<經 id="n1997">VIÊN NGỘ PHẬT QUẢ THIỀN SƯ NGỮ LỤC (QUYỂN 1 20 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC Đời Tống, phủ Bình giang, Hổ khê Sơn môn, Thiệu Long soạn <詞>LỜI TỰA 1 Phật dùng một âm mà diễn nói pháp, cho nên tất cả pháp đồng một âm này, ba đời chư Phật một âm này, sáu đời Tổ sư cũng một âm này, các lão Hòa thượng trong thiên hạ cũng một âm này. Ta có Chánh pháp nhãn tạng giao phó cho Ma-ha Ca-diếp chính là một âm này Chánh pháp nhãn tạng hướng về con lừa mù mà diệt một âm này. Cho đến gió thổi động, gây âm hưởng rừng, suối hang vang lên cũng một âm này. Tiếng ầm ầm của sấm sét xen với tiếng rào rào của mưa cũng một âm này. Tiếng ồn ào của chợ trộn lẫn tiếng người nói, tiếng chim bồ câu, tu hú, rắn, ếch, ve… cũng một âm này. Ba cân mò, cây bá trước sân, được tủy được da, Lão huynh chưa thấu triệt cây gậy nhảy vọt lên trời Tam thập tam. Quán Âm bánh hồ (bánh bao) đều là âm này. Cho đến tất cả nói năng, đồng la đựng dầu, chén bạc đựng tuyết, chim chá cô hót trong khóm hoa, san hô bắt trăng chẳng rơi chẳng mê, chung thân khắp thân, đem tâm ta an cho, uống hết nước Tây giang, cũng đều là âm này. Chẳng làm âm này mà hiểu lại nói năng điêu ngoa, dối sinh phân biệt thì không có chỗ đó. Xưa Dương Kỳ dùng âm này làm tiếng trống khua khắp thiên hạ. Đến Viên Ngộ Đại Thiền sư thì âm này cùng rền vang. Sư nhân đó gọi là tiếng của tiểu ngọc gọi người hầu cốt cho người bạn tình ngoài bờ tường nghe thấy (Tây Sương Ký). Sau mới hô to âm này. Chẳng kể bài ca Đức Sơn hay khúc Yểm Đảo Vân Môn. Phàm Lâu Tử ta như tiếng Vô Tâm cho đến âm Bàn Sơn Hồng Luân về Tây đều đang đứng dưới gió hầu hết là Lão đống nồng. Do đó mà trong niên hiệu Kiến Viêm Trung Hưng thiên tử tấu âm này. Trước không dám lên tiếng. Bốn biển vắng lặng, Vân Cư An Lạc Đường cùng truyền một âm này, mọi người ganh ghét mà không dám họa. Thử hỏi Lão Tử này nương ân lực ai, mà được kỳ đặc như thế. Xưa Khổng Tử cuối cùng ở Trần sái, ngồi tựa cây khô, gõ nhánh khô mà Ca Phong của họ Diễm có đủ mà không số, có tiếng mà không cung bậc. Tiếng gỗ cùng tiếng người (đích xác có tâm của người). Bèn nói rằng: Nay người ca là ai, đó cùng là âm này, mà đời chưa biết thôi, Viên Ngộ Lão Sư thì biết rõ. Tôi sớm noi gương Phật, chiều thấy Lão Sư cũng gõ một âm này mà không gì khác. Kẻ học trò là Nhược Bình cũng hát khúc Sư gia, tập họp các yếu ngữ của thầy mình mà đem in ra nhờ tôi viết lời tựa để ở đầu quyển. Nếu ai biết âm này thì dùng nói năng danh tự để cầu hiểu đó là tà đạo, chẳng thể thấy được Lão sư. Năm Thiệu Hưng thứ ba ngày 20 tháng 12 Cảnh Diên Hy kính tựa ---------------------------- <詞>LỜI TỰA 2 Viên Ngộ Thiền sư rất cần khổ từng nói pháp cho Kim Thượng Hoằng đế nêu bày Chánh pháp nhãn tạng, đạo ngài rất thạnh hành. Tăng Nhược Bình góp công của muốn đem lời pháp của Thầy mà truyền khắp thiên hạ mà đợi kẻ hậu học. Bèn nhờ ngài Thiên Ninh Lão Nguyên Bậc ở Nghiêm Châu mượn tôi viết lời tựa. Ôi đây là Bổn Chỉ của Quả Sư. Tôi nghe sư thường ngồi yên trong một thất dứt hết nói năng chuyển Vô thượng pháp luân không cho bàn cãi nhướng mày mở miệng đứng đến nát thân, vừa khởi niệm nhỏ nhặt thì nắm tay của Lão Sư tùy đánh. Mỗi khi nêu lên thì không cùng vạn pháp làm bạn công án, đã là kéo nước dính bùn rơi vào nghóa thứ hai. Nay muốn giữ gìn tập hợp các lời ho khạc ngày mà phô bày khen ngợi. Sư nghe mà không nói ra (giải thích?). Tuy nhiên Sư bất đắc dó mà có nói năng, ta biết rõ vậy. Cũng như khi mưa tùy vật mà được thấm, nơi xa xôi chỗ kín vắng, rễ khô, mầm sâu, hoặc lớn hoặc nhỏ đều thấm ướt. Mà Thái hư không vốn tự không hình tướng cũng không có làm lụng tạo tác. Người xe, thấy đây thì ắt được lời và ý. Làm theo tập sách này thì nơi nơi chốn chốn đều được thần vật hộ trì. Năm Thiệu Hưng thứ tư ngày tốt tháng hai Trương Tuấn kính tựa. VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 1 THƯỢNG ĐƯỜNG 1 Sư ở Chiêu giác. Trước nhận lời mời của Lục tổ cầm thiếp dạy chúng rằng: May được vô sự. Muốn giữ mình phù họp không cần phải làm gì, để họa chẳng vào nhà cẩn thận. Lại làm gì mà đoạn bỏ công án ấy. Hiểu không? Binh theo ấn quan chuyển, mời Duy-ma mở đường. Sư giơ pháp y lên nói: Việc người xưa chẳng được thì máng áo dơ rách. Như nay đẩy ra chẳng được thì hãy trở về với chúng đi, kho lớn trên ngọn núi chứa không được, nay cũng muốn mọi người đều biết. Sư chỉ pháp tòa nói: Tất cả mười phương đều là tòa Bảo hoa vương, sao không ở luôn trong đó. Vì sao phải trái lại xe không đi ngang, lẽ ra không gãy cong. Sư lên tòa nói rằng: Ba ngàn cõi ở trên sừng trâu, con ốc, mây trăng khe núi chung một nhà, đã nghiệp duyên đó không chỗ tránh, chẳng bằng tùy phần lấy các thứ. Một không làm hai chẳng nghỉ, lại có tướng chung mà lập bày sao. Có vị Tăng hỏi: Gặp người thì chẳng nói nói tức vì người. Gặp người liền nói, nói tức chẳng vì người. Không biết là thế nào? Sư nói: Cả hai cái đều là chùy sắt không lỗ. Lại nói: Đoạn dứt một bên, lại có chỗ vì người chăng? Sư nói: Trăm thứ nghiền nát. Thưa: Thế nào là như rồng được nước? Sư nói: Biết thì được. Hỏi: Sư có nói nay cần mọi người biết, không biết đó là cái gì? Sư nói gió thổi thì cỏ nằm rạp xuống. Hỏi: Thế nào là ân sâu không lời, ôm ấp rõ ràng? Sư nói: Việc rõ ràng như thế. Tăng nói: Toàn thân không hình ảnh, bước bước dứt hành tung (dấu chân). Sư nói: Một chẳng thành, hai chẳng phải. Hỏi: Như thế nào là Báu nhất của đạo? Sư nói: Đợi ông thoát nghiệp thức, đến đây ta sẽ nói với ông. Thưa: Nghiệp thức đã thoát thỉnh Sư chỉ bày. Sư nói: Trồng lúa chẳng mọc đậu. Hỏi: Kiếm báu rút ra khỏi vỏ, nghêu biển mới há miệng, hướng thượng Tông thừa xin Sư chỉ thẳng. Sư nói: Mạc da đặt ngang kiếm toàn đề chánh lệnh. (Sự gợi ý triệt để, giáo pháp chánh tông. Đây là cách truyền tâm ấn của nhà Thiền). Hỏi: Thế nào là cắt dứt mười phương? Sư nói: Bảy dọc tám ngang. Lại nói: Kho báu mở toang vào ngày nay, năm lá ngàn đèn sự đổi mới. Sư nói: Cong chẳng chứa ngay. Bèn bảo: Một mực mắt nhìn mây khói vách đứng vạn nhận thì cô phụ các Thánh, lôi thôi dài dòng, đầu tro mặt đất thì chôn mất mình. Như nay thế nào là được, thế nào là chẳng được. Lại quý chánh nhãn lưu thông còn có biết không? Dù cho bước cao lên đảnh Tỳ-lư, chẳng vâng lời Thích-ca Văn. Tớ gái thấy Thanh văn. Tớ trai gọi Bồ-tát đến, cũng phải quên mũi nhọn cắt lưỡi. Ngoài ra ngoi đầu chẳng được. Do đó mà nói ba đời chư Phật chỉ nói tự biết. Các đời Tổ sư toàn là nhấc chẳng nổi cả giáo thuyên đại tạng chú thích không kịp, nạp Tăng sáng mắt cứu không xong. Nếu căn cứ vào bổn phận thảo liệu thì cũng như ngoài mắt sinh cành, chẳng dính dáng gì đến một câu của Hóa môn thì làm thế nào mà nói? Đám mây vắt ngang biển, rút kiếm khuấy Long môn. Sư xuống tòa. Kế nhận lời Chiêu Giác cầm thiếp nói rằng: Người có mắt thì thấy, có tai thì nghe, chẳng từ trời giáng xuống, chẳng từ đất tung lên. Đã thế thì phù hợp phụng hành. Há có thể dấu vào túi trùm mền. Mời Duy-na nói qua. Sư lên tòa nói: Lửa chẳng đợi mặt trời mà nóng, gió chẳng đợi mặt trăng mà mát. Chân hạc thì dài, chân le thì ngắn. Tùng thẳng mà táo cong, cò thì trắng mà quạ thì đen từng thứ lộ ra. Nếu hiểu rõ được, thì tùy chỗ làm chủ. Gặp duyên tức là Tông. Gậy gỗ mang theo mình gặp hí trường thì múa giỡn. Có không? Có không. Hỏi: Linh Vân thấy hoa đào, nạp tử làm sao thông tin? Sư nói: Đầy núi đỏ rực. Hỏi: Bậc thượng cơ hiểu nhanh, kẻ trung hạ như thế nào? vòng. Sư đáp: Trên đảnh môn có con mắt. Hỏi: Không uổng công? Sư nói: Dưới chân ông như thế nào? Tăng nói: Đạp phá trăng đầm lắng. Sư nói: Trên không sấm sét vang. Lại nói: Trâu đất rống cửa trời chuyển, lúc ngựa gỗ kêu đất quay Sư hỏi: Xà-lê lại họa được chăng? Tăng vỗ tay ba cái. Sư nói: Lầm lầm lầm. Lại nói: Linh Sơn thọ ký chưa bằng đây. Sư nói: Chẳng phải người khổ tâm thì không biết. Lại nói: Nhẹ nhẹ bước qua Long môn, rước được thanh phong động đất đến. Sư nói: Bị Xà-lê mang lụy. Hỏi: Góc núi to đỉnh núi nhấc không nỗi. Như nay sao được ở bên Sư. Sư đưa phất tử lên. Lại nói: Hãy cầm vũ trụ đến, trên gấm lại thêu hoa. Sư nói: Một lá rụng biết thiên hạ vào thu. Lại nói: Chín lần chín là tám mươi mốt trở về có đạo vua. Sư nói: Chỉ tin lấy như thế? Hỏi: Binh theo ấn chuyển, Hòa thượng ngày nay binh ấn ở trong tay thọ dụng thế nào. Sư nói: Xem lấy lịnh lúc đi. Lại hỏi: Hòa thượng dùng được, kiếm chém chư hầu chăng? Sư nói: Dọa giết người. Lại nói: Bốn biển sóng yên rồng ẩn ngủ, chín trời mây lặng hạc bay cao. Sư nói: Liền được Xà-lê cùng chứng minh. Lại nói: Chiêu Giác từ đây ánh sáng mặt trời Phật tiêu mất. Sư nói: Cũng chẳng tiêu được. Bèn nói: Ta vốn vốn vô tâm có chỗ mong cầu. Nay kho báu này tự nhiên mà đến. Trên là trời, dưới là đất, bên tả là kho đụn, bên hữu là Tăng đường, trước là Phật điện Tam-môn, sau là nhà ngủ phương trượng thì kho báu ở đâu có thấy chăng? Như nay ngồi đứng đàng hoàng, thấy nghe không mê muội, ánh sáng lóa mắt, lặng không bờ bến. Hết cả phàm Thánh tình mới thoát khỏi thoát khỏi sự trói buộc của tri kiến. Khuấy sông dài thành sữa, biến đất đai thành vàng ròng. Từ lồng ngực mình tuông ra một câu như thế. Xưa nay dài như giải lụa trắng bay, một cõi phá tan sắc núi xanh. Sư bèn xuống tòa. Sư chỉ phương trượng nói rằng: Nhà của nạp Tăng thì cung ma hang hổ còn có thể ở yên, huống là chỗ lợi sinh tiếp vật. Lại biết nhà này, các trời ủng hộ, các Thánh chứng minh. Các Thiện tri thức ở yên trong ấy cùng người cởi mở ràng buộc. Đã có tướng quý như thế. Sơn Tăng ở trong đó làm sao mà đặt bày ra. Chẳng vào sóng rợn người, khó tìm cá vừa ý. Thế nào là câu nhập môn. Nước về biển lớn ba đào lặng. Mây đến rừng ngô khí tượng nhàn. Rồi Sư trở về phương trượng. Sư khai đường cầm sớ cúng rằng: Linh sơn riêng truyền mật chỉ, Tào Khê chính nối chánh âm. Tất cả đều ở trong đó, xin nêu rõ ra. Sư chỉ pháp tòa nói rằng: Ba đời chư Phật ở đây Chuyển pháp luân, lịch đại Tông sư ở đây trình Tổ ấn. Muốn đi ngàn dặm một bước bắt đầu, không tránh khỏi vạch vẽ mô thức. Sư bèn thẳng tòa niêm hương rằng: Nay dâng lên Kim thượng Hoàng đế chúc nghiêm Thánh thọ, vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế. Lại niêm hương rằng: Kính dâng các quan phán phủ nội hàn các vị huân quý - Lại niêm hương rằng: Một nén hương này chẳng từ phải Thông lãnh mang đến cũng chẳng từ trong lồng ngực tuông ra, mà ở Nam trung thấy hơn ba mươi vị Tôn túc cuối cùng khua động Lão tác gia bị ông ấy đập một chùy nát bét. Ngày nay đối trước chúng nói phá, Ngũ Tổ Diễn Hòa thượng trụ ở Trác châu mà đối đáp pháp nhũ. - Bảo Phước khen Hòa thượng Bạch Chùy rằng: Những vị kiệt xuất trong xã hội, nên quán Đệ nhất nghóa. Sư nói: Đem cắt đứt thế giới về quán được không? Dù trước chưa đánh một chùy, nói được cũng đánh một, hai chùy. Như thế là Đệ nhất nghóa có biết chỗ rơi không? Ra khỏi chúng cho gặp nhau. Tăng hỏi: Phật Thích-ca nói pháp, Phật Đa Bảo chứng minh, Hòa thượng khai đường các Hàn lâm đều nhìn, nửa núi thấy nhau thì chẳng hỏi, đỉnh núi vượt cao việc thế nào? Sư nói: Khí lành bốc lên không. Hỏi: Thế nào là phiến mây sinh trước hang, vách đá cao vót vạn nhận? Sư nói: Có mấy người biết. Hỏi: Thánh minh Thiên tử lấy gì báo đáp? Sư đưa cây phất tử lên. Hỏi: Trên trời các sao đều chầu Bắc, nhân gian không nước không triều Đông. Sư nói: Lại được hiểu được lời nói. Hỏi: Bảy bắt bảy tung (thả) thì chẳng hỏi, khách chủ gặp nhau việc thế nào? Sư nói: Kiếm báu ỷ thiên sáng rực rỡ. Lại nói: Mắt biết Hồ Tăng cười gật đầu. Sư nói: Biết nhau đầy thiên hạ. Lại nói: Hôm qua canh ba trăng sáng, cướp lấy ngọc Ly châu trở về. Sư hỏi: Ai là người trong ấy? Tăng hỏi: Tam hiền chưa đạt, Thập Thánh khó biết. Như thế nào là Tông này? Sư nói: Chùy sắt không lỗ quăng trước mặt. Lại nói: Dọa sát nhân. Sư nói: Dọa được một người. Lại nói: Cũng biết Hòa thượng quen thế nào? Sư nói: Ông lại làm gì. Tăng nói: Chim điêu đã bay đến Tân La (Triều Tiên). Sư nói: Tự biết hơn một nửa. Bèn nói: Huyền cơ độc xướng dứt hết các dòng, dẹp sạch không câu chấp lại không hồi hỗ. Dù cho Thích-ca, Di-lặc chẳng dám đương đầu nhìn. Ỷ thiên trường kiếm oai thần lẫm liệt, mặt trời trên không sáng rực rỡ - Không vật nào chẳng là diệu dụng, không pháp nào chẳng phải chân thừa. Nắm Đại cơ Phật tổ, mở rộng chánh nhãn trời người. - Hiểu thị rõ ràng chỉ quý ở biết quay về, vừa khởi nghó lường, mây trắng muôn dặm. Thế nên Tiên Thánh nói, đây là pháp ấn của ta, vì muốn lợi ích thế gian mà nói ra. Ở chỗ du chơi đừng vọng tuyên truyền. Ngày nay trời người khắp tụ họp đối trước chúng biểu lộ rõ ràng. Sư đưa phất tử lên dạy chúng rằng: Đại chúng thấy không? Một chỗ chân thì trăm chỗ ngàn chỗ một lúc chân, một câu thấy thì trăm câu ngàn câu đồng thời thấu - Nắm lên càn khôn cao ngất, buông ra sông biển trong lặng. Chẳng nắm chẳng buông thì là gì? Ngọn núi muôn nhận cao ngút mắt, đại thiên sa giới một bọt nổi. Bèn công án: Pháp Đăng nói: Sơn Tăng vốn muốn ẩn mình chốn núi cao vắng vẻ sống qua ngày, bởi vì Thanh Lương Lão nhân có chỗ chưa rõ công án nên đến đây vì mọi người mà thôi. Lúc đó có Tăng hỏi: Như thế nào là chưa rõ công án. Pháp Đăng liền đánh bảo rằng: Nhà thờ tổ (Tổ Nhó) không rõ tai ương đến con cháu. Tăng hỏi: Lỗi ở đâu? Pháp Đăng nói: Lỗi ở chỗ tai ương ông đến ta. Sư nói: Pháp Đăng thao túng trong cõi sống chết, nắm oai quyền ngoài cổng. Được khí khái làm kinh động quần phong tiêu chí độc lập. Sơn Tăng chí hèn vốn cũng như đây. Hôm nay ra đây chính vì Ngũ tổ Lão sư có cái thấy thành công án, đối chúng mà nêu bày, có ai chẳng tiếc tánh mạng thử đẩy mạnh xem. Nếu đều tránh khỏi thì tự đưa ra đùa giỡn. Rồi Sư quát lên một tiếng, lấy phất tử gõ giường thiền mà xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Khi ngôn ngữ không mở ra việc hợp với căn cơ thì lúc đó làm sao biết? Sư nói: Chưa hỏi trăm việc nhỏ nhặt từ trước. Lại nói: Như thế chỉ có Lão Hồ biết được? Sư nói: Chạm biết mà không nắm dính. Lại nói: Ngàn Thánh ra đời đến nay đều chạm biết mà không nắm dính? Sư nói: Mắt nhìn đột xuất? Bèn nói: Chẳng phải là pháp trước mắt, cũng chẳng phải là tâm ở ngoài cơ. Ngay đây dứt đảm đương, rõ ràng không quay lưng, một chỗ sáng thì trăm ngàn chỗ rực rỡ huy hoàng, một lời thông thì trăm ngàn lời siêu thoát, phi tâm phi Phật. Đưa về phía một bên, nêu cổ nêu kim dẹp hết một chỗ. Chỉ phần trên các người có chứng cứ được không? Nếu chứng cứ được thì ba đời chư Phật thành Đạo trong đó, thần thông biến hóa từ đó mà tuôn ra, đất đai núi sông phát hiện trong đó, chín nhóm bốn loài ở trong đó nuôi lớn. Lại thế nào là một câu bao gồm vạn hữu. Năm tới lại có điều gì mới trong đó, quấy nhiễu gió xuân mãi chẳng thôi. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa. Có Tăng hỏi: Ý Tổ ý kinh là đồng hay khác? Sư nói: Hai luân (mặt trời mặt trăng) cùng chiếu sáng. Lại nói: Thế nào là tắc trên chẳng đủ? Sư nói: Lại bị gió thổi trong biệt điệu. Hỏi: Như thế nào là tâm Niết-bàn? Sư nói: Muôn mạch đều về nguồn. Lại nói: Như thế nào là sai biệt trí? Sư nói: Ngàn sai đều bất động. Lại nói: Đều đến chẳng tiêu được đi. Sư nói: Ông bỏ kiếm báu ở chỗ nào? Tăng nói: Cao ngút mắt. Sư nói: Nói thành hai cây cọc. Bèn nói: Xa thì nghe, gần thì đáp, vạn đời đều như nay, nêu Đông nói Tây, ngàn nẻo một dấu vết. Trên vô sự mà bày ra sự, ở chỗ không làm mà làm. Chẳng sắc, chẳng Thanh, xanh vàng thuận nghịch. Không tâm không Phật chủ khách tham nhau. Toàn nương cái oai quang này, chẳng ở chỗ khác lưu chuyển. Thử nói: Cái này là gì? Nếu gọi là Phật thì trên đầu lại thêm đầu, nếu gọi là pháp thì không dây tự trói. Lỗ mũi Tổ sư là tay ôm tang vật kêu oan, hướng thượng cơ quan là đưa tiếng dứt âm vang, được ngay chính là như thế mới so sánh một chút. Thử hỏi: Đã chính là không như thế vì sao lại so sánh một chút. Chớ lạ nhiều ý khí từ trước, mọi người từng gặp vua Thánh minh. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói rằng: Một tay vỗ chẳng kêu, một cây không thành rừng. Dựng pháp tràng lập Tông chỉ, phải là lẫn nhau làm chủ khách đâu có phụ thêm nước nhà. Do đó mà nói: Khi ta ngồi thì ông phải đứng, khi ta đứng thì ông phải ngồi. Nếu ta ngủ một mình trên núi cao thì ông dẹp hết can qua (chiến tranh). Nếu ta ở trên trời cõi người thì ông phải ba đầu sáu tay. Sau đó mới có thể nêu sáng Phật nhật. Thử nói: Trong mênh mông làm thế nào phân biệt chủ, chỗ ấy là Từ Thị, vô môn không Thiện Tài. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, có Tăng hỏi: Dâng cát cúng Phật, quả cảm luân vương, nay khai Pháp bảo có lợi ích gì? Sư nói: Ngàn lớp trăm vòng. Lại nói: Chết rồi sinh lên trời thấy còn được ích lợi hơn. Sư nói: Chẳng dùng chỗ Xà-lê cước chú lại. Hỏi: Đường hướng thượng thỉnh Sư chỉ thẳng. Sư nói: Một gậy đánh phá hư không. Hỏi: Lỗi ở chỗ nào? Sư nói: Kẻ không biết đau ngứa. Lại nói: Đây giống Đức Sơn. Sư nói: Sơn Tăng từ xưa mượn đường mà qua. Bèn nói: Chê lông mày sai lầm rất giống mở mắt đái trên giường thấy thành công án phóng hành chính là sáng mà lạc tiết (sai thời tiết?). Như thế hay không như thế chính là rùa linh lê đuôi. Chẳng phải tâm chẳng phải Phật chẳng phải vật, đóng cọc trên hư không, lìa Phật thì cho nhiều nhàn môn mà phá cửa, nước chết không chứa rồng, mà lật đổ núi sông một câu nói như thế. Nâng Linh đài to lớn không nhiều người, phần phá Hoa sơn ngàn vạn lớp. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói rằng: Giác tức rõ ràng không thi công, bầu trời đẹp mặt trời cao in trên không, tịnh năm nhãn thanh tịnh được năm lực, gió mát khắp nơi nào có tột, giữa đường thọ dụng giống cọp tựa vào núi, Thế đế truyền khắp như con thiêu thân lao vào lửa. Thử nói: Buông thả là người tốt hay nắm giữ là người tốt. Kiếm Mạc da đặt ngang toàn chánh lệnh, Thái bình hoàn vũ chém si ngoan. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa bảo rằng: Gốc hóa dục vật và ta cùng một đường, nguồn Phật tổ xưa nay chẳng thay đổi. Thần thông sáng suốt chiếu thanh sắc không sót, rộng rãi thấy trước bắt động tịnh không được. Ngồi tức ý kiến, cắt dứt tức nói năng. Trong căn trần chẳng cách mảy may, ngoài thanh sắc tới lui không bờ mé. Làm sao thấu được sinh tử xưa nay, trồi lên hụp xuống đều ngồi dứt. Nếu chưa như thế, thì nóng lạnh làm ngắn tuổi thọ của ông, quỷ thần ghen ghét phước của ông. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Pháp giới chẳng chứa thân, Phật nhãn nhìn không thấy - Thánh trí lìa nói năng, cửa biển không thể tuyên nói - Cắt đứt rõ ràng rồi thành giai cấp, chuyển thân nhả khí chuyển thấy ngăn khắp. Rõ ràng không che dấu, sáng rõ dứt đau mắt, rộng như Thái hư, trong như gương xưa. Nếu lấy mắt mà thấy thì Văn-thù quay mình, nếu lấy tai mà nghe thì Quán Âm bày dụng, nếu lấy tâm mà biết thì Phổ Hiền ngay nhà. Thử hỏi: Tỳ-lô-giá-na ở đâu? Chê con mắt trên lông mày, sai lầm. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Một mảy may xuyên các hang, đất đai không hàng rào, khắp cõi chẳng từng dấu, xưa nay không nhìn quay (mặt lưng). Sát sát nhó trần trần nhó, câu câu nhó niệm niệm nhó. Có nói: Được chăng? Nếu nói được thì chẳng tốn phí chút sức lực mà thẳng vào cửa giải thoát, một câu nói dứt thừa đương như thế. Sư hét một tiếng rồi xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Cơ luân chưa chuyển đất đai đen mịt mờ, gương xưa cao sáng. Sa giới sạch làu làu. Ngồi tức ý căn là chỗ không động chuyển, lấp tức yết hầu là chỗ không nhã hơi. Tức là một người chân thật. Đưa lên tức thiên thượng nhân gian, bỏ xuống thì băng tan ngói vỡ. Chánh đáng trên mạng mạch làm sao điểm tháng tám mùa thu chỗ nào nóng. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Một tức tất cả là thật tế lý địa, tất cả tức một là xưa nay không một vật. Niêm lên cũng tra tra sa sa, buông ra cũng miên miên mật mật - Ba cõi mãi, mười phương không chỗ dung thân. - Trên đỉnh núi cao đi nghiêng, chữ thập đầu đường nằm ngang. Mắt thấy mây xanh thì lại đến, cá đi tiệm rượu một câu nói như thế nào, ngu si buông làm gì. Sư bèn xuống tòa. Đổi tên chùa Chiêu giác thành chùa Sùng ninh, lệnh vua vừa đến. Sư khai đường cầm lệnh (sắc) vua dạy chúng rằng: Khắp vòng trời đất đều nương ân lực, chín châu bốn biển đều lãnh thọ oai linh. Là pháp môn thù đặc trong trăm ngàn pháp môn, là Thắng nghóa chân thật trong vô lượng diệu nghóa. Như nay từ trên trời rơi xuống, chẳng phải ở do dự mịt mờ không hiểu. Kinh nghiệm trước mắt đồng thời dâng lấy. Tuyên đọc sắc vua xong, Sư bèn chỉ pháp tòa nói rằng: Này đại chúng, một con đường đó ngàn Thánh cùng biết. Bước đi từ từ dứt tiếng nước, mặc tình nhìn dấu chim bay. Lại nói: Như thế nào là tiến bộ, cần nên nâng ấn Tỳ-lô vô tướng, mà đi trên ngàn đỉnh núi cao. Sư lên tòa niêm hương dạy chúng rằng: Sáng suốt vạn tượng, khí dứt các trần, trước từ vạch cỏ nhìn gió, cho đến thỏng tay vào chợ. Dễ dãi không muốn bày hết ra, gây sợ hãi làm động chúng. Ngày nay hãy niêm: Phụng vì chúc nghiêm Thánh thọ Kim thượng Hoàng đế. Kế Sư niêm hương nói: Chính vì Phán phủ thượng thơ các vệ huân quý, kế niêm hương nói: Mười năm ở Hoài điện chịu hết cay đắng, một đạo Thanh hư thân được ấn khả chẳng dám cô phụ, kính vì Ngũ tổ Lão sư để đáp đền Pháp nhũ, Hòa thượng chính pháp bạch chùy. Sư bèn nói: Giá ngàn cân một tiếng nỏ tiện hành, bắn thấu Thiết vi chẳng cho nghó bàn, một lời nói ra sống chết đều rõ ràng đều bày. Trong một tấc cơ bao gồm các hình tượng. Ngay đây đương đầu điểm phá, được ngàn mắt mở nhanh. Lại nếu nhìn quanh do dự, liền thấy nắm trời mò đất có cấu tạo được chăng, hãy bước ra khỏi chúng, cho gặp nhau. Tăng hỏi: Xong ba hồi trống, chúng bước ra chiếu pháp, Học nhân đến đủ thỉnh Sư nói pháp. Sư nói: Trời tạnh mặt trời hiện ra. Lại nói: Không chỉ cái ấy lại có cái khác chăng? Sư nói: Lại chỉ hiểu một đầu. Lại nói: Khi hai đầu thì như thế nào? Sư nói: Xem ra ông đảm đương chẳng được. Hỏi: Trăm hoa tranh đẹp Diệu đức gia phong. Một hôm, tạnh không Phổ Hiền cảnh giới. Bỏ hai đường này thỉnh Sư chỉ bày. Sư nói: Măng đá mọc mầm cao một trượng. Hỏi: Có phải là chỗ Hòa thượng vì người chăng? Sư nói: Bên này bên kia hai đầu buông xuống. Tăng: Thỉnh Sư đưa ra. Sư nói: Cũng tự không biết. Hỏi: Thế nào là cỡi trâu xuyên qua chợ. Sư nói: Hoàn toàn sai lầm. Hỏi: Có một lời toàn là phép tắc hôm nay khai đường có điềm lành gì? Sư nói: Trời đất rộng lớn không bờ mé, mặt nhật sáng trên không vũ trụ sáng. Lại nói: Một chấm mực nước hai chỗ thành rồng. Sư hỏi: Nói gì hai chỗ? Tăng thưa: Nói nín can thiệp thể dụng, làm sao thông chẳng phạm? Sư nói: Trời biết đất biết. Hỏi: Thế nào là kinh nghiệm trước mắt. Sư hỏi: Ông thấy cái gì? Đáp: Nhật nguyệt sáng đức trời, núi sông trang điểm chỗ vua ngự. Sư nói: Tức một chút so sánh. Bèn nói: Toàn cơ đại dụng gặp chỗ đều thành. Đầy mắt sáng trong thông suốt kim cổ. Một hạt bụi bao trùm pháp giới, một niệm khắp cả mười phương. Tất cả đại địa là người chân thật, tất cả sát hải là đại giải thoát. Chỉ cần ở người lược tướng hồi quang để mắt mà nhìn thì có thể chứng vô sinh đốn siêu phương tiện. Thế nên chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, Tổ sư ở Tây Vức đến cũng không ngoài kiến tánh thành Phật. Chỉ như ngày nay vâng lệnh Hoàng đế lập đại Già-lam, ban Hoàng phi độ Tăng, chúc nghiêm Thánh thọ một trường Phật sự sáng rực xưa nay. Phán phủ cờ xí đến nơi, các hiền lọng xe cùng tập hợp, bốn chúng đón rước, muôn dân ca dao, vì nước khai đường mở bày tông giáo. Sơn Tăng chẳng dám dấu diếm đều là lời chư Phật nói bất tận, đều là chỗ Tổ sư đề không khởi, đối đại chúng tám chữ mở bày vậy. Sư bèn đưa phất tử lên nói rằng: Đại chúng thấy chăng? Lại gõ thiền sàng bảo: Có nghe chăng? Thấy chỗ thấu thoát, nghe chỗ tinh minh, một niệm trở về nguồn gốc, liền đủ đảnh môn ba mắt, muôn dặm lại không mù mờ, ngàn Thánh đều đứng dưới gió, ngồi dứt Báo hóa Phật được được ngay vách đứng vạn nhận. Thử nói: Ấy là cảnh giới người nào cung điêu đã treo khói lang đã tắt, muôn dặm ca dao mừng thái bình. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa: Thông thân là mắt thấy không tới, tai nghe chẳng thấu, miệng nói chẳng dính, tâm soi chẳng ra. Dù khắp đại địa sáng được cũng không mảy may rò rỉ. Cũng như ở nửa đường căn cứ vào lệnh mà đều khởi lên. Thử nghó: Như thế nào là diễn bày. Trong cõi nhật nguyệt dọc ngang treo. Một hôm, tình không vạn cổ xuân. Rồi Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Rõ ràng có một con đường Phật tổ cùng biết. Gặp mặt trình nhau thấy nghe chẳng cách, vạn tượng chẳng thể che dấu, ngàn Thánh không có giai cấp. Sống động dứt đảm đương, thân tâm tự tại không do dự. Đánh nhiều gậy như mưa rơi, hét vang dội như sấm rền cũng chưa động được hướng thượng mà bẻ khóa. Như thế nào là then chốt hướng thượng, tức làm mù mắt các Thánh, tức làm câm miệng sơn Tăng giữa ngọ đánh canh ba, mặt ở Nam mà xem Bắc đẩu. Rồi Sư xuống tòa. Nghe cáo phó Ngũ tổ, Sư lên pháp tòa nói rằng: Lónh đầu núi Đại dữu cười thành khóc môn hạ Sùng Ninh khóc thành cười. Vì sao thế, vì uống nước suối phải quý mạch đất. Lại phải có Chánh nhãn lưu thông thì tông phong mới không rơi đổ. Cho nên nói: Pháp vô thường sinh tử cùng ta không liên can.” Nếu hay như thế mà thấy thì không cần khóc trời xanh, đã không cần khóc trời xanh thì như thế nào mà thông tin. Thỉnh đại chúng dâng hương, kỳ phùng địch thủ. Rồi xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói rằng: Bát-nhã lưu vận bốn tượng đổi dời, chánh nhãn kín to Nhất Dương lại đến, côn trùng động thực đều nhờ ân này, đạp đất thờ trời đều biết mừng vui. Thử nghó: Không âm dương trên đất lại có tin tức ấy không? Mặt trời Nam rất dài, quỷ vận lại đổi dời. Lầm! Rồi xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Đại nhân có đại kiến, đại trí được đại dụng. Trong lòng ôm Lục hạp, trong tay áo đeo chùy vàng - Đưa cao ấn Tổ chiếm hoàn vũ, vạn dặm ánh sáng lẻ loi đầy mắt. Được ngay đây gió mát khắp đất, mưa tưới đầy hư không, dứt hết hai đầu về nhà ngồi yên ổn. Do đó nói: Ánh mắt sáng như ngàn mặt nhật, vạn tượng chẳng thể bày ảnh chất - Phàm phu chỉ là chưa từng quán, sao được tự khinh mà thối lui? Chỉ như hết cả hoa tạng thế giới hải, cùng hết bến bờ hư không, đều lo là mắt kim cương và quán như thế. Uốn đá qua đầu sóng gió lặng. Xúm đôi xúm ba chiếc thuyền câu. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, có Tăng hỏi: Một Đại tạng giáo cái gì là đầu? Sư nói: Như thế ta nghe. Hỏi: Đây là lời của A-nan, như thế nào là lời của Hòa thượng. Sư nói: Sơn Tăng dùng được rất vui. Bèn nói: Một lời đạo họp tùy chỗ đều chân, một câu vô tư toàn bày ấn thật. Hỏi được cũng tốt mà không hỏi thì cũng kỳ. Ánh sáng rực rỡ vốn không quay đi. Do đó nói: Vô biên sát hải, mình người chẳng cần đầu lông, mười đời xưa nay, trước sau chẳng rời đương niệm - Chỗ chẳng cách cả mười phương đều là Chân cảnh, chỗ chẳng dời suốt mười đời đều ở trước mắt. Thân tâm tự tại không còn một mảy may tình trần, thiên sáng chói không che đậy. Ngay đây mà được ngàn Thánh đồng kéo muôn cơ nhanh đến - Đầu gậy sợi tơ tùy anh đùa giỡn, chẳng phạm làn sóng xanh ý tự khác. Rồi Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, có Tăng hỏi: Thế nào là một câu giáo ngoại biệt truyền. Sư nói: Hỏi lấy lồng đèn. Đáp: Cảm ân Sư đáp thoại, tự hiểu mà lui ra. Lại nói: Đó tức là thiền ngoại biệt truyền vậy. Sư nói: Ngoài ba ngàn dặm qua Nhai châu. Hỏi: Học nhân chẳng lúc nào ra sao? Sư nói: Chớ hoa mắt. Lại nói: Một giống (trồng?) mất cả đàn, chỉ Sư đàn là hay. Sư nói: Sơn Tăng cũng chẳng đảm đương. Bèn bảo: Tại trời thành tượng, tại đất thanh hình. Nhật nguyệt thì chiếu sáng, bốn mùa có lạnh nóng. Ở hang đầy hang, ở hầm đầy hầm hữu tình thì động chuyển làm lụng, vô tình thì sum-la hiển sáng. Như nay Tăng ở đầu gậy sơn Tăng chỉ núi thì núi sụp, chỉ biển thì biển cạn, chỉ sắt thành vàng, chỉ vàng thành sắt. Khuấy sông dài thành sữa, hóa sữa thành sông dài. Thấy các người chẳng hiểu, biến làm Vô Biên Thân Bồ-tát, mười phương sáu thú đều hiện ra. Có thấy chăng? Uyên ương từ chỉ thêu ra tùy anh xem, chẳng dứt kim vàng đưa cho người. Sư lấy gậy gõ thiền sàng rồi xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Như thế nào là chánh chủ. Sư nói: Vạn sông đều về biển, ngàn núi ắt ngưỡng tông. Lại nói: Thấy thành công án. Sư nói: Dưới chân đen như sơn. Lại nói: Chớ nói xấu Học nhân. Sư hỏi: Có đủ mắt hành cước chưa? Tăng hỏi: Hòa thượng nói gì? Sư nói: Rớt xuống hầm hố. Bèn nói: Trí quang suốt chiếu khắp mười phương, vạn hữu toàn về ở một niệm rộng lớn không ngoài, vắng lặng chẳng trong. Thiên tử ở trong chợ ồn náo Lão Tăng trăm đầu cỏ. Vật vật đầu đầu là toàn thân, vô số cõi nước đều là đại dụng, không rơi cái thấy của mình vào một câu nói duyên như thế. Sức vua Võ không chỗ đến, tiếng sông chảy về Tây. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Vào cửa một câu thì nói gì? Sư nói: Dẫn được một cái móc trên đến. Lại nói: Tranh làm gì nuốt mất vạn tượng. Sư nói: Chày sắt không lỗ. Lại nói: Học nhân ngày nay mất lợi. Sư nói: Ba điểm, hai điểm sầu giết người nhìn mặt thấy được Thánh cũng thiếu, vừa đến cửa bến mây trắng đã muôn dặm, chỗ chắc thật chẳng thể nghó bàn, chỗ miên mật đồng chân tế năm đoạn thế giới không mảy may rò rỉ, tự tại một câu làm sao nói, vách đứng vạn nhận đi một mình. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Một mình lên đỉnh cao vót, trước sau sống lao nhao, gọi làm Thiền đạo Tổ Phật. Bụi dính vào mắt chẳng gọi là Thiền đạo Tổ Phật. Đào đất tìm trời, lại có được chỗ lấp khe lấp hang không người đến. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Điểm tức chẳng đến, một đại Tạng giáo trên gấm thêu hoa, đến tức chẳng điểm Tổ sư từ Tây Vức đến tiếng vàng ngọc khua động. Lại nói: Ý Tổ ý giáo là đồng hay khác, đầm biếc và mây ngoài chẳng liên quan. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa: Ba lần Chuyển pháp luân ở đại thiên, pháp luân ấy xưa nay luôn thanh tịnh. Tất cả chư Phật đều chuyển như thế, hoặc hướng hạ thì ba thừa năm tánh đốn tiệm thiên viên, nếu hướng thượng thì chẳng chỉ tìm chỗ dưới miệng không được. Các ngài Lâm Tế, Đức Sơn mắt trừng quát. Thử nói: Chẳng rơi vào trên dưới lại như thế. Ai là người xuất đầu. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa. Tăng nói: Ngay đây đợi kim tinh hiện, đốt rồi mới đến. Khi kim tinh ở tay người học thì thế nào? Sư nói: Điểm. Lại nói: Làm sao chẳng đến? Sư nói: Nạp Tăng chạy loạn. Lại nói: Tranh làm gì với sông Kim tinh. Sư nói: Sai rồi. Tăng hỏi: Tổ sư có nói không? Lão Hòa thượng thiên hạ cũng nói thế, chưa biết Sùng Ninh như thế. Sư nói: Sơn Tăng không nói như thế. Sư nói: Khua cái gì? Lại nói: Thiền khách gặp nhau chỉ khảy móng tay. Sư nói: Hai đầu ba mặt. Lại nói: Tha giết đúng lúc. Sư nói: Đầu chân đáy chân. Sư nói: Vào ruộng hoang không kén chọn. Ngoài ba ngàn dặm tối mịt mù, đầu trâu mất, đầu ngựa về, trăm ức vạn kiếp mất giao thiệp, nắm một buông một ngoài mắc sinh cành, nêu cổ nêu kim không gió khởi sóng. Sơn Tăng ngày nay một lúc ngồi dứt. Thử nói: Lại có chỗ vì người không, thế ngàn núi đến bên núi ngừng, vạn sông về biển tiếng liền tiêu. Sư xuống tòa.  <卷>QUYỂN 2 THƯỢNG ĐƯỜNG 2 Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Ví như ném kiếm hươi trên không, có một người kiếm cũng không, hư không cũng chẳng hươi khi ấy thế nào? hành. Sư nói: Đại chúng thấy ông bị thua rồi. Lại nói: Mặc dù học nhân chỉ đẩy ra, Hòa thượng sao không phóng Sư nói: Chớ chê Sùng Ninh. Lại nói: Vì sao chẳng chịu đảm đương. Sư nói: Dấu thân bày ảnh. Lại nói: Ngày nay gấp bại hoại. Sư nói: Quả nhiên. Hỏi: Khi ngài Ngưu Đầu chưa thấy Tổ thứ tư thì thế nào? Sư nói: Trời đất không thể biết. Lại nói: Thấy rồi thì thế nào? Sư nói: Xưa nay thành gương mẫu. Lại nói: Nhân nghóa chỉ từ tham mà đoạn dứt. Sư nói: Trong hang quỷ ló đầu ra. Bèn nói: Xanh rậm rì biếc sâu dày, trên đầu trăm cỏ lộ thiên cơ, hoa xúm xít gấm hội họp, bên chợ ồn lộ bày chân trí, tiếng vàng ngọc khua ném sáng gió đất, điện chớp sao bay cả trời tác dụng, chẳng cùng vạn pháp làm bạn thì đến nỗi châm mắt cá nuốt. Gia châu đại tượng lúc đó thế nào. Sư hét: Á! Rồi xuống tòa. Sư lên pháp tòa, hỏi: Như thế nào là Trần trần Tam-muội. Sư nói: Điểm giọt chẳng cho. Lại nói: Là một hay hai. Sư nói: Mảy may đầu mối cõi báu (hai trình độ ngang nhau) Sư nói: Thống lãnh một câu hỏi. Tăng nói trời xanh trời xanh. Sư nói: Chưa hiểu rõ. Hỏi: Thế Tôn niêm hoa Ca-diếp móm cười, Hòa thượng nói pháp có chỉ thị gì? Sư nói: Một vật cũng không. Hỏi: Vì sao một vật cũng không? Sư nói: Vì ông không mắt. Lại nói: Tranh làm gì với Học nhân. Sư nói: Một cái mặc tình nhảy vọt. Lại nói: Trước mắt dứt đối đãi, vạn cảnh rậm rạp, ngoài vật có huyền cơ, rõ ràng xây dựng lao khổ. Đánh hét chiếu dụng, nắm về một bên, nói đường dọc ngang một lúc buông bỏ, các ông hướng trong đó trừ sạch được một tuyến đường. Ngay đây nguy ách còn chưa dẹp được, lỗ mũi đều ở trong tay Sơn Tăng. Sư đưa gậy nói rằng: Xuyên qua rồi. Sư gõ thiền sàng và xuống tòa. Sư lên pháp tòa. Tăng hỏi: Tròn trặn không nứt nẻ nhân gì được kỳ đặc như thế. Sư nói: Bảy hoa xé làm tám. Lại nói: Trong lời nói có tiếng vang. Sư nói: Lại thong thả. Hỏi: Lớn đến một dương sinh, quân tử khi lâu dài thế nào? Sư nói: Môn hạ của nạp Tăng không có nhiều việc. Hỏi: Vạn pháp là tâm quang lại như thế nào? Sư nói: Hãy mở mắt to nhìn cao lên. Lại nói: Ngay đây mà thừa đương. Sư nói: Kiếm bén quơ lên hư không. Lại nói: Lìa tướng lìa danh dứt hết dấu vết, một lúc đưa ra một lúc mới, một phen lần một lần vui thích. Ngang gồm vạn hữu, dọc thấu kim luân, trong không mất mảy may, ngoài không điểm xuyết. Nếu hay chẳng làm tình giải Thánh phàm, thì gánh vác mở mang được. Thỏng tay vào chợ không câu chấp có cơ xuất thân, lui ở núi cao nơi nơi trải cảnh sát trần, trong thế nào mà chẳng thế nào, trong chẳng thế nào mà thế nào. Toàn nêu một câu mà nói gì, mở ra một lỗ hướng thượng, ngàn Thánh cùng đứng dưới gió. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Năm trôi qua sáng nay ngày nay cũng trôi qua những năm này là những năm qua, như thế nào là vật chẳng dời? mây. Sư nói: Lông mày trên mắt. Lại nói: Như thế thì thay cũ đổi mới. Sư nói: Đừng nhận lầm. Lại hỏi: Như thế nào là không nhận lầm. Sư nói: Thấy tốt thì chọn. Lại nói: Kiếp hỏa không mảy may hết, núi xanh như cũ ở trong Sư nói: Chuyển được trở về chẳng ở tiền. Hỏi: Vạn vật duy ở mới, một người vui buổi sáng, như thế nào là năm mới đầu Phật pháp. Sư nói: Mạnh xuân cũng lạnh. Lại nói: Thế nào thì pháp chẳng khởi một mình? Sư nói: Ngồi tức chủ nhân ông thì chỗ nào xuất khí. Lại nói: khoảng không có trăng thiếu ngàn cửa. Sư nói: Tùy người dời gót chân. Bèn bảo: Một pháp nếu có thì Tỳ-lô-đọa làm phàm phu, vạn pháp nếu không thì Phổ Hiền mất cảnh giới. Một pháp vạn pháp hoặc có hoặc không thì Tỳ-lô Phổ Hiền phàm phu pháp giới, hết cả trong đó dù tốt hay xấu cũng không giúp một mảy may, khắp trời đất trong ngoài đều bao trùm, khi chưa có trời đất thế giới đã sớm đã thành hình, đến khi vạn tượng cùng bày, thì ngưng đọng không biến đổi. Nếu hướng về một khí chưa có từ trước mà nhìn thấy thì rơi vào đầu thứ hai. Lại ở vạn vật mà thấy bờ mé tin được quá khứ thì chuyển mất giao thiệp. Năm mới năm cũ rành rẽ rõ ràng một câu nói như thế, ngày ngày hương hoa, đêm đêm đèn đuốc. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Ngày mười lăm thì không hỏi, như thế nào là Hòa thượng rõ ràng vì người một câu. Sư nói: Rõ ràng thấy định không một sợi tóc, nghó bàn tìm kiếm thì cách vạn núi. Hỏi: Chánh đán Thượng nguyên, con trâu đực ở đâu? Sư nói: Gậy sắt đánh vào sẹo ghẻ lộ ra. Lại nói: Dẹp trần thấy Phật chưa khỏi vết bụi trong mắt, nghe tiếng ngộ đạo, cũng là trong tai dính nước. Ngay đây mà được chúng sinh và Phật không giai cấp, giới cõi không đều bình đẳng, sạch làu làu hết nghó suy, sáng rực rỡ không thể nắm bắt cũng chưa lìa việc bên ấy lại cần hươi kim cương kiếm báu mà chặt đứt sai lầm, niêm gậy sống chết mà đánh phá được mất, cũng chưa sáng một lỗ hướng thượng. Nếu hoặc đủ gậy lớn với ý khí, có cầm kềm chùy nấu Phật tổ, thì ngay đây hướng bên nào mà đảm đương được. Liền ở trong ấy mà ngang ba dọc bốn, ngồi một chạy bảy gánh vác Tông thừa cầm nêu ấn Tổ. Có lúc phóng hành, đồng kia đồng đây, thấy tùy loại thân, hòa quang thuận vật. Có lúc cầm giữ, chớ nói Phật nhãn nhìn không thấy. Nếu hết cả cây cối đất đai đều biến thành trăm ngàn ức thân, phóng vô số ánh sáng cũng chiếu chẳng được. Lại nói: Tức nay làm gì, nếu chẳng ruộng chàm bắn cọp đá, cơ hồ lầm giết Lý tướng quân. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi xuyên ngang ngọc rơi xuống đổ núi Tu-di chưa biết việc trên nhân phần. Sư đáp: Người vào địa ngục ciệc trên nhân phần. Lại nói: Tức là chỗ nó an thân lập mạng? Sư nói: Ngói vỡ băng tan. Hỏi: Tâm này được mấy người biết. Sư nói: Chỉ sợ chẳng biết. Bèn nói: Trọn ngày gặp nhau không nửa mặt, chắc chắn ngàn dặm có tri ân. Chẳng cần cách ngoại luận Đại Bồ-tát, chỉ toàn cơ này sáng cổ kim. Nghiêng che như cũ, đầu trắng như mới, hai gương chiếu nhau chẳng cách mảy bụi. Khắp cõi chưa từng bày tướng, đầu lông khắp hiện sắc thân. Chỉ như hang Thần động như mây bay. Thấy nhau lại vô sự, không đến vẫn nhớ ông. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói rằng: Thiền không ý tưởng, lập ý thì trái tông. Đạo dứt công huân, lập công thì mất tông chỉ. Nghe tiếng trong ngoài câu, chớ ở trong ý mà tìm cầu. Chuyển chiếu dụng cơ quan, nắm kiềm chùy Phật tổ. Chỗ có Phật cùng làm chủ khách, chỗ không Phật gió vùi dập đất. Tâm ý an vui vang thuận tiếng hòa giống người như thế. Lại nói hướng vào chỗ nào mà để. Khoác áo tơi đứng nghiêng, ngoài ngàn núi, dẫn nước tưới hoang trước Ngũ Lão. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Xưa nay là Phật không thành chẳng thành, chánh thể rỗng rang rời ra chẳng rời. Trên việc bổn phận ngay đây mà được muôn dặm không mảnh mây thì cũng chưa có thể phóng quá. Lại nói gì các thứ khác, nó hoặc tùy cơ lại luận về xuất thế và chẳng xuất thế. Do đó mà nói: Tịnh pháp giới thân vốn không ẩn hiện vì đại bi nguyện lực mà hiện bày thọ sinh. Lại nói: Thích-ca lão tử nay ở đâu. Chỉ biết việc qua trước mắt, chẳng biết già từ trên đầu đến rồi. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa. Tăng hỏi: Rõ ràng thấy không một vật, chưa biết thế nào? Sư nói: Tốt thay cái tin tức ấy. Lại nói: Công chẳng uổng phí. Sư nói: Chỉ sợ chân chẳng chấm đất. Lại nói: Quay đầu xem bờ mắt, trái lại một trường sầu. Sư nói: Quả nhiên uổng phí. Tăng hỏi: Khi học nhân chẳng khởi một niệm thì như thế nào. Sư nói: Tự gây thương tích cho mạng mình. Hỏi: Nhân ai mà được. Sư nói: Chớ thay đổi cái lưỡi của Sùng Ninh. Hỏi: Diệu Thể vốn xưa nay không nơi chốn khi ấy thế nào? Sư nói: Sau não nhổ nêm. Hỏi: Như thế nào là huyền trong huyền? Sư nói: Huyền giết ông. Lại nói: Người đá ngầm gật đầu. Sư nói: Lời cùng ở tai bèn bảo: Nêu chiếu không sót, mười phương sát hải quán ở trước mắt, chánh thể rực rỡ đại thiên đồng một tánh chân như, ai nấy đều giữ bản vị đi. Núi là núi, nước là nước, cùng trao đổi có nhau, các vì sao đổi ngôi, Tổ Phật ngầm dấu vết, hai chỗ dứt lỗi lầm, hai bên đều chẳng lập, không thể không được yên. Tùy thời ứng duyên mà ngưng đọng trống vắng. Lại nói: Nuôi lớn Thánh thai. Chẳng khởi mảy may tâm tu học, trong ánh sáng vô tướng luôn tự tại. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Như thế nào là cơ bình thản? Sư nói: Dọc ngang chữ thập. Thưa lại mất giao thiệp. Sư hỏi: Chỗ nào mất giao thiệp. Tăng nói sau não nhổ tên. Sư nói: Đánh gõ. Hỏi: Cha mẹ không phải người thân của ta thì ai là thân nhất? Sư nói: Ta thường ở chỗ thân thiết này. Lại nói: Chư Phật không phải là Đạo của ta thì cái gì là tối đạo. Sư nói: Phải có chỗ chuyển thân mới được. Tăng nói: Muốn đi ngàn dặm thì phải có một bước đầu. Sư nói: Tin nhận vâng làm. Bèn bảo: Nước không có kiếm định loạn thì bốn bể trong lặng, cửa không có vì thần áo thì cả nhà an vui. Nếu Đạo có chỗ nương ân lực thì trên đất thêm bùn hoặc tiêu dấu nuốt tiếng, cũng chính là đem Nam làm Bắc, đến chỗ ấy dọc ngang chữ thập chưa khỏi sai lầm, chiếm vị vào cơ cũng so sánh một chút. Lại thế nào là câu cứ vị. Hàn Sơn gặp Thập đắc vỗ tay cười ha ha. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi người đến bên sông đều là kẻ bắt cá, vảy gấm đuôi hồng làm sao lấy? Sư nói: Chớ vọng tưởng. Hỏi: Khi chẳng vọng tưởng thì thế nào? Sư nói: Chẳng kể công trình được liền thôi. Lại nói đầm biếc sâu vạn trượng, ngay đây bắt cá về. Sư nói: Lại phải lui bước. Hỏi: Khi một hạt bụi bao hàm cả pháp giới thì như thế nào? Sư nói: Trong tối đầu lâu sáng thế giới. Bèn bảo Tổ Tổ truyền nhau truyền việc, Phật Phật trao tay không chỉ khác, nếu còn tình thức luận hiểu biết trần sa trong tai, hoa trong mắt. Do đó mà nói thấy nghe hiểu biết, pháp lìa thấy nghe hiểu biết, chẳng dính Phật pháp Tăng mà cầu, kêu gọi chẳng về, bắt nhốt chẳng ở, lại cần biết đánh hét giao nhau, chiếu dụng đồng lúc, hướng thượng một lỗ mới được. Lại thế nào là hướng thượng một lỗ. Không phải chim hạc thì khó bay cao. Không phải thiên lý mã thì không thể chạy xa được. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa Tăng hỏi: Một mưa thấm khắp, còn có Phật pháp không? Sư nói: Toàn nương sức người. Lại nói: Trên đầu mịt mờ dưới chân mù mịt. Sư nói: Cũng cần khô khan mới được. Hỏi: Hết cả đất đai đều là giáo, Học nhân như thế nào vào được. Sư nói: Hóa thành kẻ mất đầu. Lại nói: Làm sao hai lớp thấy nhau. Sư nói: Suy lường mất giao thiệp. Bèn bảo: Đầu trâu mất đầu ngựa về, ngàn Thánh chẳng biết trước ba ba sau ba ba, hà sa chẳng đếm, chỗ thấp thấp bình mà có dư, chỗ cao cao xem mà không đủ. Đông Thắng Thần Châu chạy ngựa, Nam Thiệm bộ châu đánh vỗ cái quạt nhảy lên trời. Cá Lý Ngư Đông Hải nổi giận, ngay đây mà mưa lớn như nghiêng chậu đại thiên sa giới đều ngập tràn. Thử nói: Ấy là đầu trâu mất đầu ngựa về, là trước sau ba ba, “Hải thần tri quý bất tri giá, Lưu hướng nhân gian quang chiếu địa.” Thần biển biết quý chẳng biết giá, lưu hướng cõi người sáng chiếu đêm. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, đầu gậy thủ chứng thấu đất cát. Hét xong thừa đương nương hư không tiếp tiếng vang, hướng thượng hướng hạ, chuyển lại mập mờ. Nói Diệu bàn Huyền hòa bùn vào nước, một mảnh ruộng ấy giao phó nhiều lúc. Bỗng dưng dối người, nắm hết cả đất đai thành một hạt gạo to. Múa gậy đánh trăng Phật tổ phàm Thánh niêm hướng một bên, không nương tựa. Lúc ấy thế nào. “Hồng hà xuyên bích hải, bạch nhật nhiễu Tu-di.” Ráng hồng xuyên biển biếc, mặt trời sáng đi quanh núi Tu-di. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi sinh tử thay nhau, nóng lạnh dời đổi, không biết Vô vị chân nhân có nóng lạnh chăng? Sư nói: Mồ hôi đổ như mưa. Lại nói: Rõ ràng ở trước mắt. Sư nói: Chớ hướng trước mắt làm hang tổ. Lại nói: Tranh nại tức nay gọi là “hà” sao. Sư nói: Chọc quê thầy dốt. Bèn bảo: Khí nóng nấu người như rơi vào các nồi đất tay chân chảy mồ hôi như tắm nước nóng. Nhờ lông trắng toàn ra sức, dẫn được hơi gió mà được mát. Các người có biết lạnh thì lông dựng đứng chăng? Tráp. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa, Tăng hỏi: Ý chỉ núi Tu-di như thế nào? Sư nói: Đẩy chẳng tới, kéo chẳng lui. Lại nói: Chưa biết lại có lỗi không? Sư nói: Ngồi tức đầu lưỡi. Hỏi: Pháp không cô khởi dựa cảnh mới sinh, Sư đưa tọa cụ lên nói. Đây là cảnh, thế nào là pháp. Sư nói: Liền bị Xà-lê cướp cây thương. Lại nói: Hòa thượng ngày nay vì sao thối lui nhường người? Sư nói: Chỉ có mũi nhọn ở trước mà không có điện ở sau. Hỏi: Không biết như thế nào là điện ở sau? Sư nói: Trả lại thoại đầu cho ta. Bèn bảo: Đất ruộng cứng chặt rút chân không lên, dò xét thái quá thần thông diệu dụng thả chân không xuống. Thâu mình chưa chuyển, dù được chữ thập ngang dọc sáng đánh ba ngàn cũng cái đó so sánh một chút. Lại nói lầm lỗi ở chỗ nào, nếu như có đi mới thấy toàn đề bán đề. Nếu như chưa biết con quạ ở trong túi tuy sống mà như chết. Sư bèn xuống tòa. Sư lên pháp tòa. Tăng hỏi: Ngài Nam Tuyền chém mèo ý chỉ như thế nào? Sư nói: Sống chết tạm thời. Hỏi: Ngài Triệu Châu đội giày cỏ là thế nào? Sư nói: Đó là việc trong nhà của ông ấy. Lại nói: Đánh trống khảy đàn tỳ bà. Sư nói: Chớ nói dối sáng. Bèn bảo: Chỗ có Phật bắt nhốt không ở, chỗ không Phật cỏ hoang tìm người. Buông bỏ thì đụng chỗ nào cũng sáng mới, cầm nắm thì càn khôn đổi dời. Lại nói khi người hướng thượng đến thì thế nào? Sư nói: Người khác tự có đường thông suốt. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói rằng: Hết Hạ lễ Tự Tự là phép thường của hải chúng. Sắc thu lắng trong càn khôn rất buồn thảm. Bát-nhã vận chuyển, động tịnh nhất như. Thời tiết chẳng dung nhau, nóng lạnh tự biến đổi. Khúc hát vô sinh vần điệu thanh thoát chí bảo luôn sáng (cao), hang sáng vạn tượng, xưa nay chẳng che đậy, thấy ở một già lam, một niệm chẳng rơi vào các duyên, chứng lấy cảnh giới của mình, cần gì phải Linh sơn tìm Phật, Thiếu lâm hỏi Tổ. Hiểu chăng? Mở rộng túi kia không cột nữa, lại nên siêng sắn ngó chừng trâu. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói rằng: Một nói cắt đứt tiếng ngàn Thánh, một kiếm ở trước hoanh thây ngàn dặm. Do đó nói: Có lúc câu đến ý chẳng đến, có lúc ý đến câu chẳng đến, câu có thể chẻ ý, ý có thể chẻ câu, ý và câu giao nhau qua lại không ngừng với lỗ mũi của nạp Tăng. Nếu có thể chuyển như thế thì trời xanh cũng phải ăn gậy. Thử hỏi: Căn cứ vào cái gì có thể thương vô hạn người giỡn sóng, cuối cùng lại chết trong sóng. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa bảo rằng: Dao giết người, kiếm cứu sống người là phép tắc từ xa xưa, cũng là then chốt ở thời nay. Trên câu nói mà hiểu thì như đem đất rửa trong bùn, còn ở trên câu nói mà không hiểu là gỗ vuông cấm lỗ tròn, nên chưa nghó ngợi đã sai lầm, đang là nghó ngợi thì cách quan san, đánh đá nháng lửa, ánh điện chớp, gây dựng nên hay gây dựng không nên chưa khỏi tan thân mất mạng. Thử hỏi: Lý này như thế nào? Khổ hồ liên căn khổ, Cam qua triệt đới cam (Dưa đắng đắng cả rễ, dưa ngọt ngọt cả dây). Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Mây rớt xuống thành mưa thế giới tan tác, mặt trời chiếu lên càn khôn rộng lớn. Trong nhà Văn-thù vạn Bồ-tát mặc tình hiển hiện. Tạnh là tạnh, mưa là mưa, núi là núi sông là sông, cái gì là vạn Bồ-tát. Tiếng chim hót trong gió ấm, hoa khoe sắc dưới ánh mặt trời lên cao. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa bảo rằng: Câu định càn khôn bao xưa gồm nay, thấu suốt cửa sinh tử, vượt thanh sắc. Hang quỷ tìm kế sống trăm ngàn kiếp khó thoát ra. Cắt ngang các dòng, một mảnh ngưng đọng giữa không chẳng nơi nương cậy. Nếu càn khôn sụp đổ, biển lớn lật ngược, cỏ cây bụi rậm đều hóa thành dao kiếm giáo mác thì động một điểm cũng không được. Thử nghó: Bằng vào cái gì như thế, tay cầm dạ minh phù, mấy ai biết trời sáng. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Chê con mắt trên lông mày sai lầm, nhắm mắt lại hình ngôn ngữ chuyển khắp mà giữ miệng lại. Hết cả đại địa đều là một hạt bụi, mắt Phật nhìn chẳng thấy. Cả đại địa đều là một câu, cửa biển chớ nói, cũng chưa nêu ra được một nửa. Khi bỗng nhiên đạp phá hóa thành thì thế nào? Đi đến sơn cùng thủy tận, ngồi nhìn mây. Sư xuống tòa. Sư lên pháp tòa nói: Gió mát cửa sổ sáng, gương xưa treo cao sáng bắn đẩu ngưu, lẫm liệt đặt ngang kiếm Thái A. Ngoại ma đến, đảm hiệp sợ vỡ mật yêu tà bay hồn ngay. Ngàn Thánh chấp tay qui hàng, mười phương lặng lẽ ngồi dứt. Ngoài dẹp bốn phương, trong dứt lý sự. Ngay đây liền là đó. Các ông có thấy không? Chẳng lìa đương xứ thường vắng lặng, tìm thì biết ông chẳng thể thấy. Sư xuống tòa. Lui về viện từ giả chúng. Sư lên pháp tòa nói: Chưa có ai đi mãi mà chẳng dừng, chưa có ai dừng ở mãi mà chẳng đi làm chẳng làm ích vô ích. Thuyền ba hữu, bến cứu bốn sinh, là phận sự của nạp Tăng. Tuy nhiên thời tiết đến thì một dạo đứt hai đoạn, chỉ cần lỗ mũi không ở trong tay người khác. Do đó nói động như mây bay, ngưng như hang thần. Đã vô tâm với đây kia, cũng vô tượng với lui tới. Như thế, thì tới lui chẳng dùng tượng, động tịnh chẳng dùng hình. Há chẳng thong thả nhiều có dư. Lại nói: Lên đường một câu làm sao nói, vốn là người lâm hạ thì về với lâm hạ đi. Sư xuống tòa. Sư được Công an Thiên ninh mời, bèn cầm thiếp dạy chúng rằng: Trên đầu trăm cỏ dâng lấy (nói ra?) Sao như trong ấy thừa đương. Đã thế phù họp vâng làm, há lại ở trong lò mà tránh lửa, nếu cũng thấy được thì ngồi đoạn tất cả lưỡi người, nếu chưa được thế thì mời Duy-na biểu lộ. Sư chỉ pháp tòa nói: Tỳ-da mượn tòa để lên vua, vạn thọ lên vua mới mượn tòa, lại nói là đồng hay khác, lại hiểu được chăng? May tự có thể thương chúng sinh hãy mở mắt ra. Sư lên pháp tòa thị chúng rằng: Đầu lưỡi câu có mồi, trong câu không riêng, thả nổi thuyền nhỏ, buông bỏ luân tuyến, lại có vảy gấm nhảy sóng chăng? Tăng bước ra nói có. Sư nói: Nhìn lên cao. Tăng nghó ngợi, Sư nói: Cố chấp. Hỏi: Cẩm quan bãi câu, nước lụt lại dạo chơi mới là khách sống lâu muôn tuổi, lại làm chủ Bích nham. Không hỏi nước chảy dưới núi, chỉ hỏi mây trắng về động thì ý như thế nào? Sư nói: Quán cũ mới mở. Lại nói: Tiếng hay đều rung động tai người, một câu vô tư xưa nay. Sư nói: Mọi người ở trong ấy. Lại nói: Vạn trượng mây trắng dấu chẳng được, một vầng sáng chiếu suốt vô tư. Sư hỏi: Câu “đến nhà” gì như thế? Tăng nghó ngợi. Sư nói: Tónh ngộ. Sư bèn bảo: Trước mắt không cỏ lạ, khắp cõi không còn cản ngăn. Trong cõi nhật nguyệt dần mới, ngoài phương càn khôn riêng bày. Ngay đây mà được Long Thiên Thích Phạm động đất mưa hoa. Diệu đức không sinh mắt trừng miệng hét (nín?) gậy, hét niêm một bên, mây trăng khe núi buông bỏ một lượt. Một chỗ thoát ra, ngàn chỗ trăm chỗ đều thông, một cơ rỗng sáng ngàn cơ vạn cơ đều chuyển. Bích nham chẳng lìa chỗ này, chỗ này chẳng lìa Bích nham. Nhiếp cả đại thiên vào đầu sợi lông, trong hạt cải chứa cả sát hải chim ngậm hoa bay qua, khỉ ôm con về. Trống vắng ngưng đọng, ứng chân chẳng mượn lại đến, chỉ như không âm dương trên đất thí thành được sự việc gì. Vạn bôn chính tư hòa khí lực, Bích nham trước hết mọc một cành xuân. Lại nêu: Mã Đại sư hỏi Dược Sơn: Ông ở đây bao lâu, bổn phận sự như thế nào? Sơn nói: Da lột hết chỉ còn một chân thật. Tổ nói cứ như chỗ ông thấy có thể gọi là hiệp ở tâm thể mà khắp ở tứ chi, sao chẳng đem ba sọt tre bó lấy bụng da tùy núi mà ở. Sư nói: Con là người gì mà dám nói ở núi Tổ nói: Không phải thế, chưa có ai đi mãi mà không dừng, chưa có ai dừng mãi mà không đi, muốn lợi ích không chỗ lợi ích, muốn làm không chỗ làm phải làm thuyền bè do đó mà ở núi. Sư nói: Người xưa sau khi được ý rồi chẳng quên lợi sinh. Vào thẳng núi sâu nêu giữ Tông yếu. Sơn Tăng ngu tối há dám trèo cao. Như thế thì chẳng dùng sọt tre mà bó bụng da, liền có cái vạc gãy chân, cùng người đến mà giữ vắng vẻ. Nếu tin đến được thì chẳng lo lắng, nếu chưa hiểu rõ thì nghe lấy câu cuối. Núi cao đột ngột dựa cửa trời, núi xanh hư nhàn dễ dừng chân. Vạc (đỉnh) gãy chân may ở đó, chẳng cần dắt dấu trong mây dày. Tuy là như thế thì mọi người cũng phải đưa ra một bàn tay mới được. Lại nói rốt ráo như thế nào. Múa giỏi phải cần khoe một nhập phách, ba đài phải là mọi người dẹp hết - Sư vào viện chỉ phương trượng nói: Cái ấy là Tỳ-da chiếm chỗ ngồi chính đồng khi Ma-kiệt hành lệnh, đỉnh đầu Giáp Sơn đinh ninh thông một lỗ, buông ra Thiện Bành Lão dùi xưa tha cho y xuất đầu. Thử nghó: Làm được tài giỏi gì, cá vàng nhảy sóng mà vào lưới. Lưới trời giăng khắp cũng chẳng nhiều. Sư chỉ pháp tòa nói: Đại chúng có biết Bảo hoa vương chăng, lại chẳng rơi vào nghóa hai, ba. Sư trải tọa cụ bảo rằng: Vượn hoang ẳm con về núi xanh, chim sâu ngậm hoa qua núi biếc. Đất này lúc xưa từng làm khách, nay đây làm chủ hổ thẹn vô tàm. Trong chúng có ai biện được là nạp Tăng chủ khách chăng? Tăng hỏi: Mưa nhỏ như liễu kéo kim tuyến, gió hòa hoa bình đầy tấm bình phong đẹp. Mây trăng khe núi tức thì không hỏi, đến nhà một câu như là luận. Sư nói: Ngồi dứt lưỡi người thiên hạ. Lại nói: Chỉ như việc mũi nhọn như thế? xuân. Sư nói: Ông lại biết được cái lưỡi chăng? Núi xanh mây đến ngàn nhận xanh, trăng xanh chướng vạn khe Sư nói: Phải tiến một bước mới được. Lại nói: Phải lệnh ban hành từ Ma-kiệt chăng? Sư nói: Tha ông ba mươi gậy. Sư bèn nói; Dưới cửa núi xanh vọt màu đen sẫm, giữa đường mưa nhỏ như mở, vân hoa đào trên bờ linh vân, nơi nơi hoa cỏ tốt tươi đầy mắt, bờ trúc xanh ngọn hương nghiêm, luôn luôn lắc lư trước gió. Đến nỗi một cái đánh quên chỗ biết, một thấy dứt hết nghi hoặc, chẳng khỏi còn lưu lại thấy nghe chưa thấu suốt thanh sắc. Nếu có thể thấy được sắc không thấy, nghe được tiếng không nghe, dẹp hết đường đi, đạp đồ cửa ải. Câu câu vượt Phật vượt Tổ, trần trần sáng tỏ xưa nay, nơi nơi dứt hết thanh sắc, mỗi cái chém đinh chặt sắt. Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm. Dùng dao kho vua mà phát ra nỏ mười cân, vách đứng vạn nhận mà dứt mười phương thì có thể vào môn Đại giải thoát mà truyền Chánh pháp nhãn tạng. Hướng về ngày Nghiêu tháng Thuấn mà cùng vui thanh bình. Vỗ bụng câu ca, về nhà ngồi ẩn. Lại một câu đến nhà như thế nào? Chỉ xin gió xuân đồng sức, một lúc thổi vào cửa nhà ta. Lại nói: Xưa truyền rằng: Sáng có làm thông trời, lược vượt cơ Hải thần. Khiến người không lưỡi nói lời vô ng- hóa. Thâu lạc phố tiếp Thanh Phong, làm Thạch sương thưởng thức Phật nhật. Nghiệm câu núi cao rơi vào cơ hổ sâu, điện chớp sao bay, châu về ngọc chuyển. Kiến lập bảo sát này phong phạm đều còn đủ. Đã từ nhượng không kịp, chuyển suốt vô môn (không cửa). Chẳng khỏi mượn một đường hướng chỗ không lời mà diễn nói, hướng chỗ vô sự mà sinh sự, hướng chỗ không Phật mà hiện Phật, hướng chỗ không Tổ mà bảy Tổ. Lại quý trước sau phù họp nhau. Đầu ngay đuôi thẳng. Dám hỏi các người lại thấy Giáp Sơn Lão Tử chăng? Chớ từ đỉnh núi trăm cỏ mà nói thấy mặt vô tư nói xưa nay. Quan Trương Triều Tán ở quận Quyền tại Phong châu thỉnh Sư đến viện Hương tích khai đường. Sư ở tại phủ Quyền tiếp sớ, bèn thị chúng rằng: Lời lời gấm thêu, câu câu châu ngọc, khen Vô thượng thừa, Hiển chánh pháp nhãn. Cần nêu chưa nêu về trước mà nói, ngoài lời văn mà thừa đương. Nếu chưa được như thế thì xin nói lỗi. Sư chỉ pháp tòa nói rằng: Đại chúng thấy chăng? Tòa Bảo hoa vương, Liệt Tổ cùng lên, xe chẳng ngang, suy lý chẳng cong dứt. Sư liền lên tòa cầm hương nguyện rằng: Một nén hương này dâng lên Kim thượng Hoàng đế, chúc nghiêm Thánh thọ, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế. Lại nguyện: Sáng suốt tính bằng càn khôn, Thánh minh vượt hơn nhật nguyệt Long đồ phụng lịch ghi nhớ muôn năm, lá ngọc cành vàng luôn trăm ngàn kiếp. Kế niêm hương: Kính dâng Quyền phủ thông phán triều thỉnh kiểm pháp. Chỗ ngồi tôn quan các nha huân quý. Phục nguyện: Địa vị bỗng lộc lên cao, vónh viễn chắc chắn thọ cơ. Lại niêm hương: Một nén hương này, Hoài điện năm xưa trả giá, cẩm quan ngày cũ từng niêm. Hải chúng ngày nay cần biết, chẳng khỏi rõ ràng nói phá kính dâng Ngũ tổ núi Trác sơn đời thứ mười hai là Pháp Diễn Thiền sư rồi cắm vào lò hương, cùng thiên hạ nạp Tăng thở dài. Bèn bày tòa ngồi. Lạc Phổ Hòa thượng gõ chùy bạch rằng: Những vị kiệt xuất trong pháp hội nên quán nghóa thứ nhất. Sư nói: Sớm là Đệ nhị rồi. Nếu luận Chân Thắng Nghóa trong Thắng Nghóa Đế thì Văn thể chưa bày, một chùy chưa lạc, nắm dứt yếu tâm chẳng thông phàm Thánh chẳng ở (?) nói rồi mà nói, chẳng hướng trong ý mà cầu. Đã là phát triển tự nhiên, chẳng khỏi đuổi theo sóng gió. Lại có người cùng nêu chứng cứ chăng? Sư bèn bảo rằng: Mắt Thước-ca-la trên đảnh phóng ánh sáng lớn, diện môn Ma-hê-thủ- la hiện tướng kỳ đặc. Một lời bao gồm các vật tượng, một câu họp các cơ. Sao dứt hoạch thân trong hang cọp dữ đỉnh đầu núi cao vạn nhận đặt chân. Cho nên nói rằng hiển Đại cơ, sáng đại dụng, đắc thất đều mất, thị phi đều quên, dứt trần dứt tích, thấu sắc thấu thanh, lớp lớp vô tận, sự sự viên dung. Lại như Hoa Nghiêm pháp giới vô biên hương thủy hải, chẳng thể nói phù tràng Vương sát, tất cả hướng vào trong ấy, cùng lúc khơi mở ngay đây hiện thành, ngay đây thọ dụng, chẳng dùng mắt thấy, chẳng dùng tai nghe, chẳng dùng miệng nói chẳng do tâm biết, có chứng được chăng? Nếu cũng chứng được, thì chẳng cần biết ở thành phía Đông mới thấy Văn-thù, lầu các cửa mở mới tham được Từ Thị. Dám hỏi đại chúng. Thử nói tức nay là cảnh giới người nào? Sư đưa phất tử lên nói: Lô-xá bản thân toàn thể hiện, đương cơ ngay không mảy may. Đến Lạc phố Sư thượng đường nói: Vạn cây vinh quanh co một đường thẳng xa, vui thay nhà xưa ngủ lưng chừng núi. Sáng nay vui đến chỗ sâu xa, mất phen bay thơ mà bị nhục, rực rỡ núi đào giống lửa, tơ tơ khe liễu kéo vàng. Ngày ấm gió hòa yến anh ca hát. Cho nên không lìa điện Phổ quang, chẳng ra khỏi Bồ-đề tràng, dạo khắp cảnh Hoa tạng hải vô biên sát, tả hữu xuyên qua hang lớp lớp vô tận, mỗi mỗi đều giao la. Tạm làm như thế chỗ sâu xa của là Lạc phố, gặp mặt như Vô Tông Chánh Nhãn, quay đầu chỉ thấy núi non xanh. Lưu Thủ tọa lên pháp tòa nói rằng: Đường xưa thản nhiên qui tắt thật sự chẳng rơi rớt, kỷ cương được chỗ tiêu liễu tướng được người bên trong nghiêm túc, bên ngoài an ninh an cư lạc nghiệp. Lấy cõi đại thiên làm cảnh thật. Lấy mười phương Phật đồng một xá-na. Văn-thù Phổ Hiền giao thoa ánh sáng trùm nhau. Quán Âm Di-lặc múa quyền chắp tay. Lâm Tế Đức Sơn cùng giúp thành, mèo nhà trâu trắng rõ không quay lưng. Có thể diễn khúc vô sinh ca khúc thái bình. Tạm vượt tình lìa kiến một câu nói như thế. Người gỗ cầm ván vỗ trong mây, gái đá ngậm sên đáy giếng thổi. Sư thượng đường nói: Ba xuân đã qua, chín hạ mới đến, nhóm huyền đồ trong mây, quạt chân phong ngoài đời. Chẳng thu nhỏ một niệm, chẳng can thiệp ba kỳ, người đương thời tùy chỗ thấy thành, mỗi mỗi đảnh môn có mắt, nếu tiện thừa đương được như thế. Buông bỏ nắm chắc đều chẳng do người khác, nổi tan ngang dọc chẳng phải là ngoại vật. Nếu thượng lưu mà xét thấy chính ở nửa đường mắt sáng gặp nhau rất khó thấu suốt. Sơn Tăng tuy không có kiếm báu kim cương, nạp Tăng hướng thượng kềm chày. Xưa ở Ngũ tổ Bạch Vân lượm được mấy vòng kim cương, một giỏ gai bồng, trong chín hạ cùng các người cùng nhau mài cắt. Sư đưa phất tử lên nói rằng: Đại chúng có thấy không. Thử nghó: Cái đó là vòng kim cương là bụi cỏ bồng, chẳng cho kiến thức cạn cợt của nạp Tăng biết, chỉ cho các phương tác giả biết thôi. Sư lên pháp tòa nói: Đinh một trác hai bổn phận kềm chày, nắm tụ lại buông mở tác gia thọ dụng. Chấp nhận điều ô trược của trần thế ở chỗ vách đứng muôn trượng, chỗ vách đứng muôn trượng mà chấp nhận điều ô trược của trần thế, tự nhiên cùng buông ra cùng thâu lại, đến chỗ là điềm tốt lành, lại hiểu rõ chăng, hai tay mò trăng đáy nước, đùa hoa thơm đầy áo. Sư lên pháp tòa nói: Thái hư trống vắng, vạn tượng rậm rạp. Chánh nhãn rỗng sáng mảy may chẳng lập. Chỗ núi cao Tổ sư chẳng gần, chỗ phẳng lớn trời người cùng biết. Mở toang cửa giải thoát lớn mà biết lấy không mặt mũi. Lại thế nào là không mặt mũi. Hoa thược dược nở má Bồ-tát, lá tông lưu hiện đầu Dạ-xoa. Giải hạ Sư lên pháp tòa nói: Viên giác già-lam rộng mở cửa nẻo, tòa lớn Hoa Nghiêm sát hải đặt lại hiển. Thu lại thì trăm ngàn ức kiếp làm một niệm, há chỉ hạn định trong một trăm hai mươi ngày, kéo dài thì một niệm làm trăm ngàn ức kiếp. Thà luận đời này đời sau mới thấy chảy đá nung vàng, bỗng chốc ngọc nứt hạt châu. Thời tiết chẳng tiếp nhau, vật lý có thay đổi trở lại. Đang khi kiết hạ thì khắp trời đất cùng kiết hạ. Lúc này giải chế thì khắp trời đất cùng giải chẽ. Lúc kiết thì chẳng dính nhau, lúc giải thì chẳng lìa nhau. Đến chỗ ấy hãy thông một tuyến hiểu một cơ đi. Ông là ông, ta là ta, dài thì dài, ngắn thì ngắn, trong thì tự trong, đục thì tự đục. Trong ấy cũng không có tới lui, cũng không động chuyển mênh mông thái quân đồng về nhất trí. Sau đó mới nắm bắt buông thả được giải thoát lớn. Có nói ông là ta là dài là ngắn. Cùng lúc cắt đứt hết, lại mặc tình một câu nói gì. Vân tại lónh đầu nhàn bất triệt Thủy lưu giản hạ thái man sinh (Mây vờn đónh núi lờ lững hiện Nước cuộn lòng khe man mác trôi). Ngay năm đó Tạ Duy-na thượng đường nói: Rằng nấu vàng giủa ngọc, cần giúp tác giả kềm chày. Gánh giáo phò tông ắt giúp bổn phận huynh đệ, cùng là cánh tay lẫn nhau làm chủ khách, liền có thể hiển bày đại cơ phát ra đại dụng, rải mây lành, rưới cam lộ ngồi thuyền Từ quán quán bờ dứt, vượt sinh tử, vượt Niết-bàn khiến cho nạp Tăng thiên hạ kia phóng ánh sáng trên đảnh môn, dưới chân thì trải khắp, mọi thứ (người) đều như rồng như cọp, người người như ngọc chuyển châu về. Không phải chỉ phò giúp tòng lâm mà còn lưu thông Chánh nhãn, há chẳng phải là sự kỳ đặc sao? Dám hỏi đại chúng một câu kỳ đặc làm sao nói. Múa giỏi cần nên vô tay khoe, ba đài cần phải mọi người thuê đấy. Khai lò hương thượng đường, có vị Tăng hỏi: Người xưa nói: Gõ hư không phát ra tiếng, gõ gỗ không có âm thanh. Như thế nào là gõ vào hư không có tiếng? Sư nói: Thích-ca Lão Tử đến vậy. Sư lại nói: Ba đời chư Phật hướng vào ngọn lửa mà Chuyển đại pháp luân, phát sức nóng lửa gì sáng, là ba đời chư Phật nói pháp, ba đời chư Phật lập địa nghe, cũng phải chiếu cố lông mày. Nếu đúng thì hãy nghe thấu xương thấu tủy. Tin được và thấy thấu suốt, thì ngay đó cùng ba đời chư Phật đồng sinh đồng tử, cùng ngọn lửa sáng kia cùng khởi cùng tắt, ngay đây mà giải thoát được an ổn lớn. “Sự trục nhãn tiền quán” chinh là cái thế giới mát mẻ. Nếu chưa đúng thì chỉ biết quán, chẳng biết “Lão tùng đầu thượng lai” già đến từ trên đầu. Sư lên pháp tòa nói: Một mực chẳng như thế. Mắt nhìn Vân Hán chẳng thuận tình người. Một mực như thế. Chấp nhận sự ô trược của thế gian, kéo nước có bùn, trong như thế chẳng như thế là ở thấp mà bằng cao, trong chẳng như thế mà là như thế. Từ trên không thả xuống. Hoặc có như thế chẳng như thế, đều chẳng quản, cũng không sáng tối, cũng chẳng buông bỏ cũng chẳng nắm lấy. Thử nghó như thế nào? Đáo đầu sương dạ nguyệt Nhậm vận lạc tiền khế Sương trẹn đầu trăng đêm Mặc tình rơi xuống khe. Sư thượng đường nói: Trời lạnh người lạnh, mọi người ở trong đây, giọt nước giọt băng giá, không có công phu. Người ở trước sân bỗng tìm tâm không được, việc của nạp y, ai biết lửa đồng thiêu núi, ngàn vòng trăm lớp chẳng có rào ngăn, Hán đi Hồ đến dứt kéo lại. Tạm thời như thế là một câu chẳng lìa ngay đây. Hạc phi thiên xích tuyết Long khởi nhất đàm băng. Hạc bay ngàn thước tuyết, Rồng nói một đầm băng. Sư thượng đường nêu: Ngài Tuyết Đậu nói: Nghóa sinh trúng mùa, kiêm sinh bất hiếu. Ở dưới cửa nạp Tăng là buông bỏ hay nắm bắt. Nếu ai nói được thì ta nhường nửa viện cho. Sư nói: Tuyết Đậu thuốc hay trị nhiều bệnh, nhiều công hiệu mới truyền cho người. Trong đó nếu có người biết trúng mùa, biết tiết kiệm, biết buông bỏ, biết nắm bắt, cũng đâu cần phải nhường nửa viện cho y ở. Đốt hương phát nguyện, chỉ mong ông ấy sớm có viện để ở khiến thưởng thức chút mùi vị, tạm khỏi được kẻ cùng giả nấu kẻ đỏi giả nướng. Sư thượng đường nói: Khí trời ôn hòa, ánh sáng chiếu khắp mặt đất, mắt liễu mở toang, cành dâu phá nát. Cành hoa như gấm, chim hót như sáo. Đại triệt ngộ lỗ, tiếp nhận chẳng khắc tâm ấn, trăm đầu ngàn mối, diễn diệu môn chẳng nói. Trên mọi vật sáng, trên mọi đầu mà hiện, ngay chỗ đó hãy cắt đứt đi, lửa tắt chẳng cháy lại, ngay đó hãy tin hợp đi được hạt khô sinh ngoài vật, chẳng chịu lên đường thì tạm gác một bên, câu phương tiện dạy người làm sao nói? Về nhà tất cả đều là việc con cháu, Tổ phụ từ nay chẳng ra khỏi nhà. Sư thượng đường nói: Hai tháng rưỡi tốt đẹp, ăn ít gạo không muối, rau trên núi không cơm, nuốt cỏ lê, nhảy vòng kim cương. Phần ngoài mở gia phong, thời Tần nghiến nát dùi.  VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 3 THƯỢNG ĐƯỜNG 3 Thỉnh Thủ tọa thượng đường nói: Họp ngàn sai gồm vạn hữu, đồng qua lại ấn xưa nay, hỗn tạp có hoàn toàn sinh tử nêu lệnh chẳng phạm, làm giáo chẳng nói, đồng bất đồng, bình bất bình, ở đây mà kiến lập, ở đây mà biện minh, ở đây mà kỷ cương, ở đây mà biểu sư thì pháp nào chẳng dung, việc nào không thành, đức nào chẳng tròn, tâm nào chẳng khế hợp. Vả lại, gió thổi cỏ rạp một câu làm sao nói. Vì lên núi chín nhận, nắm đất định ngàn quân. Sư thượng đường nói: Trên răng sinh răng, trên sừng sinh sừng, trên cơ sinh cơ, trên khéo sinh khéo, mũi rắn độc gải ngứa, chim ưng đói cướp thịt, đáy giếng ngàn thước, cho trù tính, đầu gậy trăm thước làm nghề khéo nhét Tu-di vào hạt cải, ném đại thiên ra phương ngoài. Kỳ thì rất kỳ, diệu thì rất diệu tỉ mỉ kiểm điểm tương lai, như hướng trong đó, ngay đây giống như đáy thùng chảy ra. Ba cõi bằng phẳng được chìm trong ngơi nghỉ. Quá khứ từ quá khứ, vị lai do vị lai, chỉ nay thấy thành, ngồi cắt đứt đầu lưỡi người trong thiên hạ, có rõ ràng chăng? Thiền thanh bất đoạn tiền tuần vũ Điện ảnh hoàn liên hậu dạ lôi. Tiếng mái nhà không dứt mưa tuần trước, điện chớp liên hồi sấm trong đêm. Sư thượng đường nói: Nung nấu không chỗ tránh thấy thể thông đồng, gió nóng từ Nam đến vén tay áo riêng được. Các nóng không đến, các khổ không dư. Nên biết Phật tổ trong bờ cõi, có chuyển vật dụng về trời. Thế nên Tuyết Đậu nói: Mịt mù khắp nóng, lăng xăng tuyết rơi, ngược dòng bốn sông đội phát cỏ khô. Thử nghó: Ngay lúc như thế lúc thì làm sao? Tiếng ve luôn đến tai, bóng nhạn thoáng qua mắt. Sư thượng đường nói: Hoa nở thế giới bừng dậy, kẻ đạt biết trước, lá rụng liền sợ thu, Hiền Minh sớm ngộ. Huống là, nhạn liền bóng sông Tương, dế ve ngâm inh ỏi, thời tiết sáng tỏ kéo thời thu, rõ ràng sao bay điện chớp, đang lúc như thế thì làm sao, cơ quan rỗng rang. Vạn pháp vốn không, còn lưu thấy nghe, Trường An Chánh, ồn ào, nếu có thể khéo xem thời tiết, cầm dứt quan trọng, đường hoàng vượt Thánh vượt phàm, mỗi mỗi cỡi thanh che sắc, ở ngay chỗ đó mà bình bòa như thế làm sao một câu nói. Chí só tiếc ngày ngắn, người sầu biết đêm dài. Giải chế, Sư thượng tòa nói: Tầm thường một vị không quá cái thật thà, ngồi đoạn dứt ngàn sai khác, hãy nhìn lên cao, vách đứng vạn nhận sạch làu làu, ruộng bằng cỏ cạn, nơi cao vút nguy hiểm, ngay chỗ dùng phương tiện dạy người. Rất thống tráp phạm tay bị mũi nhọn làm tổn thương, muốn được hai thứ chẳng hại nhau, đều thỉnh nghỉ dẹp binh khí. Lại chín hạ thưởng công lao một câu như thế làm sao nói. Chỗ hiểm há từng quên nhìn gương, dọc ngang đất bằng đòi đề phòng. Sư lên pháp tòa nói: Đột xuất khó biện, kiến tánh chưa khỏi do dự, tiện tay nắm lấy, kẻ hậu học ai biết mối manh. Gió vàng quạt vật ngọc lộ châu bày. Nhạn qua khoảng không, dế ngâm tha thiết, mỗi mỗi đại triệt ngộ, sáng tỏ trăm vòng ngàn lớp, đầu cần gậy hét giao nhau mới luận chiếu dụng, ngay đây vực thẳm buông tay liền gánh vác. Lại có người nào chăng? Thấy nghóa chẳng làm không phải dõng só, lâm nguy chẳng đổi mới đáng sợ. Xem Tạng kinh Sư thượng đường nói: Khói lành uốn lượn, khí tốt hòa họp công án thấy thành, có ai gõ đánh. Bèn nói: Trong Trần Đại Kinh quyển không được bến bờ, người Tịnh nhãn thông huệ mới có thể nêu ra, được thẳng Nghóa thiên tánh hải, nếu đế võng bao trùm, trí chiếu thần quang như lò lớn lửa mạnh, ngày nay được gặp Hoàng Phong mênh mông, Đế đạo bình bình, có Đàn-việt đại tâm vì ông phát cơ, khiến mọi người đều mở được tám chữ, dù cho chỗ ráng trời mở ra, lúc lá ngọc mở ra. Văn thái đã rõ ràng đều phải dâng lấy. Tạm chẳng rơi vào bút mực một câu như thế làm sao nói. Một nhà gió lãnh đạm, ngàn xưa ý rõ ràng. Sư thượng đường nói: Một trần vào Chánh thọ, hết cả đại địa lạnh tỷ tê. Các trần Tam-muội khởi, khắp mười phương ồn náo mênh mông. Phân thân trăm ức chưa đủ là nhiều, ngồi thẳng nhà trống chưa từng nói tịnh, đảo ngược nó cuốn trải buông nắm. Bắt giữ mặc tình tha giết, dùng kiếm báu kim cương chặt đứt nghi tình, đem mũi nạp Tăng thoát cửa ải sinh tử, ngồi dứt bến yếu chẳng thông phàm Thánh, ngàn người vạn người bắt nhốt chẳng ở, trăm ngàn cảnh giới chuyển biến chẳng được, mới có thể làm Sứ giả Như Lai khắp hiện sắc thân khắp nơi. Thử nghó: Đang lúc như thế thì làm sao nói. Nhật dụng không trở lại, đương cơ có cuốn duỗi. Sư thượng đường nói: Vạn cơ chẳng đến, ngàn Thánh chẳng dắt, cắt đứt dây leo xốc ngược bày ra. Nếu cũng từ mầm mà làm đất, nhân nói mà biết người, cũng vào cơ thứ hai. Nếu luận về cơ thứ nhất thì thật không có việc như thế. Thử nói: Cơ thứ nhất lại tính kể so sánh được chăng, làm được hướng thượng hướng hạ chăng, làm được Phật tổ chăng? Đến chỗ ấy mà phải cần như thế? Siêu vượt cầm dứt việc quan trọng chẳng thông phàm Thánh. Nếu chưa nói được thì chẳng khỏi bỏ một tuyến đường. Hướng về Đệ nhị nghóa môn mà diễn nói chỗ không nói. Trong vô tướng mà hiện tướng. Ngay đây giống như trăng rằm, tròn sáng, một nhà ngàn đèn ánh sáng giao thoa nhau, thủy chung nhất quán trước sau không sai khác. Cũng phải là kẻ đồng đạo mới biết, người đồng được mới chứng. Lại cái gì là đồng được đồng chứng? Một lời vừa khế chứng, chưa ngộ đã biết trước. Tri huyện vào núi thượng đường niêm hương thị chúng rằng: Tay tin cầm đến, ánh sáng rực rỡ. Kết thì làm lọng, tan thì làm mây, lửa hướng vào lò trang nghiêm Tri huyện Tuyên Đức Nghiên Trí Đạo Nhân phục nguyện: Đạo tâm bền chắc, chủng trí viên minh. Bèn bày tòa ngồi vừa đến trên gấm bày hoa. Nếu nay bày hoa trên gấm, người sáng mắt hiểu được rờ nắm được chăng? Hãy bước ra đánh gõ xem. Sư bèn nói: Tâm chẳng phải Phật, nhận tâm trái tông, trí chẳng phải đạo, lập chí mất chỉ. Đạo vốn vô vi, Phật cũng vô tướng. Ở chỗ không tướng, không làm mà biện được thì tất cả các tướng đều là Phật, tất cả chỗ làm đều là đạo, nắm dây cũng là trời hồi đất chuyển buông bỏ cũng là giỏ thổi cỏ rạp. Nếu là hướng thượng thì lại chẳng rơi vào nghóa thứ hai thứ ba. Ngay đây một dao vào thẳng. Nếu hoặc còn vẻ sáng cũng vướng da dẻ, chẳng khỏi hướng trong đó mà nói huyền nói diệu, diễn Sự diễn Lý, đất gậy hét tiếng, nêu cổ nêu kim. Thử nghó: Sơn Tăng rốt ráo lấy gì vì người. Chẳng ở thời xưa không tướng mạo, ngoài tìm tri thức cũng chẳng chân. Sư thượng đường nói: Đầu non khơi sóng, đáy giếng bui bay. Mắt nghe giống như vang tiếng sấm, tai thấy như cẩm tú, ba trăm sáu mươi xương cốt mỗi mỗi đều hiện vô biên diệu thân, tám vạn bốn ngàn đầu lông, mỗi đầu đều rực rỡ Bảo Vương Sát Hải. Chẳng phải là thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải là pháp nhó như thế. Dầu có thể ngàn mắt mở nhanh, ngay đây mười phương ngồi dứt. Lại siêu nhiên độc thoát một câu như thế làm sao nói. Thử ngọc cần qua lửa, tìm châu chẳng lìa bùn. Sư thượng đường nói: Gió thổi, gió động không hai thứ, nước rửa nước ướt há hai thứ. Nghe cạn ngộ sâu là trên gấm thêu hoa. Nghe sâu chẳng ngộ là sắt đúc thành. Xuân tàn các mùi cỏ thơm đã hết. Đầu hạ cây cối tươi nhuận. Thởi tiết chẳng tha lỗi nhau, càn khôn được tự tại. Lại chẳng dính dáng đến mê ngộ, một câu như thế làm sao nói. Từ phương Nam bốc lên luồng gió thổi mát nhẹ điện lầu. Ngày sinh nhật của vua thỉnh, Sư thượng đường dạy chúng: Một câu lập tức cắt đứt nguồn cội. Chẳng mê muội thời cơ thì sinh ra các tướng thấy. Sư nói: Linh cơ rộng lớn như thế thì đâu có có thềm bậc, trí chiếu rỗng rang vốn không mê tối. Tất cả chỗ làm việc kỳ đặc chẳng động mảy may, dưới gót chân bày thân kiên mật, khắp cõi trần sa ngồi dứt ngàn còn đang sai khác. Đột xuất bốn oai nghi sao mượn bảy bước khắp đi. Mười thứ điềm lành, sáng tỏ dứt rò rỉ, rõ ràng không che đậy bao gồm cổ kim, ngang bằng vật ngã. Bình được đắc thất trộn lộn tới lui, rõ ràng ngay đây hiện thành. Đó là mặt mũi xưa nay chỉ như thấu suốt hình tiếng. Thử nói: Như thế nào mà thông tin. Có rõ ràng không? Một trần vừa khởi thì toàn thể hiện Ưu-đàm. Sư thượng đường nói: Câu thứ nhất giới thiệu được, Tổ sư xin mạng. Câu thứ hai giới thiệu được, trời người vỡ mật. Câu thứ ba giới thiệu được, trong miệng hổ xoay mình. Chẳng phải là theo đường giữ dấu, cũng chẳng phải đổi dấu dời đường. Thâu được thì sáu tay ba đầu, chưa thấu được thì cũng cõi trời cõi người. Thử nói một câu ngoài ba câu nói gì. Đời sống giới hạn chỉ ở trên sợi tơ xanh, trăng sáng con thuyền nhỏ lênh đênh Ngũ hồ. Sư ở Giáp sơn nhận lời thỉnh, bèn cầm thiếp dạy chúng rằng: Đại chúng, ngoài Hồ có tri âm, ngàn dặm thông tin tức. Qua Oai Âm Vương, ai hiểu biết đầu mối, có biết chăng? Trong đó mà phân biệt lấy. Nếu chưa đúng thì xin đối chúng nói lỗi. Sư thượng đường nói: Sổ tái bích nham tàng chuyết nột U thâm phạ thiếp tái nam tâm Nghiệp duyên khổ tử tương khu bức Tùy thuận hoàn tu quá đạo lâm. Mấy năm Bích nham dấu vụng về, kín sâu lại thỏa tâm tái lòng trở lại Nam. Nghiệp duyên khổ chết luôn bức bách. Tùy thuận lại phải qua Đạo lâm. Hai đường đều chẳng đi, hãy bước ra nói xem. Tăng hỏi: Trời được một gọi là Thanh, đất được một gọi là Ninh, nạp Tăng được một lúc ấy thế nào? Sư nói: Dấu mình không lộ bày. Lại nói: Binh theo ấn chuyển vậy. Sư nói: Một câu họp với lời. Lại nói: Ý khí chẳng từ trời đất được, anh hùng há đợi bốn thời suy (tôn). Sư nói: Hãy chiêm ngưỡng điều đó đi. Lại nói: Chỉ như trong Sớ giải nói: Chân tánh xưa nay chẳng giảm chẳng Tăng, tùy theo Đạo tràng mà vô quái ngại. Hòa thượng vì sao không ở Giáp sơn lại đến Đạo lâm? Sư nói: Chỉ vì hiện thành công án. Lại nói: Như thế thì Từ bi không bình đẳng. Sư nói: Chỗ nào không bình đẳng? Lại nói: Nghiệm ở trước mắt. Sư nói: Sai lầm cũng chẳng biết. Lại nói: Sư có nói ngoài Hồ có tri âm, ngàn dặm thông tin tức, chưa biết là tin tức gì? Sư nói: Chú ý. Lại cho Học nhân nói đạo lý không? Sư nói: Kêu mỗ, tức không kham nổi. Sư bèn nói: Trên đỉnh non cao mây ngủ, cô phụ Tiên Thánh, ngã tư đường rủ tay, chôn vùi Tông phong. Chẳng chọn lựa mà yên ổn, mất đi Chánh nhãn, chọn lựa lẽ ra can thiệp nhiều mối. Nếu là bản sắc nạp Tăng ngay đây một dao cắt đứt, không cái này không cái kia, lìa đi lìa ở. Sáng như trên cao, rộng như Thái hư. Tùy chỗ làm chủ, gặp duyên liền làm. Hãy ứng vật lợi sinh, một câu như thế làm sao nói. Bên ta không quay lưng, một dùi phá ba khóa (cửa). Sư lại nói: Mây mặc tình cuốn mở, đâu có kia đây, hang thần yên lặng sao còn cao thấp, dung thông vạn hữu mà trộn thành, ngồi dứt chức vụ quan trọng mà nhất trí. Trong trần kinh mãi chuyển đại pháp luân. Ngay câu nói phân thân, chỗ ấy sáng suốt rực rỡ, đó là thọ dụng tầm thường của nhà nạp Tăng, hoặc sờ trái đất như lúa gạo hạt lớn, ném ra phía trước mặt, tát Tu-di nhảy lên trời Tam thập tam. Thử nghó: Mây ấy mặc tình cuốn mở ở hang Thần yên tónh. Có hiểu không? Đi thuyền cần phải đem người lái. Đến Lương Sơn, Sư thượng đường nói: Đánh trống vải long môn, lửa sáng đom đóm ở Thái dương, đến đó mà được dấu thân không lộ. Còn có nhẫn giỏi chẳng cấm chăng? Sư bèn nói: Hang sư tử vô sinh gầm rống làm mọi loài kinh sợ, rừng chiên-đàn chẳng hai, gió thơm quanh tòa. Đến nỗi nói câu vượt ngoài vật tượng diễn chân thừa, đạo xuất cổ kim dụng hơn Phật tổ. Sơn Tăng đến trong đây làm sao mở miệng. Cái gọi là: Thấy điều chưa thấy nghe chỗ chưa nghe. Tuy là mượn đường đi qua, chẳng khỏi gặp nơi đùa giỡn. Này cổ nay kim, không kia không đây. Vừa rồi Giác hải nêu Giáp Sơn nói, Thái dương đầy mắt. Vạn dặm chẳng vương phiến mây, nước trong xanh cá lội tự mê. Trước mắt không có Xà-lê, nơi đây không Lão Tăng - Nếu có thể biết trăng mây là đồng, núi khe đều khác, liền thấy chỉ biết làm Phật, lo sầu gì chúng sinh. Như đây thì ba huyền ba yếu, tám chữ mở ra, ngũ vị quân thần hạ bút viết ra một câu. Mọi người lại thấy chăng? Hãy ló đầu ngoài trời xem, cần phải là người trong ấy. Đến Đức Sơn, Sư thượng đường nói: Treo cao tấm gương xưa bày muôn hình tượng trước đài, đặt ngang kiêm Mạc-da cắt đứt, các cơ ngay câu nói. Mở làm bể lò rèn, đoạt kềm chùy Phật tổ. Diễn chân phong thấy tánh, nối tông phạm viên minh, dù như trời khắp che, như đất khắp kín, đầu đầu vật vật minh minh, liễu liễu. Chức vụ quan trọng ngồi dứt mở tuyển Phật trường, đến chỗ ấy đâu có thể ăn hơi nuốt tiếng, chẳng khỏi mưa hoa, dâng nước. Này đại chúng, năm nay Thiền sư kiến tánh cầm một cây gậy trắng, Phật đến cũng đánh. Đến như cách sông múa quạt chẻ gỗ truyền tâm. Nham Đầu, Tuyết Phong nói mạt hậu cú, Động Sơn, Long Nha nói cơ tha, giết. Xưa nay tòng lâm lưu truyền phép tắc, mà nay đường đầu nối chân phong này, cắt đứt các dòng chẳng còn giọt nhỏ. Sơn Tăng may được thấy ánh sáng. Dám hỏi cảnh và người một câu tương xứng như thế làm sao nói. Năm khe trong bất tận, ngàn xưa đẹp chẳng thiếu. Sư vào viện, đến phương trượng nói: Lệnh của Ma-kiệt-đà Tỳ-gia- ly đã hiện thần thông, mà nay đều chẳng nêu lại, ngồi dứt ngàn sai nối Tổ phong. Lại ngồi dứt một câu như thế làm sao nói, đã nói ở trước. Sư thượng đường nói: Niêm niệm phục thử ly thanh chương Túc túc thanh thu độ bích tương Cổ điện đam đam tùng Tăng mật Vô trần kim địa túc thanh lương. Nóng bức nắng lên lìa núi xanh, vắng vẻ thu trong qua sông biếc. Điện xưa vui tươi tòng cối rậm, đất vàng không bụi rất mát mẻ. Đã đến đó còn có bản sắc nạp Tăng chăng? Hãy bước ra cùng nhau chứng minh. Tăng hỏi: Ngài Hoàng Bá nhân Bùi Tướng quốc khen ngợi tiếng hay càng cao, ngài Đại Điên được Hàn Văn Công mà tiếng tốt càng vang xa, chưa biết Hòa thượng có ân về người nào? Sư nói: Ai đem mắt cá so với hạt minh châu. Lại nói: Nếu thế thì từ đây mong nghe tiếng thiên hạ. Sư nói: Lui thân có phần. Lại nói: Hôm nay Hòa thượng thêm được một lớp sáng rực rỡ. Sư nói: Thêm được chỗ nào? Lại nói: Đầu hổ mang sừng ra cỏ hoang. Sư nói: Kî nhất họp đầu ngữ. Sư nói tiếp: Pháp vô tướng trụ, nếu chấp tướng là trái tông. Đạo chẳng dối làm tùy thực hành mà lộ bày. Nên biết rằng trong vô trụ mà trụ, trong vô hành mà hành. Rộng như Thái hư, sáng như mặt trời sáng. Vạn tượng chẳng thể che dấu, ngàn Thánh đâu có thể so sánh được. Một trần bay mà mù trời, một hạt cải rơi mà che đất, một hoa nở mà thấy Phật, một chiếc lá rụng mà biết thu, vật vật đầu đầu sáng tỏ làu làu. Sự có ngàn sai khác, Lý chí về một thôi. Cần là bậc tài giỏi thông đạt mới giải, chứng minh, chẳng thấy đạo. Hết cả càn khôn đều là lò là Sa-môn một con mắt. Lại nói: Hết cả đại địa nắm lại như hạt gạo lớn, không phải là thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải là bản thể như nhiên. Đến chỗ này gặp duyên tức là tông, tùy chỗ mà ứng cơ. Hãy đến núi một câu như thế làm sao nói. Cổ điện dựa bụng núi, đường mới mây uốn quanh. Lại nói: Chư Phật không ra đời, nói pháp bốn chín năm, thì Oai Âm về trước không có liên quan. Tổ sư chẳng từ Tây trúc đến, Thiếu lâm có Diệu quyết. Đạt-ma một tông quét sạch Tịnh độ. Nếu người biết Tổ Phật, không diện mục chỗ nào biết nó, ngay đó liền vượt thoát. Trước Tam môn là Phật điện, sau là phương trượng Tẩm đường. Ở bên phải trù khố, Tăng đường như thế làm sao nói ngay chỗ đó mà vượt thoát, có hiểu rõ chăng? Buông tay đến nhà người mà chẳng biết, lại không một vật hiến Tôn đường. Ngày mồng 01 tháng 08 ở chùa Thiên ninh khai đường Sư cầm sớ nói: Đại chúng thấy chăng? Cái đó nêu được Chánh pháp nhãn tạng, sáng tỏ không che dấu. Đại sự nhân duyên rõ ràng sinh ánh sáng. Nếu chưa được thế thì xin bạch ra đối chúng nói lỗi. Nói sớ xong. Sư chỉ pháp tòa nói: Đại chúng nhờ tòa lên ngôi vua là phép tắc khuôn phép của người xưa. Lập tức định đoạt cơ phong hôm nay. Cần làm sáng uyên nguyên của Phật tổ, phải đạp trên đỉnh Tỳ-lô. Bèn lên tòa niêm hương rằng: Một nén hướng này kính chúc nguyện Thánh thọ của Kim thượng Hoàng đế. Phúc nguyện: Kim luân luôn ngự mãi, vận nước thịnh vượng hoài. Chầu Bắc cực mà xưng tôn quý, thành không giới mà di cố. Nén hương thứ hai kính vì các quan đại phu hai sảnh trên hầu cận vua, dưới vỗ yên dân… ở tòa đều được huân quý, phục nguyện: Đủ bộ xem thì Bát Tọa Tam Thai, giản Đế Tâm thì diêm mai mưa dầm. Nén hương thứ ba, ngàn Phật ra đời người nào đánh giá, Oai Ân bờ kia ai làm mánh khóe (đoàn nghê). Năm xưa mây trắng một câu mà gánh vác, ngày nay đầm thành thứ ba lại đưa mười hai. Kính vì Trác châu núi Ngũ tổ đời thứ mười hai Cố Diễn Thiền sư. Để đáp tạ Pháp Nhũ bèn vén áo ngồi xoạt. Thiên Ninh Hòa thượng đánh kiền nói rằng: Bậc kiệt xuất trong tòng lâm nên quán, Đệ nhất nghóa. Sư nói: Cái Đệ nhất nghóa đến nổi tám mặt linh lung, như ấn in trong không như ấn in dưới bùn như ấn in trong nước. Làm sao nói năng. Sớm là rơi vào thứ hai thứ ba rồi vậy. Chớ có đủ thấy nhãn quang liền mời bước ra nêu bày xem - Tăng hỏi: Thấu ải Bạch vân đeo ấn Huỳnh mai. Nắm Chánh Linh Dương Kỳ khôi phục làng xưa Từ Minh - Lâm Tế Tam huyền của Lâm Tế thì chẳng hỏi đỉnh cao Diệu phong việc thế nào. Sư nói: Thấy mặt trình nhau không quay lưng. Lại nói: Thiện Tài bảy ngày không gặp thì tạm gác một bên. Văn- thù vì sao trăm kiếp tìm tòi mà chẳng dính mắc. Sư nói: Ông thấy chỗ nào là Văn-thù. Lại nói: Một câu mà vượt ngoài ngàn Thánh, khắp chỗ ngồi nhìn thấy toàn tri âm. Sư nói: Chỗ cao cao xem chẳng đủ, chỗ thấp thấp bằng có dư. Lại nói: Vì sao trăng trên sông