao không nói. Không nói, không nói. Khi về đến giữa đường, Nguyên nói Hòa thượng nói mau cho tôi nghe, nếu không nói sẽ đánh Hòa thượng. Ngô nói: Đánh thì đánh, nói thì không nói. Sư nói: Sống cũng không nói, chết cũng không nói, hai lớp công án như lãnh hội được, bày dao thổi lông chặt đứt cương yếu; cởi áo xấu xa, nướng miếng thịt mỡ, ngồi trước mái hiên hơi thở bao la. Hét một tiếng xuống tòa. Nhân thí chủ cúng dường La-hán, sư dạy chúng: Đan hà đốt tượng phật gỗ, Thúy Vi cúng dường La-hán, một người nâng tay phải, một người nâng tay trái, khách chư đã như vậy nói là nhất quán. Sư tử đi một mình, há lại tìm bạn lữ mặt hơi tròn không mở, đánh trống thỉnh khắp xem, tuy không trực phần văn, nghiêng nước không chịu đổi, bèn gọi chỉ ba cái nói: Tô rô tất rị tát bà ha. Đoan Ngộ dạy chúng: Giơ gậy lên nêu: Đại sư Vân Môn nói: - Các bậc Thánh trước đây vì sao không đến nay, am chủ Liên Hoa phong nói: Người xưa đến đây vì sao không chịu ở. Sư nói: Hai vị Tôn túc lấy rào đông phụ vách Tây, ôm cột cầu rửa chân. Mới qua thuyền thì chẳng thể không, lại không có đạo lý làm người. Vân Môn thì không như vậy. Chưa đến đây dạy y đến, đã đến đây dạy y đầu vỡ bày não. Hãy nói: Còn có chỗ làm người hay không? Hồi lâu sư nói: Một, hai, ba, bốn, năm hư không thiếu phụ nào. Năm, bốn, ba, hai, một đương môn thư đại cát, khéo tay vác rìu đi. Nạp Tăng mũi bùn cơ diệu đâu thể biết. Bỗng nhiên biết lộ tin tức bên đầu trăm cỏ. Vì sao là bày tin tức, án bộ lâm án só lâm, mau mau như bệnh luật dộng một cái. Sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Mục Châu: Một lời nói hết thì thế nào? Lão Tăng ở trong cái túi đựng bát. Lại hỏi Vân Môn một lời nói hết thì thế nào? Bị xé rách. Sư nói: Nếu có người hỏi sơn Tăng một lời nói hết thì thế nào? Thùng sơn này. Sư dạy chúng, nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Đạt-ma chín năm xoay mặt vào vách ý chỉ thế nào? Vân Môn nói: Nhớ bảy. Sư nói: Nhớ bảy, nhớ bảy, hoàn toàn không tin tức, sau lưng xem rõ ràng. Chánh quán khó biết. Đã là chánh quán vì sao khó biết. Có thể biết lễ bái. Sư dạy chúng, nêu: Bàng Cư só hỏi Mã Đại sư: Chưa rõ thân xưa nay, xin sư chỉ bày. Đại sư nhìn thẳng xuống. Cư só nói: Một loại đàn không dây, chỉ có sư đàn được hay. Đại sư nhìn thẳng lên. Cư só lễ bái. Đại sư về phương trượng, Cư só theo sau đến phương trượng nói: Vừa rồi làm khéo thành vụng. Sư nói: Hãy nói là Mã Đại sư làm khéo thành vụng hay Bàng Cư só? Còn có người tìm ra không? Nếu tìm không ra cũng là ngựa bệnh cột vào cây khô, dù tìm ra được cũng là hạt tiêu trong miệng ếch nhái. Sư dạy chúng, nêu: Bàng Cư Só nói: Tâm như cảnh cũng như, chẳng thật cũng chẳng hư, có cũng không quản, không cũng chẳng câu nệ. Chẳng phải Thánh hiền rõ việc phàm phu. Sư nói: Rõ ràng bao la, nước không thể thấm, lửa không thể đốt là cái gì? Dè dặt không được hỏi, hỏi thì mắt ông loà lấy gậy gõ vào đài hương một cái. Sư dạy chúng, nêu: Người xưa nói: Phật pháp cũng có lớn, chỉ là đầu lưỡi ngắn. Sư nói: Nói chẳng đi đường dưới núi, bỗng nghe tiếng khỉ kêu đứt ruột. Thái Xuân Khanh Tiến khảo thỉnh, sư dạy chúng, nêu: Lạc Phổ dạy chúng rằng: Tôn Khách thu được đi, có người bói ra. Bấy giờ, có vị Tăng bước ra nói: Thỉnh Hòa thượng bói. Phổ nói: Cha ông chết. Vị Tăng không đáp được. Pháp Nhãn Thay vỗ tay ba cái. Sư nói: Vị Tăng này không hứng chết đi, cha lại bị người kia vỗ tay. Nên biết họa không đi một mình, phước không đến hai lần. Nhưng Lạc Phụ khéo bói, Pháp nhãn khéo đoán, nếu ông suy nghó kỹ như bói xem lành dữ. Hai vị lão túc một lúc lậu hết đã bói được hoả phong đỉnh quái. Vì sao đoán làm địa hoả bao la. Vân Môn thì không như vậy: bỗng giơ gậy nói: Môn hạ Tôn Tân chết đi bèn dộng ba cái nói: Hội không? Cung cấn bên trong lại cầu tượng bên ngoài. Lại dộng ba cái nói: Ngàn linh muôn Thánh, muôn Thánh ngàn linh chẳng thuận tình người. Dôïng một cái nói: Bói về lành dữ. Cư só Lưu Bảo Học ở Bình Sơn thỉnh sư dạy chúng, nói: Đại căn đại khí đại trượng phu, không qua một niêm rõ việc lớn, chư Phật ba đời đứng dưới gió, người này chịu làm sứ giả Như Lai. Chư Phật ba đời đã đứng dưới gió. Vì sao lại là sứ giả Như Lai? Hồi lâu, sư nói: Thiên tử vòng sắt trong vũ trụ sắc lệnh, phải tin quan sai không tự do. Hồng Cấn Sự khai phật Quang Minh sư cầm bút ghi: Trong giáo nói: Thanh tịnh từ tôn, cõi nhiều như cát bụi, cùng sinh một diệu Thế Tôn ướng Như Lai, mỗi tướng đều như vậy. Bởi vì người thấy không thỏa mãn. Lại nói: Mắt Như Lai có tướng đại nhân, gọi là Tự Tại Phổ Kiến Vân, dùng các báu mầu để trang nghiêm, báu ma-ni sáng chói thanh tịnh trong suốt, đều thấy tất cả, không hề chướng ngại, đã là như thế, vì sao lại cần người khác điểm mắt. Còn có người nào nói được không? Nếu nói được, chẳng riêng lão mặt vàng thở ra, mà còn khiến cho tất cả chúng sinh thấm nhuần lợi ích. Nếu nói không được, nghe lấy một bài tụng: Ngửa mặt bỗng thấy sao sáng hiện, do mắc bệnh này nên thấy hoa đốm trong hư không. Bèn lấy viết chấm nói: Ngày này còn là ánh sáng xưa. Mắt xanh chói lọi chiếu trần sa.  <卷>QUYỂN 9 Bỉnh phất, vị Tăng hỏi: Vạn cỏ tật lê sắt trong lò lửa, Phật Tổ đương thời không dung cho y, mà nay tiện tuy lấy dùng, chẳng hay cơ thoại này thế nào? Sư nói: Không ngăn dụng cụ nhà nhàn. Lại nói: Chỉ can trải tòa này rộng là nhàn hay không nhàn? Sư nói: Đầu lâu vỡ nát không biết đau. Lại nói: Đáng gọi là roi sắt chỉ ra đường người Hồ, bẻ cong vì người sau. Sư nói: Cỏ tật lê sắt ở đâu? Lại nói: Ép ngặt. Sư nói: Cười giết nạp Tăng. Bèn nói: Di môn ngày xưa trình nhà xấu, lấy ra vô biên cỏ gai, ngày nay trên đỉnh Âu phong, may thay không việc lại gặp nhau. Gặp nhau liền gác qua. Trong đó việc thế nào? Nếu có người nói được một câu, lại thỉnh mỗi người tự trở về Tăng đường. Nếu nói không được, gỡ bỏ sắn bìm xem thường mọi người. Chư Phật chưa ra đời thì có, tức lỗ mũi của mỗi người ngày nay. Trên đỉnh môn toả ánh sáng báu rực rỡ. Sau khi xuất thế tin tức hoàn toàn không, dưới gót chân mỗi người dọc ngang chữ thập. Chỗ có Phật không được ở. Chỗ không có Phật mau đi qua, bức bách không đến, ngoài ba ngàn dặm xuyên lỗ mũi. Đến đây dù bày ra vô biên cảnh giới trên đầu sợi lông. Chỉ đầu sợi lông này từ đâu đến được, nạp Tăng ức núi Tu-di trong hạt lúa. Chỉ hạt lúa này lại đặt ở chỗ nào, như thế thì dễ, không như thế thì khó. Chớ tìm nơi lời nói, chớ tìm trong ý, như thế thì khó, không như thế thì dễ, thử lấy ý đầu móc câu, chớ nhận địmh, gậy của Nạp Tăng, lấy được thì đi, dè dặt trên đất bằng đóng cây chèo thuyền. Cho nên nói: Thần Quang không rõ muôn xưa tốt xấu, vào cửa này chẳng cònhiểu biết. Chỉ như một Đại tạng giáo nói quyền, nói thật, nói đốn, nói tiệm, nói có, nói không. Cho đến Tổ sư Tây thiên, đất này, nhiều đời từ xưa đến nay tất cả tri thức, các loại ngôn ngữ, các loại tác dụng. hãy nói là tri giải hay chẳng phải tri giải? Nếu định đoạt được thì Thượng tọa Bỉnh Phất một bề bại trận. Nếu định đoạt không được thì trừ sạch nước dơ thứ hai đi, hét một tiếng là gì? Có chiếu dụng không hướng bối. Chỉ cho lão Hồ biết, không cho lão Hồ hỏi. Mục Châu trước đây gánh cây, Triệu Châu mua mắc bán rẻ, chỉ có Tam Thánh lừa mù, đến nay gặp người cười lạ. Núi Tu-di bỗng ra bên góc trán mọi người. Nước biển lớn rưới vào mũi mọi nười thì gác qua một bên. Mã Đại sư nói: Từ khi Hồ loạn, sau ba mươi mươi năm không hề thiếu muối tương, làm sao bàn luận, có gửi gắm không? Nhiều năm không người hỏi, bỗng nhiên chợt vậy sầu giết người, hét một tiếng, nói: lại nêu Nham Đầu tham yết Đức Sơn mới đến cửa bèn hỏi: Là phàm hay Thánh, Sơn bèn hét, đầu liền lễ bái. Sau đó có Tăng nêu cho Đỗng Sơn nghe, Sơn nói: Nếu không là Tuế Công, cũng rất khó gánh vác. Nham Đầu nghe nói: Lão Đỗng Sơn không biết tốt, xấu, lầm về danh ngôn. Lúc ấy ta một tay đè một tay kéo. Sư nói: Hổ dữ không biết, thân chết trong hang, giao long không sợ kiếm, mất thân dưới kiếm. Nham Đầu tuy ở trong hang hổ có một đường thấu thoát, hướng lên đao kiếm có cơ hội xuất thân, nêu ông xem xét kỹ tương lai, còn thiếu ngộ, nay có người vì Nham Đầu làm chủ hay không? Ra gặp nhau cùng Thượng tọa Cảo. Hồi lâu, hét một tiếng, gõ một cái, nói kịp hợp trí lớn ngừng dứt sự giam cầm. Đông đến Bỉnh Phất bỗng mở cửa, khéo tay vẽ khó thành người ở lan can là ai nâng mắt đã sai quá, chẳng phải là tâm, chẳng phải là Phật, chẳng phải vật, chẳng phải thiền, chẳng phải là đạo, chư Phật ba đời nói không kịp, Tổ sư sáu đời truyền không tới, bèn đi thế, chỉ là chuỳ sắt không mũi. Dù ra được rừng gai, chưa khỏi chết trên đất bằng. Cho nên nói: Ngôn không bày việc, ngữ không đầu cơ, người thừa ngôn mất, người trệ cú thì mê. Nhưng có người ra khỏi tình trần vượt ngoài vật, không thừa ngôn, không trệ cú. Trên đầu trăm cỏ tiến được Tổ sư, trong chợ biết được chính mình, thẳng xuống như rồng được nước, như hổ nhờ núi. Dưới chân giống như sáng đánh ba ngàn, chiều đánh tám trăm. Vì sao? Trong kho vua ta không có dao như thế, như là xuất cách dòng đạo, thì sẽ không làm thế. Tuy vậy, hết pháp không có dân. Đêm nay phóng qua một đường, được gặp với mọi người, dựng phất trần nói: Đạo quân tử còn mãi, vẽ một đường nói: Đạo tiểu nhân mất hết, giọt nước đóng lại, tiết lại không cùng, dây ly nô bạch cô đứt, chôn thân trong nước bị lửa thiêu, gõ vào giường thiền một cái: Lại nêu: bổn nhân dạy chúng rằng: Bình thường không muốn hướng tiếng câu trước, trống sau, đánh trống làm nam nữ nhà người. Vì sao? Thinh chẳng phải thinh, sắc chẳng phải sắc. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là tiếng chẳng phải tiếng? Nhân đáp: Gọi là sắc được không? Vị Tăng nói: Thế nào là sắc chẳng phải sắc? Nhân nói: Gọi là thanh được không? Vị Tăng lễ bái. Nhân nói: Hãy nói: Vì ông nói đáp lời ông, nếu người phân biệt được thì sẽ cho ông có chỗ nhập vào? Sư nói: Bổn nhân sẽ xuyên qua con Vân Cư, đổi tròng mắt của người trong thiên hạ, lại bị Tăng này lấy một cây xỏ lôi đi, không động chiến tranh, xỏ qua lỗ mũi. Về sau lão phu nói: Bổn Nhân đã vào am tranh, vị Tăng này lại rơi vào thôn sâu. Nhưng khúc tuyết mùa xuân, người đương thời khó biết, thôn ca xã múa, khắp nơi cùng người hợp được. Sư nói: Lão phu vũ chính là thế, không khỏi theo lấu gãy. Thượng tọa Bỉnh Phất không tiếc lông mày, nói toạc cho mọi người nghe. Thinh chẳng phải thinh, sắc chẳng phải sắc, sau ngựa trước lừa, thần ra quỷ vào. Khúc Tuyết mùa xuân họa không bằng, thôn ca xã múa lại nhộn nhàng. Gõ phất trần vào gường thiền nói: Cái này quyết định chẳng phải thinh. gì? Lại giơ lên nói: Cái này quyết định chẳng phải sắc, rốt ráo là cái Hét một tiếng nói: Lúc này nếu không thấu suốt cội nguồn thì phải đợi tương lai hỏi ngài Di-lặc. Hàn Đức Toàn Triều Nghị thỉnh Bỉnh Phất. Vị Tăng hỏi: Đạt-ma từ phương Tây đến lấy gì truyền thọ? Sư nói: Không thể thực hành theo để kiến giải của chồn hoang. Lại nói: Thế nào là thô vào tế? Sư nói: Một sợi lông trong biển nước thơm. Lại nói: Thế nào là tế vào thô? Sư nói: Biển nước thơm trong một sợi lông. Lại nói: Vì sao Hòa thượng lại điên đảo? Sư nói: Xưa nay có một chút. Hỏi: Lùa ba chân đi bằng móng là thế nào? Sư nói: Đạp gãy cái thìa của Triệu Châu. Bèn nói: Làm sao làm sao? Kích mở kho Vô Tận, đúng thế đúng thế, vượt hơn bầu hư không, như thế không như thế, ngay đó liền thấu thoát, vẫn là nâng rào đổ vách, lập địa chết người, lại nghó tiến bước tới trước, làm thế nào, thế nào? Chính là ngoại đạo tà quỷ, diệt chủng Tộc Hồ, tức nay không có loại cỏ nhà ta ư? Có thì ra vì chúng thở ra, nếu không, lại xem bùn tro bôi đất. Diệu Thánh tròn sáng lìa các danh tướng. Vốn không có chúng sinh, thế giới. Do vọng mà có sinh, do sinh mà có diệt, sinh diệt gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là chân, hét một tiếng, nói: Ông già Thích-ca lúc ấy nếu được một tiếng hét này thì khỏi được rơi rớt. Vì sao? Đã là tròn sáng lìa tướng, cuối cùng vọng tưởng từ đâu khởi? Chân từ đâu sinh, sinh từ đâu đến, diệt từ đâu đi. Nếu thấy được thấu suốt thì núi sông đất đai, muôn tượng sum-la, bốn Thánh, sáu phàm, tinh và vô tình không mất một cái ân, bèn thấy nước đổ bình bể. Đến đây không có thiền, không có đạo, cũng không có tâm không có tánh, không có huyền không có diệu, lộ bày không thể nắm bắt, lại đi như thế, bèn mua giày cỏ hành cước ba suốt mươi năm, cũng như mộng thấy nạp Tăng nín thở. Hãy nói: Nạp Tăng có ưu điểm gì? Hồi lâu sư nói: Điện chớp sáng mở mắt đỉnh môn, cách khe vượn kêu một tiếng lạnh. Lại nêu Tuyết Phong hỏi vị Tăng: Vừa rời chỗ nào? Tăng đáp: Phúc thuyền. - Biển sinh tử chưa qua vì sao lại lật úp thuyền (Phúc thuyền)? Vị Tăng không đáp được, trở về nói cho Phúc Thuyền nghe. Thuyền nói: Sao không nói với ông ấy là ta không có sinh tử? Tăng lại đến Tuyết Phong, Phong hỏi vị Tăng như trước. Tăng đáp: Không có biển sinh tử. Phong nói: Đây không phải là lời của ông. Tăng nói: Phúc Thuyền nói như thế. Phong nói: Ta có hai mươi gậy gởi cho Phục Thuyền. Hai mươi gậy lão Tăng tự ăn. Nhưng lại không liên can đến việc của xà-lê. Sư nói: Tác gia tông sư, thiên nhiên vẫn còn. Tuy như thế cũng là người làm giặc, tâm rỗng không. Cho nên không liên can đến việc Tăng này, hai mươi gậy đâu cần tự ăn, nhưng lại thêm hai mươi gậy, chỉ đánh Phục Thuyền liền xong. Hãy nói: Ông ấy lỗi chỗ nào? Già già lớn lớn không nên thay lời cho người. Chúc năm mới Bỉnh Phất, vị Tăng hỏi: Năm cũ đã qua, năm mới lại đến. Có người nào không liên hệ đến mới cũ không? Sư nói: Có. Lại nói: Người nào không liên hệ mới cũ? Sư nói: Chư Phật, Bồ-tát, súc sinh, lừa ngựa. Lại nói: Đêm nay Tiểu ra khỏi Đại gặp đi. Sư nói: Ta đã không cớ gì vào cỏ hoang, ông lạinhảy vào trong đống phân. Lại nói: Kia nay không tiện. Sư nói: Quả nhiên theo ta đến. Bèn nói: Đầu sào trăm thước tiến một bước, chỗ nào được tin tức này? Trước núi cao muôn nhận bày một cơ, đọa trong hang người bấy giờ, chớ vọng tưởng buông xuống, bặt chỗ khéo léo lại chịu thừa đương, lỗ mũi tìm đầu ở trong tay ta. Cho nên Nam Tuyền nói: Dắt trâu thả phía Đông khe, không tránh khỏi ăn cỏ nước của quốc vương, bắt trâu thả phía Tây khe cũng không khỏi ăn cỏ nước của quốc vương, chi bằng tuỳ phần nạp một chút, đều không thấy được. Thượng tọa Cảo tùy phần nhận một chút đi. Hồi lâu sư nói: Thích-ca đóng cửa thất ở Ma-kiệt, cày đất trồng cỏ tật lê. Tịnh Danh mở miệng ở Tỳ-da-ly, hàn đồ lại sinh sắt. Tu-bồ- đề xướng vô thuyết để hiển bày đạo, cúng bánh cho Thần Nhàn. Thích Phạm bặt tiếng mà mưa hoa quả nhiên có người lãnh thọ. Dù hướng lên một con đường ngàn Thánh không truyền, dây lụa cứng, cá nhảy sống. Vô sinh nhẫn dưới gậy, cơ đến không thấy sư, là cách giày gãi ngứa, đều không như thế, rời vào trong cõi vô sự, làm sao thông được then chốt này, ứng được thời tiết. Bỗng lấy gậy dôïng xuống đất một cái, nói: Có gửi gắm không? Sai một ly đi ngàn dặm. Tháng giêng còn lạnh, cuối mà lại đầu, ông già Thích-ca buộc cọc ngựa. Một Đại tạng giáo là giấy cũ rách. Như nay ta ấn ngón tay thì biển phát sáng. Ông vừa day tâm thì trần lao khởi trước, nói siêu vượt Phật Tổ. Khi chưa nói với mọi người thì dưới gót chân đã lỡ lầm rồi. Rốt ráo thế nào? Phật Tỳ-bà-thi sớm lưu tâm, thẳng đến như nay không được diệu. Lại dộng gậy một cái. Lại nêu: Tăng hỏi Kính Thanh: Đầu năm mới có Phật pháp hay không? Có. Thế nào là Phật pháp đầu năm mới? Nguyên chánh cải đổi muôn vật đều mới. Cám ơn lời sư đáp. Sơn Tăng ngày nay mất lợi. Lại Tăng hỏi Minh Giáo: Đầu năm mới có Phật pháp hay không? Không. Năm nào cũng là năm tốt, ngày nào cũng là ngày tốt. Vì sao lại không? Ông Trương uống rượu ông Lý say. Già già lớn lớn, đầu rồng đuôi rắn. Sơn Tăng ngày nay mất lợi. Sư nói: Hai vị Tôn túc, một hướng lên đỉnh núi cao cao đứng không bày đỉnh, một người hướng đến biển sâu sâu đi không thấm ướt chân. Chính là thế, chưa khỏi có một số ngoa ngụy. Đêm nay hoặc có người hỏi Thượng tọa Cảo. Đầu năm mới có Phật pháp hay không? Chỉ nói với ông ấy: Ngày nay một đội tôi tớ ở trong nhà uống trà, thôn ca xã múa lộng một số quỷ thần, đáng được chấm bụng. Tôn giả ghét phát cầm lấy cái chén, vừa ném qua hằng hà sa thế giới, kinh sợ kiêu ngạo như sợ cưỡi nhào xuống, cột trụ nhảy vào mũi Hòa thượng đang gánh cây, gõ nhào núi Thiên trụ ở Thư châu. An vui thần núi Nhẫn tuấn không cấm, đi ra túm ngực áo nói: Vượt thần đoạn sinh tử, vì sao có nhiều vô minh. Bị một câu hỏi này, khôn xiết sợ hãi lại trở về điện Phật, vị thứ ba đang ngồi nhập định, vẫn điểm ngực điểm gân nói: Trên trời, dưới thế gian chỉ có ta là tôn quý nhất. Tự nói: Trụ trụ. Thượng tọa Cảo bị ông ta hỏi Phật pháp đầu năm mới? Vì sao một bề lộn nhào trong hư không? Nói thoát không khinh mạn người. Hồi lâu sư nói: Thượng tọa Cảo hôm nay mất lợi. Hùng Bá trang thỉnh Bỉnh Phất, tướng các pháp vắng lặng, không thể dùng lời nói, Thích-ca ở nước Ma-kiệt-đề, trong hai mươi moat ngày mở miệng không lý do. Đại sư Đạt-ma đối với Lương Võ Đế, hết sức nêu lên, chỉ nói là không biết. Nếu cũng một bề ngồi lại đi, hết cả mặt đất không có một người nào phát chân về nguồn. Bậc Tiên Thánh may có đệ nhị nghóa môn, đâu ngại trong đó chung một đường. Cho nên nói: Cảnh giới thanh tịnh chân như, tiêu diệt hết không hề còn, có thể theo duyên nhiễm tịnh, mà thành mười pháp giới. Giơ phất trần lên nói: Phất trần này với chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, chư Phật hiện tại đồng một bi trí, đồng một hạnh nguyện, đồng một sức từ, đồng một nhân quan, đồng một tai nghe, đồng một mũi ngửi, đồng một lưỡi nếm, đồng một thân chạm, đồng một ý nghó, tuỳ nghi nói pháp. Vì các đại Bồ-tát nói sáu Ba-la-mật, giúp cho họ chứng Vô sinh pháp nhẫn. Vì hàng Thanh văn nói mười hai duyên sinh, chân lý Tứ đế, làm cho họ đắc tám giải thoát, sáu thần thông chứng an vui vắng lặng. Vì các chúng trời nói tất cả các hành đều vô thường, tất cả nhạc cụ đều hư hoại, giúp cho họ ra khỏi ba cõi. Vì loài người nói pháp không rõ nhân quả khiến họ tu mười điều lành, thanh tịnh hẳn ba nghiệp. Vì chúng A-tu-la nói pháp vô ngã, làm cho họ lìa bỏ kiêu mạn buông lung, an trụ Nhẫn địa. Vì chúng sinh đâu khổ ở địa ngục mà nói tội tánh không ở trong, ở ngoài, ở giữa, làm cho họ trong một niệm vượt lên Thập địa. Vì các ngạ quỷ bàng sinh nói pháp dứt hẳn vô minh căn bản, làm cho họ xả lìa đói khát, nóng lạnh, sinh lên cõi trời cõi người. Phất tử tùy nghi nói pháp như thế, một Đại tạng giáo không thêm một chữ, cũng không bớt một chữ. Mọi người có tin kịp không? Nếu tin không kịp thì nghe Phất Tử nói lại kệ, rồi gõ vào giường thiền nói, là Thánh là phàm đều giải thoát, vòi vọi ba cõi xưng độc tôn. Lại nêu: Vị Tăng hỏi Mục Châu: Đầu kinh chữ Dó bất thành, chữ bát không phải, chẳng hay là chữ gì? Châu búng ngón một cái nói: Hội không? Không hội. Châu nói: Trên đây là giảng khen vô hạn thắng nhân, ếch nhái nhảy lên cõi trời, giun sán vọt qua biển Đông. Sư nói: Vị Tăng này chỉ hỏi một chữ đầu kinh. Mục Châu đều khéo biết các nghề, sai biệt tự luân, lấy bài Long kham Thủ giám đường vận ngọc, chú giải tư đầu, bỏ đi những hoài bão của vị Tăng này, vị Tăng này cũng không ngại đặc biệt, thẳng xuống liền chịu thừa đương. Hãy nói: Cái gì lá chỗ ông ấy thừa đương, nghe lấy chú cước này: Chữ Dó không thành chữ Bát, không phải búng ngón tay, chưa từng khắp trời giáp đất gõ mở cửa bốn mươi hai Bát-nhã ba-la-mật. Khéo biết các nghề tham thấu trong hội Hoa Nghiêm, trong giáo ngoài giáo một thời thu, thế gian xuất thế gian đều đầy đủ. Vô biên tội lỗi như nước dập tắt lửa. Vô lượng thắng nghóa như hằng sa (cát sông hằng nhóm họp), lại có câu cuối cùng, kiên lao khố tạng Vónh Thu Tạng đều thuộc hùng bá trang trước núi. Bỉnh Phất muốn biết nghóa Phật tánh, nên quán thời tiết nhân duyên, nếu thời tiết đến thì lý ấy tự rõ. Hãy nói: Nay là thời gian gì? Có phải là người ngồi thì ngồi, người đứng thì đứng phải không? Có phải mùa xuân như trút, mây xuân như nhạn hay không? Có phải là khói hương, đen sáng đỏ rực không? Có phải Tăng tục đều tham đồng hội một chỗ không? Nếu thế, chỉ thấy một bên, phải biết, chư Phật nhiều nhue cát bụi ra đời giáng sinh cung vua ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp, hàng phục chúng ma, độ chúng sinh nhập vào Niết-bàn, đều không ra khỏi thời gian này. Nếu mọi người tin được thì vô biên cảnh giới, tự tha không cách mảy may. Mười đời xưa nay đầu đuôi không lìa đương niệm. Nếu tin không được thì nói thiền lão bà đi. Phật không xa người, ngay tâm mà chứng, khỉ giỡn cao, pháp không có chỗ chấp trước, chạm cảnh đều như, cây khô buộc ngựa bệnh, chng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, rõ ràng đưa lên đầu thuyền, như thế cũng không được, chẳng như thế cũng không được, như thế như thế cũng không được, nhỏ ra nước dãi chồn hoang, lại có dạ dày bình thường, trong đó có người này, trước khi chưa đại tiện, bỗng nhảy ra được. Chỗ cao cao xem không đủ, chỗn thấp thấp bằng có dư. Có thể cao vượt ba cõi, chạm bước bao la. Có thể cắt dòng sinh tử, y cứ vào địa vị Phật Tổ, bèn như thế đi. Ngủ lại am tranh, chỉ ở ngoài cửa. Vì sao? Không thấy người xưa nói hay sao? - Người khéo nói lời, lời không thể nói. Người khéo theo dấu vết, dấu vết không thể theo, chỗ dấu vết không thể theo không có dấu vết, những điều nói không thể nói không có lời. Đã không lời lại không dấu vết. Cái quạt trong tay Vân Môn nhảy lên tầng trời ba mươi ba, chạm mũi Đế thích, đánh một gậy cá chép ở biển Đông, mưa như thác đổ, rốt ráo là tông chỉ gì? Hét một tiếng, nói: Núi đoạn nghi hãy thôi, núi cao lại đứng dậy. Lại nêu bài tụng của Long Nhã rằng: Tất cả danh sơn đến vì chân, khổ cực nhiều năm với đôi giày, nhưng nay đã già không thể đi, trong tay cầm thìa gỗ. Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan nói: Lão nhân Long Nhã có thể gọi là chỗ thành thục khó quên. Sư nói: Hòa thượng Thủ Đoan nói thế giống như lấy mình biết người. Thượng Tòa Cảo thì không như vậy. Nhà nghèo khó thực hành ăn chay, bận việc không thể viết chữ thảo. Kiết hạ, Bỉnh Phất nói: Trước tiến về một con đường, Cù-đàm mặt vàng không biết một câu, rõ ràng đầu trăm cỏ, gã Hồ mắt xanh không thi thố, chỗ chợ bảo là, vắng lặng, chỗ tónh yên lặng chợ mênh mông, thẳng xuống như kiếm báu của vua, ai dám đương đầu nghó phạm. Đầu mũi nhọn vắt ngang tử thi muôn dặm, lại nói gì? Giống như đất chạm núi, không biết sự vòi vòi cô đơn của núi. Như đá ngậm ngọc không biết sự không dấu vết của ngọc. Lại nói gì? Voi đầu đàn qua sông, cắt dòng nước mà qua, lại nói gì, toànsáng toàn tối, hai thả hai lấy, phải biết người đến như thế một tấc tơ không mang theo, mgười đi như thế đất gò hứa thành núi, lấy lầm làm lấm. Lấy Đại viên giác làm già lam của ta, thân tâm an cư trí bình đẳng tánh, trong chín mươi ngày hòa bùn gỡ ngói. Đến đâu nếu có một đường chuyển thân thì không giữ việc nhà mình, há là vâng theo nghi phạm của tiên Thánh. Cho nên nói: Toàn mũi nhọn địch Thánh ít gặp tri âm, không có một người trong muôn người đồng chết đồng sống. Hãy nói: Đồng chết đồng sống là mặt mũi gì? Bỗng giơ gậy nói: Hòa thượng Triệu Châu đến, Phật vàng không độ được lò, Phật gỗ không độ được lửa, Phật bùn không độ được nước, dôïng xuống một cái, nói: Trăm thứ lẫn lộn, không và chỗ hư, nạp Tăng mắt sáng, mù điếc câm ngọng. Kim cang tạng thân mé nước, ngựa đi ở trời Phi Phi tưởng, một tức tất cả, tất cả tức một, cả mặt đất là môn giải thoát, người này biết có, hãy nói: Hành giả trong hang đạp cái cối. Vì sao quên lại dời chân? Hồi lâu sư hét một tiếng. Lại nêu: Tam Thánh nói: Ta gặp người thì ra, ra thì không làm người. Hưng Hóa nói: Ta gặp người thì không ra, ra thì lại làm người. Hòa thượng Chân Tịnh nói: Hai cái chùy xưa này, trộm được của Lâm Tế một chút kế sống, mỗi người đều tự phân cương bày giới, khí xông khắp vũ trụ, khiến người mắt sáng chỉ được khéo cười. Sư nói: Lão nhân Chân Tịnh rất giống như lừa dối chết đi. Thượng tọa Cảo không như vậy, bỗng mở đường ba yếu ba huyền, quét sạch núi Tu-di thứ nhất. Hãy nói: Là phần thượng Tam Thánh ư? Hay là Hưng Hóa? Người có mắt phân biệt lấy Bỉnh Phất, có vị Tăng hỏi: Gương xưa chưa mài thì thế nào? Sư nói: Lửa không đợi mặt trời mà nóng. Khi mài rồi thì sao? Gió không đợi trăng mà mát. Mài và chưa mài thì thế nào? Giao nhau. Hỏi: Người không làm bạn với muôn pháp là người thế nào? Đợi ông uống hết nước bốn biển thì ta sẽ nói cho ông nghe. Ý thế nào? Sư nói: Đinh đinh kéo dính. Bèn nói: Yếu diệu của chư Tổ, chẳng tranh biện mà cầu, hăng hái rộn ràng để xóa bỏ dị kiến. Cho nên Đức Sơn vào cửa liền đánh, đá lửa đến trời xanh. Lâm Tế vào cửa liền hét, rung chuyển cả vũ trụ. Chẳng phải pháp trước mắt, cũng chẳng phải cỏ hướng thượng, như thế như thế, bèn nhảy ra được, đang ở trong hang dây dưa, làm sao bình nghị, làm sao nói hội. Không thể nói đại cơ, đại dụng, đại giải thoát, lộ bày chẳng thể lấy rồi là thôi, còn được không? Chẳng thấy Hòa thượng Phong Huyệt nói hay sao? Nếu trước lời nói tiến cử được thì còn dính mắc vào khoảng mê, dù tinh thông về cú, không khỏi chạm việc thấy sai. Nếu là nạp Tăng có bản sắc thì ngay lúc ấy lãnh hội qua, thì có thể ngồi trên đầu sắc thinh. Văn-thù tự Văn-thù, giải thoát tự giải thoát, chén bùn ta thế nào? Hồi lâu sư nói: Bầy chim phải là kẻ anh linh, địch Thánh còn có sư tử. Chọn người làm Phật nếu không có con mắt như thế thì dù ngàn năm cũng đâu làm được. Lấy phất trần gõ vào giường thiền. Lại nêu: Bạch Trượng lại đến Tham Mã Tổ, đứng hầu một bên. Mã Tổ dựng phật trần. Trượng nói: Ngay dụng này lìa dụng này. Tổ để phất trần lại chỗ cũ, hồi lâu nói: Ông sau này lật hai miếng da, lấy gì làm người? Trượng lấy phất trần dựng đứng. Tổ nói: Ngay dụng này mà lìa dụng này. Trượng cũng để phất trần lại chỗ cũ. Tổ bèn hét. Sau đó Hoàng Bá đến chỗ Bách Trượng. Một hôm, muốn đến lễ bái từ biệt Mã Tổ. Trượng nói: Mã Tổ đã chết rồi. Bá nói: Chẳng hay Mã Tổ có ngôn cú gì? Trượng bèn nêu nhân duyên tái tham. Lúc ấy ta bị Mã Tổ hét một tiếng, điếc tai cả ba ngày. Hoàng Bá nghe nêu như vậy bất giác thè lưỡi. Trượng nói: Ông sau này có nối pháp Mã Tổ hay không? Bá nói: Không, ngày nay nhờ sư nêu được thấy dụng đại cơ của Mã Tổ, lại không biết Mã Tổ. Nếu nối pháp Mã Tổ, sau này sẽ chôn con cháu ta. Sư nói: Bách Trượng bị hét, đáng được ba ngày điếc tai. Hoàng Bá nghe nêu bất giác thè lưỡi, Bách Trượng nghi ông ấy nối pháp Mã Tổ. Sau đó, do Lâm Tế ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần đánh sáu mươi gậy, bèn cho ba ngày điếc tai, thở ra Lâm Tế mới biết. Như cây chổi quét, xin hỏi đại chúng sư thừa có y cứ, vì sao chỗ dụng không đồng? Hội không? Như sóng Tào Khê, vô hạn người thường bị chìm. Thí chủ xem tạng kinh, thỉnh Bỉnh Phất, nói chân pháp thân của Phật còn như hư không, ứng vật hiện hình như trăng nước. Giơ gậy lên nói: Ông già Thích-ca đến ở trên đầu gậy của Thượng tọa Cảo, hiện thân diệu sắc, nói với đại chúng rằng: Trong tạng Tỳ-lô có quyển kinh lớn, bằng tam thiên đại thiên thế giới, sách viết về tam thiên đại thiên thế giới, ắt đều không còn. Ta dùng mắt trời thanh tịnh thấy quyển kinh lớn kia ở trong một hạt bụi. Đêm nay đối trước chúng trời người bày phương tiện lớn, phá một hạt bụi kia lấy ra quyển kinh này, lợi ích hữu tình, dộng gậy một cái, vời đại chúng nói: Một hạt bụi đã phá, quyển kinh lớn đã ra, có đốn có tiệm, có quyền có thật, có nữa có đầy, có ở giữa có hai bên, có lý có sự, có nhân có quả, trăm ngàn pháp môn, vô lượng nghóa mầu. Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian ở trong đây, mọi người tin được không? Nếu tin được thì ra ba cõi vượt biển khổ, tận đời vị lai đều được thọ dụng. Nếu không tin được ông già Thích-ca lại vào trong cây gậy, bèn giơ lên nói: Nếu gọi là ông già Thích-ca lại là cây gậy. Nếu gọi là cây gậy lại là ông già Thích-ca, ông già Thích-ca xuyên qua cây gậy hay cây gậy xuyên qua ông già Thích-ca. Chính lúc như thế là đốn hay tiệm? Là quyền hay là thật? Là nửa hay đầy? Là giữa hay hai bên? Là lý hay sự? Là nhân hay quả? Ông lão Thích-ca ư? Là gậy ư? Hét một tiếng nói: Đốn cũng không thật có, tiệm cũng không thật có, quyền cũng không thật có, thật cũng không thật có, nửa cũng không thật có, đầy cũng không thật có, giữa cũng không thật có, hai bên cũng không thạt có, lý cũng không thật có, sự cũng không thật có, nhân cũng không thật có, quả cũng không thật có, ông già Thích-ca cũng không thật có, cây gậy cũng không thật có, một hạt bụi cũng không thật có, quyển kinh lớn cũng thật có. Hiện nay người nói pháp cũng không thật có, người nghe pháp cũng không thật có, ngay cả cái không thật có này cũng không thật có. Bèn lấy phất trần vẽ một đường nói: Vẽ hết lằng nhằng. Lại giơ gậy lên nói: Chính lúc như thế, thế nào là lỗ mũi của mỗi đương nhân. Hồi lâu sư nói: Ngàn Thánh không biết chỗ nào đi, nhờ kiếm dài của trời ép ngặt người lạnh. Lại dộng xuống một cái. Lại nêu: xưa có một bà lão cúng dường tài vật, thỉnh Hòa thượng Triệu Châu chuyển Đại tạng kinh. Triệu Châu nhiễu quanh giường thiền một vòng nói: Chuyển Đại tạng kinh đã xong, người ở trở về kể cho bà lão nghe. Bà lão nói: Xưa nay thỉnh chuyển một Đại tạng, sao Hòa thượng chỉ chuyển nửa tạng? Sư nói: Trong chúng bàn luận nói thế nào là nửa tạng. Hoặc nói lại nhiễu một vòng, hoặc búng ngón tay một cái: hoặc ho một tiếng, hoặc héc một tiếng, hoặc tát một cái, kiến giải như thế, chỉ là không biết thẹn. Nếu là nửa tạng kia chớ nói Triệu Châu nhiễu một vòng, dù trăm ngàn muôn ức vòng đối với bà lão chỉ được nửa vòng, dù cho nhiều trăm ngàn muôn ức vòng quanh núi Tu-di, đối với bà lão chỉ được nửa tạng. Dù cho núi sông đất đai muôn tượng sum la, như cỏ cây, mỗi thứ đủ tướng lưỡi rộng dài. Khác miệng cùng tiếng, từ ngày nay chuyển đến hết đời vị lai đối với bà lão chỉ được nửa tạng. Mọi người có biết bà lão không? Hồi lâu sư nói: Uyên ương đủ màu ra theo anh xem, không lấy kim châm đưa cho người. Vì Hòa thượng Cao Am Ngộ theo bức tranh, lấy bức tranh dạy chúng: đỉnh núi Liên Hoa chân thật nói, ba tháp trở về tiết lộ cơ, hai chỗ đầu đường đều mở bày. Cõi nước chẳng thể không hết sáng. Ánh sáng chính là người biết có. Hãy nói: Lão Nhân Cao Am mặt mũi xưa nay ở đâu? Có gửi gắm không? Phật sống chưa đủ, thế giới chưa hình thành, chính là mắt mày rõ ràng, mười phần hiển bày, có người ở đây biết được, lại bắt tay lão này cùng đi. Không thêm danh mạo trên cái trướng tranh. Nếu chưa được như vậy thì Vân Môn không khỏi theo lệ điên đảo, bèn mở rộng nói: - Có thấy không? Cái này nếu có hai cái, cái này nếu chẳng phải lỗi lầm trước mặt, không lỗi lầm, không hai cái, Tổ đường không có vị trị sắp đặt, kẻ ngu ngồi trước hiên an nhàn. Về cơ duyên trong thất, sư hỏi vị Tăng: Nham Đầu mới đến cửa Đức Sơn liền hỏi: Là phàm hay Thánh, Đức Sơn liền hét. Nham Đầu lễ bái, ý chỉ thế nào? Vị Tăng nói: Giống như tin tức. Sư nói: Ở kia chính là ưu điểm. Tăng bèn hét. Sư nói: Một tiếng hét này của ông chưa có chủ, đi ra. Sư hỏi vị Tăng: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, ông làm sao hội? Tăng nói: Lãnh hội. Sư nói: Lãnh hội bảy đời tiên linh trong nhà ông. Tăng bèn thét. Sư nói: Vừa đến lãnh hội mà nay hét, liên can đến việc gì là chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật. Vị Tăng không đáp. Sư bèn đánh đuổi ra. Sư hỏi vị Tăng: Giữa đường gặp người đạt đạo, không dùng lời, im lặng đáp là thế nào? Vị Tăng trân trọng, bèn đi. Sư cười ha ha. Kế có một vị Tăng vào, sư nói: Ta vừa đến hỏi vị Tăng này, giữa đường gặp người đạt đạo, không dùng lời, im lặng đáp thì thế nào, vị Tăng ấy trân trọng bước đi. Ông hỏi ông ấy có hội không? Vị Tăng định hỏi, sư bèn đánh đuổi ra. Sư hỏi vị Tăng: Người không làm bạn với muôn pháp là người nào? Kẻ không mặt mày. Vừa rồi có vị sư, Tăng nói như thế bị đánh rồi đuổi ra. Vị Tăng suy nghó, sư liền đánh. Sư hỏi vị Tăng: Quốc sư ba lần gọi thị giả, ý chỉ thế nào? Cá lội nước đục. Chớ vọt ra. Vị Tăng không đáp được, sư liền đánh. Sư hỏi vị Tăng: Mã Đại Sư nói: Từ khi Hồ loạn, sau ba mươi năm không hề thiếu muối tương, ý thế nào? Tùy nhà giàu tiết kiệm. Sư nói: Nếu theo nhà giàu tiết kiệm, chỉ là ông không hội. Vị Tăng suy nghó, sư liền hét đuổi ra. Vị Tăng hỏi: Chẳng biết mỗ giáp sau khi chết đi về đâu? Ông ngày nay là sống hay chết. Vị Tăng nói: Sống cũng không nói, chết cũng không nói. Sư nói: Kẻ này vào nguồn. Vị Tăng suy nghó, sư liền đánh, đuổi ra. Lại hỏi một vị Tăng: Tăng này vừa đến nhận một việc bại trận, ông có biết không? Biết. Sư cũng đánh đuổi ra. Sư hỏi vị Tăng: Hương Nghiêm nói trên cây ông làm sao hội? Như đối gió xuân chim hạc kêu. Sư nói: Thượng tọa Hổ Đầu bước ra khỏi chúng nói: Trên cây thì bất luận, chưa lên cây xin Hòa thượng nói là tại sao? Tăng nói: Vừa đến nói với Hòa thượng rồi. Sư nói: Như đối gió xuân chim hạc kêu là nói trên cây hay nói dưới cây? Tăng không đáp được. Sư liền đánh. Sư hỏi vị Tăng: Như thế cũng không được, không như thế cũng không được, như thế không như thế đều không được là thế nào? Tăng nói: Đều được. Sư nói: Bẻ đi cây đào ngọt, núi xanh hái lê chua. Sư hỏi vị Tăng: Ông nói thiền, còn thọ giáo không? Muôn dặm một mảnh sắt. Đâu thể có Di-lặc trong viện Quán Âm. Vị Tăng suy nghó. Sư đánh đuổi ra. Tăng thỉnh Giáp Sơn nói cảnh, nói chưa xong, sư bèn hét. Vị Tăng mờ mịt không hiểu gì. Sư nói: Ông hỏi gì? Vị Tăng định nêu. Sư liền đánh hét đuổi ra. Sư hỏi vị Tăng: Đạo không cần tu, chỉ chớ ô nhiễm, thế nào là không nhiễm ô? Đệ tử không dám nói. Vì sao ông không dám nói. Vì sợ ô nhiễm. Sư lớn tiếng quát nói hành giả đem chổi quét phân đến. Vị Tăng mờ mịt. Sư bèn đánh đuổi ra. Sư mới thấy vị Tăng đi vào nói: Không phải thì đi ra. Vị Tăng bèn đi ra. Sư nói: Không lường được đại nhân bị ngữ mạch chuyển. Lại có một vị Tăng đi vào, sư cũng nói: Không phải thì đi ra. Vị Tăng bước đến gần. Sư nói: Nói với ông chẳng phải lại đến trước tìm cái gì. Sư bèn đánh, đuổi ra. Lại có một vị Tăng bước vào nói: Hai vị Tăng vừa đến không hội ý Hòa thượng, sư cúi đầu hừ một tiếng. Vị Tăng không thi thố. Sư bèn đánh, nói: Lại là ông hội ý lão Tăng. Sư hỏi vị Tăng: Trí Nhất thiết trí thanh tịnh, không hai không khác, vì không khác không đoạn, ông làm sao hội. - Trí Nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không khác, vì không khác, không đoạn, đệ tử chỉ hội như thế Sư lớn tiếng nói: Ôm con mèo đến. Vị Tăng không đáp được. Sư bèn hét đuổi ra. Sư hỏi vị Tăng: Ngày trước ta có câu hỏi ông, ngày trước ông đáp cho ta rồi. Nay vì sao lại ngủ? Đúng thế đúng thế. Sư nói: Nói gì. Chẳng phải chẳng phải. Sư đánh hai gậy nói: Một gậy đánh ông như thế, một gậy đánh ông không như thế. Sư mới thấy vị Tăng vào liền nói: Chư Phật, Bồ-tát, súc sinh, ngựa lừa, cây bá trước sân, ba cân gai, que chùi phân, ông là kẻ không giống giặc. Vị Tăng nói: Biết Hòa thượng có cỏ yếu này lâu rồi. - Ta không có lý do gì vào cỏ hoang, phân hôi của ông cũng không biết, vị Tăng rũ tay áo đi ra. Sư nói: Khổ thay Phật-đa-da. Sư mới thấy vị Tăng bước vào bèn nói: Ông không biết thì đi ra, vị Tăng bèn đi ra. Kế có một Tăng bước vào sư cũng nói: Ông không hội thì đi ra. Vị Tăng cũng ra. Lại có một vị sư vào, sư nói: Hai Thượng tọa vừa đến, một người biết thâu không biết buông, một người biết buông không biết thâu, ông có biện được không? Giống như đã lãnh hội qua. Sau khi lãnh hội qua chẳng có tin tức tốt gì. Vị Tăng vỗ tay đi ra. Sư nói: Sau ba mươi năm sẽ ngộ. Sư hỏi vị Tăng: Ông tên gì? Như pháp. Tăng đường, điện Phật có như không? Như. Lão Tăng bị ông khám phá. Vị Tăng suy nghó, sư bèn đánh. Hỏi Tăng: còn nhớ thoại đầu không? Không nhớ. Ông đến đây vì việc gì? Bèn đánh. Sư hỏi vị Tăng: Ngũ tổ nói: Triệu Châu nói con chó không có Phật tính, cũng hơn con mèo mười muôn ức là sao? Gió thổi cỏ rạp. Ông cũng không nói loạn làm sao hội? Vị Tăng không nói. Học dòng ngôn ngữ bèn đánh đuổi ra. Sư mới thấy vị Tăng bước vào, nói: Ông già Thích-ca đến, vị Tăng đến gần. Sư nói: Thì ra không phải, liền đánh. Lại có vị Tăng vào, sư cũng nói ông già Thích-ca đến. Vị Tăng thăm hỏi, bèn ra. Sư nói dường như người chân thật. Hỏi thị giả Bao nhiêu người vào thất? Mấy người nói được, mấy người nói không được? Mỗ giáp chỉ biết khán. Sư xoè tay nói: Tay ta đâu giống tay Phật? Trời lạnh, lại thỉnh Hòa thượng trùm tay áo, bèn đi. Sư theo sau, đánh một gậy trúc nói: Hãy nói là thưởng hay phạt cho ông?  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 10 Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đã xuống cung vua, chưa ra thai mẹ độ người đã xong. Đao lợi có mật không cần liếm, nước nhà có trùng độc chớ nếm, không liếm không nếm đều không phạm, ngay ngắn áo gấm tự về quê. Thế Tôn mới sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: - Trên trời, dưới thế gian chỉ có ta là tôn quý nhất. Tụng rằng: Lão già mới sinh lại bận rộn, đi khắp bảy bước giống điên cuồng, dối người vô hạn nam nữ si, mở mắt đường vào vạc nước sôi. Thế Tôn niêm hoa. Tụng rằng: Giơ lên một cành hoa, phong lưu ra làm việc nhà, nếu nói phó tâm pháp, việc thiên như gai. Ngoại đạo hỏi Phật. Tụng rằng: Hai cái chuồng cửa đóng không thông, mây trần không động tự trái tông, bỗng nhiên gương nghiệp vỡ trăm mảnh, Cù-đàm mặt vàng mất. Đạt-ma xoay vào vách. Tụng rằng: Ngao vàng vừa động biển xanh thôi, chúng từ thuyền nhỏ rộng bao la, ngày nay không thể câu khói sóng, không cần trăng mới lại làm câu. Nhị Tổ an tâm. Tụng rằng. Tìm tâm không có làm sao an, nhai nát thông một khối sắt hồng, dù khiến mắt mở bày ý khí, đâu như không bị lão hồ khinh. Cô gái xuất định tụng: Xuất được xuất không được, là định chẳng phải định, không sáng với Văn-thù mất đi cùng tánh mạng. Mã Tổ ba mươi năm không thiếu tương muối. Tụng rằng: Thấy được rõ ràng biết được thân, nêu lên còn tự qua đường trình. Dù không có người phạm phải may. Cũng là đưa bánh ngọt chỉ người. Bách Trượng lại tham Mã Tổ. Tụng rằng: Ngựa câu hét mất hết gia phong, bốn biển từ đây tin tức thông, trong ánh lửa đỏ sờ được trăng, vòi vọi ngồi riêng núi Đại hùng. Quốc sư ba lần gọi thị giả. Tụng rằng: Người câm được mộng nói với ai, thức dậy tương đối mặt đầy gai, đã chịu khâm phục ở trước người. Theo giáo ông tự tìm tiện nghi. Hữu cú vô cú của Quy Sơn. Tụng rằng: Nếu dùng lời này định cương tông, cô phụ Minh Châu mắt chạm rồng, trong cười bỗng phân đường bùn nước, mới biết ngàn dặm với gió. Hổ của Minh Chiêu sinh bảy con. Tụng rằng: Con thứ bảy nhỏ nhỏ không đuôi, ăn trâu thở đã khoe khoang, tùng lâm tức giận đâu mồm mép, có mấy hành nhân đến nhà này. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật của Nam Tuyền. Tụng rằng: Lộn ruột lộn gan nói với anh, không biết vì sao còn trầm ngâm, mà nay lại hung hăng cầm giữ, phó cho người vô sự thế gian. Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo của Nam Tuyền. Tụng rằng: Sau khi mưa tan mây tụ, vòi vọi mấy mươi núi, tựa cột mãi ngóng trông, quay đầu cùng với ai. Các ông là kẻ uống rượu cặn của Hoàng Bá. Tụng: trên thân mặc áo mới khỏi lạnh, bên miệng nói ăn mới khỏi đói, thiền lão bà trong nước đại đường, ngày nay vì anh phá hết rồi. Phàm thấy Tăng vào cửa liền hét của Lâm Tế. Tụng: vào cửa liền hét, toàn không lỗ mũi, dẫn được con cháu, làm hơi cháo cơm. Ma Cốc hỏi Lâm Tế mười hai diện Quán Âm tụng: Lại vua chỉ tay lại có người vào vẽ được thành. Lâm Tế hỏi Tăng từ đâu đến, Tăng bèn hét, Lâm Tế láo ngồi. Tăng suy nghó. Tế liền đánh. Lại một Tăng vào, Tế dựng phất trần. Tăng lễ bái. Tế liền đánh. Lại thấy Tăng đến cũng dựng phất trần, Tăng không nhìn, Tế cũng đánh. Tụng: viết lúc ngày 5 tháng 5, miệng đỏ lưỡi độc đều tiêu trừ, lại dù vội vàng như bệnh luật không cần vẽ nhện trên cửa. Lâm Tế vô vị chân nhân, tụng rằng: Sau tháng chạp thấy Tăng thôn tai, mở mắt ra to rồi làm mộng, tuy nhiên đuổi được chú chuột, một gậy đánh bể bình dầu. Triệu Châu hỏi Lâm Tế, tụng rằng: Một người mắt giống trống chùy, một người đầu như thìa gỗ, hai lão này không biết thẹn, đến nay không có chỗ đổ an. Tâm bình thường là đạo của Nam Tuyền. Tụng rằng: xem anh không phải nhọc tinh thần, gọi là bình thường chuyển không thân. Lạnh nhạt toàn nhiên không mùi vị, một lần nêu lên một lần thôi. Triệu Châu khiến được mười hai thời, tụng rằng: Khiến được mười hai giờ thìn, gọi đến rồi dạy hãy đi, nương quan cậy thế khinh người, mênh mông không gốc đáng y cứ. Triệu Châu hỏi Thù Du, tụng rằng: Sâu cạn lại lấy gậy tìm, bỗng nhiên đất bằng nổi sóng, nghiêng sông, nghiêng núi sợ trời đất, đến biển mới biết hết trời đất. Một hôm, Triệu Châu từ trên điện qua bèn gọi thị giả một tiếng, thị giả đáp “dạ”. Châu nói: Như một điện công đức, thị giả không đáp, tụng rằng: Như một điện công đức, đều là phật quá khứ, trăm phước tướng nghiêm thân, chẳng khác gì chiên-đàn, ngày ngày khói hương đêm đêm đèn, xem đến làm nhiều củ cải khô. Triệu Châu hỏi Đầu Tử: Người chết sống lại thì thế nào? Đầu tử đáp: không cho đi đêm, đến sáng phải tới, tụng rằng: Lúa không nhờ mặt trời tốt, đua nhau trồng đào xuân, lại sai sức người cày, nửa làm người bán hoa. Triệu Châu khám phá, tụng rằng: Thiền hòa thiên hạ nói khám phá, đâu biết Triệu Châu đã nói đọa, dẫn được con cháu không trượng phu, người người điểm qua nằm đất lạnh. Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: Có biết người đi hướng nào? Làm con trâu đực trong nhà Đàn-việt trước núi. Cám ơn lời sư đáp. Hôm qua canh ba, trăng đến song cửa, tụng rằng: Lượng thể cắt y, lượng nước lấy chày, sợi tóc không sai, còn ở ngoài cửa. Một hôm, Triệu Châu ở trong phương trượng, nghe Sa-di hét tham. Châu nói với thị giả: dạy y đi, thị giả mới dạy, Sa-di bèn trân trọng. Triệu Châu nói với vị Tăng bên cạnh. Sa-di được vào cửa, thị giả ở ngoài cửa, bài tụng rằng: Gió vi vu cây thông Mưa tầm tả cây cối Sư tử cắn người Chón hàn theo khối đất. Một hôm, Triệu Châu ở Đông Ty thấy Văn Viễn đến liền gọi Văn Viễn, Viễn đáp dạ. Châu nói: Đông Ty không thể nói Phật pháp cho ông, tụng rằng: Triệu Châu có Mật ngữ. Văn viễn không phí tàng, diễn ra Đại tạng giáo, công đức thật khó lường. Một hôm, Triệu Châu đi với Văn Viễn, bỗng chỉ đất trước mặt nói: Ở đây như làm tuần phủ. Viễn bèn đến trước xòe hai tay nói: Lấy tướng công nghiệm đến, Châu cho một thoi. Viễn nói: Công nghiệm rõ ràng quá. Tụng rằng: Một chánh một tà, một té một dậy. Văn Viễn Triệu Châu, trong giày động ngón. Một hôm, Triệu Châu ở trên điện Phật, thấy Văn Viễn lễ phật lấy gậy đánh một cái. Viễn nói: Lễ Phật là việc tốt. Châu nói: Việc tốt đâu bằng không có. Bài tụng rằng: Văn Viễn tu hành chẳng laic không, thời thời chiêm lễ tử kim dung. Gậy của Triệu Châu tuy là ngắn, sau tháng chạp ánh sáng lại một lớp. Triệu Châu nói con chó không có Phật tánh, tụng rằng: Có người hỏi con chó có Phật tánh hay không? Triệu Châu đáp là không, ngay lời nói diệt tộc Hồ, vẫn là không trượng phu. Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được lò, Phật gỗ không độ được lửa, Phật bùn không độ được nước. Phật thật ngồi ở trong, bài tụng rằng: Chín mươi bảy loại diệu tướng Nhìn bút đỏ thật khó giống Mắt Triệu Châu tinh anh Nhìn thấy ruột gan năm tạng. Thanh Châu áo vải, bài tụng rằng: Áo bảy cân Thanh Châu, hết sức đưa không nổi, đả phá của Triệu Châu, đều là nhà của mình. Củ cải Trấn châu, tụng rằng: Tham kiến Nam Tuyền Vương lão sư, Trấn Châu củ cải lại không riêng, lấy đến lấp đi miệng phải quý©, khúc tuyết dương xuân từ chẳng rõ. Triệu Châu chỗ có Phật không được ở, tụng rằng: Chỗ có phật không được ở, sắt sống, cân chuỳ bị mọt trùng, chỗ không phật mau đi qua, đánh vào núi cao phá bếp rơi, ngoài ba ngàn dăm chớ nêu lầm, hai người đá kề tai nhau nói, như thế thì không đi, lời này đã đi khắp thiên hạ, hái hoa dương hái hoa dương, án ma ni đát ly hồng bát tra. Triệu Châu hỏi vị Tăng: Từ đâu đến. Từ Tuyết Phong đến. Tuyết Phong có ngôn cú gì dạy người? Tuyết Phong bình thường nói: Cả mặt đất là một mắt của sa- môn, các ông đại tiểu tiện ở đâu? Châu nói: Nếu Thượng tọa trở về, gởi cái cày đi. Tụng rằng: Giữa đường ba tra mấy mươi châu, truyền lời đưa ngữ làm phong lưu, chẳng biết dưới chân bùn sinh gai, đạp phải đầu ngón chân của người. Bảo Thọ hỏi Hồ Đình Giao, tụng rằng: Dù cho đinh được ngăn vết may, xem xét tương lai chẳng khéo tay, đáng tiếc hai lão thiền ông, nói việc xấu trong nhà với người thế tục. Sơ Sơn xây thọ tháp, tụng rằng: Đục phá đất thường trụ mười phương, ba đồng kiến hết bày hài cốt, La Sơn Phật cổ tuy linh nghiệm, chua khỏi đem thân chôn một chỗ. La Sơn ở Hà Sơn đưa củ trưởng lão đồng hành ra cửa, Sơn lấy gậy ném trước mặt. Củ không nói: Sơn bảo: Trâu đá ngăn đường xưa, một ngựa chớ hai câu (ngựa câu). Sau có vị Tăng nêu cho Sơ Sơn. Sơn nói: Trâu đá ngăn đường xưa, một ngựa sinh giờ dần, tụng rằng: Ra cửa nắm tay nói rồi kéo, đường xưa xa thẳm đi chớ tìm, lại cười người sóng tâm sai kiếm, khư khư không nhớ lúc khắc thuyền. Đức Sơn gá bát, tụng rằng: Vừa gãi bôi độc nghe đều mất, thân ở trong đó chẳng không biết gì, lão ông tám mươi vào trường ốc, thật chẳng phải là đứa trẻ đùa. Vân Môn nói: Thế giới bao la là như thế, vì sao nghe tiếng chuông mặc y bảy điều, tụng rằng: Nghe tiếng chuông mặc Uất-đa-la, gã hồ mắt xanh biết làm sao, một mũi nhọn, một điệu tùy tay rơi, xưa nay vốn là ngỗng trong hàng rào. Đức Sơn thấy Tăng vào cửa liền đánh, tụng rằng: Vào cửa liền đánh, xứng đáng không ít, thực hành theo đó, Hồ Ma Tư kích. Bách Trượng và chồn hoang tụng rằng: Không rơi không lầm, khối đất thạch đầu, gặp nhau giữa đường, núi bạc phấn nát, vỗ tay cười ha ha. Minh Châu có bố đại. Hai Thượng tọa thâm và minh cùng đi, thấy cá nhảy ra lưới, tụng rằng: Mạnh thay! Vừa nhảy thấu lớp sâu, sét đánh tìm đi không về, lại cười Long Môn đốt đuôi. Vẫn là điểm sáng ở sóng. Nam tuyền đập vỡ nồi cháo, tụng rằng: Nam Tuyền đập vỡ dụng cụ nhà nhàn, bao la mọi người làm lời khán. Ngày nay vì ông lại nêu qua. Rõ ràng như vậy không mờ mịt. Cây trúc Thủ sơn, tụng rằng: Lưng chạm chẳng ngăn hộ, rõ ràng thẳng nêu lên, thổi lông tuy bất động, khắp nơi là đau thương. Thụy Nham gọi chủ nhân ông, tụng rằng: Gia phong Thuî Nham, gọi chư nhân ông, hôm qua núi Nam, hổ cắn đại trùng. Hưng Hóa đồng tham gặp nhau tụng rằng: Nắm lấy kiếm báu, ma trời hoảng hồn, nạp Tăng mắt sáng, không còn bói tình. Hưng Hóa đánh Khắc Tân, tụng rằng: Đan Sơn sinh phượng hoàng, sư tử sinh sư tử, gậy xuống dụi nhặm mắt, luống khoe cơ bậc thất. Hưng Hóa rải châu báu trong trướng, tụng rằng: Đối chúng toàn nêu lệnh Ma-kiệt, há là nhàn mở hai mảnh da, hét xuống lừa mù đi thành đàn, trong mộng đẩy nhào năm Tu-di. Hưng Hóa thượng đường nói: Ngày nay không cần làm thế nào, thế nào? Bèn xin một dao thẳng vào, Hưng Hóa chứng cứ cho ông. Lúc ấy, có Trưởng lão Mân Đức bước ra trước chúng lễ bái, đứng dậy bèn hét, Hóa cũng hét, Đức lại hét, Hóa lại hét. Đức lễ bái về lại chúng. Hóa nói: Vừa đến như là người khác, ba mươi gậy, một gậy cũng so không được. Vì sao bị Mân Đức hội một hét không lạm dụng một tiếng hét, tụng rằng: Trong tối dắt tay lên núi cao, đến trời sáng mỗi người tự đi, vô hạn giữa đường khách chưa về, rõ ràng mở mắt rơi hầm sâu. Tam Thánh nói: Tôi gặp người thì ra, ra thì không làm người. Hưng Hóa nói: Tôi gặp người thì không ra, ra thì bèn làm người, tụng rằng: Dương diệm đâu từng làm thôi khát, bánh vẽ có bao giờ được no, khuyên anh không nên trồng gai góc, con cháu đời sau giặt may áo. Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong đến, chỉ Tịnh Bình nói rằng: Tịnh bình là cảnh, ông không được động cảnh, lấy đến cho ta, Phong lấy tịnh bình nghiêng nước đổ trước mặt Nam tuyền. Tuyền bèn thôi, Quy Tông nói: Đặng Ẩn Phong cũng là loạn đổ, tụng rằng: Trong mắt không nhặm thôi gạt ra, kính không bụi không cần lau, tùy chân ra cửa đi đường lớn, quảy ngang cây gậy xướng Sơn Ca. Thạch Đầu nói: Như thế cũng không được, không như thế cũng không được, như thế không như thế đều không được, tụng rằng: Giống như đầu lời ai biết nêu, nêu được mười phần chưa dám hứa nhau. Tam Thánh hỏi Tuyết Phong thấu lớp vảy Kim cang, tụng rằng: Toàn sống trong toàn chết, toàn chết trong toàn sống, như ngờ người bất mãn, như một người Phúc Kiến. Cảnh Giáp sơn, tụng rằng: Cảnh thoại hội đến tuy chưa phải, lại hỏi như nay là thế nào, Thanh Lương vốn đầu mũi thẳng, Giáp Sơn vẫn là hai mi mắt nằm ngang. Mục Châu vác bản, tụng rằng: Mục Châu vác bản, đều cho liếc ngó, rộng hẹp ngắn dài, không cần thêm bớt. Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi còn chuyển được một đại tạng kinh không? Có bánh gì mau đem đến đây, tụng rằng: Một hơi chuyển Đại tạng giáo, đốn tiệm, thiên, viên, quyền thật, vô biên nghóa mầu hiện rõ ràng, vốn là một chữ cũng không biết. Trong hội Lâm Tế hai thủ tọa đều hét, Tăng hỏi còn có khách chủ không. Lâm Tế nói khách chủ rõ ràng, tụng rằng: Dùng bình đẳng đền đáp bất bình đẳng, pháp vương vốn không thân thích, Lâm Tế tuy mắt sáng. Cũng là tinh rồng vàng. Phổ Hóa đến Minh Đầu, Minh Đầu đánh tụng rằng: Tiên sư trình chỗ chân trong hội, trước Lâm Tế đường uống trà. Ngay đây ba lần bày thuyên sách, ôi duyên đài này xin con. Một hôm, trời lạnh, Minh Chiêu thượng đường, đại chúng mới nhóm họp. Chiêu nói: Đầu gió hơi cứng, chẳng phải là chỗ ông an thân lập mạng, hãy trở về bàn việc nhà sưởi, bèn về phương trượng, đại chúng theo đến đứng lại. Chiêu nói: Mới đến nhà sưởi lại thấy ngủ, lấy gậy một lúc đuổi xuống, tụng rằng: Nửa đêm sao sáng giờ ngọ hiện, kẻ ngu còn đợi sáng gà gáy, đáng thương phân minh không biết thối, lại muốn làm mới tượng tự người. Bảo Thọ khai đường, tụng rằng: Giơ lên Tu-di chùy thứ nhất, điện chớp, xẹt lửa thật là chậm, chỗ voi đầu đàn đi bặt dấu vết, sư tử rống lên trăm thú nguy. Trên bàn cổ đức ăn bánh dầu, tụng rằng: Hòa thượng không đến thiền đường, trang chủ tạ lâm khuất, một chữ vào cửa công, xe chín trâu không ra. Huyền Sa nói: Nói về việc này, dụ một mảnh ruộng, bốn đến phần giới làm giấy tờ bán cho mọi người rồi. Chỉ có cây ở giữa, còn thuộc về lão Tăng, tụng rằng: Ruộng vườn cha ông đều bán rồi, bốn bên không hề giữ lại, vì sao có cây vẫn ở giữa, não loạn gió xuân mãi chưa thôi. Thủ Sơn cười lừa ai dắt mũi, từng bước theo nhau không cần roi, về đến trú đường người không biết, từ nay lười biếng ra cửa trước. Ô Cữu thấy hai Thượng tọa Huyền và Thiệu đến bèn hỏi: Nhị thiền bá vừa rời chỗ nào? Tăng nói: Giang Tây. Cữu bèn đánh. Tăng nói: Nghe Hòa thượng có cơ yếu này đã lâu. Cữu nói: Ông đã không hội, vị Tăng thứ hai đến gần, Tăng suy nghó, Cữu cũng đánh, nói: Cùng hầm không khác đất, tham đường đi, tụng rằng: Lửa mạnh không tha muỗi ve, biển lớn đâu chứa thây chết, mặc là ba đầu và sáu tay, nhìn gió không thể không dựng cờ. Vân Môn que chùi phân, tụng rằng: Vân Môn que chùi phân, toàn siêu pháp báo hóa, không việc xuống núi dạo, trăm tiền treo đầu gậy. Vân Môn núi Tu-di, tụng rằng: Vòi vọi một tòa đại di-lô, gánh vác chẳng can đến sức thô, cho dù không theo ngôn ngữ mà hội, lại đến trước mặt chịu bôi hồ. Đại ngu của giải là chùy, tụng rằng: Hỏi Phật là thế nào, tông sư liền đáp ngay, tên của gọi là chùy, ngoái lời độ dòng mê. Có vị Tăng hỏi Hưng Hóa: Khi bốn phương tám hướng đến thì thế nào? - Đánh trung gian, Tăng lại lễ bái. Hóa nói: Hưng hóa ngày nay đến phó trai trở về giữa đường gặp mưa gió bão bùng, lại vào miếu xưa để tránh được qua, tụng rằng: Trong miếu xưa trở về tránh được, giấy, tiền, đất ruộng thầm than ôi! Thần nhàn quỷ hoang đều kinh sợ, chỉ là nhà nông biết sách Phạm. - Tuyết Phong mong gặp Châu Đình, tụng rằng: Mong Châu Ô Trạch với Tăng đường, nghiệp thức mênh mông không thể đương, lấy gậy nạp Tăng đồng đưa lên năm hồ bốn biển rộng bao la. Trước mắt Giáp Sơn không một pháp, ý ở trước mắt chẳng trước mắt, pháp chẳng phải chỗ đến của tai mắt, tụng rằng: Người ngu trước mắt thôi nói mộng, phải tìm hàn lại trên mảnh sắt, rõ ràng như nói với người điếc, mặc cho bên ngoài nhàn đánh nhau. Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu đầu sợi lông tình Phàm Thánh, niệm chưa hết chưa khỏi vào thai lừa bụng ngựa. Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan nói: Giả sử một sợi lông, tình phàm Thánh niệm tịnh hết cũng chưa khỏi vào thai lừa bụng ngựa, tụng rằng: Dời thân không dời bước, dời bước không dời thân, luống đuổi sư tử vàng, bắt được kỳ lân ngọc. Linh Vân thấy hoa đào tụng rằng: Đều nói thấy hoa đào ngộ đạo, lời này chẳng biết có phải không? Vũ trụ bao la người vô số, nam nữ người nào là trượng phu? Huyền Sa nói: Đế đương thật đế đương, dam bảo lão huynh chưa thấu suốt, tụng rằng: Phá cửa quỷ rồi, mẳt trời chính giữa ngọ, một mũi tên trúng tim hồng, mặt đất không tấc đất. Đỗng Sơn nói: Lời không bày sự, ngữ không hợp cơ, người nương lời thì mất, người trệ cú thì mê, gặp người không được nêu lầm. - Nêu Đạo giả hỏi Lang Da, tụng rằng: Lấy được ngọc châu lại trở về, quỷ căn nhỏ đều nghi ngờ, kéo đắm đến trong sóng dội, mọi người buông tay không trở về. Vị Tăng hỏi Phong Nguyệt, nói nín im lặng hợp li vi, làm sao thông không phạm? Huyệt nói: Thường nhớ tháng ba ở Giang nam, chỗ nhạn kêu có trăm hương hoa, tụng rằng: Chột ông ra cửa trước thấy đường, mới rửa chân xong lại lên thuyền, thần tiên bí quyết thật chịu tiếc, cha con tuy thân chẳng thể truyền. Triệu Châu hỏi Đạo Ngô: Ngô thấy đến, mặc áo da hổ, cầm gậy đứng trước tam môn đợi, ngô thấy châu đến bèn lớn tiếng xướng rồi đứng. Châu nói: Tiểu tâm chỉ hầu, ta lại xướng lên một tiếng rồi đi, tụng rằng: Có lễ có nhạc, có xướng có đáp, người thường không nói: - Nước bằng không chảy, khi Lâm Tế thị tịch dạy chúng rằng: Sau đi ta diệt, không được phá diệt chánh pháp nhãn tạng cuả ta. Tam Thánh bước ra nói: Đâu dám diệt đi chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng. Tế nói: Sau này có người hỏi ông, thì nói gì với họ? Tam Thánh liền hét. Lâm Tế nói ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta, ngõ hầu diệt đi bên lừa mù, tụng rằng: Lừa mù vừa nhảy chúng đều sợ, chánh pháp đâu giao phó cho người, ba yếu ba huyền đều mất hết, đường đương vung tay ra khởi thành. Vị Tăng hỏi Càn Phong: Chư Phật ở mười phương, một cửa vào Niết-bàn, tụng rằng: Xé rách cây quạt của Vân Môn, chặt đứt cây gậy của Càn Phong, hai ba ngàn chỗ mặc lầu day, bốn năm trăm hẻm nay hoa liễu. Đại sư Vân Môn nói: Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc rõ tâm. Thế nào là nghe tiếng ngộ đạo? Thấy sắc rõ tâm? Bèn nói: Bồ-tát Quán Thế Âm lấy tiền mua bánh hồ, buông tay nói thì ra chỉ là bánh bao, tụng rằng: Thấy sắc rõ tâm việc đã sai, nghe tiếng ngộ đạo việc cả hai, trí mầu lực Từ bi Quán Âm, rừng gai sinh ra Ưu-bát-la. Đại sư Vân Môn giơ gậy dạy: Phàm phu thật cho là có, Nhị thừa cho là không, Duyên giác cho là huyễn có, Bồ-tát đương thể tức không, bèn nói: Nạp Tăng thấy gậy gọi là gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, đều không được động, tụng rằng: mở ra vòng điện vàng, đánh động lâu chuông ngọc, khóc bày ngàn loài cỏ. Như gió ngâm cây thông. Đại phu Lục Hằng hỏi Nam Tuyền: Pháp sư Tăng Triệu rất kỳ quái, giải thích trời đất đồng căn với ta, muôn vật với ta cùng một thể. Tuyền chỉ hoa trước sân nói với Đại phú: Khi người thấy hoa châu này như mộng, tụng rằng: Trời đất đồng căn vừa mới hỏi, chưa từng nâng bước đã quên nhà, không chỗ âm dương hoa lại phát. Ngọc vốn không vết lại có vết. - Huyền Sa ba loại người bệnh, tụng rằng: Huyền Sa nói ba loại người bệnh, thấu suốt Vân Môn sáu không thâu, chớ đợi thị phi đến vào tai, từ xưa tri kỷ trái là thù. Huyền Sa thấy Tân Đáo mới lễ bái. Sa nói: Do nhân ta được lễ ông, tụng rằng: Phu tử không biết chữ, Đạt-ma không hiểu Thiền, Huyền Sa không lời này, dè dặt chớ vọng truyền. Nam viện thượng đường, nói: Vách đứng ngàn nhận trên cục thịt đỏ, há chẳng phải là Hòa thượng nói? Viện nói: Đúng vậy. Tăng bèn lật ngược giường thiền. Viện nói: Ông xem gã mù này làm loạn, Tăng suy nghó. Viện bèn đánh đuổi ra, tụng rằng: Bên cục thịt đỏ dụng được thân, chủ khách có lý đều khó bày, hai con lạc đà lại gặp nhau, trên trời như nay không người thẳng. Bách Trượng đợi mã Tổ đi núi về bỗng nhiên khóc. Đồng sự hỏi: nhớ ba mẹ ư? Không. Bị người mạ nhục ư? Không. Vì sao lại khóc? Hãy hỏi Hòa thựơng. Đồng sự đến hỏi Mã Tổ. Tổ nói: Ông hãy đi hỏi ông ta. Đồng sự đến trong liêu, thấy Bách Trượng cười ha ha. Đồng sự nói: Vì sao mới đến lại khóc, rồi nay lại cười? Trượng nói: Mới đến khóc mà nay cười. Đồng sự không nói gì, tụng rằng: Có khi cười lại có khi khóc, bi hỷ cùng nhau, tối đẩy ra, lý này làm sao nêu cho người, đứt dây đàn phải biết nối lại. Hòa thượng Dương Kỳ hỏi vị Tăng: Cỏ gai ông làm sao nuốt? Vòng Kim cang ông làm sao nhảy? Tụng rằng: Vòng Kim cang cùng với cỏ gai, Huyền Sa ba loại bệnh, thạch cũng một cái cung, cắt thẳng nói cho anh, Tân-la ở phía Đông cửa biển. Vị Tăng hỏi Dương Kỳ. Thế nào là Phật? Lừa ba chân đi bằng móng. Làm sao đi? Trưởng lão Hồ Nam tụng rằng: Dương Kỳ một con lừa, chỉ có ba cái chân, bao la cưỡi trở về, bỗng giết phướn màu vàng. Tăng hỏi Hòa thượng Thanh Nguyên Hành tư: Thế nào là đại ý Phật pháp? Gạo Lô Lăng giá thế nào? Tụng rằng: Lão thanh Nguyên không vá nồi sành, hỏi Phật pháp lại đáp giá gạo, sai mảy may đi một dặm, không mặt mũi mà được người sợ. Tăng hỏi Nham Đầu: Buồm xưa chưa treo thì sao? Lừa ăn cỏ vườn sau, tụng rằng: Lừa ăn cỏ vườn sau một già một không già, bỗng nhiên chạm mặt đánh được phải thời. Tăng hỏi Nham Đầu: Thuyền xưa chưa treo thì thế nào? Cá nhỏ nuốt cá lớn, tụng rằng: Cá nhỏ nuốt cá lớn, đường thẳng thật quanh co, thuyền xưa chớ hỏi lại, khắp nơi đều gặp ông. Tăng hỏi Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn: Thế nào là việc của Lâm tế? Năm tội nghịch nghe sấm, tụng rằng: Năm tội nghịch nghe sấm, từng tham Nhan Hồi, chỉ một hạt đậu, đốt ra tro lạnh. Tăng hỏi Hòa thượng Viên Ngộ: Thế nào là Phật? Miệng là cửa họa, tụng rằng: Miệng là cửa họa, điện chớp sấm vang, Sa-kiệt ra biển, rung chuyển trời đất, Hòa thượng Phật nhãn đọc bài ca mười hai thời của Linh Nguyên có bài kệ: Một ngày ngày, một thời thời, lão Long Môn tâm tự biết, tụng rằng: Ngày ngày, ngày ngày, thời thời, thời thời, trái mất thời gian, lão già chày cũ. Nam Thiền sư nói: Niệm khen trên lầu chuông, trồng rau dười chân giường là thế nào? Hoàng Bá Thắng Thiền sư nói: Mãnh hổ ngồi giữa đường, tụng rằng: Thẳng ra thẳng vào, trước mặt không biết, lại nghó thế nào: thật là chết vội. Tôn giả tổ thứ hai mươi bốn nhân vua nước Kế tân bỉnh kiếm ở trước, nói: Sư được uẩn không hay chưa? Đáp: Đã được: Đã được uẩn không, lìa sinh tử hay chưa? Đã lìa sinh tử. Dã lìa sinh tử có thể bố thí cho ta cái đầu hay không? Thân chẳng phải ta có, huống chi cái đầu? Vua bèn chém, sữa trắng vọt cao mấy thước, tay vua tự rơi, tụng rằng: Giết người phải là kẻ giết người. Ngay lúc ấy một dao thành hai đoạn, tay đầu tuy thiếu kiếm đao nhọn, đâu giống thời Tần đánh đập dã man. Ba tiêu cây gậy, tụng rằng: Giữa ngã tư đường hiện hành hàng hóa, định muốn bàn luận, thùng sơn lỗi lầm mặt trời mười trí đồng chân, tụng rằng: Sừng thỏ lông rùa trồng trong mắt, trước mắt núi sắt cao vòi vọi, Đông Tây Nam Bắc chẳng cửa vào, vô số kiếp vô minh thiêu đốt. Vân Môn kéo cố tụng giám di, tụng rằng: Vân Môn dám di ít có người biết, quán chùy sắt không lỗ. Bàng cư só hỏi Mã Tổ: người không làm bạn với muôn pháp là người nào? Đợi ông uống hết nước Giang tây rồi ta nói cho ông nghe, tụng rằng: Một hớp uống hết nước Giang tây, giáp ất bính đinh canh Mậu kỷ, đốt đốt đốt la la lý. Kinh Pháp Hoa chép: Phật Đại Thông Trí thắng, mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp không hiện tiền, không được thành Phật đạo, tụng rằng: Ngồi đạo tràng qua mười kiếp, mỗi mỗi từ đầu đều rơi rớt, thế gian bao nhiêu người giữ châu ngọc, lấy gậy định đánh trăng trên trời. Kinh Duy-ma chép: Người bố thí cho ông không được gọi là ruộng phước, người cúng dường cho ông đọa ba đường ác, tụng rằng: Chỉ ngồi cho ai biết, núi xanh đối biển rộng, hoa nở suốt cả đêm, chớ đợi sáng gió thổi. Kinh Viên Giác chép: Bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm, đối với tất cả tâm vọng cũng không diệt, trụ cảnh vọng tưởng không thêm rõ biết, đối với không rõ biết không phân biệt chân thật, tụng rằng: Lá sen tròn tròn, giống chiếc gương, củ ấu nhám nhám giống cái chùy, gió thổi bông liễu lông cầu đi, mưa dội hoa lê bươm bướm bay. Kinh Lăng Nghiêm ghi: Cái thấy lúc thấy chẳng phải thấy, thấy còn lìa thấy không thể bằng, tụng rằng: Xuân đến thì hoa nở, thu đến thì hoa tàn, lão Cù-đàm mặt vàng thôi kéo ba tấc lưỡi, kinh Bồ-tát Văn-thù Sở Thuyết Bát-nhã ghi: Hành giả thanh tịnh không nhập vào Niết-bàn, Tỳ-kheo phá giới không vào địa ngục, tụng rằng: Đèn ở trên vách, trước đường bày đài rượu, buồn đến lấy ba chén, chỗ nào được sầu đến. Kinh Lăng-già nói: Năm pháp ba tự tánh hai vô ngã, tụng rằng. Giáp như trâu sắt bạch lại, gia châu đại tượng tai điếc, hai bệnh như nhau, thương thay thùng sơn không vui sướng. Tôn giả Ương-quất-ma-la ôm bát đến nhà vị trưởng giả nọ, vừa gặp lúc người vợ trưởng giả khó sinh. Trưởng giả liền bạch Tôn giả rằng: Tôn giả là đệ tử Phật làm sao cứu được vợ con khó sinh? Tôn giả nói: Ta mới vào đạo, chưa có thể cứu được, sẽ đi hỏi Phật. Tôn giả liền đến chỗ Phật, thưa rõ việc ấy. Phật nói ông chỉ can đến đó nói: Ta từ pháp Hiền Thánh mà đến, chưa từng sát sinh. Tôn giả y theo lời Phật đến nói với trưởng giả. Người vợ nghe vậy được thoát nạn. Tụng rằng: Trước núi Hoa âm trăm thuớc giếng, trong đó có suối mát thấu đến xương. Con gái nhà ai đến soi bóng, không soi bóng thì soi núi nghiêng. Hòa thượng Phù Bôi Nhân Lăng Hành Bà hỏi: Câu nói tận lực không được gửi gắm cho ai? Bôi nói: Phù Bôi không thừa lời. Chưa đến Phù Bôi không ngại nghi. Không có ưu điểm không ngại nêu ra. Bà khoanh tay khóc nói: Trong trời xanh lại thêm oan khổ. Bôi không đáp được. - Lời không biết thiên chánh, lý không biết đảo tà, vì người tức họa sinh, tụng rằng: Ma-ni trong tay chẳng đoái hoài, ai có thể hộ tiếc cái khố mẹ sinh. Phù Bôi không hiểu thiền lão bà, mãi đến như nay gặp chấm dơ. Sau đó, có vị Tăng nêu cho Nam Tuyền nghe. Tuyền nói: Khổ thay Phù Bôi, bị lão bà này chiết phục. Bà nghe cười nói: Vương lão sư còn thiếu then chốt. Bấy giờ, có một thiền khách tên Trừng Nhất ở U Châu bèn hỏi bà: Vì sao Nam Tuyền thiếu then chốt? Bà khóc nói: Đáng thong, đáng đau lòng. Trừng Nhất không thi thố. Bà bèn hỏi: Hội chưa? Trừng Nhất đứng chắp tay. Bà nói: Người tu Thiền đông như mè như gạo. Sau đó, Trừng Nhất kể lại Triệu Châu nghe. Châu nói: Nếu ta thấy bà hôi này hỏi giáo miệng câm. Trừng Nhất nói: Chẳng hay Hòa thượng hỏi gì ông ta? Châu liền đánh. Trừng Nhất nói: Vì sao lại đánh mỗ giáp? Người tu Thiền này không đánh thì đợi lúc nào? Tụng rằng: Điện chớp xẹt lửa vẫn còn chậm, người tu Thiền đâu được biết. Chuyển mắt quay đầu định tìm xem, mặt trời đã ngả bóng về Tây. Bà nghe lại nói: Triệu Châu đáng ăn gậy trong tay bà. Châu nghe khóc nói: Đáng thương, đáng buồn. Bà nghe liền khen: Triệu Châu mắt sang phá tan biến thiên hạ. Châu nghe sai người đi hỏi: Thế nào là mắt Triệu Châu? Bà giơ nắm tay lên. Châu nghe vậy làm tụng tiễn rằng: Đương cơ thấy mặt nêu, thấy mặt đương cơ bệnh, báo ông Lăng Hành Bà. Tiếng khóc đâu được mất. Bà đáp rằng: Tiếng khóc sư đã hiểu. Đã hiểu còn ai biết, bệnh Ma-kiệt lúc ấy, mất hết cơ trước mắt, tụng rằng: Mắt sáng phá bốn thiên hạ, nắm tay của bà không vá sành, đương cơ thấy mặt việc thế nào? Sống lưng mãnh hổ ai biết nhảy. Nam Tuyền nói: Chư Phật ba đời không biết có, ly nô bạch cô lại biết có, tụng rằng: Chư Phật ba đời không biết có, già già lớn lớn chạy bên ngoài. Da mắt che hết năm Tu-di, lộn nhào một cái trong biển lớn. Ly Nô Bạch Cô lại biết có, bày ra không giữ núi xanh, chịu cười vô cớ vương lão sư, nhận lầm cái ki làm bàn là. Lâm Tế hỏi Tự Chủ: từ đâu đến? - Châu trung bán gạo vàng đến. Tế lấy gậy vẽ một đường nói: Còn bán được không? Chu bèn hét. Tế liền đánh. Kế là điển tọa đến, Tế liền kể lại cho Điển tọa nghe. Tọa nói: Tự chủ không hiểu ý Hòa thượng. Tế nói: Ông lại làm sao? Tọa lễ bái, Tế cũng đánh, tụg rằng khối lửa hồng tạnh hư không, bất luận vàng sắt thiếc đồng. Đi vào đều dạy biến thành nước, đâu dụng thứ muỗi mòng ở trong. Hòa thượng Ngũ Tổ nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là ý Tổ sư từ phương Tây đến? Cây bá trước sân. Thế thì hội là không đúng rồi, thế nào là ý Tổ sư từ phương Tây đến? Cây bá trước sân. Như thế mới mới đúng, tụng rằng: Gập gập ghềnh ghềnh bình bình thản thản, chỗ bình bình thản thản rất gập ghềnh, bỗng chốc lừa què có thể vọt, băng qua đuổi gió ngựa câu trời. Sư ở trong thất thường đưa cần trúc hỏi người học: Gọi là trúc thì đúng, không gọi là trúc thì sai. Chúng hạ ngữ đều không khế, nhân vị Tăng hỏi: Lai thành năm bài tụng đưa cho xem, tụng rằng: Vân Môn giơ trúc bề lên, mở miệng biết anh nói đọa, Hương Tích cõi trên không ăn cơm, cam phục người ăn hỉ nhổ, Vân Môn giơ cành trúc bề lên, thiền họa dè dặt chùy nhọn, phượng hoàng không đậu gai gốc, chim thiên chẳng giữ ao không. Vân Môn giơ trúc bề lên, khắp thân mang nước lấy bùn, phụng đáp tham huyền thượng só, buông tay dốc núi chớ chậm. Vân Môn giơ trúc bề lên, suy nghó biết anh thống loạn, dù cứu được mắt, lúc ấy mất đi lỗ mũi. Vân Môn giơ cành trúc bề lên, bày ra tim gan ngũ tạng, đáng thương thiền họa chết, còn tự hồn bay gan mất. <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 11 Bài kệ Hoàng đế thỉnh thăng đường lúc xây dựng kinh đô. Chợt mở mắt đỉnh môn, chiếu khắp cõi Đại Thiện, đã là vua trong pháp, nói pháp được tự tại. Lại làm kệ: Đại căn đại khí đại lực lượng, gánh vác việc lớn không tầm thường, trên đầu sợi lông không tin tức, khắp cõi rõ ràng không che đậy. * Ngự Tứ Chân Tán sư diễn thành bốn bài kệ. Sanh diệt bất diệt, như trăng đáy nước, không thể sờ mó, diệu ở phân biệt. Thường trụ chẳng trụ, là nghóa chân thật, một bức xanh đỏ, sáng trời soi đất. Viên Giác sáng tỏ, Hồ đến hiện Hán, một điểm linh quang, muôn thay ngàn đổi. Theo chỗ vật hiện, vũ trụ bao la, không động tinh thần, khí nuốt đôi cánh. Bài kệ đón tặng kinh thỉnh tiểu tham ở huyện Tuệ An thuộc Tuyền Châu. Cúi lạy đại Đạo sư mười lực, ba cõi duy nhất không ai bằng, thị hiện thành. Phật xoay pháp luân, diễn rộng vô biên biển khế kinh. Chúng sanh tâm tưởng niệm niệm khác, cho nên xoay bánh xe pháp cũng khác nhau. Công, đức xoay bánh xe pháp không thể lường, nghó tận lực hết không thể lường, có quyển kinh lớn trong hạt bụi, lượng bằng thế giới Tam thiên đại thiên, đời có người thông minh sáng suốt, đầy đủ mặt trời đều thấy biết, chẻ hạt bụi lấy ra quyển kinh làm Phật sự, không có ý tưởng thật và chẳng thật, lại lấy vô biên pháp giới không, bỏ vào lỗ một sợi lông trên thân Phật, Tu-di Thiết vi và biển lớn. Mỗi mỗi bao dung không ép ngặt, mỗi sợi lông ông còn tất nhiên, đạo sư phương tiện cũng như thế, niệm niệm khắp cả các sợi lông, niệm niệm đều chứng Kim Cương tuệ, niệm niệm thành tựu Phật bồ-đề, niệm niệm đầy đủ nguyện Phổ Hiền mà không sanh tâm hý luận, không trụ vào cảnh giới sâu, như mộng như huyễn, như trăng đáy nước, như hoa ưu-đàm xuất hiện thế gian, thường chuyển quyển kinh lớn như thế, hoàn toàn không có năng chuyển sở chuyển. Chư Phật chư Bồ-tát, thinh Văn Độc giác kinh và người, trời, địa ngục, tu-la ngạ quỷ, súc sanh mỗi mỗi đều nương năng lực kinh này, nay ta lại cùng Chư Phật tổ, đều sanh tâm cao siêu khó gặp. Còn xếp kinh này thuộc về một hạt bụi, an trụ pháp bảo tạng Tỳ-lô. Bài kệ Trang Tuyền Bá kiểm sát vì Tiên An Phủ thỉnh thăng đường: gần đây, người học Phật, ít thấy không điên đảo, chỉ làm việc nói chuyện, bỏ việc lớn làm việc nhỏ, mờ mịt việc dứt khoát, bên ngoài đánh vòng quanh. Cuối cùng đâu thế được, đâu từng được phần hiểu, chỉ có Trang Cư Só, chân thật không kiêu mạn, dứt trừ gốc phiền não, lửa thiêu đốt cỏ khô, tâm địa đã an nhiên, cảnh ma đâu thể quấy. Mặc cảnh chợ bao la, ta thường ở vắng lặng, cuối cùng dạy chân đế. Như cởi áo vải rách, như ngồi nhập thiền định, trăng sáng soi khắp nơi, thấu qua cửa sanh tử, đập nát báu vô giá, mới chính đại trượng phu, một hiểu tất cả hiểu. Mới nêu văn thỉnh thăng đường, nêu nhân duyên Thái tử Na-tra. Cốt nhục đều trả cha mẹ rồi, chẳng biết người nào là Na-tra. Chuyển thân trên đầu một sợi lông, mỗi một sợi lông thật không sai. Kệ của Triệu đề cung thỉnh thăng đường: Ý nói trước tiên dược chân trời rồi, cầu sau thừa đương đường chuyển xa. Vừa đánh cửa sắt như vỡ nát, nước trời bao la ứng đi nghiêng. Lý Tham Chính chuyển vật am. Lão nhân giang nguyệt ở trong thất nói chuyển vật. Bởi Thủ-lăng- nghiêm nếu chuyển được vật thì đồng với Như lai. Than ôi! Cù-đàm cuồng vọng, ngu si, vật không tự tánh, ta cũng chẳng thật có, người chuyển là ai, lại nhọc tâm. Biết vô tự tánh lại là vật gì, vừa khỏi tình trần, sờ hư không bẻ xương cốt, am này không người làm chủ, có mắt đỉnh môn thử phân biệt thân sơ. Phu Xu Mật Diệu Cao Đường. Xu Mật Phú Công, xem Đại giáo Hoa Nghiên, ưa thích biển tánh Tỳ-lô, tùy theo chỗ ở gọi là Diệu Cao đường, bởi lấy nghóa pháp giới thắng diệu cao làm Phật sự tự thọ dụng, ngày đến làm minh. Diệu Hỷ làm bài minh rằng: Diệu Cao Đường tùy chỗ đến, bảng chưa treo rơi vào thứ hai, như lửa dữ chôn thân muỗi mòng, nghó thừa đương sanh vọng chấp, sư Đức Vân đâu có làm, ở núi khác cũng bao la, trụ đất Phật đâu chỗ gá. Ta làm minh mặc suy tính. Lầu Tịnh Tâm của Ngụy Thị Lang. Vó đại thay, tâm vắng lặng rộng lớn, thí như hư không chẳng phân biệt, tâm suy tính cầu tịnh tức nhiễm ô. Huống chi so bằng đất Chư Phật. Lại như thấy vật trong mộng, vật thấy tuy có không thể lấy, thông đạt như thế không có nghi, nghóa tịnh tâm rõ ràng hiển hiện, nghóa nầy hiện rồi khó suy lường, vượt các sắc tướng lìa nói năng, đời quá khứ, vị lai hiện tại, Phật, Bồ-tát cùng các Thinh văn, tất cả loài hàm thức hữu tình, bình đẳng với nghóa như thật liễu. Lành thay! Kỳ đặc người quá lượng, chỉ lấy gác này diễn bày nghóa này, diễn bày rồi lại thôi tùy sở duyên, cũng không khác với trong mộng, ta dùng miệng do cha mẹ sanh, nói vô thương diệu già-đà này, tâm vắng lặng trang nghiêm rộng lớn, làm lợi ích cho các người đến. Cái chái Vô Nhiệt của Hướng Thị Lang. Cư só Hương lâm, ở trong vườn, đến ao làm cái chái Vô Nhiệt, ở đập đất phía Bắc sáng rực xem lấy Hoa Nghiêm Vô Nhiệt Đại Long Cung lưu xuất bốn biển, rừng hoa, cây báu bóng tiếp nhau sáng rực. Lạc Cốc Hàn Công tư ngăn làm ký. Cư só đến tìm ta bèn làm kệ. Mạnh mẽ tinh tấn người quá lượng, gọi là Hương Lâm Đại cư só, ở chỗ không biến dịch chân thật, mà thường thuận hành các Phật pháp, không làm nghiệp điên đảo thế gian, thành tựu xuất thế phương tiện cao siêu, có thể đối với phương tiện này, huyễn xuất ra các cảnh giới khó nghó bàn, mà hiện ra các việc cao quý. Cây báu rừng hoa đều phát ra ánh sáng, bóng nối nhau soi cùng khắp, ánh sáng mầu sắc thanh tịnh như kim cương, thế gian không có người nào phá hoại được. Lại như ao Đại Bảo vô nhiệt bốn mặt đều chảy vào biển lớn, biển này rộng lớn không bờ mé. Không ra khỏi lỗ chân lông của cư só, ở mỗi sợi lông phát ra ánh sáng, tám muôn bốn ngàn đồng thời phát, không nhọc Cư só chuyển tướng lưỡi. Chỉ dùng ánh sáng này giảng nói pháp mau, pháp này tức là ánh sáng này, không lìa ánh sáng nói pháp này, biển lớn sợi lông cũng lại là ông. Đây là nghóa hương Lâm vô nhiệt, là nghóa hư không chẳng thể lường, mỗi một tướng bao la thế gian, nay ta để nói lời vô nghóa này, lược vì cư só nêu ra một tay, Phật tử đến, bước lên hiên vô nhiệt, lầu diệu bảo đều mở cửa. AM NHỎ CỦA THÁI TRI HUYỆN Cư só vui vẻ, kết am ở bên Nam Nhạc, lấy tên là Tiểu. Bởi am của Hòa thượng Thạch Đầu tuy nhỏ mà bao hàm nghóa pháp giới, Cư só muốn tôi viết bảng này, nhân đó làm kệ. Am này chẳng nhỏ cũng chẳng lớn. Đáng cười Thạch Đầu rất kỳ lạ. Không biết pháp giới là am này, cười bảo am này bao hàm pháp giới. Mà nay muốn biết người ở am. Trong muôn tượng chỉ lộ bày thân. Diệu hỷ viết cho bảng am này. Muốn gần gũi với thái hư. UÔNG TRẠNG NGUYÊN AN TOA HIÊN Không ở tại ý ba cõi hiện thân, giơ mái cheo sao như rối ruột, gởi lời người an tọa trong hiên. Như xem trăng mới rọi xuống khe. HÀN TƯ GIÁN LẠC CỐC Người nói rất thích ở cốc này, ai tin ưa bị cốc dời đổi, dùng lạc thí đều cho người không lạc mới gọi là kẻ trượng phu chân lạc. LỤC TRẠM ĐƯỜNG Chẳng lặng chẳng dao nguồn pháp này. Đương cơ chẳng chán giả danh còn, phải cần kẻ anh linh quá lượng. Mới vào cửa rộng lớn vô biên. Muôn cảnh giao thoa vốn không hai, sáu cửa ngày đêm không hề mở. Lại nghó Bàng lão việc chẳng khác, ném kiếm vẫy vùng đâu có vết. AM ĐỒNG TRẦN Trần vô tự tánh, khuấy chân mà thành lập. Nghó hòa với ánh sáng cũng đều mất. Ngoài đã chẳng rộng, trong chẳng hẹp. Nghóa này chẳng hư cũng chẳng thật. Trong am, chủ nhân như ngọc trong đá. Như quán ngàn năm một hơi thở. DỤ LANG TRUNG QUÁN NGÃ AM Muôn vật đầy đủ trong ta, ta quán mãi chưa thôi. Người trí trái quán ta, được tự do ngang dọc. CƯ SÓ HOÀNG TRÍ THÔNG KHÉO Ở AM Người khéo ở trong am, xưa nay không chỗ trụ. Chỉ tâm vô trụ này. Mới là chỗ an tâm. CƯ SÓ TẠ TỬ NHAM Tử Nham phân tuệ xây khe danh. Diệu Hỷ đáp áo Thanh Châu. Được người một trâu lại một ngựa. Trước ba ba. Và sau ba ba. ĐÁP LƯU AN PHỦ Thông tin tức trên đầu chùy, đâu giống mất lời dứt thấy biết, sau đêm một vầng trăng trên hư không, ánh sáng ngàn dặm vẫn như xưa. GỞI CƯ SÓ VÔ CẤU Thượng uyển, ao ngọc mới biết lạnh. Dương liễu Nhân gian lại rũ xuân. Sơn đường suốt ngày đốt hương ngồi. Mãi nhờ Tỳ-da người nhiều lời. DẠY UÔNG CƯ SÓ Vô biên cõi trên đầu sợi lông, quyết định thức tình khó thể lường. Thẳng xuống bất sanh chấp tà hiểm. Trong bình trời trăng tự nhiên dài, dạy Châu Tử Sung viết Kinh Hoa Nghiêm. Chung riêng, đồng khác, thành hoại, hành bố, viên dung vô ngoại, trần vào các cõi. Cõi chẳng rộng nhập vào các trần chẳng ngại. Đầu bút Cư só mạch lạc như biển. Nhân nguồn tự tại nay ta nói kệ. Tán dương đồng chưng nhất chân pháp giới. DẠY CƯ SÓ LIỄU NHIÊN Trường lạc Sa Khanh Trịnh Liễu Nhiên không nương bổn phận phải tham thiền, tự nói đã đến chỗ vô tham. Ca-la mặc ông năm gạo gừng. DẠY HÀN LỆNH NHÂN Nói một câu không đến nơi, trước gió cắt đứt ngàn đường sai. Siêu Phật vượt Tổ chỉ như nay, vách đứng muôn thước không quay đầu. DẠY TRƯỞNG LÃO ĐẠI BI Một gậy đánh phá hang sanh tử. Đương thời phàm Thánh dứt vết đi. Lại cười tâm Triệu Châu không thôi, già đến còn chạy theo đông tây. DẠY TRƯỞNG LÃO QUẦN VÂN Ý Lấy gậy của nạp Tăng. Ngay lúc ấy lại không khéo léo, hét lên, mất sắc bỗng mở thẳng, vẫn là trên đỉnh ngàn núi. DẠY ĐỈNH NHU THIỀN NHÂN Khuôn mặt dựng mắt Á-ma-hê, sau khuỷu tay treo nghiêng bùa đoạt mệnh, mắt lại mù, biết lại phù. Vách đông Triệu Châu treo hồ lô. DẠY DI QUANG THIỀN NHÂN Lông rùa lấy được cười ha ha, vừa chạm muôn lớp cửa mở toang, Cuộc sống vui thích ở ngày nay. Ai nói ngàn dặm mong ta đến. DẠY TỔ NGUYÊN THIỀN NHÂN Đầu núi muôn thước biết buông thân. Đứng dậy vẫn còn sợ hoảng hốt, đói ăn khát uống có việc gì, ai nói người xưa chẳng người xưa. DẠY TÔN PHÁC THIỀN NHÂN Một miệng nuốt hết Phật ba đời. Chính là làm con khách nhà ta. Đâu giống thiền phác không chỗ dụng, trên đầu sợi lông lại quên cơ. DẠY THỊ GIẢ PHÁP TUYỀN. Nói siêu Phật tổ ở trước, bóng mặt trời đang giữa trưa. Bỗng mở cửa Ba yếu, vừa chạm đến trống độc. Đã phát thượng đầu cơ, bất luận ngàn quân nỏ, thả đi dứt ngăn cản, tụ hội chẳng trở về. Thương thay lão Cù-đàm, trụ trụ trụ trụ trụ. DẠY DỤNG THIỀN NHÂN. Chưa điểm trước đi không rì rầm, không bác tự chuyển đã xuất xấu. Đâu chịu trống canh hai mảnh da, há chỉ dùi hư không mở cửa. Trong lửa, ngựa gỗ không kêu hí, trâu bùn ở nước thích kêu rống, Dụng Thiền Dụng Thiền nghe ta nói, kéo đến treo núi phải buông tay. ĐƯA THIỀN NHÂN TRỰC. Thẳng ra thẳng vào thẳng đi thẳng ngồi. Trực Thiền thượng Nhân phải như thế. Bởi tự Viên thành không lập công khóa. Đói đến ăn cơm lạnh đến hơ lửa, không ở Cù-đàm, chẳng can Đạt-ma, nghó tâm suy nghó lại gặp ương họa. Ta nói lời này đã vời họa miệng. Trước người mắt sáng đều là lời đoạ. Lời thỉnh việc này không quên ghi xương. ĐƯA TIỄN PHÁP LUÂN TƯ TẠNG CHỦ HÓA CHUNG. Úp là chuông, ngửa là đỉnh. Tự là gia phong pháp luân. Diệu Hỷ đâu dám đuổi, Tư Thiền Nhân vốn thỉnh, kéo sợi chỉ bèn thỉnh một tiếng thẳng thấu đỉnh Tu-di. ĐƯA SIÊU Tăng GIÁM. Thoát hết khi trời đất bao la. Chỗ mạng căn dứt nước trong xanh. Như lấy một hạt tuyết trong lò lửa, tán làm đèn chiếu đêm nhân gian. GỞI TRƯỞNG LÃO PHÚC THẮNG. Chân nhân mười tám giới vốn không, ba mươi mốt người cùng họ Lã, phân ra dạo núi rồi chiếm núi, ba mươi mốt người lại cùng ở một chỗ. GỞI THIỀN SƯ QUY TÔNG HOA DIỆT. Quét sạch kim luân núi thứ nhất. Ngàn yêu muôn quái tự giấu vết tích. Năm tới lại được tin tức đúng, nói đạo Dương Kỳ Chánh mạch thông. ĐƯA TRƯỞNG LÃO LIỄU MINH VỀ TRƯỜNG LÔ. Người nói đầu gậy ra hiếu tử. Ta nói thương trẻ bất giác xấu, Trưởng lão Trường lô đến như thế, Diệu Hỷ không phí một lần mở miệng. Theo giác bốn biển vọng lưu truyền, Dã Can có thể làm sư tử rống, ai nói không vật tặng y đi, hét lên núi Thiết Vi đảo lộn. <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 12 Tướng Thích-ca xuống núi. Trước núi chánh giác lại gãy gốc. Trong hai mươi mốt ngày tâm phiền muộn. Lại đến Lộc Uyển tính tiện nghi, đáng cho kéo lại một khối độn. Văn-thù thăm bệnh. Cư só không hề bệnh, bệnh này do hỏi mà có hai mắt đối hai mắt, thầy thuốc đều chắp tay. Đại só Quán Âm. Quá khứ Chánh Pháp Minh, hiền tiền Quán Tự Tại, mắt quán các âm thinh, tai nghe các diệu sắc, nghóa đều vắng lặng, ai nhận lời nói nầy là nói cũng vắng lặng, ai người nói lời nầy, năng quán và sở quán, năng thinh và sở thinh, quán lại quán chỗ nghe, cũng là không thật có. Lớn thay! Quán Thế Âm, ưa nói Pháp như thế, pháp ấy không nghó bàn, người nghe cũng ít có. Nay ta dùng sợi lông, lường khắp cả pháp giới, nói lời huyễn như thế, khen là tướng chân thật. Quán âm nhập định. Thế gian có nhiều tướng âm thinh, đều dùng tai nghe chẳng mắt thấy, chỉ mắt Đại só này có thể quán. Mắt sáng đế quán làm Phật sự ở cảnh giới mắt không sở thủ, tai mũi lưỡi thân ý cũng vậy. Lành thay tâm rỗng mười phương cõi, sáu căn cùng hiển nghóa như thế, nhãn sắc nhó thanh tỉ ngửi hương. Thân chạm, ý suy tính không khác. Nên dùng quán này quán như thế. Cho đây là thật thành vọng tưởng. Nếu là vọng tưởng chấp thật pháp. Dần dần hoặc loạn mất bổn tâm. Bổn tâm đã mất theo điên đảo, không thấy sắc thân mầu Đại só. Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý, nghóa hiển bày cũng vắng lặng, cũng không đại só diệu sắc thân, cũng không các thứ tướng âm thinh. Phật tử hãy quán sát như thế, lìa hẳn khổ sanh tử thế gian. Cư só Duy-ma. Ngồi lặng thành Tỳ-da, trăm bệnh cùng lúc phát, không được Văn-thù đến, cơ hồ không được chết. Tôn Giả Tổ thứ chín Phật-đà-mật-đa. Ngồi im năm mươi xuân, không vui cũng không sân, đông tây đi bảy bước, hăng hái tinh thần xưa. Sơ Tổ Đạt-ma đại sư. Lúc đến không có chiếc răng cửa, lúc đi chỉ có một chiếc giày. Bên đầu núi gặp Tống Vân, mười phần sẽ bày xấu nên thôi. Phó Đại só. Trên trời không Di-lặc, dưới thế không Di-lặc, gõ ván và chùy cửa, rốt ráo là vật gì? Thiền sư Lục Tổ Đại Giám: Kẻ trong thôn gánh củi bán lửa, lưỡi vốn nước gạo không biết làm sao, tự nói khi đến vốn không miệng, lại trên đất bằng nổi sóng lớn. Trưởng Giả Lý. Lấy một trí đầu sợi lông, lường khắp pháp giới không, trí không vô tự tánh, không trí ở trong đó. Cư Só Bàng Uẩn. Gái trai không vợ chồng, tùy duyên mua giỏ tre. Mầu vị bình thường này, đâu cho người ngoài biết. Hòa thượng Triệu Châu. Cây bá trước sân không có rễ hư không có xương, hoàn toàn đần độn, giống chim trời xa. Nóng đến thừa mát lạnh đốt gốc cây, được gọi là Triệu Châu Cổ Phật. Hòa thượng Thuyền Tử. Miệng vừa uốn dây đàn đứt, Đạo Dược Sơn mới lưu truyền, lìa câu ba tấc không tin tức, biển giác mới nương thuyền Bát-nhã. Hòa thượng Lâm Tế. Trên cây chùy nặn ra nước, trong cây khô lấy ra tuỷ, hoàn toàn không một chút chứa đựng, một bề làm miệng mồm. Lại nói gì ba yếu ba huyền bốn loại chọn lựa giống như trời xanh đầu đường thấy thần thấy quỷ. Hòa thượng Vân Môn. Mở miệng Tuyết Phong, thở ra Mục Châu, phất tay áo nghiễm nhiên đăm đăm như hổ nhìn. Ta nói lời này có nói nghóa không đá lửa ánh điên than ôi chậm chạp. Ca lợi lững thững biết là ai, có người nối được câu cuối cùng cho chính ông thấy kẻ nông phu. Bố Đại Hòa thượng. Ba ngàn oai đều không tu, tám muôn tế hanh không đoái hoài. Chỉ do ồn náo nhiều cá nhân. Bị người gọi là phá cửa rơi. Nội viện Đâu-suất lâu lìa bỏ. Dẫu về mà lại quên đường. Cúi lạy Di-lặc Thế tôn. Được bụng to phì như thế. Vai vác một cây gậy, đầu gậy treo giày gỗ, hết sức quảy một túi vải lớn, không biết trong đó có gì, ngang nhiên đi vào chợ, nhơ nhớp không hổ thẹn, nếu gặp ông ở hội Long Hoa, nhất định đánh cho gãy răng cửa. Thánh Giả Kim Hoa. Thánh Giả Kim Hoa ai biết, gõ vào đầu heo liền ăn. Tuy nhiên không ghét không thương. Đâu có tổn hại, đâu có lợi ích. Khiến được khai phá Tăng đồ, nghịch hạnh thuận hạnh trời xanh khó lường. Nếu không một cái cuối cùng đến nay có miệng khó phân. Nam An Nham Chủ. Trao tặng lời nói, đều nói bí mật ngữ, ai biết lão già này chẳng diệu cũng chẳng huyền, dứt khoát không che lấp. Đương cơ sen trong lửa, người nào rõ ý này, ngồi thẳng tự đưa tay. Nói Pháp Hoa. Thi Đà-la-ni Tam-muội nói nín đều không quái ngại, quảy áo mặc đẹp đi đường. Vừa bị người đời cười lạ, hỏi y đang ở chỗ nào. Nói với ta nhà nông chẳng biết tiến đến trước suy nghó kỹ càng. Than ôi! Đồ thùng sơn không vui. Thiền sư Tuyết Đậu minh Giác. Thái Hồ ba muôn sáu ngàn khoảnh mênh mông, tức là miệng sư. Động Đình bảy trăm mươi hai ngọn cao vời vợi tức là lưỡi của sư không động, miệng không lay lưỡi. Đã nói đang nói sẽ nói, không thiếu không thừa quay cuồng khởi đảo lộn. Sống ắt chết, bệnh lại nặng tức là sư gánh vác đại pháp. Chư thề lời này. Cho đến cá côn, đại bằng bay trong hang, sợi tơ của ngó sen cần phải Núi Tu-di-lô ở trên lông mày sâu bọ, mà lượng không rộng lên bức hiểm, ta sanh sau sư nên không biết sư. Nay thấy di tượng sư mà người làm lời này. Bởi muốn một loại chúng sanh long xiển-đề nói phàm phu và chúng sanh bại thiện căn phi khí, khiến cho họ biết có sự mầu nhiệm về sự đơn truyền trực chỉ mà thôi. Hòa thượng Dương Kỳ. Hành trong dị loại kéo cày kéo bừa vòng vàng gai góc là lời gì. Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan. Ít chỗ càng giảm, nhiều chỗ lại thêm, Đạt-ma không hội. Trở lại Tây Thiên đói ăn khát uống, khoẻ ngồi mệt ngủ, tay đỏ giết người, máu đầy Phạm Thiên. Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn. Xương đỏ sức đất có áo không quần, dám cùng thần biển. Đâu trước đầu phó nói giải thoát không, gánh vác Phật Tổ, bảy, tám viên toàn không thành ba mươi lăm, Thôn Ca xã múa, thật là đáng thương. Dẫn được con cháu làm đất bùn. Hòa thượng Tây Dư Đoan. Được lễ sáng giờ dần, đi ở tùy gió quét, xưng hô Chương Tướng công khinh mạn lão Viên Chiếu không gá hai tay Hòa thượng đánh lại, một câu yêu Tăng quay đầu mắng nhiếc. Chỉ khán được cơ này, không cần hỏi thiền đạo. Chính là sư tử lông vàng, chồn hoang Dã Can luống kêu mạng. Hòa thượng Tuệ Nhật Nhã. Hõm hõm khô khô, lỗi lỗi lạc lạc. Tôi kêu quát mắng muôn người khí tố. An tọa giường Hồ nghiêng núi nghiêng sông. Cầm kiếm sống chết, biết buộc sanh tử. Không đoạ trần duyên đâu ở vắng lặng, bỗng khai tế bắc ba yếu ba huyền. Nêu lên một câu cuối cùng. Bóng mặt trời tuệ chim vào trong khe. Trâu bùn đụng gãy sừng kỳ lân đẹp. Tôn Giả Tịch Âm. Đầu như muỗng, mặt như cây, miệng không lưỡi nói không thôi, như thế chẳng đồng mà khác. Loại hoa đốm kéo lược tối. Cây chết, rắn sống như mọt, bôi độc vào cửa nào, là ai diệt cam lộ. Hòa thượng Thảo Đường Thanh. Rét quá Cô Phong đời ít có, mắt xanh sáng quắc điện quang tỏ, kẻ nghèo dạy cho báu trong áo. Người giàu dạy y về lễ nghóa. Tay độc quen từng nấu Phật Tổ, Hồng lô thường dùng chùy lớn to, ma tử tiểu căn còn biết không. Đây là nhà ta lông mi bạc. Hòa thượng Viên ngộ. Nói lời đủ đạo đức. Khen Tổ Sư chân chánh. Ở đây không có hai lạng vàng. Người tục uống rượu ba thăng, nói siêu Phật vượt Tổ. Khen thiền về Sư. Vót tròn gậy trúc vuông. Giày lại tím bọc lông mèo. Dạ không thể nói, chính là giở cột trụ lừa. Đâu chịu lại nói bảy lần ngồi đạo tràng, ba lần vâng chiếu chỉ, giống như Trịnh Châu ra cửa lại thích không giao thiệp. Xuống ngoài này cuối cùng thế nào, Giang Nam Lưỡng Chiết, xuân lạnh thu nóng, gởi lời đến các vị chang phải lắm lời. Gió chớp làm lưỡi hư không là miệng. Ứng cơ chúng sanh làm sư tử rống, mắt sáng quắc phá bốn châu thiên hạ. Bỗng khởi pháp thân che Bắc Đẩu. Đây là Đích Tôn Dương Kỳ, hét lên núi Tu-di đảo lộn. Lão này đất không bày cứng mà không nghèo, bảo không có giá mà không giàu. Nhìn chúng thiện mà không vui, gặp điều ác mà không sợ. Lúc buổi sáng toàn đề như mùa thu một chút không lộ. Có khi dấu thân trong lửa chết. Lại quay về trong ánh điện, lấp đi cửa Ba Huyền Lâm Tế. Cắt đứt câu cuối cùng của Nham Đầu. Hòa thượng Phổ Dung Bình. Dạy không làm tướng chạm vào trống độc. Hành vô duyên từ giết Tổ giết Phật, như thế thấy được Phổ Dung, Diệu Hỷ còn chưa dám hứa. Thẳng xuống cùng giống như rồng, một dùi đánh phá thái hư không đến nay vẫn thiếu không người bổ. Hòa thượng Trường Linh Trác. Dày lớp như núi nghiêm lạnh như sắt. Phá ấn Tỳ-lô, ngồi lưỡi nạp Tăng. Phái xuất nguồn linh nguồn xanh chảy suốt. Chỉ mặt trời linh lạnh gọi là đoái thỏ nóng. Gọi đây là mạt vụn trong mắt Trường linh, gọi đây chẳng phải Trường linh, biết ăn còn chưa biết nhìn. Đúng hay sai đều là thừa nói, chân hay vọng mò trăng đáy nước. Mà nay phải thấy lão nhân này. Dựng đứng lông my cần phân biệt. Đại Tượng ở Gia Châu ăn một chùy, trâu sắt giáp phủ chảy ra máu. Hòa thượng Phật Tánh Thái: quen nói năm nhà tông phái thiền, chẳng lấy huyền diệu truyền cho người. Cuối đời một chỗ chân kỳ đặc, ăn xong duỗi thẳng hai chân ngủ. Hòa thượng Phật Đăng Tuân. Dáng trời xuấy cách đẹp đẽ, lòng người lại sợ hãi. Tuỷ trong đỉnh Lâm Tế. Mắt trong mắt Dương Kỳ, đầu gậy rõ chết sống, hét lên lộ thân sơ. Cô đơn không bè bạn. Sư tử không cùng bầy, Thích tử Chung Sơn Phật Giám, hai pháp huynh kính sơn Tăng. Hòa thượng trúc am khuê khen ngợi Trúc Am cũng là Diệu Hỷ, mắng chửi Trúc Am cũng là Diệu Hỷ, mắng hay khen đều có lý do. Người khen là hắn, có chính nhãn của nạp Tăng. Người mắng là hắn, ngấm vào trong bầu rượu. Hoặc nói: như trúc am là Tông sư không thể khen, không thể mắng, vàng tinh ngọc đẹp tự có định giá. Bọn khen mắng Tăng lời trau chuốt. Diệu hỷ nghe chỉ cười không đáp, chỉ gõ vào chần răng ba cái. Theo giáo lại khen rùa đánh ngói. Hòa thượng Thiên Đồng: nấu Phật nấu Tổ trong lò lớn, luyện phàm luyện Thánh ghét dùi chùy. Khởi Tào Đổng ở mé đã đoạ. Khi châm cứu bệnh ắt phải chết, thì khéo nói pháp yếu không liên quan, lìa vi diệu, không đứng nơi tòa mà biến rừng gai thành Cung Thiên Long Phạm Thích nhưng vô tác vô vi, gan thần định ở đỉnh Linh Tuyết mắc Bàng Cư só, công tốt huyễn xuất không cho Tăng biết xa. Hư đường bày ra Lương Bảo Công còn mê. Đây là lão Thiên Đồng dùi xưa Diệu Hỷ tri âm lại có ai. Hòa thượng Phổ Minh Lâm. Chỗ cúc chạm vô ngại, được tự đại hoàn toàn, sống lưng Đạt-ma che não Thích-ca chính gọi là Lão Nhân Phổ Minh, xin đối diện với các trần. Lý Tham Chánh thỉnh tán. Gã này vô lượng tội lỗi, không nên trích dẫn thi thố. Bị y cười chôn giấu dao. Giết đi Ngũ tổ Đạt-ma không biết có oán thù, một bề nổi tai gieo họa. Thượng Tòa Cảo “dạ”, hãy tỉnh tỉnh, chẳng dạy lời đoạ. Ngô Đề Hình Thỉnh Tán. Hòa thượng ở thôn này ít người được hầu gần. Sơn đen trúc bề thô. Phật đến cũng một gậy, không một chút tình người. Có nạn ngàn không giống. Chữ từ bi Bồ-tát Quán Âm không biết. Sân nhuế thì vua A-tu-la cũng khó lường. Trên đời người đáng ghét đáng chán là gã này. Sư thế nào cũng có người cung cấp thức ăn. Trịnh Học Só thỉnh tán. Tham được Thiền Viên Ngộ, gánh tấm ván Mục Châu thấu qua cửa Tổ Sư, loà đi mắt đỉnh môn. Trong bụng lại tối tăm, tronglòng thì bình thản, tính khí bị người ghét, lúc nhát thì không màng, uống bình trà cũng huyền, đập nát chén sứ Châu Bạch. Thái Lang Trung thỉnh tán. Bẩm tính bạo nêu dứt ngạo. Nói thiền gì, bàn đạo gì. Có người không ý trí ngớ ngẩn, tùy xếp vào vọng tưởng điên đảo. Thái Lang Trung còn thấy không. Nếu ở trước mặt kiêng kî bèn là giám chủ tự trộm tặc. Thái Tuyên Giáo thỉnh tán. Trong tay chỉ đông vẽ tây, trong miệng nói lầm nói loạn. Sống quen đánh sắn bìm. Thiên chân không thuộc tạo tác. Có Thái Chánh Khanh thường đến. Nước chảy thấm lửa thì đốt, mặt ngựa tròn trặn tùy người ưa thích. Thái Truyên Giáo thỉnh tán. Than ôi không biết nửa ngu nửa si. Đậu đen đổi mắt người, mười phần thích tính tiện nghi. Một mai chết vào địa ngục, định rọi vào vạc dầu sôi. Phật cứu ông cũng không được, mặc ông kêu rừng phượng. Trữ Đại Phu thỉnh tán. Hình Vân Môn Diệu Hỷ, do cư só Vân Đài vẽ, lợi độn không giúp nhau, bày treo trước hư đường, Diệu Hỷ độn trong lợi, độn bị mù mịt. Vân đài lợi trong độn, lợi được vui tươi: như nay lợi độn đều treo vách. Sư tử trở mình bặt dấu vết, dấu vết không bèn là bùn hồ, một lúc phân phó Trữ Đại Phu, án ma ni đạt lý tất lợi lô tô. Triệu Thông Phán thỉnh tán. Gọi ông là người lành ư? Thật là đáng ghét. Gọi ông là người xấu ư? Như hiền mà thích thiện. Đối với hai đường thiện ác không để hận. Như là gã này nói cao không bờ mé. Thành Phật thành Tổ thì chầm chậm, một tắc công án này gửi gắm cho Triệu Thông Phán. Hứa Tư Lý thỉnh tán. Chỗ trạm không lay chính là sức lực. Muốn biết ta thật, ra vào ấm giới, một đầu sợi lông sư tử lại ném, vách núi muôn thước trong cục thịt đỏ. Kín đáo vắng lặng biết không biết. Trâu sắt sanh được mèo ngọc. Liêu Tri Huyện thỉnh tán. Ta khen hình ta ai có thể gửi gắm, lửa gió cháy động, đất nước thấm khắp đều thuộc hiện lượng, tâm suy lường thì mất. Rõ ràng là vọng chẳng phải chân, trả lại là tổn đất cây ngói đá. Ta nói là nói như tên bắn đích. Lìa đây chớ cầu huyễn hoặc vô thức. Châu Chủ bạ thỉnh tán. Lão Bàng từng đến Mã Tổ đường. Tây giang hớp hết không có hai. Mà nay cư só Diệu Hỷ Châu nhìn mặt rõ ràng không che giấu. Văn Giám Vụ Thỉnh Tán. Bảo ông rất sợ hãi, bấy giờ lại qua bờ. Bảo ông thật vội vàng, khi hoặc lại dung vật. Đã là thầy trời người, mở miệng thì xem thường, trong kiếp Hiền, trang nghiêm. Lại không Phật như thế, gởi lời nghe ông nói. Chớ tin kẻ giặc nầy. Đường Đạo Nhân thỉnh tán. Tôn từ này không sờ mó, chợt thích rồi chợt ghét, Hỷ cũng hòa khí như mùa xuân trăm hoa nở. Tức giận cũng sấm chớp gió mưa một lúc xảy ra. Chỗ làm như vậy, như chẳng phải A-tu-la vương. Tức cũng là Kim Tiên Đại Giáo Đường, Đạo Nhân khẩn thâu đi, gặp người không cần mở mang, quyện đến ở góc vách. Giang Linh Nhân thỉnh tán. Ông vốn người Tuyên Châu, sanh duyên ở Ninh Quốc. Trước không tôn Thích-ca. sau không kính Di-lặc. Nhà nghèo không cơm ăn. Xuất gia rồi theo Phật. Hành khất các phương trời, Giang Nam khắp Giang Bắc. Mới tham thiền Lâm Tế, lại làm một tên giặc. Trong mắt có con ngươi. Trong bụng không chút đen, lại như là sư què, nói được làm không được. Vô Trước Đạo Nhân thỉnh tán. Ông tìm sự khen ngợi của ta, lại khen ngợi sự chân chánh của ta. Biển lớn không còn một giọt nước. Tu-di không có một mảy trần. Vì hứa là thẳng mà chẳng thẳng, lấy quan sát làm tỏ mà chẳng tỏ. Voi đầu đàn vòng quanh sư tử gầm. Tánh không thể hội chợt hỷ chợt sân. Làm oán làm địch với Phật Tổ, rồi làm người thân với ngoại ma. Chính là như vậy mà người chẳng phải ông. Tự thần là thần mà người chẳng phải thần, như thế làm thiện tri thức của người, ít ăn chua đắng năm, ba thăng. Siêu Tông Đạo nhân thỉnh tán. Một cây gậy trắng Phật Tổ đều đánh. Siêu Tông Thiền Nhân to gan không sợ, vẽ ta đến xin tán, treo ở trên cửa quỷ. Sau ba mươi năm lời này lưu hành, mặc cho mọi người khen rùa đập ngói. Trưởng Lão Chu Phong cầu tán. Rộng rãi bao la có thủ cỏ xả, an nhiên tự do có thật có giả. Khách đến phải hỏi, giặc đến nên đánh, một cây trúc bề trên trời dưới thế, bối xúc ngay lúc, mặc người trả giá. Than ôi thôn Tăng ít nói nói to, năm rùa thu lấy treo ở nhà cao. Theo ông ta khen ngợi, theo ông ta mắng nhiếc. Đảnh Nhu Thiền Nhân Cầu tán. Thân tâm như một, ngoài thân không khác. Ôi lừa mù này, phó cho Đảnh Nhu. Uẩn Văn Thiền Nhân thỉnh tán. Uẩn Văn nghe tự tánh, tự tánh là Văn Uẩn, ta chân cũng như vậy, vượt qua đỉnh Ngàn Thánh. Dụng Tuyên thiền Nhân thỉnh tán. Tuyên truyền ta chân, ta vì giảng nói nhìn lên mi mắt, khéo léo như vụng. Tư Nhạc Thiền Nhân thỉnh tán. Hai tai dựng đứng cửa miệng hẹp, hai mắt nhỏ ti mũi lại rộng, một đợi gốc lưỡi khinh lời lẽ, không hề xướng được điệu nhà Hồ. Ngộ Bổn Thiền Nhân cầu tán. Một ngàn bảy trăm nạp tử si, vây quanh lão vô minh này, tế nhị không có một sao sáng. Thô tháo lại có bảy, tám đấu. Chưa từng vắng lặng vào thiền định. Suốt ngày sóng vỗ dưới mái hiên. Làm mũi người cũng đáng cười, lại không cho người khinh mở miệng, gông mù gậy loà nên từ bi. Là phải chẳng phải ở cột sống. Như chủ pháp này làm tông sư, uổng nối Mâu-ni con cháu sau. Gốc thiền ngàn muôn chẳng học y, học y và ông không rên rỉ. Pháp bảo Thiền Nhân cầu tán. Không giống thế gian ít có này: ở nhà Phật mặc áo Phật, ăn cơm Phật, nói Phật sai. Nhiều phẫn nộ ít từ bi, vẽ được dường như sai mảy may, bảo thiền giả nên tự biết. Thủ tịnh Thiền Nhân cầu tán. Sân nhuế si chưa dứt, tâm lý thức điên đảo, bàn thiền tùy miệng mở, đầu lưỡi quét lầm loạn. Người thí cho ông không gọi ruộng phước. Người cúng dường đoạ ba đường ác. Đây là thôn Tăng Vân Môn chẳng phải trưởng lão Đỗ Soạn. Tôn Phác Thiền Nhân cầu tán. Lâm Tế đốt thiền bản Hoàng Bá. Hương Nghiêm khóc cây gậy Quy Sơn, ông già thôn Vân Môn nhăn mày. Cũng là loại khéo léo này. Thế nào là loại khéo léo? Truyền đến chén sắt đầy cơm mèo, mài nạp ca-sa vào chậu đen. Tổ ông làm việc đều hoại rồi, không biết đem giao cho con cháu. Tăng Ngạc Thiền nhân cầu thỉnh. Gã này một đời không ương ngạnh, ở trước mặt người lại dịu dàng. Trước cửa giải thoát đóng chặt cửa. Chẳng khác hai loại bệnh pháp thân. Cắt gai góc trên đường Niết-bàn, đâu biết được nghóa tám chỗ trả về của Lăng-nghiêm, khinh chê thiếu lâm ống sáo không lỗ. Đợi khi nhàn thổi qua la loan. Chánh Ngôn Thiền Nhân cầu tán. Lưu xương cốt trong hư không, làm hang trong điện chớp, có hỏi gia phong diệu hỷ. Ngoài này lại không vật khác. Tổ Truyền thiền nhân cầu tán. Bao la hoàn toàn giống Xuyên Tăng, tự nhiên như chiết khách, hướng bên tình lúc chưa sanh. Lấy ra một cách báo từ. Tôn tánh bất định, không thể suy lường. Thấy một giờ hiềm mắt sâu bọ rộng. Thấy nhiều thời bảo hư không chật hẹp, giống như sư bình thường này, làm sao được trời người cúng dường, đánh cho một roi vào mặt. Diệu Đạo Thiền Nhân cầu tán. Thôn Tăng này đại vô minh, ít nhu hòa nhiều nóng nảy. Thích mắng người vui đầu lưỡi, thọ bóng Phật, phá giới Phật. Không tinh tấn, thường biếng nhác. Huỷ bảng Bát-nhã tội đầy trời. Vào địa ngục mãi không hối hận. Người nghe thì ghét, người thấy thì làm lạ, quấy tòng lâm không thể chịu được, mất hết tín thí ba mươi năm. Đời khác xuất đầu thường nợ cũ. Tóm lại chỉ có một điểm ưu, biết đạo khe suối rộng không che. Sung Mặt Thiền Nhân cầu tán. Phật Tổ có mật ngữ, có nói thì không mật, mật thiền họa ảnh ta, mật ý đã rơi rớt như bẻ hương chiên đàn, mỗi mảnh thể chẳng khác, mật ý ở trong đó, mật cũng nói như thế. Văn Tuấn Thiền Nhân cầu tán. Ôi gã gánh cây nầy, xưa nay không biết gì, thường qua một trận nọ, quên đi nhiều năm đói. Động lại xúc người kî, đánh người mù không biết, bình thường không làm việc, tay không tính tiện nghi. Như Bổn Thiền Nhân cầu tán. Chân hay là vọng đều trơ trọi, làm đối đãi phát triển chẳng đều. Nước lạnh hư không mà gió tónh, trăng chẳng không. Tức vọng tức chân, thuốc độc và đề hồ. Đến đây người nào biết được ông. Pháp Hoằng Thiền Nhân cầu tán. Không hề động đầu lưỡi, sắn bìm đã khắp thiên hạ, đẳng nhàn vừa đánh hư không, tùy tay bèn thành vá sành. Pháp Hoằng vẽ được ảnh ta. Phẳng phất phổ hóa ở Điền Châu, nay ta viết tán lên đầu, muốn làm giai thoại tòng lâm. Đức Quang Thiền Nhân cầu tán. Có đức thì có ánh sáng, áng sáng này không gián cách, danh thật phải tương xứng, chẳng xanh vàng đỏ trắng tham thấu thiền Phật tử, không phải đợi nhàn cuồng mắt, chỗ ta tham được chỉ cần dụng trong đường Niết-bàn. Nhưng không nghe Thiền sư Đỗ Soạn có ba trăm tám mươi bức tranh, ta vì làm chứng minh, năm khác lấy làm qui cách. Thủ tọa Nhược Hoài cầu tán về am Dương Dư. Ta ở đất Môn có nhân duyên lớn, đêm nằm mộng, ngày suy nghó không thôi. Ngày nọ định về lại Dương Dư ở trọn đời trong thất Lăng- già. Trưởng Lão Tuyết Phong Không cầu tán. Tuệ không gãi chỗ ta bệnh, ta từng phẫu chỗ y bệnh. Chỗ bệnh, chỗ ngứa đau, không cùng ngàn Thánh đồng đường. Há cùng dụng với nạp Tăng. Chớ nói trúc không tiền trong chổi tre, cành chổi tòng lâm cột rường. Tuy nhiên nhà xấu không thể nêu ngoài. Cũng cần mắt mũi mọi người định động, mà nay mỗi người bất đắc dó vẽ ra ông già mũi đông. Nhưng lấy đầu rơi gác trên vách, khiến người đến chiêm ngưỡng. Đêm ngày đốt hương chiên đàn, trầm thuỷ, tất-lực-ca, đâu-lâu-bà để cúng dường cha ông bảy đời. Trưởng Lão Sư Chiêu cầu tán. Họa được trăm ngàn bức, đều lò chỉ ở đây, Sư Chiêu đáng thừa đương. Dương kỳ đời thứ bảy. Thiền Nhân cầu tán. Than ôi diệt giống hồ. Mặt mũi thật đáng ghét, qua cầu lại bẻ cầu, được đường lại lấp đường, tuy muốn gượng nhu hòa. Cuối cùng đụng người giận, muôn việc loại như thế, ai dám gần gũi nhau, xin rồi túi vốn không, thường khoe nước địch giàu. Nghe nói vua Diêm-la, chưa khỏi sanh sợ hãi, không còn phóng đại ngôn, e Phật không chịu làm. Trâu sưu giống như trời nấu táo, nhẹ nhàng chạm đến lại phiền não. Thân mặc áo như đến ba việc. Trong miệng phỉ báng Phật pháp Tăng. Xưa nay cọng cải không cho người, sợi lông không thành người khác tính. Bỗng nhiên nhắm mắt xuống suối vàng, định phải om sòm trách Diêm-la. Trên không miếng ngói che đầu, dưới không có mảnh đất cứng. Xương cốt đỏ đầy thân với người, đâu nhàn khí một chút vô minh không làm gì được, nói gì ý Phật Tổ từ phương Tây đến. Nắm chặt rắn sắt, khí độc rực rỡ, suy nghó không đến miệng lại cầm đuốc vào tháp. Vì Ngạn Duy Na hạ lửa. Thượng tọa này, rõ tánh măm uẫn không, ngộ các pháp vô ngã, mới biết bốn đại trái nhau. Biết thu nhận kết quả ở hai, ba ngày trước, tắm rửa gội đầu đích thân viết di ngôn. Hỏi ta xin một ngọn lửa không nhìn sau đỉnh. Muôn dặm thần quang đâu luyến trước mắt, cửa huyền vàng tiêu hết vô minh nghiệp thức si, mỗi mỗi từ đầu điểm qua như thế, lại có một việc phải nói phá. Nếu đến Thiên thai nhạn đãng du. Truyền ngữ núi cao phá vỡ ra. Vì Sung Thiền Nhân hạ lửa. Người đều có bốn đại. Riêng Sung thiền có năm đại. Ngoài đất, nước, lửa, gió còn có một cái lạp đại. Lạp đại này nội không, ngoại không, nội ngoại không. Bao gồm cõi dục, cõi sắc, cõi Vô Sắc. Nói nhiều Tu-di, Thiết-vi, sông hồ, biển lớn. Muôn tượng sum la đều ở trong này, không ngăn trở mà nay bốn đại đã trái rồi. Chỉ có lạp đại mãi còn hoài. Đại lạp này rất kỳ quái một xướng hai xướng ba xướng, sang cũng không bán, hèn cũng không bán, cuối cùng thế nào, đánh cho Sung thiền vào tam-muội hoả quang. Vì Pháp Đăng Giám Tự hạ lửa. Lấy đuốc lửa chỉ nhà tranh nói, cái này là đèn pháp đã diệt. Lại giơ lửa lên nói: - Đây là lửa trí vô lậu. Lửa trí vô lậu vẫn là đèn pháp, nhưng vừa diệt vừa vô không thể là đèn. Giám tự có biết không, sau khi tro bay khói diệt, hoa ưu-đàm một đoá. Vì Siêu Thiền Nhân hạ lửa. Dưới núi Tằm Mạch Hoàng đã dứt, một đội người chết tiễn người sống, người sống thân như Kim Cương sắt, tức nay vào luyện lửa hồng. Vì Nguyệt Thiền Nhân nhập tháp. Bưng cốt lên nói: Linh Sơn nói Nguyệt Tào khê chỉ cho trăng, Diệu Hỷ sáng nay bưng trăng, đem đến nghiên cứu kỹ càng, một lúc chưa được, một lúc chưa được cắt đứt. Vì sao? Bịa sư này đều lấy then chốt rơi rớt, đã rơi rớt xem thử lại là trong mùa thu, không vật chịu suy lường, dạy ông nói nhà mình. Vì Ích Chiếu Nhị Thiền Nhân nhập tháp. Trình xương tay trái lên nói: Cái này là lông mày Châu ích, trình cốt xương tay phải lên nói: Cái này là thức ăn châu Chiếu, một người hội thiền, một người hội giáo. Tuy mỗi người tự thực hành riêng nhưng cuối cùng đến một lúc. Hãy nói việc đồng thời đến là thế nào: nhà ai khác quán bờ ao. Vừa đối uyên ương họa không thành. Sư sắp thị tịch đích thân viết di chúc dâng xong, thị giả Tăng xin lưu lại tụng. Sư gắng gượng nói: Không tụng thì chết không được, bèn viết rằng: sống cũng chỉ như thế, chết cũng chỉ như thế, có kệ và không kệ, là vì sao đại nóng. Tông sư rũ lời, dè dặt chớ hội lầm, phải biết được chỗ chân thật thọ dụng, mới chứng pháp tự tại giải thoát an vui hoàn toàn. Ngày mùng 10, mùa hạ năm Giáp Thân, niên hiệu Long Hưng Cư Só Tử Nghiêm Trương Tuấn ghi lại. <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 13 Đệ tử nối pháp trụ trì thiền viện Năng nhơn, Kính Sơn là Thiền sư Tuệ Nhật Thần Uẩn nghe dâng lên. Sư đến Vân Phong tham kiến Bồ-đề Hội Thỉnh Phổ Thuyết, hỏi xong bèn nói: “Lão tướng Bồ-đề ngồi bao vây, khi giặc bên ngoài nghe ngựa hí, tấc dao không thí, mật quân ma tan vỡ, trước lướt gió rồi thẳng hạ cờ”. Hang giáo pháp của ngài Tuyết Phong chân thật nghỉ trong đó, mọi người đều có tâm báo ân Phật, ân Tổ, mỗi người đều giữ gìn mưu lược an nước an nhà, trí tuệ như ngài Thu Tử, biện tài như ngài Mãn Từ. Ngài Vân Môn ngày nay đến chỉ được có phần kết lưỡi. Nhưng Quan không cho việc xe ngựa chung riêng, đã đến nơi đây không thể vô ích, mượn mưu lược oai quang của người chủ, cùng đại chúng đến thời tiết, bèn đứng dậy dộng gậy, nói: Lại gửi gắm đều là gì? Trời cao bầy voi chánh, biển rộng trăm ngàn sông đổ về. Vỗ bàn một tiếng lại nói: đại phàm người tham học, phải giữ được bổn phận mới được, nếu không giữ được bổn phận, chỉ là kẻ đánh mất mình, giống như vừa lên đến tòa hỏi: “Ba tiêu dộng gậy nói: “Bổn phận họ đáp, lại lý hội không được. Như nay mỗi vị các nơi lầm bàn luận nhiều ít, các người học mắt đã không sáng, đưa ra một câu hỏi kẻ trên giường thiền mà toan hợp với lời đúng là đạo, vịn qua cầu gãy, bạn trở về thôn vô minh, nói mỗi câu mỗi câu cách đạo, ta đáp được huyền, đáp được diệu, người học không biết tốt xấu, mừng đến đem trong túi da, đến chỗ thích hợp được mặc, thì lại ấn khả. Tôn Sư không chấp phương tiện, không sắp xếp, không trong sạch, ẩn chứa trong chí khí, khinh bạc người ưa tạo nghiệp địa ngục, ông xem họ thật ngưng nói thiền, đều không tính toán, y cứ vào câu hỏi của người học, ăn nói tự do, lại không ngăn ngại, tự nhiên như gió thổi nước, chỉ vì họ thấy thật nói thật. Như Bồ-tát Phổ Hiền từ tam-muội cõi Phật Hoa Trang Nghiêm xuất định. Bồ-tát Phổ Tuệ như mây đưa ra hai trăm câu hỏi, Bồ-tát Phổ Hiền như bình rót ra hai ngàn lời đáp, không hề suy nghó tính toán. Bởi được pháp tự tại, lời nói xứng với pháp tánh. Như người đời nay không hề đích thân chứng ngộ, chỉ lo bàn tính trăm thứ, ngày mai sắp lên tòa, suốt đêm ngủ không được, trên pho sách này nhớ được hai câu, trên pho sách kia nhớ được hai câu, tụ tập đánh hét nói được một ít, như hoa như gấm, bị người mắt sáng coi thường, chỉ thành một trận cười, xin khuyên các vị, Tôn sư mắt sáng khó được gặp gỡ. Đã được gặp rồi, giống như dựa một tòa núi Tu-di. Phải lùi bước, buông bỏ nhiều nhân ngã vô minh từ trước, trên sách vở ghi nhớ học được chút ít, bát để sang một bên, không cần gượng làm chủ tể, giờ khác ngày khác vua Diêm-la đánh mông quỷ, lại là đánh gượng làm chủ tể như thế. Chẳng phải ngài Vân Môn coi thường các vị, chỗ lời nói đây có phần đưa ra trước mắt liền có một ngàn năm trăm vị Thiện tri thức làm chứng cho ông, không hướng về trong đây nói, thì còn hướng về chỗ nào nói? Cho nên việc nầy quyết định không ở trên lời nói, nếu ở trên lời nói, thì một đại Tạng giáo các nhà bác học các vị khắp trong trời đất, chẳng lẽ không nói lại giáo môn Trực chỉ của Đạt-ma từ Tây trúc đến làm gì, rốt ráo chỗ nào là chỗ chỉ thẳng, ông đã khởi tâm tà vạy. Có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: “Thế nào là ý của Tổ sư từ phương Tây đến?” Triệu Châu đáp: “Cây bách ở trước sân”. Lại có vị Tăng hỏi ngài Đỗng Sơn: “Thế nào là Phật?”. Đỗng Sơn đáp: “Ba cân gai”. Có vị Tăng hỏi ngài Vân Môn: “Thế nào là Phật?” Vân Môn đáp: “Que chùi phân”. Ông toan đem tâm nương gá, họ chuyển cong vẹo, pháp vốn không cong vẹo, chỉ vì người học dùng tâm cong vẹo mà học. Dầu học được trong cái huyền, lại trong cái huyền diệu lại diệu, rốt cuộc không thể địch nổi sanh tử, chỉ thành trào lưu học nói, vốn là người vô sự, trở lại bị những chất độc trong tâm thức, tạo tác chướng ngại không được tự tại, cho nên giáo pháp Trung đạo không thể thấy nghe, hay biết. Nếu như thực hành thấy nghe hay biết, thì thấy nghe hay biết đây, chẳng phải cầu pháp. Ví như có người hỏi đường trong thành đi từ chỗ nào, người chỉ nói rằng: “Từ trong đây đi”, nghe nói đi liền, đã sai rồi, đây toan tính như thế nào, tri kiến giải hội do suy nên bị mất huyền diệu, tâm thị phi chẳng bỏ, ông phải chân thật tham cứu, nhưng tất cả phải buông bỏ, giống như người chết, trăm điều không biết, trăm điều không hiểu, đột nhiên đến chỗ không biết không hiểu, được một đây ông phá, Phật cũng không làm sao được. Chẳng nghe người xưa nói: “Vách núi buông tay tự mình gánh chịu, sống lại tuyệt đối không được khinh ông hay sao?”. Các vị đã đến Vân Môn tham thiền, thì đều không phải là dễ dàng. Đây là Tông sư mắt sáng, đáng để nương gá, hoặc là ngài Chân Hiết khuyên người phát tâm Bồ-đề, sanh tâm bài bác chê bai rằng: “Đã xưng là Thiền sư, tự mình có việc bổn phận của tông môn, chỉ lo mệt nhọc, lại giống như tọa chủ. Ta lại hỏi ông, cái gì là việc bổn phận, khổ thay? Tự mình đã không thể làm lành, lại cười người khác làm lành, nhân ngã sanh diệt, ganh ghét như thế không trừ, tự cho đó là đúng, Thiện tri thức đã không khuyên người phát tâm Bồ-đề, không thể dạy người đi giết phóng lửa, đây là trên giường khắc gỗ cong, chẳng phải là chỗ của ông đánh dẹp danh lợi, ganh ghét sanh diệt. Dùng mắt đạo quán sát, như vạc sôi lò than rừng kiếm núi đao, đồng kích động trống pháp, các vị trời, rồng, thần đều nhóm họp, mắt đạo không sáng, các trời, rồng, thần thấy miệng ông phun ra khói đen, đâu không sợ sệt, thà không thấy giáo pháp Trung đạo, chưa được cho là được, là Tăng thượng mạn, chê bai bậc đại trí tuệ, không chịu sám hối, thí như người nghèo tự dối xưng là Đế vương tự chuốc lấy tru diệt, huống lại là bậc Pháp Vương, tại sao dối trộm, nhân địa không chân, vời lấy quả báo quanh co, phải là chân thật mới được. Hễ là người xưng Thiện tri thức: Dẫn dắt tất cả chúng sanh, khiến họ thấy Phật tánh, phải nên quán sát căn cơ lập giáo, cho thuốc đúng bịnh, không thể nói với ba loại người trong thôn xóm: “Sáng dộng gậy đến Tây lai, chiều trở về Đông độ, trên cây quạt nhảy đến tầng trời ba mươi ba, ở trong lỗ mũi trời Đế-thích, cá chép biển Đông đánh một cái giống như bồn đổ. Tuy là bổn phận nói năng, dạy họ như thế nào để hội lý, ông lão Thiền Hòa Tử này tìm kẻ hở của họ không được, huống chi người thế tục thân ở trong lưới trần, hiện hành vô minh. Nếu không có phương tiện thiện khéo léo dẫn dắt để họ thuần thục, thì làm sao lãnh hội được hiểu được, ý đây đều phải bỏ, từ một đến hai mươi lộ trình đến nhà còn xa. Một người vào trong xã phát tâm chuyển hóa nhiều người làm lành, đâu không có lợi ích, đây là việc bổn phận của Thiện tri thức làm, đâu phải là gượng làm. Ngài Vân Môn hạ này ở trong nhân rộng, khai mở đèn tâm, thật, tùy nhà giàu nghèo, nói những thô thiền, trong nhà người học hỏi một câu, như không suy nghó tính toán, tánh thiên chân tự nhiên nói được một câu, nếu lại ép buộc một câu, toan bàn không ra, một gậy chẻ xương, không có sự trơn láng khác, bỗng nhiên đánh một cái nửa cái, lại dạy lên Tuyết Phong, đến Đại Lô Bị, việc đồng một nhà, sớm đến ngài Chân Hiết nêu việc, Đức Thế tôn vào đại thành Xá-vệ khất thực, ăn cơm xong thâu y bát, rửa chân trải tòa mà ngồi. Ngài Tu-bồ-đề thưa rằng: “Ít có! Bạch Đức Thế tôn”. Chân Hiết thưa: Đức Thích-ca may mắn tự mình đáng thương được, ngài Tu-bồ-đề bước ra nói ít có “ngay nơi đó băng tiêu ngói bể, khen đại chúng Đức Thích-ca không hề nói một chữ, ngài Tu-bồ-đề thấy cái gì mà liền nói ít có”, các ông phải hiểu. Nhưng về ngài Chân Hiết, “chỗ băng tiêu ngói bể” thì hiểu, bỗng nhiên khám phá được, việc tham học một đời đã xong, chỉ như ngài Chân Hiết, tầm thường thấy người học, phần nhiều nhận gương hiểu biết, cầu tri kiến tìm giải hội, không có lúc dừng nghỉ, không được tự mình dạy người hướng ra bên ngoài gánh vác, y cứ vào thật mà bàn luận, một câu nầy đã là nhiều rồi. Đây là một thời kỳ phương tiện, như ngón tay và mặt trăng chỉ bày cho người, cần phải nhìn thấy mặt trăng, không nhận đầu ngón tay. Như ngày nay nhận lầm, đâu từng hội giải phương tiện. Đã không biết lời nói phương tiện, lại cái tòa trong bụng của Đức Phật Nhiên Đăng, dưới núi Hắc trong hang quỷ ngồi bất động, được xương mông sanh chai, nằm mộng thấy nước trong miệng vẫy đất y trong bụng mầu đen dằng dặc ở trước. Đêm nay Vân Môn nói chuyện trước chúng trời, người cùng các bậc Thánh, mỗi người tự nhớ lấy, nói nhiều cách đạo càng xa, vừa đến ngài Chân Hiết có một đoạn công án chưa hiểu, Vân Môn vì họ mở gút cho. Xưa, có một Lão Túc hỏi ngài Lâm Tế: “Vừa mới gặp nhau đề khởi tọa cụ rằng: “Lễ bái là phải, hay không lễ bái là phải”. Ngài Lâm Tế hét, Lão túc liền lễ bái.” Lâm Tế nói: “Đây là giặc”. Lão Túc nói: “Giặc giặc liền đi ra”. Lâm Tế nói: “Chớ nói vô sự là tốt”. Vị Thủ tọa đứng hầu kế bên. Lâm Tế nói: “Lại có lỗi hay không”. Thủ tọa nói: “Có”. Lâm Tế hỏi: “Khách có lỗi, hay chủ có lỗi?” Thủ tọa nói: “Cả hai đều có lỗi”. Lâm Tế nói: “Lỗi ở chỗ nào” Thủ tọa liền bước ra. Lâm Tế nói: “Chớ nói vô sự là tốt”. Sư nói Lâm Tế trong tối đã thua một thẻ, lại đến trong sáng được một lần, tuy nhiên có thua có được, có sáng có tối, ngặt vì kẻ bàng quan xấu xa. Lại nói: Ai là kẻ bàng quan? Giây lâu Sư nói: “Nếu đến các nơi, không được nêu lầm”. Đại sư Định Quang thỉnh Sư giảng chung cho mọi người. Có vị Tăng hỏi: một pháp nếu có, thì Tỳ-lô rơi vào phàm phu, muôn pháp nếu không, thì Phổ Hiền mất cảnh giới kia, cách đây hai đường, thỉnh Sư nói mau. Sư nói: “Quạ rùa lột xác bay lên trời”, nói tiếp: “Thân thiết đã nhờ Sư chỉ bày, một câu không có tư lợi hữu tình”. Sư nói: “Sống thế nào là chỗ thân thiết”. Vị Tăng nói: “Đêm qua thanh phong sanh bát cực, sáng nay dòng nước tràn trước khe”. Sư nói: “Cho đến bất luận về lỗi”. Tăng nói: “Chư Phật vốn không hề ra đời, cũng lại không có nhập Niết-bàn, do nguyện lực rộng lớn vốn tự tại, thị hiện vô biên pháp ít có, pháp đây không thể dùng suy nghó tâm sở hành, tức chẳng phải pháp ít có, đã chẳng phải pháp ít có, pháp đây chẳng thật cũng chẳng hư, đã chẳng thật hư, nói là có cũng không được, nói là không cũng chẳng được, nói là vừa có vừa không cũng chẳng được, nói là chẳng phải không chẳng phải chẳng không cũng chẳng được, nói là chẳng phải không chẳng phải chẳng không cũng chẳng được. Chẳng thấy hay sao? Vừa rồi thiền khách hỏi: một pháp nếu có, Tỳ-lô rơi vào phàm phu, muôn pháp nếu không thì Phổ Hiền mất cảnh giới kia, cách đây hai đường, thỉnh Sư nói mau. Vân Môn đáp rằng: “Lột lúa quạ rùa bay lên trời, các người làm sao phân biệt rõ, là có hay không? Là hư hay thật? Thử khám phá ra, nếu không, lại dẫn vài dây sắn bìm, cho nên trước Thánh đạo, có khi trước chiếu sau dụng, có lúc trước dụng sau chiếu, có lúc chiếu dụng đồng thời, có lúc chiếu dụng không đồng thời. Nếu là trước chiếu sau dụng, thì mắt của mọi người mù, nếu là trước dụng sau chiếu, thì mắt của mọi người sáng. Nếu vừa chiếu vừa dụng đồng thời, thì nửa mùa nửa sáng. Nếu cũng chiếu dụng đồng thời, thì toàn sáng toàn mù, bốn thứ nầy thì nói, có một cái thì có khách không có chủ, có một cái thì có chủ không khách, có một cái thì khách chủ đều không, có một cái thì hoàn toàn có đủ khách chủ. Tức nay trong chúng, hoặc có kẻ không chịu người dối đến nói: “Trong đây cái gì còn, nói có nói không, nói hư nói thật, nói chiếu nói dụng, nói khách nói chủ, túm ngực áo ném xuống giường thiền, đập một cái tan nát, cũng quái lạ họ không được, lại có người như thế. Nếu không, thì cái muỗng trong tay Vân Môn, buông đi nắm ở nói có nói không, nói hư nói thật, nói chiếu nói dụng, nói khách nói chủ, đều do trong đây, lại nói tức nay bỏ đi thì tốt”. Giây lâu nói: “Mắt người sáng, mắt người mù, một tay đẩy, một tay kéo, chẳng phải ba yếu ba huyền, cũng chẳng phải bốn thứ liệu giản, rốt cuộc là gì?” Đưa phất trần lên nói: “Côn cầu của Tuyết Phong, gánh bản của Mục Châu”. Lại nói: Các người đều nói: “Đến đây tham thiền, ta lại hỏi ông: “Thiền làm sao để tham, đã là vô thường mau chóng sanh tử việc lớn, chẳng phải chuyện trẻ con hay sao?” Mà đời nay mỗi người đều nói: “Tôi sợ chết mà tham thiền, tham tới tham lui, ngày tháng lâu dài, đánh vào trong hang sắn bìm, chỉ được một trận dối trá, đối với tự mình phần trên thêm được những thứ bừa bãi, lại không bằng khi chưa vào chúng, không cho là nhiều việc, đây là do trên ngọn một phen lầm, không gặp người tốt, thay nhau làm như xưa, cho đến như thế. Gần đây Phật pháp đáng thương, ma mạnh pháp yếu, người tu thiền, mỗi người có một bụng thiền, đến chỗ đánh trăm cỏ giống nhau, con lừa già được dừng nghỉ, bình thường đến các ông nói: “Tổ sư từ phương Tây đến, chỉ là người chứng minh, cũng không có đạo thiền để truyền cho người. Nếu có đạo thiền để truyền, thì mỗi người tự truyền cho cha mẹ, truyền cho sáu thân quyến thuộc đi. Đã không thể truyền thì phải ngay nơi mỗi người tự ngộ mới được, ông khởi tâm cầu ngộ, đã lầm rồi, huống gì biết nhiều hiểu nhiều, lung tâm hiểu loạn. Không thấy Hòa thượng Hương Nghiêm ở trong hội của ngài Bá Trượng, rất thông minh lanh lợi, mấy năm tham thiền không được, chỉ vì biết nhiều hiểu nhiều. Ngài Bà Trượng sau chuyển hóa đến ngài Quy Sơn. Quy Sơn nói: “Ta nghe ông ở chỗ Tiên sư Bá Trượng, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đây là ông thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng, là cội gốc sanh tử, khi cha mẹ chưa sanh, thử nói một câu xem. Hương Nghiêm bị ngài Quy Sơn hỏi một phen, mãi bị hoang mang, về lại trong liêu đem những văn tự thường ngày xem qua từ đâu xét lỗi, muốn tìm một câu mới đối đáp được, ý không thể được, bèn tự than rằng: “Bánh vẽ không thể đỡ đói”. Thường thượng đường, xin ngài Quy Sơn nói rõ, Quy Sơn nói: “Nếu ta nói giống ông, về sau ông sẽ mắng ta, ta nói là ta nói, không hề có quan hệ đến việc của ông”. Hương Nghiêm vì sao không được, trong bụng chỉ lo buồn, lại lấy làm lạ Quy Sơn không nóu rõ cho họ nghe, bèn đem văn tự ngày trước nhóm lại, dùng lửa đốt, rồi nói: “Thôi thôi, đời này không học Phật pháp, lại làm cơm cháo cho chúng Tăng lâu dài, được khỏi mệt nhọc tâm thần, từ một đời này buông xuống, thiền cũng không suy nghó, đạo cũng không suy nghó, thiện cũng không suy nghó, ác cũng không suy nghó, khi cha mẹ chưa sanh cũng không suy nghó, ngay đời nay cũng không suy nghó, Lăng-già bốn quyển tất cả buông bỏ”. Lại từ biệt ngài Quy Sơn qua Nam dương thăm viếng di tích của Tuệ Trung Quốc Sư, dừng nghỉ ở am Trác. Một hôm, trừ bỏ cỏ cây, do gió thổi bay ngói gạch, bỗng nhiên va vào một cây trúc nghe một tiếng cắc, bất giác đánh vào lỗ mũi khi cha mẹ chưa sanh, ngay lúc đó như bịnh gặp thầy thuốc, như tối được đèn, như nghèo được của báu, như con gặp mẹ, vui mừng khôn cùng, bèn tắm gội đốt hương, từ xa hướng về lạy ngài Quy Sơn than rằng: “Hòa thượng đại bi, ân đức còn hơn cha mẹ, đương thời nếu vì con nói rõ, thì đâu có việc ngày này, bèn có bài tụng: “Một cái đánh quên sở tri Ông xem người khác được Phát ngôn tự là khác nhau Ban đầu nghe chạm trúc thành tiếng Bỗng nhiên đại ngộ Tâm sở ngộ liền dứt tiêu tan”. Như ngài Di-lặc búng ngón tay, cửa lầu gác liền mở, sai ngài Thiện Tài vào, Thiện Tài tâm vui mừng, vào rồi lại đóng, lại là đạo lý nầy, chỗ ngộ của ngài Hương Nghiêm đã bặt tin tức. Khi cha mẹ chưa sanh việc đã hiện tiền, vừa làm bài tụng đã là việc của người hữu vi, ở sau chú giải rằng: “Lại không nhờ sửa sang, thay đổi con đường xưa, không rơi vào cơ im lặng, khắp nơi không dấu vết, oai nghi ngoài thanh sắc, người ở các nơi đạt đạo, đều nói căn cơ thượng thượng, phần nhiều thấy Thiền Hòa Tử, thích đi đến chỗ hỏi Trưởng lão, nhà của Trưởng lão không có cửa, lại vì người khác giải thích: “Ông sợ ngài Hương Nghiêm nói chưa được rõ ràng, nên lại phải chú giải”. Lại có một bọn người cũng nói: “do chạm vật thành tiếng, có chỗ ngộ, hoặc hỏi họ ông thử nói xem, lại chạm vật thành tiếng rằng: “Nhiều ít rõ ràng, có cái gì giao thiệp, rất giống cách giày mà gãi ngứa”, làm sao được cuộc sống vui lại không thấy. Thuở xưa, Hòa thượng Câu-Chi khi ở trong am, do có một vị Ni đến, đi xung quanh giường giây của Ngài một vòng rồi nói: “Nói được thì cởi nón, ngài Câu-Chi ngay đó nói không được, vị ni phất tay áo bỏ đi”. Hòa thượng Câu-Chi hỏi: Sao không ở lại. Ni đáp: Nói được thì ở. Câu-Chi không nói được. Khi vị Ni đi rồi, ngài Câu-chi tự than rằng: “Ta tuy là bậc Trượng phu, lại không bằng phụ nữ, lại muốn đốt am xuống núi”. Bỗng nhiên tôi nằm mộng thấy vị thần bảo rằng: “Hòa thượng không nên xuống núi. Hãy đợi, sẽ có nhục thân Đại só đến nói pháp cho Hòa thượng”. Qua mấy ngày quả nhiên thấy Hòa thượng Thiên Long đến, Hòa thượng Câu-chi bèn nêu câu nói giống như trước. Hòa thượng Thiên Long nói: “Ông hỏi ta, ta cho ông nghe”. Hòa thượng Câu-chi hỏi: “Nói được thì bỏ mũ”. Hòa thượng Thiên Long bèn dựng lên một ngón tay. Ngài Câu- Chi bỗng nhiên đại ngộ. Về sau, hễ có ai hỏi gì, Câu-chi chỉ đưa một ngón tay, Ngài thường nói: “Ta được thiền một ngón tay của Hòa thượng Thiên Long, một đời thọ dùng cũng không hết”. Hòa thượng Lang Da Giác, thường có bài tụng rằng: “Câu-Chi một ngón tay dạy ông biết, buổi sáng diều hâu bay lên trời. Nếu không đưa ra cái đảnh nhổ lực núi, ngựa chạy ngàn dặm không dễ gì cỡi”. Ông xem một bài tụng nầy, lại hiểu được thiền một ngón tay nầy rõ ràng, làm sao học được? Cạnh ngài Câu-chi có Đồng tử cùng đến, thường thấy người hỏi việc Hòa thượng, cũng bắt chước đưa ngón tay để đối. Có người cho rằng ngài Câu-Chi nói: “Vị Đồng tử nầy của Hòa thượng là vì hiểu Phật pháp hay sao?” Hễ có người hỏi đồng tử, thì đồng tử đều như Hòa thượng đưa ngón tay. Ngài Câu Chi nghe được. Một hôm, đem giấu một con dao trong tay áo, kêu Đồng Tử đến gần nói rằng: nghe nói ông cũng hiểu Phật pháp, phải chăng? Đồng tử nói: Phải. Hòa thượng Câu-chi nói: “Thế nào là Phật”, Đồng Tử đưa một ngón tay, bị ngài Câu Chi nắm lấy, dùng dao chặt đứt, Đồng tử kêu la bỏ chạy, ngài Câu-Chi bèn kêu Đồng tử, Đồng tử quay đầu lại, Câu- Chi nói: “Thế nào là Phật”, Đồng tử bất giác đưa ngón tay ra, không thấy đầu ngón tay, bỗng nhiên đại ngộ. Kỳ lạ thay! Tin hiểu Phật pháp không thể truyền, không thể học. Ngài Câu-Chi được chỗ không ở trên đầu ngón tay. Chỗ ngộ của ngài Hương Nghiêm không ở bên tiếng chạm cây trúc là đạo, lại ở chỗ nào? Một thời nói xong, các người cũng hiểu như thế, việc nầy chẳng phải khó, chẳng phải dễ, nhưng sai mảy may đi ngàn dặm, xin khuyên các vị, lùi bước tự xem, tất cả sẵn đủ, lại ngay đó lãnh hội, không dùng phí sức, ông toan khởi động một mảy lông, lại là ngàn muôn dặm, không có liên quan. Các người đã ở trong đây, phải sanh tâm hổ thẹn, không được bỏ qua thời gian dễ dàng. Nếu không giữ lời nói thành thật, đối với Bát-nhã, dùng cái gì làm tin cho người. Không thấy Thiền sư Phần Dương Vô Nghiệp nói hay sao? “Xem bậc Đạo nhân người xưa kia, sau khi đắc ý, thì hang đá am tranh, cho đến trong chỗ chặt chân, nấu cơm ăn, trải qua hai, ba mươi năm, danh lợi không bận lòng, tài sản vật báu không còn nhớ nghó, quên hết nhân thế, (8 6 5) ẩn tích trong núi rừng, nhà vua mời mà Ngài không đến, chư hầu thỉnh mà Ngài không đi, đâu đồng với bọn ta tham danh ưa lợi chìm ngập đường đời, như người bị thua bại có chút mong cầu mà quên đại quả, đốt cháy huynh đệ lúc đó đã nói lời như thế, lại dạy họ thấy việc làm của chúng ta như ngày nay, quá hổ thẹn hoảng sợ giết người, anh em, thời gian đáng tiếc, thời gian không đợi người, mỗi người hãy tự lo tinh thần cho thấu suốt, cũng không luống uổng được Phật che chở, cũng không cô phụ chí bình sanh học đạo, ngày thành đạo Thượng tòa tự đến Tuyết Phong, ba lần xin vào thất nói: “Mãi bị vô thường mau chóng, sanh tử là việc lớn, việc mình chưa rõ, xin Ngài mở bày”. Nhân đó nêu việc của ngài Mã Tổ: chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, dạy hắn khán, lại cùng Hòa thượng chú giải một bài, không được làm hội đạo lý, không được làm hội vô sự, không được làm hội tiếng đá lửa, tia chớp ánh loé, không được biết trước về hạ ý căn, không được nêu về chỗ lãnh hội, chẳng phải tâm không phải Phật chẳng phải vật, phải làm như thế, hắn bèn nghi chấp, lại không dám mở miệng, ngày nay lại đốt hương lễ bái rằng: “Đạo mầu học Bát-nhã Phần nhiều có ma chướng Muốn thỉnh chiều nay đối trước chúng trời người. Nêu bày Bát-nhã để nương sám hối. Nguyện tất cả hữu tình trong pháp giới đều được đốn ngộ Bát-nhã sâu xa. Đồng báo ân Phật”. Ngài Vân Môn nói: “Bậc Thánh xưa nói: “Tâm sợ khó sanh, tâm lành khó phát, tự chưa được độ”, mà trước độ người là Bồ-tát phát tâm, đã biết tội sợ, hồi tâm hướng đạo, đây cũng ít có, bèn theo lời thỉnh kia, vì hắn sám hối, lại tội tánh không ở trong, ngoài, chặng giữa, thì sám hối cái gì? Nhưng chẳng có bậc Thánh có tội, cũng chẳng có phàm phu nào không có tội. Phàm phu tạo tội, đều từ tâm vọng tưởng khởi, đều không có thật thể, tuy không có thật thể, nhưng khi thọ báo cũng phải vong thọ, như bóng theo hình, không thể trốn tránh, tuy thọ nhận quả báo, cũng không có thật thể, cho nên nói, nếu tội tánh có tự thể, thì cùng tận thế giới hư không không thể dung thọ. Vì sao? Vì phàm phu gây ra tội nhiều, nay nói Thượng tọa khởi một tâm niệm, muốn đến Phật quả Vô thượng Bồ-đề. Tâm nầy một phen phát thì tội đã gây ra cỏ khô chất cao giống núi Tu-di, tâm đã phát như hột cải cho vào lửa, thảy đều đốt hết không còn sót, lại tin được như thế. Một tâm niệm nầy đã phát, đương thời thành Phật đã xong, tột mé đời vị lai không bao giờ lui sụt. Lấy gì làm kinh nghiệm, không thấy trong giáo trời Đế-thích bạch Bồ-tát Pháp Tuệ rằng: “Thưa Phật Tử, Bồ-tát khi mới phát tâm Bồ-đề, công đức có được bao nhiêu”. Bồ-tát Pháp Tuệ nói: “Nghóa nầy rất sâu, khó nói khó biết, khó phân biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó thực hành, khó thông đạt, khó tư duy, khó độ lượng, khó đi vào”. Tuy nhiên, ta nương nhờ năng lực oai thần của Phật, mà nói cho ông nghe: dù cho có người, dùng tất cả nhạc cụ, cúng dường chỗ nào có chúng sanh trong A-Tăng-kỳ thế giới ở phương Đông, trải qua một kiếp, rồi sau đó họ giữ gìn năm giới, phương Nam Tây Bắc bốn duy, trên, dưới, cũng giống như vậy. Ý ông nghó sao? Công đức của người nầy có nhiều chăng? Trời Đế-thích nói: Công đức của người nầy chỉ có Phật mới biết, còn tất cả người khác không biết. Bồ-tát Pháp Tuệ nói: Công đức vủa người nầy, so với công đức mới phát tâm của Bồ-tát, trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, như vậy ức phần trăm ức phần ngàn ức phần trăm ngàn ức phần, cho đến A-Tăng-kỳ phần, vô số vô lượng vô biên không thể nói phần, không thể nói không thể nói phần, cũng không bằng một, thứ lớp dẫn dắt chúng sanh, bờ mé dục lạc các căn khác nhau, từ mười đến trăm, từ trăm đến ngàn, từ ngàn đến muôn, từ muôn đến ức, từ ức đến không thể nói không thể nói A-Tăng- kỳ số chúng sanh, đều khiến họ giữ năm giới mười điều lành, cho đến người thứ hai lại hơn số người trước lần lượt đến trăm người, số một người hơn một người, đều khiến họ chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, công đức có được so với công đức mới phát tâm của Bồ-tát, trăm phần không bằng một, cho đến không thể nói toán số thí dụ cũng không thể bằng. Vì hết những thí dụ kia không có chỗ nào so lường được với một tâm niệm nầy, cùng với chư Phật ba đời bình đẳng không hai không khác. Tiếng Phạm là Sám-ma, Hán dịch là Hối quá. Nghóa là dứt tâm nối nhau, một phen sám hối không bao giờ tạo trở lại. Tâm nầy một phen phát khởi thì không bao giờ lui sụt. Nếu ngay đó vô tâm, thì công đức mới phát tâm, so với công đức vô tâm, trăm phần ngàn phần trăm ngàn phần, trăm ngàn muôn ức phần, cho đến tính số thí dụ không thể nói không thể nói A-Tăng-kỳ phần, cũng không bằng một. Vì sao? Vì khi mới phát tâm, bình đẳng với ba đời Chư Phật, tâm nầy còn không có Chư Phật ba đời dò dẫm đến nơi, cho nên công đức một niệm vô tâm, lại không có chỗ suy lường. Nếu thế thì không sống cũng không chết, không Thánh cũng không phàm, không nhân cũng không ngã, không Phật cũng không pháp. Nếu thấy được như vậy, là sám hối chân thật. Nói Thượng tọa đã có chí khí Đại trượng phu, quyết định phải tham thiền, nhưng phải là khoát nhiên đại ngộ, ngay đó vô tâm, mới được an vui. Nếu không ngộ, chỉ là miệng nói được mấy cái vô vô, lại đưa ra mấy chỗ không của người xưa nói, lầm chứng cứ rồi lại nói: “Ta được nghỉ ngơi”, ta lại hỏi ông lại nghỉ được chưa? Chính là đem tâm vô tâm, nếu đem tâm bỏ vô tâm, tâm lại thành hữu, như thế nào kiên quyết không được, bậc Thánh xưa quở trách vì rơi vào ngoại đạo không ngơ, hồn người chết không tản mát, chê bai Đại Bát-nhã, không chịu sám hối. Tuy là nhân lành mà vời lấy quả ác, kiến giải như thế, như đạp gai tre lau sậy, đánh giết trăm ngàn muôn thú, rất có tội lỗi, lo chấp như thế còn có một bụng nghi. Nếu tự mình không nghi, mới có phương tiện, quyết nghi cho người khác. Nếu tự mình có nghi, thì làm sao trừ được nghi cho người, muốn trừ được nghi cho người, lại cùng người thêm một lớp nghi. Có chỗ nói mắt ta vốn chân chánh, vì Sư nên tà, các người phải biết tự mình không nghi mới có khả năng trừ nghi cho người. Thuở xưa, Đức Thế tôn ở trong hội Linh Sơn nói pháp, có năm trăm vị tỳ-kheo đắc định Từ thiền, đủ năm thứ thần thông, nhưng chưa được Pháp nhẫn, dùng túc mạng trì thông mỗi người tự thấy đời quá khứ, giết cha hại mẹ và các tội trọng, ở trong tự tâm mỗi người hoài nghi. Đối với pháp sâu xa không thể chứng nhập, lúc này ngài Văn-thù biết chúng nghi sợ, bèn nương thần lực Phật, tay cầm gươm bén, ép bức Như Lai. Đức Thế tôn bèn bảo ngài Văn-thù rằng: “Thôi thôi, không nên gây tội nghịch, không được hại ta, ta sẽ bị hại”. Nầy Văn-thù-sư-lợi: “Ông từ xưa đến nay, không có ngã nhân, chỉ do nội tâm thấy có ngã nhân, khi nội tâm khởi thì ta sẽ bị hại, tức gọi là hại, thế là năm trăm Tỳ-kheo tự ngộ bổn tâm như mộng như huyễn, ở trong mộng huyễn không có ngã nhân. Cho đến có thể sanh chỗ cha mẹ sanh bấy giờ năm trăm vị Tỳ-kheo, đồng tiếng nói kệ khen ngài Văn-thù rằng: “Văn-thù bậc đại trí Thâm đạt được nguồn pháp Tự tay cầm kiếm bén Ép bức thân Như lai Như kiếm, Phật cũng vậy Một tướng không có hai Vô tướng vô sở sinh Trong đây giết cái gì?” Nầy đại chúng! Văn-thù tuy vì chúng quyết nghi, phí lực không ít. Vân Môn ngày nay vì Đạo Thượng tọa mà quyết nghi, lại không dùng kiếm bén, chỉ có cái chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, nếu ở trong đây giải bỏ nghi tình, thì đi khắp thiên hạ. Nếu không được như vậy, thì cho chú giải lại, một dao chặt đứt đường sanh tử, khai mở đảnh môn chánh nhãn, vô biên nghiệp chướng đều tiêu hết, rốt cuộc như thế nào? Hàn Sơn Thập Đắc ở Thiên thai, dùng cây phất trần đánh dưới giường thiền một cái, hét một tiếng, xuống tòa. Đại Tuệ Phổ Giác Thiền sư giảng chung cho đại chúng. <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 14 Nối pháp trụ trì thiền viện Năng Nhân, ở Kính Sơn là Thiền sư Tuệ Nhật Uẩn Văn kính dâng. Huỳnh Đức Dụng thỉnh Sư Phổ Thuyết, Sư nói: Có Huỳnh Đoan Phu là cao Só ở Thiệu Vũ, tin về Phật thừa biết có việc nầy, bỏ gia sản dựng am ở một mình, đặt tên là Viên Ngộ Yết, thường có thư gửi đến xin, phân chia một nhánh Phật pháp. Ngài vì chúng sanh làm lợi ích lớn. Ngài Vân Môn không dám chấp nhận dễ dàng. Lại nhờ học só Ngô Nguyên Chiêu, hai ba lần cầu thỉnh, cũng chưa dám chấp nhận, chẳng may Đoan Phu mất, khi nghe những người hầu gần tỏ bày, gọi hai người con, dặn dò đôi ba phen rằng: Nếu vì ta đến Vân Môn, thỉnh một vị ở am một mình, thì chết không hối hận, nói xong thì qua đời. Hai người con không quên lời dạy bảo, đến cầu học só Nguyên Chiêu, soạn sớ sai Chuyên Sử, đi thỉnh Thiền nhân Di Quang làm chủ am. Thấy người chí thành, bèn nhận lời. Nay anh em Đức Dụng, đặc biệt đến ngay am huy Kim Biện vâng lệnh Sơn Tăng phổ thuyết, nêu bày tôn chỉ, để đáp ân đức các bậc Thánh che chở. Hơn nữa, gọi cái gì là tôn chỉ, tôn chỉ làm thế nào để nêu bày, Phật pháp cận đại đáng thương, tà Sư nói pháp, như cát sông Hằng, mỗi người lập môn phong, đều nói kỳ đặc, lại làm nghi lầm cho con cháu đời sau, không thể kể hết. Người tham thiền đã không có mắt pháp quyết trạch, người làm thầy mắt đạo lại không sáng suốt, cho đến như vậy. Vân Môn ban đầu không biết Nguyên Chiêu, chốc lát thấy ở Giang Tây ông ta đưa ra phẩm Hoa Nghiêm Phạm Hạnh, tự nói trong phẩm Phạm Hạnh có chỗ ngộ nhập, không nghi đầu lưỡi Lão sư trong thiên hạ, lúc đó đã được lãnh ngộ yếu chỉ, liền nói với huynh đệ, người nầy chỉ ngộ được cái vô Phạm hạnh mà thôi, đã bị Tà sư ấn phá ngoài cửa rồi. Nếu Vân Môn thấy, phải ra sức cứu họ, và gặp nhau ở Trường lạc, lại vào thất thăm hỏi, tức thời ông đem chỗ ngộ nhập chỉ có hai câu rằng: “Sở ngộ của ông là cái mà Vónh Gia cho rằng hoạt động không, bác nhân quả mênh mông rộng lớn, chuốc tai ương, lại đưa ra chứng cứ chỗ sai lầm trong phẩm Phạm Hạnh cho ông biết. Về thân không có chỗ thủ, về tu không có chỗ chấp, đối với pháp không có chỗ trụ, quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại vắng lặng, không có người tạo nghiệp, không có người thọ báo, đời này không dời đổi, đời kia không thay đổi. Trong đây pháp nào gọi là Phạm hạnh? Phạm hạnh từ chỗ nào đến, là sở hữu của ai, thể là ai, do ai mà làm, là có hay không? Là sắc hay phi sắc, là thọ hay phi thọ? Là tưởng hay phi tưởng? Là hạnh hay phi hạnh, là thức hay phi thức? Quán sát như vậy, pháp Phạm hạnh không thật có. Nếu y nơi đây dẫn chứng gọi là Vô phạm hạnh, là chân Phạm hạnh, thì là chê bai Đại Bát-nhã, vào địa ngục như tên bắn, lại vì ông nói. Mà nay bọn Tà sư các nơi, tự mỗi mỗi người nói được Vô thượng Bồ-đề, đều nói khác nhau, khinh chê xem thường, đem nhân duyên vào đạo của người xưa, vọng sanh xuyên tạc, hoặc là yên lặng không nói năng, vì việc kiếp Không trở về trước, dạy người thôi đi nghỉ đi, lại nghỉ ngơi giống như đất cây ngói đá, bỏ lại sợ người nói ngồi dưới núi Hắc trong hang quỷ, sau đó lại dẫn lời chứng cứ của Tổ sư, vì hiểu rõ thường biết, nói không thể kịp. Nghỉ ngơi được như cỏ cây ngói đá, chẳng phải là cõi âm không biết, gặp phải lo sợ rõ ràng, đi đứng ngồi nằm, thường bị ngăn trệ, chỉ có tu hành như đây, lâu ngày tự khế hợp với bổn tâm, hoặc bỏ đi tình trần không lập khuôn sáo cũ làm cửa nẻo. Người xưa nêu công án, sớm được lãnh hội, hoặc Thiền sư hỏi chẳng phải tâm chẳng phải Phật, không phải vật, ông làm sao lãnh hội. Lại nói: “Hòa thượng không ngại lo sợ”. Hoặc nói: “Hòa thượng qua lại chỗ nào?” Hoặc nói: Không thể trên mũi tên lại thêm nhọn. Hoặc nói: Xem thường người nhiều ít. Hoặc lại nêu một bài rằng: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật. Hễ hỏi ông về nhân duyên của người xưa, đều nêu ra chỗ lãnh hội, đánh đá lửa nháng ánh sáng lãnh hội, nêu ra lãnh hội, hễ có chỗ hỏi đều không nhận, gọi là dáng điệu tự tại được vui sướng hoàn toàn, hoặc lấy ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức làm chủ tể, dẫn một loại chỗ tương tợ của người xưa để chứng minh, dùng mắt thấy tai nghe làm chỗ đắc lực. Hễ chỗ có thông nhập, trước khi chưa có không do thấy vật mà ngộ, trước khi chưa có không do nghe tiếng mà ngộ. Hễ có lập bày, thì bắt chước chỗ tương tợ của người xưa. Có người hỏi: Chỉ quyết định người học có hỏi liền đáp. Nghóa là ngay lời nói đó hợp với Vô sanh, giống như Liên Ma người Phước châu, gọi là miên mật không rơi vào tinh trần. Như có vị Tăng hỏi người xưa: “Làm thế nào thoát khỏi ba cõi”. Người xưa đáp: Ông đem ba cõi đến là ông ra khỏi, hoặc nói cái gì làm ba cõi, hoặc nói, hiểu được câu hỏi của vị Tăng nầy, ra khỏi ba cõi cũng không khó. - Như có vị Tăng hỏi ngài Pháp Nhãn: Như thế nào là một giọt nước Tào Nguyên? Đáp: Là một giọt nước Tào Nguyên. Tuệ Siêu thưa Hòa thượng: Thế nào là Phật? Đáp: Ông là Tuệ Siêu. Dẫn loại làm chứng như đây, chính là hoàn toàn phải, hoàn toàn chẳng phải. Lại nói về trong đêm Dược Sơn chỉ bày chúng rằng: Ta có một câu: Đợi trâu đực sanh con, sẽ đến chỗ ông nói. Có vị Tăng bước ra trước chúng nói: Trâu đực đã sanh con, tự là Hòa thượng không nói. Dược Sơn nói: Đốt đèn đem đến. Vị Tăng kia liền trở vào trong chúng. Sau đến chỗ ngài Pháp Đăng nói: Hãy nói sanh là bò đực hay là trâu cái. Tự nói thay: Song sinh. Khi thương lượng cũng ngay lời nói hợp với hội Vô sanh. Dược Sơn nói: Ta có một câu, đợi trâu đực sanh con lại nói. Cho nên vị Tăng nầy lãnh hội được liền bước ra nói trâu đực đã sanh con, tự là Hòa thượng không nói, phải là miên mật không rơi vào mũi nhọn. Ngài Pháp Đăng gạn: hãy nói: Sanh ra là bò cái hay trâu cái. Lại tự nói thay: Sanh đôi. Cũng chỉ ngay dưới lời nói được lãnh hội Vô sanh rằng: Ông tự hỏi “bò cái hay trâu cái”, là tự nói thay rằng: “sanh đôi”. Lại không có chút thừa. Mắt Phật nhìn cũng không thấy, đem những lời nói nầy để phá không rơi vào mũi nhọn không tổn khí lực. Lại như người xưa chỉ một miếng đá hỏi người học rằng: Miếng đá nầy, ở trong tâm hay ở ngoài tâm. Đáp: Ở trong tâm. Người xưa nói: Ông phải chết gấp đi, trong tâm chấp một miếng đá. Trong chúng bàn rằng: Không được đem trong ngoài tâm mà đáp, nếu ông đem trong ngoài tâm mà đáp thì pháp có chút dư thừa. Nêu ra lời nói rằng: Rất tốt một miếng đá. Hoặc nói: Dạ dạ. Hoặc nói: Ở trước pháp đường. Hoặc nói: Cảm ơn thầy chỉ dạy. Hoặc nói: Hòa thượng lại biết hổ thẹn. Hoặc nói: Chậm chạp giết người. Hễ đáp những lời như thế, chỉ dùng một câu là bao gồm, gọi đó là “miên mật”, gọi đó là “bất tẩu, người có kiến chấp như thế, thấy rất nhiều trong tòng lâm. Hoặc nói tất cả ngôn ngữ đều không có việc dính mắc. Phàm khi hiểu biết, trước phải trộm nhìn con mắt như trẻ con lo sợ giống như trời nhìn thấy quỷ thần, chỉ sơ ở chỗ mắt gắng sức trợn nhìn, lại lầm dần câu nói chứng cứ của người xưa rằng: Đưa ra không để ý, toan suy lường thì kiếp nào ngộ. Khi đưa ra cần phải dùng mắt xem xét, chỉ là đem câu nói của người xưa đưa ra một bài, đổi thành không ở trên câu nói, như loại cây bách, rửa bát, ba cân gai. Nếu qua được một thời, thì người khác bỏ qua cái thẻ, lại không tốn sức. - Loại như thế, so với đá lửa nháng, ánh chớp, chỉ thêm được con mắt gắng sức trợn nhìn mà thôi. Cũng mỗi mỗi tự mình cho rằng được lỗ mũi của Tổ sư, đừng chê bai điều tốt của người xưa. Có vị Tăng hỏi Vân Môn: Như thế nào là hiểu thấu câu pháp thân? Vân Môn nói: Ẩn thân trong Bắc đẩu, ông làm sao hiểu. Người học liền trợn mắt nhìn nói: Ẩn thân trong Bắc đẩu, nhà Sư tạm làm ngăn cản người học, lại kêu nối nhau mấy tiếng rằng: “Ẩn thân trong Bắc đẩu, ẩn thân trong Bắc đẩu, cho rằng đắc định được làm chủ, không chịu chuyển đổi, nhà Sư vì sao không xuống, cũng gọi là thật, mới hỏi ý chỉ kia như thế nào, bèn hạ ngữ rằng: Mắt Phật cũng nhìn mà không thấy. Hoặc nói: Đưa ra ngoài trời xem. Hoặc nói: Thế nào là ý của Tổ sư từ phương Tây đến? “Cây bá trước sân”. Liền hạ ngữ rằng: “Một nhánh Nam, một nhánh Bắc”. Hoặc nói: Có khả năng làm chủ muôn vật, không theo sự suy tàn của bốn mùa. Ở trước đưa hết ra, ở chỗ mắt gắng sức trợn nhìn, rồi sau đó hợp với lời nói, cho là đặc biệt, kẻ ngu si không thể lại có thiền khi mắt gắng sức nhìn. Khi mắt không gắng sức nhìn thì lại không có thiền, khi không thể đưa ra lại có thiền, khi không đưa ra lại không có thiền. Hoặc thấy Vân Môn nói như thế, lại hiểu lầm rằng: Khi đưa ra cũng vậy, khi không đưa ra cũng vậy, lại không có hai cái giống nhau, giống như thế thì cứu không được. Hoặc đều không lý hội, nói chấp Phật pháp, nói chấp chỗ ngộ, lại phát cuồng, dẫn lầm câu nói của người xưa, vốn không có người mê ngộ, chỉ cần ngày nay liễu ngộ. Phàm nhân duyên người xưa, gọi đó là lập quyền, cũng gọi đó là kiến lập việc thật, chỉ ở chỗ bàn bạc không tạo ra Phật pháp. Hễ có hỏi đáp đều y cứ nơi thật đối đáp, bình thường không có việc gì, trời là trời, đất là đất, cây trụ lộ ra là bằng gỗ, kim cương là bằng đất, đói thì lại ăn cơm, buồn ngủ đi ngủ, đâu có việc gì. Há không thấy, Hòa thượng Chân Tịnh nói: Không đem cái vô sự mà hiểu, tâm người nghèo vô sự, thường thường người gay gắt trong cái vô sự, lại cho lời nầy là trái, hoặc thấy công án của người xưa, không thể dùng lý mà bàn bạc, lại chấp một phen chuyển đổi không quan hệ đến lời nói, một phen đối phó hơn gọi là huyền diệu, cũng gọi là không dính dáng đến nghóa, cũng gọi là thấu suốt đương cơ. Như có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Muôn pháp quy về một, một quy về chỗ nào? Triệu Châu đáp: Ta ở Thanh châu may một chiếc áo nặng bảy cân, rất nhiều người lầm bàn rằng: Vị Tăng nầy được câu hỏi đặc biệt, không phải ngài Triệu Châu có con đường xuất thân, lại vì sao không được, nói muôn pháp quy nhất, nhất lại không có chỗ về. Nếu có chỗ về tức thật pháp, cho nên ngài Triệu Châu biết phá được, đương cơ diệu dụng. Một phen đối phó hơn nói: Ta ở Thanh châu may một chiếc áo nặng bảy cân, nhiều ít đặc biệt, hoặc là thương lượng nói: “Muôn pháp quy về nhất, nhất quy về chỗ nào?” Một pháp nếu không có chỗ quy về, tức rơi vào không, cho nên ngài Triệu Châu nói: “Ta ở Thanh châu may chiếc áo vải nặng bảy cân”. Ngài Triệu Châu một phen chuyển lời nầy, rất là đặc biệt, chẳng rơi vào có không, đáp được rất khéo. Hoặc nói: “Vân Môn nói như thế, chỉ sợ người chấp trước. Nếu không chấp trước, thì lại là tâm Tổ sư, tất yếu chỉ tất yếu được là việc, không chấp tự do tự tại, không lìa chân mà lập xứ, lập xứ tức chân, đâu có việc gì? Hoặc hỏi ông khi cha mẹ chưa sanh thì thế nào là mặt mũi xưa nay của ông? Lại nói: Không có thị giả đối đáp với Hòa thượng, đem nghiệp thừa làm bổn mạng đầu tiên. Trào lưu như thế, đều là bọn si cuồng ngoại biên. Lại có một bọn, tự biết mắt đạo không sáng, thiền không chịu tin ở người, không đem khai ngộ cho người học. Tự đến nghe giáo lại không hiểu, hoàn toàn ở chỗ tọa chủ làm điều lỗi lầm, hơn được một lời nửa câu dụ dỗ bọn tai điếc. Hòa thượng Lâm Tế nói: Có một loại trọc đầu mù lòa, đối với giáo thừa lấy ý bàn bạc, thành ra cú nghóa, như đem cục phân ngậm vào miệng lại nhổ cho người khác, thì đó là không thể chịu được. Ngài Nguyên Chiêu ban đầu thấy nói như thế, trong tâm tuy nghi, miệng quá cứng, còn đối đáp sơn Tăng cười nhạt, đến chiều vào thất chỉ hỏi Ngài nói con chó không có Phật tánh, lại đi không được mới biết tham thiền yếu ngộ, ở Trường Lạc mười ngày, hai mươi lần đến trong thất, lộ ra hết thủ đoạn ngặt vì không được, mới sanh ra bận rộn. Sơn Tăng nói thật với ông: Không cần nêu ra thủ đoạn, phải khạc nhổ đất, bẻ gãy đoạn mới đối địch được sanh tử, được ra hết thủ đoạn rất có trông mong, ông vẫn đến nói, chẳng phải bận rộn. Đời nay tham không được đời sau tham, tin tưởng nhau rồi lại từ biệt ra đi. Cách khoảng hơn mươi ngày bỗng nhiên gởi thơ đến, và mười bài tụng xưa, đều là sơn Tăng ở trong thất hỏi ông về nhân duyên, trong thơ nói: Ở trên đường Diên bình bỗng nhiên có chỗ ngộ, Lão mỗ không hề dám coi thường, mới tin việc nầy, không theo người mà được. Một bài trong ấy nói: chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, toàn thân là một chuỗi xương vàng. Ngài Triệu Châu tham kiến lão Nam Tuyền, hiểu đạo ở Trần Châu, đi ra La Bặc. Sơn Tăng rất có nghi chấp. Lúc bấy giờ, Quang Thiền lại hỏi, y cứ bài tụng nầy có hiểu rõ được sanh tử chăng? Vân Môn nói với ông: rõ được hay không, lại xin hỏi Nguyên Chiêu, được hơn thơ của Quang Thiền nói: Học só gặp nhau, đều như Hòa thượng đã nói: “Đại chúng hãy nói đi, nói cái gì, ồ, nghi giết người trong thiên hạ, người có mắt sáng hiện rõ được”. Người đời nay tham thiền, bất luận rõ được sanh tử hay không, chỉ cầu mau có hiệu quả, lại phải lãnh hội thiền, chẳng có đạo lý nào không nói, như đàn việt ban cấp việc, thấy họ ưa nói đạo lý, bèn đem nhân duyên không có đạo lý cho ông xem. Vị Tăng hỏi ngài Vân Môn: “Thế nào là Phật?” Vân Môn nói: “Que chùi phân”. Lại e ông cho là hiểu đạo lý. Trước nói với ông không được, nói đạo ở phân tiểu, đạo ở cỏ kê cỏ đề, đạo ở ngói gạch, ngay nơi sắc rõ tâm, nương vật hiển lý, không được nói giống như khắp nơi là chân, trần trần đều là người xưa nay. Ông khán câu nói nầy, ngặt vì không ngay nơi đó, dùng hết khí lực xem đi, cuối cùng khán không ra, bỗng nhiên có một ngày tỉnh ngộ việc nầy, không thể dùng đạo lý thông hiểu. Lại nói ta có chỗ ngộ, bèn làm liên tục mấy bài tụng để trình bày kiến giải: “Bát ngát hư không gượng đặt tên Mặc tình Tăng họa vẽ không thành Dụng nào tìm nguồn hỏi đầu mối Đều không có một pháp đương tình”. Lại nói: Lại nói: “Đến nhà há lại nói lộ trình Muôn cây xuân đến lại tốt tươi Nếu gặp thượng lưu mượn ông hỏi Phía Đông Phù Tang mặt trời mọc”. “Linh ngưu sau đó dứt đuổi tìm Diệu quyết không truyền ở thiếu lâm Nhàn rỗi không khảy một khúc đàn Gió mát trăng sáng lưỡng tri âm”. Lại nói: “Buông tay vách núi tin không uổng”. Căn trần liền hết không còn thừa, mới biết Phật pháp không có nhiều, hướng ngoài tìm cầu càng mờ nhạt, sơn Tăng nói với vị Tăng: “Làm được bài tụng cũng tốt, nói được đạo lý cũng hay, nhưng cách đạo càng xa”, vị Tăng không chịu, lại làm bài tụng rằng: “Rất kî bàn nhiệm nói mầu Thế thì theo tiếng theo sắc Cùng đây một chổi quét sạch Mọi người đều không thấy biết”. Lại có sách nói: Khán câu thoại này liền được con đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, không có lời để nói, không có lý đáng bày, không khởi mảy may tâm tu học, trăm không biết, ngàn không hay, không hợp suy nghó, không vào đường lý, ngay đó là an vui. Sơn Tăng lại nói với vị Tăng: “Đây là đạo lý vượt ngoài qui cách, nếu là câu thoại “que chùi phân” khi nói được như vậy thì như lưỡi cưa xẻ làm hai cái vò. “Ba cân gai”, “con chó không Phật tánh” “một hớp uống hết nước Tây Giang”, chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, có câu cú không câu cú như sắn bìm nương cây cối. Tức tâm tức Phật, đều có thể nói như vậy được, đã không thể như vậy thì phải ngộ mới được. Ngộ thì việc đồng một nhà, không ngộ thì muôn ngàn sai khác. Sai một mảy may là lệch đi ngàn dặm, rất phải kỹ càng. Từ dạy đạo cho người Vân Môn đợi đàn việt vô thể, nhưng lòng không phụ người, mặt không có vẻ hổ thẹn”. Vị Tăng thấy Sơn Tăng chí thành bảo anh ta như vậy mới biết Phật pháp đâu không có tình người, bèn tin tưởng, đã tin tưởng chỉ dạy khán “thế nào là Phật? Là que chùi phân, cũng chỉ muốn vị Tăng theo được việc bỏ tiền tài lập am, đem vườn ruộng cúng dường chúng Tăng, cho đến cúng dường cho Sơn Tăng, liền cho là phải, thì gã nghèo khắp mặt đất lại không có phần tham thiền, chẳng những mất đi bậc Thiện tri thức làm mắt sáng cho người, cũng chính là chê anh ta cả trăm kiếp ngàn đời đâu phải việc nhỏ. Hạ năm nay lại có mấy vị nạp tử không chịu xét lại công phu năng lực của mình, chỉ lo vội vàng nôn nóng đến trình kiến giải, làm bài tụng cũ. Vân Môn tôi nói với họ “Đạo lý chẳng phải thứ này”, liền nói nắm chắc định, anh ta không chịu bỏ lỗi, ta lại hỏi ông, ông lại tự bỏ được lỗi cũng là rốt sau. Triệu Châu nói: “Các vị khó thấy dễ biết, ta ở trong đây dễ biết khó thấy”. Vân Môn bình thường hỏi người học: “Bảo làm trúc bề thì xúc chạm, không bảo làm trúc bề thì trái, không được hạ ngữ, không được không nói”. Mười người có năm con mắt, dầu có thông minh trình kiến giải, hết sức nói được chữ “lãnh”, hoặc trong tay đoạt được trúc bề, hoặc rủ tay áo liền đi, bao nhiêu giải khác không thể kể xiết, lại không có miếng da có máu. Người xưa nói: “Việc này như ông lão tám mươi vào nhà, chẳng phải chuyện đùa trẻ con”, nếu ghép được thì chép được ngàn muôn vạn rồi, đã không thể ghép vào thì phải ngộ mới được, ngoài ra thì không có lý. Nếu ông thật có chỗ ngộ, Sư gia cố nói không đúng cũng chiêu vời nhân quả không nhỏ. Nay do lễ trai chúc mừng khen ngợi đại chúng, Huỳnh Đoan Phu biết có Vân Môn mới nhân Nguyên Chiêu, Quang Thiền đến ở trong am, cũng nhân Nguyên Chiêu, Đoan Phu hai vị ngày nay lập trai đàn mời, sơn Tăng rộng nói cũng nhân vì Nguyên Chiêu. Vân Môn tạo ra sự rối rắm này cũng vì Nguyên Chiêu, đã như vậy, chớ nói Nguyên Chiêu cuối cùng làm việc gì?” Giây lâu lại nói rằng: “Đợi vị Tăng giữa đông đích thân đến chỗ Vân Môn, lúc ấy mới nói rõ cho các vị biết”, vỗ giường thiền, bước xuống tòa. Thái phu nhân nước Tần mời giảng chung cho đại chúng. Có vị Tăng hỏi rằng: “Kinh Viên Giác chép: “Ví như châu báu ma-ni trong sạch ánh ra năm mầu, khi mầu chưa hiện hạt châu ở chỗ nào?” Sư đáp: Kinh Viên Giác đâu có nói như thế. Tấn thưa rằng: chẳng hay hiểu thế nào? Sư nói: Kinh Viên Giác không hề nói như thế thì hiểu cái gì? Tấn thưa: Rốt ráo thế nào? Sư nói: Chỗ vắng Tát bà-ha. Hỏi rằng: Hồ Trương ba, Hắc Lý bốn, thì bất luận lỗ mũi con voi lớn Gia châu dài bao nhiêu? Sư nói: Dài hai trăm trượng. Tấn nói: Kéo lê làm sao? Sư nói: Ông xuyên Tăng tự phải biết. Tấn nói: Làm sao bị trâu sắc Thiểm Phủ nuốt. Sư nói: Ai nói như thế? Tấn nói: Chỗ cao cao nhìn thì không đủ, chỗ thấp thì bình đó có dư. Sư nói: Ông thử hướng về chỗ không cao không thấp nói xem. Tấn nói: Hiểm. Sư nói: Cái này vẫn là chỗ cao thấp. Tấn nói: Lúc có ý khí thêm ý khí. Sư nói: Giặc cỏ đại bại. Bèn nói: “Hôm nay là Thái phu nhân nước Tần người kế thị, sáng sớm Khánh Diên Chân Pháp kính cẩn bố thí tịnh tài, xa đến núi này tu thiền thanh tịnh cùng các hương trai, vẫn sai sơn dã lên tòa này vì chúng mà nói trai, khen ngợi Bát-nhã, nguyện tiến đạo nghiệp không bị ma chướng, sắc thân an vui. Ý muốn của Thái phu nhân nước Tần là vậy. Bà lão này chỗ hành cước hằng ngày xuyên Tăng đều biết, chỉ Lỗ Tử Tăng chưa biết. Hôm nay nhân trai hội chúc mừng để khen ngợi trước đại chúng, thấy nói Bà lão này lúc khoảng chừng ba mươi tuổi, trước khi Thái sư mất, Huy Du cùng Tướng quân còn nhỏ, lập thân sừng sửng, lẫm liệt không phạm vào sắc, làng Đông xóm Tây trông phong cách mà sợ, hết sức dạy hai vị học tập, việc xử sự có phép tắc, Huy Du cùng Tướng quân hầu hạ hai bên, không bảo thì không dám ngồi, nghiêm nghị như vậy. Tướng quân thường nói: “Ngày nay làm quan đều nhờ sự dạy dỗ của cha mẹ khi xưa, xưa được bao nhiêu bổng lộc, bài chi tiêu ăn uống trong nhà hằng ngày ra, cha mẹ đều đem cúng dường trai Tăng để cầu thọ cho tôi, cha mẹ tôi thường rất ghét người không có công mà hưởng lộc”. Nghe Tiên sư về đất Thục nhận sự cúng dường của vị Tăng rất nhiều, chỉ là chưa biết tham thiền. Huy Du cùng Tướng quân đích thân nói với Khiêm là cha mẹ tu hành, bốn mươi năm, chỉ một lần nầy thôi. Công từ lâu hầu hạ Hòa thượng Kính Sơn được học hỏi rất nhiều, còn giữ công kề cận sớm tối làm bạn thuyết thoại, bởi trên phần anh em, mẹ con, rất khó mở miệng. Nghe nói mỗi ngày cùng Khiêm nhóm họp, chỉ một bề kích thích khen ngợi việc này. Một hôm hỏi Khiêm: “Hòa thượng Kính Sơn bình thường dạy người thế nào?” Khiêm nói: “Hòa thượng chỉ dạy người khán câu thoại “Con chó không có Phật tánh” và câu thoại “cây trúc bề” chỉ ở chỗ không được buông lời, không được suy nghó, không được ở chỗ đề khởi, mà ngộ. Không được ở chỗ mở miệng mà gánh vác. Con chó có Phật tánh hay không, không chỉ dạy làm sao người khán? Vị Tăng bèn tin chắc, ngày đêm nghiên cứu. Thường ưa xem kinh, lễ Phật, Khiêm nói: “Hòa thượng thường nói: “Muốn xong việc này thì phải dừng việc xem kinh, lễ Phật, tụng chú”. Phải dứt tâm tham cứu, chớ để công phu xen hở, nếu một bề chấp trước xem kinh, lễ Phật, mong cầu công đức thì đó là chướng đạo. Đợi một niệm tương ưng rồi, thì vẫn xem kinh, lễ Phật như cũ, cho đến một nén hương, một cành hoa, một xá, một lạy, tác dụng mỗi pháp đều không luống uổng, đều là diệu dụng của Phật, cũng là nắm cái gốc tu hành, nhưng nghe tin nhau, quyết không lầm nhau”. Vị Tăng nghe Khiêm nói, ngay đó liền buông bỏ, chỉ chuyên chú ngồi thiền khán câu thoại “Con chó không Phật tánh”. Nghe đâu mùa đông năm ngoái, một đêm nọ chợt tỉnh giấc, thức dậy ngồi thiền nêu thoại, đột nhiên có sự vui mừng. Gần ngày Khiêm về nước Tần, có đích thân viết và làm mấy bài tụng đến trình lên sơn Tăng, có một bài tụng nói rằng: Hằng ngày xem văn kinh Như gặp người quen cũ Chớ nói thường có ngại Một nêu một lần mới. Sơn Tăng thường nói với huynh đệ: “Tham thiền rõ rồi thì đọc kinh xem sách giống như đi trong nhà mình, lại cũng như gặp được người quen biết lúc xưa”. Nay bài tụng này ở nước Tần vẫn thầm hợp với con cháu, ông xem anh ta là hạng nữ lưu, dường như có tác phong của trượng phu, có khả năng rõ được việc của đại trượng phu. Khiêm nói việc tu thiền từ trước nay với sơn Tăng, nói rõ một số bịnh thiền, lại cùng nước Tần kết duyên Bát-nhã với đại chúng, sơn Tăng nói với anh ấy: “Thiền có bịnh gì đáng nói, lại từng là bịnh đau đầu, lại không từng là bịnh đau chân, lại không từng là bịnh điếc tai, lại không từng là bịnh mờ mắt, chỉ là người tu thiền, tham bị sai lệch, chứng đắc sai lệch, dụng tâm sai lệch, nương thầy sai lệch, vì sự sai lệch này gọi nó là bịnh chứ chẳng phải thiền có bịnh. Thế nào là Phật? Tức tâm là Phật thì có bịnh gì? Con chó có Phật tánh hay không, không thì có bịnh gì? Bảo làm trúc bề thì xúc chạm, không làm thì trái, đâu có bịnh gì? Thế nào là Phật? Là ba cân gai thì có bịnh gì? Thế nào là Phật? Là que chùi phân, thì có bịnh gì? Ông không thấu suốt, vừa khởi đạo lý thì phải thấu suốt cả ngàn dặm muôn dặm, không giao thiệp cũng nghó tâm ghé vào người khác, nghó tâm suy lường người khác, từ chỗ nêu khởi hiểu một cách sơ lược, hiểu chỗ đập đá nháng lửa, ngăn cái này mới là bịnh. Thầy thuốc thế gian bó tay, nhưng rốt cuộc không can hệ đến việc thiền. Ngài Triệu Châu nói: Muốn làm anh em với Không Vương, chớ dạy bịnh tâm rất khó trị. Nhớ ngài Xá-lợi-phất hỏi Nguyệt Thượng Nữ rằng: “Nay cô tu hành thừa nào? Thanh văn, Bích-chi-phật hay Đại thừa?” Nguyệt Thượng Nữ đáp: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Ngài hỏi tôi tu hành thừa nào, nay tôi hỏi lại Ngài, xin Ngài tùy ý đáp lời tôi: Như pháp Ngài đã chứng là hạnh Thanh văn thừa, Bích-Chi-Phật thừa hay Đại thừa? Xá-lợi-phất đáp: - Không đúng! Này Nguyệt Thượng Nữ, vì sao? Vì pháp kia không thể phân biệt, cũng không nói năng, chẳng phải riêng, chẳng phải một, cũng chẳng phải nhiều. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Vì thế cho nên không được phân biệt các pháp là nhất tướng, là dị tướng, hay không riêng dị tướng, vì ở trong các tướng không có chỗ đáng trụ. Sư nói: Ngài Xá-lợi-phất hỏi thế nào, Nguyệt Thượng Nữ đáp thế nào, hãy nói, cách nhau bao xa với pháp người Thái phu nhân nước Tần đã chứng? Lại có người đoán được chăng? Thử ra đoán xem. Nếu không như vậy thì ở trong rối rắm mà tiến thủ, cho nên nói: “Hễ người tham học thì phải tham câu sống, chớ tham câu chết. Câu sống giới thiệu được thì nhiều kiếp không mất, câu chết giới thiệu được thì tự cứu không xong. Các ông mỗi ngày từ trên xuống dưới, trong phòng ăn cơm uống trà, trên mâm dọn muối dọn mì, trong nhà Tăng làm lợi ích, dưới chỗ rộng lớn bao la chọn rau, trong vườn sau gánh phân, dưới cối xay đẩy cối xay, bất cứ lúc nào mắt Phật cũng thấy, còn ông không thấy. Hãy nói là câu chết hay câu sống, hay là câu không chết không sống? Thử định cho đúng xem, nếu hiểu định cho đúng được cũng chưa khỏi ba câu. Đâu không thấy có vị Tăng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền rằng: “Tức tâm là Phật lại không được, chẳng tâm chẳng Phật lại không được, ý thầy thế nào?” Nam Tuyền đáp: “Ông chỉ cần tin “tức tâm là Phật” thì liền rõ, lại nói gì được và không được? Chỉ như Đại đức ăn cơm rồi, hiên Đông xuống hiên Tây, không thể hỏi mọi người được hay không được”. Trong đây nếu biết được Nam Tuyền mới không bị ba câu sai khiến, lại có thể khiển được ba câu. Đã sai khiến được ba câu mới cùng Nam Tuyền đồng mắt thấy, đồng tai nghe, đồng mũi ngửi, đồng lưỡi nếm, đồng thân xúc chạm, đồng suy nghó, không còn khác nhau. Chỉ vì ông chấp thuốc làm bịnh, bịnh xưa chưa hết bịnh mới lại phát, lại bị câu chết câu sống sai sử cho thất điên bát đảo, đem chỗ thẳng tắt của người xưa phút chốc làm cong vẹo. Vả lại, cái ấy là chỗ thẳng tắt của người xưa, ta lại (8 7 0) vì ông nêu một hai điều. Chỉ như ngài Nam Tuyền nói: “Dẫn trâu đến thả khe Đông, không khỏi trâu ăn lúa vua nước Đông, dẫn trâu đến thả khe Tây, không khỏi trâu ăn lúa vua nước Tây. Không bằng tùy phần nhận chút ít”. Đều không thấy công án này, có bao nhiêu người lầm đoán. Thế nào là lý nhận chút ít? Liền nói: “Mặc áo ăn cơm có gì khó” ở ở trước lừa sau ngựa làm kế sống. Vả lại chớ chê Nam Tuyền là tốt. Ông đã hiểu lầm, ở đây nhất định lại hiểu lầm. Hoàng Bá nói: “Các ông đều là những gã bả rượu, làm sao hành khước, chỗ nào có ngày nay? Lại biết nước Đại Đường không có Thiền sư chăng?” Lúc ấy, có vị Tăng ra hỏi: “Như các vị nuôi lãnh đồ chúng thì làm sao?” Hoàng Bá nói: “Chẳng nói không thiền, chỉ là không Sư”. Câu thoại đầu này trở thành mầm mống tai họa, chớ nói người chưa ngộ hiểu lầm, ngay cả người ngộ được rõ suốt đầu đuôi mà đại pháp không rõ cũng không nhìn thấy Hoàng Bá. Chỉ như Hoàng Bá nói: “Chẳng nói không thiền, chỉ là không Sư, ông hiểu lý thế nào?” Trong chúng bàn bạc nói: “Trong mỗi người ai cũng là trượng phu, đâu nhờ nương thầy”. Gã bả rượu lại nhai lời lẽ, mà ngôn từ lời lẽ vẫn là cặn bã của người xưa. Vả lại vui vẻ điều đình, muốn không bị chiêu cảm nghiệp Vô gián, thì chớ chê bai chánh pháp của Như lai. Há không nghe Tổ Quy Sơn nêu thoại này hỏi Ngưỡng Sơn rằng: “Ý Hoàng Bá thế nào?”. Ngưỡng Sơn thưa: “Ngỗng đầu đàn chọn lấy sữa, bỏ nước lại, loài vịt chẳng thể làm được”. Quy Sơn nói: “Điều nầy thật khó giải thích”. Chỉ như chỗ hỏi đáp của Quy sơn thế nào, lại làm sao bàn luận? Đến đây phải là cá nhân mới được, đã không hiểu cái này, lại đem các thoại đầu “Cây bách trước sân”, “Ba cân gai”, “Que chùi phân” “dùng cưa xẻ đôi cái lu” đều làm cặn bã. Đã hiểu lầm cái này chắc chắn lại hiểu lầm nữa. Ngài Đỗng Sơn hỏi Thủ tọa Thiềm: “Pháp thân chân Phật dụ như hư không, ứng vật hiện hình như trăng đáy nước”. Làm sao nói về đạo lý ứng để? Thiềm nói: Như lừa dòm giếng. Đỗng Sơn nói: Nói thì Thái sát nói, chỉ nói được tám thành. Thiềm nói: “Hòa thượng thì nói thế nào? Đỗng Sơn nói: Như giếng dòm lừa. Các vị bàn luận xem “như lừa dòm giếng” là có dấu vết, “như giếng dòm lừa” là không dấu vết. Lại bảo quên tình quét sạch dấu vết, vả lại vui vẻ điều đình là muốn thôi chẳng phải lý này, đã hiểu lầm việc này chắc chắn lại hiểu lầm. Hòa thượng Nam Nhạc nói: “Thí như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là đúng hay đánh trâu là đúng?” Mã Tổ nghe rồi bỗng nhiên đại ngộ, mà nay nói đúng theo lý và sự nhà thiền thì trâu dụ cho tâm, xe dụ cho pháp, chỉ rõ nội tâm, pháp tự rõ. Chỉ cần đánh trâu thì xe tự đi. Lại vui vẻ điều đình, nếu thế thì Mã Tổ đến năm con lừa cũng không thể ngộ được. Mã Tổ toan cho là Phật có thể do ngồi mà thành, thiền có thể do ngồi mà ngộ, nên một bề ngồi mãi. Hòa thượng Nam nhạc biết Mã Tổ chẳng phải phàm phu cho nên đem ngói đến trước cửa am của Tổ ngồi mài. Tổ nói: “Hòa thượng mài ngói làm gì?” Nam Nhạc nói: “Mài làm gương”. Tổ nói: “Mài ngói sao thành gương được”. Nam Nhạc nói: “Mài ngói đã không thành gương thì ngồi thiền đâu thành Phật được?” Mã Tổ bị Nam Nhạc thức tỉnh, trong lòng nóng bừng. Liền hỏi: Thế nào là đúng? Chỉ trong đây kéo đầu lỗ mũi, liền ở trong tay Hòa thượng Nam Nhạc rồi. Cho nên nói: “Muốn biết nghóa Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên” Hòa thượng Nam Nhạc thấy thời tiết của người ấy đã đến liền nói với anh ta: “Ông học ngồi thiền hay học ngồi làm Phật? Nếu học ngồi thiền, thì thiền chẳng phải ngồi, nằm. Nếu học ngồi làm Phật, thì Phật chẳng có tướng nhất định, đối với pháp vô trụ không nên thủ xả. Nếu ông ngồi mà làm Phật là giết Phật. Nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt lý thiền. Một khi nhờ vào mất kế sống của người, trở lại muốn người nhận vật, không lấy gì dạy người mới chịu bỏ mạng tìm chỗ chết, mạng đã bỏ rồi, liền hỏi “Dụng tâm thế nào mới hợp với Tam-muội vô tướng”? Ngài Nam Nhạc nói: “Ông học pháp môn tâm địa như gieo hạt giống, ta nói pháp yếu dụ như trời mưa thấm nhuần. Duyên ông khế hợp cho nên sẽ thấy đạo”. Lại hỏi: “Đạo chẳng sắc tướng làm sao thấy?” Nam Nhạc nói: “Tâm địa pháp nhãn có thể thấy đạo, Tam - muội vô tướng cũng giống như vậy.” sai”. Tổ nói: “Có thành hoại chăng?” Nam Nhạc đáp: “Nếu cho thành, hoại, hợp, tan là thấy đạo là Mã Tổ niềm nghi tan như băng gặp mặt trời đã nói là “không vào hang cọp, không bắt được cọp con”. Ngộ rồi nếu không gặp người thì mười điều bịa đặt hết mười, chắc chắn là người không đắc. Mọi người muốn biết ngộ rồi gặp người ấy hay chăng? Chỉ có Mã Tổ là mẫu người đó. Mã Tổ đã đắc pháp, thẳng đến Giang Tây dựng lập tông chỉ. Một ngày nọ, Hòa thượng Nam Nhạc nói: “Đạo Nhất ở Giang Tây nói pháp, không hề thấy tin tức gì?” Bèn sai một vị Tăng đi thăm, trước lúc đi Nam Nhạc dặn rằng: “Ông đến đó đợi y thượng đường liền hỏi: “Làm cái gì?”, coi y trả lời thế nào, ghi nhớ những lời ấy về nói ta nghe”. Vị Tăng ra đi làm đúng theo lời dặn, đợi Mã Tổ lên tòa nói pháp liền ra hỏi: “Làm cái gì?” Tổ nói: “Từ loạn Hồ sau ba mươi năm không hề thiếu tương muối”. Sư bảo đại chúng rằng: Môn hạ Tổ sư xuyên qua đáy lỗ mũi người đều từ một câu này. Các ông hãy nói một câu này từ chỗ nào đến? Từ chỗ đánh trâu hay đánh xe? Nếu các ông hiểu được câu này thì hiểu được Bà lão trên đường Đài Sơn. Có vị Tăng thường hỏi: “Đường Đài Sơn đi hướng nào?” Bà lão nói: “Đi thẳng một mạch”. Vị Tăng vừa đi Bà lão nói: “Tốt lắm thầy ơi, đi làm gì?” Triệu Châu nghe được nói: “Đợi ta đi khám phá Bà Tử nầy”. Triệu Châu đi gặp Bà Tử cũng hỏi như vậy, Bà Tử cũng đáp như vậy, Sư trễ về bảo chúng rằng: “Bà Tử trên đường Đài sơn bị Lão Tăng khám phá rồi”. Mọi người hiểu thế nào? Giữa kinh thành nhà vua ban chiếu chỉ, ngoài biên cương Tướng quân ra lịnh, nhưng làm thế nào cho xong? Sơn Tăng tôi năm xưa không lý giải được, từng thưa hỏi một vị Trưởng lão bị đặt chỉ giải cho rằng: “Vị Tăng này vừa hỏi đường Đài Sơn đi hướng nào?” Liền bị Bà Tử khám phá. Bà Tử nói: “Đi thẳng một mạch”. Vị Tăng liền đi, chính là tùy tiếng theo sắc thì sao lại không bị khám phá. Lại nói: “Vừa mở miệng liền khám phá rồi”. Nay suy nghó, thật không thể chịu được. Sơn Tăng vì các ông nói rõ ra, nên hiểu được câu “Bà Tử trên đường Đài Sơn bị Lão Tăng khám phá rồi” của ngài Triệu Châu, liền hiểu câu: “Tốt lắm thầy ơi, đi làm gì?” của Bà Tử nói. Sơn Tăng thường tụng: Thiền hòa trong thiên hạ nói khám phá Đâu biết Triệu Châu đã nói đọa Dẫn được trẻ con không trượng phu Mọi người đã nếm qua nằm đất lạnh. Bài tụng nầy rất rõ ràng dè dặt không được hiểu lầm, đã hiểu lầm bài tụng này chắn chắn lại hiểu lầm điều khác nữa. Ngài Mục Châu gọi Tăng đại đức, vị Tăng quay đầu lại, Mục Châu nói: “Kẻ vác bản, ta từng có một thoại đầu thiền, đem thoại đầu nầy hỏi Tăng, ông làm sao hiểu?” Vừa thấy vị Tăng mở miệng liền nói: “Đúng là vác ván”. Vả lại, lúc không thích giao thiệp, Tuyết Đậu niêm rằng: Mục Châu chỉ có một mắt, vị Tăng này nghe gọi đã quay đầu, vì vậy trở lại thành kẻ vác bản. Hối Đường nói: “Tuyết Đậu cũng chỉ có một mắt, vị Tăng này một khi nghe gọi liền quay đầu là chẳng phải vác bản. Hai người này có thể cùng Mục Châu nắm tay cùng đi. Nếu là một người lanh lợi vừa nghe nêu ra, mặt dường như chuông đồng, không hề hướng vào đây mà liếc quanh, đã không hiểu điều này thì chắc chắn lại hiểu lầm thoại đầu ngài Bá Trượng với chồn hoang. Liền nói: “Không mê không lạc cũng vậy”, chỉ là ngay lúc đó đáp thoại đầu này, không cùng mang niềm nghi. Sở dó đọa loài chồn vì tánh loài chồn vốn đa nghi. Vả lại, lúc không thích giao thiệp đã lầm hiểu điều này chắc chắn lại hiểu lầm điều khác. Tổ sư nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động mà tâm nhân giả động”, Sơn Tăng cùng từng thưa hỏi một vị Trưởng lão “ý chỉ thế nào?” Trưởng lão lấy cái áo làm dáng vẻ như gió động và nói: “Là cái gì? Khổ thay! Khổ thay! Xấu hổ sợ sệ giết người, đần độn cũng gây ra giết người”. Có người nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, nhất định là tâm động”, sơn Tăng bình thường hỏi người học: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chẳng phải tâm động, là cái gì?” Trong đây không cho liếc mắt, đã hiểu lầm cái này chắc chắn lại hiểu lầm cái khác. Văn-thù là thầy của bảy Đức Phật, làm sao định chắc không được xuất hiện là con gái, còn Bồ-tát Võng Minh vì sao lại được? Trong chúng bàn luận nói năng, cái chuôi đã ở trong tay con gái. Vả lại lúc không thích giao thiệp đã hiểu lầm điều này chắc chắn lại hiểu lầm điều khác. Ngài Tuyết Phong nói: “Đình Vọng Châu gặp ông, ở ngọn Ô Thạch gặp ông, trước Tăng đường lại gặp ông”. Như ngày nay các vị bàn luận xem thế nào là “Đình Vọng Châu gặp nhau?” Liền nói: “Đầu Nam mua hèn, đầu Bắc bán sang. Ý chỉ “ngọn Ô Thạch gặp nhau” là thế nào? Liền nói “Thạch Đầu lớn đáy lớn, nhỏ đáy nhỏ”. “Trước Tăng lúc không thích giao thiệp” là thế nào?” Liền nói: “Về nhà uống trà đi”. Vả lại, lúc không thích giao thiệp, từ bao nhiêu hiểu biết sai lệch không thể kể xiết. Sơn Tăng bình thường cũng hỏi người học: “Đình Vọng Châu gặp ông, ngọn Ô Thạch cũng gặp ông, trước Tăng đường lại gặp ông, thì sao?”, cái này là vòng kim cương chùm gai cây dẻ, ông làm sao nuốt, làm sao thấu suốt, ông muốn biết người có thể nuốt trôi chăng? Đâu không thấy Bảo Phước hỏi Nga Hồ: “Trước Tăng đường thì hãy để đó, còn đình Vọng Châu và ngọn Ô Thạch làm sao gặp nhau? Nga Hồ bước vội về phương trượng, Bảo Phước liền vào Tăng đường, Hòa thượng Phần Dương có bài tụng rằng: Vọng Châu, Ô Thạch và trước nhà Thấy nhau biết nhau mấy muôn lần Chỉ có Nga Hồ và Bảo Phước Lúc này thấy nhau biết đùn đẩy. Bài tụng này rõ ràng vì ông mà nói, đã không hiểu điều này thì chắc chắn lại hiểu lầm. Huyền Sa nói: Các vị đều nói “độ người lợi sanh” nếu như gặp ba loại người bịnh đến thì làm sao độ? Người bịnh mù thì giơ chùy dựng phất, anh ta sẽ không thấy. Người bịnh điếc, thì Tam-muội ngữ ngôn anh ta lại không nghe. Người bịnh câm, dạy y nói lại nói không được. Nếu không độ được những người nầy thì Phật pháp không linh nghiệm”. Sư ngoái nhìn đại chúng nói: “Muốn biết Huyền Sa chăng? Bình sinh tim mật bày hết ra cho người, biết nhau lại như không biết”. Ngay lúc đó, Hòa thượng Địa Tạng ở dưới tòa bước ra nói: “Người nào đó, có miệng không câm, có mắt không mù, có tai không điếc, Hòa thượng làm sao độ?” Sư nói: “Chẳng phải cha ấy thì không sinh ra con này”. Huyền Sa cười ha hả. Sư nói: “Trong tiếng cười có con dao”. Sơn Tăng có lúc nêu lời thoại này hỏi người học, có người giống như vẽ hồ lô cũng nói: “Người nào đó có miệng, có tai, có mắt, Hòa thượng làm sao độ?” Sơn Tăng nói với anh ta: “Cắn người, đái vào cọc, chẳng phải là chó tốt”, lại bỏ đi không được. Đã hiểu lầm điều này thì chắc chắn lại lầm hiểu lầm cái khác. (8 7 2) Hương Nghiêm nói: “Như người ở trên cây, miệng ngậm cành, tay chân đều buông. Ở dưới cây có người hỏi ý Tổ sư từ Tây trúc đến, không đáp thì phụ lòng người kia hỏi, nếu đáp lại thì bị tan thân mất mạng”. Sư đáp: “Được! Chôn chung một hầm với Huyền Sa”. Sơn Tăng xưa từng thưa hỏi một vị Tôn túc, Ngài chưa xét ý chỉ Hương Nghiêm thế nào, bèn lấy phất tử đưa vào miệng ngậm vội nhắm mắt, làm dáng vẻ như ngậm cành cây, thả tay buông chân, để đáp lời Sơn Tăng. Sư bèn búng ngón tay nói: “Như vậy cũng là ngay năm đó, chạy theo tiếng khen, còn làm việc ấy xong đi thì bao nhiêu tác quái khác không ở nơi lời nói. Ông muốn hiểu chăng? Chỉ nói một câu, ta trước vì ông nói, chớ thấy đạo nói một câu, liền ở chỗ nêu thoại mà hiểu. Vả lại, nếu không phải lý này thì là lý gì? Như người trên cây, miệng ngậm cành cây, tay chân đều buông. Dưới cây có người hỏi ý Tổ sư từ Tây Trúc đến, không đáp thì trái lời người ấy hỏi, nếu đáp lại thì bị tan thân mất mạng, thế nào trong lúc này không để tóc?” Ngay lúc ấy, trong hội Hương Nghiêm chỉ có Thượng tọa Hổ Đầu lãnh hội được ý của ngài Hương Nghiêm, liền bước ra nói với ngài Hương Nghiêm rằng: “Trên cây thì bất luận, lúc chưa lên cây thỉnh Hòa thượng nói”. Sư nói: “Dẫu được một bề tươi tốt, thì mất đôi chân”. Hương Nghiêm cười ha hả, Sư nói: “Sắt làm da mặt”, lại nói rằng: “Xoay trời chuyển đất”. Về sau Tuyết Đậu niêm rằng: “Trên cây nói thì dễ, dưới cây nói mới khó”. Lão Tăng trên cây cũng có thể đem một câu hỏi đến, Tuyết Đậu tuy nói với Thượng tọa Hổ Đầu mà ngặt là phải trải qua Hương Nghiêm. Nay có người lầm nghe Tuyết Đậu nói thế nào liền dẫn lời Đỗng Sơn rằng: “Chỉ có thể chớ xúc chạm đến chỗ kiêng kî ngay đây, thì cũng hơn tài cắt lưỡi ngày trước”. Nghóa là Hương Nghiêm lập câu thoại đầu này dụ như một cục lửa gần như không thể chạm đến được, dẫu là như vậy nhưng cũng không thể bỏ đi ngôn cú. Có người hỏi: “Thế nào là Phật?” Đáp: Ba cân gai. Thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến? Cây bách trước sân. Lại đâu ngại gì, ông không ngại hội được thì tốt. Không thấy Hòa thượng Phần Dương có bài tụng hay sao: “Hương Nghiêm ngậm cây chỉ bày cho nhiều người, muốn dẫn dắt đồng bào hiểu thấu cây thật”. Sư nói rằng: “Y thật thì cung thông, nghó bàn lại từ ngay lời nói mà tìm, tan thân mất mạng số như bụi”. Sư nói rằng: “Chẳng phải khổ tâm người không biết, Phần Dương vì ông mở đường cõi trời, mây tan, sắc mới mặt trăng lồ lộ giữa hư không”. Sư nói: “Chưa dùng đến ngôn ngữ, dầu như vậy, nếu ở trong đây nêu được thì việc tham học một đời đã xong. Nếu nêu không được, thì chắc chắn lại hiểu lầm”. Bá Trượng hỏi Quy Sơn, Ngũ phong, Vân Nghiêm: “Bỏ cả cổ họng, môi thì làm sao nói?” Qui Sơn thưa: “Lại thỉnh Hòa thượng nói”. Bá Trượng nói: “Ta không có lời để nói với ông, sợ sau này mất hết con cháu của ta”. Ngũ Phong nói: “Hòa thượng cũng phải bỏ cả”, Bá Trượng nói: “Không người xử chẻ trán ông” Tuyết Nghiêm nói: “Hòa thượng có như vậy chưa?” Bá Trượng nói: “Mất hết con cháu ta”. Trong chúng bàn luận nói: “Bá Trượng giống như ôm tang vật mà kêu oan, chụp tai tên ăn cắp cái linh”. Ba người kia làm sao đối đáp, mọi người đều chạy vào đám cỏ hoang, lại không thích giao thiệp mà nói với ông, việc này chắc chắn không ở trên lời nói, đã không ở trên lời nói thì ngay lúc đó làm sao hội, ta sớm đã nói rõ với ông rồi, đã lầm điều này chắc chắn lại hiểu lầm điều khác. Đức Sơn nói: “Đêm nay không đáp thoại, ai hỏi sẽ bị đánh ba mươi gậy”. Lúc ấy, có vị Tăng ra lễ bái, Đức Sơn liền đánh, vị Tăng nói: “Con chưa hỏi thoại vì sao đánh con?” Đức Sơn nói: “Ông người xứ nào?” Tăng đáp: “Người Tân La”, Đức Sơn nói: “Lúc chưa bước xuống thuyền đã đáng đánh ba mươi gậy”. Về sau, Pháp Nhãn nói: “Đức Sơn lớn nhỏ nói làm hai cọc”, Viên Minh nói: “Đức Sơn lớn nhỏ đầu rồng đuôi rắn”. Tuyết Đậu niêm rằng: “Hại vị Lão túc dầu khéo cắt dài nối ngắn, bỏ nặng theo nhẹ mà muốn thấy Đức Sơn cũng chưa thể được”. Vì sao? Vì Đức Sơn giống như nắm uy quyền bên ngoài cổng thành. (8 7 2) Có việc đáng dứt, không dứt, không vờí lấy loạn kiếm kia, muốn biết vị Tăng Tân La chăng? Chỉ là gã mù thấy hạt sương dính gốc cây. Trong chúng bàn luận nói: “Người đó lời thoại cũng chưa hỏi đáng đánh. Đức Sơn không đánh, lại hỏi: “Ông là người ở đâu?”. Trong đây chính là lời thoại làm hai cọc, chỗ đầu rồng đuôi rắn. Lại không thích giao thiệp: “Vị Tăng này nếu là tác gia (Thiền sư) thì vừa nghe người khác hỏi: “Ông là người ở đâu?”, thì liền phải lật ngược giường thiền. Anh ta đã không thể làm liền bị Đức Sơn nói: “Chưa bước xuống thuyền đã đáng bị ba mươi gậy”, trong đây là đáng dứt không dứt, không gây ra loạn kiếm gươm kia, cho nên Tuyết Đậu nói: “Muốn biết Tăng Tân La chăng? Chỉ là gã mù thấy hạt sương dính gốc cây”. Lại không thích giao thiệp, nếu thiền là lúc làm sao hội được, lại là không ngộ, thông minh lanh lợi, ngay một lúc tùy ngộ mà sanh ra hiểu biết, hiểu biết bỏ đi liền liễu ngộ. Ta lại hỏi ông thế nào hiểu biết liền được một lúc buông bỏ, sanh tử đến làm sao sai khiến? Mà nay nói với ông rõ ràng là những lời lẽ thừa thải nhàn rỗi này lại là con đường tắt ra khỏi sanh tử. Ông chớ đi trên đường tắt mà cắt gai góc, đào hầm phân. Nếu có nạp Tăng hỏi: “Hòa thượng lúc này trong đây dọn gai góc, đào hầm phân, không như vậy làm sao đối đáp?” Sơn Tăng có chỗ thoái thác. Lại làm sao thoái thác? Hãy nghe một bài kệ: Trong nữ nhi có Đại trượng phu Thị hiện thân nữ (giáo) hóa nữ Dùng giới, định, tuệ, pháp giải thoát Nhiếp phục tham dục, sân nhuế, si Tuy ở trong đó làm Phật sự Như gió hư không chẳng chỗ nương Quá khứ, vị lai và hiện tại Chư Phật, Bồ-tát nhiều như bụi Khác miệng đồng lời nói lời này “Lành thay! Kỳ lạ, đời ít có” Nguồn tâm thanh tịnh không mừng lo Không khởi tưởng, không lo không mừng Theo duyên đời làm kịch bi, hài Mà đồi duyên đời không dính mắc Tháng sáu mây đỏ cháy trời xanh Bỗng tiếng sấm động cõi Tam thiên. Tiêu trừ nóng bức được mát mẻ Là thời tiết sanh trượng phu kia. Ta nói kệ nầy giúp ánh sáng Khắp cho người nữ cả pháp giới. Liền hét một tiếng. <篇> <卷>QUYỂN 15 Đệ tử nối pháp trụ trì Thiền viện Năng Nhân ở Kính Sơn là Thiền sư Tuệ Nhật Uẩn Văn kính dâng. Tiền Kế Nghị thỉnh Sư giảng chung cho đại chúng, có vị Tăng hỏi: - Xưa có vị Tăng hỏi Hòa thượng Dương Chi: “Thế nào là Phật?”. Đáp: “Con lừa ba chân khua móng đi”, chẳng hay ý chỉ thế nào? Sư nói: “Trên trời, dưới đất không dấu vết”. Dắt dẫn rằng: “Chỉ như trước Phật Oai Âm Vương là người nào cưỡi”. Sư nói: “Sau Phật Oai Âm Vương là người nào cưỡi?” Vị Tăng suy nghó, Sư liền hét, bèn nói: “Trước Phật Oai Âm Vương con lừa ba chân nhảy, sau Phật Oai Âm Vương, Dương Chi Lão nhân bặt tin tức, đã bặt tin tức lại vì sao lừa ba chân nhảy. Nếu cũng ở đây rõ được, mới biết trước Phật Oai Âm Vương con lừa ba chân quả nhiên nhày. Nếu không rõ được thì Dương Chi Lão nhân cả đời bị khuất phục? Hét một tiếng nói: “Kịp đến ngỏ hiểm”. Lại nói rằng: “Thượng tòa Uẩn Văn ngày nay tay thế Tử Hư đến thỉnh giảng chung cho chúng nghe. Lão Hớn nói: “Nói cái gì liền được” Uẩn Văn nói: “Thỉnh Hòa thượng nêu ra vòng kim cương chùm gai cây dẻ của Dương Chi mà bố thí cho đại chúng”. Lại nói rằng: “Như Trung Quốc Sư Đại Châu Hòa thượng nói pháp, mọi người phần nhiều có nghi, Hòa thượng kia chỉ quậy bùn khuấy nước chứ không nói thẳng lý thiền, xin Hòa thượng lược quyết chân ngụy dứt trừ nghi ngờ cho đại chúng, đây cũng là thỉnh rộng nói ý đàn việt. Lão Hán đáp: “Ừ! Sở dó Đại giác Thế Tôn khi mới ngộ việc này, ở nước Ma-kiệt-đà, trong hai mươi mốt ngày không mở miệng. Phật tự nghó “Ta thà không nói pháp, mau nhập vào Niết-bàn, chứ pháp khó tin khó biết rất khó nói”. Lại nghó đến năng lực phương tiện Chư Phật quá khứ đã thực hành, rồi sau mới rời cội Bồ-đề đến vườn Lộc uyển, tùy căn khí chúng sanh mà nói Đại tạng giáo. Cuối cùng thâu nhân đạt quả, lại nói: “Ban đầu từ vườn Lộc uyển, cuối cùng đến sông Bạt-đề, giữa hai nơi ấy ta không hề nói một chữ”, chỉ có đây liền là chỗ Dương Chi gọi là vòng kim cương, chùm gai cây dẻ, thật là khó nuốt trôi”. Đến đây, ngay đó gánh vác được mà đại pháp chưa rõ, cũng lại làm sao không được? Xin hỏi các ông! Thế nào gọi là Đại pháp? Vòng Kim cương làm sao suốt? Chùm gai cây dẻ làm sao nuốt? Không thấy Nham Đầu nói: “Nếu đem thật pháp bó buộc người, một cõi còn tiêu không được huống gì mười phương tín thí hay sao? Chư Phật ra đời, Tổ sư Tây Trúc đến, đều chỉ là chứng minh các ông là chủ mà thôi. Nếu có pháp để truyền trao thì tuệ mạng của Chư Phật đâu đến ngày nay. Cho nên Tổ sư nói: “Tâm địa tùy thời nói, Bồ-đề cũng như vậy, sự lý đều không ngại, ngay sanh là không sanh”. Nếu hiểu được bốn câu này thì liền rõ suốt được vòng kim cương, nuốt được chùm gai dẻ, không cần muốn rõ Đại pháp mà đại pháp tự rõ. Cho đến ý chỉ nhân duyên khác nhau của người xưa, tâm tánh nhiệm mầu, đại pháp nếu rõ lúc vừa nêu liền hiểu được, giống như nam châm gặp sắt, nhẹ nhàng xê dịch liền chuyển động, phải nêu một rõ ba, như ( 8 7 3) một mắt có hai con ngươi, nhìn là dính Nam động Bắc, khi nêu lên liền rõ, mà nay các vị có vài loại tà thiền, nếu rõ đại pháp, chỉ có tà thiền này là vật thọ dụng của nhà mình, khéo đánh đá lửa cho lóe ánh sáng, một cây gậy, một tiếng hét, chắc chắn không ưa nói tâm nói tánh, chỉ ưa cơ phong tài giỏi nhanh nhẹn, gọi đó là đại cơ đại dụng. Khéo nói tâm, nói tánh, chắc chắn ưa đánh đá lửa cho lóe ánh sáng, một cây gậy, một tiếng hét, chỉ ưa tơ đến sợi đi, gọi đó là miên miên mật mật, cũng gọi là việc dưới gót chân đâu không biết. Ngay cái chỗ không dùng, ngắm nghía cục bùn, xem chỗ dụng của bậc tôn túc tiền bối, rõ đại pháp quay lọc cọc, như Nam Dương Tuệ Trung Quốc Sư Đại Châu Hòa thượng. Chỉ có Dương Văn Công có đủ mắt, khi sửa Truyền Đăng lục, đem Tuệ Trung Quốc Sư Đại Châu Hòa thượng sắp vào sau Mã Tổ và bên phải các vị Tôn túc, đem ngôn cú đã nói rộng vào hết trong đó. Lục tổ về sau lấy lời của Tuệ Trung Quốc Sư rất nhiều làm cửa lớn, nhà lớn khác. Pháp tánh rộng lớn như sóng cuộn khó gần gũi, ngăn pháp khó nói, ông ta thiền đủ các thể, như ba lần gọi thị giả nói thoại, gọi là “nói Lão Bà Thiền khuấy bùn quậy nước chăng?” Một hôm gọi thị giả, thị giả đáp “dạ”, ba lần gọi như vậy ba lần thị giả đáp “dạ”, Sư nói: “Quốc sư ba phen kêu thị giả nào từ cô phụ, thị giả ba lần đáp, thì chỗ nào là chỗ cô phụ” Quốc Sư đáp: “Toan cho là ta phụ ông, ai biết ông phụ ta” Sư nói: “Đất bằng nổi đống xương”. Lại nói: “Trong tòng lâm cho là thoại đầu Quốc sư ba lần gọi thị giả từ đây là có một cái bao gồm, chỉ có Tuyết Đậu thấy suốt xương tủy. Người xưa nói rằng: “Quốc sư ba lần kêu thị giả, điểm liền không đến” Sư nói: “Rõ ràng”, thị giả ba lần đáp, đến tức không điểm, Sư nói: “Lại không thế sao?”, toan cho là ta cô phụ ông, ai hay ông cô phụ ta, lừa Tuyết Đậu không được, Sư nói: “Ai nói?” Lại vẫy đại chúng nói: “Đúng! Không lừa được Tuyết Đậu, dù là như vậy, nhưng Tuyết Đậu cũng không lừa được Diệu Hỷ, Diệu Hỷ cũng không lừa được mọi người, mọi người cũng không lừa được Lộ Trụ”. Huyền Sa nói: “Thị giả lại hội”, Tuyết Đậu nói: “Dừng (ở) lớn trí”. Sư nói: “Hai sắc một mầu” Vân Môn nói: “Thế nào là chỗ Quốc sư cô phụ Thị giả? Hiểu được cũng là không đầu mối” Tuyết Đậu nói: “Xưa nay không hội”. Sư nói: “Tuyết Phong nói xong, Vân Môn lại nói: “Thế nào là chỗ thị giả cô phụ Quốc sư, tan xương cũng nát thịt chưa báo đáp được”. Tuyết Đậu nói: “Không đầu mối, không đầu mối”, Sư nói: “Lỗ châu mai sanh mũi tên”. Pháp Nhãn nói: “Hãy đi đi! Khi khác đến” Tuyết Đậu nói: “Lừa ta không được”. Sư nói: “Lại là Pháp Nhãn hội”, Hưng Hóa nói: “Một người đui dẫn đám mù”. Tuyết Đậu nói: “Mù đầu tiên”. Sư nói: “Lời anh nói xuất phát từ miệng anh”. Hoằng Giác hỏi vị Tăng: “Cái gì là chỗ thị giả hội?” Vị Tăng nói: “Nếu không hội thì đâu hiểu đáp thế nào?” Hoằng Giác nói: “Ông hiểu được ít”, lại nói: “Nếu ở đây thấy được, liền biết Huyền Sa”. Sư nói: “Tam Hoàng giết người” Thúy Nham Chi nói: “Quốc sư, thị giả đều thiếu hội”. Sư nói: “Vẫn sáng với một số.” Đầu Tử nói: “Ép ngặt người làm gì?” Tuyết Đậu nói: “Gã gốc cây”, Sư nói: “Lý dư liền đến”. Lại nói: “Chỉ có Triệu Châu là ông thầy nhiều miệng, liền được gót chân khiến người nghi” Tăng hỏi: Quốc sư ba lần gọi thị giả, ý chỉ thế nào?’ Triệu Châu đáp: “Như người viết chữ trong tối, chữ tuy không thành, mà lối văn đã bày”. Tuyết Đậu liền hét. Sư nói: “Hãy nói! Ngăn một tiếng hét trên phần Quốc sư, thị giả, hay ở trên phần Triệu Châu”, ngay sau đó hét một tiếng, lại nói: “Nếu không phải mạng căn năm sắc của ông đứt thì làm sao thấu suốt được lỗi này?” Tuyết Đậu nói: “Nếu có người hỏi Tuyết Đậu, Tuyết Đậu liền đánh”. Muốn mọi người xem xét, Sư nói: “Có tật giật mình” Tuyết Đậu lại có một bài tụng rằng: “thầy trò hội ngộ ý chẳng khinh”. Sư nói: “Lời này có hai cửa, không sự tướng toan đi trong cỏ”. Sư nói: “Người Phổ Châu rước giặc, chớ hỏi phụ ông hay phụ chúng ta”. Sư nói: “Hãy đợi lạnh đến, mặt cho thiên hạ nơm nớp tranh đầu” Sư nói: “Tức nay thôi đi, lại thôi đi, nếu tìm rõ thời, không rõ thời”. Lại nói: “Ông muốn cầu Huyền Sa giải hội, chỉ cần lý giải thoại đầu “Quốc sư ba lần kêu thị giả”, trong đấy là chỗ Quốc sư cô phụ thị giả, trong đấy là chỗ thị giả cô phụ Quốc sư, có gì quan hệ, ngỗng đầu đàn chọn sữa, loài vịt chẳng thể được, cái này lại là trên việc Quốc sư dùng đao kiếm, lại vì có những người này lại riêng có được. Một hôm có người hỏi Tử Lân Cung Phụng: “Từ chỗ nào đến?” Phụng đáp: “Từ thành Nam đến”. Quốc sư nói: “Thành Nam cỏ mầu gì?” Phụng đáp: “Cỏ mầu vàng”. Quốc sư bèn hỏi Đông tử: “Thành Nam cỏ mầu gì?” Đồng tử thưa: “Cỏ mầu vàng”. Quốc sư nói: “Chỉ có Đồng tử này có thể trước rèm cho dây thao để bàn luận huyền diệu với vua. Quốc sư nói Lão Bà Thiền khuấy bùn quậy nước được chăng? Lại chỉ những người này riêng có được. Một hôm, vua Túc Tông thỉnh xem hát. Quốc sư nói: “Đàn việt có tâm thỉnh xem hát”. Thiền sư Pháp Vân Viên Thông nói: “Hãy nói! Quốc sư chỗ nào đến? Diệu Hỷ xin hỏi các: vị hãy nói Viên Thông Thiền sư từ chỗ nào đến? Ở đây thấy được, ba ông cách nhau không xa”. Vua Túc Tông lại hỏi: “Thế nào là mười thân Điều Ngự? Quốc sư vội nói với vua: “Đàn việt đạp trên đảnh Tỳ-lô mà đi”, lại hỏi: “Thế nào là mười thân Điều ngự? Các người muốn thấy Quốc sư Tuệ Trung chăng? Chỉ ở trong con ngươi của ông, mở mắt cũng sai, nhắm mắt cũng sai, đã ở trong con ngươi vì sao lại sai? Diệu Hỷ nói thế nào, cũng sai lầm chẳng ít. Ông lại xem ông ta có thoại “hữu tình nói pháp”, Lão Hán bình thường không hề nói, nay đã không biết tốt xấu, không tránh khẩu nghiệp, hết lòng hăng hái vì các người, rửa sự khuất phục cho người khác, vả lại không được làm sự hiểu nghóa lý”. Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là tâm của Phật xưa?” Quốc sư đáp: Là tường, vách, ngói, đá. Sư nói: “Thế nào là đáp thoại? Nếu Diệu Hỷ mở đường, tâm không bặt, mạng căn không dứt, đại pháp không rõ, chắc chắn không dám như vậy. Tứ Lăng Tháp một cái đánh, một tiếng hét, một lần xô, một lần đẩy, (8 7 4) đá nháng lửa, điện chớp sáng lại dễ, đây thường nói thoại lại khó vào. Trước nói là nhà to cửa lớn, tánh giác như sóng cuộn, mạng căn dứt mối có thể như vậy. Vị Tăng hỏi: “Tường vách ngói đá đâu không phải vô tình?” Quốc sư đáp: Phải. Vậy vô tình lại hiểu lời nói pháp chăng? Thường nói rõ ràng, nói không đứt quãng. Vì sao con lại không nghe? Ông tự không nghe, không thể ngăn người khác nghe. Con chưa rõ người nào được nghe? Các Thánh được nghe. Hòa thượng có nghe chăng? Ta không nghe. Hòa thượng đã không nghe, thì đâu biết được vô tình có thể hiểu nói pháp? Nhờ ta không nghe, nếu ta nghe thì ta đồng với các vị Thánh, ông liền không nghe ta nói pháp. Thế thì chúng sanh không có phần. Ta nói với chúng sanh, không nói với các vị Thánh. Chúng sanh sau khi nghe thì thế nào? Thì chẳng phải chúng sanh. Sư nói: Kỳ lạ thay! Ông nhìn người khác xoay lọc cọc mà không vướng mắc một góc, thì không phụ người khác hỏi. “Nhờ ta không nghe, nếu ta nghe thì ta đồng với các vị Thánh, ông liền nghe ta nói pháp”, ông có gọi là không nên thân chăng? Chẳng phải đã được tâm tủy của Chư Phật, chư Tổ thì làm sao chuyển, ông chớ cho là không được mất, cái này là có được mất trong không được mất, không được mất trong có được mất, gọi là vào bùn vào nước, cưỡi ngựa giặc đuổi quân giặc, mượn áo bà già lạy bà già có khó gì. Tăng lại hỏi: Phát tâm xuất gia vốn nghó là cầu thành Phật, chẳng hay dụng tâm thế nào liền được thành Phật? Quốc sư đáp: Không có tâm để dụng liền được thành Phật. Sư nói: “Vị Tăng này khó tha, giống như chuột ăn gạo, gã này dai ghê”, lại xô gã Tăng dai này dừng lại. Tăng lại hỏi: Không có tâm để dụng thì ai thành Phật? Quốc sư đáp: Không Tâm tự thành Phật, thành Phật cũng không có tâm. Phật có công đức lớn không thể nghó bàn, vì độ được chúng sanh, nếu cũng không có tâm, thì ai độ chúng sanh? Không có tâm là chân độ sanh. Nếu thấy có chúng sanh đáng độ tức là có tâm, rõ ràng là sanh diệt. Nay đã không có tâm, bậc Năng nhân xuất thế nói rất nhiều giáo pháp đâu thể là lời luống dối? Phật nói giáo pháp cũng không có tâm. Nói pháp không có tâm, lẽ ra là không nói? Nói tức là không, không tức là nói. Nói pháp không có tâm, tạo nghiệp có tâm hay chăng? Không tâm tức không nghiệp, nay đã có nghiệp tâm liền sanh diệt, đâu được gọi là vô tâm. Không tâm liền thành Phật, nay Hòa thượng thành Phật chưa? Tâm còn tự không, ai nói thành Phật? Nếu có Phật để thành lại là có tâm. Có tâm tức hữu lậu, chỗ nào được không tâm. Đã không có Phật để thành, Hòa thượng được dụng của Phật hay chưa? Tâm còn tự không, dụng từ đâu có? Rõ ràng đều không, chẳng rơi vào đoạn kiến hay chăng? Xưa nay không kiến, ai nói là đoạn? Xưa nay không kiến, chẳng rơi vào không chăng? Chẳng có không đáng ưa thích. Có cái đáng ưa thích chăng? Không đã chẳng có, đọa lạc từ đâu mà lập? Năng sở đều không, bỗng có người cầm dao đến lấy mạng, đây là có hay không? Là không. Có đau chăng? Đau cũng không. Đau đã không, khi chết rồi sanh về đường nào? Không chết, không sanh cũng không có đường. Đã được vô vật tự tại, đói lạnh ép ngặt, thì dụng tâm thế nào? Đói ăn cơm, lạnh mặc áo. Biết đói biết lạnh, lẽ ra là có tâm? Ta hỏi ông có tâm, tâm hình thể ra sao? Vị Tăng chần chừ rất lâu, tìm hình thể của tâm bằng đói, lạnh, thì không thể được. Bèn thật thà thưa rằng: Tâm không có hình thể. Ông đã biết không có hình thể, tức là xưa nay không có tâm, sao lại nói là có? Vị Tăng thưa: Trong núi gặp con sói, dụng tâm gì? Quốc sư nói: Thấy như không thấy, đến như không đến, kia tức là không tâm, ác thú không thể hại. Vắng lặng vô sự, riêng thoát không tâm, gọi là vật gì? Gọi là Đại só Kim cương. Sư hét một tiếng, nói: “Người tốt không chịu làm lại, muốn làm con giòi nằm trong phân”. Tăng lại hỏi: Kim Cương Đại só, có hình thể gì? Quốc sư đáp: Vốn không có hình đoạn. Sư nói: Sao không nói sớm? Tăng thưa: Đã không có hình thể gọi vật gì là Kim Cương Đại só? Quốc sư đáp: Gọi cái không hình đoạn là Kim Cương Đại só. Kim Cương Đại só có công đức gì? Một niệm tương ưng với Kim Cương, có công năng diệt tội nặng sanh tử Hằng hà sa kiếp, được thấy Hằng hà sa Chư Phật. Công đức của Kim Cương Đại só kia nhiều vô lượng miệng chẳng thể nói hết được, chẳng phải ý nêu bày được, dù cho sống ở đời Hằng hà sa kiếp nói cũng không hết. Vị Tăng này ngay đó đại ngộ, như người nằm mộng chợt thức giấc, như hoa sen nở. Giống như đây là vòng Kim cương, chùm gai dẻ, ông nếu nuốt không được, thấu suốt không được, không thấy được chỗ đi lại của người xưa, thì chắc chắn sẽ khởi sự phỉ báng, thấu suốt được trong đây mới làm được con thuyền lớn, không vướng bờ này, không dính bờ kia, không kẹt giữa dòng. Thiện tri thức ngay đó được công sức cỡ ấy, vào được hang ổ cỡ ấy mới được làm thầy người. Nếu không đủ rất nhiều tai mắt khác nhau, như viện đường tâm tánh biểu có được chỗ vào, thì chắc chắn không thích đá nháng lửa, ánh chớp, lại ưa nói thoại cỡ đó, lại ưa hiểu lầm thật pháp. Như trên một cơ, một cảnh, một gậy, một tiếng hét mà được chỗ vào, thì chắc chắn không ưa nói thoại cỡ này lại là hiểu lầm rồi. Thật là đã gọi “chỗ thấy không đồng, lẫn nhau có được mất”, như trong kinh giáo nói: “Bồ-tát thấy nước như cam lồ, các vị trời thấy nước là lưu ly, phàm phu thấy nước là nước, ngạ quỷ thấy nước như máu mủ.” (8 7 5) Hoặc có vị Tăng ái cao thiền thấp bước, ra nói: “Diệu Hỷ có cái thấy như vậy ư?” Diệu Hỷ liền nói với vị ấy: “Gặp người nhưng nêu thế nào? Cho nên xếp vào trong Chánh pháp nhãn tạng”. Có vị Tăng hỏi Quốc sư: người xưa nói: “Trúc biếc xanh xanh đều là pháp thân, hoa vàng rực rỡ đều là Bát-nhã”, có người không chấp nhận nói là tà thuyết, cũng có người tin nói là không thể nghó bàn, chẳng hay thế nào? Quốc sư đáp: “Đây là cảnh giới của Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Văn- thù; Hạng phàm phu, Tiểu thừa chẳng thể tin nhận được, đều hợp với ý kinh Đại thừa liễu nghóa, cho nên kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thân Phật đầy khắp pháp giới, khắp hiện trước tất cả chúng sanh, tùy duyên cảm ứng đều cùng khắp”, mà thường chỗ tòa Bồ-đề nầy. Trúc biếc đã không ra ngoài pháp giới, đâu chẳng phải pháp thân ư? Lại kinh Bát-nhã dạy: “Sắc vô biên cho nên Bát-nhã cũng vô biên”. Hoa vàng đã không ngoài sắc thì đâu chẳng là Bát-nhã ư? Nói một cách sâu xa thì nếu không xét nét rất khó sắp xếp ý. Lại Tọa chủ Hoa Nghiêm hỏi Hòa thượng Đại Châu: “Vì sao Thiền sư không chấp nhận” trúc biếc xanh xanh đều là pháp thân, hoa vàng rực rỡ đều là Bát-nhã”? Đại Châu đáp: Pháp thân không hình tướng, ứng với trúc biếc để thành hình, Bát-nhã vô tri, đối hoa vàng mà bày tướng. Chẳng phải do hoa vàng, trúc biếc kia mà có Bát-nhã, pháp thân. Cho nên kinh nói: “Pháp thân chân thật của Phật dụ như hư không, ứng vật hiện hình như trăng đáy nước”, nếu hoa vàng là Bát-nhã thì Bát-nhã đồng với vô tình. Nếu trúc biếc là pháp thân thì trúc biếc lại có thể ứng dụng, Tọa chủ hiểu chăng? Tọa chủ thưa: Chẳng rõ ý này. Đại Châu nói: Nếu người thấy tánh, nói phải cũng được, nói không phải cũng được, tùy dụng mà nói không mắc kẹt trong phải quấy. Nếu người không thấy tánh, nói trúc biếc thì dính mắc nơi trúc biếc, nói hoa vàng thì chấp vào hoa vàng, nói pháp thân thì dính mắc nơi pháp thân, nói Bát-nhã không biết Bát-nhã, cho nên đều thành tranh luận. Sư nói: Quốc sư chủ trướng “trúc biếc xanh xanh đều là pháp thân”, là thẳng chủ trương đến cùng. Đại Châu phá “trúc biếc xanh xanh chẳng phải pháp thân” là thẳng phá đến cùng. Lão Hán đem một chủ trương đến cùng và một cái phá đến cùng thâu lại thành một chỗ lại càng không có niêm đề, không dám động một sợi lông người khác. Muốn ông, và người học phải có con mắt, thấu suốt vòng Kim cương của Quốc sư, lại nuốt trôi chùm gai dẻ của Đại Châu. Người có con mắt hiểu ra được, người không có con mắt chưa hẳn là không cười. Tông Cảo tuy lúc tham (kiến) bị Hòa thượng Viên Ngộ đánh vào lỗ mũi, ban đầu cho ta đặt lỗ mũi, lại được Hòa thượng Trạm Đường chỉ là vì người thì hạ đao nhẹ nhàng, nếu nói bịnh thiền thì không người qua được, thường suy nghó trong kinh giáo có đoạn nhân duyên. Ương-quật-ma-la phải có một ngàn đầu ngón tay người làm vòng hoa rồi mới được lên ngôi vua. Đã được chín trăm chín mươi chín ngón, chỉ thiếu một ngón nữa, anh ta muốn chặt ngón tay mẹ cho đủ số. Phật biết Ương-quật nhân duyên đã thuần thục cho nên đến giáo hóa. Lúc Ương-quật vừa khởi ý muốn xuống dao chặt lấy ngón tay mẹ, bỗng nghe tiếng gậy rung, bèn không chặt tay mẹ, mà ra hỏi xin Phật một ngón tay rằng: “Đã có Cù-đàm ở đây, xin cho ta một ngón tay để đầy đủ mong cầu của ta”. Ương-quật giơ dao lên, Thế tôn liền kéo ra đi. Đức Thế tôn đi chầm chậm, Ương-quật chạy mau vẫn không kịp, bèn lớn tiếng kêu rằng: “Dừng lại, dừng lại”. Đức Thế tôn đáp: “Ta dừng lại đã lâu chỉ có ngươi không dừng lại” Ương-quật bỗng nhiên cảm ngộ, lễ Phật xin xuất gia. Phật lại dạy ôm bát đến nhà một Trưởng giả, ngay lúc đó vợ Trưởng giả đang bị nạn sanh khó, Trưởng giả nói: “Đệ tử Cù-đàm! Ông là bậc chí Thánh, có cách gì cứu được sản nạn hay chăng?” Ương-quật đáp: “Tôi mới vào đạo, chưa biết cách cứu giúp này, đợi tôi về hỏi Thế tôn sẽ đến báo cho ông”. Ương-quật trở về thưa đủ mọi việc lên Đức Phật, Phật dạy rằng: “Ông mau đi đến bảo rằng: “Ta từ khi theo pháp Thánh Hiền đến nay không hề sát sanh”, Ương-quật liền vâng lời Phật dạy, đến nhà kia nói đúng như vậy. Vợ Trưởng giả nghe được câu nói đó liền sanh con dễ dàng. Sư nói: Trong đây là sai đánh, sai hét, lật ngược giường thiền, dẫn kinh giáo, nói lý sự, đập đá nháng lửa, nửa đêm bắt gà có được chăng? Nhân đó thưa hỏi Hòa thượng Trạm Đường vừa nêu thoại đầu này, Trạm Đường nói: “Ông gãi đúng chỗ ngứa của ta. Thoại đầu này là pháp phân vàng, không hội thì như vàng, hội được thì như phân”. Lão Hán nói: “Đâu không có phương tiện?” Trạm Đường nói: “Ta có một cách, chỉ là ông nạo đất mà không hiểu”. Lão Hán thưa: Mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy. Ương-quật nói là “Ta mới vào đạo chưa biết pháp này đợi hỏi Thế Tôn” mà chưa đến chỗ Phật, nhà người ta lúc đó sanh con rồi thì sao? Lúc Ương-quật đem lời “Ta từ lúc theo pháp Thánh hiền đến nay không hề sát sanh” chưa đến nhà mà nhà họ đã sanh con rồi thì sao? Lão Hán ngay lúc đó không hiểu được đạo lý, sau nhân ở Hổ Khâu xem kinh Hoa Nghiêm, đến chỗ “Bồ-tát lên địa thứ bảy, chứng Vô sanh nhẫn, nói rằng: “Phật tử” Bồ-tát thành tựu nhẫn này, tức thời được lên ngôi vị Bất động thứ tám, thực hành sâu xa hạnh Bồ-tát, khó có thể biết không khác nhau, lìa tất cả tướng, tất cả tưởng, tất cả chấp trước, vô lượng vô biên tất cả Thanh văn, Bích-Chi-Phật đều không bằng. Lìa các ồn ào, vắng lặng, hiện tiền dụ như Tỳ-kheo có đầy đủ thần thông, được tâm tự tại, thứ lớp cho đến vào định - Diệt - tận, tất cả động tâm, nhớ tưởng, phân biệt đều dứt hẳn, Bồ-tát Ma-ha-tát nầy cũng giống như thế, trụ ngôi vị Bất động liền bỏ tất cả hạnh dụng công, được thân, khẩu, ý nghiệp của pháp thân vô công dụng, suy nghó đều dứt, trụ nơi báo hạnh. Thí như có người trong mơ thấy thân mình rớt xuống dòng sông lớn, vì muốn qua cho nên phát tâm mạnh mẽ, thực hành phương tiện rộng lớn, vì mạnh mẽ, phương tiện lớn nên liền thức giấc. Thức giấc rồi thì mọi việc làm đều dứt. Bồ-tát cũng như vậy, thấy chúng sanh ở trong bốn dòng (sanh, già, bịnh, chết) vì muốn cứu độ nên khởi đại tinh tấn, phát đại tâm mạnh mẽ, nhờ tinh tấn mạnh mẽ cho nên đến được ngôi vị Bất động, đã đến đây thì tất cả công dụng đều dứt, hai hạnh tướng và hành đều không hiện tiền. Bồ-tát Ma-ha-tát nầy, tâm Bồ-tát, tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn còn không hiện khởi, huống gì khởi tâm thế gian”. Đến đây đánh mất túi vải, Trạm Đường nói phương tiện cho tôi nghe. Bỗng nhiên hiện tiền rõ biết Thiện tri thức chân thật không dối mình, thật là cái vòng Kim cương, phải rõ tạng thức mới thấu suốt. Lại có bậc Tôn túc là Hòa thượng Lạc Phổ từ lâu làm thỉ giả ngài Lâm Tế, Lâm Tế thường khen ngợi gọi Lạc Phổ là một mũi tên trong môn hạ Lâm Tế, bèn xem thường người, du lịch xong thẳng đến Trác am trên đảnh Giáp Sơn ở nhiều năm. Giáp Sơn biết bèn thảo thơ sai vị Tăng mang đến, Lạc Phổ nhận thơ liền ngồi xuống, lại giơ tay đòi, vị Tăng đó không đáp được, Lạc Phổ liền đánh và nói: “Trở về nêu giống như vậy với Hòa thượng” Tăng trở về làm giống như vậy để thưa với Giáp Sơn, Giáp Sơn nói: “Vị Tăng này xem thơ thì trong ba ngày sẽ đến, nếu không xem thơ, thì người này không cứu được”. Sư nói: “Người xưa gọi là cứu vớt người”, chẳng biết trong thơ có lời dư thừa gì mà Lạc Phổ nuốt lưỡi câu của Giáp Sơn”. Lạc Phổ quả nhiên trong ba ngày đến, Giáp Sơn dự sai người rình lúc Lạc Phổ ra khỏi am liền đốt am. Sư nói: “Chỉ có đây là vòng Kim cương”. Lạc Phổ không thèm đoái hoài đến am. Sư nói: “Thành Phật thành Tổ phải là người như thế”. Lạc Phổ đi thẳng đến phương trượng của Giáp Sơn, không lễ bái mà đứng khoanh tay, Giáp Sơn nói: “Gà ở trong ổ phụng chẳng đồng loại kia, đi ra. Lạc Phổ nói: “Từ xa mới đến, xin thầy tiếp một phen. Giáp Sơn nói: “Trước mắt không Xà-lê, trong đây không Lão Tăng”. Lạc Phổ liền hét, Giáp Sơn nói: “Thường thường lại chớ có qua loa vội vàng. Mây trắng là đồng, núi khe đều khác, cắt đầu lưỡi của người trong thiên hạ tức chẳng phải là không. Xà-lê sao lại dạy người không có lưỡi mà hiểu lời? Sư nói: “Lạc Phổ lại cúi đầu suy nghó mà không hiểu một lời nói thật này, bị Giáp Sơn nhằm ngay xương sống mà đánh, xỏ lỗ mũi, bèn được nối nghiệp Giáp Sơn, về sau dạy chúng nói rằng: “Một câu rốt sau mới đến cửa bền chắc, nắm đoạn yếu luật không chung cho phàm Thánh, phải biết người thượng lưu không dùng kiến giải của Phật tổ dán trên trán, như con rùa đội hình vẽ, tự nhận gốc tan thân”. Sư nói: “Người khác ngộ về sau liền hiểu một lời chân thật của ông ta nói. “Mấy thứ thuốc này bất luận là đại pháp của tông Vân Môn, tông Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn hay Quy Ngưỡng, nếu không rõ cha con, thầy trò, và tông chỉ của mỗi tông, chỉ lo hiểu tông chỉ, có nóng bức vẫn không vội, Lão Hán lúc ở trong chúng thường thưa hỏi một vị Tôn túc về việc. “Trong thiền môn nói không có lời nói trong lời nói, có lời nói trong không có lời nói” Tôn túc dẫn chứng cho ta rằng: “Không lời nói trong có lời nói là trên đường gặp rắn chết chớ giết, dùng giỏ không đáy đựng đem về. Gọi đây là không lời nói trong có lời nói. Lại gọi là có lời nói trong không lời nói, như thế nào là không lời nói? Là trên đường gặp rắn chết chớ giết, thế nào là có lời nói trong không lời nói? Là dùng giỏ không đáy đựng đem về. Chỉ một câu này liền là hai nghóa. Trên đường gặp rắn chết chớ giết là có lời nói trong không có lời nói. Dùng giỏ không đáy đựng đem về là không có lời nói trong có lời nói. Đã là rắn chết lại không cần giết. Lại nói: “Thế nào là trong đồng có khác?” Cò trắng và tuyết chẳng đồng mầu. “Thế nào là trong khác có đồng?” Trăng sáng, bông lau không như cái khác. Lúc ta nói lời như thế này, ông liền hội được rồi, lại giúp được việc gì? Giống như đây khỏi cần học Đại pháp, rõ sau khi khi nêu một mảy may ngay đó liền hội được. Giống như nhân duyên của Ương-quật-ma-la và phương tiện của Trạm Đường. “Ta mới vào đạo cũng khiến không chấp, Phật có thần thông cũng khiến không chấp, đã khiến không chấp thì nhân gì mà sanh ra trẻ con? Nếu ở đây thấy được thì Phật Thích-ca tức là Ương-quật-ma- la, Ương-quật-ma-la tức là Phật Thích-ca. Nếu không hội thì Thích-ca là Thích-ca, Ương-quật tự là Ương-quật, không liên hệ gì đến việc nhà người sản nạn”. Bèn chắp tay nói: “Tức đem Bát-nhã đã nêu trước nay, một câu một lời khế hợp với công đức của Phật Tổ, xin được bàn tính. Tiền Công Diên người thất An họ Lữ, cúi mong dẫu chết đây sanh kia cũng thường làm người thân của Bát-nhã. Bỏ thân thọ thân hằng làm quyến thuộc Bồ-đề. Gọi đại chúng nói rằng: Có bỏ hết chăng? Nếu muốn ngay đó liền thôi đi, chớ nhớ lời ta nói hôm nay”. Liền hét một tiếng rồi xuống tòa. Truyền am chủ thỉnh nói rộng. Sư nói: Am chủ truyền vào nhà lên chùa, đến nay lập bày cúng dường bèn thỉnh Vân Môn vì chúng nói rộng”. Lại nói: “Nói cái gì thì được? Nếu là toàn thắng quân địch, đồng chết sống, đang lúc xét nâng lên cạnh, ngang đến, dọc đi, cong gốc, lầm mắt kết góc xoắn ốc, ở trong phần mỗi người chính là một đứa bé, thì việc nhà kịch không nhọc gì nêu ra, đã không chấp nhận thế nào, lại nhiều năm nhiều tháng đều mới mở bày gan ruột, xin ghi nhớ lấy lời thoại xưa của Vân Môn. Nhị Tổ hỏi Đạt-ma rằng: “Đệ tử tâm chưa an, xin thầy an tâm cho con”. Đạt-ma nói: “Đem tâm đến ta an cho” Nhị tổ giây lâu sau nói: “Trong, ngoài, chặng giữa tìm tâm không được”. Đạt-ma nói: “Ta đã an tâm cho ông rồi” Nhị tổ ngay đó liền tỉnh ngộ. Lại, Tam tổ hỏi Nhị tổ: Thân con thường bị bệnh, xin nhờ thầy sám hối. Nhị tổ nói: Đem tội đến ta sám hối cho. Tam tổ giây lâu mới nói: Trong, ngoài, chặng giữa tìm tội không thật có. Nhị tổ nói: Ta đã sám hối cho ông rồi. Tam tổ ngay đó liền tỉnh ngộ. Hai cách nói này chốn tòng lâm nêu tụng nhiều như mè như lúa, người hiểu lầm nếp như đậu. Nếu không khởi tâm tánh để hiểu, liền khởi hiểu huyền diệu. Nếu không khởi hiểu huyền diệu, liền khởi lý sự để hiểu. Không khởi lý sự để hiểu, liền thẳng đoạn để hiểu. Không khởi thẳng đoạn để hiểu, liền khởi đặc biệt để hiểu, không khởi đặc biệt để hiểu, liền ở chỗ đá nháng lửa để hiểu. Không ở chỗ đá nháng lửa để hiểu, liền lật lên trong giáp vô sự, không lật lên trong giáp vô sự, liền gọi là hai công án của người xưa. Dưới ba cây rui, trước đơn bảy thước, nhắm mắt mở mắt, ngồi trong hang quỷ dưới núi đen, suy nghó tính toán, nếu khởi một chùm lý lẽ rối rắm đó mà muốn rõ việc nầy thì rất giống Trịnh Châu ra khỏi cửa Tào. Lại không thích giao thiệp đã không chấp nhận như thế thì làm sao hiểu lý. Vân Môn đã là da mặt dày ba tấc nói ra rõ ràng cho các vị, thứ nhất không được hiểu lầm lời ta. Tổ Đạt-ma từ Tây thiên đến đem được ấn không văn tự, trực tiếp đối với Nhị tổ một ấn ấn phá. Nhị Tổ được ấn này không dời đổi một đầu sợi lông, đem ấn phá trực tiếp cho Tam tổ. Về sau một người truyền thì dối mà muôn người truyền thì thật, thay nhau trao ấn, cho đến Mã Tổ ở Giang Tây, Mã Tổ được ấn này từ Hòa thượng Nam Nhạc, liền nói: “Từ loạn Hồ về sau ba mươi năm không hề thiếu tương muối”. Sư hét một tiếng, nói: “Ấn văn sanh”. Thiền sư Bá Trượng Đại Trí được ấn nầy ở nơi Mã Tổ, lật thân con chồn năm trăm năm đời trước ở trong hang, đầu ra đầu vào, thẳng đến ngày nay không chịu quay đầu lại. Hòa thượng Hoàng Bá được ấn đây từ Bách Trượng, liền nói: “Các ông đều là một loại bã rượu, làm sao hành cước, chỗ nào có ngày nay? Lại biết nước Đại Đường không có Thiền sư chăng? Hòa thượng Lâm Tế được ấn này từ ngài Hoàng Bá, liền hiểu đến chỗ làm giặc, cho đến ngày nay liên lụy đến con cháu. Hòa thượng Hưng Hóa được ấn nầy từ ngài Lâm Tế, liền hiểu hướng về chỗ Vân Cư, mượn một câu hỏi để làm bóng cỏ. Hòa thượng Nam Viện được ấn này từ ngài Hưng Hóa, thẳng được cục thịt đỏ trên vách đứng cao ngàn nhận. Có vị Tăng hỏi: “Sửa lại chùa xưa thì làm sao?” Rõ nhà ngói gánh mái hiên. Thế nào trang nghiêm đầy đủ? Cắt cỏ đứt đầu rắn. Hòa thượng Phong Nguyệt được ấn này từ ngài Nam Viện thì nói: “Hễ tham học nhãn mục, phải có đại dụng hiện tiền, chớ tự câu nệ nơi việc nhỏ nhặt, nếu nói trước đâu được, vẫn là kẹt ở vỏ, mê ở lớp ngoài, dẫu ngay câu nói tinh thông cũng chưa khỏi chạm bùn thấy loạn. Các vị trước nên học hiểu hai đường mê, ngộ. Như ngày nay vì các ông mà một lúc quét sạch, mỗi người phải như sư tử con thở hơi dài rống lên một tiếng cao như vách đứng cao ngàn nhận, ai dám nhìn thẳng, nhìn thì mù lòa mắt lớn”. Có người hỏi: “Nói, nín cách bước nhỏ, làm sao không phạm?” Đáp rằng: “Mãi nhớ Giang nam trong ba tháng, nơi chim ngói kêu trăm hoa hương”. Hòa thượng Thủ Sơn được ấn này từ ngài Phong Nguyệt liền đưa cây trúc bề lên hỏi người học rằng: “Kêu là trúc bề thì xúc chạm, không kêu là trúc bề thì sai”. Có người hỏi: “Thế nào là Phật?”, thì đáp: “Cô dâu mới cưỡi lừa nhà ai dắt?”. Hòa thượng Phần Dương được ấn này từ ngài Thủ Sơn thì nói:”Dưới cửa Phần Dương có sư tử Tây Hà ngồi án trước cửa, hễ có người đến liền căn cho chết thì làm cách gì để vào được cửa Phần Dương, gặp được người Phần Dương?” Hòa thượng Từ Minh được ấn này, từ ngài Phần Dương, bẻ kiếm báu Kim cương vương của Lâm Tế làm hai, chỉ dùng để thả nhợ buông câu. Hòa thượng Dương Kỳ được ấn này từ ngài Từ Minh lần hướng đến chỗ lửa không khói, bờ ruộng bị lập bít đầu bờ. Hòa thượng Bạch Vân được ấn này từ ngài Dương Kỳ liền hướng đến chỗ đông thêm một số người, chỗ ít bớt người. Hòa thượng Ngũ Tổ được ấn này từ ngài Bạch Vân, kẻ vác bản bán tiện, trăm ngàn năm của cải vẫn còn lưu lại, thân không chỗ hỗn loạn. Lão Sư Viên Ngộ được ấn này từ Ngũ Tổ, đem ba trăm sáu mươi khớp xương, tám muôn bốn ngàn lỗ chân lông cùng một lúc ném vào lòng mọi người. Lão Sư bỗng rút cây tích trượng vẽ trước mặt một đường nói rằng: “Không được quá ranh giới này”. Lại đứng dậy nói tiếp: “Một đội (binh), này không “rên rỉ Lão Hán, tánh mạng đều ở trong tay Vân Môn. Hôm nay ở trước chúng đem ấn này vì các vị mà đập vỡ, muốn cho con cháu đời sau đều có sự sinh nhai, khỏi cùng nhau ngu độn tiếp nhận tiếng vang luống dối, bèn đập một cái nói rằng: “Cái ấn trăm món lộn xộn rồi”. Lại nói: “Một đội Lão hán này chỗ nào mà an cư lập mạng, lại thấy cái gì”. Hồi lâu lại nói: “Lông mày đều rụng hết”. Xoay lại nhìn bên cạnh cười không thôi. Lại đánh một cái, hét một tiếng. *** Lưu Thị Lang chép kinh Hoa Nghiêm cúng dường Sư, thường thỉnh nói rộng. Vị Tăng hỏi: “Ném cõi Đại thiên để ở phương khác, thâu núi Tu- di vào trong hột cải, phân tích việc đó như thế nào?” Sư đáp: “Không có lượng lớn để rõ ràng việc đó”. Vị Tăng lại hỏi: “Vì sao bị người học đạp dưới chân?” Sư hỏi: Ông thấy đạo lý gì? Liền cho phép hả miệng lớn, vị Tăng liền hét. Sư nói: Tiếng hét chưa có chủ tể. Tăng nói: Phải biết năm mươi ba vị Thiện tri thức đến đây nắm bắt cũng không được. Sư nói: Ông phân tích việc đó làm gì? Tăng nói: Ngày nay gặp mạnh thì yếu Sư nói: Vì sao lễ bái? Vị Tăng liền lễ bái. Sư nói: Chỗ mà năm mươi ba vị thiện tri thức không nắm bắt được tức là việc làm thường ngày của mọi người. Chỗ mà mọi người không nắm bắt được tức là việc làm thường ngày của năm mươi ba vị thiện tri thức. Việc làm thường ngày của mọi người, năm mươi ba vị thiện tri thức chắc chắn không nắm bắt được. Việc làm thường ngày của năm mươi ba vị Thiện tri thức mọi người chắc chắn không nắm bắt được. Vì thế nói rằng các pháp không có tác dụng, cũng không có thể tánh, do đó tất cả pháp mỗi pháp đều không biết nhau. Cũng như đống lửa lớn đồng một lúc phát cháy, mỗi mỗi đều không biết nhau. Các pháp cũng giống như vậy, liền đi đến đâu? Đem Đại thiên để ở phương khác, thâu núi Tu-di vào trong hột cải, há là phương khác! Tuy như vậy, lần thứ nhất không được đến môn hạ của Tổ sư, nếu đến môn hạ của Tổ sư thì nhất định đánh gãy lưng con lừa của ông, gõ cây phất trần trên giường thiền một cái, nói: Trữ Sơn cư só Lưu Công chép kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cúng dường cho Đại nhân Diệu Hỷ thọ trì, thường đem vàng cung cấp đầy đủ để bày tỏ sám hối. Diệu Hỷ ngày nay lên cây khúc lục, vì cư só mà phát dương, cốt yếu cho mọi người biết là có. Đức Phật dạy: Chúng sanh trong tất cả thế giới, ít có người mong cầu Thanh văn thừa, cầu Duyên giác thừa càng ít, người hướng đến Đại thừa rất khó gặp. Người hướng đến Đại thừa mà tin được pháp này lại càng khó có gấp bội. Nay có người tin pháp nầy, tay chép kinh này, mực đen, giấy trắng, gọi gì là pháp này. Pháp này phải phát dương như thế nào, sao ngày nay có người tin pháp này? Nêu cư só Trữ Sơn để chứng minh. Nếu chứng minh được thì công đức của cư só không thể tính kể, nếu chứng minh không được thì ngài Diệu Hỷ thừa lúc thuận tiện xuống núi vì các vị nói hình bóng này. Ngài Cù-đàm lúc mới thành Chánh giác ở Đạo tràng Bồ-đề chốn A-lan-nhã nước Ma-kiệt-đề, trong một trần phá một trần nầy, giảng nói cảnh giới rộng lớn của Đức Như lai, âm thanh nhiệm mầu thông suốt rất xa không chỗ nào chẳng đến, há chẳng phải pháp ư? Không lìa tất cả cội Bồ-đề mà lên đến núi Tu-di, hướng đến điện Diệu Thắng của trời Đế-thích và tòa Sư tử Phổ Quang Minh Tạng nói phẩm Thập Trụ, há đây chẳng phải là pháp ư? Không rời cội (gốc) Bồ-đề và đảnh núi Tu-di mà hướng đến cung điện báu trang nghiêm của trời Dạ-ma và tòa sư tử Bảo Liên Hoa tạng, nhập Tam-muội Bồ-tát thiện tư duy nói phẩm Thập Hạnh, há đây chẳng phải là pháp ư? Không rời cội Bồ-đề, đảnh núi Tu-di và cung điện trời Da-ma mà đến cõi trời Đâu-suất-đà, tất cả Diệu báu trang nghiêm điện tòa sư tử Ma-ni tạng nói phẩm Thập Hồi Hướng, há đây chẳng phải là pháp ư? Không rời cõi trời Đâu-suất-đà mà đến cung điện Ma-ni Bảo Tạng của trời Tha Hóa Tử Tại, trụ tất cả Bồ-tát trí trụ cảnh, nhập tất cả Như Lai Trí Nhập Xứ, nói phẩm Thập Địa, há đây chẳng phải là pháp ư? Không rời cung điện Tha hóa tự tại, lại đến điện Phổ quang minh của nước Ma-kiệt-đề, nhập Tam-muội Phật Hoa Trang Nghiêm, nói phẩm Ly Thế Gian, há đây chẳng phải là pháp ư? Không rời nước Ma-kiệt-đề hướng đến lầu các Đại trang nghiêm vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ-đa nước Ma-kiệt, nhập không thể nói biển cõi Phật vi trần số thần biến và các môn tam-muội, nói phẩm Nhập Pháp Giới, há đây chẳng phải là pháp ư? Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và các vị Đại Bồ-tát bảy chỗ chín hội đều nhóm họp ở đó, làm chủ bạn lẫn nhau, mỗi mỗi xen nhau, hiện thần biến lớn, cho đến Thiện Tài không rời trụ xứ nhập vào lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền, đi một bước vượt qua không thể nói, không thể nói cõi Phật số thế giới như cát bụi, đi như vậy tột kiếp vị lai cũng không thể hết. Trong mỗi lỗ chân lông thứ lớp biển cõi, sát hải tạng, sát hải khác nhau, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang nghiêm, chỗ có bờ mé cho đến niệm niệm cùng khắp vô biên biển cõi, giáo hóa chúng sanh khiến họ hướng đến quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay lúc đó, Đồng tử Thiện Tài thứ lớp được các hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, bình đẳng với ngài Phổ Hiền, bình đẳng với Chư Phật, một thân đầy khắp trong tất cả thế giới, cõi nước, hạnh nguyện, quả Vô thượng Chánh giác bình đẳng thần thông đồng nhau, pháp luân giống nhau, biện tài ngang nhau, lời nói giống nhau và không thể nghó bàn giải thoát tự tại thảy đều đồng nhau, đây há chẳng phải là pháp ư? Nếu như vậy thì phải biết cư só Trữ Sơn khi chưa động ngòi bút, chưa hiện chữ trên giấy trắng mực đen thì đã cùng với Đức Phật Tỳ-lô- giá-na và không thể nói cảnh giới, số cõi nước Chư Phật, Bồ-tát rộng lớn nhiều như cát bụi, mỗi mỗi bình đẳng, mỗi mỗi không khác nhau. Cho đến bao gồm hết tám mươi mốt quyển, hành bố viên dung, cũng cùng với Đồng Tử Thiện Tài khi chưa tham kiến ngài Văn-thù, chưa phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và khi đã phát tâm rồi trải qua các ngôi thành, thờ phụng các vị thiện tri thức, thứ lớp đầy đủ của hạnh nguyện ngài Phổ Hiền cũng không khác nhau. Những điều nói trên, đây há chẳng phải là pháp ư? Cư só Trữ Sơn đã như vậy, Diệu Hỷ Lão hán cũng vậy, Diệu Hỷ Lão hán đã như vậy thì đại chúng cũng như vậy, sum-la muôn tượng, đất đai núi sông cũng vậy, nghóa là trần trần cũng vậy, niệm niệm cũng vậy, pháp pháp cũng vậy, một pháp đã như vậy thì các pháp cũng như vậy. Một trần đã vậy thì các trần cũng như vậy. Các trần đã như vậy thì không vượt qua một niệm này, không phá một trần này, thở vào không ở ấm giới, thở ra không dính mắc muôn duyên. Thường chuyển bộ kinh như vậy, trăm ngàn muôn ức quyển lại có lao nhọc gì. Cư só Trữ Sơn thông minh sáng suốt, khéo dùng bút mực, đặc biệt chu đáo, ngài Diệu Hỷ nương luống dối tiếp nhận tiếng vang, khua môi múa miệng, không có gió mà nổi sóng. Mặc dầu như vậy, cốt yếu là chỉ rõ được một bên bóng dáng của pháp này, không có quan hệ với chánh văn của pháp nầy. Các người phải biết chánh văn như thế nào? Hãy lắng nghe, lắng nghe! Múc nước, đốt nén hương. Thiên nữ hầu Trưởng giả chép kinh, lột da chẻ tủy; Bồ-tát khen Tỳ-lô phát tâm, muốn thấy nghe đã thành nhân lành cho nên lột da làm giấy, chích máu làm mực v.v… để làm Phật sự, đều là một bát cơm thơm mời ngài Diệu Hỷ ở phương Đông, kính nguyện: Thiện tri thức nhiều như Thiện Tài, hạnh nguyện cao siêu như Bồ-tát Phổ Hiền đủ Thập hồi hướng, chứng Tam-bồ-đề. Ngã, nhân, chúng sanh v.v… không khác nhau, ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng đồng chứng minh. Từ trước đã khen ngợi nhân cao quý vô hạn, Nhất thiết trí, trí thanh tịnh không hai, không chia hai vì chẳng khác chẳng đoạn. Buổi tối sư tử đá trước Lai Châu vô cớ nhảy vọt lên đột nhập vào quán rượu của Trần Tư Công cắn nát lỗ mũi của Tổ sư Tương Sơn, Hòa thượng Đỗ Thuận bỗng bịnh nặng không kham nỗi, nói rằng: “Trâu Hoài châu ăn cỏ thơm, ngựa Ích châu bị sình bụng, thiên hạ tìm thấy thuốc, nướng đùi trái của con heo, vừa lúc đó nói: “Mỗi mỗi đều bình phục như cũ. Các ông lại biết nghóa quyết định cũng không”. Giây lâu lại nói: “Chẳng thấy đạo mà tin được pháp này lại khó gấp bội”. Hét một tiếng rồi xuống tòa.  <卷>QUYỂN 16 Đệ tử nối pháp: trụ trì Thiền Viện Năng Nhân ở Kính Sơn là Thiền sư Tuệ Nhật Uẩn Văn Kính Dâng. Phó Kinh Cán thỉnh Sư giảng chung cho đại chúng. Sư nói: Đạo hữu Kinh Cán và Diệu Hỷ lúc đầu không quen nhau, vì năm ngoái đến Hoành dương, đặc biệt ghe thăm vấn nhau. Vừa gặp nhau lần đầu mà giống như bạn cũ, bởi tin một việc nhân duyên lớn mà đến. Vì sao? Vì há không thấy trong hội Hoa Nghiêm, Bồ-tát Trí Thủ hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: “Thưa Phật tử! Vì sao Bồ-tát không có lỗi ở ba nghiệp thân, miệng, ý?” Văn-thù đáp: “Do khéo dụng tâm thì được tất cả công đức cao quý”. Vì nói trong bốn oai nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm, một trăm bốn mươi đại nguyện gọi đó là thực hành công đức lớn thanh tịnh không trược loạn. Công đức này đều từ Tín địa (Thập tín, Thập địa) mà phát khởi. Vì thế, ngài Văn-thù khắp vì người đã phát lòng tin, không thỉnh bạn. Dùng bài kệ hỏi Bồ-tát Hiền Thủ rằng: “Nay ta đã vì các Bồ-tát nói Đức Phật thuở xưa tu hạnh thanh tịnh. Nhân giả cũng phải ở trong hội này mà giảng nói công đức cao quý của việc tu hành”. Bồ-tát Hiền Thủ dùng kệ đáp: “Ở trong đó nói: Dùng oai lực pháp hiện trong thế gian thì được Thập địa, Thập tự tại cũng là nghóa ban đầu mới phát tâm từ Tín địa mà phát khởi. Sau cùng, Thiện Tài đến trước lầu gác Tỳ-lô, Di-lặc đã nói một trăm hai mươi tâm Bồ-đề cho Thiện Tài nghe cũng là nghóa nầy, trong đó có một thí dụ: Như sư tử đầu đàn rống lên, sư tử con nghe tiếng này Tăng thêm sự mạnh mẽ, còn những loài thú khác nghe tiếng rống này liền ẩn núp. Phật dụ cho sư tử đầu đàn, tâm Bồ-đề dụ cho tiếng rống. Cũng như vậy, các Bồ-tát nghe thì thêm lớn công đức, người khác nghe thì lui sụt, cũng là nghóa nầy. Đã có tín căn tức là căn bổn thành Phật, bỗng nhiên tương ứng với hiện hành liền chứng Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như Đức Thích-ca, ban đầu ở trước núi Chánh giác, ngẩng đầu lên thấy sao mai xuất hiện, bỗng nhiên ngộ đạo, liền khen rằng: “Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ. Như lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước mà không chứng được”. Nghóa là: trên đến Chư Phật mười phương, dưới đến chúng sanh sáu đường bốn loài bò bay máy cựa, đối chỗ ta ngộ, dùng ấn bình đẳng, một ấn ấn định không hề khác nhau. Ông hãy xem: Đức Thích-ca vừa ngộ đạo liền thấy được sự rộng lớn như vậy, song sau mới khởi lòng từ, vận lòng bi trong biển sanh tử, không ở bờ này, không ở bờ kia, cũng không trụ giữa dòng mà có khả năng chuyên chở chúng sanh từ bờ này đến bờ kia không đắm chìm giữa dòng sanh tử. Đạo lý nầy không ngoài lòng tin của chính mình. Do đó, Cư só Vô Tận chú thích kinh Hải Nhãn, nêu thuyết Phật thành tựu rằng: Thỉ giác hợp với Bổn giác gọi là Phật. Ông tuy là người thế tục nhưng vừa được căn bổn gọi là Thỉ giác. Từ lúc sao mai mọc khởi lòng tin, bỗng nhiên giác ngộ tự tánh xưa nay là Phật, đại địa hữu tình cũng không khác nhau. Vô Tận cho rằng Thỉ giác hợp với Bổn giác mới thành Phật. Người tham thiền có thể thông suốt được như vậy rồi song sau thân tâm nghỉ ngơi, biết giữ mặt mũi xưa nay không gần tâm thô. Bậc Thánh xưa được liền đối với chỗ được đó dứt sanh diệt, cũng không trụ tâm vắng lặng, gọi là vắng lặng hiện tiền. Ở chỗ vắng lặng này được hai điều cao siêu: Trên hợp với Chư Phật trong mười phương, cùng từ lực với Đức Như lai. Dưới hợp với chúng sanh sáu đường, đồng một bi ngưỡng với chúng sanh. Như ở trước nói: Vận lòng từ bi cứu khổ các đường ác. Chúng sanh vì bất giác nên trôi lăn trong sanh tử, bậc tiên giác nếu không có lòng từ bi thì làm sao ở trong giới hạn chúng sanh, không biết rằng ân Phật khó báo đáp. Đạo hữu Kinh Cán thỉnh ngài Diệu Hỷ giảng chung cho đại chúng, không riêng vì việc nghiên cứu học hỏi, suy tìm sự tu hành mà thôi, cốt yếu cùng với chúng hiện tiền nói một số bệnh thiền. Cho nên Liễu Tử Hậu đã đem giáo nghóa Thiên thai giảng cho Tư Nam nghe, trong đó nói về bệnh thiền rất nhiều. Nói thật ra, giáo nghóa của Thiên Thai Trí Giả dùng ba quán không, giả, trung nhiếp tất cả pháp, dạy mọi người dùng bổn giác tu hành. Còn thiền thì không dùng văn tự, phải ngộ thỉ giác mới được. Diệu Hỷ năm mười bảy tuổi đã nghi ngờ việc này, tham thiền đúng mười bảy năm mới ngừng nghỉ. Lúc chưa được thường tự suy nghó: nay ta đã chừng này tuổi mà không biết khi chưa gá sanh vào cõi Diêm- phù-đề này, ta từ đâu đến, trong tâm đen như sơn, không biết chỗ đến. Đã không biết chỗ đến thì sanh đại ngã. Sau một trăm năm khi chết, lại hướng đến chỗ nào mà đi, trong tâm vẫn nương vào chỗ đen tối mênh mang khi xưa, không biết chỗ đi. Đã không biết chỗ đi tức là tử đại, gọi là vô thường mau chóng, sanh tử việc lớn. Như vậy các ngươi, hội chỗ nào, nghi chỗ nào? Hiện tại ngồi đứng, chỗ rõ ràng rành mạch, nói pháp nghe pháp, chủ bạn cùng tham vấn. Diệu Hỷ lóc hai mảnh da, răng bị bể, rốn lồi ra, trong miệng đau đớn. Ở đây nói, nói là tiếng, tiếng này ở, trong đầu lâu của các vị, đầu lâu của các vị cùng ở trong tiếng của Diệu Hỷ. Thế giới này một ngày nào đó hoại diệt rồi, lại hướng đến chỗ nào an trú? Đã không biết chỗ an trú thì gá thân vào thai lừa bụng ngựa cũng không biết, sanh lên cung trời vui vẻ cũng không hay. (8 7 9) Thiền Hòa Tử bình thường trong kinh luận thâu thập được điều căn bản, hỏi người soạn ra cũng không biết. Só Đại phu học chín bộ kinh, mười bảy sách sử được căn bản, hỏi người biên soạn cũng không biết. Lìa văn tự, bặt dứt suy nghó. Hỏi người khác việc trong nhà mình, mười cái thì năm cặp cũng không biết. Việc trong nhà người biết được, hiểu rõ ràng như vậy, tương lai tùy nghiệp thọ báo, cuối cùng chỗ bổn mạng nguyên thần của mình gá vào đâu, có thể không thương xót ư? Do đó, người xưa đến đây như cứu lửa cháy đầu, tìm thầy để giải quyết, cốt yếu được tâm địa khai thông, không nghi sanh tử. Nhưng có người học mới biết, có người sanh ra đã biết. Người học mới biết, như có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Con mới vào chốn tòng lâm, xin thầy chỉ dạy”. Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo chưa?” Ăn cháo rồi. Rửa bát chưa? Vị Tăng nghe lời nói của Triệu Châu hoát nhiên đại ngộ, ngay lời nói được dừng nghỉ, liền biết chỗ đi của sanh tử. Diệu Hỷ thường nói không dễ, vì Tăng này có sức mạnh. Triệu Châu đem một trăm hai mươi cân Diêm Tử để trên vai vị Tăng. Vị Tăng này gánh đi một hơi được một trăm hai mươi dặm không nhìn lại. Như đem ngôi vị Phạm Vương trao cho kẻ phàm phu, trong lòng được thỏa thích, phát khởi sức từ, vận dụng nguyện bi. Đây là người do học mà biết. Người sanh ra đã biết, như Triệu Châu làm Sa-di, cùng thấy bổn sư đi bộ đến chỗ ngài Nam Tuyền. Ngài Nam Tuyền đang nằm nghỉ, thầy bổn sư đảnh lễ trước rồi Triệu Châu mới đảnh lễ. Ngài Nam Tuyền hỏi: Vừa rời chỗ nào? Vừa rời Thụy tượng. Có thấy Thụy tượng (điềm lành) chăng? Thụy Tượng thì không thấy, chỉ thấy Như lai ngồi trước mặt. Ngài Nam Tuyền bèn đứng dậy hỏi: Người là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Sa-di có chủ. Chủ ở chỗ nào? Đầu xuân rất lạnh, kính mong tôn thể Hòa thượng được muôn phước. Ngài Nam Tuyền bèn gọi Duy-na bảo: “Sắp xếp chỗ nghỉ riêng cho Sa-di”. Ngày hôm sau, Triệu Châu lại hỏi: Thế nào là Đạo? Nam Tuyền không đánh bằng gậy, không hét, không bàn luận chỗ cao sâu, không nói nghóa nhiệm mầu, không câu chấp vào kinh, không dẫn luận, không nêu công án của người xưa, không nói sự, không nói lý, chỉ nhìn thẳng Triệu Châu đáp: “Tâm bình thường là đạo”. Triệu Châu đã lý hội được tâm bình thường rồi, bèn hỏi: Lại có thể nương vào đó tiến đến chăng? Nghó tiến đến là trái. Khi không Nghó làm sao biết là Đạo? Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể nói phải quấy? Triệu Châu ngay lời nói này được ngộ lý. Ngài Nam Tuyền nói: Đạo không thuộc biết và chẳng biết, ngài Khuê Phong gọi đó là Linh Tri; Ngài Hà Trạch gọi đó là Tri, một chữ Tri đó là cánh cửa của những điều nhiệm mầu. Ngài Hoàng Long Tử Tâm nói: Một chữ Tri là cửa của muôn điều tai họa, phải thấy ngài Khuê Phong, ngài Hà Trạch thì dễ, thấy ngài Tử Tâm thì khó. Đến đây phải vượt khỏi nhãn thức. Nói dường như người được truyền cho người không được. Do đó, Tiên sư Viên Ngộ nói: Thiền của Triệu Châu chỉ ở ngoài miệng, khó đối phó với người. Như người khác khéo dụng binh mà không mang theo lương thực, dù có nhận lương thực cung cấp, cuối cùng cũng bại trận mà thôi. Có một vị Tú tài hỏi Triệu Châu: Phật không trái sở nguyện chúng sanh phải chăng? Phải. Con muốn xin cây gậy trong tay Hòa thượng được chăng? Người quân tử không đoạt cái sở thích của người. Con không phải là quân tử. Ta chẳng phải Phật. Lại có một vị Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là ý của Tổ sư? Triệu Châu dập chân xuống giường thiền. Tăng nói: Không chỉ cái này là đúng chăng? Thì bỏ đi. Lại có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: Các phương đều từ trong miệng nói, Hòa thượng chỉ bày mọi người như thế nào? Triệu Châu đem gót chân để lên lò lửa chỉ bày. Tăng nói: Chớ cho là không? Vừa nhận được gót chân của ta. Lại có một vị Tăng hỏi: Thế nào là Triệu Châu? Cửa Đông, cửa Nam, cửa Tây, cửa Bắc. Con không hỏi cái đó. Ông hỏi cái hào Triệu Châu của ta phải không? Tăng lại hỏi: Thế nào là đạo? Ở ngoài tường. Con không hỏi cái đó Ngươi hỏi đạo gì? Con hỏi Đại đạo. Đại đạo chung cho cả Trường An. Như vậy, không hề được vô sự, không hề được nhiệm mầu, không hề được kỳ lạ, không hề được bình thường, Triệu Châu không ở trong vô sự, không ở chỗ nhiệm mầu, không ở chỗ kỳ lạ, không ở chỗ bình thường, cuối cùng ở chỗ nào? Người có mắt sẽ phân biệt rõ. Lão này có lúc nói: Khi chưa xuất gia bị Bồ-đề sai khiến, sau khi xuất gia thì sai khiến được Bồ-đề. Các người bị mười hai giờ sai khiến, ta sai khiến được mười hai giờ. Lại nói: Một chữ Phật ta không thích nghe, một chữ Phật còn không thích nghe thì đuốc sáng của Đạt-ma là mặt đỏ của Lão. Bồ-tát Thập Địa là gánh phân, Đẳng giác Diệu giác là phá phàm phu, Bồ-tát Niết-bàn là buộc cọc lừa, mười hai phần giáo là mớ giây lau ghẻ. Tứ quả, Tam hiền, Sơ tâm, Thập địa, là quỷ giữ mã xưa. Như vậy, đã không đến được ruộng đất này, sự lý này không hề được. Người học đi nhanh bước dài, liền đem câu thiền cốt yếu chỉ để đối đáp với người. Vả lại, chẳng phải đạo lý này. Do đó trong thất Diệu Hỷ thường hỏi Thiền Hòa Tử, gọi trúc bề thì xúc phạm, không gọi Trúc bề thì trái. Không được nói năng, không được không nói, không được suy lường, không được dự đoán trước, không được giũ tay áo mà đi, tất cả đều không được. Như vậy, liền đoạt mất trúc bề, ta lại cho đoạt mất như vậy. Ta nói nắm tay thì xúc phạm, ta nói không nắm tay thì trái, như vậy làm sao má đoạt được. Lại thỉnh Hòa thượng phóng hạ. Ta lại phóng hạ. Ta nói lộ trụ thì xúc phạm, không nói Lộ trụ thì trái, như vậy làm sao đoạt được. Ta nói núi sông đất đai thì xúc phạm, không nói núi sông đất đai thì trái, như vậy làm sao đoạt được. Có Trưởng lão Chu Phong nói rằng: “Ngươi khán thoại đầu trúc bề của Hòa thượng, như tịch thu tài sản của người thì phải bảo người nạp tài vật. Diệu hỷ nói: Thí dụ này rất hay. Ta thật cần người nạp vật, như vậy không có chỗ xuất ra lại phải giết Tử Lộ đi, hoặc quăng xuống sông, hoặc xô vào lửa, trở mình rồi mới chết, chết rồi ung dung sống lại. Kêu làm Bồ-tát thì vui vẻ, kêu làm giặc thì không ưa, y như trước chỉ là người thời xưa. Do đó, người xưa nói: Buông tay từ trên vực thẳm thì tự mình phải chịu, sau sống lại không nói dối ông. Đến đây mới khế hợp với lời nói của Trúc bề. Lại nói kệ: “Một chữ Phật còn không thích Sanh tử có gì quan hệ. Đương cơ gặp mặt khó nhìn nhau. Nói nghóa tám chỗ trả về trong Lăng-nghiêm”. Duyệt Thiền nhân thỉnh Sư giảng chung cho Đại chúng nghe. Vị Tăng hỏi: Lâm Tế dạy chúng rằng: Có lúc đoạt người không đoạt cảnh, có lúc đoạt cảnh không đoạt người, có lúc đoạt cả người và cảnh, có lúc người và cảnh đều không đoạt. Thế nào là đoạt người không đoạt cảnh? Sư nói: “Ngoài Tam thiên thật dối trá”. Tăng hỏi: Thế nào là đoạt cảnh không đoạt người? Sư đáp: Nhổ cái nêm nhọn trong mắt ra. Tăng hỏi: Ngài Lâm Tế nói: Hơi nóng mặt trời phát sanh gấm đẹp, đứa trẻ xõa tóc trắng như tơ, chẳng hay lời đáp của Hòa thượng giống hay khác. Sư đáp: Ăn phân người là sự ưa thích của loài chó. Tăng hỏi: Vương đã đi khắp thiên hạ, đem quân trấn giữ ngoài biên giới để trừ giặc như thế nào? Đi đến còn tự mình có thể, mà nay sai Lang Đương. Một con đường vào cửa Niết-bàn của Bạc-già-phạm trong mười phương. Chẳng hay họ Vương hiện nay sống hay chết? Sống ư? Chết ư? Xưa nay lẽ ra không rơi, rõ ràng trước mắt Nhổ mũi tên sau ót. Như trong mười hai giờ không nương tựa một vật, người đến, Sư có tiếp không? Cái gì gọi là một vật. Không thể nói lại lời kệ. Sư nói: ngại che giấu việc giết người. Bèn nói: Chết ư? Sống ư? Chẳng được chẳng mất, không nói không nói, có lý có sự. Nếu hướng đến chỗ có lý có sự thì được vào. Chỉ ở trong giáo thừa lúc hiện lúc biến mất. Nếu ở chỗ chẳng được chẳng mất được vào thì dám bảo đảm trong mười hai giờ không có chỗ an thân lập mạng. Đã chưa có chỗ an thân lập mạng thì không biết chỗ ở của họ Vương, nếu biết được chỗ ở của họ Vương tức là biết chỗ an thân lập mạng của mình. Lại nói: Nay họ Vương sống hay chết? Hay không sống không chết? Nếu nói không sống thì chết sao? Nếu nói không chết thì sống ra sao? - Nếu nói vừa sống vừa chết lại là lời nói đùa. Nếu nói không sống không chết thì là lời nói trái nhau. Lìa bốn câu dứt trăm phi, ngay đó như hạt ngọc sáng trong lòng bàn tay, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Dưới mỗi gót chân đường nhân sạch làu làu, sanh tử như mộng huyễn, như hoa đốm trong hư không, đến đi như mây nổi như trăng đáy nước. Nếu chưa được hoàn toàn, dù như thật thấy thì sanh ngày xưa cũng không hề sanh, diệt ngày nay cũng không hề diệt, cũng là không mộng mà nói mộng. Vì sao? - Sanh mà không sanh như hư không trong gương. Diệt mà không diệt như trăng đáy nước. Chính là chỗ nào? Là chỗ xuất thân của họ Vương. Nếu gửi gắm đi được thì nay họ Vương cùng các người nắm tay vào biển vắng lặng hoàn toàn, hoặc chưa được như vậy thì thời tiết có nóng lạnh sẽ rút ngắn tuổi thọ của ông, có quỷ thần ganh ghét phước của ông. Lại nói: Đây là lúc sắp lên tòa làm Vương Mẫu, thỉnh ông già Diệu Hỷ nói về ý chỉ sâu xa. Vả lại, pháp làm sao nói, không thấy đạo, pháp cũng không thể thấy, nghe, hay, biết. Nếu trải qua thấy nghe hay biết thì là thấy nghe hay biết chớ chẳng phải cầu pháp. Thấy nghe hay biết đã không thể dùng để vào đạo, thì không thấy, không nghe, không hay, không biết là gì. Hồi lâu, to tiếng nói: Lại là cái gì? Diệu Hỷ ra sức nói, chỉ nói được việc này quyết định không ở trong ngôn ngữ. Do đó, từ trước các vị Thánh thứ lớp xuất hiện ra đời đều dùng phương tiện khéo léo, lo lắng trong lòng chỉ sợ mọi người chấp trên ngôn ngữ. Nếu trên ngôn ngữ thì một đại tạng giáo năm ngàn bốn trăm mười tám quyển nói quyền nói thật, nói có nói không, nói đốn nói tiệm, há chẳng phải ngôn ngữ ư? Vì sao Đạt-ma từ phương Tây đến, chỉ truyền tâm ấn, không lập văn tự, ngôn ngữ, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, vì sao không nói truyền huyền, truyền diệu, truyền ngôn, truyền ngữ, chỉ cần đương nhân mỗi người ngay đó rõ được bổn tâm của mình, thấy bổn tánh của mình. Sư đã không được mà nói tâm nói tánh thì lộn xộn quá rồi. Cốt yếu là nhổ hết gốc sanh tử, không được ghi nhớ lời nói của ta. Dẫu nhớ được một Đại tạng giáo cũng như dốc bình đổ hết nước ra, gọi là chở phân vào, không nói là chở phân ra, bị những thứ này làm chướng ngại Chánh biến tri của mình, không được hiện tiền, thần thông của mình không thể phát ra, chỉ chạy theo bóng sáng trước mắt. Lý hội thiền, lý hội đạo, lý hội tâm, lý hội tánh, lý hội kỳ lạ, lý hội huyền diệu, giống như quơ cây xuống nước tìm trăng, uống phí tâm thần. Như lai nói những người này thật đáng thương. Người xưa hễ có nói một lời, nửa bài kệ, thì lập một vòng tròn Kim cương không trơn phẳng (tức vòng Kim cương giống như có gai nhọn) bảo ông hãy nuốt vào, bảo ông phải thấu suốt. Nếu anh linh riêng thoát ra ngoài tình trần, vượt ngoài lý tánh thì vòng Kim cương gai góc này là đồ chơi của loài quỷ, là cơm nước của quỷ thần. Bởi một niệm không thể duyên khởi vô sanh, chỉ hướng về tâm ý thức để làm kế sống. Vừa thấy tôn sư thương mến động niệm liền hướng về trong miệng tôn sư đòi hỏi nghóa huyền, nghóa diệu, lại bị Tông sư lộn nhào một cái, nguyên thần bổn mạng tự mình y như xưa không biết chỗ ở dưới gót chân đen lay láy, y trước chỉ là thùng sơn, chỉ như đến Thượng tọa hỏi câu: Đoạt người không đoạt cảnh, chỉ biết trên sách vở mà nghó tương lai. Đúng như pháp mà đáp cho ông ta, lại lý hội không được. Hỏi một đoạn chưa rõ, lại hỏi một đoạn nữa, như người quê mùa đem truyền miệng khiến cho giống nhau. Nay ta không tiếc lời nói (khẩu nghiệp) vì các người chú giải một thiên: Ngài Lâm Tế một hôm dạy chúng: Có khi đoạt người không đoạt cảnh; có khi đoạt cảnh không đoạt người, có khi người cảnh cả hai đều đoạt; có khi cả hai người và cảnh đều không đoạt, hội không? Hồi lâu, Sư nhìn hai bên rồi xuống tòa, đó chính là kiếm báu kim cươngVương. Ta hôm qua nói: Đem các chất độc của con rết, rắn độc, bò cạp bỏ vào trong hũ, ông thử đem tay bỏ vào trong đó để lấy một chất không độc ra. Nếu lấy ra được thì không ngại ở sự có chút phần tương ưng. Nếu lấy ra không được thì căn tánh của ông chậm lụt, xưa không lanh lẹ. Ngặt cho Diệu Hỷ không được. Ngài Lâm Tế lúc đó nói mấy câu đùa giỡn, mặt mũi hiện tiền. Từ đây ông không hề thấy được, nếu ông lãnh hội được ý này, sau loạn lạc ba mươi năm, không thiếu tương muối. Trên lầu chuông niệm tán giống như dưới chân giường trồng rau, há ở đây mà mở miệng. Phải biết trong bùn lấy có gai nhọn. Lúc đó, có Khắc Phù Đạo, lý hội được ý của ngài Lâm Tế liền hỏi: “Thế nào là đoạt người không đoạt cảnh?” Ngài Lâm Tế lúc đó không biết trong đó được bao nhiêu lời lẽ rảnh rang rộng dài, được hợp ý liền nói: Sức nói của mặt trời phát sanh gấm đẹp, đứa trẻ xỏa tóc trắng như tơ, các người lại hội gì? Hai câu: “Sức nóng mặt trời chiếu, Pháp sư gấm đẹp, đứa trẻ xỏa tóc trắng như tơ”. Một câu là tồn cảnh, một câu là đoạt người. Khắc Phù lại có kệ: “Đoạt người không đoạt cảnh Duyên tự mang dối trá”. Sư nói: Có gì dối trá. Muốn cầu ý chỉ huyền diệu suy lường lại trách cứ gì? Vu khống tội người, viên ngọc sáng rực rỡ, bóng quế ở Tà-bà. Sao không nói sớm, gặp mặt không lầm lẫn. Lại mắc vào lưới. (8 8 1) Sư nói tiếp: Ô hay dường khúc mới đáng nghe. Lại bị gió thổi trong điệu riêng. bà”. Bài kệ này đại khái ở nơi “viên ngọc sáng rực rỡ, bóng quế ở Ta- Bởi hai câu này là cảnh. Người học hỏi không đoạt cảnh, muốn cầu ý chỉ nhiệm mầu suy lường, trở lại trách gì? Đại ý chỉ là không thể suy nghó bàn luận mà người lại nghó bàn, lại nhìn nhau một lần thôi, liền bị vướng vào lưới ngôn ngữ. Bài tụng này của Khắc Phù, chuyên nói: Sức nóng mặt trời chiếu phát sanh mầu gấm đẹp. Do đó có câu: “Viên ngọc sáng rực rỡ Bóng quế ở Ta-bà”. Chính là giữ cảnh mà đoạt người. Cho nên nói: “Gặp mặt không lầm lần, trở lại vướng vào lưới” là nghóa đoạt người. Đề Hồ, thuốc độc dùng một cách, người có mắt mới phân biệt được. Lại hỏi: Thế nào là đoạt cảnh không đoạt người? Đáp: Vương Linh đã đi khắp thiên hạ, đem quân trần giữ biên cương, trừ giặc xâm lấn. Sư nói: Vương Linh đã đi khắp thiên hạ là đoạt cảnh rồi. Dem quân trấn giữ biên cương trừ giặc là giữ người mà không đoạt. Tụng rằng: “Đoạt cảnh không đoạt người, Thường nói chỗ nào chân”. Sư nói: Cũng cần nhàn rỗi dễ làm đê điều. Hỏi thiền, thiền là vọng Xét lý, lý không gần. Sư nói: có việc tốt chẳng bằng không có. Trời chiếu ánh sáng lạnh Núi xa mầu càng mới Sư nói: “Đứa nghèo nghó nợ xưa Hội thẳng được nhiệm mầu”. Đây cũng là bụi trong mắt. Sư nói: Tự đứng lên, tự ngã xuống, ông phải hội hai câu: Trời chiếu ánh sáng lạnh Núi xa mầu càng mới. Là cảnh, thật hội được nhiệm mầu, cũng là bụi trong mắt, liền đoạt được rồi. Còn: Người cảnh đều đoạt, người cảnh đều không đoạt, đều là y lời hỏi của người học mà đáp rồi lại hỏi: thế nào là người cảnh đều đoạt? Đáp: Cùng phần dứt tin, ở riêng một nơi. Ca-diếp mỉm cười. Hội gì mà sợ người biết, lại hội gì mà ở trong thất thầm truyền trao. Thiền của ta đây bằng lòng cho người nghe, không bằng lòng cho người hội. Như chỗ chú giải về bốn điều cầu lựa chọn trên, như vậy các người đều nghe hội rồi. Ý của ngài Lâm tế quả như vậy ư? Nếu chỉ như vậy thì tông chỉ của Lâm tế hét truyền đến ngày nay. Như vậy các người nghe Diệu Hỷ nói được chỗ ở, toan cho rằng chỉ ở đây. Ta thật hướng về các người nói, đây là lần thứ nhất ác khẩu, nếu ghi một chỉ nguyên dưới gót chân thì đó là căn bản của sanh tử. Như vậy các người ở các nơi học được trong huyền lại huyền, trong diệu lại diệu, đây là phân thiền gì? Một bề chỉ thấy trong đãy da toan cho rằng thật có việc gì, chớ có lầm, các Thượng tọa cần phải tham thiền của Diệu Hỷ, các nơi học đều được. Hướng về thế giới phương khác, trăm người không biết, trăm người không hội, thật là luống tâm. Các vị ấy lúc hội rồi lại nói kệ: Không Có các Tỳ-kheo sắp vui vẻ, Vì Mẫu Vương Thị thỉnh giảng rộng. Diệu Hỷ bèn lên giường khúc lục, lo lắng trong lòng. Từ trước pháp vốn lìa lời nói, không cần suy nghó phân biệt, nói địa ngục và cõi trời, bốn Thánh sáu phàm đều dứt bặt. Dầu có Ma vương làm nạn thì kiếm báu Kim cương sẽ chặt đầu. Họ Vương nuôi con phải tham thiền, chỉ một niệm hằng không diệt, trong khoảng búng ngón tay lần rõ các pháp môn, Thích-ca, Di-lặc đều vượt hơn. Như đem chất độc bôi trên trống, lúc đánh, nghe tiếng đều nhức não, vô biên phiền não đều dứt, nghiệp trước ương họa xưa như nước nóng đổ lên tuyết, một câu cuối cùng là thích nghi, bất động muôn dặm hét một tiếng rồi xuống tòa.  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 17 Đệ tử nối pháp của trụ trì Năng Nhân Thiền Viện ở Kính Sơn là Thiền sư Tuệ Nhật Uẩn Văn kính dâng. Lễ Thị giả đoạn thất thỉnh giảng chung cho đại chúng, có vị Tăng hỏi: Hòa thượng ở trong thất nói: Gọi là cây trúc bề thì đúng, không gọi là cây trúc bề thì sai. Chẳng được hạ ngữ, chẳng được không nói. Bèn quất tọa cụ xuống đất một cái rồi nói: Đệ tử vẽ rắn thêm chân, lại thỉnh Hòa thượng trên đầu chồng thêm đầu. Sư nói: Tự đứng dậy, tự ngã nhào bị người ghét. Lại nói: Cũng cần Hòa thượng gửi gắm. Sư nói: Thiết kî động đầu chân trong ngày. Lại nói: Còn có chỗ vì người hay không? Sư nói: Không. Lại khá một chút. Đổi lấy mắt ông. Bèn nói: Gọi là trúc bề thì đúng, không gọi là trúc bề thì sai, chẳng được hạ ngữ, chẳng được không nói, không được suy nghó, không được bàn tính. Ngay lúc ấy, ông già Thích-ca Đại sư Đạt-ma, tuy có lỗ mũi lại không có chỗ thở. Có gữi gắm không? Gặp sang thì hèn, gặp hèn thì sang. Nếu đi đến chỗ sang hèn lại phải mua giày cỏ hành cước mới được. Cho nên nói: Không thể dùng hữu tâm mà cầu, không thể dùng vô tâm mà được, không thể dùng ngôn ngữ để tạo, không thể lấy vắng lặng mà thông, tuy như thế, như trời che, như đất chở. Toàn phóng toàn thâu, toàn chết toàn sống, Diệu Hỷ nói như vậy cũng không rời tin tức này. Chính như thiền khách vừa đến, ném tọa cụ xuống đất, bèn gõ vào giường thiền nói: Hãy nói: Sáng tỏ việc thế nào? Sáng này, Tỳ-kheo Liễu Hiền vi thị giả Cận Thể gởi y vật trong nhà người thế tục, cổ Xướng thỉnh lão già nêu tông chỉ. Trang nghiêm báo đáp. Đáng tiếc huynh đệ này mới được lời ở nơi trúc bề. Có chỗ phát minh mà nay đã là nói lời năm trước. Ngày nọ hỏi ông ta, gọi trúc bề thì đúng, không gọi trúc bề thì sai là thế nào? Ông ấy đáp: không được. Lại nói: Mong Hòa thượng vì mỗ giáp làm phương tiện chỉ bày. Sơn Tăng nói với ông ấy: ông là người Phúc Châu, ta nói dụ này cho ông. Như lấy quả vải nổi tiếng hòa với vỏ, cùng lúc lột hết, lấy tay đưa bên miệng ông, chỉ là ông không biết nuốt. Ông ấy nghe vậy bất giác cười nói: Hòa thượng nuốt tức là việc họa, qua được bao lâu. Lại hỏi: ngày trước ông ta nuốt trái vải rồi, chỉ là ông không biết mùi vị, ông ấy nói: - Nếu biết mùi vị, chuyển sang thấy việc họa, ta thích hai chuyển ngữ này cho nên cái từ cửa vào chẳng phải là vật báu trong nhà, tin biết nhà tông sư không Phật pháp với người. Lại như, kỹ nghệ khéo léo ở thế gian có kiểu mẫu thì làm được. Như một giải này phải tự ngộ mới được. Được ở tâm, ứng ở tay. Nếu chưa được chỗ an vui, một bề cầu tri kiến, tìm giải hội. Loại tạp độc này mới vào tâm, như dầu vào bột, mãi mãi lấy không ra. Dẫu lấy ra được cũng phí công. Việc này như ban ngày trời xanh, vốn không chướng ngại, lại bị tạp độc này ngăn che, cho nên đối với pháp không được tự tại. Ngày nay, nhiều người được thân tâm vắng lặng lần lượt dứt được bờ mé. Lại thôi dứt một niệm muôn năm. Như lò hương trong miếu cổ, đất sông Thu lạnh, bèn cho là rốt ráo, thật không biết lại bị cảnh giới thắng diệu chướng ngại che lấp. Chánh tri kiến của mình không thể hiện tiền. Thần thông ánh sáng không thể phát ra. Hoặc chấp tất cả tâm bình thường là đạo cho là cực điểm. Trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông, Tăng là Tăng, tục là tục, lớn hết ba mươi ngày, nhỏ hết hai mươi chín, gồm trăm việc làm, cần phải bình thường một đường cho là ổn thoả. Định sẽ đi thì đi. Lại không dám dời một bước khác, sợ rơi hầm lọt hố. Thời gian dài như người mù đi đường, một cây gậy tấc bước bỏ không được. Khẩn lấy nương nhờ sắp đi, bước bước nương nhờ. Ngày nào đó, đạo nhân tỏ rõ, bỗng biết trước đây chẳng phải, ném bỏ cây gậy, buông hai tay, mười phương rộng rãi, bảy dọc tám ngang, Đông Tây Nam Bắc, không thể chẳng thể, đến đây mới được tự tại. Như người ngày nay có thể có cơ phóng được gậy, buông được tay. Khi,xưa Hòa thượng Chân Tịnh mới khai ngữ lục, lúc ấy, lão Hòa thượng ta ở trong pháp đường, Ngũ Tổ làm Thủ tọa. Ngày nọ, Ngũ Tổ thấy Tăng ở dưới hiên, cầm quyển sách văn tự, Tổ nói: Trong hai tay rất nhiều văn tự. Vị Tăng nói: Là ngữ lục của Hòa thượng Chân Tịnh. Tổ bèn lấy đọc, than rằng: hổ thẹn cuối đời có vị tôn túc như thế, bèn gọi Thủ tọa. Lão Hòa thượng ta lúc ấy ở sau rửa chân, nghe gọi vội vàng chạy ra. Tổ nói: Ta được một bổn văn tự không thể nghó bàn, gọi là khéo nói pháp yếu. Ông thử xem. Rồi nói: Thôi đi thôi đi, một niệm muôn năm, mé trước sau dứt. Như nay các nơi có cơ được đến mảnh ruộng này. Ông ấy lại gọi cảnh giới thắng diệu. Lúc xưa, Bảo phong có người quảng đạo, chính là người này, một thân đều không lý hội, đều không thấy có việc thế gian. Trần lao thế gian không làm mê muội ông ta được. Tuy như thế, lại bị cảnh giới thắng diệu này che lấp mắt đạo, phải biết đến chỗ một niệm không sanh, lần lượt dứt được sanh tử. Tôn túc chính yếu, như Hòa thượng Thuỷ Liêu nhân lúc hái rau hỏi Mã Tổ: thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Mã Tổ nói: Đến gần đây ta sẽ nói cho. Thuỷ Liêu bèn bước đến gần, Mã Tổ đạp một cái vào bụng té nhào, Thuỷ Liêu bỗng đại ngộ, bất chợt đứng dậy cười ha ha. Tổ nói: Ông thấy đạo lý gì? Trăm ngàn pháp môn vô lượng nghóa mầu chỉ ở trên đầu sợi lông, bèn biết được cội nguồn. Trong giáo này gọi là vào dòng quên chỗ. Chỗ vào vắng lặng, hai tướng động tónh rõ ràng không sanh, mới được chỗ vào, bèn mất tướng định, tướng định đã mất, không rơi vào hữu vi, không rơi vào vô vi, hai tướng động tónh rõ ràng không sanh, chính là cửa Quán Âm vào lý, ông ấy đã ngộ rồi, bèn mở kho tàng của mình chuyển châu báu trong nhà mình ra, bèn nói: Trăm ngăn pháp môn vô lượng nghóa mầu chỉ ở trên đầu sợi lông, bèn biết được cội nguồn, lại cười ha ha. Mã Tổ biết ông ta đã đến được mảnh ruộng này, bèn không biện ông ta, cũng không có lời sau. Sau này ở am Thuỷ Liêu, Thiền Hòa gia đến thăm ông ta có một trăm chúng, bèn nêu một đạp này nói: Trước kia ăn một đạp của Mã Tổ, mãi đến nay cười không thôi, ông đâu từng có thuyết thoại núi non nhiều lớp, khe suối mát mẻ, liễu bên bờ ngậm khói, hoa trước sân cười mặt trời, anh võ hót, bướm lượn hoa thơm. Chỉ nói: Từ lúc ăn một đạp của Mã Tổ mãi đến nay cười không thôi. Đây là kiểu thức thứ nhất vào dòng mất chỗ, hai tướng động tónh rõ ràng không sanh. Lại không thấy Vân Môn hỏi Đỗng Sơn: vừa rời chỗ nào? Tra độ. Nhập hạ ở đâu? Báo Từ ở Hồ Nam. Rời núi đó bao lâu. Ngày 20 tháng 8. Đánh cho ông ba gậy, người xưa thuần phác cứ thật đối đáp, tự nói: Ta lần này thật từ Tra Độ đến, có lỗi gì, bèn nói: Đánh cho ông ba gậy, kẻ đại trượng phu phải cùng lão này lý hội mới được. Đến sáng mai lại đi, hỏi: hôm qua nhờ Hòa thượng đánh cho ba gậy, chẳng hay lỗi chỗ nào? Hỏi rằng: cái túi đựng cơm, Giang Tây Hồ Nam bèn đi như thế. Đỗng Sơn bỗng nhiên đại ngộ. Lại không có tin tức để thông, cũng không có đạo lý để lấy ra, chỉ lễ bái mà thôi. Đã ngộ rồi bèn mở kho tàng của mình, chuyển châu báu nhà mình ra, bèn nói: Sau này, trụ ở am tranh chỗ khói không người, không chứa một hạt gạo, không trồng một cọng rau, tiếp đãi mười phương qua lại, đều cho y ra kéo cửa, đốt đi cái mũ, lột đi lớp áo vải bên ngoài hôi thối, dạy y an nhiên làm nạp Tăng, há chẳng phải là tài giỏi ư? Vân Môn nói: Thân ông cao lớn như cây dừa, mở miệng to ra. Đây là cách thức thứ hai vào dòng quên chỗ, hai tướng động tónh rõ ràng chẳng sanh. Lại, An Quốc Sư ở Cổ Sơn trụ trên Tuyết Phong nhiều năm. Một hôm, Tuyết Phong biết duyên ông ta đã chín muồi, bỗng đứng dậy xô cây cột nói: Là cái gì? An bỗng liễu ngộ. Chỉ giơ tay kéo mà thôi. Phong nói: Ông thực hành đạo lý gì? An nói: Đâu có đạo lý gì? Sau đó, Dương Đại Niên thu vào trong Truyền Đăng Lục, gọi là quên mình rõ tâm. Đây là cách thức thứ ba vào dòng quên sở, hai tướng động tónh rõ ràng chẳng sanh. Lại, Hòa thượng Quán Khê một hôm thấy Lâm Tế, Tế bước xuống võng vừa cầm cột. Khê nói: Lãnh lãnh. Đây là cách thức thứ tư vào dòng quên sở, hai tướng động tónh rõ ràng chẳng sanh. Điều nầy như nói người không được, truyền trao cho người không được. Lão già bảy mươi năm tham học từng ào ạt ngộ đến. Về Vân Môn lý hội được một chút, chỉ là không thể được lần lượt đoạn bờ mé sanh tử. Sau này ở Kinh đô Thiên Ninh, thấy lão Hòa thượng thăng đường, Sơn Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là chỗ Chư Phật ra đời? Vân Môn nói: Đi trên nước núi phía Đông. Nếu là Thiên Ninh thì chẳng phải như vậy. Thế nào là chỗ Chư Phật ra đời, gió từ Nam đến điện các sanh lạnh, ở đây bỗng nhiên cắt đứt bờ mé sanh tử. Thí như đoạn tơ loạn lấy dao cắt đứt. Lúc ấy, khắp thân đầy mồ hôi. Tuy nhiên động tónh chẳng sanh, tức được ngồi chỗ thanh tịnh. Một hôm, nhập thất. Lão Hòa thượng nói: - Cũng không dời ông đến mảnh ruộng này, đáng tiếc ông chết rồi không thể sống, không nghi ngôn cú, chính là đại bệnh, chẳng thấy đạo. Sườn núi buông tay tự chịu gánh vác. Sau khi chết lại sống, khinh anh không được, phải tin đạo lý này. Lão già tự nói: ta chỉ y cứ chỗ nầy mà được. Đã là thích sống, lại không thể lý hội được. Lão Hòa thượng lại sai ta ở trong liêu Trạch Mộc làm việc, thị giả hàng ngày đồng só đại phu, phải được ba, bốn lần vào thất. Chỉ nêu hữu cú vô cú như dây nương cây mới mở miệng nói chẳng phải, như thế khoảng nửa năm, chỉ lo việc tham học. Một hôm, cùng các viên quan ở phương trượng Dược Thạch, ta cầm đũa trong tay mà quên ăn cơm. Lão Hòa thượng nói: Gã này tham được thiền cây Hoàng Dương, đảo lộn co rút. Ta bèn nói thí dụ rằng: Hòa thượng! Đạo lý này giống như con chó ngồi nhìn nồi dầu nóng, muốn liếm lại liếm không được, muốn bỏ mà bỏ không được. Lão Hòa thượng nói: Ông ví dụ rất tốt, đây chính là vòng Kim cương, gai gốc. Một hôm, ta hỏi lão hòa thựơng: nghe nói: Hòa thượng đang ở pháp đường của Ngũ Tổ có mở lời này, chẳng hay Hòa thượng Ngũ Tổ làm sao đáp. Hòa thuợng không chịu nói. Lão già nói: Hòa thượng lúc ấy không thể một mình hỏi, phải hỏi trước đại chúng. Như nay nói lại ngại gì. Lão Hòa thượng liền nói: Ta hỏi hữu cú vô cú như dây nương vào cây là thế nào? Ngũ Tổ nói: Phỏng cũng phỏng không thành, vẽ cùng vẽ không được. Lại hỏi: Bỗng gặp cây ngã dây khô thì sao? Tổ nói: Thì theo nhau đến. Lão này mới nghe nêu bèn lý hội được, rồi nói: Mỗ giáp hội rồi, lão Hòa thượng hỏi: chỉ sợ ông thấu suốt công án chưa được. Lão này nói: Thỉnh Hòa thượng nêu, lão Hòa thượng bèn nêu một loạt công án ngoa ngụy, bị ta cắt đứt hai chuyển ba chuyển như lúc thái bình vô sự được đường thì đi không trệ ngại. Lão Hòa thượng nói: Như nay mới biết đạo, ta không chê ông, ta đã hội rồi, lại nghi mấy thiền đầu bèn hỏi lão Hòa thượng. Lão Hòa thượng nói: Thiền ta như biển lớn, ông lấy được biển lớn đến nghiêng lấy đi mới được, nếu lấy đến được một bát, đầy được một chút đã thôi, là do khí lượng ông chỉ như thế, dạy ta đâu thể làm được, có được mấy người đến được mảnh ruộng của ông. Lúc xưa, có một thượng tọa cảnh giống như ông, chỉ là chết rồi, qua được bao lâu bèn nêu: ta lập Tăng sau này đến ở liêu Thủ tọa Vân Cư trong đêm thường cùng huynh đệ nhập thất. Lão Hòa thượng rất thích đến nghe, có khi vào thất rồi, lại lên phương trượng, thấy lão Hòa thượng ngồi cùng ở lò lửa. Lão Hòa thượng nói: Hoặc có người tu thiền được như lão Tăng, sao ông lại chống trái. Lão này nói: đâu may như thế. Chính như Đông Pha nói: Làm cây dao róc được thịt kẻ thù, ta lại xô nhào Hòa thượng vào thất, bị ta đè lên vách. Lão Hòa thượng cười ha ha, suy nghó lão Hòa thượng nay xương tan thịt nát cũng chưa báo ơn được. Nhân Thượng tọa lễ nghe lão này nêu: người Phúc Châu ăn cây vải có người nhìn chỗ đất cho nên nói đến đây. Huynh đệ ở trong tòng lâm này bước đi có khuôn phép, không có lỗi của nạp tử. Đáng tiếc thước đầu ngắn nhưng đánh vào gân xương quyết định mờ mịt ông ta không được. Có một tắc cổ thoại nêu cho đại chúng, trong giáo nói: Khi ta không thấy, sao không thấy chỗ ta không thấy, nếu thấy chỗ không thấy tự nhiên chẳng phải là tướng không thấy kia. Nếu chẳng thấy chỗ ta không thấy thì tự nhiên chẳng phải vật, nói: Đâu chẳng phải ông. Sau này, Hòa thượng Trạm Đường tụng rằng: lão Hồ thấu tâm lão bà, vì A-nan-đà ý chuyển sâu, ngựa Hàn Cán hý qua cỏ xanh, trâu Tái Tung nằm bóng liễu xanh. Diệu Hỷ cũng có bài tụng: tuy chẳng có văn chương, lại chẳng ở Trạm Đường. Ruộng hoang không có người cày. Cày rồi có người tranh giành, không gió lá sen động, quyết định cá có đi. Ngày 11 tháng 3 niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 26, Sư đến chùa Đông Sơn, ở huyện Tân Cam, thuộc Giang Quân, tạ ân xong, niêm hương chúc Thánh bèn lên tòa nói: - Áo lông xanh vốn là vật nhà ta, ngày nay lại hoàn Tăng ngày trước. Trân trọng ân Thánh, lấy gì đền đáp, một sợi dây muôn năm trên cây thông, bèn giơ gậy nói: Sợi dây ở đây, một câu báo ân là nói gì? Nếu nói được, thì xương tan thịt nát chưa báo ơn đủ, rõ ràng vượt trăm ức. Nếu chưa được, thì sơn Tăng không khỏi nói rõ ra cho mọi người biết. Lấy ngày tháng làm mắt trời, chỉ ra núi Tu-di làm thọ sơn. Các quan huyện Tân Cam thỉnh Sư giảng chung cho đại chúng. Tăng hỏi: ơn Thánh đã thọ, Tăng tướng lại tròn, đệ tử lên đây, xin Sư chỉ bày làm mới lại Phật pháp. Sư nói: Mưa qua khe ánh sáng xanh. Mây tan sắc núi mới, lại nói: Làm sao cho long đồ thêm bền lâu, mặt trời Phật càng thêm sáng. Sư nói: Một lối đi xưa, cao thấp tự rõ ràng. Chỉ như đại điên gõ răng, Hàn Văn Công thẳng xuống biết chỗ về. Hoàng Bá đặt tên, Bùi Tướng công biết thế nào. Chẳng hay ngày nay Hòa thượng gặp Tri nhuyện Triều Nghị có chỉ dạy điều gì? Hai mắt đối hai mắt. Có phải là chỉ thị hay không? Mặc cho đục rùa đánh ngói. Vị Tăng lễ bái. Sư bèn nói: hỏi được cũng tốt, không hỏi được càng thân. Vì sao? Một đường trước thinh ngàn Thánh không truyền. Người học lao nhọc như vượn bắt bóng, nhưng có người anh linh. Như thế không như thế, vừa nghe nêu bèn đứng dậy đi, còn ở trong hang sắn bìm, đáng được trong vô sở chứng, ngoài vô sở tu. Như đất nâng núi, như đá ngậm ngọc, cũng như phải là chỗ nạp Tăng bỏ thân mạng. Nếu biết được trần trần, niệm niệm đều chẳng thể thiếu, cúi ngước đều ở trong đó. Đương lúc như thế rốt ráo là trăng gió nhà ai. Có gửi gắm không? Ngàn Thánh không biết đi đâu, nhờ kiếm thiên trường ép ngặt người lạnh. Lại nói: Người này là Tri Huyện Triều Nghị, ngày nay theo các đồng quan đến gởi Cư Hiền Só Đại phu, cùng đến tùy hỷ cạo tóc ở Tông Cảo, thỉnh ý chỉ nói pháp một đoạn nhân duyên này, hỏi Phật có nhân huống là Tông Cảo tự Hành Mai, vọn vẹn được mười hai năm, ngày nay bất giác bất tri vừa đến Tân Cam, cùng pháp hội này, há chẳng phải trước báo đáp trong đời, từng ở trong hội Linh Sơn đồng làm người nghe pháp, vốn nói pháp tự có thời gian nơi chốn. Nếu thời thiết nhân duyên chưa hội, thì nói pháp không thành. Cho nên Đức Thích-ca nói pháp hơn ba trăm sáu mươi hội, đều lập thời xứ, đâu gọi là thời xứ. Há không thấy Kinh Viên Giác trước nói: Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật, nhập Tam-muội Chánh thọ Thần thông Quang Minh Tạng. Đây chính là thời gian ngày nay nói pháp. Cho nên nói: Muốn biết nghóa Phật tánh, nên quán thời tiết nhân duyên, nếu thời tiết đến thì lý ấy tự rõ. Há không thấy đại sư Thiên Thai Trí giả nhân đọc kinh Pháp Hoa đến đoạn Bồ-tát Dược Vương đốt thân nói: Là tinh tấn chân thật, là pháp chân thật cúng dường Như lai, ở đây hoát nhiên lần lượt dứt trừ sanh tử bèn chứng Tam-muội Pháp Hoa. Ở trong tam-muội thấy Phật cùng trăm muôn đại chúng trong hội Linh Sơn chưa giải tán. Như nay nói cho người, nếu không hội nhập được cảnh giới nầy, thì che đất không tin. Vì sao? Trí Giả là người đời Tùy cách Phật Thích-ca hai ngàn năm. Nhân thế nào là tinh tấn chân thật, đó gọi là chân pháp cúng dường Như lai. Bèn ở trong Tam-muội Pháp Hoa thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa giải tán. Lại là chê người ư? Là giả nói ư? Việc này chỉ chứng mới biết được, thật khó lường. Phải biết Diệu Hỷ ngày nay nói pháp và Đức Phật ở trong hội Linh Sơn nói pháp không khác. Và Đại Sư Trí Giả ở Nam Nhạc chứng được tinh tấn chân thật này, gọi là pháp chân thật cúng dường Như lai cũng chẳng khác, người thật chứng thì không khinh nhau. Người chưa chứng giống như nói mộng. Cho nên nói: tất cả kiếp quá khứ, an trí vị lai nay, vị lai kiếp hiện tại lại bày đời quá khứ, dùng một ấn tam-muội hải ấn ấn định lại không thấu suốt. Không đến không đi, không trước không sau, chẳng những Diệu Hỷ một người như thế mà Pháp Phó Lang Trung cũng giống như thế. Chẳng những Pháp Phó Lang Trung cũng như thế mà Phán Huyện Triều Nghị và các đồng quan ký Hiền Só Đại Phu cũng giống như vậy. Chẳng nhưng Phán Huyện Triều Nghị cùng các đồng quan ký Hiền Só đại Phu cũng giống như vậy, mà cho đến hiện tiền Tăng tục, sang hèn cũng như thế. Pháp như thế, ở trời đồng trời, ở người đồng người. Người đáng dùng thân Phật được độ thì hiện thân Phật mà nói pháp cho họ, người đáng dùng thân Tể quan cho đến thân Bà-la-môn phụ nữ để độ thì hiện thân ấy mà nói pháp cho họ. Đây là giống như pháp môn thanh tịnh bình đẳng. Nếu ở đây rõ được, mặt mũi xưa nay, bản địa phong quang của mỗi người, mới biết một đại tạng giáo năm ngàn bốn mươi tám quyển từng câu không nói việc khác, vô thường mau chóng không đợi lúc nhàn. Cho nên nói: Cố gắng đời này phải liễu, chẳng dạy nhiều kiếp thọ ương khác. Thân người khó được, làm người cao quý lại khó hơn. Không thấy Đức Phật nói kinh bốn mươi hai chương, trong đó có hai mươi điều khó, đó là: Nghèo cùng bố thí là khó. Giàu sang học đạo là khó. Có thế lực chẳng cậy là khó. Tóm lại, có cái mất mạng không chết là khó. Mọi người các ông có hội không? Nếu mất mạng thì chẳng ai không chết, làm sao nói đạo lý không chết. Nếu hội được điều này mới được lấy hai mươi điều khó, mới một phen chuyển đến đều là việc dễ. Mất mạng không chết là dễ, nghèo cùng mà bố thí thì cũng dễ, giàu sang học đạo cũng dễ, có thế lực mà không cậy cũng dễ. Nếu ngộ thì dễ không ngộ thì khó. Nhưng hai chữ khó dễ cũng không liên can đến việc bổn địa phong quang, mặt mũi xưa nay. Vì sao? Vì pháp môn này không khó cũng không dễ. Nếu hướng đến chỗ không khó, không dễ, mắt vội vàng xem, bên ngoài dứt các duyên, bên trong tâm không xao lãng mới biết được pháp vốn không khó dễ. Nhưng người thông minh lanh lợi ngày nay, không thể tiện ngô bệnh là ở đâu. Lại tâm, ý, thức đi trước, bị tâm ý thức che lấp ánh sáng của mình, che lấp đường đi, tiến bước không được, cho nên nói muốn kẻ thông minh lanh lợi, không đắm trước, cần phải trong không phóng ra, ngoài không phóng vào. Trong không phóng ra thì nội tâm không xao lãng, ngoài không phóng vào tức là bên ngoài dứt các duyên. Nội tâm đã định thì các duyên cũng định. Cho nên nói: Na-già thường trong định, chẳng lúc nào không định, một việc lớn nhân duyên này đại khái là vậy. Nếu tin hiểu được như vậy, tu chứng như vậy thì Chư Phật ba đời chính là ông. Các ông chính là Chư Phật ba đời, không xưa không nay, đồng một giải thoát. Thế gian có việc cao quý như thế, đáng tiếc trăm họ hàng ngày không biết, nhưng nay một hội cũng chẳng phải duyên nhỏ. Lại nương theo Thiền sư ở các núi, chư thiện nam tín nữ cùng nghe pháp này. Lại nguyện một nghe ngàn ngộ được đại tổng trì, hễ trái qua nhó căn thì mãi mãi là hạt giống đạo. Đứng hồi lâu, chỉ mong trân trọng. Tiền kế nghị thỉnh Sư giảng chung cho đại chúng. Sư nói: Pháp không thể thấy nghe và biết được, nếu thực hành thấy nghe biết chính là thấy nghe biết, chẳng phải là cầu pháp. Đã lìa cái thấy nghe, hay biết thì gọi là pháp gì? Đến đây, như ngừơi uống nước, lạnh nóng tự biết, trừ phi thân chứng, thân ngộ mới thấy được. Nếu người thật có chứng ngộ, giơ lên một sợi lông thì hết mặt đất cùng lúc rõ được. Thời nay, chẳng những người tu thiền mà ngay những người só đại phu thông minh lanh lợi, đọc rộng các sách, mỗi người đều có hai thứ bệnh, nếu không biết ý lại là vọng hoài, vọng hoài thì rơi vào hang quỷ ở Hắc Sơn, trong giáo gọi là hôn trầm. Đắm vài ý thì tâm thức phân tán, một niệm tiếp một niệm, niệm trước chưa dừng, niệm sau nối tiếp, trong giáo gọi là Trạo cử. Chẳng biết có không trầm dưới gót chân mọi người, một đoạn đại sự nhân duyên bất trạo, như trời che đất chở. Khi chưa có thế giới đã có việc lớn nhân duyên này. Khi thế giới, hoại thì việc lớn nhân duyên này không hề động một sợi lông. Thường thường só đại phu phần nhiều là trạo cử mà nay các vị có một thứ tà thiền mặc chiếu, thấy só đại phu bị trần lao chướng ngại, một chút cũng không an, bèn dạy họ tro lạnh cây khô, một sợi lụa trắng, lò hương trong miếu xưa. Sông lạnh lấy đó thôi dứt người. Ông nói: Còn đứt thôi được chưa, thật không biết con khỉ này, chẳng biết làm sao thôi được, đến là mũi nhọn trước, đi là sau điện. Không biết làm sao thôi dứt, gió này hằng năm ở đường Phúc Kiến rất thạnh hành. Vào đầu niên hiệu Triệu Hưng Diệu Hỷ đến đất Mãn, khi ở am tiện lực sắp đặt, gọi là đoạn tuệ mạng Phật. Ngàn Phật ra đời không cho sám hối. Trong đó có só nhân Trịnh Thương Minh rất thông minh, dạy thừa công lý hội được, nói tạng cũng lý hội được, Nho giáo thì có như vậy. Một hôm, cầm nén hương đến thất Diệu Hỷ, rất đỗi tức giận, thinh sắc đều cố gắng nói rằng: - Có cây nhang chưa đốt, muốn cùng Hòa thượng lý hội một việc. Chỉ như mặc nhiên không nói là chỗ thứ nhất trong pháp môn này, Hòa thượng quở trách Tăng nghi ngờ Hòa thượng không đến mảnh ruộng này, cho nên không kính tin. Như Đức Phật ở nước Ma-kiệt-đà, trong hai mươi mốt ngày đóng thất không có tiếng động, chẳng phải Phật im lặng hay sao? Thành Tỳ-da-ly, ba mươi hai vị Bồ-tát mỗi vị đều nói pháp môn không hai cuối cùng Duy-ma-cật không nói, Văn-thù khen hay há chẳng phải là Bồ-tát im lặng hay sao? Tu-bồ-đề an tọa trong núi, vô ngôn vô thuyết, há chẳng phải là Thanh Văn im lặng hay sao? Trời Đế-thích thấy Tu-bồ-đề an tọa trong núi, bèn rưới mưa hoa cúng dường cũng không ngôn thuyết, há chẳng phải là phàm phu im lặng hay sao? Đạt-ma đến đất Lương, sang đất Ngụy, Thiếu Lâm ngồi lặng lẽ chín năm, há chẳng phải là Tổ Sư im lặng hay sao? Lỗ Tổ thấy Tăng bèn xoay mặt vào vách há chẳng phải là tông sư im lặng hay sao? Vì sao Hòa thượng lại bác bỏ mặc chiếu là tà phi? Diệu Hỷ nói: Thượng Minh ông hỏi được, ta cũng đợi nói cho ông. Nếu ta nói không được thì sẽ đốt hương lễ ông ba lễ. Nếu ta nói được thì ông phải đốt hương lễ bái ta. Ta cũng không nói ngôn cú cho ông về ông già Thích-ca và Tiên đức. Ta nói trong thất cho ông, cái gọi là Bà Bí bái Bà Niên. Bèn hỏi: ông có đọc sách Trang Tử không? Sao không đọc? Diệu Hỷ nói: Trang Tử nói, nói mà đủ, suốt ngày nói thì tận đạo, nói mà không biết đủ suốt ngày nói thì tận vật. Tột cùng của vật và đạo lời im không đủ để tải, phi ngôn phi mặc nghóa có cùng tột. Ta không từng xem quách tượng giải và các nhà chú giải, chỉ y theo Đỗ Soạn của ta nói, phá mặc nhiên này của ông, há không thấy phu tử ngày nọ lớn sợ nhỏ, quái lạ nói: - Tham ư? Đạo ta chỉ có một mà thôi. Tăng tử: dạ. Ông thi thố, mọi người mới nghe chữ dạ bèn đến đây ác khẩu nói: Một chữ Dạ này cùng trời đất đồng căn, muôn vật đồng thể, cho đến trên vua Nghiêu Thuấn thành gia lập quốc, xuất tướng nhập tướng. Cho đến khi mở tay chân không ra một chữ Dạ này, lại không thích giao thiệp. Thật không biết đạo lý nầy chính là Tăng tử nói mà đủ, Khổng Tử nói mà đủ, bọn họ không hội bèn hỏi thế nào. Tăng tử thấy lý của ông ấy hội không được liền hướng đến người thứ hai đáp lời ông ta, gọi đạo của phu tử chẳng thể không nói. Cho nên nói đạo của phu tử trung tín tha thứ mà thôi. Cốt yếu đạo với vật phải chờ chí cực, không ở ngôn ngữ, không ở chỗ mặc nhiên. Lời nói tải không được, im lặng tải cũng không được. Điều công nói còn không khế hợp với ý Trang Tử, huống gì phải hợp với Đức Phật Đại Sư Đạt-ma. Ông muốn lý hội được chỗ cùng tột về phi ngôn phi mặc của Trang Tử hay không? Chính là Vân Môn đưa cái quạt lên nói, cái quạt nhảy lên tầng trời ba mươi ba chạm lỗ mũi của Đế-thích, Cá chép biển đông đánh một gậy mưa nghiêng bồn, nếu ông hội được Vân Môn thì thuyết thoại này lại là lời Trang Tử, lời Trang Tử, lời Khổng Tử. Lại không còn lớn tiếng. Diệu Hỷ nói, ông tuy không nói, nhưng tâm chưa phục. Nhưng người xưa quyết định không ở chỗ mặc nhiên ngồi ở đất rõ ràng. Ông xưa nay nêu Thích-ca nhập thất Duy-ma im lặng, hãy khán. Thuở trước có chủ tọa, chủ gọi là Khải Pháp Sư lấy chỗ vô ngôn thuyết mà nói ra cho mọi người rằng Thích-ca nhập thất ở Ma-kiệt. Tịnh Danh ngậm miệng ở Tỳ-da, Tu-bồ-đề xướng vô ngôn thuyết đề hiền đạo, Thích Phạm không nghe mà mưa hoa. Đây là lý về thần ngự cho nên dùng miệng mà im, đâu gọi là vô biện, đều không thể nói lý nầy mà thần bỗng nhiên chống chọi nhau. Bất giác đến chỗ nói không được, tuy không nói nhưng tiếng như sấm, cho nên chẳng lẽ nói là vô biện? Bởi biện đều không thể nói, đây là biện tài thông minh ở thế gian. Dùng một chấm không được đến được mảnh ruộng như thế, mới được chờ buông thân xả mạng. Loại cảnh giới này phải do đương nhân tự chứng tự ngộ mới được, cho nên kinh Hoa Nghiêm ghi: cung điện Như lai không có bờ mé, tự nhiên người giác ở trong đó. Đây là pháp môn đại giải thoát của các Thánh trước đây, vô biên vô lượng, không được không mất, không im không nói, không đến không đi, trần trần sát sát, niệm niệm pháp pháp chỉ là chúng sanh căn tánh kém cỏi, không đến cảnh giới của bậc Thánh Tam giáo, cho nên phân biệt kia đây, thật không biết cảnh giới bao la như thế lại ngồi im lặng trong hang quỷ ở Bắc Sơn. Cho nên bậc tiên Thánh quở trách giải thoát hầm sâu là chỗ đáng sợ hãi. Dùng thần thông mắt đạo để xem xét thì như ngồi trong vạc dầu sôi lửa bỏng, cây kiếm núi đao Tọa Chủ còn không dính mắc vào chỗ im lặng, huống chi khách môn hạ của tông sư, lại nói: Mới mở miệng lại sợ rơi vào thời nay, lại không thích giao thiệp. Thượng minh bất giác làm lễ, Diệu Hỷ nói: Ông tuy làm lễ nhưng lại có việc, tới chiều tối đến nhập thất, bèn hỏi ông ta năm nay bao nhiêu tuổi: Sáu mươi bốn tuổi. Lại hỏi ông trước, sáu mươi bốn tuổi từ đâu đến. Y không mở miệng được, bị ta lấy gậy đánh vào cột sống. Ngày kế lại đến thất nói: Trước sáu mươi bốn tuổi còn chưa có tôi, vì sao Hòa thượng lại hỏi, tôi từ đâu đến. Diệu hỷ nói: Ông trước sáu mươi bốn tuổi không thể vốn ở Trịnh Gia Phúc Châu. Chỉ nay nghe đoạn nói pháp, nghe pháp này rõ ràng phân minh. Khi chưa sanh, rốt ráo ở đâu? Không biết. Diệu Hỷ nói: Nếu ông không biết thì chính là sống lâu, đời nay lại hạn một trăm tuổi. Sau một trăm tuổi ông đợi bay ra ngoài Tam thiên đại thiên thế giới. Phải cùng với ông ta vào quan tài mới được. Lúc ấy, bốn đại năm uẩn cùng lúc giải tán, có mắt không thấy vật, có tai không nghe tiếng, có tim không phân biệt được, có thân lửa đốt dao chém đều không biết đau. Đến đây rõ ràng phân minh. Lại đi chỗ nào? Tôi cũng không biết. Diệu hỷ nói: Ông không biết thì đã là chết rồi. Cho nên nói: Vô thường mau chóng, sanh tử việc lớn, lại là đạo lý này, ở đây mà thông minh cũng không được, nhớ lấy cũng không được, ta lại hỏi ông: bình thường có làm nhiều việc hay không? Ngày 30 tháng chạp đem hai câu địch lại với sanh tử kia, phải biết là sanh đến tử đi rõ ràng mới được, nếu không biết trước tức là ngu phu: ông mới phục tâm, từ đây bèn cứu người ngồi chờ và vô ngôn vô thuyết chịu đến làm công phu ở đây, một ngày một hội đồng nghe pháp nầy. Phải biết người có nhân duyên này từ xưa đến nay bất biển bất động, cũng không quên hoài bão, cũng không đắm ý, chỉ tự thời thời nêu lên. Khi vọng niệm khởi cũng không được dùng tâm để ngăn dứt, dứt động về chỉ, chỉ lại càng động, chỉ y cứ vào động chỉ, khán thoại đầu, lại là ông già Thích- ca, đại sư Đạt-ma xưa nay, chỉ là điều này. Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? - Không. Ông bày mọi người thường thích xuyên tạc nói đạo, điều này chẳng phải là vô của hữu vô, chính là vô của chân vô. Chẳng phải là vô của thế gian trống không. Khi nói như thế còn địch được sanh tử hay không. Đã không địch được sanh tử thì chưa được, nhưng chưa được, cũng phải cân nhắc, ngồi cũng cân nhắc, khi buồn vui giận ghét, khi chén tạc chén thù cũng là lúc cân nhắc đi cân nhắc lại, không mùi vị tâm đầu hợp như một khối sắt nóng, lúc ấy chính là chỗ tốt không được buông bỏ. Bỗng nhiên hoa tâm pháp minh chiếu khắp các cõi mười phương, rồi có thể ở đầu sợi lông, hiện cõi Bảo Vương. Ngồi trong hạt bụi xoay bánh xe đại pháp. Các ông nghe nói thế thường nói ở trong tâm lão Diệu Hỷ lay môi đánh lưỡi nói cũng tương tự, không biết trong bụng ông ta thế nào, phải biết Diệu Hỷ nói được lại làm được, không phải hai loại. Cho nên, Tôn giả Ca-tỳ-ma-la Tổ thứ 13 ở Tây Thiên muốn tìm đệ tử nối tiếp ngôi vị tổ, nghóa là ở núi sâu hang cùng sẽ có cao nhân ở đó, nhân đó đến tìm. Nên biết chẳng những đệ tử tha thiết cầu thầy mà thầy cầu đệ tử cũng tha thiết. Bèn đi về phía Đông ngọn núi, thấy một người ra đón nói: Nơi núi sâu cô tịch chỗ rắn ở, Đại đức là bậc Chí tôn đâu uổng thần túc. Tổ nói: Ta chẳng thấy là bậc chí tôn ta đi tìm người hiền. Người kia thầm nghó: vị Sư này được tánh quyết định, mắt đạo sáng rỡ phải không, là đại Thánh kế chân thừa phải không. Tổ nói: Tâm ông tuy nói mà ý ta đã biết. Chỉ nói về xuất gia, chứ lo gì ta có phải là Thánh hay không. Người xưa nghe vậy sám hối tạ tội. Ngay đó theo Tổ xuất gia tức là tổ Long Thọ thứ 14.Người học đạo ngày nay phần nhiều không tự nghi, lại nghi người khác. Cho nên nói: Nghi lớn sẽ ngộ lớn, hãy nói ngộ được cái gì? Hồi lâu Sư nói: Ta không dám khinh các ông, các ông đều sẽ thành Phật. Xuống tòa. <篇> <卷>QUYỂN 18 Sư nói: Tín Só Trịnh Trung ở Bình Giang biết có việc lớn nhân duyên này, được đến thấy Diệu Hỷ, muốn nghe Bát-nhã cúng dường chân thân xá-lợi tháp báu. Thọ trai Vân đường thiền chúng thanh tịnh, thỉnh giảng chung cho đại chúng, công đức chẳng phải là việc khác. Chuyên dụng hồi hướng vô thượng Bồ-đề quả Phật. Quán sát phát tâm cũng là rộng lớn. Chỉ tâm một niệm rộng lớn này có thể biến mặt đất thành vàng ròng, khuấy Trường Giang thành đề hồ. Có người không tin lời nói này phần nhiều chấp sự gạn lý. Như Phú Lâu Na chấp tướng nạn tánh hỏi Thế tôn rằng: như tánh đất trùm khắp, sao nói dung chứa nước. Tánh nước trùm khắp, lửa thì bất sanh, vì sao lại nói hai tướng nước lửa đều khắp hư không, chẳng xâm lấn, hủy diệt nhau. Bạch Thế tôn! Tánh đất chướng ngại, tánh không thì hư thông, nói gì cả hai đều trùm khắp pháp giới, bỏ chấp tướng sanh nghi ở đây. Cho nên Đức Thế tôn trước vì A-nan nói tánh nước chân không tánh không chân nước. Cho đến đất, nước, lửa, gió, mỗi mỗi trùm khắp pháp giới. Tùy tâm chúng sanh theo nghiệp phát hiện, thường nhớ được. Sơn Tăng năm trước hành cước, sắp vào kinh đô, đến Thiên Ninh thuộc Đặng Châu có Đạo Só ở Thái Châu chẳng biết tên họ, là thấy thuốc đến Nam Dương. Một hôm, thấy ông ta dạy người đến Tạng ty mượn hai quyển kinh Bảo Tích và Hoa Nghiêm. Sơn Tăng liếc nhìn biết ông ta là người giỏi. Ngày kế gặp nhau, cùng nói chuyện quả nhiên khế hợp, nhân đó hỏi ý vì sao mượn kinh. Ông ấy nói: Tôi nghe người tốt nói rằng, nếu muốn rơi vào ngay lý hội bổn mạng nguyên thần thì phải là ông già Thích-ca mới được, bèn hỏi Sơn Tăng: Phật có chánh biến tri, việc trên thế gian mỗi mỗi đều nói cùng tận. Vì sao không thấy nói duyên khởi về kim mộc thuỷ hoả thổ. Thầy ta có nghe nói, không tiếc khai thị mới là phải thời, thùng sơn nhà mình chưa phá thì chưa rảnh lý hội việc nầy. Chỉ nói với ông ta trong tạng kinh chẳng cần nói. Tôi còn ở địa vị hữu học mới cần thấy người. Cả hai day dưa mà thôi. Khi đến Di-môn, đã phát việc này rồi. Nhân học kinh Lăng-nghiêm vốn bên trong nói được rất hiểu. Phật bảo Phú-lâu-na rằng: đồng dị quấy loạn, đối đãi sanh nhọc, nhọc lâu phát trần tự tướng vẩn đục. Do đó dẫn khởi trần lao phiền não, khởi làm thế giới, yên tónh thì thành hư không, hư không là đồng, thế giới là khác. Nó không dị đồng, thật là pháp hữu vi, giác mịnh không mê muội, đối đãi thành dao động, nên có lớp gió, giữ gìn thế giới. Từ đó mà biết, thế giới thành tựu nhờ được lớp gió giữ gìn. Bởi tánh gió lay động, lay động không ngừng bỗng sanh cứng chắc ngăn ngại. Cho nên nói nhân không sanh dao động, cứng chắc ngăn ngại. Vàng báu kia do minh giác lập nên cứng chắc, cho nên có lớp vàng giữ gìn cõi nước. Bởi gió và vàng, hai vật chạm nhau, liền sanh ra lửa. Nên nói: Thánh báu giác ngộ vững chắc, dao động ánh sàng thì gió phát ra. Vàng gió chạm nhau nên có ánh lửa. Vì tánh biến hóa, bảo sanh nhuần, nung nấu hoả quang nên có lớp lửa. Gồm các cõi mười phương, lửa hơn thì nước thua. Xen nhau lập ra sự cứng chắc, ướt thành biển lớn, khô làm biển đầm, vì nghóa này, trong biển lớn kia ánh lửa thường khởi. Trong đầm hồ kia, sông hồ thường chảy, thế nước yếu hơn lửa, kết thành núi cao. Cho nên núi đá chạm nhau phát lửa, nấu chảy thì thành nước. Thế đất kém hơn nước, nên kéo lên thành cỏ cây, bởi vậy cây cỏ nếu đốt thì thành đất, nhân xen nhau thành nước, giao vọng phát sanh, thay nhau làm hạt giống, lấy làm nhân duyên. Thế giới nối nhau, xem Đức Thế tôn nói kim mộc thuỷ hoả thổ như thế rất dễ hiểu. Tiếc thay lại không thấy đạo nói giống Ngài. Vốn là xem giáo văn tự, cũng cần đại pháp minh, sau đó tự nhiên không phí sức. Nhà mình tham được thiền rồi, vừa cầm đến xem, bèn thấy được Phú-lâu-na chấp tướng gạn tánh. Lại thấy Như lai nói tánh đất, nước, lửa, gió cho A-nan mỗi mỗi thanh tịnh, bổn nhiên trùm khắp pháp giới. Trong lòng tỏ rõ không dính mắc. Như nay tâm địa chưa rõ, không khỏi nghi nói thế giới từ đâu khởi, tương lai hướng về chỗ nào mà diệt. Lại trước có thế giới, lại trước có người, nếu nói trước có thế giới thì người xưa lẽ ra không nói ba cõi do tâm hiện, muôn pháp do tâm biến ra. Nếu nói trước có người, đã chưa có thế giới, người đến chỗ nào an ổn, điều này không ngại bị mắc mưu. Nói trước có thế giới cũng không đúng, trước có người cũng không đúng. Đại pháp nhất minh không phải sắp xếp tự nhiên phân hiểu. Cái gọi là biến đại địa thành vàng ròng, khuấy Trường giang thành đề hồ, chẳng phải là việc sai. Cho đến hạt cải chứa núi Tu-di, Tu-di chưa hạt cải, cũng chẳng phải nhờ ở thuật khác. Chỉ như núi Tu-di chứa hạt cải, hạt cải bên trong làm sao chứa được một tòa Tu-di. Đến đây cũng phải đích thân thấy một lần mới được. Một việc này, người người vốn có, mỗi mỗi thiên chân, chỉ vì vô thỉ xưa nay bị vô minh nghiệp thức che lấp, cho nên không thể hiện tiền, lại đi bên ngoài dò tìm xa giá, bình thường trong thất hỏi huynh đệ, chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, vậy là gì? Lúc chưa hỏi may tự ngồi trong nhà. Mới hỏi là gì, bèn rời đi bổn vị, đi ra trước nhà. Thí như hỏi người ở đâu, nói ở trong nhà. Hỏi việc gì ở trong nhà tức là quên nhà rồi, ra bên ngoài suy tìm ngôn ngữ để chỉ đối. Cho nên sai một ly đi ngàn dặm. Nếu cần chân thật lý hội, thì việc này quyết định không ở nơi ngôn ngữ. Người học thời này nêu ra mấy đường này không được nói với ông ta, không ở ngôn ngữ bèn có giải hội là cơ cảnh, lại nói không ở cơ cảnh, lại nói không ở cơ cảnh lại nêu ra chỗ gánh vác, chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, nêu rồi lại hội rồi. Tiên Sư Viên Ngộ thường nói: Các vị gần đây, đều thành hang hốc. Ngũ Tổ trở xuống ta và Phật giám, Phật nhãn ba vị kết xã tham thiền, như nay sớm thấy các lậu đã hết. Phật giám trở xuống có một loại làm chó kêu, làm chim gáy hót để lấy nụ cười. Phật Nhãn có một loại nhìn lồng đèn trên cột, chỉ đông vẽ tây giống như mắt thấy quỷ, ta ở đây không hề có bệnh này. Sơn Tăng nói: Đá nháng lửa, điện chớp, dẫn được vô hạn người đùa giỡn với nghiệp thức. Nêu rồi lại hiểu, há chẳng phải là Phật pháp đại hang hốc. Tiên sư bất giác thè lưỡi nói: Mặc ông ta, ta chỉ lấy khế chứng làm cầu mong. Nếu không khế chứng, đoán định không vượt qua. Sơn Tăng nói: nói khế chứng thi được, chỉ sợ sau này chỉ truyền đi như thế. Nêu rồi thì hội rồi. Chủ trương đá nháng lửa, ánh chớp nghiệp thức mờ mịt chưa có ngày rõ. Tiên sư cho là như vậy. Còn có một loại nói tónh là căn bản, ngộ là cành lá. Tónh được lâu tự nhiên ngộ. Sơn Tăng dám nói ông ta nói loạn. Lại dẫn tịnh cực quang thông đạt làm chứng, lại chẳng hội lầm. Bậc tiên Thánh không thể nói tịnh cực quang thông đạt tịnh chiếu làm hư không. Thí như thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc. Như nay không tin có diệu ngộ, lại nói: Ngộ là kiến lập, há chẳng phải cho thuốc là bệnh? Văn chương kỹ nghệ thế gian còn cần cửa ngộ. Sau này được tinh diệu huống là xuất thế gian. Chỉ liễu được như thế, một trăm hai mươi vị nạp tử ở đây, mỗi vị có một tri nửa giải, thường vào trong thất, người nói được đế đương rất nhiều. Sau khi nhảy được hai bước lại cho một đạp, nên đi không được. Bởi cuối cùng không thể lật thân bỏ mạng, nên nói núi cao buông tay, tự chịu gánh vác, sau khi chết lại sống, khinh anh không được. Chớ nói không có việc như thế, thường nhớ được Trương Vô Tận có nói, những điều Phật nói trước đây, ở trên đầu sợi lông hiện cõi bảo vương, ngồi trong hạt bụi xoay bánh xe pháp là nghóa chân thật. Trong hội pháp hoa Như lai Đa Bảo ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Đức Phật Thích-ca. Phật quá khứ, Phật hiện tại cùng ngồi một chỗ, thật có việc như thế, chẳng gọi là biểu tháp. Đại sư Thiên Thai Trí giả đọc Kinh Pháp Hoa, đến câu là chân tinh tấn, là chân pháp cúng dường Như lai. Ngộ được tam-muội Pháp Hoa, thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa giải tán. Sơn Tăng thường thích lão Hòa thượng Tông Cảo đề xướng đến đây, chưa từng không thích, vui mừng vỗ tay nói: Chính là có việc này, chẳng phải biểu pháp. Các ông dưa bầu mùa đông, ở trong đó được biết rõ về căn bổn, nhưng vụng về đối với tam-muội ngôn ngữ, phát huy diệu yếu. Đây gọi là chỉ chứng mới biết được, thật là khó lường. Ngày nay, Trịnh Thành Trung thỉnh Sơn Tăng giảng chung cho đại chúng, muốn nghe đạo lý thiền hòa làm công phu. Chẳng thấy Vân Môn nói: Khi không thể nói lại có, khi không nói lại không, khi suy luận lại có, khi chẳng suy luận lại không. Chỉ như khi không suy luận lại là gì? Sợ ông không hội. Lại theo sau nói lại là cái gì? Bậc tôn túc này từ bi mục đích vì người bệnh. Sơn Tăng ở nhiều ngày, Quy Sơn, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn đều đến thực hành công phu, Lâm Tế thì như thế, sau này mới biết: Ngộ thì sự đồng một nhà, không ngộ thì ngàn muôn khác nhau. Đạt-ma Tổ sư lại ở đâu có nhiều thứ sai biệt mà đến. Thế nào là Phật, là que chùi phân, ơ đây có khác nhau gì? Đức Sơn thấy Tăng vào cửa liền đánh, Tăng không thi thố, lại nói không được đánh bằng gậy để hội. Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét, đã là hai tay trao cho, nghó muốn nhìn bắy thì mắt rơi xuống đất rồi. Huống chi là nói lý nói sự, tơ đi lụa đến chính là sư tử cắn người, chó cuồng đuổi theo cục đất. Vô thường mau chóng, sanh tử việc lớn, chỉ búng ngón tay đã đến đời khác. Chỉ tâm rỗng rang, suy nghó cho thật cẩn thận, niệm lành đã nối nhau, niệm ác tự nhiên, bất sanh, chỉ như thật tu hành, thời tiết nhân duyên đến tự nhiên ngộ. Nếu không ngộ, thì nói đến lúc Phật Di-lặc hạ sanh, chỉ nói như thế làm sao sanh ra tu hành. Nghe lấy một bài tụng: Niệm ác đã chẳng sanh, niệm lành thường nối nhau, các môn Ba-la-mật, tất cả tự đầy đủ. Tôn Thông phán thỉnh Sư giảng chung cho đại chúng. Sư nói: nói pháp không đúng thời đều là nói phi thời. Cho nên nói chưa rời Đâu- suất đã giáng xuống cung vua. Chưa ra thai mẹ độ người đã hết. Lý Trưởng giả soạn luận Hoa Nghiêm nói rằng: - Kinh này chắc chắn là Phật nói, sau khi thành đạo mười ngày. Lúc đầu ở trước núi Chánh giác xuất định, thấy sao mai bỗng nhiên ngộ đạo, bèn thấy mặt mũi xưa nay của chính mình. Tin biết thời tiết nếu đến thì lý tự rõ. Diệu Hỷ thường nghó cư só Vô Tận, người này không biết mấy trăm đời học Bát-nhã đến đời nay được thọ dụng rộng lớn như thế. Kinh Chú Thanh Tịnh Hải Nhãn nói tám thứ thành tựu, đó là Ta nghe như vầy, một thuở nọ Phật ngự, về lý thì đều như gọi là Thị, Sự đều thị gọi như. Xưa nay chưa có một người nói như vậy, vì ông ấy thấy thấu cốt tuỷ của Phật. Cho nên lấy tả hữu để gạn cội nguồn Phật, mới hạ sanh một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói trên trời dưới thế chỉ có ta là tôn quý nhất. Cho nên nói: Gọi ta là độc tôn trong ba cõi, gọi là ngã, ngã chẳng phải ngã. Như Mạnh Tử gọi muôn vật đều đầy đủ nơi ta, tâm rỗng rang nghe khắp mười phương. Bởi người thế gian đều lấy tai nghe tất cả âm thanh, chỉ có Bồ-tát Phổ Hiền dùng tâm nghe, cho nên kinh nói: Tâm nghe hết mười phương, sống ở sức đại nhân, tông thường gọi là một, lại như hiện tiền một ngàn đại chúng theo Thủ tọa đứng dậy, từ một đến trăm, từ trăm đến ngàn. Cho nên nói: Một là chỗ nhiều của tông, chỗ một mà khởi thì gọi là Thời, lúc này là lúc cư só Diệu Tâm thỉnh Diệu Hỷ nói pháp cho đại chúng. Nếu lúc này bao gồm các thế giới Chư Phật mười phương cho đến trần sa. Sáu đường, bốn sanh, hoặc phàm hoặc Thánh, hoặc cỏ hoặc cây, hữu tình vô tình, bèn gõ phất trần vào giường thiền, nói: - Đều hướng vào trong đây thành Đẳng Chánh Giác, không ra khỏi lúc này. Lại nói: thỉ giác hợp vốn gọi là Phật, lời nói như nay thỉ giác hợp với bổn giác. Thường bọn tà sư lấy vô ngôn mặc nhiên làm Thỉ giác, lấy bờ Oai Âm Vương làm Bản giác, vốn chẳng phải lý này, đã chẳng phải lý này thì người nào là giác. Nếu toàn là giác thì đâu còn có mê, nếu là vô mê thì ông già Thích-ca, lúc sao mai mọc bỗng nhiên biết được, bổn mạng nguyên thần của nhà mình vốn là ở đây. Cho nên nói: Do Thỉ giác mà hợp Bản giác. Như người tu thiền bỗng nhiên sờ lỗ mũi chình là đạo lý nầy. Nhưng việc này về phần mỗi người chẳng thể không đầy đủ. Hôm qua cũng cư só diệu tâm nói, về văn chương học vấn của lệnh thúc thượng thư có thể gọi là bậc Thường Nho, chỉ nghe nói thế tự cho là khó. Thường thường só đại phu chỉ biết Phật ngàn kiếp học oai nghi, muôn kiếp tu tướng tốt, cho đến ba đại A-Tăng-kỳ kiếp tu mà thành. Vì sao bạc địa phàm phu hiện hành vô minh bị giàu nghèo làm khốn, lúc nào thì tương ứng với đạo, mới nghó như vầy chính là trong tâm ý thức đẩy ra một tòa núi Tu-di, một bình phong che lấp mắt đạo. Không thể thấy rõ bổn địa phong quang mặt mũi xưa nay, đó gọi là sở tri, chẳng phải chướng, chương ấy là chướng sở tri. Đại só phu đời gần đây phần nhiều là cái thấy này. Như Hàn Tử Thượng và mỗ giáp ở Lâm Xuyên kéo lỗ mũi nửa năm cũng không tự tin. Thường nói một việc này, chúng ta chỉ biết hướng về thì có thể làm sao, bèn phải vào tay cũng là tự làm chướng nạn, hoặc không hội lầm nhưng những điều Phật nói Phật Đại Thông Trí Thắng mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp không hiện tiền chẳng được thành Phật đạo nghóa là nạn thành Phật đạo như thế đâu không biết một niệm quán khắp vô lượng kiếp không đi, không đến, cũng không trụ, rõ biết việc ba đời như thế, vượt các phương tiện thành mười lực. Sau khi đức Phật vừa nhìn bèn nói: Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như lai nhưng vì vọng tưởng, chấp trước nên không chứng đắc. Vì thế gọi người vọng tưởng chấp trước chính là nói bệnh của só đại phu đời nay. Tiên đức sở dó chỉ bày, tất cả dưới gót chân người, chẳng phải không viên thành, chẳng phải không đầy đủ, cho nên có cha không thể truyền con, thần không thể hiến vua. Bởi tự chứng tự ngộ, chẳng tự người được. Cho nên chẳng hoại giả danh mà nói Thật tướng. Pháp sư Khải nói: Vắng lặng, rộng lớn, phân biệt, trên thì có vua, dưới thì có quan. Cha con thân thiết, tôn ty khác địa vị, khởi giáo tựa nhân này, sau nầy nước chia ra cõi, người chia nhà họ, mỗi người giữ địa vị của mình. Há chẳng phải pháp đó trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ? Phật không nói ư? Người đáng dùng thân Phật được độ thoát thì hiện thân Phật mà nói pháp. Người đáng dùng thân Tể quan cho đến Trưởng giả, cư só, Bà-la-môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được độ thoát thì hiện thân Tể quan, Tỳ-kheo-ni mà nói pháp cho họ nghe. Lại nói: Khi ứng mắt thì hoặc ngàn ngày muôn tượng không thể trốn bóng. Khi ứng tai khe sâu âm thanh lớn nhỏ khó thể đủ. Pháp môn đã cao siêu như thế. Vì sao người học phần nhiều không hướng về thời tiết này để lãnh hội, và ông tự sanh lui sụt, chính là không tự tin sự cao quý này, cam chịu làm người thấp hèn. Như kẻ danh lợi thì được ở chỗ này mới biết nói: Một trần mới khởi gồm thâu đại địa, đầu một sợi lông sư tử trăm ức đầu lông hiện. Ngàn đầu muôn đầu chỉ biết lấy một đầu. Lại cái nào là một đầu, chẳng thấy Hòa thượng Nam Đài nghe tiếng bảng có bài tụng rằng: lành thay ba tiếng bảng, tri thức đều đến tham, đã khéo biết thời tiết, nay ta không hai, ca, lại lấy phất trần gõ vào giường thiền nói. Vừa đến gọi là tận, ở đây thành Đẳng Chánh Giác, là nghóa chân thật. Cho nên quốc sư Thiều nói: Như Lai đối với tất cả chỗ thành Đẳng Chánh Giác. Ở trên núi dao rừng kiếm thành Đẳng Chánh Giác, ở trong vạc nước sôi lò than thành Đẳng Chánh Giác, ở dưới cây gậy thành Đẳng Chánh Giác. Ngay tiếng hét thành Đẳng Chánh Giác. Tuy như vậy, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Há không thấy Đồng Tử Thiện Tài đến trước lầu các lớn của Tỳ-lô-giá-na gieo năm vóc sát đất, nghó như vầy: lầu cac lớn này là chỗ ở của người hiểu không, vô tướng, vô nguyện. Chỗ người ở tất cả pháp không phân biệt ấy là thực hành một kiếp vào tất cả kiếp, dùng tất cả kiếp vào một kiếp, mà không hoại chỗ ở của người đó. Là lấy một Phật vào tất cả Phật, lấy tất cả Phật vào một Phật mà không hoại chỗ ở của người đó. Cho đến không đếm trước tất cả chỗ ở nhà cửa của thế gian. Sao gọi là nhà cửa của thế gian: chính là đối với đạo vô thượng tự làm chướng nạn. Như chấp trước tất cả nhà cửa của thế gian không thể xả bỏ thì chúng ta gọi là Trưởng lão cũng không trụ viện, một bề dứt bỏ thế gian mới thực hành được đạo này. Như thế là hoại tướng thế gian mà bàn về thật tướng. Vì sao nói có? Vì thường thích Đông Pha làm văn chương, ngõ hầu đạt đạo. Nếu chưa đến với đạo mà tam-muội Ngôn ngữ thật gần, người gọi là hậu thân của Hòa thượng Ngũ Tổ Giới mà không biết do nhân duyên gì, trong đó quên ý này thì cũng tạm thời không tiện. Quán nó làm Duy Ma vẽ tượng tán, Tử thỉ đến chung không chết dưới lời nói: Lời nói rằng: Ta quán các công công một sư. Người cầm liều thuốc trị một bệnh. Gió lao muốn lạnh khí muốn ấm. Gan phổi dạ dày lại khác nhau. Lấy thuốc cất như gò núi. Cuối cùng không thuốc nào thí dùng được. Có thầy thuốc giỏi vỗ tay cười. Cảm ơn các ông bệnh lành theo. Nói thầy thuốc để lại lời cho chúng. Thầy thuốc nói: Các ông dùng thuốc, đều chẳng phải chỗ, người làm đã đi, bệnh ấy giảm theo. Hoặc hỏi thầy thuốc, anh nhờ uống thuốc gì mà bệnh giảm? Không ngoài chỗ dùng chúng làm, nhưng vì không khéo dùng. Cho nên nói: Hỏi đại y vương lấy thuốc gì, lại được các công sử dụng. Ta quán ba mươi hai vị Bồ-tát, mỗi người dùng ý bàn pháp môn không hai, còn Duy-Ma-Cật im lặng không nói. Ba mươi hai nghóa một thời đoạ, ta quán nghóa này cũng không đoạ. Duy-ma lúc đầu không lìa lời này. Điều này tuy là rắn chết nhưng biết làm sống lại. Nếu điều luận nói của ba mươi hai vị kia thật là lúc phụ đoạ thì không nói hơn có nói. Tinh biết ý người xưa không như thế. Cho nên lập dụ nói: Thí như sáp ong làm đèn, không lấy lửa điểm thì không sáng, bỗng thấy chỗ mặc nhiên không nói. Ba mươi hai thuyết đều sáng rực. Phật tử nếu đọc kinh Duy-ma nên lấy niệm này làm chánh niệm. Ta quán thất phương trượng Duy-ma có thể nhận chín trăm muôn Bồ-tát, ba muôn hai ngàn tòa sư tử, đều sẽ dung thọ không chật hẹp. Trong kinh chép: Đây là cư só Duy-ma, có năng lực thần thông đại giải thoát không thể suy nghó bàn luận. Cho nên mượn tòa Đăng Vương, lấy cơm Hương tích, quyết đoán lấy thế giới Diệu Hỷ. Như nhà thợ gấm, như cầm kim nhọn đâm một lá táo. Bởi lý chân thật không thể dùng trí mà biết, không thể dùng thức mà biết. Cho nên: lại có thể phân bố một bát cơm no nê vô lượng chúng trong mười phương, quyết đoán lấy thế giới Phật Diệu Hỷ như cầm kim đâm một lá táo. Nói là Bố-tát không nghó bàn, trụ lực thần thông tự giải thoát. Ta quán hòn đá ở một chỡ, giày gai, trướng sách bày hai khuỷu tay. Có thể khiến cho đầu bút phát sanh Duy-ma. Thần lực lại hơn Duy-ma-cật. Nếu nói bức họa này không thật tướng. Trong thành Da-ly cũng chẳng thật Phật tử, nếu thấy tượng Duy-ma nên lấy quán này làm chánh quán. Đây là thiền Đông Pha nói, há chẳng phải là ngôn ngữ đến hay sao? Nếu chẳng phải do đời trước huân tập, thì đâu hiểu đạo như thế. Cho nên ý của Diệu Hỷ cũng muốn thượng thư công tin được việc này. Cư só Diệu Tâm xin giữ lời này về nêu cho Lệnh Phúc. Sợ nhân lời nói của Diệu Hỷ thẳng xuống tin được. Ngày khác bỗng nhiên vừa phát, đó là cắt đứt dòng sanh tử, y theo vị Phật Tổ làm người xuất thế gian không độ lượng, mới không cô phụ ý mong cầu của Diệu Hỷ. Cư só Diệu Hỷ gần đây được nhập định Quán Âm. Lại dùng việc làm của Diệu Hỷ năm xưa khen ngợi. Đề trên đó: bởi khi ở trời sao, nhân nói chỗ thỉnh của bạn lan đình. Lúc ấy ý tin một cây bút tả thành, cùng Duy-ma khen ngợi. Ngôn ngữ tuy khác nhau nhưng đại ý giống nhau. Nói tướng thế gian múôn thứ âm thanh mọi người dùng tai nghe chẳng phải mắt nhìn. Tất cả âm thanh đều dùng tai nghe, Quán Âm lại dùng mắt quán. Cho nên nói chỉ có Đại só này mắt có thể quán, làm sao thấy được, vì mắt sáng quán rõ là Phật sự. Đến đây là chuyển rồi. Nói ở cảnh giới của mắt chẳng thể lấy được. Cảnh giới của mắt không thể chấp, tức là cảnh giới mắt vắng lặng, nhãn giới đã vắng lặng không thể cảnh giới của tai không vắng lặng. Cho nên nói: Tai, mũi, lưỡi, thân ý cũng vậy. Lành thay tâm rỗng rang mười phương hư không, sáu căn hiển bày nghóa như thế. Bồ-tát Quán Âm dùng mắt nghe, còn Bồ-tát Phổ Hiền dùng tâm nghe, tức là nghóa hiển bày như thế, gọi là hiển bày. Chỗ mắt làm Phật sự chỗ tai, chỗ tai làm Phật sự chỗ mũi, chỗ mũi làm Phật sự chỗ lưỡi, chỗ lưỡi làm Phật sự chỗ thân, chỗ thân làm Phật sự chỗ ý. Trong ý giới làm Phật sự vô lượng vô biên rộng lớn, được thọ dụng tự tại như thế rồi. Mắy vẫn thấy sắc, tai vẫn nghe tiếng, cho đến mũi lưỡi thân ý, mỗi căn y vào bổn phận. Cho nên nói: Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, thân xác chạm, ý suy nghó không khác nhau. Vừa đến gọi là là pháp trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ. Nên dùng quán này mà quán như thế. Lấy đây là thật thành vọng tưởng. Đến đây lại chuyển rồi, nói: Nếu lìa vọng tưởng chấp thật pháp, lần lần mê hoặc mất bổn tâm, bổn tâm đã mất theo điên đảo, không thấy đại só Diệu sắc thân ư? Vì sao điên đảo? Vì mắt thấy sắc theo sắc chuyển, tai nghe tiếng theo tiếng chuyển, ấy gọi là chúng sanh mê mình chạy theo vật. Vì chạy theo vật nên chẳng thấy diệu sắc thân của đại só không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đây là dạy có văn rõ ràng. