<經 id="n1992">PHẦN DƯƠNG VÔ ĐỨC THIỀN SƯ NGỮ LỤC (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN PHẦN DƯƠNG VÔ ĐỨC THIỀN SƯ NGỮ LỤC Khi xưa Hòa thượng Phong Huyệt nói với Thủ Sơn: “Đạo của Lâm Tế chẳng may đến ta bị mai một. Ta thấy đại chúng người thông minh thì nhiều, những người kiến tánh thì ít. Từ lâu ta kỳ vọng ở ông, nhưng ngại một điều ông quá mê kinh Pháp hoa không thể buông được, Phong Huyệt nêu cao ấn tỷ, hướng lên đỉnh ngàn Thánh, hạ xuống khai thị một lần không ngại đỉnh núi cao, Thủ Sơn đối phó được điều này, nên ngay lời nói liền lãnh hội ý chỉ, vượt ngoài cách thức sáng tỏ được Tổ tông, lập tức thừa đương không còn mảy tỏ. Đến khi Phong Huyệt thượng đường nói: Đức Thế Tôn nhìn khắp đại chúng. Nhưng Phong Huyệt hoằng cơ lượt xuất liền phủi áo ra đi. Như nguồn sâu, núi cao, cho nên càng xướng họa càng cao ngất. Thiền Sư Phần Dương xuất phát từ tông môn của Thủ Sơn, đùa với Sư tử Tây Hà, Sừng sộ nanh vuốt ra oai, rống lên một tiếng các loài đều bặt dấu vết. Phạm tăng hỏi pháp thì diễn nói ngay, gõ ngọc, khua vàng, vượt khỏi thấy nghe. Sáu bậc đại tỷ đều có trong điển chương. Sáng xưa bày làm tiêu biểu cách thức trong chốn tòng lâm. Theo về gia pháp có được mắt chánh âm, những điều này có thể không truyền khi xưa dù đã in ấn lưu hành, nhưng trải qua nhiều năm đã bị mai một, Tứ thông ở Thiên thai, Linh cơ Thủ tọa là những bậc Tông tượng túc khế, được truyền trao ý chỉ sâu xa của Thất Tổ, đáng tiếc không được truyền bá chân phong. Định đem hạt Ly châu đeo trên cổ ngựa lóng trong biển cả, cầm kiếm huệ muốn chặt đứt rừng tà, góp tiền của để in ấn lại, Ngữ lục này ban ân huệ cho hàng hậu học. Tôi ca ngợi ý chí của Sư, nên phát tâm làm bài tựa sách này để người đời sáng tỏ được Tổ đạo. Bấy giờ là Quý xuân, Đại Tam, Ngô Khai Nguyên trụ trì, Thanh Mậu kính ghi. Một hoa một lá, chỉ thẳng ý chỉ nhiệm mầu đơn truyền. Từ khi Lâm Tế truyền vào tay Phần Dương, như đem tấm gương một thước chứa hết Sum la, vạn tượng. Đo lường trong, ngoài, đâu từng thấy được thênh thang của hư không. Mây trời cao xa, và Sự sáng tỏ của mặt trời, mặt trăng, hạt cải, sợi lông ghép lại lớn nhỏ. Sấm giận dữ, phân chia Thái Hoa, cá Ma kiệt uống hết nước trong bốn biển cả của càn khôn. Sư tử giữa cửa cắn dứt hết tất cả mạng sống của Thiền tăng. Thập trí đồng chân đều ngăn chặn cổ họng yết hầu của Thiền tăng. Tất cả đều lấy không tạo thành có.Du hý Tam-muội, đều bên cạnh không rơi vào ngôn ngữ, văn tự. Gia phong của Tông Tào Động là chỗ hỏi đáp của Thầy trò liên tục không xen hở (sao xướng cụ hành). Con cháu trong tông môn, đem ấn bản, đưa ra định đạo. Cuối cùng ở một bên nhưng đại cơ đại dụng, vượt khỏi hằng hà sa số. Công lao của Thủ tọa Mộc Thạch, há lãng phí sao. Bấy giờ năm Tâm Hợi, Chí Đại sau khi khai hỏa xong, một hôm Tỳ-kheo Đức Hải ở Tiến Nghiêm kính cẩn ghi. Hồ tăng gậy vàng sáng loáng, sáu người thành đại khí, khuyên thỉnh vì pháp đến Phần Dương để diễn nói, đưa ra nanh vuốt Tây Hà, quyết phá sào huyệt xưa nay. Nghi trời không chủ tể, gương tâm không vết. Tròn như hạt ngọc dưới ánh trăng, nhanh như kiếm Kim cang, chặt một kiếm đứt tất cả, đoạn một khúc dứt hết sạch, trên không nhân duyên dưới dứt luôn thân mình. Thường sáng hiển tiền, vách đứng vạn nhẫn. Thủ tọa Mộc Thạch khắc in lại sách này cho lưu hành, lưu thông khắp nơi, trị bệnh đa nghi cho cuồng tử, giúp cho người ít hiểu thấu đạt được. Long Sơn Khởi Ngân kính cẩn ghi. Nói về Phần Dương thật có quyển Ngữ lục này. Tông Lâm tế quét sạch bụi trần. Nói đến Phần Dương thật không có ghi điều này. Tông Lâm Tế quét sạch bụi trần làm xuất nhập được Phần Dương, thấy được người Phần Dương thì được bình thản. Xưa kia mùa xuân Tân Hợi Chí Đại, Tỳ-kheo Tử Thông ở Thiên thai gom tiền in lại, cháu là Trung thiên kính cẩn duyệt lại. Phần Dương là Thông công, đẩy đưa đứng dậy. Đạo của Bắc Tề thì xướng lên tiếng Sư tử, kinh ngọc thênh thang hơn cả, đó là Sư tử Tây hà, lời này còn để lại người sau thấy được như hạc uống nước, uống nhằm nó thì chết. Bản xưa đã mất, thế nhân mới may mắn dứt hết chất độc này. Thủ tọa Một Thạch Thông, in lại bản mới, chất độc chảy thấm sâu hơn. Nay và mai sau, không biết được cách uống này nên bị trúng độc. Khi bị trúng độc nhất định chết, được mấy người và người nào chết. Tỳ-kheo Như Chi Bản giác ở Hòa Thành lễ bái kính ghi. ------------------------------ <詞>LỜI TỰA PHẦN DƯƠNG VÔ ĐỨC THIỀN SƯ NGỮ LỤC Ngân Thanh Quan Lộc Đại phu làm Bí thư Nhữ châu, Quận Châu, kiêm quản Nội doanh điền đề yên kiều đạo khuyên Nông Sử Thượng chủ quốc. Nam dương quận khai quốc hầu thuộc ấp 1900 hộ, Dương Ức thuật. Ngày xưa bạch tượng giáng sinh chỉ dạy giáo quyền thật. Mắt sen xanh nhìn không nháy, nghóa ở Sư thừa. Sau này Đạt ma một chiếc giày về Tây, một hoa nở khắp trời đông, con cháu tiếp nối, khai ngộ truyền rộng. Nhưng khi mỗi vị khác nhau Tông phái đắp đổi nhau nêu. Nối pháp Thiếu lâm chia ra sâu, cạn, da, tủy, môn đồ Đại Tịch cũng chia giai cấp về Tâm mày. Tuy thật rối loạn, nhưng khác về tô, lạc, đề hồ. Nhưng chia thành ba xe, suy tính phân biệt xe dê, xe nai và xe trâu lớn, thẳng đến thành giác cố có mau chậm. Nếu chẳng phải mắt trí tuệ thì ai chiến thắng được chiếu soi tất cả. Chùa Đại Trung ở Phần Dương, Trưởng lão Thiền viện Thái Tử Thích Thiện Chiêu, người Thái Nguyên huân tập tích lủy hiểu biết là người Thanh tịnh dứt dục, từ bỏ trang Sức bên ngoài thọ giới Cụ túc, chống gậy đi du phương tham vấn 71 vị Thiện tri thức, cuối cùng đắc pháp với Thiền Sư Tỉnh Niệm ở Nam Viện, Nhữ châu và sau đó kế thừa Ngài. Tỉnh viện xuất phát từ Phong Huyệt. Chiêu nối pháp Nam Viện Ngung, Ngung nối pháp Hưng Hóa tồn tương, Tương nối pháp Lâm tế Nghóa Huyền, Nghóa Huyền nối pháp Hoàng Bá Hy vận, Hy Vận nối pháp Bá trượng Hoài Hải, Hoài Hải kế thừa Mã Tổ, Mã Tổ xuất phát từ Nam Nhạc Hoài nhượng, Hoài nhượng là con cháu của Tào khê. Từ Tào khê đến Sư Tổng cộng là 11 đời. Sư đã đến Hàm lâm nhữ, biết được ngọn đèn Ma kiệt, hạt châu trong che áo. Triều Âm còn mang bí ẩn, Tương, Sở lời còn nhẹ. Sư dừng ở Lâm Việt đạo, tục ngưỡng mộ quay về, danh Sư vang khắp nơi. Trường sa Thư trương hầu Mậu Tông đem chùa Tứ đại, bảo Sư dọn chỗ ở Bắc để Nhương cái ở núi Bạch mã. Quận Mục Lê Công Xương nói: - Ta đích thân lên đỉnh mời Sư về ở Bát-nhã, trước sau tám lần. Sư hoàn toàn không chấp nhận, giáo hóa thuần thục bốn năm, hơn cả ngàn người tăng học đồng lòng viết văn thư lên thẻ tre. Sau đó bảo Sa-môn Khế Thông lên núi Bạch mã, đón Sư về quận, thế là Sư nghó lại đây. Xếp Già-lê mặc lên tòa. Sư vẫy đuôi tê giác luận bàn về nghóa không, Tỳ Giá Ly Tịnh Danh ngồi yên không lìa thất trống. Ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn đưa khách không qua khỏi Hổ khê, Tịnh chúng song song tiến đến, vận pháp uy hùng, nhưng nguyện lực của Sư dõng mãnh, học giải uyên bác, đi khắp sông núi, thăm dò nôm lưới có mắt tiếp độ người, đồng thời kêu mổ, Vân Phong phô trương ngôn từ, Dược thạch đắng miệng đều là đạt đến yếu chỉ này, thảy đều cử cương yếu này. Đại dụng hiện tiền như vậy, mảy trần không lập, các pháp đều tiêu, vượt quá Từ cú, bởi vì có có cơ thần của Hoàng bá và nguồn mạch nhiệm mầu của Lâm Tế, nào là Tam huyền, Tam yếu thi vị trong nắm tay. Nhị chư vị tên cùng với người mà đâu khác gì, đó là đường chánh, ngay đây tạo thượng thừa. Sở chứng của Sư vượt hơn cách thức suy lường, nếu không gánh vác được Phật huệ, thì làm sao thâm nhập được vị thiền ư? Ta mở rộng lòng không nhọc Tổn thần khí, tónh lự thầm lặng, duyên đời rối xen. Thủ quận Sở Bắc mới nhận chức quan, thì Sư mời về Thanh Lữ, đích thân phân chia thước can gọi là Quảng Hội Tập Lục, ghi chép tất cả ngôn từ của Sư. Được nghiên cứu và khắc in hỏi đáp của Nhữ Hải cùng pháp thuộc của Sư và tông phái này. Đồng thời cách nhau ngàn dặm, vội trao cho quyển sách để hưng thạnh pháp và trí đạt được sâu xa. Hai thượng nhân chống gậy đi khắp nơi, thật là siêng năng khiếm tốn quá cẩn thận. Thuật lại ý của Ba Tử, cầu mong đạt được ý chí của Tam tông. Từ lâu đã khắc in chỉ mong để ở hàng đầu, thưởng thức được Sự thanh tao của âm tướng, hòng thêm quên khổ, cảm phiền giải thích kỷ về hoài bảo, nhờ Nhu Hàn thưa hỏi những điều bổ tắc của ông. ------------------------------- PHẦN DƯƠNG VÔ ĐỨC THIỀN SƯ NGỮ LỤC Môn nhân ở núi Thạch Sương - Đại Từ Minh Sở Viên biên tập <卷>QUYỂN THƯỢNG Buổi đầu, Sư khai đường đọc sớ xong, Duy na bạch chùy: Những vị kiệt xuất trong pháp hội, nên quán đệ nhất nghóa”. Sư nói: Nếu luận về việc này, phải không còn nói năng”. Duy na Thạch chùy: đã thành hình tượng. Tuy vậy, vẫn phải dùng nhiều cách thức, tiếp dẩn người học. Huống nữa đã được nêu ra rõ ràng. Đại đức luận bàn cao xa tuyệt vời, xiển dương khắp nơi. Trời, người, tăng, tục cùng đến pháp hội, chỗ nào không được? Lại còn đợi Sơn tăng kích dương việc này, giống như đất bằng đào thành hầm hố để lấp thành đàn việt, Duy na chính ở trong này phải không?” Đáp: Chính ở đấy. Sư nói: Nhiều ít, đều chu toàn bản thân mỗi người, nếu ai không phải đương cơ, chưa biết được điều này mà nghi ngờ thì nên hỏi. Hỏi: Ở hội Linh Sơn, Ca diếp được nghe. Hồi nay hội này ai được nghe? Sư đáp: Không nhờ lên bảo tòa, thì đâu hiểu rõ Lục Tổ Huệ Năng. Hỏi: Sư xướng khúc hát nhà ai? Kế thừa Tông phong ai? Sư đáp: Chưa từng trải qua A-tăng-kỳ kiếp. Ra ngay trước Cổ hoàng. - Như thế quận thành có hy vọng? Sư đáp: Núi Ngũ nhạc thanh tú bốn biển đều về chầu. Hỏi: Trước Vô nghiệp đường Sư tử rống trong điện Không Vương việc thế nào? Sư đáp: Thạch tháp lăng tầng đương vũ trụ. Kim linh dao duệ động nhân thiên. tròn. Hòa thượng không phải là người chỗ đó sao? Sư đáp: Nhân, Thiên đều không thi thố. Ngay đây phải rõ ràng. Hỏi: Thế nào là cội nguồn đại đạo? Sư đáp: Đào đất lên trời. Như thế làm sao được? Sư đáp: Không biết u huyền. Hỏi: Ngồi cắt đứt đảnh Tỳ lô. Không thưa đức Thích-ca Vẫn chưa là hành nghiệp của đạo nhân. Hỏi: Thế nào là hành nghiệp của học nhân? Sư đáp: Ở đâu mà đến hỏi lời này? Hỏi: Thế thì học nhân có lỗi Sư đáp: Nhổ mũi tên sau não. Hỏi: Thế nào là đạo? Sư đáp: Hư không, không ngăn ngại Hỏi: Qua lại dọc ngang mặc tình. Sư đáp: Như vậy thì tạ ơn Thầy chỉ dạy. Ông nói cái gì là đạo? Tăng không đáp. Sư hỏi: Chỉ biết cỡi cọp, không biết xuống cọp. Hỏi: Thế nào là Thần châu Bát-nhã? Sư đáp: Chói sáng không thấu bóng. Tùy chỗ mặc tình vuông Hỏi: Học nhân không hiểu. Sư đáp: Hãy nhớ lời trước. Hỏi: Thế nào là thấy được lợi sinh? Sư đáp: Mây trắng khắp bầu trời xanh. Sáng ngời thật rõ ràng. Hỏi: Như vậy là tiếng vàng ném xuống đất. Sư nói: Khí thế gian không trừ. Hỏi: Thế nào là hoạt cú? Sư: Ngửa mặt khóc trời xanh. Hỏi: Như vậy vẫn là tử cú. Sư đáp: Vào đất càng lún sâu. Hỏi: Khi tâm chưa an thì thế nào? Sư đáp: Ai rối loạn ông? Hỏi: Làm sao được cái này? Sư đáp: Tự làm, tự chịu. Hỏi: Khi gương xưa chưa sáng thì thế nào? Sư đáp: Trời, ma đánh nhau. Hỏi: Sao khi sáng thì sao? Sư nói: Tỳ-sa cúi đầu. Sư nói: Ông hỏi ta đáp, đến lúc nào mới xong? Đáp: Đến tận mé vị lai, cũng không hết. Sư nói: Hôm qua, Sơn tăng cảm động khi quận thành từ xa đến đây thỉnh. Nay đã báo được ân Phật. Tùy cơ lợi ích chúng sinh, từng người được đốn ngộ. Như hộm nay, mặt trời, mặt trăng trước mặt Thiên tử, đứng trên núi Diệu Phong cao chót vót. Dời thành đường rộng, rung động cả càn khôn, biện tháp gọi là cao di vũ trụ. Cho nên ngọc trong lòng bàn tay, lấy từ cỏ trong rừng. Làm phương thuốc cho muôn đời, đợi người truyền pháp. Mới có chuyện Huệ Khả đứng dưới tuyết chặt tay, Huệ Năng đeo đá đạp chày giả gạo, gặp được những người có chí khí như vậy, mới nhận nổi ý chỉ. Huống gì Sơn tăng gặp việc hoang đường, lên đến địa vị này, thật là đáng hổ thẹn. Hôm nay, Quận tôn Mục chủ, đàn việt các quan ở trong hội này, đều là người trên hội Linh Sơn, được Phật phó chúc, có nhớ được điều phó chúc ấy chăng? Người nào nhớ được hãy ra trước đại chúng nhân thiên đây mà đáp. Thông suốt được tin tức, phải biết được tà chánh. Nếu không được như thế thì trong lòng không chấp nhận. Nếu còn chỗ nào vướng mắc sinh nghi, thì đạo tràng khó gặp. Hôm nay, có không, có không. Chớ nói Thiền đạo là cốt tủy, điều quan trọng ông phải phân biệt trắng đen, nếu không thì không dùng được, đến nỗi đầu lời cũng sai. Nói nhiều nhọc thần, nói ít dễ hiểu. Các quan đứng lâu, e rằng không lợi ích, hay lui ra trân trọng. Thượng đường Sư dạy: Hễ luận về việc này, thì Phần Dương thênh thang rộng lớn và không có bờ mé. Nước lên mênh mông tràn lan, nhưng lại có đầu đuôi, được dòng nước mát mẻ. Ngang thì xuyết suốt càn khôn, ngàn ngọn kim sắc, dọc thì suốt cả vũ trụ, kim tính không động, cỡi ngọc đi vòng quanh, tên xuyên qua hang nhạn, người nào được phó chúc, nay có người nào được chăng? Hãy bước ra trước chúng. Tăng hỏi: Người học khi chưa ngộ thì thế nào? Sư hỏi: Người nào chưa ngộ? Tăng hỏi: Sau khi ngộ thì thế nào? Sư nói: Xin đừng nói dối. Tăng nói: Xa xôi thỉnh Sư, thỉnh Sư cử xướng. Đương cơ không hình bóng. Trở về dứt so le. Ý giáo, Tổ ý giống nhau hay khác? Núi cao tùng lạnh vững vàng, Khe trong nước chảy lờ đờ. Lúc cấp thiết gặp nhau thế nào? Khỏa hình thấy A nan. Ngư đầu khi chưa thấy Tứ Tổ, vì sao trăm chim ngặm hoa cúng dường. Rơi xuống đất phịch phịch. Sau khi thấy vì sao chim không ngặm hoa cúng dường. Rơi xuống đất đùng đùng. Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Quạt lụa xanh vừa đủ mát. Tâm ấn Tổ Sư không rơi vào có, không, chưa biết Thầy ở chỗ Tiên Sư, được cái gì? Ngàn năm không bóng cây, hôm nay chớ đi ủng. Làm sao khắp hoàn cầu? Thế giới tuy mệnh mông, cử lên ít tri âm. Nay có tri âm chăng? Có thì Kim sắc đồng tham. Hãy nói người nào tham. Sư im lặng giây lâu. Đại chúng đứng lâu, lui ra. “Trân trọng”. Sư thượng đường: Luận về nguồn gốc của đại đạo, ngôn ngữ không đến kịp. Tâm ấn cổ truyền nhau, mê tình đâu lường được. Chỉ có gương trên cao, soi thấu tốt xấu rõ ràng loài vịt trời, ngỗng chúa mới phân Sữa và nước. Nay có ai biết được chăng thử nêu ra xem. Đức Như lai khi ở trên cung trời Đao Lợi giáng sinh xuống nhân gian. Thị hiện hoa sen ở dưới kim luân, thì không hỏi: Thế nào là hội hôm nay. Sư đáp: Đại chúng đều nghe. Thế nào là lòng từ của Hòa thượng? Song lâm tự ấn khả, Câu Thi mở rộng khắp nơi. Tăng hỏi: Hôm nay đến Tân la. Nương giáo có lời, luận về người nói pháp, không nói, không chỉ bày. Người nghe pháp này, không nghe không đắc, chưa biết hôm nay Sư nói pháp gì? Ăn gậy xong biết tên. Thế nào là đại chúng nhân thiên, đều nương vào ân lực? Tội không có thứ lớp nặng nhẹ. Thí dụ về quyền của hư không, tất cả chỗ đều biết tên, chưa biết là vật gì? Chỗ ở trời người không lường được, vào đất càng lún sâu. Thế nào là đại chúng không biết, trải qua kiếp tận thấm nhuần ân đức. Kiếm Lương rơi cánh tay, từ đó xảy ra bổ xẻ khác, trong lòng khai ngộ mới là minh. Sư nói: Luận về người nói pháp, phải có Thập trí đồng chân. Nếu không có Thập trí đồng chân, thì không thể có con mắt trí tuệ cùng trời người quyết đoán phải trái. Như chim bay trên hư không bị gãy cánh, như tên bắn bị đứt dây. Đứt dây nên không bắn trúng được, bị gãy cánh nên chim không bay được. Dây cung chắc cánh vững, thì cả hai đều phá hủy hư không. Thế nào là Thập trí cùng chư thượng tọa chỉ ra? Dồng một bản chất. Đồng đại Sự. Tất cả đồng tham. Đồng một ý chí chân như. Đồng biến khắp. Đồng cụ túc. Đồng được mất. Đồng sống chết. Đồng âm rống. Đồng được mất. Lại nói: Cùng với người nào vào được, cùng với ai đồng âm rống. Cái gì đồng sinh, sát, vật gì đồng được mất, cái nào đồng cụ túc, cái gì đồng biến khắp, người nào đồng chí chân như, ai có thể đồng tham, cái gì đồng việc lớn, vật gì đồng một bản chất có chỉ ra được chăng? Người chỉ ra được, thì không còn lòng từ, người chỉ ra không được thì chưa có mắt tham học. Cần phải nhận rõ và biết phải trái, thấy được diện mục, không thể đứng lâu. “Trân trọng”. Tiểu tham, Tăng hỏi: Khi nước dâng cá tán loạn thì thế nào? Nước trong các không hiện, sóng lớn tự qua lại. Long vương ở chỗ nào? Ở điện Kim, khắp hoàn cầu ta là hơn hết. Thế nào là người không lỗi? Võ gươm ai được diệu, đương nhân không Tổn thương. Nếu kiệt thủ vỗ gươm, thì Tào sơn không biết phải làm sao. Biết được người vỗ gươm chưa? Nếu giải thích hết cho ông, thì trong hoàn cầu này không ai đánh nỗi. Trong biển chỉ có một thân tung hoành. “Trân trọng”. Thượng đường: Dưới cửa Phần Dương có một con Sư tử Tây hà, ngồi xổm dưới cửa. Nhưng có người đến thì nó cắn chết. Có cách nào vào cửa Phần Dương, thấy được người Phần Dương. Nếu có người thấy được người Phần Dương, thì sẽ cùng Phật Tổ làm thấy, không thấy được người Phần Dương, tất cả đều là kẻ chết đứng trên đất. Nay có người vào được cửa không? Hãy mau vào để khỏi cô phụ lúc bình sinh. Không phải khách Long môn, gặp nhau điểm trán, cái đó là của Long môn. Khách cùng nhau điểm. Sư đưa gậy lên nói: Nói mau! nói mau! Sư thượng đường nói: Hoàn cầu mở rộng, thế giới đều phô bày khắp nơi. Trên phần Thiền Tăng xuyên qua khắp nơi hang sâu. Tiều phu gánh củi, y lương biết giá. Thuốc nhiều bệnh nhiều, lưới dày cá nhiều, Đông Tây nam bắc, xông Sương đạp tuyết, không khỏi bàn luyện. Phải sáng việc này; phải là người một đao cắt thành hai đoạn mới được. Như thế là ầm ầm dọa nạt tan nát hết, giống như dưa mùa đông, đâu có gì thành tựu được. Cắn đứt hai đầu, kéo bùn lê nước, há lại theo đường cũ, đáng tiếc cho huynh đệ. Chánh giáo khi nghe, nhân chánh khó phát. Sao không tự tỉnh đi, cũng như hai đầu quân trận gặp nhau, không nhường tay trước. Đánh trống phất cờ ra hiệu, nhanh chóng phá hủy. Mọi người đều khẳng khái, mỗi chuỗi trang trượng phu anh hùng, chớ cô phụ tâm hạnh của mình, tiêu suông của tín thí. Trời non mở rộng, có khi nào nghó. Nếu không có trí huyền quyết định, khi khác phải đền trả nợ trước. Toan tính trên sóng nước làm gì. Lấy địa vị dối gạt cha mẹ người khác, qua suông một đời. Lại còn xuất gia đi hành khước, nói ta tham vấn Thiện tri thức, kiến tánh dứt dòng sinh tử. Thông suốt pháp vô vi, khổ thay, khổ thay! Trong muôn giác ngộ không được một, hãy tự tónh quay về cội nguồn, nay có chăng? Có thì ra đây. Nương theo lời của Hòa thượng, có báo ân cha mẹ không? Làm sao báo ân được? Xương tan thịt nát. Có được không? Không nhờ thân cha me, đâu đến được chỗ này! Chư huynh đệ hãy giữ gìn tâm này, không nên quên mất, sách tấn lẫn nhau, thấy được rõ ràng, thì không còn buông lung để luống qua ngày tháng. Lợi mình, lợi người, tiêu nổi của tín thí. Thế nên nói một ngày tiêu muôn lượng vàng, huống nữa xem nhẹ Sự cúng dường. Mỗi người tự nhớ lấy, vô Sư đi, không cần phải đứng lâu, trân trọng. Thượng đường nói: Luận về người nói pháp, phải có mắt trí tuệ của Tông Sư, phải biết huyền môn, phải rõ trắng đen, tà chánh, cho nên người xưa nói: Huyền có huyền lộ, điểu đạo khó thông. Một lời không huyền giống như Thầy thế nhân. Hãy hỏi chư Thượng tọa, thế nào là huyền lộ, cùng Phần Dương nói xem? Phải biết đầu mối, chớ như thế ngu ngơ qua ngày, luống tiêu của đàn na tín thí. Từ xưa các bậc cổ đức, mỗi vị đều có con đường đưa ra cho người, có tỉnh được chăng? Tiên Thánh nói: Một câu phải đủ tam huyền môn, một huyền môn phải có tam yếu, cái đó là tam huyền. Câu Tam yếu phải hội mau. Mỗi người tự suy nghó, ổn thỏa chưa. Khi xưa các bậc cổ đức đi hành khước, khi nghe một công án chưa tỏ ngộ, lập tức ăn uống không ngon, nằm ngũ không yên. Mau chóng chọn lựa, chớ cho là chuyện nhỏ. Thế nên lão nhân đại giác vì một nhân duyên lớn, xuất hiện ở đời, dự định đi hành khước từ xưa đến nay, chẳng phải là chuyến ngao du non nước vui chơi, xem ngắm xa hoa ở Phủ châu. Manh áo miếng ăn, đều vì tâm Thánh chưa thông. Cho nên thân bôn ba đi hành cước, chọn lựa điều nhiệm mầu sâu xa, để truyền thừa xiển dương cho mai hậu, và học hỏi các vị tiền bối, gần gũi bậc cao đức, để nối tiếp ngọn đèn tâm Phật, làm rường cột thay Tổ, làm hưng thịnh hạt giống Phật, dẫn dắt người sau, lợi mình lợi người, không quên dấu tích xưa. Nay có người nào thương lượng chăng? Nếu có thì bước ra cùng mọi người thương lượng. Thế nào là câu tiếp dẫn người sau? Ông là tăng đi hành cước. Thế nào là câu Thiền Tăng nhận rõ? Giờ Mão mặt trời mọc phương đông. Thế nào là câu hành chánh lệnh? Ngàn dặm đem đến trình mặt củ. Thế nào là câu thành lập vũ trụ? Bắc-câu-lô châu ăn gạo trường canh, không tham cũng không sân. * Chỉ đem bốn chuyển ngữ này nghiệm Thiền tăng trong thiên hạ. Mới thấy ông đến nghiệm được liền. Thế nào là chỗ học nhân dụng công. Gia châu đánh đại tượng. Thế nào là chỗ học nhân chuyển thân? Phủ thiểm rót đỉnh trâu sắt. Thế nào là chỗ học nhân gần gũi? Đùa giỡn với Sư tử Hà Tây. * Sư nói: Nếu người biết được ba câu này, thì rõ được Tam huyền có lời Tam yếu, thì mau đưa ra, không nên an nhàn, cùng đại chúng tụng rằng: Tam huyền tam yếu việc khó phân Được ý quên lời đạo dễ gần Một câu nhận rõ trùm vạn tượng Ngày chín trùng dương cúc nở hoa. Hiểu không? Hiểu cái gì? Không phải bản chất Thiền tăng thì làm sao hiểu được? Đứng lâu. Trân trọng. Thượng đường dạy: Phần Dương có Ba bí quyết, thiền tăng khó phân biệt được. Dự định hỏi thì thế nào? Sợ gậy đập đầu. Thế nào là Ba điều bí quyết? Sư liền đánh. Tăng lễ bái. Cùng ông đồng thời tụng ra. Tiếp dẫn không thời tiết, khéo nói không hay nói. Trăng sáng sủa trời mây. Thong dong biện hiền triết, hỏi đáp lợi chúng sinh, nhổ gai trong con mắt. Người Tây vực nói pháp, qua sông đến Tân la, Dao Bắc dùng sắt Bân. Sư nói: Nói thử lời Tam quyết có hiểu không? Hiểu thì thông đường tin tức, phải biết gần xa, không nên như vậy, ghi nhớ lời này làm hành trang trong cuộc sống, có lợi ích gì? Không cần đứng lâu, “Trân trọng”. Tiểu tham cử lời Tam huyền: Khi thời tiết đến ông hiểu được Tam huyền chăng? Ngay đây phải hiểu được ý chỉ người xưa, sau đó mới sáng tỏ được tự tâm. Thì được thông suốt tự tại, thọ dụng không cùng, gọi là Tự thọ dụng thân, Phật không từ giáo khác, liền biết được kế sống của nhà mình. Thế nên Nam Tuyền nói: Vương Lão Sư mười tám năm mới biết được kế sống. Tăng hỏi: Người xưa nói mười tám năm, biết được kế sống. Chưa biết được kế sống gì? Hai con trâu có hai cái Sừng không có chuồng ngăn nhau. Lại nói hiểu được điều này, thì phải hiểu được ý chỉ tam yếu mới được, thì thọ dụng không ngại, mình được an lạc, bình sinh được vui Sướng. Bậc đại phu chớ nên cô phụ mình, chạm việc không thông, kia cũng không được lợi ích, đồng thời tụng ra cho ông: Đệ nhất huyền: Pháp giới quảng vô biên Sum la cập vạn tượng Tổng lại cảnh trung viên. Đệ nhị huyền: Thích tôn vấn A-nan Đa văn tùy Sự đáp Ứng khí lượng vô biên Đệ tam huyền: Trực xuất cổ hoàng tuyền Tứ cú bách phi ngoại Cung thị vấn Phong Can. ( 1. Pháp giới rộng không bờ cõi. Sum la và vạn tượng thảy đều ở trong gương. Thích tôn hỏi A nan, đa văn tùy theo việc đáp, lượng ấn khí thật vô biên. Ngay đây đưa ra trước cổ hoàng, bốn câu ngoại lách phi cung thị hỏi Phong Can.) Sư nói: Đây là tụng Tam huyền, thế nào là ý chỉ Tam huyền? Trong “Trực giáo Quyết Trạch” rõ ràng. Chớ nên vọng hiểu trong lý không. Nói ta từng thân cận. Đến nói cho ta rồi. Vọng ngữ thoát không, dối gạt người ăn gậy sắt có ngày. Đừng nói không đạo. Cẩn thận! Cẩn thận! Trân trọng. Ấp chúng tặng chuông, đến thỉnh Sư thượng đường. Sư nói: Quá khứ có Phật Tỳ-bà-thi ra đời. Lúc đó có một tín só, đúc một cái chuông vàng, nặng đến vạn cân. Lại có một tín só. Nên biết quả chứng, thì nay phải sáng tỏ. Còn có việc gì để hỏi không? * Hỏi: Hồng chung vừa đánh, tiếng ngân chấn động khắp Đại thiên. Chưa biết nghe việc này thế nào? Tăng do Lục hòa hội tụ, nghi phạm đã đầy đủ, phong tục mở ra năm nghóa, trang anh hùng. Thế nào là đại chúng đều nghe? Ông vừa nghe. Nhớ chưa? Không nhớ. Mọi người nghe đều tụng. Khuôn đúc vàng thành khí gọi là hồng chung. Vừa đánh tiếng ngân vang. Khắp cả vũ trụ đều biết. Tăng do Lục hòa hội tụ, nghi phạm đầy đủ. Theo phong tục mở ra năm nghóa, trang anh hùng. Tu-di báo tin Ẩm quang thủ. Càn trúc dẹp tà tông Đề-bà. Thường treo hoa sen trong cung là điềm tốt, trời, người đều được phước vô cùng. Sư nói: Mỗi người tự nhớ lấy, đều phải ngộ đi. Ngộ chưa? Không được quên. Đại chúng đứng lâu. Trân trọng! Buổi sáng tham vấn, Sư nói: Thông thường buổi sáng giờ Dần là cuồng cơ, bên trong thân có đạo nhân. Các ông nghe tiếng thì đến, thì không phải cuồng cơ, đó chính là thân đạo nhân. Có biết chăng? Nếu nay biết được thì tận mé vị lai không bị người khác làm mê mờ. Nếu không biết được thì bị ếch nhái, ểnh ương khi dễ ông. Tăng hỏi thế nào là Tăng đạo nhân? Từng bước dính bụi trần. Thế nào là đi không dính bụi trần? Chớ chấp nhận người ôm cây. Sư nói: Nhận người mặc y trước còn không phải đứng lâu uống trà đi. Sư thượng đường nói: Ngàn lời vạn lời không bằng tự thấy. Nếu thấy được rõ ràng thì ngay đây vượt phàm nhập Thánh. Không bị chúng ma làm mê hoặc, thì mới gọi việc làm đã xong. Nhưng có người đến, đến trước mặt ông một chút kỷ lưỡng dùng cũng không được. Thế nên Triệu châu nói: Lão tăng nhất tâm khán cái này, không cần lựa chọn pháp nhãn, đức Thế Tôn gọi là diệu minh chân tánh, không nhờ trang nghiêm mà hội, không bị nhận lầm duyên trần, luống qua ngày tháng”. Thế nào là ý Tổ Sư từ tây sang? Cây tùng nhiều năm nứt nẻ, trong tâm có sáng một điều. Thế nào là khách trong khách? Chắp tay trước am hỏi Thế Tôn. Thế nào là khách trong chủ? Đối diện không người thấy. Thế nào là chủ trong khách? Mây giăng ngang mặt biển. Tuốt kiến nhiễu loạn tông môn. Thế nào là chủ trong chủ? Ba đầu sáu tay đánh trời đất. Giận dữ quát tháo bộc đế chung. Thế nào là việc trước một câu? Không rơi vào ý chỉ lời giảng giải. Một may tơ nhỏ vừa động liền so le. tây. Thế nào là việc sau một câu? Hai tên đánh nhau không quay về. Thế nào là thoát da tận tủy? Kéo ngang lôi ngửa mặc cho bụi bay. Rốt cuộc không dám cô phụ Hòa thượng. Chí hiếu là thêm hoa. Thế nào là một mảy tơ xuyên qua các hang? Vạn dặm dứt tơ nhỏ có cho học nhân dẹp trừ không? Có thì cần phải trừ, không thì đâu cần nhọc công. Thế nào là nương lý thực hành? Tăng lấy gậy đi hành cước dộng xuống đất. Thấy người tri âm trước thì không phải người biết, Sư nói: Các bậc lão túc chưa xong việc nói thì nói đông nói Các ông tưởng rằng thích hợp chỗ nào? Trình bày ngôn từ, từng người tranh nhau bàn tán không chịu ngủ nghỉ. Nói ta tham vấn tầm đạo, ông dự định tham vấn trong đó. Người xưa nói: - Hướng bên ngoài công phu đều là kẻ cuồng si. Phải mau tin lấy, không cần đứng lâu trân trọng. Sư thượng đường dạy: Ngay tối có sáng, thơ quang ứng vật, vạn biệt ngàn sai, lại có chỗ chiếu không rõ chăng? Nếu có thì ra trước chúng quyết trạch, đích thân thấy được. Tăng hỏi: Chỗ thân thiết xin Hòa thượng chỉ dạy. Ý này thế nào? Giống như băng yết thị của trời. Thế nào là chánh nhãn tạng? Đã từng mở mắt. Chưa biết hướng thượng có việc này không? Có. Thế nào là việc hướng thượng? Mò trời, sờ đất. Khi một ngọn đèn chưa sáng thì thế nào? Tắt. Sau khi tắt thì thế nào? Sáng. Chưa biết việc soi đuốc như thế nào? Thường cháy, không ngừng xưa nay đều sáng mãi. Từ lâu nghe tiếng Phần Dương oai thế lẫy lừng, hãy ghi chép sơ về Kim mao dạy chúng xem. Sau ba tháng thị hiện. Thế nào là chỗ học nhân lui thân ba bước? Tháng sau đến lại. Nương theo người xưa thì có lời, không ở trung đạo, không ở hai bên phần thiền tăng làm ra. Khế ngộ. Ông bình thường gần gũi ở chỗ nào? Ngày nay hoàn toàn đều nhờ câu hỏi này? Trên thác từng đưa gậy đâu từng không vào bùn? Thế nào đại chúng nghiêng tai nghe học nhân lễ bái? Mọi người đã nghiêng tai nghe, học nhân lễ bái xong. Không cần gắng Sức tìm kiếm, biết anh hiểu hoang đường, có hoang đường không. Hãy đưa ra ta giải bài điều