<經 id="n1996">MINH GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC & THÁP MINH (QUYỂN 1 6 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN MINH GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC Tham học Tiểu sư Duy Cái Trúc biên tập. <卷>QUYỂN 1 Nói ở Thúy Phong thiền tự Đổng Đình, Tô Châu. Tại Vạn Thọ, ngày khai đường tiếng kiền chùy vừa dứt. Sư nói: “Thiền Tông một khi cất tiếng thì hàng giáo tông hết cách giải thích. Một khi Tổ lệnh đang thi hành thì mười phương khoáng đãng. Người thông đạt, nhanh chóng lãnh hội thiền cơ, xin bước ra gặp nhau.” Lúc đó có một vị Tăng bước ra hỏi: - Trời người tụ tập đợi nghe tiếng sấm, học nhân trên đây xin Thầy chỉ bảo? Sư nói: Một vạn tám ngàn không phải là xa. Lại nói: Như thế thì đại chúng thấm nhuần ân đức. Sư nói: Sau năm ngày hãy xem. Hỏi: Sư xướng lên khúc hát của truyền thống nào và tiếp nối tông phong của ai? Phân minh nhớ lấy. Thế thì ngày xưa Trí Môn hôm nay Hòa thượng? Có gì can hệ? Thế nào là câu “Hòa thượng vì người?” Lương tài bổ chức. Cảm ơn sư phương tiện. Tự lãnh hội đi. Sư bèn nói: Một hỏi một đáp đều chưa có việc, dù cho càn khôn đại địa cỏ cây tùng lâm, tất cả đều là nạp tăng; Khác miệng cùng tiếng, mỗi người tự đặt bày trăm ngàn vấn nạn cũng không tiêu được Trưởng lão. Gảy móng tay một cái Sư nói: Cao thấp đều ứng trước sau không sai. Linh diệu của Sáng sủa của Phật Tổ. Dấu vết sâu xa của Trời người bao la như thế thì cần gì mượn bờ Đông thành giác. Năm chúng đều ở trước miếu Cổ Phật. Lúc này tham xong. Sư ở chùa Linh Ẩn Hàng Châu nhận sớ xong, chúng thỉnh thăng tòa. Bấy giờ có Tăng hỏi: Hôm nay trước bảo tòa, xin Sư một sấm sét chấn động. Uổng công vô ích thôi. Sư lại nói thêm: Thế thì một âm biến khắp sa giới. Đại chúng đều nghe hết. Sư nói: Chợt có người hỏi ông làm sao nêu? Tăng nói: Ba mươi năm sau dám để lại tiếng thơm. Bị lừa rồi. Sư bèn nói: Trường giác ngộ trong thiên hạ tuyệt vời. Tòa rộng của đạo sư Linh Ẩn tạm mượn cho Tăng hèn lên ngồi, thật thẹn chẳng phải tài. Đâu dám ở trước năm trăm nạp tử đề xướng. Phật Tổ nén nâng tư kiến tốt đẹp xưa nay, thẹn ông ta làm trước. Nếu như nói được, trời mưa bốn thứ hoa, quả đất có sáu thứ chấn động. Trên đường Tào Khê một chút sử dụng không được lấy gì cao só hành cước. Có mắt định thế giới che khắp càn khôn ai dám nêu lầm một sợi tơ nhỏ, biết có người ắt cùng xong. Tại chùa Linh Ẩn, Tôn túc các viện hội họp, chúng thỉnh Sư thăng tòa. Tăng hỏi: Thiền lữ đến hết ở bên tòa, chưa rõ Sư có nói không? Sư nói: Thiên tử cai trị trong nước binh tướng canh phường ngoài biên tói. Tăng nói: Thế thì một tiếng sét chấn động khắp Đại Đường. Sư nói: Xem lấy lệnh hành. Sư bèn nói: Thượng só gặp nhau, một lời nửa câu như đập vào đá ra lửa. Nhìn ông lỗi nên sai, tức câu nói bị ngưng trệ ở nguồn mê. Từ trên Tông thừa hợp bàn luận như thế, đến nổi ba đời chư Phật không thể tự tuyên nói. Sáu đời Tổ Sư nâng không nổi. Một đại Tạng giáo giàng giải không kịp. Cho nên gậy thủ chứng, hét thừa đương. Ý câu qua lại đồng lang thang, có người biết mới làm cùng nhau chứng minh. Ngày sư đến Tô Châu, tăng tục nghênh đón ở Vạn Thọ. Chúng thỉnh Sư thượng đường. Tăng hỏi: Chỗ thiền pháp chí cực vi diệu, ngàn Thánh không truyền, Hòa thượng từ đâu mà được. Sư nói: Sẽ gọi là nạp tăng. Tăng nói: Thế thì đại chúng thấm nhuần ân đức, học nhân lễ tạ. Sư nói: Đầu rồng đuôi rắn. Hỏi: Tuyển Phật trường mở có tuyển học nhân không? - Rất kî chốm trán (thi trượt). Sư nói: Thế thì tâm thi đậu vậy. Sư nói tiếp: Kẻ dưới thềm. Sư bèn nói: Như trời che khắp, như đất chở khắp. Có như là tự tại, đủ như là uy đức, ai không mang ân, ai không kính mộ. Chư Thánh quá khứ trong vô lượng kiếp chịu biết bao khổ mới được pháp môn bí yếu, nay đem dạy khắp đại chúng, không dùng mảy may tâm lực, mỗi người thỉnh một thời nghiệm lấy. Ở đây tiến cử được thì có thể ra khỏi bốn dòng, bước cao Tam giới. Hoặc có người không biết vừa là mọi người kiêng đi. Tức lúc đầu đến viện Sư thăng Tòa. Tăng hỏi: Hôm nay dừng lại đây, con xin thỉnh sư một câu Định càn khôn. Sư đáp: Trăm tạp toái. Tăng hỏi: Thế thì biển lặng sông trong. Sư nói: Chẳng phải cảnh giới của ông. Tăng nói: Thế nào là đại ý Phật pháp? Sư đáp: Rồng ngâm sương mù nổi, hổ gầm gió phát sinh. Tăng hỏi: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Sư đáp: Núi cao biển rộng. Học nhân không hiểu. Lo buộc dép cỏ. Sư bèn nói: Sau này Thúy Phong nhiều người nghi và đích thân đến một cảnh bình yên. Chẳng giống Thiện Tài vào cửa lầu các tạm thời suy nghó, chớ so thế giới trong bàn tay Duy Ma, riêng có thanh quy, mọi người tham quan no đủ, lấy tư chất an ủi. Thượng đường hỏi đáp xong, Sư nói: Thích Ca đã diệt, Di Lặc chưa sinh. Chính ngày này Phật pháp giao cho Thúy Phong, mở lấy đều do ở đây. Đại triệt ngộ, là chỗ lấp hang hốc. Nắm lão Hòa thượng trong thiên hạ đều ở trên đầu gậy, không mất một. Thượng đường Tăng hỏi: Thế nào là việc thật học? Sư bảo: Mũi nhọn không vào. Tăng thưa: Xin sư phương tiện. Sư đáp: Nước đến thành sông. Tăng hỏi: Thế nào là một câu giáo ngoại biệt truyền? Sư nói: Hãy xem tháng chạp hết. Tăng hỏi: Thế thì để lại tiếng tốt đi. Sư nói: Kẽ câm ăn dưa đắng. Tăng hỏi: Nói khởi lên dấu vết, nguyên do khác đường, sống không phạm đầu mũi nhọn, xin sư nói cho. Sư bảo: Nhà ai không có trăng sáng gió mát. Tăng hỏi: Có phải không? Sư nói: Gã trên đất thêm bùn. Sư bèn nói: Chỗ vòng kiếm bay thì trời trăng đều sáng, gậy báu gõ thì càn khôn thất sắc. Các loại ma từ chỗ đây sợ mất vía. Ngàn Thánh do đây mở mắt như hai nghe không tròn, sấm chấn động mà chẳng biết. Gốc lẻ loi sẽ bại. Thấm mưa xuân mà chẳng ướt. Đến phàm Thánh chia đường, mê ngộ bày phái, chạy đi bảy hướng, chìm xuống bốn dòng, nghiệp nặng ràng buộc, không có ngày nghỉ. Cho đức các hãy thấy khéo tham tường tận, như người lên núi, mỗi người tự nổ lực. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Rõ ràng giữa tâm mắt, mà tướng không thể nhìn, sáng sủa ở trong sắc trần lý không thể phân. Đã ở giữa tâm mắt, vì sao không thấy tướng? Hoa phải mở ngay đêm, đừng đợi sáng gió thổi. Thế thì mây tan trăng sáng mọi nhà. Tỳ Bà Thi Phật sớm lưu tâm. Tăng mới lễ bái. Sư lấy gậy đánh cho một gậy nói: “Không được bỏ qua.” Hỏi: Sau khi vượn ôm con về núi xanh, chim ngậm hoa đến trước núi biếc, ý chỉ cổ nhân thế nào? Sư đáp: Gần núi còn ở. Hòa thượng thế nào? Vẫn ít như uyển chuyển mới chịu nghe, lại bị gió thổi trong điệu khác. Tăng lại hỏi: Thế nào là cảnh Thúy Phong? Xuân đến hoa đào cũng đầy khe. Tăng lễ bái. Sơn tăng ngày nay bại trận. Có người kiểm điểm được ra cho một con mắt trên đỉnh môn. Nói xong xuống tòa. Sư thượng đường Tăng hỏi: Cổ nhân mượn việc trong ruộng hỏi, cắm xẻng đứng khoanh tay, ý thế nào? Người từ Trần Châu đến, không được cho tin tức của Châu. Người xưa nói: Có người đọc sách đến. Ý chỉ thế nào? Còn đứng ngoài cửa. Thỉnh sư gặp. Mặc Ý Nhan Hồi cũng không thông. Sư bèn nói: Lập Chủ lập khách khoét thịt làm thương tích, nêu xưa nay, ném cát rãi đất, việc không đôn ngộ, chính là chùy sắt không lỗ, chẳng có then chốt, hợp vào vô gián địa ngục, nạp tăng có trí tuệ cần phải tự xét. Sư thượng đường Tăng hỏi: Cổ nhân một tiếng hét không có tác dụng phải không? Sư nói: Phải. Tăng bèn hét. Sư bèn đánh. Tăng không nói. Sư nói: Nói đùa ta. Hỏi: Cổ nhân nói: Chỗ có Phật pháp không dừng, chỗ không Phật pháp mau đi qua. Ý chỉ thế nào? Giận giữ giết người. Tăng suy nghó. Đi đâu? Hỏi: Chỉ ở trước mắt vì sao hai, ba lần không nhìn thấy? Cắt tai nằm ngã tư đường. Đúng là vậy. Sư nói: Sai ta nhíu mày. Hỏi: Đậu đen chưa sinh mầm thời thế nào? Lừa đói ngựa đói. Sau khi sinh mầm thì sao? Thấu nước thấu cát. Tăng lễ bái. Sư nói: Giống như không đến thọ trai. Hỏi: Các kỹ nghệ công xảo đều hiện hành việc này. Thế nào là việc này? Làm gương mẫu các phương. Chẳng phải là chỗ học nhân hiểu. Kẻ có đầu không đuôi. Sư bèn nói: Chư Phật quá khứ cửa này đã thành tựu, tha cho một lần. Các Bồ-tát hiện nay, mỗi người nhập viên minh, công án được lập lại hai lần, người tu học sau này đều bị Thuỷ Phong xỏ mũi. Sư thượng đường nói: Kẻ trí mãi nghe đưa lên lấy mạnh, chớ đợi chốc lát mất đầu. Hỏi: Khi đẹp trời đi một mình thì thế nào? Dưới chân đạp sợi dây. Ngộ đạo vận dụng vô ngại. Sư nói: Từ Lục vác bảng (kẻ có tầm nhìn phiến diện). Hỏi: Học nhân vừa vào Tòng lâm, mọi việc không biết, chưa rõ sư có giúp không? Sư nói: Tô Châu giấy quý. Tăng hỏi: Hòa thượng há không phương tiện? Sư nói: Sau não nhổ cây. Sư nói: Chỗ lò rèn không phải sắt, cửa lương y ai là người bệnh? Hướng sau lỗ mũi trời xa, chớ cô phụ người tốt. Sư thượng đường nói: Muốn được không chiêu nghiệp vô gián chớ hỏi chánh pháp luân của Như Lai. Nói xong xuống tòa. Sư thượng đường mới có Tăng ra lễ bái. Sư nói: Đại Chúng! Tạm thời nhớ lấy thoại đầu củaTăng. Sư liền xuống tòa. Sư thượng đường Đại chúng vân tập sư lấy gậy, ném xuống nói: Đầu gậy có mắt sáng như Trời, muốn biết vàng thật hãy xem trong lửa. Sư thượng đường nói: Từ trời rơi xuống, từ đất vọt lên, nam bắc đông tây một loài chim cắt. Chú ý lọc bỏ cặn dơ làm đình mất cơ hội khổ thay! Khổ thay. Sư thượng đường nói: Cổ nhân nói thí như vung kiếm múa trên không, không kể là kịp, hay không kịp. Đây là bánh xe trên không tuyệt dấu vết. Kiếm nhọn chẳng phải thiếu, các bậc thiền đức giỏi, nếu có thể như thế, tâm tâm không biết, tức là ngồi trên đỉnh cô phong. Chẳng những Thiện Tài bảy ngày không gặp, mà Văn Thù trăm kiếp đích thân đến cũng không tìm tòi được. Sư thượng đường có Tăng ra lễ bái xong bèn đưa ra câu hỏi. Sư nói: Kêu được máu chủ thành dòng không chỗ dùng, bèn xuống tòa. pháp. Sư thượng đường nói: Khiếm khách Tạng Phong bèn xin biện Có vị Tăng mới ra. Sư hỏi: “Đi đâu?” Rồi xuống tòa. Sư thượng đường nói: Lời nói tam phản thường hợp đạo, hãy mặc mọi người gật đầu. Luận nhanh chóng cũng không lưu lại dấu vết. Nạp tăng là sao mà khai khẩu. Sư lấy gậy vẽ một đường nói: Trên không tính thẳng lên trời. Dưới không kể vào đất. Thái Châu ngàn người vạn người, các đánh phá chỉ trong chốc lát. Sư thượng đường hỏi đáp xong bèn nói: Khi mắt sáng như ngàn mặt trời, vạn tượng không thể ẩn bóng. Phàm phu chỉ là chưa từng quán, đâu được nhẹ nhàng mà thối khuất. Sư dơ gậy lên nói: Lấy định thế giới không lọt tơ tóc. Còn quán được không? Sở dó đại Sư Vân Môn nói: Đáng được càn khôn đại địa không phân quá hoạn mảy may. Chỉ là chuyển câu không thấy một màu, còn là nửa đề; đáng được như thế. Phải biết có lúc toàn đề. Chư Thượng Tòa: Thúy Phong như cũng toàn đề. Người hết đại địa đều phải kết lưỡi, phóng một đường, chuyển thấy không chịu, lấy gậy một lúc đuổi xuống. Sư thượng đường Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Thúy Phong? Có mắt thấy. Thế nào là người trong cảnh? Tham nhìn sóng trắng mất đi tay yếu. Thế nào là gia phong Hòa thượng? Khách đến cần xem. Thế thì học nhân được thấy. Sau ba mươi năm. Thế nào là Đệ nhất nghóa? Đạo só cười trâu té ngã. Xin Sư rủ lòng phương tiện. Chùy sắt không lỗ. Đạo xa thay? Núi xanh gần dòng loạn. Thế thì được nghe điều chưa nghe. Ngàn dặm vạn dặm. Sư bèn nói trước đại chúng cùng đáp xướng cũng phải là gã này mới được. Nếu chưa có mắt qua sông qua hiểm, không nhọc nhằn lấy ra. Cho nên nói: Như lửa lớn tụ gần thì cháy hết mặt cửa cũng như bảo kiểm cửa Án Thái A. Xông về trước thỏ mất thân mạng. Sư bèn tụng: Thái A hoành án tổ đường hàn Thiên lý ưng tu tức vạn đoan. Mạc đãi bãnh quang khinh thiểm xán Phục vân khán khán. Tổ đường Thái A, Hoành án lạnh. Ngàn dặm cần dứt vạn mối. Chớ đợi bóng sáng chớp lòe. Hãy nói thử xem. Sư bèn xuống tòa. <詞>NIÊM CỔ Nêu: Mễ Hồ hỏi Tăng: Gần rời chỗ nào? Dược Sơn. Dược Sơn mấy ngày này thế nào? Thật giống ngoan thạch. Được thế thì trịnh trọng. Cũng không chỗ đưa ra. Chẳng những Dược Sơn, mà Mễ Hồ cũng như thế. Tăng đến trước đứng nhìn chăm chú. Mễ nói: Hãy xem ngoan thạch cử động. Vị Tăng đó bèn ra. Sư niệm: Mễ Hồ dẫu đoạt cũng đáng quán, đâu có thể chết mà không điếu. Nêu: Kiếm trượng vua của nước Kế Tân đến Tôn giả Sư Tử hỏi: Sư được uẩn không chưa? Đã được. Vua nói: Có thể bố thi đầu cho ta chăng? Thân phi ngã có ta, huống gì đầu. Vua bèn chém tôn giả Sư tữ. Sữa trắng cao hơn một trượng tay Vua tự nhiên rơi xuống. Sư lấy nói: Tác gia quân vương Thiên Nhiên có. Nêu: Cảnh Thanh ở trước Tăng đường tự đánh chuông nói: “Huyền Sa nói, Huyền Sa nói. “Khi ấy có Tăng ra nói: Huyền Sa nói gì.” Cảnh Thanh làm một vòng tròn. Tăng nói: Nếu không tham lâu đâu biết thế. Cảnh Thanh nói: Còn tiền giày cỏ của ta. Sư nói: “Kịp bị đánh phá Thái Châu.” Nêu: Bảo Công nói: “Suốt ngày niêm hương chọn lửa, không biết thân là đạo tràng.” Huyền Sa nói: Suốt ngày niêm hương chọn lửa, không biết tràng sự thật. Sư nói: Một cặp chùy sắt không lỗ. Nêu Ngũ Thông Tiên Nhân hỏi Phật: Phật có lục thông, ta có ngũ thông. Thế nào là một thông? Phật vời Tiên nhân có Ngũ thông. Tiên Nhân đáp “Dạ”. Phật nói: Ông hỏi ta Thông nào? Sư nói: Lão Hồ vốn không biết thông đó, tức nhân tà đánh chánh. Nêu: Hòa thượng Tư sai Thạch Đầu đem thư đến Hòa thượng Hoài Nhượng nói. Ngày về cho ông đúc rìu ở núi. Thạch Đầu mới đến chỗ Hòa thượng Nhượng hỏi: Không hâm mộ chư Thánh, không trọng tánh linh mình là thế nào? Ông hỏi Thái cao sinh: Không ngó xuống, hỏi đến Thạch Đầu nói: Có thể muôn kiếp trầm luân, không cầu chư Thánh giải thoát, rồi trở về. Hòa thượng Tư hỏi: Thư đạt không? Thư cũng không đạt, tin cũng không thông. Ngày tới xin Hòa thượng cho rìu. Hòa thượng Tư duỗi một chân xuống. Thạch Đầu bèn lễ bái. Sư lấy nói: Thạch Đầu có tầm nhìn phiến diện. Lại nói: Đại Tiểu Nhượng sư không hiểu cứ lệnh. Nêu: Trường Tỳ đến chỗ Thạch Đầu và Đầu hỏi: Từ đâu đến? Lãnh Nam đến. Vựa núi lớn thêm một công đức, có thành tựu chưa? Thành tựu lâu rồi, chỉ thiếu điểm mắt. Chớ cần điểm mắt. Bèn thỉnh. Đầu thòng một chân xuống. Tỳ bèn lễ bái. Thấy đạo lý gì mà lễ bái. Như điểm tuyết trong lửa hồng. Thạch Đầu bèn thôi. Sư hỏi: Công đức không mắt có chỗ nào điểm. Đức Sơn Đến Long Đàm hỏi: Nghe tiếng Long Đàm từ lâu mà đến đây. Đàm lại không thấy, Long lại không hiện. Long Đàm nói: Ông đích thân đến Long Đàm. Đức Sơn bèn thôi. Sư nói: Lấy lầm làm lầm. Lại nói Đại Tiểu Đức Sơn. Ngày nọ Sư nhân việc nêu: Trước kia có lão túc một hạ không nói chuyện cho sư tăng. Có Tăng tự than rằng: Ta chỉ luống qua một hạ không mong Hòa thượng thuyết Phật pháp, được nghe hai chữ chánh nhân cũng được. Lão Túc mãi nghe nói. Xà-lê chớ nói vội. Nếu luận về chánh nhân một chữ cũng không thế thì nói xong Khấu Só nói: Vừa đến không đầu mối nói gì. Vách bên cạnh có lão túc nghe nói: Như một nồi canh bị hai cục phân của con chuột làm ô uế. Sư nói: Vạc nổi nhà ai không có một hai cục. Hòa thượng Quan thấy Tăng mới đến. Quan làm gạo rồi chỉ dẫn ông ta. Tăng ấy bèn đi. Tối lại Quan hỏi đệ nhất Tòa: Ngày nay người mới đến ở chổ nào? Đi lúc ấy. Chính là vậy, chỉ được hai cái. Sư nói: Lão Quan giống như mất tiền gặp tội. Nêu: Ngoại đạo hỏi Phật: Không hỏi lẽ hữu ngôn, không hỏi lẽ vô ngôn. Phật im lặng hồi lâu. Ngoại đạo lễ bái nói: “Đức Thế Tôn đại từ đại bi, vén lớp mây mờ, khiến con vào được giác ngộ. Rồi lễ bái mà đi, A-nan bạch Phật: Ngoại đạo chứng được điều gì mà tán thán rồi đi như vậy? Phật đáp: Như ngựa bay trên trời nhìn bóng roi mà chạy. Sư nói: Tà chánh không phân quá hơn bóng roi. Phó Đại Só nói: Dạ dạ bảo Phật miên Triêu triêu hoàn cộng khởi Khởi tọa trấn tương tùy Ngữ mặc đồng củ chó Túng hào bất tương ly Như thân ảnh tương tự. Dịch Nghóa: Đêm đêm ôm Phật ngủ Sáng sáng cùng Phật dậy Đứng ngồi vẫn theo nhau Nói nín đồng vừa vặn Mảy tơ chẳng lìa nhau Tương tự như hình bóng Muốn biết chỗ Phật ở Lời nói âm thanh đó. sáng. Huyền Sa nói: Đại Tiểu Phó Đại Só chỉ biết được linh linh sáng Sư nói: Huyền Sa cũng là đập cỏ rắn sợ. Bảo Công sai người truyền ngữ đến Hòa thượng Tư Đại: Sao không xuống núi giáo hóa chúng sinh. Gã mắt thấy mây làm thế nào? Tư Đại nói: Ba đời Chư Phật bị miệng ta nuốt hết. Chỗ nào còn có chúng sinh đáng độ. Sư nói: Có đống phân nào bay mùi hôi. Triệu Châu nói: “Đến với đạo không khó chỉ hiềm khó chọn lựa”. Mới có ngữ ngôn là chọn lựa là rõ ràng. Lão Tăng không ở trong rõ ràng. Là ông làm sao hộ giúp? Bấy giờ có Tăng hỏi. Đã không rõ ràng thì làm sao hộ giúp? Triệu Châu nói: Ta cũng không biết. Tăng nói: Hòa thượng không biết, vì sao nói không ở trong rõ ràng. Triệu Châu nói: Hỏi việc thì được. Sư nói: Triệu Châu tới lui ba ngàn. Nam Tuyền dạy chúng: Ba ngàn năm nay chăn một con trâu đực, muốn nghỉ thả bên đông, không khỏi phá nước cỏ quốc vương. Không biết tùy phần nhận một chút, khỏi lo quan chủ phiền phức. Trường Khánh nói: Ông nói trước đầu Nam Tuyền là người, sau đầu là người. Vân Môn nói: Hãy nói nửa trong nhận nửa ngoài nhận. Dù nói được chỗ nhận rõ ràng. Ta lại hỏi ông: Trâu ở chỗ nào? Sư nói: Một lúc xâu mũi nó dắt đi. Đặng Ẩn Châu ở đường phá uy nghi của Tương Châu. Chỉ mặc áo đứng được chùy nói: Nói được thì không đánh. Lúc ấy đại chúng im lặng Ẩn Phong bèn đánh một cái. Sư nói: Quả nhiên quả nhiên. Tăng hỏi Huyền Sa: Tam Tạng Đại Nhó lần thứ ba vì sao không gặp quốc sư? Ông nói hai lần trước đây có thấy không? Sư nói: Bại rồi bại rồi. Trong Thất niêm cổ. Nêu: Mục Châu hỏi Tăng: Sắp rơi chỗ nào? Hà Bắc. Hòa thượng Triệu Châu từng đến Hà Bắc không? Tôi từng ở đó. Triệu Châu có dạy chúng câu gì không? Thấy ngưới mới đến liền hỏi: Ông có từng đến đây không? Từng đến. Triệu Châu nói: Uống trà đi. Người mới đến nói: Không từng đến. Triệu Châu cũng nói: Uống trà đi. Mục Châu nói: Hổ thẹn. Lại hỏi Tăng: Ý Triệu Châu thế nào? - Chỉ không một kỳ phương tiện. Mục Châu nói: “Khổ thay Triệu Châu bị ông tung một đống phân, liền đánh. Mục Châu lại hỏi Sa Di: Ông thế nào? Sa Di bèn lễ bái. Mục Châu cũng đánh. Tăng ấy đến chỗ Sa Di hỏi: Ông đến bị Hòa thượng đánh là thế nào? Sa Di nói: Nếu không phải là ta thì Hòa thượng không đánh. Sư nói: Vị Tăng này không thể chịu nổi. Đem một cục phân tung ra hai Thượng tòa Cổ Phật. Nếu có thể biện được, chẳng chỉ Triệu Châu, Mục Châu Tuyết Khuất cũng là Thuý Phong không qua lão túc trong thiên hạ. Nếu nói không được, đến chỗ tung người vẫn chưa xong. Nêu: Tăng hỏi Trường Khánh: “Thế nào là chánh pháp Nhãn Tạng?” - Có chuyện không bỏ cát. Bảo Phúc nói: Không thể bỏ. Sư nói: Phàm Tông sư quyết định lấy phần gốc gặp nhau, không dám bỏ lại cái gì là con mắt Chánh Pháp của mọi người? Gã nào không bị người lừa thì ra chúng nói để, cùng biết với nhau. Nếu nói không được, Thúy Phong mỗi mỗi điểm qua cho ông; mở mắt, nhắm mắt. Nêu Hoàng Bá có sáu người mới đến, năm người làm lễ, trong đó một người đưa tọa cụ lên làm một tướng vòng tròn. Hoàng Bá nói: Ta nghe có một con chó săn rất dữ. Tăng nói: Tìm nói dê nghe đến. Bá nói: Linh dương không nghe đến tìm ông. Tăng nói: Tìm dấu chân Linh dương đến Linh dương không dấu chân đến tìm ông. Thế thì Linh dương chết. Hoàng Bá bèn thôi. Hôm sau Sư thượng đường nói: Chó săn ở đâu? Tăng bèn đi ra. Hoàng Bá nói: Hôm qua công án chưa xong, lão Tăng thôi đi. Còn ông thế nào? Tăng không đáp. Hoàng Bá nói: Sẽ gọi là bổn phận của nạp tử vốn là Sa-môn nghóa học. Lấy gậy đánh đuổi ra. Sư nói: Chỉ như tiếng vang dấu vết đã không, chó săn tìm đuổi chỗ nào? Chớ có tuyệt tiếng vang dấu vết, thấy Hoàng Bá không? Chư Thiền Đức phải rõ cơ hổ bại, cũng phải là bổn phận nạp tử. Nêu ngoại đạo hỏi Phật: Không hỏi lẽ hữu ngôn, không hỏi lẽ vô ngôn? Thế Tôn lặng hồi lâu. Ngoại đạo nói: Thế Tôn đại từ đại bi đã vẹt khai đám mây mờ cho con khiến được nhập vào. Sư nói: Chư thiền đức mây mờ đã tan quyết định thấy Phật, có cho họ cùng tham không? Nếu cùng nhau biết thì Tông Sư thiên hạ đều là bạn ngoại đạo. Như mỗi người chẳng phải ấn chứng thì nạp tăng Đông độ không bằng ngoại đạo Tây Thiên. Nêu Hòa thượng Long Nha hỏi Thuý Vi: “Thế nào là yếu chỉ Thiền Tông?” Đem Thiền bản đến cho ta. Long Nha lấy thiền bản đến cho Thuý Vi. Thuý Vi nhận lấy rồi đánh. đánh. Long Nha nói: Đánh thì mặc đánh nhưng lại không có ý Tổ Sư? Sau đó lại hỏi Lâm Tế, thế nào là yếu chỉ Thiền Tông? - Đem bồ đoàn đến cho ta. Long Nha lấy bồ đoàn đem đến cho Lâm Tế. Lâm Tế lấy bồ đoàn Long Nha nói: Đánh thì mặc đánh, nhưng lại không có ý Tổ Sư? Sư nói: Lâm Tế, Thuý Vi chỉ biết buông mà không biết nắm. Lúc đó nếu là ta thì khi Long Nha đợi y đi tìm bồ đoàn, thì ta sẽ lấy thiền bản ném vào ngực vào hông ông ta. Nêu Tỳ Thọ hỏi Định Sơn: Không rơi vào số lượng, thỉnh sư nói? Định Sơn đưa xâu chuỗi lên nói: Là rơi hay không rơi? Tỳ Thọ nói: Viên châu hai lỗ người đời có xin lời trước viên sư. Định Sơn bèn đánh. Tỳ Thọ bỏ đi. Định Sơn nói: Sau ba mươi năm, được lấy chùy đánh vào ngực hãy khóc to đi! Sau đó quả nhiên Tỳ Thọ khai đường dạy chúng nói: Trước ba mươi năm bị Định Sơn Lão Tử dối ta một phen không giống một chút nào. Sư nói: Định Sơn dùng thì dùng, đâu có thể. Tỳ Thọ biết thì biết nhưng lại chưa hội đủ mắt trạch pháp nhãn. Thử biện xem. Nêu: “Tuyết Phong hỏi Đầu Tử: Một cây chùy liền thành là thế nào?” Không phải là gã tánh thao. Tuyết Phong nói: Không nhờ chùy thì sao? Đồ thùng sơn. Sư nói: Thế thì một lúc làm loạn Tuyết Phong. Lại Đầu Tử là tác gia lò lửa. Nếu lúc ấy ta là Tuyết Phong, đợi Đầu Tử nói không phải là gã tánh thao. Chỉ nói với y chùy ở trong tay ta.” Chư Thượng Tòa Hợp cho Đầu Tử được nói gì. Nếu có thể nói được. Chính là tánh thao, bình sinh làm sáng mắt Tông. Nếu mịt mù thì một chùy trên đỉnh đừng chớ nói vì sao không nói. Nêu: Triệu Châu hỏi Tăng: Thường xem kinh Pháp Hoa không? Có xem. Triệu Châu nói: Nạn y ở chỗ vắn vẻ, giả danh A luyện nhã. Cuồng hoặc người thế gian ông làm sao hiểu? Tăng ấy định lễ bái. Triệu Châu nói: Ông mặc kệ nạp y đến không? Mặc đến. Chớ mê hoặc ta. Tăng nói: Thế nào là không mê hoặc. Triệu Châu nói: Chớ lấy lời ta. Sư nói: Đại Tiểu Triệu Châu đầu rồng đuôi rắn. Mọi người có thể biện được bèn biết phá Triệu Châu. Nếu không rõ, mỗi mỗi cầm cao nạp y chớ mê hoặc Thúy Phong. Trường Tỳ hỏi Tăng: Từ đâu đến? Từ am Không Thạch Cửu Hoa đến. Am chủ là người nào? Mã Tổ hạ Tôn túc. Tên gì? Không rõ pháp hiệu khác. Ông ta không rõ hay ông không rõ? Mắt Tôn Túc ở đâu? Nếu là am chủ đích thân đến ngày nay cũng phải ăn gậy. Lại gặp Hòa thượngtha cho con. Sau trăm năm tính lường sư tăng khó được. Sư nói: Cả hai là tác gia phải biết thu đuôi hổ, không thể y cứ đầu hổ. Nếu Đức Sơn sai đi đều phải chú giải. Nêu Bảo Phước dạy chúng: Việc này như lửa chớp, điện xẹt, làm được hay không làm được; chưa khỏi mất thân mất mạng. Tăng bèn hỏi: Chưa rõ người làm được có khỏi mất thân mạng không? Bảo Phước nói: Tác gia, tác gia. Tăng nói: Là tâm hạnh gì? - Một đống phân vun trước mặt không biết thối. Sư nói: Chư Thượng Tòa! Bảo Phước có móng vuốt bắt sống hổ và tê giác. Vị Tăng này cũng không dễ địch. Tuy như thế, nhưng Bảo Phước phải tha cho một lần. Chỉ như Thúy Phong và đại chúng có cho các vị kiểm điểm không? Nếu khỏi không được thì người chết trên đất nhiều vô số. Trong đó có người được sống không? Sư đưa gậy lên nói: Đến cũng đến vậy. Nêu: Quy Tông vạch cỏ, thấy một con rắn, bèn lấy bừa giết chết nó. Tăng thấy liền hỏi: Nghe tướng Quy Tông đã lâu té ra chỉ là Sa- môn hạnh thô tháo. Tông nói: Ông thô hay ta thô? Sau đó Tuyết Phong hỏi Đức Sơn: Người xưa chém giết rắn ý chỉ thế nào? Đức Sơn bèn đánh. Tuyết Phong liền đi. Đức Sơn vời lại nói: Ông Tăng! Tuyết Phong quay đầu. Đức Sơn nói: Ngộ sau ông ta đi, mới biết tâm lão bà của lão hán đã thấu triệt. Sư nói: Quy Tông chỉ biết cẩn thận ban đầu, không thể hộ giữ gìn ở cuối. Đức Sơn thật có thể cứ lệnh lại chưa rõ chém rắn. Sư vời đại chúng nói: Xem Thúy Phong ngày nay chém ba, năm con rắn. Nói xong, lấy gậy nhất thời đánh xuống. <詞>KHÁM BIỆN: Hỏi Tăng: Từ đâu đến? Hòa thượng hỏi ai? Sư đáp: Ta hỏi ông. Sao không lãnh hội lời nói? Thúy Phong ngày nay bại trận. Thị giả Bảo Hoa đến thăm sư. Sư hỏi: Bảo Hoa bao nhiêu chúng? Thị giả thưa: Không nhọc Hòa thượng như thế. Sư nói: Ta hỏi đàng hoàng ông chạy cái gì? Thị giả thưa: Không được bỏ qua. Sư nói: Thật là sư tử, uống trà chưa? Sư nắm cột trụ nói: Vừa đến sao không lễ bái? Thị giả suy nghó bị nắm tay của sư nói: Về đi rõ ràng nếu giống vậy cho Bảo Hoa. Có mấy người mới đến. Sư nói: Mới đến phải không? Phải. Hãy tham đường đi! Tăng bèn đi. Sư lại gọi lại. Tăng ấy quay đầu. Sư nói: Động đình khó được sư tăng ông uống một chén trà. Hỏi Tăng: Ông học ở đâu? Tăng thưa: Thiên Chương. Đem Lan Đình Ký đến được không? Đâu dám trình giống Hòa thượng. Cỏ vốn không nhọc niệm ra. Năm người mới đến. Sư nói: Động Đình trên đỉnh không có đường đi không nhờ thuyền bè, mau nói xem. Tăng nói: Đặc biệt đến lễ bái Hòa thượng. Sư nói: Nước sâu thuyền dừng luông khoe cứu vớt. Tăng không đáp được. Sư nói: Qua bên này. Tăng ấy đều qua. Sư nói: Đầu tướng không mạnh nhầm lụy đến ba quân, tham đường đi. Sư hỏi Tăng: Tên gì? Tăng thưa: Nghóa Hoài. Sư nói: Đâu chẳng phải tên Hoài Nghóa. Lúc ấy: Lúc ấy dẫn đến được. Sư nói: Ai an ẩn cùng ông? Tăng nói: Con thọ giới đến nay mười năm. Sư nói: Hành cước rách bao nhiêu giày cỏ? Tăng nói: Hòa thượng chớ dối người tốt. Sư nói: Ta cũng không lường được tội lỗi ông thế nào? Tăng không đáp được. Sư nói: Gã rỗng tuếch. Bèn đánh. Hỏi người mới: Sắp rời nơi nào? Hưng Giác. Một Tông Đạt Ma quét đất thì hết. Tăng không đáp được. Sư nói: Trên đời chỉ có ta độc tôn. Lại hỏi Tăng: Xà-lê tên gì? Tông Nhã. Nhã thì không hỏi, nhưng thế nào Tông là gì? Tăng không đáp được. Sư nói: Còn hạn ba ngày. Tăng ấy mãi đến hạ lời. Sư đều không đáp. Tăng lại hỏi: Chỗ thấy của con chỉ có thế cònHòa thượng thế nào? Sư nói: Sao ông không hỏi ta. Tăng mới định hỏi bị sư đánh mấy tát. Hỏi: Người mới đến bước chân lên chỗ nào? Tăng vỗ tay một cái. Sư nói: Hai lớp công án. Tăng nói: Đúng vậy. Sư bèn hét. Tăng không đáp được. Sư nói: Còn ta vừa vỗ tay. Tăng suy nghó. Sư nói: Gã hãy tham đường đi. Sáu người mới đến sư hỏi Tham đầu: Phàm là thượng tướng phải cần có bảy việc tùy thân. Hai dao nhọn kề nhau là thế nào? Tăng đáp: Nghe tiếng Thúy Phong ở đây đã lâu. Sư nói: Tha cho một lần. Còn tiền giày cỏ của ta phải trả. Tăng hét. Sư đánh. Tăng lấy gậy cho sư, sư đánh một cái. Sư nói: Chưa đến Thúy Phong, cho ông hai mươi gậy rồi. Tăng không đáp được. Sư nói: Hãy đứng một bên. Lại hỏi đệ nhị phó tướng là thế nào? nào? Tăng nói: Mịt mù không hay biết. Sư nói: Như lãnh hội qua uống trà chưa? Sư lấy gậy đánh Tham đầu nói: Công án vừa đến ở ấy thì thế Trong đường làm sao nêu? Tăng suy nghó. Sư lấy tọa cụ đánh đuổi ra. Bài Minh và lời tựa trên tháp của Hòa Thượng Tuyết Phong. Theo duyên mà có, là trước sau thì thành hoại, không theo duyên mà được, thì trãi nhiều kiếp thường kiên cố. Kiên cố thì còn, hoại thì tổn. Tuy nhiên ly tán chưa đến. Đầu ngại dự bày ư? Cho nên chồng đá kết thật chặt cây che lớp, chất chứa đất gạch làm khám thờ Phật, mọi việc đã hoàn bị, đầu nam chân bắc, nằm ngang núi. Chỉ nguyện đến khi người đồng đạo, chớ trái ý ta. Người biết tâm không đổi chí ta được. Dặn dò kỹ càng, gắng sức. Dẫu sau này tà đạo hiển dương, đâu bằng ngày nay chánh nhãn hoằng truyền, khéo suy điều đó, nghó cho kỹ điều đó. Huynh đệ thêm mười chữ (nói nước không hai vua, lại nói biết không?). Đồng tâm một nghị lực ( Lại nói: Gió thổi qua cỏ rạp, lại nói đáng cho ). Thổ chủ nói: Tùng Sơn (nói bốn bề chẳng tuyệt lại nói xem). Noãn tháp hiệu là nan đề (nói nương nhau chỉ một con đường, lại nói hiểm). Lại có khúc hát Hồ gia (nói một tây một đông lại nói rất khó). Các ông cần phải biết (nói từ nam từ bắc, lại nói hiểu). Ta xướng con trâu đất rống (nói nghe đừng ngẩng đầu, lại nói ha ha). dài). Ông cùng ngựa gỗ hý (nói thấy nên nhắm mắt, lại nói vỗ tay). Chỉ xem trăng tháng năm (nói há có thể như vậy, lại nói thở Sau khi củi hết lửa tắt (nói đi đi ai đồng, lại nói trụ được). Thất kín nát như bùn (Nói: phải đến như thế, lại nói: nổ lực). Nhận cho hiệu sư thượng đường, Tăng hỏi: Hoàng ân đã giáng, chúng cùng xem, học nhân lên, có nghe đề xướng. Sư nói: Như âm hay ở tai người đều nghe. Lại nói: Sau khi nghe thế nào? Sư nói: Hỏi vốn là đều không biết. Tăng nói: Học nhân đến đây thật bảo không biết. Sư nói: Cho ông làm giặc cỏ. Lại nói dòng nhà thiền còn như chiến tướng; thấy chiến đấu dõng kiện không đến, tức lấy xướng tùy là việc một kỳ đâu giống bài ca mượn nước dâng hoa xướng thái bình. Ban đêm núi mưa ướt cỏ, thấm nhuận cây cổ thụ, nhàn ngâm kệ trúc tiên, hơn ăn vàng ngọc; dế mèn kêu vách đổ, như khỏi buồn co quắp, hoa ưu đàm đạo nhân, xa xôi nơi núi xanh, là biết nói không thể không ở, ai nói ly gián. Cho nên trời có đạo nên nhẹ nhàng xanh thẳm. Đất có đạo nên nghiêm ngặt, suối có đạo vì đầy ắp, vua có đạo vì phổ hóa. Cho nên Kim thượng Hoàng đế, Kim luân thống ngự hang khe suối. Cỏ cây cầm thú cá không xa, không đến, kẻ núi rừng ôm bệnh; chốc lát thừa long quang. Đời này đời sau không vì nói báo đáp. Hiền Thủ, Ty Phong, Các Phù, Nghiêu Thuấn. Nhìn xuống Cung hoàng, Cung phong nhã ngàn năm, tỏa khắp vạn màu xuân. Xong xuôi bảo rõ chấn động dứt tiếng. Hai xe đồn điền, các nhà hiền tể không dám thêm từ ca ngợi. Khổng Tử nói: Ta cầu nguyện lâu rồi. <詞>NÓI Ở THIỀN TỰ TUYẾT BẢO TẠI MINH CHÂU. Ngày sư khai đường, trước pháp tòa bảo đại chúng: Nếu luận về bổn phận gặp nhau, ắt không thăng bảo tòa cao. Rồi lấy tay chỉ hai đường nói: Mọi người theo tay Sơn tăng xem, vô lượng quốc độ chư Phật nhất thời hiện tiền, mỗi mỗi phải nhìn theo cẩn thận. Hoặc bờ biển chưa biết không khỏi nói lôi thôi dài dòng, tức bèn thăng tòa. Tăng tuyên sớ xong, Duy Na đánh chùy rằng: “Chúng kiệt xuất trong tùng lâm, nên quán Đệ nhất nghóa”. Lúc ấy có Tăng ra. Sư chỉ trụ cột nói: Chánh Pháp nhãn tạng uy ở ngày nay, phóng đi thì ngói gạch phát quang, lấy thì vàng thật mất màu, quyền ở nơi tay, sống chết tạm thời. Có tác giả cùng nhau chứng cứ. Tăng bèn hỏi: Xa rời Chiếu tổ Thúy Phong, đã đến đạo tràng Tuyết Đậu. Chưa rõ là một hay là hai. Sư nói: Ngựa không qua ngàn dặm chê gió chậm. Lại nói: Thế thì mây tan trăng sáng nhà. Sư nói: Kẻ đầu rồng đuôi rắn. Hỏi: Đức Sơn Lâm Tế đánh hét đủ rõ. Hòa thượng tiếp người như thế nào?? Sư nói: tha cho một lần. Tăng suy nghó. Sư bèn hét. Tăng nói: Chưa rõ chỉ gì? Chẳng có ở. Sư nói: Bắn cọp không uổng công mất cánh. Hỏi: Việc trải tóc dưới bùn, để cầu nghe nửa bài kệ là ai làm? Sư nói: Trên trời dưới trời ta là độc tôn. Lại nói: Nếu người đứng trong tuyết đâu có thể truyền diệu chỉ. Ba lạy thân hậu mới là thân. Sư nói: Chớ thống loạn. Hỏi: Phạm Vương xin Phật che chở vì chúng sinh, học só thỉnh sư đang làm việc gì? Sư nói: Biết nhau khắp thiên hạ. Lại nói: Thế thì đại chúng thấm nhuần ân đức. Sư nói: Phần ông thì thế nào? Lại nói: Học só chứng minh. Sư nói: Chưa có kẻ trụ. Hỏi: Mười phương đồng tụ hội, mỗi mỗi học vô vi. Đây là trường tuyển Phật tâm không cập đệ quy. Thế nào là được cập đệ? Sư nói: Đi gặp điểm trán.