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã không có thật thể thì nghóa hiển bày qua lại nương vào đâu mà lập. Cho nên nói: Nghóa hiển bày cũng vắng lặng, cũng không có đại só diệu sắc thân. Cũng không có muôn thứ tiếng âm thanh. Phật tử hãy quán như thế sẽ lìa hẳn khổ sanh tử thế gian. Tất cả văn tự phải dạy nói và làm được. Nếu nói mà không thực hành thì không thành văn chương. Vừa rồi nhân nói về thời tiết nhân duyên, cho nên nói: Thiện Tài mới đứng trước lầu các đã khen ngợi nhiều việc cao siêu, nhưng chưa thể được vào. Bèn nói với Bồ-tát Di-lặc rằng: chỉ mong đại Thánh mở cửa lầu các, cho con được vào. Lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc đến lầu các trước, búng ngón tay ra tiếng, cửa ấy liền mở, bảo Thiện Tài vào. Thiện Tài tâm vui mừng vào rồi cửa lại đóng. Khi đóng thì thế nào? Bên là tin tức Quan Âm vào dòng quên sở. Sau đó, Thiện Tài ở trong lầu các thấy trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức đời Đâu-suất-đà. Mỗi tầng trời đều có Phật Di-lặc, giáng thần đản sinh, bước đi bảy bước, nhìn khắp mười phương. Hiện làm đồng tử, ở chỗ cung điện, vì trí nhất thiết, xuất gia khổ hạnh, hàng phục chúng ma, thành Đẳng Chánh Giác. Phạm vương khuyến thỉnh, chuyển chánh pháp luân, lên cung điện trời mà giảng nói pháp, kiếp số thọ lượng chúng hội trang nghiêm, chỗ nước thanh tịnh, đều nguyện tu hành, trụ trì giáo pháp, thảy đều khác nhau. Thiện tài chẳng những thấy Bồ-tát Di-lặc làm Phật sự mà còn tự thấy thân mình ở chỗ tất cả các Đức Phật, cũng thấy tất cả chúng hội, tất cả Phật sự. Dùng tam-muội hải ấn ấn một ấn định, lại không một mảy may cho là thấu lậu. Đã thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm, tự tại vô lượng cao quý như thế rồi. Bồ-tát Di-lặc nhiếp thần lực vào trong lầu các, lại búng ngón tay ra tiếng bảo Thiện Tài rằng: nầy người thiện nam! Khổ pháp tánh như vậy, Bồ-tát biết các pháp, biết nhân duyên như thế, nhóm họp tướng hiện bày. Tự tánh như thế, như huyễn như mộng, như bóng như hình, đều không thành tựu. Bấy giờ, Thiện Tài nghe tiếng búng ngón tay liền xuất định. Ngay lúc này, bỗng nhiên đã mất bố đại. Sau đó Di-lặc chỉ bày lấy cảnh giới như trên, không có chỗ đi, cũng không chỗ trụ, chẳng tịch chẳng thường, xa lìa tất cả. Sư vời đại chúng nói: Đã đến không có chỗ theo, đi không có chỗ đến, thì cái quạt trong tay Đại sư Vân Môn nhảy lên tầng trời ba mươi ba, chạm trúng mũi Đế-thích. Cá chép biển đông đánh một roi mưa như trút nước lại có lỗi gì. Nên biết thời tiết này có vô lượng trí tuệ rộng lớn, vô lượng thần thông, vô lượng ngôn từ, vô lượng môn không thể nói, không thể nói tất cả Phật, Bồ-tát tự tại thọ dụng. Mọi người hãy tin như thế, nhập như thế mới biết bậc Tiên Thánh nói: Quá khứ tất cả kiếp, an trí vị lai nay. Vị lai hiện tại kiếp, lại an trí đời quá khứ, bèn hét một tiếng nói: Nếu không hét, trụ vào sắn bìm, thẳng đến sáng mai gõ vào giường thiền, xuống tòa.  <卷>QUYỂN 19 Phật dạy: Muốn biết cảnh giới Phật nên thanh tịnh ý mình như hư không, lìa bỏ vọng tưởng và chấp trước, khiến chỗ tâm hướng về đều vô ngại. Cảnh giới Phật chẳng phải là cảnh giới có tướng bên ngoài. Cảnh giới Phật chính là tự giác Thánh trí. Quyết định muốn biết cảnh giới này, không nhờ trang nghiêm tu chứng mà được, nên thanh tịnh ý căn, từ vô thỉ đến nay khách trần phiền não nhiễm ô, tâm nên rỗng rang như hư không, lìa bỏ các chấp trước trong ý thức, luống dối, không thật, vọng tưởng cũng như hư không thì tâm mầu nhiệm vô công dụng này tự nhiên không trệ ngại. Phật lại dạy: Không nên đối với một pháp, một việc, một thân, một cõi nước, một chúng sanh mà nói về Như lai, nên biết khắp tất cả chỗ mà thấy Như lai. Phật nghóa là giác, nghóa là đối với tất cả chỗ thường giác khắp. Gọi biến kiến nghóa là thấy bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật của mình không có một thời, một xứ, một pháp, một sự, một thân, một cõi nước, một chúng sanh trong giới mà không khắp. Chúng sanh mê điều này mà trôi lăn trong ba cõi chịu các thứ khổ. Chư Phật ngộ điều này mà vượt qua các cõi, thọ hưởng diệu lạc cao quý. Nhưng khổ vui đều không có thật thể. Nhưng mê ngộ có khác nhau biệt mà khổ vui khác đường. Cho nên ngài Uông Thuận nói: Pháp thân trôi lăn trong năm đường nên gọi là chúng sanh, pháp thân hiện thời của chúng sanh không hiển hiện gánh vác một việc lớn nhân duyên này, phải có chí quyết định. Nếu nửa tin nửa ngờ, thì không liên can. Người xưa nói: Học đạo như dùi lửa, nếu gặp khói thì chớ dừng. Hãy đợi kim tinh hiện, về nhà mới đến cùng muốn biết. Chỗ đến cùng là cảnh giới mình, cảnh giới người như một. Đã học đạo nầy, trong mười hai thời gặp vật ứng duyên, không được làm cho niệm ác sinh khởi nối nhau. Hoặc soi lại, không khởi một niệm ác, nên mau tinh thái, kéo chuyển đầu lại. Nếu một bề theo chúng đi nối nhau không đứt quãng chẳng phải độc chướng đạo cũng gọi đó là người không có trí tuệ. Ngày xưa, Quy Sơn hỏi Lại An: Trong mười hai thời nên làm việc gì? An nói: Chăn trâu. Ông làm sao chăn? Mỗi lần đi vào cỏ, kéo mũi lại. Sơn nói: Ông thật là chăn trâu. Người học đạo chế ngự niệm ác phải như việc chăn trâu của Lãn An thì lâu ngày tự thành thục. Cung người chớ lấy, ngựa người chớ cưỡi, việc người chớ biết. Đây tuy là lời nói bình thường nhưng cũng là hành trang để vào đạo. Nhưng phải tự xem xét, từ sáng đến tối, có rất nhiều việc lợi mình lợi người, hỏi giác thiên khô, phải tự cảnh giác, không thể lơ là. Thiền sư Đạo Lâm ngày xưa ngồi trên cây thông núi Tần Vọng. Người bấy giờ gọi là Hòa thượng Ô Sào. Khi Bạch Cư Dị Thị Lang trấn nhậm ở Tiền Đường, đặc biệt vào núi yết kiến Ngài, bèn hỏi: Thiền sư ngồi ở chỗ thật nguy hiểm. Sư nói: Thiền Tăng có gì mà nguy hiểm, Thị lãng nguy hiểm rất nhiều. Cư Dị nói: Đệ tử trấn nhậm ở Giang Sơn đâu có nguy hiểm gì? Sư nói: Cửa lửa giao nhau, thức tánh không dừng mà chẳng nguy hiểm ư? Lại hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? Sư nói: Chớ làm các điều ác, nên làm các việc lành. Dị nói: Đứa trẻ ba tuổi cũng biết nói như thế. Sư nói: Đứa trẻ ba tuổi tuy nói được nhưng người già tám mươi tuổi thực hành không được. Dị bèn lễ bái lui ra. Nay muốn tónh tâm lực, mặc cho đứa trẻ ba tuổi nói được hay không nói được. Người già tám mươi tuổi thực hành được hay không thực hành được. Nhưng các điều ác chớ làm thì rõ được lời này. Tin hay không tin xin suy nghó. Người đời vô minh hiện hành giả cho là thiện. Thiện tuy chưa đến há không hơn người ít liêm ít thẹn, giả thiện mà làm ác. Trong giáo pháp nói: - Nhân địa không chân chiêu cảm quả quanh co. Nếu trực tâm trực hạnh trực thủ vô thượng Bồ-đề thì có thể gọi là việc làm của bậc đại trượng phu chân chánh. Việc nhiều kiếp đến nay chỉ như hiện tại, nếu nay hội được thì việc nhiều kiếp đến tức thời như bình vỡ, băng tan. Như nay không hội lại trải qua nhiều kiếp cũng chỉ như thế. Pháp như thế, xưa nay như vậy, không hề biến đổi một mảy may. Việc nầy cho người thông minh lanh lợi gánh vác. Nếu để cho người thông minh lanh lợi không có phần gánh vác, thì người thông minh lanh lợi tuy dễ vào, mà khó giữ gìn. Bởi chỗ vào không sâu lắm nhưng vì sức yếu. Người thông minh lanh lợi mới nghe thiện tri thức nói chuyện mắt liền linh động, sớm dùng tâm ý thức giải liễu. Như người này tự làm chướng ngại, nhiều kiếp không lúc nào ngộ, quỷ bên ngoài làm vương lụy có thể trị. Đây chính là nhà thân làm mờ ám không thể cầu khẩn. Vónh Gia nói: Tổn pháp tài diệt công đức, đều do tâm ý thức này, chính là đó. Só nhân xem rộng nhiều sách muốn làm lợi ích tánh thức, mà trở lại nhớ giữ. Người xưa nói: Uẩn ở trong bụng, làm việc nghiệp giúp bàn chuyện. Thật không biết ý của bậc Thánh lập giáo, gọi là suốt ngày đếm của báu cho người, mà tự mình không phân nửa đồng, xem đọc kinh giáo cũng vậy. Cần phải thấy trăng quên ngón tay, không thể theo lời nói để hiểu. Người xưa nói: Phật nói tất cả pháp vì độ tất cả tâm, ta không có tất cả tâm đâu cần tất cả pháp. Người có chí đọc sánh xem giáo có thể như thế mới thể hội ý của bậc Thánh phần nào. Xưa, Lý Văn Hòa Đô Uý tham Thiền sư Bạch Môn Từ Chiếu Thông ngộ tông chỉ của Lâm Tế. Có một bài kệ rằng: học đạo phải là người sắt, dùng tâm hay đầu để phán, chứng thẳng Vô thượng bồ-đề tất cả thị phi chẳng quản, mầu nhiệm thay lời này. Có thể làm hạt giống ánh sáng giúp cho phát cơ. Việc trần lao thế gian như vòng xích tuần hoàn nối nhau không đứt quãng, được chỗ tónh thì tónh. Vì vô thỉ đến nay tập khi quen rồi. Nếu bất lực với nó thì lâu ngày, không biết không giác nhập được đầu sâu. Ngày 30 tháng chạp rốt cuộc tay chân không biện biệt, phải được lúc qua đời không điên đảo. Lại từ ngày nay làm việc, chớ dạy điên đảo. Như nay chỗ làm việc điên đảo, muốn khi qua đời không điên đảo thì không có việc đó. Người xưa có nói: Tìm trâu thì hỏi dấu chân, học đạo thì hỏi vô tâm. Dấu chân trâu còn thì trâu trở về, vô tâm nó dễ tìm. Nên gọi người vô tâm chẳng phải như cây ngói đất đá vô tri, nghóa là xúc cảnh gặp duyên tâm định bất động, không chấp trước các pháp, tất cả chỗ thản nhiên không chướng ngại, không bị nhiễm ô, cũng không trụ chỗ nhiễm ô, quán thân tâm như mộng huyễn, cũng không trụ trong cảnh hư vô mộng huyễn. Được cảnh giới như thế, mới được gọi là chân vô tâm, như chưa được chân vô tâm, chỉ cứ nói và mặc chiếu tà thiền sao lạ thay. Phật là thuốc của chúng sanh. Chúng sanh bệnh thuốc trừ cũng không dùng, hoặc bệnh mất thuốc còn. Vào cảnh giới Phật, mà không thể vào cảnh giới ma. Bệnh này và bệnh của chúng sanh chưa trừ. Bệnh nặng khỏi thuốc bỏ, Phật quỷ đều ghét, mới ở đoạn Đại sư nhân duyên này có thiếu phần tương ưng. Quy Tông chém rắn, Nam Tuyền chém mèo, học theo dòng ngữ phần nhiều gọi là đương cơ diệu dụng, cũng gọi là đại dụng hiện tiền còn khuôn phép. Thật không biết đều chẳng phải là đạo lý này, đủ mắt vượt qua. Nêu lên liền biết thế nào. Nếu đại pháp không rõ đánh ngói khoan rùa thì lúc nào là xong. Muốn muôn phép không thì trước tịnh tâm minh, tâm minh thanh tịnh, thì các duyên cũng dứt, các duyên đã dứt thể dụng đều luống dối. Thể tức tự tâm, bổn nguyên thanh tịnh, dụng tức tự tâm diêu dụng biến hóa. Vào tịnh vào uế không bị đắm nhiễm, như biển lớn không gió, như hư không mây tan hết, đến được thửa ruộng như thế mới được gọi là người học Phật, chưa được như thế thì đôn đốc tinh thần. Tòng lâm gần đây dùng diệu ngôn ỷ ngữ hỏi đáp của người xưa làm nhân duyên khác nhau, người học cô Mị, thật không có bổn thật. Chư Phật nói pháp chỉ sợ người không hội. Dù có nói ẩn lời thì lại dẫn thí dụ làm cho chúng sanh ngộ nhập mà thôi. Như vị Tăng hỏi Mã Tổ thế nào là Phật? Tổ nói: Tức tâm là Phật. Ở đây ngộ nhập lại có gì khác nhau? Ở đây không ngộ tức tâm này là Phật lại là nhân duyên khác nhau. Phàm xem kinh giáo và nhân duyên vào đạo của người xưa, tâm chua tỏ rõ biết được mê muội không mùi vị như gặm khối sắt thì phải cố gắng, thứ nhất không được buông bỏ, chính là ý thức không làm, tư tưởng không đến, dứt phân biệt, diệt lý. Bình thường có thể nói được đạo lý phân biệt được chỗ đi đều là diệt bên tình thức. Phần nhiều nhận giặc làm con chẳng thể không biết. Có một hạng người sáng xem kinh, niệm Phật sám hối, chiều khẩu nghiệp tự do mắng chửi người. Hôm sau vẫn như trước lễ Phật sám hối, suốt năm lấy làm thời khoá hàng ngày. Người này thật ngu, thật không biết, Phạm ngữ là sám ma, Hán dịch là sám hối tội lỗi đã làm, nghóa là dứt tâm nôi nhau, một khi dứt không tiếp tục nữa, hễ sám thì mãi mãi không tạo nữa. Y theo sám hội của Đức Phật, thì người học đạo chẳng thể không biết. Người học đạo trong hai mươi bốn giờ tâm, ý, thức thường phải vắng lặng, không có việc làm cũng tónh tọa để cho tâm không buông lung, thân không chao đảo. Huân tập lâu ngày tự nhiên thân tàn an vui, đối với đạo có phần hướng về. Vắng lặng Ba-la-mật định chúng sanh tán loạn vọng giác. Nếu chấp chỗ vắng lặng là rốt ráo thì bị thuộc về mặc chiếu tà thiền. Hòa thượng Triệu Châu nói: Lão Tăng trong mười hai thời, trừ hai thời cơm nước là dụng tâm xen lẫn, ngoài ra không có chỗ dụng tâm xen lẫn. Đây là chỗ hành lý chân thật của lão Hòa thượng này, không cần làm Phật pháp thiền đạo hội. Thiện ác đều từ tâm khởi. Hãy nói: Ngoài việc giở chân cất bước suy nghó phân biệt, gọi là tự tâm gì. Tự tâm lại từ đâu khởi? Nếu biết được chỗ khởi của tự tâm thì vô biên nghiệp chướng cùng lúc được thanh tịnh. Muôn thứ cao quý không cầu mà tự đến. Sống từ đâu đến, chết đi về đâu? Biết được chỗ đến đi mới gọi là người học Phật. Biết sanh tử là gì? Người chịu sanh tử là ai? Không biết chỗ đến đi là ai, bỗng nhiên biết được chỗ đến đi là ai. Xem lời này mắt nhìn mà lý hội không được trong bụng bảy trên tám dưới. Trong tấc vuông như đối đi một khối lửa, lại là ai. Nếu muốn biết chỉ hướng về chỗ lý hội không được mà biết lấy. Nếu biết được mới biết sanh tử chắc chắn không liên quan. Người học đạo hằng ngày chỉ dùng xem xét công phu của người để thường xem xét mình. Đạo nghiệp đều được thực hành, hoặc vui hoặc buồn hoặc yên lặng, hoặc ồn náo đều là lúc để xem xét. Triệu Châu nói con chó không có Phật tánh. Chỗ hỷ nộ, yên lặng ồn náo cũng phải cân nhắc. Thứ nhất không được dùng ý ngộ, nếu dùng ý đợi ngộ thì tự cho mình là mê. Chấp mê đợi ngộ, dầu trải qua nhiều kiếp cũng không thể ngộ được. Nhưng khi nêu thoại đầu lược xem tinh thần hăng hái là đạo lý gì? Triệu Châu nói: “Một chữ Phật ta không thích nghe”, chữ Phật còn không thích nghe, tưởng công phu vô nhàn, chỉ nghó đến nhàn, theo sóng thời gian xem xét người khác. Người xưa nắm lấy việc này. Hoặc thành lý, hoặc thành sự, hoặc y thời tiết, hoặc hướng thượng nắm giữ đều không có tiêu chuẩn nhất định. Trong giáo gọi là Phật dùng một âm thanh nói pháp, chúng sanh tùy loài mà hiểu được. Hiến Thần Bạn Đạo ở trong giàu sang, không bị giàu sang làm mê. Biết có một việc lớn nhân duyên này quyết định thấu thoát sanh tử. Ta bị tội đến Hành Dương gặp nhau, vọn vẹn bốn năm, chỉ cùng được một ngày. Thứ Quan Thánh Sự không thể phân biệt, gồm trăm theo khoan rộng, luôn cẩn sâu dày. Không hề nói lỗi xấu của người. Đây thật là việc làm của Phật, Bồ-tát. Cũng vì thuần thành, có năng lực với đạo. Muốn tán thành ngõ hầu y vào công phu nầy, tương lai phát minh việc lớn. Như các đại lão: Dương Đại Niên, Trương Vô Tận làm Bồ-tát hộ trong ngoài nhà ta, ta nói không luống dối. * Chỉ dạy Cư Só Đông Phong. Muốn học đạo này nên lý hội dưới gót chân mình, mới động đến một chút tri kiến, tức vượt qua tin tức dưới gót chân. Tin tức dưới gót chân thông rồi, thì muôn thứ tri kiến tất cả đều là việc dưới gót chân. Cho nên Tổ Sư nói: Khi nói tri kiến, tri kiến tức là tâm, chính tâm là tri kiến. Tri kiến tức như nay. Nếu nay không vượt qua một niệm thì hướng xuống gót chân bỗng mất tri kiến, sẽ cùng Tổ Sư nắm tay nhau đi. Chưa thể như vậy thì dè dặt đối với tri kiến. Só đại phu học đạo, người lợi căn lỗi lầm, người lợi căn khó vào. Khó vào thì tự sanh lui sụt, lỗi lầm thì khởi phỉ báng không nghi ngờ gì. Nếu chỉ lấy chỗ lỗi lầm dời đến chỗ khó vào. Lại lấy điều khó vào dời đến chỗ lỗi lầm thì tự nhiên yên ổn. Không biết làm lỗi lầm khó vào, được như thế rồi lại ở trong đó toàn thân buông bỏ hết. Khi buông bỏ hết, cũng không được đạo lý buông hết. Người xưa nói phóng đãng như người ngu si. Nhà người tự có ưa thích người thông. Ngài Thanh Lương nói: Phóng khoáng mặc cho đi ở, tỉnh ngộ soi biết cội nguồn, nói chứng thì chẳng thể dạy người, nói lý thì chẳng chứng không thể liễu ngộ. Nhưng người thời nay mới nghe nói như thế, lấy làm việc thật có như thế bèn nói ta chứng, ta ngộ. Lấy ra trình cho người thì không được, một bề nói cao thiền, bảy dọc tám ngang, nói hồ nói loạn, khinh thần đùa quỷ. Cho rằng việc môn hạ của Tổ Sư như thế. Thật không biết, thân chứng thân ngộ, chỉ có người thân chứng thân ngộ. Không nhờ ngôn từ, tự nhiên âm thầm tương khế. Chỗ tương khế cũng không làm ý và hội. Như nước vào nước, như vàng mạ vàng, nêu một rõ ba, cơ mắt hai lạng. Đến mảnh ruộng này, mới có thể gọi là lìa tướng nói năng, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên, chẳng phải gượng làm. Vì pháp như vậy tòng lâm gần đây, tà pháp hoành hành, chúng sanh mắt lòa, không thể thắng số. Nếu không lấy công án của người xưa nêu biết cân nhắc, thì như người mù phóng cây gậy trong tay, một bước đi cũng không được, đem nhân duyên của người xưa nói, mỗi người chia môn loại là: Cơ này là nhân duyên đạo nhãn. Cơ tắc này là nhân duyên thấu một thỉnh sắc. Cơ tắc này là nhân duyên quên tình. Từ đầu vẫn là thứ tự theo. Thì suy lường bói toán, hạ lời bàn luận, dù có người biết được bệnh này cũng gọi là thiền đạo Phật pháp. Không ở trong ngôn ngữ văn tự tức tất cả bày ra lại hiện thành cơm cháo rồi, ngồi trong hang quỷ Hắc Sơn, gọi là mặc mà thường chiếu. Lại gọi là như người chết. Lại gọi là việc khi cha mẹ chưa sanh. Lại gọi là việc trước kiếp không. Lại gọi là tin tức bờ bên nầy Oai Âm. Ngồi đến ngồi đi, ngồi được xương hông sinh chai, đều không dám nhúc nhích gọi là tướng công phu thuần thục. Lại dùng nhiều lời lẽ rảnh rang từ đầu làm đạo lý bàn luận, truyền trao một lần gọi là tông chỉ, trong tấc vuông vẫn là đen tối. Vốn phải dứt trừ nhân ngã, nhân ngã càng cao, vốn phải diệt vô minh, vô minh càng lớn. Thật không biết việc này, chỉ có thân chứng thân ngộ mới là rốt ráo. Mới có một lời nửa câu làm đặc biệt giải thích huyền diệu, giải thích bí mật, biết có thể truyền trao. Chính là chẳng phải chánh pháp. Chánh pháp không truyền không trao. Chỉ có ta chứng ông chứng, mắt mắt đối nhau, lấy tâm truyền tâm. Làm cho tuệ mạng của Phật Tổ không đứt quãng. Sau đó tồi phục mình lấy vật làm khuôn phép. Cho nên Đạt-ma nói: Ta vốn đến đất này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành. Cho nên gọi là truyền pháp chính là tâm Phật, tâm pháp vô hình. Cho nên việc truyền nói trước đây, ta chứng ông chứng. Nếu hai bên không chứng, hướng về tâm bên ngoài thủ chứng thì có tông chỉ huyền diệu đặc biệt đáng truyền đáng trao. Bèn có ta hội, ông không hội. Sanh ý nghó nhẹ mỏng, thêm lớn ngã kiến, Như lai nói là điều đáng thương. Thiền Diệu Hỷ chẳng có sự khác nhau giữa khó tham dễ tham. Chỉ cần người tham thiền hướng về chỗ trước khi chưa đại tiểu tiện, quét sạch đầu đường sanh tử. Thẳng đến không nghi Phật, không nghi Tổ, không nghi sống, không nghi chết. Khó tham dễ tham, khác nhau do người, không liên can đến thiền. Thường thường người thông minh lanh lợi, phần nhiều là cầu mau có hiệu nghiệm, trong miệng có thể được nó, trước mắt có thể cậy nhờ. Thật không biết, người được việc này như sanh sư tử rồi bỏ. Đường nhân hằng ngày trong mười hai thời như thủy ngân rơi xuống đất. Sớm thì đại viên, nhỏ thì tiểu viên, không cần an bài, không làm giả tạo, tự nhiên vui nhộn, thường lộ hiện tiền. Chính lúc như thế, mới được khế hợp, được một ngũ thức, gọi là không thấy một pháp tức là Như lai mới được gọi là Quán Tự Tại. Nếu chưa được như thế thì hãy tam lấy làm thông minh nói đạo lý này bỏ qua một bên. Lại hướng về chỗ không sờ mó, chỗ không mùi vị, thử sờ mó nhai xem. Mò đi mò lại, nhai đi nhai lại, bỗng nhiên hướng về chỗ không sờ mó nhai được thoại đầu. Chỗ không sờ mó đánh mất lỗ mũi. Mới biết Lão Nhân Triệu Châu nói: Chưa xuất gia bị bồ-đề sai, sau khi xuất gia sai được bồ-đề. Có khi dơ cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có khi dùng thân vàng trượng sáu làm cọng cỏ. Dùng Kiến lập cũng ở ta, quét sạch cũng ở ta, nói đạo lý cũng ở ta, chẳng nói đạo lý cũng ở ta, ta là Pháp Vương, đối với pháp được tự tại. Nói thì có ngần ấy, không nói thì không có ngần ấy. Được như thế tự tại rồi, đi đâu mà không được tự tại. Tiếng Phạm là Bát-nhã, Hán dịch là Trí tuệ. Chưa rõ Bát-nhã, nêu có người tham dục, sân si. Chưa rõ Bát-nhã nên có chúng sanh độc hại. Làm việc như thế thì trái với Bát-nhã đâu được gọi là trí tuệ. Diệu Hỷ bình thường nói cho người, mới biết chỗ hằng ngày ứng duyên. Khi tiết kiệm sức lực chính là dỗ đương nhân đắc lực. Chỗ đắc lực tiết kiệm lực vô hạn. Chỗ tiết kiệm lực được lực vô hạn, thường thấy nói được nhiều rồi, lại giống như người ở Tứ Châu thấy bậc Đại Thánh, thật không biết Diệu Hỷ nói như thế chính là chỗ hành lý ngày xưa. Sợ có người tin không kịp, không khỏi bốn lần cân nhắc hành động biết gánh nước gánh bùn, từng làm khách lãng tử đáng thương. * Chỉ Dạy Cư Só Trí Thông Các bậc Thánh trước đây, không có ngôn ngữ truyền trao, chỉ nói lấy tâm truyền tâm mà thôi. Thời nay phần nhiều là nương vào thầy mà học hiểu, trái với tâm này, dùng ngôn ngữ truyền trao gọi là Tông Chỉ. Là người làm thầy mắt đã không chánh, mà người học không có chí quyết định, mau muốn hội thiện. Miệng nói bất không, nhưng hữu có thể nói. Muốn được tâm địa khai thông, đến chỗ rốt ráo an vui, vui chẳng phải là khó ư? Người xưa nói: Câu có thể chuốt ý, ý có thể chuốt câu, câu ý giao nhau thật đáng kính nể, lại nói: Trong ý không thể dừng câu, trong câu không thể dừng ý. Như Chiêu Khánh hỏi La Sơn rằng: Hòa thượng Nham Đầu nói như thế như thế, không như thế, không như thế, ý chỉ thế nào? La Sơn bèn gọi Đại Sư Chiêu Khánh đáp: Dạ. Sơn nói: Cả hai sáng, cũng cả hai tối. Khánh bèn lễ bái, lui ra. Ba ngày sau lại đến hỏi. Ngày trước Hòa thượng ý chỉ thế nào? Sơn nói: Ta tận tình nói với ông rồi. Khánh nói: Đại Sư cầm lửa mà đi. Sơn nói: Nếu như thế, y cứ vào chỗ ông nghi mà hỏi tương lai. Khánh nói: Thế nào là cả hai sáng, cũng cả hai tối. Sơn nói: Cùng sống cũng cùng chết. Khánh lại lễ bái mà lui. Sau này, Tăng hỏi La Sơn: Đồng sanh đồng tử thì thế nào? Sơn nói: Như trâu không có sừng. Lại hỏi cùng sanh cũng cùng tử là thế nào? Sơn nói: Như hổ mọc sừng. Muốn hiểu việc xưa nay nên dùng nhân duyên này để nhớ nghó. Nhưng không được đắm ý xuyên tạc, xuyên tạc thì sai lầm. Chẳng thích kỳ ngôn diệu ngữ của quý vị. Tông sư mỗi người tự chủ trương một thất truyền trao. Loại công an của người xưa, như xen lẫn các chất độc, đưa vào tàng thức. Kiếp kiếp đời đời lấy không ra đầu bờ sanh tử, chẳng phải riêng mình không đắc lực, mà nhật dụng hằng ngày cũng bị chướng ngại này. Mắt đạo không được sáng suốt, người xưa bất đắc dó, thấy người học các ông, tri giải khác nhau phần nhiều trái đạo, đắm ngôn ngữ. Cho nên thuốc khác nhau trị bệnh khác nhau của các ông, làm cho tâm địa được an vui, đến cảnh giới không khác nhau. Nay lại dùng ngôn ngữ khác nhau làm đặc biệt chấp thuốc là bệnh, không đáng thương sao? Người xưa nói Phật là thuốc của chúng sanh, chúng sanh bị bệnh thì dùng, chúng sanh không bệnh mà dùng thuốc thì thuốc lại là bệnh. Rất nhiều người bị bệnh trước đã nói. Tạp độc không thể thâu vào tàng thức, cũng là nghó vầy. Hàng ngày trong trần lạo, muôn việc bất như ý là bệnh của chúng sanh. Một niệm ánh sáng, phản chiếu là thuốc Phật. Nếu có thể đối với Phật, với chúng sanh thẳng xuống không sanh phân biệt thì bệnh khỏi thuốc bỏ, mới khế hợp được, cái gọi là việc hàng ngày không khác, chỉ ta tự hài hòa. Người người chẳng lấy bỏ, chỗ chỗ chớ bày trái lời. Học đạo này khi chưa được vào chỗ, mà học được thì ngàn khó muôn khó. Nghe Tông Sư nêu giác dụ giác khó hội. Bởi lấy tâm thử chứng cầu dứt không trừ. Lại bị làm chướng ngại này, tâm này mới thôi, mới biết chẳng khó chẳng dễ, cũng chẳng phải là sư có khả năng truyền trao. Biết mê không ngộ là lầm lớn. Chấp mê đợingộ lầm càng lớn. Vì sao? Vì bất giác mê, chấp mê đợi ngộ là bất giác trong bất giác. Trong mê lại mê, quyết muốn phá hai lớp cửa này, xin một lúc buông hết. Nếu không buông, mê mê ngộ ngộ tận đời vị lai lúc nào mới thôi? Người học đạo hàng ngày cảnh không thì dễ, mà tâm không thì khó. Cảnh không mà tâm chẳng không, tâm bị cảnh hơn, nhưng tâm không là cảnh tự không. Nếu tâm đã không mà khởi lên niệm thứ hai, muốn không cảnh này mà tâm này chưa được không, lại bị cảnh đoạt. Bệnh này không trừ thì sanh tử không nhờ đâu mà thoát khỏi, không thấy Bàng Uẩn trình kệ Mã Tô: Mười phương đồng tụ hội, người người học vô vi, đây là trường chọn Phật, tâm không thi đậu về. Tâm này đủ không rồi, ngoài tâm đâu có vật gì để không? Hãy suy nghó chỉ được gốc, chẳng cần lo ngọn, không lại là tâm này là gốc. Đã được gốc thì muôn thứ ngôn ngữ, muôn thứ trí tuệ, hằng ngày ứng vật tùy duyên, bảy đên tám đảo, hoặc hỷ hoặc nộ, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc thuận hoặc nghịch đều là ngọn, chỗ tùy duyên có thể tự biết, thì không thiếu không thừa. Người xưa vào cửa liền đánh, hét. Chỉ sợ người học không có tánh thừa đương, huống gì xót xa lo lắng nói sự nói lý, nói huyền nói diệu, trục xe trong cỏ ư? Mấy năm gần đây, đạo này suy vi, cứ cao tòa là thầy người. Chỉ lấy công án người xưa hoặc khen hoặc chê, hoặc trong thất kín truyền trao là đạo thiền. Hoặc lấy im lặng không nói làm việc trước kiếp Không Oai Âm na bạn để làm thiền đạo. Hoặc lấy mắt thấy lai nghe, nêu lên sự giác ngộ để làm thiền đạo. Hoặc điên cuồng vọng hành đá nháng lửa, ánh chớp, nêu rồi là hội rồi, tất cả dứt trừ sạch không để làm thiền đạo. Như thế đã trái, lại chỗ nào là chỗ thật. Nếu có chỗ thật thì đâu khác với điều này. Người có mắt nêu lên thì biết. Đạo này không hạn chế, trần lao thế gian cũng không hạn chế. Nhưng xem đương nhân hằng ngày chỗ hướng đến như thế nào. Cho nên kinh Hoa Nghiêm ghi: Đối với các thế gian, tâm như hư không, không bị đắm nhiễm, quán khắp tướng chân thật của các pháp, phát thệ nguyện rộng lớn, diệt khổ chúng sanh, mãi mãi không chán bỏ chí nguyện Đại thừa. Diệt tất cả kiến chấp, tu các hạnh nguyện bình đẳng của Bồ-tát. Gọi là hạnh nguyện bình đẳng, và cũng không có tâm hạn chế. Nên chỗ hướng về không chướng ngại là vậy. Học việc thế gian, dụng tâm không đến thì học không thành. Học pháp xuất thế gian không như chỗ dụng tâm. Mới nghó dụng tâm suy cầu thì ngàn muôn dặm không có quan hệ. Tuy như thế, nhưng không có chỗ dụng tâm, không có chỗ sờ mó, không có chỗ gắng sức, chính là gắng sức. Chớ thấy nói như vậy, lại ngoài lóng đốt sanh cành. Nói đã không dụng tâm, không sở mó, không gắng sức thì làm sao có chỗ hướng về? Nếu có cái thấy này thì dần dần không quan hệ nữa. * Chỉ Dạy Cư Só Diệu Chứng Vô thường nhanh chống, sanh tử là việc lớn. Việc thuận sanh tử trong cõi chúng sanh như gai như góc, bỏ đi một lần lại một lần đến. Nếu không lấy hai chữ sanh tử dán trên lỗ thì mũi làm đối trị, ngày 30 tháng chạp tay chân quờ quạng như chuột lột, mới biết hối hận thì muộn rồi, phải dứt khoát, xin từ nay cắt đứt ngay. Học pháp thế gian phải lý hội được kết quả. Học pháp xuất thế gian lại toàn phải lý hội không được mới có phần hướng về. Đã lý hội không được thì làm sao hướng về, chỉ suy xét lấy như thế. Đức Phật là người hiểu rõ mọi việc trong cõi chúng sanh. Chúng sanh là người không rõ việc trong cảnh giới Phật, muốn được như một, Phật và chúng sanh một lúc buông bỏ hết thì chẳng có liễu, bất liễu. Cho nên người xưa nói: Chỉ thông vô sự trên sự, thấy sắc nghe tiếng chẳng phải điếc. Tăng hỏi Triệu Châu: Cây bá có Phật tánh không? Có. Bao giờ thành Phật? Đợi hư không rơi xuống đất Hư không bao giờ rơi? Đợi cây bá thành Phật. Khán câu thoại này không được nghó rằng, cây bá không thành Phật, hư không chẳng rơi xuống đất, rốt ráo thế nào. Khi hư không rơi xuống đất thì cây bá thành Phật. Khi cây bá thành Phật thì hư không rơi xuống đất. Định cũng nghó như vậy. Phật là người vô sự, trụ thế bốn mươi chín năm, tùy theo căn tánh chúng sanh ứng bênh cho thuốc, quyền thật, đốn tiệm, bán mẫn, thiên viên, nói một Đại tạng giáo điều là pháp vô sự. Chúng sanh từ vô thỉ đến nay bị tâm ý thức trôi lăn, khi trôi lăn lại không biết. Cho nên trong hội Bát-nhã Phật nói về tướng các pháp, nghóa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp điều không, chỉ có tên gọi mà thôi. Điến chỗ rốt ráo thì tên gọi cũng không, không cũng chẳng thật có. Như người kiếp trước có chủng Thánh gốc lành, chỉ hướng về chỗ không thật có, chết đi tâm, ý, thức. Mới biết Đức Phật nói: Lúc đầu, từ vườn Lộc Uyển, cuối cùng đến sông Bạt-đề. Trong khoảng thời gian đó không hề nói một chữ, là lời chân thật. Thiền không ở chỗ yên lặng, không ở chỗ ồn náo, không ở chỗ suy nghó phân biệt, không ở chỗ hằng ngày ứng duyên. Tuy như thế, nhưng thứ nhất là không được bỏ đi chỗ vắng lặng, chỗ ồn nào, chỗ hằng ngày ứng duyên, chỗ suy nghó phân biệt tham, bỗng nhiên mắt sáng đều là việc trong nhà mình. Đại só phu học đạo ngày nay phần nhiều là nửa tiến nửa lùi. Về việc thế gian không bằng lòng thì vội phải tham thiền. Bỗng nhiên thế sự theo ý thì mới thôi tham, vì không quyết định tín. Thiền là tên khác của Bát-nhã, Hán dịch la trí tuệ, nếu đương nhân không quyết định tin, lại không có trí tuệ, mà muốn ra khỏi sanh tử thì không có việc đó.  <卷>QUYỂN 20 Muốn học đạo này, phải quyết định tin cho đầy đủ, gặp cảnh thuận nghịch, tâm không dao động, mới có phần hướng đến. Đức Phật nói: niềm tin có thể dứt hẳn được gốc phiền não. Niềm tin có thể chuyển hướng đến công đức của Phật. Tin ở cảnh giới này không bị mê đắm, xa lìa các nạn, được vô nạn. Lại nói: Niềm tin có công năng vượt ra chúng ma, thị hiện đạo giải thoát vô thượng đạo. Như trên nói, giáo có văn rõ ràng, Phật đâu có khinh người. Nếu nửa tối nửa sáng, nửa tin nửa không tin thì khi chạm cảnh gặp duyên tâm sanh nghi ngờ. Đối với cảnh giới tâm sanh đắm trước. Không thể đối với đạo này quyết định không nghi. Diệt gốc phiền não, xa lìa các nạn. Các nạn là không quyết định tin. Bị ám quỷ của chính mình quấy nhiễu. Nếu một niệm duyên khởi vô sanh thì không vượt qua niệm này. Tức là lúc vượt qua đường quỷ, gọi là đường quỷ cũng chẳng phải vật khác, là mê mờ tâm này. Ngoài tâm này vọng sanh các kiến chấp phân biệt, tâm này chạy theo vọng niệm khác nhau trôi lăn. Cho nên thành tưu cảnh ma quỷ, nếu tin được, thì tâm này quyết định xưa nay thành Phật, bỗng mất hết các kiến chấp, tức đường này là đường bồ-đề ra khỏi sanh tử của đương nhân. Người tham thiền, xem Kinh giáo và nhân duyên của người xưa nói, chỉ có tâm địa rỗng rang, không cần hương đến thanh danh nghóa cú, tìm huyền diệu, cầu ngộ nhập. Nếu khởi tâm nầy là chướng ngại cho chánh tri kiến của mình nhiều kiếp không có chỗ vào. Bàn Sơn nói: Thí như huơ kiếm tung hư không, bất luận kịp hay không kịp, cũng không nên hốt hoảng. Kinh Tịnh Danh chép: Pháp vượt qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, muốn thấu pháp này trước phải từ của sáu căn, làm cho không thiếu lỗi lầm, thế nào là lỗi lầm? hẳn. Vì bị sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp chuyển mà không thể lìa Nên đối với kinh giáo và ngôn cú của người xưa là cầu tri kiến, tìm sự giải hội. Nếu đối với kinh giáo và nhân duyên người xưa nói, không khởi niệm thứ hai biết đường về thì ở cảnh giới này, cảnh giới khác, không thể không như ý, không thể không tự tại. Đức Sơn thấy vị Tăng vào cửa liền đánh, Lâm Tế thấy vị Tăng vào cửa liền hét, các vị Tôn túc ở các nơi gọi là nêu lên, giao phó thẳng. Diêu Hỷ gọi là thứ nhất ganh bùn gánh nước. Dù hướng đến một cây gậy, một tiếng hét, toàn thân gánh vác được rồi không phải kẻ trượng phu, bị vùi trong nước dơ. Huống lại một cây gậy một tiếng hét, cầu kỳ đặc tìm diệu hội. Chính là trong không nhai nhép lại không có nhai nhép. Thượng só nghe đạo như ấn ấn vào hư không, Trung só nghe đạo như ấn ấn vào nước, hạ só nghe đạo như ấn ấn vào bàn. Ấn này và hư không, nước, bùn không khác nhau. Vì bậc thượng trung hạ có khác nhau. Như nay muốn tắt vào đạo nầy và đập vỡ cái ấn, sau đó đến gặp Diệu Hỷ. Chỉ Dạy Đạo Nhân Chân Như. Trần lao nhà lửa lúc nào mới thôi. An vui được một ngày lại như ngàn muôn ngày. Trong một ngày, tâm không tìm cầu, không vọng tưởng, không duyên theo các cảnh thì khế hợp với Chư Phật, Đại Bồ-tát ba đời, chẳng cần hòa hội, tự nhiên thành một khối. Thế Tôn nói ví dụ nhà lửa chính là đó. Kinh chép: Nhà này chỉ có một cửa, mà lại nhỏ hẹp, cac con nhỏ dại không thể dứt, thích chỗ vui nhộn, hoặc sẽ bị đọa lạc, bị lửa thiêu, ta sẽ nói việc sợ hãi, đầy đủ như trong kinh. Nhà này chỉ có một cửa mà lại nhỏ hẹp, nghóa là tín căn cạn hẹp. Ở trong nhà lửa, không có trí tuệ mà thích việc trần lao là vui. Không tin có đường ra nhà lửa, ngồi thanh tịnh diệu lạc. Nếu ở trong đó, tin được và biết được phá. Không mê đắm chỗ vui đùa của trẻ con, tâm không tìm cầu, không vọng tưởng, không duyên các cảnh. Tức trần lao nhà lửa nầy chính là chỗ thoát ra ba cõi. Vì sao? Vì Phật không nói ư? Ở tất cả cảnh không nương không trụ, không có phân biệt, thấy rõ pháp giới rộng lớn an ổn, hiểu rõ thế gian và tất cả pháp bình đẳng không hai. Cho nên Bồ-tát ở địa vị Viễn Hành địa vì dùng năng lực trí tuệ sở hành của mình nên vượt qua tất cả Nhị thừa. Tuy được cảnh giới Tạng Phật, mà thị hiện ở cảnh giới ma. Tuy vượt ngoài đường ma mà thị hiện thực hành pháp ma. Tuy thị hiện giống ngoại đạo, mà không bỏ Phật pháp. Tuy thị hiện thuận theo tất cả thế gian mà thường thực hành tất cả pháp xuất thế gian. Ở trong nhà lửa trần lao nầy chính là phương tiện. Người học Bát-nhã xả bỏ phương tiện này mà thuận theo trần lao, chắc chắn bị quỷ dắt dẫn. Lại ở trong cảnh thuận theo gượng nói đạo lý, gọi là phiền não tức Bồ-đề, vô minh tức đại trí, mỗi bước đi trong có, mà miệng thì bàn không, không tự trách nghiệp lực lôi kéo, lại dạy người bác bỏ không có nhân quả. Bèn nói: Uống rượu ăn thịt không ngại Bồ-đề. Ăn trộm, hành dâm chẳng ngại Bát-nhã. Với ý tưởng như thế thì tà ma ác độc vào trong tâm mà họ không hay biết. Muốn ra khỏi trần lao như đổ dầu cứu lửa, thật không đáng thương sao? Những thứ trần lao là hạt giống Như lai, trong giáo có Văn rõ ràng. Thí như cao nguyên, lục địa không thể mọc hoa sen, nơi ẩn thấp, bùn lầy mới có hoa sen. Ở trong trần lao nhà lửa, đầu ra đầu vào, chịu vô lượng khổ. Rồi ở trong sự khổ sinh ra nhàm chán, mới phát tâm vô thượng Bồ-đề. Những trần lao là hạt giống Như lai, chính là như vậy. Người thế tục học đạo so với người xuất gia tất nhiên không giống nhau. Người xuât gia từ nhỏ xa lìa trần lao, không cung phụng cho cha mẹ ngọt ngon. Sáu thân không đoái hoài đến, thân ở già-lam thanh tịnh, mắt nhìn tướng Thánh bao dung, niệm niệm ở nơi đạo, tâm tâm không xen hở. Sách sở quán, chẳng phải chẳng sách Phật, việc sở hành chẳng phải chẳng Phật sự, không thấy có thể muốn. Thọ cấm giới của Phật, người Phật khen ngợi mới dám y theo đó mà hành trì. Người bị Phật trách không dám trái phạm. Bậc tông sư có mắt sáng, thì hãy tìm hỏi, có bạn tốt có thể quyết định. Dầu có người tập khí chưa dứt, tạm thời phá luật nghi Phật, đã bị chúng tẫn xuất, bị người đời xem thường, muôn người không bằng một. Người thế tục ở trong nhà lửa, trong bốn oai nghi và tham sân si là bạn, nhưng hành vi việc làm, những điều nghe thấy đều là nghiệp ác. Nhưng nếu ở trong đó đã được thấu suốt thì năng lực ấy hơn cả người xuất gia đến trăm ngàn muôn ức lần. Đã được thấu suốt rồi mới có thể gọi là phiền não tức Bồ-đề, vô minh tức trí tuệ, bổn nguyện rộng lớn vắng lặng. Trong diệu tâm thanh tịnh tròn sáng, thản nhiên không có một vật nào làm chướng ngại, giống như hư không, một chữ Phật cũng là vật bên ngoài, huống chi có trần lao phiền não ân ái đối đãi ư? Ở trong nhà lửa đã thấu suốt rồi không cần cầu xuất gia, tạo yêu làm quái, huỷ hình hoại phục, diệt thiên tánh, bặt tế lễ, gọi là người tội trong giáo. Phật không dạy người như thế. Chỉ nói người đáng dùng thân Phật để đổ thoát thì hiện thân Phật, tể quan nói pháp cho họ. Cho đến người đáng dùng thân tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di được độ thoát thì hiện thân ấy mà nói pháp cho họ. Lại nói: Kinh doanh nghề nghiệp đều thuận theo chánh lý, không trái với thật tướng. Nhưng chỉ y vào bổn phận, theo sở chứng của mình, hóa độ đồng loại, cùng vào cửa này lại là báo ơn sâu của Phật. Chỉ một niệm không xen hở, chẳng lo được hay không được, chính là kiếp trước không có duyên với Bát-nhã. Đời nay chưa đả phá thấu suốt, khi qua đời cũng không bị nghiệp ác lôi kéo. Hằng ngày trong mười hai thời cũng không bị trần lao làm khốn khổ, đời sau xuất đầu cũng được sẵn sàng thọ dụng. Học đạo không có phương cách gì khác, lấy ngộ làm phép tắc. Đời nay nếu không ngộ tận thì đến đời vị lai thường còn tâm này. Đời nay tuy chưa ngộ cũng gieo trồng được hạt giống Bát-nhã. Về đất tánh, đời đời không rơi vào đường ác, chẳng mất thân người, không rơi vào nhà tà kiến, không vào loài quỷ ma, huống chi hoa tâm bỗng phát minh? Ngay lúc ấy, chư Phật ba đời chứng minh có phần, các Đại Tổ Sư không có chỗ sắp xếp, phải quấy gượng làm, vì pháp như thế. Đạo nhân chân như muốn học đạo này, chỉ y theo việc làm này, lâu ngày tự nhiên được, như ở trên nói, là một thời kỳ ứng bệnh cho thuốc. Như làm hội thật pháp lại là không đúng. Người xưa nói: Thấy mặt trăng thôi nhìn ngón tay, về nhà thôi hỏi đường. Viết đến đây hứng tuy chưa dứt mà giấy đã hết, lại cắt đứt sự day dưa mấy ngày. Đạo nhân Chân Như liên tục đến tạ rằng: ngày trước nghe lão sư hứng chưa hết, lại thêm hoa gấm chẳng biết có được không? Ta đáp rằng: đã duỗi không co, lại là tiếp tục lằng nhằng này nói. Về đến nhà rồi, tự nhiên chẳng hỏi đường, thấy được trăng rồi tự nhiên không nhìn ngón tay nữa. Đức Phật nói một Đại Tạng giáo, dụ lớn ba ngàn, dụ nhỏ tám trăm. Đốn, tiệm, thiên, viên, quyền thật, bán mãn, đều là đạo lý này. Kinh Tịnh Danh nói: Y nghóa không y ngữ, y kinh liễu nghóa, không y kinh bất liễu nghóa. Phật chỉ nói nhân ngữ vào nghóa, không nói nhân nghóa vào ngữ. Nhà Thiền ngàn sai muôn khác, muôn thứ ngôn cú cũng như thế. Người học đạo thời nay bất luận Tăng tục đều có hai thứ bệnh lớn. Một loại không thể thấy trăng quên ngón tay, đối với ngôn cú mà nghe nói Phật pháp thiền đạo, không đối với ngôn cú mà bác bỏ hết. Một bề khép mắt lại như chết, gọi là tónh tọa quán tâm mặc chiếu. Lại lấy tà kiến này, dụ dẫn không biết gì cả, Dung Sớ chép: - Tónh được một ngày lại là một ngày công phu. Khổ thay! Thật không biết đều là kế sống của nhà quỷ. Bỏ được hai thứ bệnh lớn này mới được phần tham học. Kinh nói: Không đắm vào ngôn thuyết của chúng sanh, tất cả việc hữu vi luống dối. Tuy không nương vào ngôn ngữ nói cũng không đắm trước ngôn ngữ. Lại nói: Quán ngữ và nghóa, chẳng khác chẳng phải chẳng khác. Quán nghóa và ngữ cũng giống như vậy. Nếu nói nghóa khác thì không do ngữ giải thích nghóa, mà lấy ngữ vào nghóa, như đèn chiếu cảnh sắc. Cho nên nói: Y nghóa không y ngữ, y kinh liễu nghóa không y kinh bất liễu nghóa, hai bệnh nói và im không thể dứt trừ, chắc chắn chướng đạo, chẳng thể không biết. Biết được rồi mới có phần tinh tấn hướng lên. Thứ nhất: chớ lấy cái biết làm sự nghiệp, lại không cầu diệu ngộ. Nghóa là cho rằng ta biết người không biết, ta hội người không hội, như vậy, là rơi vào lưới ngã kiến, bị ngã tướng sai sử. Khi chưa đủ mà nghó là đầy đủ bệnh này càng nặng hơn. Hai bệnh im lặng và nói năng thầy thuốc giỏi cũng bó tay. Bệnh này không dứt gọi là người Tăng thượng mạn tà kiến. Trừ đi những linh cốt lâu đời mới đến đây được, được một đường chuyển thân, đã chuyển thân được thì sẽ chuyển vật: đã chuyển được vật mới gọi là người liễu nghóa. Đã liễu nghóa rồi thì sẽ liễu tâm. Đã liễu tâm này, thì thử ở chỗ liễu mà sử dụng khéo léo. Vốn không thể liễu, ở chỗ không thể liễu, đứng lên mà đi, có khi lấy cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có khi lấy thân vàng trượng sáu lại làm cọng cỏ, muốn thứ kiến hóa, thành tựu tất cả pháp, huỷ hoại tất cả pháp, bảy điên tám đảo đều không ngoài tâm vô sở hữu này. Chính lúc như thế, chẳng phải thiền Như lai, chẳng phải thiền Tổ sư, chẳng phải thiền tâm tánh, chẳng phải thiền Mặc chiếu, chẳng phải thiền đánh hét, chẳng phải thiền tịch diệt, chẳng phải thiền qua đầu, chẳng phải thiền truyền riêng ngoài giáo, chẳng phải thiền Năm nhà tông phái, chẳng phải thiền Đỗ Soạn của ông già Diệu Hỷ. Chẳng phải những thứ thiền như vậy, rốt ráo là cái gì? Đến đây chớ nói người khác lý hội không được. Lão Diệu Hỷ cũng tự lý hội không được. Đạo nhân chân như xin tự xem lấy. Chỉ dạy Đạo Nhân Không Tuệ. Gánh vác việc này chính là có tâm quyết định. Một gậy đánh không quay đầu. Nếu nửa tiến nửa lùi, nửa tin nửa không, thì dù được chỗ vào cũng cấm lò lớn nấu luyện không được. Huống gì muốn làm chủ tể trong chỗ ngàn sai muôn khác? Diệu Hỷ nói lời này như Thạch Đầu trong chợ mới biết. Đạo Nhân Không Tuệ không cần nghi ngờ. Vừa được thân tâm an tónh, tất cả phải cố gắng, không được hướng đến chỗ an tónh mà cân nhắc. Trong giáo gọi là chỗ giải thoát hầm sâu đáng sợ, phải dạy chuyển lần lần như hồ lô trên nước, tự do tự tại, không bị gò bó, vào tịnh uế, chẳng ngại không chết. Ở với môn hạ nạp Tăng có ít phần gần gũi, nếu chỉ ôm được đứa trẻ không khóc, thì có chỗ dụng gì? Không tuệ suy nghó, Hòa thượng Đại Châu nói: Tâm theo vật là tà, vật theo tâm là Chánh. Tuy một khi ứng bệnh cho thuốc không khỏi gò đất với mũi tên, mà nay nghe chưa liễu, lời này mà không nghi thì Đại Châu phí tâm lão bà. Nghe đã hiểu, lời này mà không nghi thì tâm và vật đều là pháp dư. Cuối cùng thế nào: không cho đi đêm, tới sáng phải đến. Đã có chỗ hướng đến, thoại đầu con chó không có Phật tánh, xem thường mà nêu lên điều này. Nếu nói biết là việc thường bèn thôi, ta nói người này mắt trí chưa sáng. Diệu Hỷ tuy giống đất bằng nổi sóng gió nhưng cũng không ngoài điều Tuyết Phong nói. Vị Tiên Ngũ Thông hỏi Phật: Phật có sáu thần thông, ta có năm thần thông, thế nào là một thông. Phật liền gọi vị Tiên năm Thông, vì Tiên đáp dạ, Phật nói: Ông hỏi một thông ấy, nay ta có một người làm khối bùn thường ở chỗ một thông ấy, nhận lầm làm sao sáng. Quốc Sư ba lần gọi thị giả. Lời Thụy Nghiêm gọi chủ nhân ông. Lời Mục Châu gánh cây, thoại đầu thùng sơn của Đầu tử, thoại đầu cầu lông của Tuyết Phong, thoại đầu Phật của Phong Huyệt. Sáu vị lão túc cổ chùy này, mỗi vị đều thiếu ngộ. Diệu Hỷ nói thế giống như dùng gậy đánh mặt trăng. Bàng quan xem, không xem chẳng cho là ngoài phần. Chỉ dạy Cư só Quách Nhiên. Học pháp thế gian đều như miệng nói tâm suy. Học pháp xuất thế gian dùng miệng bàn luận, tâm suy nghó thì xa. Phật không nói ư: Pháp ấy chẳng thể hiểu, suy nghó, phân biệt. Vónh Gia nói: Tổn pháp tài, diệt công đức, do tâm ý thức này. Bởi tâm ý thức là ngôi nhà suy nghó phân biệt. Quyết muốn gánh vác một việc lớn nhân duyên này xin mạnh dạn tinh thần, lấy chỗ đến làm mũi nhọn, để làm điện sau này, gốc sanh tử một dao chém sạch. Chính lúc như thế, mới được miệng bàn tâm suy. Vì sao? Thức thứ tám đã trừ, thì ma sanh tử không có nơi tá túc. Quỷ sanh tử không có nơi tá túc thì suy nghó phân biệt là diệu trí Bát-nhã, bèn không có mảy may nào làm chướng ngại ta. Cho nên nói: Quán Pháp lần lượt, dùng trí phân biệt, đúng sai xét định, chẳng trái pháp ấn, được đến mảnh ruộng này rồi đều là thông minh, đều nói đạo lý, đều là cảnh giới vắng lặng hoàn toàn, rốt ráo hoàn toàn, giải thoát hoàn toàn, chẳng phải vật khác. Cho nên Bàn Sơn nói: Toàn tâm tức Phật, toàn Phật tức là người. Chưa được như vậy, phải đi đứng nằm ngồi chớ để tâm ý thức được dịp làm hại tiện, lâu ngày thuần thục, tự nhiên không dùng năng lực sắp đặt, suy nghó điều đó, Bàng Cư só ngày nọ ngồi một mình trong am tranh, bỗng nói: - Khó khó mười thạc dầu mè thoa trên cây. Bàng Bà nghe vậy liền nói: Dễ dễ Tổ Sư trên đầu trăm đầu cỏ. Con gái Linh Chiếu nói: Cũng không khó, cũng không dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. Diệu Hỷ nói: Ba người này cùng đi không cùng bước, cùng được không cùng mất. Nếu dùng tâm ý thức suy lường bói toán, chẳng những không thấy chỗ của ba người thế nào, mà trong mười hai thời cũng tự mê mờ bản địa sáng sủa của mình, không thấy mặt mũi xưa nay, không khỏi bị khó dễ, không khó dễ lôi kéo, không được tự tại, muốn được tự tại xin lấy điều ba người này nói làm một câu xem. Diệu Hỷ đã là mang bùn gánh nước, rửa chân rồi. Người xưa nói: Chỉ cần khẳng định tâm mình, ắt không lừa dối nhau, chỉ sợ đương nhân không tin được. Chỗ hằng ngày ứng duyên, bị cảnh ngoài lôi kéo, không thể thuần một công việc, thì thành xen hở. Trong lúc xen hở, chưa khỏi tấc vuông quấy nhiễu. Chính khi quấy nhiễu tức là thời cơ tốt. Phật nói: Bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm, đối với các vọng tâm, cũng không dứt diệt. Trụ cảnh vọng tưởng không thêm rõ biết, đối với không rõ biết, bất luận chân thật, chính là đạo lý này, đạo lý này nói cho người nghe không được. Chỉ người chứng ngộ nêu lên mới biết thế nào. Lương Võ Đế hỏi Đạt-ma: Trẫm xây chùa độ Tăng nhiều không thể tính kể, như vậy có công đức gì không? Đạt-ma nói: Không có công đức. Vì sao không có công đức? Đây chỉ là nhân hữu lậu, quả nhỏ của trời người, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng thật. Thế nào là công đức chân thật? Tịnh trí diệu viên, thể tự vắng lặng, công đức như thế không thể tìm ở thế gian. Võ Đế hỏi: Thế nào là đệ nhất nghóa Thánh đế? Rỗng thên vô Thánh. Người đối trước trẫm là ai? Chẳng biết. Không khế hợp. Đạt-ma qua sông đến đất Ngụy. Như nay muốn thấy công đức chân thật chẳng cần tìm cầu gì khác, chỉ hướng đến chỗ không biết mà tiến thủ. Nếu thấu được hai chữ này thì một đời tham học đã xong. Tổ Sư nói: Tâm theo muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật tối tăm, theo dòng nhận được tánh, không vui cũng không buồn. Người chân thật với tâm này, bên trong không thấy có pháp năng chứng, bên ngoài không thấy có pháp sở chứng. Tổ Sư nói chỗ chuyển và theo dòng đều là mê, tâm này hướng ra bên ngoài thủ chứng, đến còn đường giới hạn. Phật nói một Đại tạng giáo dụ lớn có ba ngàn, dụ nhỏ có tám trăm, chỉ nói văn tự trình hạn mà thôi. Nếu bảo Như lai thật có việc này thì chính là phỉ báng Phật, pháp, Tăng. Lửa tâm dữ dội, rực rỡ không thôi. Tham sân si nối tiếp nhau như vòng xích không có đầu đuôi tương tục không có chỗ nối. Nếu chí khí không mạnh mẽ, ngày tháng thấm lâu, bất giác bị quỷ năm ấm nhiếp giữ. Nếu một niệm duyên khởi vô sanh, không lìa tham dục sân si, đảo dùng ấn của ma Vương, đuổi theo các bạn ma cho là hộ pháp thiện thần, lại chẳng cố gắng làm, vì pháp như thế, cho nên kinh Tịnh Danh nói: - Phật vì người Tăng thượng mạn nói lìa dâm dục sân si là giải thoát. Nếu người không có Tăng thượng mạn, Phật nói tánh dâm nộ si là giải thoát. Tăng thượng mạn đại Xiển-đề mất hết gốc lành, là chúng sanh chẳng phải khí, không tin có Phật thừa, đầu bờ sanh tử có thể nhờ có thể nương. Những người này tuy không tin, nhưng đối với pháp bình đẳng không thiếu. Bàng Cư só hỏi Mã Đại sư: như nước không gân cốt, mà nâng được chiếc thuyền muôn hộc thì thế nào? Tổ nói: Ta ở đây không có nước cũng không có thuyền, nói gì đến gân cốt. Ngay lời nói này Cư só bỗng dứt các duyên, trở về Nam Nhạc, yết kiến Hòa thượng Thạch Đầu. Ngày nọ, Thạch Đầu hỏi Cư Só: sau khi tự thấy lão Tăng, việc hằng ngày là thế nào? Cư Só nói: Nếu hỏi việc hằng ngày của Mỗ giáp chính là chỗ không mở miệng. Đầu nói: Biết ông như thế mới hỏi ông. Cư só bèn thuật kệ: việc hằng ngày chẳng khác, chỉ ta tự hài hòa, người người chẳng lấy bỏ, chỗ chỗ chẳng bày trái, đỏ tía là hiệu gì, gò núi dứt chấm bụi, thần thông và diệu dụng, bửa củi và gánh nước. Đây là kiểu tham thiền trong só tục, quyết muốn việc rốt ráo này. Xin y phương thức của lão này. Kia đã là trượng phu, ta sao không như vậy, không thể lơ là, cố gắng cố gắng. * Chỉ dạy Cư Só Giác Không. Dùng đạo này giác dân này là việc nhà Nho, Đức Phật cũng dạy: Tánh giác Diệu Minh, bổn giác minh diệu, lại Phật là giác. Ngạn Cử nói là bạn, Nho Thích đều học, nhưng không nghiêng lệch. Nhưng Thư Vó nói điều này rằng: giác nghóa là cao xa, là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng. Ngạn Cử đã biết ý này. Chú Đại thần, chú đại minh, chú vô thượng vô đẳng đẳng, đâu cần Diệu Hỷ rửa chân lại. Nhưng ý của Ngạn Cử chẳng phải chỉ muốn phát minh nghóa này, để tự giác mà thôi, vì nhờ nghóa này mà biết được điều chưa giác, khắp pháp thí cũng là dụng tâm của Phật, Bồ-tát. Ta thích chí này, cho nên viết thẳng để dạy, phàm lên được nơi này, nên thấy nghóa này mà mất đi sự cao xa. Nếu chấp sự cao xa cho là nghóa thì chẳng những không liễu nghóa này, mà cũng không thấy sự cao xa này. Nghóa cao xa đều mất, tâm giác riêng sáng mới có thể với nói là giác. Nghóa giác sâu xa, giảng nói không thể hết. Kế là kệ chép: giác không, không giác không không. Giác giác giác không, không không cũng không, muốn biết tin tức tốt vô cùng. Đô Lự Chỉ ở trong hiên này: tùy bút tùy ý, mỗi khi vẩy lấp đi mạng mà thôi. * Chỉ dạy Tân Dụ Hoàng Huyện Uỷ. Diệu Hỷ và lão nhân như thế. Mùa xuân năm Bính Tý niên hiệu Thiệu Hưng trước đây, xa gần khắp đình Xuyên Giang, vừa thấy thì được, giữa sắc thái văn từ tuy chưa nói mà tâm đã cho. Đã đến dịch xá, thổ lộ như phù hợp. Từ khi Khánh kiểm mắt người không nhường người xưa. Lại thích trong hội Bát-nhã được một vị anh linh có thể nâng đỡ ngọn cờ pháp này, nhưng đuốc đại pháp này là giúp đỡ trong ngoài nhà ta. Ngày kế cùng đến Nhậm Tể ăn cơm, ăn cơm xong lại ngồi trên ghế. Lão nhân như thế bày hết chỗ uẩn, chữ chữ, câu câu, đều có rơi không giống lời só đại phu ngày nay. Đời gọi miệng là trống, thiền nhân nói mộng một lần, đến đây mới tin Chư Phật ba đời nói mộng, Tổ sư sáu đời nói mộng, lão Hòa thượng trong thiên hạ nói mộng. Tức nay Diệu Hỷ vào lão nhân như thế. Lại trong mộng nói mộng: bỗng nhiên có kẻ không đại lượng, biết đến trong mộng, mới tin lời nói của Chư Phật ba đời, chẳng phải mộng, lời Tổ Sư sáu đời chẳng phải mộng, lời nói của Hòa thượng trong thiên hạ chẳng phải là mộng. Vì sao? Vì mộng như giác, giác như mộng, nói giống không nói nên nói: Hai là do có một, một cũng chẳng giữ. Một niệm bất sanh, muôn pháp không lỗi. Pháp như thế, nói cũng như thế, im cũng như thế, Chư Phật ba đời cũng như thế, sáu đời Tổ sư cũng như thế. Lão Hòa thượng trong thiên hạ cũng như thế, Diệu Hỷ nay cùng lão nhân này những điều nói cũng giống như thế. Lão nhân như thế sẽ thọ dụng như thế, tu hành như thế, với người như thế, nói việc như thế, khiến người chưa được được vào cảnh giới như thế, đồng báo ân Phật, khiến Pháp như thế, trong cảng giới không chúng sanh nối nhau không xen hở. Lão nhân như thế không luống nói mộng, Diệu Hỷ không luống dối chứng minh, hãy nói: Thế nào là đạo lý không luống dối chứng minh. Còn gửi gắm không? Thế nào là hãy cắt đứt sắn bìm? * Chỉ dạy La Tri Huyện. Kẻ thông minh lanh lợi thường ở dưới gót chân có lỗi lầm việc này. Bởi người thông minh lanh lợi thông đường ý, mới nghe người vừa nêu việc trong đó tâm ý thức bèn lãnh hội rồi. Cho đến chỗ thật đều bao la tối tăm chẳng biết thế nào, lại dùng tâm, ý, thức bình đẳng học được để dẫn chứng, miệng phải nói được, thì trong tâm suy lường tính toán được. Gượng xếp đặt, phải dạy cho hiểu rõ. Thật không biết, nhà thân làm đùa, quyết định không từ bên ngoài đến. Cho nên ngài Vónh Gia có nói: Tổn pháp tổn tài, diệt công đức đều do tâm ý thức mà ra. Cho nên quán nó, sự chướng đạo của tâm ý thức thật hơn rắn độc, hổ dữ. Vì sao? Vì rắn độc hổ dữ còn tránh được, kẻ thông minh lanh lợi lấy tâm ý thức làm nhà, đi đứng nằm ngồi đều báo đáp. Lâu ngày, bất tri bất giác nhồi thành một khối, cũng chẳng phải muốn thành một khối, vì vô thỉ đến nay đi được con đường này quen thuộc. Tuy vừa biết được xa lìa phá tướng dục cũng không thật có, cho nên nói: Rắn độc, hổ dữ còn tránh được, mà tâm ý thức thật không có chỗ tránh, trừ linh cốt đời trước. Chỗ hiện hành hằng ngày nắm được vững, làm chủ được, biết được phá. Thẳng xuống một dao hai đoạn, bèn ở dưới gót chân làm sẽ đi, không cần đem tâm đợi ngộ, cũng không cần tính toán được vào lúc nào. Chỉ lấy điều quở trách của bậc Tiên Thánh, như tránh rắn độc hổ dữ, như qua quê hương trùng độc, giọt nước chẳng chỉ dạy vào miệng, nhưng sau đó lấy điều khen ngợi của bậc Thánh tam giáo, trong trà trong cơm,lúc vui lúc giận cùng bạn bè trao đổi nhau. Đợi thời gian dài phụng tôn, và lúc vợ con nhóm họp, lúc đi đứng nằm ngồi, chạm cảnh gặp duyên, hoặc lúc xấu lúc tốt, khi ở riêng nhà tối, chẳng được chốc lát xen hở. Nếu công phu như thế, đạo nghiệp không thành tựu, thì bậc Thánh tam giáo đều là người nói dối. Só đại phu ngày xưa trong chín Kinh mười bảy Sử, vui đùa hưng vong trị loạn, hoặc nghịch hoặc thuận, hoặc chánh hoặc tà, chẳng có việc nào không biết. Không có một việc nào không hội, hoặc xưa hoặc nay, biết hết hội hết, có một việc vừa biết, có một việc không hội, lại bị người gọi là kẻ ít học, không thấy biết. Việc nhà người thảy đều biết hết. Khi hạ bút làm văn chương, như bình rót nước, không ngại tâm gấm miệng lụa. Trong tâm cũng suy nghó được, miệng cũng nói được phần hiểu. Chỗ hành lý của người, chỗ thuận nghịch của người, chỗ tà chánh của người, mỗi mỗi đều biết được thế nào, mỗi mỗi chọn lấy được, không mảy may thấu lậu. Cho đến hỏi người khác một cách từ tồn chậm rãi. Khi bạn chưa làm con của nhà Trương, Hoằng, lý, Đặng thì ở đâu mà an thân lập mạng, túc nay làm thông minh nói đạo lý, tranh người tranh ta. Dà vô minh khiến cho nghiệp thức, xem xét người khác, chẳng phải không thể phân biệt tà chánh, tốt xấu. Sau trăm năm lại đi đâu. Đã không biết chỗ đến tức là sanh lớn, nếu không biết chỗ đi tức là tử lớn. Vô thường nhanh chóng, sanh tử việc lớn chính là đạo lý này. Nhà Nho cũng nói: “Sống chết cũng lớn”. Cây đánh đầu người đá, thao thao nói việc thật. Ngày 30 tháng chạp, quỷ vô thường chết đến, không dùng miệng ông giải thích, không rời tức giận, không bỏ lỗi lầm. Khổng Tử chỉ khen Nhan hồi: gọi là bậc Thánh không giận, không giận thì không bị huyết khí thay đổi. Nghóa là bậc Thánh không lỗi, không lỗi thì chánh niệm riêng được giải thoát. Chánh niệm riệng được giải thoát thì thành một khối, thành một khối thì không hai. Niệm tà phi mới liên quan đến chánh thì đánh làm hai mảnh, làm hai mãnh thì lỗi ấy đâu chỉ có hai mà thôi. Không tức giận, không lầm lỗi như thế mà thôi, chẳng cần bàn luận huyền diệu đặc biệt. Só đại phu học đạo tiên vương chỉ là tâm thuật chánh mà thôi. Tâm thuật đã chánh thì tà phi không liên quan. Tà phi đã không liên quan thì chỗ ứng duyên hằng ngày tự nhiên mỗi người đều rõ, hiển bày trên các vật. Tâm thuật là gốc, văn chương học hỏi là ngọn. Người học thời gần đây phần nhiều bỏ gốc theo ngọn, tìm chương kiếm cú, học những lời hay ý đẹp để làm thắng tướng và dùng Kinh luật của bậc Thánh làm lời nói vô dụng, có thể không thương xót ư? Điều Mạnh Tử nói không suy lường gốc ấy, mà muốn bằng ngọn. Cây một tấc vuông có thể khiến cao hơn lầu cao. Cố gắng giúp đỡ chút là xuân thu đỉnh thịnh. Liếc nhìn được chính là tâm nghiệp ác trần lao. Muốn học pháp ra khỏi sanh tử, chẳng phải đời trước trồng cội đức, thì không thể tin được, lấy được, trụ làm được chủ tể. Thường lấy sanh tử nơi niệm, chính là hoa sen trong lửa. Đã cho việc sanh tử lại ở nơi niệm, thì tâm thuật đã chánh. Tâm thuật đã chánh thì hằng ngày ứng duyên sẽ không dùng sức sắp đặt. Đã không dùng sức sắp đặt thì không tà phi. Đã không tà phi thì chánh niệm an trụ. Chánh niệm đã an trụ thì lý tùy sự biến: lý tùy sự biến thì sự được lý dung. Sự được lý dung thì bớt sức lực mới giác. Khi bớt sức lực thì được năng lực vô hạn. Khi được như thế thì tâm ý thức không cần đè ép, tự nhiên an tónh. Tuy như thế nhưng chớ rơi vào chỗ vô ngôn vô thuyết. Bệnh nầy không trừ, cùng tâm, ý, thức chưa yên chẳng khác. Cho nên Đức Phật nói: Không chấp trước vào ngôn thuyết của chúng sanh, tất cả sự hữu vi là luống dối, tuy không còn nhờ vào ngôn thuyết, nhưng cũng không đắm vào vô ngôn thuyết, mới trụ vào chỗ vô ngôn thuyết, thì bị mặc chiếu tà thiền huyễn hoặc. Những điều nói trước đây là rắn độc hổ dữ còn có thể tránh, tâm ý thức khó đề phòng, chính là đạo lý này. Khi hằng ngày ứng duyên, bỏ đi chỗ được tónh thì mới yên tónh. Khi tạp niệm khởi chỉ đưa thoại đầu. Vì thoại đầu như lửa gom lại, không tha thứ muỗi móng, rận rệp. Nêu đi nêu lại, lâu ngày chùy tháng bỗng nhiên tâm không có chỗ đến. Bất giác phát ra; Đương lúc ấy, sanh cũng không dính mắc người hỏi, tử cũng không người hỏi dính mắc. Không sanh không chết cũng không dính mắc người hỏi, làm như thế, nói như thế cũng không hỏi người, chịu như thế cũng không hỏi người. Như ăn cơm cháo đến khi no đủ tự nhiên không nghó về ăn. Ngàn nói, muôn nói, nói thẳng nói cong chỉ là như thế, nghi tình không phá. Sau này bỗng nhiên mất đi, chân dẫm đạp lỗ mũi. Diệu Hỷ lo lắng, viết nhiều ác khẩu, lại an chỗ nào. Diệu Hỷ tự nói: Do đất mà té, từ đất mà đứng dậy, té hay dậy là ở người. Rốt ráo, không liên can đến việc mảnh ruộng này. Viết đến đây vì giấy hết lại cắt đứt sắn bìm.  <卷>QUYỂN 21 * Chỉ dạy Ngạ Thủ Hùng Từ Bộ. Só đại phu thời gian gần đây phần nhiều muốn học đạo này, mà tâm không thuần nhất, bệnh tạp độc thấm vào tâm. Bệnh tạp độc đã thấm vào tâm thì gặp việc không giải quyết được, gặp việc không giải quyết được thì ngã Kiến thêm lớn. Ngã kiến thêm lớn thì chỉ thấy lỗi người khác, thật không thể lùi bước tự xem xét mình. Ngày vừa xuống giường có rất nhiều việc lợi mình lợi người, có thể xem xét được như thế gọi là người có trí tuệ. Triệu Châu nói: Lão Tăng hằng ngày trừ hai thời cơm cháo là tạp dụng tâm, ngoài ra là chỗ không xen dụng tâm, hãy nói: lão này ở đâu. Nếu ở đây biết mặt mũi ông ấy mới có thể nói đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói nín, động tónh thể an nhiên. Chưa thể như thế, thì lúc này lùi bước hướng đến gót chân mà suy cùng cẩn thận. Ta có thể biết việc xấu tốt ưu khuyết của người, là phàm, là Thánh, là có, là không, suy đi suy lại, đến chỗ không thể suy cùng như chuột vào sừng trâu, bỗng nhiên tâm trộm dứt. Chính là đất hũng Tứ lăng của đương nhân, về nhà ngồi yên ổn. Diệu Hỷ bất đắc dó nói, ác khẩu này xem về phần kẻ hiểu việc, chính là không biết tốt xấu, vung vãi phân tiểu, bỗng nhiên đánh vào lớp dưới da có máu, vung vãi cũng làm não ông ấy không được. Nay đã không có người, không ngại dạy gã này tùy ý loạn nói. Đã là không biết tốt xấu, không khỏi rửa đất trong bùn nói không mùi vị. Như thứ nhất không được hướng về ta nói hội. Đây là só đại phu thực hành nhất nghóa thông minh. Pháp thế gian và xuất thế gian chẳng được nói một, chẳng được nói hai, chẳng được nói có, chẳng được nói không. Một hai, có không, trong tạng Quang Minh vừa gọi là thuốc độc, vừa gọi là đề hồ. Đề hồ thuốc độc vốn không có tự tánh. Người thấy thực hành có một hai, có không thì đới với bệnh là phương thuốc. Tạng Quang Minh dụ như hư không, một hai, có không dụ như ngày đêm, trời trăng. Lúc đêm tối thì hư không chẳng hề tối. Lúc ban ngày thì hư không chẳng hề sáng. Ngày đêm trời trăng tự khuynh đoạt ấy, như thấy tướng khuynh đoạt một, hai, có không thì chẳng khác với Quang Minh Tạng. Trong đó có kẻ anh linh, không chịu loại dơ nhớp này. Khi một nịêm duyên khởi bất sanh, chỉ tướng khuynh đoạt này điều là việc phải thọ dụng hằng ngày. Trước đã nói đề hồ thuốc độc là vậy. Só đại phu học đạo này phần nhiều cầu mau hiệu nghiệm. Khi Tông Sư chưa mở miệng, chính là đem tâm ý loạn không tính được. Thật không biết ở trước mặt Diêm-la bị đánh bằng gậy sắt, nuốt hòn sắt nóng. Viên chính là như vậy. Việc lãnh giải này, cầu mau hiệu nghiệm thì chẳng phải người khác, cái gọi là ít được lại mất. Việc tinh thần càng thô, như lại nói là điều đáng thương. Só Đại Phu thời nay, trong ngàn muôn người tìm một người, nửa người không bị bệnh này, không thể hiểu được. Mùa Thu năm Bính Tý niên hiệu Thiệu Hưng, do Ngạc Chử gặp gỡ Hùng Sứ quân Thúc Nhã, vừa thấy sự khuynh đảo, bèn dùng đạo lý khế hợp nhau này để thối bước đến chỗ thật. Nhưng nói mà làm không như người phù phiếm, cưỡng biết cưỡng hội, cưỡng lãnh lược, thẳng đến chỗ chân thật của người xưa. Không nghi Phật, không nghi Khổng Tử, không nghi Lão quân. Sau này, nhờ lỗ mũi của Lão Quân, Khổng Tử, Phật tự thở ra mạnh mẽ tinh tấn chân thật là việc làm của kẻ trượng phu. Nguyện mạnh mẽ tinh thần, cố gắng hướng tới trước. Chỗ nói chỗ làm đủ không lầm nhưng ít bày ra mà thôi. Niếu có tiến không lùi, hằng ngày trong mươi hai thời, chỗ ứng duyên không xen hở, thành đạt cũng không rời. Nhưng thứ nhất không được tồn tâm ở chỗ thành đạt. Nếu có tâm này thì bị tâm này chướng ngại ở đầu đường. Nhưng chổ ứng duyên hằng ngày không mờ mịt thì lâu ngày, tự nhiên nhồi thành một khối. Vì sao chỗ ứng duyên khi vui khi buồn, khi phán đoán việc công, khi đối đáp với các vị khách, khi cùng với con tu hội, khi tâm suy nghó thiện ác, khi chạm cảnh gặp duyên, điều là lúc bộc phát ra. Ngàn muôn nhớ lấy, ngàn muôn nhớ lấy. Khi tình niệm thế gian khởi lên, chẳng phải dùng sức sắp xếp. Đã nghe về ngày trước nhưng chỉ nêu công án Tăng hỏi Tiêu Châu con chó có Phật tánh hay không? Triệu Châu nói: Không. Mới đề khởi một việc này, tình niệm thế gian tự sợ sệt. Lời nhiều lại ngữ nhiều, vốn là trái lại sự sai lầm, ngàn nói muôn nói chỉ là đạo lý này, bỗng nhiên trên chữ vô dứt bặt tánh mạng. Đạo lý nào cũng là khoa học trong mắt. * Chỉ dạy Từ Đề Hình. Việc này như trời sáng ban ngày, bao la thanh tịnh, không biến không động, không bất không thêm. Chỗ hằng ngày ừng duyên mỗi mỗi, đương nhân rõ ràng việc mọi người, hiển bày về vật vật. Lấy nó không được, bỏ nó không xong, bao la vô ngại, rõ ràng không hư như hồ lô thả trên nước, níu bắt nó không được, buộc nó cũng không được. Kể xưa có đạo, được hướng đến trong biển sanh tử, đầu ra đầu vào, toàn thể thọ dụng, không thiếu không thừa, không chấp lấy cảnh trần lao sanh tử. Như tách chiên đàn ra từng mảnh, lấy gì làm trần lao sanh tử. Trần lao sanh tử từ đâu khởi, khiđược kết quả cũng từ đâu. Đã không có chỗ, thì Phật là huyễn, pháp là huyễn, ba cõi, hai mươi lăm hữu, mười hai xứ, mười tám giới bao la. Đến được mảnh ruộng này, một chữ Phật cũng không có chỗ dính. Một chữ Phật còn không có chỗ dính thì chân như Phật tánh Bồ-đề Niết-bàn từ đâu có: cho nên Phó Đại Só nói: Sợ người sanh chấp đoạn, quyền lại lập hư danh. Người học đạo lý hội, không được đi một bề. Nhân duyên người xưa vào đạo, trên cầu người, cầu diệu, cầu đặc biệt, tìm hiểu hội. Không thể thấy trăng quên tay. Thẳng xuống một dao hai đoạn. Vónh Gia gọi là tay không sanh giải hội. Trong pháp căn cảnh năm rỗng không, đối với trong trần lao năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hai mươi lăm hữu tự vọng chấp. Như lại nói là người thật đáng thương. Không thấy Hòa thượng Nham Đầu có nói: Ông chỉ không muốn không cậy nhờ lại là Năng nhân. Đều đến chỉ có một cục thịt đỏ do cha mẹ sanh. Một điểm khi không đến, lại thuộc người khác quản. Ngoài khối thịt lại có gì? Lấy gì làm đặc biệt, huyền diệu? Lấy gì làm Niết-bàn, bồ-đề? Lấy gì làm Như lai Phật tánh? Đại só Phu phải nghiên cứu cùng tột việc này. Lúc đầu vốn không thật. Dù muốn về công án người xưa, cầu biết cầu hiểu. Dù ông biết hết một tạng giáo. Ngày 30 tháng chạp lúc sanh tử đến, một điểm cũng sai không được. Lại có một loại, mới nghe biết hiểu nói việc như thế lại đem tâm, ý, thức suy lường rằng: nếu như thế có rơi vào không hay chăng? Só Đại Phu mười người có khoảng năm người có kiến giải này. Diệu Hỷ bất đắc dó nói với ông ta: ông chưa từng được không, có gì phải sợ. Như thuyền chưa lật, trước phải nhảy xuống nước. Thấy y không lánh được, không sợ khẩu nghiệp lại là đánh một lần sắn bìm rằng: chỉ sợ rơi vào không này, còn chẳng được không, mắt ông nếu chẳng không, lấy gì nhìn sắc. Tai nếu chẳng không thì lấy gì nghe tiếng. Mũi nếu chẳng không thì lấy gì biết mùi, lưỡi nếu chẳng không lấy gì nếm vị, thân nếu chẳng không lấy gì xúc chạm. Ý nếu chẳng không, lấy gì phân biệt muôn pháp. Cho đến mười hai xứ, mười tám giới, hai mươi lăm cõi. Cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Độc Giác, Phật. Và pháp Phật nói, Bồ-đề Niết-bàn chân như Phật tánh. Và người nói pháp này, người nghe pháp này, là nói như thế, chịu nói như thế đều là không có, được như thế rồi, gọi là không ư? Gọi là chẳng không ư? Gọi là Phật? Gọi là Bồ-tát ư? Gọi là Thanh Văn ư? Gọi là Duyên Giác ư? Gọi là Bồ-đề, Niết-bàn ư? Gọi là Phật tánh ư? Nói ta thông minh lanh lợi, không bị người chê, thử ở đây định sẽ khán. Nếu định sẽ được ra thì ngủ ở ngoài cửa am tranh. Nếu định sẽ không ra thì dè dặt mở miệng lớn để nói qua thoại đầu. Kẻ đại trượng phu quyết muốn rốt ráo một việc lớn nhân duyên này, một khi đả phá, da mặt tánh tháo, xương sống dựng đứng chẳng thuận tình người. Lấy điều nghi xưa của nhà mình dán trên trán, thường như thiếu người trăm muôn quan tiền, bị người truy tố, không có vật đáng thưởng. Sống sợ bị người sỉ nhục, không vội được vội, không bận được bận, không lớn được lớn, một việc mới có phần hướng đến. Nếu nói văn tự thế gian ta cho đến chín kinh mười bảy sử của trăm nhà liền biết, xưa nay hưng vong trị loạn, chẳng thể không biết, chẳng thể không hội, chỉ có một loại thiền ta cũng phải biết, ta cũng phải hội, tự không có mắt biện chánh tà, bỗng vừa chạm một cái. Hòa thượng Đỗ Soạn bị cô lập như trong thôn ba nhà, truyền miệng khiến miệng tai truyền thọ gọi là thiền quá đầu, gọi là thiền trống miệng, lấy cặn bã người xưa ấn chứng cho nhau, một câu đến một câu, cuối cùng ta được nhiều câu, bèn nói là được thiền rồi. Thật không chịu lùi bước, lấy việc sanh tử ở tại niệm, không chịu tự nghi, ưa nghi người khác. Mới nghe só đại phu muốn lý hội, việc này trước khởi nghi vô hạn rồi, gọi là muốn làm quan tốt, lại có thanh sắc hay, làm sao giải thích được việc nầy? Như loại này nhiều lần đều như thế, không có một người chân thật lấy một việc chưa hiểu ba ngày ba đêm siêng năng chăm chỉ trong trà trong cơm, khi vui khi giận, chỗ tịnh chỗ uế, chỗ vợ con tụ đầu, chỗ khách khứa chuyện trò, chỗ làm việc công chức, chỗ gả con đều là thời tiết công phu cân nhắc nêu biết. Xưa Lý Văn Hòa Đô Uý ở chỗ giàu sang, tham thiền đại triệt đại ngộ. Khi Dương Văn công tham được thiền thân ở Hàn Uyển, khi Trương Vô Tận tham được thiền thì làm sư chuyển vận ở Giang Tây. Chỉ ba đại lão này là không hoại tướng thế gian, mà nói kiểu thật tướng. Lại không hề cần bỏ vợ con, thôi quan bỏ chức gặm gốc trà, thân khổ chí liệt, tránh ồn cầu tónh. Sau đó vào trong hang quỷ khô thiền dứt bỏ vọng tưởng mới được ngộ đạo. Không thấy Bàng Cư Só nói chăng? Chỉ tự vô tâm đối với muôn vật, đâu ngại muôn vật thường vây quanh. Trâu sắt không sợ sư tử rống, giống như người gỗ thấy chim vẽ. Người gỗ bản thể tự vô tình, chim vễ thấy người cũng không sợ, tâm cảnh như như chính là đây. Lo gì đạo Bồ-đề không thành. Trong trần lao thế tục, có thể không quên việc sanh tử, tuy chưa đả phá ngay thùng sơn. Nhưng cũng gieo sâu hạt giống trí Bát-nhã. Đời khác xuất đầu, cũng đỡ tâm lực, cũng không lưu lạc đến trong ác thú, chiến thắng đắm nhiễm trần lao không cầu ra khỏi, gọi việc này không thể dễ dàng. Lại trở về chỗ kính tin, như người kiến giải này không thể thắng số. Só đại phu học đạo không giống với ta xuất gia. Con xuất gia không cung phụng ngọt ngon cho cha mẹ, sáu thân vốn từ bỏ, một bình một bát hằng ngày ứng duyên, không có nhiều kẻ thù chướng đạo. Nhất tâm nhất ý để nghiên cứu việc này mà thôi. Chỗ mở mắt nhắm mắt của Só Đại Phu đều là oan hồn chướng đạo. Nếu người có trí tuệ chỉ đến đây thực hành công phu nhiều. Ngài Tịnh Danh gọi là trần lao là hạt giống Như lai. Sợ người hoại tướng thế gian mà cầu thật tướng. Lại nói ví dụ rằng: thí như cao nguyên lục địa không mọc hoa sen, sen này chỉ sống trong bùn nhơ. Nếu đến đây, như Dương Văn Công, Lý Văn và Trương Vô Tận. Đã được thấu lực, hơn hai mươi lần người xuất gia ta. Vì sao? Vì ta xuất gia ở ngoài đánh vào, só đại phu ở trong đánh ra. Người ở ngoài đánh vào sức họ yếu. Ở trong đánh ra sức mạnh hơn. Mạnh thì gọi là trái với chỗ nặng, mà chỗ chuyển có năng lực, yếu gọi là trái với chỗ nhẹ mà chỗ chuyển thiếu sức. Tuy năng lực có mạnh yếu nhưng điều trái là một, bạn đạo bên ngoài từ Hôn Tế mà Diệu Hỷ trước ba mươi năm Di ôn nói cả, vừa mới gặp nhau bèn lấy đây để trông mong, và khi sai Đệ Đôn lập khi đến chỗ tiên sư Viên Ngộ, kích thích việc này, quyết muốn ngày ba mươi tháng chạp khi bốn đại phân tán, muốn được có chỗ rơi, chẳng như người khác bàn luận riêng. Nên hiệu Thiệu Hưng lúc đầu ta ở Kính Sơn, nhân trì bát ở Ngô Môn, được gặp một lần nữa. Hai mươi năm sau lại gặp nhau ở Ngọc Chử. Nhân láy cốt yếu này để cầu chỉ thị. Tùy ý vừa viết tới đây, không biết trước mặt nói điều gì: Điều cốt yếu trước mặt đã xong, ngàn muôn thiết tha, nói thẳng nói cong chỉ là vì Từ Đôn Tế nhổ sạch gốc ngọn sanh tử. Chỉ dạy đến chỗ dứt ngọn, khán thoại đầu. Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? - Không. Đi đứng ngồi nằm chỉ thường cân nhắc, bỗng nhiên phát ra, mới biết lỗ mũi cha mẹ sanh ở trên mặt. Cố gắng! Cố gắng! Chỉ dạy Bào giáo thọ. Chư Phật ra đời, Tổ Sư đến từ Tây phương, tùy căn khí thích hợp với chúng sanh, ứng thời tiết mà thôi, cứ thật mà luận, không nói, không dạy, không nghe, không được. Cho nên Nham Đầu có nói: - Nếu dùng pháp thật ràng buộc người, chớ nói thọ tín thí, chỉ đất cũng tiêu không được, cho nên quán sát. Chư Phật Chư Tổ cũng chỉ làm được chủ nhân để chứng minh. Chẳng thấy Xá-lợi-phất hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: Chư Phật Như lai không biết pháp giới ư? Văn-thù đáp: Chư Phật còn không thật có, nói gì có Phật mà biết Pháp giới. pháp giới còn không thật có, nói gì pháp giới bị Chư Phật biết. Như thế thì cũng không thấy có thầy, cũng không thấy có đệ tử, cũng không thấy có người nói pháp, cũng không thấy có người nghe pháp, cũng không thấy có người nói nghóa này, cũng không thấy có người thọ nghóa này. Cũng không có Văn-thù, cũng không có Xá-lợi- phất, cũng không có Chư Phật, cũng không có Tổ sư. Cũng không thấy có pháp giới được Chư Phật biết, cũng không Chư Phật biết pháp giới, cũng không hề có Cư só Bào. Then chốt này cũng không có chỗ cầu. Diệu Hỷ cũng không hề dẫn bút chấm mực. Đã là tất cả đều chẳng thấy có, tức nay lo lắng một cách ác khẩu, lại ổn thoả ở chỗ nào? Ôi nếu có chổ ổn thỏa thì có, Cư Só Bào chỉ quán như vậy, thực hành quán này gọi là Chánh quán, thực hành quán khác gọi là tà quán. Nếu còn thấy tà chánh cũng ngờ Diệu Hỷ không được. * Chỉ dạy Cư Só Diệu Tịnh. Đã biết có việc lớn nhân duyên này, quyết định không từ người mà được thì chính là bỏ ngoài trần. Thường phải suy cho cùng dưới gót chân của mình suy đi suy lại. Trong không thấy có tâm năng suy, ngoài không thấy có cảnh sở suy, tịnh rõ ràng, trần rực rỡ không thể lấy. Như thả hồ lô trên nước, không người động, thường kéo níu nó không được, buộc nó cũng không được. Bỏ thì động, xúc chạm thì chuyển. Tự tại như thế, thoải mái như thế, linh Thánh như thế. Không cùng đường với ngàn Thánh, không cậy nhờ với nạp Tăng. Có khả năng thực hành hiệu lệnh của Phật Tổ. Hiệu lệnh của Phật Tổ không được. Đương nhân biết những việc này, làm mạnh mẽ tinh thần. Trên đầu rào trăm thước tiến thêm một bước. Như tiến được thì một bước này chẳng khác Đồng Tử Thiện Tài? Ở trong cõi trên đầu sợi lông của Phổ Hiền. Đi một bước qua không thể nói, không thể nói cõi Phật số thế giới nhiều như bụi nhỏ. Như thế mà bước, hết kiếp vị lai còn không thể biết các cõi nhiều như số giọt nước biển trong một sợi lông, thứ lớp cõi hải tạng. Cõi nhiều như nước biển khác nhau, cõi biển điều vào cõi biển thành, cõi biển hoại, cõi biển trang nghiêm, tất cả bờ mé. Như cảnh giới này cũng chẳng phải bên ngoài khởi tâm dụng ý, tu chứng được. Chỉ là đạo lý vốn đầy đủ dưới gót chân của đương nhân. Chẳng thấy Hòa thượng Đức Sơn có nói: Ông chỉ vô sự đối với tâm, vô tâm với sự thì hư, linh hư mà diệu. Nếu đầu sợi lông cho nói gốc ngọn thì điều là tự khinh. Vì sao? Vì mảy may buộc niệm ba đường nghiệp nhân. Thấy tinh ông sanh muôn kiếp buộc ràng. Tên Thánh tên phàm điều là hư thanh. Thân hình yếu kém điều là huyễn sắc, ông muốn cầu được không lụy ư? Và chán thì lại thành đại hoạn. Nói thế gậy đánh đầu người đá, thao thao nói sự thật, trước đã nói: - Trong chẳng thấy có tâm năng suy, ngoài chẳng thấy cảnh sở suy chính là đạo lý này. Đạo lý nầy hướng về việc nhìn thì nhanh nhưng hướng đến căn ý suy lường tính toán thì càng sơ càng xa. Cho nên Đúc Phật trong hội Pháp Hoa chỉ độ được người nữ tám tuổi. Trong hội Hoa Nghiêm chỉ độ được đồng tử, trong hội Niết-bàn chỉ độ được Đồ Nhi. Xem ba kiểu thành thật này thì đâu từng hướng ngoại thủ chứng, khổ nhọc riêng tu cầu học. Phật cũng chỉ nói: nay ta giữ gìn việc này cho ông mãi không dối. Chỉ nói giữ gìn cho người mà thôi. Lại không nói có pháp để truyền, để cho người tìm cầu bên ngoài sau đó thành Phật. May có thể cách như thế vì sao không tin. Nếu có thể thẳng thừng tin được, không tìm cầu bên ngoài cũng không ở trong tâm thủ chứng thì trong mười hai thời tùy chỗ giải thoát. Vì sao? Đã không tìm cầu bên ngoài thì nội tâm vắng lặng, trong tâm không thủ chứng thì cảnh bên ngoài vắng lặng, cho nên Tổ sư nói: Cảnh duyên chẳng tốt xấu, tốt xấu là do tâm, nếu tâm không gượng gọi tên thì vọng tình từ đâu khởi. Vọng tình đã không khởi chân tâm mặc trùm khắp. Nếu biết tâm bên trong, cảnh bên ngoài chỉ là một việc thì dè dặt làm hai loại khán. Nhớ Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Diệu tịnh minh tâm, ông làm sao hội? Ngưỡng Sơn nói: Núi sông đất đai ngày tháng trăng sao. Quy Sơn nói: Ông chỉ được việc này. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng vừa rồi hỏi gì? Diệu Tịnh Minh tâm. Gọi là Sự được không? Quy Sơn nói đúng thế! Đúng thế! Xem Sứ Sư Trọng sanh trong nhà giàu mà có không bị giàu sang ràng buộc, nhưng đời trước trồng cội đức tự nhiên biết có việc không thể suy nghó bàn nầy. Có thể ở đầu bờ sanh tử làm thuyền bè cậy nhờ. Cho nên thường thối bước. Chịu suy cứu dưới gót chân. Chính là lập đạo hiệu là Cư Só Diệu Tịnh. Sư lại khuyên cố gắng, đi đứng nằm ngồi hâp tấp cùng khổ, không thể quên nghóa về diệu tịnh minh tâm. Khi vọng niệm khởi không hẳn là dùng năng lực sắp đặt. Chỉ nêu Tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tánh hay không? Triệu Châu đáp không, nêu đi nêu lại, cùng với lời nêu này cũng chẳng thấy có. Chỉ biết chẳng thấy có này cũng không thấy có. Sau đó, đều nói cũng không thấy có sở thọ. Bỗng nhiên ở chỗ không sở thọ, bất giác mất tiếng cười lớn. Một lúc đi tuần lại về nhà ổn tọa, nói nhiều lắm lời hãy bỏ sang một bên, lại cắt đứt dây dưa. * Chỉ dạy Lã Cơ Nghi. Là người biết thế gian có đạo lý luống dối không thật y cho đến đối cảnh gặp duyên, bỗng đánh vào trước mặt, không theo người khác, cho nên bị y xỏ mũi định. Bởi Vô thỉ đến nay chỗ chín rất chín, chỗ sống rất sống. Tuy tạm thời được phá, cuối cùng đạo lực không thể hơn nghiệp lực. Lại đâu là chỗ nghiệp lực chín muồi. Đâu la chỗ sanh ra đạo lực. Nhưng đạo lực nghiệp lực vốn không nhất định được. Chỉ xem chỗ hằng ngày hiện hành. Chỉ có một cái mờ một cái không mờ, mờ là đạo lực thì bị nghiệp lực thắng. Nghiệp lực thắng thì gặp việc không giải quyết được, gặp việc không giải quyết được thì khắp nơi đắm nhiễm. Khắp nơi đắm nhiễm thì lấy khổ làm vui. Cho nên, Đức Phật bảo Mãn Từ Tử rằng: ông dùng sắc không khuynh đoạt Như lai Tạng, mà Như lai Tạng vì sắc không trùm khắp pháp giới, cho nên gió động hư không ngày sáng mây tối. Chúng sanh mê muội trái giác theo trần. Cho nên phát sanh trần lao có tướng thế gian. Đạo lực không mê muội thì thắng được nghiệp lực. Đức Phật lại nói: Ta thấy diệu minh không diệt không sanh hợp thành Như lai Tạng, mà Như lai Tạng chỉ cho diệu giác minh Viên Chiếu pháp giới. Cho nên trong một là vô lượng, vô lượng là một. trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, bất động đạo tràng trùm khắp pháp giới mười phương, thân bao gồm mười phương vô lượng hư không. Trên đầu một sợi lông hiện cõi Bảo vương, ngồi trong hạt bụi xoay bánh xe đại pháp. Đây chính là chỗ hiện hành, đạo lực không mê muội thì nghiệp lực. Nhưng hai chỗ đều trờ về luống dối. Nếu bỏ nghiệp lực mà chấp đạo lực thì ta nói người này không hiểu phương tiện tùy nghi nói pháp của Chư Phật. Vì sao? Vì chẳng thấy Đức Phật nói hay sao? Phật nói rằng: Nếu chấp pháp tướng tức chấp vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp vào chẳng phải pháp tướng, đắm trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Bởi vậy không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp, trước đã nói: Đạo lực, nghiệp lức vốn không nhất định. Nếu là bậc trượng phu có trí tuệ thì nhờ đạo lực làm khí trượng, phá bỏ nghiệp lực. Nghiệp lực đã dứt thì đạo cũng luống dối. Cho nên nói: Chỉ lấy giả danh tự dẫn dắt chúng sanh, khi chưa biết được phá ngàn khó muôn khó. Sau khi biết được phá có khó dễ gì. Bàng Cư Só nói: Phàm phu trí kém cỏi, vọng nói có khó dễ, lìa tướng như hư không. Người mê tự giữ gìn, gốc bệnh không chịu nhổ, chỉ là rộng cành hoa. Muốn biết bệnh căn chẳng phải là vật khác, chỉ là người chấp khó chấp dễ vọng sanh lấp bỏ. Căn bệnh này nhổ không sạch thì nổi chìm trong biển sanh tử. Chính là lúc không xuất đầu. Xưa, Trương Chuyết Tú Tài bị Tôn túc điểm nguồn bệnh, được hiểu đạo, dứt trừ phiền não, lại thêm bệnh, hướng đến chân như cũng là tà, thuận theo thế duyên vô quái ngại. Niết-bàn, sanh tử là hoa đốm, muốn được dứt khoát không nghi Phật Tổ, không nghi sanh tử, chỉ thường dạy tấc vuông là rỗng không, việc đến thì tùy thời bỏ qua, định như nước sáng như gương. Thiện ác tốt xấu đến trốn cũng không được. Tin biết vô tâm tự nhiên cảnh giới không thể suy nghó bàn luận. Tòng lâm thời nay có một loại tà thiền, chấp bệnh là thuốc, tự không hề có chỗ chứng ngộ. Mà lấy ngộ làm kiến lập, lấy ngộ làm từ tiếp dẫn. Lấy ngộ rơi vào đầu thứ hai, lấy ngộ làm việc cành lá. Mình không có chỗ chứng ngộ, cũng không tin người khác có chỗ chứng ngộ. Giống như lấy vắng lặng không ngơ chẳng biết gì gọi là việc trước kiếp Không Oai Âm na bạn. Suốt ngày hai việc cơm cháo. Sợ không lý hội, một bề ngồi định, gọi đó là thôi đi thôi đi, mới liên hệ đến nói năng, bèn gọi là rơi vào thời nay. Cũng gọi là việc bên ngoài con cháu, lấy hang quỷ ở Hắc Sơn làm khuôn phép, cũng gọi là cha ông xưa nay không ra khỏi cửa, mình ngu lại làm cho người khác ngu. Đức Phật gọi là: Thí như có người tự bịt tai mình, lớn tiếng kêu to nhưng cầu người không nghe, bọn này thật đáng thương. Có một loại só đại phu trên bị tạp độc vào trong tâm thức, dẫu gặp thiện tri thức, chân chánh và nói về lời bổn phận lại cho là sai trái. Bọn này chính như đời gọi là quỷ hổ, không riêng bị y hại tánh mạng, lại phản tác dụng, thật không biết trừ phi kiếp trước có nguyện lúc thường lấy hai việc sống không biết từ đâu tới, chết không biết đi về đâu dán trên mũi, trong trà trong cơm, chỗ tỉnh chỗ ồn náo, niệm niệm chăm lo như thiếu người trăm muôn quan tiền nợ không từ đâu ra. Trong lòng phiền muộn, quay đầu tránh thì không có nhà, cầu sống cũng không được, cầu chết cũng không được. Ngay khi ấy, đường thiện ác lần dứt hẳn. Khi biết được như thế, chính là cố gắng, chỉ đến đây khán thoại đầu, vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? Không. Lúc khán không dùng suy lường rộng, không dùng chú giải, không cần phải được hiểu, không cần mở miệng mà gánh vác, chẳng cần hướng đến chỗ đề khởi làm đạo lý, chẳng cần rơi vào chỗ vắng lặng, chẳng cần đem tâm đợi ngộ, chẳng cần hướng về lời nói của Tông sư để lãnh lược, chẳng cần quấy trong vô sự, chỉ khi đi đứng nằm ngồi đều cân nhắc. Con chó có Phật tánh hay không? Không nêu lên được thuần thục, miệng nói tâm suy không kịp, trong tấc vuông bảy trên tám dưới, như khi cắn vào khối sắt không mùi vị, dè dặt chớ thối chí. Khi được như thế lại là tin tức tốt. Không thấy người xưa có nói: “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không có tất cả tâm đâu cần tất cả pháp”. Chẳng những môn hạ Tổ Sư như thế, Phật nói một Đại tạng giáo đều là đạo lý này. Chúng sanh nghiệp ác nặng nề, ngày vừa xuống giường, tâm thức bay xa suy lường danh lợi. 16.Xét lại ta người, vọng tưởng điên đảo, từ sáng đến tối như vòng sắt tuần hoàn không đứt quãng, đều không chán ghét. Vừa khởi một niệm, hướng về trong cửa này ý suy lường, ta cần phải hội. Tâm ý thức sắp xếp không được, lại sanh phiền não. Chính là thôi đi có người nói nguyên do gì. Người như thế không thể thắng số. Đạo bạn Thắng Nguyên thì không như vậy đã biết muôn thứ luống dối trong cõi thiếu giảm, nhất tâm nhất ý lý hội dưới gót chân mình, sống từ đâu đến, chết đi về đâu. Đã không biết chỗ đến, lại không biết chỗ đi. hiện nay rõ ràng mồn một, cùng với nhân phần thị phi phân biệt tốt xấu, quyết định là có hay không, là chân thật hay luống dối. Phải đợi đến như người uống nước nóng lạnh tự biết, không hướng đến miệng người nhận xử phân, bỗng nhiên vỡ ra đến chỗ rốt ráo an vui mới tự chịu. Dùng then chốt này cầu chỉ thị, lấy bút tùy tay viết bèn thành một đoạn sắn bìm. Như thế Sự không cô khởi, khởi phải có lý do. Nếu một bề sắn bìm lại đâu được. Không thấy lúc xưa Hòa thượng Tử Hồ nói: “Tổ Sư từ phương Tây đến cũng chỉ đông lạnh hạ nóng, đêm tối ngày sáng”. Chỉ vì bọn ông vô ý lập ý, vô sự sanh sư, không có trong ngoài gượng làm có trong ngoài, không có đông tây dối nói có đông tây, cho nên sa-ma không thể biết, cho đến căn cảnh không thể tự do. Bởi vậy suy lường, Thuấn Nguyên không hề đến chỗ Diệu Hỷ cầu pháp ngữ. Diệu Hỷ vốn không hề viết một chữ. Đông lạnh hạ nóng, ngày sáng đêm tối. Trong ngoài trung gian, nam tây đông bắc. Vốn không hề dời đổi thêm bớt một sợi lông. Vì sao? Tông ta chẳng có ngữ cú, cũng không một pháp cho người. Đã không có một pháp cho người tức nay viết là nói gì. Đông lạnh hạ nóng, trong ngoài lại là trung gian là thế nào. Có cũng không thật có, vô cũng chẳng thật có, đông lạnh hạ nóng cũng không thật có, trong ngoài chính giữa cũng không thật có, người nói như thế cũng không thật có, người nhận nói như thế cũng không thật có, một sợi tơ cũng không thật có, Thuấn Nguyên cũng không thật có, Diệu Hỷ cũng không thật có, không thật có cũng không thật có. Trong không thật có chỉ được như thế. Thuấn Nguyên đến đây làm sao tham, chỉ ở đây làm sao tham cũng không được. Sau này, lời này cũng không nhận, lời này đã không nhận, Diệu Hỷ quyết định không nói, Thuấn Nguyên quyết định không nghe, chỗ không nói là thật nói. Chỗ không nghe là thật nghe. Như thế Diệu Hỷ tức là Thuấn Nguyên, Thu- ấn Nguyên tức là Diệu Hỷ. Diệu Hỷ, Thuấn Nguyên chẳng hai chẳng khác. Vì không biết không đoạn, Đại tượng Gia Châu uống hoàng liên ( thuốc), trâu sắt Xiểm Phủ đắng miệng. Khổ và không khổ rõ ràng, nhìn thấy chẳng phải nhìn thấy.  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 22 Chỉ Dạy Cư só Khoái Nhiên Khoảng cuối xuân năm Đinh Sửu niên hiệu Thiệu Hưng, Cư Só khoái nhiên đựoc đến Lưu Sơn yết kiến Diệu Hỷ. Muốn tìm một việc lớn nhân duyên này. Nhiều lần theo chúng đến trong thất thứ lớp khéo léo về giải hội đều bày ra. Một hôm, Diệu Hỷ bỗng thấy Mi Vũ Tri Cự nhìn con báo trong ống, chuyển thân động não, lúc ấy liền làm bài tụng: Tuy chưa nêu ra, nhưng Diệu Hỷ liền cùng chuyển ra cửa, Cự tuy chưa thể xương đỏ nhảy ra hang sắn bìm, nhưng lại biết được cơm là gạo, miến là lúa mạch. Chính là bờ mé đắc lực, bỗng đến từ biệt rằng: con gái muốn mau về nhà chồng, dùng then chốt này đến, xin thực hành đạo lý công phu. Xưa Bàng Cư Só nói: Có con trai không kết hôn, có con gái không lấy chồng, mọi người tụ đầu đều nói lời Vô sanh. Sau nầy, khoảng niên hiệu Nguyên Phong, có một só nhân gọi là Cư Só Vô Vi: họ Dương, tên Kiệt Tử Thứ Công, có tham học với các bậc tiền bối. Đối với tông môn có chỗ chân thật đắc lực, có lần cùng Bàng Công nói kệ này: Trai lớn lên phải có vợ, gái lớn lên phải lấy chồng. Nói công phu rất nhiều, lại nói lời Vô sanh: hai kẻ tục này đem thường trụ mười phương làm thành một mảnh ruộng, không hướng về quan ấn khế. Mỗi người tự phân, cưỡng bày nói ta biết có, mà thường hướng đến chỗ không có Phật xưng Tôn. Đương thời cũng có một người bất bình tên là Thiền sư Hải Ấn Tín, thường trụ chùa Định Tuệ ở Tô Châu. Vì thấy Vô Vi làm kệ này, nên cũng làm một bài kệ rằng: Ta không có trai lấy vợ, cũng không có gái lấy chồng, mệt đến thì ngủ, mặc ai nói Vô sanh. Ba ông lão này nói ba bài kệ này. Cư Só Khoái Nhiên mở mắt cũng được, nhắm mắt cũng được, không mở không nhắm cũng được. Diệu Hỷ chỉ được xem, xem thì chẳng thể không, cuối cùng Cư Só Khoái Nhiên hướng vì chỗ mở mắt, hay chỗ nhắm mắt, hay chỗ không mở không nhắm? Nếu đến chỗ mở mắt thì rơi vào tay áo của Bàng Cư só. Nếu đến chỗ nhắm mắt thì rơi vào tay của sư Hải Ấn Khoái Nhiên thấy thế quyết định nói: - Đều không biết làm thế nào, nếu không biết làm thế mà lại rơi vào tay của Diệu Hỷ, muốn ra khỏi tay áo của Diệu Hỷ thì khó. Khoái Nhiên cuối cùng làm sao ra được. Đợi con gái về nhà chồng rồi, lại chầm chậm nói rõ cho ông nghe, nhân được một bài kệ của người xưa: Lại viết sau đó, ngõ hầu khoái nhiên chẳng ở giữa đường, cũng tất cả tâm lão bà. Kệ rằng: học đạo như khoan lửa, thấy khói càng chẳng thôi, đợi mãi sao vàng hiện. Về nhà mới cuối cùng, bèn có một lời hỏi ở đâu là nhà Cư Só Khoái Nhiên về. Nếu thấu được một lời hỏi này, trai cưới vợ, gái lấy chồng đều cho là ở đây. Nếu chưa biết được nhà, lại nghiệp thức mênh mông, đều đi bên ngoài, cũng sợ Diệu Hỷ không được. Chỉ dạy Cư só Diệu tâm. Quyết muốn rốt ráo việc này, phải là từ trước làm thông minh nói đạo lý, nhớ về văn tự ngữ ngôn, về trong tâm ý thức suy lường so sánh được đến thế giới phương khác, đều chẳng được có bằng đầu sợi lông trong bụng, quét cho sạch hết. Sau đó, hướng về chỗ tâm suy ý tưởng không kịp, thử tiến một bước xem. Nếu tiến được thì bước này giống như Đồng Tử Thiện tài ở trong cõi sợi lông của Phổ Hiền. Đi một bước qua không thể nói cõi Phật nhiều như cát bụi, như thế mà đi, tận đời vị lai còn không thể biết. Cõi biển trên đầu một sợi lông, thứ lớp cõi Hải tạng. Cõi Hải tạng khác nhau, cõi biển đều vào, cõi biển thành, cõi biển hoại, cõi biển trang nghiêm, tất cả bờ mé cũng không thể biết. Biển Phật thứ lớp tạng biển Phật, Bồ-tát trong các biển khác nhau. Các biển Bồ-tát đều vào, các biển Bồ-tát nhóm họp, các biển Bồ-tát giải tán, tất cả bờ mé cũng không thể biết. Vào cõi chúng sanh quỷ, chúng sanh căn, giáo hóa điều phục các chúng sanh có trí. Bồ-tát trụ trong tự tại sâu xa, Bồ-tát đi vào các đường như thế bằng tất cả bờ mé. Tín trí vô niệm vô túc, có công đức như thế, một bước này tuy gọi là khó tiến như đời trước trồng được hạt giống gốc lành, chỉ hướng đến chỗ tin được xem, xem tới xem lui, trong không sở trụ, ngoài không sở duyên, bất giác không biết đánh mất bố đại. Lúc như thế mới biết Bàng Cư Só nói: Chùa Vô niệm Thanh lương, uẩn chân không ngũ đài. Đối cảnh tâm vô cấu, tâm tình chết thành tro. Diệu lý hiện ở trong, ưu-đàm nở trong không, chẳng cầu chân pháp nhãn. Lìa tướng tức Như lai, nếu học được như thế, bất động dắt ba tai. Là chân ngữ, thật ngữ không luống không dối. Tuy như thế, chớ thấy nói như thế rồi hướng về chỗ vô tác vô vi, cau mày nhắm mắt làm kiểu chết, gọi đó là mặc nhiên thường chiếu. Con khỉ nắm chặt sợi dây, sợ nó sút dây chạy mất. Người xưa gọi là rơi vào ngoại đạo không vong, quỷ không tán người chết. Chân thật muốn dứt tâm sanh tử, rửa tâm cầu trược, chặt đứt tâm rối ren, phải đánh một gậy cho con khỉ này chết mới được. Nếu một bề thành khẩn, nắm bắt đầu dây, dùng tâm đều phục. Ta nói người này chấp quá độ, thật là đáng thương. Chính mắt xem đều là yêu tinh ngoại đạo thiên ma, chẳng phải quyến thuộc của ta. Việc này muốn gánh vác được Kim Cương do sắt đúc thành. Nếu có tâm gánh vác thì lại là lỗi lầm. Người xưa bất đắc dó thấy ông lầm đường. Vì ông làm chủ nhân chỉ đường mà thôi. Cũng không có thiền đạo, Phật pháp để truyền thọ. Mới nói có truyền có thọ, lại là tà pháp. Vì sao? Chẳng thấy trong kinh Kim Cương nói sao? Kinh Kim Cương nói rằng: Nếu nói Như lai có pháp để nói tức là phỉ báng Phật, người này chẳng hiểu nghóa ta nói. Lại nói: Pháp còn phải bỏ, huống chi là phi pháp. Đắm vào thật mà bàn nói chân như Phật tánh, nói Bồ-đề Niết-bàn, nói lý nói sự, nói tà nói chánh, đều là phi pháp, đâu chịu nói có huyền có diệu để truyền để trao, không thấy bậc tiên đức nói: - Nói học đạo chính là từ dắt dẫn, lại không hề dạy ông khởi về kiểu cách, đặc biệt tìm cầu. Cho nên nói: Ý định dùng tâm ý học Tông huyền, giống như muốn đi về hướng Tây mà chân bước về phía Đông. Lâm Tế nói ông chỉ dứt được niệm niệm tâm tìm cầu thì chẳng khác, với Đức Phật. Bồ-tát Thất địa tâm cầu Phật chưa thôi gọi là pháp trần phiền não. Đã có chí quyết định, thì có khi quyết định vào tay. Lại cái nào là được vào tay? Bỗng tâm ý thức dứt mất hơi thở là Phật, nói lý thì đốn ngộ, thừa ngộ thì dứt. Sự chẳng đốn trừ do thứ lớp mà hết. Phải biết đạo lý nầy, chính là Thiện Tài nghe tiếng búng ngón tay của ngài Di-lặc, cửa lầu các mở. Tâm Thiện Tài vui mừng, vào rồi lại đóng. Hương Nghiêm nghe tiếng chạm vào thân trúc bỗng nhiên khế ngộ, bèn hiểu đạo. Khi quên sở tri lại không nhờ tu sửa, nhướng mày nêu đường xưa, không rơi vào loài cỏ yên lặng. Từ chỗ nhà mình ngộ, từ chỗ nhà mình an vui, chỗ nhà mình đắc lực người khác chẳng biết, lấy ra trình cho người không được, trừ người đã ngộ, đã an vui, đã đắc lực. Vừa thấy thì thầm khế hợp nhau. Nghi tình chưa phá, nhưng chỉ xem thoại đầu người xưa vào đạo. Suốt ngày thường vọng tưởng về thoại đầu thì dè dặt không làm. Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? - Không. Chỉ một chỗ này chính là cây dao cắt đứt đường sanh tử. Khi vọng niệm khởi chỉ nêu chữ “vô” nêu đi nêu lại bỗng dứt tin tức. Chính là về nhà ngồi yên ổn. Ngoài điều này không kỳ lạ đặc biệt. Trước đây nói: Một bước khó tiến bất giác bỗng nhiên qua. * Chỉ dạy Phu nhân Vónh Ninh Quận. Đã biết vô thường nhanh chóng, sanh tử là việc lớn, muốn gần gũi thiện tri thức. Chăm chỉ không bỏ một ngày đêm, thường dán hai chữ sanh tử trên trán. Trong trà trong cơm, khi ngồi khi nằm, khi đi khi đứng, khi chủ khách trò chuyện không được buông bỏ. Thường hợp trong tấc vuông có một việc tắc nghẽn khẩn cấp chưa rõ. Quyết muốn dạy dứt bỏ và trong sạch mới có chút phần tương ưng. Nếu khi thấy Tông sư nói mới vội vàng, khi lý hội không nói, lại phóng chậm thì không có chí quyết định. Phải dứt sạch gốc rễ sanh tử, thì không có việc này. Việc này không ở người nam hay nữ, Tăng và tục. Như ở nơi một lời của tông sư thì nói bẽ nói đoạn, chính là chỗ thấu suốt đầu mối. Phật nói ví dụ nhà lửa, chính là vì chúng sanh mà bày phương tiện, chỉ rõ tướng chân thật, tha thiết. Trong đó có lời nói, nhà này chỉ có một cửa, mà lại nhỏ hẹp, các con còn nhỏ chưa biết gì, nghóa là chúng sanh căn khí kém cõi, không có chí quyết định, mê đắm trần lao sanh tử, ở trong trần lao sanh tử đầu ra đầu vào, đối với nhà lửa ba cõi không thể lìa bỏ, cho nên bày nhiều phương tiện làm cho chúng sanh xả bỏ phương tiện, ra khỏi nhà lửa, ngồi ở chỗ đất bằng. Đây là tâm lão bà mà Đức Phật đã thấu suốt. Hễ xem kinh giáo và nhân duyên người xưa vào đạo, thì thường phải thấy trăng quên ngón tay, dè dặt không được dính mắc vào ngôn ngữ. Nếu tìm huyền diệu trong ngôn ngữ, tìm đặc biệt trong lời nói, thực hành công phu như thế thì mất phương tiện. Diệu Hỷ xưa nay có thật pháp cho người, chỉ là y khoản kết án, lấy sự bình sanh ngộ được, mở miệng thấy gan, nói thẳng cho người có tin được thì thực hành theo. Tuy vừa nghe nói như khó gánh vác, nếu đương nhân vô thỉ đến nay trồng được hạt giống Bát-nhã. Mới nghe tên, hai lông mày liền dựng đứng, tròng mắt lay động. Lúc đầu năm Tăng ở núi này, Hứa Trạch ở Thường Châu có một đạo nhân vô trước, pháp danh là Diệu Tổng, năm ba mươi tuổi tu hành thấy các bậc tôn túc ở khắp các nơi, đều được ấn khả. Nhưng ông ta vì chân thật lo khổ sanh tử, phải chân thật lý hội bổn mạng nguyên thân là chỗ rơi. Đặc biệt qua hạ trong núi, bấy giờ người cùng hạ có một ngàn bảy trăm nạp tử như Phùng Tế, Xuyên Thiếu Khanh cũng ở núi này bất động theo chúng. Một hôm, nhân lão Tăng lên tòa nêu Hòa thượng Dược Sơn lúc mới tham, Thạch Đầu hỏi rằng: Ba thừa mười hai phân giáo mở giáp cũng nghiên cứu cùng tận, nghe phương nam có chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật thật chưa rõ, xin sư chỉ dạy. Thạch Đầu nói: - Như thế cũng không được, chẳng như thế cũng không được, như thế chẳng như thế cũng không được. Dược Sơn không khế hội. Thạch Đầu nói: Ông đến Giang Tây hỏi Mã Đại sư đi! Dược Sơn vâng lời đến Mã Đại sư hỏi như trước. Mã Đại sư nói: Có khi dạy nhướng mày nháy mắt. Có khi không dạy y nhướng mày nháy mắt. Có khi dạy y nhướng mày nháy mắt là dúng. Có khi dạy y nhướng mày nháy mắt là không đúng. Dược Sơn ngay lời nói liền đại ngộ, nhưng không thể trình bày khéo léo, chỉ cúi đầu lễ bái mà thôi. Mã Đại sư hỏi: Ông thấy đạo lý gì mà lễ bái? Mỗ Giáp đối với Hòa thượng Thạch Đầu giống như con muỗi đậu trên con trâu sắt. Mã Đại sư lúc ấy lên tòa bèn cân nhắc lại, Vô Trước bỗng nhiên tỉnh ngộ, sau khi xuống tòa cũng không đến thông tin tức. Lúc ấy, Phùng Tế Xuyên theo sau lão Tăng lên chỗ phương trượng nói: Mỗ Giáp lý hội được, lão Tăng hỏi y: cư só thế nào? Tế Xuyên nói: Như thế cũng không được, tố rô Ta-bà-ha, chẳng như thế cũng không được Tố rô tất ly tát bà ha, như thế chẳng như thế đều không được, Tô rô tất rị Ta-bà-ha. Lão Tăng cũng không nói với ông ta ấy phải, cũng không nói là chẳng phải. Lại nói lời của Tế Xuyên cho Vô Trước nghe. Vô Trước nói: Có thấy Quách Tượng chú Trang Tử. Thức giả nói: Lại là Trang Tử chú Quách Tượng lão Tăng, thấy ông ta nói khác, lẽ ra cũng hỏi ông ta. Lại nêu lời hỏi của Nhạm Đầu Bà Tử vô trước bèn làm kệ: Một chiếc thuyền lá lướt, bao la mái chèo, múa biệt cung thương. Mây núi trăng biển đều bỏ hết. Được Trang Châu bướm mộng dài. Lão Tăng cũng thôi đi. Sau một năm, Tế Xuyên nghi ông ta không thật từ Bình Giang vời Vô Trước đến trong thuyền, bèn hỏi: Bà Tử sanh bảy người con, một người không gặp tri âm, chỉ một người này cũng không tin tức được, bèn bỏ Giang Trung. Lão sư nói Đạo nhân lý hội được, lại hội thế nào? Vô Trước nói: Trên cùng thông đều là đến thật. Tế Xuyên rất sợ, lại có lần đến trong thất. Lão Tăng hỏi ông ấy: người xưa không ra khỏi phương trượng, vì sao lại đi Trang Thượng ăn dầu mỡ? Vô Trước nói: Hòa thượng phóng qua Diệu Tổng, Diệu Tổng mới dám thông tin tức, lão Tăng nói với y ta rằng hơn ông, ông thử nói xem. Vô Trước nói: Diệu Tổng cũng vượt hơn Hòa thượng. Lão Tăng nói: Phải làm sao với dầu mỡ. Vô Trước hét một tiếng bèn đi ra. Lúc ấy, một chúng đều nghe ông ta chỉ đáp như thế, xem ông vừa được một giọt nước. Bèn hiểu nổi sóng làm mòi, bởi ông ta ra khỏi duyên đời, chính là tin được một điều này, và tuy thường bị tà sư ấn phá khuôn mặt lại có thể lùi bước, biết chẳng quyết định lấy ngộ làm sắc, cho nên mới thấy thiện tri thức cân nhắc bèn ngay lời nói ngàn liễu trăm đường. Vónh Ninh Quân phu nhân họ Tạo có nhân lành thông minh lanh lợi, có tri kiến, biết có một việc nhân duyên lớn này, chắc chắn có thể ra vào sanh tử, không bị việc trần lao ở thế gian lôi kéo. Tuy ở trong giàu sang mà không bị giàu sang kéo lôi. Cũng phải thối bước gần gủi thiện tri thức. Quyết chọn việc lớn sanh tử nhưng chưa được chân tri thức kích phát, thuộc ở trong thành, nhân Tiết Sứ công mời đến vườn Cừ am nói pháp, nhân lành nghe lão Tăng đưa ra việc lớn nhân duyên này bèn huân khởi chủng tánh. Ngay lúc ấy thân tâm an ổn, tuy chưa thể hoàn toàn thấu thoát, đã biết được việc trần lao nhà lửa có nhiều luống dối không thật. Đến ngày 30 tháng chạp ân ái cũng khiến không được, thế lực cũng khiến không được, tài bảo cũng khiến không được, tánh khí cũng khiến không được, quan chức cũng không được, giàu sang cũng khiến không được. Khi mắt đã nhắm lại rồi, tuy có hai cảnh giới ngày xưa tạo thiện tạo ác, mỗi thứ đều hiệu tiền. Làm ác nhiều làm lành ít, thì tùy theo nghiệp ác dẫn dắt đi. Làm ác ít làm lành nhiều thì tùy theo nghiệp thiện sanh lên cõi trời, cõi người. Đã biết được hai đường này thuộc về hư huyễn. Sau đó phát tâm tinh tấn mạnh mẽ không lui sụt, quyết muốn vượt tình, lìa kiến chấp, rõ thoát sanh tử. Ngày 30 tháng chạp 2 đường thiện ác bắt ta không được. Đã biết có việc cao quý như vậy, e rằng ở trong nhà lửa không thể được. Thường gần gũi thiện tri thức, nên được lên Kính Sơn trụ một tuần, theo chúng nghe pháp, thấm nhuần duyên lành, phát thệ nguyện rộng lớn mãi không lui sụt, sẽ nhờ duyên lành này để cầu chỉ dạy, phải ở trong nhà lửa, thường lấy tự cảnh giác này. Lão Tăng ý chí mạnh mẽ, không đồng với người nhỏ hẹp, cho nên dẫn một đoạn nhân duyên vào đạo của vô Trước khiến người thấy suy lường. Một hôm, Diệu Hỷ ở trong xã sanh ra hai vô trước, há không phải là hạt giống, ánh sáng đời mạt làm lợi ích lớn hay sao? Hãy cố gắng, cố gắng. * Chỉ dạy Diệu Trí cư só. Chư Phật, chư Tổ trước đây, chân thật làm người, trước dạy lập chí quyết định. Gọi chí quyết định là quyết muốn đời này tâm địa khai thông. Mãi đến Chư Phật, Chư Tổ không chướng ngại dứt cảnh giới giải thoát. Không có chí quyết định thì không quyết định tin. Đức Phật không nói ư? “Niềm tin có thể thêm lớn trí công đức. Niềm tin có thế đến địa vị Như lai, địa vị Như lai là cảnh giới dứt bỏ hoàn toàn, giải thích hoàn toàn. Xưa thiền sư Quy Tông Thức Nhãn, có vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Tông nói: Ta nói với ông, ông có tin không? Vị Tăng nói: Hòa thượng nói thật đâu dám không tin. Tông nói: Chính ông là như thế. Vị Tăng nghe Tông nói suy nghó xét néy. Hồi lâu nói: Nếu mõ giáp chính là thì làm sao giữ gìn? Tông nói: Vừa nhặm mắt thì trong hư không hoa rơi tán loạn. Vị Tăng ngày lời nói bỗng khế ngộ, vị Tăng này ban đầu quyết định tin, nghe lời chỉ thẳng của Quy Tông, còn nghi ngờ muốn cầu giữ gìn, mới có thể tự tin. Tâm lão bà của Quy Tông trái với chỗ chấp của ông ta, lấy kiếm báu kim-cương vương dùng vào việc chặt tay chân. Vị Tăng này ở đầu núi muôn thước đứng một chân, bị Quy Tông vung một cái mới chịu buông thân xả mạng. Đại sư La Sơn pháp Bảo có lần hỏi Thạch Lương Phổ Hội: Khi sanh diệt không dừng thì sao? Thạch Lương nói: Cần phải tro lạnh cây khô, một niệm muôn năm bao gồm tương ưng, toàn thanh bặt điểm. La sơn không khế hội, lão giữ lời hỏi của Nham Đầu này, tiếng hỏi chưa dứt bị Nham đầu chấn oai một tiếng nói: Là ai sanh diệt. La Sơn ngay lời nói đại ngộ. Lại, trong giáo nói: Bồ-tát tu hành từ Sơ địa vào Bất Động địa thứ tám vì Bồ-tát thực hành sâu xa, khó biết được vô phân biệt. Lìa tất cả tướng, tất cả tưởng, tất cả chấp trước, vô lượng vô biên tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật thật không thể sánh bằng. Lìa các ồn náo tranh chấp thì vắng lặng hiện tiền, cho đến nhập định diệt tận. Tất cả động tâm nhớ tưởng phân biệt sẽ đều ngừng dứt. Gọi là từ Sơ Địa đến Bất động địa thứ tám, là hạnh xả bỏ tất cả công dụng, được pháp vô công dụng, thân miệng ý niệm đều dứt, nghóa là không khởi niệm thứ hai. Lại sợ người lý hội không được bèn dẫn dắt ví dụ rằng: như có người trong mộng thấy thân mình rơi xuống biển lớn. Vì muốn độ, nên phát tâm mạnh mẽ thực hành phương tiện lớn. Vì tâm mạnh mẽ thực hành phương tiện tức là tỉnh ngũ. Đã tỉnh ngũ rồi thì việc làm đều dứt. Bồ-tát cũng như vậy, thấy chúng sanh thân ở trong bốn dòng, vì cứu độ nên phát tâm mạnh mẽ khởi đại tinh tấn. Vì tinh tấn mạnh mẽ đến Bất động địa, đã đến đây rồi tất cả công dụng đều dứt, như sanh vào tầng trời phạm thế cõi dục, phiền não đều không hiện tiền. Trụ Bất động địa cũng giống như thế. Tất cả tâm, ý thức hành đều không hiện tiền. Bồ-tát địa thứ tám, tâm Phật, tâm Bồ-tát, tâm Niết-bàn còn không hiện khởi, huống chi khởi tâm thế gian. Tâm thế gian đã diệt, tâm vắng lặng hiện tiền thì pháp môn trần sa Chư Phật nói một lúc hiện tiền. Đến được cảnh giới này mới khởi được tâm từ bi làm các việc lợi ích, cũng là từ chí quyết định nương quyết định tín. Khi thành tựu rồi, nếu không có chí quyết định thì không thể đi sâu vào biển vắng lặng hoàn toàn của Như lai. Không có niềm tin quyết định, thì đối với ngôn cú và thừa giáo văn tự của người xưa không thể động chuyển. Như Lục Tổ Đại sư vì Thiền sư Giang Tây Chí Triệt nói nghóa thường và vô thường. Triệt hỏi Tổ rằng: Đệ tử thường xem kinh Niết-bàn chưa hiểu nghóa thường và vô thường, xin sư từ bi giảng nói. Tổ nói: Vô thường tức là Phật tánh, có thường tức là tâm phân biệt tất cả các pháp thiện ác. Triệt nói: Lời Hòa thượng nói trái với văn kinh. Tổ nói: Ta được truyền tâm ấn của Phật, đâu dám trái kinh Phật. Triệt nói: Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng là vô thường. Các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề đều là vô thường, mà Hòa thượng nói là thường, điều này thật trái ngược, khiến người học càng nghi ngờ. Tổ nói: Kinh Niết-bàn ta xưa nghe Ni Vô Tận tạng đọc qua một lần, đã giảng cho ni ấy nghe, không có một chữ một nghóa nào nói không hợp với văn kinh, cho đến vì ông rốt ráo không có hai thuyết. Triệt nói: Đệ tử biết còn cạn cợt, xin Hòa thượng thương xót chỉ dạy. Tổ nói: Ông biết không! Nếu Phật tánh là thường thì nói gì các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp có một người phát tâm Bồ-đề cho nên ta nói vô thường. Chính là đạo mà Phật nói chân thường. Lại nếu tất cả các pháp là vô thường tức là mỗi vật đều có tự tánh, chứa đựng sanh thử, mà tánh chân thường có chỗ không trùm khắp, cho nên ta nói là thường, chính là Phật nói nghóa chân vô thường. Phật so sánh với phàm phu, ngoại đạo chấp tà thường, hàng Nhị thừa đối với thường chấp là vô thường, cộng chung thành tám đảo. Cho nên trong Niết-bàn Lưu Nghóa giáo pháp thiên kiến hiển bày chân thuyết chân thường, chân lạc, chân ngã, chân tịnh. Nay ông y lời trái nghóa chính là dứt bỏ vô thường và thường, đồng thời xác định chất là thường và lầm hiểu lời mầu nhiệm viên diệu sau cùng của Phật, dù ông xem ngàn lần đâu có ích gì. Đây cũng là Thiền sư chí Triệt quyết định, nương quyết định niềm tin mà chiêu cảm quả báo một lời của Tổ sư quyết định. Lại nhớ An Lăng-nghiêm, xem kinh Lăng-nghiêm đến chỗ tri kiến chấp tri kiến tức là gốc vô minh, tri kiến không chấp tri kiến chính là Niết-bàn. Bất giác phá cú đọc rồi nói: Lập tri kiến, tri là gốc vô minh, không có tri kiến, kiến này tức là Niết-bàn, trầm ngâm hồi lâu rồi nói, bỗng nhiên đại ngộ, sau đọc kinh này, trọn đời như sở ngộ, lại không y theo văn kinh. Đây cũng là chí quyết định, nương niềm tin quyết định, y nghóa mà không y theo văn tự. Cư só Diệu Trí có chí quyết định mà nương niềm tin quyết định ở một việc lớn nhân duyên này, chăm lo để triệt chứng không nghi, là nghóa quyết định. Chỉ chưa nêu bày ra một chút. Do lấy then chốt này cầu chỉ nên cho nên Tổ sư Pháp Diễn vì Thiền sư Chí Triệt, Nham Đầu vì La Sơn, An Lăng-nghiêm phá cú đọc lăng nghiêm mà ngộ đạo, mấy đoạn sắn bìm lại là lúc khác, hễ phát tâm thì liền khế chứng. * Chỉ dạy Trương Thái Úy. Phật nói: Nếu có người muốn biết cảnh giới Phật nên tịnh ý mình như hư không, dứt bỏ vọng tưởng và các chấp, làm cho tâm mình đều vô ngại, cảnh giới Phật là hiện lượng tự tâm của đương nhân, thể bất động bất biến, một chữ Phật hướng về thể của tự tâm cũng không có chỗ dính mắc, mượn một chữ này để biết mà thôi, vì sao biết? Vì Phật nghóa là giác, vì chúng sanh vô thỉ đến nay không tin hiện lượng tự tâm vốn tự đầy đủ, mà chạy theo phiền não khách trần trôi lăn trong ba cõi, chịu các cảnh khổ. Cho nên khi tướng khổ hiện, thì thể của hiện lượng tự tâm trôi lăn theo khổ, Chư Phật vì thương xót chúng sanh trôi lăn, nên mượn chữ Phật để giác, đã giác thì chữ Phật cũng không có chỗ dùng. Phật là thuốc cho chúng sanh. Chúng sanh hết bệnh, thì thuốc của Phật cũng vô dụng. Hễ xem kinh giáo, thì nhân duyên của người xưa nên biết học như thế. Chúng sanh hằng ngày hiện hành vô minh, thuận theo vô minh thì sanh tâm vui mừng, nghịch với vô minh thì sanh phiền não. Phật và Bồ- tát thì không phải như vậy. Mượn vô minh làm Phật sự, vì chúng sanh lấy vô minh làm nhà cửa, nghịch lại thì phá nhà cửa, thuận thì tùy theo đó mà chấp trước, mà ví dụ dắt dẫn. Kinh Tịnh Danh chép: Trần lao là hạt giống Như lai. Vónh Gia nói: Thật tánh vô minh tức Phật tánh, thân không huyễn hóa tức pháp thân, chính là lý này. Việc này không thể có tâm mà cầu, không thể vô tâm mà được, lời nói không thể tạo được, cũng không thể im lặng mà thông. Đối với bốn câu này không có chỗ dụng tâm, mới cân nhắc được tin tức này. Phật nói: Công đức thế gian và xuất thế gian chẳng bằng công đức vô tâm lớn nhất và không thể nghó bàn. Há không thấy ở trong hội Bát-nhã Đức Phật hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, ông nhập tam muội Bất tư nghì phải không? Văn-thù đáp: Bạch Đức Thế tôn chẳng phải. Ta tức là không thể nghó bàn, chẳng thấy có tâm để không thể nghó bàn, sao nói nhập vào tam-muội Bất tư nghị. Con lúc đầu phát tâm muốn nhập định này, như nay suy nghó thật vô tâm tưởng mà nhập tam muội, như người học bắn, học lâu thì bắn khéo. Sau đó tuy vô tâm, vì chứa nhóm lâu ngày, nên mũi tên phát ra đều trúng, ta cũng giống như thế. Lúc đầu học tam muội bất tư nghì, buộc tâm vào một duyên. Nếu chứa nhóm lâu ngày thì thành tựu, lại vô tâm tưởng. Thường với định đều đến thửa ruộng này mới nói được Na-già thường tại định. Lúc không có bất định cho nên Phật nói: Công đức vô tâm là cao siêu, là chỗ không thể suy lường. Nay nói vô tâm chẳng bằng ngói đá, đất gỗ vô tri vô tâm của thế gian, sai một mảy may mất ngàn dặm, chẳng thể không quan sát rõ ràng. Phật nói một trăm hai mươi loại tâm Bồ-đề, một trăm hai mươi thí dụ. Trong đó có một ví dụ rằng: Thí như có người nhờ cậy vua mà không sợ người khác. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng giống như thế, nương vào tâm Bồ-đề thế lực vua, không sợ nạn che lấp đường ác, thật chưa từng thấy. Lại có một ví dụ: Thí như đại lực dõng só ma-ha-na-ca như oai nộ, trên trán mọc mụt nhọt. Nếu nhọt chưa hợp thì tất cả người dân trong Diêm-phù-đề không thể chế phục. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng giống như thế. Nếu khởi tâm bi thì phát tâm Bồ-đề. Tâm chưa xả thì tất cả ma thế gian và dân ma không thể làm hại. Hai loại thí dụ trên đều là đại tâm của xuất thế gian có năng lực, vì sao? Vì hai loại thí dụ chẳng phải pháp thế gian, thường được Phật nói điều này để mở bày dắt dẫn các trượng phu đặc biệt quá lượng, muôn gánh vác chiếc gánh Đại thừa, cho nên đại phu không hề lưu tâm về Phật thừa. Thường lấy Phật thừa làm giáo pháp vắng lặng, mê đắm cái đãy da, nghe người nói vắng lặng thì sanh tâm sợ hãi. Thật không biết, tâm sợ hãi nầy chính là gốc sanh tử. Phật tự nói. Không hoại tướng thế gian mà bàn về thật tướng. Lại nói: Pháp nầy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ. Luận Bảo Tạng chép: Vắng lặng, rộng lớn, trên thì có vua, dưới thì có dân, cha con cùng ở, tôn ty có thứ lớp khác. Do đó, mà quán, giáo của Phật thầm giúp nhau mở bày, bậc chư tôn Thánh hóa cũng nhiều. Lại không hề chỉ nói về vắng lặng mà thôi. Như thế tục gọi là Lý lão quân nói phương pháp sống lâu, chẳng khác gì mạnh mẽ sắp bày bàn pháp vắng lặng của Phật. Sách lão tử vốn không hề nói lưu thân trụ thế, cũng lấy thanh tịnh vô vi làm chỗ trở về tự nhiên. Tự là người già không học Phật, dùng tâm tướng thiện ác vu báng ông, chẳng thể không quán sát. Người ngu cho là bậc Thánh Tam giáo lập giáo tuy khác nhau mà đạo thì cùng về một nghóa, nghóa nghìn xưa không khác nầy tuy như thế, nhưng trước người không có trí chớ nói, đánh đầu ông vỡ sứt trán. * Chỉ dạy Tăng Cơ Nghi. Tuyết phong ba lần lên Đầu Tử, chín lần đến Đỗng Sơn, pháp duyên không khế hợp, cuối cùng được Nham Đầu quét sạch sở đắc tạp nhạp trước đây mới được khai thông tâm địa. Nham Đầu nói: Nếu muốn lúc khác xưng dương Đại giáo, mỗi thứ phải từ bụng mình lưu xuất. Trời che đất chở mới là việc làm của đại trượng phu. Lời của Nham Đầu chẳng đặc biệt phát mình căn khí của Tuyết phong. Cũng có thể làm khuôn pháp muôn đời cho người học đạo này. Gọi là người lưu xuất từ trong ngực. Chính là từ vô thỉ đến nay, hiện lượng vốn tự đầy đủ, vừa khởi niệm thứ hai thì rơi vào tỷ lượng. Tỷ lượng là pháp sở đắc trang nghiêm ngoại cánh. Hiện lượng thì được khí lực thô. Người từ trong tỷ lượng thì có khí lực yếu kém. Người khí lực yếu kém vào được cảnh giới Phật, thì ở trong cảnh giới ma đánh trống thối lui, không thể thắng số. Việc này không thể thông minh lanh lợi, cũng không thể độn căn biết cạn, cứ thật mà luận. Chỉ bày ra là tiêu chuẩn mới được tin tức này, phàm có ngôn cú chẳng lìa chân mà lập xứ, lập xứ tức là chân. Gọi là trong tâm lưu xuất, trời che đất chở như thế mà thôi. Chẳng phải làm ngôn ngữ cầu đặc biệt, người khác nói không ra, tâm gấm miệng thêu ý cú mới mẻ, cho là trong lòng tuôn ra, mười lần bị nhà sư hỏi, chín lần chỉ đáp không được. Không ngại chỉ sợ hướng về đầu lâu gượng làm chủ tể. Mới thấy tông sư mở miệng động lưỡi bèn lãnh hội đem đi. Loại như thế, Phật ra đời cứu cũng không được. Thôi thúc giữ gìn căn tánh tuy độn, lại được tiện nghi, chân thật phải đối địch sanh tử, chăm chăm đau đáu tâm tâm niệm niệm không chịu buông bỏ. Trước nói được tiện nghi lại là gia phong độn này. Đã có chí quyết định, đuợc vào tay tự có thời tiết, cũng chẳng quản được lúc nào. Lão Tăng thường nói cho các nạp tử phải tham thiền Diệu hỷ, phải làm được trong một đời không hội mới được. Nếu muốn cầu mau hiệu nghiệm thì chắc chắn là lầm, vì sao? Chỉ vì xưa nay không có pháp cho người, nhưng vì người làm được kẻ chỉ đường. Người xưa nói: Có sở đắc là dã can kêu, vô sở đắc là sư tử rống. Phật là người có thần thông biến hóa, trong bốn mươi chín năm, nói pháp hơn ba trăm sáu mươi hội, tùy căn tánh của chúng sanh mà dẫn dắt. Cho nên, trong mười pháp giới một âm mà giảng nói. Chúng sanh tùy loài mà được lợi ích. Thí như gió hướng Đông thổi thì muôn loài cỏ đều phô bày. Pháp Phật nói cũng giống như thế, nếu có ý làm lợi ích trong mười pháp giới, chính là vì ta nói pháp muốn làm cho chúng sanh tùy loại được độ cũng không khó ư? Không thấy Xá-lợi-phất trong hội Bát-nhã hỏi Văn-thù rằng: Chư Phật, Như lai chẳng biết pháp giới phải không? Văn-thù đáp: Không đúng! Thưa ngài Xá-lợi-phất. Chư Phật còn không thật có thì làm gì có Phật giác ngộ pháp giới. Pháp giới còn không thật có huống gì là Chư Phật biết pháp giới. Xem hai người này kích dương như thế. Lại không hề đắm vào ý, Chư Phật Chư Tổ trước đây là người, đều có cách thức như thế. Tự là con cháu sau này mất đi tông chỉ, rồi mỗi vị lập môn bày yêu lập quái. Thúc Trù lòng nguội như tro tàn ở thế gian thì đã yên tónh được vô hạn việc rồi, không hoại tướng thế gian, mà bàn thật tướng. Phật Phật trao tay, Tổ Tổ truyền dạy, chẳng sai chẳng khác, tự là người học đạo này, vì nhận làm phương tiện, hãy truyền học đi, thật không y cứ vào nguồn gốc. Thế nào là không hoại tướng thế gian mà bàn thật tướng. Diệu hỷ vì ông nói rõ, vâng lời tôn trưởng, thừa thuận nhan sắc, đệ tử làm việc, không được tránh kî, sau này, tùy duyên phóng khoáng, nhậm tánh tiêu dao. Hằng ngày trong bốn oai nghi, thường tự xem xét, lại dùng việc nhỏ thường chống lại việc lớn sanh từ, thường cân nhắc, khi vô sự cũng phải đọc sách bậc Thánh làm lợi ích tình thức. Nếu được như thế thì thế gian và xuất thế gian đều không lỗi lầm. <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 23 ĐỆ TỬ NỐI PHÁP TRỤ TRÌ THIỀN VIỆN NĂNG NHÂN Ở KÍNH SƠN ĐỜI TỐNG THIỀN SƯ TUỆ NHẬT UẨN VĂN DÂNG LÊN * Chỉ Dạy cho cư Só Trung Chứng (Quách Tri Huyện Trọng Kham) Đại sư Trí Giả ở núi Thiên Thai, ngộ tam-muội Pháp Hoa, dùng ba quán không, giả, trung nhiếp chung một tạng giáo lớn không thiếu không dư. Nói không là không giả, là trung đều là không, nói giả là không phải không, không phải trung đều là giả. Nói trung là chẳng phải không chẳng phải giả, chẳng phải chẳng trung. Người được yếu chỉ này sẽ được truyền Đà-la-ni, là biết từ trên Chư Phật, chư Tổ đều chứng nhập từ hôm nay. Khi Viên Đại sư chứng nhập, do đọc Kinh Pháp Hoa, rất chân tinh tấn, ấy gọi là chân pháp cúng dường Như lai, bèn thấy Thích-ca Lão Tử nói kinh này ở Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, hoặc có người gọi là biểu pháp, chỉ có cư só Trương vô tận, do xem kinh Thủ- lăng-nghiêm, là người đầu tiên được chỗ trong tâm Kim Cương, chợt nghó đến sở chứng đương thời của Trí giả, thấy hội linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, chẳng phải là biểu pháp, có bảo tôi rằng: khi chân thật chứng nhập thì toàn thân ở trong tâm Kim Cương. Lý Trưởng giả nói: vô biên cảnh giới, tự tha không ngăn cách ở trên đầu sợi lông, xưa nay người đời, trước sau không lìa đương niệm. Trí giả thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, chỉ chứng tam-muội nầy, không đợi dẫn dụ mà tự lặng lẽ gật đầu. Cảnh giới chúng sanh khác nhau, không bằng nhau, chỗ thấy không đồng, có được mất lẫn nhau, trừ trước có linh cốt chẳng bị pháp ràng buộc, không cầu pháp giải thoát, đối với kinh giáo và nhân duyên nhập đạo của người xưa, bỏ phương tiện mà tự chứng nhập thì cũng chẳng cần phải hòa hợp lựa chọn sắp sếp, tự nhiên thấy trăng qyên ngón tay. Thuở xưa, Hòa thượng Dược Sơn khi mới phát tâm cầu thiện tri thức đến chỗ Hòa thượng Thạch Đầu ở Nam Nhạc, bèn hỏi: Ba thừa, mười hai phần giáo, mỗ giáp thô thiển cũng mong xin được đón nghe, phương nam có chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, quả thật con chưa rõ, xin thầy chỉ bày. Thạch Đầu đáp: như thế cũng không được, không như thế cũng không được, như thế chẳng như thế tóm lại cũng không được. Dược Sơn nghe nhưng không lãnh hội. Thạch Đầu nói: có lẽ ông chẳng có duyên ở đây, thôi hãy đến Giang Tây gặp Mã Đại Sư đi! Dược Sơn vâng lời, đi thẳng đến Giang Tây gặp Mã Sư, đem những lời đã hỏi Thạch Đầu ở trước mà hỏi lại Mã Sư. Mã Sư đáp: Ta có lúc dạy y nhướng mày trợn mắt, có khi không dạy y nhướng mày trợn mắt, có khi dạy y nhướng mày trợn mắt là đúng, có khi dạy y nhướng mày trợn mắt là không đúng. Dược Sơn nghe Mã Sư nói liền được trong tâm Kim cương, lại không có lạ lùng huyền diệu, có khả năng thông suốt tin tức, chỉ làm lễ mà thôi. Mã Sư biết Dược Sơn đã chứng ngộ, cũng không nói riêng lý truyền trao, chỉ nói với Dược Sơn rằng: ông thấy cái gì mà lễ bái? Dược Sơn cũng không nói lý có thể trình lên giống như Mã Sư, chỉ đáp rằng: con ở chỗ Thạch Đầu như con muỗi đậu trên hông con trâu sắt. Mã Minh cũng không nói một lời nào liền ấn khả. Một hôm, chợt thấy Dược Sơn liền hỏi: gần đây ông thấy như thế nào? Sơn đáp: da lột hết rồi chỉ còn một cái chân thật. Mã Sư nói: chỗ được của ông có thể gọi là hòa hợp ở tâm thể, rộng khắp ở tứ chi, đã như thế thì dùng ba cây tre buộc vào da bụng tùy chỗ mà ở trên núi đi. Dược Sơn hỏi: Mỗ giáp là người như thế nào mà dám nói ở núi? Mã Sư nói: chưa có đi lâu mà không trụ, chưa có ở lâu mà không đi, muốn lợi ích không chỗ lợi ích, muốn làm không có việc làm, phải làm thuyền bè. Sơn ở đây không lâu, bèn từ giã Mã Sư đi ở núi, đây cũng là được hiệu nghiệm trong tâm Kim Cương. Bạn đạo của Trọng Khanh là Diệu Hỷ, một người bạn chưa hề quen biết, vào mùa đông năm Bính Tý niên hiệu Thiệu Hưng, tình cờ gặp nhau ở Uyển Lăng, vừa thấy phong thái, chưa nói mà trong lòng đã khen, thường qua nhà ông ấy, liền được kính mến, do đó mà hỏi rằng: tự nói ở trong pháp môn chữ Trung có thú hướng, từ đó mỗi lần nói chuyện với nhau không hề có một lời nói đến việc thế gian. Người xưa cách sông ngang, xa thời tiết cũng có việc ấy. Làm chính trị không đòi hỏi khắt khe, mà gian xảo mọt nước là đảm lạc. Đây cũng chứng minh hiệu nghiệm trong pháp môn của chữ Trung. Đặc biệt đến vừa đúng tháng chín, chợt chuyển giới, do chỗ cốt yếu này mà đến cầu đạo hiệu. Vì nhớ đến lời của Trương Vô Tận, đại khái giống nhau với chỗ nhập môn hộ của Nhan và Trọng, nên đưa ra mối quan hệ chằng chịt ở trước, vẫn là lập đạo hiệu, gọi là Cư Só Trung chứng. Nghóa trung chứng trong nhà Phật gọi là tâm Kim cương, tâm chí trung gọi là trung thành, trong không định mới thấy việc làm mà tự lợi lợi tha, thế gian xuất thế gian, hoàn toàn không để lại ân hận. Trung chứng không nghiêng lệch, mà trên dưới tương ưng, như chẻ cây chiên đàn ra từng mảnh cũng chẳng phải cây khác. Không như người khác nói khi được đầy nước không thấm vào, việc làm thì tay chân đều lộ. Như thế hệ này muốn nhập vào pháp môn trung tự, phần lớn giống như đưa gậy đánh trăng cũng không khó gì, cư só Trung chứng khích lệ. Diệu Hỷ ngày khác chợt xồng xộc từ ngoài bước vào, lúc ấy gặp nhau, lại nếu giữ chắc chữ này thì không phải trung. * Chỉ dạy Từ Đề Hình (Đôn Lập) Kẻ só đại phu phần nhiều có chỗ tâm đắc cầu pháp vô sở đắc. Sao gọi là tâm có sở đắc? Là thông minh lanh lợi tính toán so lường suy nghó, sao gọi là pháp vô sở đắc? Sao gọi là tâm có sở đắc là thông minh lanh lợi tính toán so lường suy nghó, sao gọi là pháp vô sở đắc? Là không được suy lường, không được tính toán. Thông minh lanh lợi không có chỗ an ổn. Không thấy ông già Thích-ca trong hội Pháp Hoa, xá-lợi phất hết lòng ba lần thỉnh giáo, chỉ được không có chỗ mở miệng, sau đó gắng sức nói được chỗ có thể hiểu là pháp chẳng thể suy lường phân biệt. Đây là ông già Thích-ca ban đầu ngộ được việc nầy, mở bày pháp môn phương tiện để chỉ bày tướng chân thật cho kẻ ngu độn. Thuở xưa, Thiền sư Chân Giác ở Tuyết Phong tha thiết vì việc này mà ba lần đến Đầu Tử, chín lần lên Đỗng Sơn, nhưng nhân duyên không khế hợp. Sau nghe Đức Sơn Chu Kim Cương vương giáo hóa, bèn xây thất ấy. Một hôm, hỏi Đức Sơn: Từ tông phong ở trên dùng pháp gì để dạy người? Đức Sơn đáp: Tông ta không có ngữ cú, cũng không có một pháp nào cho người. Sau đó, lại hỏi việc từ trong tông thừa ở trên, người học lại có phần chăng? Đức Sơn liền đưa gậy lên đập bể thùng sơn. Lấy đó mà xét, suy lường tính toán, thông minh, lanh lợi ở trong pháp môn này một chút cũng dùng không được. Người xưa có nói: Bát-nhã như lửa lớn nhóm họp, gần nó thì bị đốt cháy, dự tính suy tư liền rơi vào ý thức. Vónh Gia nói rằng: Hao pháp tài, mất công đức, đều do tâm ý thức này. Nên biết tâm ý thức chẳng những chướng đạo mà còn khiến cho người ta thất điên bát đảo, làm các việc bất thiện. Đã có tâm rốt ráo thì đạo này cũng phải có chí quyết định, không đến chỗ dừng nghỉ, giải thoát. Thệ xong, đời này không lui không đoạ. Phật pháp không có nhiều chủng trỉ, lâu dài khó được. Người thế gian, việc trong trần lao vô tận vô cùng, vứt bỏ xong một lớp lại một lớp khác đến, như mắt xích, như móc khoá nối nhau không dứt. Người ý chí thấp hèn thường cam lòng làm bạn lữ với nó, bất giác không biết bị nó lôi kéo đi. Từ đương nhân trước đã có sức nguyện mới lui bước suy lường. Vónh gia lại nói: thật tánh của vô minh là Phật tánh, thân không huyễn hóa thân tức pháp thân, pháp thân biết rõ không một vật, đến pháp thân tức là đương nhân ra khỏi sanh tử, trước đã nói là vô sở đắc pháp không thể cầu tâm có sở đắc, chính là đạo lý này. Só Đại Phu một đời ở trong tính toán suy lường làm công việc, vừa nghe thiện tri thức nói không có pháp sở đắc trong tâm liền nghi ngờ, sợ rơi vào chỗ rỗng không. Diệu hỷ mỗi lần nghe người nói như vậy liền hỏi người khác, chỉ sợ rơi vào chỗ không này thì có trở lại không chăng? Mười cái có năm cặp, phân tích giải thích không nổi. Vì lúc thường chỉ lấy suy lường tính toán làm hang ổ, chợt nghe nói không được suy lường liền mù tịt, không dò xét chỗ mũi. Sao chẳng biết chỉ không dò xét chỗ mũi này thì tự mình không bỏ thân mạng cho đến thời tiết. Đạo bạn của Đôn Lập tên là Tónh Khang Trung gặp nhau ở Di Môn, lúc ấy đang lúc mạnh khỏe trai trẻ, liền biết có giai đoạn việc lớn nhân duyên này, có thể thoát khỏi sanh tử, bèn đến người anh là Đôn nhờ giúp. Lúc bấy giờ, đến hỏi đạo với tiên sư Viên Ngộ nhưng diệu niên thân tâm chưa thuần nhất, chuyên chỉ vào việc hội lý, cách xa đến nay chợt hơn ba mươi năm rồi. Mùa thu năm Kỷ Mão niên hiệu Thiệu Hưng, tôi vì đến Dục Vương trải qua Do Việt Thượng. Bấy giờ, Đôn Tónh đề ra pháp luận chung mới được gặp lại, cầm tay nói chuyện thỏa thích, khi ngồi chỉ lấy một phần nhân duyên nầy làm chưa xong, chẳng bằng việc trần lao của thế gian, chẳng phải trăm kiếp nghìn đời từng nương thiện tri thức chân chánh trồng được hạt giống Bát-nhã trong tàng thức thì không thể nắm vững làm chủ thể, tin chắc mà không thoái tâm ban đầu như vậy thật là hoa sen trong lửa. Nhưng vì rất nhiều loại sách ở trong chín kinh mười bảy sử, vào quá sâu, thông minh cũng quá lắm, lý lẽ quá nhiều, định lực quá ít, bị chỗ ứng duyên của nhật dụng lôi kéo, nên ở dưới chân không thể khạc nhổ xuống đất làm dơ bẩn đất. Nếu lúc nào cũng chánh niệm hiện tiền, sợ tâm sanh tử không thay đổi thì ngày tháng dần lâu, chỗ sanh tự quen, chỗ quen tự sanh. Còn cái gì là chỗ quen? Là cái thông minh lanh lợi tính toán. Cái gì là chỗ sanh? là Bồ-đề Niết-bàn chân như Phật tánh, dứt suy nghó phân biệt, suy lường so tính không được dụng tâm sắp xếp như vậy thì chợt thời tiết đến. Hoặc ở trong nhân duyên nhập đạo của người xưa, hoặc do khi xem kinh giáo, hoặc ở trong ứng duyên nhật dụng, hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc thân tâm tán loạn, hoặc cảnh giới thuận nghịch hiện tiền, hoặc tâm ý thức tạm được yên tónh, chợt đạp đổ ngạch cửa, chẳng phải là việc sai. * Chỉ dạy Trần Cơ Nghi (Minh Trọng). Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không có tất cả tâm thì dùng tất cả pháp làm gì? Pháp vốn không pháp, tâm cũng không tâm, tâm và pháp cả hai đều chẳng phải tướng chân thật, mà kẻ só học đạo đời nay, phần nhiều sợ rơi vào không, khởi hiểu như vậy là lầm nhận phương tiện, chấp bịnh làm vui, thật đáng thương xót. Nên Bàng Cư Só có nói: ông chớ sợ e rơi vào Không, rơi vào chỗ không cũng chẳng ghét. Lại nói: chỉ nguyện không các chỗ có, thiết chỗ thật các chỗ không. Nếu thấy được một câu nầy thì phá vỡ vô biên nghiệp ác vô minh lập tức bình bể nước chảy hết. Như lai đã nói một Đại Tạng Giáo cũng chú giải câu này không ra, đương nhiên nếu có quyết định tín tri thì có được pháp đại giải thoát này. chỉ ở chỗ biết được, cạy lật ngạch cửa trên đầu, thì một câu của Bàng Uẩn và thuyết Đại Tạng giáo của Phật, chẳng riêng chẳng khác, chẳng trước chẳng sau, chẳng xưa chẳng nay, chẳng ít chẳng nhiều, cũng chẳng thấy có tất cả pháp, cũng chẳng thấy có tất cả tâm, các thế giới mười phương rộng lớn như hư không, cũng chớ khởi chấp sự rộng lớn của hư không. Nếu thấy như vậy thì liền có người nói không, lại có người nghe nói không, lại có tất cả pháp để nghe, lại có tất cả tâm để chứng. Đã có thể nghe, có thể chứng, thì bên trong có tâm để chứng, ngoài có pháp để chứng, bệnh này mà không trừ thì trong giáo gọi là dùng ngã nói pháp, cũng gọi là phỉ báng Phật pháp Tăng. Lại trong giáo lý nói rằng: nếu chấp vào pháp tướng liền kẹt vào ngã, nhân chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp vào tướng phi pháp liền kẹt vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Trước đã nói: tâm bên trong có thể chứng, pháp bên ngoài có thể chứng chính là lý này. Đệ tử Phật bày ra sự thật thà mộc mạc, biết thân là giả, biết pháp là huyễn, ở trong giả huyễn có thể thấy lời của Triệu Châu, con chó không có Phật tánh, bỗng nhiên rửa mặt, sờ vào lỗ mũi, có thư đến trình kiến giải thì thử nói thiền, như cọp sanh ba ngày đã ăn được thịt trâu, trong đó thông suốt chỗ tin tức, dù giống như cát đưa gậy đập xuống đất, có chỗ chướng ngại thì lún xuống đất mấy phân, không hề dính mắc thì hoàn toàn không kéo mũi, nhưng đại khái cơ bản đã đúng, mà đại pháp chưa hiểu rõ, cũng như bịnh thường của người sơ tâm nhập đạo. Nếu biết được là việc bình thường thì đổi hướng một bên, lại đem diệu môn quan trọng của Chư Phật, Chư Tổ nhất thời lấp kín, hướng về bên cạnh oai âm, xét đến chỗ sinh nhai, mới được tự tại đối với pháp. Ông già Thích-ca nói rằng: nếu chỉ khen Phật thừa thì chúng sanh chìm trong khổ, tin biết việc như thế, vì sở chứng của ta mở rộng đầy đủ. Sau đó không bị pháp ràng buộc, không cầu pháp giải thoát, như vậy cũng được, không như vậy cũng được, như vậy không như vậy nói chung đều được, hễ có ngôn cú, hễ có chỗ thọ dụng như người tráng só dang rộng cánh tay không nhờ sức mạnh người khác, tên đã rời khỏi dây cung, không có thể quay trở lại, chẳng phải gượng làm nên pháp như thế, rõ được như vậy mới có thể nói đến việc không thiện không ác, không Phật không chúng sanh v.v… mà nay đại pháp chưa rõ nếu lại nói ra lời lẽ nào thì e rằng sẽ đi vào chỗ mà Vónh Gia gọi là hoát đạt không, bác nhân quả, thờ ơ buông thả vời lấy ương họa, chẳng thể không biết, chỉ được gốc chớ lo ngọn, lâu ngày nhuần thấm được thành thục, không lo không thành một khối, cố gắng, cố gắng. Chỉ dạy Đạo Nhân Không Tướng (Hoàng Thông Pháp Thạch). Phật là tấm gương của phàm phu, phàm phu lại là tấm gương của Phật, khi phàm phu mê thì toàn bộ hình ảnh sanh tử cấu nhiễm hiện trong gương của phàm phu, nhưng Phật vốn bất sanh bất diệt, cũng không mê ngộ, cũng không có gương, cũng không có bóng để thấy. Do phàm phu có ngần ấy nên tùy theo phàm phu mà phát minh ra thôi, nay muốn trừ bệnh của phàm phu, không khác với Phật Tổ, xin đập bể gương, vì ông mà nêu ra lời chú. Chỉ dạy Phương Cơ Nghi (Di Ngô). Tổ sư nói rằng: tâm địa tùy thời nói, Bồ-đề cũng chỉ yên, sự lý đều vô ngại, ngay nơi sanh là vô sanh, muốn biết đạo lý này, chỉ đem chỗ được ngồi thiền bấy lâu nay và chỗ được xem kinh giáo, nhớ được trong ngữ lục, câu nói cửa miệng của tông sư lãnh xem được, nhất thời quét sạch cảnh giới phương khác, lại thông thả xem cho kỹ. Vì sao Đức Sơn thấy vị Tăng vào cửa liền đánh? Tại sao Lâm Tế thấy vị Tăng vào cửa liền hét. Nếu biết chỗ dụng của hai đại lão thì ở chỗ dùng hằng ngày xúc cảnh gặp duyên, không sanh khởi lưu bố thế đế cũng không khởi lý luận Phật pháp. Đã không kẹt vào hai bên, phải biết tự có một con đường sống. Không thấy hay sao Lâm Tế suốt ngày đứng hầu Đức Sơn, Đức Sơn giây lâu chợt quay lại nói: Lão Hán này lâu nay đã ngủ rồi. Lâm Tế nói: lão Hán nầy ngủ nói làm gì? Đức Sơn đưa rậy lên định đánh. Lâm Tế liền hất ngã xuống giường thiền, thấy vậy, ông ta hiểu việc. Bình thường tình cờ gặp nhau trên đường, tự nhiên mỗi người có một con đường xuất thân. Đời sau, Thiền sư Vân Phong Duyệt niệm rằng: hai người này làm nhà, một ép buộc, một gắng gượng, lược biểu hiện khuôn phép, phần lớn giống như nắm tay lên núi cao, tuy vậy vẫn chưa tránh khỏi cái xấu của kẻ bàng quan. Lại nói: ai là kẻ bàng quan? Giây lâu hét một hét. Theo chỗ thấy của Diệu Hỷ Vân Phong cũng chưa tránh khỏi hòa bùn hợp với nước, được cùng với hai lão hày, vừa giống như lãnh hội qua, vừa như hầm chôn. Lại nói: qua ở chỗ nào? Cư só Di Ngô xưa đã trồng gốc đức, tin được phần việc lớn nhân duyên này, dù ở trong trần lao cũng có thể tự xem xét, dù chứa được một đao dứt làm hai, lập tức ngồi đoạn đầu của báo và hóa thân Phật, nhưng lại có chỗ tin nhập, như cọp sanh ba ngày đã ăn thịt được con trâu. Muốn đi ngàn dặm thì bắt đầu bằng một bước đầu tiên, một bước đầu tiên đã tiến lên tốt, chỉ cần Tăng cường thêm lên thì chắc chắn biết được chỗ bại khuyết của Chư Phật ba đời và chỗ bại khuyết của Tổ Sư sáu đời, chỗ bại khuyết của Diệu Hỷ, sau đó ở kho tàng của mình, chuyên chở gia tài của mình ra, cứu giúp tất cả, há chẳng phải là dụng tâm của Bồ-tát tại gia hay sao? Xin cố gắng, cố gắng! Chỉ dạy Đạo nhân Diệu Viên: Muốn siêu thoát sanh tử, vượt qua biển khổ, nên phải dựng thẳng cờ tinh tấn, ngay đó tin là được đến, chỉ lo tin được sâu, thì đó là tin tức thoát khỏi sanh tử, vượt qua biển khổ, nên ông già Thích-ca nói: Đức tin là mẹ sanh ra các công đức, nuôi dưỡng tất cả pháp lành. Lại nói: tin có công năng xa lìa khổ sanh tử, tin sẽ được tâm địa Như lai. Muốn biết tâm địa của Như lai thế nào, thì cũng chỉ do chữ Tin này mà được biết. Đã tin rồi thì không cần khởi tâm động niệm, cầu ra khỏi sanh tử, chỉ trong mười hai thời niệm niệm không lìa, quyết định phải bắt tay làm mới là kẻ só mạnh mẽ, nếu nửa tin nửa ngờ thì không nối nhau, việc này bất luận là nay hay nữ, giàu hay nghèo, lớn hay nhỏ đều bình đảng như nhau. Vì sao? Đức Thế tôn trong hội Pháp Hoa, chỉ độ được một Long nữ thành Phật, trong hội Niết-bàn chỉ độ được một người hàng thịt là Quảng Ngạch thành Phật. Nên biết hai người này thành Phật cũng không có công dụng riêng, cũng chỉ là lập tức tin mà được, càng không có niệm thứ hai, lại ngồi đoạn đầu báo, thân hóa thân Phật, vượt thẳng qua bờ sanh tử, cũng đặc biệt chẳng có đạo lý. Đạo nhân Diệu Viên tuy là nữ lưu lập chí khi chưa thành Phật, lại biết được nhân duyên kỳ lạ này, quyết định phải ra khỏi nhân sanh tử, đem giấy này xin chỉ bày, nhặt bút lau mồ hôi viết ra chỉ bày, nhưng vẫn cho khán thoại đầu. Tăng hỏi Mã Tổ: thế nào là Phật? Tổ đáp: Tức tâm là Phật. Đạo nhân Diệu Viên, hằng ngày chỉ khán như vậy, cố gắng! Cố gắng! Chỉ dạy cư só Thái Hư (Đặng Trực Điện, Bá Thọ). Kẻ só lợi căn thượng trí sống trong cảnh giàu sang mà không bị thú giàu sang làm cho khốn đốn, có thể ở trong giàu sang làm lợi ích lớn cho loài hữu tình, nếu chẳng phải do nguyện lực đời trước thì không thể tin đến như vậy, đã tin rồi thì nên ở trong niềm tin bất diệt ấy nương vào năng lực nguyện của mình mà tùy duyên ứng dụng thì tự nhiên trên đầu đều rõ ràng, vật vật đều hiển hiện. Thuở xưa, Bồ-tát Phổ Hiền trong hội Hoa Nghiêm, nhập vào Tỳ-lô-giá-na Như lai tạng thân tam muội của tất cả Chư Phật, rộng nhập vào tất cả Chư Phật, rộng nhập vào tất cả tánh bình đẳng của Phật, có thể ở trong pháp giới thị hiện các hình ảnh rộng lớn vô ngại, đồng với biển pháp giới hư không, không có chỗ nào không tùy nhập, sanh ra tất cả các pháp tam-muội, có khả năng bao gồm rộng khắp pháp giới mười phương, biển trí quang minh của Chư Phật ba đời, đều từ đây sanh ra. Chỗ nào có các biển an lập mười phương đều có thể thị hiện, gồm chứa tất cả Phật lực giải thoát, trí các Bồ-tát, có thể khiến tất cả cõi nước nhiều như bụi, rộng có thể dung chứa pháp giới vô biên, thành tựu tất cả biển công đức của Phật, hiển bày các biển nguyện lớn của Như Lai, chỗ có pháp luân của tất cả Chư Phật đều lưu thông hộ trì khiến cho không dứt mất. Như trong thế giới này, Bồ-tát Phổ Hiền ở trước Đức Thế tôn nhập vào tam-muội này, như thế cùng tận pháp giới, hư không giới, mười phương ba đời vi tế vô ngại, ánh sáng rộng lớn, mắt Phật đã thấy, sức Phật có thể đến, thân Phật đã hiện. Tất cả cõi nước và tất cả bụi nhỏ của cõi nước này, trong mỗi hạt bụi có số cõi Phật như vi trần trong biển thế giới, trong mỗi cõi có số Chư Phật như bụi nhỏ trong biển thế giới, trước mỗi vị Phật lại có số Bồ-tát Phổ Hiền như bụi nhỏ trong biển thế giới, cũng đều nhập vào Tỳ-lô-giá-na Như lai tạng thân tam-muội của tất cả Chư Phật. Khi xuất định, chúng ở trong hội nghe pháp đều được tam-muội này, đều được năng lực tam- muội này, không ai không được lợi ích cho mình. Cư Só Thái Hư, Đặng Bá Thọ là người giàu sang lại không giống với dương nhân, hằng ngày hầu hạ Đức Chí Tôn, chỗ thấy nghe đều là việc không thể nghó bàn, có khác gì với Bồ-tát Phổ Hiền ở trước Đức Như lai nhập vào tam-muội Tỳ-lô-giá-na tạng thân? Nhưng e rằng bậc trung quên ý này, trong mười hai thời không thể chiếu quản trôi chảy vi tế, nhờ ân đem đến cho người thì không tương đương. Chư Phật ra đời, chư Tổ từ Tây đến, cũng không có một pháp nào để truyền trao. Vì sao? Vì có truyền có trao là pháp vô minh, là pháp hữu vi, chẳng phải pháp trí tuệ, chẳng phải pháp vô vi. Hòa thượng Nham Đầu có nói: nếu dùng pháp thật để bó buộc người thì đất cũng khó tiêu. Xưa, ở Nam Ấn Độ, người ở nước kia phần nhiều tin vào phước nghiệp, Tổ thứ mười bốn tên là Long Thắng, đặc biệt đến đó để giáo hóa họ. Họ nói rằng: người nào có phước nghiệp là bậc nhất ở thế gian, ông nói Phật tánh ai thấy được? Long Thắng nói: ông muốn thấy Phật tánh thì trước hết phải bỏ ngã mạn. Kia nói: Phật tánh lớn hay nhỏ? Long Thắng đáp: chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng rộng chẳng hẹp, không phước không báo, không sanh không tử. Đây là chỉ thẳng vào tâm yếu. Tất cả họ nghe xong đều ngộ chánh lý. Nhưng ngộ ở ngay người ấy chớ không từ người khác mà được. Phần trước đã nói rằng: Chư Phật ra đời, Tổ sư truyền trao cho nhau đều là pháp chẳng thật, là đạo lý. Phật pháp không có nhiều nhiều con, lâu dài khó có được người. Bá Thọ đang lúc còn trai trẻ khỏe mạnh, ở chỗ ứng duyên hằng ngày có thể tự cảnh giác. Hồi tâm nghiệp ác ở thế gian, phải học quả Phật vô thượng Bồ-đề, chẳng phải trăm kiếp ngàn đời kính thờ vô biên Chư Phật, các thiện tri thức, huân tập hạt giống trí Bát-nhã thì không thể tinh tấn, thanh tịnh, tự tại, ngay thẳng như thế. Cần cù chăm chỉ, đem việc lớn nhân duyên này ở trong niệm, đã có tâm này thì chẳng màng được ở lúc nào. Nếu cuối cùng vặn mũi không động thì chỉ xem thoại đầu nhập đạo của người xưa. Tăng hỏi Triệu châu rằng: Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây đến? Châu đáp: Cây Bách ở trước sân. Tăng nói: Hòa thượng chớ dùng cảnh dạy người. Châu nói: ta không dùng cảnh dạy người. Vị Tăng nói: đã không đem cảnh dạy người, lại thế nào lá ý Tổ Sư từ Tây đến? Châu chỉ nói rằng: cây bách trước sân. Vị Tăng ngay sau lời nói liền đại ngộ. Bá Thọ chỉ ở chỗ đi đứng nằm ngồi hằng ngày đều thờ phụng ở chỗ Đức Chí Tôn, niệm niệm không xen hở, lúc nào cũng tỉnh thức, lúc nào cùng giác ngộ, chợt nhìn lên cây bách, tâm ý thức bặt dứt liền là chỗ từ đầu. Ở trên đã nói Bồ-tát Phổ Hiền ở trước Đức Thế Tôn nhập vào tam- muội Tỳ-lô-giá-na Như lai Tạng Thân, khi xuất định, các chúng Bồ-tát ở trong hội đều được lợi ích, Nguyện Bá Thọ ở trước Đức Chí Tôn cũng thường nhập vào tam-muội ấy chợt xuất định, lợi ích của ông không hai không khác với Bồ-tát Phổ Hiền, cố gắng không được lơ là. * Chỉ dạy Cư Só Diệu Minh (Lý Tri Tỉng Bá Hòa). Đạo do tâm ngộ chớ không ở lời truyền. Mấy năm gần đây người học đạo này, phần nhiều bỏ gốc chạy theo ngọn, bỏ chánh theo tà, không chịu suy cùng cội rễ, một mực chấp vào lời nói của tôn sư, dù nói được nước đầy không thấm rỉ, nhưng ở trong gốc phận sự rõ ràng mất liên quan. Người xưa bất đắc dó, thấy người học mê lầm nhận bóng, nên mở bày phương tiện dẫn dắt họ, giúp cho họ biết ánh sáng bản địa, thấy mặt mũi xưa nay mà thôi. Ban đầu cho nhân, pháp không thật, như Mã Tổ ở Giang Tây lúc đầu thích ngồi thiền. Sau đó bị Hòa thượng Nam Nhạc Hoài Nhượng đem viên gạch mài ngay chỗ ngồi thiền cũa Mã Tổ. Mã Tổ xuất định hỏi: Hòa thượng mài gạch để làm gì? Hoài Nhượng nói: muốn thành tấm gương soi. Mã Tổ cười nói: mài gạch mà được thành gương sao? Hòa thượng Nam Nhạc Hoài Nhượng hỏi lại: mài gạch đã không thành gương thì ngồi thiền há được thành Phật ư? Vì Hòa thượng Hoài Nhượng có tâm hỏi Mã Tổ rằng: ông ngồi thiền để làm gì? Mã Tổ đáp: cầu thành Phật. Trong giáo lý cái gọi là trước dùng định động, sau dùng trí bạt. Mã Tổ nghe nói ngồi thiền đâu được thành Phật, bèn bị vướng mắc, liền đứng dậy kính lễ thưa rằng: Như thế nào là đúng? Hòa thượng Nam Nhạc Hoài Nhượng biết thời tiết nhân duyên đã đến, bèn bảo Mã Tổ rằng: ví như con bò kéo xe, nếu xe không đi thì đánh bò hay đánh xe? Lại hỏi: ông học ngồi thiền hay học ngồi làm Phật? nếu học ngồi thiền thì thiền chẳng có ngồi nằm, nếu học ngồi làm Phật thì Phật không có tướng định, ở trong phàp vô trụ không nên lấy bỏ nếu ông ngồi làm Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi thì không đạt được lý ấy. Mã Tổ ngay sau lời nói bỗng nhiên lãnh hội, bèn hỏi: dụng tâm như thế nào mới hợp với tam-muội Vô tướng? Hòa thượng Hoài Nhượng đáp: ông học pháp môn tâm địa như gieo hạt giống, ta nói pháp yếu như thiên trạch kia, ông hợp duyên nên sẽ thấy được đạo ấy. Lại hỏi: đạo chẳng phải sắc tướng, làm sao thấy được? Hòa thượng Hoài Nhượng đáp: mắt pháp tâm địa thấy được đạo ấy, tam-muội Vô tướng cũng giống như vậy. Hỏi: có thành hoại hay không? Đáp: nếu dùng thành hoại tụ tán để thấy thì sai. Trước đã nói rằng: phương tiện dẫn dắt, đây là theo kiểu thứ nhất trong tông thừa ở trên. Cư só Diệu Minh hãy theo đây mà tham cứu. Thuở xưa, Hòa thượng Đại Châu ban đầu tham học với Mã Tổ, Tổ hỏi: ông từ đâu đến? Đáp: Từ chùa Đại Vân, ở Việt Châu đến. Tổ nói: đến đây muốn cầu việc gì? Đại Châu đáp: Con đến cầu Phật pháp. Tổ nói: của báu chứa trong nhà mình mà không trông coi, đem vứt bỏ, đến đây làm gì, tôi ở đây không có một thứ gì cả, tìm Phật pháp làm gì? Châu bèn lễ hỏi: cái gì là biển tuệ, kho báu trong nhà? Tổ nói: ngay hôm nay hỏi ta chính là kho báu của ông, tất cả đầy đủ không thiếu sót gì, sử dụng tự tại cần gì tìm cầu bên ngoài. Nay Châu nói rằng biết bản tâm mình không do tri giác. Sau này, ở Đại Châu hễ có người đến hỏi đạo, thì theo lời hỏi mà đáp, khai mở kho báu của mình, chuyên chở gia tài của mình như châu báu trên mâm, không chướng không ngại. Có vị Tăng hỏi: Bát-nhã có lớn chăng? Châu đáp: Bát-nhã là lớn. Hỏi: lớn bao nhiêu? Đáp: Không bờ mé. Hỏi: Bát-nhã có nhỏ chăng? Đáp: Bát- nhã nhỏ. Hỏi: nhỏ cỡ nào? Đáp: nhìn không thấy. Hỏi: chỗ nào đúng, chỗ nào không đúng? Đáp: ông hãy khán, vị Tăng liền ngộ được kho báu của mình. Lại có chút pháp truyền trao cho người không? Diệu Hỷ thường nói đạo lý này cho người học. Nếu là kẻ só chân thật thấy đạo, như chuông treo giữa hư không, như tiếng vang trong hang, gõ mạnh thì tiếng lớn, gõ nhẹ thì kêu nhỏ. Phật pháp thời cận đại thật đáng buồn, làm thầy người ta mà trước đem sự kỳ lạ huyền diệu chứa đựng trong lòng, xen nhau theo nếp cũ, tai miệng truyền trao cho là tông chỉ. Bạn là hại tâm người như thế không thể trị khỏi. Người xưa gọi họ là kẻ phỉ báng Bát-nhã. Ngàn Phật ra đời không cho sám hối. Đây là phương tiện khéo léo dẫn dắt người học của Thiền tông. Kiểu thứ hai, là cư só Diệu Minh quyết định rốt ráo, nên như kiểu này mà tham cứu. Đã giải thích xong tâm này thì phải tìm hiểu tác phẩm này, trước phải lập chí quyết định, xúc cảnh gặp duyên, hoặc thuận hoặc nghịch, phải giữ được định, làm chủ được, không theo các loại tà thuyết, khi ứng duyên hằng ngày thường đem hai chữ sanh tử, vô thường mau chóng dán trên chót mũi. Lại như người mắc nợ tiền ức bạc triệu không trả nổi, bị chủ nợ niêm phong cửa, buồn rầu sợ hãi, lo lắng vô cùng, tìm cầu không thể được. Nếu thường giữ tâm nầy thì có phần thú hướng, nếu nửa tiến nửa lùi, nửa tin nửa nghi, chẳng phải như ba nhà trong thôn không có trí ngu. Vì sao? vì họ trăm điều không biết, trăm điều không hiểu, lại không có nhiều ác tri, ác giác làm chướng ngại, một bề giữ cái ngu mà thôi. Người xưa có nói: nghiên cứu lý tột cùng, lấy ngộ làm phép tắc, mấy năm trở lại đây có nhiều vị tông, sư không tin ngộ, nói ngộ là lừa dối người, nói ngộ là kiến lập, nói ngộ là chấp định, nói ngộ là rơi vào đầu thứ hai, lại mang da sư tử, giả tiếng Dã can, nhiều không thể đếm xiết, không có người trạch pháp có mắt chọn pháp, thường gặp bọn huyễn hoặc này, chẳng thể không biết mà suy nghó mà xem xét. Các Tông Sư nầy chỉ dắt dẫn quần mê, khiến cho thấy trăng quên ngón tay là kiểu thứ ba. Cư só Diệu Minh muốn thoát khỏi hang sanh tử, thực hành thuyết nầy gọi là chánh thuyết, thực hành thuyết khác gọi là tà thuyết, hãy suy nghó. Sợ hãi sanh tử, gốc nghi nhổ không hết, trăm kiếp ngàn đời trôi giạt theo nghiệp chịu báo, trồi lên hụp xuống, không lúc nào ngơi nghỉ. Nếu mạnh mẽ tinh tấn, hoàn toàn nhổ hết, thì sẽ không lìa tâm chúng sanh mà thấy tâm Phật. Nếu kiếp trước có năng lực thệ nguyện, gặp thiện tri thức chân chánh dùng phương tiện khéo léo dạy dỗ thì có khó gì. Không thấy người xưa nói: sông hồ không tâm ngăn ngại người, Phật Tổ không ý lừa dối người, chỉ vì người qua không được, không được nói sông hồ không ngăn ngại người. Phật Tổ nói giáo tuy không lừa dối người, chỉ vì người học đạo này nhận lầm phương tiện, trong một lời một câu tìm huyền tìm diệu, cầu được cầu mất, do đó mà thấu đáo không nổi, chẳng được nói Phật Tổ không lừa dối người. Như người bị bệnh mù, không thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng, đó là lỗi của người mù chớ chẳng phải lỗi mặt trời, mặt trăng. Đây là người học đạo này lìa tướng văn tự, lìa tướng phân biệt, lìa tướng ngôn ngữ. Kiểu thứ tư Cư Só Diệu Minh hãy suy nghó. Tâm nghi ngờ sống không biết chỗ đến, chết không biết chỗ đi, tâm chưa quên thì là sanh tử xen nhau, hướng đến chỗ giao nhau mà khán thoại đầu. Tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu rằng: con chó có Phật tánh không? Hòa thượng đáp không. Chỉ đem tâm nghi sống không biết chỗ đến, chết không biết chỗ đi này dời đến chữ không thì tâm xen nhau không vận hành, tâm xen nhau đã không vận hành thì tâm nghi sống chết đến đi sẽ dứt. Nhưng hướng đến chỗ muốn dứt chưa dứt xen nhau, thời tiết nhân duyên đến, chợt vọt ra một cái liền rõ, trong giáo chỗ gọi là dứt tâm sanh tử, dừng tâm bất thiện, bỏ tâm rối rắm, rửa sạch tâm cấu uế. Nhưng tâm đâu có cấu bẩn, tâm đâu có uế trược, đó là phân biệt thiện ác tạp độc, cũng gọi là bất thiện, cũng gọi là cáu bẩn, cũng gọi là rối rắm. Nếu chân thật buông bỏ chỉ một cái dầy đặc này, tức là rừng hương chiên đàn, chỉ có cáu bẩn này tức là thanh tịnh giải thoát, diệu thể vô tác, thể này xưa nay không ô nhiễm, không kiết sử, phân biệt không sanh, rổn rang sáng suốt tự soi chiếu, chính là đạo lý này. Đây là Tông Sư khiến cho người học bỏ tà về chánh. Kiểu thứ năm Cư Só Diệu Minh chỉ dựa vào đây tham cứu lâu ngày tự sẽ phá vỡ. Đạo chẳng thể không tồn tại, xuất xứ đều chân thật, chẳng lìa chân mà lập xứ, lập xứ tức là chân. Trong giáo lý, cái gọi là nghề nghiệp nuôi sống đều thuận theo chánh lý, không trái với thật tướng. Cho nên, Bàng Cư Só có nói: việc hằng ngày chẳng khác, chỉ do mệnh tự tónh cờ hài hòa, mọi việc không lấy bỏ, nơi nơi chớ trái ngược, đỏ, tím cái nào là hiệu, gò núi bặt dấu, bụi thần thông đều là diệu dụng, gánh nước chẻ củi. Nhưng làm sao nhận được, không cầu diệu ngộ lại rơi vào chỗ vô sự. Không nghe Ngụy Phủ Lão Hoa Nghiêm nói: Phật pháp ở chỗ việc làm hằng ngày của ông, chỗ đi đứng nằm ngồi, ăn cơm, ăn cháo, chỗ nói năng qua lại, khởi tâm động niệm, điều gì mà không phải. Lại nữa, Hòa thượng Chân Tịnh có nói: tâm không nghó định, mỗi đều minh diệu, mỗi đều thiên chân, đều như hoa sen không dính nước, vì mê tự tâm nên làm chúng sanh, chúng sanh vốn là Phật, Phật vốn là chúng sanh, chỉ do mê ngộ nên có kia đây. Lại nữa, ông già Thích-ca có nói: pháp ấy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường còn. Lại nói: pháp ấy chẳng thể thấu hiểu, suy lường phân biệt. Đây cũng là tên khác của tâm không được nghó. Nếu ở chỗ ứng duyên không an bài không tạo tác, không nghó tâm so lường phân biệt so sánh thì tự nhiên rộng lớn, vô dục, vô y, không trụ hữu vi, không rơi vào vô vi, không khởi tưởng thế gian và xuất thế gian. Đây là bổn oai nghi hằng ngày, không mê mờ mặt mũi xưa nay, đây là kiểu thứ sáu. Vốn vì việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng, việc mình chưa rõ nên tham kiến lễ bái tôn sư cầu mở dây trói buộc sanh tử, lại bị bọn tà sư thêm dây thêm xích, trói buộc cũ chưa mở mà lại thêm trói buộc mới, lại không hiểu rõ được sự ràng buộc của sanh tử, chỉ một bề hiểu những chuyện tào lao gọi là Tông chỉ, việc vô cùng bức xúc ấy không gấp rút, trong giáo lý gọi là lỗi của tà sư, chẳng phải lỗi của chúng sanh, muốn không bị sanh tử ràng buộc chỉ thường dạy chỗ một tấc vuông rỗng rang rộng lớn, chỉ vì không biết tâm sanh đến chết đi, thường hướng về chỗ ứng duyên mà thức tỉnh, thức tỉnh được quen, lâu ngày tự nhiên rộng mở. Khi biết được chỗ kiệm sức hằng ngày thì liền là chỗ đắc lực của người học đạo này. Chỗ đắc lực tiết kiệm sức vô hạn, chỗ tiết kiệm sức lại được sức vô hạn, các đạo lý này nói với người không được, trình với người không được, chỗ tỉnh lực và đắc lực, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Diệu Hỷ suốt đời chỉ đem chỗ tỉnh lực để chỉ bày cho người, không dạy người làm câu đố. Cũng chỉ tu hành như vậy, ngoài ra đặc biệt không tạo yêu nặn quái, chỗ đắc lực của mình người khác không biết, chỗ tỉnh lực của mình người khác cũng không biết, tâm sanh tử dứt bặt người khác cũng không biết, tâm sanh tử chưa quên người khác cũng không biết, chỉ bố thí pháp môn này cho tất cả mọi người, đặc biệt không có điều huyền diệu kỳ lạ nào để truyền trao. Cư Só Diệu Minh quyết muốn tu hành như Diệu Hỷ, nhưng dựa vào thuyết này cũng không cần hướng ra ngoài tìm cầu đạo lý riêng, thật là chỗ Rồng đi thì mây tự bay theo. Huống là ánh sáng thần thông xưa nay tự có. Không nghe Hòa thượng Đức Sơn nói: ông chỉ vô sự trong tâm, vô tâm ở nơi sự thì rỗng rang linh không mầu nhiệm. Nếu đầu sợi lông cho phép nói gốc ngọn thì đều là tự lừa dối. Đây là con đường thẳng tắt của người học đạo này, đây là kiểu thứ bảy. Như bảy kiểu trên, Phật bệnh, pháp bệnh, chúng sanh bệnh, cùng một lúc nói xong, lại có kiểu thứ tám lại xin hỏi Đạo Nhân Diệu Viên, lại thay thế Đạo Nhân Diệu Viên. Phần dưới hoàn toàn chuyển ngữ rằng: việc lớn là thế chẳng phải việc nhỏ, Cư Só Diệu Minh tự gánh vác. <篇> <卷>QUYỂN 24 LÀ THIỀN SƯ TUỆ NHẬT UẨN VĂN, DÂNG LÊN * Chỉ dạy Thành Cơ Nghi (Lý Cung) Phật dạy: nếu có người muốn biết cảnh giới Phật thì phải thanh tịnh ý của mình như hư không, dứt bỏ vọng tưởng và các chấp trước, khiến cho tâm sở hướng đều vô ngại, quyết có chí học Vô thượng Bồ- đề này, thường khiến cho chỗ một tấc vuông rỗng rang rộng lớn, không dính mắc vào ngôn thuyết, không rơi vào vắng lặng, không ngôn, không thuyết cả hai đều chớ nương tựa, hai việc thiện ác không lấy, không bỏ, nhật dụng trong hai mươi sáu thời đem tâm quét sạch so sánh suy lường, không đắm trước vào chỗ vắng lặng, trong không bung ra, ngoài không cho vào, như mây trong hư không, bọt trên dòng nước, chợt có chợt không, chỉ cần hướng vào đây trở mình ném thẳng qua thái hư thì lúc nào không an bài được nó, không dùng được nó. Vì sao? Đại pháp xưa nay là như vậy chẳng phải gắng gượng làm. Không nghe Đức Thích-ca nói: không chấp vào lời nói của chúng sanh, tất cả việc hữu vi là luống dối, dù không nương vào ngôn ngữ để nói cũng không dính mắc vào chỗ vô nói năng. Thời nay kẻ só đại phu học đạo, lâu nay bị thông minh lanh lợi sai khiến. Phần nhiều đối với ngôn ngữ của người xưa làm đạo lý, muốn nói phần giáo cho biết, nào ngờ xương khô trên đầu, quyết định không có nước để tìm, dù có nghe thiện tri thức quở trách cũng bằng lòng, lìa tướng nói năng, tướng văn tự, lại ngồi vào chỗ vô ngôn, vô thuyết bất động trong hang quỷ dưới núi đen, muốn tâm sở hướng về chỗ không trở ngại cũng không phải khó ư! Đã là vô thường mau chóng, sanh tử việc lớn, quyết định có chí, chỉ chọn Vô thượng Bồ-đề. Các việc thế gian đều luống dối không thật, một gạch sổ toẹt. Lại hướng về chỗ không thể bỏ, từ từ nhìn kỹ là có hay không, chỉ được chỗ tâm vô dụng, chỗ miệng không mở. Trong một tấc vuông giống như một hòn sắt nóng, chẳng cần bỏ mất, chỉ y cứ vào đây để khán thoại đầu. Tăng hỏi Vân Môn: người giết cha mẹ rồi đến trước Phật sám hối, khi giết Phật giết Tổ thì sám hối với ai? Vân Môn đáp: Lộ, nếu người có chí quyết định thì chỉ cần khán chữ lộ này, đem tâm suy lường phân biệt trong trần lao, dời lên chữ lộ, đi đi, ngồi ngồi đều đem chữ Lộ này ra để thức tỉnh, chỗ ứng duyên hằng ngày, hoặc vui hoặc giận, hoặc thiện hoặc ác, chỗ kính thờ bậc tôn trưởng, giao hảo bạn bè, đọc kinh sử bậc Thánh chỉ là thời tiết thức tỉnh. Chợt không hay không biết, hướng lên chữ lộ dứt bặt tin tức, pháp tam giáo bậc Thánh đã nói không dính mắc mỗi việc đều hỏi người, tự nhiên trên đầu sáng suốt, mọi vật đều hiện rõ. Phật đâu không nói rằng: Bồ-tát Ma-ha-tát dùng trí tuệ không chướng ngại tin tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới của Như lai. Người xưa nói rằng: nhập được thế gian và xuất thế gian vô dư liền là đạo lý này. chỉ sợ không chí quyết định và không có niềm tin quyết định. Không có niềm tin quyết định thì có tâm lui sụt, không có chí quyết định thì sở học không được thấu đáo. Lại điều gì là có niềm tin quyết định mà không có tâm lui sụt, có chí quyết định mà sở học được thấu đáo? Thuở xưa, Thiền sư Trí Nhan đời thứ hai ở núi Ngưu Đầu người Khúc A, họ Hoa, lúc trẻ đã có trí tuệ hơn người, người cao bảy thước sáu tấc, làm tướng nhà Tùy, thường lấy cung treo lên làm túi lọc nước, kẻ tùy tùng đến múc dùng, nhiều lần theo đại tướng chinh phạt đều lập được chiến công. Vào niên hiệu Vũ Đức đời Đường, ông mới bốn mươi tuổi, bèn xin xuất gia, đến núi Hoàn Công ở Thư Châu làm đệ tử Thiền sư Bảo Nguyệt. Một hôm, Sư đang ngồi yên chợt thấy một vị Tăng lạ mình cao hơn một trượng, thần tư sáng sủa, lời nói trong sáng, bảo Nhan rằng: Thầy đã tám mươi đời xuất gia, phải càng thêm tinh tấn, nói xong liền biến mất. Lại nữa, có lần Sư nhập định trong hang, nước trong núi dâng lên dữ dội, Nhan vẫn thản nhiên bất động, dòng nước ấy tự nhiên rút hết. Có người đi săn ngang qua đó thấy thế bèn sửa lỗi tu hiền. Lại có hai người thuở xưa cùng tòng quân, nghe Nhan ẩn trốn, bèn cùng nhau vào núi tìm gặp mà nói rằng: Tướng quân có điên không, tại sao lại ở đây? Nhan nói: ta điên sắp tỉnh, cái điên của ông đang phát khởi, hễ ham sắc dâm, thanh tham vinh dự, thích nuông chiều, trôi lăn sanh tử, do đâu mà tự ra được. Hai người cảm ngộ than thở rồi ra về. Niên hiệu Trinh Quán Sư trở về Kiến nghiệp, vào núi Ngưu Đầu yết kiến Thiền sư Lãn Dung, phát minh Đại sự. Lãn Dung bảo Nhan rằng: Tôi nhận tin chân quyết của Đại Sư chỗ được đều mất, nếu có một pháp hơn Niết-bàn, thì tôi nói cũng như mông huyễn, hễ một hạt bụi bay lên che phủ trời, một hạt cải rơi mà lấp đất. Nay ông đã thấy qua diệu này, tôi còn nói thế nào, hóa đạo ở Sơn Môn sẽ giao phó cho ông, Nhan bèn làm Tổ Sư đời thứ hai ở núi Ngưu Đầu. Đây chính là có niềm tin quyết định mà không có tâm lui sụt, có chí quyết định mà học đến chỗ thấu đáo. Pháp do bậc Thánh tam giáo nói đều có phương pháp khéo ngăn các điều ác, để chánh nhân tâm, tâm không chánh thì gian tà vì lợi mà đến, tâm chánh thì trung nghóa do lý mà theo. Lý là lý của lý nghóa, chẳng phải là lý của nghóa lý. Như Tôn Trượng Tiết Sử thấy việc nghóa liền làm, tỏ rõ chân mạnh mẽ phi thường, chính là lý này. Thiền sư Khuê Phong nói rằng: làm việc có nghóa là tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghóa là tâm cuồng loạn, cuồng loạn là do tình niệm, lúc lâm chung bị nghiệp lôi kéo. Tỉnh ngộ không do tình, lâm chung chuyển được nghiệp, cũng là lý này. Đức Phật dạy: lý thì đốn ngộ, thừa ngộ đều tiêu, sự thì tiệm trừ, nhân lần lượt hết, cũng là lý này. Lý Trưởng giả nói rằng: viên dung không ngăn ngại hành bố tức một mà nhiều, hành bố không ngại viên dung tức nhiều mà một, cũng là lý này. Vónh Gia nói rằng: một chỗ có đủ tất cả chỗ, một pháp bao trùm khắp tất cả pháp, một mặt trăng hiện khắp tất cả dòng sông, trăng dưới tất cả dòng sông đều có một mặt trăng nhiếp lấy, cũng là lý này. Hoa nghiêm nói rằng: Phật pháp không lìa pháp thế gian, nếu thấy được chỗ chân thật ấy thì tất cả không khác nhau, cũng là lý này, khác nhau là do người chớ chẳng phải tại pháp. Trung nghóa gian tà cùng sanh chung, trung nghóa là ở trong gian tà, như Thanh Tịnh Ma-ni Bảo Châu bị rơi dưới đất bùn, dù trải qua trăm ngàn năm cũng không thể dơ bẩn. Vì sao? vì bản tánh thanh tịnh. Gian tà ở trong trung nghóa, như chất tạp độc để trong bình sạch, dù trải qua trăm ngàn năm cũng không thể biến đổi. Vì sao? Vì bản tánh vốn nhơ uế. Phần trước đã nói, khác nhau tại người chớ chẳng phải tại pháp, là đạo lý nầy vậy. Như hai người gian tà và trung nghóa, cùng đọc sách bậc Thánh, sách bậc Thánh là pháp, vốn không khác nhau về gian tà mà lãnh hội có sự sai khác. Kinh Tịnh Danh chép: Đức Phật dùng một âm thanh giảng nói pháp, chúng sanh tùy loài đều được hiểu. Bậc só trung nghóa thấy việc nghóa thì bản tánh phát, kẻ gian tà thấy lợi thì bản tánh phát như nam châm hút sắt, như lửa gặp của khô, dù muốn kiềm chế cũng không được, như Tôn Thượng Tiết sư hùng mạnh hơn người, xướng đại nghóa ở trong muôn chúng, khi kinh ngạc cũng là bản tánh trung nghóa, mà thấy nghóa thì phát khởi, không tạo tác, không sắp xếp. Trong giáo lý, cái gọi là thí như đại lực dũng só Ma-ha-na-già, nếu ra oai phẫn nộ thì ở trên trán ông ta sẽ hiên lên một vết sẹo, nếu vết sẹo chưa hợp với cõi Diêm-phù-đề thì tất cả người dân không thể hàng phục được. Phật vì người phát tâm Bồ-đề mà nêu ra ví dụ này. Tâm Bồ-đề là tâm trung nghóa, tên khác mà thể thì giống nhau, nhưng tâm này mà tương ngộ với nghóa thì thế gian, xuất thế gian, một tấm lưới vung ra thì không thiếu, không dư. Tôi tuy là người học Phật nhưng có lòng thương vua, lo cho nước và bậc só đại phu trung nghóa, v.v… nhưng sức đã không thể, mà tuổi tác thì ngày càng lớn, chí thích chánh ghét tà, cùng sanh chung với chúng sanh. Vónh Gia có nói: Dù cho vòng sắt quấn trên đầu mà định tuệ tròn sáng không hề mất. Tôi tuy không nhạy bén nhưng dám ngay đó tự tin không nghi ngờ. Quý Cung chí thú bất phàm, thời trai trẻ khỏe mạnh chính là lúc rong ruổi trần lao, có thể do lúc này mà quay lại học Vô thượng Bồ-đề, chẳng phải đời trước có trồng gốc đức thì dâu thể tin chắc, giữ được định, làm được chủ tể, nguyện tâm này bền chắc trước sau như một, xúc cảnh gặp duyên, không biến đổi, không dao động, mới gọi là bậc đại nhân có sức mạnh, vô thường mau chóng, sanh tử việc lớn. Nếu niệm niệm lấy một phần việc lớn nhân duyên này làm chưa xong chưa nói thì liền siêu chứng, là xem xét được chỗ ứng duyên hằng ngày có rất nhiều nghiệp ác chướng đạo, huống chi một niệm tương ưng chuyển phàm thành Thánh, không dối gạt nhau. Xưa nay, từ khi có kiểu làm lành bác cực quần thư chỉ cần biết chỗ dụng tâm của bậc Thánh, biết rõ tâm mình là chánh, tâm chánh thì các thứ tạp độc, các thứ tà thuyết sẽ không nhiễm ô nhau. Quý Cung lập chí học Nho thì phải mở rộng đầy đủ. Sau đó suy ra cái còn lại có thể cùng với vật. Vì sao? vì học không đến chỗ cùng cực thì chẳng gọi là học, học đến chỗ tột cùng mà dùng không được thì chẳng phải là học, học không thể hóa độ chúng sanh là chẳng phải học, học đạt đến chỗ thông suốt thì văn cũng ở trong đó, võ cũng ở trong đó, sự cũng ở trong đó, lý cũng ở trong đó, trung nghóa hiếu đạo, cho đến phương pháp trị mình trị người, an nước, an bang đều ở trong đó. Ông già Thích-ca nói rằng: Thường ở trong đó kinh hành và ngồi nằm chính là tin tức này, chưa có ai trung với vua mà không hiếu với cha mẹ, cũng chưa có ai hiếu với cha mẹ mà không trung với vua, nhưng bậc Thánh đã khen thì y theo mà thực hành, chỗ bậc Thánh quở trách thì không dám trái phạm, đối với trung, hiếu, lý, sự, trị mình, trị người chẳng thể không chu toàn, chẳng thể không biết rõ. Tôn Thượng Tiết Sứ lập công lớn, khải hoàn trở về, Lý Cung một bước vọt lên mây xanh, thành thị môn, có võ có văn không thể nghi ngờ. Lý Cung hãy cố gắng. Chỉ dạy Mạc Tuyên giáo (Thuận Phủ) làm học, hành đạo là một. Vì học thì học chưa đến bậc Thánh, mà mong thì sẽ đến. Làm đạo thì cầu an tâm đối với mình và chúng sanh, vật và mình như một thì đạo học đều đầy đủ. Kẻ só Đại Phu không hiểu các sách chẳng riêng trị mình, tìm giàu sang vui sướng. Đạo học gồm có rộng rãi, đầy đủ. Sau đó, suy mình lên có thể bằng chúng sanh. Học giả cận đại. Phần nhiều bỏ gốc chạy theo ngọn, trái chánh hợp tà, chỉ vì học hành đạo mà nổi tiếng, chuyên lấy của nhà giàu sang to rộng làm nghóa quyết định, nên tâm không chánh, bị vật chuyển. Ngạn ngữ có câu, chỉ thấy đầu dùi nhọn mà không thấy đầu đục vuông. Đâu không biết ở Nho giáo thì lấy việc chánh tâm làm đầu, tâm đã chánh thì lỗ mãng điên bái đều khế hợp với đạo này. Phần trước đã nói nghóa vì học hành đạo là một. Ở trong giáo lý của ta thì nói rằng: Nếu chuyển được vật thì đồng với Như lai. Ở Lão Thị thì nói rằng: lòng từ là tiết kiệm, không dám làm trước thiên hạ, có thể như vậy mà học, không cần cầu hợp với đạo này, tự nhiên âm thầm hợp nhau. Phật nói tất cả pháp là vì độ tất cả tâm, ta không có tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp. Nên biết đọc kinh xem giáo, thông hiểu các sách, lấy việc thấy trăng quên ngón tay, được cá quên nôm làm nghóa bậc nhất thì không bị văn tự ngôn ngữ chuyển, mà chuyển được ngôn ngữ văn tự. Không thấy có một vị Tăng hỏi Hòa thượng Quy Tông: sơ tâm như thế nào thì được nhập xứ? Hòa thượng Quy Tông gắp cục lửa gõ vào nắp nồi ba cái, hỏi: nghe không? Vị Tăng đáp: nghe, Hòa thượng nói: Sao ta không nghe, lại gõ ba tiếng nữa hỏi: có nghe chăng? Vị Tăng đáp: không nghe, Tông nói: Vì sao ta nghe, vị Tăng im lặng. Tông nói: Quán Âm Diệu trí lực, năng cứu khổ thế gian. Đạo hữu Nhuận Phủ đời trước trồng cội đức, tin chắc phần việc lớn nhân duyên này, niệm niệm không đứt quãng, nhưng trong tất cả ngôn ngữ, văn tự chưa thể thấy mặt trăng quên ngón tay, được cá quên nôm. Nếu ở chỗ chỉ bày của Quy Tông mà am hiểu thì mới biết Bồ-tát Quán Âm ngộ được viên thông, không hai không khác với nghóa nghe và không nghe của ngài Quy Tông, vì sao biết điều ấy đúng? Vì lúc đầu ở trong cái nghe, nhập lưu quên sở, chỗ nhập đã vắng lặng, hai tướng động tónh, rõ ràng bất sanh. Tướng động không sanh là pháp diệt của thế gian sanh diệt, tướng tónh không sanh thì không bị tịch diệt, tướng tónh chẳng sanh thì không bị vắng lặng ràng buộc, như ở giữa hai đầu này không trụ tướng động, cũng không bị tướng tónh làm khốn đốn, thì Quán Âm đã nói sanh diệt đã diệt, vắng lặng hiện tiền. Được mảnh ruộng này mới được thân tâm như một, ngoài thân không còn thừa, trên đều rõ, trên vật hiển lộ, chẳng phải gắng gượng làm, pháp là như thế, Nhuận Phủ nên cố gắng. Chỉ dạy Tuân Phác Thiền Nhân: Tổ thứ mười ba là Ca-tỳ-ma-la đến thăm Tổ thứ mười bốn Long Thọ ở trong hang núi. Tổ Long Thọ biết trước Tổ Ca-tỳ-ma-la đến liền ra đón rước, vừa gặp nhau liền nói rằng: núi sâu cô tịch chỗ rỗng rắn ở, bậc Đại đức chí tôn sao phí thần túc đến đây? Ma-la nói: Tôi chẳng phải là bậc Chí tôn, đến đây thăm Hiền giả. Long Thọ thầm nghó rằng: Vị sư này được tánh quyết định, rõ mắt đạo rồi sao? là bậc đại Thánh nối tiếp chân thừa chăng? Ma-la nói: Ngài tuy dùng tâm nói nhưng tôi đã biết ý, chỉ làm xong phận xuất gia lo gì tôi phải là Thánh hay không. Long Thọ nghe dạy liền xin xuất gia. xưa nay bậc Tôn túc vì pháp cầu người, thầy giỏi hơn trò, động dây đàn biệt khúc, một lời một câu, một cái im lặng đều không luống phí, có thể nói tâm mắt soi nhau như keo sơn hợp nhau. Nay thì không phải như vậy, kẻ làm thầy người, quanh năm suốt tháng cùng người học chạy theo sắn bìm quan hệ xoắn xuýt không hề biết được việc ấy được hay không, rõ hay không rõ, người học cũng không phân biệt được thầy mình là tà hay chánh. Bởi do sơ học tâm thô, thầy trao lỗ mãng, vì Thánh tâm thanh đạm, tà pháp sanh ra một cách ngang trái, như những hạng này muốn báo ân hết sức to lớn của bậc tiên đức, cái gọi là rõ mắt đạo nối tiếp chân thừa, cũng không phải là khó hay sao? Tham thiền học đạo không làm việc khác, chỉ muốn ngày ba mươi tháng chạp, khi nhắm mắt buông tay, một mảnh ruộng này, ranh giới xung quanh hiện thật rõ ràng, chẳng cùng ai bàn tán nói chôi. Thời cận đại đạo này vắng lặng, thầy trò không tin nhau, cần phải đặt lên tờ giấy cũ những điều ác hại, bất tài bất tịnh trao cho người học gọi đó là người hiểu thiền, khổ thay! khổ thay! đạo ta mất rồi. Không thấy ngày xưa Hòa thượng Lâm Tế từ giã Hoàng bá. Bá hỏi: ông đi đâu? Ngài Lâm Tế nói: không phải Hà Nam thì Hà Bắc. Hoàng Bá liền đánh, Tế nắm chắc gậy và xô lại một cái, Hoàng Bá cười lớn ha ha, liền bảo thị giả đem thiền bản của tiên sư Bách Trượng đến, Tế cũng gọi thị giả đem lửa đến. Hoàng Bá nói: Ông hãy đem đi, sau đó ngồi trong thiên hạ, cái lưỡi đi hay ở. Sau này ngài Quy Sơn nhắc lại câu này hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Lâm Tế chẳng cô phụ Hoàng Bá chăng? Ngưỡng Sơn đáp: không đúng. Quy Sơn hỏi: ông thì sao? Ngưỡng Sơn đáp: biết ân mới hiểu được báo ân, thấy ông ấy quá mức người, lớt phớt bộc lộ trong loại khác một chút tài năng, khác với người bình thường. Sau nầy Lâm tế quả nhiên hưng khởi tông chỉ của Giang Tây ở Hà Bắc, cái gọi là bước chân rồng voi này, con lừa chẳng thể làm được. Thiền nhân Tuân Phác, xưa từng theo hầu Lão sư Viên Ngộ ở Tưởng Sơn và làm bạn đạo với trưởng lão Đàm Ý ở Tường Vân. Hai người đều ở chỗ lão sư, được chút ít cho là đủ, trong lòng tự hứa, lỗ mũi bầu trời xa xăm, vì cho rằng đời không có người lầm lỗi. Mùa xuân năm Giáp Dần, tôi từ Giang Tả đến Phúc Kiến, ý đã khai pháp ở huyện Bồ Điền, chư Tăng khắp nơi tập trung bàn luận về thiền. Phác cũng theo hạnh ấy, tướng là ý nghó và việc làm, tôi biết việc ấy chưa vững vàng, e rằng sai lầm người học, cho nên viết thư gởi cho ý, khiến xin nghỉ tạm. Ý vì sợ được mất nên không vội đi. Bèn do tiểu tham, chỉ trích dữ dội lỗi ấy, dán bảng ngoài cửa để báo cho bốn chúng biết. Ý nghe việc ấy bất đắc dó phải phá hạ đê, tôi vặn hỏi sở chứng của ông, vẫn như lúc xưa, chẳng khác chút nào, bèn chí thành bảo ông ấy rằng: kiến giải của ông như thế nào mà dám kế thừa Lão nhân Viên Ngộ, nếu muốn việc này được rốt ráo liền rút lui khỏi viện. Ý nói: vậy tôi cuối hạ về am. Ý quả nhiên không nuốt lời, cùng Phác tiếp đến, hai người cùng vào trong thất, rất lâu mà hai người đều chưa tạo được sự chân thật cho mình. Một hôm, hỏi Phác: Tam Thánh Hưng Hóa thở ra hay không thở ra, làm người hay không làm người. Ông nói đi! Hai lão này có chỗ xuất thân hay không? Phác đánh một cái vào gối tôi. Tôi nói: chỉ vậy, một cái tát này là Tam Thánh thở ra, hay là Hưng Hóa thở ra, nói mau, nói mau. Phác dự tính, tôi bèn đập một gậy vào giữa đầu mà bảo rằng: thứ nhất ông không được quên, một gậy này đã lâu mà chưa thâm nhập. Một hôm, nhân cho phép một vị Tăng vào thất, tôi hỏi vị Tăng rằng: Đức Sơn thấy vị Tăng vào cửa liền đánh, Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét, Tuyết Phong thấy Tăng vào cửa thì nói gì? Mục Châu thấy vị Tăng vào cửa liền nói hiện thành công án, đập ông ba mươi gậy, ông nói đi, bốn lão này còn có chỗ làm người hay không? Vị Tăng đáp: có. Tôi nói rằng: Tờ công văn, vị Tăng suy nghó, tôi liền hét, Phác nghe chợt cởi bỏ, những ác tri ác giải trước kia, nay bèn trở thành một vị nạp Tăng tự tại, tuy nhìn lên mắt chưa mở hết nhưng biết rõ việc ở trên, quả là không hạn lượng, đây thật đáng vui mừng. Ý cũng nối tiếp nhau, ngay một lời nói cẩn thận chắc chắn, nay đều mạnh mẽ sắc bén, hướng về trước mới biết tôi lâu nay dụng tâm không ở thế đế. Sau rằm thượng nguyên năm Ất Mão, Phác đến xin nghỉ, về Trường Khê thăm mẹ, lại xin pháp ngữ, nhờ Tín bút viết lời người xưa để giữ lại. Hòa thượng thấy bạn lành Phật Nhẫn đắc pháp thượng thủ, phê bình sáu ông. Thượng nhân kia mắng Phật chửi Tổ, có mắt chọn pháp không kém ông già họ Bàng, thử lấy việc nầy trình lên ông lão ấy, sẽ có sự phê phán, vẫn mời lão tướng này làm chứng. Trước hạ lại quay về, một việc lớn nhân duyên rốt ráo cuối cùng cẩn thận chớ để rơi quả cân xuống giếng. Đạo nhân một phút bay lên ngàn dặm như gió, lại không chắc làm sách cất giữ sáu ông. Chỉ dạy Thiền Nhân Diệu Đạo. Đại Sư Định Quang tên là Diệu Đạo hỏi ngài Vân Môn rằng: tâm tánh này mê ngộ trước sau như thế nào? Xin chỉ dạy cho chỗ quan trọng. Vân Môn hồi lâu không trả lời. Diệu Đạo lại hỏi. Vân Môn cười lớn nói rằng: nếu nói chỗ quan trọng thì không thể chỉ bày với người, nếu chỉ bày được thì không quan trọng. Diệu Đạo nói: Há chẳng phải là phương tiện cho người hướng đến hay sao? Vân Môn đáp: nếu nói về phương tiện thì tâm không mê ngộ, tánh chẳng có trước sau, chỉ do người lập có mê ngộ kiến chấp trước sau, muốn hiểu rõ tâm nầy thấy tánh này, mà tâm này tánh này liền theo sự điên đảo thác loạn của người lưu nhập vào đường tà không rõ. Vì không rõ tâm này, tánh này là mộng huyễn, mà vọng lập hai thứ danh ngôn, cho trước sau mê ngộ là thật, nhận tâm này tánh này là chân thật, đâu không biết, vừa thật vừa không thật, vừa vọng vừa chẳng vọng, thế gian và xuất thế gian chỉ là giả mượn lời nói, nên kinh Tịnh Danh chép: pháp chẳng thể thấy, nghe, hay, biết, chẳng cần cầu pháp. Lại người xưa nói: nếu chấp tự tâm mình là rốt ráo thì sẽ có vật khác, người khác làm đối trị. Lại nữa, Đức Phật bảo Phú-lâu-na rằng: ông dùng tướng sắc không, tướng khuynh đảo để quyết định ở Như lai tạng, mà Như lai tạng là sắc không trùm khắp pháp giới. Ta dùng Diệu Minh bất sanh bất diệt hợp với Như lai tạng, mà Như lai tạng do Diệu Giác tròn sáng soi khắp pháp giới. Như lai tạng chính là tâm này tánh nầy, nhưng Phật quyền chỉ tướng sắc không, khuynh đảo, quyết định là sai, cho Diệu Minh bất sanh bất diệt là đúng. Hai điều này là được ngữ trị loại bệnh mê và ngộ, chẳng phải ý nhất định của Phật, là phá chấp mê ngộ, tâm tánh trước sau làm lời thật pháp. Chẳng thấy Bồ- tát Kim Cương Tạng nói hay sao? Rằng: tất cả ba đời chỉ là ngôn thuyết, tất cả các pháp trong ngôn thuyết không có nơi y cứ, tất cả lời nói trong các pháp cũng không có chỗ y cứ. Nếu mê ngộ, được mất, trước sau hiểu rõ thì tâm này sáng suốt như ánh trăng, tánh này rộng lớn bằng hư không. Đương nhiên dưới gót chân phát ra ánh sáng rung chuyển mặt đất soi thấu mười phương, người thấy ánh sáng này đều chứng Vô sanh pháp nhẫn, đến lúc nào tự nhiên cùng với tâm tánh này thầm khế hợp nhau, mới biết là xưa vốn không mê, nay vốn không ngộ, ngộ tức là mê, mê tức là ngộ, trước tức là sau, sau tức là trước, tánh tức là tâm, tâm tức là tánh, Phật tức là ma, ma tức là Phật, một đường thanh tịnh bình đẳng, không có việc bình đẳng hay không bình đẳng đều thường rõ ở trong tâm ta, chẳng nhờ vào cách khác, đã được như thế cũng là bất đắc dó mà nói, không thể cho là thật. Nếu cho là thật thì lại không biết phương tiện, nhận định lời cứng nhắc càng thêm luống dối, lần lượt mê loạn không mong ngày tỏ ngộ. Trong đây, không có chỗ dụng tâm nếu chẳng biết là việc bình thường, dẹp qua một bên, còn quay lại nhìn. Mã Đại Sư nói: tức tâm là Phật, phi tâm phi Phật, chẳng phải là tâm, chẳng phải là Phật, chẳng phải là vật. Cây bách trước sân của Triệu Châu, núi Tu-di của Vân môn, chỉ quả cân của Đại Ngu, cục đất của Tôn giả Nghiêm Dương, chẳng vọng tưởng của Phần Dương, Câu-chi giơ một ngón tay, rốt ráo là đạo lý gì? Đây chính là phương tiện của Vân Môn, Diệu Đạo hãy suy nghó. Chỉ dạy Thiền Nhân Trí Nghiêm. Đạo chẳng thể học, học mà được thì chẳng phải thật được, đạo cũng chẳng thể không học, không học cũng không mong được, học và không học, được và không được, ở đạo này rõ ràng không liên can nhau. Xin mau soạn tác phẩm đặc sắc, hướng về chỗ không liên can chuyển thân một cái thì tâm học, tâm vô học, được tâm hay chẳng được tâm cũng như nước sôi rưới vào tuyết, mới biết từ trước cao quý đều vốn là tự bản thân mình nói chung không dính dáng gì đến việc quỷ thần hoang dã, cho nên Ngài Mục Châu thấy vị Tăng vào cửa liền nói rằng: có lỗi với Lão Tăng. Hai Lão như chim cánh vàng vỗ cánh rẽ nước biển bắt rồng ăn thịt. Dòng u mê bàn bạc như thế nào, tiến hành như thế nào, có còn là đạo lý làm người nữa chăng? Không thể nghe nói như thế liền chỉ dừng nghỉ như thế, lại dừng được cũng chưa. Người xưa mắng là bị rơi vào hồn ngoại đạo rỗng mất, người chết không tan, phải được gọn nhẹ vô sự. Nhưng ở chỗ không đáng học thử tiến lên một bước xem, nếu tiến được một bước này thì ba thừa mười hai phần giáo là lão Hòa thượng trong thiên hạ nói ngang, nói đứng, nói thẳng, nói cong, nói lời khen ngợi, nói lời chê bai, nói lời thế tục, nói rõ ràng, sẽ rất nóng dường như tiếng kêu, Nghiêm Thiền lại tin tưởng chăng, chớ ghi lấy lời tôi. Chỉ dạy Thiền Nhân Tri Lập. Thuở xưa, Hòa thượng Linh Vân, do thấy hoa đào mở mà chợt ngộ đạo, có bài kệ rằng: ba mươi tuổi đi tìm kiếm khách, mấy lần lá rụng lại trổ cành, trừ sau khi thấy hoa đào nở, mãi đến hôm nay lại chẳng nghi. Hòa thượng Quy Sơn gạn hỏi sở ngộ của Hòa thượng Linh Vân và khế hợp, mới ấn khả rằng: theo duyên đạt ngộ không bao giờ lui mất. Lại nữa, Hòa thượng Tuyết Phong làm thọ tháp có khắc chữ rằng: hễ từ duyên có thì trước sau mà thành hoại, chẳng trừ duyên được thì trải qua nhiều kiếp vẫn thường còn, chỗ thấy của hai bậc tôn túc này, hãy nói là một hạng hay hai hạng. Nếu nói là một hạng thì một người cho từ duyên mà được là đúng, một người cho từ duyên mà được là sai. Nếu nói hay hạng thì không thể nào hai đại lão lập môn hộ để gây ra nghi ngờ cho người đời sau. Ôi! Ngỗng đầu đàn chọn sữa, loài vịt chẳng thể làm được. Thiền Nhân Trí Lập có biết hai đại lão rơi vào chỗ nào chăng? Nếu không biết thì Vân Môn sẽ nói cho ông nghe để phá trừ lưới nghi, hai nguyên nhân một có, một cũng chẳng giữ, nhất tâm bất sanh muôn pháp thì không có lỗi, hai phần trên khác nhau, thu về khoa trên. Ôi! Chỉ dạy Thiền Nhân Diệu Thuyên. Nạp tử tham thiền, điều quan trọng là để sáng tỏ tâm địa. Tú tài đọc sách thì phải thi đậu, đọc sách năm xe mà không thi đậu thì suốt đời chỉ là Tú tài, gọi là quan nhân thì sai. Nạp tử tham thiền tâm địa không sáng thì chang thể hiểu sanh tử là việc lớn, suốt đời chỉ là phàm phu, gọi là Phật thì lầm, chỉ hai cái sai lầm nầy, quả thật có việc ấy hay thật không có việc ấy. Nói thật có thì người đọc sách thi đỗ làm quan, thường thấy có, nói thật không thì người tham thiền làm Phật, không hề chính mắt trông thấy. Lấy đây đổi kia thì bên tám lạng, bên nửa cân. Thuyết này rất cạn cợt mà cũng rất sâu xa, thường người học vì có chỗ đắc nên tâm tham cứu đến chỗ vô sở đắc bèn rơi rớt xuống hầm hố rất nhiều. Vân Môn nói lời này bèn thành có tên gọi mà không có thật. Thật ra cái gọi là đề hồ thượng vị là thứ quý báu ở đời, gặp những người này thì sẽ biến thành thuốc độc. Xưa, Thiền sư Trí Thường đến Tào Thoát yết kiến Tổ Sư, nêu chỗ chỉ bày tâm yếu của Hòa thượng Đại Thông. Tổ Sư theo đó mà nghi ngờ, liền nói kệ rằng: Chẳng thấy một pháp còn không thấy. Dường như mây nổi che mặt trời, Không biết một pháp giữ không biết, Lại như hư không loé ánh chớp. Cái thấy biết này chợt hưng khởi, lầm nhận không hề hiểu phương tiện, ông nên một niệm tự biết lỗi thì ánh linh quang của chính mình hiện rõ. Thường nghe kệ xong lập tức nghi tình phủi sạch và được đại ngộ. Tổ Sư phương tiện bèn kể một bài kệ trình lên Tổ Sư rằng: không vào thất của Tổ sư, mù mịt hướng về hai đầu. Thiền nhân Diệu Thuyên muốn biết thật có việc ấy hay không, rơi vào chỗ nào chớ chẳng lo phàm phu và Phật, Tú tài và quan nhân; chỉ biết dùng phương tiện của Vân Môn. Nếu có thể biết được Triều Dương cách Tào Khoát không xa thì việc ấy có lẽ chưa đúng, dưới gót chân lại lưu ý đến Hòa thượng Đại Điên. * Chỉ dạy Thiền Nhân Xung Mật. Tranh luận về mắt rồng rắn, loài cầm thú như hổ và tê giác, nếu chẳng phải kẻ só đã vượt qua cách lượng, không ràng buộc trần duyên thì liền cho thuyết này là nói rộng, nên tông phong Lâm tế khó kế thừa. Học giả thời gần đây phần nhiều vốn dùng tất lưỡi tranh chấp dữ dội, thích đem việc nói bừa nói càn ngang dọc, hét bừa hét loạn làm tông chỉ. Vừa ép ngặt vừa đánh đập, như đá lửa, như ánh chớp, dự tính không được, cười lớn ha ha, nói không rơi vào ý căn. Đâu không biết chính là nghiệp thức giở mánh khóe, há chằng phải là lừa dối người và tự lừa dối mình, lầm mình và lầm người khác ư? Chẳng thấy Lâm Tế đứng hầu Đức Sơn, Đức Sơn quay lại nói: có việc muốn hỏi ông được chăng? Lâm Tế nói: Lão hỏi điều gì? Sơn định đưa gậy lên đánh thì Lâm Tế liền hất ngã xuống giường thiền, Sơn liền thôi. Lại nói hai lão này vang danh như thế lại có chỗ thương lượng chăng? Tin biết bước chân của bậc Long rồng voi thì lừa chẳng thể làm được, chẳng phải chân thật có mắt này, được dụng này, thì chưa tránh khỏi trong cái được mất mà so lường tính toán. Lại Lâm Tế cùng Phổ Hóa ở Trân Châu, có lần đến nhà thí chủ thọ trai, Tế hỏi? Đầu một sợi lông có thề chứa cả biển lớn, hạt cải dung nạp cả núi Tu-di, là thần thông diệu dụng, là pháp ông như vậy. Phổ Hóa liền hất đổ mâm cơm. Tế nói: quá thô. Hóa nói: Đây là chỗ nào, mà nói thô nói tế, Tế liền thôi. Ngày hôm sau lại cùng nhau đến nhà một thí chủ thọ trai, Tế lại hỏi: Hôm nay cúng dường sao giống hôm qua? Hóa lại hất đổ mâm cơm. Tế nói: phải là phải, nhưng quá thô. Hóa nói rằng: lão này mù quáng, Phật pháp nói thô tế gì. Tế liền thôi. Lại nói Lâm Tế hai lần ngừng còn có phần thương lượng hay không? Nếu có thì thuơng lượng như thế nào? Thiền nhân Xung Mật ở tùng lâm rất lâu, thường thương lượng được, giảng nói được, phê phán được, tự cho rằng vô cùng đơn giản. Sau này mới biết lỗi, bèn lập tức bỏ ra, y cứ vào chỗ không bàn bạc để thực hành công phu, nay mới nhìn thấy tin được, mới biết việc này truyền không được, học không được, tính toán không được, bàn bạc không được. Hầu ta từ phương Nam đến, liền theo nhau đến bờ vắng lặng, xem bốn năm, nhờ tôi nêu thoại đầu của Tiên sư là Đạo Nhân Tịch Thọ đã nói là chẳng phải tâm chẳng phải Phật, chẳng phải vật. Chợt đi đến bên là lửa, nhặt được một hạt đậu rang ăn xong. Từ đây Hương Tích diệu cúng cũng vô tâm đi đến, nhưng bánh chưng không gởi cho hắn một ít, ăn một bữa không được. Lý do đặc biệt tôi tạm trở về Chiết Giang, mang theo cốt lõi này cầu chỉ dạy, vẫn tặng cho hai bài kệ rằng: Che trời lấp đất một điểm ấy, Không xưa không nay, bặt gánh vác. Dối gạt thần trao cho Thiền giả, Mặc các vị tối tăm so lường, Lừa mù diệt mất mắt chánh pháp, Tông phong Lâm Tế mới nổi lên, Đáng thương kẻ giúp mua bán Phật, Che lấp tận cùng thương lượng sai. Chỉ dạy giảng chủ Đạo Minh. Xưa Mã Tổ hỏi Lượng tọa chủ rằng: nghe nói ông giảng được nhiều kinh luận phải chăng? Lượng đáp: không dám. Tổ lại hỏi: sẽ giảng về điều gì? Đáp: Sẽ giảng về Tâm. Tổ nói: Tâm như người thợ khéo, ý như họa só, thế nào giảng được kinh? Lượng đáp: Tâm đã giảng không được, chớ hư không giảng được chăng? Tổ nói: lại hư không giảng được. Lượng không bằng lòng dũ tay áo bỏ đi. Tổ bèn kêu: “Tọa chủ”, lượng ngoái đầu nhìn lại, hoát nhiên khế ngộ, bèn làm lễ rồi đi, thẳng về Tây Sơn dứt bặt tin tức, lập tức quét sạch con đường phàm Thánh. Như người đời nay chợt có chợt không hoặc từ cửa miệng của Sư gia mà nhận được, trong lúa mạch có bột mì là do gạo làm ra, lại tìm hiểu biết trong lúa trong gạo, sư gia phải biết nói ta đã được, lý này sợ sư gia không biết, những hạng như vậy chỉ nhận được cái trước lừa, sau ngựa, muốn được như Lượng tọa chủ ngay lời nói của Mã Tổ lập tức quên sở chứng của mình, cũng chẳng phải khó hay sao? Bởi vì Lượng Công đập bể chất thép cũ thì đúc thành sắt mới, nên có thể ngàn liễu trăm đương, liền thoát ra khỏi hang ổ giáo thừa mầu nhiệm, tức thời trước sau, giữa đều dứt, hiểu không một pháp có thể làm được. Không hiểu đạo lý, như nay người giảng xưa nghe Tôn Sư nói lại là hư không giảng được, lại hướng lên hư không sờ Đông mó Tây, không nghi ngờ thì phỉ báng. Tọa chủ Đạo Minh cũng là người giảng kinh, biết được một điểm ấy quyết định không ở trong văn tự ngôn ngữ, văn tự ngôn ngữ chính là nêu mặt trăng và ngón tay. Muốn tìm thiện tri thức lý giải chỗ lìa tướng nói năng, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên nên phải đến tìm Diệu Hỷ. Diệu Hỷ thương người chí thành, viết ra đoạn công án này để chỉ bày, một hôm chợt hướng về văn tự viết trên giấy, biết được tin tức truyền riêng ngoài giáo, mới biết trong lúa mạch không có bột mì, chẳng phải gạo làm ra, biết rõ như thế liền có thể lúc giảng, chưa giảng, đem một con rắn chết làm cho sống lại, nhảy lăn lóc, nói hư không giảng giải kinh, hư không chẳng giảng giải kinh, nói chung là việc trong nhà mình, trong giáo ngoài giáo lại thấy không làm rồi, chưa rồi. Hai cái thấy đã mất thì khi giảng tức là khi chưa giảng, lúc không giảng tức là lúc giảng, lúc im lặng là nói, lúc nói là im lặng, mở rộng cánh cửa bố thí không bất lấp, là chân ngữ, là thật ngữ, như ngữ, không dối gạt, không lừa phỉnh. Nói năng như thế, thật giống như không mộng mà nói mộng, mở mắt đái dầm, làm như thế cũng bị ba mươi gậy. Tuy như vậy cũng chỉ đem chữ giả danh dẫn dắt chúng sanh, cũng không gây trở ngại cho việc giảng kinh, lý giải tin tức truyền riêng ngoài giáo của Tổ Sư. Đạo Minh chỉ như vậy mà thực hành công phu, chỉ như vậy mà giảng kinh luận, không trở ngại giấy đã hết, lại cắt đứt sắn bìm này. Chỉ dạy Thiền Nhân Diệu Tông. Bậc Cổ Thánh nói: Đạo không cần tu, nhưng chớ ô nhiễm. Sơn Tăng nói: Nói tâm nói tánh là ô nhiễm, ý đắm trước suy nghó là ô nhiễm, chỉ nay bình giấy bút như thế là đặc biệt ô nhiễm. Ngoài ra, xét đến cùng thì như thế nào? Dinh mắc vào chỗ thật đắc lực, kiếm báu kim cương chém thẳng vào đầu, chẳng lo việc nhân gian là đúng hay sai. Thiền nhân Diệu Tổng chỉ cần tham cứu như thế.  