kì lạ cho ông. Biết lạ thì không còn kì lạ, lạ ấy tự hoại. Lại nói: Phật pháp của chư Thượng tọa, không phải lí này. Thế từ Tổ Sư đến, có rất nhiều điều lạ đáo đáo không? Ban đầu nhị Tổ chủ lễ ba lạy, theo thứ lớp đứng. Hãy nói được lí gì? Lại là chỗ kế thừa Tổ, bội không? Về thiền đường đi. Sư ngồi trên phương trượng, tăng tục theo thứ tự đứng hầu, bên ngoài có một người bước vào, không rỏ danh tánh. Lễ bái đứng dạy hỏi: Thế nào là gia phong Hòa thượng? Gia phong ta rộng lớn, không thứ gì không có. Học nhân không hiểu thêm ý của Thầy, xin Thầy phương tiện nói rộng về cơ phong. An lạc trên tòa Sư tử. Hình rồng trong phượng trượng trong tay cầm gậy, dụng ấy thế nào? Đập vỡ hòn đá ngu si, lấy được hạt châu chiếu sáng như sao. Thế nào là hạt châu chiếu sáng như sao? Ta đi trong cỏ hoang, ông vào trong thôn vắng. Ngài ấy liền lễ bái, đi ra khỏi cửa ẩn mất, không biết ở đâu. Nhân hái hoa cúc Tiểu tham Sư nói: Hoa vàng khắp đất, nhụy đẹp nhờ trời. Sáng nay rỗng không. Hoàn cầu rực rỡ, rồng phun mưa dầm, hơi nước tụ thành Sương, không Tổn thương đến vật. Nói đem một câu đến, có nói được không? Nếu nói không được thì trong mắt có mạt vụn, phải lấy ra mới được. Thế nên Hòa thượng Phong Nguyệt nói: Nếu lập một trần, mà quốc gia hưng thịnh, thì Lão tăng buồn não nùng. Không lập một trần, quốc gia tan nát thì lão tăng an ổn. Thế nên nói được thì Xà-lê không phần, hoàn toàn của lão tăng, nếu nói không được, lão tăng chính là Xà-lê. Xà-lê cùng lão Tăng cũng có thể làm sáng cho những người trong thiện hạ, cũng có thể làm mù những người trong thiên hạ, phải biết lão Tăng và Xà-lê chăng? Cái này chính là Xà-lê, cái này chính là lão Tăng. Hãy hỏi chư Thượng tọa, Lão Tăng là Lão Tăng và Xà-lê giống nhau hay khác nhau. Nếu nói giống nhau, Thượng tọa là Thượng tọa, lão Tăng là lão Tăng. Nếu nói khác nhau, lại nói lão Tăng chính là Xà-lê, thế nên có thể nói được. Trong một câu có Tam huyền tam yếu, khách chủ rõ ràng, việc hằng ngày đã xong, việc nghiên cứu tham tầm đã xong. Thế nên Vónh gia Huyền giác nói: Xương tan thịt nát vẫn chưa đền đáp đủ, một câu rõ ràng vượt khỏi trăm, ức kiếp. Theo lời của Sư, rồng phun mưa dầm, hơi nước bốc lên tụ lại thành Sương mù, không Tổn hại vật, ý chỉ thế nào? Sương mù ngưng lạnh phủ kín hàng trúc, sáng nay mây tan trời rực rỡ. Thế nào là muôn loài? Tất cả đều nương Sức hòa hơi ấm. Hoa nhân xương tan, cũng chưa đền đáp được ân. Chuột vàng bị lấp ở ngoài, từng hàng Tạc mộc ở thiên hạ. Mấy cây phụng văn hầu, tri âm có mấy người. Đi tôn, ngồi qúy ý chỉ thế nào? Muôn họ ca ngợi Hoàng hóa, mây trắng ở trên không. Lúc mê mờ chưa chuyển thì thế nào? Rồng, ngựa phải thêm roi, chim loan ngậm chuông tiếng vang Lạc xuyên. Trống vải chính Hiên lâm đánh, ai là người tri âm. Ngưng cuốc, đổ gạo cơm, cỏ nằm không ngẩng đầu. Long nữ dâng châu thành Phật, học nhân không châu có thể dâng được, có thành Phật không? Biết bảo chẳng phải công, không bày hiến dâng đức. Thế nào là không qua phưong nam, đích thân được thọ ký. Ngàn vạn năm sau không được cử sai. Nương giáo có lời, A nậu Bồ-đề đều từ kinh lưu xuất, chưa biết kinh này xuất phát từ đâu. Sáu đường không được, năm ấm há có thể nhận. Thế nào thường chuyển tất cả chỗ chuyển? Ông thử chuyển xem. Thế nào là tín, thọ, phụng, hành? Lành thay! Nói ý chí vi diệu, không rơi vào có không. Từ lâu nghe tiếng Sư tử Tây hà, đến đây vì sao chẳng thấy? Ông biết Sư tử. Thế nào đại chúng đều được tùy hỷ? Não vỡ mới biết bận rộn. Sư nói: Chư thượng tọa, thế thì pháp vốn không sinh, chưa từng có diệt. Trên phần của người thông suốt, thịt lành khoét thành thương tích. Làm sao được khi hướng đi của người Sơ cơ chưa được an lạc, cho nên hội hợp ở đây một tiếng để kích dương khuyến giác, đông hỏi tây hỏi, bội nhau thương lượng. Nếu như trong lời có ảnh hưởng, dưới lời vô tư, chân trí hiện tiền, từ vô lượng kiếp đến nay, nghi tình chống dứt. Hằng ngày hóa không vui Sướng sao? Việc xuất gia đã xong, thì được ma vương kính phục, Thích phạm quy y, long thiên cung kính cũng không lấy đó làm hoan hỷ, như vậy mới là báo ân Phật, mới làm cho ngọn đèn sáng mãi. Cũng gọi là ngọn đuốc đại pháp, là thuyền là mái chèo, là rường là cột che mát cho tất cả môn đồ, vận tải làm lợi ích rộng lớn, mở mắt cho hàng trời người. Tự tâm không còn mê mờ, trong tất cả thời chủ khách dung thông nhau, chư thượng tọa có tin chăng? Nếu tin thì đừng quên, nếu thật là Sư tử con và Đại Sư tử thì hãy rống lên, đứng lâu trân trọng. Thượng đường, Sư đưa gậy lên nói: Biết được cái này, thì việc tham học đã xong, có biết chăng? Chớ nói gậy làm gì? Những hạng người như thế, như bụi như cát, cho ông thương lượng, là cái gì hãy mở miệng thử xem. Tăng hỏi: Thế nào là cây gậy? Đức Sơn! Đức Sơn! Lỗi ở chỗ nào? Tát bà ha. Hươu nai thành bầy thì thế nào? Bắn trúng một con. Nghệ thuật quét sạch. Khi Hương tượng gầm thì sao? Trống thành Phúc cung đánh. Thế nào là một người an lành, triệu dân đều nương theo? Thánh quân mở điện báo, trời mưa hoa tuớc tòa. Nếu nương theo lời Thầy, hễ có trả lời, không cần lựa chọn cao thấp, Học nhân đến đây xin Thầy đáp. Sư im lặng giây lâu. Thế nào dưới bụng con sên có vảy cá, trên lưng điểu quy có một sợi lông? Hai Sừng chống trời đất, bốn chân đi vào biển. Kim thương không điểm giặc mi đỏ, thấy được quân vương mới hiển công. Người nồi đất mang kiến, trên mã cỏ ly ly. Đêm qua gió thổi Ngân Hán, đến nay vẫn chưa dừng. Năm ngoái sau khi xa nhau, đến nay mới gặp lại. Người xưa đánh hét tiếp dẫn người, chưa biết Hòa thượng hướng dẫn người thế nào? Đều không dùng. Thế nào là không khác các nơi? Sư hét đánh. Con cũng từng đi tham vấn các bậc Thiện tri thức, ít thấy bậc tác gia nào như Sư. Sau khi phạm thì không tha, Đại chúng đều ăn gậy. Nhờ huynh hỏi điều này, đại chúng đều được ân đức. Sư nói: Có hỏi không thì hỏi mau lên, đạo tràng khó gặp, thời giờ qua mau, hơi thở ta không vào, vạn kiếp ở suối vàng, đừng lâu trân trọng. Sư Thượng đường dạy: Tiếng chuông, tiếng chim có thể hợp với nguồn chân. Tìm cầu nơi khác vọng sinh tiết mục. Tin được nhờ gió, lửa thổi thì không tin. Đất bằng đào hố, việc này không được, tất cả đều là khuôn mẫu, thế nên Linh sơn nói nguyệt, Tào sơn chỉ trăng, mặt trăng ở chỗ nào? Chỉ cho ta xem. Dù là Thiền tăng chớ nên tìm trên trời. Tăng hỏi: Thế nào là trăng không ở trên trời? Sư theo lời hỏi của Tăng hét. Thế nào là dài? Trời cao che không được. Thế nào là ngắn? Mảy tơ không ngăn ngại chân như. Thế nào là không dài, không ngắn? Hư không không có chướng ngại, bốn biển đều tri âm. Thế nào là biết một nữa của học nhân? Không biết một người đưa ra một cánh tay. Tuy nhiên chưa biết câu sơ cơ nhưng vẫn có lời để tiếp Thiền tăng. Tâm không phụ người, mặt không hổ thẹn với sắc. Ngày nay đích thân nghe lệnh hành chánh, vạn dặm đem đến chưa đủ được. Quang tất giáo xã, trái đất đã thành lập, người khó lường được. Đêm nay phải biết có biến không? Luôn luôn cắt cỏ hiến dâng, hy sinh chứ từ ngại gian lao, phải biết nguồn mạch khác, từ xưa chảy mãi không cùng. Một lời có thể mất nước. Sư nói: Biết rõ vô nhất vật, đâu cần phải suy tìm. Ngay đây đâu cần gượng đặt có tên, chỗ nào có mũi nhọn, nagy đó nắm được, vẫn là thiếu tên xẻ tên. Làm gì ứng dụng nỗi, suy nghó do dự, cầm chổi quét một trận, cùng một lúc lấy gậy đập xuống. Vận Sử Trịnh Công Bộ ở Hà Đông vào viện, gặp lúc đang trà thoại, Công Bộ nói: Con để bài kệ tặng Sư được không? Đâu dám tạo lòng từ của Chuyên Sứ. Công Bộ viết trên tướng một bài kệ: Hoàng chỉ hưu già nhãn Thanh vân tự hữu âm Mạc tương gian học giải Mai một Tổ Sư tâm” (Tơ vàng hết che mắt Mậy xanh che bóng mát. Chớ hiểu kiến giải tài ba. Vùi chôn tâm Tổ Sư). Lại nói: Chỉ đem bài kệ này, để kiểm nghiệm bậc lão túc trong thiên hạ. Thế thì Phần Dương cũng ở trong đây. Gánh cùm quá trạng. Lại không khám nghiệm nữa. Hai công án. Biết thì được. Công Bộ im lặng giây lâu. Sư hét lên một tiếng. Văn bảo, Văn bảo. Ở đâu? Không cho con sân giận, đâu được sân giận với người khác, nói các bậc trưởng lão ngưng trệ ở đây. Nói như vậy là sao? Thật. Cũng không được buông lung. Thỉnh một bài kệ của Sư được không? Bút mực không gián đoạn. Xin Thầy một bài kệ. Sư thuật kệ: Hoang thảo lao tầm kính Nham tùng huýnh bố âm Cơ đa huyền giải khách Thất khước bản lai tâm” (Cỏ hoang nhọc tìm đường Tùng cao che râm mát Bao nhiêu khách biết huyền Mất hết tâm xưa nay). Thượng đường dạy: Ngỗng chúa lựa Sữa, trắng chẳng phải loài vịt. Ngỗng chúa lựa Sữa, trắng chẳng phải loài vịt, ý chỉ thế nào? Giang Nam có Giang Bắc không. Tại sao Giang Bắc không? Băng đóng lạnh khó bay lên. Thế nào bay liệng ngoài chín tầng mây, tai chỗ chỉ hơn bầy? Cất cánh bay mất trong hư không, an ổn như tuyết đông lạnh. Tam môn Thiên pháp đường mở rộng, thế nào là cửa thứ nhất của Hòa thượng? Từ đây vào, sau khi vào được thì thế nào? Tuy nhiên, không một pháp, chung hội tăng Ngũ hồ. Khúc ca của học nhân không âm vận, xin Sư phương tiện hòa thêm. Năm âm, sáu luật chẳng liên quan đến nhiệm mầu, bốn Trí, ba Không hòa không đều, làm sao biết được phẩm lộng của Sư chỉ xuống rõ ràng. Vận ra cao ngất trời, mặc cho anh thổi xướng. Chí đạo không khó, chỉ vì nghi ngờ chọn lựa, thế nào là không chọn lựa? Trời cao, đất dày, mặt trời đi, mặt trăng ở. Thế nào tăng đường là tăng đường, điện Phật là điện Phật? Ca vịnh rõ ràng há không đường khác. Thế nào là cội nguồn đại đạo? Ai không phải ở trên trời? Thế nào không tìm núi bên suối? Đã biết được diệu dụng, kî nhất ở rừng núi. Lưu ly và sắc lưu ly bắt nguồn từ hào quang chiếu, sáng của Phật, thế nào là hào quang chiếu sáng của Phật? Ẩn không được? Thời quá khứ của đức Phật Đăng Minh, ánh sáng ấy là điềm lành như vậy! Tìm lời chuyển càng xa. Sóng cuồn cuồn mạnh như trời, thỉnh Sư phương tiện qua xem. Sóng lớn nước không chìm, nêu chéo không giăng buồm. Thế nào biển yên sông xanh? Chặt biển ngạch tìm gỗ thần, người nương bè không nhìn lại. Quá nhiều văn tự có rõ được không, chưa rõ thì hãy nhớ. Mỗi mỗi phải nhìn bước, nghiên cứu lý để tham vấn, thì cây gỗ thần không xa, chớ hướng ra ngoài tìm cầu. Ngay đây phát sinh, tùy theo chỗ tự hiện khắp đại địa quả đất, rõ ràng sáng tỏ. Nhưng trong mười hai thời đi, đứng, nằm, ngồi, cẩn thận suy nghó xem là ngăn ngại, cái gì làm cớ nói không được? Chỉ vì tất cả cảnh thức không thông, bị cảnh lôi kéo chạy theo cảnh, không thể làm chủ được. Thế nên trong một câu Tam huyền, bốn thứ chủ khách rõ ràng. Chỉ vì nhiều đời bị mây phiền nảo che, ném bỏ ngăn che. Ngày nay lại không gần đạo nhân mắt sáng để quyết định, thì chớ để qua ngày tháng. Thế nên người xưa nói: Đời nay không thông, đời sau tắc nghẽn. Lần lần không sáng, suy nghó luống qua năm tháng, uổng phí thời gian, tại gia xuất gia, phải nên sáng tỏ. Nếu liễu được tận quá khứ, vị lai ở nhân gian, thiên thượng làm Sư tử hống. Báo cho trời người biết giúp nhau làm chủ khách, mở ra thân vào tự tại, là chỗ nương là chỗ dừng, là đạo là đường, có gì ngăn ngại đâu. Nếu không liễu thì ngàn khó vạn khó, hãy mau tiến lên thoát khỏi căn trần. Nếu không liễu mà nay nói dố. Trân trọng. Sư Thượng đường nêu Hòa thượng Tiên Thanh Môn, buổi đầu khai đường, Tăng hỏi: Từ lâu, biết Sư ủ rượu bồ đào, ngày nay mở ra cho ai? Quỳnh tương một giọt có khác, để độ khắp người mê. Thế nào là một ly của Hòa thượng? Uống vào một vị thật ngon, được vị thật hả hê. Khi không uống không say thì thế nào? Cắt tai nằm dài ngã tư. Chân châu hằng ngày là Phật, nhọc gì tìm vật trên sóng, thế nào là chân châu hằng ngày? Báng bôi trát trước mặt quặng mỏ. Thế nào ứng dụng không thiếu? Trên điện Lưu li Bích vân sinh. Thế nào là chủ trong chủ của Hòa thượng? Kî nhất phạm vào. Chớ cho là chỗ chỉ dạy của người học chăng? Thần chú không thể chịu nổi. Tăng lễ bái. Sư gõ giừờng thiền nói: Nếu đến các nơi thì nêu như thế nào? Khi hồng chung chưa đánh thì thế nào? Tiếng rung động khắp đại thiên. Thế nào là dừng đắng thôi chua? Việc trong Na lặc ca thì thế nào? Tăng không hỏi. Sư hừ một tiếng nói: Học đạo phải thưa hỏi về vô tâm. Thế nào là đường chân chánh? Chớ đi đường khác. Khi sông lặng, biển bình yên thì thế nào? Đưa mái chéo lên tức là ngừng mê. Làm sao bảo nhập? Biển yên sóng lặng, đồng thời kéo con quay và mái chèo. Trong môn chánh pháp, thế nào là chỗ được vào của Hòa thượng? Đêm trăng các sao nhóm lại, không rơi vào cung tử vi. Thế nào là vầng trăng sáng trên trời? Ban đêm người đi không tối. Thế àno là đạo? Ông cùng mọi người đi. Hớp một ngụm cạn hết nước Giang Tây, ý chỉ thế nào? Đạp phá thiên quang, thênh thang khác hẳn. Thế nào là mọi người đều biết? Chẳng những Xà-lê, lại Tăng cũng vậy. Nếu có thể đạp phá Thiên quang, chỗ nào lại có Phật pháp không thông. Chỉ vì ngàn ngăn vạn chướng, cho nên khó thấy. Nếu nay mọi người đều sáng tỏ được, đứng lâu trân trọng. Tiểu tham cử: Đức Sơn dạy chúng rằng: Đêm nay không trả lời. Nếu có người nào hỏi sẽ ăn 30 gậy. Khi ấy có vị tăng bước ra lễ bái. Đức Sơn liền đánh. Tăng thưa: Con chưa hỏi tại sao đánh con? Ông người phương nào? Người Tân la. Theo lời của ông, khi bước xuống thuyền, đủ ăn 30 gậy. Học nhân đến đây xin Thầy dạy. Sư ném gậy về phương trượng. Sư thượng đường nói: Mây giăng khắp, ngọc rơi, Sương mù tỏa khắp trên không? Từng giọt Sương thành châu, Sương muối rơi trên lá. Mặt trời, mặt trăng thường sáng, rực rỡ khắp hoàn cầu. Tâm người sáng rỡ, không câu nệ vào loài vật. Thu đến xuân sang, hòa quyện theo thứ lớp. Thế nên mới biết được không không mất âm huyền. Nếu nay không tiến được, lại đợi đến lúc nào. Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Gánh gai không quý. Thế nào là quý? Nghe tiện thì quý. Thế nào là khách trong khách? Biết được hạt châu trong chéo áo, ngồi nghiêm trang biết rõ ràng. Thế nào là chủ trong khách? Mặt trời, mặt trăng đều ở trên cao tỏa sáng khắp vũ trụ. Người Đại xiển đề nghe tiếng hồng chung xướng lên lời ca của Tổ. Quân tử Lương ngồi giữa Sư, hôm nay thế nào? Chớ ném lại. Thế nào là ngày nay thua trận? Thiêu thai, nay tặng thêm hai mươi gánh. Sư nói: Muốn biết nghóa Phật tánh, phải xem xét thời tiết nhân duyên. Biết rõ ràng thì tin được, chớ vọng sinh dị kiến, đứng lâu. Trân trọng. Sư thượng đường nói: Tất cả chúng sinh sẵn có Phật tánh cũng như trăng sáng trên không, chỉ vì bị mây lành che khuất nên chưa hiện rõ. Tăng hỏi: Trăng sáng trên không, khi bị một áng mây che thì thế nào? Lão tăng có lỗi, Xà-lê phải biết. Thế nào là rõ ràng biết được? Sau khi về chớ suy nghó. Không trải qua Hóa thành, liền lên Bảo sở. Khi ấy thế nào? Thật là bậc anh tài nhiều kiếp khó gặp. Nương giáo có lời vì những người đời sau mở ra một con đường sinh thiên. Thế nào là con đường sinh thiên? Chớ đoạn chủng tử Phật. Thế nào là nương vào con đường ấy đi? Ba ngàn thế giới thâu không được, sáu nẻo luân hồi khá chịu thôi. Học nhân muốn đi về quê hương, nhà phá, người mất, việc này thế nào? Đừng đi đường tâm xứ, chớ giữ ở nhà, chưa biết ai là người tri âm. Giữa đường gặp kiếm khách nên trình kiếm, không phải nhà thơ chớ nói thơ. Trăm ngàn ngọn đèn thì không hỏi, thế nào là ngọn đèn ban đầu? Có thể biết được câu hỏi này. Thế nào là sáng rỡ trước mắt, ngày nay đang vòi vọi? Sư liền hét. Tăng không đáp. Một tiếng hét diệt tiếng hét. Tăng lễ bái thưa: Chớ lừa đại chúng. Người chết trong áo quan. Thế nào là ý nghóa sâu xa? Tào khê không khúc khác, đường Kim phong càng cao. Thế nào là đồng đường không đoạt cơ? Cứ rõ ràng là chỗ Phần Dương. Nêu ra từng bước ngàn khe, tìm đường chuyển đường mê. Một câu trong này, con xin Thầy một câu phương tiện nhắc nhở. Ngàn năm không bóng cây, ngày nay thấy cành cây. Nếu không đưa ra câu hỏi này làm sao thấy được cơ của Sư. Người mù xem tận vách. Mắt nhìn nhân gian, ban đêm đốt đèn Tổ Sư, thế nào là đèn Tổ Sư? Xưa nay không mờ mịt. Thế nào là non nước thanh bình? Chiếu sáng là người của biển. Sư nói: Chư thượng tọa cái đó là người của biển, có ra được chưa? Cho ông gọi ra, muốn biết biển không? Chỉ vì tất cả chúng sinh từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay vọng tưởng điên đảo, tham sân ngã mạn tà kiến tất đố. Tất cả chỗ nói không được, gọi là lâm theo ý muốn của biển, chớ tìm trong thiên hạ. Phải mau tỏ biết, đừng dong ruỗi chạy theo, chớ bị các trần mê hoặc. Thế nên người xưa nói tất cả biển nghiệp chướng đều từ vọng tưởng sinh. Hòa thượng Vô nghiệp nói chớ vọng tưởng, có tin kịp không? Nếu mình chưa tin được thì khó thoát khỏi sinh tử. Nếu nay tin được thì đâu có điều gì. Đứng lâu. “Trân trọng”. Sư thượng đường nói: Nếu luận về đạo này thì dứt đường ngôn ngữ. Việc bất đắc dó nên mới nói đông nói tây. Hãy nói thử có được việc gì? Tục só ra lễ bái, khoanh tay đứng gần. Sư nói: Thế nào?”. Tục só bước lui. Sư gõ giường thiền. Tục só vỗ tay. Đồng sau nhà thọ trai, một triền thoát ra ngoài trời xanh, hoàn cầu lặng lẽ là thế nào? Bình lặng phô bày ba giọt nước, uốn cong tợ lưỡi liềm. Ngày xưa kiếm Âu ca, ngày nay ai khoa kiếm? Âm vang. Không rơi vào ác duyên xin Thầy nói. Gia. Thế nào là đầu tóc bạc dưới đèn? Hồng. Câu trước tiến được, cô phụ bình sinh, câu sau vào cơ, hoàn toàn trái với thể đạo, ngay đây nhận lãnh. Từ Nhai châu vạn dặm đến đây, xin Thầy cho một phương tiện. Ngày thu ngậm cỏ nương đường, xuân đến mưa phùn ướt áo. Thế nào là nương đường có chỗ ở? Cách ngàn vạn năm quá lâu mới trui rèn. Sư nói: Sáng qua tối đến thì lại đêm đông. Nếu nay trong này cùng với huynh đệ, trì luận lâu dài thành tựu, có Sự cứu giúp thì được. Mỗi người được nửa trăm, không biết được bổn phận Sự, phải chịu khó khuất phục, chớ để luống qua năm đời mười đời. Không cần đứng lâu. “Trân trọng”. Thượng đường Sư nói: Nếu luận về người thuyết pháp, phải kịp thời tiết, quán sát vào căn cơ, đúng bệnh cho thuốc. Nếu không kịp thời tiết, đều gọi là lời phi thời. Thế nên nói, múôn biết nghóa Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên. Nếu không biết được lý quân thần phụ tử, tà chánh không tỏ thì chạm tịnh khó thông, gọi là giả lão âu ca. Hoàng đạo thản nhiên, Phật pháp hiện tiền, nắm lại buông ra tự tại. Lâm cơ sinh sát, hoặc biết được khách trong chủ, hoặc nói chủ trong khách, hoặc hiệp lại thông nhau, hoặc dò sào bóng cỏ. Hoặc trong một câu có tam huyền, tam yếu, có người hỏi chăng? Bay ra trước thương lượng. Học nhân chưa đạt được việc trong này, thế nào là tự kỷ? Ngay ấy chớ quên, lúc này một câu chưa thông, phải biết có thuận, nghịch, sau khi đọc được thì thế nào? Sau ba mươi năm chớ cử sai. Khi rõ ràng chưa thành điềm thì thế nào? Trên biển thuyền giao động vui đùa, vọng nêu lên lộ trình. Khi ba cõi đồng đường vuốt thân không được thì thế nào? Có thể chịu được, không phải lúc dấy loạn. Đối diện không hình biết được y. Bao bọc đầu Sư, xin Sư gọt giũa. Đến triều dâng Sở vương xem. Thế nào đồng đường mới biết? Chặt chân dù biết quý, trời người không thể lường. Vạn pháp vốn không, tâm sinh có gì? Không nhớ đưa ra câu hỏi àny, thì đâu đến được Phần Dương. Thế nào là đang sinh, sinh trong sinh? Tự biết được khả năng làm quý, không cần suy nghó thêm. Khi một câu nói chưa được thì thế nào? Vạn cảnh không lầm nhau, trời cao không tự biết. Làm sao lãnh hội. Sáng rõ ràng như đuốc, đâu cần nghi ngờ thêm. Cơm vô vi, chưa biết cúng dường người nào? Cúng dường cho ngàn tướng không hình, cùng hội không trang nghiïêm. Làm sao đại chúng có chỗ nương. Trong ba ngàn thế giới, dứt tình đợi lợi quần sinh. Mỗi cửa tất cả cảnh, hợp nhau hay không hợp nhau, thế nào không hợp nhau. Ngày nay lội qua bùn không dễ. Cam lồ rưới mãi vì sao trăm cỏ không nẩy mầm? Ruông hoang chưa có nước, Long vương làm sao? Thế nào là pháp môn tâm địa? Chớ tìm từ người khác. Xin Thầy chỉ lại. Ông là người xuất gia ẩn hang sâu. Cuốn rèm, mở cửa, người này ở đâu? Trăm học Ca hoàng hóa hiện, huyền âm rộng như hư không. Thế nào gương sáng treo đến ngày này? Người đương thời đều chúc tụng. Một âm phổ biến ba đời lặng, bốn phương tám hướng đều về chầu. Thế nào là một giọt nước Giang Tây? Người uống mãi không khát. Thế nào là vị lành ít người biết? Thấm nhuần khắp không từ nguồn. Thế nào là chỗ hành lý của Chư Phật? Ngay đây đường vô sinh, khi đi không động trần. Làm sao tạ ơn phương tiện của Sư? Đường Đông Tây, nam bắc, không cần phải xa hoa. Sư nói: Vừa rồi thượng tọa hỏi, thế nào là chỗ hành vi của Chư Phật? Đáp đường khác, ngay đây đường vô sinh, khi đi không động trần. Thử hỏi chư Thượng tọa đã có đường vô sinh, thì làm sao tiến bước được, thử tiến xem. Nếu không tiến bước thì không thể có Thích-ca tự nhiên và Di-lặc thiện nhiên. Thế nên cất bước du phương vào bậc thềm táhnh tinh tấn làm Sự nghiệp, nếu không tinh tấn thì không có lẽ đó. Thế nên kinh nói: Chưa từng có một pháp nào, bắt nguồn từ giải đãi đạt được, tinh tấn giống như trâu hai Sừng. Học tập lâu ngày thì thân tâm được thuần thục, chánh niệm hiện tiền, đưa ra thâu vào được tự tại”. Cho nên công mà vô công, thì công ấy lớn vậy. Ngài Chí công nói: “Dõng mãnh tinh tấn trở thành giải đãi”. Nay hỏi chư thượng tọa, đã tinh tấn vì sao thành giải đãi? Nếu là bậc Tiên đức tham cứu lâu, không ở trong giới hạn, người sẽ tâm học muộn thì phải cẩn thận. Mọi người đã tinh tấn, tinh chuyên không giải đãi, nói nhiều càng xa đọa. Đứng lâu trân trọng. Sư thượng đường nói: Núi Tu-di ngã, nước biển cả cạn, cá hóa thành rồng, chim thú bay lờ đờ, đầy cả hư không, ngay lúc ấy thì thế nào? Phật xuất hiện xuống thế giới phương khác, nói thử có phần tu hành không? Chỉ ra cho ta xem, có không, có không? Tăng vừa lễ bái. Sư đánh, nói: Ta vào cỏ hoang không đầu mối, ông thì đất bằng thành hầm hố, khắp nơi bị ông chôn vài, làm gì nói mau, nói mau! Tăng không nói. Sư tụng: Đức Thích Tôn than, ông vọng cầu các nơi vì lòng từ thương xót cắt đứt dòng sinh tử. Quyết định chớ nên động mảy tơ. Thiên hạ an lành khen thanh nhãn. Nắng lạnh thanh người nghèo ở đâu? Không quảy không mảy tơ mặc, cả ngày an lạc, an vui. Thế nào ưng thuận không bày vâng? Núi sâu ẩn không được, phô bày trên đất không rõ hình. Thế nào là đường hướng thượng? Ngàn Thánh không truyền. Vì sao không truyền. Không muốn chôn vùi. Thế nào là đạo tràng? Cất bước không được. Dở gót không được ý chỉ thế nào? Tam thập tam thiện. Cất bước không được ý chỉ thế nào? Mười tám tầng địa ngục. Nương giáo có lời tâm không ngăn ngại, thế nào là không ngại. Trời cao không lường được, đất dày không thể biết. Thế nào là đường đông, tây, nam, bắc, là hành xứ thênh thang của học nhân? ông thử đi một bước xem. Chưa biết đi rồi thì thế nào? Trời cao không dấu chân, trong nước và dấu cá. Thế nào là vầng trăng. Không xuất phát từ thiên địa, há suy tìm mượn bốn thời. Thế nào là ngày đêm? Người mê vọng sinh hiểu biết, sau khi hiểu thì biết thời. Núi đông đỉnh tây xanh tốt ý chí thế nào? Đất rộng phát sinh lạnh nóng, gió thổi mặt trời chiếu xuống mây. Thế nào là phương nam có Triệu Châu, phương bắc có Tuyết Phong. Điên đảo rồi. Thế nào là không chướng không ngại? Mau lễ ba lạy đi! Khi đối cảnh tâm số khỏi thì thế nào? Tục duyên nhớ nghó là hành xử ngày xưa. Đó là nói cho người hiểu nghóa không, chưa biết tiêu khiển như thế nào? Có thì giống không thì quý, ngoài rỗng thân ngang dọc. Khi trong tòa. Quan thị hiện kiết già thì thế nào? Trăm ngàn vạn ức ngay khi ấy đều dứt nghi. Thế nào là xuyên tăng đường vào điện Phật? Trời người có mấy người biết. Sư nói: Khi đại chúng ở thành Câu thi na, bên sông Bán-bạt-đề, đầu xoay về phía bắc, mặt xoay về phía Tây, Long thiên hội tụ, vua mười sáu nước, hằng hà sa Thích phạm, Chư thiên, Long quỷ, năm trăm lực só, ngàn vạn Tỳ-kheo tất cả đều đem phẩm vật đến cúng dường cho đức Như lai, chỉ có Ngài Ca-diếp và đồ chúng đến sau cùng, rãi hoa đốt hướng, đi nhiễu quanh Kim quan của Phật lễ bái khóc thương thảm thiết. Khắp rừng núi biến thành màu trắng, trời đất ảm đạm tang thương. Ca-diếp đãnh lễ dưới chân đức Thế Tôn. Bấy giờ Như lai dùng thần lực duỗi hai chân ra ngoài Kim quan. Ngài Ca-diếp đãnh lễ và sờ vào chân Phật. Yù của đức Như lai là ở trước đại chúng Nhân Thiên đem chánh pháp giao phó cho Đại Ca-diếp lưu truyền mãi đến hôm nay. Chánh pháp ấy không bị mai một, cho nên ngày nay Tây Hà nhờ đó mới có lời nói lược sơ sài vài ý. Nếu muốn rộng thì đã dẫn ở những duyên xưa e rằng ngăn ngại những điều hỏi. Trong đây có ai hỏi không? Nếu không thì trở về Tăng đường. Đem tiểu tham, Sư nói: Ngày xưa lão tăng đi tham vấn Hòa thượng Thạch Môn Triệt. Triệt thượng đường nói: Tất cả chúng sinh vốn sẳn có Phật tánh tựa như vầng trăng trên trời, chỉ vì bị mây che nên không hiện rõ là sáng, là chiếu, là đạo, là đúng, là thuyền, là bánh lái, là chỗ nương tựa, là chỗ dừng. Tất cả chúng sinh vốn sẳn có Phật tánh cũng lại như thế. Chỉ vì bị mây dày phiền nảo che phủ không được chiếu soi như tấm gương sáng. Khi ấy liền hỏi Hòa thượng Thiện Chiêu Tư, biển mặt trăng bị mây che không ngừng, khi ánh sáng buông ra ngay đây thoát được cung Thủy tinh thì thế nào? Môn nói: Vách đá, sông núi không ngăn ngại, ngoài cõi Diêm phù mặc tình bay cao. Thế nào là vạn than cùng truyền không để bát. Khi người đều xướng khúc ca thái bình. Khúc ca thái bình làm thế nào xướng không rơi vào ngũ âm, chẳng dính dáng gì đến sáu luật? Có người nào hòa được không? Thỉnh Hòa thượng vì lòng từ bi. Nhân quả tự bảo nhân. Sư nói: Ngày nay Phần Dương xin hỏi chư thượng tọa có người nào hòa được khúc ca thái bình không? Nếu hòa được thì chư thượng tọa chính là lão Tăng. Nếu hòa không được thì chư thượng tọa không thể có phần. Ai là người không có phần. Phật nào là Phật không tâm, cho dù thấy Phật sáng tâm vẫn là trong mắt bị rơi bụi. Đứng lâu. “Trân trọng”. Nhân lúc trời mưa, Sư thượng đường nói: Trời mưa cam lồ vạn vật đều tươi tốt, mây giăng mờ trên không, rồng bay trên biển xanh, chuông trống hòa nhau, người hiền lẫn lộn không Tổn thương đến Phật. Hãy nói một câu có không. Thế nào là khách? Lễ bái thật ân cần. Thế nào là chủ? Có khi không giao thiệp. Khi không khách không chủ thì thế nào? Thâu trùm khắp vũ trụ. Ai là người đưong đầu? Một phần vừa nêu lên, thu tất cả hoàn cầu. Chưa biết ý này thế nào? Một câu hỏi đau đầu. Thế nào là hoàn toàn nương vào câu hỏi này? Một câu hỏi thâu hết, lễ bái thì trái nhau chăng? Không thể đánh ông. Sư lấy phất tử gõ giường thiền rồi quát. Sư nói: Người xưa đến trước giờ Ngọ, người gỗ kêu quay đầu. Người đến sau giờ Ngọ, người gỗ kêu không quay đầu. Người đến đúng giờ kêu thì đúng hay không kêu là đúng? Do đó, trước mặt của Tào Động hiểu là hiểu được cái gì? Vẫn là mặt trăng thứ hai. Đứng lâu. “Trân trọng”. Sư thượng đường nói: Vì phương tiện mở ra đốn, tiệm tạm gọi là phàm Thánh để trị những kẻ đa nghi, giúp người thiểu ngộ, đạt được đích thân thấy được Phật tánh, chớ vọng cầu bên ngoài, đi đứng an nhiên, vắng lặng, yên tónh, chân thường, lưu trú, bỏ hẳn đoạn thường, biển trí vắng lặng, trời đất sáng ngời là cái gì? Hãy nói một câu”. Đang lúc như thế thì thế nào? Không chỗ hạ thủ. Thế nào là ngoài thềm có người nghe lén? Đương cơ không hình bóng, che khuất mình hôm nay. Thế nào là lúc này? Toàn thân không ngăn ngại. Thế nào là trong cõi trần hiện thân? Tâm khéo cầu không được, dùi băng phát ra khói. Thế nào là chẳng phải trần? Không trần cũng là bệnh. Thế nào là đức Thế Tôn không nói mà nói? Đất bắc hoa lư trắng, trời nam tuyết không băng. Thế nào Ca-diếp không nghe mà nghe? Xà-lê nghe ở đâu? Người không cùng muôn pháp làm bạn là người nào? Vỡ não. Núi đông, đỉnh tây xanh tươi là ý chỉ gì? Ngàn năm băng trên đỉnh ít người đến, một làn khói Sương mù rồng bay qua. Thế nào là ba năm thừa một tháng, đến tiết Trùng Dương? Ngũ phong khí rồng thịnh, cõi kim trời