(thi đậu) Lại nói: Như thế thì cô phụ bình sinh. Sư nói: Dạy thôi không chịu thôi. Hỏi: Bếp rừa đốt thì vạn thớt voi đều kéo đến. Không biết là cảnh giới nào? Điện vàng cỏ bao la. Lại nói: Hướng thượng còn có việc không? Mây trắng ngàn vạn dặm. Hỏi: Thổi đại pháp loa, đánh đại pháp cổ. Triều tể lâm diên thế nào là đúng? Gió mát đến chưa thôi. Thế thì được gặp sư. Một lời phát ra bốn ngựa khó đuổi theo. Tăng lễ bái. Sư nói: Tha cho một lần. Sư nhìn khắp đại chúng một lượt rồi nói: Trời người đều tụ tập cùng phát minh việc gì? Có thể phân qua lại chủ khách, rong ruổi hỏi đáp lại gánh vác Tông Thừa đi! Môn phong rộng lớn, oai đức tự tại, sáng suốt xưa nay định càn khôn. Ngàn Thánh chỉ nói tự biết, năm thừa chẳng có thể kiến lập. Cho nên trước tiến ngộ ý chỉ còn me,â đầu mối thì soi xét lại, lời nói ra để hiểu Tông, bên ngoài còn mờ mịt tình thức, mọi người phải biết chân thật qua lại, trên không vin ngưỡng, dưới tuyệt chính mình. Tự nhiên trước ánh sáng thường thấy, mỗi vách đứng ngàn nhân, có phân biệt rõ ràng được không? Chưa biện biện lấy, chưa rõ rõ lấy, đã biện rõ thì có thể cắt đứt dòng sinh tử. Cùng ngồi vị trí Phật Tổ, diệu viên siêu ngộ đang lúc này, ơn chịu báo không báo, để giúp hóa vô vi. Sư ở chùaThúy Phong ngày nhận sớ, đàn việt của Động đình và chuyên sứ Minh Châu tranh chấp nhau dữ dội mãi không thôi. Sư thượng đường bảo đại chúng không nên làm chuyện ồn ào, huống gì nhà Tăng đừng cầu ắt phải thế. Ở thì như con hạc lẽ loi, lãnh đạm trên đónh tùng, đi thì như đám mây bay thoáng qua nhân gian. Chẳng phải đây kia khác nguồn động tónh trái hướng, nay bàn luận với mọi người, nghỉ hai, ba năm Động Đình mờ mịt dấu vết, thừa bốn tin tâm ân chăm sóc xa ở các phương đều là vết cũ. Tạng giáo lại là mới về há có thể biết đều quên hẳn, y cứ dẫn đến đường xa trước thành thật là không thể mà Tứ Minh thái thú, Tinh Trì, giới sử, trọng trong tạm thời, đã lặn lội mấy châu, xa xôi ngàn dặm thành khẩn khổ cực. Khi đến đây, tiến thối phân rõ, không thể tự quyết, dám hỏi đại chúng: Thích ở Thúy Phong hay thích đến Tuyết Đậu. Lúc ấy trong chúng lớn tiếng nói: Thích đến Tuyết Đậu. Sư bèn quay nhìn bảo đàn việt Đổng Đình: Không có gì lạ, mỗi người phải biết thời. Lại Phật pháp ủy từ Vương thần gồm trụ trì cũng vì duyên hết, ở đây ở kia vốn không thường. Hiến đem sớ văn để lấp đến mạng, bèn xuống tòa. Đến tối sư tiểu tham, Tăng hỏi: Tứ Minh Hầu Ba Xa hàng công văn chưa can thiệp trình đường xin sư nói mau. Sư nói: Mũi nhọn. Lại nói: Sông Ngân một nhánh ngày nay còn đẹp. Sư nói: Không cho đi đêm. Sư bèn nói: Chư nhân giả! Chưa có người nào đi nhiều mà không trụ, chưa có ai trụ mãi mà không đi. Xưa nay mỗi người có chỗ đến. Lại như vận này tránh ở một góc. Nếu chẳng phải nghó báo ân Phật thì không bốn lần đến ở đây. Sợ sơn Tăng sau khi tấn phát, pháp tịch hư không, nay sai Tố Công khai só tiếp tục trụ trì, may chúng từ bi đồng tâm khuyên thỉnh. Sư từ biệt Thúy Vi thượng đường. Tăng hỏi: Học só có nói “Thôi Tổ Tịch của Thúy Phong, lên đạo tràng Tuyết Đậu.Thế nào là đứng bất động? Sư nói: Xuống núi không đi nhanh bèn khó gặp. Lại nói: Thế thì đi như mây bay dừng giống thần khe suối. Sư nói: Ông phải buộc chặt giày vải. Lại nói: Sơn tăng này nén theo lời thỉnh kia, khó có thể lưu lại, buộc hành hàng cáo đi, nhưng vịn nhiều cảm huống trụ trì lâu phiền lòng đầy đủ lâu nhận biết năm lạnh, mỗi vụ ít nói chăm lo dùng thành khẩn cầu xin có các cao só tham theo, động xa ngàn dặm tính câu gần trăm tăng. Bỗng ăn trao sớ di chúc, thuyền xe rộng hẹp đủ quay lại, thiền duyệt tự tăng, thì nước Phật dạo khắp không phải là xa. Đâu lấy chư thiền đức đi lại không lấy voi. Không có khí, không có hình, động tónh không vì tâm, không cảm mà không ứng. Thế thì tâm sinh nơi có tâm. Voi ra có voi vì voi chẳng phải ta ra. Vàng đá dòng nước không cháy vì hình chẳng phải ta sinh. Ngày dùng mà không động, lộn xộn tự họ đối ta làm sao xin mọi người treo cao chiếc buồm không hơn. Trân trọng. Sư đến Vạn Thọ, chúng thỉnh thượng đường, Tăng hỏi. Bảy việc tùy thân xin gặp nhau. Sư nói: Đánh trống thối lui. Lại nói: Lúc đầu mũi nhọn giao nhau đã thấy đại bại. Sư nói: Thở dài. Tăng suy nghó. Sư bèn hét, gã này có gì mau chết. Hỏi: Thúy Phong một mũi nhọn đã bắn Tuyết Đậu, một mũi nhọn Tuyết Đậu sẽ bắn người nào? Sư nói: Không phải chú chuột phát cơ. Chẳng những nghe danh ngày nay thấy mặt. Thêm được một trường sầu. Tăng lễ bái. Nếu vậy thì thôi. Sư bèn nói: Môn hạVạn Thọ mỗi mỗi tác gia. Bởi là binh của tướng mạnh. Tuy mạnh như thế, Bảo Phước có nói: Lửa xẹt, bóng chớp xẹt, làm được, làm không được, chưa khỏi mất thân mạng. Như dạy cứ lệnh mà làm, đều là người cảnh Tô Đào, mỗi người ba đầu sáu tay, đến trong tay Thúy Phong. Cũng phải bình vỡ nước chảy. Như nay tha cho một lần, phân phó Hòa thượng Vạn Thọ. Sư đến Tú Châu, trăm vạn người chuẩn bị trà nước thỉnh sư thăng tòa. Tăng hỏi: Đến thỉnh Tuyết Đậu trước hay đến Gia Hòa? Tông thừa hướng thượng thỉnh sư đề xướng. Chim kêu khắp nơi đều giống nhau. Thế thì được nghe điều chưa nghe. Không phải người khổ tâm không biết. Tăng suy nghó. Sư bèn hét. Tăng lễ bái. Sư nói: Mời người bước ra hỏi? Hỏi: Thế nào là một câu giáo ngoại biệt truyền. Ba đời sáu mươi kiếp. Học nhân chưa hiểu. Hồ Tăng mắt xanh cười gật đầu. Sư nói: Sơn Tăng này thừa mệnh Thái Thú Ngân Giang đến Tuyết Đậu trụ trì, lại đến Gia Hòa, lại tăng niềm vui. Nhưng người thừa trăm vạn, lo lắng chu toàn, ngưỡng gánh hoài bão không thể quên, lao nhọc mệnh lớn, thác đức nén nay, cử xướng Tông thừa, huống Đạt só gặp nhau, chẳng còn mắt đánh. Như nói tình cờ trong lời có tiếng vang, như dòng uốn cong trung hạ, hướng đến bổn phận nạp tăng xa xa vậy. Chỉ như vừa đến, tăng hỏi một câu giáo ngoài biệt truyền. Đáp: “Ba đời sáu mươi kiếp”, mọi người có biết thế nào không? Lại có ao chim núi, vùng biển am vườn, trong ba trăm pháp hội nơi nào có tin tức. Cho nên nói ba đời chư Phật không thể tự tuyên,một đời giáo giải rõ không kịp trừ phi biết có. Chẳng có thể biết, chúng từ bi đứng lâu, cúi mình. Trân trọng. Sư đến Linh Ẩn, chúng thỉnh thăng tòa, Tăng hỏi: Xa biệt trượng thất Thúy Phong, sẽ đến đạo tràng Tuyết Đậu. Thế nào là đấng Bất động Tôn? Xem gió xuân sai buồm. Thế thì quán mới biết kia đi, người đi không đến nơi. Đầu rồng đuôi rắn. Hỏi: Thế nào là yếu chỉ Thiền tông? Điểm. Còn có người ở. Sau ba mươi năm. Thế thì ngày nay Thúy Phong ngói vỡ băng tan. Sư nói: Có một chút. Sư bèn nói: Chẳng phải tranh với Thượng Tòa. Thế thì luận chứng cũng mỗi mỗi sức chống nhau ở mũi tên nhọn lại là phải kẻ đặc biệt mới được. Như ý căn còn trệ phải hướng đến trước chọn lựa. Cho nên Hòa thượng Trường Sa nói: Người ngồi đầu sào trăm thước phải tiến bước. Muời phương thế giới là toàn thân. Tăng nêu hỏi Nam Tuyền: Đầu sào trăm thước làm sao bước lên? gì. - Lại tiến một bước. Tăng lại hỏi Ngõa Quan nói: Đầu sào trăm thước cần tiến làm Tăng không chịu. Quan bèn đánh. Sư nói: Đại chúng! Có người xưa biến ra một thời, lúc ấy chẳng có bản luận, cũng chưa nói. Lại như Tuyết Đậu, ngày nay lại vào Linh Ẩn cũng giống: Bách xích can đầu tọa để nhân Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân Bách xích can đầu tu tiên bộ Thập phương thế giới thị toàn thân. (Đầu sào trăm thước. Theo lời Nam Tuyền được tiến một bước, thích gặp nhau với đại chúng, thì mười phương thế giới là toàn thân). Bèn xuống tòa. Sư đến chùa Thừa Thiên ở Việt Châu, chúng thỉnh sư thượng đường. Tăng hỏi: Học nhân không hỏi ý Tây lai, chỉ hỏi ý bắc đẩu tàng thân như thế nào? Sư nói: Kẻ lấy đầu làm đuôi. Thỉnh sư đáp lời. Sư nói: Tây thiên lệnh nghiêm. Hỏi: Có hỏi đáp, khách chủ xưa nay vậy. Không hỏi không đáp thì thế nào? Sư nói: Lối xưa đầy cỏ mịt mùng. Nêu không lên sao hết thế? Kiếm bén không chém người chết. Sư bèn nói: Tác giả gặp nhau một xô một đè, lấy rồi liền đi. Như dừng nghó chợt tìm không được. Nếu nói hỏi ở chỗ đáp, đáp ở hỏi Tông mỗi mỗi y cỏ phụ cây. Hỏi: Không ở chỗ đáp, đáp không ở Tông hỏi, ít thấy trên đãnh có mắt, mọi người còn tiến cử được không; Tiến cữ được hay không được đều là lỗi mới của Tuyết Đậu. Đừng chọc quê Hòa thượng Thừa Thiên. Đàn Việt Việt Châu lo trà nước thỉnh sư thăng tòa. Tăng hỏi: Đàn Việt ân cần ba lần thưa thỉnh, xin sư phương tiện chỉ bến mê. Sư nói: Không cho đi đêm, đến sáng phải về. Lại nói: Chẳng những học nhân, bốn chúng đều mong nhờ. Sư nói: Trăm ngàn năm sau. Hỏi: Thế nào là yếu chỉ Thiền Tông? Xa xa hơn mười vạn. Tăng lễ bái. Chống gậy không được. Sư bèn nói: Chư đàn tín! Sơn tăng tăng đi qua, gặp gỡ nhau, đâu rửa được đối đãi đặc biệt, đè nén phô dương. Lại như Hòa thượng Thừa Thiên, tôn sùng người có lòng từ huống là nghe khác để tuyệt hiếm. Đâu phải phiền hà Tuyết Đậu lại vì phát tuyên. Dù ba đời Thánh nhân, sáu đời khai só, lợi sinh ra. Cho nên mọi người không dám nhầm lẫn mảy may. Tuy thế, bỏ qua thì không được. Sư im lặng hồi lâu nói: Không biết làm khách, lao phiền chủ nhân. Đậu? Sư về chùa thượng đường, có Tăng hỏi: Thế nào là chủ Tuyết Sao không hỏi người trong núi Tuyết Đậu? Hãy lấy Định càn khôn đi. Ra cửa chỉ sợ không đến trước, giữa đường có người đợi lâu. Hỏi: Thế nào là gia phong Cổ Phật? Sư nói: Ban ngày ban mặt. Còn cho học nhân lãnh hội không? Không phải kiếm khách xin chớ qua lại. Hỏi: Thế nào là đệ nhất cú. Chùy vàng trong tay áo. Tăng bèn hét. Sư nói: Sáng ba ngàn chiều năm trăm. Hỏi: Thế nào là cảnh Thúy Phong? Trời không có bốn vách. Thế nào là người trong cảnh? Trăng trong núi. Thế thì từ lúa mạ mà biện được đất nhân nói biết người. Sư nói: Đúng. Tăng lễ bái. Sư nói: Kiến thức cạn cợt một trường khó khăn. Sư bèn nói: Tiêu cách gì? Còn biết không? Chư Thiền đức, Tổ Phật không thể tuyên truyền, trời đất không thể che chở, bày ra hai thừa thanh văn. Thập địa đến đây hồn sợ hãi, hoặc Đạt Só mãi dũa, gặp quyết chiến một lấy một đè, lược bày phong quy. Cú trệ thì đứng núi mãi hư không, nguồn mê thì mây giăng ngang đồng. Cho nên Tiên Thánh nói: Một lời mới nêu ngàn xe cùng vết bao quát vi trần, còn là nói hóa môn. Nạp tăng, mong mỏi gì? Tự thời biết. * Thượng đường Tăng hỏi: Thừa sư có lời: Canh ba qua cửa sắt ý chỉ thế nào? Sư nói: Lời nói trung thực không tránh cắt lưỡi. Tăng lễ bái. Đến nơm mới biết lấy cá khó. Hỏi: Ngàn núi vạn sông xuyên mây đi, đoạn trừ vọng tưởng tham cứu đến chỗ huyền diệu việc thế nào? Đạp rách đôi giày cỏ. Vì sao như thế? Ngừa xong lo xa ắt có vui gần. Thế nào là người hướng đến việc đã qua? Y ngồi dưới cây lan. Lại đến thì thế nào? Mặt trời vây quanh núi Tu-di. Trên trời dưới đất chỉ có ta quý nhất. Sư nói: Kẻ hai đầu ba tay. Thưa sư có lời: Lão Thích Ca thở ra không được, điêu ngoa chỗ nào? Sư nói: Quân tử ngàn dặm cùng gió. Thế thì ương lụy đến con cháu. Vốn chẳng phải loài vịt. Sư nói tiếp: Chư thiền đức: Dù Văn Thù biện thuyết, nhận lửa đom đóm là thái dương, là của quân só chỉ có mắt đồng trăng sáng. Cho nên Tuyết Đậu tầm thường nói: Trước Oai Âm Vương không có thầy tự ngộ, là đệ nhị cú. Còn ta đệ nhất cú. Nếu chưa có thể lấy Kẻ cầm quyền ở ngôi trọng yếu, không tránh khỏi bôn ba nam bắc. Thượng đường nhân Tăng đưa gậy lên, sư lấy nêu thành bài tụng rằng: (Núi sinh cây đơn lẽ chẳng có linh, thế bao hàm sông núi tự phân minh, đưa đến thắng được kiếm thành phong, báo hết nhân gian hay không bình.) Lại nói: Đại phàm lấy bình báo bất bình. Là nghóa thường chuẩn lấy bất bình báo bất bình, là thanh quy đặc biệt, cũng giống dùng trí sai mê hoặc. Hạ só tương đối lấy trí sai trí ít gặp tác gia, có hiểu hai bất bình không? Mọi người không lường tội lỗi. Tuyết Đậu cũng không lường được tội lỗi. Lỗi Tuyết Đậu tự có thể kiểm xét. Ông là thùng sơn, không đánh thì đợi bao giờ. Nói xong lấy gậy đuổi xuống. Mùa đông, Sư đến thượng đường. Tăng hỏi: Tiếng trống mới dứt trong chúng đều đến. Tăng hỏi một câu: Tân tiết thỉnh sư chỉ dạy. Trước ba ngày sau năm ngày. Lại nói: Thế thì nghe được điều chưa nghe. Sư nói: Dây ngắn không dò được suối sâu Sư nói: Tám mươi lão Tăng nhàn quán đánh. Học nhân không hiểu. Bốn biển không sóng vầng trăng lẽ loi. Tăng im lặng hồi lâu. Sư hét nói đi đâu. Tăng lễ bái. Sư nói: Tha cho các sư nói tiếp gặp nhau không lấy ra, nêu ý bèn biết có, không phải kẻ than thở. Lại bước loạn phía trước thật là khổ cực. Chư thiền đức xem ông ta giáo trước. Chưa rời Đâu suất đã xuống Diêm Phù, chưa ra khỏi thai mẹ mà độ người đã xong. Nếu nói đi khắp bảy bước, mà nhìn bốn phương giữa trời đất chỉ ta quý nhất. Còn có người không tha cho y. Như nay khéo nói dị đoan, không chịu gánh vác, đáng thương xót. Cho nên nói: Thiên ma ngoại đạo là kẻ vong ơn bội đức. Thanh Văn nhất thừa là tự khi cuồng. Ông thấy như thế. Việc bất bình lại tức giận đuổi đem đi, hét đem đi. Tùy bài nói. Ta không biết không hiểu. Trong biển khổ thường có khi nào xuất đầu. Sư thượng đường nói: Hình khởi chưa thành chất, danh khởi chưa thành danh, hình danh đã thành, dạo chơi khắp nơi. Sư dơ gậy lên nói: Đại chúng. Cây gậy là hình danh đều nêu, còn có lỗi không? Có thì trăng đáy nước. Không thì hình danh đều thành. Cũng nghiên cứu cùng tột thật được gọi là ân rất khó báo đáp. Sư thượng đường nói: Chưa ra thai mẹ thấy thành công án. Đi vòng bảy bước tội phạm tày trời, bèn vào trong Lộc Dã Uyển, trên chi mạn lại sinh chi mạn, rồi dơ gậy lên nói: Hồng hồng xuống tòa. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là chạm mắt Bồ-đề? Gió thổi, bụi bay, chim bay rơi lông xuống. Xin Sư phương tiện lần nữa. Kịp bị đánh phá Thái Châu. Thế nào là một câu giáo ngoại biệt tuyền? Câu hỏi hay. Có cho pháp học nhân lãnh hội không? Sư nói: Kẻ có đầu không đuôi. Sư nói tiếp: Chư nhân giả! Phàm Tông sư xướng đạo thí như khách một mình chèo thuyền bềnh bồng trên sông xanh, trăng sông khói sóng, theo tình sáng sủa mênh mông, muốn ném bánh thơm phải đợi cá kình lớn. Dù có vẫy nhỏ phải không mong có. Sư thượng đường nói: Một đường thẳng, hai vòng ngăn, nạp tử biện được, trong mắt sinh hoa bèn xuống tòa. Sư thượng đường Tăng hỏi: Đạt Ma Tây Lai Chi truyền tâm ấn, các phương vì sao nói dị đoan. Sư: Ai? Lại nói: Đâu có thể như nay. Tây Thiên lệnh nghiêm. Thế thì vào nước thấy người lớn. Hàn Tín, vào triều hỏi, ba hồi trống, đánh xong, quần hiền tụ tập xin Sư ném xuống tiền đề. Chỗ Trường Nhân đưa người, khi nhớ được nhà khác. Lại nói: Thế thì lui thân ba bước. Sư nói: Vẫn là ngư ông cầm cần câu cá. Hỏi: Không trừ vọng tưởng không cầu chân là người nào? Nhất Giác Túc. Sư mới nói: Thế thì trên trời trên đất chỉ ta quý nhất. (Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn). Sư nói: Một khi bỏ thì chuyển. Sư nói tiếp: Phần lớn xuất chúng mài dủa cũng phải là bổn phận. Thiền khách cũng chưa đủ mắt thốt trác đồng thời, cuối cùng mò tìm không được. Sư thượng đường, các phương tập định xong. Sư nói: Không dùng đầu suy lường khó được Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Cần câu ngay câu cá côn, cá kình, cần câu cong câu rùa, ba ba. Câu cong mà câu cá côn, cá kình, lý ứng chưa được. Câu thẳng mà câu rùa, ba ba, tình cũng chưa cam. Như nay buông câu, người phụ lãnh hãy dở lên câu. Sư im lặng hồi lâu nói: Nhọc mà vô công, Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường chúng vân tập, Sư đứng dậy nói: Tuyết Đậu được cao như thế, mọi người thấp như thế, nếu người nói được câu bằng vai. Cho y lấy Định càn khôn, Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Cái dùi trong túi vải, không xuất đầu thì tay giỏi. Sư nói: Đại chúng của Tuyết Đậu ra. Chẳng có thiền khách một bên không chịu ra, Sư im lặng hồi lâu nói: Mọi người đã rút đầu, tạm cho chư vị kiểm trách.  MINH GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 2 * Nêu Tăng hỏi Triệu Châu khi đạo nhân gặp nhau thì thế nào? Triệu Châu nói: Trình thùng sơn. Sư nói: Chư Thiền đức có ai biết Triệu Châu không? Ra đây cùng bàn luận, nếu chưa biện rõ thì giống như theo đầu nêu điểm phá cho các ông. Bốn nhân chín bằng ba mươi sáu thâu. Nêu Lâm Tế dạy chúng: Có một vô vị chân nhân, thường ở ra vào ở cửa các ông. Người tâm ban đầu chưa chứng cứ xem thử. Lúc ấy có Tăng hỏi: Thế nào là một vô vị chân nhân. Lâm Tế xuống giường thiền cầm cột trụ. Ông Tăng này suy nghó. Lâm Tế nói: Vô vị chân nhân là cục cức khô. Tuyết Phong nghe vậy nói: Lâm Tế giống như giặc lấy không. Sư nói: Kẻ khác ăn cắp, quỷ thần chẳng biết, đã bị Tuyết Phong nhìn thấy, Lâm Tế không phải khéo léo. Lại gọi đại chúng! Tuyết Phong ngày nay đã đổi cặp mắt sáng của các ông rồi, ông nếu không tin, mỗi người về liêu xá của mình tìm xem. Nêu Tăng đứng hầu Bảo Phước, Phước nói, ông được tâm thô thế. Bảo Phước đưa một cục đất cho Tăng nói: Ông ném ra ngoài cửa đi! Tăng ném rồi lại đến nói: Chỗ nào là tâm thô của mỗ giáp? Ta thấy ông soang soảng nên nói tâm ông thô. Sư nói: Thế thì ôngTăng bị Bảo Phước đốt nóng mắt. Đâu có thể thật không che tà ngụy công vạy không chưa trực thẳng. Tuyết Đậu sẽ nay nhìn xưa, đối với lý không cam là một bọn ông. Bổng đến trong Tăng đường, ra vào liêu xá soang soảng cũng không biết, gần đây tâm thô chuyển thạnh, ta nếu bỏ qua thì thấy mọi người kiểm trách. Sư đưa gậy lên rồi xuống tòa. Đại chúng một lúc giải tán. Nêu Tuyết Phong gõ cửa Hòa thượng Quán. Quán hỏi: Ai? Phượng Hoàng. Làm gì? Ăn lão Quán. Quán bèn mở cửa, Tuyết Phong vào, bị Quán xô vào cột nói: Nói, nói… Tuyết Phong suy nghó, bị Quán đẩy ra. Tuyết Phong sau đó dạy chúng nói: Ta lúc ấy nếu vào được cửa lão Quán, bọn ông uống hèm rượu, tìm chỗ nào. Có một lão túc nói: Tuyết Phong có lời này, lúc ấy vào không được, như nay vào cũng không được. Sư nói: Gã vong ơn bội đức có gì giao thiệp, lúc ấy vào không được há là dạy ông vào. Nay đã tìm không được, nhiều người Tuyết Phong đều đứng dưới cửa lão Quán. Nêu Lâm Tế đứng đầu Đức Sơn. Sơn nói: Ngày nay khốn khổ. Lâm Tế nói: Lão này ngủ nói mê làm sao. Sư bèn đánh. Tế nhào xuống võng. Sơn bèn thôi. Sư nói: Hai tác giả có mắt thốt trác cùng lúc; có dụng thốt trác cùng lúc. Tuyết Đậu định cướp con hươu trong miệng mãnh hổ. Xé thịt thỏ dưới móng vuốt của chim ưng đói khát. Dám nói: Làm Tế Đức Sơn, cả hai đều mù. Có người biện được,hoành hành thiên hạ. Hòa thượng Càn Phong nói: Nêu một không được nêu hai, một phen cởi mở rơi vào thứ hai. Vân Môn ra chúng thưa: Hôm qua có người từ Thiên Thai đến rồi đi về Nam Nhạc. Tuyết Phong xuống tòa nói: Đại chúng! Ngày mai không cần phổ thỉnh. Sư nói: Xem ông ta là tác giả thổ lộ tin tức này. Y nhiên bất đồng. Như gã mù lòa chọc quê nhau bèn dơ gậy lên nói: “Cởi mở một phen” Sư liền xuống tòa. Nêu Huyền Sa nói: Ta có chánh pháp nhãn tạng nay phó chúc cho Ma-ha-Ca-Diếp. Như nói trăng. Tào Khê dựng phất trần như ngón tay chỉ trăng. Cổ Sơn nói: Trăng nuốt Huyền Sa, Ông A sư này đến ta tìm trăng. Cổ Sơn không chịu, lại trở về với chúng nói: Nói ta đến ông ta tìm trăng. Sư nói: Huyền Sa, Cổ Sơn như sắp bày trăm ngàn quân trận lớn. Chỉ ném ngói chạm nhau. Hoặc có nạp tăng biện được nên biết có chánh pháp nhãn tạng. Nêu: Trường Khánh nói: Tịnh Khiết đánh Lũy Liễu, lại đi đến tìm ta. Ta cho ông một gậy vào xương sống, có một gậy đến ông, ông phải sinh hổ thẹn, không có một gậy đến ông, ông lãnh hội chỗ nào. Sư nói: Tuyết Đậu thì không vậy. Tịnh Khiết đánh Lũy Liễu, phải đến gần trước, tay ta cho ông một gậy, có một gậy đến ông, ông lại chịu khuất phục, không một gậy đến ông, che ông bình xuất, chỉ hội như thế. <詞>KHÁM BIỆN. Ngày nọ Thị giả báo có ba người từ Thụy Nham mới đến. Sư nói: Dạy y bày tọa cụ lễ bái đi. Tăng ấy mới vào, sư dơ gậy lên. Tăng nói: Mỗ giáp đến lễ bài Hòa thượng. Sư nói: Hồng hồng, cái gì là Tham Đầu. Một Tăng đến gần hỏi, Sư nói: Sao ông mất đi ông bổn đạo nghiệm tăng. Còn lãnh hội lòng từ bi của Hòa thượng. Sư nói: Qua đứng một bên này. Lại hỏi người thứ hai tìm bạn phải hơn mình, như ta không bằng không. Sư lấy gậy chỉ Tham Đầu nói: Ông vì sao theo gã thùng sơn. Tăng nói: Mỗ giáp mới thọ giới. Sư cũng nói phỏng chừng: Đứng qua một bên. Lại hỏi Tăng thứ ba. Hai người mới đến thua thiếu rồi, ông kham làm người nào? Tăng suy nghó. Sư bèn hét “đứng qua một bên”. Rồi nói: Cứ hợp nhất thời chôn đi. Lại nghó từ xa đến, hãy tham thiền đi. Hỏi tăng mới đến: Tìm thầy hỏi đạo ngao du sơn thủy. Tăng nói: Cám ơn Hòa thượng chiếu cố hỏi. Sư bèn hét: Chỉ đối với ta trong lỗ mũi. Tăng không đáp được Sư nói: Khổ giết người lại đây! Biết đến Tuyết Đậu không? Tăng thưa: Không biết đến. Sư đánh một gậy nói: Con cháu không được phạm xúy. Một hôm, hai người mới đến. Sư nói: - Nạp tăng bà chủ. Tăng thưa: Xin Hòa thượng giám xét. Sư nói: Một không thành, hai không phải. Tăng thưa: Không cần nhọc như thế. Sư nói: Ta tạm bỏ qua. Sáng đến Tây Thiên chiều đến Đông Độ. Như thế nào? Sư nói: Để nạp Tăng tham thiền đi. Hỏi tăng mới đến: Từ đâu tới? - Hòa thượng nói gì? Sư nói: Ta hỏi ông từ đâu đến? Tăng đứng lui lại. Sư nói: Không thể chịu được, không nói chỗ đến, lấy gậy đến. Tăng nói: Mỗ giáp từ Phụng Xuyên đến. Sư nói: Đánh gã bịp bợm này, sao không nói thế. Lại hỏi người thứ hai Ông cũng vừa đến chỗ. Tăng nói: Mỗ giáp sắp rời Đại Mai. Sư nói: Hai đoạn không đồng đáng cho ba gậy, tạm bỏ qua. Ngày nọ Tông Thủ Tọa đến, mới suy nghó nhân sự sự đứng nói: Đã biệt tín thao lược, lại phải vòng tay quy hàng. Tông nói: Ngày nay bại trận. Sư nói: Kiếm nhọn chưa thi thố, thân giặc đã lộ. Tông nói: Thở mau giết người. Sư nói: Tướng bại không chém. Đúng vậy. Lễ bái đi. Sau ba mươi năm có người nêu. Đã bỏ qua ông. Hỏi Thánh Đạo Giả: Việc tham lâu thế nào? Trời xanh. Chạy loạn làm sao? Tăng hét. Sư nói: Ăn gậy. Tăng suy nghó định dơ tay lên. Sư lấy tọa cụ định đánh nói: Ông xem gã mù này loạn. Ngày nọ, có năm người mới đến. Sư nói: Đều không mất việc hành cước. Tăng suy nghó. Sư nói: Như lãnh hội qua. Có Thượng tòa Lương Châu đến. Như làm với thế như ngủ. Tăng thưa: Mới đến gặp nhau. Sư không đáp. Tăng lại nói: Mới đến gặp nhau. Sư lớn tiếng nói: Ai? Mới đến. Đã biết tham thiền đi. Mỗ giáp là Đại Long thọ nghiệp. Sư quát: Đồ thùng sơn ai biết ông. Tăng đến gần nhân sự. Sư nói: Tốt tốt! Lễ bái đi! Tăng nói: Gặp nhau rồi. Sư nói: Có biết Thượng tòa Thư không? Là sư huynh. Vì sao ông chọc quê ông ta? Hòa thượng nghó được. Gã đạp rách giày cỏ, không thể đánh được ông, hãy ngồi uống trà đi. Hỏi Tăng: Từ đâu đến? Thiên Thai. Còn thấy Trí giả không? Thấy. Vì sao ở dưới gót chân ta? Tăng không đáp được. Kẻ vọng ngữ rỗng tuếch. Hỏi Tăng: Từ đâu đến? Ôn Châu. Có biết Vónh Gia đại sư không? Là người Hương nhân. Cách biển với ông. Rõ vậy. Mà cũng không bằng nói thẳng. Tăng không đáp được. Sư nói: Hừ. Sư ở Đại Long làm Tri khách, Lý Điện Viện đến núi uống trà đàm đạo hỏi sư: Tri khách là trưởng lão Hương Nhân. Không dám. Ở đây không được chạy loạn. Sư nói: Vốn là hành cước. Hành cước là việc gì? Xem chạy loạn. Viện móm cười. Sư ở Cảnh Đức Trì Châu làm Thủ tọa. Lúc ấy Thái thú từng là học só vào viện hỏi thăm nhau. Đang ăn quả uống trà học só lấy quả táo ném xuống đất, gọi sư: “Thủ Tòa”. Sư đáp: “Dạ.” Học só nói: Người xưa nói không rời đương xứ thường trong lặng. Sư chỉ Trưởng lão Cảnh Đức nói: Chỉ lão này bí cũng không biết thế nào? Só nói: Thư tòa biết cũng không được không lỗi. Sư nói: Người mắt sáng khó lừa. Sư đến Thái Hồ có Dư Tuần Kiểm thỉnh sư cùng thượng tòa Chí Y thọ trai mới đứng dậy kiểm hỏi giúp Quan, ngày nay sai hai nạp tăng thọ trai, được quả báo gì? Sư nói: Mưu tính một hạt gạo của người mất đi nửa năm lương thực, y nói: Lâm hành mới biết chủ nhân khoan hồng. Sư gọi: Xá nhân Xá nhân ôm đầu. Sư chỉ y nói: Nạp tử gốc rễ, trai tăng ông ta rất có ích? Tuần Kiểm cười lớn. Sư bèn đứng dậy đi. Sư đến Tuyết Đậu, đi qua Hàng Châu. Từ chuyển vận hỏi sư: Danh sơn Tuyết Đậu, có con mắt nạp tăng, bỗng dựa nhau đến. Trưởng lão làm sao sai ông ta? Sư lớn tiếng gọi Khách Ty. Ty đến trước, Sư nói: Vận sứ hỏi cái gì? Sứ nói: Đẩy qua. Đẩy qua lại đâu được. Sứ không nói. Tất cả không tiện nghi. Sứ lại hỏi: Trưởng lão mấy ngày qua sông Tiền đường? Sư đáp: Sơn tăng chưa dám đi trước. Sứ nói: Làm cái gì? Sư nói: Từ chuyển vận đoạn người có ngôi vị trọng yếu. Sứ nói: Ngày nay trưởng lão gỡ tôi mới lên. Sư bèn từ chối. Sư ở Phước Nghiêm Nam Nhạc làm Tạng chủ (người coi phòng kinh sách). Lý Điện Viện cùng Nhã trưởng lão vào Tạng viện. Sư ra tiếp Điện Viện nói: Tạng chủ phải không? Sư nói: Không dám. Viện nói: Trong Tạng có nói hạ quan không? Sư nói: Trước mắt đáng nghiệm. Viện nói: Việc nghiệm là thế nào? Sư nói: Không tiêu một mũi nhọn. Viện không nói. Sư nói: Tạm thỉnh Điện Viện về liêu. Đang ngồi uống trà khí núi bỗng ngồi lên. Nhã nói: Điện Viện dạo núi, trở ngại sương khói. Viện nói: Thánh tích Linh Phong vì sao lại có cái này? Sư nói: Không có phương dưới. Viện suy nghó nói: Nhã nói Tạng chủ như quán Phúc Nghiêm. Sư nói: Thượng hãy đừng mở mắt. Viện nói: Tác gia tác gia. Sư nói: Điện Viện Tôn trọng. Khi ấy có đạo só tú tài đến viện. Lại hỏi: Trong ba giáo, giáo nào hơn hết. Sư bèn nghiêng mình đứng dậy. Viện nói: Có miệng sao không nói. Sư nói: Đối với Phu tử khó nói. Viện nói: Thôi thôi liền đứng dậy. Sư nói: Mới đến vội vàng. Khi sư ở Hải Hội Thư Châu, nhân Tư Thông Phán hỏi: Trong núi có bao nhiêu chúng? Một trăm Tăng. Đã là Hải hội vì sao chỉ có trăm Tăng? Người bần trí kém. Lại nói: Sau ông ta có người nêu. Lại hỏi: Trưởng lão trong núi hàng ngày nói gì? Đi đường gặp kiếm khách. Ùm. Sư bèn từ giả lui ra. Sư ở Minh Châu, thấy Học só đang ngồi. Sư hỏi: Tằng cùng trưởng lão Thanh thương lượng Triệu Châu khám phá Bà tử. Đầu mối có chỗ khám phá không? Sư nói: Trưởng lão Thanh nói gì? Học só nói: Lại đi như vậy. Sư nói: Trưởng lão Thanh cởi mở một phen, học só có biết nạp tăng thiên hạ ra Bà tử cuộn áo không được không? Học só nói: Ở đây chẳng có chỗ nói. Triệu Châu như không khám phá Bà tử, một đời chịu khuất phục. Sư nói: Khám phá rồi. Sư cùng Tăng chúng vào thành khất thực, học só trước có công văn cấm tuyệt Tăng đạo đưa thiếp. Sư cũng theo lệ đó: Và có tụng gởi Học só rằng: (Ngọc rơi ngói ngưng mây vừa tan, ở núi trữ tình gởi lớp thành. Sai anh nói chưa gặp nhau, không luyến Cam đường đi trong bóng.) Học só đáp lại: Lao nhọc việc đời theo chìm nổi nhất tánh sáng trong từ xưa đến nay, mắt chạm đạo còn không cách trở, cần gì thấy mặt mới biết lòng. Lại sai người thỉnh. Sư nói: Gặp nhau rồi. Học só nói: Đạo còn không cách trở, thật vào không được. Sư nói: Sau đó thấy trưởng lão chỗ khác. Học só không thỉnh. Nêu y. Học só nói: Nêu lại ngại gì? Sư nói: Sơn tăng tội lỗi. - Tốt lắm. Sư nói: Dạ dạ. Sau khi học só giải ấn, sư đưa đến Việt Châu, ở mấy ngày bèn từ giã. Học só cố giữ lại. Sư nói: Về núi trụ trì không quên Học só ngày này. Học só nói: Nhà nạp tăng thích lấy không định. Sư nói: Đâu được đến đây. Học só không nói. Sư nói: Đã hắm học só buông lời. Học só nói: Dễ ra thanh đưa nhau. Sư bèn lui. Học só đến Khánh Định, bày trái cây trà nước xong. Sư hỏi: Học só từ đâu đây vừa từ biệt lại gặp nhau chỗ nào? Học só nói: Trưởng lão vì sao đối mặt quên đi. Sư nói: Cầu tâm Tăng cũng đủ rồi. Lúc ấy Hòa thượng Quảng Tuệ lại hỏi: Sư từ đây vừa từ biệt, lại gặp nhau với Học só nơi nào? Sư nói: Chính là ngàn dặm vạn dặm do đó lấy khác. Học só nói: Thiện là đạo lộ. Sư nói: Dạ dạ. Ca tụng Tặng Trưởng Lão Thanh Y. Thiên y quý báu trưởng lão vô giá. Kim ô mọc ở phím đông vào sáng sớm. Năm khác hoặc cần con cháu. Vô cớ phải vào cỏ hoang. Gởi trưởng lão Diệu Quả Chánh. Có một chút cơ nghì rất cô tuyệt. Tâm tình hoại chỉ vàng sắt du lịch không biết tham hỏi ai. Từng nói trời không có mặt trăng thứ hai. Nghe gần chặt đứt xiềng xích dong ruỗi. Vật gì đem ra vốn là gốc của nó. Bay thẳng lên trời ba mươi ba. Thấy hay không vì anh khó khăn. Trong núi mịt mờ cũng khô héo. Năm tháng thôi đua tranh bảy mươi chín. Nam bắc đông tây vui gió xưa. Lúc ấy có người nối tiếp sau. Đưa thị giả Tông. Mãi nhờ Thiều Dương dạy câu kỳ lạ. Người xưa đến đây còn không ở. Tông thiền chín vạn từng trình bày. Ta nghó bảy màn còn bước một mình, lớp núi bỗng ông đến gõ cửa. Tự nói vết lẻ như đoạn mây đứt. Tuyết Đình vừa xa tuy hận nhiều lại có cùng phần trăng trong núi (câu này là người Tông Thiền rời núi ngày có làm). Khảng khái như thế chẳng mong mỏi. Gió mát bao la không chỗ tránh. Trên trời thiên hạ biết hay không biết. Năm lá ngàn đèn lại há chi? Tiểu Khê tặng Phổ Thiền giả. Năm tháng sẽ hết trời sáng lạnh khắp nơi. Ông già là tựa gối quanh co lại khó. Thiền khách Vạn Sam đến tìm ta. Ngôn ý siêng năng khuyên thanh đọa, liếc mắt cánh buồm lại theo về. Trăm đốt tứ chi khó gánh vác. Gió lành lạnh, sông êm êm, cưỡng viết lời từ biệt mấy không thành. Tầng núi tự nhiên tri kỷ cũ gặp nhau không quên được tình này. Đưa Thiền giả Thanh. Có Thiền giả hề linh cơ rộng lớn. Phương trong phương ngoài ai luận bàn. Ra biển đều hề tiếng bóng bước theo. Một trượng một cành không phải dụng. Phương trong phương ngoài ai luận bàn. Gió xuân đến hề nơi nào khác. Đâu từng quét hết tuyết núi xưa. Dõi mắt xa xăm nghó người xa. Tào Khê chịu cùng thêm lúc này. Thanh hề thanh khổ nên còn mãi. Đẹp hề bỏ ngựa thôi cùng vết. Gãy móng tay tàn hết sáu lá hoa. Tây Sơn một đi không tin tức. - Đưa một thiền giả. Trời được một đất được một. Vương được một hề không bằng đôi. Sông được một hề về biển lớn. Nên thấy ba núi cao vòi vòi. Một được một lại sao hẳn được. Xưa nay không từng ở trượng thất. Lại là ai trong ngàn bóng hoa. Tám mặt gió mát chiếu trời hồng. Một thiền một thiền cần nhớ lấy. Như răng cốt khó hề lại cho nhau. Ganh đánh ném kim bỗng mang đến. Phất tay áo mỗi mỗi bỏ đi. - Đưa Thiền Khách Toàn. Có rồng hổ vằn hề khi hợp nhau. Có thế đi hề chỗ người về. Đông Tây nối gót hề lại ai. Là tà trên dưới, nhìn phương hề cơ còn cơ chưa. Toàn thiền toàn thiền biết không biết. Đại thi cửa mở hề trần phân đáng vậy. - Đưa Tónh Sơn Thủy. Góc tùng trên đá từng chỉ ta. Bốn bề bao la ia chưa được. Há biết phượng trắng truyền âm hay. Vứt đi mây loạn ngàn vạn mảnh. Khe núi điệp trùng xuân đến chiều. Gió đưa hoa tán bông liễu bay. Chậu vàng đợi trăng nên có kỳ. Mũ báu soi nước há không y cứ. Tónh Thiền lại nhớ ta dặn dò. Kia hề quốc độ đêm soi sáng. Gặp nhau bao dung chẳng bằng nhàn. Cảnh người trời đi còn vết cao. Gởi Tạng Chủ Thu Thiền giả. Người Tân Châu ra bán củi, Tạng trong năm long tố ngày đêm. Huỳnh mai giữ được lá hoa xưa. Không nhờ vật hề lại chống cao. Thiền hay lau sạch không bụi bặm. Nhưng hết các nạn mắc chưa khai. Qua lại trên đá cầu văn tự. Đâu được cô phong lại chỗ đến. Gần có có người tìm Tổ ta. Nói rằng ở chỗ sâu thôn Lô. Trộm được nhà bên một chút sáng. Dùng làm ngàn đèn để nối dòng. Ha ha ha đất rộng trời bao la đâu có thể. Đưa Vân Thiền Đức. Lão trong núi hề tám mốt. Nhàn gởi mười năm giúp bút từ. Dù khoe bước tiến ngày lúc này. Há khỏi Long Chung cười ngày khác. Lúc khác ai cũng theo cơ biến. Nửa đêm giờ ngọ lạnh cốc sinh mặt nước. Chẳng có bóng sáng nơi nào đến. Ngước mắt loạn bay sao đẩu chuyển. Ca hề ca hề khổ tìm tòi. Xa tặng Vân Thiền thẹn tiêu cách. Trên chiếu Huỳnh Mai đuổi gió xưa. Hát cao tự biết trời đất hẹp. Tặng Lục Học Só. Lục Đại phu ngày xưa, nhiều người tụ tập du phương. Lục Sớ Quân ngày nay lại cùng không sinh hội. Nướ lớn đang dò la. Kiếm dài mài mài dũa. Hoặc hỏi rãnh an nhàn. Không biết như là đáp. - Đi thuyền. Thuyền lẻ chọn lên bên ngàn sông. Thừa hứng dạo chơi nghó chưa thôi. Nhìn hướng về mặt trời sắc xuân đã chiều tối. Thuận dòng trở về tình quê bao la. Hát lớn khách câu thu tơ lụa. Làm bóng Sa Cầm quét sạch lông chim. Nghó lại nối gót xưa vô vạn ý. Biển tối lúc đầu bức người lạnh. Phía đông ở hiên ngẫu làm. Rừng trúc núi nhỏ cảnh đơn sơ. Chợt đến nhàn ngồi biết thoải mái. Bỗng nhiên dõi mắt ai biết ta. Hơn vào ngàn vạn núi mây gay. MINH GIÁC THIỀN SƯ HẬU LỤC. Sư thượng đường nói: Trời trời trời lên hướng đông, trời trời trời lặn hướng Tây, tuần hoàn ba trăm sáu mươi ngày, mấy người hiểu biết hang hốc mở ra sáng suốt đẹp đẽ, định lấy hoảng hoảng hốt hốt. Anh không thấy, thành Tỳ Da Ly, người trên đó một nhà, xa xăm là vật gì? Sư gọi đại chúng nói: Mở to mắt ra. Rồi Sư bèn xuống tòa. Thượng đường nói: Vàng ròng làm đất, bạc trắng làm tường vách. Lão Thích Ca không cho đi ỉa ở đây. Sư lấy gậy gạt ra nói: Hãy xem, rơi trên đầu mọi người. Sư thượng đường nói: Ba ngàn kiếm khách nay ở đâu? Riêng cho Trang chu đến thái