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 25 THIỀN SƯ TUỆ NHẬT UẨN VĂN DÂNG LÊN. * Trả lời Tăng Thị Lang (Thiên Du). Khai Khoảnh ở Trường Sa, được sách của Lão Sư Viên Ngộ, Xưng Công tuổi đã xế chiều, từ chỗ được rất kỳ vó, nhớ nghó nhiều lần, nay đã tám năm rồi, thường tiếc rằng chưa được đích thân nghe việc rớt lại, chỉ hết sức kính mến. Khai từ nhỏ phát tâm tham kiến lễ bái tri thức hỏi về việc này. Sau thời trai trẻ (hai mươi tuổi) thì bị hôn nhân sai khiến, dụng công phu chưa thuần thục, lần lựa đến nay già rồi mà chưa có sở văn, thường tự hổ thẹn than thở, nhưng lập chí phát nguyện thật không ở trong tri kiến nông cạn, cho rằng không ngộ thì thôi, ngộ thì phải thẳng đến, chỗ đích thân chứng của người xưa mới là chỗ đại nghỉ ngơi. Tâm này tuy không hề có một niệm lui sụt, tự giác công phu chưa được thuần nhất, có thể nói là chí nguyện lớn mà sức lực thì nhỏ, hướng về Lão Sư Viên Ngộ tha thiết xin chỉ bày sáu đoạn pháp ngữ, đầu tiên là chỉ thẳng vào việc này. Sau đó nêu Vân Môn và Triệu Châu buông bỏ dính mắc vào hai núi Tu-di là nhân duyên khiến cho công phu hạ độn thường tự tỉnh giác, lâu ngày sẽ có chỗ vào, tâm lão bà tha thiết như vậy. Ngặt vì đần độn ngăn lấp quá nhiều, nay may mắn tư gia trần duyên đều làm xong, nhàn rỗi không còn việc gì khác. Khuôn phép ở chỗ ra sức tự thúc ép để trả lại chí ban đầu, nhưng tiếc vì chưa được gần gũi chỉ dạy, suốt đời hư hỏng mình, mỗi thứ lớp đều có thể soi rõ tâm này, nhìn vào chỗ ngoằn ngoèo mà đề phòng, hằng ngày phải công phu như thế nào? Ngõ hầu không liên quan tới đường khác, trực tiếp khế hợp với bản địa. Nói như vậy thì thất bại thiếu sót rất nhiều, nhưng mới quy phục, thì tự thấy khó mà lẫn trốn rất đáng thương. Rất mong. Thừa Tự Cập từ nhỏ đến lúc làm quan, tham lễ các bậc đại Tôn sư, khoảng giữa đó thì bị khoa cử hôn nhân sai khiến lại bị ác gian, ác tập trội hơn nên chưa thể thuần nhất thực hành công phu, cho đây là tội lớn, lại có thể hết sức nghó đến thế gian vô thường, mỗi thứ đều hư huyễn không có việc gì đáng vui, chuyên tâm muốn nghiên cứu một việc lớn nhân duyên này, rất hài lòng vừa ý vị Tăng bị bệnh, nhưng đã là kẻ só dựa vào bổng lộc để sống, khoa cử hôn nhân là chỗ mà thế gian không thể tránh khỏi, cũng chẳng phải là tội của ông. Vì tội nhỏ mà hết sức sợ hãi, nếu chẳng phải nhiều kiếp từ vô thỉ đến nay đã thừa sự chân thiện tri thức huân tập hạt giống trí Bát-nhã sâu dày thì đâu thể được như vậy, mà chỗ gọi là tội lớn của ông, bậc Thánh hiền cũng chẳng thể tránh khỏi, nhưng biết hư huyễn chẳng phải là pháp rốt ráo, hãy hồi tâm về môn này, dùng nước trí Bát-nhã rửa sạch chất dơ bẩn cấu nhiễm, thanh tự phong cho mình, hiện thời một dao đứt làm hai đoạn, lại không khởi tâm nối tiếp nhau, không cần phải suy trước nghó sau. đã nói là hư huyễn thì khi làm cũng huyễn, khi thọ cũng huyễn, khi hay biết cũng huyễn, khi mê lầm điên đảo cũng huyễn, quá khứ, hiện tại, vị lai đều là huyễn, ngày nay biết lỗi thì dùng thuốc huyễn bị bệnh huyễn, khỏi bệnh thì bỏ thuốc, theo trước chỉ là người thời xưa. Nếu chỉ có người có pháp thì đó là kiến giải của tà ma ngoại đạo. Công suy nghó sâu về điều này, chỉ như vách đá này sẽ đi, thường ở trong vắng lặng, dè dặt không được quên núi Tu-di, buông bỏ hai điểm là nói chỉ từ chỗ dưới chân thật là sẽ đi. Mình hơn thì không nên sợ hãi mà chướng đạo. Nhưng ở trước Chư Phật phát thệ nguyện rộng lớn, nguyện tâm này vững bền không bao giờ lui sụt, nhờ Chư Phật che chở gặp bậc thiện tri thức, ngay một lời nói, dứt hết sanh tử, chứng ngộ vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, nối tiếp tuệ mạng của Phật, để báo ân rộng lớn của Chư Phật. Nếu được như vậy thì lâu ngày không có lý gì mà không ngộ. Chẳng thấy Đồng tử Thiện Tài theo Văn-thù phát tâm, dần dần đi về phương Nam trải qua một trăm mười ngôi thành tham kiến năm mươi ba vị thiện tri thức. Sau cùng đến chỗ Di-lặc trong khoảng búng ngón tay lập tức mất pháp môn sở đắc với các bậc thiện tri thức đã tham học trước kia. Lại theo lời dạy của Di-lặc đến hầu Văn-thù, Văn-thù từ xa duỗi tay phải qua một trăm mười do- tuần xoa lên đỉnh đầu Thiện Tài nói: lành thay! Lành thay! Nầy người thiện nam, nếu lìa tín căn, tâm buồn rầu hối hận, công hạnh không đủ, lui sụt siêng năng, ở một gốc lành tâm sanh trụ trước, đối với chút ít công đức liền cho là đủ, không thể khéo léo phát khởi hạnh nguyện, không bị thiện tri thức nhiếp hộ. Cho đến không thể biết rõ pháp tánh như vậy, lý thú như vậy, pháp môn như vậy, sở hành như vậy, cảnh giới như vậy. Hoặc biết cùng khắp, như biết các thứ, như tận nguồn, như hiêu rõ, như thú nhập, như giải thích, như phân biệt, như chứng biết, như đạt được, đều không thật có. Văn-thù tuyên bày cho Thiện Tài như thế. Thiện Tài ngay lời nói liền thành tựu A-Tăng-kỳ pháp môn, đầy đủ vô lượng ánh sáng đại trí, nhập vào pháp môn Phổ Hiền, trong một niệm đều thấy số các thiện tri thức nhiều như cát bụi trong Tam thiên đại thiên thế giới, thảy đều gần gũi cung kính hầu hạ, được thực hành lời dạy của các Ngài, không quên niệm trí, trang nghiêm tạng giải thoát, cho đến nhập vào lỗ chân lông của Phổ Hiền, ở trong lỗ lông đi một bước trải qua không thể nói, không thể nói số thế giới cõi Phật nhiều như bụi, đều ngang bằng với Phổ Hiền. Chư Phật, các cõi, các hạnh và giải thoát tự tại, không hai không khác, lúc đó mới có thể hồi ba độc thành ba nhóm tịnh giới, hồi sáu thức làm sáu thần thông, hồi phiền não thành Bồ-đề, hồi vô minh thành đại trí. Như bên cuộn tơ này chỉ có đương nhân cuối cùng một niệm chân thật mà thôi. Thiện Tài đến chỗ Di-lặc trong khoảng búng ngón tay còn có thể mất tam-muội đã chứng với các bậc thiện tri thức, huống chi là những tập khí nghiệp ác luống dối từ vô thỉ. Nếu cho những tội lỗi đã gây ra trước đây là thật thì hiện tại cảnh giới trước mắt đều thật có, cho đến quan chức, giàu sang ân ái đều là thật, đã là thật thì địa ngục, cõi trời cũng thật, phiền não vô minh cũng thật, người tạo nghiệp cũng thật, người chịu quả báo cũng thật, pháp môn đã chứng đắc cũng thật. Nếu khởi kiến giải thông thường nầy thì tận cùng vị lai cũng không có người hướng đến Phật thừa. Ba đời Chư Phật, các đại Tổ sư, các loại phương tiện đổi lại thành nói dối. Khi được công gửi thư liền đốt hương đối với các bậc Thánh và xa lễ đến am để sau này phân phát đi. Công thành tâm tha thiết như vậy, cách nhau tuy không xa lắm nhưng chưa được trực tiếp nói chuyện, lòng tin tùy ý bất giác buồn rầu đau khổ như hứa, nếu có ai rắc rối, cũng khởi tâm chí thành không dám dùng một lời một chữ mà khi dối nhau, nếu lừa dối ông thì tự lừa dối mình. Lại nhớ Thiện tài yết kiến Bà-la-môn Tối Tịch Tónh, được thật ngữ giải thoát, quá khứ hiện tại vị lai, Chư Phật, Bồ-tát đến A-nậu Bồ-đề, không đã thoái, thoái hiện thoái, và không đương thoái. Hễ có mong cầu gì đều mãn nguyện, đều do chí thành mà được. Ông đã làm bạn với Trúc Đình Bồ-Đoàn, chẳng khác Thiện tài yết kiến Bà-la-môn Tối Tịch Tónh, lại gửi thư của Vân Môn, đối các Thánh từ xa làm lễ rồi mới gửi đi, chỉ cần Vân Môn tin tưởng cho phép thì đây hết mực chí thành. Nhưng cho phép ông chỉ công phu như vậy thì tương lai sẽ đắc A-nậu-bồ-đề không nghi ngờ gì cả. Lại nữa, Ông tuy giàu sang mà không bị sự giàu sang làm cho khốn đốn, nếu đời trước chẳng trồng hạt giống trí Bát-nhã thì đâu thể nào được như vậy. Nhưng trong lúc sợ thì quên mất ý này, bị lợi căn thông minh làm chướng ngại, vì có tâm sở đắc ở trước đã xả ngay, nên không thể ở chỗ đường tắt thẳng thắn một đao dứt làm hai đoạn, lập tức nghỉ ngơi của người xưa. Căn bệnh này chẳng riêng bậc hiền só Đại phu bị mà nạp tử tham cứu lâu ngày cũng bị như vậy, phần nhiều không chịu lùi bước, y cứ vào kiệm sức thực hành công phu, chỉ dùng cái thông minh, ý thức tính toán, suy lường hướng ngoại tìm cầu, chợt nghe tri thức chỉ bày sự thông minh ý thức suy lường tính toán vốn là phần cỏ rác, phần nhiều lầm ngay trước mặt, sẽ cho rằng trên từ bậc cổ đức có thật pháp cho người. Như Lâm Tế buông bỏ dính mắc vào loại núi Tu-di của Vân Môn. Nham đầu nói rằng: từ chối vật là thượng, chạy theo vật là hạ. Lại nói: hệ thống chung phải biết câu, câu là gì? Không suy nghó nhiều gọi là câu đúng, cũng gọi là cư đỉnh, cũng gọi là đắc trụ, cũng gọi là rõ ràng, cũng gọi là sáng suốt, cũng gọi là thời ấy, dùng thời ấy v.v… phá tất cả đúng sai. Vừa như thế lại không như thế, câu đúng cũng bỏ, câu sai cũng bỏ như một cục lửa chạm vào liền bị bỏng, có gì hướng vào chỗ bên cạnh. Kẻ só đại phu thời nay phần nhiều lấy sự suy lường tính toán làm quan trọng, nghe lời nói như thế liền nói chẳng rơi vào không. Dụ như thuyền chưa bị lật mà đã nhảy xuống xông trước rồi, những người này thật đáng thương xót. Gần đến Giang Tây yết kiến Lữ Cư Nhân, Cư Nhân để ý đến nhân duyên này rất lâu, cũng rất bị bệnh này, ông ta há chẳng phải là người thông minh hay sao? Tông Cảo từng hỏi ông ta rằng: ông sợ rơi vào không, có thể biết sợ thì là không chăng? Là chẳng phải không chăng? Thử nói xem. Ông ấy đứng suy nghó mãi định để đối đáp. Lúc ấy, Sư liền hét một tiếng, đến nay không biết gì, cho là lỗ mũi không bị nghẹt. Đó là do cầu tâm chứng ngộ, ở chỗ buông thả trước kia đã tự làm chướng nạn không dính dáng gì đến việc khác. Ông thử công phu như thế lâu ngày chày tháng tự nhiên được vững vàng. Nếu muốn đem cứu đến khi Di-lặc ra đời cũng không thể được ngộ, cũng không thể được nghỉ ngơi, càng thêm mê mờ buồn bực. Hòa thượng Bình Điền nói rằng: thần quang không mơ hồ, muôn xưa tốt đẹp, vào được môn này, chẳng còn tri giải. Lại người xưa nói rằng: việc này không thể có tâm cầu, không thể vô tâm mà được, không thể dùng ngôn ngữ tạo, không thể dùng lặng lẽ để thông suốt. Đây là bậc nhất vào bùn vào nước, lão bà nói rằng thường tham kiến thiền nhân, chỉ nghó qua như thế, đâu không cẩn thận, xem là đạo lý gì? Như là cái có gân cốt. Bốn con đường quan hệ xoắn xuýt thì đường sanh tử cũng dứt, con đường phàm Thánh cũng dứt, được mất đúng sai cũng dứt. Dưới gót chân đương nhân toàn là trần trùng trục, không thể nắm bắt, há không thoải mái, không thoả thích hay sao? Không thấy thuở xưa, Hòa thượng Quán Khê đến liền bước xuống giường bỗng túm ngực áo Quán Khê, Quán Khê liền nói: lãnh lãnh. Ngài Lâm Tế biết Quán Khê đã thông suốt thì liền buông ra, lại không nói một câu thương lượng với Quán Khê. Khi ấy Quán Khê suy nghó tính toán như thế nào đúng được? Xưa nay mong có tấm gương này. Như người đời nay toàn bộ không làm việc, chỉ làm tâm thô. Quán Khê trước đây nếu có một chút tâm đợi ngộ, đợi chứng, đợi nghỉ ngơi thì lúc trước chớ nói bị túm ngực áo liền ngộ, liền là trói ké chân tay lại nhiễu quanh bốn thiên hạ một vòng nghỉ ngơi. Bình thường tính toán sắp xếp là thức tình, theo sự trôi lăn của sanh tử cũng là thức tình, sợ hãi hoảng loạn cũng là thức tình, mà người tham học đời nay không biết bệnh ấy, miễn là trong đó cho phép, trồi lên hụp xuống. Trong giáo lý cái gọi là theo thức mà làm, không y theo trí, do đó mê muội bản địa phong quang mặt mũi xưa nay. Nếu nhất thời buông bỏ được, không suy lường tính toán, chợt sẩy chân đạp lên lỗ mũi thì thức tình này liền là chân không diệu trí, lại không có trí khác để được. Nếu có sở đắc riêng, có sở chứng riêng thì lại không đúng. Như người lúc mê thì gọi Đông là Tây, đến khi ngộ thì Tây tức là Đông, không có Đông riêng. Chân không diệu trí này còn có một vật chướng ngại cũng không trở ngại các vật qua lại trong hư không. Chân không diệu trí này cũng như vậy, sanh tử, phám Thánh, cấu nhiễm, không dính mắc chút nào. Dù không dính mắc được nhưng không trở ngại sanh tử, phám Thánh qua lại trong đó. Như tin tưởng và thấy thấu suốt mới là bậc hảo hán ra khỏi sanh tử được tự tại hoàn toàn, mới cùng Triệu Châu buông không núi Tu-di của Vân Môn, được chút phần tương ưng. Nếu không tin, buông không xuống, lại xin gánh lấy núi Tu-di đi khắp nơi gặp người mắt sáng, nêu bày rõ ràng, một nụ cười. Lão Bàng nói rằng: chỉ xin không các chỗ có, chớ thật các chỗ không. Chỉ cần hiểu được hai câu nầy thì một đời tham học làm xong. Thời nay, có một loại ngoại đạo cạo tóc, mắt mình không sáng, miễn là dạy người chết được nghỉ ngơi. Nếu nghỉ ngơi như vậy, đến ngàn Phật ra đời cũng nghỉ ngơi không được, càng khiến cho tâm mê mờ phiền muộn. Lại dạy người theo duyên, mang vọng tình thầm soi chiếu, soi tới soi lui mang qua mang lại, càng thêm mê muội, không có hẹn ngày ra. Dứt mất phương tiện của Tổ Sư, lầm chỉ dạy người, dạy người một bề sống suông chết uổng, lại dạy người việc ấy chớ lo, chỉ nghỉ ngơi như thế đi, nghỉ ngơi để tình niệm chẳng sanh, đến lúc ấy chẳng phải tối tăm không biết gì, chỉ là sáng suốt rõ ràng. Cách này độc hại làm mù mắt người, chẳng phải là việc nhỏ. Vân Môn bình thường gặp hạng này, không cho là người đối đãi. Kẻ đã tự không có sáng mắt, miễn là đem quyển sách nhỏ lên nói, bắt chước nguyên xi, dạy người điều này làm sao dạy được. Nếu tin theo cách này thì nhiều kiếp tham cứu không được. Vân Môn bình thường chẳng phải không dạy người công phu ngồi thiền để được tịch tónh, đây là ứng bệnh cho thuốc, thật không có chỗ chỉ dạy cho người như thế. Hòa thượng Hoàng Bá nói: Thiền tông này của ta từ khi truyền trao cho nhau đến nay, không hề dạy người tìm hiểu biết, chỉ nói là học đạo, đạo không nơi chốn gọi là tâm Đại thừa, tâm này không ở trong, ngoài, không ở giữa, thật không có nơi chốn. Đầu tiên không được khởi lên sự hiểu biết, chỉ nói về chỗ tình chấp so lường hôm nay của ông là Đạo, tình lượng nếu hết, tâm không nơi chốn, đạo này thiên chân vốn không danh tự, chỉ vì người đời không biết, mê ở trong tình, cho nên Chư Phật ra đời, nói pháp phá bỏ việc này, e rằng ông không hiểu, quyền lập gọi là tên, không thể giữ tên mà sanh hiểu biết. Trước đã nói, kẻ mắt mù sai lầm chỉ bày cho người đều là nhận mắt cá làm hạt ngọc sáng, giữ tên mà sanh hiểu biết là dạy người chỉ biết chấp chặt, đây là phòng giữ gương giác trước mắt mà sanh hiểu biết. Dạy người kiên quyết nghỉ ngơi, đây là giữ vọng mang vắng lặng mà sanh hiểu biết, nghó đến không hay không biết giống như cỏ cây, sỏi đá. Khi đó chẳng phải không biết tối tăm, lại lầm nhận phương tiện mở lời trói buộc mà sanh hiểu biết. Dạy người tùy duyên chiếu cố, chẳng dạy giác hiện tiền. Đây lại là nhận được tình thức của đầu lâu người chết mà sanh hiểu biết. Dạy người chỉ biết phóng khoáng, mặc tình tự tại chẳng lo sanh tâm động niệm, niệm khởi niệm diệt vốn không thật thể. Nếu chấp là thật thì tâm sanh tử phát sanh. Đây là giữ thể tự nhiên làm pháp rốt ráo, mà sanh hiểu biết. Như các bệnh trên không dính dáng gì đến việc của người học đạo, đều do tông sư mắt mù lầm chỉ bày. Ông đã thanh tịnh rồi giữ một mảnh chân thật vững chắc hướng về tâm đạo, dù công phu thuần nhất hay không thuần nhất, nhưng không ở trong câu của người xưa, miễn là giống như pháp chồng chất, một tầng rồi lại một tầng, uổng dụng công phu chẳng có ngày liễu ngộ, chỉ giữ tâm ở một chỗ, chẳng có không được, thời tiết nhân duyên đến tự nhiên xây đắp trụ cột vững vàng. Không khởi một niệm, thì có lỗi không? Nói rằng núi Tu-di một vật không đem đến thì như thế nào? Nói rằng buông xuống, trong đây nghi ngờ không phá nổi, chỉ ở trong đây tham cứu như thế, đặc biệt không có Phật pháp chỉ dạy cho người. Nếu không tin thì mặc cho Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương lão, hồ nghi rồi lại hồ nghi. Đọc kỹ sách mới biết trong bốn oai nghi không có lúc xen hở, không bị phiền toái của ông quyết định, ở trong dòng chảy xiết thường tự tỉnh ngộ, đâu không buông lung, đạo tâm càng lâu càng vững chắc, rất là hài lòng, nhưng thế gian trần lao như lửa cháy hừng hực, lúc nào mới tắt, đang trong chỗ ồn náo, nếu trong chỗ ồn náo mà không đắc lực thì lại giống như chưa từng công phu ở trong vắng lặng, nhờ có duyên lộn xộn trước kia mà nay chịu quả báo này, một mình không dám nghe lệnh. Nếu động niệm này thì chướng đạo. Người xưa nói rằng: theo dòng mà nhận được tánh, không vui cũng không buồn. Kinh Tịnh Danh chép: ví như đất liền cao nguyên hoa sen không mọc được, ở chỗ bùn ẩm thấp hoa này mới mọc được. Lão Hồ nói rằng: chân như không giữ tự tánh, tùy duyên mà thành tựu tất cả sự pháp. Lại nói rằng: tùy duyên đi cảm hóa cùng khắp mà thường ở tòa Bồ-đề này, chẳng lẽ lừa dối người ư? Nếu cho chỗ yên tónh là đúng, chỗ ồn ào là sai thì đó là hoại tướng thế gian mà cầu thật tướng, lìa sanh diệt mà cầu vắng lặng, thích yên tónh ghét ồn ào thì vừa dùng sức, bỗng nhiên trong ồn ào đánh ngược lại tin tức lúc yên tónh thì sức ấy có thể hơn Trúc Ỷ Bồ Đoàn ngàn muôn ức lần. Chỉ nghe nhau thì quyết không lầm nhau. Lại nhờ dùng hai câu của lão Bàng khắc làm bài văn Khuyên răn trong lúc đi đứng nằm ngồi, khéo léo không thể thêm vào. Nếu đang khi ồn ào sanh nhàm chán thì chính là tự quấy nhiễu tâm mình. Nếu khi động niệm chỉ dùng hai câu của lão Bàng để thức tỉnh thì đó là lúc nóng bức được uống nước mát lạnh. Ông có niềm tin quyết định thì là người trí tuệ rộng lớn, công phu trong vắng lặng lâu ngày mới dám nói lời này, đối với phần người khác thì không được. Nếu hướng về người Tăng thượng mạn nghiệp thức mịt mờ mà nói như vậy, chính là thêm gánh vác nghiệp ác cho họ. Các loại đau bịnh của thiền môn, đã có các sách trước, chẳng biết có lý giải tỉ mỉ hay không? Thừa dụ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không động, có thể nhập đạo là môn phương tiện, mượn môn phương tiện để nhập đạo thì được, giữ phương tiện không buông bỏ là bệnh. Thật ngữ của Như lai, Sơn Dã học được khôn xiết vui mừng, hết sức phấn khởi. Nay, thùng sơn của các vị chỉ dùng thật pháp mà chỉ dạy người, cho nên có rất nhiều người mù mắt. Vì lẽ đó mà Sơn Dã phân biệt chính là để cứu họ. Đời mạt pháp ma mạnh pháp yếu, người dùng việc chìm vào sâu lắng để làm rốt ráo nhiều không thể kể xiết. Giữ phương tiện không bỏ làm Tôn sư, như cây đai cây thực. Sơn Dã gần đây từng cùng với hàng nạp tử nêu hai đoạn này, đúng như sách của Như lai đã nói không sai một chữ, chẳng phải để ý xung quanh, nếu trong niệm niệm không xen hở thì không thể hiểu suốt từ trên các bậc Thánh và các phương tiện khác. Ông đã nắm được cái chuôi (chỗ yếu) rồi. Đã nắm được chỗ yếu trong tay rồi còn lo gì mà không bỏ phương tiện để nhập đạo, chỉ như thế mà công phu, xem kinh giáo và ngữ lục của người xưa mỗi thứ ngôn cú khác nhau cũng chỉ công phu như vậy. Như núi Tu-di buông xuống, thoại đầu con chó không có Phật tánh, thoại đầu cây trúc bề, thoại đầu một hớp uống hết nước sông Tây giang, thoại đầu cây bách ở trước sân, cũng chỉ như thế mà thực hành công phu, lại không được sanh hiểu riêng khác, cầu đạo lý riêng, làm mánh khóe riêng, ông có thể hướng vào dòng chảy xiết, thường tự lựa chọn như thế, nếu đạo nghiệp không thành thì Phật pháp không linh nghiệm. Nhớ lấy, nhớ lấy, thừa lúc đêm nằm mộng đốt hương đi vào trong thất của Sơn Tăng rất thong dong, thật không được trong mộng mà biết, phải biết là thật vào trong thất. Chẳng thấy Xá-lợi-phất hỏi Tu- bồ-đề hay sao? Rằng trong mộng nói sáu Ba-la-mật, đến lúc tỉnh dậy là giống hay khác? Tu-bồ-đề đáp: nghóa này sâu xa, tôi không thể nói, hội này có Đại Só Di-lặc ông nên đến đó hỏi Ngài. Ôi! Lậu hoặc dừng lại rất nhiều. Tuyết Đậu nói rằng: đương thời nếu không bỏ qua rồi sau cho một tờ trát, ai gọi là Di-lặc, ai là Di-lặc, liền thấy nước tan ngói bể. Ôi! Tuyết Đậu lậu hoặc cũng dứt rất nhiều. Hoặc có người hỏi: như đợi đến giấc mộng mới vào thất của Vôn Môn, liền hướng về ông ấy hỏi: ai là người vào thất, ai là người bị vào thất, ai là người nằm mộng, ai là người thật vào thất? Ôi! Lậu cũng dứt rất nhiều. Lại thư đọc kỹ sách đủ thấy biện tâm sắt đá, lập chí quyết định, không chịu qua loa vội vã. Nhưng chỉ vách đá này đến ngày ba mươi tháng chạp cũng có thể chống cự lại ông già Diêm-la, lại không nói, mở rộng mắt trên đỉnh môn, nắm chắc kiếm báu kim cương vương, ngồi trên đảnh Tỳ-lô. Tông Cảo có bảo các bạn đạo bên ngoài rằng: kẽ só học đạo thời nay, chỉ cầu mau hiệu quả, không biết đó là sai lầm. Lại nói: vô sự tónh duyên, tỉnh tọa thể cứu là uổng phí thời gian không bằng xem vài quyển kinh, niệm vài câu Phật, lễ bái trước Phật, sám hối tội lỗi suốt đời đã gây ra, muốn tránh khỏi gậy sắt trong tay của ông già Diêm-la. Đây là việc làm của người ngu. Nhưng nay nói gia là lưu, toàn đem tâm vọng tưởng mà tưởng mặt trời mặt trăng, nuốt mây uống khí, còn có thể lưu thân ở đời, không bị lạnh nóng ép ngặt. Huống chi là hồi tâm niệm này trọn trong Bát-nhã. Bậc Tiên Thánh có nói rõ rằng: ví như quá nhiều mạt trùng bu đậu khắp nơi, nhưng không thể bu vào đống lửa. Chúng sanh cũng vậy, có thể duyên các nơi, chỉ không thể duyên vào Bát-nhã. Nếu niệm niệm không lui sụt tâm ban đầu, đem tâm thức mình duyên theo trần lao, mà xưa ngay ở trong Bát-nhã. Tuy đời này làm chưa thấu suốt nhưng đến lúc qua đời quyết định không bị nghiệp ác lôi kéo vào đường ác, đến kiếp lai sanh tùy theo nguyện lực đời nay của mình chắc chắn ở trong Bát-nhã hiện thành thọ dụng. Đây là việc quyết định không còn nghi ngờ gì. Trong cõi chúng sanh việc không đểtâm học, từ vô thỉ đến nay huân tập thành thói quen, đường lối cũng quen, tự nhiên nhiều người gặp được gốc ấy phải gạt qua một bên. Xuất thế gian học tâm Bát-nhã, từ vô thỉ đến nay làm ngược lại, chợt nghe tri thức nói đến tự nhiên hiểu không được, phải lập chí quyết định để chống lại, quyết không lập hai bên. Nếu chỗ này vào được sâu thì chỗ kia không mắc kẹt vào tiêu khiển, các ma ngoại đạo tự nhiên ẩn náu. Chỗ sanh nói giáo thành thạo, chỗ thành thạo nói giáo sanh, chính là ở đây. Chỗ công phu hằng ngày, nắm được điểm yếu, dần dần biết thời tónh lực thì đó là chỗ đắc lực. * Trả lời Lý Tham Chánh (Hán Lão). Bính cận gõ cửa nhà Trù nhờ sự gợi mở chỗ che lấp nên bỗng có chỗ tỉnh ngộ, nhưng căn thức ám độn học hiểu suốt đời mà chỉ rơi vào tình kiến, vừa lấy vừa bỏ, như mặc chiếc áo rách nát đi trong cỏ gai, tự bó buộc. Nay một nụ cười lập tức tiêu tan hết. vui mừng khôn xiết, chẳng phải Đại Tông Sư khéo léo rũ lòng từ thì đâu được như vậy. Tự vào trong thành, đắp y ăn cơm, bế con giỡn cháu, màu sắc vẫn y như cũ, đã dứt tình vướng mắc, cũng không khởi ý tưởng kỳ lạ, ngoài ra các chướng cũ đã huân tập từ trước cũng có chút ít nhẹ nhàng, lời dặn dò khi sắp giã biệt chẳng dám quên, trọng niệm mới được nhập môn, nhưng đại pháp chưa rõ, ứng cơ tiếp vật, gặp việc chưa thể vô ngại, lại mong có người dạy bảo, khiến cuối cùng có chỗ đến, ngõ hầu không có một vết nhỏ ở pháp tịch. Nêu ra thí dụ: tự vào trong thành đắp y khất thực, bế con giỡn cháu, sắc sắc vẫn như cũ, đã dứt tình ngăn lấp, cũng không khởi tưởng kỳ lạ, chướng cũ huân tập từ kiếp trước cũng dần dần nhẹ nhàng, nói như vậy ba lần, vui mừng phấn khởi. Đây chính là kinh nghiệm học Phật. Nếu không quá mức đại nhân ở trong một nụ cười rất đơn giản thì không thể biết nhà ta thật có điều nhiệm mầu bất truyền. Nếu không như vậy thì nghi ngờ hai chữ Pháp môn, tận cùng vị lại cũng không thể hoại, khiến hư không là miệng của Vân Môn. Cỏ cây, ngói đá đều phát ra ánh sáng giúp nói đạo lý cũng không làm gì được, mới tin nhân duyên này chẳng thể truyền, chẳng thể học, phải là tự chứng, tự ngộ, tự bằng lòng, tự nghó mới thấu suốt. Nay ông một nụ cười liền mất sở đắc còn nói gì. Ông già Mặt vàng nói rằng: không chấp chỗ nói năng của chúng sanh, tất cả việc hữu vi luống dối, dù không còn theo ngôn ngữ nói năng, cũng không mắc kẹt vào không nói năng. Thư gửi đến nói: đã mất tình vướng mắc, cũng không khởi ý tưởng kỳ lạ, thầm khế hợp với lời của ông già Mặt vàng, tức thuyết ấy thì gọi là Phật nói, lìa thuyết ấy là mà Ba-tuần nói. Sơn Dã xưa nay có thệ nguyện rộng lớn, thà đem thân này thay thế tất cả chúng sanh chịu khổ địa ngục, chớ không bao giờ dùng miệng này đem Phật pháp cho rằng nhân tình làm mù mắt tất cả mọi người. Ông đã được mảnh ruộng (mức độ) như thế nào thì tự biết, việc này không tự ở nơi người được, chỉ y như cũ, không cần hỏi Đại pháp sáng hay chưa sáng, ứng cơ ngại hay vô ngại. Nếu nghó như vậy thì chẳng y như cũ, chờ sau khi qua hạ mới phục xuất được, rất hiệp với ý Tăng bệnh. Nếu lại cuồng nhiệt tuy cầu không dứt thì không phù hợp. Hôm trước, thấy ông hết sức vui mừng do đó không dám nói ra sợ tổn thương lời nói. nay sự vui mừng đã yên, mới dám chỉ ra việc này, thật không dễ dàng, phải sanh tâm hổ thẹn mới được. Thường thường, bậc lợi căn thượng trí, được không phí sức, bèn sanh tâm dễ duôi, vì không chịu tu hành nên phần nhiều bị cảnh giới đoạt đem đi trước mắt, làm chủ tể không được, lâu ngày chày tháng mê mờ nên không quay lại, đạo lực không thể thắng nghiệp lực, ma được dịp làm hại, chắc chắn bị ma nhiếp trì, đến lúc sắp qua đời cũng không đắc lực, tuyệt đối phải nhớ lấy, lời hôm trước lý thì đốn ngộ, nhưng thừa ngộ mà hoàn toàn triệt tiêu, sự thì dần dần dứt trừ, nhân lần lượt hết, đi đứng nằm ngồi, dè dặt không được quên. Ngoài ra, các loại ngôn cú khác nhau của người xưa đều không thể cho là thật, nhưng cũng không thể cho là giả, lâu ngày thuần thục, tự nhiên thầm khế hợp với bản tâm mình, không cần tìm sự cao siêu kỳ lạ riêng. Xưa, Hòa thượng Thuỷ Lạo ở Thái Đằng hỏi Mã Tổ: thế nào là ý Tổ Sư từ phương Tây đến? Tổ nói: ở gần xưa nay là đạo của ông. Thuỷ Lạo vừa đến gần thì Mã Tổ đạp vào ngực một cái té nhào. Thuỷ Lạo bất giác chồm dậy vỗ tay cười ha ha thật lớn. Tổ hỏi: ông thấy lý gì mà cười? Thuỷ Lạo nói: Trăm ngàn pháp môn vô lượng nghóa mầu, ngày nay một tay trên đầu đều biết được cội nguồn. Mã Tổ liền không chú ý tới ông ta nữa. Tuyết Phong biết Cổ Sơn trút bỏ được và liễu ngộ, liễu tâm liền mất, chỉ mỉm cười đưa tay lên vẫy mà thôi. Tuyết Phong hỏi: ông thực hành đạo lý phải chăng? Cổ Sơn lại vẫy tay hỏi lại rằng: Hòa thượng có đạo lý gì? Tuyết Phong liền thôi. Thiền sư Mông Sơn Đạo Minh nhân dịp Lô Hành giả đến Dũ đoạt y bát. Lô Công ném vào tảng đá nói rằng: y này tiêu biểu cho niềm tin, có thể dùng sức để tranh giành hay sao? Mặc cho Côn đem đi, Minh cử không lay động, bèn nói rằng: tôi cầu pháp chớ chẳng vì y bát, xin hành giả khai thị. Lô Công nói rằng: không nghó thiện không nghó ác, chính lúc ấy là mặt mũi xưa nay của Thượng tọa. Khi đó Minh đại ngộ, toàn thân toát mồ hôi, rơi lệ đãnh lễ thưa rằng: ngoài mật ngữ mật ý trên, còn có ý chỉ gì chăng? Lô Công nói: nay ta nói cho ông biết, tức chẳng có mật ý, nếu ông soi ngược lại mặt mũi của chính mình thì chỗ mật ý lại ở bên cạnh ông. Nếu ta nói được tức là không mật. Vì ba vị Tôn túc, ba đoạn nhân duyên so với Công ở trong một nụ cười trong lòng tiêu tan không còn vướng mắc gì nữa, hơn kém như thế nào xin tự đoán xem còn có đạo lý kỳ lạ gì khác không? Nếu còn có riêng thì lại giống như chưa từng trút bỏ được. chỉ biết làm Phật chớ lo Phật không hiểu lời. Xưa nay, kẻ só đắc đạo tự mình đầy đủ, đem cái nhàn rỗi của mình ra ứng duyên tiếp vật, như gương sáng và hạt châu sáng ở trong lòng bàn tay, Hồ đến thì hiện hồ, Hán đến thì hiện Hán không mắc kẹt vào ý nghó, nếu kẹt vào ý nghó thì có thật pháp và thật người. Ông nói Đại pháp được sáng tỏ, ứng duyên không chậm lụt, chỉ y như cũ không cần hỏi ai, lâu ngày tự gật đầu. Đến gần thưa hỏi thỉnh sách ở bên phải tòa, ngoài ra không nói gì khác nữa, dù có nói thì đối với ông chỉ là lời thừa, sắn bìm quá nhiều tạm thời gác qua việc ấy. Lại nữa, Bính được dạy bảo đầy đủ ý chỉ sâu xa, Bính tự có ba kinh nghiệm: một là việc không thuận nghịch, tùy duyên ứng hiện không để trong lòng; hai là nghiệp huân tập đời trước đậm đà không thêm tiêu khiển, tự thấy nhẹ nhàng; ba là công án của người xưa vẫn cứ mù tịt, lúc bấy giờ lại nhìn xuống đất, đây chẳng phải tự mê muội, sách trước nói Đại pháp chưa sáng tỏ vì sợ rằng được chút ít cho là đủ, phải mở rộng thêm, đâu cầu thắng giải riêng, trừ sạch thì hiện dòng, lý thì chẳng phải ô, đâu dám không ghi nhớ. Sau khi tin càng thêm chiêm ngưỡng, chẳng biết ngày sau có tùy duyên phóng khoáng, như ý tự tại hay không? Trong bốn oai nghi không bị trần lao lấn áp hay chăng? Ngủ thức hai bên được như một chăng? Ở chỗ y như cũ không đi tạo tác chăng? Ở trong tâm sanh tử không nối nhau chăng? Nhưng chỉ là phàm tình đặc biệt không có Thánh giải. Ông đã cười mở rộng chánh nhãn, tin tức liền mất, đắc lực hay không đắc lực, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Nhưng trong nở dụng hằng ngày phải dựa vào lời nói của ông già Mặt vàng, mở mang chánh tín của mình, trừ trợ nhân của mình, bỏ hiện nghiệp của mình. Đây chính là bậc hảo hán hiểu việc, không ở trong phương tiện mà thật là phương tiện, không ở trong tu chứng mà thật là tu chứng, không ở trong lấy bỏ mà thật là lấy bỏ. Người xưa nói rằng: lột da ra hết chỉ còn một cái chân thật. Lại như chiên-đàn các nhánh rườm rà bị chặt bỏ hết chỉ còn rặt cây chiên-đàn. Bỏ hiện nghiệp từ trợ duyên, mở ra chánh tánh này là ông thử suy nghó, lời nói như vậy đối với bậc hảo hán biết việc phần lớn giống như một cán quạt của tháng mười hai, e rằng vùng đất phương Nam nóng lạnh bất thường, không được thiếu một nụ cười. <篇> <卷>QUYỂN 26 Trả lời Giang Cấp Sự (Thiếu Minh): Một đời sống con người là trăm năm có được bao lâu. Ông xây nhà bạch ốc trải qua hết thanh yếu. Đây là người hưởng phước bậc nhất ở thế gian, có thể biết hổ thẹn, hồi tâm hướng đạo, học pháp giải thoát sanh tử xuất thế gian, lại là người bỏ tiện nghi bậc nhất ở thế gian, phải là tay chân gấp vội, da mặt lạnh đi, không được nhận sự sai phái của người khác, tự mình lý giải bổn mạng nguyên thần, dạy chỗ đi rõ ràng, liền là bậc đại trượng phu hiểu việc thế gian và xuất thế gian. Nương vào nhiều ngày và tham thoại đầu chánh đạo, rất tốt, rất tốt! Ông này dừng được việc chạy tìm tâm, được con đường khác nhau là đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, nhìn thấy chân tay của người xưa, không bị phương tiện, văn tự của người xưa giăng bẫy. Sơn Tăng thấy hắn như vậy, cho nên không hề nói một lời với hắn, sợ rằng làm ngớ ngẩn hắn, chỉ chờ tương lai, tự muốn cùng Sơn Tăng nói chuyện, mới cùng nhau hiểu, không chỉ liền dừng như thế, người học đạo, nếu cứ chạy tìm tâm không nghỉ thì dù có cùng nhau lý giải cũng đâu có ích gì, đúng là kẻ cuồng si chạy rong bên ngoài. Người xưa nói rằng: gần gũi người hiền như đi trong sương mốc, tuy không ướt áo nhưng mỗi lúc có thấm nhuần. Nhưng nhiều lần nói chuyện với tham chánh, rất mong mỏi, rất mong mỏi, không thể đem lời chỉ dạy của người xưa mà xuyên tạc bừa bãi. Như Đại Sư Mã Tổ gặp Hòa thượng Nam Nhạc nói pháp rằng: ví như con trâu kéo xe, nếu xe không đi thì đánh xe là đúng hay đánh trâu là đúng. Mã sư nghe xong ngay lời nói liền biết chỗ về. Mấy câu nói này các vị nói pháp rất nhiều cũng như sấm như xét, như mây như mưa, lý giải không được, lầm ở danh ngôn, tùy lời nói mà sanh hiểu, thấy cuối sách của Chu phong có đặt ra chú giải. Sơn Tăng học điều nầy bất giác cười ngặt nghẽo, có thể cùng nói Như lai thiền, Tổ sư thiền, một dáng lãnh qua, một đạo hạnh tiêu trừ, đến bài tụng xem qua cẩn thận, lại hơn hai bài tụng hôm trước, từ đây có thể ngừng, tụng đi tụng lại, có mong hiểu được gì, giống như tham chánh, hắn đâu phải không biết làm kệ tụng, vì sao lại không làm một chữ, mới biết pháp thì sợ, chỗ hở có lẽ lộ ra đầu một sợi lông, tự nhiên gãi vào chỗ ngứa của Sơn Tăng, như ra khỏi núi chúc tụng nhau rằng: khắp nơi gặp người chợt hướng về nói lời lừa dối, có thể cho tòng lâm làm thuốc nhỏ mắt, một ngày khác ông sẽ tự thấy, không cần Sơn Tăng nói ra. Một người nào đó gần đây thấy ông đột nhiên thay đổi làm việc này rất cố gắng, nên soạn sách này, bất giác nối tiếp nhau. Trả lời Phú Xu Mật (Quý Thân). Nêu ra thí dụ: Tao Tuế biết tin hướng về đạo này, tuổi đã xế chiều mà còn bị hiểu biết chướng ngại chưa có một chỗ ngộ nhập, muốn biến ngày đêm thể đạo phương tiện, đã chí thành gánh vác không dám đứng ngoài cuộc, bằng cứ chính là kết án, sắn bìm cho chút ít, chỉ xin ngộ nhập chỗ này liền là tri thức chướng đạo, lại có tri thức gì riêng bị ông làm chướng ngại? Rốt ráo gọi cái gì là tri thức? Tri thức từ đâu đến, bị chướng ngại thì là ai? Chỉ một câu này, điên đảo có ba; tự nói bị tri thức chướng ngại là một, hai là tự nói chưa ngộ cam tâm chờ ngộ. Chỉ ba thứ điên đảo này chính là cội gốc sanh tử, chỉ cần một niệm bất sanh, điên đảo dứt bặt mới biết không có mê để phá, không có ngộ để chờ, không có hiểu biết để chướng ngại, như người uống nước nóng lạnh tự biết, lâu ngày tự nhiên không khởi loại kiến giải này. Nhưng có thể biết xem trong tâm hiểu biết có chướng ngại không, có thể biết trong tâm hiểu biết còn có nhiều thứ không? Từ bậc só có trí tuệ rộng lớn trên còn phải dùng hiểu biết làm bạn bè, dùng sự hiểu biết làm phương tiện, trong hiểu biết, thực hành lòng từ bình đẳng, ở trong sự hiểu biết làm các Phật sự, như rồng gặp nước, như hổ nhờ núi, không hề lấy đây làm phiền não, chỉ vì họ biết được chỗ phát khởi của trí giải, đã biết được chỗ phát khởi thì cái hiểu biết này chính là nơi giải thoát, chính là chỗ thoát khỏi sanh tử. Đã là nơi giải thoát, nơi thoát khỏi sanh tử thì tri, giải đương thể của nó là vắng lặng, tri, giải không thể không vắng lặng, Bồ-đề Niết-bàn, chân như Phật tánh chẳng thể không vắng lặng, lại có vật gì để chướng ngại, còn hướng đến chỗ nào cầu ngộ nhập. Ông già Thích-ca nói rằng: các nghiệp từ tâm sanh, nên nói tâm như huyễn, nếu lìa phân biệt nầy thì diệt được các cõi. Có vị Tăng hỏi Hòa thượng Đại Châu rằng: Thế nào là đại Niết-bàn? Hòa thượng đáp: không tạo nghiệp sanh tử là đại Niết-bàn. Vị Tăng hỏi: thế nào là nghiệp sanh tử? Hòa thượng đáp: cầu đại Niết-bàn là nghiệp sanh tử. Lại người xưa nói rằng: người học đạo một niệm chấp vào sanh tử liền rơi vào đường ma, một niệm khởi các kiến chấp liền rơi vào ngoại đạo. Lại kinh Tịnh Danh chép: chúng ma thì thích sanh tử, Bồ-tát ở trong sanh tử mà không bỏ. Ngoại đạo thì Thích-các kiến chấp, Bồ-tát ở trong các kiến chấp mà bất động. Đây chính là dùng tri giải thực hành lòng từ bi bình đẳng, ở trong tri giải thực hành lòng từ bi bình đẳng, ở trong tri giải làm các Phật sự. Chỉ vì họ rõ biết ba kỳ kiếp không sanh tử Niết-bàn, đều vắng lặng. Chưa được trình độ này thì tất cả không thể để bọn tà sư nói bừa bãi làm loạn đạo dẫn dắt vào trong hang quỷ, khép mi nhắm mắt khởi lên vọng tưởng. Gần đây Tổ đạo suy vi, dòng nầy như cây gai cây vừng, thật là một người mù đẫn đám người mù, kéo nhau vào hầm lửa, thật đáng thuơng xót, xin ông kiên quyết giữ chặt xương cột sống, chớ khởi lên cách nhận thức này, khởi lên cách nhận thức này, tuy tạm lấy được túi da thối liền cho là rốt ráo, mà tâm thức rối loạn, giống như ngựa hoang. Dù cho tâm thức tạm yên như đá đè cỏ, bất chợt lại sanh. Muốn thẳng đến Vô thượng Bồ-đề đến chỗ an vui rốt ráo, cũng không khó hay sao? Tông Cảo cũng từng bị dòng nầy làm mê hoặc, sau này nếu không gặp thiện tri thức thì sẽ bị luống uổng một đời, mỗi mỗi suy lường là không chịu nổi, do đó không tiếc nghiệp lực của miệng cứu kẻ dối trá này. Ngày nay ít có người biết lỗi, nếu muốn cắt đứt con đường lý giải phải được một niệm này như đất nứt ra, mới rõ được sanh tử, mới gọi là ngộ nhập, nhưng dè dặt không được giữ tâm chờ phá. Nếu giữ tâm ở chỗ phá thì nhiều kiếp không có lúc nào phá được. Nhưng đem tâm vọng tưởng điên đảo, tâm suy lường phân biệt, tâm ham sống sợ chết, tâm tri kiến hiểu biết, tâm ưa thanh tịnh chán ồn ào, nhất thời đối chiếu, chỉ là chỗ đối chiếu, khán thoại đầu: Tăng hỏi Triệu Châu con chó có Phật tánh hay không? Châu đáp: không, một chữ Tử này chính là binh khí phá tan rất nhiều ác tri ác giác, không được hiểu là có không, không được khởi lên cái biết đạo lý, không được hướng vào ý căn mà suy lường tính toán, không được hướng vào đống rễ mà nhướng mày chớp mắt, không được đi trên đường mà làm công việc, không được phất nhởn nhơ trong vỏ vô sự, không nói về chỗ nêu lên gánh vác, không được dẫn chứng trong văn tự, chỉ hướng về mười hai thời, bốn oai nghi, thường thức tỉnh, thường giác ngộ. Con chó có Phật tánh hay không? Đáp là không, không lìa nhật dụng, thử theo đây mà công phu xem, ngày mười hằng tháng sẽ tự thấy được, việc quận ngàn dặm đều không trở ngại nhau. Người xưa nói rằng: tôi ở đây là sinh hoạt theo ý của Tổ Sư, đâu có vật gì câu chấp được họ. Nếu lìa nhật dụng mà có thú hướng riêng thì đó là lìa sóng tìm nước, lìa vật trang sức tìm vàng, càng tìm càng xa. Lại thầm biết, xưa nay dùng việc lớn nhân duyên này làm niệm, tinh tấn mạnh mẽ thuần một không xen lẫn, không xiết vui mừng phấn khởi, có thể trong mười hai thời rõ ràng coi là thời gian, chắc được tương ưng chưa? Hai bên thức và ngủ được như một chưa? Nếu chưa được thì không bao giờ được một bề đắm vào không, hướng về vắng lặng, người xưa gọi là việc làm của lũ quỷ ở dưới Hắc Sơn, tận đời vị lai không mong gì thoát ra được. Hôm qua nhận được lời dạy suy nghó về mọi mặt ắt đã đắm đuối vào tam-muội vắng lặng cao siêu, và hỏi thẳng đến Ngài mới biết quả thật đúng như đã dự đoán, hễ là kẻ só liên quan tới đời có thừa, từ lâu bị dính mắc trong trần lao, bỗng nhiên được người chỉ bày hướng về chỗ tónh mặc công phu, chợt trong lòng được vô sự, liền được chỗ an vui rốt ráo, nào ngờ giống như đá đè cỏ, chỉ tạm thời giác ngộ dứt tinh tức, ngặt vì cột rễ vẫn còn. Thà có thời kỳ chứng ngộ thấu suốt vắng lặng, nếu được vắng lặng chân chánh hiện tiền, thì phải ở trong sanh diệt lẫy lừng, bất thình lình nhón một cái là nhảy qua, không động một mảy may, liền khuấy sông dài làm tô lạc, biến đất đai thành vàng, nắm lấy thời cơ, tha hồ quyết định, sống chết tự do, lợi tha tự lợi, chẳng bố thí thì không được, bậc Tiên Thánh gọi là Vô tận tạng Đà-la-ni môn, Vô tận tạng thần thông du hý môn, vô tận tạng như ý giải thoát môn. Há chẳng phải là bậc chân đại trượng phu mới làm được hay sao? nhưng cũng không khiến như vậy, đều là phần bình thường của tâm ta, mong những người chung quanh tuyệt vời quyết định kỳ hạn ở đây, rộng lớn thấu suốt đại ngộ, trong lòng trong sáng như trăm ngàn mặt trời mặt trăng, các thế giới mười phương một niệm hiểu rõ, không có một chút mảy may tư tưởng khác mới được tương ưng với đắc lực, trên đường sanh tử mà một ngày khác lại nắm được cán cân thì cho đến vua ở trên Nghiêu Thuấn cũng như ngón tay trong bàn tay. Nêu thí dụ, người Sơ cơ được chút ít công phu tónh tọa cũng tự thoả mãn. Lại nói rằng: không dám dối là tónh kiến, ông già mặt vàng nói: ví như có người tự bịt kín lỗ tai mình, lớn tiếng la to mà muốn người không nghe, thật là tự làm chướng nạn cho mình. Nếu tâm sanh tử chưa phá, trong mười hai thời nhật dung, mịt mờ tăm tối y như người chết hồn chưa tan. Lại dùng thời gian rảnh rỗi lý giải tónh lý giải ồn ư! Người hàng thịt Quảng Ngạch trong hội Niết-bàn buông dao giết mổ liền thành Phật, há là làm công phu trong vắng lặng ư? Hắn đâu chẳng phải là kẻ Sơ Cơ, người chung quanh đây quyết định cho là không đúng, phải sai bày hắn làm cổ Phật thị hiện. Người đời nay không có năng lực này. Nếu thấy như thế mới không tin sự cao quý của mình cam tâm làm người thấp kém. Trong hôm này của tôi, dù Sơ Cơ học muộn cũng không hỏi tham học lâu ngày hay đạt trước. Nếu muốn vắng lặng chân thật thì phải phá tâm sanh tử, không thực hành công phu, tâm sanh tử phá rồi thì tự vắng lặng, bậc Thánh đã nói vắng lặng phương tiện chính là đây. Bọn tà sư thời mạt pháp không biết lời phương tiện của bậc Thánh trước. Người chung quanh nếu tin lời Sơn Tăng nói thử đến chỗ ồn ào, khán thoại đầu con chó có Phật tánh hay không? Chưa nói ngộ hay không ngộ, chính ngay lúc một tấc vuông rối loạn, lừa dối thức tỉnh giấc ngộ, lại giác tónh hay sao? Lại có cảm thấy đắc lực hay chăng? Nếu cảm thấy đắc lực thì không cần buông bỏ, nếu lúc tónh tọa, chỉ thắp một nén hương tónh tọa, khi ngồi không được hôn trầm, cũng không được trạo cử, bậc Tiên Thánh đã quở trách hôn trầm vào trạo cử. Khi tónh tọa vừa giác thì hai thứ bệnh này hiện tiền, nhưng chỉ nêu thoại đầu con chó không có Phật tánh, thì hai thứ bệnh không cần ra sức dứt bỏ, lập tức lâu ngày chày tháng vừa cảm thấy tỉnh lực chính là chỗ đắc lực, cũng không cần công phu trong vắng lặng, đây chính là công phu. Lý Tham Chánh lúc ở Tuyền Nam, lúc đầu gặp nhau thấy Sơn Tăng ra sức bài bác tà thiền lặng chiếu mù mắt người, thì rất bất bình và nghi ngờ, chợt nghe Sơn Tăng tụng thoại đầu cây bách trước sân, bỗng nhiên đập bể thùng sơn, ở trong nụ cười vô cùng đơn giản, mới tin Sơn Tăng mở miệng thấy ruột, không chút lừa dối, cũng chẳng phải tranh giành mình và người, liền sám hối với Sơn Tăng. Ông đây hiện tại kia, xin hỏi thử có đúng không? Thượng tọa Đạo Khiêm đã đến Phước Đường mà không biết đã đến chỗ ấy hay chăng? Ông nầy tham thiền ăn đắng nuốt cay càng nhiều cũng từng nhập vào khô thiền hơn mười năm, mấy năm gần đây mới được chỗ an vui. Khi gặp nhau thử hỏi hắn, thế nào là công phu? Từng làm khách lãng tử thật đáng thương, hẳn là chí thành thổ lộ. Trả lời riêng cho Lý Tham Chánh (Hán Lão): Khi Phú-Xu-Mật Khoảnh ở Tam Cù, có gửi thư đến hỏi đạo, do đó mà thành mối quan hệ ra đời rất nhiều, còn ngăn lấp ở chỗ vắng lặng soi sáng như thế, chắc là bị tà sư dẫn vào hang quỷ không còn nghi ngờ gì nữa. Nay lại được sách, vẫn chấp tónh tọa là tốt. Họ bị trện ngại như vậy, làm sao tham được thiền của Kính Sơn. Lần này trả lời cho họ, lại là sắn bìm rối rắm, không tiếc khẩu nghiệp xoá bỏ đi những đau khổ, không chịu quay đầu đổi ý, lại ở trong nhật dụng khán thoại đầu ư? Bậc thiên Thánh nói rằng: thà phá giới như núi Tu-di chớ không chịu bị tà sư huân tập một niệm tà, như nhiều hạt cải ở trong tình thức, như dầu đổ vào bột thì không bao giờ lấy ra được, công này là đúng. Như cùng gặp nhau thử xem mối quan hệ sắn bìm nhất quán trả lời hắn, do đó mà làm phương tiện cứu lấy người này. Trong bốn pháp nhiếp lấy đồng sự nhiếp làm trên hết, mọi người chung quanh nên đại khởi pháp môn này khiến họ tin tưởng, không kiệm được một nửa sức của Sơn Tăng cũng khiến cho hắn tin tưởng chắc chắn, chịu lìa hang cũ. Trả lời Trần Thiếu Khanh (Quý Nhâm): Thừa dụ: Muốn lưu ý đến việc lớn nhân duyên này thì căn tánh rất ám độn. Nếu quả thật như vậy thì phải chúc mừng người chung quanh. Thời nay bậc só Đại Phu phần nhiều đối với việc này liền thoát khỏi một cách đơn giản, chỉ vì căn tánh quá sắc bén, tri kiến quá nhiều, thấy Tông sư vừa mở miệng động lưỡi thì liền biết ngay, do đó ngược lại không bằng kẻ độn căn không có nhiều ác tri ác giác, chợt ở trong một cơ một cảnh, một lời một câu nêu ra liền là Đại sư Đạt-ma lúc đầu dùng hết trăm thứ thần thông, cũng làm gì mà họ không làm được, vì họ không có lý nào để chướng ngại được. Người lợi căn lại bị lợi căn chướng ngại, không thể nhổ xuống đất liền bỏ đi, như đất bị nứt. Nếu đối với sự thông minh hiểu biết mà học được, đối với bổn phận mình mà làm, chuyển sức không nổi. Cho nên, Hòa thượng Nam Tuyền nói rằng: gần đây Thiền sư quá nhiều, tìm một người Si độn cũng không thể được. Hòa thượng Chương Kính nói rằng: chí lý quên lời thì người không biết, quen làm việc khác cho là công năng, không biết tự tánh vốn chẳng phải là trần cảnh mà pháp môn đại giải thoát mầu nhiệm, chỗ có gương giác vô nhiễm, vô ngại, ánh sáng không hề ngừng soi chiếu, từ xưa tới nay vốn không thay đổi, giống như vầng mặt trời soi chiếu xa gần như vậy, tuy đến các sắc khác vẫn không hòa hợp với tất cả, chiếu sáng rực rỡ chẳng cần rèn luyện, vì không hiểu nên lấy ở hình ảnh vật thể, chỉ như nhắm mắt vọng khởi hoa đốm trong hư không, chỉ tự mệt mỏi luống uổng trải qua kiếp số. Nếu phản chiếu lại, không có người thứ hai, nêu ra biện pháp không thiếu thật tướng. Mọi người chung quanh tự nói căn độn, thử phản chiếu như vậy xem để biết người độn còn độn không? Nếu không chiếu soi trở lại, chỉ giữ độn căn lại sanh phiền não, chính là hướng lên huyễn vọng càng Tăng thêm huyễn vọng, trên hoa hư không càng thêm hoa hư không. Chỉ nêu nghe lời nhau thì sẽ biết người căn tánh độn chắc chắn không độn. Tuy không được giữ cái ám độn này nhưng cũng không được bỏ tham cứu, cái ám độn này, lấy bỏ lợi độn trong tâm người không còn, tâm này cùng với Chư Phật ba đời là một thể không hai, nếu có hai thì pháp không bình đẳng, thọ giáo truyền tâm chỉ là luống dối, cầu chân tìm thật càng thấy tham cứu sai, chỉ biết được tâm một thể không hai, chắc chắn không ở giữa một lợi độn lấy bỏ sẽ thấy trăng quên ngón tay lập tức một đao chặt đứt làm hai đoạn. Nếu trước chần chừ suy nghó, sau tính toán thì chính là đánh vào hư không sanh thật giải. Trong pháp căn cảnh luống dối bịa đặt kỳ lạ, khi ở trong ấm giới tự vọng chấp không liễu ngộ. Mấy năm gần đây có một loại tà sư nói thiền mặc chiếu, dạy người trong mười hai thời việc ấy chớ chú ý tới, cứ nghó ngồi, đi không được lên tiếng, e rơi vào thời gian nầy, thường só Đại Phu bị cái thông minh lợi căn sai sử, phần nhiều là nhàm chán chỗ ồn ào, chợt bị bọn tà sư dạy cho tónh tọa, lại tiết kiệm được sức bèn cho là đúng mà không cầu diệu ngộ, chỉ lấy lặng lẽ làm mẫu mực. Mỗ chẳng khẩu nghiệp, cố gắng cứu người tệ ác này. Ngày nay ít có người biết lỗi, xin công chỉ hướng đến chỗ nghi tình chưa phá mà tham cứu, đi đứng nằm ngồi không được buông bỏ. Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? Châu đáp: Không. Một chữ tử này chính là con dao chém chết tâm nghi ngờ sanh tử, cái chuôi dao này chỉ nằm trong tay người thường, nhờ người khác xuống tay không được, phải chính mình xuống tay mới được. Nếu bỏ được tánh mạng mới chịu xuống tay. Nếu bỏ tánh mạng không được, chỉ chú ý chỗ nghi không phá, chợt tự chịu bỏ mạng, ngay đó liền liễu ngộ, lúc đó mới tin lúc vắng lặng chính là lúc nói, không cần hỏi ai cũng tự nhiên không bị Tà sư nói càn loạn đạo, rất mong! Rất mong! Xưa, Châu Thế Anh có lần dùng thư hỏi đạo Hòa thượng Châu Tịnh ở am rằng: Phật pháp rất mầu nhiệm thì người ngộ tâm như thật biết tự tâm rốt ráo xưa nay thành Phật, như thật tự tại, như thật an vui, như thật giải thoát, như thật thanh tịnh, mà hằng ngày chỉ dùng tự tâm, tự tâm biến đổi, nắm được tiện dụng, chớ hỏi phải hay trái, tâm tự suy tính so lường thì không đúng, không suy tính thì mỗi mỗi thiên chân mỗi thứ đều là minh diệu, mỗi thứ đều như hoa sen không dính bùn, tâm thanh tịnh vượt đến bờ kia, vì mê tự tâm nên làm chúng sanh, ngộ tự tâm nên thành Phật, nhưng chúng sanh tức là Phật, Phật tức là chúng sanh, vì mê ngộ nên có kia đây. Như người học đạo thời nay phần nhiều không tin tự tông, không ngộ tự tâm, không được thọ dụng sáng suốt của tự tâm, không được tự tâm an vui giải thoát, ngoài tâm vọng có thiền đạo, vọng lập kỳ lạ, vọng sanh lấy bỏ, dù thong thả tu hành, rơi vào cảnh giới đoạn kiến thiền tịch của nhị thừa, ngoại đạo, cái gọi là tu hành e rằng rơi vào hầm hố đoạn thường, đoạn kiến là dứt mất tánh vốn sáng suốt của tự tâm, một bề ngoài tâm mắc kẹt vào thiền tịch không trệ. Thường kiến là chẳng ngộ tất cả pháp không, chấp kẹt vào các pháp hữu vi, thế gian cho là rốt ráo. Bọn tà sư dạy kẻ só Đại Phu nhiếp tâm tónh tọa mọi việc chớ quan tâm cứ nghỉ ngơi đi, há chẳng phải là dùng tâm dứt tâm, dùng tâm nghó tâm, dùng tâm dụng tâm. Nếu tu hành như vậy thì làm sao không rơi vào cảnh giới thiền tịch đoạn kiến của Nhị thừa, ngoại đạo; Làm sao hiển bày được sự sáng suốt của tự tâm thọ dụng rốt ráo an vui như thật thanh tịnh giải thoát biến hóa mầu nhiệm, phải do đương nhân tự thấy được, tự ngộ được, tự nhiên không bị lời lẽ của người xưa, như thanh tịnh ma ni bảo châu không thể nhiễm ô, vì bản thể tự thanh tịnh nên tân này cũng vậy, chính khi mê bị trần lao mê hoặc, mà tâm này thể vốn không hề mê hoặc cái gọi là như hoa sen không thấm nước. Chợt nếu ngộ được tâm này xưa nay đã thành Phật, rốt ráo tự tại như thật an vui, mỗi thứ diệu dụng cũng không từ ngoài đến vì vốn tự đầy đủ. Ông già Mặt vàng nói rằng: không có pháp nhất định gọi là A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cũng không có pháp nhất định Như Lai để nói. Nếu xác định bản thể thật có việc như thế thì lại không đúng. Sự việc không buộc mình, vì mê ngộ lấy bỏ, nói đạo lý có bao nhiêu, vì chừa chí diệu, chỉ là phương tiện nói thôi, thật ra bản thể cũng không có bao nhiêu, xin các vị chỉ dụng tâm như thế, trong mười hai thời nhật dụng không được chấp sanh tử Phật đạo là có, không được bác bỏ sanh tử Phật đạo trở về không, nhưng chỉ khán thoại đầu con chó có Phật tánh hay không? Triệu Châu nói: không, chẳng thể hướng vào ngôn ngữ mà khởi việc làm, lại không thể hướng về chỗ mở miệng mà gánh vác, cũng không được đến chỗ xẹt đá lửa và điện chớp sáng mà lãnh hội, con chó có Phật tánh hay không? Không, nhưng chỉ tham cứu như thế, cũng không được đem tâm chờ ngộ, chờ nghỉ ngơi. Nếu đem tâm chờ ngộ, chờ nghỉ ngơi thì càng không liên quan. Nêu thí dụ. Sau khi tự được sách xưa nay của Sơn Dã, mỗi lần gặp trong ồn náo, chỗ trốn tránh không được thường tự xem xét mà chưa có năng lực công phu, chỉ chỗ né tránh không được này chính là công phu rồi. Nếu lại ra sức xem xét thì lại xa rồi. Xưa, Nguî Phủ Lão Hoa Nghiêm nói rằng: Phật pháp ở trong việc làm hằng ngày, chỗ đi đứng nằm ngồi, uống trà, ăn cơm, nói năng qua lại, chỗ tạo chỗ làm, khởi tâm động niệm lại không đúng, chính ngay chỗ né tránh không được, rất kî khởi tâm động niệm, khởi tưởng xem xét. Tổ Sư nói rằng: phân biệt không sanh sáng suốt tự soi. Lại Bàng Cư Só nói rằng: việc hằng ngày không phân biệt chỉ tự mình hài hòa, việc việc không lấy bỏ, chỗ chỗ chớ trái ngược, đỏ tím ai làm hiệu, gò núi sạch một chút bụi, thần thông và diệu dụng, chỗ nước và kéo củi. Lại bậc Thánh trước có nói rằng: chỉ có tâm phân biệt tính toán, tự tâm chấp lượng đều là mộng, cẩn thận nhớ lấy, khi né tránh không được thì không được đem tâm đoán định khi tâm không toán định thì tất cả sẵn có, cũng không cần lý giải lanh lợi cũng không cần lý giải ám độn. Tóm lại không dính dáng gì đến việc lợi độn của người khác, cũng không liên can gì đến việc tónh loạn của người khác. Chính lúc né tránh không được, chợt đánh mất túi vải, bất chợt vỗ tay cười lớn. Nhớ lấy! Nhớ lấy! Việc này nếu dùng một sợi tóc công phu thủ chứng thì như người dùng tay nắm lấy hư không, chỉ thêm tự nhọc nhằn mà thôi. Khi ứng tiếp chỉ nên ứng tiếp, cần được tónh tọa thì chỉ tónh tọa. Khi ngồi không được chấp vào chỗ ngồi là rốt ráo, thời nay bọn làm rốt ráo, nghi lầm dòng dõi con cháu. Sơn Dã không sợ kết oán, ra sức mắng họ để báo ân Phật, cứu vớt cái tệ hại thời mạt pháp. Trả lời Triệu Đãi Chế (Đạo Phu): Nêu thí dụ, mỗi thứ đều đầy đủ. Phật dạy: người có tâm đều được thành Phật, tâm này chẳng phải tâm vọng tưởng trần lao ở thế gian, là phát tâm Vô thượng Đại Bồ-đề. Nếu người có tâm ấy thì chẳng thể nào không thành Phật. Só Đại Phu học đạo phần nhiều tự làm chướng nạn, vì không có niềm tin quyết định. Phật lại dạy: niềm tin vốn là mẹ của các công đức, nuôi dưỡng tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, ra khỏi dòng ái, mở bày Niết-bàn Vô thượng đạo. Lại nói: niềm tin có công năng làm cho trí tuệ công đức thêm lớn, niềm tin có công năng quyết chắc được Như lai địa, chỉ bảo kẻ độn căn chưa thể ngộ suốt, hãy trồng hạt giống Phật trong mảnh ruộng tâm. Lời này tuy thấp cạn nhưng cũng sâu xa, chỉ bằng lòng thì không nghi ngờ nhau. Thời nay, kẻ só học đạo thường ở chỗ hưỡn lại gấp, chỗ gấp lại hưỡn. Bàng công nói: một hôm, rắn chui vào trong trôn quần vải, thử hỏi là thời tiết gì của Tông Sư? Việc hôm qua, hôm nay còn có người nhớ không nổi, huống chi là việc cách ấm, há dễ không quên mất ư? quyết định muốn đời này được thấu suốt giáo lý thì không nghi Phật, không nghi Tổ, không nghi sanh, không nghi tử, phải có niềm tin quyết định, có chí quyết định, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, làm như vậy khi chưa thấu suốt riệt mới có thể nói là độn căn. Nếu ngay khi đó bèn tự nói rằng ta độn căn không thể đời này thấu suốt được, lại trồng hạt giống Phật để kết duyên, chính là không đi mà muốn tới thì không có việc ấy. Tông Cảo vì tin đạo này, dần dần biết được chỗ tiết kiệm sức lực trong mười hai thời nhật dụng, chính là chỗ học Phật đắc lực. Chỗ đắc lực của mình thì người khác không biết được, cũng đưa ra cho người xem không được. Lô Hành Giả bảo Thượng tọa Đạo Minh, rằng: nếu ông phản chiếu mặt mũi xưa nay của mình, mật ý càng công dụng đắc lực, chỗ đắc lực chính là chỗ kiệm sức. Việc trần lao ở thế gian, lấy một bỏ một, vô cùng vô tận, trong bốn oai nghi không hề rời bỏ, vì vô thỉ đến nay kết được duyên sâu với nó, Niết-bàn thì tuệ vô thỉ đến nay kết duyên cạn với nó, chợt nghe bậc tri thức nói đến thì cảm thấy hoàn toàn mơ hồ khó lãnh hội. Nếu từ vô thỉ đến nay kết duyên cạn cợt với trần lao, kết duyên sâu với Niết-bàn thì có chỗ nào khó lãnh hội, nhưng chỗ sâu nói giáo cạn, chỗ cạn nói giáo sâu, chỗ lạ nói giáo quen, chỗ quen nói giáo lạ, khi vừa cảm giác suy nghó việc trần lao thì không cần ra sức dứt trừ, chỉ y cứ vào chỗ suy nghó nhẹ nhàng xoay chuyển thoại đầu, tiết kiệm sức lực vô hạn, cũng được năng lực vô hạn, chỉ xin như vậy chớ cố tình đợi ngộ, bỗng nhiên tự ngộ. Tham Chính muốn mỗi ngày gặp nhau, ngoài vi kỳ ra, còn muốn cùng nhau nói về việc thông thường này chăng? Nếu chỉ Vi Kỳ, chưa từng nói được việc thường này, chỉ y cứ vào chỗ trắng đen chưa rõ ràng, nhấc mâm lên rãi ra, lại hỏi họ đòi chỗ nào, nếu đòi không được, là kẻ độn căn thật, tạm thời gác qua việc này. Trả lời Hứa Tư Lý (Thọ Nguyên): Ông già Mặt vàng nói: niềm tin là mẹ sanh ra các công đức, nuôi dưỡng tất cả các pháp lành. Lại nói: tin có công năng giúp cho trí công đức thêm lớn, tin sẽ được Như lai địa, muốn đi ngàn dặm thì bắt đầu từ bước đầu tiên. Bồ-tát Thập Địa dứt chướng chứng pháp môn, ban đầu từ Thập Tín mà vào. Sau đó, lên Pháp Vân địa mà thành Chánh giác. Ban đầu, Hoan Hỷ địa vì tin mà sanh vui mừng. Nếu quyết định dựng đứng xương cột sống thì phải làm bậc hảo hán không lường thế gian và xuất thế gian, phải là người có niềm tin vững chắc mới hiểu được, nếu nửa hiểu nửa mù mờ, nửa tin nửa không tin thì chắc chắn, không hiểu nổi. Việc này không có tình người, không thể truyền trao, phải tự mình hăng hái mới có phần thú hướng. Nếu chấp vào việc phân biệt trên cửa miệng người khác thì nhiều kiếp không có lúc nghỉ ngơi, tuyệt đối trong mười hai thời chớ để luống qua, từng ngày khơi dậy chỗ ứng dụng. Viên Đà Đà Địa và Thích-ca Đạt-ma, Vô Thiếu Dị, tự là đương nhân thấy không thấu suốt, không qua, toàn thân nhảy vào thanh sắc, lại hướng vào trong tìm đâu ra mặt càng mất liên quan. Việc này cũng chẳng phải chỗ tham học với bậc tri thức lâu ngày, ở khắp các tòng lâm rồi sau đó hiểu được, mà nay có bao nhiêu người đầu bạc răng long ở tòng lâm hiểu không nổi, lại có một số người mới vào tòng lâm vừa bác bỏ liền chuyển được, hết sức đơn giản. Phát tâm có trước sau, khi ngộ thì không sau trước. Xưa, Đô Úy Lý Văn Hòa tham học với Thạch Môn Từ Chiếu ngay sau một câu đáp ứng liền hết sức đơn giản từng có kệ trình Từ Chiếu rằng: học đạo phải là người đanh thép, khi thực hành công phu thì trong tâm liền phân biệt, chỉ chọn Vô thượng Bồ-đề, tất cả đúng sai đều không chú ý tới, chỉ từ chỗ hiện thời chết liền nghó, chớ nghó trước nhớ sau cũng đừng sanh phiền não, phiền não thì chướng đạo. Chúc mừng, chúc mừng! Người chung quanh có đủ chánh tín lập chánh chí, đây chính là nền tảng làm Phật làm thành. Sơn Dã vì sáng suốt gọi đạo hiệu của ông, như nước trong vắt bất động thì sự rỗng rang sáng suốt tự soi không nhọc nhằn tâm lực. Pháp thế gian, xuất thế gian không lìa vắng lặng, không có một chút khéo léo nào để qua lọt, chỉ dùng ấn này, ấn định tất cả chỗ, không đúng hay chẳng phải không đúng, mỗi thứ đều giải thoát, mỗi mỗi đều sáng suốt mầu nhiệm, mỗi mỗi đều chân thật, khi dùng cũng trong sáng, khi không dùng cũng trong sáng. Tổ Sư nói: chỉ có tâm phân biệt tính toán, tự tâm chấp lượng đều là mộng, nếu tâm thức vắng lặng, không một chút động niệm, ấy gọi là Chánh giác, giác đã chánh thì trong mười hai thời nhật dụng thấy sắc nghe tiếng, ngửi hương biết vị, giác xúc biết pháp, đi đứng nằm ngồi, nói nín động tónh, đều trong sáng, cũng tự không khởi tưởng điên đảo, có tưởng hay không tưởng đều được thanh tịnh, đã được thanh tịnh thì khi động dụng hiển bày vắng lặng, khi không động thể trở về vắng lặng, thể dụng tuy khác nhưng vắng lặng thì một. Như chẻ Chiên-đàn thành từng mảnh cũng vẫn là chiên-đàn. Thời nay có một hạng người bịa đặt, tự mình không thật vẫn cứ dạy người nhiếp tâm tónh tọa, dạy ngồi dứt hơi thở, bọn người này thật đáng thương xót, xin ông chỉ công phu như thế. Sơn Dã tuy chỉ bày ông như vậy cũng thật bất đắc dó thôi. Nếu thật có việc công phu ấy tức là ô nhiễm ông, tâm này không có thật thể thì làm sao kiên quyết thâu nhiếp được, đã không có chỗ an trụ thì không thời không tiết, không xưa không nay, không phàm không Thánh, không được không mất, không tónh không loạn, không sống không chết, cũng không gọi là vắng lặng, cũng không có tự thể vắng lặng, cũng không có công dụng vắng lặng, cũng không có người nói vắng lặng ấy, cũng không có người nhận thuyết vắng lặng ấy. Nếu thấy được thấu suốt thì Kính Sơn cũng không uổng phí làm hiệu này, người ở chung quanh cũng không uổng công nhận hiệu này. Vì sao? Vì sao?  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 27 * Trả lời Lưu Bảo Học (Ngạn Tu). Ngày hôm nay nóng bức, chẳng biết chỗ yên nghỉ an nhàn, phóng khoáng tự như, không bị các ma quấy nhiễu chăng? Trong bốn oai nghi hằng ngày và thoại đầu con chó không có Phật tánh là như một hay chăng? Đối với hai bên động tónh có thể không phân biệt chăng? Mộng và giác hợp nhau chăng? Lý và sự hợp nhau chăng? Tâm và cảnh đều như chăng? Lão Bàng nói: tâm như cảnh cũng như, không thật cũng không giả, có cũng chẳng để ý tới, không cũng chẳng câu nệ, chẳng phải là Thánh hiền biết việc phàm phu nếu thật là được hiểu việc phàm phu, Thích-ca Đạt-ma là viên bùn khối đất gì? Ba thừa, mười hai phần giáo là tiếng kêu nồng nhiệt gì? Ông đối với môn này tự tin không nghi, chẳng phải là việc nhỏ, chỗ lạ cần phải nói giáo quen, chỗ quen nói giáo lạ mới có chút phần tương ưng với việc này. Thường thường, Só Đại Phu phần nhiều đối với việc không vừa ý được chỗ thấy rộng, lại ở trong như ý thì đánh mất rồi, chẳng thể không cho ông biết, đối với như ý phải thường dùng thời tiết đang nhớ nghó trong không như ý, dè dặt không được tạm quên. Chỉ cần được gốc chớ lo ngọn, chỉ biết làm Phật, chớ lo Phật không hiểu lời. Điểm này được thì dễ mà giữ thì khó, không bao giờ được lơ là, phải dạy đầu ngay đuôi thẳng, rộng rãi mà đầy đủ. Sau đó đưa mình theo kịp vật khác. Sở đắc của người chung quanh đã không ứ đọng ở một gốc. Nghó rằng đối với nhật dụng không gắng khởi tâm nói thêm, khô tâm quên mất. Mấy năm gần đây thiền đạo Phật pháp rất suy tệ, có bọn Trưởng lão bịa đặt, căn bản tự không có sở ngộ, nghiệp thức mịt mờ không có gốc để nương, không chân thật, mánh khóe thâu nhiếp người học, dạy tất cả mọi người giống y như hắn, tối mò liền nắm mắt lại gọi là lặng lẽ mà thường chiếu soi. Ngạn xung bị bọn này dạy hư rồi. Khổ thay. Khổ thay, khổ thay! lời này, nếu không phải người chung quanh ngộ được thoại đầu con chó không có Phật tánh thì Kính Sơn cũng không có chỗ nói thuyết đổi vuốt bên da mặt, ra sức cứu lấy người này, chí khẩn chí cầu. Nhưng có một việc cũng chẳng thể không biết, ông đây cho mình thanh tịnh, mùi đời đậm bạc gom góp được một nắm, chấp chặt việc này là đặc biệt. Nếu muốn cứu họ phải đồng sự với họ, khiến cho tâm họ vui mừng không sanh nghi ngờ, ngõ hầu vững tin mà quay đầu lại. Kinh Tịnh Danh nói: Trước dùng dục dẫn dắt, sau khiến vào trí Phật là đúng. Ông già Mặt vàng nói: quán pháp lần lượt dùng trí phân biệt, xét định đúng sai không trái với pháp ấn, lần lượt kiến lập vô biên hạnh môn, giúp các chúng sanh dứt tất cả nghi. Đây chính là lấy vật làm khuôn phép, làm mẫu mực cho muôn đời. Huống là căn tánh của ông đây khác với người chung quanh, sanh thiên quyết định ở trước linh vận, thành Phật quyết định ở sau linh vận. Ông này quyết định không thể dùng trí tuệ nhiếp được, phải theo sở thích mà nhiếp, vì ngày tháng kéo dài, e rằng tự biết lỗi, bỗng nhiên tự buông bỏ cũng không chừng. Nếu chịu quay đầu lại thì là một vị hảo hán có sức mạnh, người chung quanh cũng nên lùi bước nhường cho hắn đưa ra một đầu mới được. Tỉ Vó Thiền Quy chép được một quyển sách Hán đối đáp với Tử Nham Lão Tử, Sơn Tăng tùy hỷ đọc một lần, khen ngợi vui mừng nhiều ngày, chỉ là thích một đoạn văn, lại giống một bài đại ng- hóa, cuối cùng kính đáp, chẳng biết người chung quanh cho là thế nào? Thuở xưa, Tổ Đạt-ma bảo Nhị Tổ rằng: ông chỉ dứt các duyên ngoài, trong tâm không thở gấp, tâm như vách tường, có thể nhập đạo. Nhị Tổ mỗi loại nói tâm nói tánh đều chẳng khế hợp, một hôm chợt tỉnh được chỗ chỉ bày yếu môn của Đạt-ma, vội vàng bạch Đạt-ma rằng: Đệ tử lúc này mới dứt được các duyên. Đạt-ma biết Nhị Tổ đã ngộ nên không hỏi vặn cho củng tận, chỉ hỏi: Chẳng thành đoạn diệt phải chăng? Đáp: không. Đạt-ma hỏi: Ông thì sao? Đáp: thường biết rõ ràng mà nói không thể được. Đạt-ma nói: đây chính là chỗ truyền tâm thể của Chư Phật Chư Tổ ngày trước, nay ông đã được thì chớ có nghi ngờ. Ngạn Xung nói rằng: Đêm mộng, ban ngày suy nghó khoảng mười năm chưa thể hoàn toàn rỗng không tâm ấy, khiến cho suy nghó không có chỗ duyên vào, việc không có chỗ nương tựa, cảm thấy rất nhẹ nhàng, đọc đến đây bất giác phì cười. Vì sao? Vì đã là sự suy nghó không có chỗ duyên, đâu chẳng phải cái gọi là nội tâm không thở gấp mà Tổ Đạt-ma đã nói ư? việc không chỗ nương tựa, đâu chẳng phải Tổ Đạt-ma nói ngoài dứt các duyên ư? Nhị Tổ ban đầu không biết chỗ phương tiện chỉ bày của Tổ Đạt-ma, gọi là ngoài dứt các duyên, trong không thở gấp, có thể nói tâm, nói tránh, nói đạo, nói lý, dẫn chứng cứ vân tự, muốn cầu ấn khả, cho nên Đạt-ma mỗi việc liệt ra không chỗ dụng tâm, bèn rút lui suy nghó, nói tâm như vách tường chẳng phải là pháp thật của Đạt-ma, chợt ở trên vách liền dứt các duyên, tức thời thấy trăng quên ngón tay, liền nói: Thường biết rõ ràng, nói không thể được. Lời này cũng là tạm thời bị tin tức của Đạt-ma ép ngặt ra cũng chẳng phải là pháp thật của Nhị tổ. Bọn Trưởng lão bịa đặt đã tự mình không sở chứng, liền lần lượt bịa chuyện, tuy dạy người khác dừng tâm nhưng tự tâm của hắn cháy hừng hực, ngày đêm không dứt, giống y như người dân thiếu hai thứ thuế, Ngạn Xung lại không có nhiều công lao bác bỏ, chỉ là bên trong bị độc thấm sâu, miễn là bên ngoài lộn xộn, nói động nói tónh, nói ngữ nói mặc, nói được nói mất, lại dẫn khắp cả nội điển, kiên quyết sai phái hội nghị hòa bình, thật là bị việc không liên quan của họ nuôi lớn vô mình, sao không suy nghó một công án sanh tử không hề kết thúc. Ngày ba mươi tháng mười hai sao thay đổi, chẳng thể khi sắp buông tay nhắm mắt lại nói với ông già Diêm-la rằng: chờ tôi lắng thần định lự trong chốc lát rồi sẽ gặp nhau được chăng? Đương lúc này, nói ngang dọc vô ngại cũng không thể được, tâm như cây đá cũng không thể được, phải là tâm sanh tử của đương nhân phá mới được. Nếu được tâm sanh tử phá, thì nói gì lắng thần định lự, lại nói gì ngang dọc buông lung, nói gì đến nội điển hay ngoại điển, một hiểu rõ thì tất cả đều hiểu rõ, một ngộ thì ngộ tất cả, một chứng thì chứng tất cả. Như chặt giây tơ, chặt một cái liền đứt, chứng vô biên pháp môn cũng như vậy, không có thứ lớp, nọi người đã ngộ thoại đầu con chó không có Phật tánh, lại được như vậy chưa? Nếu chưa được như vậy thì phải đến mức độ ấy mới được, đếu đã đến mức độ ấy rồi thì phải dùng pháp môn này hưng khởi tâm đại bi, ở trong cảnh thuận nghịch mà hòa bùn hợp nước, không tiếc thân mạng, không sợ khẩu nghiệp, cứu giúp tất cả để báo ân Phật, mới là việc làm của bậc đại trượng phu, nếu không như vậy thì không có việc ấy. Ngạn Xung dẫn Khổng tử Xưng Dị, hành đạo cũng nhiều lần thay đổi, hòa hợp trong sách Phật, nên sanh tâm không chỗ trụ là nhất quán, lại dẫn tịch nhiên bất động chẳng khác như cỏ cây, đây thật đáng chê cười, nói với hắn rằng, muốn được không chiêu cảm nghiệp Vô gián thì đừng phỉ báng bánh xe chánh pháp của Như lai. Nên kinh chép: không nên sanh tâm trụ vào sắc nghóa là tâm này rộng lớn vắng lặng mầu nhiệm không thể dùng sắc để thấy, âm thanh để cầu. Nên không chỗ trụ, nghóa là tâm này không có thật thể. Mà sanh tâm ấy nghóa là tâm này chẳng lìa chân thật mà lập xứ, lập xứ chính là chân. Khổng Tử Xưng Dị làm đạo cũng nhiều lần dời đổi, chẳng phải là đây. Lũ là nhiều lần, thiên là biến đổi. Bói toán lành dữ sinh ở động là ý chỉ của lũ thiên, ngược lại thường hợp đạo, làm sao hợp với nên không chỗ trụ mà sanh tâm ấy thành một khối. Ngạn xung chẳng những không biết ý Phật cũng không biết ý của Khổng tử. Mọi người đối với lời dạy của Khổng tử ẩn hiện như dạo cảnh xem hoa, lại đối với lời dạy của ta thấm sâu một vùng Sơn Dã, như bọn bịa đặt này có đúng chăng? Nên khuê Phong nói rằng: ban đầu thuận lợi, bói đức của quẻ càn, mới thở một hơi, thường lạc ngã tịnh là đức của Phật, vốn ở nhất tâm mà thành đạo. Lão này hội nghị hòa bình như vậy, mới ở hai giáo Nho và Thích không thiên khô, không di hận, Ngạn Xung vì ứng với vô sở trụ mà sanh tâm, cùng với lũ thiên của Dị cùng thông suốt ý lớn, chưa dám khen nhau. Nếu theo sự sai phái của Ngạn Xung thì Khổng Phu tử và ông già Thích-ca bớt mua hài cỏ mới được. Vì sao? vì một người thì thường thay đổi, một vị thì không chỗ trụ, thiết tưởng đọc đến đây sẽ cười đau cả bụng. * Trả lời Lưu Thông Phán (Ngạn Xưng): Lệnh huynh Bảo Học Công, lúc đầu không hề biết việc trông nom, quên bỏ, tùy ý sờ vào lỗ mũi. Tuy chưa biết hết được tà chánh của các vị nhưng nền tảng chắc thật tà độc. Không thể xâm nhập được quên trông nom ở trong đó. Nếu cứ quên coi sóc thì tâm sanh tử không phá được, ấm ma được dịp làm hại, chưa tránh khỏi đem hư không cách xa thành hai chỗ, khi ở chỗ vắng lặng thì được vô lượng an vui, lúc ở chỗ ồn ào thì chịu vô lượng khổ. Nếu được khổ vui đồng đều thì chớ khởi tâm trong nom và quên bỏ, trong mười hai thời nói giáo rộng rãi, chợt tập khí cũ của ông thoáng khởi cũng không cố dùng tâm nén xuống, chỉ y cứ vào chỗ thoáng khởi. Khán thoại đầu: con chó có Phật tánh hay không? Đáp: không. Ngay lúc ấy giống như một giọt tuyết trên bếp lửa hồng, mắt làm tay quen hoàn toàn vượt qua được, mới biết Lãn Dung nói: khi dụng tâm vừa đúng, dùng vô tâm vừa đúng, nói khéo léo gọi là lao nhọc nhau. Chỉ nói như nặng nề, dùng vô tâm vừa đúng, thường dùng vô vừa đúng. Nay nói chỗ vô tâm chẳng khác với hữu tâm, chẳng phải người nói lời lừa dối. Thuở xưa, Bà-tu-bàn-đầu thường mỗi ngày dùng một bữa cơm, không nầm, sáu thời lễ Phật, thanh tịnh vô dục, được nhiều người quy phục. Tổ thứ mười hai là Xà-dạ-đa muốn độ Bà-tu-bàn-đầu bèn hỏi đệ tử của Bàn-đầu rằng: Thầy ông thực hành hạnh đầu-đà khắp nơi, có thể tu phạm hạnh, có thể được thành Phật chứ? Người đệ tử đáp: Thầy tôi tinh tấn như vậy, vì sao không được? Xà-dạ-đa nói: thầy ông vẫn còn xa đạo, dù cho khổ hạnh trải qua nhiều kiếp đều là gốc luống dối. Người đệ tử ấy không nén được tức giận, biến sắc lớn tiếng bảo Xà-dạ-đa rằng: Tôn giả có đức hạnh gì mà giễu cợt thầy tôi? Xà-dạ-đa nói rằng: ta không cầu đạo cũng không điên đảo, ta không lễ Phật cũng không khinh mạn. Ta không ngồi lâu cũng không biếng nhác, ta không ăn ngày một bữa cũng không ăn tạp, ta không biết đủ cũng không tham dục, tâm không hề mong cầu, gọi là đó là Đạo. Bà-tu nghe xong liền phát được trí vô lậu, cái gọi là trước dùng định động, sau dùng trí để nhổ trừ. Bọn Trưởng Lão bịa chuyện dạy mọi người tónh tọa, v.v… thành Phật, đâu chẳng phải là gốc luống dối ư? lại nói: chỗ tónh không mất, chỗ ồn ào có mất, há chẳng phải tướng ngoại thế gian mà tìm tướng thật sao? nếu tu hành như vậy thì làm sao khế hợp được chỗ gọi là “nay nói chỗ vô tâm khác với hữu tâm” của Lãn Dung. Xin ông ở đây nên cẩn thận suy nghó xem, Bà Tu-bàn-đầu cũng đã nói: ngồi lâu không nằm có thể thành Phật, vừa bị Xà-dạd-đa phá liền ngay sau lời nói mà biết hướng quay về, phát trí vô lậu thật là ngựa thuần thấy bóng roi mà chạy. Chúng sanh cuồng loạn là bệnh, Phật dùng thuốc thanh tịnh Ba-la-mật tự cho họ, bệnh hết thuốc còn, bệnh của họ lành, lấy một bỏ một, lúc nào là xong, sanh tử hai bên, vắng lặng ồn ào đều dùng một chút cũng không được, chớ nói chỗ ồn ào mất thì nhiều, chỗ vắng lặng mất thì ít, không bằng ít và nhiều, được và mất, tónh và ồn, buộc lại thành một bó đưa sang thế giới phương khác, lại y cứ vào chỗ chẳng nhiều chẳng ít, chẳng tónh chẳng ồn, chẳng được chẳng mất trong nhật dụng sơ lược thức tỉnh xem là gì? Vô thường mau chóng, cuộc sống trăm năm trong một búng ngón tay liền qua. Lại có thời gian rỗi rãi gì mà lý giải được, lý giải mất, lý giải tónh lặng, lý giải ồn ào, lý giải nhiều ít, lý giải quyên, lý giải chăm sóc. Hòa thượng Thạch Đầu nói rằng: Kính Bạch Tham Huyền Nhân, thời gian chẳng luống qua, một câu nầy mở mắt, nhắm mắt, quên trông nom, cuồng loạn, vắng lặng, đây là Kính Sơn sắp bày như thế, Tưởng bọn trưởng lão bịa đặt, có chỗ sắp bày riêng. Ôi! Hãy bỏ qua việc ấy. Mọi người công phu vắng lặng, nhiều năm, không biết ở chỗ mở mắt, ứng việc đoạn an nhàn tâm địa chăng? Nếu chưa được an nhàn thì công phu vắng lặng chưa đắc lực. Nếu rất lâu vẫn chưa đắc lực thì phải tìm chỗ thẳng tắt đắc lực, mới không cô phụ nhiều công phu lâu nay, lâu nay công phu vắng lặng chỉ là chốn dứt trừ ồn ào, chói tai quấy rối tấc vuông của mình, giống như xưa nay không hề công phu vắng lặng. Đạo lý này chỉ vì quá gần, xa không qua khỏi mắt mình, mở mắt liền lựa chọn, nhắm mắt cũng không thiếu sót, mở miệng liền nói: nín miệng cũng tự sẵn đủ, muốn khởi tâm động niệm gánh vác. Hắn đã từ lâu bỏ phí thời giờ mười muôn tám ngàn rồi, chỉ là không chỗ dụng tâm, đây rất là tiết kiệm sức lực, nhưng người học đạo thời nay phần nhiều muốn dùng sức tìm, thì tìm càng mất, trước càng ở sau, điều ấy có thể rơi vào con đường lý giải, được con đường mất nghóa là chỗ ồn ào mất thì nhiều, chỗ vắng lặng mất thì ít. Mọi người, ở chỗ vắng lặng, trụ hơn hai mươi năm, thử đem một chút đắc lực ra xem, nếu đem trụ cột làm chỗ đắc lực trong vắng lặng, vì sao lại hướng về chỗ ồn ào mà mất, lại hôm nay phải được tiết kiệm sức lực, tónh ồn như một. Chỉ lấy chữ vô của Triệu Châu, bỗng nhiên thấu được, mới biết tónh, ồn cả hai đều không trở ngại nhau, cũng không cố gắng dùng sức chống đỡ, cũng không khởi kiến giải không chống đỡ. Trả lời Thái Phu Nhân nước Tần: Khiêm Thiền Quy, lãnh sở ban giáo, đều đích thân viết mấy bài tụng, ban đầu cũng rất nghi ngờ và hỏi Khiêm cặn kẽ, mới biết không lừa dối mình, việc nhiều kiếp chưa hiểu, chợt mở rộng hiện tiền, không từ một khác mà được, mới biết được niềm vui của pháp hỷ thiền duyệt, niềm vui của thế gian chẳng thể sánh bằng. Sơn Dã vui mừng cho Quốc Thái, nhiều ngày quên ăn quên ngủ, con là Tể Tướng, thân làm Quốc Phu Nhân, chưa đáng là quý, phẩn tảo chất lên đầu, thâu được của báu vô giá, trăm kiếp ngàn đời thọ dụng không hết mới thật là quý báu. Nhưng quyết không được chấp chặt vào cái quý này. Nếu chấp chặt thì rơi vào chỗ tôn quý, không còn khởi được bi trí thương xót hữu tình. Xin hãy ghi nhớ! Trả lời Trương Thừa Tướng (Đức Viễn). Kính ngài! Yến ở A-luyện-nhã cùng hội một chỗ với bậc thượng nhân kia, vui vẻ biển tạng Tỳ-lô, tùy nghi làm Phật sự, ít bệnh ít não, đều dò xét động dừng muôn phước, trên các Thánh thảy đều như vậy. Cái gọi là ở trong mỗi niệm nhập vào tất cả pháp diệt tận tam-muội không lui sụt đạo Bồ-tát, không bỏ hạnh Bồ-tát, không bỏ tâm đại từ bi, tu tập Ba-la-mật không hề ngừng nghỉ, quán sát tất cả cõi nước chúng sanh không đoạn dứt việc xoay bánh xe pháp, không loại bỏ nghiệp giáo hóa chúng sanh, cho đến có thắng nguyện gì đều được viên mãn, biết rõ tất cả cõi nước khác nhau, nhập vào chủng tánh Phật đến bờ giải thoát. Trong bốn oai nghi của Đại Trượng Phu nầy thọ dụng việc nhà, Đại Cư Só đối với việc này ra sức thực hành không mệt mỏi. Diệu Hỷ đối với việc này cũng là người Phổ Châu mà không biết? Nghe Trường Sa chính là Tỳ-da ngậm miệng thâm nhập không hai, đây cũng chẳng phải là phần ngoài, vì pháp như thế nên xin Cư Só thọ dụng như thế thì các ma ngoại đạo nhất định đến làm thiện thần hộ pháp, còn các loại ý nghóa sai biệt khác đều là cảnh giới hiện lượng của tự tâm, cũng chẳng phải vật khác, chẳng biết Cư só cho là như thế nào? Trả lởi Trương Đề Hình (Dương Thúc): Tất cả mọi việc làm của Lão Cư Só, đều thầm hợp với đạo, nhưng chưa thể được. Nếu hằng ngày ứng duyên không mất, nếp cũ tuy chưa được, ngày ba mươi tháng chạp, ông già Diêm-la cũng phải chắp tay quy hàng, huống là một niệm tương ưng. Lão Diệu Hỷ, tuy chưa tận mắt xem việc hành trì ấy nhưng nhỏ lớn chiết trung không có lỗi bất cập, chỉ đây chính là chỗ hợp của đạo, đến đây không cần khởi tưởng Phật pháp, Phật pháp trần lao đều là việc bên ngoài, nhưng cũng không được khởi tưởng việc ngoài chỉ hồi quang phản chiếu, khởi tưởng như vậy là từ chỗ nào đến, khi khởi khi làm có hình dáng gì? Việc sanh khởi đã làm xong, theo tâm ý mình chẳng thể không chu toàn, không có thiếu dư, ngay lúc ấy, nhờ ân sức của ai, công phu như vậy, lâu ngày chày tháng như người học toả sáng trong tự nhiên. Chúng sanh điên đảo, mê mình chạy theo vật, đắm say mùi vị thiểu dục, cam tâm chịu vô lượng khổ, hằng ngày khi chưa mở mắt, chưa bước xuống giường, nửa mê nửa tỉnh, tâm thức đã rối ren trôi giạt theo vọng tưởng, làm lành làm dữ, tuy chưa phát lộ, khi chưa xuống giường, cõi trời địa ngục ở trong gang tấc, đã cùng lúc thành tựu rồi, đến khi chờ phát lộ, đã rơi vào thức thứ tám rồi. Phật đâu không nói rằng: tất cả các căn tự tâm hiện, khí, thân v.v… chứa tướng tự vọng tưởng dựng lập hiển bày, như dòng sông, như hạt giống như ngọn đèn, như luồng gió, như áng mây, lần lượt tiêu hoại trong từng sát-na, nhảy nhót như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như ruồi bu, không nhàm đủ như gió lửa, tập khí vô thỉ hư giả như việc múc nước luân phiên. Thức này bị phá thì gọi là vô nhân vô ngã, biết cõi trời, địa ngục không ở chỗ nào khác chỉ ở trong gang tấc, lúc nửa tỉnh nửa mê chưa bước xuống giường của đương nhân, hoàn toàn không từ ngoài đến khi phát hay chưa phát, biết hay chưa biết, cần phải chiếu cố, khi chiếu cố cũng không được cố sức tranh giành, giành thì phí sức. Tổ đâu không nói rằng: Dừng động trở về dừng, dừng lại càng động, khi vừa biết trong trần lao hằng ngày dần dần tiết, kiệm được sức, chính là chỗ đắc lực của người đương cơ, chính là chỗ thành Phật làm Tổ của đương nhân, chính là chỗ biến địa ngục thành cõi trời của đương nhân, chính là chỗ ngồi yên ổn của đương nhân, chính là chỗ ra khỏi sanh tử của đương nhân, chính là chỗ chí quân ở trên Nghiêu Thuấn của đương nhân, chính là chỗ mệt mỏi lúc tàn bệnh của đương nhân, chính là chỗ che mát cho con cháu của đương nhân, đến đây nói Phật nói Tổ, nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu, nói lý nói sự, nói tốt nói xấu cũng là việc bên ngoài, những việc như vậy còn thuộc về bên ngoài. Huống chi là khởi lên việc trong trần lao mà bậc Thánh đã quở trách làm việc tốt còn không chịu, há lại chịu làm việc không tốt ư? Nếu tin được lời này, ngài Vónh Gia nói: đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói nín động tónh thể an nhiên, chẳng phải là lời nói dối, xin theo đây mà bước, đầu cuối không thay đổi thì tuy chưa thấu suốt chứng được bản địa phong quang của mình, tuy chưa thấy rõ mặt mũi xưa nay của chính mình nhưng chỗ lạ đã quen, chỗ quen đã lạ, cẩn thận nhớ lấy. Vừa biết được chỗ tiết kiệm sức lực, chính là chỗ đắc lực. Lão Diệu Hỷ mỗi lần nói lời này với người thường thấy nói liên tiếp nhiều lần, không chịu làm việc. Cư só thử công phu như thế xem, chỉ hơn mười ngày liền tự thấy được, kiệm sức hay không kiệm sức, đắc lực hay không đắc lực, như người uống nước nóng lạnh tự biết, nói với người không được, trình cho người không được. Bậc Tiên Đức nói rằng: nói chứng thì không thể chỉ bày cho người, nói lý thì chẳng chứng không được, là chỗ tự chứng tự được, tự tin, tự ngộ, trừ chỗ từng chứng từng được, đã tin đã ngộ mới lặng lẽ khế hợp nhau. Chưa chứng chưa đắc, chưa tin chưa ngộ thì chẳng những không tin mình cũng không tin người có cảnh giới như vậy. Lão cư só có thiên tư gần đạo, hiện quyết định chỗ khởi chỗ làm, không thay đổi đem so với người khác, trong muôn phần đã tiết kiệm được chín ngàn chín trăm chín mươi chín (9 9 9 9) phần, chỉ thổi ra một phát liền xong Só Đại Phu học phần nhiều không thật cố lý giải, trừ miệng nói tâm suy nghó, liền mù tịt không chỗ ứng phó, chẳng tin không có chỗ ứng phó chính là điểm tốt, miễn là trong tâm phải suy lường cho được, trong miệng phải nói được phần hiểu, đâu ngờ đó là sai lầm. Phật dạy: Như lai dùng tất cả thí dụ, nói ra các việc, không có thí dụ nào để nói pháp này, vì sao? Vì đường ba trí bặt dứt không nghó bàn nên tin sẽ biết suy lường phân biệt là chướng đạo. Nếu dứt được quá khứ, vị lai thì đường tâm trí tự dứt. Nếu đường tâm trí được dứt thì nói các thứ việc đều là pháp này. Pháp này đã rõ thì rõ chỗ này chính là cảnh giới giải thoát hoàn toàn không thể suy nghó bàn luận, chỉ cảnh giới này cũng không thể suy nghó bàn luận, cảnh giới đã không thể nghó bàn thì tất cả ví dụ cũng không thể nghó bàn, các việc cũng không thể nghó bàn, ngay cả điều không thể nghó bàn nầy cũng không thể nghó bàn, lời này cũng không có gì vướng mắc, ngay cả không vướng mắc này cũng không thể nghó bàn. Lần lượt hỏi đến cũng như thế, hoặc việc hoặc pháp, hoặc thí dụ, hoặc cảnh giới, như vòng móc xích không đầu mới, không chỗ khởi, không chỗ cùng, đều là pháp không thể nghó bàn. Sở dó nói rằng Bồ-tát trụ là không thể nghó bàn, ở trong nghó bàn không thể cùng tận, vào chỗ không thể nghó bàn, suy nghó hay không suy nghó đều tịch diệt. Nếu ở lâu trong vắng lặng thì bị thu nhiếp trong pháp giới lượng, giáo lý gọi đó là pháp trần phiền não, diệt pháp giới lượng thì các thứ cao quý nhất thời bỏ hết, mới thích xem cây bách trước sân, ba cân gai, que chùi phân, con chó không có Phật tánh, hớp một cái cạn hết nước sông Tây Giang. Giống như đi trên cảnh non nước phương Đông, bỗng nhiên ngay một câu nói liền thấu được mới cho rằng pháp giới vô lượng hồi hướng, như thật mà thấy, như thật mà hành, như thật mà dùng, liền có thể ở trên đầu một sợi lông hiện ra cõi nước bảo vương, ngồi trong hạt bụi mà xoay bánh xe đại pháp, thành tựu các thứ pháp, phá tan được các thứ pháp, tất cả đều do ta. Như tráng só dang rộng cánh tay, không mượn sức người khác. Sư tử dạo chơi, không cần bè bạn, mỗi thứ cảnh giới nhiệm mầu cao siêu, tâm không kinh ngạc các thứ cảnh giới nghiệp ác, hiện tiền tâm không sợ hãi, hằng ngày trong bốn oai nghi tùy duyên phóng khoáng, nhậm tánh tiêu dao, được mức độ này mới có thể nói việc không cõi trời, không địa ngục. Vónh Gia nói rằng: cũng không người, cũng không Phật, bọt nước trong biển đại thiên sa giới, tất cả Thánh Hiền như điện chớp, Lão này nếu không được trình độ này thì làm sao nói ra được, người hiểu lầm lời này rất nhiều. Nếu như thấu suốt cội nguồn thì không tránh khỏi nương lời nói sanh kiến giải, liền nói tất cả đều không, bác không nhân quả, do lời nói của Chư Phật, Chư Bồ-tát là luống dối, đó là kẻ cuồng mê. Bệnh này không trừ bỏ thì sẽ vời lấy ương họa lớn lao. Phật dạy: Tâm luống dối hão huyền có nhiều xảo kiến, nếu không mắc kẹt vào hai loại này thì suy lường so tính giữa có và không, dù biết được bệnh này, quyết định ở chỗ chẳng phải có chẳng phải không mà dính mắc. Nên Tiên Thánh hết lời dặn dò khiến lìa bốn câu, dứt trăm lỗi, lập tức một đao chặt đứt làm hai đoạn, lại không niệm sau nghó trước, quét sạch ngàn Thánh. Bốn câu là có và không, chẳng có chẳng không, vừa có vừa không. Nếu thấu suốt được bốn câu này thì nói tất cả các pháp thật có, ta cũng thuận theo với họ mà nói có, lại cũng không bị cái thật có này ngăn ngại. Nghe nói tất cả các pháp thật không, ta cũng thuận theo nói không, lại chẳng phải cái không rỗng suông ở thế gian. Nghe nói tất cả các pháp vừa có vừa không ta cũng thuận theo nói vừa có vừa không, lại chẳng nói suông. Nghe nói tất cả các pháp chẳng phải có chẳng phải không, ta cũng thuận theo nói chẳng phải có chẳng phải không lại chẳng trái nhau. Kinh Tịnh Danh chép: Sáu vị giáo chủ ngoại đạo bị đoạ, ông cũng đoạ theo. Só Đại Phu học đạo phần nhiều không chịu để tâm rỗng rang nghe thiện tri thức chỉ dạy. Thiện tri thức vừa mở miệng thì họ đã lãnh hội trước rồi, cho đến, dạy hắn thổ lộ hết, lập tức hiểu lầm, đúng lúc lãnh hội trước lời nói, lại ứ đọng trên ngôn ngữ. Lại có một loại, một bề làm ra vẻ thông minh nói đạo lý, các sự nghiệp ở thế gian, ta đều biết, chỉ có một loại thiền là ta chưa biết. Ở chỗ làm quan gọi các vị Trưởng lão bịa đặt đến cùng nhau ăn cơm, sau đó dạy hắn, bỏ lời nói càn, thường xem tâm ý thức nhớ lấy thuyết bịa đặt này, lại đi sửa chữa người, một câu đến một câu đi gọi là thiền lẫn nhau, cuối cùng khi ta nói ít nhiều câu, ông cũng không nói, chính là ta được dịp thuận tiện. Cho đến gặp được Lão chân thật mắt sáng, lại không biết gì, dù biết được lại không có niền tin quyết định, không chịu bốn góc đổ sụp xuống, y cứ vào sự lý giải của Sư gia vẫn y như cũ, xin được ấn khả, cho đến sư gia ở trong thuận nghịch chỉ bày dùng bổn phận kềm kẹp, lại sợ không dám gần gũi. Bọn này thật đáng thương. Lão Cư Só Diệu Niên đỗ khoa cao làn nên sự nghiệp, chỗ ở lúc nào cũng làm việc lợi ích, sự việc văn chương đều hơn người mà không hề kiêu căng, một lòng một dạ chỉ muốn lùi bước thật lý giải việc lớn nhân duyên này, thấy ông chí thành bất giác đau khổ như thế, chẳng muốn riêng cư só biết được loại bệnh đau này cũng là khuyên Bồ-tát mới phát tâm làm tư lương nhập đạo. * Trả lời Uông Nội Hàn (Ngạn Chương): Nương vào. Đóng cửa quán vách, tức tâm này là thuốc hay. Nếu lại nghiên cứu sách cũ chắc chắn gậy ra mầm mống sanh tử từ vô thỉ đến nay ở trong tàng thức, làm gốc lành là khó, gây ra chướng đạo không nghi ngờ gì, được dứt tâm lại dứt tâm mình. Việc quá khứ hoặc thiện hoặc ác, hoặc nghịch hoặc thuận đều chớ so uy lường. Việc hiện tại được tỉnh liền tỉnh, một đao đứt làm hai không nên chần chừ. Việc vị lai tự nhiên không nối tiếp. Đức Thích-ca dạy rằng: tâm không vọng chấp pháp quá khứ, cũng không tham đắm việc vị lai, không có sở trụ ở hiện tại, rõ biết ba đời đều vắng lặng. Nhưng hãy khán: Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? Triệu Châu đáp: Không. Xin chỉ đem tâm nhàn rỗi trở về trên vô sự, thử suy nghó xem bỗng nhiên hướng đến chỗ bất cập mà suy lường, được phá một niệm này liền liễu đạt chỗ ba đời. Khi liễu đạt sắp xếp, không cho tính toán, không cho dẫn chứng. Dù dẫn chứng được, tính toán được, sắp xếp được thì rõ ràng không quan hệ với rõ biết. Nhưng nói giáo rộng rãi, lành giữ đều chẳng suy lường, cũng chẳng trước ý, cũng chẳng quên. Trước ý thì trôi giạt, quên thì hôn trầm. Không trước ý không quên, thiện chẳng phải thiện, ác chẳng phải ác, nếu rõ biết như vậy thì chỗ nào cho ma sanh tử lôi kéo. Một Uông Ngạn Chương vang danh khắp thiên hạ, bình thường sắp xếp được, tính toán được, dẫn chứng được, là văn chương, là danh dự, là quan chức, cuối đời nhận kiếp quả của nhân, điều đó là thật, làm chỗ rõ vô hạn, một câu ấy đắc lực, danh dự đã rõ ràng, cùng với giấu đức ẩn quang cách nhau bao nhiêu? Chức quan đã làm đến Đại lưỡng chế cùng với khi làm tú tài cách nhau bao nhiêu? Mà nay đã gần bảy mươi tuổi, chỉ ông mánh khóe, phải đợi như thế nào? Ngày ba mươi tháng chạp làm sao thay đổi? Giết quỷ vô thường niệm niệm không dừng. Tuyết Phong Chân Giác nói rằng: Thời gian bỗng nhiên tạm thời trong chốc lát, cõi phù du có thể ở được bao lâu, ra khỏi núi tuổi đã bao nhiêu, đến Phúc Kiến đã ngoài bốn mươi, ông ta chẳng những không cần nêu lỗi của mình lại phải bỏ trở về, bị Chu tử ở thành Báo Mãn nói: Diêm vương không sợ đeo cá vàng, người xưa hết lời dặn dò vì việc gì? Người ngu ở thế gian bị đói lạnh ép ngặt, hằng ngày không có niệm nào khác, chỉ được trên thân một chút ấm áp, trong bụng không đói thì đủ rồi. Chỉ vì hai việc này mà ma sanh tử không thể làm não hại, vì bị người giàu sang so sánh, nhẹ nặng không bằng. Người được giàu sang trên thân đã thường ấm áp, trong bụng lại thường no đủ, đã không bị hai việc này ép ngặt, lại còn nhiều thứ vô hình chẳng thể nói, do đó thường ở trong lưới ma sanh tử, không biết nhờ đâu được thoát ra. Trù lúc xưa có linh cốt mới thấy được suốt, biết được sâu. Bậc Thánh xưa nói rằng: Thoáng khởi là bệnh, không nối tiếp là thuốc, không sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm. Phật là giác, vì thường giác nên gọi là Đại giác, cũng gọi là Giác Vương, nhưng đều từ trong phàm phu làm được. Kia đã trượng phu ta há không được như vậy, cuộc sống trăm năm có thể được bao lâu, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, làm việc tốt còn sợ không xong, huống chi niệm niệm ở trong trần lao mà không giác. Đàng sợ, đáng sợ! Gần đây vào đầu tháng tư nhận được thư của Lữ cư nhân báo tằng Thúc Hạ, Lưu Ngạn Lễ đã chết. Cư nhân nói rằng: Trong việc giao du thì còn kéo ra một hai người, thật là đáng sợ. Gần đây vì việc này mà hắn rất bức thiết cũng thấy làm hận vì quay đầu hơi chậm. Xem xong thì viết thư trả lời rằng: chỉ lấy cuối cùng biết chẳng phải là một niệm làm chánh thì bất luận mau hay chậm, biết chẳng phải một niệm liền là cơ bản thành Phật thành Tổ, là vũ khí sắc bén xé rách lưới ma, ra khỏi đường sanh tử, xin ông cũng chỉ công phu như thế. Công phu dần quen thì trong mười hai thời nhật dụng liền biết tiết kiệm sức lực, khi biết được tiết kiệm sức lực thì không cần gấp hưỡn, chỉ y cứ vào chỗ tiết kiệm sức lực, đem vách đá đi, đem tới đem lui và chỗ tiết kiệm sức lực này cũng không biết, có khi không được bao nhiêu nhưng chỉ khán chữ vô, chớ lo được hay không được, rất cầu mong, rất cầu móng! Kính mong! Đóng cửa dừng tiếp xúc giao thiệp, tất cả việc đời đều bỏ qua một bên, chỉ sớm tối đem thoại đầu nào đó đã nêu để thức tức tỉnh, rất hay, rất hay! Đã giải thích xong tâm này, phải lấy ngộ làm khuôn phép. Nếu tự sanh lui sụt là căn tánh thô kém, lại tìm chỗ rút đầu chính là ở trong nguyên Điện hỏi Trường An, ở chỗ như vậy, ngay lúc thức là a thuỳ, tìm chỗ rút đầu cũng là a thùy. Diệu Hỷ không tránh khẩu nghiệp rõ ràng vì cư só nói rõ ra, chỉ là một Uông Ngạn chương không có hai, chỉ có một Uông Ngạn Chương, lại trong đó được thức tỉnh biết căn tánh thô kém, tìm chỗ chui vào, nên biết đều là bóng dáng của Uông Ngạn Chương thì căn tánh ắt không thô kém, sẽ không tìm chỗ chui vào. Nhưng chỉ tin chắc chủ nhân ông của mình, đều không tiêu được nhiều lao nhọc. Xưa có vị Tăng hỏi ngài Ngưỡng Sơn rằng: Thiền tông đốn ngộ cuối cùng nhập môn là ý gì? Ngài Ngưỡng Sơn nói: ý này rất khó, nếu là môn hạ Thượng căn thượng trí của tổ tông thì một nghe ngàn ngộ, được tổng trì rộng lớn, khó được người có căn tánh này. Họ có căn nhỏ trí kém cho nên người xưa nói: nếu không an thiền tónh lự, đến đây thường bị mù mịt. Vị Tăng hỏi: ngoài cách này còn có phương tiện khác giúp cho người học được vào không? Ngưỡng Sơn đáp: riêng có riêng không, khiến cho tâm ông không an. Nay ta hỏi ông, ông là người xứ nào? Đáp: người ở U Châu. Sơn hỏi: ông còn nhớ nơi ấy không? Đáp: thường nhớ. Sơn hỏi: Nơi ấy đông đúc lầu đài vườn rừng, người, ngựa ông thử nhớ lại xem còn có nhiều loại nữa không? Đáp: Mỗ giáp đến đây tất cả chẳng thấy có. Sơn nói: cái hiểu của ông còn ở nơi cảnh, Tín vị thì đúng, nhân vị thì không đúng. Diệu Hỷ đã có tâm Lão bà tha thiết, phải chú thích ở phần dưới, nhân vị là đúng. Uông Ngạn Chương Tín vị là đúng, biết căn tánh thô kém, tìm chỗ chui vào. Nếu ngay lúc thức tỉnh thoại đầu nhớ lại có thể thức tỉnh, còn là Uông Ngạn Chương không? Đến lúc này không cho mọc tóc. Nếu suy nghó mãi dừng hoạt động thì bị bóng dáng mê hoặc, xin nhanh chóng không được xem thường, không được xem thường. Nhớ trong sách trước có ừng chép: Được tức tâm lại tức tâm dừng, việc quá khứ, hoặc lành hoặc dữ, hoặc thuận hoặc nghịch đều chẳng lý giải, việc hiện tại được kiệm liền kiệm, một dao chặt đứt làm hai không chần chờ, việc vị lai tự nhiên không nối tiếp, chẳng biết có nhìn kỹ như thê không? Đây chính là chỗ công phu tiết kiệm sức lực bậc nhất, rất cầu mong, rất cầu mong! Kính mong! Lệnh tự thứ năm, vì bệnh nặng, tình cha con ngàn đời trăm kiếp, tập khí ân ái đã trôi chảy, tưởng thành cảnh giới này, không có chỗ ấy thì các loại hư huyễn trong đời năm trược hoàn toàn không chân thật, đi đứng nằm ngồi thường quán như vậy thì lâu ngày chày tháng dần dần tiêu mất hết. Nhưng đang lúc phiền não, cần thận suy đoán vặn hỏi đến cùng, từ đâu mà khởi, nếu chỗ cùng khởi không được thì phiền não hiện giờ từ đâu đến, ngay lúc phiền não là có hay không, là giả hay thật? Cùng cực đến cùng cực đi, tâm không có chỗ, muốn suy nghó nên suy nghó, muốn khóc nên khóc, khóc đến khóc đi, suy nghó đi suy nghó lại, phấn khởi khi dứt hết rất nhiều tập khí ân ái trong tàng thức, tự nhiên như nước chảy về sông, còn xưa nay của ta là không phiền não, không suy nghó, không ái không vui, vào được thế gian, xuất thế gian không còn thừa, pháp thế gian là pháp Phật, pháp Phật là pháp thế gian, thiên tánh cha con là một mà thôi. Nếu con mất mà cha không phiền não, không suy nghó được sao? Nếu kiên quyết nén khóc thì lại không dám khóc, khi suy nghó lại không dám suy nghó là chỉ muốn nghịch lý trời, diệt tánh trời, cất tiếng dứt vang, chế dầu cứu lửa. Ngay lúc phiền não hoàn toàn chẳng phải là việc ngoài, cũng không được khởi tưởng bên ngoài. Ngài Vónh Gia nói rằng: thật tánh vô minh tức Phật tánh, thân không huyễn hóa tức pháp thân, là những lời chân ngữ, thật ngữ không lừa không dối, đã thấy mê rồi muốn suy nghó, muốn phiền não cũng không thể được, khởi quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác gọi là tà quán, tà chánh chưa rõ cần phải gắng sức. Đây là nghóa quyết định của Diệu Hỷ, chớ nói với người vô trí. * Trả lời Hạ Vận Sứ: Nêu thí dụ: Đạo khế hợp thì trời đất cùng một chỗ, hướng tới cái khác thì trước mặt càng khổ, thật hay lời này! Ngay đây tức là không truyền điều kỳ diệu, mọi người phát ý muốn làm sách Diệu Hỷ, chưa cầm cán phất phủi giấy đã hai tay trao cho rồi, làm sao kiên nhẫn chờ đến cuối cùng, vì đợi ngày khác ư? đạo lý này chỉ có người chứng mới được thầm hợp nhau, khó nói với kẻ tục. Diên Bình là Lãnh Giai ở Phúc Kiến, mọi người hãy tự điều phục không bị thuận nghịch xoay chuyển, đó là người giải thoát hoàn toàn. Người này có thể chuyển tất cả thuận nghịch, hằng ngày sống thoải mái, không thể làm cho họ vướng bận trói buộc. Nếu lập tức đáp ứng như thế thì tự nhiên không một sợi tơ nào có thể làm chướng ngại ta. Người xưa có nói: Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không có tất cả tâm, đấu cần tất cả pháp. Lại Lãn Dung nói rằng: khi dụng tâm vừa đúng, nói tà vạy là lao nhọc nhau chỉ nói không nặng nề, dùng vô tâm vừa đúng, thường dùng vừa đúng không, nay nói chỗ vô tâm chẳng khác với hữu tâm, chẳng những Lãn Dung như thế mà Diệu Hỷ và mọi người cũng ở trong đó, việc trong đó khó lấy ra như người trước, cái gọi là thầm khế hợp nhau. <篇> <卷>QUYỂN 28 Trả lời lữ xá nhân (Cư Nhân): Ngàn điều nghi, muôn điều nghi chỉ là một điều nghi, nghi ngờ trong thoại đầu đã phá thì ngàn điều nghi cùng lúc phá. Thoại đầu không phá thì lại y cứ phần trên và vách núi xen nhau. Nếu bỏ thoại đầu rồi cách biệt văn tự mà khởi nghi, đối với kinh giáo mà khởi nghi, khởi nghi đối với công án của người xưa, khởi nghi trong trần lao hằng ngày, đều là quyến thuộc của tà-ma, thứ nhất không được hướng về chỗ nên ra mà gánh vác, lại không được suy lường so tính, nhưng vướng mắc vào ý thì y cứ vào chỗ không thể suy lường, có thể suy lường, tâm không có nơi chốn. Chuột chui vào rừng trâu thì thấy lộn ngược. Lại trong gang tấc nếu ồn ào thì chỉ nêu thoại đầu con chó không có Phật tánh, lời Phật, lời tổ, lời của các vị Lão túc muôn sai ngàn khác, nếu thấu được chữ vô này, cùng lúc thấu đáo thì không cần hỏi người. Nếu một bề hỏi người thì lời Phật nói như thế nào? Lời Tổ như thế nào? Lời các vị Lão Túc như thế nào? Nhiều kiếp không có lúc ngộ. Trả lời Lữ Lang Trung (Long Lễ): Lệnh huynh Cư Nhân, hai lần được thư, vì việc này rất bận nhưng cũng phải vội vàng, tuổi đã sáu mươi và cũng từ quan rồi, lại đợi thế nào? Nếu không sớm vội vàng, ngày ba mươi tháng chạp làm sao thu xếp cho xong. Nghe mọi người gần đây cũng bận, chỉ cái vội vàng này chính là tin tức của ngày ba mươi tháng chạp. Thế nào là Phật? Que chùi phân, trong đây không thấu suốt khác gì với ngày ba mươi tháng chạp, bọn học trò nghèo một đời dùi đầu vào đống giấy cũ, việc ấy muốn biết thì phải hiểu rộng các sách, nói cao bàn rộng. Khổng tử như thế nào? Mạnh Tử như thế nào? Trang Tử như thế nào? Chu dịch như thế nào? Người xưa trị loạn như thế nào? Mà bị những lời nói này khiến cho thất điên bát đảo. Trăm nhà hiền triết vừa nghe người ta nêu lên một chữ liền thành quyển niệm đem đi, lấy việc không biết làm hổ thẹn, đồng thời hỏi người khác việc trong nhà của mình hoàn toàn không người nào biết, có thể gọi là suốt ngày đếm tiền cho người khác mà mình thì chẳng được nửa xu tiền, uổng công đời sau, thoát bỏ xác rò rỉ này, sanh lên cõi trời cũng không biết, đưa xuống địa ngục cũng không biết, theo nghiệp lực của mình mà trôi lăn vào các cõi, hoàn toàn không hay biết. Nếu là việc trong nhà người khác, nhỏ lớn đều biết hết, só đại phu học được sách này nhiều thì vô minh nhiều, đọc được sách ít, thì vô minh ít, người làm quan nhỏ thì ngã nhỏ, làm chức quan lớn thì Ngã lớn. Tự nói: ta thông minh lanh lợi, đến một vật nhỏ lợi hại thông minh cũng không thấy, lanh lợi cũng không thấy, suốt đời cũng không đọc được một chữ trong sách. Bởi vì trừ khi thượng đại nhân khâu Ất Tî, chính là sai lầm, chỉ muốn được giàu sang thôi. Nhưng được giàu sang lại có được mấy người chịu quay đầu chuyển ý suy tận cùng dưới gót chân mình, tức là được sự giàu sang này, là từ chỗ nào đến? Ngay hôm nay được giàu sang, ngày khác lại đi về đâu? Đã không biết chỗ đến, lại chẳng biết chỗ đi, liền cảm thấy trong lòng sầu muộn, chính lúc sầu muộn cũng chẳng phải vật khác, chỉ y theo đây mà khán thoại đầu này. Vị Tăng hỏi ngài Vân Môn: thế nào là Phật? Vân Môn đáp: que chùi phân. khi chỉ nêu lời này, chợt những mánh khoé đều sạch hết liền ngộ, rất kî tìm văn tự dẫn chứng, chú giải so lường lung tung, dù chú giải rõ ràng, nói năng mạch lạc cũng chỉ là việc làm của bọn quỷ, nghi tình không phá được, nghi ngờ sanh tử xen lẫn. Nếu nói rõ được thì tâm sanh tử dứt bặt, tâm sanh tử dứt thì Phật kiến pháp kiến mất, Phật kiến pháp kiến còn mất huống chi là khởi kiến phiền não của chúng sanh ư! Chỉ dời tâm phiền muộn đến đặt trên que chùi phân, hoàn toàn chống lại được, sợ tâm sanh tử, tâm buồn phiền, tâm suy lường phân biệt, khởi tâm thông minh tự nhiên không được. khi cảm thấy không được thì chớ sợ rơi vào không, bỗng nhiên dứt bặt tin tức ngay chỗ chống lại, khôn xiết vui mừng, tình sanh dứt được tin tức, khởi Phật kiến, pháp kiến, chúng sanh kiến, suy lường phân biệt, khởi thông minh, nói đạo lý đều, không chướng ngại nhau trong bốn oai nghi hằng ngày, thường nói giáo rộng rãi chỗ vắng lặng nơi ồn náo thường dùng que chùi phân thức tỉnh, ngày qua tháng lại trâu đực tự thuần thục. Thứ nhất không được hướng ra bên ngoài sanh khởi nghi ngờ riêng, phá nghi trên que chùi phân thì Hằng hà sa số nghi ngờ khác cùng lúc đều phá được, trước đây cũng từng viết như vậy, so với Triệu Cảnh Minh lại nhận được sách, trong sách lại hỏi rằng: chẳng biết lìa đây thì có chỗ hạ thủ công phu khác hay không? Lại như quơ tay múa chân, mặc áo ăn cơm phải thể cứu như thế nào? Là chỉ khán thoại đầu hay còn có thể cứu nào khác? Lại bình sanh có một việc rất nghi ngờ đến nay chưa rõ, như khi chết rồi là đoạn diệt hay không đoạn diệt? Như thế nào quyết định thấy được? Lại không cần dẫn lời kinh luận, không dựa vào công án của người xưa, chỉ y cứ vào việc thẳn thắng rõ ràng trước mắt, chỉ bày phân tích chỗ thật đoạn diệt hay không đoạn diệt, xét hán nói lời như vậy ngược lại không bằng người tiếc việc của ba nhà trong thôn, cũng không bằng rất nhiều phân hoại, chết cũng chết được thoải mái, rõ ràng nói với họ rằng: ngàn nghi muôn nghi chỉ là một điều nghi, phá được nghi trong thoại đầu thì ngàn muôn điều nghi ngờ cùng lúc được phá, không phá thoại đầu thì lại y cứ vào thoại đầu và vách đá xen nhau. Nếu bỏ thoại đầu lại cách biệt văn tự khởi nghi, đối với giật tỉnh khởi nghi, đối với công án của người xưa mà khởi nghi, đối với trần lao hằng ngày mà khởi nghi, đều là quyến thuộc của tà ma. Lại không được hướng về chỗ nêu ra mà gánh vác, cũng không được suy lường so tính, nhưng chỉ lưu tâm thì chỗ không thể suy lường mà suy lường được, tâm vô sở trụ, chuột chui vào sứng trâu liền thấy đảo lộn, viết được rõ ràng như vậy. Lại, Lai buồn rầu hỏi: Chẳng biết người nhiều thông minh hiểu biết sẽ đi về đâu? Không tin đạo, bình sanh đọc sách đến một chữ trong đây cũng khiến không được, mà nay bất đắc dó lại bị họ phát ra những hơi thở bẩn. Nếu chỉ dừng như thế thì Diệu Hỷ bị hắn hỏi lại đáp không được, vừa được sách này liền tặng cho hắn xem thử. Cư nhân tự nói: Được sáu mươi tuổi mà việc này chưa hiểu, hỏi hắn chỗ chưa hiểu, là còn phải giơ tay múa chân, mắc áo, ăn cơm. Chưa hiểu, nếu phải giơ tay múa chân, mặc áo, ăn cơm lại phải làm sao hiểu nó. Đâu không biết rằng chỉ muốn thấy biết được quyết định này, khi chết rời đoạn diệt hay không đoạn diệt, liền ở trước mặt ông già Diêm-la mà ăn gậy sắt. Không phá nghi này thì lang bạt sanh tử chưa có ngày ra, nói với hắn rằng: ngàn muôn điều nghi là một điều nghi, nếu phá thoại đầu thì sau khi chết nghi sẽ đoạn diệt hay không đoạn diệt, lập tức nước chảy bình tan, lại dạy thẳng thắn rõ ràng, chỉ bày phân tích đoạn diệt hay không đoạn diệt, như kiến thức này khác gì ngoại đạo. bình thường làm rất nhiều việc, cần gì phải làm. Hắn thở ra hơi bẩn này để xông ướp người ta, Diệu Hỷ không được dừng như thế cũng thở ra hơi thở bẩn, lại đi xông ướp người khác thì dạy hắn đừng dẫn kinh giáo và công án của người xưa mà chỉ y cứ vào điều thẳng thắn rõ ràng trước mắt, chỉ bày chỗ thật đoạn diệt hay không đoạn diệt. Thuở xưa, Thiền sư Chí Đạo hỏi Lục Tổ rằng: Đệ tử tự xuất gia xem kinh Niết-bàn đã hơn mười năm mà chưa hiểu đại ý, xin sư dũ lòng từ chỉ dạy. Tổ hỏi: ông chưa hiểu chỗ nào? thưa rằng: các hành vô thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, vắng lặng là vui, nghi ngờ ở chỗ này. Tổ hỏi: Ông nghi thế nào? Thưa rằng: Tất cả chúng sanh đều có hai thân là sắc thân và pháp thân (vị này chính là đồng đạo của cư nhân), sắc thân vô thường có sanh có diệt, pháp thân thường còn, vô tri vô giác. Kinh chép rằng: sanh diệt diệt rồi, vắng lặng là vui, chẳng hay thân nào vắng lặng, thân nào được vui? Nếu là sắc thân thì khi sắc thân diệt, bốn đại phân tán, toàn là khổ, mà khổ thì không thể nói là vui. Nếu pháp thân vắng lặng thì đồng với cỏ cây ngói đá thì ai sẽ thọ vui. Lại, pháp Thánh là thể sanh diệt, năm uẩn là dụng sanh diệt, một thể năm dụng thì sanh diệt là thường, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì nhiếp dụng về thể. Nếu nghe lại sanh tức là loại hữu tình, không đoạn không diệt. Nếu không nghe lại sanh thì mãi mãi quay về vắng lặng, đồng với vật vô tình, như vậy thì tất cả các pháp bị Niết-bàn ngăn phục, còn không được sanh thì có gì vui. (Có thể lãnh qua như cư nhân). Tổ sư đến đây không thể cầm quyền Lâm Tế, Đức Sơn, bèn buông ra một chút hơi thở, lại nói rằng: ông là