trong xanh, không ngộ được Tổ tông, không tin đại đạo thì thế nào? Đập vở trừng lưu ly, thoát ra khỏi phụng hoàng. Ngay nay đích thân thấy Hòa thượng được không? Ngoài ba ngàn dặm tính lộ trình. Sư nói: Đông hỏi tây hỏi, chợt ngày lời tỉnh ngộ, há không vui Sướng sao? Không uổng qua năm tháng, ông xem người xưa, công án chưa sáng, phải qua lại ba ngàn năm ngàn dặm để quyết nghi đắng cay. Nếu sáng được việc này, thì việc của các ông phải đến trước, chớ để ngày tháng qua suông, có ích gì đâu? Ngày nay đi hành khước mưu cầu cái gì? Như trăm ngàn năm Chư Phật mới xuất hiện ở thế gian, vì một nhân duyên lớn, cho nên trên phần các người không biết được. Có lão túc thượng tọa không biết được, cùng nhau chứng minh. Đứng lâu. “Trân trọng”. Phụng Tuyên biên tập xếp vào Truyền Đăng Lục, Sư thấy và mời tôi làm bài tựa Đại Khánh Phần Dương. Tại sao phải ngoài 3.000 dặm mới dựng đạo tràng, để truyền đèn nối đuốc. Nối pháp Ẩn Quang một trăm mười tám năm, quả chín hương thơm, Thánh quân đích thân ghi. Cảnh Đức Truyền muôn đời, danh tiếng vang khắp, ai cũng biết mặt. Được phước không miễn cưỡng, chiêm ngưỡng đảnh lễ cúng dường. Nhân vương, Pháp vương từ ngàn xưa vạn xưa, không bị mai một, lời vàng trục ngọc, mãi mãi được thanh lương, tán thán không nổi, ai biết được ai. Điềm quốc thái dân an. Tụng một: Chỉ cho người sáng giống đuốc, rực rỡ sáng tỏ, chia ra dẫn dụ tiến vào khúc àt, trăng sáng in chiếu rõ ràng, trời xanh mở mắt chiêm bao, từ bi hóa độ người, có duyên, độ đến ngục vô gián. Khuyên tất cả nghiên cứu nghóa huyền, khách Thơ Quang thường tiếp tục. Tụng hai: Định Quang ngày xưa thọ ký Năng Nhân. Rải tóc trên bùn nhiều kiếp làm tăng. Ghi lời này đích thân từ tôn truyền cho ta, thì từ ấy đến nay tiếp tục sáng mãi. Ấp Nhân Sùng Trai khánh giá thỉnh thượng đường, Sư nói: Ngày nay nghe tiếng chuông, tiếng trống, đốt hương cầu nguyện, Thánh, phàm đều vân tập, Thích phạm đồng đến, tăng tục ở trước, lại không nói gì khác. Mục đích là vì chịu ân nước, cho nên mới giảng một thừa để hướng dẫn người mê. Ngay lời hỏi, đáp, chỉ có hôm nay, có người hỏi không? Ấp Nhân hỏi Sự truyền thừa thông suốt tiếp tục khai rộng, pháp Trung vương không ngừng, một câu bàn huyền, ngoài xưa nay Tam huyền, Tam yếu, tạng trong tạng, thế nào là đệ nhất huyền? Đích thân phó chúc trước Ẩm Quang. Thế nào đệ nhị huyền? Dứt tướng lìa nói năng. -Thế nào đệ Tam huyền? Như gương chiếu sáng không nghiêng lệch. Thế nào là tam huyền, cửu thiên đều xướng khúc ca thái bình? Mặt trời buông ánh sáng không soi khắp hoàn cầu. Việc Nhân vương và Pháp vương thế nào? Có đạo không cơ. Chưa biết việc Nhân vương thế nào? Hoàng phong ca hóa hiện thật đẹp. Chưa biết việc pháp vương thế nào? Vô tư hướng dẫn người có duyên. Ngài Vô Nghiệp biết được tháp của Ngài Phong thạnh tên của Phần Dương, Tùng Tương An, chưa biết ba vị Thánh này tu pháp gì? Xin Sư phương tiện chỉ rõ ràng. Một lời hai đường. bày? Thế nào từ xưa đến nay không có sai nha, ngày nay vọng trình Quả thật ý chỉ chớ nên chần chờ. Thế nào là Tam yếu? Một câu sáng tỏ bao trùm vạn tượng, cửu thiên không phải là không thấm nhuần hết. Thế nào là đệ nhất yếu? Trong lời không tạo tác. Thế nào là đệ nhị yếu? Ngàn Thánh vào đường huyền áo. Thế nào đệ tam yếu? Ngoài tứ cú bách phi, đi khắp nơi đường hàng sơn. Tạ ơn Thầy đích thân chỉ dạy lìa ý chỉ, ngôn ngữ, khắp nước đều chúa tụng năm Thái bình. Nhiều lời lo đau đáo, ít lời dễ hội hơn, mọi người hãy nghe tụng: Minh vương trị hóa hợp càn khôn Cảnh đức thân tuyên chúc Phật đăng Phật nhật trường huy khai Phật nhãn Nguyên tương thử thiện phước ngô quân. (Minh vương trị hóa hợp hoàn cầu Cảnh đức thân truyền đèn đức Phật Mặt trời sáng mãi mở mắt Phật Mong đem phước thiện cho vua ta). Sư thượng đường dạy: Sáng nắng chiều mưa, chuông trống hòa nhau, tập định an thiền, xưa nay vận dụng, có đảm đang được việc sinh tử không? Trước mắt dù đoạt được, mỗi mỗi tự lường được, xem thử việc trên phần của ai? Gió bay bụi động cỏ, thình lình sét đánh, ầm ầm soảng soảng, tự mình độ nhau xem, có Sức hồi quang phản chiếu chưa? Chớ vì miếng cơm manh áo, ưa ngọt thích ngon, chạm môi tuôi ra miệng nói ta đã hiễu. Thân tâm ứng dụng sai, qua năm đoạn tháng, gánh nặng nhân ngã. Như voi điên không câu không thể điều phục được, hư hoại hết ao sen Thanh tịnh, mua cầu cái gì? Không rơi vào ba tấc, thỉnh Sư nói: Bít miệng ông lại. Thế nào là đỉnh Cô phong? Không tá túc trên ấy. Vạn dặm một làn khói. Khi đơn phương độc mã lìa bầy chiến đấu thì thế nào? Đưa tay không gươm cung, cúi đầu nuốt tên bắn. Hòa thượng là bậc đại tri thức, vì sao phải như vậy? Tướng thau không chém. Học nhân muốn đi trên mây, đến sau làm gì cho hữu tình? Lệnh hành chánh của tướng quân cấp bên ngoài, không treo cờ đắc thắng trở về. Thế nào là tri âm không dám hòa? Giữa đường gặp khách đầu luyện, cho biết người trong nồi đất. Hoát nhiên không nương tựa pháp trở về chỗ nào? Khắp đại địa mặt trời, mặt trăng chỗ nào? Thế nào là lông rùa? Khất tử cao ba thước. Đầu gậy Sừng thỏ đánh xà-lê. Mười phương Bạt-già-phạm, một đường Niết-bàn, thế nào là một đường Niết-bàn. Mặt trời lên cao hơn Phạm thiên, một đường thênh thang cao như núi. Thế nào là bóng ánh sáng? Trước bưng một cây đèn? Bảo quý không tạm dừng, xưa nay không khác vạn nhà. Thế nào là thể Bát-nhã? Biển lặng lẽ sáng ngời vạn tượng. Thế nào là dụng Bát-nhã? Vừa điểm hóa núi cao chót vót, thấy được người bôn ba xin mạng. Chư thượng tọa gọi cái gì là Bát-nhã, nếu biết được thể Bát-nhã, thì sáng được dụng, từ đó hàng phục được dị kiến, điều phục được Thiên ma, làm cho họ bỏ tà về chánh, thì được thần chân Bát-nhã. Sáng ngời rạng rỡ khắp nơi, mới xứng đáng thọ nhân, Thiên cúng dường, tiếp nối ngọn đèn Như lai, đó chính là đạo nhân chân chánh. Trên phần Thiền tăng lại có việc gì? Đứng lâu trân trọng. Sư thượng đường nói: Này chư Thượng tọa đạo nhân ngày xưa, trời che đất tối, ngày nay trời che có tối không? Nếu là bản chất tối bị nó sai khiến. Mê mình là vật đều không có chư tể, thử nói xưa nay đi hành khước là việc gì? Không bị nó sai khiến. Thể nên người xưa nói: Rõ ràng tự có khí xung thiên phải khế bội tất cả, là kỉ là cương, là đạo là đường, là chiếu là minh. Không bị bốn thời xoay chuyển, làm cho càng khôn của đại địa là cao là thấp, mới gọi là bổn phận gia phong của Thiền tăng, hôm nay có ai được thọ dụng chưa? Có thì ra đây. Có người không qua càn khôn chăng? Có. Chưa biết đạt được cái gì? Vượt ra ngoài ba cõi, không rơi vào có không. Thế nào là việc của nạp y? Chàng cùng tử. Xin Thầy cho con một phương tiện chỉ ra câu nhiệm mầu xem. Người gỗ xỏ kim núi sắc đẹp, người đá lôi chỉ bên mây biển. Trước mặt không ngăn ngại, vì sao mở miệng không được. Cả ngày không nói một lời, nói lần rần càng thêm mới. Làm sao đạt được tiếng rống Sư tử rống. Không cần chồn hoang kêu. Tăng liền hét. Thích hợp. Sư liền hét: Tăng lễ bái. Tướng thua không chém. Thế nào là khách trong khách? Đạo Thanh tịnh, người biết cầu chân. Thế nào là khách trong chủ? Vạn tượng ngang dọc đều không nhìn. Thế nào là chủ trong khách? Thân nắm được đường cổ, tay nâng nắm lấy càn khôn. Thế nào là chủ trong chủ? Ngồi đoạn đãnh Tỳ lô, không thưa đức Thích-ca. Sư nói: Đây là khách chủ, sáng tỏ được đều này chưa? Nếu sáng được cầm vác gậy xuyên qua mây nước, để các bậc trưởng lão Hòa thượng ngồi trên ghế chứng nhận, thấy được y mở miệng động lưỡi, liền biết được y. Không được thí mầm cao như xưa, điểm hung điểm lường, nói ta hiểu ta biết, vác gậy huyền diệu, buông mình ngu ngơ, lừa người hậu học. Kia không được lợi ích, nhưng tự mình biết được, bảo nhậm Thánh thai, há không được khinh an sao? Lại còn chần chờ thì đâu được dụng gì? “Trân trọng”. Tuyết rơi, Sư dạy chúng: Ngày xưa ở Thiếu lâm đâu khác gì sáng nay, không khổ nổi ngày nay lại khác nhau. Pháp vốn không hai, Nhị Tổ nói: Con bất an, xin Thầy cho con pháp an tâm”, Sơ Tổ nói: đem tâm ta an cho” Nhị Tổ: “Con tìm tâm không được”. Sơ Tổ: “Ta đã an tâm cho ông rồi”, cuối cùng ngay đó ngộ được tự tâm, không ở trong, ngoài, chính giữa. Tin thì chắc chắn đạo được, không còn tìm bên ngoài, đãn nhận không còn nghi ngỏ. Này chư hiền giả, hôm nay có ai đảm đương được không? Chỉ cần lắng nghe rõ ràng, thì pháp đó chính là an tâm Hiền đức, chớ nên chạy theo trần cảnh, dong mối theo vật, giống như Nhị Tổ đâu khác. Ngày nay Tây hà cùng chư Hiền, ấn chứng tâm này chính là Phật, không còn nghi ngờ nữa”. Cùng nhau nghe tụng: Tây hà hội lý chân Thiên tử Tử hạ sơn tiền lập tuyết nhân Thân ấn tự tâm tâm thị Phật Mạc giáo tâm ngoại biệt sinh trần. (Chân Thiền tử trong hội Tây hà. Người đứng dưới tuyết trước núi Tứ hạ. Thân được ấn chứng tâm tâm là Phật. Chớ nên ngoài tâm sinh trần khác). Sư thượng đường đưa gậy lên nói: Ba đời Chư Phật đều ở trong đây. Ông xem không có lỗ hỏng mà đều vào trong gậy này, vọng sinh tiết mục, có người nào đi theo lên đó được không? Có thì cất bước lên xem, khi ấy có vị tăng bước ra, Sư nói: Nhìn qua đã biết ông qua vạn dặm”. Sư đánh nói: Ta thì lâu nhảy qua từ lâu vào trong vũng bùn, ông đợi lúc cháy mới thêm cỏ, thật là giống hệt A Sư, cứu được không”. Tăng lễ bái, Sư nói: Đến đây ông có nhiều lời chăng? Hoặc hiểu. Nhờ ông không hiểu Phần Dương mới ngậm miệng được, để ăn cơm Tố rô, Tô rô. Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Thấu xương, thấu tủy. Ý này thế nào? Thông cả trời đất. Sư nói: Chư thượng tọa từng nghe, Đạt-ma đến phương này, liền hỏi ý Tổ Sư từ Tây sang. Giả danh như Bạch mã khi qua hỏi cái này thì được. Thế nên kinh nói: Không pháp có thể nói, đó mới là thuyết pháp”. Thử nói cho nói hay không cho nói, nếu nói cho nói, thì cái gì nói. Nếu nói không cho, thì Bạch mã đã đã trốn dưới Long cung. Cùng với các Thượng tọa thương lượng, hai tên Tổ giáo là một hay hai, số lượng thì thâu được hạ không? Thế nên Ngài Bá thượng nói: Phật là quá lượng số lượng của người chỉ cái khác không rõ”. Kinh nói: Chỉ có Phật không rơi vào các số, gọi là Tự thọ dung Tam-muội”, có hòa được chăng? Phải hòa để khỏi bị Thiên ma, ngoại đạo lôi kéo, giả dối hiện kiết hung, làm mê hoặc nguồn cơn, “Trân trọng”. * Sắp tiểu tham, Sư dạy: Điềm báo chưa sinh, thì ai luận bàn về phàm Thánh, vừa chạm đến mũi nhọn thì ngọc có tỳ vết làm sao được? Trong mười hai thời không mê mờ ngọn đèn Tổ. Tăng hỏi: Thế nào là ngọn đèn Tổ? Chiếu soi. Sau khi chiếu soi thì như thế nào? Cháy thêm. Từ trước chư Thánh không có một pháp cho người, không biết hôm nay Thầy truyền cho pháp gì? Gió đến biết rõ. Rồng ngậm nhả Sương, khắp nơi đều thấm nhuần, không biết khi nào báo đáp được? Ân này sâu dày, làm sao mọi người thấm nhuần ân đức? Giọt nước khó tiêu. Sư tử rống chủ khách đều lộ, việc gia phong Phần Dương thì thế nào? Vỡ não biết tàm quý. Tông phong đã được Sư chỉ dạy, thế nào là Sư tử Tây hà? Thôi đừng tỏ ra thẹn. Niết-bàn không đường khác, phương tiện có nhiều môn, thế nào là câu không đường khác? Ở chỗ chuông trống rõ ràng, mặt trời, mặt trăng chưa từng tối. Thế nào là tiếng chó sủa người? Không cắn người rách áo. Nếu thật là đạo nhân chân tu, không thấy lỗi thế gian, chưa biết không thấy lỗi gì? Tuyết ngập đêm trăng, sau ba thước lục địa, đi thuyền vạn dặm, Hòa thượng là tâm hạnh nào? Chính là tâm hạnh của ông. Ca-diếp được truyền y, A nan nghiêng đảo, chưa biết đạt được việc nào? Nháy mắt biết tất cả, hơi thở dứt tri âm. Thế nào mây bay ở Nam sơn, núi Bắc trời mưa? Mây kéo đến trời mưa, hơi nước kết lại thành Sương. Thế nào là việc Ca-diếp đích thân nghe? Sư hét. Tăng lễ bái. Sư đánh, nói: Nếu là môn hạ Ẩm Quang, chứa suy nghó ngàn non vạn nước, lại hỏi thế nào đích thân nghe, làm sao cùng nhau nói được. Những hạng người này, há có được hiệu nghiệm như Tiên Thánh. Những hạng người này chỉ học lời, nhiều như bụi cát mực như biển cũng không thể đốn ngộ. Theo dòng nhận bóng, vọng sinh tiết mục đâu có ngày nào xong. Không biết nhìn lại chính mình để truy tìm dòng tâm thức, kiếp đá đều tiêu, nhưng không thể tự tin. Thế nên đức Thích tôn bảo rằng thật đáng thương xót. Nhiều lời càng xa, trân trọng. * Sư thượng đường nói: Luận bàn về những người tham học phải có con mắt phồi hợp thiền cơ khít khao nhanh chóng, thì chưa có phần tham học. Thế nên Ngài Cảnh Thanh nói: Đến khi con kêu, lại không có mẹ mổ. Đến khi mẹ mổ, con lại không kêu”. Đến khi con kêu thì trên phần học nhân, biết được việc bên nào? Thanh nói: Vẫn phải bảo nhậm, không cần Cảnh thanh mổ vỡ. Nếu luận bàn về Sự thật, thì đạt được việc bên nào? Đích thân nghe đi. Tại sao mẹ không mổ? Đến khi mẹ mổ, thì trên phần thiền tăng các nơi, lại việc bên nào? Lồ lộ trước mắt. Nếu luận bàn về Sự thật, thì đạo đạt bên nào? Hãy nhất là thương lượng. Vì sao con không mổ? Già thành trẻ khó. Dù được, thì thế nào là con mắt phồi hợp thiền cơ khít khao nhanh chóng? Cũng có người chưa từng trải qua. Thế thì người chưa từng trải qua, có vượt lên được không? Cọp kêu, ai dám ngồi đầu cọp. Sư dạy: “Nếu biết ngồi đầu cọp, mới có thể ra trận đánh cờ. Hai bên nêu lên thiền cơ dạy y biết được thời tiết, thọ dụng không mất. Mỗi mỗi dựng đứng lông vàng la hét khắp nơi, ưng vật tự tại, khi Thơ Quang lợi sinh tiếp độ người, cho nên nói nhưng loài Thiên, nhân đều hưởng ân lực này, cùng ông tụng ra đi, mọi người hãy lắng nghe. Phối hợp thiên cơ khít khao nhanh chóng thì dụng khó gặp nhất, hợp với hai gã phong điên chặt tùng từ xưa đến nay, Phổ hóa lúc ấy được toàn dụng. Sư nói: Nay hỏi chư thượng tọa, có biết Phổ Hóa không? Sáng đánh đầu, tối đánh đầu, ném gậy xuống thiên đường. Sư nêu Hòa thượng Tiên Quảng Đức và những người nói về lý thật, mỗi mỗi người đều có vương tử nói, Tăng thỉnh Sư nói: Vương tử khi chưa lên triều thì thế nào? Sáu cung ca vận tuyết, tám nước nghe sáo thổi. Khi đang lên triều thì thế nào? Ấn ngọc chưa rõ ràng, muôn nước đều kính lễ. Sau khi lên triều thì thế nào? Mặc áo trắng hỏi điền ông, khắp pháp giới không biết nhau. Sư tụng: Tam triều vương tử quý kiêm tôn Cổ kim tương truyền thục khả phân Bát quốc lục cung triều hóa mỹ Phần Dương ấn đích mạc vân vân” (Tam triều vương tử quý và tôn. Xưa nay truyền nhau ai được phần Tám nước, sáu cung triều hoa mỹ Ấn Phần Dương không rối ren). Sư thượng đường, tăng hỏi: Từ xưa có người thì gậy, có người thì hét, chưa biết đạt được việc bên nào? Đều chưa từng dùng, chịu được Ta sẽ xuống cuối chung ly. Đương cơ con thứ mất chiến trường. Tăng hét. Tác gia. Tăng lễ bái. Không phải tác gia dùng gậy điểm một tiếng hét. Ngài đại bi ngàn tay, ngàn mắt, thế nào là mắt chính? Mù. Thế nào là một cây gậy hai người khiêng? Ba nhà trong thôn xướng khúc hát đất Ba. Làm sao Hòa thượng đồng ở? Cám ơn ông ân cần lo lắng. Văn-thù và Duy ma cật khen hay, ý này thế nào? Nói sai về danh ngôn. Làm sao cho lời này thật đúng? Gặp thì lột ra hết. Giết cha giết mẹ đến trước Phật sám hối, giết Phật, giết Tổ sám hối chỗ nào? Đêm trăng khêu đèn, hết thảy độ được mấy người? Làm sao trong cung thủy tinh thấy được trăng sáng? Con người sáng như bảo đuốc, chiếu sáng khắp tinh tràng. Thế nào là thân Chuyển luân vương? Bảy báu đè theo nhau, ngàn giờ thường vây quanh. Thế nào là điều tốt chẳng bằng không? Sư lấy Phất tử vả vào miệng. Có người tạo nghiệp đem đến Sư, có tướng không? Sáng đánh ba ngàn, tối đánh tám trăm. Thế nào là lông mày hình chữ bát, mắt giống kim cang? Người đất lùi bước. Mặt trăng dù sáng, khi không dấu được bóng đêm thì thế nào? Mây trắng dày ba thước, vầng hồng sáng nữa ngày. Đàp nhiều không thấy người thời xưa. Núi cao ngăn không được, mây tan từ Đông Tây. Không tránh được nguy vong, xin Thầy tiếp độ. Nam có Tuyết Phong, Bắc có Triệu Châu. Thế nào nói om sòm phiền Hòa thượng? Cầu đá Thiên thai hẹp, tòa cụ Thanh lương rộng. Việc Tân la thì sao? Sư đánh. Ly tứ cú, tuyệt bách phi, thỉnh Thầy nói khác? Sáu lần sáu ba mươi sáu. Thế nào gió thoảng mênh mông? Chín lần chín tám mươi mốt. Tăng lễ bái. Sư tụng: Phong thanh hạo hạo ngữ huyên huyên Ta vấn chư hiền hà vật tuyên Nhắt cú liễu nhiên siêu bách ức Thuỳ nhân cánh vấn cá trung huyền” (Gió thổi mênh mông tiếng rì rầm Mượn vật gì hỏi chư Hiền Một câu thấu được qua trăm ức Người nào lại hỏi nghóa trung huyền). * Sư xem Ngữ lục và Ngũ vị Quân thần của Hòa thượng Động Sơn Lương Giới liền thuật tựa và tụng. Nói về nghóa huyền thì lời không đến kịp, ý chỉ nhiệm mầu, ý chỉ không thể quy về. Thì không thể thay nghèo của Thánh hiền, không thể lấp đầy được đức. Hiền không thiếu mà hiền lại cao, đức không lấp mà đức lại đầy, nên nói là Động Thượng Giới Sư, về sau Tào Khê gọi là Cao Chấn. Vì phương tiện mở ra ngũ vị, để khéo độ ba trình độ, để xiển dương rộng một âm, hoằng truyền vạn phẩm. Rút kiếm bảo, quét sạch các kiến chấp như rừng, hoằng truyền diệu nghóa, dẹp hết xuyên tạc dị đoan, mở rộng then chốt không môn, khêu đèn huyền trong thất tối, khôi phục mở rộng bao, nắm lại thả ra tự tại. Thật là quy giám của thiên nhân, làm cầu rường chính yếu. Nếu chẳng phải căn cơ Kim sắc thì đâu thể vào nhà được, mong mỏi hiển lộ toàn nói rõ lời cách ngoại. Thưa hỏi chuyện ném nhắm mũi kim, cái hay trong vật hồi hỗ, sóng chớp bảo táp trên biển, sóng tỏ lặng yên, mặt trời rạng rỡ trên không, yêu ma bặt dấu. Hoặc dấu hạt châu trong chéo áo, hoặc chỉ bày trong búi tóc, chẳng phải danh lợi ở nhân gian. Quý ở chỗ hiển bày tông phong ngoài vật. Từ xa đến đây thưa hỏi, há dùng lời khiêm tốn, liền kể lại những nền tảng xưa kia để chỉ dạy cho người học. Mặc dù đáp lời chân thật chất phác, vẫn dùng lý huyền không thiếu, Ngũ vị đủ tiêu chuẩn, Tam huyền chỉ thẳng, bao quát tất cả pháp giới hà sa, thông suốt cà nguồn giác, bao trùm cả vi trần vô lượng, thảy đều trở về bờ chân. Thế thì lương triết dễ hiểu, bọn mê mờ khó biết được. Ngũ vị phải biết nghiên cứu, một mảy nhỏ vừa động đã trái nhau. Kim cang đựng trong hộp, ai có thể dùng được, chỉ có Na-tra căn cơ bậc nhất, nháy mắt ba cõi đều yên tịnh, lắc linh làm cho cửu thiên đều trở về. “Chánh Trung” nhiệm mầu thông hợp nhau, do dự mũi nhọn mất uy. Thế nào là Chánh trung lai? Hạn hán hoa sen nở hoa. Sau khi nở thì thế nào? Nhụy vàng, tơ bạc bầy ngọc. Cao tăng không ngồi đài phượng hoàng. Thế nào là Chánh trung thiên? Thỏ ngọc đã biết sau đem đầu, gà vàng đã báo trước canh năm. Thế nào là Thiên trung chánh? Mạc nhỏ thành cây lớn, một giọt nước thành sông. Thế nào là kiêm trung chí? suy. - Ý chí không phải do trời đất có, anh hùng há mượn bốn thời - Thế nào là kiêm trung đáo? - Ngọc nữ ném vàng thói dệt cửi, người đá đánh trống thùng thùng. Tụng ngũ vị: Chánh trung lai kim cang bảo kiếm Phất thiên khai nhất phiến thần Hoành thế giới tinh huy quang Lãng diệu tuyệt trần ai”. (Chánh trung lai kim cang bảo kiếm. Phất trời mở một thần quang. Khắp thế giới rực rỡ. Sang ngời dứt trần ai). “Chánh trung thiên lịch phong cơ Trước nhãn khân thạch hỏa lôi quang Du thị đốn tư lương Nghó nghó cách thiên sơn”. (Chánh trung thiên phong cơ vang rền Mắt thấy vỡ đá nháng sấm chớp Vẫn là tư duy chậm Do dự cách ngàn non). “Thiên trung chánh khán thủ Luân vương Hành chánh lệnh thất kim thiên tử Tổng tùy thân đồ trung Du tự mịch kim cảnh”. (Thiên trung chánh xem được Luân vương. Lệnh hành chánh bảy kim ngàn tử. Đều trong đường tùy thân. Vẫn tự tìm gương vàng). “Kiêm trung chí tam tuế kìm mao Nha trảo bị thiên tà bách quái Xuất đầu lai hao hống Nhất thanh giai phục địa”. (Kiêm trung chí kim mao ba năm. Nanh vuốt đủ ngàn tà trăm lạ. Xuất đầu ra gầm thét. Một tiếng trăm thú phục sát đất). thôi. “Kiêm trung đáo đại hiển vô cùng Hưu tác tạo mộc nguư bộ bộ Hỏa lý hành chân cá Pháp vương diệu trung diệu”. (Kiêm trung đáo bày tỏ vô công. Dứt tạo tác từng bước mộc ngưu. Ở trong lửa thực hành chân. Pháp vương diệu trong diệu). *. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Phần Dương? Ngọn Tử hà cao ít người lên, nước Tây hà cao hơi cầu nhiều. Thế nào là người trong cảnh? Ngồi lâu xem tin tức, đốt hương, đèn, đuốc Thánh. Thế nào là gia phong của Hòa thượng? Tam huyền, ở đường chánh, một câu phá tà tông. Thế nào là kế sống của Hòa thượng? Bình thường không nắm bắt, cúng dường Ngài Đạt-ma. Không biết ăn cái gì? Cơm Thiên Tô hà không thịnh soạn, một vị canh ngon no thì Thế nào là khúc ca của Hòa thượng? Sáu luật không có người nghệ thuật nghe, Bá Nha mất ai gẩy đàn cho Tử kỳ? Có người hòa được không? Có miệng không luận chuyện thế gian, vô tâm chỉ vì không tri âm. - Làm sao Hòa thượng hòa được? - Ông thử hòa xem. Tăng không đáp. - Trên trời chợt có sấm vang vũ trụ, dưới giếng ểnh ương không ngẩng đầu. - Thế nào là tên Phần Dương? - Nghệ mới điều cung, Cửu ô thất sắc, phải biết là tay thiện xạ. - Hổ đá đã bị hại, dao vàng dấu vào cánh. - Làm sao Hòa thượng thổi sợi lông trên mũi kiếm. - Không cần đúc đem đến, mở hộp thấu thần quang. - Người dùng thế nào? - Có điều lạ, là trừ được yêu nghiệt, vô sinh không cần màu. - Có truyền cho người khác không? - Đường Trường an thênh thang không cửa ải, xe ngựa vô tự do. *. Sư nói: - Nầy chư thượng tọa nếu nói về Vô Đức thì gọi là siển dương chánh pháp. Hỏi đáp thi vị, thì biển cả cạn, đạo này không cùng, từ xưa đến nay chưa từng gián đoạn. Chỉ ở các người đứng lâu tâm sinh mệt mỏi, cho nên không thể nhớ được, một lời nữa câu, không dễ gì được nghe, phần nhiều là bối trần hiệp giác, vọng sinh xuyên tạc. Mỗi mỗi đâu có Sự tướng gì, sao không nghiên cứu nguồn chân, để trôi lãn trong sinh tử, luống qua năm tháng. Người xưa nói: Nói nhiều lắm lời, vẫn là qua lại lầm nhau”. Nay nói rõ cho các ông, nói cũng là lâu ngày nhựa cây đem bôi vào môi. Hãy bảo trọng Sức khỏe”. * Nhận thỉnh ở Nhượng châu phải đi qua huyện Hoa. Sư thượng đường nói: Vừa lên tòa này, là đã báo ơn Phật, lại còn lo đau đáu đâu có ích gì? Tuy nhiên như thế, vẫn phải dùng nhiều phương thức tiếp dẫn người sau”. - Có vị tăng ra lễ bái. - Hãy đứng lại, chưa đốt hương, Sư lấy hương đưa cho tăng, nói: - Phải kính trọng cái này, ta nay cũng đích thân dốt, có người giáo phó được ý chí của ta không, thì đốt hương. Sư lại nói: Tâm ấn của chư Tổ, dứt đường ngôn ngữ, xướng lên để dẫn dắt người có căn cơ, há không phải là luận bàn suông. Sấm chớp gầm vang, đương cơ ai dám, Sư tử cất tiếng rống, ngàn thứ cầm thú đều mất tích. Tăng bước ra lễ bái. - Xà-lê này được ba mươi gậy, y luôn ân cần buông mau. - Câu Tam phong thì không hỏi, việc tâm ý của hai người thì thế nào? xem. Nhớ chưa? Thế nào là chân phong nước ông, Bảo phong nổi lại? Chớ vọng sinh tiết mục. Việc của chư Thánh từ trước, thỉnh Sư nhắc lại. Trăm thứ đều nghiền nát. Thế nào tạ ơn Thầy dẫn dắt. Án tố rô, tố rô. Pháp tướng vô vi người khó thấy, thỉnh Sư phương tiện dạy chúng Không được cử sai. Thế nào tất cả đều nghe thấy. Sai rồi người nói bị đánh một gậy. Sư nói: Ta muốn theo chúng đi qua dưới cây Lâm Tuyền, may nhờ Phần Dưong xa xôi, phải qua huyện Quý, lại gặp Hòa thượng Đường Đầu và Hòa thượng các viện. Từ cao quý đưa xuống đê tiện, nâng cao ánh sáng của Phật, thỉnh mãi cử xướng, thật hổ thẹn vì vô đức, há có hiệu quả được như tiên Thánh, làm chủ mọi người, đều thành Phật Sự nói được gì? Thượng tọa Bảo hoa chỉ có Từ tôn, đạo tràng kim cương, không khác phe phái khác. Chẳng những chỉ có mấy con Sư tử, đèn thì không thể sánh bằng mặt trời, mặt trăng. Dưới cửa của lôi môn, trống vải khi đánh, nhưng hôm nay có người đánh được. Nếu có ai thì bước ra đi? Ngài Tịnh Danh không nói, vẫn còn liên quan đến văn tự. Chúng vào tăng đường định luận bàn điều gì? Ăn gậy được chưa? Tịnh Danh ngậm miệng làm gì? Tướng thua không đánh. Sư nói: Ông hỏi ta đáp đến lúc nào xong, mọi người đều im lặng đâu được lợi gì? Ngăn trệ chư Thánh, làm sao bảo đáp. Người xưa nói: –Dù thần nghiền nát cũng chưa báo đáp được. Một câu liễu ngộ vượt khỏi trăm ức, có đảm đang được không. Đứng lâu bảo trọng Sức khỏe. tích”. Tối tham vấn, Tăng hỏi: Ly tứ cú, tuyệt bách phi, xin Thầy phân Sư nói: Pháp Đại thừa đều từ đây lưu xuất, Sư gõ vào giường thiền. Làm sao tất cả đều được nghe. Không cần lo âu. Đức Vân không xuống đảnh diệu phong, Thiện tài biết tham tìm chỗ nào? Ngày nay nghe lại. Mé đông Giác thành ngày nay đích thân nghe. Núi Tuyết bờ Nam thêm ba ngàn. Đại dụng hiện tiền không còn khuôn phép, thế nào là Đại dụng hiện tiền? Rơi ở chỗ nào? Tăng không đáp. Sư hét: Phất tử mộng ngắn. Con đã đến theo Hòa thượng Đường Đầu và đại chúng thưa thỉnh, không cử xướng. Ngày nay có người lại lên tòa này, khó báo đáp ân đức, hỏi đáp rồi, thật hổ thẹn mình ngu dốt. Dù một tâm đưa ra có sai khác, xưa nay đều giống nhau, tùy theo trình độ xuất hiện làm lợi ích, đáp ứng các duyên. Thông suốt tất cả khắp càn khôn đại địa, mỗi mỗi không nương nhau, từng người đều là bậc anh tài. Học không phải có Thầy, có biết vị “Thầy” ấy chưa, khi tiếp xúc nhau chớ nhận lầm quyết định kiểm tra sao. Đứng lâu “Trân trọng”. Sư đến huyện Đản, chúng thỉnh thượng đường, Sư đến trước pháp tòa, chỉ pháp tòa nói: Trên hội Am viên Ngài Xá lợi Phất vừa đến tòa này liền nói: Tòa này cao rộng ta không lên được, bị Ngài Tịnh Danh bảo hãy đảnh lễ Tu-di Đăng Vương Như Lai mới lên tòa này được”. Ngày nay Sơn tăng không đảnh lễ Đức Như Lai Tu-di Đăng Vương liền lên tòa này, thử nói được thần lực gì? Hội chúng? Ba mươi năm sau không được lỗi lầm, Sư lên tòa. Sư ngồi trên tòa đưa gậy đánh giường thiền nói: Hiểu không? Dập cỏ rắn giật mình. Sư im lặng giây lâu nói: Ý Tổ thật khó, người nào được thì vượt qua thứ bậc, giáo thừa dễ hiểu, người nào mất thì cách biệt mảy tơ, thế nên thiền luật đồng đường, Thánh, Phàm giống nhau. Người mê không ngộ bối giác hiệp trần. Nếu biết được hạt châu trong chéo áo, không từ chỗ khác được. Thế nên đức Phật chúng ta ở trước tháp Đa tử chia nữa tòa, rồi bảo Đại Ca-diếp rằng: “Ta có pháp nhãn Thanh tịnh, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng, vô tướng, chánh pháp nhiệm mầu đem giao phó cho ông, ông phải trao truyền chớ để mai một. Cứ như thế mở rộng. Tây thiên truyền được 28 đời, Trung hoa được sáu vị. Lão Hòa thượng các nơi mỗi vị tùy theo căn cơ phát triểu đó là nội hộ và giao cho Quốc vương, Đại thần những đàn tín có Sức lực đó là ngoại hộ. Ngày hôm nay đều là các quan dưới hội này, quan Tri huyện và các đàn tín xa gần, đang trụ trì các viện, Đại Sư Đông kinh và chúng Tăng trong giảng đường này, đồng lòng thỉnh mãi. Bảo Sơn Tăng xiển dương chánh pháp để báo ân đức Phật. Tuy nhiên như vậy, nhưng có ai nhớ được trên hội Linh Sơn giao phó việc gì? Nếu người nào nhớ được thì bước ra, thương lượng trước chúng, phải biết được chính xác. Có Đại Sư hỏi: Người ca xuất chúng, khúc ca xuất cách của nhà ai. Áo tía Thiên tử ban, chim trắng tự nhà vẽ. Việc không từ người khác được thì thế nào? Thỉnh Đại Sư nói chúng nghe. Nói trước chúng không được thì sao? Trời cao không ngăn ngại, vừa có người không thấy. Tọa chú giảng trăm pháp, Hòa thượng hợp giường thiền, giường thiền hợp Hòa thượng. Hư không có gân xương không? Tọa chủ im lặng giây lâu. Hãy nghe tụng: Tọa chủ giữ thiền hòa Nhị nghóa bất tương qua Như tư cách bất hội Tónh xứ Tát-bà-ha”. (Tọa chú và Thiền tăng Hai nghóa không hơn nhau Như thế lại không hội Chỗ lặng Tát bà ha). Ba Tiêu vô tâm nghe tiếng sấm, Tượng Nha nở hoa thì thế nào? Bồ-đề Ngọc rơi không che dấu, cả thân không cơ vị. Thế nào là chân tính Niết-bàn, nhờ Sư đánh. Long Nha vạn trượng không nhờ công. Đốt đuôi thì sao? Đại chúng chứng minh? Tiếng sấm thật to, giọt mưa không vàng. Thích tôn giáng trần bảy bước hoa sen nở, ngày nay, Sư xuất thế, chưa biết hoa nở mấy cánh? Mây giăng trên không, mưa rơi trước lầu phượng. Làm sao quần sinh được thấm nhuần? Phất tử sắp khoa thế giới, người mang hài ăn thịt, xin