bình. Sư bèn xuống tòa. Một hôm Sư nói: Đại chúng! Một mảnh ruộng phân phó đến nhiều thời. Bốn người ông đến ranh giới bờ đê còn chưa biết. Nếu cần một cây hai cây trung tâm, ta cũng không tiếc. Im lặng hồi lâu nói: Ăn hại làm sao? Nhân Tuyết dạy chúng rằng: Trên đầu trắng xóa dưới chân trắng xóa. Tôn giả Kim sắc một mình lên lầu cao, mở mắt tạo tội, nhắm mắt chịu hỏa tai. Thế nào thế nào lưới trời bao la. Sư thượng đường mọi người vân tập xong. Sư nói: Khám phá rồi, Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường: Dơ gậy nói: Mắt trong vật, vật trong mắt. Mười phương chư Phật cùng ở đây mà khởi lãnh hội chưa? Gã mù về thiền đường. Sư thượng đường nói: Long Tuyền và đao rìu, đồng là sắt mà có bén lụt có khác. Ngựa hèn và ngựa ký, cùng một con đường nhưng chạy chậm nhanh có khác. Rõ như vậy rõ ràng như vậy. Một ra, một vào, nửa khép nửa mở. Dòng nửa mênh mông rộng rãi, hãy phân biệt trắng. Sư thượng đường nói: Đáng được động đất mưa hoa. Làm sao về thiền đường nhóm lửa. Sư bèn xuống tòa. Một ngày vẫn tham, Sư đứng trước Tăng đường nói: Không đánh trống lên không được, đem bỏ cửa vào không được, nói mau!nói mau! Đại chúng! Chớp mắt, sư lấy gậy một lúc đuổi đánh. Thượng đường nêu “Đại sư Vân Môn nói: Sông thiền theo sóng tónh, sơn hà đại địa không phải là sóng.” Sư dơ gậy lên nói: Hãy xem một chỗ khởi ngàn chỗ trăm chỗ mất mỏ. Một chỗ dứt ngàn chỗ, trăm chỗ không biết. Có hiểu không? Không hiểu thì về lại thiền đường. Sư thượng đường nói: Thấy một thì mắt ông mù, biết một thì mắt ông nhặm, nhặm thì sinh vào nhân gian trên trời, mù thì ba đầu sáu tay. Nếu biện được ta cho ông thập chữ ngang dọc. Sư thượng đường nói: Chữ dó không thành chữ bát, không phải hoa ưu đàm đang nở, ngửi không nghe mùi thơm, trở lại cười khách trên thuyền câu cá, không thích Nam sơn lại thích mũi ba ba. Tăng hỏi: Một câu hỏi vạn dặm không mây, trời xanh ăn gậy, ý thế nào? Sư nói: Quân theo ấn chuyển. Tăng nói: Thế thì ở trong tay Hòa thượng. Sư nói: Kiếm bén không chém người chết. Sư thượng đường nói: Mùa xuân núi xanh trùng điệp. Nước xuân lặng trời trong, bao la giữa trời đất, một mình đứng trông đâu cùng. Sư bèn xuống tòa, rồi quay nhìn bảo thị giả: Vừa rồi có người đến phương trượng không? Có. Người làm giặc tâm rỗng rang. Sư thượng đường nói: Lớn không ngoài, nhỏ không trong, nửa khép nửa mở thành viên, thành hòn, lão Hồ đã cách tuyệt, nạp tử sai trái nhiều. Từ ngàn xưa vạn cổ dài dằng dặc, lấp sông lấp hố không người biết, lấy gậy dọng xuống đất nói: “Về thiền đường.” Ngày nọ Sư thượng đường đại chúng vân tập, sư lấy gậy gác ngang trên đầu gối nói: Thế thì biết được, mù mắt người trong thiên hạ, lại ném gậy xuống nói: “Cứu lấy một nửa” Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Mười phương không vách đổ, chung quanh cũng không cửa, sạch trọi trơn trần trùng trục cũng u mê không thể lấy. Lão quán khô suối xuất đầu không được tạm gác qua. Ta cưỡi trâu vào lỗ mũi ông. Gã tầm thường nghe người nói thế như gió qua đầu cây. Có gì ùng chỗ nói. Sư thượng đường một không định, hai không thể, trên dưới tứ duy hoa đào, hoa hạnh đua nhau nở dưới gió xuân. Cây liễu cây dâu đều bị phá; Đáng thương Linh Vân ngày xưa vừa nói mê gặp Đạt Ma. Sư dơ gậy nói: Xỏ mũi Linh Vân rồi. Sư thượng đường nói: Tơ rũ ngàn thước ý ở khe sâu, câu lìa ba tấc câu được một người khéo tay. Hồi lâu nói: Câu người phụ mạng lên. Một hôm Tiểu tham Sư dạy chúng: Tu Bồ-đề an tọa trong núi Chư Thiên, mưa tuông mưa hoa chư thiên ca ngợi. Tôn giả hỏi Chư Thiên ca ngợi gì? Con tôn trọng Tôn giả khéo nói Bát nhã ba la mật đa. Ta chưa từng nói một chữ đối với kinh bát nhã, sao ông lại ca ngợi? Tôn giả không nói con mới không nghe. Không nói, không nghe là chân thuyết bát nhã ba-la-mật-đa. Chư Thiên lại mưa hoa khắp mặt đất. Sư nói: Tránh chỗ ồn náo cầu chỗ yên tónh, đời chưa có nơi đó, Ngài ngồi yên trong núi, một bọn hồ đồ, y lại có lão giả này không ở. Hỏi: Mưa hoa trên không ca ngợi còn có người nào? Sớm thấy bại trận rồi. Con trọng Tôn giả thuyết bát nhã ba la mật đa nước dơ khoát đầu. Ta đối với bát nhã chưa từng nói một chữ. Đồ cố chấp. Tôn giả không nói thì con mới không nghe. Biết chỗ nào tốt xấu đều giống giả thường. Chỗ nào có ngày nay. Sư lại gọi Đại chúng: Tuyết Đậu may là người vô sự. Ông đến đây buồn tìm cái gì? Lấy gậy cùng một lúc đuổi xuống. Sư thượng đường nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: chí đạo không khó, chỉ ngại là lựa chọn. Người lúc ấy có khó khăn không? Châu nói: Từng có người hỏi ta. Đến nổi năm năm phân sớ không xuống. Sư nói: Biết lời không thể chuyển chết lại xong. Đáng cho hai mươi gậy, gậy này phải có chỗ phân phó ông nếu biện không được, nói lời này hạnh lớn. Dạy chúng nói: Sức xuân không khắp nơi. Cây khô cũng sinh hoa. Người chín năm không biết, mấy lần qua lưu sa. Sư bèn xuống tòa. Có khi nói: Mã Tổ thăng đường, Bách Trượng cuốn chiếu, chính lệnh không theo, bỏ cong làm thẳng. Sư thượng đường nói: Như đất đánh vào núi, không biết sự cao và lẻ loi của núi, như đá ngậm ngọc, không biết sự không tỳ vết của ngọc. Ngày đi ba ngàn đêm đi tám trăm là ta thường dụng. Bỏ ném qua một bên nói: Mọi người thấy Bàn Sơn ở đâu? Nói mau! nói mau! Sư thượng đường nêu Tăng hỏi Triệu Châu: Hai con rồng tranh ngọc, con nào người được? - Bảo Tăng chỉ mặc xem. Sư nói: Xem thì được, tranh thì không được. Thử nói giúp Tăng hay giúp Triệu Châu. Sư thượng đường nói: Không phải Kim sắc đầu đà, chỗ có lý cũng không tuyết. Sư bèn xuống tòa. Ngày nọ Sư dạy chúng: Bà lão ở phía đông của thành, sinh cùng thời với Phật, một đời cùng sống mà không muốn gặp Phật, mỗi khi thấy Phật đến thì tránh, khắp nơi trên dưới đều tránh không kịp, bèn lấy tay bưng mặt, trong mười ngón tay đều thấy Phật. Chư thượng tòa. Bà ta tuy là lão già nhưng có khí trượng phu đã biết tránh. Hơi khó không khỏi nên tức giận. Như nay không muốn thấy Phật, tức cho ông phải kiêng nhất lấy tay che mặt. Giống như dùng mắt sáng để nhìn, sẽ bảo môn hạ Tuyết Đậu, dạy ông học thiền lão bà. Nêu Hoàng Bá vào đường, ngồi chỗ Nam Tuyền. Nam Tuyền hỏi: Trưởng lão hành đạo trong bao nhiêu năm? Trước Oai âm vương. Còn là con cháu vương lão sư. Hoàng Bá bèn đứng dậy đi. Sư nói: Đáng tiếc Vương Lão Sư chỉ thấy đầu chùy bén. Ta lúc ấy nếu là Nam Tuyền, đợi y nói trước Oai Âm Vương bèn ngồi vị trí thứ hai khiến cho Hoàng Bá một đời dậy không nổi. Tuy vậy cũng phải cứu lấy Nam Tuyền. Nêu Dược Sơn lâu rồi không thượng đường, Tri sự bạch rằng: Đại chúng muốn Hòa thượng chỉ bảo. Dược Sơn nói: Dạy đánh chùy chuông. Đại chúng mới vân tập Sơn bèn đóng cửa. Tri sự lại thưa: Đã hứa vì đại chúng thượng đường vì sao một lời cũng không nói? Sơn nói: Kinh có kinh sư. Luận có luận sư. Đâu cần gì lão tăng! Sư nói: Đáng tiếc lão Dược Sơn, đất bằng ăn cú đấm, hết đại địa đỡ không nổi. Nêu Thạch Cũng từng là thợ săn rượt đuổi con hươu qua am Mã đại sư hỏi: Có thấy con hươu của tôi không? Đại sư nói: Ông là người nào? Con là thợ săn. Có biết bắn không? Biết bắn. Một mũi tên bắn mấy con? Một mũi tên bắn một con. Ông không biết bắn. Hòa thượng không biết bắn phải không? Ta biết bắn. Một mũi tên Hòa thượng bắn mấy con? Một mũi tên bắn một bầy. Tất cả sinh mạng đâu cần bắn. Ông đã như vậy, sao không tự bắn. Nếu dạy mỗ giáp tự bắn thì không có chỗ buông tay. Gã này vô minh phiền não che lấp. Cũng vì thế lấy dao cắt tóc ở trong am hầu thầy. Sư nói: Mã Đại Sư một mũi tên bắn một bầy thật tài tình, có chỗ nào dùng không như Thạch Cũng một mũi tên bắn một con lại là tay thiện xạ. Tuyết Đậu ngày nay bắt chước người xưa. Định phóng một mũi, quát to. Xem mũi tên lại nói: Trúng vậy. Rồi xuống tòa. Nêu Đồng Quang Đế sai các Thiền Sư đang ngồi nói: Trẫm thu được vật quý Trung nguyên, chỉ vì không người trả giá. Hưng Hóa nói: Như thế làvật quý vùng trung nguyên của bệ hạ. Đế lấy hai tay (sư bịt đầu chân.)? Hóa nói: Vật quý của quân vương ai dám trả giá. Sư nói: Sở đắc Chí Tôn chỉ có thể xem một bên. Nếu chẳng phải tác gia Hưng Hóa, thường trả giá cao. Sư thượng đường im lặng hồi lâu nói: Đại thí cửa mở không đóng. Bỗng nhiên có nạp tử ra nói: Tuyết Đậu ngã lui tám trăm vì sao lâm nguy không sợ người. Sư bèn xuống tòa. Nêu Bảo Thọ hỏi Hồ Đinh Giao: Chẳng tiện là Hồ Đinh Giao. Không dám. Còn đóng được hư không không? Thỉnh Hòa thượng đánh phá tương lai. Bảo Thọ liền đánh. Giao nói: Chớ đánh nhầm mỗ giáp. Về sau gặp nhiều miệng A sư, cùng ông chấm phá. Sau đó đến Triệu Châu kể lại lời trước. Hỏi: Không biết mỗ giáp có lỗi gì? Triệu Châu nói: Chỉ một một đường may. Còn không thể nào được. Đồ Đinh Giao nhân đó tỉnh ngộ. Sư nói: Tuyết Đậu phải đánh ba người. Người thứ nhất là Triệu Châu, không lòa mắt Hồ Đinh Giao. Người thứ hai Bảo Thọ, không thể lấp được miệng Triệu Châu. Người thứ ba Hồ Đinh Giao, bỏ qua Bảo Thọ. Sư dơ gậy nói: Liền có một người. Đại chúng tạm thời thối lui. Sư gõ vào giường dây một cái rồi đứng dậy. Sư thượng đường: Thiện Tài lúc khác ai hỏi. Cửa lầu gác mở, suốt ngày nhàn. Sư bèn xuống tòa. Nêu vua Túc Tông hỏi Quốc sư: “Sau khi trăm tuổi, ngài cần vật gì? Xây tháp Vô Phùng cho lão tăng”. Xin sư cho kiểu tháp. Quốc sư im lặng hồi lâu nói: Hiểu chưa? Không hiểu. Ta có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên rất am tường chuyện này. Hãy đến hỏi ông ta. Sau khi Quốc sư tịch. Đế mời Đam Nguyên đến để hỏi ý này thế nào? Đam Nguyên đáp: Phía nam sông Tương, phía bắc sông Đàm, trong đó có vàng ròng đủ cả một nước. Dưới cây không bóng hợp cùng thuyền. Trên điện lưu ly không tri thức. Sư nói: Túc Tông lại không hiểu, Đam Nguyên hiêủ không? Chỉ tiêu hết cái thỉnh sư kiểu tháp chư vị Tổ sư Tây Thiên và Đông độ này. Gặp thì tát một cái không tránh khỏi lấy nam làm bắc. Có người bên cạnh không chịu ra. Ta cần hỏi ông cái nào là tháp Vô Phùng. Nêu ngày Vân Môn và Trường Khánh ở với Tuyết Phong. Nhân nêu Thạch Cũng thấy Tăng liền nói: Xem mũi tên. Tam Bình đến bèn mổ bụng ra. Thạch Cũng nói: Ba mươi năm một cung tên. Hai mũi tên chỉ bắn một nửa người Thánh nhân. Vân Môn hỏi Trường Khánh: Làm sao nói khỏi được Thạch Cũng gọi là một nửa người Thánh nhân. Khánh nói: Nếu không hoàn giá cả đâu biện được chân ngụy. Vân Môn nói: Vào nước mới thấy có người dài. Sư nói: Thạch Cũng muốn tiến lên bẻ gãy không khó, đâu có thể Tam Bình trúng đích. Thế thì Lão Túc muốn Tam Bình sống. Lại chưa khỏi cung tên. Sư thượng đường nói: Một hoa nở xuân thiên hạ. Cổ Phật vì sao không tiện? Ông nếu thấu được cứu lấy Lão túc trong thiên hạ. Bỗng có nạp Tăng bước ra nói: Hòa thượng hãy tự cứu vậy chấp nhận y làm sư tử lông vàng. Nêu Xá Lợi Phật hỏi Tu Bồ-đề: Trong mộng nói Lục ba-la-mật cùng với lúc thức đồng hay khác? - Nghóa này sâu xa ta không thể nói. Hội này có Đại só Di Lặc ông đến đó hỏi. Sư nói: Lúc ấy nếu không qua, theo sau với một mũi tên. Ai tên Di Lặc, ai là người Di Lặc bèn thấy ngói vỡ băng tan được. Nêu Phó Đại Só nói: Muốn biết chỗ Phật đi. Sư nói: Ba đời sáu mươi kiếp, một câu cuối cùng nạp Tăng thiên hạ nhảy không ra. Dù kẻ miệng trên vách chẳng có một lỗ xem qua rồi đánh. Nêu Tử Hồ Hòa thượng lập một tấm bia sơn môn, trên bia có ghi rằng: “Tử Hồ có con chó, trên lấy đầu người,dưới lấy chân người. Suy nghó thì mất thân mạng”. Bấy giờ thấy tăng mới đến bèn hét: Coi chừng chó. Tăng mới quay đầu. Hồ trở về phương trượng. Sư nói: Trong chúng đều biết, ông Tăng này dính một miệng, dính thì dính rồi, không làm sao được ông Tăng này. Dám hỏi mọi người Tử Hồ chó người dín thì chết. Vì sao Tăng còn. Như không biết mở mắt cứu được ông Tăng này. Giả sử Tử Hồ ra đời cắn chết trăm ngàn vạn người có ích gì. Ta lúc ấy nếu thấy, trước hết đập tấm bia, sau đó vào viện. Lão thị giả hét “Xem chó”, cho y phóng ra đốt đuôi con cọp. Như nay mọi người cần thấy không? Trời hơi tối, về lại thiền đường. Sư thượng đường nói: Nước không có kiếm định loạn thì bốn biển yên ổn không phải là phần ngoài, còn có nhờ Thế Sơn vào cống không? Nhân Trung Sơn Chủ làm người nấu tràcho Sư. Sư hỏi: Ông theo lệ uống trà, lấy gì báo đáp? - Nhân gió thổi lửa. Sư không chịu. Tự thay nói khó làm Hòa thượng. Lại nói: Có hiểu không? Tăng nói không hiêủ. Sư nói: Ông phải nấu một hội trà mới được. Nêu Trường Khánh dạy chúng: Đánh đạo bạn qua vai, một đời tham học việc xong. Sư nói: Đúng là vậy, kim không đâm gió không vào. Có chỗ dụng nào? Sư thượng đường nói: Ma kiết che thất tính suy chưa thành. Tỳ Da ngăn từ tài khéo đều hết. Còn có người nào kiểm điểm hai lão này xuất đầu không được ở không? Dù nhìn thấu suốt, còn có kẻ ngại, Sư lấy gậy đánh vào thiền sàng. Rồi xuống tòa. Có khi nói: Chùy đánh vào cát, người thích thế giới trăm tạp toái. Vì sao khắp nơi biết trì bát? Lại nói: Người biết thì thường đến nước Hương Tích. Vì sao mất mắt trên đầu gậy? Ngày nọ nói: Nghóa xuất Phong Niên tiết kiệm sống bất hiếu. Đối với Phật pháp biện tổn ích. Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Một trần một cõi Phật, một lá một Thích Ca. Đức Sơn sao lấy bia ở chợ. Lại nói: Vào rừng không động cỏ, vào nước không động sóng. Đầu Tử vì sao dưới chân có năm màu tía? Người nào thấu cửa thử biện xem? Sư thượng đường nói: Việc bao là không biết gò núi, nằm gai đầu kê đá. Gã thường có chỗ dụng nào gọi dậy rồi đánh. Có khi nói: Tất cả không phải là câu, lại khi người mắt mù. Còn có người ra được không? Sư thượng đường nói: Tất cả pháp đều là Phật pháp, mịt mờ chẳng phải là quán đúng tất cả pháp tức chẳng phải tất cả pháp, lỗ mãng đồng với trống trời, thưởng cái danh, an cái thị lập cái phi. Hướng đến đâu thấy lão Thích Ca. Còn hội không? Lấy gậy dọng xuống đất nói: Mỗi người thỉnh về thiền đường. Dạy chúng nói: Cha mẹ cùng nhau ở, tôn ty khác địa vị. Về phần nạp Tăng, là mở ra là nắm lại. Nếu biện được phân nửa viện cho ông. Ngày nọ nói: Bảo Sơn đến cũng phải mở mắt, chớ để tay không trở về. Bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Chỗ cơ luân chuyển tác giả còn mê, ngàn mắt đều mở gặp với anh. Sư hỏi tăng mới đến: Xà-lê người nào? Tăng dơ tọa cụ. Sư nói: Nhái nhảy không ra khỏi đấu. Nhảy vọt. Sư bèn đánh. Tăng lại đi. Sư gọi lại. Tăng lễ bái nói: Chỉ sợ Hòa thượng. Ta cần người lời nói việc làm. Ông lại đi làm gì? Đã khắp thiên hạ rồi. Sư lại đánh năm gậy. Có chư vị ở. Ông mặc tình ăn gậy. Sư gọi người thứ hai đến. Anh người xứ nào. Người Đỉnh Châu. Bại vậy. Trời xanh. Hai lớp công án. Vừa đúng. Sư lấy gậy chỉ nói: Ông định nhảy vọt. Tăng suy nghó. Sư cũng đánh năm roi. Tham Đầu nói: Ông Tăng này ăn gậy không giống với mỗ giáp. Sư một lúc gọi đến gần trước. Tăng ấy trân trọng bèn đi. Sư theo sau cho một gậy. Thượng đường nói: Cửa lớn kiếm khách sao ở. Im lặng hồi lâu Sư nói: Điểm danh tức không đến. Sư bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Bọt huyền đồng vô ngại, dơ gậy lên nói: Bọt huyền được chỗ nào? Lại gõ một cái nói: Tây Thiên hai mươi tám Thánh, Đông Độ sáu vị Tổ. Lỗ mũi con mắt đều xuyên qua ở đây. Sư thượng đường nói: Trước mắt không có pháp, ý ở trước mắt. Không phải pháp trước mắt. Chẳng phải nơi đến của mắt tai. Sư dơ gậy nói: Lão Giáp Sơn đi nơi nào sao không ra, trăm đầu cỏ gặp nhau với đại chúng. Lại dọng gậy xuống nói: Ở trong đây. Lại nói: Đồ dả hồ tinh, rút đầu đi. Bèn xuống tòa… Tăng hỏi Ngưu Đầu chưa thấy Tứ Tổ là thế nào? Vừa không. Sau khi thấy thế nào? Ba đời sáu mươi kiếp. Tăng lễ bái. Sư thở dài một tiếng. Sư thượng đường nói: Một khi nêu không trả lời là sao? Nêu được làm sao hiểu? Sư thượng đường nói: Mưa lâu không tạnh, ngày nay tạnh. Nạp tăng phơi rồi chưa? Hồi lâu tự nói: Phơi rồi. Sư lại thâu, lại dơ gậy lên, đại chúng chớp mắt. Sư nói: Không có người lanh lợi. Bèn xuống tòa đánh đuổi. Dạy chúng rằng: Thí như hai con rồng tranh nhau quá châu. Có móng vuốt thì không được. Hoặc có nạp tăng hỏi: Đã là có móng vuốt vì sao không được? Xin đại chúng vì Tuyết Đậu hạ một chuyển ngữ. Sư thượng đường Tăng hỏi: Thừa Hòa thượng có nói Đạo só cưỡi trâu ngược, ý chỉ thế nào? Người bùn mắt đỏ. Không hiểu. Có mong hiểu gì. Sư liền xuống tòa. Sư thượng đường nói: Trời được một vì thanh, đất được một vì yên ổn. Nạp tăng được một không sóng gió nổi. Nếu ông biện được, họa không vào cửa nhà cẩn thận. Nêu Tăng hỏi Kính Thanh: Học nhân thốt thỉnh sư trác nhai. Còn được sống không? Nếu không sống gặp người vui cười. Cũng là gã trong cố chấp. Sư nói: Nạp tăng có việc kỳ đặc này, nếu một người, nửa người hỗ tương bình chuyển, cổ Thánh cũng không luống ra một lần. Hỏi: Thừa Hòa thượng có nói Kim cang khoán đúc sắt, ý chỉ thế nào? Ba đầu sáu tay. Học nhân không hỏi. Khiêng lên khiêng xuống. Sư dơ gậy nói: Trời người giao tiếp, cả hai đều gặp nhau. Rất mênh mông làm sao bừa phủ. Xuyên thủng tạm rồi thả một bên trời ba mươi ba, hai mươi tám gõ rơi lại ở một chỗ. Lại nói: Thối lui thối lui. Bèn đứng dậy đi. Hỏi: Xưa có nói: Chín nhân chín bằng tám mươi mốt. Yù chỉ thế nào? Sư nói: Kim cang hiệp chưởng. Học nhân không hiểu. Quy y Phật pháp Tăng. Sư thượng đường nói: Ứng duyên mà hóa vật, phương tiện gọi là trí. Dơ gậy gọi là gì? Ông nếu nói không được cũng cho đủ một mắt. Sư thượng đường nêu Tuyết Phong dạy chúng rằng: Hết càn khôn là cửa giải thoát lấy tay kéo không chịu vào. Tăng nói: Hòa thượng ngờ hãi mỗ giáp không được. Tăng nói: Cần vào làm gì. Sư nói: Trong ba người có một người được cứu, nếu biện không rõ trên đất bằng có vô số. Sư liền xuống tòa. Ngày nọ nói: Đại giảng đường Động Khai này phương đống vầng mặt trời lên thì tỏa sáng xuống, nửa đêm trăng tối mây mù tối tăm thì lại mù mịt, lỗ hổng bên cửa thì lại thấy thông, giữa tường vách thì lại thấy bịt, chỗ phân biệt thì lại thấy duyên, trong ngoan không thiêng là không tánh, nơi rậm rạp thì quanh co, trần tối. Lắng trong như khí, lại quán thanh tịnh theo lão Thích Ca nói gì còn với không còn. Vặn Thù ở trong đường này. Vạn Bồ-tát khắp nơi tìm không thấy. Vốn là đều ở trong đây. Kẻ lanh lợi vừa thấy bèn xin bẻ gãy gậy. Sư thượng đường nêu: Kính Thanh hỏi Tăng: Từ đâu đến? Thạch Kiều. Việc bổn phận là sao? Mổ giáp từ Thạch Kiều đến. Ta không hỏi Thạch Kiều của ông mà chỉ hỏi việc bổn phận là thế nào? Hòa thượng sao không lãnh hội lời nói? Kính Thanh liền đánh. Lời của mỗ giáp. Ông chỉ ăn gậy, ta không phải nói đi. Sư nói: Thế thì ỷ thế khi người, đâu phải duyên sự không cô khởi.. Ông Tăng này như có thể cẩn thận mới ủng hộ gậy thì phải là Kính Thanh tự ăn. Nêu Đại Sư Vân Môn dạy chúng: Ông nếu không tương đương, hãy tìm chỗ vào đầu, vi trần chư Phật ở trên đầu lưỡi của ông. Ba Tạng Thánh giáo ở dưới gót chân ông không biết nhầm, bỏ tốt. Còn có người nhầm được không? Hãy ra trước chúng nói xem. Sư nói: Thế thì duyên nuôi con. Đâu có thể ép lương thiện làm tiện. Lúc ấy bỗng có người không cam ra đánh ngã giường dây há không phải là kẻ đại trượng phu sao? Tuy vậy, lại hỏi y cứ cái gì. Sư đưa gậy lên nói: Kịp hợp đình tù trí lớn, đánh vào giường dây một cái, rồi xuống tòa. Sư thượng đường nói: Cùng tột các huyền biện, từ một mảy lông cho đến thái hư, kiết thế then chốt. Giống như một giọt nước đổ vào sông lớn chỉ bằng kẻ đi. Như có hiểu không? Khách dừng không xa. Sư thượng đường nói: Thanh La nhân đút lót mà được chức. Thẳng lên đỉnh tùng lạnh, mây trắng nhạt, ra vào trong thái hư. Sư đưa gậy nói: Mắt quốc sư ở trong đây, gã mù lòa đại triệt ngộ, chỗ nào được đến. Ngày nọ nêu Càn Phong dạy chúng rằng: Nêu một không được, nêu hai. Phóng qua một cái rơi vào thứ hai. Vân Môn đại sư ra chúng nói: Hôm qua có người từ Thiên Thai đến, lại đi Nam Nhạc. Càn Phong nói: Ngày mai không cần phổ thỉnh. Sư nói: Chư thiền đức lão Vân Môn một chỉ biết nâng một tay. không thể một tay kéo. Còn có người cùng tương sức không? Thử bày nanh vuốt xem. Sư thượng đường nói: Không có gió xuân thì hoa không nở. Hoa nở lại bị gió thổi rơi. Ông nếu rõ được câu khen chê chưa hẳn là nhân thiện mà chiêu quả ác. Nói xong Sư về thiền đường. Ngày nọ Sư nói: Cổ nhân nói đó là cũng hình, Sư tịch lặng đó cũng tối. Chuyển biến trời đất tự tại tung hoành, cát sông mà dùng hỗn độn mà vinh. Ai nghe mà không vui mừng, ai nghe không kinh sợ, làm sao lấy của báu vô giá, ẩn vào ấm nhập. Sư lấy gậy gõ một cái nói: Đánh phá rồi, bảo ở chỗ nào? Có khi nói: Lệnh không phạm, đại chúng phải y theo thi hành. Sư thượng đường nói: Vạn pháp vốn nhàn, mà người ồn náo. Quốc sư đi vào trong cột trụ, thấy không! Thấy không? Im lặng hồi lâu Sư nói: Xuất đầu thì chết, nói xong về thiền đường. Dạy chúng nói: Quay lại mà giao thiệp nhau. Dơ gậy lên nói: Trên đầu là trời dưới chân là đất, trước mắt nước biếc, sau lưng là núi xanh. Nạp tăng nói ta hội, bỗng như cưỡi lừa vào lỗ mũi ông, dắt bò vào mắt ông, lại làm sao bàn luận. Sư thượng đường nói: Muốn được hiện tiền chớ tồn thuận nghịch. Ở đây tham kiến Tổ sư rồi, lại mua giày cỏ hành cước ngoài ba ngàn dặm cũng bị Tuyết Đậu xỏ mũi. Ngày nọ nêu Mã Tổ Thượng đường, đại chúng vân tập, Bách Trượng ra cuốn chiếu, Tổ bèn xuống tòa. Các phương có cho là kỳ đặc không? Có đúng không, nếu đúng. Thí như mẹ nước lấy con tôm làm mắt. Nếu không đúng, lại không khen ngợi mưu đồ cái gì, gã tầm thường trong chúng đạp loạn hướng đến hỏi cổ nhân ý chỉ thế nào. Lại có kẻ không biết tốt xấu. Toan gọi khách Tiên -đà. Lại nói: Ngày mai lại đến trước tòa khổ thay! Khổ thay: Như vậy tự xưng là bậc Tông tượng, muốn mở con mắt của trời người, đợi năm lừa đi. Chư Thượng đường! Tuyết Đậu lúc ấy nếu thấy y ra cuốn chiếu sẽ đạp vào bụng y một cái, khiến cho kẻ ngồi, người ngã đều dậy không được, người sau chẳng có sống đến bên bờ khỏi thấy bày ra há không mỗi mỗi gã anh linh còn hội không. Nói xong về thiền đường. Sư thượng đường nói: Hư không là trống, Tu-di là chùy, người đánh thì nhiều người nghe rất ít. Thử hỏi: Ai là người biết đánh? Chớ hỏi Diêm Quan thích chỉ như Nam Tuyền nói Vương Lão Sư người không đánh trống bể. Pháp Nhãn đến Vương Lão Sư không đánh cả hai. Đã không thể nào một cái lại là ma la. Sư thượng đường nói: Còn có kẻ xuất đầu trong chợ không? Sư im lặng hồi lâu nói: Không bằng vác gậy về núi đi, kêu dài một tiếng, sương khói dày đặc. Sư bèn xuống tòa. Nêu Tăng hỏi Triệu Châu: Học nhân vừa vào tòng lâm xin sư chỉ dạy. Ăn cháo chưa? Ăn cháo rồi. Rửa bát đi. Đại sư Vân Môn nói: Lại nói có chỉ bày hay không chỉ bày. Nếu nói có thì hướng đến ông ta nói gì? Nếu nói không thì đâu được ngộ. Sư nói: Ta không giống như Vân Môn vẽ rắn thêm chân lời nói ngay thẳng nói với ông. Người hỏi như sâu mọt đục gỗ. Người đáp ngẫu nhiên thành văn. Tuy nhiên lại mặt nạp tăng mù làm sao khỏi được lỗi này. Các nhân giả! Có hiểu chưa? Lại như Triệu Châu hỏi ăn cháo chưa mà ông Tăng này nói ăn cháo rồi. Tuyết Đậu cho ông cây gậy. Nói xong về thiền đường. Nêu Đại sư Vân Môn nói: Hết mười phương thế giới càn khôn đại địa, lão Hòa thượng trong thiên hạ, lấy gậy vẽ một đường nói: Trăm thứ nát vụn. Sư nói: Lão này đúng là vậy, nhưng chưa có đường thoát thân. Như nay cây gậy ở trong tay Tuyết Đậu. Lại đặt ngang cây gậy nói: Đông Tây Nam Bắc chỗ nào được đến. Nêu Tăng hỏi Đầu Tử: Thế nào là mười thân của Như Lai? Đầu Tử: Đứng dưới giường dây. Lại hỏi: Phàm Thánh cách nhau bao xa? - Đứng dưới giường dây. Sư nói: Công án này mọi người không thể nào biết rõ. Nêu mà nêu thì nạp tăng đều là nghó nói xả nhà. Tuyết Đậu không có ưu điểm phải không? Thử vì đại chúng nêu xem Phàm Thánh cách nhau bao xa? Đầu Tử: Đứng dưới giường dây. Thế nào là mười tâm Như Lai? Đầu Tử: Đứng dưới giường dây. Hãy nói cùng với lời đưa ra lúc trước giống hay khác? Nếu nói giống, cho thượng tòa đủ một con mắt. Lại mở ra một tia đạo. Phàm Thánh cách nhau bao xa? Thỉnh thượng tọa xuống một chuyển ngữ. - Thế nào là mười thân của Như Lai? Đáp một chuyển ngữ. Chẳng những tham kiến Đầu Tử mà còn phải biết ưu điểm của Tuyết Đậu. Hoặc như đều nói đứng dưới giường dây thì tiếc lấy lông mày. Sư bèn xuống tòa. Nêu Thượng tòa Động Sơn Thông mỗi lần thấy tăng mới đến thì hỏi: Con trâu đực Quy Sơn. Sư thượng đường: Làm sao hiểu, trước sau đều không khế hợp. Sư đến cũng hỏi. Sư nói: Người sau gương mẫu. Động Sơn định nói, sư lấy tọa cụ phất một cái rồi đi. Động Sơn nói: Đến đây Thượng tòa. Sư nói: Chưa tham đường. Nêu Đại sư Vân Môn nói: Ba thừa mười hai phần giáo, Đạt Ma Tây Lai bỏ qua tức không thể. Nếu bỏ qua thì không mất một tiếng hét. Sư theo đó nêu rồi hét. Lại nói: Đại chúng! Nếu hét thì rơi vào chỗ nào? Như cần lỗ mũi trời xa, người biện lấy một tiếng hét. Bèn xuống tòa. Sư nhân việc dạy chúng: Ngăn tai mắt ở trong thai, che huyền tượng ngoài hư không, mà trách sự khác của cung thương, biện khác về huyền tố là người nào? Còn biết thế này không? Một người kia một người này gồm vốn ba người, tha cho một lần nói xong xuống tòa. Sư thượng đường nói: Tam Thập niên lai tầm kiếm khách. (Ba mươi năm nay tìm kiếm khách), có không có không? Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chí. (Mấy lần lá rơi lại chặt cành), mắt nạp tăng sáng mất đi rồi. Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu. Từ lúc vừa thấy hoa đào sau đó lấp hết sông, hang hốc. Trực chí như kim cánh bất nghi. (Cho đến nay không dám nghi) tướng bại quân. Lấy gậy dọng xuống đất nói: “Xem”. Nói xong Sư xuống tòa. Nêu Quy Tông hỏi Tăng: Đi đâu? Đi các nơi học Ngũ vị thiền. Ta trong đây có một vị thiền. Vì sao không học? Thế nào là Nhất vị thiền? Tông liền đánh. Chớ đánh, con đã hiểu vậy. Ông hiểu gì? Tăng định mở miệng. Tông lại đánh. Hoàng Bá nghe vậy bèn nêu: Mã đại sư ra vào mười bốn thiện tri thức. Hỏi mỗi người đều nói tự do tự tại, chỉ có lão Quy Tông hơn một chút. Sư nói: Lấy mạnh khi yếu có khó gì. Bao của ta có một vị thiền vì sao không học, chỉ hướng đến nói, đội y dơ lên có kẻ thường không mắt, chỉ mặc ăn, hồng! Hồng. Môn hạ Tuyết Đậu ai dám. Bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Con ong muốn luyến tổ của nó, tướng mạnh giỏi không chết trong nhà. Nếu là gã này, mãi nghe nêu nhổ đi lông mày, bèn đi. Một ngày sáu người mới đến, sư hỏi: Còn có thiền khách tác gia không? Tham Đầu nói: Hòa thượng nói gì? Sư nói: Điểm danh thì không đến. Tăng suy nghó. Sư bèn hét. Tăng không nói. Sư nói: Đầu rồng đuôi rắn. Lại hỏi Tăng thứ hai chỉ Tham Đầu nói: Hòa thượng hỏi sao không mong đáp. Sư cho một cú đấm. Tăng không nói. Sư bèn chỉ nói: Người thứ ba Tăng này không hay biết. Sư nói: Như lãnh hội qua. Thượng đường Tăng hỏi: Thế nào là thời tiết nhân duyên? - Gã mù lòa. Tăng bèn hét. Sư nói: Trá sợ hãi. Lại nói thí như thế giới hư hoại, đại thủy cạnh làm. Lúc ấy vô lượng chúng sinh, hoặc chết hoặc chưa chết đều cùng nhau sầu thương khóc lóc, ngưỡng vọng xa xăm đều nói cầu cứu, lúc ấy người người ở trời tứ thiền vừa thấy lớn tiếng hét ôi! Chúng sinh ta dự biết báo cho ông để được lên đây, ông đều không nghe như nay có chỗ cứu gì, bèn vỗ tay một cái nói về thiền đường. Sư thượng đường nói: Trong càn khôn, giữa vũ tru, trên đó có một báo vật treo trên vách. Đạt Ma chín năm không dám nhìn, nhưng nay tăng cần thấy đánh vào xương sống. Sư thượng đường Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Râu tóc dựng ngược. Học nhân không hiểu. Chịu cười chịu khóc. Lại nói không tiện cũng không làm sao được. Ông từ Giang nam Giang bắc đến, cái nói vì sao dè phá, Lạc Phố tham khắp không? Sư thượng đường nói: Càn khôn lấy định tức không thể không. Thế nào là câu “tay đánh trời trăng?” Lại nói chu du khắp thiên hạ nói, ta biết lên đãnh núi Tu-di được mấy người. Lại nói: Cất bước đã trải qua một cõi chư Phật, ông đi rách bao nhiêu đôi giày cỏ? Sư thượng đường nói: Chim mỏ dài đậu dưới cây phượng, ríu rít một câu ma tư xá, biển xanh không vào trận chiến, lại về ba mươi năm sau hãy ngộ đi. Đưa tay lên nói. Hồng, hồng Sư liền xuống tòa. Sư thượng đường nêu: Ngày nọ ở trong chúng. Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Sư nói: Tứ chúng vây quanh. Thế nào là Niết-bàn? Dưới cây Song lâm. Lại nói: Chính là kẻ cắt đinh chặt sắt. Sau cùng nói hội không kiïp Sư bèn xuống tòa. Có khi dựng đứng cây gậy nói: Cơ lớn trong tay, núi thái hoa to lớn. Lại dơ ngang gậy nói: Kính sáng trên đài, tuyệt diễn như theo đường tắt đông tây. Lại lấy gọi vẽ một đường nói: So sánh lân thỏ cũng không gặp bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Không cho một pháp làm đối, lại là vô tranh tam muội. Hoặc là gã này nghe ta ắt có thể quét sạch. Có chỗ nào gần. Tuy vậy, sau này chớ cô phụ người tốt, bèn xuống tòa. Sư thượng đường nêu Người xưa nói: Gã mắt sáng không theo khuôn mẫu có sẵn. Ta tạm hỏi ông: Từ Đức Sơn đến Lâm Tế đánh hét hướng đến ông không thể thi thố, ngôn ngữ hướng đến ông cũng không được. Ta đã như thế ông hợp tất nhiên. Lại làm sao lộ được tin tức. Khiến cho Tuyết Đậu biết ông là gã gió không vào. Bèn xuống tòa. Ngày nọ ba vị Tăng từ bị sư. Sư vịn cột nói: Trời không cửa đất không nhà, nạp tăng đi loạn định đến chỗ nào. Tăng đều không đáp. Sư biễu mặt ra khạc nói: Uổng chi ăn cơm cháo của ta bao nhiêu bèn đẩy ra. Dạy chúng rằng: Chính lệnh của Ma Kiệt, ví như khuôn cắt luyện vàng, ngôn từ của Tỳ Da như gã ôm cây đợi thỏ. Giả sử đến khai ngàn mắt chưa biện được then chốt, điểm không đến mây trắng ngàn dặm. Nêu Vónh Gia nói: Lục bàn thần dụng không bất không Nhất lõa viên quang sắc phi sắc. Sáu dùng thần thông không phải không không, một viên tròn sáng chẳng phải sắc. Đại sư Vân Môn dơ gậy nói:là sắc chẳng phải sắc. Sư nói: Tuyết Đậu thì không vậy. Một hạt tròn sáng thẳng mực chân như. Sáu loại thần dụng với bùn cùng nước, như cái mà mọi người sánh sứ thiết trai tạm gác lại, lấy trăng trong nước, hãy đem một câu hỏi. Có khi nói: Đánh đầu tay áo, lãnh hội dưới nách, khoét mền chư vị mặc ý cắt. Núi nam nỗi mây núi bắc đỗ mưa. Nạp tử làm sao nói hộ? Ngày nọ Sư thượng đường. Đại chúng mới vân tập. Sư nói: Mặc cho mọi người chê trách, Sư liền xuống tòa. Nêu Tăng hỏi Càn Phong: Mười phương Chư Phật một cửa Niết- bàn đầu đường ở chỗ nào? - Ở đây. Sư thay Tăng bèn hét. Lại có Tăng hỏi Trường Khánh. Trường Khánh nói: Hỏi đệ nhị tòa trong pháp đường. Sư thay Tăng nói: Sai. Lại có Tăng hỏi Sư. Sư đáp: Rơi vào hầm hố. Tự thay nói: Người làm giặc tâm rỗng rang. Tuyết Đậu nói: Trên đống phân hiện một trượng sáu kim thân, gặp tiện thì quý. Trên khối thịt đỏ, vách đứng ngàn nhận gặp sáng thì tối. Nạp tăng lỗ mũi xa trời, thử biện Tuyết Đậu làm mắt người. Dạy chúng: Một pháp không thông vạn duyên mới thấu suốt. Hiểu và không hiêủ thành bầy thành lũ, đánh đập một khi lấy đi, mặc cho càn khôn một mình trơ trọi, Sư bèn xuống tòa. Tuyết Đậu nói: Sông thiền theo sóng tónh, biển định theo sóng xanh. Như cây gậy là sóng nạp tăng, bèn bảy dọc tám ngang. Bỗng càn khôn đại địa làm sóng thì thấy nâng rào đỡ vách. Hãy nói thích thủ hay thích lấy. Ngày nọ Sư nói: Điện xuân đã chớp chim chưa kêu, câu mê thân thì không hỏi, ông thấu được một chữ làm sao nói. Tuyết Đậu nói: Tổ biết gió hang biết mưa. Nạp tăng lanh lợi chưa thể cho được, như hỏi thế nào, khổ thay thân Phật bà. Nêu Mã Đại Sư nói: Tất cả ngôn ngữ là tông Đề Bà. Lấy đâu làm chủ. Vân Môn đại sư nói: Như nói chi là không người hỏi ta. Ta bèn hỏi: Thế nào là tông Đề Bà? - Tây thiên chín mươi sáu loại, ông là loại thấp nhất. Sư nói: Màn đó bị ông tăng này đoạt rồi. Sư bèn xuống tòa. Ngày nọ Sư nói: Núi sông không ngăn ngại, ánh sáng đều thấu suốt khắp nơi. Phó Đại Só cưỡi lừa vào trong mũi của ông. Thấy ông không rõ về chùa Song Lâm Sư bèn xuống tòa. Nêu Tăng hỏi Thuý Vi: Tự đến pháp tịch Hòa thượng thường tắm rửa thượng đường, không nhờ một pháp chỉ bảo, ý ở đâu? Vi nói: Hiềm cái gì? Tăng lại hỏi Động Sơn. Sơn nói: Đâu ngờ được lão Tăng. Sau đó có Tăng hỏi Pháp Nhãn. Nhãn nói: Tổ sư đến. Sư nói: Hai lão này bị ông tăng này xỏ mũi. Chỉ có Pháp Nhãn cùng ông ta đồng tham, như là môn hạ Tuyết Đậu ăn gậy rồi đuổi ra. Tuyết Đậu nói: Muôn thứ huyễn hóa, đều sinh Như Lai Viên Giác. Sư nói: Trụ trụ ba đời chư Phật là huyễn, sáu đời tổ sư là huyễn; Lão Hòa thượng trong thiên hạ là huyễn. Sư im lặng hồi lâu lấy gậy gõ vào giường dây một cái nói: Huyễn ra đi. Đại chúng suy nghó. Sư nói bọn thùng sơn này không có lỗ, lấy gậy cùng lúc đuổi xuống. Nêu Giáp Sơn hỏi Tăng: Từ đâu đến? Hồ Nam đến. Từng đến Thạch Sương chưa? Muôn đường đi qua đâu được không đến. Sư nói: Thừa nghe Thạch Sơn có quả bóng phải không? Hòa thượng cũng cần nhìn vội vàng. Thế nào là quả bóng. Nhảy không ra. Thế nào là cán bóng? Chớ tay chân. Lão tăng chưa từng biết với Xà-lê ra đi. Sư nói: Tuyết Đậu chính là ông Tăng này từ Thạch Sương đến. Giáp Sơn vì sao nói không biết nhau. Nêu Triệu Châu hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tuyết Phong đến. Tuyết Phong gần đây có ngôn cú gì dạy chúng? Tăng nói: Tuyết Phong nói Hết đại địa là Sa-môn một mắt. Mọi người các ông đại tiểu tiện chỗ nào? Triệu Châu nói: Ông nếu qua núi ta phụ ông cái bừa đi. Sư nói: Ông Tăng này đã không từ Tuyết Phong đến, đáng tiếc cái bừa của Triệu Châu. Nêu Tăng hỏi Thạch Sương: Ngoài ba ngàn dặm từ xa nghe Thạch Sương có một người không quay nhìn lại. Sương nói: Đúng vậy. Tăng hỏi: Chỉ như vạn tượng rõ ràng như vậy là quay nhìn hay không nhìn đến? Thạch Sương: Ta nói không sợ chúng. Tăng nói: Không sợ chúng là không hợp với vạn tượng. Thế nào là không quay nhìn? Thạch Sương: Khắp các cõi không cất chứa. Sư nói: Ai là người không quay nhìn? Dạy chúng: Thế giới rộng bao la như thế vì sao xin mạng sống trong tay Tuyết Đậu? Sư thượng Đường nói: Càn khôn nghiên, trời trăng sao một lúc tối đen, nạp Tăng đông tây không niện, nam bắc không phân. Vậy làm sao thấy Tuyết Đậu? Thượng đường Tăng hỏi: Khi tuyết phủ lắp cỏ lau thì thế nào? Sư nói: Có mặt. Tăng hỏi: Thế là lành là tốt. Sư nói: Hai lớp công án. Lại thành một bài tụng: Tuyết phủ lô hoa dục mộ thiên Tạ gia nhân bất tại ngư thuyền Bạch ngưu phóng khước vô tầm xứ Không bả sơn đồng tặng thiết tiên. (Tuyết phủ hoa lau trời sắp chiều. Tạ người không ở thuyền câu cá. Bạch ngưu thả ra không chỗ tìm. Rồng rang trẻ núi tặng roi sắt). Sư hỏi Đại Long: Lời nói im lặng là chẳng phải, chẳng lời chẳng im lặng lại trái, đều là đúng hay không đúng, lại là đại dụng hiện tiền. Khi ấy người biết có Đại Long là thế nào? - Gã tầm thường có kiến giải như thế. Sư nói: Lão này ngày nay ngói vỡ băng tan. Đế chiều Đại Long hỏi Sư: Ở đâu là chỗ lão Tăng ngói vỡ băng tan. Sư nói: Chuyển thấy không kham, nói xong phất tay đi ra. Long nói: Không thể chịu được, không thể chịu được. Sư nói: Không quay nhìn. Sau đó kể lại việc này cho Phúc Nghiêm Nhã. Nhã nói: Sao không có bổn phận lo lắng cho ông ta? Sư nói: Hòa thượng phải mua giày cỏ hành cước mới được. Tăng hỏi: Chỉ ở trước mắt vì sao hai ba lần không thấy. Sư nói: Cắt tai nằm ngã ba đường. Hỏi: Đậu đen chưa sinh mầm thì thế nào? Sư nói: Lừa đói ngựa đói. Sau khi sinh mầm thì thế nào? Thấm nước thấu cát. <篇> MINH GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 3 Sư nêu, Đức Sơn dạy chúng rằng: Đêm nay không lời đáp, người hỏi cho ba mươi gậy. Bấy giờ có Tăng ra lễ bái. Sơn bèn đánh. Tăng nói: Con chưa hỏi. Đức Sơn nói: Ông là người ở đâu? Tăng thưa: Người Tân La. - Chưa giẫm đạp lên mạn thuyền đáng cho ba mươi gậy. Pháp Nhãn nói lên: Đại Tiểu Đức Sơn lời nói chặt làm hai mảnh đạo viên minh. Đại Tiểu Đức Sơn “đầu rồng đuôi rắn”. Đức Sơn nói: Hai lão túc tuy khéo cắt dài phụ ngắn, bỏ nặng theo nhẹ, muốn thấy Đức Sơn cũng chưa có thể. Vì sao Đức Sơn cũng như nằm uy quyền bên ngoài, có kiếm đáng chém không chém, không vời lấy loạn ấy. Mọi người có biết tăng Tân La không? Chỉ là gã mù đánh cột trụ. Nêu Tuyết Phong ngày nọ phổ thỉnh, tự gánh một bó mây, giữa đường gặp một vị Tăng, Phong bèn ném bó mây xuống. Tăng định nhặt lấy, Phong liền đạp té nhào. Trở về nói lại cho Trường Sinh nghe: Ta ngày nay đạp một vị Tăng thật là vui. Trường Sinh nói: Hòa thượng thay thế vị Tăng này vào Niết-bàn đường mới được Phong bèn thôi đi. Đức Sơn nói: Trường Sinh giống như người nhà phía đông chết thương dùm nhà phía tây, cũng đáng cho một đạp. Bách Trượng tái tham vấn. Đến phiên Sư đứng hầu bên Mã Tổ. Tổ đưa mắt nhìn cây phất trần dưới góc giường Thiền. Bách Trượng hỏi: Ngay đây dùng hay lìa đây dùng? Tổ hỏi: Về sau ông mở miệng, sẽ lấy cái gì cho người? Bách Trượng lấy cây phất trần dựng đứng lên. Tổ bảo: Ngay đây dùng hay lìa đây dùng? Bách Trượng đem phất trần để lại chỗ cũ. Tổ bèn hét, Bách Trượng điếc tai ba ngày. Sơn nói: Chư Thiền Đức kì quái. Như người nay bày ra phái rất nhiều; người nghiên cứu nguồn gốc thì rất ít. Tóm lại nói Bách Trượng nhờ hét mà đại ngộ. Còn đầu mối cũng không nhưng giống như dao nhọn, Ngư Lỗ sai lầm nếu là gã mắt sáng dối ông ta một chút cũng không được. Chỉ như Mã Tổ nói: Về sau này ông mở miệng lấy gì cho người. Bách Trượng dựng đứng phất trần như sâu bọ chống cự lại cây gõ hay là thốt trác cùng thời. Mọi người muốn biết điếc tai ba ngày không? Giống như đốt vàng rồng đáng không đổi sắc. Nêu Sùng Thọ chỉ cái ghế nói: Biết được khắp vòng cái ghế có dư. Vân Môn nói: Biết được cái ghế, trời đất sai khác. Đức Sơn nói: Đầm rộng núi sâu đáng ra có thể phục được báo. Nêu Vónh Gia đại sư đến Lục Tổ nhiều quanh thiềng sàn ba vòng, dọng tích trượng một cái rồi đứng im. Tổ nói: Phàm là Sa-môn có đủ ba ngàn cai nghi, tám vạn tế hạnh. Đại Đức từ phương nào đến, mà đại ngã mạn vậy? Sư bèn hét, rồi nói: Nếu lúc ấy hét được một tiếng khỏi thấy đầu rồng đuôi rắn. Lại nêu tiếp. Nhiễu quanh thiền sàng ba vòng dọng tích trượng một cái rồi đứng im, Thay Tổ Sư nói: “Chưa đến Tào Khê, cho ông ba mươi gậy”. Nêu Ngưỡng Sơn chỉ Tuyết Sư Tử nói: Có người nào qua được sắc này không? Vân Môn nói: Lúc ấy bèn xô ngã. Ngưỡng Sơn nói: Chỉ hiểu xô ngã mà không thể đỡ dậy. Nêu Hương Nghiêm nói: Như người trên cây miệng cắn cành tay chân lơ lững. Dưới cây có người hỏi Tây lai ý, không đáp thì (phụ câu hỏi). Còn đáp lại thì mất mạng. Vậy thì phải đối đãi làm sao? Thượng tòa Hổ Đầu nói: Lên cây thì không hỏi. Dưới cây xin Hòa thượng nói cho. Hương Nghiêm cười khà khà. Đức Sơn nói: Trên cây nói thì dễ, dưới cây nói thì khó. Lão Tăng lên cây hãy hỏi đi. Nêu Tăng hỏi Lỗ Tổ: Thế nào là không nói lời? Miệng ông ở đâu? Con không có miệng. Lấy gì để ăn cơm? Tăng không nói được. Sư nói như đánh vào xương sống, gã chèo thuyền mở miệng rồi ngậm không được, ngậm rồi mở không được. Nêu Tăng hỏi tuyết Phong: Khe suối khi lạnh thì thế nào? Trừng mắt không thấy. Tăng hỏi: Uống thì thế nào? Không từ miệng vào? Tăng đến Triệu Châu thưa hỏi. Triệu Châu nói: Không thể từ trong lỗ mũi vào. Tăng hỏi Triệu Châu: Khe suối khi lạnh thời thế nào? Khổ? Uống thì thế nào? Chết. Tuyết Phong nghe vậy nói: “Triệu Châu Cổ Phật.” Từ đây không trả lời. Đức Sơn nói: Trong chúng đều nói, Tuyết Phong không ra thì Tăng vẫn đầu, cho nên Triệu Châu không chịu, Như lãnh hội lời nói này thì rất phục cổ nhân. Tuyết Phong thì không vậy. Chặt đinh cắt sắt bổn phận Tông sư, thì thấp bằng cao khó làm tác giả. Nêu Tăng hỏi Hòa thượng Tây Đường: Có hỏi có đáp, khách chủ xưa nay rõ ràng. Không hỏi không đáp thì thế nào? Tây Đường đáp: Sợ sáng lại đi đâu? Tăng hỏi Trường Khánh: Có hỏi có đáp khách chủ xưa nay như vậy, không hỏi không đáp là thế nào? “Tương phùng tận đạo hưu quan khứ Lâm hạ hà tằng kiến nhất nhân.” (Gặp nhau lại nói thôi quan đi. Dưới rừng đâu từng thấy một người.) Sơn nói: Sao không cùng bổn phận cỏ rác. Nêu Lâm Tế dạy chúng: Ta ở với Tiên sư ba lần ăn sáu mươi gậy như cành cây chổi cứ quét, như nay suy nghó liền ăn gậy, ai là người hạ thủ. Tăng ra giữa chúng nói: Con hạ thủ. Lâm Tế đưa gậy cho Tăng, Tăng định lấy Sư bèn đánh. Sư nói: Chỗ buông của Lâm Tế thật nguy, thu lại rất nhanh. Nêu ngày nọ Khâm Sơn thượng đường đưa nắm tay lên rồi mở ra nói: Mở tức là bàn tay, năm ngón so le. Sư nắm tay lại nói: Như nay là bàn tay ắt không cao thấp, có thương lượng không? Có ông Tăng ra giữa chúng dơ nắm tay lên. Sơn nói: Ông chỉ là gã khai hợp. Sơn nói: Tuyết Phong không như vậy bèn dơ bàn tay lên nói: Nắm lại thì bàn tay có cao có thấp. Lại mở ra nói: Mở ra thì không bè đảng không thiên lệch. Hãy nói buông ra là người tốt, nắm lại là người tốt, mở ra cũng làm xe, nắm lại cũng với vết bánh xe. Nếu cho rằng đóng cửa làm xe, ra cửa hợp vết bánh xe. Ta cũng biết ông đến trong hang quỷ làm kế sống. Nêu Tăng hỏi Mục Châu: Lễ bái Thích Ca, không lễ bái Di Lặc là thế nào? Hôm qua có người hỏi. Đã đuổi ra rồi. Tăng nói: Hòa thượng sợ con không thật. Mục Châu nói: Gậy không còn, cán chổi tạm cho ba mươi gậy. Sơn nói: Mục Châu chỉ có nhận vách tâm, không có ý hại thành. Nêu Táo Thọ hỏi Tăng: Từ đâu đến? Nước Hán. Thiên Tử có trọng Phật pháp không? Khổ thay! May là hỏi tôi chứ hỏi người khác thì sinh họa. Là cái gì? Tăng nói: Người còn không thấy có, Phật pháp làm sao trọng được? Xà-lê thọ giới lúc nào? Tăng thưa: Hai mươi hạ. Tốt lắm, không thấy có người liền đánh. Sơn nói: Vị tăng này ăn gậy rồi đi không trở lại nữa. Lệnh của Táo Thọ tuy làm ngặt vì có gió mà nổi sóng. Nêu Triệu Châu hỏi Bà già: Đi đâu? Tôi đi trộm măng của Triệu Châu. Thình lình gặp Lão tăng thì bà làm sao? Bà già liền cho Sư một tát, Triệu Châu liền thôi. Sư nói: Tay giỏi lại thả hai tay xuống, cũng không có chỗ khám. Nêu ngày Bảo Thọ khai đường, Tam Thánh cử ra một Tăng. Thọ liền đánh. Thánh nói: Người mù lại đến ở một thành Trấn Châu, bèn trở về phương trượng. Sơn nói: Bảo Thọ Tam Thánh tuy phát minh chánh pháp nhãn tạng của Lâm Tế. Quả thật chỉ hiểu Phật không ở địa vị xứng tôn. Lúc ấy vị Tăng này nếu là gã đó, mới được đẩy ra bèn lật đổ giường thiền. Dù cho toàn cơ Bảo Thọ cũng chỉ hơn ba ngàn dặm. Nêu Vô Nghiệp Mã Tổ. Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Chớ vọng tưởng. Sư nói: Bít lỗ mũi đi. Lại hỏi: Thế nào là Phật? Tức tâm là Phật. Sư nói: Treo lưỡi đi. Nêu Tăng hỏi Đức Sơn: Chư Thánh từ xưa đi chỗ nào? Làm cái gì? Tăng nói: Sắc điểm phi long mã. Ba miết xuất đầu lai. (Ra lệnh rồng ngựa bay, Rùa què lại xuất đầu) Sơn bèn thôi. Hôm sau Sơn tắm ra, vị Tăng này đưa trà cho Đức Sơn. Sơn vỗ lưng vị Tăng ấy một cái. Tăng nói: Lão già này mới biết nhìn. Sơn nói: Nhưng vàng tinh trảm luyện cần phải bổn phận kiềm chùy Đức Sơn đã lấy mình dẫn dắt người, vị Tăng này lại cùng chịu khuất. Lấy gậy vạch một đường nói: Vừa đến công án lại đưa đến. Chư Thánh từ trước đi chỗ nào? Đại chúng suy nghó bàn luận. Sư tạm thời đánh đuổi. Nêu Bảo Phước đang đi xẻ dưa. Thượng tòa Thái Nguyên Phu đến. Bảo Phước nói: Nói được thì cho ông ăn dưa. Phu nói: Đem đến đây. Bảo Phước đi lấy một miếng dưa cho Phu. Phu lấy rồi bỏ đi. Sơn nói: Tuy là rắn chết, biết làm cũng sống lại. Ai là người giỏi xin thử biện xem. Nêu Tam Tuyền dạy chúng: Đạo chẳng phải ngoài vật, ngoài vật chẳng phải đạo. Triệu Châu ra hỏi: Thế nào là đạo ngoài vật? NamTuyền liền đánh. Triệu Châu nói: Hòa thượng chớ đánh con đánh nhầm người phía sau. Nam Tuyền nói: Rồng rắn dễ biện, nạp tử khó lường. Sư nói: Triệu Châu như rồng không sừng, như rắn có chân. Lúc ấy mặc dù hết cách không đâu, đáng ăn gậy rồi đuổi ra. Nêu Động Sơn đến Vân Môn. Môn hỏi: Từ đâu đến? Động Sơn thưa: Tra Độ. Vân Môn hỏi: Mùa Hạ ở chỗ nào? Động Sơn thưa: Báo Từ ở Hồ Nam. Vân Môn hỏi: Rời chỗ đó lúc nào? Động Sơn thưa: Ngày hai mươi lăm tháng tám. Vân Môn bảo: Tha ông ba gậy. Hôm sau Sơn lên hỏi: Hôm qua được Hòa thượng tha cho ba gậy, nhưng không biết lỗi chỗ nào? Vân Môn nói: Túi cơm Giang Tây Hồ Nam tham thiền đi Động Sơn nhân đó mà đại ngộ. Động Sơn nói: Vân Môn phong thái như vua đè ép thì ngói vỡ băng tan. Lúc ấy nếu theo lệnh mà làm, con cháu chưa đến đoạn tuyệt. Nêu một Tăng tham Mã Tổ Đại Sư. Sư vẽ một vòng tròn nói: Vào cũng đánh, không vào cũng đánh. Tăng vào, Sư liền đánh. Tăng thưa: Hòa thượng đánh con không được. Đại sư tựa vào trụ cột nghỉ đi. Sơn nói: Cả hai đều không tỏ Hòa thượng đánh con không được, tựa vào trụ cột, suy nghó không đến bèn đánh vào xương sống. Nêu Hưng Hóa hỏi Duy Na Khắc Tân: Không lâu làm bài xướng đạo. Tân nói: Không vào giờ Xã. Hòa nói: Biết đến không vào, không biết không vào. Tân nói: Không giao thiệp. Hòa liền đánh nói: Pháp chiến của Khắc Tân Duy Na không thắng phạt năm quan tiền, bày tỏ cơm ngon. Ngày tới giờ thọ trai. Hưng Hóa tự đánh chuỳ nói: Pháp chiến của Khắc Tân Duy Na không thắng, không được ăn cơm, liền đuổi ra ngoài. Sơn nói: Khắc Tân Duy Na nối thừa Hưng Hóa. Phạt tiền ra viện lại như thế, phải chọn lấy một gậy mới được. Hãy hỏi mọi người: Gậy đã ăn rồi làm sao tìm? Tuyết Phong cần đoạn sự việc bất bình, đêm náy Phong khuất phục Khắc Tân Duy Na. Nói xong lấy gậy đánh giải tán. Nêu Tăng hỏi Trường Khánh: Nhiều tay đãi vàng, ai là người được? Người có ngón được. Tăng thưa: Học nhân có được không? Còn xa. Sư thay vị Tăng này lúc ấy liền hét. Lại nói người có ngón được một tay phân phó. Học nhân còn được không? Trời xanh, trời xanh. Nêu: Đại Từ dạy chúng: Sơn Tăng không hiểu lời đáp, chỉ là biết bệnh. Lúc ấy có Tăng bước ra. Đại Từ bèn về phương trượng. Động Sơn nói: Đại khái đở dựng Tông Thừa phải phân biệt cái được mất. Lại Đại Từ biết bệnh không lời đáp. Lúc ấy có Tăng ra bèn về lại phương trượng. Tuyết Đậu biết bệnh không lời đáp, hoặc có Tăng ra bèn đánh vào xương sống. Mọi người biết bệnh không lời đáp có Tăng ra ắt như vậy. Chẳng có ưa điểm dám có một cái lay động. Đại đường Thiên tử chỉ ba người. Nêu Triệu Châu đến Hoàng Bá, Hoàng Bá thấy đến bèn mở cửa thất. Triệu Châu nói: Cứu lửa cứu lửa. Hoàng Bá lại ra bắt lại nói: Nói nói. Triệu Châu: Giặc qua rồi sao mới giương cung. Sơn nói: Thật đáng cười phải là ba mươi năm. Bổng có nạp Tăng hỏi: Tuyết Đậu cười cái gì? Cười giặc qua rồi sau đó mới giương cung. Nêu Tăng hỏi Kính Thanh: Học nhân chưa thông đạt cội nguồn. Xin thầy phương tiện. Là cội nguồn gì? Cội nguồn con. Nếu là cội nguồn của ông đâu nhận phương tiện. Sơn nói: Ngâm mình đến chết nước lại đâu có chỗ nào dùng? Thị giả hỏi: Vừa đến thành cầu y. Kính Thanh nói: Không. Thị giả nói: Tôn ý của Hòa thượng thế nào? Kính Thanh nói: Một giọt nước đem hai chỗ thành rồng. Sơn nói: Còn hơn một tí. Tuyết Đậu không phải giảm oai quang của Kính Thanh, phải gặp mặt với vị Tăng này là nguồn cội gì? Nguồn cội ấy ba mươi năm sau cho ông ba mươi gậy. Nêu Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là việc của nạp y. - Tháng chạp lửa đốt thiêu núi rừng. Sơn nói: Tháng chạp thiêu đốt núi rừng vạn lại ngàn thứ, tùng xanh hạc lạnh, nhân đạp tuyết lạnh. Đạt Ma không lãnh hội. Rất khó, rất khó. Nêu Hòa thượng Bổn Nhân dạy chúng. Bình thường không đến trước tiếng sau câu. Khua Trống đùa nam nữ nhà người. Vì sao thanh không phải là thanh, sắc không phải là sắc. Lúc ấy có Tăng hỏi: Thế nào là thanh không phải là thanh? Bổn Nhân gọi là sắc được không? Thế nào là sắc không phải là sắc? Gọi là thanh được không? Tăng lễ bái. Thử nghó ông nói là lời ông đáp. Nếu người biện được, thì có chỗ vào. Sơn nói: Bổn Nhân cũng thật kỳ quái, nhưng lại tham xem trên trời cũng chẳng phải trước thanh sau cú, lại làm sao vào. Nêu Vân Môn dạy chúng: Đức Phật sinh ra một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, bước đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương nói: Trên trời dưới đất chỉ có ta là quý nhất. Lúc ấy nếu thấy thì đánh một gậy chết rồi cho chó ăn, quý sự tính toán thái bình dưới trời. Sơn nói: Liền lật đổ giường thiền. Nêu Quốc Sư ba lần gọi thị giả, điểm tức bất đáo(vắng mặt)thị giả ba lần dạ, đáo tức bất điểm (có mặt) sẽ nói ta cô phụ ông, ai biết ông cô phụ ta. Dối Tuyết Đậu không được. Vân Môn nói: Thế nào là ý chỉ của Quốc sư cô phụ thị giả, hội được là vô lý. Sư nói: Té ra không hiêủ thế nào là thị giả cô phụ quốc sư, tan thân nát xương không bao đáp được. Sư nói: Vô lý, vô lý. Lại nêu: Tăng hỏi Đầu Tử: Quốc sư ba lần hỏi thị giả ý chỉ thế nào? - Cưỡng bức người như thế. Sư nói: Gã khờ khạo. Tăng hỏi Hưng Hóa. Hưng Hóa nói: Một người mù dắt nhiều người mù. Sư nói: Đầu mối mù loà. Tăng hỏi Huyền Sa. Sa nói: Thị giả lại hiểu. Sư nói: Trí nhiều thôi tù. Tăng hỏi Triệu châu: Châu nói: Như người viết chữ trong tối, chữ tuy không thành mà văn chương bóng bẩy. Sư bèn hét. Tăng nói Tuyết Đậu. Tuyết Đậu liền đánh. Cũng cần chư vị kiểm điểm thành tụng rằng: (Sư vốn gặp hội ý chẳng khinh. Không sự tướng thì đi trong cỏ. Phụ ông phụ ta người chẳng hỏi. Mặc tình thiên hạ cạnh tranh nhau). Nêu Tăng hỏi Hòa thượng Trí Môn: Thế nào là Phật? Nhọc công đi hành cước. Tăng nói: Thế nào là việc Phật hướng thượng? Gánh mặt trời mặt trăng trên đầu gậy. Sư nói: Ngàn binh dễ được, một tướng khó tìm. Nêu: Sư Tổ hỏi Nam Tuyền: Ma-ni châu người không biết, trong Tạng Như Lai đích thân thu được, thế nào là Như Lai Tạng? Vương Lão Sư cũng ông qua lại đó là Tạng. Sư nói: Gã trong cỏ. Tổ nói: Không đến không đi, cũng gọi là Tạng. Sư nói: Trên tuyết thêm sương. Tổ nói: Thế nào là Ngọc? Sư nói: Hiểm, đầu sào trăm thước làm kỹ lưỡng, không phải trong đây được con mắt chủ khách trao đổi nhau, bèn có thể đi sâu vào hang cọp. Hoặc không tập dù Tổ Sư có ngộ đi nếu thì cũng là đầu rồng đuôi rắn. Nêu Tăng lễ bái Tuyết Phong, Phong đánh năm gậy. Tăng nói: Con có lỗi gì. Tuyết Phong lại đánh năm gậy. Sư nói: Tuyết Phong không biết cát đằng với người, năm gậy trước là mặt trời chiếu ngày đến, năm gậy sau mây dăng dẫn đến mưa. Ông nếu biện được cũng đáng cho năm gậy. Nêu Mã Đại Sư sai Trì Tạng đưa thư lên Kính Sơn. Sơn nhận thư mở ra thấy một vòng tròn, trong đó có một chấm. Quốc Sư nghe nêu rằng: Khâm sư còn bị Mã Tổ mê hoặc. Sư nói: Kính Sơn bị mê hoặc nếu đem trình lên Quốc Sư. Chớ làm cái ngọn gì, khỏi bị mê hoặc đi. Có lão túc nói: Lúc ấy ngồi lại nghó cũng có nói, chỉ với hoạch phá. Nếu thế chỉ là không biết, dám gọi là Lão sư thiên hạ. Mỗi người đủ mắt kim cương làm thần thông biến hóa còn tránh được không? Tuyết Đậu thấy chỗ muốn mọi người cùng biết, chỉ Mã sư. Lúc ấy vẽ ra là tự mê hoặc rồi. Nêu Kính Thanh hỏi Tăng: Triệu Châu uống trà ông hiểu thế nào? Tăng bèn đi ra. Kính Thanh nói: Hàm Đan học bộ. Sơn nói: Vị Tăng này không phải là người Hàm Đan. Vì sao không bộ học bước nhà Đường. Nếu biện được ra uống trà cùng ông. Nêu Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là việc pháp thân hướng thượng? Hướng thượng nói cho ông thì không khó, làm sao hiểu được pháp thân. Tăng thưa: Xin Hòa thượng soi xét. Soi xét tức là đưa đến làm sao hội pháp thân? Làm sao làm sao. Nói gã này học được nằm mãi trên giường, ta hãy hỏi ông. Pháp thân có uống trà không? Tăng không nói. Sơn nói: Sẽ thành núi chín tấc, không lên đất một sọt, lỗi chỗ nào? Nêu Triệu Châu đến Thù Du chống gậy vào pháp đường. Thù Du nói: Xem mũi tên. Triệu Châu cũng nói: Xem mũi tên. Thù Du nói: Trật rồi. Triệu Châu nói: Trúng. Sư nói: Cả hai đều tác gia, vì Thù Du và Triệu Châu cả hai không phải tác gia mũi nhọn không chống đỡ nhau. Dù mỗi phát mỗi trúng cũng chỉ là gã bắn ụ đất. Nêu Lâm Tế và Phổ Hóa đến thọ trai nhà thí chủ. Lâm Tế hỏi sợi lông nuốt được biển lớn, hạt cát chứa được núi Tu- di, hay là thần thông diệu dụng, hay là pháp ông như vậy? Phổ Hóa đá nhào bàn ăn. Lâm Tế nói: Thật là thô. Phổ Hóa nói: Đây là chỗ nói thô, nói tế. Lâm Tế benø thôi. Ngày kế lại cùng đến nhà thí chủ thọ trai. Lâm Tế lại hỏi: Ngày nay cúng dường đâu giống hôm qua. Phổ Hóa lại đá té nhào bàn ăn. Nói: Gã mù Phật pháp nói gì thô, tế. Lâm Tế thè lưỡi ra. Sư nói: Hai lão giặc ăn uống cũng không xong, đáng cho hai mươi gậy, gậy tuy làm, lại cái gì đúng là giặc. Nêu Tam Giác dạy chúng: Nếu bàn luận việc này, chê bai trên lông mi chính là lỗi sai. Ma Cốc ra nói: Lỗi thì không hỏi. Thế nào là việc này? Giác nói: Lỗi sai. Cốc bèn lật đổ giường thiền Tam Giác liền đánh. Sư nói: Hai gã có đầu không đuôi. Lông mi chưa từng chê trên, nói gì việc này lỗi lầm. Có Tăng hỏi: Lông my vì sao không chê ở trên. Sư bèn đánh. Nêu Mục Châu gọi Tăng: Đại Đức. Tăng quay đầu. Mục Châu nói: Gã cố chấp. Sư nói: Mục Châu chỉ có một mắt vì sao? Vị Tăng này đã quay đầu vì đó thành cố chấp. Nêu Nham Đầu tham Đức Sơn nhảy qua cửa bèn hỏi: Là phàm hay là Thánh: Đức Sơn liền hét, Nham Đầu bèn lễ bái. Đỗng Sơn nghe nêu rằng: Nếu không phải là Tuế Công rất khó gánh vác. Nham Đầu nói: Lão già không biết xấu tốt. Ta lúc ấy một tay khiên một tay cầm. Sư nói: Thế thì môn hạ Đức Sơn. Gió lướt cỏ rạp, nhưng lại không thể lắp được miệng người. Lúc ấy mới lễ bái, bèn đánh vào xương sống, chẳng phải chặt tuyệt Động Sơn, cũng bèn lấy định tuế lão có hiểu không? Lý tướng quân có tiếng hay không được phong hầu cũng là nhàn. Nêu Ba Lăng dạy chúng: Tổ Sư nói: Không phải gió động, không phải phướn động, đã không phải phướn, gió thì là dối chỗ nào? Có người cùng Ba Lăng làm chủ, cũng ra cùng Tuyết Đậu gặp nhau. Nêu Tắc Xuyên với Bàng cư só hái trà. Bàng cư só nói: Pháp giới không dung thân, sư có thấy tôi không? Tắc Xuyên nói: Nếu không phải là Lão sư, kịp cùng Bàng công đáp lời. Bàng cư só nói: Có hỏi có đáp bởi là tầm thường. Tắc Xuyên bất luận. Bàng cư só nói: Mới đến chớ kì quái hỏi nhau không? Tắc Xuyên cũng mặc kệ. Bàng cư só hét nói: Gã này không lễ nghi, đợi ta mỗi mỗi nêu lên giống như người mắt sáng. Tắc Xuyên dơ giỏ trà bèn trở về. Sư nói: Tắc Xuyên chỉ hiểu được định biên cương, không thể cùng sinh cùng tử. Lúc đó đáng cho lấy đầu cờ xuống, ai dám gọi là Bàng cư só. Nêu Tăng hỏi Vân Môn: Một lời nói hết là thế nào? Xé rách nát. Só khãy móng tay ba cái. Nêu Tăng hỏi Mục Châu: Một lời nói tận hết là thế nào? Lão Tăng ở trong túi bát của ông. Sư cười ha hả. Nêu Hòa thượng Bổn Sinh đưa gậy lên dạy chúng: Ta nếu đưa lên ông liền hướng đến chưa dơ lên thì là đạo lý. Ta nếu không dơ lên ông bèn hướng đến dơ lên thời làm chủ tể. Thử nghó: Lão Tăng vì người chỗ nào? đủ. Lúc ấy có Tăng ra thưa: Không dám vọng sinh tiết mục. Bổn Sinh nói: Cũng biết Xà-lê không phân ngoài. Tăng nói: Chỗ thấp thấp thường có dư, chỗ cao cao xem không Bổn Sinh nói: Trên tiết mục lại sinh tiết mục. Tăng không nói được. Bổn Sinh nói: Bịt mũi trộm mùi rỗng vời tội phạm. Sư nói: Vị Tăng này cũng khéo có thể mài dũa thiết tha! Đâu có thể cung gãy tên hết. Tuy như vậy, còn Bổn Sinh và tác gia Tông Sư, dơ lên cũng trời nghiêng đất ngã, cần phải vòng tay quy hàng. Buông xuống cũng cỏ rạp gió lướt nhất định hợp toàn thân hại xa. Còn thấy bổn thân là người ở không? Sư lại đưa gậy nói: Thái bình vốn là tướng quân đem đến, không cho tướng quân thấy thái bình. Nêu Tăng hỏi Tuyết Phong: Thanh văn kiến tình, như ban đêm thấy trăng. Bồ-tát kiến tánh như ban ngày thấy mặt trời. Chưa rõ Hòa thượng kiến tánh như thế nào? Tuyết Phong đánh ba cái. Tăng lại đến hỏi Nham Đầu. Nham Đầu đánh ba tát tai. Sư nói: Tùy bệnh cho thuốc, lại cho ba cái nếu theo lệnh mà làm phải đánh bao nhiêu? Nêu Thượng Tòa Thái Nguyên Phù tham Tuyết Phong, đến pháp đường quay nhìn. Tuyết Phong bèn xuống xem. Sư biết việc lại nói: Một ngàn năm Tác gia, Tông sư bị lão Phù vừa nhìn lại dựng cờ hàng. Ngày kế Phù vào trượng nói: Hôm qua ngang ngược với Hòa thượng. Tuyết Phong nói: Biết là việc bình thường Phù liền thôi. Sư nói: Quả thật như vậy. Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là chỗ ngang ngược? Vân Môn liền đánh. Sư nói: Đánh được trăm ngàn vạn cái. Có chỗõ nào dùng, tất cả người trên quả đất này phải ăn gậy mới có thể đỡ đứng Tuyết Phong. Thử nói: Thái Nguyên Phu có con mắt nào? Nêu An Quốc hỏi Tăng: Được nó ở tâm y lan làm cây chiên đàn, mất nó ở tông chỉ. Cam lồ thành vườn cỏ tật lê. Ta cần lời này có hai ý được mất. Tăng đưa tay lên nói: Không thể gọi là đầu nắm tay. Quốc nói: Chỉ vì gọi là nắm tay. Sư nói: Gã không dây tự buộc, nắm tay cũng không biết. Nêu Tăng hỏi Vân Môn: Đại sư Huyền Sa ba loại lời bệnh nhân. Vân Môn nói: Ông lễ bái đi. Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy chận lại. Tăng thối lui. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh mù. Lại bảo: Đến gần đây. Tăng đến gần. Vân Môn: Ông không phải lệnh điếc Vân Môn hỏi: Hiểu chưa? Tăng thưa: Không hiểu. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh câm. Khi ấy Tăng có tỉnh. Sư liền hét nói: Gã mù điếc câm ngọng này. Nếu không phải là Vân Môn thì năm lừa. Như nay có người dơ chuỳ dựng phất trần mặc kệ dạy đến gần lại không đến. Lãnh hội không? Các phường được không? Tuyết Đậu nếu không làm sao được. Ông gã một bầy lừa có kham làm cái gì, rồi lấy gậy một lúc đánh đuổi đi. Bà? Nêu Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là Vương Tác Tiên Đà - Hãy qua bên này. Sư nói:Hay chọc quê người. Tăng hỏi Triệu Châu: Vua đòi Tiên-đà-bà là thế nào? Triệu Châu khom mình vòng tay. Sư nói: Đòi muối ngựa dâng. Nêu Cỗ Sơn dạy chúng: Nếu bàn việc nay như một thanh kiếm. Lúc ấy có Tăng hỏi: Theo lời Hòa thượng, nếu luận việc này như một thanh kiếm. Hòa thượng là tử thi, học nhân là tử thi. Thế nào là kiếm? Cổ Sơn nói: Kéo tử thi ra. Tăng đáp: “Dạ” Trở về đập vỡ y bát rồi đi. Cổ Sơn đến tối hỏi Thủ tòa. - Tăng còn đó không? Thử tòa đáp: Đã đi ngau lúc đó. Cổ Sơn nói: Đáng cho hai mươi gậy. Sư nói: Chư vị lão túc đều nói Cổ Sơn mất đi một con mắt, đâu không biết, trọng thưởng ắt có người dũng mạnh. Tuy như vậy nếu kiểm điểm cẩn thận chưa khỏi tạm thời mai một. Nêu Mục Châu hỏi trưởng lão Vũ Lăng hiểu tức là đầu lông nuốt biển lớn, mới biết đại địa một hạt bụi là thế nào? Hòa thượng hỏi ai? Hỏi Trưởng lão. Sao không lãnh hội? Ta không lãnh hội, ông không lãnh hội. Sư nói: Đoạ vậy, đoạ vậy. Lại nói: Lão già cát đằng này đáng cho chặt đứt. Dơ gậy nói: Đi cỗ nào? Nêu Ngưỡng Sơn đang ngồi, Đại Thiền Phật đến dơ một chân nói: Hai mươi tám vị Tổ Tây Thiên cũng như thế, sáu vị Tổ Sư Trung Quốc cũng như thế, Hòa thượng cũng thế, con cũng thế. Sơn xuống thiền sàng đánh bốn sợi dây. Sư nói: Dây chưa đến đánh vỡ nhân vì sao chỉ cho dưới bốn phải là gã chém đinh chặt sắt mới được. Sau đó, Đại Thiền đến Hoắc Sơn tự nói: Nhóm lấy bốn sợi dây dưới Vân Phong. Đại Thiền Phật thiên hạ tham. Hoắc Sơn nói: Đánh chuông. Thiền liền đi. Sư nói: Gã này tuy thấy cơ mà biến đổi, khổ nổi có đầu không đuôi. Nêu Huyền Sa và Thiên Long vào núi gặp hổ. Thiên Long nói: Trước mặt là Hổ. Huyền Sa nói: Là ông phải làm thầy cho người, trước mắt chính là Hổ. Nêu dưới núi Nam Tuyền có một am chủ, hành Tăng đi qua gọi am chủ rằng: Gần đây Hòa thượng Nam Tuyền ra đời sao không đi lễ bái? Am chủ nói: Chẳng những Nam Tuyền mà ngàn Phật ra đời cũng không thể đi. Nam Tuyền nghe vậy sai Triệu Châu đến xem. Triệu Châu thấy liền lễ bái. Am chủ mặc tình. Triệu Châu từ Tây qua Đông, Am chủ cũng mặc kệ. Triệu Châu lại từ Đông qua Tây, Am chủ cũng mặc cho. Triệu Châu nói: Giặc cỏ đại bại, cuốn rèm rồi đi trở về thưa với Nam Tuyền. Nam Tuyền nói: Xưa nay ta nghi gã này. Sư nói: Đại Tiểu Nam Tuyền Triệu, Châu bị gã cố chấp này khám phá rồi. Nêu Tăng hỏi Phong Huyệt: Nói nín hiệp với ly vi tế thế nào là thông không phạm? - Thường nhớ tháng ba Giang Nam, nơi chim chá cô hót, trăm hoa tươi. Từng có Tăng hỏi Tuyết Đậu: Đối với ông ta nói mổ bụng khoét tim, là thế nào? Lại nói: Nhân gió thổi lửa khác là một nhà: Thương ba ba tha con rùa ắt cần có chủ. Nêu Nham Đầu, Tuyết Phong, Khâm Sơn đến Đức Sơn, Khâm Sơn hỏi: Thiên Hoàng cũng nói thế, Long Đàm cũng nói thế, chưa rõ Đức Sơn nói thế nào? Khâm Sơn nói: Ông thử nêu Thiên Hoàng, Long Đàm xem. Khâm Sơn suy nghó. Đức Sơn bèn đánh. Khâm Sơn bị đánh, trở về Diên Thọ Đường nói: Đúng là đúng đánh ta quá mức. Nham Đầu nói: Ông sao? Sao ông ta không được nói thấy Đức Sơn. Sư nói: Chư Thiền đức! Khâm Sơn đến hỏi đầu mối thật là kỳ đặc, đành chịu đầu rồng đuôi rắn. Ông thử nêu Thiên Hoàng Long Đàm xem, Cụ Tọa bèn đánh. Kẻ trượng phu lấy râu hổ làm bổn phận, ông ta đã không thể. Đức Sơn sai đi, một nửa sai như làm hết. Tuyết Phong, Nham Đầu đều là gã trong Niết-bàn đường. Nêu Tăng hỏi Trí Môn Hòa thượng: Thế nào là Thể bát nhã? Trai ngậm trăng sáng. Thế nào là Dụng bát nhã? Thỏ mang thai. Sư nói: Chẳng phải chi lấy định thế giới. Cũng an ổn nước nhà. Nếu giỏi có thể tham rõ ràng thỉnh Đan Hà Hoắc Sơn độc bộ. Nêu Ô Cữu có hai vị thượng tòa Huyền Sa và Thiệu Long đến. Ô Cửu nói: Hai Thiền bátừ đâu đến? - Giang Tây. Ô Cữu bèn đánh. Tăng nói: Đã lâu nghe Hòa thượng có cơ yếu này. Ô Cữu nói: Ông không hiểu, người thứ hai đến gần đây. Tăng suy nghó. Ô Cữu cũng đánh nói:Hãy tham thiền đi! Sư nói: Mắt Tông Sư phải đến thế. Như nay bay thẳng ra biển ăn rồng có gã mắt chưa phân biệt đông tây, chống gậy không biết điên đảo, dù nói chiếu dụng đồng thời, nhân cảnh câu đoạt. Nêu Tăng từ biệt Đại Tùy. Đại Tùy hỏi: Đi đâu? - Đến Nga My lễ bái Phổ Hiền. Đại Tùy dựng phất trần nói: Văn Thù, Phổ Hiền đều ở trong đây. Tăng vẽ một vòng tròn ném sau lưng. Đại Tùy nói Thị Giả bưng trà cho vị Tăng này. Vân Môn nói khác: Tây Thiên chém đầu chặt tay. Trong đây tự lãnh hội lấy. Sư nói: Dao giết người, kiếm làm sống người, biện lấy đủ mắt. Nêu Tuyết Phong hỏi Tăng: Nghe nói Đại Đức từng vì trời sai xuống phải không? Không dám. Đâu biết đến thế. Tăng nói: Ngưỡng mộ đạo đức đâu sợ núi mở. Tuyết Phong nói: Ông còn sai ra đi. Tăng bèn ra. Tuyết Phong gọi Đại Đức, Tăng quay đầu. Tuyết Phong nói: Là cái gì? Tăng cũng nói là cái gì? Tuyết Phong nói: Đồ thùng sơn. Tăng không nói. Tuyết Phong quay lại bảo Kính Thanh: Đúng Sư Tăng này đến trong thùng sơn. Kính Thanh nói: Hòa thượng há không phải là theo khoản kết án. Tuyết Phong nói: Cũng là ta thường dùng. Bổng như gọi quay lại là cái gì. Bị ông ta nói thùng sơn là thế nào. Kính Thanh nói: Đâu thành đạo lý. Tuyết Phong nói: Tu thế thì bằng y. Ông lại nói theo khoản kết án, ông thế thì bằng ta. Lại nói đâu thành đạo lý. Giống là thời tiết nào. Lúc ấy có được không được. Kính Thanh nói: Không thấy đạo. Vị đề hồ được đời quý trọng. Người gặp đây lại thành độc dược. Sư nói: Xem cha con ông ta đẩy nhau. Ngôn khí không hợp, người biết gọi là xương tan thịt nát ân này khó báo. Người không biết gọi là nâng cao đè thấp. Lâm huy sợ người. Độc dược đề hồ ngàn năm gương rùa có hiểu không? Đồ thùng sơn. Nêu Tăng hỏi Đại Ma: Thế nào là ý nghóa của Tổ Sư Tây lại? Tây lai không có ýchỉ gì cả! Tăng kể cho Diêm Quan nghe chuyện đó bảo. Hai thầy cùng liệm bằng quan tài. Huyền Sa nghe câu này khen: Diêm Quan đúng là thiền sư kiệt xuất. Sư nói: Ba cái cũng được. Nêu Vân Môn hỏi Tăng Tân La: Ông người nào? Người Tân La. Lấy gì qua biển. Giặc cỏ đại bại. Vân Môn nói: Vì sao ở trong tay ta. Vừa vặn. Mặc cho trốn chạy. Sư nói: Lão Vân Môn đầu rồng đuôi rắn. Gã Tăng cố chấp này vì sao ở trong tay ta, đúng là đánh vào xương sống. Nêu: Bắc Thiền hỏi Tăng:Từ đâu đến? Quảng Châu. Hạ ở đâu? Ở Tư Phước. Phước lấy gì tư? Hai lớp công án. Hiềm nổi trong tay ta. Ở trong tay tức tóm thu lấy. Bắc Thiền bèn đánh ông Tăng này không cam theo sau đuổi ra. Sư nói: Kỳ quái làm cán vượt qua sư. Có biết ông Tăng này không? Chỉ biết phía trước không thể nhìn phía sau. Nếu ở trong tay Tuyết Đậu gậy gãy ra cũng chưa buông. Nêu Mục Châu dạy chúng: Ta thấy Bách Trượng không biết xấu tốt. Đại chúng mới vân tập,Sư lấy gậy đuổi xuống. Lại vời, đại chúng quay đầu. Bách Trượng nói: Là cái gì? Có gì cùng chỗ nói. Hòa thượng Hoàng Bá đại chúng mới Vân Tập, lấy gậy đuổi xuống, lại kêu lại. Đại chúng quay đầu. Hoàng Bá nói trăng như vành cong, mưa ít gió