Tiêu tương chiếu phá thu Bích nham. Sư nói: Cần phải gấp để mắt mới được. Lại nói: Chỉ như hầu giảng ngày xưa có thi đạo, giải lời là không lưỡi, Lão Tăng không phải ở trong đây đang lúc như thế thì làm sao? Sư nói: Biết tâm có mấy người? Lại nói: Khiến người chuyển nhớ Bàng cư só, trên trời cõi người chẳng thể gắn đôi. Sư nói: Tức bị Xà-lê nói dính mắc. Sư bèn nói: Đại đạo không quay lưng đến lý dứt nói năng. Ra khỏi ba thừa, vượt cao mười địa. Vạn pháp chẳng đến chỗ, càng thêm ánh sáng sinh. Phật lúc chưa phân linh nguyện riêng chiếu. Chẳng rơi vào thấy nghe, chẳng tùy theo thanh sắc. Ngay đó không một mảy may, khắp cõi toàn bày sự kỳ đặc. Cho dù đầu gậy thủ chứng ngay tiếng, hét mà thừa đương, còn là phương tiện thuyết pháp. Lúc này lại hoặc quang cảnh đều quên khế hợp với tâm bình đẳng rốt ráo cũng không phải chỉ. Do dó nói: Con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, kẻ học nhọc thân như khỉ ôm bóng. Đến chỗ này thì Lý, Hành, Quyền tất cả đều dứt. Ngay đây giống như Ỷ thiên trường kiếm lẫm liệt thần oai phong, như cơ trâu sắt bằng cầm nhốt chẳng ở. Ngày nay may đối trước người mắt sáng, chẳng dám đắp che dấu diếm tám chữ mở toang. Sư đưa phất tử lên nói rằng: Có hiểu rõ chăng? Chiếu sáng từ xưa đến nay, đại thiên sa giới lộ toàn thân. Lại nói: Đại chúng, ngày xưa ngài Tuyết Phong đưa gậy dạy chúng rằng: Ta trong ấy vì người căn cơ Trung hạ. Lúc đó có Tăng bước ra hỏi: Bỗng gặp người căn cơ thượng thượng lúc ấy như thế nào? Tuyết Phong nắm gậy. Vân Môn nói: Ta chẳng giống Tuyết Phong đánh phá những ngôn ngữ ấy. Bèn cầm gậy nói rằng: Ta lúc đó vì người căn cơ trung hạ. Lúc đó, có Tăng hỏi: Bỗng lúc đó gặp người căn cơ thượng thượng thì thế nào? Vân Môn liền đánh. Sư nói: Đại phàm phò tông lập giáo cần phải đảnh môn mà con mắt, dưới tay chân có bùa. Xem hai bậc Lão túc ấy dọc ngang tha giết, ẩn hiện cuốn mở rất kỳ đặc, kỹ lưỡng kiểm điểm tương lai cũng là ngoài hóng mắc sinh cành. Nếu căn cứ vào chỗ thấy của sơn Tăng. Bèn đưa gậy nói rằng: Sơn Tăng chỉ đem cái này, khắp vì mọi người, không kể là thượng, trung, hạ. Nếu cần gõ mở thì một mực gõ mở. Nếu cần gánh vác thì một mực gánh vác. Nơi nơi cầm chấm dứt việc quan trọng, mỗi thứ là vách đứng ngàn nhận. Thử nghó bỗng gặp người trong ấy đến thì như thế nào - vạn nước say tâm mê đảnh lớn, gặp nhau tay dắt lên đài cao. Tạ giám tự thượng đường nói: Giọt nước sinh băng, thì sắt làm xương sống, vàng đúc tâm bền chắc, gánh vác tòng lâm, phụ giúp tri thức, đúng pháp điển hình, ngay đây đoán thử là người gì? Gặp nhau thấy nhau cười ha ha, lại có xuân, gió xuân lại xuân. Hy Vận phán thỉnh, Sư thượng đường dạy chúng: Kinh quần địch thắng nãi anh linh Phật tổ đương cơ quý kiến thành Hạnh ngộ thông nhân vi chứng cứ Hà phương xuất chúng quyết nghi tình. Kinh quần địch thắng là anh linh Phật tổ đương cơ quý thấy thành, may gặp thông nhân làm chứng cứ, sao ngại xuất chúng giải nghi tình. Tăng hỏi: Bàng cư só viên cơ như gió thổi lửa bùng. Mã tổ Đại sư biện nhanh như dòng nước chảy xiết, hai người ứng đáp nhau có hơn kém chăng? Sư nói: Thông thân đúng hay khắp thân đúng. Lại nói: Một chày đập nát đi. Sư nói: Chớ nhận lầm. Lại nói: Chẳng cùng vạn pháp làm bạn là người gì? Sư nói: Câu hỏi từ đâu đến. Đáp: Tin tức tốt. Sư hỏi: Nói gì? Đáp: Chỉ như một hớp uống hết nước Tây giang, còn là thế nào? Sư nói: Mặt trời lên cao ánh sáng đầy. Lại nói: Đem làm bao nhiêu sự kỳ đặc. Sư nói: Ông lại làm gì. Đáp: Thấy mặt trình nhau. Sư nói: Chê trốn lông mày. Sư bèn nói: Minh minh: Bất thoái chuyển, lịch lịch vô sinh nhẫn. Thống nhiếp vạn hữu ngậm nhả mười hư, lìa thấy dứt nghe vượt thanh vượt sắc. Nếu bảo tức tâm tức Phật, như trên đầu thêm đầu. Lại bảo không tâm không Phật, giống như trừ sạch bọt nước tìm lửa, vượt ngoài hai bên chẳng rơi khoảng giữa. Sạch làu làu không sót, sáng rực rỡ toàn bày. Thế nên người xưa nói: Linh nguyên bất muội, vạn cổ đạo đức tốt. Vào cửa này chớ còn hiểu biết. Đến chỗ ấy mảy may chẳng lập, khắp cõi chẳng chưa. Vạn phái triều tông ngàn sai cùng vết xe. Dù cho Oai Âm Vương về trước. Cho đến tột cùng bờ vị lai, chẳng một mảy may dời đổi, sử dụng thì thấy thể toàn chân đem lại, đương cơ dứt ngay. Chỉ như hôm nay tuyển chọn Phật trường mà diễn Tối thượng thừa. Thử nghó: Một câu trốn nghiêm như thế làm sao nói. Trong cung Từ Thị đường đài thấy, khắp cõi toàn bày thân Diệu tịnh. Lại nếu: Càn Phong dạy chúng rằng: Nêu một chẳng được nêu hai, bỏ qua một phen rơi vào thứ hai. Vân Môn Đại sư ra chúng nói rằng: Hôm qua có người từ Thiên thai đến, liền đến Kính sơn. Càn Phong nói: Điển tọa ngày nay chẳng được mời chư Tăng tập trung làm việc. Sư nói: Trong điện chớp sáng lòe mà mở mắt, trong đánh đá lửa mà xoay mình. Càn Phong đã cây sắt sinh hoa. Vân Môn cũng là lò hồng nổi trống, quyền cước tương ưng, hát vỗ theo nhau bảo rằng: Cần nói (rõ) việc gì, phải là người nào nếu là người nào phải hiểu việc gì. Chi như ngày nay sáng lớn khắp chiếu Thượng căn viên chứng, làm duyên thù thắng hiện việc kỳ đặc. Lại nói: Cùng Vân Môn và Càn Phong là đồng hay khác. Chẳng gặp người khác chẳng múa quyền, một gặp tri âm liền giao phó. Sư thượng đường nói rằng: Cây tàn lá rụng đầu đầu thể lộ gió vàng, biển rộng trời cao nơi nơi trăng sáng đêm thu. Phật tổ đề chẳng khởi, đánh hét dùng chẳng được nước đá trong lạ lung linh tâm ấn, toàn bày tiêu sái trên đỉnh núi cao, cao tột môn đình, thành kiến mà an cư lạc nghiệp. Thì thôi đi. Đại chúng vân tập lúc đó thế nào? Rộng mở cửa nẻo đón mời nhau, cơm canh đạm bạc giữ được tịch liêu. Sư thượng đường nói: Chỗ sâu lắng không một vật so sánh được, chỗ cạn cợt hai tay cùng phân phó, dùng một thống mà xuyên qua vạn hang ở đầu lông mà thêm ngắn cắt dài, nắm cân thước ở trong tay mà đổi lấy đầu lâu. Lại mang giày đãy đến một câu nói làm gì? Ý khí chẳng từ trời đất được, anh hùng há mượn bốn thời dời đổi. Châu Thị Ngự thỉnh Sư thượng đường nói rằng chúc một người sống lâu vô cùng, mở mười phương tuyển Phật trường, lập duyên thù thắng làm việc kỳ đặc. Cần phải làm gã Tác gia cùng nêu bày mới được. Tăng hỏi: Thu đi đông đến vội vả trôi qua, lưu lại năm ngày tháng tín không nhiều, quyết bỏ huyền sa ba thứ bệnh, chén trà Triệu Châu như thế nào? Sư nói: Bỏ đi thâu lại. Lại nói: Cầu tin Phật thiên chân, hưng Bi mấy vạn thứ. Sư nói: Một điểm nước mực. Lại nói: Cho dù được chút ngọt về răng má, đã vượt núi mật rất ngọt. Sư nói: Cần phải thấu suốt cửa Triệu Châu. Lại nói: Chẳng phiền Ngụy Đế một hoàn thuốc. Sư nói: Thiên hạ nạp Tăng thủ tắc. Lại nói: Lão Triệu Châu cũng là người dùng phương pháp giáo hóa, không biết môn hạ Đạo Lâm là người thế nào? Sư nói: Chém đinh chặt sắt. Lại nói: Có thể nói là một đương cơ nhanh như sấm, mở con mắt thước ca-la trên đảnh môn. Sư nói: Rõ ràng nhớ lấy. Sư lại nói: Huyền cơ thấu suốt, chứa vạn vật ở trước mắt, chí lý cao sáng, gặp ngàn sai ở vật biểu. Một sáng tất cả sáng, một thấy tất cả thấy, một dụng tất cả dụng, một nói tất cả nói. Ngay đây mà dứt hết căn nguyên, tự tánh hiển bày. Nếu hay ở đây mà thấu suốt, ở dưới gót chân mình một đoạn Đại sự, sáng như mặt trời sáng, rộng như Thái hư, thì mới có thể tu thân, mới có thể kiến tánh, mới có thể chúc một người sống mãi mới có thể trồng nhân cao quý vị lai. Thế nên ở Linh sơn cầm hoa, Ca-diếp móm cười, Thiếu lâm xoay mặt vào vách, Thần Quang truyền tâm. Do đó ở khoảng giữa như đánh đá lửa, như ánh chớp lóe. Phải là người kỳ đặc mới biết được bổn phận sự. Phải biết bổn phận sự, trả lại họ con người kỳ đặc. Chỉ như ngày nay bổn phận kỳ đặc một câu như thế làm sao nói? Rau quì hoắc đồng nghiêng ngã cao chúc vạn năm xuân. Sư thượng đường nói: Huyền huyền huyền rất mập mờ, liễu liễu liễu mất biểu thị. Có sinh có diệt trái lại trái nhau, chẳng đi chẳng đến bày vẽ. Chẳng khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi, chẳng bỏ pháp phàm phu mà tu các thắng hạnh. Vả lại đạo là buông bỏ hay nắm bắt. Tùy bậc nhận được tánh, không vui cũng không buồn. Sư thượng đường nói: Lá rụng biết thu, gảy đàn biết khúc. Định Quang cầm tay, người trí gật đầu. Thừa đương ở văn thái trước khi chưa sinh, chiếu nhau đến thị phi đắc thất. Không liên hệ đến góc cạnh nhỏ làm sao thông tin Vạn cảnh không có hình tượng, mây côi vốn vô tâm. Đàn Việt thỉnh Sư thượng đường, Tăng hỏi: Giáo nói phần đầu ngày, phần giữa ngày, phần cuối ngày đều lấy hằng hà sa thân mà bố thí. Thế nào là phần đầu ngày hằng hà sa thân mà bố thí? Sư nói: Biển lớn nếu chẳng chứa trăm sông phải chảy ngược dòng. Hỏi: Như thế nào là phần giữa ngày hằng hà sa thân mà bố thí? Sư nói: Thấy (kiến tánh thành) thành công án. Hỏi: Như thế nào là phần cuối ngày hằng hà sa thân mà bố thí? Sư nói: Hết cả vị lai thâu lại cùng một lúc?. Sư lại nói: Mặt trăng mặt trời châu hồi ngọc chuyển. Hữu cú vô cú tợ đến, sợi đi. Thiền Như Lai là trước khi cha mẹ chưa sinh, ý Tổ sư là đáy giếng dậy bụi hồng. Người thấu được thì ngay câu quyền thật đều sáng, kẻ chưa thấu thì cát đằng trong lỗ mai một. Thấu được hay không thấu được khi không như vậy thì làm sao được? Gió thơm từ Nam lại, điện gác có hơi mát. Kiết hạ Sư thượng đường nói: Vượt qua mười Địa, chẳng trải Tăng kỳ, vật ngã nhất như, thân tâm bình đẳng, chẳng cùng vạn pháp làm bạn, chẳng cùng ngàn Thánh đồng đường, làu làu luôn sáng hiện tiền, nơi nơi vách đứng ngàn nhận. Dù thấu suốt, Oai Âm Vương về trước. Cũng là việc ở bên này. Lại Lý theo Sự biển đổi mà ứng vật ứng cơ. Hoặc hiện mười thứ thân tha thọ dụng, hoặc hiện ba thước một trượng sáu. Có lúc trên đỉnh núi cao mắt nhìn mây trời có lúc cỏ ít ruộng bằng dọc ba ngang bốn. Cũng chỉ là việc bên ấy. Chỉ như chẳng động bước mà khắp châu sa giới, chẳng khởi niệm, mà trùm khắp con người trong mười hư. Thử nói: Chín tuần ba tháng có kiết hạ không. Mây trắng từng cụm bay trên đầu núi. Nước suối rì rào chảy dưới khe. Sư thượng đường nói: Trăng tròn là vọng, trăng khuyết là sóc. Chém đinh chặt sắt, dãy núi có nhiều ngọn. Tiểu thừa xâu tiền, Đại thừa kéo giếng. Lọt qua là vợt tre, không lọt là muỗng gỗ. Câu định rồng rắn toàn là tha giết. Rải đi các phương mặc cho phê bình bác bỏ tham. Đặng Khu Mật tâu vua, ban tử y cho Sư. Sư thượng đường niêm hương: Một nén hương này, kính chúc nghiêm Kim thượng Hoàng đế. Phục nguyện: Nghiệp vua dài lâu, vận nước hưng thịnh. Có ức vạn năm Thánh thọ thịnh mãi. Kế niêm hương: Kính chúc hai phủ Khu Mật tướng công. Phục Nguyện: Ba việc lâu dài, mãi mãi ở Nham lang. Tuổi thọ sánh bằng tòng cao, phước lộc nhiều như biển lớn. Sư thượng đường Tăng hỏi: Danh của Sư xa ban. Toàn đề đại cơ Phật tổ, áo dâu mới khoát, riêng bày Chánh nhãn trời người. Trăm vòng ngàn lớp thì tạm gát lại. Trên đỉnh núi cao việc như thế nào? Sư nói: Hoa Ưu-bát-la nở trong lửa. Hỏi: Chỉ như điềm báo trước chưa phân rõ ràng về trước thì mặt mày như thế nào? Sư nói: Nó không mặt mày. Lại nói: Khi rồng được nước thì thêm ý khí, lúc cọp gặp núi thì khí thế dữ dằn. Sư nói: Ai chẳng như thế. Lại nói: Không sinh nếu giải như ngồi trong núi, sao được hoa trời động đất. Sư nói: Tức bị Xà-lê khám phá. Hỏi: Thánh minh thiên tử chưa biết lấy gì báo đáp? Sư nói: Tâm này ngoài tâm lại không tâm. Hỏi: Lại cho Học nhân xoay mình nhả khí chăng? Sư nói: Ông cố gắng làm gì? Lại nói: Ba việc nạp y ngoài núi xanh, một lò nước trầm trong mây trắng. Sư nói: Mọi người khen ngợi. Sư bèn nói: Đại đạo dứt rào ngăn, có ai đến được, hư không chẳng quay mặt, nơi nào mà chạm khắc. Oai Âm Vương, vượt cao Tỳ-lô đảnh. Ngay đây mà được dứt trần dứt tích, lìa tướng lìa danh, miệng biển chẳng thể nói, mắt Phật nhìn không thấy. Mà sao: Trong núi ngồi yên các trời mưa hoa, tinh thất đóng cửa Phạm âm an ủi khuyên dụ. Xa nương một người tạo lớn, đặc biệt giúp cho Tể phụ nung đúc. Áo dâu tiếng Sư vang đến hang núi. Đã thế từ trời giáng xuống, Lý ưng ngay đây gánh vác. Núi đá sáng rỡ lâm loạn càng thêm đẹp, gió thổi cả rạp nước đến thì sông thành. Do đó mà mở rộng cửa giải thoát, hiển bày Chánh pháp nhãn, hát khúc vô sinh, ca bài Thái bình mà vui hóa vô vi. Lại hiểu rõ chăng? Hoa Ưu-bát-la nở - Dính thúi khí không thơm là tên ở phủ Khu Mật. Ân từ chín trời đến, cỏ cây sinh ánh sáng lân rồng chẳng phải điềm lành, thề hăng hái tâm sắt đá. Kính đáp Tuệ núi gì. Cử Thái Thủ tọa lập Tăng. Sư thượng đường Đại nhân đủ Đại kiên, Đại trí được Đại dụng. Một bay thì sáu tháng nghỉ, một dạ thì nặng ngàn vàng. Mênh mông ắt sông biển, cao ngất ắt núi nong. Tri trước biết chưa tri, giác trước biết giác sau. Mở mang kho vô tận. Lấy ra châu vô giá. Chẳng nương nhờ một vật, hiển bày người xưa nay. Tắm Phật, Sư thượng đường nói: Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Rốt hết một cơ nạp Tăng nắm mũi, từng bước hoa sen chậu vàng tắm rửa. Tây Vức Đông Độ cùng lưu truyền. Đến nay khắp nơi đốt nước thơm, giây lâu Sư nói: Xe kia không đẩy ngang. Lý chẳng cong dứt. Rồi Sư xuống tòa. Lưu Đề thỉnh Sư thượng đường nói: Trí sáng Bát-nhã phá đường mê sinh tử, kiếm báu kim cương, chặt lo kiết sử buộc ràng. Chỗ thấu suốt một niệm không nhiều, nơi thọ dụng toàn thân có mắt. Thẳng được như trời che khắp như đất động khắp, như mặt trời chiếu khắp, như gió mát khắp, một sợ tơ chẳng dời một hạt bụi nhỏ không mù. Do đó mà nói: Tất cả pháp chẳng sinh, tất cả pháp chẳng diệt, nếu có thể hiểu như thế thì chư Phật luôn hiện tiền. Lại nói: Chưa đạt cảnh duy tâm nên khởi các thứ phân biệt. Thấu cảnh duy tâm rồi thì phân biệt liền chẳng sinh, ở trong pháp không sinh phân biệt mà nhận lấy hay không nhận lấy, chẳng dời đổi, vô cùng vô tận, thanh tịnh vốn thế cùng khắp pháp giới tự tánh xưa nay. Nếu hiểu được, lúc trời đất chưa phân sinh Phật chưa lập. Cho đến kiếp hỏa rỗng không, đại thiên đều hoại. Ở trong đó không một mảy may lay động, không một mảy may khởi diệt, không một mảy may Tăng giảm, không một mảy may tươi héo. Nếu có thể như thế mới biết đề cử triều nghị, chưa từng diệt, chưa từng thiếu, chưa từng dời, chưa từng đi. Lại riêng vượt ngoài vật một câu như thế làm sao nói? Chỗ chín sen khép mở, trăm báu tự trang nghiêm. Đứng lâu, xin trân trọng. Giải Hạ, Sư thượng đường nói: Diệu Tịnh Minh Tâm vốn không dài ngắn, kim cương Chánh nhãn há có khai giá. Mảy may chẳng dời đổi, xưa nay riêng bày. Lý tùy Sự đổi, Sự đuổi theo Lý dung. Tùy chỗ tác tâm ứng sở tư lương. Bèn có xuân hạ thu đông, sinh trụ dị diệt. Từ vô trụ vốn lập tất cả pháp, dùng dụng vô công mà thành tất cả sự. Câu tạm tùy duyên bất biến như thế làm sao nói. Gió thu thổi tám cực, cây ngã lộ ngàn núi. Sư xuống tòa. Sư thượng đường nói: Phật xưa có thông tân, rõ ràng nói xưa nay. Vực thẳm buông tay, một lời nói thẳng ngàn vàng. Tham. Sư thượng đường nói: Gậy đánh miệng hét, kéo đá dời đất, xương voi côn cầu, lúa núi đánh trống, đỉnh Ngụy chăn trâu, Huyền Sa thấy cọp, uống trà Triệu Châu, Lỗ Tổ xây mặt vào vách, đâu giống ông già Vân Môn hai mươi lăm tháng mười hai. Tham. <篇> <卷>QUYỂN 4 THƯỢNG ĐƯỜNG 4 Sư nhận thỉnh của Đạo Lâm tại Đàm châu. Sư cầm sắc vàng dạy chúng rằng: Rồng cuộn phụng bay. Vách sắt móc bạc. Ban ra từ Cửu trùng, từ trời giáng xuống. Đại chúng chiêm ngưỡng thỉnh vì tuyên bày. Sư cầm hương chúc Thánh rằng: Đại chúng thấy chăng? Phật tổ đồng cội gốc, trời người cùng ngợi khen, kết thành lọng báu, mây lành cùng chúc Thánh thọ như Nam sơn. Kính chúc Kim thượng Hoàng đế vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế. Phục nguyện: Đạo vượt Bàn cổ, đức hơn Hy hiên. Vị bền chắc hơn Kim luân, thọ dài lâu hơn kiếp thạch. Sư thượng đường nói: Này đại chúng! Lúc bình thường thì đạo thạnh, trời trong đất an, một người chắp tay cao không làm, vạn vật đâu vào đấy. Cùng trời khắp đất đều nhờ ân, thuyền biển thang núi đều mong nắn đúc. Thẳng được trần trần sát sát vật vật đầu đầu, phóng sáng báu lớn mở mắt Chánh pháp vận sức Bát-nhã vận phong thái cổ, biết ân báo ân một câu như thế làm sao nói. Vạn linh khó biết vô vi hóa, khắp nơi đều nở hoa năm cánh. Đạo Lâm từ giả chúng, thượng đường nói: Mười hư đồng một bọt nước làm sao chìa ra kia đây được, đại thiên đồng một hạt bụi há có thể lui tới. Nếu các người đều như thế thì thấy rõ bản tâm, phô bày diệu dụng, cả trời động tịnh nhất như. Khắp mặt đất gió sáng, kia đây chẳng hai. Trụ thì mây ngưng ở hang sâu, đi thì thuyền trôi lênh đênh ở Trường giang. Đi đứng vốn tự viên thành, giải thoát lại không đường khác. Như thế thì toàn khởi toàn diệt, toàn động toàn tịnh, toàn tới toàn lui, toàn nắm toàn buông, hãy ra cửa một câu như thế làm sao nói? Đầu đầu vật vật đều thành hiện, Chánh nhãn rõ ràng Thái hư rộng lớn. Lại nói ba năm nhân thiếu may tham bồi, đạo nghiệp hoang hư thẹn bất tài. Mời đến từ đây ngoài trời nhé, lúc nào cùng nhau lại bồi hồi. Sư vào viện đến phương trượng nói rằng: Đạt-ma quay mặt vào vách, Duy-ma lặng yên có điều vin điều, há lại có hình dạng nói năng. Tuy như thế mà thoát thể mở lớn môn Bất nhị, chỉ cần mở dán bỏ buộc - Sư thượng đường nói: Đạo chẳng dối làm như gió đè cỏ, duyên chẳng dối ứng như gương chiếu hình. Nếu có thể ở tâm mà vô tâm, ở mình mà không mình, ở kia mà không kia, ở ngã mà vô ngã, mênh mông rộng khắp châu sa giới, đều chẳng ngoài vật mà trải dấu, hết cả càn khôn đều trước mắt. Pháp tùy pháp hành, pháp tràng tùy nơi lập. Lý cũng như thế, Sự cũng như thế. Huống là Bảo Công Đạo tràng thời Lương bày hóa, mở rộng phước vua, Thánh thế trùng hưng. Rộng mở tuyển Phật trường, tuyên nói Đại Bát-nhã. Ở trong đó làm gì mà tâm với vô tâm, mình với không mình. Một câu ngồi đoạn việc quan trọng, chẳng thông phàm Thánh. (Tam sơn bán lộ thanh thiên ngoại, Nhị thủy trung phấn bạch lộ châu) Ba núi rụng nữa ngoài trời xanh, hai nước ở giữa bãi cò trắng. Kiết Hạ, Sư thượng đường nói: Một hạt bụi bao trùm vô biên pháp giới kiểm điểm kỹ còn thiếu không trong chỗ đó. Trăm ức sợi lông sư tử, trăm ức sợi lông cùng hiện một lúc, trược thật luận lường chưa phải là nói cứu cánh. Nếu luận về bổn phận sự thì Đại nhân đủ Đại kiến, Đại trí được Đại dụng. Giả sử vô biên biển hương thủy vượt bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, đều là (đô lô?) Chỗ an cư của mình, nêu một niệm siêu việt vô biên sát hải, cũng chưa phải là hành vi của nạp Tăng, chẳng phạm mũi nhọn, chẳng bất đắc thất, chẳng rơi vào hai kiến, chẳng ở khoảng giữa. Đang lúc như thế thì thế nào. Trong núi chín mươi ngày, ngoài mây mấy ngàn năm. Sư thượng đường nói: Pháp không hai tướng, đạo há có nhiều đường. Kia đây dứt công huân, xưa nay chẳng dời đổi, có nương nhờ cái gì. Ngọc bích rơi khoảng trời xanh, không nương nhờ gì, núi bạc vách sắt. Nếu thần thông diệu dụng trăm vòng ngàn lớp, sao bằng dứt kiến quên cơ, ngồi nhà yên ổn. Lại chẳng đi hai đường một câu như thế làm sao nói. Nhà khác tự có đường thông trời, dứt hết can qua trăm ngọn cỏ. Ngày mồng 02 tháng 05 Sư khai đường, ở trong tay Tri phủ tiếp được sớ, trình dạy chúng rằng: Chữ chữ diễn vô lượng nghóa, câu câu như hoa Ưu-đàm - Kềm búa của Phật tổ, tiêu bảng của trời người, rõ ràng đưa ra văn thái đã bày, trên gấm thêu hoa thỉnh trùng tuyên qua. Sư chỉ pháp tòa nói: Cao cao không ngoài, sâu sâu chẳng bờ bến. Lại chẳng lạy Tu-di đăng, từng bước thềm bậc, toàn thể là đó. Hãy nói cái ấy là gì xem - Sư niêm hương: Này đại chúng, lại thấy chăng? Xông năm phần pháp thân, kết năm mây điềm sáng mồi lửa vào lò hương. Kính chúc Nghiêm Kim thượng Hoàng đế Thánh thọ vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế. Phục nguyện: Đạo bằng Nghiêu Thuấn, đức hơn Hy Hiên. Nam sơn thọ vượt ức vạn năm, Bắc cực tôn hơn hà sa kiếp. Nén hương thứ hai: Kính vì Phán Phủ Thượng Thư các nha huân quý. Phục nguyện: Bụng một người chọn ở, phó bốn biển đều nhìn, vì châu quận nêu bày, làm cao quỳ ích (?). Nén hương thứ ba: Năm xưa trong đám mây trắng, một câu đầu tiên cắt đứt dòng, ngày nay chúng trời người cái trước là bốn hồi đưa ra. Kính vì núi Ngũ tổ ở Trác châu cố Diễn Thiền sư đời thứ mười hai. Đốt lò hương nóng để đáp ân pháp nhũ. Sư bèn vén áo bày tòa. Thiên Hy Hòa thượng bạch chùy nói: Chúng kiệt xuất trong tòng lâm nên quán Đệ nhất nghóa. Sư nói: Một chùy liền thành ánh sáng đầy mắt, việc quan trọng cầm đoạn dứt, ai là đáp lời. Còn có thể quán Đệ nhất nghóa đi ra để gặp nhau. Sư bèn nói: Sự việc từ từ nhiều kiếp đến nay chỉ như bây giờ. Oai Âm bên đó toàn về nắm tay, đầu đầu vật vật hiện thành, sáng tỏ rõ ràng không sai khác. Riêng dùng căn cơ rộng lớn toàn đề tổ ấn, then chốt tuyệt trần, chưa khỏi ngoài mắc sinh cành, mò trăng trong nước. Do đó chư Phật ra đời hiếm gặp tác gia. Tổ sư từ Tây Vức đến, ở trên không mà tiếp tiếng vang. Hướng thượng một nẻo, ngàn Thánh chẳng truyền, người học nhọc nhằn như khỉ bắt bóng. Đến cho đến ấy chẳng nắm bắt cách thức, chẳng theo dấu trước, chẳng nuôi đương cơ. Như thế nào mà nêu ra, kẻ mắt sáng chết ở lổ cối. Bổn phận sự dứt trói buộc may gặp Đế Đạo bình bình, Hoàng phong mênh mông. Chúc nghiêm Thánh thọ vì nước khai đường. Thai Bái đến nơi, Hoàng Hoa làm chứng chuông trên đỉnh núi trước tháp Bảo Công, tám chữ mở rộng hiển bày rõ ràng. Sư bèn đưa gậy lên nói rằng: Lại thấy chăng? Chư Phật dắt chẳng được Tổ sư đề chẳng khởi, ngàn mặt trời cùng chiếu, vạn gương cùng lên đài. Chẳng cách mảy may, rõ ràng tiến cử lấy. Lại chẳng dính các duyên một câu như thế làm sao nói “Tám phương chấn động vô vi hóa, vạn nước ca dao vui thái bình.” Sư thượng đường nói: Chẳng diệt chẳng sinh từ xưa đến nay, viên dung không bờ bến, trời người nhân đây mà phát hiện. Đến như ngàn Thánh vạn Thánh ra đời, dời đổi một mảy may cũng không được. Nên biết Văn-thù, Phổ Hiền, Thích-ca, Di-lặc, Quán Âm, Thế Chí tất cả đều ở trong ấy, mà chẳng khởi mảy may tịnh niệm phàm Thánh chẳng nắm cảnh giới đắc thất thị phi, thẳng đây mà toàn chân chẳng phải là vật khác. Lại nêu nghiêm một câu làm gì. Lại hiểu rõ chăng? Di-đà không ngoài mà được, khắp cõi là Tây phương. Sư thượng đường nói: Tất cả không thu nhiếp xúc chạm viên thành, ứng dụng dứt so le, chớ cùng tận hình tướng, ở trên đầu ngàn Thánh có lúc lộ bày Phật tổ chớ cùng đáy cơ quan ở trong một đầu lông có lúc diễn ra chủ khách trao đổi nhau văn trái, trời đọc đất ngang ngọc chuyển châu hồi tức tạm gát lai. Sư đưa phất tử lên làm bộ điểm bảo rằng: Một điểm đó lạc vào chỗ nào. Biển thần rất quý không biết giá, lưu giữ cõi người chiếu sáng đêm. Sư thượng đường nói: Chí chân chẳng trong, đại thiên chẳng ngoài, trong ngoài như một, bao trùm pháp giới. Trăng in đầm lạnh, ngọc chìm biển xanh. Cây tàn lá rụng không có ở đó. Vạn pháp vốn thông đồng, từ nay không trước sau. Cần phải người trong đó trước sau không biến đổi. Lại thế nào là không biến đổi. Sau tuyết mới biết tiết tháo của tùng bách, việc khó mới thấy tâm trượng phu. Sư thượng đường nói rằng: Cách ngoại chân thừa, Chánh nhãn rõ ràng. Cởi thanh che sắc, lìa thấy dứt nghe. Không phải chỗ biết được của tam hiền thập Thánh, không phải thần thông biến hóa mà lường được, dẹp mở một lối hướng thượng, từ Oai Âm trở về trước cầm (đem) dứt biên cương, dù cho Đạt-ma ở Tây Trúc đến, cũng không có chỗ đặt tay chân. Đến chỗ ấy liền nói tâm nói cảnh nói được nói mất được chăng? Hãy biết có giao thiệp gì. Nếu là người lợi căn thì một dao cắt đứt chẳng lạc vào kiến thứ hai, chẳng lạc vào cơ thứ hai, ngay đây liền gánh vác chẳng tỉnh yếu. Cho đến hoặc đi hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, một hương một hoa một chiêm ngưỡng, một lễ bái, thảy đều từ mình sinh ra, đều từ vốn có Đạo tràng mà đến. Do đây mà ngồi đoạn dứt Báo hóa Phật. Chẳng ngại tùy lúc ăn cơm mặc áo. Ba đời chư Phật chỉ nói tự biết. Tổ sư từ Tây Trúc đến toàn đề chẳng khởi, một đại Tạng giáo chú thích chẳng kịp. Thử nghó: Đến chỗ ấy nói gì, định làm đạo lý cầu bến. Có hiểu rõ chăng. Mảnh mây điểm trời xanh, đã lạc vào kiến thứ hai. Báo Ninh Dân Hòa thượng, nhận thiếp thượng đường nói: Một mình ngủ đêm trên đỉnh núi cao, mắt nhìn mây trời. Tuy chẳng mai một tông phong, không do tự cao sinh, một mực ở ngã tư đường ra hòa quang đồng trần. Lợi vật ứng cơ tuy là mai một mình mà không do bị nhục sinh ra. Huống là bậc tỏ ngộ, đảnh môn có con mắt, dưới tay có bùa. Ra vào cuốn mở được đại tự tại. Động thì như mây bay, ngừng thì như hang thần. Do đó tuy ngủ một mình trên đỉnh núi cao chẳng ngại. Hoặc hòa quang đồng trần chẳng ngại một mình ngủ trên đỉnh núi cao. Trong thế nào có chẳng thế nào, trong chẳng thế nào có thế nào. Lại đúng thời đúng tiết một câu như thế làm sao nói. Sư im lặng hồi lâu rồi bảo rằng: Khí lành gặp vận tốt, giống linh gặp mùa xuân. Nhận Lý Thiện Hữu làm Tăng, Sư thượng đường nói: Ba cõi không yên bốn loài bị trói buộc, muốn thoát lưới ái phải siêu bước đại phương chánh phải khoát áo giáp nhẫn nhục hươi đao trí tuệ, vận tâm thượng phẩm, phát chí thù thắng cùng đánh nhau với ngũ uẩn ma, phiền não ma, tử ma mà diệt ba độc, phá lưới ma mới là bậc đại trượng phu. Há chẳng thấy trong giáo có nói: Ba cõi không yên cũng như nhà lửa, các khổ dẫy đầy rất đáng sợ. Lại nói nhà chỉ có một cửa mà lại nhỏ hẹp. Tuy rất nhỏ hẹp mà chư Phật ở quá khứ, ở vô lượng, ở hiện tại đều từ trong đó mà ra. Còn nói rốt ráo như thế nào? Hồi lâu bảo rằng: Sao giống chim cắt sinh ở trời, vạn dặm mây chỉ là một thoáng chốc. Sư thượng đường nói: Ngàn Thánh chẳng đồng vết xe, chánh thể riêng bày, vạn tượng không bị che dấu, Diệu dụng thường chân. Pháp tùy pháp hạnh không chỗ nào chẳng khắp, tâm tùy tâm dụng không chỗ nào chẳng đủ. Nếu có thể trên dứt kính vin dưới dứt thân mình, phóng ra người người thường quang trước mắt, mỗi mỗi riêng bày. Liền có thể ở trong một hạt bụi mà hiện ra Bảo vương sát ngồi trong sợi lông mà Chuyển đại pháp luân, lấy vô chuyển mà chuyển, thì tất cả đều chuyển, lấy vô thân mà hiện thân, thì tất cả chỗ đều là thân. Nói cổ nêu kim ngưng nhiên tịch chiếu. Do đó mà nói chỉ một thân kiên mật mà hiện trong tất cả trần. Tuy ở trong hạt bụi mà thâu hạt bụi khác không được. Tuy ở trong bốn tướng mà bốn tướng giam nhốt chẳng ở. Tuy tất cả chỗ tìm mảy may hình tướng rốt ráo không thể được. Song cần dụng liền dụng, cần làm liền làm. Cũng chẳng ở trong hạt bụi mà tìm hạt bụi, cũng chẳng tìm mảy may hình tướng, gọi đó là Vô sinh pháp nhẫn. Lại chỉ như cắt đứt hai đầu một câu như thế làm sao nói. Tử sinh đồng một cõi, vạn hóa thảy đều như. Giải Hạ, Sư thượng đường nói: Đầu lông Bảo sát rộng lớn, Ưu-du mười đời lân hư, cổ kim xa xôi, nhìn suốt chẳng thấy, nghe suốt chẳng nghe. Đến chỗ ấy không phải chỉ Thiện Tài bảy ngày kiểm niệm. Nếu như Văn-thù trăm kiếp vận sức Đại trí, khởi Thần dụng vô biên thì cũng chẳng thể thấy. Chỉ như các người trong khoảng mươi ngày (một khóa hạ) đều ở trong toàn thể mà dạo khắp ẩn hiện cuốn mở dọc ngang nắm buông, đại triệt đại ngộ. Đông mọc Tây lặn. Nếu bỗng ở đây mà biết thì được chắc sẽ bỏ đi. Chẳng ngại bước thẳng vào Thập địa, tâm tâm khế chứng bình thường. Nếu chưa được như thế thì ngày nay mở miệng túi vải. Lại hiểu rõ chăng. Sư im lặng hồi lâu lại nói: Không bảo thanh thu nhiều tốt đẹp, quay về lại xét đầu mây. Ngày mồng 01 tháng 08, Sư thượng đường nói: Đang lúc dẹp bỏ hang ổ của ba cõi, buông ra vô vị chân nhân. Thấu suốt gai gốc tòng lâm, liền ở Thường tịch quang độ. Không như, không khác, không phải sắc, không phải tâm vượt tông vượt cách, sạch làu làu, dứt gánh vác, đỏ rực rỡ. Chỉ như nay ở tại đảnh môn các người mà quán thông tất cả. Nếu có thể phản chiếu nội quán tức ngồi ở nhà mình. Do đó Tổ sư nói có một vật trên chống trời dưới chống đất thường ở trong động dụng trong động dụng nắm bắt chẳng được. Gọi đó là bản nguyên Phật tánh hiển thành. Lại hiểu Tông đồ. Nói giống một vật mà chẳng trúng, cũng chẳng khỏi đi ba tấc đường, thẳng được chẳng rơi vào thường tình chẳng câu chấp cách thức. Các người nếu hay ở đây mà phân biệt được. Lại chẳng chỉ Đông chỉ Tây, nếu phân biệt không được thì chẳng khỏi lớp lớp bình nghị mà chẳng thấy đạo. Có vật trước trời đất, vô hình vốn trống vắng mà có thể làm chủ vạn tượng, chẳng theo bốn mùa mà điêu tàn. Đã chẳng theo bốn mùa điêu tàn lại có thể làm chủ vạn tượng, lại rõ ràng dứt hết đường đi thì làm sao đến được? Có hiểu rõ chăng? Tháng tám mùa thu chỗ nào nóng? Lại nói: Phấn chấn tinh thần mình, cấu tạo ngôi nhà mình như cắt đứt một sợi tơ chẳng phân biệt được trước sau, sức và mũi nhọn đi đôi. Một chém thì đứt tất cả. Như trên kiếm bén thừa đương thì một hớp uống hết cả nước sông Tây giang. Sư khai lò thượng đường nói: Cỏ khô gần lửa, lẽ ra phải cháy trước, giọt nước bằng sinh, sự chẳng liên hệ nhau. Thảng như thấu suốt sinh tử, biết rõ lạnh nóng, cho động tịnh tới lui. Dù cho ý mất tình quên như si như ngốc, sau mới có thể đói thì ăn cơm, mạnh thì đi kinh hành, nóng thì hóng mát, lạnh thì hơ lửa. Tuy như thế, ngài Triệu Châu nói: Ta ở phương Nam ba mươi năm có câu không chủ khách, thẳng đến như nay không có người nêu được. có hiểu rõ chăng? Áo nạp trùm đầu vạn sự thôi dứt. Lúc đó sơn Tăng không hiểu. Bảo Sơn Khuê Thiền sư thiết trai thỉnh Hòa thượng Phật Nhãn thượng đường nói: Còn có ai cần trợ giúp không? Tăng hỏi: Gương sáng trên đài chiếu không sót, chỉ như Phật Nhãn Hòa thượng thiên hóa về đâu? Sư nói: Diệu hỷ thế giới chưa chẳng được, trong bóng hoa sen hiện toàn thân. Lại nói: Hòa thượng chỉ nói được một nửa. Sư nói: Ông toàn nói đây còn như thế. Lại nói: Trong biển phiền não làm mưa sương, trên núi vô minh làm mây sấm. Sư nói: Cách nhau như trời đất. Lại nói: Ai biết ý này khiến con nhớ ngài Nam Tuyền. Sư nói: Chớ nói dối trá. Hỏi: Ngài Lâm Tế diệt Chánh pháp nhãn, ba Thánh ngay đây liền gánh vác, trong hội Bàn sơn cần truyền chân, lúc đó ngài Phổ Hóa lật nhào, chưa biết ý như thế nào. Sư nói: Nhảy khỏi vườn kim cương, nuốt cỏ rối, lật lê. Lại nói: Vạn Lý Thần quang tướng sau đảnh, chỉ nói một đoạn thời tiết ấy. Sư nói: Gỗ vuông ráp vào lỗ tròn. Lại nói: Học nhân là cắt đứt căn nguyên. Sư nói: Một cái nhảy vọt. Sư bèn nói: Phương này duyên hết thì phương khác bày hóa cõi này thân chết thì cõi khác hiện thân. Bậc Đại Thiện tri thức lấy hư không vô biên làm chánh thể, lấy biển Hương thủy bất khả thuyết trần sát làm hóa cảnh, lấy nhật nguyệt làm đuốc sáng, lấy hình hài làm quán trọ, lấy sinh tử làm ngày đêm nó đến thì sấm chớp rực sáng, nó đi thì đá lửa sao bay. Tuy hiện người đời có đến có đi, mà bản thể rốt ráo chẳng động chẳng đổi. Do đó mà Nam Tuyền Hòa thượng ngày xưa vì Mã Đại sư cúng giỗ trai, hỏi đại chúng rằng: Hôm nay vì Tiên sư thiết trai. Thử hỏi: Tiên sư có đến chăng? Có người nói hợp nhau lấy bát. Có người nói trước chân đường lại thêm một phần ăn. Bởi nói cái này là chẳng động chẳng đổi, vô cùng linh diệu, đều có chỗ kỳ đặc. Lại chỉ thấy đầu chày bén mà thấy đầu đục vuông. Ngày nay Bảo Sơn Khuê Công Trưởng lão vì Phật Nhãn Hòa thượng mà thiết trai. Dám hỏi đại chúng Phật Nhãn Hòa thượng có đến chăng. Có ai nói được thử bước ra nói xem, nếu không gì chẳng tiêu thì hãy khắp đồng cúng dường. Vì sao mái nhà nước từng giọt nối nhau, năm cánh hoa từng cánh giao phó nhau. Thử nghó: Miên mật không dứt, một câu như thế làm sao nói. Tổ nguyệt lang không, trí viên thắng, núi nào tòng bách chẳng xanh xanh. Đàn Việt thỉnh Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Dưới cửa Tổ sư nước chảy chẳng thông trước người mắt sáng chắc khó mở miệng. Không biết Hòa thượng vì người như thế nào? Sư nói: Chày sắt không lỗ ném trước mặt. Lại nói: Đường kiếm các tuy hiểm, người đi đêm lại nhiều. Sư nói: Bắt gã thua ấy. Lại nói: Thâu được yên Nam lại lo lấp Bắc. Sư nói: Sau não thêm một. Hỏi: Trước tiếng một câu chẳng phải Thánh không truyền. Chưa từng gần gũi như cách cả đại thiên, như thế nào là trước tiếng một câu? Sư nói: Inh ỏi thoại đầu. Lại nói: Như đống lửa lớn đốt gần trước cửa. Lại như thế nào là gần gũi. Sư nói: Chỉ được nhìn đó mà kính. Lại nói: Hiềm nổi xô ngã tượng lớn Gia châu, cỡi ngược trâu sắt ở Thiểm phủ. Sư nói: Gã Mãnh Bát Lang. Sư nói: Tâm chẳng phải là Phật, tâm cùng Phật đều chẳng phải. Trí chẳng phải là đạo, trí cùng đạo đều trừ. Đến chỗ ấy thì mạt vàng tuy quý mà lọt vô mắt thì thành mù. Thức ăn quý tuy ngon nhưng khó ở trong bụng người no. Nếu là người hướng thượng thì phải biết việc hướng thượng như đối với hướng thượng mà bỏ đi. Oai Âm về trước kiếp không bờ kia chẳng như thế nào, đến cả Phật Tỳ-bà-thi ở nước Ta- kiệt-đà không như thế nào, ở Linh sơn cầm hoa Ca-diếp móm cười cũng chẳng như thế nào? Thiếu lâm quay mặt nhìn vách, Thần Quang chặt tay cũng chẳng thế nào. Vì sao thế. Giả sử như có thế nào thì kia đây tạm gác qua. Đã chẳng như thế thì làm sao mà nêu nói. Do đó nói: Chư Phật ra đời nói pháp bốn mươi chín năm. Tổ sư chẳng từ Tây Trúc đến, Thiếu lâm có diệu quyết. Nếu người biết Phật Tổ thì ngay đây mà vượt qua. Kẻ Thượng căn lợi trí ngàn dặm đồng một gia phong. Một dao dứt thành hai đoạn nhờ nghe mà nêu được, thấu xương thấu tủy, thoạt khởi liền làm. Tùy chỗ làm chủ gặp duyên tức tông. Gió thổi cỏ rạp toàn cơ riêng bày. Chính ngay lúc đó chẳng nương cậy một vật, một câu như thế làm sao nói. Trong vạn tượng chỉ riêng một con đường, trên đảnh thiên phong hiện toàn thân. Tăng cạo tóc mặc áo nhuộm, tạ ân xong Sư thượng đường nói: Bậc Trời trong trời, bậc Thánh trong các Thánh lớn nhất trong cõi, tôn vượt phương ngoài. Cầm Bảo đồ lục đồ cai trị dân, che kim luân mà lên ngôi. Mở trong lục học, dừng độc vạn phương. Nói theo giáng luân nói trùng hưng Phật pháp. Bèn khiến khắp trời Thích Tử lại đổi Tăng nghi, quy bản hốt về Bùi Tướng công, nạp trâm mão cho Phó Đại só, Trùng viên ứng chân đảnh tướng. Lại đắp y khuất tuần điền, trong chốc lát trả lại quan niệm cũ. Ân vua kính trọng gấp vạn núi đồi, cỏ cây nhỏ bè làm sao báo đáp, vội nghiêng gan mật ra chút cỏ gai. Này đại chúng! Tiên Phật có một cơ quan đỉnh đầu, đập đá tóe lửa giống như tia điện sáng. Tổ sư có một câu cuối cùng nuốt cỏ gai nhảy vòng kim cương có thể địch thành làm mọi người sợ. Có thể chuyền phàm thành Thánh, bốc lên kim hiện cổ, che sắc cưỡi tiếng, như nay đối chúng mà đưa ra, chẳng phạm theo trước mà lộ bày. Có hiểu rõ chăng? Diệu lực đúc nặn trước trời đất, ân chở che về Đại Thánh nhân. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Tuyển Phật trường khai, hàng Thượng căn viên chứng, chẳng mê muội đương cơ như thế nào xin chỉ bày? Sư nói: Trực tiếp đốn ngộ quả vị Phật (đốn ngộ). Lại nói: Bàng cư só nói: Chẳng mê muội người xưa nay thỉnh Sư để ý. Mã Đại sư nhân đâu mà ngay đó nhìn thấy? Sư nói: Có trên đảnh môn. Hỏi: Cư só nói: Một thứ huyền cầm không dây, chỉ có Sư là đàn hay. Mà Đại sư ngay đó nhìn thấy. Chưa biết ý chỉ thế nào. Sư nói: Trong tối hay kéo (rút) xương. Lại nói: Trên đó thấy gì, dưới đó thấy gì. Sư nói: Chớ chê Mã Đại sư. Lại nói: Phốn nổi áo tay rồng phất mở toàn thể hiện, chỗ của tượng vương đi mất dấu chồn. Sư nói: Có Bàng cư só chứng minh. Sư bèn nói: Hang ổ chân vọng, gốc cây sinh tử. Luận về mồ hôi dầm dề thì ngàn sai, nắm về chỗ đến thì một nẻo. Khởi chỉ pháp khởi diệt chỉ pháp diệt. Khởi diệt toàn chân rốt không có hai thứ. Do đó, nói ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức. Lìa ngoài tâm không có thức cảnh khác. Dương Kỳ lại nói: Đám linh một nguồn giả gọi là Phật, thể hết mình tiêu mà chẳng đổi. Vàng chảy phác tan mà thường còn. Như đây thì nói cố nói kim chẳng sinh chẳng diệt. Bắt nhốt chẳng ở, kêu gọi chẳng về. Thánh xưa chẳng an bày đến nay không nơi chỗ. Lại trước sau chẳng đổi, một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chăng? Chẳng từ ngàn Thánh mà truyền được, thấu suốt Oai Âm lại bên kia. Dương An Vũ thỉnh, Sư thượng đường có cị Tăng hỏi: Mây trắng sinh đầy tòa, khí lành bao phủ Thiền đường. Thiếu thất chân tin tức, đương cơ nguyện nêu bày. Sư nói: Một nêu ngàn sai đồng một chiếu. Lại nói: Một tiếng trong đến sinh sóng lưỡi, vạn loại nhờ nghe Đạo nhãn mở. Sư nói: Gió thổi cỏ rạp. Lại nói: Chỉ như uẩn định càn khôn mưu lược mà có anh hùng cái thế. Dao là dụng cụ giết người cầm kiếm cứu sống người, lại có đạo lý Phật pháp chăng? Sư nói: Có. Hỏi: Như thế nào là đạo lý Phật pháp? Sư nói: Tức là kẻ vô địch trong thiên hạ. Sư bèn nói: Mười hư dung nhiếp, Chánh nhãn rỗng sáng. Tám biểu thăng bình viên cơ riêng vận, vạn tượng chẳng thể che giấu. Ngàn Thánh không thể so sánh. Rõ ràng dứt gánh vác, làu làu không hồi hỗ. Kiến thành là đại Giải thoát môn. Có con mắt siêu Tông vượt cách, đủ căn cơ lìa kiến dứt tình. Ra vào trong đó, tới lui đồng dụng. Thẳng được nắm dậy thì trời hồi đất chuyển, cần phải vòng tay qui hàng, buông ra thì gió thổi cỏ rạp, ắt họp toàn thân hại xa. Có thể tập họp các phước có thể diệt hết tai ương có thể báo ân quân thân, có thể an lành đất nước. Toàn sáng một đạo thần quang, chẳng rơi vào thấy nghe hiểu biết. Đang đó thì thế nào? Thâu nhân kết quả nói gì. Vạn dặm các sông về một nẻo, khải hoàn ca hát mừng anh về. Lưu Tuyên giáo thỉnh Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Kiếm trên luân đảnh phóng ánh sáng báu lớn, trước hang ngọn mắt cọp mở tông yếu. Đã là người hướng thượng, phải nói việc hướng thượng. Như thế nào là việc hướng thượng. Sư nói: Ngồi trên đầu lưỡi. Lại nói: Đây cũng là việc hướng thượng? Sư nói: Quả nhiên chuyển chẳng được. Hỏi: Hiềm nỗi, bao gồm trời đất thì Hòa thượng hướng vào chỗ nào mà xuất đầu? Sư nói: Lại hướng ngoài ngàn dặm mà đứng. Hỏi: Khốn nổi gặp mặt trình nhau không mảy may gián đoạn. Sư nói: Đã gặp điểm trán. Sư bèn nói: Sinh bình chỉ lấy đây biết nhau, ngồi gần nhau bàn luận tâm thật cặn kẻ, chớp mắt an nhiên nay đã năm năm, không cõi người chỉ nghó đến hình nghi. Tri kiến Tổ Phật, cội nguồn sinh tử muôn đời chẳng dời đổi mảy may, ngàn Thánh chẳng thể cùng tận thú hướng. Sinh đó giống như ánh điện chớp, đá lửa, nêu ra thì ắt toàn chân. Diệt đó thì ngọc chuyển châu hồi, toàn thân không hình bóng. Do đó nói: Cội nguồn chúng sinh giả gọi là Phật, Thể kết hình tiêu mà chẳng diệt, vàng chảy bốc tan mà vẫn tồn tại. Ở một hiện tất cả mà gồm khắp, ở tất cả hiện một mà không một phút nào chẳng trùm khắp. Đồng xưa nay, khế hợp vật ngã. Chánh thể nhất như không sinh không diệt. Do đó nói: Sinh diệt tới lui vốn là Như Lai tạng, diệu chân như tánh. Như thế thì sinh chưa từng sinh, diệt chưa từng diệt, tới chưa từng tới, đi chưa từng đi. Tất cả là Như Lai tạng thể, chân như chánh tánh. Dám hỏi: Trong đề cử mà vâng làm thì nay ở đâu? Có rõ ràng chăng? Không sinh không trụ trước, khắp nơi là toàn thân. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Đơn niệm độc lộng, chỉ quý đích thân mắt phân biệt tay chánh án bàng đề, tác gia cần phải thủ đoạn, gậy hét giao nhau tạm gác lại. Đảnh môn một câu việc như thế nào? Sư nói: Làm ngược lệnh này. Hỏi: Dưới cửa Tưởng Sơn chẳng là phần ngoài. Sư nói: Phân thân hai chỗ xem. Hỏi: Học nhân khi làm hướng thượng thì như thế nào? Sư nói: Lại chỉ hướng hạ mà hỏi. Hỏi: Nhậm đại thì từ đất mà khởi, lại cao khốn nổi có trời sao. Sư nói: Lỗi. Sư bèn nói: Mục kích trần trần sát sát đồng ở trong Hoa tạng hải. Đảnh môn mật mật đường đường vận đều là Vô sinh pháp nhẫn. Đưa một cọng cỏ hiện thân trượng sáu. Thổi một sợi lông vải truyền Chánh pháp nhãn. Lìa không lìa có, dứt Thánh dứt phàm, tám chữ đánh mở, rõ ràng hiển bày cả. Hãy hiểu rõ đi. Sư bèn đưa phất tử lên nói rằng: Thế giới Diệu hỷ ở Đông phương chẳng lìa cái ấy, thế giới Tây phương Cực lạc, cũng chẳng lìa cái ấy. Như thế thì một chỗ thông thì trăm chỗ ngàn chỗ cùng một lúc thông. Một chỗ viên, thì trăm chỗ ngàn chỗ cùng một lúc viên. Lại chẳng lìa bản hữu một câu như thế làm sao nói. Dưới cây Diêm-phù là chỗ thân tu, trong chín phẩm sen mà viên Diệu quả. Khai Thánh Tiết, Sư thượng đường nói: Đội trời đạp đất cùng mang ân vua, ngậm miệng mang tóc đều nhờ sức vua. Khí trời giáng khánh chân chủ bày sinh, khuynh vạn quốc, lòng son, chúc Thánh thọ một người, rõ ràng có nẻo, vạn phái triều tông, một câu vô tư, liền dốc hết gan mật. Có hiểu rõ chăng? Đại minh ngang Bắc cực, Thánh thọ bằng Nam sơn. Lệ Thánh Tiết xong, Sư thượng đường nói: Thần tiêu chân nhân xuống xe, Trường ainh Đế quân ngự trên cao. Thần linh tỏa sáng, Di Hạ kính phong. Vạn mối đều có ngàn thần linh ủng hộ khắp chính sách vô tư của Phục Hy, theo phong tục Bàn cổ Nữ Oa thời Thái cổ. Con đỏ của vạn quốc ca dao, tám biểu côn trùng cổ vũ. Phước chảy ngàn cõi, mừng một người. Thiền nhân ở rừng làm sao báo đáp, cùng đem thanh tịnh vô vi hóa, kính chúc hoàng thượng ức vạn mùa xuân. Ngày sinh nhật của Bảo Công, Sư thượng đường nói: Trong dòng bi trí mà viên chứng, trong biển bốn loài mà xoay mình. Tròn như châu minh nguyệt, nhanh như kiếm kim cương một mực như thế. Ngàn vạn người cho đến vô cùng ức người. Không chế họ chẳng trụ cả đến như thế mà lại, ngàn người vạn người cho đến vô cùng ức người, hết cả đều nhờ ma ấm người khác cứu giúp bốn loài, cuốn mở chín hữu. Hoặc hiện mười hai mặt hiện trăm ức thân, trong móng vuốt chim ưng mà bày cơ thọ sinh, chỗ cang gối thị hiện tướng Niết-bàn. Đây cũng là ứng cơ tiếp vật, tùy phương theo viên thời tiết. Nếu luận bổn phận nắm giữ, quét sạch dị đồng, chẳng thông phàm Thánh. Dù cho được Thích-ca, Di-lặc, ăn khí nuốt tiếng, Văn-thù, Phổ Hiền quên mũi nhọn kết lưỡi. Lại lợi vật ứng cơ một câu nhu thế làm sao nói. Đầu gậy phóng ra kiếm kim cương, bốn loài chín hữu bày cầu rường. Sư thượng đường nói: Chỗ vách đứng ngàn nhận, họp hoa họp gấm, trong ruộng bằng cỏ cạn kiếm múa dọc ngang, muốn nắm giữ hướng thượng việc bên đó. Ngay đây không chỗ mở miệng, mới hăng hái và hoài bảo. Lại văn thái rõ ràng đang lúc như thế thì làm sao? Phải biết toàn ý khí của nhà người, trong ngoài ba ngàn dặm tuyệt dối lừa. Sư thượng đường nói: Hai ngàn năm trước Tát-đát-a-kiệt phí biện giải, Ma-hê-thủ-la một mắt đảnh môn trước bày vẻ, có chuyển biến thức cơ phải đến chỗ ấy như cọp thêm sừng. Chày hèn giữ lỗ cối, ở trong đó như rùa mang bản đồ (lạc thủ). Ngay đó phải tự ngộ tự tu, rất kî nương người khác mà hiểu. Do đó nói: Có một câu có thể cùng Tổ Phật làm Thầy, có một câu có thể cùng trời người làm thầy. Có một câu có thể tự cứu không xong. Chỉ như cắt đứt các dòng chẳng rơi vào câu thứ ba. Lại như thế nào, có hiểu rõ chăng? Sau câu nói chưa mở mắt ngàn Thánh, trước mũi nhọn đã bày cơ Pháp vương. Tiền Vận Sứ thỉnh Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Bắc sơn thiên hạ gọi hang thiền. Đại Dã nấu Tổ Phật trong lò lửa. Thủ đoạn khéo léo có ai biết, một câu đương cơ bày phong cốt. Bỗng gặp người trong ấy đến, lúc ấy thế nào? Sư nói: Nương vào một bên. Hỏi: Thế nào là trước lầu Ngũ phụng nghe tiếng ngọc rơi, trên đảnh Tu-di gõ chuông vàng. Sư nói: Dưới chân mây sinh. Lại nói: Nương chỗ thấp làm bằng mà có dư, chỗ cao cao xem mà chẳng đủ. Sư nói: Trong ngực cầm tuôn ra một câu như thế làm sao nói. Lại nói: Nhìn mặt gặp nhau lại không hồi hỗ. Sư nói: Sáng sớm cùng ông bàn luận làm chứng. Sư bèn nói: Trên đónh đầu Phật tổ, riêng nêu bổn phận Tông thừa chỗ vạn cơ chẳng đến, tuyên bố Chánh pháp nhãn tạng, rõ ràng dứt hồi hỗ, sáng rỡ vô biên không ngoài. Một câu ngồi dứt ngàn sai, môït lời triều tông vạn phái. Là Phật chẳng phải Phật hướng thượng hướng hạ, quyền thật chiếu dụng, cuốn mở nắm thả, cùng một lúc nêu ra dù cho sạch trọi trơn, trần trùng trục, người luôn sáng hiện tiền, khắp nơi vách đứng ngàn nhận. Do đó, tất cả pháp chẳng sinh, tất cả pháp chẳng diệt. Nếu như thế mà biểu thị chư Phật luôn hiện tiền. Chẳng chỉ chư Phật hiện tiền, cho đến tất cả hữu tình, vô tình, hết cả vô biên biển Hương thủy, quá khứ, hiện tại, vị lai. sáng suốt vắng lặng, chẳng biến dời, chẳng đổi khác. Ánh sáng giao nhau bao trùm như lưới tơ báu. Các người lại thấy chăng? Phải biết một sự này có tướng kỳ đặc như thế, có sức giải thoát như thế. Dám hỏi đại chúng, lại tám Nhu Nhân đã mất thì nhờ công lực gì. Có hiểu rõ chăng? Quốc độ lay động nghênh đón Thế Chí. Hoa báu đầy trời đưa tiễn Quán Âm. Ngày rằm tháng ba, Sư thượng đường nói: Hoa tàn mưa tạnh đã qua thiều quang, gió ấm mây ngưng sắp đến cảnh hạ. Chẳng theo bốn mùa thay đổi tàn rụi, theo lệ bảy, tám, năm phần. Lại hoặc tiêu dấu tạm gác qua một bên nuốt tiếng, chưa khỏi cỏ mây quấn quýt, trên đầu trăm cỏ. Dưới chân bùn sâu, một câu như thế làm sao nói? Ngày xuân tạnh oanh vàng hót. Kiết Hạ, Sư thượng đường nói: Chợt lãnh ngộ thiền pháp, đứng vững dọc ngang, hoặc nhỏ hoặc lớn, khắp cõi mười thân Điều ngự, chẳng đạp cỏ xanh đâu trùm hết màu hồng. Tạm buông ra một câu như thế làm sao nói? Bẻ gãy cây gậy, đeo cao bình cũ. Lại nói vô số khắp nơi là gia phong của mình chẳng do ngắm xem từng nghe mùi hôi, đã thế cột chặt miệng túi vải, thẳng đây kéo dắt chủ nhân công. Kiết Hạ thỉnh, Sư thượng đường nói: Rộng mở cửa nẻo ra hiên, ai không mặt mày có thể thấy, khắp cõi chẳng chứa dấu, không hình tướng có thể nhìn, toàn cơ riêng dùng, vì không mặt mày mà các tướng rõ ràng, vì không hình tướng mà mười thân đầy đủ. Giải thoát môn rộng mở, tuyển Phật trường mở rộng, làm công huân không thể nghó bàn, thành vô lượng thù thắng kỳ đặc, ngay đây mà được một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi trong vi trần mà Chuyển đại pháp luân. Riêng chưa phải là bổn phận sự của nạp Tăng. Trong đó nếu được đáy thùng thoát ra tâm không cơ, thì viên dung tất cả không có chỗ làm. Thành tựu các pháp toàn thể hiển hiện, ngay lúc đó thì thế nào, chẳng lạc công huân, một câu như thế làm sao nói. Song tuyền ba thước sáng chiếu, vạn người trong bụi rậm đoạt chỉ tiêu cao. Đông Sơn ở Giáp châu mang pháp tự thư đến. Sư thượng đường nói: Trên hội Linh sơn thượng ngàn lá bay thơm, trước núi Thiếu thất một cành đẹp. Sinh Phật chưa đủ đã thấy bàn căn không kiếp bên nào chuyển bày văn thái rõ ràng vận côn luân đập chẳng vỡ, phất mũi lại ngát thơm thủ đoạn khéo léo, toàn thân chuyển niên mật. Mũi tên nhọn chống nhau, mũi kim hạt cải ném nhau, thì lại bỏ, riêng thoát một câu làm sao nói (nói gì). Một mực hội Phong Vân. Rộng lớn xuân trời đất. Lại nói ngồi thấy Đông Sơn làm chấn động Cổ phong, đảnh môn Chánh nhãn có toàn công, nắm quơ Lâm Tế kiếm kim cương, lỗi lạc Dương Kî cỏ gai lật, vách sắt núi bạc phải tác dụng, cung ma hang cọp cũng lưu thông, thu hết vô biên hướng thủy sát, cùng vào kềm búa bể lò rèn. Buổi sáng tháng tám, Sư thượng đường nói: Sáng thu trong sáng nhẹ nhàng. Minh minh bất thoái chuyển, đám cây tiêu sơ mỗi mỗi là đường giải thoát. Chẳng ra ngoài ấm giới, có thể trải khắp phù tràng vương, chẳng lập một mảy bụi có thể đầy đủ trí kim cương. Huống già rau xanh trong vườn, lúa chín trong ruộng. Há chẳng phải năm trúng mùa thời ôn hòa mà tâm dung cảnh tịch. Tạm không rời quay lưng, một câu như thế làm sao nói. Mùa Thu tinh hà không một bóng nhạn, tiếng chày đêm của ngàn nhà. Ngày 19 tháng 04 năm Tuyên Hòa thứ sáu. Ở chùa ấy vì nước mở pháp đường. Sư cầm sớ nói rằng: Hiện thành công án lúc chưa nói. Văn Thái đã rõ ràng. Rỗng suốt căn nguyên chỗ vừa nêu, từng lớp tiết lộ. Nếu hoặc còn giữ các nghe thấy, thì liền thỉnh đối chúng mà nêu bày. Sư chỉ pháp tòa nói rằng: Áo nhu hòa nhẫn nhục, các pháp không làm tòa, đã mặc áo này ắt ngồi tòa này, huống là Phật Phật Tổ Tổ, mượn đây làm thang làm thuyền thấy chăng? Có điều thì vin điều, không điều thì vin lệ. Sư bèn thượng đường niêm hương rằng: Một nén hương này kính vì Kim thượng Hoàng đế, chúc nghiêm Thánh thọ, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế. Phục nguyện: Tánh anh minh hơn nhật nguyệt, hiểu thấu suốt, hơn càn khôn. Thành trong hạt cải trống mà có dư, quét sa- ïch kiếp trạch mà lớn chắc. Kế nói một nén hương này vì thiên quyến (quyến thuộc vua) trong cung tể chấp các vua, Thiếu sư tướng công, Tiết sư thái úy văn võ trong triều, ở trên Chiếu Huân Quý. Phục nguyện: Cao phò Thánh, nhật luôn giúp Nghiêu minh, tuổi thọ bằng như thung xuân, Phước lộc bằng sông biển. Nén hương thứ ba Sư niêm: Đại chúng, có thấy chăng? Ngày xưa trong cụm mây trắng, Đương phong một câu toàn đề triều này trước nhà Vạn Thọ, thứ lớp năm hồi nêu ra. Kính vì núi Ngũ tổ ở Trác châu Chân Tuệ Thiền viện, Diễn Thiền sư đời thứ mười hai. Đốt lò hương thơm để đền ân Pháp Nhũ. Trí Hải Hòa thượng bạch chùy: Chúng kiệt xuất trong tùng lâm nên quán Đệ nhất nghóa: Rõ ràng không che dấu, mỗi mỗi dứt sấm lậu. Trước không thứ nhất thứ hai há lại nói quán. Đến chỗ đó gió thổi cỏ rạp, sông thành thì nước đến. Lại có ai cùng nhau chứng minh chăng? Tăng hỏi: Thời Ung Đạo thái lạc thăng bình, vạn dặm núi sông Thuấn nhật minh, nói ra để giúp thọ Thiên tử. Khói lò là điềm lành quốc phong thanh. Chưa biết Hòa thượng nêu ra như thế nào? Sư nói: Trước nhà Vạn thọ thêm khí lành, một người có vui mừng lớn như càn khôn. Tăng nói: Sư đem việc Linh sơn vạn cổ mà chúc khen vua nay có đạo đức. Sư nói: Khuynh tập hết tâm lúc này. Tăng nói: Như thế thì cành vàng mãi tươi đẹp Thiên đình, lá ngọc luôn thơm trong vườn xuân. Sư nói: Người nào chẳng kính phong thời này. Tăng nói: Chúc Thánh đã xong mong Sư chỉ bày, việc hướng thượng Tông thừa như thế nào? Sư nói: Bảy mươi ba, tám mươi bốn. Tăng nói: Nền đức vững chắc cõi kim cương, vạn quốc đến chầu mừng vị Thánh minh. Sư nói: Trước gió một câu vượt Điều Ngự. Tăng nói: Phải biết đạo này thật cơ diệu, ứng dụng tùy phương được cuốn mở. Sư nói: Lại phải trần trong mắt phấn chấn. Sư bèn nói: Câu hỏi hãy ngưng đi. Này đại chúng! Bí mật diệu nghiêm thâm cơ chẳng thể khảo cứu, tịnh viên siêu chứng các Thánh không thể so sánh. Linh sơn riêng truyền chánh âm, Thiếu thất mật trao tông chỉ. Sáng như mặt trời sáng, rộng lớn như hư không. Đem đoạn các pháp không sót, che mát chúng sinh. Trên đảnh môn như như bất động, dưới khóe mắt luôn biết rõ ràng. Sáng nay may gặp khai đường Chúc Thánh, đối chúng bày tỏ rõ ràng. Sư bèn đưa cao gậy lên đánh xuống một cái bảo rằng: Đại chúng, có biết chỗ rơi chăng tâm tủy chư Phật, uyên nguyên Tổ sư, mười thành tám chữ mà ra, khắp cõi toàn bày thắng tướng. Lớn nhỏ dài ngắn đen trắng vuông tròn, mỗi mỗi đều dứt sự khống chế nơi nơi không còn trở lại. Thật sâu lắng, kín đáo đường hoàng, không sâu có thể sâu, không diệu có thể diệu, thế nên Phật Phật trao tay là chỉ trao tâm này, Tổ Tổ truyền nhau là chỉ truyền diệu này. Thượng căn chủng trí, lược thỉnh hồi quang, có thể ngàn mắt sớm mở, có thể thông suốt muôn duyên. Há chẳng thấy A-nan hỏi Ca-diếp: Thế Tôn ngoài việc truyền kim lan lại còn truyền vật gì. Ca-diếp gọi A-nan, A-nan dạ. Ca-diếp nói: Hãy xô ngã cây phướn trước cửa đi. Ba yếu ấn mở, thông suốt mười phương. Dù cho trước vạn thọ đường trong thành Vương xá, khí lành ngưng cửu trùng, ánh sáng lành chầu cửa phụng mỗi mỗi phát huy, truyền Chánh pháp nhãn tạng, giữ Diệu Niết-bàn mà liễu tâm. Lại rõ ràng không mê muội một câu như thế làm sao nói, khí lành Thái bình tiêu biểu vô biên, hàng hải thang núi đón Thánh triều. Do khai đường này một điềm thiện lợi thượng chúc Kim thượng Hoàng đế Thánh thọ. Phục nguyện: Kim luân bền chắc, đất nước quý báu luôn thịnh. Bốn biển vui văn minh, vạn bang chí vào sự giáo hóa. Lại nêu: Xưa có Tăng hỏi Đầu Tử: Như thế nào là một Đại sự nhân duyên? Đầu Tử đáp: Doãn Tư không cùng lão Tăng khai đường. Sư nói: Đầu Tử cổ Phật, trong tòng lâm mà thôi lên thì được biện của Dật quần, mà được đạo dụng của Phác thật, xem dễ dãi mà nắm lấy, chẳng trở ngại Thế pháp và Phật pháp nhồi thành một khối. Tuy như thế nhưng tiếc là nó không quá rộng lớn. Nay bỗng có người hỏi Thiên Ninh tôi: “Thế nào là một Đại sự nhân duyên.” Tôi liền đáp rằng: “Tay cầm kim luân làm trong bốn biển, Thánh cung lớn lao ức vạn năm này.”  <卷>QUYỂN 5 THƯỢNG ĐƯỜNG 5 Sư ở tại Tưởng sơn nhận sắc vua, bèn cầm sắc dạy chúng rằng: Đại chúng thấy chăng? Rồng bay phụng múa giáng xuống Cửu trùng, Cương tông Phật tổ đều ở trong ấy. Liền thỉnh Duy-na đối chúng tuyên đọc. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Nương theo lời Sư có nói rồng bay phụng múa giáng xuống Cửu trùng, ý này như thế nào? Sư nói: Không người nào chẳng kính ân rất sâu. Hỏi: Tiếng tốt ở tai người đều sợ. Sư nói: Nước đến sông thành một nhà. Lại nói: Dù cho Tiều phu múa, lão già què âu ca. Sư nói: Ai không thế. Lại nói: Thôn trang rừng xuân cùng hoa trời họp sắc thái. Sư nói: Một nhánh khác là xuân Thái hòa. Lại nói: Ngặt vì mây vốn vô tâm tự có từ thế rồng. Sư nói: Liền bị trút nổi bực tức. Đáp: Thế thì Bảo Công có chịu thả Hòa thượng đi chăng? Sư nói: Thả ra lâu rồi. Lại nói: Từ giáo vượn hạc oán lại xứng tâm một người. Sư nói: Là chỗ là Di-lặc không cửa, không Thiện Tài. Sư nói: Núi lạnh cây khô mây trắng đùn. Trang tan chất làm sao có của to, há là hư thanh thấu thanh cấm, Tử vi Thánh chiếu cửu thiên đến. Đã thế sự ở ngoài ý, cần phải ngay đây mà gánh vác, Chánh nhãn quý báu lưu thông, kính chúc Vô lượng sáng suốt. Ngay đây mà được côn trùng đều kính động Địa phong quang. Đất đai sinh linh đều thấm nhuần ân trạch của Đường Ngu, nơi nơi gió hòa khắp thôn dã, người người vui tươi, cảm được ân bao trùm không biên giới, mang ân đức một người sinh thành. Ngay lúc đó phải làm sao, có hiểu rõ chăng? Đào xanh dần dần đọng sương sớm, hạnh mầu hồng tối tăm ánh sắc ráng chiều. Sư vào viện đến phương trượng ngồi nói rằng: Nước Ma-kiệt-đà hai mươi mốt ngày miệng kêu da da, trong thành Tỳ-gia tám vạn người các mắt tháp tháp. Tuy nhiên một hẹn nắm lấy, không tránh khỏi mũi nhọn làm đứt tay thủ đoạn khéo léo rỗng suốt khắp nơi, đâu giống trên nhờ một người bảo hộ, bèn khen Thánh hóa vô cùng. Một câu dứt hết dòng, muôn cơ đều tiêu hết, có hiểu rõ chăng? Biết lấy ý đầu móc, chớ nhận kiến giải thủ quan. Sư chỉ pháp tòa nói rằng: Ba vạn hai ngàn tòa sư tử, sao bằng ngồi trên ghế dựa quét sạch Báo Hóa Phật, chẳng dính vào nghe, thấy, biết, dơ cao cao phong trên đỉnh Thứu, kính chúc Nam Sơn mưu kế sáng suốt, có thấy chăng hãy hành lệnh đi. Sư thượng đường niêm hương nói: Một nén hương này chúc ng- hiêm Kim thượng Hoàng đế Thánh thọ vô cương, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế. Sư bèn nói: Vào cửa liền thấy, lại không cho nghó ngợi suy tư, mở miệng liền nói, cũng chẳng trở lại giáp vòng từ đó. Giả sử Thiện Tài vào lầu các Di-lặc, còn giúp kiểm niệm. Phổ Nhãn vào diệu cảnh Phổ Hiền cũng nhờ oai thần. Thế thì dù được thủ đoạn khéo léo, bốn thông năm đạt. Một chỗ thấu suốt thì ngàn chỗ vạn chỗ đều sáng, một sáng thì ngàn sáng vạn sáng khắp chiếu. Hãy đến nhà, một câu như thế làm sao nói. Trước gió có con đường vượt Điều ngự, vỗ trống âu ca vui thái bình. Lại có tụng rằng: Bổn thị sơn trung nhân Vô năng duy thủ chuyết Há vị hữu hư danh Viễn đạt đan phụng thuyết. (Vốn là người trong núi, không tài chỉ giữ vụng. Há gọi là hư danh. Xa đến cửa Đan phụng), giáng sắc ở Thiên ninh. Trúc Dư sao đêm hiện, sáng nay đích thân đến, một câu không nói năng riêng khác, kim sắc Đầu-đà từng tiết lộ. Kiều Quý Phi thỉnh Sư thượng đường: Một câu toàn đề, ngàn sai đều biết. Một hoa nở hiện, vạn pháp đến kịp, qua lại không gián đoạn mà có nguồn, động tịnh không dời đổi mà thường tịch. Nơi nơi là Phật, đầu đầu là đạo. Nếu cũng tin sâu được kịp, lại chẳng nhờ sức của người. Dường như khoảng tráng só co duỗi tay, toàn nêu cơ này. Hoặc động hoặc tịnh, hoặc ra, hoặc ở, trong thù thắng mà hiện thù thắng, trong kỳ đặc mà hiện kỳ đặc. Lại không phải ngoài duyên, mà toàn nhờ đức lớn. Do đó nói: Trời người loài quần sinh, đều nhờ ân lực này. Nếu biết ân này, thì hành vi đều trăm ngàn biến hiện, thảy đều chẳng giả dối, đang lúc đó, một câu như thế làm sao nói. Rõ ràng khắp cõi không hồi hỗ, ngàn lớp trăm vòng chuyển ánh sáng. Tổ sư hội Thượng đường. Tăng hỏi: Thiếu Lâm đầu tiên truyền trực chỉ, năm lá thơm tho, Thông Lãnh khác các dòng, ngàn đèn nối chiếu, môn đình tuy khác năm nhà Bát-nhã đồng về địa vị, thế nào là tông phái năm nhà? Sư nói: Cao thấp so le không đều, rất rõ ràng không chấp trước. Hỏi: Nếu chẳng nhờ hỏi sao thấu cội nguồn. Sư nói: Xóa bỏ hết. Lại nói: Đạp đổ tịnh bình không để lại kế sống, hai miệng không lưỡi, chính là tông ta. Thế nào là Tông Quy Ngưỡng. Sư nói: Người thiên hạ nhảy không ra khỏi viên tướng. Lại nói: Ba lần ăn gậy, giống như cây sào, cuối cùng lừa mù, Chánh nhãn trời người. Thế nào là tông Lâm Tế. Sư nói: Chỗ hỏi đáp của thầy trò không thưa hở. Lại nói: Thôi đi hết đi, lò hương cổ miếu, cây khô sinh hoa, Tổ Phật tâm yếu. Thế nào tông Tào Động? Sư nói: Hai, hai chẳng thành đôi. Lại nói: Đối cỏ bánh bột vốn tự thiên nhiên, một mũi nhọn xa không ba câu biện được. Thế nào là tông Vân Môn. Sư nói: Lỗi lầm trước mặt. Lại nói: Sắc không sáng tối gặp chỗ là sáng suốt, vô số cõi nước đầu đầu hiển bày. Thế nào là tông Pháp Nhãn. Sư nói: Điểm. Lại nói: Tổ sư tâm ấn giống như cơ trâu sắt, đi thì ấn dừng, dừng thì ấn phá. Chỉ như nạp Tăng không lỗ mũi làm sao sinh ấn. Sư nói: Liền là Xà-lê. Lại nói: Lỗ mũi Tổ sư trong thiên hạ đều bị Hòa thượng xuyên lỗ, chưa biết Hòa thượng bị người nào xỏ mũi. Sư nói: Chớ tốt Phật quả. Sư bèn nói: Trên đảnh ngàn Thánh có thể chứa sát hải, trong mạng mạch của nạp Tăng chẳng chịu chân cơ, lại thông một tuyến đường. Dùng Phật hiện Tổ, từ Tổ chứng Phật. Ấn ấn không sai, cơ cơ viên chứng. Trên hội Linh sơn niêm hoa thị chúng, kiến lập Tông phong này. Kim Sắc Đầu-đà (Ca-diếp) từng kế thừa Diệu chỉ, cho đến Tây thiên hai mươi tám vị Tổ, cõi này sáu vị Tổ từ Tào Khê đến nay khoảng mấy trăm năm, các sát trông nhau, mỗi mỗi đều nắm hạt châu linh xà, người người đều ôm gai ở vách núi. Có chiếu có dụng, có quyền có thật, chấn hưng hướng thượng tông phong, truyền giữ Chánh pháp nhãn tạng. Lại phải trăm sông khác dòng cùng đổ về biển lớn, ngàn lớp trăm vòng không ngoài một nguồn. Do đó nói: Hai mươi tám vị tổ của Tây Vức cũng thế, sáu vị Tổ Trung Quốc cũng thế. các cõi trong thiên hạ trông nhau, các bậc lão túc cũng như thế. Sơn Tăng cũng thế. Thử nghó: Làm sao thương lượng, có đưa ra vụng về chăng? Đen trắng rõ ràng chăng? Sơn Tăng chẳng tiếc lông mày cùng các người chấm phá. Bèn đưa gậy lên nói rằng: Có thấy chăng? Ba đời chư Phật, lịch đại Tổ sư. Lão Hòa thượng trong thiên hạ đều ở trên đầu gậy phóng ánh sáng lớn. Hiện quyền hiện thật hiện cảnh, cả năm vị quân thần, khai tam huyền tông yếu. Cơ cảnh theo nhau, tên nhọn chống nhau. Một chữ ba câu đồng nguồn. Viên tướng cảnh trí rất khác nhau. Nếu cũng ở đây mà hiểu rõ. Trên đầu trăm cỏ bỏ việc bình sinh, rễ cây cũng chẳng giữ lại. Nghe tiếng trong ngoài câu, chớ ở trong câu mà tìm. Nếu chưa được thế thì sơn Tăng chẳng tránh khỏi lôi thôi dài dòng. Đạt-ma chẳng đến Đông Độ, Nhị Tổ chẳng đến Tây thiên. Người người vách đứng ngàn nhận, mỗi mỗi thường quang hiện tiền. Sư gỏ gậy một cái mà xuống tòa. Hội Liên Hoa, Sư thượng đường. Có vị Tăng hỏi: Trong tuyển Phật trường trong rừng hoa sen, chiếu diên khai lớn một lò hương, Linh sơn vạn cổ việc niêm hoa, ngày nay nhờ Sư nêu lên. Sư nói: Chẳng phải người khổ tâm thì chẳng biết. Lại nói: Như thế các pháp đã tùy các pháp mà trụ, rõ ràng lô ra cơ hoa sen trắng. Sư nói: Tức nay gặp mặt đã trình nhau. Lại nói: Trong biển Diệu Tánh làm mưa sương, trong trường Bồ- đề nổi gió mát. Sư nói: Cũng rơi vào đầu thứ hai. Lại nói: Học nhân chỉ như thế, còn ý Sư thì thế nào? Sư nói: Đảnh môn ba ngàn, sau não tám trăm. Sư bèn nói: Tỳ-bà-thi trở về trước ngàn hoa hiện điềm lành. Thiên trung thiên chánh địa, hoa Ưu-đàm biểu lộ cát tường, dù cho khắp cõi chẳng từng cất chứa, toàn thân không hình ảnh, hiện hoa sen chúa, nhiễu quanh ngàn tòa hoa. Một chiếc lá một Thích-ca, một sợi tóc một Di-lặc. Vô số như thế, nhiều cõi như thế, nơi nơi như thế, niệm niệm như thế. Một một hạt bụi dấy lên cả đại địa toàn thu, một bông hoa nở cả thế giới khởi. Có thể gọi là trong thù thắng, lại thù thắng, trong kỳ đặc càng kỳ đặc cảm trước tháp từ đọng khí lành, bên động La-hán hiển chân dung, pháp hội nghiễm nhiên trời người khắp nơi tụ hội. Đến đó họp nói việc gì. Nói huyền nói diệu được chăng? Nói Phật nói Tổ được chăng? Cử cổ nêu kim được chăng? Hiển tác hiển dụng được chăng? Tất cả đều từ trước đến sau Đại Tông sư nêu ra. Tức nay chẳng bằng, chẳng động được. Chỉ trình một cái hiện thành công án, nếu cũng nêu được, người người tâm hoa bừng sáng, nơi nơi chiếu mười phương cõi, đang lúc ấy suy công Sư vốn một câu như thế làm sao nói, có hiểu rõ chăng? Vạn phương có khách về Minh Thánh. Nguyện thấy Hoàng hà trăm độ trong. Kiều Quý Phi Nương Tử vì Pháp Chân Hòa thượng bệnh thỉnh Sư thượng đường nói: Ngọn Linh thứu đơn đề căn cơ hướng thượng, ngàn linh chẳng mưu tính mà hội họp. Thiếu thất mật truyền Chánh pháp nhãn, vạn tượng chẳng dung mà viên thông, khế ấn theo nhau, duyên vào nhân tướng. Thần công như trời đất che chở, Diệu trí như nhật nguyệt soi chiếu. Sa giới bằng, lược không có trước mặt, sau lưng. Có bậc Đại giải thoát, chứng đạo Đại giải thoát, mở cửa Đại giải thoát, bày việc Đại giải thoát. Người xưa nay hội họp bệnh chẳng được, dù cho dạy ngàn Thánh tìm chỗ khởi chẳng thấy. Chư Phật chúng sinh đều có bệnh ấy. Chư Phật nếu bệnh tức chẳng phải chúng sinh, chúng sinh nếu bệnh tức chẳng phải chư Phật. Thế nên vì chúng sinh bệnh nên thị hiện có tật này. Do đây người thành Vương xá, mọi người bẩm thọ ánh sáng trên đảnh mà đến hỏi thăm bệnh. Nhưng Đại só tùy theo chỗ cầu mà hiện bày, khiến vách đứng ngàn nhận cho đến chúng sinh hết bệnh thì bậc Đại giải thoát cũng an. Sau khi an rồi thì có nhiều đàn-việt, làm Đại pháp thí, dựng Đại pháp tràng, diễn Đại pháp nghóa, mưa Đại pháp vũ, mỗi mỗi bao trùm trùng trùng vô tận. Ngay lúc đó đúng thời đúng tiết một câu như thế làm sao nói hiểu rõ chăng. Mầm linh thêm khí đẹp, cỏ lành phát ánh tường quang, lại thành một kệ: Thị bệnh Duy-ma thị bất bệnh Vấn tật Văn-thù sơ bất lai Kiến đại pháp tràng khải đại thí Đốn linh Thiên nhãn nhất thời lai. Bày bệnh Duy-ma vốn chẳng bệnh. Hỏi bệnh Văn-thù trước chẳng đến. Lập Đại pháp tràng mở Đại thí, khiến ngay ngàn mắt mở cùng lúc. Cao Quý Phi lập hội thiên Phật. Sư thượng đường nói: Ngàn hoa hiện thụy ứng, vạn thiện chứa Linh đài (Phật tánh thanh tịnh), rộng mở cửa giải thoát, mở lớn kho vô giá, nêu cao Chánh pháp nhãn, biểu thị nhân ngàn Phật. Dù cho chấm dứt sự khống chế khắp các cõi. Rõ ràng không lấy bỏ, vượt lên trên thanh sắc, từ xưa đến nay. Có đủ Đại tín căn tu hạnh Bồ-tát, phát nguyện lực khó nghó bàn, mở thanh tịnh trang nghiêm, kiến lập đại Đạo tràng bày đủ thức ăn ngon, một hương một hoa một trà một quả, đồng pháp tánh, bằng Thái hư. Vô số thiên Phật phóng quang, Lý như Sự như mười phương khắp ứng. Do đó nói: Thợ giỏi không cần dây mực, gỗ tốt không có quanh co và bằng thẳng, vầng hồng sáng Thái hư, khắp cõi đều rực rỡ. Một hoa nở một Phật ra đời, một hạt bụi dấy lên một Đức Phật thành đạo. Chủ bạn giao xen, sum- la bày sáng, tập họp phước lộc không bờ bến, chúc đức sáng vô cương. Ngay lúc ấy một câu làm sao nói. Trong nhà ngàn ngọn đèn cùng chiếu sáng, bên trời vầng trăng báu càng trong sáng. Đại vương nước vận thỉnh Sư thượng đường. Tăng hỏi: Như thế nào là câu thứ nhất? Sư nói: Há cho âm thanh, sắc tướng từ ông thấy. Lại nói: Nửa đêm mây biếc bao điện xưa, bờ biển thiên trời sáng trên bờ biển vầng kim ô tung tóc. Sư nói: Khuỷu tay người có bùa chú cùng xem. Hỏi: Thế nào là câu thứ hai. Sư nói: Chân kim phải vào lò mà đốt. Lại nói: Cởi ngược ngựa sắt bay lên núi Tu-di, đạp quét sạch tiếng nước Tào Khê. Sư nói: Đang ở giữa đường. Hỏi: Như thế nào là câu thứ ba? Sư nói: Ra vào thế gian muốn tìm người. Lại nói: Trong cõi Diệu hỷ làm mưa sương, trên núi Vô minh nổi mây sấm. Sư nói: Rõ ràng chỗ rủ tay, thích sinh quán tỉ mỉ. Sư bèn nói: Đến lý tự điều hòa, hội thiên hoa hiện điềm lành. Không ở hay đều, mười phương liền trước mắt. Nếu là bậc Lợi căn thượng trí, nhất cử liền hiểu thừa đương. Đã có thể quét sạch các dòng, có thể vượt cổ trùm kim. Dùng trí như thế, dùng sức như thế, dùng tâm như thế, dùng nguyện như thế, sáng đồng mặt trời rộng như Thái hư. Cho nên nói: Thí như hư không, thể phô các tướng mà chẳng chống với các tướng đó để phát huy. Lại nói: Nếu người muốn biết rõ, ba đời tất cả chư Phật, nên quán pháp giới tánh, tất cả đều duy tâm tạo. Bởi thanh tịnh bổn nguyên này, mà xa lìa đi, đến xa lìa âm thanh sắc tướng. Nếu lấy chánh kiến chân thật mà khế với tịch như như, tuy suốt mười hai giờ không nghó lường, không tạo tác, cho đến trong động tịnh, nói nín, mộng tỉnh, không gì chẳng phải là Bổn địa phong quang, bản lai diện mục, hiện các điềm lành, hiện các kỳ đặc, đều là từ vô lượng vô biên kiếp hải, huân tập chủng trí theo căn trí thanh tịnh vi diệu, như thế mà ứng hiện. Ngay lúc ấy thì thế nào? Trong sáng vô tướng thiên Phật hiện, một đạo Thanh hư nêu cổ kim. Lại nói: Thích-ca lão tử trên hội Linh sơn nói Đại Bát-nhã, Xá- lợi-phất ở trước Phật hỏi Tu-bồ-đề rằng: Trong mộng nói sáu Ba-la- mật, cùng lúc thức là đồng hay khác. Tu-bồ-đề nói: Nghóa này sâu kín tôi chẳng thể nói. Trong hội này có Di-lặc Đại só là sẽ làm Phật có thể đến hỏi. Di-lặc nói: Ai là Di-lặc, ai là Di-lặc. Sư nói rằng: Có hiểu rõ chăng? Một câu đương cơ vạn duyên dứt hết, còn nghe một bài tụng nói pháp trong mộng, giác không khác diệu dụng ngoài cừ vó, thần thông chẳng thùy thị thùy danh tổng Di-lặc, tường quay khởi xứ hiện tâm châu. Ai là, tên ai đều Di-lặc, chỗ khởi sáng lành hiện tâm châu. Bổn Nhiên cư só thỉnh Sư thượng đường nói: Tấc tơ chẳng đeo cũng có luật sạch trọi ở đấy, chỗ muôn dặm không mây cũng có một khoảng trời xanh. Nếu lại chẳng bỏ hết chưa khỏi cũng lý do trọn vẹn, dù cho tất cả đều quét sạch, đã rơi quyển hội của Phật tổ. Đến chỗ này nêu lên như thế, hành trì như thế. Tuy nhiên như thế, từ trên đến có cái hiện thành công án, chẳng khởi hành trì. Người xưa nói: Ta có bệnh lớn đời không trị được. Sau đó, Tăng đem hỏi Tào Sơn không biết là bệnh gì. Sơn nói: Họp chẳng được bệnh ấy. Tăng hỏi: Không biết tất cả chúng sinh có bệnh này không? Sư nói: Chúng sinh nếu bệnh tức chẳng phải chúng sinh. Tăng hỏi: Chỉ như Hòa thượng có bệnh chăng? Sơn nói: Chính tìm chỗ khởi chẳng được. Đại chúng, bệnh này chẳng phải đời trị được, cần phải bổn phận sự tác gia, dùng chày kim cương cùng người khác một tráp trên đảnh, chính tìm chỗ khởi chẳng được vậy. Cho một lần uống dạy thẳng bệnh Tổ bệnh Phật là bệnh huyền diệu. Cảnh giới cơ duyên đều đại triệt đại ngộ, tự nhiên giải thoát. Chẳng trụ cơ giải thoát. Đến chỗ đó khống chế chẳng chịu dừng, kêu gọi chẳng quay đầu. Thánh xưa chẳng an bài, đến nay không nơi chốn, chỉ cái không nơi chốn ấy, sớm là nơi chốn. Phải ngay ở ngàn núi, vạn núi bên kia mà thừa đương đi thì tốt dễ dãi nắm một cơ nêu một cơ. Hết cả cùng ngươi nhổ đinh tháo chốt, mở nêm cởi trói, còn nói gì chỉ thẳng tâm người, lại tìm gì mà thấy tánh thành Phật. Đang lúc như thế thì làm sao, chẳng nhờ một chút sức sắt thép, làm nát hang ổ Phật tổ. Ngày cúng giỗ Thiếu Bảo Trương Thừa Tướng thỉnh Sư thượng đường, Tăng hỏi: Duy-ma Đại só đi từ đâu, ngàn xưa khiến người trông chẳng cùng Bất nhị pháp môn nay hỏi, đêm đến trăng sáng trên núi cao. Chỉ như Duy-ma im lặng, ý chỉ như thế nào. Sư nói: Lấp đầy hư không. Lại nói: Như thế thì rõ ràng không quay lưng, thấy thể bày toàn cơ. Sư nói: Không chỗ ông cắm mỏ. Lại nói: Khổ nổi trước ba mươi ba sau ba mươi ba. Sư nói: Đó cũng là treo buộc bình trà. Lại nói: Chỉ như Văn-thù nói: Ta ở tất cả chỗ không hề nói năng cùng người khác im lặng là đồng hay khác? Sư nói: Rơi ở đầu thứ hai. Lại nói: Khổ nổi chém đinh chặt sắt. Sư nói: Đặt ngang kiếm Mạc da. Lại nói: Chỉ như vô tận cư só cùng Hòa thượng ngày xưa đạo khế hợp nhau. Thử nghó: Là nay ở đâu? Sư nói: Đã nói cho ông xong rồi. Lại nói: Học nhân ngày nay có chút gặp lớn. Sư nói: Ông đem cái gì để báo ân. Lại nói: Vạn cổ trăng trên không trong đầm biếc. Sư nói: Lời nói chẳng có gì quan trọng. Sư nói: Đại chúng nắm kềm búa Phật tổ kéo lò rèn không chế tác gia, nấu đốt cổ kim, nghiệm chứng nạp Tăng. Chỉ dùng một cơ bảo kiếm Kim cương vương, Lâm Tế Tổ sư truyền cho Hoàng Bá, cơ yếu này của Mã tổ hướng vào phía Bắc sông lớn mà riêng chấn động Chánh tông. Một tiếng hét phân chủ khách, chiếu dụng cùng một lúc. Ngồi dứt đầu lưỡi người thiên hạ, nước mây chảy đi bốn biển. Cho đến này con này cháu, truyền chánh kiến này, dùng căn cơ thật này. Nếu không phải người Đại giải thoát sao có thể chứng nghiệm rõ ràng. Nhớ xưa Vô Tận Đại cư só lúc sinh bình lấy sự này làm nghiệp vụ, đi tham học với các Tông sư khắp trong hoàn hải. Đến dưới núi Đâu-suất mà gặp Lão nạp. Luận chưa hết câu trước đã được thoát thể toàn chân nói giải đạo lý đồng thời toát ra, bèn làm kệ rằng: Cổ tịch chung đình thác bát hồi Nham đầu nhất tạc ngữ như lôi. (Trống chuông im ắng khất thực về, đầu non một gõ nói như sấm), quả nhiên chỉ được sống ba năm, chẳng phải gặp người khác thọ ký lại. Vàng ngọc khua vang, cọp múa rồng bay. Chẳng ngại đủ đại cơ được đại dụng. Lấy chánh ấn này mà trao cho Thiện tri thức khắp tùng lâm trong thiên hạ. Xưa Sơn Tăng ở Hồ bắc cùng y gặp nhau, điện cuốn sao bay. Một câu nói khế chứng, trong ngoài như một. Cư só công phu viết trên tre lụa, để đức lại cho dân sinh, kẻ hậu ngày nay buông tay bên nào mà làm hay ngưng. Thử nói: Cư só Vô Tận đi về đâu. Lại hiểu rõ chăng. Đại thiên sa giới cõi chư Phật, hiện vô số thắng thân. Lại nói: Đức thịnh ở dân sinh, bốn phương cùng khâm ngưỡng. Ba giáo Đại tông sư, đầu cân có thù lượng, bảy mươi chín tuổi, Phật đồng một năm che, sương gió ngày ấy nói tiêu hoại. Một tiếng cất lên như sấm vang, vì sao trược chợt rới xuống màng mây. Kỳ lân chế đứt khóa Huỳnh kim, một bước nhảy thẳng lên Phạm thiên, ngàn thu vạn năm tưởng còn sót lại. Sư thượng đường, một hai ba bốn năm sáu bảy. Sáng mồng 01 tháng này. Đêm qua lửa lớn về dòng Tây, gió vàng động đất tiếng đàn sáo. Tiếng đàn sáo mở lớn cửa viên thông. Liền xin cắt đứt mà vào. Có hiểu rõ chăng. Niệm dứt là tỏa chiết phiền não đầu mối vô tâm là cung thủy tinh. Đầu tháng Sư thượng đường nói: Xưa nay không hình đoạn, sao lại có môi mỏ. Trái lại rộng xưng dương, thay các đạo lý khác. Thử nghó: Nó là ai tham? Sư thượng đường nói: Trăng sinh một nhà sinh trắng, trăng sinh hai thứ linh dị, trăng sinh ba vạn trở lại ngu si, cách ngoại không dấu vết, trước gió cưỡng chỉ nam, khắp nơi không quay lưng, mỗi mỗi dứt rèm sáo. Viêm hoa trái lại sinh cơ gió, khiến người cười mãi lão Cù-đàm. Lý Điển Ngự cúng trai hằng năm. Sư thượng đường nói: Đại chúng, Như Lai tâm Niết-bàn, Bồ-tát Đại giải thoát, Chánh pháp nhãn của Tổ sư, chày kim cương của nạp tử. Có chiếu có dụng có quyền có thật, có thả có bắt, có giết có làm sống. Ở chỗ hướng thượng then chốt là cái người đến trong đó mà tự tại, hướng vào trong đó mà niêm đề, trọn chưa thể sữa chữa lại toàn bộ. Nếu cũng sữa chữa toàn bộ thì biến đất đai thành vàng ròng, khuấy sông dài thành sữa, biến rơm thành lúa, đổi chết yểu thành sống thọ, chẳng bị chia bên ngoài. Vì sao thế, vì đề cương tông hướng thượng, dùng lỗ mũi tác gia, trả đầu năm vào sáng nay, dùng năm tốt vào ngày này. Đang lúc như thế thì làm sao? Vạn người trong bụi cấm cao cây nêu, trên gấm thêu hoa chuyển sắc sáng. Mùa đông, ngày mồng một, Sư thượng đường nói: Ngày ngày qua mau như tên bay, sáng sáng chiều chiều chuyển sông biển. Đó là tin tức tốt của nhân gian. Cố sức hét lại phải chú ý, để khỏi khiến đầu bạc. Trịnh Thái Sư thỉnh Sư thượng đường có một vị Tăng hỏi: Vạn cơ thôi nghó lúc đó thế nào? Sư nói: Quét sạch đảnh Tỳ-lô. Lại nói: Có thể nói trước gió một câu vượt cả Điều ngự, định hỏi thế nào trải kiếp mê. Sư nói: Chỉ được vòng tay khen ngợi. Sư bèn nói: Linh quang chưa báo điềm, muôn thứ bao trùm Thái hư, một hơi đã bày, hoa nở thế giới bừng dậy. Chư Phật quá khứ hiện tại vị lai đều đồng ở trong đó mà ra, hoặc trời hoặc người hoặc quần sinh, đều từ trong ấy tuôn ra. Vì một chỗ sáng thì trăm chỗ ngàn chỗ rực sáng, một cơ chuyển thì trăm cơ vạn cơ rõ ràng. Do đó nói: Tịnh pháp giới thân vốn không nổi chìm, Đại Bi Nguyện Lực hiện bày thọ sinh, song Bi này, Nguyện này, Lực này, nếu là linh căn vốn có sẵn, đủ siêu thoát chủng trí thì lúc mới hạ sinh đã làm tiếng sư tử rống, đã đủ Đại thần thông. Đến như hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm hoặc buông bỏ hoặc nắm giữ đều ở trên đỉnh đầu các Thánh mà dọc ngang chữ thập. Cho đến hưởng phước hưởng thọ, hưởng giàu sang nhiều con cháu, đều nhờ cừ mong oai lực. Đang lúc đó một câu như thế làm sao nói. Khí lành từng lớp rõ rệt, mỗi mỗi vọt sen vàng. Lại nói tụng rằng: Oai âm dó tiền linh miêu tú Đáo kim quang thái chuyển tân tiên Vạn bôn phân phân phong cảnh lệ Thọ sơn cao đáo đại thung niên. (Oai âm về trước mầm linh đẹp, Đến nay quang thái chuyển tươi mới. Vạn cỏ thơm tho phong cảnh đẹp. Núi thọ cao đến đại thung niên). Đại Nội Khánh Quốc phu nhân thỉnh, Sư thượng đường, có một vị Tăng hỏi: Trong kiếp không lại có Phật pháp chăng? Sư nói: Lấp đầy hư không. Tăng nói: Không biết Học nhân hướng chỗ nào mà an thân lập mạng. Sư nói: Sai lầm rồi. Tăng nói: Hòa thượng gọi cái gì là hư không. Sư nói: Xà-lê hỏi từ đâu đến. Sư nói: Ba đời đoạn phàm Thánh dứt, mười thân viên xứ sát trần không. Sư nói: Khốn nổi ông đạp chẳng được. Sư bèn nói: Nơi nơi chân không trở lại, trần trần ông có gương giác vạn tượng lấy không thấy mà thấy, vạn pháp lấy chẳng nghe mà nghe. Chẳng thấy mà thấy, cái thấy lấp đầy hư không, chẳng nghe mà nghe, cái nghe bao hàm vạn hữu. Lìa hết thấy chẳng thấy nghe chẳng nghe. Riêng có việc kỳ đặc phải là cái cơ Đại giải thoát có dụng Đại giải thoát. Sau mới mới rơi vào chỗ toàn chân, đâu phải chẳng thấy. Tăng hỏi Vân Môn: Như thế nào là Trần trần Tam-muội. Vân Môn nói: Cơm trong bát, nước trong thùng. Tăng lại hỏi: Như thế nào là chỗ chư Phật xuất thân. Môn nói: Đông Sơn nước chảy lên, đồng một thời tiết. Chỗ phác thật chính là chỗ phác thật, đỉnh cao nguy hiểm chính là đỉnh cao nguy hiểm. Đang lúc ấy thì thế nào, đem cái gì đề trì, đem mắt nào mà phân biệt. Lại hiểu rõ chăng. Thử ngọc thì phải vào lửa, tìm châu chớ có lìa bùn. Lại tụng rằng: Thử tâm hàm pháp giới Minh khiết bổn lai nhân Thiên tường như vụ tập Vạn thiện như vân trăn. (Tâm này trùm pháp giới, Minh khiết người xưa nay. Ngàn lành như sương tụ, Vạn thiện như mây đến.) Ngày sinh Đại Bi, Vận Quốc Đại vương thỉnh Sư thượng đường, Tăng hỏi: Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm, tất cả đại địa là sắc, cái gì là tâm? Sư nói: Quán Thế Âm Bồ-tát đến. Lại nói: Có thể nói mò trăng đáy nước, chơi hoa thơm đầy áo. Sư nói: Thế nào là bánh bò? Thưa: Chỉ như Vân Môn nói gì? Có ý chỉ gì? Sư nói: Nặng dẫn nặng lui, nhẹ dẫn nhẹ lui. Lại nói: Cuối cùng thủy triều từ biển xanh đi, rốt ráo mây tự tìm núi về. Sư nói: Cũng phải trên đảnh môn mà đủ mắt Quán Âm mới được. Sư bèn nói: Ngày này năm đó Đại Bi sinh, ngàn tay trang nghiêm ngàn mắt sáng. Thế xuất thế gian việc thù thắng. Thần thông thảy đều viên thành. Như thế mà bước từng bước lên bậc thềm Phật. Đến đâu (vì sao đến), mà nơi nơi hiện thân hiện độ. Ở sáu căn được thân viên thông, ở giải thoát được Phổ môn trí. Do đó không cõi nào chẳng hiện, không chỗ nào chẳng chân, hoặc vì Bảo Công mười hai mặt, hoặc làm Đạt-ma truyền tâm ấn, hoặc đến Tứ châu vận thần thông, hoặc đến Hương sơn phát diệu thân, châu toàn qua lại. Hoặc chứng ba chân thật được hai thù thắng, bốn Bất tư nghì, bốn vô úy, ba mươi hai ứng. Đến Ta-bà thế giới có đại duyên khác, mà nói không nói vô cùng, diệu chú hiện vô thân. Bảo Vương diệu thân tùy loại bày Bi, ứng cơ phó cảm. Cầu nhiêu ích thì được nhiêu ích ứng, cầu nam nữ thì được nam nữ ứng, cầu như ý thì được như ý ứng. Đây cũng là sức phương tiện của Quán Thế Âm. Dám hỏi đại chúng: Thế nào là Quán Thế Âm chỗ xác đáng không thấy một pháp tức Như Lai, mới được gọi là Quán tự tại. Ngày mồng một tháng mười, Sư thượng đường nói: Vô biên sát hải rộng lớn đồng Thái hư, đêm qua thu hết ngày nay Đông mới bắt đầu. Từng không biến đổi, há có thân sơ, ngay đây dứt hết. Tô lỗ, tô lỗ. Sư thượng đường nói: Ta ta ta lớn lớn lớn. Trên đảnh ngàn Thánh là lều bồng, chẳng phải tâm chẳng phải vật, một miệng nuốt hết ba đời Phật. Phù Tràng Vương, Hương Thủy Hải, dở lên ném đi phương ngoài sạch làu làu, sáng rực rỡ, vạn tượng sum-la không may chỗ nứt, bình đẳng tự nhiên đằng lên lồng lộng, đói thì ăn cơm, mệt thì ngủ. Tiết lệnh đại lễ, Sư thượng đường, bảy ngày trở lại, đều về tận gốc, mặt trời mọc, nhìn thấy tâm trời đất, mở triệt để trùng huyền, bày chánh nhãn rõ ràng, dù cho được vạn quốc cùng mừng, bốn biển cùng vui, phước nhóm một người nối tiếp ngôi vị vô cực. Có cái kỳ đặc đúng thời đúng nhân duyên, nêu giống đại chúng, lại có hiểu rõ chăng. Hoàng đế sắc lệnh đại xá cho thiên hạ. Kim thượng Hoàng đế khi ở Phiên Để thỉnh Sư thượng đường Tăng hỏi: Một mặt trăng trên trời ảnh trùm khắp mặt nước, một Đức Phật ra đời đều ngồi trên một hoa sen. Chỉ như khi Phật chưa ra đời thì như thế nào? Sư nói: Gió thổi vèo vèo. Hỏi: Thế nào là sương sa rồng ngâm, gió thổi cọp rống? Sư nói: Cũng so sánh một chút. Hỏi: Sau Phật ra đời thì thế nào? Sư nói: Khắp cõi chẳng từng chứa? Lại nói: Chỉ giữ tâm địa không các điều ác, thì trong rừng đao kiếm cũng lập thân. Sư nói: Thân tâm sắt đá báo ân nước. Lại nói: Xưa nay không có đường khác, người đạt đường cộng đồng. Sư nói: Phải được mọi người cùng chiêm ngưỡng khen ngợi. Sư bèn nói: Tâm kim cương chân, cõi Hoa tạng rộng. Một Phật ra đời ngàn cõi ủng hộ, một đóa hoa nở thì vạn hoa đều vây quanh. Hiện nhân thù thắng, làm việc kỳ đặc, có thể giữ yên nhà nước, có thể nhập Thánh siêu phàm. Chỉ nhờ thần thông bất tư nghì, tác dụng vi diệu khó nghó. Xe không đi ngang, lý không dứt vạy. Há chẳng thấy: Ngày xưa vua Ba-tư-nặc hỏi Thích-ca lão tử, trong Thánh Nghóa Đế, có Thế Tục Đế chăng? Nếu nói có trí thì chẳng đúng một, nếu nói nó không trí thì chẳng đúng hai, nghóa một hai việc ấy thế nào? Thích-ca lão tử nói: Này Đại vương! Ngài ở thời Phật Long Quang Vương từng hỏi nghóa này. Ta nay không nói, Ngài cũng không nghe, không nói không nghe là Chân Nghóa Thánh Đế. Đó gọi là một lý hai nghóa. Nghóa một, hai việc ấy như thế. Ông già Thích-ca trên đảnh phóng quang, dưới tay đeo bùa, ở trong trăm ngàn vạn ức cảnh giới mà đề khởi một cách rõ ràng. Các người chứng cứ được chăng. Nếu chứng cứ được thì xét đầu được sắc, nếu chứng cứ không được, thì lại nghe xử phân. Đang lúc như thế thì làm sao? Buông bỏ một tuyến đường, gặp chỗ hiện thần thông. Lại nêu: Ngày xưa có một vị vua qua Tây thiên gặp Tổ sư, gặp rồi bèn thỉnh Tổ sư nói pháp. Tổ sư nói: Đại vương khi đến thì Đạo tốt đã cách xa Như Lai. Sư nói: Phật pháp tức là Thế pháp, Thế pháp tức là Phật pháp, lấy chân đạo mà làm, gió thổi cỏ rạp, Sơn Tăng có bài tụng ngắn: Rất giản dị, rất tôn quý. Đi về lại ở trên đầu ngàn Thánh, thí xuất thế gian bất tư nghì, nháy mắt viên thành tám vạn môn một bước thẳng vào Như Lai địa. Tân Vương thỉnh Sư thượng đường, có vị Tăng hỏi: Phổ quang điện sáng ở nhân gian, phàm Thánh giao nhau dứt qua lại, nếu từ một hạt bụi mà thấy được, chỗ kính Từ Nhan chiếu sáng. Ngay lúc đó thì thế nào, Tỳ-lô-giá-na ở đâu? Sư nói: Ở trên đầu ông. Hỏi: Sao học nhân gõ chẳng được. Sư nói: Chỉ vì ông không phải là đầu đồng trán sắt. Lại nói: Đại Tiểu Thiên Ninh Hòa thượng trong ngữ mạch mà chuyển. Sư nói: Đại Tiểu Thiền khách theo chân người mà chạy. Lại nói: Nên biết đồng đường chứ không phải đồng vết xe. Sư nói: Cũng chẳng phải cái đạo lý ấy. Trời cùng mây trắng sáng, nước và trăng sáng trôi. Sư nói: Tôm nhảy không ra khỏi đấu. Rằng: Ngày xưa ngài Triệu Châu ở trong tượng thất, thị giả báo rằng: Đại vương đến. Châu nói: Đại vương vạn phúc. Lý này như thế nào? Sư nói: Mắt kim cương trên đỉnh đầu phóng ánh sáng. Lại nói: Tuy vạch cỏ tìm người, khốn nổi lôi thôi dài dòng. Sư nói: Chớ chê Triệu Châu. Lại nói: Bỗng nhiên Tân Quốc Đại vương hôm nay đích thân đến, như thế nào? Sư nói: Mở ra chữ bát nói pháp xong. Sư bèn nói: Đại chúng, dùng Phật thấy Phật không thấy cái khác, dùng pháp nói pháp không nói cái khác. Phật pháp nghe thấy đều hiện rõ ràng ngay đây toàn siêu việt. Minh bạch một phen chẳng Phật chẳng pháp chẳng thấy chẳng nói, chẳng có chẳng không, chẳng khác chẳng như. Rộng như Thái hư, sáng như mặt trời. Do đó ba đời Như Lai ở đây mà hiện sinh. Ở đây mà tu hành, ở đây mà ngộ đạo, ở đây mà thành Phật toàn chẳng do gì khác, riêng nương sức lớn. Tức như nay trên đầu ngàn Thánh phóng ra. Chẳng dùng mắt thấy chẳng dùng tai nghe chẳng dùng miệng nói chẳng dùng tâm biết. Chính lúc ấy cần phải là người đó mới được. Do đó nói: Đại nhân đủ Đại kiến, Đại trí được Đại dụng. Nêu một nói ba, bảo xưa thì biết nay. Chính lúc ấy, chẳng dính Di Duyên một câu như thế làm sao nói, có rõ ràng chăng? Sở trạch mở sáng năm trăm năm, Bàn Đào kéo dài một ngàn năm. Lại có tụng rằng: Nhất trần tài cử nhất sát hiện Nhất hoa khai thời nhất Phật sinh Khắc chứng kim cang đắc trường thọ Lục căn trú dạ phóng quang minh. (Một trần vừa cất một sát hiện, Một hoa mới nở một Phật sinh, Ắt chứng kim cương được trường thọ, Sáu căn ngày đêm phóng ánh sáng.) Tế Vương thỉnh Sư thượng đường nói: Đem vô lậu căn làm việc kỳ đặc, dùng trí giải thoát trồng duyên kim cương. Chẳng ở chỗ khác mà hiện thân, luôn ở đảnh môn mà riêng bày. Chẳng tâm chẳng Phật chẳng khác chẳng như. Rãnh rang cầm một cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu. Rãnh rang nói một câu có thể đáng kiếm báu kim cương người người đều vâng theo dụng này, mỗi mỗi đều nương tâm này, nếu hay tự soi xét lấy mình chính là Tỳ-lô Chánh thể. Há chẳng thấy vua Ba-tư-nặc hỏi ông già Thích-ca rằng: Con xưa chưa được Phật dạy, thấy Ca-chiên- diên đều nói thân này chết rồi thì dứt mất hết, con tuy gặp Phật tâm vẫn hồ nghi. Thân này niệm niệm dời đổi, chẳng biết có cái chẳng đổi dời. Do đó Thích-ca Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc rằng: Ngài tuy biết cái dời đổi chẳng dừng lại biết trong thân này có cái chẳng dời đổi chăng? Vua chắp tay bạch Phật rằng: Con thật chẳng biết. Phật nói: “Này Đại vương! Ngài mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng”. Vua nói: “Con thấy lúc ba tuổi.” Phật nói: “Như nay thì thế nào?” Vua nói: “Nay con đã sáu mươi hai tuổi mà cùng cái thấy lúc ba tuổi không khác.” Phật nói: Đại vương! Mặt Ngài tuy nhăn, nhăn là biến đổi, mà cái thấy này tinh tánh chưa từng biến đổi. Biến đổi là có diệt mất, không biến đổi là nguyên không sinh diệt. Ông già Thích-ca hướng trên đầu ngàn Thánh, đầu núi vạn nhận mà chỉ ra tánh kim cương, chẳng dời chẳng đổi trạm tịch ngưng nhiên, rõ ràng hiển bày. Do đó vua Ba-tư-nặc biết rõ bổn tâm. Dám hỏi đại chúng chỉ như nay tất cả người đều thấy Sơn Tăng lên pháp tòa. Thử nghó: Cái thấy này từ đâu mà được, cùng Oai Âm trở về trước, bên kia bờ của kiếp không là đồng hay khác. Nếu thấy được không khác thì thấy hiện tiền. Ngay lúc ấy một câu như thế làm sao mà nói. Thấy mặt đánh mở kho vô tận, khắp nơi phóng ra dạ minh châu. Lại nói Tế Quốc Đại vương đủ Đại căn khí, có chủng tánh Thượng thừa sinh ra làm con vua, thân tột cùng vinh hoa phú quý. Chẳng quên lời chư Phật giao phó, biết có nhân duyên lớn này thùy thần giáo điển biết sâu nhân quả. Phàm chỗ thi hành đều là tâm nguyện rỗng chiếu. Do đây mà làm nhân duyên lành, bảo vệ được định, giàu sang lâu dài, phước lộc tràn đầy, có phước tu phước như biển lớn thâu nạp nước các sông, chỉ cho người có lợi căn chủng trí đủ tác dụng như thế. Chỉ đây liền là Phổ quang điện, thân vô tướng là Lô-xá-na. Vạn hạnh nhân, hoa viên quả hải, nguồn phước lớn rót tràn sông trời.  VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 6 THƯỢNG ĐƯỜNG 6 Vương Quý Phi thỉnh. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Như trời khắp che luôn thấy mặt trời, mặt trăng chiếu sáng giống như đất vạn cổ khắp nâng núi sông bền chắc. Đang lúc như thế nhờ ân sức ai? Sư nói: Một đóa hoa xuân trong ngàn bụi hoa. Lại nói: Có thể nói là già quê đã biết sức Nghiêu Thuấn, ca dao ngày nay vui thăng bình. Sư nói: Cũng cần biết ân này mới được. Lại nói: Người nào chẳng chiêm ngưỡng? Sư nói: Mau lễ ba lạy. Sư bèn nói: Đột xuất khó biện. Chỉ chớp mắt, nhanh như điện chớp mà đưa ra giữ, nạp Tăng không chỗ khế ngộ, buông bỏ một tuyến đường, chuyển thấy sai lầm, chẳng rơi vào thềm bậc, chỉ là lời nói đầu môi, đến chỗ đó thì như thế nào, xe chẳng đẩy ngang, chôn chẳng cong dứt. Ngàn hoa hiện tướng, vạn cổ một mùa xuân. Nơi nơi hiển kỳ đặc, các nơi rõ ràng thù thắng. Chớ phải là đầu năm mới Phật pháp chăng. Quả thật đẩy cho người khác không được, phải là hướng thượng đưa ra giữ chăng? Quả thật nghị luận nó chẳng ra, chớ phải là ứng cơ cảnh tạm thời so với lúc này chăng. Chưa khỏi lôi thôi dài dòng. Có phải là một nét xóa hết vách đứng ngàn nhận chăng? Cần phải nhìn không mà nói. Gọi đó là pháp tùy pháp hành, pháp tràng tùy chỗ mà kiến lập, gặp người kỳ lạ thì nêu ra, gặp cơ kỳ lạ thì đưa ra giữ, vả lại một người chiếu sáng thì vạn kiếp mở mang. Chín hữu đều kính ngưỡng oai quang, một lời nói một câu chỉ bày cơ cảnh. Một nổi một chìm một xô, một đẩy đều là từ sự đại giải thoát phả ra. Thử nói rốt ráo nương vào cái gì liền được kỳ đặc ấy. Nếu biết có đi thì chẳng nhờ hình ngôn (lời nói và hình chất). Nếu chưa như thế thì lộ tin tức đi. Tịnh trí trang nghiêm nhóm công đức, chúc cho đỉnh núi tùng vạn năm. Lại có tụng rằng: Đại đạo hư huyền thiên địa tiên Côn trùng thảo mộc tất đào diên Thần công dó cực tam thiên giới Duệ toán nhưng qua ức vạn niên. (Đại đạo hư huyền trời đất trước, Côn trùng cây cỏ đều ung đúc, Thần công đã rốt ba ngàn cõi, Sáng suốt vẫn qua ức vạn năm.) Các Đạo hữu xuống tóc cho Lý Đạo Sơn. Sư thượng đường nói rằng: Có con mắt trí tuệ (đảnh môn chánh nhãn kim cương) mới biện Đại cơ, gã giết người chẳng nháy mắt, lập tức thành Phật mới sáng đại dụng, cho dù như thế cũng chỉ là nơi ủ ta chúng dựng pháp tràng lập thú hướng Tông chỉ. Vả lại, có việc hướng thượng không. Nếu biết có thì hãy hướng thượng đi. Giả sử hết cả càn khôn đại địa cỏ cây tòng lâm mỗi mỗi đều hiện trăm ngàn ức thân Thích-ca, một nắm cũng không tiêu. Đến như dùng biện luận trôi chảy, căn cơ như núi hiểm, hết cả bốn Thánh sáu phàm, một lúc bằng phẳng sáng sủa, để được tương lai, một cái xô chẳng tiêu. Lại nói: Cứ vào cái gì lại như thế. Đó gọi là Đại nhân có Đại kiến, Đại trí được Đại dụng, hướng vào hang vô minh mà phả ra vô lượng tia sáng báu, hướng vào cảnh giới chúng sinh mà làm việc không thể nghó bàn. Giống như Đơn Hà vừa mới nêu ra liền biết cứu cánh, lại chẳng liên can đến đầu môi liền chẳng rơi vào lời giảng mới giống hơn người khác một cái đầu cao. Lại là hiểu biết nhiều. Chỉ như khi chưa cắt cỏ thì ở chỗ nào? Người quá lượng có việc quá lượng chỉ như đương cơ một câu như thế làm sao nói, mấy tiếng khánh là ngoài thị phi, có một nhàn nhân trong trời đất. Lại có tụng rằng: Đơn Hà cắt cỏ thiêu Phật gỗ, cung khiến bỏ duyên thổi lông tơ, làm kinh sợ địch thủ hơn sư tử thật một lưỡi câu móc được mười hai con ba ba. Tri Tỉnh Thái Úy thỉnh. Sư thượng đường nói: Một câu rõ ràng hiển sáng, khắp cõi đã dứt khống chế, chẳng từ trong tâm tủy của chư Phật tuôn ra, cũng chẳng phải lúc càn khôn chưa lập. Chỉ như nay lẫm liệt hiểm nguy lắng trong dứt chiếu. Nếu là đủ mắt siêu phương có cơ cách ngoại, chưa bày câu văn về trước, đã khám phá rất nhiều và kịp bày ngôn cú, lập hình cơ cảnh hỏi đáp làm kia đây, dù cho ngàn lớp trăm vòng, trăm vòng ngàn lớp, và cơ trung, hạ, đồng thời thâu nhặt ở trong đó. Còn có ngay chỗ mà chứng minh thẳng giải thoát chăng? Thử nêu ra cái tin tức ấy xem. Như trước Phật Oai Âm Vương tươi sáng. Thẳng đến như nay sạch làu làu. Lại có tụng rằng: Pháp giới quảng bao hàm Khai số Ưu-bát-đàm Phổ huân Bát-nhã lực Vạn thiện tự trang nghiêm. (Pháp giới rộng bao hàm, Mở bày Ưu-bát-đàm, Khắp huân sức Bát-nhã, Vạn thiện tự trang nghiêm.) Nơi đại nội quý phi thỉnh Sư thượng đường nói: Một câu nói ra trên đảnh môn ngàn Thánh, một diệu cơ phát ra ở vô tận kho báu. Chỗ không nương cậy đạp dứt mánh khóe. Chẳng sắc chẳng tâm chẳng như chẳng khác, hết cả hư không cùng khắp pháp giới đều lo là cái Đại giải thoát môn. Các ông ở trong chỗ mênh mông đất mà ra vào. Lại biết lạnh sởn sốc chăng nếu ở dưới chân một niệm chẳng sinh thì toàn thể hiển bày, thì sạch làu làu tươi sáng. Cần đi thì đi cần trụ thì trụ, cần dùng liền dùng, cần nghỉ liền nghỉ. Chẳng chỉ đầu thứ hai, chẳng rơi vào kiến thứ hai. Đến chỗ ấy thì nêu kim nói cổ, ngưng nhiên tịch chiếu. Nếu đi thì thấu suốt sinh tử là việc rất nhàn. Có thể dùng vô lậu căn lực mà lập pháp tràng dựng Tông chỉ. Áo trùm tất cả quần linh hết cả đời vị lai vô cùng tận. Chính lúc ấy thì nói nhờ ân lực ai. Có hiểu rõ chăng? Đầu núi năm uẩn Phật vô tướng, phóng quang động đất khắp châu sa. Tụng rằng: Nhất tâm vô trụ trước Biến giới pháp vương gia Sùng thành vô lậu phước Đoan tọa bảo liên hoa. (Một tâm không dính mắc, Khắp pháp giới vương gia Kính thành phước vô lậu, Ngồi nghiêm hoa sen báu.) Cư só Thản Nhiên cúng dường trai Tăng Sa-di Cống. Sư thượng đường, Tăng hỏi khi Đạt-ma chưa truyền ấn tâm, Thích-ca chưa cởi hạt châu trên búi tóc. Có người nếu hỏi ý của Tổ sư từ phương Tây đến, có ý của Tổ sư từ phương Tây đến chăng? Sư nói: Sư tử đá trước sân. Lại nói: Nếu thế thì trải kiếp Thản nhiên không sắc khác, gọi là tâm ấn sớm hư ngôn. Sư nói một điểm cùng vào chẳng được. mắt. Lại nói: Khổ nổi cổ kim cũng không rơi, luôn rõ ràng ở trước Sư nói: Ông thử nêu trước mắt xem. Lại nói: Một điểm cũng không lừa mắt Hòa thượng được. Sư nói: Khổ nỗi đại chúng thế nào. Sư nói: Cất bước vượt Đông Thắng thân, lui thân vào Tây-cù-da. Quay đầu nhìn Bắc-uất-đơn, nắm tay chạm Nam Diêm-phù. Hãy nhìn trong đất Tịnh, là Phật tự tâm dùng Chánh nhãn xem lại, giống như là Ma-chỉ khúc mạt, phải biết bốn góc trên dưới vô biên hương thủy hải, bất khả thuyết phù tràng vương sát, nghiền nát thành vi trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện vô biên thân, nói vô lượng pháp. Cũng chỉ là thuận cơ ứng giáo. Xem khổng hung trước khế (cổ rồng gái chốt), huống gì đưa kềm búa hướng thượng dùng lò rèn tác gia liền là khắp cõi Đức Sơn có gậy mà không chỗ hạ thủ, khắp cõi Lâm Tế có hét mà không chỗ mở miệng. Khắp cõi Kim sắc Đầu-đà (Ca-diếp) có định lực mà không chỗ dụng thân. Chính lúc ấy bỗng nhiên có cái thừa đương được, thú hướng được, hành lý được lại nói gì chỗ trước cư. Sơn Tăng có cái chỗ chấp dính định đợi nói ra, lại sợ thành lộ bố (lộ bày?), định chẳng nói lại sợ cô phụ đương cơ. Nói cùng chẳng nói hãy nêu ra, cuối cùng một câu nói ra mà hiểu đi. Dưới tòng cao sáng trong cửa, điện ngọc lầu châu chưa là đối. Che đấp mông đầu vạn việc hết. Lúc này Sơn Tăng đều chẳng hiểu. Lại hiểu rõ chăng? Thiên thai hoa đảnh (đảnh hoa) đẹp, Nam Nhạc thạch kiều cao (cây đá). Đêm qua ma bàn sinh tám sừng, sợ đem lộ trụ cười hy hy. Dẫn được trước cửa sư tử đá, nghiêng duyên la bích lên Thiên thai. Sư từ bỏ chức vụ trụ trì thượng đường nói: Kiến lập ngôi nhà lớn chẳng phải một cây mà được, cứu sông lớn chẳng phải sức một người, huống là khoảng không tuyệt dấu vết, đại đạo thể rộng lớn. Hiểu rõ là do người, chấm dứt là ở mình. Hoặc ra làm quan hoặc ở ẩn, hoặc nói, hoặc im, hang cọp cung ma, cõi uế cõi Tịnh, núi rừng thành thị trong bụi gai gốc, cho dù mỗi hành vi có cơ xuất thân, nơi nơi có cái thấy vượt tình, không thể chẳng thể, nắm định Phật tổ chẳng thể dòm, buông bỏ cùng sống cùng chết. Thử nghó: Buông bỏ là người tốt hay giữ vững là người tốt. Có hiểu rõ chăng? Khoát áo tơi đứng nghiêng ngoài ngàn núi, dẫn nước thiêu sơ trước năm lão. Uyển thân đem ép túng tâm niên. Lười chìm trần lao ở lâu trong thế gian, nương lá bùa làm gậy hộ thân, gượng dìu bệnh suy yếu tạm về núi. Sư trụ ở Kim sơn, Long du ngữ lục. Sư ở Cao Bưu Càn Minh nhận sắc vua, cầm sắc dạy chúng rằng: Thấy chăng? Khi đưa ra chiếu sáng mười ngày, chỗ nêu ngàn cõi rạng rỡ. Cửu trùng từ trời gắng xuống, trong tay Tể phụ đích thần giao phó. Lại chẳng dám che phủ. Thỉnh Tăng Chánh nhất vì nói. Kế sư cầm sớ nói rằng: Bảo Sát đầu sợi lông ngoài thành oai quyền. Có cuốn có mở có chiếu có dụng, chữ chữ châu hồi ngọc chuyển, mỗi mỗi gió thổi cỏ rạp. Tuy câu văn lại xim làm mới lại đề đưa ra. Sư chỉ pháp tòa nói rằng: Cây gậy đem theo mình gặp trường thì múa giỡn, Tu-di Đăng Vương chỉ nay thấy, trước mắt càng chẳng cần đảnh lễ. Có tin được kịp chăng? Ngàn Thánh không truyền bí quyết vi diệu, đỉnh núi cao Diệu phong có người đi. Sư thượng đường nói: Chánh lệnh ban hành mười phương đồng ứng, hiến hoa mượn nước toàn nhờ người ngoài. Lại có người cùng chứng minh chăng? Tăng hỏi: Hát xong ngự lâu một khúc, lên cao đỉnh núi phù ngọc, chưa qua sông Dương Tử, như thế nào mà nói được câu tiếp tay. Sư nói: Gió không thổi thì cây chẳng động. Lại nói: Chỉ cái đó đâu khác đỉnh Diệu phong. Sư nói: Cơ phong bén nhạy. Lại nói: Bỗng như Đức Vân Tỳ-kheo ra nói, Hòa thượng như thế nào mà chuyển thân. Sư nói: Cũng sờ mó không được. Lại nói: Khổ nổi nơi nơi không trở lại, khắp chốn chẳng nhượng cơ. Sư nói: Bảy ngày sao từng được thấy lại. Lại nói: Giả sử thân thấy chỉ là tiên núi. Sư nói: Lời khổ khuất rất khó nói. Hỏi: Học nhân khổ cũng thông tin tức, chỉ sợ sông Dương tử nước chảy ngược. Sư nói: Ba mươi gậy lại đợi lúc khác. Sư nói: Đại đạo không quay mặt, chân cơ có cuốn mở nắm đất đai như thợ gốm vân cả đại thiên vào đầu kim, cũng chưa là trong hoàn vũ chánh lệnh, ngoài thành toàn oai. Do đó vạn quốc chiêm ngưỡng đồng hướng về thái bình, Linh quang một đạo cùng chiếu Hoàng gia, lập lại Phật tổ Đạo tràng, đuổi theo khắp trời Bảo sở. Chánh lệnh toàn đề, chủ khách đồng dụng. Sơn Tăng ngày nay được kính lễ vì một người được Thánh chiếu, được giúp bởi một Tể phụ oai quyền. Cùng dựng pháp tràng, cùng lập tông chỉ. Tâm sông Dương tử nổi sóng tung trời mây tụ, tan trên đỉnh núi Diệu phong. Nơi ấy để ý chánh lệnh toàn hiện. Nếu cái ấy được sử dụng, cùng giết chết, cùng cứu sống. Cùng thấy, cùng nghe, cùng nói, cùng diễn ra. Không có duyên nào khác cũng không thấy khác. Nói gì chín mươi sáu thứ, hai mươi lăm hữu chính phải đương đầu biện lấy, một lúc nêu ở. Lại như ngày nay đúng tiết một câu như thế làm sao nói vượt qua kim cổ, vạn năm kính chúc trời Thánh minh. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Xa từ cửa khuyết đã tới Nam từ, chẳng dính đường đi, thỉnh Sư chỉ bày. Sư nói: Đến đây đã sáu ngày. Hỏi: Trúc dầy chẳng ngại nước chảy qua, núi cao đâu ngăn mây trắng bay. Sư nói: Cũng dính môi mép. Hỏi: Chẳng dính môi mép thỉnh. Sư nói: Chỗ cao cao có dư. Lại nói: Nhà nạp Tăng vào rừng chẳng động cỏ, vào nước chẳng động sóng, lấy gì làm chứng. Sư nói: Cũng còn so xét chút ít. Lại nói: Chỉ cho Lão Hồ biết không cho Lão Hồ hiểu. Sư nói: Lại chớ lừa dối. Sư bèn nói: Ba mươi năm trước từng đến đây, như nay lầu các ngọc so le, Thiện Tài chỗ tham chân tin tức, ai biết Đức Vân chày nhàn xưa. Lại có người biết được chăng. Khi chưa qua qua châu có một câu, đã nói cùng các người xong. Nếu lấy Tâm suy nghó, nếu lấy ý biết, hoặc lấy mắt thấy hoặc dùng tai nghe thì mất giao thiệp. Thẳng được bảy Phật về trước, trước Phật Oai Âm Vương nói được cũng là thoại hội. Nếu hiểu rõ được, lại chẳng dùng như thế là sau. Liền thỉnh Đơn Hà riêng bước. Nếu chưa được thế thì chẳng khỏi lạc vào nghóa môn thứ hai. Giang tâm một ngọn lầu đài chiếu nhau, mặt nước hai tháp, vàng đá giao sáng, thật Thánh đế phước điền, là Thiền lâm Thượt sát, là Lâm cung, là chùa Phật, là Tịnh độ là cõi uế, kiến lập pháp tràng gánh vác đạo tổ. Nếu không phải là Kim thượng Hoàng đế duệ Thánh văn minh tin sâu đạo này thì sao có thể giáng xuống chiếu thư, lại ở Bảo phường lấy làm đất phước. Như nay do đó cùng các người hướng vào Đạo tràng xưa này mà đều được thấy nhau. Đã đến chỗ ấy cần phải niệm đức tu đức biết ân báo ân. Nếu cũng như đây thì Phật pháp phó chúc còn đủ. Chính lúc ấy thì một câu như thế làm sao nói. Núi bạc vách sắt không dung hợp nhau, gió thổi cọ rạp được tự do. Lễ khai đường, Phán Phủ Diên Khang Độ đưa sớ cho Sư. Sư nhận xong nói rằng: Dứt hết hiện thành công án, tiếng vàng ném đất, phát sáng cổ sát gia phong, ánh sáng rực trời. Rút từ Đại thu bút, hiển bày tối thượng thừa. Đang muốn vang khắp bốn biển. Liền thỉnh Tăng chánh tuyên bố. Sư chỉ pháp tòa nói: Tu-di Đăng Vương Như Lai thấy ở tòa này phóng ánh sáng lớn, nói pháp xong, có nghe chăng. Nếu chưa nghe, thì ông ở trong lò mà không tránh lửa, lại phải dẹp bỏ chuyển lên đầu cửa. Sư bèn xuống tòa niêm hương nói: Một nén hương này kính vì Kim thượng Hoàng đế, chúc nghiêm Thánh thọ. Phục nguyện: Văn minh đồng hai sáng, sáng suốt bằng càn khôn, đoạt thiếu khang phục lại công vua Vũ, thành tuyên quang hưng nghiệp Thánh thất vạn bang về với Thánh hóa, tám biểu dẹp can qua - Một nén hương này kính vì Phán phủ An Võ Diên Khang, Thông Phán Học só và các văn võ quan liêu trong quận. Phục nguyện: Vị Thạnh Bàn Thạch, công giúp Duy Thành. Ở phương diện thì Lỗ - Vệ - Tấn - Tề, Thiệp Nham Lang thì Cao Quỳnh Tắc. Một nén hương này, Phật nhãn nhìn cũng chẳng thấy. Giang Hoài mười năm chịu hết đắng cay khổ nhọc. Một sớm bạch vân phá thùng sơn đen, sáu nơi thêm lãnh Đại sát. Bảy lần dâng lên hương này, kính vì núi Ngũ tổ ở Trác châu, Chân Tuệ thiền viện Diễn Thiền sư đời thứ mười hai, để đáp ơn pháp nhũ. Bèn vén y xuống tòa. Tiêu Sơn Hòa thượng bạch chùy nói: Chúng kiệt xuất quán Đệ nhất nghóa. Sư bèn nói: Vừa rồi chưa lên tòa này, Đệ nhất nghóa đã tự hiện thành. Như này dưới chùy phân sơ biết cái khác là nghóa thứ mấy. Lại có ai nhồi thành một khối mà hiểu xem được chăng? Hãy bước ra đối chúng nói xem. Tăng hỏi: Mắt thấy Vân Hán Đức Vân chẳng xuống núi Diệu cao, Chí hóa khó trốn, Kim sơn lại thông một đường đi, Báo Ân một câu thỉnh Hòa thượng nói. Sư nói: Vạn năm mãi chúc vua Thánh minh. Lại nói: Có thể nói sức vua to hơn gò núi, ân vua rộng như vũ trụ. Sư nói: Càng khiến tâm như sắt. Lại nói: Cành vàng tươi mãi ngàn năm đẹp, lá ngọc luôn thơm vạn cổ xuân. Sư nói: Lại được Xà-lê cùng chứng minh. Lại nói: Ngày xưa Bùi tướng công vào chùa, Thạch Sương mượn hốt rủ lòng từ, ngày nay đích thân đến, chưa biết thấy nhau thế nào. Sư nói: Chỉ cái thấy thành công án. Lại nói: Khí lành từ trên trời xuống, mây lành vốn từ mặt trời lại. Sư nói: Mở mắt ra. Lại nói: Chỉ như Hòa thượng sáu chỗ khai đường vì người nói pháp, lại có người chịu chăng? Sư nói: Một lúc chẳng chịu. Hỏi: Vì sao chẳng chịu. Sư nói: Chỉ chấp nhận. Sư bèn nói: Đại đạo dứt bên trong, thật đến cho hết nói năng. Chư Phật không thể đưa ra, Tổ sư chẳng thể truyền. Vượt khỏi âm thanh sắc tướng, dứt hết rào ngăn, trùm khắp trời đất không trước sau. Há chỉ ngay nơi gậy thủ chứng, ngay tiếng hét thừa đương. Dù cho ngàn mắt mở nhanh, chưa khỏi nương nhờ cây cỏ. Đến chỗ ấy phải là kim đâm không vào, gió thổi không ngã. Cắt đứt chức vụ quan trọng chẳng thông làm Thánh mới được. Thế nên trên hội Linh sơn tên đồ tể Quảng Ngạch buông dao nói: Ta là một trong số của ngàn Phật. Đại lực Ma vương trong hội Đại tập nói rằng: Đợi tất cả chúng sinh đều thành Phật hết, sau mới phát tâm Bồ-đề. Há chẳng phải là voi giẫm đạp, sư tử rống. Thắng địch khinh người nuôi lớn ý khí trượng phu, mới có thể thừa đương gánh vác. Do đó nói: Giết người không gớm tay đứng trên đất thành Phật. Đứng trên đất thành Phật, giết người không gớm tay, trả lại quá lượng người khác, nắm giữ quá lượng trí. Chính lúc ấy hướng vào cảnh giới quá lượng mà nói như thế, có biết chăng. Kính chúc Thánh quân vô lượng thọ, biển lặng sông yên vui thái bình. Sư thượng đường nói: Này đại chúng, trên cục thịt đỏ, mọi người là gia phong cổ Phật, khắp nơi Tỳ-lô đảnh môn là lỗ mũi Cúc Tổ sư. Nắm một cơ thì ngàn cơ vạn cơ đều thông suốt, dùng một câu thì ngàn câu vạn câu lưu thông. Chẳng nhờ người khác, hoàn toàn làm rõ ràng cái dụng mình. Nếu mọi người ai cũng phản chiếu như thế thì từ xưa đến nay, ngưng nhiên tịch chiếu. Một thứ ánh sáng không trong không ngoài, chẳng sắc chẳng tâm, đem gậy đánh người khác chẳng được, đem miệng hét người khác chẳng được, dù cho sạch làu làu sáng rực rỡ, cái ấy là vô sinh pháp nhẫn, là Bất thối chuyển luân. Dứt hết hai đầu về nhà ngồi yên ổn. Chính lúc ấy chẳng cần tìm chỗ khác, chỉ ngay đây là Tây phương. Công chúa Đại Trường nước Tần, Lỗ dâng hương thỉnh Sư lên tòa. Sư niêm hương rằng: Một nén hương này kính vì Công chúa đại Trường nước Tần Lỗ hôm nay thiết lễ chúc nghiêm Kim thượng Hoàng đế: Thánh thọ vô cương. Sư bèn nói: Trời cao vô cùng, vô cùng có tôn, đất dày vô hạn, vô hạn có chủ. Gương vạn tượng phương thốn, ôm cả lục hợp vào lòng, phát đại cơ hiển đại dụng. Thế nên Phật Tổ này hoặc niêm hoa, hoặc diện bích, hoặc dùng gậy đánh, hoặc dùng tiếng hét to, hoặc lý luận dọc ngang, hoặc vắng lặng không lời, xoay vần qua lại chỉ nói cái này tông chỉ vô vi. Do đó trên thân phận con người, mỗi mỗi là vách đứng ngàn nhận, không một mảy may dời đổi. Há chẳng thấy đạo. Ví như sức vua chẳng bỏ sót một người dân nào, chẳng nói không biết mà không bao dung, không nói biết mà hàm dưỡng. Đến chỗ ấy mở giáo hóa vô vi, thực hành giáo hóa vô ngôn, đều đội trời đạp đất, uống nước suối quý mạch đất, đang lúc đó có hiểu rõ chăng? Một bông hoa quý có hương thơm báu thơm từ trời xuống, Kim Luân vương ức vạn năm này. Tiền Nhị học só thỉnh, Sư thượng đường nói: Thấu cửa sinh tử phát ra vô kiến, thoát cơ Phật tổ siêu cách nên suy lường. Phải là bậc Lợi căn thượng trí một nghe ngàn ngộ, ngay đây mà thừa đương mới được. Buông tay bên kia xong, việc không còn. Do đó nói: Bao lần sống bao lần chết. Đạt được xa xôi không định dừng, tự do đốn ngộ liễu vô sinh, đối các vinh nhục đâu có vui buồn. Các người có biết vô sinh chăng? Kiếp lửa rỗng không mảy lông không còn, núi xanh như cũ trong mây trắng. Sư thượng đường nói: Bao trùm trời đất, ở một mình gặp hắn, từ xưa đến nay toàn bày chánh thể, pháp không tướng lạ, chẳng rơi vào sinh diệt, thời không duyên lạ chẳng dính xuân thu. Cho nên nói: Ly châu chỉ sáng ở biển xanh, ngồi bờ Niết-bàn, treo vầng trăng sáng trên trời xanh. Như thế thì người người dưới gót chân sáng vọt lên xưa nay hoàn toàn khác hẳn, dứt hết thấy biết, sáu chỗ xảy ra không đi được, ba cõi nắm lấy không được. Chỉ rõ ràng thẳng dứt thừa đương, lại thấy thấu suốt rõ ràng, đang lúc đó thì làm sao. Trên trời có sao đều chầu hướng Bắc, nhân gian không có sông nào chẳng chảy về hướng Đông. Sư thượng đường nói: Pháp thân vô tướng ứng cơ mà hiện hình, Pháp nhãn không tỳ vết, tùy vật mà chiếu soi, chỗ an bày chẳng được là Thiên chân Phật, chỗ thọ dụng chẳng kịp là cơ hướng thượng. Nếu hay trên dứt kính vin, dưới dứt cung thân, lỗ mũi rờ đụng gia phong, đầu lâu thường ngàn thế giới thì một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, thì cái gì là sinh tử tới lui đất, nước, lửa, gió thanh, hương, vị, xúc đều là nhân thể chân thật. Lại có ai hướng vào đó mà thừa đương được chăng? Biết lấy ma-ni vô giá châu, đương lai thọ dụng không cùng cực. Huỳnh Vận Sứ thỉnh, Sư thượng đường nói: Này đại chúng! Một câu cắt dứt dòng vách sắt núi bạc. Chớ khế hợp vạn duyên đều thấu suốt, chiếu đấu chiếu trời dứt lồng lưới, sáng tỏ không che dấu, làu làu chẳng chiếu dụng. Ba đời chư Phật ra đời chỉ một việc này. Lịch Đại Tổ sư truyền trì cũng một tâm này. Do đó Bát-nhã như đống lửa lớn, Bát- nhã như kho vô tận, Bát-nhã như thuyền lênh đênh ở trên biển, Bát-nhã như đèn sáng ban đêm. Nếu hướng hạ rõ ràng đưa ra nắm giữ thì gõ giường, dựng phất tử trợn mắt nhướng mày hoặc nói hoặc im, nói có nói không. Nếu hướng thượng đưa ra dẫn dụ như đập đá lửa, như ánh điện chớp, có lúc thì đánh gậy có lúc thì hét to, có lúc thì tiễn phong chống nhau, có lúc thì Phật nhãn nhìn không thấy. Tuy nhiên như thế cũng có hướng thượng hướng hạ. Bỗng gặp người trong ấy liền mất nhiều thứ việc, chỉ là thấy thành. Cho nên nói: Núi là núi, nước là nước, trời là trời, đất là đất chẳng dời đổi một mảy may. Chính lúc ấy lại hiểu rõ chăng. Vạn nước có nói về giáo hóa vua, dứt hết chiến tranh vui thái bình. Trịnh Long Học thỉnh, Sư thượng đường nói: Gặp nhau chẳng nêu ra, khởi ý lại biết có. Lại nói: Ý này làm sao nêu biết có cái gì? Nếu luận Phật luận Tổ, luận huyền luận diệu, luận cơ luận cảnh, luận gậy luận hét, tất cả là việc trên ngọn đem để trên đầu được chăng? Nếu để được thì hết cả mười phương thế giới hương hải thủy, hướng trên một đầu lông mà thấy được. Vật vật đầu xưa không biến đổi, nếu hướng một đầu lông mà lầm lẫn. Nếu dụng được đại triệt ngộ cũng mất can thiệp. Chỉ như có can thiệp một câu như thế thì ông làm sao nói. Líu lo đầu lưỡi ba ngàn dặm, nhật nguyệt trong hồ tự rõ ràng. Lữ Tả Thừa thỉnh, Sư thượng đường nói: Một câu nói toàn khuôn phép, nên rút ấn Tỳ-lô, một thứ cơ cắt đứt các dòng, thấu qua cửa Tổ sư, nếu là người sáng mắt, đã thấu qua ba ngàn dặm. Nếu hoặc còn lưu lại thấy nghe thì cũng còn vướng mắc vào da thịt, chưa khỏi hướng vào Nghóa môn thứ hai nói lại mà hiểu. Do đó nói: Biết huyễn tức lìa chẳng làm phương tiện, lìa huyễn tức giác, cũng không lần lượt thứ lớp. Thích- ca lão tử ba đời chư Phật, tâm tủy một lúc hiện nhanh liền thừa đương như thế. Toàn tâm tức Phật, toàn Phật tức tâm, tâm Phật chẳng hai thì nghi cái gì. Đang lúc ấy thì làm sao nói. Ngàn xưa vạn xưa tối dày đặc. Lấp kín sông ngòi không người hiểu. Sư thượng đường nói: Linh sơn nói trăng nói mật khó dấu Tào Khê chỉ mặt trăng. Tâm chân không thể lường xô ngã cột phước trước cửa, đã rơi vào đầu thứ hai. Ngồi xổm dưới thềm kim cương, đi trong ngọn lửa thần qui, cũng rơi vào đầu thứ ba. Chỉ như chưa có Phật tổ về trước, lại có thời tiết như thế không? Đến chỗ đó không kể là không biết, chỉ là người tài giỏi. Có rõ ràng không? Sóng lớn dậy ngàn tầm, sóng lắng không lìa nước. Cảnh Tả Thừa thỉnh, Sư thượng đường nói: Vô Phật thế giới là Bát-nhã Quang, trăm ngàn Thánh hiền là Bát-nhã Dụng, kim cương chánh thể là Bát-nhã Căn, đập phá thành ma là Bát-nhã Lực. Có như thế là oai thần tự tại, được như thế là giải thoát tri kiến, dụng một mảy may thì ngàn dặm vạn dặm đều sáng rỡ. Nắm giữ một mảy may vô biên thế giới không biến đổi, toàn thể thừa đương như như bất động. Do đó Phật Tổ này đưa ra việc này, khiến tất cả người đều ngay gót chân mà rỗng sáng chánh kiến, được ánh sáng ấy, hiển dụng ấy, chứng căn ấy, được lực ấy. Chính ngay lúc đó thì như thế nào. Trên trời có sao đều chầu Bắc đầu, cõi người không sông nào chẳng về biển Đông. Trần Đại Phu thỉnh, Sư thượng đường nói: Câu có câu không trước không hai đầu, như dây leo nương cây kết thành một khối, cây ngã thì dây leo khô héo. Nhẫn giỏi Hàn lư ha ha cười lớn. Sư tử lông vàng nếu là mắt sắt con người đồng. Rõ ràng nhìn thấu suốt có thể cắt đứt việc quan trọng, chẳng thông phàm Thánh cuối cùng không đến làm trong lời nói của người khác. Trên hang ổ cơ cảnh nhận lấy lưới lồng. Do đó nói: Nói không mở việc, nói chẳng đầu cơ. Nương lời thì chết, dính mắc vào câu thì mê. Chẳng rơi vào ngôn ngữ, chẳng lập cơ quan. Trải khắp lưới trời đánh sóng cá, thả câu muôn dặm, thiên lý mã trú ngàn dặm, cũng phải trả lại bậc Đại đạt mới được. Do đó chỗ Triệu Châu khám phá làm phương tiện, chỗ Huyền Sa xét nghiệm tác gia sai lầm. Tuyết Phong côn cầu, Vân Phong nhìn gương. Mục Châu thấy thành, một ngón tay của câu-chi như sắt sống đúc nên, thông trên thấu dưới, chỉ cần người biết bổn phận, bỗng hoặc đều chẳng thế thì làm gì. Có hiểu rõ chăng? Giữ tâm bình thường là đạo. Đói thì ăn cơm mệt thì ngủ. Lại có tụng rằng: Tức tâm tức Phật mở ấn tâm, Chẳng Phật chẳng tâm đạp Đại phương, Ngay đây phân thân trăm ngàn ức, Phổ quang điện sáng phóng hào quang. Triệu Quán Sát thỉnh. Sư thượng đường Tăng hỏi: Có một câu, từ trên ngàn Thánh chẳng từng nói được, chưa biết là câu gì? Sư nói: Ông ở đâu mà được tin tức ấy? Tăng nói: Ngàn Thánh cũng chẳng từng nói gì. Sư nói: Chớ chê ngàn Thánh khác. Tăng nói: Thà cắt lưỡi chớ chẳng phạm quốc húy. Sư nói: Phá nát diện môn cũng tự không biết Tăng nói chưa biết ngàn Thánh ngầm khấn thì dùng một câu nào? Sư nói dùng một câu trên lỗ mũi. Tăng hỏi một câu này lại gồm tất cả chăng. Sư nói: Xà-lê không thiếu. Sư bèn nói: Rõ ràng cắt đứt chẳng mê thời cơ. Hỏi: Qua đáp lại toàn bày ý chỉ sâu. Thẳng được ngàn xưa vạn xưa chỉ như nay, trước Phật sau Phật không nói khác, rộng rãi không gì ngoài, cả đại thiên sa giới ở trong cái ấy, trong vắng không phải trọng, trong biển Hương thủy trong phù tràng sát. Nếu có thể không kia, không đây, không tâm, không sắc, ngay đây ngồi cắt đứt chức vụ quan trọng, chẳng thông phàm Thánh thì Thích-ca xưa chẳng trước, Di-lặc mới chẳng sau. Chỉ như nay người trên đảnh môn phóng ra ánh sáng báu lớn, vách đứng ngàn nhận hiển bày tất cả thần, một câu như thế thông diệu dụng, dắt dơn đề sức bất tư nghì, chính nguy lúc ấy một làm sao nói. Mỗi mỗi núi sông không chướng ngại, lớp lớp lầu các đúng lúc mở. Sư trụ ở Chân Như thiền viện quận Cư vân, Nam khang. Sư vào ngày mồng 06 tháng 11 niên hiệu Kiến Viêm năm Đinh Mùi, Sư ở trấn Giang phù, Ngọc sơn nhận được thiệp mời đến chầu vua. Đến ngày mười bảy, Sư yết kiến vua, nhận sắc lệnh đến Vân cư. Ngày hôm sau thì sắc đưa xuống, lúc đó hai phủ đều cấm theo, đến chùa Ung hy thỉnh Sư lên pháp tòa mà nhận sắc văn. Sư cầm sắc dạy chúng rằng: Cửu trùng trong thành thân ban, một đạo Thần quang sáng rực Thái hư, là Chân nghóa đế trong Thắng nghóa đế, là hoa sen trong ngàn bụi hoa, một nêu liền biết có chút tỉnh lực. Nếu hoặc chưa thế lại thỉnh nói qua. Sư chỉ pháp tòa nói: Xưa ở tòa báu Ung hy nêu công án Dương kỳ vòng vàng, ngay đây hiện thành, rõ ràng dâng lên. Có hiểu rõ chăng? Kim cương chánh thể lộ bày đường hoàng, cất bước đều là Đại Đạo tràng, chợt đứng trên đảnh Tỳ-lô, lại ở chỗ nào lễ Đăng vương, hãy xem. Sư lại lên tòa niêm hương nói: Hư không thế giới chưa phân siêu nhiên thơm phức, Hoa tạng viên dung đã hiện, trái lại khí lành hòa hợp, giới định tuệ giải thoát tri kiến xông lên, trăm ngàn ức vô lượng thù thắng tập họp, đốt nóng lò hương, trên chúc Kim thượng Hoàng đế Thánh thọ vạn tuế. Phục nguyện: Đạo đức ngũ đế xa xưa, oai linh vượt trước trăm vua. Thánh thọ sánh bằng Nam sơn, la đồ sánh bằng Bắc cực. Hai Thánh sớm về xe ngọc, vạn quốc đều mừng thăng bình, dứt hẳn chiến tranh bốn dân lạc nghiệp. Kế đến Sư niêm hương: Này Tả Bộc Xạ Tướng Công, hai phủ Thai Tá, hợp triều bách quần, ngày nay đến dự, Hồng Nho Thạc Học, nhiều bậc Huân quý. Phục nguyện: Là thuyền chèo. Bổ suy ở Trọng Sơn, hòa canh tức truyền nói. Tăng hỏi: Sông Dương tử, tâm dừng chèo, Thiên tử mời, đỉnh núi Vân cư giữ cửa Phật tổ chẳng nhượng. Khi chưa lìa thành Vương xá thì như thế nào? Sư nói: Ngồi dứt đầu lưỡi người thiên hạ. Lại nói: Không cần Giác thành bờ Đông năm chúng đã đến, Văn- thù, Thiện Tài như thế nào mà phân biệt. Sư nói: Nhất Tăng lãnh xứ. Lại nói: Vì sao Hoàng thiên không thân chỉ Đức là phụ giúp. Sư nói: Chớ thương lượng khác. Lại nói: Chỉ như Thuấn nhật trùng minh tổ chứng Tăng chiếu tri ân báo ân lại như thế. Sư nói: Một câu hiểu rõ vượt trăm ức, vạn năm chúc mãi vua Thánh minh. Lại nói: Ân cần nguyện chúc thọ Nam sơn, một đuốc hương thơm đầy lầu đá. Sư nói: Đã ở trước lời. Lại nói: Chưa biết Tổ lệnh đương hành lưu bố như thế nào? Sư nói: Điểm. Lại nói: Muốn truyền Lục Khải Giang Nam Tín, gió Đông bẻ được cành thứ nhất. Sư nói: Khắp cõi chẳng từng dấu. Tăng hỏi: Khi gương sáng ở trên đài thì như thế nào. Sư nói: Ai chẳng chiếu kiến. Lại nói: Vạn tượng rõ ràng không hồi hỗ. Sư nói: Thần thông của ông đi đâu. Lại nói: Cũng biết Hòa thượng ở trong đó. Sư nói: Gốc ngọn đồng thời thâu. Lại nói: Chỉ như giáo Trung đạo, chứng ngộ hoàn toàn Vô thượng tri kiến của Như Lai, chưa biết Thiền sư cùng Phật cách nhau bao nhiêu. Sư nói: Chẳng cách một mảy may. Lại nói: Cao cao đứng trên đỉnh núi, sâu sâu đi dưới đáy biển. Sư nói: Gậy đánh đầu người đá, dữ dằn luận sư thật. Tăng liền lễ bái. Sư bèn nói: Đề Chánh nhãn kim cương, mở Tông thừa hướng thượng, báo ân chẳng báo, hay làm việc khó làm, vận bảo kiếm của Lâm Tế Kim Cương Vương. Ngay tiếng hét mà toàn bày. Dụng cây gậy sơn hình của Đức Sơn mà thấy mặt giao phó. Thế thì toàn phải, thấy thì toàn thấy, chẳng rơi vào giai cấp Thánh phàm, ngay đây mà rõ ràng. Đã thấy đã gặp, mắt sáng mà chứng. Lại gặp đời Thánh hưng thịnh chẳng dám dấu diếm che đậy. Ngay đây mà nói rõ ràng. Sư bèn cầm gậy dạy chúng rằng: Há chẳng thấy. Tăng từ giả ngài Qui Tông, Tông hỏi: Đi đâu? Tăng nói: Đi các phương tham ngũ vị thiền. Tông nói: Ta ở trong đây chỉ có nhất vị Thiền. Tăng hỏi: Như thế nào là một vị thiền của Hòa thượng? Tông liền đánh. Ngài Hoàng Bá nghe liền bảo: Mã Tổ Đại sư sinh ra tám mươi bốn Thiện tri thức. Hỏi: Ai ai cũng chậm lụt, chỉ có Qui tông là khá hơn một chút. Sư nói: Qui Tông Hòa thượng trói hư không thành cái gậy, hướng trên đầu ngàn Thánh mà toàn đề, nấu bình mâm thoa xuyến làm một vàng, khuấy Tô-lạc đề hồ làm một vị. Nếu được Hoàng Bá biện luận rõ minh khóe, gặp hiểm lao mà vô công. Tuy như thế có điều thì vin điều, không điều thì vin lệ. Ngày nay trước mặt các người đưa ra rõ ràng. Lại có hiểu rõ chăng? Sáng buộc ba ngàn chiều tám trăm, nấu nướng Phật tổ chỉ bằng vào ấy. Lại nêu Hoàng Bá Hòa thượng dạy chúng rằng: Các người hầu hết đều là bất trước tiện để vì sao tóm tắt chỗ nào có ngày nay. Sao biết trong nước Đại Đường không có Thiền sư? Tăng nói: Chỉ như các phương sữa cho đúng việc lành chúng như thế. Huỳnh Bá nói: Chẳng nói không thiền chỉ là không có Sư. Sư nói: Lão già Hoàng Bá có thể phân biệt, có thể chọn lựa. Bắt cọp hủy thì nhất định rồng rắn chẳng không. Cần phải chỉ sáng được việc đương thời, đâu không bằng bên này bên kia đồng một lúc. Nếu là Sơn Tăng tức chẳng như thế. Các người hết cả là anh linh hào kiệt cử chỉ gì phải tin có việc kỳ đặc. Có biết trong nước Đại Tống có Thiền sư chăng? Lại nói: Thiền sư nay ở đâu? Biết nay tránh chẳng kịp, chẳng khỏi lộ bày mặt mũi. Bèn nói: Đích thân mong nhờ kim khẩu ban tên Sư, hoa Ưu-bát-la sinh trong lửa hoàn toàn tỏ ngộ vô thượng tri kiến của Như Lai, âu ca vỗ bụng vui thăng bình. <卷>QUYỂN 7 THƯỢNG ĐƯỜNG 7 Sư đến Nam Khang Quân khai đường. Nhận sớ từ tay tri phủ, bèn dạy chúng rằng: Thấy chăng? Rõ ràng hiển bày, cắt đứt hiện thành, trăm vòng ngàn lớp, tự do tự tại, mỗi mỗi lỗ mũi của Tông sư, đầu đầu mọi việc ý chỉ huyền diệu của thiền tông, ngay đây mà thừa đương còn khá hơn một chút. Nếu hoặc chưa chứng thì thỉnh Tăng sửa đúng lại để phụ truyền bá. Sư chỉ pháp tòa nói rằng: Sư tử thân ngồi xổm, các báu trang nghiêm, chẳng phải từ Tu-di Đăng Vương đem đến, mà đã sẵn có trong Đâu-suất nội viện. Đã là vui liền khó gặp, phải dạy mở mắt to ra để nhìn đất cao. Sư lên tòa niêm hương nói rằng: Một nén hương này kính vì chúc nghiêm Kim thượng Hoàng đế Thánh thọ vạn tuế. Cung nguyện: Vị hưng long kiếp thạch, tuổi thọ sánh bằng giới thành. Hăng hái Tuyên Quang trung địa hưng. Lại dấu vết xưa của vua Đại vũ. Kế một nén hương, kính vì Phán Phủ Phủ Phán Vạn Sứ Điện Tuyển Thông Phán Đại Phu Nạp Quận Tôn quan, Liêu Thái tại trường. Nhưng nguyện: Là trung là hiếu, vì nước vì dân là một bộ phận của Thánh chủ làm trụ đá sáng. Một nén hương này được chỗ tân cần thâu lại, trong các kiếp xa rộng vài hồi nêu ra, phía trên núi cao không dám che dấu. Kính vì Pháp Diễn Thiền sư đời thứ mười hai, Chân Tuệ thiền viện, núi Ngũ tổ ở Trác châu, đốt nóng lò hương đền ơn pháp nhũ. Rồi bày tòa ngồi. Qui tông Hòa thượng bạch chùy nói: Những vị kiệt xuất trong pháp hội nên quán Đệ nhất nghóa. Sư nói: Bao dung vạn hữu, âm thanh chấn động cả đại thiên, này Phật này Tổ đảnh môn mở ra, hoặc trời hoặc người phương thốn rộng rãi, liền dâng được như thế thật là tỉnh yếu, nếu có do dự ắt lạc vào nghóa môn thứ hai. Lại có mũi tên nhọn chống nhau với nạp Tăng chăng? Bước ra đi cùng nhau bày tỏ. Tăng hỏi: Tông thừa một khi xướng lên thì ba tạng dứt giảng giải. Tổ lệnh đương hạnh quét sạch mười phương. Một câu báo ân như thế làm sao nói. Sư nói: Trời đất lâu dài không việc khác, vạn năm mãi chúc vua Thánh minh. Lại nói: Như thế thì văn minh bằng nhật nguyệt, trí sáng sánh bằng trời đất. Sư nói: Mọi việc phát triển được tự do. Lại nói: Có thể nói cành vàng mãi tươi ngàn năm tốt, lá ngọc luôn thơm vạn cổ xuân. Sư nói: Sao người trong nước chứng minh. Lại nói: Cổ nhân nói: Vác chiếc gậy ngang vai chẳng ngó ai, vào thẳng ngàn vạn núi đi. Chưa biết Ana là trụ xứ khác. Sư nói: Rắn chồm lên quấn chân, khế cơ quấn mình. Lại nói: Sáng xem từng phiến mây, chiều nghe nước róc rách. Sư nói: Phải mau dứt hết mới được. Lại nói: Hồi này không phải mộng, cái chân đến Lô sơn. Sư nói: Mở mắt ra. Tăng hỏi: Xưa Thích-ca không trước, mới Di-lặc chẳng sau, chính ngày nay Phật pháp giao phó cho Vân Cư, ngàn Thánh chẳng mượn cơ như thế nào mà đề xuyết. Sư nói: Nhanh chóng lãnh hội thiền cơ đi. Lại nói: Dời việc trên lại, lại có chỗ phân phó chăng? Sư nói: Phân phó cho Xà-lê. Lại nói: Không thể có câu chẳng phải là tông chỉ, không nói năng dứt Thánh phàm. Sư nói: Lại có kim cương vương bảo kiếm. Lại nói: Ngay đây là đó, lại chẳng châu do. Sư bèn hét. Lại nói: Bỗng gặp pháp nhãn ra nói. Cái câu cách thân còn như thế. Sư nói: Giặc qua rồi mới giương cung. Lại nói: Thanh sơn bất tỏa trường phi thế. Thương hải hợp tri lai xứ cao. (Núi xanh chẳng khóa thế bay mãi, biển xanh cùng biết đến chỗ cao.) Sư nói: Phân làm hai đoạn. Lại nói: Một nêu bốn mươi chín. Sư nói: Chính xác. Sư bèn nói: Lấy Tổ Phật làm tiêu chuẩn, hưng Tổ Phật làm thầy, vì trời người làm thuyền bè, cùng trời người làm con mắt. Bỗng chẳng dựa vào một vật, một mình lên núi cao vòi vọi, ngàn Thánh chẳng thể biết, vạn linh mất gương soi, cắt dứt tất cả chẳng dính liêm tiêm, quét sạch thế giới, chẳng lọt sợi tóc tơ, trước chúng trời người như thế làm ra mà biểu lộ. Nếu hướng trong ấy thì trên dứt nương nhờ, dưới dứt thân mình. Rãnh rang như kim sí điểu nhào xuống biển bắt rồng, như sư tử ra khỏi hang thì chồn yêu mất dấu, mũi nhọn đường tắt. Chẳng khỏi nói núi là núi, nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục, mở cửa từ bi phương tiện, lưu thông đường thọ dụng. Bỗng như đổi núi chẳng phải núi nước chẳng phải nước, Tăng chẳng phải Tăng, tục chẳng phải tục, đến chỗ ấy lại có chỗ xuất thân chăng? Nếu có chỗ xuất thân thì liền có thể cao vái chào Thích-ca chẳng lạy Di-lặc, quét sạch đảnh Tỳ-lô, chẳng bẩm Thích-ca Văn, bó hư không làm gậy, cũng đánh người được. Họp dùng ngàn vạn tiếng sấm làm một hét, cũng kinh động người chẳng động. Thử nghó: Người này rốt ráo như thế nào gần gũi. Chỉ như nay mỗi mỗi rõ ràng không sau không trước chẳng lập một mảy may đường giải thoát, chẳng làm một một mảy bụi cơ quan. Chính ngay lúc ấy, một câu quét sạch đất trời là gì? Cung điêu đã đeo khói lang dứt, vạn quốc âu ca mừng thái bình. Lại nói: Giường rồng đầu sừng, đích thân ban được, mây trên trời Đạo tràng xưa. Bên cây an lạc dấu lời nói vụng về, lại không Phật pháp có thể thương lượng. Đã không Phật pháp, liền nêu công án người xưa. Ghi nhớ thần đảnh sơn Yên Thiền sư khai đường dạy chúng rằng: Sơn Tăng đi hành cước, cũng không chánh nhân, chỉ đợi về thành Đông kinh mà nghe một, hai bản kinh luận. Ở chùa xưa phòng vắng làm sao qua thời. Chẳng bảo là đi đến huyện Diệp ở Nhữ châu bị một trận gió nghiệp thổi đến Thủ sơn trên giường gỗ khúc lục thấy có một lão Hòa thượng, lúc đó giữ không ở, bèn lễ ba lạy, thẳng đến như nay hối cũng không được. Sư nói: Lão già ấy tham đến chỗ sắt sống đúc thành cuối cùng khi không mảy may có con đường giải thoát, do đó mà hướng về vách sắt núi bạc mà chém đinh chặt sắt. Nếu chẳng biết hướng thượng Tông thừa thì sao hiểu và nói gì. Tuy thế kiểm điểm tương lai, Thiếu lâm Nhị tổ cũng lễ ba lạy. Bỗng nếu nước sữa không phân, vàng thau chẳng phân biệt được, có điều thì vin điều không điều thì vin lệ. Sơn Tăng ở cuối niên hiệu Nguyên Phong vì nghi ý Tổ sư từ Tây Trúc đến mà mười mấy năm ở Giang biểu gặp đại Thiện tri thức, liền đầu thành tham học lý tánh huyền diệu, gậy hét cơ quan đều là bỏ hết công phu, hoàn toàn không có chỗ thôi dứt. Khi đến Hải Hội thì gặp Lão Hòa thượng, bị ông ta đánh một chùy vào sau đầu, từ dó mất cơ trước mắt, bỏ vật trong lòng thẳng đến nay. Cũng phần sơ chẳng xuống. Thử nói: Cùng người xưa là đồng hay khác, có hiểu rõ chăng? Linh dương treo sừng ngoài ngàn ngọn núi, lại có Linh dương ở trên núi. Sư vào viện đến phương trượng nói rằng: Đó là tòng lâm thiên hạ, rèn Phật tổ chẳng có lò lớn. Dịch thế Tông sư là chỗ nấu kềm búa của nạp tử. Do đó Sơn Tăng đến đây. Lão già lảo đảo, què quặt mang xách, trăm việc không làm được, hướng vào đó làm sao mà thi thiết. Tuy thế ở lò không tránh lửa. Có hiểu rõ chăng? Đầu đồng trán sắt như rồng cọp, xem lấy vòng vàng cỏ gai lật. Sư thượng đường nói rằng: Tai nghe không bằng mắt thấy. Mắt thấy không bằng tay sờ. Ngày nay Vân Cư đích thân đến, Trúc Dư về họp ngọn núi quanh co, rừng núi cao lớn, chỗ sâu Bạch Vân thấy lầu đài, không rõ như riêng tạo một thế giới. Đến trong ấy cũng không cần cung huyền nói diệu, lập cảnh lập cơ, luận tánh luận tâm, nghiên cứu Lý, Sự. Chỉ như nay người người phần trên tất cả quét sạch. Đang lúc như thế thân đến một câu làm sao nói. Tổ Phật diệu huyền cùng triệt để, Bạch Vân chỗ sâu thích an cư. Lại nói: Ban cho Vân Cư thân dưỡng bệnh, năm trăm nạp tử thân nhau gấp bội. Phan la trực thượng thanh thiên thượng, đầu lão y thì an lạc thần (Phan la lên thẳng trên trời xanh. Theo già ngơi nghỉ an lạc thần.) Ngày mồng 08 tháng 04, Lưu Tri Sư thượng đường nói: Một tay vỗ chẳng kêu, một cây chẳng thành rừng, mọi người đưa ra một tay bẻ gãy chân đảnh, rất kham lãnh. Lại nói: Ngày xưa trong vườn Tỳ-lam sáng nay trước miếu cổ Phật. Phá tan chốt cửa Vân Môn, hãy tắm Kim Tiên Vô Cấu. Cái gáo vừa cầm lên, đã lỗi Thiền tổ sư. Sư thượng đường nói: Sơn Tăng vào viện được sáu ngay, trong ngoài như như, mười phương thuần tịnh. Chỉ có một việc nói với các người. Thử nói: Là việc gì chẳng được động đến. Tiết Tán Càn Long Sư thượng đường nói rằng: Uyên Thánh Hoàng đế, vua đến vạn quốc, đi tuần phương Bắc chưa về. Tiết Càn Long chúc nghiêm trí tuệ. Sơn Tăng một câu rốt không che dấu. Có hiểu rõ chăng? Trong điện Phật mà đốt hương. Kiết Hạ, Sư thượng đường nói: Mắt tiếng tai sắc bất tư nghì, trăm cỏ điên đầu thọ dụng thời, trong ngoài rỗng suốt không một vật, đầu mối bảo hộ kẻ sân người. Ngày tốt đồng nhiều gặp duyên liền chiếu. Pháp tùy pháp hạnh, pháp tràng tùy chỗ dựng lên. Có thế giới dùng ánh sáng làm Phật sự, có thế giới dùng âm thanh làm Phật sự, có thế giới dùng cơm thơm làm Phật sự, có thế giới dùng trang nghiêm làm Phật sự, có thế giới dùng tịch mặc (lặng yên) làm Phật sự. Thử nói: Vân Cư dùng gì làm Phật sự? Chẳng tiếc lông mày vì các người đem ra. Đi đứng ngồi nằm động chuyển ra làm, vạn tượng sum-la bao gồm trong ngoài, không một pháp nào chẳng khắp, không một vật nào chẳng tròn. Đến chỗ ấy tất cả dính mắc là Phật. Sư thì hãy gác lại Phật ở chỗ nào, lại hiểu rõ chăng? Cao cao đỉnh núi không tin tức, sâu sâu đáy bể mất dấu tìm. Lại nói: Chín mươi ngày quang âm, một nắm nửa ngàn người. Trong đầu lông mỗi mỗi đều bao hàm cả đại thiên giới, toàn nhờ sức lớn được ung dung. Mất trúc khái, dứt hành tung (dấu vết). Vạn vật tuy nhiên không tấc cỏ, Đức Vân chẳng dưới núi Diệu cao. Cử Ngộ Hòa thượng lập Tăng thượng đường nói rằng: Chỉ cái ấy, giống như bụi cát rơi vào mắt. Chỉ cái ấy là không phải. Lại như rót nước vào tai. Ngay đây vô sự đất bằng nứt ra rơi xuống người. Riêng có cơ quan rơi hầm sụp hố, lại rốt ráo thế nào? Kỳ Viên khuất khúc suối chảy gấp, non Thứu cao vót mây chậm bay. Lại nói: Vân Cư mở lò lửa lớn, chẳng chỉ nấu Phật, nấu Tổ. Chỉ có tất cả đem ra đốt trong đống lửa mà phân biệt lấy. Thế thì ngay chỗ đó mà bình hòa, chẳng phải rất cần lui bước nung ra con người kim cương, thẳng được càn khôn riêng bày. Tuy nhiên đến chỗ ruộng đất ấy, cần phải biết con đường hướng thượng. Có hiểu rõ chăng? Buông ra ba Thánh mù, lừa đá chết mãnh hổ. Thiên Thân mở ra thượng đường tháng năm tiết Thiên Thân, Chân Nhân giáng trung thiên. Vạn quốc, khắp nơi mở tòng lâm. Vân Cư cổ đạo tràng, đốt lên đuốc sáng. Long đồ phụng lịch bằng trời đất, trí tuệ lớn thạnh ức vạn năm. Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Người xưa nói: Kiết hạ được mười một ngày, Hàn Sơn Tử làm gì? Lại nói: Kiết hạ được mười một ngày, trâu đực làm gì? Sơn Tăng tức chẳng thế. Kiết hạ được mười một ngày. Đèn lồng làm gì. Nếu thấu suốt được đèn lồng liền biết được con trâu đực. Nếu biết được trâu đực liền thấy được Hàn Sơn Tử. Bỗng nếu định luận bàn thì Lão Tăng ở dưới gót chân ông. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Gương trong sáng các phương chỉ có con mắt phối hợp thiền cơ nhanh chóng nhưng chưa có cái dụng phối hợp thiền cơ nhanh chóng. Sư nói: Đánh phá ngàn năm hang chồn hoang. Hỏi rằng: Như thế nào là dụng phối hợp thiền cơ nhanh chóng. Sư nói: Lật ngược Ly long hiểu vật thấp kém. Hỏi: Ngài Nam Viện nói tác gia chẳng kêu mỗ, kêu mỗ đồng thời mất, như thế nào? Sư nói: Tùy ngôn ngữ của ông ta chạy về trong sào huyệt cỏ mà đánh côn. Lại nói: Bỗng bị người học đạp đổ giường thiền lúc đó như thế nào? Sư nói: Ta lại hỏi ông thấy đạo lý gì? Tăng lễ bái nói Trong đạo nhân nghóa tha cho một phen. Sư nói: Lui ngược ba ngàn. Sư bèn nói: Sớm mai ngày mồng 1 tháng 5, thổi lên tiếng sáo không lỗ của Thiếu lâm, mười phương sa giới bình thản tự nhiên, đất đai núi sông ấn ra. Nhị tổ chẳng từng ở Tây thiên, Đạt-ma chẳng từng đến nước Lương, mọi người chúc mừng bài ca thái bình. Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Lại nói: Một mình hướng về núi cao vót, trước mặt tiếp Sơn tử, xưa nghe Hoằng Giác nói. Sáng nay đích thân đến đây, có khi sinh tầng mây, có khi mưa rất nhỏ đến lúc trời tạnh sáng nương vào đột ngột trước. Thử nói: Là tâm ư? Là cảnh ư? Lại ở trong tâm hay ở ngoài tâm? Uyên ương thêu ra uổng anh xem, chẳng đem kim vàng đưa cho người. Sư thượng đường nói: Ngày 05 tháng 05 tiết Trung Thiên, vạn sùng ngàn yêu đều dứt hết, trong mắt đưa ra núi Tu-di, trong tai nhổ hết các đinh đóng. Chung Húc tiểu muội múa ba đài, tám tay Na-tra nhai sắt sống. Hãy gấp dứt ngang, nhanh nhanh như luật lệnh. Sư thượng đường, Tăng hỏi Pháp Nhãn Tuệ Siêu Tư Hòa thượng như thế nào là Phật pháp? Nhãn nói: Ông là Tuệ Siêu. Sư nói: Có hiểu rõ chăng? Bệnh gặp thầy giỏi, đói gặp cơm vua. Trong tương được muối, trong tuyết được than. Sư thượng đường nói: Hôm qua gió, hôm nay gió, từng trận chẳng từ cái khác phát ra, mười ngày mưa, năm ngày mưa, từng giọt chẳng rơi chỗ khác. Đại phương không ngoài, Đại tượng không hình. Hết cả thế giới nắm lại như hạt gạo, cả hư không như lá trong tay, có thể kéo nước Tân La cùng nước Chiêm Ba đấu trán. Dù Đông Thắng thân châu tên bắn, đất Tây Cù-da-ni. Do đó nói: Đầu lầu luôn liên can thế giới, lỗ mũi rờ đụng gia phong. Nếu là chưa ra khỏi ấn giới thì còn trệ thấy biết nghe. Làm sao nói? Giống như vịt nghe sấm, như cách giày mà gải ngứa. Dù cho thoát tức căn trần, tức cơ cảnh còn dư ở một tuyến đường. Lại hai đường chẳng dính một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chăng? Sư tử đá trước thềm điện Phật, Thiết Côn Luân ở đáy đại dương. Tiết Tán Thiên Thân, Sư thượng đường nói: Cổ Phật trên đời Chí tôn nhân gian, tháng năm giáng hạ xuống Diêm-phù, tháng năm vua đến vạn quốc, phấn chấn trung hưng sự nghiệp, hạt bụi trong bốn biển xanh, bền chắc mãi long đồ phụng lịch, xa trông cửa Bắc, kính chúc núi Nam. Một câu toàn đề đương cơ hiển bày. Có hiểu rõ chăng? Tiết Thiên trung Kiến Viêm Thiên Tử, Thánh thọ thạnh lớn ức vạn năm. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Bách Trượng hỏi Qui Sơn: Trừ bỏ yết hầu môi mép như thế làm sao nói? Sơn nói: Thỉnh Hòa thượng nói, Lý này như thế nào? Sư nói: Kẻ bàng quan móm cười. Hỏi: Bách Trượng nói không từ chối nói cho ông, sợ về sau chôn con cháu ta, lấy mà đáp nó, thoại vì nó nói. Sư nói: Tâm lão bà tha rất thiết. Hỏi: Ngài Ngũ Phong nói: Hòa thượng cũng trừ bỏ ý chỉ thế nào? Sư nói: Bắn một mũi tên trúng hồng tâm. Lại nói: Ngài Bách Trượng nói không chỗ người chẻ trán nhìn ông, là chịu nó hay chẳng chịu nó. Sư nói: Vạn người trong bụi đoạt tiêu cao. Hỏi: Ngài Vân Nham nói: Hòa thượng cũng chưa có như thế? Sư nói: Nói năng dài dòng hai, ba lớp. Lại nói: Chưa biết Vân Nham hiểu như thế nào? Không hiểu như thế nào? Sư nói: Cùng Xà-lê một thứ. Lại nói: Bỗng có người hỏi Hòa thượng quét sạch yết hầu môi mép như thế làm sao nói? Sư nói: Họp lấy. Hỏi: Thế nào là cùng với Vân Nham một thứ. Sư nói: Dứt hết căn nguyên người chẳng biết, mịt mù nghiệp thức khi nào thôi. Sư bèn nói: Núi treo vạn nhận buông tay, cần phải (phải là) người ấy, nỏ ngàn cân bắn ra há là chuột nhắt. Vân Môn Mục Châu trước mặt lỗi lầm, Đức Sơn Lâm Tế dối gạt xóm làng. Ngoài ra lập cảnh lập cơ làm hang làm tổ mà diệt chủng tộc Hồ. Lại chỉ nói một câu như thế nào? Vạn duyên biến đổi lộn nhàn sự, tháng năm phòng núi lạnh tợ băng. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Lâm Tế tam huyền nghiệm tác gia, như thế nào là Huyền trong thể? Sư nói: Sấm sét càng làm mọi loài kính sợ. Hỏi: Như thế nào là huyền trong câu. Sư nói: Rất kî ở trên ba tấc mà phân biệt. Hỏi: Như thế nào là Huyền trong Huyền? Sư nói: Đầu gậy có mắt sáng như mặt trời. Hỏi: Như thế nào là một ấn in trong bùn? Sư nói: Dưới gót chân nát xương rau cần. Hỏi: Như thế nào là một ấn in trong nước. Sư nói: Không đút mỏ vào. Hỏi: Như thế nào là một ấn in trên không? Sư nói: Sau ót viên quang dài vạn trượng. Lại nói: Vì một lý lẽ trái hai nghóa. Sư nói: Đâm rùa đập ngói. Sư bèn nói: Thiện không phải là ý tưởng, lấy ý tưởng mà tham thiền thì trái đạo, dứt công huân. Lấy công huân mà học đạo thì lỗi. Ngay đây cần phải dứt hết ý tưởng, gọi cái gì là Thiền. Dưới gót chân rộng lớn, thiền của không thiền gọi đó là chân thiền, như thỏ có thai. Dứt hết công huân gọi cái gì là Đạo. Trên đảnh môn chiếu sáng. Đạo của không đạo gọi đó là chân đạo, như trai ngậm minh nguyệt. Đến chỗ đó thì thật tế lý địa đã sáng, kim cương Thánh thể toàn hiện. Sau đó mới núi là núi nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục. Vạn pháp tự nhiên trước không sau lưng, bèn cười to ha hả bảo rằng: Sơn Tăng nói, giống như không mộng mà nói mộng, vô sự mà sinh sự. Nếu là người mắt sáng thì nhìn thấy cả một trường bại khuyết. Lại lìa ý tưởng, dứt công huân một câu nói gì. Dạ-xoa tám tay cầm gậy sắt, giận dữ Na-tra đánh chuông vua. Sư thượng đường nói: Nơi vách cao ngàn nhận mà thấu được thì trong chợ búa có thể xoay mình. Trong chợ ồn ào mà thấu được thì chỗ vách đứng ngàn cân có thể lui về. Vì sao? Vì căn bản nếu chân Chánh nhãn rỗng suốt thì đại triệt ngộ. Nếu căn bản không sáng, chánh nhãn như mi-na thì da thủng xương bày. Cho nên Đức Sơn vào cửa liền đánh, Lâm Tế vào cửa liền hét. Mục Châu thấy Tăng liền nói thành công án. Tư Phước nói cách sông thấy cây phướn liền đi. Dưới gót chân ưa cho ba mươi gậy. Há chẳng phải là chỗ vách đứng ngàn nhận thấu được là kẻ Đại trượng phu, nhất đẳng đạp rách giày cỏ, sao chẳng hướng về chỗ Phật tổ đề chẳng khởi mà thừa đương, chỗ trời người để mắt chẳng kịp mà gánh vác. Sau đó mới tức tâm tức Phật, phi sắc phi tâm, lấy một lớp bỏ một lớp, lấy một câu thoát một câu, há chẳng phải là trong chợ ồn mà thấu được? Hướng vào đó mà thẳng được vách đứng ngàn nhận. Sau đó mới giống cốt mà đề cưu. Do đó người xưa nói: Buông tay xuống lại đồng núi cao vạn nhận, chánh thiên đâu cần an bày. Sau mới như thế cũng được, không như thế cũng được, như thế không như thế đều được, giống như cọp nương núi. Bỗng nếu như thế cũng chẳng được, không như thế cũng không được, như thế không như thế đều không được như núi bạc chắn ngang lộ, cho người khác là có mắt trí, hướng vào đó mà cùng chiếu cùng ngăn, đồng sống đồng chết, toàn sáng toàn tối, toàn giết chết toàn cứu sống, chính lúc ấy thì làm sao. Đầu gậy điểm ra kim cương vương, vách sắt núi bạc đều nát vụn. Lại nói: Tịnh Thánh phàm giải ban đầu vô tướng, khi một pháp chân thì pháp pháp chân. Đầu núi vạn nhận hay buông tay, trên ngàn đảnh núi hiện toàn thân. Sư thượng đường nêu: Người xưa nói: Động là dối trá, tịnh là chê bai, động tịnh hướng thượng có việc ở đấy. Lão Tăng miệng chật hẹp, chẳng cùng ông nói được. Sư nói: Phải thì phải chỉ nói được một cọc. Nếu là sơn Tăng thì chẳng thế, nói là dối gạt, im là chê bai. Nói im hướng thượng có việc ở đấy. Lão Tăng đầu lưỡi ngắn chẳng thể cùng ông nói. Lại hiểu rõ chăng: Bảo kiếm kim cương hai nhận, chùy sắt không lỗ. Sư thượng đường nói: Ngày mười lăm trở về trước ngàn trâu kéo chẳng lại. Ngày mười lăm trở về sau, con diêu giỏi đuổi chẳng kịp. Chính ngay ngày mười lăm, trời đất bằng phẳng, đồng sáng đồng tối. Đại thiên sa giới chẳng ngoài chỗ ấy, có thể bao hàm cả mười hư không. Bước tới một bước, có thể vượt thoát bất khả thuyết bất khả thuyết biển Hương thủy, lui lại một bước, quét sạch ngàn dặm vạn dặm mây trắng. Chẳng tiến chẳng lùi chớ nói Xà-lê, Lão Tăng cũng không chỗ mở miệng. Bèn đưa phất tử lên nói rằng chính lúc ấy như thế nào? Có lúc nắm lại ngàn đỉnh núi, vạch đứt mây trời chẳng phóng cao. Cầu mưa, Sư thượng đường. Tăng hỏi: Vạn dặm chẳng đeo một mảng mây lúc ấy thế nào? Sư nói: Lão Tăng cũng lấy làm lạ. Hỏi: Trời xanh cũng phải ăn gậy. Sư nói: Phân phát sớm chậm. Hỏi: Chưa biết lỗi ở đâu? Sư nói kia là người ở núi này, càng không dùng chú phá. đi. Hỏi: Khi trời mưa được thì không mưa, trời tạnh lại trời tạnh. Sư nói: Ông vừa đến lại đi về đâu. Đáp: Chợt cuốn chợt mở mà Sư nói: Dưới chân ông lại cho một gậy. Dù cho mưa thì giống như chậu nghiêng. Hỏi: Chính là chẳng như thế thì thế nào. Sư nói: Vặn lại lỗ mũi. Lại nói: Bỗng nếu đúng thời đúng tiết thì làm gì? Sư nói: Trước núi lúa gạo chín, cùng ca khúc thái bình. Sư bèn nói: Trên đường Tào Khê trời cao đất dày, trước ngọn thiếu thất đất rộng người thưa, một mình ngồi sửng lạnh se thắt, đồng rộng xoay mình gió thôi vi vu, mắt thấy thì mù, tai nghe thì điếc, miệng nói thì câm, tuy nhiên chẳng ra một đầu lông, hàm cả mười hư không trước sau. Đã thế có thần thông gì, đủ dụng gì vì sao đất khô khan. Cá Lý ngư biển Đông, đánh một gậy, mịt mù khắp mặt đất đều mưa dầm. Sư thượng đường nói: Thích-ca xan tham Di-lặc đáng, tám chữ mở toang kho vô tận, cây gậy hóa thành rồng, mặt trời sáng rực nhả mây mù, khắp cõi mịt mù rưới mưa ngọt. Sư dơ cao gậy lên rồi xuống tòa. Buổi sớm tháng bảy, Sư thượng đường nói: Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, con ngươi trong mắt thổi tất lật, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một người đá người gỗ nước mắt chảy ra, đại triệt ngộ nêu ra, liền biết còn ở thấy nghe là cách giày gải ngứa. Con trâu sát ở Thiểm phủ nuốt tượng lớn ở Gia châu thì gác qua một bên. Chó thỷ thiên trước thềm điện Phật. Trên núi Ngũ đài mây nấu cơm, một câu như thế làm sao nói. Gió thổi bóng cây lay động, lá rụng liền biết thu. Sư thượng đường nói: Biết huyễn liền lìa, không làm phương tiện, trong mắt để núi Tu-di, lìa huyễn liền giác, cũng không thứ lớp. Trong tai trừ bỏ bốn biển lớn, chẳng thấy mà thấy. Chuông kêu, trống đánh, tiếng ngọc kêu, chẳng nghe mà nghe. Đất đai núi sông rõ ràng. Ruộng đất vô sinh có trồng có gặt. Thuyền bè Bát-nhã có bến có cứu giúp. Lìa tất cả tướng tạm gác lại. Oai Âm Vương trở về trước một câu như thế làm sao nói. Trong mây sinh măng đá, trong lửa có sen xanh. Giải hạ sư thượng đường. Tăng hỏi: Lúc hỗn độn chưa phân như thế nào là lộ trụ có thai, ý này thế nào? Sư nói: Đột xuất khó phân biệt. Hỏi: Phần sau như thế nào là mảng mây điểm Thái thanh là tông chỉ gì? Sư nói: Mở mắt ra. Hỏi: Chưa biết Thái thanh lại nhận điểm không? Linh Vân vì sao chẳng đáp. Sư nói: Người biết pháp thì sợ. Lại nói: Như thế thì hàm sinh chẳng đến, lại chẳng đối đáp là họp lý như đây lại là khó đối đáp. Sư nói: Từ sắt đúc thành. Lại nói: Dù được trong vắt không còn chấm nào, vì sao vẫn còn là chân thường lưu chú. Lại thế nào. Sư nói: Nếu hay chuyển vật tức đồng Như Lai. Lại nói: Như thế nào là chân thường lưu chú, tợ như gương luôn sáng, ý chỉ thế nào? Sư nói: Đúng là một câu họp đầu ngữ. Lại nói: Đất đai núi sông là đèn lồng lộ trụ của mình, cũng không phải khác. Sư nói: Chớ vọng tưởng. Hỏi: Khi lẫn lộn vô dụng thì thế nào? Sư nói: Hơi một chút. Lại nói: Hướng thượng lại có việc chăng? Sư nói: Đập bể gương đem lại đậy ta cùng ông thấy nhau. Chưa biết ý ở chỗ nào? Sư nói: Phân phó gậy gộc. Lại nói: Ngõ hẹp không cỡi ngựa sắc vàng, trở về mặc áo rách. Sư nói: Nhà ấy được tự do. Sư bèn nói: Ánh sáng thu trong cạn, sương thu ngưng đọng, gió thu vi vu, sắc thu trong sạch. Là công hộ sinh Thích-ca đã xong, thật là pháp kiết chế của nạp Tăng đã trọn, nếu có thể trong quên thấy mình, ngoài rõ pháp không, trong ngoài như một, hư ngưng trừng tịch, thì toàn tâm tức Phật, toàn Phật tức tâm, cùng chư Phật nắm tay cùng đi, cùng các Tổ sư đồng đắc đồng dụng, đến chỗ ấy còn nói kết gì, lại nói giải gì? Suốt mười hai giờ hai (mươi bốn giờ) sạch làu làu sáng rực rỡ. Trọn ngày mặc áo, mà chẳng từng đeo một sợi chỉ, trọn ngày ăn cơm mà chẳng từng căn một hạt gạo. Gọi đó là động như mây bay, ngưng như hang thần. Há có tâm ở kia đây, sao có hình tượng ở lui tới, gặp chỗ gặp bến thì toàn cơ riêng thoát, chính lúc ấy như thế nào. Mây trắng vốn là vật vô tâm, rãnh rang ra vào thái hư không. Lại nói: Chín mươi ngày công tròn đủ một ngày này, chẳng phải nghiệm người sáp đến, tuy vậy vạn dặm không một tấc cỏ, miệng túi sáng nay đã mở rồi. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Ngài Triệu Châu hỏi một am chủ rằng: Có chăng có chăng? Am chủ đưa nắm tay lên. Triệu Châu nói: Nước cạn chẳng phải chỗ thuyền đậu, ý chỉ ấy như thế nào? Sư nói: Căn cứ vào khoản mà kết án. Lại nói: Chỉ như hỏi một am chủ, cũng dựng đứng một bàn tay. Triệu Châu khen ngợi và lễ bái. Sư nói: Hai lớp công án. Lại nói: Hỏi đáp một thứ, vì sao chịu một cái còn một cái không chịu. Sư nói: Có rất nhiều người đến đây giống như khua vách sắt. Lại nói: Bỗng có người hỏi Hòa thượng có chăng có chăng, thì đối đáp như thế nào? Sư nói: Chẻ xương sống liền đánh. Lại nói: Ân lớn khó đáp đền. Sư liền đánh. Bèn nói: Rõ ràng hiển bày Chánh nhãn bao quát cả tam thiên đại thiên, ông ta không đầu lưỡi, diễn ra Hải tạng Long cung, hiện thành thọ dụng chạm chỗ gặp nguồn, khắp cõi gia phong lấy xung quanh nếu chẳng phải đồng đạo thì sao có thể nấu đề cương. Đã là người như thế phải sáng việc gì. Có hiểu rõ chăng? Cả trái đất nhét vào một hạt gạo, mười phương sát hải xem trong tay. Ngày mồng 01 tháng 08, Sư thượng đường Tăng hỏi: Chẳng trải hóa thành liền lên Bảo Sở, như thế nào? Sư nói: Đầy mắt vốn chẳng phải sắc, đầy tai vốn chẳng phải tiếng. Lại nói: Thân đến núi báu về tay không, lại như thế sao? Sư nói: Vào ruộng hoang không chọn. Sư bèn nói: Vật cao ở trên trời mà sinh trời là gì? Vật dày ở đất mà nuôi đất là gì? Vật rộng ở hư không mà bao cả hư không là gì? Vật vượt trên Phật tổ mà trồng Phật tổ là đó. Ngoài lục họp chỉ có đạo, tồn tại chớ luận bàn. Nếu căn cứ vào việc bổn phận thì chưa nói được một nửa. Có biết hết cả quả đất mà nắm lại hết cả đều ở trên lông mày của các người, hóa làm Thiên Đại tướng quân hiện vô biên thần thông. Nếu cũng thấy được, chuyển phàm thành Thánh. Nếu cũng chẳng thấy thì rất kî chần chờ. Dẹp hết then chốt trên đầu cửa, phân thân trăm ức hóa vô biên. Thỉnh Trường Lô Giác Thiền sư thượng đường nói: Nhiều người trước tháp phân nữa tòa, cắt đứt các dòng. Thiếu Lâm ngồi ngay trải qua chín năm, vách đứng ngàn nhận, hăng hái làm lò rèn, làm kềm búa hướng thượng, hiển bày đại dụng đại cơ hoàn toàn cứu sống hoàn toàn giết chết, cùng tất cả mọi người nhổ đinh mở chốt, cởi trói, khiến người đại địa mỗi mỗi đều như sư tử con hăng hái cào cát ngồi xổm. Do đó nói: Pháp vương pháp lực vượt quần sinh, thường dùng pháp tài thí tất cả, chứa lâu tịnh nghiệp xứng vô lượng, dẫn dắt chúng lấy chỗ vắng lặng mà đảnh lễ. Phàm như thế thì hướng núi cao vạn nhận mà buông tay, thầy trò hỏi đáp đầy đủ, đầu sào trăm thước tiến lên, chủ khách đổi nhau, chính lúc ấy như thế nào? Rồng ngâm nổi sương mù, cọp gầm thì gió lên. Lại nói: Đánh gõ bạn đạo cùng sánh vai, một đời tham học đã xong rồi, sáng nay may gặp Đại đạo sư, Bảo Hoa Vương Tòa mà nêu ra. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Lìa bốn câu dứt trăm lỗi, xin Sư chỉ thẳng ý trở về phương Tây đến? Mã sư vì sao chẳng cùng người khác nói. Sư nói Xà-lê chẳng ngại có mắt. Lại nói: Trí Tạng nói: Hỏi lấy, Hải huynh đi. Như thế nào? Sư nói: Trong bùn nát có gai nhọn. Ngài Bách Trượng nói: Ta đến chỗ ấy lại không hiểu, ý chỉ như thế nào? Sư nói quạ rùa dùi phá vách. Lại nói: Mã Tổ nói Tạng đầu trắng, Hải đầu đen, là thế nào? Sư nói: Lấp ngoài lệnh tướng công. Hỏi: Chỉ như ba bậc Tôn túc, là trả lời người khác hay vì người khác nói. Sư nói: Một trạng thái lãnh hội qua. Lời nói mang huyền mà không lộ, miệng muốn nói mà chết lời. Sư nói: Cũng có cát đằng này trong đó. Lại nói: Bỗng như cắt đứt các dòng nói năng chẳng dính, lại như thế nào? Sư nói: Đợi ta lên núi lấy gậy. Lại nói: Lão Hòa thượng ấy một điểm cũng lừa dối người khác không được. Sư nói: Bỏ qua một phen. Sư bèn nói: Ngày tốt có nhiều tia sáng cùng chiếu, trên gấm thêu hoa hoàn toàn thông cả trong ngoài, nếu là tri âm lại chẳng nói. Này Đại chúng! Ba đời chư Phật ở trong lửa sáng mà chuyển Đại pháp luân, tường vách ngói đá ở trong mắt các người mà chuyển Đại pháp luân, gậy gộc ở trên đầu ngàn Thánh mà chuyển Đại pháp luân chỉ có lộ trụ đèn lồng? Lại hơi một bắt chước chút ít. Vì sao thế. Vì đi Đông chẳng thấy lợi đi Tây, một chiếc lá rụng biết thiên hạ có mùa thu. Trung thu, Sư thượng đường, Tăng hỏi: Huỳnh Long tam quan tức chẳng hỏi, như thế nào là Dương Kỳ cỏ gai lật. Sư nói người thiên hạ nuốt chẳng được. Hỏi: Hòa thượng có nuốt được chăng? Sư nói: Lão Tăng là người thứ nhất nuốt không được. Lại nói: Đã nuốt không được thì lấy gì cho người. Sư nói: Trọn chẳng dám cô phụ Dương Kî. Hỏi như thế nào là vườn kim cang? Sư nói: Xà-lê hết tài giỏi trăm năm thấu chẳng ra. Lại nói: Bỗng gặp lão ấy bước ra nói hết là ngôn ngữ như thế nào? Sư nói: Một cái nhảy vọt. Lại nói: Lão Hòa thượng ấy ngày nay chút tướng làm. Sư nói: Lại chớ dùng dấu ấn bí đao. Sư bèn nói: Giữa mùa thu gió Tây thổi gấp, trăng lên không rất tròn. Tiêu điều lá cây rụng, lóng lánh hạt ngọc treo, líu lo nhạn xuyên mây, nỉ non ve ôm cây, đầu đầu mà rò rỉ, tha thiết tìm u huyền. Sư ra khỏi thành, nữa chừng trở về Viện thượng đường nói: Đại chúng, rất may không có việc ngồi sang, cứng như đất bằng nổi đống xương phí hết công phu. Chỉ cái ấy là bước theo dòng nước mà trở về, làm sao cũng không được, chẳng làm sao cũng không được, làm sao chẳng làm sao đều không được. Sau đó mất giao thiệp chính thân cái thời tiết này tuy nhiên như thế. Nhà khác tự có thông tiêu lộ, Nam nhạc núi cao cùng Thiên thai. Lại nói Na Tra tám tay nâng gậy sắt, xoay mình vào thẳng biển xanh kia. Rụt rè giận dữ vỗ chuông vua, phạm lỗi trời to không chỗ tuyết, chỗ không tuyết chẳng khỏi nương ở chỗ an ổn cũ trước. Lại đang lúc ấy như thế nào? Một tiền trộm chẳng được làm dối mất lượng người. Tạ Giám Viện thượng đường nêu rằng: Dược Sơn ngày nọ bảo Vân Nham rằng: Cùng ta gọi Sa-di lại Nham nói Hòa thượng gọi ông ấy làm gì Sơn nói ta bẻ gãy chân vạc, y phải đưa lên để xuống. Nham nói: Như thế cùng Hòa thượng đưa ra một tay. Sư nói: Nói đầu biết đuôi, nêu một sáng ba. Sơn Tăng có một tụng nhỏ: Một bước rộng một bước, một trứ cao một trứ bẻ gãy chân vạc (đảnh) cho thuốc A-già-đà, đất Tu-di một nắm, nước biển xanh nửa bụm. Quyết ý ca bài ca nhai, qua cửa đồ tể. Sư thượng đường nói: Đại chúng, cuối mùa Đông trời rất lạnh, ngàn núi vạn núi, giọt nước đông giá, thành viên thành hòn. Đông giá được ván Đạt-ma răng rụng, băng được mỏ quạ vàng đoàn hoan (viên tròn). Lại xem song phụng múa cô loan. Lại nói: Sư tử lông vàng một giọt sữa, cùng tan trong mười hộc sữa lừa, cứu sống người chết trên đất bằng, giống như đất nâng núi đá ngậm ngọc. Nêu. Cảo thủ tọa lập Tăng. Sư thượng đường nói: Con chim cốt chưa ra hang đã có chí vượt trời cao. Cọp con chưa dứt sữa đã có khí ăn trâu, huống chi lông cánh móng vuốt đầy đủ. Hăng hái liền kinh người, tám mặt gió mát nổi, một xương sống cứng như sắt. Một cây gậy trắng nâng trời đất, cùng (nhau) dựng pháp tràng, mở lỗ mũi nạp Tăng. Sư thượng đường nói: Chẳng lên núi Thái Sơn chẳng biết Trời cao, chẳng lội xuống biển chẳng biết biển rộng. Trong khu này mà luận. Nếu là người trong ấy thì trời ở trong một hạt gạo, biển ở trên đầu một sợi lông, cõi Phù tràng hoa tạng, tất cả đều ở trong lông mày nháy mắt. Lại nói: Người này ở đâu mà an thân lập mạng. Lại hiểu rõ chăng? Vô biên hư không đầy chẳng nhận, thẳng thấu oai âm ở bên nào. Sư thượng đường nói: Ba cõi không pháp, trời sương trăng sáng, chỗ nào cầu tâm. Núi cao nước sâu, bốn đại vốn không, chẳng phân biệt Tây Đông, Phật nương chỗ nào mà trụ, trời đất riêng bày. Thấu được thoát, thấy được suốt, chánh ở nữa đường rụt rè, đập nát nhổ hết cửa sắt, thoát cây vô căn liền thấy, tay vỗ nhật nguyệt lưng vác núi Tu-di, dắt tay qua một trăm mười thành, quay mình đứng, mười phương cõi Hoa tạng. Đến chỗ ấy cũng không Phật, cũng không Tổ. Chẳng lập chiếu, chẳng lập dụng, chẳng lập quyền, chẳng lập thật, chẳng đánh gậy, chẳng cất tiếng hét. Ngay lúc ấy thì như thế nào? Nương cậy vào thuốc A-già-đà, điểm lấy mở Chánh nhãn kim cang. Sư thượng đường nói: Mười phương đồng tụ hội thân xưa nay chẳng mê muội, người người học vô vi, trên đảnh dùng kềm búa. Đây là tuyển Phật trường sâu rộng không thể lường. Tâm không thi đỗ mà về kiếm bén không bằng chùy. Bàng cư só lưỡi chống Phạm Thiên, miệng hao bốn biển. Có lúc đem một cộng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có lúc đem thân vàng trượng sáu làm một cộng cỏ. Rất là kỳ đặc. Tuy nhiên phải cần chăng từng động tới cửa hướng thượng. Như thế nào là cửa hướng thượng. Đức ấn dựng đàn cao. Hàn quán sát thỉnh, Sư thượng đường nói: Đại chúng! Mặt trời chìm chìm gió dìu dặc. Muôn đời chỉ như hôm nay. Mây vần vũ nước cuồn cuộn ngay chỗ toàn thể hiện, dán da nắm xương, chưa khơi luận tánh luận tâm, vượt cách vượt tông. Liền nói lôi thôi dài dòng, đâu chẳng biết, người người quét sạch đầu lưỡi người thiên hạ, mỗi mỗi có chánh nhãn kim cang. Nếu có thể chưa nêu mà biết trước, chưa nói mà khế hợp trước thì giữa đường gặp người đạt đạo, chẳng đem nói nín mà đối đáp. Đến chỗ đó giống như vàng đổi vàng, nước vào nước, liền hoàn toàn dựa vào ân lực này. Chính lúc ấy như thế nào là toàn đề một câu, có hiểu rõ chăng? Tri ân mới biết báo ân sâu.  VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 8 THƯỢNG ĐƯỜNG 8 Đầu năm mới, Sư thượng đường nói: Đầu năm mở nước mở cửa nẻo, vạn vật mới mẻ trời đất đồng mùa xuân. Đúng lúc nạp phúc chẳng rơi vào lỗ cối, hết cả đều nên. Muôn đời một lúc mạnh xuân cũng còn lạnh. Phục nguyện: Thủ Tọa Đại chúng khởi cư vạn phúc, xin lửa cùng được khói, gánh nước mang trăng về. Lại nói: Năm mới có Phật pháp, chính là trên đất còn thêm bùn. Năm mới đầu không Phật pháp, lại thành trước mặt sai lầm. Đến chỗ ấy Phật pháp thế pháp, có không mới cũ đồng thời đem bỏ qua một bên, lại chẳng rơi vào chức tước một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chăng. Trời đất họp một bánh bột, hai vầng nhật nguyệt thiên khí cầu. Thí chủ cúng pháp y, Sư thượng đường nói: Ca-diếp dắt tay lên ngồi trên núi Kê túc, Lão Lô ôm qua ngọn Đại dữu. Như nay trùm phủ Bảo hoa tòa, ánh sáng chiếu khắp đỉnh núi cao. Lại nói: Là đồng hay khác. Áo gấm công tử quý, dưới rừng đạo nhân cao. Sư thượng đường nói: Này đại chúng! Nhiều tay cùng đãi vàng, người người đều có được sương gió vây bốn bề, hoa trời đầy vạc áo, thưởng lớn chẳng luận công, hư không mãi khắp đầy, phân thân ngàn trăm ức, Di-lặc chân Di-lặc. Lại nói: Vào nước phải chém giao long, vào núi phải bắt hổ, có tai tác chung vua, liền cột thoa trống độc, một mũi tên bắn rơi chín con quạ, một nắm ngàn cân đất, các Thánh đều chẳng bằng, ngày hai mươi lăm tháng chạp. Thư Thiền Sư biến khắp thượng đường nói: Đại chúng, ngày này năm rồi một ông già nói. Trâu đất vào biển không tin tức, ngày nay năm nay lão búa sắt, hoa Ưu-đàm-bát ở Trù thất, dầu mây ra vào Thái hư không, động tịnh tới lui nào có dấu. Phải tin tuyết tạnh trời đất xuân, mặt trời như cũ mọc ở phương Đông. Sư thượng đường nói: Đại chúng, trăng tròn trên trời, vạn tượng rõ ràng. Trăng dưới đất khuyết gặp đường thành hiện. Thấy chẳng thấy, bao trong mười hư còn dư nửa. Nghe chẳng nghe, thấu thoát viên thông tận gốc rễ. Ngọc chảy hồ đồng thúc chẳng được, càn khôn đại địa một cây đèn. Một chỗ viên thông tất cả chỗ, vô biên sát hải lại tầng cao. Sư thượng đường nói: Siêu thoát cửa ải thiền cơ của Tổ sư, chẳng biết vật biến đổi, một niệm bằng vạn năm một điều chân bạch luyện, ngàn sai mắt thấy rõ. Trong kính vạn hoa hiện, bỗng muốn vào ba cửa rãnh rang cởi điện Phật. Lại nói mưa đêm trách xuân sâu. Màu rong rêu dính người. Bên khe cỏ xanh thơm, hoa cùng liễu mới. Khí vị nồng ở rượu, Phong quan nhẹ đầy nguyên khí, mây linh tìm chẳng được chỗ nào ngộ thiên chân. Sư thượng đường nói: Mặt trời mặt trăng Hồ đến Hán hiện. Có lúc bỏ hạnh có lúc cầm dứt. Thế pháp Phật pháp nhồi thành một khối. Nếu nhồi một khối mà hiểu thì gặp sang thành hèn. Chẳng thành một khối mà hiểu thì trong lúa có bột. Lại nói: Ba đời chư Phật chẳng biết có nhất nhất ở phía Nam nhìn sao Bắc đẩu. Mèo nhà trâu trắng liền biết có, mang sừng húc vào đầu sư tử rống, bốn góc đạp đất lại vo tròn, tám sừng ma bàn trong không chạy, đinh suy tìm bữa xương sống kéo ra, nắm được lổ mũi thì mất miệng. Hỏi Phổ hóa một đầu lừa, sao giống một con chó Hồ màu tím. Sư thượng đường nói: Hữu cú, vô cú siêu vượt tông cách, như dây leo dựa cây, núi bạc vách sắt. Cho đến cây ngã thì dây leo héo khô, bao nhiều người mất lỗ mũi. Dù cho thâu nhặt lại được, đã là ngàn dặm vạn dặm. Chỉ như lúc chưa có tin tức này. Có thấu được chăng? Gió ấm tiếng chim nát, ngày cao bóng hoa nặng. Sư thượng đường nói: Đại chúng, mưa lâu chẳng tạnh ngày nay tạnh, càn khôn đại địa phóng ánh sáng. Tường vách ngói gạch nói Phật pháp lộ trụ đèn lồng mở mắt nghe. Dám hỏi các người làm sao nghe được? Bèn nói: Thân. Lại nói: Ông già Thích-ca nói: Biết huyễn lìa, xoay mình vạn dặm chẳng làm phương tiện mười phần hiện thành, lìa huyễn tức giác, Tu-di đổ nhào cũng không thứ lớp, trong mắt có gai. Bỗng hết cả đại địa nắm lại như hạt gạo lớn, hãy làm như nào biết. Cái quạt nhảy lên trời ba mươi ba, hãy làm sao biết? Chính lúc ấy có hiểu rõ chăng? Mười phương sát hai tòa kim cang, trong vạn lò nung tật lê sắt. Sư thượng đường Tăng hỏi: Ngày mặt Phật, tháng mặt Phật ý chỉ như thế nào? Sư nói lật đi lật lại xem. Hỏi thưa: Chỉ như nói ba đời chư Phật, sáu đời Tổ sư đồng một lưỡi nói, chưa biết có đồng một lưỡi kia nói không? Sư nói: Đó là đồng vậy, là cắt đứt hết vậy. Hỏi: Chưa biết lấy gì cắt đứt? Sư nói: Lấy không lưỡi cắt. Lại nói: Giặc cỏ thua to. Sư nói: Điểm. Sư bèn nói: Đại chúng, trăng sinh một, con diều cắt giỏi nhanh không đuổi kịp, trăng tháng sinh hai, Đức Sơn, Lâm Tế mất lỗ mũi, trăng sinh ba Văn-thù, Phổ Hiền trái lại tham. Na Tra giận dữ nắm Tu- di, một tay trăm nát vụn, bẻ chân đảnh, đập phá tan giỏ không đáy. Đại bi ngàn tay, trong một tay có một mắt đề không khởi. Vô ngôn đồng tử liền hiểu đạo trước ba mươi ba, sau ba mươi ba, có hiểu rõ chăng. Trên đảnh vạn nhận đều buông hết nhiều năm rách áo của nạp Tăng. Sư thượng đường nói: Đại chúng, Phó Đại só nói: Tu-di hạt cải cha, hạt cải Tu-di cha, núi sông bằng phẳng, gõ băng để nấu trà. Từng nghe Phó Đại só chính là hóa thân của Di-lặc Đại Só. Xem nó không tin tức, chẳng ngại chấp thật. Sơn Tăng ngày nay trên đất lại thêm bùn. Cũng có bài tụng: Tu-di nạp giới bất dung dị Giới nạp Tu-di thất tợ nhàn Trường hà giảo trước thành tô lạc Khinh khinh kích thấu Tổ sư quan. (Tu-di cho vào hạt cải chẳng dễ dàng, hạt cải cho vào Tu-di nó giống nhàn. Sông dài nắm lại thành tô lạc, nhẹ nhàng gõ thấu cửa Tổ sư.) Nêu: Đơn Hà Dụ trưởng lão vì người vào thất. Sư thượng đường nói: Đại chúng, Ma-hê Thủ-la yết thị pháp nhãn. Nước Ma-kiệt-đà toàn đề kềm búa hướng thượng, vách đứng ngàn nhận dứt thừa đương, ánh sáng đốt phá bốn thiên hạ. Do đó nói: Dao giết người, kiếm cứu sống người. Từ sai lầm đến sai lầm. Phong qui của thượng cổ cũng là xu yếu của thời nay phương tiện dạy người. Nếu luận dao giết người thì còn mảy may, kiếm cứu sống người hoành thân vạn dặm. Phải biết trong giết có cứu sống, bắt thả trời người, trong cứu sống nó giết quyền hành Phật tổ. Dù cho nói được giết cứu lỗi lạc rõ ràng. Sơn Tăng lại hỏi ông. Tìm kiếm ở đâu chính lúc ấy thấy gì? Núi treo vạn nhận mà buông tay, núi cao cùng hát ca thái bình. Lại nói Triệu Châu nói: Triệu Châu ở Nam, Thạch Kiều ở Bắc. Trong viện Quan Âm có Di-lặc, Tổ sư lưu lại một chiếc giày. Mãi đến nhưng nay tìm không được, các người phải biết rơi chỗ nào chăng? Phải hỏi Đơn Hà Hòa thượng. Kiết chế, Sư thượng đường nói: Hai ngàn năm trước Phật chế các phương tuân hành làm lệ trong chín tuần an nhàn cùng là kế sống trong hang quỷ, lại như thế nào là kế sống trong hang quỷ? Con khỉ vào túi vải lại nói: Chín tuần cột miệng túi, đạo an cư giải thoát nước sữa tự hòa đồng, vạn duyên không chỗ quấy nhiễu, cỏ gai lật, nhảy thoát vòng kim cang, cùng thấu nhà Nạp Tăng, trên đầu một cái lỗ. Sư thượng đường nói: Đầu-đà sắc vàng Ca-diếp mặc y phấn tảo. Cúc-đa Tôn giả vận thần thông. Hỏa tinh cùng vào nước Tân La, voi lớn dấu sen trong lổ nhỏ. Sáng ngày mồng 01 tháng 05, Sư thượng đường nói: Cây sắt chia tóc thành từng búi, trâu đá gầm rống, mây lửa lên trời dài vạn trượng, mặt trời tỏa ánh sáng khắp nơi. Dù cho cá lý ngư ở biển Đông phơi râu, bày vẩy. Nam Quốc Ba Tư trình múa mái chèo. Văn-thù, Phổ Hiền chẳng dám nói Lý sự. Đức Sơn, Lâm Tế chẳng dám dùng gậy, tiếng hét. Chính lúc ấy có hiểu chăng? Gậy gộc định nuốt ba đời chư Phật, đèn lồng tuông xuống hạt minh châu. Lại nói, ông già Thích-ca nói: Nếu có một người phát chân qui nguyên, mười phương hư không thảy đều tiêu mất. Ngũ tổ Hòa thượng lại nói: Một người phát chân qui nguyên, mười phương hư không đang xây đang lên đạp nát đi. Sơn Tăng không như vậy. Nếu có một người phát chân qui nguyên thì mười phương hư không như trên gấm thêu hoa. Sư thượng đường nói: Trăng mới như cái móc mây nhẹ ánh lửa. Trước núi lúa chín trong sọt tằm kéo kén. Nông phu cấy cày gặt lúa, liễu bờ ao buông rèm. Mưa hòa gió thuận, trộm cướp vắng bóng. Bọn ta người dưới rừng, một tặng cho vui mừng pho thường. Vừa nói lời này, bỗng đất có cái phù sứ (Sư đưa bùa) ra nói: Trước núi các chỗ đều có bệnh ôn dịch dữ dội, muốn đến Hòa thượng tìm bùa thần đến đó đuổi bệnh đi. Sơn Tăng bèn lấy gậy vẽ một vòng tròn cho thì bỗng nhiên biến mất, rụt rè nói: Quỷ ôn dịch đã đuổi xong, mà đi về thế giới khác. Chỉ có một việc đợi thỉnh ích Hòa thượng linh nghiệm thần phù này từ đâu có được. Sơn Tăng liền đánh vào lưng ngay đây dứt dấu mất tiếng, nhân đi mà động tay, thành bài tụng rằng: Ngày 05 tháng 05 tiết trung thiên, miệng đỏ lưỡi độc đều diệt mất, viết giờ 05 ngày 05 tháng 05, buông bỏ đầu rắn vuốt râu cọp. Sư thượng đường nói: Xa không nương cậy siêu tông vượt cách, không Phật không tâm, vách đứng ngàn nhận, trên cây dâu dính mũi tên, trên cây liễu nước tiết ra. Sư thượng đường nói: Đầy đủ cơm cháo, củi nước. Lô lăng gạo giá cao, trước núi lúa chim chạy, hết cả càn khôn sát hải đều là cái tự mình, nhướng mày chớp mắt dù cho phóng quang động đất chẳng phải là Như Lai Thiền cũng chẳng phải Đệ nhất nghóa, lại nói Nạp Tăng nắm lổ mũi, đầu bằng vực thẳm buông tay thuốc kî, lại hát la la lí lí. Tham đi! Sư thượng đường nói: Một, hai, ba, bốn, năm sáu, bảy; bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một. Gió lốc trên xe Định Bàn tinh. Đầu gậy trăm thước thổi gào tất lật. Lại nêu: Vân Môn một hôm dạy chúng rằng: Hòa thượng con chớ vọng tưởng, núi là núi, nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục. Lúc đó có Tăng bước ra nói: Học Tăng thấy núi là núi nước là nước lúc ấy thế nào? Vân Môn lấy tay vạch một vạch bảo: Điện Phật vì sao từ trong ấy đi. Sư nói rằng giống đất nâng núi, như đá ngậm ngọc. Thấu qua được thì tất cả ở trong kho vô tận, thấu không qua thì chưa khỏi nghó ngợi chỉ như Vân Môn lấy tay vạch một vạch bảo rằng: Điện Phật nhân gì từ trong ấy đi, như thế nào? Một chiếc lá rơi thì biết thiên hạ có mùa thu. Tưởng Vận Sứ gởi núi Vân cư ba chữ lớn. Và thỉnh Sư thượng đường nói: Pháp pháp viên dung. Tâm tâm hư tịch. Lớn thì bao trùm không gì ngoài, văn thái rõ ràng, nhỏ thì không gián đoạn mắt không thể thấy. Do đó nói: Vạn pháp là tâm sáng, các duyên là tánh hiểu, vốn không người mê ngộ. Chỉ cần ngày nay hiểu rõ, ngày nay lại như thế. Quét sạch Báo Hóa Phật, gọi gì là tâm, gọi gì là tánh, vì sao nói rồi là cắt đứt các căn rồi, như thế là cắt đứt các căn xứ, bỏ một tuyến đường thông cái tin tức. Có hiểu rõ chăng? Đại hạn được mưa ngọt, nóng dữ được mát mẽ. Có tụng rằng: Chúng phong bàng khuất ốc đam đam Thiên thượng hoằng trừng vũ bích đàm Khát ký nộ nghê tam đại tự Cao tung thiên cổ chấn danh lam. (Các núi bàn khuất nhà vui vui. Trên trời lắng sâu mưa đầm biếc. Ngựa ký khát, Sư tử giận ba chữ lớn, dấu cao ngàn xưa chấn danh lam.) Vân Cư, ở Chân Như Thiền viện tại Nam khang quân. Đưa hóa chủ thượng đường nói: Lửa không đợi mặt trời mà nóng tánh cũng cùng một loại. Gió chẳng đợi trăng mà mát khí họp nhau. Một cây chẳng thành rừng, một sợi tơ không thành chỉ dệt, kiến lập đại hạ không phải một cây mà được, qua sông lớn không phải một mái chèo mà đủ sức. Do đó nói: Nhiều lông thành trái cầu, một đốn sắt thành búa. Cần phải trong ngoài tương ưng, chủ khách biết dung, tự nhiên khí loại đồng nhau, cánh lông giống nhau. Đang lúc như thế thì làm sao? Tám vạn bốn ngàn không phải lông phụng, ba mươi ba người vào hang cọp. Lại có tụng rằng: Tam thập dư viên cân thủy khách Chư phương phân hóa lực hành trì Sơn môn thứ sự hồn y lại Chánh thị kim mao phấn tấn tài. (Hơn ba mươi viên mây nước khách, các phương phân hóa sức hành trì, sơn môn các việc cùng nương cậy, chính là lúc lông vàng phấn tấn.) Sư thượng đường nói: Hữu cú, vô cú đã dứt các sai lầm, phi sắc phi tâm, vượt lên lời nói khế cơ, đến trong đó có mở miệng phân cũng không? Chớ nói là siêng, Thượng Tọa miệng giống biển mái tranh giả sử ba đời chư Phật các đời Tổ sư bước ra, biện hiện trôi chảy cơ như điện xẹt, chưa khỏi quên mũi nhọn kết lưỡi. Vì sao thế? Chỉ vì gió rất dữ. Tuy như thế, nếu hướng trong đó ngay đây thừa đương được thì như rồng được nước như cọp dựa núi. Có chí khí trượng phụ, đủ dứt thủ đoạn ràng buộc. Do đó nói: Dao giết người kiếm cứu sống người thì bên này bên kia hướng thượng hướng hạ, có sự không sự, cõi Phật cõi ma một lúc quét sạch. Bỗng có người hỏi: Chưa biết dao kiếm ở chỗ nào? Rõ ràng chăng? Từ trước công lao hơn mã không người biết. Chỉ cần luận lại có lẽ thay công. Lại nêu: Có Tăng hỏi Vân Môn: Lúc cây tàn lá rụng thì thế nào? Vân Môn nói thể lộ gió vàng. Sư nói: Mắt Vân môn như sao băng, cơ như điện xẹt. Nắm được tương lai chẳng ngại kỳ đặc. Như nay bỗng có người hỏi sơn Tăng: Cây tàn lá rụng lúc đó thế nào? Chỉ hướng về đạo ấy. Ngàn núi mây mù cuốn, một trông thấy thôn trước. Sư thượng đường nói: Mười phương đồng tụ hội, người người học vô vi. Đây là tuyển Phật trường tâm không thi đậu về, đại trượng phu đều quyết liệt chí khí, khảng khái anh linh. Đạp phá hóa thành thẳng dứt thừa đương. Ngoài chẳng thấy có tất cả cảnh giới, trong chẳng thấy cơ mình, trên chẳng thấy có các Thánh, dưới chẳng thấy có phàm ngu, sạch làu làu sáng rực rỡ. Một niệm chẳng sinh đáy thùng sơn lũng, há chẳng là tâm không? Đến chỗ ấy còn dung cho gậy hét chăng? Có dung cho huyền diệu lý tánh chăng? Có dung cho bỉ thử thị phi chăng? Ngay đây như trên lò hồng có một điểm tuyết, há chẳng phải là trong tuyển Phật trường gỏ đầu đội sừng. Tuy nhiên như thế, kiểm điểm tương lai kỹ lưỡng, còn việc liên quan đến thềm bậc. Lại chẳng dính thềm bậc, một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chẳng? Ngàn Thánh chẳng lưu vết tích vạn người trong bụi cướp tiêu cao. Lại có tụng rằng: Trụ sơn chỉ quý chúng hòa hài Biểu lý thông minh ưng chỉnh tề Triết khước lạm nhi hạnh vô dạng Tương bằng xuất thủ cộng đề huề. (Ở núi chỉ quý các hài hòa, trong ngoài thông mình phải chỉnh tề. Bẻ chân cái lạm có lẽ không bệnh, dựa nhau ra tay cùng đề huề.) Sư thượng đường nói: Trời thu tạnh ráo mầm mống nẩy chồi (lúa thóc đầy bồ), bốn biển yên bình vạn dân vui sống. Người dưới rừng ý hết tâm dừng. Ngay đây rõ ràng quét sạch Báo Hóa, đói ăn khát uống mệt nằm rảnh đi, vô sự vô vi được đại tự tại. Rõ ràng một câu chẳng thể lập lạc, trốn tránh chẳng làm phải hậu tiết ngay. Có hiểu rõ chăng? Mùa thu tháng tám chỗ nào nóng. Lại nói: Đêm qua mộng lên lầu, bỗng nhiên được thời tiết nhân duyên sáng nay nêu giống đại chúng, bốn cõi lắng yên, ngồi nghiêm như ở Thiếu lâm. Mây lồng đỉnh núi cao, trăng ở tâm sóng biếc. Trung thu, Sư thượng đường nói: Chỉ như thế mà hiểu được, đã là nước dính bùn sao kham rèm sáo. Mất đầu lại mất mỏ. Đến đến cũng phải giống như người chết mà sống lại (người sống như chết?) mới được. Có hiểu rõ chăng? Đầu gây hay chứng lấy, hét xong dứt thừa đường. Lại nói ngày giờ gấp như thoi đưa, Hiền minh không thể làm được sao? Ngàn rừng điêu tàn lá rụng, một con chim nhạn qua sông thu, gió gấp tiếng chày xa, núi cao trăng nhiều sắc. Ai ở ngay lúc này mà biết hát bài ca Tử Chi. Lui về Viện, Sư thượng đường nói: Ba mươi năm trụ trì bảy chỗ. Sáng nay mới làm Địa Hành