Thích Tử vì sao huân tập kiến chấp đoạn thường của ngoại đạo mà bàn luận pháp tối thượng thừa, theo sự hiểu biết của ông tức là ngoài sắc thân có pháp thân khác, lìa sanh diệt tìm diến vắng lặng diệt lại từ chối Niết-bàn thường lạc, nói có thân thọ. Đây chính là chấp chặt sanh tử, đam mê niềm vui thế tục. Nay ông nên biết Phật vì tất cả người mê mà nhận năm uẩn hòa hợp làm tướng tự thể, phân biệt tất cả pháp làm tướng ngoại trần, tham sống sợ chết niệm niệm trôi đi, không biết mộng huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, đem Niết-bàn thường lạc đổi làm tướng khổ, suốt ngày truy cầu, Phật vì thương xót các chúng sanh này nên mới chỉ bày Niết-bàn chân lạc, sát- na không có tướng sanh, sát-na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt để diệt (đến đây xin suy nghó kỹ) vậy thì vắng lặng hiện tiền, đang lúc hiện tiền mới gọi là thường lạc. Lạc này không có người thọ, cũng chẳng phải không có người thọ, (còn cân nhắc một chút) há có trên một thể mà năm dụng ư! huống gì lại nói Niết-bàn ngăn che các pháp khiến cho không bao giờ sanh, đây chính là huỷ báng Phật pháp (cư nhân cũng có một phần) nghe ta nói kệ rằng: (phân chia không kém) Đại Niết-bàn vô thượng, tròn sáng thường tịch chiếu, phàm phu cho là chết, ngoại đạo chấp là đoạn, những người cầu Nhị thừa, tự cho là vô tác, chỉ thuộc về tình chấp, gốc sáu hai kiến chấp, vọng lập tên hư giả, nghóa nào là chân thật (cư nhân muốn thấy chỗ thật chỉ xem một câu này) chỉ có quá nực người (chưa thấy người ấy) thông đạt không lấy bỏ (cư nhân lại nghi ba mươi năm) vì biết pháp năm uẩn, và vì nghóa trong uẩn (cư nhân ở trong đó có lẽ tìm ra vô môn) ngoài thấy các sắc tướng (chớ hoa mắt) mỗi tướng âm thanh kia (lừa gạt giết người) bình đảng như mộng huyễn (cứu được một nửa) không khởi kiến Thánh phàm, không khởi giải Niết-bàn (cũng chưa thấy người ấy) hai bên ba mé đoạn, thường ứng dụng các căn, mà không hề khởi dụng, phân biệt tất cả pháp, không khởi tưởng phân biệt, kiếp hoả thiêu đáy biển, gió thổi núi chạm nhau, vui chân thường vắng lặng, tướng Niết-bàn như thế, nay tôi cương quyết nói, cho ông bỏ tà kiến (chỉ vì cư nhân không chịu bỏ) ông chớ theo lời hiểu (cư nhân nhớ lấy) ông biết được chút phần (chỉ có chút phần này cũng không tiêu được) Chí Đạo nghe kệ bỗng nhiên đại ngộ (sắn bìm không ít) chỉ một cuộn dây này chính là thẳng thắn rõ ràng, chỉ bày cư nhân ngẩng đầu, cư nhân thấy điều này, nếu đạo vẫn là sở thuyết kinh luận, thì còn nêu công án của người xưa, nếu khởi kiến chấp như vậy thì vào địa ngục nhanh như tên bắn. Trả lời Lữ Xá Nhân (Cư Nhân). Nhờ hằng ngày công phu không dừng nghỉ, công phu thuần thục thì tự nhiên sáng tỏ. Cái gọi là công phu là tâm suy lường trần lao ở thế gian quay về trên que chùi phân, khiến cho tình thức không hiện hành, giống như người bằng gỗ đất, khi cảm thấy mê man đau khổ không lỗ mũi có thể nắm chính là được tin tức, chớ sợ rơi vào không, cũng chớ nghó trước tính sau một thời gian được ngộ. Nếu còn tâm này thì rơi vào tà đạo. Phật dạy rằng: pháp ấy chẳng thể suy lường phân biệt, chỗ có thể hiểu được liền sanh tai họa, biết được suy lường phân biệt không thể hiểu là ai, chỉ là Lữ Cư nhân này, lại không được quay đầu chuyển ý. Trước đây trả lời thư của Long Lễ nói hết bịnh thiền rồi, Chư Phật Chư Tổ đều không có một pháp cho người, chỉ cần đương nhân tự tin, tự bằng lòng, tự ngộ thôi. Nếu chỉ dùng cửa miệng của người khác để nói thì sợ lầm người, việc này quyết định lìa tướng, nói rằng, lìa tướng tâm duyên lìa tướng văn tự, có thể biết lìa các tướng thì cũng chỉ là Lữ cư nhân, nghi ông ta sau khi chết đoạn diệt hay không đoạn diệt, cũng chỉ là Lữ cư nhân, tìm thẳng thắn chỉ bày cũng chỉ là Lữ cư nhân, trong mười hai thời nhật dụng, hoặc buồn hoặc vui, hoặc suy lường hoặc phân biệt hoặc hôn trầm, hoặc trạo cử đều chỉ là Lữ cư nhân, chỉ một Lữ cư nhân này có thể khởi các thứ biến hóa kỳ lạ, có thể cùng với Chư Phật Chư tổ dạo chơi trong biển ánh sáng vắng lặng giải thoát hoàn toàn, thành tựu việc thế gian và xuất thế gian, chỉ vì Lữ Cư nhân không tin, nếu kính tin thì xin theo đây ghi chú vào là tam-muội ấy, bỗng xuất định, mất lại sanh ra lỗ mũi của cô nương, liền thấu suốt. Lại dạy đệ tử, đi qua khỏi chỗ dạy bảo, đọc Hỷ Úy có thể biết, vô thường mau chóng, cuộc sống trăm năm ví như ánh chớp, liền phải thâu nhận thời tiết kết quả của nhân đến, que chùi phân làm sao biết được khi không có cái mũi thì không có mùi vị trong bụng, liền được tin tức. Thứ nhất không được hướng đến chỗ nêu khởi mà gánh vác, cũng không được tung bay trong vỏ giáp vô sự, khi có thể nêu lên thì có, khi không nêu lên thì không, chỉ đem tâm suy lường trần lạc thế gian trở về trên que chùi phân, suy nghó tới, suy nghó lui, đâu được không chỗ, mánh khoé chợt hết liền tự ngộ, không được đem tâm chờ ngộ, nếu đem tâm chờ ngộ thì nhiều kiếp không thể được ngộ. Trước đây trả lời cho Long Lễ đã nói hết những thứ bệnh nặng của bọn học trò nghèo. Được để ở bên phải tòa. Nêu gương vào đây công phu, tuy chưa ngộ suốt cũng phân biệt được tà chánh, không bị tà ma chướng ngại, cũng trồng sâu được hạt giống Niết-bàn, dù đời này không liễu ngộ nhưng kiếp sau hiện ra thành thọ dụng cũng không phí sức, cũng không bị nghiệp ác đoạt lấy đem đi, khi qua đời cũng có thể chuyển nghiệp, huống chi một niệm tương ưng. Từng ngày tuyệt đối đừng suy nghó việc khác, chỉ suy nghó đến que chùi phân, đừng hỏi lúc nào ngộ, rất cầu mong, rất cầu mong! Khi ngộ cũng không có thời tiết, cũng không kinh động mọi người, tức là thường chăm chăm, tự nhiên không nghi Phật không nghi Tổ, không nghi sống, không nghi chết, được địa (chỗ) không nghi chính là Phật địa, trong Phật địa vốn không có nghi, không có ngộ, không có mê, không sống không chết, chẳng có cũng chẳng không, chẳng Niết Bàn, chẳng Bát-nhã, chẳng có Phật, chẳng có chúng sanh, cũng chẳng có thuyết như thế, lời này cũng không được, cũng chẳng phải không được, cũng chẳng biết không được, cũng chẳng nói không được như thế. cư nhân tin như vậy, Phật cũng chỉ như vậy, Tổ cũng chỉ như vây, ngộ cũng chỉ như vậy, mê cũng chỉ như vậy, nghi cũng chỉ như vậy, sống chết cũng chỉ như vậy, khi chết rồi đoạn diệt hay không đoạn diệt cũng chỉ như vậy, ở triều đình làm quan cũng chỉ như vậy, cũng quán ở chỗ vắng lặng cũng chỉ như vậy, một ngàn bảy trăm chúng đứng vây quanh Kính Sơn cũng chỉ như vậy, Biên Quản ở Hành châu cũng chỉ như vậy. Cư nhân có tin được không? Tin cũng chỉ như vậy, không tin cũng chỉ như vậy, cuối cùng như thế nào? Như vậy như vậy, như vậy cũng chỉ như vậy. Trả lời Uông Trạng Nguyên (Thánh Tích): Tả Hữu Diệu Niên tự lập, liền ở trên đảnh của tất cả mọi người không bị mắc kẹt vào lưới bẫy của giàu sang, chẳng phải là chỗ giữ gìn nguyện lực trăm kiếp nghìn đời thì đâu thể nào được như vậy, lại có thể phủ hợp ở việc lớn này, niệm niệm không lui sụt, có niềm tin quyết định, có chí quyết định, đây là chỗ mà bậc trượng phu nông cạn đâu thể là được. Lão Cù-đàm nói rằng: chỉ một việc này là thật, còn cái thứ hai khác thì chẳng phải chân, xin cố gắng chớ có lơ là, việc thế gian chỉ là đây, bậc Thánh trước đâu không nói rằng: “Sớm nghe đạo tối chết cũng được”, chẳng biết nghe là đạo gì? Đến đây đâu dễ gì chớp mắt, không thể dẫn dứt ta hoàn toàn để thông suốt, phải tự tin tự ngộ, nói được cuối cùng là vô bằng cứ, tự thấy được, tự ngộ được, tự tin được, nói không được, hình dung không ra, lại không ngăn ngại, chỉ sợ nói được, hình dung được, lại không thấy không ngộ thì lão Cù-đàm chỉ là người Tăng thuợng mạn, cũng là người phỉ báng Niết-bàn, cũng là người đại vọng ngữ, cũng là người cắt đứt tuệ mạng của Phật, dù ngàn Phật ra đời cũng không cho sám hối. Nếu hiểu thấu được thoại đầu con chó không có Phật tánh, cách nói năng này lại thành nói dối, mà nay không thể liền khởi biết là nói dối. Lữ Cư Nhân so sánh liền nhận hai quyển sách, trong sách đều nói rằng: Trong hạ trả lời thư của Long Lễ, thường ở bên phải tòa để được kỳ hạn. Lại nghe thường chép trình lên mọi người, các quý công tử thời gần đây giống như hắn, như khi hoa Ưu-đàm-bát một lần xuốt hiện trên đỉnh núi và mỗi lần cùng ông nói thoại đầu này thì thấy mắt của ông dừng động, xem được chín phần chín mao, chỉ thiếu một chút thôi, nếu cố gắng được một chút nữa thì Nho tức là Thích, Thích tức là nho, Tăng tức là tục, tục tức là Tăng, phàm tức là Thánh, Thánh tức là phàm, ta tức là ông, ông tức là ta, trời tức là đất, đất tức là trời, sóng tức là nước, nước tức là sóng, tô lạc đề hồ khuấy thành vàng, tại ta không tại người, đạt được trình độ này, do ta chỉ huy, cái gọi là Ta là Pháp Vương tự tại đối với các pháp, được mất, phải trái đâu có quái ngại, vì chẳng phải gắng gượng làm pháp như vậy, cảnh giới này mà tin được, thì dù có tin đi nữa cũng làm sao bắt tay làm được, mọi người đã tin, đã thấy rồi, đã có thể phân biệt, là tà là chánh, nhưng chưa được bắt tay thực hành, khi đã được dính tay rồi thì không phân biệt già trẻ, trí ngu, như đem địa vị Phạm trao cho kẻ phàm phu, lại không có thứ lớp giai cấp, như Vónh Gia nói hoàn toàn siêu vượt lên Như lại địa, chỉ cần nghe nhau thì quyết không lầm nhau. Mỗ muôn duyên chấm dứt, hằng ngày chỉ như vậy, không phiền nhớ nghó, trong phần của mọi người thiếu cái gì, ở trên thế giới có thể gọi là ngàn đủ muôn đủ. Nếu có thể ở trong cửa này mà trở mình một cái thì đâu chỉ buộc eo lưng người vạn xâu, cởi hạt lên Dương Châu mà thôi đâu! Xưa, Dương văn công năm ba mươi tuổi yết kiến Quảng Tuệ Liễn Công, trừ bỏ được vật chướng ngại, từ đó về sau ở trong lòng cư Điền của triều đình trước sau một mực, không bị công danh làm thay đổi, không bị giàu sang chiếm đoạt, nhưng cũng không có ý xem nhẹ công danh giàu sang, vì đạo sở tại nên pháp như vậy. Triệu Châu nói rằng: các vị bị mười hai thời sai khiến, Lão Tăng sai khiến được mười hai thời, Lão đây nói lời này chẳng phải là gượng làm, mà vì pháp như vậy. Nói chung học và hành Đạo là một. Nhưng người học ngày nay thường cho nhân, nghóa, lễ, trí, tín là học, lấy cách vật trung thứ là một để quán xuyến là đạo, miễn là giống như cậu đố, lại như những người mù sờ voi, mỗi người đều nói một khía cạnh khác nhau. Thích-ca đâu không nói rằng: Đem thân suy nghó so lường cảnh giới Viên giác của Như lai thì cũng giống như lấy lửa đom đóm mà thiêu đốt núi Tu-di, đến giữa sanh tử đọa phước đều không đắc lực. Vì vậy, nên Dương Tử nói rằng: người học sở dó tu tánh vì tánh chính là đạo. Ông già Mặt vàng nói rằng: Thánh thành đạo vô thượng. Khuê Phong nói rằng: làm việc có nghóa là tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghóa là tâm cuồng loạn, cuồng loạn do tình niệm, lúc qua đời bị nghiệp kéo lôi, tỉnh ngộ không do tình, lâm chung sẽ chuyển được nghiệp. Cái gọi là nghóa chính là nghóa của nghóa lý, chẳng phải nghóa của nhân nghóa, mà nay xem ra Lão tử này cũng chưa khỏi tách hư không ra làm hai chỗ. Nhân chính là nhân của tánh, nghóa chính là nghóa của tánh, lễ chính là lễ của tánh, trí chính là trí của tánh, tín chính là tín của tánh, nghóa của nghóa lý cũng là tánh, làm việc vô nghóa thì trái với tánh này, làm việc có nghóa thì thuận với tánh này, nhưng thuận nghịch cũng do người, chẳng phải tại tánh, nhân nghóa lễ trí tín ở tánh chẳng phải ở người, người có hiền ngu, còn tánh thì không có. Nếu nhân, nghóa, lễ, trí, tín do hiền mà không do ngu thì đạo của bậc Thánh có lựa chọn, lấy bỏ, như trời mưa lựa chỗ để rơi. Cho nên nói rằng: nhân, nghóa, lễ, trí, tín ở tánh mà không ở người, hiền ngu thuận nghịch ở người mà không ở tánh. Dương Tử nói: tu tánh, tánh cũng không thể tu cũng là thuận nghịch hiền ngu mà thôi. Khuê Phong nói tỉnh ngộ cuồng loạn. Triệu Châu nói sai khiến được mười hai thời, bị mười hai thời sai khiến. Nếu biết được chỗ khởi tánh của nhân, nghóa, lễ, trí, tín thì cách vật trung thứ hoàn toàn ở trong đó. Triệu Pháp sư nói rằng: Có thể là trời, có thể là người, há là chỗ có thể của trời, người ư? Cho nên nói rằng học tu hành đạo là một. Nói chung bậc Thánh lập giáo thì không cầu danh, không khoe công như mùa xuân tạo nên hoa cảnh, đầy đủ tánh này, thời tiết nhân duyên đến mỗi pháp đều không biết nhau, tùy căn tánh lớn nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc hồng, hoặc lục, hoặc hôi, hoặc thơm, của mình mà đồng thời phát tác, chớ chẳng phải mùa xuân có lớn nhỏ, vuông tròn, dái ngắn, xanh vàng, hồng lục hay hôi thơm, đó đều là tánh vốn có, hễ gặp duyên thì phát ra thôi. Bách Trượng nói rằng: muốn biết nghóa Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, nếu thời tiết đến thì lý ấy tự sáng tỏ. Lại Nhượng Sư bảo Mã Sư rằng: ông học tâm địa pháp môn như gieo hạt giống, ta nói pháp yếu vì như ao trời kia, ông vì hợp với duyên nên thấy đạo ấy, cho nên nói rằng: bậc Thánh lập giáo không cầu sanh, không khoe công, chỉ khiến cho người học thấy tánh thành đạo mà thôi. Ngài Vô Cấu nói rằng: Đạo ở trong một hạt cải thì một hạt cải nặng, đạo ở thiên hạ thì thiên hạ nặng. Mọi người từng đến giảng đường của Vô Cấu nhưng chưa vào thất của Ngài, thấy bề ngoài thất mà chưa thấy bên trong thất, cuộc sống trăm năm chỉ trong khoảng sát-na, sát-na ngộ, như trên đã nói đều chẳng thật nghóa, nhưng đã ngộ rồi mà cho là thật cũng do ta, cho là chẳng thật cũng do ta, như nước trong hồ lô, chẳng ai không được, thường rộng lớn chạm vào liền động, nén vào liền chuyển lộc cộc, chẳng phải gượng làm, cũng vì nghóa là pháp như vậy. Thoại đầu con chó không có Phật tánh cũa Triệu Châu, mọi người như người bắt trộm, đã biết chỗ ở nhưng chưa bắt được, xin sắc mặt thư thái không được có chút xen hở, luôn luôn chăm chú vào chỗ đi đứng nằm ngồi, đọc sách sử, tu nhân nghóa lễ trí tín cùng xen nhau chợt đánh mất túi vải, còn nói gì? * Trả lời Tông Trực Các: Nêu thí dụ: ứng duyên ngày càng liên quan tới cảnh giới khác nhau, chẳng phải không có trong Phật pháp, lại ở lúc đổi sắc mặt hằng ngày, lấy thoại đầu con chó không có Phật tánh để dứt trừ tình trần. Nếu khởi công phu như vậy, e rằng cuối cùng không được ngộ nhập, xin chiếu cố ở dưới gót chân cảnh giới khác nhau từ đâu mà khởi? Giữa chu toàn đổi sắc mặt, làm sao dùng thoại đầu con chó không có Phật tánh, để dứt trừ tình trần, người biết phá trừ tình trần lại là ai? Phật đâu không nói rằng: chúng sanh điên đảo mê mình chạy theo vật, vật vốn không có tự tánh, mê mình thì tự đuổi theo nó thôi. Cảnh giới vốn không khác nhau, mê mình thì tự khác nhau. Đã ngày càng liên quan tới cảnh giới khác nhau, lại ở trong Phật pháp, đã ở trong Phật pháp thì không có cảnh giới khác nhau, đã ở trong cảnh giới khác nhau thì chẳng có Phật pháp lấy một bỏ một, có mong gì liễu ngộ. Người hàng thịt Quảng Ngạch ở trong hội Niết-bàn buông dao đồ tể liền thành Phật, há có nhiều buồn rầu đến ư? chỗ ứng duyên hằng ngày, khi vừa biết liên quan đến cảnh giới sai khác thì chỉ căn cứ vào chỗ khác nhau, nêu thoại đầu con chó không có Phật tánh không cần khởi tưởng phá trừ, không cần thoại đầu con chó không có Phật tánh mà chỉ nêu chữ vô này, cũng không cần có gì đợi ngộ. Nếu có ý đợi ngộ thì cảnh giới cũng khác nhau. Phật pháp cũng khác nhau, tình trần cũng khác nhau, thoại đầu con chó không có Phật tánh cũng khác nhau, chỗ gián đoạn cũng khác nhau, chỗ không gián đoạn cũng khác nhau, gặp chỗ tình trần mê loạn thân tâm không an vui cũng khác nhau, có thể biết rất nhiều việc sai khác cũng khác nhau: Nếu muốn trừ bệnh này thì chỉ xem một chữ không này, chỉ xem người hàng thịt Quảng Ngạch buông đao rằng: Ta là một số trong ngàn Phật là thật hay là giả? Nếu khởi lên bàn luận thật giả thì lại nhập vào cảnh giới khác nhau, không bằng một đao dứt làm hai không được nhớ trước nghó sau, nhớ trước nghó sau thì lại khác rồi. Huyền Sa nói rằng: việc này hẹn ước không được, đường tâm tư dứt, không do trang nghiêm, xưa nay chân tịnh, động dụng nói cười, tùy chỗ biết rõ lại không thiếu. Người thời này không ngộ đạo lý ở đây, vọng tự liên quan đến việc, liên quan đến trần, chỗ nào cũng đều nhiễm trước, nơi nào cũng bị trói buộc, dù có ngộ thì trần cảnh cũng xôn xao, danh tướng không thật lại muốn lắng tâm xét niệm, nhiếp sự về không, nhắm mắt lại theo có khởi niệm phá trừ rất nhanh, tế tưởng vừa sanh thì liền chặn lại, kiến giải như thế tức là rơi vào không của ngoại đạo, người chết hồn không tan, mờ mờ mịt mịt không hay không biết, bịt tai trộm chuông luống tự lừa dối, mọi người gửi thư đến v.v… đều bị Huyền Sa quở trách, Tà Sư phái Mặc Chiều chôn người vào hầm chẳng thể không biết. Khi nêu thoại đầu đều không cần làm nhiều mánh khoé, chỉ ngay chỗ đi đứng nằm ngồi chớ để xen hở, chớ sanh phân biệt mừng, giận, ghét thương, nêu tới nêu lui, khán qua khán lại, khi cảm thấy mất đường lý, mất mùi vị, trong lòng oi bức chính là chỗ buông bỏ thân mạng của đương nhân, nhớ lấy, nhớ lấy! Chớ thấy cảnh giới như vậy liền thoái tâm, cảnh giới này chính là tin tức thành Phật thành Tổ, nhưng nay bọn tà sư Mặc Chiếu gọi là việc bên bờ Oai Âm, cũng gọi là việc ở trước kiếp không, không tin có môn ngộ, cho ngộ là lừa dối, cho ngô là đầu thứ hai, cho ngộ là lời phương tiện, cho ngộ là lời dắt dẫn, bọn người này dối người cũng tự dối mình, lầm người cũng tự lầm mình, cũng chẳng thể không biết. Trong bốn oai nghi, cũng chẳng thể không biết. Trong bốn oai nghi hằng ngày liên quan tới cảnh giới khác nhau, khi cảm thấy tiết kiệm sức lực là chỗ đắc lực, chỗ đắc lực rất tiết kiệm sức lực. Nếu dùng một mảy may khí lực chống đỡ, thì quyết định là tà pháp chẳng phải là Phật pháp. Nếu tâm phân biệt chấp lâu dài và thoại đầu con chó không có Phật tánh xen nhau qua lại, tâm không có nơi chốn chợt như ngủ mộng thức dậy, như hoa sen nở, như vén mây thấy mặt trời, đến lúc đó tự nhiên thành một khối, nhưng chỗ bảy điên tám đảo hằng ngày, chỉ khán chỗ vô này, chớ lo ngộ hay không ngộ, thấu hay không thấu, Chư Phật ba đời chỉ là người vô sự này. Người xưa nói rằng: chỉ ở trong việc thông vô sự, thấy sắc nghe tiếng không bị điếc. Lại người xưa nói rằng: người ngu trừ cảnh không quên tâm, người trí quên tâm không bỏ cảnh đối với tất cả tâm, cho nên các cảnh giới khác nhau tự không, mà só Đại Phu thời nay phần nhiều có tánh hấp tấp muốn biết thiền, ở trong kinh giáo và trong lời nói của Tổ Sư, suy lường muốn nói được rõ ràng, nào ngờ chỗ rõ ràng lại là việc không rõ ràng. Nếu thấu được chữ vô này thì rõ ràng hay không rõ ràng chẳng cần hỏi ai. Lão Hán dạy só Đại Phu nói giáo độn chính là đạo lý này, làm độn bảng Trạng Nguyên cũng không xấu chỉ sợ kéo theo sự nhầm lẫn thôi. Trả lời Lý Tham Chánh (Thái Phát). Nêu ví dụ: Hoa Nghiêm pháp giới nhiều lới quyết chắc chẳng phải là lời luống dối, đã chẳng phải là lời luống dối thì phải có chỗ dặn dò, phải có chỗ tự bằng lòng, đọc đến đây thở dài mãi. Sở học lâu nay của Só Đại Phu, đến giữa sống chết, họa phước, tay chân đều lộ ra, mười phần thường hết tám chín, xét việc làm của họ thì không bằng bậc hảo hán biết việc của thô ba nhà, giàu sang nghèo hèn không thể nhận chìm tâm ấy, lấy đây so sánh thì trí không bằng ngu, sang không bằng hèn là nhiều. Vì sao? Vì sanh tử họa phước hiện tiền, lúc ấy không dễ gì giả dối được. Đại Tham Tướng Công sở học xưa nay đã thấy ở việc làm, đến giữa họa phước như vàng ròng đưa vào lửa càng thấy sáng rỡ, lại quyết định biết pháp giới nhiều lớp trong Hoa Nghiêm quyết không luống dối thì chắc không khởi tưởng vật khác. Ngoài ra bảy điên tám đảo, hoặc nghịch hoặc thuận, hoặc chánh hoặc tà. Cũng chẳng phải là vật khác, xin ông khởi quán như vậy, Diệu Hỷ cũng ở trong đó, ngày khác sẽ cùng nhau đến bờ vắng lặng, kết nhân duyên hương hỏa ở đời tương lai, thành tựu pháp giới nhiều lớp. Việc ấy là thật há không bổ ích sao? Lại phải chú thích dưới đây thì nay một mạng lưới này rất kî lời nói có ngụ ý để chỉ vật. Trả lời Tằng Tông Thừa (Thiên Ẩn). Mọi người thiên tư gần với đạo, thân tâm thanh tịnh, không có duyên khác làm chướng ngại, chỉ một đoạn này thì ai là người có khả năng theo kịp, lại có thể đi đứng nằm ngồi đem chỗ cốt yếu đã chỉ bày của Lão Tăng, thường thức tỉnh, thôi nói một niệm tương ưng, ngày liễu trăm đương, chính là chưa thấu suốt đời này, chỉ như thế đến ngày ba mươi tháng chạp ông già Diêm-la cũng phải quay ngược lại ba ngàn dặm mới được. Vì sao? Vì niệm niệm ở trong Bát-nhã, không có niệm khác, không xen hở chỉ như dòng Đạo Gia vì quên tâm còn tưởng, lâu ngày chày tháng còn có thể thành công không bị đất nước lửa gió sai khiến, huống chi là toàn niệm trụ trong Niết-bàn, ngày ba mươi tháng chạp, há không thể chuyển nghiệp được hay sao? nhưng người đời nay phần nhiều dùng tâm có sở đắc mà học đạo, đây là trong không vọng tưởng, chỉ nói giáo tự tại, nhưng không được quá gấp không được quá hưỡn, chỉ công phu như thế thì tiết kiệm được tâm lực vô hạn. Mọi người chỗ sanh đã thuần thục, chỗ thuần thục đã sanh, trong mười hai thời tự nhiên không mắc kẹt vào khổ tâm quên nhớ, đem tâm gánh vác, tuy chưa thoát ra các ma ngoại đạo và không thể xem xét tiện lợi của chúng, chúng cũng tự có thể chung một tay, cùng một mắt với các ma ngoại đạo, thành thục việc ấy mà không rơi vào số chúng. Chỉ một mình ông có thể nói việc này, người khác chẳng những không thể thực hiện như ông mà còn chưa chắc tin tưởng, chỉ khán thoại đầu, khán tới khán lui, khi cảm thấy không có cái mũi, không có mùi vị thì trong lòng phiền muộn, chính là lúc dùng sức, rất kị đi theo họ, chỉ chỗ phiền muộn này liền thành Phật thành Tổ, quét sạch đầu lưỡi của mọi người trong thiên hạ, không thể lơ là, không thể lơ là.  ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 29 Trả lời Vương Giáo Thọ (Đại Thọ): Chẳng biết mọi người sau khi phân biệt, hằng ngày công phu như thế nào? Nếu được mùi vị trong lý tánh, được mùi vị trong kinh giáo, được mùi vị trong câu nói của Tổ Sư, được mùi vị ở chỗ mắt thấy tai nghe, được mùi vị trong lúc động chân cất bước, được mùi vị ở chỗ tâm tư ý tưởng, đều không có ích lợi gì cho công việc. Nếu muốn lập tức ngừng nghỉ, lẽ ra phải từ chỗ được mùi vị trước đều chớ gánh vác việc người kéo lại bỏ mất chỗ mò dưới nước không được, nắm chặt cán dao, đường lý đường nghóa, tâm ý thức đều không hiện hành giống như cây đất, ngói đá chẳng sợ rơi vào không, đây là chỗ đương nhân buông bỏ thân mạng, không được xem thường, không được xem thường. Người thông minh lanh lợi phần nhiều bị thông minh làm chướng ngại, do đó mà mắt đạo không mở, gặp việc không giải quyết được. Chúng sanh từ vô thỉ đến nay bị tâm, ý, thức sai sử nên lang thang trong sanh tử không được tự tại, nếu muốn thoát ra sanh tử, làm người vui sướng thì phải một đao cắt đứt làm hai đoạn, cắt đứt đường tâm ý thức, mới có chút phần tương ưng. Nên ngài Vónh Gia nói rằng: tổn pháp tài diệt công đức, không thể không do tâm ý thức này, há lừa dối người ư? Vừa được ân huệ chỉ dạy, các thứ thú hướng trong đó đều là bệnh mà Tông Cảo bấy lâu nay đã quở trách, biết là việc thông thường bốc lên sau ót, lại hướng về chỗ không có mũi mò dưới nước, không có mùi vị, thử thực hành công phu xem. Như có vị Tăng hỏi Triệu Châu rằng: con chó có Phật tánh hay chăng? Ngài Triệu Châu đáp: không. Người thông minh bình thường, vừa nghe nêu lên liền dùng tâm ý thức lãnh hội suy lường dẫn chứng, phải nói được có chỗ dặn dò, nào ngờ không cho dẫn chứng, không cho suy lường, không cho dùng tâm ý thức lãnh hội, dù dẫn chứng được, suy lường được, lãnh hội được cũng chỉ là việc bên cạnh tình thức trước đầu lâu, bờ sanh tử sẽ không đắc lực, mà nay khắp thiên hạ đều gọi họ là Thiền sư Trưởng lão biết được lý lẽ, không ra khỏi tin tức viết lại trong sách của mọi người. Còn các loại tà giải không ở trong lời nói. Mật Thủ Tọa Công Cảo gặp Hán ở trong Bình Phổ Dung Hội, chỉ được yếu lónh của Phổ Dung, hắn tự cho là an vui, nhưng chỗ tạo tác cũng không ra khỏi tin tức trong sách của mọi người, nay mới biết lỗi, được chỗ an vui riêng này mới biết Tông Cảo không có chút lừa dối nhau. Nay chỉ cho đến gặp nhau, khi rảnh rỗi thử để cho hắn thổ lộ xem, lại khế hợp được ý của mọi người không? Ông lão tám mươi vào hội trường chân thật chẳng phải là trẻ nhỏ đùa giỡn. Nếu sanh tử đến không đắc lực thì dù nói được lý lẽ, hòa hội được có trở xuống, dẫn chứng được sự khác nhau, chỉ là việc làm của bọn ma quỷ, đều không dính dáng chút nào việc của ta. Thiền môn mỗi thứ đều có chỗ hiểu biết khác nhau, pháp Duy thức thì sợ, đại pháp không hiểu, phần nhiều thường lấy bệnh làm thuốc, chẳng thể không biết. Trả lời Lưu Thị Lang (Quý Cao). Nói rõ cho biết ngày 30 tháng chạp đã đến, hằng ngày cần phải quán sát như vậy thì tâm trần lao ở thế gian tự nhiên tiêu mất, tâm thần lao đã bị tiêu mất thì những ngày tới dựa vào tháng giêng vẫn còn lạnh. Người xưa nói rằng: Muốn biết nghóa Phật tánh phải xem thời tiết nhân duyên, thời tiết này chính là thời tiết ra đời thành Phật ngồi tòa Kim cương hàng phục ma quân, xoay bánh xe pháp độ chúng sanh, nhập Niết-bàn của ông già Mặt vàng và Giải không nói là thời tiết ngày 30 tháng 12 chẳng riêng, chẳng khác, đến đây chỉ quán như vậy, quán theo đây thì gọi là chánh quán, quán khác đây gọi là tà quán, tà chánh chưa rõ thì không khỏi chuyển biến theo thời tiết khác, nếu không theo thời tiết thì chỉ nhất thời không bỏ được, chỗ bỏ được không thể bỏ, lời này cũng không được, theo trước chỉ là giải không cư só chứ chẳng phải người khác. Đức Phật là bậc đại Thánh, có thể không tất cả tướng, thành tựu trí muôn pháp, nhưng không thể dứt bỏ định nghiệp, huống là bạc địa Phàm Phu ư! Cư só đã là người trong đó, có lẽ cũng thường nhập vào tam-muội ấy. Xưa, có vị Tăng hỏi một bậc lão túc rằng: Thế giới nóng như thế, không biết trốn chỗ nào? Lão túc đáp rằng: trốn ở trong vạc nước sôi và lò lửa. Hỏi: Nếu ở trong vạc nước sôi, trên lò lửa thì làm sao trốn? Đáp: Vì các khổ không thể đến, xin cư só trong bốn oai nghi hằng ngày chỉ cần thực hành công phu như vậy, lời của Lão túc nói không được lơ là. Đây là Diệu Hỷ được phương thuốc hiệu quả, chắc khế hợp đạo này và biết tướng tâm này của cư só, cũng không cho dễ dàng truyền trao, chỉ cần một niệm tương ưng, bỏ vạc nước sôi xuống không cần vạc nước sôi khác sử dụng thì làm cho người ta phát cuồng chẳng thể không biết. Một niệm tương ưng với bỏ, không cần tìm cái khác cũng chỉ ở trong bốn oai nghi của cư só, chỗ sáng thì sáng như mặt trời, chỗ tối thì tối như mực đen, nếu tin thì tiện tay lấy được, vì bản địa phong quang soi sáng không có lầm người, cũng có thể làm chết người, cũng có thể cứu sống người. Nên Phật tổ thường lấy thuốc này hướng vào vạc nước sôi, lò lửa than làm thầy thuốc trị bệnh sớm thoát sanh tử khổ não của chúng sanh. Gọi là Đại Y Vương, chẳng biết cư só có tin chăng? Nếu nói ta tự có phương thuốc được giữ kín cha con không truyền thì không cần phương pháp khéo léo là trốn trong vạc nước sôi, lò than nóng, mà lại mong cư só bố thí. Trả lời Lý Lang Trung (Tự Biểu). Só Đại Phu học đạo này, chẳng sợ không thông minh mà chỉ sợ quá thông minh thôi, chẳng sợ không có tri kiến, mà chỉ sợ tri kiến quá nhiều thôi. Nên thường hành trước thức một bước, mê thì tin tức tự tại dưới gót chân. Tà kiến bậc thượng, hòa hợp thấy nghe hay biết làm chính mình, dùng cảnh giới hiện tượng làm pháp môn tâm địa. Bậc hạ đùa giỡn với nghiệp thức, nhận ở ngoài cửa miệng, giũ hai miếng da nói huyền nói diệu, thậm chí phát cuồng không thắt chặt mấy chữ, nói lời bậy bạ, chỉ Đông vẽ Tây. Bậc hạ hạ lấy lặng chiếu không lời, rỗng không tịch mặc, mắc kẹt vào hang quỷ, tìm rốt ráo an vui, ngoài ra các loại tà giải không ở trong lời nói mà có thể biết được, xung mật v.v… quy y lãnh hội giáo pháp, vui mừng khôn xiết, lại không còn nhóm hợp thù tạc của tướng thế đế, chỉ đem chí hướng đạo mạnh mẽ của mọi người liền nhập vào mối quan hệ sắn bìm thì thiền chẳng khác Đức Sơn, Lâm Tế và Pháp Nhãn Tào Động, chỉ vì người học không có chí quyết định rộng lớn, mà sư gia cũng không có pháp môn dung thông rộng lớn, nên chỗ vào có khác nhau, rốt ráo trở về chỗ vốn có, hoàn toàn đáng tiếc rất khác nhau. Ví dụ như muốn Diêu Hỷ nhờ sách chỉ bày chỗ quan trọng chính yếu thì chỉ cần cầu chỉ bày một niệm chính yếu này là đã đâm đầu vào chậu nhựa, không thể ở trên tuyết mà thêm sương. Tuy nhiên có hỏi cũng chẳng thể không trả lời, xin mọi người hãy dùng việc tự xem kinh giáo hoặc thoại đầu từ bấy lâu nay, hoặc chỗ nhờ người khác giác ngộ chỉ bày được mùi vị hoan hỷ, cùng một lúc buông xuống, y như đứa bé ba tuổi còn chưa biết gì, có tính thức mà chưa thực hành, lại hướng về chỗ chưa khởi tìm một niệm chính yếu của thoại đầu trước khán tới khán lui, khi cảm thấy chuyển mất cái mũi, tất vuông càng không yên tónh, chẳng được tha hồ thong thả, đây là chỗ quét sạch đảnh ngàn Thánh, thường ngồi học đạo phần nhiều vì chỗ này mà bỏ cuộc. Nếu mọi người tin tưởng thì chỉ cần y cứ vào chỗ chưa khởi cầu chỉ bày một niệm chính yếu trước khán, khán tới khán lui, chợt biết ngủ thức chẳng phải việc khác. Đây là công phu đắc lực xưa nay của Diệu Hỷ, biết ông có chí quyết định, nên kéo bùn lấp nước đưa vào một trận bại hoại này, ngoài điều này ra không thể chỉ bày riêng, nếu có thể chỉ bày thì chẳng phải chính yếu. Trả lời Lý Bảo Vân (Mậu Gia). Nêu ví dụ: Nếu căn tánh ám độn, mà cố gắng tu trì, cuối cùng chưa được chỗ siêu ngộ. Lúc Tông Cảo ở Song Kính trả lời câu hỏi của Phú Quý Thân, rất giống với câu hỏi này, có thể biết người có căn tánh ám độn chắc chắn là không ám độn, lại muốn hướng đến chỗ nào để tìm siêu ngộ? Só Đại Phu học chỗ này lại phải mượn chỗ ám độn để vào, nếu chấp vào am độn tự cho rằng ta không có phần thì bị ma am độn nhiếp giữ. Vì chỗ thấy biết lâu nay phần nhiều đem tâm cầu chứng ngộ, vì ở trước khởi chướng ngại nên tránh tri kiến của mình không thể hiện tiền, chướng này cũng chẳng phải từ bên ngoài đến, cũng chẳng phải việc khác, chỉ là chủ nhân ông này có thể biết ám độn, nên Hòa thượng Đoan Nghiêm thường ở trong thất tự kêu rằng: chủ nhân ông! Lại tự đáp rằng: dạ. Ngày khác chớ bị người lừa dối! Lại tự trả lời rằng: dạ dạ. Xưa nay may mắn có được tấm gương sáng như thế, hướng về chỗ nầy thức tỉnh xem là cái gì? Chỉ chỗ thức tỉnh này cũng chẳng phải là người khác, mà là người có thể biết ám độn này, người có thể biết ám độn cũng chẳng phải là người khác mà chính là bổn mạng nguyên thần của Lý Bảo Văn. Đây là Diệu Hỷ ứng bệnh cho thuốc, bất đắc dó chỉ bày sơ lược cho cư só con đường trở về nhà ngồi vững vàng mà thôi. Nếu liền nhận định lời cùng, thật gọi đây là bổn mạng nguyên thần thì là nhận thức thần làm chính mình, càng mất giao thiệp. Nên Hòa thượng Trường Sa nói rằng: người học đạo không biết chân thật thì chỉ là nhận thần thức trước kia là gốc sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay, người si mê gọi là người vốn có. Phần trước nói rằng: mượn ám độn để vào, chỉ xem thì có thể biết được ám độn này, rốt ráo là cái gì? Chỉ khán trong đây không cần cầu siêu ngộ, khán tới khán lui bất chợt cười lớn, ngoài điều này ra thì không thể nói được. Trả lời Hướng Thị Lang (Bá Cung). Nêu ví dụ: như ngộ và chưa ngộ, mộng và tỉnh là một, về nhân duyên, ông già Mặt vàng nói rằng: ông dùng tâm duyên nghe pháp, pháp này cũng là duyên, nghóa là đến người không mộng, chẳng phải vô của hữu vô, nghóa là mộng và không mộng là một mà thôi, lấy đây mà quán thì Phật mộng trống vàng, Cao Tông mộng truyền thuyết, Khổng Tử mộng trông hai cột cái, cũng không thể hiểu được mộng và không mộng. Lại quán thế gian giống như việc trong giấc mộng, trong giáo tự có thành văn, chỉ mộng chính là hoàn toàn vọng tuởng. Nhưng chúng sanh điên đảo cho cảnh giới trước mắt hằng ngày là thật, đâu ngờ toàn thể là mộng, ở trong đó lại khởi lên luống dối phân biệt, cho tâm tưởng hệ niệm thần thức rối ren là thật mộng, trong điên đảo lại điên đảo. Nên Phật đại từ bi tâm lão Bà tha thiết, đều có thể vào khắp tất cả pháp giới, tất cả bụi nhỏ trong biển an lập, ở trong mỗi hạt bụi dùng pháp môn tự tại trong mộng để khai ngộ số chúng sanh nhiều như trong bụi trong biển thế giới, trụ vào tà định thì nhập vào chánh định. Đây cũng chỉ bày cho tất cả chúng sanh điên đảo lấy cảnh giới có thật trước mắt làm biển an lập khiến cho ngộ mộng và chẳng phải mộng đều là huyễn thì toàn mộng là thật, toàn thật là mộng, không thể lấy, không thể bỏ, đến người không mộng cũng như vậy mà thôi. Thư gởi đến hỏi, chính là chỗ nghi của Tông Cảo lúc ba mươi sáu tuổi, đọc vào bất giác gãi được chỗ ngứa, cũng từng vì câu hỏi này mà được Tiên sư viên ngộ, dùng tay chỉ nói rằng: dừng vọng tưởng, dứt vọng tưởng. Tông Cảo lại nói rằng: như khi Tông Cảo ngủ chưa say, Phật đã khen thì theo đó mà thực hành, chỗ Phật giữ thì không dám trái phạm. Từ trước nương theo thầy và tự công phu, chỗ được vụn vặt lúc tỉnh táo đều được thọ dụng, và lúc nửa tỉnh nửa mê trên giường, đã làm chủ tể không được mà mộng thấy được của báu thì trong mộng vui mừng vô hạn, mộng thấy người dùng dao gậy ép ngặt mình và các cảnh giới ác thì trong mộng buồn rầu sợ hãi, tự nghó, thân nầy vẫn còn, chỉ vì chủ tể không được, huống chi đất, nước, lửa, gió phân tán, các khổ hoành hành, làm sao không bị thay đổi, đến đây mới vội vàng. Tiên sư lại nói rằng: đợi khi ông nói rất nhiều vọng tưởng dứt bặt thì ông thì ông tự đến một chỗ thường ngủ thức, lúc đầu nghe cũng chưa tin, mỗi ngày ta tự nhìn lại, thức và ngủ rõ ràng là hai đoạn thì làm sao dám mở miệng lớn để nói thiền, trừ phi Phật nói ngủ thức hoàn toàn là vọng ngộ thì bệnh này của ta không cần trừ. Lời Phật nói quả nhiên chẳng lừa dối người, chính vì tự mình chưa rõ. Sau này nhờ nghe Tiên sư nêu chỗ xuất thân của Chư Phật, gió mát từ phương Nam thổi đến, bỗng nhiên bỏ vật chướng ngại mới biết lời nói của ông già mặt vàng là chân ngữ, thật ngữ, bất cuống ngữ, bất vọng ngữ, không khi người, thật đại từ bi, dù có tan thân mất mạng cũng không thể đáp đền. Vật chướng ngại đã trừ, mới biết khi mộng chính là khi thức. Đức Phật dạy: ngủ thức là một, mới tự biết đạo lý này, đem ra trình cho người không được, nói cho người cũng không được, xin hỏi Diệu Hỷ khi chưa ngộ, khi đã ngộ có khác nhau hay không? Bất chợt nương vào chân thật được khai thông, thận trọng chí thành đọc từng chữ trong giáo lý, chẳng phải hỏi thiền cũng chẳng bị vặn hỏi, nên không tránh khỏi đem chỗ nghi ngờ lúc xưa để thổ lộ. Xin cư só thử đem lời vô lễ của lão Bàng mà thức tỉnh, chỉ nguyện không các chỗ có, tuyệt đối đừng thật các chỗ không, trước đem cảnh giới trước mắt hằng ngày làm giấc mộng, sau đó lại đem cảnh giới trong mộng dời đến trước mắt thì trống vàng của Phật, truyền thuyết của Cao Tông, dựng hai cây cột trước của Khổng tử, quyết chẳng phải là mộng. Trả lời Trần Giáo Thọ (Phụ Khanh). Đạo này vắng lặng, không ra khỏi hôm nay. Tà sư nói pháp như chùm trái ác xoa, mỗi người đều tự cho rằng được đạo Vô thượng, đều khởi xướng tà thuyết, huyễn hoặc kẻ phàm ngu, nên Tông Cảo mỗi mỗi đều nghiến răng tức giận đối với họ, không tiếc thân mạng muốn nâng đỡ họ, khiến cho hạt giống trí tuệ biết được bổn phận của mình, không rơi vào lưới tà kiến, muốn được một hạt giống Phật không mất trong cõi chúng sanh, cũng không nhận bừa sự che chở của ông già Mặt vàng, cái gọi là đem thân này dâng cho cõi trần, ấy gọi là báo ân Phật, nhưng cũng là một việc làm không biết thời, không lượng sức. Mọi người đã là người trong đây thì chẳng được không nói việc trong đây, nhân viết bất chợt đến đây thôi. Trả lời Lâm Phán Viện (Thấu Chiêm). Nêu ví dụ: như tìm một lời và tin công phu của đạo nhân, đã xem kinh Viên Giác, trong kinh đâu chỉ một lời mà thôi, các đại Bồ-tát theo chỗ nghi của mình mà thưa hỏi. Đức Thế tôn phân tích rõ ràng cho họ nghe, phần lớn lý lẽ, chỗ cung cấp thoại đầu trước cũng ở trong đó. Kinh chép rằng: bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm, ở trong các tâm vọng cũng không mất, ở trong cảnh vọng tưởng không thêm hiểu biết, không phân biệt chân thật, lão Hán khi xưa ở trong am Vân Môn, thường tụng rằng: lá sen tròn tròn như tấm gương, củ ấu nhọn nhọn như cái dùi, gió thổi cánh tròn bông liễu rụng, mưa tuôn phấn hoa vàng lê bay, chỉ để bài tụng này ở phía trên, lại dời văn kinh xuống phía dưới, tụng lại là kinh, kinh lại là tụng, thử công phu như vậy xem, chớ lo ngộ hay không ngộ, trong lòng không được gấp, cũng không được hưỡn, như cách chỉnh dây đàn, gấp hưỡn vừa chừng thì khúc điệu tự thành. Coi là chỉ gần gũi bọn xung, trau chuốt lẫn nhau, đạo nghiệp chẳng có ai không làm xong, chúc mừng, chúc mừng! Trả lời Hoàng Tri Huyện (Tử Dư): Nhận được thư, biết một việc lớn nhân duyên này rất mạnh, bậc đại trượng phu, việc làm đã làm đúng như vậy, vô thường mau chóng, sanh tử là việc lớn, trải qua một ngày thì bỏ mất việc tốt một ngày, đáng sợ, đáng sợ! Các vị tuổi còn rất trẻ, chính là lúc tạo nghiệp, chẳng biết tốt xấu, có thể quay tâm này trở về học Vô thượng Bồ-đề. Đây là bậc hảo hán lanh lợi khó được đệ nhất trên thế giới. Trong cõi năm trược có việc gì đặc biệt hơn nhân duyên này, nhân lúc sắc lực còn khỏe mạnh mà sớm quay đầu, sức mạnh ấy hơn trăm ngàn muôn ức bội, Lão Hán âm thầm vui mừng cho mọi người. Trước đây viết pháp ngữ, có thường khán kỹ chưa? Thứ nhất nhớ lấy, không được khởi tâm động niệm trong lòng vội vàng muốn ngộ, vừa khởi niệm nầy thì bị niệm này làm bít lấp con đường, không bao giờ được ngộ. Tổ Sư nói rằng: chấp vào lỗi tính toán sẽ rơi vào con đường tà, buông bỏ thì tự nhiên không thể đi hay ở. Đây chính là việc nửa tin nửa mật cho người của Tổ Sư, chỉ là chỗ phí sức hằng ngày đâu cần phải làm. Trong môn này không cho phí sức, Lão Hán thường nói lời này với mọi người, chỗ đắc lực chính là chỗ tiết kiệm sức lực, chỗ tiếc kiệm sức chính là chỗ đắc lực. Nếu khởi một niệm tâm hy vọng tìm chỗ ngộ nhập rất giống với người ngồi trong nhà mình lại hỏi người khác tìm chỗ đứng chẳng khác, chỉ đem hai chữ sanh tử dán trên chót mũi, đừng quên, thường tỉnh thoại đầu, nêu tới nêu lui, chỗ sanh đã thuần thục, chỗ thuần thục đã sanh. Lời này đã viết vào trong sách của Đạo Nhân Không Tướng, xin trao đổi với nhau xem sách nầy thì rất tiện lợi. Trả lời Nghiêm Giáo Thọ (Tử Khanh). Chỗ chân thật đến không nghi ngờ, như chất thép vẩn đục luyện thành chất thép mới, dù ngàn Thánh ra đời, hiện vô lượng cảnh giới cao quý, thấy việc ấy cũng như không thấy, huống là ở đây khởi lên đạo lý đặc biệt cao quý. Xưa Dược Sơn ngồi thiền, có lần Thạch Đầu hỏi rằng: ông làm gì ở đây? Dược Sơn đáp rằng: không làm việc gì cả. Thạch đầu hỏi: thế thì ngồi không. Dược Sơn đáp: ngồi thẳng là làm. Thạch đầu như vậy, xem gương người xưa, một cái ngồi không này làm sao cũng không được. Thời nay kẻ só học đạo phần nhiều ở chỗ ngồi không mà ngừng bặt. Gần đây tòng lâm không có bọn lỗ mũi, nghóa là phái Mặc Chiếu, lại có một loại dưới chân vốn không hề chấm đất, nhận được bóng sáng của cửa miệng này thì một bề cuồng phát. Mà nói lời bình thường không được, chỉ khởi thiền hội giống như bọn này, gọi nghiệp thức là bổn mạng nguyên thần, lại không thể cũng nói việc của mình. Đại Sư Vân Môn có nói rằng: ánh sáng không xuyên qua thì có hai thứ bệnh: Tất cả chỗ không thấy rõ có vật trước mặt là một, hai là thấu được tất cả pháp không ẩn hiện, y như có vật này cũng là ánh sáng không xuyên qua. Pháp thân cũng có hai thứ bệnh, được pháp thân, vì pháp chấp không quên thấy mình, vẫn còn ngồi bên cạnh pháp thân. Dù thấu được pháp thân, vượt qua không được, cẩn thận xem xét lại có hương vị gì? Cũng là bệnh. Nhưng hôm nay người học pháp thật, cho việc thấu qua pháp thân, vượt qua không được, cẩn thận xem xét lại có hương vị gì? Cũng là bệnh. Nhưng nay người học pháp thật, cho việc thấu qua pháp thân, vượt qua không được, cẩn thận xem xét lại có hương vị gì? Cũng là bệnh. Nhưng nay người học pháp thật, cho việc thấu qua pháp thân là cuối cùng, nhưng Vân Môn lại cho là bệnh, không biết thấu qua pháp thân rồi hợp thì sao? đến đây như người uống nước, nóng lạnh tự biết, không cần hỏi người khác là việc tai họa. Cho nên nói rằng: chỗ chân thật đến không nghi ngờ. Như thép cũ luyện thành chất thép mới, như khi người ăn cơm đã no rồi thì không thể hỏi người là ta no hay chưa. Xưa, Hoàng Bá hỏi Bách Trượng rằng: người xưa dùng pháp gì để chỉ bày cho người? Bách Trượng chỉ vào chỗ ngồi của Hoàng Bá nói rằng: con cháu đời sau sẽ truyền trao điều gì? Bách Trượng phất tay áo đứng dậy nói rằng: Ta sẽ nói ông là người ấy. Đây là cách làm người. Nhưng hướng đến chỗ tự tin xem, lại dứt được tin tức tự tin chưa? Nếu dứt được tin tức tự tin thì tự nhiên không chấp sự phân biệt ở cửa miệng người khác. Lâm Tế nói rằng: nếu ông dừng được niệm niệm tâm truy cầu thì chẳng khác Đức Thích-ca, chẳng phải lừa dối người. Bồ-tát trụ đệ Thất địa vì tìm tâm trí Phật chưa thoả mãn nên gọi là phiền não, chỉ là không có chỗ an bày của ông, dính một chút ngoài dự đoán không được. Mấy năm trước có Hứa Cư Só nhận được cửa miệng này đem thư đến trình kiến giải rằng: hằng ngày rỗng rang phóng khoáng, chẳng đối đãi một vật, mới biết muôn pháp và ba cõi tất cả vốn không, chỉ là an vui buông bỏ. Thân chỉ bày làm bài kệ rằng: Chớ tiếc chỗ trong sạch Chỗ sạch khốn cho người Chớ ham nơi vui vẻ Vui vẻ khiến người cuồng Như chiếc bình đựng nước Theo vuông tròn, dài ngắn Buông bỏ, không buông bỏ Lại xin suy nghó kỹ, Ba cõi và muôn pháp Chẳng về sao có quê Nếu chỉ tiện như thế Việc này rất kỳ quặc Nói cho Hứa Cư só Gia thân là họa ương Mở rộng mắt ngàn Thánh Không cần mong cúng tế. Buổi sáng mát mẻ, chợt nhớ lại được, đạo bạn của Tử Khanh lúc đầu được vào đây, còn nghi ngờ Sư nói: là bóng sáng bèn đem chỗ nghi ngờ công án xưa nay ra đối chiếu mới thấy chỗ thất bại của Ngài Triệu Châu, bất giác ghi chép sắn bìm như hứa. Trả lời Trương Thị Lang(Tử Thiều): Mọi người đem sở đắc của mình làm mẫu mực, vừa thấy người qua đường vào bùn vào nước thì muốn quét sạch cho mất dấu vết, thấy Tông Cảo kết tập chánh pháp nhãn tạng liền nói: Từ Lâm Tế về sau có mấy vị am chủ thích cơ phong này sao không nhận vào? Như Trung Quốc Sư nói nghóa lý thiền chỉ dạy làm hư con trai, con gái người ta, quyết định có thể lược bỏ. Mọi người thấy nói đạo đúng như vậy mà không thích Trung Quốc sư nói Thiền Lão bà ngồi ở chỗ trong sạch, chỉ thích đập đá xẹt lửa, ngoài ra không cho một chút đạo lý khác, thật là đáng tiếc! Nên Tông Cảo dốc sức chủ trương nếu pháp tánh không rộng, sóng triều không dồn dập, tư kiến Phật pháp không mất, mạng căn sanh tử không dứt thì chẳng dám làm người vào bùn vào nước bốn cạnh dính đất như vậy. Bởi vì căn khí chúng sanh khác nhau nên từ trên các Tổ đều lập bày môn hộ, có đủ căn cơ chúng sanh, tùy cơ nhiếp hóa. Nên Trường Sa Cảnh Sầm Đại Trùng có nói rằng: nếu ta một bề biểu dương tông giáo thì trước pháp đường cỏ sẽ mọc cao một trượng, nhờ người coi viện mới được, đã rơi vào hàng cửa này, được người gọi là Tôn Sư phải tùy cơ chúng sanh nói pháp, như đập đá xẹt lửa, là loại căn khí này mới gánh vác nổi, căn khí dùng không đúng chỗ thì nóng vội đến thành công, Tông Cảo, há không biết thoát khỏi một niệm liền quá nhiều hang ổ là tánh khô khan, cho nên kết tập chánh pháp nhãn tạng không chia ra môn loại, bất luận Tông Vân Môn, Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Pháp Nhãn, chỉ có chánh tri chánh kiến mới khiến cho người ngộ nhập, đều được thâu nhận. Thấy hai bậc lão túc Trung Quốc Sư và Đại Châu, thiền đủ các thể, nên thâu tóm cứu vớt loại căn khí này. Mọi người gửi thư đến hỏi rằng: quyết định có thể lược bỏ, xét theo ý ông, chánh pháp nhãn tạng chỉ trừ các nhà môn hộ, chỉ nhận người kiến giải như ông mới phải. Nếu vậy thì ông tự kết tập một quyển sách giáo hóa người có căn khí lớn thì có gì không được? không cần phải dạy Diệu Hỷ theo ý ông. Nếu bảo Trung Quốc Sư nói kéo bùn mang nước thì thiền lão Bà liền dứt mất, các Đại lão như Nham Đầu, Mục Châu, Ô Cữu, Phần Dương, Vô Nghiệp, Trấn Châu Phổ Hóa Định, Thượng Tọa Vân Phong, Duyệt pháp Xương Ngộ, hợp với con cháu đầy đất mà nay cũng lặng lẽ không người chủ hóa, các công hóa là người kéo bùn mang nước nói Thiền lão Bà ư? Nhưng Diệu Hỷ chủ trương Quốc Sư không phá trừ cấu uế, mới không chướng ngại nhau. Trả lời cho Từ Hiển Mô (Tró Sơn). Các vị Hữu nhiều lần nhờ tiếng tâm của Diệu Hỷ, chỉ là muốn điều phục con trâu để giết con khỉ này mà thôi. Việc này chẳng phải ở lâu trong tòng lâm tham cứu rộng với các bậc tri thức, mà chỉ quý ở trong các bậc tri thức, và chỉ quý ở trong một lời một câu, gánh vác gọn nhẹ, không mang vòng quanh, y cứ vào điều thật mà nói tai họa đã gần (cách không đầy sợi tóc) bất đắc dó phải nói lời thẳng thắn nầy đã là quanh co rồi, nói lời thẳng thắn này đã là quanh quẩn rồi, nói lời thẳng thắn này đã là lần lựa rồi, huống lại lôi cành kéo dây, nêu kinh nêu giáo, nói lý nói sự, muốn rốt ráo ư? Người xưa nói rằng: chỉ có tinh vi tức là bụi, trâu đực chưa điều phục thì con khỉ ma-các chưa chết, dù nói được hằng sa đạo lý, đều không dinh dáng gì đến một chút việc của ta. Nhưng nói được hay không nói được cũng chẳng phải là việc bên ngoài. Lão Túc Giang Tây nói rằng: nói được cũng là tâm của ông, nói không được cũng là tâm ông, quyết muốn gánh vác gọn nhẹ, thấy Phật, thấy. Tổ sư như sống trong nhà oan trái, mới có chút phần tương ưng. Công phu như vậy lâu ngày chày tháng không cần khởi tâm cầu ngộ, Trâu đực tự điều phục, khi ma-các tự chết, nhớ lấy, nhớ lấy! Nhưng hướng về chỗ nhóm họp của tâm ý thức xưa nay thật có, lấy chỗ không được bỏ chỗ không được, khán thoại đầu này, vị Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là Phật, ngài Vân Môn đáp: Que chùi phân, khi khán không cần đem sự thông minh, lanh lợi, suy lường so sánh, đoán định, mười muôn tám ngàn cũng chưa phải là xa, chẳng phải không so lường không tính toán, không đoán định thì là gì? Ôi! Lại là gì đây? Hãy gác việc này lại. Trả lời Giáo Thọ Dương (Ngạn Hầu). Trong cương mục của các vị lại có sự nhu hòa không thể nghó bàn, đến ngay một lời nói cũng ngàn liễu trăm đương, việc này rất thù thắng, nếu không gián đoạn ở trong cương mục thì khởi phát được mấy người, Phật pháp đâu đến ngày nay. Người chẳng có căn tánh Bát-nhã thì chẳng thể làm việc lớn như vậy. Nêu ví dụ: muốn khoảng mùa xuân mùa hạ sang năm chèo thuyền không đáy, thổi sáo không lỗ, cúng thí vô tận, nói lời vô sanh, phải hiểu rõ cái mũi vô cùng vô thỉ, bất hữu bất vô thì chỉ xin đến (thương lượng) bàn bạc với lão không mặt mũi này, chắc không sai lời này. Lại được đạo hiệu, chính vì muốn liên quan với nhau, đáng khen cư só Khoái Nhiên. Nên Lão Nhân Chân Tịnh nói rằng: Đại đạo của Khoái Nhiên chỉ ở trước mắt. Chữ Thập dọc ngang bắt chước dễ nối liền chính là nghóa này. Tông Cảo sống ở Trường Sa đã lâu, các vị ngày khác quả nhiên từ đây đến thì dưới rừng không vắng lặng. Trả lời Lâu Xu Mật. Không biết chắc sau này chỗ ứng duyên hằng ngày có bị cảnh ngoài định đoạt hay không? Xem xét đống hồ sơ có thể bỏ ra chăng? Khi gặp chúng sanh, thì có thể chuyển động hay không? Ở chỗ vắng lặng, không có vọng tưởng chăng? Nên ông già mặt vàng có nói: tâm không vọng lấy pháp quá khứ, cũng không tham đắm việc ở vị lai, không có sở trụ ở hiện tại, thông suốt ba đời thảy đều vắng lặng. Việc quá khứ hoặc thiện hoặc ác, không cần suy lường, suy lường thì chướng đạo. Việc ở vị lai không cần tính toán, tính toán thì cuồng loạn. Việc hiện tại đến trước mặt, hoặc nghịch hoặc thuận cũng không cần để ý, để ý thì nhiễu loạn một tấc vuông, chi khi nào tất cả đến thì tùy duyên mà giao tiếp, tự nhiên khế hợp với đạo lý này, cảnh giới nghịch dễ phá, cảnh giới thuận khó phá, người nghịch ý ta chỉ tiêu một chữ Nhẫn này, định tỉnh ít giờ liền qua, cảnh giới thuận chỉ là không làm, chỗ trốn tránh như nam châm và sắt gặp nhau, hai thứ bất chợt hợp lại một chỗ, vật vô tình mà còn như vậy, huống là người làm nhiều việc, đã hiện hành vô minh toàn thân, thành cảnh giới này. Nếu người không có trí tuệ thấm thoát bị nó dẫn vào bẫy lưới, lại hướng vào trong mà tìm đường ra, cũng không khó khăn hay sao! cho nên bậc Tiên đức nói rằng: vào được thế gian, xuất thế gian chẳng khác chính là đạo lý này. Đời gần đây có một loại người tu hành mất phương tiện, thường nhận vô minh hiện hành, là vào thế gian, dùng pháp xuất thế gian gượng làm việc xuất thế chẳng khác, không đáng thương sao! Ngoại trừ người ở kiếp trước có thệ nguyện, tức thời biết được phá, làm chủ được không bị vật khác lôi kéo. Nên kinh Tịnh Danh có chép: Phật vì người Tăng thượng mạn nói lìa dâm, sân, si là giải thoát. Nếu người không Tăng thượng mạn thì Phật nói tánh của dâm, sân, si chính là giải thoát. Nếu tránh được lỗi này thì ở trong cảnh thuận nghịch không khởi tướng diệt mới lìa được danh từ Tăng thượng mạn, như thế mới có thể nhập được thế gian, gọi đó là Lão Hán có sức mạnh. Phần trên đã nói đều là việc đã trải qua xưa nay của Diệu Hỷ, nay hằng ngày cũng chỉ tu hành như vậy, xin ông khi còn trai tráng khỏe mạnh cũng nên nhập vào tam-muội, ngoài ra phải thường đem chữ vô của Triệu Châu mà thức tỉnh, lâu ngày thuần thục, chợt vô tâm đập bể thùng sơn, chính là chỗ thấu suốt. Lại nữa về công phu hằng ngày, sách trước đã quan hệ rất nhiều nhưng chỉ y như cũ không biến không động, vật đến thì tiếp đãi, tự nhiên ta và vật như một. Người xưa nói rằng: phóng khoáng mặc tình đi ở, gương sáng biết được gốc nguồn, nói chứng thì không thể chỉ bày cho người, nói lý thì chẳng chứng không được, chỗ tự chứng, chỗ tự được, đưa ra tình người không được, chỉ tự mình chứng đắc hiển bày một chút trước mắt thì kia đây lặng lẽ khế hợp nhau. Ví dụ như từ đây không bị người lừa dối, không dụng công phu lầm, đại khái đã đúng, đã nắm được cán, như trâu đực thuần, dây vàm thường ở trong tay, ngặt vì bị phạm vào đám lúa non của người, bất chợt buông dây vàm, lỗ mũi không chỗ kiếm chác, ruộng bằng cạn tha hồ cỏ mọc lung tung. Lão Nhân Từ Minh nói: bốn phương buông bỏ ngăn chặn lại, tám hướng không gò ép thỏa thích dạo chơi, muốn thu chỉ bỏ dây vàm, hãy vuốt ve cho thuận, công phu thấm dần đã thuần thục, tự nhiên không bị ngăn lấp dụng ý. Công phu không được gấp, gấp thì hành động nóng vội, cũng không được hưỡn, hưỡn thì hôn trầm, quên lưu tâm đều là quá, ví như vung kiếm chém hư không, chớ nói đến kịp hay không kịp. Xưa, Tôn giả Nghiêm Dương hỏi ngài Triệu Châu rằng: một vật khi không đem đến là như thế nào? Triệu Châu đáp buông xuống. Nghiêm Dương hỏi: một vật đã không đem đến thì buông xuống cái gì? Châu đáp: buông không xuống thì gánh đi. Nghiêm Dương ngay lời nói liền đại ngộ. Lại, có vị Tăng hỏi người xưa rằng: con làm gì cũng không được thời vì sao? Người xưa đáp: Lão Tăng làm gì cũng không được. Vị Tăng hỏi: chỗ học của con, do đó mà làm việc gì cũng không được, Hòa thượng là bậc Đại thiện tri thức, vì sao làm việc gì cũng không được? Người xưa đáp: nếu ta làm việc gì cũng được, thì vì sao ông làm không được. Vị Tăng ngay lời nói liền đại ngộ. Chỗ ngộ của hai vị Tăng chính là chỗ mê của Lâu-Xu-Mật, chỗ nghi ngờ của Lâu-Xu-Mật chính là chỗ hỏi của hai vị Tăng. Pháp từ chỗ phân biệt mà sanh lại từ phân biệt mà diệt, diệt các pháp phân biệt là pháp vô sanh diệt. Tế Quán gởi thư đến, bệnh đã dứt hết, đặc biệt sau khi chứng cũng bất sanh. Phần lớn gần nhau, cũng dần dần tiết kiệm sức lực, chỉ xin y cứ vào chỗ kiệm sức, nói giáo rộng rãi, bỗng nhiên đất nứt ra, liền rõ ngàn muôn, hãy cố gắng. * Trả lời Tào Thái Uùy (Công Hiển). Tông Cảo tuy đã lớn tuổi rồi nhưng không dám chẳng cố gắng đem việc này khơi dậy với các nạp tử. Một hôm, sau khi ăn cháo xong bỏ nhãn hiệu luân phiên một trăm người vào thất, trong đó có phụ mệnh là Thượng Câu đến, cũng có sư tử cắn người, dùng pháp hỷ thiền duyệt này làm vui, dù không biết mệt cũng tạo vật được thương xót. Mọi người Phước tuệ lưỡng toàn, hằng ngày ở bên cạnh bậc Chí tôn mà lưu ý đến việc lớn nhân duyên này, thật là việc không thể nghó bàn. Đức Thích-ca nói rằng: người có thế lực không lâm vào cảnh hoạn nạn, người giàu sang học đạo rất khó, trăm kiếp ngàn đời nếu chẳng từng gánh vác thiện tri thức, trồng sâu hạt giống bát nhã thì đâu thể nào tin chắc như vậy, chỉ cần tin chỗ này, chính là nền tảng thành Phật thành Tổ, xin ông hướng vào chỗ niềm tin này mà rình chờ, lâu ngày tự nhiên thấu đáo. Nhưng tuyệt đối không được để ý sắp xếp tìm chỗ thấu đáo. Nếu lưu ý thì chần chừ. Đức Thích-ca lại nói rằng: Phật đạo không thể nghó bàn, ai có thể nghó được Phật. Lại nữa, Phật hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: ông nhập tam-muội không thể nghó bàn ư? Văn-thù đáp: không đúng! Bạch Đức Thế tôn! Con không thể nghó bàn, không thấy có tâm để nghó bàn thì làm sao mà nói nhập tam-muội không thể nghó bàn. Phát tâm đầu của con muốn nhập vào định ấy, như nay suy nghó thật không có tâm tưởng mà nhập tam-muội, như người học bắn cung, tập lâu ngày thì bắn khéo, sau này tuy vô tâm nhưng nhờ tập lâu ngày nên tên bắn ra đều trúng đích. Con cũng giống như vậy, ban đầu học tam-muội không thể nghó bàn, buộc tâm vào một duyên, nếu tập lâu thì thành thục, lại không tâm tưởng, thường có mặt với định, chỗ thọ dụng của Phật và Tổ Sư không hai không khác. Mấy năm gần đây, tòng lâm có một loại tà thiền lấy việc nhắm mắt giấu tròng, nói thao thao khởi vọng tưởng, gọi đó là việc không thể nghó bàn, cũng gọi đó là việc trước kiếp không, bên cạnh Oai Âm, vừa mở miệng liền gọi là rơi vào thời nay, cũng gọi là việc căn bản, cũng gọi là ánh sáng thông đạt rất thanh tịnh, cho ngộ là rơi vào đầu thứ hai, cho ngộ là việc bên cạnh nhánh lá. Bởi vì khi hắn cất bước đầu tiên là đã sai rồi, cũng không biết là sai, cho ngộ là kiến lập, đã tự mình không có cửa ngộ, cũng không tin có người ngộ, loại tà thiền này gọi là phỉ báng đại Bát-nhã, cắt đứt tuệ mạng Phật, dù ngàn Đức Phật ra đời cũng không cho sám hối. Mọi người có xét thử mắt người lâu rồi, giống như những hạng này đã đội lốt Sư tử lại kêu tiếng Dã Can chẳng thể không biết. Tông Cảo và mọi người tuy chưa được gặp gỡ tiếp chuyện nhưng tâm này đã thầm khế hợp nhau nhiều năm rồi. Trước đây trả lời bằng chữ, thật không bằng lễ, nay thiền nhân chuyên dứt bỏ pháp không, đời sau chí kính, nên không cần nhập tam- muội khéo tư Duy, chỉ tín thủ tín ý như thế, bất giác sắn bìm như Hứa, xin cảm tạ không nhạy bén mà thôi. <篇> ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 30 * Trả lời Vinh Thị Lang (Mâu Thật). Được lưu tâm muốn rốt ráo một việc lớn nhân duyên này, đã nói xong về tâm này. Thứ nhất không cần gấp, gấp thì càng chậm, lại không được hưỡn, hưỡn thì lười biếng, như cách chỉnh dây đàn không được thẳng quá, cũng không được dùn quá mà phải vừa chừng mới thành khúc điệu, chỉ cần hướng tới chỗ ứng duyên hằng ngày, thường như rình bắt, ta và người có thể quyết đoán được việc phải trái đúng sai, được ân lực của ai, cuối cùng từ nơi nào mà lưu xuất, rình tới rình lui, chỗ sanh lâu nay tự thuần thục, chỗ sanh đã thuần thục thì chỗ thuần thục lại sanh, đó là chỗ thuần thục. Năm ấy, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, hai mươi lăm cõi, vô minh nghiệp thức, suy lưỡng, tính toán, tâm thức, ngày đêm hừng hực như ngựa hoang không tạm ngừng nghó, mạng lưới này làm cho người lang thang trong sanh tử, khiến cho người làm việc không tốt. Túi lưới này đã xuất hiện thì Bồ-đề Niết-bàn chân như Phật tánh liền hiện tiền, đương lúc hiện tiền cũng không lường hiện tiền. Nên người xưa khế chứng ngộ rồi liền hiểu đạo, khi mở mắt như ngàn mặt trời, muôn tượng không thể trốn khỏi ảnh chất, lúc căng tai ra thì như hang sâu, âm thanh lớn nhỏ đầy đủ. Như những việc này, không cần nhờ người khác, không mượn sức khác mà tự nhiên hướng đến chỗ ứng duyên sinh hoạt tự tại. Nếu chưa được như vậy mà lại đem tâm suy lường trần lao ở thế gian này trở về chỗ suy lường không kịp, thử suy lường xem, điều gì là chỗ suy lường không kịp. Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? Triệu Châu đáp: không, chỉ một chữ này, trước hết ông có mánh khóe gì xin sắp xếp xem, xin tính toán xem? Suy lường tính toán sắp xếp không chỗ nào để buông bỏ liền được. Chỉ khi nào cảm thấy trong lòng bứt rứt, trong tâm phiền muộn thì đó chính là lúc tốt, thức thứ tám lần lượt không hiện hành, khi cảm thấy như vậy thì chẳng cần buông bỏ, chỉ y cứ vào chữ vô này mà thức tỉnh, nêu đi nêu lại, chỗ sanh tự thuần thục, chỗ thuần thục tự sanh. Mấy năm gần đây trong tòng lâm có một loại xướng tà thuyết làm tông sư người, bảo người học rằng: các ông chỉ cần giữ gìn vắng lặng, mà không biết thứ đó là vật gì, tónh là người gì? Lại nói tónh là nền tảng, mà không tin có ngộ, nói ngộ là cành lá. Lại dẫn chứng câu vị Tăng hỏi Ngưỡng Sơn: người thời nay có cần ngộ không? Ngưỡng Sơn đáp: ngộ thì chẳng phải không, ngặt vì rơi vào đầu thứ hai, người ngu si trước mặt không được nói mộng, liền làm pháp hội thật, nói ngộ là rơi vào đầu thứ hai, đâu ngờ rằng ngài Quy Sơn tự có lời cảnh giác người học, thật là tha thiết, nói rằng nghiên cứu đến lý tột cùng, lấy ngộ làm phép tắc, lời này còn mắc kẹt ở chỗ nào, không thể nào ngài Quy Sơn lại lầm lẫn cho người đời sau, muốn dạy cho họ rơi vào đầu thứ hai. Tào Các Sử cũng lưu tâm đến việc nầy, Sư nói: ông ta bị bọn tà sư làm cho lầm lẫn, so ra cũng như sách này, rất buồn rầu viết ra, và sự thông minh tri thức của ông đây có chỗ rất cao hơn người, không được nhận lầm mới được nói là pháp hội thật. Nhưng Tông Cảo chưa được nhìn tận mắt nên thầm buồn quá mức. Nghe nói lão cư só cũng cùng với người bạn đạo này có quan hệ sắn bìm với nhau, khi rảnh rỗi thử hỏi hắn lấy sách ra xem thử, mới biết Diệu Hỷ hẹn nhau, không gặp mà kia đây đã có nghóa khí hợp nhau, lại không có lợi thế giao thiệp, đã viết một tờ xong lại thêm một tờ giấy nữa, không cần lộ ra cử chỉ và sắc mặt. Sách này cũng như vậy, sách trước gởi nhờ là người trong đây nên nói rằng: không bao giờ được nói Lão lão Đại đại vì nguyên do gì, nếu như vậy thì việc tốt ở trước mặt, quyết định bỏ qua. Khi viết tuy giống như qua loa nhưng cũng cơ cảm hợp nhau, cũng bất chợt nhờ viết trên giấy, ông tin được Diệu Hỷ và liền đem làm việc, chỗ ứng duyên hằng ngày liền mở rộng Pháp môn này, ý để đền ơn Thánh chúa, cầu bậc hiền tài trị an thiên hạ, thật không phụ sự hiểu biết của mình, xin mỗi người kham nhẫn, trước sau chỉ như hôm nay mà làm. Phật Pháp và thế Pháp hợp lại thành một khối, vừa cày ruộng, vừa chiến đấu lâu ngày thuần thục, một công mà được hai lợi ích, há chẳng phải thắt eo lưng mười muôn mối, cưỡichạt lên Dương Châu hay sao? Lại ví dụ: tiếng chuông kêu lậu tận, làm vua chí thành thì trị an trăm họ, trị có nghe người thưởng thức tiếng đàn, xin ông hễ làm việc gì cũng nên vững tâm chịu đựng, ngay cảnh thuận nghịch chính là lúc cố gắng, cái gọi là đem thâm tâm này thờ phụng chúng sanh trong số cõi nhiều như bụi, ấy gọi là báo đền ân Phật. Xưa nay, người học đạo, chỉ cần ở trong cõi thuận nghịch mà thọ dụng, nghịch thuận hiện tiền, thì sanh khổ não, giống như xưa nay không hề dụng tâm ở chỗ này. Tổ sư nói rằng: cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu ở trong tâm, nếu tâm gượng gọi thì vọng tính từ đâu mà khởi, vọng tình đã không khởi thì chân tâm tha hồ biết khắp, xin ở trong cảnh thuận nghịch thường khởi quán như vậy, lâu ngày sẽ không sanh khổ não. Khổ não đã không sanh, thì sẽ chuyển Ma vương thành thiện thần hộ pháp. Trước đây, Lão lão Đại đại nói lý do gì, lời nói vẫn còn, há quên rồi ư? Muốn biết nghóa Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, vì Cư só trước đây có hơn mười năm nhàn rỗi, tự có thời gian nhàn rỗi. Ngày nay làm quan quyền hành trong tay, nên có thời gian bận bịu, khi nghó đến nhàn rỗi là ai nhàn rỗi, khi bận bịu là ai bận bịu, phải tin đạo lý, lúc bận cũng có lúc nhàn, lúc nhàn cũng có lúc bận, đang trong lúc bận phải thay chúa thượng khởi ý của ông, khoảnh khắc không được tạm quên, tự cảnh giác tự quán sát, lấy gì báo đáp. Nếu thường khởi niệm ấy thì trên vạc nước sôi lò than nóng, núi đao rừng kiếm cũng phải bị hướng về phía trước, huống là một ít cảnh giới thuận nghịch trước mắt vì hợp đạo, vì đạo này khế hợp với ông nên không nể tình, thổ lộ hết cả. Trả lời Quan Huỳnh Môn Ty Tiết Phu. Nhận được sách hoàn toàn có nhiều quan hệ sắn bìm, bất ngờ liền hiểu việc làm như vậy, thật là làm được việc, sống thoải mái thật là người tự chứng tự đắc đáng mừng, đáng mừng! Nhưng chỉ như vậy, xưa nay dạy người nói vị quan này không theo bổn phận, ăn nói lung tung, bọn họ tự có chung nhân ái, ngoại trừ người có chứng có ngộ mới biết. Nếu nghe tiếng nước chảy thì tha hồ mà khoan rùa đập ngói, lại phê phán Như lai thiền, Tổ sư thiền, chỉ ăn gậy của Diệu Hỷ. Lại nói là thưởng y phạt y, các vị lại nghi trong ba mươi năm. Trả lời Tôn Tri Huyện. Nhờ tu kinh Kim Cương, mà may mắn được tùy hỷ một lần. Thời Cận Đại, Só Đại Phu chịu để ý nội điển như các vị thì thật là ít có. Không được ý thú thì không thể tin như vậy. Không có mắt xem kinh thì không thể thầm đoán nghóa sâu xa nhiệm mầu trong kinh, thật là hoa sen trong lò lửa. Rõ vị đã lâu chẳng thể không nghi ngờ, các vị chê các Thánh Sư phiên dịch sai lầm mà làm lộn xộn bổn thật, câu văn thêm bớt, trái với ý Phật. Lại nói: mình mới trì tụng liền biết lỗi ấy, muốn tìm định bản sửa lại sai lầm ấy nhưng đã quen giả dối lâu rồi, hùa theo một luật, may được tạng gốc ở Kinh đô, mới có nơi y cứ. Lại nghiên cứu tìm ra đầu mối trong luận tụng của Thiên Thân và Vô trước thì ăn khớp nghóa ấy, bèn tỏ rõ không nghi ngờ nữa. Lại vì hai vị sư Trường Sơn, Cô Sơn đều theo câu mà trái nghóa, chẳng biết các vị dám phê phán như thế thì chắc chắn đã từng thấy bổn Phạm dịch vào thời Lục triều, hoàn toàn bị các sư phiên dịch sai lầm mới không nghi ngờ. Đã không có bản Phạm mà liền đem ý kiến chủ quan mà lược bỏ ý Thánh thì lại không nói đến việc chiêu cảm nhận lãnh quả hủy báng Thánh giáo, đọa vào địa ngục Vô gián, Sư nói: rằng có người thấy biết. Lại như các vị xem xét lỗi của các sư, lại mắc kẹt vào bản tâm mình. người xưa có nói rằng: quan hệ cạn mà nói sâu thì gây ra trái đạo. tông Cảo không hề quen biết các vị, các vị đem kinh này cầu ấn chứng, muốn lưu truyền hạt giống Phật muôn đời trong cõi nhân gian, đây là việc tốt bậc nhất. Nhưng lại cho Tông Cảo là người trong đó, đem tin tức trong đó chờ đợi nhau ở ngoài hình khí. Nên chẳng dám không trình lên. Thuở xưa, Quốc Sư Thanh Lương soạn bộ sớ Hoa Nghiêm muốn sửa lại chỗ sai lầm của Sư nhưng không được bổn Phạm, chỉ viết ở cuối kinh mà thôi. Như trong phẩm Phật bất khả tư nghị pháp chép: tất cả Phật đều có vô biên thân, sắc tướng thanh tịnh rộng lớn nhập vào các cõi mà không đắm nhiễm. Thanh Lương chỉ nói rằng: Phẩm Phật bất khả tư nghị Pháp quyển thượng, tờ thứ ba, hàng thứ mười ghi: tất cả Chư Phật xưa xa lìa các chữ. Ngoài ra bổn kinh rời rạc, đều chú thích ở cuối kinh. Thanh Lương cũng là Thánh sứ, nhưng không thể thêm bớt, chỉ dám ghi ở cuối kinh thì biết rằng người biết pháp là sợ. Lại trong kinh có nhiều báu lưu ly, Thanh Lương nói rằng: e là Phệ-lưu-ly, bản cũ viết sai cũng không dám sửa, cũng chỉ chú thích ở cuối kinh như vậy thôi. Các sư phiên dịch ở thời Lục Triều đều chẳng phải là kẻ só hiểu biết nông cạn, trường phiên dịch, có người dịch âm, có người dịch nghóa, có người nhuận văn, có người chứng tiếng Phạm, có người chánh nghóa, có người hiệu đính bổn Phạm lại vọng thêm vào, lược bỏ mà muốn người đời sau tin chắc cũng không khó sao? như nói Trường Thủy theo câu mà trái nghóa, không có bản Phạm chứng minh tại sao quyết định ngay cho đó là sai. Ông tuy là người giảng, mà không giống với người giảng khác, từng tham học với Thiền sư Lang Nhị Quảng Chiếu, nhờ thưa hỏi Lang Nhị rằng: trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Phú- lâu-na hỏi Phật rằng: Thanh Tịnh bản nhiên vì sao chợt sanh ra núi sông, đất đai, nghóa ấy như thế nào? Lang Nhị bèn trả lời rằng: Thanh Tịnh bản nhiên vì sao chợt sanh ra đất đai? Trường Thủy ngay lời nói liền đại ngộ. Sau này mới xuất gia xưng là Tọa chủ. Vì Tọa chủ phần nhiều là tìm hàng số đen, các vị nói theo câu mà chẳng theo nghóa, Trường Thủy chẳng phải không thấy biết, cũng chẳng phải là người tìm hàng số đen, vì không có đủ tướng nên đắc A-nậu-bồ-đề. Văn kinh phần nhiều rõ ràng, văn này rất cạn cợt, tự các vị cầu kỳ thái quá, muốn lập dị giải mong người theo mình thôi. Các vị dẫn luận của Vô Trước rằng: vì pháp thân nên thấy Như lai, chớ chẳng phải vì tướng đầy đủ. Nếu vậy thì Như lai tuy không cần dùng tướng đầy đủ để thấy nhưng cần tướng đầy đủ là do được A-nậu-bồ-đề, vì lìa chấp trước này nên kinh chép: Tu-bồ-đề ý ông nghó sao, Như lai có thể dùng tướng thành tựu đắc A-nậu-bồ-đề, Tu-bồ-đề chớ khởi nghó như vậy, nghóa này rõ ràng nói tướng đầy đủ làm nhân, vì tướng là tự tánh của sắc. Luận này phần lớn nói rõ ràng, chỉ tự các vị thấy biết sai lầm thôi. Sắc là duyên khởi của tướng, tướng là duyên khởi của pháp giới. Thái Tử Lương Chiêu Minh nói: chớ nghó rằng Như lai không vì tướng đầy đủ mà được A-nậu-bồ-đề. Trong hai mươi hai phần, lấy phần nầy làm phần không đoạn không diệt, e rằng Tu-bồ-đề không dùng tướng đầy đủ thì duyên khởi diệt. Bởi vì, Tu-bồ- đề ban đầu ở trong thai mẹ đã biết vắng lặng, phần nhiều không trụ tướng duyên khởi. Sau này dẫn phần cuối luận của Bồ-tát Công Đức Thí: nếu tướng thành tựu là thật có thì tướng này khi diệt sẽ gọi là đoạn. Vì sao? vì có sanh nên có đoạn, lại sợ người không biết, lại nói rằng: Vì sao? Vì tất cả là pháp là tánh vô sanh cho nên lìa hai bên thường và đoạn, xa lìa hai bên là tướng pháp giới, không nói tánh mà nói tướng: nghóa là pháp giới là duyên khởi của tánh, tướng là duyên khởi của pháp giới, không nói tánh mà nói tướng: Lương Chiêu Minh nói bất đoạn bất diệt là thế, phần này lại rõ ràng, vì các vị cầu kỳ thái quá, gượng sanh tiết mục mà thôi. Nếu lược bỏ kinh Kim cương, hễ có người xem Đại Tạng Giáo thì mỗi người tùy theo ý kiến chủ quan của mình mà hiểu, đều lược bỏ bớt. Như trong Chỉ Luận Ngữ của Hàn Tho- ái chép: vẽ chữ là viết chữ, là bổn cũ sai lầm, theo kiến thức của Thoái thì có thể sửa đổi, mà chỉ như luận nầy ở trong sách hay sao? Cũng là người biết pháp đáng sợ vậy. Thiền sư Khuê Phong Tông Mật soạn Viên Giác sớ sao, Tông Mật đối với Viên Giác có chỗ chứng ngộ mới dám hạ bút, vì trong kinh Viên Giác nói tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác, Khuê Phong cải chứng là có, nói dịch là sai lầm mà không thấy bản Phạm, cũng chỉ luận ở trong sớ như vậy, không dám sửa chữa Kinh. Sau này, Hòa thượng Lặc-Đàm Chân Tịnh soạn Giai chứng luận, trong luận mắng Khuê Phong là lão thúi phá hoại phàm phu. Nếu tất cả chúng sanh đều có Viên giác mà không chứng ngộ thì súc sanh vónh viễn làm súc sanh, ngạ quỷ mãi làm ngạ quỷ, tận mười phương thế giới đều là cái chày sắt không lỗ, lại không có một người phát tâm chân thật về nguồn, phàm phu cũng không cần cầu giải thoát. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh đều có đủ tánh Viên giác, bèn lấy kinh nầy làm y cứ. Nếu tạng bổn ở kinh đô từ ngoài châu phủ đưa vào, như hai tạng kinh của Kinh Sơn đều là triều đình lúc hưng thịnh ban cho, cũng là kinh ngoài châu phủ đã viết, có sai trong muôn một, làm sao sữa chữa. Các vị nếu không có nhân ngã thì chắc chắn cho lời của Diệu Hỷ là chí thành, không cần câu nệ ở một sai lầm lớn xưa nay, trên nếu chấp kiến giải của mình là đúng, quyết định muốn sữa chữa, muốn tất cả mọi người (mắng) chửi thì tha hồ khắc bản ấn hành, Diệu Hỷ cũng chỉ được tùy hỷ khen ngợi mà thôi. Ông đã được bỏ người đem kinh đến cầu ấn khả, tuy không biết nhau nhưng lấy pháp làm thân, nên bất chợt buồn rầu xúc chạm vào chỗ ngang bướng của ông, thấy ông chí thành cho nên nể tình. Các vị muốn cùng tột giáo thừa, tạo ra nghóa sâu kín, nên tìm một giảng sư danh tiếng đức hạnh toàn tâm toàn ý cùng tham cứu tường tận, dạy suốt từ đầu đến cuối một hạng là chú ý vào lưới giáo. Nếu cho vô thường mau chóng, sanh tử việc lớn là việc mình chưa rõ thì phải toàn tâm toàn ý tìm một bổn phận làm nhà, có khả năng phá vỡ hang ổ sanh tử cho mọi người, cùng nương công phu, chợt đập bể thùng sơn, chính là chỗ thấu suốt. Nếu chỉ muốn làm trò cười nói tất cả các sách ta đều thông đạt, thiền ta cũng biết, giáo ta cũng biết, lại có thể xem xét được chỗ không đúng của các dịch chủ giảng sư tiền bối, tỏ ra ta có tài, ta hiểu biết, thì bậc Thánh Tam Giáo đều có thể xem xét cũng không cần tìm người ấn khả, sau đó cho phép đi qua. Thế nào? Thế nào? * Trả lời Trạng Nguyên Trương Xá Nhân (An Quốc): Các vị quyết muốn rốt ráo việc này, thì chỉ thường khiến cho chỗ tấc vuông rỗng rang vắng lặng, vật đến liền ứng phó, như người tập bắn cung, lâu ngày sẽ bắn trúng đích. Đạt-ma bảo Nhị Tổ rằng: ông chỉ dừng các duyên bên ngoài, trong tâm không thô động, tâm như bức tường thì sẽ vào đạo. Như người đời nay vừa nghe nói lời này liền gạt đi, hướng đến chỗ dốt nát ngu si, ương ngạnh tự dằn nén trong lòng. Muốn được tâm như tường vách, Tổ Sư nói: Người nhận lầm không hề hiểu phương tiện. Nham Đầu nói rằng: vừa như thế, liền không phải như thế, câu đúng cũng bỏ đi, câu sai cũng bỏ, đây chính là cách ngoài dứt các duyên, trong tâm không thô động, dù chưa được nếm đất vỡ cũng không bị lời nói chuyển, thấy mặt trăng thì thôi nhìn ngón tay, về đến nhà thì thôi hỏi đường, tình thức chưa tan thì lửa tâm hừng hực, ngay lúc như thế, chỉ đem chỗ nghi thoại đầu ra thức tỉnh. Như vị Tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tánh hay không? Châu đáp: không, miễn là thức tỉnh, giác ngộ, tả đến cũng không phải, hữu đến cũng không phải, lại không được đem tâm đợi ngộ, lại không được hướng đến chỗ khởi lên mà gánh vác, lại không được khởi tâm hiểu huyền diệu, chẳng được khởi tâm bàn bạc có không, chẳng được khởi suy tính không của thật không, cũng không được ngồi trong vỏ vô sự, không được hướng về chỗ đập đá nháng lửa, ánh chớp mà lãnh hội, chỉ được không chỗ dụng tâm, khi tâm không có chỗ thì chớ sợ rơi vào không, đây lại là điểm tốt, bất chợt chuột chui vào sừng trâu liền thấy đảo đoạn, việc này chẳng phải khó, cũng chẳng phải dễ, ngoại trừ người nào kiếp trước đã từng gieo trồng hạt giống trí Bát-nhã sâu xa, từng ở trong nhiều kiếp từ vô thỉ đến nay gánh vác chân thiện tri thức, huân tập được chánh tri chánh kiến vào trong linh thức, xúc cảnh gặp duyên ở chỗ hiện hành xây trụ vững chắc, như ở chỗ muôn người, nhận được cha mẹ mình, lúc ấy không cần hỏi ai tự nhiên tìm tâm chẳng khó. Vân Môn nói rằng: chẳng thể hễ nói liền có, hễ nói không liền không, chẳng thể khi bàn bạc thì có, khi không bàn bạc thì không. Lại tự nêu ra rằng: hãy nói khi không bàn bạc là cái gì? Lại sợ người không biết, nên tự nói rằng: lại là gì? Mấy năm gần đây, thiền có nhiều đường, hoặc lấy một hỏi một đáp, cuối cùng nhiều hơn một câu làm thiền giả. Hoặc đem nhân duyên nhập đạo của người xưa xúm nhau bàn bạc rằng: đây là giả, kia là thật, lời này huyền, lời kia diệu. Hoặc đại hoặc biệt làm thiền giả. Hoặc lấy mắt thấy tai nghe hòa hợp ở trong ba cõi do tâm muôn pháp, do thức làm thiền giả, hoặc dùng vô ngôn vô thuyết ngồi trong hang quỷ dưới núi đen, khép mi nhắm mắt, gọi đó là tin tức khi cha mẹ chưa sanh của bên bờ oai âm vương, cũng gọi là lặng mà thường soi làm thiền giả. Như những hạng người này, không cầu diệu ngộ là rơi vào đầu thứ hai, cho ngộ là lừa dối người, cho ngộ là sáng lập, tự mình đã không hề ngộ cũng không tin có ngộ. Diệu Hỷ thường nói với các nạp tử ấy rằng: tài nghệ khéo léo thế gian, nếu không có chỗ ngộ, còn không được sự tinh diệu của nó, huống chi là muốn thoát khỏi sanh tử mà chỉ dùng cửa miệng nói tónh, liền muốn tiếp nhận, phần nhiều giống như cắm đầu chạy về hướng Đông mà muốn lấy vật ở hướng Tây, càng tìm càng xa, càng gấp càng chậm, bọn người này thật đáng thương xót. Trong giáo họ là người phỉ báng Đại Bát nhã, cắt đứt tuệ mạng của Phật thì dù ngàn Phật ra đời cũng không thông sám hối, tuy là nhân lành mà ngược lại vời lấy quả ác, thà đem thân này nghiền nát như cát bụi, chứ không bao giờ lấy Phật pháp làm nhân tình, quyết phải đương đầu với sanh tử, phải đập bể thùng sơn này mới được, dè dặt không để bị tà sư đi theo vuốt ve, dùng con dấu bí xanh ấn định liền cho rằng ta ngàn liễu trăm đương. Bọn người này như cây lúa đực, trúc lau. Các vị là người thông minh hiểu biết, sẽ không chịu lũ ác độc này, nhưng cũng sợ tha thiết dụng tâm rồi cầu mong mau được hiệu quả, thấm thoắt bị họ nhiễm ô, nên tùy ý quan hệ như Hứa bị người mắt sáng thấy được một trận bại hoại, tuyệt đối nghe nhau chỉ cần đem một chữ “vô” của Triệu Châu thức tỉnh chỗ ứng duyên hằng ngày, chớ để xen hở. Người xưa có nói rằng: nghiên cứu đến tột cùng lý lấy ngộ làm khuôn phép, nếu nói được hoa trời rơi loạn, không ngộ vẫn là si cuồng chạy bên ngoài, cố gắng lên không được lơ là. Trả lời Thang Thừa Tướng (Tiến Chi). Thừa tướng đã lưu tâm vào phần việc lớn nhân duyên này, trong cõi thiếu kém, luống dối không thật, hoặc nghịch hoặc thuận đều là thời tiết phát cơ, chỉ thường khiến cho chỗ tấc vuông rỗng rang thanh tịnh, việc cùng làm hằng ngày tùy theo phần mà bỏ ra, xúc cảnh gặp duyên, thường dùng thoại đầu thức tỉnh, đừng mong mau hiệu quả, nghiên cứu lý cùng tận, lấy ngộ làm nguyên tắc, nhưng tuyệt đối không được có ý chờ ngộ. Nếu có ý chờ ngộ thì bị tâm chờ ngộ làm chướng ngại mắt đạo, càng gấp càng chậm, chỉ thức tỉnh thoại đầu, chợt hướng về chỗ thức tỉnh tâm sanh tử dứt chính là chỗ về nhà ngồi an ổn, đã được thế rồi tự nhiên thấu được các thứ phương tiện của người xưa, các thứ dị giải tự mất. Trong giáo nói: dứt tâm sanh tử, dẹp tâm rối rắm, rửa tâm cấu uế, bỏ tâm chấp trước khiến tâm động chuyễn, khi động chuyễn cũng không có đạo lý động chuyễn tự nhiên trên đầu sáng suốt, trên vật hiển bày, chỗ ứng duuyên hằng ngày, hoặc sạch hoặc dơ, hoặc mừng hoặc giận, hoặc thuận hoặc nghịch, như hạt châu tròn lăn trên mâm, không xoay mà tự chuyển, được thời tiết này đưa ra tình người không được, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Trung Quốc sư có nói: nói pháp có chỗ được, ấy là tiếng của Dã Can, việc này thấy rõ như ban ngày, chân thật tự thấy được, Tà sư làm không được. Hôm kia cũng có nói chuyện, việc này không truyền trao, vừa nói có huyền diệu kỳ lạ, sáu lỗ tai không đồng lời bàn bạc, tức là lừa dối nhau, liền thích kéo lấy, trúng vào mặt liền phỉ nhổ, Thư sinh làm đến chức Tể Tướng là người rất cao quý trong pháp thế gian, nếu không rõ việc này tức là dối đến cõi Diêm-phù-đề ở phía Nam. Khi làm một lần thâu lấy kết quả của nhân, mang được một thân nghiệp ác ra đi. Trong giáo nói: tạo si phước là kẻ thù của đời thứ ba. Sao gọi là đời thứ ba? đời thứ nhất tạo si phước chẳng thấy tánh, đời thứ hai nhận si phước không hổ thẹn, không làm việc tốt, một bề tạo nghiệp, đời thứ ba nhận si phước, không hề làm việc tốt, khi thoát ra khỏi vỏ rỉ dột, rơi vào địa ngục như tên bắn, thân người khó được, Phật pháp khó gặp, thân này không độ ngay đời này thì độ vào đời nào? người học đạo này phải có chí quyết định, nếu không có chí quyết định, thì như nghe tiếng người nói, thấy người nói phía Đông liền theo người đi về hướng Đông, nói Tây liền theo người đi về hướng Tây. Nếu có chí quyết định thì nắm chắc làm chủ tể. Lãn Dung nói: nếu có một pháp hơn Niết-bàn, ta nói cũng như mộng huyễn chẳng thật, lại có tâm tình gì quan hệ với nhau, xin ông giữ vững chí này, lấy được trong tay làm nghóa quyết định thì dù đại nghóa hữu tình, làm cho ma vương muốn đến não loạn cũng không có cơ hội, công phu trên Bát- nhã luống bỏ. Nếu có ý ở trên thì dù đời nay chưa liễu ngộ cũng trồng sâu được hạt giống, đến lúc qua đời cũng không bị nghiệp thức lôi kéo rơi vào các đường ác, đổi lại cái vỏ mục này có trở lại cũng không thể mê hoặc được ta, hãy xét cho kỹ. Trả lời Phàn Đề Hình (Mậu Thật). Nêu ví dụ: như làm được Phật sự mà không hiểu thiền ngữ thì chẳng khác, chẳng đồng với người không hiểu, nhưng biết mà thực hành được thì chính là thiền ngữ. Biết thiền ngữ mà không thể làm Phật sự, thì giống như người ngồi trong nước mà than khát, ngồi cạnh mâm cơm mà kêu đói, phải biết thiền ngữ chính là Phật sự, Phật sự chính là thiền ngữ, năng hành năng hiểu, ở người không ở pháp. Nếu tìm giống tìm khác trong đó thì là chỉ lên hư không mà sanh thật giải, trong pháp căn cảnh luống tạo điều quái lạ, như trước khi làm thì cầu càng gấp càng chậm, càng gần càng xa, muốn được tâm dứt khoát rỗng rang thì chỉ cần đem chỗ năng và bất năng, hiểu và không hiểu, giống và không giống, khác và chẳng khác, có thể suy lường như vậy, tính toán như vậy, quét sạch đến thế giới phương khác, lại hướng về chỗ không thể quét mà khán, là có hay không, là giống hay khác, bỗng nhiên tâm tư ý tưởng dứt bặt, lúc ấy tự không cần hỏi người. Trả lời Hòa thượng Thánh Tuyền Khuê. Đã được người ngoài che chở có ý chăm sóc nhau, tự có thể gác bỏ việc người, thường làm Phật sự với các nạp tử, lâu ngày sẽ tự cao siêu. Lại hướng về trong phòng cùng nhau cẩn thận, không được chứa đựng tình người, không đuợc cùng y bỏ mất, chỉ giống như dùng bổn phận dạy y tự ngộ tự đắc, mới là bậc tôn túc làm thể tài cho người. Nếu thấy y chần chừ không tiến cử, liền chú thích ở dưới, chẳng những làm mù mắt họ, cũng chính là mất đi phương tiện, chẳng biết dùng người trong bổn phận của mình, tức là duyên pháp của chúng ta chỉ như vậy. Nếu được một nửa bổn phận này cũng không phụ chí nguyện bấy lâu nay. Trả lời Trưởng Lão Cổ Sơn Đãi. Đặc sứ đến, nhận sách và tín hương v.v… biết khai pháp xuất thế, xướng đạo ở Thạch Môn, không quên chỗ xưa nay, thắp hương cho Nhạc Trưởng lão kế thừa tông phái Dương Kỳ, đã gánh vác việc này phải sáng suốt tổ chức giáo từ đầu đến cuối. Đem một việc tự chứng tự ngộ bấy lâu nay, bước đầu ở trong trượng thất, như gánh một gánh nặng một trăm hai mươi ký đi qua chiếc cầu khỉ, trượt chân vấp ngã, không thể bảo đảm tính mạng mình, huống chi lại nhổ đinh rút chốt cho người, cứu giúp người khác. Người xưa nói rằng: việc này như tám mươi ông già vào hội trường, đâu phải là chuyện trẻ con. Lại, người xưa nói rằng: nếu ta cứ biểu dương tông giáo, trước pháp đường bỏ sâu một trượng, phải nhờ người trông viện mới được. Nham Đầu nói rằng: trước khi chưa đi ỉa vừa thấy liền trơ mắt. Yên Quốc sư không vượt qua khe hở của thạch môn, Mục Châu hiện thành công án đánh ông ba mươi gậy. Phần Dương Vô Nghiệp đừng vọng tưởng. Lổ Tổ hễ thấy vị Tăng vào cửa liền ngồi xoay mặt vào vách, khi làm người sẽ không mê mờ loại thể tài này, mới không mất tông chỉ ở trên. Xưa, ngài Quy Sơn bảo Ngưỡng Sơn rằng: xây cờ pháp lập tông chỉ ở một phía, đầy đủ năm duyên mới được thành tựu. Năm duyên là: duyên ngoại hộ, duyên đàn việt, duyên nạp tử, duyên thổ địa, và duyên đạo. Nghe nói Xưởng Đài Triệu Công là do ông thỉnh chủ cho đến Chánh Ty Nghiệp Trịnh Công đưa ông vào việc, hai vị này là bậc học thức trong thiên hạ, theo đây mà xét ông đối với năm duyên đủ chút ít, mỗi khi có nạp tủ từ Phúc Kiến đến thì đều khen ngợi trù trì hết mức, đàn việt quy tụ, Só Đại Phu ngoại hộ, trụ trì không bị ma làm chướng ngại, nạp tử nhóm họp, có thể nhân lúc còn khỏe mạnh liên tiếp cùng nạp tử khơi dậy việc nầy, khoảng thời gian duỗi cánh tay phải được tuyệt vời, không được thô lỗ. Bởi vì, mấy năm gần đây có một hạng người nông cạn, đi khắp nơi học được một đống một gánh giống như thiền, thường Tông Sư vội vàng bỏ qua, bèn đến nhờ Hư Tiếp Hưởng ấn thọ lẫn nhau, lừa gạt người sau, khiến cho chánh tông phai nhạt, mất hết cơ phong, chỉ thẳng đơn truyền chẳng thể không cẩn thận. Ngũ Tổ Sư Ông lúc trụ ở Bạch Vân, có lần trả lời thư của Hòa thượng Linh Nguyên rằng: hạ này các trang trại không thu hoạch một hạt thóc, không cho là việc lo buồn, điều đáng buồn là trong một giảng đường mấy trăm nạp tử, suốt mùa hạ mà không có một người thấu được thoại đầu con chó không có Phật tánh, e rằng Phật pháp sẽ diệt mất. Ông xem, chủ pháp dụng tâm của tông sư đâu từng lấy tài sản nhiều ít, bao nhiêu sơn môn lớn nhỏ là nặng nhẹ, gạo muối mịn phải làm nhanh chóng. Ông đã đứng ra gánh vác danh từ thiện tri thức này, phải một bề lấy bổn phận tiếp đãi người từ các phương đến, đã có kho chứa của cải bổng lộc, dặn dò biết nhân biết quả, biết việc, chia quản lý xếp bộ phận khiến họ nắm vững, thường nêu lên đại cương an Tăng không cần nhiều, chán khất thực hằng ngày, thường dạy người làm tiếp có dư, tự nhiên không phí sức. Nạp tử vào thất, xuống đao nặng nề không được kéo bùn dẫn nước như Thiền sư Tuyết Phong Không, khoảng thời gian ở Vân Cư, Vân Môn gặp nhau, Lão biết hắn không tự lừa dối, là người trong Phật môn này nên một bề lấy bổn phận kiềm chuỳ như hắn, sau đó tự sai đi ở chỗ khác, đại pháp đã rõ, hướng về chỗ kiềm chuỳ nhận qua cùng lúc được thọ dụng, mới biết diệu Hỷ không lấy Phật pháp làm tình người. Năm ngoái chuyển được một quyển ngữ lục đến, gấp rút khốn khổ không mất tông chỉ của Lâm Tế, nay đưa vào trong các liêu cho các nạp tử xem, Lão nhờ viết lời bạt, đặc biệt phát huy, khiến bổn phận nạp tử làm cách thức nói pháp trong tương lai. Nếu để lão ban đầu vì hắn kéo bùn dẫn nước nói Thiền Lão Bà thì sau khi mở mắt chắc chắn sẽ mắng ta, không nghi ngờ gì, cho nên người xưa nói rằng: ta không trọng đạo đức của tiên sư mà chỉ trọng tiên sư không bị ta nói rõ, nếu bị ta nói rõ thì đâu có ngày nay, chính là đạo lý này. Triệu Châu nói rằng: nếu bảo Lão Tăng theo căn cơ của y để tiếp người thì tự có ba thừa, mười hai phần giáo tiếp họ rồi, Lão Tăng trong đây chỉ đem việc mình để tiếp người, niếu tiếp không được thì chính là học giả có căn tánh ám độn, chớ không dính dáng đến việc của Lão Tăng. Xin hãy suy nghó. -------------------------- <詞>LỜI TÂU CỦA TẠ GIÁNG BAN ĐẠI TUỆ THIỀN SƯ NGỮ LỤC NHẬP TẠNG Thần là Tăng Uẩn Văn, trước kia vào tháng ba niên hiệu Càn Đạo, thứ tám, không sợ trời phạt đã bước vào ngữ lục của Tiên sư Đại Tuệ, Thiền sư Tông Cảo, nhiều lần xin ý chỉ đưa Phước Châu vào Tạng. Kính mong, ngày mười chín tháng năm, Thánh chỉ đã đưa Phước Châu chùa Đông Thiền vào Tạng xong, mạo muội trình bày lên mới lo lắng tội lỗi, ân quang xuống tới cúi mong cho phép. Phạm Thích đều soi xét, núi đầm Tăng khí, mọi việc nghe thấy đều vui mừng, khúm núm, Hoàng Đế Bệ hạ, như gương trời soi được pháp tâm Phật, nhớ nghó lời sâu dễ lẫn lộn, tham cứu bí tạng để truyền trao. Tiên sư Tông Cảo đã trồng được nhân cao quý trăm kiếp gặp cơ hội tốt đẹp ngàn năm, ông có được chút may mắn được cho phép tham dự ở chỗ rất vinh dự, tụng có công đức gì? Mong mỏi đền đáp ơn đại tạo, Thần muôn phần ngắm trời trông Thánh, thẳng thắn bỏ mưu cầu lớn. Vào ngày mùng một tháng giêng niên hiệu Càn Đạo thứ tám, trụ trì thiền viện ở Kính Sơn là Năng Nhân Thiền sư Tuệ Nhật Uẩn Văn tấu trình. Kho vũ khí tông môn của Thiền sư Đại Tuệ Phổ Giác. Tỳ-kheo Tham học Đạo Khiêm biên tập. Đỗng Sơn Quảng Đạo là người ở Tử Châu, tòng lâm hiệu là Quảng Vô Tâm, lúc đầu du phương học đạo, đến hỏi Hòa thượng Vân Cái Trí rằng: Hưng Hóa làm Duy Na ý chỉ như thế nào? Trí xuống giường dang hai tay le lưỡi ra. Quảng làm một cái tọa cụ. Trí nói: Đây là sức gió đã chuyễn. Quảng lại đem lời này hỏi Hòa thượng Thạch Sương Lâm Hòa thượng Sương Lâm hỏi: ý của ông thế nào? Quảng cũng làm một tọa cụ. Lâm nói: Thích một tọa cụ chỉ vì ông không biết chỗ rơi. Quảng lại hỏi Chân Tịnh, Chân Tịnh hỏi: ý ông thế nào? Quảng cũng làm một tọa cụ. Tịnh nói: Hắn làm ông cũng làm. Quảng ngay đây liền đại ngộ. Chân Tịnh do đó làm kệ rằng: Trượng phu nên đoạn không tự đoạn, Hưng hóa là người rất thấu suốt, sau này theo mắt kia tự mở, đánh rồi phạt tiền, nhờ đó mà ra khỏi viện. Từ Minh, Lang Da, Đại Ngu v.v… số người từ biệt Phần Dương, Tương Khiêm không chịu làm Tham đầu. Phần Dương nói rằng: hạnh này không thể y cứ vào giới lạp mà suy tôn, nghe một bài tụng của ta: trời không đầu trưng bày giáo mác bên thành Cát Châu, Tướng Quân đơn thương độc mã chạy trong rừng, thành Viên Châu ồn ào náo động. Từ Minh bước ra nói rằng: Sở Viên là người như thế nào mà dám soạn lời ký này, bèn lãnh chúng bái biệt ra đi. Hòa thượng Trạm Đường Chuẩn lúc đầu tham kiến Chân Tịnh, Chân Tịnh hỏi rằng: ông già rời chỗ nào? Chuẩn đáp: Đại Ngưỡng. Hỏi: nhập hạ ở chỗ nào? Chuẩn đáp: ở Đại Vị. Tịnh hỏi: nhân sự ở chỗ nào? chuẩn đáp: Phủ Hưng Nguyên. Tịnh dang hai tay ra nói rằng: Tay ta đâu giống tay Phật, Chuẩn mờ mịt. Tịnh nói: đi đến chỉ đối đáp từng lời linh minh thiên chân, và nói cánh tay Phật này liền thành trở ngại, lại nói bệnh ở chỗ nào? Chuẩn đáp: con không biết. Tịnh nói: Tất cả có sẵn lại dạy cho hiểu. Xiêm Đạo Giả, tham học với Tuyết Đậu đã lâu, Tuyết Đậu muốn bắt ngỗng vàng, Xiêm nghe tin ban đêm lén viết bài kệ trên vách của Phương Trượng rồi trốn đi. Kệ rằng: chẳng phải vô tâm thắp đèn Tổ, thụ đạo chưa vào được Lónh Nam, canh ba trăng xuống rời Nham Đậu, lưu luyến âm thầm nhớ tầng xanh. Lại nói: hơn ba mươi năm ngao du bốn biển tìm thầy chọn bạn không hề nhàn rỗi, hôm nay được chỗ vô tâm lại bị vô tâm lợi dụng ra khỏi núi. Sau này Xiêm xuất thế khai đạo thừa tự Hòa thượng Đức Sơn Viễn, tiếp tục quan hệ với Tuyết Đậu. Trước núi Bà Tử thấy Đặc Sứ vui mừng hỏi rằng: Xiêm Thủ tọa xuất thế chỉ để thắp hương sao? Đặc sứ nói: Hòa thượng Đức Sơn Viễn bị Bà Tử mắng nhiếc rằng: Tuyết Đậu hăng hái ruột phẩn nói thiền là vì ông, ông đươc sao cô phụ ân đức thế. Lão Phu Vân Cư Vũ thường chê Thiền sư Thiên Y Nghóa Hoài nói thiền rối rắm, một hôm nghe tin Hoài chuyển hóa, trên pháp đường chắp tay nói rằng: hãy mừng cái cọc sắn bìm ngã rồi. Tú Viên Thông khi ở trong hội làm Duy na mỗi lần nghe mắng chửi không dứt bèn bảo Đồng bạn rằng: ta phải lý giải với Lão này mơi được. Đến dạ tham lại mắng nhiếc như lần trước. Tú liền bước ra, lớn tiếng nói rằng: há không thấy trung đạo trong kinh Viên Giác ư? Vũ vội nói: Đứng lâu đại chúng chỉ trân trọng, liền trở về phương trượng. Tú nói: Lão này khắp người là mắt, mắng được Hoài Hòa thượng. Tiểu Cảnh Thuần ở Hồ Nam có tài học, từng được bài minh của tháp Vô Phùng. Thiền sư Đại Thông Bổn dùng lời ấy trả lời tháp Vô Phùng rằng: ráng mây xanh phía sau, sao trăng xoay quanh mái hiên nhà. Thuần ở chùa Nhạc Lộc, chuyên ròng tinh tấn, một đêm tình cờ đi kinh hành trên bậc thang trong cung điện trợt chân té ngã, có vị Tăng bên cạnh đỡ dậy, hôn mê không biết gì, cho đến chỗ biên soạn văn tự lúc bình sanh cũng không thể hiểu. Thiền sư Đâu-suất Chiếu, ban đầu đến Nhạc Lộc, nghe Lão túc nói về việc của Thuần, Chiếu giật mình nói rằng: đời này ta tham thiền không rõ tâm cũng giống như Thuần, tình cờ một lần vấp ngã vẫn như thế huống chi là cách âm. Lữ Đại Thân Công lúc chấp chính, nhân ngày lưu mộc (mười ngày nghỉ một ngày để tắm) dự Hóa sơ thỉnh ngôn pháp Hoa trai. Hôm sau quả nhiên đến Dinh Phủ ngồi trong Tăng đường, Thân Công bước ra thấy ông ấy liền nghó thầm rằng: làm lễ là đúng hay không làm lễ là đúng, rồi lớn tiếng kêu rằng: ông già họ Lão thích mệt nhọc hãy nhanh lên, lễ cũng được, không lễ cũng được. Thân Công lễ kính. Thọ trai xong, hỏi Tạng vị lai phải chăng? Nói tìm bút viết hai chữ Hào Châu lớn cho Hán nhưng không nói lý do. Sau này Bãi Tướng biết Hào Châu là ngôn ngữ của Trị Điệp, chợt thấy hai chữ ở trước mặt mới ngộ lời sấm ở trước. Hòa thượng Chân Tịnh trở về Đỗng Sơn, đến chỗ Hòa thượng Lang Lang Khởi ở Trừ Châu, vì chúng thỉnh tiểu tham, Chân Tịnh chê trách dị kiến tà giải của Tăng các phương, không chút kiêng nể, khi xuống tòa gặp Hòa thượng Khởi nói rằng: Đường Đầu ở đây mà không nói nhiều lắm. Khởi nói: ông cũng được như vậy, hai người nhìn nhau cười lớn rồi đi. Hòa thượng Diệp Huyện Tỉnh rất nghiêm khắc, các Nạp tử rất nể sợ. Khi Phù Sơn Viễn, Thiên Y Nghóa Hoài ở trong chúng, chỉ đến tham học, đang gặp lúc tuyết lạnh, Tỉnh quở trách đuổi đi, đến nỗi lấy nước dội vào đãn qua, quần áo ướt sũng. Các vị Tăng khác đều tức giận bỏ đi, chỉ còn lại Viễn, Hoài đều xếp tọa cụ, sửa y phục ngồi lại trong đãn qua. Tỉnh đến mắng rằng: nếu ông không đi ta sẽ đánh ông. Viễn thưa rằng: nơi con ở cách đây mấy ngàn dặm, chỉ đến tham học thiền với Hòa thượng, đâu vì một thìa nước dội vào mà đi ngay sao? Nếu Hòa thượng có đánh chết con cũng không đi. Tỉnh cười nói rằng: hai ông muốn tham thiền này, lại bỏ đeo mang chấp mắc tiếp tục mời Viễn làm chức Điển tọa. Đại chúng khổ vì sự nghiêm khắc, tiết kiệm của Hòa thượng Tỉnh. Một hôm, tình cờ Hòa thượng vào trang trại, Viễn lén lấy chìa khóa mở tủ đem dầu, bột ngọt ra nấu cháo, cháo chín thì Hòa thượng chợt quay về, ăn cháo xong Hòa thượng ngồi ngoài giảng đường sai người mời Điển tọa đến. Viễn đến cúi đầu thưa rằng: thật tình con có lấy dầu, bột ngọt nấu cháo, xin Hòa thượng trách phạt. Tỉnh sai tính tiền chỗ quần áo cũ, y bát trả xong đánh ba mươi gậy đuổi ra khỏi viện. Nhà Viễn ở trong chợ, nhờ bạn đạo giải thích nhưng Hòa thượng không cho phép. Lại nói rằng: nếu không cho trở về thì chỉ xin theo chúng vào thất, Tỉnh cũng không cho. Một hôm, Hòa thượng ra phố, thấy Viễn đứng một mình trước Dinh, bèn nói rằng: đây là hành lang trước cửa viện, ông đứng ở đây nhiều giờ, đã trả tiền thuê chưa? Liền sai tính tiền. Viễn không tỏ vẻ khó chịu mà ôm bát vào chợ hóa duyên đủ số tiền về trả cho Hòa thượng. Một hôm, Tỉnh lại ra phố gặp Viễn, ôm bát trở về. Thiền sư Phần Dương Vô Đức, một hôm bảo chúng rằng: ta nằm mơ thấy cha mẹ chết, tìm rượu thịt giấy tiền không tránh khỏi, vì sao thế tục bày ra để cúng tế họ. Xong việc ở Khố Đường, bày linh vị như lễ thế tục, rót rượu, bày thịt đốt giấy tiền xong, sai tập hợp tri sự đầu thủ phân chia các mâm còn lại, những vị tri sự đều từ chối. Vô Đức ngồi một mình trong chiếu ăn uống tự nhiên, một số chúng Tăng nói rằng: Tăng mà uống rượu, ăn thịt, đâu xứng đáng làm pháp sư? Bèn kéo nhau đi hết, chỉ còn lại Từ Minh Đại Ngu, Tuyền Đại Đạo v.v… sáu, bảy người ở lại mà thôi. Hôm sau, Thiền sư Vô Đức thượng đường nói rằng: rất nhiều nhàn thần Dã Quỷ mà chỉ tiêu hết một mâm rượu thịt, hai trăm giấy tiền đủ chôn vùi rồi. Kinh Pháp Hoa chép: nay chúng không cành lá, chỉ có các hạt chắc, và xuống tòa. Hòa thượng Chân Tịnh khi du phương cùng hai vị Tăng đến cốc ẩn, Tiết Đại Đầu hỏi rằng: ba người cùng đi ắt có một người trí, thế nào là một người trí? Hai vị Tăng im lặng, chỉ có Tịnh là đứng thấp vai xuống, liền hét, Tiết dựng quả đấm làm thế xốc tới. Tịnh nói rằng không nhọc chịu đựng. Tiết kéo gậy đuổi theo gặp Thiền sư Thạch Môn Từ Chiếu. Thiền sư Vân Đỉnh Sơn Phu, Phủ soái Thành đô thỉnh đến Nha Nội thăng tòa. Lúc bấy giờ, có Lạc Doanh Tướng bước ra lễ bái, đứng dậy ngoảnh lại nhìn đài Hạ Mã trước phố nói rằng: hớp một cái hết nước Tây Giang thì không hỏi, lại xin Hòa thượng nuốt đài Hạ Mã trước phố kia. Sư dang rộng hai tay ra nói rằng: Xóa sạch tương lai. Lạc Doanh Tướng ngay lời nói có tỉnh ngộ. Tự Khánh Tạng Chủ là người ở đất Thục, tòng lâm đều biết tiếng, tham học với các đại lão như: Chân Như, Hối Đường, Phổ Giác, đến Lư Phụ, vào đô thành yết kiến Thiền sư Pháp Vân Viên Thông và Đại Sư Tú, cùng đi đến chỗ Pháp Vân. Tú được tham đường, lấy danh của Khánh Tạng Chủ đến Viên Thông. Thông nói: Hãy quảy đãy đi chỗ khác, đợi đơn vị không sẽ cho tham đường. Khánh ở Trí Hải tình cờ bị bệnh nặng. Tú muốn đến thăm, mà Sơn không cho, bèn lén đến chỗ Trí Hải gặp Khánh. Khánh viết thư bạch với Viên Thông rằng: Tú vượt khuôn phép ra vào. Viên Thông được thư, biết được việc ấy nên đến dạ tham mắng lớn rằng: Khánh thật là kẻ tiểu nhân, Trí vì đạo nghóa nên lén ra khỏi viện để thăm bệnh. Hắn lại lấy đó để tố cáo, đâu phải là việc làm của bậc đoạn nhân chánh só. Khánh nghe được bèn im hơi lặng tiếng. Tòng lâm đều nói: Khánh bị Viên Thông mắng một lần thì chết. Thiền sư Minh Thủy Tốn ở Phủ Châu khi đang làm thị giả ở Pháp Vân. Lúc bấy giờ, Thiền sư Đạo Lâm Lâm vừa đến. Phương Trượng đặc biệt mời khách dùng trà, nên Tốn đích thân đến mời, nhưng đúng lúc Lâm không có trong liêu, có một vị đồng hành với lâm tên là Liên Án nói rằng: ông về đi, đợi hắn về tôi sẽ mời dùm cho. Tốn ra về, Tăng chợt quên việc ấy, sau khi thọ trai xong thì đánh trống để hội trà. Lâm đến. Viên Thông cho lui lại đứng trên chiếc giường hẹp rồi ở trước chúng trách rằng: Sơn Môn đặc biệt là trà để nói lên lễ độ của tòng lâm, vì sao chểnh mảng không đến. Lâm thưa: vừa nghe tiếng trống thì bỗng bên trong ép ngặt, không đi đến trước được. Viên Thông mắng rằng: tiếng trống của ta chẳng phải là Ba Đậu, đánh vào ông liền ra phẩn. Tốn bươc đến bạch rằng: là do con quên mời ông ấy, xin để con ra khỏi viện. Lúc bấy giờ, bạn đồng hành bước ra thưa rằng: không dính dáng gì đến thị giả và Tân Đáo, là do con không làm đúng lời hứa, nhận mời giùm thị giả mà lại quên, nên con phải thay hai vị ấy mà ra khỏi viện. Viên Thông rất