nhiều. Còn hơn một chút. Sư nói: Nói cái gì còn hơn, chính là chưa ở. Nếu theo Tuyết Đậu chúng Vân Tập, đồng thời đuổi xuống liền thôi, hoặc có chuỳ sắt không lỗ, vì chúng kiệt sức mà gánh vác, cái lồng xưa nay càn khôn lấy sạch. Sư hâm mộ dơ gậy nói: Cởi mở một phen. Nêu Huyền Sa thấy Cổ Sơn đến làm một vòng tròn. Cổ Sơn nói: Người người ra không được. Huyền Sa nói: Tình biết ông ở trong thai lừa làm kế sống bụng ngựa. tay. Cổ Sơn nói: Hòa thượng lại thế nào? Huyền Sa nói: Người người ra không được. Hòa thượng nói được thế. Vì sao con không được. Ta được ông không được. Sư nói: Chỉ biết tham nhìn sóng trắng, không biết mất chân, gãy Nêu Nam Tuyền dạy chúng: Vương Lão Sư bán thân đi. Còn có người nào mua không? Một ông Tăng ra chúng thưa: Con mua. Nam Tuyền nói: Không sang không hèn làm sao mua? Tăng không nói được. Ngoạ Long thay nói: Hòa thượng thuộc chuyên giáp. Hương Sơn nói: Là đạo lý gì? Triệu Châu nói: Sang năm cùng Hòa thượng làm lảnh bố sam. Sư nói: Tuy nhiên tác gia tranh nhau mua, nhưng không hiểu then chốt. Thử nói Nam Tuyền có chịu không. Tuyết Đậu tính giá trị khiến Nam Tuyền tiến lại không cửa thối cũng không đất. Không sang không hèn làm sao mua. Chỗ khác dung Hòa thượng không được. Nêu Thù Du lấy cành trúc thượng đường nói: còn có đinh được đóng trong hư không chăng? Lúc ấy có Thượng Tòa Linh Hư ra nói: Hư không là cột trụ. Thù Du lại đánh. Linh Hư nói: Chớ đánh lầmcon. Thù Du bèn thôi. Sư nói: Nếu muốn lời nói việc làm lớn này phải đánh rồi đuổi ra. Nêu Giáp Sơn và Định Sơn cùng đi vừa nói chuyện. Định Sơn nói: Trong sinh tử không có Phật thì không mê sinh tử. Giáp Sơn nói: Trong sinh tử có Phật thì không mê sinh tử. Cả haibất đồng ý kiến, nên cùng đưa nhau lên Đại Mai, kể lại đầy đủ việc như trước. Giáp Sơn hỏi: Chưa rõ cái nào thân cái nào sơ. Đại Mai nói: Một thân một sơ. Giáp Sơn lại hỏi: Cái nào thân. Hãy đi ngày mai trở lại. Ngày mai Giáp Sơn đến hỏi: Chưa rõ cái nào thân. Thân không hỏi, hỏi không thân. Giáp Sơn ở thời gian, sau đó nói: Ta lúc ấy ở Đại Mai mất đi một con mắt. Sư nói: Giáp Sơn đều không biết đổi được một con mắt. Lão Đại Mai lúc ấy nghe: Nếu lấy gậy một lúc đánh ra há chỉ cắt đứt hai người cát đằng cũng chính là bậc thầy thiên hạ. Nêu Tăng hỏi Bảo Phước: Tuyết Phong bình sinh có nói câu nào? Được lấy Linh Dương treo sừng. Bảo Phước nói: Ta không thể làm đại tử Tuyết Phong thì không được. nào? Sư nói: Một trăm năm mươi cái bố nạp, Bảo Phước khá một tý. Nêu Tăng hỏi Trường Khánh: Linh Dương chưa treo sừng thì thế Gã ở trong đám cỏ. Sau khi treo sừng thì thế nào? Loạn kêu gọi. Cuối cùng thế nào? Việc lừa chưa xong việc ngựa lại đến. Sư nói: Đâu có thể tan thân như vi trần. Cuối cùng không dối mắt chúng sinh. Trường Khánh khá một tý. Lại nói: Kẻ thường giả sử Linh Dương chưa treo sừng cũng giống vạn dặm trong quê hương. Nêu Tăng hỏi Ba Lăng ý Tổ và ý Giáo giống nhau hay khác? - Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước. Tăng hỏi Mục Châu ý Tổ và ý Giáo đồng hay khác? Núi xanh tự núi xanh, mây trắng tự mây trắng. Sư nói: Hỏi đã giống đáp cũng tương tự. Trong đó có lợi tha tự lợi, dối người dối mình. Nếu kiểm điểm rõ ràng dù lấy giải không đệ nhất. Nêu Triệu Châu dạy chúng: Đêm nay đáp lời đi. Có người nào hỏi thì ra. Lúc ấy có Tăng ra Triệu Châu nói: ném gạch dẫn ngọc, dẫn được tấm ngói Pháp Nhãn Hòa thượng bèn nêu hỏi Giác Thiết Chuỷ: Ý tiên sư thế nào? Giác nói: Như Quốc gia Lễ bái tưởng. Bèn hỏi người nào đi được? Có Tăng ra thưa: Con đi được. - Ông đi không được. Pháp Nhãn nói: Ta lãnh hội vậy. Sư nói: Gã lanh lợi nghe nêu bèn biết ra sao. Tuy như thế Giác Thiết Chuỷ, Phàm Tông Sư nói không hư vọng đi ra ắt là tác gia sao lại bỏ ngói dẫn gạch Chư Thiền Đức. Còn biết Triệu Châu không? Xưa nay đổ mồ hôi không người biết thấy chỉ cần luận bàn lại che thay công. Nêu Đam Nguyên từ giả Quốc Sư về tỉnh thăm Mã Tổ, vẽ một vòng tròn trên đất trãi tọa cụ lễ bái. Tổ nói: Ông muốn làm Phật đi. Mỗ giáp không biết nắm mắt. Ta không như ông. Sư nói: Tuy mãnh hổ không ăn thịt con nó, làm sao có thể đến nói không tốt đẹp. Mọi người có biết Đam Nguyên không? Chỉ là gã tàng thân lộ bóng. Nêu: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn từ đâu đến? Trong ruộng đến. Trong ruộng bao nhiêu người? Sơn cắm cái xẻng xuống, khoanh tay đứng. Quy Sơn nói: Nam Sơn phần lớn có người cắt cỏ. gáo. Sơn dơ xẻng lên rồi đi. Huyền Sa nói: Ta lúc ấy nếu thấy sẽ đạp cho té nhào cái xẻng. Kính Thanh nói: Không làm gì được thuyền, phải đánh phá cái Tăng hỏi Minh Chiêu: Ý người xưa ở chỗ cắm xẻng, chỗ vòng tay, chỗ Minh Chiêu gọi con. Tăng đáp: Dạ. Minh Chiêu nói: Còn từng mộng thấy Ngưỡng Sơn không? Sư nói: Chư vị Lão túc đều cho rằng lời cắm xẻng thật kỳ đặc. Cũng giống như theo tà theo ác. Nếu y cứ theo chỗ Tuyết Đậu thấy Ngưỡng Sơn bị Quy Sơn vừa hỏi chính là lấy dây cỏ tự buộc mình, chết mười phần. Nêu Huyền Sa hỏi Tăng: Từ chỗ nào đến? Thuî Nham. Thuî Nham có nói câu gì không? Thường gọi: Ông chủ. Tự nói: Dạ tỉnh tỉnh. Sau ông ta bị người ta lừa. Huyền Sa nói: Như là là đùa giỡn tinh hồn rất kỳ quái. Lại nói: Sao không ở trong kia. Tăng nói: Thuî Nham tịch rồi. Huyền Sa nói: Như nay gọi được ứng không? Tăng không đáp được. Sư nói: Trời xanh trời xanh. Nêu Tuyết Phong hỏi Tăng từ chỗ nào đến? Phú Thuyền. Biển sinh tử chưa qua, vì sao chê thuyền? Sư thay nói: Lâu nghe tiếng Tuyết Phong, lão thị giả suy nghó, phất tay áo bèn đi. Tăng đó không nói. Trở về kể lại cho Phú Thuyền. Thuyền nói: Sao không nói ông ta không sinh tử. Tăng lại đến Tuyết Phong nêu giống lời này. Phong nói: Đây không phải là lời ông. - Là Phú Thuyền nói thế. Tuyết Phong nói: Ta có hai mươi gậy gởi cho Phú Thuyền. Hai mươi gậy lão tăng tự ăn, không can đến việc Xà-lê. Sư nói: Có thể khu biệt, có thể chết, có thể sống. Nếu biện được thiên hạ hoành hành. Nêu Đức Sơn Viên Minh dạy chúng nói: Chỉ có hỏi đáp chỉ đưa đầu ngón tay, lạnh thì khắp trời khắp đất lạnh. Sư nói: Chỗ nào thấy lão câu để. Nóng thì khắp trời khắp đất nóng. Sư nói chớ nhận lầm định sao, sum la vạn tượng triệt hạ cô nguy, đại địa sơn hà thông lên điểm dứt. Chỗ nào được một ngón tay thiền. Nêu: Tăng hỏi Nam Viện: Chư Thánh trước đi chỗ nào? Không lên thiên đường thì xuống địa ngục. Hòa thượng thế nào? Còn biết già báo ứng thế nào không? Tăng suy nghó. Viện lấy phất trần đánh vào miệng, rồi gọi Tăng đến gần nói: Sai ngậm là ông đi, lại lấy phất trần đánh. Sư nói: Sai đã tự làm lại phất trần không biết chỗ đến. Tuyết Phong nói đã mù loà như là trên tuyết thêm sương. Nêu Bảo Phước hỏi Trường Khánh: Bàn Sơn nói ánh sáng cảnh vật đều quên, lại là vật gì? Động Sơn nói: Ánh sáng cảnh vật chưa quên lại là vật gì? Theo hai lão túc này đều được cắt đứt làm sao nói cắt đứt đi Trường Khánh im lặng hồi lâu. Bảo Phước nói: Tình biết trong hang quỷ làm kế sống. Trường Khánh nói: Ông thế nào? Bảo Phước nói: Tay ông đỡ cày nước qua gối. Sư nói: Đều quên chưa quên là do ta. Bảo Phước vì sao nói chưa được cắt đứt rõ ràng có thể có cơ mọi người nói gì, Tránh được Trường Khánh ở trong hang quỷ. Sư nói: Liễu rũ theo gió từ tây sang đông. Nêu Đại Mai nghe thấy chuột chim bảo chúng rằng: Tức vật này chẳng phải vật khác. Ông khéo hộ trì ta sắp thị tịch. Sư nói: Gã này lúc sống lỗ mãng. Sau khi chết mập mờ, tức vật này chẳng phải vật khác là vật gì? Còn có chỗ giáo phó không? Có gã thường cắt đứt gót chân Đại Mai dù nói tham lộ hình rất nhanh. Nêu Tuyết Phong dạy chúng vọng Châu Đình gặp nhau với ông rồi. Ô Thạch Lãnh gặp với ông rồi, trước Tăng đường gặp nhau với ông rồi. Bảo Phước hỏi Nga Hồ: Trước Tăng đường lại dẫn đến Vọng Châu Đình, Ô Thạch Lãnh gặp nhau chỗ nào? Nga Hồ bỗng trở về phương trượng, Bảo Phước lại vào Tăng đường. Sư nói: Hai lão túc chính là vậy. Chỉ biết Tuyết Phong bỏ đi không thấy Tuyết Phong dừng lại. Bổng có nạp Tăng ra hỏi: Chưa rõ Tuyết Phong thế nào? Há không phải là gã có khác đáng biết dừng lỗi? Còn có nạp tăng Vọng Châu Đình, Ô Thạch Lâu gặp nhau không? Sư im lặng hồi lâu nói: Cố chấp thiền như gai, như lúa. Nêu: Triệu Châu hỏi Đại Từ: Bát Nhã lấy gì làm thể? - Từ đáp: Bát Nhã lấy gì làm thể? Triệu Châu cười ha ha, đến hôm sau Triệu Châu đang quét sân Đại Từ lại hỏi: Bát Nhã lấy gì làm thể? Triệu Châu buông chổi cười ha hả. Sư nói: Trước cũng cười sau cũng cười, trong sự cười có dao, Đại Từ biết không? Dù biết được cũng không khỏi mất mạng. Nêu Đức Sơn ngày nọ ăn cơm chậm tay cầm bát lên pháp đường, Tuyết Phong thấy nói: Gã này chuông chưa reo, trống chưa đánh cầm bát đi đâu? Đức Sơn trở về. Phong kể lại cho Nham Đầu nghe. Nham Đầu nói: Đại Tiểu Đức Sơn chưa hiểu câu xưa nay. Đức Sơn nghe vậy sai thị giả gọi Nham Đầu đến phương trượng hỏi: Ông không chịu chỗ nào lão tăng? Nham Đầu mật khải ý Đức Sơn. Hôm sau Đức Sơn thượng đường khác với thường. Nham Đầu đến trước Tăng đường vỗ tay cười nói: Lại thích được lão già hiểu được câu xưa nay. Sau ông ta người trong thiên hạ không thể làm sao được. Tuy như thế, chỉ được ba năm. Minh Châu Đức Sơn nói: Oái chao! Không có chữ đi, không có chữ đi. Sư nói: Từng nghe nói chạm mắt rồng vốn chỉ có một mắt, khác nào không biết Đức Sơn là con hổ không răng, nếu không phải là Nham Đầu biết khá đâu được ngày mai và hôm qua không đồng. Mọi người lãnh hội câu xưa nay chưa? Chỉ cho lão hồ biết, không cho lão hồ lãnh hội. Nêu ngày nọ Tuyết Phong thấy khỉ bèn nói: Lưng mỗi con khỉ một bề kính xưa. Tam Thánh bèn hỏi: Trãi qua vô lượng kiếp không tên, sao lấy bóng làm kính xưa? Tuyết Phong nói: Ngọc sinh. Tam Thánh nói: Một trăm năm mươi người thiện tri thức, thoại đầu cũng không biết. Tuyết Phong nói: Việc lão Tăng trụ trì phiền toái. Sư nói: Đáng cho hai mươi gậy, gậy phóng qua cũng tốt khỏi thấy lấy sai lầm làm sai lầm. Nêu Tăng hỏi Quốc Sư: Thế nào là bản thân Lô-xá-na? Qua lấy tịnh bình cho lão Tăng. Tăng đem tịnh bình đến. Để lại chỗ cũ. Tăng lại hỏi: Thế nào là bản thân Lô-xá-na? Cổ Phật quá khứ lâu rồi. Vân Môn đại sư nói: Không xa dấu vết. Sư nói: Đáng được một tay chỉ trời một tay chỉ đất, đâu được không? Có hiểu chưa? Mây ở đầu núi nhàn không triệt, nước chảy dưới khe thật vội vàng. Nêu Tăng hỏi Động Sơn: Thời thời siêng lau chùi chớ để cho bụi bặm. Vì sao không được y bát của ông ta? Sơn nói: Dù nói xưa nay không một vật cũng chưa hợp được y bát của ông ta thữ nghó: Người nào hợp được. Tăng hạ chín mươi sáu chuyển ngữ đều không khế hợp. Xưa nay nói, giả sử đem đến ông ta cũng không cần. Đỗng Sơn rất đồng ý. Sư nói: Ông ta cũng không nhận là mắt tương lai ắt sẽ là mù. Còn thấy y bát Tổ Sư không? Nếu ở đây vào cửu bàn lấy hai tay phân phó. Chẳng những đầu núi gầy một cái dở không lên. Giả sử người hạp Quốc đến lại khoản khoản đem đi. Nêu Tăng hỏi Đầu Tử: Vẫn hiếm hơi giống nửa tháng phảng phất như ba tuần, càn khôn thâu không được Sư rõ ở chỗ nào? Tổ nói: Nói gì? - Nghỉ Sư chỉ có sóng chìm nước lại không có sóng đầy trời. Đầu Tử nói: Ngôn ngữ nhàn rỗi. Sư nói: Đầu Tử Cổ Phật, không thể nói không biết.Nếu điểm điểm lại chính là trời đất cách xa, mới hỏi bèn hòa tiếng đánh. Nêu Lục Phu Cửu làm thị giả cho Lâm Tế đến Giáp Sơn hỏi: Từ xa theo gió xin Sư tiếp nhận. Sơn nói: Trước mắt không Xà-lê, ở đây không lão tăng. Lục liền hét. Sơn nói: Trụ trụ Xà-lê chẳng phải cỏ cỏ cọng cọng. Mây trắng thì đồng, khe núi lại khác cắt đứt đầu lưỡi của người trong thiên hạ tức không thể không. Đâu dạy người không lưỡi giải nói. Lục Phu không đáp. Sơn bèn đánh. Sư nói: Gã này đáng buồn, đáng bệnh. Lại đến Lâm Tế ông ta đã mây trắng thì đồng, ta cũng khe núi đều khác, nói gì người không lưỡi không hiểu lời, mở tọa cụ rồi đánh Giáp Sơn. Nếu là kẻ biết nhất định an bài dưới cửa sáng. Nêu Tam Thánh hỏi Tuyết Phong: Cá vàng phủng lưới lấy gì làm thức ăn? - Đợi ông ra khỏi lưới sẽ nói với ông. Tam Thánh nói: Một ngàn năm trăm thiện tri thức, thoại đầu cũng không biết. Tuyết Phong nói việc lão Tăng trụ trì phiền toái. Sư nói: Đáng tiếc phóng qua, đáng cho hai mươi gậy. Gậy này một gậy dù không được chính là ít gặp tác gia. Nêu Phục Ngưu vì Mã Tổ đem thư đến chỗ Quốc Sư. Quốc Sư hỏi: Mã Tổ có nói câu gì để dạy người không? Tức tâm tức Phật. Là lời nói gì? Quốc Sư im lặng hồi lâu lại hỏi: Lại có nói câu gì không? Không phải là tâm, không phải là vật. Quốc Sư nói: Còn hơn một chút. Sư thay lời: Lúc ấy liền hét. Phục Ngưu lại hỏi: Hòa thượng ở đây thế nào? Quốc Sư nói: Ba điển như nước chảy. Cong như liềm gặt lúa. Sư nói: Là nói gì? cũng đáng cho một tát tai. Thấy không lấy ngàn năm khó quên. Nêu Huyền Sa hỏi Kính Thanh: Ta không thấy một pháp là quá lo, ông nói không thấy pháp nào? Kính Thanh chỉ cột trụ nói: Chẳng phải là không thấy pháp này phải không? Huyền Sa nói: Chiết chung gạo trắng nước trong, theo ông ăn. Phật pháp thì chưa có. Sư nói Đại Tiểu Kính Thanh bị Huyền Sa làm nóng mắt. Ta lúc ấy nếu thấy chỉ hướng đạo. Linh Sơn thọ ký cũng chưa đến như thế. Nêu Tiên Báo Ân hỏi Tăng: Từ chỗ nào đến? Ngoạ Phong. Ở đó bao lâu? Qua đông qua hạ. Long môn không khách ngũ vì sao ở đó lâu thế? Trong hang sư tử không có thú khác. Đại Từ nói: Ông thử làm sư tử hống xem. Nếu làm sư tử hống tức không phải là Hòa thượng. Đại Từ nói: Nghó ông mới đến, hãy cho ba mươi gậy. Sư nói: Chư Thiền đức kỳ quái. Nếu bằng phẳng thì cả hai không tổn thương. Y lệnh thì cả hai đều hiểm. Còn kiểm điểm được không? Nêu Thuyền Tử nói: Thiên xích ty luân trực hạ thùy Nhất ba tài động vạn ba tùy Dự tónh thủy hàn ngư bất thực Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy. (Ngàn thước tơ lụa mãi rủ xuống, một làn sóng động vạn làn sóng theo, đêm tỉnh lặng nước lạnh cá không ăn, đầy thuyền không chở trăng sáng về.) Sư nói: Gã này nhọc mà vô công. Bổng như Vân Môn nói: “Một câu hợp ngữ, vạn kiếp buộc cọc lừa, lại làm sao tránh khỏi lỗi này. Sư im lặng hồi lâu nói: Mạc vị thủy hàn ngừ bất thực Như Kim điếu đắc mãn thuyền quy. (Chớ bảo nước lạnh cá không ăn, như nay câu được đầy thuyền về.) Nêu Đầu Tử hỏi thiền khách Cự Vinh: Lão tăng chưa từng có một lời nửa câu vào tai mắt của quý vị, đâu cần phải gặp sơn tăng. Tăng nói: Đến đây không thực hành ba lễ, quả thực không đành lòng. Đầu Tử nói: Người xuất gia được như thế không bia ký. Tăng nhiễu quanh thiền sàng một vòng rồi ra. Tử nói: Có mắt không lỗ tai, sáu tháng ngồi bên lửa. Sư nói: Cũng không được bỏ qua, mới chuyển bèn bắt ở rồi hét, là ai không cam. Nếu nhảy ra được không ngại là một viên nạp Tăng. Nêu Tổ Sư nói: Sáu trần không xấu lại đồng chánh giác. Cây gậy là trần, có lỗi gì, lỗi đã không nên hợp biện chủ. Cho nên nói: Quét trên đống phân hiện thân trượng sáu. Lại dơ ở một bên, vách đứng ngàn mét trên khối thịt đỏ. Lại phóng qua một cái, dù tám mặt bốn phương chính là đánh cái giá. Niêm Cỗ nói: Trong mắt dính cát không được, trong tay dính nước không được. Bỗng như có người tin được, lấy được, không bị người lừa. Ngôn ngữ của Tổ Phật là bát nóng sao kêu tiếng, lại xin quảy cao túi bát, bẻ gãy cây gậy, dù chọn lấy một người vô sư nói. Lại nói trong mắt chứa được núi Tu-di, trong tay đựng được nước biển lớn. Kẻ bình thường được người thương lượng ngôn giáo Tổ Phật, như rồng được nước, như hổ dựa núi. Lại phải gánh túi bát lên, vác ngang cây gậy cũng là một người vô sự nói. Lại nói thế thì cũng không được, không thế cũng không được. Sau này không giao thiệp, trong ba người vô sư nói. Phải chọn một người làm thầy. <篇> MINH GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 4 Sư từ hai chỗ đạo tràng, phần nhiều ứng cơ ngữ cú, môn nhân vân tập, lìa ba hành ở đời. Kỷ cương này, bèn mang tự đáp và nhân duyên xưa nay, sớm chiều đề xướng, từ ý thiếu hiểm, mà người học chưa dạy rõ. Lại đến thưa thỉnh thêm. Sư bởi dấu không được mình, tùy theo chỗ nghi hỏi, lấy đây lấy kia. Chợt phóng chợt thâu, Hoặc đè xuống hoặc nâng, hoặc thay thế hoặc khác gần một trăm năm mươi tắc, thật tạm thời có khả năng làm việc, huống gì Viên Ứng thêm dự tham thừa, đâu quên nhặt lấy. Tuy nghe nhiều nhưng chưa được phủ lợi, thật là hổ thẹn với Tông sư phải ghi nhớ những lời hay, lượng thứ thực không chê trách đệ tử. Có thể gọi là Bộc Tuyền Tập, ý lấy sự trôi chảy vô tận làm nghóa. Người phàm biết ta may mắn cùng nên một mùi vị. Bấy giờ là ngày mười lăm tháng tám niên hiệu Thiên Thánh thứ tám. Viên Ứng ghi tựa. Sư thượng đường nói các ông! đều đã trãi qua trận dịch quen chiến đấu tác gia nhờ Ỷ Thiên Trường kiếm thì không hỏi. Vì sao ông giấu mũi nhọn trong tay áo. Sư thay nói: Ít không địch được nhiều. Lại nói đây kìa. Sư thượng đường nói: Ít không thắng nhiều, người nào phân việc trên? Thay nói: Đều do Hòa thượng. Lại nói: Đây kia. Lại nói: Rồng rắn dễ biện, nạp từ khó lừa, cho ông một tướng chánh nhãn sau đãnh, niêm được không? Thay nói: Thâu. Có khi nói: Một chữ thâu, uống hơi nuốt tiếng làm sao biện? Thay nói: Nạp tử khó lừa. Hoặc nói: Núi sông nghiêng ngữa, là cái dụng tầm thường, không can thiệp gì đến nước, bùn. Nói hãy đem một câu đến. Thay nói: Ngoài ba ngàn dặm. Dạy chúng rằng: Ngoài ba ngàn dặm tạm như thế nào? Thay nói: Qua. Hoặc có khi Phật chưa ra đời, lỗ mũi của mỗi người xa tới trời. Sau khi ra đời vì sao ta không tin tức. Thay nói: Giặc chưa đánh nhà nghèo. Hỏi Tăng: Giặc không đánh nhà nghèo vì sao lại đánh? Thay nói: Phải đến như thế. Hoặc nói: Tổ Sư không đến chỗ, lúc ấy người biết có, lúc người không biết chỗ, lỗi ở Tổ Sư, làm sao biện. Thay nói: Không được gió xuân hoa không nở. Sư thượng đường nói: Không được gió xuân hoa không nở, mỗi mỗi nói ta lãnh hội. Lãnh hội thì không dẫn đến thế làm sao nêu. Thay nói: Lúc người gặp Sư. Lại nói: Kiếp không trước đây chỉ duyên chú. Sau kiếp không bàn luận lầm. Kiếp không chánh đáng người nào làm chủ. Thay nói: Vốn là tướng quân đưa đến thái bình. Có khi nói: Thái bình vốn tướng quân đưa đến, chớ nhận lầm là Định bàn tinh, ta dơ lên rồi có hiểu không? Thay nói: che mặt đi ra. Hoặc nói: Hai dao nhọn kề nhau, phải định sinh tử, hai bên không tổn thương, công quân không lập, thế nào là chính lệnh của tướng quân. Thay nói: Đến thì không vắng mặt. Hoặc nói: Đến thì không vắng mặt có cam không? Thay nói: Từng mảnh lòng son. Có khi nói: Lão già Thích Ca thở ra không được, ngoa chỗ nào? Thay nói: Lắp kín sông ngòi. Lại thay nói: Lui thân ba bước. Hỏi: Lắp kín sông ngòi phụ ơn nhiều người, thấy già chỗ nào? Thay nói: Thế giới Hương Tích. Hoặc nói: Năm ngàn bốn mươi tám quyển chỉ nói là chỉ đề, dừng kêu khóc như nay kêu khóc dừng vậy. Hãy trả lại ta lá vàng. Thay nói: Việc không có khởi. Có khi nói: Việc không có khởi ông cũng phân một nửa. Thay nói: Dạ! Lại nói: Hợp đến mỗ giáp. Lại nói: Đơn truyền tâm ấn, lỗi phạm đầy trời, người nào rõ ràng? Thay nói: Phải thấy như thế. Sư thượng đường phải thấy như thế do đâu đưa đến? Thay nói: Cũng thẻ. Hoặc nói khéo đến Văn Thù có biết thua trận không? Thay nói: Một mũi tên hai tấm bia. Hoặc nói: Một mũi tên hai tấm bia. Vì sao lại bại trận? Thay nói: Khéo đến Văn Thù. Hoặc nói: Càn khôn núi lửa đưa đến, lại thấy mặt trời, nói đem một câu đến. Thay nói: Hối hận không cẩn thận ban đầu. Có khi nói: Hối hận không cẩn thận ban đầu rồi xuống tòa, lại hỏi Tăng: Sau ông ta nêu cái gì? Thay nói: Việc tốt chi bằng không. Có khi nói: Hùng binh trăm vạn lại định roi vọt biên cương. Kiếm khách ba ngàn nếu là đuổi sứ. Thay nói: Không cho đi đêm vào sáng phải đến. Dạy chúng nói: Không cho đi đêm vào sáng phải tới tỏ gì sống. Thay nói: Dưới cửa mạnh thường. Hoặc nói: Một câu xổ toẹt không cam ra đây. Thay nói: chỉ thích hợp cây gậy. Sư thượng đường nói: Chỉ thích nghi cây gậy, ngay một câu thuộc người nào? Thay nói: Kẻ bàn quan. Hoặc nói: Trước Oai Âm Vương không thầy tự ngộ, là câu thứ hai. Còn câu thứ nhất của ta. Thay nói: Quét đất thì hết. Hỏi Tăng: Quét đất thì hết ông có biết không? Thay nói: Nhờ ai mà đến được. Có khi nói: Ba đời chư Phật nói mộng, sáu đời Tổ Sư nói mộng, Thuý Phong ngày nay nói mộng, còn có mộng thấy không? Thay nói: Lật đổ giường thiền. Hoặc nói: Lật đổ giường thiền, bởi là bổn phận, lỗi ở chỗ nào? Thay nói: Não loạn gió xuân mãi không thôi. Hoặc nói: Dòng nước chảy xiết cũng là bình thường, thốt trác đồng thời lược xin gặp nhau. Thay nói: Đi chỗ nào? Thay nói: Trời trăng đổi dòng. Lại nói: Dấu thân trong mắt nhọn thì không hỏi. Ông làm sao du hý mười phương. thấy. Thay nói: - Ngồi trên đầu cọp nắm đuôi cọp. Ngày nọ nói: Ngồi đầu cọp nắm đuôi cọp, các phương chưa từng Thay nói: Cũng đúng. Hoặc nói: Trên đây là quấy nhiễu, ngồi ngang là mờ mịt. Một câu tiêu dao tự tại là nói gì. Thay nói: Mùa xuân ba ngày tạnh. Dạy chúng nói: Mùa Xuân ba ngày không tạnh. Đi đứng vẫn có thể cười. Hãy hỏi chư nạp tăng: Phơi lúc nào xong? Thay nói: Mỗ giáp thấy hẹp hòi. Hoặc nói: Chỗ có Phật pháp không được ở. Chỗ không Phật pháp mau đi qua. Triệu Châu vì sao hái hoa dương chi? Thay nói: Lại nhiều việc. Hỏi Tăng: Nhiều việc cũng phải thương lượng. Thay nói: Chớ dạy khuất phục. Có khi nói: Nạp tăng mắt sáng vào của bèn nói đọa. Sau ba mươi năm ai là tri âm. Thay nói: Phất tay áo bèn ra. Có khi nói: Phất tay áo bèn ra, cũng đáng cho ba mươi gậy. Thay nói: Sau khi giặc qua mới giương cung. Hoặc nói: Đại triệt ngộ, niêm tức con mắt dịnh càn khôn, vì sao lại có cát? Thay nói: Hoàng Liên (cỏ thuốc) chưa phải đắng. Hoặc nói: Hoàng Liên chưa phải đắng. Hoàng Bá rất là thương. Lại hỏi: Có biện biết được thời tiết này không? Tăng nói: Không lãnh hội. Tự thay nói: Dè ép mình mà thôi. Hoặc nói: Hành cước khắp thiên hạ, khắp nơi há không tôn túc vì nhau. Còn có câu nói hết sức được không? Thay nói: Miệng chỉ kham ăn cơm. Sư thượng đường nói: Miệng chỉ kham ăn cơm. Vân Môn đại sư lấy rồi vậy. Ông đến đây nghe tiếng chén gì kêu? Nói xong lấy gậy một lúc đánh xuống. Thay nói: Tăng lúc ấy chỉ đến gần trước lấy gậy nói hòa thượng hôm nay khó khăn. Lại nói: Then chốt thì không hỏi. Thượng Tòa vì sao Ngưu Đầu nói ngang nói dọc? Thay nói: Chấp trước nguyên do. Ngày nọ nói: Do đâu đến, bèn xuống tòa. Thay nói: Có thể có mấy cái. Có khi Sư dơ gậy lên nói: Trời không thể che, đất không thể chở. Lại lấy gậy vẽ một đường Sư nói: Trăm ngàn Chư Phật các đời Tổ sư tất cả đều đến Thúy Phong xin mạng. Thay nói: Quan không dung tha. Hoặc nói: Nêu một nói ba vì sao không tiện. Thay nói: Người làm giặc tâm rỗng rang. Lại nói: Văn Thù Phật kiến Pháp khởi kiến. Đè xuống hai núi Thiết vi. Nạp tăng khởi Phật kiến Pháp, bày ở dưới ba cái đòn tay. Thúy Phong khởi Phật kiến, pháp kiến, ai dám nhìn. Thay nói: Cân thước ở tay. Hoặc nói: Uống sạch nước hồ Động Đình. Ba ba, cá ẩn thân nơi nào? Thay nói: Ôi chao! Lại nói: Dưới tiếng quát thừa đương. Nhai Châu vạn dặm, đầu gậy tiến cử được, riêng có điều chương. Thế nào là bổn phận của nạp tăng? Thay nói: Ác. Hoặc nói: Hư không là trống, núi Tu-di là chùy. Vương lão sư không đánh. Có chịu được các phương không? Thay nói: Ngàn năm ruộng tám trăm chủ. Có khi nói: Đầu lâu thường ngàn thế giới. Lỗ mũi đụng chạm vào gia phong. Hãy đặt một câu hỏi. Thay nói: Tổ Sư để lại. Lại nói: Các ông nếu như đầu rùa, đầu ba ba đến sau nói đường đích thân thấy Thúy Phong thì tốt. Thay nói: Đâu cần. Sư thượng đường nói: Trời không thể che, đất không thể chở, nạp tăng như cát sông hằng. Trong chợ ồn náo hãy chỉ ra một người. Thay nói: Liền tát một bên Tăng. Hoặc nói: Cửa sống dễ qua, cửa chết khó vào, nghịch thuận không câu nệ, vì sao không rũ tay. Thay nói: Thâu được thì đặt ở phía Nam lại lo lấp kín phía Bắc. Hoặc nói: Ruộng hoang không lựa chọn thì cỏ biến thành vàng. Thuận tay lấy thì vàng biến thành cỏ. Cổ Thánh hằng ngày dùng mà không biết tạm gác lại. Ông vì sao cơ đến nói được? Thay nói: Như sâu mọt chống gỗ. Sư thượng đường nói: Như Lai chỉ nói một không nói hai, xuyên qua mũi của nạp Tăng, kéo mắt của nạp tăng lại thì được. Nếu dạy ta phá rõ sợ lụy đến cho ông, không phải người tốt. Thay nói: Muốn thấy thầy đời trước quán xét đệ tử. Hoặc nói: Chư Phật có nạn trong kho than, chúng sinh có nạn trong ngọn lửa. Nạp Tăng ông không được động. Thay nói: Dây mực của Lỗ Ban. Hoặc nói: Lửa chờ mặt trời nóng, gió đợi trăng lạnh. Câu Bắc Đẩu Nam Tinh không phải ông nói, để lại người sau chê bai. Thay nói: Một lời đã phát ra, bốn ngựa khó đuổi theo. Sư thượng đường nói: Sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Viên đầu cần cổ nhân nói xong. Vì sao biết mà cố phạm. Thay nói: Làm sao có thể chuyển nhiều. Hỏi Tăng: Ta nói chuyển nhiều, còn ông thế nào? - Mỗ giáp không lãnh hội. Sư nói: Não loạn gió xuân mãi chưa thôi. Hoặc nói: Nói việc bổn phận. Ta biết có người lấy sai làm sai. Người nào thừa đương. Thay nói: Không tiếc lông mày. Hoặc nói: Năm nay một lần xuân. Cuối cùng việc thế nào? Thay nói: Thân ẩn thì bóng hiện. Hoặc nói: “Đến với đạo không khó chỉ hiềm lựa chọn.” Đức Sơn không phó chúc cho Hoàng Bá. Thay nói: Rửa chân lên thuyền. Lại hỏi Tăng: Ta nói thế chính là lúc con ngườicòn ăn lông ở lỗ. Triệu Châu đáng được năm năm phần sớ không xuống. Sao Ông không cứu lấy. Tăng không nói được. Sư nói: Tuyết Phong nói. Sư thượng đường nói: Mở cửa đón tri thức; Tri thức không qua lại, đến nổi ra cửa tiếp ra cửa tiếp. Vì sao lại đất rộng người thưa? Thay nói: Hòa thượng tuổi già. Hoặc nói: Ngốc nghếch nói thuốc kî thì không can thiệp đến ông. Trong chết được sống, hãy nói một câu. Thay nói: Lấy mình ngăn ngừa. Lại nói: Hiểu thì việc đồng một nhà hay cho ông qua không hiểu thì Đông Tây Nam Bắc giao phó cho năm lừa. Thay nói: Một ngày thì đầu bạc. Hoặc nói: Ngày này như thế, ngày mai cũng như thế. Ngày thứ ba, bốn không hỏi ông. Việc ngày thứ năm thế nào? Nếu nói chỉ thế. Thay nói: Khổ thay Phật-đà-da. Có khi nói: Trong kiếp nào không có Phật Tổ? Ông không tiện có thể. Thay nói: Hiểu cười cũng ít. Hoặc nói: Môn hạ triều Đường khó nêu sai lệch, Vân Môn nói không cần. Thay nói: Chỉ một tiếng ho. Ngày khác nói: Tính thần, mãnh tướng dùng không can, đến thì không điểm là người nào? Thay nói: Lệnh không phạm. Sư thượng đường nói: Nếu nói được câu cách thân, biết ông là rõ việc người. Bỗng như đều nói không được. Ta cũng biết ông thân. Thay nói: Mãnh hổ không ăn thịt con nó. Ngày nọ Sư nói: Ngàn binh dễ được một mãnh tướng khó tìm, thượng tướng đến ba quân ở chỗ nào? Thay nói: Thối lui thối lui. Hoặc nói: Người trong cổng không ra, người ngoài cổng không vào, câu Cả hai cùng đi là nói gì? Thay nói: Điếu dân phạt tội. Nhân phổ thỉnh hỏi Tăng: Từ đâu đến? Hái trà đến. Vườn trà có Huyền Sa thấy, còn thấy không? Thay chỉ cột trụ nói: Hòa thượng hỏi, Lại hỏi Tăng: Từ đâu đến? Hái trà đến. Sư nói: Người hái trà, trà hái người không hỏi. Giỏ của ông nặng bao nhiêu? Thay nói: Quen được thì tiện. Lại hỏi Tăng: Từ đâu đến? Hái trà đến. Bột trà bày là lỗ mũi của ông, lá trà làm mắt của ông, làm sao hái? Thay nói: Ngày nay không tiện. Ngày nọ Sư nói: Phật Pháp không cần học, chạm mắt đều ngưng trệ, trăm thành đã chưa đi dạo, cửa lầu gác đóng hoài, khuyên anh quay đầu xem, xin hạ một chuyển ngữ. Tự nói: Chớ cô phụ người hiền. Ngày nọ hỏi Tăng: Nam Tuyền chém mèo, ông hiểu thế nào? Có khó gì? Sư nói: Là sao? Không nói được. Thay nói: Một dao chặt đứt làm hai. Ngày nọ Sư dạo vườn hỏi Tăng: Khổ qua đắng đến tận rể, dưa ngọt ngọt cả dây, rõ được việc bên nào? Tăng không đáp được. Thay nói: Bình xuất. Ngày nọ thỉnh xong lui. Thị giả hỏi: Hòa thượng không dễ thay đổi. Sư nói: Có gì không thay đổi? - Không đáp được. Sư thay nói: Trên pháp đường tấc cỏ không sinh. Tăng bèn lễ bái. Sư nói: Nếu không phải là ta. Sư một hôm hỏi Tăng câu: “Chư vị nói không được, ông nói thế nào?” Tăng nói: Trời đất bằng phẳng. - Học thế thì Vương lão sư không bằng ông. Tăng không đáp được. Một hôm Sư thấy Tăng đến. Sư nói: Hãy nói là vật gì như thế? Tăng nói: Miệng đau đớn chỉ đối Hòa Thượng không được. Sư nói: Lỗ mũi ông Tăng không nói được. Sư nói: Hoàng Liên chưa hẳn là đắng. Sư nói: Chỉ nói được một nửa. Môt hôm Sư thấy ông Tăng đến, liền đưa gậy lên nói: Cho hai người chia ra lấy. Tăng nói: Chỉ sợ Hòa thượng bất bình. Ông Tăng thứ nhất nói: Thượng tòa nào đến trước Tuyết Đậu. Sư nói: Người có công thì thưởng. Ngày nọ Sư thấy hai hóa chủ trong thành về hỏi: Ông nhờ cái gì mà vào thành giáo hóa chúng sinh? Tăng nói: Tuy có lòng tốt, nhưng không có quẻ báo tốt. Tăng thứ hai nói: Họa không vào nhà người cẩn thận. Sư nói: Gần lửa thì cháy trước. Một hôm vãn tham sư hỏi tăng: Là lúc nào? Tăng đáp: Dạ. Sư bèn quát. Tăng nói: Hòa thượng sao không lãnh hội lời nói? Sư nói: Trời sắp xế chiều. Một hôm Sư thấy Tăng đến giơ gậy nói: Hai tay ta phân phó, còn ông thế nào? Tăng thối lui nói: Không dám. Sư nói: Vì sao trên gậy không thành rồng? Tăng nói: Sau ba mươi năm sợ cô phụ Hòa thượng. Sư buông gậy xuống nói: Hư hư. Ngày nọ Sư hỏi Tăng: Ông thấy “Tuyết Đậu Hậu Lục”chưa? - Thấy rồi. Sư nói: Đến chỗ nào thấy ta? Tăng nói: Cũng biết Hòa thượng là người Xuyên Trung. Sư lấy gậy đánh một cái nói: Mộng thấy. Ngày nọ sư thấy Tăng ra về Sư nói: Trong chợ ồn náo có thấy thiên tử không? Tăng không đáp được. Sư thay nói: Chẳng những. Lại nói: Khổ thay Phật-đà. Một hôm mười mấy Tăng đứng đợi. Sư nói: Phật Pháp không người nói. Tuy tuệ không thể rõ. Lại hỏi Tăng: Lại có người không thầy tự ngộ chăng? Chúng không đáp được. Sư nói: Gánh mạng trên cần câu. Sư ở trong thôn trang, vài Tăng đang đứng hầu. Sư hỏi: Lão Duy Ma nói: Từng bước là đạo tràng, ở đây đâu giống trong núi. Chúng hạ ngữ. Sư đều không “Dạ”ï. Sư thay nói: Chỉ sợ Hòa thượng không chịu. Ngày nọ sư hỏi Tăng: Ông đến làm gì? Hợp Linh bảo đơn đến. Linh thì không hỏi. Thế nào là bảo? Không dám chỉ đối Hòa thượng. Sư không chịu. Tự thay nói: Kịp thời cùng Hòa thượng trả lời. Ngày nọ sư hỏi Tăng: Ông tắm chưa? Mỗ giáp đời này chưa tắm. Ông không tắm tính toán cái gì? Ngày nay bị Hòa thượng khám phá. Sư nói: Giặc không đánh con nhà nghèo. Ngày nọ sư cùng Tăng dạo núi, đến đầu tháp Hòa thượng Khai sơn. Tăng nói: Nghe nói Khai sơn là Hoàng Sào. Sư nói: Hoàng Sào là Thảo Đầu thiên tử. Vì sao là người ở núi? Giờ Kî cũng đáng cho ông ta bày cháo. Sư không chịu. Tự thay nói: Thưởng không tránh cừu thù. Một hôm Sư cùng năm ba ông Tăng xem trông ruộng. Sư nói: Lúa non không rễ làm sao trồng? Sang năm lại có thứ mới. Ông hiểu ta, ta nói cho ông nghe. Tăng bèn hỏi. Sư nói: Phân phó ruộng nhà. Ngày nọ sư ra thành thấy hạ viện Sơn chủ sư nói: Đã là Sơn chủ vì sao lại ở trong thành? Sơn Chủ không nói. Sư tự nói treo mang lên cần câu. Một hôm sư cùng mấy Ông Tăng đang dạo núi thấy con trâu đực ngẫng đầu lên. Sư hỏi: Trâu đực ngẫng đầu là sao? Tăng nói: Sợ Hòa thượng dắt đi. Sư không chịu. Tự nói: Xem vào cỏ. Ngày nọ sư thiêu vị Tăng mất Sư hỏi Tăng: Còn đem được lửa đến không? Dạ đến được. Làm giả giống thật. Lộng giả tượng chân Một hôm Sư hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tắm đến. Trong ba thân tắm thân nào? Hoặc trước tiếng trống hoặc sau tiếng trống. Sư nói: Tòng lâm no. Ngày nọ Sư hỏi Tăng: Ông bình thường làm gì không lên đến? Lên đến chỉ là cửa đóng. Vì sao không vào? Đến vậy. Sư nói: Qua rồi mới giương cung. Ngày nọ sư vẽ chân dung cho Thủ tọa. Sư nói: Đã là thủ tọa vì sao lại có hai người? Đâu không đủ. Ông hỏi ta, ta nói cho ông nghe. Thủ tọa định hỏi: Môn hạ Tuyết Đậu. Hoàng Đế Tống Thái Tông nhân việc sáu lần hỏi. Lúc ấy không có người tâu đáp. Do đó vào chùa thấy Tăng xem kinh hỏi: Xem kinh gì? Kinh Nhân Vương. Đã là kinh ít người vì sao ở trong tay khanh? Thay nói: Hoàng Đế không đích thân chỉ đức là phụ. Nhân vào viện tháp hỏi Tăng: Khanh là người nào? Tháp chủ. Đế nói: Đây là tháp ít người, vì sao khanh làm chủ? Thay nói: Cả