Sư chỉ dạy. - Người mang hài no, người gót đỏ đói. Sư nói: Có hỏi gì, thì hỏi mau, đạo tràng khó gặp, tuy nhiên, không một pháp cho người, người nào có nghi thì phải quyết trạch. Sơn Tăng may mắn, nhờ duyên giáo hóa, đi khắp quận thành để tuyên dương chánh pháp, lại phải nói cho nhân, thích. Ngay đây cắt dứt các dòng, trước mặt giao phó, có nhận được không? Nếu nhận được thì tùy cơ lợi sinh. Người xưa nói: Nói nhiều lắm lời, lý do là hiểu lầm nhau. Đứng lâu hãy “Trân trọng”. Sư thượng đường nói: Sau khi mặt trời lên cao một đường, ông nói Phật pháp lâu được bao nhiêu”. Sư thượng đường nói: Trời đã sáng, Tăng đã đến, tánh sáng tỏ đoạn phiền nảo đúng, hay không đoạn phiền nảo đúng?” Sư thượng đường nói: Không sợ lạnh, không sợ nóng là tham thỉnh, thử nói tham vấn ai?” Sư thượng đường nói: Sợ sấm núp dưới cửa, vạn vật nẩy mầm, mặt trời mọc trên cao. Tâm giác ngộ không mê mờ, vì sao người không mắt không chiếu sáng, thử nói lỗi ở chỗ nào?” Sư thượng đường nói: Tuyết tiêu mây tan hết, Sương cuộn mặt trời trên không, uống trà đi”. Sư thượng đường nói: Một vòng vừa ra khỏi biển, vạn loại đều thấm nhuần ánh sáng, uống trà đi”. Sư thượng đường nói: Sáng tham, tối thỉnh thật là tầm thường, không rơi vào ngôn ngữ thì nói gì?” Sư thượng đường nói: Nghe tiếng thấy sắc, chạm mắt buông ra ánh sáng. Núi cao, biển rộng, đất dày, trời cao, làm gì biết được chủ trong chủ?” Tiểu tham, Sư thượng đường dạy chúng, nói câu, bình thường phê diễn, không chép nhiều, ngay cả ghi chép, hỏi đáp ở sau. Trời không mây mưa ngàn sông phần, giống vang mọc mầm, khi ấp thành thật thế nào? Núi Tử Hạ cao đến nữa trời làm sao lên? Mây trắng trên đỉnh ít khách đến, tướng hồng đủ sen vàng, là cảnh giới người nào? Trời xanh không ngăn ngại, trong ngoài một vầng tròn. Thế nào ngàn Thánh đồng truyền không gián đoạn, vạn nhà ngàn nhà đều thái bình. Vạn dặm tinh hà cùng một trời. Trăm sông đua nhau chảy về biển. Việc vạn nhận phong đầu thế nào? Ruộng bằng không gai gốc, suối cong không nhọc nước chảy thẳng. Giải thoát đánh Văn-thù, ý chỉ thế nào? Nói nữa đi. Tăng không nói. Sư hư một tiếng, đánh. Có hỏi có đáp, đó là điều tầm thường, không hỏi không đáp thì thế nào? Chớ điên đảo. Chớ là cái gì? Chờ điên đảo. Chuông trống vừa đánh đại chúng vân tập, thỉnh Thầy cử. Sư đánh váo giường một cái, cử thì thôi. Xin Thầy cử hết. Sư lại đánh vào giường. Cử chính xác, cử hết, đại chúng đều nghe, xin Thầy nêu hướng thượng. Dù đánh ông không được, mau lễ ba lạy đi. Than ôi! Học nhân. Khó khăn hết. Yến về biển đông, nhạn vào trời nam, Phật pháp về nơi nào? Chỗ dụng đều biến khắp, bốn biển tận chân trời. Thế nào là khắp nơi xướng khúc vô sinh, cao giọng thái bình. Xuân đến trăm hoa nở, xuân qua lá rụng tàn. Làm sao tạ ơn Thầy đã chỉ dạy. Nhớ rõ chưa? Bạn tốt không đợi mời, khi mẹ dìu con trẻ thì thế nào? Trời mưa thấm nhuần cây cỏ tốt tươi. Thế nào một điểm thông cả đại thiên? Bốn biển thường đầy nước, Ngũ hồ há thiếu sao? Người được làm thân người, như đất trên đầu ngón tay, mất thân người như đất trên đại địa, ý này thế nào? Đúng hay sai. Ý này thế nào? Trong cung thủy tinh thấy ánh trăng, núi cao chót vót thấy mây lành. Ngày nay tiên Sư thọ trai sáu chỗ, chưa biết tiên Sư đi chỗ nào? Đi chỗ cũng chưa từng lìa chỗ cũ. Ánh sáng buông ra chỗ nào chưa thấmn nhuần ân đức. Thế nào là phối hợp thiền cơ đồng thời nhanh chóng? Ngày nay ứng cúng. Khi ném trúng đầu kim thì thế nào? Cạn sâu đâu có nghi. Làm sao mục kích đạo còn? Long Mãnh lắc gậy vàng, Đề-bà đánh chuông lớn. Học nhân từ lâu nương pháp hội, tại sao Phật pháp không hiện tiền? biết. Bình sinh mừng cho ông. Tại sao hoàn tòan nhờ ngày nay? Chưa thấy được mảy tơ nhỏ, há đồng với sinh diệt. Người đại ngộ lấy cái gì để chứng? Non cao biển rộng người đều tin, đất dày trời cao tại mình không Sao khi biết giao cho ai? Nam nhạc, Thạch đầu có câu: “Đạo châu Bắc không thể nói”. Thế nào chỉ có Phật với Phật, mới biết được Phật? Chớ mang lụy đến lão Tăng. Hỏi Ngưu đầu chưa thấy Tứ Tổ, vì sao trăm chim ngậm hoa cúng dường? Thần mới càng chấp Sư Bà Tư. Sau khi thấy vì sao không ngậm hoa cúng dường. Miếu xưa gặp Thố đại đề. Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Linh quy chưa thấy được điềm xấu tốt, chớ đợi rắn nhảy mới kinh sợ. Thế nào là gia phong cổ Phật. Một gậy một lằn thương tích. Cứu cánh thế nào? Cắt ra ngàn vạn miếng. Sư đến tham vấn hỏi Thủ Sơn: “Bá Trượng cuốn chiếu ý chỉ thế nào”? Sơn nói: Rồng phủi áo toàn thể hiện”. Không biết ý Sư thế nào? Chỗ voi chúa đi bặt dấu chồn. <篇> PHẦN DƯƠNG VÔ ĐỨC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN TRUNG Nhị Tổ hỏi Đạt Ma, xin Thầy an tâm cho con. Đạt Ma nói: Đem tâm đến đây ta an cho. Con tìm tâm không được. Ta đã an tâm cho ông rồi. Chín năm xoay mặt vào vách đợi đương cơ, Huệ khả đứng dưới tuyết ngập nửa người Đạt Ma chưa mở mắt. Huệ khả cung kính xin Thầy pháp an tâm, tìm tâm không được mới không nghi. Lục Tổ hỏi Hòa thượng Hoài Nhượng, ông từ đâu đến? Từ Tung Sơn Đại An đến. Có đem vật gì đến không? Nói giống một vật thì không trúng. Có cần tu chứng không? Tu chứng thì không phải không, nhưng nhiễm ô thì không được. Chỉ không nhiễm ô này, là chỗ hộ niệm của Chư Phật, ông khéo giữ gìn. Nhờ Thầy hỏi từ đâu đến, nên nói ý của Tung Sơn không về. Nếu còn tu chứng thì đều là nhiễm ô, vạch mây thấy mặt trời thì tâm khai. Khi Mã Tổ ở am thường ngồi thiền, Hoài Nhượng lấy gạch đem mài trước chỗ Mã Tổ ngồi thiền. Mã Tổ hỏi: Mài gạch làm gì? Làm gương. Mài gạch đâu thể làm gương được? Mài gạch thì không thành gương, vậy thì ngồi thiền làm sao thành Phật được? Làm như thế là đúng. Ví như kéo xe, trâu nếu không đi đánh trâu hay là đánh xe. Mài gạch làm gương hợp lại giống nhau. Có người hỏi thì phân biệt bổn tâm rõ ràng, vừa gọi người cày xoay lại chỉ trước mặt, trâu cày húc vở Hoàng kim xưa. Bá Trượng đến tham vấn Mã Tổ, Tổ chỉ cây gậy dựng ở góc giường. Bá trượng nói: Ngay đây dùng hay bỏ cây gậy này ra để dùng? Ông về sau ở chỗ khác mở miệng nói gì cho thiên hạ? Trượng lấy cây gậy dựng đứng. Ngay đây dùng và rời đây dùng. Bá Trượng đem cây gậy để lại chỗ cũ, Tổ hét. Bá trượng nhờ đây được đại ngộ ba ngày còn điếc tai. Một lần rãnh rỗi Bá trượng đến hầu Sư, Sư chỉ dây treo trên góc giường, thả ra trở về bản vị của nó, phân biệt rõ ràng một tiếng truyền đến ngày nay. Trường Khánh hỏi Linh Nham: Thế nào là đại ý Phật pháp? Sứ lừa chưa đi, Sứ ngựa đã đến. Linh Vân nhờ hỏi người tài giỏi xuất gia, Sứ lừa đi trước, Sứ ngựa đến. Trường Khánh không biết chân thật, trong câu nhận bóng, bóng khó khai hội. Ta nay báo cho các ông, chín tầng mây trời chiếu khắp nơi. Tăng hỏi Vân môn: Thế nào là câu tháo pháp thân? Thân ẩn trong sao Bắc đẩu. Thân ẩn trong Bắc đẩu là rõ ràng nhất, chỉ vì nhiều người thấy không rõ, khéo bày vọng, hiểu tâm ý, bỏ đất bằng, đào hầm hố, đèn mờ ngày, đêm đâu từng không khác, trúc xanh hoa vàng mọc đầy đất. Quy Sơn dạy chúng: Sau khi lão Tăng tịch, xuống nhà đàn việt dưới núi làm một con trâu. Bên hông trái của con trâu có đề hàng chữ: “Quy Sơn Linh Hựu”, ngay lúac đó nếu gọi là Quy sơn, thì chính là con trâu. Nếu gọi con trâu thì chính là Quy sơn, khi ấy thì thế nào? Gọi cái gì? Lòng từ của Cổ đức chưa báo đáp hết, vừa nghe tiếng lạ liền tranh trâu. Tiếng câu trước, câu sau biết được huyền chỉ. Mất rồi Quy sơn thấy không trùm hết và cùng đồng bào thông một đường, hoa lư tuyết phủ cúc đang mùa thu. Ma Cốc cầm tích trượng đến Chương Kính, đi quanh giường thiền ba vòng, dọng trượng đứng, Chương Kính nói: Phải, phải”. Đến chỗ Nam Tuyền cũng làm như vậy. Nam Tuyền nói: Không phải, không phải”. Chương Kính nói đúng, tại sao Hòa thượng lại nói không đúng? Chương Kính thì đúng, con người thì không đúng, đúng này là do Sức gió chuyển thành bại hoại. Đường Chương Kính Nam Tuyền tuy giống mà khác, lý rõ ràng lời còn thân sơ, nhiều người không cần kính Ma kim. Hán tự Hán Hồ tự Hồ, ngón tay chỉ mặt trăng, bến mê lầm ngón tay của mình, dạy anh cầm gậy tức như không. Mã Tổ thượng đường chúng vừa vân tập, Bá Trượng bước ra cuốn chiếu, Tổ liền xuống tòa. Bá Trượng buổi đầu hầu Mã Tổ, đối với Sư cuốn chiếu thì vô tư, trời người không biết cho là kỳ đặc. Vừa đúng lúc quạ bắt phượng. Thượng só liếc toàn thể hiện. Thái dương chiếu sáng tận Nhạc phong. Vô Trước uống trà, Văn-thù đưa chén pha lê lên hỏi Vô Trước, phương Nam có cái này không? Không. Lấy cái gì uống trà? Vô Trước im lặng. Văn-thù nâng chén pha lê lên, hỏi: Phương Nam có cái kỳ đặc này. Vô Trước bỗng nói: Không có cái này. Có bao nhiêu lão Xà-lê nhận cái khác, đến nay vẫn chưa biết được chính xác. Tay nâng đưa trà lên không cần nghi. Hòa thượng Bí Ma Nham hễ thấy tăng đến, đưa chỉa ba lên nói: Ma quỷ nào dạy ông xuất gia, ma quỷ nào bảo ông đi hành Chước? Nói được cũng bị chỉa ba đâm chết, nói không được cũng bị chỉa ba đâm chết, nói mau, nói mau. Bí Ma Nham xuống tòa đâm chỉa ba vào người đến, dạy y biết được bổn phận của nhà mình. Khổ nỗi vì các ông không tiến được, làm mất đi chỉa thật nắm chỉa giả. Tăng hỏi Đại Tùy, kiếp lửa cháy khắp nơi cả đại thiên đều tan hoại, chưa biết cái đó có hoại không? Đại Tùy đáp: Hoại. Tăng nói: Như thế thì mặc kệ nó. Đại Tùy đáp: Mặc kệ nó. Con của Lại An là Thầy Đại Tùy, người hỏi mặc kệ nó cũng là Tùy, nhìn lại thì không thể ngừng chú ý, lại còn sinh dị kiến tức hồ nghi, Phần Dương mở cho ông thiên hộ. Một con đường về muôn sai ngàn khác. * Thạch Củng thường giương cung bắn, hễ thấy tăng đến thì bảo bắn thử. Tam Bình vừa thấy liền đánh vào ngực Củng, Thạch Củng nói: Ba mươi năm giương cung bắn được hai con, chỉ bắn được nữa người Thánh, liền bẻ gẩy cung. Trương cung giá tiễn hoán quân hồi Bất tónh tông Sư đặc ý lai Cá cá tận tùy mê tuý đồ Cú trung nhận ảnh ảnh nan khai Tam Bình du vị thuyên đề đắc Phích lịch lôi thinh biến cửu cai. (Giương cung bắn gọi anh về, không tính được ý chỉ đặc biệt của tông Sư. Mỗi mỗi đều đi theo đường mê, trong câu nhận bóng, bóng khó mở. Tam Bình vẫn chưa ra hoàn toàn được, sấm chớp rền vang khắp đất trời). Thiền Sư Vô Nghiệp, hễ có tăng đến chưa thỉnh đều nói: Chớ vọng tưởng”. Lão Phần Châu ngồi yên ngũ, người hỏi vạn lớp và ngàn lớp, một chánh trăm tà đều chớ bỏ. Bảo y chớ vọng về thẳng nguồn, Tam thừa, Ngũ tánh mộng không hoa, Vương Lân vừa đến lúc an nhàn. Tăng hỏi Mộc Bình: Thế nào ý Tổ Sư từ Tây sang. Dê đá đầu tử xem hướng đông. Đạo Mộc Bình cao khó qua, người hỏi ý Tổ Sư thế nào? Thạch Dương Đầu Tử vọng về đông, trăng vừa hiện khắp Sườn núi. Ngay lời không cần suy nghó nhiều, sóng biển lặng sum la hiện. Huyền Sa dạy chúng: Quên tăng trước mặt, chính là Bồ-đề trước mắt, ngay trong đó chính là Huyền Sa. Trước mắt chính là chân lời nói không xa. Người quên trước mắt chính thân đang nghiệm lại không thênh thang dứt tất cả. Tùng lâm thênh thang đâu nhiều lời, giống như nắm bắt huyển hóa hoa đốm trong hư không. Lỗ Tổ thấy tăng đến liền xoay mặt vào vách. Người đến ngồi xoay mặt vào vách, không nhiều lời, không quanh co, đồng dị, khế hợp với thiên pháp, không nên tìm tâm bên ngoài, không đem sáng, tối nói đùa với người điếc ngọng. Sương tha khắp nơi, nóng lạnh sinh. Lỗ Tổ lòng từ không cần dụng công. Tăng hỏi Vân cư: Khi cắt đứt các dòng thì thế nào? Mài không chuyển. Vân cư có cơ ngữ dứt quan hệ, không chuyển bảo anh phản chiếu xem. Cắt sắt đóng cửa dừng vọng tưởng. Trăm hoa đều nở một vườn hoa. Hoa nở kết quả có từ đâu, hút tinh từ đất, hút khí trời. Trong tay Dược Sơn viết chữ Phật đem hỏi Đạo Ngô chữ gì? Chữ Phật. Ông lắm lời. Đạo Ngô chợt thấy Tiên Sư ông, mở tay ra thấy chữ nhiệm mầu, đối Phật là chân, chân là Phật. Dược sơn trong câu phá vở nghi, điên cuồng vừa khởi động Hương Lâm, chính là trong sóng lượm được ga- ïch. Khâm sơn hỏi Đức sơn, Thiên hoàng cũng nói như vậy, Long Đàm cũng nói như thế, chưa biết Đức sơn nói thế nào? Ông thử nêu Long Đàm, Thiên hoàng xem? Khâm sơn suy nghó. Đức Sơn đánh. Lão điên đảo mất cơ đại tác gia, xưa nay đều nếm, dứt không còn vết nhỏ. Thiên Hoàng một mạch, Long Đàm hiện, nhảy ra khỏi nguồn linh vạn đường sai. Thuộc Khâm Sơn vẫn là định động, đắc không lời đến nay vẫn khoe khoang. Triệu Châu thấy tăng đến liền hỏi: Từng đến đây chưa? Chưa đến. Uống trà đi. Hoặc nói đến rồi. Cũng bảo uống trà đi. Viện chủ hỏi: Chưa từng đến cũng uống trà đi, đến rồi cũng uống trà đi, vậy thì thế nào? Triệu Châu gọi, viện chủ. Viện chủ dạ. Uống trà đi. Triệu Châu có câu uống trà, tất cả tăng nhân đều đến. Không phải cầu đá vốn trơn, mà Ngài gọi bao nhiêu nạp tăng về. Tăng hỏi Hòa thượng Bảo Ứng Niệm: Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Gió thổi mặt trời nóng. Gió thồi, mặt trời nóng, không tính được năm tháng, người đi trần biết thật khó. Tâm suy nghó lún sâu ba thước, lại dạy ai hỏi trung huyền này. Linh Vân thấy Hoa đào ngộ đạo, tụng: Ba chục năm tìm uổng thôi. Mấy phen về lá rụng lại đâm cành. Kể từ khi chợt thấy hoa đào nở. Nghi hoặc như nay dứt sạch rồi. Kể câu chuyện này lại cho Huyền Sa, Sa nói “Đúng thì đúng đấy, bảo đảm Lão huynh chưa thấu triệt”. Ngày xưa Linh Vân tự biết, hoa đào đã rơi khắp nơi, trở lại tuốt kiếm người đương phong, chẳng hứa thấu triệt thân tung hoành chặt vạn cơ. Hòa thượng Câu Chi, hễ có ai thưa thỉnh chỉ đưa một ngón tay. Thiên Long ngộ được ngón tay của Câu Chi, tức thì vô tư vật không bằng. Vạn thông ngàn sai đâu nói khác, cho dù xưa nay không có kim dùi. Quy Sơn bảo tăng đưa thơ và kính đến Ngưỡng sơn. Ngưỡng sơn nhận được đưa lên nói: Nếu nói kính này là của Quy Sơn, lại ở trong tay Ngưỡng sơn, nếu nói kính Ngưỡng sơn thì gởi đến cho Quy Sơn, có người nào xác định được không? Chúng không nói, Sư đập vở kính, nói với tăng đem kính đến: Đến chỗ Hòa thượng chỉ thưa lại giống như vậy. Ngưỡng sơn nhận được kính Quy Sơn, bảo chúng đưa ra lệnh hành chánh, bị mờ con mắt dùng thiên không mở được. Ngưỡng sơn lập tức vượt qua đầu đinh. Khi Long Đàm chưa xuất gia thường cúng mười cái bánh cho Thiên Hoàng. Thiên Hoàng ăn xong để lại một cái và bảo rằng ta cho ông để ban ân cho con cháu sau này. Long Đàm cảm thấy lạ nên hỏi: Bánh là con đem đến, tại sao Thầy bảo ban ân cho con? Là ông đem đến, ông có lỗi sao? Nhân đây Long Đàm ngộ xin xuất gia. Tới lui qua lại việc không sai. Long Đàm cố vấn không kết hợp, sau nay bao nhiêu người tranh ôm xồm, chim xuân rầm ró mắng hoa rơi. Mã Tổ và Bá Trượng đang đi, thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ hỏi: nỗi. Cái gì? Vịt trời. Ở đâu? Bay qua rồi. Mã Tổ kéo lỗ mũi Bá Trượng, Bá Trượng đau quá không chịu Đâu từng bay đi. Bầy vịt trời trên không bay mất, hỏi tăng, phải huyền phó tâm ấn của chư Tổ, ứng cơ dầu không di động, vừa kéo tông cương đạo cáng tăng. Tướng Quốc Bùi Hưu nâng một tượng Phật đến trước Hoàng Bá quỳ thưa: “Xin Thầy đặt cho pháp danh”. Bà gọi Bùi Hưu, Bùøi Hưu dạ. Hoàng Bá nói: Đặt pháp danh cho ông” rồi, Bùi Hưu lễ bái. Quỳ trước Sư xin đặt pháp danh, lập tức đương phong gọi một tiếng. Không phải Bùi Hưu thì ai dám trả lời, dù rằng đui, điếc cũng nghe được. Đại Thiền Phật, một hôm ở trong Tăng đường kêu lên: Ta ngộ rồi, ta ngộ rồi. Ông ngộ cái gì? Cô ni vốn là người nữ. Ngộ rồi không ở trong cay đắng đa đoan, liễu ngộ đều do ông liếc qua. Nói chắc chắn cô ni vốn là người nữ, người ngu chứa tuyết làm núi bạc. Phổ Hóa ăn rau sống, Lâm Tế nói: “Phổ Hóa giống lừa quá”, Phổ Hóa chống tay xuống đất rống tiếng lừa. Cho ông làm chuyện lặt vặt, dọn quét lo liệu tất cả. Thất nhỏ người không biết Kim Lăng đến. Lâm Tế một con mắt khắp nơi khai ngộ cho người. Lão điên phân biệt rõ ràng hai đường sai, tên nhọn gặp cột không méo mồm. Rồng rắn lẫn lộn người khó biết, trời sáng trên không hoa tuyết rơi. Bảo Thọ khai đường, Tam Thánh kéo một vị tăng ra, Thọ liền đánh. Thánh hỏi: Ông là người gì? Cả một thành Trấn châu đều mù, người có mắt đi. Thọ ném gậy về phương trượng. Tam Thánh vác cây thương của Bảo Thọ, kéo vị tăng ra định thương lượng, cho tướng quân bên ngoài hành chánh lệnh, dù người mù đầy cả đại đường. Phổ Hóa thấy ngựa đi, Sư hét giữa ngã tư đường. Hóa ở giữa ngã tư chỉ tay nói: Đi đâu vội vả vậy, đánh với ta một trận đi. Quan nhân la nói: Khình lớn đùa giởn với người hả, liền bảo người đem đến năm cây để đánh. Nhà này giống thì giống, phải thì không phải. Quan nhân bảo: Nói cái gì? Phải không phải? Bảo người thôi đánh, ứng hiện ra cuộc đời thật khó, gặp nhau chính là hai người điên, dù đại hóa không ở phương sở, tụng quan không phải tăng quan. Tăng hỏi Pháp Nhãn vượt Huệ Tư: Thế nào là Phật? Ông là Huệ Siêu. Hỏi đáp từ đầu lý không thiếu, chớ cùng khéo léo đến phong cơ. Vàng thật nếu không luyện trong lò, như thế thì gọi vàng là bùn. Hương Nghiêm buổi đầu khai đường, Quy Sơn sai tăng đem thơ và gậy đến, Hương Nghiêm nhận được thơ khóc. Tăng hỏi: Hòa thượng vì sao khóc? Không phải khóc, chỉ vì lệnh xuân đến thu, gậy đem đến thì tâm phải thấu triệt, lệ rơi bất giác suy nghó trầm ngâm. Lệnh xuân đến thu người kinh sợ. Dứt sau, sáng trước hơn xưa, nay. Tăng hỏi Hòa thượng Vónh Hưng An: Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Trên vách họa cây tùng khô, ong đến tranh nhau hút nhụy, hăng hái quên mệt, hiệu quả thượng cơ, nhiều người đến thưa hỏi muốn trừ nghi. Tông Sư chánh tông như cây không hoa, khỏi phải trên đất thêm bùn. Thị Lang Hàn Dũ hỏi Đại Diên Hòa thượng bao nhiêu tuổi, Đại Diên đưa xâu chuỗi lên hỏi: Hiểu chăng?” Không hội. Ngày đêm 10 8.sáng mai lại vào, trước cửa gặp thủ tọa liền hỏi: hỏi: Hòa thượng nói, ngày đêm 108 ý chỉ thế nào? Thủ Tọa gỏ vào răng ba cái. Thị Lang đến phương trượng lại Ngày đêm 108 là ý chỉ thế nào? Đại Diên gỏ vào răng ba cái. Thị Lang nói: Xưa nay Phật pháp không khác. Đại Diên nói: Thị Lang thấy đạo lý gì? Vừa rồi hỏi Thủ Tọa, cũng chỉ đáp như vậy. Diên hỏi Thủ Tọa: Vừa rồi đáp như thế cho Thị Lang phải không? Thủ Tọa nói: Phải”. Đại Diên đánh Thủ Tọa và đuổi ra khỏi viện. Mở rộng cơ phong là Đại Diên, biết rõ không phải là nhân duyên nhỏ. Thông thường gỏ răng là điềm lạ, trong chốn tòng lâm. Ra khỏi viện Hàn công mới được an nhàn. * Văn-thù hỏi Vô Trước: Phật pháp trụ trì phương Nam trụ trì ra sao? Sư thưa: Thời mạt pháp Tỳ-kheo ít giữ giới luật. Văn-thù hỏi: Có bao nhiêu đồ chúng? Sư thưa: Hoặc ba trăm hoặc năm trăm. Sư lại hỏi: Phật pháp ở đây trụ trì ra sao? Văn-thù đáp: Rồng rắn lẫn lộn, phàm Thánh ở chung. tam) Sư hỏi: Đồ chúng được bao nhiêu? Văn-thù đáp: Trước ba ba, sau ba ba (Tiền tam tam, hậu tam Đến chiều tối Vô Trước xin ở lại. Đại đức còn chấp tâm. Con không chấp tâm. Từng thọ giới chưa? Thọ giới lâu rồi. Đã không chấp tâm, đâu cần thọ giới? Vô Trước không đáp. Đồng tử tiễn đưa ra đến cổng, Vô Trước hỏi, vừa rồi Đại Thánh nói “Trước ba ba, sau ba ba là bao nhiêu?” Đồng tử gọi: Đại đức! Vô Trước quay đầu. Đầu tử nói: Là bao nhiêu? Vô trước hỏi: Đây là chùa gì?” Đồng tử đáp: Đây là chùa Bát-nhã trong hang Kim cang. Vô Trước quay đầu. Chùa biến mất. Vô Trước cố hỏi phương nam ở đâu? Ba mươi lăm chúng không nhiều, lành tốt tự kể, rồng rắn lẫn lộn. Nói ba ba bảo hòa hòa, Võ Trước chưa biết hỏi lại. Quân Đề đến không có Tiên đà. Sau lưng Kim cang thấy danh tự, nhìn khắp núi hoang không thấy đâu. Có một cô gái vào pháp đường khóc, Bá Trượng hỏi chuyện gì? Cha mẹ đều mất, xin Sư chọn ngày. Ngày mai đều chôn hết. Núi Bá Trượng không xa, cô xuống núi ngồi khóc, đều chôn ở đất Thanh Lương, chí hiếu mới hơn được nay và xưa. Tây quốc có Tam tạng nổi tiếng đến, vua Mân thỉnh Huyền Sa nghiệm thử. Huyền Sa đi về phía sau lấy đồng cân gỏ vào lò lửa sắt, hỏi Tam Tạng là tiếng gì? Tiếng đồng sắt. Sư nói: Đại vương chớ để người nước ngoài lừa. Sư hỏi mọi người nghe sắc âm, bảo là âm cao của đồng sắt. Thế gian học rộng dù biết, đâu thể đem vàng không biết vàng. Vua Mân người một quả cam, quýt, bảo Sứ đưa cho Tuyết Phong và hỏi: Đã là giống nhau, màn sắc là gì? Danh tự không đồng. Tuyết Phong gói lại đưa hỏi Huyền Sa. Huyền Sa lấy tờ giấy trùm lên cam, quýt. Vua Mân đích thân gói lại, đem hỏi kích Hồ Phong. Người lớn vào nước biết rõ ràng, lại hỏi Huyền Sa cũng không thông. Phần Dương mở cho ông đường lên thiên, Bảo mới là cõi vàng trên không. Tăng hỏi Địa Tạng, chữ dó không thành, chữ bát không phải, chưa biết là chữ gì? Tạng nói: Xem chú cướp dưới. Chữ bát, chữ dó không thành chỉ trước mắt, trong kinh chưa biết xem trong chú, cuối xin không vì hiểu biết nhiều, cần phải tham cứu huyền, đạt được bản nguyện. Tăng hỏi Đức Sơn, thế nào là trâu trắng sờ sờ? Quét lên. Ăn uống bằng cái gì? Ăn uống. Trâu trắng sờ sờ chỉ che chuồng, nằm tại chỗ ngũ, tại chỗ an nhàn, cỏ nước đầy đủ tha hồ ngon ngọt, đề hồ tinh khiết, tuôn ra thấm nhuần. Chẩm Nguyên Từ Trung hỏi Quốc Sư: Con đến phương nam có người hỏi về việc tiêu chuẩn, làm sao nói cho họ? Thật đáng thương cho học trò mới, phải làm cái gì để có bùa hộ thân. Bùa hộ thân là thông linh nhất. Quốc Sư đứng dậy cùng đi ra, Chẩm Nguyên được dụng đi phương nam, nói cho mọi người tỉnh ngộ. Tăng hỏi Canh Thanh, Tổ ca xướng thế nào? Chuốt rượu cho người say. Làm như vậy có cô phụ Hòa thượng không? Mãnh hổ không ăn thịt phục, trước chúng nằm ngang hỏi Tổ ca. Sư nói, tiển rượu hòa hòa, vẫn gọi chưa chịu nhìn trông, thịt phục không duyên lại ăn nhiều. Hai tăng đường tranh nhau một con mèo, Nam Tuyền thấy nên lên nói: Nói trước thì không chém con mèo. Chúng không đáp. Nam Tuyền chém mèo. Nam Tuyền hỏi Triệu Châu, Triệu châu cỡi giầy để ở trên đầu đi ra. Nam Tuyền nói: Hồi sáng nếu có ông thì cứu được con mèo. Thượng tọa hai tăng đường chưa tỉnh ngộ, hai bên đều còn ngã nên tranh mèo. Nam Tuyền là tay kiệt xuất một đao chặt đứt mèo thành hai khúc, người sau giầy cỏ để lại ra đi. Trên đường lên Ngũ Đài có một bà già, hễ bà thấy tăng đến hỏi đường lên Đài Sơn đi hướng nào? Bà nói: Cứ đi thẳng. Tăng vừa đi. Cái ông này lạ, lại đi như vậy. Triệu Châu nghe được: Ta cùng ông khám phá bà lão này. Liền đi đến hỏi, bà cũng nói như vậy. Triệu châu về kể lại cho chúng nghe: “Ta đã khám phá bà lão rồi”. Đường lên Đài Sơn lão bà Thiền, vạn vạn ngàn ở khắp nơi. Triệu châu khám phá người khó hiểu, Nam, Bắc giầy có thấu triệt thông. Động Sơn khám phá Thái Thủ Tọa nói: Có một vật đen, rỗng rang trên chóng trời, dưới đất chóng đất, thường ở trong động dụng. Trong động dụng thâu không được, lỗi ở chỗ nào: Thái nói: Lỗi ở trong động dụng”. Động Sơn liền hét đi ra. Cùng người chỉ thẳng hỏi đồng môn, đưa ra mảy may phân biệt rõ ràng. Nói ly ùvọng bày cuồng sống động, huyển hóa mờ hồ không thể tái lại. Tam Thánh hỏi Tuyết Phong, cá vàng ra khỏi lưới lấy gì ăn? Đợi ông ra khỏi lưới thì ta sẽ nói cho ông nghe. Một ngàn năm trăm người, câu nói này là bậc thiện tri thức cũng không biết. Lão tăng trụ trì việc bận rộn, cá ra khỏi lưới không biết câu ham dạo chơi sóng nước nhận bọt phù âu, khe cao ngồi câu rũ lòng từ, lên thuyền trở về thôi câu cá. Tăng hỏi Nham Đầu: Khi buồm xưa không treo thì thế nào? Cá nhỏ ăn cá lớn. Buồm xưa không treo lại nghi sao? Học hỏi nướng trước là mê, lớn nhỏ hai loài cá đều một biển, tại sao ăn mồi không đều. Tu Sơn chư Ngộ Không Pháp Nhãn đi hành. Cước đến chỗ Ngài Địa Tạng, cử thoại về lửa. Địa Tạng vào liền hỏi cả sơn hà đại địa là tự kỷ của Thượng Tọa giống nhau hay khác nhau? Ta nói: Không khác”. Tạng đưa hai ngón tay ra chỉ v.v… Vào viện mầm cao đều không nghi, đều là duyên chưa đạt được Tổ Sư. Vọng học hỏi suông, tranh ngắn dài, ghi nhớ suông danh từ đầy bụng, đại địa sơn hà cùng anh khác biệt, bảo rằng không khác giống như si. Đương nhân được dứt cuồng mê, thấy được đưa ra không phải dương kỳ. Tăng hỏi Hòa thượng Huệ Tư, thế nào là đại ý Phật pháp? Gạo Lô Lăng giá bao nhiêu? Xuất gia học đạo chưa sáng được nguồn tâm, thưa hỏi đại ý tông thừa. Lại hỏi giá gạo Lô Lăng bao nhiêu, tức thì tâm cảnh như mây khói. Tăng hỏi Triệu Châu Hòa thượng Thừa Văn gặp Nam Tuyền phải không? Rau cải xuất phát từ Trấn châu, nhờ hỏi buổi đầu được duyên pháp không nói Trung Hoa và Tây Thiên. Trấn Châu có cây rau tên là La Bặc, cứu được nạn đói mấy vạn năm. Tăng hỏi Triệu Châu, thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Ta không đem cảnh chỉ dạy ông. Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Cây bách trước sân. Trước sân cây bách mọc trên đất, không cần trâu cày trên đỉnh, đang chỉ dạy tây lai ngàn đường, cây cối xanh tốt là mắt thấy. Tăng hỏi Động Sơn, thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang? Đợi nước trong động chảy ngược thì ta nói cho ông. Long Nha chưa dứt tâm vọng, nên hỏi khắp các Sư. Trước tiên đạt được lòng từ thân thịt của họ, ngay lời nước trong động chảy ngược. Hai Thủ tọa ở hai tăng đường gặp nhau, đều hét: Tăng hỏi Lâm Tế có chủ khách không? Chủ khách rõ ràng. Thượng tọa hai tăng đường đều là bậc tác gia. Trong này đạo lý phân ra dẫn dắt, chủ khách rõ ràng giống như gương sáng. Tông Sư là hoa điểm mắt. Vua Mân sai Sứ tặng cho Tuyết Phong cái giường. Tăng hỏi Hòa thượng, thọ ơn đại vương cúng dường như vậy, làm sao báo đáp? Phong đưa hai tay đở đất. Đánh nhẹ ta, đánh nhẹ ta. Nhân hỏi như thế báo ân chủ, cử xong thâu hết ngồi bến đò, đầu thuyền nếu có sóng gió động, cát đầy mắt không thấy người. Hòa thượng Đã Địa hễ thấy tăng đến, đập xuống đất một cái. Chân chánh Só ở trước núi Tử Phủ, gậy thường nắm trong tay, nam, bắc hỏi bốn không loạn nhượng, chỉ đem gậy đập báo đui mù. Hành Giả Cam Chí đến Nam Tuyền cúng cháo thưa: Thỉnh Hòa thượng tụng. Tuyền đánh kiếng bảo đại chúng niệm Ma Ha Bát-nhã cho Tinh Mô bò trắng. Cam chí lễ bái đi ra. Sau đó, Nam Tuyền hỏi Điển tọa: “Hành giả ở đâu?” - Đi rồi. Nam Tuyền đập vở nồi cháo. Thông thường cúng cháo là điều hy hữu xưa nay, công việc quả mãn không ít, nồi cháo lưng không còn một hạt., tùng lâm xa gần đều biết. này. Trung Ấp vừa thấy tăng tay vỗ, miệng đánh trống: Ô Da, ô da Ngưỡng Sơn đến, từ đông sáng tây. Ông từ đâu được tam muội này? Con từ Tào Sơn đến, thoát được ấn học. Như thế từ vùng sơn cước đến hỏi Hòa thượng, được Tam-muội Ta từ chỗ Chương Kính đến, miệng đánh trống, tay vỗ kêu: Ô da! Mãi đến nay dẫn dắt người hiểu rõ tà chánh. Từ ngàn muôn dặm đến đây không tiến được. Ngưỡng Sơn thấy tai đồng nhà. Thiền Sư Ô Khòa Thị giả từ giã ra đi, Sư hỏi: Ông đi đâu? Có đi các nơi học Phật pháp. Nếu học Phật pháp, thì ta cũng có chút ít. Thế nào là Phật pháp của Hòa thượng? Khòa đưa lông vai lên thổi. Thị giả ngộ được đi ra. Thị giả sơ tâm mộ duyên Thánh, chào Sư muốn đi học tham thiền. Ô khòa biết là căn cơ thuần thục, thổi lông tức thời được tâm an. Khôi Thiền thượng đường nói: Ra đây đánh, ra đây đánh. Tăng bước ra nói Lôi thiên hả? Sư ném gậy về phương trượng. Gia phong mở rộng dạy người, thả câu vào biển câu cá vàng. Cá đùa nước chảy đùa sóng, thuyền về đều động bến rộng. Trường Khánh và Bảo Phước đang dạo núi, Bảo Phước nói: Ở đây chính là đỉnh Diệu Phong chăng? Có thể chấp nhận chính là đỉnh Diệu Phong, nhờ lên được đỉnh cao, tăng nhân đến hỏi khắp nơi, thì có thể chấp nhận, chỉ sợ đồng âm khác chỗ. cơ. Tăng hỏi Trường Sa, người xưa nay có thành Phật không? Không thể cắt mầm, cắt cỏ. Ngâm công bước ra mở rộng hồng Phật và người nhiều làm Phật hy hữu, Vương chủ cắt mầm thân hạ thủ, không thể trên đất thêm bùn. Động Sơn nghe đồng nói: Ai da! Ai da. Tăng hỏi: Hòa thượng làm gì? Đánh tâm ta. Nghe đồng thì nói đánh tâm ta, lời cạn phân biệt lý Sự sâu. Trên hội Lăng nghiêm được viên thông, chánh pháp sáng tỏ Quan Thế Âm. Mục Châu gọi tăng: Đại đức. Tăng quay đầu. Lòng từ nên được linh thông, không phải Tông Sư vọng tự sinh, đồ cố chấp phải buông đi, thì y khởi luống qua trăm ngàn đời. Tây Thiền đến, Bảo Phước hỏi: Từ đâu đến? Tây Sơn đến. Có gặp con cháu Đạt Ma không? Gặp. Thực hành kỷ lưỡng được cái nào? Được. Còn có một cái kỷ lưỡng cũng làm không được. Thọ liền đánh. Người xưa gặp nhau nói trong tâm, trước chúng ngay lời trình kỷ lưỡng, tôi luyện trong lò hồng mới chính là vàng thật. Báo Ân sai thị giả lấy nước ở cầu phía Tây đem đổ vào hồ sen phía đông. Thị giả đổ xong. Ông đổ vào chỗ nào? Hồ sen phía tây. Báo ân hỏi vị tăng bên cạnh thật hay hư. Lấy nước bên Tây đổ vào bên đông, thị giả đi lại về, múc nước để cho vô tâm pháp bên ngoài, hỏi tăng bên cạnh e không được viên mãn. Tăng hỏi Nham Đầu, trong tuần cảnh làm sao biết được ông chủ? Dầu cát lộn đồng, trong trần biết được chủ là khó nhất, trong ngàn vạn người ít ai được tỉnh. Dầu cát lẫn lộn trong đồng xưa nay sạch, cùng anh nhổ đinh trong mắt. Tăng hỏi Thạch Đầu: “Làm sao được giải thoát?” Ai trói ông? Không có người trói. Không có người trói, thì giải thoát. Đâu cần cầu giải thoát, chưa dứt nghi nên hỏi các bậc thượng lưu. Làm sao giải thoát được tâm mới thôi. Theo anh giải thoát từ ai, ngay lời vô sinh là Thạch Đầu. Tăng hỏi Triệu Châu, Ngưu Đầu khi chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào? Đầy đủ củi nước. Sau khi thấy thì thế nào? Đầy đủ củi nước. Ý chí hoài bảo người xưa là ngồi trên Ngưu Đầu. Tin lời Thầy chỉ dạy, chỉ dạy không thôi. Đầy đủ củi nước tâm an tỉnh, chân chánh vô tư là Triệu Châu. Tào Sơn hỏi tăng: “Từ đâu đến?” Quét trước Phật, quét sau Phật? Trước sau đồng thời quét. Cho lão tăng hỏi ca sa, bình bát mới biết được y vuông tròn. Hỏi anh quét đất chỉ dạy vuông tròn, trước sau một lúc đều quét sạch, cũng là đưa ra cơ thứ hai cho họ. Cổ Sơn hỏi tăng: “Thế nào là câu không vượt qua Thạch Môn”. Tăng không đáp. Không vượt qua Thạch môn vào sâu lý, học nhân không cần phải trầm ngâm. Yên Công ngồi yên trên đỉnh núi, biển cả không sóng không lấn vào. Huyền Sa dạy chúng: “Các bậc lão túc các nơi đã nói hết để lợi ích quần sinh, chợt gặp người có ba thứ bệnh làm sao độ? Người bệnh mà đưa phất tử họ không thấy, người bệnh câm dạy họ nói, nói không được, vậy làm sao độ? Nếu độ không được, thì Phật pháp không linh nghiệm, phương tiện độ những hạng người này, phải là bậc tác gia mới nghiệm được tông phong của Ta. Kim cương chặt sắt nát như bùn, xuyên qua vàng mới động được Huyền Sa. Quách Thị giả hỏi Đức Sơn, các bậc Thánh từ trước đi đường nào? Làm gì, làm gì? Quan gai ra lệnh điểm ngựa rồng bay, ba ba thò đầu ra đi đâu? nói: Đức Sơn thôi đi. Ngày mai khi đang tắm, Đức Sơn đem cái thìa gỗ quách vào Quách Ông này ngày nay mới bắt đầu chớp mắt, Ba ba bay lên cỡi rồng, hình khác lý không khác. Muốn biết hai bậc Đại só, gậy đánh biết trân châu. Dược Sơn đang xem kinh, Tăng hỏi: Bình thường, Hòa thượng không cho người xem kinh, vì sao hôm nay Hòa thượng xem?” Ta xem để che mắt. Con học theo Hòa thượng xem được không? Ông xem thì da trâu cũng phải lủng. Thấu triệt tận đáy lại nghi gì? Người nhìn xuyên suốt hiếm có, chắc chắn vẫn được phó chúc, từng câu đều là huyền cơ. Ngoại đạo hỏi Phật, không hỏi có lời, không hỏi không lời. Đức Thế Tôn im lặng giây lâu. Ngoại đạo khen ngợi: “Đức Thế Tôn thật là đại từ đại bi, vén đám mây mờ cho can, làm cho con vào được. Ngoại đạo ra đi”. A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có sở chứng gì? Khen ngợi đức Thích tôn rồi ra đi. Theo thông thường thế nhân nói ở ngựa ngoan thấy bóng roi liền đi. Bóng roi phân biệt rõ ràng giống anh, đa văn tinh thần nhanh nhẹn, Phần Dương báo cho các ông chốn Thiền môn, tin là bậc kiệt xuất đưa ra không nhàm chán trần cảnh. Dược Sơn nói với Vân Nham: Kêu Sa di đến đây cho ta. Nham nói: Kêu ông ta đến làm gì?”. Ta có một cái, chỗ gãy chân phải nhờ y bưng lên để xuống. Như vậy là phụ thuộc Hòa thượng một tay. Đạo nhân gặp y kêu mau lên đây cho ta đừng chậm trễ. Cái chỗ gãy chân thượng cần người nhắc và mỗi mỗi phải có cái quai gắn vào *. Dược Sơn dạy chúng: “Trí không trùm khắp kî nhất là nói rõ, nói rõ, thì đầu liền mọc Sừng, Đạo Ngô đi ra, Vân Nham hỏi Dược Sơn, trí Sư huynh thì sao, Không chỉ đáp với Hòa thượng. Chính là Trí đầu đà ông hiểu đi, hỏi ông ta đi. Hỏi Sư huynh Trí chứa rồi thì thế nào? Không chỉ đáp cho Hòa thượng. Ta ngày nay đau đầu, ông đi hỏi Hòa thượng xem khi Vân nham đến tịch, Ngô nói: Vân nham không biết sám hối, không phải lúc đó đã nói với y. Tuy nhiên như thế, không nên trái với con Dươc Sơn. Ngôn ngữ không đạt được đồng môn này, phủi áo về nguồn, cùng mọi người chọn ngói gạch, chân kim sai khác, chẳng những nghi ngại còn lo âu. Quy tông cuốc cỏ thấy rắn chặt đứt. Tăng hỏi: Từ lâu nghe danh Quy tông nên đến đây, nhưng chỉ là bạch sen môn quá thế”. Tông nói: Ta thô hay ông thô? Sau này, Tuyết phong hỏi Đức Sơn, người vừa chặt rắn ý chỉ thế nào? Đức sơn liền đánh Tuyết Phong chạy. Sơn gọi: Thiền tăng, Thiền tăng. Tuyết Phong quay đầu Sau này ông ta ngộ mới biết được lão này tâm lão bà. Tông Sư Lư Nhạc độ người thượng cơ, chặt rắn là bố thí lòng từ đặc ân. Thủ tọa mầm cao hoảng sợ, liền nói tâm thô sai phải trái. * Dược Sơn hỏi tăng bao nhiêu tuổi? Bảy mươi hai tuổi. Có phải bảy mươi hai tuổi không? Phải. Sơn đánh. Có vị tăng đem lời này hỏi Tào Sơn, ý chỉ thế nào? Bắn tên trước có thể đúng, người bắn mũi tên sau thật sâu. Làm sao khỏi ăn gậy. Vua ban lệnh đã thi hành, các chư hầu tìm đường tránh, rũ lòng từ tiếp độ hỏi nhiều năm, ứng đáp tùy thời chưa chấp nhận ông ta, hỏi lại mới biết rõ đầu mối, hành Sự sấm chớp không tiên đà. Tăng từ giã, Triệu châu hỏi đi đâu? Đi Mân Trung. Trong đó quân mã, rầm rộ, đường hiểm phải tránh. Tránh chỗ nào mới được? Chỗ nào thích hợp. Đường đi Mân trung không xa, báo quân ngựa rầm rộ. Hỏi Sư tránh ở chỗ nào? thích hợp an ngủ mặt trời cao. Tuyết Phong vác một bó dây giữa đường gặp tăng, thì bỏ xuống. Tăng định lấy, Phong đạp té nhào. Phong trở về kể lại cho Tường Sinh: “Ngày nay ta đạp một vị tăng thật thoải mái. Hòa thượng thay ông tăng này, vào nhà Niết-bàn mới được. Phong thôi. Tuyết Phong ném bó dây chỉ dạy vị tăng bên cạnh. Tăng được gặp Sư vừa bước lên, mê mờ không còn linh tri thích hợp, Trường Sinh mở được đế đèn lồng. Tam Thánh bảo Thượng tọa Tú hỏi Trường Sa, Nam Tuyền tịch đi đâu? Khi Thạch đầu làm sa di, tham vấn Lạc Tổ. Không hỏi Thạch Đầu tham vấn Lạc Tổ, chỉ hỏi Nam tuyền tịch đi về đâu? Dạy y cứ nghó bình thường. Hòa thượng tuy có tùng lạnh ngàn thước, nhưng không có măng mọc khóm đá. Huyền Sa không đáp. Cảm ơn Hòa thượng đã trả lời. Sa cũng không đáp. Tú về kể lại cho Tam Thánh. Thánh nói: Nếu thật như vậy, vẩn hơn bảy bước Lâm tế. Tuy nhiên như vậy, đợi ta khám nghiệm thử xem. Đến ngày mai, Tam Thánh hỏi: Hôm qua Hòa thượng Thừa Văn trả lời Nam Tuyền tịch đi về đâu, có thể nói là sáng trước dứt sau, xưa nay ít được nghe”. Trường sa cũng không đáp. Từ xưa đến nay ta nghi gã này. Tam Thánh bảo tăng hỏi người kia Trường sa từ tốn chỉ bày cho, bao nhiêu tăng lữ theo lời nói. Nghi vấn từ đây nổi bụi mù. Dược Sơn đánh trống, Sa di đưa gậy phát ra cũi múa vào đường. Dược Sơn ném dùi trống nói” Hòa khúc thứ mấy”. Hòa khúc thứ hai. Thế nào là khúc thứ nhất? Sa di lấy trong thùng đầy một thìa cơm đi ra. Thông thường đánh trống và múa, cùng với việc chư gia khác nhau. Rõ ràng đúng tiếng ngoài Tiêu hán, nhưng chẳng phải số mục rơi vào vũ trụ. Tăng hỏi Thạch Sương: Trong gang tấc thì thế nào? Mà không thấy được dung nhan Sư? Ta nói khắp pháp giới chưa từng ẩn. Tăng lại hỏi Tuyết Phong, khắp pháp giới chưa từng ẩn ý chỉ thế nào? Chổ nào không phải Thạch Sương? Sau này Huyền Sa nói: Lão Tuyết Phong Thạch Sương sai lầm, ngàn nghi, vạn lự gõ cửa thiền? Khắp pháp giới không ẩn há là chuyện nhỏ, tượng cốt Huyền Sa vẩn địch, động ông ta sai lầm làm du tử mất về nguồn. Cao hiền không cần theo thinh sắc, đất dày trời cao, mặt đối môn. Pháp Nhãn hỏi Tu Sơn chư, còn sai một chút, trời đất cách xa, huynh hiểu không? Tu nói: Còn sai mảy may, trời đất cách xa. Nhãn nói: Hiểu cái gì? Lại được sao. Ý Hòa thượng thì sao? Còn sai mảy mai thì trời đất cách xa. Tu lễ bái. Thế nên tông Sư cố vấn người kia. Một cái đánh mảy may phân chia hai đường, bại thì hiểu được ý chỉ. Tự nhiên rõ ràng chưa từng nghe. Bạch Hào nêu Tử Hồ có con chó, trên thì lấy đầu người, giữa thì lấy tâm người, dưới thì cắn phần eo. Tăng hỏi thế nào là chó Bạch Hào. Không sủa. Tăng hét. Sư đánh, nói: Nói nó không sủa. Bạch Hào có chó không sủa, học nhân một tiếng hét, chúng đều kinh. Tông Sư cướp được mở rộng ra, cho dù mắt nhắm cũng như sáng. Tăng hỏi Nam Tuyền, sau khi Hòa thượng trăm tuổi đi về đâu? Xuống núi vào nhà đàn việt, làm con trâu. Con theo Hòa thượng được không? Nếu ông theo ngậm thì theo một cành cỏ, ở chung bầy mới khó biết được. Mang lông đội Sừng cũng chưa tỉnh, ngậm cỏ đến nơi định động, mọi thứ hiện chân linh. Vỉnh Gia đến chỗ Lục Tổ, đi nhiễu giường Thiền chống gậy đứng. Tổ nói: Luận về Sa-môn phải đầy đủ ba ngàn oai nghi, bốn muôn tế hạnh, Đại đức từ phương nào đến, mà ngã mạn vậy. Sinh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng. Sao không thể nhận vô sinh, rõ được không mau chóng? Thể thì không có vô sinh, thấu suốt được gốc thì không mau chóng. Ông được ý vô sinh chăng? Vô sinh có ý sao? Không ý thì ai phân biệt? Phân biệt cũng không ý? Đúng như vậy, đúng như vậy. Viên ngộ chân tâm xuất phát từ bản tâm, không người chứng nhận nghó trầm ngâm. Nhiều lần đột phá duyên số chín, một khi thấy được Sư liền thành Phật. Nam Tuyền hỏi Tăng, từ đâu đến? Săn chim ở núi thần. Săn bằng tay hay bằng chân? Tăng không đáp. Ông hỏi ta nói cho ông. Đánh cả tay và cả chân. Về sau gặp người liễu ngộ kể lại như vậy. Sau cùng Pháp Nhãn hỏi Tăng: Câu bẩy chim ở núi thần, ông hiểu không? Tăng lễ bái. Ta lấy gậy đập vào xương sống, còn ông thì sao? Nếu không đánh chỗ nào, thì tìm kiếm chỗ nào để tôn sùng cầu nguyện. Chỗ khác thì được, nhưng nơi đây không được. Pháp Nhãn ngay cơ dương như vừa sáng, lý bẫy lưới rất chặc chẻ hợp với nước đói gặp vua đãi tiệc, chưa ăn tâm nghi không còn tranh. Tọa chủ Lương Toại, buổi đầu tham vấn Mã Cốc. Mã Cốc thấy Lương Toại đến đi cuốc cỏ. Lương Toại đến Mã Cốc đều không nhìn, đi vào phương trượng, đóng cửa lại. Ba ngày sau Lương Toại lại đến tham vấn, vừa gõ cửa, Mã Cốc hỏi: Ai”. Hòa thượng chớ lừa Lương Toại, nếu không đến đây lễ bái, thì bị kinh luận lừa một đời. Ma Cốc mở cửa gặp Lương Toại, theo căn cơ không dễ nhận, Lương Toại trình độ cao suy lường biết được. Nếu không nhờ tích lủy lâu việc đồng phong, thì đâu chịu trở về tin Pháp vương. Tuyết Phong dạy chúng: “Vọng Châu Đình và ông gặp nhau rồi, Ô Thạch Đỉnh cùng ông gặp nhau, trước tăng đình. Bảo Phước hỏi Nga Hồ, việc trước tăng đường hãy gác lại, Vọng Châu Đình và Ô Thạch Đỉnh gặp nhau ở chỗ nào? Nga Hồ nhẹ bước về phương trượng, Bảo Phước về tăng đường, Vọng Châu, Ô Thạch cùng nhau ở trước tăng đường, gặp nhau biết nhau mấy vạn năm, chỉ có Nga Hồ và Bảo Phước, lúc này gặp nhau biết đổi mới”. Tuyết Phong từ giã Phổ Tuyền ra đi, vào ngồi trong thùng gỗ. Tuyền nói: Bốn người khiêng cái này, mấy người khiêng cái kia, Phong từ trong thùng gỗ đứng dậy nói: Nói cái gì? Tuyền hỏi lại: Đi đi là y không biết. Thế là Tuyền cố vấn khiêng tăng đi. Một phần bốn nói rõ cho anh, hỏi lại đã vượt ngàn vạn dặm. Đi phải biết được từ thân. *. Quy Sơn và Ngưỡng Sơn đang đi, thấy chim hộc ngậm quả hồng rơi xuống. Ngưỡng sơn đưa gậy cho Quy sơn hỏi: Từ đâu đến?”. Đó là do đạo đức của Hòa thượng cảm hóa. Ông cũng không được rỗng không, nhưng cũng được chia nữa phần. Chim Hộc ngậm trái hồng rơi trước mặt Sư. Hỏi rõ ràng việc này từ đâu đến, chia từng phần ngọt như mật, nếu nay không hiểu đợi đến năm nào? Quy Sơn và Ngưỡng Sơn hái trà, Quy Sơn nói: Cả ngày chỉ nghe tiếng ông, nhưng không thấy hình ông”. Ngưỡng Sơn lay cây trà. Ông chỉ được dụng này, không được thể kia. Con chỉ như thế, còn cội nguồn của Hòa thượng thì sao? Ngưỡng Sơn im lặng giây lâu. Hòa thượng chỉ được thể này, mà không được dụng kia. Tha ông ba mươi gậy. Hái trà chớ suy nghó chuyện khác, biết rõ khắp nơi là đạo tràng. Thể dụng đều về chân ứng vật, ứng ngộ dòng thiền mưa hoa trước thềm. Nam Tuyền, Ma cốc, Quy Tông cùng nhau đi lễ bái Quốc Sư Trung. Nam Tuyền vẽ một vòng tròn trên đất, bảo rằng: “Nói được thì cùng nhau đi”. Quy tông ngồi trong vòng tròn, Ma Cốc làm Tín nữ lễ Quy Tông. Nam tuyền nói: “Như vậy thì không đi”. Tông nói: “Là tâm hạnh gì?”. Quốc Sư muốn thấy nhiều nghóa tướng tròn ngồi đoan nghiêm lễ thỉnh xem. Không đi nghe tiếng thì biết, đi lâu đoạt được cờ phướn trong trận. Huyền Sa bảo tăng đem thơ đến Tuyết Phong, Phong mở ra thấy giấy trắng, đưa ra hỏi đại chúng: “Ngộ không”. Chúng không đáp. Không nghe nói quân tử, ngàn dậm đồng phong. Tăng trở về kể lại cho Huyền Sa nghe, Sa nói: Lão già đầu núi sai lầm không biết, thế nên sai đem thơ từ xa đến. Không phải văn tự chỉ dạy gia phong, đem lời về báo cho Huyền Sa, phân biệt sai lầm lý càng nhiều. Bá Trượng hỏi Vân Cư, Thừa Văn, Quy Sơn gần đến, ông làm trâu đi. Vân Cư hỏi lại Bá Trượng, Quy Sơn nói con trâu thì làm sao hiểu. Lớn nhất thiên hạ. Vân Cư nhờ hỏi trâu người xưa, chư khách tự nhiên qua lại báo đáp, lão già khắp nơi thật đáng tin, trong loài đưa ra một sợi lông. Lý Cao Thượng Thư hỏi Dược Sơn: Thế nào là đạo? Sơn chỉ tay lên trời nói: Hiểu không”. Không hiểu. Vân tại thanh thiên Thủy tại bình cao. (Mây ở trời xanh, nước ở trong bình). Cao kể lại cho Sư bài kệ: Luyện đắc thân hình tợ tuốt hình Thiên thu từng hạ lưỡng hòm kinh Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết Vân tại thanh thiên Thủy tại bình”. (Luyện được thân hình giống thân chim. Dưới ngàn cây tùng hai hòm kinh. Từ nay hỏi đạo không còn lời. Mây ở trên trời, nước ở trong bình). Mây ở trên trời nước ở trong bình, e anh vọng hiểu tỉnh ngộ, hồn thanh, thần thông như thật hiện danh tánh. * Hương Nghiêm dạy: “Như người leo cây, miệng ngậm cành cây, tay không vịn cành cây được, chân cũng không đạp được, dưới cành có người hỏi ý Tổ Sư từ Tây sang, không đáp thì trái với người hỏi, nếu đáp thì tan thân mất mạng, lúc ấy phải làm sao thì đúng. Hương nghiêm ngậm cây dạy nhiều người. Chủ yếu dẫn dắt đồng đạo thông nguồn chân. Do dự dứt được ngay lời nhận. Tan thân mất mạng như bụi mù. Phần Dương vì ông mở đường mê. Mây tan trời tạnh, mặt trời, trăng mới. Đều tụng. Tiên Thánh một tắc tắc, thiên hạ chép truyền đến tay, khó biết và dễ hiểu, Phần Dương tụng rõ ràng, không hoa kết thành không quả, không sau cũng chẳng trước, khắp báo các kẻ só mở rộng, đều biết về huyền thứ nhất. Sư chú bài tụng của Thiền Sư Thư Sơn Tỉnh Niệm. Dốt thay lang quân vụng về (Tinh khiết rõ ràng linh lung khắp). Nghệ thuật không biết nhau (Vận cơ không diện mục). Đánh phá cửa rừng phượng (Tánh linh lung khắp nơi). Mang giầy đứng trên nước (Bụi bùn khác nhau). Dốt thay cô khéo léo (Lý diệu trí viên dung). Có thoi không biết dệt (Không gián đoạn không lập). Xem anh ta đấu gà (Nhìn kỷ thì lớn hơn, tranh công thì không Tổn mình). Trâu cũng không biết (Toàn thân gánh vác được, đầu Sừng không lộ). * Gạn hỏi một trăm tắc thay đáp ở sau. Trên Tòa Bảo Nghiêm chỉ có đức Từ Tôn, vạn Thánh đều hợp lại. Ngàn ánh sáng thấu suốt bóng, sáng ngời chiếu khắp, thảy đều vắng lặng. Thần túc đã xong, xuyên mây qua nước, vì sao biết không được? Nếu nay biết được không? Nếu có thì nói ra. Thay nói: “Dốc hết tâm lực”. * Gió không hình tướng, vì sao nước chảy xuôi dòng? Thay đáp: Sức không thiếu. Nước không gân xương, vì sao trôi hết đại địa? Mềm thì hơn cứng, yếu thì hơn mạnh. Đất không thiên vị, vì sao cao, thấp, không bằng? Hiển bày rõ ràng. Lửa ở trong gỗ, vì sao không cháy bản thể? Hoại không được. Hư không không bờ mé, vì sao thế giới không đồng? Không thêm bớt. Thân Phật không, vì sao Song lâm nhập Niết-bàn. Phật thị hiện. Từ Như lai cho đến Thánh, vì sao không ở trong rừng vắng? Sáng tỏ. –Từ Như lai cho đến Thánh, vì sao đến trong rừng vắng? Biết. Thân Phật rộng lớn, vì sao ẩn trong vi trần? Ẩn được không? Dấu chim trong hư không, dấu cá lội trong nước, vị muối trong trà, keo xanh trong sắc. Thiền tăng mắt sáng, không thể thấy rõ, làm sao dư ra lấy được trong suốt. Được rõ ràng. Chân Phật không hình, tại sao nói đủ ba mươi hai tướng tốt? Sợ đoạn mất. Phật không trái với của chúng sinh, tại sao không chịu thỉnh trước? Không mất thời giờ. Phật không thoát khỏi nguyện của chúng sinh, tại sao không đem chánh pháp trao cho Đề-bà-đạt-đa? Lượng tài mới bổ nhiệm. Tâm Phật bình đẳng tại sao chúng sinh không có duyên thì không được độ Không khinh khi họ. Phật hóa độ tất cả, vì sao không độ được cô Tỳ nữ của Thắng Man phu nhân? Tự mình khuất phục. Thân Như lai những việc ác đã diệt, do điều thiện tích tụ, tại sao Phật không tránh khỏi, Kim thương mã mạch, và đá, gỗ làm đau đớn? Đó là hiển nhiên. Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tại sao lục đạo, tứ sinh, từng loài không thể biết? Không phải lỗi mặt trời, mặt trăng. Tất cả chúng sinh xưa nay thành Phật. Chúng sinh ở địa ngục tại sao phải chịu khổ? Người biết ơn thì ít, trong văn không thêm điểm này, là người cảnh giới nào? Trâu mẹ bôi đất đỏ. Kiếp tận khó cùng, không giống như im lặng, biết được vốn rỗng không, có như huyễn, đã rơi vào danh ngôn, dứt dấu bặt duyên, như cuồng như dại, làm sao không Tổn thương vật nghóa? Không nhọc cứ lại. Pháp môn rộng lớn, tại sao người vào không được? Ai. Pháp không ẩn hiện, tại sao trời người không thấy? Có thì không được. Pháp không trong ngoài, tại sao có được mất? Không cần cố vấn. Pháp không tướng nhất định, vì sao không thể hoại chân thuyết? Xưa nay rõ ràng. Pháp không thêm bớt, vì sao mãn tử phanh phanh? Người lặng không cần nói, nước bằng không chảy được. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, ai là người độ? Xe quay đến Linh Sơn. Pháp môn vô biên thệ nguyện học, làm sao học? Sáng tham, tối thỉnh. Phiền nảo vô biên thệ nguyện đoạn, lấy cái gì để đoạn? Có không. Vô thượng Bồ-đề nguyện thành, làm sao thành? Thiên tử không cắt cỏ. Văn-thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí, Mãn tâm thập địa là Di-lặc Từ tôn, Nhất sinh bổ xứ, tại sao gánh củi mang lửa, gánh vác đau khổ cho chúng sinh. Si mê không biết, quét nhà thả trâu, ăn cơm dư của người, sau khi mạng chung dứt thế tục, vượt trần luân, ra sinh vào tử, được đạo lý gì? Lẩn lộn. Biển cả bay đón nhận các dòng nước chảy về, tại sao nước chảy qua nước Tân la? Không được lẫn lộn. Biển cả không thêm bớt, tại sao sóng ba đào vơi, đầy không nhất định? giờ. Xưa nay rõ ràng. Nước biển một vị, tại sao Long vương ăn uống khác nhau? Theo nghiệp biến hiện. Biển sâu không đáy, tại sao nước dư đến dầu gối? Nghiệp lớn. Nước biển vô tri, tại sao thủy triều luôn đúng giơ? Hòa tu hạnh lành không lệnh nghiêm, quân thần qua lại tự biết Thái sơn không chém vi trần, Tu-di sơn vì sao không chứa trần ô nhiễm? Vào không được. Tu-di sơn, không dao không động, khi đại địa hoại thì sao? * Đều không hình tướng và thể chất? Không tranh nhau với thế gian. Ngọc trắng không tì vết, tại sao Biện Hòa chặt chân. Vẩn còn gương soi. Thật tế lý địa, không thọ một trần, tất cả chúng sinh làm sao bước theo? Đông vọt tây chìm. Rồng bay, biển, cá, ba ba đều ẩn trốn, cọp gầm rừng sâu, cả bầy chồn đều trốn hết, voi chúa rảo bước, bờ bảo đều đóng băng, Sư tử hống, cầm thú đều ẩn trốn. Mục Kiền Liên, Xá-lợi-phất, vận dụng trí tuệ và thần thông, Kim sắc đầu đà nháy mắt, Thích chư Thanh văn, không lường được thập địa, phải biết rằng không sinh vừa xướng, trời mưa hoa. Huống nữa nhiều lời, trời chịu luận bàn. Một đường thông nhân đầy miệng nói được không? Tăng thì có lục hòa. Thế nào pháp trở về một pháp? Kỳ đặc chăng? Tăng là đệ tử của Phật, tại sao nói cúng dường trước, cúng Phật sau? Sau cùng là ban đầu. Tùăng nương pháp xuất gia, tại sao pháp nhờ tăng nói? Chớ phỉ báng Như lai. Nếu trời che khắp, tại sao không có chỗ ẩn thân? Giặc là người trí nhỏ hơn quân tử, Giống như đất che chở khắp, tại sao mảy may không rõ được? Chật hẹp. Phất nhất chân có thể có, tại sao mỗi người không thọ dụng được? Không chiếm ruộng đất. Mọi người đều có đủ, tại sao ngàn thiếu, vạn thiếu? Không tin hạt châu trong chéo áo, trăm người không hội được một, tại sao không nghi? Biết rõ. Hoàng hà gặp Thánh minh thì Thanh tịnh, chưa biết do Sức người nào được? Ân này khó báo. Càn khôn sáng ngời, mặt trời, mặt trăng đều sáng, tâm không phụ người, mặt không hổ thẹn với sắc, vạn tượng Xán lạn, người không hội lỗi ở chỗ nào? Không cần nghiêm lại. Ngàn tà không cần một chân thật, nhất trực thì không hỏi, thế nào là ngàn tà? Biết được ông. Nếu có tất cả thì đều là hưng khởi, làm sao không hưng khởi? Chớ mở mắt suy nghỉ về ngã, không đi khắp thì xin nói. Không mở miệng được sao? * Nói năng không đến được, làm sao luận bàn? Việc tốt không bằng không, chân lý không nói làm sao gần gũi? Thật ra. Trong chánh pháp cho hỏi đáp không? Vả vào miệng. Chúng sinh trong hoàn cầu nhiểu nhương, làm sao biết được chủ trong chủ? Ông buông thì liền ngộ. Chỉ một thừa, không có hai thừa, trong biển Long cung ẩn chỗ nào? Đất bằng chôn cất. Đạo không hình tướng, tại sao thực hành phải dụng công Tin thì được thôi. Gió đông vừa thổi trăm loài cỏ thu mình, mặt trời lên khí ấm, âm dương hòa hợp, sấm chớp mưa thuận, trống nổi cướp cờ, không Tổn vật nghóa, ai sẽ là bậc anh tài đầu tiên, có chỗ nào không? Có không? Có không? Thường thì có dư. Ba xuân cảnh đẹp, bốn mùa hoa cỏ thơm ngát, trời nắng dợn sóng, xưa nay không dọa, cái đó là vật gì? Biến hóa được không? Thấy sắc như mù, làm sao phân biệt rõ các pháp? Giống như mù. Một pháp biến khắp bao hàm tất cả pháp, tại sao sơn hà đại địa, mỗi mỗi không biết nhau? Trời không thể che, đất không chở được, nơi nào để an thân lập mạng? Chốn đồng hoang. Tất cả chúng sinh có đủ kiến văn, tại sao trong kinh nói: Không, nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý? Đúng không sai. Trước mắt không vật, vì sao có đầy đủ? Đâu từng không đủ. Giới như biển không bờ, như bảo cầu không chán”, tại sao chỉ giữ hai trăm năm mươi giới. Hết pháp không có dân. Chưa từng có một pháp cho người, tại sao đức Thế Tôn nói: Ta có chánh pháp nhãn, trao cho Ma-ha-ca-diếp”. Dương hòa vạn vật sinh. Tâm và pháp cũng như vậy, chân tâm không trước, sau, tại sao bảo hỏi các bậc tiên bối đã thông suốt? Trong vạn người không được một. Trời, người không lường được, pháp tánh biết nó, ngang dọc trên không, rỗng không tự tại, chạm mắt tùy duyên, ứng cơ tỏ bày, là tướng mạo gì? Giống như đầu má. Bốn đại không chủ, thân mày vô ngã, tại sao Phật nói: Ta là hơn hết”. Tự thương mình biết xấu hổ. Phô bày xưa, hiển thị nay, đều có một pháp, trước Phật, sau Phật, tại sao dụng không hết? Thì đành. Pháp vô tận tạng, tại sao chỉ nói năm ngàn bốn trăm mười tám quyển. Đã nhiều lắm rồi. Đạo vốn không mất, tại sao nói được đạo? Tin. Như chuối bền chắc như thái hư, sấm sét trong mây, mau chóng khó dừng, thế nào là câu đuổi không mất? Đánh tiếng hòa nhau. Đồng tử không nói, làm sao hiểu được kinh nói? Nhẫn không thông. Chân tánh, tâm địa, tạng tâm ẩn ở chỗ nào? Có chăng. Tánh giống như hư không, hư không tại sao không bằng ông? Ưa giận, ưa vui. Tiếng linh vàng, trống ốc, tiếng đờn cầm, ống tiêu, không hầu vưa tiếng chó sủa, lừa kêu, giống nhau hay khác nhau? nói? Chim bay trên không, không lẫn sắc không. Mãn, Tự nói thao thao, tại sao Phật nói không có pháp có thể E ngại. Bồ-tát không có thần thông, tại sao còn những dấu vết khó tìm? Vẫn còn phải tự lực. Pháp không thuộc nhân, cũng không phải duyên, làm sao nói được? Chao ôi! Vẫn còn nương tựa kết án. Lớn như đại địa là vật gì? Che không được. Từ sinh đến già lấy cái gì để mặc áo, ăn cơm? Lừa ăn hết cỏ đại địa. Phật pháp là Phật nói, tại sao nói phỉ báng Phật? Lại nữa. Có câu sáng tỏ không ngộ vì sao để người mê? Còn hữu tình. Vì sao không có Phật tánh? Còn ngăn cách. Vô tình tại sao có Phật tánh? Vì biết. Ngang trùm vũ trụ, dọc bao quát càn khôn. Nước biển vượt sáng, Tu-di cao ngất, có câu “Đánh không nát không”, có thì nói đi? Đánh. Mặt trời, mặt trăng vô tâm, vì sao có thể phân biệt vạn tượng? Ân này khó báo đáp. Mặt trời, mặt trăng sáng tỏ, chiếu cả người và tâm, người mê có mượn mặt trời, mặt trăng không? Không nghe nói. Ánh đèn tuy nhỏ, tại sao xua tan được bóng tối trong nhà? Sáng. Sao Hỏa thật nhỏ, tại sao có thể thành hoại? Có khi trời đất đều đồng Sức, thế lực không được tự do như anh hùng. Núi Nhạc dù cao, vì sao không hơn tâm người? Người biết pháp e ngại. Người hoàn toàn không biết, tại sao không cầu Phật Tổ? Khuất phục được chăng? Trời tuôn nước Cam lồ, khí đất thấm nhuần, vạn vật nẩy mầm, ngàn điều lành xuất hiện. Chấp tay cung kính, cúng dường Tam tôn, có được lý siêu Phật vượt Tổ chăng? Ảnh hưởng. Như nắm tay hợp lại thành tay, như tay hợp thành nắm tay, xòe ra nắm lại tự do, không nhờ Sức người khác, lỗi ở chỗ nào? Sáng đánh ba ngàn, tối đánh tám trăm. Mây giăng biển cả, tâm rồng mưa nước. Bỏ vàng được phước, nuôi dưỡng nhân thiên, hư không có giới hạn, việc này thì không cùng, có biết được chăng? Biết được gọi là gì? Người Ba Tư mắt mù. Tụng. Gạn hỏi một trăm tắc, từ đầu toàn đạo lý, xưa nay như mắt thấy, có miệng không thể nói. Trong thất thưa thỉnh công án người xưa cũng chưa hết điều hay. Thỉnh Đại trả lời, nói không khuôn phép, vì thưa để phân biệt, mục đích là để Đại phân biệt. Ngoại đạo Lục Sư bảo vua Ba Tư Nặc, vua Bình Sa Vương và mười sáu vua nước lớn, tất cả nhân thiên đều tụ tập tại nước Câu-tát-la cùng đức Thế Tôn tranh đấu thần thông. Phú-lan-na, Ca-diếp nói: Đàm luận một thần thông, chúng ta hiện hai, cho đến trăm ngàn mỗi mỗi đều hơn gấp đôi. Đức Phật hiện từ mười hai mặt trăng cho đến mười lăm mặt trăng, trước thiên, nhân, quốc vương, tất cả Long thần hiện vô lượng thần thông, cho đến mặt trăng tròn, mười lăm mặt trời, qua vô số nhân thiên, ngoại đạo kia v.v… Vừa không có một chỗ luận, bị vua các nước hỏi: Lục Sư tại sao không hiện thần thông, chúng ngoại đạo đều không nói, chạy đi tứ tán, thậm chí có người chết, chính lúc ấy thì thế nào? Ở trước Phật luận được thần thông gì?”. Hãy chuyên chú cẩn thận. Đề-bà-đạt-đa bảo vua Ác sinh vương, giết cha, giết mẹ và Đề- bà-đạt-đa giết đức Thế Tôn nên mất đi thần thông. Khi đến trước Phật, Phật bảo: “Kẻ ngu si, sao ông không hiện thần thông đi, trước Phật tại sao không biết hổ thẹn”. Quân tử xấu là lời nói trước tiên. Phật-đà-ba-lợi đi dạo núi Ngũ Đài đến Hân Châu đông gặp bà lão hỏi: Thầy đi đâu?”. Đi Đài sơn lễ Ngài Văn-thù. Đại đức, gặp Văn-thù có biết không? Tăng không đáp. Ngày nay an lạc. Đệ tử Phật là Tất-lăng-già-rà-thu thấy tháp của một vị tăng, quán sát biết là phàm phu, sợ thiên, nhân gặp lễ bái. Khi đến tháp ấy nứt ra, bị Lục Quần Tỳ-kheo đến đánh, nhưng Ngài vẫn không nói lời nào. Tâm tốt thì không hợp quả báo. A Dục vương thỉnh Tân Đầu Lô thọ trai, vua hỏi: Tôn giả lãnh hội ý chỉ, được thấy Phật đến chưa?”. Tôn giả vén lông mày chỉ dạy cho vua, nói “Hiểu chăng?”. Không hiểu. Lão tăng thấy Phật đến, không đáp. Nhọc cho tôn giả. A-nan hỏi Ca-diếp, Đức Thế Tôn truyền y kim lan cho Sư huynh, còn truyền pháp gì nữa không? Ca Diếp kêu: A-nan. A-nan dạ. Ca Diếp nói: Cây phước trước chùa ngã”. Không hỏi mà biết cái đó. Ưu Ba-cúc-đa đến thăm Tỳ-kheo Liên Hoa Sắc. Vừa vào đến cửa đụng tung bát dầu. Liên Hoa Sắc nói: Khi Phật còn tại thế, nhóm Lục quần Tỳ-kheo là thô tháo nhất, mấy lần đến thăm ta còn không đụng đến cái bát này. Tôn giả là người kế thừa Tổ vị, tại sao lại thô tháo như vậy? Đã biết thì sợ sai. Văn-thù, Qúan Âm, Di-lặc hỏi Giới Hiền pháp Sư: “Sư đại không chủ, thân này cũng không ngã phải không? Bảo dạy ai ngăn cấm gió. Không thấy được đạo vô chủ. Ca Da Xá Đa Tổ thứ mười tám đến nước Nhục Chi, Cưu Ma La Ha hỏi: Ngài là đồ chúng nào?”