Tiên. Trên mong nhờ Thánh chủ theo nguyện hèn, ân làm cho kết quả thuần thục, xa tợ trời. Thấy được thì tiến biết khó thì lui. Quyền bính ở trong tay nắm mở không thể khác. Trụ đã vô tâm, động cũng chẳng phải ta. Do đó trong mười hai giờ cùng người khác (nó?) đồng đắc đồng chứng, đồng ra đồng vào. Há có tâm ở kia đây, sao có (hành) Tượng ở tới lui. Do đó nói: Muốn biết nghóa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên. Thời tiết nếu đến thì lý tự bày chánh đáng cùng lúc nào, lại hiểu rõ chăng. Khoảng rừng chỗ tiêu tán, ngoài đời một người nhàn. Lại có tụng rằng: Thiền nguyệt tích niên tằng hữu ngữ Sơn Tăng sư phạm tác lương mưu Như tư tiêu trí tuy thanh chuyết Đại trượng phu nhi hợp tự do. (Thiền nguyệt năm xưa từng có lời, Sơn Tăng làm kế tốt gương mẫu, nêu đến đây tuy thanh chuyết, đại trượng phu chưa họp một chút tự do. <詞>TIỂU THAM MỘT Sư trụ ở phủ Thành đô, chùa Thiên ninh Tiểu tham Sư dạy chúng rằng: Chánh lệnh đã ban hành, quét sạch mười phương. Ngàn Thánh ra rồi quên mũi nhọn kết lưỡi. Tuy như thế, Sự không một hướng, còn có kẻ cũng sống, cùng chết với nạp Tăng chăng? Lúc đó có Tăng hỏi rằng: Chớ bảo vô tâm chính là đạo, vô tâm cũng cách một lớp cửa, vật vị vô tâm tiện thị đạo. Vô tâm du cách nhất trùng quan. Thế nào là một lớp cửa. Sư nói: Mười lớp cũng có. Lại nói: Thế nào là chủ trong cửa? Sư nói: Bỏ qua một qua một lần. Lại nói: Sao là diện mục? Sư liền hét. Sư bèn nói: Như thế sớm nhiều việc, như nay dù có nêu một tắc ngữ thì hết cả ngôn giáo xưa nay một lúc sáng được thì chính là phương pháp giáo hóa. Nắm một sự kiện, hết cả đại địa một lúc suốt thấy cũng là ghẻ khuyết trên da thịt lành, xem nó từ trên người mà được, miệng như tháng chạp dù quạt cũng sinh mốc. Tâm như cây khô, dẫu gặp xuân hạ chưa từng biến động. Chẳng phải gượng làm tự động như thế. Há cần ông nêu cổ nói kim, ném đất rải cát. Đêm nay việc chẳng được rồi, từ lầm đến lầm, cùng các người đến cát đằng đi. Có biết việc này chăng? Hết cả mười phương cùng tột hết hư không, không mảy may qua lọt. Là con mắt kim cang, không vật nào ngoài cả. Do đó tầm thường cùng huynh đệ nói. Ông vừa quán sắc sớm lấp mắt vừa nghe tiếng sớm lấp tai, vừa ngữi mùi hương sớm lấp mũi, vừa như khỉ sớm lấp yết hầu, vừa chuyển động sớm lấp thân, vừa khởi niệm sớm lấp ý căn môn sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Chỉ là chẳng chịu hồi quang phản chiếu. Xem lời người xưa nói với Tiên đức liền khế chứng không tin tức, chẳng ngại thân thiết. Nước mưa ngập bị Mã Tổ một đạp, đứng dậy ha ha cười lớn bảo rằng trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghóa, chỉ hướng trên một đầu lông biết được căn nguyên, há chẳng vui thích sao? Ngài Lâm Tế đối với Hoàng Bá ba phen hỏi, bị ăn sáu mươi gậy. Lại đến ngài Đại Ngu trước mặt chẳng biết đạo. Té ra Hoàng Bá trong Phật pháp không nhiều con. Giống được chỗ này há chẳng kinh động người. Các ông có hiểu tin tức chăng? Nếu lại lật ngược ra mà tham rõ thật là được chỗ vào. Mới biết trong mười hai giờ đi đứng ngồi nằm động chuyển làm lụng, mỗi mỗi đều vượt lên xưa nay không gián đoạn. Cùng Phật tổ nắm tay đi. Tầm thường chỉ giữ nhàn an nhàn khởi mảy may tình lượng phàm Thánh. Lại có gì được mất có thể nghi sinh tử có thể ra giống lời nói này, có thể gọi là ở trước mắt các ông. Không mộng mà nói mộng, vô sự mà sinh sự. Bỗng nhiên có người nhẫn giỏi chẳng cấm ra, hét tan đại chúng kéo xuống giường thiền đánh đau một cũng quái lạ người khác không được. Tuy như thế, cũng phải thật đến điền địa mới được. Như nay lại có người như thế chăng? Sơn Tăng cam ăn một trận. Lại phải cùng người này gặp nhau. Có chăng? Có chăng?. Như không có Sơn Tăng thì đêm nay thất lợi. Sư dạy chúng rằng: Tâm ấn Tổ sư dứt ngay đương cơ. Lẫm liệt như kiếm nhọn sáng như mặt trời. Đương đài sáng rỡ dầu ông hiện tiền, lại có lẫn nhau phát triển bình đẳng chăng? Tăng hỏi: Thế Tôn từ lâu đã im tiếng cần thiết này, cho đến cuối cùng vì sao riêng mời Ẩm Quang (Ca-diếp) mà ngầm truyền pháp nhãn. Sư nói: Mang lụy Sơn Tăng thưa rằng: Bầu đắng cả rễ cũng đắng, dưa ngọt cả hoa cũng ngọt. Sư nói rõ ràng. Thưa rằng cũng là rùa đen ăn rau sống. Sư nói: Giữ tánh. Lại nói: Muốn biết nghóa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên. Thời tiết nếu đến thì lý nó tự lộ ra. Nếu như thời tiết chưa đến, lý địa chưa sáng. Lại chính nghiệp thức mịt mờ, không có gốc mà nương. Dám hỏi các ông tức nay là (lúc nào) gì có phải là thời tiết hoàng hôn chăng? Có phải là thời tiết tiểu tham không? Có phải là thời tiết ngồi đứng nghiễm nhiên không? Có phải là lúc nói Thiền nói Đạo không? Có phải là thời tiết vạn tượng giao tham không? Có phải là thời tiết tâm cảnh nhất như không? Nếu cùng đó thẳng mực (thống lung?), lại mừng mất giao thiệp. Đêm nay các ông ở đây mà quyền lập chút thời gian. Sơn Tăng không tiếc lời nói bình luận xác thật một đoạn thời tiếc. Chỉ như các người ở đây nghe Sơn Tăng trống hai miếng dùng làm thời tiết chính đọa vào thường tình. Phải biết Sơn Tăng không từng nói một chữ, các người chẳng từng nghe một lời. Các người cùng Sơn Tăng đều có một việc lớn. Huy đằng (khởi dậy?) cổ kim, dứt hết tri kiến, sạch làu làu, sáng rực rỡ, đều chẳng biết nhau, đều chẳng đến với nhau. Thấy tiếng thấu sắc vượt Phật vượt Tổ. Nếu hay lui bước mà đến. Thoát khỏi tình trần ý tưởng, ghi nhớ phân biệt lời lẽ khế cơ, nghe thấy hiểu biết phải quấy được mất ngay đây rỗng suốt, nháy mắt cùng cổ Phật liền đồng một tri kiến, đồng một nói năng, đồng một làm lụng, đồng một thể tướng. Không phải chỉ cùng các Thánh đồng, cũng cùng các đời Tông sư thiên hạ lão Hòa thượng đồng nhau. Dưới đến bốn loài sáu đường gà vịt, mối kiến đều đồng. Chẳng bị tiền trần cảm lấy, chỗ hiểu biết quấy nhiễu. Chẳng sợ sinh tử, chẳng thích Niết-bàn, rộng rãi bình thường tùy lúc mặc tình tự tại, động tịnh làm lụng đều giải thoát. Hay chuyển tất cả cảnh giới, hay khiến tất cả nói năng. Chẳng phải chỉ các người phần thương như thế. Đến như người xưa đều từ thời tiết này mà vào. Há chẳng thấy ngài Triệu Châu ban đầu tham với ngài Nam Tuyền ngộ “Tâm bình thường là đạo” rồi, lại hỏi ý Tổ sư từ Tây Trúc đến, thì liền đáp rằng: “Cây bách trước sân”, cho đến Trấn châu đưa ra đại La bồ. Ta ở Thanh châu làm cái áo nặng bảy cân. Chẳng phải chỉ có Triệu Châu mà Đức Sơn được thời tiết này vào cửa liền đánh, Lâm Tế được thời tiết này vào cửa liền hét, Mục Châu được thời tiết này liền nói hiện thành công án, tha cho ông ba mươi gậy. Trên đầu ngón tay chai dùng thời tiết. Chỗ xuy bố mao của ngài Ô Sào thổi mà lấy thời tiết này. Nói tóm lại, các Tông sư xưa nay đều dùng thời tiết này. Chỉ như ngài Pháp Nhãn từng nêu tham khế hợp với người rằng: Tâm Trúc Só Đại Tiên bèn nói: Lời này không lỗi. Đến ngay khoảng giữa cũng chỉ là đúng thời đúng tiết mà nói. Đến cuối cùng cẩn bạch người tham huyền, chớ để ngày tháng luống qua. Bèn bảo rằng: Dừng dừng, ân lớn khó đáp đền. Dẫu có nát thịt, tan xương cũng không đền đáp được. Há chẳng phải là biết rõ thời tiết mới nói thế ư? Như nay nếu chưa có chỗ phát minh thì chỉ luống qua ngày tháng. Nếu tham được rõ ràng triệt để, thì trong suốt mười hai giờ quản lấy, không mảy may để luống qua. Không phải chỉ trong mười hai giờ mà dưới đến trăm ngàn kiếp hết đời vị lai đều chẳng luống qua chỉ như Sơn Tăng nói: Thời tiết ấy lại được hiểu chắc chưa. Lại nói: Mộng cũng chưa từng mộng thấy có. Lại hỏi: Lại có chỗ vì người chăng. Nếu khéo tham rõ, chỉ một câu ấy cũng chẳng hư thiết (dối lập). Có bài Sơn Tụng kể giống đại chúng rằng: Thu sâu khí trời sáng Vạn tượng đều chìm chìm Trăng sáng bờ ao vắng Gió mát tòng cỏ rậm, Đầu đầu vật chẳng ngoài Mỗi mỗi tâm xưa nay Ngay đây liền nêu lấy Chớ nên lại trầm ngâm. Sư dạy chúng rằng: Dưới hiên có đường, ngay đây bằng phẳng, quen chiến (tranh cải) tác gia liền thỉnh một dao vào thẳng. Có chăng có chăng?. Im lặng một lúc, Sư lại nói: Các người đã cất dấu mũi nhọn, Sơn Tăng chẳng khỏi làm một trường diễn kịch. Chưa trước đó là đầu thứ hai, đang lúc như thế là đầu thứ ba. Chỉ là đuổi theo sóng. Như nay lại vào chỗ đuổi theo mà cùng các người thương lượng có che đậy được chăng? Lại có một pháp cùng với người làm bạn lữ được chăng? Do đó nói: Nó hay thành tựu tất cả pháp, hay sinh ra tất cả pháp, tất cả chư Phật đều nương nó mà ra đời, tất cả hữu tình nhân nó mà kiến lập, sáu đường bốn loài đều lấy nó làm gốc. Chỉ như các người đứng tại tòa này đều ở trong sánh sáng của nó mà hiển hiện, có thấy được nó chăng? Nếu thấy được thì ngay đây không mảy may cách ngăn, không một mảy may đạo lý lại có gì thấy nghe hiểu biết làm duyên là đúng, chỉ sợ tự mình không thể phản chiếu, do đó mà sinh nghi. Tầm thường chẳng phải là hướng các người mà nói, ngàn lời vạn lời chỉ biết lấy một lời, ngàn câu vạn câu chỉ biết lấy một câu, ngàn pháp vạn pháp chỉ biết lấy một pháp. Biết được một vạn Sư rồi thì thấu được một không cách trở, ngay đây thoát khỏi tình trần ý tưởng, bỏ nói thân tâm không mệt nhọc. Ở mọi lúc gặp trà thì uống trà gặp cơm thì ăn cơm. Trời chỉ gọi là trời, đất chỉ gọi là đất, cột trụ chỉ gọi là cột trụ, lồng đèn chỉ gọi là lồng đèn. Tất cả cũng thế. Trong mười hai giờ chỉ cái thế đó luôn bình thường không một tinh sự. Tuy như thế, nếu có cái vô sự ở trong lòng thì cũng không được tự tại, có cái hữu sự cũng không được tự tại. Ngay đây thì hữu sự cũng không, mà vô sự cũng không, chẳng hai cũng không, cũng còn ở nữa đường. Nếu là nhờ nghe nói là người vào xương vào tủy tin kịp nghe nói năng gì đều giống như chén nóng kêu ra tiếng. Trong lúc tầm thường nói chữ Thiên liền đến bờ rửa tai, hãy coi như thường chẳng dính vào đâu, lại ngẫu nhiên nói lên chữ Phật cũng phãi sức miệng ba lần thà thân đang sống vào địa ngục, suốt kiếp chịu trầm luân bị nấu chết trong vạc dầu lò lửa đỏ, trọn không đem Phật pháp làm chỗ hiểu biết cũng trọn không khởi thấy Phật pháp. Thấy Phật còn chẳng khởi, huống gì khởi tình tưởng thế gian, phân biệt vọng duyên các nghiệp. Như thế để thấy được người này, làm thế nào mà gần gũi được người này. Ai có tuệ nhãn, thử ra nói xem! Nếu không thì đợi ba mươi hai năm sau, Sơn Tăng đổi xương rồi sẽ riêng cùng các ông thông tin tức. Sư dạy chúng rằng: Đại đạo xưa nay không trước sau, tâm định ghé vào thì đã sai lầm sắc nha trác sóc hay gầm hét tức là lông vàng sư tử con. Lại có gì bước ra thấy nhau. Tăng hỏi như thế nào là câu Định càn khôn. Sư nói: Chỉ có ta là tôn quý, rằng xoay mình đương vũ trụ đi. Sư nói đáng cho ba mươi gậy. Tăng lại nói: Xin mời. Sư nói: Cho ông to gan. Hỏi: Là nói gì. Sư nói: Đợi mưa dầm liền đánh. Bèn nói: Trẫm triệu (điềm) chưa phân đã thành câu nói khế cơ lời nói vừa lập thì đã trái nhau. Tuy nhiên nghóa môn thứ hai lại chẳng phải là phương pháp giáo hóa. Đại chúng, có biết việc này chăng? Quét sạch ngàn sai, chẳng lập một hạt bụi. Vi vi hoa hoa, bao trùm trời đất, ứng tiếng ứng sắc, chẳng cùng ngàn Thánh đồng đường chẳng cùng vạn pháp làm bạn, cuốn mở tự tại không câu chấp. Nếu cũng thấy được thì có thể hướng trên đầu trăm cỏ mà dọc ngang, trong khối sắc thanh mà ngồi nằm. Lời lẽ đó không hiểu kịp, so sánh không thể được, hiểu biết chẳng thể hiểu biết. Chẳng phải tâm chẳng phải Phật, chẳng phải vật, chẳng phải Thánh, chẳng phải phàm, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải phải, chẳng phải quấy, chẳng phải được, chẳng phải mất. Làm sao cũng chẳng được, không làm sao cũng chẳng được. Đến chỗ ấy làm thế nào nêu gọi, như thế nào mà đề ra, Sơn Tăng ngay đây miệng giống như biển muối, không lý có thể bày, không lời có thể nói. Tuy như thế, quan chẳng cho kim tư thông xa mã, bỏ một tuyến đường, có cái thương lượng. Sư bèn đưa nắm tay lên nói rằng: Có thấy không? Chư Phật do đây mà ra đời, Tổ sư do đây mà từ Tây Trúc đến, các đời Tông sư do đây mà tiếp vật lợi sinh, thiên hạ Lão sư do đây mà kềm búa nạp tử. Đó là nắm định. Càn khôn vuốt sắc, mặt trời mặt trăng không ánh sáng. Hết cả đại địa người đều tan thân mất mạng, đó là phóng hạnh. Hang núi sinh ánh sáng, sum-la hiển sáng. Tùy dài tùy ngắn theo có, theo không, nơi nơi đều chân, chỗ chỗ đều hiện bày. Lại nói: Cầm gậy tốt hay phóng hạnh tốt. Ba mươi năm sau gặp người chẳng được nêu lầm. Sư dạy chúng rằng: Thuyền nhỏ một chèo dạo Ngũ hồ, đầu lưỡi câu lại được cá tốt. Như nay bốn điểm trong như gương. Lại có cá vàng trên lưỡi câu chăng. Người phụ mạng ra khơi chúng gặp nhau. Tăng hỏi Phật quá khứ cũng thế, Phật hiện tại cũng thế, Phật vị lai cũng thế, chưa biết Hòa thượng thế nào? Sư nói (cũng) thế là cái gì. Tăng nói chính là như thế. Sư nói tôm nhảy chẳng ra khỏi đấu. Lại nói: Thỉnh Hòa thượng nói câu ra khỏi đấu. Sư nói thuyền nhỏ đã qua động Đình Hồ. Bèn nói: Động thì ảnh hiện, giác thì băng sinh. Chẳng động chẳng giác thì ở trong nước chết mà bình trầm. Đã động đã giác thì chưa khỏi giáo nhọn phạm tay. Đến chỗ đến chỗ ấy thì làm sao mà nêu nói, lại làm sao vì người tuy thế, tất cả pháp không mất. Người xưa nói một mảnh ruộng đất đó giao lại nhiều lúc, ta đứng đây đợi ông dắt đi, lại biết lạc vào chỗ nào chăng? Oai âm trở về trước không kiếp bến bờ kia, một mảnh ruộng đất kia sừng sửng bất động, cho đến bốn loài mênh mong vạn tượng lăng xăng, thế giới đổi dời, sống chết biến hóa, một mảnh ruộng đất đó sừng sửng bất động. Cho đến tam tai kiếp hoại, gió tỳ-lam nổi lên thổi tan đại địa cũng như bụi nhỏ thì một mảnh ruộng đất đó, cũng sừng sửng bất động. Chư Phật ra đời, Tổ sư Tây trúc đến chính là phát minh một mảnh ruộng đất đó. Từ trên các Tông sư, các lão Túc thiên hạ ngàn phương trăm kế lập bày phương tiện đều hết sức giữ gìn mảnh ruộng đất ấy. Tuy thế, trọn chưa có người hiểu đương đầu nói ra lại kéo dắt được chăng? Tám mặt bằng phẳng, bốn phương thanh tú. Vạn pháp chẳng thể bao trùm, ngàn Thánh chẳng dám ở trước, nếu dắt được thì một xong, tất cả đều xong, một thành tất cả thành, một thấy tất cả thấy, một được tất cả được. Do đó nói: Một trần vừa cất lên thì toàn thâu cả đại địa. Một lông sư tử thì trăm ức lông cùng lúc hiện ra. Chỉ vì vọng tình chấp trước nên không có lúc thấu thoát cam ở trong phàm tình mà chẳng cắt đứt. Nếu ngay đây buông được, không một pháp nên tình, không một vật nương tâm, mênh mông tự nhiên không trói buộc như trên nước mà xét giống hồ lô, đụng thì chuyển, đẩy thì động kéo ra chẳng trở về, nắm lên chẳng được, động tịnh nói nín bao trùm trời đất, người sáng mắt mất lổ cối, tức giận là trên, theo vật là dưới. Nếu luận chiến thì cái sức ở chỗ chuyển. Lại có gì là cao thấp có thể nghi, phải quấy có thể sợ. Trên cửa gọi người lửa gấp, há chẳng phải là lão sáng suốt hiểu biết. Trong chúng lại có người như thế chăng? Hãy bước ra làm chứng cứ, khiến người nhớ mãi Lý tướng quân, vạn dặm bên trời một con chim ngạc bay. Sư dạy chúng rằng: Đạo không nơi chốn, sáng là do người. Pháp lìa thấy nghe đoạn dứt là bởi trí. Nếu hay bỏ nhanh các vọng tưởng chấp trước từ xưa, ở một niệm mà đốn ngộ tự tâm đốn mình tự tánh (ngộ nhanh tâm mình, sáng nhanh tánh mình), chẳng nhiễm các trần, chẳng rơi vào có không. Tự nhiên pháp pháp thành thấy. Tuy nhiên việc này chẳng thể vội lãnh hội. Cần phải phát chí khẳng khái đặc đạt của đại trượng phu về, chẳng đoái hoài nguy vong chẳng câu chấp đắc thất, giữ còn cái dài lâu thân tâm sắt đá, gặp cảnh gặp duyên chẳng đổi chẳng dời. Luôn luôn để mắt thể cứu, chẳng luận tháng năm lấy ngộ làm hạn kỳ. Dưới cửa Tổ Sư chẳng so sánh giáo gia, chỉ cần dứt ngang căn nguyên ở một lời nói mà hiểu lấy. Cùng các Thánh đồng thể đồng dụng đại giải thoát, mặc tình chỗ ra làm đều thấy tánh. Cho đến tạp loạn cuồng huệ suy lường phân biệt, có một mảy may nào chém chẳng đứt thì không có kỳ hạn bước vào. Trong giáo chuông nói pháp ấy chẳng phải do suy lường phân biệt mà hiểu được. Lại nói gì lấy tâm có suy nghó mà suy lường cảnh giới Viên giác của Như Lai thì như lấy lửa đom đóm mà muốn thiêu đốt núi Tu-di trọn không thể được. Tổ sư nói chỉ hết phàm tình không còn Thánh lượng. Phàm tình hết chỗ, Thánh lượng dứt thấy, chỉ cần mau hết vọng duyên, không nghó không làm buông bỏ giáo trống vắng. Ngàn Thánh vạn Thánh chưa có ai chẳng từ cửa này mà vào. Chỉ ở chí thành bền chặt nỗ lực hướng đến trước. Chỉ có tâm ưng chịu ắt chẳng hiềm gì. Trân trọng! <篇> <卷>QUYỂN 9 TIỂU THAM 2 Ở chùa Giáp sơn, Sư vào viện Tiểu tham. Sư nói: Thâu nhiếp ánh sáng sắt thái tin vào Thiên chân, sự sự viên thành vật vật mới mẻ. Trong đã vô tâm ngoài thì vô tướng. Lại ở chỗ nào mà tìm bến thông. Lại có thông suốt được cửa Triệu Châu chăng? Thử ra khỏi các tướng. Thấy, hỏi nương sư có lời thấu được cửa Triệu Châu. Thế nào là cửa Giáp sơn? Sư nói: Lui thân ba trăm bước. Lại nói: Thế thì chín trời mây tónh hạc bay cao. Sư nói: Há đâu có dính đáng đến việc của Xà-lê. Lại nói: Cùng nêu chứng cứ cũng không trở ngại gì. Sư nói: Giả điếc giả câm. Sư bèn nói: Đầu trâu mất, đầu ngựa về, toàn bày chiếu dụng, kim ô gấp, ngọc thố nhanh, lộ một chút quyền hành, thấu được đến đáy, nghe nói đó giống như vịt nghe sấm, bởi chưa hiểu Sơn Tăng đêm nay hướng trước mặt tác gia chẳng tiếc lời nói, phóng hạnh đi! Chỉ nên trên không nương kính, dưới dứt bỏ mình, ngoài chẳng thấy đất đai núi sông, trong chẳng lập nghe thấy hiểu biết. Ngay đây mà bỏ hết tình thức, một niệm chẳng sinh, chứng bổn địa phong quang, thấy mặt mũi xưa nay. Sau đó núi là núi, nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục. Tuy nhiên chớ nhận lầm Đinh bàn tinh. Lại phải biết có gỡ niệm cởi trói buộc hướng thượng cơ quan mới được, lại nói gì là việc hướng thượng. Cung điệu đã treo khói lang dứt, vạn dặm ca dao mừng thái bình. Kiết hạ Tiểu tham. Sư nói: Đại chúng, thấy thành công án đụng chỗ viên thành. Tuy nhiên già bệnh luông tuồng còn có thể cửa cờ mở trận. Lại có một ngựa một thương đánh giặc lâu ở sa trường chăng? Ra đây cùng nêu chứng cứ. Tăng hỏi: Chín tuần cấm túc ba tháng hộ sinh. Chỉ như mèo hoa lấy đứt thân phần của Nam Tuyền làm hai đoạn, rắn rít vừa gặp mắt đỏ từ trên đất, một nhát cuốc, không biết là trì hay là phạm. Sư nói: Phá giới cũng chẳng biết. Lại nói: Đại dụng chẳng câu chấp, khuôn phép xưa nay. Sư nói: Chia phần thân làm hai đoạn y như cũ. Lại nói: Nếu thế, đũa ngọc chống mở mắt cọp, roi vàng đánh gãy tay Na Tra. Sư nói: Ông hướng vào chỗ nào mà thấy Nam Tuyền qui tông. Lại nói: Chỉ ở trước mắt. Sư nói: Lời lập lại không nên nuốt, chưa xét trong đây lấy gì làm thí nghiệm. Hỏi: Tây Thiên lấy người sáp làm thí nghiệm. Sư nói: Lấy lông mày làm nghiệm. Hỏi: Lại cho học nhân ra được chăng? Sư nói: Lại nháy mắt nhìn. Lại nói: Chỉ sợ nhìn thấy không được. Sư nói: Ngắn thì ngắn dài thì dài, có gì xem chẳng được. Sư bèn nói: Toàn đề nêu lẽ chém đinh chặt sắt, quở Phật mắng Tổ đại dụng đại cơ, cũng chưa xứng với bổn phận sự của nạp Tăng, huống là lập hỏi đáp, lập khách lập chủ, dính với nói năng, nói huyền nói diệu, vô sự mà sinh sự, đất bằng mà nổi sóng. Tuy thế, sự không một hướng, lý ngoài nhiều đường. Tuy xem gió xoay buồm nhưng không khỏi cùng trường đã lệnh. Há chẳng thấy người xưa nói: Muốn biết nghóa Phật tánh phải xem thời tiết nhân duyên. Thời tiết nếu đến thì Lý của nó rõ ràng, chỉ như đêm nay cùng sáng mai, chính là hai ngàn năm trước ông già Thích-ca lập lên khuôn phép, thời tiết chín tuần cấm túc, ba tháng hộ sinh tòng lâm thiên hạ thảy đều y theo. Đã là thời tiết này đến nay lại có biết được lý này chăng? Nếu biết được lý này thì chỗ làm chủ, gặp duyên tức tông, trong suốt mười hai giờ không trong, không ngoài, không được không mất. Toàn thể như thế, cũng không sinh để hộ cũng không người sáp để giữ. Nếu hoặc chưa thế, thì phải thương ngỗng mà hộ vệ tuyết, khiến người sáp đông lại. Sư lại nói: Đại chúng, ông già Thích-ca nói: Lấy Đại viên giác làm già-lam của ta, thân tâm an cư bình đẳng tánh trí. Các người đã muốn an cư, lại biết được bình đẳng tánh trí chăng? Nếu biết được thì người người đầy đủ, cái cái viên thành. Cho đến động tịnh thi vi đều ở trong đại Già-lam, cùng các Thánh khác dắt tay đồng đi, cùng các Thánh khác đồng làm Phật. Sư lại làm gì biết được. Bỏ đi đòn tay ba xuống đơn bảy thước trước mỗi người đều phải chiếu quản đứng lâu. Kiết chế Tiểu tham. Tăng hỏi: Hộ sinh cần phải giết, giết hết mới an cư, chưa biết giết cái gì? Sư nói: Lớn có người đang nghi. Lại nói: Học nhân đến chỗ ấy mà được bước bước dứt hành tung (dấu chân), khi ấy thế nào? Sư nói: Chưa có kiếm báu Kim cang vương ở đấy. Chém đinh chặt sắt bổn phận của Tông sư, trẫm triệu chưa phân thỉnh Sư nói mau. Sư nói líu lo đầu lưỡi ba ngàn dặm. Lại nói: Ân sâu chuyển không lời, hoài bảo tự rõ ràng. Sư nói: Chớ lừa sáng. Hỏi: Một Đại tang giáo giấy lau bất tịnh, chỉ như Đức Sơn làm gì gánh bộ Sớ Sao mà đi hành cước. Sư nói: Buông bỏ đi. Châu kim cang bị bà lão hỏi một câu dù quên mũi nhọn kết lưỡi (mà cứng họng) lại như thế nào. Sư nói: Nhổ tên sau ót. Sư bèn nói dứt kia đây trộn hư không, thấu thanh sắc không mặt mũi. Trọn ngày ăn cơm mà không từng nhai một hạt, trọn ngày mặc áo mà chưa từng mang một sợi tơ. Hết thảy hư không Hoa tạng sát hải bày ra dưới gió, chư Thánh quá hiện vị lai quay lui ngàn dặm. Cất một bước vượt bất khả thuyết thế giới, hướng về Hương thủy hải bên nào cũng có chỗ đi, nắm một hạt bụi trộn lẫn tất cả vô lượng vô số mười phương trên dưới, tất cả chư Phật, Tổ sư bảy đại triệt ngộ cũng còn đất khác. Lại nói người này hướngvào chỗ nào mà an cư, hướng vào đâu mà cấm túc. Nếu biết chỗ người này rơi vào mới biết phong quang bổn địa, mới thấy bản lai diện mục, liền có thể nhiếp thuận nghịch trong một trần, đi đứng khuôn phép, hiện oai nghỉ ở một niệm, chẳng vượt thói thường, đến như dùng Đại viên giác làm Già-lam ta, cũng là một đoạn nhỏ ở đấy. Nếu có thể như thế mà thấy, như thế mà dụng, như thế mà tin, như thế mà thấu, quản lấy vô biên sát hải, mình người chẳng cách đầu lông, mười đời cổ kim trước sau chẳng thay đổi đương niệm. Chín tuần cấm túc, ba tháng hộ sinh ở trong một niệm bước một hạt bụi, một hạt cải, thấy thành thọ dụng. Lại nói: Người này rốt ráo ở chỗ nào, có hiểu rõ chăng? Mặc áo tơi đứng bên ngoài ngàn núi, dẫn nước tưới hoang trước năm lão. Giải chế Tiểu tham. Sư nói: Thâu nhân kết quả, cẩn thận ở cuối hộ ban đầu. Một đoạn nhân duyên lúc này đủ hết. Thánh hiền hang ổ, sinh tử gốc rễ đều một chùy đập nát, một dao cắt ngang. Nếu là thông phương tác giả. Nêu được biết về, kẻ lậu tấn sơ cơ như thế làm sao khế ngộ. Chỉ như sinh Phật chưa phân, từ kiếp không trở về trước Oai Âm Vương bên kia lại có kết chế, giải chế không? Tuy nhiên đến chỗ ấy, dù có ngàn Thánh ra đời cũng phải mắt trợn, miệng hét. Bên đó tạm gác lại. Chỉ như nay đèn đuốc cùng sáng, ngồi đứng nghiểm nhiên. Cao là trời mà dày là đất, núi là núi sông là sông, có là có không là không, dài là dài ngắn là ngắn. Chính lúc ấy cùng với Oai Âm Vương trở về trước, kiếp không bờ kia là đồng hay khác. Nếu hướng vào chỗ đó mà lỗi lạc rõ ràng, trước mắt không pháp, trong bụng không tâm. Trên chẳng thấy các Thánh, dưới chẳng thấy phàm phu, ngoài chẳng thấy tất cả cảnh giới, trong chẳng thấy mắt tai mũi lưỡi thân ý. Liền có thể thông đồng tất cả thì nói gì là kết chế giải chế. Một chùy đập nát hang ổ Thánh hiền, một dao cắt ngang gốc rễ sinh tử. Giả sử Lâm Tế, Đức Sơn, Văn-thù, Phổ Hiền, cho đến vô lượng, vô biên đều đại giải thoát, có oai thần lớn, vô số hà sa mênh mông đất đai đến nay chẳng tiêu một nắm, lại bằng vào cái gì, nếu không phải là ở Lam điền bắn cọp đá, biết bao lầm giết Lý tướng quân. Trong quận, đội chúng bước ra thỉnh Tiểu tham. Sư nói: Lan thành đạo hữu tụ tập như mây, Tuyển Phật trường mở ra Bất Nhị môn. Sáng chói núi biếc không lưỡi, Tiểu tham hội tốt bốn phương nghe. Người nghe sao bằng thấy đáy, thấy đáy sao bằng đánh gõ đáp lời. Lại cơ tác gia thiền khách chăng? Tăng hỏi: Ba đời chư Phật chỉ nói tự biết, các đời Tổ sư toàn đề chẳng khởi, giáo pháp một đời chú giải chẳng nổi, chưa biết Hòa thượng như thế nào? Sư nói: Giáp Sơn đến chỗ ấy miệng như cây biển bách bắt lão già ấy lại. Sư nói: Hãy mừng không dính dáng. Lại nói: Đó tức là lỗ mũi người thiên hạ bị Hòa thượng xỏ rồi. Sư nói: Ông lại nói lỗ mũi Giáp Sơn ở đâu? Tăng liền hét. Sư nói: Cũng phải xỏ chân. Lại nói: Tông sư mắt sáng thiên nhiên có ở đấy. Sư nói: Cũng là rơi hai, rơi ba. Sư bèn nói: Mở lò rèn Phật tổ hướng thượng kềm búa, nghó bàn chẳng đến thì ngàn dặm vạn dặm. Nói được mũi nhọn này nêu ra thì quét sạch chức vị quan trọng. Đây cũng là nói Hóa môn. Nếu xác thật mà luận thì Sơn Tăng có miệng mà không có chỗ nói, các người có tai mà không có chỗ nghe. Cho đến mặt trời mặt trăng chưa đủ là sáng, hư không chưa đủ rộng, trời đất chưa đủ lớn, vạn tượng chưa đủ đông. Đến chỗ ấy một xoa một ấn, mộ đẩy, một đánh phải thấy rõ bổn phận sự. Lại hỏi: Như thế nào là bổn phận sự, bọt nước biển trong đại thiên sa giới, tất cả Thánh hiền như điện chớp. Sư dạy chúng rằng: Nêu chẳng đoái hoài liền sai, định suy lường thì kiếp nào ngộ. Lại nêu cái gì. Có nhiều đoái hoài hiểu biết là gỗ vuông ráp lỗ tròn, huống lại dính dáng đến suy lường tính kể lý lẽ, nên không nên dính dáng. Trước xác thật mà luận thì có việc gì. Ngay đây không một mảy may việc, cũng không một thấy nghe huyền diệu đạo lý được mất. Đến chỗ ấy liền là ngàn Thánh sinh ra, muốn nêu cũng không có chỗ nói muốn tác dụng cũng không có chỗ chuyển động. Do đó ngài Vân Môn. Nói: với ông rằng ngay đây vô sự, ngay cả vô sự cũng chôn mất. Lại nói gì chỗ chôn. Rõ ràng có mấy người đến được chỗ này. Đây là cảnh giới Đại nhân của Văn-thù, Phổ Hiền, há là dính dáng đến lý lẽ tầm thường tính kể suy lường so sánh được mất. Có biết rõ chăng? Cần phải dứt tình thức, dứt huyền diệu ngàn Thánh chỉ nói tự biết, cũng không có chiếu dụng, sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Ngài Nham Đầu nói: Chỉ con đường trước mắt nhanh như đánh đá lửa. Đây là hành lý của người hướng thượng. Nếu nhìn chẳng thấy thì rất chẳng được nghi, như không có việc gì. Tổ Đạt-ma trải qua sáu trăm năm từ Tây trúc đến cũng chẳng truyền đến ngày nay là việc gì. Đến nay thiên hạ các cõi trông nhau, mỗi mỗi Chân thiện tri thức ngồi tòa sư tử, người người đều là thầy trời người, nanh như kiếm bén, miệng như chậu máu ngoài ra có lỗ cối, có nương cậy, da dán xương dựng có được mất, có trao truyền, hết cả đều đánh vào chỗ đống đất đi. Nếu là các ngài Thạch Đầu, Mã Sư, Bách Trượng, Hoàng Bá, Lâm Tế, Vân Môn, Huyền Sa, Nham Đầu, Pháp Nhãn, Qui Ngưỡng, Tào Động các dòng này đều là hướng thượng Tông sư, động tịnh ra làm đều là hành lý trong đây. Ví như sư tử bắt voi đều hết sức, đến như bắt thỏ cũng hết sức. Như Tăng hỏi Vân Cư Hoằng Giác: Sư tử bắt voi bắt thỏ cũng phải dùng hết sức chưa biết hết sức gì? Vân Cư nói: Sức chẳng dối. Cần phải mỗi mỗi cùng nó bổn phận thảo liệu. Lại cái gì là bổn phận thảo liệu. Há chẳng thấy Trường Sa nói: Nếu ta một mực nêu cao Tông giáo thì trước pháp đường phải cỏ sâu một trượng. Sự chẳng được đã hướng ông nói: Hết cả đại địa là ánh sáng Bát-nhã. Khi ánh sáng chưa phát thì không Phật không chúng sinh, tin tức hướng chỗ nào mà đến được. Nói chuyện gì sớm là cát đằng mà thôi. Do đó tầm thường hướng về huynh đệ nói phải là đánh đổ tinh trần được mất, tính toán so sánh sạch hết. Bỗng đất một vùng toát mồ hôi. Tự nhiên sống hoạt bát, người thiên hạ không may mắn có oai phong như thế, có tự tại như thế, nếu theo người mà chuyển gót, tìm đàm giải của người mà ăn thì không dính dáng. Lại như ngài Ngưỡng Sơn hỏi bạn đồng tham rằng: Gần đây chỗ thấy của ông thế nào? Bạn đáp: Thật không một pháp đương tình. Sơn nói: Cái hiểu của Sư đệ vẫn còn ở cảnh. Hỏi: Vì sao? Ngưỡng Sơn đáp: Há ông không biết một pháp có thể tình thì ngay đây mà được, không một pháp có thể đương tình. Còn gặp Ngưỡng Sơn kiểm điểm. Đến chỗ ấy không chỗ biết không một pháp không, không một pháp cũng phải là người ấy mới được. Sở dó gọi là người vô sự mới nói xưa nay vô sự. Đã xưa nay vô sự thì chỉ như vạn cảnh trước mắt sừng sững mặc kệ nó, sáu phàm bốn Thánh ở đâu mà đến, phải ngay đây mà vượt qua được mới được. Lại thế nào là vượt qua được? Chớ lạ từ trước nhiều ý khí, người khác từng đạp trên đầu cửa ải. Sư dạy chúng rằng: Đại phàm học đạo, cần phải dùng việc làm mới được. Chớ chỉ rãnh rang. Chỉ trong suốt mười hai giờ như thiếu nợ người ta hai, ba trăm vạn xâu, lo sợ trả cho người không hết. Như thế mà giữ lòng thành thật chẳng lo không đến. Thế nên người xưa nói: Việc lớn chưa biện xong thì như đang có tang cha mẹ. Lại có một ví dụ. Người học đạo như gà ấp trứng, cần phải hơi ấm liên tục thì mới nở được. Nếu gián đoạn nửa chừng, hơi ấm không thì dù có ấp mười năm cũng không mở. Ngài Long Nha cũng nói: Học đạo như kéo lửa, thấy khói chưa ngưng được, phải đợi kim tinh hiện đốt cháy mới đến đầu mới được, huống là việc lớn này. Ba đời chư Phật do đây mà ra đời, tự mình siêu thoát sinh tử, há có thể lần hồi như còn hoặc mất. Xin hãy nỗ lực tiến bước, lấy ngộ làm qui tắc, đều hy vọng giữ lấy niềm tin. Trân trọng! Sư dạy chúng rằng: Đầy đủ pháp phàm phu, phàm phu chẳng biết, đầy đủ pháp Thánh nhân, Thánh nhân chẳng hiểu. Thánh nhân nếu hiểu thì tức là phàm phu, phàm phu nếu biết thì tức là Thánh nhân. Việc này một lời đều đúng (lưỡng đáng). Lại hiểu rõ chăng? Phải biết Thánh nhân là phàm phu, phàm phu là Thánh nhân. Dài thì pháp thân dài, ngắn thì pháp thân ngắn. Lớn nhỏ xanh vàng tất cả pháp đều như như. Đều là cửa Đại giải thoát mà không gì khác. Chỉ cần tình quên ý dứt, một niệm chánh chân, tùy chỗ gặp duyên đều là diệu dụng. Do đó người xưa nói: Khắp nơi chân thật. Khắp nơi chân thật thì đâu đâu dứt là người xưa nay. Chân thật khi nói thì tiếng chẳng thấy, chánh thể rỡ ràng mất thân. Đến như thiên đường địa ngục cây cỏ, người vật, sáu loại, bốn loài, lớn nhỏ, xa gần, không thứ nào mà chẳng chân thật. Chỉ vì chưa suốt căn nguyên, thường thường sinh tâm động niệm đều ở trần lao, lưu chuyển trong nghiệp thức, chưa từng hồi quang phản chiếu. Do đó uổng chịu luân hồi, chẳng được thọ dụng. Nếu hay phát tâm khẳng khái, mở chí đặc đạt, mau dứt các duyên. Ngay đây hiểu được triệt để rõ ràng, tâm địa sáng rỡ. Có thể nói: Đi cũng thiền mà ngồi cũng thiền. Nói nín, động tịnh, đều là chánh thể. Thế nên ngài Vân Môn nói: Hòa thượng con chớ vọng tưởng, núi là núi, sông là sông, Tăng là Tăng, tục là tục. Lại nói: Thấy gậy chỉ gọi là gậy thấy nhà chỉ gọi là nhà. Gọi đó là thấy thể toàn chân. Có một loại người bỏ một bên lấy một bên chỗ thấy khắp không chẳng thể thật. Chính do ôm hoài được mất mà bị vật chuyển không được tự do. Xem người Thượng cổ được Đại thọ dụng rủ lòng từ lợi vật, toàn thân gánh vác, hoặc ra hoặc vào hoặc ẩn hoặc hiện, thành thuận thành nghịch, mở lập Hóa môn chỉ bày con đường tắt, đều là dạy người nghiên cứu bản minh Tông, xa lìa các chấp trước. Há chẳng thấy Lăng Đạo Giả tham vấn ngài Tuyết Phong Linh Vân Huyền Sa qua lại mười lăm năm ngồi rách bảy cái bồ đoàn, niệm này ở ngay đây. Về sau, nhân lúc cuốn rèm bỗng nhiên đại ngộ mà có tụng rằng: Cũng sai lớn cũng sai lớn, Cuốn bức rèm lại thấy thiên hạ, Có người hỏi ta ý thế nào? Cầm lấy phất tử ngay miệng đánh. Đến khi Ngài ở Trường khánh thì dạy chúng rằng: Khua gõ bạn đạo cùng sánh vai qua một đời tham học, việc đã xong. Giống đây mà nêu bày. Nếu chẳng biết có, thì đâu hiểu được lời nói như thế. Có thể nói từ trong lòng mình tuôn ra bao trùm cả trời đất. Lại có người hỏi: Như thế nào là hợp một lời Thánh? Đáp rằng: Lớn nhỏ Trường Khánh bị Xà-lê một câu hỏi ngay đây mà miệng giống biển diêm. Nếu kheo tham rõ thì có thể một mình giữa trời tự tại dọc ngang. Này đại chúng, lại biết rơi vào chỗ nào. Nếu chưa biết thì vì các người nêu ra. Mây trắng hết chỗ là núi xanh, người đi lại ở ngoài núi xanh. Sư dạy chúng rằng: Đức Sơn Tiểu tham chẳng đáp thoại mà đáp gõ gông cùm. Triệu Châu Tiểu tham thì đáp thoại và lấy gậy dò nước. Sùng Ninh đêm nay chẳng quản đáp thoại, cũng chẳng quản chẳng đáp thoại. Ngẫu nhiên bỏ đáp thoại. Ngẫu nhiên bỏ y (áo) xuống đơn mà nhặt lấy hạt đào ngàn năm, kể lại việc ấy cho đại chúng nghe đại chúng, bèn đưa ngang gậy nói rằng: Cũng như thế mà quét sạch đầu lưỡi thiên hạ. Lại lấy gậy chống đất nói rằng: Các người cũng thế mà vào địa ngục nhanh như tên bắn. Lại hỏi: Lợi hại ở chỗ nào? Nếu chẳng ngủ đồng giường sao biết mền lủng. Chùa Đạo lâm, Giải hạ Tiểu tham. Sư dạy chúng rằng: Đêm lạnh các động lặng, sân thiền đang thanh tónh, trăng sáng in trên hư không, mây trắng mặc tình cuốn mở, rõ ràng, thích định đoạt, có tác gia không? Tăng hỏi: Một hạt bụi dấy lên gồm thâu cả đại địa, một lá rụng thiên hạ thu. Nạp Tăng phần thượng được cái gì? Sư nói: Trước chẳng thay đổi xóm làng, sau chẳng thay đổi quán trọ. Lại nói: Đạo lâm Đại Tiểu thừa lưỡi cũng chẳng biết. Sư nói: Rất kî trong hư không kêu mổ. Hỏi: Hòa thượng sao nói thế (nói gì?). Sư nói: Thế nào là chỗ ông chấp. Tăng định nói thì Sư nói: Xong. Lại nói: Hiềm nỗi ráng lặn cùng bay với chim cò đơn chiếc., nước thu cùng một màu với bầu trời xanh thẳm. Sư nói: Giặc qua rồi mới giương cung. Sư bèn nói: Bên trong vô tâm, bên ngoài vô tướng. Trên không có Phật tổ để kính, dưới không có chúng sinh để thương, tham xan ganh ghét đều trừ, Từ, Bi, Hỷ, Xả đều quét sạch hai đầu, Trung đạo chẳng chấp. Sạch làu làu dứt thừa đương, sáng rỡ rỡ không đáp lại, đập xuống chẳng đục, bốc lên chẳng trong, khơi chẳng động khua chẳng chuyển, ngay đây quét sạch vạn pháp, trên đầu hồ nguy chẳng lập, ở đây an cư tùy chỗ giải thoát. Lại nói già là trường kỳ một trăm hai mươi ngày, trung kỳ một trăm ngày, hạ kỳ tám mươi ngày. Lại công thành một câu nói gì. Chẳng thương ngỗng giữ tuyết, lại mừng người sáp băng tan. Đêm đông tiểu tham. Sư nói: Phật tổ Đại cơ, chánh nhãn của trời người, lúc cái dấu hiệu chưa phân không cho nhiều việc. Khi một khí đã phân liền có sinh trụ dị diệt, xuân hạ thu đông, nếu đuổi theo sóng các thứ lập nên, gặp đâu đều viên dung. Nếu cắt đứt các dòng, nắm dừng chức vụ quan trọng, chẳng thông phàm Thánh, nếu cũng hai đường không đính đến, dưới gót chân đại triệt đại ngộ, há chẳng phải là bổn phận của nạp Tăng? Lại nói: Không âm dương địa chỉ làm sao thông tin, đợi năm tới hết tháng ba, chớ nói đông rồi tuyết sương lạnh. Tiểu tham. Tăng hỏi: Vượn ôm con về núi xanh rồi, chim ngậm hoa rơi trước núi xanh, đây là chỗ an thân lập mạng lúc xưa của Hòa thượng, như thế nào là cảnh của Đạo lâm? Sư nói: Cửa chùa cao mở động đình quê, chân điện cấm vào hồ cát đỏ. Hỏi: Như thế nào là người trong cảnh? Sư nói: Tăng bảo mọi người là hạt châu của biển xanh. Hỏi: Đây là Đổ Công Bộ còn thế nào là Hòa thượng? Sư nói: Lại chớ loạn thống. Hỏi: Như thế nào đoạt người mà không đoạt cảnh. Sư nói: Sơn Tăng có mắt mà chẳng từng thấy. Hỏi: Như thế nào đoạt cảnh mà chẳng đoạt người. Sư nói: Xà-lê hỏi được tự nhiên thân. Hỏi: Như thế nào là người cảnh đều đoạt? Sư nói: Thâu vào. Hỏi: Như thế nào là người cảnh đều chẳng đoạt? Sư nói: Buông ra. Lại nói: Người cảnh đã được Sư chỉ bày, hướng thượng lại có việc chăng? Sư nói: Chẳng thể trên đất lại thêm bùn. Sư bèn nói: Như thế như thế như cọp đội sừng, chẳng thế chẳng thế như thỏ không sừng. Như thế lại tức chẳng như thế, ngầm cách hai lớp cửa, chẳng thế lại tức như thế là toàn đi đường hướng thượng. Câu này nếu bài ra bốn bên thì là họa là sùng. Nếu một lúc vạch đứt thì là tường là thoại. Vì sao, vì nó từ trên đến vốn không nhiều việc. Chỉ vì các cơ có lợi độn, chỗ ngộ có cạn sâu. Thế nên nhọc thay các Thánh ra đời, ứng vật hiện hình tùy cơ nói giáo. Liền có quyền có thật, có chiếu có dụng, có giết chết có cứu sống, có khách có chủ, có hỏi có đáp, vạn khác ngàn sai. Chỉ như đang lúc ấy, ở trong đó như có lão ấy, răng nanh như kiếm miệng như chậu máu một gậy đánh chẳng quay đầu, bước ra nâng lật lời khế cơ, cắt đứt cát đằng. Trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông, dài là dài, ngắn là ngắn vuông là vuông, tròn là tròn. Một mảy may chẳng được động, ngay đây mà thừa đương liền có thể một mình bước giữa trời cao, cùng các Thánh khác nắm tay đồng bước. Có thế giới Phật cùng làm chủ khách tiếp vật lợi sinh, không có thế giới Phật thì gió dùi đất dập. Đoạn dứt chức vụ quan trọng chẳng thông phàm Thánh. Tuy thế nếu trong ấy đích thực mà đến lại nói cùng người khác thương lượng, đợi Lão Tăng lên núi chặt gậy đem về. Tiểu tham. Tăng hỏi: Huyền sa chẳng qua núi, Bảo Thọ chẳng vượt sông, chưa biết ý chỉ như thế nào? Sư nói: Thẳng vượt ngoài vật. Hỏi: Tuyết Phong ba lần đến Đầu tử, chín lượt lên Động Sơn là đồng hay khác. Sư nói: Khác là một nhà xuân. Hỏi: Đó tức là sắc xuân không cao thấp, cành hoa tự ngắn dài. Sư nói: Một phen bói chọn. Sư bèn nói: Đại đạo bằng phẳng liền không trở lại. Đồng chứng thì biết, đồng nói thì hay. Nếu có thật pháp buộc chặt lấy người thì vào địa ngục nhanh như tên bắn. Do đó chư Phật ra đời, Tổ sư Tây Trúc đến, thật không có pháp cho người. Chỉ cần các người chấm dứt nghó ngơi. Nếu thật đến chỗ chấm dứt nghó ngợi thì trong suốt mười hai giờ như trời che, đất chở lại chẳng dư một mảy may, sạch làu làu rỡ rỡ, thấy rõ thành công án. Nếu lại do dự ngoái nhìn quanh, nói có nói không, hiện được luận mất, có hiểu có chẳng hiểu, có được có chẳng được, là rơi vào thứ hai, rơi vào thứ ba rồi vậy. Do đó các bậc tôn túc thượng cổ, các lão Hòa thượng trong thiên hạ dùng phất tử và gậy gộc hiện vô lượng thần thông. Kỳ thật là cùng các người cởi niệm mở trói, nhổ đinh rút chốt, khiến các ông ngay đây mà đến chỗ an nhàn, cũng không chứng, cũng không đắc, cũng không chu toàn. 73, 8 4. Nếu cũng chưa đến thì chẳng khỏi mơ hồ tất cả cảnh giới tất cả có không tất cả pháp môn chỉ sau một tiếng, khoảng một niệm, mà thoát được tình trần. Khắp nơi, khắp chốn rộng khắp sa giới, lớn nhỏ dài ngắn vuông tròn, xanh vàng đỏ trắng, toàn là bổn tâm ở chỗ thấy mà sạch làu làu, ở chỗ nghe mà thủ đoạn chu toàn khéo léo, không được mất, phải quấy, không dài ngắn tốt xấu, núi là núi sông là sông, Tăng là Tăng tục là tục, không gì sai khác. Nếu có thể thật đến chỗ ấy thì lìa trần tình, dứt câu nói khế cơ, chẳng rơi vào thắng diệu. Lại phải biết trong một hạt bụi mà trùm chứa tất cả cảnh giới, tất cả cảnh giới vào trong một hạt bụi thảy đều gồm nhiếp, ở trong một đầu lông mà hiện vô biên sát hải, được thẳng như thế, lại phải biết có thời tiết đại dụng hiện tiền mới được. Lại thế nào là thời tiết đại dụng hiện tiền? Cuối cùng nước đều phải chảy về biển, đến lúc mây định tìm về núi. Đêm đông Tiểu Tham. Có nghó ngợi, từ tâm có mà khởi. Một vòng sinh diệt thì đi vào hành đạo không gián đoạn, tu nghiệp vô lậu vạn cổ siêu nhiên, nắm một, buông một, nửa khai, nửa hợp chưa tránh khỏi trong hang ổ. Đâu chẳng biết, qua lại không gián đoạn, động tịnh nhất như. Nhét đại thiên sa giới trong một hạt bụi, chứa mười đời cổ kim trong một niệm, tới lui khởi diệt, chỗ nào an bài. Xuân hạ thu đông lý luận thế nào? Đến chỗ ấy thì sạch làu làu, sáng rỡ rỡ không thể nắm bắt được. Đông Tây, Nam Bắc chẳng phân biệt được. Nên chưa biết chỗ rơi, đã từ lâu tham vấn các bậc Tiên đức, nên vững vàng chắc chắn. Lại nói đang lúc ấy thì thế nào. Có hiểu rõ chăng? Bóng trăng tiêu tan hết, ngày sau là vẽ mây. Đêm trừ tịch có tiểu tham. Cây tàn lá rụng, ngói vỡ băng tan, ngày hết năm tàn, cửa nhà tàn phá, dùng thế đế để quán thì không xứng ý cảnh giới, lấy mắt đạo mà xem thì là tin tức tốt. Há chẳng thấy ngài Hương Nham nói: “Năm rồi nghèo chưa phải là nghèo, năm nay nghèo mới thật là nghèo. Năm rồi nghèo còn có đất cấm dùi, năm nay nghèo dùi cũng không có. Còn Cổ đức nói: Giàu sang rất dễ, nghèo hèn mới khó. Bổn phận người đánh được suốt, tin được kịp, thấy được thấu. Vật vật đầu đầu đều là diệu dụng, khắp nơi, khắp chốn đều là chân thừa. Nếu như thế mà hết thì dám bảo Lão huynh chưa thấu suốt, sao có thể nói tiệm nói đốn, nói huyền nói diệu, nói sự nói lý. Tức phải buông bỏ diệu huyền, buông bỏ lý tánh, đánh phá hướng thượng hướng hạ, dứt ngang ấn Phật cơ Tổ. Dù cho Đông Tây, Nam Bắc không phân biệt, mênh mông, mịt mù, gặp cơm thì ăn cơm không biết là cơm, gặp trà thì uống trà không biết là trà. Đến chỗ đó cũng chỉ được cái trong sáng sạch sẽ của Nạp Tăng. Thế nên ngài Động Sơn nói: Thấy Phật và Tổ là sinh oan gia mới có phần tham học, chính lúc ấy thì toàn thể hiện thành cõi Phật chẳng gồm, cõi ma chẳng quản. Lại nói hướng vào chỗ nào mà hành lý. Nếu biết được liền thành tháng cùng năm hết tiếp nối mãi không dứt tiếp nối mãi không dứt năm hết tháng cùng, đang lúc ấy thì một câu như thế làm sao nói, năm nay ngày tháng hết, năm tới ngày tháng mới. Giải hạ Tiểu tham, Sư nói: Năm tháng mùa phong túc, đạo thái thời thanh. Ca khúc thái bình vui hóa vô vi. Hộ sinh đã đủ, người sáp hết băng. Sắc thu lóng trong, gió vàng phơ phất. Chính lúc ấy nói gì Thích-ca, Di-lặc, Văn-thù, Phổ Hiền, Đức Sơn, Lâm Tế, hướng thượng hướng hạ, có sự không sự. Ngay đây một lúc quét sạch, ngay đây mà được gió khắp mặt đất, mọi người phần thượng, vách đứng ngàn nhận. Mỗi mỗi trước mặt bay sáng báu lớn. Lại chẳng rơi vào duyên xa một câu nói như thế làm sao nói. Núi Lộc đầu nghiêng ngã, măng đá ngầm mọc cành. Ở chùa Đạo Lâm, Tiểu tham. Sư nói rằng: Bốn biển cùng tham tầm, mười phương đồng hội tụ. Giữa đường gặp người đạt đạo, chẳng đem nói nín mà đáp. Lại có ai cùng đối đáp chăng? Có Tăng hỏi: Ty luân ngàn thước rủ xuống đây, một sóng vừa động vạn sóng theo. Đêm yên nước lạnh cá chẳng ăn, đầy thuyền trống không trăng sáng về. Không biết lý này như thế nào? Sư nói: Lìa móc câu ba tấc mở mắt ra. Lại nói: Ấy là từ đó chẳng về, về liền được. Ngũ Hồ khói sóng có ai tranh. Sư nói: Càn khôn đất đai một lúc thâu gồm. Lại nói: Chỉ như buông câu bốn biển chỉ câu Ninh long. Cách ngoại nói: Huyền là tìm tri thức, ai là tri thức. Sư nói: Tâm đỏ mảnh mảnh (mấy mảnh). Lại nói: Sóng lớn vọt ngàn tầm, sóng lắng chẳng lìa nước. Sư nói: Hàn Sơn gặp Thập Đắc vỗ tay cười ha ha. Hỏi: Giữa đường gặp người đạt đạo, chẳng đem nói nín mà đối đáp, đã chẳng đem nói nín mà đối đáp, thì đem gì mà đối. Sư nói: Nuốt tiếng tiêu dấu vết. Lại nói: Một lời khó mở miệng, ý ngàn xưa rõ ràng. Sư nói: Lại phải gấp nhìn. Lại nói: Câu có, câu không như dây leo leo cây, làm sao mà được siêu thoát. Sư nói: Ỷ thiên trường kiếm bức lạnh người. Lại nói: Chỉ như cây ngã thì dây leo khô. Ngài Qui Sơn vì sao cười ha ha? Sư nói: Thương nó thì chấp lấy nó. Hỏi: Bỗng bị Học nhân xô ngã giường thiền và bẻ gãy gậy thì lại được tài giỏi gì? Sư nói: Cũng là giặc qua rồi mới giương cung. Sư lại nói: Chẳng cùng một pháp đối đáp chánh thể siêu nhiên, vạn tượng chẳng thể che giấu, thần cơ ở tay. Mong Châu Đình, núi Ô Thạch ở trước Tăng đường mà thấy nhau, đã mong lỗi lầm, chẳng phải là tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật. Đã đến chỗ đó kẻ Thượng căn lợi trí gỡ ra liền đi, chẳng rơi vào lời lẽ, chẳng dính mắc cơ cảnh. Ngay đây hướng lời văn chưa bày trở về trước, một lúc quét sạch. Có thể gọi là trời che đất chở như hư không rộng rãi, như mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp nơi, không chỗ nào chẳng tròn, không nơi nào chẳng khắp. Do đó nói: Người hướng thượng thấy chỗ cầm dứt thế giới không rõ ró mảy may, không được mất phải quấy, lìa thấy nghe hiểu biết, như trong bầu Hồ công tự có trời đất mặt trời mặt trăng. Cho đến một nói một nín, một bước một nhảy, một đẩy một gõ, quét sạch ngàn nẻo sai, chẳng cho Nạp Tăng thiên hạ chánh nhãn nhìn thấy. Do đó nói phải là người ấy mới hiểu việc ấy. Chỉ như nay ngồi đứng nghiểm nhiên, đầu đầu vật vật thảy đều là chỗ toàn thể hiện thành. Lại nói: Như thế nào mà chiếu liễu. Từ ngàn xưa đầm biếc trăng trên không, ba lần lao lăn mà mới nên biết. Sư xuống tòa. Tiểu Tham. Tăng hỏi: Người xưa nói: Thích-ca, Di-lặc cũng là đày tớ người khác. Lại nói: Nó là người nào. Sư nói: Là Mạnh Bát trong thôn Tam gia. Hỏi: Đó tức trong lòng tuôn ra. Sư nói: Lại là ai. Lại nói: Chính là đầy tớ người khác. Sư nói: Quét sạch đầu lưỡi thiên hạ. Lại nói: Tình biết Lão già đã cũng gãy tên hết. Sư nói: Đúng. Hỏi: Tự hiểu mà ra. Sư nói: Xem ông chiết họp làm gì. Lại nói: Chỉ như câu cách thân lại thế nào? Sư nói: Lìa bốn câu dứt trăm lỗi. Lại nói: Xô ngã giường thiền. Sư nói: Chưa biết ông ở đâu. Sư bèn nói: Sáng là hợp hay tối là họp, tay cầm lá bùa dạ minh mặt trời Phật, mặt trăng Phật, đưa kiếm kim cương lên, có kềm búa hướng thượng. Đủ mắt tác gia thấy ngàn Thánh trói buộc người không trụ, vạn pháp trói buộc nó chẳng được. Rãnh rang chẳng đeo mang một mảy may. Quét sạch mười phương sạch làu làu. Do đó nói: Đại trượng phu cầm kiếm huệ, mũi nhọn Bát-nhã hề lửa sáng kim cương, không chỉ có thể dẹp tâm ngoại đạo mà từng sớm làm vỡ mật Thiên ma. Chỉ như khiến oai thần lẫm liệt, sương nhận đường đường, ở trên đầu chánh dùng cơ này, ở dưới chân cần phải dâng lấy (nói ra). Nếu cũng dâng được thì quét sạch Báo Hóa Phật, chẳng rơi vào xưa nay, chẳng câu chấp đắc thất. Nếu chưa dâng được thì luôn trên đầu mạn mạn (đầy tràn) dưới chân mạn mạn (đầy tràn). Lại dính với vật lưu chuyển một câu nói gì? Sóng to nhảy ngàn tầm, sóng lắng chẳng lìa nước. Sư xuống tòa. Tiểu tham. Tăng hỏi: Gió xuân mênh mông khắp trời đất, là chỗ núi trốn trong khí mây. Vô vị chân nhân chẳng thể tìm, hoa rụng lại thấy theo nước trôi. Như thế nào là Vô vị chân nhân. Sư nói: Vén lông mày lên mà nhìn. Tăng nói: Đó tức là một mình ở trên ngàn núi, toàn oai đầu trăm cỏ. Sư nói: Ta đi trong cỏ hoang, ông lại vào thôn sâu. Lại nói: Tự biết so một nửa. Sư nói: Ông có biết chăng? Tăng nói: Biết. Sư nói: Cũng so một nửa. Lại nói: Chỉ như Lâm Tế nói Vô vị chân nhân là cái cọc cức khô gì? Còn làm thế nào? Sư nói: Chưa được một nửa hơi thở của nạp Tăng. Lại nói: Vì sao như thế. Sư nói: Chỉ vì có con mắt đảnh môn của người. Lại nói: Có thể nói: Một lần nêu ra một lần mới mẻ, một lần dùng đến một lần vui thích. Sư nói: Bảy mươi hai gậy lại thành một trăm năm mươi. Sư bèn nói: Vầng kiếm ở trên đầu, toàn cơ riêng bày trên đỉnh núi, trong ánh sáng đá lửa, kiếm bén quơ ngang trên trăm cỏ. Nói quyền nói thật, lập chiếu lập dụng, đánh gậy hét tiếng, nói sự nói lý. Rất giống cầm búi tóc ném vào nha môn, ngay đây chẳng nói quyền chẳng nói thật, chẳng lập chiếu chẳng lập dụng, chẳng đánh gậy chẳng hét tiếng, chẳng bàn sự, chẳng luận lý. Đó cũng là dạng cố chấp giả sử trong như thế không như thế. Trong không như thế tức như thế, chính là kéo đuôi rùa linh. Đến chỗ đó thì Phật tổ rờ chẳng dính. Nếu là thấu được thì phải biết trong đó có một con đường lớn thông lên trời. Đem quét sạch chức vị quan trọng, phàm Thánh dứt dấu vết. Nếu cũng xô đẩy được một, tuyên khai lập được một cơ, thì ngàn Thánh vạn Thánh ràng buộc nó cũng chẳng ở, ngàn người vạn người tìm nó cũng không được. Chẳng sám tội mà tội đã tiêu, chẳng tụ tập phước mà phước đã tụ tập. Chẳng lập mảy may hạnh môn, mà Phổ Hiền hạnh môn đầy khắp mười phương. Chẳng lập mảy may cơ trí, mà Văn-thù đại dụng đã rộng khắp hằng sa giới. Do đó nói giấu cất huyền cơ khi chưa có điềm. Thích-ca, Di-lặc nhíu mày, giấu vận đen tối ở tức hóa. Lâm Tế Đức Sơn có bước đi lại chẳng rơi công huân một câu như thế làm sao nói. Vạc nước sôi lò than đỏ thổi diệt mất giáo pháp, rừng kiếm núi dao tiếng hét khiến bị tồi phá.  <卷>QUYỂN 10 TIỂU THAM 3 Sư nói: Gặp nhau chẳng đưa ra, nêu ý liền biết có. Vạn người trước chúng hiển bày lầm lẫn, chẳng phải là cơ trước mắt cũng không phải là sự trước mắt. Ngoài ba ngàn dặm nạp bị thua dù được hết cả càn khôn đại địa, không mảy may pháp nào có thể đương tình. Lặng yên chấm dứt sai lầm, ngàn Thánh chẳng dám nghó bàn đến như ở trên đónh đầu chư Phật. Đến chỗ ấy thì còn nói gì đến đánh hét, luận ngay luận lệch, có nói có nín, dứt huyền dứt diệu, cùng thả ra cùng thâu lại đồng chết đồng sống, hướng vào hang ỗ mà tìm kế sống. Đang lúc như thế thì hãy tham cứu như thế, nắm bắt như thế chơi đùa như thế, chứng nhập như thế. Nếu có một chút tài giỏi, liền thấy thần thấy quỷ. Nếu chẳng có chút tài giỏi nào thì chẳng khỏi rơi vào trong cõi vô sự. Cái sự đó như trong bầu của Hồ công tự có trời đất mặt trời mặt trăng. Do đó Tuyết Phong Hòa thượng nói: Hết thảy đất đai nắm lại như một hạt gạo to. Lại nói: Hết cả đất đai là một mắt của Sa-môn. Diêm Quan lại nói: Hư không là trống, núi Tu-di là dùi, người nào đánh được. Ngài Nam Tuyền nói Vương Lão sư không đánh bể được cái trống này. Pháp Nhãn nói: Vương Lão sư chẳng đánh. Huyền Sa nói: Rừng sâu núi cao là nơi ngàn năm vạn năm, không người đến vì có Phật pháp chăng? Vân Môn Đại sư nói: Trong ngày đến đi, trong ngày phân biệt người, bỗng nhiên nói nửa đêm lấy vật không có đèn đuốc mặt trời mặt trăng chỗ chưa từng đến làm sao lấy giống đây. Nếu chẳng thông thấu, có mảy may cách ngại, thì như núi non. Nếu hoặc tận tình thấu được, cần đi thì đi, thì nghi cái gì. Tuy thế, ngay đây là chân thật đến chỗ ấy mới được. Hướng vào vách đá vạn tượng buông tay, đầu sào trăm thước tiến bước. Lại nói: Việc này rốt ráo hiểu như thế nào? Đánh gõ bạn đạo lỗi nhíu mày, ông đi Tiêu Tương, ta đến Tần. Sư xuống tòa. Sư nói: Một nêu liền biết chỗ rơi, đã là đầu thứ tám, chưa vượt qua mạn thuyền ba mươi gậy cũng là đầu thứ chín. Dù là kiếp không, trước thời Oai Âm Vương, một lúc ngồi dứt. Giống như đóng đinh thung lay mái chèo, dán keo gãy đàn (không biết quyền biến) dù cho bày cơ trước mắt, dùng sự trước mắt, một hỏi một đáp, một xô một gõ, một ra một vào, đang như mở mắt đái trên giường, đứng trên đất thấy mộng. Nếu là kẻ sáng mắt cần biết không phải thế. Do đó việc từ trên đến, chỉ cần người kỳ đặc ngay đây mà thừa đương được, quét sạch đầu lưỡi người thiên hạ. Còn có người như thế không. Nếu không thì chẳng khỏi phương pháp dạy người, hướng vào trong gai gốc mà ra tay. Sư bèn dựng cây phất tử lên nói rằng: Có thấy chăng? Ba đời chư Phật, sáu đời Tổ sư, lão Hòa thượng trong thiên hạ đều ở trong đó. Cho đến vạn tượng sum-la, mặt trăng mặt trời các vì sao, bốn Thánh sáu phàm, hết cả vô biên biển nước thơm gà vịt sâu kiến, tất cả hàm tình đều ở trong đó. Cho đến các người hằng ngày cũng ở trong đó. Chỉ có sơn Tăng chẳng ở trong đó. Lại nói gì như đây. Đồng đường mà chẳng đồng dấu, đồng chết mà không đồng sống. Trong chúng bỗng có người ấy cũng như thế. Cho ông có một con mắt, đang lúc như thế thì làm sao nói; định sáng đất vàng đưa tay xa gọi, Trí Giả ở Giang Lăng ngầm gật đầu. Sư xuống tòa. Sư nói: Trong đời có vang, trong câu có trình cơ. Nói xưa hiểu nay, nắm đầu hiểu đuôi. Cần phải người ấy mới hiểu việc ấy. Lại như các người vừa đến, chuông chưa kêu, trống chưa rền. Khi chưa đến chỗ này lại có cho nhiều việc chăng? Lại có một hỏi một đáp đạo lý chăng? Nếu là người ấy, chưa nêu đã biết, chưa nói đã thấu. Kịp khi lý theo sự đổi, sự theo lý tròn. Chuông đã kêu, trống đã rền vang. Đại chúng lăng xăng cái gì từ trên đến. Có hỏi có đáp có chủ có khách. Lại nói: Trong đó lại có việc ấy chăng? Nếu có đạo lý đích thực liền là đối mặt mà lừa nhau. Thật không có việc như thế. Đã không có việc như thế thì là cái gì? Phải biết muôn dặm không một phiến mây, muôn dặm không tấc cỏ. Do đó nói: Muốn được gần gủi chớ hỏi này nọ, có lúc hỏi ở chỗ đáp, có lúc đáp ở chỗ hỏi. Tuy thế, phải lại hỏi chẳng ở chỗ đáp, đáp chẳng ở chỗ hỏi. Lại nói: Xà-lê chẳng phải chẳng đem đến, Sơn Tăng chẳng phải chẳng giao phó. Ở trong đó mà đủ mắt kim cương hướng trên bổn phận mà thừa đương, bèn không thể chẳng không thể. Dám hỏi đại chúng trước thật một câu như thế làm sao nói? Tâm chưa sáng đất chưa ấn, khó thấu được cửa Triệu Châu - Sư xuống tòa. Sư nói: Rõ ràng nêu nói cắt đứt cội nguồn, suốt cổ thông kim, vượt tình lìa kiến như thế như thế hai lỗ đều sáng, hai thứ khắp chiếu. Trong thế nào có chẳng thế nào, trong chẳng thế nào có thế nào trong như thế có chẳng thế trong chẳng thế có như thế? Trong hang cỏ đột nhiên xuất hiện một con cọp cụt đuôi. Nếu có thể lìa ba câu này, dẹp chuyển cơ hướng thượng, liền biết các người dưới chân có một việc lớn. Sáng dậy cỏ kim mà dứt tri kiến. Tổ sư tuy Tây Trúc đến, tuy chư Phật ra đời, chẳng từng thêm một mảy may. Tuy chư Phật ra đời, chẳng từng thêm một mảy may. Chư Phật chẳng ra đời, Tổ sư chẳng ở Tây Trúc đến thì cũng chẳng từng giảm một mảy may. Sạch làu làu, sáng rỡ rỡ. Như ấn in trên không, như ấn in dưới nước, như ấn in ở bùn. Cần phải chăng nương tựa một vật, chẳng rơi vào thấy nghe hiểu biết, chẳng ở vào phải quấy được mất. Ngặt nỗi thế nào cũng rơi vào chỗ chỉ của tổ sư. Cho nên Sư nói: Từ có Tổ đến nay, nếu đem lời dạy của Tổ sư vì người làm khuôn mẫu, liền thành lừa gạt người. Nó chỉ nói vô pháp vốn là đạo. Lại nói: Phật nói tất cả pháp vì độ tất cả tâm tà, không tất cả tâm sao dùng tất cả pháp. Đã không tất cả tâm chẳng dùng tất cả pháp, thì trong đó tám chữ mở ra, lại biết rơi vào chỗ nào chăng? Sơn Tăng lộ bày tin tức đó cũng phải biết người quá lượng khế hợp với việc quá lượng này. Sư xuống tòa. Sư nói: Ngồi ở hiên đương ngồi đây nhìn thấy mặt vô tư, lìa tướng dứt danh, đương cơ có tiêu chuẩn hiển lộ hình tướng, thông một tuyến đường, khởi lên mặt mũi bày ra chút ít cầu bến. Như cách núi mà thấy khói thì biết là có lửa, cách tường vách mà thấy sừng thì biết là có trâu. Nếu chỉ quản theo số theo danh, tìm huyền tìm diệu thì tan mất việc lớn ở dưới chân mình, mai một gia phong Phật tổ từ trước. Chỉ như nay chẳng nương tựa một vật, chẳng hiển bày tin tức, lại có ai cùng làm chứng cứ chăng? Nếu chứng cứ được đe, dứt chức vụ quan trọng chẳng thông phàm Thánh, chẳng hướng hai ngàn năm trước ông già Thích-ca đã làm chỗ khuôn mẫu, đều tự kiểm điểm, vì sao kẻ đại trượng phu, chỗ người khác ở thì ta không ở, chỗ người khác dùng thì ta không dùng. Thềm bậc Tổ sư là đầu thứ hai, vượt Phật vượt Tổ là đầu thứ ba. Sạch làu làu sáng rỡ rỡ, rõ ràng riêng bày là giải thứ tám. Do đó nói: Mạt cú mới đến lao quan. Quét sạch chức vụ quan trọng, chẳng thông phàm Thánh. Nếu là bậc thượng lưu chẳng đem lời dạy của Tổ sư làm khuôn phép cho người. Như rùa mang bản đồ, tự lấy điềm mất mình, như phụng vướng lưới vàng biết khi nào vượt được Tiêu Hán. Đêm nay cùng lúc nêu ra cho các người. Dám hỏi đại chúng chẳng rơi vào ngôn giáo của Tổ sư một câu như thế làm sao nói? Muôn duyên chẳng đến chỗ vô tâm, đến giếng nhìn thấy lừa. Sư xuống tòa. Sư nói: Một mực theo cứ lệnh mà làm trách Phật mắng Tổ cắt đứt các dòng, được Thích-ca, Di-lặc, Văn-thù, Phổ Hiền không đường lui thân Lâm Tế, Đức Sơn, Triệu Châu, Mục Châu trợn mắt phùng má. Ngàn dặm vạn dặm không phiến mây, nghó bàn chẳng đến ba mươi gậy. Nói nêu như thế bổn sắc nạp Tăng càng sinh sáng rõ, kẻ sơ cơ hậu học không chỗ sờ mó, một bề rủ lòng từ rơi cỏ, lập câu hỏi đáp, tồn tại chủ khách, có đầu có đuôi, ba huyền qua giáp chính giữa bàn luận sai lầm, trong bốn thứ liệu giản mà riêng có trắng đen, dường như qua lại chiếu dụng song hành. Mỗi mỗi dưới gót chân chỉ đẩy sáng một Đại cơ, chỉ một việc này chứ không việc nào khác. Như thế mà đưa ra nói, kẻ hậu học sơ cơ thông một tuyến đường. Sao lại cười nạp Tăng. Trong như thế có, chẳng như thế, trong chẳng như thế, có như thế. Quyền thật cùng vận, chiếu dụng cùng làm. Phật tổ dối lừa lìa danh dứt tướng chẳng giữ hang ổ, riêng lẻ mở sáng một con đường hướng thượng. Cũng là uống trà ăn cơm tầm thường, hoặc lật ngược nhiều lời lẽ khế hợp, thì trên là trời, dưới là đất, núi là núi sông là sông, Tăng là Tăng tục là tục đều không cho nhiều được mất huyền diệu. Lại rơi vào giáp vô sự bốn thứ vì người. Đến lúc này vì các người đều nêu rõ (cầm lấy?). Lại nói: Rốt ráo như thế nào. Do đó nói: Muốn biết nghóa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên thời tiết nếu đến thì lý nó tự bày. Chỉ như thời tiết này đại Đàn-việt thiết trai xong, lên pháp đường xong, sám tội xong tiến vong xong, lại bảo sơn Tăng nói gì? Nếu có thể chẳng dùng mắt thấy, chẳng dùng tai nghe, chẳng dùng ý tưởng, chẳng dùng miệng nói thì ngàn dặm vạn dặm thấy các dối lừa, ngàn câu vạn câu đều xuyên suốt, hiểu được như thế thì có thể thông suốt cổ kim. Cần phải biết có sự hướng thượng mới được. Dám hỏi đại chúng thế nào là sự hướng thượng. Vạn cổ đầm biếc trăng trên không, ba lần mò lặn mới nên biết. Sư xuống tòa. Sư nói: Chư Phật chẳng ra đời, ở đâu mà được tin tức. Tổ sư không Tây Trúc đến, khỏi thấy lụy đến đời sau. Trên chính lúc ấy thì trời là cao, đất là dày, mặt trời mặt trăng các sao là chiếu sáng, người vật cảnh giới mênh mông, chẳng từng dời đổi một mảy may. Sao chẳng hướng vào đó mà dâng lấy. Nếu hướng trong đó mà dâng được, quản lấy là một người vô sự. Cho đến chư Phật ra đời, nắm chức một đại sự nhân duyên. Tổ sư ở Tây Trúc đến là truyền trì Chánh pháp nhãn tạng, khiến tất cả người nghe người thấy mà sinh tâm khởi tưởng khó gặp. Mỗi mỗi đều nương tựa Phật nương tựa Tổ, trải các thềm bậc, vượt các địa vị, chứng vô vi, lên Thánh quả. Nếu thế mà dâng được cũng là một người vô sự. Lại có hạng người Xiển-đề chẳng khởi tín căn. Gặp Phật hét Phật, gặp Tổ mắng Tổ, cho đến giết Phật giết Tổ, khiến người chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp, sạch làu làu sáng rỡ rỡ, toàn thể chỉ là người chân thật. Nếu hướng trong đó mà tiến được thì cũng là người vô sự. Có lòng tin được kịp cầm được trụ, nương hạnh Phật mà chẳng chấp trước, nương vào chỗ chứng của Tổ mà chẳng chấp Tổ, khéo dựng pháp tràng có thể lập tông chỉ. Khen Phật khen Tổ như gấm thêu hoa. Cho đến trên trời dưới trời như vàng như ngọc. Nếu hướng trong đó mà tiến lên được cũng là một người vô sự. Trong bốn hạng người vô sự này cần chọn một người làm thầy. Lại nói chọn được một người nào làm thầy. Nếu nói được, hãy bước ra nói xem. Nếu nói không được, sơn Tăng chẳng khỏi lộ bày tin tức ấy. Khoát áo tơi đứng ngoài ngàn núi, dẫn nước tưới rau trước ngũ lão. Sư xuống tòa. Sư nói: Lìa ngôn lìa tướng chính là không bao nhiêu. Chẳng ngại lặng yên yên, chỉ sợ rơi vào nước chết. Bày lời nói như gấm thêu hoa, chẳng ngại ồn ào, chỉ sợ lọt vào rừng gai gốc. Ở hai con đường này cũng là chỗ của người đương thời ấy lên xuống, chẳng lạc người thời ấy lên xuống (hãy chẳng lên xuống), chẳng ở trong hai đường này lại như thế nào mà hiển bày lại biết trong ấy chăng có đường thông lên trời có cơ dứt Thánh, hướng vào miệng cọp dữ mà xoay mình, ở trên đầu rắn độc mà gãi ngứa, là việc tầm thường ăn cơm uống trà. Do đó nói: Từ Oai Âm Vương trở về trước không có thầy tự ngộ thì được. Vì sao cho người khác vượt thầy mình. Sau khi có Oai Âm Vương rồi thì phải nhờ thầy khai mở, vì sao sợ rơi vào Thiên ma ngoại đạo. Do đó nói: Có lúc một câu có thể cùng Phật tổ làm thầy, có lúc một câu có thể cùng trời người làm thầy. Nếu thấu qua, tin được, thấy được suốt, cầm được dừng thì mới khế hợp được với cổ nhân há chẳng thấy nói: Phải thấy hơn mới được truyền trao, kiến giải bằng thầy thì kém thầy nửa đức. Chỉ như nay ông già Thích-ca há chẳng là Thầy, Đạt-ma Đại sư há chẳng là thầy. Lại có ai thấy lỗi ông già Thích-ca, Đạt-ma Đại sư chăng? Hãy bước ra nói bày tin tức xem. Cũng cần phải thấy từ trên đến giống cỏ. Có chăng? Có chăng? Nếu không thì như bắn cọp đá ở Lam điền, cơ hồ lầm giết Lý tướng quân. Sư nói: Câu có câu không như dây leo quấn cây, mồi thơm ở đầu lưỡi câu rất sai lầm. Chí đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa, người thời ấy hang ổ không sờ mó. Nếu là nạp Tăng có con mắt trên đảnh môn, thì mánh khóe ngoài ba ngàn dặm, có Tông sư tác gia làm lò rèn, chưa vượt mạn thuyền đã phân phó. Do đó nói: Trong đó là tám mươi, các ông vào trường ốc (nhà hội) chẳng phải là trò trẻ con, mọi người phải là kẻ chánh nhãn kim cương mới được. Người sáng mắt mất lỗ cối, chỉ phơi bày một chút trước mắt. Cắn (nói?) đi cắn (nói?) dừng. Có lúc một mực chẳng đi, có lúc một mực chẳng dừng. Nếu luận chiến đấu thì mọi người đều cố sức ở chỗ chuyển. Lại nói: Phật nào, nói Tổ nào, nói tâm nào, nói tánh nào, nói huyền nào, nói diệu nào, nói có nào, nói không nào. Xóa bỏ chỉ một cây kiếm có nghóa là phân thân cũng có một con đường xuất thân. Song ở trong đó nếu có cái thoát tình giải bỏ thuốc kî biết cơ nghi riêng nghỉ lỗi, hãy bước ra đồi chúng nói xem? Cũng cần mọi người biết có. Tuy thế cũng phải thật đến chỗ ấy mới được. Dám hỏi các người khác là hang ổ người thời ấy hay là mồi thơm trên đầu lưỡi câu. Có hiểu rõ chăng? Trước mắt đã thoát cái thấy của người tầm thường, cách ngoại cần biết tên tác giả. Sư nói: Chỉ thế nào quét sạch đầu lưỡi thiên hạ, chẳng thế nào mà xỏ lỗ mũi bản sắc nạp Tăng. Trong thế nào có chẳng thế nào, cần biện rõ rồng rắn, trong chẳng thế nào có thế nào mà bắt nhốt cọp hủy. Lìa bốn câu lại có việc gì. Cũng cho đủ một con mắt. Vì sao thế, cùng buông ra cùng thâu lại, cùng tối cùng sáng, đồng chết đồng sống, đồng được đồng mất, cũng chưa phải là phần ngoài. Tuy thế cũng là tạo lập việc một bên. Nếu căn cứ vào tự thọ dụng của nạp Tăng thì lại không phải thế, chỉ như chỗ tự tự thọ dụng của nạp Tăng. Lại có người nói được chăng. Nếu không nói được thì Phật pháp không linh nghiệm. Nếu nói được thì khi dễ tất cả người. Đêm nay chẳng ngại hướng vào cỏ hoang mà dùng phương pháp giáo hóa, dùng phương pháp giáo hóa cùng các người thương lượng - Há chẳng thấy Nam Tuyền nói: Tổ Phật chẳng biết có chồn hôi trâu đực (trắng) thì biết có. Lại nói: Ông si si hòa hòa, sao chẳng tự mình nghiên cứu (rốt ráo) lấy, đợi hiểu nhiều biết nhiều tức là xúc phạm Lão Hòa thượng. Lại nói: Gọi gì là như như hãy sớm biến đổi. Người thời nay dù đi giữa khác loài. Lại nói: Người học đạo khó được như ngây dại. Triệu Châu nói: Ta thấy ngàn trăm ức người, tất cả đều là người tìm làm Phật, còn tìm đạo nhân vô tâm thì không thể được. Vân Môn Đại sư nói: Hòa thượng con chớ vọng tưởng, núi là núi, sông là sông, Tăng là Tăng, tục là tục, thấy gậy thì chỉ gọi là gậy thấy đèn lồng chỉ gọi là đèn lồng. Đây có thể nói thấy thể là toàn chân. Chỉ chỗ ấy (như thế), lại cho người làm đắc thất mà hiểu chăng? Rõ ràng luận thật chẳng luận hư (dối) ngay đây mà giống như chồn hôi trâu đực (trắng). Thẳng được như cây khô mục dứt khí tức (hết sống); ngây ngây dại dại, mịt mịt mù mù, ngàn Phật ra đời nó cũng chẳng biết, mắt thấy Cù-đàm chỉ như lá vàng, mới biết là do sắt sống đúc nên, ngàn người vạn người bắt nhốt chẳng ở, chỉ như độc thoại một câu như thế làm sao nói. Chớ bảo vô tâm ấy là đạo, vô tâm còn cách một lớp cửa. Đàn-việt thỉnh Tiểu Tham. Sư nói hết cả đại địa là giải thoát môn (cửa). Mọi nơi, mọi vật đều chứng nhập Vô biên sát hải Như Lai tạng, bao dung hết sức niên mật. Chỗ nêu cao chót vót, lúc dụng sạch làu làu. Thí như gần lửa dữ ắt phải cháy mặt. Lại như Đại A kiếm cất lên thì thần tan mật nát. Nếu có người biết thế thì thấu xương thấu tủy mà thừa đương, chẳng kinh sợ chim mổ. Nếu hoặc còn lưu quán, nghe cũng còn trệ lớp da, cần phải thấu xuất (ra khỏi) kim cương quyển nuốt cỏ gai lật. Nếu ra khỏi một quyển thì trăm ngàn ức quyển cùng một lúc cũng ra khỏi, nếu nuốt được một cỏ thì vô số ức cỏ một lúc đều nuốt được. Có thể dùng làm nhân kỳ đặc, có thể vì hiện tướng thù thắng, không tội nào có thể sám mà tội cấu đều tiêu trừ. Không có oan nào có thể giải mà oan gia đều cởi mở, hiển hiện tất cả không thể nghó bàn, làm ra vô biên nghiệp thù thắng, chỉ tiêu một đạo thanh hư lại chẳng dùng người Châu Do. Chính ngay lúc ấy đương cơ một câu như thế làm sao nói. Trước tiếng đột xuất mắt kim cương, thiền chỉ viên thành tám vạn môn. Tụng rằng: Sám tội thì sạch cấu, Giải oan thì mở kết. Giống như mặt trời làm tan sương, nước sôi làm tan tuyết. Mây tan ở trên khoảng trời cao một mặt trời sáng sạch. Cảm ứng đạo giao, con cháu nối đời mãi mãi. Đặng Triều Nghị thỉnh Tiểu Tham. Sư nói: Cơ lớn riêng nêu ngàn Thánh ẩn giấu. Một câu rõ ràng, quét sạch mười phương. Có cũng chẳng quản, không cũng chẳng chấp. Thánh cũng chẳng thâu, phàm cũng chẳng lập. Sáng tỏ không che giấu, sáng rõ không rò ró, mắt sáng trên đảnh môn, núi sông đất liền toàn bay sau tay bùa mở, vạn tượng sum la sớm hiện. Có tướng kỳ đặc như thế, có môn thù thắng như thế. Chỉ cầu tác giả hướng thượng, cần tiếp Đại thừa căn khí. Do đó nói: Buông câu bốn bể chỉ câu rồng dữ, cách ngoại huyền cơ là tìm tri thức, nếu là bậc lợi căn chủng trí, đủ tánh đại giải thoát. Một nghe thì tất cả nghe, một hiểu thì tất cả hiểu, một thấy thì tất cả thấy, một chứng thì tất cả chứng, sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Chỉ như nay lại có nói được chăng? Hãy bước ra nói bày tin tức xem. Nếu nói chưa được. Sơn Tăng trong đó tám chữ mở toang. Lại có hiểu rõ ràng chăng? Lợi căn thượng trí cần phải viên chứng, mười Thánh ba hiền một niệm siêu. Lại có tụng rằng: Không đối Tỳ-da thượng nhân kia, Đảnh môn có mắt sáng càn khôn, Chỉ bằng vào một cái không ngôn thuyết, Khắp cõi toàn mở Bất nhị môn. Tri Sơn Điều châu, chùa Thái bình, thỉnh Tiểu Tham, Sư nói rằng: Tổ Phật đưa ra chỗ vụng về chẳng khởi, làm tốt công phu ấy, thì ngoại ma nhìn chẳng thấy chỗ (nhìn chỗ chẳng thấy?), cũng phải có sức mạnh, thẳng được toàn thân là mắt, cũng chiếu cái nó chưa hiểu thẳng được toàn thân là miệng, cũng nói cái nó chẳng dính chỗ thâm sâu có trở lại, chỗ kín đáo có lừa gạt. Đến chỗ ấy Đức Sơn có gậy, chẳng luận Phật đến hay Tổ đến vẫn một loạt thi hành. Lâm Tế có hét, bất luận Phật đến hay Tổ đến thì vẫn một loạt thi hành. Nếu hướng vào gậy mà thấy chưa khỏi bị lừa gạt. Nếu hướng vào hét mà dâng (nói) lại là bày vẽ. Cần phải biết người hướng thượng có thay xương đổi tủy, thấu sắc thấu tiếng, thấu Thánh thấu phàm thấu khai thấu kiến, sau tay có bùa. Do đó nói: Nếu ông ngồi thì ta đứng, nếu ông đứng thì ta ngồi, nếu cùng đồng ngồi đồng đứng thì cả hai đều là kẻ mù. Đến chỗ đó lại nói tâm nói tánh được chăng? Nói huyền nói diệu được chăng? Nói lý nói sự được chăng? Nói đắc nói thất được chăng? Nếu như thế (thế nào?) đều là nương tinh linh của cỏ cây. Lại riêng thoát một câu như thế làm sao nói. Trên núi Tu-di chỗ xoay mình, đầu sào trăm thước buông tay. Lại có tụng rằng: Năm xưa y việc mong nhìn lại, Xuân này lại tắm sang sông đến, Đồng phong liền nói việc đồng phong, Ngàn tay toàn thân chánh nhãn mở. Văn Luân: Thượng nhân tiến an Hoa Nghiêm thỉnh Tiểu Tham. Tăng hỏi: Như thế nào là Lý pháp giới? Sư nói: Chẳng động một mảy may. Hỏi: Như thế nào là sự pháp giới? Sư nói: Dọc ngang chữ thập. Hỏi: Như thế nào là Lý sự vô ngại Phật giáo? Sư nói: Đầu đồng trán sắt, trán sắt đầu đồng. Hỏi: Như thế nào là Sự sự vô ngại pháp giới? Sư nói: Lớp lớp vô tận, nơi nơi hiện chân thân. Sư bèn nói lời phát ra không phải tiếng, cao cao đỉnh núi đứng. Trước sắc chẳng có vật, sâu sâu đáy biển đi. Toàn cơ chỗ chuyển mất thừa đương, nhìn mặt lúc trình dứt trở lại. Lìa tâm ý thức chẳng thấy nghe hiểu biết cần phải sáng suốt mắt pháp huệ, lìa niệm sáng trí. Sau đó một trần vừa khởi thì đại địa gồm thâu, một lông đầu sư tử, trăm ức lông cùng lúc hiện ra. Dù một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Rồng đồng pháp giới, nhỏ vào lân hư. Không chỗ nào chẳng khắp, không chỗ nào chẳng đủ. Tỳ-lô-giá-na trong biển đại pháp tánh, chẳng luận Thánh, chẳng luận phàm, chẳng luận hữu tình, chẳng luận vô tình, mỗi mỗi cầm dứt chẳng lọt mảy may. Nơi nơi thường quan hiện tiền, mỗi mỗi vách đứng ngàn nhận. Nếu nói Lý pháp giới, Sự pháp giới, Lý sự vô ngại pháp giới, Sự sự vô ngại pháp giới chính là không can thiệp. Dù lấy đầu gậy làm chứng, hét rồi thừa đương. Hướng vào kiếp không bên đó biết phá căn trần, Oai Âm trở về trước rỗng sáng. Còn chưa khỏi ở trong hang ổ. Chỉ như ra khỏi hang ổ một câu như thế làm sao nói. Thế ngàn núi đến bên núi ngừng, vạn phái (dòng nước sống) tiếng về trên biển tiêu. Kiết Hạ Tiểu Tham - Tăng hỏi: Mã Sư nói lìa tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Hòa thượng trả lời Ý Tổ sư Tây Trúc đến. Mã Sư nói: Ngày nay ta mỏi mệt không thể nói cho ông được. Ông đi hội Tây Đường đi, ý này thế nào? Sư nói: Ba đầu hai mặt. Lại nói: Tăng hỏi Tây Đường, Tây Đường nói: Hôm nay ta nhức đầu, đi hỏi Hải huynh đi! Lại thế nào? Sư nói: Đồng hầm hố mà khác đất. Lại nói: Tăng hỏi Hải huynh, thì Hải đáp: Ta đến chỗ này chẳng hiểu, là thế nào? Sư nói: Đêm trong thùng sơn đen sinh ánh sáng. Lại nói: Chỉ như Tăng nêu giống Mã tổ. Tổ nói: Tạng đầu trắng, Hải đầu đen, là thế nào? Sư nói: Chẳng cho người ngoài biết. Sư bèn nói trong hạt lúa giấu cả thế giới, hằng sa sát hải mới an cư. Vạn duyên chẳng đến ngàn sai vượt, siêu chứng vô sinh bằng Thái hư. Đến chỗ thật chẳng chứa tiếng, đến chỗ sâu chẳng trở lại sáng suốt trời che đất chở, làu làu nói cổ nêu kim. Quét sạch ngàn sai vách đứng ngàn nhận, ngàn Thánh ngơi nghỉ chẳng đến, là chỗ nạp tử thả buông phức tử, ngàn người vạn người bắt nhốt chẳng ở, là người vô vi vô sự khi bẻ gãy gậy gộc. Tuy thế vẫn mênh mông ứng cơ mà phải như như bất động. Có lúc trong cung Ma hang mà Chuyển đại pháp luân, có lúc trong rừng gai gốc mà kiến lập phạm sát, có lúc hướng mười chữ đầu đường vách đứng ngàn nhận, có lúc hướng trên đỉnh núi cao mà họp nước với bùn. Có chiếu có dụng có quyền có thật. Do đó nói: Dùng Đại Viên giác làm già lam ta, thân tâm an cư bình đẳng tánh trí. Thì đối ngàn người vạn người bắt nhốt cũng không có chỗ ở mới có thể an cư. Đối ngàn Thánh vạn Thánh đề tê chẳng đến chỗ thì mới buông thả phức tử. Dám hỏi an cư một câu nói gì (nói thế nào?) Lại hiểu rõ chăng? - Chỉ khiến thân lời thường thanh tịnh, hạ mãn đâu cần nghiệm người sáp. Tăng tiên sinh thỉnh Tiểu Tham. Sư nói: Toàn cơ chẳng động, gặp các tướng ở trước mắt thấy mặt trình nhau, cắt đứt ngàn sai ở cách ngoại. Động thì ảnh hiện, giác thì băng sinh. Chẳng động chẳng giác ngay đó mà nhắm mắt, trong đó có một con đường, trời che đất chở, chở sắc trùm thanh, kín đáo khít khao (nối tiếp) bình ổn. Nếu là Lão khách dưới cửa Tào khê thẳng đến chỗ giải thoát, lại rơi vào hai rơi vào ba. Chưa cừ giác (và) trở về trước thì sớm đã lạc hai lạc ba rồi. Huống gì nêu giác (và) nói năng đều là thua bại. Do đó nói: Hai mươi tám Tổ Tây thiên cũng như thế, sáu Tổ ở Trung Quốc cũng thế. Đến chỗ ấy chẳng dùng mắt mà thử nhìn xem, chẳng dùng tai mà thử nghe xem. Nếu hướng trong đó một lúc cắt đứt hết, được định và làm chủ được, thì cùng với ngàn Thánh cầm tay, đồng một chánh nhân, đồng một giải thoát. Tuy nhiên, ngay lúc ấy chẳng lập thềm bậc, một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chăng? Trước âm thanh quét sạch con đường ngàn sai, xuất cách chỉ nhờ tác giả mà biết. Lại có tụng rằng: Ở ngay đương cơ dứt các dòng Tuyển Quan tuyển Phật cả hai lo Vừa gặp thấy nhau cười ha hả Trên trời nhân gian được tự do. Tổ Thượng nhân thỉnh Tiểu Tham. Sư nói: Sinh thân cha mẹ ở nhà trên, từ xưa cha mẹ trên đảnh môn, một niệm sớm tiêu các ý Tổ, mới kham đền đáp được ân sâu. Một bọt chưa phát trở về trước nước chảy cuồn cuộn, một hạt bụi chưa dấy lên trần sát mênh mông. Nếu là đủ mắt thấu suốt qua cửa có thấy quá lượng thì liền biết ngàn Thánh vạn Thánh ràng buộc chẳng ở. Nếu cũng một bọt nước đã nổi một hạt bụi đã dấy lên đợi để mắt dùng ý, hết cả đời vị lai, cùng kiếp hư không, thì rốt ráo sờ nắm chẳng được. Do đó nói: Tất cả đại địa là ánh sáng Bát-nhã. Khi ánh sáng chưa phát không tin tức thì Phật và chúng sinh từ chỗ nào đến được. Chính ngay lúc ấy không Phật không chúng sinh, không cao không thấp, không được không mất, không kia không đây. Có nói được chăng? Nếu nói chẳng được thì chẳng khỏi đập nát cát đằng. Nói là không được chăng? Lại mừng mất can thiệp. Nói là có được chăng? Chuyển thấy mất can thiệp. Đạo (nói) là chẳng có chẳng không được chăng chuyển lại mất giao thiệp. Cần phải biết nói một con đường, một căn cơ. Ba đời chư Phật y vào đây mà thành lập, một đại Tạng giáo y vào đây mà chú thích cho đến hư không thế gian, Thánh phàm, núi sông đất đai, vô biên biển hương thủy, bất khả thuyết bất khả thuyết, toàn là từ nó tuôn ra. Chỉ như nay nếu biết một bọt nước chưa phát trở về trước thì ân đức ở dưới chân mình như ngàn mặt trời chiếu sáng, như tối được đèn, như nghèo được của báu, như qua sông được thuyền, như thường dân được làm vua. Ở tất cả mọi lúc không một niệm lạc hư không, một tham tạp nhạp. Toàn thể từ đâu đến, toàn thể đi về đâu. Chỉ như không kiếp trở về trước bờ bến nào một việc như thế. Có hiểu rõ chăng? Mở sáng con mắt trên đảnh ngàn Thánh, phóng ra Oai Âm, xuân ngoài vật. Lại có tụng rằng: Cha mẹ ân sâu nặng Hơn cả đất trời Nếu muốn báo đền ân, Nát thân cũng chẳng thể đáp được Chỉ có sức Bát-nhã Một câu dứt tình ái, Gió Nam thổi tâm gai, Hai trăm bốn mươi năm. Tu Đạo giả thỉnh Tiểu Tham. Trời đất cùng ta đồng căn, căn ấy rất sâu chắc. Vạn vật cùng ta một thể, thể ấy rất rỗng lặng ngưng. Căn vạn vật nêu kim nói cổ, thể bền chắc bao hàm vạn hữu. Hao mang được ý, có thể chỉ sắt thành vàng, có thể chuyển phàm thành Thánh, như lý như sự, ngay nơi chỗ tức chân thật. Một niệm chẳng sinh bờ trước sau dứt. Do đó nói: Sự giải thoát không nghó bàn, diệu dụng hằng sa cũng vô cực. Nếu luận về diệu dụng có thể đập nát núi nghiệp. Có thể chỉ cạn biển khổ có thể sám tội chẳng thể sám, có thể giải nỗi oan không thể giải, có thể chữa lành bệnh sắp chết, có thể chứng vô sinh pháp nhẫn. Chính ngay lúc ấy chẳng lập công huân một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chăng? Nhà tối ngàn năm chỉ một ngọn đèn là phá tan, tội lỗi vạn kiếp một câu tiêu hết. Tụng rằng: A-xà bị bệnh vào Hoàng giác (được vua biết), Điều Ngự thùy từ phóng sáng trăng, Công của thuốc pháp đồng (với) sức Phật, Tự nhiên thân bệnh được mát mẻ. Có Tiểu Tham. Sư nói: Một mực nói Sư nói lý, luận huyền luận diệu, bàn tâm bàn tánh, thì rơi vào hang ổ cát đằng ngôn ngữ, một mực đánh gậy hét tiếng lập chiếu dụng, giữ cuốn giữ mở thì rơi vào rừng gai gốc. Lại nêu cổ nêu kim, nói ngay nói lệch, lập chủ lập khách, cũng lại buông bỏ đất cát. Bỗng lại nếu thấy núi tức núi, thấy sông tức sông, thấy Tăng là Tăng, thấy tục là tục, rơi vào cảnh vô sự, nhớ khiến đều chẳng như thế, giống như kéo đuôi rùa linh, dù một thể một sáng cũng là hồ ly mến hang, nếu có chỗ xuất thân giống như đất đội núi, chẳng biết riêng núi cao vót như đá ngậm ngọc, chẳng biết ngọc không tỳ vết như gần lửa thì bị cháy mặt. Lại nếu chống kiếm Thái Tăng định thì tan thân mất mạng. Liền có thể chẳng cần nói Sự chẳng cần nói Lý, chẳng cần đánh gậy chẳng cần hét tiếng, chẳng lập chủ chẳng lập khách. Thấy núi chẳng phải núi, thông sông chẳng phải là sông. Toàn thể như thế mà đến, toàn thể như thế mà đi. Đều không cho nhiều bên việc ngôn ngữ khí cơ, thanh sắc. Chỉ siêu nhiên riêng thoát một câu như thế làm sao nói. Có hiểu rõ chăng? Núi cao vạn trượng phải buông tay, đại thiên sa giới mới toàn thân. Trương Hộ Tà thỉnh Tiểu Tham. Sư nói: Ngay đây liền là chẳng thông suy nghó tầm tư, lại có tác gia thiền khách chăng? Hãy bước ra khỏi chúng trình chứng cứ xem? Tăng hỏi: Như thế nào là việc của Lâm Tế. Sư nói: Một dao chặt làm hai khúc. Hỏi: Như thế nào là việc của Vân Môn. Sư nói: Ba câu dọc ngang. Hỏi: Như thế nào là việc của Tào Động. Sư nói: Năm vị quân thần mất giao phó. Hỏi: Như thế nào là việc của Qui Ngưỡng. Sư nói: Tiến về trước lui ra sau dứt thương lượng. Hỏi: Một câu ấy như thế nào? Sư nói: Sao không hỏi việc của Pháp Nhãn. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Linh Sơn nêu ý kín, chỉ riêng Ca-diếp thân nghe. Thiếu lâm nói diệu quyết, chỉ cho Thần quang gánh vác. Chỉ vì các cơ bức nhau, các tên bắn nhau, chỗ dùng thanh sắc thuần chân, lúc nêu ra càn khôn riêng bày. Kín đáo ý dứt lừa gạt, sâu sâu cơ mất trở lại. Nếu là cái bản sắc tự do tự tại thừa đương gánh vác được, lại chẳng rơi vào tiếng trước câu sau, cũng chẳng dùng suy nghó tầm từ, ngay đây rõ ràng hiểu lấy. Do đó nói: Nếu luận việc này nhanh chóng lãnh hội thiền cơ đã sai lầm. Đã sai lầm rồi, sao còn ngậm miệng kêu ba ba. Há chẳng phải là rõ ràng lầm lỗi. Đã lầm lỗi lại biết việc chưa lầm lỗi chăng? Nếu biết việc chưa lầm lỗi, tuy trọn ngày nói mà chẳng từng động lưỡi, trọn ngày đi mà chẳng từng động một bước, trọn ngày ăn cơm mà chẳng từng nhai một hạt gạo, trọn ngày mặc áo mà chẳng từng mang một sợi chỉ. Tuy thế, đây cũng là lập hóa môn đình chỗ hướng hạ vì người. Há chẳng thấy Đức Sơn Hòa thượng chỉ có lời lẽ hỏi đáp hướng thượng hướng hạ hết cả là nương cơ tựa cây, gỗ trúc tinh linh. Do đó sơn Tăng từ đầu gậy đem đi, đợi có cái riêng thoát mà cùng nó thương lượng. Sau đến Phù Sơn Viên Giám nói: Chỉ cái riêng thoát ấy cũng là tinh của cỏ cây. Lại nói: Lại có chỗ vì người không, sơn Tăng chẳng tiếc lời lẽ, dùng phương tiện cho các người buông ra. Có hiểu rõ chăng? Chỉ hay vạn pháp chẳng dính dáng, một bước nhảy thẳng vào đất Như Lai. Cạo tóc mặc áo Tiểu Tham. Tăng hỏi: Chánh lệnh đương hành, quét sạch mười phương, Tông Phong kiến lập mảy may không sai, thời tiết nhân, xin nguyện nghe nên nói. Sư nói: Chỉ là bản lai diện mục. Hỏi: Chỗ mới chém xin sư lại chỉ bày? Sư nói: Đổi ưa thích lại. Hỏi: Pháp luân lại chuyển ở Diêm-phù, đạo quang cùng chiếu sáng ngàn năm. Sư nói: Ai chẳng thế. Hỏi: Chỉ như Vô Biên Thân Bồ-tát vì sao không thấy đảnh tướng Như Lai. Sư nói: Có lúc như thế có lúc chẳng thế. Hỏi: Như thế nào là đảnh tướng của Hòa thượng? Sư nói: Lầm. Tăng lễ bái. Sư nói: Quả nhiên quả nhiên. Sư bèn nói: Trùng Viên Tăng tướng lại áo vuông, hoa Ưu-bát-la chưa dễ gặp, ân nặng núi non lấy gì báo, vội đề cương yếu một mảy may. Có lúc hiện vô biên thân, Đông hiện Tây mất, Nam hiện Bắc mất, giữa hiện một bèn mất, làm vô lượng vô biên thần thông biến hóa, cũng chỉ chẳng ngoài một mảy may này. Có lúc đất lạnh căm căm như cây khô mục, tro lạnh lửa chết. Một niệm làvạn năm, vạn năm là một niệm, cũng chỉ chẳng ngoài một mảy may này. Cho đến làm vô lượng vô biên thù thắng kỳ đặc các khổ hạnh khó làm. Chuyển hóa tất cả thành Phật thành Tổ, cũng chẳng ngoài một mảy may này. Các người lại biết một mảy may này chăng? Nếu biết, chưa mở miệng trở về trước, chưa nêu ý trở về trước, sinh Phật chưa có điềm trở về trước, kiếp không trở về trước mà giỏi nói ra. Đã nói được thì cuốn lại mà ôm lấy, tự nhiên như ngây dại, chẳng ngại một cái quyết lượng đại nhân. Nếu hoặc chưa như thế, liền phải phản chiếu hồi quang, hoặc động hoặc tịnh, hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm, cần phải rốt ráo căn nguyên nó mới được. Khi cha mẹ chưa sinh trở về trước, sau khi cha mẹ đã sinh, sáu căn bốn đại ba trăm sáu mươi gân xương đều đủ. Lúc lạnh thì biết lạnh, lúc nóng thì biết nóng, lúc đói thì biết đói, lúc no thì biết no, cho đến đội trời đạp đất ngậm răng đội tóc. Đều nương hết vào ân lực này. Lại nói: Cái ân lực này như thế nào mà đến được, có biết chăng? Một hơi chẳng nói gồm có tượng, vạn linh chỗ nào tạ vô tư. Tưởng Sơn từ chúng rằng: Trọn ngày gặp nhau luôn quay mặt, trọn sáng quay mặt liền gặp nhau. Giữa đường chẳng phải việc giữa đường, chẳng động cao vọi thấu cửu trùng. Cái tin tức chỉ cho tác gia sáng tối đồng đường, chủ khách hỗ dụng, tuy đi giống đi mà chẳng đi, tuy lại giống lại mà chẳng lại, cao vót vượt bậc. Động tịnh từng không hai thứ. Do đó nói: Động như mây bay, ngưng như hang thần. Đã vô tâm ở kia đây, cũng không tượng ở tới lui. Như thế thì tới lui chẳng vì tượng mà chắc chắn là tới lui. Động tịnh chẳng vì tâm mà vượt lên động tịnh, tại đây tại kia thật rất không gián đoạn. Một đạo thanh hư rộng khắp sa giới. Do đó cô Nguyệt Thượng ra khỏi thành. Xá-lợi-phất vào thành, mà Xá-lợi-phất hỏi rằng: Thánh tỷ đi đâu. Nguyệt Thượng Nữ đáp: Như chỗ Xá-lợi-phất đi. Xá-lợi-phất nói: Tôi mới vào thành còn cô đã ra khỏi thành, vì sao nói như nói chỗ Xá-lợi-phất đi. Cô gái đáp: Các đệ tử Phật đang ở đâu? Xá-lợi-phất nói: Các đệ tử Phật ở trong Đại giải thoát của Như Lai. Cô gái đáp: Các đệ tử Phật đã ở trong Đại giải thoát. Do đó tôi nói như chỗ Xá-lợi-phất đi là đã được Đại giải thoát của Như Lai, đi mà không đi giấu đi, vào thành Cửu trùng (chín lớp?) giúp khen Thánh hóa, đứng mà không đứng dấu đứng, ở trong núi sâu mây trắng, quét sạch đầu lưỡi thiên hạ. Đã trụ Đại giải thoát của Như Lai sao có ý động tịnh tới lui. Ngay lúc ấy thì nói gì? Trong thành Cửu trùng chân tin tức, một câu vô tư khắp cửu cai. Lại nói: Nhớ được Tào Sơn Hòa thượng từ biệt Động Sơn. Sơn hỏi: Đi đâu. Tào Sơn nói: Hướng chỗ chẳng đổi khác mà đi. Động Sơn nói: Chỗ không đổi khác há có đi ư? Tào Sơn nói đi cũng chẳng đổi khác. Sư nói: Đại phàm nạp Tăng đeo bùa dưới tay, có con mắt trên đảnh môn, hướng tất cả vạn cảnh vạn duyên ngay đây quét sạch, há chẳng phải là cái không đổi khác ư? Vì sao, Kim cương chánh thể trạm tịch ngưng nhiên. Tào Sơn tuy được ý này, làm sao Động Sơn thương con chẳng biết xấu. Nếu là sơn Tăng đợi ông ấy nói hướng vào chỗ không đổi khác mà đi thì nói với ông ấy rằng: Lão ấy chưa ra cửa đã đổi khác rồi.  <卷>QUYỂN 11 TIỂU THAM 4 Sư nói: Một lần thấy càng chẳng thấy lại, nay đã thấy lại, một lần nói lại chẳng nói lại, nay đã nói lại. Chưa có ai đi mãi mà chẳng dừng ở giữa đường mà không có tin tức ấy. Chưa có ai đứng mãi mà chẳng đi vào nhà. Mất dây leo (cát đằng) này thẳng được hai đường đều chẳng dính dáng. Đi dừng đều được dọc ngang. Khi dừng thì ngàn người vạn người ràng buộc chẳng được, khi đi thì cũng rãnh rang quét sạch đầu lưỡi tất cả mọi người. Nếu như có thân đến chỗ ấy thì phải biết có chiếu dụng đồng thời. Người cảnh đều đoạt hướng thượng mới được. Nếu luận về hướng thượng thì Phật tổ chẳng lập, phàm Thánh dứt bặt, sạch làu làu không thừa đương, sáng rỡ rỡ không hồi hỗ. Chính ngay lúc ấy thì thế nào chỉ nguyện gió xuân cùng gắng sức, một lúc thổi vào đây mà đến. Lại có tụng rằng: Minh châu ở tay người có công thì thưởng. Trưởng lão mới vào viện đều không tài giỏi. Chẳng lập cửa Triệu Châu, đều tự dính tào xưởng. Ngày 08 tháng 04 Tiểu Tham. Ngay đây là đó, đã bước lên thềm bậc đều chẳng thế cũng rơi vào tình thức, dù Oai Âm trở về trước không dính dáng, bảy Đức Phật trở về sau không dính dáng, hướng thượng hướng hạ đều không dính dáng. Tuy thế, Thông Phương tác giả cử động nói năng liền biết, còn trệ ngoài lớp da khó thoát lối tắt. Do đó hướng vào Đệ nhị nghóa môn, trong chẳng như thế mà có lúc như thế, trong như thế mà có lúc chẳng như thế. Tịnh thân pháp giới vốn không ra vào, Đại bi nguyện lực thị hiện thọ sinh. Tuy nói rơi cỏ nhưng cũng ở trong cỏ mà có đường thông thân. Dám hỏi các người, muốn biết lý lẽ vốn không ra vào chăng? Bèn dựng phất tử lên nói rằng: Chỉ là cái ấy. Muốn biết thị hiện thọ sinh chăng? Bèn đưa phất tử lên nói rằng: Chỉ là cái ấy. Đến chỗ ấy thì cùng thâu bắt cùng buông thả, toàn tối toàn sáng, vì cơ trung hạ thì được. Dù chín rồng phun nước một vùng kỳ quái mắt nhìn bốn phương chuyển nạp bị thua. Chỉ có Vân Môn Đại sư biết trên cây sắt sinh hoa đạo. Nếu ta thấy một gậy đánh chết cho chó ăn. Vân Môn Đại sư đủ mắt mũi gì mà nói như thế. Các người muốn thấy Vân Môn Đại sư chăng? Sơn Tăng chẳng tiếc lời nói buông thả một tuyến đường. Lại có hiểu rõ chăng? Chẳng vào sóng ngàn tầm, khó gặp cá vừa ý. Lại nói: Chưa lìa Đâu suất đã xuống cung vua, chưa ra thai mẹ đã độ người, một lần xem qua là đó, tử tế kiểm điểm tương lai, cũng trệ cả hai bên. Thật chẳng biết. Đông phất vu kịp chạy ngựa, Nam Thiệm bộ châu nhảy múa, Tây Cù-da-ni gõ nhịp, Bắc Uất-đơn-việt phiên cân đấu, cũng không phải cũng không đúng, cũng không được cũng không mất. Lại nói rốt ráo như thế nào? Tám sừng ma bàn chạy trong không. Vận Vương thỉnh Tiểu Tham - Tăng hỏi: Không tu không chứng, chính là Bản Giác Diệu Minh, vì cầu Phật quả Bồ-đề, chính là Nhân có tạo tác, bỏ hai đường này xin Sư chỉ thẳng. Sư nói: Kiếm báu thổi lông ép người lạnh. Lại nói: Một điểm Linh quang khác, vạn cố chiếu nhân gian. Sư nói: Dùng một điểm linh quang làm gì. Lại nói: Có thể nói: Lời lời họp đạo Thánh, pháp pháp tại viên thành. Sư nói: Nó cũng vốn không lời. Tăng lễ bái. Sư bèn nói: Rộng rãi chẳng ngoài, mười phương cõi nước thấy trước mắt. Tịch liêu (trống vắng) chẳng trong, một lông trên đầu cõi Bảo Vương. Dù chẳng trong chẳng ngoài dứt kia dứt đây, nói cổ nói kim toàn tối toàn sáng. Đến chỗ ấy cũng phải có chuyển thân (xoay mình) một đường mới có thể được Đại tự tại. Há chẳng thấy nói: Đại nhân đủ đại kiến, đại trí được đại dụng. Pháp đại cơ, các cơ dứt mất. Lập một lời, các lời dứt gọi. Dù lời lời cơ cơ đầu đầu bức ép nhau, như khóa vàng xiềng xích mãi chẳng dứt. Đây cũng là việc trên đường trường sinh. Do đó nói: Ngôn phong nếu sai thì cửa huyền xa vạn dặm. Dù vách đứng buông tay tự chịu thừa đương. Chết rồi sống lại dối ông chẳng được, là ý chỉ phi thường, người sao lường được. Đã có ý chỉ phi thường ắt phải nhờ người phi thường. Đã có người phi thường ắt phải sáng ý chỉ phi thường. Chính lúc ấy như thế nào. Nghiêng mình phương ngoài xem ai là người trong ấy. Lại nói Đức hộ sinh suốt cả khôn duy. Cây cỏ côn trùng khi thích Thánh, thắng địch kinh người có kỳ đặc. Như thế nào là kỳ đặc? La la lý lý gõ giường thiền. Sư xuống tòa. Tiểu Tham: Trước mắt không một pháp, sum-la vạn pháp rõ ràng. Cách ngoại lập ngàn cơ. Quyền thật chiếu dụng rộng lớn như thế là quyền vậy. Nạp núi Tu-di vào hạt cải, ném cả đại thiên ra phương ngoài là thật vậy. Trên là trời, dưới là đất, núi là núi sông là sông, Tăng là Tăng tục là tục, là chiếu vậy. Rộng khắp sa giới mà không dư thừa là dụng vậy. Hét như sấm rượt, đánh gậy như mưa rơi. Chỉ như chẳng rơi vào quyền thật chiếu dụng, chẳng rơi vào cách ngoại ngàn cơ chẳng rơi vào một pháp trước mắt. Chính ngay lúc ấy như thế nào mà khế hợp. Nếu là tâm cơ siêu thoát, được mất đã quên, huyền diệu dứt lý. Có người ấy chăng. Nhờ nghe nói nêu cước nọ liền đá. Thích-ca tự Thích- ca, Di-lặc tự Di-lặc, giải thoát tự giải thoát, Thiện Tài tự Thiện Tài. Nếu hoặc ai chưa được như thế, mà ngay đây tin được kịp, nắm được định, làm được chủ, thì liền phải phương tiện của người xưa lập ra mà khắp nơi sáng ra, vật vật hiển sáng, không một mảy may lầm lỗi, không một mảy may đắc thất, sạch làu làu dứt thừa đương, sáng rỡ rỡ không hồi hỗ. Đạp lên bản địa phong quang ấy, thấy rõ bản lai diện mục (mặt mũi xưa nay) chính ngay lúc ấy như thế nào mà ra sức. Chẳng khởi mảy may tâm tu học, trong ánh sáng vô tướng luôn tự tại. Lại có tụng rằng: Phật Phật đạo đồng, đồng chí đạo Tâm tâm chân khế, khế chân tâm Rộng rãi thấu qua ngoài Oai Âm Trời đất lâu dài biển lại sâu. Phu nhân Ích Quốc thỉnh Tiểu Tham. Sư nói: Trước mắt không một pháp, kín đáo có ai biết cách ngoại bày ngàn sai, đáo đầu cần tự dùng, nếu tự dùng được thì đổi rơm thành lúa, đổi yểu thành thọ đổi đất đai thành vàng ròng, khuấy sông dài thành sữa chẳng bị phân ngoài. Lại như chỗ kín đáo. Nếu biện được thì chỗ dùng tức là kín đáo, kín đáo tức chỗ dùng. Do đó nói: Tam-muội của Thế Tôn, Ca-diếp chẳng biết, Tam-muội của Ca-diếp A-nan chẳng biết, Tam-muội của A-nan, Thương-na-hòa-tu chẳng biết. Tam-muội của Thương-na-hòa-tu, Ưu-ba-cúc-đa chẳng biết. Đã là mỗi mỗi chẳng biết thì làm sao truyền trao nhau đến chỗ ấy chẳng ngại, chỗ dối gạt thẳng là dối gạt, chỗ kín đáo là kín đáo. Nếu hiểu sơn Tăng vừa đến đáp. Tăng ấy hỏi Tam-muội của Hòa thượng thì ai biết, đáp rằng sơn Tăng tự biết. Tuy như thế rất giống như cầm tay lên núi cao, chưa khởi kẻ bàng quang cười nhạo. Các người thường thường hướng vào chỗ biết chẳng biết mà sống. Nếu nói biết thì người này chỉ đủ một con mắt. Nếu nói chẳng biết thì người này cũng chỉ đủ một con mắt. Lìa biết và chẳng biết thì ngay lúc ấy như thế nào? Đại thiên sa giới bọt trong biển, tất cả thành hiền như điện xét. Lại nêu ngoại đạo hỏi Phật: Ngày hôm qua nói pháp gì? Thế Tôn đáp: Nói pháp định. Ngoại đạo hỏi: Hôm nay nói pháp gì? Phật đáp: Nói pháp chẳng định. Ngoại đạo hỏi: Hôm qua nói định, hôm nay vì sao nói chẳng định? Thế Tôn đáp: Hôm qua định, hôm nay chẳng định. Sư nói: Lớn nhỏ Thế Tôn đầu rồng đuôi rắn. Nếu là Thiên ninh thì chẳng thế. Bỗng có người hỏi: Buổi sớm nói pháp gì? Đáp: Pháp chẳng định. Nay thì nói pháp gì? Đáp: Pháp định. Có kệ nói: Sáng chẳng định mà nay sao định. Liền hướng vào người khác nói một lưỡi câu đưa lên. <詞>Tiểu Tham: Đề cơ hướng thượng phải là con mắt hướng thượng. Chỉ việc trong ấy phải là người trong ấy. Nếu hay lập ngàn Thánh ở dưới gió, ném đại thiên ở phương ngoài, dưới gót chân cứng ngắt ngắt. Trên đảnh môn tối mịt mù. Quét sạch chức vụ quan trọng chẳng thông phàm Thánh, cũng chưa là cơ hướng thượng, cũng chưa là việc trong ấy. Lại thế nào là cơ hướng thượng là việc trong ấy? Chước nhiên đem gọi thật có lời nói gì, rất chẳng biết. Như đem quả ngọt mà đổi mướp đắng, gạn lọc nghiệp căn đều là việc không thật. Nếu là người linh lợi nhờ nghe nêu nói liền biết lại lại chẳng bối rối. Đã chẳng bối rối thì trong hai mươi bốn giờ tuy trọn ngày ăn cơm mà chẳng từng nhai một hạt cơm, trọn ngày mặc áo mà chẳng từng mang một sợi chỉ, trọn ngày nói năng mà chẳng từng động lưỡi. Tuy như thế, có người nào đến được chỗ ấy. Vì sao thế, chỉ vì chẳng lạc tâm ý thức, chẳng lạc chỗ sạch dơ, thấu suốt Oai Âm bờ kia toàn sáng Bản nguyện yếu địa. Một gậy một hét, một xô một gõ một ra một vào, một hỏi một đáp. Thí như quăng kiếm lên không chớ luận tới và chẳng tới. Bởi khoảng không chẳng có dấu tích, kiếm nhọn không thiếu. Chính ngay lúc ấy trước thật một câu như thế làm sao nói? Có hiểu rõ chăng? Buông tay bên kia ngoài ngàn Thánh, đèn lồng cột cái phóng ánh sáng. Có tụng rằng: Diệu Đức không sinh khen chẳng cùng, Ma-hê Chánh nhãn gió chẳng thông, Cả đại thiên ném ngoài phương khác, Tác giả cần sáng hướng thượng tông. Giải Hạ Tiểu Tham rằng: Hộ sinh cần phải giết, tuy giết một không bị (hại) thương. Người sáp đã băng, công ấy như thế. Có thể đi thuyền sắt vào biển, có thể bay ma bàn trên không, nửa khép nửa mở thành cục thành khối, ra ngoài cái Đại Viên giác không được, nếu có ra được đáy Viên giác thì liền có thể nghịch thuận dọc ngang, giết chết cứu sống tự tại. Thế nên Văn-thù Bồ-tát một hạ ba chỗ qua hạ một ngày ở cung ma, một tháng ngày ở nhà Trưởng giả, một tháng ngày ở phòng dâm, đã ba chỗ qua hạ liền vào trong hội Thế Tôn. Giải chế tột là bất bình. Do đó Ca-diếp muốn bạch chùy đuổi Văn-thù, vừa khởi niệm này, liền thấy trong hội có vô lượng Thích-ca, vô lượng Văn-thù, vô lượng Ca-diếp, vô lượng kiền chùy. Ca-diếp đã thấy thế liền trợn mắt phùng má. Vì sao? Vì người quá lượng có thấy quá lượng, có dụng quá lượng. Tuy Đầu-đà sắc vàng (Ca-diếp) đến chỗ ấy co tay chẳng được, duỗi tay chẳng được. Vậy lúc nào là trong Đại Viên giác hay ở ngoài Đại Viên giác. Cần phải thông phương tác giả mới có thể chứng minh. Vì sao thế? Vì đây là cảnh giới Đại nhân của Văn-thù Phổ Hiền. Nếu tham được cảnh giới Văn-thù Phổ Hiền thì vô biên biển hương thủy, vô lượng vô số vi trần Phật sát đều là chỗ an cư. Cho đến hiện vô biên thân nơi nơi đi đứng ngồi nằm, cũng chẳng hại nhau cũng chẳng phạm tay. Chính ngay lúc ấy nếu là người tri âm, thì khởi nêu lên liền biết sở dó Thiên ninh tuy cùng đại chúng chín mươi ngày an cư, các người có biết chăng? Các người nếu thấu đầu thấu đáy thì liền là cảnh giới Văn-thù, Phổ Hiền. Nếu chẳng thấu đầu thấu đáy tức là cảnh giới Ca-diếp. Lìa Văn-thù Ca-diếp thâu nhân kết quả một câu như thế làm sao nói? Có hiểu rõ chăng? Chín mươi ngày công phu nay đã mãn, mở toang túi vải đều thong dong tự tại. <詞>Tiểu Tham. Tăng hỏi: Như thế nào là khách trong chủ? Sư nói: Xà-lê hỏi chỗ còn mang hạt bụi nhỏ. Lại nói: Như thế thì Linh quang ngàn xưa đẹp, vạn pháp lạc bậc thang. Sư nói: Đứng dưới thềm. Hỏi: Như thế nào là chủ trong khách. Sư nói: Sơn Tăng chẳng khỏi tự nói lấy. Hỏi: Vị trong cổ Phật không tìm chỗ, sâu sâu trong cỏ bày toàn thân. Sư nói: Chớ đến trong ấy trình túi che. Hỏi: Như thế nào là chủ trong chủ. Sư nói: Ngồi dứt đầu lưỡi không đi lấy. Lại nói: Trong tay áo chày vàng sáng rực rỡ, kiếm báu thổi lông ép người lạnh. Sư nói: Bảy mươi lăm gậy lại thành một trăm năm mươi. Hỏi: Như thế nào là khách trong khách. Sư nói: Ngoài núi xanh lại sầu người. Lại nói: Như thế thì nhà nghèo chưa phải là nghèo, đường nghèo buồn giết người. Sư nói: Trong thôn hoàng miếu mà đi. Hỏi: Chỉ như chẳng dính chủ khách là người nào. Sư liền hét. Sư bèn nói: Mắt thấy biết về đã là phần ngoài, chưa nói trước đã họp cũng dính đường đi. Phải biết trong đó có cỏ cách ngoại làm dụng cách ngoại, sáng đạo cách ngoại, chứng tâm cách ngoại. Sạch làu làu dứt thừa đương, mật mật đường đường dáng rỡ rỡ không hồi hỗ, chỗ vách đứng vạn nhận ngàn sai vạn khác, chỗ vạn khác ngàn sai vách đứng vạn nhận. Do đó nói: Buông câu bốn biến chỉ câu rồng dữ, cơ cách ngoại vì tìm tri thức. Ở trong nếu có thì cái thừa đương nào được cách ngoại thú hướng, cái quyền hành nào được tác lược cách ngoại thì khi hướng đạo ấy cái gì mà liền được nói huyền nói diệu, nói Phật nói Tổ, nói tâm nói tánh. Đã là người này bỏ việc thêm lời, luận gậy luận hét, luận quyền luận thật luận chiếu luận dụng. Cũng là người này chẳng cần nuôi lớn vật, vì ở khoảng giữa chẳng phạm phong mang, bụi nhỏ chẳng lập, như thế nào mà siêu thoát. Có hiểu rõ chăng? Đại Đạo thể rộng không trước sau, rõ ràng cần phải người trong ấy. Lý Do Bổ thỉnh Tiểu Tham: Bỗng đất hẹn nhau, toàn cơ riêng chứng, mắt mắt chiếu nhau, tâm tâm biết nhau, đều chẳng từ chỗ khác đến, hết cả đều ở trong lòng tuôn ra. Chính ngay lúc ấy sum-la vạn tượng, cổ Phật gia phong. Ngọc bích trời xanh, Đạo nhân tìm sống. Mở toang kho tàng của mình, chở ra gia tài của mình. Cùng chư Phật Tổ sư đồng đức, đồng thành Duy-ma Bàng Lão đồng nắm đồng buông, cùng Bùi Tướng Quốc Vương Thường Thị, đồng một cơ dụng, đồng một cảnh chiếu, lại không có việc khác, cắt đứt đường sinh tử, đánh phá hang ổ phiền não, chẳng tiêu một câu. Lại nói: Đó là câu nào? Lại hiểu rõ chăng. Siêu nhiên thấu thẳng ngoài Oai Âm, trước mắt không pháp để thương lượng. Thỉnh Tiểu Tham rằng: Rõ ràng dứt thẳng chẳng lập thềm bậc, thấy mặt trình nhau, toàn bày chánh thể. Lấy pháp Thế Đế mà tiếp người thì rơi vào trong pháp Thế đế. Lấy Phật pháp mà tiếp người thì rơi trong Phật pháp. Lấy cơ Tổ Phật mà tiếp người thì rơi vào trong cơ cảnh Tổ Phật. Lấy hướng thượng niêm đề mà tiếp người thì rơi vào trong niêm đề hướng thượng. Lấy thế ấy thế ấy mà tiếp người thì rơi vào trong thế ấy thế ấy. Lấy chẳng thế chẳng thế mà tiếp người thì rơi vào chẳng thế chẳng thế. Lấy đều chẳng thế đều chẳng thế mà tiếp người thì rơi vào đều chẳng thế đều chẳng thế. Đến chỗ ấy mà ràng buộc thì nó chẳng ở, ngàn Thánh ra đời, chẳng dám chính mắt nhìn nó. Tuy là phải đương đầu mà thoát thì hướng vào bên nào mà thừa đương, thì cũng chỉ được cái không dính dáng vào cái gì. Lại làm sao mà họp sát. Nếu có người đại căn đại khí, hướng chỗ họp sát mà tẩy được một tuyến, liền có thể cầm một cọng cỏ mà làm thân vàng trượng sáu. Có lúc đem thân vàng trượng sáu mà làm một cọng cỏ. Có lúc đem lồng đèn làm cột cái, có lúc đem cột cái làm lồng đèn. Có lúc cởi Phật điện ra tam môn, buông một tuyến khiển, nắm đầu ngạch Tân La cùng nước Chiêm Ba. Lại nói: Là tông chỉ gì? Là cảnh giới nào? Chính ngay lúc ấy đương đầu một câu như thế làm sao nói? Đầy mắt sáng trưng không trước sau, hoa Ưu-bát-la nở trong lửa. <詞>Tiểu Tham. Sư nói: Nêu ngàn sai, chỗ nêu dứt rào cản. Vạn hóa một nắm, khi nắm không trước sau. Chỉ như nói Thượng cổ chư Phật chưa ra đời, chưa thành đạo, chưa phát tâm trở về trước, lại có cái tin tức không? Nếu nói có thì có ở đâu? Nếu nói không thì sao được cái này. Do đó trước hiền sau Thánh, trước Phật sau Phật, chỉ là nắm chắc được nó, cảnh ngưỡng được nó. Lại nếu chưa hiểu thì từ trên cơ cảnh mà nắm chỗ định, mà làm được chủ. Sơn Tăng đêm nay cùng nó làm chủ đi. Chư Phật khi chưa ra đời chưa phát tâm chưa thành đạo tất cả đều ở trong tay của Sơn Tăng, phóng giáo tha thông một khẩu khí. Nếu chẳng phóng hành thì chẳng tiêu một giết chết. Do dó Hoàng bá nói: Đầu trâu nói ngang nói dọc, chẳng biết có cửa hướng thượng đóng chốt. Nếu dạy nó cửa hướng thượng đóng chốt, thì Tổ Phật cũng đưa chẳng ra, thật vì đất rộng người thưa, gặp nhau thì ít. Bỗng nếu có người đồng sống đồng chết cùng đến Thiên Ninh gặp nhau, lại cần phải chứa nó. Vì sao? Nếu nó ngồi sơn Tăng cũng phải xuống giường thiền. Nếu sơn Tăng ngồi nó cũng phải đứng một bên, được như đây. Tuy là đồng đường nhưng chẳng đồng vết xe, tuy là đồng sáng nhưng chẳng đồng tối, tuy là đồng được nhưng chẳng đồng mất. Lại cuối cùng thì thế nào? Ló đầu ngoài trời xem ai là người trong ấy. Lại nêu: Ở Kinh Triệu có Hiện Tử Hòa thượng sau khi tham vấn ngài Động Sơn rồi thì chỗ ở không nhất định, chẳng theo luật nghi. Mỗi ngày thì dọc theo bờ nước nhặt sò ốc đế sung triều, đêm đến thì ngủ trong đống giấy tiền ở miếu Bạch Mã. Lúc đó có Hoa Nghiêm Tịnh Thiền sư nghe nói muốn biết thật giả, liền lén trốn trong đống giấy tiền, nửa đêm Hiện Tử trở về. Sư Tịnh bèn cầm gậy hỏi: Như thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến? Hiện Tử đáp: Mâm đài rượu trước Thần. Sư Tịnh lấy làm lạ, sám hối mà lui. Sư nói: Các người nếu chưa hiểu rõ, sơn Tăng sẽ giải thích sau mâm đài rượu trước thần, đàn sắt lớn như nắm tay, một đánh liền nát bét, chẳng đáng nửa phần tiền. Phu nhân Ích Quốc thỉnh Tiểu Tham. Tăng hỏi: Trước hết là Oai Âm Vương, sau hết là Lâu Chí Phật. Chưa biết Oai Âm Vương tham kiến người nào? Sư nói: Tham kiến không mặt mũi. Tăng hỏi: Còn người không mặt mũi thì thấy ai? Sư nói: Con chó điên rượt cục đất. Tăng hỏi: Sao (nói gì?) cái gậy ở trong tay học nhân. Sư nói: Ông thử dùng xem. Tăng nói: Đến chỗ ấy được không lời có thể nói, không lý có thể bày. Sư nói: Chỉ được bảy thành. Tăng hỏi: Có thể nói Sư thừa chẳng lập đến đời truyền nhau. Sư nói: Một dao cắt đứt. Tăng nói: Đã rõ như thế, Hòa thượng cần gì phải tìm Bạch Vân. Sư nói: Ông nói Oai Âm, Lâu Chí Phật hiện nay ở đâu? Tăng nói: Một xuyên qua. Sư nói: Ở trên đầu lại thêm một mắt mới được. Sư nói: Ba đời chư Phật cũng thế, nhiều đời Đại Tổ sư cũng thế, Đức Sơn cũng thế, Lâm Tế cũng thế, Thiên Ninh há có thể chẳng thế. Do đó sớm mai cũng thế mà nay cũng thế - Lại nói: Như thế như thế là cái gì? Lại hiểu rõ chăng. Do đó nói: Hướng thượng một đường ngàn Thánh chẳng truyền, học giả cực nhọc như khỉ bắt bóng. Nếu như gặp kẻ đạt trở về trước thì làm sao đề xuyết, làm sao hiểu rõ, nói lý tánh huyền diệu được chăng, hét một hét được chăng, vẽ một nét (vạch một vạch) được chăng, miệng được chăng sáu lần sáu là ba mươi sáu, chín lần chín là tám mươi mốt được chăng. Lại đều chẳng phải đạo lý ấy, huống đây là diệu của ngàn Thánh chẳng truyền, chỗ đó chỉ có Phật cùng Phật mới có thể biết. Sau khi biết rồi lại truyền cho người hay chẳng truyền cho người. Nếu truyền được thì đầu rồng đuôi rắn. Nếu truyền chẳng được thì ngàn Thánh vạn Thánh người người đều đến chỗ ấy. Hoặc Phật hoặc Tổ. Ở tất cả người cơ cảnh chẳng đến chỗ phát sáng ở tất cả người chỗ dụng chẳng kịp đề xuyết, ở tất cả người tình thức tính đếm chẳng được chỗ ngồi dứt đường ngàn sai. Tuy cầm một câu mà họp gấm họp hoa, họp hoa họp gấm, có thể tiến đến bờ bên đó. Nếu cũng thừa đương thì không còn can thiệp. Đến chỗ ấy có gậy có hét, có quyền có thật, có giết chết có cứu sống, có bắt có thả. Chỉ cho chư Phật biết, chẳng cho chư Phật hiểu. Đã cho chư Phật biết vì sao chẳng cho chư Phật hiểu. Hiểu thì truyền được. Do đó cần người tâm cơ dứt trí cảnh quên được mất, bỏ phải quấy, một lúc rơi hết, vạn cảnh xóa hết mà không chướng ngại gì. Có thể cùng ngàn Thánh dắt tay nhau đi, đồng dụng đồng chứng tất cả chỗ đều sáng rỡ, tất cả chỗ đều lóng trong nhổ đinh tháo chốt, mở niệm cởi trói. Chỉ như nay sơn Tăng đối chúng nói thế lại sẽ được ngàn Thánh chẳng truyền chăng? Rõ ràng sẽ chẳng được. Đã chẳng được thì lại nói gì? Ngàn người vạn người quản lấy chẳng làm sao? Do đó người xưa nói: Tuy điểm phá lưới tòng ý ở đấy khi văn thái chưa sinh, cần một thấy liền thấu, một cắn liền dứt. Nếu cũng chưa hiểu thì rất chẳng được nghi. Như nay chẳng tiếc tánh mạng, hướng vào trong ấy cùng các người thông tin tức. Có hiểu chăng? Ngàn Thánh cùng truyền bát không đáy. Đại thiên sa giới một bọt nổi. <詞>Tiểu Tham: Quét sạch đường ngàn sai, ngồi tức là phải quấy, báo hóa chẳng dung thân, nói nín bặt tin tức. Chánh ngay lúc ấy nếu có ý Tổ sư Tây Trúc đến chính là thấu đất thấu cát. Nếu không có ý Tây Trúc đến rất giống như đối mặt gạt lừa nhau. Bỏ hai đường này phải biết nhà người khác có đường xuất thân. Này đại chúng. Rõ ràng chẳng phải là việc trước mắt cũng chẳng phải là cơ trước mắt. Có một câu ngàn Thánh thấy người chẳng thấy. Có một câu ngàn Thánh ló đầu chẳng được, có một câu ngàn Thánh cùng dùng. Lại nói: Một câu này rốt ráo từ chỗ nào tuôn ra. Nếu có biết được chỗ tuôn ra thì sạch làu làu sáng rỡ rỡ, cũng chẳng nói một tức ba, ba tức một. Chẳng dùng gậy chẳng dùng hét, chẳng dùng nói thấy thành công án, chẳng tiêu nháy mắt nhướng mày, chẳng cần nói huyền nói diệu. Do đó Thích-ca, Di-lặc Văn-thù Phổ Hiền cũng là nó khiến chạy, nó vốn chẳng làm tất cả, chẳng là tất cả, quét sạch tất cả, từ xưa không lay động, mỗi mỗi đều ở dưới gót chân người, viên minh chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Người người hồi quang được độ, cũng chẳng ở chỗ nó, cũng chẳng ở chỗ mình, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa. Song tất cả sự kỳ đặc nhân nó mà lập nên, tất cả sự thù thắng, nhân nó mà viên thành, như đao báu kho vua, như Ma-hê ba mắt như ba điểm vòng tròn, như trống độc. Ngàn lời vạn câu trọn nói nó không thành, nói nó chẳng đến. Chánh ngay lúc ấy có hiểu rõ chăng? Như kiếm báu vua theo ý vua, chém chặt dọc ngang được tự do. <詞>Tiểu Tham. Tăng hỏi: Vua Ba-tư-nặc thỉnh hỏi Thế Tôn rằng: Trong Nghóa Thánh đế lại có sự thế tục chăng? Thế Tôn nói: Đại vương, khi ông ở thời Phật Long Quang từng hỏi nghóa này. Nay lấy câu trả lời ngày xưa mà đáp lại. Sư nói: Một lúc ở trong đó. Lại nói: Chỉ như ngài Thúy Nham nói: Đại vương khéo hỏi mà chẳng khéo đáp, Thế Tôn khéo đáp mà chẳng khéo hỏi, chưa biết ý này như thế nào? Sư nói: Tháo chốt cửa. Lại nói: Nếu bỗng Đại vương thỉnh truyền lời này hỏi Hòa thượng chưa biết như thế nào mà đáp. Sư nói: Mở miệng thấy mật. Sư nói: Sớm đã bày đường dây, như nay lại mở gia phong. Ma-hê- thủ-la ba mắt tám mặt thông suốt. Ông già Thích-ca trăm ức thân mười phương phân hình. Như ấn in trên không, ấn in trên nước, ấn in trên bùn, xưa chẳng phân bờ mé trước sau, cũng chẳng phân dọc ngang đều khác. Đến chỗ ấy như vào sâu đến xương tủy, ngay đây mà thấu suốt, chẳng nghi đầu lưỡi người thiên hạ, nhờ nghe nêu nói dở chân liền đi, có thể quét sạch mười phương, có thể càn khôn riêng bước. Nếu hoặc còn lưu thấy nghe, còn trệ ngoài da, thì phải ngay gót chân mỗi mỗi rỗng suốt, mỗi mỗi thấy bản lai diện mục (mặt mũi xưa nay). Đạp trên bản địa phong quang chẳng theo thanh sắc, chẳng ở phàm Thánh, chẳng rơi vào thấy nghe, chẳng dính vào nói nín, sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Do đó nói: Mười phương không vách ngăn, bốn mặt cũng không cửa. Toàn thể cùng cái gì đến, toàn thể cùng cái gì đi, rốt ráo trời người, quần sinh đều nương nhờ ân lực này. Nếu biết ân lực này trọn chẳng luống uổng. Từng bước lên đất thật, từng câu thấy rõ căn nguyên. Toàn thể như như không biến động, suy đây kịp đến các quần linh, nhiếp đây khắp giúp phẩm vựng. Chính ngay lúc ấy vượt thanh vượt sắc một câu như thế làm sao nói, có hiểu rõ chăng? Chẳng cần phí bỏ sức mảy may nuốt cỏ gai lật nhảy vườn vàng. Phu nhân Trương Quốc Thái thỉnh Tiểu Tham: Gió sương lạnh ngắt mưa nhỏ phất phơi, cửa giải thoát bát tự mở toang, con mắt Chánh pháp trên đảnh môn bày rõ. Lại có vượt tông vượt cách, lìa kiến dứt tình chăng, hãy bước ra làm chứng cứ. Nếu cũng chứng được, thì bảy Phật trở về trước cũng chẳng thế bảy Phật trở về sau cũng chẳng thế hai mươi tám Tổ Tây thiên cũng chẳng thế, sáu Tổ nước Đường cũng chẳng thế. Cho đến lịch đại tông sư, thiên hạ Hòa thượng cũng chẳng thế. Vì sao chẳng cùng? Chỉ sợ dối gạt người. Đã chẳng cùng thế (gì), cũng chẳng dối gạt người thì làm sao thừa đương. Đến chỗ ấy thì trong ruộng bằng vách đứng vạn nhận, chỗ vách đứng vạn nhận một giống ruộng bằng. Đem dứt sạch chức vụ quan trọng chẳng thông phàm Thánh cũng không lời nói phân, cũng không phần diễn giảng. Cuối cùng nói tất cả người vào làm gì. Lão Tăng chẳng tiếc lời nói mà thông cái tin tức ấy. Sư bèn dựng cây phất tử lên nói rằng: Thấy chăng? Sư lại gõ giường thiền nói: Có thấy chăng? Nếu nói thấy, lại được không dính dáng. Nếu nói chẳng thấy càng không dính dáng. Cuối cùng làm sao, nếu bảo Lão Tăng chỉ cùng ông nói trải vô cùng kiếp sờ mó chẳng được chẳng theo lời nói mà hiểu thì sạch làu làu sáng rỡ rỡ, mỗi mỗi đều quét sạch Báo Hóa Phật, người người khác đều khí xung vũ trụ. Nếu ngàn Phật ra đời khớp giống ruồi muỗi cũng gì cầm được định làm được chủ, mới là bổn phận của tác gia. Chính ngay lúc ấy hiểu thế nào một câu hướng vượt cách chư Phật, quét sạch đầu thiên hạ nạp Tăng. Lại có tụng rằng: Tuy là nói phá tông năm nhà, Sao bằng Tào khê một đường thông. Kiếm báu Đương Dương ai giết sống, Lìa danh lìa tướng chấn động cao phong. <詞>Tiểu Tham: Chẳng phải Như Lai Niết-bàn tâm, cũng chẳng phải Tổ sư Chánh pháp nhãn. Vạn duyên hiểu chẳng đến, ngàn Thánh biết chẳng kịp, Từ Oai Âm Vương kiếp không trở về trước, chính là lúc hươi kiếm báu kim cương, huống là Oai Âm Vương trở đi cho đến cùng tột kiếp vị lai chỉ là đánh cát đằng trọn chẳng phải nguyên là thảo liệu. Do đó nói: Nếu ta một mực nêu nói Tông giáo thì trước pháp đường cỏ cao hơn trượng. Như nay việc chẳng được mình hướng các người nói thì hết cả đất đai là ánh sáng Bát-nhã. Khi ánh sáng chưa phát thì không Phật không chúng sinh, tin tức từ chỗ nào đến được. Nếu hướng trong ấy liền dứt tin tức đi. Người này mạng căn chưa dứt. Nếu mạng căn dứt rồi thì cát đá rổn rảng nói năng đầy đủ, cơ cảnh có mặt. Tuy thế, đây cũng là cơ thứ hai. Nếu đến cơ thứ nhất, nói gì Oai Âm trở về trước kiếp không bờ kia. Nếu khiến Đức Sơn Lâm Tế hét xong thừa đương, đầu gậy thủ chứng, chưa khỏi dùng phương pháp chẳng bị người lừa. Răng như rừng kiếm, miệng tợ chậu máu. Ngay đây mà thừa đương, có thể dùng lồng nhốt cổ kim, càn khôn quét sạch. Tuy nhiên Thiên Ninh cùng ai nói năng giống như bên mình không người. Vì sao thế? Vì Phật Phật đạo đồng, Tổ Tổ cùng chứng. Mỗi mỗi ở đây thừa đương. Hướng vào đâu mà để một điểm tuyết trên lò lửa nóng đỏ. Đến chỗ ấy trong ngoài thuần tịnh, trong ngoài nhất như. Tuy rơi vào cỏ nhưng chưa khỏi dụng hướng thượng, chánh ngay lúc như thế? Đầu gậy có mắt sáng như mặt trời, cõi vàng ròng trong lửa xem. Lại nêu việc Bàng cư só hỏi Mã Đại sư: Chẳng cùng vạn pháp làm bạn là người nào? Mã sư đáp: Đợi ông một hớp uống hết nước Tây giang ta sẽ nói với ông. Sơn Tăng lược bày cái tin tức ấy, vì người phải thấu suốt, giết người phải thấy máu, ngay đó liền thừa đương đã rơi vào mặt trăng thứ hai. Lại nói: Như thế nào là mặt trăng thứ nhất. Hét. Đêm đông Tiểu Tham. Tăng hỏi: Đức Sơn ngày xưa Tiểu Tham chẳng đáp thoại. Còn ngài Triệu Châu Tiểu Tham thì đáp thoại, không biết đáp là đúng hay không đáp là đúng. Sư nói: Đều là chẳng đúng. Lại nói: Tiếng hay ở tai người đều điếc (sợ?). Sư nói: Tiêu bốc nghe âm thanh rỗng. Hỏi: Bỗng nếu trong đáp thoại mà chẳng đáp thoại, trong chẳng đáp thoại mà đáp thoại thì khi ấy thế nào? Sư nói: Trong hang ổ cát đằng mà ló đầu ra. Hỏi: Bỗng nếu có lão ấy đến chẳng quản đáp thoại hay chẳng đáp thoại, chỉ khi lật đổ giường thiền thì như thế nào? Sư nói: Xương sống liền đánh. Tăng nói: Cao vót (?). Sư nói: Cao vót. Tăng liền hét. Sư cũng hét. Tăng lễ bái trở về chúng. Sư nói: Một vụng lậu đậu. Sư bèn nói: Đại chúng, dứt hết các cơ lúc chưa có điềm báo, quét sạch đầu lưỡi thiên hạ, dấu vận ngầm ở tức Hóa Thế Đế một Dương liền sinh - Lại nói: Là một hay hai. Nếu nói là một thì nhân đâu mà trong Thánh đế nghóa lại có Thế tục đế. Nếu nói là hai thì vì sao trong Thế tục đế không có Thánh nghóa đế. Đến chỗ ấy nếu không có mắt thấu cửa để nhìn thấu cơ quan thì chưa khỏi mù mù điếc điếc lại biết cái đó chăng, như gương sáng trên đài, châu sáng trong tay. Nêu vô khiển để chiếu vạn tượng rõ ràng, tuy bốn tự đổi dời, trong đó có một thể nhỏ bé không đổi dời. Tuy vạn cơ đều đến, trong đó có một nguồn trạm nhiên bất động. Do đây mà phát chuyển con đường đi, tùy cơ ứng cảm. Các người nếu cũng chẳng thấy, dầu khiến ngàn Thánh xuất hiện thì cũng rờ mó không được. Nạp tử lỗi lạc bước ra thì mắt như chuông đồng, miệng nơi trôi chảy cũng nói nó không được, cũng nhìn thấy nó không được. Thiên Ninh ý muốn cùng các người mở trói tháo chốt. Đến chỗ ấy thì một điểm tài giỏi cũng không được. Lại nói vì sao như thế? Nhà người khác tự có đường thông lên trời. Rất kî rõ ràng chỉ ngày ấy. Sư nói: Đêm qua khi chuông kêu, các người đều đến đây, đã là đâm não vào chậu keo. Đêm nay khi chuông kêu thì lại có việc gì. Hai lớp ba lớp đã rơi vào thời tiết. Nếu là biết có nhờ (hãy) nghe nêu nói thấu xương vào tủy cất chân liền đi, quét sạch Báo Hóa Phật, chẳng rơi vào nói nín thanh sắc, tức so chút ít. Nếu chuẩn theo trước chỉ giữ hang ổ. Sơn Tăng chẳng khỏi hướng về chỗ vô sự mà sinh sự, chỗ không nói mà hiển nói, chỗ không cát đằng mà nói cát đằng, chỗ không gai gốc mà lập gai gốc, một hạt bụi vừa dấy lên thì cả đại địa gồm thâu, bốn phương tám hướng sạch làu làu. Hoa nở thế giới khởi, phù tràng vương sát sáng rỡ ràng, dù cho vô tình hữu tình đều thành Phật đạo, nói có nói không đều chuyển pháp luân. Đây cũng là bên biển pháp tánh mà nhặt lấy. Nếu đến dưới cửa nạp Tăng dù cho một gậy đánh phá hư không, một tiếng hét, hét tan mây trắng. Thích-ca, Di-lặc cũng phải chạy đi, Đức Sơn Lâm Tế trợn mắt phùng má chưa phải là bổn phận khí ở đấy. Do đó nói: Quét sạch đầu lưỡi riêng sinh kiến giải họ tham hoạt cú chẳng tham tử cú, ngay nơi hoạt cú tiến cử được, vónh kiếp không quên. Ngay tử cú mà dâng được. Tự cứu không xong, chỉ như các người, tức nay làm sao hiểu được hoạt cú của người, tâm chẳng phải Phật là hoạt cú sao không dính dáng. Chẳng phải tâm chẳng phải Phật chẳng phải vật là hoạt cú sao không dính dáng. Chớ phải là nhập môn liền đánh là hoạt cú sao không dính dáng. Nhập môn liền hét là hoạt cú sao không dính dáng. Chỉ có tất cả lời nói đều là tử cú, làm sao là hoạt cú, có hiểu chăng? Núi cao ngàn nhận đứng một chân, bốn phương tám mặt tối mịt mờ. Lại nói: Một hớp uống hết nước Tây giang. Cỏ gai lật giết chết lão Bàng. Rõ ràng nếu cũng nuốt được, quản lấy Hải nội vô song. Sư nói: Trời không bốn vách, xa xôi ràng buộc. Đất dứt tám duy hiểu không ngăn cách, cùng hư không đồng thể, họp sáng họp tối, cùng hư không đồng tuổi thọ. Từ xưa đến nay, người người có một tọa cụ, lấy gì để an bài, nơi nơi đều Di-lặc mở cửa chẳng cần nháy mắt, hết cả là người người thọ dụng không tới không lui, dùng sức đại bi để thành thắng sự này. Do đó ông già Thích-ca chưa lìa Đâu suất đã xuống cung vua, chưa ra thai mẹ đã độ người rồi. Lại nói: Các người phần thượng lại có tin tức này không? Nếu không, thì người người đầy đủ, cái cái viên thành. Nhân đâu mà không. Nếu có, thì nay các người ở đâu mà an thân lập mạng, lại biết rơi chỗ nào chăng? Nếu biết chỗ rơi, thì chẳng động Đạo tràng mà khắp có thể thâu nhận cả mười phương sát hải. Một trần một sát tùy chỗ thọ sinh. Sao đợi chín rồng phun nước thơm, phân tay chỉ trời đất làm tiếng sư tử rống lớn. Phải biết khi chưa ra khỏi thai mẹ đã gầm thét tiếng sư tử, thẳng đến nơi nơi lúc lúc niệm niệm đều viên thành thanh tịnh vô vi không gián đoạn đại giải thoát môn. Chính ngay lúc đó, ngày lên trời Đâu suất đêm xuống Diêm-phù, trong ấy ma-ni châu làm gì chẳng hiện. Dám hỏi các người, trong đó là gì? Lại hiểu rõ được chăng. Tay áo rồng phất lên toàn thể hiện, chỗ đi của voi chúa mất dấu chồn. Sư nói: Đại cơ viên ứng, Đại dụng dọc ngang, chẳng rơi cơ quan (cửa cơ) ngàn Thánh, chẳng dạo hang ổ các tổ, cử một cơ thì ngàn cơ cắt đứt, nắm một việc thì vạn việc đều bày. Cần phải là người đại giải thoát ấy mới có thể nói Tông chỉ hướng thượng há chẳng thấy: Duy-ma chẳng chỗ ngồi mà dời đi cả thế giới Diệu Hỷ, như kim nhọn giữ (ghìm) lá táo lại chẳng thấy. Đại Ngưỡng nói: Nắm một miếng lá cây là dời đi một tòa Ngưỡng Sơn. Thế nên biết việc ấy nếu ở tâm cơ ý thức khế cơ ở trên lời nói mà tìm thì giống như đào đất tìm trời rốt không dính dáng. Nếu là sắt sống đúc nên chẳng dính với hóa thành, chẳng do mê ngộ, chẳng chấp được, mất. Sau đó mới một sáng thì tất cả sáng, một hiểu thì tất cả hiễu, một thấy thì tất cả thấy, một dụng thì tất cả dụng. Đây cũng là nạp Tăng đưa tay ứng cơ vì người làm hành lý. Nếu khiến nó riêng chiếu riêng vận cho đến ngàn Thánh tìm nó chẳng được, các trời không đường dâng hoa, ma ngoại rình xem chẳng thấy, quanh quẩn đi về mười phương vô ngại. Một niệm khắp ứng, dứt hết bờ mé trước sau. Chỉ như nay ngồi đứng nghiễm nhiên, đèn đuốc sáng rực. Lại nói: Là thời tiết gì. Nếu nói là cảnh giới duy tâm là đang ngồi trong rừng gai. Nếu nói là hướng thượng thời tiết thì cũng chưa nhảy khỏi kim cương quyển. Đều chẳng thế lại làm sao. Lại có người nói được chăng? Nếu chẳng lam điền bắn hổ đá cơ hồ lầm giết Lý tướng quân. Có tụng rằng: Trên trời nhân gian chẳng thể bồi Đồng phong ngàn mắt đúng lúc mở Trí Thông cư só thật kỳ đặc Đạo chiếu ba năm hai lần đến. Sư nói: Lời nói phát ra không tiếng, hòa vào lời đánh nát, trước sắc chẳng vật, cùng vật dung hợp nhau. Màn che của thanh sắc tiêu hết, nguồn cội của thấy nghe cũng thoát hết, dù sạch làu làu sáng rỡ rỡ, trong vắt, trắng tinh, bản địa phong quang, bản lại diện mục, thần thông diệu dụng ngang dọc chữ thập, chẳng lìa chỗ ẩn kín, ở chỗ ẩn kín quét sạch mười phương chẳng lìa thần thông diệu dụng. Trong hai sáng có hai tối, trong đồng sống có đồng chết. Như thế cũng chẳng được, chẳng thế cũng chẳng được, như thế cũng được, chẳng thế cũng được. Do đó nói: Tức thấy nghe này không phải thấy nghe, không dư thanh sắc để trình anh, trong đó nếu hiểu toàn vô sự, thể dụng ngại gì phân chẳng phân. Trong đó thấy nghe là thể, thanh sắc là dụng, thanh sắc là thể, thấy nghe là dụng, phân cũng được, chẳng phân cũng được. Do đó Vân Môn nói: Dời lồng đèn trong điện Phật nắm Tam môn hướng lên lồng đèn. Nếu lấy Chánh nhãn nạp Tăng mà thấy thì cũng là việc nhỏ. Dù nhét núi Tu-di vào trong hạt cải, ném đại thiên ra phương ngoài cũng chỉ là đưa nửa cái ấy. Do đó hết cả càn khôn đất đai đều là chỗ không cửa không, lại phải biết có toàn đề thời tiết, ba đời chư Phật chỉ có thể lập dưới gió, sáu đời Tổ sư chỉ được toàn thần xa hại. Đương cơ cắt đứt ngay đây một câu như thế làm sao nói. Cây gậy ba thước khuấy sóng biển, khiến cá rồng kia biết tánh mạng.  <卷>QUYỂN 12 TIỂU THAM 5 Sư trụ ở núi Vân cư, Kiết hạ Tiểu Tham. Vân cư ngàn trăm chúng như không, chỉ duyên trong ngoài dứt tin tức, trong đó không động (trống rỗng) bằng hư không, giết sống toàn nương ân lực này. Do đó nói: Hộ sinh phải là giết, giết hết mới an cư, cần luận ý trong ấy, thuyền sắt nổi trên nước. Tính lại thuyền sắt nổi trên nước cũng có kỳ đặc gì, chỉ như hộ sinh phải là giết. Lại nói: Giết cái gì? Liền có Thiền Hòa Tử nói: Chẳng phải là giết vật mạng, chỉ là giết giặc vô minh, là giết giặc phiền não, là giết giặc sáu căn sáu trần, giết giặc tranh người tranh ta. Tuy cùng một hạ lạp, cần phải mộng thấy dưới gót chân nạp Tăng đã là hộ sinh cần phải sáng ý giết. Như thế nào là ý giết. Cao vót, nếu hướng trong ấy mà biện ra được liền có thể bỏ một tuyến đường, trong mênh mông mà quản lấy, quét sạch đầu lưỡi thiên hạ, sau rồi mới giết hết được. Tuy như thế ông già Thích-ca cũng giết không hết, Ca-diếp giết cũng chẳng hết, hai mươi tám Tổ Tây thiên cũng giết không hết, sáu Tổ đời Đường (Trung Quốc) cũng giết không hết, muốn nói chẳng hết, phải là bỏ hết từ trước đến sau thấy được sáng tối huyền diệu, lý tánh, thù thắng, kỳ đặc, tịnh khiết, cắt dẹp chẳng lưu lại mảy may, cũng chẳng đến chỗ hết cùng cực. Chỉ như chỗ chánh tịnh họp làm gì, có hiểu rõ chăng? Rừng sâu đầm lớn không người đến, tốt nhất dụm đầu cùng thương lượng. Lại nói: Ông già Thích-ca nói: Dùng đại Viên giác làm già lam ta thân tâm an cư bình đẳng tánh trí. Sư nói: Ông già Thích-ca từ bi rất sợ giết, những người các ông chẳng biết cùng ông một lá bùa hộ thân. Tuy thế kiểm điểm tương lai còn mang ảnh hưởng. Nếu là sơn Tăng thì không như vậy. Tức núi Vân cư thấy thành già lam, chín tuần an cư vỗ nhịp là lệnh. Thượng tọa Như thỉnh Tiểu Tham. Tăng hỏi: Bà lão ở thành Đông cùng Phật đồng sinh, vì sao chẳng thấy Phật. Sư nói: Nó đủ ý khí Đại trượng phu. Lại nói: Lấy tay che mặt, mười ngón đều thấy Phật, vì sao trốn tránh không được. Sư nói: Người ta cừ mông được tự do. Lại nói: Ngài Tuyết Đậu nói: Nó tuy là con gái mà có hạnh Trượng phu là chịu hay chẳng chịu. Sư nói: Lời lập lại chẳng đáng xin. Sư nói: Tình cùng vô tình là một thể, mắt thấy thì đều chân, Phật cùng chúng sinh chẳng khác, đương thể toàn hiện, tùy chỗ làm chủ, gặp duyên tức Tông. Có lúc phóng hạnh thì khe suối ngói đá đều sinh ánh sáng. Có lúc cầm định (giữ yên định) thì vàng ròng bảy báu đều mất màu. Do đó nói: Các người muốn biết mạng chăng? Suối chảy là mạng, trống vắng là thân ngàn sóng tranh nhau nổi dậy là cảnh giới Văn-thù. Một nói tròng mắt trống không là giường nằm của Phổ Hiền, kế mượn một câu là chỉ trăng, việc trong đó là nói trăng. Việc từ trên đến như Tiết Độ Sứ tin cờ lệnh. Như các Cổ đức chưa lập nên nhiều tác lược (làm gọn?) đến chỗ ấy làm sao thương lượng. Chẳng nhờ ba tấc lưỡi, xin hãy nói xem, chẳng nhờ mắt thử nhìn thấy xem, chẳng nhờ tai thử nghe xem. Do đó nói hết cả mười phương thế giới đều là thể của người chân thật, lại hướng vào chỗ nào mà để mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Do đó sơn Tăng từ xưa nói với các người rằng: Lấp mặt ông lại là nói mắt ông nhìn chẳng thấy, bịt tai ông lại là nói nghe mà chẳng nghe, bít mũi ông lại là nói ông ngửi chẳng được, bịt miệng ông lại là nói ông nói không được, cầm (giữ?) thân ông lại là nói ông chẳng biết đau ngứa, quét sạch ý căn ông là dạy ông phân biệt chẳng được. Ngay lúc ấy tức là tin tức tốt. Lại chẳng phải là tình trần ý tưởng phân biệt tính toán so sánh được mất, phải quấy, cũng cần phải dẹp bỏ cơ cảnh chẳng lập tri kiến, chẳng suy lý lẽ, trừ bỏ hết hiểu biết, chẳng thấy có Phật tổ. Sau đó mới có thể quét sạch Báo Hóa Phật. Người thiên hạ bắt nhốt chẳng ở. Thế nên Huyền Sa nói: Mắt của Sa-môn cần phải cầm định thế giới, chẳng rò ró mảy may. Chỉ như khi cầm giữ các người hướng vào đó mà hét được chăng? Đánh một tọa cụ được chăng? Phất tay áo bỏ ra được chăng? Từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông được chăng? Sáu lần sáu là ba mươi sáu, chín lần chín là tám mươi mốt được chăng? Đều là việc trong nhà mình được chăng, gọi là việc bổn phận mình được chăng? Chỉ cột cái mà nói lồng đèn được chăng? Duy tâm tuy tánh được chăng? Nếu thế đều là rối rắm đều chẳng phải chánh kiến. Nếu có cái chánh tri chánh kiến liền biết có bổn phận sự. Đã biết có bổn phận sự trọn chẳng làm lý lẽ hang ổ tính toán, thì làm sao nói, có hiểu rõ chăng? Chấn phấn tra sa không trước sau, xoay mình sư tử cho mọi người xem. Tiểu Tham. Rõ ràng một làm, ngàn Thánh chẳng thấy. Một cơ trước mặt, tác gia không làm như thế như thế, chẳng thế chẳng thế, nắm về một bên hoặc đánh hoặc hét, đánh đá lửa, ánh điện chớp. Chánh ngay lúc ấy, nước tiết ra chẳng thông, quét sạch càn khôn. Có mắt chẳng thể thấy, có tai chẳng thể nghe, có miệng chẳng thể luận, có tâm chẳng thể nghó. Cho toàn thân là mắt. Hết cả càn khôn đất đai cỏ cây rừng rậm lớn nhỏ dài ngắn mỗi mỗi giao la làm vô lượng vô biên thần thông diệu dụng. Đến chỗ ấy chẳng tiêu một tháp. Lại nói: Đủ lý lẽ gì mà kỳ đặc như thế, lại cắt đứt như thế, có thể ngồi đoạn như thế sạch làu làu rỡ rỡ. Toàn thân riêng bày, liền gánh vác được, thấu xuất được. Ba đời chư Phật sáu đời Tổ sư, cho đến các lào Hòa thượng trong thiên hạ, chỉ được uống khí nuốt tiếng trừng mắt câm miệng. Tuy thế nay các người ở trong đó làm cái gì, sơn Tăng căn cứ vào cái gì mà nói liền được phải thì phải, giết hết chẳng gần nhân tình, chẳng khỏi bỏ một tuyến đường. Có hiểu rõ chăng? Bốn biển như nay trong như gương, ráng trời khí thấu thẳng trời xanh. Sơn Tăng năm hai mươi bảy tuổi, mở bày pháp tòa cùng tất cả người nhổ đinh tháo chốt mở trói cột, khiến tất cả đều không rập khuôn, không tính toán nghó suy, không nói họp đầu, không nói giống người khác, không nương cậy một vật. Cùng hai mươi tám tổ khác, Mã Tổ, Bá Trượng, Hoàng Bá, Lâm Tế các thiên hạ Đại tông sư chỗ ra làm toàn thể hiển bày, chẳng chỉ ngày nay, tầm thường chẳng ở trên Bảo hoa vương tòa mà nói Thế đế, cũng chẳng nói Thiền cơ, chẳng luận sinh diệt, há có thể nói bướng nói càng mà tạo nghiệp địa ngục. Duy chỉ dựa theo đây một chỗ chân thật, đối trước mặt tất cả mọi người mà cắt đứt nói bày, thừa đương được nó mà chân thật ngộ nhập, được đại thọ dụng không chút ngưng trệ. Sơn Tăng ngày nay được lui về ở đây chẳng muốn lên tòa Tiểu Tham. Đây bởi nhân Thái phu nhân khiến quân Triều Nghị Thông Phán Đại Phu cùng các Quan viên, sáng chiều thường lấy nói này mà kiếm chiếu, ba lần kính thỉnh vì chúng Tiểu Tham, tùy phần ứng mạng. Song một việc này cũng chẳng khó cũng chẳng dễ. Nếu nói khó thì ngài Vónh Gia khi đến Lục tổ sau một câu liền có thể thừa đương. Trước đến Tào khê đi nhiễu quanh giường thiền ba vòng, chế tích trượng mà đứng. Tổ nói: Phàm Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám vạn tế hạnh đại đức ở phương nào đến đây mà sinh đại ngã mạn. Vónh Gia nói sinh tử là việc lớn vô thường nhanh chóng. Lục tổ mở phương tiện liền nói: Sao không thể lấy vô sinh, sao không liễu lấy không nhanh chóng một đêm biết chỗ đương đầu. Có tụng rằng: Thể về sinh, liễu vốn không nhanh chóng Như nước vào nước, nước sữa đồng nhau, Tên nhọn chống nhau tự nhiên vừa khớp. Lục tổ thấy Vónh Gia thấu được liền nói: Ông rất được ý vô sinh. Chỉ một câu này cũng có quyền, có thật, cũng có chiếu có dụng, là Vónh Gia kia chẳng hướng về tử cú mà xuống tòa giết, cũng chẳng nói thích hợp chỉ nói từ từ Hòa thượng? Vô sinh há có ý ư? Kỳ lạ thay mà người nay vừa thấy. Sư nói: Ông rất được ý vô sinh. Liền nói Hòa thượng chịu ta ấn chứng ta, ân này khó báo đền. Nén hương thứ ba chẳng vì người khác, chỉ là hướng trong câu nói mà giết chết, chẳng thấu nguồn gốc, đánh dẹp cái oan nào, và đến Vónh Gia cáo từ. Tổ nói: Lại rất nhanh, rằng vốn tự chẳng động, há có mau chăng. Tổ nói: Ai biết chẳng động, rằng nhân giả tự sinh phân biệt. Lúc này có ý khí Đại trượng phu, đáng tiếc đã bỏ qua, liền lật đổ giường thiền, chẳng bị phân ngoài. Lại liền theo lệ mà ở lại một đêm. Lại khi Thạch đầu làm Sa-di trong hội của Lục tổ, một hôm hỏi Tổ rằng: Khi Hòa thượng tịch rồi con sẽ thế nào? Tổ đáp: Hãy tầm tư đi. Và khi Lục tổ tịch rồi thì ông ấy chỉ tọa thiền, chỉ tầm tư về đạo lý vô sinh. Trong hang quỷ mà tìm kế sống. Lúc đó có bạn đồng tham hỏi: Ông làm gì? Đáp: Hòa thượng dạy tôi tầm tư đi, do đó mà tọa thiền. Bạn đồng tham nói: Ông lầm rồi. Có Thanh Nguyên Sư huynh tên là Tư, Tổ chỉ ông đi gặp ông ấy đấy. Thạch Đầu mới tónh ngộ, bèn đến gặp Thanh Nguyên. Nguyên hỏi ở đâu đến? Đáp: Ở Tào khê đến. Nguyên đưa phất tử ra hỏi: Tào Khê có cái này không mà nay huynh đệ bị người khác hỏi như thế? Nói xong liền hét. Kiến giải của loài chồn hoang, nhướng mày trợn mắt, gượng làm chủ tể đều không dính dáng. Thạch Đầu hiểu liền đáp rằng: Không phải chỉ Tào khê, Tây thiên cũng không. Tư hỏi: Ông có đến Tây thiên không? Đáp: Nếu đến liền có chẳng ngại kín đáo khít khao, nói chẳng mất tông. Bước bước đều đạp đến. Tư nói: Chưa có lại nói (không do lời nói). Thạch Đầu nói: Hòa thượng cũng phải nói một nửa, chớ toàn nhờ con. Tư nói: Chẳng từ chỗ ông nói, sợ về sau không người thừa đương. Một hôm lại hỏi Thạnh Nguyên rằng: Khi Hòa thượng ở Tào khê có biết Lục tổ chăng? Tư đáp: Ông nay lại biết Lão Tăng chăng? Đáp: Biết lại đâu có thể biết được. Loài có sừng tuy nhiều, nhưng một con lân là đủ. Tự nhiên khí loại đồng nhau, lông cánh giống nhau, như keo với sơn mà nay người Đông một câu, Tây một câu. Có lúc nói tâm nói tánh, cầu người ấn chứng. Có dính dáng gì? Lại khi Dược Sơn ngồi dưới hội Thạch Đầu. Thạch Đầu gặp liền hỏi: Ông ở đây làm gì? Đáp: Một vật cũng không làm. Thạch Đầu nói: Đó là rãng rang mà nay người chẳng hiểu liền nói gọi gì là rãnh rang. Lại nói: Nếu Hòa thượng chẳng hỏi thì con không biết, tâm đen ngòm ngòm dù nói càng nó tự có chỉ thú. Bèn nói: Rãnh rang thì là làm vậy. Thạch Đầu hỏi: Ông nói chẳng làm là chẳng làm cái gì? Đáp: Ngàn Thánh cũng chẳng biết. Do đó Thạch Đầu làm bài tán rằng: Từ xưa cùng ở chẳng biết tên, mặc tình tướng tướng cùng làm gì. Từ xưa Thượng Hiền cũng chẳng biết, vội vàng phàm tục há biết được. Lại nói: Rốt ráo chẳng làm là cái gì? Vì sao? Vì chẳng biết ngàn Thánh. Đã chẳng biết, như thế nào cùng ở. Sở dó việc ấy chẳng cho ông một chút suy nghó tính toán, gần bên chẳng được, quỷ thần chẳng thấy. Thoát ra ngàn lớp vạn lớp hiểu biết sai lầm thì tâm mắt tự thấy. Nếu thấy gai chẳng trừ, quan niệm đắc thất thị phi thì vónh viễn không dính dáng. Đây là sơn Tăng bất đắc dó vì các người nói bệnh của thiền. Lại nói là nói sâu lý vào. Như ngài Huyền Sa sai Tăng đem thư lên ngài Tuyết Phong. Phong lên pháp đường mở thư ra chỉ thấy ba tờ giấy trắng. Bèn đưa ra cho đại chúng xem và nói rằng: Hiểu chăng? Chẳng thấy nói rằng: Quân tử ngàn dặm đồng phong. Rồi xuống tòa. Vị Tăng ấy đem việc này hỏi Huyền Sa. Sa nói: Lão già đầu núi sai lầm cũng chẳng biết. Dám hỏi đại chúng, chỗ sai lầm của Tuyết Phong như thế nào? Có phải là Huyền Sa thấy hiểu hơn Sư chăng? Lại mừng không dính dáng, đều hướng theo tình trần mà hiểu. Lại sao hiểu được. Do đó Chân Như Triết Hòa thượng có tụng rằng: Huyền Sa gởi giấy trắng, Tuyết lão tức đồng phong, Sai lầm người khó hiểu, Khúc xưa điệu chẳng đồng. Đến chỗ ấy tình phàm Thánh dứt, cửa sinh tử thấu qua, đắc thất thị phi rõ ràng chẳng sinh, toàn thể như như, như như cũng chẳng cần sau đó mới cởi điện Phật ra Tam môn, đem nước Tân La cùng nước Chiêm Ba gặp nhau, bôi tro trát đất, mở bát ăn cơm, mặc áo chống lạnh tự tại du chơi. Trước không hai duyên, cũng không hai tướng, chẳng phải là tâm, chẳng phải là Phật. Toàn tâm tức Phật, toàn Phật tức người, người Phật chẳng hai, chỉ cái chẳng hai ấy cũng chẳng tiêu được. Do đó ngàn Thánh hiện ra không chỗ ông đề xuyết, không chỗ ông khế ngộ như gần lửa dữ thì cháy cứu mặt. Như chống kiếm Thái A thì tan thân mất mạng. Đến được chỗ ấy mới hiểu được kế sống của nhà mình. Do đó người xưa nói: Tìm trâu phải theo vết, học đạo quý ở vô tâm. Vết tích của trâu còn đó, vô tâm đạo dễ tìm. Lại nói: Phật nói tất cả pháp, là độ tất cả tâm. Ta không tất cả tâm, đâu cần dùng tất cả pháp. Có một việc cùng các người thương lượng. Mọi người có một cái tâm chỗ ra làm là nhân của đạo vô tâm. đã vô tâm thì mở miệng động lưỡi nói năng mà các tâm hiểu rõ thì tức là cái gì? Tới chỗ ấy nếu chẳng thấy rõ thì chỉ là một vùng dối gạt nhau. Do đó Nhị tổ gặp Đạt-ma chặt tay đứng ngoài tuyết. Đạt-ma nói đem tâm của ông ra đây ta an cho. Nhị tổ nói: Con tìm tâm không được. Mà nay huynh đệ nếu bị hỏi đem tâm ông ra ta an cho. Liền Mạnh Bát Lang, hoặc vẻ viên tướng, hoặc tiến lên ba bước, lui lại ba bước, làm người nữ lạy, vỗ một cái hét một tiếng hoặc nhướng mày trợn mắt, hoặc nói tâm nói tánh. Chỉ là tình trần nghiệp thức. Chỗ gọi: Người học đạo chẳng biết chân, chỉ vì từ trước nhận thức thần, là gốc sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay, người si gọi là người xưa nay. Chỉ như Nhị tổ há chẳng hiểu làm nhiều đạo lý vì sao chỉ đáp: Tìm tâm mãi chẳng được. Cần biết Đạt-ma lúc ấy một gõ thì Nhị tổ liền biết như tối được đèn, như nghèo được báu thấy rõ căn nguyên. Trong đấy chẳng gọi là tâm, chẳng gọi là Phật cũng chẳng là vật, giống như trên lò hồng một điểm tuyết. Sơn Tăng một hôm có hỏi Ngũ tổ Hòa thượng. Nhị tổ nói: Tìm tâm mãi không được, rốt ráo như thế nào? Ngài nói: Ông phải tự tham mới được chỗ tốt ấy. Người khác vì ông làm chẳng được, tham tới tham lui. Gọi hoài Tiểu ngọc nguyện là cớ. Cốt muốn đàn lang nghe tiếng mình. Ở đáy thùng thoát ra, cây bách ở trước sân cũng thấu, mè ba cân cũng là đó Huyền Sa lầm lỗi cũng là đó. Mục Châu gánh vác cũng là đó, chẳng rơi vào nhân quả cũng là đó, chẳng lầm nhân quả cũng là đó. Ba thừa mười hai phần giáo suốt mười hai giờ trong tai mắt. Cho đến tiếng chuông trống vang rền, lừa hý chó sủa, đều là tin tức ấy. Phương tónh Hoài Thiền sư có tụng rằng: Thục phách liền trời kêu, Xuyết kiết kêu suốt đêm, Cửa Viên thông mở lớn, Việc gì cách mây bùn. Lão Đại trượng phu, một lượt (đều) đi rách đôi giày cỏ, buông bỏ tình trần tính toán được mất phải quấy đúng sai. Biết được cội gốc, một vật chẳng lưu lại, mảy may không được. Trăm xương đều tiêu tan, một vật trấn trường linh, hòa một linh cũng chẳng muốn. Sau đó mới y thời tiết mà mặc áo ăn cơm. Mà nay huynh đệ thấy nói thế (nói gì?). Lại nói: Chỉ là nhào lộn trong hư không. Này huynh đệ chỉ cái hư không ấy cũng khó được. Há chẳng thấy Tổ sư truyền pháp kệ rằng: Tâm đồng hư không giới Thị đẳng hư không pháp Chứng đắc hư không thời Vô thị vô phi pháp. (Tâm đồng cõi hư không bày pháp bằng hư không, khi chứng được hư không, không pháp thị và phi). Còn kinh Lăng-nghiêm nói: “Mười phương hư không, sinh trong tâm ông, cũng như mây điểm trên hư không. Này các huynh đệ, đã là phỏng tầm tri thức đem sinh tử làm niệm, dứt hết tâm viên ý mã, gánh vác đại cơ đại dụng. Đối với Phật tổ chẳng vì chỗ ngồi an ổn, có khi đứng trên ngọn núi cao, có khi xuống tận đáy biển sâu sâu, mặc tình cũng như người si dại, nhà người tự có chung tình người. Sơn Tăng mười năm ở trong chúng, không có một phút nào duyên việc khác, chỉ chuyên nhất tham thiền tham. Đến năm thứ mười mới thấu triệt được, xoay vần biết chẳng phải, sau mới ổn đáng. Nếu có một niệm yêu ghét được mất phải quấy, tức là áo dơ. Cần phải biết được nguyên tắc nhiệm mầu (huyền chỉ) mới được. Do đó nói: Chẳng biết nguyên tắc nhiệm mầu thì uổng công niệm tịnh, được mất phải quấy cùng một lúc bỏ hết. Chỉ cần đừng yêu ghét, rỗng nhiên sáng sạch. Dương Kỳ gọi đó là cỏ tật lê có gai khó nuốt. Kim cương quyển rất nhỏ mà khó nhảy ra. Đừng nói trong đó có lời, vì người gỡ niêm cởi trói. Chẳng phải là việc của nhân tình. Huynh đệ tham thiền thì không được hiểu sai lệch, phải kỹ lưỡng mới được. Chỉ như Triệu Châu khám phá một am chủ, vào cửa liền hỏi. Có chăng có chăng? Am chủ liền đưa nắm tay lên thì Triệu Châu nói: Nước cạn chẳng phải chỗ đậu thuyền. Lại hỏi một am chủ khác rằng: Có chăng có chăng? Am chủ cũng đưa nắm tay lên, thì Triệu Châu nói: Là chỗ có thể theo, có thể cướp, có thể giết chết hay cứu sống. Có người nói: Triệu Châu biết trước am chủ chẳng hiểu, do đó nói chẳng phải là chỗ ghé thuyền. Trước biết am chủ sau hiểu, cho nên nói không giết chết hay cứu sống. Có người nói: Lưỡi ở trong miệng Triệu Châu, mặc ông cướp đoạt. Như kiến giải này đều là của bọn tà dùng lời lẽ thường tình của thế tục để suy nghó và chú giải thì chẳng được Tông nhãn chân chánh, làm cho nhảy khỏi kim cương quyển và nuốt cỏ tật lê không được. Ngũ Tổ Hòa thượng thường nói: Các phương tham được thiền giống như cái bình lưu ly, thương tiếc giữ gìn không được bỏ một chút, chớ dạy Lão Tăng thấy, đem chày sắt đánh ông nát định. Sơn Tăng ban đầu thấy người khác nói như thế. Lại hết lòng tham họ, họ thường hỏi. Câu có câu không như dây leo quấn cây làm sao hiểu. Sơn Tăng liền hét, hoặc hạ chuyển ngữ, đều không khế hợp với họ, phải là chỗ hiểu của người đã dứt sạch tình thức, mọi tính toán đều quên. Ngày mai Sơn Tăng liền ở chỗ không tính toán mà nói càng nói bướng, chuyển không dính dáng. Sau này triệt ngộ thật thấy thật dụng như gương sáng đương ở trên đài, châu sáng đương ở trong tay được đại tự tại. Ông già Thích-ca nói. Nếu có một pháp hơn Niết-bàn, ta liền nói là như huyễn như hóa. Việc này từ xưa đến nay ngưng nhiên không thay đổi, lửa chẳng thể đốt cháy, nước chẳng thể nhận chìm, dao búa không thể chém đứt, gọi là căn bản. Tất cả hữu lậu và vô lậu, cõi Phật cõi Ma, Tịnh độ, uế độ đều chân thật. Nếu ngộ được thì có thể một mình bước đi tự tại, chẳng nhận phần của người khác. Nếu chưa đến chỗ điền địa như thế thì quản thủ bị người trói buộc, Sơn Tăng nay đã lui về viện, duyên pháp này kia tự có lúc. Cho nên hôm nay nhân Triều Nghị Thái phu nhân thỉnh Tiểu Tham nên hết tình nói cho các người. Mỗi người tự tham cứu, Phật pháp vốn không kia đây. Các nhà đều là con cháu của Lục tổ. Trọn chẳng nói ta là người dưới của Lâm Tế. Tông phái ta phải được hưng thịnh truyền, thà tan xương nát thịt chứ trọn chẳng làm kiến giải này. Lại nêu: Tăng hỏi Bảo Thọ: Khi muôn cảnh đến xâm hại thì thế nào? Thọ nói: Mặc kệ nó. Tăng liền lễ bái. ông. Bảo Thọ nói: Chẳng được động đến, động đến thì đánh gãy lưng Sư bảo đại chúng: Bảo Thọ Hòa thượng dùng kim cương vương bảo kiếm, tất cả nghịch thuận, được mất, dài ngắn, phải quấy, vô biên cảnh giới chẳng tiêu một nháy mắt. Vị Tăng ấy thấy cơ mà làm. Lúc lễ bái vì sao nói chẳng động đến, kiểm điểm kỹ lưỡng thì giống như đầu rồng đuôi rắn. Sơn Tăng thì chẳng thế. Hoặc có người hỏi: Muôn cảnh đến xâm hại khi đó thế nào? Cũng đối họ mà nói: Mặc kệ nó. Vị Tăng ấy hoặc nếu lễ bái, chỉ hướng mà nói. Nạp Tăng Linh lợi một phát liền chuyển. Sư nói: Trước khi cha mẹ sinh ra trần trùng trục một mảy may cũng không lập và đến khi đầu thai, sau khi đã sinh cũng sạch trọi trơn. Song sống ở đời rơi vào trong bốn đại năm uẩn, phần nhiều là tình sinh che chướng, lấy thân làm ngại mà mê lấy tự tâm. Nếu là người sáng mắt vì hiểu rõ bốn đại vắng không, năm uẩn hư dối, biết trong năm uẩn bốn đại có cái sáng rỡ, xưa nay hướng vào một việc dứt tri kiến, nếu hay phản chiếu thì không có người thứ hai, dưới gót chân thênh thang rỗng lặng, sáu căn môn cũng thênh thang rỗng lặng. Cho đến cả núi non đại địa cùng hết cõi hư không, cả vô biên biển hương thủy cũng thênh thang rỗng lặng. Nói năng như thế có phải là dẹp “có” về “không” chăng? Lại mừng không dính dáng. Nếu dẹp có về không, thâm thẩm mịt mờ rơi vào khoát đạt không dẹp chỗ không nhân quả, thì suốt kiếp cũng chẳng ra khỏi địa ngục tam đồ nhân quả. Nếu thật sự chứng được thật tế lý địa chân tịnh minh diệu, thì bốn Thánh sáu phàm, ba đời chư Phật các tổ sư thiên hạ hữu tình vô tình, đều ở trong đó mà hiển bày ra. Do đó Phù Thượng tọa hỏi Cổ Sơn Yên Quốc sư rằng: Trước khi cha mẹ sinh thì lỗ mũi ở đâu? Sơn hỏi như nay sinh rồi thì nó ở đâu? Phù Thượng tọa chẳng chịu nói: Ông hỏi lại ta Sơn bèn hỏi như trước. Phù chỉ lay động cây quạt. Đại phàm tham thỉnh, tham phải thật tham, thấy phải thật thấy, dụng phải thật dụng. Trước khi cha mẹ sinh ra thì lỗ mũi ở đâu? Phù Thượng tọa chỉ lay động cây quạt chớ (có?) phải là đùa tinh hồn chăng? Cần phải biết có sự kỳ đặc mới được. Chỉ như Văn-thù mới sinh thấy có mười tướng lạ cát tường. Còn Tu-bồ-đề mời sinh thì nhà hiện tướng không, Thiện Tài mới sinh thị vọt ra vạn kho báu. Đều ở trong một ánh sáng báu này sạch làu sáng rỡ tuôn ra. Nếu ở chỗ mịt mờ thăm thẳm rơi vào chỗ không không tịch tịch (trống vắng) há có kỳ đặc như thế. Do đó người xưa ở chỗ sinh thất rất kỳ đặc. Như Thế Tôn đưa tay chỉ trời đất tự bảo trên trời dưới trời chỉ có ta là riêng tôn quý. Nếu gặp Vân Môn Đại sư còn chẳng lấy làm kỳ đặc, thẳng làm chánh lệnh của nạp Tăng. Về sau Lão Túc nói: Vân Môn biết ân mới hiểu báo ân. Đã biết rồi liền lấy bổn phận sự của nạp Tăng trong cảnh giới thuận nghịch mà đi. Lại nói: Lại sẽ được chăng. Nếu là mở ra thương lượng thì có việc hướng thượng, nếu căn cứ trên bổn phận sự của nạp Tăng, chẳng được nửa phần. Vì sao? Vì nhà người khác tự có đường thông lên trời. Sư nói: Hiện thành công án, chẳng cách một mảy may, khắp trời đầy đất là một cửa đại giải thoát, cùng nhật nguyệt đồng sáng, cùng hư không đồng rộng, như Phật như Tổ không khác, nguyên do bởi xưa bởi nay đồng chánh kiến. Nếu là bậc lợi căn thượng trí chẳng dùng thì như thế nào, ngay đây vách đứng ngàn nhận hướng căn mình mà tự thừa đương. Có thể đóng nhốt cổ kim, quét sạch báo hóa Phật. Lại không mảy may rò rỉ. Oai Âm Vương trở về trước thì không thầy tự ngộ, đó là người Đại giải thoát. Oai Âm Vương trở về sau nhân có thầy đánh phá, chẳng khỏi lập thầy lập trò mà có mê có ngộ. Tuy thế, chỉ là phương tiện đưa tay tiếp người. Do đó mà Đạt-ma Tây trúc đến chẳng lập văn tự chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Trở về sau Lục tổ, Đại Giám Thiền sư còn tự nói: Chỉ cái “chẳng lập” hai chữ sớm đã lập rồi, huống là nói cơ cảnh các thứ kiến giải. Phải xóa bỏ trần duyên hết mới được việc này luôn được chư Phật ba đời ra đời dùng vô lượng tri kiến phương tiện tiếp dẫn thì cũng chỉ có hạn, các đời Tổ sư, các thiên hạ Lão Hòa thượng dầu trăm ngàn hỏi đáp nắm giữ thì cũng chỉ có hạn chẳng bằng tự hướng gót chân mình mà tự nghiên cứu lấy. Oai Âm Vương trở về trước và không kiếp bờ kia thì kho báu của mình tùy chỗ sẽ tự thọ dụng. Phải là ý khí kẻ Đại trượng phu mới có việc làm được như thế, cũng chẳng nhờ ai chỉ bảo, chẳng bị họ lừa dối. Từ sáng đến tối hít vào chẳng ở ấm giới, thở ra chẳng dính vạn duyên. Rất là tỉnh yếu. Chỉ vì mọi người tự quay lưng với việc này. Hướng vào sáu căn môn mà nhận sáng nhận tối chẳng được sướng thích. Liền nói khổ nỗi con nghi như thế. Lại nói: Nghi từ đâu đến. Lại hỏi: Vì sao còn nói không được? Chỉ cần ông nói vì sao chẳng được. Vì ông không thường hay hồi quang, ngay đó mà thừa đương. Tổ sư nói: Tự phần mình như có linh quang, như có tự tại. Tất cả chúng sinh trôi giạt trong trần tình chẳng thể giải thoát. Giả sử đem một đại sự nhân duyên này mà các thứ chỉ bày thì cũng là có cơ có cảnh lạc ở trần tình. Có hiểu chăng phải là một niệm chẳng sinh mới có chút phần tương ưng. Do đó Tiên sư nói: Phải là mạng căn dứt mới được. Lại nói: Như thế nào là mạng căn dứt? Phải là dập tắt các tri kiến, các thứ hiểu biết từ trước, rất giống như một người chết mới sống lại. Tự nhiên không tranh đua. Do đó nói: Ta được vô tránh Tam-muội là bậc nhất của loài người. Chẳng thấy Nam Tuyền Hòa thượng nói: Huỳnh Mai bảy trăm cao Tăng, hết cả đều hiểu Phật pháp, chỉ có một mình Lô hành giả chẳng hiểu Phật pháp. Cho nên được y bát của người khác, phải là người như thế mới khế hợp việc như thế. Lại nói: Như Thánh giả là chỗ rất đáng sợ. Bởi vì không gì bằng Thánh lượng các việc. Nếu là mất lượng đại nhân, thì trọn chẳng chịu loạn thừa đương. Cuối cùng chẳng nói: Ta hay hiểu ta ta là Thiền sư (ta có tài, ta hiểu ta, ta là Thiền sư? Ta biết ta là Thiền sư?) Nếu như thế thì rơi vào hầm sâu giải thoát. Chẳng thấy Vân Môn Đại sư nói: Trên đất bằng người chết vô số, qua được rừng gai gốc là tay giỏi. Mà nay trên đất bằng người chết vô số, Vân Môn một câu nói đó, sơn Tăng ở trong đó chẳng thế, qua thẳng được rừng gai gốc cũng chưa phải là tay giỏi. Lại phải biết có núi Bạc vách sắt. Phải qua được núi bạc vách sắt, sau đó mới là người tónh ngộ, mới biết có việc hướng thượng, mới có thể phân phó y bát, liền chẳng cùng người khác tình trần đối tác nhau kiến giải Phật pháp mênh mông, làm thương lượng thiền đạo phải tâm cảnh nhất như trong sáng trống vắng vô vi sự, lại chẳng rơi vào chỗ vô vi vô sự. Đến chỗ này phải là người hướng thượng mới được. Do đó Long Nha Hòa thượng nói rằng: Vô đoan khiển hướng về ao mực đen, nhận được thân tâm đen giống khói, liền đến chỗ nước trong hướng thượng mà rửa, thân tâm dùng hết cũng thế. Đức Sơn Hòa thượng nói chỉ có văn tự nói năng đều là nương nhờ cây cỏ tre trúc tinh linh, phải là một đường riêng thoát cũng bắt chước (so xét) chút xíu. Chỉ như nạp Tăng gia hôm nay cũng phải làm (có?) tinh thần tham lấy mới được. Ngàn dặm vạn dặm hành cước, một loạt đều đi rách giày cỏ, cũng phải rách mới được, như thế mới cô phụ bình sinh, kia đây đến Nam Diêm-phù-đề một lần gặp, cũng chẳng luống qua, cũng chẳng mất gốc. Sau đó mới ở trong bốn oai nghi mà tùy lúc thọ dụng, cũng tự an lạc. Bỗng nhiên một sớm sương mù quả chín, bị người xô té trên ghế gỗ khúc lục, làm thầy trời người, cùng người mở chốt cởi trói chẳng ngại kỳ đặc. Nếu chưa đích đáng chắc chắn cũng không gây họa cho người. Chẳng thấy Đức Sơn nói: Giống như một dâm phụ, một mực lập hỏi lập đáp, lập khách lập chủ, có dính dáng gì? Đại phàm người tham học phải sáng tỏ, ngay đây mà thấu đi há chẳng vui ư? Sư nói: Hiện thành công án lại chẳng tiêu mất cái gì. Ngay đây tất cả dứt hết. Cũng tạm được. Phật pháp vốn không nhiều. Nếu dùng vô tâm vô niệm, vô sự vô vi, không tính toán, không phân biệt cho đến mặc áo, ăn cơm, đâu từng mảy may lay động liền có thể quét sạch Báo Hóa Phật, chẳng khởi một mảy may kiến giải Phật pháp. Do đó người xưa vừa thấy Tăng đến liền nói: Thấy thành công án, tha ông ba mươi gậy, giăng lưới khắp trời, đánh tan sóng lớn cá to, buông câu ngàn dặm, cỡi chim ngàn dặm vượt ngựa giỏi cũng là việc chẳng được. Do đó Thạch Thất Hòa thượng vừa thấy người đến liền đưa gậy lên bảo rằng: Chư Phật quá khứ cũng thế, chư Phật hiện tại cũng thế, chư Phật vị lai cũng thế, chỉ cùng ông lược bày chút mũi nhọn. Nếu là người vừa thấy nói thế đứng dậy bỏ đi, cũng còn tạm chút ít. Nếu lại vào suy lường thì đã bị lưới trời úp chụp. Như thế ba mươi năm, chỉ có Trường Sa Hòa thượng biết chỗ bến rơi, liền nói: Hòa thượng bỏ gậy đi riêng thông tin tức đến mới khế hợp với ý ấy. Mà nay huynh đệ tham học phải là tên nhọn chống nhau, cây kim hạt cải ném nhau, trong ngoài dứt hết tin tức mới được. Nếu chỉ tìm thấy tìm nghe cầu hiểu cầu biết thì chỉ thành cội gốc sinh tử. Sao chẳng thể lấy vô sinh, rõ gốc không nhanh chóng. Nếu hay mỗi mỗi như thế mà thấy, đường sinh tử một lúc cắt đứt, toàn chẳng động một mảy may. Do đó nói: Ở trong ngàn người vạn người như không có một người nào, chỉ là hết được thân tâm, không trăm thứ hiểu biết, không một chỗ dùng. Nếu nếu hiểu đạo lý theo câu lời thì đầy da bụng là thiền khi nào mới được thoát. Cho nên Nam Tuyền Thiền sư nói: Sơn Tăng ra đời chỉ vì các người nắm lấy bệnh Phật bệnh Tổ. Lão Tăng bình thường luôn nói với huynh đệ rằng: Trước khi cha mẹ sinh ra lại có hình dạng không. Trong giáo pháp dạy trung đạo: Bốn đại năm uẩn tạo thành thân, chỉ do cha mẹ giao cảm một niệm nhiễm tâm mà thành thân này. Ta lại hỏi ông khi si si hòa hòa sao chẳng cùng người tranh nhau. Đến khi lớn lên thì có tranh người tranh ta. Khi bốn đại một sớm lìa tan thì y theo mà có hình dạng xưa nay cho nên nói: Bồ-đề vốn không cây Gương sáng cũng không đài Xưa nay không một vật Chỗ nào dính trần ai. Mọi người nên gắng sức lấy ngộ làm kỳ hẹn chớ để ngày tháng luống qua, thời gian chẳng đợi người. Sư nói: Việc lớn này đã là tám chữ mở toang. Phải nhiều hồi đầu phản chiếu, sớm là độn trí, thẳng là triệt để tin được, khi chưa nói trở về trước, một lúc thấy rõ khi đã nói rồi. Lại nói: Làm sao thừa đương, kẻ sơ cơ, lại ở dưới gót chân mà sáng lấy, mà nay ngồi đứng nghiễm nhiên mỗi mỗi thấy nghe không mê muội. Người người nhìn xuống gót chân. Như ấn in trên không, như ấn in trên nước, như ấn in trên bùn. Trước chẳng phân đắc thất bỉ ngã thị phi. Sạch trọi trơn, sáng tỏ xưa nay, dứt hết tri kiến. Phản chiếu hồi quang. Há có nhiều việc. Song khi chưa phản chiếu thì không có nhiều việc. Chỉ như tầm thường trăm chẳng lo trăm chẳng quản. Khi dứt niệm quên duyên, một lúc hiện thành, hãy nghe phản chiếu, liền làm các thấy nghe hiểu biết. Mỗi mỗi đều ở chỗ thấy nghe hiểu biết mà làm các hình thức gương mẫu Mới lúc ấy (lúc nào?) rơi tại sinh tử ấm quả, không do đâu được ra khỏi. Muốn sáng việc này phải nhờ phương sâu, có thể rơi vào thị phi đắc thất thấy nghe hiểu biết, mảy may tịnh hết mới được vui sướng, cột chặt mối manh nó không dừng ở. Do đó nói: Như người học bắn tên lâu lắm mới trúng. Há chẳng thấy Bùi Tướng Quốc ra trấn nhậm Uyển lăng nhận dạo đến chùa thấy có tượng cao Tăng, bèn hỏi Tăng chức rằng: Nghi tướng cao Tăng rất dễ mến, chưa biết cao Tăng ở đâu. Lúc đó Tăng chức chẳng biết làm gì. Bùi Công nói: Trong đây có Thiền Tăng chăng? Tăng chức nói: Gần đây có Tăng thân ra quét đất, mình mặt áo trăm mảnh, hai là thiền Tăng. Rồi mời Tăng ấy đến thì chính là Huỳnh Nghiệt Đoạn Tế Vận Thiền sư. Bùi Công liền đem lời trước mà hỏi. Nghiệt bèn gọi Tướng công, ông dạ, Nghiệt nói: Ở chỗ ấy. Bùi Công sau lời ấy thì liền ngộ. Các người lại nói: Chỗ hỏi là phải hay chỗ đáp là phải. Lại nói: Cái gì là nhà thiền Tăng. Ngay đây phải có tỉnh phát mới được. Chớ chỉ nhận thanh nhận sắc. Sở dó Lão Tăng tầm (bình) thường nói: Ngàn người vạn người chỉ biết lấy một người, ngàn câu vạn câu chỉ biết lấy một câu, ngàn cơ vạn cơ chỉ sáng lấy một cơ. Cuối cùng lại nói: Là gì? Sắp biết lo đúc lớn trăm nướng ngàn đốt là người chánh yếu, phải biết sau lời một sáng tất cả sáng, một liễu tất cả liễu, hãy nghe nói nêu, thấu đầu thấu đuôi, sạch hết chẳng còn gì. Lại như chỗ dứt mất sau một tiếng gọi vì sao cao Tăng thành Bùi Công, Bùi Công thành cao Tăng. Nếu luận việc này thì phải là người tài giỏi mới hết sạch. Do đó nói: Nêu chẳng đoái hoài liền sai, định suy lường thì kiếp nào ngộ. Bổn phận nạp Tăng chẳng cần suy lường phân biệt, cần cầu chỗ ngộ. Nói ngộ thì như mất một vậy đã qua nhiều năm mà một sớm tìm lại được. Lại như bệnh thương hàn bỗng ra mồ hôi thì rất vui mừng, đem tâm tri ngộ mà thấy tánh, không phải suy lường phân biệt. Do đó chứng nhập vào chính thể kim cương tự nhiên nói xưa nói nay rộng khắp hằng sa giới, nước chẳng thể nhận chìm, lửa không thể đốt cháy. Khi thế giới hoại thì cái này vẫn còn hoài, là gốc của núi sông đất liền, là nhà của sáu phàm bốn Thánh, mà chứa trong gang tấc của mỗi người. Nếu hay ở trong gang tấc mà ngộ riêng bày chân thường, ở chỗ muôn ngàn sai khác mà nói, trọn chẳng khởi dị kiến, ở trên cảnh muôn ngàn sai khác, trọn chẳng làm hiểu khác, cần phải hết sạch mới có toàn thể hiện thành. Như nước ngập hỏi Mã tổ Phật pháp xưa nay, Tổ cho một đạp sụp té xuống nước thì bỗng nhiên đại ngộ đứng dậy cười lớn ha ha bảo rằng trăm ngàn Tam-muội vô lượng diệu nghóa chỉ ở đầu lông một lúc biết được căn nguyên nguồn cội. Lại ha ha cười lớn. Sau này ra đời mỗi khi lên pháp đường tự nói: Từ khi ăn một đạp của Mã Sư đến nay cười mãi chưa dứt. Lại ha ha cười lớn. Lại nói: Thế nào là căn nguyên? Muốn biết căn nguyên này, nếu biết được, nói đến chỗ sâu kín, chỗ ngàn Thánh chẳng đến cũng được. Nếu chỉ một gậy một hét, hết cả đất đai càn khôn thâu lấy, như bảo kiếm kim cương vương, cứ địa của sư tử cũng được. Người hành cước cần tham thiền phải có trí tuệ như thế mới có thể vào được. Phải xét kỹ lời nói nhỏ nhặt, đi nhiều đạo càng xa.  VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 13 TIỂU THAM 6 Cao Bưu Càn Minh nhận sắc vua ở chùa Long du ở Kim sơn. Đêm đó Tiểu Tham. Tăng hỏi: Sáng làu làu bày rỡ rỡ, vì sao càn khôn thâu chẳng được. Sư nói: Trong gậy tám góc tay kim cương. Lại nói: Bỗng một gọi liền về, lại sẽ được sống chăng? Sư nói: Xá-lợi, Mục-liên cũng không làm như thế. Lại nói: Chẳng rơi chiếu không rơi dụng làm sao thương lượng. Sư nói: Buông bỏ đầu mây. Hỏi: Bỗng gặp người trong ấy lúc đó dụng thế nào? Sư nói: Cởi điện Phật ra khỏi Tam-môn. Lại nói: Vạn tượng chẳng riêng ai nói, dạy ai cầm tay lên núi cao. Sư nói: Lầm sau danh ngôn. Sư nói: Tâm ấn Tổ sư giống như máy trâu sắt. Mật ngữ của chư Phật chính như đánh trống thoa chất độc, chưa luận bàn trước đã sai lầm, chỗ vừa mới suy lường thì cách ngàn núi. Cần phải mắt như sao sáng, mắt như sắt đá. Do đó từ trên đến nắm chắc cương tông hướng thượng. Chỉ có ba câu có lúc cắn đi, có lúc dừng cắn. Có lúc một mực chẳng đi, có lúc một mực chẳng dừng. Kẻ mắt sáng mất rập khuôn. Nếu luận chiến thì cái sức ở chỗ chuyển, tức vật là trên, đuổi theo vật là dưới. Cần phải cầm dứt đường phàm Thánh, chẳng lập mảy may. Sau đó mới đưa lên một đầu lông mà thâu hết vô biên biển hương thủy. Một câu ngộ triệt để rõ ràng, cùng Long cung đầy Hải tạng. Đây cũng là nói cực tắc, chưa phải là lỗ mũi của nạp Tăng. Nếu luận thọ dụng của nạp Tăng, thì đánh gậy như mưa rơi, hét tiếng như sấm đuổi, bày ngàn Thánh dưới gió, đứng trên đảnh Tỳ-lô, đánh đá lửa, ánh điện xẹt, thì diều hay cắt giỏi cũng đuổi theo không kịp. Cần phải sửa đúng tất cả tri kiến, phát minh Đại giải thoát, không gì chẳng rõ ràng, không gì chẳng thấu thoát, thì ở trời đồng trời, ở đất đồng đất, vật đồng vật, ta đồng ta. Chứng tất cả trí, sáng tất cả đạo, không chỗ nào chẳng thông dung, không cơ nào chẳng viên chứng. Chính ngay lúc ấy, các người mỗi mỗi đều tự phản chiếu phần thượng của mình, có từng dời đổi một chút nào chăng? Gọi đó là mười đời viên dung, mười phần thành tựu. Lại nói: Chẳng rơi vào cơ duyên một câu như thế làm sao nói? Thấy mặt cần phải tông chánh nhãn, lâm cơ dứt hết dấu Thánh phàm. Vào chùa có Tiểu Tham. Bảo kiếm vua Kim Cương cắt đứt Huyền Cơ, chánh nhãn Ma-hê-quang nuốt mắt các Tổ, Cơ Thù hai nêu một sáng ba, tả chuyển hữu tuyền (xây tà xây hữu) đại triệt đại ngộ. Phải là gió thổi chẳng vào, nước rửa chẳng được kim châm chẳng thủng, là kẻ vui sướng tự do mới được, nếu cũng nỗi bức ép, còn lưu thấy nghe, cũng dính hình tiếng, nói diệu nói huyền nêu xưa nêu nay, tiến lên trước lui ra sau, gõ giường dựng phất tử, đánh gậy hét tiếng thì không dính dáng. Thẳng được sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Lại có thấy nhau chăng? Nếu có, phải là người đồng đạo mới biết việc đồng đạo. Nếu không thì kẻ đồng đạo rốt ráo mất lý do đến. Ngay lúc ấy, có hiểu rõ chăng? Mười phương tụ hội không việc khác, cùng hướng đường Tào Khê mà đi. Lại có tụng rằng: Chánh nhãn ngang đảnh môn, Bùa Thần treo sau tay, May là con sư tử, Đều rống tiếng sư tử. Tiểu Tham. Tăng hỏi: Ứng chân chẳng nhờ lúc đó thế nào? Sư đáp: Cừ nông được tự do. Lại nói: Có mặt thì chẳng đến, đến thì chẳng có mặt. Sư nói: Đồng kia đồng đây. Lại nói: Đây cũng chưa phải là chỗ học nhân an thân lập mạng. Sư nói: Riêng có Xà-lê cao một chỗ. Lại nói: Cũng biết Hòa thượng cần dùng cơ này. Sư nói: Cũng bị Xà-lê biết phá. Lại nói: Lão lão đại đại chuyển thấy bỏ buông giận dữ. Sư hỏi: Nói gì? Lại nói: Cũng chẳng thể bỏ qua. Sư nói: Tức là ông buông bỏ giận dữ. Sư bèn nói: Ngày tốt đồng nhiều mười phương đều ứng vốn tốt đồng nhiều ngàn sai cùng dấu tích. Thẳng được rồng ngâm sương mù dậy, hổ gầm gió sinh. Thủ đoạn khéo léo, một phương riêng cao vót. Đây cũng là người người phần thượng biết có, ngoài ra chẳng biết có, như hằng hà sa số. Lại làm thế nào khế hợp, làm thế nào tham rõ ràng. Có ai tiến bộ được ma chẳng dùng tài giỏi, thử nêu ra xem. Có ai chứng cứ được chẳng dùng suy lường, thử mổ xẻ ra xem. Nếu mổ xẻ được, thì chính biết ở hội Linh sơn long nữ hiến châu liền được thành Phật. Long nữ nói: Con hiến bảo châu, Thế Tôn nhận cho việc ấy nhanh chăng? Trí Tích nói: Việc ấy rất nhanh. Long Nữ nói: Nhờ thần lực của ông xem tôi thành Phật còn mau hơn đây. Tuy thế cũng có vết xe đi, nếu là bổn phận hành, bổn phận chứng, thì lại bỏ qua ba ngàn dặm. Ngay lúc ấy rốt ráo như thế nào là chỗ trước thật mười phương Bạt-già-phạm, một nẻo Niết-bàn môn. Lý Tùng nghị thỉnh Tiểu Tham. Tăng hỏi: Chẳng hỏi có nói chẳng hỏi không nói, lúc đó thế nào. Sư nói: Tiếng ấy như sấm. Hỏi: Vì sao như thế. Sư nói: Chỉ vì người điếc không nghe tiếng. Lại nói: Khổ nổi năm ấm, sáu luật rất rõ ràng. Sư hỏi: Xà-lê nghe cái gì. Đáp: Xưa nay con không lỗ tai. Sư nói: Lại phải biết lấy đầu miệng. Sư nói: Một câu dứt sai lỗi lầm, ngàn dặm vạn dặm không tin tức. Một trần hàm pháp giới ngàn lớp trăm vòng đều rào ngăn. Nếu là người có trí tuệ thì không tìm trước mắt. Vì sao? Nếu mà tìm trước mặt thì người này chưa đủ trí tuệ. Lại ở trong câu mà tìm thì rơi vào cơ thứ tám. Đã chẳng đến trong câu mà tìm lại cũng chẳng tìm trước mắt. Lại nói: Như thế nào khế hợp? Chỉ như cách núi cách non, cách phù tràng vương, cách biển hương thủy, bên kia lại có việc ấy không? Nếu nói có, thì cách xa nhiều làm sao biết có. Nếu nói không, thì Phật pháp tức có bờ bến. Nếu nói chẳng có chẳng không thì chánh là nửa trước rơi sau, lìa có không, thì chưa khỏi ăn gậy trong tay Kim Sơn. Bỗng có nạp Tăng bước ra nói: Chẳng thể như rồng được nước, như cọp dựa núi, toàn thân là mắt xem nó chẳng thấy, toàn thân là lưỡi nói có chẳng kịp. Lại nói: Cuối cùng rơi vào chỗ rào. Nếu không bắn cọp đá ở Lam điền, cơ hồ lầm giết Lý tướng quân. Sư nói: Muốn được thân thiết thứ nhất chớ đem đến, tương lai chẳng giống nhau, đến ông nói vách đứng ngàn nhận, y trước liền đến, khua tường khua vách có chỗ gần nào. Tuy thế, đã là rơi cỏ rồi. Chẳng khỏi đem lầm đến lầm. Ở đầu thứ hai mà nói năng đi. Có biết chăng? Ngay đây như ở cửa này chống một khẩu kiếm tương tợ, lẫm liệt oai phong vừa vượt cửa đến, ai dám gần bên. Nếu gần được thì tan thân mát mạng, núi nhìn núi mà lui chẳng phải là kẻ đại trượng phu. Phải là chẳng đoái hoài sinh tử, cướp từ trong tay người khác mới được. Do đó nói chẳng vào hang cọp sao bắt được cọp con. Phải là ngay đây chẳng đoái hoài tánh mạng. Nếu cướp kiếm ở trong tay mình thì mặc Phật đến cũng chẳng bỏ qua, ngay lúc đó đã là đầu thứ hai rồi. Chẳng thấy Tư Phước nói: Ông cách sông thấy cột phướn của Tư Phước liền trở về đi, dưới gót chân đánh đánh ba mươi gậy. Mục Châu vừa thấy Tăng đến liền nói: Thấy thành công án. Sau đó nói tha ông ba mươi gậy, như đây có chỗ gần nào. Song tử tế mà suy cho cùng, chẳng ngại ngăn dứt, khỏi nói huyền nói diệu nói lý nói sự, nói hướng thượng hướng hạ, uế ô tâm điền. Phải biết phần thượng mỗi người có một việc sáng rỡ xưa nay, dứt hết thấy biết sạch làu làu sáng rỡ rỡ, trước mất nhiều thứ. Chỉ vì các người từ vô thỉ đến nay vọng tưởng dẫy đầy quay lưng với mình, chỉ theo người khác mà tìm. Nếu có thể hồi quang phản chiếu không có người thứ hai, trọn chẳng theo người khác mà khởi diệt. Nếu một chỗ được thoát thì ngàn chỗ trăm chỗ một lúc thấu thoát. Chẳng chỉ đến nơi cho người nghe, người khác phân xử. Hãy nghe nêu nói cất bước liền đi. Đã là ngoài ba ngàn dặm không dính dáng. Nếu được cái thọ dụng trong đó chính là lông cánh giống nhau, làm người trong nhà người. Tuy có người ấy thì cũng phải vào tay của sơn Tăng mà uống khí nuốt tiếng mới được. Phải chống đầu mây, đem các hiểu biết bình sinh của mình đặt trước mặt các Thiện tri thức. Nếu thế thì chứng cứ cho ông. Nếu không phải thế thì cùng ông dẹp bỏ. Há chẳng thấy khi Dược Sơn tham ngài Thạch Đầu hỏi rằng: Ba thừa mười hai phần giáo con đã biết qua, thật nghe phương Nam chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật con thật chưa biết rõ, xin Sư chỉ bày. Thạch Đầu nói: Thế cũng chẳng được, chẳng thế cũng chẳng được, thế chẳng thế đều chẳng được. Dược Sơn không khế hợp, đi đến Mã Đại sư ở Giang tây đem câu đó mà hỏi. Mã Sư nói: Có lúc giáo ấy nhướng mày nháy mắt, có lúc giáo ấy chẳng nhướng mày nháy mắt. Dược Sơn do đó có chỗ tỉnh. Mã Sư hỏi: Ông thấy đạo lý gì? Sơn đáp khi con ở với ngài Thạch Đầu thì như con muỗi đậu trên trâu sắt. Nay ở trong chúng, huynh đệ lại nói: Thạch Đầu một mực vách đứng ngàn nhận, do đó ông ấy chẳng hiểu. Mã Tổ buông ra một đường ông ấy bèn ngộ. Thật chẳng biết, Thạch Đầu nói thế đã là khế ngộ rồi. Chỗ Mã Tổ nói là rất độc hại, vì sao mà Sơn được ngộ. Lại nói: Vì sao như thế? Đến chỗ ấy phải là gã sắt sống đúc thành mới được. Do đó nói: Việc này chẳng ở lời nói, chẳng ở văn tự. Xem ông ấy đặt câu hỏi với Thạch Đầu và khi đến Mã Tổ cũng hỏi như thế. Người này là thân tâm sắt đá. Như nay nếu có người tâm như thế lo gì chẳng thấu triệt. Nếu ông chỉ tìm lời tìm câu tìm huyền tìm diệu thì lúc nào mới liễu được. Ngàn người vạn người đều nói chẳng đồng. Ông cho câu nào là phải, nếu thấy đạo rồi lại dùng lời câu làm gì, nếu chẳng dùng lời câu thì ông làm sao thấy. Đến chỗ ấy tham phải thật tham, ngộ phải thật ngộ khiến giáo thấu đónh thấu đáy, nói xưa nói nay đánh mở kho tàng của mình chở gia tài của mình ra mà cứu giúp. Chớ chỉ hướng bên ngoài mà tìm kiếm. Nếu ông gõ được một đường thấu đi thì liền cùng ông đồng tham. Nếu ông chỉ giữ cái chiêu chiêu linh linh, hò hét nhướng mày nháy mắt, nếu như cái ấy là bệnh lớn. Do đó nói: Việc này ẩn trong bốn đại sáu căn. Sáu căn bốn đại chỉ là đồ vật trong nhà trống. Cho nên nói sống như mặc áo, chết như cởi áo, sáu căn bốn đại chỉ là quần áo. Lại nói: Mặc áo là người nào, lại hỏi ai mặc. Bèn hét rằng: Phải là cái ấy chăng? Lại nói: Lầm rồi. Do đó người xưa nói: Thân tâm nhất như, ngoài thân không gì khác. Hết cả càn khôn đại địa là cái tâm xưa nay, hết cả sơn hà đại địa chỉ là một cái tát cuối cùng cũng chẳng cần. Đã chẳng cần. Lại hỏi: Hướng vào đâu mà an thân lập mạng? Đến đây phải là có sinh cơ một đường mới được. Nếu chẳng như thế. Nếu ông nói Phật thì làm Phật, nếu ông nói Tổ thì làm tổ. Phải giống một điểm tuyết trên lò hồng mới được. Lại phải bỏ khăn xuống giường, bỏ giáo như tro lạnh lửa tắt, thế pháp Phật pháp đều chẳng dùng suy lường, chớ sợ nó rơi vào không, chớ sợ như đất gỗ ngói đá. Nếu ông sợ rơi vào không, chỉ như tâm lo rơi vào không là gì, sao từng rơi vào không mà đến. Nếu quả thật được hết thì đến chỗ thôi dứt chân thật, Phật tổ cũng chẳng lập, ngàn Thánh vạn Thánh vạn pháp môn một lúc đều thấu suốt, há chẳng cắt ngang ư? Sư nói: Tứ đó liền thừa đương, gánh vác được. Có thể nhốt giữ xưa nay, càn khôn đại địa thấu đảnh thấu đáy, sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Cần chẳng phải là chỗ ông thấy nghe hiểu biết về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Hết cả càn khôn đại địa chỉ là thể người chân thật ấy, nói gì thấy nghe hiểu biết, vừa vượt cửa đến đã là hai tay phân phó, lại không mảy may di lậu. Phải biết một con đường hướng thượng chẳng lập văn tự nói năng. Đã chẳng lập văn tự nói năng, như thế nào sáng được. Do đó nói: “Giữa đường gặp người đạt đạo, chẳng đem nói im mà đối đáp.” Lại nói: Gặp nhau chẳng nêu ra, khởi ý liền biết có, cũng là thấu xương thấu tủy, tin được rốt, thấy được suốt. Sau đó hết cả mười phương thế giới chỉ ở trên đầu sợi tơ mà được sáng. Nếu trệ ở tri kiến thì liền có Phật cơ tổ. Do đó liền vào Kiến hóa môn, ngôn ngữ vân tự khế cơ. Tổ sư Tây Trúc đến chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Chỉ luận chỉ thẳng tâm người, cần phải là người trong ấy mới được. Nếu lập câu lời cho đến trăm ngàn vạn ức phương tiện, ý ấy chỉ là cùng người mở chốt cởi trói, khiến giáo sạch làu sáng rỡ xưa nay. Thật không có nhiều thứ nghó suy tính toán. Há chẳng thấy Ngũ Duệ tham vấn ngài Thạch Đầu, rằng: Một nói khế hợp nhau liền ở, không khế hợp nhau liền đi. Thạch Đầu không nhìn. Ngũ Duệ bèn phất tay áo bỏ đi, khi ra đến Tam-môn, Thạch Đầu bèn gọi Xà-lê. Duệ quay đầu. Thạch Đầu nói: Từ sinh đến già chỉ là cái ấy, lại quay đầu chuyển não làm gì. Duệ từ đó có tỉnh. Nếu là sơn Tăng, lúc ấy chẳng cần gọi ông ấy, từ ông ấy chấp chặt, sai cả một đời chỉ vì từ bi rơi cỏ cho đến như đây, chỉ như các người ngồi đứng nghiễm nhiên, từ sinh đến gia chỉ là cái ấy, lại nghi cái gì. Do đó nói tham thiền phải là người sắt, tay để vào tâm mà phán xét thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, tất cả thị phi chớ nghó đến, phải là một niệm chẳng sinh trước sau dứt hết, vừa đưa gỡ liền thấy. Lại đợi người khác gọi làm gì. Thẳng là nhồi thành một khối như đổ nước vào nước như vàng tan trong vàng. Người xưa đã thế, chỉ hướng miệng Trưởng lão mà nghe lấy. Lại nói: Có thật pháp, không thật pháp. Nếu có thật pháp thì thành người tự cột trói, nếu không thì từ xưa đến nay lập nhiều phương tiện làm gì? Chỉ dạy các người thấy tánh. Nếu thật thấy tự tánh thì há có dính dáng gì đến thấy nghe hiểu biết suy lường nghó bàn của người khác. Như chùa Đông hội các Thiền sư Đạo Hóa Kinh Hồ, có Thôi Quận Tướng quốc ra trấn thủ Hồ Nam. Sư nhân đau mắt, thôi bèn hỏi rằng: Như thế nào là việc trong Tông thừa? Sư nói: Thấy tánh thành Phật. Thôi nói: Có liên hệ gì đến bệnh đau mắt. Sư nói: Thấy tánh không phải mắt, mắt bệnh có lỗi gì? Lại nói: Thấy tánh đã không phải mắt thì lấy gì mà thấy, nghe tánh cũng chẳng phải tai, lại hỏi đem gì mà nghe. Cho đến mắt ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý phan duyên, mỗi mỗi đều như thế. Nếu hướng vào cái ấy màsáng được, cho đến tất cả chỗ đều sáng được. Do đó Hòa thượng Tuyết Phong nói: Hết cả đại địa là giải thoát môn, cầm tay mà kéo chẳng chịu vào. Lại nói: Hết cả đại địa nắm lại như nắm gạo lớn ném ra trước mặt, thùng sơn chẳng hiểu, đánh trống khắp thỉnh, xem lại có gì là huyền diệu thấy nghe hiểu biết. Nếu ông tâm cảnh nhất như, cũng không năng không sở, chỉ một tâm mình lại không vật gì khác. Nếu được người như thế thì trọn chẳng nói ta biết ta hiểu. Gặp cơm thì ăn, gặp trà thì uống, trọn ngày chỉ giữ chỗ nhàn nhàn bởi trong lòng họ không tính toán xét lường nhiều thứ. Do đó nói: Tâm như vô sự, vạn pháp nhất như, không được không mất, trọn ngày chỉ như thế. Phàm có người đến hỏi thì chỉ đem việc này cắt ngang. Do đó nói: Thấy phải thật thấy, ngộ phải thật ngộ. Người xưa nói: Đầu sào trăm thước tài giỏi chưa nguy hiểm, hướng dưới áo nạp mà chẳng rõ việc lớn của thân người mới là nguy hiểm. Đã như thế há chẳng sáng sáng suốt được tâm địa. Tất cả vạn duyên cùng lúc buông bỏ, hết các tri kiến hiểu biết khiến giống như gỗ đá ngói gạch đến chỗ thật hết sạch đại an ổn. Sau đó một sóng vừa động thì vạn sóng theo, mà trước không có các tướng động tịnh. Bởi nó là người trọn ngày dùng tâm vô sở đắc mà tu hạnh vô sở đắc. Hạnh tuy cùng người đồng mà luôn cùng người khác. Chỉ là một khối đánh sạch hết tất cả, hết đồng thoát