nước đều biết. Nhân Tăng đốt Tạng kinh, sáng thấy nói xin. Tuyên hỏi: Ngày xưa Ma Đằng không đốt nay sao lại đốt đi? Thay nói: Bệ hạ không quên phó chúc. Ban đêm vua mộng, thần nhân báo rằng xin bệ hạ phát tâm Bồ- đề. Hoàng Đế đến sáng hỏi cận thần phát Bồ-đề tâm là thế nào? Thay nói: Thật xưa nay ít nghe. Nhân Tăng triều kiến, Hoàng Đế hỏi: Từ đâu đến? - Ngọa Vân đến. Hoàng Đế nói: Trẫm nghe Ngọa Vân nơi sâu thẳm không chầu vua. Vì sao lại đến đây? Thay nói: Khó trốn đến chết. Nhân Tăng triều kiến. Vua cho ngồi. Tăng nói: Bệ hạ còn nhớ được không? Đến gặp nhau chỗ nào? Linh Sơn khi từ biệt mãi đến nay. Lấy gì để nghiệm? Tăng không đáp. Thay nói: Bần đạo được được mà đến. Đường Hiến Tông đón xá lợi, xá lợi hiện năm màu. Bá quan đều vui. Chỉ có Hàn Dũ đứng yên. Hoàng Đế hỏi: Trăm quan đều vui khanh sao không mừng? Hàn Dũ nói: Thần từng xem kinh, ánh sáng của Phật chẳng có các tướng xanh vàng đỏ trắng. Đây là hào quang của Thần long giúp đỡ. Hoàng Đế nói: Thế nào là hào quang của Phật? Thay nói: Bệ hạ cao rũ gương trời. Bùi Tướng Công bưng một tượng Phật đến trước Hoàng Bá quỳ nói: Thỉnh sư an tên. - Bùi Hưu. Sư thay tướng công lúc ấy bèn hét. Quảng Nam Lưu Vương bèn xin Vân Môn vào trong ở điện tọa Hàm Xuân. Hoàng Đế sai Cúc Trường Thị hỏi: Quả Linh Thọ chín chưa? Môn nói: Trong nhiều năm được sinh tính đạo. Sư thay lời nói: Còn chua chát. Lại thay Vân Môn nói: Ý Thánh khó lường. Lại nói: Dạ dạ. Lại hỏi: Thế nào là Thiền? Hoàng Đế có sắc lệnh Thần tăng đối đáp. Thay lời nói: Lầm. Long Quang hỏi Tăng: Tên gì? Tự Quán. Tự Quán thấy gì? Thay nói: Có nhầm Long Quang. Ngộ Không Thiền sư hỏi Tọa chủ: Giảng kinh gì? Kinh Pháp Hoa. Có chỗ nói Kinh Pháp Hoa; Ta hiện bảo tháp để chứng minh. Tọa chủ thỉnh mời người nào chứng minh? Thay lời nói: Tư thông xe ngựa. Đầu Tử dạy chúng: Các ông đều biết, đầu ta thật, nếu ra cửa ba bước, có người hỏi ông: Thế nào là chỗ đầu thật của Đầu Tử nói sao. Thay nói: Nghi giết người khắp thiên hạ. Có Lão Túc thấy viên quan cầm cái hốt bèn hỏi: Trong tay quan là cái hốt, trong tay thiên tử là cái khuê. Trong tay lão Tăng là cái gì? Thay nói: Làm khéo thành vụng. Tứ Tổ đến am sau của Ngưu Đầu thấy con cọp liền sợ quá. Ngưu Đầu nói: Hòa thượng còn có ở đây. Tổ nói: Vừa đến thấy gì? Thay nói: Cũng làm thế sợ. Lại thay nói: Kịp phóng qua. Tăng hỏi Huệ Tế: Cổ nhân nói: Tu hành một cách chân thật hướng sau tự xem. Thế nào là Tu hành một cách chân thật? - Đời ta suông sẽ. Thay nói: Dạ dạ. Hỏi Đầu Tử: Định Tuệ học rõ thấy Phật tánh, lý này thế nào? Đầu Tử đáp: Gánh nước dùng thùng, múc cháo dùng muỗng. Thay nói: Đâu được không hỏi. Huyền Sa thấy Thượng Tòa Phu bèn nói: Mới đến nhìn nhau. Phu nói: Chớ lòa. Chớ nói giặc này loại. Huyền Sa cùng Địa Tạng nói chuyện trong phương trượng đến nữa đêm. Sa nói: Thị giả đóng cửa ông làm sao ra được? Địa Tạng nói: Gọi gì là cửa? Lại nói: Trân trọng Rồi đi. Sùng Thọ hỏi Tăng: Mắt tuyền không thông bị cát ngại, mắt đạo không thông bị ngại chỗ nào? Tăng nói: Mắt ngại lại nói tướng mạnh không bằng binh yếu. Bảo Phúc đang bệnh hỏi Tăng: Ta và ông quen nhau nhiều năm rồi. Có phương thuốc nào hay cứu dùm. Tăng nói: Có. Nghe nói Hòa thượng không biết kî miệng. Lại nói: Chỉ sợ khó làm Hòa thượng. Có Tây Thiên tiếng kêu Tam Tạng đến chỗ Vương Đại Vương. Vương sai Huyền Sa nghiệm qua. Huyền Sa lấy vạc lửa đồng đốt bỏ vào lò sắt. Hỏi Tam Tạng: Là tiếng gì? Tiếng đồng sắt. Huyền Sa nói: Đại Vương chớ bị người nước ngoài dối. Sư lại nói: Đại Vương càng thêm kính tin. Lại Tam Tạng nói: Chớ dối người nước ngoài. Quốc sư hỏi Tọa chủ: Giảng kinh gì? Kinh Kim Cang. Trước hết là chữ gì? Như thị. Vì sao? Lại nói lấy gậy bèn đánh. Lục Lang Trung hỏi Ngưỡng Sơn: Thế nào là quét không sạch phiền nào mà vào Niết-bàn? Ngưỡng Sơn dựng phất trần. Lang Trung lễ bái. Lúc khác Ngưỡng Sơn lại hỏi Lang Trung: Từng hỏi quét không sạch phiền nào mà vào Niết-bàn. Lão Tăng dựng phất trần, Lang Trung làm sao hội? - Theo chỗ thấy của mỗ giáp vào một chữ cũng không dùng được. Ngưỡng Sơn nói: Vào một chữ không vì Lang Trung. Sư nói: Lãnh hội gì? Lại nói: Lục Lăng nói phất trần đến tay mỗ giáp. Sau khi Ngưỡng Sơn nói: Ta sẽ gọi ông là kẻ tục. Lục Đại Phu hỏi Nam Tuyền: Bồ-tát Đại Bi chỗ nào được nhiều tay mắt đến? - Như quốc gia dùng đại phu làm gì? Lại nói: Không bằng chỗ hỏi của Đại Phu. Tăng hỏi Vân Môn: Mười phương chư Phật một cửa Niết-bàn. Thế nào là một cửa Niết-bàn? Ta nói không được. Vì sao Hòa thượng nói không được? Ông nêu lời thì được. Lại nói: Nước cạn không cá lao nhọc thả câu. Ngô Thượng Thư hỏi Mục Châu: Đến đầu cửa thì hỏi, ba cửa đều mở. Đệ tử vào cửa nào? Lại nói: Khách là chủ nhân làm thầy nhau. Nam Tuyền thị tịch. Lục Hằng Đại Phu đến. Viện chủ nói: Đại Phu sao không khóc? - Nói được thì khóc. Trường Khánh thay lời: Hợp cười không hợp khóc. Lại nói: Trời xanh trời xanh. Vân Nham thị tịch. Lúc ấy Đạo Ngô hỏi: Rời lậu tử rồi? Sau này gặp nhau chỗ nào? Nham nói: Gặp nhau chỗ không sinh không diệt. Lại nói: Gọi thị giả nhớ lấy lời hỏi này cho ta. Tăng hỏi Pháp Đăng: Trăm hài cốt đều nát tan, vật đè ở trường linh, chưa rõ trăm hài cốt một cách nhau bao xa? Đăng nói: Trăm hài cốt một vật, một vật trăm hài cốt. Lại nói: Ta không như vậy. Tăng hỏi Quy Tông: Thế nào là Phật? Ta nói cho ông còn tin không? Hòa thượng nói lại đâu được không tin. Tông nói: Chỉ ông bèn đúng. Lại nói: Thị giả uống trà trong liêu. Ma Cốc cầm tích trượng đến chỗ Quốc Sư, chống tích trượng đứng. Quốc sư nói: Ông đã như thế, cần gì gặp ta. Cốc lại chấn tích trượng một cái. môi. Lại nói: Kịp không đến đây. Diệu Tế viết một chữ trước Tăng hỏi: Là gì? Tăng nói: Không biết. Đầy miệng nói. Lại nói: Lão Tăng tội lỗi. Tăng hỏi Tào Sơn: Thanh thế cô bần xin sư cứu giúp. Sơn nói: Xà-lê Thuế. Dạ. Sơn nói: Rượu nhà trắng thanh nguyên, ba chén còn nói chưa thấm Lại nói: Xà-lê Duyệt dạ là tâm hạnh thế nào? Tăng hỏi Huyền Giác: Chỗ tiên sư nêu không kịp. Thỉnh Hòa thượng nêu. Huyền Giác nói: Người nghe phải là người lạ. Lại nói: Đại chúng xem một thiền khách. Thạch Đầu hỏi Nhượng Đại Sư: Không mộ chư Thánh, không trọng kinh tánh minh thì thế nào? Nhượng nói: Ông hỏi Thái Cao Sinh, sao không hướng xuống đem câu hỏi đến, Lại nói: Ba mươi gậy dạy ai ăn. Tăng hỏi Huyền Sa: Hết mười phương thế giới là một viên minh châu, học nhân vì sao không hiểu? Sư nói: Cần hiểu làm gì? Lại nói: Chư vị tức được. Ta ở đây không được. Huyền Sa hỏi Nam Tế: Việc này chỉ ta biết. Trưởng lão làm sao hiểu? Nam Tế nói: Cần biết có người không cần biết. Lại nói: Môn hạ Tuyết Phong mấy người như thế. Pháp Nhãn hỏi Tọa chủ Bách pháp: Bách pháp là thể dụng đều bày. Minh Môn là năng sở đều nêu. Tọa chủ là năng, Pháp tòa là sở làm sao nói đều nêu đều nêu? Có Lão túc thay nói: Hòa thượng gọi Pháp tòa là gì? Lại nói: Hòa thượng phân nửa viện cho mỗ giáp mới được. Mục Châu hỏi Tòa chủ: Giảng kinh gì? Kinh Niết-bàn. Hỏi Đại Đức một đoạn nghóa được không? Hỏi nghóa gì? Châu nhảy lên thổi một cái nói là nghóa gì? Trong kinh không có nghóa này. đá. Châu nói: Gã rỗng tuếch, đây là nghóa năm trăm lực só khiêng Lão Túc thay nói: Hòa thượng dối mỗ giáp lừa đại chúng. Lại nói: Hòa thượng quen thì tiện. Vân Môn dạy chúng: Thế Tôn hạ sinh một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương nói: Trên trời dưới trời ta là độc tôn. Ta lúc ấy nếu thấy lấy gậy đánh chết cho chó ăn quý được thiên hạ thái bình. Pháp Nhãn nói: Vân Môn khí thế rất lớn lại không có đạo lý Phật Pháp. Lão túc thay nói: Sẽ gọi không người chứng minh. Lại nói: Câu ở đất không nghi. Ba người: Nham Đầu, Tuyết Phong, Khâm Sơn ngồi. Động Sơn điểm trà đến. Khâm Sơn nhắm mắt. Động Sơn hỏi: Từ đâu đến? Khôn Sơn nói: Vào định đến. Định vốn không cửa, từ đâu mà vào? Lão Túc thay lời: Phần lớn có người hiểu như thế. Lại nói: Lúc ấy chỉ Nham Đầu, Vân Phong nói: Cho hai người mù lòa này uống trà. Vân Môn hỏi Tăng: Từ đâu đến? Tân La. Sẽ qua biển nào? Giặc cỏ đại bại. Ông vì sao ở trong tay ta? Tăng nói: Là đúng. Lại nói: Hư hư! Vân Môn đến Động Nham được mấy ngày lên tham. Vừa thấy Động Nham đi xuống. Nham hỏi: Đi đâu? Đi Tân La. Đi loạn làm sao? Tạm thời không ở. Nham nói: Đi đến chỗ nào? Lại nói: Đáng cho ba mươi gậy. Đông Bình hỏi Quan Nhân: Gió làm màu gì? - Không đáp được. Lại hỏi Tăng: Tăng đưa nạp y lên nói: Cái này bày ở dưới phủ. Bình nói: Dùng bao nhiêu lụa? Lại nói: Ểnh ương nhảy không ra khỏi đấu. Vân Môn hỏi Tào Sơn: Mật mật vì sao không biết có Tào Sơn? - Chỉ vì mật mật cho nên không biết có. Lại nói: Đạt Ma đến. Tuyết Phong ở Quốc Thanh dơ bát lên hỏi Tọa Chủ: Nói được cho ông một cái bát. Chỉ nói: Đây là việc bên ngoài hóa Phật. Lại nói: Chỉ sợ bày Hòa thượng. Tuyết Phong lúc ấy nói: Ông làm Tọa chủ nô chưa được. Chủ nói: Mỗ giáp không hiểu. Tuyết Phong nói: Ông hỏi ta nói cho ông nghe. Tọa chủ lễ bái. Tuyết Phong bèn đạp nhào. Sau đó Tọa chủ nêu cho Vân Môn nói: Mỗ giáp được bảy năm mới thấy. Vân Môn nói: Ông được bảy năm mới thấy. - Đúng vậy. Lại nói: Giặc cỏ loại. Đạo Ngô thấy Vân Nham quét sân nói: Cuộc đời rất nhanh. Vân Nham nói: Phải biết có người không nhanh. Ngô nói: Thế thì có trăng thứ hai. Lại nói: Kịp hợp tha cho. Thanh Phong từ biệt Tuyết Phong hỏi: Đi đâu? Thanh Phong đáp: Người biết được tức biết chỗ đi. - Ông là người rõ việc, đi loạn làm sao. Lại nói: Tây Thiên chém đầu chặt tay. Thanh Phong lúc ấy nói: Hòa thượng chớ trét bùn cho người. Tuyết Phong nói: Ta trét bùn cho ông. Ông nói cổ nhân thổi sợi lông vải là thế nào? Thanh nói: Canh cạn bánh mốc đã có người ăn rồi. Tuyết: Thôi đi. Sư ra Tuyết Phong nói: Một khi chết không sống lại. Thiều Sơn khám tăng nói: Chớ tiện là nhiều miệng. Bạch Đầu nhân đó nói: Không dám. Thiều Sơn nói: Bao nhiêu miệng? Khắp thân đúng. Hai việc lớn nhỏ ra hướng nào? Trong miệng Thiều Sơn. Bảo Phước đến chỗ am chủ đang trà thoại. Am chủ nói: Có Tăng hỏi mỗ giáp: Thế nào là Tổ Sư Tây lai ý? Mỗ dựng phất trần lên, không biết được hay không. Bảo Phước bỏ đi. Mỗ giáp đâu dám nói được hay không được. - Có người hỏi có người khen việc này như cọp mang sừng. Có người khinh hủy việc này một chút cũng không thẳng. Việc như thế vì sao khen chê bất đồng? Am Chủ nói: Vừa ra tình cờ gặp ông. Có Lão Túc nói: Hủy bỏ rồi đâu được. Lại Lão Túc nói: Tiếc lấy lông mày. Sư đều nói: Như chẳng phải Hòa thượng chứng minh, phất trần một đời vô dụng. THAM ĐỒNG KHÊ của ĐẠI SƯ THẠCH ĐẦU. Ta từng xem việc này rất thấy khai só, đều là văn chương vẽ vời cùng cực rất ngay chính, thật thay con đường này, nhân cũng tùy hứng để suy nghó, giúp cho xói mòn ở nơi văn. Than ôi! Quy tắc lớn của Bậc Tiên giác có chiếu suốt từ xa xưa. Há lại tình càng vượt qua ở trong đó? Bởi người học luôn luôn ức hỏi khuyên ý không được mà thôi. Hoặc cát vàng lẫn lộn, đào nó, thải nó. Cố nhiên ắt còn tay thợ kia mà nói. Tâm Phật tại Ấn Độ Đông Tây thầm trao truyền Căn tánh có lợi độn Đạo không phân Nam Bắc Nguồn linh thật sáng trong Như sông có nhiều thánh Chấp sự vốn là mê Khế lý cũng không ngộ Mỗi vật bày cảnh giới Hòa lẫn chẳng hòa lẫn Hòa nên có quan hệ Không hòa nên không phải một thể Sắc giới vốn khác chất tượng Như âm thanh có vui buồn Sắc hợp với chí đạo và trung đạo Rõ ràng như câu thơ trong đục Tứ đại xoay về tự tánh Như con tìm được mẹ Lửa nóng, gió lay động Nước ươt, đất cứng chắc Mắt đối sắc, tai đối âm thinh Mỗi đối mùi, lưỡi đối vị Mỗi mỗi nương pháp tánh Như nhánh lá nương cội cây Gốc ngọn đều về Tông (Bản thể) Cao thấp thảy dùng lời nói này Ngay trong “Minh” có “Ám” Ngay trong “Ám” có “Minh” Chớ đem tướng “Minh” để tìm tướng “Ám”. Trúc Thổ đại tiên tâm, đông tây mật tương phó, căn cơ con người có nhanh chận, nói không Tổ nam bắc, nguồn linh sáng tỏ, chi phái tối tăm chảy vào, chấp sự vốn là mê, khế lý cũng chẳng ngộ, môn môn tất cả cảnh, hồi hỗ không hồi hỗ, quay lại thì liên can nhau không phải nhờ vị trụ, sắc vốn khác chất tượng, thanh vốn khác vui buồn, ám hợp lời thượng trung, rõ ràng câu đục trong, bốn đại tánh tự che như con được mình, mặt trời lửa gió lay động, nước thấm đất kiên cố, mắt là sắc, tai âm thanh, mũi là hương, lưỡi vị chua mặn. Nhưng đối vơí mỗi một pháp y theo gốc là phân bố. Gốc ngọn phải quy tông. Tôn ty dùng lời này ngay trong sáng có tối, đừng để tối gặp nhau, và trong sáng có tối chẳng lấy sáng. “Minh”, Ám” đều tương đối Ví như bước trước sau Vạn vật tự có tác dụng Nên nói chỗ tác dụng và nơi chốn Sự tồn tại như hộp với nắp Lý ứng hợp như tên chỏi nhau Tiếp thu nên lãnh hội Tông chỉ Chẳng cần tự lập quy cũ Như chẳng thể dùng chân bước đi Bước đi không dính dáng đường xa gần Kẻ mê với đạo cách xa như sông núi Kính thưa các bậc tham thiền Thời gian chẳng để luống qua. <詞>CHÂN TÁN Thiền Định Đại Sư. Hư không ngưng động không binh khí, có tượng khác cõi. Sông y lộ trình chảy chính là nguồn của ông, Linh Thứu cao vòi vọi, trăng đen vừa khuất, bày sát mông nặng, nhọc sinh mắt khai, mở ai thấy; Phấn chấn đến người xưa. Hoặc lá hoặc hoa. Tự ba tự năm, Thiên tử khen ngợi chừ sư Thiền định. Từ nay đến sau chừ gió thổi hương. <詞>TẬP HIỀN ĐIỆN HỌC SÓ TĂNG HẦU Thạch Lân trời đâu nhẹ hiến, gốc trời gốc tháng năm ức vạn. Lúc ấy bày ra được toàn công, không đoạt đầu rồng mấy người oán. <詞>ĐẠI SƯ NHƯỢC BĂNG Băng có ánh sáng chẳng phải châu lóng trong. Núi có ánh sáng chẳng phải ngọc ngưng tụ. Đại Sư Nhược Băng khác với trong trắng kia, khác hề ắt quần tuyệt chừ đáng thấy. Một chữ căn cực ba ngàn đỉnh trụ, vừa nói nghóa rồng hoặc xưng luật hổ, tương đối phong quy phân không phân, ruộng vàng riêng bước anh xem lấy. <詞>ĐẠI SƯ THANH CHIẾU Biển cả thu xanh đỉnh Miết ngày lạnh. Khéo xuất tay thợ mương theo đối xem, giường bảo vừa hoa, khăn chẳng kết, lấy lửa nối lửa nói trăng chỉ trăng, xưa chừ nay chừ xin thử phân biệt. <詞>CUNG THỦ TÒA Nói lìa vi tế chừ ai thương cho, dáng xưa lặng lẽ chừ bụi xanh bay, núi xanh trời xanh qua mấy xuân, trong đường Nhủ Đậu người thứ nhất. Thiền đồ tả tôi huyễn chất lại xin làm từ khen rằng. Phật Tổ oán chừ, chẳng phải sư, Tòng lâm hư chừ ai sửa sang, nước kết tuyết tàn là tan tác, nước lạnh mây yên trời điệp điệp; Thánh bào Tăng sai xưa nay biết, trên trời nhân gian đâu dung y. <詞>CHÂU SINH CƯỜNG BI MỘNG THÂN TA CŨNG KHÔNG THỂ PHỤC BÚT Trên dưới ba ngón, đây kia bảy ngựa, niêm hoa chưa từng vi tiếu là sao, đá bảo ngọc chừ khí ắt phân. Thủy lục hư không chừ trăng chẳng dưới, không biết ai là kẻ bàng quan. Ôi! Cây khô sinh dây dưa, xưa nay Tam Xuyên khi lưỡng chết chỉ hươu làm ngựa, lấy trời làm trăng. Tội chừ tày trời đâu thể phân nói. <詞>THIỀN SƯ QUẢNG TUỆ Mênh mông hùng cơ rơi rơi vũ trụ, sách đến không triệu, truyện đến đâu lấy, lấy còn có quy củ, quy củ còn hơn xưa. Sáng vằng vặc khoan hồng ứng vạn mối, trai biển sáng tuyệt, châu trời bóng tàn. Nam đến bắc đến con mắt có thể nhìn. <詞>AN NHAM SƠN CHIẾU THIỀN SƯ VÀ TỰA Kẻ ngu xưa dạo sông chống cự núi cao, xin hỏi nhà hợp noi theo nhà thiền chảy theo dấu vết voi ngựa, đến với tâm miệng tấm tức, phẩm tháo đương đại thật khó thầy. Nhưng chẳng phải dối lừa mới đến lại chỉ tay kéo sao lấy. Há lão bồi này là thấy dệt chân tướng. Xưa nay than hận uổng, cao sâu nghiên cứu chẳng cùng, sáng tối đều tận bờ mé. Cho nên khi khâm phục vẫn khuyên chọn xứng vịnh. Ngô hầu kẻ ngoài văn nói còn mà đồng quy. Giác Hùng Tuệ Đăng ghi, uống thời gian, diệt thời gian mãi không thôi. Rồng xương cự tuyệt, khéo nối tiếp là ai, nằm nghe tiếng nước chảy hai sông từ bốn phương, đại danh không đáng nhường cao thái bạch, kín đáo khác vận hư không sáng rộng, về nghỉ an nhàn núi lạnh đầy màu sắc, ta cười bên ngoài chẳng phải hoa, xây dựng công trình uổng phạm nghi, vươn vai gánh tơ đỉnh núi mây, đêm tối trời thu yên lặng. Bên hè nam chừ tương đối, không sinh chưa hiểu chừ nghe lời này, mở mắt ngưng tròng, sấm chớp không kịp che tai.  MINH GIÁC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN 5 Hình của sư là lời nói vậy. Tạm khác với mùa xuân tuyết trắng, mây xanh, gió mát. Phàm ngọc không mài quý ở thiên chân. Đến lời nói không văn chương còn lý thật, chính là soi sáng ở đời. Há trí thức mà suy tính ư? Sư tự dừng lại Thúy Phong. Tuyết Đậu, hoặc cú ngôn của tiên đức uyên thâm. Nhân đó sư làm tụng hoặc cảm hứng hoài biệt, Tăng mà làm vốn cũng nhiều. Có người hiếu đạo ghi chép lại ngày xưa. Một hôm tổng tập thành hai trăm hai mươi loài rồi viết trình cho sư. Sư nói: Ta ngẫu hứng mà làm, thà còn giữ gốc, không cho làm. Thiền giả nói: Then chốt của Tổ ngàn năm thơm mãi chớ khinh bỏ. Chư sư thấy thành thật mà khuyên, chẳng được ép mà theo. Văn Chánh may mắn được hầu bên tòa bèn thuật tựa, dẫn dụng biết thời năm. Tháng Mạnh, niên hiệu Thiên Thánh Viêm Tống thứ mười. Văn Chánh kính cẩn ghi lời Tựa. <詞>KỆ TỤNG Đưa Trưởng Lão Bảo Tướng. (Và Tựa) Đại sư vui mừng thiền đức, sẽ đến Đan Khâu vâng lệnh vua làm sáng tỏ Thiền tông. Bởi thời ứng phải hành chắc chắn không thể ép người ở lại, hãy vỗ về bắt đầu làm sáng rỡ đạo. Tuy một ngưng một chảy, một đây một kia sao còn chê trách. Noi theo văn từ tạp nhạp để thay quà tiễn biệt. (Linh khu của cõi thâm áo còn ngoài sư vật, riêng đỉnh Tiêu Thai là hoàn toàn bao quát che đậy thù thắng ẩn dấu kỳ lạ bày làm bình phong, đống xanh viết ngọc sâu như mực, ráng đỏ bóng ấn sinh nham bích, hương quế tươi tốt bóng tỏa đá xanh. Tùng đỏ cũng sóng hư nhàn). Đạo hề đại nhẹ cho, Tào Khê có ông già về trong đó. Gió theo hổ về mây theo rồng, thừa hứng gặp may tháng hai tháng ba quét sạch lại còn ngàn vạn núi, hoa bay bay trời chầm chậm gió mát thổi không khi nào thôi, thủ đoạn chu toàn khéo léo tự về hợp. Vòi vòi một phương ai dám nhìn, nhìn đến phải được mắt càn khôn. Chiếu suốt nay không ngừng nghỉ. Như có thể bỏ cả toàn đề, khai phát trời người đâu có hạn. <詞>ĐƯA TRƯỞNG LÃO PHÁP HẢI Thường Ái Bùi Tướng Quốc Thức Phương Trần, quét sạch núi Cao Phong. Kính mộ Yếu Luân, nghó muốn thờ thầy làm đệ tử, không biết đem pháp phó chúc cho người nào. Thường Ái Lý Tướng Quốc Thùy Lệ Tinh, Dược Kiều nguồn sâu nhà tánh linh, ta đến hỏi đạo không nói khác. Mây ở trời xanh nứơc tại bình. Tưởng nghó đương thời Nhị Thai Phụ, ra Trấn phiên chỉ hỏi Chư Tổ mênh mông phù ảo nhẹ trăm năm, quy củ tự nhiên chiếu thiên cổ, nay nghe tiên điều hiền thái thú, vào màng che mênh mông, anh giúp đỡ mỗi mỗi phân hóa, văn dọc võ ngang cũng khó tính, thư từ xa bay vào núi, chọn khai só chừ khôn phục Tông ta. Nhìn bóng đêm chẳng phải biển xanh động, nghe chánh âm há hạ dạ âm tiêu đồng. Khoe lân, rồng từ đông tây, xếp hàng chẳng phải voi được voi, ắt phải biết hùng nhường hùng. Nay đã lấp xin còn điều lạ khúc. Mù mịt nóng bức, tuyết lất phất rơi, ngược dòng bốn sông chở nặng cây khô. Khi nguyện lúc thư đứng bên ngoài càn khôn, trời trăng trong thành treo ngang dọc, đầu vàng mắt ngọc, biết chưa biết đi đi, nhờ ai nối tiếp thanh tuyệt. <詞>ĐƯA VĂN CHÁNH THIỀN GIẢ. Xưa có tiếng tiêu đồng, nghe ở tiếng đàn. Xưa có khúc Dương xuân hòa không ở tiếng, môi hở răng lạnh, chưa phải lìa góc nhỏ, đàn chừ năm tháng sắp hết, chưa hết nguồn thăng trầm. Thiếu lâm ngồi lâu hoa cây rơi, đi trên núi nhỏ, trời đất rộng, nhân cười Trọng Ni, Ôn Bá Tuyết, khuynh cái cùng đường không cùng vết. Lân chừ phượng chừ đâu thể lường, hứa chừ, sát chừ lại sao nói, bóng thu trong lặng in bóng đen trên nước, gió thổi vù vù lá vàng rơi, tiễn anh ở ẩn ai không biết, nêu nói không biết tức là quý. <詞>ĐƯA CHIÊU MẪN THỦ TỌA. Anh thấy chăng, Linh Thứu tụ tập muôn vạn, mênh mông nhàn quá, ngoài áo hư đều xanh lạ. Anh lại thấy chăng ngọn Hùng Lónh năm tháng, tan tác gian nan sinh, trong tuyết sâu có một người, uyển chuyển phiêu bạc hơn mười năm, nguy hiểm chừ không gian bằng phẳng, biện rồng rắn mắt sao chánh? Chạm sừng hổ cơ không toàn, cửa đá bốn bề tới chật hẹp, mênh mông không chịu đám mây trắng, cắt đứt vòng vàng kỳ lân trời, dơ cao roi sắt đánh ba trăm, còn nhẹ bỏ đâu biết, chẳng có bảy tuần lại đấu bắn, trước gió như muốn tặng người đi, đem báo bất bình vây thiên hạ. <詞>ĐƯA THIỀN GIẢ TRI BẠCH. Tùng không thẳng, gai không cong. Ai cười mười và ba hiến ngọc, trời dọc đất ngang không đầu mối, xưa xa xăm vượt nay khinh chạm. Đâu buộc gởi sao phải nói. Mô phạm còn còn qui tắc lại lại. Lá chiên đàn rơi rụng hương gió mát. Ngàn dặm vạn dặm mãi theo nhau. <詞>ĐƯA TRƯỞNG LÃO THẮNG NHÂN. Huỳnh mai tụ hội kết thúc ba trăm năm, tiếp ánh sáng, nối mùi hương việc không còn. Tông hề, phái hề sinh mối lạ. Hoa hề lá hề thật phiền toái. Lúc thiều dương được nhiều khảng khái. Quyền phải hùng hùng từng tuyệt đãi. Cây cong vẫn đứng biết bao giờ. Dao bén mũi nhọn người ưa thích. Gần còn có kẻ mặc áo rách. Đau đớn toàn thân gió hiu thổi. Sắt làm một tầm chẳng dễ dàng. Vách đứng ngàn thước cần xô đạp. Báo anh biết Giang Nam Giang Bắc đi thành chuỗi thành chùm. Ba ba chuyển vận biển hề xuyên mai kỳ lân. Điện chớp sấm vang hề tấc hào thước ly. Lời này chớ gọi còn quy củ. Bằng không lưu lại hề hiểm chẳng lấy. Đi khắp đứng riêng rồi mới thôi. Ai chấn hùng dưới chiếu thiên cổ. <詞>ĐƯA TRỌNG CÁO THIỀN GIẢ. Mưa xuân như cao, mây xuân như hạc. Thoạt chỗ này thoạt chỗ kia, chợt nghó chợt làm. Rể cỏ khô ly ly, chỉ có gió chầm chậm. Từng nấm mộ bia xa tít cũng ở nơi cao. Một hoa nở năm lá hề không giống nhau. Sáng lẽ loi xa xôi còn tự biết, còn tự biết trãi qua Ngụy dạo chơi Lương uổng phí công làm. <詞>ĐƯA TĂNG VỀ LINH ẨN. Mây trắng không nhờ nước trong xanh gởi. Tuyết tìm chưa thể nhạn còn thấp hèn. Trời rũ ngày tốt hề như kết không kết. Là mưa từ rồng kỳ sau kỳ hẹn ắt kỳ hẹn. Ôi! Xa xôi chợt gió xuân thổi. Nam bắc đông tây chỉ ta biết, ai biết. Hoa sen phô ảnh trước núi. <詞>ĐƯA TĂNG ĐẾN THẠCH LƯƠNG. Vạn thuở lưu danh không biết sức xuân, khe bờ núi theo hồng đuổi ngọc bích, cưỡi hứng lại ai cùng. Dấu vết xa một mình thù địch. Anh không lấy năm trăm Thánh giả dẫn hùng cơ. Linh Thông tối tăm sâu vô cực. Lão Hàn Sơn, Lão Hàn Sơn chìm theo dấu vết. Xa xôi này phải tìm kiếm. Hoa rơi, hoa nở chỉ khi trông nhớ lấy mây trắng ôm mộ bia. <詞>ĐƯA THIỀN GIẢ SƯ MÂN. Núi sâu u tịch mặc cỏ lan mây xanh ráng đỏ phản ánh dòng nước chảy không sinh riêng ta mong chua mong. Tuyệt vùng như mới nghó suy. Thật cười về núi chạy về nam. Ấp kìa sao huy mao loạn chạy. Đều đưa lên không nổi. Y ta vốn tự không đem đến. Tiễn nhau đâu nhờ đánh răng môi. Mân thiền khách, Mân thiền khách, con sư tử. Cần phải tự nhiên còn đầu cuối. Anh thấy chăng! Người xưa có nói. Đập vỡ lừa rồng ngọc trăng sáng. Đại trượng phu đến như thế đi đi không cần liền gãy móng tay. Gởi Trưởng lão Bạch Vân. Mây rũ xuống tónh lặng sáng xa xăm. Cây tùng đêm khuya đối trăng lạnh. Từng chiếc lá tàn rơi xuống đình trống. Lạnh giá người nào đứng trong tuyết. Vì nhớ tiền đường Cáo thiền giả mười năm đầu núi từng xuống. Hề bay ai gọi tuyệt tương đồng. Nghó xa mịt mù đâu muốn viết. Bỗng nghe Tiên Đô đến thỉnh, ánh sáng trãi dài lên đường xanh, ai nói ngựa trời ở phương ngoài. Tự cười đại bàng lìa góc biển. Càn khôn chật càn khôn hẹp. Trạm lô kín bắn đấu ngưu bạch, mênh mông vô hạn người chưa về. Đến ắt là trừ khi điểm trán (thi trược). <詞>ĐƯA TRÍ THIÊN THỦ TỌA. Cây tử đằng mịt mù che quanh núi. Mênh mông xanh biếc bay vội vàng. Mây gầy áo nhẹ thôi lại thôi. Lửa ít cỏ tàn tiếp sao được. Nhà thiền vốn tự ràng buộc bước chân. Vườn rừng bãi cù lao từng không sợ. Mười bóng ngựa thần đứng bờ biển. Kỳ lân năm màu đi dưới chân trời. Anh xem lấy anh xem lấy. Khắp mặt đất bao la có ai nâng. Mảnh ngói mài luôn như chưa được. Vì ta nhớ mãi lời Lô công. (Hiệu quả của Tổ Huệ Năng). <詞>ĐƯA THIỆN HOÀNG THỦ TỌA. Nêu tên có thật Cuống Sâu hề vững hề rõ ràng kế tiếp nhau. Tên xưa âm thanh nghe mà không nghe(vô thanh). Thật nay đồng phù y. Tử Châu khéo quệt dòng. Nghiêu chạy Thuấn chạy nhường Vũ Hạ. Về đi thôi! Về đi thôi! Cuối cùng người chưa ra khỏi tối tăm. Ta cùng ai gọi tiêu kỳ tuyệt. Động tónh nhờ anh thử phân biệt. Lá rơi lác đác hề nửa chiều thu tan tác. Chiếc lá chừ xuân ấm cùng phát. Lão Hoàng Thiền, Lão Hoàng Thiền. Ý từng cao rộng bày mưa đội bỗng đưa đến bao khen chê. Trời người bày xin nhiều lần cười. Tổ Phật thấp còn nghó suy trốn. Ta sợ trốn, trốn không được. Đại phương không ngoài đều đầy ắp. Mênh mông quấy nhiễu biết đâu cùng Tám gió hương thổi áo bay. <詞>ĐƯA TĂNG. Núi Ngô, sông Sở xanh biếc. Ngô Sở mênh mông hứng đâu cùng. Một tầm cây lạnh tự vì thương. Ba việc mây thu lại ai biết. Đất trời không phải không tri kỷ. Ngọc đá thôi phân biệt chân nguî. Đợi khi bán khen lòng vấn vương. Tài trí kính đáo cũng ý nào. Gió xuân mau gió xuân mau. Tám ngựa đuổi theo không kịp. Nam bắc đông tây đem định thời. Vì anh đứng thẳng trên núi cao. <詞>LỜI TỤNG DƯỢC SƠN SƯ TỬ ĐƯA TĂNG. Dò xem lông vàng của con sư tử. Dưới rừng Chiên đàn cỏ xanh rì. Bày ra bày ra oai tự toàn. Một ra sáu ra lông mi dựng đứng. Chẳng nghó suy biết bao nhiêu. Sao đưa không hỏi ba ngàn dặm. Ngoài trời gió mát thổi vi vu. Vì anh hớp hết nước Tây giang. <詞>ĐƯA ĐẠI SƯ TÚ. Bích Nham Tuyết Đậu đêm lạnh lấy núi choàng. Trăng cao cây cội thú đi ngủ. Thiền giả Tây Âm đến gõ cửa. Biệt ta buổi sáng sương lớp lớp muốn lưu lại cũng không thể được. Tả ý không kịp ý. Mắt nhìn xa xa an chân noi. Hoa kệ tiếp nhau rất dể dàng, anh không thấy ông già Lưu Dướng thật hiếm. Đưa người chỉ nói không việc khác. Từng bước biết tri âm biết. Đâu hẳn gió mát động trời đất. <詞>ĐƯA QUẢNG HOA NGHIÊM VỀ LINH THỨU. Non biển thưa thớt chẳng phải đảo tiên bồng. Sương lạnh mây sâu tùng khuê già. Có khách đông ngưng sao lại cao. Đêm hoang dã chinh nhân khổ thổn thức. Phòng núi mờ mịt hư không lạnh. Sương nước rơi rơi phân thành dòng. Ai nói trăm thành chìm tại sao? Tự cười tám bề nổi gió mát. Chốc lát riêng ta lại trở về. Người ơn nghóa mong trở về. Trùng trùng vô tận lầu gác. Đến là lúc lược nhẹ nêu. <詞>ĐƯA VIỄN TRẦN THIỀN LÃO. Áo quyện mây tàn gió cao tuyệt thương. Gởi trời chiếu tuyết chống đến bờ. Tám mối chạm mắt núi xuân như mực. Chín đồng dẫu bước bãi cỏ như thảm. Già ba mươi bốn chưa từng biết. Bỗng nhiên ngoài sau gần nhau. <詞>ĐƯA ĐỨC LONG SƠN CHỦ. Sương tan gió núi lạnh. Thiền giả kia bỗng xuống núi. Áo có mây từng quyện chưa quyện. Đàn không dây, hề biết đàn không đàn. Vời vợi đã đi nên nghe lời này. Lối sáng tối từ bờ sông sinh tử. Mà nay mà sau biết không biết. Sụp lưới giao cho đất nhờ ai đở. <詞>ĐƯA TRỪNG THIỀN GIẢ. Màu xuân vẫn là áo cỏ ông. Gió xuân mênh mang phất qua cửa sổ ta. Nghó đây phân phi tặng không có ngọc. Từng cành mai phất phơ trên đầu núi, cành liễu đong đưa ở bên sông. Trừng Thiền Sư! Trừng Thiền Sư! Nghe lời này. Xưa cũng như nay đi đường khó, biết nó là đá lửa, sao băng chưa vội, không biết là rồng ngựa, từng bước khoan dung. Hãy xem ai nói: Đất bằng dậy sóng. <詞>ĐƯA HUỆ THỌ THIỀN GIẢ. Phong quy Thiếu Lâm đâu lớn mạnh. Lờ cá xưa nay liếc nhìn thật giả. Ai nói dương cung bắn hổ. Tự cười phẩm loại xem ngựa. Kiếm khách mênh mông không cần trình. Nồi sành người buôn phải cầm lấy. Thọ Thiền! Thọ Thiền! Giá xe cộ chênh vênh. <詞>ĐƯA HUỆ VĂN THIỀN GIẢ. Chánh pháp nhãn tuyệt trần sa. Hai ba bốn bẩy trăng đáy nước, hoa đốm hư không. Hội ngàn đèn nối sáng, năm cánh chiết phần tinh hoa. Anh không thấy, Bách Trượng cuộn chiếu, Đan Hà bịt tai. Rồng đi hổ bước đâu cô lập. Đều cùng mây mưa đến vô bờ. Văn Thiền! Văn Thiền! Thắp sáng nhà ta. <詞>ĐƯA ĐẠO THÀNH THIỀN GIẢ. Dòng Tào Khê nước chẳng dừng. Một điểm bổng đến ngàn sóng tự nổi. Phải câu ba ba câu cá kình. Chớ hỏi được da được tuỷ. Anh không thấy. Thạch Đầu có nói hề. Thánh không mộ, linh tánh không ở trong mình. Thành thiền Thành Thiền con nhà ai! <詞>ĐƯA THANH DIỄN THIỀN GIẢ. Ta tuổi già tâm lớn lực suy vi. Từ biệt tặng không lời mờ mịt cùng chấn động. Nhân suy nghóa xưa đưa người có nói. Ta không biết khác đường cùng về. Riêng thích khúc Tân Phong cùng sáng sủa. Tấc cỏ không sinh ngàn vạn dặm. Ra cửa sắc xuân cũng vẫn thường. <詞>ĐƯA KẾ BẢO THIỀN GIẢ. Bảo chẳng báu ngày sáng sủa. Cơ thượng thượng không chỗ lường. Nước đỏ tìm đến đâu là cuồng. Cây Kinh ở núi tìm được thật là khổ não loạn. Không não không cuồng bày ánh đêm. Trong đường hiểm xấu làm cầu sông. <詞>ĐƯA TIỂU SƯ NGUYÊN SỞ. Đạo cơ mịt mờ đâu giữ được. Anh cạnh thời gian ta gần bờ liễu đoạt chiếu chẳng biện sâu. Không tụng quét với ngu Só nói. Nghó sâu kìa chặt cây tiếng chan chát. Soi xưa chiếu nay hề nên khéo tìm bạn. <詞>ĐƯA THANH QUẢ THIỀN GIẢ. Mưa xưa lất phất gió xuân vi vu. Động hề tónh hề chẳng đợi lúc ra. Mây sương nhàn lặng làm tánh. Vàng sắt lạnh rơi vàng xương. Người biết ta gọi ta gương mẫu ở đời. Kẻ không biết bảo ta xuống nhìn hang sâu. Tự ý nói tùy phương tình. Buộc thả gồng cây tím. Một tìm núi xanh vạn đẹp lạ bước bước suy tư. Người xưa nói không thể không thể. Nam Bắc Đông Tây là chỉ ta. <詞>ĐÁP TRƯỞNG LÃO HÀNH TUẾ. Vàng rồng làm xương tùng tự ý. Đạo co từng chê thầy trời người. Có lời để lại dặng ta thiên cổ hiếm. Không người biết hổ đá nuốt chửng dê gỗ. Ai. <詞>ĐẾN NGƯỜI BẤT KHÍ. Ai đương cơ nêu không dối cũng còn hiếm. Chót vót suy tàn gòng đỏ huyền vi. Lớp cửa từng mở rộng. Tác giả chưa cùng về. Thỏ ngọc làm vườn làm cổng. Chim vàng tợ bay không bay. Lão Lô không biết đi nơi nào. Mây trắng nước chảy vẫn như thế. <詞>NHÂN VIỆC DẠY CHÚNG. Đá vốn thoải mái ngọc tự hèn hạ theo đuôi. Xưa nay một đâu là mau. Sư từ không ăn được kỳ lân. Mãnh hổ không ăn thịt thúi. Anh không thấy. Đảo lẽ loi nơi Động Đình khói sóng sâu. Ngựa gỗ đuổi gió người biết. <詞>BUỔI CHIỀU DẠO SUỐI ĐÔNG. Nhìn hết tầm mắt thì đã chiều. Mây khe trở thành đẹp. Chất phát từng chưa phân. Núi xanh tự chỉ ta. Nhìn hết tầm mắt đã tối rồi. Cây xa lồng bóng mát. Ai biết dày cạn xanh. Chỉ có biển xanh sâu. Nhìn hết tầm mắt trời đã tối. U tình quyến cỏ lan. Gió trong lá bạch Tần. Không còn sông thu khởi. Nhìn hết tầm mắt trời đã tối. Bước bóng sao chầm chậm. Trở về cây khô cầm thú. Trương đối mãi liếc nhìn. Nhìn hết tầm mắt trời đã tối. Bồng lai chẳng phải cảnh tiên. Câu được mười hai con ba ba lại đến tạ bóng riêng. TƯ QUY DẪN (3 Bài). Một ở núi Phú Phong. Hai nhìn cỏ bên khe. Không biết lúc chợ sáng. Mấy phen sinh vinh nhục. Mây xanh treo đầu núi. Trúc tỏa ở bên sông. Nói ai về đi thôi. Hướng đây không thờ thẩn. Thường tình ở Lô Sơn. Theo thời gởi bình tích trượng. Năm trăm với một ngàn. Tụ đầu cùng qua ngày. Vượn vin bóng chưa về. Nhạn vọng tình lại mất. Dạy ông Vương Lão Sư. Si độn không chỗ tìm. Khi mưa trút như cao. Vạn loài đều thấm nhuần. Rể khô cam tự thôi. Cũng tợ xuân vô lực. Nông phu sáng còn ngủ. Tằm đêm còn nghỉ ngơi. Từ đây gia nghiệp tàn. Rơi vào dấu phong trần. <詞>ĐƯA UẨN HOAN THIỀN GIẢ TÂY THƯỢNG. Đường cửa vàng từng xa. Bước bước gặp mở lớn. Phòng đá mây chưa nhàn. Mãi mãi như chờ đợi. Búng cao qua dòng nước. Người nào không nghiêng che. Sớm chiều thừa ơn vua. Lại bói rừng tuyền hội. <詞>ĐƯA TĂNG. Mây xuân tình đã cao. Mãnh xanh bay trên không. Đi ở cơ chưa hết. Xưa nay vọng còn nhiều. Trời trong xanh bóng chiếu. Đất mãi mãi bóng thẳng. Đêm từ biệt suy tư. Ai ở Thạch Tuyền này. <詞>PHÁP VẬY KHÔNG VẬY. Mây hạ nhiều núi lạ. Trời đất lạnh ánh sáng soi. Thử hỏi chư Thiền Tăng. Cái nào kham nhờ định. Trời đất cao trăng tỏa. Mây hạ muốn làm mưa. Nếu bảo chẳng toàn công. Xem quy củ tử tế. <詞>ĐƯA HÓA CHỦ CÁC PHƯƠNG. Núi không gian ấm lại. Hết tầm mắt trông còn khắp. Mấy điểm mây phương ngoài. Mấy chổ mưa nhân gian. Trăng biển xanh mênh mông. Vẫn là Tỗ Thiếu Lâm. Đi ắt dạy nhọc sinh. Gió mát đứng thiên cổ. Lưu Vũ Đoan Công hỏi Vân Cư mưa từ đâu đến. Đông Bình hỏi Quan Nhân gió màu gì?. Mưa từ đâu đến gió màu gì. Long Môn vạn thước từng gửi khách ngủ lại. Tiến thối ai gặp điểm trán. Gió màu gì mưa từ đâu tới. Không