. Đệ tử Phật. Cưu-ma-la-ha nghe tên Phật, tâm thần hoảng sợ, liền đóng cửa lại. Tổ gõ cửa. Cưu-ma-la-đa đáp: Nhà này không người. Ai nói không người. Vừa quên mất. La-hầu-la đi giáo hóa, đến nước Ma-kiệt-đà cầm một cái sào, trên cài sào treo cờ đứng trước mọi người, họ hỏi: Thầy là người nước nào?”. Ta là người Nhất thiết trí. Dân chúng đều không nói. Không thương không biết xấu hổ. Ngoại đạo Tây thiên hỏi một vị tăng nhập định: “Họ hàng Long vương thuộc chủng tộc chúng sinh, không phải trời, chẳng phải La hán, không còn thọ thân sau, là nghóa gì?”. La hán không đáp, nhập định hỏi Di-lặc, Di-lặc đáp: Xuất định đi”. Như Di-lặc nói: Ví như người thợ gốm nắn đất thành tượng”. Nhọc cho La hán vận dụng thần thông. Di-giá-ca từ Trung Aán đến Trung hoa. Khi đến Bắc Thiên Trúc gặp người đang bưng bình rượu, ông ta hỏi: Sư từ phương nào đến và đi về nơi nào?”. Ta từ tâm đến, muốn đến chỗ vô xứ. Thầy biết vật trong tay ta không? Đây là bình dơ, tại sao lại mang vào người sạch? Thầy biết ta chăng? Ta thì không biết, biết thì không phải ta. Ta dù biết ông cũng không biết tên họ, ông cứ nói tên thì ta biết. Thầy đã biết tôi thì đâu đợi xưng tên. Mã Minh hỏi Ca Tỳ Ma La: “Ông thuộc dòng Thánh nào?” Ta biến hóa ra biển cả một cách dễ dàng. Ông hóa ra tánh biển được không? Nếu hóa ra tánh biển thì ta làm không được. Nói cách khác: Nhận thì không được. Long Thọ đi giáo hóa đến Tây Aán độ, gặp Đề-bà hỏi: Phật tánh ông là gì?”. Bố thí, tôi cầu phước không biết được Phật tánh. Ông hiểu Phật tánh không, thì Ta nói cho. Sư nói: Muốn học đạo trước phải trừ tâm ngã mạn, sinh lòng cung kính tín ngưỡng, trong lòng luôn hổ thẹn, mới được Phật tánh. Sao hôm nay ông không phát tâm cung kính mà muốn đạt được chăng? Đề Bà cầu xin tha thiết. Nói cách khác: “Nhân một việc mà làm lớn mạnh trí tuệ”. Tôn giả Sư Tử đi giáo hóa ở nước Kế Tân, nước ấy có một vị Sư Ba Lê Ca có trí tuệ và học thiền định Tiểu thừa. Sau khi Sư ra giáo hóa năm chúng các nơi tụ hội về, Tôn giả Sư tử thường tự hỏi: Hỏi thì không nói”. Mọi người đều nói: Nơi chân giáo của Phật, diễn pháp Ba la mật, ai bảo không nói để cấm thuyết của Phật. Lời cũng không thông. Bỏ các tướng, Phật nói là chân tướng, có đủ oai nghi, phạm hạnh Thanh tịnh, tướng này ở đâu, mà nói là bỏ tà? Bỏ cũng không nhiễm ô. Chấp các tướng, cõi Phật Thanh tịnh, tự tại không chấp trước. Sao gọi là chấp tướng, mà nhất định là tà? Ngỡ rằng không người. Các thứ tri kiến là tri kiến của Chư Phật, cho nên gọi là Vô sở đắc, phép này nhiệm mầu, thấy nghe không thể sánh kịp, vô tướng vô vi, làm sao biết được là tà kiến? Thì làm nhọc nhau. Vua hỏi Tôn giả: “Thầy được pháp thù thắng chăng?” Được. Còn sợ sinh tử chăng? Đã không bị sinh tử chi phối. Sinh tử đã lìa, vậy cho Trẫm cái đầu được không? Thân này vô ngã huống chi cái đầu. Nói cách khác: Cho cái đầu được không? Vua chém, đầu tay đều rời. Nói cách khác: “Biết Sư không thương”. Quân Vương Đông Aán Độ thỉnh Bát-nhã Đa La thọ trai, Vua hỏi: Các người đều chuyển hết kinh, tại sao Sư không chuyển? Bần đạo hơi thở ra không theo các duyên, hít vào không ở trong uẩn giới, thường hay chuyển kinh như vậy. Được trăm ngàn vạn ức quyển, chẳng phải chủ hai quyển. - Làm nhọc tâm lực Tôn giả. * Vua Lương Vũ Đế hỏi Tổ Sư “Thế nào là nghóa Đệ nhất Thánh đế?”. Rỗng rang không Thánh. Đối diện Trẫm là ai? Không biết. Trí đệ tử cạn cợt. Chí Công hỏi Tổ Sư: “Nhân giả thông hiểu ý chỉ nói: Ta làm đồ tể, thấy có ngã để sát sinh chăng? Thấy có. Còn có thấy cái thấy, thì không thấy được nó, không có đều là tà kiến. Tổ nói: Ông còn tà kiến như vậy sao?” Không uổng từ tây sang. Lương Võ Đế thỉnh Phó Đại só giảng kinh, phó Đại só an nhiên. Vua nói: Thỉnh Phó Đại só giảng kinh cho Trẫm, vì sao Ngài không giảng?”. Chí Công nói: Phó Đại só giảng kinh xong”. Đại só giảng kinh, vua đến, mọi người đều đứng dậy, Đại só ngồi an nhiên. Quần thần nói: Vua tới tại sao Ngài không đứng dậy?”. Giảng pháp nếu động, vạn pháp không yên. Biết nói đạo lý. Đại só ngồi một bên, vua nói: Sao không ngồi chính giữa?” Người chính giữa không có chánh tánh, người ngồi một bên mà tâm không một bên. Đại só nói: Nghóa này rõ ràng”. Vô Trước uống trà, Văn-thù nâng chung trà lên hỏi: Phương Nam có cái này chăng?”. Không. Lấy cái gì uống trà. Đại só nói: Cám ơn Sự chiếu cố của Ngài”. Chiều đến Vô Trước xin ở lại. Văn-thù nói: Đại đức còn chấp tâm”. Con không chấp tâm. Có thọ giới không? Thọ giới đã lâu. Nếu không chấp tâm, đâu cần thọ giới. Đại só nói: Xin sám hối vì lỡ nói”. Đồng tử tiễn đưa ra cổng. Vô Trước hỏi đồng tử: “Đây là chùa gì? Đồng tử chỉ sau lưng hang Kim cang. Vô Trước quay đầu nhìn thì chùa biến mất. Văn-thù bảo Thiện Tài: “Không phải thuốc hãy hái đem cho ta một cọng”. Khi trở về Thiện tài thưa: Không có người cũng không có thuốc. Đem thuốc đến đây cho ta. Đồng tử thuận tay lấy cọng cỏ đưa cho Văn-thù. Văn-thù đem đưa lên cho Đại chúng nói: Cũng có thể giết người được, cũng có thể cứu người. Đại nói: Cái cân trong tay”. Bạt Đà Tam Tạng hỏi pháp Sư Sinh: “Thế nào là nghóa sắc không?” Nhiều thứ hợp lại thành sắc, do hợp lại nên rỗng không. Khi chưa hợp lại gọi là gì? Thay nói: Thể nó dây dưa”. Chí Công đang ngồi thấy vua Lương Võ Đế đến, Sư đứng dậy đốt bạch lạp. Không phải bảo truyền Vô Tận Đăng cho đệ tử chăng? Chí Công cầm bạch lạp dụi tắt hết. Công nói: Đúng là thừa đương sai”. Vua Lương Võ Đế ngồi trên ngai, phó Đại só mặc áo thiền tăng, đầu đội mũ, mang hài. Vua hỏi: Thầy là tăng chăng?, chỉ lên đầu, là đạo chăng? Chỉ vào áo là tục chăng? Chỉ vào hài. Đại nói: Đại só Đa tài”. Tứ Tổ đến chỗ thiên Sư Ngưu đầu Pháp Dung, thấy sau con có cọp. Tổ làm thế sợ. Ngưu đầu nói: Thầy vẫn còn cái này sao?”. Cư só vừa thấy cái gì? Thay nói: Giống như sợ”. Túc Tôn hỏi Quốc Sư Trung: “Thầy được pháp gì?”. Bệ hạ thấy đám mây trên không trung không? Thấy. Đóng đinh vào treo lơ lửng. Thay nói: Hiểu sai”. Thế nào là mười thân của Phật? Sư đứng dậy nói: Hiểu không?”. Không hiểu. Đem bình nước sạch đến đây cho lão tăng. Thay nói: Dạ. Có một sơn tăng học nhiều, Sư hỏi: Biết thức đại không?”. Không dám. Dưới chân là đất gì trước điện? Chỉ hai chân đạp đất. Khô. Tự ở núi là yếu hay mạnh. Thay nói: Một lời được hai”. Đây là chữ gì? Thay nói: Thêm bớt được không?”. Ba tuần là bao nhiêu ngày? Hai mươi mốt ngày, đâu từng biết tính. Thay nói: Sức không bằng thế”. Biết được việc gì? Dù có người biết được, đáp cho Sư cũng không được. Thay nói: Quá dở”. Sư quở: “Thế thì ở trong ấy độ kẻ mù”. Thay nói: Không sao biết được”. Túc Tông đến thăm Sư cũng không thấy. Vua nói: Trẫm là vua một nước, tại sao không quan tâm đến Trẫm?”. Bệ hạ có thấy hư không hôm trước không? Thấy. Hư không có nháy mắt với bệ hạ không? Thay nói: Sớm đã không dính dáng”. Ngư Quân Dung hỏi: Thầy ở núi Bạch nhai tu hành thế nào? Sư kêu đồng tử ra, xoa trên đầu đồng tử nói: Tỉnh tỉnh ngay lời liền tỉnh, rõ được ngay lời liền rõ, ở chỗ khác sau này chớ để người lừa”. Quân Dung không trả lời. Thay nói: Sao không chấp nhận”. Ma Cốc tham vấn Quốc Sư Trung, đi quanh án một vòng, dộng tích trượng Sư nói: Đã được như thế, đâu cần gặp ta, lại dộng tích trượng. Sư hét nói: Dã hồ tinh”. Thay nói: Hòa thượng đường đột”. Quốc Sư hỏi Tọa chủ: “Giảng kinh gì?”. Kinh Kim cang. Hai chữ đầu là chữ gì? Như thị. Là chữ gì? Thay nói: Sớm đã lắm lời”. Đơn Hà hỏi tăng: “Từ đâu đến?”. Dưới núi lên. Ăn cơm chưa? Ăn rồi. Sư bảo người đem cơm lên cho Xà-lê. Có mắt không? Thay nói: Nếu không lên núi, thì đâu biết Đơn Hà”. Tăng hỏi Ngũ Duệ: “Vật gì lớn nhất trong đời?” Không người biết được. Có thể trạm trỗ điêu khắc được không? Ông thử làm xem. Thay nói: Buông hết thì không được”. Tăng hỏi Long Đàm: “Hạt châu trong búi tóc người nào được?” Người chưa từng vui đùa. Để ở chỗ nào? Đợi ông có chỗ thì nói cho ông. Thay nói: Bịt tai qua”. Đức Sơn hỏi Duy Na được mấy người mới vào? Tám người. Kêu hết lên đây kiểm nghiệm. Thay nói: Khám phá rồi”. *. Nam Tuyền cầm rìu nói: Nói được thì cũng một rìu, nói không được thì cũng một rìu”. Thay nói: Đánh một tát”. Bách Trượng cuốn chiếu, Mã Tổ về Tăng đường. Tăng hỏi: Thế nào là ý chỉ Phật pháp?”. Chính là chỗ ông buông thân mạng. Thay nói: Công không mất”. Có một cô gái vào tăng đường khóc. Bách Trượng hỏi chuyện gì? Cha mẹ đều mất, xin Thầy chọn ngày. Ngày mai thì tốt. Thay nói: Đổi tay thoi vào hông”. Tăng hỏi Sam Sơn: “Thế nào là thân xưa nay?”. Không giống nhau. Thay nói: Sao chấp nhận người giả dối”. Tăng hỏi Lễ Tổ: “Thế nào là nói mà không nói?” Miệng ông đâu? Không có miệng. Lấy gì hỏi? Thay nói: Chỉ vì không hiểu”. Thạch Củng bảo: “Bắn thử, bắn thử, Tam Bình được ngựa”. Một mũi tên ba mươi năm bắn được nữa người. Thay nói: Còn tất cả đều mù”. Tăng hỏi Minh Khê: “Làm sao tu hành?” Được Thầy chớ nhận khách. Thay nói: Vốn không có sớ vọng”. Thảo Đường tham vấn thiên Sư Hải Xương. Sư hỏi:Từ đâu đến”. Từ đạo tràng đến. Ở chỗ nào? Giặc không cướp người nghèo. Thay nói: Cùng nhau hòa thanh”. Ma Cốc cầm gậy đến Chương Kính, đi vòng quanh Sư ba vòng, dộng tích trượng đứng. Kính nói: Đúng, đúng”. Thay nói: Chớ lừa ta”. Lại cầm tích trượng đến Nam Tuyền, Tuyền nói: Không đúng, không đúng”. Ma Cốc nói: Chương Kính nói đúng, sao Hòa thượng nói không đúng? Chương Kính thì đúng, đúng, còn ông thì không đúng. Đúng này là do Sức gió chuyển, cuối cùng thành hư hoại. Thay nói: Nói không xa gần, Sức có sâu cạn”. Tăng từ giã Đại Từ, Từ hỏi: Đi đâu?”. Đi Giang Tây. Cho lão Tăng đi được không? Chẳng những Hòa thượng, có người còn hơn Hòa thượng, cũng không đi được. Thay nói: Biết ông còn yếu”. Tăng hỏi Vạn Tuế đại chúng thượng đường, cùng nhau luận bàn điều gì? Phẩm Tựa thứ nhất. Thay nói: Tập khí không trừ”. Tăng hỏi Lục Tổ ý chỉ Hoàng Mai người nào được? Hòa thượng có được không? Ta không được. Tại sao Hòa thượng không được? Ta không hiểu Phật pháp. Thay nói: Mới biết ý chỉ khó truyền”. Lưu Vương ở Giang Tây đến tham vấn Am chủ nói: Vua đến”. Am chủ nói: Phật đến cũng không đứng dậy”. Phật há không phải Sư? Am chủ nói: Tại sao không đứng dậy?” Thay nói: Biết đủ”. Hàn Thị Lang hỏi tăng: “Đại đức thấu triệt bản tâm, giãng luận phải không?” Học chữ từng phần, Sữa có bốn, không thay đổi phải không? Phải. Thị Lang đem khai trà đập bể hết nói: Cái này biến đổi hay không biến đổi?” Thay nói: Mới biết được Thị Lang”. Quang Thị giả nói với Huyền Sa: “Sư Thúc học thiền, con chèo thuyền sắt ra biển, Huyền Sa ở sau dạy người hỏi Thị Lang, chèo được thuyền sắt chưa?” Thay nói: Chỉ thấy dùi nhọn, không thấy đục vuông”. Tể Tướng đóng đầy hợp lý bên trong hỏi Quốc Sư Trung bên trong là vật gì? Không phải cơ phát của chuột nhắt. Thay nói: “Khi địch thì mất mạng”. Đầu tử hỏi Tăng, từ đâu đến? Từ núi Đông Tây lễ Tổ Sư đến. Tổ Sư không ở núi Đông Tây. Thay nói: Sớm đã không hợp thời cơ”. Có lão Tú thấy Tăng cuốc củ sen nói: Đạo là thương chúng sinh”. Con chỉ cuốc củ sen. Lão Túc đưa chân ra trước. Thay nói: Há là bảo vệ mạng sống”. Tăng hỏi Tuyết Phong: “Đưa chày, dựng phất tử không đúng, chưa biết Hòa thượng thì sao?” Phong dựng phất tử. Tăng ôm đầu đi ra. Thay nói: Thật đáng tiếc một viên tướng. Tào Sơn bảo tăng đem thơ đến Kiền châu cho Lý thị. Thị nhận thơ xong nói: Nhận được thơ rồi, xin vật làm tin. Thay nói: Chớ lo lạm dụng. Tăng hỏi Trường Khánh: “Thế nào là thể văn chưa hoàn chỉnh?” Ông nêu ra trước ta nói sau, ông cử cái gì? Thay nói: Cùng nhau thưa thỉnh?” Thị giả khóa cửa tháp Tứ châu, Quan nhân hỏi: Là Thầy của ba cõi, tại sao bị đệ tử khoá lại? Thay nói: Buông thì bắt được Tháp chủ của Bá trượng thấy tăng đến lễ tháp, nói: Người xưa được một lời, nửa lời, thì thôi đi. Thầy tăng thời nay, bôn ba đi khắp nơi có ngày nào xong”. Động Sơn nói: Thế thì chư tháp được bao nhiêu lời Thay nói: Rồng rắn khó biết, Thiền tăng khó lừa”. Động sơn hỏi Tuyết phong bó của này nặng bao nhiêu cân? Người cả hoàn cầu này vác không nổi. Tại sao lại ở đây? Thay nói: Cũng biết, nhưng vác không nổi”. Lại hỏi: Từ đâu đến?” Chước Tào đến, mất cái rìu chặt được? Một cái chặt được. Vãn là việc bên này, bên kia thế nào? Được ngay. Không có chỗ hạ thủ. Không có chỗ hạ thủ, vẫn là việc bên này, việc bên kia thì sau. Thay nói: Còn sớm đã khốn đốn. Dược sơn nói Tuyết Nham: “Từ đâu đến?” Từ Bá trượng đến. Bá trượng có lời nào? Hòa thượng nói ta có một câu, đủ trăm vị. Mặn là vị mặn, lạt là vị lạt, không mặn, không lạt là vị bình thường, làm sao đủ trăm vị. Thay nói: Hòa lại thì không đủ.” Vân Nham cuốn gừng, Đạo ngô hỏi: Ông chỉ cuốc được cái này, cuốc được cái kia không?” Đem đến đây thử xem. Thay nói: Lấy cuốc”. Am Châu pháp vân cùng đi với châu chủ, chủ chỉ vách nói: Cái này là chữ gì?” Vẽ kính hình trái tim. Đã là hình trái tim, tại sao ở trên vách. Thay nói: Chiếu khắp”. Động sơn ở Nhương châu khám phá tăng: “Gần đây từ chỗ nào đến”. Ở Thô môn. Thô vương không qua suối được, các ông làm sao đi? Có cho học nhân gần gũi không? Ông định gần gũi làm gì? Tăng trân trọng đi ra. Đại nói: Cũng là dùi thứ hai”. Viện tăng Thiên vương ở Trấn châu hỏi Quan nhân: “Thế nào là công đức?” Làm Thiên vương bảo vệ nước. Chỉ bảo vệ nước này, và bảo vệ nước khác. Ở tầng thì bảo vệ tầng, ở Sở thì bảo vệ sở. Ngày 29 tháng 12 đánh phá thành Trấn châu, Thiên vương đi đâu. Đại nói: Thích gặp Tôn nhan”. Hạnh Sơn hỏi hành giả Can Chất “Từ đâu đến?” Ở Đài Nam đến. Có gặp Văn-thù không? Có gặp. Khi gặp nói gì với ông? Cha mẹ Xà-lê nằm trên rừng gai. thủ. Đại nói: Đi Tào Xưởng đi”. Giáp Sơn hỏi tăng: “Từ đâu đến”? Động Sơn, Động Sơn. Khi Hòa thượng thượng đường có dạy câu gì không? Thời nay y, dạy y ba đường đó là huyền đạo, điểu đạo, triển Thật có lời này sao? Phải. Quỷ mang đau khổ xa ngàn dặm. Trong rừng đạo nhân khóc. Đại nói: Uổng đi ngàn dặm”. Bách trượng thấy tăng đem kinh, Ngài nói: Đến chỗ nào?” Quảy bách luận. Biết rằng các pháp duy tâm, thì bỏ tướng thô bên ngoài, tại sao lại nói ông bộ lí này? Đại nói: Há còn tiếc”. * Tôn túc thấy Quan nhân đang đánh cờ, Quan nhân nói, Xin mời Thiền Sư đánh cờ. Tôn túc làm thế đánh. - Buông quá thì không được. Đại nói: Thâu toàn bộ hết”. * Tăng làm bánh bột, Mục châu nói: Làm cái gì?” Bánh bột. - Ông này còn thế tục quá. Đại nói: Mới biết quân tử”. * Quốc Sư Trung hỏi tăng: “Ngoài thành cỏ màu gì?” Màu xanh. Ông này còn thế tục. Đại nói “đúng như vậy”. Vân Môn hỏi tăng: “Từ đâu đến?” Lễ tháp đến. Môn nói: Xung quanh ta” Con lễ bái đến. Năm giới cũng không giữ. Đại nói: Tất cả đều đần độn. Lại hỏi tăng xem cái gì? Nên biết có người không xem kinh. Kẻ một đầu hai mặt. Đại nói: Kiểm tra lại, không phải họ. Tăng hỏi: Gần đây từ chỗ nào đến? Ở lý châu, Ta hỏi ông một việc này có được không? Hòa thượng có việc gì”: Một mũi tên xuyên qua nước Tân La Đại nói: Nhỏ gặp lớn. Thiền Sư Tịnh Chiếu hỏi Đại Sư Lăng nghiêm, trong kinh nói: Nếu chuyển được vật, thì giống Như lai. Như vậy thì lên được nguyên các vì sao chuyển không được”. Đại nói: Tất cả đều là người già”. Đàn việt thỉnh tăng thọ trai, để dựng bản công đức. Thưa: Thỉnh Hòa thượng phóng quang. Đại nói: Hành lễ có phần”. Hòa thượng Yến Đài ở Lô Sơn gặp đồng tử trong Am Bảo Phước mang giấy, Hòa thượng nói cho ta một đôi giầy được không? Chân Hòa thượng lớn nhỏ; Sư đưa chân ra. Lão Phúc thấy tăng đang xem Bảo Tăng, Lão Túc hỏi: Sắc đúng là sắc nhưng không phải chân sắc, ông có hiểu không?” Đại nói: Hòa thượng nhớ hết không?” Lão Túc hỏi kinh luận, Tăng thưa: “Giải thích Sớ sao sơ lược thì thế nào?” Sao thì giải Sớ, Sớ thì giải kinh. Sư nói: Kinh giải thích cái gì?” Lược sơ thì không sánh kịp. Vương Thường Thị chú thích Tín Tâm Minh trình cho Vương Nghiêm, Nghiêm để xuống đất. Thường Thị thất sắc, Sư nói: “Vừa có thị phi, động niệm mất tâm, làm sao chú giải?” Hòa thượng chú giải được không? Lão Túc chú giải kinh Kim cang, Đại Sư giảng về giáo, hỏi: “Nhược dó sắc kiến ngã Dó âm thanh cầu ngã Nhược nhân hành ta đạo Bất năng kiến Như lai”. “Nếu thấy ta qua sắc tướng và dùng âm thanh cầu ta, người này hành đạo tà, không thấy được Như lai, làm sao chú giải?” Chỉ chú giải như thế. Sư hỏi tăng xem kinh Duy Ma Cật: “Bồ-tát Trì thế tại sao không biết Thiên ma”. Buông hết thì ông ta về trời. Tăng hỏi Hòa thượng sao chổi bao nhiêu hạt? Hòa thượng nhớ được. Tăng đến thưa: “Thâu được Quảng Nam, đi quanh chùa Nam Hoa. Sư hỏi: Cứu được Tổ Sư chăng?” Mau đại sát hết. Quan Nhân xem tướng Niết-bàn, tại sao còn bi, hỷ. Eo trống đánh nhỏ hai đầu. Hòa thượng Bá Trượng Huệ Năng hỏi tăng: “Từ đâu đến?” Từ lâu đã nghe tiếng, dạo ở cây lớn ở núi về. Là cây nào? Và cái gì lớn? Sớm là cành nhỏ. Đức Thế Tôn cuối hạ Tự tứ, Văn-thù qua hạ ba chỗ. Ca-diếp muốn đuổi Văn-thù, đưa chùy lên, Ca diếp thấy trăm ngàn vạn ức Văn- thù, khắp nơi đều có thần lực của Ngài, chùy không thể hạ xuống được. Thế Tôn hỏi Ca diếp, ông nghó Văn-thù là Bạch Na. Ba lần ba. <篇> PHẦN DƯƠNG VÔ ĐỨC THIỀN SƯ NGỮ LỤC <卷>QUYỂN HẠ Nghi Thức Tham Học. * Luận về các bậc tham học yếu chỉ huyền diệu, với nghóa học khác nhau, vội mở cửa nhất tánh, ngay đây vượt khỏi nẻo vạn cơ, vào rừng vườn Tổng trì. Hương thơm ngào ngạt. Ca ngợi khen Phật cổ, nay, tâm sáng là đạo, ôm ấp hoài bảo như băng Sương và trong trắng. Ngọc chân không tỳ vết, ẩn chứa kim thạch trắng trong. Hòn ngọc mang tên cổ con ly ngựa Ly long chiếu sáng, nối tiếp đến Ca-diếp Chánh tông, truyền mật ấn của Tào khê. Người tỉnh ngộ không luận già hay trẻ, người thông huyền há ngại ngu, hiền, tăng tục đều đồng một đường cho đến Thánh phàm thảy đều thông suốt. Tâm sáng thì lời được chỉ dạy sâu rộng, trí đạt thì lời nhất định đạt được đầu cơ. Liễu được vạn pháp trong một lời, cắt đứt các dòng trong bốn biển, như thế thì trời nào không rõ, đất nào không bằng. Đã có hào quang xem thấy, há không được làm gương soi cho người. Ngày nay muốn tham học đạo này, thì phải tỉnh ngộ như đèn, chiếu phá nhà tối nhiều đời. Sáng tỏ như trăng trên cao, chiếu sáng những ngã đen tối nhiều kiếp, rửa sạch được ý thân Thanh tịnh, dù mất thân vì pháp, học tiếng hống Sư tử chớ theo dã can, giống như phượng hoàng bay liệng, nghó đều theo hoàng tước. Lấy tinh tấn làm Sự nghiệp, biết được nhiều đời ít gặp được người kiệt xuất. Dũng mãnh làm tâm, vui vì đời này gặp được tri kỷ, phải mở rộng chánh kiến, tinh thông là chính yếu, ngoài thế gian ra không ai bằng, không sinh tưởng thờ ơ. Lời ngay nghe trái tai, chớ chiều theo tình người. Ngay lời vô tư, may lắm mới biết được quán xét. <詞>CA KHÚC HÀNH CƯỚC Phát tâm từ giã người thân, ý muốn cầu điều gì? Xuất gia theo Phật, tâm Thanh tịnh khác thế nhân. Mến pháp làm tăng, được thọ giới cụ túc lại được mặc pháp phục. Bà con, cha mẹ, không cung phụng miếng ngon, vật lạ, vương hầu không công thần hầu hạ. Chỉ tu hành Thanh tịnh như băng, như ngọc, không danh, không lợi, xa lìa trần cấu, xứng đáng được nhân, thiên cung kính. Thích phạm nương vào đó cung kính chuyên cần, nghó đến đức hướng nghiệp ở tương lai. Lấy gì để báo đáp gia thế? Chuyên tu hạnh gì để tiêu của đàn na tín thí? Chỉ có tham tầm nghiên cứu không còn đường nào khác, cho hành sát nhọc tâm vượt núi lội suối, làm bạn với mây trắng, lấy đó tham lễ, để vào tuyết xông Sương không ngại giá lạnh, vượt nước xuyên mây quỷ rồng đều phục. Gậy sắt bay bổng, bình đồng đầy tràn, không màn chuyện được mất của thế nhân. Cùng thương lượng bạn đạo ở chốn tòng lâm, Tứ cú bách phi đều dứt sạch. Nghiên cứu huyền cơ sáng được đạo nhân, vào thất như tôi luyện kim, đuổi tà hiển chánh mình phải biết điều này, chớ để cho thân tâm tán loạn. Đạo khó thực hành thế gian dễ vương, đối với tất cả vật cần phải biết rõ, bôn ba chạy khắp nơi, xưa nay xem ra bận rộn vô hạn, ta nay phải tự biết siêng năng tu hành, chớ nên luống qua ngày tháng. Từng bước chân phải biết rõ, kî nhất là bị ngoại cảnh lôi kéo. Vào chốn tòng lâm tu đạo, chớ màng chuyện phù phiếm thế nhân. Lập chí cầu chân lý không từ nan khó nhọc, cắt bớt phồn hoa, bớt tạo tác. Khoát chiếc áo bá nạp, áo mây nước, mọi việc đều vô tâm lìa phiền nảo. Muôn ngàn khéo léo đều không làm, ngay đây ra khỏi đường sinh tử luân hồi, khuyên đồng cầu chánh kiến, chớ giống như ngu phu luôn thay đổi. Thân tâm mạnh mẻ vào núi đứng dưới tuyết, mới được pháp vương thường chiếu hiện, siêng năng thưa hỏi cung kính. Không tránh khỏi chào hỏi thường không đủ, chỉ duyên vào tâm chưa được an nhiên, không theo vinh hoa không sợ nhục, phải nên kiến tánh chớ chạy theo bên ngoài. Mình tự xướng khúc ca hoàn hương. Cuộc sống hằng ngày được an lạc, dọc ngang thênh thang không nương tựa. Bốn phương tám hướng tùy theo phương tiện hóa độ, Sum la vạn tượng mặc tình mở rộng, báo đáp bốn ân, cứu ba cõi, hỏi đáp theo trình độ dễ trả lời. Năm sông bốn biển vừa gặp nhau, một tiếng sấm vang âm như Sư tử rồng. An nhiên tự tại vui lâng lâng, càn khôn đại địa không tội lỗi. Rõ ràng bảo ông là tăng mây nước, hãy ghi nhớ mặt về hướng Nam xem Bắc đẩu. Tán rằng: Ngũ hồ tứ hải lịch tòng lâm Vạn lý thiên san bất dị tầm Thân cẩn Tổ tông minh kiến tánh Mạc tương tề nê làm nhân sâm “Năm sông bốn biển đến tòng lâm. Vạn dặm ngàn non không dễ tìm. Thấy được Tổ Tông tỏ thấy tánh. Chớ đem củi gấu làm nhân sâm”. Sơ lược về nghóa Đốn Tiệm của bốn Tông. Luận về Luật Sư, tông chia có oai nghi tế hạnh, để truyền rộng Tỳ ni làm mô phạm, nghiêm tịnh ba cõi, nghiên cứu cùng tột nghóa thâm sâu Ngũ Thiên, Thất Tụ. Cùng tận vi tố của tứ Ba la di, hai pháp Hối Quá. Trì phạm khai giá làm quỹ tắc chân thường thì có yết ma bạch ba lần, xướng lên hộ trì bốn nhẫn. Nếu không có khả năng của Tuyên luật Sư, thì đâu thể đồng thành bậc Sư Phạm. Luận về pháp Sư, khi lên tòa Sư tử giảng nghóa nhiệm mầu và luận bàn lý Nhị không. Lý khế hợp với Viên thường nói pháp môn đốn tiệm, chọn trí tuệ phàm Thánh. Theo bệnh cho thuốc. Lường theo Sức kham nhẫn, biết được trình độ thuần thục, biết rõ tà chánh, hoàn toàn có năng sở, biết rõ chủ khách nữ nhân quả không mê muội ở nhân gian, giáo hóa không mê ở thiên giới. Đánh tiếng trống đại pháp, há lại bỏ bến cầu. Nếu chẳng phải bậc tài giỏi Tam đức, Tứ y thì đâu thể hoằng truyền đại giáo sâu rộng như vậy. Nếu chẳng phải bậc thông đạt, thì đâu lường được sâu cạn, để gánh vác nổi, mới gọi là bậc đạo Sư dẫn dắt người. Luận về Luận Sư, đánh chuông trên lầu, xây dựng nghóa trong đạo tràng, dù đoạt cơ Lâm tế, có khí thế quở mắng, cao ngất như lôi biện tứ vô ngại, bịt được tiếng trống ngàn vạn loại. Tà chánh đều rõ ràng, có không đua nhau nổi dậy, cướp được phước đó trong tay, tiên bạch cốt trước thêm, hàng phục tất cả tà kiến. Nếu chẳng phải uy Mã minh. Long thọ, thì ai dám đương đầu trước mũi nhọn. Luận về thiền giả, khí nguyện chân, Tam không vững chắc, đi đứng an nhiên, nói năng điềm tónh, cần ấn trí Kim cang, truyền ngọn đèn tâm của Chư Phật, chiếu phá đêm tối nhiều đời, làm ngọn đuốc trong nhà tối nhiều đời. Cắt đứt các dòng trong bốn biển, sáng được vạn pháp trong một lời. Ngay đây chỉ thẳng tâm người, thấy tánh là Phật, đồng Sư tử mà rống, xiển dương pháp âm huyền diệu chấn động tiếng sấm của Long Mãnh, nói thẳng diệu chỉ, đều là treo cao huyền ký thông suốt của Phật. Phải biết rằng đây là thắng duyên gieo trồng sâu xa nhiều đời, nếu chẳng phải quán suốt thiên cơ, làm sao được thiền an lạc của tónh lự. Thấu suốt được nguồn tâm, thầm khê các duyên, ngộ được tánh vô sinh, mau đạt được Sự lý, ngay đây nối tiếp ngọn đèn của Phật, sáng ngời ba cõi, mặt trời Phật luôn soi sáng mãi ca khúc không ra khỏi viện, tam chỉ an định không ra khỏi viện, bản tánh thênh thang đồng mười phương, pháp vô vi giáo hóa rộng lớn người khó thấu đạt, có thọ tác quyền thế dễ thông, kiến chân huệ dứt nghiền nát phá nghi hoặc dứt sạch ngu muội, chánh định sinh các vọng giới, nên biết vạn pháp vốn là không, cõi trần trong một niệm, trăm ngàn diệu lý thoáng qua tột cùng. Trông thấy móng tay thu vô lượng nghóa, ngang dọc đâu ngại, qua lại như gió, lòng thênh thang ngồi an nhiên. Viện yên lặng chìm trong hai hàng tùng xanh, cảnh vắng vẽ tâm an nhàn Thanh tịnh. Chỉ có cao tăng hỏi đến Tông phong. Bệnh thì có thuốc trừ vọng bệnh, bệnh hết thì thuốc cũng không cần, chỉ cần tôn sùng đạo. Biển Thước có khả năng luống nhọc công, Kỳ Bà tài giỏi uổng công Sức. Tánh thênh thang như biển bao dung, dù người căn khí hay thuộc hàng cường phong và như đức rộng nhân nghóa, thuần mỹ hiền lành đều cung kính, trí mình tròn sáng được công thù thắng. Người hỏi Thiên thượng rộng hưng long, chất phát không thay đổi được ý chỉ sơn giả. Ưa nói vô sinh được Thánh thông, hết tính toán dứt suy lường, giữa mày ông bỗng nhiên phóng quang, chiếu phá vô minh đen tối nhiều kiếp, quỷ tặc Tam sơn không còn chỗ ẩn, giới định huệ, hương giải thoát, thấy biết rõ ràng khắp mười phương, là báo chư hiền biết ủng hộ, Chư thiên cao xa nhất định mang đến điều lành, điện bảo quang minh đích thân ghi lời dạy, Lôi âm chấn động pháp Trung ương, hàng phục rồng, quỷ giáo hóa cang cường. Như như bất động hành uẩn lành, trăm phước trang nghiêm tư lương vạn thừa. Đao Tổng trì giáo hóa an lạc, kham lãnh nổi thâm tạng an lạc. Không luận xuân thu, xanh và vàng ngu ngu như ngơ tâm tự tại, lâng lâng như say tánh phóng quang. Tứ cú Bách phi đều bất động, an lạc nghiễm nhiên ngồi trong pháp đường, tụng: Hành tâm dó kiệt thân an tónh Vọng đoạn phan duyên thế bất câu Tuy phát bất di thông pháp giới Hà sa Phật quốc nhất hào thư”. (Tâm hành đã dứt tâm an tónh. Vọng dứt phan duyên đời không vướng Mảy tơ không động thông pháp giới Hằng sa cõi Phật đều hào quang Khúc ca tự Thánh). Hạnh phúc thay! hạnh phúc thay! không người khóc, ngồi thiền an định thường tri túc, không tham danh lợi, không cầu chi, không theo vinh hoa không sợ nhục. Giờ Thìn thọ trai, giờ Dần ăn cháo, thô tế mặc tình lúa mì và ngũ cốc. Mặc áo đỡ lạnh nóng vì nhân thiên trồng nhiều phước. Đao trí tuệ, đuốc giới định, chiếu phá ngục đen tối vô minh, thẳng đến cội nguồn của Chư Phật, dặn dò phải ghi lại lời này, tánh pháp ngay thẳng không cong vạy. Hỏi đáp theo trình độ không câu thúc. Từ, bi, hỷ, xả, trồng ruộng lành, rộng lượng Thanh tịnh thí vàng ngọc, tánh lặng lẽ điềm đạm thường hòa thuận, nguyện mở mắt trí tuệ cho nhân thiên. Ngũ căn, Ngũ lực dẫn dắt Ngũ thông, Tam giải thoát, Tam không, phá tam độc. Tâm Thanh tịnh không dục vọng, thường đem tàm quý làm y phục, chuỗi anh lạc trang nghiêm thân giải thoát. Nguyện không dính dáng với trần lao, pháp giới mặc tình kéo dài thu ngắn rộng hẹp, qua lại không luận tăng hay tục, Vô sinh, Vô niệm, đều không ngại, có đức có tài mặc tình dứt bỏ. Ta nay tự vui, tự an lạc, đồng đạo đồng tâm thường cùng đọc. Tụng: Vô đức vô năng vô sở giải Vô tâm vô ý tục huyền đăng Vô sinh vô diệt vô lai khứ Vô thị vô phi nhất cá tăng”. (Vô đức, vô tài không có chỗ biết. Vô tâm, vô ý vốn đèn huyền. Không sinh, không diệt, không đến đi, Không phải không vô quấy phi một tăng lữ). <詞>KHÚC CA ĐỨC HỌC Người thời nay trọng học, thời xưa trọng đức, Đức và học giúp nhau kham làm phép tắc, giống như Hứa Do, Sào Phủ ngàn vạn ức gối đầu ngũ yên giữa rừng cây, khói xanh mây trắng làm bạn hiền đức. Võ lăng thay Thuấn nhường nước. Am cỏ Liên xã mời không được, tám bậc hiền tài Ngũ lão nghinh đón, vạch tìm cư ấn bên ngoài ngọn phương bắc, xỏ lỗ tai Hồ Tăng thì biết nhau, đồng ngồi, đồng ngâm, đồng ăn chung, nâng đàn, cầm gậy đỉnh Bích nham, điệu đàn tróc tích thái bình lâu, năm ngàn lời hay là trên đạp đức. Học được thành công thì mất đức, an lạc không động