hài lòng về phong nghóa của hai vị nên hoàn toàn tha thứ. Các bậc tôn túc thị hiện diệt độ, toàn thân tắm trong biển lửa, được rất nhiều xá-lợi, nhưng chỉ có xá lợi của Thiền sư Chân Tịnh là lớn như hạt đậu, năm mầu lóng lánh và cứng như kim cương. Tổ Thiền sư ở Cốc Sơn thì Chân Tịnh là cao đệ, thâu rất nhiều xá-lợi dựng đầy bình lưu ly, tùy thân cúng dường. Diệu hỷ đến Cốc Sơn, có lần thử xá-lợi, là đặt lên phiến đá dùng búa đập, thì búa và đá đều lún mà viên xá-lợi không bể. Há chẳng phải là chỗ thực hành bấy lâu nay đã thấy đạo rõ ràng mới siêu vượt đến như vậy hay sao? Hiền Phùng Đầu, người đất Giang Châu là người phụ giảng trong hội của Hòa thượng Chân Như ở Vị Sơn, kiến địa rõ ràng, cơ phong dónh ngộ, có việc làm vượt hơn thầy, nhưng hạnh nghiệp không cẩn thận, cả chúng đều coi thường. Hòa thượng Chân Như nhốt vào am ở sau phương trượng cho Hiền ở riêng một chỗ, chỉ thông một con đường nhỏ qua trước phương trượng, không cho phép huynh đệ qua lại. Hai năm sau, cứ đứng đầu toàn chúng, Tăng lập cầm phất trần nói pháp có chỗ rất hơn người, cả chúng do đó mà thay đổi cách nhìn. Sau này, Hiền đến Hưng Dương Dónh Châu mấy năm, hành đạo rất hưng thịnh. Sau khi thị tịch, nhục thân không hoại, Hòa thượng Viên Ngộ ở Vị Sơn tận mắt thấy việc nầy, Diệu Hỷ đến Hưng Dương, còn kịp thấy nhục thân của Hiền. Hòa thượng Trạm Đường Chuẩn, người ở phủ Hưng Nguyên là đệ tử nối pháp của Chân Tịnh, phân ninh Vân Nham Hư Tịch, Quận Mục nhờ Thiền sư Hoàng Long Tử Tâm nêu chỗ biết để bổ khuyết vào chỗ mình. Tử tâm nói: Chuẩn Sơn Chủ ở được, tôi không biết ông ta chỉ thấy có kệ tụng rửa bát rất hay. Quận Mục nói rằng: có thể nghe được chăng! Tử Tâm nêu rằng: chi hồ giả dã, lỗ mũi của vạp Tăng, đồng bạc hướng xuống. Nếu cũng không hiểu thì hỏi chị Vương ở Đông Thôn. Quận đầu lấy làm lạ, đảnh lễ khẩn khoản mời, chuẩn cũng không từ chối. Suốt đời gò bó thân thể để hạn chế, tuy dắt dẫn đồ chúng hoằng pháp nhưng cũng không thay đổi khi ở trong chúng, thức dậy buổi sớm chỉ lấy thìa nhỏ nước ấm rửa mặt lại dùng để rửa chân nữa, sự thọ dụng khác cũng đều giống như vậy. Vừa phóng tham xong, hành giả của Phương Trượng sức người như kẻ đi đường, quét đất, nấu chè đều đích thân làm. Phong độ của người xưa thật là khuôn phép cho con cháu đời sau. Thiền sư Phật Chiếu Cảo ở Pháp Vân, thường lui về ở viện Cảnh Đức Thiết La-hán, trong điện có mấy cây gỗ La-hán rất quý, ở Kinh đô rất lạnh, Cảo đem gỗ ra đốt để sưởi ấm, gỗ cháy đến sáng, hôm nay tìm trong tro than được vô số xá-lợi, các vị Tọa chủ đều thấy việc đó bèn cho là ngoại đạo, vì Phật chiếu chính là Đan hà, mắt thế tục chẳng thể chứng nghiệm được. Diên Bình Trần Liễu, ông tên tự là oánh, tự xưng là Cư só Hoa Nghiêm, lập chí thẳng thắn thật thà, có phong cách mạnh mẽ của người xưa, lưu tâm đến nội điển, bàn luận lưu loát, nhưng tham thiền thì chưa có phát minh, nhân duyên về Thiền tông phần nhiều dùng ý để hiểu, ngữ lục của Thiền sư Khốc Ái Nam giải thích gần hết, chỉ có Kim cương và lau người bùn thì chú giải không được, thường bảo mọi người rằng: ở đây có xuất xứ nhưng chưa có ngừơi biết. Ngạn nói rằng: người có trí tuệ rộng lớn, trước mặt họ có ba thước ám thật không sai. Thiền sư Từ Chiếu Thông là đệ tử ngài Thủ Sơn, đều thường ở Thạch Môn thuộc Tương Châu, một hôm, Thái thú đem ý riêng để làm nhục ông ta, kịp trở về, chúng Tăng đón ở bên trái đường. Thủ tọa đến hỏi thăm rằng: vì sao Thái thú hủy nhục Hòa thượng như vậy? Từ chiếu chỉ tay xuống đất nói rằng: đất bằng nổi lên cục xương, theo ngón tay chỉ vọt lên một cục đất, Thái thú nghe nói sai người đến lấy bỏ đi, đất lại vọt ra như cũ. Sau này, cả nhà Thái thú đều chết ở Tương Châu. Lại có một vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật tánh ở sâu trong vách núi? Chiếu đáp: lạ thay hòn đá giống hình con hổ, lửa đốt cây thông có dáng như rồng. Cư só Vô Tận rất thích lời ấy, nhưng cửa đá chép chỉ có một việc không chép hai việc. Việc này đều do Diệu Hỷ đích thân nghe Cư só, Vô Tận kể. Lý Thương Lão ở Lô Sơn, do tu tạo phạm đến đất đai nên cả nhà đều bị bệnh phù thủng, tìm thầy chữa trị nhưng không hết, bèn dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, tắm gội, trai giới thanh tịnh, thắp hương tụng chú để giải trừ tai họa của sự ngang bướng, chưa đầy bảy ngày thì nằm mộng thấy một ông lão mặc áo trắng cưỡi một con trâu vào nhà ông ta, chợt lún xuống chẳng bao lâu thì không thấy nữa. Hôm sau, mọi người trong nhà lớn nhỏ đều lành bệnh, chí thành đã cảm ứng nhanh như chiếc bóng, tiếng vang, chẳng phải nhờ Phật lực mà được như vậy ư! Ngung Hoa Nghiêm là đệ tử của Thiền sư Viên Chí Bổn, vì bị té nên có tỉnh ngộ, làm kệ rằng: một lần gặp này muôn lượng vàng ròng cũng đều tan, nón trên đầu bọc dưới eo, gió mát trăng thanh cây gậy chống. Phú Trịnh Công thường đến thăm hỏi. Một hôm, thấy thượng đường ngoái nhìn hai bên chợt khế ngộ, liền gởi bài tụng đến Viên Chiếu. Trong bài tụng chép: Vừa thấy Ngung Sư ngộ nhập sâu, nhân duyên truyền được tâm lão sư, núi sông ngàn dặm lìa là cách, mắt đối linh quang với Diệu Âm. Trịnh Công bãi tướng ở Lạc Trung, nhớ lời Ngung Chỉ dạy, mời trụ ở chiêu-đề, nghe Ngung nhập cảnh đích thân ra đón rước, khi sắp lên xe thì Tư Mã Ôn Công vừa đến hỏi Tướng Công ở đâu? Trịnh Công nói: tiếp Thiền sư chiêu-đề Ngung. Ôn Công nói: Tôi cũng cùng đi. Liên Biêu ra khỏi thành đợi ở Bưu Đình đã lâu, chợt thấy mấy mươi người quảy gánh đi qua, Ôn Công hỏi hành lý của ai, người gánh trả lời là hành lý của Hòa thượng Tiên Chiêu Đề, Ôn Công bèn dắt ngựa theo. Trịnh Công nói: muốn thấy Hoa Nghiêm, vì sao lại về trước? Ôn Công trả lời: Tôi đã thấy ông ta rồi. Diệu Hỷ từng nghe Lý Nghi Trung Thiếu Khanh nói về việc ấy. Thuấn Lão Phu ở Lô Sơn Thế Hiền, quan Thái thú Húc Đô ở Nam Khang vì mối thù riêng với dân Kỳ Thiền sư Đại Giác Liễn ở Tịnh Nhân có lần vào trong thất của Thuấn, nghe nói Thuấn hoàn tục bèn sai người đưa về Tịnh Nhân nhường chánh Tẩm cho ông ta ở, còn mình thì ở phòng bên cạnh. Nhân Tông mấy lần triệu Liễn vào cung hỏi đạo, nhưng không hề nói gì về việc của Thuấn. Tình cờ một hôm, Vương gia thỉnh chiếu chỉ đến Tịnh Nhân mời Tăng thọ trai thì thấy Đại Giác đứng hầu bên cạnh Thuấn rất cung kính, liền trở về tâu với vua. Nhân Tông triệu về đối đáp ngay trước điện, thấy Thuấn vua rất vui mừng, nói rằng: Đạo Vận Kỳ Vó, thật kẻ só đến chốn núi rừng và viết trên quạt rằng: cho Thuấn làm Tăng như cũ, đặc biệt ra chiếu chỉ cho Thuấn ở lại Thê Hiền, nhưng vẫn ban cho y tím, bát bằng bạc. Lúc Thuấn bỏ Thê Hiền là do thế lực của hai họ Dư và Kiệu. Trước khi đến chùa La-hán, Nhị lực tướng nói rằng: đã chẳng phải là Trưởng lão của viện ta thì không thể đi xa, bỏ kiệu mà về kịp Thuấn quay lại, sai người trước an ủi Nhị Lực rằng: ông đang lúc này làm được việc phải thì chỉ an tâm không nên nghi sợ, Thuấn vào viện thượng đường, tụng rằng: vô cớ bị oan nhiều khốn khổ, hơn nửa năm trời làm thế tục, hôm nay về lại chùa Tam Hiệp, mừng vui bao nhiêu giận bấy nhiêu. Thuấn lão phu một hôm nêu: Hòa thượng Diêm Quan gọi thị giả đem chiếc quạt Tê Giác đến. Thị giả thưa rằng: quạt đã rách rồi. Quan nói: quạt đã rách thì đem tê giác đến cho ta. Thị giả không đáp được. Thuấn nói:: Tam Phục lúc bấy giờ rất cần quạt (Tam Phục là thời kì nóng nực) vì thị giả không hiểu việc. Tuy như vậy, Diêm Quan quá rắc rối sao không cắt bỏ cho người. Thị giả lúc ấy nếu nghe Diêm Quan nói quạt đã rách thì trả tê giác lại cho ta, liền nói rằng: đã tung bay ở trên đống đất rồi. Chân Điểm Hung ở Thuý Nham có lần mắng Thuấn lão Phu nói thiền vô sự, Hòa thượng Thạch Sương Vónh sai người chuyển lời đến chân rằng: vũ ở Đỗng Sơn ngộ được nhân duyên cổ kính như thế, há lại nói thiền là vô sự ư? ông mắng ông ta thì tự mất đi một con mắt. Vũ nghe liền làm bài tụng rằng: Vân Cư không biết thiền, rửa chân trên giường ngủ, bí xanh chỉ thẳng mực, bầu uốn cong cong. Hòa thượng Vónh cũng làm bài tụng rằng: Thạch Sương không biết thiền, rửa chân trên giường ngủ, chiếc gối lao xuống đất, đập bể chiếc bình thường dùng. Một hôm, Thuấn thượng đường nói rằng: sau khi hoàng hôn buông xuống cởi giày ngủ một giấc, sáng sớm thức dậy, trở lại làm việc trói buộc, đêm đến gió thổi bờ giậu ngã, rộng kêu nô bộc chẻ lạt buộc lên, xuống tòa. Trong hội của Ngũ Tổ, có một vị Tăng tên là Pháp Thỉ, trong lần nhập thất Tổ hỏi: người không làm bạn với muôn pháp là người nào? Tăng đáp là Pháp Thỉ, thì không đúng. Tổ dùng tay chỉ nói rằng: thường thường Pháp Thỉ thì không đúng làm sao? Thỉ ngay lời nói có tỉnh ngộ. Sau đó, đến thất của Hòa thượng Tuyên Bí Độ ở Đông Lâm, đều được ý chỉ chân thật. Một hôm, Thỉ cầm một nhành hoa nhiễu quanh giường thiền một vòng rồi cắm vào lò hương nói rằng: Hòa thượng hãy nói ý thế nào? Tuyên Bí gọi liên tục, Thỉ rằng: ông thử nói xem. Thỉ nói: con chỉ đem hoa cắm lên lư hương, tự Hòa thượng nghi ngờ thôi chớ đâu có việc gì. Thiền sư Phật Nhãn khi ở trong hội của Ngũ Tổ, Viên Ngộ nêu: Lâm Tế nói rằng: trong câu thứ nhất nêu lên được, có thể làm thầy với Phật Tổ, câu thứ hai nêu được thì có thể làm thầy trời người câu thứ ba nêu được thì tự cứu không xong. Một hôm. Sư chợt nói với Viên Ngộ rằng: ta nêu ra ba câu xưa nay vẫn như vậy, bèn co ngón tay lại nói rằng: đây là câu thứ hai, câu thứ ba đã nói rồi, liền đi. Viên Ngộ nêu giống Ngũ Tổ. Tổ nói rằng: cũng thích Nhãn bèn từ biệt Ngũ Tổ đến tham học với Hòa thượng Quy Tông Chân Tịnh. Sau đó, Tổ bảo Viên Ngộ rằng: phương pháp phất cờ sóng triều dồn dập của Quy Tông, ông từ xa đến đó chưa chắc khế hợp, chưa được mấy ngày thì có thư gởi đến ngăn Viên Ngộ rằng: phương Bắc đến Quy Tông tình cờ lọt lưới. Nghe Thủ tọa Vân Cư Thanh soạn Hối Đường, Chân Tán khen rằng: khi nghe thì giàu sang, sau khi thấy thì nghèo hèn, rất nghi ngờ lão này, đến gặp nhau quả nhiên khế hợp. Trải qua một năm lại trở về núi Tổ chúng thỉnh nói pháp, lại nói thiền tâm tánh. Tổ nói: Viễn lại nói thiền như thế cũng mặc ông ta. Hòa thượng Viên Ngộ có lần tham kiến Thiền sư Bắc Ô Nha Phương ở Kỳ Châu, Hòa thượng Phật Giám có tham học với Thiền sư Tuyên Bí Độ ở Đông Lâm, đều được ý chỉ chiếu sáng chân thật. Sau đó cùng vào thất của Ngũ Tổ, bình sanh được một câu dùng cũng không được, lâu ngày mà không khế ngộ đều nói rằng: Ngũ Tổ gắng gượng đổi họ, nói năng không khiêm tốn, bực dọc như vậy rồi đi. Tổ bảo: ông đến Chiết Trung, khi bị một trận bệnh sốt mới nhớ ta còn. Viên Ngộ đến Kim Sơn bỗng nhiên bị bệnh thương hàn rất khốn khổ dời vào cung thì bệnh nặng, bèn đem thiền đã tham cứu được lúc bình thường ra thử nghiệm thì không có một câu đắc lực, truy tìm đầu mối trong lời của Ngũ Tổ mới tự thệ rằng: khi bệnh của ta thuyên giảm thì liền trở về với Ngũ Tổ. Phật Giám Định Tuệ cũng bệnh thương hàn rất nguy kịch. Viên Ngộ hồi tỉnh đi đến chỗ Định Tuệ, dìu nhau cùng về Hoài Tây, Phật Giám còn cố chấp, lại cho đi trước, Viên Ngộ lập tức về Tổ Sơn. Diễn Hòa thượng vui mừng nói rằng: ông lại đến ư! Ngay trong ngày tham đường, liền vào liêu của thị giả suốt nửa tháng, gặp Trần Đề Hình giải ấn trở về đất Thục, qua Sơn Trung hỏi đạo, nhân một lần nói chuyện Tổ hỏi: Đề Hình thuở thiếu niên có đọc thơ của Tiểu Diễm chưa? Có hai câu rất gần gũi, nhiều lần gọi Tiểu Ngọc vốn vô sự, chỉ cần Đàn Lang nhận được tiếng. Đề Hình đáp dạ dạ. Tổ hỏi: hãy cẩn thận. Viên Ngộ vừa từ bên ngoài về đứng hầu bên cạnh, hỏi rằng: nghe Hòa thượng nêu thơ của Tiểu Diễm, Đề Hình lãnh hội được chăng? Tổ hỏi: ông ta chỉ nhận được tiếng. Viên Ngộ nói: chỉ cần Đàn Lang nhận được tiếng, thì ông ta đã nhận được tiếng rồi vì sao lại không đúng? Tổ nói: Thế nào là ý Tổ Sư từ phươngTây đến? Cây bách trước sân? Viên Ngộ chợt có tỉnh ngộ, vội vàng ra đi, thấy gà bay lên lan can vỗ cánh kêu vang, lại tự nói rằng: đây há chẳng phải là tiếng ư? thế là tụ hương vào thất, thông sở ngộ. Tổ nói: việc lớn của Phật Tổ người có căn khí kém cỏi chẳng thể làm được, ta mừng cho ông. Tổ lại bảo các bậc kì cựu trong núi rằng: thị giả của ta tham đắc thiền rồi. Hòa thượng Phật Giám từ Chiết Trung trở về Tổ Sơn, chần chừ không chịu an đơn. Viên Ngộ nói rằng: ta và ông xa nhau suốt một tháng, nay đây khi gặp nhau thì thế nào? Giám nói: tôi chỉ nghi ngờ một chút này của ông, bèn tham đường. Một hôm, cùng Viên Ngộ hầu Tổ, nhân lúc dạo núi nêu: Hòa thượng Đông Tự hỏi Ngưỡng Sơn rằng: ông là người xứ nào? Ngưỡng Sơn đáp: người Quảng Nam. Tự nói: ta nghe nói ở Quảng Nam có hạt ngọc sáng trấn biển, có lấy được không? Sơn nói: lấy được rồi. Tự hỏi: hạt châu mầu gì? Ngưỡng đáp: trăng sáng thì hiện ra, trời tối thì ẩn mất. Tự hỏi: sao không trình lên lão Tăng? Ngưỡng Sơn bắt tréo tay gần phía trước nói rằng: Tuệ Tịnh hôm qua đến Vị Sơn đòi lại hạt châu này rồi, chỉ được không lời có thể đáp, không lý có thể trình bày là thế nào? Phật Giám không đáp được. Một hôm, chợt nói với Viên Ngộ rằng: Ngưỡng Sơn gặp duyên của Đông Tự, ta có nói Đông Tự lúc ấy chỉ đòi một hạt ngọc, Ngưỡng Sơn lập tức đổ ra một cái giỏ. Viên Ngộ rất bằng lòng. Lưu Nghi Ông có lần tham kiến Phật Ấn, rất tự phụ, rất khinh bạc Chân Tịnh. Một hôm, ông ấy từ Vân Cư đến Pháp Đường Quy Tông, gặp Chân Tịnh liền hỏi: Trưởng lão viết tuồng kịch, đảm nhiệm được mấy năm? Tịnh nói: chuyên đợi Lạc Quan đến, ông nói: tôi không vào Bảo Xã này. Tịnh nói: ngặt vì ngay hôm nay đã ở trong hội trường này rồi. Ông dự tính. Tịnh vỗ tay nói rằng: cóc nhái thiền chỉ nhảy được một cái thôi. Ông lại ngồi xuống chỉ chiếc áo cà-sa hỏi: Gọi là gì? Tịnh đáp: Thiền y. Ông hỏi: Thế nào là Thiền? Tịnh bèn phủi dũ nói rằng: phủi dũ không xuống, Ông không đáp được. Tịnh nghó một chút bèn nói, mánh khóe của ông như vậy mà muốn sửa lão Tăng ư? Viện Môn Tuệ An nằm sát đường phía trái ở huyện Phụng Tân tỉnh Hồng Châu, nạp tử qua lại núi hang Lặc-Đàm ở Hoàng Long, Hoàng Bá chẳng thể không đi qua. Tình cờ pháp tịch từ lâu đã không có người, Thái thú gởi thư đến Thiền sư Chân Tịnh ở Bảo Phong, xin mọi người làm chủ. Tri Sự Đầu Thủ và hàng kì túc đều sợ đi đến đó. Lúc bấy giờ Thủ tọa Uyên đến phương Bắc một mình kiên quyết tự lập, tham học với Hối Đường, Chân Tịnh, thật có chỗ khế ngộ, ở lẫn trong chúng làm việc và nghỉ ngơi, mọi người đều không biết. Uyên nghe Tri sự Đầu Thủ từ chối không chịu vâng mệnh liền bạch Chân Tịnh rằng: cho Uyên đi được chăng? Chân Tịnh nói: ông đi được, bèn viết thư đề cử Uyên. Ông được công văn bèn từ tạ ra đi. Lúc bấy giờ, Trạm Đường là Tọa Nguyên hỏi Uyên rằng: ông đi trụ trì như thế nào? Uyên đáp: tôi vô phước nên phải kết duyên với mọi người, tự quảy hành lý cùng chúng lên đường. Trạm Đường nói: phải là lão huynh mới được, bèn làm bài tụng tiễn đưa Uyên rằng: thầy đến Tân Ngô dẫn dắt chúng sanh, hãy nhận chân lừa trước dang tay Phật, chỉ điểm đúng sai, phân chia tốt xấu, cầm kiếm giết tha làm sư tử hống, ứng cơ chúng sanh mở miệng túi vải, định hướng đông bắc tây nam, chỉ dạy hạt châu quay về với ngọc, đều khiến dứt mê tình thoát khỏi nếp cũ vô minh, a ha ha, thấy ba trong ba, ba lần ba là chín, Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao tay, Uyên trụ trì Tuệ An từng ngày giáo hóa, gặp người lỡ đường liền mời vào viện nghỉ ngơi, cho họ tập trung vào để cùng tu tập, như vậy suốt ba mươi năm gió mưa không thay đổi, đổi mới điện Phật, luân tạng La-hán Đường, hễ chỗ nào cần có ở tòng lâm đều tu sửa hoàn toàn. Thiền sư Tử Tâm ở Hoàng Long hỏi thì Uyên đáp rằng: Tân Trưởng Lão, ông thường ưa sử dụng một người không có ý trí, lấn át người khác, đêm nay ở lại đây, muốn cùng ông lý giải các pháp môn lớn nhỏ. Tân sợ bèn bảo thị giả rằng: Lão này là người thật biết việc này, không thể biện luận với ông ta nổi, phải mau đi thôi, thế là không tá túc qua đêm mà lại ra đi. Uyên thị tịch ở Tuệ An, sau khi trà-tỳ, sáu căn không hư hoại ba căn, thu xá-lợi nhiều vô số, mùi hương lạ khắp phòng nhiều tháng vẫn còn thơm. Binh lửa ở Phụng Tân tàn phá chẳng còn một ai, chỉ có các điện thờ ở Tuệ An vẫn nghiễm nhiên tồn tại. Há chẳng phải thành tựu nguyện lực thần vật hộ trì ư? Nay các vị chỉ rủ tay liền có sẵn thọ dụng, nghe phong độ của Uyên mà không hổ thẹn trong lòng hay sao? Hòa thượng Pháp Vân Cảo trải qua khắp các cổng nhà đến trong hội Viên Thông Cơ Đạo Giả, vào thất nêu lời của Triệu Châu hỏi Đầu Tử rằng: người chết sống lại là như thế nào? Tử hỏi lại: không cho đi đêm, chỗ sáng phải đến, ý thế nào? Cảo đáp: ơn lớn khó báo đền, Viên Thông khen ngợi. Sau đó vài ngày bèn nêu: Tăng cầm phất trần, căn cơ chậm lụt, Hồng Đường cười lớn, Cảo có vẻ hổ thẹn. Hôm sau đặc biệt đãi trà đại chúng, đặt trà cụ (đồ pha trà) lên bàn, hổ thẹn không đến chỗ mình, thình lình lật đổ trà cụ, gáo múc nước rơi xuống đất nhảy lên mấy lần, liền ngộ được lời đáp, cơ phong nhanh nhẹn, người không dám sánh. Lại đến chỗ Thiền sư Chân Tịnh, do thấy bài kệ của Tổ sư rằng: tâm đồng cõi hư không, chỉ bằng pháp hư không khi chưng đắc hư không, thì pháp không đúng không sai, hoát nhiên đại ngộ. Sau này khi ra giáo hóa, thuợng đường tiểu tham thường bảo mọi người rằng: Hòa thượng Thiệu Thánh vào ngày hai mươi mốt tháng mười một niên hiệu Thiệu Thánh năm thứ ba được thiền. Lại nói: Hòa thượng vào niên hiệu Hy Ninh, năm thứ ba Trạng Trương trình bày ở phủ Phụng Tường, năm ấy Hoa Sơn bị chiếm mười tám châu, lúc ấy cây cà, cây bầu trong đó được biết. Chiếu Trụ Pháp Vân khai đường nói: Trung Sứ bưng ngự hương đến muốn dâng trình ngữ, lúc bấy giờ, Hồng Giác Phạm ở trong hội sai thị giả thỉnh đến biên tập ngữ lục rằng: hãy nhìn mặt lão Hòa thượng. Giác Phạm biên tập trình lên, đọc xong bảo rằng: nếu muốn thiền thoát khỏi sanh tử, thì phải trở về Hòa thượng, nếu phải dành hoa góp gấm, văn chương tứ lục, nói chuyện tào lao thì phải là tôi và Hồng huynh mới phải. Pháp Vân bình thường khí muốt các phương, vì có sở đắc vượt hơn người mới dám như vậy. Sư vì Hòa thượng Trạm Đường thị tịch mà thỉnh Giác Phạm kể về hạnh thật ấy, lại được thư giới thiệu của Thiền sư Long An Chiếu, đặc biệt đến Kinh Nam yết kiến cư só Vô Tận cầu chữ khắc tháp. Ban đầu gặp vô tận thì Vô tận đứng hỏi rằng: ông mang giày cỏ như thế chắc là từ xa đến? Đáp rằng: tôi hành khất mấy ngàn dặm đến yết kiến tướng công. Lại hỏi bao nhiêu tuổi. Đáp: hai mươi bốn tuổi. Lại hỏi: con trâu được bao nhiêu tuổi. Đáp: hai tuổi. Lại hỏi: ở chỗ nào học được hư đầu này? Đáp: hôm nay đích thân yết kiến tướng công. Vô Tận cười nói rằng: hãy ngồi uống trà đi, vừa ngồi lại hỏi từ xa đến có việc gì? Bèn đứng dậy đi tới trước nói: “Hòa thượng Lặc-đàm dạy rằng vắng lặng trà-tỳ, mắt, răng và xâu chuỗi không hư hoại, được xá-lợi vô số. Các bậc kỳ túc trong núi đều muốn được Tướng Công, một nhà văn lỗi lạc làm bài minh cho tháp khích lệ kẻ hậu học, nên phải từ xa đến mạo phạm với người. Vô Tận nói rằng: bị tội ờ chỗ này, vì tôi không hề làm văn tự cho ai cả, nay có một câu muốn hỏi ông, nếu nói được thì làm cho bài minh tháp ngay, nếu không được thì cho năm quan tiền, bó chân lại về Đâu-suất tham thiền. Bèn nói: xin Tướng công cứ hỏi. Vô Tận hỏi: nghe nói đôi mắt của Chuẩn Lão chẳng hoại phải không? Đáp: phải. Vô Tận nói: Ta không hỏi đôi mắt này. Sư nói: vậy chớ Tướng Công hỏi đôi mắt nào? Vô Tận nói: Ta hỏi đôi mắt kim cương kìa. Đáp: nếu là đôi mắt kim cương thì ở trên ngòi bút của Tướng Công ấy. Vô Tận nói: như vậy thì lão phu vì ông ta mà toả ra một chút ánh sáng để chiếu trời soi đất. Sư bèn đến trước bậc thềm nói rằng: Tiên sư nhiều may mắn, tạ ơn Tướng Công làm bài minh tháp. Vô Tận vâng dạ rồi cười. Bài minh ấy đại khái là: không nghe sách chép về xá-lợi của khổng Lão, Phật Thế Tôn diệt độ, đệ tử thâu xá-lợi xây tháp cúng dường, Triệu Châu Tùng Thẩm, xá-lợi nhiều đến muôn hạt. Đời cận đại, có long khánh nhàn, Bách Tượng Trúc, hơi khói bay đến đâu đều thành xá-lợi ở đó. Nói chung người xuất gia vốn vì sanh tử việc lớn. Nếu sanh tử đến mà không biết ở nơi nào,thì không bằng lão hán biết viết trong thôn ba nhà, lúc sắp qua đời dặn dò tất cả rõ ràng, sắc thân bốn đại do các duyên giả hợp, từ xưa đến nay xá-lợi đâu có thể tánh. Nếu phạm hạnh tinh khiết, bạch nghiệp vững chắc, linh minh rộng sáng, biết tin tức không hoảng không sợ, y báo và chánh báo mảy may cũng không sai. Thế gian khổ tâm trong vịêc của chính mình, trong mười hai thời không hề nhắc đến dòng chảy vô cùng nhỏ nhiệm, sanh đại ngã mạn. Đây là quỷ làm chủ nghiệp đến mượn nhà, như vậy mà muốn xá-lợi, xâu chuỗi và các căn không hư hoại, điều đó có thể được ư! Hòa thượng Phước nghiêm Chí, người ở Đông Xuyên, lúc đầu du phương, gặp được Hòa thượng Chân Như mà phát minh chánh kiến, làm tri khách ở Quy Sơn, vì nói năng sai sót nên xuống làm người làm vườn để chuộc tội của mình. Chân Như nói rằng: ông phước mỏng, làm vườn với chúng mới hợp. Được hai năm bèn tìm người thay thế để từ biệt Hòa thượng Chân Như, muốn đến tham học với Ngũ Tổ Chân Tịnh, Chân Như nói rằng: Di phạm của bậc Tiên Thánh khắp nơi, ông đi chớ chậm trễ, đến thất của Đỗng Sơn có chỗ khế hợp, Chân Tịnh cử làm người lãnh chúng lập Tăng. Thời gian lâu sau đến hội của Hòa thượng Tứ Tổ Tuyên; thường đến yết kiến Ngũ Tổ. Tổ xem xét quả nhiên có chỗ hơn người. Ngũ Tổ nói với Tứ tổ rằng: Chí Thủ Hòa là bậc đạt só của tòng lâm, sao không cử hắn thủ chúng. Tứ Tổ nghe theo lời của Ngũ Tổ, Ngũ Tổ cũng thượng đường khen ngợi tri kiến của Chí. Có nguyên soái Lý Tu Soạn ở trường sa gởi thư đến Tứ Tổ để tiến cử, chưa bao lâu thì Phước Nghiêm trống vắng không người trông nôm, Bình Phổ Dung lại tiến cử người soái nói: phải ứng phó trước với Tứ Tổ, nhưng tìm sách chưa được nên không biết tên. Do một lần ngồi đối diện với khách thì có một con chuột kéo từ trên giá xuống một quyển sách để trước mặt, mở ra xem thì đó chính là quyển sách Tứ Tổ Cử làm Thủ Tọa. Soái đặt biệt kính trọng bèn khẩn khoản mời. Hòa thượng Lặc Đàm Thâm, người đất Đông Hà là đệ tử của Hòa thượng Chân Tịnh. Lúc bấy giờ, có Thị giả Ngộ tình cờ ở trong liêu tri khách bị một thanh củi cháy rớt xuống đầu bỗng nhiên có tỉnh ngộä, đi thẳng lên phương tượng trình bày sở ngộ, Hòa thượng Thâm hét một tiếng nói rằng: Tự ông mất tâm. Ngộ bèn kéo dây đến Đông Ti Diên Thọ Đường để tự thắt cổ chết. Đêm đến thường ẩn hiện ở ba chỗ như tạng viện, liêu tri khách và Đông Ti, đổi giày độ bình, cả chúng đều khổ. Lúc bấy giờ, Trạm Đường đi Triết Giang trở về làm Thủ tọa, nghe việc ấy nên giữa đêm đến Diên Thọ Đường Đông Ti Trừu Thoát, đèn tường sáng leo lét bỗng nhiên chợt tắt, bèn cởi áo; ngộ liền sách bình nước đến. Trạm Đường nói rằng: chưa cần hãy đợi ta cởi áo ra, cởi áo xong liền nhận lấy bình nước. Lúc ấy, Ngộ tự thắt cổ giữa Trừu Thoát, giây lát sau lai đưa thẻ đến, bước ra kêu rằng: Đổi bình đi, Ngộ vừa đổi thì năm chắc và vuốt tay hắn, hoặc như mềm, hoặc như cứng, liền hỏi rằng: ông là thị giả Ngộ phải không? Ông chính là người lúc ở liêu tri khách bị que lửa rớt vào đầu liền có chỗ tỉnh ngộ phải chăng? Thâm Thiền học đạo chỉ muốn biết chỗ cần tìm của bổn mạng nguyên thần, ông ở Tạng điện đổi giày dép của Đoan Thủ tọa, há chẳng phải lúc ấy ông được ngộ ư? Lại ơ liêu Tri khách đổi gối, há chăng phải lúc ấy ông đã ngộ ư? Từng đêm ở đây xách bình rót nước cho người uống, há chẳng phải lúc ấy đã được ngộ ư? Vì không biết chỗ rơi, cứ ở đây não loạn đại chúng chăng? Ngày mai ta bảo đại chúng xem kinh tạng giúp ông, gom tiền bày cháo truy điệu ông. Ông nên đặc biệt cầu ra khỏi, không được dần dà ở đây, nói xong bèn đẩy một cái, như ngói vụn tháp ngã, có tiếng nhạc theo đó mà biệt tích, một cánh tay của Trạm Đường chợt lạnh như băng suốt nửa tháng mới bình phục. Vì phi nhân phụ âm mà đến, hơi lạnh xâm nhập vào người mới đến đỗi như vậy. Hứa Tri Khả, người ở đất Trì Lăng, từng được hương tiến, ứng thí không đậu mà trở về, chu Thứ Ngô Giang Bình vọng, nằm mơ thấy người mặc đồ trắng bảo rằng: ông không có âm đức cho nên thi không đậu. Tri Khả nói: nhà tôi nghèo không có của cải để lại cho người. Người mặc đồ trắng nói: Sao ông không học ngành y, ta sẽ giúp ông trí tuệ. Tri Khả chợt thức dậy, trở về thực hành theo lời dạy của người mặc áo trắng, quả nhiên được sự mầu nhiệm, hễ có người bệnh đến thì bất luận sang hèn đều chẩn bệnh cho thuốc, không chịu gặp họ nữa, hễ người bệnh đến trị thì đều khỏi hẳn. Sau đó, cử Hựu Trung Hương Bình đến Luân Quan Chu Bình Vọng; nằm mơ thấy lại người áo trắng trước kia tặng cho một bài thơ rằng: công thầy thuốc rất lớn, Trần lâu cách trở, điện thượng trưng bày, gọi sáu là năm. Tri Khả suy nghó không ngộ được ý ấy. Sau này thi đỗ đạt rạng danh, đứng vào phẩm thứ sáu, vì trên danh điện thử không có bổng lộc nên thăng lên phẩm thứ năm chính là ở giữa Trần Lâu, mới hiểu được lời sấm trước kia. Thiền sư Phật Quang vô ngại, từ Vónh An thuộc Tô Châu, Phó Chiếu, trụ tại Thiền Viện Tuệ Lâm ở chùa Đại Tướng Quốc, thường ở dưới rèm của Hoàng Hậu Tuệ cung đăng đối xong thì nương hư không mà về. Từ ấy do Thái Quan đã tiến cử, nên bày trai phạn cúng dường, lại dùng địa gấm làm pháp y, tự đính thiền bài ban cho Thiền sư để biểu lộ lòng chân thành phụng pháp. Tháng một âm lịch, ban cho bức màn gấm mầu hồng, cho đến các loại đồ đựng phục suất. Quang bèn cúng dường pháp y do vua ban lại cho Thiền sư Pháp Vân Phật Chiếu, Pháp vân lại gởi cúng dường cho Hòa thượng Bảo Phong Trạm Đường, Trạm Đường thị tịch, giữ lại trấn sơn môn, đến nay vẫn còn. Thiền sư Chiếu Giác từ Lặc Đàm dời về Hổ Khê, Vương Tử Thuần Quán Văn thỉnh đến khai đường, sau khi khai đường, trăm phế đều nêu, thăng đường tiểu tham, vào thất không uổng phí thời gian. Có lần Thiền sư nói rằng: Các lão đồng môn như Hối Đường Chân Tịnh chỉ tham được thiền của Tiên sư nhưng không được đạo của Tiên sư. Sư nói: Vì Chiếu Giác lấy thường ngày vô sự không lập tri kiến hiểu biết làm đạo, cũng không cầu diệu ngộ, lại đem pháp môn chân thật đốn ngộ thấy tánh của Chư Phật, Chư Tổ, Đức Sơn, Lâm Tế, Tào Động, vân môn để sáng lập. Trong kinh Lăng-nghiêm chép: núi, sông, đất đai đều là vật hiện ra trong chân tâm diệu minh, lời nói trong ngực cũng là kiến lập, lấy sự nói huyền nói diệu của người xưa làm thiền, lừa dối bậc Tiên Thánh, làm mù điếc dòng dõi đời sau, trong mắt không có gân, dưới da không có máu chảy, theo thường lệ điên đảo, điềm nhiên không hay biết, thật đáng thương xót. Trong kinh Viên Giác chép: chúng sanh đời mạt pháp mong muốn thành đạo mà không cầu ngộ thì chỉ càng học rộng, thêm lớn ngã kiến. Lại nói: chúng sanh đời mạt pháp tìm bạn lành nhưng gặp bạn tà kiến nên chưa được chánh ngộ, cho nên gọi là chủng tánh của ngoại đạo, là sai lầm của tà sư, chẳng phải là lỗi của chúng sanh, há là lời sáo rỗng ư. Cho nên, Hòa thượng Chân Tịnh tiểu tham nói rằng: Ngày nay có một loại người chấp tâm bình thường là đạo, cho là khuôn phép cao, trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông, Tăng là Tăng, Tục là Tục, đủ trọn ba mươi ngày, thiếu chỉ hai mươi chín ngày, đều là nương theo cỏ cây, thắm thoát một bề mơ hồ, nếu chợt hỏi người khác rằng tay của ta sao giống tay Phật, liền nói là tay Hòa thượng, chân ta sao giống chân lừa, liền nói là chân của Hòa Thương. Ai có được duyên sanh này đó là duyên sanh của Thượng tọa; liền nói tôi là nhân sự ở châu nào đó là nói gì ư? Lại chớ hiểu lầm, hễ trăm việc làm thì chỉ cần một con đường bình thường cho là vững vàng, định đem đi thì phải đem đi, lại không dám dời riêng một bước, sợ rơi vào hầm hố, lâu ngày giống như cây gậy cho người mù đi trên đường, một bước ngắn cũng vất bỏ không được, mà phải nắm chắc nương vào để đi. Hòa thượng Hối Đường bảo người học rằng: ông đi Lô Sơn ngồi trong vỏ vô sự, mà nay con cháu như tro tàn, thật là đáng khen. Hòa thượng Phật Chiếu Cảo, lúc đầu ở Quy Tông, chuyên ròng hành đạo không hề lười mỏi. Đêm khuya tu kính xong thì ngồi trong bếp lò ở Tăng Đường, chợt thấy hai vị Tăng bước vào, một người mày rậm tóc bạc, một người còn thiếu niên, đều có dáng dấp cao lớn xinh đẹp. Cảo tự mừng thầm nghó rằng: Dưới tòa của ta đã có Tăng như thế, trong khoảnh khắc hai người kia bước vào, một người mày rậm tóc bạc, một người còn thiếu niên, đều có dáng dấp xinh đẹp. Cảo tự mừng thầm nghó rằng: Dưới tòa của ta có Tăng như thế, trong khoảnh kắc hai người kia bước ra khỏi Tăng đường, Cảo liền bước theo sau, thấy họ vào trong điện Phật, Cảo cũng theo vào, bóng đèn sáng lấp lánh, trong lò còn có lửa, Cảo thắp hương lễ Phật, hai vị Tăng lại bước ra, Cảo cũng theo sau, đến trước điện Phật, thình lình biến mất. Cảo tự nghó: Bỏ quên hộp nhang trong điện, khi quay lại lấy thì thấy cửa chánh điện bị khoá chặt, bèn gọi thị giả trực chánh điện là Thủ Thuấn ra mở cửa, Thuấn lấy chìa khoá mở cửa thì thấy khói hương trong lư chưa tan còn hợp nhang thì ở trên thềm báu. Tự không nói cho ai biết sự vịêc ấy, Diệu Hỷ đích thân nghe Phật Chiếu kể lại. Lúc ấy, Thủ Thuấn ở bên cạnh, còn chỉ ra để làm chứng. Đại Thừa Tướng Lữ Công Tông Chánh, người ở Lạc Dương, thuở nhỏ sống rất vất vả, đại tuyết suốt tháng, các nhà bảo trợ ít có người chu cấp, làm thơ sơ lược về việc ấy rằng: Mười lần yết kiến nhà giàu có quyền quý thì chín lần không mở cửa, khắp mình gió tuyết phải quay về, vào nhà mệt mỏi thấy mặt vợ con, bỏ hết tro một đêm trên lò lạnh. Thật đáng nhớ! Giữa đường tình cờ gặp một vị Tăng, thương xót cho hoàn cảnh cùng quẩn bèn đưa về chùa Diên Quy bố thí thức ăn và áo mặc, cho một xâu tiền rồi đưa về nhà, vừa qua được một tháng thì hết sạch, lại đến yết kiến vị Tăng. Vị Tăng nói: Đây chẳng phải là kế lâu dài, ông nên dời nhà về hành lang trong viện, khi ăn thì theo chúng cấp cho cơm cháo, ngõ hầu có thể được lâu dài. Lữ nghe theo lời dạy, đã không bị ăn mặc làm cho khốn khổ mà còn được luyện chí học hành. Năm ấy ứng cử được hương tiến, vị Tăng mua ngựa thuê đầy tớ, sửa soạn y phục đưa vào kinh đô, được chọn trong Tỉnh Vi. Điện thử xướng tên là Đại Khôi. Lúc đầu làm chức Thông Phán ở Tây Kinh thì vẫn gặp Tăng như bình thường, nhưng trải qua mười năm bèn chấp chính, hễ gặp buổi tế lễ ở ngoài thành, bỗng lộc được ban cho đều gởi đến cúng lễ. Một hôm Thái Tông, hỏi rằng: khanh nhiều lần tế lễ, bỗng lộc không cầu gì ư? Lữ đáp: Thần có ân riêng chưa báo đáp. Vua gạn hỏi thì Lữ thật lòng kể lại đầu đuôi câu chuyện, vua khen rằng: “Trong Tăng có người như vậy”, liền cho ghi tên tấu văn và ban cho hiệu Tư Bào Gia Sư để nói lên sự khác lạ. Lữ tính ra đã gom góp bổng lộc được mấy muôn quan tiền, liền dâng sớ tâu vua đem số tiền ấy sửa sang lại chùa Doanh và cúng đường Tăng. Chùa ấy vốn là Thiết Mã Doanh là nơi sinh của hai bậc Thánh Thái Tổ và Thái Tông, triều Thái Tổ đã xây chùa nhưng quên tên, vị Tăng ấy chính là chủ chùa. Thái Tông đặc biệt cho tiền để sửa sang lại cửa tam quan và ban cho tấm biển ngự thư để độ Tăng. Lữ Công hằng ngày mỗi buổi sáng thức dậy thì lễ Phật nguyện rằng: Người không tin Tam Bảo xin đừng sanh vào nhà con, nguyện cho con cháu đời đời ăn lộc triều đình, ngoại hộ Phật pháp. Như Tử Di Giản Thân Quốc Công mỗi ngày mồng một lễ gia miếu xong thì thắp hương phát rộng một phong thư của Thiền sư Tuệ Liễn lại càng thêm kính trọng. Thân Công, Tử Công cũng phong Thân Quốc Công, ngày mồng một phát thư của Thiền sư Viên chiếu, Hữu Thừa Tử Dung Trung. Ngày mồng một phát thư của Thiền sư Phật chiếu Cảo. Gia thế của họ hết mực kính tin đã có từ xưa đến nay, nên chép ra để nhắc nhở đời sau. Hai bậc Thượng túc của Thiền sư Bảo Ninh Dung là Xử Thanh và Xử Ngưng cùng tham học với Thiền sư Bạch Vân Thủ Đoan. Ngưng ở trong liêu thị giả rất lâu. Đoan có chứng bệnh đầy hơi, Ngưng thường hầm rau cải để chuẩn bị nhu cầu khi cần. Đoan là Phó Đại Só giảng kinh nhân duyên, tụng rằng: Đại Só không hề biết giảng kinh, Chí Công phương tiện lại khớp nhau Một huy trên án đều không lấy Chỉ bị vua Lương trợn mắt hờn. Ngưng nói: Nộ là gì? Câu này chính là vì Ngưng nói Thiền Lão Bà. Ngưng cho rằng đích thân nghe, cho nên nói ở phía dưới bài tụng. Sau này ở núi Thiên Trụ thuộc Thư Châu, Thanh trụ ở Thái Bình thuộc Long Châu, có tài biện luận, Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn kính phục. Thanh nói với Ngưng rằng: Thiền của Đệ chính là hấp rau cải cho lão Hòa thượng đổi được. Vào niên hiệu Chánh Hòa có Hùng Tú Tài, là người ở đất Bà Dương, du ngoạn đến Tây Sơn thuộc Hồng Châu qua Thuý Nham, Trưởng Lão Tư Văn nối Pháp Thiền sư Phật ấn Nguyên, cũng là người ở đất Bà Dương, sai hai lực só khiêng kiệu đến Tịnh Tướng, trải qua hốc rừng rậm rạp, thình lình gặp một vị Tăng với dáng vẻ Thần Thanh mày rậm tóc bạc, kết lá làm y phục, ngồi trên tảng đá, y như bức họa của Phật Đồ Trừng. Hùng tự nghó rằng: thơi nay đâu có bậc Tăng này, mình dã từng nghe Lượng Tọa chủ ẩn tu ở Tây Sơn, chắc có lẽ vị Tăng này vẫn còn, liền bước xuống kiệu khép nép tiến đến hỏi thăm rằng: Có phải là Lượng Tọa chủ hay chăng? vị Tăng ấy đưa tay chỉ về hướng Đông. Hùng và hai lực só nhìn theo, đến lúc quay lại thì vị Tăng ấy đã biến mất. Lúc ấy cơn mưa nhỏ vừa tạnh, Hùng tự lên tảng đá nhìn xem thì chỗ ngồi còn khô ráo, chần chừ nhìn khắp bốn phía than rằng: Túc duyên của ta không sâu dày, dù gặp Tăng cũng như không gặp. Hòa thượng Khai Tiên Tiêm làm bài minh trên giường thiền cho Thiền sư Quy Tông Nam rằng: Hạt ngọc sáng được sinh ra từ nước bọt của con trai, con thỏ mang thai, nhờ quán giường thiền này mà chứng đạo. Nam Thứ làm bài minh cho Quy Tông rằng: Buông xuống liền vững vàng. Khai Tiên rất hài lòng. Thiền sư Thản ở Hưng Giáo, ở Tuyên Châu. Lúc bấy giờ, con nhà họ Ngưu ở Ôn Châu làm nghề thợ bạc, một hôm, nhân lúc chà rửa bình bạc chợt có tỉnh ngộ, bèn xuất gia thọ giới cụ túc, du phương học đạo và làm đệ tử nối pháp ngài Lang Nhị ở Quảng Chiếu. Thiền sư Hoài ở Hưng Giáo, Thản là Đệ nhất toà, đến Hoài thọ biệt thỉnh, muốn cử Thản tiếp nối trụ trì. Lúc bấy giờ Điêu Cảnh Thuần trông coi uyển lăng, Sợ Diêu liên quan đến việc bàn bạc bên ngoài bèn ở trước Bồ-tát Quán Âm nguyện rằng: Nếu Thủ tọa Thản được mắt đạo sáng suốt, kham làm trụ trì thì xin hiện điềm mộng ở Điêu Học Só. Đêm ấy, Điêu nằm mơ thấy một con trâu ngồi trên tháp thờ Hưng Giáo. Hoài đếnlúc gần sáng từ biệt Tuyên Châu. Điêu kể lại giấc mơ thì Hoài cười lớn, Điêu liền hỏi lý do, Hoài đáp: Thản Thủ tọa là họ Ngưu lại tuổi con trâu. Điêu đến tòa thỉnh Thản. Thản thọ thỉnh và thăng tòa. Lúc bấy giờ, có Tỉnh Tông bước ra hỏi rằng: Lúc Chư Phật chưa ra đời thì lỗ mũi của mọi người ở phương trời xa xăm, khi Chư Phật ra đời vì sao bặt không tin tức? Thản đáp: Gió lặng yên trước đỉnh Kê Túc. Tông nói: không cần nói nữa. Thản nói: Tuyết phủ đầy Trường An. Tông hỏi: “Ai là người biết ý nầy?” Khiến cho ta nhớ Nam Tuyền?”, nói xong rủ tay áo trở về chúng, không còn lễ bái. Thản nói: Mới khởi lên dậy hôm nay mất lợi ích liền trở về phương trượng, Thản sai người đến mời Tông vào bảo rằng: vừa đến thì nhầm lẫn chỉ đáp một chuyễn ngữ, trước chúng trời người sao không lễ bái mà khoả lấp lui ra? Tông nói: con cái của bậc đại trượng phu có vàng ròng, sao chịu lễ bái trưởng lão không có mắt. Thản nói: Ta chỉ có lời tồn tại. Tông bèn đáp ứng lời nói trước, đến chỗ không cần nói nữa thì Thản bảo rằng: Ta có ba mươi gậy gửi ông đánh Tuyết Đậu. Tông lúc ấy mới lễ bái Hòa thượng Viên Ngộ ban đầu ở Quy sơn, một hôm, Hòa thượng Chân Như hỏi rằng: Thế nào? Ngộ đáp: khởi diệt không dừng. Như nói: Có thể biết là bạc địa phàm phu, lão Tăng trong khoảng ba mươi năm ở trong đó chỉ được tương tự này. Kế đến yết kiến Hối Đường, Đường bảo: Ta ở trong viện hai mươi năm không biết, đến nay mới biết, mũi nhọn dưới chân cũng dẫm ra Phật này. Sau khi ngộ trụ chùa Chiêu Giác, có một Trưởng lão hỏi: Lưu Thiết Ma đến Quý Sơn hỏi đáp và Tuyết Đậu ngự phố làm bài tụng, chẳng hay ý ấy như thế nào? Ngộ đáp: Lão Tăng lại nói, thâm bốn mươi năm, cũng không đến chỗ của Tuyết Đậu. Trưởng Lão khen rằng: Hòa thượng Chiêu Giác còn nói như vậy huống chi người khác ư! Tiền Dực Lang Trung thưa hỏi Chân Tịnh, nói chuyện rất lâu nên muốn đi nhà xí, Tịnh sai thị giả dẫn ông ta đi về phía Tây, Tiền vội nói rằng: Đã là Đông Ty vì sao lại đi về phía Tây? Tịnh nói rằng: Rất nhiều người đi về hướng Đông. Sư nói rằng: liền là câu của Triệu châu hỏi Đầu Tử: không được đi đêm sắp sáng phải đến, cũng không bằng lời tốt này. Các vị lão túc ở núi Nam Khang gặp nhau, ngài Phật Ấn đến sau thì Chân Tịnh hỏi rằng: vì sao Vân Cư đến chậm vậy? Ấn đáp: vì bị mắc kẹt chiếc giày cỏ trong bụng của Quy Tông, cho nên đến trễ. Tịnh nói rằng: Lại bị Quy Tông nuốt rồi. Ấn nói: Ngặt vì nhả không ra. Tịnh nói: nhả không ra thì đi ỉa. Hòa thượng chân Tịnh có lúc vội vàng gọi thị giả đưa lão Hòa thượng đến, Thị giả đưa Nam Thiền sư Chân triển khai. Chân Tịnh đưa tay xoa trán nói rằng: chẳng phải lão Hòa thượng này, đâu thể như vậy, liền không nhận, mỗi việc đều như vậy. Hòa thượng Tiềm Am Nguyên mỗi lần thấy Nam Thiền sư thì rơi lệ. Mỗi khi Sư được phẩm vật mới thì quyết cúng dường Phật và Viên Ngộ trước, sau đó mới dám dùng, bảo mọi người rằng: Nếu không có Phật và lão Hòa thượng thì ta đâu được như vầy. Đô uý Lý Hòa Văn thỉnh Hòa thượng Lang Da Giác chú thích bài minh để tạo niềm tin cho mọi người. Lang Linh liền viết một câu lớn, phía dưới viết một câu nhỏ. Văn Hòa vừa nhìn thấy thì hết sức thán phục. Thuấn Lão Phu, một hôm hỏi Tú Viên Thông rằng: Nghe nói ông yết kiến Hòa thượng Hoài phải chăng? Tú đáp: Phải. Thuấn hỏi: có câu gì? Tú nói: không hay, có riêng câu nói gì nữa không? Tú nói: một hôm, có một vị Trưởng lão đến tham vấn. Hoài đưa phất trần lên hỏi rằng: Hai tấm da lỗ tai, răng hoàn toàn có xương, Thuấn khen rằng: Thật là bậc thiện tri thức, từ đó kính phục tận đáy lòng. Thiền sư Hoàng Bá Tuyền ở Quan Châu ban đầu tu tập luận Bách Pháp, giảng dạy rất nổi tiếng. Lại y theo Nam Tuân yết kiến Hòa thượng chân Tịnh ở Động Sơn có sự ngộ đạo, làm bài tụng rằng: một chuỳ bể thấu tạng vô tận, tất cả của quý ta đều có, cơ nhanh nhẹn chẳng ai bằng, Chân Tịnh thường khen rằng: Tiếc rằng Tiên sư không được thấy, sau đó thượng đường nói pháp, không rời khỏi tòa đã thị hiện tịch diệt. Lời của chân Tịnh càng hiệu nghiệm. Lúc Tam Phật ở chỗ Ngũ Tổ, thường ở trong một cái đình, tối mới trở về phương trượng, thì đèn đã tắt, ngũ Tổ bèn ở trong bóng tối nói rằng: mỗi vị hãy hạ chuyển ngữ. Phật Giám đáp rằng: chim phung nhiều màu nhảy múa ráng mây hồng. Phật Nhãn nói: Rắn sắt vắt ngang đường. Phật Quả nói: Người diệt tông ta mới siêng năng như vậy. Thảo Đường đứng hầu Hối Đường, Hối Đường nêu thoại đầu gió thổi lá phướn hỏi Thảo Đường. Đường nói: ông thấy mèo bắt chuột ở thế gian chưa, hai mắt trừng trừng không chớp, bốn chân ngồi xổm trên đất bất động. Sáu căn thuận chiều từ đầu đến cuối, sau đó chụp chẳng thể không trúng, thật có thể tâm chẳng khác duyên, ý dứt bặt vọng tưởng, sáu căn vắng lặng, ngồi ngay ngắn, lặng lẽ suy xét, muôn không sai một. Thanh Tố Thủ Tọa, người ở Phúc Kiến, nương học với Tôn Sư Từ Minh ba mươi năm, tám mươi năm cư trú ở Lộc uyển thuộc Hồ Tương, chưa một lần giao hảo với người nên không ai biết mặt, tình cờ theo Duyệt Thủ tọa đến nhà hàng xóm. Nhân lúc Duyệt ăn trái vải thì Tố đi qua cửa. Duyệt kêu lại nói rằng: Hương quả của lão già này có thể cùng ăn. Tố nói: Sau khi Tiên sư mất, không được ăn lâu như vậy. Duyệt hỏi: Tiên sư của ông là ai? Tố đáp: Là Từ Trinh. Duyệt sanh tâm nghi sợ, bèn biếu cho những trái cây dư, chút gì gần gũi ông ta. Sau đó, Tố hỏi rằng: ông đã yết kiến người nào? Duyệt đáp: Tôi đã yết kiến Hòa thượng Động Sơn Văn. Lại hỏi: Văn yết kiến ai? Duyệt đáp: Hòa thượng Nam. Tố nói: Nam Biển Đầu yết kiến Tiên sư chẳng bao lâu, sau này đạo pháp chấn hưng như vậy. Duyệt càng đặc biệt kính trọng. Một hôm, Duyệt thắp hương đến làm lễ Tố, Tố tránh đi và nói rằng: Ta vì phước mỏng nên Tiên sư dạy không được nhận người lễ bái, như vậy trải qua hơn một tháng, thương cho sự chí thành của Duyệt nên Tố bảo Duyệt rằng: Hiểu biết bình thường của ông như thế nào thử nói ta nghe xem. Duyệt nói đầy đủ tất cả chỗ thấy biết. Tố nói rằng: có thể nhập vào Phật, không nên nhập vào ma. lại nói rằng: Một câu cùng mới được vững chắc, nửa năm như vậy Tố mới ấn khả, nhưng răn dè Duyệt rằng: Văn chỉ bày cho ông đều là chánh tri kiến, ta tuy điểm phá cho ông giúp ông thọ dụng tư tại, sợ ông lìa thầy quá sớm, không thể tường tận đạo ấy, ngày sau tuyệt đối chớ kế thừa ta. Sau này khi ra đời giáo hóa Duyệt đã nối pháp Chân Tịnh, chính là Đâu-suất Duyệt. Hòa thượng Vân Cư Ngộ khi ở Long Môn, có một vị Tăng bị rắn cắn tổn thương. Phật Nhãn hỏi rằng: Đã là long môn vì sao bị rắn cắn? Ngộ liền đáp rằng: Quả nhiên hiện tướng Đại Nhân, sau đó truyền lời này đến Chiêu Giác Viên Ngộ rằng: Long Môn có vị Tăng này thì đạo pháp ở Đông Môn chưa vắng lặng. Thảo Đường và sự tình cờ gặp nhau ở Lâm Xuyên, Hàn Tử Thương mời Sư đến Tư Đệ, hỏi rằng: Thanh công như thế nào? Sư đáp: Xưa nghe ông ấy nêu Bàng Cư só hỏi Mã Đại sư về nhân duyên không làm bạn với muôn pháp? Thanh đáp: Cá Rồng Tôm Cua hướng về chỗ nào, nếu như vậy cũng phóng lãng được tên ấy. Tử Thương nói lời này với Thảo Đường. Thảo Đường nói rằng: ông về nói với ông ấy rằng: ví như một người đi thuyền một người đi bộ, hai người đều đến. Sư nghe lời này bèn nói rằng: Thảo Đường được. Tu-bồ-đề là người giải không bậc nhất, khi sanh ra Ngài trong nhà đều trống rỗng. Đức Thế tôn vừa lên toà thì Tu-bồ-đề bước ra hỏi rằng: ít có Bạch Đức Thế tôn, hãy nói thấy được đạo lý gì mà nói như thế. Bồ-tát Thiên Thân soạn vô lượng bài kệ, chỉ khen hai chữ “Ít có”. Thiền sư Viên Ngộ nói rằng: Một câu là một cái cọc sắt nên Lục Tổ nghe “nên sanh tâm ấy không chỗ trụ” liền ngộ. Viên Ngộ, Phật Nhãn, Phật Giám cùng ở chỗ Ngũ Tổ, một hôm bảo nhau rằng: Lão Hòa thượng chỉ là mảnh đất khô, thường nói tâm nói tánh không được, thưa hỏi Phật thân vô vi mà không rơi vào các số. Tổ nói: vì như hạt ngọc ma-ni thanh tịnh lấp lánh năm mầu, năm mầu là số, ma-ni là thân Phật. Viên Ngộ nói với hai lão kia rằng: Y đã hội thuyết đoạn lớn, chúng ta khi nói hao phí biết bao công phu, y chỉ trong một hai câu liền hiểu rõ ràng, chính là lão cọp ấy. Tổ nghe lời ấy bèn nói rằng: nếu nói tâm nói tánh chính là ác khẩu. Lại nói: Mèo có công hút máu, Hổ có đức bốc xác chết, cái gọi là cướp trâu của người cày, đoạt thức ăn của người đói, nếu không như vậy thì chỉ là kẻ chơi cục đất tròn. Một hôm, Sư bảo Triệu Cự Tế rằng: Lão Hòa thượng chợt rút lui, đặc biệt có người đến dạy thiền cho ông ta, một vòng nhân duyên này làm sao hiểu được? Một vòng kia làm sao biết? Liền đem phân nóng rải lên, hãy ghi nhớ lấy. Sư làm Thủ Tọa ở Vân Cư, một hôm đến Tây Tích Trang gặp một người lỡ đường từ Viên Thông đến nói rằng: Nhờ khán Thủ tọa tụng thoại đầu phụ nữ xuất định liền có chỗ ngộ, nên có ý định đến cầu Thủ Tòa ấn chứng. Sư nói rằng: ông đi đi, không phải. Vị Tăng nói: Tôi chưa nói chỗ thấy vì sao lại nói không phải. Sư nhiều lần xua tay nói rằng: ông đi đi, không phải, không phải. Tăng buồn bã ra về. Một hôm, Viên Ngộ đến liêu Thủ tọa nói: Trưởng Lão Mật Ấn bốn năm trước thấy địa vị của ông ấy như thế, cho đến Kim Sơn thăng tòa cũng chỉ là địa vị như thế, làm một cuộc đọ sức xong lại làm một cuộc đọ sức nữa, chỉ đảm bảo không thâu giết, thế nào là được lòng người, giống hệt như cở một xe kiếm báu, đem một chuôi ra rồi lại đem một chuôi ra nữa, chỉ cần dọn hết. Nếu là công cụ của chính mình, đón lấy được một chuôi thì liền giết người, trong đó chỉ cần đem ra làm. Lúc bấy giờ, có một vị Tăng nghe được bèn nói với Sư rằng: con trước kia nhờ khán tiểu tham ngữ lục của vị ấy thì biết người này, ngày thường thực hành được công phu tế nhị, cho nên đối chúng miễn là cần nhả ra hết, một đoạn rõ là cần nhả ra hết, một đoạn rõ một đoạn không chịu dừng. Sư nói: việc không như vậy, như rồng được nửa chén nước liền có thể nổi mây nhả sương mù tạo nên cơn mưa dầm dề. Trong đó miễn là cách trục lăn trong biển lớn, nói rằng ta có rất nhiều nước. Lại như cùng nhau giết người, cầm một cây thương, vừa thấy ngựa giặc liền biết đó là việc của ta, bên cạnh một cây thương giết giặc rồi thì nhảy lên lưng ngựa lại giết người nữa, cần phải như thế mới được. Trong hội của Hòa thượng Đại Ngu Chi có một vị Tăng, hằng ngày tụng kinh kim cương một trăm biến. Chi nghe được bèn sai Thị giả mời đến hỏi rằng: Nghe nói ông mỗi ngày tụng kinh Kim cương một trăm biến phải không? Vị Tăng đáp: Phải. Chi hỏi: ông có nghiên cứu ý kinh lần nào chưa? Tăng nói: chưa từng nghiên cứu. Chi nói: ông chỉ mỗi ngày tụng một lần và tham cứu ý Phật, nếu như đối với một câu được ngộ thì giống như uống một giọt nước biển thì biết được mùi vị của trăm sông. Tăng làm theo lời dạy, một hôm tụng đến chỗ nên như thế, biết như thế, thấy như thế, tin hiểu không sanh pháp tướng, bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn trình lên Chi, Chi liền chỉ con chó trước giường nói rằng: Con chó, vị Tăng không đáp được, Chi liền đánh đuổi ra. Sư nói rằng: Hễ tham thiền, không hẳn có cơ phong mà nói ta là đúng. Thuở xưa, Hòa thượng Trí ở Vân Cái, mắt đạo sáng suốt, nhân Thái Thú vào núi nghỉ ở đình Đàm Không, hỏi: Thế nào là đình Đàm Không. Trí đáp: chỉ là cái đình Đàm không này. Thái thú không vui. Bèn hỏi Bổn, Bổn đáp rằng: chỉ đem đình ra nói Pháp, đâu cần miệng nói không, Thái thú mới vui, đổi Bổn trụ ở Vân Cái. Nếu đem Bổn so với Trí thì rất xa, mới biết việc chân thật không thể chấp vào cơ phong. Thủ tọa Bảo Phong Nguyên cũng có một đạo só, cơ phong đối đáp chậm lụt, Giác Phạm gọi là Nguyên Ngũ Đẩu, vì mở miệng lấy hơi thổi chín năm đấu gạo mới đáp được một chuyển ngữ. Sư nói rằng: Người thời nay chỉ biết thuận theo điên đảo mà không biết thuận theo chính lý. Thế nào là Phật, nói rằng: ngay nơi tâm là Phật, lại cho là tầm thường. Cho đến hỏi thế nào là Phật? Nói rằng: Lồng đèn treo trên vách Thiên Thai, liền nói là đặc biệt, đó không phải là thuận theo điên đảo hay sao? Sư nói rằng: Trương Vô Tận yết kiến Đâu-suất Duyệt lại chê bai Hối Đường. Có bài tụng rằng: Từ lâu nghe Rồng trong núi Huỳnh Long, đến nơi chỉ thấy ông ở núi, nên biết chạm sau đánh bên ngoài, chỉ có một điểm thông của sừng Tê Giác. Lúc ấy, các nơi đều thán phục. Sau này, sơn Tăng thấy được, tiếc là Vô Tận đã qua đời. Kia nói rằng: Phải biết chạm sau đánh bên ngoài, chỉ có một điểm thông của sừng tê giác. Nếu dùng bài tụng này muốn yết kiến Hối Đường cũng chẳng phải xa ư? Hòa thượng Linh Nguyên có lời khuyên rằng: Ba câu hỏi nghịch phá, siêu vượt huyền cơ ở Thứu Lónh, một chướng bày ra biểu lộ thể không ở Long Phong, khi nghe thì giàu sang, sau khi thấy thì nghèo hèn, tuổi già ca hát trở về vui vẻ, xưa nay dạy người gọi ông ở núi. Hoàng Lỗ nghe xong cười nói rằng: Vô Tận đã nói một điểm của rừng tê giác. Loại gai này từ hư không đặt vào lỗ tai. Linh Nguyên làm bài tán phân tuyết là viết một chữ không được vẽ. Ngũ Tổ nói rằng: Người Ba thừa ra khỏi ngục ba cõi, tiểu quả phải mượn phương tiện, như hang đất xuyên qua vách và từ cửa Sổ trời mà ra, chỉ được đạo Bồ-tát, từ đầu đã vào ngục, tất cả như thường. Một hôm gửi thư đi, tìm được rượu thịt cùng vời chúa ngục ăn uống, đến lúc say mèm thì lấy y phục của chúa ngục làm khăn quấn đầu, kết thúc thân mình, lại xé y phục của mình cho chúa ngục mặc, dời cái gông tròng vào cổ chúa ngục tống vào trong nhà lao, lại tự tay cầm dây trói chúa ngục, thản nhiên từ cửa lớn bước ra, người tham thiền phải như thế mới dược. Ngũ Tổ nói rằng: Người đời giống như bị bệnh sốt, vừa lạnh vừa nóng, bất giác đã qua một đời. Phạm Huyện Quân hiệu là Đạo Nhân Tịch Thọ, tham kiến Phật Quả ở Thành đô. Quả dạy hắn khán chẳng phải tâm chẳng phải Phật, chẳng phải Phật là gì? Không được nói, không được mở miệng, khán tới khán lui không hiểu cảm thấy buồn thảm bèn hỏi Phật Quả rằng: Ngoài ra còn có phương tiện gì để cho con hiểu chăng? Quả đáp: có phương tiện nầy, chẳng phải tâm, chẳng phải vật, chẳng phải Phật. Thọ đến đây có tỉnh ngộ, bèn nói rằng: vốn được đến gần như thế. Hòa thượng Duyệt ở Đâu-suất, thủ chúng ở Thê Hiền thuộc Lô Sơn. Lúc bấy giờ, Hồng Soái Hùng Bá Thông thỉnh Đâu-suất ở Long An, Duyệt nêu ba câu để hỏi người học. Một là nhổ cỏ tham huyền chỉ mong được thấy tánh thì người đời nay tánh ở chỗ nào? Hai là biết được tự tánh mới thoát khỏi sanh tử, khi nhắm mắt xuôi tay thì làm sao thoát? Ba là thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại chia lìa thì đi về đâu? Vô Tận lại có ba bài tụng đáp lại rằng: Cây cối mùa hè âm u chim hót Mặt trời xua mây không gian. Chớ nói từng tham hỏi từng sáng suốt Xưa nay con hiếu luôn kị tên cha. Quỷ sứ nhân gian thường đến bắt Mầu mũ hoa cõi trời héo úa Muốn quay mình trong thời tiết này Chớ dạy Diêm Vương biết nhàn rỗi. Khua cả thôn đông Lý Đại Thê Gió tây đồng trống lệ dầm dề Giang Nam cỏ biếc rau hồng mọc Trương Tam câu cá dưới bến sông. Duyệt ở Đâu-suất năm năm, một hôm nói kệ rằng: Bốn mươi tám, Thánh Phàm đều giết, chẳng phải anh hùng, đường trơn trượt Long An, điềm nhiên mà hóa. Dưới hội của Hòa thượng Lương Sơn Quán có một vị Đầu tham đắc thiền, trong chúng phần nhiều có người không tin. Một hôm có vị Tăng đi trêu chọc ông ấy, muốn thổ lộ tin tức ấy bèn hỏi Viên Đầu rằng: vì sao không ra hỏi Đường Đầu một hai câu thoại đầu để hết duyên. Viên Đầu nói rằng: Ta không ra hỏi thì thôi chớ nếu ra thì phải dạy Lão này xuống giường thiền, đứng dưới đất. Đến khi Lương Sơn thượng đường thì quả nhân y bước ra hỏi rằng: Giặc nhà khó phòng thì như thế nào? Sơn đáp: Biết được thì chẳng phải là kẻ thù. Hỏi: Sau khi biết được là như thế nào? Sơn đáp: Rông đến cõi nước Vô sanh. Hỏi: chẳng phải nơi an thân lập mệnh của hắn phải chăng? Sơn nói: nước chết không có Rồng núp. Hỏi: Thế nào là Rồng ẩn trong nước sông? Sơn nói: Nổi sóng chẳng phải là sóng. Hỏi: Bỗng nhiên nghiêng đầm đổ núi là thế nào? Lương Sơn quả nhiên từ trên pháp tòa đi xuống nắm chặt nói rằng: Xà- lê đừng làm ướt chéo cà-sa của lão Tăng. Sư nói: Nên biết người ngộ và người chưa ngộ gặp nhau, tự nhiên tha hồ tranh đoạt đáng xem. Hòa thượng Trạm Đường nói rằng: Thiền Hòa Gia lúc vừa vào trong chúng, phát tâm Bồ-tát ngang bằng với Phật, hơn một năm đến bên cạnh Phật giống y như chiếc bình lưu ly, ban đầu trơn tru trong sạch, lại bị nửa bình nước không trong sạch lắc bên trong nghe leng keng cứ vang lên, bỗng nhiên bị người bản sắc nói với ông ta rằng: Này ông, cái bình này vốn tự trong sạch lại bị những giọt nước hôi này lẫn ở bên trong lại không đầy, cứ vang lên tiếng leng keng, nếu không có tiếng vang thì phải y như trước đổ ra rửa sạch và đựng đầy bình nước sạch thì không còn tiếng vang nữa, vì không có tiếng vang nên gọi là đầy. Tôn Giả Nghiêm Dương yết kiến Triệu Châu, có vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Đáp: Động đất. Hỏi: Thế nào là Tăng? Đáp: ăn cơm ăn cháo. Lại hỏi: Thế nào là nước mới nổi lên? Đáp: Trong sông phía trước. Sư nói: Pháp môn này giống y như chuyện trẻ con, vào được pháp môn này người mới được an vui. Như Hòa thượng Chân Tịnh nêu xưa nay không ở dưới Tuyết Đậu mà tàn dư truyện tập lại thành tiểu gia ác khẩu, chỉ cần hỏi người xưa là thế nào? Ông quản được rất nhiều việc nhàn rỗi, khỏi bệnh không cần thuốc Lư Đà. Nếu là tùy bệnh cho thuốc thì dưới chân rào nhặt được một cây cỏ, thì có thể hết bệnh, nói gì đến Châu Sa, Phụ Tử, Nhân Sâm, Bạch Truật. Trong pháp hội của Chân Tịnh có Thủ tọa Chiêu Thái đến chỗ Ngũ Tổ. Tổ thấy liền nêu thoại đầu của Chân Tịnh, mới khen rằng: Đây là người có trí tuệ rộng lớn. Sư nói: Các bậc Tôn túc ở Nam Hạ, Ngũ Tổ chỉ bằng lòng hai lão Hối Đường và Chân Tịnh mà thôi, ngoài ra đều không bằng lòng ai cả. Ngũ Tổ vì người giống y như chuôi dao trong tơ tằm, vừa kẹp chặt cổ họng vừa đâm chết hắn. Nếu là Chân Tịnh thì trên chân chạm vào cũng chính là trên chân giết hắn, trên tay chạm vào cũng là trên tay giết hắn, chạm vào cổ họng cũng tức là giết hắn trên tay. Phò Mã Đô Uý Lý Công Tuân Húc, được tâm yếu ở Thiền sư Thạch Môn Thông, có lần làm hai câu tụng gửi đến Vận Chu Chánh Từ. Lúc bấy giờ, Hứa Thức làm Hoài Nam Tào, chu đem bài tụng của Lý Bảo với Hứa mời cùng họa. Tụng rằng: Học đạo phải là người đanh thép, bắt tay làm trong lòng phán quyết. Chu họa rằng: mưa giục Tiều Phu về nhà. Hứa nói: Gió đưa thuyền đánh cá vào bờ. Học đạo phải là người đanh thép, bắt tay làm trong lòng phán quyết, toàn thân tuy là mắt, cũng cần lò lửa hồng nung lại, Sứ Nghê chạm cây mê phong chức, Dự Nhượng ẩn mình nuốt than đỏ, cò bay bóng chiếu xuống sông thu, gió đưa hoa cỏ nép hai bờ, các ông thấy rất kính phục. Lý bèn tự họa rằng: Tham thiền phải là người đanh thép, bắt tay làm trong lòng liền phán quyết, hướng thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, tất cả đúng sai chẳng để ý tới, nay chỉ truyền cho đời sau một bài tụng mà thôi. Hòa thượng Phật Giám, ban đầu nhận lời mời của Thái Bình ở Thư Châu nên lễ từ giã Ngũ Tổ. Tổ nói rằng: Hễ là người ở viện thì có bốn phương pháp răn mình: Một là có thế lực không được sử dụng hết; hai là có phước không được thọ hết, ba là nề nếp không được thi hành hết; bốn là lời hay không được nói hết. Vì sao? Vì lời hay mà nói hết thì người sẽ coi thường; (nề nếp) mà thực hành hết thì người sẽ rối rắm; phước nếu thọ hết thì duyên sẽ lẻ loi, thế lực nếu sử dụng hết thì họa sẽ đến. Giấm lại bái phục mà lui về. Sau đó, Giám từ biệt Linh Nguyên, Nguyên nói rằng: Trụ Trì phải lấy gậy quảy chiếc nón treo trên vách phòng của phương trượng, đi đứng nhẹ nhàng như nạp tử thì hay rồi. Từ Sư Xuyên cùng Phật Quả đến liêu thư ký, thấy tướng đảnh của Quả, sư Xuyên chỉ nói rằng: Lão này gót chân chưa chấm đất. Quả nói rằng: Trong chum đâu từng nói con Ba Ba chạy. Xuyên nói rằng: Lại mừng gót chân Lão chấm đất. Quả nói: Đừng bêu điều xấu của y. Trưởng Lão Ô Long hỏi Bằng Tế Xuyên rằng: thuở xưa, có một vị quan hỏi vị Đại Thánh ở Tứ Xuyên rằng: Sư họ gì? Thánh đáp: Họ gì. Quan hỏi: Sư ở nước nào? Long đáp; Đại Thánh vốn không có tánh gì, cũng không phải người nước nào chính là tùy duyên hóa độ thôi. Bằng cười nói rằng: Đại Thánh quyết định họ gì, ở nước nào, như thế qua lại mấy lần? Bèn viết thư gửi đến Sư, xin quyết đoán công án này. Sư nói rằng: Có sáu mươi gậy, dùng ba mươi gậy đánh Đại Thánh, không cần đạo họ gì, ba mươi gậy đánh Tế Xuyên, không cần đạo Đại Thánh quyết định họ gì. Nếu là trưởng lão Ô Long dạy tự lãnh hội ra đi. Vô Tận ở Tư Đệ Nhật, gặp năm đói kém, có một loại đạo só đến cửa giáo hóa ăn cơm. Vô Tận bèn khuyên họ tụng kinh Kim Cương, nếu tụng được một phần thì cho một đấu gạo, giáo hóa họ kết duyên với Bát-nhã. Nên nói rằng: Hai thứ bố thí của cải và giáo pháp, mỗi khi gặp Tăng đều khuyên niệm Lão tử khiến cho họ hiểu lẫn nhau, có tâm xét hộ giáo ấy quả thật là bọn này. Liêu Đẳng Quán, khi làm Tri huyện ở Thiện Hóa thuộc Đàm Châu, có một bà lão mỗi ngày tụng kinh Kim cương xin ăn trên phố chợ, ban đêm thì về núi ngủ, bỗng mấy ngày không thấy đi xin, bầy vịt kêu la ầm ó ở chỗ ở của bà, khiến người ta đến xem, thấy mang kinh Kim Cương đến gần mỏm đá mà hóa, bầy vịt mang đất đến lấp bà. Sư thăng đường, nêu lên điều này. Lúc bấy giờ, Liêu Tri Huyện cũng ở dưới tòa. Một hôm, Sư đến am Minh Nguyệt thấy vẽ một cái đầu lâu ở giữa vách. Bằng Tế Xuyên có bài tụng rằng: Tử thi ở trong Đậu Người kia đâu lại còn Mới biết một linh hồn Không ở túi da. Sư không bằng lòng mới làm một bài tụng rằng: Ngay nơi hình hài này Chính là của người kia Một linh hồn túi da Túi da một linh hồn. Thừa tướng Trương Vô Tận, năm mười chín tuổi đã ứng cử vào kinh, đi qua nhà Hướng Gia, Hướng Gia nằm mơ thấy có người bảo rằng: Ngày mai tiếp Tướng Công. Gần sáng đến tịnh thất, chờ mãi tới chiều mới thấy có một học trò nghèo mặc y phục mầu vàng chính là Vô Tận. Hướng làm lễ hỏi rằng: Tú tài đi đâu ? Vô Tận đem hết đầu đuôi sự việc thật tình kể ra. Hướng nói rằng: tú Tài chưa cưới vợ, nên lấy con gái của tôi để sớm hôm nâng khăn sửa túi. Vô Tận khiêm tốn chối từ nhiều lần. Hướng nói: Việc này nếu không làm xong, tôi cũng dám ước hẹn trước. Sau đó quả nhiên Vô Tận thi đỗ mới cưới vợ. Ban đầu, làm chức chủ Bộ, nhân vào chùa Tăng, thấy tạng kinh tiếng Phạm xếp ngay ngắn mới cảm khái nói rằng: Lời dạy của Khổng Thánh không bằng sách người Hồ, được mọi người kính trọng, ban đêm ngồi trong phòng sách mài mực cắm bút, nhờ giấy trường ngâm, nửa đêm không ngủ. Hướng Thị bảo rằng: Quan Nhân, đã khuya rồi sao không đi ngủ? Vô Tận đem ý trước kia bảo rằng: Đã là Vô Phật vì sao có luận, nên phải soạn luận vô Phật. Hướng liền nói rằng: Đã là vô Phật vì sao có luận, nên phải soạn luận Hữu Phật mới phải. Vô Tận nghi ngờ lời nói ấy bèn thôi. Và đến hỏi Nhất Hướng Liệt, thấy quyển kinh trước khám Phật bèn hỏi rằng: Đây là sách gì? Hướng Liệt đáp: Kinh Duy-ma-cật sở thuyết. Vô Tận tiện tay mở sách ra xem đến chỗ bệnh này chẳng phải đại địa cũng không lìa đại địa thì khen rằng: Lời của Hồ cũng được như vậy ư! Hỏi có mấy quyển kinh này? Đáp: có ba quyển. có thể về xem hết. Hướng Thị hỏi: Xem sách gì? Vô Tận đáp: Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết. Hướng Thị nói: Nếu học thuộc kinh này thì sau này soạn được luận Vô Phật. Vô Tận có vẻ lo sợ trước lời nói lạ lùng ấy, do đó rất tin Phật thừa, lưu tâm đến Tổ đạo. Sau này làm quân nhu ở Giang Tây và tham kiến các Tổ khắp nơi. Ban đầu, yết kiến ngài Chiếu Giác Tổng Công ở Đông Lâm, Tổng hỏi về chỗ thấy của Vô Tận phù hợp với mình bèn ấn khả rằng: Ta có đệ tử đắc pháp ở Ngọc Khê chính là Từ Cổ Cảnh cũng có thể cùng nói. Vô Tận lại vì Án Bộ mà đến Phân Ninh, các thiền giả ra đón tiếp. Vô Tận trước gởi lời chào Ngọc Khê Từ, kế đến thăm viếng các thiền giả ở các núi, cuối cùng hỏi thăm Thiền sư Duyệt ở Đâu-suất Duyệt là người thấp bé, Vô Tận có nghe Cung Đức Trang nói, Thiền sư là người thông minh đáng cho người kính phục, bèn hỏi rằng: Nghe nói Công giỏi về văn chương phải chăng? Duyệt cười lớn, nói rằng: Vận Sử mất đi một con mắt rồi. Tôi là cháu chín đời của Lâm Tế, đối với Vận Sứ mà nói văn chương giống như Vận Sứ đối với tôi nói về thiền. Vô Tận không cho lời nói ấy là đúng bèn cứng cỏi chỉ ra rằng: Là đời thứ chín. Lại hỏi: Ngọc Khê cách đây bao nhiêu dặm? Đáp: ba mươi dặm. Hỏi: còn Đâu-suốt mấy dặm? Đáp: năm dặm. Vô Tận ngay đêm ấy bèn đến Đâu-suất. Một đêm trước Duyệt nằm mơ thấy mặt trời bay lên, bị Duyệt dùng tay nắm lấy, mới nói với Thủ Tọa rằng: Nghóa vận chuyển của mặt trời, nghe nói Trương Vận Sứ chẳng bao lâu đến đây, ta phải giáng một đòn mạnh mẽ, nếu chịu quay đầu là việc vui mừng của nhà ta. Thủ tọa nói rằng: Ngày nay bậc Só đại Phu được người tôn kính nuông chiều e rằng điều ác phát khởi chuyện riêng sanh. Duyệt nói: Dù cho phiền não chỉ lui được viện của ta thì không có việc riêng. Vô Tận cùng duyệt nói khen ngợi Đông Lâm, Duyệt không bằng lòng lời nói ấy, Vô Tận bèn đề một bài thờ trên mái hiên chùa rằng: không đến Lô Sơn tìm chỗ rơi, mũi voi đầu đàn ở xa xôi. Ý chê Duyệt không bằng lòng Đông Lâm, Công dần dần nói đến việc trong tông môn. Duyệt nói rằng: Hôm nay tôi và Vận Sứ nói về việc đời đã mỏi mệt rồi, đi ngủ để giữ gìn sức khoẻ. Đến khuya, Duyệt thức dậy bàn bạc với Vô Tận về việc này, thắp hương thỉnh Chư Phật mười phương chứng minh, Đông Lâm đã ấn khả cho Vận Sứ, Vận Sứ đối với lời dạy của Phật Tổ có chút nghi ngờ gì chăng? Vô Tận nói: Có. Duyệt hỏi: Nghi ngờ đới với lời nào? Đáp: nghi ngờ bài tụng độc cước của Hương Nghiêm, nhân duyên nâng bát của Đức Sơn. Duyệt nói: Đã ở chỗ này có nghi ngờ thì ở chỗ khác đâu được không! Chỉ nói câu cuối cùng là có hay không? Vô Tận nói: Có. Duyệt cười lớn trở về phương trượng nhàn rỗi, còn Vô Tận suốt đêm ngủ không an giấc. Đến canh năm bước xuống giường, đụng chiếc giường lật úp, bỗng nhiên tỉnh ngộ, có bài tụng rằng: Trống lặng chuông trầm khất thuộc về, một lời Nham Đầu như sấm nổ. Quả nhiên chỉ được sống ba năm, chẳng bằng đến gặp Sư để được thọ ký. Vô Tận bèn đến gõ cửa phương trượng nói rằng: Tôi đã bắt được giặc rồi. Duyệt hỏi: Tang vật ở đâu? Vô Tận không nói. Duyệt nói: Đô Vận hãy về đi ngày mai gặp nhau. Sáng hôm sau, Vô Tận bèn dâng bài tụng lên trước Duyệt, Duyệt bèn bảo Vô Tận rằng: Người tham thiền chỉ cần mạng căn không bị cắt đứt, y theo lời nói mà sanh hiểu biết, nói như thế Công đã hiểu biết sâu sắc, nhưng đến chỗ cùng cực sâu kín khiến người ta không hay không biết bị rơi vào vùng không gian. Sau này, Duyệt làm bài kệ tụng chứng minh rằng: Việc làm bình thường, mỗi bước đều như, dù trong thanh sắc, đâu ứ đọng có không, nhất tâm chẳng khác, muôn pháp chẳng riêng, chớ chọn tinh thô, kịp thời vô ngại, ứng vật không nệ, phải trái tình không, Thánh Phàm đều dứt, ai được ai mất, đâu thân đâu sơ, lấy đầu làm đuôi, chỉ thật làm giả, xoay thân ma giới xoay gót đường tà, rõ chẳng thuận nghịch, không phạm công phu. Vô Tận thỉnh Duyệt đến kiến xương, giữa dường mỗi người tự xem xét Vô Tận có mười bài tụng đáp lại. Lúc bấy giờ là tháng 8 niên hiệu Nguyên Hiệu thứ 8.Hiệp Sơn Lân, Thạch Sương Lâm, từ lâu đã quy y Thiền sư Phật Nhật Tài. Sau khi bãi tham cùng đến Hoàng Long ở Thượng Giang yết kiến Hòa thượng Nam, thượng đường tiểu tham, Lâm không hiểu rõ ý chỉ ấy bèn xin vào thất, Lân nổi giận đánh cho một trận rồi bỏ đi. Sau đó, Lâm Đại Ngộ cơ phong nhanh nhẹn, hễ nói pháp thì rất giống Chân Tịnh mà đối với Chân Tịnh chưa từng quen biết nhau. Sau khi ở Thạch Sương đem câu tụng đưa Tăng yết kiến Chân Tịnh như sau: Nhấp nhô bốn biển tham thiền giả, không đến Tân Phong cũng là si. Sanh Triệu Dung Duệ chính là đệ tử tài giỏi của Pháp sư La-thập, hiệu là Bồ-tát Tứ y, từng cùng La-thập chú thích kinh Duy-ma, đến phẩm Bất Khả Tư Nghị đều gác bút. Vì cảnh giới này chẳng phải chỗ tâm suy lường, miệng bàn bạc được, không thể sắp xếp một từ, như Lý Trưởng Giả nói: Vào pháp giới Hoa Nghiêm, lời câu rõ ràng như sao sáng, rõ ràng không nghi ngờ. Nếu chẳng đích thân gặp liễu duyên thì đâu thể được như vậy. Thiền sư Minh Tịch Trình ờ Tuyên Châu đi khắp nơi yết kiến các bậc tiền bối tôn túc như Lang Nhị, Tuyết Đậu, Thiên Y đều kính thờ thỉnh pháp. Sau này ra đời nối pháp Hòa thượng Hưng Giáo Thản, Thản nối pháp Linh Nhị, sau đó rời về Thuî Trúc ở Thái Bình, lui về ở Tây Đường. Lúc đầu Sư du phương thưa hỏi Tuyết Đậu, dùng thể thơ xưa tụng thể thơ xưa. Trình cho thấy nhân duyên, đều muốn tự thấy tự nói không cần lời nói ấy. Sư thấy rất rõ nghóa sâu kín của Tiên Thánh. Trình thường khen ngợi trước chúng rằng: chính là Cảo tái lai. Lại đến Đại Dương ở Dónh Châu yết kiến Nguyên Thủ tọa, Hòa thượng Động Sơn Vi và Thủ tọa Kiên. Vi làm Thủ chúng trong hội Phù Dung, kiên làm thị giả hơn mười năm, Sư chu toàn dưới tòa của ba công rất lâu đều được tông chỉ Tào Động, giữa sự trao và nhận đều có tý hương để nói lên không dối truyền trao.Sư tự nghó rằng: Thiền có truyền trao há là pháp tự chứng tự ngộ của Chư Phật, bèn bỏ đi y chỉ Trạm Đường. Một hôm, Trạm Đường hỏi rằng: mũi của ông vì sao hôm nay không có một nửa. Đáp rằng: Môn hạ của Bảo Phong. Trạm Đường nói: Hòa thượng Đỗ Soạn một hôm đến chỗ Trang Thập Vương hỏi rằng: Vị quan này họ gì? Đáp: Họ Lương. Trạm Đường lấy tay tự xoa đầu nói rằng: Vì sao họ Lương thiếu khăn chít đầu nhưng từa tựa cái mũi. Trạm Đường nói: Hòa thượng Đỗ Soạn có lần xem kinh, hỏi rằng: Xem kinh gì? Đáp: kinh Kim cương. Hỏi: Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp. Đường nói: ông làm được tọa chủ này. Một hôm hỏi rằng: Thượng Tòa Cảo trong thiền của ta nhất thời lý giải được, dạy ông nói cũng nói được, dạy ông làm niêm cổ tụng cổ, tiểu tham nói rộng ông cũng làm được, chỉ có một việc không còn, ông có biết chăng? Đáp: Việc gì? Trạm Đường nói: ông chỉ thiếu một điều hiểu biết này thì khi ta nói chuyện với ông liền có thiền, vừa bước ra khỏi phương trượng liền không hiểu rõ. khi tỉnh táo suy lường thì được thiền, vừa ngủ say liền không hiểu. Nếu như vậy thì làm sao địch nổi sanh tử? Đáp rằng: Đây chính là chỗ nghi ngờ của tôi. Sau đó, Trạm Đường bị bệnh nặng, bèn hỏi rằng: Nếu Hòa thượng không khỏi bệnh thì dạy tôi nương tựa ai để hiểu được việc lớn này? Đáp: Có Cần Ba Tử này, ta cũng không biết ông ấy. Nếu ông gặp ông ấy thì sẽ thành tựu việc này. Nếu gặp ông ấy có ghê gớm đến mức độ nào thì cũng tu hành đi, sau này ra đời để tham thiền. Thiền sư Bảo Ninh Dũng, người ở Tứ Minh, ban đầu quy y Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển để hỏi đạo. Tuyết Đậu mắng là Tọa chủ dê câm. Dũng bất ngờ, đường nghi vừa mãn, liền phủi đơn hướng về núi Tuyết Đậu lễ bái thề rằng: con đời nầy hành cước tham thiền, truyền đạo nếu không hơn Tuyết Đậu thì quyết không về quê. Dũng đến Vân Cái ở Trường Sa tham kiến Hòa thượng Dương Kỳ Hội và Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan làm đệ tử. Sau này ra đời giáo hóa ở Bảo Ninh, Dũng truyền đạo ở tòng lâm, quả như lời nói ấy, chí khí của tín nhân đâu thể không lập được ư! Tiên Hoàng Long là chủ núi, xây dựng tòa viện đều hợp với thể cách tòng lâm. Có người cười bảo rằng: Hòa thượng không biết thiền đâu cần phải làm vậy. Long nói rằng: Từ khi có người nói thiền đến nay, viện đã xây xong thì thỉnh Thiền sư Tích Thuý Nam trụ trì. Sau đó Tiên Hoàng Long thị tịch thì Thiền sư Nam bỗng một đêm nằm mơ thấy có vị thần đến bảo rằng: Tôi xin đi giữ tháp. Thiền sư Nam gạn hỏi, Người ấy bèn nói rằng: Có người giao thay đến, chưa bao lâu quả nhiên có người mang tượng đắp đến. Thiền sư Nam cho một Thổ Địa nặn khác và dời thổ địa cũ đi, giữ tháp Tiên Hoàng Long. Tăng Thái Lưu Thục ở trong chúng thường than Phật pháp lẫn lộn lan tràn, dị kiến sanh khởi mạnh mẽ bèn nói rằng: Ta tham thiều nếu được tri kiến chân chánh thì sẽ không tiếc khẩu nghiệp, bèn phát nguyện lễ tháp, từ chiếu ra một tia ánh sáng trắng, cảm được mà có tỉnh ngộ. Sau này, đến tòng lâm xét nghiệm lão túc, qua trước núi Tuyết Đậu nói rằng: Nước trong miệng của Lão này chảy thấm xuống đất. Tuyết Đậu nghe lời ấy, ý như bất bình, đến khi Thái đến yết kiến Tuyết Đậu, Tuyết Đậu hỏi rằng: ông không bằng lòng lão Tăng ư? Thái nói rằng: Quả nhiên trong miệng của lão nước chảy thấm đất, bèn đánh một tọa cụ liền đi ra. Suốt năm không cam lòng, giữa đường sai người đánh gãy một chân của Thái. Thái nói rằng: Đây là do Lão Tuyết Đậu sai làm, ngày khác phải bẻ một chân đền cho ta. Sau này quả đúng như lời nói, Thái sau này đến kinh đô thì có một vị Quan mời về nhà cúng dường, Thái nhiều lần cáo từ nhưng vị Quan cố giữ lại và càng thêm kính lễ, mỗi mỗi đều sai hầu thiếp đem các món ăn dâng lên trước. Một hôm, tình cờ vị Quan đến, Thái cố ý trêu chọc thiếp của vị Quan, vị Quan do việc này nên không còn kính trọng nữa, Thái mới được từ giã ra đi, không được bao lâu thì Thái ngồi ngay ngắn giữa chợ mà hóa. Thị Giả Thái Dương Bình hộ thất cho Minh An đã nhiều năm, tuy đều được ý chỉ ấy nhưng chỉ lấy sanh diệt làm nhiệm vụ cuả mình, dồn vào đồng một loại kî, ra bên phải của mình, Lang Da Quảng chiếu Công An Viên. Khi Giám ở trong chúng, Thiền sư Phần Dương sai đến thăm dò tông chỉ của Minh An, ở Đại Dương nhân Bình thầm trao. Minh An thường nói rằng: có thể hiểu rõ một tông trên không lâu thì biết. Nhị Sư nói rằng: Có Thị Giả Bình vẫn còn. Minh An chỉ tay vào ngực nói rằng: chỗ này của Bình không tốt, lại chỉ ngón tay cái vào trong cái đóa nói rằng: Bình sau này sẽ chết ở đây thôi. Đến lúc Minh An Viên tịch di chúc lại rằng: chôn toàn thân mười năm không khó, phải vì núi Đại Dương dâng lễ cúng. Khi nhập tháp, môn nhân sợ Bình đem bất lợi đến cho Sư, bèn đem món đồ của Đô Uý Lý Hòa văn cúng dường, viết bài minh trên tháp, nhưng sự thật không như vậy. Sau này Bình ở Đại Dương bỗng nói rằng: Đối với tôi có sự trở ngại. Nói xong bèn mở tháp ra, mọi người nhìn thấy dung mạo Tiên Sư y như lúc còn sống. Khi củi hết lửa tắt vẫn còn nguyên, chúng đều kinh dị. Bình bèn dùng búa bửa đầu Sư ra, chế thêm dầu đốt, trong chốc lát thì thành đống tro tàn. Chúng đem việc này trình lên quan, Bình vì tìm của trong tháp nên mang tội bất hiếu phải hoàn tục, tự xưng là Hoàng Tú Tài yết kiến Lang Da. Lang Da nói rằng: khi xưa Thị Giả Bình, ngày nay là Hoàng Tú Tài, lúc ta ở Đại Dương thấy việc làm của ông bèn không nhận. Bình lại yết kiến Công An, An cũng không đoái hoài tới. Bình lang thang không nơi nương tựa. Sau này, ở ngã ba đường gặp một con cọp bị cọp thịt, cuối cùng không tránh khỏi bỏ mình ở Đại Dương. Thương thay! Bạch Trưởng Lão ở núi Nga Mi, thường nói rằng: Người trong làng Tuyết Đậu có ban hơn trăm bài tụng, lời ý không vượt hơn người khác, làm sao được nổi tiếng ở đời, bèn làm một ngàn bài tụng, cho số nhiều gấp mười lần là cao hơn, tự biên soạn thành tập, cuồng vọng đến ngày khác nổi tiếng át cả Tuyết Đậu, đi khắp nơi tìm người khen tặng. Có Sơn Chủ ở Đại Hòa, đi nơi tôn túc có đạo đức đương thời, đắc pháp với Tiên Sư Pháp Xương Ngộ, ra đời giáo hóa ở Đại Hòa tự xưng là Sơn Chủ, khí thế vượt hơn các phương, không quên hứa khả. Bạch đem bài tụng đến yết kiến rằng: cầu xem xét một lời để đem lại niềm tin cho kẻ hậu học. Đại Hòa thấy bèn mắng rằng: Bài tụng nầy giống như người bệnh đứng ngay luồng gió thở ra mùi hôi, hơi ấy không thể ngửi được, tự là Bạch không dám ra giống người. Sau này, Hoàng Lỗ Trực nghe việc ấy bèn đến chùa Đại Từ ở Thành đô, viết trên vách chùa rằng: Bạch Trưởng Lão ở núi Nga Mi, có một ngàn bài tụng tự soạn thành tập. Đại Hòa có nói; đứng ngay gió ngửi thấy mùi hôi. Thiền sư Quy Tông Tuyên, người ở Hán Châu, nối pháp Lang Da Quảng Chiếu và Quách Công Phủ Hậu Thiện, bỗng một hôm Thái thú Nam Khang vì việc mà đến. Tuyên sai người đưa thủ cho Công Phủ, lại dặn người đưa thư rằng: Đừng cho ông Huyện thấy. Khi Công Phủ nhận chức Đô uý ở Nam Xương. Thủ nói rằng: Ngài còn sáu năm, duyên đời chưa hết, ngày nay không sao ép buộc, muốn gửi sinh mạng này vào nhà ông, mong ông chăm sóc dùm, nói xong liền hóa. Công Phủ được thư trong lòng vừa mừng vừa lo, nửa đêm vợ chồng Công Phủ nằm mơ màng thấy Tuyên vào nằm trong đó, bất giác thất thanh kêu lên: Đây chẳng phải chỗ của Hòa thượng đến. Công Phủ hỏi duyên cớ ấy, thì người vợ kể lại chỗ thấy. Công Phủ gọi đốt đèn lấy thơ cuả Tuyên xem, quả nhiên người vợ có mang đến khi sanh ra liền đặt tên là Tuyên Lão. Vừa tròn một tuổi thì nhớ câu hỏi khi xưa, đến lúc ba tuổi thì có Hòa thượng Thủ Đoan ở Bạch Vân đi ngang qua nhà ấy, Công Phủ sai người ra mời vào để gặp nhau, vừa nhìn thấy liền kêu Sư Điệt. Thủ Đoan hỏi: Tôi và Hòa thượng cách nhau đã mấy năm rồi? Tuyên co một ngón tay lại, nói rằng: Bốn năm. Đoan hỏi tạm biệt nhau ở nơi nào? Tuyên nói: Ở Bạch Liên Trang, Đoan nói: Lấy gì để chứng minh. Tuyên nói: Ba Mẹ. Ngày mai, thỉnh Hòa thượng đến thọ trai, bỗng ngoài cửa có người đẩy xe đi ngang qua. Đoan hỏi rằng: Có tiếng gì ngoài ngõ vậy? Tuyên làm ra thế đẩy xe. Đoan hỏi: Sau này như thế nào? Tuyên nói: Đất bằng có một nương rãnh, Phủ đến sáu tuổi, không bệnh mà chết. Hòa thượng Hải Ấn Tín là người nối pháp Lang Da, người ở Quế Phủ, trụ trì chùa Định Tuệ ở Tô Châu hơn tám mươi năm, ngày thường thọ sự cúng dường của gia đình Chu Phòng Ngự, nhiều lần đến nhà ấy. Một hôm, Chu hỏi rằng: Hòa thượng đời sau có thể gá sanh vào nhà đệ tử chăng? Sư mỉm cươì đáp: “Được” và trở về chùa trở bệnh, mấy ngày sau thì tịch, ngay ngày thị tịch thì trong nhà Chu sanh ra một bé gái. Bấy giờ, Thiền sư Viên chiếu Bổn đến Thuî Quang, nghe việc ấy bèn tới thăm. Đứa bé vừa đầy tháng được bế ra gặp Thiền sư, vừa thấy liền cười. Viên chiếu kêu lên rằng: Hải Ấn ông lầm rồi! Đứa bé gái liền khóc mấy tiếng rồi hóa. Trưởng Lão Phước ở Trường Lô, mắt đạo chưa sáng, thương đem chỗ được bố thí lợi tha, đến trai Tăng ở Thượng Giang, Thiền sư Viên Thông Tú nghe tin bèn đến thử nghiệm hư thực thế nào, khi vừa đến nơi thì thấy Phước thượng đường nói rằng: Vào ruộng hoang không kén chọn có thể diệt sự lú lẫn, tiện tay nhổ lấy một ngọn cỏ còn tương đối tươi một chút, liền xuống tòa. Tú kinh hãy nói rằng: Nói thiền như vậy, ai bảo là không biết, bèn cho rằng do các phương sanh diệt và đích thân đến lễ bái, yết kiến phương trượng, thưa đủ các việc trước, nhiều lần thỉnh ích lời đề xướng. Phước y theo văn giải nghóa. Tú nói rằng: Nếu như vậy thì các vị không bưng bít được đạo, ông không biết thiền. Phước không chịu. Tú nói: xin đánh kiền-chuỳ nhóm họp chúng, bảo rằng có Thượng tọa Pháp Tú ở đây, lý giải với Hòa thượng. Phước liền thôi. Giác Lão ở khai Thánh, thuộc Hòa Châu, lúc đầu tham kiến Phù Thiết Cước ở Trường Lô, đã lâu nhưng không có sở đắc, nghe nói pháp đạo của Ngũ Tổ ở Đông Sơn liền trực tiếp đến dưới tòa. Một hôm, trong thất Thuỳ hỏi rằng: Thích-ca, Di-lặc còn là đầy tớ của ông ấy, hãy nói ông ta là ai? Giáp đáp: Hồ Trương Tam Hắc Lý Tứ, Tổ cho lời nói ấy là đúng. Bấy giờ, Hòa thượng Viên Ngộ làm Tọa Nguyên, Tổ nêu lên lời này. Ngộ nói: Hay thì hay nhưng e rằng chưa thật không thể bỏ qua, liền ở ngay lời nói tìm xem. Ngày hôm sau vào thất, Thuỳ hỏi như trước. Giác nói: Hôm qua đã nói với Hòa thượng rồi. Tổ nói: Không đúng, không đúng. Giác nói: sao hôm qua Hòa thượng nói là đúng? Giác ngay lời nói liền đại ngộ. Giác sau này ra đời giáo hóa ở Khai Thánh, yết kiến pháp tịch Đại Thạnh ở Trường Lô, bèn nối pháp không có sở đắc ban đầu. khi thắp hương chợt trước ngực Giác đau nhói như ai đấm vào, ngay chỗ đau mọc lên một mụn ung thư khoét sâu thành một lỗ, lấy mủ của cây nhũ hương làm thành bánh nhét vào lâu ngày nhưng không hết, cuối cùng qua đời. Vương Kinh Công, một hôm đến thăm Thiền sư Tưởng Sơn Nguyên, khi ngồi bình phẩm văn vẻ xưa nay, Sơn nói: Khẩu khí của Tướng Công ép ngặt người, e rằng trước thuật tìm tòi lao dịch, tâm khí không chánh, sao không ngồi thiền thể theo việc lớn này. Công nghe lời. Một hôm nói với Sơn rằng: Ngồi thiền thật không phụ người, tôi mấy năm nay muốn làm một thứ sáo cổ mười tám nhịp nhưng chẳng thành công, một đêm ngồi đã xong, Sơn cười lớn ha ha. Một hôm, Vương Kinh Công hỏi Trương Văn Định Công rằng: Khổng Tử qua đời một trăm năm mới sanh Mạnh Tử, sau á Thánh không hề có người nào? Văn Định Công nói: Sao không có người, cũng có người hơn Khổng Mạnh chứ. Công hỏi: Ai. Văn Định đáp: Mã Đại Sư ở Giang Tây, Thiền sư Thản Nhiên, Thiền sư Phần Dương Vô Nghiệp, Tuyết Phong, Nham Đầu, Đơn Hà, Vân Môn. Kính công hoàn toàn không hiểu gì cả bèn hỏi rằng: Sao nói vậy? Văn Định đáp: Nho môn phai mờ, thâu góp không dừng, đều quy về họ Thích. Công vui mừng thán phục. Sau này nêu lên trình Trương Vô Tận. Vô Tận vỗ ghế khen rằng: Nói về người thông đạt. Nhậm quan sát, Bậc hiền Só Nội Quý Trung, Huy Miếu rất thân, Nhậm dốc lòng kính mến Phật pháp, Đi khắp nơi tham kiến các bậc tri thức, thường tự than thở rằng: Mình may mắn được làm người nhưng hình hài không đầy đủ, cho đến không biết chỗ cha mẹ sanh ra, có lẽ đời trước quá khinh người mới chiêu cảm quả báo này. Bèn phát thệ nguyện, gặp lúc “Nghỉ tăm gội” thì về nhà riêng, dứt bặt việc đời, thắp hương lễ Phật, chích máu viết một bộ kinh Hoa Nghiêm mỗi chữ lạy ba lạy, nguyện đời sau được chỗ cha mẹ sanh ra. Một hôm, có một vị khách đến thăm thì Nhậm ra đón trễ. Vị khách ấy giận nói rằng: Khách đến nhà, vì sao không ra tiếp. Nhậm cười rồi nói: Tôi đang ở trong nhà viết một cuốn sách xá tội. Khách bèn hỏi lý do thì Nhậm thật tình kể lại, bèn lấy kinh ra nói rằng: Đây là ông già Diêm-la trước mặt, sách xá-tội ăn gậy sắt, nuốt hòn lửa sắt. Khách rùng rợn khủng khiếp, khi trở về nhà cũng tự viết một bộ. Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn quy y Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan ở Thư Châu, tự quyết việc lớn suốt tận xương tuỷ. Đoan làm cho ma đầu trước núi. Diễn từng năm thâu nhận được thiền trấu cám, giải điển có lợi, thuê nhân công và sản xuất. Ngoài ra, còn dư tiền đem về thường trụ, thường bị người ở chỗ Đoan dèm pha phải trái. Họ nói rằng: Diễn hằng năm uống rượu ăn thịt và nuôi khách phụ nữ ở trong trang trại. Cả viện đều xôn xao. Diễn nghe tin ấy thỉ cố ý mua rượu thịt treo trên Ma Viện và mua son phấn cho khách phụ nữ trong trang trại. Mỗi khi có người tu Thiền đến Ma Viện chơi thì Diễn nắm tay phụ nữ cười nói vui vẻ không hề nể sợ. Một hôm, Đoan gọi Diễn đến Phương Trượng hỏi lý do, Diễn chỉ vâng vâng mà không nói một lời nào khác. Đoan đấm vào mặt Diễn một đấm, nhưng Diễn không biến sắc và làm lễ mà lui ra. Đoan quát bảo mau lui lại. Diễn nói: Đợi Tôi tính toán xong mời người quyết đoán. Một hôm, Diễn bạch Hòa thượng Đoan rằng: Tôi ở trang trại ngoài việc mua rượu thịt, còn dư tiền ba trăm ngàn đem về thường trụ. Đoan hết sức kinh hãi mới biết trước đây do lòng ganh ghét của kẻ tiểu nhân dèm pha mà hiểu lầm Diễn. Bấy giờ, Tú Viên Thông làm Tọa Nguyên, thọ thỉnh bốn phương nhưng mời Tổ làm Tòa bậc nhất. Hòa thượng Trạm Đường Chuẩn nhân đọc tờ biểu xuất sư của Khổng Minh mà hiểu được cách làm văn chương. Có vị lão hán dâng sớ nói rằng: Tiếng Phạm là A-la-hán, Hán dịch là Vô Sanh, là người đã thoát khỏi trần lao của ba cõi, hai mươi lăm hữu, siêu việt sanh tử phần đoạn, được Như lai phó chúc, là bậc đáng được sự cúng dường của trời người, làm phước lợi cho tất cả chúng sanh, Đàn Việt nên khỏi tâm cúng dường. Lại làm bài bài ký Thuỷ Ma rằng: Lặc Đàm Sơn chính là Thiền sư Mã Tổ Đại tịch, thuở xưa cùng các Thiền giả chọn đại đạo tràng Phật, tuy thời đại rất xa, nhưng Phật pháp không hề xa. Chỉ vì các bậc thiện tri thức trong đó sở kiến cao thấp không đồng nhau nên nói có xa.Như có vị Tăng hỏi Mã Tổ thế nào là Phật? Tổ đáp: Ngay tâm là Phật, nên quán nguyên nhân ấy thì chúng sanh xưa nay việc thành Phật không có cao thấp, sở dó có cao thấp là do người, chớ không phải tại pháp. Huống chi vào đời mạt pháp mà có người nói pháp của ta, cho nên chọn Phật tìm Thầy chẳng thể không biết. Vào năm Mậu Dần niên hiệu Nguyên Phù đời Đại Tống có Sa Môn Hán Trung, Thượng Tọa Ý Trung, tìm thầy học đạo, chọn Phật tham thiền, can mộc đem theo trong người gặp dịp thì chơi, nhưng niềm vui ấy chỉ trong nhất thời, đem công ấy cũng lợi ích ngàn xưa. Bấy giờ bãi bỏ quy chế cũ, người đất Dónh còn mê, tuẫn khí đầu cơ, thay đổi tại mình, há lấy mực thước gò ép kế hoạch lớn của mình mà bị khuôn phép của người xưa giới hạn ư! Đó là có con mà không thể dạy dỗ, họ có thể dạy người nói năng cặn bã chẳng phải là chỗ chí diệu của tâm. Tâm chí diệu ấy ở nơi mình, không ở nơi ngôn ngữ văn tự dù có bậc minh Sư mật trao cũng không bằng tâm tự chứng đắc. Nên nói được ở tâm, ứng ở nơi tay, đều là diệu dụng của tâm pháp linh nhiên. Nên có để xay lấy lúa mì, cũng chính là cái cối xay của mình, muốn trở thành gạo cũng chính là cái cối xay của mình, muốn làm mì cũng chính là cái rây của mình, muốn bỏ vỏ trấu cũng chính là cái quạt của mình. Nhưng quy thủ phép tắc nói chung đều có quan hệ, tin tức đã thông thì đều không quay mà tự chuyển hướng, chính là do nước. Một làn sóng vừa nổi lên thì bánh xe lớn bánh xe nhỏ đều vận chuyển không dừng, theo đó trên dưới tương ứng, cao thấp cùng làm, diệu dụng ấy cũng vượt ra khỏi tự nhiên, nên không cần sức người cũng có thể làm được, mà đặc biệt khả quan, sâu xa lại sâu xa. Sau đó xoay trái chuyển phải, đi ngang về dọc, lại va chạm nhau phát ra âm thanh rộng lớn đều giảng nói khổ, không, vô thường vô ngã và các pháp Ba-la-mật, mà người nghe được tâm mình, cho đến ngửi cũng thường biết rõ, đều được niềm vui pháp hỷ, thiền duyệt. Lại vì sao đem các vật cần như gạo mì cúng dường Hương Tích, nấu thành hai mâm cơm, hàng Thiền giả ăn no để qua lại chọn Phật ư? Sư nói rằng: Huynh đệ thời nay tham cứu Phật Quả mà không chịu thấy Phật nhãn, thấy được Phật nhãn lại không chịu tham cứu Phật Quả, ví như những người mù sờ voi, há không biết ý của hai lão ư? Nào ngờ Phật nhãn chính là Phật Quả có khuôn phép. Nếu muốn vì người, không làm mù mắt người khác thì lại thấy Phật Quả. Nếu chỉ thấy Phật Nhãn thì liền Niết-bàn đường tự cứu thì được, cứu người thì không được, đây thành thiền gì? Cho nên đến thỉnh ích Trạm Đường chỉ bày. Đường bảo rằng: Ông thư nêu xem. Sư liền nêu, Đường nói: Ông nêu mà cũng chưa hội, liền xô ra ngoài. Viên Ngộ nói rằng: Đạt-ma tư Tây đến đem theo ý gì tuyền trao? Sư nói: không thể toàn bộ là kiến giải của Dã Hồ Tinh. Lại hỏi: y cứ vào đầu Hổ nhận đuôi Hổ, câu thứ nhất nói về tông chỉ, thế nào là câu thứ nhất. Sư đáp: Đây là câu thứ hai. Một hôm, Sư nói rằng: Thiền của ta từng ngày không thấy tiến bộ, bèn búng ngón tay một lát rồi nói: Nếu cùng đi liền bãi tham, bèn nói rằng: Thời nay các bậc tông sư vì người, nhập thất năm ba năm, đi khắp nơi biện bạch người khác không ra, lại dạy người khác nói chỗ ngộ. Lại hỏi: chỗ thấy của ông thế nào? Người học đáp: Chỗ thấy của tôi nói không được. Lại hỏi: Ông nói không được, ta làm sao biết được ông, nếu như thế thì làm sao vì người, ông không thấy Tuyên Đại Đạo đến yết kiến Từ Minh sao? Lúc ấy, Minh hỏi Tuyền rằng: áng mây sanh ở trong hang, người đến thì đến chỗ nào? Tuyền đáp: Ban đêm lửa đến chỗ nào, đốt sách của người xưa. Minh nói: chưa cần lại nói. Tuyền liền giả tiếng Hổ kêu, Minh thì đánh một cái tọa cụ. Tuyền đẩy Minh lên giường Thiền. Minh lại giả tiếng Hổ. Tuyền nói rằng: Ta gặp tám mươi bốn vị thiện tri thức chỉ có sư là kế thừa được tông phong của Lâm Tế. Xem ông ấy hỏi đáp mấy câu như thế, đó chính là chỗ gặp ông ta phải như vậy mới được. Sư nói rằng: Sơn Tăng tiếp đãi người rất chí thành, phải là tư chất ấy mới được. Đây là người hoàn toàn vượt thẳng vào Như lai địa. Tham thiền phải là tâm ngay thẳng hạnh, ngay thẳng, lời nói ngay thẳng, vì tâm ngay thẳng, giữa địa vị trước sau không hề có các tướng quanh co. Tổ Sư từ Tây đến chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là Phật? Vân Môn đáp: Que chùi phân. Dự tính suy lường đã quanh co rồi, huống là thoát ra Không ư? Nhân Vô Ngại thỉnh Sư khen Pháp Hải Chân, bèn nói rằng: Lão Túc ở Thượng Giang, Đại Đoạn cười Hạ Giang, Vân Môn lại không cười Giác Ấn. Bởi vì ông ấy từng đến yết kiến Bảo Ninh Dũng, chân Tịnh; Viên Thông từng yết kiến Thuấn Lão Phu, Phù Xuân Viễn cho nên tương đối khác. Như bọn Đại Tiểu Bổn, Phù Thiết Cước đều đáng cười. Bởi vì Pháp Hải nối pháp Giác Ấn, Ấn nối pháp Viên Thông. Họ nói rằng: Mở rộng cửa Viên Thông, nối tiếp phái Vân Môn, ngồi yên giường Hồ, Hổ nhìn trăm quái, đeo ấn Tỳ-lô, tồi phục ngoại ma, một câu ngang bằng ánh sáng mặt trời chẳng thích, đạo tràng bất động mà nhập vào tam muội, khen hay chê đều bị bệnh hủi, hễ là như vậy gọi là pháp Hải Lão Nhân, có thể ở trên đầu sợi lông mà dạo chơi vô biên pháp giới. Viên Thông từng ở chỗ Hòa thượng Thủ Đoan làm Thủ Tọa, thọ thỉnh bốn phương, lúc ấy Hòa thượng Diễn làm Ma Đầu ở Hải Hội bèn bàn giao làm Thủ tọa. Viên Thông dời về Thê Hiền, nhưng Hòa thượng Diễn bàn giao trụ trì cho bốn phương. Hòa thượng Đoan từng tụng thơ cổ có một câu rằng: Mặt trời mọc ở phương Đông, tối lặn ở phương Tây. Viên Thông đổi chữ Dạ thành chư Định. Đoan cười mà theo. Một hôm, Hòa thượng Ngũ Tổ nói rằng: Thiền ở đây của ta giống cái gì? Như người ta biết làm giặc. Có một bé trai, một hôm nói rằng: cha tôi đã già rồi sau này tôi làm thế nào để nuôi nổi mình phải học sự nghiệp gì mới được, bèn thưa với cha, cha bảo rằng: Được. Vào một đêm nọ, người cha dẫn nó đến một ngôi nhà lớn trèo tường khoét ngạch, vào nhà mở tủ, bảo đứa bé vào đó lấy ra chiếc áo lụa. Đứa bé vừa chui vào tủ thì người cha đóng tủ khoá lại và đánh trống khiến cho người nhà cảnh giác rồi tìm chỗ thoát ra ngoài. Đám gia nhân tức thời thức dậy biết có trộm nên thắp đèn tìm kiếm, nhưng đã đi rồi. Kẻ trộm ở trong tủ tự nghó rằng: vì sao cha ta làm như vậy, đang ở trong chỗ ngột ngạt lại nghó ra được một kế phải giả làm tiếng chuột cắn, chủ nhà sai đứa tớ gái đốt đèn mở tủ, tủ vừa mở ra thì tên trộm liền thổi tắt đèn, xô ngã đứa tớ gái chạy ra ngoài. Người nhà đuổi theo đến giữa đường, tên trộm bỗng thấy một cái giếng bèn xô cục đá to rơi xuống giếng, người nhà chạy đến bên giếng tìm thì tên trộm đi về nhà hỏi cha cha nói rằng: Con hãy nói làm sao ra được. Đứa bé kể hết đầu đuôi sự việc, người cha bảo rằng: cái gì con cũng làm được. Sư nói: Thiền sư Viên Thông Tú nhân tuyết rơi nói rằng: Tuyết rơi có ba loại Tăng: Tăng bậc thượng thì ngồi thiền trong Tăng đường; Tăng bậc hạ thì bao quanh bếp lò nấu ăn, tôi thuở còn trai trẻ ở Hổ khâu đích thân thấy ba hạng Tăng này, bất chợt phì cười, mới biết lời của các bậc tiền bối không hư dối. Hòa thượng Ngũ Tổ, ban đầu tham học với Thiền sư Viên Chiếu, biết hết nhân duyên xưa nay nhưng chỉ không biết Tăng hỏi Hưng Hóa rằng: khi bốn phương tám hướng đến thì thế nào? Hóa đáp: chọn phương giữa. Tăng lễ bái. Hóa nói: Hôm qua ta thọ trai ở thôn này khi trở về giữa đường bị một trận mưa to gió lớn lại đến núp vào trong miếu cổ mà được thoát qua. Bèn thưa hỏi Viên chiếu, Chiếu nói: Đây là môn phong của Lâm Tế, ông đi hỏi con cháu của hắn. Tổ bèn đến tham kiến Phù Sơn Viễn thưa hỏi công án này. Viễn nói rằng: Có thí dụ này giống hệt như lão bán củi trong thôn ba nhà khiêng một tấm biển rồi. Lại hỏi trong thư đường hôm nay bàn bạc việc gì? Tổ nói: Địa thời ấy đại loạn chưa đến. Phù Sơn Viễn tuổi cao tai điếc, bèn chỉ dạy tham kiến một tiểu Trưởng lão này chính là Bạch Vân Thủ Đoan. Lão Tăng tuy không biết y nhưng nghe y tụng nhân duyên ba trận đòn của Lâm Tế, thấy được trong sạch có thể đến thưa hỏi giải quyết, Tổ nghe theo. Một hôm, Chân Tịnh bảo Lão Hoàng Long rằng: Bạch Vân Thủ Đoan tụng ba gậy của Lâm Tế và chỗ thấy của mỗ giáp bình thường. Nam hỏi: ông làm sao biết y? Tịnh liền nêu bài tụng. Long hét một tiếng rồi nói: Bạch Vân biết ông không biết. Hòa thượng Viên Ngộ, thỉnh ích Ngũ Tổ, Lâm Tế bốn chủ khách thế nào? Tổ nói: cũng chỉ giới hạn nầy, là nhàn sự gì? Tổ nói trong đây giống hệt như ngựa xông lên phía trước, ngã liền dừng. Phật Giám bình thường tham thiền chất phác, tự phụ không chịu Ngũ Tổ, bèn nói rằng: không phải đạo lý này, có chỗ thật ông xem, ta từ trước tới nay đâu có nói như thế, từ từ tin tưởng chút ít. Sau đó nhờ nêu sum la và muôn tượng, một pháp đã ấn chứng bỗng nhiên liền nói: Tổ Sư từ phương Tây đến chỉ thẳng thấy tánh thành Phật, đến nay các vị phần nhiều là chỉ tâm người nói thấy tánh thành Phật. Khi Viên Ngộ ở chỗ Ngũ Tổ. Tổ nói rằng: ông cũng tốt nhưng có chút bệnh. Ngộ nhiều lần thưa hỏi không biết tôi có bệnh gì? Tổ nói: chỉ là thiền sai lạc thì nhiều. Ngộ nói rằng: Vốn là tham thiền vì saolại chê người nói thiền? Tổ nói: Lòng ác vui sướng. Một hôm, Ngũ Tổ hỏi Viên Ngộ không thể trả lời ngay, Ngộ chán ngán theo Phương Trượng đến cửa tam quan mới nói được. Tổ nói: ông nói được. Ngộ nói không đúng, tạm thời mất đi, nên không thể kham nhiệm được. Sư nhân nhập thất lui về nhàn tọa, chợt nói rằng: Huynh đệ thời nay tri kiến trình giải rất nhiều, phải nhờ nói nhàn nói dài để trả lời, giống như trong tay cầm, chắc hạt ngọc báu Ma-ni vô giá, bị người hỏi trong tay ông là vật gì? Thì lại buông xuống và cầm lên một cục đất này, có thể giết si. Nếu như thế thì tham cứu đến năm con lừa cũng không tỉnh. Một hôm, Sư nói rằng: Ta ở đây không có pháp cho người, chỉ dựa vào khoảng kết án giống như đem chiếc bình lưu ly nầy đến, quý báu giữ gìn như thế nào mà ta vừa nhìn thấy liền bị ông đập bể, ông lại đem hạt ngọc Ma-ni đến ta liền đoạt lại, thấy ông đến như thế ta lại cùng ông hai tay đoạt lại. Cho nên, Hòa thượng Lâm Tế nói: gặp Phật thì giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp A-la-hán thì giết A-la-hán, ông hãy nói: Đã gọi là thiện tri thức vì sao lại phải giết người? Ông hãy xem đó là đạo lý gì mà huynh đệ ngày nay công phu không ngộ điều này? Lỗi ở chỗ nào? Chỉ muốn đi với người khác, lại như thế cũng không được, không như thế cũng không được, nói chung đều không được. Người xưa giết lầm gọn nhẹ, ông không chịu đi làm gọn nhẹ, chỉ là rất rõ ràng, ngược lại làm cho sở đắc bị trì trệ. Một hôm, Sư nói rằng: Ta bình thường mắng người, nhờ xem ngữ lục của Huyền Sa rất vui mừng, y đã khám phá được Linh Vân, đạo đế thích hợp, thích hợp đạo lý gì, dám bảo đảm lão huynh chưa triệt ngộ, có thể nói rằng vách dựng đứng muôn nhận, về sau nói chuyện với Linh Vân rồi. Lại nói rằng: ông thế nào mới là thấu suốt, phía sau lại rắc phân, rắc nước tiểu như thế, lại hỏi Viên Ngộ làm thế nào? Ngộ cười rồi đáp rằng: Phía sau y lại là đất gì, tôi cũng lý giải không được, bèn bước xuống trở về liêu, mới biết đại đoạn của Huyền Sa là kỳ lạ, và trình lên Viên Ngộ. Viên Ngộ cười nói: Lại mừng cho ông được biết. Hối Đường nói: các vị thời nay phần nhiều là không có phương thuốc này. Sư nói: Rất kî người ngoài nghe được lời thô tháo này. Sư nhân gặp Lão túc thượng đường nói: Tôi ở trong hội của Lão Sư được câu cuối cùng này tất nhiên phải bố thí cho đại chúng. Giây lâu lại nói: Người không làm bạn với muôn pháp là ai? Đợi ông hớp một ngọn hết nước sông Tây Giang, thì ta sẽ nói cho ông. Liền xuống tòa. Sư nói rằng: Sơn Tăng thì chẳng phải như vậy, ta ở trong hội của Lão sư được câu cuối cùng này tất nhiên phải trình lên đại chúng, liền xuống tòa. Thiền sư Động Sư Bảo nối pháp Hòa thượng Ngũ Tổ Giới, người ở Lô Châu, là người liêm khiết cẩn thận, từng làm chủ sự ở chỗ Ngũ Tổ. Bấy giờ, Giới bị bệnh, sai hành giả đến kho lấy gừng nấu thuốc. Bảo quát mắng không cho, hành giả bạch lại Giới, Giới sai lấy tiền mua về, thì Bảo mới lấy gừng ra cho hành giả. Sau này Động Sơn ở Quân Châu thiếu người, Quận Thú gửi thư đến nhờ Giới, nêu lên chỗ biết là chủ. Giới nói: Lão bán gừng ở được, bèn giáo hóa ở Động Sơn. Sau này dời về ở Quy Tông, một hôm chống gậy ra cửa thấy một người liền hét, Bảo đến hỏi rằng: Quan gì? Sứ đáp: Huyện uý, bảo tránh đường. Bảo tránh sang bên trái đường, thì bỗng con ngựa quî xuống không chịu đi, Bảo nói: Loài súc sanh còn quen người. uý biết là Bảo, đến làm lễ mà đi. Bảo lại dời về Vân Cư, vào một đêm thần núi khiêng kiệu vây nhiễu chung quanh chùa. Bảo nói rằng: khiêng cha, khiêng mẹ, khiêng phương trượng đi. Thần lại khiêng về phương trượng. Bảo lúc mới đi hành cước, có tá túc ở ngay dinh quan, bị Xương làm lúng túng, bèn nhường giường cho ngủ. Bảo ngồi thiền cho tới sáng. Xướng nữ đòi tiền tá túc, Bảo trả cho cô ta và bước ra cửa tự đốt mền gối mà đi. Xướng nữ đem việc của Bảo nói cho cha mẹ mình nghe, ông bà bèn mời về nhà thiết trai cúng dường để xin lỗi, Bảo cho là Phật tử chân thật. Có lần làm bài tán Tổ Sư Đạt-ma truyền khắp tòng lâm, Hòa thượng Nhị Giác họa theo, nay lại còn chánh pháp nhãn tạng. Có một vị Tăng hỏi rằng: Đệ tử tham thiền không được nên chưa biết bệnh ở chỗ nào? Sư đáp: Bệnh ở đây, Tăng nói đệ tử vì sao lại tham không được? Sư nói: kẻ mở mắt đái dầm, ta đánh ông. Hoài Thiền sư nói với Bảo Tú Viên Thông rằng: Nguyên Thanh Châu, Khánh Phước Kiến và ông, ba người có khả năng chấn hưng tông của ta, ngoài ra đều là tùy theo cản cơ mà được đạo. Thiền sư Đâu-suất Tùng Duyệt làm thủ chúng trong đạo tràng của ta. Bấy giờ, Hòa thượng Lão Trí ở Vân Cái, một hôm Tùng Duyệt dẫn mấy mươi vị nạp Tăng đến yết kiến Trí, trí nói với Duyệt chưa được mấy câu thì biết được chỗ ẩn chứa chừng mực của Duyệt, nên cười nói: Xem ra Thủ tọa là người có khí chất bất phàm, sao lại suất ngôn nhả khí giống như người say rượu như vậy? Duyệt nóng mặt đổ mồ hôi thưa rằng: Xin Hòa thượng không tiếc lòng từ bi. Lại cùng nhau nói chuyện chưa bao lâu thì dùng dùi đâm Duyệt, Duyệt không biết gì bèn dẫn đồ chúng thưa hỏi vào thất. Trí cười nói: Ông Thủ chúng nói pháp cho người nghe. Nếu sự nghe thấy của tôi không rộng thì ích gì đối với ông. Duyệt nhiều lần thỉnh cầu. Trí nói: Lão Tăng vô phước nói không giữ lòng tin đối với người, có thể nhận Thủ tọa một lạy, ngày khác nhất định đem ra để bêu xấu tôi. Cuối cùng không được mới hỏi Duyệt rằng: Thủ tọa có gặp Thiền sư Pháp Xương Ngộ chưa? Đáp: Đã có lần xem ngữ lục của Thiền sư rồi, có thể không mong gặp nữa. Lại hỏi: Ông có gặp Hòa thượng Văn ở Đỗng Sơn lần nào chưa? Đáp: Quan Tây Tử không đầu não, kéo một cái quần vải làm bốc mùi nước tiểu hôi, có hay ho gì. Trí nói: Thù tọa chỉ cần hướng đến chỗ nước tiểu hôi mà tham lấy. Duyệt vâng lời bèn đến y chỉ Đỗng Sơn, không bao lâu thì lãnh hội được ý nghóa sâu xa và trở về yết kiến Lão Trí. Trí hỏi rằng: Thủ Tọa sau khi yết kiến Quan Tây Tử, việc lớn như thế nào? Duyệt nói: Nếu không được Hòa thượng chỉ bày thì sẽ bị uổng phí một đời, bèn thắp hương lễ tạ. Sau này ra đời giáo hóa nối pháp Đỗng Sơn. Ngày thường răn dạy đồ chúng của mình và kể lại chuyện mình được Vân Cái chỉ bày yết kiến Đỗng Sơn các ông nên vì thầy thờ Hòa thượng Trí. Sau này Trí Viên Tịch, lúc ấy, Thiền sư Chiếu ở Đâu-suất, chính là đệ tử tài giỏi của Duyệt, hậu sự của Trí đều được Trí làm chủ, như lễ thầy trò, vì Duyệt không quên dặn dò. Một hôm, Sư nói rằng: Mắt của Bồ-tát thấy Phật tánh, phải là mắt ấy mới thấy được. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 174