phải gãy tay cửa lầu các mở. Sóng lặng phương nam chưa về. <詞>ĐƯA TĂNG. Gió tùng xanh chưa thôi. Trăng nước xanh tương đối. Đến đi không bằng nhàn. Ắt cho cô phong hội. <詞>TỤNG VÂN MÔN CHÍN CHÍN TÁM MỐT. (2 bài). Ba lần ba là chín, chín lần chín là tám mốt. Mỗi một xem gió theo vời ra. Thiên cổ có hai đồng cùng biết. Một lông sư tử nhiều lông hết. Chín lần chín tám mốt. Huân lớn không thưởng mọn. Nếu nói không điêu ngoa. Kim Cang từng chắp tay. <詞>HÒA THƯỢNG ĐIỂU LONG. Đêm núi lạnh không gian lặng lẽ. Rêu phủ lâu thành lớp tuyết. Mắt suy tư nghó người xưa. Nhìn hết trăng khuất bóng. Trẻ gõ khánh đá lạnh. Vượn treo gãy cành khô. Mãi mãi tình vô hạn. Phân minh nói với ai. <詞>NGÀY THU ĐƯA TĂNG. Bóng tà chim nhạn ve lạnh kêu mau. Thừa lúc nhảy xa biệt khe núi. Chim rừng một chiếc lá, gió nhẹ phất tay áo. Nước đổ trăm dòng mảnh trăng trong mắt. Nhân nhớ Tượng Cốt từng đưa người. Bước bước không gọi kéo lấy vàng. Sáng tham dạy chúng. Sáng ngày mây lặng sương trắng đặc. Ngàn núi vạn núi tỏa sắc lạnh. Lừa rồng mất châu biết không biết, vô hạn người thường gặp điểm trán. Gió xuân từ gởi Vũ Oai Thạch Bí Hiệu. Gió xuân sao thổi vù vù. Cùng mưa rồi lại tuyết. Bẻ hoa công chưa sâu. Thế nép cỏ từng bày. Tỳ Thành si thích già. Sợ lạnh đối xanh vụng về. Xưa kẻ vang bóng núi. Khó ngự đồng cô biệt. Người núi Ba không đến. Cửa gỗ cũng thôi nhàn. Chú chuột đầu cây tùng. Cắn sợi dây dưới giường. Sương bờ đình thú về. Nhiều lần tiền cửa rêu phủ xanh. Một ngày gió xuân thôi. Nắng ấm sinh rừng cây. Đường vắng vẽ đầy đá. Quảy gậy đi rồi nghỉ. Không dây hề chẳng đàn. Có nói hề còn lưỡi. Tiếng nước chảy lạnh ngắt. Thủa xưa như là nói. Điêu tàn cả cây mai. Nay nếu là khác. Cưỡng thân sức nhẹ. Lại nghó gió xuân xiên. Vì ta thổi bụi lại. Muốn đổi nhân dấu đường. Vì ta thổi mây đến. Muốn hỏi trăng trên không. Không biết giữa trời đất. Chịu vì ai giao kết. <詞>ĐƯA BÁCH TRƯỢNG CHUYÊN SỨ. Đại hùng cô đỉnh làm sao nêu. Khắp các nơi ai dám chống cự. Trước núi Nhũ Đậu tìm râu hồ. Rồi được hoàn toàn lại trở về. <詞>ĐƯA THANH TỐ THIỀN GIẢ ĐẾN KIM HOA. Sách phong xưa bình cao sóng lớn. Từng manh mây xanh giữa trời. Xuân Kim Bồn sau đêm cô đỉnh lạnh. Đi đi ai cùng trăng tàn. <詞>NGHỈ HÀN SƠN ĐƯA TĂNG. Chọn cây có linh cầm. Trời lạnh nhờ lông cánh. Không dừng núi bồng lai mịt mờ đi đâu cùng. <詞>ĐƯA ĐẠI SƯ NHƯ HƯƠNG. Chiên đàn lá rơi mưa bắt đầu ngớt. Ngoài trời gió mát sao từ biệt. Đêm sau Liên Thành khe trăng lạnh. Ánh sáng lẽ loi ai gởi chìm xa. <詞>GỞI VU BÍ THỨA. Đường đá không Nham Đậu. Dẫn bộ dài tối tăm. Người bồng lai không đến. Quét hết màu rêu xanh. Bọt bay ngàn vạn tầng. Năm tháng như nước tuyết. Sẽ mong mây mù tan. Suốt đêm đơi trăng mợt mình. <詞>TÁI THÀNH CỔ THI. Sương hoa trong cái nhiếp ngọc trẻ lấy chưa lấy. Lời này như không nghe. Thiên cổ động sắc sầu. Nhân nhớ Thương Sơn ngâm ở đen không ở trắng. <詞>ĐÁP ĐƯƠNG SINH KHÔNG SINH. Ôi ôi! Thôi cưỡng tên. Chó con cũng làm lụy. Tịch liêu thân cây vàng. Từng chưa cầu cho mình. <詞>HÍ KHAO AN NHAM TRÌNH SONG KHÊ ĐẠI SƯ. Xiểm Phủ thiết ngưu lại biết có. Xuân thu bao lần thành lầm lỗi. Một thân lại làm hai Như Lai. Trắng đen không phân biện tanh hôi. <詞>SỚ HẮC BẠCH KHÔNG THEO. Trời đất bất nhân vạn hóa ngu xuẩn. Nếu chẳng tre xanh măng từ đâu. Tóc hề tóc hề trắng đen là chuẩn. Chiều đông cảm hoài gởi Thiền Sư Thụy Nham. Dòng tuyết bao vây đám tùng. Chầm chậm kết xanh cạn. Khi mắt bệnh thì lười mở. U tình huống khó sai. Cố nhân từ biệt lâu. Phi Văn nhiều lần thẹn thùng. Ngưỡng tạ mười hai núi. Nhân chiếu trăng như tên. Đưa Tri Cửu Thiền Giả. Trúc ngưng lạnh dắt chín đốt. Bình đồng sóng kín ngàn trăng khe. Trên trời nhân gian không tự biết. Bước bước cùng ai nhân xanh. Đưa Thiền giả Khánh Nhan. Cây khuê núi gió mát hương từng giọt. Định khởi thu cao chiếu trời xanh. Cắt mây không phải về quê cũ. Rơi xuống nhân gian có ai biết. Ngày xuân hoài cổ. Xuân một nữa ngoài cửa. Sông núi ấm có tiếng. Huyền Sa từng chưa đến. Hư được nép tên khe. Xuân một nữa ngoài cửa. Xanh xanh màu sắc nhân. Hoa đào nở sắp hết. Không chổ tìm mây linh. Xuân một nữa ngoài cửa. Cỏ thơm đua nhau mọc. Cây bá nhà lối xóm. Chư Tổ đều cùng biết. Xuân một nữa ngoài cửa. Lời cầm thú cùng mới. Khách trên núi Bảo Đà. Đáng cười người chưa về. Đưa Tăng về Kim Lăng. Dao du dấu tích ngọn nguồn. Thường đùa dỡn bè bạn. Cuộn áo cây hết lạnh. Dương buồm nhờ cắt mây. Nhìn nước ngoài bình hoa. Tiếng khánh nghe bèn sáng. Từ biệt trưởng sau thành đá. Vẫn là xa cùng phân. <詞>ĐƯA TĂNG. Biết dòng mới ý xưa. Cây mây biệt mọi người. Trăng không soi dòng nước. Núi phải đứng là trần. Tónh không mình xa thẳm. Liễu cao con ve sầu. Muốn nghiên cứu nhọc đời hỏi. Về nghó chớ chán nghe. Ngàn dặm không đến. Không thấy quân tử xưa. Nhân tuần lại cách thu. Phu sinh đều tự chán. Việc tốt ai lại giữ. Ngọc tốt trăng chìm sâu. Mây lạnh tónh tỏa lầu. Sấm Tông là chỗ nào chim trắng lại xuống sông. <詞>TĂNG VÊ THƯỢNG. Nước nhà chung quanh biển bao bọc. Nối xa xôi mãi chưa thôi. Cỏ xanh theo hai bờ xuân. Gió tựavào đêm lạnh. Cát lại bay tung tóe. Sương mù lại bao la. Ngày tiếng sông tiếng tây. Ai cùng được với mây. Xuân tình dã bộ. Thừa hứng mang nhiều người. Chầm chậm nước đầy vơi. Núi xuân không ở mắt. Chim kêu cùng ai nghe. Phiến đá lạnh rêu xanh. Hoa tàn mây áo lạnh. Chỉ là lão nhàn rỗi. Cảnh bên am còn phần. Vũ Thụy Tuyết đưa Hoàng thượng Mục. Năm sáu đều là tên. Hoa bay trông thấy hiếm. Nếu dạy cùng một màu. Như phục như quần cơ. Ngựa ngọc riêng không nói. Ngựa đồng chuyển lại không. Đâu như ngàn vạn dặm. Tương đối vẫn vậy thôi. Đưa Thuyết Phật Thiên Sứ. Gánh cỏ đến tìm tôi. Thuyền rộng nghó núi xưa. Không biết trăng nơi nào. Tướng chiếu ở eo sâu. Gió rợ thu qua nhanh. Mây cùng cây dã nhàn. Đến đây như thưa hỏi trước nhớ Cửu Triệu Châu. Đồng Vu Bí Thứa Vũ bộc Tuyền. Đại Vũ không biết Tạc. Cội nguồn cũng tự thành. Sắc đáng thương màu trắng. Tiếng hợp nhường cô thanh. Thế xa từng nuốt biển. Dòng chảy chưa nhai kình. Bè linh như bao la. Dòng trời hỏi đường về. Đưa Giản Năng Thiền Giả về Tiên Đô. Gánh cỏ đi xuống Đan Chương. Mây phân phân còn bay. Phù sinh ai chưa đến. Nước xưa tự lại về. Sau mây vượn dứt tiếng. Trời xa bóng chim nhỏ. Trăng cổ phong Liên Thành. Lại được chấn cỏ xanh. Thiên Trúc đưa Tăng. Mây mù đỉnh Liên Phong. Cô Thiền ở giường đá. Hướng thời cơ tự tuyệt. Thành khác đường xa thẳm. Vượn kêu đường bóng lạnh. Chim về thấy hết đi. Thời sau không định vết. Khói nước cùng mênh mông. Gởi Thạch Bí Hiệu. Rừng mịt mờ ngồi lâu. Dẫn xem lại chầm chậm. Nóng phiền chưa hết ngày. Gió mát đến bao giờ. Mây trời tích thành lửa. Núi tan tơ lại rũ. Muốn tình tìm nhau đi. Phù sinh đã cùng biết. Nhân Sư dạy chúng. Khách từ phương xa đến. Dặn ta tất ngọc thẳng. Trong đó có bốn chữ. Chữ chữ không người biết. Biển rộng cá kình xanh. Lạnh tìm bóng trăng chật. Sáng nay trình tợ xem. Xin nói câu cuối cùng. Tónh mà khéo ứng hai bài. Nhìn mặt gặp nhau không nhiều mối. Rồng rắn dể biện nạp tử khó lừa. Bóng chuỳ vàng động bảo kiểm sáng lạnh. Thẳng xuống đến cũng vội mặc xem. Đối dương thù đặc vốn lòng tham. Ai tự trời xa cưỡng chỉ nam. Xưa nay không còn con sư tử. Một vầng trăng thu in sương lạnh. Tự hối. Lân rồng không là đẹp. Cỏ cây sinh ánh sáng. Ba tất một trượng sáu. Lại cùng dắt tay về. Then ông thầy ở đời. Vòi vòi cao vòi vọi. Tông Môn Tam Ấn. Ấn không ấn nước ấn bùn. Rõ ràng chủ nghóa còn mê. Đại só đầu vàng không biết. Dám hỏi ai được chính đề ra. Ấn bùn ấn không ấn nước. Vòng đất lạnh sóng đua nổi dậy. Trong đó không hạn lân rồng. Mấy lần không tìm ra lông mỏ. Ấn nước ấn bùn ấn không. Nạp tử không biện tây đông. Mở ra hướng lên liếc nhìn. Ngàn Thánh cùng đứng dưới gió. Cách Triệt nhị môn. Kiếp lửa từng hừng cháy. Người cây khóc lệ rơi. Đáng thương Phó Đại Só. Khắp nơi lầu gác mất. Mây đức nhàn chuỳ xưa. Mây lần xuống đỉnh Diệu Phong. Gọi gọi là si Thánh nhân. Gánh tuyết cùng lấp giếng. Trước khi Phật Tổ chưa sinh. Đã chấn đường trống độc. Như này ai thích nghe. Xin thử phân cùng nhau. Uyển chuyển lại uyển chuyển. Đúng vàng thôi trăm luyện. Mất đi Tỳ-da-ly. Không người biết xem tên. <詞>NGHÓ DẶC GIẢ MỘ. Thuý Vũ đứng cành cao. Tổ nguy rơi xuống ánh sáng mặt trời. Đầm ngọc ngàn vạn trượng. Thẳng xuống lấy cá về. - Thấu Pháp Thân Cú. Vân Môn vất vả thuyền sắc bao la. Giang nam giang bắc cạnh đầu xem đáng thương. Vô hạn người thả câu. Theo lệ mênh mông mất cành câu. Lá rơi không liền thấy thu. Pháp thần cần thấu ồn náo nhiệt. Năm tới còn có cành mới ở. Não loạn gió xuân mãi không thôi. Linh Ẩn Tiểu Tham. Sáu nước mênh mông đều không biết. Linh Sơn qua hạ lại tiện nghi. Đêm pháp đường lặng lẽ không việc gì. Giữ được thiền tăng đứng nhất thời. Nhân tuyết dạy chúng. Ánh sáng bao la trăng không đầy. Tiên chứa đình không chưa từng thôi là đẹp là xinh cũng khó được. Không biết ai hiểu đứng kề lưng. Bí Quỷ Nham. Người cắt sông qua là khó. Chống gậy phải tin đầu lâu khô. Núi xưa đến sau biết đầu mối. Củng sinh cùng tử chưa đủ xem. Bảo Phúc Tứ Mạn Nhân. Tre gỗ theo thân già tác gia. Gặp trường làm hý lại khó thêm. Khi người chê ta không người bết. Nước sâu thuyền cao cắt trong mắt. Hòa thượng Linh Vân. Vốn không mê ngộ thường như gai. Riêng cho Linh Vân lành tác gia. Thử hỏi chư Tổ khách tham khắp. Không biết thân hoa đào nơi nào. Tăng hỏi nghóa duyên sinh. Nghóa bày duyên sinh cười chưa nghe. Tiếng trống vang đến ở Vân Môn. Kim cang sắt khoán chư vị hỏi. Nói đạo ba ngàn biển núi mờ. Danh thật không đáng. Ngọc chuyển châu quay lời Phật Tổ. Tinh thông còn là ruộng mồ hôi tâm. Lão Lô chỉ biết mãi giã gạo. Đâu được Hoàng Mai vạn cổ truyền. Mê ngộ tương phản. Cây mai lả tả mưa dội tầng nguy. Năm tháng phòng núi lạnh như nước. Chớ gọi càng khôn trái niềm tin. Chưa rõ tâm địa nóng ngùn ngụt. Đạo Quý Như Ngưu. Mưa qua mây dọng sáng hé nữa. Nhiều núi như họa sắc vòi vọi. Không sinh không hiểu ngồi trong núi. Rữa được hoa trời động đất đến. Đại Công bất tể. Đỉnh núi Ngưu Đầu choàng lớp mây. Một mình xa xôi gởi thân này. Trăm chim không đến xuân lại qua. Không biết ai là người đến am. <詞>HỐI TÍCH TỰ DI. Bỉ họa năm nay thích Đỗng Đình. Sóng lòng bảy mươi hai núi xanh. Như nay ngồi cao nghó việc trước. Đêm được Lô Công gởi đá che. Ngũ Lão Sư Tử. Thế không ngồi đất rộng chưa thôi. Nanh vuốt đâu hẳn cạnh thời trôi. Trời dạy sống ở trên ngàn núi. Không được mây cao cũng xuất đầu. Với thời ít hợp. Cư só ngồi cửa cao chưa mong. Góc nhàn núi đá lại hợp nhau. Hồ nhiều ba vạn sáu ngàn khoảnh. Trăng sáng sóng xanh nói cùng ai. Nghi Khiêm Sơn Chủ đến Ngân Thành mạng. Nghỉ hướng ngàn núi qua thời tốt. Mây trắng ngồi cao hướng lại thấp. Trên đường vô hạn khách chưa về. Không đợi ông thì là đợi ai. Cây Bá trước sân. Bảy năm lão Thiền giáp tí họa. Lại thêm nước nhà khổ là họ. Người hỏi Tây lại chỉ Bá trước đình. Lại sai thiên hạ động đao binh. Thiên Thánh Linh Thọ không dễ gần. Rồng sinh rồng ông chớ nhân tuần. Triệu Châu đạt được thành liên ngọc. Tướng Tần Vương như đều mất thân. Tăng cầm Tăng. Xưa âm phát chỉ mới đầu. Trăng trên ngọn tùng đêm đường lạnh. Thương gió nước chảy róc rách nhiều. Không nghe ít tiếng không dùng đàn. Đưa Tăng. Buồn treo khi sông mưa lắng. Từng thảm cỏ xanh bên bờ xuân. Câu định càn khôn nhẹ tiễn nhau. Gặp lại tri âm đón cùng y. Đưa Tăng đến Vụ Thành. Mây lẻ loi tự theo dấu bước. Chỉ cao hoa vàng nghó không cùng. Ngày thích buồm nhẹ chiếu sắc thu. Sa Cầm gọi đứt một gió sông. Cảnh không khe vụ xứng sinh bờ. Thuyền lan lượt nhẹ ý chưa xa. Tám vịnh gió mát thích nối nhau. Mây xanh nước chảy là nhà thơ. Đưa Văn Dụng Am Chủ về Cựu Ẩn. Nền cựu ẩn trước núi trắng. Tùng xanh lạnh giọt xanh vô thời. Nhiều năm bỏ đi lại trở về. Lại nghe vượn núi chỉ tự biết. Đưa Hiển Xung Thiền Giả đến Lưu Thượng Quan huynh trước tác. Chọn Phật chọn quán đáng ở ta. Khó huynh khó đệ không chỉ người. Ngày cỏ thơm tho bên bờ hoa. Xa xa gió mát đâu có thể. Đưa Bảo Nguyệt Thiền Giả đến Thiên Thai. Gió xuân thổi dứt mây núi sông. Đêm tạ từ vời vợi nhớ thương. Trăng ở Thạch Kiều lại không trăng. Không biết ai là người bên trăng. Hòa thượng Huyền Sa. Vốn là khách trên thuyền câu cá. Bổng trở bới tóc mặc cà sa. Trong vị Tổ Phật giữ lại không được. Đêm đến vẫn là ngũ hoa lau. Ngẫu tác. Lấy tìm cỏ thơm khắp đèn đêm. Cỏ xuyên đầu gối cười không thể. Sông bay lạnh lẽo ai cùng nghe. Hư không rơi đoạn ngạn vạn từng bờ. Tiễn Tăng. Ngã ba đường cỏ mọc xanh tuơi. Váng mây cùng nhau suy sống động. Đa tạ gió thu chẳng thổi tan. Như nhàn là vị tặng anh đi. Hòa Ngoan Thư Ký thấy gởi. Tùng xưa ngâm nga vây quanh lớp đá. Đảng Huệ thôi từ biệt há dể nghe. Lá hồng viết thành tạng không được. Gió chiều thổi đám mây khe xanh. Đưa Thị Giả Doãn Thành. Sông sâu hang động cũng vô cùng. Trời lạnh ánh sáng xanh phát chiếu. Mảnh mây mảnh đá đâu là cao. Vì ai ở lại dưới cây tùng. Đưa Tăng. Cành dây xưa lạnh tan tác. Mới tựa lại lấy đi. Biển rộng trời xa chẳng bằng nhàn. Trước gió từng hẹn hò mây lẽ. Đưa Thanh Thiền Giả. Dây gầy mây xuân sâu. Chân trời đi không bạn. Luôn cười tiếng suối reo.như cùng chim oanh nói. Phong quy tự tại tónh xưa nay. Gặp nhau từng có tri âm. Từ biết Vu Bí Thừa. Suốt đêm suy nghó thân khô héo. Môn quan tiên bồng dần đi qua. Tuy thanh chính vì khách cao. Đâu thể mây trắng không chủ nhân. Dòng nước chảy cỏ chưa dứt. Mưa rơi lá lạnh mộng cón hoài. Lúc này Hiền Tể dể trở về. Tượng xưa đốt lập đàn chú nguyện có nguyên nhân. Đưa Tăng. Lá mới lạnh rơi bóng núi. Thiền dậy thu cao biết sáng nay. Trăng lẽ ánh sáng lạnh xanh có hứng. Cắt bóng mây không hợp vô tâm. Bình phân sóng tình rì rầm đâu cùng. Bát hóa từng nhà đường lại xa. Chính là lúc trở về phòng củ. Tựa cây lan xem duật thêm vàng. Đi lại không gián đoạn. Giờ Dần buổi sáng trước lúc trông thấy mắt chân. Lão Hồ hạc thọ dần mở miệng. Như dở hai chân cuồng người sau. Mặt trời lên giờ Mẹo. Vạn nước hoa hương cạnh đầu đi. Hàm Đan học bước cười bàng quan. Đâu biết hung họa theo phía sau. Khi ăn cơm giờ Thìn. Tiếng lớn đâu kham bày chủ khách. Cơm thơm Duy Ma vốn chẳng khen. Lạ thay cỏ trắng nổi sân. Gần trưa giờ Tî vườn rừng gai khắp trời đất. Nam bắc đông tây mãi không thôi. Lửa kim cang lại từ đâu khởi. Mặt trời phía Nam giờ Ngọ sáng mênh mông bảo trống trời. Uất đầu lam phất đã định toàn thân. Đâu cần đi khắp khoe bảy bước. Xế bóng giờ Mùi, gã Hồ mắt xanh đến đất này. Chín năm suy tính không thể thành. Vừa có người ngu cầu chặt tay. Ăn cơm giờ Thân, người mau mau chạy trên đường. Giày cỏ đạp hết gia hương xa. Đầu kín đốt chuông một vạn cân. Mặt trời vào giờ Dậu. Trong nhà úp chậu vẫn như củ. Vô số kẻ trượng phu kia. Vật trong giếng cùng la rống. Hoàng hôn giờ Tuất. Cõi trần không ngại người thường ra. Ngói gạch sáng sinh châu ngọc chăng? Tướng quân đâu dùng đuổi binh tốt. Người định giờ Hợi, sáu bước mênh mông ai không ở. Trường không có trăng tự tầm thường. Sương nổi mù giăng cũng kỳ lạ. Nữa đêm giờ Tý. Tiều phu xướng ngư ông ca tiếng chưa thôi. hay. Hoa mưa theo nói hỏi trường sinh. Gối cao ngàn cửa ngũ mới Gà gáy giờ Tý quý tiện tôn ty còn giữ tên. Người bận rộn kẻ thanh nhàn thay. Từ lâu đã dừng luận bàn việc xưa nay. Đưa Tăng. Sông núi cao tỏa trùm nhà vàng. Áo cuộn mây thu tiêu cách xưa. Rời ca ai tặng muốn người đi. Khắp cả đồng là một khách ngũ. Sắc xuân vẫn là mãi xưa nay. Nam bắc đông tây đẹp thay. Trong chợ ép cười Kiều Thi Ca. Đầu cỏ điểm xanh lão Câu Chi. A ha ha. Nhân gian trên trời không biết ông ta. Giã gạo kiệt sức có mắt đầu cửa. Về đi gió mát lay cỏ cây. Gởi Lý Đô Úy. Trăng nước lấy về tác giả khác. Nam bắc đông tây chê nhỏ mọn. Cũng biết cư só Kim Lật Lý. Ngồi ngay ngắn trên lớp thành cười lão Lư. Gởi Trì Dương Tùng học só. Núi muôn trùng, sông muôn nhánh. Đất xanh nước biếc lạnh tiện nghi. Tính đến khỏi được sinh xa hận. Không ở thơ tình ở Tổ Sư. Gởi Tứ Minh Sứ Quân Trầm Từ Bộ. Ca dao dân ca vật vật thành. Sông núi ngàn dặm gió xưa xanh. Khách Tào Khê là người không cỏ. Ngày ở mây sâu nghe tiếng tụng. Đức xanh xanh cũng như thế. Chánh hóa toàn về phó nhờ giúp. Mười vạn người nhà tả sắc xuân. Không biết ai biết lập từ sinh. Gởi nội thị Thái Bảo. Sông núi ngàn thước phun giếng lạnh. Mây thảo đường trúc biếc gió xanh. Bồ đoàn thời nhớ không việc khác. Suốt ngày xa xôi tạ thái bình. Vượn nhảy trong nhà cỏ xanh.Bỗng dâng chiếu vua treo aó tím. Ân lớn không biết lấy gì báo đáp, trên trời mây ngũ sắc vọng không lao. Gởi Tào Đô Hộ. Cố quốc thôi nói vạn dặm tình làm quan giải thích hãy phân minh. Đạo còn không hẳn từng che đậy. Đều có gió mắt vòng đất sinh. Đưa Tăng. Sừng hổ chôn sâu không đợi lúc. Toàn cơ từng cho rừng tuyết biết. Như nay Bách Việt lấy đến. Cỏ rạp gió lướt là cờ tin. Gởi Linh Ẩn Huệ Minh Thiền Sư. Lá vừa tàn trong bóng ngàn núi. Lại mong còn lấy ủy tịch liêu. Cũng gọi đầu mối không cách nhau. Mây thu nước thu đâu xa tít. Biển sâu sinh phiến mây, có khi giống như dù, không mang bay đến núi. Xa tít nghó đợi gì. Đưa Ích Thư Ký đến Lựu Thủy. Bãi cỏ trắng là quê hương củ. Về hứng khởi chèo thuyền lênh đênh. Buổi sáng con giọt sành kêu muốn đoạn. Không biết ai ở phòng Bích Vân. <篇> <卷>QUYỂN 6 TÁN TAM BẢO VÀ TỰA Được phước trời tôi ẩn tích tại chùa Linh Ẩn, làm bạn với thiền giả Bảo Chân, hoặc dạo chơi hoặc trụ. Cố nhiên lấy đạo nghóa để vái chào nhau. Tặng biếu và đáp lại nhau, theo bao đáp nhau. Tính lãnh đạm, tự vui với thường nhiên. Một hôm Chân công nói với tôi rằng: Giờ đây Ngu này có ngẫu tác ba mươi vận khen Tam Bảo, nên thỉnh ông tiếp xướng. Nhân đó mà tôi mang ra đọc và tấm tắc khen ngợi. Noi theo đó ông tiếp tục loại đục gỗ vậy. Bỗng ly biệt Ngô Sở. Mãi đến hai mươi năm e rằng không nhớ lại. Chân công không vì việc mà bỏ dở cách xa. Từ xa như đầy dẫy mà đến. Lại nhìn thấy văn vẻ hoang sơ hổ thẹn an ủy nhiều tập. Hơn nữa là lập ngôn của thánh nhân vậy ắt không thấy phải sâu kín. Khấn kẻ ngoài vân đồng nổi gió xưa rũ ngàn vạn đời. Lại đâu biết người đến kịp hay không kịp nói trong đây. Lời khen này từng không bán không tiếp đãi. Chỉ kính mến từ xa về đồ đệ của Trí. Thiền Tông Giác Hoàng nói và làm được, không ủy khúc làm Tựa dẫn. Phật Bảo. Mía ngọt mạ non nên cõi trần. Giác trường cao phát lợi nhân sinh. Sen vàng tía nâng ngàn vòng chân. Bạch ngọc hào bay thân vạn đức. Đứng lẻ loi đại phương giúp định tuệ, bình đẳng xem chúng sinh loại bỏ oán thân. Trung Thiên chủ đun đẩy tinh tướng hảo, đất nghe người xuất thế. Tóc xoắn xoay về bên phải Tiên Đảo ngọc. My lông mày vòng nguyệt tú in lên cửa biển. Loan lượn phượng múa chẳng khác loại. Voi chuyển rồng uốn khúc không gì sánh kịp. Anh lạc tụ lại màu ngọc đẹp bốc lên. Trong ảnh tràng hoa đoạt hương xuân. Từ nghi vọng luyến biết sao cùng. Ngôn từ chẳng thể diễn tả được đức Phật. Chữ “Vạn” trước ngực mịt mờ phân vô lượng nghóa. Ngọc châu trên đãnh chiếu trăm do tuần. Rừng Sa la ai bảo về viên tịch. Quét sạch đất trời soi thấy chân. Pháp Bảo. Hậu đắc trí sinh nhóm công đứcï. Đại bi lưu diễn khắp cá chim. Xâu hoa tuy tự phân ngàn phẩm. Trăng sáng vẫn về lý nhất như. Qua lượng kiếp ứng thời quảng bá. Trong sát na tâm hợp chưa mất sách. Trong bốn ngã đường ném lửa hồng. Trong sóng ngũ dục đầy sen trắng. Hàng phục các thứ ma lên bờ thọ. Dẩn dắt các con lên xe bình an. Vì sao nghóa trời sáng rực. Biển từ sóng vỗ mênh mang. Trái với ân này khó cứu vớt. Gặp lúc đời mạt há trù trừ. Nghe đến nửa kệ phải học nhau. Tiếc đi toàn thân chẳng còn ở. Bay biện hận từng ít hỏi han. Niềm vui sâu xa lại khỏi thở dài. Đời đời tôn sùng kính tâm sáng. Chiếu khắp trần lao tin có dư. Tăng Bảo. Áo vuông đầu tròn nghóa là sao. Nối sáng ngàn đèn há duyên nhỏ. Mưa hoa trước tòa còn ngưng đọng. Bờ am hổ thuần còn xét rõ. Nghó ở núi ngũ ở trũng khó mong nương tựa. Dáng hạc tâm mây đứng một mình lạnh lẽo. Gậy báu đêm kêu trăng lạnh trên cao. Bình đồng mùa thu súc khói đầm xanh. Nêu danh luyện như lặng tiếng ầm ó. Nghó dấu vết đường tăm tối thức tónh việc ngủ nghó. Rừng thiền thanh nhã là khách phương ngoài. Nhân gian kham làm hoa sen trong lửa. Tình cao không vượt ba biên tế. Chẳng phải cùng vào Tứ thiền. Phù thế khuyên ai biết nước trôi. Núi sâu ngọt tự nghe suối bay. Cỏ bí sô thơm ngào ngạt sau Tăng. Chén đồi mồi truyền tiên cổ Phật. Trân trọng Giác Hoàng có con chân chánh. Bên đất cao bước xếp ngang ruộng vàng. Hạ gởi Biện Thiện Giả Sơn Phòng. Gối đầu tre mây làm bình phong. Phải là nhà vàng kiên cố. Ngoài hiên trăng song cửa là ban ngày. Đâu chỉ sống không có ích lân rồng xấu hổ với đầu sừng. Chim Điêu Ngạc thẹn với lông cánh. Ngõ hầu nghó đến tâm quần loại. Ở rộng như ở chật. <詞>HÒA TIỀN THÁI BÁC KIÊN KỲ MÍCH SƠN DƯỢC (2 bài) Quyền của người sửa văn ai hợp thì tự giữ Lo dân phong thái bỗng yếu gầy Thiền lâm cây cỏ như mô phỏng Khi chiếu vua đến xin gặp hoàng gia 2) Nghiệp lớn thánh quân nhờ nâng đỡ Mặt nhật sừng rồng rõ không gầy Giữ nét đẹp ngọc đường về chưa muộn Khi đến dự tiệc vua thì trăm hoa nở. Hòa Tiền Thái Bạc ứng hiền lương tuyển. Hiền tài sẽ vời thí rạng rỡ đối với vua ta. Ngàn xưa không để hận. Bát nguyên ứng chỉ văn. Hoa bờ sáng thành hàng. Tiếng trời phất mây nhẹ. Đêm sau xem thai trong hình tượng vị đã phân. Đáp Hòa thượng Thiên Đồng Tân. Trong núi sâu lại lạnh. Vui nhận đảo trên biển. Tùng tàn cành chưa chết. Hoa gãy cỏ chưa sinh. Nước chảy đến cung thuồng luồng. Đường tối phần đường chim. Y ta cùng không tịch. Ánh sáng tạm thời gởi khô héo. Mênh mông giao du trời đất. Ai có thể tìm đến. Đứng lẻ loi ngoài mây mù. Ai phân giữ mãi. Đến đây nhân giả đến. Còn xưng Lão Đại Bạch. Sao thúc gõ cửa núi. Lớp chiếu bày hoài bảo. Dạy ta tụng rõ ràng. Thôi khoe thích dónh ca. Biếu tặng và đáp lại, dần dần từ tuôn ra. Khó để luận tốt đẹp. Hòa Tụng. Linh kèng Nham Cổ tự. Cảnh tốt đẹp sáng sủa. Mắt biển thông dòng trong. Tâm trời cao núi nguy. Thường du hứng chưa thôi. Xa tưởng thân bổng ngưng. Kẻ kia chôn giác hùng. Gần nhau không lẻ loi. Ta thích dòng cháy ngang. Ai nói phiền lo ngại. Ta thích lưới thuận chiều. Há chỉ phù căng tịnh. Đậu ngô thụy cửu bao. Đuổi gió mười bóng ngựa. Chăm ta không đâu nhắc. Cùng ai nhàn tranh đua. Thừa lúc lỗi lạc. Soi đời chẳng tối tăm. Đứng lâu làm thầy Vương giả. Ba ngàn đỉnh Thống ma. Tặng biệt Thái Trăn Thiền giả. Núi Vũ Lăng đến đâu xa xôi. Vốn hóa công không dễ. Đàn từng khéo quyện kính bóng rồng. Động lũng hoa đào phó Chân Kỳ Lân. Vẫn nhớ ngày xưa Tổ Ta Tông đề Cương mênh mông tin tức bao la đoạn Vũ trụ. Lại nghe Cao Đại mùa Nhượng Công Khí. Đẹp đẽ lại sinh hoa lau tươi. Người do cảnh hề đạo đức tối. Cảnh có người hề phân ngục đá. Phước đến vốn tự nép phương khác. Bỗng trong đây sinh dấu lẻ loi. Xa xa biển đến tìm ta một trăm mười hai năm đồng ngồi lạnh. Lông cánh theo gió nay là thời. Phất hết mây trời lại bay qua. Vân Môn câu chữ. Trăm cỏ sao quá nhiều. Trọng cùng đồ chúng thiền đâm chùy Vân Môn câu chữ khéo tham tường. Còn cầu Tuyết Phong cũng đầu mối. Đen chẳng xanh lam một màu. Gấm các vàng dám nói đỏ. Tướng gấm có hạt trân châu. Trên đường Tào Khê sinh gai gốc. Có hiểu không? Lúc này nếu không tham cứu cội nguồn mà cứ mãi hướng đến tương lai hỏi Di Lặc. Tăng hỏi bốn khách chủ. Nhân đó có bài. Tụng rằng: Thế nào là khách trong khách? Bụi bặm đầy mặt. Lại nói: Than ôi! Tụng: Khách trong khách, vui ít sân nhiều. Chí của kẻ trượng phu nên giao cho người nào? Thế nào là chủ trong khách? Triệu chia thành năm. Lại dẫn. Tụng: Chủ trong khách, mãnh hổ Huyền Sa. Nửa hợp nửa khai chỉ tự chấp nhận nhau. Thế nào là khách trong chủ? Trăng mang lớp viền. Lại nói: Thu. Tụng: Khách trong chủ, ôn củ biết mới. Thay nhau chiếu soi nhau. Sư tử rống lên. Thế nào là chủ trong chủ? - Đại Thiên thâu tóm. Lại nói: Bảo rõ. Tụng: Chủ trong chủ chính lệnh đầu cử lên. Ỷ thiên trường kiếm. Ai dám chống cự. Đều tụng. Khách chủ phân không phân. Sẵn sàng dứt nghe lạ. Giải bày lao nhọc sinh tay. Gởi lời đến Bạch Vân. Sai Tăng cầm áo. Bảy tám đã khó cần dạy thấu đến không ở trước đi không ở sau. Thô tế khẩn hoãn theo nhau. Một ngày viên thành trình giống vua. Nghó được các phương chưa biết có. <詞>ĐƯA TRI NHẤT VÀO KINH. Đưa gồm cả sông Giản Thanh. Tháng sáu ngàn sông nước tợ thu. Cánh buồm treo cao bờ mây tóm thu. Đi đi đừng nói chầu công trầu. Huống gởi sao Văn ở thuyền lớn. Đưa Đức Mân Sơn Chủ. Khe núi sắc xuân phản ánh áo mây. Thích ở Hoàng Thành ý chuyển cao. Lại cuời người quên cơ tự an. Không thể buông tay vào trần lao. Đưa Tăng. Bướm múa bên ngoài thược dược hồng. ChimVàng anh kêu trên ngọn ngô đồng biếc. Tuy dừng không bẽ mặc áo liễu. Huống có núi xuân đón rồi đưa. Tổ vực cao, mặt trời chưa quá nửa. Gia lâm về đi ý sao lớn. Xưa giao tiếp không biết lúc đầu gặp nhau. Từng động biển xanh đoạt bóng đêm. Đưa Sùng Kỷ Xà-lê về Thiên thai. Cầu đá mây nổi lạnh xâm lấn nhau. Tô kinh La kham vào thì sâu. Lại từ xa muốn chống gậy trở về. Năm trăm Tôn giả là tri âm. Đưa Thúy Ngộ Thượng Nhân đến Cối Khê. Bách Việt núi sông đợi Cửu châu. Như Bình còn thẹn khen với chê. Ở đây Huệ Hưu nhiều ngâm thưởng. Lấy được gió mát giá chuyển cao. - Đưa Tăng. Thừa hứng cưỡi buồm vượt Thúy Phong. Nước sóng xuân lặng lạnh tới không. Người đến như hỏi đường Tào Khê. Chỉ nói Lô Sơn ở dưới gió. Thiền Thạch nước chảy cỏ xanh biếc. Lợi sinh còn thích dưới đám mây. Giữa đường như đứng ba ngàn khách. Nhặt lấy lông my không còn nhiều. Lấy kim mao dưới rừng chiên đàn. Nhìn bốn bên gió mát phẩy qua mấy lần gặp. Từng cho toàn oai là vân vũ. Không biết nơi nào là trần lao. Áo mây nhẹ phất qua đầu núi. Cây tùng sinh gió riêng Thần lạnh. Ai hỏi ý dạo chơi Nhũ Phong. Xem với ai trăm ngàn năm sau. Gởi Viên Ngoại Hàng Quân. Tầng núi cao xanh quá mịt mờ. Lăn tăn vây quanh xanh trời lạnh. Dấu kín chưa biết quân tử xưa. Ngước nhìn thích nghe qua Động đình. Đưa Tăng. Kỳ lân năm màu đẹp vòng mặt trăng trắng trong. Thừa lúc ứng không nghó rời bầy. Gốc tùng trên đá chưa trở về. Ai nhìn núi chiều bay ngớt mây. Gởi Lưu Tú Tài. Từ xa bay đến một bức thư. Qua gió thành nặng lại thế nào. Gặp nhau thấy nhau chưa ngày hẹn. Mắt cắt ngàn núi cắm thái hư. Đưa Tăng. Xưa biệt nay biệt. Mắt đối sông xuân gởi xa xăm. Ba cây hai cây vượn kêu đứt ruột. Ngàn núi vạn núi tuyết tàn rơi. Hoa bao la mưa mênh mông. Tiếng trời từng bước sinh gió mát. - Nghe Bách Triệt Điểu đưa Tăng. Từng đến cây thơm mây lần bay. Sương khói lúc đầu tan lại thấy Khéo nói hướng đến người cười nhau. Tri âm biết sau lại ai biết. Đưa Trung Tọa Chủ Nhập Quảng. Trong thuyền chủ thuyền gởi Huệ cầm mây mù không dấu vết vẫn như vậy. Sông biển thấy nói nhiều thích thưởng. Chớ tiện nhân tuần lại quên đi. Đưa Lũng Tây Tú Tài vào Kinh. Khó nước khó cất ai có thể biết. Mang thư đến kiếm chớ chần chừ. Năm tới Khuê Tịch lên văn trận. Đoạt lấy đầu rồng lại là ai? Đưa Tăng Mây tan đường đảo xuân vời vợi. Nước lặng mây tan thấy trời xanh. Sau lúc biết ai cùng ý thâm này. Chỉ còn trăng lẽ nơi xa xăm. Nhân Ngưỡng Sơn Khí Cầu tụng. Tứ đại giả hợp chẳng hư vọng. Thẳng mực là một tướng. Đông tây nam bắc không biết nhau.