càng vô tư, cảm được thì biết được thời khắc, giống như An Sư thấy Di-lặc. Hỏi đúng ba khoa gọi là huyền mặc. Thế nhiên luận về cao huyền ít người biết, thế trí biện thông chưa phải là kỳ đặc. Nhân số trong đạo tìm nhau, nháy mắt nhướng mày chính là mục đích. Khâu Bá buổi đầu còn phảng phất, mình còn ai có thể đánh nhau. Người xưa nói: - Càn khôn vừa hợp là thị phi, cho nên Thiếu Lâm chín năm ngồi xoay mặt vào vách”. Tụng rằng: Hưu kinh bãi luận tuyệt văn chương Vi hiệu tiên tông tục cổ hoàng ca. Tâm địa khai thông minh chí lý Thuyên đế ứng dụng đắc huyền cương”. Thôi kinh, bái luận dứt văn tự Là hiệu quả tiếp tục tông thừa từ trước của Cổ Đức Tâm địa sáng biết thông suốt cả lý Đưa ra hết ứng dụng được huyền cương Tạm mượn ba nhân huyển mất bản chất Để báo ơn Ngũ Hồ tham học đạo Phải mau gần gũi pháp Trung Tôn. Nhân thấy người xưa ngắm châu ngâm mới thuật lại ngắm châu Thần châu thênh thang thân rộng lớn, rơi vào viên thông không chướng ngại, vạn tượng dọc ngang đều hiện trong đó. Xanh, vàng, đỏ, trắng đều dung thông nhau, thiên nhiên bao hàm hết pháp giới, không động Thánh phàm và Cổ đại. Linh thông chiếu soi thể không vết tỳ khắp nơi, phải, trái trăm vật đều nghiền nát. Có oai thần không sinh diệt, kẻ bần khổ phải kích phát, chẩn tế trong ba nẻo sáu đường. Dẫn dắt lợi sinh dẫn ra từ ánh nguyệt càn khôn, hoặc lớn hoặc nhỏ người không khác, ẩn hiện vào trời người lìa tròn khuyết, khi dùng thì thể dụng ấy không thể nghó lường, lượm gạch giữa dòng sáng trong ngần. Báu vô giá châu như ý, tùy duyên gặp người giáo hóa không hư. Xuân đến ấm áp thành chân tướng, thu phân Sự thật cất chứa đầy. Tâm rỗng rang như hư không ý sáng ngời như gương. Cầu hết rỗng không không cũng không kính, rỗng rang lung linh chỉ là hạt châu, người ngu không biết tánh Chư Phật, hoạt bát Thanh tịnh thênh thang. Thánh xưa hiền nay đều nắm giữ, bốn phương tám hướng hiện linh quang. Nhưng coi vòi vọi dứt khinh trọng. Bạn lành được cứu đói. Từ đây xuất phát Oai Âm đến Thánh xưa nhận biết rõ ràng con người chân thật, nhiều kiếp không bị chúng ma dẫn dắt. Bản chất thiền tăng cao ngời sáng tỏ, Trữ đạo chẳng qua đợi năm lừa. <詞>CA KHÚC CÙNG VỚI TÙNG NHAM ĐẠO GIẢ Ở TRÊN NÚI. Ở trên núi phải biết làm chủ, không biết thì nhọc công ở núi. Núi xanh nước trong ở trước mắt, mây trắng lờ đờ qua đầu núi. Núi càng cao đỉnh càng hun hút, đường quanh co qua lại nhọc thân này. Lên trên vách đá ngồi suy tư, khi tánh không sáng tâm xao động buồn phiền. Nhìn rừng núi quanh co xem vách đá, khắp nơi sam tùng treo nhã giọt Sương, không biết người nào là chủ núi thật. Vọng niệm vốn không đa nguyên chưa dứt, ta tu hành bằng Sức nào? Chưa kiến tánh không đạo đức, lấy gì báo đáp ơn đàn-na tín thí. Một hạt gạo bảy cân khó tiêu, cầu nguyện đời này được gặp tri thức, quyết Trạch thân tâm trừ gai gốc. Luôn trì pháp vũ thấm nhuần tâm điều, trăm phước trang nghiêm làm đều lợi ích cứu đời. Hoát nhiên tâm thông tỏ ngộ, trở về biết được chủ trong núi, đi, đứng, nằm, ngồi thể nhẹ nhàng, hỏi đáp theo trình độ dung thông khéo léo, thân như núi, tánh như nước, núi nước hoa trên hư không có trong ngoài, khi đối cảnh thấy giống như có hình, phải chính chắn suy tư từ đâu khởi. Ngồi nằm trong núi thường linh hoạt, không uổng công Sức dụng cầu chân. Trời trong xanh thấy được trăng sáng, chiếu khắp cả núi non. Một áng mây sáng như lụa trắng nỏn, chim bay thú chạy mặc tình ngang dọc đều là hiện ở trong bóng to lớn đó. Chúa Sư tử thường đi một mình, trăm điều lạ ngàn điều tà kinh sợ. Long vương Thích phạm đều quy y, đây là chủ chân chánh của diệu phong. Muôn vàn hang hóc đều duy tâm, ngay Niết-bàn là đường lên núi. Tụng: Sơn Trung hữu chủ Sơn trung trụ Sơn Thạch kinh hành sơn thuỷ ngữ Đoan tọa sơn lâm sơn sắc tâm Tâm ngoại vô sơn sơn thị sinh Thức đắc sơn trung bất tử nhân Giác trí viên minh tự khán thủ Càn khôn đại địa cập giang hà Tổng thị sơn Tăng hành lý xứ. Trong núi có chủ ở trong núi Núi đá kinh hành, núi, nước bàn Ngồi yên trong rừng núi, núi sắc tâm Ngoài tâm không núi là núi sinh Biết được trong núi không người chết Giác trí viên minh tự thấy được Càn khôn đại địa và giang hà. Đều là chỗ hành vi của Sơn tăng. <詞>KHÚC CA QUẢNG TRÍ MƯỜI LĂM GIA MÔN PHONG. Nếu còn thấy đại đạo có cao thấp, thì chân không đành phải cách xa. Như biển dung thông các dòng thì đều có tăng giảm, như diệu phong cao vòi vọi còn nâng lên, muôn mạch ngàn khe đều chảy vào biển. Thất kim bảy Ngũ Nhạc tận Tu-di, ngọc hào kim sắc truyền đăng về sau, hai, ba, bốn, bảy đều chưa nghe. Biết rằng y làm tin y làm tin dứt cơ mở rộng, các bậc Lão túc các nơi mặc tình thi hành. Biết tâm này là gốc như đã nói từ đầu, tâm mê theo vật nên sinh nghi, hoặc trực chỉ hoặc dùng nhiều phương tiện, biết hướng dẫn giềng mối trước xuất phát cơ sau, ý chỉ rõ ràng sáng như gương, người mù không thấy mắt huệ không thể nhìn. Người sáng mắt thì thấy tường tận, không luận là hơn thua, biếng nhác, ngu si, biết tất cả đều chung dòng nước trí. Môn phong thì diễn nói chi nhánh của Tông, tức tâm này là Phật, không phải tâm cũng là Phật, nhiều đời rõ ràng không vật khác, thì chân tâm này chính là tâm ta, tâm ta vốn là từ huyền cơ lưu xuất (Đây là tông phái Mã Tổ). Hoặc Ngũ vị, hoặc Tam lộ, trình bày tùy theo trình độ khéo dung thông, không biết hôm nay là bản tông, mở tài năng huyền thông quên Phật Tổ (Đây là tông phái Động Sơn). Hoặc vua tôi, hoặc cha con, đo lường vuông tròn không khác kiểu, só thứ, công hầu một đường bằng ngu trí, hiền hào biết tiệm thứ (Đây là tông phái Thạch Sương). Có khi gỏ có khi xướng, thêm trình độ hỏi đáp trả lời thật đúng, trong câu biết đương Sự uyên thâm, tài cao đồng khởi đẩy ra cửa, hoặc nâng lên, hoặc duỗi xuống. Điều quan trọng là tâm rổng không dễ nói, không biết người trước xuất phát đại từ, chỉ cần ngọn đuốt chiếu soi khắp nơi (Đây là tông phái Vân Môn). Đức sơn đánh Lâm tế hét, chỉ một mình ra khỏi Càn khôn mở sạch tất cả khó khắn. Từ đầu ai dám phân chia rối loạn. Thầy nhiều miệng cũng không nói được. Lâm cơ dọc cướp lâm cơ, nhanh như sấm đấm quả mũi nhọn. Càn khôn liền nắm trong tay, cây trúc tinh linh bửa vở não. Hoặc tân chủ, hoặc Tứ liệu giảng, mở rộng tông thiền biết chánh nhân. Tam huyền Tam yếu dụng đương cơ, tứ cú bách phi đều cắt đứt, khuyên thiền tăng chớ gắng hội, người không thông minh nương như trước bị trở ngại. Không biết được nguồn tông thì chớ lẫn lộn, nhiều kiếp ở trong biển khổ sinh tử, khó gặp được lại khó được nghe. Thân tâm dõng mãnh lên để mau thông thái. <詞>KHÚC CA KINH LIỄU NGHÓA Tạng kinh là ý chỉ của Chư Phật. Ngài chỉ bày môn sinh diệt, giải thích lý vô sinh, chỉ thẳng nguồn tâm, giảng bày nghóa đệ nhất. Cắt tà nối chánh, truyền trao cho nhân thiên, ý nghóa là vượt ngoài hữu vô, khi hành thì không tính toán, khi nói thì không vướng vào lý, không chế, hiển bày không khéo mất tiệm thứ, tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ làm mê hoặc đồ chúng nhiều xảo ngụy. còn tà thì chắc chắn không có chân trí, lập chánh phá tà cả hai đều là bí tạng. Đại Thánh vô công tất cả đều thông, ba độc không sinh Phật xuất thế. Kinh này có mấy người tin được, Kệ Tỳ nô nội khoán hoa là. Kinh thường ở trong cõi trần, bậc đại trí mới có khả năng độ hết được. Thích Phạm ủng hộ, Thiên long hoan hỷ. Ác quỷ, A-tu-la đều kính lễ. Nếu có trăm ngàn tà ma quái dị đến, nhưng khi nghe nói đến kinh này thì tất cả đều quỳ xuống hết. Kinh chân thật lìa văn tư, diễn nói Ba-la-mật đều đầy đủ cả. Hóa tướng có năng lực mở ra phương tiện tóm thâu tất cả về nhiếp nhiều ban về nhất trí. Mắt hết thấy, tai hết nghe, dụng của sáu căn như rỗng suốt không ngăn ngại nhau. Vạn tượng sum la là trần trong mộng, ai là người chịu ngũ trong mộng. Trong kinh còn ghi rõ ràng. Ma-đát-lî-ca nương liễu nghóa. Thanh tịnh vô sinh là căn giải thoát, tạp niệm dứt thì phiền nảo hết. Thi la Thanh tịnh ngăn thế tục. Tỳ ni, Ba-la-đề-mộc xoa tự thân Phật chế. Ưu-ba-ly không biết cội nguồn của Tỳ-kheo, Ngài Vô Cấu mới thuyết minh tâm địa khế hợp. Bảo anh phải biết xét kỷ, luận về kinh phải biết giải nghóa. Số kiếp như hằng sa trải qua vi trần, không biết kinh này mê mãi mãi. Người giải Không là địa vị Phật Tổ, phân tích rõ ràng căn bản trí cho chúng sinh. Lợi mình lợi người giáo hóa vô biên, vọng dứt phan duyên thành Đại só. Khuyên người và trời lắng nghe liễu nghóa, ngay đây ra khỏi sinh tử luân hồi, ngay đây vô tâm rổng không vô sinh, bỏ đoạn thường có thể đạt được sở đắc. Duyên khởi không nhân không gương đặt tên, chỉ thấy viên âm là thù thắng nhất. Nói rõ cho người trong đạo siêng đọc kinh này chớ bỏ quên. Lại nói: Như thế được không không bỏ?”. <詞>KHÚC CA PHẬT ĐẠO Đạo Phật rất rõ ràng, rõ ràng thì không đúng, không đúng thì không biết rõ, vạn tượng đều hiện, mặt trời, mặt trăng sáng ngời trên hư không. Ta và người đều lạnh như băng, kính băng thì không phải chân, kiểm tra lại thì dứt thân sơ. Mặt trời sáng rực không hoa, xưa nay đâu có gì tồn tại. Cơ hư giải thích huyển, vọng tự trình bày. Chỉ bày không được, hoàn toàn thành điềm lớn. Chỉ được thì mất Tông, vọng nhận Tây, Đông. Đạt được bản thức vốn không, kiếp tận không thông. Nhị thừa không hiểu, như lấy đá đè cỏ. Gốc cỏ chưa sạch, thì lá không thể khô. Cỏ và lá đều quét sạch, thì đâu còn gì phiền nảo, tông ta ngay đây cắt đứt, sinh diệt như thái hư. Biết được sinh diệt, theo căn cơ chuyển duyên, đâu cần dùng kim, dùi. Ngay đây phải thấy mau, thấy được thì không sai, chính là nhà ta. Nhà ta không một vật, chúng ma không khuất phục. Ba đời Như lai đều từ đây lưu xuất. Hằng ngày không làm Tổn thương, chạm mắt đều rõ ràng. Miệng phóng hào quang, mãi mãi xưng dương. Càn khôn rộng lớn, nhân vương pháp vương, không quyết định như vậy, mặc tình tự đề cương. <詞>ĐẠO CỔ HOÀNG Đạo xa xưa thản nhiên, thản nhiên thường tự tại, trí tuệ và ngu si, tà chánh thành trở ngại. Khắp nơi đông, tây, nam, bắc, không rõ vọng thành tạo kiến giải. Tâm sáng tất cả đều sáng, tâm mê muội tất cả đều mê mờ. Sáu cửa lặng, lục thông, tam độc thành ba cõi đều là ý căn sinh ra, không cần sinh vọng giải. Địa thủy và hỏa phong, tứ thông làm Tổ đại. Tổ đại nếu không tỉnh ngộ thì con cháu rổng không hoang đường. Tám vạn bốn ngàn môn, đều kết thành một khối. Sum la mặt trời, mặt trăng đều có phần, nương vào địa vị không trái nhau. Hán ngọc và Hồ thủy, nước Cửu hạ chảy nhanh, kî nhất chớ vọng bày, chỉ bày thì mắt hết bệnh. Mắt trong sáng bình thường, hoa đốm trong không há có thể mất. Những người tham học xưa nay, cho đây là tương đối thích hợp, không qua được cửa đại và trung, cuối cùng căn bệnh không hết, cho ông vạch hư không, giải thoát quán tự tại, thì nay tất cả đều thông, rỗng suốt mười phương giới. <詞>KHÚC CA THỊ PHI Người học đạo xuất gia đều phải biết, ở trong chúng tòng lâm nhất định không nên thiếu, từ lớn đến nhỏ từ xưa đến nay đều giải thích về đạo đức, chớ giống như hạng người ngu phải và quấy. Nghe nói tất cả tâm ưa thích, nói xấu thì hận mãi không nguôi, xấu tốt cũng đều từ tâm mình sinh ra, chớ tìm đạo lý trong tâm tốt xấu ấy. Người thế gian phần nhiều là vô trí, không biết suy nghó về phải, trái. Bậc đại trí thấy rõ nó, tự dung thân vào Vô địa. Tử Lộ từng gặp ngư phủ quở, phu tử mặt hổ thẹn chân quên mang giày, Xá lợi trí huệ đệ nhất cũng bị ngu phu đích thân đính chính. Như lai dùng từ nhãn nhìn chúng sinh, thông suốt xưa nay tỏ bản tế. Thấy Châu Tần và Hán Ngụy, nước mất, nhà tan đều là điều này. Nhiều đời thị phi là nhân địa ngục, nếu nghe nói thị phi thì phải hiểu tường tận. Ta nghe nói tâm không khởi, chỉ thị phi này thì phải lãnh hội được ý chí. Đôi lời phù phiếm tiêu không được, hỏi gì đến chuyện Tổ từ phương Tây đến. Cần phải biết rõ nguồn cội, hiểu được thị phi này đúng là Hữu địa. Nếu có người đến nói thị phi, thì bảo với họ ta nay biết được ông. <詞>KHÚC CA NGƯ TRỐNG Giữa trời đất, tận vũ trụ không theo bốn thời, thà đồng với ba đời, làm cá ngoài sóng xanh, làm thành cây trong cung Bạch Liên. Đầu đuôi đều đầy đủ, vẫy Sừng đều có, tâm rộng bụng lớn thì sống lâu, thân ngay bụng lớn tánh rỗng rang thì không chết, rỗng rang tự tại hoàn toàn không phạm, ở móc vàng bặt dứt danh ngôn. Kệ nguyện lớn ở ngọc, sum la không ngại, khắp các chùa cho là cát tường, vạn tượng đâu giống với càn khôn, mà làm giờ tốt gõ tiếng, luôn luôn đánh thức hải chúng trong mười phương đến. Mỗi mỗi đều truyền âm Hồ Ngũ thiên. Tăng bỏ mùi hương trù tối thượng, phóng ngàn ánh sáng không giới, không lẫn lộn với nhân thiên. Hít khí thái hư, Đại só thầm nghó: Nghe được điều này thì tâm thần sảng khoái, nhiều Thiền tăng hồ đồ nghe điều này thì ngũ say trong nhà. Sáu luật không câu nệ, tám âm đâu có ngại. Danh lợi bốn ác đã trừ, trong ngũ mỹ thì thanh không đến. Miệng nhả lời châu, khó gặp, được người quý khác. Sừng rồng duỗi ra, ít gặp được kẻ biết rồng, ẩn thân vào hang vàng, sợ làm tiên quy cho chuông trống, chỉ dạy bản chất tinh khôi và cùng với đồng chân làm đồ vật. Ngoài sông hồ đâu giống cá điểm trán. Sông núi tùy thân, từ khi có thề xung thiên học tăng đều đến nghiên tai nghe viên âm giải thoát. Môn Phổ nhãn được mở, thấy được rộng hẹp của càn khôn. <詞>KHÚC CA CÂY GẬY Tám đốt chín khúc có mặt khắp non sông, đầu và chân đều thấy rõ khai mở tuệ nhãn cho người, không từ trời không từ đất mà có, tung hoành dọc ngang trên hư không không ngăn ngại. Thường đem cây gậy đánh động người căn thượng, một nhóm Thiền tăng leo đồi và ngũ say, hoặc lên núi, hoặc qua sông, dùng nó hướng dẫn đi trước không cần khủy tay. Chín châu bốn biển mặc tình nhảy lên, người tài tình lập tức qua được mé kim luân. Thật là người tài tình vững vàng mới kham nỗi cho gậy nương. Đầu đuôi trở về chủ vào mục đích đảm đương, giải thoát và Văn-thù cương giới rõ ràng, bản chất của Thiền tông lấy gậy vỗ vào xương sống. <詞>KHÚC CA CÂY GẬY Ta có một cây gậy chạm khắc từng lóng xoắn ốc như thế núi, ngang gánh thiên hạ khêu hư không, tà mî thấy đều vỡ mật, thật vững vàng cứng như sắc. Đánh vào đất thì núi sông đều nổ tung, có khi quậy biển cả rồng hung dữ cũng phải phục. Đương lúc Khiên Đà Khư La nghỉ, được ngu ngơ tỏ được tông của mình, không phải hiệu lực rỗng không của Văn-thù, thì giống như luận bàn mà không cần khai mở, luận bàn trên văn tự mấy khi được ra. Sơn Tăng thấy không chấp nhận, dộng gậy bảo y phải tinh tấn, phấn chấn lên để cho vạn tượng đều sáng tỏ, rõ ràng. Nhai Sa A Kiệt nát như phấn, dạy trời người phải biết rõ. Mỗi bậc anh hào thêm sảng khoái, khi xưa Kim sắc cầm một mình, ngày nay Phần Dương đích thân ấn vào lòng bàn tay, ấn khả các tâm sáng như mặt trời, chưa biết chánh tà chớ lẫn lộn, chọn lựa dạy anh em kỷ lưỡng. Mắt bờm ngựa thì ai biết, người biết được là cành nào? Thôi nói đông bắc và nam tây, không Ẩm Quang đích thân phó chúc, thì làm sao thành rồng bay lên trời. Bậc đại trượng phu phải dõng mãnh, định lâu thì Thánh phàm dứt tung tích. Ngay lời quét sạch trần cấu, cầm gậy lên đánh vào đầu. Tụng: Nhất điều trụ trượng thích kiệt kính Trực loa văn bạo tiết Tầm thường kiên thượng hoành diêm Đại địa càn khôn thiểu cán Cù khai mộng độn ngoan si Như kim trác tại Tây Hà Chủ phương tác ma điểm xuyết. Gậy soạt một cái lên thấu đỉnh Ngay xoắc ốc nổ tung đốt Bình thường trên vai gánh ngang Đại địa càn khôn đều nắm xoay vần Khai mở những người đần độn ngu si Đãnh phá linh lợi sáng tỏ mũi nhọn Nếu nay xây dựng ở Hà Tây Thì các nơi làm sao nêu tên. <詞>KHÚC CA MỘT CHỮ Chư Phật không pháp nào để nói, Phần Dương lược nói một chữ, không liên quan gì đến giấy mực văn chương, đâu phải nói theo Duy Ma đốt sạch. Tam thừa không phải là Tông ta, vạn hạnh chẳng phải ý của người khác, chỉ có tự tâm thấy tánh, chấp nhận như trước thì không đúng. Thế giới trong cõi trần thì vô bờ, hành động tự tại tiêu dao. Đầu lông biển núi vô biên, rộng thênh thang dạo núi ngắm biển. Ca một chữ trăm vạn kệ, xác thực truyền nhau, truyền cẩn thận, từng câu u vi nhiệm mầu huyền diệu, chỉ có một cái huyền của bản huyền, tông trí Ẩm Quang đồng chứng minh, cháy mắt muốn cung hành chánh lệnh, đồ chúng dị giải uổng thi công, loạn tưởng trong đường nhận phàm Thánh. Không cần cầu, nguồn không mất, vọng niệm vừa sinh đen như dầu hắc. Mây nỗi huyễn hóa tánh vốn không, mê chân một tấc vuông nắm vật huyển, nhiều đời mê chưa từng tỉnh, biến kế hà sa vọng bệnh trói. Nếu nay chứng được nguồn bản nguyên, linh khí hoát nhiên lìa chánh tà. Phần Dương ngay lời biết tư lường, thoắt thấy ông theo trần quên Phật tánh. Tám tiết biến một tâm pháp, thầm thầm Na già thường tại định. Trời xanh ngọc rơi vào gia phong này, tin được tay đưa lên khéo đáp ứng. Ném kim vào nhà phải thương lượng, ca ngợi một chữ trong sáng như gương. <詞>TÁN THÂM SA THẦN Từ bi cứu độ chúng sinh phước hà sa, hiện gian giáo hóa bạch xà. Nanh vuốt nhỏ nhọn làm kiếm bén, bản chất hung dữ làm Thâm sa. Mũi cao, lời nói vang thấu núi, tai lớn tợ bánh xe, hai mắt đen xa trông giống gương vàng, xé tơ, hai mày chìa như thuổng sắt, vừa xoắn ốc vừa ngọc trai, da nứt nẻ thân nóng hực, chân đạp sóng nước lộn biển cả, tay vạch thiên môn mở mặt trời, mặt trăng. Hiện uy linh như giận dữ, từ xa trông thấy làm cho người khiếp sợ. Đầu lâu làm chuỗi anh lạc đeo, thân mặc da mãnh hổ, độc xà, áo Sư tử, quần Tượng vương, lại quấn độc long quanh bụng, chẳng những người thấy thấy khiếp sợ mà tất cả tà ma đều hoảng vía. Bậc đại Thánh có lòng từ chân thật, hiện tướng người nhân gian không biết, đều theo tiền kiếp buông thả ngu si, không tin đại bi thi hành phép tắc, hoặc kinh trời, hoặc động đất, hô hào gầm thét vang vội đất trời, cảnh giác chúng sinh tỉnh cơn mê, đập gõ người si đích thân được phất tử. Ta nay biết được phương tiện, lợi ích chúng sinh quan sát căn cơ ngàn vạn sai khác. Đuổi sấm đánh gió điện chớp, cơ phong sấm chớp như tên. Tiếng nổ ầm ầm động đến uy trời. Nổ sáng rực phải san bằng gò núi đều thành bình địa. Kiếm, kích, thương, đao độ hủy hoại, giáo hóa nhân thiên quỷ thần đều phục, ngang ngạnh can cường đều chiêm lễ, phóng quang sáng rực càn khôn Thanh tịnh, hả hê dừng sóng biển thanh bình. Ta nay khen ông thật Kinh thông. Như lai nhiều đời đích thân thọ ký. Tụng: Uy linh bất trắc hóa nhân thiên Hiện chất tam thiên mãn đại thiên Nhất niệm biến thiên vô lượng kiếp Hà sa Chư Phật khẩu thân tuyên. Uy linh khôn lường hóa độ nhân thiên Hiện thân tam thiên đầy cả đại thiên Một niệm biến thu vô lượng kiếp Chư Phật hà sa đích thân dạy. <詞>KHÚC CA BÌNH PHONG Ta có một bình phong tinh khiết, xinh đẹp phô bày từ xưa đến nay, dạng bình thẳng màu trắng, gọi là Thiền cung, không trang điểm chớ ra công, có thể ngăn được ngọn gió Nam của kiếp hoại xa xưa, khói trần mây móc đều không vướng mắc, vạn tượng sum la đều hiện trong đó. Người ngu không biết người trí thông trước, chứa tuyết làm tuyết thật không giống nhau. Định Quang được Năng Nhân thọ ký Thích-ca nhờ đây giáo hóa người mê muội. Vuông chẳng thể tình viên dung, chỉ ở nhân, thiên. Thiên không cùng. só, thứ, công, hầu là cảnh đẹp, bàn, tiện, ngu, si chỉ cách vách, nghe được kính ngưỡng thì khó gặp. Trăm ngàn muôn kiếp mất hình dung, nếu nay không biết có phương tiện kéo nhiệm mầu, thì đâu thể ngắm được bình phong trắng, gân cốt có không dấu vết, thì không cho phí nhiều công Sức. Ngọc Kha Nguyệt trường thư luyện sáng, chiếu khắp càn khôn dụng vô đức. * Một hôm Sư cầm gậy đi đường, có người hỏi: Trong tay là vật gì?” Thật không biết thời. Đệ tử có lỗi. Tha cho ông. Nhân đây có bài ca. Một cây gậy trong tay đở đất, chống trời thật vô giá, đầu đuôi xoay tròn nhanh như điện chớp, chịu làm quy củ cho các nơi, bảo người học thiền mạnh dạn đưa ra. Lội nước, lội núi đều nhờ nó, gánh ngang thế giới nằm trên hư không. Chỉ ra càn khôn nguồn giao phó cho. Dạy y dùng dọc ngang tự tại, lượng khí vuông tròn khéo dung thông, ít biết nhau thì chờ lừa dối. Hoàng Bá, Cao Bình thật là lỗ mãn, Đức Sơn Lâm Tế phô bày hết, Hà Trạch sáng tỏ kế thừa Lục Tổ. Người sau ít chày đá, trong tay cầm nắm không mổ xẻ được. Chiêu Dương được tâm, Mục Châu, Bảo Thị khai pháp đường hơn xưa nay. Dạy Thiền tăng chỉ đường đi, trên vai gánh y thật cay đắng, bình bát đã được ít nhiều, ngàn ngàn vạn vạn đem đến đây. Nếu nay nhắc nổi hay đem theo thân, nhưng đao núi tự xem lấy. <詞>KHÚC CA SƠN TĂNG Phong thái trác việt, nay bạc tóc đen đã từng đi khắp non nước và bể dâu, gặp nhiều bậc tôn Sư, đích tham kiến, hoặc thưa hỏi hợp với thiền pháp, hoặc mở cơ phong đưa ra thi hành, hoặc nhiều người cùng đường, hoặc đi một mình rồi dừng chân leo lên cây tùng vạn năm. Một cây cao chất ngất, trong rừng cây ngàn Thánh. Trăng sáng vằn vặt trên không, thời gian trôi qua trong vũ trụ, long đong ẩn náu chốn sông Tương. Do đó, núi ngưng định, thân tâm được tự tại, đều ở giữa ngọn hùng vó, ngồi yên lặng lẽ và rỗng lặng đều ngơi nghỉ. Hoặc gậy kinh hành, hoặc gặp người chỉ ra điều thiếu sót. Trong bóng sáng báu làm ngọn đèn sáng trong cõi ngọc, luôn luôn làm cho đánh động, mầm như bông, cứng như sắt, một khối chân tâm thường sáng tỏ, dọc ngang không ngại qua lại như gió. Vận dụng há còn kẹt thời tiết, thản nhiên rỗng rang không còn vướng mắc. Hằng ngày ăn cơm, uống trà, lạnh thì Sưỡi ấm an lạc trong nhà, nóng thì nghó dưới gốc tùng xanh. Mặc tình từ vương hầu đến đàn việt, không sợ đóng cứng, nứt nẻ, sum la vạn tượng không thể ngăn. Sau cơn mưa, mặt trời, mặt trăng đều sáng tỏ, chấn động uy thần Sương tuyết ngưng, cơ phong vang dội như sấm chớp, lập tức không thấy còn mảy may, ai lại đem tâm khoe khéo vụng. Có người không biết hỏi như thế. Hãy nói cùng chống đỡ ra chống đỡ. <詞>KHÚC CA THỌ SƠN Thọ Nhạc Nam Đài. Trăng báu từ lâu đã ẫn một vầng. Đại tượng tròn sáng hiển bày ba câu. Cao ngất hiên ngang, nhanh như điện, ngu mê chớ lầm. Hoặc khai thác nên ra vào hư không, hoặc thâu nhiếp kim khó qua cửa đạo. Đạo quả thuần thục thì không lạm dụng thuốc ở lời giảng giải. Những hạng người có học nhiều, có cơ ở đường ngôn ngữ. Hoặc sấm sét kinh sợ ở vũ trụ, dứt đường phàm Thánh, hoặc chỉ bảo ở càn khôn, quần linh đều vào. Còn sinh còn sát không ẩn náu vô riêng tư, vàng thật trong nước đẹp không nặng, ngói gạch đường trần không nhẹ. Như trời che, đất chở, kẻ cùng tử về nhà, nhiều phê phán sai lầm cùng nhau tranh cãi. Rõ ràng không sai, đâu cần phải nhọc công tìm kiếm. Tràn ngập chữ khắp mười phương thế giới, thênh thang chữ sáu đường rỗng tếch. Thật không thể nghó bàn, chánh tông khó mai một. Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật thọ ký. Ha! ha! Chớ ngũ say. Ca tụng, đạo lý rõ ràng. Tụng: Thước điện cơ dó tảo trì Bích nhãn Hồ mạc dương vui Đại hải long tiểu thuỷ quy Thọ nhạc tủng nhật nguyệt để Hổ báu bôn ba tẩu Sư tử hống toàn sai Chánh tông thường bất hủ Tà đồ vật cường vi Thị phi đô bất quản Chân cá pháp vương nhi. Cơ sấm chớp đã chậm Mắt Đạt ma không chớp Rồng nhỏ, rùa nước ở biển cả Thọ Nhạc cao ngất cuối mặt trời, mặt trăng Hổ báo bôn ba chạy Sư tử hống kết oai Chánh tông mãi bất hư Phe tà không mạnh được Thị phi đều không ngại Thật là con pháp vương. <詞>KHÚC CA PHÁP THÂN Toàn thân thênh thang. Nhân, thiên không suy lường. Dù vô niệm vì vô tư, lá có ân và Sức, khai triển thì không buông thả, thu vào cũng không thời khắc. Hiện ngàn dị tượng ở nhân thiên, giáo hóa vạn loài lâu dài ở thái cực. Ra oai linh vô biên các cõi, há ngại tinh thần giáo hóa chúng sinh. Có trong thức giới, thà mất quy tắc, chớ nói vô công, đâu không luận bàn tịch diệt. Khởi lòng từ để cứu khổ, có ân thì vận dụng được đại từ, mà ban vui vô đức. Hoặc nắm, hoặc thả chỉ ở lâm cơ. Hoặc ứng dụng hoặc thi hành, dung thông sáng tỏ, dùng thì biến khắp mười phương, thi hành thì không thiếu một mảy, buông thì phóng khoáng khoan dung, nắm lại thì Tỳ-da im hơi lặng tiếng. Thật không thể nghó bàn, hành được thì dừng được, thì ở trước mắt chừ. Nguy nga không thấy, ở cõi trần chừ. Thênh thang làm sao thấy, có tác năng, vô tâm vô ý, thượng trí nghe thôi. Hạ só tinh thần sảng khoái thấy được, căn bệnh mắt không còn. Dòng nước chảy thông minh bạch, chỉ cần tâm khai mở, không ngại đạo lý xưa nay, một niệm không thông có bế tắt, thoắt nhìn tâm khai không ngăn ngại. Dù là sợi tóc không thu, sẽ đồng chí hướng không vương, lập tức báo khắp nhân thiên, rõ ràng cái này không phải, lại nói cái nào là đúng. <詞>KHÚC CA NGẮM NGỌC Ngọc tròn sáng biểu hiện ánh sáng bên trong, từ lâu vùi trong bụi trần chưa rõ hình. Chạm vật dụng sáng vô tận, ứng duyên chuốc đời đời vô sinh. Thường sáng ngời thể không vết tỳ, tùy cơ duyên hóa độ, gọi là tăng gia. Người nghèo khổ thường cứu độ, bậc hiền nào giúp anh hoa. Không ở trần, không ở thiên, trong Tỳ-lô tạng biết vuông tròn. Có mưu cầu thì không thấy, vô tâm đuốc soi sáng vật yên tịnh, Thiên y Trung bửu dụng vô biên, nhiều như vậy đem dâng cúng Tổ Sư trước, chuỗi anh lạc đích thân truyền nhiều tay, Tây càn Đông độ giáo hóa nhân thiên. Nay nếu được thí không nghèo. Đại bi dang tay thi hành tâm rộng lượng, lợi ích giải hạnh phương tiện huệ, lợi mình, lợi người đều tròn khắp. <詞>KHÚC CA NƯỚC TÁNH Dòng nước trí chảy thông thương không cạn, lặng lẽ rửa đời dị sinh diệt. Đưa người độ vật biết vuông tròn. Thấm nước ruộng tốt nhiều hạt kết, nuôi cá rồng hỏa ngục mát, những người khát nước đói gầy đều no đủ, khổ não đầu tiên nước không đục, trên trời nhân gian thường tươi mát, sóng dừng các dòng thông thương, ngàn sông trong nguồn, vạn tượng rõ ràng đều không ngại, các loài linh minh được cứu độ. <詞>KHÚC CA PHƯƠNG TRƯỢNG TỐ BÍCH Tố chất vườn vàng không dấu hở, không cần tốn công nhọc Sức, bên trong biểu hiện chiếu sáng cả nước, khỏi cần bàn tay điêu luyện vẽ, vào trong nhà này tâm không động, tuyết Sương trời độ rõ ràng, kiến ngọc đèn tô đêm ngày sáng chói, chiếu sáng ra khỏi đường sinh tử luân hồi. <詞>HAI MƯƠI BÀI CHỨNG ĐẠO Nhập Thánh siêu phàm cắt đứt tình ái, chớ cùng người ngu buông thả tham sân, sáu căn dứt diệt tà tư lậu, thì được ánh quang giải thoát thân. Nhập Thánh siêu phàm dứt sinh tử từ bát địa liễu phiền nảo, bỏ được ngu si vô minh, khổ, chính là người viên thông tự tại. Nhập Thánh siêu phàm thoát ái ân, không dễ qua xuân thu, chặt đinh cắt sắt siêng năng tinh tấn, đề hồ là thượng vị quý nhất. Nhập Thánh siêu phàm thoát thế thân, để cầu đèn tâm Tổ ấn, sáu đường, tám giải thoát, tam minh đều thấu triệt, mới xứng đáng nhận người cúng dường. Nhập Thánh siêu phàm cắt ái từ thân, chớ khinh tội nhỏ, bát không nhân quả. Như nay thấy người ngu si, vừa hơn người thì bỏ người thấp hèn. Nhập Thánh siêu phàm cắt ái từ thân, trừ vọng niệm dứt tình trần, tâm cùng trăng sáng thêm hình tượng, vạn đức trang nghiêm một hạnh nhân. Nhập Thánh siêu phàm cắt ái từ thân, thì phải mạnh dạn chớ nương tựa, không nên để vui danh lợi xâm nhập, mất hết đức hạnh cao hiền. Nhập Thánh siêu phàm cắt ái ân, thì như hạc một mình không bầy, lông trắng đỉnh đỏ, thiên nhiên có hạc kêu liệng trong mây trắng. Nhập Thánh siêu phàm cắt ái ân, siêng năng tinh tấn không nên thiếu, siêng năng cúng Phật đốt đèn, dâng quả đốt hương không mỏi mệt. Nhập Thánh siêu phàm cắt ái ân, ý chí bỏ nhà phụng thờ đức Từ Tôn, khăn bình tinh tấn tâm không mỏi mệt, nguyện làm con cháu thờ Không Vương. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, như một mình làm vui với áng mây, tuyết Sương không làm thay đổi được tánh Kim cương, cõi này phương khác làm đại nhân. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, ráng đỏ mây bay vượt ngôi sao, tạo hóa theo thời tuôn mây mưa, thấm ướt sơn hà thay đổi mới. Nhập Thánh siêu phàm thân ái, tự tánh thiên nhiên tợ như mây trôi. Mây bay trên không không ngại đường cao thấp, khí dung hòa vượt qua tất cả. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, dời núi lấp biển đường thông thương, không từ nan Sự tiếp độ nhọc tâm, chỉ sợ người ít gặp người. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, một lời hợp với đồng môn, chớ đem tâm chức rỗng không tìm, mặt trời mặt trăng chưa từng tối. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, phải bất đồng loại không đồng bầy, từ, bi, hỷ, xả, càng lợi ích, không ở công, không ở văn. Nhập Thánh siêu phàm cắt đứt thân ái, thì tâm ý hợp với thiên chân, rồi quang phản chiếu sáng xưa nay, biết được người ngu là người trí. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, càn khôn đại địa thân ngại, hư không mở, thu không tăng giảm, luôn luôn làm tăng lợi ích quần sinh. Nhập Thánh siêu phàm dứt thân ái, không cho chúng ma tăng ngu si từ nay bớt dùng chày Kim cang, đập nát Tu-di thành bụi trần. Nhập Thánh siêu phàm cắt thân ái, như rồng bay trong Sương tỏ mây lành, thân làm sấm tuôn mưa lúa tươi tốt, vạn vật đều được chúc Thánh quân. <詞>NGHÓ VỀ HÀN SƠN Trời mưa ruộng thấm ướt, gió lây cây thêm lạnh, lúc ấy người đều đi, Sơn ông ngủ trong nhà, như người say không biết, như si tóc mai hai bên, khỉ kêu sợ tái mặt, đưa ra một cặp vượn, tốt là ở Phần Dương, như dãy núi Tử Hạ, như ngó sen Tây hà, hưong thơm quả Nam quốc, khách thôn quê tranh nhau hái trước, công hầu đợi ăn sau. Trọng ni không dạo cảnh, chỉ có ta biết rõ tin này. Mặt trời mọc phương Đông, tia sáng chiếu ra, sáng tỏ phần vạn tượng, nước tinh khiết tuôn trên Sườn núi, bướm vờn hoa tùng rơi tơi tả, chim kêu bên khóm yên liễu sum xuê, nào có thể ai biết được ý này. Khiến ta nhớ lại Nam Dương, cách đường nhà ta không xa, kim giới tiêu biểu là cầu vàng. Trên đảnh hoa hương tùng tỏa ra, mặt trời lên làm tan khói lam, tất cả hang động đều mát mẻ. Tử Phủ hàng vạn bậc cao hiền, ta cười Hàn sơn cũng cười, dưới gót Phong Can nhọc, Vô đức ở Tây hà, trong tâm nổi lên nhiều hoang dã. Thái hư trùm cả thế giới. Biển, núi liền sóng vỗ, mình ta ngồi biết ta, tiếng chuông tụ lại hòa diệu. Muốn nói nói không cùng, vỗ tay cười ha ha. Trăm phước tướng trang nghiêm, từ đầu đường dài đó? Mây sinh không dứt trong hư không, mưa rơi ngập ao đường, chim mùa xuân kêu ríu rít, chim nhạn mùa thu đâm đầu xuống vội, ai biết được ý này, chỉ có ta giáo hóa ở Phần Dương, vừa khéo bay lên, phải biết một điểm chân, xưa nay nghiền ngẫm chí lý. Sáng tối chỉ hạt bụi khác, mau ngăn được gió Sương, mưa trên trời rơi xuống đường liên tiếp. Khách trong núi Thiên Thai, tức cùng ta gần nhau, nhiều kiếp chưa từng quên. Năm dài là thời gian nào? Hoa lục thơm đầy bờ, ân vận tùng vang khe suối. Tam đảo mây khai tónh. Núi Ngũ phong mưa đã tạnh. Xưa nay thường không mê muội kim giới nhìn khoảng trời xanh, hư không lặng lẽ. Người mới đến đây, trăng sáng soi song cửa, mặt trời sáng xuyên vào nhà, đàn hạc đậu trên cây trước sân, chim hót ở sau đài, ai đồng lòng đắc ý. Ngước mắt xa nhìn Thiên Thai, toàn thể là Hàn Sơn, chỉ có thể đến nằm yên nơi đây. Bắt vượn trên đỉnh cao, thả cọp bên khe đá, hoa theo hương gió thoảng, mưa lòn qua khe đá tùng, rừng trúc thẳng hàng, ngỡ rằng là Thần Sơn. Đời Đường sau Lục Tổ môn nhân lập Đại Sư Hoài Nhượng làm Tổ thứ bảy. Kệ rằng: Đại Sư Đạt Ma. Ở Tây Thiên Tổ Bồ-đề Đạt Ma là Tổ 28, khi sang Trung Hoa là Tổ thứ nhất, kế thừa tông của Ca-diếp, được pháp Ba-la-mật. Sáu chúng đã điều phục, ba lần giáo hóa đã hoàn tất, tiếng tăm vang cả Trung Quốc, ánh sáng phát ra trùm khắp nơi. Đại só Huệ Khả. Chặt cánh tay cầu pháp, đứng ngoài trời tuyết ngập đến gối, xưa nay ít ai sánh bằng, cúi mình lễ bái sát đất, nguyện mở pháp môn Cam lồ, rộng độ chúng sinh, chẳng phải là nhân duyên nhỏ, tất thành đại Sự. Đại Sư Tăng Xán. Người đời thấy Sư bị bệnh cùi, nhưng Tổ Huệ Khả biết Sư là bậc đại khí. Tăng Xán biết mình nghiệp nặng xin Thầy dạy pháp sám hối. Sư dạy “Tánh tội vốn không”. Tăng Xán ngay lời nói liền ngộ được nguồn chân, biết được Phật Pháp Tăng không hai. Được dạy pháp môn trí tuệ, chí nguyện hoằng dương pháp Tào khê. Đại Sư Đạo Tín. Sư giáo hóa tùy theo người hỏi, qua lại đều không ngừng. Nhìn thẳng lên hai ngọn núi, đỉnh rỗng không phân nhất khí. Đồng tử Pháp Dung Tổ Ngưu đầu đến thọ giáo, pháp truyền rộng khắp nơi, Đế vương tự mình lễ bái. Đại Sư Hoằng Nhẫn. Mới sinh ra đã khác đời, lượng trùm hư không. Mẹ là gái đồng trinh, gặp vị tăng có tướng trời ngũ. Ai cũng đều khen ông tâm tốt không ai bằng, dung mạo cao to lạ thường, ngàn Thánh một chân thân. Đại Sư Huệ Năng. Lẫn lộn trong thế nhân khó lường được, phương tiện làm tiều phu, hỏi đạo tìm tri thức. Siêng năng bỏ ngu muội thế tuệ, được ý chỉ Hoàng Mai. Ban đầu xem sách Bạch ngọc, chí nguyện đeo đá đạp chày giả gạo, hành báo ân không chỉ một. Đại Sư Hoài Nhượng. Ngài đã được tặng hiệu Quán Thế Âm còn gọi là Hoài Nhượng, hễ gặp điều nguy nan đều đem điềm mộng ra nghiên cứu, không có cay đắng nào không xem nhẹ, ứng với lời tiên Thánh. Về sau được truyền thừa, tùy theo trình độ giáo hóa, để thấm nhuần tươi tốt. Tụng tựa Huyết Mạch Truyền Pháp Chánh Tông của Lục Tổ. Tụng: Huệ Năng mật ấn phó Quan Âm. Bách Trượng thân truyền Mã Tổ tông. Hoàng Bá đại trương thân Lâm Tế hát Tam Thánh Đại giác giải tham tầm Hưng Hóa lưu tâm thông nhữ hải Bảo ứng hội cùng Phong Huyệt thâm Thủ Sơn nhất phái Tây Hà chú Lục thất tông Sư tử Hải Khâm. Huệ Năng truyền Quan Âm, Bá Quảng truyền cho Mã Tổ, Hoàng Bá xiển dương sâu rộng đến Lâm Tế hét. Tam Thánh đại giác biết được đến tham vấn, Hưng Hóa chảy mãi đến sông biển, Bảo Ứng từng vào sâu Phong Huyệt, Thủ Sơn chảy một mạch đến Tây Hà. Sáu, bảy tông Sư bốn bể đều khâm phục. Sư tử lông vàng đầy đủ nanh vuốt, tiếng Sư tử rống chấn động khắp rừng sâu, cả bầy thú đều bặt dấu tích. Chúng ẩn trốn không dám xâm phạm, chỉ có Ngũ Hồ chân Đại só đua nhau nhặt kim ném, đạp lao vượt sóng, tay khêu đèn, nhưng lao đao đâu được vàng, để báo rằng đạo giả từ khắp nơi đến tham học. Dù là bậc anh tài chớ trầm ngâm, bình thường hái thuốc cầu thuốc thật, chớ đem củ ấu làm nhân sâm. Chân ấn chân được truyền quy tắc, trong ngàn vạn người được hai, ba người. Tụng: Nga vương điểu phi khứ Mã đầu lónh thượng trụ Thiên cao cái bất đắc Đại gia Tổng thượng lộ. (Ngỗng chúa và chim bay đi rồi; ngựa ở trên đỉnh đầu, trời cao che không được, mọi người đều lên đường). Tụng Sáu Căn viên minh. Mắt sắc tròn sáng sắc là tâm, sắc tâm không một vật mà lại xen lẫn nhau. Xen lẫn nhau chỉ là tâm căn động, động tónh viên minh là Quán Thế Âm. Tai nghe tiếng vang phổ viên âm, mười phương thông suốt xưa và nay. Xưa nay viên thông quán tự tại, mê ngộ phải biết một đường tâm. Mũi ngữi mùi hương trần đều thông, cảm ứng rõ ràng Sự lý viên dung, cõi này phương khác đều hòa hợp, dù cho phàm hay Thánh đều ở trong đây. Lưỡi nếm vị hoa sen tướng này có trước, ngọt, đắng, cay, chua biết rất mau, phân biệt rõ ràng là tâm trần, diễn nói luận huyền không phải bằng miệng. Thân chạm xúc hoàn toàn đúng với vạn hạnh, theo cơ kích phát không có thiên tà. Bao hàm khắp pháp giới vốn chân tịnh, chỉ một viên thông lý Sự viên dung. Ý và pháp phóng quang tất cả hư không, vườn Thượng uyển Tổng trì gọi là Tông ta. Ca diếp đầu đà đích thân được truyền, sáu tướng viên minh một đường thông. Giải thích sáu căn Viên minh. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân và ý, sáu dụng đều đồng một pháp trí, trăm ngàn phương tiện khéo đều ứng cơ tùy duyên, tất cả vật đều đầy đủ lìa trần thế. Mắt sắc đều không, tai lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không ngại, dung hòa tự tại hiệu viên thông. Viên thông này dứt thật giả, phải biết rõ, phải hiểu kỷ, sáu đạo thần quang thường viên thông. Tuân theo vạn cảnh, cảnh chỉ là tâm, tâm cảnh vốn không đầy đủ khắp, chồng chất đề cương sáu cửa mở, kính soi hình đầy đủ sáng tất cả. Tụng Sáu Tướng. Thấy là A Na Luật, rõ ràng không một vật. Đại địa và sơn hà, diễn nói Ba la mật. Nghe là Bạt nan đà, nghe thông suốt không lỗi, xa gần đều biết rõ, càng không niệm Ma-ha. Hương là Căn-già Nữ, tâm từ bi biến khắp, tịnh uế đều biết được, đây là mẹ của ngã nhân. Vị là Kiều Phạm Bát, bình thường gọi là ngọt đắng, ăn vào miệng biết là cay chua, giống như trăng trên trời. Xúc là Thuấn-nhã-đa, thiện ác đều hòa thuận, cắt hết không mừng giận, chỉ đây là Di đà. Ý là Đại Ca-diếp, Tỳ-lô đều một pháp, nhà tối bày rõ ràng, chi phái ngàn hoa lá. Biết Tà Chánh. Truyền xuống gọi là biết được thị phi, phải biết phân biệt được đen trắng biết tôn ty đưa ra, ống kim, lổ mũi phải niêm xuất. Nếu không lỗ mũi mất tông cơ.. Sơ Mơ Hồ. Từ trước cao mao lại thông, phải biết được xuân, hạ và thu, đông. Nước động sóng ngừng biết là ướt, đạt huyển mới có thể được tánh không. Khéo biện không chân phải có chí. Khéo nói thông minh gọi là biện tài. Phân minh cùng đạo trái nhau. Nếu không chặt tay để báo ân, đâu chịu Tây Hồ đến đặc địa. Đắc Dụng Toàn. Tác dụng uy quyền lý phải thông, chớ nên chạm việc với hữu tình, thấy anh chú ý cầu huyền chỉ, thì không phải người trên hội Lăng già. Nghỉ Tương Lai. Tương lai thoát được vẫn còn chậm, theo lời tiếng thì được cái gì? Thẳng đến Giang Tây gặp Mã Tổ, cũng là cơ đệ nhị Phần Dương. Biết được tác gia. Dưới cơ phần dương có tác gia, mỗi người đưa ra ba ba rắn, lấy đầu làm đuôi đưa ra được, bản chất Thiền tăng tác phổ Tra. Tụng biết được cơ phong. Cơ sáng như điện không dễ đương, đem tam học đạo chuyển điên cuồng, dù cắn được phong tên, cũng là ô quy dưới đáy nước. Sẹt nhanh như gió dụng càng khéo, nhướng mày chớp mắt cách ngàn non, chạy vượt qua mau vẫn còn ngại, định nghó làm sao được hoàn toàn. Trong câu biết đúng. Trong câu biết được nhân Sự giỏi, cơ đến biết sâu phải nghe kỷ. Lễ bái tiến tới trước biết đen trắng, trong mắt sẳn có ánh sáng. Dụng hiển Tông. Mau chóng vựot qua cơ ngoài vật, chớ nên chú ý còn ngăn trệ, giống như nâng kiếm báu kim cương, định đem ngọc quý vùi vào bùn. Tán thán Sư Cơ. Tông Sư thênh thang không dễ gì đến được, nhanh như chớp cao ngất mau như gió. Lễ bái tiến đến trước thân định động, biết anh mất hết chủ nhân ông. Mặc y phấn tảo hành đầu đà, biết rõ áo trăm mãnh, chẳng phải xuất phát từ kim khâu, há chịu ăn mặc sang trọng. Muôn hạnh là hạn đầu, ngàn hiền một đường về. Nếu nay có người thừa Sự, nhất định có khả năng thừa Sư. Nam Hành thuật Mục Đồng. Ta có một Mục đồng, thường ưa sách cổ điển, không đem bút mực sao chép, lấy gì để truyền bá? Chưa từng đọc một chữ, chủ yếu văn chương ngàn vạn quyển, ứng vật không phải thiếu, hỏi đáp có khả năng điều khiển. Ta có một Mục đồng, cầm gậy điều khiển trâu, không cho ăn lúa người. Đâu chịu dạy để giẫm đạp giầy xéo. Nước suối chảy vào vách núi, tùng xanh cao bên vách đá, trâu no hưởng khí mát, việc khác ai bảo quản. Ta có một Mục đồng, cỡi trâu vào phố thị không đem một đồng bạc, mà mua hết càn khôn. Trồng cũng không thi công, thu cũng không chuẩn bị. Khi ấy những người trong chợ cầm roi da, ẩn vào cửa cùng nhau mở. Ta có một Mục đồng, cả trăm năm nay không làm, mặt trời lên thì hướng về ánh sáng, khi trời mát vào hang núi. Nước khe suối rửa đầu trâu, không làm mờ tối vạn tượng khác, tâm ta thường bát ngát. Ta có một Mục đồng bình thường giống như si, có người nói không biết, vô tâm đạo tự biết. Biển núi chỉ nguồn cao, càn khôn sâu thấu đáy, nói hỏi nương Sức nào, tay không nắm vạn sơ. Ta có một Mục đồng, thân tâm như đá sắt, không nương lời Chư Phật, không nhận khuôn phép thế nhân, thổi sáo trên núi cao, đánh trâu về leo lên cây, cười ha ha, đại địa không người biết. Ta có một Mục đồng, hai biếm tóc dài, tay cầm gậy chỉ vật thành càn khôn, diễn nói Thánh chân tướng, ai biết được ý này, trời người đều kính ngưỡng. Ta có một Mục đồng, trời người không làm gì được, chợt sinh ở thế giới, bỗng đánh phá càn khôn, nhưng tướng mạo như tuổi thơ, tánh khoan dung lòng như biển cả. Đi hỏi tiên Cổ Hoàng, người nào sinh được ta. Ta có một Mục đồng, vạn ban hô đều có, khi đi biển núi theo khi ngồi càn khôn giữ, hồi đầu gối Tu-di, thân nương Bắc đẩu. Tiên hiền không làm gì, chỉ ta là lâu nhất. Ta có một Mục đồng, thị phi chưa từng nghe, dọc ngang an lạc tự tại. Mở ra thâu lại rất tự tại, có ý dạo núi sông, vô tâm cầu vinh, quý. Nằm ngũ trên lưng trâu, chỉ chân thật không việc khác. Ta có một Mục đồng, mặc áo cỏ đội nón tre, không bị gió mưa vào. Sương móc thấm ướt áo. Mùa xuân về nghe trăm hoa khoe sắc, thu sum ngàn cây xòe. Mục đồng chỉ có tâm này, thị phi không thể đến. Ta có một Mục đồng, phong thái sảng khoái diện mạo xưa, tâm thênh thang như thái hư, tánh độ lượng có đầu lông huyền ảo hiện trong tam giới, vi trần sáu thú đến, thương thay rửa tay ông liền bị trâu lôi kéo. Ta có một Mục đồng, không biết tất cả pháp, tay trái cầm gậy roi, tay phải nâng cốc nước, không gặp được đồng đạo. Điều trâu vào thất đá, thì thầm gặp Di Ca, mới có thể đáp được. Ta có một Mục đồng, không động ở Tam muội, đại địa làm giường dây, trời xanh làm lộng báu. Sum la vạn tượng, mặt trời trăng sao và cõi nước, bụng trống xướng ba ca, nằm ngũ an nhiên tự tại. Ta có một Mục đồng, xấu xí không người biết, trên vai một roi da, giữa eo mang tiêu sáo, qua lại cười Hàn Sơn, luôn luôn ngợi khen Thập Đắc, họ Cung hỏi Phong Can, xuyên núi thâu vách đá. Cái Quạt giấy. Cái quạt tròn như mặt trăng, ứng cơ kích phát cảm nhận được Sự mát mẻ, xua đi bao nóng nực, đương thời được dụng. Mây tan mưa tạnh, tay nắm càn khôn một lúc đều thấu triệt. Sắc Không. Sắc, Không, Sáng, Tối đã rõ trong pháp môn, vạn vật không hình đối với bóng sáng, pháp hóa thành chân là huyển, tâm huyển không trụ cõi thông phương. Tâm như hư không sắc là huyển, không huyển rõ ràng không đổi nhau, tất cả căn trần đều tươi sáng, không còn luận Thánh phàm và quý tiện, gặp lúc trời lên hòa gió quạt, nước trong núi xanh hoa tưoi đẹp, chim kêu yến hót báo xuân về, khiến người nhớ Năng công gọi. Lại nói: Ta nay nói sắc tâm, vạn tượng không dính dáng nhau, dù ngay lời tiếng được, kî nhất tìm trong câu. Tứ Tướng. Đất rộng bao quanh gánh nặng nhẹ, nâng đở biển, núi chưa từng nghiên. Thánh phàm không nhờ Sức này, sắc xuân vừa đến trăm cỏ báo điềm lành. Nước chảy trên nguồn bản chất trong, dòng trong bị ngưng quyết làm cho vuông bằng. Ruộng thắm nước tăng thêm mầu mở thông cả bến bờ, nước chảy băng băng thành tiếng hải triều. Tánh lửa cứng việc không cùng, trở thành vạn vật giúp thần công. Phát ra thiên địa đều tiêu sạch, trên dưới, đông, tây tụ lại thành rỗng không. Gió không hình mà hoạt động không thể thấy được, càn khôn đại địa phóng hào quang, kêu nhổ cây thổi cát đá, đều gọi là đường phảng phất đồng quên. Tam Giáo. Phu tử có chân tri, Ngũ thường là yếu quy, Bá vương không thể dễ, ngàn năm hợp xướng một lần. Lão Tử có đơn quyết, gian nhân gần được Sư, bỏ hoa có thể giữ trái, ngoài đây lại không biết, Phật ta có chân nhãn, chiếu khắp nghi thế nhân. Ba ngàn đại thiên giới, một niệm đều biết hết. Tam giáo như đảnh ba chân không thiếu một vật. Suy cùng môn nhân quả, cuối cùng không bằng Phật. Chuông Tử đồng vừa đánh sáng cả càn khôn, hợp với nguồn người mê không ngộ. Dạy người nghe khởi đại dụng, người đạt được tinh thần há không sảng khoái. Ẩm Quang từng dùng chày làm tín thông thiên giới, vua Cát lợi dừng đường kiếm, theo tiếng gõ phát có ứng điềm lành, khắp nơi đều thấm nhuần ân đức. Viên Thông. Văn, Tư, Tu huệ được viên thông, đường Tam thừa đầy không khác. Dụng thì theo cơ hiện theo nghiệp, phát sinh các đường thấy chân không. Mảy ngọc từng mở Tam đồ giới, Kim sắc sáng tỏ trong vạn hạnh. Mắt sáng lấp lánh ngàn đèn chiếu tỏa, Mẫu-đà-la thủ ấn hư không. Con mèo Đen Xạm. Con mèo đen xạm toàn tác dụng, nanh vuốt nhọn đủ thế lực, đầu và lông hiện chân Sư tử, mắt phóng hào quang, vô lượng bảo tạng có thể giữ gìn, còn tâm như trùng, chuột thì trừ hết, biết rõ trên cây an pháp thân, chưa từng mở miệng trước ngoại sinh (cháu trai). Gậy Tre. Một gậy tre tiết tháo không sánh được, bên trong tâm không thì bên ngoài thông, ngay thân đạt được tướng viên thành. Qua sông thành sáng tốt, lên núi được nương gậy, cuối cùng vạch hư không, xây dựng trên núi cao. Ngộ Đạo. Vừa ngộ Đại thừa không, vạn cảnh tự nhiên thông, viên dung ngoài ba cõi, bao hàm trong sáu đường. Mất tông chỉ hoàn toàn không một vật, được dụng có thần công, chân này là đạo vô tâm, không phải là tông Tiểu nhân. Sáng Đạo. Sáng tỏ tinh khiết không phải do công luân, điện báu sáng dứt bụi trần. Sóng ngừng nước động vốn tánh ướt. Núi cao mây nổi rõ đen trắng, Sư tử hống muôn thú phục, Tượng vương gậm chân ao hồ đuc. Đế Đông Nhật tay đánh Na Tra, kẹp phá càn khôn ra khỏi nhân luân. Kiếm Văn-thù. Ta có kiếm Văn-thù sáng tỏ khắp ngày đêm. Từng ép Như lai đi, dù là Tỳ-kheo Tô Thiên Ma đều đảnh lễ, Phạm Thích đều than thở, bình thường bằng đầu gối, xưa nay đều nằm ngang. Bảo Kiếm Kim Cang. Ta thường đưa ra Bảo kiếm Kim cang, chấn động không đường mặt trời, trăng sáng tỏ, Phạm, Thích, Thiên, Long đều quy kính đảnh lễ khen chuộng, uy quang chạm vật hết đương cơ. Tăng Hành Khước. Ngũ hồ bốn biển từng đi khắp, tự tại ngang dọc không ràng buộc. Ngày nay chợt lên Am Bình Phong, mọi người đều giữ dụng cơ. Vẽ Kiếm. Long Tuyền võ thần quỷ kinh sợ, đỗ núi nghiêng ao vũ trụ yên. Tứ hải Bát man đều dâng quốc, phủi áo khoát Long bào bỏ băng. Lang can Vónh dứt tâm nghi, tất cả đương cơ lý không đổi, nếu người hỏi ta nhờ Sức ai, bảo họ Năng công chi nhánh đệ nhất. Đêm Thu. Trời thu yên lòng tăng lặng lẽ, đêm dài tâm bát ngát. Suy nghó sâu xa người không biết, hỏi kỷ lại đâu từng nương tựa, không thấy còn mảy may, ứng vật tùy cơ hiện, người hỏi là tông nào, đồng đạo kêu chuông vàng. Tuyết. Khắp nơi đều là núi bạc, tâm không thế giới rộng, ánh sáng rực rỡ Thanh tịnh, vật gì nói không được. Người cho trâu không Sừng. Người cho trâu không Sừng, điềm lành có lý do, quả chín thật khó tránh, nương nghiệp đủ đã xong, nghóa tướng nhân đều lạ, dấu Sừng không ẩn đầu, tân khách gặp phương Sóc, mới biết được Trương điều. Có đầu không Sừng chịu đựng được, trăm kiếp khó gặp tác gia này, phàm Thánh không biết được hết, tướng mạo hiện nay có chút ít. Nhờ người được tuyến. Nghệ thuật tài ba chưa từng nhớ một điều, sáng nay đưa tiễn bạn tri âm. Tam thừa ngũ tánh như chuỗi hoa, đương cơ điện sáng là áo dài bông. Tuế đán. Ta nay tròn Giáp Tý, ai biết được sinh tử, bốn đại như hòn bọt trong giấc mộng. Thân như chiếc lá trôi trên sông, mây nổi hiện không lâu, cam giá há đẹp lâu. Chỉ có một linh quang, nhiều kiếp chưa từng mất. Ta nay 61 tuổi, tóc bạc luống qua màu. Thân huyển ví như hoa nổi, tâm không đồng Phật Tổ, xuân đến không đắm hoa, thu về há ngại vật. Lại đến 30 năm sau thoáng như một điện chớp. Tọa Thiền. Đóng cửa lưới mở, làm tăng ưa tọa thiền, nhà tâm không tạp niệm, vạn hạnh tự thông luyến. Trăng in dưới đêm thu, đèn sáng cỏ nhà tươi, mấy người đạt được điều này, đến đây thì phân biệt được. Viện chủ nương đất núi. Nước Hà Tây rộng khó gặp, khéo vào núi sâu hiền dễ ẩn, ngày nay gặp tăng theo bản đồ, quý là nhớ được bản đồ trung huyền nay. Khánh Pháp Diêu. Một vòng Giáp Tý là ngày vui chúng tăng, vạn Sự vô tâm đều không được, chỉ có Ngũ hồ đến thưa thỉnh. Quyền mở ba đường bỏ oán tăng, tóc bạc đầy đầu bạc từ chỗ khác, khắp nơi băng Sương mặc tình đóng băng. Xưa nay chưa từng thay đổi một mảy tơ, tiêu dao ngoại vật thích hừng hực. Nói tạp vương quán sát. Ta quan sát thấy vua, đuôi sao chổi rơi trên đài. Tống oai hùng làm ngọc khuê, kẻ lẫm liệt làm đinh chốt trục xe. Lạ thay chừ một mình lên vương quân lẫm liệt, ta nay mới biết chân hiền triết. Mãnh tướng khoan dung phải mềm như lục, cứng như sắt, lỗi lạc anh tài chân anh liệt, khí phách anh hùng trừ yêu nghiệt. Một ngàn năm mới gặp Thánh văn minh, hợp ý chí thuận lòng trời ai biết được. Kêu mổ đồng thời. Vật bên ngoài vô sinh thể nhiệm mầu, truyền thông xưa nay bỏ suy tư. Biết rõ trong câu vượt càn khôn vạn tượng, kêu mổ chưa từng không kịp thời. Tất cả vạn tượng bày linh cơ, từng câu vi diệu dứt tư lự, đường phàm Thánh thù thắng đồng thời kêu mổ, dù là từng giọt cũng khó dời. Từ trước chuổi tay tiếp độ sơ cơ, nhiều lời bày tỏ khỏi vọng suy. Ngày nay dâng thơ đến thưa thỉnh tạm thời kêu mổ báo đương thời. Dạy chúng. Mưa xuân và mây xuân, nuôi dưỡng vạn vật thay đổi mới. Núi xanh trời mưa rơi, cỏ xanh rơi đều đặn. Tạnh mưa trời quang đảng, mây từng tảng quanh trời, bảo rằng người tu đạo, vật gì lại chịu bày. Thư Hoài. Nhớ lại người dấu Ngũ Hồ, bống bềnh giữa bốn biển, phụng làm Tổ cây ngô đồng, hạc nghó giữa tùng xưa. Mưa thắm ướt hương lầu, rêu bám đá lốm đốm, trời hiện cỏ cát tường, mới gọi là cơ ngu đần. Nhờ đọc lại Huyền tập. Nhờ đọc lại huyền tập, than ôi dụng tâm sai, không trừ được ba hoặc khổ, đều bị tứ trí xâm lấn. Dâng bảo thiếu gia bảo, cầu vàng mất tự vàng, bao nhiêu người mê đường, không bỏ tự suy tìm. Viên đầu tăng gật. Chủ lâm vườn tươi tốt, cần phải biết thưa hỏi, đất tốt phần nhiều phải biết nghệ thuật, cát muối ít cỏ xanh, trồng phải đúng mùa xuân thì đầy đủ nước, khi thu cất sợ mưa kéo dài. Vẫn nhờ cây cỏ tốt tươi, khi nhớ được cỏ khô. Tam huyền Tam yếu. Đệ nhất huyền, chiếu dụng đồng thời, thất sao thường sáng tỏ, vạn dặm dứt bụi trần. Đệ nhị huyền, câu chùy nhọn và bén, phát thảo qua ý suy nghó, chia làm hai vai. Đệ tam huyền, diệu dụng vẫn vuông tròn, tùy cơ nói Sự lý, hoàn toàn trong thể vạn pháp. Đệ nhất yếu, căn cảnh đều quên dứt triệu chứng, núi lở biển khô dứt bụi trần, hết sạch lạnh khô mới là diệu. Đệ nhị yếu, câu chùy biết được trình khéo léo, buông ra thả vào nhanh như sấm chớp, xuyên cả thất sao sáng rực rỡ. Đệ tam yếu, không cần buông câu không thả câu, Lâm cơ ca một khúc sớ, nghe xong đều phản chiếu. Tu Thiền đều nhiếp. Tâm an thiền tónh lặng, không bị trần thế lôi, nhập cảnh tránh siêu phàm, nhân gian xuất thế gian. Thấy tánh ly văn tự. Thấy tánh không còn nói năng, đâu liên quan gì đến kho tàng văn chương. Nêu lên tâm sáng liễu nghóa, không phải ở nói nhiều. Đốn tiệm đều thu. Biết tâm tâm là Phật, không biết chính là Ma vương, ma Phật xuất phát từ một tâm, Phật chân ma là cuồng. Pháp giới không sai khác. Pháp giới trang nghiêm phải thật tinh tấn, trần trần sát sát thấy Phật thân. Quyển kinh trong chốn hồng trần ai lấy ra được, pháp vương chân tử được tuyên bày. Viên thông Đốn ngộ. Vạn đức viên thông mở Phật trí, ngàn ánh sáng phước tướng gọi là Kim luân. Trang nghiêm thân uyển bằng mé chân, diệu giác vô sinh tán thán đạo chân. Chỉ thắng bản tâm. Chúng sinh ít tin tâm mình là Phật, không chịu chấp nhận phần là tự phụ, bị vọng tưởng tham sân phần nhiều bị trói buộc, đầu duyên vào thân làm ái bị vô minh trói buộc. Đốn giác. Đốn ngộ nguồn tâm mở được bát báu, đáng nhận trời người cúng lìa thiền duyệt. Trăm vị tô đà là trân bảo đệ nhất, vạn lượng vàng cũng không nói. Mê ngộ đầu nguồn. Mê nghi ngàn quyển vẩn là ít, ngộ rồi một lời vẩn còn nhiều. Ca- diếp đích thân được truyền tâm ấn tâm, chẳng phải truyền trao vẩn tự cho đầu đà. Đốn tiệm ba thừa. Ba thừa liễu nghóa hiệu chân thuyên, tiếp độ sở tâm ra khỏi cái triền, nhiều kiếp luận thành loạt giống vô lậu, phải biết bản tâm hiểu vuông tròn. Sổ tâm ngũ tánh. Ngũ tánh tu hành đạo khác nhau, nhân gian thiên thượng là dấu vết chân, qua lại lúc ra khỏi luân hồi, vì duỗi lòng từ trong sáu đường. Dụng tâm sai. Gần đây thấy người tu hành khổ nhục trong thời khoá. Sáu thời hành đạo ý chí tinh tấn, trong lòng vọng tưởng ta tri giác, đâu suất, tây phương Thế Tôn. Sáng đạo. Đạo Phần Dương thênh thang không ngại, giẫm đạp trên đường thanh lương càng thênh thang. Thập Hắc, Hàn Sơn ai biết được, biết được đồng đường là Phong Can. Sư tử Tây hà. Nghe ở Cửu châu có Sư tử Tây hà. Khi Kim mao ra oai đuổi các loài cầm thú, rống lên một tiếng thì cả trời đất đều lặng thanh, Ngũ hồ tứ hải dâng minh quân. Cảnh Phần Dương. Ngọn Tử hạ cao ngất, nước Tây hà sâu lắng, khách lội nước leo núi, từng bước thấy chân tâm. Chỉ thẳng tâm Phật. Trăm sông tranh nhau chảy về biển cả, tên vạn pháp nhiều chỉ có một tâm. Kinh thì có văn tự làm sáng tỏ, ta lại nói: - Đại bi Bồ-tát hiệu Quán âm. Tự viết. Một mình tam nghiệp siêng năng, ai có thể cười Thất hiền. Nhiên Đăng Ca-diếp về sau, vận dụng trí trước cổ hoàng, không ngừng vô tâm địa, thà ở Hữu tưởng thiên. Một vừng trăng sáng lặng, vạn hang bảo tươi sáng, ngồi yên hỏa lư tạng, kinh hành hương khói bay. Xưa nay cũng đạo giả, thường qua lại biên chép. Sự nhớ. Tự biết Sức mình những năm tới, kinh hành ngồi yên chỉ từ bi. Vô sinh mau dứt thôi nhân ngã, vọng từ lất nghi cũng dứt. Cây đã mục chẳng phải không còn tượng chất hoa cỏ hóa thành lưu ly. Mặt trời, mặt trăng chứng cũng theo thứ tự, đều buông thả thân tâm giống như si. Học vấn. Học vấn từ trước mấy ai biết được, lượm gạch trong bùn ít ai biết có châu báu. Chỉ có người ẩn dật cao thủ mới an nhiên tự tại lẫn lộn cùng thời cơ. Học cổ. Từ xưa tiếng vàng là tiếng chánh, người thời nay đi theo dấu người xưa. Chớ nên tranh nhau cái danh nhỏ xíu, ngay đời nay phải không sinh. Lành Tổn hại bậc anh tài. Thông minh vẫn chưa được phần nhiều mất nhân cách, đã được thông minh lý phải hợp. Đức như Nhan Hồi mới được vào cửa, đến bằng xe đi bằng xa mới nghe được ca dao. Mười Hai Thời. Giờ Sửu gà gáy trăm phước trang nghiêm chớ tự giữ. Mở cửa đại thí cứu người nghèo đói, anh tài cần có Sư tử rống. Buổi sáng, giờ Dần vẽ ngưỡng mộ, ngồi đoan nghiêm tự an thiền, bốn câu bách phi đều không động. Tứ minh chiếu sáng người trong đạo, giờ Mão mặt trời lên không dùng được, suy lường thành tính toán, tiếp xúc qua lại ít ai hiểu được mình, không chịu dừng tâm mặc tình phiền não. Giờ Thìn ăn chuông trống, biết được gọi chủ nhân, tùy theo nói xứng đáng làm phước cho nhân thiên. Vạn đức trang nghiêm là nhân chánh. Ngọ trung Canh Tî an ổn, cầu phước ưa việc khác, tam thừa ngũ tánh trần trong mộng, linh quang xuất hiện trí Như lai. Ngày Nam giờ Ngọ trực tánh, biết được xưa nay khác. Sáng soi chiếu khắp không thân sơ, không tin thì chịu khổ như xưa. Ngày Thất Mùi bình đẳng, phóng quang chiếu thiên địa, sông biển núi cao đều không ngăn ngại. Giờ Thân cái này phân biệt trí trong phô bày xuyên vạn biệt, ngàn sai biết được chân, một chánh trăm tà đều không khởi, mười phương viên thông hiệu Thế Tôn. Giờ Dậu mặt trời lặn các hành vô thường không lâu dài. Kinh hành ngồi nằm không sinh tâm, chính là bạn đạo gia phong ta. Giờ Tuất hoàng hôn lặng lẽ, dụng công an thiền xong. Rõ biết toàn thân sáu đạo quang, hiểu sai như keo trong keo. Người định giờ Hợi nhất niệm, không sinh không chướng ngại. Đạo hợp thiên cơ tánh sáng tỏ, huyền chỉ huyền thông quán tự tại. Giờ Tý nữa đêm đại trí viên thông không đây kia. Mê ngộ giống như bụi bám trên gương, bụi và trần gương đều quên thì đâu có gì. Khuyên Đời. Gần đây nói nhân loại phần nhiều hay nói thị phi, không thể ngậm miệng nói theo họ. Nói điều xấu của người là đem điều xấu về mình, tốt xấu tự người nào phải biết. Thánh phàm tà chánh tự phải biết, không chỉ người khác thị và phi, xưa nay mấy người tài cùng diệu tận, đều vọng theo trần cảnh như si. Tranh nhân, ngã chừng nào thôi, chẳng biết xuân qua thu lại, là rơi nhạn về, Sương dần lạnh, áo vải bố giầy cỏ lại cầu gì? Ca tụng Thiền Sư Vô Đức Phần Dương quyển hạ. Ngữ lục của Thiền Sư ở Phần châu, từ lâu bị thất lạc ở phương Nam, cũng ít người gặp được. Nay khuyên mọi người xuất bản lại để lưu thông phổ biến. Ngày mồng 5 tháng giêng niên hiệu Kiến Trung thứ nhất Tinh Quốc Tỳ-kheo Thủ Trung đề tựa. Hồng châu khai thiền Tông Văn tự Trần Chính ấn hành. Tỳ-kheo Viên Sán truyền pháp trụ trì Thiền viện Sùng Thắng Lô Sơn Viên thông. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 173