thể vô ngại, đâu phải là việc nhỏ, phải là việc có tác dụng mới được. Sư nói: Người người đầy đủ, mọi thứ viên thành. Chỉ hướng vào mình mà cầu, chớ tìm ở người khác. Vì sao? Vì từ người khác tìm là nhà người khác, bỏ mình theo người thì cách đạo rất xa. Phải biết tự mình phần thượng có một việc sáng rỡ xưa nay, như mười mặt trời cùng chiếu. Chỉ vì từ kiếp vô thủy đến nay vọng tưởng dẫy đầy, che ngăn tự tâm, vừa quay đầu (nhìn lại) thì đen tôi mịt mù. Tức là tri kiến thế gian các thứ thanh sắc, vừa hiện ra thì tất cả đều sáng được. Đây há chẳng phải là bội giác họp trần, từ người khác tìm cầu chẳng chịu phản chiếu ư? Lại như từ trên xuống Phật này, Tổ này dùng vô lượng trăm ngàn lời phương tiện. Lại nói: Sáng cái việc gì. Chỉ bị ông khởi kiến khởi niệm, khởi suy lường làm thông minh tính toán, mê hoặc mình xưa nay, rốt cục lập năng lập sở, lập hiện lập trí, lập phải lập quấy, phiền toái lăng xăng chẳng thể được thoát. Do đó Tổ Phật ra đời, chỉ là dạy ông dứt hết tri kiến, đánh tan dứt sạch không còn mảy may. Lại nói: Làm sao hết. Ngay đây mà vách núi buông tay, bỏ cả thân mạng, bỏ cả thấy nghe hiểu biết, bỏ cả Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát, hoặc tịnh hoặc uế một lúc bỏ hết, khiến giáo sạch làu làu sáng rỡ rỡ. Tự nhiên một nghe ngàn ngộ. Từ đó ngay đây mà thừa đương, xem lại chỗ dụng của Phật tổ cùng mình không hai không khác. Cho đến trong chợ búa ồn ào, mọi người mua bán đổi chác, cho đến gió hú chim hót, đều cùng mình không khác. Sau đó Phật cùng chúng sinh là một, phiền não cùng Bồ-đề là một, tâm cùng cảnh là một, sáng và tối là một, phải và quấy là một, cho đến ngàn sai vạn khác đều là một thì mới có thể khuấy sông dài thành sữa, biến đại địa thành vàng ròng. Đều nhồi thành một khối, mà một cũng chẳng lập. Rồi sau mới đi là đi, ngồi là ngồi mặc áo là mặc áo, ăn cơm là ăn cơm. Như gương sáng ở trên đài, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Trước chẳng tính toán mà tùy chỗ thấy thành. Do đó vạn duyên đến nhanh mà chẳng khuấy rối thần, ngàn đối đáp lạ mà không lo nghó. Đây há là tri kiến cạn cợt của thế gian mà có thể lường biết được. Đây cho đến diệu nhân duyên, kẻ học đạo hoặc mười năm hoặc hai mươi năm chuyên tâm nhất ý còn thấu chẳng được. Hoặc có người vừa nghe liền hiểu, hoặc có người không thầy mà tự ngộ. Đã tự chẳng thể ngộ cũng lại chướng ngại người khác chẳng được. Trong đó só đại phu rất khó vì theo việc đời cực nhọc phục vụ quốc gia, do đó ngộ nhập hơi khó. Song người được ở phần thượng của mình vốn không khác. Nếu người chưa thể liễu phải cần căn tánh lanh lợi, hướng dưới gót chân mình mà xem xét, một nghe liền rõ. Như Lý Phục Mã lưu ý Tổ nói cùng, Dương Văn Công là bạn. Mặt trời chiều đã xế bóng. Sau thấy Thạch Môn Từ Chiếu Thiền sư, nhân đó kêu rằng: Đường Phòng Nho Tướng công hỏi Kính Sơn Quốc Nhất Thiền sư rằng: Đại đạo Tổ sư ý chỉ rốt ráo như thế nào? Kính Sơn nói: Đây là việc của Đại trượng phu, không phải chỗ Tướng công làm được. Lý nghe liền đại ngộ. Bèn nói tụng rằng: Học đạo phải người sắt, tay để vào tâm mà phán xét, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, tất cả thị phi đều chẳng quản, nói được chẳng ngại kỳ đặc. Lại như ra làm soái vào làm tướng mà an hang định nghiệp dẹp trừ bạo loạn, đâu không phải là Trượng phu ư? Mà Kính Sơn vì sao nói đây là việc của Đại trượng phu không phải chỗ Tướng công làm được. Phải biết một đường hướng thượng mảy may chẳng dung. Do đó Động Sơn nói: Thấy Phật thấy tổ xem như kẻ thù mới có phần tham học. Chỉ như Phật tổ làm thầy mọi người, làm chỗ nương tựa cho tất cả mọi người. Vì sao nói xem như kẻ thù. Ông lại nói: Như thế nào là việc của Đại trượng phu? Cần phải không nhờ người phân xử, không bị người bắt nhốt, không cho người trói buộc, thoát khỏi rập theo khuôn cũ, riêng không một bè bạn, hiên ngang đường hoàng riêng bước ở ba cõi thông minh thấu thoát, không dục không nương tựa, được đại tự tại, đều không mảy may tình giải Phật pháp, như ngu như dại, như gỗ như đá, chẳng phân Nam Bắc, chẳng luận lạnh nóng, mù mù mịt mịt, trăm thứ chẳng làm, trăm thứ chẳng hiểu. Song trong bụng thì tràn đầy, gặp việc thì mắt nhìn thấu đáo, không có việc gì chẳng sáng, cho đến câu lời người xưa ngàn sai vạn khác một lúc liền thấu triệt. Nếu như người không đến được chỗ này thì phải được hướng vào túi cốt đổng từ cao đến thấp vì người khác đi. Như ngày xưa Vi Địch Tướng công ra trấn nhậm Tương Dương, cai trị rất độc ác, kẻ ngỗ nghịch đều giết hết. Nhân đọc kinh Quán Âm có chỗ nghi. Một hôm học với Tử Ngọc Sơn Đạo Thông Thiền sư, bèn hỏi rằng: Như thế nào là gió lớn thổi thuyền trôi vào nước quỷ La-sát. Thiền sư Tử Ngọc bèn lớn tiếng bảo: Vu Địch kẻ làm khách, hỏi việc ấy làm gì? Vu nghe nói rất giận. Thiền sư Tử Ngọc bảo: Đấy là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỷ La-sát đó. Vu nghe thì chợt tỉnh. Ông lại nói: Ông hỏi Tử Ngọc việc ấy vì sao đáp như thế? Đấy mới phát vô minh căn bản, hiện tiền tiện tay vì ông chỉ ra, chẳng ngại cao thủ. Song chẳng bằng đương thời chẳng tiêu được lời sau, từ người khác mà cắt làm hai đoạn, tức có chút hơi thở của nạp Tăng ấy, khi vì nó điểm phá thì cũng là thuận tay xoa nắn. Đại phàm tiếp người có ba thứ cơ. Nếu người cơ thứ nhất là như vừa nói Vu Địch làm khách, ông hỏi việc ấy làm gì? Tức không có phương tiện, chỉ là mất nghóa lý khó nói hiểu. Nếu ở ngay đó mà thừa đương chẳng cần luận bàn thì cùng với “cây bách trước sân, ba cân mè, một hóp uống hết nước Tây giang” giống nhau không khác. Do đó nói: Nói ra mà chẳng đoái hoài đến là sai, nhưng nếu suy lường nghó bàn thì kiếp nào mới ngộ. Chỉ cần bảo ông ngay đó mà hiểu - Nếu là người ở cơ thứ hai thì lại dễ, chỉ cần đặt câu hỏi. Như nói Vu Địch làm khách, ông hỏi việc ấy làm gì? Đây là phát vô minh căn bản, khiến vô minh hiện bày rồi tùy tay mà phá. Nếu là người cơ thứ ba, thì chẳng khỏi dùng phương tiện lại phải giải thích. Như nói Vu Địch làm khách liền là buông bỏ gió đen thổi thuyền. Vu Địch nếu giận thì là La-sát hiện tiền. Thiền sư Tử Ngọc nói chính là gió đen thổi thuyền, há chẳng phải là Quán Âm xuất hiện. Đây là rơi cỏ chú giải, làm mù mắt người, phá diệt giống Hồ. Nếu là nạp Tăng chân chánh thì ngay đây phải dẹp bỏ. Há chẳng thấy nói: Nó tham hoạt cú, chẳng tham tử cú, trên hoạt cú mà nói được thì cùng Phật tổ làm thầy. Như Lý Vạn Quyển hỏi Qui Tông Hòa thượng: “Núi Tu-di để vào trong hạt cải thì chẳng hỏi, như thế nào là hạt cải để vào núi Tu- di?” Tông nói: “Thân ông như cây dừa to, vạn quyển sách chứa ở đâu?” Lão già Qui Tông bình thường luôn một cây gậy đánh Phật đánh Tổ. Khi Lý Vạn Quyển hỏi thỉ chẳng khỏi cong vạy thuận theo tình người mà buông ra một tuyến đường. Song chỗ dùng nó cũng chỉ là dạy ông ngay đây mà cắt ngang. Sau trong chúng không người biết. Liền nói hạt cải là tâm, Tu-di là vạn quyển, bỏ vào trong tâm sao không được. Phật pháp nếu chỉ như đây sao đến ngày nay. Lại như Bàng cư só hỏi Mã Đại sư rằng: Chẳng cùng vạn pháp làm bạn đó là người nào? Mã Tổ Đại sư nói: Đợi ông một hớp uống hết nước Tây giang, ta sẽ nói cho ông nghe. Bàng cư só cuối cùng đại ngộ. Nói tụng rằng: Mười phương đồng tụ hội, Người người học vô vi, Đây là tuyển Phật đường, Tâm không thi đậu về. Tụng này cùng đề mục “Một hóp uống hết nước Tây giang” há từng bức ép nhau. Đã chẳng nói miệng, lại không nói nước chỉ nói: Tâm “không thi đậu” về. Lại hỏi: Thế nào là tâm không? Thì chỉ nói: Ông phải quấy, được mất, sáng tối, sắc không sum-la vạn tượng một lúc dung hội về lý một và lý một cũng không, thì sau mới có chút thú hướng. Sơn Tăng đêm nay chẳng tiếc lời lẽ vì ông một lúc nói hết. Liền vì mọi người nói bài kệ ngắn: Tổ Phật riêng truyền cơ hướng thượng, ánh điện chớp, ánh chớp đá lửa gặp chẳng suốt, riêng cho các căn người thoát lạ, kiếm báu kim cương ngay đó cắt ngang. Sư nói: Đạo cho ngộ đạt, pháp lìa thấy nghe, ngay đó mà thừa đương, liền không có cái thứ hai. Đây cũng là lúc này cong vạy chỗ đưa tay, nếu là bổn phận sự thì lại chẳng thế. Do đó nói: Khi ông chưa nhảy khỏi thuyền thì cũng đánh cho ba mươi gậy. Như đây thì ngàn dặm vạn dặm một lúc quét sạch. Vì sao? Vì phải biết phần thượng người ấy đều có nước rửa chẳng được, gió thổi chẳng vào, trong vắt trắng tinh từng giọt, Tổ Phật chẳng thể đến, Ma ngoại chẳng thể vào, quét sạch hết chức vụ quan trọng, chẳng thông phàm Thánh. Nếu hết cả đại địa cỏ cây rừng rậm hóa hết thành nạp Tăng đều đặt trăm ngàn câu hỏi thì chẳng tiêu một đáp. Bảo đều nuốt tiếng uống khí mắt trừng miệng câm mà nay việc chẳng được, lại không thấy mà thấy, không nói mà nói cùng các người khác thông cái thời tiết ấy. Chỉ như đều là phần thượng của mọi người, trên đến dưới đi đã là mười phần hiện thành. Các ông còn thiếu sót cái gì lại đến người khác mà tìm. Do đó Huyền Sa nói: Ngồi bên rá cơm buông tay, hỏi người tìm ăn uống. Chỉ vì từ vô thủy kiếp đến nay ném mặt trời ở nhà người khác đã lâu quay lưng với bổn phận mình, hướng theo cảnh giới sáu trần vọng tưởng luân hồi chẳng chịu hồi quang phản chiếu cam chịu làm hạng hạ lưu. Nếu có thể đủ Thượng căn lợi trí, trở về nguồn cội như việc này thì sáng rỡ xưa nay, dứt hết tri kiến quét sạch mười phương không còn luân chuyển, mới có phần nói năng. Mà nay phải là đổi cái xương đầu thì mới thấy được chỗ một khối này. Nếu chưa biết được chỗ một khối này thì phải hiểu việc bên Phật tổ. Hỏi: Một đáp mười hiểu không dính dáng. Phải biết chư Phật ra đời chỉ là chứng minh một khối điền địa. Tổ sư Tây Trúc đến cũng là nắm chức một khối điền địa. Do đó Tiên sư gặp Bạch Vân Sư ông một cái nhìn thấu suốt. Lại làm bài tụng rằng: Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa Xoa thủ đinh ninh vấn Tổ ông Kỷ độ mãi lai tự mại Vi lân tùng trúc dẫn thanh phong. (Trước núi không khối nhàn, vòng tay ấp úng hỏi Tổ ông, mấy phen bán đi rồi mua lại, vì thương tùng trúc dẫn gió mát). Các người có từng hiểu đó chưa? Phải là hướng vào một khối điền địa mà sạch làu làu, sáng rỡ thì mới có thể vào được. <詞>PHỔ THUYẾT Thắp hương phổ thuyết. Sư dạy chúng rằng: Chỉ cái ấy liền thừa đương được, như trời che đất chở. Lại chẳng thiếu một đầu lông. Cũng không có kiến giải thứ hai. Nếu cả vô biên biển hương thủy, khắp nơi khắp chốn một lúc xuyên qua lỗ mũi lại chẳng rơi vào chỗ khác. Nếu hoặc suy lường bàn luận thì liền không dính dáng. Do đó nói: Một niệm chẳng sinh bờ mé trước sau dứt hết tức gọi là Phật. Nếu nó dính với suy lường tính toán phân có năng sở, thành hiểu biết thì cách xa ngàn dặm vạn dặm. Dưới cửa Tổ sư dạy thẳng thấy phải thật thấy, ngộ phải thật ngộ, chứng phải thật chứng. Mọi người đều có một tánh linh diệu. Xác thật mà luận vừa bị đánh gõ thì liền tay chân quờ quạng, làm sao thấy được, làm sao thần tin được thấu, dưới đáy thùng chảy ra. Chỉ vì từ kiếp vô thủy đến nay vọng tưởng dẫy đầy, chỉ ở trong các cảnh giới trần vốn chưa từng đặt chân đến Bổn địa phong quang mà thấy sáng bản lai diện mục. Nếu là người chân thật thì ngay đây mà thừa đương, hiểu rõ sinh vốn chẳng sinh, biết rõ tử vốn chẳng chết, hướng về chỗ chẳng sinh chẳng tử, ngàn Thánh để mắt nhìn chẳng thấy, ngàn tay đại bi đưa lên không được. Mà nay huynh đệ nếu hay phản chiếu lại không có người thứ hai lại chẳng đợi sơn Tăng hai lần bố thí, chẳng tiếc lời lẽ dùng phương pháp giáo hóa, huống là quăng cát ném đất, nói tâm nói tánh. Chưa khỏi rơi vào bảy, tám trước mặt mà lừa dối nhau. Há chẳng thấy Phá Táo Đọa Hòa thượng nghe miếu xưa có yêu nghiệp, liền dẫn mười tám đệ tử vào núi xem thì toàn không thần tướng gì cả, chỉ thấy ba gian nhà trống và một nhóm bếp lò bằng đất. Bèn lấy gậy đập nát bảo rằng: Các ngươi do bùn đất họp thành, linh từ đâu lại, Thánh từ đâu khởi. Thì các bếp lò ấy sụp ào xuống. Phá Táo Đọa nói: Phá nè! Phá nè! Sụp đổ đi! Sụp đổ đi! Chẳng biết (đốt) giấy tiền. Sau có thần nhân ra nói: Con là Thần Táo, nhờ Sư nói cho pháp vô sinh đã được sinh lên trời. Rồi lễ tạ mà đi. Mười tám người đệ tử bèn bạch Sư rằng: Chúng con từ lâu tham vấn hầu hạ Hòa thượng mà chẳng từng nghe được chỉ bày pháp vô sinh. Nay Thần Táo này sao may mắn được Hòa thượng nói cho nghe. Phá Táo Đọa nói: Ta chỉ nói với ông ấy là các ngươi vốn là bùn đất ngói gạch họp thành, linh từ đâu lại, Thánh từ đâu khởi thì họ đều đảnh lễ. Phá Táo Đọa nói: Phá nè! Phá nè! Sụp đi! Sụp đi! Thì mười tám người đệ tử đều tỉnh ngộ. Chỉ như Sơn Tăng nay đưa phất tử lên hỏi: Cùng với Phá Táo Đọa là đồng hay khác. Liền nói: Phá nè! Phá nè! Sụp đi! Sụp đi! Nếu cũng thấy được, chẳng chỉ không cô phụ Phá Táo Đọa Hòa thượng mà cũng chẳng cô phụ các Tổ sư từ trước. Nếu cũng chẳng thấy thì chẳng chỉ cô phụ Phá Táo Đọa Hòa thượng mà cũng cô phụ cả mình. Phải biết có việc này chẳng từ người khác mà được. Do đó nói: Linh từ đâu đến, Thánh từ đâu khởi. Chỉ như mọi người thấy thân này từ huyết khí cha mẹ mà thành, nếu ở trong đó biết được linh minh diệu tánh, thì hoặc phàm hoặc Thánh tìm ý căn ông rốt chẳng thể được. Chính vì trong không có thấy nghe hiểu biết, ngoài không có núi sông đại địa, tầm thường mà mặc áo ăn cơm không có gì là kỳ đặc cả. Do đó nói: Nếu ta hướng về núi đao, thì núi đao tự gãy sụp, nếu ta hướng về địa ngục, thì địa ngục tự tiêu tan. Mới biết có linh thông như thế, có tự tại như thế. Chỉ như nay thiền Tăng gia sao chẳng hồi quang phản chiếu mà thấu suốt lời dạy đi trên cũng chưa sáng được thì lại hướng về ba gốc rui hạ xuống bảy thước trước đơn, im lặng mà nghiên cứu lấy. Chẳng thấy Vân Môn Đại sư nói. Ông lại bói Đông bói Tây bỗng nhiên bói đây cũng bất định. Nếu cũng đánh mở kho tàng của mình ra, chở gia tài của mình ra mà cứu giúp cho tất cả. Nói rằng: Vọng tưởng từ vô thủy không còn cột chặt, há chẳng vui sao? Lão Tăng hôm qua bị bệnh nóng sốt hành hạ muốn chết. Một hôm thấy đường trước tối đen mịt mù đều chẳng biết đi đâu. Rồi được sống lại, bèn sợ việc sống chết, mới phát tâm đi hành cước, tìm học với đại Thiện tri thức hiểu rõ việc này. Trước đến Đại Qui mà tham với Chân Như Hòa thượng, trọn ngày ngồi im quay mặt vào vách, đem công án của người xưa xem lại. Được một năm bỗng có chút tỉnh. Song chỉ là nhận được cái chiêu chiêu linh linh, làm kẻ đầy tớ, chỉ hướng vào thân bốn đại mà động dụng. Nếu bị người đánh gõ thì giống như không chỗ thấy. Chỉ vì trần giải thoát chôn thiền đạo đầy bụng. Ở trên Phật pháp xem thì có, ở trên thế pháp xem thì không. Sau đến chỗ của Bạch Vân Lão sư bị ông ấy nói: Ông đều không thấy chỗ. Từ đây không có phần nhai nuốt, bèn buồn rầu mà từ tạ ra đi, trong tâm còn nổi nghi trọn không an lạc. Lại thưa với Bạch Vân xin tham lại với Tiên sư, liền khiến làm thị giả. Một hôm bỗng có Quan viên hỏi đạo. Tiên sư nói: Quan nhân chẳng thấy Tiểu Diễm Thi chốc chốc gọi con hầu Tiểu Ngọc vốn không có việc vì, chỉ cần người bạn tình ngoài bờ rào nghe được tiếng mình. Quan nhân vẫn chưa hiểu. Lão Tăng nghe được bỗng nhiên đập vỡ thùng sơn, nhìn vào dưới gót chân mà thấy được, vốn chẳng do người khác mới tin được trong trời đất trong vũ trụ có một vật báu bí mật trong Hình sơn. Cho đến chư Phật ba đời, Tổ sư Tây Trúc đến đều chỉ dạy người sáng một việc này. Nếu cũng chưa biết, chỉ làm các hiểu biết trợn mắt nhướng mày. Vốn chẳng biết ấn lên con mắt thấy hoa đốm, tội trạng đeo gông, làm sao từng có được an lạc tự tại. Như một điểm tuyết trên lò hồng. Nếu đá đập phá hoặc đánh hoặc hét tất cả đều được. Song hoàn toàn chẳng làm kiến giải này thì mới có thể buông bỏ nhân ngã gánh vác ông muôn ngàn thôi dứt, mới có thể sinh tử làm sao mà chẳng được. Cũng phải là thật đến chỗ ấy mới được. Nếu thật đến đây thì có thể đề xướng nhân duyên lớn, kiến lập pháp tràng, cùng mọi người mà nhổ đinh tháo chốt cởi mở trói cột. Như thế mà bảo rõ ngàn người vạn người. Như chim cánh vàng vào biển nuốt rồng, như các Bồ-tát vào biển sinh tử mà mò vớt chúng sinh, bỏ lên bờ Bồ-đề. Mới có thể một nêu thì tất cả đều nêu, một liễu tất cả đều liễu. Có khi một tiếng hét như kiếm báu kim cương vương, có khi một hét như sư tử ngồi xổm, có khi một hét như sào dò bóng cỏ, có lúc một hét chẳng có tác dụng một tiếng hét, mới có thể giết chết hay cứu sống, tự do bố trí lâm thời, bảo rằng ta là Pháp vương đối với các pháp được tự tại. Mọi người đã là đắp y, mang bát, tham vấn các bậc tri thức khắp nơi, trong lòng tự có của báu vô giá, mới đến trong chỗ đó mà tham học. Tiên sư thường nói: Chớ học thiền với bình lưu ly, nhẹ nhàng bị người đụng thì bể ra trăm mảnh. Khi tham phải tham thiền ngoài da với lậu tử, mặc tình lên đỉnh núi cao mà đánh xuống cũng chẳng bị thương tổn gì. Kiếp hỏa hừng hực ta đây cũng chẳng bị tiêu hoại. Nếu là bổn phận kẻ tác gia bị heo chó cắn tay chân buông xuống chất chồng lên nhau, mười năm hai mươi năm mà quản lấy, nhồi thành một khối. Hãy làm như thế để được riêng thoát đi. Phải là người nhập lưu mới biết việc như thế. <篇> VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 14 PHÁP NGỮ I * Dạy Trương Trì Mãn Triều Phụng Khắc Cần tự ra khỏi Giáp Sơn dừng ở Tăng đường, chỉ một niệm này ở đây, người theo học rất đông, dạy dỗ không than mệt mỏi. Cái gọi là lợi tha chính là tự lợi. Cần phải căn bản thấu suốt nghóa lý một cách thuần nhất không xen tạp. Vừa sinh phải quấy thì liền đánh mất tâm. Nếu dẫm lên Vương mạch thì chư Thiên không đường dâng hoa, ma ngoại rình xem chẳng thấy, đi thật sâu dưới đáy biển, đứng trên đỉnh núi thật cao mới được, chẳng làm kinh sợ quần chúng. Gọi đó là tâm bình thường, bổn nguyên thiên chân tự tánh. Tuy ở trong ngàn vạn người mà như không có một người nào. Đây đâu có thể là thức tưởng thô phù, lợi trí thông tuệ sở năng mà có thể lường biết được ư? Khuyên rằng: Miên mật không gián đoạn, tịch chiếu đồng thời, năm tháng dài lâu nhồi thành một khối, mà căn bản càng bền chắc dầy đặc tác dụng thật không ngoài đây. Phải ở ngay đây mà toàn chân, thì chỗ tiếp xúc xa gần của ta đều là mình. Khắp mọi nơi chốn đều ở trong gương tròn lớn của mình, càng càng miên mật thì càng có thể chuyển đổi. Cho nên ngài Vân Môn nói: Dù cho càn khôn đại địa cũng không mảy may họa hoạn, cũng là chuyển câu? Chẳng thấy một sắc mới là nửa đề. Dù như thế cũng càng cần phải biết có toàn đề thời tiết mới được. Do đó Đức Sơn thì gậy, Lâm Tế thì hét đều triệt chứng vô sinh, thấu đỉnh thấu đáy, dung thông tự tại. Đến chỗ đại dụng hiện tiền mới có thể ra vào muốn người toàn thân gánh vác, lui giữ cảnh giới đại nhân Văn-thù, Phổ Hiền. Ngài Nham Đầu nói: Người giữ rãnh rang, trong mười hai giờ không ham muốn, không nương tựa, tự nhiên vượt các Tam-muội. Ngài Đức Sơn cũng nói: Ông chỉ vô sự ở tâm, ở tâm vô sự thì hư mà linh, tịch mà chiếu. Nếu còn có một chút lời nói gốc ngọn thì đều là dối mình. Đây đã sáng rồi thì phải bước lên thực hành, nếu chỉ lui bước thì càng lui càng sáng, càng chẳng hiểu càng có lực lượng. Niệm khác vừa khởi, nghó tâm vừa sinh, liền mạnh mẽ tự cắt đứt không cho tiếp nối thì trí chiếu rỗng suốt, thiết thực. Há có cao thấp ghét yêu đạt thuận chọn lựa trong đó? Vô minh tập khí thoạt nổi thoạt mất càng lâu xa tự không có sức khuấy rối người. Người xưa lấy việc chăn trâu làm dụ. Thành thật thay chỗ gọi cần người lâu dài cắt ngang mà tỉnh yếu. Rất là trước phải quên ngã kiến, khiến cho lui tịnh điềm hoa mặc tình tự tại vô vi, mặc tình tự tại, đối với tất cả pháp đều không lấy bỏ. Hướng vào căn căn trần trần mà đúng lúc thị thoát ra, một mình riêng chiếu, chiếu thể độc lập, vật và ta nhất như. Ngay đây triệt để không chiếu nào có thể lập, như chặt đứt một cuộn tơ, một chém thì tất cả đều đứt, liền tự hiểu tìm sống đi. Phật kiến pháp kiến còn không cho khởi, thì trần lao nghiệp thức tự nó phải tiêu tan, phải thật như ngu như dại, mà trung vị cao tột Phật tổ không thể thâu nhiếp được, nào chịu vào bụng lừa thai ngựa? Ngài Triệu Châu nói: Ta thấy trăm ngàn ức người đều là kẻ tìm làm Phật, trong đó không tìm được người vô tâm. Lại nói: Ta ở phương Nam ba mươi năm trừ hai thời cơm cháo ra, đều dành cho việc dụng tâm. Hương Lâm bốn mươi năm mới thành một khối. Dũng Tuyền bốn mươi năm còn phải chạy tìm. Nam Tuyền mười tám năm mới tìm ra kế sống. Tín biết từ trước người xưa đều như đây mà khít kín đạp qua. Há có thể tính việc được mất dài ngắn lấy bỏ phải quấy hiểu biết. Kẻ đồng học là Long Môn Trí Hải xưa ở Thường thục cùng nghiên cứu sáng, chỉ gặp duyên gặp cảnh đều quản đến, đâu chỉ đời này mà thôi, cùng hết đời vị lai chứng vô lượng Thánh thân, chưa phải là chỗ nương tựa. Chỉ một vị lui bước, chớ nên làm hạn lượng. * Dạy Ngô Giáo Thọ. Phật tổ dùng thần đạo lập giáo, chỉ cốt minh tâm đạt bổn, huống chi người nào cũng đủ, mỗi người đều viên thành. Chỉ vì đem mê vọng quay lưng với bản tâm này, nên phải lưu chuyển trong các thú luống chịu luân hồi mà gốc xưa không Tăng giảm. Chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà ra đời, cũng bởi việc này vậy. Tổ sư vì riêng truyền mật ấn mà đến đây cũng là việc này. Nếu người xưa đã chứa nhiều đại căn lợi trí liền có thể ở dưới gót chân mình mà thừa đương, chẳng từ người khác mà được liễu nhiên tự ngộ, thấu triệt linh minh rộng lớn rỗng không vắng lặng, từ vô thủy đến nay cũng chưa từng gián đoạn. Vô vi thanh tịnh, chân tâm diệu viên, chẳng bị các trần đối tác, chẳng cùng muôn pháp làm bạn. Như cả mười mặt trời cùng chiếu, lìa kiến vượt tình, dứt hết sinh tử hư huyễn. Như kim cương vương bền chắc bất động. Bèn gọi đó là tức tâm tức Phật. Lại chẳng cần tìm kiếm bên ngoài mà chỉ liễu tự tánh. Đúng lúc cùng Phật và Tổ khế hợp đến chỗ vô ngại. Cầm được dừng, làm được chủ, há chẳng phải là cắt ngang đại giải thoát ư? Khảo sát việc này cần phải thấu suốt sinh tử hai là duyên nhỏ. Cần phải mạnh mẽ sắc bén chí thành tín trọng như cứu lửa cháy đầu thì mới có chút phần tương ưng. Thấy nhiều kẻ tham vấn trí thông minh thế tục chỉ mưu đồ giúp cho việc đàm bính, rộng thêm tiếng khen, cho là chỗ thú hướng cao thượng cốt ở hơn người, chỉ Tăng thêm nhiều ngã kiến, như đổ dầu vào lửa, lửa càng cháy mạnh. Đến ngày ba mươi tháng chạp (đêm giao thừa) mịt mờ nhiễu loạn, chẳng được mảy may sức lực. Bởi do lúc xa xưa không có chánh nhân. Do đó cuối cùng nhọc sức mà vô ích. Thế nên người xưa khuyên người tham thiền trong nhà Niết-bàn thật có ý chỉ vậy. Ở trong bờ sinh tử thật dễ. Chỉ có kẻ đạt được siêu chứng, lợi căn mạnh mẽ thì mới một lúc cắt ngang không khó. Song chỗ đoạn này tuy do căn lực của mình nhưng cũng còn phải nhờ phương tiện. Thường trong mọi lúc nhỏ nhặt phải chuyển được hạnh, đánh được thấu triệt chẳng còn kiến giải, chẳng lập kiến giải, lẫm liệt toàn thể hiện thành. Dày đạp bảo rằng nuôi cho được thuần thục đến lúc duyên hết tự nhiên không còn sợ hãi. Chỉ có âm thanh rỗng vinh triệt không một pháp lúc ấy ở vách núi dựng đứng vạn nhận mà buông tay, buông bỏ tất cả không còn lưu luyến. Một niệm muôn năm, muôn năm một niệm. Tìm sinh rốt chẳng thể được há lại có tử sao. Thế nên Cổ đức ngồi thoát đứng quên, hành hóa thoát xác hay được mạnh mẽ, đều là từ xưa đào thải hết sạch. Hương Lâm bốn mươi năm mới nhồi thành một khối. Dũng Tuyền bốn mươi năm còn chạy đi tìm. Thạch Sương khuyên người dẹp bỏ hết, như lò hương trong cổ miếu đi. Vónh Gia nói: Thể tức vô sinh bổn vô tốc. Thể là không sinh, gốc không nhanh chóng. Bởi các nghiệp tranh nhau, niệm này tại đây mới được vô ngại tự tại. Sau khi đã chết được ý sinh thân tự ý đến, hậu báo đều theo lý mà khiển trừ, chẳng do nghiệp kéo, do đó mà siêu thoát sinh tử chăng? Báo duyên chưa dứt ở nhân gian, trên đời nếu có người tham thiệp thì chỗ giao hỗ khiến thong thả thừa thải mới được, người đời đều tùy duyên phần, bất tất phải chán ồn ào cầu yên tịnh, chỉ khiến trong hư ngoài thuận, tuy ở giữa chợ ồn ào như nước sôi thì cũng điềm nhiên an ổn. Vừa có một chút kiến giải liền đánh không lỗi. Dạy Hứa Đình Nghi Phụng Nghị. Việc này ở người lợi căn thượng trí, một nghe ngàn ngộ chẳng là khó. Cần phải dưới gót chân chắc thật mà tin thấu. Nắm được định, làm chủ tất cả cảnh giới trái thuận, nhân duyên sai khác nhồi thành một khối. Như trong khoảng hư không chẳng mảy may ngăn cách, trống suốt sáng trưng không có chuyển biến. Tuy trăm kiếp nghìn đời trước sau nhất như mới có thể bình ổn. Phần nhiều thấy người tài giỏi thông minh căn phù gót cạn. Tức vì thế gian không thể cao hơn, bèn Tăng lớn thấy mũi nhọn, sính tài năng, sính hiểu biết sính nói năng nhanh chóng, sắp nói Phật pháp chỉ như đây. Cho đến cảnh giới duyên sinh, siêu thoát, nhân đó thành tiến lùi, rất đáng tiếc. Thế nên, người xưa ngay cả ngàn ma vạn nạn cũng đều nếm khắp. Tuy bảy chỗ cắt ngang cũng chẳng động niệm một lượt thao tâm cũng như sắt đá. Cho đến siêu thoát cặn đục sinh tử mà chẳng phí sức. Há chẳng phải là kẻ Đại trượng phu khẳng khái vượt đến. Bồ-tát tại gia tu hạnh xuất gia như hoa sen trong lửa. Bởi vì danh vị quyền thế ý khí rốt khó điều phục. Huống là nhà lửa phiền nhiễu nấu đốt trăm ngàn thứ. Trừ phi chính mình ngay đây mà minh ngộ bổn chân diệu viên. Đến chỗ đại tịch định dứt hết. Rất hay buông bỏ rộng rãi, bình thường thấu chứng vô tâm. Xem tất cả pháp như huyễn hóa, bọt không rộng khắp, tùy thời tiết mà tiêu khiển, tức cùng với các thắng só tại gia như Duy-ma-cật, Phó Đại só, Bàng cư só, Bùi tướng quốc, Dương Nội Hàn đồng với chánh nhân tùy năng lực mình chuyển hóa những người chưa ngộ, đồng vào biển pháp tánh vô vi vô sự thì ra đến Nam Diêm-phù-đề. Đánh một trận không bị gãy gốc. Dạy Long Tri Tạng. Từ có Tổ đến nay chỉ cốt riêng truyền chỉ thẳng, chẳng mừng lôi thôi dài dòng, đánh lộ bố hang ổ người. Bởi ông già Thích-ca hơn ba trăm hội đổi cơ mà lập giáo, lập phép tắc ở đời khắp ngăn chặn đoạn dứt. Thế nên cuối cùng cắt ngang tỉnh yếu ở (xét) cơ tối thượng. Tuy từ Ca-diếp đến hai mươi tám đời Tổ đều ít nêu cơ quan mà nhiều hiển bày lý chí, đến lúc giao cho thì đều ở trước mặt mà nắm chắc. Lật ngược cây gậy, ném kim vào chén, bày tướng viên quang cầm phan đỏ, cầm gương sáng. Nói như cọc sắt truyền kệ pháp, Đạt-ma phá sáu tông, cùng ngoại đạo lập nghóa thiên hạ thái bình, lật ngược mầy là chó ta là trời, đều là thần cơ nhanh chóng, chẳng nghó bàn tư duy mà lường được. Kịp đến Lương qua Ngụy nhất là hiển bày. Ngoài giáo riêng, truyền tâm ấn, sáu đời Tổ truyền y bát được tôn chỉ rõ ràng. Kịp đến gương lớn Tào Khê thì nói bày thông Tông thuyết, lịch thiệp đã lâu, bậc đủ chánh nhãn Đại giải thoát Tông sư cải biến đường lối khiến chẳng trệ vào danh tướng không rơi vào lý tánh nói năng, buông ra cách sống trác tuyện thanh thoát tự do. Diệu cơ bèn thấy đánh và hét. Dùng lời khiển lời, dùng cơ đoạt cơ, lấy độc trị độc, lấy dụng phá dụng. Do đó lưu truyền bảy trăm năm đến nay, phân chia chi phái khác nhau đều nối dõi gia phong. Luôn luôn bài bác nhau chẳng bao giờ dứt. Song nói về chỗ về thì không ngoài chỉ thẳng tâm người, tâm địa đã sáng thì không mảy may cách ngại thoát ra ngoài hơn thua kia đây, phải quấy tri kiến hiểu biết, thấu đáo chỗ an ổn của rốt ráo dứt hết, há có hai thứ ư? Do đó nói trăm sông khác dòng đều đổ về biển. Cần phải là cái căn khí hướng thượng đầy đủ thấy biết cao xa. Có chí khí nối thạnh Phật tổ sau mới có thể thâm nhập chỗ sâu xa triệt để tin được kịp, ngay đó mới nắm dừng được, mới có thể ấn chứng làm nòi giống cỏ quý bỏ đây ắt phải lời nói cẩn thận bí hiểm, chớ nên khinh suất cởi bỏ. Ngũ Tổ Lão sư bình sinh một mình cao tột, ít chấp nhận người, đất khô cằn vách đứng chỉ nương tựa vào đây. Thường tự bảo như tựa một tòa núi Tu-di, há có thể rơi vào hư dối lừa gạt người chơi. Đem cái bánh không ngon chua lè cứng như sắt bắt người học cắn nhai, phải đợi dưới đáy thùng chảy ra, giết chết các tri kiến xấu ác, trong lòng không còn chút nương mang nào, biết được là hết sạch thì mới ra tay rèn luyện, mới cấm được quyền tước. Sau mới bày bảo kiếm kim cương vương, nếu quả có thể đạp lên gánh vác, sạch hết không còn một sự việc gì. Núi là núi sông là sông. Lại nên chuyển hướng bên nào ngàn Thánh không trụ xứ ràng buộc, lại khế hợp với Chánh pháp nhãn tạng mà các Tổ đã truyền trì chỗ chứng đến nay. Cho đến ứng dụng vì vật mà vẫn cày cấy chăn trâu cướp thức ăn của người đói. Chứng nghiệm mười thành không rò ró, tức là đạo lưu của nhà này vậy. Nước Ma-kiệt-đề ra làm lệnh này. Thiếu lâm quay mặt vào vách toàn đề Chánh tông mà người thời ấy nhận lầm bèn chuộng mất dứt im lặng, không có khế hợp không có mối manh, vách đứng ngàn nhận. Rất chẳng biết buông lung tình thức suy lường cho là cao kiến, đây là bệnh lớn, việc từ trước đến nay vốn chẳng chẳng như thế. Nham Đầu nói chỉ lộ một chút ra trước mắt nó như ánh điện chớp, tia đá lửa, nếu dắt (nắm) chẳng được chẳng cần phải nghi. Đây là hành lý của người hướng thượng trừ phi biết có mà chẳng biết. Triệu Châu nói uống trà đi, Bí Ma Nham kích thoa, Tuyết Phong côn cầu, Hòa Sơn đánh trống, câu- chi một ngón tay thiền Qui Tông kéo đá Huyền Sa chưa thấu suốt. Đức Sơn đánh gậy, Lâm Tế hét, đều là để thấu đảnh thấu đáy, cắt ngang lời nói, đại cơ đại dụng. Ngàn sai vạn khác hồi về một nguồn. Có thể cùng người mở then tháo chốt. Nếu theo lời nói mà hiểu thì phải cùng bổn phận thảo liệu. Thí như bảy hộc sữa lừa chỉ cần một giọt sữa sư tử thì đều tan. Cần phải ngay dưới gót chân mà truyền từ, tiếp nối khít xa. Cần phải không theo tình người, chớ cho là dễ dàng, là đích thực đấy. Một câu sau chót mới đến lao quan thành thật thay lời nói ấy. Thấu thoát sinh tử nắm chắc chánh ấn, toàn là thời tiết này. Chỉ có đạp trên đầu chốt cửa liền hiểu rõ tất cả. Long Công Tri Tạng ở Hồ Tương đầu cơ lại đến Bắc sơn hơn mười năm, thật sự tinh thông sâu xa bản sắc nạp tử. Bèn giảng dạy cho học trò ba năm. Tôi dạy cho ý chỉ sáng suốt. Bèn dời về ở Thiên ninh, muốn được Pháp Ngữ để biểu thị đã khế đạo. Nhân đó trích ra mấy đoạn này. Tháng mười hai năm Tuyên Hòa sáu. Phật quả Lão Tăng ghi. * Dạy Hoa Tạng Minh Thủ Tọa. Dưới cửa Tổ sư cắt đứt hết các chỉ bày, há lại có nhiều ngõ tắt. Chỉ quý người hướng thượng nhờ nghe nói, cất bước liền đi. Kẻ sáng mắt nhìn lại chỉ là chọc quê. Người xưa nói: Nếu một góc thì hiểu ba góc kia. Ta thì chẳng thế, người người cần phải nêu mà sáng ba, mắt cơ hai thù phải trơn tuột, nhanh chóng thông suốt thì mới xứng (gọi?) nắm chắc. Há chẳng thấy. Lương Toại gặp Ma Cốc, một phen vừa thấy liền trở về phương trượng đóng cửa lại. Gặp lần thứ hai thì Cốc bỗng bước ra vườn rau. Ông ấy ngó xuống đất bèn bảo Cốc rằng: Hòa thượng chẳng dối gạt Lương Toại. Lương Toại nếu chẳng đến gặp Hòa thượng thì liền bị mười hai bản kinh luận lừa dối một đời. Xem nó nhận địa chẳng ngại tỉnh lực. Khi trở về gọi học trò (bạn bè?) bảo rằng: Chỗ các người biết Lương Toại đều biết, chỗ Lương Toại biết các người không biết. Tin biết chỗ nó biết chẳng có thông phong. Các người rốt lại chưa nắm được, đáng gọi thật là sư tử con, cần làm trồng cỏ nhà khác, trong chốc lát phải bỏ ra đầu mới được. Tổ Đạt-ma đến Lương vào Ngụy, rơi cỏ tìm người, đến Thiếu lâm ngồi xoay mặt vào vách chín năm, ở trong tuyết sâu tìm được một người. Sau cùng hỏi được cái gì thì chỉ dạy ba lạy rồi đứng vào chỗ cũ. Bèn có lời nói “được phần tủy”. Khiến kẻ ôm cây đợi thỏ tranh nhau không nói lễ bái đứng y chỗ cũ là được phần tủy rất sâu. Đâu chẳng biết kiếm rơi lâu rồi mới khắc dấu trên thuyền. Há từng mộng thấy Tổ sư. Nếu là đạo lưu có bản sắc chân chánh thì cần phải vượt tình lìa kiến riêng có sinh nhai, hoàn toàn chẳng vào nước chết mà tìm kế sống, thì mới nối được cơ nghiệp của người. Đến đây phải biết có việc hướng thượng. Chỗ nói khéo học Liễu Hạ Tuệ, cuối cùng không thầy mà có dấu vết của thầy. Thế nên người xưa nói: Một câu hợp lời nói, vạn kiếp cọc cột lừa lời thành thật thay. Phá việc có Pháp vương xuất hiện ra đời, tùy chúng sinh muốn mà nói pháp các thứ. Phải biết chỗ nói ra đều là phương tiện. Chỉ là vì muốn phá chấp phá nghi, phá giải lộ, phá ngã kiến. Nếu không có nhiều các tri kiến xấu ác thì Phật cũng không cần phải xuất hiện, huống gì nói các thứ pháp ư? Người xưa sau khi được ý chỉ bèn vào núi sâu hang đá mà ở, nồi chảo bể nấu cơm ăn suốt mười năm hai mươi năm, mà quên hết người đời, dứt hết trần lao. Thời nay chẳng dám mong như thế, chỉ cần mai danh ẩn tích mà giữ bổn phận, làm cái chày cốt luật của Lão nạp để tự khế hợp chỗ chứng, tùy sức mình mà thọ dụng, tiêu khiển nghiệp xưa, dung thông thói quen cũ. Hoặc có thừa sức so kịp bằng người, kết duyên Bát-nhã mài luyện chính mình, căn bản thuần thục, chính như trong cỏ hoang mà bước một bước nửa bước, đồng biết có cùng thoát sinh tử càng lợi cho người chưa cầu để báo ân sâu Phật tổ. Chỉ là bất đắc dó sương mù quả chín suy muốn ra đời ứng duyên thuận thích mở mang trời người. Trọn chẳng có tâm mong cầu, huống là cậy thế sang giàu làm cử chỉ của các Sư lưu tục, khinh chê phàm Thánh chỉ mưu đồ lợi danh, tạo nghiệp vô gián, buông thả không theo cơ duyên, chỉ sống ở đời không có nghiệp quả, có phải thật là xuất trần La-hán chăng? Môn này thấy thoát khế chứng, tức xưa nay chẳng từng qua người khác, trì hư vỗ mù trăm điều không biết một. Chỉ dùng lợi căn chủng tánh của Mạnh Bát Lang liền thấu ngay đây mà thừa đương. Cần dùng liền dùng cần đi liền đi. Không bằng tâm làm thuần thục. Buông bỏ hết mọi thứ đang có ngay liền được an vui. Cả ngày ăn no ngáy khò khò chẳng ngại chân chánh, rất khó chỉnh lý, là nửa trước lạc sau, được chiêm ngưỡng quang ảnh nghe chẳng theo tiếng giữ tánh trong lặng, coi là vật quý nhất trong lòng, trọn ngày sáng sủa nhanh nhẹn hiểu biết lăng xăng tự gánh vác. Ta cũng có chỗ thấy, từng được tông Sư ấn chứng, chỉ thêm lớn ngã kiến, liền nói bừa là xưa nay được Phật tổ ấn chứng, khinh chê tất cả. Hỏi được tức làm kỹ lưỡng dán làm một khối. Đâu chẳng biết, trên ngọn liền nhận lầm định bàn tinh rồi. Kịp đến cùng nó làm phương tiện mở niêm cởi trói liền bảo dời đổi người, bẻ ngoặc người. Làm tâm lành ấy tự như đây có chỗ kham cứu. Trừ là đất ấy tự hiểu biết. Không phải ở tương lai mà phải bỏ ngay đây, làm Thiện tri thức gặp được những thứ này, phải là tay chân lớn cùng nấu luyện. Cầu được một người nửa người được thấu suốt chẳng ngại lật tà thành chánh. Tương lai tức là Phật tại tâm. Vì sao? Chỉ vì bệnh mà biết nhiều tánh thuốc. Được người gì mà tâm cơ tiêu mất, chiếu dụng đã quên, hỗn độn không rõ ràng chỉ giữ rãnh rang mà chư Thiên không đường dâng hoa, ngoại ma lén nhìn chẳng thấy. Đi dưới đáy biển sâu, lậu hết ý hiểu chỗ làm bình thường, như một người dốt nát quê mùa không khác, ngay đó mà buông bỏ, nuôi dưỡng đến chỗ như thế, cũng chưa chịu dừng lại. Vừa có mảy may liền biết như Thái Sơn giống như người lấp ngại thì liền dẹp bỏ, tuy thuần là lý địa cũng không được lấy. Nếu lấy tức là thấy đâm vào. Do đó nói: Đạo không tâm họp người, người không tâm hợp đạo. Há chỉ tự khoe mình. Ta là người được họ vốn sâu xa chẳng muốn người biết gọi là kẻ tuyệt học vô vi, cùng người xưa làm một bọn, là chân đạo nhân vậy. Nó tham hoạt cú chẳng tham tử cú. Ngay hoạt cú thì dâng tiến được, suốt kiếp chẳng quên. Ngay tử cú dâng tiến được, tự cứu không xong. Nếu muốn cùng Phật tổ làm thầy. Phải sáng suốt chọn hoạt cú. Thiều Dương nói ra một câu như dao bén cắt đứt. Lâm Tế cũng nói: Thổi sợi lông dùng gấp phải mài. Đây há là việc trong cõi âm, cũng không phải thế trí biện thông mà hiểu được. Dù thấu suốt nguồn cội, đánh lạc từ trước, nương người khác mà hiểu, sáng tối thuận nghịch. Dùng chánh ấn kim cương mà ấn định, hươi kiếm báu kim cương dùng thủ đoạn bổn phận. Cho nên nói: Giết người phải là dao giết người, cứu sống người phải là kiếm cứu sống người. Đã giết được thì phải cứu sống được. Đã cứu sống được thì phải giết được. Nếu chỉ một thứ thì thiên đọa, trong lúc buông tay tức xem phương tiện, chớ khiến lở tay gây thương tích, chỗ ra làm luôn luôn có đường thoát thân, thủ đoạn khéo léo chiếu phá phương khác khi hạ mũi nhọn cũng phải khẩn mật mới được. Hơi lơi lỏng liền rơi vào bảy, tám. Chỉ tự mình rãnh rang còn chẳng lưu lại mảy may. Nếu có cũng chém đứt làm ba đoạn. Huống là trong Tông môn này từ trên nanh vuốt gặp người trong ấy vừa nêu ra. Nếu đầu cơ thì chung dụng, chẳng đầu cơ thì chẻ ra. Lấy đó làm yếu. Không việc gì chẳng rõ, cần phải hết sức mà làm đi. Dạy Quang thiền nhân. Muốn được thân thiết thứ nhất là chẳng mong cầu, cầu mà chẳng được thì đã rơi vào hiểu biết, huống là kho báu lớn này từ xưa đến nay làu làu trong sáng. Từ vô thủy kiếp đến nay vì căn bản của mình các việc ra làm đều nương sức người khác. Chỉ là dứt nghỉ hết đến chỗ một niệm cũng chẳng sinh tức là siêu thoát chẳng rơi vào tình trần, chẳng ở vào ý tưởng, bỗng nhiên siêu tuyệt khác hẳn thì khắp cõi chẳng giấu vận thành đại dụng, mỗi thứ đều từ bụng mình tuôn ra. Người xưa gọi đó là chở gia tài ra, một được thì mãi được thọ dụng há có cùng cực sao? Chỉ lo chỗ thể cứu gót chân không chắc chắn, nên chẳng thể chứng thấu triệt. Phải mạnh mẽ cắt đứt ngang các duyên khiến không còn mảy may nương cậy, buông bỏ thân mạng ngay đó mà thừa đương, không có cái thứ hai. Dẫu ngàn Thánh hiện ra cũng chẳng dời đổi. Tùy thời tự nhiên ăn cơm mặc áo, nuôi lớn Thánh thai chẳng giữ còn hiểu biết. Há chẳng phải là pháp môn tỉnh yếu cắt ngang thù thắng ư? Dạy Dân Thiền nhân. Tiên Thánh một hạt mè một hạt gạo. Cổ đức làm lụng cực nhọc mà ăn uống đạm bạc, cần trong sạch ở chỗ này, bỏ ngủ quên ăn, thể cứu chuyên xác, cốt yếu cầu thật chứng, há ham bốn sự cúng dường thêm nhiều ư? Và đến đạo không kịp xưa liền có pháp luân chưa chuyển. Ăn nghóa chuyển trước, vì thế mà tòng lâm gọi Trưởng lão là Chúc Phạn Đầu chẳng phải cùng với người rất trái nhau ư? Nhưng môn nhập tùy duyên biến dị. Tạm thực hành đoạn thứ hai. Bắc Sơn đón tiếp Đạo nhân phương khác đến, chỉ kính ngưỡng Nam Mẫu. Nhân gặp năm trúng mùa, biết dân Thiền khách đi xem gặt lúa, đi đến xin rằng: Nhân đây xin chỉ bày nhân duyên trước, quý gốc của tông dẫn dắt ngọn mới là gồm cả lợi đồng chiếu của viên ngộ là bổn phận sự của người thông đạt gắng sức làm. Trên đầu trăm cỏ có Tổ sư, Giáp Sơn chỉ ra khiến người dâng nói), trong ruộng khoan bình có Đại Nghóa, Bá (trăm) Trượng buông tay cần người biết. Nếu hay quả hạt viên thành, tức là riêng truyền tâm ấn lại thành mong được thản nhiên. Liền chúng đệ nhất Thánh đế. Lại thảo ra một câu làm sao nói (nói gì?). Đầy thuyền trăng sáng chở đem về. Dạy Thế Tường Thiền Nhân. Người lập chí biện đạo trong suốt mười hai giờ phải tự chiếu soi lại mình. Niệm này ở ngay đây, biết dưới gót chân có một nhân duyên ở Thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, ngộ căn trần, vượt xa vật biểu. Phàm chỗ ra làm chẳng lập nơi chốn, trong lặng ngưng nhiên, chỉ muôn ngàn biến hóa. Trước không động lạy, ứng duyên thì bày, gặp việc liền phát thảy đều viên thành, chỉ cần trống vắng thì tất cả đều siêu nhiên. Chủ bản đã sáng thì không bóng tối nào chẳng có đuốc soi. Vạn năm một niệm, một niệm vạn năm, thấu đảnh thấu đáy, toàn cơ đại dụng, nhanh chóng như tráng só co duỗi tay, chẳng nhờ sức người khác thì bệnh huyễn sinh tử tan nhanh. Chánh thể kim cương riêng bày, một lần được thì mãi mãi được không có gián đoạn. Ngôn giáo xưa nay, cơ duyên công án, hỏi đáp tác dụng đều hoàn toàn nói về việc này. Nếu tự tại thực hành được thì năm tháng dài lâu, tự nhiên hai bên gặp nguồn nhồi thành một khối. Há chẳng thấy Pháp Đăng nói: Vào ruộng hoang chẳng chọn, thuận tay lấy cỏ chạm mắt thấy chưa từng không, gặp cơ sao chẳng nói, không căn hề được sống, lìa đất hề chẳng ngã, dùng hằng ngày còn chẳng biết, lại đến chỗ nào mà bỏ đi. Cần thiết phải dứt hết điều đó. Dạy Gián Trưởng lão. Triệu Châu nói: Ta ở phương Nam ba mươi năm, trừ hai thời cơm cháo tất cả đều chỗ dùng tâm. Nên biết Cổ đức làm việc này không rãnh rang, mà hết sức trịnh trọng. Do đó phải giữ gìn nắm bắt đến triệt để rõ ràng. Đối với một cơ một cảnh một câu một lời đều chẳng rơi vào rỗng không, cho nên thế pháp và Phật pháp nhồi thành một khối. Lúc này cần phải khế hợp thật sự, cần phải mạnh mẽ phấn phát, đổi khác bụng ruột, chớ theo tri kiến xấu ác, chớ ăn nhiều thứ độc mà phải một vị thuần chánh chân tịnh diệu dụng. Ngay đây bước lên bổn địa phong quang đến chỗ an ổn đại giải thoát. Quét sạch Báo Hóa Phật lẫm liệt oai phong, gió thổi chẳng vào nước tưới chẳng dính. Chánh thể hiện thành, chỗ dùng hằng ngày có lực lượng. Nghe tiếng thấy sắc chẳng sinh lấy bỏ. Luôn luôn (chỗ ra làm) đều có đường thoát thân. Há chẳng thấy Tăng hỏi ngài Cửu Phong: Nghe nói Hòa thượng đã gặp ngài Diện Thọ phải không? Phong đáp: Trước núi lúa chín cũng không biết được chỗ dùng thân thiết liền thấy nạp Tăng bịt mũi. Do đó nói dao giết chết người, kiếm cứu sống người, chỉ xin luôn để ý nhìn kỹ. Đến khi xuất cách thì tự nhiên biết chỗ rơi. Dạy Thiền Nhân. Đạt-ma ở Tây Trúc đến chẳng lập văn tự câu nói, chỉ chỉ thẳng tâm người. Nếu luận chỉ thẳng chỉ vì người người vốn có, ở trong vỏ (thân? ) vô minh mà toàn thể ứng hiện. Cùng theo các Thánh trên chẳng dời đổi một mảy may. Do đó nói Thiền chân tự tánh bổn tịnh diệu minh, nhả nuốt mười phương tự tại căn trần. Một khối điền địa chỉ là lìa niệm dứt tình, huýnh siêu thường cách (vượt xa cách thường). Kẻ đại căn đại trí lấy lực lượng bổn phận ở ngay dưới gót chân mình mà thừa đương như vách đứng núi cao mà buông tay, bỏ thân không đoái hoài. Đối với tri kiến giải ngại các giáo thì lật ngược đáy mà thoát đi, giống như người chết lâu đã dứt hơi thở, đối với bổn phận mà nghỉ dứt tất cả. Miệng mũi mắt tai đều không biết nhau, tay chân cổ lưng đều chẳng biết nhau. Sau đó mới hướng vào lửa tắt tro lạnh mà khắp nơi sáng suốt, trong chỗ cây khô gỗ mục mọi vật riêng chiếu. Bèn khế hợp cô huýnh huýnh, tiêu nguy nguy (riêng một mình cao vót?) liền chẳng phải tìm tâm tìm Phật. Lập nên phá đi đều từ ngoài mà được. Xưa nay ngộ đạt trăm ngàn bạn thứ chỉ là cái tâm ấy bất tất phải cầu tâm, là Phật sao nhọc phải tìm Phật. Nếu ở câu nói khế cơ trên cảnh vật mà hiểu biết thì rơi vào trong túi đồ bỏ đi. Rốt lại lặn mò chẳng được. Đây thì phải quên ôm dứt chiếu, là cảnh giới chân đế vậy. Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người nào? Hãy hồi quang tự chiếu xem. Đợi ông uống hết nước Tây giang ta sẽ nói với ông. Trong tám sừng ma bàn không mà chạy. Tham được thấu trước mắt vạn pháp bình trầm, vọng tưởng từ vô thủy mênh mông dứt hết. Đức Sơn cách sông lắc tay liền có người thừa đương. Ô Sào thổi sợi lông trên áo vải mà tìm thì có người tỉnh ngộ. Được không phải nhân duyên lớn này. Thời đến thì mấm mống tự sinh, cũng cơ cảm có đất đầu vào nhau. Cũng người ngầm vận vô gián nhờ Sư môn mà phát huy, thì tiểu tuyệt như đây có khó gì, mà siêu chứng như đây thì dễ. Người xưa đem hạt cải ném trên đầu cây kim thật không dối vậy. Một câu cuối cùng đều thông qua, có nói không nói, hướng thượng hướng hạ, quyền thật chiếu dụng cuốn mở cho đi, giật lại thì chẳng tiêu cái khám phá rồi vậy. Ai biết cái nắm của Triệu Châu mũi, phải trồng cỏ nhà ta mới được. * Dạy Ni tu Đạo giả. Người học đạo trước không hướng tín, chán đời ồn ào náo loạn, luôn sợ không có đường vào. Đã gặp thầy chỉ hoặc nhân đây tự mình phát minh, từ xưa đến nay nguyên là tự đầy đủ chân tâm diệu viên, chạm cảnh gặp duyên tự biết lạc rồi. Liền giữ dừng lại sợ không thể ra được. Bèn làm theo rập khuôn cũ hướng trên cơ cảnh mà lập chiếu lập dụng liền hét liền đánh, trợn mắt nhướng mày trái lại càng gặp bản sắc tông tượng, tất cả cùng đưa ra như chấp nhận như hiểu biết ngay đó mà khế chứng. Xưa nay là cảnh giới vô vi vô sự vô tâm. Rồi sau mới biết xấu hổ mà dứt hết, một mực âm thầm các Thánh còn thấy chỗ nó khởi niệm chẳng được, huống là những chỗ khác ư? Do đó Nham Đầu nói: Nó được người ấy chỉ là giữ rãnh rang trong mười hai giờ không muốn không nương tựa, nên chẳng phải là pháp môn an lạc? Xưa ngài Quán Khê đến Mạt Sơn, Sơn hỏi: Gần đây rời từ chỗ nào. Khê đáp: Lộ khẩu. Sơn hỏi: Sao chẳng bịt miệng nó. Khê không đáp được. Hôm sau đến hỏi: Như thế nào là cảnh của Mạt Sơn. Sơn nói: Chẳng bày đỉnh đầu. Hỏi: Như thế nào là người trong cảnh. Đáp: Không có các tướng nam nữ. Quán Khê hỏi: Sao không biến đi. Mạt Sơn nói: Chẳng phải Thần chẳng phải quỷ, biến cái gì. Như đây há chẳng phải là chỗ thực tế, vách đứng ngàn nhận ư? Do đó nói một câu cuối cùng mới đến lao quan, dứt hết chức vụ quan trọng chẳng thông phàm Thánh. Người xưa đã thế, người nay đâu có khan hiếm ư? Nay có bảo kiếm kim cương vương, phải gặp được tri âm mới có thể nêu ra. Dạy Lương Lô Đầu. Kim Sắc Đầu-đà (Ca-diếp) bàn luận ngồi thiền, Đạt-ma ở chùa Thiếu lâm xoay mặt vào vách chín năm. Tào Khê bốn hội gặp thợ săn, ngài Đại Qui mười năm ở am cỏ trong núi sâu. Ngài Đại Mai nơi ở không có dấu chân người Vô nghiệp xem đại tạng. Thánh xưa đứng một chân bảy ngày đêm rải tán sa, Thường Đề trải qua một tháng sinh dưỡng tâm can. Ngài Trường Khánh ngồi rách bảy bồ đoàn. Tất cả đều là một đại sự nhân duyên này. Chí có thể chuộng xưa nay làm tiêu chuẩn cho kẻ hậu côn. Liền khiến chí thân ở trên giường Trường Liên cũng chẳng quá minh tâm thể cứu chỉ khiến tâm niệm lắng yên, chỗ lăng xăng quấy nhiễu rất tốt để làm công phu. Khi làm công phu thì thấu đỉnh thấu đáy, không mảy may rò rỉ, toàn thể hiện thành, lại chẳng khởi chỗ mình người, chỉ một đại cơ này xoay chuyển lại nói gì Thế đế Phật pháp, một mực giữ mãi như thế suốt ngày thàng lâu dài thì tự nhiên dưới chân sẽ xác thật. Chỉ là bậc Lương Thượng tọa ngay đây mà khế chứng, như nước vào nước vàng vào vàng bình đẳng nhất như. Trạm nhiên chân thuần là mở tìm kế sống, chỉ một niệm chẳng sinh, phương tiện khéo léo. Vừa có phải quấy kia đây được mất thì liền theo cái khác. Bèn là trọn ngày hết đêm thân tham chân Thiện tri thức của mình thì lo gì việc này chẳng hiện. Tha thiết nên tự xem. Dạy Hài Tri Dục. Đại pháp này ba đời chư Phật đồng chứng, sáu đời Tổ sư cùng truyền, một ấn ấn định, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, chẳng lập văn tự ngữ cú, gọi là ngoài giáo riêng truyền tâm ấn. Nếu dính dáng đến lời nói khế cơ, lập ra thềm bậc bàn luận suy lường cách nội cách ngoại thì mất hết bổn tông mà phụ rảy Tiên Thánh. Cần phải làm chỗ vào trước nhất liền gặp người bổn phận cắt đứt nguồn cội lui bước mới thôi. Dùng tâm sắt đá đem các vọng tưởng kiến giải thế trí biện thông, kia đây được mất từ trước mà cùng một lúc bỏ hết, ngay đây như cây khô tro lạnh, tình hết kiến trừ đến chỗ sạch làu làu sáng rỡ rỗng suốt khế chứng, cùng các Thánh trước chẳng mảy may đồi khác. Tin chắc được kịp, thấy sáng thấu suốt. Đây mới là cửa vào lý. Lại phải dạy một niệm vạn năm, vạn năm một niệm. Suốt hai mươi giờ thuần nhất không tạp loạn. Vừa có mảy may khởi diệt thì liền rơi vào hai mươi lăm hữu không có ngày ra khỏi, dối lừa sinh tử cắn đứt giáo. Sau đó chỗ nơi ẩn mật trong vị phàm Thánh thâu nhiếp chẳng được, mới là như chim ra khỏi lồng, tự mình thôi dứt, được tòa khoát áo, vàng ròng trăm luyện, cử động ra làm rãnh rang đều thênh thang. Căn trần sinh tử cảnh trí huyền diệu, như nước sôi tan tuyết, bèn tự biết lúc lại không phần ngoài, gọi là Vô tâm đạo nhân. Lấy đây mà tự tu chuyển khai kẻ chưa ngộ khiến như thế mà đạp lên, há chẳng phải là đạo cần thiết sao? Dạy Ấn Thiền sư. Đạo do ngộ đạt, lập chí làm đầu, từ bạt địa cụ phược phàm phu mà muốn nhảy bước vượt chứng thẳng vào cõi Thánh, há là duyên nhỏ ư? Phải bền chắc đem tâm sắt đá cắt ngang dòng sinh tử, thừa đương chánh tánh xưa nay. Chẳng thấy mảy may trong ngoài có pháp, khiến trong lòng thênh thang không chút quái ngại các việc ra làm đều trong căn bản mà ra. Căn bản là chắc thật hay chuyển tất cả vật, đó gọi là kim cương chánh thể. Một được thì vónh viễn được, há phải tìm bên ngoài. Thế nên Cổ đức nói: Tông này khó được chỗ diệu phải dụng tâm kỹ lưỡng, có thể là chánh nhân của đốn ngộ tạm làm thềm bậc xuất trần. Cổ đức cách sông lay quạt, thổi sợi lông trên áo vải, liền có chỗ phát cơ. Đến như mạch khẩu chúc phách quay gậy, cũng đáy thùng chảy ra. Bởi duyên với chuyên nhất lâu ngày, một ngày qua nhanh. Đây đâu phải từ bên ngoài mà được, đều là tự chứng tự ngộ mà thôi. Dạy Tín Thị Giả. Cốt yếu học đạo là từ thâm căn cố đế, trong suốt hai mươi bốn giờ chiếu liễu gót chân mình, ở chỗ chưa khởi niệm mà trăm thứ không dính dáng, dung hợp hài hòa không biên tế, toàn thể sự vật ngưng đọng rỗng không, tất cả chỗ ra làm không từng nghi ngại. Gọi đó là hiện thành bổn phận sự. Đến khi vừa khởi một mảy may kiến giải muốn thừa đương, làm chủ tể thì liền rơi vào trong ngũ ấm thập bát giới, bị thấy nghe hiểu biết được mất phải quấy nó trói cột, mà nửa say nửa tỉnh chất chồng chẳng hiện được. Ước thật mà luận chỉ ở chỗ ồn ào mà quản lý được mình như không có một việc gì. Thấu đỉnh thấu đáy ngay đó mà viên thành, rốt không có hình tướng, chẳng bỏ công dụng, chẳng ngại làm lụng nói im dấy lên và hạ xuống, trọn chẳng phải là người khác. Vừa biết mảy may trệ ngại thì đều là vọng tưởng. Dạy ngay cảnh giới của ngườ đại triệt ngộ như thái hư không, như gương sáng trên đài, như mặt trời sáng trên cao, một động một tịnh một tới một lui chẳng từ ngoài mà được, bỏ giáo mà tự do tự tại, chẳng bị pháp ràng buộc, chẳng tìm pháp thoát, trước sau nhồi thành một khối, thì ở đâu ngoài Phật pháp mà riêng có thế pháp, ngoài thế pháp riêng có Phật pháp. Thế nên Tổ sư chỉ thẳng tâm người, kim cương Bát-nhã quý người lìa tướng. Nhanh chóng như tráng só co duỗi tay chẳng nhờ sức khác. Như đây mà tỉnh thức luôn luôn tự lui gót thể cứu, khiến có chỗ rơi vào chứng ngộ chắc thật, tức là niệm niệm khắp tham vô biên vô lượng đại Thiện tri thức thiết tha tin chắc, gắng sức làm công phu, mới tốt. * Dạy Tài Tri Trang. Phàm thấy Tăng đến vấn đáp thì Thiền sư Câu Chi chỉ đưa lên một ngón tay lên, bởi thông suốt trên dưới, khế chứng vô ngại. Bệnh sai chẳng nhờ thuốc lừa lạc đà. Đời sau chẳng rõ mạch phái, tùy chỗ dựng ngón tay, gạt người không biết trắng đen, giống như đem đề hồ làm thuốc độc, rất đáng thương xót. Nếu thật thấu suốt mới biết quý trọng trọn chẳng đem làm việc vô bổ. Do đó cung nỏ ngàn cân không dùng bắn chuột nhắt. Thế nên, cần phải có con mắt trên đỉnh đầu mới có thể vào được. Sau này Huyền Sa niêm rằng: Chỗ thừa đương của Câu Chi, kẻ thô lỗ chỉ biết được một cơ một cảnh. Có một số người mê mờ theo lời nói mà sinh kiến giải, liền khuất Câu Chi. Đó gọi là Thật. Rất chẳng biết gạch cháy đánh thành đông giá. Đến chỗ ấy cần phải kỹ lưỡng, rất kî mập mờ. Chỉ trừ như khi Câu Chi lúc tịch bảo rằng: Ta được một ngón tay thiền của Thiên Long trọn đời thọ dụng chẳng hết, đâu có uổng công ư? Tào Khê trước khi mở sáng chỉ là gã tiều phu ở Tân châu, hèn hạ không chỗ pháp môn. Đã hơn mấy mươi năm. Một hôm nghe khách tụng kinh thì kích thích bổn nguyện bèn xin mẹ ra khỏi làng. Gặp ngài Huỳnh Mai đại mãn vừa thấy nói mấy lời đầu cơ. Ở chỗ giả gạo tám tháng. Đã nghe kệ của Thần Tú mới lộ bày mũi nhọn Ngũ Tổ đem y bát truyền cho. Lúc đó mọi người tranh nhau tìm kiếm muốn đoạt lấy. Mông Sơn Đạo nhân gặp Ngài trước nhất. Ở núi Đại vũ biết chẳng thắng, mới biết y bát này chẳng dùng sức mà giành được. Bèn cúi đầu cầu pháp. Đại giám vì chẳng nghó thiện ác, bản lai diện mục niệm biết về. Lão lừa vì thời duyên chưa ổn, lại ẩn giấu bốn hội theo thợ săn rất lâu, tầm để phiên ngu, gió thổi phướng chẳng động, động là do lời nói ở tâm. Ấn Tông xin làm đệ tử, bèn cạo tóc mà lên tọa cụ. Do đó mà mở đại pháp yếu, có hơn hai ngàn chúng. Tiếng tăm thấu đến cửu trùng. Bèn sai Quý Cận Giáng Tử Nê mời lên. Quả nhiên không nên độ long tượng như Hoài Nhượng, Thanh Nguyên, Vónh Gia, Nam Dương, Hà Trạch, Tư Không mấy mươi người, đều là Đại tông sư. Đâu có trái với các ngài ư? Chỉ có bậc Thánh hiền thị hiện giáo hóa. Tiến thoái tồn vong. Rõ ràng tiên chiếu. Song khảo về bước Ngài đi không phòng bị từ nhỏ đến đang khi không hề bỏ duyên đời mà bày diệu qui cho trăm đời sau không cùng bằng nhau (bằng với vô vi?) đến nay đã mấy trăm năm, khắp cùng hoàn vũ các giới xem nhau như pháp tôn kính trọng pháp lớn muốn định chí thành, hết sức trọn vẹn không lờ mờ. Chỉ mong kẻ hậu côn người có sức lực nên cố gắng, tạm nói lược qua như thế. <篇> VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 15 PHÁP NGỮ II * Dạy Giác Dân Tri Khố Tròn sáng không ngưng đọng là Thể của đạo, mở ra thu vào, giết chết, cứu sống là diệu dụng. Mũi nhọn thiện du hay giữ lấy. Như hạt châu lăn trên mâm, mâm lăn hạt châu. Không có khoảnh khắc nào rơi vào hư, cũng không phân chia thế pháp hay Phật pháp, ngay đây nhồi thành một khối, gọi là chỗ chạm mặt với ông ta, ra vào ngang dọc, trước (xưa) không ngoài vật, sạch làu trơn tuột, lấy bổn phận sự mà ấn định, trên đầu đầu mà sáng, trên vật vật mà liễu. Chỗ nào lại có được mất phải quấy tốt xấu dài ngắn mà đến, chỉ sợ tự mình chánh nhãn chưa được rỗng sáng, lạc vào vào hai bên thì không dính dáng gì. Há chẳng thấy Vónh Gia nói: Thượng só nhất quyết nhất thiết liễu trung hạ đa văn đa bất tín (Thượng só một quyết thì tất cả liễu. Kẻ trung hạ nghe nhiều cũng chẳng tin.) Phật tổ nói giáo thuyên như thế, nhờ nó làm cửa vào lý. Đã rộng rãi minh ngộ thừa đương được thì trên chánh thể tất cả đều tròn đủ. Xem ngôn giáo của Phật tổ đều ảnh hưởng bên sự, trọn chẳng đội trên đầu. Người tham học gần đây phần nhiều chẳng vốn là Tông Điện. Chỉ cốt chọn lựa câu lời, luận thân sợ, bàn được mất, ở trên bọt nổi mà khoe thật thật, khéo đào thải được bao nhiêu công án, mở nghi vấn của năm nhà tông phái các nơi, một mực đắm chìm trong tình thức, mê muội chánh thể. Thật đáng thương. Có bậc Tông sư chân chánh chẳng tiếc lời nói, khuyên xa lìa các ác tri kiến như trên, trái lại gọi nói là tâm hành đổi dời, lay động, rèn luyện. Lần lượt đi vào rừng gai gốc. Gọi đó là đánh đầu chẳng gặp tác gia, đến già chỉ thành cốt đổng. Chỗ tỉnh yếu chẳng tiêu một tráp, không có khí phách, tự biết chỗ rơi của mình. Nếu do dự thì mất đi cái lỗ mũi. Bảy Đức Phật trở về trước đã cho cái gì. Cần phải cứng rắn mà cột giữ. Đầu và da phân minh rõ ràng tiến thủ. Một khối sâu kín ấy luôn luôn tự hiểu, lui bước trọn chẳng nói: Ta có thấy chỗ, ta có hiểu tốt. Vì sao? Vì trong đó nếu lập một mảy may năng sở thấy mũi nhọn thì nặng hơn núi non. Từ trên đến quyết chẳng tương ưng. Thế nên Phật Thích-ca đối với Phật Nhiên Đăng do Vô pháp mà được thọ ký. Lô Lão (Lục Tổ) đối Huỳnh Mai (Ngũ Tổ) do xưa nay vốn không một vật mà được trao y bát. Đến như bờ mé sinh tử vừa tự gánh vác thì như rùa linh lột xác, cần phải tịnh uế hai bên đều chẳng nương tựa. Có tâm không tâm, có thấy không thấy giống như lò lửa hồng để một chấm tuyết. Trong suốt hai mươi bốn giờ luôn thấu đảnh thấu đáy cảnh giới đại triệt ngộ. Dạo chỗ ngàn Thánh chẳng cùng một đường, ngay đây mà thuần thục tự nhiên thành tựu, được cái tuyệt học vô vi, ngàn người vạn người cầm giữ cũng chẳng ở. Đó là người chân thật. * Đưa Viên Thủ tọa về Tây. Kẻ được đạo, chỗ đứng đã cao vót dứt hết chẳng cùng một pháp đối tác. Khi đi thì chẳng động mảy bụi, khi dừng vào rừng, thì không động ngọn cỏ vào nước chẳng động sóng. Bởi lẽ trong đã hư tịch, ngoài thì dứt công phu chiếu soi. Tu nhiên tự được, triệt chứng vô tâm. Tuy vạn cơ có đến nhanh đâu có thể khuấy nhiễu được thần, ngàn thứ khó khăn đối nhau mà chẳng liên quan đến lo nghó. Bình thường chỉ giữ cái không như ngu như dại. Đến khi gặp việc vì vật, trước chẳng làm kỹ lưỡng, định chuẩn cắt xén, gió thổi điện chớp, đều là đương cơ, há chẳng có chỗ giữ gìn. Thế nên Cổ đức nói: Như người học bắn lâu lắm mới trúng, còn ngộ thì nhanh chóng trong sát-na nhưng công phu cần phải nuôi dưỡng lâu dài. Như loài chim cắt mới sinh ra, đỏ hơn dưỡng nuôi lâu ngày thì lông cánh đầy đủ mới biết bay cao xa. Do đó ngộ sáng thấu đáy chánh yếu là phải điều phục. Chỉ như cảnh giới các trần thường trôi trong chất ngại. Đến được người mà phần thượng đều hư không, toàn là từ Đại giải thoát môn của nhà mình. Trọn ngày làm lụng mà chưa từng làm, rốt lại không ham chán cũng không biếng lười độ hết tất cả mà không có năng sở huống là sinh nhàm chán ư? Dầu tính chất nghiêng về khô, nhất là phải Tăng thêm chỗ không thể bỏ giáo để viên thông. Lấy bọt hòa sức mà nhiếp hóa, mở phương tiện cúi ngước mà ứng tiếp, khiến cao thấp xa gần đều không sai lầm luôn làm hạnh thường bất khinh, học tiên nhẫn nhục, tuân theo khuôn phép Phật trước, thành tựu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, bền chắc hạnh tứ nhiếp, đến khi đại dụng hiện tiền. Huyên náo, vắng lặng như nhau như thuyền xuống nước chẳng nhọc chèo chống, hỗn dung hàm nhiếp, viên chứng hạnh nguyện Phổ Hiền, mới là đại Thiện tri thức của thế gian, xuất thế gian. Cổ đức nói: Kẻ quê mùa tự có tòng lâm. Bởi không có tòng lâm, dầu kẻ có chí cũng vui tự tiện. Đến chỗ như thế cần phải giữ gìn. Chỉ luôn cố gắng chẳng biếng lười, cuối cùng đền chỗ ồn ào hay yên tónh cũng lại như thế. Chỗ ồn, thì khắp ứng biến trong hư tịch. Chỗ yên vắng thì không bị yên vắng trói buộc thì tùy đến nơi nào cũng đều là nơi sinh sống của ta. Chỉ trong hư ngoài thuận người có căn bản mới được như thế. Đại phàm làm Thiện tri thức thì phải từ bi nhu hòa khéo thuận, bình đẳng tiếp vật, tự xử đoán không tranh cãi. Nó chỉ đem việc ác mà cầu tìm lấy tiếng xấu, danh sắc thêm ngã, đem phi lý liên can nhau, cùng chê bai làm nhục. Chỉ cần lui bước tự chiếu xét, đối với mình không hiềm nghi, tất cả vật cùng xét lường. Cũng chẳng động niệm giận dữ chỉ ngay đây mà quét sạch. Như từ xưa chẳng nghe chẳng thấy. Lâu dần thì ma nghiệp tự tiêu tan. Nếu cùng so sánh thì tiếng ác trái nhau há có kỳ hạn. Lại chẳng hiển bày lực lượng của mình, cùng đám người thường nào khác. Cố gắng mà làm thì tự nhiên không nghó chẳng phục. Ngay tiếng kiền chùy vang lên cõi trời người, giúp họ vượt thoát sinh tử, há là nhân duyên nhỏ. Phải phải nên điều hòa lời và sắc, tiếp dẫn đương cơ bằng khám phá đối đáp, luận về nguyên do, nghiệm về cấp bậc (chỗ ngồi?), đánh chỗ thiên trụy, dẹp chỗ chấp trước, cắt đứt chỉ bày, khiến thấy Phật tánh đến chỗ an lạc dứt nghỉ hết tất cả. Đó gọi là nhổ đinh tháo chốt mở trình bày. Không thể đem thật pháp mà trói cột người, khiến như thế mà trụ, như thế mà chấp, chớ chịu người khác dời đi. Thuốc độc này khiến nó uống vào, cả đời cố chấp gạt lừa, đâu có lợi ích gì? Phật tổ ra đời riêng vì nhân duyên nhỏ này. Gọi là riêng truyền tâm ấn, chẳng lập văn tự lời câu tiếp cơ tối thượng chỉ quý chỗ một nghe mà ngàn ngộ, ngay đây mà thừa đương hiểu rõ tu hành, chẳng cầu tiếng khen lợi dưỡng chỉ cốt vượt thoát sinh tử. Nay đã làm con cháu, cần phải giữ còn cỏ giống, xem xưa nay có Đạo só. Động thì hàng phục rồng cọp trao truyền giới cho thần minh, tu hành cực khổ mà uống đạm bạc, quên hết người đời, dứt hết trần lụy. Hai, ba mươi năm nồi bể mà nấu cơm cháo, mai danh ẩn tích, luôn luôn ngồi thoát đứng quên, ở trong đó mà một lời nửa lời. Các Thánh suy ra tạo lập Tông Phong, đều vâng theo cao hạnh cốt báo ân Phật, lưu thông đại pháp, mới nói ra một lời hoặc nửa câu, bất đắc dó mới biết đó là cửa tiếp dẫn vào lý làm viên ngói gõ cửa. Thể tài lực dụng chẳng ngại làm mô phạm cho kẻ hậu côn. Phải chuyển theo Sư pháp cố gắng khôi phục lại Cổ phong rất kî cẩu thả mong cầu danh lợi, xin gửi lại lời khuyên. Dạy Khu Thiền sư. Hiểu lời không dính đến lưỡi, hay nói chẳng ở lời. Biết rõ đầu lưỡi nói năng chẳng phải là chỗ nương cậy, thì người xưa một lời nửa câu, ý chỉ muốn người ngay đây mà khế chứng đại sự nhân duyên từ xưa nay. Do đó, Tu-đa-la (kinh) giáo như ngón tay chỉ trăng, biết thì mọi việc đều dứt nghỉ, chỗ hành lý niên mật, khi thọ dụng thì rộng thông, năm tháng lâu dài chẳng dời đổi. Nêu chơi nắm buông được thuần thục, trong cảnh giới nhỏ nhặt đều có thể chiếu phá cắt đứt chẳng để dấu vết, cho đến bờ mé sinh tử. Kết giác la văn chẳng lộn nhau. Trạm nhiên bất động tự nhiên xa lìa. Đây là ba mươi tháng chạp ngồi thiền trong nhà Niết-bàn. Dạy Dụ thư ký. Bước lên sự thật đến chỗ an ổn. Trong lúc không luống bỏ công phu, niên mật luôn không sót một mảy may. Trạm tịch ngưng nhiên Phật tổ không thể biết, ma ngoại không thể sờ mó, là tự trụ vào chỗ Đại giải thoát không chỗ trụ, tuy trải qua vô cùng kiếp thì cũng chỉ như như, huống lại an trú trong các tà duyên. Trong đó mới có thể kiến lập, cùng người nhổ đinh tháo chốt, cũng chỉ khiến cho hắn không trụ. Đây gọi là đại sự nhân duyên. Như Lai có mật ngữ, Ca-diếp chẳng che giấu. Mới biết là chân mật ngữ của Như Lai. Phải không che giấu tức là mật, ngay nơi mật tức là không che giấu. Đây há có thể cùng với tình buộc ràng với được mất còn hang hóc để hiểu mà nêu lên được ư? Siêu thoát đến chỗ thật chứng, hướng vào chỗ xuất cách vượt Tông trên đónh đầu mà hiểu mới được. Đã hiểu rồi thì phải giữ gìn, gặp kẻ thượng căn đại khí mới có thể nhận ấn khả. Cầm phất trần chiếm ngôi vị gọi là Tông sư. Nếu không có bổn phận thủ đoạn tác gia thì chưa khỏi là lừa gạt. Ở phương khác đến dẫn người khác vào hang cỏ đánh cốt đổng đi. Nếu đủ kim cương Chánh nhãn thì phải đại triệt ngộ, chỉ đem việc bổn phận mà tiếp, dù cho thấy cùng Phật ngang nhau, còn có Phật địa bị che chướng ở đấy. Thế nên từ trên đánh gậy hét tiếng, một cơ một mảnh, một lời một câu, ý ở lời nói, chỉ quý chỗ riêng thoát, chớ khiến tựa nương cây cỏ. Chỗ gọi đuổi trâu của người cày, cướp cơm người đói. Nếu chẳng như thế, tất cả chỉ là kẻ vướng mắc. Nạp Tử phương khác đến có công phu ở kiếp trước. Bỗng người được vào, chẳng gặp tông sư chân chánh lại dẫn người khác làm khế cơ rơi vào cơ cảnh không dây tự buộc, nửa trước rơi vào sau, giống phải mà chẳng phải rất khó chỉnh lý. Cần phải biết mạch bệnh luận về lạc trứ, vi (phân tích kỷ) về chỗ thiên trụy mà phát khởi khiến bỏ chỗ chấp trước trụ trệ, sau mới chỉ bày bổn phận chánh tông khiến không nghi hoặc, rõ ràng được đại giải thoát. Ở trong nhà quý báu tự nhiên đuổi cũng chẳng đi. Có thể cứu giúp Đại pháp nối tiếp Tổ Đăng có thể báo được ân chẳng thể báo. Huỳnh Long Lão Nam Thiền sư, khi chưa gặp Thạch Sương thì gặp thiền cạn cợt, Thúy Nham thương xót khuyên đến yết kiến Từ Minh chỉ cứu xét lời Huyền Sa nói với Linh Vân nhưng chưa hiểu thì gặp lúc ngói bể băng tan bèn được ấn khả. Suốt ba mươi năm chỉ lấy ấn này mà nắm các phương thuốc biết đường trị bệnh. Chẳng nhờ thuốc Lô Đà. Chỗ hệ yếu há có nhiều Phật pháp. Đại Tông sư vì người tuy chẳng lập khế cơ rập theo khuôn cũ. Lâu ngày học trò nhận lầm cũng thành khế cơ rập khuôn. Bởi đem (vì) không rập khuôn làm rập khuôn, không khế cơ làm khế cơ cần phải kịp thời khiến hết. Không khiến ôm cây đợi thỏ, nhận ngón tay làm mặt trăng. Soi gương cơ trước, phong trần cỏ động cũng chiếu mánh khóe, huống là quấy rối đáp lại ư? Chẳng trong lòng trống vắng, không một pháp đương tình, sao có thể viên ứng không sai, cơ trước chiếu vật. Đây đều bắt chước Na già tại định. Kiếm báu kim cương vương của Lâm Tế, một câu sau cuối của Đức Sơn, một câu của Dược Kiều, ngón tay của Câu Chi, thoa của Bí Ma, Côn Cầu của Tuyết Phong, đánh trống của Hòa Sơn, uống trà của Triệu Châu, gai tất kim cang quyển của Dương Kî, đều là một chỗ này. Khế chứng được ngay đây mà tỉnh thức, tất cả ngôn giáo của Tổ sư đều thông suốt. Chỉ ở người ấy khéo tự giữ gìn. Phật Trí Dụ Công, trải khắp tham lâu. Một lời khế nhau, các chứng giải từ trước đều thoát hết đi, siêu tuyệt cao vót. Bèn phân tòa dạy học trò, truyền trì lưu thông Đại Pháp Ấn này. Nhân đó viết Pháp Ngữ mà tặng. Dạy Sáng Thiền nhân. Triệu Châu Hòa thượng thấy Tăng gọi: Hãy đến trước đây! Tăng bước đến. Triệu nói: Đi nhiều tỉnh lực, nếu nói được là rất hoàn toàn. Nếu hỏi như thế là sao thì biết tri kiến sinh. Cổ đức Anh Thiền sư đời Đường, lúc chưa phát, làm ruộng lấy chày gõ khối. Thấy một khối lớn cười đùa. Bèn lấy chày đập mạnh thì khối nát ra, bỗng nhiên đại ngộ. Từ đó tan ra sinh làm người không lường được, lại bày thần dị. Có Lão túc bảo rằng: Núi non đại địa bị Tăng ấy một đập nát thành trăm mảnh, dâng Phật không cần nhiều hương. Thành thật thay, lời nói này! Dạy Tuyền Thiền nhân. Tham vấn cần phải thấy tánh ngộ lý, ngay đây mà vọng tình dứt chiếu, lòng thênh thang như ngu như dại, chẳng xét được mất, chẳng tranh hơn thua. Phàm có các thuận nghịch đều cắt đứt không cho tiếp nối. Lâu ngày đến chỗ vô vi vô sự. Vừa mới mảy may muốn vô sự thì liền là sự sinh. Một sóng vừa động thì vạn sóng liền theo, đâu có lúc nào hết. Lúc khác sinh tử đến thì tay chân quờ quạng, chỉ vì không triệt ngộ, chỉ vì đây là xác thật, tự nhiên trong chợ ồn ào cũng sạch như nước, đâu có việc mình chẳng phân biệt ư? Vừa có phải quấy là lăng xăng mất tâm. Ngay một câu ấy mà kinh động bao nhiêu người làm việc tính toán. Nếu thừa đương được thì ngồi quét sạch mà vượt qua trước Oai Âm Vương. Nếu theo lời nói này mà chuyển, trái lại rõ ràng phải tự hồi quang phản chiếu mới được. Thiền Như Lai, thiền Tổ sư đâu có hai thứ. Chưa khỏi quen theo các phần trắng đen, trái lại căng ra. Sự lý cơ phong cùng một lúc quét sạch là đánh trái cầu sạch sẽ. Lại biết chỗ thỏa đáng thật sự không: Buông xuống xem lấy. Dạy Kiệt Thiền nhân. Hành cước tham thỉnh đã nương tựa Thiện tri thức ở Đại tòng lâm, vun bồi thanh cao nhã chúng rất lâu. Một sớm thân duyên phải trước lạc trở về động là cái ngàn dặm đi xa, cần phải do lực lượng mình chẳng quên đạp đến, cần phải chỗ đi chẳng sinh trần, huống là sự này chẳng nói ở đấy. Bên Thiện tri thức liền có, lúc ở quê hương liền không. Do đó tạm thời chẳng ở, đồng như người chết. Chính lúc ấy cũng chẳng khởi ra khuôn mẫu (chân thức) (mô dạng?). Tuy là bình thường mà từng giọt nước giọt đông gia chót vót không biết (hết biết) gì, thành cái sự nghiệp vô vi vô sự vô tâm, trong ngoài rỗng suốt không bờ bến, chẳng cùng vạn pháp làm bạn, chẳng cùng ngàn Thánh đồng đường, thâm căn cố đế chỉ giữ trống vắng nuôi tới nuôi lui chẳng lo không thấu. Chỉ hết phàm tình làm công phu mình, chẳng quản duyên ngoài, chẳng theo danh lợi khởi ngã kiến tranh giành hơn thua. Thế nên Cổ đức nói: Mặc tình tự nhiên cũng như người ngu dại, nhà khác tự có người chung. Thương Kiệt biết tráng đã đến cáo biệt xin lời khuyên răn nên viết pháp ngữ này mà trao cho. Dạy Thành tu đạo. Dưới cửa Tưởng Sơn, không có thiền có thể nói, không đạo có thể truyền. Tuy tụ tập năm trăm nạp Tăng, chỉ vì kim cương quyển và cỏ tật lê, kẻ nhảy cố gắng nhảy, kẻ nuốt dụng ý nuốt, chớ lạ vị vô tư rất cao vót. Hoặc nếu bồng hiểu được thì như áo gấm về làng ngàn người vạn người chỉ vui đón, lại tìm chỗ nó từ đâu đến chẳng được, là chỗ gọi bổn phận của mọi người vậy. Vừa sinh tâm động niệm thừa đương gánh vác là sớm chẳng phải bổn phận rồi, dẫu được vạn cơ nghỉ dứt, ngàn Thánh chẳng dắt, cũng còn có chỗ cậy nương. Phải dẹp hết siêu thoát bên kia đi mới được. Do đó nói: Chỉ có mảy may bụi trần cất lên ý liền gặp ma quấy nhiễu, thành tựu tất cả đều chỉ do nó, phá hoại tất cả cũng do nó. Duyên kỳ đặc thù thắng, kho công đức hằng sa, vô lượng diệu trang nghiêm, việc vượt đời hiếm có đều là chỗ thành tựu. Các xan tham ganh ghét chấp trước tình thức, hữu vi hữu lậu, cấu nhiễm tạp loạn, nêu bày danh tướng, tri kiến vọng tưởng đều là chỗ phá hoại. Chỉ nó mới chuyển tất cả vật, mà tất cả vật chẳng thể chuyển nó tuy vô hình không mặt mũi, mà bao quát mười hư, nuôi phàm gồm Thánh. Nếu có lấy liền rơi vào thấy đâm chích cuối cùng sờ mó chẳng được. Chư Phật khai thị, Tổ sư chỉ thẳng duy tâm diệu tánh, cắt ngang thừa đương, chẳng khởi một niệm, thấu đảnh thấu đáy đều hiện thành, ở chỗ hiện thành chẳng nhọc tâm sức, mặc tình tiêu dao rốt không lấy bỏ, mới thật là mật ấn. Dạy Cảo thư ký. Chánh tông của Lâm Tế, từ Mã sư Hoàng Bá mở mang đại cơ đại dụng, thoát khỏi sự khống chế, ra khỏi khuôn sáo cũ. Cọp chụp rồng lượn, sao bay điện xẹt mở cuốn, nắm bắt buông thả đều theo bổn phận. Niêm mật rõ ràng đến Hưng Hóa, Phong Huyệt, hét càng cao, cơ càng tột. Tây Hà giỡn sư tử, Sương Hoa đoạt kim cương vương. Chẳng vào sâu chỗ kín mà nhận được ấn ký, đều chẳng biết mánh khóe, uổng muốn danh vang xa, chỉ là càng hý luận. Có lẽ xung thiên khí vũ. Ngoài cách mà nắm giữ. Chẳng chiến đấu khuất phục người, giết người chẳng nháy mắt, còn chưa phảng phất chỗ chỗ đến, huống là dời đổi sao đẩu, chuyển thiên luân về địa trục ư? Thế nên bày ba huyền ba yếu, bốn liệu giãn, bốn chủ khách. Bảo kiếm kim cương vương, sư tử ngồi xổm trên đất. Một hét chẳng có tác dụng một tiếng hét, sào dò bóng cỏ, một hét phân chủ khách, chiếu dụng cùng lúc. Bao nhiêu lạc tác boa nhiêu học gia suy lường chú giải. Đâu chẳng biết trong kho vua ta không có dao ấy, đem ra đùa giỡn xem, chỉ mở mắt. Phải là trên bậc thượng lưu khác khế chứng kiểm nhận. Phải trở về bổn phận trồng cỏ há nhờ thang và môi giới chỉ mượn Bảo Thọ khai đường, Tam Thánh đưa ra một vị Tăng. Bảo Thọ liền đánh. Tam Thánh nói: Ông là người gì? Tăng ấy chẳng mù một mắt, mù một mắt tức là mắt người trong thành Trấn châu. Bảo Thọ liền ném gậy trở về phương trượng. Hưng Hóa thấy đồng tham đến liền hét, Tăng cũng hét. Hóa lại hét, Tăng lại hét. Hóa nói: Ông có thấy gã chột mắt ấy không? Tăng đang suy nghó thì bị Hóa đánh đuổi ra khỏi pháp đường. Thị giả hỏi có lầm gì nhau (có xúc phạm gì?)? Hóa nói nó cũng có quyền cũng có thật., ta đưa tay trước mặt nó hai lần mà chẳng hiểu như lão một mắt này chẳng đánh thì đợi lúc nào? Xem (thấy) nó bản sắc tông phong khác xa thù tuyệt chẳng quý mưu lược, chỉ kính nó chánh nhãn. Muốn gánh vác chánh tông nắm giữ tông nhãn phải là thấy đảnh thấu đáy, thấu xương thấu tủy. Chẳng dính với rèm sáo, khác xa riêng thoát. Sau mới rõ ràng làm tiếp theo có thể dựng lên Đại pháp tràng này, đốt đuốc lớn này, nối nghiệp các ngài Mã Tổ, Bá Trượng, Thủ Sơn, Dương Kỳ chẳng vì thầm kính trọng thôi. Dạy Hàn Triệu Nghị. Phật này, Tổ này chỉ thẳng Đại pháp này, ở dưới chân mọi người mà rỗng chiếu, như cả ngàn mặt trời cùng chiếu. Chỉ vì chạy tìm bên ngoài đã lâu, không tự tin mình có ánh sáng đại oai đức như thế. Chỉ cốt làm thông minh, lập tri kiến, đi vào nghiệp hoặc mà gọi là thoát ra, thật là mọi rợ, khoe sáng tự được hướng người thế gian, chỗ quen xưa nay rộng xem khắp xét, gọi là thấu đáy cùng cực. Thật chẳng biết sáng của lửa đom đóm há sánh với mặt trời. Sở dó bậc tài giỏi kỳ lạ xưa có tánh dónh thoát, đến gần mà luận thì như Bùi Tướng Quốc bạn của Dương Đại Niên đầu thành buông bỏ đền Tông sư mà chọn lựa, dẹp bỏ tri kiến phù trần, mà đại triệt đại ngộ, mới có thể vượt lên. Cùng Lão Thiền Thạc Đức đồng bước đi đến lúc họp sát kết giác, tự hiểu buông tay tức khắc chứng đại giải thoát há là việc nhỏ. Nay đã sáng suốt chẳng kém các bậc tiền bối. Bình thường kẻ học nghiệp tài sức xa lâu trên đường đời. Tuy biết Tông môn có nhân duyên này, bảo rằng: Chẳng ngoài chỗ ta tôn trọng rất chẳng để ý vì xưa đã gieo trồng duyên lớn, Âu Phong đã nhiều năm tụ họp, một khi nghe nêu lên thì liền tin sâu mà hồi quang phản chiếu. Nhìn nhân gian như mộng như huyễn, tùy Đại hóa mà biến diệt, chính là hư vọng. Chỉ cái này ngàn kiếp chẳng hư hoại chẳng đổi dời, là cội gốc của tất cả Thánh hiền, là nguồn sâu xa tạo ra các vật, ấn định tự mình. Nếu một phát minh ngộ triệt, sao chẳng đến được? Thế mới biết đời trước từng nấu nướng gặp duyên mà thấy bày ở việc làm, ha chẳng phải tự tánh sao? Song hay tự kiểm điểm, trong hai mươi bốn giờ học Phật pháp đã là tâm tạp dụng thì liền bỏ Phật pháp, bởi trong cõi chân tịnh mà đi. Chỉ xin y đây tất cả chẳng tạp, tức là thuần rỗng suốt, không yêu ghét, lìa lấy bỏ, chẳng phân kia đây, chẳng tính được mất. Tất cả pháp thản nhiên, đều là chỗ ta không nghó bàn, tịnh diệu viên minh vật thọ dụng như thế. Phải khiến tâm này luôn luôn hiện tiền, chẳng rơi vào trầm hơn, chẳng sinh thông tuệ, vào cảnh giới bình đẳng an nhàn tịch tịnh. Sao có làm các nghiệp duyên tình thức xấu ác mà quấy nhiễu được. Bản diệu quang minh này chỉ sợ khi gặp cảnh giới hiện ra thì đều quên mất, y theo trước mà phân loạn thì không kham được. Người xưa tu hành cũng chỉ tự mình chứng nhập. Trong mọi lúc chiếu liễu, cắt đứt trần lao, sống trong chỗ cao vót. Lâu khoảng hai mươi, ba mươi năm thì thuần thục, vượt ra sinh tử chẳng khó. Cố gắng chỗ bước đi chẳng chỉ không nói năng cao xa không mà thôi. Người xưa nói: Nói được một trượng không bằng làm được một thước. Bởi sức định huệ chuyển được nghiệp duyên, chính là phải luôn tỉnh tỉnh, mạnh mẽ quả quyết, trong ngàn trăm đời mà thọ dụng. Ngoài ra các câu lời cơ duyên của người xưa bất tất phải hiểu biết hết. Chỉ một thứ rõ ràng thì cứ y như đây, ngàn biến vạn hóa há đổi dời được lực dụng của nó. Trong tâm đã trống duyên ngoài cũng vắng. Mặc áo ăn cơm vốn tự thiên chân, chẳng nhọc khắc chạm. Nếu thấy ta có hơn thua thì tức là tai họa đó. Phải rất quản chiếu (cai quản và xét chiếu (xem chừng nó)), chẳng làm hinh thức do đây mà có thể vào. Phải vô ngã chân thật, bình đẳng như như, chẳng động chẳng biến, tịch diệu thanh lương và kín đáo. Ngài Chí Công có nói: Chẳng khởi mảy may tâm tu học, trong ánh sáng vô tướng mà thường tự tại. * Dạy Tăng Hải Chế. Thiền không ý tưởng, đạo dứt công huân. Nếu lấy ý tưởng mà tham thiền thì như dùi băng mà tìm lửa, đào đất mà tìm lời. Chỉ càng hao thần mệt trí. Nếu dùng công huân mà học đạo thì như trên đất thêm bùn, như ném cát vào mắt, càng thấy khốn đốn. Nếu dẹp ý thức, dứt vọng tưởng thì sông thiền ngưng sóng, nước yên sóng lặng. Nếu bỏ công dụng, hết tạo lập thì đại đạo rõ ràng ngộ triệt để. Thế nên Tăng hỏi ngài Thạch Đầu như thế nào là thiền. Thạch Đầu nói: Đá nát. Tăng hỏi: Như thế nào là đạo? Thạch Đầu nói: Khúc gỗ. Đây há là ý tưởng công huân có thể luận được. Trừ phi ngay đó mà hiểu nhanh cắt dòng liền thấu, thì thiền đạo rõ ràng. Vừa định hiểu rõ thì liền cách xa ngàn dặm vạn dặm. Nếu muốn đời sau thế trí biện thông thì phải nhanh chóng dứt bỏ thật hết thì tự nhiên ở đây đến thật địa, tự chứng tự ngộ mà chẳng lưu lại vết chứng ngộ, bèn nhanh chóng huyền hư thông đạt. Bèn tốt lành. Mã Đại sư từng nêu kinh Lăng Già, lấy Phật nói tâm làm tông, vô môn làm pháp môn. Liền hỏi các người muốn biết Phật nói tâm chăng? Chỉ như nay ông nói liền là tâm, tâm liền là Phật. Cho nên nói Phật nói tâm chính là tông. Tông này vô môn chính là Phật nói tâm chính là tông. Tông này vô môn chính là pháp môn. Người xưa Thái Sát Lão bà kéo bùn dính nước. Nếu một nêu liền thấu càng được chút đỉnh. Nếu xét hiểu nghóa lý thì rõ nắm chẳng được. * Dạy Trí Tổ Thiền Đức. Thế Tôn cầm hoa, Ca-diếp mỉm cười. Nhị Tổ lễ bái, Đạt-ma truyền tâm há có khác ư? Là mũi tên nhọn chống nhau vậy. Phải thầm khế lý ngự phải không nói nghó mà suy lường. Chỉ biết có Hướng Thượng Tông Phong thì chứng. Tuy là ngàn vạn ức năm cũng chỉ như sáng chiều. Thế nên Phật ấy Tổ ấy cầu người trước chẳng thảo sơ quả. Cốt yếu là thuần chắc mà đánh bậc lợi căn thượng trí, sau mới đề cái yếu mà đánh cái tiết, như keo đổ vào sơn, nêu một thì sáng ba như cái ròng rọc không có hang ổ, dứt hết rò ró, mới có thể thủ khăng (chịu đứng đầu). Lại phải đào luyện bàn thác giao gia (phải thêm mài giũa?) đến chỗ người không thể hỏi cùng biện biệt được. Cao tột mà dạo mũi nhọn có dư, đương khi thọ dụng, xâm dâm bày thủ đoạn, có người vượt tông vượt cách, không nương theo ý chỉ của Thầy mà riêng nêu lòng mình, vách đứng ngàn nhận thắng địch kinh người nói kham được giao phó. Pháp đã chẳng nhẹ, đạo lại càng tôn nghiêm. Gọi đó là nguồn sâu sông dài. Các Cổ đức từ xưa động hết bình sinh, hoặc hai mươi, ba mươi năm, nương chỗ vào ấy mà thấu đầu thấu đuôi đi. Chí đã có lực, dụng tâm bền chắc. Do đó mà thành tựu được, lại ném đất tiếng vàng, người Đại trượng phu ngưỡng mộ các bậc trên trước chẳng được chẳng thế. Họ đã được như thế há ta chẳng làm được huống là vượt thoát sinh tử đến hết vị lai. Một được thì mãi được, phải gốc rễ sâu chắc. Gốc rễ đã chắc thì nhánh lá ắt phải sum sê. Chỉ cần mọi lúc phải dài lâu chớ khiến vừa làm vừa bỏ. Trạm trạm trừng trừng (sâu dày lắng đọng) bầy vọi nuốt lửa, bốn đại sáu căn đều đầy đủ như thế huống tri kiến nói năng hiểu biết ư? Một lúc sát đáy mà buông bỏ hết, đến chỗ bình thường thật an ổn cuối cùng, không mảy may có thể được, chỉ thế mà tùy chỗ khinh an, thật là đạo nhân vô tâm. Giữ gìn mãi (bảo nhậm) cái vô tâm này, rốt ráo Phật cũng chẳng còn thì gọi gì là chúng sinh. Bồ-đề cũng chẳng lập thì gọi gì là phiền não. Tiêu nhiên thoát mãi. Đúng lúc nạp hữu (nhân phước). Gặp trà thì uống gặp cơm thì ăn. Dẫu trong chợ búa ồn ào thì cũng như chốn rừng núi, xưa nay không hai thứ thấy. Nếu có ngồi trên tòa liên hoa thì cũng chẳng mừng, bị đè dưới chốn cửu truyền cũng chẳng chán sợ. Tùy chỗ mà tạo dựng lại được biên sự sao lại có ta ư? Ngài Đại Ca-diếp nói: Pháp pháp pháp xưa nay, không pháp không phi pháp, sao ở trong một pháp mà có pháp có không (chẳng) pháp. Người xưa sau khi được ý chỉ thì phần đông đều giấu hết không muốn người (ai) biết sợ sinh việc. Nếu bất đắc dó bị người lôi ra thì cũng bền chắc không nhường, bởi vì vô tâm vậy. Đến như thương xót chỉ bày phương tiện, thì cũng tùy người mà rất tiết kiệm. Như Câu Chi chỉ dùng một ngón tay đánh đất chỉ đánh đất. Bí Ma đánh thoa, vô nghiệp không vọng tưởng, ngó vách mà hàng ma múa hốt chặt xương. Xưa chẳng câu chấp hơn thua chỉ cốt mong người đều biết trở về với thôi dứt. Chẳng khởi thấy mũi nhọn đâm vào trong hang quỷ mà đùa giỡn tinh hồn. Luôn cao vót dặn dò đến chỗ thoát thể an ổn chính là diệu chỉ. Kẻ linh lợi dưới chân phải điểm, xương sống phải cứng như sắt. Dạo cõi nhân gian xem vạn duyên như huyễn, nắm dừng làm chủ chẳng theo tình người, cắt đứt nhân ngã, bỏ hết các tri giải. Ngay đây mà thấy tánh thành Phật. Chỉ thẳng diệu tâm làm thềm bậc. Khi đến tác dụng thì ứng duyên mà không lạc vào khuôn sáo cũ biện mãi mãi dài lâu, giữ thân tâm tịch đạm, ở trong trần lao mà siêu thoát đi. Bèn khéo mà lại khéo! Dạy các Thiền nhân. Đạo vốn không lời, pháp vốn chẳng sinh. Dùng không lời mà nói bày pháp chẳng sinh. Lại không có cái khác. Vừa định nắm bắt thì đã sai lầm. Thế nên Tổ sư ở Tây Trúc đến riêng nêu việc này. Chỉ quý ngoài lời mà hiểu lấy, ngoài cơ mà dâng lấy. Nếu chẳng phải kẻ thượng thượng căn khí sao có thể bỗng nhiên mà thừa đương được. Song người có chí đó há tính kể hạn lượng. Cần phải lập (đúng) chỗ một mình cao vót mà chặt một cái thành hai đoạn. Mạnh mẽ thân tâm buông bỏ áo kép, nương tựa vào cái giống như thủ đoạn ác cắn vào heo chó tận tình theo trước học hiểu khế cơ dán da phụ thịt tri kiến, một đảo đã điệp (một sắp xếp ngược lại) liền khiến trong lòng trống không mệt nhọc. Đã nghó chẳng lộ một vật chẳng làmliền có thể triệt để mà khế chứng. Cùng theo trên đến chẳng đổi dời một mảy may. Thẳng được như đây lại phải biết có hướng thượng vượt thầy làm lược mới được. Do đó người xưa khi hỏi Phật hướng thượng thì đáp không có Phật. Lại đáp: Phương tiện mà gọi là Phật. Thì thấy tánh thành Phật chỉnh là thuyên đế mà thôi. Trong ấy nói sao chỉ Đông chỉ Tây, cần phải ngầm khế tự hay giữ gìn thì mới được thông dong tự tại. Còn nói gì đến chứng Niết-bàn khế sinh tử đều là lời nói thêm. Tuy nhiên chỉ sơn Tăng chỉ nói thế cũng chưa có thể lấy làm cực tắc, mới khỏi bệnh Phật bệnh Tổ. Kẻ Đại trượng phu cố tâm muốn tham há có thể lập thành kỳ hạn ư? Chỉ cần tin sâu một mực hướng về trước thì chưa có ai chẳng bước lên sự thật. Mỗi ngày càng đổi mới, mỗi ngày càng giảm bớt. Lui bước đến đáy liền là chỗ chỗ tột cùng, lại cũng chẳng lập đây thì chính là chỗ làm công phu. Dạy Tưởng Thị Chế. Ở Tương dương có Vương Thường Thị tham ngài Qui Sơn Đại Viên được ý chỉ. Có Tăng từ Qui Sơn đến, Thường Thị hỏi: Ông già Sơn Đầu có câu nói nào? Tăng đáp: Người hỏi thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến thì Sơn Đầu dựng cây phất tử lên. Thường Thị nói: Trong núi làm sao mà hiểu. Tăng nói trong núi thương lượng, tức sắc mà sáng tâm, nương vật thì hiển bày lý. Thường Thị nói: Hiểu thì liền hiểu, chết gấp làm gì, ông mau đi đi - Thị có viết thư cho Lão sư. Tăng mang thư trở về. Qui Sơn chợt thấy bèn vẽ một vòng (hình) tròn, ở giữa viết chữ Nhật. Qui Sơn ha ha cười lớn bảo rằng: Ai biết ta ngoài ngàn dặm có tri âm. Ngưỡng Sơn nói cũng chẳng chưa ở đó. Qui Sơn hỏi: Ông lại làm gì? Ngưỡng Sơn vẽ trên đất một vòng (hình) tròn rồi vẽ chữ Nhật, rồi lấy chân xóa mà đi. Xem nó là người gì mà vội bước đi há giữ hang ổ ư? Trong đó nếu khéo thấy nó biến đổi thì có thể biết nguồn tâm. Đã biết nguồn tâm thì có phần tự do. Đã có phần tự do thì chẳng thì chẳng đi theo cái khác. Sao đến mà chẳng tự được ư? Mỗi khi tiếp só đại phu, phần nhiều đều nói bận việc trần chưa rảnh. Đến khi đợi vừa dẹp hết sau mới để tâm mà thể cứu. Đây tuy là lời thành thật chỉ là làm việc trần lao, ló ra thụt vào mục rã cốt đổng. Chín rồi (thuần thục rồi) chỉ gọi là việc trần lại đợi dẹp hết trần duyên mới có thể thú nhập. Đó gọi là trọn ngày làm mà chưa từng làm, trọn ngày dùng mà chưa từng dùng há là ngoài trần lao riêng có đại sự nhân duyên này ư? Rất chẳng biết trên đống báu lớn mà phóng ánh sáng báu lớn sáng rực trời đất, chẳng tự tỉnh ngộ thừa đương, lại đi ra ngoài mà cầu chuyển nhiều cực khổ, há là rất cần yếu. Nếu bậc đủ căn khí lớn thì chẳng cần phải xem lời câu và công án của người xưa. Nhưng chỉ theo triều mà khởi, chánh tức niệm, tịnh tức tâm. Phàm chỗ chỉ gọi làm một phen. Làm một phen lại đề khởi xét rõ xem. Từ chỗ nào khởi lên, là vật nào làm ra. Được nhiều như thế, ở trong trần duyên mà một thấu thì tất cả các duyên đều thế, sao đợi dẹp bỏ. Tức đây liền có thể vượt Tông vượt cách. Ở trong nhà lửa ba cõi liền hóa thành Đại Đạo tràng thanh tịnh vô vi mát mẻ. Kinh Pháp Hoa nói: Phật tử ở đây tức là thọ dụng Phật kinh hành và ngồi nằm đều ở trong đó. * Dạy Trương Quốc Thái. Tức tâm tức Phật đã là khai tám chữ ra, chẳng tâm chẳng Phật lại hướng rõ ràng mà điểm phá. Chẳng tìm lời nói ngay đó liền thấu. Mới thấy người xưa tâm đỏ mảnh mảnh. Nếu cũng do dự thì trước mặt liền sai. Chẳng cùng vạn pháp làm bạn là người nào. Đợi ông một hớp uống hết nước Tây giang ta sẽ nói cho ông. Nhiều ít dứt ngang sao chẳng cùng gì thừa đương, lại vào câu lời của người khác thì vónh viễn chẳng thấu thoát. Phần nhiều thấy người học chỉ nói theo lẽ thường tình của thế tục hiểu rõ mà nêu lời cần cầu họp đầu, đây há là muốn thấu sinh tử, muốn thấu sinh tử trừ phi tâm địa khai thông. Cái công án này chính là cái chìa khóa mở tâm địa, chỉ cần biết rõ ngoài lời nói mà hiểu ý chỉ thì mới đến chỗ vô ngại này. Xưa Tu Sơn chủ yếu đến gặp ngài Địa Tạng, tự bày phen này đến gặp Hòa thượng, đã trải qua nhiều núi sông hết sức cực khổ. Địa Tạng chỉ rằng: Có nhiều núi sông đối với ông cũng chẳng xấu. Nó liền ở đáy thùng mà thoát đi. Như đây há nói năng nhiều đường, phải giữ gìn mới được. Dạy Dương Thanh Lão Đạo Hữu. Lão Đạt-ma từ Tây Trúc đến há từng mang một vật, đi từ Lương đến Ngụy, ở Thiếu lâm ngồi ngó vách không ai biết ông ấy. Riêng Tổ Đạo Khả cần cù đứng ngoài tuyết chặt tay, ngài mới thương xót mà ấn tâm. Nếu bảo không nói thì từ đâu mà vào. Nếu bảo có nói thì hướng vào ông ấy mà nói gì. Phải biết là người ấy mới rất hiểu rõ bèn không sót lại. Do đó vào cửa này phải là người căn khí mạnh mẽ, nhanh nhẹn bỏ các tri kiến hiểu biết từ trước, khiến lòng trống rỗng chẳng lưu lại chút gì, rỗng suốt hư ngưng, nói nghó đều dứt mất, khế thẳng bản nguyên mất dứt không bờ mé, tự đắc vốn có không (mà) được diệu trí, mới gọi là tin kịp thấy suốt. Cũng có vô lượng vô biên không lường biết được đại cơ đại dụng ở đấy. Nếu lưu lại chút năng sở thì rơi vào duyên trần, thì chết gấp chưa tương ưng. Thế nên Cổ đức khuyên người ngay đây dứt bỏ hết. Đây ví như diều hâu chim cắt nhanh nhẹn lướt qua mây qua mặt trời gió mê đều thấu trong xanh. Bốc lên đều cắt ngang chẳng cho nghó ngợi. Nếu có do dự liền thành sai lầm. Khá biết đó là ngoài giáo riêng làm. Đã có chí ở đó thì bỏ hết thấy hiểu mà thừa đương, tất cả hiện thành thì Sơ tổ chẳng từng đến, tự mình cũng không được. Dạy Lý Gia Trọng Hiền Lương. Toàn tâm tức Phật, toàn Phật tức người, người Phật không khác mới là đạo. Đây là lời chắc thật. Chỉ tâm chân thì người và Phật đều chân. Thế nên Tổ sư chỉ thẳng tâm người khiến thấy tánh thành Phật. Song tâm này tuy người người đều đầy đủ, từ vô thủy đến nay luôn thanh tịnh vô nhiễm từ xưa chẳng chấp trước, tịch chiếu ngưng nhiên, rốt không năng sở, mười thành viên già đà, chỉ do chẳng giữ tự tánh, vọng động nhất niệm, bèn khởi vô biên tri kiến trôi nổi trong các hữu. Dưới gót chân luôn đeo ánh sáng này chưa từng mù tối, mà ở căn trần uổng bị trói buộc. Nếu hay chứa nhóm căn bản, từ chư Phật các Tổ sư cắt ngang chỗ chỉ bày thì liền triệt để thấu thoát. Nương mở mặc áo kép đỏ hỏn sạch làu, ngay đây mà thừa đương, chẳng từ ngoài đến chẳng từ trong ra ngay đây rộng rãi chứng sáng tánh này, lại nói gì người Phật tâm. Như lò lửa hồng để một điểm tuyết, chỗ nào lại có nhiều lo lắng. Thế nên Tông này chẳng lập danh tự câu chỉ dành cho tối thượng thừa căn khí nhanh như gió bảo sấm vang điện chớp sao bay, mà thoát tịnh khế chứng, cắt gốc sinh tử phá vỏ vô minh, dứt hoặc vô ngại, ngay đó mà sáng nhanh. Trong hai mươi bốn giờ chuyển tất cả sự duyên đều thành Vô thượng Diệu trí, há lại phải chán ồn cầu tịnh, bỏ kia chọn đây. Một chân thì tất cả thật, một rõ thì tất cả rõ. Cả vạn hữu ở trong tâm này, nắm quyền cơ ở phương ngoài mà ứng vật hiện hình thì không pháp nào chẳng viên, sao có ở ta ư? Cần phải trước định chỗ trước lạc của mình. Lập chỗ đã cứng ngắt (??), tự nhiên gió đi cỏ rạp. Do đó Vương Lão Sư trên mười tám mở làm kế sống, Hương Lâm bốn mươi năm bèn thành một khối, nhóm trần lao làm giống Như Lai. Chỉ do ở người khéo xem gió mà trương buồm, niệm niệm tiếp nối, tâm tâm chẳng trụ, hướng về đường trường sinh này mà cất bước, liền cùng Phật tổ đồng đắc, đồng thể, đồng tác đồng chứng, huống là trăm dặm mà quyền bính ở tay. An dân lợi vật tức là tự an, vạn hóa đồng một cơ này, ngàn sai đều cùng một chiếu này, hết cả trần sa pháp giới có thể dung thông, huống là người và Phật không khác. * Dạy Viễn Điện Phụng Nghị. Từ trên cắt ngang một đường, ngay đây siêu thăng chẳng ra. Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Chỉ tâm này soi xét bỏ hết giai cấp Thánh phàm, chỉ quý kẻ lợi căn thượng trí. Ở vô minh cụ phược phàm phu ở trong hang ổ chẳng động mảy may, ngay đây mà khế nhanh rộng suốt minh linh, cùng hữu tình vô tình, hữu tánh vô tánh đồng thể, cùng đại pháp tương ưng phát khởi tác dụng, thấu cổ siêu kim cởi tiếng che sắc, hư mà linh, tịch mà chiếu đại giải thoát bất tư nghì không hạn lượng không bờ bến mỗi mỗi bảy lỗ tám hang, rốt không hồi hỗ liền biết chỗ rơi. Do đó Phật, Tổ ấy gọi là riêng truyền ngầm giao. Như ấn in trên không, như ấn in trên nước, như ấn in trên bùn. Vạn đức sáng tỏ mười phương quét sạch. Riêng chiếu riêng siêu xưa không nương cậy. Nếu khởi kiến làm tướng thì không can thiệp. Thời nay có bậc Cụ chủ tánh hay trước sau xem phá duyên huyễn cảnh huyễn chí mạnh mẽ hăng hái tiến đến bên ấy. Cũng có kẻ chí thành nghiên cứu chỗ sâu xa, song chỉ lo thiếu sức phương tiện. Chỉ cho tri kiến hiểu biết là sáng tỏ. Rất không biết toàn ngồi hiểu chỉ là thức tâm (biết tâm?). Dẫu biết đến bên Phật, đến tận cùng chỗ tu chứng là chẳng ngoài việc chỉ dấu vết. Thế nên, Tác gia tông sư xưa nay chẳng quý người hiểu biết mà chỉ cho người bỏ tri kiến, trong lòng chẳng lưu lại chút gì, thênh thang như thái hư không, càng lâu dài nuôi cho thuần thục. Đây tức là Bản địa phong quang, bản lai diện mục. Đến đây mà nêu cổ nêu kim thoát lìa sinh tử có khó gì. Giống như Bùi Tướng Quốc, Bàng cư só. Ngay đây mà tin kịp thì liền đắc lực, thọ dụng tự tại, trần duyên huyễn cảnh há từ chỗ khác mà sinh. Nếu gót chân chắc thật trong hai mươi bốn giờ hay chuyển tất cả vật, mà tướng vô năng rãnh rang chỗ trống không chẳng sinh tâm động niệm, theo thiên chân mình luôn giữ thường thật, thì liền từ hoạn đến cán đều chiếu thấu, nương nhiều ân lực đó? Đã biết nó như thuyền xuống nước, nhờ mọi người chiếu cố nâng đỡ mà đi, tự nhiên nhanh chóng cùng thuyền như tương ưng. Đây kẻ tu thiền gọi là tự làm công phu, đụng đâu cũng không có thời gian bỏ trống, nối tiếp chặc chẽ khít khao mãi mãi chẳng có tâm lui sụt, chẳng cần bỏ hết hữu lậu hữu vi thế gian, sau mới vào vô vi vô sự. Phải biết vốn không hai thứ. Nếu ôm giữ lấy bỏ thì thành ra hai thứ. Mọi nơi mọi lúc chỉ lấy đây làm thật cố gắng mà làm, cắt đứt các dòng được nhiều an lạc. <篇> <卷>QUYỂN 16 PHÁP NGỮ III Dạy Tông Giác Đại sư Phật nói tâm là tông, tông thông thì thuyết cũng thông. Đã nói tông môn đâu có thể lìa cành bỏ gốc theo ngọn, theo ngôn ngữ cơ cảnh mà làm hang ổ. Cần phải cắt ngang vượt chứng thấu qua tâm tánh huyền diệu, cảnh giới thắng tịnh, thấu suốt miên một ổn đáng hướng thượng đại giải thoát, và dứt hết tất cả và rãnh rang giống như rộng rãi trống không, mà lực dụng viên chứng chẳng câu chấp hạn lượng. Ngàn người vạn người cầm giữ chẳng ở. Do đó Ca Văn Lão nhân im ắng lâu về cần thiết này, hơn ba trăm hội lược nói không phá, chỉ tùy cơ cứu giúp, đợi thời tiết đến liền ở Linh Sơn lộ mặt nêu ra. Riêng có Kim Sắc Đầu Đà (Ca-diếp) đưa ra dắt dẫn gọi là ngoài giáo riêng truyền. Nếu hiểu ý này thì Oai Âm Vương trở về trước bày vẽ rồi vậy. Điểm hóa tương lai tuy tùy loại hóa thân, ngàn thứ tài giỏi, vạn thứ cơ duyên đều là một cái ấy. Đây đâu thấy ít, nghe cạn còn hiểu biết, rơi cỏ bao quát mà lường biết được. Thế nên từ trước nay đánh gậy, hò hét, đánh cầu, đánh xoa, uống trà, đánh trống gặt hái, chăn trâu, bày cảnh trí, ngồi che cửa gọi hét, tát đạp… đều là gốc này. Chỉ bản sắc nạp tử tự đã liễu ngộ thấu triệt. Lại còn gặp Đại Tông sư có ác thủ đoạn đào thải dã luyện, đến sư tử cắn người chẳng theo được kî là chỗ cắt ngang chém dứt thì mới có thể một nêu liền biết chỗ rơi, như sư tử vào hang ra hang cào đất nhào lộn thì người nào có thể lường biết được. Môn này chẳng luận chỉ dạy lôi thôi dài dòng, trong cỏ ma đánh cát đằng (dây leo), mắt bệnh gai ba kéo chẳng trở lại, Duy có tám mặt chịu địch đánh. Chưa nêu đã biết, chưa nói đã khế. Tự nhiên nước sữa hòa nhau, được ngồi khoát áo nuôi được thuần thục đợi sương mù quả chín mà ló đầu ra liền cùng dụng như thế mới họp Tổ tiên bổn nhân địa, ra làm một vòng Phật sự. Do đó nói muốn cùng tốt việc như thế phải là người như thế, nếu là người như thế thì chẳng lo việc như thế. Dạy Nhất Thơ Ký. Anh Linh nạp tử, uẩn trát thức kỳ (biết kỳ lạ), đẹp khảng khái nát mão, thấy thân thế thanh danh như bụi bay mây sạch tiếng vang hang vắng. Do đại căn xưa mà biết có đoạn này, ra khỏi sinh tử, dứt hết Thánh phàm, chính ba đời Như Lai đã chứng là kim cương chánh thể. Các đời Tổ sư riêng truyền Diệu tâm, cất bước đạp lên làm hương tượng kim xí điểu, phải chợt bay liệng trên ức vạn loài. Cắt dòng ma tiêu (sờ khí), há chịu làm loại hồng hạo én sẽ. Cột chân ở cao thấp hơn thua ganh đua trước mắt nhanh chóng như đánh đá lửa ánh điện sẹt trong nháy mắt mà chuyển lợi hại ư? Thế nên người xưa đại đạt chẳng ghi nhớ nên chẳng chuộng cạn sâu, phát chí muốn vượt cao hơn Phật tổ gánh vác tất cả, chỗ gánh nặng chẳng thể thừa đương, khắp cứu giúp bốn loài y thứ, cứu khổ cho vui, phá ngu muội chướng đạo, phá điên vô minh uổng bị tên độc nêu ra pháp nhãn (kiến thích), khiến bản địa phong quang lắng trong. Từ kiếp không trở về trước mặt mày sáng tỏ. Đều là tâm hết sức chẳng sợ lạnh nóng, bỏ ngủ quên ăn, cố ý chuộng làm, ba nghiệp trong sạch ở dưới ba cây rui mà giết chết tâm viên ý mã, thẳng khiến như loại cây khô gỗ mục gạch ngói… Bỗng mà xuyên thấu qua, há là từ người khác mà được? Đào được kho sâu, đốt đuốc sáng nhà tối, thả thuyền ở bến yếu chứng Đại giải thoát, chẳng khởi một niệm mau thành Chánh giác. Lại thông cửa vào lý, sau mới lên chốn phổ quang minh (khắp sáng) mà chiếm tòa ngồi vì đặc pháp không vô lậu thanh tịnh thù thắng, miệng biển sóng trào bốn biện tài vô ngại. Vừa lập một cơ nói một câu hiện thành thắng tướng, khắp khiến phàm Thánh hữu tình vô tình đều kính oai quang, đồng nhận âm như thế, còn chưa phải chỗ dứt công huân lại chuyển đầu nào, ngàn Thánh nhốt chẳng ở, vạn linh cảnh ngưỡng vô môn. Các trời không đường dâng hoa ngoại ma sao được rình thấy. Bỏ hết tri kiến, chế ngự huyền diệu, gió thổi tác dụng chỉ đói ăn khát uống mà thôi. Trước chẳng biết có tâm không tâm, được niệm mất niệm, huống là luyến trước các câu lời học hiểu từ trước, lời nói lạ về lý tánh, phân biệt danh tướng, gông cùm Phật kiến pháp kiến, động đất nâng trời thế trí biện thông tự trói tự cột vào biển toán sa (tính toán?) có chỗ nương cậy nào? Các bậc Đại trượng phu nên cốt đánh địch kinh người, làm tròn chí nguyện của mình, chính là bổn phận của Chân Đạo Nhân đại tâm đại kiến đại giải thoát vô vi vô sự vậy. Dạy Thắng Thủ tọa. Phật Thích-ca có nhiều đệ tử tháp trước đã phân nửa tòa ngồi, đã ngầm trao ấn này. Sau này niêm hoa là công án thứ hai. Đến việc trao y kim lan vào núi Kê túc, đợi Di-lặc là ít nhiều tiết văn Đạt-ma xa xôi từ Tây Trúc đến Lương qua Ngụy, ngồi yên ở Thiếu lâm trong tuyết sâu có ông già chặt tay, mở (?) phá, chẳng khỏi phân phó nó. Gọi là riêng truyền mật ký nghiên cứu kỹ lưỡng điều đó bị thua. Từ đây liền truyền nói ý chỉ Tây Trúc đến. Thế gian theo dòng từ lầm này đến lầm khác, khắp nơi lưu hành chia ra làm năm nhà bảy tông. Đến khi lập môn hộ đề xướng, thì thật tột cùng, điều đó đầu mối thành được bên việc gì. Thế nên từ khi theo người đạt chẳng uống trà ăn cơm thì như thế nào là đế đáng phải biết ngoài sáu họp mà để mắt, là sớm tự khác vậy. Huống là biển Hương thủy, phù tràng vương sát biểu thị mà nhìn rõ, bèn ít biết. Do đó nói: Việc Đại trượng phu này đánh tát nâng đẩy tiếp nhau, chỉ đồng phong khế chứng mới khéo gánh vác trọn chẳng tung rải cát đất, bèn cùng Thích-ca sắc vàng. Mắt xanh thần quang, cùng một tọa cụ rãnh ranh rủi tay giết người cứu sống người trước không hang ổ, chỉ quý trót vót muôn khổ ngàn cay rất hiểm rất độc có thể xuống tay giết chết, sau chẳng uổng ấn thọ. Bạch Vân Sư ông nói: Bí quyết thần tiên cha con cũng chẳng truyền nhau. Dạy Vô Trụ Đạo nhân. Kinh Duy-ma nói y gốc vô trụ mà lập tất cả pháp. Kinh Kim cang nói: Phải không chỗ trụ mà sinh tâm Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Cổ đức nói: Tất cả vô tâm không dính dấp, pháp thế xuất thế đều như thế. Nếu có trụ thì liền là chất keo chắc đâu có thể biến thông ư? Nếu nhật nguyệt trụ thì không có ngày đêm, bốn mùa trụ thì không có năm tháng. Chỉ có vô trụ mới trôi mãi vô cùng. Thế nên trụ ở chỗ không chỗ trụ mà chuyển phàm thành Thánh, tức vô tác vô vi là diệu dụng của vô trụ, ở trong vạn hữu mà được đại giải thoát. Đã hiểu được ý này thì thấy đạo này. Chỉ nên cố gắng làm không mỏi mệt mới thật sự là bậc Đạo nhân. Dạy Nguyên Trường Thiền nhân. Phật nói tâm là Tông (gốc) Đạt mà truyền cái này mà Mã Sư vì rắn vẽ chân, từ bi rơi cỏ liền nói: Các người muốn biết Phật nói tâm chăng? Đã bày vẻ rồi. Lại nói chỉ như nay nói là Phật nói. Lời nói này phát ra ở tân liền là tâm Phật. Nếu nêu bày chánh tông làm thoại hơn như thế thì làm sao phát ra được tám mươi bốn tác gia. Thế nên từ trước nay làm chánh lệnh, thấy liền đem nước xấu tưới vào người, thành khuôn mẫu nào. Phải biết Lão già ấy giết nhiều sự khuất khúc chẳng được rồi song người học ngày nay còn xem nó chẳng phá bỏ, mặc dù rơi vào nói năng chấp hiểu biết, nhận sáng tối làm hang ổ, tốt nhất là chẳng nói năng. Trong đó có cái sắt sóng đúc thành trong tay trình được, đá cứng nát tan ngáy mắt, nghỉ nghị chẳng đến, thong thả liền thấu. Lại nói gì Phật nói tâm như thế là sao? Ngay như ngàn Phật vạn Tổ đích thân động đất phóng quang như mây như mưa, đánh gậy hét tiếng sấm nổ điện xẹt, chẳng tiêu cái nóng chẳng làm rãnh rang. Phàm chẳng thâu, Thánh chẳng quản thì gọi gì là sinh tử Bồ-đề, Niết-bàn phiền não. Chẳng bằng đói ăn mệt nghỉ. Đây là chút chút trồng cỏ ở nhà người khác. Do đó Địa Tạng nói ông ở phương Nam Phật pháp mênh mông tranh sao được như ta làm ruộng nấu cơm uống trà mười thành. Do đó, lấy đây làm việc thấu đáo vô sự. Như chặt một cuộn tơ thì một chặt tất cả đều đứt, đem quét sạch thế giới chẳng lọt mảy may, lâu dài năm tháng luôn luôn chẳng động, chẳng lui sụt thì tự nhiên sẽ thành xong. Hương Lâm bốn mươi năm mới thành một khối. Qui Sơn ba mươi năm chăn một con trâu đực. Đã có chí này thì phải dài lâu mới có thể báo được ân chẳng thể báo. Đó là nạp tử chân xuất gia đại giải thoát. đi? * Dạy Siêu Nhiên cư só Triệu Phán Giám. Tào sơn từ giả, Ngộ Bổn hỏi đi đâu? Đáp: Đi chỗ chẳng thay đổi. Lại hỏi chỗ không thay đổi há có Đáp: Đi cũng chẳng biến đổi. Nếu chẳng đạp được thật địa thì sao có thể thấu được như thế. Há có thể lấy lời cơ có nghó bàn mà lường biết được. Bởi đạp đến chỗ cực sâu xa không chỗ rò ró sau mới cầm giữ mà chẳng ở. Người học đạo lập chí ngoài hình hài một sinh tử, trộn cổ kim dứt tới lui, cần phải vin thượng lưu mà đến nhanh, đến cõi chân đế thật sâu kín đánh mình cho lộ bày trắng sạch. Không mảy may ý tưởng ở trong trần duyên, ngay đây tâm như cây khô gỗ mục, như người chết không còn chút hơi thở, tâm tâm không biết, niệm niệm không trụ, ngàn Thánh ra đời dời đổi chẳng được. Bèn cơ thể hướng lên cây khô mà nở hoa, phát đại cơ khởi đại dụng, khởi từ bi bèn không công mà ra công, không làm mà làm, đâu có rơi vào được mất phải quấy ư? Vừa có một chút mảy may liền rơi vào cõi sinh tử. Tự mình chưa thể độ, làm sao độ được người khác. Duy-ma Đại só chẳng trụ ở Kim túc mà trụ ở quán rượu phòng dâm làm Phật sự đại giải thoát, Bàng cư só Bổ xứ Ứng thân chẳng ở cõi Đâu suất, bỏ hết của báu Hán giang đan vợt tre cùng Đại tông sư gõ đánh cho cướp. Đoạn này từ trên thể tài thảy đều như thế. Cần phải giọt nước giọt băng chẳng câu chấp kinh thành hay thôn quê, rèn đúc nhào nặng như Tào Sơn Ma-cật Lão Bàng. Bèn có thể chẳng bỏ Bi nguyện. Cũng chẳng như thế, từ cõi nhân gian bụi bặm dẫy đầy, làm sao đủ để chất chứa trong lòng. Quý phi Kiều Thị cầu Pháp Ngữ. Dưới chân người một việc, xưa nay viên trạm chưa từng động lay. Từ trước Phật Oai Âm Vương cho đến như nay, rỗng suốt, linh minh, như như bình đẳng. Chỉ vì khởi kiến sinh tâm phân biệt chấp trước, liền có tình trần phiền não khuấy nhiễu. Nếu dùng lời căn mạnh mẽ, thân tâm ngay đây nhanh chóng thôi dứt đến chỗ một niệm cũng chẳng sinh, tức là mặt mũi xưa nay. Do đó, Cổ nhân nói: “Một niệm chẳng sinh toàn thể hiện, sáu căn vừa động bị mây che.” Phần nhiều thấy người thông minh vì vọng tâm rõ ràng, buông bỏ vọng tâm này đến chỗ thật hết, đến chỗ bất động chẳng chịu tự thừa đương bản tánh, liền gọi là chỗ trống không, tức định bỏ có chấp không là bệnh lớn. Nếu có tâm bỏ một bên là hiểu biết, chẳng thể triệt để thấy tánh. Tánh này chẳng có không cần bỏ, tánh này chẳng không chẳng cần chấp. Cần phải lìa bỏ chấp có không. Ngay đây mà giúp, viên tham hư ngưng tiêu nhiên an ổn. Liền có thể tin tâm diệu chân tịnh này bị duyên đời cột trói liền có thể biết được chẳng theo, phải luôn hư nhàn tự làm công phu tiêu dứt các vọng khiến có cái tự mình tỉnh ngộ mới được. Người xưa nói chẳng lìa chỗ này luôn trạm nhiên. Tìm thì biết ông chẳng thể thấy. Dạy Đơn Hà Phật Trí Dụ Thiền sư. Tông Phong Tổ sư bước chợt rộng xa, xa xôi ngoài giáo thừa, riêng đề chánh ấn. Linh Sơn niêm hoa mà Ẩm Quang (Ca-diếp) cười hiểu. Long Mãnh vẽ hình tròn mà Đề-bà trúng đích. Thiếu lâm tìm tâm mà Nhị tổ siêu chứng. Lô Lão nói kệ mà Đại Mãn giao y bát. Người đều cho là mật truyền. Nuôi mánh khóe bèn là thất bại. Đâu nói chỉ cực diệu thâm chỉ thế mà thôi. Cần phải biết trời thì cao đất thì dày biển thì sâu hư không thì rộng còn chưa phảng phất tin quá lượng người đại giải thoát hồi trời chuyển đất, uống biển cạn khô, hét tan hư không, phần chấn đại cơ, hiểu biết đại dụng ở vô biên biển Hương thủy ngoài phù tràng sát. Chặt đứt lưới tà kiến của ngoại ma, dẹp quyền hóa của Phật tổ, yết thị cái chẳng yết thị, nêu đề cái sâu kính chẳng thể nêu đề, còn chưa là đích thì Tuyết Phong Ngao Sơn được đạo. Vân Nham trước sau chẳng biết có, bèn hý luận như thế. Phải sắt sống đúc thành được tâm can, giết người chẳng thủ đoạn chớp mắt, bèn có thể bày phong qui quý dòng huệ mạng ở vô cùng, có thể sai ý người. Dạy Dương Vô Cửu cư só. Phật tổ ra đời, dùng nguyện lực đại bi, khởi vô duyên từ, chỉ cốt tiếp dẫn kẻ lợi trí thượng căn đủ lượng đại khí, ủy nhiệm được đại giải thoát thượng thượng thắng diệu huyền cơ, làm chỗ người chẳng thể làm, siêu quần tuyệt chúng. Có thể nháy mắt chứng vô sinh, có thể đứng trên đất mà vượt biển quả. Mắt thấy Đông Tây ý ở Nam Bắc. Như cắt nhanh diều giỏi bay liệng trên không. Gió mê mặt trời sáng, đánh thỏ ngọc đuổi gà vàng. Anh Linh bốc cao bèn nắm đương đầu trên ngọn một chỗ. Nhanh như điện xẹt sao bay chẳng chịu nghó bàn, đợi nó toàn thể thoát đi, ràng buộc ngay đây uổng một mảy may chỉ điểm. Bèn phất tay áo thấu đảnh thấu đáy hiểu được mà hai tay giao phó. Thế nên thể vừa chợt bước thì như rồng dữ được nước, như hổ dữ nương núi, mây ngút ngút, gió ào ào làm nghiêng đổ gan mật, tỉnh sáng tâm mắt con người, mới có thể gọi là cỏ giống của nhà ta. Do đó, Duy-ma Đại só tập họp hội lớn, Ma vương hiện Thủ-lăng-nghiêm định, ở cõi ma làm bạn với Bất Ô Bồ-tát, cùng loại với Văn-thù, Phổ Hiền Kim Sắc Đầu-đà (Ca-diếp) đều nổi trội khác người. Mà một sớm đưa hoa mật truyền, đâu là việc thường ư? Cho đến Đạt-ma ở Tây Trúc đến, Thần quang chiếu đất tự thế. Mất nhiều người đại lượng (suy lường lợi nhân) đặc đạt tinh thông. Chỉ hướng động dụng nháy mắt đánh gõ nói im cuốn mở bắt buông cho giặc hiển bày việc ấy. Mãi mãi đã nghó chẳng bày rãnh rang cao ngất, như người trăm chẳng biết trăm chẳng hiểu, kịp khi đánh gõ liên thấy rung động quần chúng. Tuy nhiên nuôi chí thú trước không bằng nhiều việc, chỉ ngay đây minh diệu tất cả vô tâm mà thôi. Dẫu hay dẹp bỏ học hiểu chấp trước, bỏ giáo mà trống không, Thánh đế cũng chẳng làm thì tự nhiên khế hợp Cang tông từ trên đến, liền có thể vào trường tuyển Phật này, chuyển độ chưa độ, chuyển hóa chưa hóa. Được bất định trở lại nhân gian không nương tựa một vật, vô vi tuyệt học, một đại Đạo nhân chân chánh xuất cách ư? Chiếu Sứ Quanh Sát Dương Công Vô Cửu, chức cao thấy xa học rộng nhiều tài năng, mà ở Tổ đạo thì sớm đến rất sâu, trí giám cơ cảnh chưa nêu đã biết, chưa nói đã thấu. Suốt ngày lại được tham bồi. Theo lịnh vua sai Tuyên Võ Ty lại gặp cẩm quan đặc nhục đạo chiếu lâm cột lại cát đằng, nhân đó nêu ra thất bại ấy. Dạy Lôi Công Duyệt cư só thành Đô phủ. Như nay xét rõ bản tâm viên dung không bờ bến. Sắc thanh các trần sao có thể làm đối, xa xôi riêng thoát, hư tịnh minh diệu. Cần phải triệt để nắm giữ chớ khiến cạn nổi. Ngay đây cao mà Vô thượng rộng không thể cùng, sạch làu làu, thật tròn trỉnh vô lậu vô vi, ngàn Thánh nương vào làm căn bản, vạn hữu do đó mà tạo lập. Cần phải nhanh chóng hồi quang tự chiếu khiến dứt hết hình dạng, viên chứng rõ ràng, ngàn biến vạn hóa không dời không đổi ai là Kim cương vương. Gọi đó là thân thấy pháp, trong khoảng đi đứng ngồi nằm không gì chẳng thấu suốt. Mọi vật nơi nơi đều không có gián cách, gọi là càn bạch lộ tinh, riêng sáng tự tâm, chẳng thể giữ gìn, giữ yên thì rơi vào hang ổ. Phải mạnh dạn cắt đứt mười phần bỏ hết, càng bỏ càng sáng, càng xa càng gần. Đánh chết thu nhặt, dứt bỏ mạng sống mới là người dứt hơi thở, mới cởi bỏ hành lý hướng thượng, chỉ mình tự biết. Biết cũng chẳng lập Thích-ca, Di-lặc, Văn-thù Phổ Hiền, Đức Sơn Lâm Tế chẳng dám chánh nhãn mà nhìn, há chẳng phải là kẻ kỳ đặc, một gậy đưa lên một tiếng hét xuống một câu một lời hoặc tế hoặc thô, hoặc sắc hoặc hương cùng lúc thấu suốt mới xứng với cảnh giới vô tâm như nuôi trẻ thơ thuần hòa xung đạm. Tuy ở trong trần lao mà trần lao không nhiễm, tuy sống chỗ tịnh diệu mà diệu tịnh giữ nó không dừng, tùy tánh mà theo duyên khát uống đói ăn, thiện còn chẳng khởi niệm há là làm ác. Do đó nói tùy duyên tiêu nghiệp cũ, lại chẳng tạo lỗi mới. Đạo quý ở vô tâm, thiền dứt danh lý chỉ vọng ôm mất dứt chẳng thể tiến đến, hồi quang trong đốt đuốc, thoát thể thông thấu, lại chẳng cho nghó bàn, ngay dưới đáy thùng mà thoát. Vào đây là Đại viên tịch chiếu thắng diệu đại giải thoát môn, một liễu thì tất cả liễu, chỉ giữ lấy trống không, trước chẳng phân người ta, hơn thua. Vừa có mảy may gai chích thì liền chẻ vót, bỏ giáo ngộ triệt để tự do tự tại, luôn nuôi miên mật, ngàn Thánh nhìn cũng chẳng thấy, tự mình còn giống oan gia chỉ cầu được xa lìa chẳng cong vạy, nhanh chóng lắng trong, hư mà linh, tịch mà chiếu, mạnh mẽ cắt đứt triệt để, không mảy may quấy nhiễu trong lòng Vương lão sư gọi đó là tìm kế sống, Triệu Châu nói là trừ hai thời cơm cháo đều là dụng tâm, làm lâu dài khiến thuần thục, bèn hội với vô tâm thể đạo từ trên đến, tác dụng ngầm kín tự thấy công phu tiêu kết sừng trên đầu. Tự nhiên như núi dựng buông tay há chẳng khoái sao? Viết thư cho Cảnh Long Học. Diệu Hỷ bày lai giáo kiến làm mãi ở đây thì ý huống rất nồng, thật chẳng quên bi nguyện, mà dùng Tông chánh nhãn để chiếu phá giải bày tình nghóa thấy thấu gan mật sao mắt sáng như đây. Chánh tông lâu tịch liêu, kẻ hậu côn quen khuôn sáo cũ giữ cờ áo chuyển tương giở trò, cả đời chẳng biết là quấy đại gia theo lời nói sinh hiểu biết, Tổ đạo có khi nào dứt. Chẳng có kẻ siêu vượt dónh ngộ lấy gì làm khuôn phép mà sửa cho đúng niệm chân chánh này chính là chân ngoại hộ. Thời tiết nhiễu nhương ở núi lãnh chúng cũng chưa có thể bảo toàn, còn chưa có thể nắm làm kể chuyển mình mà làm sáng Phật Nhật một mùa hạ nọ sai học trò dạo núi đến sau đảnh cao cổ Vân môn muốn ở ẩn am tranh, chí ấy đã chuộng nay khiến thỏa mãn. Ông già núi viết mấy lời nhắn gởi, cũng cho nhiều tiền mà thành đó. Có thể chọn một sự quán xét vậy. Hắn muốn nâng cuốc chính là ở so lường cao. <詞>NIÊM CỔ 1 - Nêu: Ngài Bá Trượng lại tham Mã Tổ. Tổ thấy đến liền dựng phất tử lên. Bá Trượng nói tức dụng này lìa dụng này. Tổ lại treo phất tử vào chỗ cũ, thì đứng hầu một lúc. Tổ hỏi: Từ nay về sau ông mở rộng như thế nào vì người. Bách Trượng lại dựng đứng cây phất tử. Tổ nói tức dụng này lìa dụng này. Bách Trượng máng cây phất tử vào chỗ cũ. Mã Tổ liền hét, Bách Trượng liền đại ngộ. Sau bảo Hoàng Bá rằng: Ta lúc đó bị Mã Tổ một hét mà tai điếc ba ngày. Phần Châu nói: Ngộ đi liền thôi, nói gì tai điếc ba ngày. Thạch Môn nói: Nếu chẳng phải ba ngày điếc tai thì sao thừa đương một hét ấy. Tuyết Đậu nói: Muốn hiểu ba ngày điếc tai chăng? Đồ đúc lớn vàng ròng phải không đổi sắc. Sư nói: Vậy thì tác gia cùng đề xuống, chẳng ngại mắt người có làm. Chỉ mới sáng được Mã Tổ Bá Trượng đại cơ mà chưa sáng được đại dụng của Mã Tổ Bá Trượng, chẳng tiếc lời nói lộ bày cái tin tức ấy. Cần các phương kiểm trách. Lại biết một hét ấy chăng, giống như sấm vang, người nghe tan mật mất vía. Muốn hiểu điếc tai ba ngày, chính như đánh trống thoa độc, người nghe phải tan thân mất mạng. Đưa cây phất tử lên nói rằng; Nếu có hỏi tức dụng này, lìa dụng này hòa tiếng liền đánh, theo sau cùng hét. Lại nói: Lại thấy Mã Tổ Bá Trượng chăng? Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Phật pháp như trăng trong nước phải chăng? Môn đáp: Sóng trong không đường thấu. Tăng hỏi: Hòa thượng từ đâu được? Môn nói: Lại hỏi từ đâu lại. Tăng nói: Khi đi như thế nào? Môn đáp: Đường quan sơn trùng điệp. Sư nói: Sóng trong vạn dặm trạm tịch ngưng nhiên. Trăng báu trên hư không ánh sáng nuốt vạn tượng. Tăng ấy thả một chiếc thuyền vào trong biển pháp Vân Môn dẫn được một trận gió mạnh xem nó bẻ lái kéo buồm chẳng dễ xúc phạm. Cho đến hạ tiêu, khá tiếc thua một thẻ. Lại nói: Chỗ nào là chỗ thua hãy nói xem. Nêu: Ngài Thúy Nham dạy chúng rằng: Một hạ cùng huynh đệ nói Đông nói Tây, xem lông mày Thúy Nham ở đâu. Sư nói: Thua cơ là gốc người tính toán Thúy Nham quét sạch ngôn ngữ người không có khế hợp thiền cơ. Ngài Trường Khánh nói: Sinh là nhân sự trí lớn. Ngài Bảo Phước nói: Làm người giặc tâm hư là tónh thức thanh tịnh. Vân Môn nói: Quan, cứ thành thật mà kết án, tuy Tông sư tranh nhau thù đáp, lại cắt được gót chân Thúy Nham chăng. Chẳng đuổi theo dấu trước, thử hãy nói xem. Nêu: Tăng hỏi ngài Vân Môn: Đầu thu hạ, cuối tiền trình. Hoặc có người hỏi: Chưa biết đối nó nói gì? Môn nói: Đại chúng lui ra sau. Tăng hỏi: Lỗi chỗ nào? Môn nói: Trả lại ta chín mươi ngày tiền cơm. Sư nói: Tăng ấy tham xem, sóng trắng Vân Môn thấy cơ mà làm tuy là cắt sắt chặt đinh chưa phải là bổn phận thảo liệu. Có người hỏi Sùng Ninh: Chỉ đối nói thì việc lừa chưa xong việc ngựa đã đến, đợi nó như thế như thế? Liền đánh ngay xương sống. - Nêu: Triệu Châu nói: Lão Tăng đáp lời, giải xong một câu thì câu khác lại đến Tăng bước ra lễ bái. Triệu Châu nói: Ví như ném ngói dẫn ngọc, liền dẫn được ngói. Sau Pháp Nhãn nêu ra hỏi Giác Thiết Chủy: Ý này thế nào? Giác nói: Cùng Hòa thượng nói dụ, như quốc gia bái tướng. Hỏi: Người nào đi được? Có người nói: Con được. Đáp rằng: Ông đi chẳng được. Pháp Nhãn nói: Con hiểu rồi. Sư nói: Các phương đã nói hết rồi. Triệu Châu được cái dụng đầy đủ hẹn một câu hỏi, nêu ra chẳng ngại tự tại. Tăng ấy phải gõ tiết gõ cửa, trong ánh sáng mây rốt để tay chân chẳng làm, Giác Thiết Chủy hay lấy thí dụ gần chẳng rơi vào tiếng nhà. Pháp Nhãn có gương thông phương liền biết chỗ rơi mà dám hỏi. Đã là tông sư vì sao ném ngói mà chỉ dẫn được ngói? Hãy tham kỹ xem? Nêu: Huyền, Thiệu hai Thượng tọa gặp Ô Cữu. Ô Cửu hỏi: Gần đây từ đâu đến đây? Tăng nói: Từ Giang tây. Cửu liền đánh. Tăng nói: Đã lâu nghe Hòa thượng có cơ yếu này. Cửu nói ông đã không hiểu cái thứ hai gần trước. Vị Tăng ấy mịt mờ. Cửu cũng đánh nói rằng: Đồng hầm mà khác đất, tham đường đi. Tuyết Đậu nói: Mắt Tông sư phải như thế, như kim sí điểu xuống biển bắt rồng để ăn. Có kẻ ấy mắt chưa phân biện vật gì, chống gậy chẳng biết điên đảo, chỉ quản nói chiếu dụng đồng lúc người cảnh đều cướp. Sư nói: Tuyết Đậu biện rõ xưa nay, phân biệt tà chánh nếu chẳng biết có sao nói thế. Tuy nhiên chỉ thấy Ô Cữu buông xuống. Muốn biết chỗ trụ của Ô Cửu chăng? Dù cho Thích-ca, Di-lặc cũng phải đi xứ, theo lịnh mà làm hết cả người đại địa đều ăn gậy. Nêu: Mục Châu dạy chúng rằng: Ta thấy Bá Trượng chẳng biết tốt xấu. Đại chúng vừa tập họp, liền lấy gậy đuổi đi. Lại gọi “đại chúng”! Chúng quay đầu Bá Trượng hỏi là gì? Có chỗ nào cùng nói. Hoàng Bá Hòa thượng đại chúng vừa tập họp liền lấy gậy một lúc đuổi đi. Lại gọi đại chúng, chúng quay đầu Hoàng Bá nói: Trăng giống cây cung ít mưa nhiều gió cũng tạm có chút ít. Tuyết Đậu hỏi: Nói cái gì cũng tạm có, ngay đây chưa có nếu là Tuyết Đậu thì lấy gậy đuổi đi rồi thôi, há trong đó có chày sắt không lỗ, khéo hay gánh vác, có thể trong lồng lưới xưa nay càn khôn mà quét sạch. Sư nói: Người xưa đều đưa ra một tay mà phấn chấn cương tông, dạy dỗ nâng đỡ kẻ hậu tấn công chẳng uổng, kiểm tra kỹ lưỡng tương lai. Bá Trượng đem gậy gọi chó, chưa khỏi ngoái nhìn nhai sài. Hoàng Bá mồi thơm ở đâu lưỡi câu nuốt vào thì tan thân mất mạng. Mục Châu nêu với chúng biết cho giặc qua thang. Tuyết Đậu muốn người cố chấp không gió dậy sóng. Ngày nay đều chẳng thế. Đều thỉnh mọi người về nhà. Nêu: Bồ-tát Văn-thù hỏi cư só Duy-ma rằng: Ta đều đã nói xong, thế nào là Bất Nhị Pháp môn của Nhân giả. Sư nói: Một chuyển ngữ ấy hội thoại của tòng lâm không ít. Có nói im lặng, có nói rất lâu, cứ tọa, có nói chẳng đáp, cần phải sờ mó chẳng được. Phải được tiếng nói như sấm vang khắp làm mọi người kinh động. Từ xưa đến nay Thánh trước Thánh sau chỗ nói pháp môn chỉ hướng vào thời gian Duy-ma một lúc hiểu biết. Lại nói chính lúc ấy làm cái gì được thấy Duy-ma. Nêu: Phong Nguyệt ở Dónh châu thượng đường nói: Tâm ấn Tổ sư giống như trâu máy bằng sắt đi thì ấn dừng, dừng thì ấn hư, chỉ như chẳng đi chẳng dừng thì ấn là phải hay chẳng ấn là phải. Lúc đó Lô Pha Trưởng lão hỏi con có trâu máy bằng sắt, thỉnh Sư chẳng đáp ấn. Phong Huyệt nói: Quen câu cá kình ở biển sâu tức như bắt éch nhái trên sình cát. Pha nghó ngợi thì Huyệt liền hét rằng: Trưởng lão sao chẳng nói. Pha nghó ngợi Huyệt liền đánh một phất tử hỏi Trưởng lão lại nhớ được lời thoại chăng, thử nêu xem. Pha định mở miệng thì Huyệt lại đánh phất tử. Mục Chủ nói: Phải biết Phật pháp cùng Vương pháp là một thứ. Phong Huyệt nói: Thấy nói đạo lý gì? Mục Chủ nói: Đáng dứt mà chẳng dứt là gây ra loạn. Phong Huyệt liền xuống tòa. Sư nói: Phong Huyệt ba huyền qua giáp, làm bốn thứ chủ khách, sáng lập tín hiệu mật, bày trận chống địch. Cho đến khi Lô Pha vừa khoe trâu sắt, hoạch định bắt giữ, bèn khiến Mục Chủ biết chỗ về. Bảo là rồng chầu hổ phục, phụng bay loa liệng. Tuy nhiên nếu là Sùng Ninh thì đời nó nói có trâu máy bằng sắt thì xương sống liền đánh dao giết người kiếm cứu sống người lại biết chỗ rơi chăng? Nêu: Tăng hỏi Đầu Tử rằng: Một đại Tạng giáo lại có việc kỳ đặc không? Đầu Tử nói: Diễn ra một đại Tạng giáo. Sư nói: Bệnh sai chẳng nhờ thuốc lừa lạc đà. Nêu: Tam giác dạy chúng rằng: Nếu luận việc này chớp mắt sớm đã sai rồi. Ma cốc ra hỏi sai thì chẳng hỏi, còn như thế nào là việc này? Tam Giác nói: Sai rồi. Ma cốc lật đổ giường thiền, Tam giác đánh vào xương sống. Sư nói: Trên kiếm dao hiểu biết giết chết cứu sống. Trong ánh điện chớp mà phân biệt đạo tục, chẳng ngại mắt nhìn tay làm là tên nhọn chống nhau. Tuyết Đậu nói: Hai lão già này nhanh chóng lãnh hội thiền cơ cũng chưa từng có, nói gì việc này sai lầm. Sư nói: Quen điều cái mũi nhọn vàng lâu trải sa trường, một mũi tên bắn rơi hai con diều hâu, người tước khoe lanh tay. Tuy nhiên giống cầm tay nhau lên núi cao, chưa khởi kẻ bàng quang nhìn. Nếu căn cứ vào chỗ thấy của Sùng Ninh gọi việc này sớm là thịt tốt trên ghẻ lỡ huống luận nhanh chóng lãnh hội thiền cơ sớm đã sai lầm. Ma Cốc, Tuyết Đậu là giặc qua cửa rồi mới giương cung bắn, cho nên lại có một cái. Bỗng cầm gậy xuống tòa. Nêu: Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề rằng: Trong mộng nói Ba-la-mật, khi thức dậy thì đồng hay khác. Sư nói: Nói nho nhỏ. Tu-bồ-đề nói: Nghóa này sâu kín ta chẳng thể nói được. Sư nói: Trong bùn có gai, trong hội có Đại só Di-lặc, ông có thể đến hỏi. Sư nói: Tìm lỗi người khác đâu được. Xá-lợi-phất bèn hỏi Di-lặc. Sư nói: Đem từ sai lầm đến sai lầm. Di-lặc nói: Ai là Di-lặc, ai là Di-lặc. Sư nói: Da mặt dày ba tấc. Nêu: Tăng hỏi Ngũ tổ rằng: Một đại Tạng giáo là sự câu nệ, chưa biết cắt chữ nào? Tổ nói: Nàng Bát-la. Sư nói: Sấm gầm chẳng kịp bít tai. Nêu: Đại qui dạy chúng rằng: Người thời nay chỉ được đại cơ chẳng được đại dụng. Ngưỡng Sơn nêu câu này hỏi đáp chủ. Đáp chủ đạp ngã ghế. Qui Sơn nghe được cười ha ha. Sư nói: Phải biết trong đại cơ có đại dụng, trong đại dụng có đại cơ. Lại nói: Lúc cùng bỏ cùng buông thì như thế nào? Trên đầu gậy giết chết, giữa mọc tâm sen. Nêu: Dược Sơn bảo Vân Nham rằng: Cùng ta gọi Sa-di đến. Nham hỏi: Hòa thượng gọi nó là gì? Sơn nói: Ta có cái đỉnh gãy chân muốn nó đưa lên hạ xuống. Nham nói: Đó thì cùng Hòa thượng đưa ra một tay đi. Sư nói: Nêu một thì sáng ba là hành lý của nạp Tăng tầm thường. Vân Nham nói đến thì biết đến. Dược Sơn cũng chẳng giao phó nhầm lẫn. Sùng Ninh tuy trăm ngàn vụng về nhưng có một cái giỏ lũng đáy, mong các người hai tay nâng lấy. Vì sao, có điều thì vin điều. Nêu: Tăng hỏi Phá Táo Đọa rằng: Như thế nào là đại tu hành? Táo nói: Mang gánh gông xiềng. Hỏi: Như thế nào là người tạo nghiệp? Táo nói: Ngồi thiền nhập định. Lại hỏi: Ông hỏi ta thiện chẳng theo ác, ông hỏi ta ác chẳng theo thiện. Lại có Tăng đem hỏi việc ấy với An Quốc Sư, An nói người này hiểu hết các pháp là vô sinh. Sư nói: Cùng thiện thì thiện từ đâu sinh, cứu ác thì ác từ đâu khởi. Nếu hay thấy rõ chỗ ấy liền là các pháp vô sinh. Có người hỏi Sùng Ninh: Như thế nào là người đại tu hành? Sùng Ninh đáp rằng: Ngồi thiền nhập định, như thế nào là người tạo nghiệp? Đáp là: Mang gánh gông xiềng. Lại hỏi: Là đồng hay khác. Nêu: Tăng hỏi Triệu Châu rằng: Lúc chưa có thế giới thì sớm có tánh này, khi thế giới này hoại thì tánh này chẳng hoại, như thế nào là tánh chẳng hoại? Châu nói: Bốn đại năm uẩn. Tăng nói đây cũng là hoại, như thế nào là tánh chẳng hoại? Châu nói bốn đại năm uẩn. Sư nói: Đầm lạnh ngàn thước trong thấu đáy. Nêu: Trường Sinh hỏi Trường Khánh rằng: Khi hổn độn chưa phân thì như thế nào? Khánh nói: Cây cột có thai. Sinh hỏi: Phân rồi thì như thế nào? Khánh nói: Một mảnh mây điểm giữa trời xanh. Sinh hỏi: Chỉ như trời xanh lại chịu điểm không? Khánh chẳng đáp. Sinh nói: Đó thì hàm sinh chẳng đến. Khánh cũng chẳng đáp. Sinh hỏi: Nếu toàn trong xanh không điểm gì thì như thế nào? Khánh nói: Cũng là chân thường lưu chú. Sinh hỏi: Như thế nào là chân thường lưu chú. Khánh nói: Như gương luôn sáng. Sinh hỏi chưa biết hướng thượng lại có việc chăng? Khánh nói: Có. Sinh hỏi Như thế nào là việc hướng thượng? Khánh nói: Đánh trống gương đến thấy nhau. Sư nói: Trường Sinh khéo hỏi, Trường Khánh khéo đáp, keo sơn đổ vào nhau, nước sữa hòa nhau. Chẳng thấy người xưa nói: Thân từ trong vô tướng mà thọ sinh, cũng như huyễn sinh ra các hình tướng. Người huyễn tâm thức xưa nay không, tội phước đều trống không chẳng chỗ trụ. Nếu biết tụng này liền thấy hai cụ già hỏi đáp. Mới biết cha mẹ chưa sinh trở về trước, sau khi sinh rồi thì toàn thể hiện bày. Lại nói: Đánh hễ giương rồi làm sao thấy nhau. Vỗ tay nói: Xong rồi. Nêu: Tuyết Phong hỏi Tăng: Gần đây từ đâu đến? Tăng đáp Lý Thuyền. Phong nói: Biển sinh tử chưa vượt làm gì đi thuyền. Tăng không đáp được. Lý Thuyền đáp thay rằng: Nó không sinh tử. Tuyết Đậu đáp thay rằng: Đã lâu nghe tiếng Tuyết Phong. Sư đáp thay rằng: Liền cùng lật đổ giường thiền. Sư nói: Tuyết Phong có câu nghiệm người. Lý Thuyền có mắt thấu qua cửa. Tuyết Đậu có cơ hảm hổ. Lại nói: Sùng Ninh thành được cái gì bên việc đó. Nêu: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Thế giới rộng một trượng, gương xưa rộng một trượng thế giới rộng một thước, gương xưa rộng một thước. Huyền Sa chỉ lò lửa nói: Lại hỏi: Lò lửa rộng bao nhiêu? Phong nói như gương xưa rộng. Huyền Sa nói chân Hòa thượng chưa chấm đất. Sư nói: Hiện thành công án, gương xưa chẳng phải là lò lửa. Đánh ràng buộc lò lửa tức là gương xưa. Nếu chẳng phải cha con đầu cơ sao thấy được tâm thương xót. Các người làm sao hiểu được ông ấy nói, lão ấy chân chưa chấm đất, gậy báu thấy được dấu vết Như Lai. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Nếu ông thật chưa được chỗ vào thì ba đời chư Phật ở dưới gót chân ông, một đại tạng giáo trên lưỡi ông, lại hướng chỗ cát đằng mà hiểu lấy. Sư nói: Sùng Ninh trên đất thêm bùn, mà dám nói được con trâu của Qui Sơn, gặp giết kình ngư Đông Hải, trâu sắt Thiểm phủ nuốt hết đại tượng Gia châu. Nêu: Người xưa nói một mảnh ruộng đất phân phó đến nay nhiều lúc, ta đứng đây đợi (gặp) ông. Pháp Nhãn nói một mảnh ruộng đất ấy giao phó nhiều lúc ta ngồi đây đợi gặp ông. Một mảnh ruộng đất ấy phân phá nhiều lúc, ta nay ở giữa chúng mừng sám hối. Nêu: Bảo Thọ trước hỏi Bảo Thọ sau rằng: Cha mẹ chưa sinh trở về trước cái gì là mặt mũi xưa nay. Bảo Thọ sau không nói. Một hôm ở giữa chợ thấy hai người tranh cãi nhau, có một người khuyên rằng: Ông được cái không mặt mũi. Thọ bèn đại ngộ. Sư nói: Do dự ngay đây bày bản địa phong quang; ứng tiếng ứng sắc ngay đây không riêng một mảy may lọt qua. Lại hiểu nó nói được cái gì không mặt mũi chăng? Tay rồng phất mở toàn thể hiện. Nêu: Nam Tuyền dạy chúng rằng: Vương Lão Sư từ nhỏ nuôi được một con trâu đực, định đến khe Đông mà chăn, thì sợ ăn cỏ nước của vua. Định đến khe Tây mà chăn, cũng sợ ăn cỏ nước của vua, chẳng bằng tùy phần nạp chút chút đều chẳng thấy được. Sư nói: Hòa quang thuận vật, cùng đời đồng trần, chẳng phạm phong mang buông nắm tự tại. Là bổn phận thảo liệu của Nam Tuyền. Sơn Tăng từ nhỏ cũng nối được một con trâu đực. Có lúc trên đảnh núi cao riêng đứng, có lúc giữa chợ dọc ngang, chẳng luận khe Đông khe Tây một mực phá trần phá đích. Lại hỏi: Tức nay ở đâu. Hãy thử nói xem. Nêu: Tăng hỏi Cảnh Thanh: Người học chưa thấu nguồn, xin Sư chỉ bày. Thanh hỏi: Nguồn gì? Tăng nói nguồn ấy. Thanh nói: Nếu là nguồn ấy sao chịu chỉ bày. Tăng đi rồi sau thị giả hỏi vừa đến lại bị lột áo nó chăng? Thanh đáp: Không. Có người hỏi là chẳng bị lột áo chăng? Thanh đáp: Không. Người ấy hỏi tôn ý của Hòa thượng ra sao? Thanh nói: Một chấm mực hai chỗ thành rồng. Sư nói: Cảnh Thanh đủ bổn phận kiềm chùy, có làm lò rèn, chính như gương sáng trên đài đưa lên chiếu không sót. Tuy là phó cảm ứng cơ, lại cũng uổng phí lời nói. Nếu là sơn Tăng bỗng có người hỏi chưa thấu nguồn thì đáp nó nguồn gì? Đợi nó nói nguồn ấy thì liền đánh vào xương sống. Lại có hỏi là thành lột áo nó chăng? Tôn ý Hòa thượng ra sao thì cứ nơi xương sống mà đánh, không phải chỉ cắt ngang các dòng, cũng chính là khơi sáng Tông nhãn, có phân biện ra được chăng?  <卷>QUYỂN 17 NIÊM CỔ 2 Nêu: Đức Sơn Tiểu Tham dạy chúng rằng: Lão Tăng đêm nay không trả lời câu hỏi, ai hỏi sẽ đánh ba mươi gậy. Lúc đó có Tăng ra lễ bái. Sơn liền đánh. Tăng nói: Con chưa hỏi, sao đánh con? Sơn hỏi: Ông người gì? Đáp: Người Tân La (Triều Tiên). Sơn nói: Chưa khoe mạn thuyền đáng ăn ba mươi gậy. Sư nói: Đức Sơn giống Kim Luân Thánh Vương, trong hoàn vũ riêng chiếm bốn phương tám hướng đều thuận theo. Rãnh rang ra một sắc lệnh, dù gió thổi cỏ rạp. Nếu không phải Tăng ấy sao thấy được giết chết cứu sống, nắm bắt, buông thả oai đức tự tại. Pháp Nhãn nói: Đại tiểu Đức Sơn nói làm hai cọc. Viên Minh nói: Đại tiểu Đức Sơn đầu rồng đuôi rắn. Tuyết Đậu nói: Đức Sơn nắm oai quyền ngoài thành, có cái đáng dứt không chịu dứt chẳng kiếm gây loạn, tuy thẳng cắt đứt đơn đề đều có thể nâng lên. Đức Sơn chỉ giúp được câu cuối cùng chưa giúp được câu đầu tiên. Lại thế nào là câu đầu tiên của Đức Sơn. Đại bàng muốn mở cánh rợp trời, ai đoái hoài bay qua mây lục hợp. - Nêu: Thái Nguyên Phù Thượng tọa hỏi Cổ Sơn rằng: Cha mẹ chưa sinh trở về trước lỗ mũi ở đâu? Sơn hỏi: Nay sinh rồi thì lỗ mũi ở đâu? Phù chẳng chịu bèn nói: Ông hỏi đi tôi sẽ nói. Cổ Sơn hỏi: Trước khi cha mẹ sinh thì lỗ mũi ở đâu? Phù chỉ lay động cây quạt mà thôi. Sư nói: Nhân duyên kỳ đặc, phải dùng kỳ đặc mà kích phát. Việc lớn thù thắng, phải dùng thù thắng mà nêu bày. Tuy là ẩn hiển không khác nhau, làm sao khéo dụng có khác. Có người hỏi Sùng Ninh: Khi cha mẹ chưa sinh thì lỗ mũi ở đâu? Chỉ đúng miệng liền đánh. Nêu: Lâm Tế vào nhà Tăng. Thủ tọa hai nhà đều hét. Tăng hỏi Lâm Tế: Lại có chủ khách không? Tế đáp: Chủ khách rõ ràng. Sư nói: Chánh lệnh đã ban hành, chư hầu đều tránh đường. Nêu: Qui Sơn phổ thỉnh, kế đánh bảng chỉ định. Có một ông Tăng vỗ tay cười ha ha bảo: Về đi. Qui Sơn nói: Kỳ lạ thay đây là cửa vào lý của Quán Âm. Đến chiều hỏi Tăng ấy rằng: Vừa đến ông thấy đạo lý gì? Tăng nói: Buổi sáng đến chưa ăn cơm, nghe bảng đánh thì vui mừng. Qui Sơn nói: Lường gạt giết người. Cảnh Thanh nói: Đương thời Qui Sơn có một ông Tăng này. Cổ sơn nói: Đường thời Qui Sơn không có ông Tăng này. Sư nói: Ông Tăng ấy tiếng nói to chấn động dù một ngàn năm trăm người Thiện tri thức cũng nháy mắt, kịp khi khám chứng tương lai, liền đánh xoay lưng nhào lộn. Nếu chẳng phải là Qui Sơn thì làm sao thấy công cao hạn mã. Người đời sau nói có một Tăng này, chẳng được một nửa, nói không có một Tăng này, chỉ được một nửa. Ngày nay tiếng bảng, tiếng chuông tiếng cá tiếng trống đều rền vang, hoặc có cái vỗ tay cười ha ha hướng thẳng nó nói: Quán Âm Bồ-tát đến. Nêu: Đạo Ngô cùng Tiệm Nguyên đi điếu cho một nhà. Nguyên vỗ quan tài hỏi Ngô rằng: Sống hay chết? Đạo Ngô nói: Sống cũng chẳng nói, chết cũng chẳng nói. Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói. Ngô nói: Chẳng nói chẳng nói. Tiệm Nguyên không hiểu. Về sau ở một nơi nghe tụng kinh Quán Âm đến câu: Ưng dó Tỳ-kheo thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo thân nhi vị thuyết pháp. (Muốn được thân Tỳ-kheo đến độ, liền được Tỳ-kheo hiện thân nói pháp), thì bỗng nhiên đại ngộ. Sư nói: Đạo Ngô xoay mình vì vật chỉ ra căn nguyên (nguồn cội) sinh tử mà thân hành đến núi báu một câu hỏi ngay đó liền sai, nếu chẳng phải là chánh tánh kim cương xưa trồng căn sâu, sao được hướng vào ruồng bằng cỏ cạn bỗng hồi quang, mà thấy được chỗ Đạo Ngô gắng sức vì nhau, chỉ cái gì là chỗ Đạo Ngô gắng sức vì nhau, thử nói xem. Nêu: Tăng hỏi Cảnh Thanh rằng: Đầu năm mới có Phật pháp không? Thanh nói: Có, Tăng hỏi: Như thế nào là Phật pháp đầu năm mới? Thanh nói: Đầu năm khai nước. Tăng nói: Tạ ân sư đáp lời hỏi. Thanh nói: Cảnh Thanh ngày nay mất lợi. Tăng lại hỏi Minh giáo: Đầu năm mới lại có Phật pháp không? Giáo nói: Không. Tăng hỏi: Năm nào cũng tốt vì sao không? Giáo nói: Ông Trương uống rượu, ông Lý say. Tăng nói: Lão Đại đầu rồng đuôi rắn. Giáo nói: Minh giáo ngày nay mất lợi. Sư nói: Cảnh Thanh nói: Có cũng mất lợi. Minh giáo nói: Không cũng mất lợi. Lại hỏi: Lầm lẫn ở chỗ nào. Nếu nói được thì chẳng ngại biết tới lui riêng dứt lỗi. Mới biết sau một câu có ý phân thân, có đường thoát thân. Ngày nay Sùng Ninh bỗng có người hỏi: Đầu năm mới lại có Phật pháp không? Đáp rằng: Chẳng ở hai đầu hoặc có người khác hỏi: Vì sao như thế? Sùng Ninh ngày nay mất lợi. Lại hỏi cùng người xưa đồng hay khác? Nêu: Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ đạo nói tụng rằng: Ba mươi năm nay tìm kiếm khách, Mấy lần lá rụng lại trơ cành, Từ khi thấy rồi hoa đào mở, Thẳng đến như nay lại chẳng nghi. Huyền Sa nói: Lãnh ngộ rất lãnh ngộ thiền pháp, dám chắc Lão huynh chưa thấu suốt. Sư nói: Cung nỏ ngàn cân không dùng bắn chuột lắc. Linh Vân đã dẹp động cửa trời. Huyền Sa liền lật đổ xe đất. Lại hỏi: Cái gì là chỗ chưa thấu. Kẻ có trí tuệ thấu suốt thỉnh thử nói xem. Nêu: Tuân Bố Nạp tắm Phật trước Dược Sơn. Sơn nói: Ông tắm được cái ấy còn tắm được cái kia chăng? Tuân nói: Đem cái ấy đến đây. Sư nói: Dược Sơn hỏi chỗ cách trùng quan, còn Tuân lão thì đáp lại một chùy hai chỗ đập, chẳng thể chỉ giữ một đường ấy. Có người hỏi Sùng Ninh: Chỉ tắm được cái ấy, còn tắm được cái nào khác chăng? Ta sẽ đưa cái gáo lên nói với ông ấy rằng: Giống cái gì? Nêu: Người xưa nói: Hộ sinh cần phải giết, giết hết mới an cư, hiểu được ý trong đó, thuyền sắt, nổi trên nước. Sư nói: Lại gọi giết cái gì là giết mạng sống chúng sinh, kiến giải phàm phu, hay giết sáu giặc phiền não, là kiến giải của tọa chủ, hay giết Phật giết Tổ là kiến giải của người đại xiển đề. Nạp Tăng phần thượng rốt ráo giết cái gì? Thử nói ra xem. Nêu: Thế Tôn ở một chỗ an cư, đến ngày Tự tứ Văn-thù ở giữa hội. Ca-diếp hỏi Văn-thù: An cư chỗ nào. Văn-thù đáp: Hạ này an cư ở ba chỗ. Do đó, Ca-diếp tập chúng đánh kiền chùy muốn đuổi Văn- thù liền thấy vô lượng thế giới, trong mỗi mỗi cõi có mỗi mỗi Phật có mỗi mỗi Văn-thù và mỗi mỗi Ca-diếp. Bèn gõ kiền chùy muốn đuổi Văn-thù. Thế Tôn bảo Ca-diếp rằng: Ông nay muốn đuổi Văn-thù nào? Ca-diếp mịt mù chẳng hiểu - Sư nói: Chuông chẳng gõ chẳng kêu, trống chẳng đánh chẳng vang. Ca-diếp đã nắm hết các chức vụ quan trọng, Văn-thù bèn quét sạch mười phương. Ngay lúc ấy là một vùng Phật sự tốt mà bỏ qua hết. Đợi ông cụ Thích-ca hỏi muốn đuổi Văn-thù nào? Liền đánh cho một chùy, xem nó họp sát như thế nào. Nêu: Thạch Thất thấy Tăng đến đưa gậy lên hỏi rằng: Chư Phật quá khứ cũng thế, chư Phật hiện tại cũng thế, chư Phật vị lai cũng thế. Trường Sa nói: Buông bỏ gậy riêng thông tin tức đến. Sư nói: Thạch Thất đặt câu hỏi chẳng ngại cao vót, nếu chẳng phải Trường Sa sao được đầu cơ. Tuy nhiên chỉ biết thế mà không biết không như thế. Bèn đưa gậy lên nói rằng: Chư Phật quá khứ chẳng thế, chư Phật hiện tại chẳng thế, chư Phật vị lai chẳng thế. Hoặc nếu đều nói buông bỏ cây gậy, ta cũng biết ông chỉ là người học câu nói ở chỗ sinh cơ, hãy nói một câu nói xem. Nêu: Bảo Thọ khai đường. Tam Thánh đưa ra một Tăng. Bảo Thọ liền đánh, Tam Thánh nói: Ấy là người nào, không phải là Tăng chột mắt mà chột mắt là người ở thành Trấn châu. Bảo thọ ném gậy mà xuống tòa. Sư nói: Bảo Thọ như rồng dữ quận biển làm mưa như nghiêng chậu. Tam Thánh tuy sấm sét giữa trời xanh, sao giúp được một nửa oai quang, có thể ở trong ấy mà ngay đấy thừa đương. Không phải chỉ người ở thành Trấn châu chột mắt, mà chột mặt là cả người thiên hạ. Nêu: Phó Đại só nói: Trọn ngày đốt hương chọn lửa mà không biết thân là Đạo tràng. Huyền Sa nói: Cả ngày đốt hương chọn lửa mà không biết cái chân Đạo tràng. Sư nói: Trọn ngày đốt hương chọn lửa mà không biết đốt hương chọn lửa. Nêu: Tăng hỏi Trường Khánh: Có hỏi có đáp, chủ khách rõ ràng, khi không hỏi, không đáp thì như thế nào? Khánh nói: Sợ rã mục nào? Tăng hỏi Mục Châu: Có hỏi có đáp, chủ khách rõ ràng, khi không hỏi không đáp thì thế nào? Mục Châu đáp: Gặp nhau nói hết việc từ quan, dưới rừng sao từng thấy một người. Nếu hỏi Sùng Ninh: Có hỏi có đáp, chủ khách rõ ràng, khi không hỏi không đáp thì như thế nào? Thì đáp rằng: Thâu được Nam an, lo Bắc lấp. Nêu: Mục Châu lên tòa nói: Thủ tọa ơi, đáp; Dạ, có mặt. Chủ chùa ơi, đáp: Dạ, có mặt. Duy-na ơi, đáp: Dạ, có mặt. Châu nói: Ba người chẳng giống nhau. Nay người thứ nhất, hướng xuống văn dài, giao cho ngày sau. Sư nói: Một hạng là mượn đường đi qua, trong đó rất kỳ quái. Nếu là Sùng Ninh thì không thế. Thủ tọa ơi, có mặt, Chủ chùa ơi, có mặt, Duy-na ơi, có mặt. Nhân hạnh chẳng ngại động lay, đập cỏ e rắn sợ, nếu có thể một dẹp liền chuyển thì khỏi phải buông đất buông cát. Nêu: Trường Khánh dạy chúng rằng: Tràng Trứ cùng Đạo bạn sánh vai nhau cùng đi, một đời tham học đã xong. Sư nói: Tràng Trứ Đạo Bạn sánh vai nhau đi qua. Cột trù lồng đèn cùng chứng minh. Nêu: Trường Khánh dạy chúng rằng: Hôm qua Văn-thù Phổ Hiền khởi Phật kiến Pháp kiến, đều đáng đánh hai mươi gậy, đày hai người xuống địa ngục dưới núi Thiết vi. Triệu Châu bước ra nói: Hòa thượng bảo đánh dạy ai? Tuyền nói: Vương Lão Sư có lỗi gì? Châu lễ bái Nam Tuyền liền trở về phương trượng - Sư nói: Nam Tuyền khảy đàn, Triệu Châu riêng hét đau đớn thấu trời xanh. Hàn Sơn, Thập Đắc thỉ chẳng thế. Cột trụ đèn lồng hôm qua khởi Phật kiến, Pháp kiến, đều đánh hai mươi gậy, khiến trở về chỗ cũ. Hoặc có người bước ra nói Hòa thượng đánh dạy ai chỉ đáp rằng: Rơi chủ rơi khách. Nêu: Người xưa nói: Trước ngày mười lăm không được ở trong ta, nếu ở trong ta, ta sẽ dùng chùy đánh ông. Sau ngày mười lăm thì không được lìa ta. Nếu lìa ta, ta sẽ dùng móc móc ông. Chính ngay ngày mười lăm thì hỏi; dùng chùy phải, hay dùng móc là phải. Sư nói: Chỗ buông bỏ thì nắm giữ, chỗ nắm giữ lại buông bỏ, phải thì phải, vì người kềm kẹp sao pham tay làm bị thương. Nếu là Sùng Ninh thì không thế. Trước ngày mười lăm không được ở trong ta, ta sẽ phóng lửa đốt ông. Sau ngày mười lăm không được lìa ta, nếu ông lìa ta, ta sẽ phóng lửa đốt ông. Ngay ngày mười lăm, hóa làm vạn hộc minh châu vải, khắp đại thiên sa giới, nơi nơi đều phóng ánh sáng ai nấy đều phải để mắt. Nêu: Ngày xưa Thánh mẫu Ma-gia phu nhân tay tả vin cây, mà lão Thích-ca bên hông hữu sinh ra, chín rồng phun nước tắm thân vàng, liền khắp đi bày bước mắt nhìn bốn phương, một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói tiếng sư tử hét rằng: Trên trời dưới trời chỉ riêng ta là tôn quý. Sau này Vân Môn Đại sư nói: Ta lúc ấy nếu thấy thì một gậy đánh chết cho chó ăn, chỉ mong thiên hạ thái bình. Sư nói: Câu nói làm kinh sợ mọi người phải ở chỗ kinh người mà nêu lên. Việc kỳ đặc phải gặp người kỳ đặc mà nói ra. Ông già Thích- ca có thể gọi là làm kinh sợ mọi người, Vân Môn Đại sư không ngại kỳ đặc, ngay đây đem chỗ cơ luân không thể lường xét được hướng lên đầu ngàn Thánh mà dẹp hết. Nếu có thể như thế mà hiểu rõ thì mới biết Thích-ca quét sạch các chức vụ quan trọng, Vân Môn biết ân cởi báo. Lại hỏi: Rơi chỗ nào, có hiểu không. Đầu gậy có mắt sáng như mặt trời, phải biết vàng ròng trong lửa. Nêu: Ngoại đạo hỏi Phật rằng: Chẳng hỏi có nói hay không nói. Thế Tôn im lặng hồi lâu. Ngoại đạo lễ bái khen rằng: Thế Tôn rất đại từ, đại bi, nghe mây mê của ta khiến ta được vào. Ngoại đạo đi rồi A- nan hỏi Phật: Ngoại đạo có chỗ chứng nào mà nói được vào? Thế Tôn nói: Như ở đời ngựa giỏi thấy bóng roi thì liền chạy. Sư nói: Ngoại đạo nhân tà đáng chánh, Thế Tôn xin lầu đánh lầu, A-nan không giỏi bàng quan, dẫn được Thế Tôn lời nói lôi thôi dài dòng. Nếu dựa vào chỗ thấy của sơn Tăng thì đợi nó nói: Chẳng hỏi có nói hay không hỏi chẳng nói, họa tiếng liền đánh. Cho đến A-nan hỏi ngoại đạo có chỗ chứng nào mà nói được vào, cũng hòa tiếng liền đánh. Vì sao? Vì giết người phải là dao, cứu sống người phải là kiếm. Nêu: Tổ sư nói: Khi đang nói tri kiến thì tri kiến tức là tâm, tâm lúc ấy tức là tri kiến, tri kiến tức như nay. Sư nói: Nếu sáng tâm đạt bổn thì tri kiến rõ ràng. Chánh nói chánh làm, rõ ràng hiển sáng. Lại thế nào là việc tức như nay. Mọi người đều gắng sức, cùng hát khúc thái bình. Nêu: Tăng hỏi Mã Tổ như thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc đến? Tổ nói: Đến gần đây ta sẽ nói với ông. Tăng đến gần. Tổ bèn đánh vào tai bảo: Sáu tai chẳng đồng mưu. Sau đến Nam Thiền sư nói: Người xưa còn sáu tai chẳng đồng mưu, ai có hai, ba trăm chúng mênh mông thương lượng, là việc họa. Sư nói: Nam thiền chẳng buông ra nhân gió thổi lửa, cũng chưa khởi theo lời nói mà sinh hiểu. Nếu có hỏi Đạo Lâm: Như thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến? Thì chỉ đáp rằng: Nước lớn thuyền cao, bùn nhiều Phật. Nêu: Thái Thủ tọa đến ngài Động Sơn đang ăn trái cây. Động Sơn nói: Có một vật trên chống trời dưới chống đất thường ở trong động dụng, trong động dụng thâu không được không biết lỗi chỗ nào? Thái nói: Lỗi ở động dụng. Động Sơn nói: Thị giả đem trái cây vào. Sư nói: Nạp Tăng thiên hạ đều nói hết, Thái Thủ tọa mũi nhọn chẳng chống nhau. Do đó gặp Động Sơn biếm lục. Sau đến Qui Sơn Chân Như nói: Quả này chẳng nói Thái Thủ tọa chẳng được ăn. Ba đời chư Phật cũng chẳng dám chánh mắt nhìn thấy. Sư nói: Nhà tông sư chánh lệnh phải làm quét sạch mười phương. Có câu định càn khôn biện mắt rồng rắn chẳng ngại khó đuổi theo. Lúc đó nếu là Anh Linh nạp tử vuốt râu cọp, đợi nó nói lỗi ở đâu, liền đưa trái cây ra nói Hòa thượng rốt ráo gọi là gì? Đợi ông ấy nghó ngợi bèn ném vào mặt. Vì sao? Vì lúc có ý khí thì thêm ý khí, chẳng chỗ phong lưu cũng phong lưu. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Kiết hạ được mấy ngày Hàn Sơn Tử làm gì, Đại Qui Chân Như nói: Kiết hạ được mấy ngày, con trâu làm gì. Sư nói: Kiết hạ được mấy ngày các Thượng tọa làm gì? Lại nói: Hàn Sơn Tử ý ở đầu lưỡi câu, việc con trâu đực ở hàm cái lại hỏi các Thượng tọa rơi chỗ nào, tiếc lời nói. Nêu: Động Sơn cùng Mật Sư Bá đến Bích nham. Nham hỏi hai Thượng tọa ở đâu đến? Sơn đáp: Ở Hồ nam đến. Bích nham hỏi Quán sát sứ họ gì? Sơn nói chẳng biết họ. Bích nham hỏi: Vậy tên gì? Sơn nói: Chẳng biết tên. Nham hỏi: Lại lý sự cũng không? Sơn nói: Tự có lang mạc. Nham hỏi: Lại có ra vào chăng? Sơn nói: Chẳng ra vào. Nham nói: Há chẳng ra vào. Sơn phất tay áo đi ra. Đến hôm sau, Nham vào pháp đường sớm mời hai Thượng tọa đến, hai người đến trước. Nham nói: Hôm qua hỏi hai Thượng tọa nói chẳng họp ý Lão Tăng, một đêm chẳng yên, nay thỉnh Thượng tọa riêng một chuyển ngữ nếu họp ý Lão Tăng thì xin dọn cơm cháo kết bạn đến qua hạ. Sơn nói: Thỉnh Hòa thượng hỏi. Nham nói: Chẳng ra vào. Sơn nói: Thái Tôn quý sinh. Nham bèn dọn cơm cháo cùng qua hạ. Sư nói: Chánh lệnh hồi hổ chỉ cần viên dung, cắt đứt đương cơ chỉ kính tôn quý. Động Sơn xem cơ mà làm. Bá Nham Lý dài thì đến. Tuy như thế dưới môn Tào Động liền được. Nếu ở trong tông Lâm Tế thì phải riêng làm mặt mũi khác mới được. Lúc ấy đợi ông ấy nói chẳng biết liền bảo ông ấy rằng: Ông ấy chẳng biết ông. Hay ông chẳng biết ông ấy? Dám hỏi: Họp nói được lời gì? Lại có người nói được chăng? Nếu có sơn Tăng cũng chẳng dọn cháo, chỉ giao cho cái phất tử lông rùa. Nếu nói chẳng được, tham lại ba mươi năm. Nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Vạn pháp về một, một về chỗ nào? Châu nói ta ở Thanh châu cần một cổ áo vải nặng bảy cân. Sư nói: Ma-hê ba mắt một câu rỗng sáng, giống tông Hải Triều, ngàn đường chung vết xe. Tuy thế lại có một trứ tại. Bỗng có người hỏi Tưởng Sơn rằng: Vạn pháp về một, một về đâu thì đáp rằng: Đói thì ăn cơm mệt thì ngủ. Nêu: Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang của một nhà. Nguyên vỗ quan tài nói: Sống ư, chết ư? (Sống hay chết?) Ngô nói: Sông cũng chẳng nói chết cũng chẳng nói. Nguyên hỏi vì sao chẳng nói. Ngô nói: Chẳng nói chẳng nói. Về giữa đường, Nguyên nói: Xin Hòa thượng vì con mà nói, nếu chẳng nói thì đánh Hòa thượng đi. Ngô nói đánh thì đánh nói thì chẳng nói. Sư nói: Núi bạc vách sắt có thềm nào lên. Sơn Tăng đêm nay trên gấm thêu hoa tám chữ đánh mở, thương lượng cái công án ấy đi. Sống cũng toàn cơ hiện, chết cũng toàn cơ hiện, chẳng nói lại chẳng nói. Trong đó không có trước sau, ngay đó mà thừa đương, chẳng cách một đường tơ, lấp đầy cả hư không, tâm hồn luôn mạnh mẽ. Nêu: Nam Tế đến Tuyết Đậu trải một tháng kế gặp Huyền Sa. Sa nói: Chỉ có con là biết Trưởng lão. Tế nói: Phải biết có chẳng cầu biết. Huyền Sa nói: Lão già đầu non phí nhiều khí lực làm gì. Sư nói: Huyền Sa thả rất hiểm và thâu rất nhanh. Nếu dựa vào Kinh Sơn thì chẳng thế, việc này chỉ có ta biết được, phải biết có chẳng cầu biết, chỉ nói với ông ấy cũng biết Trưởng lão chẳng phân ngoài lại biết hết chăng? Một mũi nhọn phá ba cửa, rõ ràng tên mở đường ở sau. Nêu: Tăng hỏi Ba Lăng: Thế nào là đạo? Ba Lăng nói: Người mắt sáng té vào giếng. Tăng hỏi Thạch Đầu: Như thế nào là đạo? Đầu nói: Đầu cây. Tăng lại hỏi: Thiều Quốc Sư: Như thế nào là đạo? Quốc sư nói: Bốn loài đông đúc. Sư nói: Tông sư gia vì người đều có chỗ xuất thân. Nếu là kẻ thông phương, một nêu liền biết. Nếu chưa biết rõ nhau chẳng khỏi chỉ chú. Chỉ như một câu hỏi mà ba người đáp như thế. Lại hỏi: Câu nào là thân thiết? Lại hiểu rõ chăng? Một chùy phá ba cửa, rõ ràng tên đường sau. Nêu: Tăng hỏi Hương Lâm: Như thế nào là việc dưới nạp y? Lâm nói: Tháng chạp lửa đốt núi. Tuyết Đậu nói: Tháng chạp lửa đốt núi, vạn thứ ngàn thứ tòng cao hạc lạnh, người đạp tuyết lạnh. Đạt-ma chẳng hiểu, nạn lớn nạn lớn. Sư nói: Đại Tiểu Tuyết Đậu nói theo lâu thấu chẳng thể cắt đứt lỗi lầm. Nếu là đạo Lâm thì chẳng thế, tháng chạp lửa đốt núi, đặc biệt không đầu mối. Viên đá bao bông, cục bùn trong sắt. Nêu: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Tất cả đại địa nằm trong một hạt gạo lớn, ném trước mặt thùng sơn chẳng hiểu, đánh trống khắp thỉnh xem. Sư nói: Dứt thiên duy lập địa kỷ chưa đủ gọi là kỳ lạ. Đứng đầu Thái Hoa, dừng ở Hà Nguyện cũng chẳng phải lanh tay. Nếu hướng trong đó mà nhìn được thấu, liền có thể buông hạt minh châu trong hang rồng dữ, phun khí thơm trong rừng chiên đàn há chẳng khoái ư? Sơn Tăng ngày nay chẳng tránh bùn nước phóng ra một tuyến đường. Bèn đưa gậy lên hỏi rằng: Lại thấy Tuyết Phong chăng? Bèn dựng gậy bảo nói đi. Nêu: Lâm Tế cùng Phổ Hóa một hôm cùng đến nhà thí chủ thọ trai. Tế hỏi sợ lông nuốt biển lớn, hạt cải chứa núi Tu-di, lại là thần thông diệu dụng, lại là pháp nhó như thế, Hóa đạp đổ mâm cơm. Tế nói thô lớn sinh. Hóa nói; Trong ấy là gì mà nói thô nói tế. Tế bèn thôi. Hôm sau hai người lại cùng đến nhà một thí chủ thọ trai. Tế lại hỏi: Hôm nay cúng dường sao giống hôm qua. Hóa lại đạp đổ mâm cơm. Hóa nói lão mù, Phật pháp nói rất thô tế. Tế lè lưỡi. Sư nói: Vàng ròng chẳng trăm luyện sao thấy được sáng rỡ. Vật chỉ bảo chẳng hỏi giá sao luận được thật giả. Nếu chẳng phải Lâm Tế thì chẳng nghiệm được Phổ Hóa, chẳng phải Phổ Hóa thì chẳng chống cự được Lâm Tế. Đó gọi là như nước vào nước, như vàng vào vàng. Tuy thế nếu bỏ qua thì tác gia kia đây, kiểm điểm thì cả hai cùng thất lợi. Xin chọn người đủ pháp nhãn thử luận xem. Nêu: Xưa có Tú tài hỏi Trường Sa: Con từng xem kinh ngàn tên Phật, trăm ngàn chư Phật chỉ thấy tên ấy. Tú Tài dạ, Huyền Sa nói: Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu đề rồi, Tú Tài đã từng đề chăng? Tài nói: Không từng đề. Huyền Sa nói: Được nhàn đề lấy một thiên tốt. Sư nói: Bỗng dao chẻ mặt người giải biện là ai. Chẻ tên ở bụng kẻ thừa đương có mấy người. Nếu hay ở nước chảy nhanh mà vượt qua, phóng tên lửa nhanh qua gió thì thấy Trường Sa xoay mình vì vật, chẳng tiêu một kéo, hoặc theo lời nói mà vào khế cơ. Liền bảo hỏi Đông đáp Tây xé chuyển thoại đầu, lại thế nào là chỗ đầu mối của Trường Sa. Lại hiểu rõ chăng, dao giết người, kiếm cứu người. Nêu: Triệu Châu hỏi một am chủ rằng: Có chăng, có chăng? Am chủ đưa nắm tay lên. Triệu Châu nói: Nước cạn chẳng phải chỗ đậu thuyền, liền đi. Lại hỏi: Một am chủ khác: Có chăng, có chăng? Am chủ này cũng đưa một nắm tay lên. Triệu Châu nói: Có thể thả, có thể cướp có thể giết có thể cứu sống, rồi lễ bái mà đi. Sư nói: Mạng mạch Phật tổ kềm các Thánh, dời đổi các sao, dọc ngang trời đất có người chưa ra khỏi hang ổ, mặc dù chỉ nói ở trong miệng Triệu châu, chẳng biết tánh mạng mình đã thuộc người khác. Nếu có thể nắm hướng thượng cương tông, cùng hai am chủ gặp nhau liền có thể định rồng rắn khác đạo tục, chánh thích gắng sức, lại biết Triệu Châu rơi vào chỗ nào chăng? Rất kî mập mờ. Nêu: Tăng hỏi Trường Sa: Làm gì chuyển được núi sông đại địa trở về mình. Sư nói: Được người một trâu trả người một ngựa. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Trên đầu trăm cỏ nói đem lại một câu. Chúng không đáp được. Tự đáp thay là đều thế. Sư nói: Ngay được vạn cơ ngủ, tiêu ngàn mắt mở nhanh. Nhỏ như núi Tu-di, to như hạt cải, mềm như sắt, cứng như bùn. Tuy thế chỉ nói được một nửa. Hoặc có kẻ hỏi sơn Tăng thì chỉ đáp nó: Thâu. Lại hỏi rơi ở chỗ nào? Nêu: Hưng Hóa một hôm lên pháp đường, có một đồng tham đến cũng vừa lên pháp đường thì Hóa liền hét. Tăng cũng hét. Tăng vừa đi hai, ba bước, Hóa lại hét, Tăng cũng hét. Tăng định tiến lên trước, thì Hóa đưa gậy lên. Tăng lại hét. Hóa nói: Ông xem lão mù ấy cũng làm chủ tể. Tăng đang nghó ngợi thì Hóa liền xuống pháp đường và trở về phương trượng. Thị giả liền hỏi: Vừa rồi Tăng có nói câu gì ngổ ngáo với Hòa thượng. Hóa nói ông ấy vừa đến cũng có chiếu cũng có dụng, cũng có quyền, cũng có thật. Tay lấy tay vạch vào mặt ông ấy hai lần đến trong ấy liền dùng chẳng được giống. Ông ấy chẳng đánh lại đợi lúc nào. Sư nói: Làm dao kho vua đánh trống thoa độc, điện xẹt chưa đủ cho là nhanh, sấm gầm chưa đủ cho là oai. Có thể gọi là khéo đuổi trâu của người cày, hay cướp cơm người đói. Chỉ như chủ khách cùng đổi có chiếu có dụng có quyền có thật thì lại đến, chỗ nào là Hưng Hóa đưa tay vạch mặt hai lần. Nếu trong ấy mà rỗng sáng thì có thể gánh vác Chánh pháp nhãn tạng của Lâm Tế. Nếu như bùn nước chưa phân thì chưa khỏi lừa mù theo đại đội. - Nêu: Ngưỡng Sơn đang ngồi. Đại thiền Phật đến nhón một chân bảo rằng: Hai mươi tám Tổ Tây Thiên cũng như thế, sáu tổ nước Đường cũng như thế, Hòa thượng cũng như thế, con cũng như thế. Ngưỡng Sơn xuống giường thiền đánh bốn cây mây. Sư nói: Thầy trò gặp gỡ áo cổn ném kim, một hẹn mượn đường mà qua, chẳng khỏi hỗ tương trái nhau. Tuyết Đậu nói: Chân giường chưa gãy, nhân gì chỉ đánh bốn cọng. Sư nói: Bột bánh đổi nước gì. Tuyết Đậu nói: Phải là cái lão chém đinh chặt sắt mới được. Sư nói: Giống như theo tà đuổi ác. Đại Thiền Phật sau đến Hoắc Sơn tự nói: Tập họp dưới Vân Phong bốn sợi mây Thiên Hạ Đại Thiên Phật tham. Hoắc Sơn nói: Duy-na đánh chuông. Thiền liền chạy. Sư nói: Lão ấy gánh Ngưỡng Sơn một cái ấn Dưa Đông bán trước người chơi, nếu chẳng phải là Hoắc Sơn mấy người bị thoa hồ. Tuy nhiên đáng tiếc khiến làm một nửa. Lúc đó chẳng cần gọi Duy-na rất thích cầm gậy liền đánh bốn sợi mây. Lại nghe lão ấy mà nghi ba mươi năm. Nêu: Dưới hội Tuyết Sơn có một Tăng từ giả vào núi ở am, nhiều lúc không cạo tóc, tự làm một cái gáo cán gỗ ở bên khe múc nước uống. Lúc đó có vị Tăng thấy hỏi: Như thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến. Chủ bèn dưa cái gáo lên nói: Khe sâu cán gáo dài. Tăng trở về hỏi lại Tuyết Phong. Phong nói cũng rất kỳ lạ. Một hôm Phong cùng thị giả sắp cạo tóc, vừa thấy liền hỏi: Nói được thì chẳng cạo đầu ông. Chủ liền lấy nước rửa đầu, Phong liền cạo đầu cho. Sư nói: Am chủ tuy sắt sống đúc thành, Tuyết Phong khổ nổi bổn phận kềm búa. Nếu lúc đầu một mực mờ mịt sao thấy kinh thiên động địa. Lại hiểu rõ chăng? Mũi nhọn quen điều khiển từng bách chiến, roi sắt nhiều sức hiện không ai đáp trả. - Nêu: Tăng hỏi Bảo Phước: Tuyết Phong bình sinh có nói câu gì được giống như linh dương khi treo sừng. Bảo Phước nói: Ta chẳng thể làm đệ tử của Tuyết Phong chẳng được sao? Sư nói: Phỉ thúy mang lông, không lân đội sừng, lớp lớp quang thái cùng nương nhau. Phải biết cơ hãm hổ, phải nói câu núi hiểm. Tuy thế chẳng biết cùng gì đến. Hoặc có người hỏi sơn Tăng rằng Ngũ Tổ bình sinh có câu nói nào được giống linh dương khi treo sừng thì chỉ đáp rằng: Chẳng dám cô phụ tiên sư. Có hiểu rõ chăng? Núi cao há ngại mây trắng bay. Nêu: Hòa thượng Huyền Sa đến huyện Bồ Điền, chúng long trọng đón tiếp. Hôm sau Huyền Sa bèn hỏi Tiểu Đường Trưởng lão: Hôm qua nhiều ồn ào hướng vào đâu mà đi. Tiểu Đường đưa sừng ca sa lên. Sa nói: Liệu điệu không can thiệp. Đại Qui Chân Như nói rằng: Ngài Đại Qui tức chẳng thế. Hoặc có người hỏi hôm qua ồn ào hướng vào đâu mà đi, thì bèn kêu lên mà chỉ rõ. Hoặc có nạp Tăng bước ra nói rằng: Liệu điệu không can thiệp thì ngài Đại Qui liền chịu. Vì sao? Vì kẻ Đại trượng phu vuốt râu cọp làm bổn phận. Lại hỏi lợi hại ở đâu? Sư nói: Hai Lão túc đều là làm rạng cương phong nhưng lại tham xem trăng trên trời. Mà nay lại có người ra hỏi Đạo Lâm: Vừa đến nhiều ồn ào hướng vào đâu mà đi, thì chỉ đáp rằng: Lại từ đầu nếu ông ấy nói liệu điệu không can thiệp thì liền đánh vào lưng. Vì sao? Vì giống sóng Tào Khê, vô hạn người thường bị sụp chìm. - Nêu: Tăng hỏi Đầu Tử: Như thế nào là một đại sự nhân duyên? Tử nói Doãn Ty không cùng lão Tăng mở pháp đường. Sư nói: Người nói Đầu Tử đầu thật, chẳng ngại rất thuần phác. Nếu là sơn Tăng thì chẳng thế. Hoặc có người hỏi: Như thế nào là một đại sự nhân duyên thì chỉ đáp rằng; Giỡn sóng phải là người giỡn sóng. Nêu: Dược Sơn một đêm không đèn đuốc dạy chúng rằng: Ta có một câu đợi con trâu đực đẻ con thì ta sẽ nói với các ông. Lúc đó có Tăng ra hỏi: Trâu đực đẻ con là tự Hòa thượng chẳng nói. Sơn nói: Cầm đèn lại đây. Tăng ấy liền trở về chúng. Động Sơn nói; Tăng ấy hiểu thì hiểu chỉ là chẳng chịu lễ bái. Pháp Đăng nói: Lúc ấy chẳng cần đòi đèn chỉ hỏi nó sinh trâu đực hay trâu cái. Lại đáp thay rằng: Cả hai cùng sinh. Sư nói: Dược Sơn ý muốn câu con cá lớn Tăng ấy nuốt câu ba ngàn sóng vỗ. Động Sơn mắt ở ngàn dặm động gió, Pháp Đăng lại chỉnh tề cờ giáo, lại trang bị giáp tỳ. Tuy thế, sơn Tăng chẳng phải vậy. Giáp Sơn có một câu: Từ Oai Âm Vương trở về trước cùng các người nói xong. Hoặc có người hỏi đầu sáng họp hay đầu tối họp thì chỉ đáp rằng: Khi rồng được nước thì thêm ý khí, cọp gặp núi thì càng thêm dữ. Nêu: Nham Đầu tham ngài Đức Sơn vào cửa liền hỏi: Là phàm hay Thánh. Sơn liền hét Đầu liền lễ bái. Động Sơn nói: Nếu chẳng phải là Tuế Công thì rất khó thừa đương. Nham Đầu nghe nói bảo rằng: Lão già Động Sơn chẳng biết tốt xấu lầm với danh ngôn. Rất chẳng biết ta lúc ấy một tay nâng lên một tay nhấn xuống. Sư nói: Đức Sơn theo lệnh mà làm chỉ được một nửa. Động Sơn thông các phương có mắt ngàn dặm đồng phong. Nham Đầu đã giỏi dựa vào đầu cọp lại hay nắm đuôi cọp. Giống như tác gia chiến tướng lâm trận đánh địch. Bảy việc đều toàn chẳng ngại kỳ đặc. Dám hỏi cái gì là chỗ một tay nâng lên một tay nhấn xuống. Bảo rằng: Sớm xâm nhập lại có người đi đêm. Nêu: Tăng hỏi Tào Sơn: Nóng ấy thì trốn ở đâu. Sơn nói: Ở trong vạc nước sôi, lò lửa đỏ mà trốn. Tăng nói trong vạc nước sôi lò lửa đỏ làm sao trốn. Sơn nói: Các khổ chẳng thể đến. Sư nói: Hôi cơ chuyển vị, các phương rõ ràng như thế, ngay đây giống như hoa sen tháng chạp. Tuy thế chém đinh chặt sắt lại một đường. Hoặc có người hỏi Bích Nham. Nóng ấy thì trốn ở đâu thì chỉ đáp rằng: Trong vạc nước sôi lò lửa đỏ mà trốn. Nếu nó nói trong vạc nước sôi lò lửa đỏ mà trốn thì nói với nó rằng: Nóng giết cũng ngại gì. Lại nói: Còn chỗ người hữu vi cũng không. Nêu: Lục Hằng đại phu hỏi Nam Tuyền Triệu Pháp sư nói: Trời đất cùng ta đồng căn, vạn vật cùng ta một thể, cũng rất kỳ lạ. Nam Tuyền chỉ hoa trước sân chỉ Đại phu bảo rằng: Người lúc ấy thấy cây hoa này như mộng. Sư nói: Lục Hằng tay mang xích vàng, Nam Tuyền khai tám chữ, liền được bảy trân tám báu bày ra trước mắt. Bèn đưa cây phất tử lên bảo rằng: Trời đất một ngón tay, vạn vật một ngựa toàn thân là nhãn phần sơ chẳng xuống. - Nêu: Hưng Hóa dạy chúng rằng: Ngày nay chẳng cần như thế là sao liễn thỉnh một dao riêng vào, Hưng Hóa cùng ta chứng minh. Lúc đó có Mân Đức Trưởng lão ra chúng lễ bái rồi hét. Hóa cũng hét. Đức lại hét, Hóa cũng hét. Đức liền lễ bái. Hóa nói hôm nay cho Hưng Hóa hai mươi gậy. Nếu là người khác thì thiếu một gậy cũng không được. Vì sao thế. Bởi vì Mân Đức hiểu một hét chẳng làm dụng một hét. Sư nói: Tác gia gặp nhau phải thế, cơ như điện xẹt, mắt như sao bay, vốn trước đến sau nâng đầu tiếp đuôi. Do đó nói lông mao lông vũ giống nhau, ngôn khí họp nhau, chỉ như hai nhà thay nhau cùng hét, lại làm sao biện được, một hét chẳng làm dụng một hét. Muốn thừa đương Chánh pháp nhãn tạng của Lâm Tế thì phải hiểu ý hai Lão túc. Lại hỏi ý gì. Đầu sào trăm trượng phải tiến bước, trong trướng Tử La buông (rải) trân châu. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Như thế nào là Thanh tịnh pháp thân? Môn nói: Sáu chẳng thâu. Sư nói: Chỉ nói được một nửa. Nếu hỏi Đạo Lâm thì đáp rằng: Một chẳng lập. Nếu hỏi Đạo Lâm thì đáp rằng: Một chẳng lập. Bèn có tụng: Một chẳng lập sáu chẳng thâu, đột nhiên sao lại có nguyên do, vô hạn núi xanh lưu chẳng ở, hoa rụng nước trôi mãi dong dài. Nêu: Tăng hỏi Trường Khánh như thế nào là lời họp Thánh. Trường Khánh nói: Sơn Tăng bị Xà-lê một câu hỏi thì miệng giống như dán dính lại. Sư nói: Phải thì phải, ứng sơ không sai, đâu được đại kinh tiểu quái (kinh quán lớn nhỏ). Hoặc có người hỏi Đạo Lâm như thế nào là lời hợp Thánh thì đáp rằng: Chí Công chẳng phải Nhàn Hòa thượng, dao kéo chỉ ở đầu giường. Nêu: Lâm Tế nói: Một hét phân chủ khách, chiếu dụng cùng một lúc. Sư hét một tiếng bảo rằng: Là chủ hay khách, là chiếu hay dụng. Lại hiểu rõ chăng? Thế núi ngàn ngọn nghỉ bên núi, vạn mạch tiếng về tiêu trên biển. Nêu: Huyền Sa thấy Cổ Sơn đến liền vẽ một hình tròn. Sơn nói: Người người nói cái ấy chẳng được. Huyền Sa nói: Tình biết ông hướng vào thai lừa, bụng ngựa mà làm kế sống. Sơn nói: Còn Hòa thượng làm gì? Huyền Sa nói người người nói ra cái ấy chẳng được. Sơn hỏi: Hòa thượng cùng ai nói được, còn con cũng ai nói chẳng được. Huyền Sa nói: Ta được, ông chẳng được. Sư nói: Nêu ra một điều ấy tác giả mới biết, dù cho khắp trời đất nêu cổ kim mà chẳng dời. Tiêu kiếp đá trống bờ cõi mà chẳng hết. Liền là thấu cửa, phải gấp để mắt mới được. Cùng một thời tiết vì sao ta được mà ông không được. Rất kî hướng vào thai lừa bụng ngựa mà làm kế sống. - Nêu: Hưu Tịnh ở ngài Động Sơn làm Duy-na, một hôm đánh kiền chùy phổ thỉnh rằng: Trên bừa đất dưới hái củi. Thủ tọa bèn hỏi còn Thánh Tăng làm gì? Hưu Tịnh nói ở pháp đường chẳng ngồi thẳng sao đến cỏ hai đầu. Sư nói: Châu nát chín khúc, Hưu Tịnh đáng gọi là Thần Công. Ngọc giải liên hoàn, sơn Tăng lại giúp một nẻo. Hoặc có người hỏi Thánh, Tăng làm gì, thì chỉ đáp rằng: Rộng như gương sáng trên nhà chiếu, chẳng động hình thành ứng vạn duyên.  <卷>QUYỂN 18 NIÊM CỔ 3 Nêu: Tăng hỏi Mã Đại sư: Lìa bốn câu dứt trăm quấy, thỉnh Sư chỉ thẳng con ý Tây Trúc đến? Đại sư nói: Ta nay lười biếng (mệt mỏi) chẳng thể nói với ông, hỏi Trí Tạng đi. Sư nói: Nói lầm. Tăng hỏi Trí Tạng, Tạng nói ta nay nhức đầu chẳng thể nói với ông, đi hỏi Hải Huynh đi. Sư nói: Nói lầm. Tăng đi hỏi Hải. Hải nói ta đến chỗ ấy chẳng hiểu. Sư nói: Nói lầm. Tăng bèn đem hỏi Mã Đại sư. Đại sư nói đầu Tạng trắng, đầu Hải đen. Sư nói: Lầm lầm. Sư bảo: Nếu là kẻ mắt sáng thì một nêu liền biết chỗ rơi. Bạch Vân Liên Sư nói: Tăng ấy gánh một gánh không hiểu gì, đổi được sự chẳng an lạc. Mã Đại sư nói Tạng đầu trắng, Hải đầu đen. Bạch Vân nói: Phong Hậu tiên sinh chỉ biết một mà chẳng biết hai. Chỉ như sơn Tăng nêu năm nhầm. Lại hỏi: Rơi chỗ nào, chớ đem học rỗng không mà hiểu, mai một tâm Tổ sư. - Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Như thế nào là việc pháp thân hướng thượng. Vân Môn nói hướng thượng nói với ông thì chẳng khó mà, làm sao hiểu pháp thân? Tăng nói: Thỉnh Hòa thượng soi xét. Viên Môn nói: Giám thì được (cho gì cho gì?). môn nói cái ấy là Trường Liên (luôn ở?) trên giường học được. Ta hỏi ông: Pháp thân có ăn cơm không? Tăng không đáp được. Tuyết Đậu nói: Sắp thành núi chín nhận, chẳng dâng đất một chiếu. Bảo Phước nói: Thiếu một hạt cũng không được. Lại Cổ đức nói gọi gì là cơm. Sư nói: Vân Môn đáng gọi là đuổi trâu người cày, cướp cơm người đói. Quyền hành Phật tổ, qui giám Tông thừa. Do đó các tôn túc đời sau đều ra mắt phò giúp tông phong. Tuy thế chỉ nói được việc bên pháp thân, chưa sáng được việc pháp thân hướng thượng. Lại như thế nào là việc pháp thân hướng thượng. Trong cõi không quay lưng, ngoài thành có quyền hành. Nêu: Bảo Thọ mở pháp đường, Tam Thánh đưa ra một Tăng. Bảo Thọ liền đánh. Thánh nói: Người ấy chẳng phải là Tăng mù mắt, mù mắt là người một thành Trấn châu. Bảo Thọ liền trở về phương trượng. Sư nói: Bảo Thọ toàn cơ gánh vác chẳng ngại kỳ đặc mà lại chỉ được một bên. Lúc ấy nếu khéo pháp môn Chánh pháp nhãn tạng của Lâm Tế, đợi Tam Thánh nói người ấy chẳng phải là Tăng mù mắt, mà mù mắt là người cả một thành Trấn châu thì liền cho bổn phận thảo liệu. Vì sao thế? Vì một chẳng làm hai chẳng nghỉ. Nêu: Kim Ngưu cơm ăn rồi, hỏi Bàng cư só: Sinh tâm thỏ thực (mà ăn) thì Tịnh Danh đã trách, hai đường này cư só cam chịu chăng. Cư só nói ngay lúc Thiện Hiện há chẳng làm trâu nói: Há can dự việc khác cư só nói: Ăn đến bên miệng bị người cướp lấy, Kim Ngưu liền đi ăn. Cư só nói chẳng tiêu một câu. Sư nói: Thiện Hiện làm Kim Ngưu kỳ đặc, bởi bị Bàng cư só một lúc hiểu qua. Chỉ như Bàng cư só nói chẳng tiêu một câu. Lại hỏi là một câu gì? Ngồi thẳng nhận cúng dường, thí chủ thường an lạc. Nêu: Tăng hỏi Thạch Môn: Năm cùng tháng hết lúc đó thế nào? Thạch Môn nói: Đông Thảo Vương Lão đêm đốt tiền. Sư nói: Đáng gọi là thần thông diệu dụng. Tăng lại hỏi Khai Tiên Xiêm Hòa thượng rằng: Khi năm cùng tháng hết thì thế nào? Xiêm nói theo cũ Mạnh xuân cũng lạnh. Sư nói: Chẳng ngại đất ruộng ẩn kín. Bỗng có người hỏi Đạo Lâm khi năm cùng tháng hết thì thế nào? Thì chỉ đáp rằng: Trên bàng tinh chuyển xa gió. Nêu: Tam Thánh nói: Ta gặp người thì ra, ra thì chẳng vì người. Hưng Hóa nói ta gặp người thì chẳng ra, ra thì liền vì người. Sư nói: Một người ở một mình trên đỉnh núi cao mặt đất đầu tro. Một người ở ngã tư đường, chém đinh chặt sắt. Có đầu có đuôi đồng chết đồng sống. Lại hỏi ra thì chẳng vì người là sao ra thì liền vì người là sao. Đưa cây phất tử lên bảo rằng: Đầm vắng muôn xưa trăng giữa trời, ba lần mò lặn mới nên biết. - Nêu: Long Nha hỏi Thúy Vi: Như thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến? Vi nói: Đưa Thiền bảng cho ta. Long đưa Thiền bảng cho Thúy Vi. Vi tiếp được liền đánh. Nha nói: Đánh thì mặc đánh, vẫn không có ý Tổ sư Tây Trúc đến. Nha lại hỏi Lâm Tế như thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến. Lâm Tế nói: Đưa ta cái bồ đoàn. Nha đưa bồ đoàn cho Lâm Tế. Tế tiếp bèn đánh. Nha nói đánh thì mặc đánh, vẫn không có ý Tổ sư Tây Trúc đến. Ở sau việc Tăng hỏi: Hòa thượng năm nay thấy hai tôn túc là chịu họ hay chẳng chịu. Nha nói chịu thì chịu mà không có ý Tổ sư Tây Trúc đến. Sư nói: Lão ấy tham đến rụng răng chỗ học vẫn mịt mù. Tuy trông trước nhìn sau làm sao dấu thân bày ảnh. Đã không có ý Tổ sư Tây Trúc đến thì chịu làm gì? Nếu bước trong đó mà biện được, thì sơn Tăng cho ông cây gậy. Nếu biện chẳng được thì một lúc liền mất lỗ mũi. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Khi cây tàn lá rụng thì thế nào? Môn nói thể bày gió vàng. Sư nói: Vân Môn phương tiện khéo léo, có thể gọi là tức sự tức lý tức ẩn tức hiển, ba câu có thể biện một mũi nhọn trên không. Tuy nhiên cũng là dán da làm xương. Nếu có người hỏi Tưởng Sơn khi cây tàn lá rụng thì thế nào, thì chỉ đáp rằng: Chống trời chống đất. Lại hỏi: Là ba câu hay một mũi nhọn. Thử ngọc phải qua lửa, tìm châu phải lìa bùn. Nêu: Lại Toản Hòa thượng nói: Ta có một lời dứt lo quên duyên, khéo nói chẳng được chỉ cần tâm truyền. Sư nói: Lão già ấy là cá bơi nước đục bày vẻ chẳng ít. Tuy thế, nếu trong đó có người biết quên duyên dứt nghó ngợi thì bước ra nói, thế nào là tâm truyền. Nếu chẳng hiểu thì tâm tức lại bỏ rốt ráo là một lời nói gì. Trở về nhà hết đi. Nêu: Tuyết Đậu nói trong khoảng càn khôn vũ trụ trong đó có một vật báu treo trên vách. Đạt-ma chín năm ngó vách, chẳng dám chánh mắt nhìn thấy. Như nay nạp Tăng muốn thấy liền đánh vào lưng. Sư nói: Tuyết Đậu là diệu trong diệu, kỳ trong kỳ, hướng trên đầu Phật tổ mà nắm giữ, trên đỉnh môn nạp Tăng mà đục lỗ chẳng ngại tự tại. Lại cần chỉ thấy đầu chày bén mà chẳng thấy đầu đục vuông. Nếu là Tưởng Sơn thì không thế. Trong khoảng càn khôn vũ trụ, trong đó có một bảo vật và đưa gậy lên bảo rằng: Trên đầu gậy nêu ra trời đất hồi chuyển buông ra rạp cỏ gió đi. Có lúc tám tay ba đầu có lúc vách đứng ngàn nhận. Như nay chẳng nói nạp Tăng muốn thấy, có nhiều ngàn Thánh cùng ra, các Tổ cùng đến, đều phải lui ngược về ba ngàn dặm. Dám hỏi đại chúng. Lại hỏi: Người nào họp được thọ dụng phân phó Thiên thai Mộc Thượng tọa, đột xuất Nam Sơn con lạc đà lỗ mũi ba ba, bèn ném gậy xuống tòa. Nêu: Tăng hỏi Đại Mau như thế nào là ý Tổ sư Tây Trúc đến? Tăng đem hỏi như thế với Diêm Quan. Quan nói: Một cái quan tài gỗ, hai người chết. Tuyết Đậu nói: Ba người cũng có. Sư nói: Một xuyên suốt. Nêu: Linh Vân tụng rằng: Ba mươi lại tìm kiếm khách Mấy hồi lá rụng lại trơ cành Từ khi một thấy hoa đào rồi Thẳng đến như nay lại chẳng nghi. Huyền Sa nói: Rất đúng, rất đúng! Dám bảo Lão huynh chưa thấu suốt. Sư nói: Xướng càng cao, họa càng hiếm tuyết khúc dương xuân, dao giết người kiếm cứu người, vốn yếu là lợi vật. Có người nào còn câu chấp thấy nghe theo lời nói mà hiểu, liền nói lừa nhau ai chẳng biết, mặt trời lặn một ngọn đèn côi đã mất sáng trước, rốt ráo chỗ nào là chưa thấu suốt. Trong cung (khổn) ngày tháng dài. Nêu: Huyền Sa hỏi Tăng: Gần đây lìa đâu? Tăng nói Đoan Nghiêm. Sa hỏi: Đoan Nghiêm có câu nói nào? Tăng nói: Luôn kêu lớn “ông chủ”, rồi tự “dạ dạ”, “Tỉnh tỉnh nhé”. Ngày khóc chớ để người lừa. Huyền Sa nói: Một hạng đùa tinh hồn cũng rất kỳ lạ. Lại nói sao không lại ở trong đó. Tăng nói: Đoan Nghiêm tịch rồi. Huyền Sa nói: Như nay lại gọi được chăng? Tăng không đáp được. Tuyết Đậu nói: Trời xanh trời xanh. Sư nói: Đầm lạnh vạn tượng trăng thấu đáy ở trong tâm. Núi tùng ngàn thước nương gió trời sinh hang kín. Dù cô tiêu lẫm lẫm, phong thái lắng đọng. Cho đến trăng lìa núi biếc, bóng lạc đường mây. Bèn ở trước mặt mà sai. Lúc đó Tăng ấy nếu là Lão ấy đợi ông ấy nói tức nay lại gọi được chăng? Thì ngay đó liền hét. Không phải chỉ cầm định chức vụ quan trọng của Huyền Sa mà cũng cùng Lão Đoan Nghiêm thở ra. Nêu: Tăng hỏi Phong Huyệt: Chín hạ thưởng công mệt nhọc. Thỉnh Sư nói ra. Phong Huyệt nói: Một nắm hương cầm chưa rảnh, gậy vàng sáu vòng tiếng vang không. Sư nói: Phong Huyệt dùng được việc rõ ràng, chẳng ngại phong lưu nho nhã, lại muốn chỉ nói được câu giữa đường. Hoặc có người hỏi Đạo Lâm: Chín Hạ thưởng công mệt nhọc thỉnh Sư nói ra, thì đáp rằng: Bốn dứt bên nhà trình đoạn khí, ba bờ Tương Giang cướp tiêu cao. Nêu: Một hôm Xá-lợi-phất vào thành, thấy cô Nguyệt Thượng ra thành, Xá-lợi-phất hỏi rằng: Đi đâu? Cô gái đáp: Như chỗ Xá-lợi-phất đi. Xá-lợi-phất nói: Ta mới vào thành, còn cô ra khỏi thành sao nói như Xá-lợi-phất đi. Cô gái hỏi đệ tử chư Phật đang trụ chỗ nào? Xá-lợi-phất nói đệ tử chư Phật đang trụ Đại Niết-bàn. Cô gái nói đệ tử chư Phật đang trụ Đại Niết-bàn, ta nay như Xá-lợi-phất đến đó. Sư nói: Trụ chỗ không trụ, đi chỗ không đi thấy chỗ không thấy, dùng chỗ không dùng. Dưới chân các người rộng đồng thái hư. Như mười mặt trời cùng chiếu gặp đâu cũng rực rỡ. Nếu biết như thế thì cùng cô Nguyệt Thượng đồng chứng vô sinh, được bất thối chuyển, tùy chỗ đi lại mà đều được ở trong Đại giải thoát, lỗ mũi ba đời chư Phật cùng lúc xuyên suốt, nói gì như Xá-lợi-phất đi. Nêu: Sư Tổ hỏi Nam Tuyền rằng: Châu ma-ni người chẳng biết trong kho Như Lai mà thân lấy được như thế nào là kho. Tuyền nói: Là nơi Vương Lão sư cùng Ngài ở đó. Tổ nói: Ngay khi không ở thì thế nào? Tuyền nói: Cũng là kho. Tổ hỏi: Thế nào là châu? Tuyền gọi: Tổ sư. Tổ liền: Dạ. Tuyền nói: Đi đi! Ngài không hiểu lời con nói. Sư nói: Nam Tuyền một hẹn đưa tay, nắm buông bắt thả thì chẳng không. Lại chưa cần thấy việc hướng thượng ở đó chỉ như hết cả đại địa đều là kho Như Lai thì hướng vào đâu mà để châu, hết cả đại địa đều là châu ma-ni thì gọi cái gì là kho. Nếu biết có chỗ chuyển thân, cho nó chỉ đủ một con mắt. Nêu: Tăng hỏi Hương Lâm: Như thế nào là việc dưới nạp y. Lâm nói: Tháng chạp lửa đốt núi. Sư nói: Nêu một mà biết ba lỗ của nạp Tăng, ngàn sai một vết vốn không kềm búa. Tuy thế hoặc có người hỏi Đạo Lâm như thế nào là việc dưới nạp y thì chỉ đáp rằng: Đá đặc biệt được ba bông. Nêu: Nam Tuyền hỏi Tăng: Đêm qua gió tốt không. Tăng đáp: Đêm qua gió tốt. Tuyền nói: Gió thổi gãy một cây tùng trước cửa. Tăng cũng nói gió thổi gãy một cây tùng trước cửa. Nam Tuyền lại thấy Tăng hỏi: Đêm qua gió tốt không? Tăng hỏi: Gió nào? Tuyền nói: Thổi gãy một cây tùng trước cửa. Tuyền nói: Một được một mất. Sư nói: Đại phàm đáp gọi tùy cơ để mắt biện rồng rắn khác đạo tục. Chỗ gọi đánh trống chơi đàn, gặp nhau hai nhà hiểu. Chỉ như Nam Tuyền nói một được một mất. Dám hỏi cái gì được cái gì mất. Đến đó phải là người hướng thượng mới được. Lại hiểu rõ chăng? Ngỗng chúa chọn sửa trong, chẳng phải loài vịt. - Nêu: Tu Sơn Chủ có tụng rằng: Hai phá chẳng thành một, Một pháp chấn động mãi mãi, Nếu người một, hai hiểu, Suốt kiếp chịu trầm luân. Sư nói: Giống như cây ỷ trường thiên kiếm thần oai lẫm liệt, hướng vào chỗ bằng phẳng mà vách đứng ngàn nhận, chỗ vách đứng ngàn nhận bằng phẳng, tuy chỉ nói được một nửa. Đạo Lâm thì chẳng thế, hai pháp chẳng thành một, một pháp cũng chẳng còn, chẳng làm hiểu một, hai, suốt kiếp chịu trầm luân. Nêu: Đạo Ngô hỏi Vân Nham: Thoát xác lậu tử hướng chỗ nào mà thấy nhau. Nham nói hướng vào chỗ chẳng sinh chẳng diệt mà thấy nhau. Sư nói: Thái hồ tuấn sinh (chồn lớn sinh ở chót núi). Đại phàm Thiện tri thức nêu một lời đưa ra (độ) một cơ. Phải biết cội nguồn sinh tử khiến tất cả người minh (sáng) tâm kiến (thấy) tánh đi, há chẳng vui sao? Hoặc có người hỏi Đạo Lâm thoát xác lậu trỉ hướng vào chỗ nào mà thấu nhau, thì đáp rằng: Chỗ nào chẳng gặp nó. Nêu: Tu Sơn chủ tụng rằng: Muốn biết Đạo giải thoát Các pháp chẳng đến nhau Mắt tai dứt thấy nghe Thanh sắc ồn ào lắm. Sư nói: Thanh chẳng đến tai, sắc chẳng đến mắt, thanh sắc giao tham vạn phàp thành hiện. Lại nói: Chỗ bước vào đạo giải thoát cũng không. Chẳng tỉnh cái ý ấy, tu hành luống đắng cay. Nêu: Tăng hỏi Thạch Củng rằng: Khi sinh tử đến làm sao tránh? Củng nói: Địch đó không có sinh tử. Sư nói: Lại biết đích ấy chăng? Chim cắt giỏi lướt trên không. Chim mù đậu trên rào. Nêu: Người xưa nói: Trong sinh tử có Phật thì chẳng mê sinh tử. Lại nói: Trong sinh tử không Phật thì không sinh tử. Sư nói: Phải thì phải, mà hai cây kiếm báu kim cương, lại muốn phất lược hư không. Kim Sơn thỉ chẳng thế. Sinh tử là căn cơ của chư Phật. Chư Phật lấy sinh tử làm lò rèn. Nếu hiểu hiểm tuyệt thừa đương thì chứng sáu thần thông tám giải thoát. --------------------------- <詞>TỤNG CỔ I Nêu: Đức Sơn Tiểu Tham dạy chúng rằng: Lão Tăng đêm nay chẳng trả lời câu hỏi, ai hỏi sẽ bị đánh ba mươi gậy. Lúc đó có Tăng ra lễ bái. Đức Sơn liền đánh. Tăng nói: Con chưa hỏi, vì sao đánh con. Đức Sơn nói: Ông là người ở đâu? Tăng đáp: Người Tân La (Triều Tiên). Sư nói: Chưa khoe mạn thuyền, đáng cho ba mươi gậy. Pháp Nhãn nói: Đại Tiểu Đức Sơn nói làm hai cộc. Viên Minh nói Đại Tiểu Đức Sơn đầu rồng đuôi rắn. Tuyết Đậu nói: Đức Sơn nắm oai quyền ở ngoài thành, có đáng dứt chẳng dứt, chẳng mời chẳng phải kiếm gây loạn. Phải biết Tăng Tân La chỉ là kẻ chột mắt lắc khua cột trụ. Lò đúc nấu vàng bỗng sấm kinh động xuân, cây cỏ đẹp phát sáng rực ngày mới, chẳng phí sức mảy may. Bắt giữ kỳ lân thiên hạ, toàn oai giết cứu được tự tại. Ngàn xưa chiếu sáng đồng như vòng băng. Nói làm hai cọc, trong câu nhãn hoạt, đầu rồng đuôi rắn lấy ngón tay dụ ngón tay, gỡ khua cột trụ nạp Tăng chột mắt. Lấp dứt cổ họng không ra hơi. Định nghó bàn thì cách ngăn vạn núi, inh ỏi đầu lưỡi ba ngàn dặm. Nêu: Đức Sơn mặc áo kép đến Qui Sơn lên pháp đường, từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông. Qui Sơn ngồi làm thinh không nhìn. Đức Sơn nói: “Không, không!” Liền xuống đi. Cũng chẳng được “thảo thảo”. Bèn đủ oai nghi mà gặp Qui Sơn. Bèn đưa tọa cụ lên nói: Hòa thượng. Qui Sơn định lấy phất tử thì Đức Sơn liền hét. Lúc ấy trong pháp đường đang mang giày cỏ liền cởi giày cỏ rồi đi ra. Đến chiều Qui Sơn hỏi Thủ tọa: Người mới đến ở đâu. Thủ tọa nói: Ở trong pháp đường mang giày cỏ rồi liền bỏ đi. Qui Sơn hỏi: Lại biết ông này chăng. Sau này ở trên đảnh núi cao một mình cất am tranh, mắng Phật mạ tổ. Đại Dụng chẳng câu chấp khuôn mẫu xưa nay nghiêng đổ thì nắm đuôi mọt gỗ, bình thường thì vuốt râu cọp. Nếu chẳng luận sâu mánh khóe sao lại ngồi xem thành bại. Tuấn xứ dónh thoát nang chùy. Cao đến cuốn mở phương ngoài. Trên đỉnh núi cao sóng dậy trời, chánh lệnh phải làm nát trăm mảnh. Hét. - Nêu: Nam Tuyền tham Bách Trượng Niết-bàn Hòa thượng. Bách Trượng hỏi: Từ trên các Thánh lại có chẳng vì người nói pháp chăng? Nam Tuyền nói: Có. Bách Trượng hỏi thế nào là chẳng vì người nói pháp? Nam Tuyền nói: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật. Bách Trượng nói: Nói xong rồi. Nam Tuyền nói: Phổ Nguyện chỉ như thế, chưa biết Hòa thượng như thế nào? Bách Trượng nói: Ta lại chẳng phải Thiện tri thức, sao biết có nói hay không nói. Nam Tuyền nói: Phổ Nguyện chẳng hiểu. Bách Trượng nói: Ta quá mức vì ông nói xong. Keo loan dứt nối dây đàn, màu sư tử hóa sửa lừa, từ nay trở đi chẳng vì người, cổ kim tham Phật tổ tên đã lìa đàn không trở lại, sắp muốn cướp lấy ắt cố cho. Nói lúc im, im lúc nói. Người từ Đông châu đến, liền đến Hứa châu đi. Nêu: Bách Trượng lại tham Mã Tổ, Tổ đưa phất tử lên. Bách Trượng nói: Tức dụng này lìa dụng này Tổ máng cây phất tử vào chỗ cũ, đứng chờ một lúc. Tổ nói: Ông từ đây trở đi mở miệng như thế nào vì người? Bách Trượng dơ cây phất tử lên. Tổ nói: Tức dụng này lìa dụng này. Bách Trượng đeo cây phất tử. Tổ liền hét thì Trượng đại ngộ. Sau gọi Hoàng Bá bảo rằng: Ta lúc đó bị Mã Tổ hét một tiếng thẳng điếc tai đến ba ngày. Dựng phất tử đeo phất tử toàn cơ ra vào, tức đây lìa đây xét như một bức họa. Đảnh môn ngay đó bị sét đánh. Kim ra khỏi bao ắt chết nhanh, thừa đương một tiếng hét điếc tai ba ngày. Sư tử thần oai mặc tình ném ngược lại, vàng ròng trăm luyện phải mất màu. Lại nói: Có chăng, có chăng? Hét. Nêu: Đạo Ngô đến một nhà điếu tang, Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi sống ư, chết ư? (sống hay chết). Ngô nói: Sống cũng chẳng nói, chết cũng chẳng nói. Nguyện hỏi: Vì sao chẳng nói? Ngô nói: Chẳng nói, chẳng nói! Sau đem hỏi Thạch Sương mới biết chỗ rơi. Một hôm, Nguyên vác cái mai lên pháp đường, từ Đông qua Tây từ Tây qua Đông. Sương hỏi: Làm gì? Nguyên đáp: Tìm linh cốt Tiên sư. Sương nói: Sóng to rộng xa, sóng bạc ngút trời tìm linh cốt nào? Nguyên nói: Tốt nhất là gắng sức. Thái Nguyên Phù nói: Linh cốt Tiên sư còn đấy. Sống ư! Chết ư! Do dự khái trứ, chẳng nói chẳng nói, dấu đầu ló sừng, linh cốt vàng ròng khua rỗn rang, sóng bạc ngút trời cao, ân cần vì người nói thấu cửa, vạn dặm ánh sáng lẻ loi luôn rực sáng. Không đòi hỏi. Triệu Châu Thạch Kiếu thành lược (?). Nêu: Trên hội Linh Sơn có một cô gái nhập định ở trước Phật. Phật sai Văn-thù bước ra Văn-thù đã nhiễu quanh cô gái ba vòng, búng tay một cái cô gái nhập định nghiễm nhiên. Văn-thù dùng thần lực ném cô gái lên Phạm thiên, cô gái cũng nghiễm nhiên nhập định. Phật nói không phải chỉ sức mình ông làm cô gái xuất định được, dẫu có trăm ngàn vạn ức Văn-thù cũng chẳng được. Ở hạ giới có Võng Minh Bồ-tát có thể làm xuất định này. Phật nói: Chưa xong thì Võng Minh từ đất vọt lên. Phật sai ngài làm cho cô gái xuất định. Võng Minh đi quanh cô gái ba vòng búng tay một cái. Cô gái bèn xuất định - Lão Túc Vi nói Văn-thù là thầy của bảy Phật vì sao khiến cô gái xuất định không được? Võng Minh vì sao khiến được? Đại Định như hư không, rộng lớn ai phân biệt được. Cô gái cùng Cù Đàm, theo lịnh sao cứ thế. Sư tử hăng hái hề lay động trời đất. Tượng vương quay về hề chẳng cần sức khác, ai thắng, ai thua. Ai ra, ai vào. Mưa tan mây thâu trời xanh ngày trắng. Ông chẳng thấy ngựa chạy đạp chết người thiên hạ. Lâm Tế chưa phải là giặc Bạch niêm. Nêu: Thanh Nguyên bảo Thạch Đầu rằng: Người người nói hết Tào Khê có tin tức. Thạch Đầu nói: Có người chẳng nói Tào Khê có tin tức. Nguyên nói: Kho lớn kho nhỏ từ đâu được? Thạch Đầu nói: Hết cả đều từ trong ấy. Có tin tức rất chìm khuất, không tin tức chuyển thành mai một, kho lớn kho nhỏ từ đó ra, ném đất rải cát không trọn hết, ngọt như mật, đắng như (?) sáng như mặt trời, đen như sơn. Đánh nát ngàn năm hang chồn rừng, lấp khe lấp hang ít người biết. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Phật pháp như trăng trong nước phải chăng? Vân Môn nói: Sóng xanh không đường thấu. Tăng hỏi: Hòa thượng từ đâu được. Môn nói: Lại hỏi cái gì đến? Tăng nói: Lại lúc ấy đi như thế nào? Môn nói: Chập chùng ải núi non. Khắp cõi chẳng dấu, sóng xanh lắng yên. Đổi nhau đầu cơ, tên nhọn chống nhau, đưa kềm búa hướng thượng, đá lửa điện chớp chẳng kịp, đó liền cách trở quan san, đầm biếc mây ngoài chẳng liên quan. Nêu: Tăng hỏi Long Nha: Hai chuột vào dây mây lúc đó thế nào? Nha nói: Phải biết có chỗ ẩn thân mới được. Tăng hỏi: Như thế nào là chỗ ẩn thân. Nha hỏi lại thấy nhà nông chăng? Đường đường thành kiến, kín kín khó thấy. Hai chuột tuy điểm chẳng gặp được tiện lợi. Cành mây thấu qua trước khi chưa sinh, chánh nhãn rõ ràng khéo đổi nhau. Long Nha Lão Cơ nhanh như điện. Gặp hèn tức quý, quý tức hèn. Nêu: Kinh Viên Giác nói: Lấy đại Viên giác làm Già-lam ta, thân tâm an cư bình đẳng tánh trí. Mảy may chẳng lưu dấu, ngang dọc tự do. Ngoài thành càn khôn rộng lớn, đại phương không ngoài ưu du sáng rỡ ý Tổ sư, sáng rỡ đầu trăm cỏ, phá bỏ lưới nghi, cắt đứt dòng sông ái. Dẫu có sức hồi thiên sao bằng ngay đây dứt. Đạo trong bốn đường sạch làu làu, thả ra con trâu đực Qui Sơn. - Nêu: Tăng hỏi Tuyết Đậu: Khi ở khe xưa suối lạnh thì như thế nào? Phong nói: Trơ mắt chẳng thấy gì. Tăng hỏi: Uống vào như thế nào? Phong nói: Chẳng từ miệng vào. Sau có Tăng đem hỏi Triệu Châu, Châu đáp: Chẳng từ lỗ mũi mà vào. Tăng liền hỏi: Khi khe xưa suối lạnh thì như thế nào? Châu đáp: Khổ. Tăng hỏi uống vào như thế nào? Châu đáp: Chết. Tây phương nghe thì bảo rằng: Triệu Châu là Cổ Phật do đây chẳng đáp thoại. Triệu Châu núi Tượng cốt, cả đời không ai sánh, cùng vỗ mất dây đàn, ngàn năm trong tai người. Khe xưa suối lạnh trơ mắt ngưng nhiên. Chẳng từ miệng vào, uống vào quên lời. Lại nói: Lời khổ, lại chết chẳng trả lời đồng kia đây, gặp nhau nhà hai hội, đánh trống chơi đàn cầm sắc, trong đó ai là đích. Cò trắng vào hoa lau. Nêu: Ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có nói chẳng hỏi không nói. Thế Tôn im lặng hồi lâu. Ngoại đạo nói: Thế Tôn đại từ đại bi, mở mây mê khiến con được vào. Ngoại đạo đi rồi A-nan hỏi Thế Tôn: Ngoại đạo có chỗ chứng nào? Thế Tôn nói: Như ở đời ngựa giỏi thấy bóng voi liền chạy. Chẳng hỏi có nói không nói. Trước lời lập câu hỏi, hai bên đều quét sạch, một kiếm ỷ thiên hàn, bóng soi chưa động lịch khối quả đô. Cửa từ đã mở đôi có nghiến không. Xa trời lỗ mũi phải xuyên thông, ai là ngựa trời giỏi truy phong. Nêu: Tăng hỏi Lục tổ: Ý chỉ Huỳnh Mai là ai được? Tổ nói: Người hiểu Phật pháp được. Tăng hỏi: Hòa thượng có được không? Tổ nói ta chẳng được. Tăng hỏi: Vì sao chẳng được? Tổ nói: Ta chẳng hiểu Phật pháp - Chém đinh chặt sắt rất khéo như vụng, một câu riêng nêu chẳng hiểu Phật pháp. Hết cả lá rụng thì hoa nở, chẳng hỏi xuân lạnh thu không riêng khác, đầm biếc ngàn xưa trăng giữa trời. - Nêu: Thái Nguyên Phù Thượng tọa hỏi Cổ Sơn rằng khi cha mẹ chưa sinh thì lỗ mũi ở đâu? Sơn nói: Như nay sinh rồi thì lỗ mũi ở đâu. Phù chẳng chịu bèn bảo: Ông hỏi ta, ta sẽ đáp. Sơn hỏi: Khi cha mẹ chưa sinh lỗ mũi ở đâu? Phù chỉ Đông cây quạt mà thôi. - trước khi cha mẹ sinh, sinh rồi cũng chỉ như thế. Có một thứ lấy được khéo léo ngay đây vẫn đục, như trong lửa hoa sen mọc ra đốt nay đốt xưa. Hết sức diệu huyền thật đáng thương, thanh phong luôn đầy tòa một vận tám ngàn năm. Nêu: Càn Phong dạy chúng rằng: Nêu một chẳng được nêu hai, bỏ qua một rơi vào thứ hai. Vân Môn ra nói rằng: Hôm qua có một ông Tăng từ Thiên thai đến, đi đến Kính Sơn. Phong nói Điển tọa ngày nay chẳng được phổ thỉnh - Xuân Lan cùng Thu Cúc, mỗi mỗi đều đúng lúc, chỗ nào không hồi hỗ oán ai phân tủy da. Gió tới chim đã biết, sương rơi hạc biết trước. Hỏi ông làm gì, người ấy trước chẳng biết. Nêu: Vân Nham hỏi Đạo Ngô: Đại bi Bồ-tát dùng nhiều tay mắt làm gì? Ngô nói: Giống như người đang đêm lấy tay mò gối sau lưng. Nham nói: Con hiểu rồi. Ngô hỏi: Ông hiểu gì? Nham nói: Toàn thân là tay mắt. Ngô nói: Thật nói chỉ nói được tám thành. Nham hỏi: Ông lại làm gì? Ngô nói: Toàn thân là tay mắt. Khắp thân là phải hay thông thân là phải. Tô Lạc đề hồ là một vị. Đầu lông phun ra núi Tu-di, hạt cải hút hết nước biển xanh. Mười hư nuốt sáng, Chánh nhãn trống vắng. Chiếu dụng đồng thời, nhân cảnh đều cướp, đầu gậy hét rồi lầm thừa đương. Tay sau lưng nắm lại cũng mất. Chớ chớ nước là nước hề núi là núi, rất kî không dây mà tự trói. Nêu: Động Sơn cuối hạ dạy chúng rằng: Đầu thu cuối hạ phải hướng vào vạn dặm không tấc cỏ mà đi. Chúng không đáp được. Tăng đem việc hỏi Thạch Sương. Sương nói: Sao chẳng nói ra cửa liền là cỏ. Đường Tân Phong bằng phẳng há việc Chánh thiên viên, vạn dặm không tấc cỏ. Ai có thể đến trước, cơ chẳng chuyển rơi trần duyên, thấu được thoát phạm phong uyên Lưu dương đoan phá hết trung biên. Ra cửa đã là cỏ thiên miên. Đầu cơ lỗi lạc biết mạch đến, hai bờ đều huyền một chẳng toàn. Lại nói: Xem dưới chân. Nêu: Định Sơn và Giáp Sơn cùng đi. Định Sơn nói: Trong sinh tử không Phật thì không sinh tử. Giáp Sơn nói: Trong sinh tử có Phật thì chẳng mê sinh tử. Hai người đều bảo mình nói thân thiết đến chỗ Đại Mai nêu ra mà hỏi, Mai nói: Một thân một sơ, hai người xuống đi. Hôm sau Giáp Sơn đến hỏi người nào là thân. Mai nói: Thân thì chẳng hỏi, hỏi thì chẳng thân. Giáp Sơn ở viện sau nêu việc này bảo chúng rằng: Ta lúc ấy mất một con mắt. Tuyết Đậu nói: Giáp Sơn chẳng biết lúc ấy đổi được một con mắt. Có Phật chẳng mê không Phật thì mê. Đại Mai đảnh môn Chánh nhã khi hoạch thì đã nghiệm thân sơ. Nhà ôm ngọc kinh sơn, người nắm châu linh xà, mất liền cho đổi được đồng về đường dứt xưa. Tác gia, chùy vàng ném trước mặt, gặp lúc chim diêu giỏi đuổi chẳng kịp. Sắp gọi Hồ tóc đỏ, lại có tóc đỏ Hồ? Nêu: Triệu Châu nói: Lão Tăng trả lời đi. Có ai hiểu câu hỏi thì đem câu hỏi đến đây. Lúc đó có Tăng ra lễ bái. Châu nói: So với ném gạch dẫn ngọc thì liền dẫn được ngói. Rồi xuống tòa. Sau pháp nhãn đem hỏi Giác Thiết Chủy ý này như thế nào? Giác nói: Cùng Hòa thượng nói thí dụ giống như quốc gia bái tướng vậy, hỏi ai đi được. Có một người nói con đi được. Đáp rằng: Ông đi chẳng được. Pháp Nhãn nói: Con hiểu rồi. Một ngàn năm ruộng tám trăm chủ, ai đương cơ biện chỗ đến. Triệu Châu cần trả lời ném gạch mà dẫn ngói. Giác Lão nói mánh khóe giống như việc bái tướng, đi được đi chẳng được, nói rồi phân Đạo tục, trong đó ở núi cao vạn nhận, chẳng động mảy may cầm giữ Phật tổ. Sung Ninh bắt chước xưa trả lời câu hỏi đi, hoặc có người bước ra chỉ hướng ông ấy nói xong. Nêu: Mã Tổ, Bá Trượng, Tây Đường, Nam Tuyền cùng ngắm trăng. Tổ chỉ trăng hỏi Tây Đường: Ngay lúc ấy như thế nào. Tây Đường đáp: Rất đáng cúng dường. Hỏi Bá Trượng, Trượng đáp: Chính đáng tu hành. Hỏi: Nam Tuyền, Tuyền phủi tay áo rồi đi. Tổ nói: Kinh vào tạng, thiền về biển. Chỉ có Phổ Nguyện riêng vượt ngoài vật. Sáng rỡ ngọc bích ngưng hư, trầm trầm phát tia sáng. Sắc thu cùng lắng trong, suốt đêm đến Hoàn Hải, tu hành cúng dường đậu viên cơ. Nhờ nghe liền đi vượt phương ngoài, ngựa con và sư tử rất khác nhau. Muôn xưa định càn khôn, một lời toàn giết cứu. Lại nói: Mở mắt ra. Nêu: Kim Ngưu đi ăn hỏi Bàng cư só rằng: Sinh tâm thọ thực, ngài Tịnh Danh quở trách, bỏ (đi?) hai đường này cư só lại cam chịu chăng? Cư só nói: Lúc ấy Thiện Hiện há chẳng làm nhà. Ngưu nói; Há can dự việc khác. Só nói ăn đến bên miệng bị người cướp. Kim Ngưu liền đi ăn. Só nói: Chẳng tiêu một câu - Tịnh Danh quở trách Thiện Hiện Kim Ngưu khám phá Bàng Lão, kia đây chẳng nhiều Tuấn Cơ không rơi cỏ. Mây làm mưa sấm chạy điện quét, giết cọp hãm cọp, ra cỏ vào cỏ. Tỳ-bà-thi Phật sớm lưu tâm, dù cho như nay chẳng được diệu. Nêu: Sư Tổ hỏi Nam Tuyền: Châu ma-ni người chẳng biết, trong kho Như Lai thân thâu được. Như thế nào là kho. Tuyền nói Vương Lão sư cùng Ngài qua lại đó là kho. Tuyết Đậu nói lão trong cơ. Tổ nói: Ngay khi không qua lại thì thế nào. Tuyền nói: Cũng là kho. Tuyết Đậu nói: Trên tuyết lại thêm sương. Tổ hỏi: Như thế nào là châu. Tuyền gọi: Sư Tổ, Tổ: Dạ. Tuyết Đậu nói: Đầu sào trăm thước làm tài giỏi chưa là hiểm. Nếu hướng trong ấy để (làm) được một mắt, chủ khách đổi nhau thì có thể vào sâu hang cọp, hoặc chẳng thế dù cho Sư Tổ ngộ đi, cũng là lão đầu rồng đuôi rắn. Ưng xanh rượt thỏ, ly long giỡn châu, lọt mắt xanh chẳng nháy mắt, chiếu vật tay thà trống, qua lại, chẳng qua lại, trong cỏ gạt thoa hồ, đầu sào trăm thước vào hang cọp, rõ ràng trên trăng lớn san hô. Nêu: Tăng hỏi Dược Sơn như thế nào là quý nhất trong đạo. Sơn nói: Siễm khúc. Tăng hỏi lúc chẳng siễm khúc thì như thế nào? Sơn nói: Nghiêng nước chẳng đổi. Báu nhất trong đạo là cứu đời không người sánh, Dược Kiêu phát kho sâu. Chỉ nói chớ siễm khúc chẳng siễm khúc, nghiêng nước đáp nhau (cùng đáp) chẳng thẳng nhau (cùng thẳng). Vách đứng ngàn nhận tâm này chân, không cần sau này hỏi Di-lặc. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Người học chẳng khởi một niệm lại có lỗi chăng. Vân Môn nói: Núi Tu-di - Măng đá trơ cành, trâu đất rống trăng. Ai liệu đồng thuyền từ Hồ đến. Ứng cơ vọt ra núi Tu-di. Một niệm chẳng sinh tuyết chỗ nào, bảo kiếm kim cương đương đầu cắt. Nêu: Tăng hỏi Đầu Tử: Một Đại tạng giáo lại có việc kỳ đặc chăng? Tử nói: Diễn ra một Đại tạng. Đốn, Tiệm, Thiên, Viên quyền thật có không. Miệng đinh lưỡi sắt, mắt sông, miệng biển. Một đạo thanh hư nêu cổ kim, tám rừng bàn thạch trong không chạy. Nêu: Trí Môn hỏi Ngũ Tổ Giới Hòa thượng rằng: Nóng đi lạnh đến thì chẳng hỏi, dưới rừng gặp nhau việc thế nào? Giới nói: Trước Ngũ Phụng Lầu nghe ngọc rơi. Vân Môn nói: Hề gì chủ núi bàn cao núi thấp. Giới nói: Trên đảnh Tu-di gõ chuông vàng. Cao cao đảnh núi lật ngược sóng bạc, đáy biển sâu sâu dậy bụi hồng, chuông vàng ngọc rơi thù tạc nhau. Nghi giết cuồn cuộn người thiên hạ. Nếu chẳng phải tác giả ai hỏi quan tân cầm roi quay đầu bốn biển thương nhau. Anh chẳng thấy Trọng Ni ôn Bá Tuyết, nghiêng long gặp nhau cũng kỳ tuyệt. Nêu: Bổn Nhân dạy chúng rằng: Tầm thường chẳng muốn hướng tiến trước cầu sau chơi trống nam nữ nhà người. Vì sao? Vì tiếng chẳng phải tiếng, sắc chẳng phải sắc. Tăng hỏi: Như thế nào là tiếng chẳng phải tiếng? Bổn Nhân nói: Gọi sắc được chăng. Tăng hỏi: Như thế nào là sắc chẳng phải sắc. Bổn Nhân nói gọi là tiếng được chăng. Tăng không đáp được. Bổn Nhân nói: Lại nói vì ông nói đáp lời ông. Nếu người biện được, cho ông có chỗ vào. - Tiếng ra hư sắc sinh không, tiếng trước câu sau chuyển đường hồ. Khoảng chẳng dung sợi tóc, sao có thể gọi khuôn mẫu Đường Đường viên ứng mất truy thù (số rất bé), khèo bày lò rèn phí công sơ, sao như dưới gậy vô sinh nhẫn, nghe tiếng thơm tho đầy đường đi. Nêu: Vân Môn hỏi Tăng rằng: Cổ Phật cùng cột trụ giao nhau là cơ thứ mấy. Tăng không đáp được. Vân Môn nói: Ông hỏi đi, ta nói. Tăng hỏi. Vân Môn đáp: Một điều thao ba mươi văn. Tăng hỏi: Như thế nào là một điều thao ba mươi văn. Vân Môn nói: Đánh cho. Đáp thay lời rằng: Núi Nam mây nổi, núi bắc mưa xuống. Du nhiên mây núi Nam, Bái nhiên mưa núi Bắc. Cột trụ cười ha ha, lồng đèn vượt Phật tổ. Giữa vọt bên mất, Tây Thiên Đông Độ, lầu các cửa mở trọn ngày nhàn. Lão quê chẳng biết chỗ nào đi.  <卷>QUYỂN 19 TỤNG CỔ 2 Nêu: Trong kinh giáo nói: Chưa lìa Đâu suất đã giáng sinh cung vua, chưa ra thai mẹ đã độ người xong. Đại tượng vốn không hình, chí hư bao vạn hữu, cuối cùng đã đi qua, quay mặt về Nam nhìn sao Bắc đẩu, cung vua Đâu suất, độ sinh ra thai. Trước sau nhất quán, xưa không tới lui, quét mất dấu vết trừ gốc rễ, hoa sen trong lửa nở nơi nơi. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Khi sinh tử đến làm sao trốn tránh. Môn nói trốn chỗ nào? Cá mắt vàng nuốt Đại thế giới, sâu tiêu minh nhã núi Diệu cao. Thái hư bao quát không sót lọt, vạn thứ cùng về trong bàn tay, khởi phục diệt đi trả lại. Thạch Kiều đạp dứt thông thân đen, sao biết hoa đảnh là Thiên thai. Nêu: Đơn Hà xưa gặp Mã Tổ lấy hai tay nâng khăn đội lên đầu. Tổ nói Ta không phải thầy ông. Ông nên đến chỗ Nam Nhạc Thạch Đầu đi. Đơn Hà bèn đến Thạch Đầu, nâng khăn như trước. Đầu nói: Làm Tào Xưởng đi. Đơn Hà đi với cậu bé. Một hôm Thạch Đầu nói với chúng rằng: Ngày nay ăn cơm xong phổ thỉnh cắt cỏ trước điện Phật. Chúng chuẩn bị đủ câu liêm cào cỏ. Riêng Đơn Hà thì rửa đầu rồi quì trước Thạch Đầu đưa dao bén lên. Đầu hỏi làm gì. Hà nói thỉnh Sư cắt cỏ. Thạch Đầu cười rồi cạo đầu cho lại gọi mà trao giới. Hà bịt tai mà đi, rồi trở về viện Mã Tổ ở Giang tây mà cưỡi lên cổ Thánh Tăng. Chúng kinh sợ báo lên Mã Tổ, Mã Tổ thân đến thấy bảo rằng: Con ta Thiên Nhiên. Đơn Hà bèn đảnh lễ nói tạ ân thầy đặt tên cho con Tổ hỏi ở đâu đến đây. Hà nói: Chỗ Thạch Đầu đến. Tổ nói Thạch Đầu đường trơn trợt ông từng đạp đổ chăng? Hà nói: Nếu đạp đổ thì chẳng đến. Hỏi một đáp mười, bảo đi biết đến, rồng bay hổ chụp, ngọc chuyển châu hồi, nhờ nghe nêu mà liếc qua, đứng dậy liền đi (làm) sao giỏi thế. Cắt cỏ rồi chắc kỳ lạ. Đặt tên rất cao tột. Hai lão lược huyền huỳnh, thưởng cho xương ngàn dặm, khuôn mẫu thật trấn giữ nghiễm nhiên thấy mặt tiêu cách. Bay trên không một cất mê gió mặt trời. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Trong khoảng càn khôn vũ trụ, trong ấy có một báu nhất bí mật ở Hình sơn, làm lồng đèn vào điện Phật, đem Tam môn đặt trên lồng đèn. Cọp beo vằn vện, kỳ lân đầu sừng. Sáng rực đất trời, núi đồi trùng điệp. Đánh phá Diên môn hề trùm sắc cưỡi tiếng, cắt đứt bẫy lồng hề, gỡ chốt mở trói, dẹp bỏ can qua đầu trăm cỏ, vạn dặm trời thu một ngạc bay. Nêu: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Hết cả đại địa nắm lại như nắm một hạt gạo lớn, ném trước mặt thùng sơn hiểu, đánh trống phổ thỉnh xem - Ánh sáng nhanh qua mũi nhọn, dòng chảy mạnh lướt qua mũi nhọn, ca vỗ theo nhau, quyền cước tương ưng. Bỗng nhiên ầm ầm chấn động sấm trời, trăm cỏ nghiêng đầu sắc xuân về. Nêu: Tăng hỏi Mã Tổ: Như thế nào là Phật? Tổ nói: Tức tâm tức Phật. Không có tu tỏa thủ đoạn khéo léo. Chẳng dẹp chuyển Nam Bắc Tây Đông. Thần biển biết quý chẳng biết giá, lưu ở nhân gian để chiếu sáng đêm. Nêu: Tăng hỏi Mã Tổ như thế nào là Phật? Tổ nói: Chẳng tâm chẳng Phật. Châu Bích Hải, ngọc bích Kính Sơn. Chiếu sáng càn khôn riêng biết. Dao bén cắt đi cây vô căn. Vạn hợp núi nhọn kính khói mù. Nêu: Mã Tổ cùng Bách Trượng dao núi thấy vịt trời bay qua. Tổ nói là gì. Trượng nói: Vịt trời. Tổ hỏi: Bay đi đâu? Trượng nói bay qua rồi. Tổ kéo lỗ mũi Bách Trượng. Trượng la lên: Ui cha! Tổ nói: Sao từng bay đi. Trượng do đó mà tỉnh ngộ. Vịt trời bay qua trước khe, ngàn núi sắc lạnh dữ, nhìn nhau chẳng biết về, chưa khỏi giúp bàng kích, gông phá nghi tròn cát đát tiêu. Gió lướt ngay đây thấu thanh tiêu, núi mây trăng biển lộn (đục) việc nhàn, một lời về Tông vạn nước chầu. Nêu: Tăng hỏi Cảnh thanh: Đầu năm mới lại có Phật pháp không? Thanh nói: Có. Tăng hỏi: Như thế nào là Phật pháp đầu năm mới. Thanh nói: Nguyên Đầu năm mở phúc lộc, ngôi. Tăng nói: Tạ ân Sư trả lời Thanh nói: Cảnh Thanh ngày nay mất lợi. Lại Tăng hỏi Trí Môn Minh Giáo đầu năm mới lại có Phật pháp chăng? Giáo nói: Không. Tăng nói: Năm nào cũng đều là năm tốt, ngày nào cũng là ngày tốt, vì sao không? Giáo nói: Ông Trương uống rượu ông Lý say. Tăng nói: Lão lão đại đại đầu rồng đuôi rắn. Giáo nói: Minh giáo ngày nay mất lợi. Ruộng đất ẩn kín thần thông du hí, Phật pháp đầu năm mới, có không đều mất lợi. Một khái bằng hư không, há cho lập lỗ mũi, gió trên cỏ Tổ khiến đi, chỉ biết sấm hết chẳng dừng tiếng. Nêu: Tăng hỏi Lang Bang: Thanh tịnh xưa nay vì sao bỗng sinh núi sông đại địa? Bang nói thanh tịnh xưa nay vì sao bỗng sinh núi sông đại địa. Vị Tăng ấy có tỉnh ngộ. Mắng nhau quanh ông tiếp miệng, khạc đàm nhau quanh ông vọt nước ra, bụi cất lên đại địa thâu, hoa nở mở thế giới, một rờ thoát mất (dứt) công huân, trong câu đợi mở cửa đại thí. Nêu: Tăng hỏi Trường sa: Thân xưa lại thành Phật chăng? Sa hỏi: Ông nói Thiên tử nước Đại đường lại cắt cỏ tranh cắt lúa chăng? Tăng hỏi: Thành Phật là ai? Sa nói: Ông thỉnh Phật biết hay chẳng biết? Ngục lớn sao từng thiếu đốt, vua Đường há lại cắt tranh. Lễ bái đến trước đứng khoanh tay. Tây thiên mười vạn xa xôi, cổ Phật tức là mình mình tức là cổ Phật. San hô đẹp đẽ mười chân xuân cóc nọ quyết chiếm hang rồng dữ. Nêu: Tăng hỏi Bá Trượng: Như thế nào là việc kỳ đặc. Trượng nói: Riêng ngồi núi Đại Hùng. Tăng lễ bái, Trượng liền đánh. Trong Tường để muối, trong tuyết đưa than. Vừa vuốt râu hùm đầu gậy có mắt. Quái lạ riêng ngồi núi đại hùng nhà khác từng đạp trên đầu cửa. Nêu: Tăng hỏi Hương Lâm: Như thế nào là một ngọn đèn trong nhà nhỏ. Lâm nói: Ba người chứng rùa thành ba ba - Sáng rỡ ánh sáng khắp cõi chẳng dấu. Tiếng ném chẳng ngoài sắc há có thể bày. Ngay đây chém đinh chặt sắt. Xóa dấu vết đường xưa nay cao người Lâm Tế Đức Sơn, ba người chứng rùa thành ba ba. Riêng riêng một hồi uống nước một hồi nghẹn. Nêu: Ma tích cầm tích trượng gặp Chương Kính, đi quanh giường thiền ba vòng chống tích trượng mà đứng sững. Kính nói: Như thế, như thế! Sau đến chỗ Nam Tuyền, cũng đi quanh giường thiền ba vòng rồi chống tích trượng mà đứng sững. Tuyền nói: Chẳng thế, chẳng thế! Cốc hỏi: Chương Kính nói thế vì sao Hòa thượng nói chẳng thế. Tuyền nói: Chương kính thì thế thế ông thì chẳng thế. Đây là sức gió chuyển, trọn về bại hoại. Như thế chẳng thế bỏ thuốc kî, định phạm phong cương toàn quân mất lợi. Đầu gậy bỗng ra hoa Cổ Lăng cả đời phong lưu thuộc nhà ấy. Nêu: Tăng hỏi Dược Sơn: Ruộng bằng cọng cỏ, nai chúa thành bầy, như thế nào bắn được nai trong nai (chủ trong chủ). Sơn nói: Xem mũi tên. Tăng bèn buông mình té xuống. Sơn nói: Thị giả tới kéo thây lão chết ấy ra. Tăng liền ngồi dạy chạy đi. Sơn nói: Lão chơi bùn đất có số gì? Người thợ săn có mũi tên thần bắn được nai trong nai, bắn xong vui thừa đương, trốn khỏi đường Tào Khê, quay mình đạp đổ cửa trên đầu, thắng địch kinh người, thấy ông trong đó. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Thuốc bệnh trị nhau, hết cả đại địa là thuốc, cái nào là mình. Núi cao (Thái Nghiêu) gỏ toàn giết cứu, dứt thừa đương không sờ mó, trong Hoàn ý khí, ngoài thành trù lược (tính toán mưu lược) lui về ba ngàn dặm, khắp đại địa là thuốc. Lầm lầm kiếm bén, ánh sáng bảy sao chớp sáng. Nêu: Càn Phong dạy chúng rằng: Pháp thân có ba thứ bệnh, hai thứ ánh sáng, phải là mỗi mỗi thấu được mới giải ẩn tọa. Tuy thế lại phải biết có chiếu có dụng, đồng thời hướng thượng một lỗ mới được. Vân Môn ra chúng hỏi rằng: Chỉ như người trong am vì sao chẳng thấy việc ma ngoại. Phong cười ha ha. Môn nói: Cũng là chỗ nghi của người học. Phong nói: Tâm hạnh ông là gì? Môn nói: Cũng cần Hòa thượng hiểu rõ. Phong nói: Phải thế mới hiểu được chỗ ngồi ẩn. Động khảy đàn riêng hát nghe một biết mười, tay nhấn xuống tay kéo lên, ném kéo vào sơn. Trong am chẳng thấy ma ngoại, chày sắt không lỗ chẳng hiểu, người đời biết nhau quý tri âm nước vào nước hề vàng thông vàng. Nêu: Linh Vân thấy hoa đào bèn ngộ, có tụng rằng: Ba mươi năm nay tìm kiếm khách, Mấy hồi lá rụng lại trơ cành, Từ khi thấy rõ hoa đào rồi, Cho thẳng đến nay dứt hết ngờ. Huyền Sa nói: Đúng rất đúng, dám bảo lão huynh chưa thấu suốt. - Trên bờ ruộng cười gió xuân, đầu cành sót tin tức. Hồng quang sáng Thái hư, há mượn mặt trời hòa sức học kiếm Tông sư đã chẳng nghi, Huyền Sa chưa thâu kỳ mới nhất, quét sạch đường học nạo thịt xương cơ cách ngoại như điện chớp. Nêu: Vân Môn hỏi Động Sơn: Gần đây từ đâu đến? Sơn nói: Vượt bè mà đến. Môn hỏi: Mùa hạ ở đâu? Sơn nói: Ở Báo Từ Hồ Nam. Môn hỏi: Lúc nào rời nơi đó? Sơn nói: Tháng tám năm nay. Môn nói tha cho ông ba gậy. Hôm sau Động Sơn đến hỏi: Hôm qua nhờ Hòa thượng tha con ba gậy, nhưng con không biết lỗi ở đâu? Môn nói: Túi cơm, hãy đến Giang tây Hồ Nam. Động Sơn liền đại ngộ. Thấy thỏ thả chim ưng nhân hành động tay. Xương đỏ trải cùng mới mong phú quý tha nhanh ba gậy còn chậm nghi. Lại đợi mới biết lợi đầu chúng, xiển đề riêng bỏ cơ ngoài cửa, kẻ mắt sáng nạp Tăng cũng chẳng hiểu. Nêu: Tam Thánh hỏi Tuyết Phong: Cá vàng thoát lưới lấy gì mà ăn. Tuyết Phong nói: Đợi ông ra khỏi lưới ta sẽ nói với ông. Thánh nói: Một ngàn năm trăm người Thiện tri thức, thoại đầu cũng chẳng biết. Tuyết Phong nói: Lão Tăng trụ trì việc rất phiền. Đầu trăm cỏ ra vào, ngao du ngoài ba cõi, uổng bày lưới đầy trời, dưới hư câu ba ba, giương vảy vểnh râu lay càn khôn ngút mắt ngang đầu phun sóng đỏ, gậy mưa điểm hét sấm đuổi, chịu đánh nhau định huân công. Nêu: Tăng hỏi Triệu Châu rằng: Thấy nói Hòa thượng thân gặp Nam Tuyền phải không? Châu đáp: Trấn châu sinh ra la-bặc (củ cải) - Trấn châu sinh ra la-bặc, hổ dữ chẳng ăn thịt, có nhiều mắt như sao sa, sao khỏi lấy Nam làm Bắc. Lão Triệu Châu rất khác xa, lời nói vốn tự định càn khôn lại khiến Tòng Lâm đấu om sòm. Nêu: Lục Hằng đại phu bảo Nam Tuyền rằng: Triệu Pháp sư cũng rất kỳ quái, hiểu nói trời đất cùng ta đồng căn, vạn vật cùng ta một thể Tuyên gọi đại phu, Lục lên tiếng: Dạ! Tuyền chỉ hoa nói: Người lúc ấy thấy, cây hoa này giống như mộng. Núi Nhuận đá chứng ngọc, rừng thấu việc dấu châu, thấy một cây hoa này nhữ mộng, rõ ràng căn thể chẳng đường. Vương Lão sư thoát khuôn mẫu, biết hướng chỗ Trường An ồn ào, gọi là được du du Lục đại phu. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Ngày mười lăm trở về trước thì chẳng hỏi ông, ngày mười lăm trở về sau nói đem lại một câu đi. Chúng không đáp được. Sư tự đáp thay rằng: Ngày nào cũng là ngày tốt. Phá hai làm một, phân ba thành sáu, xỏ chuỗi đến châu đếm chẳng đủ. Nam thần tin tay vin Bắc Đẩu, quay mình đụng hang mở cửa nẻo, chính hiên ấy thỏ ngọc đụng hang mở cửa nẻo, chính hiên ấy thỏ ngọc quạ vàng như chuyển đuốc, truyền chẳng truyền, được chẳng được, nào biết trên bờ xuân điều xanh. Nêu: Tăng hỏi Động Sơn như thế nào là Phật. Sơn nói ba cân mè chuông tự đánh hang nhận tiếng, ao in trăng, giương chứa vạn tượng chứa hình) từng không chung sự đầu cơ, há là cào phải đợi ngứa. Chỉ sắt thành vàng, nêu thẳng làm cong, một mũi tên điêu một con, một tát máu một tay. Ông chẳng thấy thưa mà chẳng lọt hề lưới trời lồng lộng. Nêu: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Ba đời chư Phật ở trong lửa sáng mà Chuyển đại pháp luân. Huyền Sa nói: Lửa sáng vì ba đời chư Phật nói pháp, ba đời chư Phật đứng trên đất mà nghe. Sắp bảo khỉ trắng lại có khỉ đen, cùng đổi đầu cơ, thần ra quỷ vào. Lửa dữ phô bày trời Phật nói pháp, phô bày trời xé ánh lửa Phật nói pháp, trước gió cắt đứt ngôn ngữ, một lời (nói) khám phá Duy-ma-cật. Nêu: Động Tự hỏi Ngưỡng Sơn: Là người ở đâu? Sơn nói: Quảng châu. Tự nói: Ta nghe ở Quảng châu có minh châu trấn giữ biển cả phải chăng? Sơn nói: Phải. Tự hỏi: Có màu gì?. Sơn dáp: Trăng tối thì hiện, trăng sáng thì ẩn. Tự hỏi: Ông đem đến được chăng? Sơn nói: Đem đến được. Tự hỏi: Sao không trình lên Lão Tăng? Sơn nói: Dạ. Tuệ tịch hôm qua đến Qui Sơn cũng bị đòi viên minh châu này, bèn không lời mà đáp, không lý mà bày. Tự nói: Sư tử con rống tiếng sư tử lớn. Kiếm Thái A, quyết không làm đứt tay, toan vuốt râu cọp dữ, ắt có sách toàn thân, khéo trình châu trấn giữ biển, lìa sắc, lìa tiếng, lìa danh tự, trong rừng chiên đàn đốt chiên đàn, trong hang sư tử, sư tử rống. Nêu: Triệu Châu dạy chúng rằng: Chí đạo không khó, chỉ sợ chọn lựa, chớ nên yêu ghét, thấu suốt sáng tỏ. Vừa có nói năng là chọn lựa, là sáng rõ ràng. Lão Tăng không ở trong sáng tỏ. Các ông lại giữ tiếc chăng? Tăng nói: Đã chẳng ở trong sáng tỏ chưa biết tiếc cái gì? Châu nói: Ta cũng chẳng biết. Tăng nói Hòa thượng đã chẳng biết vì sao nói chẳng ở trong sáng tỏ? Châu nói: Hỏi sự thì được. Lễ bái xong lui ra. Rất là giản dị, đồng trời đồng đất. Chọn lựa sáng tỏ vì sao giữ tiếc, miệng giống chùy, mắt giống mày. Thiệp giữ mạch, Huyền thương quì. Kham cười biện hòa ba lần hiến ngọc Túng Vinh liền chặt một chân. Nêu: Thạch Đầu dạy chúng rằng: Nói năng động dụng không dính dáng, Dược Sơn nói: Không nói năng động dụng cũng không dính dáng. Đầu nói: Ta cái ấy kim đâm chẳng vào. Sơn nói: Ta ở đó như trồng hoa trên đá. Đáy giếng trâu đất rống gọi trăng, trong mây ngựa gỗ hí gọi gió, nắm dứt càn khôn thế giới, ai phân Nam Bắc Tây Đông, cong trong thẳng thẳng trong cong, cần bình chẳng bình dựa vào cân thước. Nêu: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Vọng Châu đình cùng các người gặp nhau rồi, đỉnh núi Ô trạch cùng các người gặp nhau rồi. Sau Bảo Phước đem hỏi Nga Hồ trước Tăng đường mà hỏi rằng: Chỗ nào là vọng Châu đình, đỉnh Ô trạch gặp nhau. Nga Hồ bỗng bước về phương trượng. Bảo Phước liền vào Tăng đường. Ngó sen dẫn cá kình ba ba, kim và mũi nhọn ném hạt cải Vọng Châu Ô Thạch lãnh, chưa xướng đã đáp trước. Đại Đường đánh trống Tân La múa. Xem mặt trình nhau chẳng thấy nhau. Nêu: Đại Tống Hoàng đế hỏi Trung quốc sư rằng: Hòa thượng trăm năm sau cần vật gì? Quốc sư nói: Cần cái tháp vô phùng. Vua hỏi: Thỉnh sư nói hình tháp. Quốc sư nói: Hiểu chăng? Vua nói: Chẳng hiểu. Quốc sư nói: Ta có phó pháp đệ tử là Đam Nguyên biết rõ việc ấy, xin vua chiếu hỏi. Sau khi Quốc sư thiên hóa rồi. Vua mời Đam Nguyên hỏi ý ấy thế nào? Đam Nguyên trình tụng rằng: “Phía Nam sông Tương, đầm ở Bắc, Trong có vàng ròng đầy một nước, Dưới cây không bóng họp đồng thuyền, Trên điện lưu ly không tri thức”. Thủ đoạn khéo léo mâm không thế ngạc cao, trong ngoài trấn cao vòi vọi. Nếu là phần sáu đục, cầm tên nặc tướng nhận bóng mê hình. Rồng nằm mãi mong đầm biếc trong, họp cùng thuyền mở chén tâm, nhật dụng vì sao chẳng hiện thành. Nêu: Thạch Đầu gặp Dược Sơn ngồi bèn hỏi rằng: Ông ở đây làm gì? Sơn nói: Một vật cũng chẳng làm. Đầu nói: Đó thì ngồi không. Sơn nói: Ngồi không thì làm. Đầu nói: Ông nói chẳng làm, mà chẳng làm cái gì? Sơn nói: Ngàn Thánh cũng chẳng biết. Thạch Đầu lấy tụng khen rằng: “Từ xưa cùng ở chẳng biết tên, Mặc tình tướng tướng (đem nhau) chỉ đi đâu. Từ xưa Thượng Hiền cũng chẳng biết, Vội vã phàm lưu đâu thể biết. Dẹp bỏ trói Phật tổ, Rộng rãi ngoài dây mực, Một vật cũng chẳng làm, Dọc ngang được tự tại.” Gương xưa lên đài sáng biện tới lui, chùy vàng bóng động, cây sắt trổ hoa, mặc tình đem nhau chẳng thể bồi. Mây pháp tùy nơi làm sấm gió. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Người người hết cả đều có ánh sáng ở đây. Xem thì chẳng thấy tối om sòm, thế nào là ánh sáng ấy? Chúng không đáp được, Sư đáp thay rằng: Tam môn, Tăng đường, điện Phật nhà bếp. Đêm sáng ngoài rèm ngàn núi đẹp, gương loan trước đài vạn tượng hư (trống), quét hết dấu vết chẳng lập mảy may chỉ là điện Phật, chỉ là nhà trù (bếp) thơm, gõ ra tủy phụng hoàng năm sắc, đập nát châu ly long minh nguyệt. Nêu: Thế Tôn sinh ra, đi khắp bảy bước mắt ngó bốn phương, một tay chỉ trời một tay chỉ đất, tự nói trên trời dưới trời chỉ riêng ta tôn quý. Từ hông hữu sinh ra thân vàng, chín rồng phun nước thơm, vòi vọi bước đi bốn phương, khắp nơi hoa sen mọc, trước hết bày cơ thứ nhất, cao phong nêu cổ trấn vòi vọi. Lúc đó có người thừa đương được, thì rãnh rang cầm giữ, trắng nắm giặc chao ôi. Nêu: Tuyết Phong ở am có hai vị Tăng đến Tuyết Phong thấy liền dùng tay mở cửa am bước ra hỏi là gì? Tăng cũng nói là gì? Tuyết Phong cúi đầu trở về am. Vị Tăng ấy sau đến Nham Đầu, Nham Đầu hỏi Tuyết Lão có câu nói gì? Tăng nhắc lại lời trước. Đầu hỏi: Tuyết Phong nói gì? Tăng nói: Tuyết Phong không nói gì. Đầu nói: Ôi, ta hối hận lúc đầu chẳng nói với ông ấy có câu cuối. Ta nếu nói với ông ấy từ đây trở về sau người thiên hạ chẳng làm gì được Tuyết Lão. Tăng đến cuối Hạ nêu lời này mà thỉnh ích. Đầu nói: Sao ông không hỏi sớm? Tăng nói: Chẳng dám vội vàng. Đầu nói: Ta tuy cùng Tuyết Phong đồng sống nhưng cùng Tuyết Phong đồng chết. Phải biết câu cuối cùng chỉ là thế. Cùng sáng lại cùng tối, riêng mình đứng ở phương khác lạ, nắm cơ đối mặt đề lên, mũi nhọn ấy sao có chống đỡ, đồng sống hai gương chiếu nhau không thể gọi. Chẳng đồng chết cây sắt hoa nở bảy cổ kim. Câu cuối cùng mới đóng chặt, nắm lấy đại án sơn ở trước cửa. Nêu: Thiên Bình Tùng Ỷ Hòa thượng đi hành cước đến Tây viện, thường bảo rằng: Ngày nay chớ nói hiểu Phật pháp, chỉ tìm người nói cũng khó được. Một hôm Tùng đi qua pháp đường của Tây Viện, Tây Viện lớn tiếng gọi Tùng Ỷ. Tùng Ỷ quay đầu, Viện nói: Lầm! Đi được hai, ba bước Viện lại nói lầm! Viện hỏi: Vừa rồi hai lầm, là Lão Tăng lầm hay Thượng tọa lầm. Bình nói: Là Tùng Ỷ lầm. Tây Viện nói lầm lầm. Lát sau Tây Viện nói: Thượng tọa ở đây qua Hạ, đợi cùng ông thương lượng hai cái lầm ấy. Bình lúc đó liền đi. Sau đến ở Thiên Bình dạy chúng rằng: Lão Tăng năm ấy đi hành cước bị gió nghiệp thổi đến Tây Viện ở Nhữ châu, có Tư Minh Trưởng lão khám phá ta hai lầm liền lưu ta qua Hạ đợi cùng ta thương lượng, ta chẳng nói lúc đó lầm, khi ta chưa phát đủ Nam phương hành cước (chưa đi hành cước khắp phương Nam) thì sớm biết lầm rồi. Cầm dây neo thả thuyền, chống (cột) keo điều dây đờn. Nước xa chẳng cứu được lửa gần, dây ngắn sao kéo được nước giếng sâu. Thiên Bình Lão Đại bỗng thảo, vì hai lầm mà hối hận hành cước, Đại địa mênh mông sầu giết người, trong mắt không gần bốn đời nghèo. Nêu: Sơ Sơn ngày thường ở chỗ Hương Nghiêm. Một hôm Nghiêm lên pháp đường có Tăng hỏi: Chẳng mộ các Thánh, chẳng trọng tánh linh của mình lúc đó thế nào? Nghiêm nói: Vạn cơ nghỉ hết, ngàn Thánh chẳng dắt. Sơ Sơn làm tiếng ụa mửa. Nghiêm nói: Sư thúc chẳng chịu sao. Sơn nói chẳng được không lỗi, Nghiêm nói lỗi ở đâu. Sơn nói: Vạn cơ nghó hết cũng có vật ở đấy, ngàn Thánh chẳng dắt cũng từ người mà được. Nghiêm hỏi: Sư thúc nói được chăng? Sơn nói: Trả lại cho ta pháp tòa ta sẽ nói với ông. Do đó, Nghiêm mời lên tòa, như trước mà hỏi. Sơn hỏi: Sao chẳng nói chịu dạ chẳng được toàn. Nghiêm nói: Chịu thì chịu cái gì, dạ thì dạ cái gì? Sơn nói chịu thì chịu các Thánh, dạ thì dạ cái linh của mình. Hương Nghiêm nói: Sư thúc nói thế phải ỉa ngược ba mươi năm mới được. Sau Sơ Sơn thượng bị bệnh ngược Tỳ-vi. Một hôm nêu câu hỏi này với Cảnh Thanh. Bệnh Tăng chịu dạ chẳng được toàn nói thì làm sao hiểu. Thanh nói toàn về chịu dạ. Sơn nói: Chẳng được toàn lại làm sao? Thanh nói: Trong đó không đường chịu. Sơn nói: Mới khế họp ý bệnh Tăng - Dao chẳng tự cắt, ngón tay chẳng tự chạm. Cóc trắng quạ đen, tùng thẳng gai cong. Vừa có chút bụi liền mang ảnh đến, thoát thể toàn ném không dấu vết, chịu chẳng còn, da chẳng lập một mảnh thanh quang bắn đẩu ngưu, trên trời cõi người được tự do. Nêu: Triệu Châu hỏi Nam Tuyền rằng: Như thế nào là Đạo? Tuyền nói: Tâm bình thường là đạo. Châu nói: Lại có chỗ đến chăng? Tuyền nói: Vừa định đến liền trái. Triệu Châu nói: Chẳng định sao biết là đạo. Tuyền nói đạo chẳng thuộc biết hay chẳng biết, biết là vọng giác, chẳng biết là vô ký, nếu đạt đạo thẳng chẳng nghó, rộng đồng với Thái hư, há có thể gượng ép phải quấy ư? Châu nghe nói thì đại ngộ. Gặp cơm ăn cơm, gặp trà uống trà, ngàn lớp trăm vòng bốn biển một nhà, mở chốt cởi trói, nói không nói, làm không làm. Bổn thể rộng lớn bằng hư không gió theo cọp. Mây theo rồng. Nêu: Bá Trượng mỗi khi thượng tòa, thường có một ông già nghe pháp. Một hôm chúng đi hết, chỉ còn ông già ở lại. Trương hỏi ông là người gì? Ông già đáp: Con không phải là người. Năm trăm đời trước thời Phật Ca-diếp con từng ở núi này, lầm đáp người học một câu chuyển ngữ, do đó năm trăm đời đọa làm chồn hoang. Nay muốn nêu lời nói ấy lại thỉnh Hòa thượng đáp cho con. Bách Trượng nói: Ông thử nêu xem. Ông già nói: Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con đáp rằng: Không rơi vào nhân quả. Trượng bảo: Ông hỏi đi ta nói. Ông già bèn hỏi: Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Trượng nói: Không lầm nhân quả. Ông già bèn ngộ, được thoát thân chồn mà hóa. Cá lội nước ngược, chim bay rụng lông, soi rõ khó trốn, Thái hư trống vắng, một đi xa xôi năm trăm đời chỉ duyên nhân quả đại tu hành. Sấm nhanh phá núi gió chấn động biển, vàng ròng trăm luyện sắc chẳng đổi. Nêu: Phong Nguyệt ở Nha nội tại Dónh châu, lên tòa dạy chúng rằng: Tổ sư tâm ấn giống như con trâu máy bằng sắt, đi thì ấn dừng, dừng thì ấn phá, chỉ như chẳng đi chẳng dừng, thì nói ấn là phải hay chẳng ấn là phải. Lúc đó có Lô Pha Trưởng lão ra hỏi: Con có con trâu máy bằng sắt, thỉnh Sư không đáp ấn. Phong Huyệt nói: Quen câu cá kình lặn sâu biển lớn, liền đem ếch nhảy xoay bùn cát. Pha suy nghó, Huyệt liền hét rằng: Trưởng lão sao không nói? Pha nghó ngợi, Huyệt liền đánh một cây phất tử bảo rằng: Trưởng lão có nhớ được lời nói chăng? Thử nêu xem, Pha định mở miệng thì Phong Huyệt liền đánh một phất tử. Mục chủ nói: Sắp biết Phật pháp cùng Vương pháp là một thứ. Phong Huyệt nói: Thấy cái đạo lý gì? Mục chủ nói: Sẽ dứt không dứt lại gây loạn. Phong Huyệt liền xuống tòa. Liệt Thánh phong qui mới chẳng bỏ qua, định vượt qua trâu sắt bỗng đầu ấn phá Lô Pha đương dứt liền trầm ngâm, điện chớp, sao bay sống bị cầm, hét xong chống đỡ đồng sấm sét Tam Huyền qua giáp chấn động tùng lâm. Nêu: Tăng hỏi Động Sơn: Nóng lạnh đến làm sao trốn tránh. Sơn nói: Sao không vào chỗ không nóng lạnh mà trốn tránh. Tăng hỏi: Như thế nào là chỗ không lạnh nóng. Sơn nói: Khi lạnh thì lạnh chết Xà-lê, khi nóng thì nóng chết Xà-lê. Mâm lăn hạt châu, châu lăn trên mâm, chánh ở trong lệch, lệch ở trong chánh. Linh dương treo sừng không dấu vết. Chó săn quanh rừng không vội vàng. Nêu: Kim Ngưu mỗi khi đến giờ ăn thường tự đem cơm đến trước Tăng Đường vỗ tay cười lớn ha ha bảo rằng: Bồ-tát hãy ăn cơm hãy ăn cơm. Sau Tăng hỏi Trường Khánh: Ý chỉ ấy như thế nào? Đáp rằng: Giống như Trường Khánh đến giúp. Tăng hỏi Đại Quang: Chưa biết Trường Khánh giúp cái gì? Quang liền múa. Tăng lễ bái. Quang hỏi: Ông hiểu gì? Tăng cũng múa. Quang nói: Gã chồn rừng ấy. Sợi đến sợi đi phân minh (rõ ràng) qua lại, nếu chẳng hiểu nhau làm sao nghiệm lấy? Nhân trai Trường Khánh giúp phương tiện, giẫm đạp chỉ nói trình múa, chồn rừng bảy sao, kiếm bén cá kình nhiều máu. Nêu: Sơ Sơn dạy chúng rằng: Bệnh Tăng năm Hàm Thông trở về hiểu việc bên pháp thân. Năm Hàm Thông trở về sau hiểu việc hướng thượng pháp thân. Vân Môn ra hỏi: Như thế nào là việc bên pháp thân? Sơn nói: Cây thung khô. Như thế nào là việc hướng thượng pháp thân? Sơn đáp: Không phải cây thung khô. Môn hỏi: Hỏi lại cho học nhân nói đạo lý không. Sơn nói: Cho. Môn nói chỉ như cây thung khô há chẳng phải là sáng việc bên pháp thân. Sơn nói: Phải. Sơn nói: Không phải cây thung khô há chẳng phải là sáng việc hướng thượng pháp thân. Sơn nói: Phải. Môn nói: Chưa biết pháp thân lại bao gồm tất cả chăng? Sơn nói: Pháp thân biến khắp sao được chẳng bao gồm. Môn chỉ tịnh bình nói: Lại có pháp thân không. Sơn nói: Chớ tìm bên tịnh bình. Môn nói: Dạ, dạ. Mắt nhìn Đông nam, ý ở Tây bắc. Dẹp chuyển Thiên quan, lật ngược Địa trục, pháp thân hướng thượng pháp thân biên, khoảng khí anh linh năm trăm năm, keo sơn ném nhau, tên chống gậy, núi Nam mây nổi, núi Bắc mưa. Nêu: Đường lên Đài sơn có một bà lão. Tăng hỏi: Đến Đài sơn đi ngã nào? Bà lão nói đi thẳng Tăng vừa đi. Bà nói: Tốt nhất cứ thế mà đi, trước sau Tăng hỏi đều như thế. Sau có Tăng đem hỏi Triệu Châu. Châu nói: Đợi ta vì ông khám phá bà lão ấy. Bèn đi hỏi: Đường lên Đài sơn đi ngã nào? Bà nói: Đi thẳng châu vừa đi, bà liền nói: Tốt nhất cứ thế mà đi. Châu về đem hỏi đại chúng: Ta vì các ông khám phá bà lão ấy rồi. Lão Túc nói: Chỗ nào là chỗ khám phá. Khéo buộc nút không dây, khéo làm dấu không vết, không đánh lính thua người, thẳng mặt nhanh đương cơ, Bà lão khám phá núi Ngũ đài, có ai tham thấu cửa Triệu Châu. Nêu: Vân Môn dạy chúng rằng: Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm, thế nào là nghe tiếng ngộ đạo thấy sắc minh tâm. Đưa tay lên nói: Quán Thế Âm Bồ-tát đem tiền đến mua bánh bột, buông tay xuống té ra là bánh bao. Thấy sắc tâm trước hiện, nghe tiếng đạo đã bày, trong ánh sáng điện chớp phân sáng trắng, trong tiếng hải triều có cung bậc. Thiều Dương Lão cửa từ khắp, phát cơ dùng ngay nỏ ngàn cân. Nêu: Cảnh Thanh hỏi Tăng: Ngoài cửa có tiếng gì? Tăng nói tiếng giọt mưa rơi. Thanh nói: Chúng sinh điên đảo mê đuổi theo vật. Tăng hỏi: Hòa thượng làm gì? Thanh đáp: Tự chẳng mê. Tăng hỏi: Ý chỉ như thế nào? Thanh nói: Xuất thân cũng khá dễ. Thoát thể nói phải khó. Thuận dòng nghịch dòng, chuyển vật vật chuyển. Lành thay Quán Âm vui gặp phương tiện, xuất thân thoát thể câu rõ ràng, ngoài cửa nương tiếng trước giọt mưa. Nêu: Nam Tuyền dạy chúng rằng: Đêm qua Văn-thù Phổ Hiền khởi Phật kiến, pháp kiến. Mỗi người ăn hai mươi gậy đày hai người ra núi Thiết vi. Triệu Châu ra nói: Hòa thượng đánh gậy dại ai ăn. Tuyền nói: Vương Lão sư có lỗi gì? Châu lễ bái. Tuyền xuống tòa về phương trượng. Sương mù dậy rồng ngâm, gió sinh cọp rống. Hai miệng một lưỡi khác tiếng đồng điệu. Văn-thù Phổ Hiền thấy Phật pháp, Nam Tuyền Triệu Châu nhìn nhật nguyệt theo lịnh mà làm chỉ khoảng nhìn, tận tình đày đọa vào núi Thiết Vi. Bỗng có người chẳng giận bước ra nói: Sùng Ninh nhó: Chỉ hướng người khác nói, quả nhiên quả nhiên. Nêu: Tuyết Phong hỏi Tăng: Gần đây từ đâu đến? Tăng nói: Phúc Thuyền. Phong nói: Biển sinh tử chưa qua, vì sao lật thuyền? Tăng không đáp được. Phúc Thuyền đáp thay: Nói không sinh tử. Tuyết Đậu đáp thay: Đã lâu nghe tiếng Tuyết Phong. - Chưa vượt biển sinh tử, chẳng nên Phúc Thuyền nó vốn không sinh tử, vượt lên lìa hai bên, dài như mặt trời chiếu sáng giữa trời, phóng ánh sáng chiếu đến trước Tuyết Phong. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Như thế nào là một thời giáo? Môn nói: Đáp một lời. Hải Tạng, Long cung, văn vàng, lá ngọc, đậu khí quan cơ, phá quan, kích tiết. Hơn ba trăm hội chấn động cương tông, bốn mươi chín năm đồng cái lưỡi, a thích thích đáp một lời, lời rất đúng như cắt sắt. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Chẳng phải cơ trước mắt cũng chẳng phải việc trước mắt lúc ấy như thế nào? Môn nói: Đảo ngược một lời nói. Là giặc biết giặc, lấy nêm gỡ nêm, dấu chim không mây, gương chiếu trăng nước, dạy cho sư tử con quyết mê dấu, pháp an thân của con mèo trên cây, hoạt bát đảo ngược một nói, rãnh rang lật ngược hang chồn. Nêu: Thế Tôn ở một chỗ chín tuần an cư, đến ngày tự tứ Văn-thù thẳng đến, Ca-diếp hỏi: Hạ này an cư ở đâu? Văn-thù nói an cư ở ba chỗ. Do đó Ca-diếp bạch chúng muốn đuổi Văn-thù ra, vừa đánh kiền chùy bèn thấy vô lượng cõi Phật, mỗi mỗi Phật đều có một Văn-thù và một Ca-diếp đánh kiền chùy muốn đuổi đi. Do đó Thế Tôn bảo Ca-diếp rằng: Ông nay muốn đuổi Văn-thù nào? Voi to chẳng đi đường thỏ, yến sẽ nào biết hồng hộc, theo lịnh rõ ràng thành gió, phá cặn như cắn mũi nhọn, khắp cõi là Văn-thù, khắp cõi là Ca-diếp, đối nhau đều nghiễm nhiên, dơ chùy lên chỗ nào phạt một tờ, Kim Sắc Đầu-đà từng lạc tiết. Nêu: Nham Đầu dạy chúng rằng: Kinh Niết-bàn nói: Ý giáo ta như trống thoa độc, đánh lên người xa gần nghe đều chết. Tăng hỏi: Như thế nào là trống thoa độc? - Đầu Á Thân nói: Hàn Tín lâm triều - Trời cao đất dày, nước rộng núi xa. Tiêu Hà chế luật, Hàn Tín lâm triều. Trống độc chưa đánh trở về trước phải dâng lời lấy. Nêu: Văn-thù hỏi cô gái An-đề-giá sinh lấy gì làm nghóa? Cô gái nói: Sinh lấy sinh sinh làm nghóa sinh. Văn-thù hỏi: Như thế nào là sinh. Lấy chẳng sinh mà sinh làm nghóa sinh? Cô gái nói: Nếu hay biết rõ bốn duyên đất nước lửa gió, chưa từng tự được có chỗ hòa họp, mà hay tùy chỗ phải làm để làm nghóa sinh. Văn-thù hỏi: Chết lấy gì làm nghóa? Cô gái nói: Chết lấy chẳng chết mà chết làm nghóa chết. Văn-thù nói như thế nào là chết lấy chẳng chết mà chết làm nghóa chết? Cô gái nói: Nếu có thể biết rõ đất nước lửa gió bốn duyên chưa từng tự được có chỗ lìa tan mà có thể tùy chỗ phải làm để làm nghóa chết sống lấy chẳng sống mà sống, chết lấy chẳng chết mà chết căn bản rồng sáng, đúng lúc mà vượt Phật tổ. Tùy nghi mà lìa tan cùng hòa họp, mười chữ dọc ngang hoạt bác. Kiếm báu của kim cương vương chống trời, ngoại đạo thiên ma đều vỡ mật. Nêu: Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Trời lạnh hay người lạnh? Ngưỡng Sơn đáp: Mọi người, ở trong ấy. Qui Sơn hỏi: Sao không nói thẳng? Ngưỡng Sơn đáp: Vừa đến cũng chẳng cong vạy, Hòa thượng như thế nào? Qui Sơn nói: Lại cũng theo dòng. Gió Bắc sính nghiêm oai, lẫm liệt vào xương thịt. Một câu bao trùm trời người, mấy ai chịu dấu vết, theo dòng nhận được thân xưa nay, khắp cõi đều là trân báo vô giá. Nêu: Qui Tông dạy chúng rằng: Ta nay muốn nói thiền, các ông đều đến gần đây. Đại chúng tiến lên trước. Tông nói: Các ông nghe hạnh Quán Âm khéo ứng hiện các nơi chốn. Tăng hỏi: Như thế nào là hạnh Quán Âm? Tông khảy móng tay nói: Các người có nghe chăng? Tăng nói: Nghe. Tông nói: Một nhóm người hướng vào đó tìm cái gì? Lấy gậy đánh đuổi đi, rồi cười lớn ha ha mà trở về phương trượng. Vô học vượt đờn chỉ, Viên thông nhó căn tịnh, thấu qua nghe chẳng nghe, diệu thay hạnh Quán Âm. Đầu gậy chỉ ra kim cương chúa, làm bến cầu trong đường hiểm ác.  <詞>VIÊN NGỘ THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 20 KỆ TỤNG Cao Tông ở Phiên Để ba lần thỉnh Sư thượng tòa nói kệ. Nhân thiện vời quả thiện Trồng lúa chẳng sinh đậu Người tu phước đức lớn Người nhận phước đức lớn Tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật Trên đầu một sợi lông đã viên thành Đầu gậy hét thừa đương được Bước cao đi trên đảnh Tỳ-lô. Rất giản dị, rất tôn quý. Trở về trên đỉnh đầu. Thế xuất thế gian chẳng nghó bàn Phút chốc viên thành tám vạn môn Vượt thẳng vào Như Lai địa. Chúng sinh xưa nay là Phật Bỏ giận bỏ si tham mùi đời, Không tình ai giữ đất chân như, Có khi được một quang cảnh đẹp Ngã tư đường mặc tình dạo chơi. Ngụ ngôn: Xưa nghe lặn xuống biển lớn một lần dơ lên mười hai con ba ba, xưa cầm tịnh hoa này chưa từng kịp một sợi lông mùa thu, mịt mờ trong đại tượng, ra vào đâu thể tránh, chỉ tự mình theo duyên, để ý thật luống nhọc. Cử Dâng Công lên tòa, nguyên có kệ rằng: Nghó khoe tứ phần dẹp Lăng-nghiêm Đè xuống đầu mây triệt để tham, Chớ học lượng công thân Mã tổ, Lại như Đức Kiệu hỏi Long Đàm, Bảy năm qua lại dạo Chiêu Giác, Ba năm bay lượn trên Bích Nham, Ngày nay phiền sung Đệ nhất tòa, Trong bụi trăm hoa hiện Ưu-đàm. - Dạy chúng: Biện đạo cần phải biện tâm mình, Tâm gặp đâu đều là bến, Hiểu rõ cách ngoại vô sinh nhẫn, Làm ngay người giải thoát trong khu, Bàng Lão uống hết nước Tây giang, Nắm lại Diệu hỷ thân Tịnh Danh, Tám gió năm dục không thể chuyển, Hiếu hướng trong trần Chuyển pháp luân. - Ngày giỗ Phật Giám Hòa thượng dạy chúng: Năm rồi chính ngày nay Trâu đất đấu húc nhau nhào xuống biển, (cho đến nay không tung tích gì) Năm nay chính ngày nay Khắp cõi phóng ánh sáng Thân vô tướng hư không Phật Giám nghiễm nhiên ở Chẳng sắc cũng chẳng tâm Chẳng nhỏ lại chẳng lớn Kiếp đá có thể dời Trong đó không dời đổi Phải biết ân Phật Giám Các người sáng chủ tể Một câu đậu nhiều cơ Chí tâm luôn kính lạy Lại nói một câu gì Ăn cơm nhai gặp cát. Dạy Đơn Hà Phật Trí dụ Thiền sư: Hai, ba, bốn, bảy xưa không gián đoạn, biển đại oai quang bày đích truyền. Cầm dứt quan tân không khinh bỏ, cỏ sâu ai nhìn trước pháp đường. Dạy Trạch Ngôn Thiền Nhân (ba bài kệ): Tham thiền tham đến chỗ không tham Cùng Huyền cùng triệt huyền tân đầu Khát uống đói ăn chỉ như thế Thế gian ra đời mất nguyên do. Cơ quan đều là đồ không đủ nhà Huyền diệu trộn lẫn thành giày cỏ rách Trán sắt đầu đồng vượt Phật tổ Nắm ngang bắt ngược một hầm chôn. Hồng trần có luận, thành đạo Hang lạnh không người lại làm xuân, Nêu biết ý cầm hoa (mà) mỉm cười, Một lần cầm chơi một lần mới. Dạy Nhược Bình Thiền Nhân Giúp rập ở núi công đã lập Gánh vác lâu dài chí lớn chắc Vân Môn am lập đè âu phụ Ở trên trời cao lại có trời Tìm lại xưa nay cõi thanh tịnh Lúc khác gặp thấy truyền tiếng tốt Khách chủ ném nhau keo sơn họp Cùng nhau hoằng trì Thiền Lâm Tế. - Đưa Trí Tổ Thiền Đức: Một câu đương cơ hiểu Đường ngàn sai dứt vin Tới lui luôn soi xét Ồn im vững như núi Trăm cỏ nghiêng đầu cao Mây côi nhàn ngoài đời Hạnh hạnh cầm nắm chắc Phải mở cửa ải ra. - Đưa An Thủ Tọa về Đức Sơn: Khiến (Sứ?) thì không sai lệch (nhục mạng?), gặp cơ quý đối đáp - An thiền (sao) vuốt râu cọp, trứ trứ vượt phương ngoài - Chẳng chỉ sáng dưới cửa số an bày - Nhặt lấy giường thiền ném núi cao - Nắm chùy dựng phất phấn hùng biện - Tiếng vàng ngọc khua như sấm rền, chín tuần lạc lạc đề cương tông. Nạp tử giúp luôn đuổi gió, mở chốt cởi trói bày thủ đoạn, đuổi cày cướp cơm rất ung dung. Hạ hết nhớ núi muốn trở về, biết rõ lỡ lăng một đoạn việc, lững thững hang lý ở trong lòng Hạnh hạnh chẳng sợ không tri kỷ, khi đi đòi ta đưa một bài, trong gai cỏ lật kim cương quyển, ca ngắn phải được mấy mươi trượng, câu dài chỉ mất hai, ba lời, sư tử lông vàng biết quay mình. Đó là người kiệt xuất tòng lâm, chẳng ngày nào (chẳng có mặt trời?) trên đỉnh núi cao hò hét, năm lá một hoa trời đất xuân. Đưa Phạm Tư Thiền Lão về núi ở am (ở am tại núi Oản): Thoát khỏi lồng bẫy dứt hàm cương, Hiểu không mảy may được dung tham, Ngựa non phóng mạnh ai cấm được, Trước đài Oản Ba đi (bỏ) ở am. Đưa Đạt thị Giả đi Võ Lăng: Lâm Tế xưa khiển tướng, Nghiệm Đức kiệu làm linh Tiếp ở cùng một đưa, Quả khác thăm bóng gậy, Quốc sư ba lần gọi, Tiếng tiếng đều hiểu rõ, Phụ ông phụ cơ ta, Thấu thẳng đảnh ngàn Thánh, Người xưa từng thị giả, Căn khí như răn bảo này, Ông mấy năm khăn bình, Đã họp được chánh mạng, Nay lại từ Đế đô, Dạo thẳng cảnh Võ lăng, Đánh biện tinh thần giỏi, Cũng muốn biết bệnh thiền, Cắt đứt câu trước gió, Cướp lấy cán Phật tổ, Trở về khoa trạch lớn Tướng mạnh quả nhiên mạnh. - Đưa Tu Đạo Giả Không dỡ nón khám phá câu-chi, Một câu đánh ra một cổ Phật Như nay trở về Cữu vân am, Tham khắp các phương Thiện tri thức, Chót vót mắt ở đảnh môn, Sáng cao như mặt trời sáng rỡ, Gắng sức giữ truyền vô tận đăng, Nối lấy dấu tích cũ Mạt sơn. - Đưa các Hóa só (chín bài): Thấu suốt ấn Linh minh, gót chân Dụng đến rồi chẳng cách mảy may, Du lịch cõi Hoa tạng Tỳ-lô, Nắm dừng Mâu-ni trăm ức thân, Bảy tám bảo trân đều ta có, Trái phải lỗ hang cùng gần ai, Sống nhọc lũ lượt mà rủ (đưa) tay, Bèn là thông phương người tự tại. Trăng sáng rỡ giữa rừng, Xa xa trời chân mây, Lui tới không có lụy, Tròn khuyết vốn vô căn, Đậu nước sáng thường sạch, Làm mưa dầm ý chẳng họp bầy, Khe núi ngàn vạn dặm, Dị đồng có ai luận, Ca-diếp đầu gậy giết, Lão Tăng này nhiều lưỡi, Toàn thể hiểu thừa đương, Tổ tổ đâu từng khác, Muốn sáng cái việc ấy, Phải khéo xem thời tiết, Gặp được cùng người nào, Trong mắt lấy bụi ra, Thấy nhiều Bắc sơn môn, Chào chào đều nạp mây, Tay diệu rộng trình bày, Lật ngược hang ly long, Trên đảnh đầu ngàn Thánh, Có đường lớn phá trời, Chỉ là người vô tâm, Mới hay rộng đặt bước, Đạp khắp đất bằng, Ngày đi ngàn trăm lượt, Muốn dẫn khắp thế gian, Đồng loạt cùng đi đâu, Ông đưa tay vào (?), Cần phải khéo hồi hổ, Chỗ ồn ào gặp nhau, Đương cơ phải nắm dừng, Giống qua vườn kim cương, Xin tận tình phân phó. Trở về Thiện pháp đường, Đánh lấy trống đại pháp, Thấy mặt rộng mở ấn Tam yếu, Toàn cơ thẳng sáng Chánh pháp tạng, Nắm bỏ Giang tây hiển Bổn tông, Ba ngày tai điếc không tài giỏi, Cần phải buông tay ở núi cao, Tuyển huyền nhai nào ngàn vạn trượng, Muốn biết xứng ý được vảy gấm, Phóng mình quyết vào sóng kinh người. 4.Bốn liệu giản bốn chủ khách, ba huyền và ba yếu, đánh đá lửa ánh điện chớp, chính khuôn phép của Lâm Tế, đã tham thiền Lâm Tế, cũng phải tự kiểm điểm, chiếu dụng hét rất kỳ, nghiệm đầu gậy giết chết cứu sống, lấy đây vào giao (?). Đại phấn khương duy đởm, quang vinh làm phụng huy, bảy trân chỉ một thấy, cục thịt đỏ lòm của vô vị chân nhân, trước mặt ra vào như để xem, đầu gậy xét chánh phong lệnh trước, hét xong ép tướng gan mật lạnh, chẳng lập thềm bậc ai thờ Phật, có phép tắc thật được an tâm, quay mình trăm cỏ nghiêng đầu đụng, cắm tay trong hang ly long mà lật, muốn thấy nạp Tăng toàn ý khí, như mè vạn cảnh chớ can dự, duyên lớn nhổ khoảng tay hay biện, chưa tin đời người đi đường khó, Dẹp chuyển ngàn sai hướng thượng cơ, Phất cờ cướp trống chẳng nhiều ấy, Quay mình chiếm đất toàn sinh sát, Mới là sư tử con lông vàng. Uống hết nước Tây giang giống nhàn, Tác gia há lại chuộng cơ quan, Buông giáo tánh đất bằng như đá mài, Thành Phật công về một tuần. Đưa Tuệ Cung đi về Bình giang Một câu riêng đề vượt Tổ Phật, Đau đớn như kim chùy đâm thấu xương, Ra cửa liền làm sư tử con, Địch thắng kinh người giúp ném ngược, Bình giang xưa nay hang hào kiệt, Đi đi trước thông cái tin tức, Hạnh này chẳng làm rãnh rang đến, Tám mặt thanh phong thổi y giới. Đưa Cảnh Nguyên đi trước về Tỳ lăng Rõ ràng đề dậy cắt ngàn sai, Ai tin phong lưu ra nhà ấy, Muốn vào trong triền thông một tuyến, Rãnh rang mở lấy Bát đàm hoa, Khéo chuyên đối đáp chẳng nhục mạng, Bèn thấy ba mắt chánh Ma Hê, Dẫu được quần linh khiến cùng đi Sáng rỡ cắt ngang đường Tào Khê. 9.Dương Vô Cữu quán sát: Xưa ở Hoàng đô tham gặp gì, cùng nay há lại có sai khác, rãnh rang thừa hứng cùng nhắc lại các điều đã nói. Mở pháp đường bụng gậy bên hiên ai. Phật tổ mạng môn đề ở tay, buông mở nắm gom lại chẳng phải khác, đã đến huyền nhai mà buông tay, từ đây chốt cửa chẳng nhiều. Dạy thiện hữu: Đoạn này xưa nay không trước sau, Phải gắng sức mạnh mẽ hành trì, Kim cang chánh nhãn thông thân đó, Vạn cảnh đến xâm phạm đừng theo nó. Tụng: Nguyệt Thượng Nữ nhân duyên Xưa nay chánh thể thấu căn nguyên, Vào núi đồng đường chỉ cửa này, Đã trụ Như Lai đại giải thoát, Cửa báu trong tay chiếu càn khôn. Tụng: Huỳnh Long Tam Quan Tay ta sao giống tay Phật, Tùy phần đưa hoa hái liễu, Bỗng nhiên rờ đụng đầu rắn, Không khơi gặp nó một miệng. Chân ta sao giống chân lừa, Triệu Châu thạch kiều lược chước, Bỗng như dựng lên da cầu, Sụp đổ năm núi ba ngọn núi. Người người có cái sinh duyên, Ngồi xoạc không đất dùi nghiền, Bỗng như mắt da cùng phá, Lo người khác đá thủng đáy thùng. Tụng: Ba độc Khe hang khó đầy (chứa) một niệm dục, Nê Lê suốt kiếp khổ nào kham, Ngộ được vạn pháp đều như huyễn, Cẩn thận chớ để tâm khởi tham. Chưa thấy thế gia bị họa lớn, Đốt cháy công đức không gì hơn sân, Bao nhiêu thuận nghịch đều dung thứ, Hỷ xả từ bi ra sáu trần. La sát vô minh triệt để si, Mịt mù chánh thể phát cuồng cơ, Mạnh làm kiếm Kim cang Bát-nhã, Ông ta đoạn dứt buông tay về - Vọng khởi cặn do ba tên này, Giam chặt trong sáu đạo bốn loài, Tự nhiên điều phục không công dụng, <詞>* CHÂN TÁN Khen: Mục Châu Hòa thượng. Cay cay đắng đắng lắm ai ơi, biết giúp Bắc vì cây lớn, gỏ Vân Môn rớt núi hiểm, cơ cao chớ nói như củi khô, phàm gọi đó là Trần Bồ Hai. Khen: Xá-lợi Hòa thượng Tử Tâm. Đó là con cọp Huỳnh Long, làm rạng rỡ chân xá-lợi, vạn năm như mặt trời mọc thế gian, cùng Thiện tri thức làm khuôn mẫu, bình sinh trách Phật, mắng Tổ. Do đây mới nghiệm được chỗ Phật. Lưu truyền lại cho pháp tử pháp tôn, chạm chỗ nào cũng phóng quang và động đất. Khen: Lục Tổ Đại sư. Cúi lạy Tào Khê chân cổ Phật, đã tám mươi đời là Thiện tri thức thị hiện chẳng biết chữ nghóa của đời, buộc miệng thành chương thấu hang pháp, lá rụng về cội mấy trăm thu, thân bền chặt trấn giữ Thiều Thạch, sáng như mặt trời hồng chiếu khoảng không, sáng như ly châu chiếu thái cực, Định Tuệ tròn sáng rộng rãi. Từ chỗ cầu hưởng ứng cũng hang trống. Công đức hằng sa khó lường, đều xuất ra từ sức bi nguyện của Ngài cả. Khen: Dương Kỳ Hòa thượng. Ba chân lừa gõ móng, hiểu Đạo chậu bát miếng hướng lên trời, gánh vác có một trăm hai mươi cân, lại gánh nặng kéo cày dắt bồ cào, vô cớ hoại mất thiền từ sáng. Khen: Bạch Vân Đoan Hòa thượng. Dương Kỳ mắt sau ót há thân, thấu được bụi vàng được mấy người phò trì Lâm Tế, một quyền đánh ngã Hoàng Hạc Lâu, hoa nở hai Tổ, lỗ mũi y trước đáp trên môi. Khen: Ngũ Tổ Diễn Hòa thượng. Trước núi một mảnh ruộng đất không, tùng trúc dẫn gió đánh lén người, nói tâm nói tánh, Lão Tăng trong đó là ác khẩu, riêng đề giặc bán, gánh váv bù bèo ba cân mè. Khen: Chân Như Triết Hòa thượng. Tòng Lâm Lão làm đời không bọn, lẫm liệt oai quang bốn trăm châu, một đánh cửa sắt nát vụn, ân lớn khó đem mưa sương đền đáp. Đơn Hà Phật Trí Dụ Trưởng lão thỉnh tán. Đoạt sấm sét quả tim hồng, vách đứng sao bay điện xẹt. Lâm Tế mạng mạch ông ta, đột xuất mạch địa diệu môn, gõ ra xưa không một vật, ba huyền ba yếu sáng rỡ phân phó Trí Phật, nghiền nát hang ổ người, cùng Tổ tông tuyết khuất. Ôi chao (hét?). Hoa Tạng Dân Trưởng lão, thỉnh tán. Lâm Tế Chánh pháp nhãn, theo lừa mù ấy diệt, cha con chẳng truyền nhau, thần tiên có bí quyết, há để họa cháu con, lại trong mắt có bụi gặp người tốt một đáp, rất kî đến người mà nói. Đạo Châu Thủ tọa, thỉnh tán. Trong màn Tử la rải chân châu, đêm sáng ngoài rèm mũi, sau câu ba yếu ba huyền, người nào thân được chỉ ấy, trước mặt Vô Vị Chân Nhân bỏ nó phóng ra. Phạm Tư duy-na, thỉnh tán. Đơn đề Chánh pháp nhãn Lâm Tế, rõ ràng ngầm trao cho lừa mù, Vô Vị Chân Nhân cục cứt khô, đầu gậy hét xong dứt danh mô. Năm ấy Hải Hội đại trùng cắn, ngày nay Ấu phong nêu giống nó, Viên Ngộ chẳng tiếc lời nói, trong lò lửa hồng nở hoa sen. Duy Tổ Tri Tạng, thỉnh tán. Quét sạch Phật tổ chẳng còn tánh mạng, cây sắt nở hoa, ngựa thần mười ảnh, Viên Ngộ truyền lại thiền Lâm Tế, bồng sấm sét chấn động ngàn đỉnh núi. Pháp Nhất Thư Ký, thỉnh tán. Hóa thành đạp phá, Bảo sở chẳng lưu, rõ ràng cắt đứt cơ quan, thấu qua trăm cỏ điên (nghiêng) đầu. Múa (huy động) thổi lông của Lâm Tế, cởi thuyền lớn Từ Minh đầu sừng giống nhau, khí loại ném nhau. Toàn cơ một hét phân chủ khách, phải tin ông ấy được tự do. Tử Văn Giám Tự, thỉnh tán. Oai như mãnh hổ ra rừng sâu, sáng như cóc bạc chuyển thái hư, nhìn thì rõ ràng, tức thì cũng ấm, mở chánh nhãn Ma-hê ở trên đầu. Bỗng Vô Vị Chân Nhân ở trước mặt. Có ai hiểu đây, há có thể hiển lời giao phó Tử Văn. Đạo Nguyên Thiền khách, thỉnh tán. Lâm Tế Chánh pháp nhãn tạng, bỗng hiện ra ba đầu sáu tay, giận hờn bỗng đánh chuông vua, gạt lừa ở thần thông du hý, Viên Ngộ trong lòng một nắm tay, tiêu mất lỗ mũi của nạp Tăng. Đức Kha Thiền nhân, thỉnh tán. Trong mắt có con ngươi, đảnh môn á (phụ) một chỉm phóng ra kim cương quyển, cả đời đề chẳng khởi. Trong đó hiểu Yếu lược ông ấy, sắt làm rường, vàng làm răng, như thế làm chết con cháu, chẳng thế thì so xét chút ít, diệt mất chánh nhãn bên con lừa mù, Viên Ngộ phong quang động trời đất. Cảnh Nguyên Thị Giả, thỉnh tán. Bình sinh chỉ nói thiền áo đầu, lắc lay áo đầu như vách sắt, thoát khỏi ràng buộc dứt gót chân (cội nguồn) đại địa nắm lại sơn đen, tuổi già chuyển lại mất lo lắng, hăng hái chùy Kim cang đập nát hang ổ, lúc khác cần biết mặt Viên Ngộ, một vì Cừ Nông đều nêu ra. Pháp Chiêu Duy Na, thỉnh tán. Bao lớn không ngoài nhỏ vào hào mang, hiện Bảo hoa vương tùy chỗ ở Đạo tràng, kiến lập quét sạch, chánh thể oai phong, một lời vách đứng tế tế huyệt huyệt, cừ nông mặt mũi này người nào hiểu, đề lên Viên Ngộ cỏ tất lật, thấy thể mất thương lượng, đem thoại khách truyền bá các phương. Hàn Triều Nghi, thỉnh tán. Dẹp đầu cửa chuyển thượng, ngàn Thánh phải cất bước chỉ có người trong ấy, phải thông một tuyến đường, đủ cỏ tranh thoát các duyên, đầu thành tín việc này, thề tâm tạp dụng, mãi mãi tên chống nhau, hình dạng hiện nét đẹp sơn dã, chiếm cứ cây cao không bóng mát, chống gậy chánh lệnh hành, nắm giữ một câu nào, Thiện Tài cúc cung ở trước, phong thần toàn thể bày, khí loại tự đồng nhau, đẹp thay tên cha con. Duy Biểu Tri Tạng, thỉnh tán. Đây để trên đầu ngàn Thánh, Lâm Tế kiến lập Đại pháp tràng núi cao vạn trượng giải phóng thân, có thể một hớp uống hết nước Tây giang. Đá lửa ánh điện xẹt cũng là độn, vai hổ chắp cánh định vô song. Thắng Cư Thiền Nhân, thỉnh tán. Đêm bùa sáng đuốc trời, kiếm thổi lông chiếu tuyết thần oai lạnh run lập cập, sáng đỏ lại chiếu chiếu (chiếu suốt) khi chưa mở miệng đã đương đầu cắt ngang, muốn vào cửa đến hét trước mặt. Thể tài giống có thể khắc gia, đất này chẳng chịu nước rò rỉ. Nhược Bình Thiền lão, thỉnh tán. Cao ôm áo lông chống ngang gậy, tác ý đề cương cắt ngang tài giỏi, buông bỏ một cơ hướng thượng, ngàn Thánh hồn quên mật chết. Ở đây có người thừa đương, liền thấy ngàn hiểu rõ trăm thứ, đầu gậy Viên Ngộ một giọt thiền, Tây giang mười tám thác đều đầy nước. Đàm Ngoạn Thiền đức ở Đầu Đà Nham am, thỉnh tán. Trên đá Bàn đà chống ngay gậy, nhìn kỹ rõ ràng từng không tài giỏi, chẳng cho (lập) gai cỏ lật kim cang quyển, chẳng thích khởi lập gương mẫu, Đầu Đà đảnh núi bỗng đi quyền, đánh cả (được) ông ấy cũng mất lường. Hoài Tổ Tri Điện, thỉnh tán. Gầy mà mạnh khỏe, già mà có vận khác, trống miệng nói pháp không tiếc, quét sạch tình thức, chẳng lưu chút vết tích, bảy chỗ Đạo tràng khớp như một nháy mắt. Có người chẳng đoái hoài nguy vong Tăng Cang Địa, muốn đến xông vào Tuyết phong mà hét. Văn Hạo Thiện nhân, thỉnh tán. Núi Mân sáng đẹp cao Tây nam, khí tượng bàn hồi rậm xanh tươi, anh kiệt chỗ sinh tử quen xưa, há cho mũi lạnh liền tham nhau, tự chẳng đem núi về làng. Cây có lưỡi vốn bày huyền đàm, được thỉnh cư nhàn Hạo mục kích (thấy rõ), nắm giữ về cất am tranh. Uẩn Ngộ Tiểu sư, thỉnh tán. Mặt trời mặt trăng đều hiện, ấn không ấn nước đều bày, cơ trước chẳng lưu dấu vết, cách ngoài cũng dứt thừa đương, cha con chí thân đường khác, thảy đều (người người) đảnh có viên quang, rất sợ cùng người minh phá, cửa này há có thương lượng. Thiền Nhân Tả Chân cầu thỉnh (hai mươi bài). Trong bọt huyễn sinh ra cây khô gỗ mục, đảnh thiếu thần cốt, tráng không viên châu, từng gặp Hải Hội rồng độc cắn, quyết ý truy phong ngựa trời phóng. Lập bày ngàn thứ khéo, kỳ thật một vật cũng không, nếu dựa theo cái ấy mà thấy, chí liễu chẳng biết cừ, khi hỗn độn chưa phân, không có mặt lỗ này, bọt huyễn đã bày vua (hoàng) bèn đầy đủ mười thứ, trong lòng chẳng lập mảy trần, miệng sừng sóng triều bơi vọt, chỉ có một phân biệt (kiện) dài, thích đánh phá thùng sơn. Chợt giận chợt mừng lẫn lộn chỉ do ông, rất thích lừa người khua môi múa mép, cỏ nhẫn khắp dất sinh, đâu từng tưới nước pháp, điên đảo tâm can một câu thiền, có chút con cháu cũng trình điềm lành. Trong khuôn mẫu thoát ra, Phật quả Lão Chùy xưa, chỗ vạn duyên dứt hết, khi ngồi thẳng chẳng nói, dời khắc chớp mắt hăng hái toàn oai, vì người đến thấu xương, chẳng tiếc lời nói. Khế khế giống thuốc đỏ (thược dược đỏ?), què què như Vân Môn, khác không hai lão thật, không uẩn hai lão văn. Buông ra hiểu việc đòi phá chậu cát. Gương báu một hạt bụi, phiến mây khoảng trời thu. Một thấy liền thấy, hiểu rõ mặt xưa nay, nhanh tay đơn thanh ứng duyên mà hiện, dần dần buông tâm càng thấy mạnh mẽ, chỉ dùng kim cương quyển cỏ tất lật, cần phải trăm ngàn rèn luyện, núi vách đứng vạn nhận buông tay, chánh nhãn trên đảnh môn rộng. Huyễn xuất thành tướng chân uẩn, trong đó trôi lên xương mắt, bốn tòa sinh gió truyền tâm chẳng thể truyền, chấn động tông chẳng chấn động. Lão ra khỏi Hoàng đô tuổi già ở Âu phong (ngọn núi Âu), chỉ cái ấy mất không hồi hổ, lãnh lược ở ông ta hét. Trong câu mất thiền, ngoài cách không huyền. Trước mặt chẳng thấy, dứt chẳng thể truyền. Giống ngọc ôn nhuận, như trăng riêng tròn. Khí đẹp sông nguồn, sáng chiếu đại thiên. Nạp y trốn mất cao chót vót, miếng đoạn mây tàn núi lồng lớn, vách đứng vạn nhận gần chẳng được, không Phật không Tổ không gậy hét, một hớp uống hết nước Tây giang. Đó là Viên Ngộ đương đầu được. Tướng hiện vô tướng, tâm ra chẳng tâm, như dấu ấn in trên không, xa dứt cổ kim, vào hang sư tử, dạo rừng chiên đàn, thoát khỏi dây cương, đến chỗ rộng sâu, muốn biết chỗ đứng của Viên Ngộ, một mình trên núi cao vạn nhận. Điểm tuyết trong lò lửa hồng. Đêm sáng ngoài rèm gỡ đèn vàng, đầm lạnh vạn trượng băng thấu đáy, trên đỉnh Diệu cao ngọc mấy tầng, đều là chỗ ông ta dạo đến, vạn cơ khắp ứng xưa chẳng từng, Viên Ngộ Lão sư đưa một tay hỏi rằng người nào giống như ta (giống tài ta). Dao bén chém hư không, tên thần xuyên mặt trời hồng. Dùng miệng nuốt mười phương, thổi ống sáo không lỗ này, như đây ba mươi năm không phí mảy may sức, tín thái ở đầu móc (lưỡi câu) cũng có vảy gấm ăn, có mắt tự thừa đương, cẩn thận chớ theo nó tìm. Đại cơ muốn phát nhanh, đại dụng cần cắt đứt, Mã Sư Lão Bá Trượng không đầu mối đã rò ró. Lâm Tế gọi lửa đến, quét sạch ngôn ngữ thiên hạ, Lão này dựa giường Hồ, cũng phải nói như thế, nói cùng chẳng nói, vạn dặm trời xanh một vầng trăng. Ngồi ngay Bàn đà, phóng thần sửa cao tột. Hoành lang tiêu cung rộng đảnh ngàn Thánh. Ai là Tiên Đà, chưa nói đã hiểu trước, một mảnh phong quang cướp cảnh cướp người. Viên Ngộ tuổi già lại càng thâm trầm, hoa mát đầu núi giếng trăm thước. Đứng trên đất có thể thành Phật, giết người chẳng nháy mắt, nghiền nát hang ổ sinh tử phải cái lão lỗi lạc, Viên Ngộ từ xưa nay đề cái này được, trước gió mây trắng từng hét tan, đương gia trồng cỏ khá theo nhau, kiếm bén bảy sao ánh sáng rực rỡ. Trong câu có xuất thân, chợt ở trên đảnh ngàn Thánh, đương cơ dứt ràng buộc, thấu qua cảnh vô biên, sinh bình nắm Kim cang vương bốn hét ba huyền ngoài cách hiểu, trước mặt đánh gõ thái châu già, chỉ là lừa mù truyền tánh mạng. Thấy mặt toàn chân chẳng kể thân sơ, đầu cọp hàm én chưa hết cừ thần, nắm dứt quan tân chẳng bỏ qua, vô biên sát hải so gần. Thái hư rộng vắng dựa ai ngộ, xoay mình ném ngược chân sư tử, thấu đảnh thấu đáy mất rào ngăn, ngàn núi cao vót ném một câu, lược mở cửa trên đầu Viên Ngộ, Phù Tràng sát hải rộng bước đi. Đạo chẳng ở đơn thanh, thiền chẳng ở diện tướng gượng ép diện mạo mình ở tương lai, khen làm hình trạng gì, lại đến cái hiện thành, vì ông nói Thượng (Nhất) nước đỏ cầu Châu Thần, được là do võng tượng, chùy xưa của Viên Ngộ Lão, già đến mất tài giỏi anh thiền cầm tướng đi, sóng bạc bốc ngút trời. Vốn không mặt mũi, bỗng ra sáu mươi bảy, nay ông cường đồ mạo (cốt theo hình ảnh?). Đảnh môn thiếu ba cái bảy chỗ vào chồn ồn, gần đây tiêu ninh mật, nếu lại đánh cát đằng, há có ngày yên nghỉ, ba mươi năm cùng người xem, Viên Ngộ từ trước mất hang ổ. Mây của trời cao, bụi của gương sáng. Ở trong vô tướng bỗng hiện thân này, khảo cứu thật diệu lấy gì làm chân, chẳng ra cái ấy một cái rất thân, thấu được riêng thoát cùng xưa làm gần gũi (láng giềng) đạo dứt hình tướng, danh còn chí công. Đối hiện sắc thân bản thể toàn không, yêu cầu lỗ mũi chẳng Tây chẳng Đông. Trăng chiếu đầm lắng, gió lay tòng xưa, mười thành Viên Ngộ ai biết ông ấy. Thông thân không hình tượng, đầy mắt sinh ánh sáng, động dụng cao như núi, nói im sâu như biển, nhiều kiến chánh như như, trong đó không biến đổi, nhảy khỏi Kim cang quyển Viên Ngộ, cần phải tin công lớn vốn chẳng chủ tể. Chân Như Thiền Nhân, thỉnh tán. Chỉ cái miệng mặt thấy được một vạn, phải là người trong ấy, tay thân tức mắt hiện. Phật quả ứng duyên, Viên Ngộ thành hiện, như như chỗ chạm được gặp hắn, một đạo thần quang vốn không gián đoạn. Chân Liễu Thiền nhân, thỉnh tán. Đơn Thanh có hình dạng hoạt bát, Viên Ngộ cứ ngồi nghiễm như. Phong quang toàn bày bẹt gối. Thân điếc mắt mở nhìn thẳng trên đảnh Âu phong cầu chức vụ quan trọng làm thanh minh (sáng tối?) chuyển thỏ quạ (thỏ đen?) gạc). * TẠP TRỨ (Tạp ghi) Hòa Linh Nguyên Khạp Thùy Ca (họa bài ca Linh Nguyên ngũ Mịt mù mịt mù không lỗ không mũi. Cao vót mừng rỡ dứt kî húy, tin nhiệm lưu quang động đất dời, chẳng luận Đông Hạ chỉ ngủ nghỉ, trong đó thắm mùi Phật, không hét trai hào và ốc, buông mình chẳng quản ngồi đáy nước, hứng phát luôn đẩy ông túi vải, mũi thở như sấm ai nhìn được, tầm thường ít thấy có lúc tỉnh, lúc mất tỉnh là thật có cần phải sáng tông chỉ trong ngủ nghỉ, từ xưa đến nay một thức đến trời sáng, Phật đến chẳng hiểu nâng thân dậy, nếu như phóng quang khắp đại thiên, trọn khó đổi đáy vô ưu của ta, xét thân sơ lộn lạo (ngầm) đánh mất, ngủ nghỉ căn linh chớ hỏi cùng. Có người khế hội liền đồng tham. Ngủ được phải biết miên mật. Bài minh Tu Đạo giả ở Nhược hư am. Tu Thiền Đạo Nhân, tùy thân một mình ở am, lấy tên là Phật Quả Lão Tử nhân cho tên là Nhược hư, bèn hội ba làm một, mà chẳng nêu ra việc bổn phận và thiền giáo. Vónh Gia nói: Thể như hư không không bến bờ. Kinh Phật nói: Chân pháp thân của Phật cũng như hư không. Hổn Nguyên nói: Thân dấu kín như hư không. Tuyên Ni nói: Thật như hư. Nói rằng: Một giọt giọt nước, một giọt giọt đông giá, chỉ cái gì bình thường trong ngoài rỗng không, căn trần dứt đôi, sáu môn hỗ dụng, thích ở am này mười tám bất cộng (mười tám năm chẳng ở chung ai) phải đùa giỡn lỗ nút, rõ ràng không may vá, ứng vật chẳng phải duyên, ai là huyễn mộng. Luận về phá vong truyền thai tức Đạt-ma. Tây phương Đại Thánh nhân ra nước Ca-duy-la, làm vô biên lượng Diệu dụng, hiển bày sát trần không thể đếm được Thắng nhân thù đặc khó nghó bàn, để dắt dẫn quần linh, phương ấy Phật thuận nghịch khai giá, nhiều ngôn điển khác tràn đầy kho báu. Cho đến hạ tiêu mới lộ bày tin tức một thật, gọi là ngoài giáo riêng làm riêng truyền tâm ấn. Ông già sắc vàng đến nay miên mật rõ ràng, chỉ luận chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, chẳng lập thềm bậc chẳng sinh tri kiến. Kẻ lợi căn thượng trí hướng vào hang vô minh mà phá kiến, trong cây phiền não mà thoát ra, đúng lúc siêu chứng được đại giải thoát. Thế nên Thiên Trúc hai mươi tám vị tổ, Đông độ sáu vị tổ, đều đã bước đến, thầy trò giỏi mạnh. Cơ cảnh ngôn cú động dụng nói im có thượng thượng thừa khí, cách ngoại lãnh lược. Ngay đó nghiệp chướng tiêu hết, thẳng cắt đứt gánh mạng. Ngoài ra luôn phải tự quản nhồi thành một khối, vượt thoát dòng đời khế nhanh Phật địa, còn chẳng chịu hướng vào nước chết mà ngâm tẩm. Nói ra thấu huyền diệu, vượt Phật tổ, tước bỏ cơ duyên, cắt dứt khế cơ, như chống kiếm Thái A, lẫm liệt oai thần có ai dám gần. Bậc tác gia xác thật luận lượng. Vừa có hướng thượng hướng hạ thắng diệu tánh lý tác dụng mảy may thì liền hét. Chẳng phải từ xưa trồng cỏ ngay đấy mười thành. Rèn luyện được nóng, giẫm đạp được thật, mới cùng (cho) lược bỏ qua. Cũng sợ lúc khác lạc cỏ phụ lụy người, làm mù mắt Chánh pháp nhãn. Than ôi, thấy một dòng họ chồn mù, tự chẳng từng mộng thấy Tổ sư, tức vọng truyền Đạt-ma đem thai tức truyền người. Gọi đó là truyền pháp cứu mê tình. Cho đến dẫn từ trên các tông sư lớn tuổi như An quốc sư hay Triệu Châu đều làm khí này. Kịp khi khoe Sơ tổ một chiếc dép, khắp bày quan (phổ hóa?) tài trống, đều nói thuật này có nghiệm, bèn đến hồn thân thoát đi, gọi đó là hình thần đều diệu, mà người nhân gian rất yêu thân này, sợ cái sợ đêm ba mươi tháng chạp, tranh truyền pháp qui chân. Đêm khác nhìn ảnh gọi chủ nhân ông, lấy bói nhật nguyệt mà nghe trống lầu, nghiệm ao ngọc mà thấy nhãn quang làm pháp thoát sinh tử. Thật giả hài hước làng xóm, ngụy tạo nắm hang sơ tổ mà nói, bài mười hai giờ của Triệu Châu mà ca, Bàng cư só chuyển hà xa (xe nước) mà tụng. Kịp đến cùng chỉ trao mật truyền hành trì, mong được nhiều năm (sống mãi), kịp khi toàn (cho đến khi) thâu thoát đi, hoặc mong ba trăm, năm trăm tuổi. Rất chẳng biết. Đây thật là vọng tưởng cứ kiến vốn là thiện nhân, chẳng biết là đọa vào cỏ hoang, mà kẻ giỏi dang tuấn kiệt, nói cao biện lớn coi thấp các Tổ sư thường thường tin theo. Há biết bước chẳng nhìn thì vẻ cọp thành chồn gặp kẻ trí thức (có biết) Đại Đạt Minh Nhãn thấy phá ở thường. Trong chúng chỉ im lặng quán thương xót há Thích-ca Văn (Phật Thích-ca) cùng thể tài các Tổ chỉ nhãn thức thôi ư? Từng chẳng tự hồi chiếu trước sau thì yên lành liền biết. Người trong nước học Đạo này như lúa mè tre trúc, người cao thức thấy xa tự chẳng do dự. Sợ chỉ chợt phát ý chưa vào chỗ sâu kín. Cố chí tuy chuyên, bước khắp tuy xa. Gặp kẻ Tăng thượng mạn dắt vào rừng tà kiến này. Chưa nêu lên một lầm mãi mất hồi chuyển. Hạng ấy ngâm rộng không thể ngăn cấm. Nhân nói ra lời này có nhiều chí nguyện ở Đại giải thoát, Đại tổng trì. Có thể biện ra mà vào biển Đại Tát-bát-nhã Vô Sinh, thả thuyền nhỏ tiếp cứu quần phẩm khiến Đạo chân chánh truyền mãi vô cùng, há chẳng vui sướng sao? Biện Ngụy (Luận chỗ dối trá) - Bình sinh già này đã trải qua nhiều lớp Thiền, khắp tham tri thức đã nghiên cứu kỹ các Tông phái, tuy chẳng thấu suốt tất cả nhưng mười thì cũng được tám, chín. Cũng thông hiểu việc chỉ dạy học trò tự chẳng vội vàng. Chẳng biết người nào trộm lấy tên học rộng, nghe nhiều của Sơn Tăng bèn đem làm loạn đạo. Vì chỗ Sơn Tăng nói ra, nhìn kỹ thì khiến người đỏ mặt xuất hạn, huống là già tôi chưa chết, sớm đã thấy bừa bãi như đây, xin mời các nạp tử có trí tuệ xem kỹ, chớ nhận lầm mắt cá là minh châu. <詞>* PHẬT SỰ Vì Trí Hải Pháp Chân Hòa thượng nhập khám. Thích-ca thị tịch ở rừng Song thọ, ngồi yên Kiết tường, ngài Pháp Chân Trí Hải cáo chung, ngồi thẳng hàng trên, bốn mươi năm Đạo giá, bảy mươi mốt sinh duyên. Đức khắp hoàn vũ, tiếng vang hải ngoại. Người trời kính trọng, Thành đô thôn quê đều tôn sùng. Những mong luôn làm thềm bậc thuyền bè, thắp sáng mãi Phật tổ, há hẹn trong bận rộn mà bó tay, trong ồn mà quay mình, cuối cùng ở Đế đô mà làm đại Phật sự. Nay thì chưa chôn cây ngọc trước vào khám mây, công án hiện thành phải đến một quyết. Đại chúng Nhân Hạnh chẳng ngại ra tay, tài khéo chẳng bằng làm gương, là điềm lành vô biên vô lượng. Thỉnh lão Hòa thượng trở về phương trượng. Vị Phật Nhãn Hòa thượng Cử Ai. Ba mươi năm hành đạo, người bậc nhất trên biển khi suy vi (thổi tan nói đi?) chỉ thấy chẳng chua cay. Tuy như thế, cần phải biết Phật nhãn chưa từng sống chưa từng chết, chưa từng đi, chưa từng lại, chính cùng lúc nào như thế. Bèn chỉ khám nói rằng: Ta cùng Tuyết Phong đồng sống, không cùng Tuyết Phong đồng chết. Phải biết câu cuối cùng rành rõ khắp thỉnh đại chúng cùng lên tiếng. Bèn nói thương thay. Vì Phật Hòa thượng châm lửa lễ trà-tỳ. Như Lai ngày Niết-bàn ở rừng Ta-la Song thọ phóng ra lửa Tam- muội, tự trà-tỳ thân sắc vàng. Có điều vin điều, không điều vin lệ. Cho nên Bảo Sơn Phật Nhãn Thiền sư, Đạo khắp bốn biển, danh vang chín châu, hai mươi năm cai quản Đại sát (chùa lớn), lui về núi Bảo ngồi yên non Chung, vì bình sinh thọ dụng cỏ tất lật làm trâu đuổi người cày (trâu cày không người chăn?), vì Dương Kỳ phó chúc Kim cang quyển, cướp cơm người đói truyền giữ đại sự, đề lên cơ hướng thượng, nạp tử Vân Tùng (như mây từ) các phương kính mộ. Há gọi trong một nháy mắt quét sạch Báo Hóa Phật. Trong lúc nói cười, vội mất chánh nhãn trời người. Nay thì càn khôn rộng vắng, người cảnh tiêu điều, tuyết chiếu núi cao, gió lùa đồng trống, trên viên đảnh phóng ra ánh sáng thần xa vạn dặm. Đại chúng lại cùng lúc nào hiểu rõ chăng. Xem lấy trong ánh lửa đỏ khắp trời phát ra hoa ưu-đàm, cả đại địa đều là mùa xuân. Vì Diệu Thiền nhân, châm lửa trà-tỳ. Ngày hôm qua một cái chánh đáng thương, sáng nay một cái lại thê lương. Quay mình đạp lên đường Tào Khê, Diệu thể đường đường mất thay đổi. Diệu sư thích tham thiền, Tổ Phật đều sánh vai đòi hỏi phải đi đâu, một đóa sen trong lửa, sống thì mây nổi bỗng sinh ra, chết thì không hoa lặn mất. Sau đảnh tròn đồng Thái hư, rốt ráo không tâm không Phật. Này đại chúng, xem lấy một đạo Hồng quang (luồng sáng đỏ) đốt phá hang ổ vô sinh. Vì Phật Chân Đại sư châm lửa trà-tỳ. Chạm mắt đều Bồ-đề Chân giải thoát, Chánh nhãn trên đảnh môn chiếu khắp trời đất, thấu được cửa sinh tử, rộng lớn không khởi diệt. Phật thật là Đâu suất sinh bình giọt nước giọt đông giá, mạnh mẽ cắt đinh chặt sắt, cả đời đều trọng người ấy, nghe thấy đều kính nghe, trong bụi rậm nội thị nhảy ra. Nạp Tăng ở trong đội tu hành, tên vực Thánh gậy Huy, Hoàng hậu ban Độ điệp, làm kinh sợ mọi người, không ai sánh bằng. Sắp gọi là vạn dặm đường trước há hẹn trong khoảnh khắc trăm năm. Nay thì quay mình ra đi mãi mãi, ra khỏi kim cương quyển cỏ tất lật. Viên Quang sau đảnh ứng hiện đống lửa lớn vô sinh. Phật thật Phật thật, gập để mắt gánh lấy vân trình, một đuốc lửa hồng vừa cất lên, trên đảnh Tỳ-lô mặc sức ngang dọc. Vì Phạm Hòa thượng, châm lửa trà-tỳ. Trung Thần (tôi trung) chẳng sợ chết, cho nên hay lập được việc lớn trong thiên hạ. Kẻ dõng só chẳng ham sống cho nên hay thành danh lớn trong thiên hạ. Nạp thoát sinh tử chẳng sợ hiểm nguy chết chóc, cho nên hay lập được kỷ cương Phật tổ. Chiêu Giác Hòa thượng Thần cơ cao tột, trí biện tung trời cao, dưới tay có bùa (lệnh phù) trên đảnh môn đủ mắt, ý khí hăng hái hét tan mây trắng, kiềm búa đánh phá hư không, một về quan gấm, lưỡng trụ hùng sát, mở mang đường gai gốc, quét sạch cửa thị phi. Tiếp vật lợi sinh, khêu sáng mặt trời Phật, lên chỗ cao (chót vót) dẹp hết liền đi, dứt ánh sáng trước đầu chánh đuôi chánh. Như nay đã đến chỗ ấy, có thể gọi là duyên đời đã đủ, cuối cùng ân cần cắt đứt hết, đầu đường một đống lửa to. Đại chúng lại nói: Cuối cùng thì đi về đâu. Dâng cao đuốc lửa lên nói rằng: Đốt cháy tất cả trời lưu không được, trăng báu trên không mãi sáng tròn. Vì Tăng qua đời châm lửa trà-tỳ. Đầu núi năm uẩn đường Niết-bàn, bốn phương tám hướng mất rào ngăn, toàn thân đều là mắt Kim cang một hạt linh đơn trong lửa đốt. Trọn bộ hai mươi quyển. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 174