Ở lại làm giương mẫu cho nạp Tăng. Đến Thúy Phong từ biệt Thiền Sư Linh Ẩn. Mới đi tình buộc khó mở. Lời đề xướng Tông Thừa cũng là nhàn. Trân trọng theo thầy cùng đức chúng. Không hơn vẫn luyến hương linh sơn. Đưa Tăng về đất Mân. Tuyết Lão năm nay từng vào núi. Chân Thiền ngày nay lại nghó quê. Thuyền lẻ ẩn ẩn từng chỉ ta. Trăng rọi sông đêm trời bao la. Đưa Tăng. Gió xuân vù vù thổi hoa bay. Sương hồng mù biếc lồng cao thấp. Vượt núi ngày khách thiếu lâm. Nên nghe thâu đêm tiếng Tử Quy gọi. Gởi Trần Duyệt Tú Tài. Trong nước được lửa chỉ đâu sâu. Nắm cỏ xưa nay không phải vàng. Chớ nói trong trại sinh đều là vật. Mấy người cùng cực đến vô tâm. Gởi Tiền Đường Quán Âm Minh Sơn Chủ. Xa nghó vẫn là cửa đưa thư. Lại cùng nước trong lặng ngày thu. Mây vọt xuống là từng không định. Mây lần trăng lạnh ra thái hư. Đưa Tăng. Tầm mắt nhìn bóng xuân nước chiếu trời. Bãi cỏ bên bờ xanh nõn nà. Ngoài ba ngàn dặm sinh linh vọng. Riêng nương dây lanh chấn Tổ Phong. Ngày xuân dạy chúng. Một nửa xuân ngoài cửa. Hoa nhàn nở khắp nơi. Trẻ núi từng bẽ gãy. Chim tới không ngậm đến. Gởi Ô Long Trưởng lão. Tuyết mang mây khói lạnh không tan. Nghó rồi không lại lên đài cao. Chim kêu hoa nở chuyện tầm thường. Gốc tùng xanh biếc xem trong tuyết. Đưa Tăng. Khi ngàn núi mây tuyết từ biệt ta tình đâu cùng. Không biết giữa trời đất. Còn có ai biết nhau. Nhân Quan Nhân thỉnh Thăng Tòa. Sáng ngày mây lặng cùng sương lạnh. Cành cây gió thổi chọi bóng đêm. Chớ bảo tòa nhân gian không biết. Bóng trăng lẻ loi rọi hư đường. Nhân Hòa thượng Kim Nga nói thuốc bệnh. Thuốc bệnh trị thấy khó nhất. Trăm lớp cửa vây không đầu mối. Kim Nga nói người đến hỏi. Học sóng biển một đêm khô. Vũ Xung Vân Diêu đưa Tăng. Lường cánh hùng bay thế trời rộng. Sấm chớp sao đưa thật nhẹ vơi. Nam bắc đông tây nhìn tương đối. Ngàn dặm vạn dặm la la la. Cờ gió đưa nhau biện. Không phải phướng hề không phải gió. Nạp Tăng ở đây làm lưu thông. Qua sông dùng gậy việc tầm thường. Núi nam thiêu tro núi bắc đỏ hồng. Không phải phướng gió là chỗ nào. Tác giả mới khai từng lấy lại. Như nay buồn lo si thiền họa. Mạn nói huyền huyền là chân riêng. Ngư Phủ. Bóng xuân và khói nhẹ bên bờ. Mặt nước không gió câu thuyền ngang. Ngàn thước tơ lụa trong tất vuông. Không biết nơi nào được cá kình. Mục Đồng. Ẩu a xướng và na ô y. Trăm cỏ nắm đến đấu không biết. Trời tối chưa cưỡi trâu về. Chỉ trước núi cười lại hy hy. - Đưa Tăng. Phòng núi cao thấp mai lạnh gây. Mắt nhìn xa xăm ứng bóng quay đầu. Tạm biệt nhau gặp nhau là việc gì? Một tiếng trên sông nổi sấm xuân. sâu. Gởi Thiên Đồng Ngưng. Qua ngàn dặm giúp mưa xuân. Cỏ cát muôn trùng xanh tươi. Từng ước ngao du chưa từng được. Sáng trời không tỏa mây biếc Đưa Tăng vào thành. Lồng mây núi biếc trăng lồng đài. Trong thành này đi trời đã chiề Trong khi bệnh gởi các hóa chủ. Hoa mai trong tuyết gặp xuân sớm. Nam bắc đông tây người đi đường. Không biết nơi nào đêm trăng tròn. Cùng nghó thân già bệnh đầu núi. Hòa Vu Bí Thừa gặp Chiêu Chi Thập. Dân khốn khổ tìm đến để an nhàn. Đêm khuya vạn nhà mở lớp cửa. Giờ trai đã là nước thanh lương. Đáng cười chi công biệt mua núi rũ lòng cam tự dưỡng suy tàn. Mấy năm không người đến trúc quan. May đâu Văn Tinh Uông với Thập. Ân cần gọi nhau ra tầng núi. Hòa Vương điện trực kiến gởi. Hoa dã chẳng khác việc khó xưa. Được chỗ an nhàn chưa phải an. Ngoài không rộng lớn ai đi đến. Trời cười lớp mây tỏa núi xanh. Gió mát rét quá tự nhân quan. Kham đới Di Thiên Thích Đạo An. Không ngày về sang quen uyên ương. Cũng cần âm hỏi từng núi. Đưa Tăng. Sông lặng vẫn mái chèo lướt bóng xanh. Gió lạnh cỏ lau mưa vừa thôi. Đêm biệt mới ngâm cho ai hẹn. Trăng thu trên bãi cỏ trắng. Đưa Tăng về Vónh Gia. Thiều Thạch từng mặc Tánh linh này. Ba năm lẻ loi đâu chảy vội. Vónh Gia ẩn xưa nay trở về. Lắng nghe tiếng sóng biển trong đêm. Gậy Sừng Thỏ. Thiếu Thất đem theo gậy sừng thỏ. Thiên Thánh hộ trì làm đảnh tướng. Hổ chiếm cứ rồng cuộn khúc thế chưa thôi. Bóng mây bóng núi hướng đều lạnh. Có khi nhàn nhở ở chờ không. Vòng đất xa xăm sương thu đọng. Có khi làm đại sư tử hống. Đức Kiều Lâm Tế đầu mênh mông. Ngày nay đưa đến còn không tiếc. Rõ ràng bảo khắp các tri thức. Biết lấy thiên hạ mặc hoành hành. Cao chấn phong quy có gì cực. Đưa Tùng Cổ Thiền Giả. Anh không thấy đi đường khó cũng dễ. Nắm cỏ là vàng không phải quý. Đất bằng khó từng sóng vọt lên. Dễ lại khắp nơi bày điều hành. Đáng cười đáng khóc có bao nhiêu. Trên trời nhân gian lập phép tắc cao. Huynh đệ mười chữ vượt tham sao. Một nghóa đồng tâm nước thu trong. Nhân nhớ Thiều Dương phong cốt xưa. Lửa đá ánh điện chậm ra vào. Câu cách thân là lộ trình. Gõ cửa hỏi chẳng phải hang hốc. Ân cần báo anh anh nhớ lấy. Bên ngoài dạo khắp xem vuốt chân. Bầy hổ lang thang không gặp tri âm. Nhặt lấy lông mi bèn trở về. Gởi Trưởng lão Thừa Thiên. Đạo nghóa qua lại lại là ai. Phòng núi đêm khuya nghó chầm chậm. Biển núi mây tỉnh nhìn trăng lẻ loi. Roi cao người Vụ Thành không biết. Đưa Tăng. Đường xưa bày bến sông. Cương hề lãnh hề nếu là nêu. Bệnh mắt mới mở bỗng đưa người. Hoa rơi chim đoạn lời cầm thú núi. Gần thiền khách gần thiền khách. Đi lại đi. Riêng bước tiếng trời dứt tình này. Đưa Nhân Đại Sư. Dây gây thanh đối áo Uông. Tiếng trời nhàn bước ý chuyển cao. Nếu đến hỏi người Thận Giang. Vương Tử Kim luân là bạn ta. Đưa Thật Sư Đệ. Trời so từng nặng ý khó phân. Đâu thể vết riêng như đoạn mây. Đi đi thôi đông Lương Thiền Giả. Bốn núi vừa vào mịt mờ không nghe. Đưa Tân Trà. Nguyên Hóa công sâu Lục Vũ biết. Trước mưa lệ nhỏ thấy cờ vàng. Thâu lại hiến Phật còn chịu tiếc. Không gởi thư nhà lại gởi ai? Thừa xuân lưỡi chim sẽ xem cao danh. Rồng xạ cùng nhau cười vui vẻ. Chớ ngờ nhà núi ít vì đưa. Quan Trịnh Đô bảo cỏ là trung ương. Phú Nguyệt Sinh Vân Tế Tống Thạnh Giám tự. Mênh mông rời mây hạc mộng. Bóng lẽ còn cùng tuyệt với nhau. Sau đem chậu vàng lại rũ bóng. Quét phất hết gió trời không tự biết. Đưa Tăng đến Kim Hoa gồm Giản Kiểm Châu Trân Điền. Dây gầy nhẹ guốc áo xanh. Qua đường núi hiểm tiệt tối tăm. Như đến Kim Hoa phất mây mù. Không phải dễ thấy Văn Tinh. Đưa Tăng đến Vónh Gia. Vườn cư không phải cây chân trời. Hoa cây trong sáng thấy riêng về. Biển xanh người Ngân Giang chớ hỏi. Trăng phản sóng xuân vẫn lạnh. Gởi đưa Ngưng Trưởng lão. Đức không lẽ hề ắt có thương. Tứ Minh ở lại là nhân trần. Như nay bước cao cảnh tiền đường. Chỉ cho kẻ già ở Linh Sơn. Thả Bạch Nhàn. Mũ châu tuyết xanh làm lông. Không gần Loan Phượng ý cũng cao. Thả về rừng mây chẳng quay đầu. Như nay Tiên Tào là chỗ nào. -Thiền Nhân Hy về núi. Biệt ta du phương ý chưa bàn. Chén bình còn vui đến gốc mây. Phòng núi Củ có đá An Thiền. Lại bẻ càng tùng phẩy rêu xanh. Đưa Tăng. Bảy thước dây núi lấy bèn đi. Núi củ trở về mấy hành trình. Gặp nhau bỗng hỏi ý xa xăm. Ứng phát sấm xuân động tiếng đất. Đưa Tăng về Thiên Đồng. Vòi vọi núi rất trắng. Nương rũ bày bờ không. Muốn anh thừa hứng về. Chuồng gỗ cùng ai xem. Hòa Tăng Thôi Quan dạy Trần Chi Tập. Sao nhỏ ít ra, gió xưa về. Vòng đất sáng tiếng không đóng cửa. Ba quán dời cùng trăm đường. Cửu Hoa ngọa cao là Bồng Sơn. Bước vào cỏ núi kỳ lân ẩn. Cây biển bay đến phượng trắng nhàn. Chỉ sợ đến với anh thôi chưa được. Nhẹ nhàng lại đến bích la. Kinh Cổ Yển ngẫu tác. Ra thành bốn mươi dặm. Cổ Yển như ngoài trời. Mái chèo trong nước cạn. Bóng lẻ tự đối nhau. Tạ Trương Thái Bảo Kiến Phỏng. Già bệnh còn giống nữa lá tàn. Ban đêm cửa đóng đìu hiu. Hải Thành đô hộ từng rũ hỏi. Một mảnh gió xuân ủy tịch liêu. Đưa Tông Phát Thiền Giả. Độngđình nhũ bảo đều núi đá. Ôm lấy duyên gì gởi vết sâu. Từng bày hàng cuồn cỏ một, hai, ba. Núi đông đỉnh tây chẳng biết nhau. Chỉ biết cau mày không thể tìm. Tuyết hay mưa tan trời trầm lặng. Như nay chuyển giác năm tháng cách. Cưỡng suy người hó vui khổ. Dẫu chỉ nói từ bạch tuyết ở đây. Đâu quên cười cùng khách Huỳnh Mai. Phát Thiền Giả Phát Thiền Giả. Trăng châu có sáng thẹn chiếu đêm. Đưa Thượng Từ. Con của Phù Đề lại nói là quý. Trời hề đất hề. Sao lớn đâu không. Động không trái. Tónh còn điêu ngụy. Từ cũng nói đi. Sinh sau đáng kính. - Bài ca gởi Lưu Anh Thiền Đức. Bấy giờ Lâm Tế từ biệt Hoàng Bá. Hoặc chỉ Giang nam hoặc Giang bắc. Anh Thiền ngày này xuống núi. Giường bàn từng đốt cười vẫn thế. Chín hoa một sừng thẹn xứng đẹp. Theo trăng xem sao cũng chẳng phải ý. Đâu giống Thiều dương chấn cổ phong. Giữa đường chịu ít đã trở về đi thôi về thôi. Nước chảy rì rầm tiếng như sấm. Đưa Tiểu Sư Nguyên Bí. Thẹn ông cầu thầy làm đệ tử ta. Học tuy không nghe. Nói cũng đáng nghó. Bay thường biện trăng. Chiếu lại dòng nước. Ý này lời này hề như không quên. Bước bước xa xôi hề bước hoa lan (khéo ứng khác tông ta không biết cũng suy). Đưa Văn Kiết về Sư Nhạc. Màu xuân chưa đậm. Hứng không chậm. Bình tạ cửu giang. Núi tìm ngũ lão. Đến ngày Uất La riêng lên thời. Chớ quên tháng Chạp ở Hải Sơn. Đưa Khản Thiên Giả đến Đan Bình. Thạch Kiều nhiều vết củ. Đường hiểm ít người qua. Như cùng ban ngày nhàn. Lạnh phất rêu xanh ngồi. Lão lạnh như gặp nhau. Vì ta diễu cợt phá. Đưa Thật Sơn Chủ. Phong cảnh núi xuân nước đồng chạm mắt. Ngàn dặm vạn dặm thật chậm thật mau. Tuyệt Thành lắng hóng hề chẳng phải đuốc đáng sỏi. Ít nghe mịt mờ hề chẳng phải Phượng hóa vợ lại giao tiếp. Lá rơi hoa nở biết không biết. Cảnh trời người bước làm vết cao. Dạy chúng. Một sợi tơ bạc đầu con gái. Báo chư vị tác giả biết. Hỏi ở núi cảnh giới nào. Gió xuân rì rào chim xuân líu lo. Thúy Phong không thể trợ phát. Tâm ấn lại là ông ta truyền. Hòa Uyển Giám Bạc. Sử tán rèm rũ nghó chẳng cùng. Bóng núi bóng khe tự dung nhau. Ai khoe mưu tính bớt đi trồng liễu. Tự cười ẩn cư cùng tiếng cao. Cửa đỏ còn xa cửa kiểm mật. Khan đình nhàn bày lớp hoa tươi. Giữa núi khách hoang tuy nhiều bệnh. Cuối cùng chống gậy yết kiến Só Long. Phẩm loại không tự đến. Khéo chánh còn đáng tìm. Lầu treo trong đêm thanh trăng đảo nghó mây tìm ai có hoa cổ lăng. Rọi tâm chân tể này. Nhân Hòa thượng Hương Nghiêm. Ta có một cơ thiền. Cần biết mắt Tước Ca la. Đều là gắn chặt như người thử hỏi phục cúi phục cúi. Đưa Hùng Trực Tuế. Tham xong còn muốn khám phá các vị. Cành trúc theo thân không dễ làm. Nhớ lại xưa nay lão Hưng Hóa. Chủ khách dùng hết sức kéo dê. Vì đạo ngày Tổn. Ba phần thời gian hai sáng qua. Linh Đài một điểm không lau chùi. Tham sông theo ngày mỏn mọn qua. Gọi không quay đâu đâu thể được. Sơ cổ. Ta có kính mặt.đều treo khắp nơi. Phàm Thánh không đến. Ai lên ai xuống. Hỏi Du Tú Tài. Vạn trùng mây núi chưa được về. Tâm tịch liêu cho lão Lô biết. Giang Thành mua tuyết viết tên giấy. Không yết bằng Nho lại yết kiến ai. Lại Huấn. Vạn quyển không sách nói dụng về. Nhàn Văn Công cũng chưa cần biết. Nhờ kiếm dài trời như lại chiến. Lại có đầu rồng lại là ai. Lưu Hoàng Thủ Tọa. Theo rồng làm mưa lại thanh nhàn. Phiến đá vẫn là giữa sông. Thẹn hỏi gió thu muốn thổi tan. Không thể ở lại được che núi xanh (không thẹn hỏi người vì ta ở lại). Đưa Du Cư Só về đất Thục. Nơi nào cây sâu sai Mộng Tần. Thành xanh bỏ đi nhiều mây khe. Như nay già cả về khó được. Chỉ tả tình hoài xa đưa anh. Hòa Vương Điện Thừa trồng lúa bông ở Chi Thập. Nhỏ nhắn viên thật xem xuân thơm. Được tựa cửa hầu sơn trân Sở. Lá nở hoa nở người không biết. Trăm ngàn năm đều như thân nhàn. Chiều nhìn Câu Hòa Giang. Công còn dõi mắt nhìn giang sơn. Vạn hóa vô cùng đến không gián đoạn. Nghe nói Thánh Hiền. Sinh bệnh dạy chúng. Cửa đóng lại đồng năm tháng đẩy. Song cửa đá mưa lâu rêu phủ. Một giường gối kê lão Tịnh Danh. Khi thấy mây tan trăng lẻ đến. Duy Ma Cư Só. Mũ lụa núi uy nghi áo cỏ trắng. Xa mặc đỉnh cô gần bọn ta. Mang đến bảy thước ttrúc trước sương. Chặt đứt mây trời không phóng cao. Đáp Lý Hiệu Thư. Một lần từ giả ta một lần ngâm. Quyến luyến núi rừng ý chuyển sâu. Lại tạ tùng sương không tàn tạ. Cùng anh đồng có tâm giá lạnh. Khổ Nhiệt Trung Hoài gởi Vónh Cỗ Sơn Chủ. Lửa mây cao thấp bóng liền nhau. Bao lần muốn mặc hận không như trước. Vô hạn gió xanh không nơi hỏi. Chỉ nên chậm bước nhiều sông rừng. Đưa Nguyên An Thiền Giả. Nhiều núi mịt mờ gũi không ở. Xa nói vẫn là chỉ nhiều dây. Xưa ẩn La Kham Phó cho ai. Vượn lạnh sau đêm hú trên cây. Phú Bệnh Nhạn đưa Phụng Luân Thiền Giả. Muốn bay bay chia được. Cành tùng xanh buốt giá. Thế nào trời rũ mây. Xa xa đông một bờ. Ngẫu tác. Hàng núi như mới mưa. Nhà cửa lặng lẽ tiếp giao. Tịch dương sáng nước xa. Lá thu bày tổ trên không. Suy nghó từng không điếm nhục. Thần tình chưa chạm nhau. Chỉ ứng ý thiên cổ. Ai được cùng mây trũng. Tạ Bào Học Só Huệ Lạp Trà. Cỏ xanh thừa xuân nhường lạnh lợi. Dựng khe từ đây chấn tiếng vui. Sứ quân phân ban ý sâu xa. Thường thiền vạn lự xanh. Nhân dạo đình Dục Vương gởi Mục Chủ Lang Cấp Sự. Thuý lạnh ngàn vạn núi. Hàng mái hiên như mực. Bồ đoàn và ván thiền. Suốt ngày lặng lẽ tương đối. Mây đỏ từng không cỏ. Thêu tùng cùng thành dù. Xa tạ tình u ẩn. Khó cùng thai tinh hội. Đưa Ngộ Năng Thiền Giả. Hồ vây thành núi rộng bao la. Sân đài vạn nhà bóng nước lạnh. Cánh buồm ẩn ẩn ra khơi xa. Ai hỏi Tào khê ý chuyển khó. Đưa Giác Hải Đại Sư. Mây thu lá núi đều xa xôi. Nửa theo gió nữa theo dòng nước. Nhờ hỏi nhà thiền có ý gì. Không biết bên ngoài như là đáp. Đưa Tằng Thị Gấm. Hộp lạnh sóng thu bắn sao đẩu. Áo sát tùy theo sương xanh xưa. Nơi ao chớ hỏi việc thường năm.một mảnh oai phong sinh động đất. Bệnh khởi đáp Như Thiền Đức. Đại sáng một tất bóng. Cỏ thối nhờ sao quá vậy. Mạng người trong hơi thở. Thật thay lời mà vậy. Hô từng đã thôi. Hấp còn chưa bỏ. Gởi hỏi các nguồn khổ. Người đến người không đến. Đưa Vân Thiền Đức. Xưa đưa người nói là hoài bảo. Ta thẹn già bệnh khốn khổ thiếu văn chương. Gấu rừng xa xa hề từng đứng đêm tuyết. Tạ ao vẫn là hề cười sinh cỏ xuân. Đầu Sừng Lân rồng đâu thể luận. Gió mát bước bước đáng luận bàn. Đưa Cửu Thiền Đức về Lan Đình. Quân bên hữu tối đen trăng bờ ao. Rọi ta lại chiếu ai. Ngàn dặm bổng đi đến. Trong núi nhiều Sư bệnh. Đưa Hy Đại Sư. Phòng núi ôm bệnh qua một tháng. Cửa có chư sinh nhờ đến yết kiến. Đến hoài thời còn chưa thể. Bảy mươi năm lại nói gì. Như lão Da Khê bỗng để lời. Trên khe xưa dạo hãy trở về. Gió xuân rì rào hề cắt tầng mây. Liễu yếu vẫn là hề mang bông nhẹ. Xưa nay rời hận tuy như thế.động tónh ở ta cũng nhiều ý. Dơ cao gậy chống bước một mình. Âm thư chớ quên gởi bay xa. Đáp hai Thị Giả Hải Tông. Cỏ tôn được hoa lan. Nói là chẳng khó. Đỡ ta dậy như châu ngọc trên bàn. Một hề hai hề tự xem ai xem. Lan được Tôn nói ắt còn. Đỡ ta bệnh dậy gió xưa vào cửa. Hai hề một hề hãy luận chớ bàn. Tạ Lang Cấp Sư Đưa Kiến Danh. Kinh Lục Vũ Tiên không dễ khoe. Nhà thơ trân trọng gởi thiền gia. Gốc tùng trên đá trong ánh xuân. Dòng nước nấu đến đấu trăm hoa. Đưa Sơn Trà Thượng Tri Phủ Lang Cấp Sự. Trước khoản mua thu hiến đến công. Không tranh sức xuân tranh cỏ xanh. Khói tan từng vào vũng sâu thẳm. Trăm vạn cờ thương ở dưới gió. Đưa Lang Thị Lang Trí Chánh về Tiền Đường. Buồm theo bốn hướng gió chẳng phải thành biển. Ai sơ ùthiên cổ nói tương ưng. Ai khoe phú quý mua thời khen. Tự cuối kinh luận làm cành khả năng. Lá tàn đề thơ hồng từng mảnh. Núi xa cùng trông từng tầng xanh. Vũ Lâm đến ẩn ngày tốt lành. Cao hỏi phòng núi chỉ hứa tăng. Sơn Hành gặp Cần Thiền Đức. Ngày thu Nhũ Nham không làm gì. Gậy roi lớp lớp chỉ rộng xa. Bốn bên có người phân tinh dã. Một diểm mây hồng nổi hang sâu. Tô Thạch chậm chậm lược nhẹ ngồi. Gặp một nạp Tăng liền dừng bước. Rồi gọi quay đầu không chịu quay. Và khi quay đầu chân mày dựng đứng a la la. Ngàn dặm vạn dặm quét sạch ngang. - Đưa Tiểu Sư Nguyên Triết. Con Lão Lô bốn, ba, hai, một. Sẽ muốn chấn bay cuộn hết nhà. Tùng sương lạnh hề vận xanh. Sông mang núi hề chảy nhanh. Nam bắc đông tây mây tan thấy mặt trời. Vónh Phong Trang mới trong hàng tùng bỗng hai gốc bên rạp xuống tuôn tư ghi. Hai cây tụng rạp sao giống. Ốc đo kết mấy lượt. Tiếng Thạch Tuy cạnh phát. Bóng lạnh không cao. Đôi khách vườn hề che. Thiền Thuý cô đơn giọt áo. Nếu dạy họa đồ được. Đâu có thể có buồn phiền. Đưa Bạch Vân Tuyên Trưởng Lão. Chiều thu Ngân Giang bổng thành xuân. Huống có Thai tinh làm chủ nhân. Đi đi cao lấy thước dao xưa. Hai ngàn năm tiếp vân trần thơm. Đưa Thân Thiền Giả. Vạn cây mang tiếng thu. Xưa nay nghó ra từ biệt. Ta có ý tặng đi. Sắp đi vì anh nói. Lớp núi thôi đọng mây. Sông xa lại xem trăng. Đời đời biết không biết. Gió trời giúp tới cùng. Đưa Hiển Xung Thiền Giả. Tụ tán rất là chuẩn. Xưa nay cũng tiêu cách. Thế nào người không việc. Còn giống khách chưa vềø. Gió thu sinh thành rừng. Nước sông vốn sắc lạnh. Ai hề tạ tấc bóng (thời gian). Xem núi xanh kia trắng. Xung Thiền đi lại đi. Năm lá thời cùng nhân. Đưa Thiên Đồng Phổ Hòa thượng. Xa xa biệt bờ biển. Buồn treo thời cuối thu. Cây bên đảo rơi lá lạnh. Người ai hỏi Tổ Sư. Sóng vỗ dạo vội vàng. Trời rộng qua bằng chậm. Chiều tối về dưới rừng. Ngàn người không cùng biết. Trương Tú Tài thi trược. Bị trượt người nào thẹn bất bình. Nói còn hạng tốt cũng là vinh. Nên biết chưa mất lời văn này. Lại đem thơ mới tánh tình vui. - Gởi Cứu Giám Thu. Trong ruộng bắp chín kịp thời thu. Quả hạt viên thành khỏi tìm ngoài. Một ngày trở về trên núi xưa. Mây trắng cây hồng cùng xa xôi. Sáng đông đêm ngồi gởi Thiền Giả Tụ. Không áng mây xanh rơi. Hư đình chứa tuyết sâu. Phụ xuân còn có ai. Trời sáng đối trăng lẽ. Bóng tùng bên núi Nhất Thuý. Không ngừng tiếng nước chảy. Đến nghe bỗng tuyệt. Tụ thiền tụ thiền biết cũng như chưa biết. Tám bề gió mát xa xa chờ lúc nói. Gởi Sùng Thọ Hoài Trường Lão bài ca. Tịch ở núi hề riêng sao đẩu. Tịch ở thầy hề xưa là đạo. Trong chết được sống chưa dạy lời. Không cho đi đêm đến sáng về. Lăng nhằng nghe ánh sáng trăm năm. Ta sau đó hề ta trước đó. Chấn lãnh đề cương cười nhiều việc. Đóng phòng trời vẫn là lạnh. Long Sóc Lão Lô cao chót vót. Đất làm dáng mạo hề vàng làm cốt. Vạn nước tranh tìm chịu bèn đi. Ta phải gõ Phật sắt lần nữa. Đông tây nam bắc thôi nói biết. Khô héo mịt mờ rất nhớ nhau. Ngoài trời gió xanh từng trận đến. Cuồng ca xa gởi bỏ ném đi. Đưa Đình Lợi Thiền Giả. Tuyết phong cô đảnh đường nhà ai. Trên hề dưới hề là cớ sao? Từng ngày ba ngàn rưỡi bạn. Ta nay một mình nhiều lúc. Kình Kỳ Lân, Rồng vây vây. Tiếng trời cao bước sinh bụi xanh. Thôi nói Bùi Tướng mộ Hoàng Bá. Trán có viên châu thân bảy thước. Lợi Thiền Giả! Lợi Thiền Giả! Nhờ kiếm dài trời ứng tù lao. Hoặc bảo gió mây không đến nữa. Ai là xanh xanh phân ngày đêm. Đưa Tông Thiền Giả. Sông Bồi tức giận kích động nhà Kình, ba ba. Vòi vọi ba núi lớn ngửa nghiêng. Mịt mờ chốc lát một người đến. Bước mạnh dạn mới làm thiền khách. Nay ta mạnh dạn làm câu chọn từ. Câu câu chữ chữ lạnh buốt sinh cuồn phong. Quét tan hai mươi tám lá rơi đơn truyền. Quét sạch sáu dòng nổi trực chỉ. Như mang cỏ gai dám chưa lấy hết. Cây lạnh đang cầm hề toàn cỏ đáng cười. Nước thu theo ngang hề bán đề đáng diệt. Sai người mắc tám cực đỉnh tranh đi. Thấy người này hề giá ngự Mão Bôn. Đưa Đỉnh Thiền Giả. Dòng nhà thiên thoải mái. Chống gậy cuộn đám mây. Biệt ta chấn Từ Phong. Đêm đường dứt Kệ Tổ. Chim ngạc bay chân trời. Mắt đối đàn ngưng đọng. Bờ xuân đứng ngàn núi. Chỉ cũng với thế này. Bước bước lại bước bước. Gió thổi khởi lan huệ. Quan Tuyền Đưa Diễn Thiền Giả. Gốc mây tắm bờ sông. Chiều trời lại chiếu trăng.tiếng lạnh từng chưa thôi. Bao la như từ biệt. Gần núi sinh gió lôi. Trời xa nước tuyết mới. Diền Thiền thừa hứng biết không biết. Nguồn chảy vẫn là trong veo. Đáp Trung Thiền Giả. Một chữ bảy chữ ba năm chữ. Vạn tượng cùng đến không là cứ. Đêm khuya trăng sang xuống bờ sông. Tìm được lừa châu có nhiều. Họa Lục Chẩn Học Só ngày hạ kiến gởi. Lương Mục về thầy thơ. Nhã phong thôi nung nấu. Quan xanh khó trệ chức tước. Sai tán xa cùng Tăng. Cây đường chẳng khói hợp. Bè tiên cưỡi sóng xanh. Nhân nhớ cùng vạn hóa. Ngàn cổ bèn không thể. Đưa Hóa Chủ. Màu xuân vẫn là rồng xa cây. Cuộn áo chống dây nhẹ nhàng bước. Trần thế mênh mang người vô hạn. Không biết ai hỏi đường Tào Khê. Đưa Thông Phán Lưu Quốc Bác. Làm hoàng làm chức phó. Quyền hóa không no đủ. Phòng trắng như hận nhiều. Gió mát chỗ nào thôi. Chim bên bờ nhìn hàng cờ. Vua trời xem thăng triều. Chớ có sinh linh ý. Nhánh lạnh chưa đổi cành. Đưa Biệt Trần Bí Thừa Cổ Ý. Mênh mông tầng mây núi. Đoạn hề nhưng lại tiếp. Lìa lìa hai bờ cỏ. Biến hề lại gồm duyên. Thế nào sương tuyết khổ. Mọt hại cây trúc tùng. Trúc tùng có tiết tháo. Tuyết sương không kỹ lưỡng. Dám chiết cành cây lạnh. Tặng anh làm thưởng thức. Bước bước giữa trời đất. Gió mát ở tay ai. Đưa Thông Phán Học Só về Nam Quốc. Có treo thuyền mở rọi sao Đức. Gió trời cao hứng gió nước xanh. Vũ Di Tiên Trượng biết trở về. Mỗi người xuống mây lành đến đất đón. Họa đáp Lang Thiêm Phán Điện Thừa. Hướng đến nước tâm còn rõ rõ thân. Mênh mông không ngoài hãy đồng trần. Thành sông sớm tối lại gặp nhau. Biết còn mười tám người Tông Lôi. Bài ca đưa Phạm Dương Lô Quân và Giản Hoa Nghiêm Dục Đại Sư. Phạm Dương Cư Só đến sông Ngân. Động đất tiên bay người nổi dậy. Nhũ Phong thẳng lên mây mù tan. Bước tụ đường trời đến như thế. Mênh mông trần thế ai biết giao. Dương trường hỏi ta chẳng đầy đủ. Nhà thiền cuối cùng không việc khác. Tuyết xưa trước núi từng chưa dứt. Chốc lát buồn mong thất từ tòng. Gánh vác khó hề lê trào dâng. May thay để lại tiếng thơm hãy chớ bàn. Lại được bao dung lại ngày nào. Xa xa cố quốc e còn nghó. Cây kha núi lạnh hề chỉ ngón bàn tay. Huống có Sư Giác Hùng Hoa Nghiêm. Trở về trăm thành cùng dạo thưởng thức. Đưa Quảng giác Chuyên Sứ. Thạch đầu vòi vọi sử nhường Tổ. Mình chẳng còn. Thánh sao hâm mộ. Hoặc vọng lấy núi hoặc tìm nói rìu. Tăm hơi khômg thông hề phân nguồn phái. Ta lời này há có thể bàn xưa. Đưa Vi Văn Chương. Trên đình Long Liên đưa nguồn khách. Hoa sen xanh hương tỏa sắc thu. Dã hứng đoạn phiên mây cao trên núi. Hoa trắng bỏ lẽ trăng sông lặng. Ít nghe tiếng hiểm nguy kham ai biết. Đại đạo cỏ còn chưa có thể. Dù trời trời mở ra thường đứng dưới gió. Đâu dạy loại biến lửa thành dòng. Anh không thấy, lưng hề lấp nước khó trệ lại. Thiên cổ di hận trời xa xăm. Anh lại không thấy. Ngụy hề cây nhỏ sinh Thuý lạnh. Một hoa đối tuyết nở không thôi. Thiền Vi tế cũng mãi tiến hành. Sao đức sao văn ngưỡng không bó buộc. Ngoài vật tình thâm không bằng nhàn. Tuần hoàn hướng đến chẳng khinh bỏ. Sẽ hỏi bao dùng là lời ta. Khuất chịu nhiều cầu lại người nào. Đưa Hoài Tú Thiền Giả. Áo gai tòa cỏ nghó thấu suốt. Vừa ăn an nhàn lại không khác. Mênh mông bỗng đổi dòng mấy trăm năm. Mịt mờ ai đến nối khi tuyệt. Ta hề cũng là lo giúp. Thân tâm lặng lẽ còn chẳng khác. Nối tiếp Linh Phong chiếu đèn đêm. Thuyền sắc bao la xuống biển xanh. Than dài biết khốn không biết thôi. Sóng rong ruỗi ngâm mãi không dứt. Dù được ba ba nghó đâu đợi. Chịu bạc đầu thời thích bạc đầu. Nhân xem thiền khách Tú áo rách. Thanh khổ như thủy lái như Bá. Từ biệt ta chống gậy dạo phương trời. Là hoa là hóa lại bẽ gãy. Gối đầu mênh mông tình ý thôi. Lại viết cuồng ca tặng khi đi. Cô Liên Minh. Gốc mây đá rộng dung thân đợi già. Nam đến bắc đến nhàn lại tìm suy. Năm lá một hoa hề chịu đối ai. Xa xăm vạn cổ hề không biết có. Gởi Hải Hội Chi Trưởng Lão. Sau trăm hoa nở một hoa nở. Gió thổi hương thơm xa xa đến. Ai hỏi Hoàng Mai việc bất bình. Chiếu trung vẫn là lau bụi bặm. Tạp Ngôn đưa Hiền Chuyên Sử. Sử với ai lão tác gia. Trong trăm chiến trường ngựa sắt bay. Sông thu thầm đến người không biết. Cười Lý Tướng Quân bị bắt rồi, a ha ha. Lại về Hồ Sơn xướng bài ca. Ca Kỷ Tứ Minh Chú Quân Tín Só. Quân tử xưa hề nói chư kỷ. Đạo khí dùng hề hợp lý trời. Đồng trần còn như đợi thời sinh. Nhìn như không biết nơi nào khởi. Rừng gai rừng áo rừng cỏ. Hiếu hề để hề chẳng phải giữa. Tụ rồi tự nhiên giọt sương tiên. Tán hoặc lặng lẽ nêu lên gió. Trên gió hề dưới gió hề. Gần một ngón tay hề xa một ngựa. Sông thu lặng lẽ giao tình vô hạn. Bóng đêm thừa chiếu là vì sao. Y ta chẳng gọi cỏn sức nữa. Vịnh nghóa cao nhân ruột gan. Bài ca trăm chữ thư lá rừng. Bay gởi chú môn cực tri thức. - Đưa Trọng Khanh Thiền Đức. Cao trúc khanh. Sông thu rọi hư không. Phàm đâu giống chịu nói chỉ lộ trình. Biết ta không biết cười thành già da. Chân Châu Tư Phúc Thiền Viện TânThọ Chung Minh. Quốc triều tử vì xá người triệu công. Năm Mậu Tuất ra trấn Cô Tô. Tài tình dạy khách Không Nham. Vì hận không thể khéo léo. Lần lần phương nam tìm cầu Giác Ngô mới. Như bày bức tựa của Trưởng lão Vân Nhạc sai tăng Huệ Mân cáo chuông đã thành lập trùng lâu lấy làm xà ngang, muốn ghi làm bài minh. Lại nói học giả đương thời. Có những sự sai lầm. Dù có thể nói trở về thiền nhân không chịu tin. Chỉ có sư làm thiện tri thức. Lại hành trang danh đương đại. Nguyện làm bài minh này, nhân cơ hội để giáo hóa không tốt ư? Nhưng Trọng Hiến cố lậu, ngoài đại quân tử gánh vác gắn dắm không theo mệnh bèn lại dẩn gởi. Phàm hình thành chẳng phải trước đây, thiếuxót đâu chuẩn. Sau khí dụng, u linh tuyệt thường. Cho nên Thánh nhân lấy chuông làm Đại. Chỉ có Thánh Nhân là phép tắc. Sâu xa quên cầu lấy sâu. Khả năng đủ các loại trí. Đối phi hùng biện. Nhưng chưa gồm rất có sai. Quyền hóa đến chưa dể cùng, cảm thông truyền xưng. Xưa Câu Lưu Tôn ở Càn Trúc tạo chuông đá xanh như màu ngọc xanh có thể chứa được bảy đấu. Đỉnh loại Chư Thiên vùi đi chúng bảo. Tám góc bốn mặt hoa quang đều rõ ràng. Có Như Lai Hóa hiện cùng mặt trời xuất hiện. Nói rõ, diễn sâu, hoặc nghe, hoặc không. Trong thành Vương Xá, trong đại Thiên giới chẳng đồng tiếng kèm loại ư. Nay Thiền Lão Nhạc ở Chuẩn Tuần tạo chuông đồng xanh như màu ngọc. Dụng quá trăm cân. Xung quanh là các loài thú gấu. Hoặc tầng thành ngày nhàn. Suốt đêm Kỳ viên trăng sương mù mịt soi xuống bóng lạnh để tranh sáng. Lo lắng đất tung, phát hư âm mà giao động. Sư đến xướng hiểm, tiếp tục nạn. Ban đêm lung linh, chủ bạn tan tác. Đủ sai một vây nữa giáp. Không trái với phương chân hóa. Hai tiếng năm xem, có Kỳ thần dạo ở thành. Khéo còn chắc ứng. Gõ vào chỉ tốt thay. Ghi lên chuông rằng: Hoài tấp nập. Chân hội phủ. Trong bài Phạm Tranh. Ở Thiền Tổ ta. Tham biền la. Tuệ mẫn ngàn mái chèo. Vịn xây âm kình. Dứt luân khổ kia. Sùng đài cao ngang. Vàng bay ngọc lại. Cửa này đóng mãi. Đến người hoặc mở. Hiếm có bé nhỏ. Kéo dài thúc dục. Trước nghe chưa kịp. Sau thời không đến. Thêm bi lớn lao. Không khổ lý trời. Mang ghi vạn mối. Kính ngộ đều khởi. Dẫn tối dắt sáng. Mẹ kìa được con. Trần trần hỏi ai. Sát sát hỏi mình. Duyên lớn thành rồi. Công lớn không bằng. Vua thờ Vũ Thang. Thần ngưỡng Nguyên Khải. Bia khắc vườn xanh. Bài Minh ít văn chương. Ngõ hầu núi tốt đẹp mãi là biển xanh. ----------------------------- <詞>MINH CHÂU TUYẾT ĐẬU SƠN TƯ THÁNH TỰ ĐỆ LỤC TỔ MINH GIÁC ĐẠI SƯ THÁP MINH. Thượng Thư Độ Chi Viên Ngoại Lang Tực Bí Các Kiêm Sung. Sứ Quán Kiểm Thảo Tứ Phi Ngư Đại Lã Hạ Khanh tuyển soạn Phàm chân không bất không là, có vô chứng. Tịch diệt bất diệt là tướng qua lại. Phật dùng một pháp quyền thật, khai con đường đốn tiệm. Khiến tùy tài năng mà hướng đến đó. Có người không rời đạo tràng, được đại trí tuệ. Có người khó hành khổ hạnh vì nghiệp trời người. Trời trăng là sáng mà người không thấy nơi rất gần. Chèo thuyền có thể cứu vớt, mà người chìm luân lạc nơi con sóng. Chưa có người nào ghét người sáng mà quên cứu. Tâm ấy là một. Đường đi lại khác. Tánh của côn trùng sâu bọ ăn nhai thành hàng. Mệt thì nghỉ đụng đến thì tránh. Cho nên cầu an lạc không đợi dạy mà được. Người đối với quý tiện, giàu nghèo, được mất, thọ yểu. Không biết phần tự nhiên. Buồn vui thương ghét, gồm chính tham lam tónh táo đều là gông cùm ràng buộc không thể nào giải thoát. Ban ngày lao nhọc hình hài. Đêm ngủ mộng mî. Đến lúc già chết còn không biết dừng. Côn trùng kia sở dó biết an lạc. Người chăm lo không thể Phật dạy người; dứt trừ bờ mé tánh mạng; lấy hết bên ngoài trời đất cho đến như vật trong bàn tay. Truyền phó pháp phải không nhờ văn tự, ấy gọi là Thiền Na. Núi non lớn có khi nứt lỡ ra. Vàng đá cứng có khi còn đẽo hình thành vật dụng. Ta thì khác, ở đó không đi không ở; không lấy không bỏ; không thấy trong không thấy ngoài, không thấy chính giữa đó là nghóa tự lợi, lợi tha nhân từ vậy. Đó gọi là Niết-bàn diệu tâm chư Phật, Pháp ấn vi diệu bí mật viên minh, Chánh pháp nhãn tạn Phật. Phật đem truyền cho Ma-ha ca-diếp, Y truyền Tăng-già-lê, để đợi Phật bỗ xứ ra đời làm phù hợp thành đạo. Từ đó y pháp truyền nhau hai mươi bảy đời đến Vương tử. Lúc đầu vào Trung Quốc, Thụy là Viên Giác. Viên Giác truyền Đại Tổ. Đại Tổ truyền Giám Trí. Giám Trí truyền Đại Y. Đại Y truyền Đại Mãn. Đại Mãn truyền Đại Giám. Đại Giám cất y đi chỉ truyền pháp mà thôi. Đại Tuệ nối theo. Sau đó Đại Tịch thừa kế. Sau đó đều lấy chỗ ở để xưng tên như: Thiên Hoàng, Long Đàm, Đức Sơn,Tuyết Phong, Vân Môn, Hương Lâm, Trí Môn đó là đời sau vậy. Sư húy Trùng Hiển, tựa Ẩn Chi. Cháu chín đời của Đại Tịch, nối pháp ngài Trí Môn, họ Lý, mẹ họ Văn, ngày mồng tám, tháng tư năm Thái Bình Hưng Quốc sinh sư ở Toại Châu. Khi mới sinh hai mắt ngài nhắm lại như ngủ. Ba ngày liên tiếp tắm xong, bổng nhiên Sư thức dậy. Sư không quen ăn thịt cá và những trò đùa giỡn. Lúc lên bảy tuổi, một hôm có nhà Sư đi qua nhà ngài, ngài mừng rỡ nắm lấy cà sa của nhà Sư. Nghe tiếng Phạm bối người bèn đứng khóc. Cha mẹ hỏi nguyên do, Sư xin cầu xuất gia. Cha mẹ không bằng lòng, Sư nhịn ăn mấy ngày liền. Mãi đến khi cha mẹ qua đời, sư mới xuất gia làm đệ tử với sư Nhãn Tiền ở An Viện, Phổ Châu. Tăng ở chùa Đại Từ tên Nguyên Oánh giảng sớ Định Tuệ Viên Giác. Sư cầm sách chất vấn về đại nghóa cho đến tâm vốn là Phật do niệm khởi mà trầm luân, ban đêm thường vào thất hỏi, thưa. Đến lần thứ tư, Oánh không thể giải thích được bèn chắp tay xưng tạ rằng: “Ông chẳng phải là người ngưng trệ nơi giáo. Ta nghe phương nam có người đắc Pháp nhãn chư Phật chư Tổ. Ông hãy đến đó. Nơi đó đang đợi ông đến cầu lâu rồi”. Do đó sư ra hướng đông Tương Dương đến nơi thiền sư Môn Thông, ở ba năm cơ duyên không hợp. Thông dạy rằng: Việc này không thể suy lường phân biệt mà hiểu được. Thiền sư Tùng Châu Trí Môn Tộ là thầy của ông. Sư liền đến đó. Một hôm Sư hỏi Tộ: Người xưa không khởi một niệm sao nói có lỗi? Tộ gọi sư đến trước chiếu. Sư sửa y áo bước đến. Tộ lấy phất trần đánh. Sư chưa hiểu ý chỉ. Tộ nói: Hiểu không? Sư suy nghó định trả lời. Tộ lại đánh. Sư nhân đó ngộ đạo. Sau đó Sư đến đạo tràng Thiền sư Lâm Lô Sơn hỏi rằng: Pháp vậy không vậy sao nói chỉ nam? Lâm đáp: Chỉ vì pháp như vậy hay không phải như vậy. Sư bèn phất áo rồi lui. Chúng đều sợ hãi. Có người chê Lâm Lô Sơn. Lâm Lô Sơn dạy chúng rằng: Đây là Tam-muội rộng lớn của Như Lai. Chẳng phải bọn ông dùng tâm thủ xả có thể liễu biệt được. Sư từ biệt đến chùa Cảnh Đức ở Trì Châu làm thủ tọa. Giải thích luận Bát Nhã của Triệu pháp Sư cho đại chúng. Tri Châu Tằng Công Hội bèn lấy trái cây quẳng xuống đất nói: Cổ nhân nói không lìa đương xứ thường tónh lặng thì nay cho ở đâu? Sư chỉ trưởng lão Đức Cảnh nói: Trưởng lão này cũng không biết chỗ rơi. Tằng Công nói: Trưởng lão biết cũng không lỗi. Sư nói: Người mắt sáng khó dối lừa. Sư đi về phía nam Hàng Châu ở Tô Châu Động Đình Thuý Phong nối pháp ngài Trí Môn. Không lâu Tằng Công ra Thủ Minh Châu thỉnh sư trụ trì Tuyết Đậu Tư Thánh. Người Tô Châu cố giữ sư lại mà không được. Sư nói: Người xuất gia như tùng hạc lẽ loi, như đám mây bay qua đỉnh núi vì sao còn có đây kia. Tuyết Đậu vốn ở đạo tràng Thiền sư Trí Giác. Trí Giác là cháu năm đời của Tuyết Phong. Bị truyền cho Sâm, Sâm truyền cho Ích, Ích truyền cho Thiều rồi thọ tiếp theo hiệu là Trí Giác. Một pháp đồng nguồn nhưng đất có lồi có lõm. Sư đến đều xây dựng lên, bỏ mồ hôi công sức lần lần được thành công. Các tọa hạ ở Châu bang xa gần tụ hội. Phó Mã Đô Uỷ Hòa Văn Lý Công ban cho phương bào tím. Thị Trung Cổ Công lại tâu: Phong cho hiệu là Minh Giác. Sư trụ trì ba mươi mốt năm, độ Tăng được bảy mươi tám người. Trước là môn đệ xây tháp về phía Tây Nam cách chùa năm trăm bước. Ngày nọ sư sai thị giả quét tháp xong, đi đến Sơn Tiêu xem hồi lâu nói: Từ nay qua đây ngày nào lại đến. Mọi người đều kinh hãi. Chúng đón sư về, sư thân mật chỉ chỗ tháp. Chúng đều gào khóc theo đến trước tháp. Hoặc có người nói: Sư không có lời tụng từ biệt cõi đời ư? Sư nói: Cuộc đời phần nhiều nặng về ngôn ngữ. Hôm sau Sư đem giày dép y bát chia cho đồ chúng hết. Có người hỏi bệnh, sư mời lại nói: Ngày bảy tháng bảy lại đến gặp nhau. Đêm đó Sư tắm rửa sạch sẽ nằm nghiêng mình mà tịch. Bấy giờ là ngày mười tháng sáu niên hiệu Hoàng Hựu thứ tư Sư thọ bảy mươi ba tuổi, hạ lạp năm mươi, nhập tháp ngày sáu tháng bảy. Như lời sư dự đoán. Than ôi! Sư được thiên cơ diệu dụng, không dùng các pháp có thể biết rõ tánh mạng đến đi. Cho nên mới là lúc Hoàng đế thăng đường, người dạo chơi tường giác ngộ tánh tướng thể không, tiếc vạn duyên, là đại thừa pháp khí, là nghiêu hoác ở trong họa. Phàm một trăm năm mươi người truyền pháp ở thiên hạ, họ ngăn chặn ý căn, rào tâm ban đầu, trái giác hợp trần, theo niệm trôi chảy, được ít làm nhiều, vọng lập tri kiến. Tuy ba lần đến Đầu Tử chín lần đến Động Sơn, sư cũng vin tay quen chân mà không cầu cứu, như Khổng Tử có Tễ Ngã, Mạnh Tử có Bồn Thành Quát chẳng phải như lời của sư. Đệ tử Sư xuất thế là: Duy Ích,Văn Chẩn,Viên Ứng, Văn Chánh, Viễn Trần, Doãn Thành Tử Hoàng cùng tụ họp ghi đề xướng ngữ cú thi tụng là “Động Đình Ngữ lục”; “Tuyết Đậu Khai Đường lục”; Bộc Tuyền Tập; Tổ Anh Tập; Tụng Cổ Tập; Niêm Cổ Tập. Tuyết Đậu Hậu Lục, gồm có bảy tập. Sư sơ chấp nhiều về ngôn ngữ, nhưng đệ tử vì thương xót Sư nên biên tập Ngữ Lục của Sư để di huấn. Gọi là lợi tha, tôi được sách này và đọc, hơn hai mươi năm, chiêm ngưỡng hạnh cao cả của Sư. Nhưng bị lợi lộc ràng buộc không được thân cận; chỉ được cúi đầu đảnh lễ, thấm nhuần mưa pháp, giác ngộ trần lao. Ngõ hầu có thể dạy người, nhưng không biết làm thế nào. Sư từ biệt cõi đời hơn mười ba năm, bia biểu chưa lập. Tăng ở Dư Hàng Huệ Tỷ, tuyển chọn hạnh nghiệp và môn đồ: Nguyên Khuê Giác Tế Đại Sư, Ngô Bằng theo gót, khen văn thỉnh minh. Lấy sư trọng tâm hâm mộ của tôi, lấy sự ân cần thỉnh cầu của môn nhân rán có thơ ư? Ngu Công Khấu Hoài vì dời núi tuy không có lực lượng, chỉ thành tâm mà được, đốt hương lạy bái nên làm bài minh rằng: Ôi ngu xuẩn, trái bổn nguyên, một niêm khác, sinh hai gốc. Thắng và thua, tứ mã chạy, ham sở đắc, tự trá quên. Mất đại đạo, cửa nam bắc, đẹp đến già, lo sáng tối. Chánh thiên giác, người trời tôn, người mê kéo, người chìm lên. Sáng ra đi, quét mây mù, khát được uống, lạnh được củi. Ngộ báo hóa, biết chẳng chân, đến an ổn, quét khách trần. Vương Thúc Sinh, rộng Phật sự, phá sáu tông, nên đàn chỉ. Pháp đến đông, chẳng hội cỏi, áo truyền tin, chiếc dép đi. Đỉnh năm núi, chân pháp khí, đựng chứa tuyết, khác cánh tay. Nhẫn chẳng nhẫn, được tuỷ pháp, nợ ắt thường, có dòng dõi. Hoàn công ẩn, lộng trời Phật, vui dạo nam, đứng như cây. Xin giải thoát, hơn thay tuệ, quấy ong sâu, Thần Nhạc Vệ. Phá đầu núi, các mây theo, hoàng sáu khí, lọc hai Tông. Giác tùy ý, mặc lười dung, con Huỳnh Mai, trên trăm trẻ. Thiếu bảy tướng, hiểu các không, Thánh phục lao, chày cối thuê. Hòa tâm kệ cạnh tranh nhọn, đêm nam, mong là gặp. Đế cúi đầu, nhìn dưới gió, thuyền lại mới, là về rừng. Có nói được, không tâm thông, đời có thừa, nương bốn chúng. Đèn tiếp nối, nhạc ứng sáo, sư bổn khác, tự trẻ đề. Rồi mạnh mẽ, đạp thang thánh, từ cố lấy, không được cho. Khởi lòng hiếu, lo quần áo, gang chải đầu, chất nghi ngọc. Gã đi đông, nay uỷ rắn, gặp thấm ướt, phát mầm cỏ. Chim qua kêu, chuông chưa treo, cá mắt kính, lệ minh châu. Cao hai núi, dưới mái tranh, đến vạn dặm, chân mỏi mệt. Tiếng sấm xuân, mở cửa sâu. biện buộc mở, quyết đi ở. Đề hồ ngon, chén cam lồ, trăm năm mươi. Ruột tốt lành. Cùng bánh xe, tụng cú ngữ, xem cốt mắt, trục làm nên. Xa hồ việt gần tượng dép, tổn tướng thô, ắt khai nhộ. Núi u uất, sông tối tăm, vết trỗ ra, tiếng vượn hú. Cửa tháp xa, tùng bá rậm, trời nam rũ, biển bao la. Xưa áo rách, tráp áo đơn, đến vòng quanh, ngũ thể sát. Gọi cương thân, đầy bổng lộc, quen oán tắng, cá thơm ngon. Liếc chân thừa, như cục bứu, thích ta sống, biện luận cỏ. Lấy dụ hết. Xa không do, ngọc đá cứng, nghó ta lo. Ngày năm tháng hai năm Ất Tî, niên hiệu Trị Bình thứ hai.